Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 2

占察善惡業報經

隋天竺沙門菩提登譯

夢參老和尚講

(giảng lần thứ ba, năm 2009)

Hán dịch: Thiên Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời Tùy

Chủ giảng: Lăo ḥa thượng Mộng Tham

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo phiên bản đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo -https://www.liaotuo.com)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 4

         

          (Kinh) Nhược Phật đệ tử đản đương học tập như thử tướng pháp, chí tâm quy y, sở quán chi sự, vô bất thành giả.

          ()若佛弟子但當學習如此相法至心歸依。所觀之事無不成者。

          (Kinh: Nếu đệ tử Phật có thể học tập tướng pháp như thế th́ chuyện được quán không ǵ chẳng thành tựu).

 

          [“Tướng pháp” được nói trong chánh kinh] chính là “mộc luân tướng pháp”. Mộc luân tướng pháp là hữu tướng, nhưng tâm chí thành là vô tướng. Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Giả sử chúng sanh trong đời vị lai nếu mong học tập mộc luân tướng pháp th́ phải có chí tâm. Kinh văn trong phần sau sẽ nói đến ba loại chí tâm. “Chí tâm” có nghĩa là trực tâm, chẳng có chút cong vạy nào, tức là không có niệm tâm thứ hai. Chỉ có một niệm tâm th́ là trực tâm. Trực tâm có cùng một hàm nghĩa với chí tâm. Nếu quư vị học tập mộc luân tướng pháp như thế, chí thành, khẩn thiết tin tưởng lời dạy bảo của Địa Tạng Vương Bồ Tát, chiếu theo lời dạy trong kinh văn, chiếu theo những điều nên làm như trong [mộc luân] tướng pháp đă nói để làm theo, mọi chuyện quư vị đă quán s đều đúng lư. “Đúng lư” có nghĩa là mọi chuyện đều tương ứng với cái tâm, sự và tâm tương ứng, tâm chính là Lư, Lư có thể thành tựu Sự. “Lư có thể thành tựu Sự” chính là hết thảy mọi sự đều có thể thành tựu.

 

          (Kinh) Bất ưng khí xả như thị chi pháp, nhi phản tùy trục thế gian bốc phệ chủng chủng chiêm tướng cát hung đẳng sự, tham trước, nhạo tập. Nhược nhạo tập giả, thâm chướng thánh đạo.

          ()不應棄捨如是之法。而返隨逐世間卜筮種種占相吉凶等事。貪着樂習。若樂習者。深障聖道。

          (Kinh: Chớ nên vứt bỏ pháp như thế để ngược ngạo chạy theo, tham đắm, ưa thích luyện tập các thứ bói toán cát hung trong thế gian. Nếu ham thích luyện tập [những thứ ấy] sẽ chướng ngại thánh đạo sâu xa).

 

          Nếu chẳng nương theo Chiêm Sát Luân tướng pháp, vứt bỏ pháp môn này, chẳng hạn như coi vấn đề ấy như chuyện bói toán, xủ quẻ thế gian để t́m biết cát, hung, họa, phước, sẽ hết sức chướng ngại thánh đạo! V́ nửa đầu của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là cơ sở của nửa bộ sau. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh cầu do ư nghĩa: “Trong thời kỳ Mạt Pháp này, đệ tử Phật tu đạo thành tựu ít ỏi, người thành đạo hết sức ít, do nguyên nhân ǵ?” Địa Tạng Vương Bồ Tát nói nguyên nhân chủ yếu là do chẳng chí tâm. “Chẳng chí tâm”: Tâm không thành khẩn là “chẳng chí tâm”. Do vậy, ắt cần phải chí tâm. Trong phần sau, kinh văn sẽ nói cặn kẽ về chí tâm, sẽ nêu ra ba loại chí tâm, chẳng phải như chúng ta thường nói “đạt tới chí tâm”, [“chí tâm” như chúng ta thường nói chính là] nhờ vào tướng mà sanh tâm. Tâm có thể sanh ra tướng, đừng nên coi đó như chuyện bói toán, phê bát tự của thế gian, hoàn toàn khác hẳn! Nếu vứt bỏ sự học tập mộc luân tướng pháp này để học tập pháp thế gian, tức các pháp bói toán, xủ quẻ thuộc về h́nh tướng của thế gian, th́ không chỉ chẳng thể đạt được lợi ích, mà trái lại nó c̣n chướng ngại quư vị tu đạo. Pháp như thế là pháp ǵ vậy? Nói theo h́nh tướng th́ là mộc luân tướng pháp; nói theo nghĩa, sẽ là cảnh giới Nhất Thật trong kinh văn thuộc phần sau [kinh này]. Vứt bỏ tướng cảnh giới Nhất Thật, chạy theo tướng thế gian th́ không chỉ chẳng thể thành tựu, mà c̣n rất chướng ngại thánh đạo. Đến đoạn kinh văn thuộc phần sau, chúng tôi sẽ giảng, chỉ giảng về cảnh giới Nhất Thật. Tướng cảnh giới Nhất Thật ấy cũng chính là “minh tâm kiến tánh” được nói trong Thiền Tông. Mộc luân tướng pháp là do nương theo tướng mà có thể hiểu rơ tâm tánh của chính ḿnh. Phải học tập mộc luân tướng pháp như thế nào?

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Dục học mộc luân tướng giả, tiên đương khắc mộc, như tiểu chỉ hứa, sử trường đoản giảm ư nhất thốn. Chánh trung linh kỳ tứ diện phương b́nh, tự dư hướng lưỡng đầu, tà tiệm khử chi. Ngưỡng thủ bàng trịch, linh sử dịch chuyển. Nhân thị nghĩa cố, thuyết danh vi Luân.

          ()善男子。欲學木輪相者。先當刻木如小指許。使長短減於一寸。正中令其四面方平。自餘向兩頭斜漸去之。仰手傍擲。令使易轉。因是義故。說名爲輪。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Muốn học mộc luân tướng, trước hết hăy nên khắc gỗ [thành từng khối] nhỏ chừng bằng ngón út, nhưng giảm kích thước bớt một tấc. Phần chính giữa [của mỗi khối] hăy nên chuốt thành bốn mặt vuông vắn (khối lập phương), phần c̣n lại cho đến hai đầu th́ vát cho nhỏ dần đi. Ngửa tay mà gieo trên chỗ thanh tịnh[1], khiến cho các khối ấy xoay chuyển. Do v́ nghĩa này mà gọi là Luân).

 

          Này thiện nam tử! Nếu ông muốn học mộc luân tướng, ta sẽ nói về ư nghĩa h́nh tướng: Trước hết, khắc gỗ [thành từng khối], to chừng bằng ngón út, nhưng kích thước giảm bớt một tấc. Phần chính giữa [của mỗi khối gỗ ấy] th́ khắc thành bốn mặt vuông vắn, phần c̣n lại th́ vát xéo cho nhỏ dần đi. Ngửa tay để gieo xuống vật thanh tịnh, khiến cho [các khối gỗ ấy] dịch chuyển. Do v́ nghĩa này, nên gọi [các khối gỗ đă khắc ấy] là Luân. Nếu mọi người từ xa chẳng thấy rơ h́nh tướng lắm th́ sau đó có thể chuyền tay nhau để xem. Đó gọi là “mộc luân” trong mộc luân tướng pháp.

          Kinh này được dịch ra, lịch đại tổ sư chẳng làm mộc luân tướng pháp. Măi cho đến đời Minh, Ngẫu Ích đại sư mong đắc thanh tịnh giới, Ngài quán khắp Nam Diêm Phù Đề (tức Nam Thiệm Bộ Châu), mong thỉnh năm vị tỳ-kheo thanh tịnh để truyền giới tỳ-kheo mà chẳng có. V́ thế, Ngài chẳng có cách nào, bèn t́m trong Đại Tạng Kinh, t́m được kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Tuy t́m được kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, nhưng Ngài chẳng biết làm mộc luân, chẳng hiểu h́nh tướng của mộc luân. Liên quan đến lời mô tả của Địa Tạng Bồ Tát về kích thước của mộc luân, “khắc gỗ to bằng ngón út, sao cho kích thước của nó giảm bớt một tấc, [phần chính giữa] bốn mặt vuông vức”, mọi người chuyền tay nhau xem bộ luân tướng này sẽ biết. Khi gieo th́ ngửa tay lên, bụm luân tướng để gieo. Do vậy gọi là Luân.

 

          (Kinh) Hựu y thử tướng, năng phá hoại chúng sanh tà kiến nghi vơng, chuyển hướng chánh đạo, đáo an ổn xứ. Thị cố danh Luân.

          ()又依此相能破壞衆生邪見疑網。轉向正道。到安隱處。是故名輪。

           (Kinh: Lại do nương theo tướng này mà có thể phá hoại lưới nghi tà kiến của chúng sanh, chuyển hướng theo chánh đạo, tới chỗ an ổn. V́ thế gọi là Luân).

           

          Nương theo luân này, sẽ dấy lên tác dụng ǵ? Có thể trừ sạch lưới nghi tà kiến của chúng sanh. Chúng ta chẳng thể thành đạo, chẳng thể khai ngộ, [v́] nghi hoặc quá nhiều. Tà tri tà kiến ấy giống như cái lưới bắt cá. Nương theo mộc luân ấy, có thể phá trừ lưới tà kiến, chuyển hướng chánh đạo, đạt tới chỗ an ổn. “Luân” (bánh xe) có nghĩa là nghiền nát, đó là cách nói h́nh dung: Phiền năo, Kiến Tư phiền năo, Trần Sa, Vô Minh của quư vị đều có thể bị nghiền nát, phá tan. V́ thế gọi là Luân. V́ sao pháp do đức Phật đă nói được gọi là “pháp luân”, [như kinh thường nói] pháp luân thường chuyển? Chính là khiến cho pháp do đức Phật đă nói vĩnh viễn tồn tại trên thế gian. Luân ấy hoàn toàn nghiền nát Kiến Tư, Vô Minh, Trần Sa phiền năo của quư vị, cho nên gọi là “pháp luân thường chuyển”. Mong mỏi pháp luân thường chuyển; do vậy gọi là Luân.

 

          (Kinh) Kỳ luân tướng giả, hữu tam chủng sai biệt. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, luân tướng năng thị túc thế sở tác thiện ác nghiệp chủng sai biệt. Kỳ luân hữu thập. Nhị giả, luân tướng năng thị túc thế tập nghiệp cửu cận sở tác cường, nhược, đại, tiểu sai biệt. Kỳ luân hữu tam. Tam giả, luân tướng năng thị tam thế trung thọ báo sai biệt. Kỳ luân hữu lục.

          ()其輪相者有三種差別。何等爲三。一者輪相能示宿世所作善惡業種差別。其輪有十。二者輪相能示宿世集業久近所作強弱大小差別。其輪有三。三者輪相能示三世中受報差別。其輪有六。

          (Kinh: Luân tướng ấy có ba loại sai biệt. Những ǵ là ba? Một là luân tướng có thể chỉ bày các thứ nghiệp thiện ác sai biệt đă tạo trong đời trước. Luân loại này có mười cái. Thứ hai là luân tướng có thể chỉ bày các tập nghiệp đă lâu hay gần đây, đă tạo nghiệp mạnh, yếu, lớn, nhỏ sai khác. Luân loại này có ba cái. Thứ ba là luân tướng có thể chỉ bày sự thọ báo sai biệt trong ba đời. Loại luân này có sáu cái).

 

          Do vậy, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói luân tướng ấy v́ sao phải có sai biệt nhiều ngần ấy? V́ chúng sanh có ư niệm sai khác nhiều ngần ấy! Đối với ba loại sai biệt, mọi người xem kinh văn sẽ biết ba loại ấy. Ba loại luân tướng, mỗi loại đều có tác dụng riêng:

          - Loại luân tướng thứ nhất chỉ bày các nghiệp sai khác trong đời trước. Thiện nghiệp có rất nhiều sai biệt, ác nghiệp cũng có rất nhiều sai biệt. Luân loại này có mười cái, tức là loại luân thứ nhất có mười khối.

          - Loại luân tướng thứ hai chỉ bày nghiệp do quư vị đă tạo trong đời trước. Tập nghiệp ấy rất gần đây hay rất lâu. Hiển thị nghiệp ấy là gần hay xa, [gần là] nghiệp mới tạo trong một, hai đời, [xa là] nghiệp đă tạo trong nhiều đời, hoặc vô lượng đời. Nghiệp lực có mạnh hay yếu. Lâu xa hay gần đây là một chuyện, mạnh hay yếu càng có mối quan hệ quan trọng hơn. Mạnh sẽ chuyển dời trước, tức là nghiệp nào có sức mạnh mẽ, nghiệp đó sẽ chuyển dời quư vị theo nó. Tạo nghiệp mạnh hay yếu, tạo nghiệp lớn hay nhỏ sai khác. Luân loại này có ba khối.

          - Loại luân tướng thứ ba có thể hiển thị sự thọ báo sai biệt của quư vị trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Loại luân này có sáu khối.

          Loại luân thứ nhất gồm mười khối, loại luân thứ hai gồm ba khối, loại luân thứ ba gồm sáu khối, [tổng cộng là] mười chín khối. Con số mười chín do đâu mà có? Do khi chúng ta tạo nghiệp, sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sáu trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Khi Căn và Trần tiếp xúc, chúng chẳng có tác dụng [nếu không có thức]. Nhăn Căn đối ứng Sắc Trần mà giữa đó chẳng có Thức th́ Nhăn Căn và Sắc Trần chẳng có tác dụng. Phân biệt hết thảy các sắc, xanh, hồng, đỏ, trắng, đen. Sự phân biệt màu sắc ấy là do Thức phân định, chẳng do Căn. Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp ở bên ngoài đối ứng với sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Căn đối ứng Trần chẳng dấy lên tác dụng; dấy lên tác dụng là do Thức ở chính giữa. Phân biệt đỏ, hồng, vàng, đen, trắng, lam là do Thức của quư vị nhận biết. [Nhăn] Căn đối Sắc Trần, chính giữa có Nhăn Thức, Nhăn Thức nhận biết màu sắc. V́ ba loại sáu căn, sáu trần, sáu thức hợp lại, thành mười tám. Khi chúng ta tạo hết thảy các nghiệp, sẽ chẳng ra ngoài mười tám loại ấy, lại c̣n thêm căn bản vô minh, nên thành mười chín luân. Mười chín luân ấy sẽ tính toán, hiển hiện các nghiệp quư vị đă tạo trong quá khứ, hiện tại, và vị lai.

          Vị lai c̣n chưa đến, có thể hiển hiện bằng cách nào? Những ǵ quư vị đă làm trong đời này. Nghiệp do quư vị đă làm trong đời này là nhân, vị lai bèn chịu khổ quả, hoặc hưởng lạc quả, tùy thuộc quư vị đă tạo nghiệp ǵ, sẽ phải thọ báo tương ứng. V́ nghiệp do quư vị đă làm trong quá khứ là nhân, những ǵ đích thân hứng chịu trong hiện tại là quả. Đó gọi là “tam thế nhân quả”, ba thứ luân tướng ấy đều có thể hiển hiện. Hễ quư vị vừa gieo [luân tướng], quư vị có thể khai thần thông. Thần thông ǵ vậy? Biết trong quá khứ ta đă làm nghiệp ǵ, đời này phải hứng chịu quả báo ǵ! Hết thảy các chuyện ta đă làm trong đời này là nhân; trong vị lai, quư vị nhất định phải thọ báo. Luân tướng bảo cho quư vị biết điều ấy. Nếu quư vị muốn biết quả báo cảm vời do nghiệp thiện hay ác đă tạo trong đời trước, [hăy nên biết quả báo] chính là những ǵ quư vị phải hứng chịu trong đời này. Luân tướng cũng cho quư vị biết rơ: Quư vị đă tạo nghiệp ǵ, đời này đạt được quả báo ấy. Thiện có thiện báo, ác có ác báo. Chưa báo ứng là v́ chưa đến lúc; đă đến lúc, sẽ có báo ứng.

          Nhưng trong hết thảy các sự việc chúng ta đă làm, trong các hoạt động của quư vị, bất luận là thiện nghiệp hay ác nghiệp, quư vị đều đang tạo nghiệp. Phàm là những lời lẽ quư vị thốt ra, những điều tâm suy nghĩ, thân gây tạo [đều là nghiệp]. Miệng quư vị nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác. Chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói lời thô ác; đấy là thiện. Nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác là ác. Thân nghiệp tạo giết, trộm, dâm, tư tưởng suy nghĩ tham, sân, si. Tất cả hoạt động trong suốt một ngày của quư vị, ban đêm, khi quư vị ngủ, bèn có độc đầu ư thức[2] vẫn đang tạo nghiệp chẳng ngừng, suốt ngày đêm chẳng ngừng! V́ căn bản của mười tám loại ấy là vô minh. Loại vô minh sâu nhất là Nghi. Nó là Hoặc nghiệp sâu nhất, đều sanh từ vô minh, cho nên khi muốn nhận ra nó th́ phải dùng mười chín loại luân tướng, tức là dùng mộc luân tướng để gieo.

 

          (Kinh) Nhược dục quán túc thế tác thiện ác nghiệp sai biệt giả, đương khắc mộc vi thập luân. Y thử thập luân, thư kư Thập Thiện chi danh, nhất thiện chủ tại nhất luân, ư nhất diện kư. Thứ dĩ Thập Ác thư đối Thập Thiện, linh sử tương đương, diệc các kư tại nhất diện.

          ()若欲觀宿世作善惡業差別者。當刻木為十輪。依此十輪書記十善之名。一善主在一輪。於一面記。次以十惡書對十善。令使相當。亦各記在一面。

          (Kinh: Nếu muốn quán sự sai biệt của nghiệp thiện hay ác đă tạo trong đời trước, hăy nên khắc gỗ thành mười cái luân. Đối với mười cái luân ấy, bèn ghi tên của Thập Thiện. Mỗi Luân ghi một điều thiện tại một mặt. Kế đó, ghi tên của Thập Ác đối ứng với Thập Thiện, sao cho chúng đối ứng nhau, mỗi điều cũng đều ghi tại một mặt [đối diện với mặt ghi điều thiện] nơi mỗi luân).

 

          Đương nhiên là quư vị vẫn phải học cách sử dụng loại luân pháp này. Dựa theo văn tự, sợ rằng vẫn chưa rơ ràng cho lắm! Tới khi quư chiêm sát, đối chiếu với lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ Tát [sẽ hiểu rơ hơn]. Quư vị quán thiện nghiệp và ác nghiệp trong quá khứ, chúng được gọi là chủng tử. Quư vị gieo luân tướng, gieo ra điều thiện, cho biết thiện nghiệp rất nặng, ác nghiệp rất nhẹ. V́ thế, thấy luân tướng đỏ (luân tướng hiện mặt chữ có màu đỏ) biểu thị điều thiện. Ác nghiệp được viết bằng màu đen, nhằm biểu thị ác nghiệp. C̣n nếu chẳng thuộc vào thiện mà cũng chẳng rơi vào ác, mặt luân ấy để trống, chẳng viết chữ. Mỗi luân tướng [thuộc loại thứ nhất này] có hai mặt [viết chữ đối diện nhau, nghiệp thiện viết bằng màu đỏ, nghiệp ác viết bằng màu đen, hai mặt c̣n lại để trống], tùy thuộc quư vị có chủng tử thiện hoặc ác hay không.

          Loại luân tướng thứ hai để nhận biết thiện ác của quư vị là mạnh hay yếu. Trong quá khứ, chúng ta đă tạo ác nghiệp mạnh mẽ, hay thiện nghiệp mạnh mẽ. [Ác nghiệp mạnh mẽ] th́ sẽ [biểu thị bằng một vạch] màu đen, thô, nặng; luân tướng hiển thị cho quư vị [như thế đó]. Thiện nghiệp to th́ [được biểu hiện trên luân tướng] bằng một vạch đỏ rất dài. [Vạch biểu thị] thiện nghiệp ngắn tức là thiện nghiệp nhỏ. Tạo thiện nghiệp chẳng lớn, th́ được biểu hiện bằng vạch ngắn màu đỏ. Loại luân tướng thứ hai để quán nghiệp thiện hoặc ác của quư vị mạnh hay yếu.

          Loại luân tướng thứ ba là quả báo trong ba đời quá khứ, hiện tại, và vị lai [được biểu thị trên mỗi luân tướng] bằng các con số, gồm một trăm sáu mươi con số, tức là quả báo phải chịu trong hiện tại. Khi quư vị gieo luân tướng để hỏi chuyện, hoặc là khi quư vị buôn bán cũng thế, hoặc quư vị hỏi chuyện bệnh tật sẽ lành hay nặng hơn, chuyện ǵ cũng chẳng ra ngoài một trăm sáu mươi con số ấy. Có mười một số thuộc về quá khứ, có mười tám số thuộc vị lai, tức là hai mươi chín số thuộc về quá khứ và vị lai, cộng thêm với một trăm sáu mươi số [thuộc hiện tại], tổng cộng thành một trăm tám mươi chín trường hợp. Con số [một trăm mười chín] được sanh ra như thế đó. Sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba lần sáu mười tám, cộng thêm căn bản vô minh thành mười chín món, hợp thành mười chín cái luân.

          Do một trăm tám mươi chín con số ấy, khi dùng mộc luân liên quan đến ba đời, quư vị muốn hỏi điều ǵ, bèn gieo luân tướng thuộc loại ấy, chẳng phải là nhất loạt đều gieo hết [cả ba loại luân]. Quư vị hỏi chuyện quá khứ th́ gieo luân thuộc về quá khứ; hỏi chuyện vị lai th́ gieo luân thuộc vị lai, hỏi chuyện hiện tại th́ gieo luân thuộc hiện tại. Cách dùng của ba thứ luân ấy khác nhau; nhưng khi dùng luân, nhất định phải dựa trên bái sám, cầu sám hối, bái Chiêm Sát Sám. Kinh Chiêm Sát có Chiêm Sát Sám Pháp và Tướng Pháp. Quư vị đả thất thanh tịnh, lạy suốt bảy ngày, dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát một phen xem thiện nghiệp, ác nghiệp tồn tại của quư vị lớn, nhỏ, mạnh, yếu, nhiều, ít, luân tướng đều cho quư vị biết tường tận. V́ trong một trăm sáu mươi [con số thuộc hiện tại], thêm vào mười một số [thuộc quá khứ], thành một trăm bảy mươi mốt, lại thêm mười tám số [thuộc vị lai], thành một trăm tám mươi chín. V́ ba lần sáu thành mười tám, mười tám nhân với mười thành một trăm tám mươi, lại thêm quá khứ, hiện tại, vị lai của đời này, [đời trước, và đời sau, tức là ba lần ba thành chín], cho nên một trăm tám mươi cộng thêm chín bằng một trăm tám mươi chín. Cội nguồn của những con số ấy là như thế đó. Chúng đều hiển thị cái nghiệp của quư vị. Do vậy, khi quư vị sám hối, trọng điểm là phải phát lộ sám hối. Nghiệp nào nặng bèn sám hối nghiệp ấy, sám hối nghiệp ấy trước hết.

          V́ thế, lúc thoạt đầu, khi quư vị bắt đầu bái sám, gieo luân tướng, đại khái là Thập Nghiệp nơi thân, miệng, ư sẽ đen nhiều, đỏ có thể là không có, hoặc rất ít. Cho đến khi bái sám, sẽ dần dần chuyển biến. Các vị xem luân tướng sẽ biết, dần dần chẳng c̣n đen nữa, biến thành đỏ. “Đỏ” tức là biến túc thế ác nghiệp thành đỏ (thành thiện). Ác là ǵ? Đó là nói về các đệ tử Phật chúng ta. Sau khi quư vị thọ giới cho đến sau khi đă thọ Tam Quy, đó là thiện, thiện nghiệp sâu nặng, hễ sâu nặng th́ [luân tướng] sẽ biến thành đỏ. Thiện nghiệp đă sâu nặng th́ màu đen của ác nghiệp sẽ dần dần chẳng có. Cho đến khi toàn thể luân tướng của quư vị đều biến thành đỏ, công năng sám hối của quư vị đă thành công! Khi đó, lúc quư vị tu đạo, bất luận quư vị tu Thiền Định, tu Chỉ Quán, hoặc là bái sám niệm Phật, luân tướng sẽ cho quư vị biết: Đều biến thành đỏ th́ chắc chắn sẽ thành tựu.

          Sám pháp thuộc nửa trước của bộ kinh nhằm mục đích dùng cho nửa bộ sau, chẳng phải là để hỏi điều thiện, lẽ ác của chúng ta trong nhân gian. Quư vị có thể hỏi thiện ác trong nhân gian, chủ yếu là v́ tu đạo. Khi quư vị đả thất, gieo luân tướng, quư vị sẽ biết nghiệp chướng của chính ḿnh tiêu trừ đến mức độ nào. Do có phần hạn, sẽ biết thiện nghiệp của chính ḿnh tăng trưởng cỡ nào! Nhưng [có khi] thân nghiệp của quư vị chẳng nặng, hoặc chẳng có, nhưng khẩu nghiệp đặc biệt nặng nề. Do vậy, quư vị bèn chuyên sám hối khẩu nghiệp. Vừa sám hối, vừa hướng về Địa Tạng Vương Bồ Tát thưa bày. Khi thưa bày, quư vị bái sám đă xong, lúc sắp hồi hướng, phải thưa rơ, hướng về Địa Tạng Vương Bồ Tát thưa bày. Đồng thời, trong khi bái sám, khi tu sám pháp này, lúc dùng luân tướng, hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát nhất định sẽ hiện đến. V́ sao? Đối với [các nghiệp] đỏ và đen của quư vị, nếu Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng đến, quư vị bái sám chẳng thành công!

          Trong lúc tu tập, quư vị có thể thí nghiệm đôi chút. Có rất nhiều đạo hữu tu tập, khi chính tôi lễ bái cũng làm như thế, khi hắc nghiệp của quư vị rất nhiều, lúc sám hối, tâm quư vị rất thành khẩn. Thưa bày trong lúc ấy, đặc biệt đ̣i hỏi điều ǵ? Chí tâm! Chí tâm chính là thành khẩn. Kinh văn trong phần sau sẽ nói như thế nào th́ mới được coi là “chí tâm”, có sơ bộ chí tâm (hạ chí tâm), chí tâm bậc trung, và chí tâm bậc thượng, phải chế tâm nhất xứ. Chí tâm ở mức thấp nhất sẽ chẳng đầy đủ, bái sám chẳng thành tựu. Bất luận quư vị đảnh lễ nhiều đến đâu, [do chẳng đủ chí tâm], hiệu quả đều chẳng to lớn!

 

          (Kinh) Ngôn Thập Thiện giả, tắc vi nhất thiết chúng thiện căn bản, năng nhiếp nhất thiết chư dư thiện pháp. Ngôn Thập Ác giả, diệc vi nhất thiết chúng ác căn bản, năng nhiếp nhất thiết chư dư ác pháp.

          ()言十善者。則為一切衆善根本。能攝一切諸余善法。言十惡者。亦為一切衆惡根本。能攝一切諸余惡法。

          (Kinh: Nói Thập Thiện th́ đó là căn bản của hết thảy các điều thiện, có thể gồm thâu hết thảy các thiện pháp khác. Nói Thập Ác th́ đó là căn bản của hết thảy các điều ác, có thể gồm thâu hết thảy các ác pháp khác).

 

          Do Thập Thiện là căn bản của hết thảy các thiện nghiệp, Thập Ác là căn bản của hết thảy ác nghiệp; cho nên Thập Ác và Thập Thiện là căn bản sơ bộ để sám hối. Khi sám hối, chính quư vị gieo luân tướng hằng ngày, luân tướng sẽ cho quư vị biết nghiệp nào đặc biệt nặng nề, quư vị bèn đặc biệt sám hối nghiệp ấy. Nghiệp nào nặng nề, tâm quư vị sẽ chú ư điều ấy. V́ thông thường, chướng ngại lớn nhất cho sự tu hành của chúng ta là ǵ? Chẳng phải là tham, sân, si, mà là nghi. Trong khi quư vị bái sám, điều thứ nhất là quư vị trừ khử nghi, phải sám hối Nghi trước hết. Nếu quư vị chẳng tin tưởng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quư vị c̣n lạy kinh làm ǵ? Chẳng có hiệu quả! Quư vị hoài nghi Địa Tạng Vương Bồ Tát có hiển hiện hay không? Hễ có niệm tâm như thế, đó là nghi! Quư vị đă hoài nghi th́ c̣n có thể đạt được ư? Hoài nghi th́ sẽ không đạt được! Càng trọng yếu hơn là nhất định phải chí thành, khẩn thiết, ngàn vạn phần chớ nên có chút kiêu mạn nào! Nếu có mạn tâm, mạn tâm là trợ duyên của tham, sân, si. Tham tâm và ngu si tâm chính là mạn. Mạn là căn bản [phiền năo].

          Do vậy, hăy chú ư, trong khi quư vị thành khẩn lễ bái, chẳng có chút tâm kiêu mạn nào! V́ sao? V́ quư vị hễ tiến vào sám thất[3], đối với các phiền năo của quư vị, hăy tự quán tưởng trước, đoạn phiền năo trước. Phiền năo, mạn phiền năo, nghi phiền năo phải đoạn trước. Khi quư vị tiến vào sám thất để bái sám, chẳng có một tí hoài nghi nào. Điều thứ nhất phải tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát, điều thứ hai là phải trừ khử tham. Mạn thuộc vào tham. Tâm tham quá nặng, ḷng nghi quá nặng; đó là hai điều đại kỵ trong bái sám. Hơn nữa, bái sám th́ ngàn vạn phần đừng nên có tâm phẫn hận, tâm năo hận, tâm tổn hại kẻ khác, tâm ganh tỵ. Khi bái sám, bước vào sám thất, bèn đoạn tham, sân, si. Mạn thuộc về tham, hoài nghi thuộc về si, mấy loại [tâm sở như] tùy, hại, phẫn, năo đều thuộc về sân hận, tức tâm sân hận. Trong khi quư vị bái sám, vừa tiến vào sám thất, hăy giữ sao cho cái tâm b́nh lặng. Điều thứ nhất là tâm an, người ta nói “tâm an lư đắc”, tức là tâm quư vị phải an tịnh th́ mới có thể đạt được!

          Chúng ta đều đă học giáo nghĩa Đại Thừa. Nếu nói theo giáo nghĩa viên măn, như thế nào th́ mới được coi là viên dung vô ngại? Chỉ cần một chữ đă gồm trọn, tức là khi quư vị tiến vào sám thất, toàn bộ đều buông xuống, sẽ là thiện. V́ đó là nghiệp báo thiện ác, [chiêm sát luân tướng nhằm] chiêm sát nghiệp báo thiện ác. Đương nhiên là nếu quư vị chẳng phát Bồ Đề tâm, sẽ chẳng tiến vào sám thất, cũng sẽ chẳng lạy Chiêm Sát Sám. Khi quư vị mong phát Bồ Đề tâm, tiến vào sám thất, lúc cầu sám hối, sám hối th́ vô minh phiền năo, tập khí, Kiến Tư Hoặc trong quá khứ đều phải đoạn trừ sạch, cho nên mới sám hối. Do trong lúc thông thường, bản thân chúng ta chẳng có sức mạnh ấy, v́ sao phải lạy Chiêm Sát Sám? Nhằm cầu Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ chúng ta, khiến cho chúng ta có thể sanh thêm sức mạnh. Khi quư vị đă lạy một ngày, hôm sau khi dùng Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Bồ Tát chẳng hóa thân, lúc ấy, Ngài chẳng hóa thân, mà tác ư, luân tướng của quư vị sẽ chẳng thể xác định được. Theo kinh nghiệm của tôi, luân tướng gieo trong bảy ngày đầu tiên đều chẳng phải là chân thật, mà cũng chẳng hiện. Sau bảy ngày [bái sám] dự bị lần đầu đă xong, quư vị bắt đầu bảy ngày [bái sám] lần thứ hai, [luân tướng] sẽ linh nghiệm, hiệu quả sẽ linh nghiệm. Do đó, thị hiện đỏ hay đen là thị hiện tướng, cho quư vị biết nghiệp chướng nào trong quá khứ nặng nề, nghiệp chướng nào rất nhẹ, đó gọi là “trọng điểm sám hối”. Do hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát ắt hiển hiện, quư vị sẽ gieo luân tướng thành công. Nếu Địa Tạng Bồ Tát chẳng hiện thân, hóa thân của Ngài chẳng đến, luân tướng của quư vị vĩnh viễn bất định, lời đáp chẳng đúng với lời hỏi, luân tướng hiển hiện đều chẳng chuẩn xác.

          Nhất định phải chú ư điều này, chú ư ǵ vậy? Đừng coi giả tướng thành thật. Khi quư vị bái sám, phải nên chú ư điều này! Quư vị bái sám sẽ có thể dùng Chiêm Sát Luân. Hôm nay lễ bái suốt một ngày, hôm nay chẳng gieo [luân tướng]. Hôm nay đă lễ bái suốt ngày, sáng sớm ngày mai, vừa vào sám thất, bèn dùng Chiêm Sát Luân trước. Chiêm sát xong rồi lại bái sám. Trong ngày hôm ấy, đừng dùng Chiêm Sát Luân. Bái sám xong, sáng sớm hôm sau sẽ dùng Chiêm Sát Luân trước để chiêm sát thâu hoạch của ta trong ngày hôm qua. Sau khi quư vị đă bái sám bảy ngày lần thứ hai, trong bảy ngày lần thứ ba, luân tướng sẽ tùy thời biến đổi. Cho đến khi quư vị đă thực hiện [bái sám] bốn lần bảy ngày, luân tướng sẽ trở lại. Trở lại như thế nào? Lúc đó, màu đỏ [đă thu được do gieo luân tướng thường được coi là] thanh tịnh lại chẳng phải là thanh tịnh[4]! V́ sao? Đó gọi là túc nghiệp phát hiện. Quư vị đă sám hối thanh tịnh [các nghiệp chủng đang] hiện hành, túc nghiệp liền đưa đến! Nợ nần trong hiện tại quư vị vẫn chưa trả xong, nghiệp quá khứ chẳng hiện. Tới khi [nợ nần trong] hiện tại đă thanh tịnh, nó (luân tướng) sẽ quay lại tính toán nghiệp chướng trong quá khứ. Quư vị phải bái sám gấp bội! Sau khi đă bái sám suốt ba thất, bốn thất, năm thất, túc nghiệp cũng dần dần thanh tịnh. Khi đó, tâm địa quư vị hết sức thanh tịnh, phiền năo nhẹ nhàng, bái sám rất an tâm. Khi đó, thân tâm sẽ đạt được cảnh giới khinh an. Quư vị ắt phải bái sám rồi mới có kinh nghiệm về chuyện này, chẳng bái th́ sẽ chẳng có!

 

          (Kinh) Nhược dục chiêm thử luân tướng giả, tiên đương học chí tâm tổng lễ thập phương nhất thiết chư Phật, nhân tức lập nguyện: “Nguyện linh thập phương nhất thiết chúng sanh, tốc tật giai đắc thân cận, cúng dường, tư thọ chánh pháp”. Thứ ưng học chí tâm kính lễ thập phương nhất thiết pháp tạng. Nhân tức lập nguyện: “Nguyện linh thập phương nhất thiết chúng sanh, tốc tật giai đắc thọ tŕ, độc tụng, như pháp tu hành, cập vị tha thuyết”. Thứ đương học chí tâm kính lễ thập phương nhất thiết hiền thánh, nhân tức lập nguyện: “Nguyện linh thập phương nhất thiết chúng sanh, tốc tật giai đắc thân cận, cúng dường, phát Bồ Đề tâm, chí bất thoái chuyển”. Hậu ưng học chí tâm lễ ngă Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhân tức lập nguyện: “Nguyện linh thập phương nhất thiết chúng sanh, tốc đắc trừ diệt ác nghiệp trọng tội, ly chư chướng ngại, tư sanh chúng cụ tất giai sung túc”.

          ()若欲占此輪相者。先當學至心總禮十方一切諸佛。因即立願。願令十方一切衆生速疾皆得親近供養諮受正法。次應學至心敬禮十方一切法藏。因即立願。願令十方一切衆生速疾皆得受持讀誦。如法修行。及為他說。次當學至心敬禮十方一切賢聖。因即立願。願令十方一切衆生速疾皆得親近供養。發菩提心至不退轉。後應學至心禮我地藏菩薩摩訶薩。因即立願。願令十方一切衆生速得除滅惡業重罪。離諸障礙。資生衆具悉皆充足。

          (Kinh: Nếu muốn chiêm sát luân tướng này, trước hết, hăy nên học chí tâm lễ chung mười phương hết thảy chư Phật, do vậy, liền lập nguyện: “Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh đều mau chóng được thân cận, cúng dường, xin lănh thọ chánh pháp”. Kế đó, nên học chí tâm kính lễ mười phương hết thảy pháp tạng. Do vậy, liền lập nguyện: “Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh đều mau chóng được thọ tŕ, đọc tụng, đúng như pháp tu hành, và v́ người khác nói”. Kế đó, hăy nên học chí tâm kính lễ mười phương hết thảy hiền thánh, do vậy, liền lập nguyện: “Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh, đều mau chóng được thân cận, cúng dường, phát Bồ Đề tâm, cho đến bất thoái chuyển”. Sau đó, hăy nên học chí tâm lễ ta là Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Do vậy, bèn lập nguyện: “Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh mau được trừ diệt ác nghiệp trọng tội, ĺa các chướng ngại, các thứ vật dụng cần thiết cho cuộc sống đều được sung túc”).

 

          Hoàn toàn chẳng phải là chúng ta cầm lấy luân tướng bèn chiêm sát, không thể được! Khi quư vị muốn chiêm sát luân tướng; trước hết, phải học chí tâm. Điều đầu tiên là phải học chí tâm. Phàm là người muốn chiêm sát luân tướng, quư vị muốn tu pháp môn này, trước hết, hăy nên học chí tâm lễ chung mười phương hết thảy chư Phật. Khi lễ mười phương chư Phật, quư vị liền phát nguyện, [đó là ư nghĩa của câu] “nhân tức lập nguyện”, nguyện ǵ vậy? Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh đều được mau chóng thân cận, cúng dường, xin lănh thọ chánh pháp. Nguyện thứ nhất là điều nghĩ đến đầu tiên. Quư vị mong bái sám, muốn dùng Chiêm Sát Luân Tướng, th́ trước hết, quư vị phải học chí tâm. “Chí tâm” là tâm quư vị chí thành, khẩn thiết, nhiếp tâm quy nhất, đó là “nhất tâm”. Mọi người bái bất cứ sám pháp nào, th́ cũng đều là nhất tâm. Tâm của chúng ta há c̣n có hai cái ư? Khiến cho quư vị nhất tâm là dạy quư vị trong lúc ấy chẳng có chút vọng tưởng nào, bất cứ sự vật nào cũng đều buông xuống. Chí tâm chẳng [đơn giản] như tôi vừa nói. Trong phần sau, kinh văn sẽ nói chí tâm là như thế nào, có ba loại chí tâm. Một là chí tâm lễ mười phương hết thảy chư Phật. Trong khi lễ Phật, bèn phát nguyện. V́ sao ta phải lễ mười phương chư Phật? Mục đích của ta là mong cho mười phương hết thảy chúng sanh đều có thể thanh tịnh cúng dường pháp. Nói đến pháp trước hết, [mong cho họ] sẽ “tư thọ chánh pháp” (xin lănh thọ chánh pháp).

          Tiếp đó là học chí tâm kính lễ mười phương hết thảy pháp tạng. Do vậy liền lập nguyện, nguyện cho hết thảy chúng sanh, tức mười phương chúng sanh đều mau chóng được thọ tŕ, đọc tụng, đúng như pháp tu hành, thọ tŕ Đại Thừa. Quư vị thọ tŕ kinh ǵ cũng đều được. Kinh Kim Cang, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, kinh A Di Đà… Hết thảy các kinh đều bao gồm trong ấy, đều là mười phương pháp tạng. Nhưng khi quư vị tụng kinh, nhất định phải phát nguyện. Tôi đă hỏi rất nhiều đạo hữu, họ cũng đọc tụng Đại Thừa, nhưng chẳng phát nguyện, mà cũng chả hồi hướng! Như thế th́ quư vị tụng kinh để làm ǵ? Chẳng phát nguyện, hiệu quả sẽ chẳng lớn! Do vậy, trước khi muốn làm chi đó, đều phải phát nguyện: Quư vị muốn đạt tới mục đích ǵ? Hy vọng điều ǵ? Không chỉ là pháp môn Địa Tạng, các pháp môn khác cũng đều như thế. Điều trước nhất là kính lễ chư Phật, thứ hai là kính lễ thập phương pháp, thứ ba là kính lễ thập phương hiền thánh tăng. Đó là trước hết bèn lễ kính Tam Bảo, thông thường đều là như thế.

          Nhưng Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta, quư vị lễ mười phương hết thảy chư Phật phải phát nguyện, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều có thể thanh tịnh cúng dường, cũng như đều tiếp nhận chánh pháp giống hệt quư vị. Hướng về đức Phật thỉnh pháp, thỉnh Phật thuyết pháp th́ gọi là “tư thọ chánh pháp”. [Như thế] th́ mới là lễ Phật Bảo. Điều thứ hai là lễ hết thảy pháp tạng. Quư vị cũng phải phát nguyện, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều có thể thọ tŕ, đọc tụng, đúng pháp tu hành, thọ tŕ giáo nghĩa Đại Thừa của đức Phật, có thể chiếu theo các điều kinh đă dạy để hành, chẳng phải chỉ thọ tŕ suông, chỉ thỉnh đức Phật thuyết pháp rồi thôi, mà c̣n phải nương theo pháp để tu hành. Kế đó, hăy nên chí tâm kính lễ mười phương hết thảy hiền thánh, do đó liền lập nguyện: Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh đều nhanh chóng được thân cận, cúng dường, phát Bồ Đề tâm, cho đến chẳng thoái chuyển. Thông thường, viên măn tâm Thập Tín, dự lên địa vị Sơ Trụ th́ sẽ bất thoái. Đó là [tŕnh tự địa vị của Viên Giáo Bồ Tát] theo kinh Hoa Nghiêm. Giáo nghĩa Hoa Nghiêm nói như thế đó. Xét theo ngũ giáo thông thường của Đại Thừa th́ đạt đến Thất Địa Bồ Tát mới chẳng thoái chuyển, chứ thông thường, [các địa vị thấp hơn] vẫn bị thoái chuyển. Trong kinh Hoa Nghiêm th́ viên măn tâm Thập Tín, dự vào Sơ Trụ [sẽ chẳng thoái chuyển]. Nói “Trụ” có nghĩa là “chẳng thoái chuyển”. Lễ Tam Bảo như thế đó.

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta, nếu quư vị muốn học Chiêm Sát Luân, học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo; trước hết, quư vị phải chí thành, khẩn thiết lễ kính Tam Bảo, sau đấy phải phát nguyện, tức là phát nguyện khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể lễ kính Tam Bảo. Chẳng phải là một ḿnh ta, mà là mười phương vô lượng chúng sanh. Lễ Tam Bảo xong bèn lễ ta, tức Địa Tạng Bồ Tát. Hăy nên học chí tâm lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Khi lễ Địa Tạng Bồ Tát, quư vị cũng phải phát nguyện: “Nguyện cho mười phương hết thảy chúng sanh đều có thể trừ diệt ác nghiệp trọng tội, ĺa các chướng ngại, các vật dụng cần thiết cho cuộc sống thảy đều sung túc”. Lễ kính Tam Bảo, đấy là pháp chủ, tức pháp chủ của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Như nhân gian khách sáo, chỉ tán thán Tam Bảo, chẳng nói đến chính ḿnh, Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng theo thói tục ấy, [Ngài dạy thẳng thừng]: Quư vị phải lễ ta, tức Địa Tạng Bồ Tát. V́ quư vị học pháp Địa Tạng, muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, phải lễ ta, tức lễ Địa Tạng Bồ Tát. Đồng thời, quư vị cũng phải phát nguyện, [phạm vi phát nguyện] cũng là mười phương: “Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều diệt trừ ác nghiệp, trọng chướng, khiến cho họ được đầy đủ các vật dụng cần thiết trong đời sống”. Nói đơn giản th́ là khiến cho ai nấy đều có thể phát tài. Phát tài th́ mới có vật dụng cần thiết cho cuộc sống, chẳng bị thiếu hụt, thảy đều sung túc, tràn trề!

          Đoạn kinh văn này là lễ kính Tam Bảo, được gọi là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Trong hết thảy các kinh, kinh điển Đại Thừa đều trọn đủ Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Chí tâm là ǵ, trong phần sau sẽ nói tỉ mỉ, tôi chỉ nói đại khái. Chí tâm phải đạt tới mức vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, chẳng có ta là người lễ, cũng chẳng có Tam Bảo và Bồ Tát là đối tượng được lễ. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta trọng thệ như thế th́ gọi là “chí tâm”. Đó gọi là Vô Tác Tứ Hoằng Thệ Nguyện, vô tác, vô nguyện. Ở ngay trong nguyện, nguyện chính là vô nguyện. Vô Tác: Tác chính là vô tác, trong tâm chớ nên chấp trước. Do vậy, trước hết khiến cho quư vị chí tâm. Chí tâm là hết thảy đều buông xuống, một tí chấp trước cũng chẳng có, quư vị mới có thể đạt tới chí tâm trọn khắp mười phương. Nếu không, làm sao có thể trọn khắp mười phương cho được? Cái tâm của chúng ta rất chấp trước, cho nên quư vị bước vào sám thất th́ phải buông xuống!

          V́ chúng ta đều dùng Chiêm Sát Luân Tướng, thoạt nghe th́ dường như rất đơn giản! Quư vị dùng Chiêm Sát Luân Tướng, trước khi chiêm sát luân tướng, sẽ có một nghi quỹ. Nghi quỹ ấy chính là lễ kính Tam Bảo. Lễ kính Tam Bảo chẳng phải là [lễ kính] một hai vị, mà là vô lượng, vô biên, tận hư không khắp pháp giới mười phương hết thảy Phật Bảo, tận hư không khắp pháp giới mười phương hết thảy Pháp Bảo, tận hư không khắp pháp giới mười phương hết thảy Tăng Bảo; lại c̣n phải cúng dường thanh tịnh. Hai chữ này rất khó! Trong tâm thanh tịnh, chẳng có tạp niệm nào khác, chúng ta kiên tŕ th́ thỉnh thoảng mới có thể làm được một lần dễ dàng. Chúng ta có thể làm được, nhưng chẳng thể giữ cho lâu dài. Quư vị bước vào sám thất, từ sáng cho đến tối, đều có thể là cùng một cái tâm ấy hay chăng? Luôn có thể chẳng dấy lên vọng tưởng hay chăng? Luôn có thể lễ kính Tam Bảo hay không? Tôi kiểm điểm chính ḿnh, nhận biết chính ḿnh chẳng thể làm được. Tôi nghĩ có bậc đại tâm Bồ Tát đang hiện diện nơi đây có thể làm được, chuyện này chẳng dễ dàng! Nói tới phát tâm th́ rất dễ dàng, có thể phát khởi cái tâm dũng mănh. Vừa nghe th́ tâm sám hối nghiệp chướng rất dễ kích động phát khởi, nhưng giữ được cái tâm ấy lâu dài th́ khó lắm! Chúng ta lạy suốt một ngày, thứ ǵ cũng đều có thể kiên tŕ buông xuống, ngày thứ hai th́ sao? Ngày thứ ba th́ sao? Tâm dũng mănh dễ phát khởi, cái tâm giữ vững lâu dài khó sanh! Đó là lư do v́ sao khi bái sám, trong ba ngày đầu, quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân sẽ thấy hỗn loạn, đơn giản là chẳng tương ứng! V́ cái tâm của quư vị vẫn chưa định được, dùng Chiêm Sát Luân cần phải chí tâm. Chẳng phải giống như tới sạp của thầy bói, tôi đưa cho quư vị mấy đồng, quư vị tính cho tôi một quẻ là được rồi. Đâu có đơn giản như vậy, chẳng hề đơn giản như thế!

          Tôi thấy các đạo hữu chúng ta đều đă phát Bồ Đề tâm. Phát tâm dễ dàng, nhưng muốn viên măn cái tâm ấy, khó lắm! Từ tâm, bi tâm, đại bi tâm, ba tâm đều trọn đủ th́ mới là phát Bồ Đề tâm. Tôi nghĩ trong số chư vị, có rất nhiều vị đă thọ Bồ Tát Giới, đều là đại đạo tâm Bồ Tát. Tôi kể một câu chuyện, tức chuyện về ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất tính phát Bồ Đề tâm, ĺa bỏ Thanh Văn. Phát Bồ Đề tâm th́ phải độ chúng sanh. Ngài vừa mới phát đại tâm, Đế Thích Thiên đế chúa, chúng ta thường gọi ông ta là Ngọc Hoàng Đại Đế. Đó là Bồ Tát hóa thân, chẳng phải là Đế Thích Thiên b́nh phàm. Khi ngài Xá Lợi Phất vừa phát Bồ Đề tâm trong nhân gian, Đế Thích Thiên liền đến khảo nghiệm tôn giả, chờ Ngài ở ngay bên đường. Ngài Lợi Phất đă phát Bồ Đề tâm, Đế Thích Thiên liền hóa thành một cô nghèo khổ, chực sẵn bên đường, khóc lóc. Ngài Xá Lợi Phất vừa mới phát tâm, thấy cảnh giới ấy hiện tiền, bèn hỏi cô bé ấy: “Con khóc v́ lẽ nào? Ta có thể giúp con hay không?” Cô bé đáp: “Ông không giúp nổi đâu!” Ngài nói: “Ta có năng lực có thể giúp con, hăy nói xem con cần ǵ?” Cô bé nói: “Mẹ con bị bệnh sắp chết. Lương y kê toa, cắt thuốc. Toa thuốc ấy th́ dược liệu rất dễ mua, chất dẫn thuốc khó t́m!” Ngài Xá Lợi Phất hỏi cô ta: “Phải dùng thứ ǵ để dẫn thuốc?” Cô ta nói: “Phải dùng mắt của người sống”. Ngài Xá Lợi Phất nghe xong, suy nghĩ: “Ta vừa mới phát Bồ Đề tâm, liền gặp chuyện này. Tướng cảnh giới hiện thực đưa tới liền!” Ngài suy nghĩ: “Được rồi, ta thỏa nguyện cho cô bé”, bèn móc một con mắt cho cô ta. Cô bé kêu lên: “Trật rồi! Ông móc sai rồi. Tôi cần con mắt bên trái. Ông móc con mắt bên phải, chẳng được!” Ngài Xá Lợi Phất đáp: “Sao con không nói sớm?” Đă có chút sai sót rồi, nguyện lực c̣n khiếm khuyết! Ngài suy nghĩ đôi chút: “Thôi được! Dẫu sao ta có thiên nhăn, không sao”, móc luôn con mắt kia cho cô ta. Cô bé cầm lấy, ngửi rồi kêu: “Ối trời ơi! Tanh thối, ói chết được! Làm sao có thể cho vào thuốc!” Quăng phẹt xuống đất, lại c̣n giẫm lên. Ngài Xá Lợi Phất nói “đại tâm khó phát”, vừa phát Bồ Đề tâm liền gặp phải cảnh giới như thế. Hai mắt đều móc ra, thế mà vẫn chẳng măn nguyện! Đế Thích Thiên liền bảo: “Trả mắt lại cho ông. Ông chẳng thể phát Bồ Đề tâm”.

          Mọi người nghe câu chuyện này, có cảm tưởng ǵ? Hiện thời, chúng ta phát Bồ Đề tâm, tôi nghĩ các đạo hữu chúng ta đều phát Bồ Đề tâm, nhưng chẳng có ai muốn xin chúng ta mắt, cũng chẳng có ai muốn xin chúng ta mũi. V́ sao? Chúng ta vẫn chưa đạt tới tướng cảnh giới ấy, biết chúng ta là hư vọng. Nếu quư vị nhờ vào bái sám ḥng chứng thực quư vị phát Bồ Đề tâm, lại được Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, quư vị sẽ phát đạo tâm.

 

          (Kinh) Như thị lễ dĩ, tùy sở hữu hương, hoa đẳng, đương tu cúng dường.

          ()如是禮已。隨所有香華等當修供養。

          (Kinh: Lễ như thế xong, tùy theo các thứ hương hoa đă có, hăy nên tu cúng dường).

 

          Lễ mười phương Tam Bảo xong xuôi, đă lễ Địa Tạng Bồ Tát xong, hăy tận hết sức của chính ḿnh. Tùy thuộc những ǵ chính ḿnh có, hương cũng thế, mà hoa cũng thế, tùy sức của chính ḿnh để cúng dường chư Phật, đó là “tu cúng dường”. Lễ kính Tam Bảo xong rồi, phải tu cúng dường, “cúng dường” vẫn là cúng dường Tam Bảo. Sự cúng dường này tùy ư. Tốt nhất là dùng sức mạnh to lớn của quán tưởng để cúng dường. Quư vị chẳng cần mua mấy đóa hoa, mua một ít trái cây làm chi! Hăy vận dụng pháp cúng dường. Pháp cúng dường là nói đến cái tâm; quư vị dùng nguyện lực của cái tâm để cúng dường. Tôi đă nói với rất nhiều đạo hữu: Vào lúc sáng sớm, khi muốn cúng dường chư Phật, quư vị ngồi tại đó, tịnh tâm quán tưởng. Phàm là những chỗ chợ búa, cửa hàng bách hóa, tiệm buôn, hay sạp bán trái cây mà quư vị đă từng tới, hăy quán tưởng dời hết chúng về. Ở Mỹ cũng thế, Bắc Kinh cũng thế, Thượng Hải, Đài Bắc, Đài Trung, Đài Nam, quư vị dùng toàn bộ để cúng dường. Đó gọi là “ức niệm”. Tôi từng nói với một đạo hữu như thế, ông ta bảo: “Thầy nói giả trất!” Tôi bảo: “Đó là thật, giả sao được? Cúng dường theo kiểu ông nói th́ hai ngày đă hư mất rồi, c̣n cách cúng dường của tôi vĩnh viễn bất hoại. Chỉ cần tâm ta bất tử, nguyện lực tồn tại, [các thứ đă cúng dường bằng cách quán tưởng ấy] vĩnh viễn thường tồn tại. Mọi người đừng nên so đo là giả hay thật. Thật ra, tất cả toàn là giả, nguyện lực của quư vị mới là thật! Phát nguyện của chúng ta đều là giả ư? Chẳng phải vậy! Đó mới là thật! Giả th́ sẽ hư hoại. Sau khi đă lư giải như vậy, đấy chỉ“tu cúng dường”.

 

          (Kinh) Tu cúng dường giả, ức niệm nhất thiết Phật, Pháp, Tăng Bảo, thể thường biến măn, vô sở bất tại.

          ()修供養者。憶念一切佛法僧寶。體常遍滿。無所不在。

          (Kinh: “Tu cúng dường” là nghĩ nhớ hết thảy Phật, Pháp, Tăng Bảo, thể thường trọn khắp, không đâu chẳng tồn tại).

 

          Đă tu cúng dường xong, quư vị phải tĩnh tư (靜思, lắng ḷng suy nghĩ). Tức là sau khi quư vị đă tiến vào sám thất để bái sám, cúng dường Tam Bảo, lễ kính xong xuôi. Sau đó, hăy ức niệm. Đă cúng dường rồi c̣n ức niệm, ức niệm ǵ vậy? Cúng dường xong, bèn ức niệm Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo trọn khắp hết thảy mọi nơi, không đâu chẳng tồn tại. Đấy mới là thật. Ngay trong đạo tràng của chúng ta, mười phương Tam Bảo đều hiện diện; tâm quư vị chí thành, khẩn thiết quán tưởng. Kinh Phật thường dạy: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức, nuôi lớn hết thảy các thiện căn). Tôi nói điều này chắc quư vị không tin! Ở chỗ nào? Ở đây há có Tam Bảo? Chúng ta đều là Tam Bảo! Quư vị đừng hạn chế trong căn nhà này, hăy mở rộng ra, hăy mở rộng cái tâm. Mở rộng tới mức độ nào? Tận hư không, trọn khắp pháp giới, không nơi đâu chẳng phải là thường trụ Tam Bảo. Tâm quư vị lớn cỡ nào, lượng to cỡ nào, pháp sẽ to chừng đó. Điều này có mối liên quan hết sức trọng yếu, chẳng giả; đấy mới là thật. Những thứ khác đúng là dễ dàng hư hoại, mà cũng dễ dàng chẳng c̣n! Cái tâm của quư vị vĩnh viễn bất hoại. Nói như vậy, ta chết chẳng phải là “đă hoại” ư? Quư vị chết [là chết nhục thân], chứ cái tâm của quư vị chẳng chết. Sức mạnh quán tưởng, sức mạnh tu hành bái sám của quư vị chẳng tiêu mất chút nào, c̣n y nguyên! Vấn đề là ǵ? Là do quư vị chẳng tin, xong luôn! Do vậy, quư vị muốn lạy Chiêm Sát Sám, nhất định phải tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát, tin tưởng trong khi ta bái sám, Địa Tạng Bồ Tát sẽ chứng minh cho ta, sẽ gia tŕ ta, tiêu trừ nghiệp chướng của ta, khiến cho ta có thể thành Phật ngay nơi thân này, thành Phật mau hơn đôi chút. Nếu quư vị chẳng có cái tâm ấy, tốt nhất là đừng nên lạy th́ hơn! Ắt cần phải kiến lập tín tâm ấy. Do vậy, kinh Chiêm Sát dạy quư vị nhất định phải chí tâm. Tâm chí thành, khẩn thiết, chuyện ǵ cũng đều có thể thành tựu. V́ thế nói: Trong khi quư vị cúng dường, nhất định phải ức niệm Tam Bảo. Pháp thể của Tam Bảo thường tồn tại, lại c̣n không chỗ nào chẳng hiện diện, có mặt khắp nơi! Đừng nghĩ Địa Tạng Vương Bồ Tát đang ở trong địa ngục độ chúng sanh! Tận hư không, khắp pháp giới, không chỗ nào chẳng phải là Địa Tạng.

 

          (Kinh) Nguyện linh dĩ thử hương hoa đẳng đồng pháp tánh, phổ huân nhất thiết chư Phật sát độ, thi tác Phật sự.

          ()願令以此香華等同法性。普熏一切諸佛刹土。施作佛事。

          (Kinh: Nguyện cho các hương, hoa v.v… ấy bằng với pháp tánh, xông trọn khắp hết thảy các cơi Phật, thực hiện Phật sự).

 

          Đồng thời c̣n phải phát nguyện: Nguyện cho tất cả hương, hoa ta đă dâng cúng là pháp tánh, bằng với pháp tánh, các thứ ta đă cúng, thứ nào cũng đều là pháp tánh. Hết thảy các cơi Phật đều có ta ở trong đó thực hiện Phật sự. Vậy th́ nếu quư vị mong cầu sanh về thế giới Cực Lạc sẽ dễ dàng. Quư vị cúng dường, làm Phật sự ở đó. Thế giới Cực Lạc, thế giới Lưu Ly ở phương Đông, thế giới Bất Động ở phương trên, toàn bộ hết thảy các thế giới đều có ta cúng dường trong ấy, pháp tánh trọn khắp hết thảy mọi nơi. Do vậy, mọi người học Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, hăy mở rộng thật lớn cái tâm. Khi tiến vào sám thất, quư vị ắt cần phải làm chuyện ấy! Tôi nghe có người nói với tôi: “Thưa lăo pháp sư! Thầy đă giảng Hoa Nghiêm, sao lại c̣n giảng kèm pháp Tiểu Thừa, giảng về Địa Tạng Vương Bồ Tát?” Ba kinh của Địa Tạng Bồ Tát đều là Hoa Nghiêm, chớ nên hiểu sai! Mọi người đă nghe tôi giảng đoạn kinh cúng dường Tam Bảo này. Tiếp theo đây là chiêm sát luân tướng. Quư vị hăy mở rộng cái tâm!

 

          (Kinh) Hựu niệm thập phương nhất thiết cúng cụ, vô thời bất hữu. Ngă kim đương dĩ thập phương sở hữu nhất thiết chủng chủng hương, hoa, anh lạc, tràng, phan, bảo cái, chư trân diệu sức, chủng chủng âm nhạc, đăng minh, chúc hỏa, ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thang dược, năi chí tận thập phương sở hữu nhất thiết chủng chủng trang nghiêm cúng dường chi cụ.

          ()又念十方一切供具。無時不有。我今當以十方所有一切種種香華璎珞。幢幡寶蓋。諸珍妙飾。種種音樂。燈明燭火。飲食衣服。臥具湯藥。乃至盡十方所有一切種種莊嚴供養之具。

          (Kinh: Lại nghĩ tới hết thảy các vật cúng trong mười phương, không lúc nào chẳng có. Ta nay sẽ dùng hết thảy tất cả các thứ hương, hoa, anh lạc, tràng, phan, lọng báu, các thứ trang hoàng mầu nhiệm, các thứ âm nhạc, đèn sáng, đuốc, lửa, thức ăn, y phục, mền đệm, thuốc men trong mười phương, cho đến hết thảy tất cả các thứ vật để trang nghiêm cúng dường trọn khắp mười phương).

 

          Lại nghĩ tới hết thảy các vật cúng trong mười phương. Để cúng dường Phật, bèn bày biện các vật cúng. Quư vị bày một mâm hoa quả làm vật cúng, hương hoa đều là vật cúng, chẳng có lúc nào, chẳng có chỗ nào mà chẳng có vật cúng. Chẳng có lúc nào không có, lúc nào cũng đều có. Ta đem tất cả hết thảy các thứ hương, hoa, anh lạc (璎珞, chuỗi ngọc, hay chuỗi kết bằng các thứ báu), tràng, phan, lọng báu, hết thảy trân châu, mă năo, hết thảy các vật trang hoàng mầu nhiệm để trang nghiêm trong mười phương. Lại c̣n có các thứ âm nhạc, đèn soi sáng, đuốc, lửa, thức ăn, y phục, mền đệm, thuốc thang, cho đến trọn hết mười phương các thứ vật cúng dường trang nghiêm.

 

          (Kinh) Ức tưởng dao nghĩ, phổ cộng chúng sanh, phụng hiến cúng dường, thường niệm nhất thiết thế giới trung hữu tu cúng dường giả, ngă kim tùy hỷ. Nhược vị tu cúng dường giả, nguyện đắc khai đạo, linh tu cúng dường.

          ()憶想遙擬。普共衆生奉獻供養。常念一切世界中有修供養者。我今隨喜。若未修供養者。願得開導令修供養。

          (Kinh: Nghĩ nhớ mong sao trọn khắp chúng sanh đều dâng hiến cúng dường, thường nghĩ tới trong hết thảy các thế giớinhững người tu cúng dường, ta nay tùy hỷ họ. Nếu kẻ nào chưa tu cúng dường, nguyện họ sẽ được hướng dẫn, chỉ bảo để tu cúng dường).

 

          Nghĩ nhớ mong tưởng, dùng sự suy niệm của ta để mong cho họ đều cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta cúng dường như thế nào? Chẳng phải là một ḿnh ta, mà là trọn khắp hết thảy chúng sanh đều cùng ta cúng dường. Giống như toàn thể đại chúng đang hiện diện [trong hội giảng kinh này] đều cùng lúc cúng dường. Chẳng phải là chúng ta đều mong sanh về thế giới Cực Lạc ư? Trước hết, hăy cúng dường A Di Đà Phật. Quư vị vừa tác ư là đă cúng dường. Quư vị nói xem, đó là thật hay giả? Quư vị mua mười cân táo, mua mười cân chuối, bày một nhà đầy hoa, hữu hạn, rất ít! Nếu quư vị mở rộng tâm lượng, vận tâm cúng dường ra xa th́ sẽ to lớn. Nếu quư vị luôn ức niệm, luôn cúng dường như thế, ai có thể phá hoại sự cúng dường của quư vị cho nổi? Ai cũng chẳng thể phá hoại được! Quư vị mua mấy đóa hoa thơm, mua một hai cân táo, chúng sẽ hư rất nhanh, hư nát hết!

          Không riêng ḿnh ta cúng dường như vậy! Hăy thường nghĩ trong hết thảy các thế giới, người tu cúng dường rất đông. Họ tu cúng dường đều có phần của ta. Khi họ tu cúng dường th́ cũng có ta, ta cũng tham gia cúng dường. Đó là nguyện “phổ giai hồi hướng”“tùy hỷ công đức” trong mười đại nguyện của đức Phổ Hiền. Trong các thế giới của chư Phật trong mười phương pháp giới, có rất nhiều vị đại Bồ Tát đang thỉnh pháp, cúng dường trong ấy, ta đều tham gia, đều tùy hỷ. Đó chính là “tùy hỷ công đức” trong mười đại nguyện của đức Phổ Hiền, thường nghĩ bất cứ ai tu cúng dường, ta đều tùy hỷ. Những ai c̣n chưa tu cúng dường, ta sẽ khuyên họ cùng mọi người tu cúng dường, khiến cho họ tu cúng dường.

 

          (Kinh) Hựu nguyện ngă thân tốc năng biến chí nhất thiết sát độ, ư nhất nhất Phật, Pháp, Tăng sở, các dĩ nhất thiết chủng trang nghiêm cúng dường chi cụ, cộng nhất thiết chúng sanh đẳng tŕ phụng hiến.

          ()又願我身速能遍至一切刹土。於一一佛法僧所。各以一切種莊嚴供養之具。共一切衆生等持奉獻。

          (Kinh: Lại nguyện thân ta có thể nhanh chóng đến trọn khắp hết thảy các cơi nước, nơi mỗi chỗ Phật, Pháp, Tăng, đều dùng hết thảy các thứ vật cúng dường trang nghiêm để cùng với hết thảy chúng sanh b́nh đẳng cầm dâng hiến).

 

          Trước khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy quư vị phải phát nguyện nhiều ngần ấy, làm nhiều chuyện ngần ấy. Lại c̣n phải phát nguyện, nguyện ǵ vậy? Có thể mau chóng đến hết thảy các sát độ, giống như kinh Hoa Nghiêm nói: “Tận hư không biến pháp giới vi trần số chư Phật” (chư Phật nhiều như số vi trần tận hư không khắp pháp giới). Phật nhiều như vi trần, mỗi vị Phật đều có một Phật sát (Kṣetra, một cơi Phật). Các cơi Phật nhiều như số vi trần, trong mỗi cơi Phật đều có Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, ta đều dùng hết thảy các vật cúng trang nghiêm trọn khắp, ta cùng hết thảy chúng sanh đều “đẳng tŕ” dâng hiến. “Đẳng tŕ” (等持) là b́nh đẳng cầm vô lượng vật cúng dường.

 

          (Kinh) Cúng dường nhất thiết chư Phật Pháp Thân, sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng, phù-đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự, cúng dường nhất thiết sở hữu pháp tạng, cập thuyết pháp xứ, cúng dường nhất thiết hiền thánh tăng chúng.

          ()供養一切諸佛法身色身。舍利形像。浮圖廟塔。一切佛事。供養一切所有法藏及說法處。供養一切賢聖僧衆。

          (Kinh: Cúng dường Pháp Thân, sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng, tháp miếu phù-đồ của hết thảy chư Phật, hết thảy Phật sự, cúng dường hết thảy tất cả pháp tạng, và chỗ thuyết pháp, cúng dường hết thảy hiền thánh tăng chúng).

 

          Cúng dường tận hư không khắp pháp giới hết thảy các cơi Phật, cúng dường Pháp Thân, sắc thân, xá-lợi, và h́nh tượng của hết thảy chư Phật. Có vị Phật là Pháp Thân Phật, có vị Phật đang thuyết pháp, hiện báo thân Phật. Có vị Phật là sắc thân, như Thích Ca Mâu Ni Phật là sắc thân, có vị Phật nhập Niết Bàn, lưu lại xá-lợi. Cúng dường tất cả tượng Phật, chùa miếu, tháp, “phù-đồ”[5] là tháp miếu. Hết thảy Phật sự là “Phật tạng, Phật Bảo”. Cúng dường hết thảy tất cả Pháp Bảo, cũng như chỗ thuyết pháp. Sự cúng dường ấy bao gồm cả pháp ṭa, pháp đường để thuyết pháp của chúng ta trong hiện thời. Chúng ta có thấy người cúng dường chúng ta, quư vị có thấy hay không? Chẳng thấy! Bởi lẽ, những điều ấy đều bao gồm trong sự cúng dường Địa Tạng Vương Bồ Tát, tùy thuộc quư vị có tin hay không? Tôi khuyên mọi người hăy tin tưởng. Tất cả các đạo tràng trong mười phương pháp giới đều hành cúng dường, tức cúng dường Phật, cúng dường Phật sự, cúng dường pháp tạng, cũng như [cúng dường] nơi chốn thuyết pháp, cúng dường hết thảy hiền thánh tăng chúng.

          Sự cúng dường Tam Bảo ấy có phạm vi to lớn, chúng ta chẳng thể tưởng tượng nổi! Chúng ta mở rộng tâm lượng hơn một chút, chớ nên hạn cuộc. Các vị có biết đức Phật có tài sản to lớn cỡ nào hay không, đức Phật phú quư cỡ nào hay không? Quư vị chẳng đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ không biết sự phú quư của đức Phật. Đến khi quư vị đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ biết sự phú quư của đức Phật là vô hạn, vô lượng. Trong đoạn kinh này, đức Địa Tạng đă dạy quư vị cúng dường Tam Bảo vô cùng, vô tận!

 

          (Kinh) Nguyện cộng nhất thiết chúng sanh tu hành. Như thị cúng dường dĩ, tiệm đắc thành tựu Lục Ba La Mật, tứ vô lượng tâm.

          ()願共一切衆生修行。如是供養已。漸得成就六波羅蜜。四無量心。

          (Kinh: Nguyện cùng hết thảy chúng sanh tu hành. Cúng dường như thế xong, dần dần thành tựu Lục Ba La Mật và tứ vô lượng tâm).

 

          Kế đó là chúng sanh: Nguyện cùng hết thảy chúng sanh, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều giống như ta, làm ǵ thế? Cúng dường Tam Bảo như vừa nói trên đây! Cúng dường như thế xong, cúng dường là có công đức, có phước đức, lại c̣n có trí huệ. Chẳng có trí huệ, sẽ chẳng thể hưng khởi sự cúng dường ấy. Sự cúng dường ấy lại tăng thêm phước huệ tiêu trừ nghiệp chướng của quư vị. Quư vị dần dần thành tựu Lục Ba La Mật và TVô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm là như mọi người thường niệm, từ, bi, hỷ, xả. Sáu loại Ba La Mật, bao gồm BThí, TGiới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, THuệ, sáu loại ấy và TVô Lượng Tâm. Như vậy th́ quư vị dùng BThí, TGiới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, THuệ, cộng thêm từ, bi, hỷ, xả, tức TVô Lượng Tâm của chính ḿnh để cúng dường, ngơ hầu từ biển khổ sanh tử đạt tới bờ kia Niết Bàn! Nói đến nguyện lực to lớn, th́ quư vị phải như thật phát nguyện th́ mới gọi là “nguyện lực lớn”, đưa hết thảy chúng sanh từ biển khổ sanh tử đến bờ kia Niết Bàn. Trong khoảng ấy, sẽ hành Lục Ba La Mật, TVô Lượng Tâm, Thập Độ. Đó gọi là “pháp cúng dường chư Phật” (dùng pháp để cúng dường chư Phật). Bố thí tất cả những ǵ chúng ta có cho chúng sanh. Hơn nữa, khi cúng dường Tăng bèn thanh tịnh, vô nhiễm. Do loại cúng dường thanh tịnh ấy, quư vị bèn đạt tới Giới Ba La Mật. Trong tâm chẳng có tí phiền năo th́ là Tinh Tấn Ba La Mật. Hết thảy trần cấu, tạp nhiễm đều tiêu mất, sẽ tiến nhập Thiền; đó là Thiền Ba La Mật. Tâm chẳng sân năo là Nhẫn Ba La Mật. Ĺa các giải đăi là Tinh Tấn Ba La Mật. Chẳng có chút tạp loạn nào là Tịch Tĩnh Thiền Định Ba La Mật. Khiến cho hết thảy chúng sanh đều được vui sướng là đại từ. Từ có thể ban vui, đều có thể ban vui cho hết thảy chúng sanh, [khiến cho họ] đạt được vui sướng, khiến cho chúng sanh chẳng có khổ năo. Như thế nào th́ sẽ có thể khiến cho chúng sanh đều chẳng bị khổ năo? Chính là đại bi, bi có thể dẹp khổ. Từ có thể ban vui. Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều được vui sướng, cho nên hoan hỷ vô lượng. Tâm của quư vị luôn b́nh đẳng, chẳng có sai khác, đặc biệt là đối đăi b́nh đẳng đối với chúng sanh đang khổ sở, chẳng có oán, thân. Đó gọi là Xả Vô Lượng. Từ, bi, hỷ, xả, Lục Độ, vạn hạnh, Tứ Vô Lượng Tâm.

 

          (Kinh) Thâm tri nhất thiết pháp bổn lai tịch tĩnh, vô sanh, vô diệt, nhất vị b́nh đẳng, ly niệm thanh tịnh, tất cánh viên măn.

          ()深知一切法本來寂靜。無生無滅。一味平等。離念清淨。畢竟圓滿。

          (Kinh: Biết sâu xa hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng sanh, chẳng diệt, một vị b́nh đẳng, ly niệm thanh tịnh, rốt ráo viên măn).

 

          Đồng thời phải quán tưởng, ngẫm lại, biết sâu xa hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh. Đây là dùng sức quán tưởng. Quư vị quán tưởng hết thảy các pháp chẳng có sanh diệt, vốn tịch tĩnh, b́nh đẳng, một vị b́nh đẳng, ĺa niệm thanh tịnh, rốt ráo viên măn. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng sanh như thế đó. Khi quư vị chưa dùng Chiêm Sát Luân, trước khi chiêm sát, hăy mở rộng tâm lượng. Mọi người nghe tôi đọc đoạn kinh này, quư vị nói xem: “Rốt cuộc kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo là Đại Thừa hay Tiểu Thừa?” Xin các vị hăy tự ḿnh phán đoán tường tận!

 

          (Kinh) Hựu ưng biệt phục hệ tâm cúng dường ngă Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, dĩ đương xưng danh. Nhược mặc tụng niệm, nhất tâm cáo ngôn: “Nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Như thị xưng danh, măn túc chí thiên.

          ()又應別復繫心供養我地藏菩薩摩訶薩。以當稱名。若默誦念。一心告言。南無地藏菩薩摩訶薩。如是稱名滿足至千。

          (Kinh: Lại c̣n điều phục cái tâm, chuyên dc tâm cúng dường ta, tức Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hăy nên xưng danh, hoặc là thầm tụng niệm, nhất tâm thưa rằng: “Nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Xưng danh như thế cho đến đủ số một ngàn câu).

 

          Lại nên điều phục cái tâm, tâm khăng khăng chuyên nghĩ cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị c̣n phải chí thành, khẩn thiết cúng dường ta, hoặc xưng danh hiệu của ta, dùng xưng danh để cúng dường, dùng cách thầm tụng niệm để niệm Địa Tạng Bồ Tát. Âm thầm tụng niệm, nhất tâm thưa tŕnh. Quư vị niệm suông, hoặc cung kính lễ bái suông th́ vẫn chưa được, vẫn phải hướng đến Địa Tạng Bồ Tát trần thuật, thưa bày cùng Địa Tạng Bồ Tát. Sau đó bèn niệm “nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Xưng danh tụng niệm đủ một ngàn lần, đủ số một ngàn câu. Điều này có ư nghĩa ǵ vậy? Muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, chẳng phải là lấy mộc luân ra rồi gieo ngay. Chẳng phải là như đến sạp coi bói, đưa cho thầy bói mấy đồng, ông ta bèn tính ngay cho quư vị một quẻ!

 

          (Kinh) Kinh thiên niệm dĩ, nhi tác thị ngôn: “Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đại từ, đại bi, duy nguyện hộ niệm, ngă cập nhất thiết chúng sanh, tốc trừ chư chướng, tăng trưởng tịnh tín, linh kim sở quán xứng thật tương ứng”.

          ()經千念已。而作是言。地藏菩薩摩訶薩。大慈大悲。惟願護念。我及一切衆生。速除諸障。增長淨信。令今所觀稱實相應。

          (Kinh: Đă niệm đủ số một ngàn lần rồi, bèn nói như thế này: “Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đại từ, đại bi, kính mong hăy hộ niệm cho con và hết thảy chúng sanh mau trừ các chướng, tăng trưởng ḷng tin thanh tịnh, khiến cho điều con sẽ thấy tương xứng với sự thật”).

 

          Sau khi đă niệm một ngàn câu thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, quư vị lại phát nguyện, hướng về tượng Địa Tạng Bồ Tát thưa bày: “Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Ngài là đấng đại từ, đại bi. Xin Ngài hộ niệm cho con và hết thảy chúng sanh mau trừ diệt các chướng, khiến cho hết thảy các nhân duyên chướng đạo của con đều trừ diệt. Nay tín tâm của con vẫn chưa trọn đủ, hăy tăng trưởng ḷng tin thanh tịnh cho con”. Đấy chính là lời thỉnh cầu của Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, v́ tín tâm của chúng ta chẳng đầy đủ, vẫn chưa thể nói là kiên định, đối với chuyện phát khởi th́ vẫn chưa phát khởi. Cho nên, “hăy tăng trưởng tín tâm thanh tịnh của con, khiến cho con gieo luân tướng sẽ tương ứng với sự thật. Nếu không, Ngài chẳng từ bi, chẳng chiếu cố con, luân tướng sẽ chẳng tương ứng”. Đấy là thỉnh cầu Địa Tạng Bồ Tát từ bi, khiến cho chuyện ta muốn hỏi sẽ tương ứng, có nghĩa là “phù hợp”. Ta hỏi chuyện ǵ, luân tướng sẽ trả lời cho ta chuyện đó, ta phải nên làm như thế nào. Chúng ta chẳng biết làm như thế nào th́ mới nên, bèn dùng luân tướng thỉnh cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ dạy. Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo quư vị phải nên làm như thế này, như thế nọ. “Thưa bày”: Khi ta muốn dùng luân tướng, trước đó, phải hướng về Địa Tạng Vương Bồ Tát thưa tŕnh.

 

          (Kinh) Tác thị ngữ dĩ, nhiên hậu thủ chấp mộc luân, ư tịnh vật thượng nhi bàng trịch chi.

          ()作此語已。然後手執木輪於淨物上而傍擲之。

          (Kinh: Nói lời ấy xong, sau đó, tay cầm mộc luân, gieo lên vật sạch sẽ).

 

          “Tác thị ngữ dĩ”: Lạy như thế xong, thưa bày đă xong rồi mới gieo mộc luân. Chẳng phải là cầm lấy [mộc luân] liền gieo ngay khi đó. Lúc ấy (khi đă lễ bái, phát nguyện xong) mới cầm lấy mà gieo. Mộc luân có ba loại, chẳng phải là cùng gieo [cả ba loại] một lúc. Cần phải gieo vào lúc sáng sớm mỗi ngày th́ sẽ gieo thanh tịnh, chẳng được gieo gộp chung ba loại cùng một lúc. Luân gieo ra, sẽ có ba trường hợp: Một là đỏ hoặc đen. Hai là vạch to màu đỏ, hay vạch to màu đen. Ba là vạch nhỏ màu đỏ, hay vạch nhỏ màu đen. Khi quư vị bái sám, mỗi ngày sẽ gieo ba loại luân ấy. Nếu toàn là đỏ, tức bái sám thanh tịnh. Lúc ấy, quư vị cầu ǵ được đó. Khi gieo luân tướng, phải đặt một cái khăn sạch, hoặc miếng vải sạch, hoặc dùng một miếng plastic [tinh sạch] cũng được, cốt sao thanh tịnh. [Đó chính là ư nghĩa của câu] “ngưỡng thủ bàng trịch” (ngửa tay gieo lên một vật sạch sẽ).

 

          (Kinh) Như thị dục tự quán pháp. Nhược dục quán tha, giai diệc như thị, ưng tri.

          ()如是欲自觀法。若欲觀他。皆亦如是應知。

          (Kinh: Muốn quán cho chính ḿnh th́ làm theo cách như thế. Nếu muốn quán cho người khác, hăy nên biết: Cũng đều nên làm như thế).

 

          Chính ḿnh có chuyện ǵ th́ sẽ gieo luân tướng để hỏi, vậy th́ ta gieo thay cho người khác có được hay không? Giúp người khác cũng được! Chính quư vị tự quán, hay là muốn quán cho người khác, đều được! Quán người khác th́ quư vị quán một người nào đó, hoặc quán một vị sư phụ nào đó. Nói đơn giản là quư vị coi Mộng Tham có phải là một ḥa thượng tốt hay không, quư vị hăy gieo luân tướng một phen, luân tướng sẽ cho quư vị biết. Tôi sẽ chẳng bảo quư vị tôi không tốt, tôi vẫn chưa thẳng thắn đối trước quư vị sám hối như thế được, chưa thể! Nhưng quư vị có thể hỏi Địa Tạng Bồ Tát: “Vị ḥa thượng này có được hay không?” Quư vị gieo luân tướng một phen, Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo quư vị: C̣n chấp nhận được, quư vị có thể tin người đó. Địa Tạng Vương Bồ Tát trọn chẳng lừa quư vị. Ngài nói tốt là tốt, xấu là xấu, quư vị có thể hỏi Ngài. Nếu quư vị muốn bái một vị nào đó làm sư phụ, có thể hỏi “con có thể bái sư hay không”, Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo cho quư vị biết. Địa Tạng Bồ Tát chẳng che giấu khuyết điểm, mà cũng chẳng v́ tư lợi, chẳng v́ tôi là kẻ sùng bái Ngài, hoặc do tôi là đệ tử của Ngài mà Ngài che giấu khuyết điểm của tôi, chẳng hề! Ngài sẽ nói đúng như sự thật. Quư vị muốn quán cho chính ḿnh hoặc quán giùm người khác đều được!

          Chúng ta đông người như thế, khi mọi người muốn học pháp Chiêm Sát Luân, có rất nhiều đạo hữu đều hiểu, có thể truyền bá, mọi người học tập lẫn nhau. Điều thứ nhất là phải thành khẩn, thành khẩn có nghĩa là “chí tâm” như kinh này đă nói. Địa Tạng Vương Bồ Tát đă dạy: Chí tâm th́ có thượng chí tâm, trung chí tâm, và hạ chí tâm. Thượng chí tâm th́ chúng ta đều chẳng đạt được; thánh nhân mới có thượng chí tâm; nhưng chúng ta học hạ chí tâm, chẳng để cho nó tạp loạn, tâm chẳng tạp loạn. Khi quư vị bước vào sám thất, nhất định quăng mọi chuyện bên ngoài ở ngoài cửa sám thất, chớ nên mang chúng vào trong sám thất! Khi đă vào trong sám thất, tâm chẳng có hai niệm. Nếu quư vị chẳng thể, th́ hăy “nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Quư vị tưởng h́nh tướng đức Địa Tạng, miệng niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát là đủ rồi. Đó được coi là đă chí tâm, niệm nào cũng đều chẳng rời Địa Tạng Vương Bồ Tát. Quư vị bái sám chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh, nhưng quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, lạy Địa Tạng Vương Bồ Tát, nghiệp chướng cũng tiêu trừ rất nhiều. Do đă tiêu rất nhiều, trong khi quư vị nằm mộng, quư vị gặp phải chuyện ǵ đó chẳng cát tường, hoặc buôn bán chẳng vừa ư, bất luận bất cứ chuyện ǵ cũng đều có thể giải quyết. Nhưng bản thân quư vị ắt phải có tâm chí thành. Lừa gạt người khác th́ có thể lừa gạt được, chứ chẳng thể lường gạt Địa Tạng Vương Bồ Tát đâu nhé! Tôi nghĩ mọi người đều tin tưởng điều này! Do vậy, phải chí thành, khẩn thiết thưa bày đúng thật. Quư vị đừng cho rằng đối trước tượng [Bồ Tát] mà nói sẽ chẳng linh, so với đối trước người khác nói, sẽ linh hơn rất nhiều. Chúng ta chẳng có sức mạnh ấy, tôi chắc chắn chẳng dối gạt quư vị!

          Tôi đă tự ḿnh có kinh nghiệm đối với những vấn đề này, nhưng nghiệp chướng của tôi rất nặng. Tôi vừa mới tiễn pháp sư Hoằng Nhất trở về Hạ Môn, liền bế quan tại Thanh Đảo[6] để lạy Chiêm Sát Sám. Đă lạy vài tuần, toàn bộ luân tướng đều sắp thanh tịnh th́ người Nhật chiếm đóng Thanh Đảo. Sau biến cố ngày Bảy tháng Bảy[7], quân Nhật đánh tới Thanh Đảo, chúng tôi phải hoàn toàn ngưng bái sám. Đó là chướng ngại to lớn. Nhưng kể từ sau khi tôi bái sám luân tướng chẳng thành công, mấy chục năm sau đó, rất đau xót, rất khổ sở! Phải cách mấy chục năm sau nữa, vào năm 1989, tôi mới ở Mạn Cáp Đốn (Manhattan) của Nữu Ước được họ yêu cầu giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mới lại bắt đầu, chẳng phải là thuận lợi đâu nhé! Sau đấy, lại sau mười năm nữa, từ năm 1989 đến năm 1999, lại ở chùa Phổ Thọ tại Ngũ Đài Sơn giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Sau đó lại cách mười năm, năm nay là năm 2009, từ 1989 cho đến năm 2009, mới được thuyết pháp, giảng giải, học tập. Nhân duyên cùng mọi người học tập là như thế đó, đều là chẳng thể nghĩ bàn, đều là chẳng thể tưởng tượng được!

          Tôi đến Đài Loan vốn là muốn rèn luyện thân thể. Tôi ở Ngũ Đài Sơn không khỏe, vừa mới lành bệnh đôi chút. Tôi nói ở trên núi, thân thể chẳng khỏe khoắn, bèn xuống núi đi rèn luyện đôi chút. Tới Thái Nguyên, ở Thái Nguyên cũng rất tốt. Tôi nói phải đi xa hơn một tí, lúc ấy mới nghĩ đến chuyện sang Đài Loan. Vừa nghĩ bèn linh ứng. Sang Đài Loan, tôi hoàn toàn chẳng mong hoằng pháp, giảng kinh lần nữa, cảm thấy chính ḿnh chẳng có sức mạnh ấy. Tuy tôi chưa chịu già, nhưng quư vị mà chín mươi lăm tuổi th́ rốt cuộc vẫn là già khọm mất rồi! Chuyện này tột bậc hiện thực; chẳng phải là do quư vị thừa nhận hay không. Quư vị thừa nhận cũng thế, mà không thừa nhận cũng thế, già th́ đă già khọm mất rồi! Không chỉ già, mà c̣n phải chết. Chưa chết th́ kể như được Phật, Bồ Tát gia tŕ, há c̣n nghĩ tới giảng kinh, chẳng có sức lực ấy! Nay giảng kinh, tôi thấy mọi người nghe xong c̣n chưa chê trách, phản đối, nhưng khi bắt đầu giảng, tôi vẫn lo ngại ḿnh có thể giảng xong hay không? Nay tôi thấy đại khái là chẳng có vấn đề ǵ, có thể giảng xong!

          Chiêm sát nghiệp báo thiện ác, trong tâm mỗi người chúng ta đều có một cái thước nhỏ. Tuy thước chẳng dài, nhưng đo [cái tâm của chính ḿnh] rất rành rẽ! Nghiệp chẳng nặng, chẳng sanh vào Sa Bà. Nghiệp của chúng ta rất nặng, mới sanh vào Sa Bà, nhưng chúng ta đều có thể nghe Phật pháp, lại c̣n có thể được nghe rất nhiều Phật pháp. Không chỉ được nghe, mà c̣n có thể làm theo. Đă nghe rồi c̣n có thể Tư, Tư là quán tưởng. Không chỉ Tư, mà c̣n có thể hành, hành chính là Tu. Văn Tư Tu tam-muội trọn đủ. Nghe xong bèn suy xét, ta phải thực hiện. Ta cũng dùng pháp Chiêm Sát Luân này, tự ḿnh chẳng biết nghiệp chướng của chính ḿnh to hay nhỏ. Chúng tôi nhận thấy: Phàm là các đạo hữu đến tham dự pháp hội, nghiệp chướng của quư vị chẳng to cho lắm. Nếu to th́ quư vị đă chẳng gặp danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Chẳng được nghe danh hiệu này, mà lại c̣n có thể học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, học kinh Địa Tạng, chẳng có cửa đâu nhé, chẳng thể nào được! Mọi người nhất định phải tin tưởng chuyện này!

          Nhưng nghiệp chướng của chúng ta nhẹ nhàng, lẽ ra phải thành đạo, nhưng trong khi nghiệp chướng chẳng nặng chẳng nhẹ, mỗi vị đạo hữu [có thể thành tựu hay không], tùy thuộc quư vị nhận biết chính ḿnh, tùy thuộc nỗ lực của mỗi người như thế nào! Người ta nói “nghiệp chẳng nặng, chẳng sanh Sa Bà”, tôi nói “có thể nghe pháp trong Sa Bà th́ nghiệp của quư vị chẳng nặng”. Sanh vào Sa Bà là nghiệp chướng rất nặng, nhưng trong thế giới nghiệp chướng nặng nề này, mà có thể nghe Phật pháp, tức là trong chốn nghiệp nặng, nghiệp của quư vị chẳng nặng! Chúng ta cũng đừng nên v́ lăo ḥa thượng nói nghiệp của ta chẳng nặng mà có thể ăn chơi đàng điếm, không chuyện ǵ chẳng làm! Nếu như thế th́ là nghiệp chướng nặng nề, chẳng phải là không nặng nề! Tôi nói “nghiệp chướng chẳng nặng” là do quư vị có thể nghe Phật pháp, có thể hành đúng theo lời dạy, chiếu theo những điều kinh đă dạy để làm; nhưng cũng đừng chớ nên đánh giá ḿnh quá cao. V́ sao? Đánh giá chính ḿnh quá cao, quư vị sẽ chẳng đạt được. Chẳng đạt được, quư vị sẽ ngă ḷng, dần dần lui sụt. Có thể nghe [Phật pháp] th́ sau đó tốt nhất là nếu quư vị mong bái sám, trước hết hăy niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát một vạn câu. Mỗi ngày, quư vị chí tâm một chút th́ niệm một vạn câu rất dễ dàng, niệm một vạn câu thánh hiệu. Trong kinh Địa Tạng, Địa Tạng Vương Bồ Tát đă căn dặn chúng ta: “Quư vị gặp chuyện khó khăn chi đó, hăy niệm danh hiệu ta một vạn câu”. Khi tôi gặp khó khăn, tôi tính sang Đài Loan, lần đầu không đi được, tôi bèn niệm một vạn câu. Vẫn chẳng được, không xin phép được! Tôi niệm gấp mười lần, niệm mười vạn câu, vẫn chẳng được! Tôi hơi cứng đầu, có rất nhiều chuyện tôi rất cứng đầu, tôi niệm một trăm vạn câu. Chẳng được, tôi bèn niệm ngàn vạn câu, một mực niệm miết. Tôi niệm đến một trăm vạn câu, chính ḿnh cảm nhận được, thủ tục hộ chiếu cũng đều làm xong. Đối với hết thảy các pháp, chúng ta đừng cho là khó, nghe kinh dạy [cảm thấy] rất khó khăn. [Kinh dạy phải] chí tâm, ta chẳng chí tâm; không sao hết! Cứ tu đi, rèn luyện đôi chút sẽ chí tâm!

 

Tập 5

 

          (Kinh) Chiêm kỳ luân tướng giả, tùy sở hiện nghiệp, tất ưng nhất nhất đế quán tư nghiệm, hoặc thuần cụ Thập Thiện, hoặc thuần cụ Thập Ác, hoặc thiện ác giao tạp, hoặc thuần thiện bất cụ, hoặc thuần ác bất cụ, như thị nghiệp nhân chủng loại bất đồng. Tập khí quả báo, các các biệt dị, như Phật Thế Tôn dư xứ quảng thuyết, ưng đương ức niệm, tư duy, quán sát sở hiện nghiệp chủng, dữ kim thế quả báo sở kinh khổ, lạc, cát, hung đẳng sự, cập phiền năo nghiệp tập, đắc tương đương giả, danh vi tương ứng. Nhược bất tương đương giả, vị bất chí tâm, danh hư mậu dă.

          ()其輪相者。隨所現業。悉應一一諦觀思驗。或純具十善。或純具十惡。或善惡交雜。或純善不具。或純惡不具。如是業因種類不同。習氣果報各各別異。如佛世尊余處廣說。應當憶念思惟。觀察所現業種。與今世果報所經苦樂吉凶等事。及煩惱業習得相當者。名為相應。若不相當者。謂不至心。名虛謬也。

          (Kinh: Chiêm nghiệm luân tướng, thuận theo các nghiệp đă hiện [bởi luân tướng], đều nên đối với mỗi tướng mà quán kỹ càng, suy nghiệm, hoặc là thuần đủ Thập Thiện, hoặc thuần đủ Thập Ác, hoặc thiện ác giao xen, hoặc chẳng trọn đủ thuần thiện, hoặc chẳng trọn đủ thuần ác, các chủng loại nghiệp nhân khác nhau như thế, tập khí, quả báo mỗi thứ đều sai khác, như Phật Thế Tôn đă nói cặn kẽ trong các chỗ khác (trong các bộ kinh khác). Hăy nên ức niệm, tư duy, quan sát các nghiệp chủng đă hiện, nếu chúng tương đương với các quả báo, các chuyện khổ, vui, cát, hung v.v… đă trải qua trong đời này, và phiền năo, nghiệp tập, th́ gọi là “tương ứng”. Nếu chẳng tương đương th́ là do [hành giả] chẳng chí tâm, gọi là “hư huyễn, lầm lạc” vậy).

 

          Đoạn kinh văn này dạy chúng ta: Nếu lúc quư vị muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, Chiêm Sát Luân hiển hiện thiện nghiệp hay ác nghiệp. Thiện nghiệp là màu đỏ, ác nghiệp màu đen. Nếu [các nghiệp chủng] đă hiện [bởi luân tướng] tương ứng với những ǵ quư vị hứng chịu trong hiện thực, tương ứng với tất cả các t́nh huống trong cuộc sống th́ là “hợp”, rất đúng. Nếu chẳng tương ứng, th́ là phiền năo của quư vị vốn rất nặng nề, tập khí cũng rất nặng. Chuyện ǵ cũng đều chẳng vừa ư, cho thấy nghiệp của quư vị rất nặng, thế mà khi quư vị dùng luân tướng, toàn là hiện thành màu đỏ tốt lành; đấy là chẳng tương ứng. Lời đáp chẳng đúng với lời hỏi, nên gọi là “chẳng tương ứng”. Nếu luân tướng hiển hiện “bất sát”, nói là quư vị chẳng có sát nghiệp, nhưng quư vị bệnh khổ lâu ngày, tức là luân tướng chẳng hiển hiện tương ứng! Luân tướng hiển hiện quư vị chẳng có sát nghiệp, sát nghiệp trong quá khứ rất nhẹ, vậy th́ đời này đáng lẽ chẳng bệnh tật, ít khổ năo, sống lâu, đó mới gọi là “tương ứng”. “Chẳng tương ứng”hàm nghĩa là ǵ? Khi quư vị dùng luân tướng, tâm vẫn chưa chí thành, [cho nên] luân tướng chẳng hiện. Đó là một loại hiện tượng. Trong khi quư vị thỉnh cầu, bái sám, muốn dùng luân tướng, Địa Tạng Vương Bồ Tát không hiện, luân tướng chẳng tương ứng. Quư vị cầu một lần, hai lần, ba lần, thậm chí trong một ngày, mười ngày, từ đầu đến cuối, luân tướng chẳng tương ứng, v́ cái tâm của quư vị vẫn chưa chí thành quy y. Cái tâm ấy hư vọng, cho nên luân tướng chẳng hiện. Một loại khác là quư vị cảm mà Địa Tạng Vương Bồ Tát vẫn chẳng ứng. [Bồ Tát] chẳng ứng th́ luân tướng chẳng tương ứng. Do cái nhân trong quá khứ của chúng ta, các thứ nhân tạo nghiệp và tập khí trong quá khứ, cũng như quả báo trong đời này ắt phải tương ứng với những điều được hiện bởi luân tướng. Đó gọi “tương ứng”. [Tương ứng] như vậy tức là quư vị đă cầu được Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Điều đó gọi là “tương ứng”, chứ lời đáp chẳng phù hợp với lời hỏi th́ gọi là “chẳng tương ứng”.        

          [Chánh kinh] dạy chúng ta: Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, điều đầu tiên là phải bái sám, luyện tập chí tâm. Trong phần sau, kinh văn sẽ giảng cặn kẽ về chí tâm: Thượng thượng chí tâm là ǵ, trung đẳng chí tâm là ǵ, hạ hạ chí tâm là ǵ? Sẽ giảng cặn kẽ, rất nhiều! Thông thường, chúng ta cũng chẳng quan sát điều này. Quư vị cũng chẳng hiểu bản thân quư vị không chí tâm! [Cứ nghĩ] “dẫu sao ta chẳng dấy vọng tưởng ǵ cả th́ là chí tâm”, chẳng phải là thô thiển như thế, [kinh sẽ giảng] rất tỉ mỉ! Kinh dạy: Khi quư vị chiêm sát luân tướng, v́ nghiệp nhân khác biệt trong vô lượng kiếp quá khứ, quư vị sẽ có tập khí biểu hiện khác biệt trong hiện tại. Mỗi cá nhân đều có tập khí riêng biệt, mọi người chú tâm [xem xét], nh́n vào động tác của mỗi người, [sẽ nhận thấy] mỗi người có động tác riêng, bất luận là nói năng hay hành động. Đó gọi là tập khí, mỗi người đều khác biệt! Nếu luân tuớng hiển hiện chẳng giống tập khí trong cuộc sống của quư vị, tức là quư vị vẫn chẳng chí tâm. Tâm quư vị vẫn chưa thể đạt tới mức chí tâm. Vậy th́ trước hết quư vị phải thâu nhiếp cái tâm sao cho đạt tới chí tâm, sau đó mới chiêm nghiệm luân tướng.

 

          (Kinh) Nhược chiêm luân tướng, kỳ thiện ác nghiệp câu bất hiện giả, thử nhân dĩ chứng vô lậu trí tâm, chuyên cầu xuất ly, bất phục nhạo thọ thế gian quả báo. Chư hữu lậu nghiệp, triển chuyển vi nhược, cánh bất tăng trưởng. Thị cố bất hiện.

          ()輪相。其善惡業俱不現者。此人已証無漏智心。專求出離。不復樂受世間果報。諸有漏業。展轉微弱。更不增長。是故不現。

          (Kinh: Nếu chiêm sát luân tướng mà thiện nghiệp lẫn ác nghiệp đều chẳng hiện, [là do] người ấy đă chứng vô lậu trí tâm, chuyên cầu xuất ly, chẳng c̣n ưa thích nhận lănh quả báo thế gian. Các nghiệp hữu lậu lần lượt chuyển thành yếu nhỏ, chẳng c̣n tăng trưởng nữa. V́ thế, chẳng hiện).

 

          Nếu lúc chiêm sát luân tướng, thiện nghiệp lẫn ác nghiệp của quư vị hoàn toàn chẳng hiện. Hễ chiêm sát th́ toàn thể đều trống rỗng (tức các luân đều là mặt trống, không có chữ). Chiêm sát một lần là như thế, chiêm sát hai lần cũng thế. Chiêm sát mười lần, tám lần, đều là hoàn toàn chẳng hiện. Thiện cũng chẳng hiện, mà ác cũng chẳng hiện. Bản thân quư vị vẫn chẳng biết rơ, trên thực tế, quư vị đă chứng đắc vô lậu trí. Tâm quư vị đă chứng đắc vô lậu trí, cho nên Chiêm Sát Luân chẳng hiện tướng! Chiêm sát luân tướng là nói đến các chúng sanh hoài nghi, và các chúng sanh chưa dự vào địa vị, cho nên mới sử dụng Chiêm Sát Luân. Khi quư vị đă quyết định tin, đă chứng quả, luân tướng sẽ chẳng hiện!

          C̣n một loại nữa, chính là kẻ tâm chẳng chí thành, [luân tướng] sẽ chẳng hiện. C̣n một loại nữa là quư vị chứng đắc Bát Nhẫn, Bát Trí, chứng đắc Kiến Địa, kinh Đại Thừa gọi [địa vị ấy] là Thất Trụ, tức Đại Thừa Thất Trụ. Kinh Hoa Nghiêm th́ gọi địa vị ấy là Sơ Trụ. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát th́ tướng ǵ cũng đều chẳng hiện, [bởi lẽ], trong tam giới, hết thảy Hoặc nghiệp của quư vị đều chẳng có. Ba nghiệp thân, miệng, ư của quư vị trong thế giới này đă chuyển, do đă đoạn Hoặc Chủng phân biệt thuộc tam giới, cho nên chúng chẳng hiện. V́ sao? Do quư vị chẳng có nghiệp nhân ấy, chẳng thọ nghiệp quả ấy, cho nên chẳng hiện. Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo chủ yếu là khiến cho quư vị tránh khỏi nghiệp quả trong đời sau. Ta đáng đọa địa ngục, quư vị đảnh lễ, chiêm sát nghiệp báo thiện ác, bái sám, sẽ chẳng đọa địa ngục. Nếu đáng đọa làm ngạ quỷ, [th́ do công đức bái sám], sẽ chẳng đọa. Quư vị đă hoàn toàn chẳng có cái nhân ấy, đă đoạn tuyệt, cho nên nó không hiện ra. Từ hiện tại, quư vị có thể tu cho đến khi thành Phật. Do vậy, vào lúc này, loại ấy chẳng hiện. Thuần thiện chẳng hiện, do quư vị đă đạt tới hoàn cảnh thuần thiện, [luân tướng] chẳng hiện. Thuần ác th́ do ác tập khí của người ấy quá nặng, quư vị gieo suốt một hai tháng, luân tướng tuyệt đối chẳng hiện. V́ sao? Ác nghiệp quá nặng nề, cho nên chẳng hiện. Vậy th́ quư vị ắt phải lễ bái, lễ bái cho đến khi luân tướng hiện, nghiệp chướng sẽ dần dần tiêu mất.

 

          (Kinh) Hựu thuần thiện bất cụ, thuần ác bất cụ giả, thử nhị chủng nhân thiện ác chi nghiệp sở hữu bất hiện giả, giai thị vi nhược, vị năng khiên quả, thị cố bất hiện.

          ()又純善不具。純惡不具者。此二種人善惡之業所有不現者。皆是微弱。未能牽果。是故不現。

          (Kinh: Lại nữa, thuần thiện chẳng đủ, hoặc thuần ác chẳng đủ, hai loại người ấy tất cả nghiệp thiện ác chẳng hiện đều là do chúng nó yếu nhỏ, chưa thể dẫn đến cái quả, cho nên chẳng hiện).

 

          Lại nữa, “thuần thiện bất cụ túc tức chẳng phải là thuần thiện, thuần ác cũng chẳng đủ, cũng tức là chẳng phải thuần ác. Đối với loại chúng sanh thuộc bậc trung, thiện thiện ác ác, ác ác thiện thiện, luân tướng hết sức linh nghiệm, tức là khi thiện nghiệp và ác nghiệp đều chẳng thể quyết định, nó sẽ hiển hiện. Hiển hiện nhằm mục đích khiến cho quư vị tuân theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để tu. Nếu quư vị có thể đạt tới thuần thiện, ác nghiệp sẽ dần dần tiêu mất, thiện nghiệp dần dần tăng trưởng. Kẻ thuần thiện chẳng trọn đủ, luân tướng hết sức linh nghiệm. Kẻ chưa đủ mức thuần ác, luân tướng hết sức linh nghiệm. Do vậy, nghiệp thiện hay ác chẳng hiển hiện đều là do nghiệp của quư vị yếu ớt, nhỏ nhoi, chẳng thể cảm quả. Thiện nghiệp cũng rất nhỏ nhoi, yếu ớt, chẳng thể cảm thiện quả. Ác nghiệp cũng rất nhỏ nhoi, yếu ớt, chẳng thể cảm ác quả. Do nó lơ lửng nửa vời như thế, cho nên có khi luân tướng chẳng hiện. Dẫu quư vị gieo luân tướng chẳng hiện, nhưng quư vị phải lễ bái [cho đến khi luân tướng] ứng hiện, hiện ra để bảo cho quư vị biết. Trong chánh kinh có nói, v́ [nghiệp chủng] yếu ớt, nhỏ nhoi, cho nên chẳng thể dẫn đến cái quả. Thiện nghiệp cũng thế, mà ác nghiệp cũng thế, chẳng dẫn đến quả báo trong hiện tại, cho nên có lúc chẳng hiện. Đối với loại chẳng hiện này, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta: “Quư vị phải tu Duy Tâm Thức Quán”. Đó tướng cảnh giới trong nửa bộ sau [của kinh này]. Tu Duy Tâm Quán, hoặc Duy Thức Quán thuộc về nửa sau kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. [Các phép Quán ấy] được giảng trong nửa bộ sau. Nếu thiện nghiệp mạnh mẽ, quư vị sẽ cảm vời cái quả là thiện quả. Ác nghiệp mạnh mẽ, quư vị sẽ cảm vời ác quả. Hai thứ nghiệp thiện và ác đều chẳng thể dẫn đến cái quả cho quư vị tiếp nhận [th́ luân tướng sẽ chẳng hiện]. Khi quư vị bái sám, nó sẽ hiện ra, hiện cho quư vị biết phải nên tu như thế nào!

          Ở đây nói tới nghiệp, “nghiệp” có nghĩa là Dụng (tác dụng). Thiện th́ thiện nghiệp bèn cảm thiện quả, ác th́ ác nghiệp cảm ác quả. Đó gọi là “nghiệp dụng”, giống như hiện thời chúng ta làm một chuyện chi đó, chuyện ấy được gọi là “nghiệp”. Quư vị tạo nghiệp ấy, có khi là thiện nghiệp cảm thiện quả, có khi là ác nghiệp cảm ác quả. Nếu thiện cũng chẳng mạnh, mà ác cũng chẳng mạnh, th́ sẽ chẳng cảm quả, ắt cần phải tăng cường [cái nghiệp ấy th́ mới cảm quả]. Nghiệp dụng là quư vị tạo tác. Đó là dùng chữ Dụng để giải thích. Nghiệp dụng của quư vị áp dụng vào phương diện nào, tâm quư vị vận dụng vào phương diện nào, sẽ chịu quả nơi phương diện ấy. V́ chúng ta vừa khởi tâm động niệm, bèn rơi vào hai đường: Một đằng là thiện, đằng kia là ác. Khi quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân, vận dụng thiện cũng thế, mà là ác th́ cũng thế, đều phải đúng lư quan sát. “Đúng lư quan sát” tức là điều suy tưởng trong tâm quư vị có phù hợp khít khao với tướng hiển hiện bởi Chiêm Sát Luân hay không. Nếu chẳng phù hợp, tức là chẳng tương ứng, lời đáp chẳng đúng với lời hỏi. Đối với hai loại ấy, một loại là khi quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân, khi quư vị thỉnh thánh, Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng hiện. [Bồ Tát] chẳng hiện, quư vị sẽ chẳng thể chiêm sát được. Tất cả các cảnh tướng (tướng cảnh giới) đều là hư vọng. Cho đến khi quư vị bái sám khẩn thiết, chính quư vị sẽ biết nghiệp của chính ḿnh. Mỗi người chúng ta đều biết, quư vị làm chuyện ǵ cũng đều chẳng thuận ư, mong cầu điều ǵ cũng đều chẳng đạt được, đều chuyện trái ư nguyện, toàn là chuyện chẳng vừa ḷng, phiền năo, chướng năo, chướng ngại, ngăn chướng, trở ngại, quư vị liền biết nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng. Chúng tôi thường nghe các đạo hữu nói nghiệp của họ rất nặng, tôi không tin, họ chẳng nói lời chân thật với tôi! Đó chẳng phải là khách sáo! Nghiệp chướng rất nặng, quư vị sẽ chẳng được nghe Phật pháp, ngay cả tên kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo c̣n chẳng nghe thấy. Điều này do Địa Tạng Vương Bồ Tát nói, chẳng phải do tôi nói. Quư vị được nghe tên kinh tức là quư vị hữu duyên với Địa Tạng Bồ Tát, có duyên với bộ kinh này.

          Do những điều quư vị suy nghĩ thuộc về tham, sân, si, thân thể tạo giết, trộm, dâm, miệng nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Nếu thêm chữ Không vào trước những điều đó, sẽ là Thập Thiện Nghiệp; chẳng có chữ Không, th́ là Thập Ác Nghiệp. Phàm là nhất cử, nhất động của quư vị, tâm suy nghĩ, thân tạo tác, miệng nói năng hằng ngày, đều thuộc trong mười nghiệp. Chẳng thuộc vào Thập Thiện Nghiệp, th́ sẽ thuộc vào Thập Ác Nghiệp, quư vị chẳng thể vượt thoát nổi! Nói đến “vượt thoát” th́ ta là thánh nhân, chứng Tứ Quả A La Hán, là người chẳng có Kiến Tư Hoặc, sẽ chiêm sát luân tướng để làm chi? Luân tướng chẳng hiện, dẫu chiêm sát cũng chẳng hiện. Ư nghĩa của việc dùng luân tướng là chúng ta đối với nghiệp của chính ḿnh, quư vị vẫn hay nói chính ḿnh nghiệp chướng rất nặng, nhưng nặng đến mức độ nào, quư vị chẳng biết! Đấy chẳng phải là một vật có thể lấy cân để cân, dùng thước để đo, ḥng biết nó lớn, nhỏ, dài, ngắn, nặng, nhẹ, nhiều, ít. Quư vị dùng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo làm thước đo, sẽ biết rốt cuộc thiện nghiệp của chính ḿnh nặng cỡ nào, công sức tu hành rốt cuộc đạt đến mức độ nào. Do vậy, chính quư vị sẽ tự hiểu rơ: Quư vị hoàn toàn làm chuyện ác, làm trọn các chuyện ác, chẳng làm tí ti chuyện tốt đẹp nào, hoặc là thuần làm thiện sự, chẳng có mảy may ác nghiệp nào!

          Hai loại người ấy rất ít, đại đa số đều là thiện ác xen tạp. Mọi người trong cuộc sống thường nhật, có lúc trong tâm dấy lên thiện niệm, có khi trong tâm lại dấy lên ác niệm. Tứ chúng đệ tử, tức người xuất gia như tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, [tại gia gồm] ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, đương nhiên là thiện nhiều, ác ít. Dẫu có khi tư tưởng dấy lên phiền năo, nhưng theo giáo nghĩa Tiểu Thừa, những ư niệm dấy khởi trong tâm th́ chẳng tính, v́ quư vị chẳng có hành động cụ thể. Theo pháp luật thế gian, điều ta suy nghĩ trong tâm có thể coi là phạm tội ư? Chẳng coi là phạm tội! Ngay trong giới luật do đức Phật chế định, chẳng hạn như nói tới giới sát sanh; đối với giới sát sanh th́ phải giết chết người th́ mới coi là phá giới sát sanh. Lúc đó, đă giết, nhưng chưa chết; sau đó, đưa vào bệnh viện rồi mới chết, th́ đó là tội ở mức độ nhẹ hơn, chẳng hoàn toàn coi là tội sát nhân, cho phép sám hối. Đă giết kẻ đó, một hai tháng sau người ấy mới chết, do thương tích mà chết, xét theo pháp luật, cũng là v́ bị thương mà chết. Trong lúc giết, mà [người bị giết] tắt thở, sẽ coi là sát nghiệp thành tựu. Về sau, [nạn nhân] v́ bị thương mà chết, th́ quư vị vẫn chưa phạm tội sát nhân hoàn toàn. Giới luật gọi đó là tội Tăng Tàn (Saṃghāvaśeṣa), vẫn chưa phạm tội giết chóc rốt ráo. Đấy chính là đối với nghiệp dụng bèn phân tích rất cặn kẽ.

          Quư vị dùng Chiêm Sát Luân cũng như thế, cái duyên ấy có lúc kịp thời được xúc tiến thành tựu. Như trường hợp sát nhân tôi vừa nêu, [nạn nhân] chết ngay khi bị giết tức là ác duyên đă chín muồi. Chẳng giết chết ngay khi ấy, th́ ác duyên vẫn chưa nặng nề dường ấy! Pháp luật phân tích rất tỉ mỉ, trong giới luật cũng nói hết sức nghiêm ngặt, lúc nào sẽ tính là phạm giới! Nếu là người học giới luật, sẽ biết “bát duyên thành phạm” (tám duyên tạo thành phạm giới); tám duyên ấy quư vị đều trọn đủ th́ sẽ phạm giới điều ấy. Trong tám duyên, quư vị chỉ phạm bốn duyên, phạm một nửa th́ sám hối cũng dễ hơn. Chỉ cần thiếu một duyên trong tám duyên, sẽ chẳng coi là phạm giới. Đấy chính là nghiệp thiện hay ác yếu ớt, nhỏ nhoi chẳng thể dẫn khởi cái quả. Quư vị giết chết người, sẽ dẫn động cái quả rất dữ dội. Không chỉ phải trả báo, mà c̣n có hoa báo, quả báo, và dư báo. Trong quá khứ, sát nghiệp rất nặng, quư vị đă trả nợ mạng, nhưng đời này quư vị c̣n lắm bệnh, lắm tai ương; đó gọi là “dư báo”. Chuyện này nếu học giới luật, sẽ được giảng giải tỉ mỉ. Mỗi nghiệp có khá nhiều loại duyên. Trọn đủ các duyên ấy th́ mới tính là phạm giới. Thiếu một hoặc hai duyên th́ vẫn chưa rốt ráo phạm tội, tức là khi quư vị sám hối tội lỗi th́ mới phân biệt. Pháp luật trong xă hội cũng giống như thế: Quư vị giết chết trong lúc ấy, t́nh huống sẽ ác liệt khác hẳn! Tội càng nghiêm trọng hơn. Giết chưa chết, đưa vào bệnh viện chữa trị, hoặc là sống được một, hai, ba tháng, đó gọi là “v́ thương tích mà chết”, t́nh huống bất đồng, tội cũng bất đồng. Do vậy, đối với thuần ác hay thuần thiện, đều phải phân biệt tường tận.

          Những điều tôi vừa mới nói ở đây có phạm vi rộng hơn nhân quả, tức là ngoài nhân quả ra, c̣n có tập khí. Khi người Nhị Thừa học giới luật, hoặc là học pháp luật, học kinh điển, tuy họ đă đoạn nghiệp thiện ác, đă đoạn Kiến Tư Hoặc, nhưng Vô Minh Hoặc chưa đoạn. Tập khí của thiện ác nghiệp vẫn chưa đoạn. Chúng ta gồm rất nhiều người, tập khí của mỗi cá nhân đều khác nhau. Tập khí chẳng phạm tội, thiện th́ có thiện tập khí, ác th́ có ác tập khí. Nếu từ tâm quá sâu nặng, ḷng từ rất to, bi quán rất sâu nặng, trông thấy kẻ khác chịu khổ, tâm người ấy rất khổ sở; đó gọi là từ tâm, nhưng nó chẳng thể phát huy tác dụng, chẳng thể khiến cho người khác tránh khỏi đau khổ. Chỉ có cái tâm suông, đó chẳng gọi là “đại bi”. Miễn trừ thống khổ cho người khác, hoặc chịu thay cho họ, hàng phàm phu chẳng thể làm nổi chuyện này! V́ quư vị muốn chịu khổ thay cho người khác chẳng được, chẳng có bản lănh ấy, nhưng Bồ Tát th́ có thể. Như vậy th́ quả báo của quư vị đă tiêu mất, nhưng hăy c̣n có tập khí. Chuyện này đợi cho đến phần kinh văn ở phía sau sẽ lại nói, v́ c̣n phải nói tiếp về cách dùng Chiêm Sát Luân.

 

          (Kinh) Nhược đương lai thế, Phật chư đệ tử, dĩ chiêm thiện ác quả báo đắc tương ứng giả, ư ngũ dục chúng cụ, đắc xứng ư thời, vật đương tự túng, dĩ khởi phóng dật. Tức ưng tự niệm, do ngă túc thế như thị thiện nghiệp cố, kim hoạch thử báo. Ngă kim năi khả chuyển cánh tấn tu, bất ưng hưu chỉ. Nhược tạo chúng ách, chủng chủng suy năo, bất cát chi sự, nhiễu loạn ưu bố, bất xứng ư thời, ưng đương cam thọ, vô linh nghi hối, thoái tu thiện nghiệp. Tức đương tư niệm: “Đản do ngă túc thế tạo như thị ác nghiệp cố, kim hoạch thử báo. Ngă kim ưng đương hối bỉ ác nghiệp, chuyên tu đối trị, cập tu dư thiện, vô đắc chỉ trụ, giải đăi, phóng dật, chuyển cánh tăng tập chủng chủng khổ tụ”. Thị danh Chiêm Sát sơ luân tướng pháp.

          ()若當來世佛諸弟子。已善惡果報得相應者。於五欲眾具得稱意時。勿當自縱以起放逸。即應思念。由我宿世如是善業故。今獲此報。我今乃可轉更進修。不應休止。若遭眾厄種種衰惱不吉之事。擾亂憂怖。不稱意時。應當甘受無令疑悔退修善業。即當思念。但由我宿世造如是惡業故。今獲此報。我今應當悔彼惡業。專修對治及修余善。無得止住懈怠放逸。轉更增集種種苦聚。是名佔察初輪相法。

          (Kinh: Nếu trong đời tương lai, các đệ tử đức Phật do đă chiêm sát quả báo thiện ác được tương ứng, đối với các vật thuộc về ngũ dục đều được vừa ư, th́ chớ nên buông thả, dấy lên phóng dật, mà hăy liền suy nghĩ: “Do thiện nghiệp đời trước của ta như thế, nên nay đạt được quả báo này. Ta nay càng phải nên tấn tu, chớ nên ngưng nghỉ”. Nếu lúc nào gặp các tai ách, các thứ suy năo, chuyện chẳng tốt lành nhiễu loạn, khiến cho lo sầu, sợ hăi, chẳng vừa ư, hăy nên cam chịu, đừng ngờ vực, hối hận, thoái thất tu thiện nghiệp. Hăy nên suy nghĩ: “Chỉ do ta trong đời trước đă tạo ác nghiệp như thế, nay mắc phải quả báo này. Ta nay nên sám hối các ác nghiệp đó, chuyên tu tập để đối trị, và tu các điều lành khác, chớ nên ngưng nghỉ, lười nhác, buông lung, chuyển thành tích tập thêm các thứ khổ sở chất chứa”. Đó gọi là pháp chiêm sát luân tướng đầu tiên).

 

          Địa Tạng Bồ Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, nói đến “đương lai”, tức là nói đến tương lai, có nghĩa là nói đến thời Mạt Pháp. Các đệ tử của đức Phật, phàm là người quy y Tam Bảo, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di; kẻ chẳng thọ Tam Quy th́ không tính. Quư vị đă tin Phật rất nhiều năm, nhưng chẳng thọ Tam Quy th́ không tính là đệ tử của Phật môn. Ắt phải thọ Tam Quy th́ mới tính là “nhập Phật môn. Nếu là Phật tử trong thuở vị lai, tức trong đời mai sau, đă chiêm sát quả báo thiện ác được tương ứng, tức là khi quư vị chiêm sát, những điều kinh điển đă nói tương ứng với toàn bộ tư tưởng và hành vi của quư vị, th́ gọi là “tương ứng”. Đời trước, quư vị sát nghiệp rất nặng; đời này phải trả báo, hoặc là bệnh tật lâu ngày, mọi việc chẳng vừa ư, luôn bị thương tổn, mắc hại. Đó gọi là tương ứng.

          Đời trước, thiện nghiệp sâu nặng, chưa hề sát sanh, đời này cũng chưa từng bị bệnh, cũng chẳng có kẻ nào tổn thương, làm hại quư vị. Đối với ngũ dục, mọi vật đều được thỏa ư, hài ḷng đối với cảnh giới ngũ dục; khi đó, quư vị phải chú ư, đừng nên buông lung! Đă được thỏa măn, chớ nên đ̣i hỏi quá mức. Phải nên suy nghĩ như thế nào? Đấy là do thiện nghiệp trong quá khứ của ta, cho nên đời này mới đạt được quả báo này. Giả sử từ trên cơ sở này, ta lại tấn tu. “Tấn tu” là dũng mănh tinh tấn toàn làm các thiện nghiệp, chẳng làm chuyện ác. Điều này mang ư nghĩa khuyên lơn, khích lệ. Địa Tạng Vương Bồ Tát khuyên quư vị đừng ngưng nghỉ nơi hiện tại, chớ nên thỏa măn với hiện tại, vẫn phải nên ra sức nỗ lực tấn tu, phải khiến cho nó tốt đẹp hơn!

          Nếu trong đời hiện tại, gặp phải mọi sự đều chẳng vừa ư, gặp phải ách nạn, thường luôn gặp chuyện suy năo, chẳng tốt lành, luôn khiến cho quư vị sợ hăi, ưu sầu, không vừa ư, chuyện ǵ cũng đều trái ư, quư vị đối đăi như thế nào? Cam tâm chịu đựng! Nhẫn nại, tự nhủ đó là nghiệp chướng của ta trong quá khứ, đừng tạo tác nữa, nay ta thọ báo, trả báo! Hăy nên cam ḷng chịu đựng. Chớ nên hoài nghi, chớ nên hối hận! Điều này hết sức quan trọng. Đặc biệt là đối với tứ chúng đệ tử của đức Phật, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trong quá khứ, quư vị làm chuyện tổn hại người khác. Chuyện tổn hại người khác là trong quá khứ, toàn gây đau khổ cho người khác, chẳng khiến cho kẻ khác hoan hỷ, đời này quư vị hứng chịu, chẳng đạt được vui sướng, mà cũng chẳng được hạnh phúc. Như vậy th́ quư vị nên làm như thế nào? Hăy nên chịu đựng chuyện chẳng vừa ư, tức là vui vẻ trả nợ. Nếu không, c̣n phải trả thêm “tiền lời”. Khi quư vị trả nợ, quư vị mượn tiền kẻ khác, chẳng cần trả tiền lời ư? Chẳng hạn như giết người th́ ta đền mạng cho kẻ đó [là xong]. Đâu có được! Quư vị giết kẻ đó cách nay đă bao nhiêu năm, cách bao nhiêu kiếp rồi! Vẫn phải kèm thêm lợi tức. Quư vị phải trả thêm món tiền lời đó, đó gọi là trong sát nghiệp c̣n có dư báo. Nếu không, quư vị thấy người ấy sẽ bực bội, chẳng có tí duyên nào, đó là biểu hiện của dư báo. Quư vị chẳng có ân oán ǵ với người ta, chẳng có chuyện chi hết, đi đường gặp rất nhiều người, mọi người đi qua đi lại, chẳng có tí ti ảnh hưởng tâm lư ǵ! Quư vị vô duyên với kẻ đó, nhân duyên ǵ cũng đều không có. Quư vị thấy người khác bèn rất hoan hỷ, tức là có chút quan hệ. Quư vị thấy kẻ đó bèn phiền năo, tức là có chút quan hệ. Đấy chẳng phải là vô duyên vô cớ mà yêu thương, cũng chẳng phải vô duyên vô cớ mà hận. Chuyện này ai nấy đều gặp phải, quư vị có thể tự suy nghĩ.

          Do trong quá khứ, quư vị đă tạo ác nghiệp, đời này thân thể quư vị thường bệnh tật, rất nhiều chuyện chẳng vừa ḷng, vô duyên vô cớ ưu sầu, vô duyên vô cớ phiền năo. Có hay không? Tôi nghĩ chư vị đạo hữu đều có, chẳng hiểu sao trong tâm chẳng thể nín nhịn được, có chuyện ấy chứ? Người khác thấy quư vị rất tốt, bản thân quư vị cảm thấy rất phiền năo. Người khác thấy quư vị hưởng thụ, quư vị cảm thấy chẳng như ư. Mỗi vị đạo hữu đều có [cảm nhận như thế], chẳng hạn như các vị đạo hữu xuất gia có phiền năo ǵ vậy? Có gánh nặng ǵ? Thế nhưng bản thân quư vị vô duyên vô cớ dấy lên phiền năo, chuyện ǵ cũng đều chẳng vừa ḷng, quư vị biết là túc nghiệp quá khứ phát hiện, đó gọi là “túc nghiệp phát hiện”. V́ nghiệp quá khứ của quư vị, v́ nghiệp túc thế, cho nên quư vị nẩy sanh phiền năo. Quư vị phải nhận biết! Trước kia chẳng nhận biết, [nay do] học kinh Chiêm Sát, quư vị bèn nhận biết, hăy nhẫn nại chịu đựng! Cái tâm nhẫn nại ấy cần phải có trí huệ, [nhận biết] túc nghiệp trong quá khứ phát hiện, đó gọi là “tu hành”. Chẳng phải niệm A Di Đà Phật, bái sám th́ mới là tu hành. Quư vị có thể nhận biết nghiệp của chính ḿnh, có thể tu hành như vậy, đó là tu hành chân chánh!

          Do vậy, quư vị suy niệm như thế th́ trên đường tu đạo, sẽ chẳng giải đăi, mà cũng chẳng dám buông lung. V́ Kiến Tư Hoặc của chính ḿnh c̣n chưa đoạn, chưa nói đến Vô Minh phiền năo, Hoặc ấy c̣n rất nặng! Phải tinh tấn, khiến cho các thứ thiện nghiệp tăng trưởng. Đó là yêu cầu cơ bản nhất khi dùng luân tướng của Chiêm Sát Luân. V́ quư vị không biết, Chiêm Sát Luân liền bảo cho quư vị biết: Hiện thời, nghiệp nào của quư vị phát hiện, quư vị ngay lập tức đột phá nó. V́ sao vô duyên vô cớ phiền năo? Cũng như có khi vô duyên vô cớ hoa tay, múa chân, chẳng hiểu v́ sao lại như thế, cao hứng khôn cùng! Chuyện ǵ khiến cho quư vị cao hứng, quư vị cũng chẳng t́m được nguyên nhân, trong tâm hết sức hoan hỷ. Có thể là hôm nay quư vị lên tụng niệm công khóa bèn tụng niệm tương ứng, hoặc là quư vị cùng đại chúng tu hành, hoặc hôm nay làm một chuyện tốt, khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, Chiêm Sát Luân sẽ cho quư vị biết, sẽ hiển hiện. V́ thế, gọi là Chiêm Sát.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược dục chiêm sát quá khứ văng tích tập nghiệp cửu cận, sở tác cường, nhược, đại, tiểu sai biệt giả, đương phục khắc mộc vi tam luân. Dĩ thân, khẩu, ư, các chủ nhất luân, thư tự kư chi. Hựu ư luân chánh trung nhất diện thư nhất hoạch, linh thô trường, sử triệt bạn. Thứ đệ nhị diện, thư nhất hoạch, linh tế đoản, sử bất chí bạn. Thứ đệ tam diện, tác nhất bàng khắc, như hoạch, linh kỳ thô thâm. Thứ đệ tứ diện, diệc tác bàng khắc, linh sử tế thiển. Đương tri thiện nghiệp trang nghiêm, do như họa sức, ác nghiệp suy hại, do như tổn khắc. Kỳ hoạch trường đại giả, hiển thị tích thiện lai cửu, hạnh nghiệp mănh lợi, sở tác tăng thượng. Kỳ hoạch tế đoản giả, hiển thị tích thiện lai cận, thỉ tập cơ độn, sở tác vi bạc. Kỳ khắc thô thâm giả, hiển thị tập ác lai cửu, sở tác tăng thượng, dư ương diệc hậu. Kỳ khắc tế thiển giả, hiển thị thoái thiện lai cận, thỉ tập ác pháp, sở tác chi nghiệp vị chí tăng thượng. Hoặc tuy khởi trọng ác, dĩ tằng cải hối, thử vị tiểu ác.

          ()善男子。若欲占察過去往昔集業久近所作強弱大小差別者。當複刻木為三輪。以身口意各主一輪。書字記之。又於輪正中一面書一畫。令粗長使徹畔。次第二面書一畫。令細短。使不至畔。次第三面作一傍刻。如畫。令其粗深。次第四面亦作傍刻。令使細淺。當知善業莊嚴。猶如畫飾。惡業衰害。猶如損刻。其畫長大者。顯示積善來久。行業猛利。所作增上。其畫細短者。顯示積善來近。始習基鈍。所作微薄。其刻粗深者。顯示習惡來久。所作增上。余殃亦厚。其刻細淺者。顯示退善來近。始習惡法。所作之業未至增上。或雖起重惡。已曾改悔。此謂小惡。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát nghiệp xưa kia đă tích tập trong quá khứ là lâu xa hay gần đây, mạnh, yếu, lớn, nhỏ, sai khác, hăy nên lại khắc gỗ thành ba cái luân. Dùng thân, miệng, ư làm chủ mỗi luân, viết chữ để nhớ [luân nào tương ứng với nghiệp nào trong ba nghiệp thân, khẩu, ư]. Lại nơi một mặt [đối diện với mặt có viết chữ], bèn vẽ một vạch sao cho [vạch ấy] đậm và dài cho đến giáp mí (chỗ tiếp giáp giữa mặt phẳng của luân và hai đầu vót nhọn]. Sau đó, nơi mặt thứ hai, bèn vẽ một vạch mỏng, ngắn, sao cho vạch ấy đừng giáp mí. Sau đó, nơi mặt thứ ba bèn khắc gần một cạnh của luân giống như một vạch, sao cho nét khắc thô và sâu. Sau đó, nơi mặt thứ tư, cũng khắc một vạch gần với cạnh của luân sao cho nét khắc nông và nhỏ. Hăy nên biết thiện nghiệp trang nghiêm ví như nét vẽ trang hoàng, ác nghiệp suy hại ví như bị khắc lơm. Vạch dài to, hiển thị tích thiện đă lâu, hạnh nghiệp mạnh mẽ, nhạy bén, việc làm tăng thượng. Vạch nhỏ ngắn hiển thị tích thiện gần đây, mới tu tập, nền tảng chậm lụt, việc làm nhỏ nhoi, mỏng manh. Vết khắc thô sâu hiển thị hành ác đă lâu, việc làm tăng thượng, ương họa c̣n sót lại cũng dày. Vết khắc nhỏ và nông cạn hiển thị lui sụt điều thiện gần đây, mới tập hành ác pháp, nghiệp đă làm chưa đến mức tăng thượng. Hoặc là tuy đă dấy lên điều ác nặng nề, nhưng đă từng hối cải, đấy gọi là điều ác nhỏ).

 

          Thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát các nghiệp xưa kia đă hành trong quá khứ là lâu xa hay gần đây, nghiệp đă tạo mạnh, yếu, lớn, nhỏ sai khác. Trong quá khứ, rốt cuộc ta đă làm những chuyện ǵ, hiện thời ta cảm cái quả như thế ấy. Như tứ chúng đệ tử chúng ta, các đệ tử của đức Phật thuộc hai chúng xuất gia và hai chúng tại gia, nếu trong quá khứ, quư vị chẳng có thiện nghiệp nhân, đă tạo cái nghiệp là nhân lành, đời này quư vị sẽ chẳng gặp gỡ Tam Bảo. Dẫu gặp cũng chẳng tin, v́ chẳng có duyên. Rốt cuộc ta hành thiện nghiệp lớn hay nhỏ, là lâu xa hay gần gũi, sức của thiện nghiệp là mạnh hay yếu, trong tâm chính ḿnh đă có sự nhận biết. Mọi chuyện đều chẳng vừa ḷng, dẫu tin tưởng Tam Bảo, dẫu đă tu hành đôi chút nơi Tam Bảo, nhưng [sự tu hành] chẳng to lớn, chẳng dũng mănh, sức lực rất yếu ớt, vậy th́ khi quư vị chiêm sát, Chiêm Sát Luân sẽ cho quư vị biết: Trong quá khứ, quư vị đă gieo nhân lành hoàn toàn chẳng to. Đời này, quư vị phải cấp tốc tu hành; nếu không, sẽ đánh mất thiện nhân trong đời này. Hăy làm cho thiện nghiệp của chính ḿnh tăng trưởng, ác nghiệp tiêu mất, khiến cho thiện nghiệp to, ác nghiệp bé, thiện nghiệp mạnh, ác nghiệp yếu. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu của việc sử dụng Chiêm Sát Luân. Trong đó, quư vị nói ác th́ chẳng có điều ác to tát, thiện th́ cũng chẳng có điều thiện to lớn, phải nên gia tăng sức mạnh tu hành của chính ḿnh như thế nào? Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta phương pháp; đó chính là khởi nguồn thật sự của Chiêm Sát Luân.

          Hăy nên khắc gỗ thành ba cái luân, tức là dùng gỗ vót thành ba cái luân tướng [cũng theo đúng h́nh dạng: Phần chính giữa là khối lập phương, hai đầu vót nhọn như trong phần trước]. Ba cái luân ấy, một luân chủ về khẩu nghiệp, một luân chủ về ư nghiệp, một luân chủ về thân nghiệp. Tức là mỗi nghiệp trong ba nghiệp thân, miệng, ư đều có một luân riêng. “Thư tự kư chi” [nghĩa là] thân nghiệp một luân, khẩu nghiệp một luân, ư nghiệp một luân, mỗi nghiệp ứng với một luân (mỗi nghiệp được viết riêng trên một luân) để chiêm sát nghiệp quư vị đă tích tụ trong quá khứ. Nghiệp hiện tại của chúng ta chẳng phải là một đời, hai đời, mà cũng chẳng phải là mười đời, tám đời, mà là trăm ngàn vạn ức đời, tích tụ nơi cái thân hiện tại. Quư vị có biết là các nghiệp ấy lớn hay nhỏ hay không? Thân quư vị trọn đủ đại thiện, hoặc trọn đủ điều thiện không lớn, hoặc là đại ác, hoặc điều ác chẳng lớn lắm, hoặc là trọn đủ điều ác rất lớn mà thiện nhỏ nhoi, hoặc thiện rất lớn mà ác nhỏ nhoi, hoặc cả hai thứ ngang nhau, cũng chẳng phải là đại ác mà cũng chẳng phải là đại thiện, đều ở mức độ vừa phải. Thiện chẳng phải là một kiếp, hai kiếp, mà là ức vạn vạn năm đều làm thiện sự. Thiện nghiệp hết sức mạnh mẽ, nhạy bén, cho nên đời này luôn gặp gỡ thiện duyên, tâm được an lạc. Vào Phật môn, thường dũng mănh tinh tấn, chẳng giải đăi, được Phật, Bồ Tát gia tŕ, khai trí huệ, đó là “đại thiện”, thuộc loại đại thiện. Tiểu thiện chẳng lâu xa, hoặc là mới phát ư, tức là thiện nghiệp rất mỏng ít. Do vậy, thiện có lớn, có nhỏ, ác cũng có lớn, có nhỏ, cũng có ác nghiệp tích tập đă lâu, mà cũng có ác nghiệp hoàn toàn chưa lâu. Điều ác nhỏ cũng như thế, c̣n chưa đến mức độ tăng thượng. Bản thân quư vị chớ nên không hiểu rơ đại thiện và đại ác cho lắm, cần phải chiêm sát nghiệp báo thiện ác được hiển thị từ luân tướng.

          Luân ấy được chế tạo như thế nào? Ở giữa một mặt, bèn ghi một vạch to đậm và dài, vừa to vừa dài. Vạch ấy được biểu hiện rất đậm, dài đến tận chỗ mặt luân tướng giáp với chót đầu [của luân tướng]. Mặt thứ hai là một vạch nhỏ và ngắn, thể hiện điều thiện ấy cũng chẳng lớn, biểu lộ ư nghĩa thiện nghiệp chẳng lớn, rất nhỏ. Nơi mặt luân thứ ba th́ khắc một vạch sao cho nó thô hơn một chút, nhằm biểu lộ [nghiệp ấy] to lớn, sâu đậm, lâu dài, cho nên phải thô và dài. Một dài, một ngắn, một lớn, một nhỏ. Thiện nghiệp màu đỏ, ác nghiệp màu đen. Quư vị xem luân tướng trong hiện thực sẽ biết. Chẳng hạn như cái luân này có bốn mặt, hai mặt [có nét vẽ hay nét khắc] màu đỏ, một vạch đỏ ngắn, một vạch đỏ dài, một vạch đen dài, một vạch đen ngắn. Đối với vạch đỏ, chẳng cần khắc sâu, vẽ lên là được rồi, màu đen th́ phải khắc sâu. Bốn mặt [của luân tướng thuộc loại thứ hai] là như thế đó. Nếu khi muốn chế tạo, phải chiếu theo kích thước mà làm. Có vấn đề hay không? Sở dĩ pháp này chẳng thể lưu truyền rất phổ biến là do chẳng chế được Chiêm Sát Luân, kinh dạy chẳng rơ ràng cho lắm. Dài, ngắn, vuông, tṛn, rốt cuộc làm [mộc luân] to hay nhỏ, miễn sao khi quư vị cầm luân trong tay gieo xuống, nó xoay chuyển là được rồi!

          Vạch to, dài, được biểu hiện bằng màu đỏ, tức là quư vị tích thiện đă rất lâu. Không chỉ rất lâu, mà c̣n tạo thiện nghiệp rất mạnh mẽ, nhạy bén. Đó gọi là “tăng thượng”. Vạch ngắn [và có màu đỏ] tức là quư vị hành thiện chưa lâu. Vạch vừa nhỏ vừa ngắn, cho thấy quư vị làm điều thiện rất mỏng, rất ít, vừa mới chuyển biến. Hành ác cũng như thế. Hành ác đă lâu th́ nét khắc vừa dài, vừa sâu, lại có màu đen. Mới hành ác chưa lâu th́ nét khắc vừa nông vừa nhỏ; nét khắc màu đen th́ là ác, nhưng nếu chẳng thay đổi, nét khắc đen ngắn sẽ biến thành dài, [tức là ác nghiệp] nhẹ lại biến thành nặng. Điều được hiển thị bởi luân tướng bắt nguồn từ sự quán tưởng trong tâm quư vị: Tổn giảm là hắc nghiệp, tăng trưởng là thiện nghiệp. Đối với thiện nghiệp, tâm quư vị rất mạnh mẽ; đối với chuyện ác, quư vị rất kinh sợ, cho thấy thiện căn của quư vị rất dày.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược chiêm sơ luân tướng giả, đản tri túc thế sở tạo chi nghiệp thiện ác sai biệt, nhi bất năng tri tích tập cửu cận, sở tác chi nghiệp cường, nhược, đại, tiểu. Thị cố tu chiêm đệ nhị luân tướng.

          ()善男子。若占初輪相者。但知宿世所造之業善惡差別。而不能知積習久近所作之業強弱大小。是故須占第二輪相。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu chiêm sát luân tướng thuộc loại đầu tiên th́ chỉ biết đời trước đă tạo nghiệp thiện hay ác sai khác, nhưng chẳng thể biết nghiệp đă tích tập từ trước là lâu hay gần, nghiệp đă làm là mạnh, yếu, lớn, nhỏ. V́ thế, cần phải chiêm sát loại luân tướng thứ hai).

 

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu chiêm sát loại luân tướng đầu tiên, quư vị sẽ biết ba nghiệp của chúng ta là thiện hay ác, là nặng hay nhẹ, nhưng quư vị chẳng biết điều thiện ấy nặng hay nhẹ cỡ nào, nghiệp đă tích tập từ lâu xa hay gần gũi, là mạnh hay yếu. Khi đó, phải nên chiêm sát loại luân tướng thứ hai.

 

          (Kinh) Nhược chiêm đệ nhị luân tướng giả, đương y sơ luân tướng trung sở hiện chi nghiệp. Nhược thuộc thân giả, trịch thân luân tướng. Nhược thuộc khẩu giả, trịch khẩu luân tướng. Nhược thuộc ư giả, trịch ư luân tướng. Bất đắc dĩ thử tam luân chi tướng, nhất trịch thông chiêm. Ưng đương tùy nghiệp chủ niệm, nhất nhất thiện ác, y sở thuộc luân, biệt trịch chiêm chi.

          ()若占第二輪相者。當依初輪相中所現之業。若屬身者擲身輪相。若屬口者擲口輪相。若屬意者擲意輪相。不得以此三輪之相一擲通占。應當隨業主念一一善惡依所屬輪別擲占之。

          (Kinh: Nếu chiêm sát loại luân tướng thứ hai, th́ hăy nên căn cứ theo nghiệp đă hiện trong loại luân tướng đầu tiên. Nếu [nghiệp đă hiện] thuộc về thân, hăy gieo luân tướng thuộc về thân (tức luân tướng có viết chữ Thân). Nếu thuộc về miệng, hăy gieo luân tướng thuộc về miệng. Nếu thuộc về ư, hăy gieo luân tướng thuộc về ư. Chớ nên dùng cả ba luân tướng này để gieo cùng một lúc ḥng chiêm sát chung. Hăy nên thuận theo cái nghiệp chủ yếu, đối với mỗi điều thiện hay ác, bèn dùng cái luân tương ứng để gieo riêng biệt mà chiêm sát).

 

          Gieo loại luân tướng thứ hai, chẳng phải là gieo cùng lúc cả ba cái luân. Đối với loại luân đầu tiên, mười luân thuộc về ba nghiệp thân, miệng, ư th́ có thể cùng gieo. Gieo xong, quư vị ghi lại. Nếu là nghiệp thuộc thân th́ chỉ gieo luân tướng thuộc thân. Thuộc khẩu th́ chỉ gieo luân tướng thuộc khẩu. Thuộc ư th́ chỉ gieo luân tướng thuộc ư. Chẳng thể gieo ba luân cùng một lúc! Mặt có vạch đỏ thuộc về thiện, mặt có vạch đen thuộc về ác. Nếu thiện nghiệp sâu nặng, sẽ được hiển hiện bởi cái vạch vừa dài vừa thô, c̣n thiện nghiệp [mỏng, ít] sẽ được hiển hiện thành cái vạch vừa ngắn vừa mỏng, [cả hai loại này] đều có màu đỏ. Ác nghiệp cũng như thế: Ác nghiệp nặng nề th́ hiển hiện thành vạch vừa đen vừa dài, ác nghiệp nhẹ th́ là vạch ngắn và nhỏ. Quư vị chiêm sát riêng biệt. Ba cái luân này là ba luân tương ứng với thân, miệng, ư. Trên mỗi luân, nơi bốn mặt, [mỗi mặt sẽ có một vạch]: Một vạch đen to, vạch đen nhỏ ngắn, vạch đỏ to, vạch đỏ nhỏ ngắn. Lại c̣n ghi “thân, khẩu, ư” [nơi một trong bốn mặt ấy]. Luân thuộc về Khẩu th́ ghi chữ Khẩu, thuộc về Thân th́ ghi chữ Thân, thuộc về Ư th́ ghi chữ Ư. Thân mộc luân để chiêm sát thân nghiệp, khẩu mộc luân để chiêm sát khẩu nghiệp, và ư mộc luân để chiêm sát ư nghiệp. Tách riêng ba nghiệp để chiêm sát.

 

          (Kinh) Phục thứ, nhược chiêm sơ luân tướng trung, duy đắc thân chi thiện, ư thử đệ nhị luân tướng trung, đắc thân ác giả, vị vô chí tâm, bất đắc tương ứng, danh hư mậu dă. Hựu phục bất tương ứng giả, vị chiêm sơ luân tướng trung, đắc bất sát nghiệp, cập đắc thâu đạo nghiệp; ư tiên chủ quán bất sát nghiệp, nhi ư đệ nhị luân tướng trung, đắc thân ác giả, danh bất tương ứng. Phục thứ, nhược quán hiện tại tùng sanh dĩ lai, bất nhạo sát nghiệp, vô tạo sát tội, đản ư chủ sát nghiệp, nhi ư thử đệ nhị luân tướng trung, đắc thân đại ác giả, vị danh bất tương ứng. Tự dư khẩu ư trung nghiệp bất tương ứng nghĩa, diệc như thị ưng tri.

          ()復次。若占初輪相中。唯得身之善。於此第二輪相中得身惡者。謂無至心。不得相應。名虛謬也。又復不相應者。謂占初輪相中得不殺業及得偷盜業。意先主觀不殺業。而於第二輪相中得身惡者。名不相應。復次。若觀現在從生以來不樂殺業。無造殺罪。但意主殺業。而於此第二輪相中得身大惡者。謂名不相應。自餘口意中業不相應義。亦如是應知。

          (Kinh: Lại nữa, nếu chiêm sát loại luân tướng đầu tiên, chỉ được thân là thiện, nhưng trong loại luân tướng thứ hai, [gieo ra luân tướng] thân là ác th́ tức là [người chiêm sát] chẳng chí tâm, [cho nên] chẳng tương ứng, gọi là hư huyễn, lầm lạc. Lại nữa, chẳng tương ứng là khi chiêm sát loại luân tướng thứ nhất, được chẳng có sát nghiệp và nghiệp trộm cắp, toan quán nghiệp bất sát trước, nhưng nơi loại luân tướng thứ hai, lại được [kết quả] là thân ác, th́ gọi là chẳng tương ứng. Lại nữa, nếu quán hiện tại từ khi sanh ra cho đến nay, chẳng thích sát nghiệp, chẳng tạo tội giết chóc, chỉ có sát nghiệp nơi ư, nhưng nơi luân tướng thứ hai này, lại hiện thành “thân đại ác”, th́ gọi là chẳng tương ứng. Đối với các ư nghĩa chẳng tương ứng khác nơi khẩu và ư nghiệp, cũng nên biết là như thế).

 

          Khi quư vị chiêm sát mười nghiệp bằng loại luân tướng thứ nhất, thân nghiệp của quư vị toàn là đỏ, tức là thiện, nhưng đến khi quư vị chiêm sát bằng loại luân thứ hai, [kết quả hiện ra] thân là ác, như vậy là không đúng! [Nguyên nhân là do] quư vị chẳng chí tâm, chẳng thành khẩn. Chẳng chí tâm, tâm không chân thành, tùy tiện mà gieo, sai mất rồi! Phải làm như thế nào? Lại lễ bái rồi gieo lại. Có các đạo hữu chiêm sát lần thứ nhất chẳng tương ứng, bèn liên tục chiêm sát. Sai mất rồi! Chẳng thể được! V́ sao? Hăy bái sám một lần nữa! Quư vị lại chiếu theo nghi quỹ bái sám để lạy và cầu thỉnh một lần nữa. Bái sám xong rồi mới gieo lần nữa. Tôi thấy rất nhiều đạo hữu gieo luân tướng lần thứ nhất chẳng linh, [bèn nói] “ta gieo lại”. Tôi nói làm như thế chẳng được! Phải bái sám một lần nữa rồi mới gieo lại. Thông thường, ngày hôm nay ta gieo chẳng linh, ngày mai quư vị lại lạy, hoặc là lại bái sám lần thứ hai. Tôi bảo các đạo hữu mới học, sáng sớm lạy xong chiêm sát lần đầu. Chiêm sát xong, nếu chẳng tương ứng, [tự biết nguyên nhân là do chính ḿnh] chẳng chí tâm, suốt ngày hôm ấy quư vị niệm thánh hiệu Địa Tạng, một vạn câu cũng được, hai vạn câu cũng được. Sáng sớm hôm sau lại lễ bái, lại sám hối, rồi mới gieo. Có khi một ngày lạy năm lần, lạy bốn lần, lần đầu tiên sử dụng Chiêm Sát Luân, lần thứ hai, lần thứ ba đều chẳng dùng, v́ vẫn chưa dùng được. Hễ dùng th́ vẫn chẳng linh. Quư vị dành suốt một ngày hôm nay, lạy suốt một ngày, sáng sớm hôm sau thức dậy bèn chiêm sát trước. Chiêm sát xong lại bái sám.

          Quư vị chiêm sát loại luân tướng thứ nhất, đạt được kết quả thân là thiện nghiệp, chiêm sát loại luân tướng thứ hai th́ thân lại là ác; đó gọi là “chẳng tương ứng”. Nguyên nhân chẳng tương ứng là do chẳng phù hợp. V́ sao chẳng phù hợp? Chẳng ăn khớp với kết quả trước đó, do tâm quư vị chẳng chí thành. Kinh đă dạy: Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, tâm kẻ đó chẳng chân thành! Hễ chân thành bèn linh nghiệm, chẳng chân thành sẽ chẳng linh! Nếu quư vị được kết quả từ loại luân tướng thứ nhất là bất sát”, loại luân thứ hai lại là sát, tức gieo loại luân tướng thứ hai, [kết quả] lại là sát, chẳng tương ứng! Gieo loại luân tướng thứ nhất “có trộm cắp”, gieo loại luân thứ hai hiện ra “chẳng có trộm cắp” th́ cũng là chẳng tương ứng. Hễ chẳng đúng th́ gọi là “chẳng tương ứng”, đáp chẳng đúng điều đă hỏi th́ gọi là “chẳng tương ứng”. Vậy th́ quư vị làm như thế nào? Hôm nay quư vị chẳng gieo nữa, lại bái sám. Hôm nay quư vị lạy năm ba lượt vẫn chẳng gieo, chờ đến sáng hôm sau, sẽ gieo lần nữa. Gieo xong rồi lại lạy. Bắt đầu kể từ khi chính quư vị có thể hiểu Phật pháp, quư vị chẳng ưa thích sát nghiệp, chưa hề nghĩ giết chóc, trông thấy loài trùng cũng chẳng nghĩ tổn thương, làm hại chúng nó. Quư vị chẳng tạo tội thuộc về sát nghiệp, nhưng đến khi quư vị gieo luân tướng, thấy nói là sát nghiệp của quư vị rất nặng, có sát nghiệp. Điều này tuyệt đối chẳng tương ứng. Vẫn phải kiểm nghiệm cái tâm, cho đến khi quư vị gieo loại luân tướng thứ hai, thấy nói thân quư vị phạm đại ác. Đó gọi là chẳng tương ứng. Chẳng có, chẳng tương ứng với sự thật. Đó gọi là chẳng tương ứng. Khi “tương ứng” và “chẳng tương ứng” tức là khi quư vị gieo luân tướng, [kết quả hiển hiện] của loại luân sau chẳng ăn khớp với loại luân trước. Trong tâm quư vị chưa hề có ư niệm sát sanh, cho đến khi quư vị gieo luân tướng, luân tướng nói quư vị có sát nghiệp, há có thể được hay chăng? Chẳng xứng hợp th́ gọi là “chẳng tương ứng”. Đó gọi là hư vọng, chính quư vị phải biết nghiệm chứng.

          V́ Địa Tạng Bồ Tát đă dạy chúng ta ắt cần phải tương ứng. Địa Tạng Bồ Tát bảo chúng ta: Quư vị không thích sát nghiệp, nhưng luân tướng hiện ra sát nghiệp, tức là chẳng tương ứng. Hễ luân tướng chẳng tương ứng, Ngài dạy quư vị hăy sám hối lần nữa rồi mới gieo lần nữa. Có rất nhiều đạo hữu, khi quư vị gieo luân tướng, hăy đặc biệt chú ư: Đừng v́ một, hai ngày chẳng tương ứng mà quư vị ngă ḷng. Ngă ḷng th́ quư vị sẽ chẳng dùng nữa! Một, hai ngày, một, hai tuần đều chẳng tương ứng, cứ mỗi ngày đều lạy. Đă lạy suốt bảy ngày mà quư vị dùng luân tướng vẫn hoàn toàn chẳng tương ứng. V́ sao? V́ tâm quư vị vẫn chưa thâu nhiếp được, quư vị vẫn chưa chí tâm, [cho nên] Bồ Tát chẳng hiển hiện. “Bồ Tát hiển hiện hay không” hoàn toàn chẳng phải là chúng ta sẽ thấy h́nh tướng của Địa Tạng Vương Bồ Tát, chẳng phải như vậy! Mà là [xét theo] luân tướng có tương ứng hay không. Chẳng tương ứng th́ Bồ Tát chẳng hiện, hễ tương ứng th́ Bồ Tát hiện. Quư vị thông qua bái sám, sau đó niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, bản thân sẽ tiêu nghiệp chướng. Tiêu nghiệp chướng đến mức độ nào? Tới mức quư vị có thể chí tâm. Hễ bái sám, trong tâm hết sức tương ứng với chí thành, khẩn thiết. Có các đạo hữu bái sám đến nỗi đau ḷng khóc lóc, nghĩ tới nghiệp của chính ḿnh và các khổ nạn phải chịu trong đời này, [như thế th́] sẽ rất dễ tương ứng. Do vậy, coi việc chiêm sát luân tướng như đoán mạng, phê bát tự th́ không được! [Bói toán] th́ quư vị cho [thầy bói] mấy đồng, hắn sẽ tính một quẻ cho quư vị. [Nếu nghĩ chiêm sát luân tướng cũng giống như thế] th́ không được. Chẳng phải là quư vị vừa cầu bèn gieo quẻ sẽ linh ứng!

          Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, hăy nghiệm chứng chính ḿnh. Thoạt đầu muốn sử dụng [Chiêm Sát Luân], [bái sám] một hai thất vẫn chẳng thấy tương ứng. Trước hết, hăy sám hối tội hiện hành của ḿnh. V́ chúng ta hết sức lao chao, tâm chẳng định được, làm sao luân tướng tương ứng cho nổi? Cho đến khi quư vị lạy một thất, hai thất, người nghiệp chướng nhẹ lạy một thất rồi sử dụng luân tướng bèn tương ứng. Nghiệp chướng nặng hơn một chút, quư vị phải lạy hai thất. Có người lạy ba thất, tức hai mươi mốt ngày, luân tướng vẫn khư khư chẳng hiện. Dẫu hiện, cũng chẳng tương ứng, chẳng hiển hiện phù hợp. Rơ ràng là chẳng có sát nghiệp, mà luân tướng hiện ra sát nghiệp. Rơ ràng quư vị chẳng tham, mà luân tướng hiện tham, hoặc tham, sân, si phiền năo. B́nh thời, quư vị chưa hề nói dối, luân tướng hiện quư vị nói dối, tức là chẳng tương ứng! Chẳng hạn như quư vị thường thích khơi chọc thị phi, ở chỗ Trương Tam kể tội Lư Tứ, ở chỗ Lư Tứ nói xấu Trương Tam; nhưng luân tướng nói quư vị chẳng phạm lỗi nói đôi chiều. Bản thân quư vị vẫn chẳng hiểu rơ chính ḿnh suốt ngày nói đôi chiều! Quư vị ắt cần phải sám hối chuyện tương ứng với luân tướng th́ mới sanh ra hiệu quả, v́ quư vị sử dụng luân tướng [để sám hối ḥng tấn tu đạo nghiệp], chẳng phải là để đoán mạng, phê bát tự, biết hay không? Đấy là ǵ? Tu hành! Quư vị tu hành có Địa Tạng Bồ Tát tới chứng minh. Địa Tạng Bồ Tát chẳng tới chứng minh, quư vị chiêm sát chẳng tương ứng, thắc mắc của quư vị toàn là chẳng được đáp đúng. Đó gọi là “chẳng tương ứng”. Quư vị chẳng vận dụng chiêm sát luân tướng tốt đẹp. Chuyện này chẳng phải là “tôi đưa cho ông mấy đồng th́ sẽ tương ứng”, chẳng hề!

          Bái sám, quá tŕnh dùng luân tướng chính là quá tŕnh sám hối tội lỗi. Điều quư vị có thể đạt được là do luân tướng hiện cho quư vị, quư vị đă sám hối tội lỗi rất nhiều, phải hiểu đạo lư này. Trong khi quư vị sám hối tội lỗi, tăng trưởng trí huệ, tức tu khai trí huệ. Cho đến khi trí huệ của quư vị khơi mở, sẽ biết mức độ sám hối của chính ḿnh: Quư vị đă vận dụng Chiêm Sát Luân sám pháp, lại c̣n có một trăm tám mươi chín thứ giải thích [dành cho loại luân tướng thứ ba]. Cho đến khi quư vị bái sám, [luân tướng] sẽ cho quư vị biết phải nên làm như thế nào. Trong kinh văn thuộc phần sau, sẽ giảng giải một trăm tám mươi chín loại ấy, tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức của quư vị, cộng thêm căn bản vô minh thành mười chín món, ghép với mười đời, tức là mười chín nhân với mười đời. Do đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, mười đời[8], tạo thành một trăm tám mươi chín thứ ấy. Bất cứ con số nào của quư vị cũng chẳng thể vượt ra ngoài một trăm tám mươi chín thứ ấy. Sáu căn, sáu thức, sáu trần, ba lần sáu thành mười tám giới, cộng thêm căn bản vô minh, chẳng có ǵ ra ngoài các thứ ấy. Chiêm sát như thế, quư vị sẽ thấy được thiện ác của chính ḿnh từ vô lượng kiếp đến nay. Nghiệp thiện hay ác đều là do sáu căn, sáu trần, sáu thức, lại c̣n thêm căn bản phiền năo vô minh tạo thành. V́ quư vị hằng ngày bái sám để sám trừ tội lỗi, sám sám tương ứng, nghiệp chướng tiêu mất, trí huệ tăng trưởng. Luân tướng là trí huệ của chính quư vị. Trí huệ của quư vị tăng trưởng, sẽ tự nhiên tương ứng. Quư vị có thể thắc mắc: Tôi sẽ có thể sanh về thế giới Cực Lạc hay không, có thể khai đại trí huệ ngay trong đời này, đời này có thể lễ bái Chiêm Sát Sám đến mức chứng đắc Tứ Quả A La Hán, hoặc chứng đắc địa vị Thất Trụ Bồ Tát hay không? Đợi cho quư vị bái sám đến mức vô tướng, thành tựu vô tướng, vô nguyện, sẽ là đại Bồ Tát. Do vậy, khi c̣n phân biệt, khi dùng luân tướng, khi trí huệ của quư vị khơi mở, tăng trưởng, trí huệ đă tăng trưởng, quư vị sẽ biết chính ḿnh có trí huệ. Không chỉ là đối với lời chỉ dạy của đức Phật, mà đối với lư luận do Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ bảo, cũng sẽ có trí huệ. Khi quư vị xử lư các vấn đề thế gian, sẽ đều xử lư khá thích đáng. Đối với các vấn đề trong gia đ́nh, xă hội, kinh doanh, sẽ đều có trí huệ, sẽ chẳng có chướng ngại. Chúng ta chưa đắc trí huệ, làm mọi chuyện sẽ chẳng thích đáng, v́ chẳng có trí huệ. Đối với một trăm tám mươi chín thứ ấy, quư vị đều chẳng phù hợp, do chẳng có trí huệ. Đợi cho đến khi quư vị đă phù hợp, dù là thiện hay ác cũng vậy, hễ phù hợp bèn mở mang trí huệ. Đă mở mang trí huệ, quư vị bèn có thể đạt được lợi ích. Luân tướng chỉ dạy quư vị điều ấy. Nhưng sử dụng pháp luân tướng th́ điều thứ nhất là phải nhẫn nại, đừng nên bộp chộp, lao chao, chẳng phải là như quư vị làm chuyện thế gian, mong sao chóng thành tựu. Chẳng hề thành tựu nhanh chóng được!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược vị lai thế chư chúng sanh đẳng, dục cầu độ thoát sanh, lăo, bệnh, tử, thỉ học phát tâm, tu tập Thiền Định, vô tướng trí huệ giả, ưng đương tiên quán túc thế sở tác ác nghiệp đa thiểu, cập dĩ khinh trọng. Nhược ác nghiệp đa hậu giả, bất đắc tức học Thiền Định, trí huệ, ưng đương tiên tu sám hối chi pháp. Sở dĩ giả hà? Thử nhân túc tập ác tâm mănh lợi cố, ư kim hiện tại, tất đa tạo ác, hủy phạm trọng cấm. Dĩ phạm trọng cấm cố, nhược bất sám hối, linh kỳ thanh tịnh, nhi tu Thiền Định, trí huệ giả, tắc đa hữu chướng ngại, bất năng khắc hoạch. Hoặc thất tâm thác loạn, hoặc ngoại tà sở năo, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng trưởng ác kiến. Thị cố, đương tiên tu sám hối pháp. Nhược giới căn thanh tịnh, cập túc thế trọng tội đắc vi bạc giả, tắc ly chư chướng.

          ()善男子。若未來世諸衆生等。欲求度脫生老病死。始學發心。修習禪定。無相智慧者。應當先觀宿世所作惡業多少。及以輕重。若惡業多厚者。不得即學禪定智慧。應當先修懺悔之法。所以者何。此人宿習惡心猛利故。於今現在必多造惡。毀犯重禁。以犯重禁故。若不懺悔令其清淨。而修禪定智慧者。則多有障礙。不能克獲。或失心錯亂。或外邪所惱。或納受邪法。增長惡見。是故當先修懺悔法。若戒根清淨及宿世重罪得微薄者。則離諸障。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu các hàng chúng sanh trong đời vị lai muốn cầu độ thoát sanh, lăo, bệnh, tử, mới học phát tâm, tu tập Thiền Định, vô tướng trí huệ, trước hết, hăy nên quán ác nghiệp đă làm trong đời trước nhiều hay ít, và nặng hay nhẹ. Nếu ác nghiệp nhiều và sâu dày, chớ nên học ngay Thiền Định và trí huệ, trước hết, hăy nên tu pháp sám hối. V́ cớ sao vậy? Do người ấy xưa kia cái tâm hành ác mạnh mẽ, bén nhạy, cho nên trong hiện tại ắt tạo ác nhiều, hủy phạm trọng cấm. Do phạm giới trọng, nếu chẳng sám hối cho thanh tịnh mà tu Thiền Định và trí huệ, sẽ có nhiều chướng ngại, [khiến cho] chẳng thể đạt được. Hoặc bị mất trí, lầm loạn, hoặc bị tà vạy bên ngoài năo loạn, hoặc tiếp nhận tà pháp, tăng trưởng ác kiến. V́ thế, phải nêu tu pháp sám hối trước. Nếu giới căn thanh tịnh và trọng tội trong đời trước ít mỏng, sẽ ĺa các chướng).

 

          Địa Tạng Vương Bồ Tát lại bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: - Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh trong đời vị lai muốn cầu độ thoát sanh, lăo, bệnh, tử, tức là mong liễu thoát sanh, lăo, bệnh, tử, mong phát tâm học Phật, mong phát tâm tu tập Thiền Định, tu tập vô tướng trí huệ, trước hết, hăy nên quán ác nghiệp đă tạo trong đời trước nhiều hay ít, cho đến là nhẹ hay nặng. Nếu ác nghiệp nhiều và sâu dày, lúc đó, chớ nên học tập Thiền Định và trí huệ, v́ tu cũng chẳng thành tựu, do chính ḿnh có nghiệp chướng rất nặng, chướng ngại rất nhiều. Vậy th́ nên làm như thế nào? Trước hết, hăy tu tập pháp sám hối. Đấy là Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta phải tu sám hối, đó gọi là “bái sám”. V́ sao chúng ta dùng Chiêm Sát Luân một lượt chẳng tương ứng, hai lượt chẳng tương ứng? V́ quư vị có nghiệp chướng ngăn chướng. Đến khi nghiệp chướng tiêu mất, sẽ liền tương ứng. Nghiệp chướng tiêu thất, luân tướng hiện, cũng chính là trí huệ của quư vị tăng trưởng, tội nghiệp tiêu mất. Chẳng phải là tiêu hết, mà là tội nghiệp nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng. Đối với Chiêm Sát Luân Tướng, dùng pháp sám hối, quư vị sẽ tiến nhập, đó gọi là trí huệ. Nhưng nếu quư vị chẳng nương theo tướng trạng của luân tướng, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: Nếu quư vị ác nghiệp rất dày, mà toan tu tập Thiền Định, học tập trí huệ, sẽ dễ bị ma dựa, dễ tiến nhập ma cảnh. Thật ra, pháp sám hối nhằm tiêu trừ ma chướng, ma sẽ chẳng hiện. Cách này khác với chuyện tu tập Thiền Định và trí huệ. Chúng ta thường xuyên lao chao, tâm chẳng thể tĩnh lặng được! Nếu quư vị tu tập pháp sám hối rồi mới tu Định, môn Định ấy sẽ chẳng có ma chướng. Đó là sức gia tŕ của Địa Tạng Vương Bồ Tát do hành nhân nương theo pháp sám hối; nguyên nhân dùng pháp Chiêm Sát là như thế đó.

          Địa Tạng Vương Bồ Tát lại nói sâu hơn một tầng nữa. “Sở dĩ giả hà” nghĩa là “v́ sao phải nói như thế?” Kẻ ấy trong quá khứ đă quen thói ác tâm rất mạnh mẽ, bén nhạy. Kẻ ấy làm ác hết sức mạnh mẽ, căn cội ác nghiệp trong quá khứ rất nặng, ác tập khí rất sâu. Do ác nghiệp và ác tập khí trong quá khứ, hiện tại kẻ ấy nhất định sẽ làm ác lắm nỗi, tạo ác nhiều. Dẫu xuất gia, cũng sẽ phạm trọng giới. Trọng giới là bốn căn bản (giết, trộm, dâm, dối). Giả sử chẳng sám hối thanh tịnh, tu Thiền Định, tu trí huệ có thể thành tựu nổi chăng? Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chủ yếu là để tu hành, khiến cho quư vị sám hối tội lỗi trước đă rồi sau đấy mới tu Thiền Định và trí huệ, mới có thể chẳng dấy khởi tà tri tà kiến, mới chẳng có tà giác tri. Hiểu biết chẳng chánh đáng, liễu giải chẳng chánh đáng th́ đều là tà tri tà kiến. Như thế th́ sẽ tăng trưởng ác kiến. Do vậy, nếu muốn tu hành Định và Huệ, tu hành pháp môn Chỉ Quán, hoặc là cho đến khi thành Phật, trước hết, phải tu pháp sám hối. Nếu sám hối thanh tịnh, khi đó, thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, cho đến thọ Bát Giới, Bồ Tát giới, giới càng thanh tịnh. Đă thọ giới, bèn có thể giữ được, tức là nghiệp chướng quá khứ chẳng quá nặng nề; hễ tu tập, sẽ chẳng bị chướng ngại. Nếu chẳng tu sám hối, mà tu Định Huệ trước, nghiệp chướng của chính ḿnh quá nặng, tập khí quá sâu, ác tập khí và ác tâm sở quá mănh liệt, chẳng nói tới quá khứ, mà chính ngay các nghiệp mới tạo của quư vị trong đời này sẽ là nhân duyên gây chướng ngại cho tu Định, tu Huệ. Quư vị không chỉ là tu chẳng thành tựu, mà c̣n bị ma dựa! Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đă thọ giới mà chẳng tŕ giới, cho đến ngay cả Tam Quy cũng trái phạm. Tam Quy chính là giới! Đă thọ Tam Quy rồi mà lại chạy theo tin tưởng Gia Tô giáo (Thiên Chúa giáo)! Rất nhiều kẻ như vậy, chẳng phải là thiểu số, ngay cả Tam Quy mà cũng trái phạm. Bản thân của Tam Quy cũng là giới, như thế th́ sẽ chẳng thể nào không đọa địa ngục, chắc chắn là như thế!

          Nếu lại gặp kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, lại bái sám, hối cải rồi lại bái sám. Tôi vừa mới nói, [bái sám] một, hai thất mà luân tướng chưa hề xuất hiện, đó là do nghiệp chướng rất nặng. Nghiệp do quư vị đă tạo gây chướng ngại cho quư vị, ngay cả sử dụng pháp này mà cũng chẳng thể dùng được. Trước hết, ắt phải sám hối các tội nghiệp ấy rồi mới lại dùng Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, sau đó lại sám hối nghiệp báo. Nói như vậy, chúng ta nhận biết tội nghiệp như thế nào? Nếu dùng giáo nghĩa Đại Thừa, “tội tánh vốn không, chỉ do tâm tạo”. Tâm tạo th́ dùng tâm sám. Tâm nếu diệt th́ tội cũng mất. Tâm mất và tội diệt, hai đằng đều không; đó gọi là chân sám hối, quư vị đă làm được chưa? Đó gọi là vô tướng sám. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta, quư vị phải từ hữu tướng đạt đến vô tướng. Hữu tướng sám mà quư vị làm chẳng được, há có thể vô tướng sám ư? Do vậy, trong nửa bộ sau của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này chẳng phải là như vậy, tu Định và tu Huệ, hai thứ quán đạo, cảnh giới Nhất Thật, trực tiếp nhập pháp giới, đó là cảnh giới Hoa Nghiêm. Mục đích chủ yếu của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là chúng ta tu thành Phật, tướng thế gian được nói kèm theo. Quư vị chiêm sát nghiệp chướng của chính ḿnh nhẹ hay nặng, như thế nào th́ sẽ có thể tu Thiền Định, như thế nào th́ sẽ có thể tu trí huệ? Do vậy, quư vị phải lạy Chiêm Sát Sám. Mục đích dạy chúng ta dùng Chiêm Sát Sám của Địa Tạng Bồ Tát nằm trong nửa bộ sau. Nửa bộ đầu [của kinh này] nhằm chuẩn bị, mục đích là thành Phật, chẳng phải nhằm học phú quư, tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian.

          Đă hiểu đạo lư này, mọi người biết có kẻ bảo “Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là giáo nghĩa Tiểu Thừa, chẳng phải là Đại Thừa”. Trong kinh này, chẳng có A La Hán, chỉ có Kiên Tịnh Tín Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát thuyết pháp, chẳng có ai khác tham gia. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh, Địa Tạng Bồ Tát nói. Đồng thời, nửa bộ sau dạy quư vị, trong nửa bộ đầu, tội tánh là thực tại, nửa bộ sau bèn phủ định: “Tội tánh vốn là không, thể tánh của tội chẳng có, là hư huyễn, chẳng chân thật”. [Nếu tội tánh là] chân thật, quư vị sẽ chẳng thể sám được; v́ nó chẳng chân thật, quư vị mới sám trừ được! Tội tánh vốn không, chỉ do tâm tạo, nhưng khi tạo, khởi tâm động niệm, khi tạo tội nghiệp th́ rất nhanh chóng, rất dễ dàng. Khi sám th́ có thể chẳng dễ, v́ chúng ta chẳng đạt được nhất tâm. Có thể đạt tới nhất tâm, đương nhiên là rất tốt! Nay mọi người đều biết phát Bồ Đề tâm, nếu cái tâm tương ứng, chúng ta tu mười đại nguyện vương của đức Phổ Hiền; đó là pháp môn “duy tâm vô ngại, vô chướng”, quư vị có thể tương ứng hay không? Lễ khắp mười phương hết thảy chư Phật: Đại nguyện thứ nhất là lễ kính mười phương chư Phật, tâm quư vị có thể đạt tới cảnh giới ấy hay không? Nếu niệm Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, hoặc niệm Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, niệm nào cũng đều chẳng ĺa tâm, tâm chính là Tam Bảo. Cái tâm niệm Địa Tạng Bồ Tát chính là Địa Tạng Bồ Tát, cái tâm niệm Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, có làm được hay không? Do vậy, trong khi quư vị chưa sám trừ hết tội, hăy c̣n thiếu rất nhiều món nợ quư vị chưa trả xong, nếu muốn phát tài to lớn, sẽ chẳng làm được! Quư vị phải trả sạch nợ đă! Trước hết, hăy trả sạch tội nghiệp!

          Mỗi vị đại Bồ Tát trong khi lợi ích chúng sanh, mục đích đầu tiên là khiến cho chúng sanh “ĺa khổ, được vui”. Do mục đích này mà mỗi vị Bồ Tát và hết thảy các đại Bồ Tát phát tâm. Các Ngài làm hết thảy đều v́ độ chúng sanh. Giáo nghĩa Đại Thừa dạy: Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, chẳng mưu cầu hạnh phúc cho chính ḿnh, chỉ mong chúng sanh được an lạc. Nguyện hết thảy chúng sanh ĺa khổ, tâm quư vị kết hợp với tâm của hết thảy chư Phật, Bồ Tát thành một thể. Tâm phàm phu nhanh chóng trở thành Phật tâm, chuyển biến ư niệm thành Phật tâm, có thể làm được hay không? Nếu chẳng làm được, vậy th́ phát tâm học theo Phật, học theo Bồ Tát, chuyển biến cái tâm của quư vị trở thành Phật tâm. Làm chẳng được, quư vị sẽ thuận theo nghiệp của chính ḿnh. Quư vị tạo nghiệp ǵ, nó sẽ lôi quư vị đến nơi đó, tức là bị nghiệp lực xoay chuyển. Các vị đang hiện diện đều phát tâm học Phật, nói Phật làm như thế nào, ta bèn làm như thế ấy. Chẳng làm được! Ngay cả Bồ Tát mà chúng ta cũng đều chẳng làm được, ngay cả sơ phát ư Bồ Tát chúng ta cũng chẳng làm được, chỉ xưng là Bồ Tát! Chúng ta đều đă thọ Bồ Tát giới. Có người đă thọ trọn tam đàn đại giới, thử hỏi các vị xuất gia đạo hữu có phải là Bồ Tát hay không? Là Bồ Tát! Bồ Tát làm chuyện ǵ, trong tâm Bồ Tát nghĩ chuyện ǵ, ư niệm của Bồ Tát là ǵ? Nếu quư vị niệm nào cũng đều là tâm Bồ Tát, nghiệp lực hết sức mạnh mẽ, th́ sẽ thuận theo Bồ Tát đạo. Quư vị thường nghĩ đến nghiệp chướng của chúng sanh: Bị bệnh khổ xảy đến, bị bệnh khổ xoay chuyển. Nếu thức ăn ngon miệng, sẽ ăn thêm hai miếng. Chẳng ngon, sẽ chẳng muốn ăn thêm! Trong hết thảy các chỗ, đều có thể kiểm nghiệm cái tâm của chúng ta.

          Nay chúng ta có thể cảm nhận “niệm trước vừa khởi ác, niệm sau chẳng dấy lên”, chẳng cho nó tiếp tục. Biết nghiệp chướng do chúng ta đă tạo trong quá khứ, nay thân, khẩu, ư một đao cắt phăng, có sức mạnh ấy hay chăng? Thiện Tài đồng tử có [sức mạnh ấy]. Trong kinh Pháp Hoa, long nữ cũng có. Hễ có, bèn thành Phật. Chẳng có, sẽ chẳng thể tiêu [nghiệp chướng] một tí nào. Chúng ta chẳng có cái sức ấy, nghiệp tánh vốn là không, do tâm tạo, nhưng chúng ta chẳng thể “không” được! Chẳng thể “không”, quả báo sẽ chẳng mất! Các đạo hữu học giáo nghĩa Đại Thừa thường nói “nghiệp tánh vốn không”, quư vị có thể “không” nơi quả báo hay chăng? Bệnh là giả, chẳng ăn nhằm ǵ! [Thế nhưng] khi quư vị bệnh nặng chẳng ḅ dậy nổi, tôi coi quư vị làm như thế nào? Đó là giả, ta hăy choàng dậy đi làm như thường, có làm được hay không? Ăn nói lớn lối th́ ai cũng đều có thể nói được, nhưng chuyện lớn chẳng thể làm được! Nói “ta chịu khổ thay cho chúng sanh”, được lắm! Quư vị chịu thay đi! Quư vị đến bệnh viện, nói với tất cả bệnh nhân: “Tôi đều chịu thay cho quư vị, quư vị hăy xuất viện đi!” Làm được hay không? Trong khi nghiệp báo hiện tiền, ăn nói lớn lối vô dụng, thân thể là thân thể, tâm linh là tâm linh, quư vị có thể tách rời hai đằng hay chăng? Bác sĩ mổ xẻ, phải chích thuốc mê cho quư vị. Quư vị nói: “Chẳng cần chích thuốc mê! Tôi không đau, cứ mổ đi”. Quư vị có bản lănh ấy hay không? Thân thể quư vị bị bệnh, nói: “Tâm ta chẳng bệnh, không sao hết!” Làm chẳng được! Nếu có thể làm được th́ là Bồ Tát, đó là diệu dụng thần thông của Bồ Tát, hoàn toàn chẳng phải là ăn nói lớn lối, mà phải là làm chuyện lớn. Bởi vậy, ắt phải sám hối.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Dục tu sám hối pháp giả, đương trụ tĩnh xứ, tùy lực sở năng trang nghiêm nhất thất, nội trí Phật sự, cập an kinh pháp, huyền tăng phan cái.

          ()善男子。欲修懺悔法者。當住靜處。隨力所能莊嚴一室。內置佛事及安經法。懸繒幡蓋。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu muốn tu pháp sám hối th́ hăy nên ở chỗ thanh vắng, tùy theo sức ḿnh mà trang nghiêm một cái thất, trong đó bày tượng và đặt kinh pháp, treo phan lọng lụa).

 

          Muốn tu pháp sám hối, quư vị t́m một địa điểm thanh tịnh, tùy theo sức ḿnh để trang nghiêm thanh tịnh một cái thất. Trong đó, thờ một bức tượng Phật, dâng cúng các thứ vật cúng. Lại c̣n có kinh sách pháp bảo, treo tràng phan, lọng báu.

 

          (Kinh) Cầu tập hương hoa dĩ tu cúng dường.

          ()求集香華以修供養。

          (Kinh: T́m kiếm, gom góp hương, hoa để tu cúng dường).

 

          Tùy theo sức ḿnh. Nếu quư vị chẳng có tiền th́ dùng giấy cắt. Dùng giấy làm thành vật cúng cũng được, chẳng cần tốn kém rất nhiều. Cúng dường như thế đó. V́ các đạo hữu b́nh phàm, chẳng có sức để trang nghiêm một tịnh thất thờ Phật. Cúng dường bảy món quư, tám món báu, sẽ lo chẳng xuể! Hăy tùy duyên, chỉ cần cái tâm chân thật th́ sẽ là thật.

 

          (Kinh) Tháo dục thân thể, cập tẩy y phục, vật linh xú uế.

          ()澡浴身體及洗衣服。勿令臭穢。

          (Kinh: Tắm rửa thân thể, và giặt quần áo, đừng để hôi bẩn).

 

          Đồng thời, phải tắm rửa thân thể, quần áo phải giặt sạch sẽ, cho đừng có mùi hôi hám, sau đấy mới bước vào sám thất.

 

          (Kinh) Ư trú nhật phần, tại thử thất nội, tam thời xưng danh, nhất tâm kính lễ quá khứ thất Phật, cập ngũ thập tam Phật. Thứ tùy thập phương diện, nhất nhất tổng quy, nghĩ tâm biến lễ nhất thiết chư Phật sở hữu sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng, phù-đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự. Thứ phục tổng lễ thập phương tam thế sở hữu chư Phật. Hựu đương nghĩ tâm biến lễ thập phương nhất thiết pháp tạng. Thứ đương nghĩ tâm biến lễ thập phương nhất thiết hiền thánh. Nhiên hậu cánh biệt xưng danh, lễ ngă Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Như thị lễ dĩ, ưng đương thuyết sở tác tội, nhất tâm ngưỡng cáo, duy nguyện thập phương chư đại từ tôn, chứng tri hộ niệm, ngă kim sám hối, bất phục cánh tạo. Nguyện ngă cập nhất thiết chúng sanh, tốc đắc trừ diệt vô lượng kiếp lai Thập Ác, TTrọng, NNghịch, điên đảo, báng hủy Tam Bảo Nhất Xiển Đề tội. Phục ưng tư duy như thị tội tánh, đản tùng hư vọng điên đảo tâm khởi, vô hữu định thật nhi khả đắc giả, bổn duy không tịch, nguyện nhất thiết chúng sanh tốc đạt tâm bổn, vĩnh diệt tội căn.

          ()於晝日分在此室內三時稱名。一心敬禮過去七佛及五十三佛。次隨十方面一一總歸。擬心遍禮一切諸佛所有色身。舍利形像。浮圖廟塔。一切佛事。次復總禮十方三世所有諸佛。又當擬心遍禮十方一切法藏。次當擬心遍禮十方一切賢聖。然後更別稱名禮我地藏菩薩摩訶薩。如是禮已。應當說所作罪。一心仰告。惟願十方諸大慈尊。證知護念。我今懺悔。不復更造。願我及一切衆生。速得除滅無量劫來。十惡四重。五逆顛倒。謗毀三寶一闡提罪。復應思惟。如是罪性。但從虛妄顛倒心起。無有定實而可得者。本唯空寂。願一切衆生速達心本。永滅罪根。

          (Kinh: Vào lúc ban ngày, ở trong cái thất ấy, ba thời xưng danh, nhất tâm kính lễ bảy vị Phật trong quá khứ và năm mươi ba vị Phật. Kế đó, đối với mỗi phương trong mười phương, đều lễ chung, tâm tưởng lễ trọn khắp tất cả sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng, miếu tháp phù-đồ, và hết thảy Phật sự của hết thảy chư Phật. Kế đó lại lễ chung mười phương ba đời tất cả chư Phật. Tâm lại tưởng lễ trọn khắp mười phương hết thảy pháp tạng. Kế đó, tâm tưởng lễ trọn khắp mười phương hết thảy hiền thánh. Sau đấy, bèn riêng xưng danh, lễ bái ta, tức Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Lễ như thế xong, hăy nên nói tội đă làm, nhất tâm bẩm báo, chỉ mong các đấng đại từ tôn trong mười phương chứng biết, hộ niệm: “Con nay sám hối, chẳng c̣n tạo nữa. Nguyện cho con và hết thảy chúng sanh, mau được trừ diệt muời ác, bốn tội trọng, năm tội nghịch, điên đảo, tội Nhất Xiển Đề hủy báng Tam Bảo từ vô lượng kiếp đến nay. Lại nên tư duy: Tánh của các tội như thế chỉ từ cái tâm hư vọng điên đảo mà khởi, chẳng chắc thật để có thể đạt được, vốn chỉ là không tịch. Nguyện cho hết thảy chúng sanh mau thấu đạt nguồn tâm, vĩnh viễn diệt trừ tội căn).

 

          “Trú nhật phần”: Thuở đức Phật tại thế, thời gian tại Ấn Độ được chia thành ngày ba thời và đêm ba thời. Ba thời xưng danh, tụng niệm thánh hiệu Địa Tạng. Sau đó lại bái sám. Bước vào sám thất, khi tu sám pháp, nhất tâm kính lễ bảy vị Phật trong quá khứ và năm mươi ba vị Phật. Tại Ấn Độ thuở đó, vào thời cổ, ba thời ban ngày là sơ nhật, trung nhật, và hậu nhật, [ba thời ban đêm] là sơ dạ, trung dạ, và hậu dạ. Ban ngày là từ sáng đến chiều, ban đêm là từ sơ dạ, trung dạ, cho đến hậu dạ, rốt cuộc là hai mươi bốn tiếng đồng hồ bái sám.

          Trong khi bái sám, trước hết phải đảnh lễ bảy vị Phật trong quá khứ. Chúng tôi chẳng nói tới từng vị, mọi người đều biết bảy vị Phật trong quá khứ. Ba vị Phật trong Trang Nghiêm Kiếp là Tỳ Bà Thi Phật (Vipaśyin), Thi Khí Phật ((Śikhin), và Tỳ Xá Phù Phật (Viśvabhū), ba vị ấy. Bảy vị Phật là ba vị Phật trong Trang Nghiêm Kiếp và bốn vị Phật trong Hiền Kiếp. Hiện thời chúng ta thuộc Nhân Hiền Kiếp, bốn vị Phật trong [Nhân] Hiền Kiếp là Câu Lưu Tôn Phật ( Krakucchanda), Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật (Kāśyapa), và Thích Ca Mâu Ni Phật (Śākyamuni). Trang Nghiêm Kiếp (Vyūhakalpa) và Nhân Hiền Kiếp (Bhadrakalpa) gộp chung lại, ba vị Phật trong Trang Nghiêm Kiếp cộng với bốn vị Phật thuộc Nhân Hiền Kiếp thành bảy vị Phật. Trước hết, lạy bảy vị Phật, sau đó, lại lạy năm mươi ba vị Phật[9]. Đó là những vị Phật t phải lạy trước khi sám hối. Lạy xong, quy kính chung mười phương, tức là kính lễ hết thảy chư Phật trong mười phương. Nói “tổng” ở đây chính là bao gồm lễ sắc thân của Phật. Sắc thân là hóa thân hiện tướng. Hóa thân của Phật chẳng trụ thế, sẽ lưu lại xá-lợi, có h́nh tượng Phật, có chùa miếu, có tháp. Những thứ ấy đều gọi là “Phật sự”, đều cúng dường, trong tâm ức niệm cúng dường. Quư vị lạy Chiêm Sát Sám, trong văn tự chỉ có nghi thức Chiêm Sát Sám, tức Chiêm Sát sám bổn. Sau đấy, lễ chung mười phương ba đời hết thảy chư Phật, tức cúng dường Phật Bảo. Lại nên lễ khắp mười phương hết thảy pháp tạng, tức Pháp Bảo. Cung kính lễ mười phương hết thảy hiền thánh tăng, là Tăng Bảo. Lễ mười phương xong, lại riêng xưng danh, lễ bái Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Đấy là vị Sám Hối Chủ của chúng ta. Có khi ba lượt xưng danh Địa Tạng Bồ Tát, lễ ba lạy. Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, một lễ là được rồi, nhưng trên thực tế, thường là đối với vị Sám Hối Chủ, ta đều xưng danh ba lượt, lễ ba lạy.

          Mở đầu khóa sám hối, trước hết, lễ mười phương chư Phật. Sau đấy, lại phân biệt mà lễ. Lễ như thế xong, hăy nên nêu ra tội đă tạo. Quư vị đă trót phạm sai lầm ǵ, đều nên nói ra. Có những người ngượng ngùng, không muốn thổ lộ, hăy chọn lúc không có ai trong Phật đường, đối trước Phật thưa tŕnh; đối trước Địa Tạng Vương Bồ Tát thưa bày. Sám hối có nghĩa là biểu đạt “con chẳng c̣n làm nữa!” Các chuyện ấy là chuyện xấu, đă sám hối rồi, con sẽ chẳng làm nữa. Nguyện con cùng hết thảy chúng sanh mau được tiêu diệt [tội nghiệp] từ vô lượng kiếp đến nay, đă rất xa! V́ khi chúng ta tạo tội, từ vô lượng kiếp đến nay, đă tạo “thập ác, tứ trọng”, tức mười ác nghiệp và bốn trọng tội, ngũ nghịch, điên đảo, hủy báng Tam Bảo, tội Nhất Xiển Đề. Báng Phật th́ không chỉ là chẳng tin. Xiển Đề là báng Phật. Niệm như thế xong, chính ḿnh bèn quán tưởng, “tư duy” là quán tưởng, nói các tội ấy là điên đảo, hư vọng, chẳng thực tại. Nếu là thực tại th́ sẽ chẳng thể sám hối được. Do nó chẳng phải là thực tại, nó có một cái thể tánh thật sự tồn tại để có thể đạt được hay chăng? Chẳng có! Chẳng có cái ǵ chắc thật để có thể đạt được! Tội tánh vốn là không, không tịch, khiến cho hết thảy chúng sanh thấu đạt cái tâm, đạt tới tâm lẫn tội đều sám trừ sạch. Tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có. Nếu cảnh mất th́ tâm cũng không. Chẳng có cảnh, chẳng có tâm, diệt tội từ căn bản.

          Nhưng như thế nào th́ mới có thể làm được? Điều thứ nhất là phải tin sâu nhân quả. Nhân quả bất diệt, các pháp do duyên sanh. Duyên sanh chẳng có thể tánh, nhưng nó lại chẳng tiêu mất, vẫn phải trả báo. Tội chẳng có thể tánh, tâm là vô sanh, chỉ là do cảnh mà có. Do v́ tướng cảnh giới mà quư vị phạm tội. Đồng thời, quư vị c̣n phải tin, tin tưởng nhân quả chẳng mất. Cái nhân do quư vị đă tạo nhất loạt chẳng mất đi, một chấm, một giọt cũng chẳng để sót, chẳng bị mất đi! Do vậy, phải hổ thẹn. Hễ vào sám thất, phải sanh khởi ḷng tàm quư (hổ thẹn). Tàm () là thẹn với chính ḿnh, quư () là hổ với người khác. Chính ḿnh phạm tội đối với người khác, v́ kẻ khác mà tổn thương người ta, chẳng lễ độ đối với người ta, bao gồm rất nhiều trái phạm! Hai chữ Tàm Quư bao gồm rất nhiều điều, do tổn thương rất nhiều người từ vô lượng kiếp đến nay, nhất định sẽ phải hứng chịu quả báo.

          Những ǵ chúng ta hứng chịu trong hiện tại, rất nhiều khổ nạn trong cuộc đời, quư vị chẳng phải là đang thọ báo ư? Người ta nói “giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ” (giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đă làm chẳng mất, khi nhân duyên hội ngộ, quả báo vẫn tự chịu). Cho đến khi quư vị phải trả báo, sẽ cảm thấy khổ lắm! Sanh bệnh, ngồi tù, tôi đă đều hứng chịu. Đó gọi là “trả báo”. Không có quả báo, quư vị sẽ chẳng phải hứng chịu. Quư vị có báo, có nghiệp, th́ phải hứng chịu; nhưng khi chúng ta tạo tội th́ đều là tiếp nối, chẳng phải là một đời, hai đời, mà là liên tục tạo ác. Trẻ nít sanh ra bèn dấy khởi tâm tham, tức tham, sân, si; đôi chút chẳng vừa ư liền khóc ̣a. Trẻ nhỏ vừa sanh ra bèn khóc, một mực cáu giận. Nó chẳng vừa ư bèn khổ, do khổ sở chẳng có cách nào biểu lộ bèn khóc. Đó là cái tâm sân hận phát tác. Quá nhỏ, chẳng thể nói, quư vị đối trước nó hỏi: “Làm ǵ thế?” Nó lập tức khóc, cái tâm sân hận rất nặng! Vừa biết nói, thấy ǵ cũng đều chụp lấy, cho là của nó. Tôi từng biết một đứa trẻ, nó c̣n chưa đầy một tuổi, chưa biết nói, cho nó rất nhiều thứ, hai tay nó giữ chặt, chẳng cho người khác đụng đến! Tập khí ác bẩm sanh, do quá khứ mà ra. Nói đến tội tánh th́ đó là tội tánh, đời đời tiếp nối!

 

Tập 6

         

          (Kinh) Thứ ưng phục phát khuyến thỉnh chi nguyện, nguyện linh thập phương nhất thiết Bồ Tát vị thành Chánh Giác giả, nguyện tốc thành Chánh Giác. Nhược dĩ thành Chánh Giác giả, nguyện thường trụ tại thế, chuyển chánh pháp luân, bất nhập Niết Bàn.

          ()次應復發勸請之願。願令十方一切菩薩未成正覺者願速成正覺。若已成正覺者。願常住在世。轉正輪。不入涅槃。

          (Kinh: Kế đó, lại nên phát nguyện khuyến thỉnh, nguyện cho mười phương hết thảy các vị Bồ Tát chưa thành Chánh Giác, nguyện mau thành Chánh Giác. Nếu đă thành Chánh Giác, nguyện thường trụ trong cơi đời, chuyển chánh pháp luân, chẳng nhập Niết Bàn).

 

          Địa Tạng Bồ Tát dạy người muốn sử dụng Chiêm Sát Luân th́ trước đó phải phát nguyện rồi mới có thể dùng. Đây là phát nguyện khuyến thỉnh. Phát ra cái nguyện khuyến thỉnh này, khiến cho hết thảy chướng ngại của chúng ta có thể tiêu mất. Nếu chúng ta dùng Chiêm Sát Luân mà bị chướng ngại, bị chướng ngại th́ quư vị rất khó tương ứng. Những ǵ luân tướng hiển hiện cho quư vị chẳng chánh xác. V́ thế, để chánh xác, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị phải phát nguyện khuyến thỉnh. Phát nguyện đối với mười phương hết thảy Bồ Tát c̣n chưa thành Phật, bèn nguyện các Ngài sẽ thành Phật rất nhanh; đă thành Phật th́ nguyện các Ngài thường ở lâu trong cơi đời. “Trụ thế” là chuyển pháp luân. Phật trụ thế sẽ thuyết pháp, thường trụ lâu dài trong cơi đời th́ sẽ chẳng nhập Niết Bàn quá sớm. Do vậy, nguyện này có thể tiêu trừ ma chướng khi chúng ta tu hành. V́ khi quư vị có ma chướng, tu hành sẽ chẳng thành tựu. Đồng thời, có đạo hữu nói với tôi, mỗi khi có pháp sư giảng kinh, người ấy cũng muốn đến nghe, nhưng hễ sắp đi nghe liền xảy ra chướng ngại. Người ấy ở Thượng Hải bên Đại Lục, chẳng phải là xe bị trục trặc th́ có người gọi điện thoại báo có chuyện phải lo liệu, luôn khiến cho ông ta chẳng thể nghe thành công. Đó gọi là chướng ngại, là ma chướng. V́ sao chỉ đợi đến khi ông ta sắp đi nghe kinh, hoặc là muốn tham gia một pháp hội, sẽ xuất hiện các chướng ngại ấy? Đó gọi là nghiệp chướng, chúng ta có thể thấy được! Có những thứ nhằm đúng ngay khi quư vị làm chuyện tốt, cũng như khi hành Bồ Tát đạo, ma chướng bèn xuất hiện. Thuở đức Phật tại thế thuyết pháp, ma vương Ba Tuần thường gây chướng ngại. Ba Tuần thường thỉnh đức Phật hăy chóng nhập diệt. Chuyện này thường phát sanh.

          V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu quư vị muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, phải phát nguyện khuyến thỉnh, cần phải phát nguyện: Nguyện cho các vị Bồ Tát chưa được thành Phật sẽ mau được thành Phật. Nguyện các vị Phật đă thành tựu, khuyến thỉnh các Ngài đừng nhập Niết Bàn, thường trụ lâu dài trong cơi đời. Đó gọi là nguyện khuyến thỉnh. Nguyện khuyến thỉnh có cùng ư nghĩa với việc khuyến thỉnh (khuyên mời) thuyết pháp, khuyến thỉnh hết thảy hăy làm Phật sự. Điều này bao hàm ư nghĩa “quư vị phải phát thiện tâm”, thiện tâm ǵ vậy? Thỉnh chư Bồ Tát thuyết pháp. Nếu bản thân chúng ta ở trong sám thất, hoặc trong Phật đường, khi chúng ta niệm kinh, kinh văn dạy quư vị hăy khuyến thỉnh hết thảy chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp. Đó gọi là “đại nguyện khuyến thỉnh”. C̣n đối với hết thảy Bồ Tát đang trụ thế, bèn khuyến thỉnh các Ngài thường trụ thế gian, đừng nên nhập Niết Bàn. Có phải là phát nguyện khuyến thỉnh sẽ nhất định sanh ra hiệu quả hay không? Tùy thuộc vào sự chí tâm của quư vị, mỗi vị đạo tâm chúng sanh phát ư Bồ Tát, chúng ta thường khuyến thỉnh chư Phật, Bồ Tát trụ thế. Vậy th́ bản thân quư vị sẽ đạt được ǵ? Khỏe mạnh, sống lâu, luôn có thể nghe pháp âm. Nguyện lực ấy rất quan trọng.

          Lại phải nên phát khởi cái nguyện khuyến thỉnh, khuyến thỉnh mười phương hết thảy Bồ Tát, v́ nói theo giáo nghĩa trong Phật giáo, khi Bồ Tát dự vào Đệ Bát Địa, Ngài cho rằng chính ḿnh đă viên măn, không c̣n phát nguyện tu hành hướng lên cao hơn nữa để độ chúng sanh, [v́ ngộ nhận] “chính ḿnh đă đoạn hết các Hoặc nghiệp, sự nghiệp độ sanh đă viên măn”, v́ Ngài c̣n chưa thấy được căn bản vô minh của chính ḿnh. Đó là Đệ Bát Địa Bồ Tát. Do vậy, mười phương chư Phật đến khuyên vị ấy, khuyên vị ấy vẫn phải tiếp tục hành Bồ Tát nguyện, bảo cho vị ấy biết “ông vẫn chưa thành Phật”. Chúng ta chẳng thấy điều này, mà cũng chẳng biết vị nào là Bát Địa Bồ Tát, nhưng chúng ta khuyên hết thảy chúng sanh, hết thảy đạo hữu hăy trụ thế. Đó là điều đáng nên làm. Chẳng hạn như gần đây nhất, các vị Bồ Tát liên tục ra đi. Trong các đại đức hiện thời, mọi người đều biết pháp sư Thánh Nghiêm, pháp sư Sám Vân, pháp sư Phật Nguyên tại Đại Lục, trong ṿng nửa tháng này đều kế tiếp nhau văng sanh. Chúng ta có thể thấy điều này. C̣n có mười phương Bồ Tát mà nhục nhăn của chúng ta chẳng thể trông thấy. Chúng ta hăy nên niệm nào cũng khuyến thỉnh các Ngài thường trụ dài lâu trong cơi đời. Đại nguyện ấy nhằm thỉnh chư Phật, Bồ Tát trụ thế, hy vọng chư Phật, Bồ Tát gia tŕ chúng ta, để chúng ta có thể tu thành đạo nghiệp khi c̣n tuổi thọ, tiêu diệt nghiệp chướng, đạt được thành tựu. Đó là cái nguyện khuyến thỉnh, khuyến thỉnh hết thảy chư Bồ Tát, khiến cho các Ngài thường trụ dài lâu trong cơi đời. Nhục nhăn của chúng ta chẳng thể trông thấy chuyện này, có các vị Bồ Tát mà quư vị không thấy, nhưng phát ra cái nguyện này nhằm ư nghĩa “khiến cho quư vị sớm có ngày được thân cận bạn lành, thân cận thiện tri thức”. Do đạo lư này, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta phải nên phát nguyện như thế. Đă phát xong nguyện này….

 

          (Kinh) Thứ đương phục phát tùy hỷ chi nguyện, nguyện ngă cập nhất thiết chúng sanh, tất cánh vĩnh xả tật đố chi tâm, ư tam thế trung, nhất thiết sát độ, sở hữu tu học nhất thiết công đức, cập thành tựu giả, tất giai tùy hỷ.

          ()次當復發隨喜之願。願我及一切衆生。畢竟永舍嫉妒之心。於三世中一切剎土。所有修學一切功德及成就者。悉皆隨喜。

          (Kinh: Kế đó, lại nên phát nguyện tùy hỷ, nguyện con và hết thảy chúng sanh rốt ráo vĩnh viễn bỏ tâm ganh ghét, trong ba đời, hết thảy các cơi nước, đối với tất cả hết thảy công đức tu học và thành tựu, thảy đều tùy hỷ).

 

          Thông thường, trong vô lượng đời quá khứ, khi chúng ta thấy người ta khéo làm thiện nghiệp, cho đến hết thảy sự nghiệp trong thế gian tốt đẹp hơn, mạnh mẽ hơn chúng ta, quư vị bèn nẩy sanh một thứ chướng ngại, ghen tỵ. Pháp sám này có nguyện tùy hỷ nhằm tiêu diệt chướng ngại ghen tỵ từ vô lượng đời trong quá khứ của chúng ta, khiến cho chúng ta trông thấy người hơn hẳn chúng ta, bất luận tín ngưỡng Tam Bảo cũng thế, mà hết thảy sự nghiệp tại gia cũng thế, chúng ta đều tán thán, tùy hỷ. Đồng thời, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật. Sự tùy hỷ này bao trùm mười pháp giới: Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến lục đạo chúng sanh. Đạo lư này rất sâu. V́ nhất tâm của chúng ta, tức là một niệm tâm trong hiện tiền trọn đủ mười pháp giới. Trong suốt một ngày, quư vị khởi tâm động niệm, có lúc mong thành Phật. Khi niệm kinh, thấy chư Phật, Bồ Tát bèn phát nguyện mong chính ḿnh sớm thành Phật. Niệm ấy của quư vị bèn thuộc vào Phật pháp giới. Do thấy người khác đau khổ, quư vị mong cứu độ, hộ tŕ họ, độ họ thoát khỏi hết thảy các khổ. Do nguyện ấy, quư vị bèn tiến nhập Bồ Tát pháp giới. Nếu chính quư vị cảm nhận trong cuộc sống, tất cả mọi chuyện đều chẳng thuận tâm, nhàm ĺa thế gian, cho đến pháp Khổ, Tập, Diệt, Đạo, pháp mười hai nhân duyên, đó là tâm Nhị Thừa. Bồ Tát cũng thế, mà Thanh Văn cũng thế! Một đằng là nguyện cho hết thảy chúng sanh, độ hết thảy chúng sanh liễu sanh tử; một đằng là liễu thoát sanh tử của chính ḿnh. Lại nữa, đối với tất cả hết thảy thiện cử (善舉, hành động tốt đẹp) trong nhân gian, hết thảy chúng sanh trong lục đạo và chúng ta đều là cùng một tâm, một thể tánh, tức là chính ḿnh chớ nên tham ái hay ghen tỵ đối với hết thảy chúng sanh. Hăy tiêu trừ cái tâm ấy! Chỉ cần thấy người khác có một tí việc thiện, không chỉ chẳng ghen tỵ, mà c̣n phát nguyện tùy hỷ, tức là nguyện tùy hỷ chúng sanh, ḥng tiêu trừ cái tâm chướng ngại, đố kỵ từ vô lượng đời trong quá khứ. Hễ thấy người khác dường như hơn ta, bèn sanh ḷng bất măn, hăy tiêu trừ nghiệp chướng ấy!

          Trong hết thảy các cơi Phật thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, xét theo thời gian là ba đời, xét theo nơi chốn là trọn khắp hết thảy các cơi, đều có các vị Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, đều có các vị đă viên măn Bồ Tát đạo thành Phật. Tuy nhục nhăn của chúng ta chẳng thể trông thấy, nhưng tâm chúng ta tùy hỷ, coi công đức của người khác như của chính ḿnh mà tán thán, tùy hỷ, sẽ giống như chính ḿnh đạt được công đức. Công đức tán thán, tùy hỷ th́ không chỉ nhục nhăn của chúng ta chẳng thể trông thấy, tuy nhục nhăn của chúng ta không trông thấy, nhưng tư tưởng của quư vị có thể tác ư, nương theo lời dạy của đức Phật. Cho đến hiện tại, chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, trước hết, phải phát khởi tùy hỷ. Tùy hỷ công đức thành Phật của mười phương ba đời hết thảy chư Phật, tùy hỷ công đức hành Bồ Tát đạo của mười phương hết thảy Bồ Tát, cho đến đối với tất cả thiện nghiệp của hết thảy chúng sanh, quư vị đều tùy hỷ. Tâm lượng hiện hành ấy, cái tâm hiện tại của quư vị có thể mở rộng đến mức độ lớn như vậy, trên là tùy hỷ mười phương hết thảy chư Phật, dưới là tùy hỷ hết thảy chúng sanh. Đối với tất cả các thiện nghiệp dẫu nhỏ nhoi, bé tí, quư vị đều tùy hỷ tán thán, như thế sẽ tiêu diệt thói xấu từ vô lượng kiếp đến nay: “Thấy người khác đạt được điều quư vị chẳng đạt được, quư vị chẳng sanh ḷng hoan hỷ, mà c̣n sanh ḷng ghen tỵ”. Sám hối nghiệp chướng ấy, đó là tùy hỷ công đức. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Khi phát đại nguyện này, tức nguyện tùy hỷ công đức, đó chính là cái nguyện để sám hối nghiệp chướng. Những điều này thuộc về mười đại nguyện vương.

          V́ thế, đừng cho rằng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là Tiểu Thừa. [Nếu hiểu như vậy], sẽ là tuyệt đối sai lầm! Chẳng phải là chúng ta cầm lấy Chiêm Sát Luân rồi thuận tay gieo liền, chẳng thể được! Trước hết, quư vị phải phát nguyện. Chẳng phát nguyện sẽ không thể dùng Chiêm Sát Luân. Mỗi nguyện đều nhất trí với mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát, mọi người đều nên hiểu đạo lư này! Chẳng hạn như khi chúng ta đang đi trong đêm đen, nếu có người dùng đèn pin soi đường cho chúng ta, chiếu ra ánh sáng, chúng ta có cảm tạ người ấy hay không? Chúng ta ở trong tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới, ở trong tam giới th́ là hắc ám. Nếu có vị Bồ Tát dùng pháp quang minh để dẫn dắt chúng ta thoát ĺa sự tối tăm của tam giới. Đó chính là “hành Bồ Tát đạo”. V́ bản thân chúng ta chẳng làm được, chúng ta bèn tùy hỷ Bồ Tát khác để làm, như Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát. Hiện thời, chúng ta học theo Địa Tạng Bồ Tát. Đối với hết thảy sự nghiệp lợi ích chúng sanh do năm vị Đại Sĩ đă thực hiện, chúng ta phát nguyện tùy hỷ sự nghiệp của các Ngài. Không chỉ năm vị đại Bồ Tát ấy, mà đối với mười phương chư Phật, chẳng hạn như A Di Đà Phật đă phát bốn mươi tám nguyện, chúng ta đều tùy hỷ, tán thán, học theo Phật để cũng phát đại nguyện giống như thế. Nguyện chẳng phát ra hư huyễn. Một niệm tâm hiện tiền của quư vị và tâm A Di Đà Phật như nhau, Phật tâm tức là cái tâm hiện tiền của chính ḿnh. Tâm chúng ta chính là Phật tâm, cho đến tùy hỷ thiện niệm của Bồ Tát, tức là chúng ta đă hành Bồ Tát đạo. Phàm là đối với hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, khi họ c̣n chưa thành Phật, hoặc sắp dự vào địa vị Phật, nếu người ấy có một thiện niệm đối với chúng sanh, chúng ta đều thấy giống như chính ḿnh thực hiện, quư vị đều tán thán, tùy hỷ. Đó gọi là trí huệ phương tiện thiện xảo. Hăy thường nên phát ra cái nguyện ấy.

          Mỗi vị đạo hữu hăy đều nên thường xuyên phát nguyện. Đó chính như trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy chúng ta phát Bồ Đề tâm, khéo dùng cái tâm. Mọi người đă đọc phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm, phải tùy thuận lời dạy của Văn Thù Bồ Tát để phát tâm tán thán, tùy hỷ. Đó là tâm thanh tịnh. Phật Phật đạo đồng, phương tiện thiện xảo lợi ích chúng sanh của mỗi vị Phật bất đồng, nhưng thành Phật th́ đạo quả như nhau. Mỗi vị Bồ Tát cũng như thế. V́ chúng ta đối với đúng, sai, tà, chánh, đều chẳng phân biệt rơ ràng cho lắm, nếu quư vị học dùng Chiêm Sát Luân, cậy vào sức từ bi của Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta sẽ học hiểu. Học hiểu ǵ vậy? Khéo dùng cái tâm. Chiêm Sát Luân chỉ đạo chúng ta khéo dùng cái tâm. Trong khi chúng ta có chướng ngại, rất nhiều sự việc chẳng thể quyết định được, hăy dùng Chiêm Sát Luân! Nói một vấn đề đơn giản, như khi quư vị mua nhà, căn nhà ấy tốt lành hay không? Mua nhà có lợi ích hay không? Quư vị cũng có thể dùng Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo cho quư vị đúng như thật. Quư vị muốn đầu tư một món tiền để kinh doanh, quư vị chẳng nắm chắc đầu tư sẽ lỗ hay lời, cũng có thể sử dụng Chiêm Sát Luân. Địa Tạng Bồ Tát bảo quư vị có thể đầu tư th́ sẽ có thể kiếm lời. Nếu [Chiêm Sát Luân] bảo quư vị chẳng thể đầu tư, đầu tư sẽ bị lỗ lă, như vậy th́ chớ nên đầu tư.

          Tôi nói chuyện này dường như chẳng liên quan đến chuyện tu đạo. Chắc là có đạo hữu ngờ vực Địa Tạng Vương Bồ Tát có quản chuyện ấy hay không? Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi, [loại luân tướng thứ ba trong] Chiêm Sát Luân [hiện ra các con số, hợp thành] một trăm tám mươi chín trường hợp, biểu đạt các vấn đề ấy. V́ sao trong thế gian Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể giúp đỡ quư vị như vậy? Khiến cho quư vị tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho quư vị dần dần nhập Phật đạo. Nếu lúc ban đầu chẳng cho quư vị đôi chút tiện nghi, quư vị sẽ không tin. Nếu quư vị cầu điều ǵ, đều cho quư vị biết hết sức chánh xác, quư vị sẽ nói Địa Tạng Bồ Tát đúng là tuyệt vời, ta bèn nhất tâm nhất ư tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát. Từ tướng thế gian, Địa Tạng Bồ Tát dần dần dẫn quư vị đến xuất thế gian. Từ xuất thế gian, dần dần chỉ dạy quư vị hành Bồ Tát đạo. Để thật sự liễu thoát sanh tử, phải hành Bồ Tát đạo. Tôi mong phát tài, tài sản thế gian có phát, quư vị cũng chẳng thể đạt được, chẳng đáng tin cậy. [Do vậy], sẽ làm cho quư vị phát Tam Bảo tài, phát pháp tài, vĩnh viễn chẳng mất đi. V́ lẽ đó, “Phật pháp trên thế gian, chẳng ĺa thế gian giác”, có hàm nghĩa này. Kinh c̣n có câu như thế này: “Tiên dĩ dục câu khiên, tiệm linh nhập Phật đạo” (trước hết dùng dục để lôi kéo, dần dần khiến cho nhập Phật đạo). Tướng cảnh giới của chúng sanh ở trong ngũ dục. Nếu quư vị dẫn dụ họ học hỏi từ ngũ dục, họ sẽ dần dần nhập Phật đạo. Khi đó, quư vị muốn dạy họ, họ sẽ tin. Mọi người thấy trong các thân hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát, có một h́nh tượng Bồ Tát tay nâng giỏ hoa. Câu chuyện ấy phát sanh như thế nào? Quán Tự Tại Bồ Tát hóa hiện thành một cô gái bán hoa. Đương nhiên cô gái bán hoa ấy tướng mạo hết sức xinh đẹp. Cô xách giỏ hoa đi bán hoa, rất nhiều người bu theo cô, chẳng phải là để mua hoa, mà là do tham cầu sắc đẹp của cô. Rất nhiều người tranh giành, mong lấy cô làm vợ. Quán Thế Âm Bồ Tát liền nói: “Ai trong số quư vị có thể thuộc Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm, tôi sẽ gả cho người đó”. Các vị tú tài có đến mười người hoặc hai mươi người đều có thể thuộc ḷng. Cô gái nói: “Các anh nhiều người như vậy, tôi gả cho ai đây? Ai trong số các anh trong một ngày có thể thuộc bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tôi sẽ gả cho người đó”. Người như vậy rất ít, chỉ có một học sĩ trong một ngày thuộc trọn bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Anh ta liền kết hôn với cô gái bán hoa. Vừa kết hôn, vào động pḥng, cô gái ấy chết ngay. Chàng tú tài đó thấy đúng là vô thường. Vị tú tài ấy họ Mă, trong câu chuyện này có nêu rơ tên tuổi. Từ đó, anh ta phát tâm tu đạo. Đó là từ trong hết thảy các pháp, Phật, Bồ Tát đă trước hết dùng dục để lôi kéo, dần dần khiến cho nhập Phật đạo.

          V́ thế, thường là các vị đại Bồ Tát tùy hỷ công đức của chúng sanh, thuận theo nguyện của họ, thỏa nguyện cho họ. Qua tùy hỷ, sẽ dần dẫn nhập họ hướng tới Phật đạo. Do vậy, đại nguyện thứ năm của Địa Tạng Bồ Tát cũng là đại nguyện thứ năm của Phổ Hiền Bồ Tát, tức đại nguyện tùy hỷ công đức. Trong tùy hỷ công đức, tôi lại nêu một thí dụ. Tôi ở Ngũ Đài Sơn, có rất nhiều đạo hữu đến Ngũ Đài Sơn cúng Thiên Tăng Trai (千僧齋, dâng cơm cho một ngàn vị Tăng), cũng có người tiền bạc chẳng dư dả, chẳng có tiền. Tỉnh Sơn Tây của chúng ta vốn rất nghèo túng, đặc biệt là như huyện Phồn Tŕ. Các huyện chung quanh Ngũ Đài Sơn như huyện Đại, huyện Phồn Tŕ, nông dân hết sức túng quẫn, há có tiền để cúng Tăng? Ngay cả cuộc sống của chính họ c̣n chẳng có cách nào! Tôi liền khuyên họ: “Khi người ta cúng, quư vị có thể tán thán, tùy hỷ. Quư vị quán tưởng như chính ḿnh đang cúng, tán thán, tùy hỷ công đức, quư vị sẽ được một phần công đức của họ. Tuy quư vị chẳng bỏ ra một đồng, quư vị tán thán, tùy hỷ th́ có được hay không?” Đó gọi là nguyện tán thán, tùy hỷ. Ở đây, khi chúng ta nói tới “tùy hỷ công đức” trong hạnh nguyện Phổ Hiền, đó là tùy hỷ tất cả thiện sự của hết thảy chúng sanh, dẫu chỉ bằng một mảy, một giọt! Chẳng phải là “v́ sao hắn có lắm tiền ngần ấy? V́ sao ta túng quẫn thế này?” Đó gọi là chướng ngại ghen tỵ. Như vậy th́ không chỉ chẳng có công đức, mà c̣n có tội. Do đó, công đức tán thán, tùy hỷ trọng yếu dường ấy, chẳng phải là rất thuận tiện ư? Công đức thuận tiện nhất là tùy hỷ tán thán. Quư vị thấy người khác tu hành, dập đầu lễ bái tại đó, quư vị liền tán thán, tùy hỷ, liền được nửa phần công đức của người ấy. Cho nên công đức tán thán, tùy hỷ chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng chúng sanh th́ ngược lại, thấy người khác có chuyện tốt, bản thân họ chẳng làm, lại gây phiền năo, chướng ngại, phá hoại, phát khởi ác nguyện. Một đằng thiện, một đằng ác, mọi người có thể thấy điều này: “Các đệ tử Phật đều tán thán, tùy hỷ”.

          Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, đối với những điều Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta, quư vị phải tư duy cho nhiều, phải phát nguyện. Đă phát các nguyện ấy th́ quư vị mới có thể sử dụng Chiêm Sát Luân. Từ mỗi nguyện, quư vị hăy ngẫm xem, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo rốt cuộc là Đại Thừa hay Tiểu Thừa? Mỗi bộ kinh, bất luận đức Phật nói bộ kinh nào, cũng đều có Sự và Lư. Sự tùy thuận nhân gian, Lư khác hẳn, Lư luôn tiến hướng Phật đạo. Chẳng hạn như Địa Tạng Bồ Tát hóa vô lượng ức thân, lại c̣n có các thứ cảnh tướng bất đồng để hóa độ chúng sanh. Nhục nhăn của bọn phàm phu chúng ta chẳng trông thấy. Quư vị chỉ phát một nguyện tán thán, tùy hỷ, sẽ được một phần công đức của Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện, quư vị bèn tán thán, tùy hỷ; Văn Thù Bồ Tát phát nguyện, quư vị bèn tán thán, tùy hỷ. Quán Âm Bồ Tát phát nguyện, ta bèn tán thán, tùy hỷ. Đối với tất cả các nguyện của vô lượng chư đại Bồ Tát và mười phương hết thảy chư Phật, quư vị đều tán thán, tùy hỷ, sẽ đạt được khác hẳn! Đó là đại nguyện tùy hỷ. Thấy người khác có đôi chút tốt đẹp, quư vị đều tán thán, tùy hỷ, ngàn vạn phần chớ nên sanh ḷng ghen tỵ, chướng ngại. Đó gọi là tùy hỷ công đức.

 

          (Kinh) Thứ đương phục phát hồi hướng chi nguyện, nguyện ngă sở tu nhất thiết công đức, tư ích nhất thiết chư chúng sanh đẳng đồng thú Phật trí, chí Niết Bàn thành.

          ()次當復發迴向之願。願我所修一切功德。資益一切諸衆生等。同趣佛智。至涅槃城。

          (Kinh: Kế đó, hăy lại nên phát nguyện hồi hướng, nguyện hết thảy công đức do ta đă tu sẽ giúp cho hết thảy các chúng sanh đều cùng tiến nhập Phật trí, đến thành Niết Bàn).

 

          Đồng thời, Địa Tạng Bồ Tát c̣n dạy chúng ta phải phát nguyện hồi hướng. Nguyện hồi hướng chính là đem các chuyện tốt đẹp do chính ḿnh đă làm, lễ bái cũng thế, niệm kinh cũng thế, nghe kinh thính pháp cũng thế, hết thảy các công đức đều hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, đó gọi là “hạ hóa” (hóa độ chúng sanh). Ta chẳng có sức mạnh ǵ, liền đem những ǵ ta đă nghe, đă học, đem các công đức ấy đều hồi hướng cho chúng sanh. “Hướng” là đem các công đức ấy ban cho chúng sanh, chính ḿnh chẳng tham luyến. Chẳng hạn như ở đây mọi người nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo của Địa Tạng Bồ Tát, công đức nghe pháp này thù thắng, thù thắng nhất. Ta đem công đức thù thắng nhất này hồi hướng, gần là toàn thể Đài Loan, nói rộng hơn là toàn thể Đại Lục, lớn hơn nữa là toàn thể thế giới Sa Bà, quư vị có thể tính toán công đức hồi hướng ấy to hay nhỏ cỡ nào hay chăng? Vô lượng công đức! Ta đem công đức ấy giúp đỡ hết thảy chúng sanh, nguyện cho những ai chưa nghe Phật pháp đều có thể nghe Phật pháp, nguyện người đă nghe Phật pháp mà tu hành chẳng đắc lực sẽ đều có thể tu hành thành tựu. Cuối cùng, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật. Chư vị đạo hữu có phát nguyện này hay không? Nếu chẳng phát; sau này, bất luận quư vị làm một mảy, một giọt chuyện tốt lành, hăy đều hồi hướng. Càng hồi hướng càng to lớn, hiệu quả vô cùng! Đến khi quư vị thành Phật, ngẫm lại một phen, sẽ thấy cái nhân thành Phật của quư vị bắt nguồn từ chuyện ấy. Đem tất cả hết thảy thiện nghiệp của chính ḿnh, bản thân ta chẳng tham đắm, đều hướng tới chúng sanh, đem hết thảy công đức do ta đă tu tập đều giúp cho hết thảy chúng sanh, nguyện chúng sanh trong tương lai sẽ đều có thể thành Phật giống như ta, cùng hướng tới Phật trí, đến thành Niết Bàn!

          Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo chúng ta: Quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát nghiệp báo thiện ác ư? Quư vị phải phát các đại nguyện ấy. Sau khi đă phát các đại nguyện ấy, quư vị mới có thể dùng Chiêm Sát Luân. Phước báo ấy lớn hay nhỏ do mỗi cá nhân tu. Chúng ta đừng cho rằng sức của ḿnh chẳng đủ, chúng ta cũng chẳng có của cải, cuộc sống của chính ḿnh cũng rất khó khăn, ta c̣n có sức ǵ để cúng dường chúng sanh, cúng dường Tam Bảo nữa? Thuở đức Phật tại thế, có một câu chuyện như thế này: Thuở đức Phật trụ thế, có một phụ nữ rất nghèo túng, nghẻo tới mức độ nào? Ăn mày, đi xin ăn, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Bỗng một hôm, trên đường bà ta nhặt được một đồng vàng. Khi bà ta nhặt được đồng tiền ấy, liền suy nghĩ: “V́ sao ta bần cùng thế này? Hôm nay, ta nhặt được một đồng vàng, dùng nó để trang trải cuộc sống của chính ḿnh th́ có thể cầm cự mấy tháng”. Bà ta chẳng làm vậy, tự hỏi: “V́ sao ta bần cùng dường ấy? Chính là v́ ta chưa từng bố thí, chẳng tu phước, cho nên ta mới bần cùng”. Do vậy, bà ta tính đem đồng tiền vàng ấy mua dầu [thắp đèn] cúng Phật để vun bồi phước. Đến tiệm dầu mua dầu, quư vị phải cầm theo một cái b́nh hay một cái lọ để đựng. Chủ tiệm hỏi bà: “Bà muốn mua dầu, lấy thứ ǵ để đựng?” Người phụ nữ nghèo nói: “Tôi không có ǵ để đựng”. Chủ tiệm nói: “Không có ǵ để đựng! Tôi đổ dầu vào đâu cho bà đây?” Chủ tiệm bèn hỏi bà ta: “Bà mua dầu để làm ǵ?” Bà ta nói: “Tôi nghèo quá, nhặt được một đồng. Từ quá khứ cho tới hiện thời, tôi chưa từng vun bồi phước đức, nay tôi tính mua dầu cúng Phật”. Chủ tiệm bị bà ta cảm động, nói: “Tôi đưa cho bà một đồ đựng dầu, nhưng một đồng này không đủ mua dầu đổ đầy được”. Ông ta vẫn đổ đầy, nói: “Phần dầu thêm vào cái b́nh này là do tôi cúng dường. Bà cúng dường Phật coi như là tôi cũng có một phần”. Do vậy, người phụ nữ nghèo ấy mang dầu đến tinh xá Kỳ Viên của đức Phật, muốn đổ thêm vào tất cả các đèn dầu cúng Phật, nhưng không được, chỉ đủ để thêm vào một ngọn đèn. Bà ta bèn đổ dầu vào ngọn đèn cúng Phật. Đồng thời, trong ngày hôm đó, quốc vương đương thời là Ba Tư Nặc chở rất nhiều xe dầu đến cúng dường đức Phật, mọi ngọn đèn đều được thêm dầu. Sáng sớm ngày hôm sau, trời đă sáng, phải nên tắt đèn. Ngày hôm đó, vị trực nhật là tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả dập tắt từng ngọn đèn, chỉ có ngọn đèn nhỏ do người phụ nữ nghèo cúng dường th́ ngài Mục Kiền Liên không thể dập tắt được. Ngài Mục Kiền Liên nghĩ “ta không dập tắt ngọn đèn này được”, bèn dùng sức thần thông để dập tắt ngọn đèn. Kết quả là không thể dập tắt, mà quang minh càng thù thắng hơn. Khi đó, đức Phật đi ra, bảo tôn giả Mục Kiền Liên: “Thần thông của A La Hán không thể dập tắt ngọn đèn này được! V́ sao? Bà ta đă dốc cạn sức bố thí”. “Dốc cạn sức bố thí” là như thế nào? Dốc sạch tất cả. Toàn bộ tài sản của bà ta là do nhặt được một đồng tiền, ngoài ra thứ ǵ cũng đều chẳng có, đó gọi là ‘kiệt tận thí’. Kiệt tận thí là thanh tịnh. Bà ta có thể đem tất cả hết thảy những ǵ chính ḿnh có đều cúng dường cho Phật. Đó là kiệt tận thí. Trong tâm của bà ta chỉ có một niệm, niệm ǵ vậy? Cúng dường Phật: “V́ sao phước báo của ta trong quá khứ nghèo túng đến thế? Do chưa từng cúng dường Tam Bảo, nay ta nên cúng dường Phật”.

          Đó chỉ là một câu chuyện xưa. Chúng ta phải hiểu: Khi mọi người cúng dường, chẳng phải là vật chất nhiều hay ít, mà là ǵ? Cái tâm của quư vị. Như chư vị đạo hữu cúng dường hồng bao, quư vị dùng cái tâm ǵ để cúng dường? Dùng ḷng chí thành, khẩn thiết để cung kính cúng dường Tam Bảo, chẳng phân biệt là phàm phu, hay là thánh nhân, hoàn toàn chẳng phân biệt. Đó gọi là tâm thanh tịnh. Cúng Tăng như cúng Phật, chẳng có chút tạp niệm nào, dùng cái tâm thanh tịnh để cúng dường Tam Bảo, phước đức ấy liền to lớn. Hễ có số lượng, có so đo, tính toán, công đức ấy bèn nhỏ nhoi. Cúng dường th́ nhất định phải phát nguyện, phát nguyện xong c̣n phải hồi hướng. Hăy đặc biệt ghi nhớ: Phát nguyện, hồi hướng, bất luận vật chất của quư vị nhiều hay ít, lớn hay nhỏ, trong khi quư vị làm một chuyện tốt, dẫu bản thân sức mạnh ấy nhỏ nhoi, nhưng tâm lực của quư vị to lớn, vật chất bèn biến hóa. Vật chất thuận theo tâm lượng của quư vị. Tâm to lớn, số lượng vật chất sẽ to lớn. Tâm nhỏ, số lượng vật chất sẽ nhỏ. Vua Ba Tư Nặc cúng dường mười vạn ngọn đèn, chẳng bằng một ngọn đèn của người phụ nữ nghèo. Quốc vương không coi trọng, đến cũng chẳng đến, sai đầy tớ đến cúng dường là được rồi. V́ thế, dùng tâm để định lượng!

          Chúng ta tu hành cũng như thế. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, trong khi quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, quư vị dùng cái tâm ǵ để niệm? Vấn đề này hết sức nghiêm trọng, nghiêm trọng đến mức độ nào? Do một niệm tâm của quư vị, quư vị sẽ cúng dường tận hư không khắp pháp giới, tâm quư vị tận hư không khắp pháp giới, cúng dường mười phương chư Phật. Chẳng hạn như chúng ta niệm A Di Đà Phật, thân quư vị vẫn ở trong thế giới Sa Bà, nhưng tâm của quư vị đă đến thế giới Cực Lạc. Không chỉ là đến thế giới Cực Lạc, mà thượng phương Bất Động thế giới, Đông phương Dược Sư Lưu Ly Quang Vương thế giới, tâm của quư vị đều đă tới, vừa tác ư, vừa khởi niệm, quư vị đă cúng dường mười phương chư Phật. Công đức quư vị to tát, hay công đức do một niệm, một sự cúng dường là to tát? Sự cúng dường ấy là ǵ? Pháp cúng dường là tối thắng. Trong hết thảy các thứ cúng dường, pháp cúng dường tối thắng, v́ là tâm cúng dường, chẳng phải là h́nh tướng! Do vậy, trong khi cúng dường, phải đặc biệt chú ư!

 

          (Kinh) Như thị phát hồi hướng nguyện dĩ, phục văng dư tĩnh thất, đoan tọa nhất tâm, nhược xưng tụng, nhược mặc niệm ngă chi danh hiệu, đương giảm tỉnh thùy miên. Nhược hôn cái đa giả, ưng ư đạo tràng thất trung toàn nhiễu tụng niệm.

          ()如是發回向願已。復往餘靜室。端坐一心。若稱誦。若默我之名號。當減省睡眠。若惛蓋多者。應於道場室中旋繞誦

          (Kinh: Phát nguyện hồi hướng như thế rồi, lại vào trong tĩnh thất, ngồi ngay ngắn nhất tâm, hoặc xưng tụng, hoặc thầm niệm danh hiệu của ta, hăy nên giảm bớt ngủ nghê. Nếu là kẻ nhiều hôn trầm, hăy nên đi nhiễu quanh và tụng niệm trong đạo tràng thất).

 

          Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị làm các việc như thế xong, phát nguyện hồi hướng như thế xong, quư vị mới bắt đầu tu hành, bắt đầu bái sám. Chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là để quư vị tu hành. Chính quư vị dựng một căn tĩnh thất, ở trong đó, niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, chiếu theo lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ Tát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để bái sám. V́ thế, trước khi quư vị bái sám, ắt phải phát nguyện, sám hối, lễ bái. Sau khi đă phát nguyện, hồi hướng như thế, tùy theo sức của quư vị lớn hay nhỏ, có thể lập một cái sám thất thanh tịnh. Có sức th́ càng tốt, không có sức th́ lạy trong pḥng ngủ của chính ḿnh cũng được. Nếu có sức, hăy nên lập một gian pḥng sạch sẽ, bày một bàn thờ, thờ tượng Địa Tạng Bồ Tát, một lư hương để thắp hương. Tới khi quư vị dùng cơm th́ trước hết hăy dâng cúng. Quư vị ăn ǵ th́ cúng dường thứ ấy là được rồi!

          Đồng thời, c̣n phải xưng tụng, hoặc là tụng kinh Địa Tạng, hay tụng kinh Chiêm Sát đều được. Nếu kinh bổn cũng chẳng có, vậy th́ niệm danh hiệu của ta cũng được. Thầm niệm danh hiệu của ta, niệm Nam-mô Địa Tạng Bồ Tát. Nhưng Bồ Tát dạy quư vị hăy giảm bớt ngủ nghỉ, chớ nên “hôn cái” (惛蓋, bị hôn trầm che lấp tánh giác). “Cái” [ở đây là nói đến] ngủ nghê, do bị nó che phủ, trí huệ sẽ chẳng hiển lộ, bị nghiệp chướng che trùm. Nhưng đối với chuyện chính ḿnh bị hôn trầm, có đạo hữu nói với tôi: Người ấy chẳng vào sám thất th́ chẳng buồn ngủ tí nào. Hễ vào sám thất, ngồi xuống liền hôn trầm, liền ngủ gật. Người ấy hỏi tôi v́ lư do nào? Tôi nói: “Đó là do nghiệp chướng. Túc nghiệp trong quá khứ của quư vị rất nặng, khiến cho quư vị ngay cả mong bái sám cũng chẳng thể làm!” Lại c̣n như trong phần trước đă nói, ma con, ma cháu của Ba Tuần kéo đến, chúng nó không để cho quư vị tu hành. Quư vị tu hành tốt đẹp, vượt thoát ma giới; ma con và ma cháu của hắn sẽ mất đi một kẻ. Hắn chẳng mong quư vị thành đạo, nên tạo chướng ngại cho quư vị. V́ thế, quư vị ĺa khỏi hết thảy quấy nhiễu, nhất tâm niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Khi niệm, trong tâm quư vị bèn quán tưởng, niệm nào cũng từ tâm khởi, niệm nào cũng chẳng ĺa tâm. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta niệm như thế nào? Phải từ tâm niệm, chẳng phải niệm suông bằng cái miệng, tâm và miệng phải nhất trí! Khi niệm, mỗi niệm đều từ nội tâm phát ra. Niệm nào cũng từ tâm khởi, từng chữ đều rơ ràng, rành mạch. Từ tâm mà khởi niệm, niệm nào cũng từ tâm khởi, niệm nào cũng chẳng ĺa tâm, đó là “tâm niệm”. Niệm niệm liên tục như thế, trong tâm quư vị chẳng có ư niệm thứ hai, một chút tạp nhiễm chẳng có. Nhưng ít ngủ nghỉ, chẳng cần ngủ nghê, ngủ nghê khiến cho trí huệ bị che lấp. Thùy Miên Cái trong NCái, tức tài, sắc, danh vọng, tiếng tăm, ngủ nghê, năm thứ ấy che lấp trí huệ của quư vị. Ngủ nghê là một Cái trong Ngũ Cái, cho nên khi hành Ban Châu tam-muội (Pratyutpanna Samādhi), chẳng cho quư vị ngủ. Pháp môn ấy chính là đi nhiễu quanh trong pḥng. Nếu cảm thấy buồn ngủ quá sức, đừng ngồi xuống, hăy đứng lên đi lại. Đi mà vẫn ngủ, có khi đang đi mà người ấy vẫn ngủ, đó là nghiệp chướng rất nặng. Nghiệp chướng rất nặng th́ phải nên nhất tâm niệm danh hiệu Địa Tạng, giảm thiểu ngủ nghê. Lúc ấy, quư vị ngồi tu Thiền Định, chẳng thể thành công!

          Trước khi bái sám, quư vị vào trong đạo tràng thất, trước tiên hăy vừa kinh hành vừa niệm trong căn pḥng ấy, niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, hoặc là niệm Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Do giảm thiểu, quư vị bỏ bớt chữ Nam-mô, niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng được. V́ sao chỉ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mà có linh cảm? V́ Địa Tạng Bồ Tát đă phát nguyện, chúng ta kết hợp với nguyện của Địa Tạng Bồ Tát. Nguyện lực của Ngài là “hễ có ai niệm danh hiệu của ta, ta nhất định gia tŕ người đó, giúp người đó sớm có ngày tiêu trừ nghiệp chướng”. V́ thế, trong khi quư vị niệm danh hiệu, khi xưng danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, dựa theo cái nguyện của quư vị, bản thân quư vị mong cầu điều ǵ, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất định thỏa nguyện cho quư vị, nhưng tâm quư vị phải niệm sao cho giống với tâm của Địa Tạng Bồ Tát, v́ Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện mong thành thục hết thảy hữu t́nh. Đó là tâm đại bi của Ngài. Nếu quư vị kiền thành, khẩn thiết niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát như vậy, Địa Tạng Bồ Tát sẽ giáng lâm gia tŕ quư vị:

          - Một là do tâm của quư vị và tâm Địa Tạng Bồ Tát nhất trí. Quư vị chẳng có niệm thứ hai, chỉ có một niệm Địa Tạng Bồ Tát, cho nên b́nh đẳng với Địa Tạng Bồ Tát. V́ tâm của quư vị và tâm của Địa Tạng Bồ Tát vốn b́nh đẳng, một đằng là ngộ, một đằng là mê. Quư vị phải chuyển mê thành ngộ. Tâm của quư vị cùng với tánh lư và thể tánh khế hợp, tâm quư vị và tâm Địa Tạng Bồ Tát đă kết hợp khít khao. Địa Tạng Bồ Tát sẽ gia tŕ quư vị.

          - Ư nghĩa thứ hai là chúng sanh trong thế giới Sa Bà này có nhân duyên với sáu mươi hai ức Bồ Tát, nhưng nhân duyên sâu nhất là Quán Thế Âm Bồ Tát, kế đó là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Kinh Địa Tạng có nói nhân duyên của Địa Tạng Vương Bồ Tát c̣n sâu hơn Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong phẩm thứ mười hai, tức phẩm Kiến Văn Lợi Ích của kinh Địa Tạng, đức Phật đă căn dặn Quán Thế Âm Bồ Tát, yêu cầu Quán Thế Âm Bồ Tát hoằng dương kinh Địa Tạng. Thật ra, Quán Âm và Địa Tạng b́nh đẳng, chỉ là nhân duyên sai biệt. Quư vị niệm Địa Tạng Bồ Tát sẽ đắc độ nhanh chóng, hay niệm Quán Thế Âm Bồ Tát đắc độ nhanh chóng, c̣n niệm Bồ Tát khác th́ phải tùy thuộc cái duyên. Quư vị có duyên sâu đậm với vị Bồ Tát nào, niệm vị Bồ Tát ấy sẽ có hiệu quả lớn nhất. V́ thế, chúng ta cầu sức gia tŕ của Bồ Tát, cũng phải xem có duyên hay không.

          Chính quư vị có thể cảm nhận, vô duyên th́ quư vị chẳng gặp gỡ, có gặp th́ quư vị cũng chẳng thể thâm nhập; v́ mối quan hệ có duyên hay không này hết sức to lớn. Có duyên quư vị vừa niệm sẽ có thể thành tựu nhanh chóng. Vô duyên, quư vị vẫn phải kết duyên trước đă. Đă kết duyên th́ mới có thể được gia tŕ. V́ thế, do nhân duyên, quư vị niệm Địa Tạng Bồ Tát, sẽ càng có thể tương ứng hơn!

 

          (Kinh) Thứ chí dạ phần thời, nhược hữu đăng chúc, quang minh sự giả, diệc ưng tam thời cung kính cúng dường, hối quá, phát nguyện. Nhược bất năng biện quang minh sự giả, ưng đương trực tại dư tĩnh thất trung, nhất tâm tụng niệm.

          ()次至夜分時。若有燈燭光明事者。亦應三時恭敬供養悔過發願。若不能辦光明事者。應當直在餘靜室中。一心誦

          (Kinh: Kế đó, vào ban đêm, nếu có các thứ quang minh như đèn, đuốc, cũng nên ba thời cung kính cúng dường, hối lỗi, phát nguyện. Nếu chẳng thể lo liệu ánh sáng, hăy nên ở ngay trong tĩnh thất ấy, nhất tâm tụng niệm).

 

          Đồng thời, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị niệm danh hiệu của ta cho đến đêm. Kế đó, vào lúc ban đêm, nếu có sức [lo toan], có đèn đuốc, có ánh sáng, quư vị hăy nên cung kính sám hối, phát nguyện. Nếu chẳng có sức, rất nghèo túng, chẳng thể sắp đặt đèn sáng, không thắp nổi đèn. Trong quá khứ là đèn dầu, hoặc là đèn điện [như trong hiện thời], đều phải tốn tiền. Thắp đèn suốt đêm sẽ tốn tiền! Tùy theo khả năng của quư vị, nhưng quư vị cúng dường, hối lỗi, phát nguyện vĩnh viễn chẳng thể ngưng dứt, phải thường xuyên thực hiện. Nếu quư vị có sức lo liệu đèn đuốc, ban đêm quư vị phải vào tĩnh thất, vẫn phải tụng niệm. Nhưng do chẳng thể nào không ngủ, quư vị phải cân nhắc thời gian của chính ḿnh, tùy thuộc sức của chính ḿnh để trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ tận hết sức tŕ niệm danh hiệu. Nhưng thông thường, chẳng hạn như người xuất gia bọn tôi ở trong thường trụ chẳng có sức mạnh ấy, mà cũng chẳng có nhân duyên, quư vị làm như thế nào? Quư vị tâm niệm, chẳng thương tổn người khác, chẳng quấy nhiễu kẻ khác. Chẳng hạn như khi chúng ta cùng đại chúng tụng niệm công khóa nơi chánh điện, hoặc là quá đường (thọ trai), trong tâm quư vị thầm niệm Địa Tạng Bồ Tát, ai biết? Cũng chẳng có ai quấy nhiễu quư vị! Chẳng hạn như khi chúng ta có lúc phải theo đại chúng, hoặc khi quư vị đi làm, quư vị có thể niệm Địa Tạng Bồ Tát hay không? Quư vị có thể niệm thầm trong tâm, ai cũng chẳng biết cái tâm của quư vị được! Sự tu hành của mỗi cá nhân tùy thuộc quư vị sử dụng cái tâm như thế nào?            

          Trong đầu của chúng ta có rất nhiều chuyện, chư vị đều có thể cảm nhận được, thoáng chốc, óc ḿnh tưởng cái này, nghĩ cái kia. Trong khi quư vị làm việc, năo bộ cũng suy nghĩ rất nhiều chuyện. Trong khi quư vị làm việc nhà, chẳng biết trong óc đă khởi lên bao nhiêu ư niệm, rong ruổi rất nhiều nơi. Quư vị có thể dùng chuyện niệm Địa Tạng Bồ Tát làm một tuyến [suy nghĩ], suốt ngày vĩnh viễn niệm Địa Tạng Bồ Tát. Khi ăn cơm cũng niệm, mặc quần áo cũng niệm, làm việc cũng niệm, lâu ngày trở thành tự nhiên. Đó gọi là phương tiện thiện xảo. Như hiện thời thân thể chúng ta chẳng khoẻ mạnh như thế, chẳng thể kiên tŕ được. Đặc biệt là người có Thùy Miên Cái nặng nề, quư vị liền nhờ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát để chuyển biến nghiệp chướng Thùy Miên Cái. Thoạt đầu, tuần lễ thứ nhất, hoặc trong tuần lễ thứ hai, quư vị vẫn buồn ngủ rất nhiều. Chờ tới khi quư vị dụng công ba tuần, bốn tuần, cho đến năm tuần trở lên, nghiệp chướng dần dần tiêu mất, chẳng ngủ nhiều như thế, công lực của quư vị bèn tăng cường. Thoạt đầu, quư vị chỉ có thể niệm bốn năm tiếng đồng hồ. Sau mấy tuần lễ, quư vị có thể niệm tới tám, chín tiếng đồng hồ. Công phu của quư vị đạt tới mức độ nhất định, một ngày quư vị có thể niệm hơn mười mấy tiếng đồng hồ. Thời gian niệm càng nhiều, phiền năo trong tâm càng nhẹ bớt. Phiền năo chướng nhẹ nhàng, sức mạnh dụng công của quư vị càng gia tăng. Khi đó, công lực của quư vị tăng cường, một ngày quư vị có thể niệm thánh hiệu từ ba vạn câu trở lên. Quư vị niệm một hai tuần, sẽ đạt được cảm ứng, cảm thấy trong tâm hết sức vui sướng. Đó gọi là “gia tŕ”. Có lẽ quư vị cũng sẽ thấy thánh tượng, hoặc Địa Tạng Bồ Tát sẽ hiện tướng. Cũng có thể là trong giấc mộng, sẽ mộng thấy Địa Tạng Bồ Tát. Thậm chí, ở trong mộng c̣n trở dậy bái sám. Đă tỉnh mộng, quư vị có thể vận dụng [sự tu tập] trong khi tỉnh và mộng y hệt nhau, cho thấy quư vị đă có công phu đạt đến mức độ nhất định, chứng tỏ phiền năo hiện hành đă giảm khinh; nhưng quư vị chớ nên thỏa măn. Trong thời gian ấy, phải đặc biệt chú ư: Chớ nên sanh tâm kiêu ngạo chút nào! Hễ nẩy sanh tâm kiêu ngạo, sẽ lui sụt, bị lui sụt lập tức.

          Do vậy, nếu là người muốn tu Địa Tạng Sám Pháp, quư vị phải hạ quyết tâm. Trước hết, đừng tự ấn định quá nhiều. Ấn định quá nhiều, sẽ gặp khó khăn! Trước hết, hăy nên ấn định bảy ngày, mười bốn ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, tùy theo công lực của chính ḿnh. Hoặc là trước hết ấn định mười ngày, sau đó lại tăng thêm. Chờ cho tới khi quư vị hành tŕ đă lâu, công phu vận dụng thành công, quư vị vừa tác ư niệm Địa Tạng Bồ Tát, quấy nhiễu ǵ cũng đều chẳng thể gián đoạn quư vị, bèn có hiệu quả: Nghiệp chướng cũng đă tiêu mất, hoàn cảnh cũng chuyển biến thuận lợi. Chuyện dụng công này cá nhân quư vị biết, “ai ăn nấy no” là ư nghĩa này. Cho đến khi quư vị dụng công tới một mức nhất định, quư vị sẽ nẩy sanh kinh nghiệm. Khi đó, quư vị đă có trí huệ. Trí huệ của quư vị lại hướng dẫn chính ḿnh, quư vị mong dùng trí huệ lợi ích người khác, nhưng khi đó, quư vị vẫn chưa làm được, bèn tạo lợi ích cho chính ḿnh trước đă.

          Pháp môn này của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo rất thuận tiện, v́ sao chẳng được hoằng dương, mà cũng chẳng phổ biến tại Trung Hoa? Thứ nhất là v́ chúng ta chẳng tin, có gặp cũng không tin tưởng! Căn bản là chẳng gặp được, như kinh Hoa Nghiêm đă dạy: “Thí như ám thất bảo, vô đăng bất năng liễu. Phật pháp vô nhân thuyết, tuy huệ bất năng liễu” (Như báu trong nhà tối, không đèn chẳng thể , Phật pháp không ai nói, dẫu trí huệ chẳng hiểu). Phật pháp là phương pháp giác ngộ, nhưng chẳng có ai giải thích cho quư vị. Quư vị chẳng biết nhập môn phương pháp giác ngộ ấy bằng cách nào th́ vẫn chẳng thể nhập. Khi mới thực hiện, vẫn chẳng thể vừa học liền thông đạt, vẫn chưa được! Đợi cho tới khi quư vị sử dụng đắc lực, đạt được lợi ích, đạt được điều tốt đẹp của nó, quư vị sẽ thông suốt. V́ sao có các đạo hữu vừa nghe pháp liền khai ngộ? Chúng ta thấy tổ sư thường là vừa nghe bèn khai ngộ, [thật ra, các Ngài] chẳng phải chỉ tu trong đời hiện tại, mà là do đă tu nhiều đời nhiều kiếp. Mọi người đều biết Lục Tổ đại sư, Ngài là một gă bán củi, nghe người khác ở trên lầu niệm kinh Kim Cang. Người niệm kinh ấy vẫn chẳng khai ngộ, Ngài ở dưới này vừa nghe như thế đă khai ngộ. Quư vị lư giải như thế nào? Do thiện căn trong quá khứ của Ngài đă đến lúc thành thục! Do vậy, chúng ta tu pháp môn sám hối Địa Tạng, quư vị phải nên biết làm như thế nào! Nay chúng tôi giảng nghi thức, nếu quư vị muốn tu, trước hết, phải hiểu nghi quỹ. Những điều trên đây nhằm dạy cho quư vị biết: Muốn tu pháp môn này, phải hiểu nghi thức, chiếu theo đó để làm như vậy.

 

          (Kinh) Nhật nhật như thị hành sám hối pháp, vật linh giải phế. Nhược nhân túc thế, viễn hữu thiện cơ, tạm thời ngộ ác nhân duyên, nhi tạo ác pháp, tội chướng khinh vi, kỳ tâm mănh lợi, ư lực cường giả, kinh thất nhật hậu, tức đắc thanh tịnh, trừ chư chướng ngại. Như thị chúng sanh đẳng, nghiệp hữu hậu bạc, chư căn lợi độn, sai biệt vô lượng, hoặc kinh nhị thất nhật hậu, nhi đắc thanh tịnh, hoặc kinh tam thất nhật, năi chí hoặc kinh thất thất nhật hậu, nhi đắc thanh tịnh. Nhược quá khứ, hiện tại câu hữu tăng thượng chủng chủng trọng tội giả, hoặc kinh bách nhật nhi đắc thanh tịnh. Hoặc kinh nhị bách nhật, năi chí hoặc kinh thiên nhật nhi đắc thanh tịnh. Nhược cực độn căn, tội chướng tối trọng giả, đản đương năng phát dũng mănh chi tâm, bất cố tích thân mạng tưởng, thường cần xưng niệm, trú dạ toàn nhiễu, giảm tỉnh thùy miên, lễ sám phát nguyện, lạc tu cúng dường, bất giải, bất phế, năi chí thất mạng, yếu bất hưu tức. Như thị tinh tấn, ư thiên nhật trung, tất hoạch thanh tịnh.

          ()日日如是行懺悔法。勿令懈廢。若人宿世遠有善基。暫時遇惡因緣而造惡法。罪障輕微。其心猛利。意力強者。經七日後即得清淨。除諸障礙。如是衆生等。業有厚薄諸根利鈍差別無量。或經二七日後而得清淨。或經三七日乃至或經七七日後而得清淨。若過去現在俱有增上種種重罪者。或經百日而得清淨。或經二百日乃至或經千日而得清淨。若極鈍根罪障最重者。但當能發勇猛之心。不顧惜身命想。常勤稱念。晝夜旋繞。減省睡眠。禮懺發願。樂修供養。不懈不廢。乃至失命要不休退。如是精進。於千日中必獲清淨。

          (Kinh: Hằng ngày hành pháp sám hối như thế, đừng lười nhác, buông bỏ. Nếu là người đời trước đă có nền tảng tốt lành lâu xa, do tạm thời gặp ác nhân duyên mà tạo ác pháp, tội chướng nhẹ ít, cái tâm dũng mănh, nhạy bén, ư lực mạnh mẽ, sau bảy ngày sẽ liền được thanh tịnh, trừ các chướng ngại. Các chúng sanh như thế, nghiệp có dày, mỏng, các căn lợi độn sai khác vô lượng, hoặc là qua mười bốn ngày bèn được thanh tịnh, hoặc là qua hai mươi mốt ngày sau, cho đến hoặc tới bốn mươi chín ngày sau bèn được thanh tịnh. Nếu quá khứ và hiện tại đều có các thứ trọng tội tăng thượng, hoặc trải qua một trăm ngày bèn được thanh tịnh, hoặc trải qua hai trăm ngày, cho đến một ngàn ngày bèn được thanh tịnh. Nếu là kẻ cực độn căn, tội chướng nặng nhất, chỉ nên phát tâm dũng mănh, chẳng có ư tưởng đoái tiếc thân mạng, thường siêng xưng niệm, ngày đêm đi kinh hành, giảm bớt ngủ nghê, lễ sám, phát nguyện, vui vẻ tu cúng dường, chẳng lười nhác, chẳng buông bỏ, cho đến chẳng mất mạng sẽ chẳng nghỉ ngơi. Tinh tấn như thế, trong một ngàn ngày, ắt đạt được thanh tịnh).

 

          Hằng ngày hành pháp sám hối như thế, hằng ngày đều dựa theo sự giáo huấn của Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài dạy sám hối. Sám hối từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng phải là một, hai chuyện sai lầm nào! Có khi chúng ta làm chuyện sai trái mà chính ḿnh vẫn chẳng biết. Chuyện sai trái từ vô lượng kiếp đến nay, sao quư vị biết nổi? Quư vị chỉ nên sám hối. Ngàn vạn phần đừng nên giải đăi, chớ biếng trễ, buông bỏ. Chẳng hạn như chúng ta bái sám, tôi lấy cá nhân tôi làm thí dụ. Năm 1936-1937, thỉnh pháp sư Hoằng Nhất đến chùa Trạm Sơn, tôi thỉnh Ngài nói Chiêm Sát Sám Pháp. Sau khi tiễn Ngài đi, tôi cũng học đ̣i bế quan tu hành. Khi sắp có chút hơi ấm[10], Thanh Đảo bị quân Nhật chiếm đóng. Người Nhật chiếm lănh Thanh Đảo, tôi chẳng học được nữa! Từ đó đă gián đoạn bao nhiêu năm? Gần hai mươi năm! Sau hai mươi năm, lại ngồi tù ba mươi ba năm, vừa gián đoạn liền gián đoạn hơn năm mươi năm! Ngay cả kinh bổn cũng chẳng được rờ đến, hoàn toàn đoạn tuyệt! Trước kia tu c̣n cảm thấy chút hơi ấm, nay hơi ấm chẳng c̣n, biến thành mùa Đông trong núi! Mùa Đông trong núi chẳng có hơi ấm, tợ hồ chẳng có chút hơi nóng nào, mà cũng chẳng nghe, cũng chẳng thấy. Cách đây vài chục năm, tới nước Mỹ, do đạo hữu mời tôi nói về nhân duyên trong quá khứ, họ mới mời tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Chuyện ấy đă cách bao nhiêu năm? Giảng ở Nữu Ước xong, lại cách mười năm, tới chùa Phổ Thọ, họ thỉnh tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đó là năm một ngàn chín mươi mấy. Nay lại sau mười năm, [mới giảng kinh này lần nữa]. Hết thảy các pháp đều chẳng phải do ư nguyện của chính ḿnh! Quư vị mong tu học ḥng thoát khỏi nghiệp chướng, nhưng do ma chướng mà chẳng thể tiếp nối. Chẳng thể tiếp nối là v́ nghiệp chướng.

          Các vị đạo hữu sau khi nghe pháp, v́ sao chẳng thể giải thoát? Thuở đức Phật tại thế, hễ [người nào được] nghe pháp, sẽ đều giải thoát, thành đạo. Tôi từng nghĩ dông dài về vấn đề này. Tôi từ lúc xuất gia cho đến hiện thời, tính tới năm nay đă là tám mươi năm, coi như thời gian rất dài, nhưng trong khoảng ấy, nghiệp chướng phát hiện, rất nhiều nghiệp chướng ngăn trở quư vị. Chúng ta nghĩ như thế nào? Các đạo hữu chúng ta ai nấy đều mong thành Phật, nhưng chẳng phải là quư vị muốn làm liền đạt được! Trong ấy, có rất nhiều chướng ngại; do vậy, trước hết quư vị phải sám trừ nghiệp chướng. Nếu chúng ta tính lái xe trên đường mà trên xe có nhiều chướng ngại, quư vị có thể lái nổi hay không? Quư vị phải trừ bỏ chướng ngại, th́ mới có thể lái nổi! C̣n có một câu tực ngữ: “Vị thành Phật quả, tiên kết nhân duyên” (chưa thành Phật quả th́ kết duyên với người khác trước đă). Nếu quư vị muốn tu đạo thành Phật, trước hết, phải sám hối nghiệp chướng. Điều chủ yếu nhất là sám hối nghiệp chướng. Tiếp đó, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị hằng ngày đều hành pháp sám hối như thế, mỗi ngày đều sám hối như thế, đừng lười nhác, bỏ phế. Nếu quư vị lười nhác, bỏ phế, chứng tỏ là trong quá khứ không có thiện căn. Nếu chẳng lười nhác, bỏ phế, có được nhân duyên tu hành tốt đẹp này, phước báo của quư vị lớn nhất! Nói đến phước báo, th́ quư vị tu hành chẳng bị chướng ngại chính là phước báo lớn nhất. Chẳng phải là phát tài, chẳng phải là danh lợi trong thế gian, mà là trong khi quư vị tu hành, do thiện căn trong quá khứ rất sâu dày, tín niệm Tam Bảo chẳng ngưng dứt, quư vị sẽ chứng đắc rất dễ dàng. Nhưng trong khoảng giữa, do gặp ác nhân duyên, ác pháp ác nhân duyên là tội, tội chướng của quư vị phát hiện. Nếu nhẹ ít th́ quư vị có thể khắc phục, nếu mạnh mẽ th́ quư vị sẽ chẳng thể khắc phục nổi! Lại c̣n có một loại cộng nghiệp, cộng nghiệp sẽ chẳng thể khắc phục được. Chẳng phải là một hai người, mà là toàn bộ một vùng, toàn bộ đất nước, quư vị có thể khắc phục nổi hay chăng? Do đó, sẽ khiến cho đạo nghiệp của quư vị khó thành tựu. Nếu có thể ban một nhân duyên rất tốt đẹp cho quư vị, quư vị có thể dùng bái sám để chiêm sát tướng trạng, Địa Tạng Bồ Tát nói bảy ngày linh ứng, luân tướng của quư vị sẽ đạt được tướng thanh tịnh.

          Bản thân tôi cảm thấy nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng, bảy ngày chẳng được th́ mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày. Nếu quư vị muốn tiếp tục tu, nhưng chẳng có cơ hội, đó là đại nạn. Khi Nhật Bản xâm lược Trung Hoa, đó chẳng phải là [nghiệp riêng của] một hai người, mà là đại nạn. Nó gây chướng nạn khiến cho quư vị không có sức mạnh nào để diệt trừ. Nếu quư vị có sức diệt trừ các chướng nạn ấy, có thể tu hành như thế, phải cậy vào phước báo th́ mới có thể tu hành trong tĩnh thất. Giống như các vị đạo hữu chúng ta, bất luận quư vị niệm Phật cũng thế, mà tu pháp môn khác cũng thế, như các đạo hữu ở Đài Loan thiện căn đều rất sâu dày, chướng duyên chẳng nhiều ngần ấy, nhưng chính ḿnh gây chướng ngại cho ḿnh, có chịu tu hay không? Nghe pháp th́ đă nghe pháp rất nhiều, có chịu làm hay không? Chẳng làm, quư vị sẽ chẳng đạt được! Thiện căn th́ có độn căn, sai khác đặc biệt to lớn. Như bảy ngày đạt được thanh tịnh, đạt được thanh tịnh hoàn toàn chẳng phải là đă thành đạo, mà là đă đạt được luân tướng thanh tịnh. Sau đó, quư vị tu tập, sẽ thành đạo hết sức mau chóng, chẳng có nghiệp chướng. Chúng ta thường nói nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng, thậm chí đối với giảng kinh cũng đều có nghiệp chướng. Quư vị đă muốn đến nghe kinh, đi được nửa đường bèn xảy ra chướng ngại, quư vị chẳng thể nghe được! Chuyện này quư vị có nghĩ tới hay không? Quư vị chẳng thể nghĩ tới, chẳng biết từ đâu mà nẩy sanh, cho nên gọi là nghiệp chướng.

          Quư vị đă tạo nghiệp, túc nghiệp phát hiện sẽ chẳng nhất định. Có người bảy ngày sẽ đạt được thanh tịnh, có người hai mươi mốt ngày thanh tịnh, có người bốn mươi chín ngày sẽ đạt được thanh tịnh, có người một năm, hai năm, ba năm. Nhưng Địa Tạng Bồ Tát bảo chúng ta: Nếu quư vị tu hành ba năm, sẽ tuyệt đối thanh tịnh. Nhưng trong ba năm ấy c̣n có các chướng ngại khác, hoặc là v́ quá khứ hay là v́ hiện tại, hoặc vị lai, quư vị vẫn phạm đủ thứ trọng tội, sẽ chẳng đạt được thanh tịnh, phải nói theo tùy t́nh huống. Quư vị lễ Chiêm Sát Sám đủ bảy ngày, tu bảy ngày sẽ đạt được luân tướng thanh tịnh. Đó là nghiệp chướng cực nhẹ ít. Hoặc là trải qua một trăm ngày bèn đạt được luân tướng thanh tịnh, hoặc là hai trăm ngày, hoặc trải qua một ngàn ngày, tức là thời gian ba năm. Có người căn cơ quá độn, tội nghiệp rất nặng, nhưng quư vị phải phát tâm dũng mănh, chẳng đoái tiếc thân mạng, xả bỏ thân mạng hiện tại để đổi lấy Pháp Thân tánh mạng.

          Nghiệp chướng nặng th́ làm như thế nào? Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị phải nên thường siêng năng xưng niệm, đừng giải đăi, hăy thường xuyên xưng niệm danh hiệu của ta. Bất luận ngày hay đêm đều đi nhiễu (kinh hành), đi nhiễu là đi kinh hành quanh sám thất của quư vị. Ngồi xuống sẽ buồn ngủ, vậy th́ quư vị đi lại. Trước kia, ngủ mười tiếng mới tỉnh, hăy giảm bớt xuống tám tiếng, hoặc giảm xuống sáu tiếng, hoặc lại giảm thêm đến ba bốn tiếng, làm như vậy để sám hối. Lễ sám phát nguyện, càng tu tập càng sanh tâm hoan hỷ, vui sướng, càng tu càng vui sướng th́ gọi là “lạc tu”. Sau đấy, c̣n phải cúng dường, bốn chữ này phải liên kết với nhau, tức “lạc tu cúng dường”. Hết sức vui sướng cúng dường Tam Bảo. Chẳng giải đăi, chẳng buông bỏ như thế, cho đến mất mạng cũng chẳng lui sụt. Nếu tinh tấn như thế đó, một ngàn ngày ắt đạt được thanh tịnh. Địa Tạng Bồ Tát nói thời gian dài nhất là một ngàn ngày, quư vị nhất định được thanh tịnh.

          Nghi thức này nhằm dạy chúng ta, mục đích cuối cùng là đạt tới ba nghiệp thanh tịnh. Quư vị cầu sanh thế giới Cực Lạc như vậy, chắc chắn văng sanh. Sanh th́ quyết định sanh, v́ sao? Đi th́ thật sự chẳng đi. Đức Phật nói sanh về thế giới Cực Lạc chẳng sai, quyết định có thể sanh, nhưng đi th́ chẳng đi, chẳng đi là do người ấy chẳng mong sanh. Tôi nói câu này có mâu thuẫn hay không? Chẳng mâu thuẫn tí nào! “Sanh th́ quyết định sanh” là quư vị đă làm sự nghiệp để văng sanh, điều đó khiến cho quư vị có thể quyết định sanh. Quư vị chẳng làm chuyện sanh về thế giới Cực Lạc, mà toàn làm chuyện thuộc thế giới Sa Bà, làm sao có thể sanh về thế giới Cực Lạc cho được? Chẳng thể nào! Tôi thấy rất nhiều đạo hữu, “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, niệm A Di Đà Phật khá lắm, nhưng trong tâm nghĩ ǵ, chỉ có chính kẻ đó mới biết! Có rất nhiều người miệng niệm A Di Đà, tâm tưởng thế giới Sa Bà trong hiện tại, làm chuyện thuộc thế giới Sa Bà, [như thế th́] chẳng thể văng sanh được. Tuyệt đối chẳng thể văng sanh được!

          Chúng ta dùng Chiêm Sát Luân Tướng sẽ khác hẳn, khác biệt như thế nào? Nó cho quư vị biết, quư vị chẳng thanh tịnh được. Nay quư vị vẫn làm ác, thanh tịnh bằng cách nào đây? Luân tướng biến đổi hằng ngày. Hiện tại, ở Ngũ Đài Sơn, tôi có đệ tử bế quan tu hành, hỏi tôi: “Thưa sư phụ! Luân tướng của con đều đỏ, đă thanh tịnh. Sau hai tháng, tại sao lại bỗng dưng trở thành đen!” Tôi nói: “Ông hỏi tôi, tôi phải hỏi ngược lại ông. Trong tâm ông nay đang nghĩ cái ǵ? Tướng từ tâm sanh. Tâm ông nghĩ ǵ, luân tướng bèn lập tức hiện ra. Tâm ông nghĩ tới chỗ khác, thân ông vẫn đang lễ bái, tụng niệm tại đây, nhưng tâm chẳng để vào đó, luân tướng lập tức biến hiện”. Mỗi vị đạo hữu chúng ta phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, quư vị có thể kiểm điểm chính ḿnh, cái tâm của quư vị đă biến hóa rất lớn. Từ sáng sớm đến tối, trong thời gian ngắn ngủi ấy, người khác chẳng biết, chứ quư vị chẳng thể dối gạt chính ḿnh được. Quư vị phải thật thà kiểm điểm cái tâm của chính ḿnh! Giả sử quư vị chẳng thoái thất, tinh tấn bất thoái, chẳng giải đăi, chẳng vứt bỏ, trong một ngàn ngày, sẽ tuyệt đối thanh tịnh. Địa Tạng Vương Bồ Tát răn dạy chúng ta như thế đó! Trong bốn mươi chín ngày, quư vị có thể đạt được thanh tịnh. Hoặc là hai trăm ngày, hoặc trải qua một ngàn ngày. Quư vị là căn tánh cực độn, cực ngốc, tội chướng rất nặng, nhưng chỉ cần quư vị tu như vậy, phát tâm dũng mănh, ngay cả thân mạng cũng chẳng đoái hoài, sau một ngàn ngày, sẽ tuyệt đối thanh tịnh. Hy vọng mọi người đều tuyệt đối thanh tịnh.       

          Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 2 hết

 

 

 

 

 



[1] “Bàng trịch” (傍擲) được giải thích là cầm luân tướng gần với vật thanh tịnh, như khăn sạch, vải sạch rồi gieo luân tướng xuống đó.

[2] Độc đầu ư thức (獨頭意識): Theo Tướng Tông, thức thứ sáu chia thành bốn loại minh liễu (tức thức nhận biết khi căn tiếp xúc trần), định trung (ư thức ở trong định), mộng trung (ư thức trong giấc mộng) và độc tán (ư thức khởi lên độc lập). Ba loại sau do chẳng liên quan với năm thức trước (nhăn thức, nhĩ thức…), nên được gọi chung là Độc Đầu Ư Thức.

[3] Sám thất (懺室) căn pḥng, hoặc gian nhà dành riêng để lễ bái sám hối.

[4] Do câu này dễ hiểu lầm, nên chúng tôi xin giải thích rườm rà như sau: Trong chánh văn, không nói là chữ viết trên loại luân tướng thứ nhất là đỏ hay đen. Do thuận tiện cho hành nhân, ngài Hoằng Nhất dùng màu đỏ để chỉ thiện nghiệp, màu đen chỉ ác nghiệp. Lời giảng của ḥa thượng Mộng Tham chỉ nhằm nói rơ: Sau khi đă sám hối thanh tịnh cho nghiệp hiện tại sau bốn tuần, đă gieo được thuần thiện th́ khi gieo luân tướng sau đó, sẽ có thể chẳng thấy thuần là đỏ nữa, mà lại xuất hiện màu đen, như trong các câu kế tiếp, ḥa thượng đă giải thích, khi hiện nghiệp (nghiệp trong hiện tại) đă sám hối thanh tịnh, ác nghiệp trong đời trước sẽ hiển hiện, cho nên lại thấy màu đen hiện ra. Ngài diễn tả chuyện này bằng cách nói “luân tướng thanh tịnh lại chẳng phải là thanh tịnh”.

[5] Theo từ điển trực tuyến Baidu, Phù-đồ vốn là cách phiên âm khác của chữ Buddha. Tháp thờ Phật được gọi là “Phù-đồ tháp”, nhưng qua thời gian, chữ “tháp” bị rớt mất, người ta đồng hóa Phù-đồ với ư nghĩa “tháp thờ”.

[6] Thanh Đảo là một thành phố thuộc tỉnh Sơn Đông, nằm trên phía Nam bán đảo Giao Đông.

[7] Nguyên văn “thất thất sự biến”, c̣n gọi là “Lư Câu Kiều sự biến”, thường gọi là Marco Polo Bridge Incident trong các sách lịch sử của phương Tây. Đây là cuộc xung đột giữa quân Nhật và chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 7 tháng 7 năm 1937. Để kiếm cớ gây chiến ḥng chiếm đóng miền Bắc Trung Hoa, quân Nhật đă khiêu khích, đ̣i lục soát thành Uyển B́nh v́ một binh nh́ người Nhật bị mất tích khi họ tập trận tại đó. Dù sau đó, người lính ấy đă trở về đội ngũ, người Nhật vẫn tiếp tục khiêu khích, và đôi bên chạm súng tại Lư Câu Kiều, mở ra cuộc chiến Trung Nhật lần thứ hai.

[8] Mỗi đời sẽ đều có quá khứ, hiện tại, và vị lai của nó, nên ba nhân với ba thành chín, cộng thêm căn bản vô minh hiện tiền, gọi chung là mười đời.

[9] Theo kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Bồ Tát và Quán Hư Không Tạng Bồ Tát, ba ngàn vị Phật trong ba kiếp (Trang Nghiêm, Hiền, và Tinh Tú) là những vị do nghe danh hiệu của năm mươi ba vị Phật này bèn thọ tŕ, liền vượt thoát tội trong vô số kiếp sanh tử. Do vậy, nghi thức Hồng Danh Bảo Sám đă dùng danh hiệu các vị Phật này để lạy sám hối v́ các Ngài có nguyện diệt trừ các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác cho chúng sanh. Đó chính là các vị Phổ Quang, Phổ Minh, Phổ Tịnh, Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương, Chiên Đàn Quang… cho đến Vô Lượng Âm Thanh Vương, Tài Quang, Kim Hải Quang, Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương, Đại Thông Quang, Nhất Thiết Pháp Tràng Măn Vương Phật.

[10] Tức là có đôi chút cảm ứng.