Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
4
大方等大集賢護經講記
慈法法師主講
Chủ giảng:
Pháp sư Từ Pháp
Địa điểm:
Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam
Thời gian: Từ
ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như thế gian, nhược nam, nhược nữ,
ư thụy mộng trung, kiến chủng chủng sự.
Sở vị kim, ngân chúng bảo, trân tài, thương khố,
hoặc kiến bằng hữu, chư tri thức bối,
hoặc kiến giác thời, tâm bất lạc giả. Thị
nhân mộng trung, sở đối
cảnh giới, hoặc vi, hoặc thuận, hoặc
ưu, hoặc hỷ. Hữu thời ngữ ngôn, hoan hân Cực
Lạc. Hữu thời thảm thích, tận ư bi ai. Thị
nhân ngụ dĩ, tư duy ức niệm, như mộng sở
kiến, vị tha quảng tuyên, truy niệm mộng trung,
tiện sanh ưu hỷ. Như thị Hiền Hộ! Bỉ
thiện nam tử, thiện nữ nhân, đoan tọa hệ
niệm, chuyên tâm tưởng bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác, như thị tướng hảo,
như thị oai nghi, như thị đại chúng, như
thị thuyết pháp.
(經)復次。賢護。譬如世間若男若女。於睡夢中見種種事。所謂金銀衆寶珍財倉庫。或見朋友諸知識輩。或見覺時心不樂者。是人夢中所對境界。或違或順。或憂或喜。有時語言。歡欣極樂。有時慘慼。盡意悲哀。是人寤已。思惟憶念。如夢所見。爲他廣宣。追念夢中。便生憂喜。如是賢護。彼善男子善女人。端坐繫念。專心想彼阿彌陀如來應供等正覺。如是相好。如是威儀。如是大衆。如是說法。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Ví như trong thế gian, dù nam hay nữ,
trong khi mơ ngủ, thấy đủ mọi chuyện,
như là vàng, bạc, các thứ báu, của cải quư báu,
kho lẫm, hoặc thấy
bạn bè, những kẻ quen biết, hoặc khi gặp họ
trong lúc tỉnh thức, tâm chẳng vui vẻ, th́ người
ấy trong mộng đối với cảnh giới, hoặc
trái nghịch, hoặc thuận theo, hoặc lo, hoặc mừng.
Có lúc nói năng, vui thích tột bậc. Có lúc buồn thảm,
tột bậc bi ai. Người ấy thức giấc, suy
nghĩ, nhớ lại những ǵ đă thấy trong mộng,
nói cặn kẽ với người khác, tưởng nhớ
chuyện trong mộng, bèn sanh buồn, vui. Này Hiền Hộ!
Như thế đó, thiện nam tử, thiện nữ nhân
ấy ngồi ngay ngắn, chăm chú, chuyên tâm tưởng
A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, tướng
hảo như thế, oai nghi như thế, đại chúng
như thế, thuyết pháp như thế).
Đoạn văn tự này
mười phần rơ ràng, xác đáng, dùng giấc mộng
làm tỷ dụ để nói. Trong mộng, dù vui hay buồn,
dù thuận duyên hay nghịch duyên, sau khi tỉnh giấc, lúc
kể nói, sẽ sanh ḷng vui hay buồn. Lúc nói tới duyên
gây buồn, bèn sanh ḷng buồn. Lúc nói tới duyên gây vui vẻ,
bèn sanh ḷng hoan hỷ. Quán Phật cũng giống như thế.
(Kinh)
Như văn hệ niệm, nhất tâm tương tục,
thứ đệ bất loạn, hoặc kinh nhất nhật,
hoặc phục nhất dạ. Như thị hoặc chí thất
nhật, thất dạ, như tiên sở văn, cụ túc
niệm cố. Thị nhân tất đổ A Di Đà
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác dă. Nhược
ư trú thời, bất năng kiến giả, nhược
ư dạ phần, hoặc thụy mộng trung, A Di
Đà Phật tất đương hiện dă.
(經)如聞繫念。一心相續。次第不亂。或經一日。或復一夜。如是或至七日七夜。如先所聞。具足念故。是人必睹阿彌陀如來應供等正覺也。若於晝時不能見者。若於夜分或睡夢中。阿彌陀佛必當現也。
(Kinh:
Hệ niệm đúng như những ǵ đă được
nghe, nhất tâm tiếp nối, theo thứ tự chẳng
loạn, hoặc trải qua một ngày, hoặc là một
đêm. Như thế cho đến bảy ngày, bảy
đêm, đúng như đă nghe từ trước, do niệm
đầy đủ, người ấy ắt thấy A
Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nếu
vào lúc ban ngày chẳng thể thấy, th́ hoặc là trong ban
đêm, hoặc khi nằm mộng, A Di Đà Phật ắt
sẽ hiện ra).
“Thứ
đệ bất loạn” là liên tục chẳng
loạn, tư duy theo thứ tự, hoặc là liên tục
nhất tâm. Lời dạy “thứ đệ bất loạn”
mười phần quan trọng. Trong pháp môn Tịnh Độ,
như kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ
do pháp sư Huyền Trang dịch. Đó là bản kinh “trực dịch” (dịch sát từng
chữ một), nhất định có sai biệt với bản
kinh A Di Đà do La Thập đại sư dịch ư. Tuy
cùng một bản tiếng Phạn, nhưng lượng chữ
sai khác cũng khá lớn. V́ là bản kinh trực dịch,
cho nên bản tiếng Phạn có bao nhiêu câu, liền dịch
ra tương ứng [bấy nhiêu câu], chẳng tăng, chẳng
giảm, nhưng dịch ư th́ chẳng phải vậy.
Như La Thập đại sư do “Tần nhân háo giản”
(người đất Tần chuộng đơn giản),
có nghĩa là người Trung Hoa thích đơn giản.
Ngài từ nước Quy Tư (Kutsi, Kucina, Kuche) vào đất
Trung Hoa nhằm triều đại Diêu Tần, cho nên Ngài gọi người
Trung Hoa là “Tần nhân”. Do người đất Tần
chuộng đơn giản, cho nên Ngài phần nhiều dịch
ư. Rơ rệt nhất là khi Ngài dịch bộ Đại Trí
Độ Luận của Long Thọ Bồ Tát, đă tóm gọn [nguyên
tác] bộ Đại Trí Luận gồm một ngàn quyển
thành một trăm quyển. Nay chúng ta thấy Đại
Trí Độ Luận là năm bộ; nếu trực dịch
cả một ngàn quyển của Đại Trí Độ
Luận, sẽ thành năm mươi bộ. Cũng có
nghĩa là đối với tác phẩm Đại Trí Độ
Luận, La Thập đại sư đă giản lược
chín phần mười, chừa lại một phần mười thí cho đại
chúng chúng ta, nhưng Ngài có thể tuyên nói [ư chỉ chú giải
kinh Đại Bát Nhă của Long Thọ Bồ Tát] rơ ràng,
đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Tâm lực chẳng
thể nghĩ bàn! Văn tự của La
Thập đại sư rất ngắn gọn, thuận
tiện, chẳng tăng giảm nội dung, nhưng đă
rút gọn một lượng lớn văn tự. V́ thế,
đa số người có trí khen ngợi, nhưng kẻ
tâm trí tầm thường, hoặc tâm lực chẳng
đủ, nh́n vào sẽ sanh ra lầm loạn, hoặc thốt
ra các cách suy nghĩ chẳng tương ứng! Pháp sư Huyền Trang là một vị Tam Tạng
pháp sư theo lối tân dịch lỗi lạc thời
ấy, một lần nữa
lại sang Ấn Độ thỉnh kinh bằng tiếng
Phạn để dịch sát theo nguyên văn, nhằm tránh
khuyết điểm trong lối dịch ư.
Trong
bản kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ
theo lối trực dịch của pháp sư Huyền Trang
có nói: “Nhược nhất nhật dạ, hoặc nhị,
hoặc tam, hoặc tứ, hoặc ngũ, hoặc lục,
hoặc thất, hệ niệm bất loạn” (nếu
một ngày đêm, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn,
hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy, hệ niệm
bất loạn). Trong kinh A Di Đà được dịch
theo lối dịch ư, La Thập đại sư viết: “Nhược
nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược
tam nhật, nhược tứ nhật, nhược ngũ
nhật, nhược lục nhật, nhược thất
nhật, nhất tâm bất loạn” (Hoặc một
ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc
năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm bất
loạn). Bốn chữ “nhất tâm bất loạn” ấy
xưa nay đă khiến cho nhân duyên của bao nhiêu người
bị ngắc ngứ. Bởi lẽ, nhất tâm bất loạn,
bất luận là Lư nhất tâm, hay
Sự nhất
tâm bất loạn, quả thật bọn phàm phu tầm
thường chẳng dễ ǵ léo hánh được! Do
đó, đối với vấn đề pháp tắc ấy,
pháp sư Huyền Trang đă thấy khuyết điểm ấy,
bèn dịch lại một bản mới theo lối trực
dịch, tức Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp
Thọ Kinh. Vừa mở đầu, đă khiến cho mọi
người có cảm giác mới mẻ. Trong ấy có nói: Nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc là một
ngày đêm, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy
ngày, hệ niệm chẳng loạn. Khi người ấy
lâm chung, A Di Đà Phật và các thánh chúng sẽ hiện ra
trước mặt. Sự sai biệt giữa “nhất
tâm bất loạn” và “hệ niệm bất loạn”
là nh́n theo văn tự. Dùng tâm địa để ấn
khế th́ “hệ niệm bất
loạn” thuộc vào phàm thánh, “nhất tâm bất loạn” là nói riêng biệt,
đặc biệt. Nói theo kiểu riêng biệt, đặc
biệt, th́ kẻ tương ứng sẽ hoan hỷ, kẻ
chẳng tương ứng sẽ vứt bỏ pháp ấy.
Nếu là người siêng gắng nơi pháp này, một
ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy
ngày, hệ niệm bất loạn, sẽ thuận tiện
lắm! Đối với phàm hay thánh, đối với kẻ
tương ứng, hay chẳng
tương ứng, cách nói ấy đều có pháp tắc
để tư duy và hệ niệm, hoặc nói cách khác là
có một cơ chế dung dị hơn.
Ở
đây, lại càng nổi bật là đức Thế Tôn
nêu ra cho chúng ta thấy sự tư duy và tu tŕ trong Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội. Toàn bộ phẩm này và phẩm sau đều
nhằm làm cho chúng ta tư duy đúng như lư. Phẩm này
có tên là Hiền Hộ Phần Tư Duy Phẩm
đệ nhất (phần Hiền Hộ
[của kinh Đại Tập], phẩm thứ nhất
Tư Duy). Cũng có nghĩa là đối với Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền
tam-muội, chỗ thực hiện đầu tiên là hướng
dẫn chúng ta về thứ tự của chánh tư
duy. Trong Phật giáo, Tư Duy mười phần quan trọng.
Đạt Ma tổ sư của nhà Thiền từ
phương Tây sang, truyền bá phương tiện “bất
lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (chẳng
lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo) tại nước
Chấn Đán (Trung Hoa) để ngăn trở, bảo vệ
giới Phật giáo Trung Hoa phần nhiều mê mải trong
văn tự, ngôn thuyết, chẳng thể trực tiếp
thấu đạt ḷng người, đối ứng với
trạng huống như thế mà sư tử hống.
Đấy là nhân duyên trong thuở đó.
Nếu
chúng ta chấp vào một phương diện nào đó, chẳng
khéo tư duy, hư vọng lập ra một cái gọi là
Tâm, tâm địa, hoặc là pháp tắc thuộc về
Không, sẽ chẳng thể thâm nhập, thọ dụng an
lạc, hoặc nói tới các cảnh giới diệu dụng
được. Trong sức tu tŕ của các thứ pháp tắc,
như trong các pháp tắc do cổ nhân đề ra, th́ có Tứ
Lực Thuyết, hoặc Ngũ Lực Thuyết. Trong Tứ
Lực Thuyết, có tâm lực, duyên lực, cảnh giới
lực, và quán tập lực. Chúng ta phải vận dụng
thỏa đáng quán tập lực, cảnh giới lực,
và duyên lực. Nếu chẳng vận dụng thỏa
đáng, tự tâm sẽ chẳng thể tương ứng,
tức là chẳng thể ĺa khổ, được vui,
tiêu trừ Phiền Năo Chướng, tiêu trừ Sở Tri
Chướng, chẳng thể thúc đẩy xuất sanh
công đức như thế. Do vậy, nhiều người
hành pháp tắc “nước lạnh ngâm tảng đá”[1],
thoạt nh́n dường như tu tŕ, nhưng chẳng thể
tăng trưởng công đức.
Thoạt nh́n dường như tu tŕ, nhưng chẳng có thực
chất thọ dụng của việc theo thứ tự
thâm nhập các pháp tắc, tức là [chẳng thâm nhập]
công đức tạng, an lập trong sự xếp đặt
hư giả của chính ḿnh, hoặc có thể nói là sự
xếp đặt ấy rỗng tuếch. Chính là như
chúng ta từ các nơi t́m đến nơi đây, đối
với phong cảnh trên đường, nếu quư vị
lưu luyến chẳng dứt được một chỗ
nào, sẽ chẳng thể thấy mục đích
cuối cùng. Nếu chúng ta chẳng nh́n phong cảnh chung
quanh, tức là cứ mờ mịt mà đi, có thể đạt
tới mục đích hay không? Cũng có thể đạt
tới mục đích. Nhưng nếu [có thể nh́n ngắm]
phong cảnh trên đường, lại có thể đạt
tới mục đích, người ấy [đi đường]
rất thuận tiện, đă chẳng đánh mất phong
cảnh trên đường đi, lại c̣n chẳng
ngưng lại, vẫn đạt tới mục đích.
Chúng ta thấy Phật, tức là đạt tới mục
đích. “Quang cảnh trên đường” hàm ư: Chánh
tư duy mười phần trọng yếu. V́ thế, “nhược
kiến bất kiến, giai thị chánh kiến” (nếu
thấy mà giống như chẳng thấy, sẽ đều
là chánh kiến), “nhược nhiễm bất nhiễm,
giai thị tấn thú” (nếu đối với nhiễm
ô mà chẳng bị nhiễm ô, sẽ đều là tiến
nhập). Nói tới “tấn thú” th́ thấy Phật là
mục đích, thấy Phật là thành thục. [Pháp tắc đang được
nói] ở đây là một pháp tắc rất thuận
tiện.
Chúng
ta học tập phẩm Tư Duy, trong đoạn văn tự
này, đức Thế Tôn không ngừng hướng dẫn,
đốc thúc chúng ta “nhất tâm tương tục, thứ
đệ bất loạn, hoặc kinh nhất nhật, hoặc
phục nhất dạ. Như thị hoặc chí thất nhật,
thất dạ, như tiên sở văn, cụ túc niệm
cố, thị nhân tất đổ A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác dă” (nhất tâm liên tục, chẳng
loạn thứ tự, hoặc trải qua một ngày, hoặc
lại một đêm. Như thế cho đến bảy
ngày, bảy đêm, đúng như những điều
đă nghe trước đó. Do niệm trọn đủ,
người ấy ắt thấy A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác). Ở đây, đức Thế
Tôn đă dùng các kinh để ấn chứng
lẫn nhau. Những điều được nói ở
đây hoàn toàn phù hợp với Quán Kinh, kinh A Di Đà, và
kinh Vô Lượng Thọ. Các giáo ngôn ấy đều tuyên
nói đúng như thật như thế!
Trong
Tạng truyền Phật giáo, chúng ta thấy họ bố
trí đàn tràng mười phần nghiêm cẩn. V́ sao? Họ
lấy đàn tràng ấy làm mục tiêu, dùng làm chỗ để
quan sát thuần thục tâm địa, làm chỗ để
tư duy, cúng dường, thủ hộ, ngày đêm siêng gắng.
Tôi đă đến một nơi gọi là Thiên Phật
Động, trong ấy, có một đàn tràng của A Di
Đà Phật. Một bức tượng A Di Đà Phật
đứng rất cao, trọn đủ diệu tướng.
Đàn tràng mười phần trang nghiêm, cụ thể. Hoa
văn và màu sắc miêu tả các thứ trang nghiêm trong quốc
độ của A Di Đà Phật rất đẹp đẽ.
V́ sao phải bố trí một đàn tràng? Để khiến
cho tâm trí của ta dần dần đạt đến an lạc,
thâm nhập, đạt tới tinh tế, trang nghiêm, thành thục.
Đó là một quá tŕnh mười phần quan trọng. Quá
tŕnh ấy cũng là ngoại duyên để sanh khởi
pháp ích. Nhiều lượt tập luyện trong ấy, ắt
sẽ có thể khiến cho người tu tập có thể
đạt được sự an lạc trong pháp tắc.
Chư vị thiện tri thức ơi! Đừng khinh mạn
tướng ấy, do tướng ấy vô tướng.
Đừng coi rẻ tướng ấy,
tướng ấy chính là cơ chế giáo ngôn trọng yếu hàng đầu trong bốn
pháp độ chúng sanh của đức Thế Tôn. Tức
là “nương theo thân tướng diệu sắc để
cảm hóa thế gian, độ thoát chúng sanh, tiêu trừ
nghiệp chướng cho chúng sanh, thuần thục thiện
căn của chúng sanh”.
Do
tại Trung Hoa, giáo ngôn của Thiền Tông được
truyền bá rất mạnh, dần dần khiến cho mọi
người hiểu lầm đối với tướng
và tướng giáo, sanh ra rất
nhiều điều chẳng tương ứng! Tướng
ấy chứng minh sự thiện xảo của oai đức
vô tướng. Do đó, dùng đủ loại tướng
trang nghiêm và oai đức để lợi ích thế gian,
thành thục thế giới, đừng nên sợ hăi! Các
tướng vô tướng, nào ngại các tướng có
tướng, hoặc tướng nào cũng là vô tướng
ư? Đừng nên sợ hăi chỗ này! Đó gọi là
hành pháp của Bồ Tát chẳng phá hoại Sắc,
nhưng chẳng nhiễm Sắc, chẳng sợ Sắc,
dùng các thứ sắc pháp để lợi ích thế gian.
Do chẳng nhiễm cho nên đắc lực nơi pháp này. Nếu đắm
nhiễm, sẽ mờ mịt, mê mất tự tâm.
Đoạn
văn tự này mười phần rơ ràng, cùng một mạch
truyền thừa với kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng
Thọ, và kinh Quán Vô Lượng Thọ, đều do Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đúng như lư tuyên nói, khiến
cho hữu t́nh đang ở trong phiền năo và vọng tưởng
sẽ có chỗ nương cậy để chánh tư duy
và chánh quan sát. Đoạn văn tự này cũng đề
cập “như văn hệ niệm, nhất tâm
tương tục, thứ đệ bất loạn, hoặc
kinh nhất nhật, hoặc phục nhất dạ, như
thị hoặc chí thất nhật, thất dạ” (hệ niệm
đúng như đă được nghe, nhất tâm liên tục,
chẳng rối loạn thứ tự, hoặc trải qua
một ngày, hoặc lại qua một đêm. Như thế cho
đến bảy ngày, bảy đêm). Kinh điển
thường nói “một ngày một đêm, bảy ngày bảy
đêm”, rốt cuộc là cách nói như thế
nào? Đại chúng nhất định đừng dễ
dăi đọc lướt qua nhé!
“Như
tiên sở văn, cụ túc niệm cố, thị nhân tất
đổ A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh
Giác dă. Nhược ư trú thời, bất năng kiến
giả. Nhược ư dạ phần, hoặc thụy mộng
trung, A Di Đà Phật tất đương hiện dă”
(Do đúng như những điều đă được
nghe trước đó mà niệm đầy đủ,
người ấy ắt thấy A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác. Nếu lúc ban ngày, chẳng thể
trông thấy, th́ hoặc là vào ban đêm, hoặc trong giấc
mộng, A Di Đà Phật ắt sẽ hiện ra). Đó
là đối trước hữu t́nh tư duy, quán sát
như thế, quán tưởng như thế mà thốt lời
an ủi. Đấy cũng là lời như thật. Nếu
là như thế mà ban ngày chẳng thấy,
trong mộng nhất định sẽ thấy. Do Phật
lực chẳng thể nghĩ bàn gia tŕ, sẽ như chúng
ta ở trong đêm đen, bỗng trông thấy ngọn
đèn chiếu sáng vậy, [khiến cho] chúng ta được
thấy, sẽ có cảm nhận. V́ thế, tâm trí mê mất
của chúng ta sẽ được hướng dẫn.
Lúc đang đi trong đêm tối đen kịt, nếu bỗng
dưng có vầng thái dương mọc lên, hoặc là có một
thứ ǵ đó chiếu sáng tỏ, trong tâm chúng ta sẽ dấy
lên niềm hy vọng và cảm kích. Trong đêm đen luân hồi
mờ mịt, trong thế giới đen kịt v́ bị Phiền
Năo Chướng và Sở Tri Chướng phủ lấp, bỗng
dưng nh́n thấy vầng nhật luân quang minh vô ngại
là A Di Đà Phật, tâm trí chúng ta nhất định sẽ
dâng lên niềm vui sướng và hướng về. Chúng ta
có thể xem xét kỹ càng đúng như thật hay không?
Tiếp
đó, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn c̣n hướng dẫn chúng ta.
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như thế gian,
nhược nam, nhược nữ, viễn hành tha quốc,
ư thụy mộng trung, kiến bổn cư gia thất
thời, thật bất tri vi trú, vi dạ, nhi diệc bất
tri vi nội, vi ngoại. Thị nhân nhĩ thời, sở
hữu nhăn căn tường, bích, sơn thạch, chung bất
năng chướng, năi chí u minh, hắc ám, diệc bất
vi ngại dă. Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát tâm vô chướng
ngại, diệc phục như thị.
(經)復次。賢護。譬如世間若男若女。遠行他國。於睡夢中。見本居家室時。實不知爲晝爲夜。而亦不知爲內爲外。是人爾時。所有眼根牆壁石山。終不能障。乃至幽冥黑暗。亦不爲礙也。賢護。菩薩摩訶薩。心無障礙。亦復如是。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Ví như dù nam hay nữ trong thế gian,
đi xa sang nước khác, trong khi mơ ngủ, thấy
nhà cửa mà ḿnh đang ở, quả thật chẳng biết
là ngày hay đêm, cũng chẳng biết là trong hay ngoài. Khi
đó, nhăn căn của người đó tất cả
tường, vách, núi, đá trọn chẳng thể chướng
ngại, cho đến u minh, tối tăm cũng chẳng
trở ngại được. Này Hiền Hộ! Tâm Bồ
Tát Ma Ha Tát chẳng chướng ngại cũng giống
như thế).
Chúng
ta tư duy, quan sát thế giới Cực Lạc
của A Di Đà Phật như quê nhà, hoặc nhà cửa của
chính ḿnh, giống như vật quen dùng của chính ḿnh, thuần
thục như thế, quan sát như thế, tư duy như thế, vậy th́ hết thảy
cũng vô ngại. Đó gọi là “mười vạn ức
Phật độ chẳng bị trở ngại”. Một
niệm tín quyết định là được, sẽ liền
vượt qua. Núi, sông, đại địa, hết thảy
vật chướng ngại trọn chẳng thể
ngăn trở. V́ sao? Tâm chẳng tồn tại chướng
ngại. Giống như thí dụ do đức Thế Tôn
nêu ra ở chỗ này: Hàng tại gia cư sĩ chúng ta, bất
luận tới nơi nào, cũng đều có gia đ́nh. Hễ
quư vị nghĩ tới nhà của chính ḿnh, hết thảy
các chướng ngại đều chẳng tồn tại.
V́ lẽ nào? Quư vị có cảm giác thân thuộc đối
với nhà của ḿnh. Nhà của quư vị ở Bắc Kinh
cũng thế, ở Thượng Hải cũng thế, ở
nơi nào cũng thế. Hễ quư vị nghĩ ngợi, tất cả
nhân duyên trong gia đ́nh đều rành rành trước
mắt, núi, sông, đại
địa chẳng thể chướng ngại. Chúng ta nghĩ tới thế giới
Cực Lạc cũng giống như thế. Nếu thuần
thục, sẽ nh́n thấy. Nếu quyết định, sẽ
nh́n thấy. Chẳng vướng mắc, sẽ nh́n thấy!
Hết thảy khoảng cách, hết thảy núi, sông, đại
địa, hết thảy các loại chướng ngại
đều cùng lúc vô ngại!
Quư
vị tư duy như thế, nương theo các trường
hợp thiện xảo về nhân duyên trong thế tục
để tư duy. Đức Thế Tôn không chỉ nêu thí
dụ như thế, trong phần trước là nói về
mộng; ở đây, nói về nhà ở. Đối với
tất cả các gia cụ (vật dụng trong nhà), dụng
cụ, màu sắc của dụng cụ, người nhà,
phương vị trong nhà ḿnh ở, quư vị nhắm mắt, sẽ ngay lập tức nghĩ thấy, cảm giác
thấy. Dẫu cách xa ngàn núi vạn sông, nhưng quư vị
nhắm mắt liền thấy. Hết thảy núi, sông,
đại địa, các thứ xa xôi chẳng hề cách
ngăn. V́ sao? Do thuần thục, do trong tâm chẳng có
ngăn ngại, chỉ tồn tại những thứ có
trong nhà, chẳng thấy hết thảy ngăn ngại là
ngăn ngại. Quốc độ Cực Lạc của A
Di Đà Phật cũng giống như thế, công đức
của mười phương chư Phật cũng giống
như thế. Nếu tâm địa mạnh mẽ, ǵn giữ
ư niệm thuần thục, khiến cho chúng ta đối với
các tướng cảnh giới quen thuộc, trong hết thảy
chướng ngại sẽ quyết định chẳng
ngăn ngại! Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất
định phải tư duy thuần thục, khéo quan sát chỗ
này, chớ nên qua quít!
Phần
nhiều kẻ chẳng đạt được lợi
ích trong pháp môn Tịnh Độ là v́ lảng tránh chỗ
này! Rất nhiều người nói “thấy tướng chẳng
có ư nghĩa ǵ hết”. Chẳng phải vậy! Nêu một
thí dụ đơn giản nhất, thời xưa có cách
nói “vọng mai chỉ khát” (望梅止渴, nh́n quả mơ
đỡ khát)[2].
V́ sao nh́n quả mơ mà có thể đỡ khát? Trong thế
gian này, không pháp tắc nào chẳng do nhân duyên xuất sanh.
Khổ hay lạc không ǵ chẳng phải do ngoại duyên
giúp thành. Loài phàm phu hữu t́nh chắc chắn là như thế!
Chúng ta gặp gỡ giáo ngôn của kinh Ban Châu có công đức
rất sâu chẳng thể nghĩ bàn như thế này,
đúng là do phước đức hồi thí, khiến cho
chúng ta có được phương tiện vận dụng
thuần thục để thấy quê nhà thế giới Cực
Lạc sẵn có. V́ vậy, đức Thế Tôn khổ
tâm ban bố, hướng dẫn đi, hướng dẫn
lại, dùng đủ mọi ngôn thuyết khuyến hóa
chúng ta chánh tư duy, chánh quan sát, như lư tư duy, như
lư quan sát, đừng nên dùng vọng tưởng của
chính ḿnh để quan sát. Nếu [quan sát bằng vọng
tưởng của chính ḿnh] như thế, sẽ chẳng
ngừng mê mất tự tâm, lăng phí tinh lực của chúng
ta!
(Kinh)
Đương chánh niệm thời, ư bỉ sở hữu
Phật sát trung gian, phàm thị nhất
thiết Tu Di sơn vương, cập Thiết Vi sơn, Đại
Thiết Vi sơn, năi chí tự dư chư
hắc sơn đẳng, bất năng dữ thử nhăn
căn vi chướng, nhi diệc bất năng phú tế
thử tâm. Nhiên thị nhân giả, kỳ thật vị đắc
Thiên Nhăn, năng kiến bỉ Phật, diệc vô Thiên Nhĩ,
văn bỉ pháp âm. Phục phi thần thông, văng bỉ thế
giới. Hựu diệc bất ư thử thế giới
một, sanh bỉ Phật tiền, nhi thật đản tại
thử thế giới trung. (經)當正念時。於彼所有佛剎中間。凡是一切須彌山王。及鐵圍山大鐵圍山。乃至自餘諸黑山等。不能與此眼根爲障。而亦不能覆蔽此心。然是人者其實未得天眼。能見彼佛。亦無天耳。聞彼法音。復非神通。往彼世界。又亦不於此世界沒生彼佛前。而實但在此世界中。
(Kinh: Ngay
trong lúc chánh niệm, trong tất cả các cơi Phật ấy,
phàm là hết thảy núi chúa Tu Di, và núi Thiết Vi, núi Đại
Thiết Vi, cho đến các hắc sơn khác v.v… chẳng
thể chướng ngại nhăn căn ấy, mà cũng chẳng
thể che lấp tâm này. Nhưng người ấy thật
sự chưa đắc Thiên Nhăn mà có thể thấy đức
Phật ấy. Cũng chẳng có Thiên Nhĩ mà nghe pháp âm của
Ngài. Lại chẳng có thần thông để tới thế
giới ấy, lại cũng chẳng mất đi nơi
thế giới này, sanh về trước đức Phật
ấy, mà thật sự chỉ ở trong thế giới
này).
Đoạn
văn tự này có thể nói thật sự là sư tử
hống trong pháp môn Tịnh Độ, tiêu trừ hết thảy
chướng ngại nơi tâm trí và cảm giác của chúng
ta! Có cảm giác chướng ngại là do chẳng thuần
thục, do tạp duyên quấy nhiễu. Chẳng thuần
thục là do tự đặt ra chướng ngại, chẳng
phải là thật sự có chướng ngại hay không
chướng ngại. Chướng ngại và vô ngại là
sự lựa chọn của chúng ta, do lựa chọn mà hiển
hiện. Chư vị thiện tri thức ơi! Hăy khéo quan
sát, khéo thể nghiệm, khéo biến thành thực tiễn!
Ở
đây, đức Thế Tôn đă trực tiếp kéo phàm
phu vào trong pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Cũng có nghĩa là
quư vị chẳng đắc Thiên Nhăn, mà cũng chẳng
có Thiên Nhĩ, nhưng có thể thấy đức
Phật ấy, [mà cũng có thể nghe
đức Phật ấy]. Như chúng ta
đă quá quen thuộc với căn nhà ḿnh cư ngụ, hễ
nhắm mắt lại, nghĩ đến nhà của chính
ḿnh. Hễ nhắm mắt lại, nghĩ tới hoàn cảnh
sống quen thuộc nhất của chính ḿnh, chướng
ngại ǵ cũng chẳng thể chướng ngại
được. Do quư vị chẳng có chướng ngại
ǵ, do quư vị tiến thẳng đến mục đích
quen thuộc. Do vậy, hết thảy chướng ngại
vốn chẳng có chướng ngại, chẳng bận
tâm vướng mắc, chẳng thành lập, chẳng xếp
đặt! Vậy mà có lúc chúng ta tự xếp đặt
chướng ngại.
“Diệc
bất ư thử thế giới một, sanh bỉ Phật
tiền, nhi thật đản tại thử thế giới
trung” (cũng chẳng mất trong thế giới này, sanh
trước đức Phật kia, nhưng thật sự ở
trong thế giới này): Chúng ta có thể thân chẳng rời
bổn vị (vị trí sẵn có) mà thấy chư Phật,
đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng rời thế
giới Sa Bà này mà thấy mười phương chư Phật.
Chẳng tới mười phương cơi nước, mà trông
thấy mười phương cơi nước. Đó chính
là nội dung và lợi ích thù thắng nhất trong giáo ngôn bất
cộng của pháp Niệm Phật [nói chung] và pháp Ban Châu
[nói riêng].
Kế
đó, đức Thế Tôn c̣n hướng dẫn
chúng ta về pháp tắc để tiến
nhập.
(Kinh)
Tích niệm huân tu, cửu quán minh lợi cố, chung đắc
đổ bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh
Giác, Tăng chúng vi nhiễu, Bồ Tát hội trung, hoặc
kiến tự thân tại bỉ thính pháp, văn dĩ ức niệm,
thọ tŕ, tu hành, hoặc thời phục
đắc cung kính, lễ bái, tôn thừa, cúng dường bỉ
A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác dĩ, thị
nhân nhiên hậu khởi thử tam-muội,
(經)積念薰修。久觀明利故。終得睹彼阿彌陀如來應等正覺。僧衆圍繞。菩薩會中。或見自身在彼聽法。聞已憶念。受持修行。或時復得恭敬禮拜尊承供養彼阿彌陀如來應等正覺已。是人然後起此三昧。
(Kinh: Đă
tích lũy ư niệm huân tu, đă quán sáng suốt, nhạy
bén lâu ngày, rốt cuộc được
thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác,
Tăng chúng vây quanh, ở
trong hội của Bồ Tát, hoặc thấy thân ḿnh ở
đó nghe pháp. Nghe xong, nghĩ nhớ, thọ tŕ, tu hành, hoặc
có lúc lại cung kính, lễ bái, tôn trọng, thừa sự,
cúng dường đức A Di Đà Như Lai Ứng Đẳng
Chánh Giác xong. Sau đấy người đó mới khởi
tam-muội này).
Trong
đoạn văn tự này, thông qua phương thức
chánh tư duy, từng bước hướng dẫn chúng
ta thâm nhập cách quan sát thiện xảo như thế: Hoặc
là lễ bái, hoặc cúng dường, hoặc thừa sự
A Di Đà Thế Tôn. Nếu gặp Thanh Văn, Bồ Tát
trước sau vây quanh A Di Đà Như Lai, thấy Phật,
nghe pháp, thấy Phật, bèn cúng dường, thủ hộ,
cũng đạt được lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn. V́ lẽ nào? Do đúng như lời dạy: “Tích
niệm huân tu, cửu quán minh lợi cố, chung đắc
đổ bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng
Chánh Giác” (Đă tích lũy ư niệm huân tu, đă quán sáng
suốt, nhạy bén lâu ngày, rốt cuộc được
thấy A Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác).
Đoạn
văn tự này nhằm khiến cho chúng ta thuần thục
tư duy và quán sát. Chúng ta đều biết, Thiện Đạo
đại sư là bậc đại thiện xảo thật
sự lập tông, lập phái của pháp môn Tịnh Độ.
Viễn công đại sư (sơ tổ Huệ Viễn)
và một trăm hai mươi ba người nguyện văng
sanh cơi ấy, ảnh hưởng rất
rộng. Đàm Loan đại sư hoằng truyền Tịnh
Độ ở phương Bắc; thậm chí cảm vời
quốc chúa thuận theo. Do có chim loan thần diệu chầu về chỗ Ngài lễ kính,
cho nên có nhiều người ngả theo giáo pháp ấy, tu tập
pháp môn Tịnh Độ. Tuy là như thế, giáo nghĩa
chưa lập. Thiện Đạo đại sư xuất
thế, đă thật sự triệt để hiển lộ
cơ chế giáo ngôn của pháp môn Tịnh Độ.
Xưa nay, chẳng ai không chọn lựa như thế, thừa
nhận Thiện Đạo đại sư là vị thiện
tri thức thật sự kiến lập tông nghĩa của
pháp môn Tịnh Độ. Đương nhiên, Ngài chẳng
ĺa kinh giáo, chẳng ĺa các giáo ngôn và giáo căn (căn bản
để lập giáo) được chư tổ sư các
đời dần dần hoàn thiện và kế tục các pháp tắc.
Thiện Đạo đại sư mười phần
coi trọng chuyện tư duy và quán tưởng. Suốt
đời, Ngài đă vẽ khá nhiều bức Cực Lạc
Thế Giới Thần Biến Đồ (tranh vẽ về
sự trang nghiêm, mô tả Phật và thánh chúng trong thế giới
Cực Lạc). Chẳng thể nói là [những bức vẽ
ấy đúng] như thật biểu hiện thế giới
Cực Lạc được, nhưng chúng ta có thể cảm
nhận thế giới Cực Lạc qua sự miêu tả
[trong các bức họa ấy]. Ngài dùng nhân duyên như vậy
để khích lệ mọi người thâm nhập tu tập,
quan sát như lư, tức là “đổ quán thành thục”
(nh́n, quán thành thục), hoặc nói là “cửu quán minh lợi”
(quan sát sáng suốt, nhạy bén đă lâu), hoặc nói là “cửu
huân tập” (huân tập đă lâu), khiến cho
chúng ta khế nhập pháp tắc này. Thiện Đạo
đại sư cũng thường tự ḿnh tạc
tượng, vẽ tượng. V́ sao? Để thuần
thục pháp tắc cho chính ḿnh, chân thật duy tŕ pháp tắc
này. Người nơi đất Hán phải nên chánh tư
duy chỗ “tư duy, hệ niệm” ấy, thường phải
nên đổ công dốc sức vào đó. Quư vị chẳng
đổ công dốc sức nơi ấy, lại đổ
công dốc sức nơi những chuyện rỗng tuếch,
nhọc nhằn tạo vọng tưởng, hết sức
đau khổ. Nếu chúng ta tư duy và quán sát Phật cho
nhiều, thủ hộ Phật, ắt sẽ sanh ḷng vui
sướng, an lạc to lớn. Quư vị đừng nên
chấp trước điều này, chỉ nên siêng gắng
ở chỗ này. Quả thật là chẳng thể nghĩ
bàn!
Đoạn
văn tự này bảo chúng ta: “Thấy Phật th́ phải
nên nghe pháp. Thấy Phật th́ phải nên cúng dường,
thừa sự”. Như thế th́ thiện căn sẽ
nhanh chóng chín muồi! Do trong công án của
Thiền Tông Trung Hoa thường có thuyết “Phật đến bèn
chém Phật. Ma đến bèn chém ma”, cho nên người
học Phật tại đất Hán cứ hở ra là “Phật
đến bèn chém Phật, ma
đến bèn chém ma”. Ở đây,
quư vị chẳng trảm Phật được, mà nhất
định phải thấy Phật! Đó có phải là mâu
thuẫn với giáo ngôn của đức Phật hay không?
Chẳng phải. Trong giáo pháp của đức Thế Tôn,
đích xác là có lời dạy dùng tướng hảo để
hóa độ chúng sanh. Đức Phật dùng thân tướng
kim sắc, thân tướng diệu sắc, thân tướng
quang minh, thân tướng oai đức, thân tướng trọn
đủ các đức, khiến cho chúng sanh trông thấy
bèn đắc độ. Chẳng hạn như tôn giả
A Nan v́ sao xuất gia? Khi tôn giả A Nan thấy Thích Ca Mâu Ni
Phật, đă hỏi: “Vị này do đâu mà được
diệu tướng như thế? Vị này v́ lẽ nào mà trọn đủ thân chẳng cấu uế? Ta phải
nên theo Ngài, nên xuất gia, nên làm Sa-môn”. Tôn giả
A Nan do thấy thân tướng diệu sắc của đức
Thế Tôn mà xuất gia. Tôn giả La Hầu La cũng v́ cảm
xúc vi diệu từ cánh tay Đa La Miên của đức Thế
Tôn mà xuất gia. Khi đó, La Hầu La được gặp
đức Thế Tôn, đă thắc mắc v́ sao cánh tay
đức Thế Tôn thon dài, bèn dùng tay sờ. Vừa chạm
vào, cảm thấy giống như nắm lấy một thứ
tột bậc mềm mịn, chẳng nỡ buông! Đức
Thế Tôn nói: “Sao không cho đứa bé này xuất gia?”
Tăng thượng duyên như thế đó, chúng ta chẳng
thể phủ nhận. Trước kia, đối với
cách nói như thế, tôi nẩy sanh nhiều nỗi ngờ vực,
nhưng mấy năm trước, tôi đă gặp hai vị
lăo nhân gia, chân tay mềm mại, khiến cho kẻ khác
vĩnh viễn chẳng thể quên được! Chớ nên tham đắm những thứ ấy,
nhưng nếu đă chạm vào, quư vị sẽ chẳng
thể quên được! Nó sẽ tạo thành một
phương cách kêu gọi tâm linh của quư vị yêu thích
và ngưỡng vọng rất lâu. V́ sao vậy? V́ sao người
ấy mềm mỏng đến thế? V́ sao khiến cho
người khác vui sướng đến thế? V́ chạm
vào một chút, quư vị sẽ cảm thấy mười
phần hoan hỷ. V́ sao? Mềm mại như không
xương! Thật đấy, chẳng phải là chuyện
giả. Chúng ta đừng nên cố chấp vào chuyện
này, nhưng chuyện này quả thật đă cảnh tỉnh
tâm trí của chúng tôi về sức mạnh lôi cuốn chẳng
thể nghĩ bàn [của thân tướng vi diệu].
V́
thế, đức Thế Tôn dùng sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp để rộng lợi ích hữu t́nh trong
thế gian. Chúng sanh do sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp mà trầm luân trong ấy, chẳng thể tự thoát ra
được! Đức Thế Tôn dùng diệu tướng
để lợi ích rộng khắp thế gian. Đó là
pháp “dùng thân tướng diệu sắc để rộng
độ hữu t́nh” trong bốn pháp độ chúng
sanh, chớ nên mê mất. V́ đức Thế Tôn thuyết
pháp, tám vạn bốn ngàn pháp, pháp nào cũng để
độ chúng sanh, pháp nào cũng đều vô ngại. Chớ
nên nương theo pháp mà chướng ngại pháp.
Nương theo pháp mà báng pháp, nương theo pháp mà nghi pháp.
Như thế th́ quư vị sẽ phá pháp, phá hoại pháp, chẳng
thể đạt được lợi ích nơi Phật
pháp. Đối với chuyện này, trong phần sau, chúng ta
sẽ thong thả xem kỹ. Đối với đoạn
văn tự này, hy vọng mọi người thật sự
có thể đọc nhiều lượt, tư duy cho nhiều!
(Kinh)
Kỳ xuất quán dĩ, thứ đệ tư duy, như
sở kiến văn, vị tha quảng thuyết. Phục
thứ Hiền Hộ! Như thử Ma Già Đà quốc, hữu
tam trượng phu. Kỳ đệ nhất giả,
văn Tỳ Da Ly thành, hữu nhất dâm nữ, danh Tu Ma
Na. Bỉ đệ nhị nhân, văn hữu dâm nữ,
danh Am La Ba Ly. Bỉ đệ tam nhân, văn hữu dâm nữ,
danh Liên Hoa Sắc. Bỉ kư văn dĩ, các thiết
phương tiện, hệ ư cần cầu, vô thời tạm
phế. Nhiên bỉ tam nhân, thật vị tằng đổ
như thị chư nữ. Trực dĩ dao văn, tức
hưng dục tâm, chuyên niệm bất tức. Hậu nhân
mộng dĩ tại Vương Xá thành, dữ bỉ nữ
nhân, cộng hành dục sự. Dục sự kư thành, cầu
tâm diệc tức, hy vọng kư măn, toại tiện giác ngụ.
Ngụ dĩ, truy niệm mộng trung sở hành, như sở
văn kiến, như sở chứng tri, như thị ức
niệm.
(經)其出觀已次第思惟。如所見聞爲他廣說。複次賢護。如此摩伽陀國有三丈夫。其第一者。聞毗耶離城有一淫女名須摩那。彼第二人。聞有淫女名庵羅波離。彼第三人。聞有淫女名蓮華色。彼既聞已。各設方便。系意勤求。無時暫廢。然彼三人。實未曾睹如是諸女。直以遙聞。即興欲心。專念不息。後因夢已在王舍城。與彼女人共行欲事。欲事既成。求心亦息。希望既滿。遂便覺寤。寤已追念夢中所行。如所聞見。如所證知。如是憶念。
(Kinh:
Đă xuất quán (ra khỏi phép quán), bèn theo thứ tự
tư duy, đúng như những ǵ thấy nghe mà kể rộng
khắp với người khác. Lại này Hiền Hộ!
Như trong nước Ma Già Đà này có ba trượng phu.
Người thứ nhất nghe thành Tỳ Da Ly có dâm nữ
(gái làng chơi) tên là Tu Ma Na. Người thứ hai nghe có
dâm nữ tên là Am La Ba Ly. Người thứ ba nghe có dâm nữ
tên là Liên Hoa Sắc. Họ đă nghe xong, mỗi người
lập phương tiện, chú tâm siêng cầu, không lúc nào tạm
bỏ. Nhưng ba người ấy thật sự chưa
từng gặp các cô gái như thế. Chỉ là nghe đồn,
bèn dấy ḷng dục, chuyên nghĩ đến chẳng
ngơi. Về sau, do họ mộng thấy đă ở
thành Vương Xá cùng với các nữ nhân đó cùng làm chuyện
dâm dục. Dục sự đă thành, cái tâm mong cầu
cũng dứt, niềm mong mỏi đă được thỏa,
bèn tỉnh giấc. Tỉnh giấc, bèn nhớ lại chuyện
đă làm trong mộng, đúng như thấy nghe, đúng
như chứng biết, đúng như nghĩ nhớ).
Trong
đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đă nêu
một thí dụ. V́ hữu t́nh trong Dục Giới, dục
nhiễm nam nữ là một điểm đặc sắc
nổi bật, chúng ta khá dễ cảm nhận được!
(Kinh)
Lai nghệ nhữ sở, cụ vị nhữ thuyết giả.
(經)來詣汝所。具爲汝說者。
(Kinh: Tới
chỗ ông, kể cặn kẽ với ông).
“Lai
nghệ nhữ sở” (Tới chỗ ông): “Nhữ sở”
(chỗ của ông) là tới chỗ của Hiền Hộ
Bồ Tát để nêu bày. Ba người bọn họ t́m
đến Hiền Hộ Bồ Tát, đến hỏi
phương tiện như vậy, hỏi rốt cuộc
là chuyện ǵ mà có nhân duyên như thế? Trên thực tế,
[thí dụ này] nhằm hướng dẫn phàm phu hữu
t́nh trong Dục Giới, dùng phương cách nói về chuyện
rơ thấy nhất là dục t́nh nam nữ, khiến cho tâm
trí chúng ta sẽ thuận theo kinh văn mà nhập quán.
(Kinh)
Nhữ ưng vị bỉ phương tiện thuyết
pháp, tùy thuận giáo hóa, linh kỳ trụ bất thoái chuyển
địa, cứu cánh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Bỉ ư đương lai, tất đắc thành Phật, hiệu viết
Thiện Giác Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
(經)汝應爲彼方便說法。隨順教化。令其住不退轉地。究竟成就阿耨多羅三藐三菩提。彼於當來。必得成佛。號曰善覺如來。應供。等正覺。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。
(Kinh: Ông hăy
nên v́ họ phương tiện thuyết pháp, tùy thuận
giáo hóa, khiến cho họ trụ nơi địa vị bất
thoái chuyển, rốt ráo thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề. Họ trong tương lai, ắt
được thành Phật, hiệu là Thiện Giác Như
Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn).
Ba
người như thế, do hệ niệm, cho nên thành tựu
điều ham muốn của chính ḿnh. C̣n người niệm
Phật chúng ta th́ sao? Do hệ niệm A Di Đà Phật,
cũng có thể thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề! Cùng là thủ hộ ư niệm mong muốn
và hướng tới. Dục niệm trong nhân gian mà c̣n có
thể thành tựu, do niệm niệm tiếp nối. Vậy
th́ chúng ta v́ liễu sanh tử, v́ độ thoát các thứ
nghiệp duyên và nghiệp chướng phiền năo từ
vô thỉ tới nay mà ức niệm Phật, chắc chắn
có thể thành tựu. Tỷ dụ như thế, thiện
xảo như thế đó!
(Kinh)
Kư đắc nhẫn dĩ, hoàn phục ức niệm văng
tích chư sự, liễu liễu phân minh dă.
(經)既得忍已。還復憶念往昔諸事。了了分明也。
(Kinh: Đă
đạt được môn Nhẫn ấy, lại
nghĩ nhớ các chuyện xưa kia, rành rẽ, phân minh).
Nói
cách khác, dẫu thành Phật, người ấy nghĩ nhớ
chuyện cũ cũng sẽ rành rẽ, phân minh. Do vậy,
chỗ vô nhiễm này chỉ do túc duyên hiển hiện, do
tướng cảnh giới kiến lập, chẳng phải
là thật sự có. Chẳng có một pháp để có thể
thật sự đạt được, chẳng có một
thực chất để có thể kiến lập,
nhưng có chuyện cảnh tướng ấy! Chúng ta thấy
Phật cũng như thế. V́ vậy,
tu hành chân chánh, siêng năng thấy Phật, siêng năng tu
pháp mười phần trọng yếu,
mười phần có ư nghĩa!
(Kinh)
Hiền Hộ! Bỉ thiện nam tử, thiện nữ
nhân đẳng, nhược dục thành tựu Bồ Tát
Ma Ha Tát Tư Duy Nhất Thiết Chư Phật Hiện Tiền
tam-muội, diệc phục như thị.
(經)賢護。彼善男子善女人等。若欲成就菩薩摩訶薩思惟一切諸佛現前三昧。亦復如是。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nếu
muốn thành tựu Bồ Tát Ma Ha Tát Tư Duy Nhất Thiết
Chư Phật Hiện Tiền tam-muội th́ cũng lại
như thế).
Trong
phần trước là thí dụ, phần sau là dẫn dắt, phát khởi hết thảy thiện
nam tử, thiện nữ nhân hăy tư duy đúng như lư, tư duy như trong thí dụ, tức là cổ
vũ, khích lệ sự tư duy ư nhạo của chính ḿnh,
đừng bỏ phí sức lạc dục mà chúng ta sẵn
có ấy, tức là sức hướng tới [mong cầu
đạt được mục đích]. Nếu dùng sức
ấy vào sự nhiễm dục của thế tục, sẽ
có thể đạt được mục đích. C̣n nếu
dùng [sức mạnh ấy] để thấy Phật, nghe
pháp, cũng có thể đạt được mục đích giống
hệt. Trong hai pháp [thế gian và xuất thế gian], quư vị
chọn lựa pháp ǵ? Trong phần trước, đức
Thế Tôn đă nêu một thí dụ; sau đó, Ngài hướng
dẫn chúng ta thấy Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội. “Dục” như vậy
mười phần quan trọng. Trong phần trước
là “ham muốn gặp dâm nữ như thế” chính là
[ham muốn] của kẻ thế tục, vận dụng cái
tâm thế tục, dùng phương pháp thế tục. Chúng
ta là người học Phật, muốn thấy chư Phật,
muốn chứng Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội th́ cũng như thế. V́
lẽ nào? Vận dụng pháp tắc Dục, giữ ư niệm
tiếp nối, tư duy chẳng ngừng, thuần thục,
ắt có thể trông thấy, mà cũng chẳng có chướng
ngại!
(Kinh)
Kỳ thân thường trụ thử thế giới trung,
tạm đắc văn bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác danh hiệu, nhi năng hệ tâm.
(經)其身常住此世界中。暫得聞彼阿彌陀如來應供等正覺名號。而能繫心。
(Kinh:
Thân ấy thường trụ trong thế giới này, tạm
được nghe danh hiệu của A Di Đà Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác mà có thể chú tâm).
Tâm
buộc chặt vào danh hiệu (chuyên chú nghĩ tưởng
danh hiệu), do A Di Đà Phật dùng danh hiệu để
nhiếp hóa mười phương chúng sanh, tức là
như Quán Kinh đă nói: “A Di Đà Phật dùng quang minh vô
ngại chiếu sáng mười phương cơi nước,
nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ”. Chúng sanh niệm Phật
tức là người xưng danh hiệu, nhớ tưởng
quang minh thanh tịnh trang nghiêm của đức Phật. Pháp
tắc niệm Phật trong Quán Kinh là quan sát, trước hết
là tư duy quán thuần thục. Nếu dùng một chỗ,
một điểm [để tu tập quán tưởng niệm
Phật], như quán tướng bạch hào: Chỉ quán
tướng bạch hào uyển chuyển như năm quả
núi Tu Di. Nương theo pháp Bạch Hào Quán mà khế nhập hết
thảy các pháp tắc, trọn đủ hết thảy
đà-la-ni, hết thảy thiện xảo, hết thảy
công đức, hết thảy thần biến, hết thảy
trí huệ chẳng thể nghĩ bàn. Dùng một pháp khế
nhập, chỉ cần buộc tâm thuần thục, ai nấy
đều đạt được phương tiện.
Ở đây, buộc chặt cái tâm vào danh hiệu của A
Di Đà Phật Như Lai, liên tục tư duy, tức là
lúc tư duy do không ngừng niệm danh hiệu. Khi kinh hành Ban Châu, đi tới, đi lui, đi tới,
để làm ǵ? Lập một niệm, đoạn các
tưởng, niệm một phương, tư duy quốc
độ ấy, khiến cho các tư
duy tạp loạn bị đoạn trừ. Đó gọi
là “tinh thuần nhất niệm, chuyên tâm chú trọng
một niệm, ắt thấy đức Phật đó”.
Trước
kia, trong tự viện, do đại chúng niệm Phật từ
năm này sang năm khác chẳng gián đoạn, cho nên niệm
Phật trong đại điện đặc biệt thuận
tiện. Kẻ b́nh phàm tiến vào đó ba ngày, bèn thấy
quốc độ của Phật trang nghiêm, những thứ
như đất báu lưu ly, hoa sen nở rộ, h́nh tướng Bồ Tát, Phật chi
đó, đều là chuyện rất đơn giản.
Nhưng trong xă hội hiện thời, mọi người
cảm thấy đó là chuyện rất khó khăn, cách biệt
quá lớn! Nếu được gặp gỡ, được
sử dụng một ngôi chùa chuyên
môn tu tŕ th́ rất dễ dàng, chứ gặp một nơi
tu tŕ tản mạn, sẽ mười phần khó khăn.
Đích xác là như thế đó! Tôi có cảm xúc
đối với chuyện này càng ngày càng lớn. Nhất
là khi hoàn cảnh chung quanh ră rời, tâm trí của mọi
người chẳng thể chuyên nhất. Do vậy, trong
đường đi kinh hành Ban Châu mà đặt các thứ
[biểu thị sự] trang nghiêm và các thứ công đức
hy hữu của Cực Lạc, hoặc các tranh vẽ,
đàn tràng, sẽ có thể là một phương pháp rất
tốt. Hoàn cảnh như thế sẽ rất đơn
thuần!
“Diệu
tướng độ chúng sanh”, tức là dùng tướng
để hướng dẫn mọi người, rất
thuận tiện. Điều chủ yếu là đừng
đắm nhiễm vào đó, nhất định phải
tùy thuận nhân duyên như thế. Thấy Phật, nghe
pháp, chớ nên cố chấp vào đó, cũng có nghĩa là
quư vị chớ nên cưỡng chế tự tâm. Nếu
làm như vậy (cưỡng chế tự tâm), sẽ rất
đau khổ. Hăy nên tùy niệm phân tích, tỉ mỉ tư
duy, tùy niệm quán sát. Đó là điều có thể làm
được. Cưỡng chế quan sát sẽ rất khổ!
Chúng ta đă tư duy thành thục, sẽ chẳng cưỡng
chế tự tâm, giống như trong gia đ́nh của quư
vị có mấy người, cha mẹ quư vị có bộ
dáng như thế nào? Con cái của quư vị có h́nh dạng
ra sao? [Khi suy tưởng những điều đó], sẽ
chẳng tốn tâm lực, rất thuần thục;
nhưng nếu suy nghĩ nhà người khác, chuyện của
người khác, gia đ́nh của người khác, sẽ
rất nhọc ḷng, do chẳng liên quan cho mấy, rất khổ!
Nếu chúng ta coi chuyện “thấy Phật”, thấy thế
giới Cực Lạc trang nghiêm [thân thiết] giống
như thấy gia quyến của chính
ḿnh, chính là như chúng ta thường nói “văng sanh quê nhà thế
giới Cực Lạc”, tất nhiên là sẽ chẳng có
chướng ngại! V́ sao vậy? Là quê nhà của chính
ḿnh. Thế giới Cực Lạc trang nghiêm
được tạo lập ở ngay quê nhà! A Di
Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, các vị Bồ Tát hải hội vây quanh, là sự
trang nghiêm nơi nước ḿnh, là anh em, đồng bạn!
Như thế th́ tâm trí của quư vị rất hoan hỷ.
Đó là một pháp tắc rất trực tiếp, nhưng
nếu quư vị coi đó là vật trong nhà kẻ khác, khởi
tư duy sẽ rất mệt mỏi, quá khó khăn!
(Kinh) Tương tục tư duy, thứ
đệ bất loạn, phân minh đổ bỉ A Di
Đà Phật, thị vi Bồ Tát tư duy cụ túc, thành tựu
Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhân thử tam-muội,
đắc kiến Phật cố, toại thỉnh vấn
bỉ A Di Đà Phật ngôn.
(經)相續思惟。次第不亂。分明睹彼阿彌陀佛。是爲菩薩思惟具足成就諸佛現前三昧。因此三昧得見佛故。遂請問彼阿彌陀佛言。
(Kinh:
Tư duy liên tục theo thứ tự chẳng loạn,
trông thấy A Di Đà Phật phân minh. Đó là Bồ Tát
tư duy trọn đủ, thành tựu Chư Phật Hiện
Tiền tam-muội. Do tam-muội ấy, được thấy
Phật, bèn thưa hỏi A Di Đà Phật rằng).
Ở đây thiết lập cho chúng ta chuyện
“thấy Phật, hỏi pháp”. Nếu chẳng dạy
chúng ta th́ ngay cả phương tiện “hỏi pháp”,
chúng ta cũng chẳng đạt được. Ở
đây, trước hết khiến cho chúng ta thuần thục:
Tới khi thấy Phật, sẽ làm như thế nào? Phải
thưa hỏi Thế Tôn!
(Kinh)
Thế Tôn! Chư Bồ Tát đẳng thành tựu hà pháp,
nhi đắc sanh thử Phật sát trung da?
(經)世尊。諸菩薩等。成就何法。而得生此佛剎中耶。
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Các vị Bồ Tát thành tựu pháp ǵ mà
được sanh trong cơi Phật này?)
Khi
gặp Phật, chẳng nhất định phải hỏi
như thế. Ở đây chỉ là tạo thuận tiện
cho quư vị.
(Kinh)
Nhĩ thời, A Di Đà Phật ngữ thị Bồ Tát
ngôn: - Nhược nhân phát tâm cầu sanh thử giả,
thường đương hệ tâm, chánh niệm
tương tục A Di Đà Phật, tiện đắc
sanh dă. Kư đắc sanh dĩ, Thế Tôn ư thị tri bỉ
tâm cố, diệc tức niệm bỉ. Bỉ phương
đắc kiến Phật Thế Tôn nhĩ.
(經)爾時阿彌陀佛語是菩薩言。若人發心求生此者。常當繫心正念相續阿彌陀佛。便得生也。既得生已。世尊於是知彼心故。亦即念彼。彼方得見佛世尊耳。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, A Di Đà Phật bảo vị Bồ Tát ấy: -
Nếu có ai phát tâm cầu sanh trong cơi này, hăy thường
nên buộc tâm chánh niệm A Di Đà Phật liên tục, sẽ
được sanh về. Đă được sanh rồi,
khi ấy, do đức Thế Tôn biết tâm người
đó, cũng nghĩ đến người đó. Người
đó mới được thấy Phật Thế Tôn).
“Thế
Tôn ư thị tri bỉ tâm cố” (ngay khi ấy, do
đức Thế Tôn biết tâm người đó): Quư vị thường niệm Phật, Phật ắt
biết! Phật có Tha Tâm vô ngại, Thiên Nhăn vô ngại, sức
thần thông vô ngại, thấy thấu suốt những vật
vi tế. Hết thảy chúng sanh trong mười
phương cơi nước cùng lúc dấy động ư niệm,
chư Phật đều biết rơ, chẳng sót kẻ nào!
Quư vị chớ nên nghĩ: “Ta niệm A Di Đà Phật, A
Di Đà Phật có thể chẳng thấy ta hay không? Chẳng
nghĩ đến ta hay không? Chẳng nhận biết ta hay
không?” Chắc chắn là chẳng có chuyện như thế.
Nếu hết thảy chúng sanh khởi tâm động niệm,
chư Phật đều đích thân thấy biết. Đấy
là quyết định như thật. Vậy th́ quư vị
nói: “Mười phương chư Phật biết tâm chúng ta, v́ sao chúng ta niệm Phật chẳng tương ứng?”
Quư vị hăy cẩn thận quan sát cái tâm của chính ḿnh là
đang niệm Phật, hay niệm chuyện khác? Chẳng
tin, quư vị hăy xem xét cái tâm niệm Phật b́nh thường
của chính ḿnh, xem xét cẩn thận, chớ nên tự dối
ḿnh: Quư vị có thật sự niệm Phật hay không? Niệm
Phật tương ứng ư? Niệm Phật liên tục
ư? Niệm Phật thâm nhập ư? Niệm Phật chẳng
gián đoạn ư? Thật sự như nh́n vào thứ
chính ḿnh sẵn có, nh́n vào nhà ở của chính ḿnh, để
xét xem chính ḿnh có niệm vị Phật ấy hay không? Đối
với đức Phật Thế Tôn mà niệm Phật
trang nghiêm, thân thiết, như thật dường ấy,
nếu quư vị niệm Phật thật sự như thế
mà chẳng thấy Phật, vậy th́ Phật toàn nói lời
quái lạ, thốt lời hư vọng, mà tôi cũng là kẻ
nói lời quái lạ, hư dối vậy!
“Diệc
tức niệm bỉ, bỉ phương đắc kiến
Phật Thế Tôn nhĩ” (Cũng liền nghĩ tới
người đó, người đó mới được
thấy Phật Thế Tôn): V́ lẽ nào vậy? Chúng ta niệm
Phật, Phật biết chúng ta, phóng quang chiếu rọi
chúng ta. Chúng ta do thấy quang minh mà có thể biết đến
Phật. Nay chúng ta chẳng biết Phật Thế Tôn. Chúng
ta ở trong thế giới Sa Bà, biết ǵ vậy? Tham, sân,
si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng! Biết ǵ
vậy? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ.
Biết là ǵ vậy? Sở Tri Chướng và Phiền Năo
Chướng phủ lấp. Nếu nay chúng ta đă thật
sự biết Phật, cũng chẳng nhờ vào các
phương tiện khác. V́ thế, Phật biết hết
thảy chúng sanh, chúng sanh chẳng biết Phật. Chúng ta
niệm Phật, Phật biết chúng ta, phóng quang chiếu
rọi chúng ta. Đối với quang minh ấy, khi tri kiến
của quư vị thuần thục, trông thấy và sử dụng
thiện căn thuần thục th́ quư vị mới có thể
biết Phật. Nếu thiện căn biết Phật
đă thuần thục, sẽ có thể lợi ích thế
gian rộng khắp. Sự thuần thục ấy chính là
khi đă tương ứng.
Hiện
thời, lúc chúng ta trông thấy bức tượng A Di
Đà Phật này, thân tâm quư vị có mềm dịu hay không?
Tam cấu (tham, sân, si) có tiêu trừ
hay không? Nếu đối trước bức tượng
này, mà quư vị có thể tiêu trừ tam cấu, tâm chẳng
vướng mắc, như thế th́ đức Thế Tôn
cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu khởi lên tác
dụng ấy, đức Thế Tôn này và A Di Đà Phật
Thế Tôn trong thế giới Cực Lạc trọn chẳng
sai khác! Do vậy, trong kinh Vô Lượng Thọ, đức
Thế Tôn bảo: “Này A Nan! A Di Đà Phật quang minh vô
lượng, vô biên. Quang minh ấy
chiếu khắp mười phương. Nếu các chúng
sanh thấy quang minh ấy, thân tâm nhu nhuyễn, tự nhiên
hướng thiện, tam cấu tiêu trừ”. Nhưng chúng ta
thấy tượng A Di Đà Phật Thế Tôn, thân tâm có nhu
nhuyễn hay không? Có tự nhiên hướng thiện hay không?
Tam cấu có tiêu trừ hay không? Nếu tiêu trừ, đức
Thế Tôn ấy chẳng thể nghĩ bàn, quư vị sẽ có thể quay về nhà!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thời bỉ A Di Đà Như Lai, Ứng
Đẳng Chánh Giác, cáo bỉ nhân ngôn: “Chư thiện nam tử!
Nhữ đương chánh niệm, tinh cần tu tập,
phát quảng đại tâm, tất sanh thử dă”.
(經)賢護。時彼阿彌陀如來應等正覺。告彼人言。諸善男子。汝當正念精勤修習發廣大心。必生此也。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Khi đó, A Di Đà Như Lai, Ứng
Đẳng Chánh Giác, bảo người ấy rằng:
“Các thiện nam tử! Các ông hăy nên chánh niệm, siêng ṛng tu
tập, phát tâm rộng lớn, ắt sanh về cơi này”).
V́
sao trong các kinh điển, có chỗ nói “thiện nam tử,
thiện nữ nhân”, có chỗ chỉ nói một ḿnh “thiện nam tử”? Điều này thật
sự là một khích lệ, bảo cho chúng ta biết Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nữ
nhân. Thật sự chẳng phải là sắc thân như
trong Dục Giới, làm sao có nữ nhân cho được?
Nữ nhân chính là một thân trong hai loại thân phân biệt
được hiển hiện bởi chúng sanh trong Dục
Giới, tức là nam thân và nữ thân. Hữu t́nh trong Dục
Giới cho rằng: “Ái chà! Nếu thế giới
ấy không có nữ nhân, tuyệt quá!” [Thân của chúng sanh
trong] thế giới ấy (thế giới Cực Lạc)
là thân tướng báu, đầy đủ hết
thảy công đức thiện xảo, chẳng cần hai loại thân phân biệt, tức là chẳng
cần thân nam hay nữ. Quư vị chớ nên tiếc nuối,
v́ thân hiện tại của chúng ta là cái thân tàn khuyết,
thân chẳng trọn vẹn!
Thông
thường, thân của chư thiên được gọi
là “thân tướng báu”. Đối với thân tướng
báu, có một câu chuyện xưa cho biết: Hám Sơn đại
sư từ trong cảnh giới [Thiền Định], gặp
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Văn Thù Bồ
Tát muốn gột rửa tâm cấu cho Sư, liền dẫn
Sư đến một chỗ ao tắm. Sư nh́n Văn
Thù Bồ Tát, nghĩ: “Người này là nữ nhân, chẳng
nên cùng tắm chung với người này”. V́ thế, tính bỏ
đi. Lúc đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chợt
hiện toàn thân, dung nhập hư không. Hám Sơn đại
sư trông thấy sắc thân quư báu. Sau đó, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chụp lấy
Sư, đem Sư tẩy gột. V́ chúng ta có cái tâm phàm phu,
do đối đăi mà sanh ra tướng
nam nữ, cho nên phần nhiều sanh các dục. Nhưng các vị đại trí viên thành, thật sự chẳng phân biệt, thân
tự trọn đủ. Thân trọn đủ mà tâm
cũng trọn đủ, trọn đủ oai đức
thiện xảo, chẳng sợ hăi. Nhưng chúng ta hiện
thời nói đến thân nam sẽ có điều sợ
hăi, mà nói tới thân nữ
cũng có chỗ sợ hăi. Do thân tâm chẳng trọn
đủ, có nhiều thiếu sót, cho nên sanh vào Dục Giới.
Các vị thiện tri thức đừng sanh sợ hăi!
Đă là người học Phật, chẳng cần phải
sợ hăi những điều ấy!
(Kinh)
Hiền Hộ! Thời bỉ Bồ Tát phục bạch A
Di Đà Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị trung vân hà niệm
Phật Thế Tôn, tinh cần tu tập, phát quảng đại
tâm, đắc sanh thử sát da?” Hiền Hộ! Thời bỉ
A Di Đà Phật, phục cáo bỉ ngôn: “Chư thiện nam
tử! Nhược nhữ kim dục chánh niệm Phật
giả, đương như thị niệm. Kim giả A
Di Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật Thế Tôn, hữu như thị tam thập nhị
tướng, bát thập tùy h́nh hảo, thân sắc quang minh
như dung kim tụ, cụ túc thành tựu chúng bảo liễn
dư, phóng đại quang minh, tọa sư tử ṭa,
sa-môn chúng trung, thuyết như tư pháp, kỳ sở thuyết
giả, vị nhất thiết pháp bổn lai bất hoại”.
(經)賢護。時彼菩薩復白阿彌陀佛言。世尊。是中雲何唸佛世尊。精勤修習發廣大心得生此剎耶。賢護。時彼阿彌陀佛復告彼言。諸善男子。若汝今欲正念佛者。當如是念。今者阿彌陀如來。應等正覺。明行足。善逝世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。具有如是三十二相。八十隨形好。身色光明如融金聚。具足成就衆寶輦轝。放大光明。坐師子座沙門衆中。說如斯法。其所說者。謂一切法本來不壞。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Khi đó, vị Bồ Tát ấy lại
bạch cùng A Di Đà Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!
Trong ấy th́ niệm Phật Thế Tôn, siêng ṛng tu tập,
phát tâm rộng lớn như thế nào để được
sanh về cơi ấy?” Này Hiền Hộ! Lúc bấy giờ,
A Di Đà Phật lại bảo người ấy rằng:
“Chư thiện nam tử! Nếu nay các ông muốn niệm
Phật chánh đáng, hăy niệm như thế này: Nay A Di
Đà Như Lai, Ứng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật Thế Tôn có đủ ba mươi hai tướng,
tám mươi tùy h́nh hảo như thế, thân sắc quang
minh như khối vàng nung chảy, thành tựu trọn
đủ các xe cộ báu, tỏa quang minh lớn, ngồi
trên ṭa sư tử, trong các sa-môn, thuyết pháp như thế.
Những điều Ngài nói đều là hết thảy các
pháp vốn chẳng hoại”).
Chỉ
nói đến căn bản của pháp tánh.
(Kinh)
Diệc vô hoại giả, như bất hoại Sắc,
năi chí bất hoại Thức đẳng chư Ấm cố!
(經)亦無壞者。如不壞色。乃至不壞識等諸陰故。
(Kinh:
“Cũng bất hoại” là như chẳng hoại các Ấm
từ chẳng hoại Sắc cho đến chẳng hoại
Thức v.v…)
V́
lẽ nào? Bản chất của chúng là “các pháp bất hoại”.
Chư pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường
trụ! Thấu suốt thẳng vào cội nguồn, chẳng
cần phải phá hoại các pháp. V́ hết thảy các pháp
vốn bất hoại, nay chúng ta thấy chúng nó sanh sanh diệt diệt, huyễn hóa, đều là trong cái tâm
sanh diệt của chính ḿnh, tức là trong thế giới
nhị nguyên thuộc vào cái tâm “lấy, bỏ, đối
đăi” của chính
ḿnh. Người trọn đủ thiện xảo quán hết
thảy các pháp an trụ chẳng nghi, chẳng tăng, chẳng
giảm, thủ hộ pháp giới thanh tịnh, an trụ
trong hiện duyên.
(Kinh)
Hựu như bất hoại Địa, năi chí bất hoại
Phong đẳng chư Đại cố.
(經)又如不壞地。乃至不壞風等諸大故。
(Kinh: Lại
như chẳng hoại các Đại, từ chẳng hoại
Địa cho đến chẳng hoại Phong v.v…)
Nói
về Tứ Đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong.
(Kinh)
Hựu bất hoại Sắc, năi chí bất hoại Xúc
đẳng chư Nhập cố.
(經)又不壞色。乃至不壞觸等諸入故。
(Kinh:
Lại chẳng hoại các Nhập, từ chẳng
hoại Sắc cho đến chẳng hoại Xúc v.v…)
Chỉ
Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp lục nhập!
(Kinh)
Hựu bất hoại Phạm, năi chí bất hoại nhất
thiết thế chủ đẳng.
(經)又不壞梵。乃至不壞一切世主等。
(Kinh: Lại
chẳng hoại Phạm Thiên cho đến chẳng hoại
hết thảy các vị chủ của thế gian).
Tức
là chẳng hoại hết thảy chư thiên.
(Kinh)
Như thị năi chí bất niệm bỉ Như Lai, diệc
bất đắc bỉ Như Lai. Bỉ tác như thị
niệm Như Lai dĩ, như thị
thứ đệ đắc Không tam-muội.
(經)如是乃至不念彼如來。亦不得彼如來。彼作如是念如來已。如是次第得空三昧。
(Kinh:
Như thế cho đến chẳng niệm đức
Như Lai ấy, cũng chẳng thấy có đức
Như Lai đó. Người ấy niệm Như Lai như thế xong, theo thứ tự như thế mà đắc Không tam-muội).
Tướng pháp
giới là nhất như, chẳng động, chẳng
lay, chẳng tăng, chẳng giảm, pháp giới vốn tịnh, đều cùng sáng suốt. Không tam-muội
có thể chiếu tỏ, nhận biết, trông thấy
chư Phật. V́ cớ sao? Tâm trí tự tại nơi Không
tam-muội; khi đó, chỉ do thức sanh, tâm sanh thấy
Phật liền thấy Phật. Tâm sanh thấy pháp liền
thấy pháp. Chẳng có Không tam-muội, chẳng thấy
quang minh tạng, chẳng thấy cảnh giới quang minh,
mà trực tiếp thấy Phật th́ rất hiếm hoi, có
nhiều điều chướng ngại! Chúng ta đặt
ra rất nhiều chướng ngại cho tâm trí, muốn
văng sanh cơi đó mà chẳng văng sanh cơi ấy. V́ sao có thể
văng sanh? V́ sao chẳng văng sanh? Rất nhiều tạp niệm
chất chứa nghẹt cứng trong tâm của chính
ḿnh, cho nên chẳng thể thấy các diệu tướng,
chẳng thể thấy cảnh giới Không quang minh rộng
lớn, muốn thấy Phật rất khó!
(Kinh)
Thiện nam tử! Thị danh chánh niệm Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội dă.
(經)善男子。是名正念諸佛現前三昧也。
(Kinh: Này thiện
nam tử! Đó gọi là chánh niệm Chư Phật Hiện
Tiền tam-muội).
Do
đó, Không tam-muội là thiện xảo bậc nhất.
Đó gọi là “thanh tịnh niệm Phật chẳng
đắm nhiễm”, rành rẽ, phân minh, trọn chẳng
có ǵ để có thể đạt được, trực
tiếp tiến nhập Phật địa, thấy chư
Phật công đức rất sâu, chẳng thể nghĩ
bàn, và cũng thấy Phật, nghe pháp.
(Kinh)
Hiền Hộ! Nhĩ thời, bỉ Bồ Tát tùng tam-muội
khởi dĩ, lai nghệ nhữ sở, thuyết thử
tam-muội tướng giả.
(經)賢護。爾時彼菩薩從三昧起已。來詣汝所。說此三昧相者。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Lúc bấy giờ, vị Bồ Tát ấy từ
tam-muội khởi rồi, đến chỗ của ông,
nói tướng tam-muội ấy).
V́
sao từ tam-muội khởi? Trước đó là tư duy như thế, đă đắc
tam-muội; sau đấy, tới hỏi tam-muội,
chứng thực tam-muội.
(Kinh)
Nhữ thời tức ưng vị bỉ thuyết pháp,
tùy thuận giáo hóa, linh ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề, đắc bất thoái chuyển.
(經)汝時即應爲彼說法。隨順教化。令於阿耨多羅三藐三菩提。得不退轉。
(Kinh:
Lúc ấy, ông hăy nên v́ người ấy thuyết pháp, tùy
thuận giáo hóa, khiến cho người ấy đắc
bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam
Bồ Đề).
Chúng ta biết: Sau
khi thấy Phật, nhất định có một sự
liên tục. Đối với sự liên tục theo thứ
tự ấy, người ấy nên tư duy như thế
này: “Phật chẳng đến, mà ta cũng chẳng
đi, dùng ǵ
để thấy Phật?” Người ấy chẳng thể
nào không thắc mắc như vậy. Khi thắc mắc, sẽ từ
trong tự tánh mà thấy,
bèn nói: “Tâm tịnh th́ sẽ thấy Phật. Niệm Phật
sẽ thấy Phật. Duyên Phật sẽ thấy Phật.
Pháp thật sự chẳng đến đi, chẳng sanh
diệt”. Tuy là Vô, nhưng do tâm tạo tác, do tâm
ư thuần tịnh, cho nên trông thấy chư Phật, liễu
đạt tự tánh, cùng lúc rốt
ráo an trụ, cùng lúc chọn
lựa chẳng nghi. Cho nên sẽ thật sự đạt
được lợi ích do an trụ
trong sự lựa chọn rốt ráo nơi Phật pháp, tức là
vĩnh viễn chẳng bị mê loạn bởi hai pháp Kiến
Hoặc và Tư Hoặc. Sau đó, đối với các thứ khống chế,
lôi kéo do tập khí vi tế trong Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc
sẽ đặc biệt dễ thay đổi, dễ chuyển
hóa, dễ nhận thức! Kiến Hoặc và Tư Hoặc
thô nặng khiến cho hữu t́nh mê muội. Trong giáo pháp của
đức Phật th́ Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền
(Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng)
có thể chế phục phiền năo. Nếu đạt
được sức tự tại trong địa vị
Bồ Tát, dự vào Hoan Hỷ Địa, sẽ đoạn
trừ hết thảy phiền năo Kiến Tư Hoặc,
tâm sanh hoan hỷ. Lúc nào, chỗ nào, cũng đều đạt
được hoan hỷ đối với hai pháp Kiến
và Tư, trừ khử hết thảy gánh nặng và
băn khoăn. Trong cái tâm ấy, hết thảy đối
đăi đều tiêu mất. V́ thế nói là “nhập Hoan
Hỷ Địa”. Do đoạn trừ hết thảy
phiền năo thuộc Kiến Hoặc và Tư Hoặc, cho
nên tâm hoan hỷ. Quư vị nói chính ḿnh tu pháp đạt
được lợi ích, vậy th́ có thể đoạn
trừ Hoặc hay chăng? Trong thực tế, môn tam-muội Thập
Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập
này có thể khiến
cho chúng ta trực tiếp nhận biết chỗ tồn tại
của Kiến Hoặc và Tư Hoặc, có thể trực
tiếp thấy tự tánh chẳng đến đi, chẳng
sanh diệt.
Hành
pháp Ban Châu rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp
thâu các chuyện thuộc Bát Địa, trong một đời
liền đắc bất thoái chuyển! Chẳng phải
là khoa trương pháp môn này đâu nhé! Pháp môn này thật sự
chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, trong Hán truyền Phật
giáo, các vị thiện tri thức trải khắp các đời
sau khi đă có thành tựu công đức tam-muội nhất
định, đều siêng năng hành tŕ pháp này, như Trí
Giả đại sư, Viễn công đại sư
(sơ tổ Huệ Viễn), Thiện Đạo đại
sư, Thừa Viễn đại sư, pháp sư Đàm
Loan, Đạo Tuyên luật sư v.v… Có thể tùy ư mà nêu ra
[rất nhiều trường hợp như thế]. Trong một
số tự viện khá lớn, chung quanh trượng thất (thất của vị Phương
Trượng), phần nhiều có Ban Châu Đường. Như ngôi chùa mọi người
khá quen thuộc là chùa Đại Linh Nham tỉnh Sơn
Đông, sau Thiên Phật Điện, trong khoảng giữa
bên phải của Phương Trượng Viện và Bích
Chi Phật Tháp, ở chỗ lơm vào trong, có lập Ban Châu
Đường, giống như bộ vị của trái
tim. Từ đời Đường đến nay, trải
qua các triều đại, đều dựng Ban Châu Điện
tại đó. Hành pháp như thế quả thật đáng
nên tu tập, đáng nên quan sát, v́ nó thâu nhiếp cả phàm
lẫn thánh!
Qua
một thời gian học tập, chúng ta có thể quan sát
thấy bộ kinh này chủ yếu lấy
Quán và Niệm làm chánh, tư duy công đức thù thắng của
A Di Đà Phật để ngưng lặng cái tâm một
chỗ, khiến cho tâm trí thông thuận, sáng suốt, thấy
Phật, nghe pháp, ḥng chứng
Vô Sanh.
(Kinh) Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ
Kinh, quyển
đệ nhị.
Hiền Hộ Phần Tư
Duy Phẩm chi dư.
(經)大方等大集賢護經卷第二。
賢護分思惟品之餘。
(Kinh: Đại Phương Đẳng
Đại Tập Hiền Hộ
Kinh, quyển thứ hai.
Hiền Hộ Phần, phẩm Tư Duy tiếp
theo).
Quán
Tưởng Niệm Phật là một loại trong pháp môn
Niệm Phật. C̣n có Thật Tướng Niệm Phật,
Xưng Danh Niệm Phật v.v… Đối với Quán Tưởng
Niệm Phật, bộ kinh này lại càng nói cặn kẽ.
C̣n như Quán Tướng Niệm Phật (觀相念佛, niệm Phật
bằng cách quán các tướng nơi y báo và chánh báo) th́ kinh Quán Vô
Lượng Thọ miêu tả đặc biệt tường
tận. Kinh A Di Đà đề xướng Tŕ Danh Niệm
Phật. Kinh Vô Lượng Thọ đề xướng
thuận theo nguyện lực của Phật để niệm
Phật. Tuy có các loại niệm Phật, đều chẳng
ĺa niệm danh hiệu của Phật. Kinh Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ
đề xướng Quán Tưởng Niệm Phật
cũng là v́ để giữ măi danh hiệu trong tâm. Do
đó, trong một pháp Tịnh Độ, Tŕ Danh Niệm Phật
là phương tiện chính để thực hiện. Dù là Quán Tướng, Quán Tưởng, Thật Tướng, hay Tŕ Danh Niệm Phật th́ cũng đều là
phương tiện, cho đến thuận theo nguyện lực của Phật để nhập Niệm
Phật tam-muội. Các cách thức tu tŕ đều
dùng niệm Phật để hướng dẫn ḥng đạt
đến thanh tịnh.
(Kinh)
Hiền Hộ! Ngă thời tắc diệc thọ bỉ Phật
kư: “Thị nhân đương lai tất đắc thành Phật,
hiệu viết Đức Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng,
Đẳng Chánh Giác, năi chí Phật Thế Tôn”.
(經)賢護。我時則亦授彼佛記。是人當來必得成佛。號曰德光明如來應供等正覺。乃至佛世尊。
(Kinh: Này Hiền
Hộ! Lúc đó, ta cũng thọ kư Phật quả cho
người ấy: “Người này trong tương lai, ắt
được thành Phật, hiệu là Đức Quang Minh
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, cho đến Phật
Thế Tôn”).
Thọ kư (Vyākaraṇa, 授記) chính là
một chỉ dạy an ổn mười phần trọng
yếu trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, đích xác
là một lời dạy như thật: “Có cái nhân như thế,
sẽ có cái quả như thế”. Chỉ nhằm hiển hiện pháp tắc
nhân quả, hiển hiện Tu Đức. Chúng ta “niệm
Phật thành Phật”, cũng tất nhiên là như vậy.
Đó là hàm nghĩa trong lời thọ kư.
(Kinh)
Hiền Hộ! Thị trung tam-muội thùy đương
chứng tri.
(經)賢護。是中三昧誰當證知。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Trong đây, ai sẽ chứng biết môn
tam-muội ấy?)
Trong
hàng đệ tử của đức Phật, có ai chứng
biết môn Thập Phương Chư Phật Tất Giai
Hiện Tiền tam-muội hay không?
(Kinh)
Kim ngă đệ tử Ma Ha Ca Diếp, Đế Thích Đức
Bồ Tát, Thiện Đức thiên tử, cập dư vô
lượng chư Bồ Tát bối, hàm dĩ tu đắc
thử tam-muội giả, thị vi chứng, vân hà chứng?
Sở vị Không tam-muội
dă!
(經)今我弟子摩訶迦葉。帝釋德菩薩。善德天子。及餘無量諸菩薩輩。鹹已修得此三昧者。是爲證。云何證。所謂空三昧也。
(Kinh:
Nay đệ tử ta là Ma Ha Ca Diếp, Đế Thích
Đức Bồ Tát, Thiện Đức thiên tử, và vô
lượng các vị Bồ Tát khác, đều đă tu
được môn tam-muội này, đều đă chứng.
Chứng ǵ vậy? Chính là Không tam-muội).
“Kim
ngă đệ tử Ma Ha Ca Diếp” (nay đệ tử
của ta là Ma Ha Ca Diếp), chúng ta hằng ngày bầu bạn
với ngài Ma Ha Ca Diếp tại đây. V́ sao có nhân duyên học
tập, tu tập Ban Châu tam-muội, tức Thập
Phương Chư Phật Hiện Tiền tam-muội tại
đây? Không ǵ chẳng do Tam Bảo gia tŕ, mà cũng là do tôn
giả đă đích thân chứng đắc. “Thị vi
chứng” (là người đă chứng): Nói Chứng tức
là nói pháp tam-muội này chẳng lập
ra hư dối trong thế gian, do được Bồ
Tát, Thanh Văn thủ hộ, mà cũng là do được
bậc thiện xảo trong đời sau yêu thích, hướng
tới. Nếu không có bậc tiên hiền chứng nhập,
không được hàng Bồ Tát tại gia lẫn xuất
gia thủ hộ, chúng ta sẽ không có cách nào để chứng!
(Kinh)
Hiền Hộ! Ngă niệm văng tích hữu Phật Thế
Tôn, hiệu Tu Ba Nhật. Thời hữu nhất nhân, hành trị
khoáng dă, cơ khát nhân khổ, toại tức thụy miên, mộng
trung cụ đắc chư chủng thượng diệu
mỹ thực. Thực chi kư băo, vô phục cơ hư.
(經)賢護。我念往昔有佛世尊。號須波日。時有一人。行值曠野。飢渴因苦。遂即睡眠。夢中具得諸種上妙美食。食之既飽。無復飢虛。
(Kinh:
Này Hiền Hộ! Ta nhớ xưa kia có Phật Thế Tôn,
hiệu là Tu Ba Nhật. Lúc đó, có một người,
đi đường gặp phải đồng hoang, khổ
sở v́ đói khát, liền ngủ thiếp đi. Trong mộng
thấy có đầy đủ các thức ăn ngon lành nhất.
Đă ăn no rồi, chẳng c̣n đói ḷng nữa).
Trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta, tất cả các nghiệp tạo
tác trong từng sát-na liền qua đi, cũng đều
như trong mộng. Hăy xem kinh văn ở nơi đây là
[nói về] giấc mộng ǵ vậy? “Mộng trung cụ
đắc chư chủng thượng diệu mỹ thực.
Thực chi kư băo, vô phục cơ hư” (Trong mộng, thấy
có được đầy đủ các thức ăn
ngon lành nhất. Đă ăn no rồi, chẳng c̣n đói
ḷng nữa).
(Kinh)
Tùng thị ngụ dĩ, hoàn phục cơ khát. Thị nhân
nhân thử, tức tự tư duy.
(經)從是寤已。還復飢渴。是人因此。即自思惟。
(Kinh: Tới
khi tỉnh giấc, lại đói khát như cũ. Người
ấy do đó liền tự tư duy).
Các
vị thiện tri thức! Trong hai phẩm này, đức
Thế Tôn không ngừng chỉ dạy chúng ta thông qua tư
duy, quán niệm, quan sát để thực tập pháp tắc
này.
(Kinh)
Như thị chư pháp, giai không, vô thật, do mộng sở
kiến, bổn tự phi chân.
(經)如是諸法。皆空無實。猶夢所見。本自非真。
(Kinh: Các
pháp như thế đều là không, chẳng thật, ví
như thấy trong mộng, vốn tự chẳng chân thật).
Hết
thảy các pháp cũng giống như thế.
(Kinh)
Như thị quán thời, ngộ Vô Sanh Nhẫn, đắc
bất thoái chuyển ư A Mậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề.
(經)如是觀時。悟無生忍。得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh: Khi
quán như thế, ngộ Vô Sanh Nhẫn, đắc bất
thoái chuyển nơi A Mậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề).
“Như
thị quán thời, ngộ Vô Sanh Nhẫn” (khi quán như
thế, ngộ Vô Sanh Nhẫn): Trong Tín Nhẫn, Thuận Nhẫn,
và Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức trong “Như Lai tam nghiệp”,
nếu chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ liễu thoát hết
thảy sanh tử, trừ hết thảy phiền năo, tiêu
hết thảy chướng ngại, sẽ đạt được phương tiện
tự tại, trọn đủ hết thảy các pháp thiện
xảo.
(Kinh)
Như thị Hiền Hộ! Hữu chư Bồ Tát, nhược tại
gia, nhược xuất gia, văn hữu chư Phật,
tùy hà phương sở, tức hướng bỉ
phương, chí tâm đảnh lễ.
(經)如是賢護。有諸菩薩若在家。若出家。聞有諸佛。隨何方所。即向彼方。至心頂禮。
(Kinh:
Như thế đó Hiền Hộ! Có các Bồ Tát tại
gia hay xuất gia, nghe có chư Phật, sẽ tùy theo
phương vị, nơi chốn của vị ấy, bèn
hướng về phương đó, chí tâm đảnh lễ).
Pháp
tu cung kính là duyên khởi của hết thảy các pháp tắc,
là chỗ tồn tại công đức chân thật của
hết thảy các pháp. Nếu ĺa
khỏi cái tâm chí thành và tâm cung kính, hết thảy các pháp
đều trở thành chẳng có cơ sở, v́ hết thảy
các pháp nhờ vào Tu Đức hiển lộ, nhờ vào hiển
dụng mà hiển hiện, nhờ vào Sự mà hiển hiện,
thuận lư thành chương!
(Kinh)
Tâm trung khát ngưỡng, dục kiến bỉ Phật.
(經)心中渴仰。欲見彼佛。
(Kinh:
Trong tâm khát ngưỡng, muốn thấy đức Phật
ấy).
Chúng
ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật cũng giống như thế.
Một phần kiền thành, đạt được
một phần lợi ích. Một phần kiền thành, đạt được một
phần công đức hiện tiền. Phần ấy do ai
vận dụng? Chính là pháp tắc thực tiễn trong hiện
tiền, do kiền thành
mà được hiện tiền. Chúng ta là
người thuộc thời Mạt Pháp, chẳng đủ
kiền thành, tự phụ có thừa. Trong sanh mạng của
chúng ta, điều đáng nên quan sát là phải nên làm như thế nào? Hăy siêng tu cái tâm chí
thành, cung kính ấy!
(Kinh)
Cố tác như thị chuyên tinh tư duy.
(經)故作如是專精思惟。
(Kinh:
Cho nên chuyên ṛng tư duy như thế).
Như
đă nói trong phần trước, hoặc một ngày, hai
ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất
tâm tư duy, siêng ṛng tư duy, chuyên ṛng tư duy. Các thứ
tư duy như thế chẳng ĺa Phật, chẳng ĺa quốc
độ ấy, chẳng ĺa thanh tịnh hải chúng ấy.
Tư duy như thế, ắt sẽ được chư
Phật thanh tịnh gia tŕ. Chúng ta chẳng ngại trong pháp
tu b́nh thường, hoặc trong khi tu pháp Ban Châu, có thể
biến đổi một chút, khiến cho nó trang nghiêm, giống
như Biến Tướng Đồ[3]
của thế giới Cực Lạc: Hăy xếp đặt
các h́nh tượng, đồ họa trang nghiêm, khiến cho kẻ
khác yêu thích, vui sướng. Như thế th́ sẽ có sức
gia tŕ bất cộng đối với sự cảm ứng
và sức chuyên chú của chúng ta trong khi tu tŕ niệm Phật.
“Thủ tướng tư duy” (取相思維, dùng h́nh tướng
để tư duy) là phương tiện để tư
duy và khế nhập. Chớ nên có suy nghĩ [h́nh tướng
và các vật trang nghiêm là] rỗng tuếch [chẳng cần
phải dùng đến chúng], như thế th́ sẽ dễ
dàng tiến nhập lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh)
Phục ưng đương quán như thị sắc
tướng, diệc tức tác bỉ hư không chi tưởng.
(經)復應當觀如是色相。亦即作彼虛空之想。
(Kinh: Lại
hăy nên quán sắc tướng như thế, cũng tưởng
nó như hư không).
“Như
thị sắc tướng” (sắc tướng như
thế) tức là sắc tướng của đức Phật
ấy. “Hư không chi tưởng” (tưởng
như hư không): Tuy có đủ loại diệu tướng,
bản chất của diệu tướng ấy cũng
là hư giả, rốt cuộc chẳng thật. Tuy chẳng
thật, các thứ diệu tướng an lập thế
gian, lợi ích chúng sanh, an ủi chúng sanh, khiến cho chúng
sanh xa ĺa sự rỗng tuếch, là lợi ích chân thật!
Giống như thức ăn của chúng ta vốn là Không, nhưng quư vị ăn một bữa, sẽ có
tinh thần và thể lực. Tuy nó chẳng thật,
nhưng do các duyên ḥa hợp, do phước đức tụ
tập, cho tới sức của một bữa cơm
cũng giống như thế. Trong khi chúng ta tu Ban Châu tam-muội,
hay c̣n gọi là Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền, tuy chẳng có pháp thật sự để có thể
đạt được, nhưng ắt có báo đức
của đức Phật ấy thành tựu, nhiếp hóa
mười phương, khiến cho kẻ cung kính tiến
nhập sẽ được thọ dụng. Đó là
phương tiện thiện xảo chẳng thể
nghĩ bàn
(Kinh)
Nhi bỉ thành tựu hư không tưởng dĩ, đắc
trụ như thị chánh tư duy trung. Trụ tư duy
dĩ, đắc kiến bỉ Phật, quang minh thanh triệt,
như tịnh lưu ly. Kỳ h́nh đoan chánh, như chân
kim trụ. Như thị niệm giả, bỉ kiến
Như Lai, diệc phục như thị.
(經)而彼成就虛空想已。得住如是正思惟中。住思惟已。得見彼佛。光明清徹。如淨琉璃。其形端正。如真金柱。如是念者。彼見如來。亦復如是。
(Kinh:
Người đă thành tựu hư không tưởng, sẽ
trụ trong chánh tư duy như thế. Đă trụ trong
chánh tư duy, sẽ được thấy đức Phật
ấy, quang minh trong sáng, thấu suốt, như lưu ly
thanh tịnh. Thân h́nh Ngài đoan chánh như trụ bằng vàng ṛng. Người niệm
như thế, sẽ thấy Như Lai cũng giống
như thế).
“Nhi
bỉ thành tựu hư không tưởng dĩ, đắc
trụ như thị chánh tư duy trung” (Người
đă thành tựu hư không tưởng, sẽ trụ
trong chánh tư duy như thế): Nếu chấp là thật,
người ấy sẽ dễ nẩy sanh mê hoặc và ma
nạn. Nếu chấp vào ngoan không, người ấy sẽ
đọa trong nghiệp hư giả. Trong tạo tác nghiệp,
giống như “cục đá ngâm trong nước lạnh”,
chẳng thể tăng trưởng các thiện công đức,
tâm chẳng sanh khởi, phần nhiều trụ trong tâm trí
u ám, đối với ḿnh th́ chẳng thể sanh ḷng vui mừng
đối với pháp, đối với người khác
th́ chẳng thể sanh hai pháp Bi và Trí, chẳng đắc lực
trong thế gian, chẳng thể tạo lợi ích rộng
răi cho hữu t́nh.
(Kinh)
Phục thứ, Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, hốt
tùng bổn quốc, chí ư tha phương. Tuy tại tha
phương, nhi thường truy ức bổn sở sanh xứ,
tằng như thị kiến, diệc như thị
văn, như thị ức niệm, như thị liễu
tri. Cửu truy ức cố, ư thụy mộng trung, minh
kiến tự thân, tại bổn sanh xứ, du tùng kiến
văn, như tiền sở cánh. Thị nhân hậu thời,
hướng chư quyến thuộc, cụ luận mộng
trung sở kiến chi sự: “Ngă như thị kiến, ngă
như thị văn, ngă như thị doanh vi, như thị
hoạch đắc”. Như thị Hiền Hộ! Hữu
chư Bồ Tát, nhược tại gia, nhược xuất
gia, nhược tùng tha văn, hữu Phật Thế Tôn tùy
hà phương sở, tức hướng bỉ
phương, chí tâm đảnh lễ, dục kiến bỉ
Phật, chánh niệm bất loạn. Ứng niệm tức
kiến bỉ Phật h́nh tượng, hoặc như
lưu ly, hoặc thuần kim sắc, diệc phục
như thị.
(經)復次賢護譬如有人。忽從本國至於他方。雖在他方。而常追憶本所生處。曾如是見。亦如是聞。如是憶念。如是了知。久追憶故。於睡夢中。明見自身。在本生處。遊從見聞。如前所更。是人後時。向諸眷屬。具論夢中所見之事。我如是見。我如是聞。我如是營爲。如是獲得。如是賢護。有諸菩薩。若在家。若出家。若從他聞。有佛世尊。隨何方所。即向彼方。至心頂禮。欲見彼佛。正念不亂。應念即見彼佛形像。或如琉璃。或純金色。亦復如是。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Ví như có người bỗng từ
nước ḿnh đến phương khác. Tuy ở
phương khác, nhưng thường nhớ lại
nơi chỗ ḿnh vốn sống, từng thấy như thế,
cũng từng nghe như thế, nghĩ nhớ như thế,
biết rơ như thế. Do hồi tưởng lâu ngày, trong
giấc mộng, thấy rơ tự thân ở nơi ḿnh vốn
sống, dạo qua những chỗ từng thấy nghe, hệt
như trước kia. Người ấy sau đó, hướng
về các quyến thuộc, bàn luận cặn kẽ
chuyện được thấy trong mộng: “Ta thấy
như thế, ta nghe như thế, ta lo liệu, thực hiện
như thế, đạt được như thế”.
Như thế đó Hiền Hộ! Có các Bồ Tát dù tại
gia, hay xuất gia, nếu từ người khác nghe nói
có đức Phật Thế Tôn ở phương vị,
nơi chốn nào đó, liền hướng về
phương ấy, chí tâm đảnh lễ, muốn thấy
đức Phật ấy, chánh niệm chẳng loạn. Ứng
theo tâm niệm, liền thấy h́nh tượng đức
Phật ấy hoặc như lưu ly, hoặc màu vàng ṛng,
cũng giống như thế).
Đức
Thế Tôn nêu ra nhiều tỷ dụ, khiến cho chúng ta là
những kẻ hữu duyên trong hiện tiền sẽ
nương theo các hiện tượng
mà chính ḿnh có thể suy nghĩ, có thể quán trong hiện tiền, để thấy thấu suốt lợi ích chẳng
thể nghĩ bàn trong Phật pháp. Chẳng hạn như
chúng ta tới núi Kê Túc, giả
sử trước nay quư vị chưa từng đến,
người khác bèn dựa trên các nhân duyên quư vị đă biết
để lập ra đủ loại tỷ dụ, khiến
cho quư vị liễu giải núi Kê Túc. Đấy là phương
pháp bị động, mục đích thật sự là
hướng dẫn quư vị tới núi Kê Túc, đúng là vừa
nh́n bèn hiểu ngay, biết rốt ráo. Lời lẽ thí dụ
rốt cuộc chẳng thật. Nếu chúng ta chẳng
đích thân chứng Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền tam-muội th́ các thứ ngôn thuyết và tỷ dụ của Như Lai đều là một loại
hướng dẫn khéo léo, khéo gia tŕ, khéo d́u dắt, như
thế mà thôi!
“Dục
kiến bỉ Phật, chánh niệm bất loạn, ứng
niệm tức kiến bỉ Phật h́nh tượng, hoặc
như lưu ly, hoặc thuần kim sắc, diệc phục
như thị” (Muốn thấy đức Phật ấy,
chánh niệm bất loạn, ứng theo ư niệm liền
thấy h́nh tượng của đức Phật ấy,
hoặc như lưu ly, hoặc màu vàng ṛng, cũng giống
như thế): Nay chúng ta nương theo các giáo ngôn
được ghi chép bằng văn tự trong kinh điển,
nghe đức Thế Tôn tường thuật cặn kẽ
Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho đến
tướng công đức thù thắng nhiệm mầu của
mười phương chư Phật, khiến cho chúng ta
hoan hỷ, hướng về, dùng tịnh tâm tiến
hướng, được thấy, được nghe
chân thật tương ứng các loại tướng khác
biệt. Nếu chuyên niệm một đức Phật, sẽ
được thấy đức Phật ấy. V́ thế,
chuyên niệm Phật, sẽ được thấy chư
Phật. Thấy hết
thảy Phật, không ǵ hơn phương tiện nghe pháp,
khiến cho tâm trí khai giải, chứng Vô Sanh Nhẫn, thật
sự liễu đạt tự tánh. Đó là mục
đích thấy Phật, là công đức pháp ích thuần
chánh vậy!
(Kinh) Phục thứ
Hiền Hộ! Thí như tỳ-kheo tu Bất Tịnh Quán,
kiến tân tử thi, h́nh sắc thỉ biến, hoặc
thanh, hoặc hoàng, hoặc hắc, hoặc xích, hoặc thời
bàng trướng, hoặc dĩ lạn hoại, nùng huyết
câu lưu, trùng thú thực đạm, nhục tận cốt
bạch, kỳ sắc như kha. Như thị năi chí quán cốt
ly tán, nhi bỉ cốt tán vô sở tùng lai, diệc vô sở
khứ, duy tâm sở tác, hoàn kiến tự tâm.
(經)復次賢護。譬如比丘修不淨觀。見新死屍。形色始變。或青或黃。或黑或赤。或時膖脹。或已爛壞。膿血俱流。蟲獸食啖。肉盡骨白。其色如珂。如是乃至觀骨離散。而彼骨散無所從來亦無所去。唯心所作還見自心。
(Kinh: Lại
này Hiền Hộ! Ví như tỳ-kheo tu Bất Tịnh
Quán, thấy tử thi mới chết, h́nh sắc bắt
đầu biến đổi, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc
đen, hoặc đỏ, hoặc có lúc trương
phềnh, hoặc là hư nát, máu mủ cùng tuôn chảy,
trùng, thú ăn nuốt, hết thịt, lộ xương
trắng, màu như ngọc trắng. Như thế cho tới
quán xương ly tán, nhưng xương ấy ly tán chẳng
từ đâu đến, chẳng đi về đâu, chỉ
do tâm tạo, lại thấy tự tâm).
Bất
Tịnh Quán là pháp tắc thực tế mà mọi người
chúng ta có thể tiếp xúc. Trong Hán truyền Phật giáo,
người tu Bất Tịnh Quán rất ít ỏi. Trước
kia, chúng tôi ở trong núi, giáo dục tối sơ là phải
tu Bất Tịnh Quán, cho đến hai pháp xả thân và xả
Thức. Bất Tịnh Quán là một pháp thiện xảo
để xả thân và xả Thức. Nếu chẳng khởi
Bất Tịnh Quán, sẽ chẳng thể xả thân
được! Nếu chẳng biết Thức là vô
thường, Thức là đổi khác, sẽ chẳng thể xả Thức được! Do nó đổi khác, vô
thường, vô ngă, cho nên sẽ xả thân được,
sẽ xả Thức được! Một người ở
nơi hung hiểm, như khe nước trong núi, rừng
sâu, hoặc nhằm chỗ cư trụ
của La Sát quỷ mẫu, hành các pháp tắc ấy, muốn
cho chính ḿnh vượt thoát các vướng
mắc nơi thân tâm, thấy sự chân thật của tự
tánh, tùy thuận Vô Sanh. Sự tu tŕ ấy chẳng thể dùng lư luận
hay ngôn từ để h́nh dung, các ngôn từ chẳng ngoài
phương tiện nhằm hướng dẫn, khích lệ
quư vị thành thục tâm trí Bồ Đề tâm đó thôi!
Thật sự hành pháp rất trọng yếu!
Bất
Tịnh Quán là một pháp tắc thao tác rất thực tế,
tương ứng với chín loại biến hóa [của tử
thi] cho tới khi tan rữa, cho đến khi xương xẩu
chia ĺa, hư nát. Các thứ nghiệp đă tạo tác chỉ
do tâm quán, chỉ do tâm tạo, thật sự chẳng biến
đổi, mà cũng chẳng đến đi. Thông qua quán
tưởng như thế, chúng ta có thể lựa chọn
vô thường, vô ngă, bất tịnh, cho đến tâm trí
tịch tĩnh, ngay lập tức trụ trong an lạc, thật
sự đạt được niềm vui Thắng
Nghĩa trong Phật pháp, tức là niềm vui chẳng tạo
tác, xa ĺa ngoại đạo tự nhiên, thủ hộ thanh
tịnh. Cách tu ấy xa ĺa sự tiến nhập chủ
động của ngoại đạo. Chúng ta biết tự
tánh là Không, thường dùng tự tánh Không để quan
sát hết thảy các pháp tắc và hết thảy sự tướng
trong thế gian, chẳng xả, chẳng ĺa, chẳng lấy,
chẳng dùng, chỉ chân thật nh́n thấu suốt bản
chất, tự nhiên vô ngại. Nếu chẳng phải là
như thế, phần nhiều sẽ mê mờ trong sự
tướng, Lư và Sự chẳng trở ngại lẫn
nhau. Đó là phương tiện.
(Kinh)
Như thị Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát
dục đắc thành tựu bỉ Niệm Chư Phật
Hiện Tiền tam-muội, tùy hà phương sở, tiên niệm
dục kiến bỉ Phật Thế Tôn. Tùy sở niệm
xứ, tức kiến Như Lai. Hà dĩ cố? Nhân duyên tam-muội,
đắc kiến Như Lai.
(經)如是賢護。若諸菩薩欲得成就彼念諸佛現前三昧。隨何方所。先念欲見。彼佛世尊。隨所念處。即見如來。何以故。因緣三昧得見如來。
(Kinh: Như
thế đó Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát muốn
được thành tựu Niệm Chư Phật Hiện
Tiền tam-muội, sẽ tùy theo phương vị,
nơi chốn để trước hết niệm đức
Phật Thế Tôn mà người ấy muốn thấy.
Tùy theo chỗ niệm, liền thấy Như Lai. V́ cớ
sao? Do duyên theo tam-muội mà được thấy Như
Lai).
“Hà
dĩ cố? Nhân duyên tam-muội, đắc kiến Như
Lai” (V́ sao vậy? Do duyên theo tam-muội,
được thấy Như Lai): Do duyên theo sức tam-muội.
Những điều được nói trên
đây đều là Quán Tưởng Niệm Phật, là tam-muội
nơi nhân địa. Quán tưởng là cơ sở của
tam-muội nơi nhân địa. Có cái nhân th́ mới có cái
quả. Chúng ta muốn đạt được cái quả
ấy, ắt phải hành cái nhân; đó là phương tiện.
Dù thấy hay chẳng thấy, đều được
oai đức gia tŕ, nhân quả dần dần chín muồi,
tam-muội tự nhiên có thể an lập. Thường là
chúng ta coi nhẹ cái nhân, phần nhiều chú trọng
nơi cái quả. Nói như
thế, cao th́ quư vị chẳng làm được, mà thấp
th́ quư vị lại chẳng màng! Như thế th́ sẽ
rơi vào cái đáng gọi là “rỗng tuếch!” Hiện
thời, rất nhiều vị Bồ Tát đang tu tập
hành pháp Ban Châu, có người đạt được các
lợi ích tương tự, chỉ được đôi
chút, tức là tánh chất liên tục[4] chẳng phải là
mười phần đơn giản và rơ ràng. Nếu tánh
chất liên tục là tốt đẹp, chẳng lo ngại
các tạp duyên. Chẳng hạn như trong ăn uống,
tuy chúng ta ăn trăm vị, nhưng chẳng biết
trăm vị (chẳng chấp trước các vị
ngon); mặc y phục, tuy biết nóng lạnh,
nhưng chẳng trụ trong ấy. Tuy biết kẻ khác là đúng, hay là
sai, nhưng biết rơ chẳng có “đúng, sai”, hay “có thể
huân tập, có thể nhiễm, có thể biết”, chuyên chú
nhất tâm. Đó gọi là “trệ tâm nhất xứ, vô
sự bất biện” (chú tâm vào một chỗ, không ǵ
chẳng thực hiện được), muốn đạt
được tam-muội chẳng khó! Nhưng chúng ta sử
dụng tâm trí tạp loạn, sử dụng sự tiến
hướng tạp loạn, do mê mờ nơi sự việc,
đối với mọi chuyện, tâm đều mê mờ,
đối với mọi chuyện đều đánh mất
cái tâm, chuyện ǵ cũng đắm nhiễm, [cho nên] chẳng
đạt được tam-muội!
Trong
cuộc sống hằng ngày, hoàn toàn có thể ĺa sự
tướng mà vận dụng sự tướng, nhất
tâm gắn bó với Phật, gắn bó với pháp tắc
thiện xảo, như vậy là có thể chứng tam-muội.
Do đó, thật sự hành Ban Châu tam-muội, thật sự
là trong cuộc sống hằng ngày đối với
“đúng, sai” bèn chẳng nhiễm, chẳng đắm.
Như thế th́ dẫu chẳng phải là tam-muội, quư
vị vẫn có công phu tam-muội; dẫu chẳng đắc
tam-muội, nhưng đă có sức tam-muội. Nếu chúng
ta tuy thường hành pháp Ban Châu, nhưng thường
đắm nhiễm “đúng, sai” và đảo kiến (tri kiến điên
đảo), tâm cũng mê muội, cũng bị mất chánh niệm,
bị các khổ nạn vùi dập. Như thế th́ đạo
nghiệp của quư vị sẽ bị phá hoại, oan uổng
hứng chịu thị phi xâm hại. V́ thế nói: “Thiên
hạ ô nha nhất ban hắc” (quạ trong thiên hạ
thường đen thui). “Đen” là đen ở chỗ
nào? Trong thế giới Sa Bà này, không có chỗ nào chẳng
phải là chỗ thị phi. Chỉ cần trong tâm quư vị
có chủng tử và tướng trạng thị phi, chắc
chắn là thị phi sẽ thành thục! Nếu chẳng có
chủng tử và h́nh tướng thị phi, sẽ chẳng
có ǵ để đạt được thị phi, trọn
chẳng liên can. Cho nên chẳng thấy [thị phi, thị
phi đối với ta] vô dụng, nhất tâm chuyên chú nơi
pháp tắc tu tŕ của chính ḿnh, mà chẳng chứng tam-muội;
đó mới thật sự là “kỳ đàm quái luận”
(奇談怪論, lời lẽ bàn luận
kỳ quái). Nếu tâm trí của chúng ta tán loạn, tạp
nhiễm, đắm nhiễm sự tướng, mà mong
đắc tam-muội; đấy mới thật sự là
vọng tưởng!
Nh́n
vào trạng thái của những người hành Ban Châu từ
đầu năm nay tới giờ, người dụng
tâm tạp loạn th́ nhiều, người có tâm đắm nhiễm th́ nhiều,
người đánh mất đi bổn vị (vị thế
vốn có) của pháp tắc th́ nhiều, tức là đánh
mất sự phát tâm của chính ḿnh! Quư vị tới
đây để làm ǵ? Quư vị muốn làm ǵ? Người
xuất gia, người tại gia, chúng ta bỏ nhà, ĺa dục,
rời ĺa thân nhân, rời ĺa hoàn cảnh quen thuộc của
chính ḿnh, rời ĺa sự hưởng thụ ngũ dục
đáng có trong cuộc đời của chính ḿnh, tới
đây để làm ǵ? Đến để thành thục
thiện căn Thập Phương Chư Phật Tất
Giai Hiện Tiền Lập chẳng thể nghĩ bàn
như thế, đến để thấy Phật, nghe
pháp, để trừ bỏ sanh tử luân hồi, để
lợi ích rộng khắp hữu t́nh trong
thế gian, thật sự khiến cho hữu t́nh trong thế
gian đạt được sự vui sướng chân
chánh. Đó gọi là “niềm vui Thắng Nghĩa, niềm
vui thần thông, các thứ vui sướng khinh an phát xuất
từ nội tâm, niềm vui do từ bi giáo hóa rộng lớn”,
cho đến vô tận lạc thú đều chân thật,
chẳng dối. Niềm vui thế tục rốt cuộc
là vô thường, có thể tan hoại bất cứ lúc
nào, phần nhiều dựa theo những điều khác mà
sanh khởi, chẳng được tự tại. Niềm
vui Phật pháp chỉ nương theo Như Lai tạng tánh
trong tự tâm mà lưu xuất, từ chỗ trang nghiêm
trong tự tâm mà lưu xuất, từ chẳng đắm
nhiễm mà lưu xuất. Do đó, thật sự là “lấy
chẳng hết, dùng chẳng cạn”, lợi ích thế
gian rộng khắp, bố thí rộng
lớn chẳng sợ hăi! Trong thế tục, chúng ta hứng
chịu nhọc nhằn, vất vả, tuy đạt
được những thứ tương tự như
vui sướng, nhưng chúng sẽ tan hoại bất cứ
lúc nào, Vô Thường, Khổ, Không luôn theo kè kè. Quư vị
có chấp nhận hay không, nó vẫn luôn là như thế! Do
vậy, các vị thiện tri thức ơi! Nếu chúng ta
tiến vào đạo tràng này, hăy lấy đạo nghiệp
làm trọng! Thường tu tập pháp tắc, tu tập thâm
nhập, đó là phước đức và nhân duyên của
tự thân, mà cũng là thành thục thiện căn của
chính ḿnh.
(Kinh)
Đắc kiến bỉ Phật, hữu tam nhân
duyên. Hà giả vi tam? Nhất
giả, duyên thử tam-muội. Nhị giả, bỉ Phật
gia tŕ. Tam giả, tự thiện căn thục. Cụ túc
như thị tam nhân duyên cố, tức đắc minh kiến
bỉ chư Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác diệc
phục như thị.
(經)得見彼佛有三因緣。何者爲三。一者緣此三昧。二者彼佛加持。三者自善根熟。具足如是三因緣故。即得明見彼諸如來應供等正覺。亦復如是。
(Kinh: Có ba
nhân duyên để được thấy đức Phật
ấy. Những ǵ là ba? Một là nhờ vào tam-muội này.
Hai là được đức Phật ấy gia tŕ. Ba là
thiện căn của chính ḿnh chín muồi.
Đầy đủ ba nhân duyên như thế, sẽ
được thấy rơ rệt các đức Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác cũng giống như thế).
“Nhất
giả, duyên thử tam-muội” (một là nhờ
vào tam-muội này), duyên theo tam-muội này như thế nào?
Tư duy đúng như lư, đúng như pháp. Xưng niệm
đúng như lư, đúng như pháp. Cung kính, tu tŕ, lễ
kính, tán thán, cúng dường, thủ hộ đúng lư,
đúng pháp. “Nhị giả, bỉ Phật gia tŕ” (hai
là do đức Phật ấy gia tŕ): A Di Đà Phật có
thệ nguyện rộng lớn, nhiếp hóa hết thảy
chúng sanh niệm Phật, nhiếp thủ chẳng bỏ,
v́ sức thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
bị chướng ngại. “Tam giả, tự thiện
căn thục” (ba là do thiện căn
của chính ḿnh chín muồi): Thiện căn của chính
ḿnh chín muồi là điều trọng yếu nhất trong
ba loại thiện căn. Phật lực gia tŕ là căn bản,
nhưng điều quan trọng nhất là thao tác, tức
là tu tập pháp tắc, tức là chính chúng ta thực hiện, chẳng ỷ lại
Phật. Chúng ta có thể thường học theo Phật,
nhưng chớ ỷ lại Phật, chớ đùn đẩy
cho Phật. Nếu ỷ lại, đùn đẩy cho Phật,
quư vị sẽ chẳng đạt được lợi
ích!
(Kinh)
“Phục thứ Hiền Hộ! Như nhân thịnh tráng, dung
mạo đoan nghiêm, dục quán kỷ h́nh, mỹ, ác, hảo,
xú, tức tiện thủ khí, thịnh bỉ thanh du, hoặc
tŕ tịnh thủy, hoặc thủ thủy tinh, hoặc chấp
minh kính, dụng thị tứ vật, quán kỷ diện
tượng, thiện, ác, hảo, xú, hiển hiện phân
minh. Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Bỉ sở kiến
tượng, ư thử du, thủy, thủy tinh, minh kính,
tứ xứ hiện thời, thị vi tiên hữu da?” Hiền
Hộ đáp ngôn: “Bất dă!” Viết: “Thị khởi bổn
vô da?” Đáp ngôn: “Bất dă”. Viết: “Thị vi tại nội
da?” Đáp ngôn: “Bất dă”. Viết: “Thị khởi tại
ngoại da?” Đáp ngôn: “Bất dă”.
(經)復次賢護。如人盛壯。容貌端嚴。欲觀己形。美惡好醜。即便取器。盛彼清油。或持淨水。或取水精。或執明鏡。用是四物。觀己面像。善惡好醜。顯現分明。賢護。於意云何。彼所見像。於此油水水精明鏡四處現時。是爲先有耶。賢護答言不也。曰。是豈本無耶。答言不也。曰。是爲在內耶。答言不也。曰。是豈在外耶。答言不也。
(Kinh:
“Lại này Hiền Hộ! Như người tuổi trẻ,
khỏe mạnh, dung mạo đoan nghiêm, muốn thấy
h́nh dạng của ḿnh đẹp đẽ hay xấu xí,
liền lấy đồ đựng chứa đầy dầu
trong, hoặc đựng nước sạch, hoặc lấy
thủy tinh, hoặc cầm gương sáng, dùng bốn vật
ấy để xem vẻ mặt của chính ḿnh, thiện,
ác, đẹp, xấu hiển hiện phân minh. Này Hiền Hộ!
Ư ông nghĩ sao? Khi thấy h́nh tượng hiện ra trong bốn
chỗ là dầu, nước, thủy tinh, gương sáng,
có phải là đă có từ trước hay chăng?” Hiền
Hộ thưa: “Chẳng phải vậy”. Hỏi: “Có phải
vốn là không hay chăng?” Thưa:
“Chẳng phải”. Hỏi: “Là bên trong ư?” Thưa: “Chẳng
phải!” Hỏi: “Há ở bên ngoài ư?” Thưa: “Chẳng
phải”).
Hỏi
“trong, ngoài” như thế, hay nói “vốn có, vốn không”, thật
sự là hư luận! Nhưng nếu chẳng đặt câu
hỏi như thế, tâm trí của chúng ta chẳng có
nơi nương tựa, sẽ chẳng thể thật sự
quy kết về sự chọn lựa “vạn pháp duy tâm”.
Nếu là vốn có, sẽ chẳng thể là duy tâm. Nếu
là vốn không, cũng chẳng thể là duy tâm. Nếu ở
trong hay ngoài, th́ cũng chẳng phải là pháp duy tâm, vẫn
là các duyên ḥa hợp, thành thục hiển hiện. Ĺa pháp
nhân duyên, sẽ chẳng thể thông suốt rạng ngời
được!
(Kinh)
Thế Tôn! Duy bỉ du, thủy, tinh, kính, chư vật
thanh minh, vô trược, vô chỉ, kỳ h́nh tại tiền,
bỉ tượng tùy hiện.
(經)世尊。惟彼油水精鏡。諸物清明。無濁無滓。其形在前。彼像隨現。
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Chỉ là trong các vật trong sáng như dầu,
nước, thủy tinh, gương, chẳng nhơ bẩn,
chẳng cáu cặn, hễ vật đối trước
chúng, sẽ liền hiện bóng).
“Kỳ
h́nh tại tiền” (vật đối diện trước
chúng): Chính là pháp tắc sanh bởi nhân duyên. [Thấu hiểu]
“các pháp sanh bởi nhân duyên”, sẽ phá trừ các
biên kiến như hữu biên, vô biên, đoạn kiến,
thường kiến cho chúng sanh. Chẳng phá các kiến chấp
ấy, sẽ khó thể thoát ĺa cái tâm phàm phu, khó thể an
lập chánh kiến. Nhưng tâm trí của hết thảy
phàm phu hữu t́nh đều quẩn quanh trong Biên Kiến
đối đăi nhị nguyên ấy, tức là nói có, nói
không, nói vốn có, nói vốn không, nói đến, nói đi,
nói trong, nói ngoài, như thế đều là cái tâm chấp
“thật sự có, hoặc là thật sự không”, tâm [chấp
trước là] trong hay ngoài, oan uổng bị tà kiến bức
bách. Chúng ta quan sát lời ăn tiếng nói của chính ḿnh,
và các sự vật được tiếp xúc, [sẽ thấy
rơ]: Cơ bản đều là vận dụng lối tư
duy này, vẫn là hoặc trong, hoặc ngoài. Chẳng hạn
như [do chấp trước đối đăi, bèn thấy
có] chuyện của chính ḿnh, chuyện của kẻ khác, hoặc
là có, hoặc là không. Nếu có, bèn chấp thứ đó thật
sự có. Nếu là không, sẽ là tướng đoạn
diệt. Do vậy, Thường Kiến, Hữu Kiến,
Đoạn Kiến luôn bầu bạn với chúng ta. Đó
gọi là “biên kiến bạn tùy” (biên kiến luôn theo
sát), như thế th́ chánh kiến sẽ chẳng thể kiến
lập! Chúng ta đều biết cảnh giới Nhất
Thật và cảnh giới Duy Thức trong giáo ngôn Phật
pháp, ai nấy đều nói như thế; nhưng trong cuộc
sống hằng ngày, có thể vận dụng tri kiến ấy hay không? Nếu vận
dụng được, sẽ vô ngại đối với
hết thảy sự tướng hiện tiền, v́ đối
với hết thảy sự tướng, quư vị trọn
chẳng đắm nhiễm. V́ sao? Chỉ có tâm sanh, chỉ
có tâm là Phật, chẳng phải sanh bên trong, chẳng sanh
bên ngoài, chẳng phải tự sanh, chẳng phải tha
sanh!
(Kinh)
Nhi bỉ hiện tượng, bất tùng tứ vật xuất,
diệc phi dư xứ lai.
(經)而彼現像。不從四物出。亦非餘處來。
(Kinh:
Nhưng các h́nh tượng được hiện ấy,
chẳng từ bốn vật mà ra, cũng chẳng phải
từ nơi khác đến).
Chúng
ta phải quan sát tinh tế. Nếu chẳng quan sát như
thế, sẽ khó trừ Biên Kiến. Tôi thường nghe mọi
người bàn luận về người nào đó, chuyện
nào đó, đạo tràng nào đó, nhân duyên nào đó. Nói tới,
nói lui, trôi tuột theo sự tướng luôn, sẽ ngỡ [những điều bàn tán ấy] là có thật, chẳng
thể tự thoát ra được! Nếu có thể tự
kiềm chế, sẽ có thể giải quyết ngay lập
tức, chẳng bị vướng mắc; đối với
ḿnh lẫn người, chắc chắn có lợi! V́ quư vị
đă giải quyết sự tướng ngay trong hiện
tại, chẳng phải là nhờ duyên khác để giải
quyết. V́ sao? Chỉ do tâm hiển hiện. Chỉ do tự
duyên hiển hiện, chẳng phải do duyên nào khác. Bọn
chúng ta phần nhiều ch́m đắm trong chấp trước.
Hiện thời, người hành pháp nhiều, tu pháp
đông đảo, người có chánh kiến hiếm hoi.
Người hành pháp nhiều, người chấp Sự nhiều, người
thật sự truyền bá chánh kiến càng hiếm hoi
hơn! Người chọn lựa chánh kiến tột bậc
khó có, do [những người như vậy sẽ] làm con mắt
cho thế gian. Chúng ta đều biết tu tŕ Lục Độ:
Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền
Định, các thứ pháp tắc, ai nấy đều
đang hành, nhưng người có con mắt trí huệ hiếm hoi! Nếu có mắt, tuy chẳng có tay chân, vẫn
có thể hướng dẫn chúng sanh đạt được
thiện xảo. Nhưng nếu tự tu hành tăng tấn
mà chẳng có mắt [trí huệ], người ấy sẽ
hành theo pháp ngu si, phần nhiều là tạo phước đức,
do thiếu mắt trí huệ, khiến cho người ấy
đọa lạc, ch́m đắm trong thế gian. Các vị
thiện tri thức ơi! Đoạn văn tự này lột
bỏ hai thứ Biên Kiến, mười phần trọng
yếu!
(Kinh)
“Phi tự nhiên hữu, phi nhân tạo tác, đương tri
bỉ tượng, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ,
vô sanh, vô diệt, vô hữu trụ sở”. Thời bỉ Hiền
Hộ, như thị đáp dĩ. Phật ngôn: “Hiền Hộ!
Như thị, như thị. Như nhữ sở thuyết,
chư vật thanh tịnh, bỉ sắc minh lăng, ảnh
tượng tự hiện”.
(經)非自然有。非人造作。當知彼像。無所從來。亦無所去。無生無滅。無有住所。時彼賢護。如是答已。佛言。賢護。如是如是。如汝所說。諸物清淨。彼色明朗。影像自現。
(Kinh: “Chẳng
phải là tự nhiên có, chẳng do người nào tạo
tác. Hăy nên biết các h́nh tượng ấy chẳng từ
đâu đến, mà cũng chẳng đi về đâu, chẳng
sanh, chẳng diệt, chẳng có chỗ trụ”. Lúc đó,
Hiền Hộ đáp như thế rồi, đức Phật
nói: “Này Hiền Hộ! Đúng như thế, đúng như
vậy. Đúng như lời ông nói, các vật thanh tịnh,
sắc nó trong sáng, h́nh ảnh tự hiện”).
Do
vậy, nay tất cả các vật, các nghiệp, các duyên
thuộc y báo trong hiện tại, không ǵ chẳng
hiện bóng trong tự tâm. Ai nấy đều chẳng
tránh khỏi hành động như thế! Có lúc chúng ta sỉ
nhục kẻ khác, coi ác nghiệp duyên và ác nghiệp của
kẻ khác là sự sỉ nhục của chính ḿnh. Từ chỗ
đó, hăy nên tự ḿnh sám hối để chuyển hóa, chớ
nên đùn đẩy nhân duyên ấy cho người khác. V́
sao? Bản chất của Thức chính là giải quyết
nạn duyên này, trừ bỏ các đau khổ ấy. Nếu
chẳng phải vậy, chúng ta sẽ ở chỗ này nói
có, nói không, nói dài, nói ngắn, thân tâm đau khổ, đắm
nhiễm không ngừng. Hôm nay, có một vị cư sĩ từ
bên ngoài đến, nói trong nhà người ấy có duyên gây
tai nạn ngang trái, tâm trí bị ngăn chướng,
đau khổ không chịu nổi, hỏi tôi có một
phương pháp nào để có thể chuyển đổi
hay không? Tôi nói: Thật sự không chuyện này, nhưng do
trong tâm bị vướng mắc, vướng mắc vào
chuyện ấy, nó sẽ tiếp tục kéo dài, càng duyên theo,
càng lâu, chẳng thể tự thoát ra được. Cũng
có nghĩa là: Nếu quư vị cho rằng thật sự có
chuyện ấy, sẽ chẳng thể tự thoát ra
được! Chúng ta học tập Phật pháp, quyết
định phải nhận biết nên xử trí hiện
duyên như thế nào?
(Kinh)
Bất dụng đa công, Bồ Tát diệc nhĩ, nhất
tâm thiện tư, kiến chư Như Lai. Kiến dĩ tức
trụ, trụ dĩ vấn nghĩa.
(經)不用多功。菩薩亦爾。一心善思。見諸如來。見已即住。住已問義。
(Kinh: Chẳng
dùng nhiều công sức, Bồ Tát cũng thế. Nhất
tâm khéo tư duy, thấy chư Như Lai. Đă thấy bèn
trụ, trụ rồi hỏi nghĩa).
Đây
là tu công phu định lực, và cũng là sự thành tựu
do tâm trí chuyên chú.
(Kinh)
Giải thích hoan hỷ, tức phục tư duy.
(經)解釋歡喜。即復思惟。
(Kinh:
Đă được giải thích hoan hỷ, bèn lại
tư duy).
Nếu
có thể gặp Phật, tất nhiên là tư duy, v́ chuyện
này có ảnh hưởng và có sức lôi cuốn to lớn
đối với quư vị. Chúng ta thường niệm Phật,
thường niệm chúng sanh, như chúng ta thấy tranh vẽ,
thấy các nhân vật chung quanh qua lại, nhưng chúng ta
không biết, chẳng có cảm nhận và sức nh́n thấu
suốt, sẽ [có cảm giác] như Phật ở
phương khác, phương này làm sao thấy được?
(Kinh)
Kim thử Phật giả, tùng hà sở lai, nhi ngă thị
thân, phục tùng hà xuất? Quán bỉ Như Lai, cánh vô lai xứ,
cập dĩ khứ xứ, ngă thân diệc nhĩ!
(經)今此佛者。從何所來。而我是身。復從何出。觀彼如來。竟無來處及以去處。我身亦爾。
(Kinh:
Nay đức Phật ấy từ đâu mà đến, c̣n
thân ta đây lại từ đâu mà ra? Quán đức
Như Lai ấy trọn chẳng từ đâu đến,
và cũng chẳng đi về đâu, thân ta cũng thế).
“Ngă
thân diệc nhĩ” (Thân ta cũng thế), v́ một pháp
tắc, sự sự vô ngại. Một pháp tắc có thể
dùng ở mọi nơi, nhưng chẳng phải là nói: Một
pháp tắc thật sự có thể vận dụng vào chỗ
này, nếu dùng ở chỗ khác th́ nó sẽ đổi khác.
Trọn chẳng phải là như vậy!
(Kinh)
Bổn vô xuất thú, khởi hữu chuyển hoàn. Bỉ
phục ưng tác, như thị tư duy. Kim thử tam giới,
duy thị tâm hữu.
(經)本無出趣。豈有轉還。彼復應作。如是思惟。今此三界。唯是心有。
(Kinh:
Vốn chẳng có thoát ra hay tiến nhập, há có trở lại?
Lại nên tư duy như
thế. Nay tam giới này chỉ do tâm mà có).
Các
vị thiện tri thức ơi! Có thể nói đoạn
văn tự này là phẩm Tâm Kinh, đă như thật dạy
cho chúng ta biết tự tâm, biết công dụng của cái tâm.
Hết thảy các chuyện hiện tiền, dùng ǵ để
dụng tâm? Văn tự trong đoạn này mười phần
trọng yếu, tổng kết các giáo pháp trong tất cả
các phần văn tự trước đó. Câu nào cũng
đều có thể dùng làm khẩu quyết để
hướng dẫn tự tâm. Chúng ta có thể đọc thuộc
đoạn văn tự này, coi giống như Tâm Kinh. Lúc
có chuyện hiện tiền, một tư duy hiện tiền,
một tri kiến hiện tiền, dùng ngay mấy câu nói ấy
để xét kỹ nó, gột rửa nó, quán chiếu nó,
chánh tri kiến của chúng ta sẽ an lập.
(Kinh)
Hà dĩ cố? Tùy bỉ tâm niệm, hoàn tự kiến tâm.
(經)何以故。隨彼心念。還自見心。
(Kinh: V́ cớ
sao? Thuận theo tâm niệm ấy, vẫn tự thấy
tâm).
Chúng
ta nghĩ một người là tốt đẹp, liền thấy
thân thiết, cảm thấy mười phần hoan hỷ.
Đối với những kẻ mà ta chẳng muốn thấy,
trong tâm trí đă có chủng tử như vậy, hễ
trông thấy người ấy, sẽ mười phần
đau khổ. Đó chỉ là tự tâm chiêu cảm, chẳng
phải là người khác khiến cho quư vị chán ĺa, chẳng
phải là kẻ khác làm cho quư vị đau khổ. Kẻ
đó sao có thể khiến cho quư vị đau khổ cho nổi?
Thật ra là trong tâm có chủng tử đó thôi! Giống như
trong một câu chuyện cổ: Một gă tiều phu bị
mất búa, hoài nghi đứa nhỏ nhà hàng xóm lấy trộm.
Hắn thấy đứa nhỏ ấy kiểu nào cũng
đều giống như thằng ăn cắp búa. Đi
lại cũng giống, âm thanh nói năng cũng giống,
hành vi xử sự cũng giống, làm cách nào cũng đều
chẳng ĺa khỏi [ấn tượng] “thằng ăn cắp
búa”. Sau đó, chính gă dùng hết đống củi, cái búa tự
nhiên ló ra. Khi đó, nh́n lại đứa nhỏ hàng xóm, bộ
dạng đi đứng chẳng giống đứa trộm
búa, âm thanh nói chuyện chẳng giống thằng trộm
búa, hết thảy hành vi cũng đều chẳng chẳng
giống đứa trộm búa! V́ thế nói “tâm niệm hễ
an lập, hành vi của đối phương sẽ
tương ứng”. Tâm niệm vừa chuyển hóa,
cũng sẽ tương ứng. Các vị thiện tri thức
ơi! Hăy khéo tư duy, khéo quan sát! Nhất định đừng
dùng sai cái tâm. Đối với tự duyên, đối với
tha duyên, đối với Phật duyên, thông thường
khi chúng ta có ư kiến đối với người khác,
cũng tức là một khi chủng tử ấy đă sanh
khởi, nh́n kiểu nào cũng đều ngứa mắt.
Dẫu cho âm thanh niệm Phật của người ấy
rất hay đẹp, chúng ta sẽ nghe thấy kẻ
đó màu mè, kiểu cọ, tô son trát phấn, âm điệu
quái dị. Nhưng nếu sanh tâm hoan hỷ, dẫu đối
phương làm chuyện sai lầm, chúng ta vẫn cảm
thấy kẻ đó mười phần đáng yêu, vụng
về, chất phác đáng mến!
Các
vị thiện tri thức ơi! Hăy khéo biết tự tâm.
Đừng đánh mất cái tâm để quán sự. Đừng v́ sự mà mê muội cái tâm. [Khéo biết tự
tâm] như thế, chúng ta là kẻ thật sự phát tâm, biết
tâm, hiểu rơ cái tâm, biết dụng tâm. Quư vị có thể
liễu giải tự tâm, đó gọi là “như thật
tri tự tâm, hành pháp vô ngại” (biết tự tâm đúng
như thật, hành pháp vô ngại), đạt được
sức tự tại. Tâm ấy chỉ có tự dụng, chỉ
có tự hiển hiện. Như thế th́ chính quư vị sẽ
đạt được phương tiện trong Phật
pháp. Nếu không, giả như chúng ta cậy vào ngoại
duyên, mê muội tâm trí, phần nhiều sẽ chẳng tự
tại! Hiện thời, chúng ta đến tu tập Phật
pháp, tới tu tập trong đạo tràng, dù là xuất gia
hay tại gia, quả thật là do nhân duyên chẳng thể
nghĩ bàn trong đời trước và nhân duyên trong đời
này thành thục, thôi thúc chúng ta đến chỗ này, chúng ta
sẽ vận dụng như thế nào? Tôi đề nghị
các thiện tri thức sao chép đoạn văn tự này,
cung phụng nó, in sâu vào tâm ḿnh, đối đăi như thật,
thủ hộ như thật, giữ tiếp nối như
thật trong cuộc sống, quư vị sẽ có thể
đạt được sự gia tŕ bất cộng!
(Kinh)
Kim ngă tùng tâm kiến Phật, ngă tâm tác Phật, ngă tâm thị
Phật.
(經)今我從心見佛。我心作佛。我心是佛。
(Kinh: Nay ta từ cái tâm mà thấy Phật,
tâm ta làm Phật, tâm ta là Phật).
Lành
thay! Các vị thiện tri thức ơi! Đức Thế
nói lời như thật, lời thành thật, lời liễu
nghĩa, lời lựa chọn, lời đà-la-ni, lời
khẩu quyết thiện xảo. Nếu quư vị sử dụng
được, sẽ rất thuận tiện! Đừng
bỏ qua sự gia tŕ của kinh điển rất sâu
như thế!
(Kinh)
Ngă tâm thị Như Lai, ngă tâm thị ngă thân, ngă tâm kiến
Phật, tâm bất tri tâm, tâm bất kiến tâm.
(經)我心是如來。我心是我身。我心見佛。心不知心。心不見心。
(Kinh: Tâm ta
là Như Lai, tâm ta là thân ta, tâm ta thấy Phật, tâm chẳng
biết tâm, tâm chẳng thấy tâm).
“Tâm
bất tri tâm, tâm bất kiến tâm” (tâm chẳng biết
tâm, tâm chẳng thấy tâm): Nếu tâm có thể thấy tâm,
dùng ǵ để thấy? Đó gọi là do đắm nhiễm
đối đăi mà có xuất sanh. Nếu chẳng đắm
nhiễm đối đăi th́ ở ngay trong tâm trí đối
đăi, vẫn an lập trong biển đại tịch diệt
quang, dùng ǵ để thấy? V́ thế, tâm chẳng thấy
tâm, nhưng cái tâm tạo tác th́ chỗ nào cũng thấy.
Do đối đăi, nên có cái được thấy!
(Kinh)
Tâm hữu tưởng niệm, tắc thành sanh tử.
(經)心有想念。則成生死。
(Kinh:
Tâm có ư niệm suy tưởng, sẽ thành sanh tử).
Kiến
giải của chúng ta đă lập, suy tưởng đă lập,
nhưng Thật Tế lư địa chẳng nhiễm mảy
trần. Thật Tế lư địa chính là cái tâm. Tâm trí vừa động, đại thiên
sẽ bị chấn động,
sẽ thôi thúc sanh ra vạn pháp. Quư vị chớ nên coi thường
tự tâm, đừng coi trọng sự tướng. [Hễ
coi trọng sự tướng], vậy th́ quư vị đă
thật sự đánh mất cái gốc. Từ trong tâm trí ấy,
chúng ta hăy nên quan sát vi tế, sâu sắc, khăng khăng chẳng
mệt, đừng nên buông lung. Từ trong sự tướng,
có thể buông xuống rất lớn. Đối với
chuyện ǵ cũng đều có thể thong dong, nhưng
đối với tâm trí, chớ nên lơi là!
(Kinh)
Tâm vô tưởng niệm, tức thị Niết Bàn. Chư
pháp bất chân, tư tưởng duyên khởi.
(經)心無想念。即是涅槃。諸法不真思想緣起。
(Kinh: Tâm chẳng
suy nghĩ hay khởi niệm, th́ chính là Niết Bàn. Các pháp
chẳng thật, tư tưởng duyên khởi).
Chư
vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta cưỡng chấp
các thứ đă thấy, khổ lắm! Sử dụng tri
kiến đoạn diệt, khổ lắm! Hăy nên biết
các pháp sanh khởi chính là phương tiện vận dụng
từ bi và trí huệ hiện tiền, quả thật
đă ban cho chúng ta cơ hội. Người có trí sẽ chẳng
nhiễm, người có ḷng bi sẽ tạo lợi ích cho
hiện duyên, há có đắm nhiễm?
Há có chuyện bị
nỗi khổ của chính ḿnh và người khác bức
bách? Nếu chúng ta là người thật sự học Phật,
bất cứ chuyện ǵ hiện tiền, cũng sẽ đều là chỗ cho quư vị vận
dụng ân đức bi trí, là cơ hội cho quư vị.
Cơ hội ǵ vậy? Cơ hội thành tựu của quư
vị.
(Kinh)
Sở tư kư diệt, năng tưởng diệc không. Hiền
Hộ đương tri, chư Bồ Tát đẳng nhân
thử tam-muội, chứng đại Bồ Đề.
(經)所思既滅。能想亦空。賢護當知。諸菩薩等。因此三昧。證大菩提。
(Kinh:
Những điều được suy nghĩ đă diệt,
cái tâm suy tưởng cũng là không. Hiền Hộ hăy nên biết,
các vị Bồ Tát ấy do tam-muội này mà chứng đại
Bồ Đề).
Đây
là lựa chọn cho chúng ta, khiến cho chúng ta triệt
để quy hoàn cái tâm, chẳng tạo, chẳng tác, tất nhiên là không tịch, an lập trong thế
gian, rộng lợi ích thế gian. Trong thế giới “Không,
tịnh, vô nhiễm”, bi và trí của quư vị đều
đạt được phương tiện. Khi đó,
Phật pháp có thiện xảo để trụ thế, có
cơ sở để trụ thế.
Các
vị thiện tri thức ơi! Đoạn văn tự
này rất trọng yếu, đă điểm nhăn cho chúng ta,
khai trí huệ cho chúng ta, đừng nghĩ là kinh nói, mà thật
ra là tâm nói. Đừng cho là lời người khác, đây
thật sự là lời lẽ ấn tâm. Ngạn ngữ
Trung Hoa có câu: “Nếu có thể nghe thiện tri thức
nói một câu, khiến cho người khác tâm khai ư giải,
sẽ cảm thấy hoan hỷ”. Ở đây, chẳng
phải là Phật đă sớm nói trọn hết thảy
lời lẽ ấn khế tâm trí trong kinh điển
ư? Đúng là chỗ nào cũng tuyên nói. Đừng coi
thường, chớ báng pháp. Trong những người tu
tŕ ở Trung Hoa, người coi trọng
túc duyên th́ nhiều, mà kẻ coi rẻ pháp cũng lắm.
Đấy quả thật là điều đáng tiếc,
quá sức đáng tiếc. Do vậy, đối trước
giáo ngôn rất sâu, hăy nên sanh tâm cung kính lănh thọ, sanh tâm thủ hộ.
Vun bồi Pháp Thân huệ mạng cũng do đây mà có,
cũng do đây thúc đẩy mà xuất sanh.
Đại
Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh
giảng kư
Phần
4 hết
[1] “Lănh thủy phao thạch đầu”
(冷水泡石頭, nước lạnh ngâm tảng
đá) là thuật ngữ của Thiền Tông nhằm đả
phá cách tu hành sai lầm, chấp trước. Thiền
sư Thánh Nghiêm đă giải thích như sau: “Thiền
Tông có một thuật ngữ gọi là ‘nước lạnh
ngâm tảng đá’. Nếu dùng nước lạnh ngâm đậu,
đậu sẽ có thể dấy lên biến hóa, nhưng
dùng nước lạnh ngâm tảng đá cả trăm
năm, cả ngàn năm, cả vạn năm, nước
lạnh vẫn là nước lạnh, đá vẫn là
đá. Do vậy, dùng Thiền pháp Khán Thoại Đầu
để tu hành, chẳng phải là giữ cho tâm không có ǵ,
mà là trong tâm chỉ có một câu thoại đầu” (trích từ ngữ tắc 123 trong bộ
Thánh Nghiêm Pháp Sư Giáo Thoại Đầu Thiền).
[2] Thành ngữ này phát xuất từ một
câu chuyện trong sách Thế Thuyết Tân Ngữ,
chương Giả Duật: “Ngụy Vũ hành dịch,
thất cấp đạo, quân giai khát, năi lệnh viết:
‘Tiền hữu đại mai lâm,
nhiêu tử, cam toan, khả dĩ giải
khát’. Sĩ tốt văn chi, khẩu
giai xuất thủy, thừa thử đắc cập tiền
nguyên” (Ngụy Vũ Đế
(Tào Tháo) hành quân gấp rút. quân sĩ đều
khát nước, liền truyền lệnh: ‘Phía trước
có rừng mai to, lắm trái, vừa chua vừa ngọt có thể
giải khát’. Quân lính nghe nói đều chảy nước miếng,
nhờ đó [đỡ khát] mà đến được
chỗ có nguồn nước). Về sau, từ ngữ lại có một ư nghĩa mở rộng
mang dụng ư phê phán những kẻ mơ tưởng dùng
giải pháp viễn vông để giải quyết vấn
đề cấp bách trước mắt.
[3] Biến
Tướng Đồ (變相圖, Vikurvaṇa-ṛddhi) c̣n gọi là Biến
Hội, hoặc đơn giản là Biến, hàm nghĩa mô
tả sự biến hóa do thần thông của Phật, Bồ
Tát. Biến Tướng Đồ tức là dùng hội họa,
hoặc tranh thêu, tranh khắc để mô tả các sự
kiện (như Cát Nhục Thí Ưng Đồ mô tả sự
kiện Phật Thích Ca lúc c̣n tu nhân đă cắt thịt thí
cho chim ưng để cứu con bồ câu), hoặc mô tả h́nh tướng, sự trang nghiêm của
Phật, Bồ Tát (như A Di Đà Phật Trang Nghiêm Đồ),
hoặc các cảnh giới đáng sợ hoặc đẹp
đẽ ḥng răn nhắc tín đồ tu tập như
Địa Ngục Biến Tướng Đồ, Tịnh
Độ Biến Tướng Đồ (chẳng hạn
như Tây Phương Tam Thánh Lai Nghênh
Đồ, Cửu Phẩm Văng Sanh Đồ), hoặc thể
hiện vũ trụ quan như Hoa Nghiêm Pháp Giới An Lập
Đồ…
[4] Ư nói đạt được lợi
ích nhưng chẳng thể giữ cho lợi ích ấy tồn
tại liên tục, toàn là “lúc có, lúc không”.