Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 6

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

8. Phẩm thứ tư: Chánh Tín

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, Chánh Tín phẩm đệ tứ.        

          ()大方等大集賢護分正信品第四

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ tư: Chánh Tín).

 

          Văn tự trong phẩm này nhằm tuyên nói chánh tín. Để khích lệ chánh tín, đức Phật nói đủ loại tỷ dụ, như tỷ dụ về báu ma-ni, tỷ dụ hương Chiên Đàn, tỷ dụ chiếc thuyền báu, khiến cho chúng ta sanh khởi chánh tín, yêu thích, thủ hộ, tu tập, truyền bá pháp tắc này, muốn cho hữu duyên hữu t́nh đạt được công đức và lợi ích quư báu như thế đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát, vị cầu như thị tam-muội bảo cố, đương ưng dũng mănh, phát cần tinh tấn, tự nhiên tốc năng nhập thử tam-muội dă.

          ()爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。若諸菩薩摩訶薩。爲求如是三昧寶故。當應勇猛。發勤精進。自然速能入此三昧也。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát v́ cầu báu tam-muội như thế, hăy nên dũng mănh, phát khởi siêng năng tinh tấn, sẽ tự nhiên có thể nhanh chóng nhập tam-muội này).

 

          Đây là một câu nói về sự lựa chọn rất rơ ràng.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thí như hữu nhân thừa ngự đại thuyền, nhập ư đại hải, tứ ư tải măn chúng diệu trân bảo, dĩ quá nhất thiết chư đại nạn xứ, thùy chí thử ngạn, vị kỷ chi gian, thuyền hốt phá hoại, chúng bảo trầm một. Đương nhĩ chi thời, Diêm Phù Đề nhân phát đại khiếu thanh, sanh đại bi khổ, dĩ thất như thị vô giá bảo cố.

          ()賢護。譬如有人乘御大船。入於大海。恣意載滿衆妙珍寶。已過一切諸大難處。垂至此岸。未幾之間。船忽破壞。衆寶沉沒。當爾之時閻浮提人。發大叫聲。生大悲苦。以失如是無價寶故。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Ví như có người ngồi chiếc thuyền to, vào trong biển cả, mặc sức chở đầy các thứ trân bảo mầu nhiệm, đă vượt qua hết thảy các chỗ nạn lớn, sắp đến bờ này. Trong phút chốc, thuyền bỗng hư hoại, các thứ báu ch́m đắm. Ngay trong lúc đó, người trong Diêm Phù Đề kêu gào ầm ĩ, sanh ḷng buồn khổ to lớn, do bị mất các thứ báu vô giá như thế).

 

          Thí dụ này nói thuyền chở các thứ trân bảo đă sắp đến bờ, lại bỗng dưng ch́m lỉm, khiến cho mọi người sanh ḷng đau khổ như thế.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân diệc phục như thị, nhĩ văn như tư thắng tam-muội bảo, bất năng thư tả, độc tụng, thọ tŕ. Phục bất năng tư duy như pháp nhi trụ. Hiền Hộ! Đương tri nhĩ thời, nhất thiết thế gian chư thiên thần đẳng, diệc ưng như thị phát đại khiếu hô, sanh đại bi năo, tác như thị ngôn: “Thị chư chúng sanh thâm khả lân mẫn, vân hà ư thử chư Phật Thế Tôn thắng tam-muội bảo, nhất thiết chư Phật chi sở xưng dương, nhất thiết chư Phật chi sở ấn khả, nhất thiết chư Phật chi sở giáo giới, nhất thiết chư Phật tối thượng công đức, cụ túc thành tựu, viên măn vô khuyết, Bồ Tát văn dĩ, đương ưng cần cầu, phản cánh viễn ly, bất khẳng thư tả, bất nhạo độc tụng, bất năng thọ tŕ, giải thích nghĩa lư, bất năng tư duy, như pháp nhi trụ. Như thị phóng dật, giải đăi chúng sanh, vị lai tất đương thọ đại tổn giảm. Hiền Hộ! Hà đẳng danh vi chúng sanh tổn giảm? Sở vị ư như thị tam-muội bảo trung, văn dĩ viễn ly, bất năng thư tả, độc tụng, thọ tŕ, bất năng giải thuyết, tư duy nghĩa lư, bất như pháp trụ, chuyên niệm tu hành, táng diệt công đức. Thị vi giảm tổn.

          ()賢護。有善男子善女人。亦復如是。耳聞如斯勝三昧寶不能書寫讀誦受持。復不能思惟如法而住。賢護。當知爾時一切世間諸天神等。亦應如是發大叫呼。生大悲惱。作如是言。是諸衆生。深可憐愍。云何於此諸佛世尊勝三昧寶。一切諸佛之所稱揚。一切諸佛之所印可。一切諸佛之所教誡。一切諸佛最上功德。具足成就。圓滿無缺。菩薩聞已。當應勤求。反更遠離。不肯書寫。不樂讀誦。不能受持解釋義理。不能思惟如法而住。如是放逸懈怠衆生。未來必當受大損減。賢護。何等名爲衆生損減。所謂於如是三昧寶中。聞已遠離。不能書寫讀誦受持。不能解說思惟義理。不如法住。專念修行。喪滅功德。是爲減損。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Có thiện nam tử, thiện nữ nhân cũng giống như thế, tai được nghe báu tam-muội thù thắng như thế mà chẳng thể biên chép, đọc tụng, thọ tŕ. Lại chẳng thể tư duy, đúng pháp mà trụ. Này Hiền Hộ! Hăy nên biết, lúc ấy hết thảy các hàng thiên thần trong thế gian cũng nên kêu gào to lớn như thế, sanh ḷng buồn rầu, áo năo to lớn, nói như thế này: “Các chúng sanh này đáng thương xót quá mức! Sao lại đối với báu tam-muội thù thắng như thế của chư Phật Thế Tôn, là pháp được hết thảy chư Phật ca ngợi, được hết thảy chư Phật ấn khả, được hết thảy chư Phật răn dạy, là công đức tối thượng của hết thảy chư Phật, thành tựu trọn đủ, viên măn chẳng khuyết, Bồ Tát nghe xong, hăy nên siêng cầu, [thế mà các chúng sanh này] lại ngược ngạo xa ĺa, chẳng chịu biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng thể thọ tŕ, giải thích nghĩa lư, chẳng thể tư duy đúng như pháp mà trụ? Chúng sanh buông lung, giải đăi như thế, trong tương lai, ắt sẽ bị tổn giảm to lớn”. Này Hiền Hộ! Những ǵ gọi là “tổn giảm” của chúng sanh? Chính là đă nghe báu tam-muội như thế xong bèn xa ĺa, chẳng thể biên chép, đọc tụng, thọ tŕ, chẳng thể giải nói, tư duy nghĩa lư, chẳng đúng như pháp mà trụ, chuyên niệm tu hành, chôn vùi, diệt mất công đức. Đó là “tổn giảm”).

         

          Sự “tổn giảm” ấy được kinh văn diễn tả mười phần rơ ràng, nêu ra pháp tắc và tỷ dụ hết sức thẳng thừng, rơ rệt như thế đó.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị giải đăi nhân, ác chúng sanh bối, ư tư pháp trung, đắc lợi ích giả, vô hữu thị xứ!

          ()賢護。是懈怠人惡衆生輩。於斯法中。得利益者。無有是處。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Bọn người giải đăi, chúng sanh ác ấy mà đạt được lợi ích trong pháp này th́ chẳng có lẽ ấy).

 

          Đây là lời quở trách! Đối với những kẻ buông lung, chửi bới pháp này, đức Thế Tôn bèn quở trách. Sau khi tôi đă được tiếp xúc pháp Ban Châu, trước kia tôi chẳng kể với ai khác, cũng chẳng dám nói với ai. Về sau, do có nhiều người hành tŕ, dần dần h́nh thành một số lượng [hành nhân] nhất định, tôi mới nói [về pháp Ban Châu] trong thế gian, nhưng vẫn gặp vẫn rất nhiều kẻ hoài nghi, nói kiểu ǵ cũng đều có. “Ngươi làm cái tṛ ǵ vậy? Phô trương bản thân hả? Chẳng có chuyện bới chuyện ra à?”… Nhưng phần nhiều là v́ người ta chẳng hiểu, chẳng biết, chưa gặp pháp này. Do vậy, đúng như lư tuyên nói, truyền bá, khiến cho người khác biết pháp này, cũng là chức trách của chúng ta, mà cũng là hành vi thủ hộ đối với pháp của một Phật giáo đồ.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, tŕ xích chiên đàn, thị ngu si nhân, nhi bỉ si nhân, dĩ ngu si cố, ư xích đàn hương, khởi xú uế tưởng.

          ()復次賢護。譬如有人。持赤栴檀。示愚癡人。而彼癡人。以愚癡故。於赤檀香起臭穢想。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như có người cầm chiên đàn đỏ đưa cho kẻ ngu thấy. Kẻ ngu si đó do ngu si, đối với đàn hương đỏ, lại dấy lên ư tưởng cho là hôi thối).

 

          Nay chúng ta học Phật, do có nhân duyên phước đức mà được gặp gỡ pháp tắc như thế này, nhưng người thật sự sanh tín tâm cực hiếm hoi! Ngay như đă tiến nhập, hành tŕ pháp tắc này, có phải là người có tín tâm hay không? Người nếm thử, nh́n ngó th́ nhiều, kẻ thật sự sanh khởi tín tâm để lựa chọn quả thật rất hy hữu! “Hy hữu” có nghĩa là: Một là ít ỏi, hai là rất khó phát khởi. V́ sao? Đối với pháp này, chúng ta vẫn phần nhiều sợ hăi. Nay mọi người do được cổ vũ, trong quá tŕnh hành pháp một ngày một đêm, cái tâm sợ hăi sẽ dần dần, từ từ tiêu trừ. Khá nhiều người có thể dần dần tiếp nhận. Trước kia, hễ nói đến Ban Châu, phần đông chẳng thể tiếp nhận, đều nghi ngờ. Trải qua một khoảng thời gian học tập, nhận thức, trong xă hội hiện thời, rất nhiều nơi đang tu tập Ban Châu. Tuy trong hành tŕ, có đủ loại thời gian dài hay ngắn, có đủ loại trạng thái tương ứng hay không tương ứng, đúng pháp hay chẳng đúng pháp, nhưng đă tiếp xúc pháp tắc này, quả thật là phước đức nhân duyên chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta có thể thật sự dũng mănh tu tập pháp tắc này, thành thục Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội hay không? Chuyện này vẫn thật sự đ̣i hỏi chúng ta phải lột bỏ từng tầng sợ hăi!

 

          (Kinh) Thời chủ trí nhân mại đàn hương giả, cáo ngu nhân viết: - Nhữ kim bất ưng ư diệu chiên đàn, sanh xú ác tưởng. Hà dĩ cố? Thị đàn tối tinh, hương khí đệ nhất.

          ()時主智人賣檀香者。告愚人曰。汝今不應於妙栴檀生臭惡想。何以故。是檀最精。香氣第一。

          (Kinh: Khi ấy, người chủ có trí bán đàn hương bảo kẻ ngu rằng: - Nay ngươi chớ nên đối với chiên đàn mầu nhiệm mà sanh ư tưởng thối ác. V́ sao vậy? Đàn hương này tinh diệu nhất, mùi thơm bậc nhất).

 

          Nay chúng ta dùng hương, thường là bạch đàn (santalum album), hoặc hoàng đàn (dalbergia hupeana), rất ít dùng các loại gỗ đàn khác. Chiên Đàn hương (candana, sirium myrtifolium) có màu đỏ. Trước kia, khi tôi ở Phước Kiến, có người chở đến một loại hương từ Phi Châu, giống như những cái tai nhỏ của động vật. Từng khối, từng khối, do cắt từ các vết sẹo trên thân một loại cây. Mỗi năm chỉ có thể cắt được rất ít, mười phần quư giá. Nhưng loại hương ấy chỉ cần đốt một tí trong lư hương, ngay lập tức mùi mồ hôi rất nồng của mấy trăm người đang đả thất sẽ bay sạch chẳng c̣n! Nay trong chùa miếu của chúng ta, mùi lạ cũng ít, tạp duyên cũng ít, tương đối rất thanh tịnh, v́ mọi người một mực đốt đàn hương, hoặc trầm hương (agarwood), sức tịnh hóa chẳng thể nghĩ bàn. Một là hộ pháp thiện thần thích mùi vị ấy, hai là bản thân chúng ta cũng tịnh hóa không khí ở nơi đây. Cho nên mùi lạ chẳng xâm nhiễu. Nếu không, hơi hướng nơi thân thể mỗi người chúng ta đều khác nhau, do nghiệp lực bất đồng, hơi hướng sẽ phiền nhiễu lẫn nhau, mọi người chẳng thể an trụ. Người đời có rất nhiều kẻ do nghiệp lực bức bách khổ sở, bèn dùng thuốc lá, rượu, thịt để cân bằng chính ḿnh. Chúng ta là người học Phật, dùng ǵ để cân bằng chính ḿnh? Dùng hai pháp Bi và Trí, sẽ thuận tiện. Đối với mùi hôi thối hay thơm tho, ai nấy cảm nhận khác biệt. Người đời phần nhiều cho mùi hôi thối là thơm tho. Mọi người có thể tư duy tỷ dụ trong đoạn này nhiều hơn!

          Hương trước kia, hễ chạm tay vào, mùi hương luôn nồng đậm, hiện thời rất khó nói. Đó là v́ phước đức và nhân duyên của con người biến hóa, trăm vị đều thoái giảm. Ngay như trái cây trong hiện thời, dẫu thế nào đi nữa, cũng đều chẳng có hương vị như thuở [chúng ta] c̣n bé, dẫu ngọt cũng chẳng phải là hương vị như thuở đó. Thật ra, chẳng phải do hương vị, mà do tâm trí của con người giảm thấp, thiện duyên đang suy giảm! Có người nói phước báo của người hiện thời to lớn, người thuở trước chẳng có xe hơi, nay chúng ta có xe hơi. Người thuở trước sống trong những căn nhà bé tẹo, quư vị thấy nay chúng ta ở trong nhà như thế nào. Người thuở trước làm ǵ, nay chúng ta làm ǵ… Thật ra, đó là một kiểu ỷ lại vào vật chất ở bên ngoài. Khi tâm địa sâu nặng dần dần biến thành [coi trọng] vật chất, sự tự vui sướng, sự hàm dưỡng, và thọ dụng tự tại trong tâm trí của chúng ta sẽ dần dần mất đi, v́ vật chất mà mất đi. Nếu vật chất cũng có, nội tâm sâu nặng cũng có, quá tốt đẹp! Nhưng rất nhiều người trong hiện thời cứ mù quáng so đo vật chất, đă mất hẳn sự sâu nặng [trong tâm trí], mà cũng đánh mất giá trị của vật chất. Khi đó, vật chất quả thật chẳng có giá trị ǵ, chỉ là một thứ ước định để so đo mù quáng mà thôi. Thật sự chẳng có quá tŕnh hưởng thụ, mà cũng chẳng có nội hàm!

 

          (Kinh) Nhữ kim hà cố phản vi xú ác? Nhược bất tín giả, ưng tiên khứu thường, vi xú, vi hương? Hựu nhữ nhăn minh, diệc ưng dĩ mục quán sát, thị đàn quang sắc, văn thái, vi sấu, vi ph́, vi thiện, vi ác? Nhiên bỉ ngu giả, tuy văn trí nhân như thị ngữ ngôn, chủng chủng xưng tán, dĩ ngu si cố, chuyển sanh tăng ố, dĩ thủ niệp tỵ, bất dụng khứu văn, yểm bế kỳ mục, bất khẳng quán thị.

          ()汝今何故反爲臭惡。若不信者。應先嘗。爲臭爲香。又汝眼明。亦應以目觀察。是檀光色文彩。爲瘦爲肥。爲善爲惡。然彼愚者。雖聞智人如是語言。種種稱讚。以愚癡故。轉生憎惡。以手捻鼻。不用聞。掩閉其目。不肯觀視。

          (Kinh: Ông nay v́ sao lại ngược ngạo cho là hôi thối? Nếu chẳng tin, trước hết hăy nên ngửi nếm xem là thối hay thơm. Lại do ông mắt sáng, cũng nên dùng mắt để xem xét màu sắc, vân gỗ của loại Chiên Đàn này là mỏng hay đậm, đẹp hay xấu? Nhưng kẻ ngu ấy, tuy nghe người trí dùng lời lẽ như thế để ca ngợi đủ mọi cách, nhưng do ngu si, đâm ra ghét bỏ, dùng tay bịt mũi, chẳng chịu ngửi thử, bịt chặt mắt chẳng chịu xem ngó).

 

          Người học Phật thường xuyên gặp phải t́nh huống này, nhất là khi mới phát tâm, cảm thấy gặp gỡ Phật pháp rất hoan hỷ, cảm thấy chính ḿnh thật sự được lợi ích, mong nói cho người nhà, người chung quanh, và đồng nghiệp hay biết, kết quả là rất nhiều kẻ nói: “Cút xéo đi! Chẳng cần phải nói với tao như thế!” Đối với chuyện này, mọi người rất có cảm xúc. “Dĩ thủ niệp tỵ, bất dụng khứu văn, yểm bế kỳ mục, bất khẳng quán thị” (Dùng tay bịt mũi chẳng chịu ngửi thử; bịt chặt con mắt chẳng chịu nh́n ngó). Khi chúng ta chấp trước tri kiến của chính ḿnh, chẳng tiếp nhận Phật pháp, đích xác là có nghiệp tướng như thế đó!

 

          (Kinh) Như thị Hiền Hộ! Đương lai chi thế, hữu ác tỳ-kheo, tăng ố thị kinh, kỳ sự diệc nhĩ. Bỉ ác nhân bối, bất tri tu tập thân giới, tâm huệ, ngu si, vô trí, do như bạch dương, ngoan ngăi, ngận tệ. Bỉ chư ác nhân, hựu bạc phước cố, tuy phục đắc văn như thị diệu điển, chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, bất dụng thư tả, bất năng độc tụng, bất năng thọ tŕ, bất năng tư duy, bất năng vị nhân tuyên dương, quảng thuyết. Hựu diệc bất năng quảng sanh tùy hỷ. Vân hà năng đắc như thuyết tu hành? Nhược bỉ ác nhân, năng thuyết hành giả, vô hữu thị xứ!

          ()如是賢護。當來之世。有惡比丘。憎惡是經。其事亦爾。彼惡人輩。不知修習身戒心慧。愚癡無智。猶如白羊。頑騃佷弊。彼諸惡人。又薄福故。雖復得聞如是妙典。正念諸佛現前三昧。不用書寫。不能讀誦。不能受持。不能思惟。不能爲人宣揚廣說。又亦不能廣生隨喜。云何能得如說修行。若彼惡人。能說行者。無有是處。

          (Kinh: Như thế đó Hiền Hộ! Trong đời tương lai, có ác tỳ-kheo ghét bỏ kinh này cũng giống như thế! Bọn người ác ấy chẳng biết tu tập giới nơi thân và trí huệ nơi tâm, ngu si, vô trí, giống như con dê trắng, ngu độn, hung tợn, tệ hại. Những kẻ ác đó lại do bạc phước, tuy lại được nghe kinh điển mầu nhiệm như thế, chánh niệm Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, chẳng chịu biên chép, chẳng thể đọc tụng, chẳng thể thọ tŕ, chẳng thể tư duy, chẳng thể v́ người khác tuyên dương, diễn nói rộng răi. Lại cũng chẳng thể sanh ḷng tùy hỷ to lớn, làm sao có thể tu hành đúng như lời dạy cho được? Nếu kẻ ác ấy có thể nói và hành th́ chẳng có lẽ ấy).

 

          Chúng ta là Phật tử, phải nên đối đăi theo pháp tắc như thế nào? Mọi người phải nên xét kỹ chuyện này, nhất là đối với kinh điển, phải nên tôn trọng, yêu mến, bảo vệ như thế nào? V́ kinh Ban Châu này là kinh điển được lưu truyền rộng khắp, từ xưa đến nay đă sớm được các vị đại thiện tri thức tu tập. Như đức Thế Tôn đă nói: Trong các đệ tử của ta, Ma Ha Ca Diếp đă đích thân chứng đắc. Sau đó, nhất là các vị đại thiện tri thức nơi đất Hán và các vị thành tựu từ xưa đến nay, đối với pháp này, về cơ bản cũng đều đă từng tu tập.

 

          (Kinh) Hựu phục văn dĩ, cánh hưng phỉ báng, đô vô tín tâm, vị vi chân thật, tuy văn đa thuyết, chung vô khai giải. Phục tác thị ngôn: “Nhược tư pháp giả, đản vi hư luận cố, thần dị kỳ sự. Hựu vị xí thịnh ngôn giáo cố, quá sức kỳ từ, dụ cuống thế gian, tạo tư kinh điển. Khởi đắc phương tỷ thánh giả A Nan, chư tỳ-kheo bối, hiện tại thế thời tuyên thuyết như thị chư Tu Đa La dă”.

          ()又復聞已。更興誹謗。都無信心。謂爲真實。雖聞多說。終無開解。復作是言。若斯法者。但爲戲論故。神異其事。又爲熾盛言教故。過飾其詞。誘誑世間。造斯經典。豈得方比聖者阿難諸比丘輩。現在世時宣說如是諸修多羅也。

          (Kinh: Lại c̣n nghe xong, càng thêm dấy ḷng phỉ báng, đều chẳng có tín tâm, chẳng cho là chân thật. Tuy nghe nói nhiều lượt, trọn chẳng khai giải. Lại nói như thế này: “Pháp như thế ấy chỉ là do hư luận mà thần dị chuyện ấy. Lại v́ để cho ngôn giáo rạng rỡ mà dùng từ ngữ tô vẽ quá mức, dụ dỗ, dối gạt thế gian, tạo ra kinh điển này. Há lẽ nào sánh bằng các Tu Đa La được các vị như thánh giả A Nan và các vị tỳ-kheo lúc đang trụ thế đă tuyên nói như thế ư?”)

 

          Đấy là dựa theo kinh để báng kinh, dẫn dụng thánh giả A Nan [để báng bổ].

 

          (Kinh) Hựu ư dị thời, phát như thị ngôn: “Thử Tu Đa La phi Phật sở thuyết, năi thị ác nhân tự tạo văn chương, vọng ngôn kinh nhĩ”.

          ()又於異時。發如是言。此修多羅。非佛所說。乃是惡人自造文章。妄言經耳。

          (Kinh: Lại trong lúc khác, thốt lời như thế này: “Tu Đa La (khế kinh) này chẳng do đức Phật nói, mà là do kẻ ác tự tạo văn chương, nói dối là Kinh”).

 

          Ở đây, nhất định phải chú ư, v́ nếu quư vị chẳng đủ tín tâm, lời lẽ ấy sẽ có thể khống chế quư vị, v́ pháp Tịnh Độ thường bị kẻ khác công kích, bị nhiều người hoài nghi. Pháp Ban Châu càng biểu hiện rơ rệt như thế đó!

 

          (Kinh) Hiền Hộ đương tri, như tư ác nhân trường dạ viễn ly như thị vi diệu vô thượng đại bảo. Như bỉ si nhân, kiến diệu hương dĩ, yểm nhăn, tắc tỵ, bất dụng kiến văn. Như thị Hiền Hộ! Bỉ ngu ác bối, văn thử diệu kinh tam-muội bảo dĩ, bất dục thư tả, bất nhạo độc tụng, bất niệm thọ tŕ, bất năng tuyên thuyết, sở vị vô tâm thân cận, bất nguyện văn cố.

          ()賢護當知。如斯惡人。長夜遠離如是微妙無上大寶。如彼癡人。見妙香已。掩眼塞鼻。不用見聞。如是賢護。彼愚惡輩。聞此妙經三昧寶已。不欲書寫。不樂讀誦。不念受持。不能宣說。所謂無心親近。不願聞故。

          (Kinh: Hiền Hộ nên biết: Kẻ ác như thế trong đêm dài xa ĺa vô thượng đại bảo vi diệu như thế. Kẻ si như vậy đă thấy hương mầu nhiệm rồi, bịt mắt, bịt mũi, chẳng chịu nh́n, ngửi. Như thế đó, Hiền Hộ! Lũ ngu ác ấy đă nghe báu tam-muội trong bản kinh mầu nhiệm này, chẳng muốn biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng nghĩ thọ tŕ, chẳng thể tuyên nói. Đó gọi là không có tâm thân cận v́ chẳng muốn nghe).

 

          Trong đoạn văn tự này, chúng ta thấy đức Thế Tôn quở trách loại hữu t́nh tạo tác ác nghiệp, hoặc tạo tác dị thuyết trong đời Mạt Pháp. Kẻ dùng tâm thức để hướng dẫn pháp tắc, phần nhiều sẽ phỉ báng như thế! Chư vị thiện tri thức ơi! Đối với chỗ này, chúng ta hăy khéo tư duy, khéo quan sát, yêu mến thủ hộ kinh này, đọc tụng kinh này, tu tập kinh này, tuyên nói kinh này.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân mại ma-ni bảo. Hữu ngu si nhân, kiến bỉ bảo dĩ, tức tiện vấn ngôn: “Nhân giả tư bảo, kỳ giá vân hà?” Bảo chủ đáp ngôn: “Nhữ kim đương tri, thị bảo tinh thắng, thế gian sở vô, phi khả tạo thứ dĩ thế giá luận dă. Ngô kim thả thuyết thử bảo công năng, oai đức, lực dụng, thô vi ước nhĩ. Khanh nhược dục tri thử ma-ni bảo, quang minh sở chiếu, cận viễn nhược can. Khanh kim nhược tu, đương dĩ chân kim bố măn tư địa, nhĩ năi tương dữ”. Bỉ ngu si nhân, văn thị ngữ dĩ, tiện đại sủy tiếu, chủng chủng tử hủy, thị ma-ni bảo, cánh bất thù giá.

          ()復次賢護。譬如有人賣摩尼寶。有愚癡人。見彼寶已。即便問言。仁者斯寶。其價云何。寶主答言。汝今當知。是寶精勝。世間所無。非可造次以世價論也。吾今且說此寶功能。威德力用。粗爲約耳。卿若欲知此摩尼寶。光明所照。近遠若干。卿今若須。當以真金佈滿斯地。爾乃相與。彼愚癡人。聞是語已。便大嗤笑。種種呰毀。是摩尼寶。竟不酬價。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Ví như có người bán báu ma-ni. Có kẻ ngu si đă trông thấy báu ấy, liền hỏi rằng: “Vật báu này của nhân giả giá trị ra sao?” Chủ vật báu trả lời: “Ông nay nên biết, vật báu này tinh ṛng, thù thắng, thế gian chẳng có. Chớ nên bộp chộp dùng giá trị trong thế gian để luận định. Nay tôi lại nói đại lược thô thiển về công năng, oai đức, và lực dụng của món báu này. Nếu ông muốn biết quang minh của báu ma-ni này chiếu xa hay gần cỡ nào, nếu nay ông cần đến, phải nên lấy vàng ṛng trải khắp cuộc đất này th́ tôi mới trao cho ông”. Kẻ ngu si đó nghe lời ấy rồi, liền hết sức cười nhạo, chê bai, hủy báng đủ mọi lẽ: Báu ma-ni ấy trọn chẳng đáng giá).

 

          Trong phẩm Chánh Tín, đức Thế Tôn nêu lên rất nhiều để tỷ dụ sự trân quư của pháp Ban Châu tam-muội, khó được, khó gặp. Nếu chẳng nhận biết, chúng ta sẽ bỏ lỡ sát-na [gặp gỡ] món báu to lớn.

 

          (Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bỉ vị lai thế, chư ác tỳ-kheo, văn thử kinh trung thắng tam-muội bảo, vô hữu tín tâm, đa sanh sủy tiếu, cánh hưng phỉ báng. Kỳ sự diệc nhĩ. Hoặc hữu tỳ-kheo, tín căn thâm hậu, huệ căn minh lợi, dĩ ư quá khứ chư Như Lai sở, thân cận, thừa sự, thính văn chánh pháp, như giáo tu hành, chủng chư thiện căn. Bỉ đẳng văn thử Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, tức năng độc tụng, tư duy nghĩa lư, vị nhân quảng thuyết, năng đa lợi ích nhất thiết thế gian. Sở vị quảng tuyên lưu bố, sanh đại tín tâm, phát đại trí huệ, thành tựu thuần trực, cụ túc oai nghi, thường hành tàm quư, bố úy chúng tội, tu tŕ cấm giới, bất thọ chư dục, tín thậm thâm pháp, năng đa thọ văn, đắc thâm trí nhẫn, thường hành từ bi. Nhiên nhi tư đẳng tín căn thâm cố, hành thị tam-muội. Đắc tam-muội dĩ, du chư phương quốc, vị tha quảng thuyết, giải thích nghĩa lư, thường tác thị nguyện, linh thử Bồ Tát Niệm Phật tam-muội, thậm thâm kinh điển, quảng hành lưu bố, thường trụ ư thế. Hoặc hữu chúng sanh, thiện căn vi bạc, phước đức tiển thiểu, quá khứ vị tằng thân cận chư Phật, cúng dường, thừa sự, thính văn chánh pháp, đản vị ngă mạn sở hàng, tật đố sở đạo, lợi dưỡng sở phú, danh văn sở khiên, quảng hành phóng dật, bất tŕ giới thiện, thường nhạo loạn tâm, bất tu Thiền Định, viễn ly kinh giáo, bất cầu đa văn, vị ngộ thiện sư, duy phùng ác hữu. Tư nhân như thị văn thử tam-muội, phỉ báng khinh hủy, vô nhất tín tâm, vị vi bất thật, chí tánh ngoan ngu, ư vô khai giải, phục tác thị ngôn: “Như tư kinh điển, phi Phật sở thuyết, năi thị thế gian độn căn tỳ-kheo, ngu si, tà kiến, tự tác văn chương, nghiêm sức từ cú. Nhược xử chúng trung, ưng như thị thuyết, diệc như thị giáo: “Nhữ chư chúng sanh đương tri kim thử Tu Đa La điển phi Phật sở thuyết”. Như thị si nhân bất tri thân cận chư Phật Thế Tôn, bất chủng thiện căn, bất tu cúng dường, tập cận ác hữu, đa tác chúng ác. Đương tri thị nhân viễn ly vô thượng thâm diệu pháp bảo, vĩnh thất vô thượng tối thắng pháp lợi dă!” Phật cáo Hiền Hộ: - Ngô phục ngữ nhữ, ngă kim hiện tại nhất thiết thế gian Phạm, ma, sa-môn, Bà La Môn, cập chư thiên, nhân, A Tu La đẳng, chư đại chúng tiền, tuyên thuyết như thị diệu tam-muội thời, nhược bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn dĩ tùy hỷ, độc tụng, thọ tŕ Niệm Phật tam-muội, tư duy, tín giải, tối dĩ vi chân, phát như thị ngôn: ‘Thị vi chân thật chư Phật thuyết giả’. Đương tri bỉ nhân sở hoạch phước tụ, bất khả tư nghị. Hiền Hộ! Nhược phục hữu chư thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ măn tam thiên đại thiên thế giới chủng chủng trân bảo, dĩ dụng cúng dường nhất thiết chư Phật Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác sở đắc công đức, tuy vi quảng đại, nhiên vọng tŕ kinh sở hoạch phước tụ, bách thiên vạn phần, bất cập kỳ nhất, năi chí cánh dĩ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư phước đức tụ, diệc bất cập nhất dă.

          ()如是賢護。彼未來世諸惡比丘。聞此經中勝三昧寶。無有信心。多生嗤笑。更興誹謗。其事亦爾。或有比丘。信根深厚。慧根明利。已於過去諸如來所親近承事聽聞正法。如教修行。種諸善根。彼等聞此菩薩唸佛現前三昧。即能讀誦思惟義理。爲人廣說。能多利益一切世間。所謂廣宣流佈。生大信心。發大智慧。成就純直。具足威儀。常行慚愧。怖畏衆罪。修持禁戒。不受諸欲。信甚深法。能多受聞。得深智忍。常行慈悲。然而斯等信根深固。行是三昧。得三昧已。遊諸方國。爲他廣說。解釋義理。常作是願。令此菩薩唸佛三昧。甚深經典。廣行流佈。常住於世。或有衆生。善根微薄。福德尠少。過去未曾親近諸佛。供養承事。聽聞正法。但爲我慢所降。嫉妒所導。利養所覆。名聞所牽。廣行放逸。不持戒善。常樂亂心。不修禪定。遠離經教。不求多聞。未遇善師。唯逢惡友。斯人如是聞此三昧。誹謗輕毀。無一信心。謂爲不實。志性頑愚。意無開解。復作是言。如斯經典。非佛所說。乃是世間鈍根比丘。愚癡邪見。自作文章。嚴飾詞句。若處衆中。應如是說。亦如是教。汝諸衆生。當知今此修多羅典。非佛所說。如是癡人。不知親近諸佛世尊。不種善根。不修供養。習近惡友。多作衆惡。當知是人。遠離無上深妙法寶。永失無上最勝法利也。佛告賢護。吾復語汝。我今現在一切世間梵魔沙門婆羅門及諸天人阿修羅等諸大衆前。宣說如是妙三昧時。若彼善男子善女人。聞已隨喜。讀誦受持唸佛三昧。思惟信解最以爲真。發如是言。是爲真實諸佛說者。當知彼人所獲福聚。不可思議。賢護。若復有諸善男子善女人。持滿三千大千世界種種珍寶。以用供養一切諸佛如來應供等正覺。所得功德。雖爲廣大。然望持經所獲福聚。百千萬分。不及其一。乃至更以無量無邊阿僧祇諸福德聚。亦不及一也。

          (Kinh: “Như thế đó Hiền Hộ! Các ác tỳ-kheo ấy trong đời vị lai nghe báu tam-muội thù thắng trong kinh này, chẳng có tín tâm, phần nhiều sanh ḷng cười nhạo, lại c̣n sanh phỉ báng cũng giống như thế đó. Hoặc có tỳ-kheo tín căn sâu dày, huệ căn sáng suốt, nhạy bén, do trong quá khứ đă ở nơi các đức Như Lai thân cận, thừa sự, lắng nghe chánh pháp, tu hành đúng như lời dạy, gieo các căn lành. Bọn họ nghe Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội này, liền có thể đọc tụng, tư duy nghĩa lư, v́ người khác rộng nói, có thể tạo nhiều lợi ích cho hết thảy thế gian, tức là tuyên nói, truyền bá rộng răi, sanh tín tâm to lớn, phát khởi trí huệ lớn, thành tựu trực tâm tinh thuần, trọn đủ oai nghi, thường giữ ḷng hổ thẹn, sợ hăi các tội, tu tŕ cấm giới, chẳng nhận lănh các dục, tin pháp rất sâu, có thể tiếp nhận, nghe nhiều, đắc trí nhẫn sâu xa, thường hành từ bi. Nhưng họ do tín căn sâu chắc mà hành tam-muội này. Đă đắc tam-muội, dạo chơi trong quốc độ các phương, v́ người khác nói rộng răi, giải thích nghĩa lư, thường nguyện như thế này: ‘Khiến cho kinh điển Bồ Tát Niệm Phật tam-muội rất sâu này sẽ được lưu truyền rộng răi, thường trụ trong cơi đời’. Hoặc có chúng sanh thiện căn mỏng ít, phước đức thưa thớt, trong quá khứ chưa từng thân cận chư Phật, cúng dường, thừa sự, lắng nghe chánh pháp, chỉ v́ bị ngă mạn đè nén, ghen tỵ chỉ huy, lợi dưỡng che lấp, danh vọng trói buộc, làm đủ mọi chuyện buông lung, chẳng giữ giới thiện, thường thích loạn tâm, chẳng tu Thiền Định, xa ĺa kinh giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy lành, chỉ gặp bạn ác. Kẻ đó nghe tam-muội như thế này bèn phỉ báng, khinh rẻ, hủy nhục, chẳng có chút tín tâm nào, bảo là [kinh này] chẳng thật. Kẻ đó chí tánh ương bướng, ngu độn, ư chẳng khai giải, lại nói như thế này: ‘Kinh điển như thế này chẳng do đức Phật nói, mà là do độn căn tỳ-kheo trong thế gian, ngu si, tà kiến, tự soạn văn chương, trau chuốt câu chữ’. Nếu ở trong đại chúng, cũng sẽ nói như thế, cũng dạy như thế này: ‘Chúng sanh các ngươi hăy nên biết kinh điển Tu Đa La này chẳng phải do đức Phật nói’. Kẻ si như thế chẳng biết thân cận chư Phật Thế Tôn, chẳng gieo thiện căn, chẳng tu cúng dường, thân cận bạn ác, làm nhiều điều ác. Hăy nên biết kẻ ấy xa ĺa pháp bảo vô thượng sâu xa, mầu nhiệm, vĩnh viễn đánh mất lợi ích vô thượng tối thắng nơi pháp”. Đức Phật bảo ngài Hiền Hộ: - Ta lại bảo ông, nay trong lúc ta đối trước hết thảy Phạm vương, ma, sa-môn, Bà La Môn, và các trời, người, A Tu La v.v… các đại chúng trong thế gian hiện tại, tuyên nói tam-muội mầu nhiệm như thế, nếu các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nghe xong tùy hỷ, đọc tụng, thọ tŕ Niệm Phật tam-muội, tư duy, tin hiểu, cho là chân thật nhất, thốt lời như thế này: ‘Đây là kinh thật sự do chư Phật nói’. Hăy nên biết người ấy đạt được khối phước chẳng thể nghĩ bàn. Này Hiền Hộ! Nếu lại có các thiện nam tử, thiện nữ nhân dùng các thứ trân bảo đầy ắp tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường hết thảy chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác th́ người ấy đạt được công đức tuy rộng lớn, nhưng so với khối phước đạt được của người tŕ kinh th́ chẳng bằng một phần trong trăm ngàn vạn phần, thậm chí cũng chẳng bằng một phần của vô lượng vô biên A-tăng-kỳ các khối phước đức).      

 

          Lành thay! Trong đoạn văn tự này, đức Thế Tôn đă nêu bày phương tiện chánh tín, dường như chỉ nói về tỳ-kheo, nhưng [thật ra] cũng bao gồm thiện nam tử, thiện nữ nhân. Tỳ-kheo đứng đầu trong chín chúng[1] nghe thuyết pháp, cho nên chỉ nói về tỳ-kheo là đă bao gồm hết thảy các đại chúng học Phật.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Tà khúc ngu hoặc nhân, phóng dật, căn bất thục.

          ()爾時世尊。爲重明此義。而說偈言。邪曲愚惑人。放逸根不熟。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn để nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Kẻ tà khúc, ngu hoặc, buông lung, căn chẳng thuần).

 

          Nhận biết một pháp tắc th́ như trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Thế Tôn đă dạy: Nếu gieo các thiện căn, thừa sự, cúng dường Phật, hoặc là một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật, cho đến đối với một hằng hà sa số chư Phật đều cúng dường, nghe kinh điển Đại Thừa mà chẳng phỉ báng; thiện căn ấy như thật! Nghe pháp Ban Châu mà chẳng sanh nghi báng, đă là rất khó có trong tam giới. Nếu nghe pháp rồi mà có thể sanh ḷng tin, nghe pháp rồi có thể tu tập, nghe pháp xong có thể thành tựu, truyền bá, người ấy rất chẳng thể nghĩ bàn! Người đó chẳng chỉ cúng dường một hằng sa, hai hằng sa, ba hằng sa chư Phật, thừa sự, mà là đều đă cúng dường chư Phật, phát Bồ Đề tâm. V́ lẽ nào? Do thiện căn của người ấy chín muồi, do công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Kẻ thiện căn chẳng thuần thục, từ vô thỉ tới nay chưa hề thân cận chư Phật để phát Bồ Đề tâm, hoặc siêng tu cúng dường, đối với pháp chẳng thể sanh ḷng chánh tín, chẳng thể ưa thích, đối với loại hữu t́nh ấy, hăy nên thương xót, cổ vũ, khiến cho thiện căn của họ chín muồi. Đấy là bi tâm mà hết thảy người tu tập Phật pháp đều nên tu tŕ.

 

          (Kinh) Ác hữu chi sở hoại, vô hữu chánh tín tâm. Phá giới tạo chúng tội, thâm trước ư ngă mạn.

          ()惡友之所壞。無有正信心。破戒造衆罪。深着於我慢。

          (Kinh: Bị bạn ác phá hoại, chẳng có tâm chánh tín, phá giới, tạo các tội, đắm sâu nơi ngă mạn).

 

          Tu loại pháp này, nếu dùng cái tâm ngă mạn để tu tŕ, pháp này đă diệt! Nếu dùng cái tâm tà kiến, v́ danh vọng, lợi dưỡng, sẽ như trong chánh kinh trên đây đă nói “tật đố sở đạo, lợi dưỡng sở phú, danh văn sở khiên, quảng hành phóng dật” (bị ghen tỵ hướng dẫn, lợi dưỡng che lấp, danh vọng trói buộc, làm đủ mọi chuyện buông lung). Dẫu trong lúc hành pháp, vẫn là đang phóng dật! Trong hành pháp Ban Châu, có các vị Bồ Tát tự ḿnh cũng có thể cảm nhận chính ḿnh đang t́m cầu phương tiện phóng dật ở khắp mọi chỗ! “Bất tŕ giới thiện, thường nhạo loạn tâm, bất tu Thiền Định, viễn ly kinh giáo, bất cầu đa văn, vị ngộ thiện sư, duy phùng ác hữu” (Chẳng tŕ giới thiện, thường thích loạn tâm, chẳng tu Thiền Định, xa ĺa kinh giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy lành, chỉ gặp bạn ác). “Bạn ác” là ǵ? A dua, bợ đỡ, hư giả đối với pháp, chẳng có thực chất. Chẳng phải là thâm nhập tu tập pháp tắc, phần nhiều là dối trá, bợ đỡ, nắm níu lẫn nhau, phần nhiều chẳng thật. Nếu là như thế, sẽ xa ĺa pháp tắc này, tuy niệm Phật mà đă đánh mất cam lộ vị, v́ chẳng có thành tựu chân thật. Nay mọi người chúng ta khi tu tập pháp này, nhất định phải thâm nhập quan sát nghiệp duyên của chính ḿnh trong hiện tại sanh khởi và thủ hộ như thế nào? Tu tập bằng cách nào? V́ sao phải dùng pháp này? V́ sao phải thủ hộ pháp này?

 

          (Kinh) Bỉ các ngôn thử kinh, phi thị chư Phật thuyết, thử chư Tu Đa La, phi thị pháp vương giáo, bỉ bối tự ư ngôn, ngă hà năng thuyết thử?

          ()彼各言此經。非是諸佛說。此諸修多羅。非是法王教。彼輩自意言。我何能說此。

          (Kinh: Họ đều nói kinh này, chẳng do chư Phật nói. Các Tu Đa La này, chẳng do pháp vương dạy, bọn họ tự ư nói, ta làm sao nói được?)

 

          “Tự ư ngôn” là hư vọng suy lường, dựa theo ư nghĩ của riêng ḿnh, tức là dùng tâm thức hư vọng của chính ḿnh để suy lường pháp tắc rồi phỉ báng.

 

          (Kinh) Nhược kiến Đại Điều Ngự, Thế Tôn phóng quang minh, ngă vị bỉ quảng tuyên, bỉ diệc năng truyền thuyết, kỳ hoặc ư thử kinh, văn dĩ sanh hoan hỷ.

          ()若見大調御。世尊放光明。我爲彼廣宣。彼亦能傳說。其或於此經。聞已生歡喜。

          (Kinh: Nếu thấy Đại Điều Ngự, Thế Tôn phóng quang minh, ta v́ họ rộng nói, họ cũng sẽ truyền nói, hoặc đối với kinh này, nghe xong sanh hoan hỷ).

 

          “Văn dĩ sanh hoan hỷ” (nghe xong sanh hoan hỷ): Đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta có thể không ngừng xét kỹ và quan sát chỗ này: Nếu có hữu t́nh đối với kinh giáo, cho đến đối với h́nh tượng Tam Bảo, chẳng sanh hoan hỷ, phần nhiều là kẻ tự kiêu mạn, tự cao tự đại, tự phụ. Nếu là kẻ thiện căn thành thục, đối với một kinh, một sách, thậm chí một lời nói, sẽ đều kính vâng, thủ hộ.

 

          (Kinh) Tư nhân vô nghi vơng, bất ngôn phi Phật thuyết.

          ()斯人無疑網不言非佛

          (Kinh: Kẻ đó chẳng nghi hoặc, chẳng bảo Phật không nói).

 

          V́ sao? Đức Thế Tôn nói hết thảy các pháp. Do hết thảy các pháp tắc thế gian và xuất thế gian, không pháp nào đức Thế Tôn chẳng nói, cho nên Ngài là Thế Tôn. V́ sao nói thế? Trong hết thảy các môn đà-la-ni thiện xảo, không pháp ǵ chẳng nói, không pháp ǵ chẳng hiển lộ. Nhưng nếu đức Phật chẳng nói loại giáo ngôn này th́ [giáo pháp ấy] làm sao tỏ lộ được? Làm sao biết rơ được?

 

          (Kinh) Như hữu giới thanh tịnh, sở kiến năng liễu tri.

          ()如有戒清淨。所見能了知。

          (Kinh: Nếu có giới thanh tịnh, trông thấy bèn biết rơ).

 

          Trong cơ chế tŕ giới, nếu mọi người chẳng có tâm hiếu thuận, tŕ giới bằng cách nào đây? Vẫn là dùng cái tâm khinh mạn để tŕ giới! Hành pháp mà nếu dựa vào cái tâm khinh mạn, hành pháp để làm ǵ cơ chứ? Vẫn là cái nghiệp danh vọng, lợi dưỡng hư giả, vẫn sanh tử y hệt! V́ thế, trong quá tŕnh chúng ta tu tập pháp tắc này, đối với hành vi trong một niệm hiện tiền của chính ḿnh, nhất định phải tư duy và quan sát rơ ràng.

 

          (Kinh) Kính pháp khởi trọng tâm, ngă vị thử trần thuyết, nhược dĩ tam thiên bảo, tŕ phụng chư Như Lai, vị cầu đại Bồ Đề, kỳ phước bất khả thuyết. Nhược hữu chư tỳ-kheo, thuyết Phật sở thán định.

          ()敬法起重心。我爲此陳說。若以三千寶。持奉諸如來。爲求大菩提。其福不可說。若有諸比丘。說佛所嘆定。

          (Kinh: Kính pháp, tâm trân trọng. Ta v́ kẻ đó nói: Dùng báu đầy tam thiên, dâng hiến các Như Lai, để cầu đại Bồ Đề, phước ấy chẳng thể nói. Nếu có các tỳ-kheo, nói môn Định Phật khen).

 

          “Phật sở thán định” (môn Định được đức Phật khen ngợi) chính là Ban Châu tam-muội, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền, tu tŕ loại Định Ư tam-muội ấy.

 

          (Kinh) Văn giả sanh tín tâm, thử phước quá ư bỉ.

          ()聞者生信心。此福過於彼。

          (Kinh: Nghe rồi sanh tín tâm, phước ấy vượt hơn hẳn).

 

          Đức Thế Tôn tán thán phước đức ấy. Thật ra, chẳng có phước đức nào để có thể đạt được, chỉ v́ chúng sanh tiến nhập, yêu thích pháp tắc Bồ Đề. Nói kiểu này thật sự là để gia tŕ chúng ta trọn đủ tâm nguyện hành pháp.

 

9. Phẩm thứ năm: Thọ Tŕ      

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Thọ Tŕ phẩm đệ ngũ.

          ()大方等大集賢護分受持品第五。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, phần Hiền Hộ, phẩm thứ năm: Thọ Tŕ).

 

          Đối với bất cứ giáo pháp nào, nếu chẳng dựa theo kinh điển để tu tŕ, tu tập, quan sát, chúng ta sẽ không có chỗ để nương tựa. Nhất là sau khi đức Thế Tôn đă diệt độ, kinh điển là cội nguồn pháp bảo duy nhất để chúng ta nương tựa. Tuy có các vị thiện tri thức khác lập giáo, cũng chẳng ĺa kinh điển. Nếu chẳng phải là như thế, sẽ chẳng được đức Thế Tôn ấn khả, chẳng do đức Thế Tôn trực tiếp tuyên nói, sẽ có nhiều chỗ chẳng đáng tin! V́ vậy, kinh điển là chỗ nương cậy, bảo vệ chúng ta, là chỗ nương cậy cho chúng ta tu tập, là chỗ nương cậy, bảo vệ chúng ta thành tựu, thoát khỏi trầm luân. Ở đây, chúng ta hăy xem phẩm Thọ Tŕ dùng điều ǵ để tuyên nói, giáo hóa.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Thử chúng hữu nhân, kim tại ngă tiền, thân văn ngă thuyết như thị tam-muội, ư ngă diệt hậu, kỳ sở sanh xứ, hoàn phục đắc văn thị tam-muội bảo, tuy văn bất tín, phỉ báng, hủy tử, viễn ly thiện hữu, tùy trục ác nhân. Hiền Hộ! Phục hữu nhất nhân, ư thiện nhân sở, văn thị tam-muội thâm diệu kinh điển, thượng bất sanh tín, bất dĩ vi thật, bất năng khai giải. Huống ác nhân xứ, văn thị kinh điển, ninh năng sanh tín, nhi phục khai giải. Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Chư Phật Như Lai sở ngôn nan tín. Chư Phật Thế Tôn trí huệ nan tri cố. Hiền Hộ! Nhược đương thành tựu như thị tam-muội, nhiên hậu năi năng ư đương lai thế, dữ chư chúng sanh tăng trưởng Phật pháp.

          ()爾時世尊。復告賢護菩薩言。賢護。此衆有人。今在我前。親聞我說如是三昧。於我滅後。其所生處。還復得聞是三昧寶。雖聞不信。誹謗毀呰。遠離善友。隨逐惡人。賢護。復有一人。於善人所。聞是三昧。深妙經典。尚不生信。不以爲實。不能開解。況惡人處聞是經典。寧能生信而復開解。何以故。賢護。諸佛如來。所言難信。諸佛世尊。智慧難知故。賢護。若當成就如是三昧。然後乃能於當來世。與諸衆生。增長佛法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Trong đại chúng đây, nay đang ở trước ta, có kẻ đích thân nghe ta nói tam-muội như thế, sau khi ta diệt độ, người ấy sanh ra vẫn lại được nghe báu tam-muội như thế, [nhưng kẻ ấy] tuy nghe mà chẳng tin, phỉ báng, hủy nhục, chê bai, xa ĺa bạn lành, thuận theo kẻ ác. Này Hiền Hộ! Lại có kẻ từ nơi người lành được nghe kinh điển tam-muội sâu xa, mầu nhiệm như thế mà c̣n chẳng sanh ḷng tin, chẳng cho là thật, chẳng thể thông hiểu, huống hồ từ nơi kẻ ác được nghe kinh điển này, mà lại có thể sanh ḷng tin, lại thông hiểu ư? V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Lời chư Phật Như Lai nói khó tin, trí huệ của chư Phật Thế Tôn khó biết. Này Hiền Hộ! Nếu có thể thành tựu tam-muội như thế, sau đó, sẽ có thể ở trong đời tương lai cùng với các chúng sanh tăng trưởng Phật pháp).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn nói lời thọ kư. Ba ngàn năm sau khi đức Phật diệt độ, chúng ta có thể ở nơi đây đọc tụng, học tập kinh Ban Châu Tam Muội, thậm chí tu tập pháp Ban Châu, quả thật là do oai đức của đức Thế Tôn gia tŕ, do thiện căn trong đời trước của chúng ta hiển hiện. Đừng nên hiểu hời hợt lời thọ kư này của đức Thế Tôn! Mà cũng đừng nên suy đoán hư vọng chi khác, chỉ nên xét xem thiện căn có thành thục hay không và lợi ích có hiện tiền hay không. Điều này rất trọng yếu! Đức Thế Tôn thọ kư như thế nhằm tạo phương tiện tăng thượng cho chúng ta, v́ chỉ có sức tam-muội như thế th́ mới có thể thật sự đắc lực trong thế gian, thật sự lợi ích rộng răi các hữu t́nh thế tục trong thế gian. Trong thế gian này, có nhiều kẻ học Phật dù tại gia hay xuất gia, muốn lợi ích hữu t́nh mà chẳng đắc lực, v́ lẽ nào vậy? Do chẳng có sức tam-muội, chẳng có sức trí huệ, chẳng có sức từ bi!

          Sức tam-muội chính là công đức chân thật khiến cho Phật pháp đắc lực trong thế gian. Đó gọi là “nhân thiên chi trung, mạc quá ư định lực sở nhiếp” (trong trời người, không ǵ hơn sự nhiếp thọ của định lực), tức là nói do sức của Chỉ nơi chính ḿnh mà có thể khiến cho trời, người được an lạc. Hữu t́nh trong chín pháp giới khắp mười phương, ai nấy đều có chỗ để tiến nhập. [Xét ra], nhân loại chọn lựa pháp tắc này thuận tiện nhất, sẽ là loại sanh mạng có sự chọn lựa rộng lớn nhất. V́ loại sanh mạng này (nhân loại) có sức kư ức vượt hẳn lẽ thường, nhiều loại sanh mạng khác chẳng thể sánh bằng! Do vậy, sự chọn lựa này đặc biệt rộng lớn. Khi phát tâm “tu tập Bồ Đề tâm”, chọn lựa pháp tắc sẽ rất thuận tiện. Nếu dùng định lực để nhiếp thọ, nhân loại sẽ đạt được đại an lạc, xa ĺa nỗi khổ phải băn khoăn lựa chọn. Nỗi khổ ấy chính là sự hao tổn tự ngă lớn nhất của nhân loại, thường là có lúc quyết định, hoặc chẳng quyết định, làm hoặc chẳng làm, hoặc được, hoặc mất, hoặc đúng, hoặc sai, hoặc phàm, hoặc thánh… Nói chung là băn khoăn lựa chọn trong ấy, có người lăng phí cả đời v́ chuyện này, nhưng chẳng có chuyện nào thật sự quyết định được, v́ cứ lo được, lo mất. Chư thiên cũng giống như thế. Chư thiên phần nhiều say đắm niềm vui ngũ dục, mê đắm ngũ dục, thỏa thích ngũ dục, chẳng thể tự thoát ra được. Nếu là kẻ có định lực to lớn, hay có sức thần thông, có thể dùng thiện xảo để nhiếp hóa chư thiên, khiến cho họ hướng về [người ấy]. V́ sao vậy? Quang minh của định lực vượt xa quang minh của chư thiên.

          Thân tướng của chư thiên đều sẵn có quang minh, chẳng nhờ vào ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, chẳng giống như hữu t́nh thuộc nhân loại cần phải nhờ vào ánh sáng của đèn, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng giúp đỡ để đi lại, làm các sự nghiệp! Chư thiên chẳng cần. Nếu là người có Thiền Định thiện xảo, hoặc tam-muội thiện xảo, có thể dùng quang minh to lớn để chiếu thấu loài hữu t́nh ấy, khiến cho họ tiến nhập. V́ thế nói những người có Thiền Định, đại oai quang rạng rỡ, chiếu rọi tam thiên đại thiên thế giới, khiến cho chư thiên cũng đến quy thuận. Do vậy, người hành tŕ Ban Châu tam-muội có thể lợi ích thế gian, dù trời hay người, đều có thể lợi ích. Cho nên đối với các loài hữu t́nh thuộc các đường khác, chắc chắn sẽ có thể thiện xảo hồi thí công đức và lợi ích chân thật. Như Tu La đạo thích tranh đấu, sanh tâm ghen tỵ, chẳng được an ổn, nếu có các sức công đức tam-muội, sẽ có thể khiến cho họ đạt được niềm vui an ổn, xa ĺa các nỗi khổ tranh đấu và ghen tỵ. Đấy đúng là rất khổ. Lại như đối với các hữu t́nh trong ba ác đạo, cũng giống như thế. Đối với điều này, chúng ta rất dễ quan sát thấy.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Hữu chư Bồ Tát Ma Ha Tát, nhược tại gia, nhược xuất gia, văn thử tam-muội, bất bố, bất kinh, bất hối, bất thoái, bất báng, bất hủy, văn dĩ tùy hỷ, sanh tín kính tâm, quyết định chân thật, vô phục nghi vơng, độc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa thú.

          ()復次賢護。有諸菩薩摩訶薩。若在家。若出家。聞此三昧。不怖不驚。不悔不退。不謗不毀。聞已隨喜。生信敬心。決定真實。無復疑惘。讀誦受持。思惟義趣。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Có các Bồ Tát Ma Ha Tát dù tại gia, hay xuất gia, nghe tam-muội này, chẳng sợ, chẳng kinh hăi, chẳng hối hận, chẳng lui sụt, chẳng báng, chẳng hủy, nghe rồi tùy hỷ, sanh tâm kính tín, quyết định chân thật, chẳng c̣n ngờ vực, đọc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư).

 

          Chẳng hạn như chúng ta nay đang An Cư, có khá nhiều vị thiện tri thức thích đọc tụng, nhưng cũng có khá nhiều vị Bồ Tát chẳng thích đọc tụng. Đọc tụng mà c̣n chẳng muốn, làm sao có thể hành tŕ pháp tắc này? Đấy là do thiện căn của chúng ta c̣n bị nghi hoặc che lấp, do nghi hoặc sẽ sanh ra nhiều ác duyên, chẳng thể sanh tín tâm thủ hộ thiện pháp, chẳng thích pháp này, phần nhiều dùng cái tâm buông lung để làm các sự nghiệp, cho nên đánh mất món báu ma-ni này. Mọi người hăy nên khéo quan sát tự tâm, đừng lo phê phán kẻ khác. Như thế sẽ là thuận tiện nhất!

          Trước kia, ở trong tự viện khác, tôi thường hỏi các vị xuất gia sư phụ: “Quư vị thích niệm tụng, hay thích niệm Phật, hay thích tu tŕ các thứ Thiền pháp, hay thích làm các sự nghiệp?” Chín mươi phần trăm là thích làm các sự nghiệp, nhưng sự nghiệp tản mạn, thuận theo ḷng ham muốn, phần nhiều tỏ lộ tập khí, cũng tức là để an lạc trong tập khí của chính ḿnh, có thể thỏa thích ḷng ham muốn của chính ḿnh, thỏa măn nguyện vọng của chính ḿnh, thuận theo sự ham muốn của chính ḿnh mà làm các việc! Do đó, họ chẳng thích các tam-muội, chẳng thích niệm Phật, chẳng thích công khóa của thường trụ, phần nhiều chuộng phước đức, siêng năng làm đủ mọi chuyện xen tạp. Đó là một hiện tượng đặc biệt nổi bật trong hiện thời, thật sự là chín mươi phần trăm [người tu hành] chẳng thích tu tập pháp tắc, phần nhiều thích buông lung tự tâm! Chỉ cần có sự nghiệp bèn khinh thường chuyện đọc tụng hoặc hành tŕ pháp tắc, coi trọng sự nghiệp, coi đó là chánh yếu. Các sự nghiệp cũng đều cần có người thực hiện, vậy th́ ai sẽ thủ hộ chuyện tụng niệm và hành pháp? Nếu chúng ta thật sự hộ tŕ Tam Bảo để làm các sự nghiệp, do cái tâm chẳng buông lung, cũng sẽ đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng nếu v́ buông lung tự tâm mà làm các sự nghiệp th́ chúng ta cần phải khéo quan sát tự tâm, tức là tự tâm đă khởi tâm động niệm những ǵ? Phải tự biết, tự hiểu rơ!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Như thị đẳng nhân, Thế Tôn tất kiến, tất tri, tất thức dă.

          ()賢護。如是等人。世尊悉見悉知悉識也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Hạng người như thế, Thế Tôn đều biết, đều thấy, đều rơ).

 

          Lời này chẳng thể nghĩ bàn! Sức gia tŕ ấy chẳng thể nghĩ bàn! Có nhiều chúng sanh nếu là tại gia th́ học tập kinh điển nhà Phật, nhưng xuất gia mấy năm, do chẳng đạt được lợi ích trong Phật pháp, vướng mắc nơi mâu thuẫn, phần nhiều nẩy sanh kiêu mạn, chẳng thể tăng thượng thiện căn. V́ lẽ nào vậy? Do chẳng được chư Phật gia bị, do cự tuyệt tăng trưởng thiện căn. Có kẻ c̣n trực tiếp phủ nhận sự gia tŕ của Tam Bảo, tự dùng cách tu tŕ kiêu mạn để tăng thượng, tức là tự cao tự đại, tự phụ. Chẳng được Tam Bảo gia tŕ, dẫu tu tŕ bao kiếp dài lâu, vẫn giống như tảng đá, chẳng thể tăng trưởng thiện căn, chẳng thể nuôi lớn sanh mạng chân thật được! Thật ra, từ sơ phát tâm tu tŕ, cho đến lúc chúng ta thành Đẳng Chánh Giác, đều chẳng ĺa Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo gia tŕ. Nếu rời ĺa, người ấy làm sao có thể thành tựu cho nổi? Bất quá là tự kiêu mạn, tự phụ là đă thành tựu đó thôi! Nơi đất Hán, lắm kẻ tự phụ “tự tánh vốn sẵn trọn đủ”, chẳng biết công đức chân thật do được Tam Bảo gia tŕ tăng trưởng thiện căn ở chỗ nào. Cho nên có lắm nỗi ngờ vực đối với đại thiện căn và oai đức do chư Phật Như Lai đă tu tŕ trong bao kiếp lâu xa! Phần nhiều bị tự kiêu mạn, tà tâm, tà kiến làm hại, dẫu nhiều năm dường như học pháp, nhưng chẳng thể tăng trưởng thiện căn, khiến cho kẻ khác rất tiếc hận!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư Phật Thế Tôn vân hà kiến tư chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, phục vân hà tri? Hựu vân hà thức? Hiền Hộ! Nhược hữu năng độc tụng, thọ tŕ, tư niệm thử tam-muội môn, như thị chi nhân, chung bất vi ác.

          ()賢護。諸佛世尊。云何見斯諸善男子及善女人。復云何知。又云何識。賢護。若能讀誦受持思念此三昧門。如是之人。終不爲惡。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Chư Phật Thế Tôn thấy các thiện nam tử và các thiện nữ nhân ấy như thế nào? Lại biết như thế nào? Lại hiểu như thế nào? Này Hiền Hộ! Nếu có người có thể đọc tụng, thọ tŕ, nghĩ nhớ môn tam-muội này, người như thế trọn chẳng làm ác).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn trực tiếp nêu ra: Người thường đọc tụng, tư duy kinh điển như thế, hành tŕ pháp tắc như thế, y giáo phụng hành, sẽ trọn chẳng làm ác.

 

          (Kinh) Bất phá tịnh giới, bất hoại chánh tín, bất nhập tà tụ.

          ()不破淨戒。不壞正信。不入邪聚。

          (Kinh: Chẳng phá giới pháp thanh tịnh, chẳng hủy hoại chánh tín, chẳng rơi vào Tà Định Tụ).

 

          Trong thế gian, đức Thế Tôn đă chia hữu t́nh thành ba “loại tụ”:

          1) Những ai thuộc về tam thánh đạo, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, được gọi là Chánh Định Tụ.

          2) Các hữu t́nh thiện hay ác trong ba thiện đạo, c̣n chưa chọn lựa dứt khoát, c̣n đang băn khoăn th́ thuộc về Bất Định Tụ. Như phàm phu hữu t́nh chúng ta, phần nhiều là Bất Định Tụ.    

          3) Lại c̣n có các tà kiến hữu t́nh, ắt đọa vào ác đạo. Cho nên hữu t́nh trong ba ác đạo là Tà Định Tụ. Tà Định là các sự nghiệp tà ác đều đă thành tựu, chẳng thể thoát khỏi các thứ khổ nạn!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, tất định thâm tín, thành tựu tư duy, năng phân biệt, thành tựu tư duy. Ư thị pháp trung, cụ túc tín tâm, thường năng độc tụng, nhiếp tŕ thị pháp. Hiền Hộ! Đương tri thị nhân, quyết bất cầu thiểu công đức, diệc bất chủng thiểu thiện căn.

          ()賢護。是諸善男子善女人等。必定深信。成就思惟。能分別成就思惟。於是法中。具足信心。常能讀誦。攝持是法。賢護。當知是人。決不求少功德。亦不種少善根。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy nhất định là tin sâu, thành tựu tư duy, có thể phân biệt, thành tựu tư duy. Ở trong pháp y, trọn đủ tín tâm, thường có thể đọc tụng, nhiếp tŕ pháp này. Này Hiền Hộ! Hăy nên biết người ấy chắc chắn chẳng cầu công đức ít ỏi, mà cũng chẳng gieo thiện căn ít ỏi).

         

          Chẳng tham cầu thành tựu Thanh Văn hay Duyên Giác, chẳng tham cầu sự vui thế gian, tức chẳng phải là “ít thiện căn”.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, phàm sở sanh xứ, hoặc phạp tư nhu, nhiên chư thiện căn, quảng đại bất thiểu.

          ()賢護。是善男子善女人。凡所生處或乏資需。然諸善根。廣大不少。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Các thiện nam tử và thiện nữ nhân ấy, phàm là ở nơi sanh ra có thể thiếu thốn các thứ cần thiết, nhưng các thiện căn đều rộng lớn chẳng ít).

 

          Tuy biểu hiện có thiếu thốn, nhưng thực chất biểu hiện là “quảng đại bất thiểu” (rộng lớn chẳng ít).

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố, tư chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ ư quá khứ chư Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn.

          ()賢護。是故斯諸善男子善女人。已於過去諸如來所。修行供養。種諸善根。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế, các thiện nam tử và thiện nữ nhân ấy trong quá khứ đă từng tu hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi các đức Như Lai).

 

          Chúng ta hoàn toàn có thể thành thục thiện căn trong đời trước của chính ḿnh, hành tŕ pháp này. Nếu chôn vùi thiện căn đời trước, bỏ phế thiện căn đời trước, được gặp gỡ pháp tắc như thế này mà chẳng sanh ḷng vui thích, lại nẩy sanh nhiều nỗi hoài nghi, báng bổ. Đối với chuyện hành tŕ pháp Ban Châu, chúng ta phải khéo quan sát tự tâm, khéo quan sát những kẻ hữu duyên chung quanh ḿnh, đúng như kinh điển nhà Phật đă nói, mười phần hiểu rơ trạng thái thiện căn, trạng thái thành tựu, và nghiệp tướng được thủ hộ trong cơi đời.

 

          (Kinh) Hiền Hộ đương tri! Thử bối phi ư nhất Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn dă, diệc phi ư nhị, tam, tứ, ngũ, năi chí thập Như Lai sở, chủng chư thiện căn dă. Diệc phi ư bách thiên ức số chư Như Lai sở, chủng chư thiện căn dă. Hiền Hộ! Đương tri thử chư thiện nam tử, thiện nữ nhân dĩ ư quá bách thiên số vô lượng vô biên chư Như Lai sở, tu hành, cúng dường, chủng chư thiện căn, phương đắc văn thử Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội.

          ()賢護當知。此輩非於一如來所。修行供養。種諸善根也。亦非於二三四五乃至十如來所。種諸善根也。亦非於百千億數諸如來所。種諸善根也。賢護。當知此諸善男子善女人。已於過百千數無量無邊諸如來所。修行供養。種諸善根。方得聞此念佛現前三昧

          (Kinh: Hiền Hộ hăy nên biết: Những người ấy chẳng phải là đă tu hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi một vị Như Lai, cũng chẳng phải là đă gieo các thiện căn nơi hai, ba, bốn, năm, cho đến mười vị Như Lai. Cũng chẳng phải là gieo các thiện căn nơi trăm ngàn ức số các vị Như Lai. Hiền Hộ hăy nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy tu hành, cúng dường, gieo các thiện căn nơi nhiều hơn con số trăm ngàn vô lượng, vô biên các đức Như Lai th́ mới được nghe Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội này).

 

          Sự thọ kư này chính là sự gia tŕ chẳng thể nghĩ bàn, là sức công đức to lớn d́u dắt và thúc đẩy. Nếu là kẻ tín thuận, sẽ đều thành đạo vô thượng, đạt được phương tiện trợ duyên nơi vô thượng đạo, trở thành phương tiện trợ duyên cho sự phát tâm trong tâm trí. Phương tiện này do được đức Phật thọ kư, có oai đức lớn, có sức to lớn. Nếu chẳng tin tưởng chỗ này, sẽ đánh mất loại công đức đại thiện xảo này!

 

          (Kinh) Văn dĩ sanh tín, tâm khai ư giải, tức dĩ vi thật, vô phục nghi vơng. Kư hoạch văn dĩ, nhạo dục thư tả, độc tụng, thọ tŕ, năi chí vị tha quảng tuyên thị nghĩa.

          ()聞已生信。心開意解。即以爲實。無復疑惘。既獲聞已。樂欲書寫讀誦受持。乃至爲他廣宣是義。

          (Kinh: Nghe rồi sanh ḷng tin, tâm ư mở mang, thấu hiểu, coi đó là thật, chẳng c̣n nghi ngờ. Đă được nghe rồi bèn ưa thích, biên chép, đọc tụng, thọ tŕ, cho đến v́ người khác rộng nói).

 

          Nếu cho là thật, người ấy ắt sẽ thủ hộ, hành tŕ. Nếu chẳng coi là thật, ắt sẽ sanh khởi ngờ vực. Do vậy, kẻ ở trong tham, sân, si, tri kiến bất chánh, nghi căn sâu nặng, sẽ chẳng thể chọn lựa pháp, chẳng thể thâm nhập pháp, chẳng thể hành tŕ pháp. Hiện tiền đại chúng hăy quán tự tâm sâu xa. Nếu chẳng phải v́ danh vọng và lợi dưỡng, chẳng phải v́ cái tâm kiêu mạn, chẳng phải v́ ghen tỵ, háo thắng mà hành tŕ, thủ hộ pháp tắc như vậy, người ấy rất chẳng thể nghĩ bàn. Cái tâm rất chẳng thể nghĩ bàn ấy đều được chư Phật biết, thấy. Nếu chúng ta v́ cái tâm kiêu mạn, tâm ghen tỵ, tâm ham hố danh vọng lợi dưỡng, tâm thích gây chuyện mà tu tŕ pháp này th́ cũng chẳng tương ứng với Phật pháp.

          Chư vị thiện tri thức ơi! Nhất định phải khéo quan sát tự tâm, chớ nên nhận định qua loa. Có người nói: “Tôi cũng hành pháp này, v́ sao chẳng được đạt được lợi ích to lớn?” Quư vị hăy xét xem chính ḿnh có phải là cái tâm danh vọng, tâm lợi dưỡng, tâm ghen tỵ, tâm kiêu mạn mà tu tŕ pháp tắc này hay không? Tu pháp như thế này, đích xác là phải nên phát tâm uốn nắn cho đúng, tín giải đúng như thật, tu tŕ chân thật, th́ sẽ có thể thoát ĺa tam giới, lợi ích trời người rộng răi. Nếu chẳng như thế, sẽ hăm nhập trong cái tâm kiêu mạn hẹp ḥi và cái tâm cầu danh lợi của chính ḿnh. Hiện thời, tôi thường gặp các cư sĩ nói như thế này: “Ái chà! Tôi kinh hành Ban Châu, trở về nhà sẽ phú quư lắm, sẽ ít có chướng ngại, sẽ có cuộc sống thế tục càng tốt đẹp hơn”. Chuyện này giống như trong phần trước đức Thế Tôn đă nói: Hệt như dùng một viên báu ma-ni để đổi lấy một con trâu! Hữu t́nh giống như vậy quá nhiều. Tuy họ tối thiểu kết mối thiện duyên với pháp tắc này, nhưng tới khi nào th́ mới có thể đạt được lợi ích rốt ráo nơi vô thượng đạo? Đó quả thật là một dấu hỏi!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Tư chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, văng tích dĩ ư chư Như Lai tiền, văn thị tam-muội, độc tụng, thọ tŕ. Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai diệt hậu, ư tối mạt thế ngũ bách niên chung, pháp dục diệt thời, pháp tương hoại thời, hoàn đương đắc văn như thị tam-muội, văn tức sanh tín, vô hữu kinh nghi, bất thoái, bất một, sanh đại hoan hỷ, biến măn thân tâm.

          ()何以故。賢護。斯諸善男子善女人。往昔已於諸如來前。聞是三昧。讀誦受持。以是義故。如來滅後。於最末世五百年終。法欲滅時。法將壞時。還當得聞如是三昧。聞即生信。無有驚疑。不退不沒。生大歡喜。遍滿身心。

          (Kinh: V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy xưa kia đă ở trước các đức Như Lai nghe tam-muội này, đọc tụng, thọ tŕ. Do bởi nghĩa ấy, sau khi đức Như Lai diệt độ, vào năm trăm năm cuối của đời Mạt Pháp, khi pháp sắp diệt, khi pháp sắp hoại, vẫn sẽ được nghe tam-muội như thế này, nghe rồi liền tin, chẳng có kinh hăi, ngờ vực, chẳng thoái chuyển, chẳng mất đi, sanh niềm vui to lớn tràn ngập thân tâm).

 

          Trong rất nhiều kinh điển, đức Thế Tôn đă nói “hỷ duyệt biến măn thân tâm” (vui sướng tràn ngập thân tâm) như thế. Nếu ai trong một đời, hoặc là nhiều đời, nhiều kiếp, siêng khổ thủ hộ thiện căn, cúng dường chư Phật Như Lai, phát Bồ Đề tâm, cho đến nghe lời dạy về tam-muội này, lại sanh ḷng hoan hỷ to lớn, sự vui sướng ấy đầy ngập thân, tâm, và thế giới, người ấy sẽ rất dễ dàng tương ứng với tam-muội. Lại có các chúng sanh nghe các pháp tắc tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến mà sanh tâm hoan hỷ. Lại có những kẻ hiếu sự trong tự viện, tạo ra các ác sự, ác duyên mà sanh ḷng hớn hở, hoan hỷ. Đó gọi là “căn tánh khác nhau”. Có kẻ nghe pháp bèn vui mừng, nghe dạy bảo bèn hoan hỷ; đó là do thiện căn đă chín muồi. Có người th́ nghe nhân duyên xấu ác bèn sanh ḷng hoan hỷ, hoặc lúc trời người đều bi ai, kẻ đó cũng sanh hoan hỷ. V́ sao? Ác tánh đă thành thục rồi!

 

          (Kinh) Độc tụng, thọ tŕ, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, năi chí nhất nhật, nhất dạ, hành thị tam-muội.

          ()讀誦受持。思惟其義。爲他解說。乃至一日一夜。行是三昧。

          (Kinh: Đọc tụng, thọ tŕ, tư duy ư nghĩa, v́ kẻ khác giải nói, cho đến trong một ngày, một đêm hành tam-muội này).

 

          Hiện thời, v́ sao chúng tôi phải đề xướng hành pháp Ban Châu một ngày một đêm? Đương nhiên là có rất nhiều người phủ định chuyện này. Chẳng hạn như trước kia, tôi đến một số tự viện, dẫu là các tự viện khá lớn, cũng bị phủ định. Thậm chí có rất nhiều vị thiện tri thức có danh vọng cũng mở miệng phủ nhận pháp này. Vậy th́ tại sao đức Thế Tôn lại nhắc đi nhắc lại tánh chất trọng yếu của pháp này, cũng như tánh chất trọng yếu của việc tu tập? Chính là v́ thành thục thiện căn cho chúng ta! Nhất là trong thời Mạt Pháp, các chúng sanh thiện căn mỏng ít, ít có kẻ tu tập các pháp tắc tam-muội. Kẻ tu tŕ các sức thần thông càng ít hơn nữa, đă ít lại càng ít hơn! Như Địa Tạng Vương Bồ Tát đă tuyên nói trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, trong thời Mạt Pháp, các chúng sanh chẳng hiểu sự thiện xảo của sức thần thông, chẳng tu tập, phần nhiều ưa chuộng nói năng, phần nhiều đọa trong sự tướng, siêng khổ nơi sự tướng, chẳng thể thâm nhập pháp tắc, chẳng đạt được lợi ích chân thật trong Phật pháp.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Nhược phục hữu nhân, văn thử tam-muội, vô hữu kinh bố, diệc bất thoái một, bất sanh báng hủy, văn dĩ tùy hỷ, tức dĩ vi thật, tư duy, phân biệt, tâm khai ư giải.

          ()賢護。若復有人聞此三昧。無有驚怖。亦不退沒。不生謗毀。聞已隨喜。即以爲實。思惟分別。心開意解。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Nếu lại có người nghe tam-muội mà chẳng kinh sợ, cũng chẳng thoái thất, chẳng sanh hủy báng, nghe rồi bèn tùy hỷ, cho là thật, tư duy, phân biệt, tâm ư thông hiểu).

 

          Tùy hỷ có công đức chẳng thể nghĩ bàn! V́ thiện căn, phước đức, nhân duyên có chín muồi và chẳng chín muồi, có tương ứng và chẳng tương ứng. Quư vị chẳng hành tŕ pháp tắc này, vẫn hoàn toàn được, nhưng nhất định chớ nên chửi bới, ngăn cấm người khác hành tŕ pháp tắc. Nếu làm như thế (ngăn cản, chửi bới), lầm lỗi sẽ vô lượng vô biên, v́ lỗi lầm ấy giống hệt như đă ngăn lấp đạo Niết Bàn của người khác, bức bách người khác tiến vào đường ác. Do lỗi lầm sâu nặng, cho nên các vị thiện tri thức nhất định phải khéo quan sát, tư duy, đừng nên đánh mất lợi ích to lớn trong Phật pháp, v́ ḷng tin hời hợt và tâm kiêu mạn mà nghi ngờ, báng bổ Phật pháp, hủy hoại giáo pháp thù thắng! Tội lỗi xả pháp và báng pháp rất lớn! Chúng ta chẳng hành pháp, chớ nên trở ngại kẻ khác, càng chớ nên gây chướng ngại, phá hoại nhân duyên hành pháp của kẻ khác. Chư vị thiện tri thức ơi! Chuyện này thoạt nh́n dễ dàng, thật ra, chúng ta vẫn phải rất chú tâm cẩn thận quan sát khởi tâm động niệm của chính ḿnh ở chỗ này. Có thể là có người suốt đời chỉ có một lần có nguyện vọng hành pháp duy nhất, đă tích tụ thiện căn tư lương của chính ḿnh lâu ngày, sau khi người ấy đă bị trở ngại, đă bị công kích một lượt, suốt đời sẽ khó hành! Chúng ta là người tu tập, thủ hộ Phật pháp, có nhân duyên và phước đức thành tựu đạo nghiệp cho người khác, thiện căn ấy chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng nếu hủy diệt cơ chế thiện căn và hành pháp của người khác, ác nghiệp ấy sao có thể miêu tả cho được?

          Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta không thể chẳng tư duy, không thể chẳng quan sát. Xuất gia cũng thế mà tại gia cũng thế, mọi sự đều có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào. Thật ra, chúng ta đời đời kiếp kiếp đều ở trong sự nghiệp, trong các sự nghiệp ấy, có ác sự nghiệp, có thiện sự nghiệp, mà cũng có cái được gọi là vô lậu sự nghiệp, có sự nghiệp lợi ích thế gian và tăng ích thế gian, đích xác là cũng có sự nghiệp buông lung vô độ, phóng túng theo ḷng ham muốn, có sự nghiệp tội ác và luân hồi, cũng có sự nghiệp hủy diệt Phật pháp, phỉ báng Tam Bảo. Rốt cuộc là chúng ta làm sự nghiệp ǵ vậy? Hăy khéo như thật nh́n thấu tự tâm, ḍ xét sự phát tâm trong chỗ sâu thẳm của tâm linh. Đó là điều trọng yếu nhất!

 

          (Kinh) Đản năng vị tha tạm thời xưng thiện, sở hoạch phước tụ, thượng bất khả lượng, huống năng độc tụng, thọ tŕ, cần tư nhi hành, vị tha quảng thuyết, chí nhất nhật dạ.

          ()但能爲他暫時稱善。所獲福聚。尚不可量。況能讀誦受持。勤思而行。爲他廣說。至一日夜。

          (Kinh: Chỉ có thể v́ người khác tạm thời khen ngợi điều lành, sẽ đạt được khối phước c̣n chẳng thể lường, huống hồ có thể đọc tụng, thọ tŕ, siêng năng suy nghĩ để hành tŕ, v́ người khác rộng nói cho đến một ngày đêm).

 

          Chẳng sanh nghi báng, người ấy có thiện căn chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có thể nói cho kẻ khác biết, người ấy tất nhiên sẽ có tâm trí tán thán và tùy hỷ công đức của chư Phật.

 

          (Kinh) Hiền Hộ đương tri thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhân thị sự cố, tức tiện hoạch đắc quá ư vô lượng A-tăng-kỳ đại công đức tụ, toại đắc trụ ư bất thoái chuyển địa, tùy sở nguyện dục, như ư tức thành.

          ()賢護當知。是善男子善女人。因是事故。即便獲得。過於無量阿僧祇大功德聚。遂得住於不退轉地。隨所願欲。如意即成。

          (Kinh: Hiền Hộ hăy nên biết: Thiện nam tử, thiện nữ nhân do v́ chuyện này liền đạt được khối công đức vượt quá con số vô lượng A-tăng-kỳ, liền trụ trong trong địa vị bất thoái chuyển, tùy theo ḷng mong muốn liền thành tựu như ư).

 

          Đây là tán thán công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp, tức là hiển hiện lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của công đức do tùy hỷ. Trong tu tŕ mười đại nguyện vương, có tu tŕ tùy hỷ công đức, chẳng báng duyên của người khác, hăy tùy hỷ đối với sự tu tŕ, người như thế sẽ có nhiều thiện căn tăng thượng. Như mọi người ở trong tự viện có các thứ phát tâm, nhân duyên khác nhau, nhưng cái tâm tùy hỷ chớ nên diệt mất, cái tâm báng pháp chớ nên sanh khởi. Có người do một niệm tâm nhạy bén, sẽ sanh khởi nghi hoặc, báng bổ. Cái gọi là “tâm nhạy bén” ấy chính là tự đại, tự kiêu mạn, tự phụ. Hễ sanh khởi cái tâm như thế, sẽ phỉ báng pháp tắc. Đó gọi là tâm trí quá khích!

          Pháp Ban Châu quả thật dễ bị kẻ khác nghi ngờ, hủy báng nhất! V́ nhiều hành giả chẳng thể nhanh chóng đích thân chứng tam-muội này. Hoặc là tuy có thiện căn tương tự, nhưng chẳng thể liên tục thủ hộ, phần nhiều sẽ khiến cho các hữu t́nh chẳng hành pháp bèn sanh khởi nghi hoặc. Tôi đă so sánh, như có những nơi, mọi người khá siêng khổ, nghiêm cẩn thủ hộ, liên tục tu tập pháp tắc này, có người dùng cái tâm điều nhu, tâm tùy hỷ, tâm tán thán để thủ hộ, cúng dường người khác hành pháp. Như thế th́ những người chung quanh cũng sanh khởi ḷng yêu thích, ngưỡng mộ, vui thích pháp ấy, nhưng lại có hữu t́nh khác dẫu hành pháp lại khiến cho người ta ngờ vực, phỉ báng, chửi bới, là v́ lẽ nào? Suy rộng ra, trong quá tŕnh hành tŕ pháp tắc ấy, phần nhiều sanh ḷng lo ngờ, cái tâm dao động, phần nhiều v́ tâm danh lợi thúc đẩy mà truyền bá và thực hiện pháp tắc này. Do vậy, khiến cho chúng sanh ngờ vực. Đối với điều này, nhất định phải quan sát cẩn thận.

          Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thọ kư: Pháp do Ngài truyền lại, sẽ có pháp vận một vạn hai ngàn năm. Sau một vạn năm của thời Mạt Pháp, giáo pháp của Ngài liền diệt sạch, phải đợi năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, Di Lặc Phật Thế Tôn giáng thế, truyền pháp rộng lớn. Sự thọ kư này chính là nói về người có thiện căn trong quá tŕnh [Phật pháp] dần dần tiêu vào lúc giảm kiếp (tuổi thọ con người dần dần giảm đi). Trong thời Chánh Pháp, thiện căn của chúng sanh thành thục, nghe pháp liền chứng đạo. Nay chúng ta đă bước vào một vạn năm của thời Mạt Pháp, cũng có nghĩa là trong năm trăm năm cuối cùng, tức là vào lúc cuối cùng của chánh pháp, thiện căn của hữu t́nh mỏng ít, bại hoại, phần nhiều sanh ḷng kiêu mạn và tà kiến. Nói “tà kiến” tức là do tự đắm nhiễm nơi pháp, tự chấp trước pháp, tự phụ nơi pháp mà đọa vào tà kiến. Nhưng do trong lúc cuối của chánh pháp, chánh pháp của đức Thế Tôn vẫn nghiễm nhiên lưu truyền trong thế gian, người thiện căn chín muồi vẫn đạt được lợi ích rốt ráo. Chỉ có nhiều hữu t́nh thiện căn mỏng ít, khiến cho gịng pháp bị nghẽn tắc trong hiện tiền, cho nên gọi là “Chánh Pháp mạt quư” (cuối thời Chánh Pháp).

          “Mạt” là v́ có nhiều chúng sanh ngờ vực, báng bổ pháp tắc, sanh ḷng kiêu mạn, chẳng tin kinh giáo, chẳng tu tập pháp, hoặc phần nhiều là dựa hơi Phật pháp, thật sự là tâm trí ngoại đạo. Đức Thế Tôn thọ kư Phật pháp trong thời đại ấy, những kẻ dựa hơi Phật pháp để kiếm sống rất đông, rất nhiều. Lại c̣n có Ba Tuần và đệ tử của hắn phát ra thệ nguyện tội ác, rất nhiều ngoại đạo dựa dẫm Phật giáo. Chúng ta cứ nh́n vào mọi chuyện trong thế gian sẽ biết ngay. Do vậy, những người xuất gia chúng ta phải nên cảnh giác. Nếu là đệ tử của Phật mà chẳng có thệ nguyện thủ hộ giáo pháp của Phật Thích Ca, duy tŕ Phật pháp, ắt sẽ con cái của Ba Tuần! Dùng điều ǵ để chọn lựa? Trên thực tế, toàn là ư hướng thiện căn trong tâm niệm của quư vị!

          Thông thường, thọ kư trong kinh điển là do đức Thế Tôn quan sát pháp nhân duyên. Đương nhiên, đấy chẳng phải là pháp cố định, v́ thiện căn của hết thảy chúng sanh bất định. Có những hữu t́nh phát ra một niệm tâm trí Bồ Đề mạnh mẽ, có thể thoát khỏi sự mê muội trong nhiều đời nhiều kiếp sanh tử. Như Thích Ca Mâu Ni Phật khi tu nhân, trông thấy tướng hảo quang minh của Phất Sa Phật Thế Tôn khi Ngài nhấc một chân, trong suốt bảy ngày tán tụng “thiên thượng, thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian ngă kim giai tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả” (trên trời, dưới đất Phật khôn sánh, mười phương thế gian đều chẳng bằng, con nay thấy trọn khắp thế gian, hết thảy chẳng ai được như Phật). Tùy hỷ, tán thán công đức của Phật chẳng hề chán ngán. Do công đức tinh tấn như thế, vượt thoát chín kiếp, thành Phật trước ngài Di Lặc!

          Di Lặc Thế Tôn từng bước tu tập rất ổn. [Ngài giáng thế] nhằm lúc nhân loại thọ tám vạn bốn ngàn năm, lúc phước đức tụ tập, lúc thiện căn chín muồi. Ngài giáng sanh trong cơi đời, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị hiện đại oai đức. Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn có nhiều nỗi ủy khuất, tuy đă thành Phật, có rất nhiều ủy khuất, v́ nhân loại thọ một trăm năm. Đời người ngắn ngủi, phước đức mỏng ít, hết sức đáng thương xót. Mười phương thế giới đều coi thường bọn chúng sanh chúng ta, chỉ trong thời gian liếc mắt, chúng ta đều đă diệt mất, chẳng có cách nào quan tâm chúng ta được. Do vậy, nếu chúng ta chẳng siêng ṛng nơi pháp tắc, lại dùng cái tâm kiêu mạn để lăng phí sanh mạng của chính ḿnh, đúng là rất đáng tiếc, v́ trải bao kiếp lâu xa, khó thể gặp gỡ! Con người thọ trăm tuổi, có Thích Ca Thế Tôn giáo hóa trong thế giới ác trược này, chúng ta có phước đức, được nghe giáo ngôn như thế, nhất là vào cuối thời giáo pháp của Phật Thích Ca, sẽ càng khó khăn hơn! Lời dạy rất sâu này khiến cho chúng ta chẳng thoái chuyển, mười phần chẳng dễ! Tuy có rất nhiều hành pháp, nhưng nếu muốn đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời, khó khăn mười phần. Nói “bất thoái” chính là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Bát Địa Bồ Tát mới có công đức này, nhưng người thật sự niệm Phật, thật sự thuận tùng, hướng theo Niệm Phật tam-muội để tu tŕ, sẽ có thể đắc bất thoái chuyển ngay trong một đời. Trên thực tế, chính là có cùng một ư nghĩa, nhưng sử dụng từ ngữ khác biệt so với “tức thân thành tựu” (thành tựu ngay trong thân này). V́ ba loại Bất Thoái chính là công đức thành Phật, được gọi là A Bệ Bạt Trí. So ra, đối với tín niệm, ư thích, và nguyện vọng của người hiện thời, nếu mong đắc Bồ Tát Chuyển ngay trong một đời, mà chẳng hành tŕ pháp Niệm Phật, sẽ mười phần khó thể đạt được! Có nhiều người trong cơi đời ngoài việc nghi hoặc pháp tắc này, cứ lẩn quẩn trong gịng nghiệp của chính ḿnh, mười phương chư Phật đều thương xót loại hữu t́nh ấy! Nếu chẳng gặp gỡ pháp tắc th́ thôi, nhưng nếu đă gặp pháp tắc mà ngăn che tự tâm, che lấp pháp tắc, hoặc ngăn trở người khác, lỗi lầm như thế mười phần to lớn. Ở đây, đức Thế Tôn đă nêu bày như thế!

          Đối với mỗi năm trăm năm, đức Thế Tôn đều có thọ kư, cho đến một vạn năm của thời Mạt Pháp, con người tu tŕ rất khó khăn. V́ sao khó khăn? V́ bạch pháp bị ch́m đắm, đấu tranh kiên cố, tự kiêu mạn, tự phụ. Đấy là t́nh thế trong thời đại này, nhưng ở đây, [đức Thế Tôn] nói tổng quát: Có nhiều chúng sanh ngu si, tăng cường tự ngă, cho rằng [kiêu mạn, tự phụ, ngu si] chính là tự ngă, coi những thứ đó là chính ḿnh. Như thế chính là đă tự xác định cuối thời Mạt Pháp cho chính ḿnh, xác định tâm trí của chính ḿnh. Nếu là như thế, tu pháp sẽ rất khó khăn! Đúng thế, chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, nhưng phải nên nhận biết, vâng giữ pháp tắc này như thế nào, hoàn toàn phụ thuộc vào sự phát tâm. Chúng ta nước chảy bèo trôi, vật vờ qua ngày, có phải là như thế hay không, ai nấy hăy nên xét kỹ!

          “Toại đắc trụ ư Bất Thoái Chuyển địa” (bèn được trụ trong địa vị Bất Thoái Chuyển): Bất Thoái Chuyển ở đây thuộc về Bát Địa Bồ Tát. Chúng ta thường nói có hai loại cầu thiện xảo A Bệ Bạt Trí:

          - Một là tự ḿnh tu tŕ, đoạn trừ hai thứ Kiến Hoặc và Tư Hoặc nơi bản thân, chứng đắc quả A La Hán, đạt được Bất Thoái Chuyển. V́ cớ sao? Có cơ chế chẳng thoái chuyển, trụ trong địa vị Ứng Cúng.

          - Loại kia là ở trong Bồ Tát đạo, tùy thuận Phật nguyện, tùy thuận Phật lực, tu tập giáo ngôn Tịnh Độ, an trụ trong sự che chở do Phật lực nhiếp hóa, nương vào sự duy tŕ của Phật lực. Do Phật lực chẳng thoái chuyển, khiến cho chúng sanh tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển. Đó gọi là Dị Hành Đạo của pháp môn Tịnh Độ.

          Đương nhiên cũng có hành pháp tự lực của Bồ Tát, như kinh Nhân Quả đă tuyên nói: Bồ Tát trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp siêng khổ tu tŕ, hành tŕ chẳng xả, chẳng bị mê mất, cũng có thể đạt được ba thứ thoái chuyển giống hệt. Đấy là kết quả của việc siêng khổ huân tu trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp.

 

          (Kinh) “Hiền Hộ! Kỳ sự tuy nhĩ, ngă kim vị nhữ, cánh tuyên thí dụ, minh hiển thử nghĩa dă. Phục thứ Hiền Hộ! Thí như hữu nhân, thủ thử tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết đại địa, tận mạt vi trần. Phục thủ nhất thiết thảo mộc chi diệp, bất vấn đại tiểu, giai vi vi trần. Bỉ nhân nhĩ thời, ư bỉ trần tụ, thủ nhất vi trần, phá hoại phân tích, hoàn linh đắc tác nhĩ hứa vi trần. Nhiên hậu, phục thủ bỉ nhất thiết trần, thứ đệ phân tích, giai linh đẳng bỉ sơ vi trần số. Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Thị vi trần số, khả vị đa phủ?” Hiền Hộ đáp viết: “Thậm đa Thế Tôn!” Phật ngôn: “Hiền Hộ! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thủ tiền nhĩ hứa vi trần số Phật sát, thịnh măn chúng bảo, tŕ dụng bố thí. Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân sở hoạch phước tụ, phục vi đa phủ?” Hiền Hộ báo viết: “Thậm đa Thế Tôn! Nhiên bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhân thị sự cố, hoạch đắc quá bỉ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phước tụ”. Phật phục cáo ngôn: “Hiền Hộ! Ngô cánh ngữ nhữ! Như bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ nhĩ hứa trần số Phật sát thịnh măn thất bảo, tŕ dụng bố thí, hoạch như tư phước. Phục hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thử Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội, tạm sanh tùy hỷ, tín tâm, phân biệt, dĩ vi chân thật, tâm khai ư giải, độc tụng, thọ tŕ, năi chí tạm thời vị tha giải thuyết, thị thiện nam tử, thiện nữ nhân sở hoạch phước tụ, thắng tiền thí phước vô lượng, vô biên, phi khả xưng toán, phi khả giảo kế, phi khả tư lượng. Hiền Hộ! Như thị thiện nam tử, thiện nữ nhân văn thử tam-muội, sanh tùy hỷ tâm, năi chí tạm thời, vị tha giải thuyết, thượng hoạch vô lượng, vô biên phước tụ. Hà huống thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư thử tam-muội Tu Đa La trung, như văn nhi tín, như tín nhi thọ, như thọ nhi thuyết, như thuyết nhi hành dă.

          ()賢護。其事雖爾。我今爲汝更宣譬喻。明顯此義也。復次賢護。譬如有人。取此三千大千世界一切大地。盡末爲塵。復取一切草木枝葉。不問大小皆爲微塵。彼人爾時。於彼塵聚。取一微塵。破壞分析。還令得作爾許微塵。然後復取彼一切塵。次第分析。皆令等彼初微塵數。賢護。於意云何。是微塵數。可謂多不。賢護答曰。甚多世尊。佛言賢護。若有善男子善女人。取前爾許微塵數佛剎。盛滿衆寶。持用佈施。賢護。於意云何。彼善男子善女人。所獲福聚。復爲多不。賢護報曰。甚多世尊。然彼善男子善女人。因是事故。獲得過彼無量無邊阿僧祇福聚。佛復告言。賢護。吾更語汝。如彼善男子善女人。以爾許塵數佛剎。盛滿七寶。持用佈施。獲如斯福。復有善男子善女人。聞此唸佛現前三昧。暫生隨喜。信心分別。以爲真實。心開意解。讀誦受持。乃至暫時爲他解說。是善男子善女人。所獲福聚。勝前施福。無量無邊。非可稱算。非可校計。非可思量。賢護。如是善男子善女人。聞此三昧。生隨喜心。乃至暫時爲他解說。尚獲無量無邊福聚。何況是善男子善女人。於此三昧修多羅中。如聞而信。如信而受。如受而說。如說而行也。

          (Kinh: “Này Hiền Hộ! Chuyện ấy tuy là như thế, nay ta sẽ v́ ông lại nói thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa ấy. Lại này Hiền Hộ! Ví như có người đem hết thảy đại địa trong tam thiên đại thiên thế giới này đều nghiền nát thành bụi. Lại lấy hết thảy cành lá của cỏ cây, bất luận lớn hay nhỏ, đều nghiền thành vi trần. Khi đó, người ấy, lại đối với lượng bụi đó, lấy mỗi hạt vi trần, chia chẻ, phá vỡ, lại khiến cho nó tách thành chừng đó hạt vi trần. Sau đó, lại lấy hết thảy các hạt bụi đó, theo thứ tự chia chẻ, đều khiến cho chúng nó bằng với số lượng các hạt vi trần thuở đầu. Này Hiền Hộ! Ư ông nghĩ sao? Số vi trần ấy thể nói là nhiều hay chăng?” Hiền Hộ thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều!” Đức Phật nói: “Này Hiền Hộ! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân lấy các cơi Phật bằng với số lượng vi trần trên đây, chứa đầy các thứ báu, dùng để bố thí. Này Hiền Hộ! Ư ông nghĩ sao? Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đạt được khối phước, há có nhiều chăng?” Hiền Hộ thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Nhưng thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do v́ chuyện này, đạt được khối phước vượt quá con số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”. Đức Phật lại bảo rằng: “Này Hiền Hộ! Ta lại nói với ông. Như thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy dùng các cơi Phật nhiều như số vi trần để chứa đầy bảy báu đem bố thí, đạt được phước như thế. Lại có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe tam-muội Niệm Phật Hiện Tiền này, tạm sanh ḷng tùy hỷ, tín tâm, phân biệt, cho là chân thật, tâm ư thông hiểu, đọc tụng, thọ tŕ, cho đến tạm thời v́ người khác giải nói. Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đạt được khối phước nhiều hơn phước bố thí của người trước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể, chẳng thể so sánh, chẳng thể suy lường. Này Hiền Hộ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân như thế, nghe tam-muội này, sanh tâm tùy hỷ, cho đến tạm thời v́ người khác giải nói, c̣n đạt được vô lượng vô biên khối phước. Huống hồ thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đối với Khế Kinh tam-muội này, có thể đúng như điều đă được nghe mà sanh ḷng tin, đúng như ḷng tin mà thọ tŕ, đúng như sự thọ tŕ mà giải nói, đúng như đă giải nói mà hành vậy).

 

          Đức Phật là đấng nói lời chân thật, đấng nói lời như thật, đấng chẳng nói lời khác lạ. Có nhiều hữu t́nh do thiện căn mỏng ít, đối với lời dạy của đức Thế Tôn chẳng sanh ḷng vui thích, cứ ngỡ sự suy lường do vọng tưởng của chính ḿnh là chân thật. Do đó, chẳng đạt được thiện căn, chẳng đạt được phước đức, chẳng thể thành thục tự thân, V́ sao? Do chẳng tùy thuận lời dạy của đức Phật, do chẳng thuận sự hướng dẫn của Phật, do chẳng tùy thuận lời Phật nói. Đúng là đă đến núi báu mà trở về tay không, chẳng lấy được ǵ! Kinh điển Đại Thừa lưu truyền rộng khắp, quả thật là kho báu của Như Lai, mà cũng là kho báu trong tâm trí, tức là Như Lai Tạng Tánh trong tâm trí của hết thảy chúng sanh được hiển lộ. Nếu mở bản kinh này ra, hoan hỷ, hớn hở, thủ hộ, tu tập, th́ chính là đă mở toang và thành thục Như Lai Tạng Tánh của chính ḿnh. Nếu đối với chỗ này mà quư vị nghi hối, khinh mạn, chẳng coi là đúng, thiện căn sẽ lập tức bị tán hoại.

          Có thể thành thục thiện căn ở chỗ nào? Các vị thiện tri thức hăy nên quan sát, hăy khéo tư duy. Nơi đất Hán, có một hiện tượng đặc biệt bất b́nh thường là coi thường kinh điển, coi thường lời dạy của đức Thế Tôn. Đối với ngôn giáo của đức Thế Tôn, phần nhiều chẳng sanh chánh tín, không thể yêu thích, thủ hộ, khinh rẻ, coi thường kinh điển chẳng phải là trân bảo. Kết quả là đối với giáo pháp trân bảo do đức Như Lai đă nói, dẫu nghe mà cũng như không nghe, dẫu xem mà cũng như chẳng xem! Đúng là chẳng biết do nhân duyên nào? Nếu nói thiện căn chẳng thành thục, cớ sao lại được gặp gỡ? Hy vọng các vị thiện tri thức hăy khích lệ chính ḿnh thành thục thiện căn, cổ vũ chính ḿnh buông xuống tri kiến, cổ vũ chính ḿnh yêu thích Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Nếu yêu thích Tam Bảo, quư vị nhất định sẽ sanh khởi ư tưởng coi kinh điển là trân bảo, là khó gặp, sanh ư tưởng nghe xong sẽ siêng năng tu tập. Quả thật là phải nên chủ động phát khởi vậy!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh tư nghĩa, dĩ kệ tụng viết: - Nhược dĩ tam thiên đại thiên giới, thịnh măn thất bảo dụng hành Đàn, ngă thuyết bỉ phước tuy vi đa, bất như văn kinh thiểu công đức.

          ()爾時世尊。爲重明斯義。以偈頌曰。若以三千大千界。盛滿七寶用行檀。我說彼福雖爲多。不如聞經少功德。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ muốn nhắc lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng nói: - Nếu dùng tam thiên đại thiên cơi, đựng đầy bảy báu để bố thí, ta nói phước ấy tuy khá nhiều, chẳng bằng nghe kinh chút công đức).

 

          “Đàn” là Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā), có nghĩa là bố thí. Dùng bảy báu đầy ắp các tam thiên đại thiên thế giới số lượng nhiều vi trần để cúng dường, chẳng bằng công đức của người nghe kinh này. Đức Phật nói lời thành thật như thế. Nếu thiện căn của chúng ta chẳng thành thục, chẳng thể sanh ḷng tin, có nhiều nỗi ngờ vực, đến nỗi dẫu nghe mà cũng như chẳng nghe. Có người nghe pháp đúng là rởn cả lông tóc, v́ lẽ nào? Thiện căn chín muồi, vui mừng v́ được thấy, cũng sanh khởi ư niệm coi trọng. V́ sao chúng ta nghe pháp mà chẳng thể sanh ḷng hoan hỷ? Phần nhiều là v́ cái tâm thế tục huân nhiễm, do tri kiến của chính ḿnh che lấp tự tâm, cự tuyệt sự tưới nhuần của chánh pháp, cho nên cái tâm phước đức khô cằn của chúng ta chẳng được thấm nhuần!

 

          (Kinh) Bồ Tát vị cầu đa phước tụ, tín giải, độc tụng, phục tư duy.

          ()菩薩爲求多福聚。信解讀誦復思惟。

          (Kinh: Bồ Tát v́ cầu nhiều khối phước, tín giải, đọc tụng, lại tư duy).

 

          Tức là được nghe pháp tắc như vậy, hăy nên “độc tụng, phục tư duy” (đọc tụng, lại tư duy), đấy là khích lệ và gia tŕ, hướng dẫn chúng ta tiến nhập đại thiện căn, phước đức, nhân duyên. Trên thực tế, đức Thế Tôn đúng là dùng hết thảy các pháp, dùng hết thảy các thiện xảo, dùng hết thảy lời chân thật để hướng dẫn chúng ta trừ khử tự ngă.

 

          (Kinh) Giải thuyết, tu hành Niệm tam-muội, tư sở hoạch phước quá ư bỉ. Mạt tam thiên giới tận vi trần, phục phân nhất trần đẳng tiền số. Tận thủ như thị chư trần sát, thịnh măn trân bảo dĩ hành Đàn. Chư Phật sở tán tam-muội kinh, đơn dĩ nhất kệ vị tha thuyết, ngă ngôn tư nhân hoạch công đức, siêu bỉ đàn phước bất khả lượng. Nhược phục vị tha cụ túc thuyết, hạ chí nhất cấu ngưu nhũ gian, tư duy tăng quảng chư thiện căn, hà huống trường viễn vô lượng phước. Nhất thiết chúng sanh tận tác Phật, tịnh huệ chung cánh chứng bỉ như.

          ()解說修行念三昧。斯所獲福過於彼。末三千界盡爲塵。復分一塵等前數。盡取如是諸塵剎。盛滿珍寶以行檀。諸佛所贊三昧經。單以一偈爲他說。我言斯人獲功德。超彼檀福不可量。若復爲他具足說。下至一𤚲牛乳間。思惟增廣諸善根。何況長遠無量福。一切衆生盡作佛。淨慧終竟證彼如。

          (Kinh: Giải nói, tu hành Niệm tam-muội, đạt được phước đức hơn số đó. Nghiền hết tam thiên thành vi trần, lại chia mỗi trần bằng số trước. Lấy hết các cơi bằng số trần, chứa đầy trân bảo để bố thí. Với kinh tam-muội chư Phật khen, chỉ dùng một kệ bảo người khác, ta nói người ấy được công đức, hơn phước bố thí chẳng thể lường. Nếu lại nói trọn với người khác, thậm chí trong khoảng vắt sữa ḅ, tư duy các thiện căn rộng lớn, hà huống vô lượng phước dài lâu, hết thảy chúng sanh trọn thành Phật, tịnh huệ chứng trọn hệt như vậy).

 

          “Nhất thiết chúng sanh tận tác Phật, tịnh huệ chung cánh chứng bỉ như” (Hết thảy chúng sanh đều trọn thành Phật, rốt cuộc chứng đắc trí huệ thanh tịnh giống như thế): Pháp tắc như thế chính là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền Lập tam-muội. Hết thảy chúng sanh nếu có thể tương ứng với nhân duyên này, th́ sẽ “nhất thiết chúng sanh tận tác Phật” (hết thảy đều thành Phật hết). V́ sao có phước đức nhân duyên to lớn như thế? Đó chính là nội hàm vốn có của giáo nghĩa rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn trong pháp này.

 

          (Kinh) Giả ư ức số đa kiếp trung, thuyết tư kệ phước bất khả tận.

          ()假於億數多劫中。說斯偈福不可盡。

          (Kinh: Giả sử trong nhiều ức số kiếp, phước nói kệ này chẳng thể tận).

 

          Như Thích Ca Thế Tôn trong khi tu nhân đă nói bài kệ “thiên thượng, thiên hạ vô như Phật”, bèn thành Phật trước ngài Di Lặc chín kiếp. Đó là tấm gương về sự phát tâm dũng mănh thành tựu Bồ Đề. Nay đang trong thời Mạt Pháp, người phát tâm dũng mănh rất thưa thớt. Khi tôi mới xuất gia, đă gặp rất nhiều vị xuất gia ngày đêm chẳng ngơi nghỉ. Mọi người cảm thấy chuyện tiến nhập Phật pháp là chuyện rất tự nhiên, là chuyện thuộc bổn phận của chính ḿnh. Là người xuất gia bèn chuyên môn tu đạo, chứng tam-muội, chứng Bồ Đề, chứng sức thần thông, chứng thiện xảo. Đấy là sự nghiệp chuyên biệt, là chuyện rất tự nhiên. Dần dần về sau, tôi thấy rất nhiều vị xuất gia sư phụ dường như coi chuyện hành pháp là chuyện để cho kẻ khác làm, học Phật là để cho kẻ khác học. Trong mấy năm ngắn ngủi, sai biệt rất lớn! Sự tu tŕ của thế hệ sau so với thế hệ trước, sai khác rất lớn. V́ thế, người trong quá khứ điều phục, nhu thuận. Trước kia, trong tự viện, tôi gặp một số vị lăo Bồ Tát, họ đều suốt đêm lạy Phật, thế mà sáng ra, bất luận tụng niệm công khóa cũng thế, chấp tác cũng thế, phục vụ trong tự viện cũng thế, tất cả đều theo đại chúng, cũng là ăn một bữa y hệt, họ rất tự nhiên siêng gắng canh tác, rất hoan hỷ, mà cũng rất b́nh đạm thủ hộ chuyện ấy, coi đó là bổn phận. Chúng ta trong hiện thời th́ sao? Hễ tu pháp một chút, tâm kiêu mạn sanh khởi. Hơi dụng công đôi chút, bèn sanh ḷng tự đại. Do vậy, chẳng thể thâm nhập pháp, sẽ gặp phải trở ngại rất mau chóng!

          Chẳng biết v́ sao thời đại này biến hóa dữ dội như thế? Sự phát tâm yêu mến đối với pháp tắc biến hóa dữ dội, quả thật khiến cho người ta chẳng thể tiếp nhận! Kẻ dũng mănh đối với pháp càng ngày càng hiếm, kẻ tự đại, tự kiêu thân phận mười phần mạnh mẽ. Cũng có nghĩa là [người xuất gia chẳng lo tu tŕ đạo nghiệp, mà] mong biến đổi thân phận của chính ḿnh. Cái tâm mong trở thành thứ chi đó mười phần mạnh mẽ! Trước kia, người hành sa-di suốt mười năm, tám năm rất nhiều. Họ đích xác là rất dụng công nơi pháp, mười phần quan tâm đạo nghiệp của chính ḿnh [tiến triển] như thế nào, chẳng đặt chuyện biến đổi thân phận của bản thân làm điều mong mỏi của chính ḿnh. Đó là các thứ do sư trưởng và đạo hữu đốc thúc. Thời đại này th́ sao? Mười phần bận tâm đến thân phận của chính ḿnh, chẳng thèm đoái hoài đạo nghiệp của chính ḿnh! Đó là chỗ khiến cho mọi người rúng động nhất! Thân phận dẫu biến đổi thế nào đi nữa, nhưng nếu chẳng có thực chất, lại có ư nghĩa ǵ chăng? Vờ vịt đặt ra mà thôi! Giống như bong bóng kinh tế vậy, dù có thổi phồng to lớn cách mấy, vẫn cần phải thực tiễn!

          Vẫn mong mọi người thật sự tu tập pháp tắc, đích thân chứng nhập, nhất định phải nỗ lực, siêng gắng nỗ lực! Các phương diện khác có thể thong dong, chẳng cần phải dụng sức quá mức. Nhất là đối với chuyện thay đổi thân phận, tôi khuyên các vị chớ nên dốc sức nơi đó. Dốc sức vào đó th́ giống hệt như người trong xă hội: Ông Giáp tậu một căn biệt thự, ông Ất sắm một chiếc xe. Người sau bắt đầu so kè với người trước, dẫu ta phải vay nợ, cũng phải sắm xe, cũng phải mua nhà, so b́ với kẻ khác mà! Trong t́nh huống thiện căn chẳng chín muồi, quư vị mong có thân phận [cao quư hơn], sẽ là vay mượn, phải cơng gánh nặng to lớn, v́ thiện căn của quư vị chẳng thể như thật, chẳng thể thành thục! Rất nhiều người bị nghiền ép ở ngay chỗ này, bị đả kích nặng nề, dăm ba năm vẫn chẳng thể khôi phục. V́ sao tôi nêu ra chuyện này? Tôi cảm thấy mọi người học Phật cần phải tự biết đúng lẽ thật, đừng nên thùng rỗng kêu to! Kêu to cho lắm, vẫn phải trở về cày cấy từ đầu, tu tập lại từ đầu, vẫn phải quay trở lại. V́ lẽ nào? Quư vị cứ vùn vụt xông lên trước, đằng sau là một mảnh hoang vu, chẳng có ǵ thật sự tồn tại cả!

          Mọi người nhất định phải chú ư chỗ này, phước báo tuyên nói một bài kệ của đức Thế Tôn chẳng thể cùng tận. Ở đây, đức Phật Thích Ca đă đích xác tu tập, nếu chúng ta chẳng suy nghĩ sâu xa về sự phát tâm của chính ḿnh, đắm nhiễm nơi nghiệp tướng, sẽ phải đi rất nhiều đường ṿng!

 

          (Kinh) Kỳ gian bỉ Phật giai diệt dĩ, đa ức số kiếp thường quảng tuyên. Chung diệc bất tận bỉ phước biên, duyên thử thâm kinh tứ cú kệ. Nhất thiết sở hữu chư thế giới, tứ phương, thượng, hạ, cập tứ duy, măn trung chúng bảo tŕ dữ tha, vị cầu thắng phước phụng chư Phật. Bỉ chư công đức nan khả lượng, xưng kế dữ chư thế giới đẳng. Kỳ hữu văn thọ thị tam-muội, thiện năng tuyên thuyết phước quá tiền. Nhược nhân ư thử vô tŕ nghi, kỳ ư chư pháp diệc minh liễu, bỉ tắc vĩnh tuyệt chư ác thú, năng nhập thắng tịch tam-muội Thiền.

          ()其間彼佛皆滅已。多億數劫常廣宣。終亦不盡彼福邊。緣此深經四句偈。一切所有諸世界。四方上下及四維。滿中衆寶持與他。爲求勝福奉諸佛。彼諸功德難可量。稱計與諸世界等。其有聞受是三昧。善能宣說福過前。若人於此無遲疑。其於諸法亦明。彼則永絕諸惡趣。能入勝寂三昧禪。

          (Kinh: Phật trong thuở ấy đều diệt hết, nhiều ức số kiếp thường rộng nói, vẫn trọn chẳng hết phước báo ấy. Nhờ bốn câu kệ kinh sâu này, hết thảy tất cả các thế giới, bốn phương, trên, dưới, và bốn góc, chứa đầy các báu thí người khác, v́ cầu thắng phước, dâng chư Phật. Các công đức ấy chẳng thể lường, tính kể sánh bằng các thế giới. Có ai nghe nhận tam-muội này, khéo hay tuyên nói, phước hơn trước. Ai với pháp này chẳng do dự, cũng lại hiểu rơ các pháp khác. Vĩnh viễn dứt mất các đường ác, hay nhập Thiền Định thắng tịch diệt).

 

          Trong bộ kinh này, đức Thế Tôn đă một mực bảo chúng ta pháp tắc này là giáo ngôn để đắc bất thoái ngay trong một đời, là đà-la-ni giáo. Cho nên có thể hiểu rơ các pháp, tổng tŕ hết thảy các thiện xảo. V́ thế, có thể vĩnh viễn chấm dứt hết thảy các đường ác, có thể nhập vào tam-muội Thiền thù thắng tịch tĩnh.

 

          (Kinh) Bỉ nhược thường năng cúng dường ngă, tất thọ đa phước bất tư nghị, tăng trưởng đa văn chứng Bồ Đề, do tư chư Phật sở tán Định. Kim ngă ngữ nhữ thành thật ngôn, đương niệm tinh tấn, mạc phóng dật.

          ()彼若常能供養我。必受多福不思議。增長多聞證菩提。由思諸佛所贊定。今我語汝誠實言。當念精進莫放逸。

          (Kinh: Nếu ai thường hay cúng dường ta, ắt được phước nhiều chẳng nghĩ bàn, tăng trưởng đa văn, chứng Bồ Đề, do nghĩ định được chư Phật khen. Nay ta nói lời thật với ông, hăy nghĩ tinh tấn, đừng phóng dật).

 

          Đối với sự buông lung trong thế gian hiện thời, mọi người chúng ta đều có thể như thật suy tưởng, xem xét. Người trong thời đại này giỏi buông lung, kẻ có tâm trí tinh tấn hiếm hoi. Thường là chỉ cần có cơ hội, sẽ nghĩ lắm cách để buông lung!

 

          (Kinh) Nhất tâm hoan hân phát dũng mănh, tự nhiên tốc chứng bỉ Bồ Đề. Bỉ vị cúng dường bách số Phật, năi năng thọ thị tam-ma-đề.

          ()一心歡欣發勇猛。自然速證彼菩提。彼爲供養百數佛。乃能受是三摩提。

          (Kinh: Một ḷng vui sướng, khởi dũng mănh, tự nhiên mau chứng đắc Bồ Đề. Người đă cúng dường trăm vị Phật, mới được thọ dụng chánh định này).

 

          Đức Thế Tôn c̣n thọ kư cho chúng ta. Nếu chứng đắc tam-muội nơi pháp tắc này, sẽ gọi là Tam-ma-ba-đề thọ tŕ giả” (người thọ tŕ Đẳng Chí). An trụ trong công đức của tam-muội, đó là Tam-ma-đề. Tam-ma-ba-đề (Samāpatti, Đẳng Chí) tức là thành tựu an trụ chân thật, vô công dụng thiện xảo thành tựu, trọn đủ hết thảy các tam-muội, chẳng cần phải dụng công. Ở đây là nói đến sự tiến nhập.

 

          (Kinh) Giả ư hậu thế khủng bố thời, tự đương tốc chứng vi diệu định. Nhược hữu kiến ngă dữ tỳ-kheo, cập nhữ Đại Sĩ Hiền Hộ đẳng, như thị Bồ Tát nhạo đa văn, quyết định đương đắc thử tam-muội. Nhược đắc văn thử thánh tam-muội, vị tha giải thích hoặc thư tả.

          ()假於後世恐怖時。自當速證微妙定。若有見我與比丘。及汝大士賢護等。如是菩薩樂多聞。決定當得此三昧。若得聞此聖三昧。爲他解釋或書寫。

          (Kinh: Giả sử đời sau khi sợ hăi, sẽ tự mau chứng Định vi diệu. Nếu ai thấy ta và tỳ-kheo, cùng các Đại Sĩ như Hiền Hộ… Bồ Tát như thế chuộng đa văn, quyết định sẽ đắc tam-muội này. Nếu được nghe thánh tam-muội này, giảng cho người khác và biên chép).

 

          Đối với sức mạnh của môn tam-muội này, đức Thế Tôn dùng những lời ca ngợi như báu tam-muội, thánh tam-muội v.v… Chẳng phải là nói hư dối, mà cũng chẳng phải là nói quá lố. Thật sự là lời tán thán tương ứng và đúng sự thật.

 

          (Kinh) Thị đà-la-ni Thế Tôn thán, năng chứng nhất thiết Phật Bồ Đề.

          ()是陀羅尼世尊嘆。能證一切佛菩提。

          (Kinh: Thế Tôn khen đà-la-ni này, có thể chứng trọn Phật Bồ Đề).

 

          Tu tŕ pháp Ban Châu, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, trọn đủ hết thảy các pháp, trọn đủ hết thảy oai đức. V́ sao vậy? Thấy hết thảy chư Phật, sẽ trọn đủ hết thảy các thiện căn, trọn đủ hết thảy các pháp, v́ hết thảy chư Phật trọn đủ hết thảy các pháp, được hết thảy chư Phật tổng tŕ, được hết thảy chư Phật truyền đạt. Do thấy hết thảy chư Phật, có thể thành tựu hết thảy các pháp, cho nên nói là “nhập đà-la-ni môn”. Đấy là lời chân thật, lời thành thật, chẳng phải là lập bày hư giả. Có nhiều kẻ băn khoăn nơi pháp, gặp pháp này phải nên sanh ḷng tin, phải nên thủ hộ, phải nên tu tập.

          “Năng chứng nhất thiết Phật Bồ Đề” (Có thể chứng Bồ Đề của hết thảy chư Phật): Do là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, là pháp tắc có đại oai đức như thế, trong đời này chúng ta được nghe, phước đức đă là chẳng thể nghĩ bàn, được chư Phật tán thán. Nếu được nghe mà có thể tin tưởng, tiếp nhận, phước đức sẽ chẳng thể nghĩ bàn! Nếu chúng ta có thể tu tập thành tựu, đó là công đức như thế nào? Mỗi hữu t́nh chúng ta hăy nên quán kỹ càng như thật, đừng nên khinh dễ bỏ qua! V́ được nghe pháp như thế này rất khó, nay mọi người đă có thể thấy nghe, đích xác là thiện căn chín muồi. Nếu Pháp Bảo hiện tiền, quư vị chẳng thể thuận tùng, nhất định là quư vị đă noi theo vọng tưởng của chính ḿnh!

          Người trong quá khứ vốn rất khó để đạt được một pháp. Chúng ta đều biết: Đức Thế Tôn v́ nửa câu kệ mà xả thân. Nếu coi đó như tṛ cười, chúng ta sẽ trọn chẳng sanh khởi mảy may tôn trọng đối với pháp, coi pháp bảo khác nào cặn bă! Chúng ta đều biết: Có một vị Tam Tạng pháp sư tới núi Thiên Thai, bảo Trí Giả đại sư: “Thầy viết bộ Ma Ha Chỉ Quán rất tương ứng với kinh Lăng Nghiêm”. Trí Giả đại sư thưa: “Thật sự có kinh điển như thế ư?” Tam Tạng pháp sư nói: “Có chứ! Tên bộ kinh ấy là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh”. V́ thế, Trí Giả đại sư liền lập bái kinh đài, hướng về phương Tây, lễ bái suốt mười tám năm, mong thấy kinh ấy, nhưng chẳng được thấy! Nay chúng ta nhà nào mà chẳng có kinh Lăng Nghiêm? Nhưng lại có mấy ai trân quư, yêu mến hay chăng? Kinh điển mà chúng ta được đọc trong hiện thời là các kinh điển do những bậc tiên hiền trong quá khứ đă v́ học pháp mà vượt ngàn núi vạn sông sang phương Tây thỉnh về. Trăm người đi, chỉ một hai vị trở lại! Chúng ta có thật sự tôn trọng pháp hay không? Các vị thiện tri thức ơi! Quư vị có thật sự coi trọng nhân duyên của chính ḿnh hay chăng? “Trọng” là tự trọng, “tôn” là tự tôn. “Khinh” là tự khinh, “mạn” là tự lừa gạt ḿnh. Vẫn mong chúng ta hăy tự lay tỉnh sự giác ngộ từ chỗ thẳm sâu trong tâm linh của chính ḿnh, lay tỉnh sự yêu mến pháp của chính ḿnh. Đừng nên qua quưt, lăng phí sanh mạng của chính ḿnh, ngày này qua ngày khác đọa lạc, buông lung! Người trong thời Mạt Pháp gặp pháp khó lắm! Ai sẽ nâng đỡ quư vị? Ai sẽ thành tựu quư vị?

 

          (Kinh) Nhược nhân thiện tư thử tam-muội, nhất thiết chư Phật hàm cộng xưng, đương đắc chủng tánh cập đa văn, chư Phật thứ đệ nhi diễn thuyết.

          ()若人善思此三昧。一切諸佛鹹共稱。當得種姓及多聞。諸佛次第而演說。

          (Kinh: Nếu ai khéo nghĩ tam-muội này, hết thảy chư Phật cùng ca ngợi, sẽ được chủng tánh và đa văn, chư Phật lần lượt đều diễn nói).

 

          “Đắc chủng tánh” là dự vào chủng tánh Như Lai, trụ nơi địa vị Bất Thoái Chuyển trong Phật pháp, bất luận là Vị Bất Thoái Chuyển, Hạnh Bất Thoái Chuyển, hay Niệm Bất Thoái Chuyển, ba loại Bất Thoái ấy chỉ có A Bệ Bạt Trí thủ hộ, chỉ có người niệm Phật thành tựu.

          Phẩm này tuyên giảng về sự thọ tŕ, chỉ do tư duy và chánh tín mà có thể thọ tŕ. Nếu chúng ta quư trọng Pháp Bảo, sẽ nhất định có thể như thật thọ tŕ. Nếu chẳng trân trọng pháp này, sẽ giống như đạp đất vượt qua, pháp này chẳng thể chuyên chở quư vị. V́ thế, các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta có thể gặp pháp bảo này, hăy nên quư trọng, hăy nên yêu mến, hăy nên thủ hộ, hăy nên tu tập!

 

10. Phẩm thứ sáu: Quán Sát

 

          Hết thảy phương tiện văn tự, không ǵ chẳng ấn khế tự tâm như thế. Nếu tự tâm chẳng tiếp nhận, văn tự làm sao an lập cho được? Chúng ta có thể tụ tập nơi đây học tập kinh Hiền Hộ, cũng tức là thiện căn trong đời trước đối với Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội đă chín muồi, nhân duyên chín muồi, cho nên có thể có cơ chế phước đức như vậy, dùng tâm địa của chư Phật Như Lai để ấn khế tâm địa vốn chẳng có ǵ để ấn khế của chúng ta. V́ sao vậy? Tâm chẳng thể tự thấy. Dùng tri kiến của Phật Như Lai để dẫn phát chánh tri kiến của chúng ta, an trụ trong pháp và tri kiến, cho tới liên tục tiếp nối đến đời vị lai, tạo lợi ích rộng răi cho hữu t́nh.

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Quán Sát phẩm đệ lục.

          ()大方等大集賢護分觀察品第六。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Hiền Hộ Phần, phẩm thứ sáu: Quán Sát).

 

          Từ văn tự trong phần trước, chúng ta có thể cảm nhận thân thiết đức Thế Tôn đang dần dần hướng dẫn chúng ta đúng như lư quan sát nội hàm, động thái, chỗ nương cậy, và chỗ thuận theo của pháp tắc này.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược chư Bồ Tát Ma Ha Tát tức dục tư duy thử tam-muội giả, đương vân hà tư? Hiền Hộ! Bỉ chư Bồ Tát, dục tư duy giả, tức ưng đương tác như thị tư duy.

          ()爾時世尊復告賢護菩薩言。賢護。若諸菩薩摩訶薩即欲思惟此三昧者。當云何思。賢護。彼諸菩薩。欲思惟者。即應當作如是思惟。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn tư duy tam-muội này, hăy nên nghĩ như thế nào? Này Hiền Hộ! Các vị Bồ Tát ấy nếu muốn tư duy, hăy nên tư duy như thế này).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn trực tiếp dạy Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên khéo tư duy như thế nào, chẳng để cho chúng ta dùng vọng tưởng, hoặc tri kiến của chính ḿnh để suy lường pháp tắc nào, hoặc tiếp tục duy tŕ một tư tưởng nào! Ngài trực tiếp dạy chúng ta tư duy. Ví như đức Thế Tôn đă nói Tam Thập Ngũ Phật Kinh. Kinh Tam Thập Ngũ Phật là do đức Thế Tôn trực tiếp dạy cho hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát một pháp tắc để thực hành sám hối, Ngài trực tiếp chế định cho các vị đại Bồ Tát. Lại như chúng ta thọ Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Giới, Thập Giới, cho đến giới tỳ-kheo, giới Bồ Tát, tam-muội-da giới[2], các thứ giới pháp, không ǵ chẳng phải do đức Thế Tôn khéo ban bố, khéo chọn lựa, khiến cho hết thảy các hữu t́nh chẳng cần phải nhờ đến phương tiện chọn lựa để tùy thuận, trong sự tùy thuận bèn tự nhiên chọn lựa, tức là nói đến sự lựa chọn pháp, trực tiếp tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, đạt được bất thoái chuyển. V́ thế, “ưng đương tác như thị tư duy” (hăy nên tư duy như thế), tức là đức Thế Tôn đă trực tiếp chọn lựa cho chúng ta, chẳng cần chúng ta phải dùng đến phương tiện phân tích.

         

          (Kinh) Như ngă Thế Tôn, kim giả hiện tại thiên nhân chúng trung, tuyên thuyết pháp yếu. Hiền Hộ! Bồ Tát như thị nhất tâm tư duy, chư Phật Như Lai, tọa sư tử ṭa, tuyên thuyết chánh pháp.

          ()如我世尊。今者現在天人衆中。宣說法要。賢護。菩薩如是一心思惟。諸佛如來。坐師子座宣說正法

          (Kinh: Như đức Thế Tôn ta nay đang ở trong đại chúng trời, người, tuyên nói pháp yếu. Này Hiền Hộ! Bồ Tát nhất tâm tư duy như thế, chư Phật Như Lai ngồi trên ṭa sư tử, tuyên nói chánh pháp).

 

          Chúng ta thấy các loại tượng Phật đều có đài sen hoặc ṭa sư tử, hoặc là các vị Bồ Tát mỗi vị đều có tọa kỵ (坐騎, con vật để cưỡi), như Phổ Hiền Bồ Tát có voi trắng sáu ngà, Văn Thù Sư Lợi có sư tử xanh, Địa Tạng Vương Bồ Tát có Đế Thính, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng cưỡi [con vật] mang tướng oai đức là Kim Mao Hống[3]. Mỗi vị đều an lập như thế, nhằm biểu hiện điều ǵ? V́ muốn khiến cho hết thảy chúng sanh tùy thuận, tin phục, như mưa to có thể nhuần thấm rộng khắp thế gian. Lại như sấm lớn có thể rung chuyển thế gian, khiến cho chúng sanh thức tỉnh. Chư Phật Như Lai tuyên nói chánh pháp cũng lại như thế.

 

          (Kinh) Cụ túc thành tựu nhất thiết tướng hảo, tối diệu, tối cực, thù đặc đoan nghiêm, nhạo quán vô yếm.

          ()具足成就一切相好。最妙最極。殊特端嚴。樂觀無厭。

          (Kinh: Thành tựu trọn đủ hết thảy các tướng hảo, mầu nhiệm nhất, tột bậc nhất, đoan nghiêm thù thắng đặc biệt, ưa nh́n chẳng chán).

 

          Phần trước là quan sát từ sự thuyết pháp, ở đây là quan sát diệu tướng. Đức Thế Tôn dùng bốn pháp để rộng độ hữu t́nh trong thế gian, khiến cho hết thảy chúng sanh trụ trong an lạc. Diệu tướng trang nghiêm là pháp tắc thù thắng nhất, trực tiếp tiếp dẫn chúng sanh. Phật giáo chẳng phải là tôn giáo thờ ngẫu tượng, nhưng chẳng quên dùng các loại phương tiện như ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, khiến cho chúng sanh được thấy, được nghe, biết đến pháp tắc chẳng thể nghĩ bàn như thế, tùy thuận diệu tướng mà lợi ích to lớn vô thượng!

 

          (Kinh) Như thị quán sát chư đại nhân tướng, ư nhất nhất tướng, ưng đương chí tâm, tức đắc minh liễu kiến chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Kư đắc kiến dĩ, đương tiên tư vấn bất kiến đảnh tướng.

          ()如是觀察諸大人相。於一一相。應當至心。即得明了見諸如來應等正覺。既得見已。當先諮問不見頂相。

          (Kinh: Quan sát các tướng đại nhân như thế. Đối với mỗi tướng, hăy nên chí tâm, liền được thấy rơ ràng các đức Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Đă được thấy rồi, trước hết hăy nên thưa hỏi về tướng đỉnh đầu chẳng thể trông thấy [của Như Lai]).

 

          “Tư vấn” (諮問) là v́ hết thảy chư Phật Như Lai do đại công đức tùy thuận thành tựu chân thật mà nhập vào hết thảy biển Như Lai Tạng Tánh, hết thảy Bồ Tát đều chẳng thể suy lường. Thanh Văn và Duyên Giác cũng như thế, các loài phàm phu càng chẳng có dấu vết để t́m ṭi. Do vậy, phải thưa hỏi chư Phật Như Lai các thứ pháp nghĩa. Trong kinh điển, thường nói như thế này: Khi ấy, vị Bồ Tát nào đó nương theo oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, thưa hỏi giáo ngôn nào đó. V́ lẽ nào? Nếu chư Phật Như Lai chẳng dùng oai thần và trí đức gia bị, hết thảy các vị Bồ Tát chẳng thể rời khỏi chỗ ngồi để thưa hỏi, tức là chẳng thể ĺa khỏi tri kiến của chính ḿnh để dẫn phát công đức chân thật của giáo ngôn vô thượng.

 

          (Kinh) Kư đắc vấn dĩ, nhiên hậu thứ đệ biến quán chư tướng, giai linh minh liễu. Như thị quán dĩ, cánh phục tư duy, chư Phật Như Lai chúng tướng vi diệu, thị vi hy hữu!

          ()既得問已。然後次第遍觀諸相皆令明。如是觀已。更復思惟。諸佛如來衆相微妙。是爲希有。

          (Kinh: Đă được thưa hỏi rồi, sau đó theo thứ tự, quán trọn khắp các tướng, sao cho đều rành rẽ. Quán như thế xong, lại tư duy các tướng vi diệu của chư Phật Như Lai là hy hữu).

 

          Trong quá tŕnh chúng ta học tập tu tŕ Phật pháp, nghe lời dạy thù thắng của đức Phật, nếu nghe xong bèn hành tŕ, nghe xong bèn hoan hỷ, nghe xong rồi kính cẩn tiếp nhận, ắt sẽ đạt được lợi ích to lớn. Thấy diệu tướng của chư Phật, nếu tùy thuận quan sát, kiến lập nguyện vọng thanh tịnh th́ cũng sẽ tương ứng. Sau đó chính là sự hướng dẫn và cách quan sát tương ứng với nguyện vọng quán tướng.

 

          (Kinh) Nguyện ngă vị lai, hoàn đắc như thị cụ túc thành tựu chư diệu tướng thân.

          ()願我未來。還得如是具足成就諸妙相身。

          (Kinh: Nguyện tôi trong đời vị lai cũng được thành tựu trọn đủ thân có các diệu tướng như thế).

 

          Trong các cách tu Quán Phật tam-muội, nương theo một loại, hai loại quán pháp để quán vô kiến đảnh tướng của Như Lai. Cho đến quán tướng tóc xanh biếc có ánh đỏ, tướng lông tóc đều cuộn theo chiều phải, tướng da đầu như sắc vàng ṛng, tướng xương đầu như bạch hạc, tướng năo như lưu ly, trong năo có mười bốn mạch, mỗi mạch có mười bốn luồng sáng, mỗi luồng sáng đều chiếu sáng rực mười phương pháp giới, lợi ích rộng lớn hết thảy hữu t́nh… Cho đến tướng bánh xe vạn căm dưới ḷng bàn chân, theo thứ tự mà quan sát. Dù thuận quán hay nghịch quán, quán sát như thế, sẽ được ấn khế sâu xa, an lạc thanh tịnh, xa ĺa các nạn, thân tâm an lạc. Đó là quán diệu tướng trọn đủ công đức.

 

          (Kinh) Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị thanh tịnh cấm giới, cụ túc oai nghi.

          ()願我未來。亦得如是清淨禁戒具足威儀。

          (Kinh: Nguyện tôi trong đời vị lai, cũng đạt được giới cấm thanh tịnh như thế, trọn đủ oai nghi).

 

          Hết thảy diệu tướng đều đến từ giới đức chánh đáng, thanh tịnh. Đối với điều này, chư Phật Như Lai đều có sự che chở, bảo vệ như thế. V́ nếu nói ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo chính là Như Lai th́ Kim Luân Vương cũng là Như Lai! V́ sao Phật trọn đủ ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo lại được gọi là Như Lai? V́ Ngài trọn đủ công đức của hết thảy các giới, có đại oai đức thiện xảo lợi ích trọn khắp thế gian. Tuy Kim Luân Vương cũng trọn đủ ba mươi hai tướng và tám mươi loại hảo, nhưng v́ chẳng có trí vô lậu, chẳng có thập lực, mười tám pháp bất cộng, tứ vô úy, cho nên chẳng thể gọi là Phật. Như Lai Thế Tôn dùng đủ loại cảnh giới, đủ loại oai nghi, đủ loại phương tiện thiện xảo để lợi ích trời người rộng lớn. Cho nên các Luân Vương chẳng thể tương tự! Dẫu tướng Luân Vương cũng thanh tịnh, viên măn, trang nghiêm, chỉ là xét theo pháp th́ chẳng trọn đủ như Phật, cho nên chứng đắc chẳng đồng nhất.

 

          (Kinh) Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị cụ túc tam-muội. Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị cụ túc trí huệ. Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị cụ túc giải thoát. Nguyện ngă vị lai, diệc đắc như thị giải thoát tri kiến. Nguyện ngă vị lai, thành măn như thị chư tướng thân dĩ, tức đắc thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()願我未來。亦得如是具足三昧。願我未來。亦得如是具足智慧。願我未來。亦得如是具足解脫。願我未來。亦得如是解脫知見。願我未來。成滿如是諸相身已。即得成就阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn đủ tam-muội như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn đủ trí huệ như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc trọn đủ giải thoát như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, cũng đắc giải thoát tri kiến như thế. Nguyện ta trong đời vị lai, thành tựu viên măn thân có các tướng như thế rồi, sẽ liền được thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

 

          Đây là từ năm phần Pháp Thân, tức Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri Kiến, mà khế nhập biển Chánh Biến Tri của chư Phật, sáng ngời thế gian.

 

          (Kinh) Kư thành Phật dĩ, diệc đương như thị, xử bỉ thiên nhân đại chúng chi trung, cụ túc tuyên thuyết như tư diệu pháp. Bồ Tát như thị cụ túc quán sát chư Phật Như Lai, năi chí thành tựu Nhất Thiết Chủng dĩ, phục ưng cánh tác như thị tư duy, thị trung hà giả thị ngă?

          ()既成佛已。亦當如是。處彼天人大衆之中。具足宣說如斯妙法。菩薩如是具足觀察諸佛如來。乃至成就一切種已。復應更作如是思惟。是中何者是我。

          (Kinh: Đă thành Phật rồi, cũng sẽ như thế. Ở trong đại chúng trời người, tuyên nói đầy đủ diệu pháp như thế, Bồ Tát quan sát trọn đủ chư Phật Như Lai như thế, cho đến thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí rồi, lại nên tư duy như thế này: Trong ấy, thứ ǵ là ta?)

 

          V́ sao? Nếu an lập công đức bổn tôn thành tựu, lợi ích rộng khắp thế gian, chẳng nhiễm đắm vào đâu, sẽ là lợi ích chân thật của diệu tướng trang nghiêm thanh tịnh rộng lớn. Nếu có đắm nhiễm, sẽ là ngă mạn. Ngă mạn tiếp nối, ắt sẽ thuộc vào tăng thượng mạn. Tăng thượng mạn th́ ắt sẽ thuộc vào đại vọng ngữ, tăng tấn dần dần, sẽ đọa vào thế gian. Nếu chúng ta chẳng tùy thuận sự quan sát thiện xảo của chư Phật Như Lai, dẫu tu thiện pháp đôi chút, đạt được đôi chút lợi ích, đạt được khinh an đôi chút, đạt được tướng quang minh đôi chút, cho đến đạt được tự tại thần thông đôi chút, sẽ rơi vào ngă mạn, tức là thuộc vào tăng thượng mạn. Thậm chí dần dần tiếp nối, ngỡ chính ḿnh thật sự có sở đắc, ngỡ đă đắc pháp nơi pháp chưa đắc, chưa chứng mà nói là chứng, hư vọng nhận biết. Sau đấy, tất nhiên trở thành kẻ đáng gọi là “quyến thuộc của ma”, nguy hại thế gian! Chúng ta nhất định phải chú trọng điều này!

          “Thị trung hà giả vi ngă” (trong ấy thứ ǵ là ta): Đấy là thiện xảo để quán nhằm phá bổn tôn[4]. V́ thế, bổn tôn quán phải nên khéo đạt được lợi ích nơi Phật pháp mà chẳng đắm nhiễm. Nếu có đắm nhiễm, tất nhiên sẽ đọa lạc, nhất định phải chú ư. Đó là sự chuyển biến thanh tịnh trong Phật pháp, mà cũng là vận dụng thiện xảo rộng lớn, nhưng chẳng đắm nhiễm, thuộc vào sức mạnh của trí huệ.

 

          (Kinh) Thùy vi ngă sở pháp? Thùy năng đắc thành chư Phật Bồ Đề? Vi thân đắc da? Vi tâm đắc da?

          ()誰爲我所法。誰能得成諸佛菩提。爲身得耶。爲心得耶。

          (Kinh: Ai là pháp của ta? Ai có thể thành tựu Bồ Đề của chư Phật? Là thân đắc ư? Là tâm đắc ư?)

 

          Từng bước hướng dẫn chúng ta tùy văn nhập quán.

 

          (Kinh) Nhược thân đắc giả, thị thân ngoan ngăi, vô giác, vô tri, do như thảo mộc, thạch bích, kính tượng.

          ()若身得者。是身頑騃無覺無知。猶如草木。石壁鏡像。

          (Kinh: Nếu là thân đắc th́ thân này ngu độn, vô giác, vô tri, ví như cỏ cây, vách đá, h́nh bóng trong gương).

 

          Sắc thân này của chúng ta do Tứ Đại hợp thành. Địa, Thủy, Hỏa, Phong có tác dụng là ǵ? Sắc thân của chúng ta, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nếu bỏ đi ư thức, chẳng phải là như cỏ cây ư? Hăy nên khéo quan sát.

 

          (Kinh) Nhiên bỉ Bồ Đề, vô sắc, vô h́nh, phi tượng, phi tướng, bất khả kiến tri, bất khả xúc chứng.

          ()然彼菩提。無色無形。非像非相。不可見知。不可觸證。

          (Kinh: Nhưng Bồ Đề ấy vô sắc, vô h́nh, chẳng phải là h́nh tượng, chẳng phải là tướng, chẳng thể thấy biết, chẳng thể chạm để nhận biết).

 

          Chúng ta thường từ trong danh tướng và ngôn thuyết đàm luận mà biểu đạt tâm phần Bồ Đề, biểu đạt tướng mạo của Bồ Đề. Nói “chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng sạch, từ vô thỉ tới nay rộng lớn vi diệu, nhiếp thọ thế gian rộng lớn, chẳng có bụi bặm, chẳng có đắm nhiễm, chẳng ĺa một pháp”. Đối với chỗ chẳng thể nói năng này mà cưỡng lập ngôn thuyết, khiến cho chúng sanh có phương tiện văn tự và ngôn ngữ để khế nhập, có thể biết rơ sự liễu tri trong “bất khả kiến tri” (chẳng thể thấy biết). Trong biển Chánh Biến Tri, cái tâm trí nguồn cội ấy chẳng tạo tác mà đạt được, chẳng thể mất đi. V́ thế, chư Phật chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhưng đối với pháp này bèn chẳng có ǵ để có thể chứng, phàm phu hữu t́nh ngu si điên đảo trầm luân nơi đây chẳng thể tước giảm!

 

          (Kinh) Vân hà cánh dĩ ngoan ngăi, vô tri, vô kiến, vô thức, vô sở phân biệt, vô tác chi thân, đắc bỉ Bồ Đề?

          ()云何更以頑騃無知無見無識。無所分別無作之身。得彼菩提。

          (Kinh: Sao có thể dùng cái thân ngu độn, chẳng biết, chẳng thấy, chẳng nhận biết, chẳng phân biệt, chẳng tạo tác để đạt được Bồ Đề?)

 

          Đây là phá trừ hết thảy chấp trước và hết thảy cái tâm sở đắc. “Đắc Bồ Đề” th́ dùng ǵ để đắc Bồ Đề? Thông thường, những ai đă học giáo ngôn về tạng tánh, đều có thể liễu giải “hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, “hết thảy chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Đối với các lời lẽ sâu mầu như thế, lời chân thật rộng lớn rất sâu như thế, dùng ǵ để có thể ấn khế vạn pháp duy tâm? Dùng ǵ để liễu tri cảnh giới Nhất Thật?

 

          (Kinh) Bồ Đề như thị kư vô h́nh sắc, phi tướng, phi tượng, bất khả kiến tri, bất khả xúc chứng, thùy phục ư trung nhi hành chứng giả? Nhược tâm đắc giả, thị tâm vô sắc, bất khả đắc kiến. Thị tâm vô tướng, bất khả đắc tri. Thử tâm như thị đồng ư huyễn hóa.

          ()菩提如是既無形色。非相非像。不可見知。不可觸證。誰復於中而行證者。若心得者。是心無色。不可得見。是心無相。不可得知。此心如是同於幻化。

          (Kinh: Bồ Đề đă chẳng có h́nh sắc như thế, chẳng phải tướng, chẳng phải h́nh tượng, chẳng thể thấy biết, chẳng thể đụng chạm để chứng biết, ai lại có thể chứng biết trong ấy? Nếu là tâm đắc [Bồ Đề], th́ cái tâm ấy vô sắc, chẳng thể trông thấy. Cái tâm ấy vô tướng, chẳng thể biết được. Cái tâm ấy giống như huyễn hóa như thế đó).

 

          Hết thảy sự nhận biết không ǵ chẳng phải do nhân duyên mà sanh, chẳng thể chạm đến, chẳng thể thấy biết!

 

          (Kinh) Nhiên bỉ Bồ Đề diệc nhĩ, vô sắc bất khả kiến, vô tướng bất khả tri, vô lậu, vô vi, diệc đồng huyễn hóa.

          ()然彼菩提亦爾。無色不可見。無相不可知。無漏無爲。亦同幻化。

          (Kinh: Nhưng Bồ Đề cũng thế, chẳng có sắc chẳng thể thấy, chẳng có tướng chẳng thể biết, vô lậu, vô vi, cũng giống như huyễn hóa).

 

          Đức Thế Tôn phán định tướng mạo của Bồ Đề như thế, khiến cho chúng ta có một cái gọi là sự hay biết [giống như] “ấn hoại văn thành” (ấn nát, nhưng nét khắc nơi ấn đă hiện ra) là sự hay biết vô nhiễm, là sự hay biết viên măn, là sự hay biết triệt để phát khởi tự tại trong hiện tại.

 

          (Kinh) Vân hà khả chứng, vân hà giác tri, nhi ngôn thân tâm đắc Bồ Đề da?

          ()云何可證。云何覺知。而言身心得菩提耶。

          (Kinh: Làm thế nào để có thể chứng? Làm thế nào để hay biết mà nói thân tâm đắc Bồ Đề ư?)

 

          Quan sát như thế, tư duy như thế. Đấy là đức Như Lai Thế Tôn dùng trí chẳng thể nghĩ bàn để hướng dẫn chúng sanh chánh quan sát, khéo quan sát, như lư quan sát, chân thật quan sát, chẳng tăng giảm mà quan sát. Nếu chúng ta dùng vọng tâm quan sát, sẽ chẳng thể được. Dùng cái tâm do chính ḿnh xếp đặt để quan sát, cũng chẳng thể được. V́ thế, đức Thế Tôn hướng dẫn chúng ta hăy khéo quan sát.

 

          (Kinh) Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát như thị quán thời, phân minh liễu liễu, kiến thị thân tướng, bất đắc Bồ Đề, diệc tri thị tâm bất đắc Bồ Đề. Hà dĩ cố? Chư pháp vô hữu dĩ sắc chứng sắc, dĩ tâm chứng tâm cố.

          ()彼菩薩摩訶薩。如是觀時。分明了了。見是身相。不得菩提。亦知是心不得菩提。何以故。諸法無有以色證色。以心證心故。

          (Kinh: Khi vị Bồ Tát Ma Ha Tát ấy quán như thế, rành rẽ, phân minh, thấy thân tướng này chẳng đắc Bồ Đề, cũng biết là tâm chẳng đắc Bồ Đề. V́ lẽ nào? Do các pháp chẳng có pháp nào dùng sắc để chứng sắc, dùng tâm để chứng tâm).

 

          Giống như Tâm Kinh đă nói, “vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa” (không có trí mà cũng chẳng đạt được. Do chẳng có ǵ để đạt được, nên Bồ Tát…) Trong giáo ngôn của chư Phật, chọn lựa pháp vô tự tánh th́ chẳng có một pháp nào để có thể thành, thật sự là chẳng có pháp nào để có thể lập, thế mà rộng lập các pháp, lợi ích hữu t́nh đắm nhiễm trong thế gian, khiến cho họ tiêu trừ hết thảy chấp trước huyễn chướng, khiến cho họ thành tựu lợi ích to lớn vô thượng.

 

          (Kinh) Nhiên bỉ ư ngôn thuyết trung, tri nhất thiết pháp, tuy vô sắc, vô h́nh, vô tướng, vô lậu, vô khả đổ kiến, vô hữu chứng tri, diệc phi vô chứng.

          ()然彼於言說中。知一切法。雖無色無形。無相無漏。無可睹見。無有證知。亦非無證。

          (Kinh: Nhưng trong ngôn thuyết, họ biết hết thảy các pháp tuy vô sắc, vô h́nh, vô tướng, vô lậu, chẳng thể trông thấy, chẳng có chứng biết, mà cũng chẳng phải là vô chứng).

 

          V́ lẽ nào? Nói chứng và chẳng chứng như thế, thật sự là hư luận. Có thể đắc và chẳng thể đắc, đúng, sai, hết thảy ngôn thuyết đối đăi ở đây đều lặng thinh không có tiếng. V́ trong tâm trí nhị nguyên của bọn phàm phu chúng ta, cứ đối đăi liên tục. Nếu trừ sạch đối đăi, tâm trí A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề thanh tịnh vốn sẵn có sẽ ngay lập tức sáng rực thế gian, chẳng cần tạo tác.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Dĩ nhất thiết chư Như Lai thân vô hữu lậu cố. Hựu chư Như Lai thân vô lậu cố, tâm diệc vô lậu. Hựu chư Như Lai tâm vô lậu cố, sắc diệc vô lậu.

          ()何以故。以一切諸如來身。無有漏故。又諸如來。身無漏故。心亦無漏。又諸如來。心無漏故。色亦無漏。

          (Kinh: V́ cớ sao? Do thân của hết thảy các Như Lai chẳng có hữu lậu. Lại do thân của chư Như Lai vô lậu, nên tâm cũng vô lậu. Lại do tâm của chư Như Lai vô lậu, sắc cũng vô lậu).

 

           “Vô lậu” là chẳng tạo tác, thanh tịnh, xa ĺa hết thảy công dụng, tức là xa ĺa hết thảy tác ư đối đăi. Trong quá tŕnh học Phật pháp, chúng ta đều biết một danh từ, tức là hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa, đều gọi là “bất tịnh ư Bồ Tát”. “Bất tịnh ư” tức là có tác ư, có sự tác ư liên tục. Phàm phu hữu t́nh nếu chẳng tác ư, tâm chẳng có chỗ nào ràng buộc. Nếu tâm chẳng ràng buộc, ư thức sẽ mờ mịt, thậm chí là mê mất. V́ thế, hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa, vẫn cần phải tác ư, tạo tác tăng thượng thiện xảo, siêng năng tu pháp chánh đáng như thế, tức là “trừ hết thảy ác, hành hết thảy thiện, điều thiện chưa sanh khiến nẩy sanh, điều ác đă sanh bèn sám hối”. Người siêng năng chánh đáng như thế chính là tác ư thiện xảo. Nhưng chư Phật Như Lai và hàng Bồ Tát từ Bát Địa trở lên th́ tâm ư vô công dụng, chẳng cần tạo tác, chẳng cần đối đăi, Thật Tướng hiện tiền, thanh tịnh hồi thí công đức chân thật, dùng điều đó để an trụ. Đấy là điều sẵn có của Báo Đức, do thiện căn thật sự viên măn thành thục, chẳng phải do nương vào Tu Đức mà cưỡng chấp. Phàm phu hữu t́nh nếu chẳng nhờ sự tu tŕ hậu thiên (sự tu tŕ sau khi đă tín giải), sẽ thường chẳng thể chấp nhận pháp tánh chân thật. Nếu ở trong các sự, các tướng, thuận ứng hiện duyên, thuận ứng pháp tánh, hai pháp cùng nêu, Tu Đức và Tánh Đức cùng lúc trọn đủ, khi ấy có thể nói là “tu pháp phần”. Như thế th́ chúng ta sẽ có thể có cơ chế an trụ nơi đạo nghiệp vô thượng, cho đến có cơ duyên tu tập.

          Đoạn văn tự này đă ban cho chúng ta một cơ chế hướng dẫn quan sát và tư duy. Chương trước là phẩm Thọ Tŕ, dùng thọ tŕ để chuyển tiếp, hướng dẫn chúng ta đạt đến chánh quan sát. Trước phẩm Thọ Tŕ có phẩm Chánh Tín. Trước đó, lại có phẩm Tư Duy, tức là dùng tư duy để khế nhập chánh tín, dùng chánh tín để khế nhập thọ tŕ, dùng nhân duyên thọ tŕ để khéo quan sát pháp tắc, khéo quan sát tâm địa. Đức Thế Tôn giáo hóa chúng ta như thế, tuyên nói giáo pháp như thế, khiến cho chúng ta thiết thực tư duy, khéo thủ hộ!

Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 6 hết

 

         



[1] Chín chúng, tức là chúng sanh trong chín pháp giới.

[2] Tam-muội-da giới (Samaya) là một loại giới pháp của Mật Tông, c̣n gọi là Phật Tánh Trí Tam-muội-da giới, hoặc Bí Mật Tam-muội-da giới, dùng trí huệ và đức tướng sẵn có của chúng sanh làm giới pháp, quy nhiếp toàn bộ giới pháp của Hiển giáo (ngũ giới, bát giới, thập giới…) vào trí huệ của chư Phật. Phẩm Cụ Duyên trong kinh Đại Nhật giảng: “Đó là tam thế vô ngại trí giới, bao gồm bốn trọng giới, thường chẳng nên xả pháp, đừng ĺa bỏ Bồ Đề tâm, đừng keo tiếc hết thảy các pháp, đừng chẳng làm chuyện lợi ích chúng sanh”. Sách Vô Úy Tam Tạng Thiền Yếu lại triển khai thành mười giới, như chẳng lui sụt Bồ Đề tâm, chẳng xả Tam Bảo, chẳng sanh tà kiến, chẳng tự xưng ta đă trọn đủ vô thượng đạo v.v… Đại Nhật Kinh Sớ lại có cách diễn giải khác, chẳng hạn như chẳng nên xả chánh pháp, chẳng báng hết thảy giáo pháp tam thừa, chẳng sanh tà kiến báng bổ không có nhân quả, chẳng bố thí vật gây hại cho người khác…

[3] Kim Mao Hống (金毛犼), c̣n gọi là Đặng Long, Vọng Thiên Hống, Triều Thiên Hống, là một thần thú có h́nh dáng giống như kỳ lân, rất dũng mănh, hung tợn, có thể đánh nhau ngang sức với rồng, ăn óc rồng. Theo truyền thuyết, nó là một trong các đứa con của long vương, có tập quán canh gác. Do nó hay ngửa mặt lên trời, rống to rúng động trời đất, cho nên gọi là Vọng Thiên Hống hay Triều Thiên Hống. V́ thế, nó thường được đắp trên các trụ đá (hoa biểu) quanh các đền đài, cung điện, lăng tẩm, với ước nguyện tấu lên thiên đ́nh ước vọng của con người, và trấn áp xua đuổi tà khí, quỷ quái. Có lẽ h́nh thức đắp các con nghê (giống như sư tử) hay con sấu trên các cột đá tại các kiến trúc cổ của Việt Nam cũng là h́nh thức khác của Hống. Theo cổ thư, Hống có mười đặc điểm: Sừng hươu, đầu lạc đà, tai mèo, mắt tôm, mơm lừa, lông như sư tử, cổ rắn, bụng như con Thận (một loài ṣ lớn ngoài biển, hơi thở của nó có thể tạo thành huyễn cảnh lâu đài, thành thị trên biển), vảy như cá chép vàng, vuốt chim ưng, chân sau giống như chân hổ. Theo Thuật Dị Kư, Hống có thể phun lửa gần cả trăm mét.

[4] Bổn tôn trong câu này chính là ư niệm chấp trước, cho rằng có một cái Thật Ngă, là Ngă Chấp, ngỡ bản ngă của chính ḿnh tôn quư, cho là ḿnh chứng đắc cao hơn người khác. C̣n bổn tôn trong câu “an lập bổn tôn công đức thành tựu” trong đoạn trước chính là nói về chân tâm thanh tịnh, là Phật Tánh, là tạng tánh. An trụ bổn tôn là nhận biết chính ḿnh sẵn có Phật tánh, chứng nhập chân tâm Thật Tướng v.v…