Đại Phương Đẳng Đại Tập

Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 7

大方等大集賢護經講記

慈法法師

Chủ giảng: Pháp sư Từ Pháp

Địa điểm: Hằng Dương Am núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam

Thời gian: Từ ngày 08 tháng Tám đến 04 tháng Chín năm 2006

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh, quyển đệ tam.

          Hiền Hộ Phần, Quán Sát phẩm chi dư.

          Hựu chư Như Lai, Sắc vô lậu cố, Thọ diệc vô lậu, năi chí Hành, Thức diệc vô lậu. Hựu chư Như Lai, Giới diệc vô lậu, sở hữu tam-muội trí huệ diệc vô lậu, năi chí Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến diệc vô lậu. Như thị năi chí chư Như Lai, chư Như Lai sở hữu ngôn thuyết, dĩ thuyết, kim thuyết, đương thuyết, cập nhất thiết pháp, tư giai vô lậu dă.

          ()大方等大集賢護經卷第三。

          賢護分觀察品之餘。

          又諸如來。色無漏故。受亦無漏。乃至行識亦無漏。又諸如來。戒亦無漏。所有三昧智慧亦無漏。乃至解脫解脫知見亦無漏。如是乃至諸如來。諸如來所有言說。已說今說當說。及一切法。斯皆無漏也。

          (Kinh: Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ, quyển thứ ba.

          Hiền Hộ Phần, phần c̣n lại của phẩm Quán Sát.

          Lại nữa, các đức Như Lai do Sắc vô lậu, nên Thọ cũng vô lậu, cho đến Hành, Thức cũng vô lậu. Lại nữa, Giới của các đức Như Lai cũng vô lậu, tất cả trí huệ tam-muội cũng vô lậu, cho đến Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến cũng vô lậu. Như thế cho đến các đức Như Lai, tất cả ngôn thuyết của các đức Như Lai đă nói, đang nói, sẽ nói, và hết thảy các pháp đều là vô lậu).

         

          Vô Lậu là một danh từ chuyên biệt của Phật giáo, biểu đạt Phật pháp, biểu đạt đặc tánh chỉ riêng Phật pháp mới, chứ hết thảy các pháp chẳng có, hết thảy các ngoại đạo chẳng có. Phật giáo nói đến Lục Thông, hết thảy các ngoại đạo đều có pháp tắc Ngũ Thông, nhưng chỉ Phật giáo có Lậu Tận Thông, A La Hán là người đích thân chứng đắc [Lậu Tận Thông]. Hàng Bồ Tát từ Bát Địa trở lên đều đích thân chứng đắc, chư Phật Như Lai đích thân chứng đắc công đức vô lậu chân thật ấy.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Chư như thị đẳng nhất thiết Phật pháp, trí nhân năng đạt, ngu giả mạc tri.

          ()賢護。諸如是等一切佛法。智人能達。愚者莫知。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Hết thảy các Phật pháp như thế, người trí có thể thông đạt, kẻ ngu chẳng biết).

 

          Hai pháp trí và ngu chẳng phải là phê phán, mà là khi vận dụng, v́ hai pháp trí và ngu cũng chẳng có tự tánh. Như người học Phật chúng ta, tŕ giới, phạm giới, người thiện, kẻ ác, phàm phu, thánh nhân cũng giống như thế, chẳng thể nào xác định cứng ngắc được. Các thứ pháp vị trong Phật pháp như Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, các loại quả vị, có phải là có địa vị hay chăng? Địa vị ấy cũng là thiện xảo tăng thượng, hướng dẫn hữu t́nh, khiến cho họ thấy thấu triệt tâm trí. Đó gọi là phương tiện gia tŕ tăng thượng, hiển lộ sự thiện xảo nơi bổn vị.

 

          (Kinh) Bỉ nhược năng tác như thị quán thời, nhất thiết chư pháp tất bất khả đắc.

          ()彼若能作如是觀時。一切諸法。悉不可得。

          (Kinh: Nếu lúc người ấy có thể quán như thế, th́ sẽ [thấu triệt] hết thảy các pháp đều chẳng thể đạt được).

 

          Đối với phàm phu trong thế gian, “có pháp để có thể đạt được” chính là động lực duy nhất chi phối hết thảy các hành vi của chúng ta, thường nói là “chẳng có lợi sẽ không làm”. Trong pháp tắc thuộc về giáo ngôn của chư Phật, quả thật chẳng có một pháp để có thể đạt được. Do vận dụng trí huệ để quán, dùng từ bi để quán, do lợi ích rộng khắp thế gian mà quán, th́ đều chẳng có một pháp nào để có thể đạt được!

 

          (Kinh) Vân hà bất khả đắc? Sở vị thùy năng chứng dă bất khả đắc. Vân hà chứng dă diệc bất khả đắc? Hà duyên chứng dă diệc bất khả đắc?

          ()云何不可得。所謂誰能證也不可得。云何證也亦不可得。何緣證也亦不可得。

          (Kinh: V́ sao chẳng thể đạt được? Tức là nói “ai có thể chứng th́ chẳng thể được! V́ sao đă chứng th́ cũng chẳng thể đạt được? Do duyên nào mà đă chứng cũng chẳng thể đạt được?)

 

          Đối với pháp “bất khả đắc” (chẳng thể đạt được) ở đây, chúng ta hăy khéo tư duy, quan sát. Tư duy như thế, sẽ dẫn dắt chúng ta dần dần tiến nhập, quan sát các thứ sự tướng chung quanh.

 

          (Kinh) Bỉ năng tác thị quán dĩ, như thị nhập Diệt Tịch Định, phân biệt chư pháp, diệc bất phân biệt chư pháp.

          ()彼能作是觀已。如是入滅寂定。分別諸法。亦不分別諸法。

          (Kinh: Người ấy đă có thể quán như thế xong, nhập Diệt Tịch Định như thế, phân biệt các pháp, cũng chẳng phân biệt các pháp).

 

          Hiểu rơ ràng, phân minh, trọn chẳng đắm nhiễm hết thảy các pháp như đă nói trong phần trước. Cái được gọi là Diệt Tịch Định, hoặc c̣n gọi Tịch Diệt Định, tức là đă ngưng dứt hết thảy các tạo tác, trong hết thảy các trần lao cũng đă an trụ. Do chẳng tăng, chẳng giảm, cho nên hiểu phân minh các pháp mà chẳng đắm nhiễm.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Chư pháp vô cố.

          ()何以故。諸法無故。

          (Kinh: V́ lẽ nào? Do các pháp là Không).

 

          Sự lựa chọn này rất quan trọng!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Như hỏa vị sanh, hoặc thời hữu nhân phát như thị ngôn: “Ngă ư kim nhật, tiên diệt thị hỏa”. Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Bỉ nhân thị ngữ vi thành thật phủ?

          ()賢護。如火未生。或時有人發如是言。我於今日先滅是火。賢護。於意云何。彼人是語爲誠實不。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Như lửa chưa sanh, nếu khi ấy, có kẻ nói như thế này: “Hôm nay ta sẽ diệt lửa ấy trước”. Này Hiền Hộ! Ư ông nghĩ sao? Lời ấy của kẻ đó có thành thật hay không?)

 

          Phiền năo hư vọng của hết thảy chúng sanh trong thế gian vốn chẳng có ǵ để đạt được. Do hư vọng mà tạo thành phiền năo. Thật ra, chẳng có ǵ để có thể diệt. Đó là diệt! Hết thảy phàm phu hữu t́nh chấp trước pháp “diệt trừ phiền năo”, oan uổng tăng thêm phiền năo. Ở trong cái “vốn chẳng có phiền năo” mà tăng thêm một cái phiền năo mới toanh là “diệt phiền năo”, bị luân hồi oan uổng! Luân hồi như thế, giống như quay tṛn cây đuốc trong không trung, sẽ thành một ṿng lửa. Trong luân hồi, thật sự chẳng có vật ǵ để có thể đạt được, nhưng v́ cưỡng chấp mà sanh ra tướng luân hồi và nghiệp luân hồi.

 

          (Kinh) Hiền Hộ đáp ngôn: “Bất dă Thế Tôn!” Phật cáo Hiền Hộ: “Như thị chư pháp, tùng bổn dĩ lai, tất cánh vô đắc”.

          ()賢護答言。不也世尊。佛告賢護。如是諸法。從本以來。畢竟無得。

          (Kinh: Ngài Hiền Hộ đáp rằng: “Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn!” Đức Phật bảo ngài Hiền Hộ: “Các pháp như thế vốn rốt ráo chẳng thể được”).

 

          Chúng ta có thể quan sát trọn khắp, tùy thời quan sát, tùy duyên quan sát, có thể quán khắp các chỗ tâm trí trong hết thảy các hiện duyên, [sẽ thấy] các pháp rốt ráo chẳng thể đạt được, chỉ v́ hư vọng chấp trước và đắm nhiễm, ngỡ là thật sự có cái để đạt được, bèn sanh khởi các nỗi khổ sở v́ chấp trước.

 

          (Kinh) Vân hà ư kim năi tác tư thuyết: “Ngă năng chứng tri nhất thiết chư pháp, ngă năng liễu đạt nhất thiết chư pháp, ngă năng giác ngộ nhất thiết chư pháp, ngă năng độ thoát nhất thiết chúng sanh ư sanh tử trung”? Thử phi chánh ngôn.

          ()云何於今乃作斯說。我能證知一切諸法。我能了達一切諸法。我能覺悟一切諸法。我能度脫一切衆生於生死中。此非正言。

          (Kinh: V́ sao nay nói như thế này: “Ta có thể chứng biết hết thảy các pháp, ta có thể liễu đạt hết thảy các pháp, ta có thể giác ngộ hết thảy các pháp, ta có thể độ thoát hết thảy chúng sanh trong sanh tử”? Đó chẳng phải là lời lẽ chánh đáng).

 

          Đấy là lời lẽ của kẻ cuồng vọng, kẻ đắm nhiễm, kẻ ưa thị phi, kẻ trầm luân. Như hữu t́nh trong thế gian hiện thời phần nhiều nói: “Ta là người tŕ giới”, “ta là người tu hành”, “ta là người có chánh pháp”, “ta là bậc chánh tri kiến”, “ta là kẻ có nhân duyên chi đó” v.v… Thật ra, kẻ đó là kẻ đắm nhiễm, chấp trước, đọa lạc, tất nhiên sẽ bị xâm hại bởi pháp. V́ sao vậy? Do vô trí mà cũng vô đắc để lợi ích rộng khắp thế gian. Do vô trí mà cũng vô đắc để an trụ trong trí huệ. Do vô trí mà cũng vô đắc, bèn có oai đức đối với hữu t́nh, có oai đức trong hiện pháp. Nếu có đắm nhiễm, ắt sẽ bị mắc hại. V́ sao đối với pháp, người đời chẳng thể đạt được lợi ích chân thật? Phần nhiều là v́ thói quen chấp trước vọng tưởng liên tục, chẳng thể gián đoạn. Chấp trước trong quá khứ là tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng, c̣n chấp trước trong hiện tại là [chấp trước] những cái gọi là “chánh pháp, chánh kiến, độ chúng sanh, trí, bi”. Các thứ chấp trước như thế vẫn là thay đổi h́nh dạng chấp trước đó thôi, thật sự là nguồn khổ, thật sự là gốc khổ! Chư Phật Như Lai nói lời thành thật để chúng ta chánh tư duy, quan sát. Hiện thời, trong các đoàn thể cư sĩ học Phật, hoặc đoàn thể tăng nhân, phần nhiều tri kiến như thế, cứ ngỡ chính ḿnh có pháp để có thể chứng, có pháp để có thể đắc. Cho nên phần nhiều sanh tâm kiêu mạn, đối với cái chẳng thể được, bèn cưỡng chấp “có cái để có thể đạt được”, đối với cái chẳng có ǵ để chứng bèn cho là có chứng đắc, oan uổng hứng chịu nỗi khổ ấy!

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Bỉ pháp giới trung, bổn vô chư pháp, diệc vô chúng sanh. Vân hà ngôn độ? Đản Thế Đế trung nhân duyên độ nhĩ!

          ()所以者何。彼法界中。本無諸法。亦無衆生。云何言度。但世諦中因緣度耳。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Trong pháp giới ấy, vốn chẳng có các pháp, mà cũng chẳng có chúng sanh, cớ sao nói là độ? Chỉ là độ nhân duyên trong Thế Đế đó thôi).

 

          Chúng ta quan sát hết thảy các pháp sanh diệt trong thế gian, [sẽ thấy chúng] thật sự chẳng có bản chất, mà cũng thật sự chẳng có tự tánh, do các thứ nhân duyên mà tồn tại liên tục các thứ thế gian. V́ thế, “mười pháp giới rạng ngời hiện tiền”. Dùng ǵ để hiện tiền? Phật pháp giới, Bồ Tát pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, nhân, thiên, Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mười loại pháp giới ấy đều do nhân duyên mà hiện, chẳng có thực chất! Do nhân duyên mà hiện Phật pháp giới. Do nhân duyên mà hiện Bồ Tát pháp giới. Do nhân duyên mà hiện Thanh Văn pháp giới, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Trong các thứ pháp giới như thế, không ǵ chẳng phải là “duyên sanh, duyên diệt, chẳng có ǵ để thật sự đạt được, chẳng có một pháp để có thể nhiễm”. Vậy th́ chúng ta có ǵ để có thể chấp trước? Nếu không chấp trước ǵ, người ấy sẽ được giải thoát. Nếu không nhiễm, người ấy sẽ đạt được trí huệ. Nếu không có ǵ để độ, người ấy sẽ độ trọn hết chúng sanh.

 

          (Kinh) “Hiền Hộ! Ư ư vân hà? Bỉ như thị thuyết, đắc vi thật phủ?” Hiền Hộ đáp ngôn: “Bất dă, Thế Tôn!”

          ()賢護。於意云何。彼如是說。得爲實不。賢護答言。不也世尊。

          (Kinh: “Này Hiền Hộ! Ư ông nghĩ sao? Kẻ đó nói như thế có phải là thật hay không?” Hiền Hộ thưa: “Bạch Thế Tôn! Không ạ”).

 

          Chúng ta quan sát như vậy. Chẳng hạn như có người nói: “Ta đă v́ tự viện làm chuyện này, chuyện kia!” Có người xuất gia nói: “Ta đă v́ đạo tràng làm chuyện này, chuyện nọ”. Có người tu hành nói: “Ta v́ tu hành mà làm chuyện này, chuyện nọ”. Có người bế quan nói: “Ta đă từng làm chi đó”. Có người đă từng tu giới luật, nói: “Ta đă làm chuyện này, chuyện nọ”. Đắm nhiễm như thế, tuy danh tướng đắm nhiễm khác nhau, nhưng kết quả của chấp trước và đắm nhiễm, xét theo thực chất, trọn chẳng sai khác! Cũng có nghĩa là vốn chẳng có công đức, thế mà hư vọng chấp là công đức, chỉ sanh kiêu mạn. Nhất là trong việc truyền bá Phật pháp trong hiện tiền, kẻ rơi vào trường hợp này rất nhiều! Bởi lẽ, họ chẳng thủ hộ cái tâm thanh tịnh, chẳng an trụ trong lợi ích chân thật. Họ từ chấp trước pháp tắc của phàm phu thoát ra, bèn rơi vào cái được gọi là “chấp trước Phật pháp”, chẳng thể tự thoát được. Loại hữu t́nh ấy thường tự cho là đúng, thậm chí [cứ ngỡ] chính ḿnh hết sức lỗi lạc, khiến cho thế gian mê hoặc, rối loạn! Vốn chẳng có các pháp, mà cũng chẳng có chúng sanh; nếu chọn lựa chân thật như thế, người ấy sẽ trụ trong an vui. Đó là pháp tắc mà hết thảy người học Phật chúng ta phải nên nhận biết triệt để, rơ ràng, chọn lựa vô úy.

 

          (Kinh) Phật cáo Hiền Hộ: - Thị cố, bỉ chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dục thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, năi chí dục thành Duyên Giác Bồ Đề, Thanh Văn Bồ Đề giả, giai ưng như thị quán nhất thiết pháp.

          ()佛告賢護。是故彼諸善男子善女人。若欲成就無上菩提。乃至欲成緣覺菩提聲聞菩提者。皆應如是觀一切法。

          (Kinh: Đức Phật bảo Hiền Hộ: - Do vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, nếu muốn thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, cho đến muốn thành Duyên Giác Bồ Đề, hoặc Thanh Văn Bồ Đề, đều nên quán hết thảy các pháp như thế).

 

          Trong giáo ngôn tam thừa, hăy đều nên quan sát thanh tịnh như thế. V́ sự quan sát ấy chính là chánh kiến Trung Quán, xa ĺa hai thứ Biên Kiến. Hai loại Biên Kiến tức là: Hoặc là đúng, hoặc là sai, hoặc là phàm, hoặc là thánh, nhiễm hoặc chẳng nhiễm, chấp hoặc chẳng chấp. Vô lượng vô biên cách nói như thế đều rơi vào hai loại Biên Kiến, chẳng thể thoát ĺa biển sanh tử đối đăi. Đó là chỗ không có ngằn mé, khiến cho mọi người chẳng thể giải thoát. Trong Bồ Đề tâm của tam thừa, Vô Thượng Bồ Đề tâm được chư Phật thủ hộ, Duyên Giác Bồ Đề tâm do người khéo quan sát mười hai nhân duyên thủ hộ, Thanh Văn Bồ Đề do người nghe giáo pháp mà được độ thoát bèn khéo thủ hộ. Tâm trí phát khởi Bồ Đề của ba loại hữu t́nh như thế đều chẳng thể ĺa khỏi pháp giáo này, cho nên nói “ưng như thị quán” (hăy nên quán như thế). Trừ phi chúng ta chẳng phải là Phật tử th́ mới xa ĺa sự quan sát như thế!

          Chúng ta học tập giáo ngôn tam thừa, hăy nên quan sát như thế. Trong hành pháp Ban Châu th́ sao? Cũng lại nên như thế. V́ sao? Chúng ta là Phật giáo đồ, lúc muốn hành Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, nhất định là phải nên quan sát như thế, khéo quan sát hết thảy các pháp không có ǵ được sanh, vốn không có ǵ để diệt, mà cũng chẳng đến, đi!

          Nếu trong pháp tắc tam thừa mà chẳng quan sát như thế, sẽ vô duyên với Bồ Đề tâm. V́ sao? Trong sự tồn tại liên tục của hết thảy các pháp, mỗi pháp chẳng tự đơn độc dấy lên! Chúng ta thường nói đến chuyện thí giáo (施教, ban bố giáo pháp) của chư Phật Thế Tôn, như tỳ-kheo Mă Thắng nói với ngài Xá Lợi Phất bốn câu kệ: “Chư pháp nhân duyên sanh. Duyên tạ, pháp hoàn diệt. Ngô sư đại sa-môn, thường tác như thị quán” (Các pháp nhân duyên sanh, duyên hết, pháp cũng diệt. Thầy tôi đại sa-môn, thường quán như thế đó). Bốn câu kệ ấy là chỗ y chỉ của tam thừa Phật giáo. Nếu chẳng y chỉ pháp ấy, trao đổi bằng cách nào? Dùng ǵ để vận dụng? Dùng ǵ để phô bày lợi ích trong thế gian?

 

          (Kinh) Tác thị quán thời, tắc nhập Tịch Định, vô hữu phân biệt, phi vô phân biệt.

          ()作是觀時。則入寂定。無有分別。非無分別。

          (Kinh: Khi quán như thế bèn nhập Tịch Định, chẳng có phân biệt, chẳng vô phân biệt).

 

          “Tịch định” tức là Tịch Diệt Định, là môn Định do A La Hán đích thân chứng đắc. C̣n gọi là Diệt Tịch Định, chứng biết pháp vô sanh: Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệt, xuất nhập tức diệt (diệt hơi thở ra vào). Chứng đắc môn Định này, có thể đoạn hai loại phiền năo Kiến và Tư, thành quả A La Hán, v́ Thọ tâm diệt th́ Ái diệt. Do Ái diệt bèn đoạn Tư Hoặc. Do Tưởng tâm diệt, nên thủ tướng tâm (cái tâm chấp giữ tướng) diệt. Do thủ tướng tâm diệt, nên đoạn Kiến Hoặc. V́ thế, nhập Diệt Tịch Định sẽ có thể đoạn hai loại phiền năo Kiến và Tư, chứng quả A La Hán.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Bỉ nhất thiết pháp vô sở hữu, bất sanh, nhiên bỉ Định hữu phân biệt, tức thị nhất biên. Định vô phân biệt, phục vi nhất biên.

          ()何以故。賢護。彼一切法。無所有。不生。然彼定有分別。即是一邊。定無分別。復爲一邊。

          (Kinh: V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp vô sở hữu, chẳng sanh, nhưng do môn Định ấy có phân biệt, nên tức là một bên. Do Định chẳng phân biệt, nên lại là một bên khác).

 

          Định có phân biệt và vô phân biệt chỉ là danh tướng. Quan sát từ biển trí rốt ráo, hết thảy phân biệt chính là pháp tắc khéo phân biệt vốn vô phân biệt. Do vậy, Bồ Tát có thể khéo phân biệt rơ ràng trong pháp tắc vô phân biệt, lợi ích rộng khắp thế gian. Do lợi ích rộng khắp thế gian, cho nên hiện phân biệt. Do v́ thật sự chẳng phân biệt mà lợi ích rộng khắp chúng sanh, hiện đủ loại tướng phân biệt. Trong sự phân biệt như thế, trong cái bản chất thật sự vô phân biệt, chiếu rạng ngời thế gian, khiến cho chúng sanh [quen thói] phân biệt ai nấy đều xả trừ phân biệt, chấp trước, quy nhập tâm trí thanh tịnh. Chư Phật Như Lai trọn đủ hết thảy các thiện xảo, nói tám vạn bốn ngàn pháp. Vốn chẳng có một pháp nào để có thể lập, sao lại lập ra tám vạn bốn ngàn pháp? Đó gọi là từ trong “vốn không có ǵ để lập”, thuận theo cái tâm phân biệt của chúng sanh mà thiết lập, nói đủ loại pháp đối ứng, khiến cho chúng sanh đạt được giải thoát, thỏa măn tâm nguyện của hết thảy chúng sanh.

          Nếu chấp là đúng, hoặc chấp là sai, chấp vào phân biệt, hoặc vô phân biệt, sẽ chẳng thể giải thoát khỏi hai thứ Biên Kiến, tâm trí đối đăi, tâm trí mâu thuẫn, cứ lẩn quẩn trong ấy. Đó thật sự là nỗi khổ v́ phải chọn lựa của nhân loại. Hiện thời, người tu tập phần đông đối với chỗ thiện ác, đúng sai, cứ không ngớt lẩn quẩn trong hai loại Biên Kiến như thế, chẳng thể an trụ thanh tịnh, tâm trí dao động, hư vọng nẩy sanh đắm nhiễm!

 

          (Kinh) Nhiên thử nhị biên sở hữu, thị vô tịch định, phi vô tịch định, vô tư lượng xứ, vô phân biệt xứ, vô chứng tri xứ, vô kinh doanh xứ, vô tụ tập xứ, vô tư niệm xứ, vô phát khởi xứ. Hiền Hộ! Thị danh Trung Đạo.

          ()然此二邊所有。是無寂定。非無寂定。無思量處。無分別處。無證知處。無經營處。無聚集處。無思念處。無發起處。賢護。是名中道。

          (Kinh: Nhưng tất cả những điều được bao gồm trong nhị biên th́ là vô tịch định và chẳng phải vô tịch địch, chẳng có chỗ suy lường, chẳng có chỗ phân biệt, chẳng có chỗ chứng biết, chẳng có chỗ suy tính tạo tác, chẳng có chỗ tụ tập, chẳng có chỗ nghĩ nhớ, chẳng có chỗ phát khởi. Này Hiền Hộ! Đó gọi là Trung Đạo).

 

          Trong cơ chế giáo ngôn của đức Thế Tôn, có hai loại cơ chế lớn được lưu truyền rộng khắp trong Diêm Phù Đề: Một là cơ chế giáo ngôn của đức thánh Văn Thù, loại kia cơ chế giáo ngôn của đức thánh Di Lặc, tức là cơ chế Trung Quán và Duy Thức. “Cơ chế” (機制) có nghĩa là hệ thống các lời dạy. Bất luận trong Hán truyền Phật giáo, hay Tạng truyền Phật giáo, [tất cả các giáo nghĩa] đều được gồm thâu trong hai đại cơ chế ấy. Giáo ngôn của Nam truyền chẳng thuộc vào hai cơ chế ấy, v́ Thanh Văn Thừa có giáo pháp riêng, tức là “cửu bộ giáo pháp”[1] như thường nói.

 

          (Kinh) Sở hữu số, sự, xứ đẳng, đản y Thế Đế thuyết cố.

          ()所有數事處等。但依世諦說故。

          (Kinh: Tất cả các pháp như pháp số, sự việc, nơi chốn v.v… đều chỉ là dựa theo Thế Đế để nói).

 

          Tất cả pháp tắc đối đăi nhân quả, không ǵ chẳng thuộc về Tục Đế. Cho đến các thứ giáo ngôn, các thứ xếp đặt của chúng ta, đều do nương theo Thế Tục Đế để thiết lập. Nếu là Thắng Nghĩa Đế, sẽ chẳng có ngôn thuyết.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Ư bỉ chân thật Đệ Nhất Nghĩa trung, nhược trung, nhược biên, giai bất khả đắc!

          ()復次賢護。於彼真實第一義中。若中若邊。皆不可得。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Trong Đệ Nhất Nghĩa chân thật ấy, dù chính giữa, hay hai bên, cũng đều chẳng thể đạt được).

 

          Tất cả ngôn thuyết ở nơi đây đều tiêu tan, chẳng khởi công dụng, chẳng thể biểu đạt. Cho nên “ngôn quyền bất cập” (dẫu nói quyền biến cũng chẳng thể diễn tả thấu đạt được). Từ xưa đến nay, đối với điều này, đă có các cách diễn tả như “ngôn từ dứt bặt”, “ngàn Phật chẳng truyền”, “vô tri” v.v…

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất thiết chư pháp do như hư không, bổn lai tịch diệt.

          ()何以故。賢護。一切諸法。猶如虛空。本來寂滅。

          (Kinh: V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp ví như hư không, vốn sẵn tịch diệt).

 

          Lành thay! Ở đây, nếu chẳng lựa chọn, mọi người sẽ v́ bộp chộp, do hành xử theo pháp tắc hư vọng mà bị cuốn vào luân hồi. Trong giới tỳ-kheo, chúng ta đă học “tam tế, lục thô”. Trong Tam Tế, tức là trong khoảng sát-na chân tâm vừa động, tướng động đă kiến lập. Nếu trong khi đó, chẳng mê muội chân thật tế, người ấy sẽ được giải thoát. Nếu mê muội Chân Thật Tế, Năng và Sở (chủ thể và khách thể) được kiến lập, liền kiến lập đối đăi. Hễ có đối đăi, bèn kiến lập thế gian, Lục Thô trong thế gian sẽ tiếp nối, sẽ trở thành các thứ phiền năo, như là tự phiền năo, thánh phiền năo, ác nghiệp phiền năo, thiện nghiệp phiền năo v.v… Đủ loại phiền năo bức bách lẫn nhau, sanh từ sáu thô pháp. Nếu khéo biết một niệm vừa mới động trong hiện tại chính là quang minh nơi Bổn Tế, thường gọi là “cội nguồn của trí huệ”, chẳng tạo, chẳng tác, tự được giải thoát, trí huệ viên măn, sẽ ngay lập tức an trụ. Hữu t́nh phàm phu Năng và Sở đă kiến lập mà tâm c̣n chẳng biết, huống hồ [nhận biết] Lục Thô ư? Lúc bổn tâm vừa mới động, c̣n chẳng biết, huống hồ [nhận biết] Năng và Sở ư? Quang minh từ nơi Bổn Tế lập tức an trụ, chẳng nhờ vào sự nhận biết, cho nên phàm phu là hư vọng phân biệt, mà “phân biệt” chính là đă an lập Năng và Sở. Đó là pháp tắc cực thô, là Kiến Hoặc trong Kiến Tư Hoặc. Người hiện thời tu tập pháp rất thô. Nói là “thô”, tức là phần nhiều dựa theo cảm giác hư vọng của chính ḿnh, lầm lạc dùng sự phân biệt của chính ḿnh để làm chuẩn mực, chẳng biết giáo ngôn thanh tịnh của Phật pháp rốt ráo ở chỗ nào, chẳng biết căn bản của vốn sẵn tịch diệt. Trong Tam Pháp Ấn và Tứ Pháp Ấn, đức Thế Tôn đă nói Khổ, Vô Thường, Vô Ngă, Tịch Tĩnh Niết Bàn. Trong Thật Tướng Ấn, chỉ là “chẳng có tự tánh”, nhất thời lựa chọn, há có được hay mất ư? V́ thế, được hay mất th́ chỉ có chúng sanh được hay mất. Nói “được” là nói theo phía chúng sanh, chứ chư Phật Như Lai chỉ dùng trí giải thoát, trí viên măn, trí từ bi thương xót thế gian, soi sáng thế gian, sẽ chẳng có một vật nào để có thể đạt được!

 

          (Kinh) Phi đoạn, phi thường, vô hữu tích tụ, vô hữu trụ xứ, vô khả y chỉ, vô tướng, vô vi, vô hữu toán số.

          ()非斷非常。無有積聚。無有住處。無可依止。無相無爲。無有算數。
          (Kinh: Chẳng đoạn, chẳng thường, chẳng có tích tập, chẳng có chỗ trụ, chẳng thể y chỉ, vô tướng, vô vi, chẳng có toán số).

 

          “Vô khả y chỉ” (chẳng thể nương cậy): Hữu t́nh phiền năo nói chung là luôn có chấp trước. Lúc chẳng chấp trước, bèn hư vọng nẩy sanh [kiến chấp] đoạn diệt. Đoạn diệt và tịch diệt trọn chẳng liên quan với nhau. Đoạn diệt là tà kiến, tịch diệt là chân thật. Trong Chân Thật Tế, Thật Tế Lư địa, an trụ chư Phật, an trụ chúng sanh. Chúng sanh và chư Phật chỉ là danh tự sai khác. Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta học tập pháp tắc trong Phật pháp, phải khéo tùy văn nhập quán, ấn khế tự tâm, đừng dùng thức tâm, hoặc dùng cái tâm Năng Sở để tự hư vọng phân biệt. Hăy gột sạch chướng ngại Sở Tri Chướng của chính ḿnh để khỏi sanh khởi các phiền năo do Sở Tri Chướng đem lại.

          Chúng ta nói: Trong phiền năo, Sở Tri Chướng là chướng ngại lớn nhất, rất khó trừ khử, chứ trừ khử Phiền Năo Chướng chẳng khó v́ nó thô nặng! “Tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” mười phần thô nặng. Hễ nó vừa dấy lên, người ta có thể nhận biết ngay; nhưng Sở Tri Chướng rất vi tế, do đă được huân tập từ vô thỉ tới nay. Tuy là pháp vô sở đắc (pháp không có ǵ để đạt) huân tập từ vô thỉ tới nay, bản chất của nó chẳng có ǵ để đạt được, nhưng v́ huân tập lâu ngày, cho nên cấu chướng sâu dày. Cũng có nghĩa là tuy cấu chướng chẳng có tự tánh, nhưng do chấp trước cấu chướng mạnh mẽ, cho nên nó cũng có tướng sâu dày. V́ thế, có nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn, sức bổn tánh của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, nguyện lực của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, oai thần và thiện xảo của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, giáo ngôn của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, diệu tướng công đức rất sâu của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, thần biến của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn… Trong các loại chẳng thể nghĩ bàn, “nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn” chính là pháp chẳng thể nghĩ bàn mà chúng sanh vốn sẵn có. Đối với pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, nếu tùy thuận một pháp, sẽ liền được giải thoát. Chư Phật dùng bốn pháp để lợi ích thế gian, tức hoặc là [sử dụng] diệu tướng, hoặc mười hai bộ loại trong Tam Tạng, hoặc phương tiện thần thông thiện xảo. Lại c̣n có một pháp là dùng công đức nơi danh hiệu của chư Phật khiến cho hết thảy chúng sanh được nghe, chúng sanh được thấy nghe, chúng sanh tùy thuận, sẽ cùng được độ thoát, thành tựu. Các vị thiện tri thức ơi! Nếu chẳng như vậy, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp lực chẳng thể tự vượt thoát, nghiệp lực chẳng thể tự diệt. V́ sao vậy? Vọng này tăng trưởng vọng kia, vọng này nối tiếp vọng kia. Ở trong biển sanh tử, ở trong biển chấp trước mạnh mẽ, chúng sanh trong thế gian chỉ biết chấp trước, khởi tâm động niệm không ǵ chẳng phải là đối đăi, khởi tâm động niệm không ǵ chẳng phải là thiện ác, khởi tâm động niệm không ǵ chẳng phải là phân biệt, khó buông, khó bỏ! Chẳng nói đến thị phi, tâm trí [của chúng sanh] sẽ bất an. Chẳng nói đến đối đăi, tâm họ chẳng yên ổn được!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bỉ bất khả số, vân hà vi hữu? Bất khả số cố, bất nhập ư số. Bất nhập số cố, năi chí vô hữu trí toán danh ngôn dă.

          ()賢護。彼不可數。云何爲有。不可數故。不入於數。不入數故。乃至無有智算名言也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Do nó chẳng thể tính đếm, làm sao có được? Do chẳng thể tính đếm, nên chẳng thuộc vào con số. Do chẳng thuộc vào con số, thậm chí chẳng cái trí để tính toán, chẳng có danh tướng, ngôn từ [để tính đếm, diễn tả được]).

 

          Trí huệ theo kiểu La Tập Học (Logic, Lư Luận Học) trong thế gian là trí huệ có thể nghĩ bàn, nào có biết chư Phật Như Lai nương vào phương tiện đại thiện xảo để nhập trí chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho hết thảy chúng sanh vào trong trí thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn. Do trong hết thảy các pháp tắc như núi, sông, đại địa… sẽ tự nhiên có pháp tắc hoàn toàn tự nhiên, chẳng phải là tự nhiên mà có pháp tắc phi tự nhiên. Trí bèn có pháp tắc của Trí, Bi bèn có pháp tắc của Bi, lợi ích rộng khắp bèn có pháp tắc thiện xảo của sự lợi ích rộng khắp. Chúng sanh ngu si tự có pháp tắc ngu si. Trong các pháp tắc ấy, mỗi mỗi đều dùng sự nhận biết và chấp giữ để quyết định. Địa ngục, ác quỷ, súc sanh, cũng có pháp tắc để lựa chọn. V́ sao? Thuộc vào Tà Định Tụ, mỗi đường đều tự an lập. Chúng ta thường nói “địa ngục vô môn” (địa ngục chẳng có cửa), v́ sao lại thiết trí địa ngục? Ai thiết trí địa ngục? Do kẻ tạo nên ác nghiệp địa ngục tự thiết trí! Một pháp giới hiển, chín pháp giới kia ẩn mất. Hữu t́nh trong các pháp giới khác trọn chẳng thể thấy địa ngục. Như trong hiện duyên của chúng ta, quư vị dùng ǵ để thấy địa ngục? Chúng sanh thuộc nhân loại sẽ chỉ quẩn quanh trong cái tâm trí đối đăi của nhân loại; đó là sự lựa chọn của chúng ta. Muỗi ṃng có sự lựa chọn của chính nó, “sáng sanh, tối chết” chính là sự lựa chọn của chúng nó. Chư thiên chọn lựa tâm trí đắm đuối trong ngũ dục, Thiền Định, cho đến Sắc, Vô Sắc, Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng. Họ có thọ mạng đến tám vạn đại kiếp, quư vị dùng ǵ để an lập? V́ thế, mỗi pháp giới có sự chọn lựa riêng để tiếp nối tướng trạng sanh mạng, không ǵ chẳng phải là tướng lựa chọn. Chư Phật Như Lai dù một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, nhiều kiếp trụ thế, hoặc trụ thế một ngày, như Nguyệt Diện Phật lúc thành Phật là lúc nhập diệt, vẫn hóa độ chúng sanh, vẫn viên măn rốt ráo. Mỗi mỗi đều có sự lựa chọn, cho nên nói: “Chư pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, trọn chẳng liên quan, trọn chẳng đắm nhiễm, trọn chẳng dao động. Do chúng chẳng liên quan với nhau, cho nên mỗi pháp giới hiển hiện hay diệt mất, mỗi pháp giới tự duy tŕ, thọ dụng. Cũng có nghĩa là hết thảy các danh tướng và ngôn từ bất quá là do chính ḿnh chọn lựa như thế mà thôi, đều chẳng có thực chất.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát như thị quán sát chư Như Lai thời, bất khả chấp trước.

          ()賢護。彼菩薩摩訶薩。如是觀察諸如來時。不可執著。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Khi vị Bồ Tát Ma Ha Tát quán sát các Như Lai như thế, chớ nên chấp trước).

 

          Tuy là pháp giáo rộng lớn rất sâu của chư Phật, cũng đừng nên chấp trước. Tám vạn bốn ngàn pháp, chẳng thể chấp một pháp nào! Có nhiều hữu t́nh cầu pháp trong thế gian này, kẻ cầu pháp cao, kẻ cầu pháp thấp, chẳng biết tâm trí sạch làu, chẳng biết bản chất của tâm trí là như thế, chẳng biết pháp vốn là như thế, cứ muốn cầu bên ngoài, cầu đạt được từ bên trong, muốn tu được, muốn tu chẳng được. Do vậy, hư vọng nẩy sanh tri kiến, oan uổng hứng chịu khổ sở, nhọc nhằn, nào có biết các pháp vốn sẵn như thế, quang minh nơi tự tánh chiếu rọi trọn khắp. Nếu vận dụng, sẽ ngay lập tức đạt được thiện xảo. Nếu không, sẽ là tự tiện phát tâm. V́ thế, hăy nên huân tập Bồ Đề tâm, dần dần thành tựu tâm hạnh Bồ Đề, cho đến rốt ráo viên măn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Nhất thiết pháp vô chấp trước cố, dĩ vô xứ sở nhi khả chấp trước, diệc vô căn bản thị khả đoạn tuyệt.

          ()何以故。一切法無執著故。以無處所而可執著。亦無根本是可斷絕。

          (Kinh: V́ sao vậy? Do hết thảy các pháp chẳng chấp trước, do chẳng có nơi chốn để có thể chấp trước, mà cũng chẳng có căn bản để có thể đoạn tuyệt).

 

          Thật sự chẳng thể đoạn, mà cũng chẳng thể sanh khởi. Có nhiều chúng sanh ngỡ là có phiền năo để có thể đoạn, cho là có pháp thù thắng để có thể tu, cho nên hư vọng sanh kiến giải “có tu tập”, hư vọng sanh kiến giải “có đoạn trừ”. V́ thế, đối với loại chúng sanh ấy, đức Phật bèn nói “có pháp để có thể tu, có phiền năo để có thể đoạn, như Kiến Tư Hoặc, Trần Sa Hoặc, và Vô Minh Hoặc. An lập các danh tướng ấy tức là an lập nội dung thực chất cho chúng sanh. Chư Phật Như Lai biết rơ pháp chẳng có tự tánh, vốn rỗng rang, tĩnh lặng. V́ thế, chư Phật Như Lai do thấy chúng sanh chấp trước danh tự, bèn an lập [các danh tướng] cho chúng sanh. Sau khi đă an lập, chúng sanh bèn cho là [các danh tướng ấy] có thực chất, cho nên tự bèn lấp đầy nội dung của các danh tự ấy. Chẳng hạn như một khi danh từ “phiền năo” sanh khởi, chư Phật Như Lai thấy rơ trọn chẳng có phiền năo để đạt được, nhưng hết thảy phàm phu hữu t́nh đều ngỡ là có phiền năo. V́ sao? Sanh, lăo, bệnh, tử, cầu chẳng được, yêu thương mà phải chia ĺa, oán ghét mà cứ phải gặp gỡ, năm Ấm lẫy lừng, ba khổ, tám khổ, đủ loại khổ nạn cùng lúc sanh khởi, họ tự điền kín nội dung. Ai điền thêm nội dung vào đó? Phàm phu hữu t́nh tự ḿnh điền vào! Nếu quư vị thấu hiểu phiền năo chẳng có tự tánh, phiền năo chẳng có ǵ để đạt được, sẽ liền giải thoát, không có ǵ để có thể đoạn, không có ǵ để có thể chứng.

 

          (Kinh) Trừ diệt căn bản, cố vô y xứ. Hiền Hộ! Bỉ Bồ Tát Ma Ha Tát đương tác như thị tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội. Nhược như thị kiến chư Như Lai dĩ, bất ưng thủ trước, bất đương chấp tŕ.

          ()除滅根本。故無依處。賢護。彼菩薩摩訶薩。當作如是思惟諸佛現前三昧。若如是見諸如來已。不應取著。不當執持。

          (Kinh: Do đă trừ diệt căn bản, cho nên chẳng có chỗ để nương tựa. Này Hiền Hộ! Bồ Tát Ma Ha Tát hăy nên tư duy Chư Phật Hiện Tiền tam-muội như thế. Nếu đă thấy các đức Như Lai như thế rồi, đừng nên chấp giữ, chớ nên chấp tŕ).

 

          Tôi đă gặp các trường hợp thực tế như vậy không dưới dăm ba lần! Trường hợp như thế nào vậy? Tức là có người hoặc tu Quán Phật tam-muội, hoặc Niệm Phật tam-muội, hoặc tŕ chân ngôn, hoặc hơi tu tập pháp tu tŕ quán Bổn Tôn tam-muội, đạt được đôi chút tương ứng, bèn có các hữu t́nh vốn mẫn cảm đối với Thiền Định, thậm chí là các hữu t́nh yếu kém trông thấy tướng quang minh, tướng trí huệ, cho đến các tướng thiện xảo v.v… tức là các thứ diệu tướng và oai đức của người tu tập pháp ấy, sẽ ngay lập tức đến đảnh lễ cung kính, cảm kích, thưa bày: “Ôi chao! Thiện tri thức ơi! Ngài tỏa ra quang minh thanh tịnh chiếu rọi thế gian”. Hạng người tu hành ấy nếu [nghe xong các lời tán thán ấy mà] chấp trước, sẽ rơi vào ma kiến. C̣n nếu là người biết thiện xảo tu pháp, sẽ có thể lợi ích thế gian rộng khắp!

          Kẻ bị bại diệt ở chỗ này rất đông! Nếu có các vị thiện tri thức đă từng có kinh nghiệm ấy, ngỡ chính ḿnh đă chứng pháp như thế, ngỡ chính ḿnh thật sự chứng đắc như thế, quư vị nhất định phải biết rơ đấy là nhân duyên tụ tập, tức là trong sát-na quư vị tŕ chú hoặc quán diệu tướng của Phật, do được tương ứng mà sanh ra các quang minh. Thật ra, các quang minh ấy chẳng có thực chất! Chớ nên đắm nhiễm, chớ nên ngỡ là có thật, kẻo đọa thành quyến thuộc của ma, đọa vào hầm hố tà kiến, sẽ ở trong pháp chẳng có ǵ để đắc mà lầm lạc tự cho là có pháp để đạt được, hư vọng dối gạt kẻ khác, sanh khởi nỗi khổ v́ vọng ngữ từ vô lượng kiếp đến nay, đọa vào địa ngục Bạt Thiệt (拔舌, kéo lưỡi). Hạng người xuất gia hoặc tại gia ấy rất khổ, hư vọng tiếp nhận tín tâm của kẻ khác, hư vọng tiếp nhận người khác cúng dường, tự cho là chính ḿnh có sở đắc, kiêu mạn, tà kiến, tự cao tự đại, tự phụ. V́ thế, chư Phật Như Lai thọ kư hạng hữu t́nh ấy là kẻ tăng thượng mạn, dẫu niệm Phật mà đă đánh mất cam lộ vị, đọa làm quyến thuộc của ma, ví như con voi cuồng vào trong ao sen, đạp nát nghiệp duyên của hết thảy chúng sanh!

          Đối với chỗ này, đức Thế Tôn đă nhiều lượt tuyên nói, khiến cho chúng ta xa ĺa nỗi hại thuộc về ma chướng này. Nếu chẳng khéo tư duy, y giáo tu tŕ, sẽ bị nhiều hoạn nạn. Rất nhiều kẻ tu pháp đọa lạc ngay tại chỗ này, v́ sau khi đă tương ứng, thân tâm khinh an, được kẻ khác kính ngưỡng, nhất là những kẻ kính ngưỡng ấy lại c̣n chẳng phải là hạng b́nh phàm. [Kẻ kính ngưỡng] phần nhiều là người có Thiền Định, hoặc có sự cảm nhận tinh tế, nếu người [được kính ngưỡng] ấy chẳng cảnh giác, phần nhiều sẽ ở trong pháp không có ǵ để đắc mà cho là có sở đắc. V́ sao? V́ người ấy cảm thấy khinh an, vui sướng, kẻ khác lại nói người ấy đắc Thiền Định, có diệu tướng. Do vậy, người ấy bị Ấm Ma thâu nhiếp. Chư vị thiện tri thức ơi! Phải thận trọng tư duy, quan sát chỗ này, chớ nên đắm nhiễm, chớ nên chấp giữ, chớ nên tự chấp chặt!

          Người niệm Phật rất dễ trụ vào chỗ này, v́ trong khi tập thể niệm Phật hoặc đả thất, rất dễ xuất hiện chuyện thấy Phật, thấy diệu tướng trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, thấy quốc độ ở phương khác, cho đến các thứ cảnh giới hy hữu khó có trong thiên giới. Hữu t́nh do nhiều đời đắm nhiễm, sẽ khinh suất kể với kẻ khác, ḥng biểu lộ chính ḿnh có công đức thù thắng, khiến cho kẻ khác sanh ḷng tôn trọng và yêu mến. Khi đó, nếu có thiện tri thức có thể cảnh tỉnh quư vị [th́ quư vị chẳng bị đọa lạc]. Nếu là ác duyên tiếp nối, sẽ tâng bốc lẫn nhau, ắt sẽ trầm luân, đọa lạc ngay trong ấy!

          Trong tăng chúng lẫn hàng cư sĩ đều có người tu tập siêng năng tu tập như thế mà bị đọa lạc. V́ sao? Chẳng biết xoay chuyển ở chỗ này. Kẻ chẳng chăm chỉ, do chẳng có cơ duyên tương ứng, cũng sẽ chẳng có ai quan sát quư vị. Quư vị cũng chẳng thể tỏa quang minh. Hóa ra, kẻ đó v́ giải đăi mà chẳng bị hại to lớn! Phần nhiều là người tu tập chuyên cần dễ bị đọa lạc ở chỗ này, [lư do] là v́ chẳng hiểu giáo lư, chánh kiến chẳng lập, Bồ Đề tâm chẳng biết, sẽ v́ nhân duyên như thế mà tu tập đến nỗi bị tổn hại. Đúng là đáng tiếc! Tôi đă gặp một cư sĩ, đấy là chuyện đặc biệt tàn khốc! Người ấy v́ chính ḿnh trong khi niệm Phật sau khi đă hơi có cảm giác thanh tịnh và tương ứng, lần đầu kể với kẻ khác, kẻ khác lộ vẻ kinh ngạc. Người ấy liền kể nhiều lần, đă kể ra rồi th́ chẳng đạt được cảnh ấy nữa. V́ thế, lừa gạt người khác. Kết quả, vướng lấy quả báo rất xấu ác. Đối với hạng người học Phật kiểu ấy, kẻ khác cảm thấy mười phần thương cảm! V́ sao tu tập Phật pháp mà lại bị mắc hại như vậy? Xét ra, vẫn là v́ chẳng có chánh kiến, chẳng nương theo lời dạy, chẳng nương theo giáo ngôn hoàn chỉnh để hành pháp. Hành pháp Ban Châu như thế, tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội có một cơ chế tu hành theo thứ tự hoàn chỉnh như thế. Do vậy, trong quá tŕnh tu tập, sẽ thường gặp chuyện như thế. V́ lẽ này, ở đây, tôi phải khá nhiều lượt nhắc nhở mọi người hăy nên chú ư.

          Nói theo Tạng truyền Phật giáo, nếu ai đă thành tựu Bổn Tôn (tức là đă quán tưởng thành tựu vị tôn thánh, Phật, Bồ Tát chánh yếu của pháp môn ḿnh đang tu tập), hễ cưỡng chấp thủ hộ, sẽ đọa vào hạng hộ pháp, tức là long thiên bát bộ, chẳng thể coi là rốt ráo thành tựu an ổn. Trong Hán truyền Phật giáo, điều này được gọi là “thừa cấp, giới hoăn” (乘急戒緩), v́ kẻ đó chẳng có giới. “Giới” như vừa nói đó chính là phá trừ hết thảy chấp trước, vô lậu, vô nhiễm, đó là Giới. Nói là “thừa cấp” v́ rất khinh an, đạt được nhiều thiện xảo, bi trí thiện xảo cũng sanh khởi. Có khi thậm chí các thứ oai đức thần thông thiện xảo cũng dễ sanh khởi, nhưng chẳng có giới đức, tức là dùng tâm trí vô lậu để thủ hộ. Do chẳng có căn bản này thủ hộ, sẽ đọa nhập tri kiến ngoại đạo. Chúng ta thường gặp người nói ra cảnh giới như vậy; đối với những người ấy, nhất định chớ nên cổ vũ, khích lệ, càng chớ nên tán thán, càng chớ nên tùy thuận lời nói của kẻ ấy. Nếu làm như vậy (tức cổ vũ, tán thán tùy thuận kẻ phô trương cảnh giới), chắc chắn quư vị sẽ bị đọa lạc. Quư vị đọa lạc, kẻ đó đọa lạc, đôi bên cùng đọa lạc là v́ lẽ nào? Do trong pháp không có ǵ để đạt được, lại cho rằng thật sự có cái để đạt được. Có nhiều cách để đoán trước t́nh h́nh này, tức là dùng sức thần thông để quan sát loại hữu t́nh ấy đọa nhập trong ác duyên ấy. V́ thế, có các pháp tu chiêm sát, như Địa Tạng Chiêm Sát, Văn Thù Chiêm Sát, Quán Âm Chiêm Sát, Viên Giác Chiêm Sát, đủ loại pháp tắc chiêm sát, ḥng tránh cho chúng ta bị chướng ngại và tổn hại bởi những thứ gọi là “pháp tắc thuộc về sức cảm nhận” hay “sức cảnh giới” để rồi hư vọng tự suy lường. V́ thế, cần phải tu một nghi quỹ, dùng nghi quỹ ấy để hướng dẫn ḷng mong mỏi hiểu biết của chúng ta. Do sự mong mỏi hiểu biết ấy mà hướng dẫn chúng ta tu tŕ một pháp tắc, tu tŕ một nghi quỹ. Trong thế gian hiện thời, kẻ đọa lạc ở chỗ này rất đông, kẻ bị tổn hại cũng đúng là rất phổ biến. Đây là một vấn đề to lớn!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Hiền Hộ! Nhất thiết chư pháp, bất khả chấp tŕ, do như hư không, thể tánh tịch diệt. Hiền Hộ! Thí như kim trùy, an trí hỏa trung, thiện tác lô cảo dung tiêu luyện dă, xí nhiên độc nhiệt. Hựu như thiết hoàn, tân tùng hỏa xuất, viêm hách xí nhiên. Hữu trí chi nhân, bất ưng chấp xúc. Hà dĩ cố? Thiết lưu, kim xí, xúc tắc xí nhiên cố.

          ()何以故。賢護。一切諸法。不可執持。猶如虛空。體性寂滅。賢護。譬如金錘。安置火中。善作爐藁融消鍊冶。熾然毒熱。又如鐵丸。新從火出。炎赫熾然。有智之人。不應執觸。何以故。鐵流金熾。觸則熾然故。

          (Kinh: V́ sao vậy? Này Hiền Hộ! Hết thảy các pháp chẳng thể chấp tŕ, ví như hư không, thể tánh tịch diệt. Này Hiền Hộ! Ví như trùy vàng đặt vào trong lửa, khéo thổi ống bễ để nung cho tan chảy, nóng rực tột bậc. Lại như viên sắt nóng mới lấy từ lửa ra, nóng bỏng hừng hực, người có trí chớ nên nắm, chạm. V́ sao vậy? Sắt chảy, vàng nóng, hễ chạm vào sẽ bị thiêu đốt).

 

          Sắt nung đỏ chẳng thể dùng tay cầm. Trên thực tế, trong nghiệp “tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng” tạo tác của chúng ta trên thế gian, cho đến nghiệp thuộc về Ngũ Cái, tức “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê”, trong Sở Tri phiền năo, lúc các thứ nghiệp chướng phiền năo hiện tiền, nếu chúng ta chẳng thấu hiểu tự tánh của chúng là “chẳng thể được”, lại c̣n noi theo các pháp ấy. Như thế th́ sẽ giống như dùng tay chạm vào sắt nóng đỏ, quư vị sẽ bị đốt phỏng. Trong Đại Trí Độ Luận, Long Thọ Bồ Tát đă nêu một thí dụ: Trí Đại Bát Nhă giống như một đồng tiền bằng bạc nung đỏ, tuy có giá trị, nhưng chẳng thể đưa tay nắm lấy. Cũng tức là nói quư vị chẳng thể chiếm hữu. Hễ chiếm hữu (chấp trước), sẽ bị tổn thương. Phàm phu hữu t́nh nếu cho rằng “có sở đắc”, cho rằng “có cái để hay biết”, cho rằng có công năng, hư vọng tự gánh vác nghiệp duyên thế tục, cho nên cùng nhau bị hại. Trong pháp tắc này, chúng ta có thể khéo quan sát, quan sát trọn khắp, [sẽ thấy] kẻ tự thổi phồng, rêu rao, kẻ tự đại, cho là chính ḿnh có công phu, phần nhiều sẽ bị công phu làm hại, phần nhiều sẽ bị nghiệp duyên làm hại, khó tránh khỏi kiếp nạn!

 

          (Kinh) Như thị Hiền Hộ! Bồ Tát quán Phật, bất ưng thủ trước, kỳ sự nhược thử. Thị cố, Bồ Tát quán Phật sắc thời, bất ưng sanh trước. Như thị quán Thọ, năi chí Hành, Thức, bất ưng sanh trước. Hựu bỉ Bồ Tát, nhược quán Giới thời, diệc bất ưng trước. Như thị quán Định, năi chí Trí Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, diệc bất ưng trước.

          ()如是賢護。菩薩觀佛。不應取著。其事若此。是故菩薩觀佛色時。不應生著。如是觀受。乃至行識。不應生著。又彼菩薩。若觀戒時。亦不應著。如是觀定。乃至智慧解脫解脫知見。亦不應著。

          (Kinh: Như thế đó, Hiền Hộ! Bồ Tát quán Phật chớ nên chấp trước, cũng giống như thế đó. V́ vậy, khi Bồ Tát quán Sắc của Phật, chớ nên sanh chấp trước. Quán Thọ cho đến Hành, Thức cũng như thế, chớ nên sanh chấp trước. Lại nữa, vị Bồ Tát ấy khi quán Giới, cũng đừng nên chấp trước. Quán Định như thế, cho đến [quán] Trí Huệ, Giải Thoát, và Giải Thoát Tri Kiến, cũng đừng nên chấp trước).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn đă nói với chúng ta mười phần rơ ràng, cho đến Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, tức Ngũ Phần Pháp Thân, chỗ nào cũng đừng nên chấp trước. Nếu chấp trước, ắt sẽ bị tổn hại. Trong tỷ dụ trùy vàng thuộc phần trước, cho đến tỷ dụ ḥn sắt cũng giống như thế, khiến cho chúng ta chẳng sanh tâm chấp trước, khéo vận dụng pháp tắc không chấp trước để lợi ích thế gian rộng khắp. Nếu chẳng có lời dạy này của chư Phật Như Lai, chúng ta sẽ do đâu mà nhận biết tự tâm, nhận biết pháp tắc? Làm thế nào để tu tập tự tâm, tu tập pháp tắc? V́ thế, ân đức của đức Thế Tôn là ở chỗ này! Chúng ta nghe xong, khéo thủ hộ, khéo thực hiện, chớ nên ngờ pháp, càng chẳng nên báng pháp. Nếu có ngờ vực, hăy nên khéo sám hối, hăy nên khéo nhận biết, hăy nên khéo trừ bỏ!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Phù thủ trước giả, chung bất năng ly sanh tử khổ pháp. Dĩ thị khổ pháp giai do thủ trước cố.

          ()何以故。夫取著者。終不能離生死苦法。以是苦法皆由取著故。

          (Kinh: V́ sao vậy? Phàm là kẻ chấp trước, sẽ trọn chẳng thể ĺa pháp đau khổ sanh tử, bởi các pháp đau khổ ấy đều là do chấp trước).

 

          Những lời này đă đích xác ban cho chúng ta một lời quyết định: Hết thảy đừng nên chấp trước!

 

          (Kinh) Thị cố, Bồ Tát quán sát như thị chư Như Lai thời, bất ưng sanh ư thủ trước chi tưởng. Hiền Hộ! Tuy vô thủ trước, nhiên ưng cần cầu chư Phật Thế Tôn thắng diệu công đức, sở vị Phật trí, Như Lai trí, quảng đại trí, tự nhiên trí, tự tại trí, bất tư nghị trí, nan xưng lượng trí, vô đẳng đẳng trí, Nhất Thiết Trí trí. Nhược dục cầu nhập như thị trí giả, thường đương tinh cần tư duy, quán sát Kiến Phật tam-muội dă.

          ()是故菩薩。觀察如是諸如來時。不應生於取著之想。賢護。雖無取著。然應勤求諸佛世尊勝妙功德。所謂佛智。如來智。廣大智。自然智。自在智。不思議智。難稱量智。無等等智。一切智智。若欲求入如是智者。常當精勤思惟觀察見佛三昧也。

          (Kinh: V́ thế, khi Bồ Tát quan sát các đức Như Lai như thế, chớ nên sanh ư tưởng chấp trước. Này Hiền Hộ! Tuy chẳng chấp trước, nhưng hăy nên siêng cầu công đức thù thắng, mầu nhiệm của chư Phật Thế Tôn, như là Phật trí, Như Lai trí, trí rộng lớn, trí tự nhiên, trí tự tại, trí chẳng thể nghĩ bàn, trí khó tính kể, trí không ǵ sánh bằng, trí Nhất Thiết Trí. Nếu muốn cầu nhập các trí như thế, hăy nên thường siêng ṛng tư duy, quan sát Kiến Phật tam-muội).

 

          Chư Phật Như Lai đối với Nhất Thiết Chủng Trí, cho tới hết thảy Đạo Chủng Trí, dẫn khởi vô cùng danh tự. V́ hết thảy chúng sanh vô cùng, trí của chư Phật cũng vô cùng. Do danh tướng của chúng sanh vô cùng, tên gọi các trí của Như Lai cũng vô cùng. V́ sao vậy? Do hết thảy chúng sanh rốt cuộc sẽ viên măn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, cho nên có trí rộng lớn, trí tự nhiên, trí tự tại v.v… Trong hết thảy danh xưng của các trí, chư Phật Như Lai đều biết là chẳng thể được, tức là tuy hành mà chẳng thể chứng. Đối với pháp tắc chẳng thể chứng, chẳng thể đắc như thế, hết thảy chúng sanh đều nên tuân theo, đều nên tu tập, đều nên ưa mến, nhưng chớ nên đắm nhiễm! V́ sao chúng ta tu tập mà chớ nên đắm nhiễm? Vận dụng mà chẳng chấp trước, đó là cơ chế mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn trong Phật pháp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn vị trùng minh thử nghĩa, dĩ kệ tụng viết.

          ()爾時世尊。爲重明此義。以偈頌曰。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn v́ muốn nêu rơ lại nghĩa này, bèn dùng kệ tụng để nói).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn theo thông lệ, dùng văn tự để trùng tuyên nghĩa này, khiến cho chúng ta qua phần văn tự ngắn gọn này, sẽ quan sát có hệ thống một lượt nữa, ḥng ôn cố, tri tân (温故知新, ôn cái cũ để biết cái mới). Cái được gọi là Biết, thật ra là điều vốn sẵn biết, là Thỉ Giác hiện tiền trong Bổn Giác, là Cứu Cánh Giác an lập, là pháp vốn sẵn như vậy nơi pháp tắc. Nay chúng ta vận dụng, Thỉ Giác sanh khởi, chẳng rời khỏi quang minh của Cứu Cánh Giác.

 

          (Kinh) Thí như minh kính dữ du khí, nữ nhân trang sức diệu kỳ h́nh, ngu phu ư thị sanh nhiễm tâm. Xứ xứ tŕ sính vị cầu dục. Bỉ ư vô trung điên đảo tưởng, bất tri thị pháp hư vọng sanh, bỉ dục xí hỏa chi sở thiêu, tư phụ khởi dục hoàn tự phát. Nhược hữu Bồ Tát tác thị niệm, thị danh “vô trí trước ngă tâm”.

          ()譬如明鏡與油器。女人莊飾曜其形。愚夫於是生染心。處處馳騁爲求欲。彼於無中顛倒想。不知是法虛妄生。彼欲熾火之所燒。斯婦起欲還自發。若有菩薩作是念。是名無智著我心

          (Kinh: Như dùng gương sáng, đồ đựng dầu, nữ nhân trang điểm soi bóng ḿnh, kẻ ngu do vậy tâm đắm nhiễm, chốn chốn theo đuổi cầu thỏa dục. Ái tưởng điên đảo nơi cái Không, chẳng biết pháp ấy hư vọng sanh. Hắn bị lửa dục mạnh thiêu đốt, chẳng do cô kia khởi dục niệm, vẫn do tự hắn khởi tham dục[2]. Nếu có Bồ Tát nghĩ thế này: Đó là vô trí, chấp tâm ḿnh).

 

          Đây là dùng người trong thế gian, hoặc có thể nói là dùng chuyện dục nhiễm của hữu t́nh trong Dục Giới để làm tỷ dụ.

 

          (Kinh) Bồ Đề cam lộ tại đương lai, ngă bạt chúng sanh xuất trọng khổ. Đệ Nhất Nghĩa trung vô chúng sanh, thế gian độc hữu sanh, lăo, tử.

          ()菩提甘露在當來。我拔衆生出重苦。第一義中無衆生。世間獨有生老死。

          (Kinh: Bồ Đề cam lộ trong tương lai, ta cứu chúng sanh thoát khổ nặng. Trong Đệ Nhất Nghĩa, không chúng sanh. Chỉ riêng thế gian sanh, lăo, tử).

 

          “Đệ Nhất Nghĩa trung vô chúng sanh” (trong Đệ Nhất Nghĩa Đế chẳng có chúng sanh): Đây là nương vào Đệ Nhất Nghĩa Đế để lựa chọn. Nếu chẳng chọn lựa như thế, chúng sanh sẽ khó thể tự độ. Như vào đời Đường, Tông Mật đại sư, tức vị tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm, đă tuyên thuyết: Tâm trí Bồ Đề có ba loại tướng là đại trí, đại bi, và đại nguyện. Nói theo đại trí th́ trên là chẳng có chư Phật có thể chứng, giữa là chẳng có các pháp để có thể tu, dưới là chẳng có chúng sanh để có thể độ. Nương theo các nhân duyên ấy, sẽ biết rơ sức mạnh của đại trí. Đó là các lời lẽ mô tả tướng mạo [của trí huệ], chứ nội dung th́ chỉ người có trí mới biết! “Thế gian độc hữu sanh, lăo, tử” (chỉ riêng thế gian có sanh, già, chết): Thế gian là nương theo Tục Đế mà an lập, nương theo sự công nhận của tri kiến Tục Đế [để nói].

 

          (Kinh) Chư pháp vô h́nh như thủy nguyệt, khởi hữu Bồ Đề nhi khả cầu.

          ()諸法無形如水月。豈有菩提而可求。

          (Kinh: Các pháp vô h́nh: Trăng trong nước. Há có Bồ Đề có thể cầu?)

 

          Đây là dựa trên Thắng Nghĩa Đế để quan sát hết thảy các pháp, cho đến Bồ Đề. Sanh, lăo, bệnh, tử là danh tự, chẳng có tự tánh. Bồ Đề cũng là danh tự, chẳng có tự tánh. Chúng sanh là danh tự, chư Phật Như Lai cũng là danh tự. V́ thế, trong Thắng Nghĩa Đế, trọn chẳng có mảy trần!

 

          (Kinh) Chúng sắc h́nh mạo nhược kính tượng, như huyễn, như diễm, như hư không.

          ()衆色形貌若鏡像。如幻如焰如虛空。

          (Kinh: H́nh mạo các sắc: Bóng trong gương, như huyễn, nắng gợn[3], như hư không).

 

          Chúng ta quan sát các thứ pháp giới, các loại thế gian, các loại hữu t́nh, các thứ tộc loại, các loại tư tưởng, các loại nghiệp tạo tác, thai sanh, thấp sanh, noăn sanh, hóa sanh các loài, chẳng thể nói trọn, đủ mọi loại tụ tập. Tướng trạng của các loài như thế đều giống như h́nh bóng trong gương, như huyễn, như ánh nắng gợn, như hư không. Đức Thế Tôn đối với hết thảy các pháp hữu vi, lập ra các thứ tỷ dụ, như giọt sương, như tia chớp, như mộng, như huyễn v.v… khiến cho chúng ta quán như thế. Đó là con mắt trí huệ, là chánh kiến Bát Nhă. Nếu chúng ta chẳng có con mắt trí huệ, đối với hết thảy các hành pháp, sẽ như người mù xử sự, như trong giáo điển, đức Thế Tôn đă tỷ dụ người mù sờ voi. Hết thảy các hữu t́nh chẳng có trí huệ nhận biết thế gian, nhận biết Phật pháp, nhận biết hết thảy các pháp tắc, không ai chẳng phải là kẻ mù sờ voi! Ai nấy đều chấp một bên, chẳng thể thấy toàn thể.

 

          (Kinh) Phàm phu trước tưởng nhi thọ ky, bỉ bối tuy phược, không, vô thật.                ()凡夫著想而受羈彼輩雖縛空無實

    (Kinh: Phàm phu chấp tưởng, bị trói buộc. Họ tuy bị trói, không, chẳng thật).

 

          Đă bị trói buộc, nhưng thật ra chẳng có ǵ để có thể trói buộc. V́ thế, nếu bị trói buộc th́ đúng là kẻ đáng thương xót. Người trí thấy phàm phu hữu t́nh bị oan uổng trói buộc, sanh ḷng thương xót. V́ sao sanh khởi bi tâm? Do dùng trí tâm để quan sát, cho nên sanh bi tâm. Nếu chẳng có con mắt trí huệ, lấy ǵ để sanh ḷng bi? Đó chẳng gọi là bi, chỉ có thể là cảm thông, có t́nh người, thuộc về t́nh cảm thế gian.

 

          (Kinh) Nhược tư trí giả chư Bồ Tát, tri thế điên đảo cố kiến chân. Liễu đạt vô nhân thùy thọ khổ? Bỉ tắc đương thành Vô Thượng Giác.

          ()若斯智者諸菩薩知世顛倒故見真了達無人誰受苦彼則當成無上覺

          (Kinh: Nếu các Bồ Tát có trí ấy, biết đời điên đảo, thấy lẽ thật. Liễu đạt
“không người”, ai chịu khổ? Vị ấy sẽ thành Vô Thượng Giác).

 

          “Liễu đạt vô nhân, thùy thọ khổ? Bỉ tắc đương thành Vô Thượng Giác” (liễu đạt “không có người” th́ ai sẽ chịu khổ? Vị Bồ Tát như thế sẽ thành Vô Thượng Giác): Người c̣n chẳng thể được, khổ sẽ do ai mà chịu khổ? V́ thế nói “yêu ghét vốn là không, liên quan ǵ đến sanh tử?” Tuy là nói như thế, chúng ta tư duy nghiệp duyên hiện tiền như thế nào? Những vị có trí dùng trí quán thông đạt thế gian, lợi ích hữu t́nh. Kẻ ngu do đắm nhiễm, trầm luân trong thế gian, chẳng thể tự thoát ra được! V́ thế, trí bèn có trí dụng, ngu bèn có ngu dụng. Do trọn chẳng có tự tánh, mỗi pháp tự vận dụng, nhưng tất cả nguyện vọng xuất thế của chư Phật Như Lai đều là dùng hai pháp Bi và Trí để nhuần thấm thế gian!

 

          (Kinh) Vô ư phân biệt Phật Bồ Đề, kỳ tâm bổn lai tự minh tịnh. Bất kiến sanh tử chư chỉ trược, bỉ chứng chân thật tối thắng tôn.

          ()無意分別佛菩提其心本來自明淨不見生死諸滓濁彼證真實最勝尊

          (Kinh: Chẳng nghĩ phân biệt Phật Bồ Đề, cái tâm vốn sẵn tự sáng sạch. Chẳng thấy sanh tử các cặn nhơ, bèn chứng chân thật tối thắng tôn).

 

          “Bất kiến sanh tử chư chỉ trược” (Chẳng thấy các cặn bẩn sanh tử): Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đă nói: “Nếu người thật tu hành, chẳng thấy lỗi thế gian”. Ngài thấy như thế nào? Thấy mà như chẳng thấy, tự đạt được giải thoát. Các tướng chẳng phải là tướng, liền thấy Như Lai. Loại thiện tri thức này ở đâu cũng thấy Phật, tâm chẳng vướng mắc, Vô Sanh Nhẫn tự nhiên an lập, dùng ǵ để thấy? Thấy mà như chẳng thấy, tự đạt được giải thoát. V́ thế, lợi ích rộng khắp thế gian, c̣n chúng ta thấy ǵ cũng đều là một thứ chi đó, cho nên bị sự tướng khống chế, chẳng thể xuất ly. V́ sao? Chẳng có cơ hội xuất ly!

 

          (Kinh) Nhất thiết sắc pháp chư vô lậu, bất khả phân biệt vọng dữ không, diệt trừ chư dục giải thoát tâm, như thị tri giả, chứng tam-muội.

          ()一切色法諸無漏不可分別妄與空滅除諸欲解脫心如是知者證三昧

          (Kinh: Hết thảy sắc pháp đều vô lậu, chẳng thể phân biệt vọng và không, diệt trừ các dục, tâm giải thoát, người biết như thế chứng tam-muội).

 

          Chúng ta siêng tu pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội như thế này, rất nhiều hành giả nói:V́ sao chúng tôi chẳng thấy chư Phật? V́ sao chúng tôi chưa thấy tam-muội?” Thông qua việc học tập bộ kinh điển này, chúng ta sẽ có nhận biết chánh tri kiến, nhận biết pháp tắc thanh tịnh, nhận biết hoàn chỉnh về toàn thể cơ chế giáo ngôn và toàn thể hệ thống pháp tắc. Sau đó bèn tu pháp th́ sẽ rất thuận tiện, như thế th́ sẽ xa ĺa các vô minh và sự siêng gắng v́ mong có sở đắc, thấy chư Phật. Thấy chư Phật mà không chấp trước, đoạn trừ hết thảy các phiền năo, đích thân chứng sức tự tại nơi pháp tánh chẳng đến, chẳng đi. Như thế th́ chúng ta sẽ đạt được phương tiện trong Phật pháp.

 

          (Kinh) Sơ niệm chư Phật vô tướng thân, hậu văn chư pháp bổn thanh tịnh. Như thị tư duy vô dư niệm, chứng thử tam-muội thành phi nan.

          ()初念諸佛無相身後聞諸法本清淨如是思惟無餘念證此三昧誠非難

          (Kinh: Trước niệm thân chư Phật vô tướng, sau nghe các pháp vốn thanh tịnh. Tư duy như thế, chẳng nghĩ khác, chứng tam-muội này, thật chẳng khó!)

 

          An lập chánh kiến, chứng tam-muội sẽ chẳng phải là chuyện khó! Chánh kiến chưa lập, hư vọng t́m ṭi được mất, tự tâm mê mờ, lấy ǵ để tu chứng? V́ thế, phần nhiều là phải siêng khổ. Trong mấy năm nay, có nhiều vị tri thức hành pháp Ban Châu một ngày, hai ngày, bảy ngày, cho đến chín mươi ngày, nhưng nói đến người chứng tam-muội, người đạt được lợi ích chân thật nơi tam-muội th́ người chứng tự như, người chẳng chứng cũng tự như. “Tự như” ǵ vậy? Như pháp tắc! Nếu là người chẳng có chánh kiến, sẽ tự có lợi ích do siêng khổ. Nếu là người có chánh kiến, sẽ tự đạt được lợi ích do đúng pháp. Kẻ đạt được lợi ích do siêng khổ chính là kết nhân duyên rất sâu với pháp này. Kẻ đạt được lợi ích tương ứng là đạt được khinh an. Khinh an đúng với bi và trí, khinh an đúng với tịch tĩnh, khinh an tịch diệt. Sự khinh an ấy được chư Phật nuôi dưỡng, tức là dưỡng dục Pháp Thân huệ mạng của chúng ta, khiến cho thiện căn vốn có chín muồi, tức là công đức vốn đang hành sẽ chín muồi, đạt được sức tam-muội. V́ đấy là pháp tắc tương ứng, cho nên “như thị tư duy, vô dư niệm, chứng thử tam-muội thành phi nan” (tư duy như thế, chẳng nghĩ khác, chứng tam-muội này thật sự chẳng khó). Rất nhiều người hành tŕ pháp tắc này, điều chủ yếu nhất là bị tâm lư chướng ngại, bị nghiệp tướng chướng ngại gây mê hoặc, cũng là do tự ḿnh gây nên hoang mang, tự lập ra chướng ngại!

         

          (Kinh) Thường tác Không tướng nhi tư duy, tức năng diệt bỉ vi trần tụ. Bất phân biệt thành, cập dữ hoại, nhất thiết ngoại đạo thất ư trung. Ư nhất thiết sắc vô phân biệt. Kỳ nhăn tuy đổ, bất lụy tâm.

          ()常作空相而思惟即能滅彼微塵聚不分別成及與壞一切外道失於中於一切色無分別其眼雖睹不累心

          (Kinh: Thường dùng tướng Không để tư duy, liền diệt trừ khối vi trần ấy. Chẳng phân biệt thành cùng với hoại, hết thảy ngoại đạo mê trong ấy. Hết thảy các sắc chẳng phân biệt, mắt tuy trông thấy chẳng bận ḷng).

 

          “Ư nhất thiết sắc vô phân biệt. Kỳ nhăn tuy đổ, bất lụy tâm” (Đối với hết thảy các sắc chẳng phân biệt, mắt tuy trông thấy chẳng bận ḷng): Đối với tâm trí đối đăi của thế gian, trong phần trước, chúng tôi đă nêu ra hai loại tỷ dụ: Tỷ dụ về rác rưởi của người khác, và tỷ dụ về của báu của chính ḿnh. Hết thảy phàm phu không ai chẳng đắm nhiễm nơi của báu, muốn giữ lấy, muốn đạt được, dù là tự giác hay chẳng tự giác. C̣n đối với chỗ được coi là rác rưởi của kẻ khác, sẽ nẩy sanh nhiều lầm lỗi, nhiều suy nghĩ chẳng vừa ư. Quán người nhà, thân thuộc trong thế gian, thoạt đầu cư xử với nhau phần nhiều là kính yêu, lâu sau sẽ chỉ nhớ lỗi lầm của kẻ khác, ngờ vực lẫn nhau, thậm chí dè bỉu, tổn thương. V́ lẽ nào vậy? Bị sắc gây phiền lụy, bị cái Thấy gây phiền lụy, bị hai loại gánh nặng gây phiền lụy, tức là gánh nặng do trông thấy lỗi lầm của kẻ khác, cùng với gánh nặng thâu thập các thứ mà chính ḿnh cho là pháp trân bảo! Chuyện này khiến tôi nhớ khi xưa ở Sơn Đông, nghe người ta nói chuyện: Vị cư sĩ X… có thói quen rất “tốt”, tức là “điều tốt đẹp giao về cho tôi”. Thấy điều ǵ tốt đẹp, liền nói “cho tôi nhé”. Thật ra, đấy là biểu hiện khá rơ rệt của tánh người. Trong tập quán của con người, “điều tốt đẹp hăy giao cho tôi” là một thói quen, chúng ta sẽ tự giác hay chẳng tự giác nhận thức như thế đó!

 

          (Kinh) Bỉ kiến chư Phật như nhật luân, pháp giới thế gian đĩnh siêu xuất, kỳ tâm thanh tịnh, nhăn diệc minh. Tuy cần tinh tấn, thường tại Định.

          ()彼見諸佛如日輪法界世間挺超出其心清淨眼亦明雖勤精進常在定

          (Kinh: Trông thấy chư Phật như mặt trời, vượt thoát pháp giới các thế gian, cái tâm thanh tịnh, mắt cũng sáng. Tuy siêng tinh tấn, thường trong Định).

 

          Người tinh tấn dùng sức ít, trụ trong an lạc, trụ trong khinh an, chớ nên dùng thống khổ trần lao để tinh tấn. Chư vị thiện tri thức ơi! Nguyện cho chúng ta hành pháp trong tương lai, thường được khinh an, thường hưởng pháp lạc.

 

          (Kinh) Bỉ đắc đa văn bất khả thuyết, chứng thử tam-muội chân tư duy.

          ()彼得多聞不可說證此三昧真思惟

          (Kinh: Đạt được đa văn chẳng thể nói, chứng tam-muội này, chân tư duy).

 

          Trong giáo ngôn của Như Lai, có chánh tư duy, có Thiền Định tư duy, có tư duy chẳng thể nghĩ bàn. Đương nhiên là cũng có tư duy với tri kiến chẳng chánh đáng của phàm phu. Nói pháp tắc như thế, muốn cho hết thảy hữu t́nh phát khởi chánh tư duy chánh định. Những điều được nói trong phẩm Quán Sát này đều là tư duy đúng lư, dùng sự tiến nhập “thường ở trong Định” làm Định tướng để tư duy, tức là chánh tư duy thuộc về tam-muội. Trong các lời dạy theo thứ tự trong giáo ngôn của đức Phật th́ Giới, Định, Huệ chính là pháp tắc thuộc về giáo ngôn tăng thượng rơ ràng nhất: Do Giới sanh Định, từ Định sanh Huệ. Huệ ấy chân thật vô nhiễm, là huệ thanh tịnh. Nếu chẳng có chánh tư duy quan sát thuộc tam-muội định lực ấy, chúng ta sẽ thường dựa theo tâm trí phàm phu để tư duy, quan sát. Do đó, chẳng đạt được sự thiện xảo của chánh tư duy, lời lẽ thốt ra và nghiệp tướng chúng ta phải hứng chịu đều chẳng chánh đáng, cũng có nghĩa là khó thể chánh tư duy, khó thể nói năng chánh đáng được!

 

          (Kinh) Nhược dĩ bất kiến chứng tam-muội, nhất thiết manh giả ưng chứng tri.

          ()若以不見證三昧一切盲者應證知

          (Kinh: Nếu coi chẳng thấy là chứng tam-muội, hết thảy kẻ mù đều chứng biết).

 

          Ở đây, đức Thế Tôn nhắc nhở chúng ta: Chẳng phải là do không thấy Phật đắc tam-muội, mà cũng chẳng phải là do thấy Phật mà đắc tam-muội! Cái tâm chớ nên đắm nhiễm, chỉ lấy chuyện thấy Phật làm phương tiện tăng thượng. Tuy thấy Phật mà chẳng nhiễm, đó là sức tam-muội chân thật. Như đức Thế Tôn đă nêu một thí dụ ở đây, nếu coi “chẳng thấy” là chứng tam-muội, bất luận là v́ đọa vào lư Không, do tà kiến ngoan không, do tà kiến đoạn diệt mà tư duy, hay là v́ đọa vào lư Hữu, dùng chấp trước t́nh kiến, hay do sự tư duy của chính ḿnh, [hễ có các thứ tư duy chẳng chánh đáng] như thế, sẽ đều chẳng thể liễu giải, chẳng thể hành tŕ môn tam-muội này! Nếu [chẳng thấy mà] có thể liễu giải th́ hết thảy kẻ mù đă sớm chứng đắc tam-muội rồi. V́ thế, hăy nên có chánh tư duy.

          Ở đây, đức Thế Tôn cũng khích lệ chúng ta “thấy Phật mà chẳng nhiễm”, được nghe pháp phương tiện, thiện căn chín muồi, đích thân chứng pháp tánh, dùng tánh Không duyên khởi làm pháp tắc chân thật để lựa chọn. Tức là cái được gọi là “lâm giáo quyết trạch”, nghĩa là đích thân đối trước các giáo huấn mà chọn lựa chân chánh, chẳng phải là hời hợt dùng t́nh kiến và sự nghĩ nhớ của chính ḿnh để tư duy chọn lựa. Nếu chọn lựa [theo kiểu hời hợt] như thế ấy, sẽ có rất nhiều thay đổi: Hễ gặp duyên bèn dao động, gặp duyên bèn biến đổi. Tất cả tam-muội được đích thân chứng đắc là sự chọn lựa mười phần trọng yếu bằng chánh kiến, mà cũng là đích thân chứng được công đức và lợi ích.

 

          (Kinh) Diệc bất dĩ kiến phi bất kiến, thị trung ngoại đạo giai mê một.

          ()亦不以見非不見是中外道皆迷沒

          (Kinh: Cũng chẳng do thấy, chẳng không thấy, ngoại đạo đều mê muội chỗ này).

 

          Đối với chỗ Thấy và Chẳng Thấy, ngoại đạo đều đọa vào kiến chấp Nhị Biên. Kẻ thấy sẽ tự nói công dụng của cái Thấy, kẻ chẳng thấy sẽ nói cái Lư của việc chẳng thấy; nhưng trong giáo ngôn thanh tịnh vô ngại của đức Phật Thế Tôn, đối với Thấy và Chẳng Thấy, đều đạt được sức tự tại. Nếu chẳng thấy, do thiện căn tăng thượng thành thục, sẽ tương ứng trông thấy.

          Cái Thấy ấy thật sự là căn bản của vô kiến, tức cái được gọi là căn bản của Không Kiến: Được thấy chư Phật mà chẳng đắm nhiễm, nói đủ loại diệu pháp, lợi ích thế gian rộng khắp, nhưng thật sự chẳng có ǵ để thấy. “Thật” ở đây là thật sự không có một pháp nào để có thể đạt được, chẳng có một vật nào để có thể nhiễm. Cho đến chẳng có vị Phật nào để có thể đắc, nhưng lợi ích rộng khắp thế gian. Chỗ này rất then chốt, chính là chỗ thiện xảo vận dụng dung thông Tục Đế và Chân Đế của chư Phật. Có nhiều chúng sanh bị mê mất ở chỗ này, đọa trong tri kiến đối đăi nhị nguyên của ngoại đạo, trong tâm chẳng thể khế hợp, chẳng thể vận dụng thiện xảo nơi pháp. V́ thế, đối với Lư, tự nói cái Lư; đối với Sự th́ mỗi chuyện đều chẳng tương ứng. Do đó, chư Phật Như Lai xuất hiện trong cơi đời, tuyên thuyết, giáo hóa, chẳng ngoài khiến cho chúng ta thật sự vận dụng hiện duyên thanh tịnh này, chẳng đắm nhiễm trong hết thảy hiện duyên, khiến cho chúng sanh thoát khỏi nỗi mê hoặc nơi hiện duyên, đạt được giải thoát tự tại.

          Ngoại đạo đều do tri kiến nhị nguyên đối đăi mà nẩy sanh mê muội, tâm trí kém hèn. Chúng ta có thể thấy: Trong đủ loại giáo ngôn của ngoại đạo, không ǵ chẳng phải là có một Thượng Đế, không ǵ chẳng đề xướng một đấng chủ đạo, có quyền uy thống trị tuyệt đối để thống trị, tạo tác, duy tŕ thế gian này! Phật pháp chẳng tuyên thuyết, giáo hóa như thế! Chư Phật thật sự không có ǵ để có thể nhiễm, chỉ lắng nghe giáo hóa của các Ngài, chọn lựa pháp ích, đích thân thành tựu, tức là thành tựu cái được gọi là “quán chiếu để trở về cội nguồn thanh tịnh”. Do vậy, tâm tánh tự nhiên thông sáng, chẳng tạo tác, quang minh pháp tánh chiếu trọn khắp pháp giới, tự nhiên lợi ích rộng khắp hữu t́nh. Ở chỗ này, nếu chẳng lắng nghe giáo hóa của đức Phật, phần nhiều sẽ suy lường hư vọng, lập ra pháp tắc hư giả, chẳng thể thật sự tương ứng, chẳng thể thật sự lợi ích thế gian.

 

          (Kinh) Thường ly tướng tưởng nhi tư duy, kiến bỉ chư Phật thanh tịnh tâm.

          ()常離相想而思惟見彼諸佛清淨心

          (Kinh: Thường tưởng ĺa tướng để tư duy, thấy tâm thanh tịnh của chư Phật).

 

          Ly tướng tưởng được thấy Phật. Thấy Phật mà chẳng ĺa tư duy thanh tịnh, [đó là] ly tướng tưởng. V́ sao? Chư Phật Như Lai đều dùng tâm trí “Không, tịnh, vô nhiễm” để hiện thân tướng vi diệu trong mười phương cơi nước, nói pháp tắc vi diệu, độ thoát hết thảy hữu t́nh đắm nhiễm, cho nên ly tướng thấy Phật. Kinh Kim Cang trực tiếp nhắc nhở chúng ta: “Chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (thấy các tướng chẳng phải là tướng, sẽ thấy Như Lai). Lời thành thật, lời chân thật như thế khiến cho chúng ta có pháp để nương theo, ví như khẩu quyết vậy, trực tiếp tiến nhập chỗ công đức chân thật của pháp tồn tại. Nếu thấy tướng mà đắm nhiễm, sẽ bị các tướng che lấp. Nếu thấy tướng mà sợ tướng, cũng chẳng đạt được lợi ích. V́ thế, chỗ này vi diệu rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Nếu nhằm lúc suy nghĩ, sẽ có Nhị Biên để nương vào. Nếu là lúc chẳng nghĩ bàn, quang minh hiện tiền, ngay lập tức chiếu kiến. Các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, nương vào cái trí tư duy và cái tâm tư duy, sanh ra pháp tắc nhị nguyên đối đăi đă rất thuần thục. Nếu có một niệm buông bỏ kiểu tư duy đối đăi ấy, tự nhiên quang minh nơi tâm trí sẽ chiếu trọn, thấy trọn, chẳng đắm, chẳng nhiễm! Trong pháp tắc Kiến Phật tam-muội này, sự tu tập cũng giống như thế, muốn khiến cho chúng sanh vượt thoát sự trói buộc bởi Sở Tri Chướng từ vô thỉ cho tới nay, sẽ chứng trọn vẹn công đức chẳng thể nghĩ bàn của Kiến Phật tam-muội, hay c̣n gọi là Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội!

 

          (Kinh) Như thị kiến dĩ nhất thiết quán, tư nhân tốc thành thử tam-muội.

          ()如是見已一切觀斯人速成此三昧

          (Kinh: Đă thấy hết thảy quán như thế, người ấy mau thành tam-muội này).

 

          Hai câu kệ này vốn mười phần đẹp đẽ! Ly tướng tư duy, thấy cái tâm thanh tịnh của chư Phật. Ly tướng tư duy, trông thấy chư Phật mà tâm chẳng nhiễm. Quả thật là vi diệu rất sâu, chẳng nhờ vào tư duy, ngưng dứt tạo tác, liền dấy lên diệu dụng. Chư vị thiện tri thức ơi! Khi chúng ta niệm Phật, nếu dùng cái trí rành rẽ, phân minh, nếu hiểu rành rẽ rơ ràng, hiểu rơ cái hạnh vô sở đắc, sẽ tự nhiên hiểu rơ tự tâm, chẳng đắm nhiễm, sẽ có thể thấy chư Phật. Đă thấy chư Phật, bèn quay lại thực hiện sự thủ hộ tâm trí thanh tịnh.

          Người đời phần nhiều hễ phá tướng, sẽ liền trở thành ngoan không. Nếu thấy tướng, sẽ liền đắm nhiễm. Hai loại Biên Kiến ấy đă trở thành tập quán tư duy và tập quán ư thức đắm nhiễm của bọn chúng sanh chúng ta, thậm chí là tập quán vận dụng tạo nghiệp. Thói quen ấy khiến cho chúng sanh luân hồi chẳng ngơi trong lục đạo bao kiếp lâu xa, chẳng có cơ hội thoát ĺa! Do vậy, chứng đắc tam-muội này quả thật đă phá trừ các tướng vô nhiễm, khiến cho chúng sanh giải thoát, thấy diệu tướng và thiện căn chín muồi của chư Phật, diệu dụng vô cùng, tuy vô cùng mà vô nhiễm, tự đạt được phương tiện trí huệ, dùng pháp tắc ấy lợi ích thế gian rộng khắp, chẳng sanh tà kiến. Chư vị thiện tri thức ơi! Chúng ta nghe nói giáo ngôn thanh tịnh rất sâu của chư Phật, đừng sanh ngờ vực, hăy nên khéo tư duy, khéo quan sát, hăy nên siêng năng tư duy, siêng năng quan sát, đừng rơi vào tri kiến đắm nhiễm từ vô thỉ tới nay của chính ḿnh, cho đến cưỡng chấp Biên Kiến, khiến cho cái tâm đọa lạc.

 

          (Kinh) Bỉ vô địa, thủy cập hỏa, phong, diệc phi Không, Giới, hiện tiền trụ. Nhược dục quán sát nhất thiết Phật, đương tưởng xử ṭa diễn diệu âm.

          ()彼無地水及火風亦非空界現前住若欲觀察一切佛當想處座演妙音

          (Kinh: Chẳng có địa, thủy, cùng hỏa, phong, cũng chẳng Không, Giới, hiện tiền trụ. Nếu muốn quan sát hết thảy Phật, tưởng Phật trên ṭa thuyết diệu âm).

 

          “Nhược dục quán sát nhất thiết Phật, đương tưởng xử ṭa diễn diệu âm” (Nếu muốn quan sát hết thảy Phật, hăy tưởng các Ngài đang ngự trên pháp ṭa, diễn nói âm thanh mầu nhiệm): Đấy là Bồ Tát hành pháp mà chẳng hoại Sắc xứ, nhận lấy Sắc mà chẳng nhiễm, thiện căn chín muồi, mỗi phương diện đều hiển lộ oai đức.

 

          (Kinh) Như ngă kim nhật tuyên diệu pháp, tâm nhạo pháp giả đổ ngă thân, bỉ ưng vô phục dư tư duy, duy đương tưởng Phật thuyết pháp sự.

          ()如我今日宣妙法心樂法者睹我身彼應無復餘思惟唯當想佛說法事

          (Kinh: Như ta nay nói các pháp mầu, kẻ tâm thích pháp thấy thân ta, hăy nên chẳng c̣n nghĩ ǵ khác, chỉ nên tưởng chuyện Phật thuyết pháp).

 

          Chỉ quán diệu tướng thuyết pháp, công đức thuyết pháp, lợi ích do thuyết pháp của đức Thế Tôn, vô tướng và bất tướng; khi đó, thiện căn sẽ thành thục, thấy các tướng mà vô nhiễm, hoan hỷ nghe pháp.

 

          (Kinh) Như thị chuyên niệm mạc tha quán, vị cầu nhược tư đa văn cố, nhất tâm quán ngă thuyết thử Định, tổng tŕ chư Phật chi sở tuyên.

          ()如是專念莫他觀爲求若斯多聞故一心觀我說此定總持諸佛之所宣

          (Kinh: Chuyên niệm như thế, đừng quán khác. V́ cầu đa văn như thế đó, nhất tâm quán ta nói Định này, tổng tŕ lời dạy của chư Phật).

 

          Kinh Kim Cang nói tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều chẳng thể được, ba tâm như thế đều chẳng thể được, quư vị dùng cái tâm ǵ? Biết ǵ? Quán ǵ? Hành ǵ? Niệm ǵ? Ở đây, đức Thế Tôn nói “cầu đa văn” tức là muốn nghe pháp, “đa kiến Phật” (thấy nhiều Phật) tức là chánh tư duy. Khi thiện căn chín muồi, bèn muốn “thấy Phật, nghe pháp” để thành thục thiện căn. Do đó, tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai đều chẳng thể được, nhưng cái tâm nghe pháp ḥng thủ hộ tâm trí thành thục thiện căn, tức là phương tiện để khế nhập tâm trí thanh tịnh, chẳng phải là nhân duyên khác. V́ sao? Nương theo Phật nghe pháp, sẽ vượt thoát tâm quá khứ, tâm hiện tại, và tâm vị lai. Ba cái tâm ấy chính là tâm luân hồi, tâm đọa lạc, tâm vô minh, tâm ngu si chẳng thể tự thoát ra được của chúng sanh. Ba tâm ấy tiếp nối, chính là do được hết thảy chúng sanh thủ hộ. Nếu chúng ta ưa thích thấy Phật, nghe pháp, ba tâm ấy tự nhiên phá trừ. V́ sao vậy? Thấy Phật, nghe pháp, thiện căn chín muồi, nghe đức Phật nói giáo ngôn về Đệ Nhất Nghĩa Đế rất sâu, tự nhiên thoát khỏi sanh tử luân hồi và tạo tác hư vọng.

 

          (Kinh) Vô hữu nhất Phật tại quá khứ, diệc vô hiện thế, cập đương lai. Duy thử thanh tịnh vi diệu Thiền, bỉ bất khả ngôn chứng năng thuyết. Ngă ư tam giới vô thượng tôn, vị lợi thế gian cố đặc xuất. Niệm chứng chư Phật Bồ Đề cố, tuyên thử tam-muội vô đẳng luân. Nhược dục thân lạc cập tâm lạc, cầu Phật công đức bất tư nghị. Năi chí chứng bỉ diệu Bồ Đề, yếu đương tu thử thắng tam-muội.

          ()無有一佛在過去亦無現世及當來唯此清淨微妙禪彼不可言證能說我於三界無上尊爲利世間故特出念證諸佛菩提故宣此三昧無等倫若欲身樂及心樂求佛功德不思議乃至證彼妙菩提要當修此勝三昧

          (Kinh: Chẳng có một Phật trong quá khứ, cũng chẳng hiện tại và tương lai. Chỉ thanh tịnh vi diệu Thiền này, chẳng thể nói “chứng” hay diễn tả. Ta là vô thượng trong tam giới, v́ lợi thế gian, riêng xuất thế. V́ niệm chứng chư Phật Bồ Đề, nói tam-muội khôn sánh này. Nếu muốn thân tâm đều vui sướng, cầu công đức Phật chẳng nghĩ bàn, cho tới chứng đắc diệu Bồ Đề, phải tu tam-muội thù thắng này).

 

          “Nhược dục thân lạc cập tâm lạc, cầu Phật công đức bất tư nghị. Năi chí chứng bỉ diệu Bồ Đề, yếu đương tu thử thắng tam-muội” (Nếu muốn thân tâm đều vui sướng, cầu công đức Phật chẳng nghĩ bàn, cho tới chứng đắc diệu Bồ Đề, phải tu tam-muội thù thắng này): Đối với sự vui sướng và pháp lạc thật sự nơi thân tâm, hết thảy những người đích thân chứng pháp tắc tam-muội sẽ chẳng thể dùng lời lẽ để diễn tả trong thế gian được. Chư Phật Như Lai do muốn lợi lạc chúng sanh mà lập ra đủ loại ngôn thuyết, đủ loại thí dụ, khiến cho chúng sanh thuận theo mà khế nhập, đích thân chứng đạt sự ngưỡng mộ và yêu thích tam-muội, cho đến đích thân chứng nhập tam-muội, thọ dụng các thứ niềm vui pháp vị nơi thân tâm, xa ĺa nỗi khổ v́ vô minh bức bách thân tâm, khiến cho thân tâm thật sự trọn đủ trí huệ và thiện xảo. Như thế cũng là chẳng uổng thọ nhận tấm thân này, chẳng cô phụ cơ chế và nhân duyên có khuyết điểm nơi sanh mạng này!

 

          (Kinh) Dục tịnh thâm quảng đa văn hải, vị chúng sanh cố đương cần cầu.

          ()欲淨深廣多聞海爲衆生故當勤求

          (Kinh: Muốn tịnh biển đa văn sâu rộng, v́ các chúng sanh hăy siêng cầu).

 

          Hết thảy các thiện tri thức học Phật đều nên dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện để siêng năng thủ hộ tự tâm, vượt thoát những cái gọi là Ngă, chấp trước Ngă Sở (Cái thuộc về ta), cùng với chấp trước về ta, và pháp của ta. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”sự hướng dẫn căn bản. Dùng điều đó để hướng dẫn, ḥng đoạn sạch hết thảy các phiền năo, ḥng tu tập trọn vẹn hết thảy các pháp tắc, ḥng thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. V́ vậy, để độ chúng sanh thành Phật, v́ lợi ích thế gian mà thành Phật. Đấy chính là chánh nhân thành Phật được hết thảy chư Phật tuyên diễn, là tâm trí mà hết thảy chúng sanh đă mai một.

          Hết thảy hữu t́nh, bất luận trong pháp tắc thế gian, hay xuất thế gian, phần nhiều v́ cái Ta, chẳng biết chỗ này chính là căn bản luân hồi của hết thảy thế gian. Nếu càng thêm siêng năng tu tŕ, càng thêm siêng năng thủ hộ [các chấp trước ấy], cũng sẽ tăng thêm cái nghiệp luân hồi và cái duyên luân hồi. V́ thế, nơi nhân địa, chư Phật Như Lai mỗi vị đều phát diệu nguyện, nguyện thù thắng để độ thoát chúng sanh, do cứu vớt chúng sanh mà lập ra thệ nguyện rộng lớn, thề tu hết thảy các pháp, thề tu hết thảy đạo, thề hành hết thảy thiện xảo, thề đoạn hết thảy phiền năo, do muốn độ chúng sanh, do muốn thật sự lợi ích thế gian. Tu pháp Vô Ngă thật sự là một điểm căn bản trọng yếu trong Phật pháp, cũng chính là cái được gọi là “tu tŕ Bồ Đề tâm chân chánh”, hoặc có thể nói là “tu tŕ pháp tắc Bồ Đề chân chánh”. Hết thảy phàm phu chẳng thể vượt qua chỗ này, mai một ở chỗ này, mê mất ở chỗ này, bị trói buộc chỗ này, thực hành cái được gọi là “tu tŕ cái Ta, pháp tắc về cái Ta” v.v… Đọa lạc trong Ngă Chấp, Ngă Sở (cái của ta), đắm nhiễm tướng thế gian. Nhưng hết thảy bậc thánh, bậc trí đă sớm thấu đạt sâu xa vô ngă, vô thường, tịch diệt, ấn khế tự tâm nơi pháp tánh, rốt ráo hiểu rơ pháp vô tự tánh trong hết thảy các hiện duyên, quang minh cội nguồn tùy thời chiếu rạng hết thảy sự việc và hết thảy các h́nh tướng trong cơi đời, rốt ráo vận dụng hai pháp Bi và Trí.

          Chúng ta nói người tu môn tam-muội này chẳng hoại Sắc mà được thấy chư Phật, nghe pháp vi diệu rất sâu mà xa ĺa các tướng. Do xa ĺa các tướng, thiện căn thấy Phật thành thục, do nghe diệu pháp rất sâu, hành rộng khắp các pháp, lợi ích trọn khắp thế gian, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Nói “chẳng thể nghĩ bàn” trọn chẳng phải là khiến cho hữu t́nh trơ lỳ, hoặc có tác dụng khiến cho tự tâm mê muội như nha phiến (thuốc phiện), mà là đích xác dấy khởi một pháp có thể khiến cho chúng ta buông xuống chấp trước nặng nề, chấp trước mê muội, trở về tâm trí sẵn có, trong tâm trí thanh tịnh vận dụng điều thường được gọi là “thiện xảo chẳng nghĩ bàn”, cũng tức là thiện xảo chẳng tạo tác, mà cũng là thiện xảo xa ĺa đối đăi, mà cũng là thiện xảo tùy thuận trí huệ quang minh của chư Phật để an trụ. Đối với sự tùy thuận ấy, nếu có chúng sanh một niệm tùy thuận, công đức ấy chư Phật tán thán chẳng thể tận, dẫu một kiếp, hai kiếp, hoặc nhiều kiếp, vẫn khó tán thán cùng tận! V́ sao vậy? Do tâm trí ấy ngang bằng với chư Phật!

 

          (Kinh) Bỉ ưng tốc khử chư dục trần, yếu đương tu thử thắng tam-muội. Nhược dục nhất sanh kiến đa Phật, kiến dĩ cung kính phục tư tuân.

          ()彼應速去諸欲塵要當修此勝三昧若欲一生見多佛見已恭敬復諮詢

          (Kinh: Hăy nên mau trừ các dục trần, phải tu tam-muội thù thắng này. Nếu muốn một đời thấy nhiều Phật. Thấy rồi cung kính, lại thưa hỏi).

 

          “Nhược dục nhất sanh kiến đa Phật, kiến dĩ cung kính phục tư tuân” (nếu muốn một đời thấy nhiều Phật; thấy rồi, cung kính lại thưa hỏi): Ở đây, đức Thế Tôn hướng dẫn chúng ta trong một đời, chẳng ĺa khỏi thế giới này, mà có thể thấy nhiều vị Phật ở các phương khác. Đă gặp gỡ, hăy nên cung kính thưa hỏi, thưa hỏi các thứ pháp ḥng trừ các nỗi nghi!

 

          (Kinh) Bỉ ưng tốc ly vật sanh trước, yếu đương quán thử diệu tam-muội.

          ()彼應速離勿生著要當觀此妙三昧

          (Kinh: Hăy nên mau ĺa, đừng chấp trước, phải quán tam-muội nhiệm mầu này).

 

          Dẫu được nghe pháp, chớ sanh đắm nhiễm. Hăy nên quán pháp tắc tam-muội vi diệu rất sâu này có công đức chân thật chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Thị xứ vô dục, phục vô sân, diệc vô ngu si dữ tật đố. Hựu vô vô minh cập nghi vơng, yếu đương trụ thử thâm tịch Thiền.

          ()是處無慾復無瞋亦無愚癡與嫉妒又無無明及疑網要當住此深寂禪

          (Kinh: Chỗ này vô dục lại chẳng sân, cũng chẳng ngu si và ghen tỵ. Lại chẳng vô minh và lưới nghi, hăy nên trụ Thiền thâm tịch này).

 

          Đối với nội dung của sức tam-muội này, đức Thế Tôn đă dùng thí dụ, dùng ngôn thuyết để hướng dẫn chúng ta xa ĺa tạo tác, xa ĺa nghĩ bàn, xa ĺa đối đăi, khiến cho chúng ta tùy thuận vô tạo tác, tùy thuận chẳng đối đăi, tùy thuận chẳng nghĩ bàn, thanh tịnh an trụ, trong tâm phát sanh khinh an, thật sự tăng cao pháp lạc nơi thân tâm, xa ĺa khổ hoạn tạo tác!

 

11. Phẩm thứ bảy: Giới Hạnh Cụ Túc

 

          (Kinh) Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần, Giới Hạnh Cụ Túc, phẩm đệ thất.

          ()大方等大集賢護分戒行具足品第七

          (Kinh: Kinh Đại Phương Quảng Đại Tập, phần Hiền Hộ. Phẩm thứ bảy: Giới hạnh đầy đủ).

 

          Đức Thế Tôn do nương theo giáo pháp mà xuất hiện trong cơi đời, dùng văn tự làm phương tiện truyền đạt, dùng mười hai bộ loại trong Tam Tạng để lợi ích rộng khắp hữu t́nh vào thời Mạt Pháp. Các thiện tri thức nương theo giáo ngôn văn tự để tùy văn nhập quán, tiêu các nghiệp tướng, thấu hiểu tâm trí, thật là thuận tiện. Đức Thế Tôn tại các địa điểm bất đồng, thuận theo nhân duyên bất đồng, ở trong hàng Thanh Văn, hoặc Bồ Tát, trưởng giả, vương giả, Bà La Môn, đủ loại chúng sanh, đối với mỗi loại, đều tuyên giảng, giáo hóa. Về sau, tôn giả Ma Ha Ca Diếp và các bậc thiện xảo hội tập kinh điển, như Thanh Văn Thượng Tọa Bộ kết tập kinh điển tại Thất Diệp Quật (Saptaparni Guha)[4], và cũng có Đại Chúng Bộ, cho đến các vị Bồ Tát thuộc các địa vị đều cùng lúc vân tập, ghi lại các thứ kinh điển do đức Phật đă tuyên thuyết, truyền bá cho đời sau, khiến cho hữu t́nh hữu duyên trong thế gian do gặp gỡ kinh điển mà được độ thoát. Đấy gọi là “dùng mười hai loại bộ loại trong Tam Tạng để hóa độ hữu t́nh”. Chúng ta hữu duyên, gặp được diệu điển rất sâu này, dùng nó làm pháp tắc để nương theo pháp hành tŕ, ắt sẽ đạt được thành tựu.

          Chúng ta thấy thứ tự tiếp nối trong bộ kinh này: Trước hết là khiến cho chúng ta có chánh tư duy. Thông qua chánh tư duy, khiến cho chúng ta sanh khởi chánh tín, thọ tŕ, quan sát. Hiện thời, [trong phẩm này] bèn tuyên nói giới hạnh trọn đủ. Mỗi phẩm đều hướng dẫn tăng thượng, không ǵ chẳng nhằm hướng dẫn chúng ta thoát khỏi tướng Dị Thục Quả của chính ḿnh từ vô thỉ đến nay, thành tựu một pháp tắc vô ngă và vô úy. Các lời dạy của đức Thế Tôn đều v́ khiến cho chúng ta đạt được phương tiện đại tự tại, hoặc có thể nói là thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Như thế chính là chánh nhân xuất thế duy nhất của chư Phật Thế Tôn: “Khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, thành tựu đạo nghiệp thanh tịnh”. Mười phương chư Phật, không vị nào chẳng dùng nguyện này để xuất thế. Hàng Phật tử chúng ta chớ có kiến giải nghi hoặc đối với điều này, hăy tùy thuận lời dạy của đức Phật, làm đệ tử chân thật của đức Phật, chánh hành Phật pháp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn!

          ()爾時賢護菩薩。復白佛言。希有世尊。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy hữu).

 

          Thế Tôn quả thật là hy hữu trong thế gian. Như Lai trọn đủ mười hiệu, tức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Mười hiệu như thế do Như Lai đă từ nhiều kiếp lâu xa tới nay siêng khổ tu tŕ, nhất tâm tu tŕ công đức và lợi ích chân thật, được mười phương chư Phật thanh tịnh lần lượt thọ kư, lần lượt truyền đạt, lần lượt chấp nhận pháp tắc thanh tịnh, trọn chẳng phải là hư huyễn, trống rỗng, cũng chẳng phải là tự tánh bàn suông hư huyễn. Người học Phật trong hiện thời phần nhiều đàm luận Phật tánh, tự tánh, nhưng công đức nơi mười hiệu của Như Lai do thật sự nương vào hai pháp Tu Đức và Tánh Đức mà trọn đủ, cũng là phước huệ trọn đủ, chẳng phải là lời lẽ phù phiếm. Hữu t́nh trong thời Mạt Pháp rất nhiều kẻ học vẹt, rất hiếm người thật sự hành tŕ. V́ thế, phần nhiều chẳng trọn đủ phước huệ, chẳng trọn đủ thiện xảo!

          Chúng ta nên thủ hộ pháp tắc ấy như thế nào? Cần phải có một cơ chế như thế này, tức là nghe pháp tu tŕ, nghe pháp bèn chánh hạnh. Nghe pháp rồi đích thân chứng nhập. Nghe pháp rồi thủ hộ, truyền bá. Nếu chẳng có ngôn giáo để có thể y chỉ, khó thể chánh tín pháp này, khó thể tu tập! Đối với pháp này, có nhiều kẻ nghi báng; người có thể sanh chánh tín, yêu mến th́ thật là chẳng thể nghĩ bàn! Cũng có kẻ nghi báng nhưng v́ có các vị thiện tri thức siêng khổ tu tập, cho đến đúng pháp mà tu tập, hoặc liên tục truyền đạt các thứ pháp ích, họ (kẻ nghi báng ấy) dần dần sanh khởi sự ngưỡng mộ và yêu thích đối với pháp này. Chúng ta có thể nương theo kinh điển để tu tập, xác thực là chánh hạnh, chánh đạo. Các vị thiện tri thức nếu chỉ thật sự hướng đến pháp tắc này, sẽ nương theo kinh điển để hành tŕ, dần dần thâm nhập, ắt sẽ có thể đích thân chứng pháp ích chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

 

          (Kinh) Năi hữu như tư tối thắng tam-muội. Thế Tôn! Nhược chư Bồ Tát xả gia, xuất gia, thâm tâm nhạo dục thuyết thử tam-muội, diệc đương tư duy thử tam-muội giả, bỉ đẳng ưng đương an trụ hà pháp, nhi năng tuyên thuyết, cập tư duy da?

          ()乃有如斯最勝三昧。世尊。若諸菩薩舍家出家。深心樂欲說此三昧。亦當思惟此三昧者。彼等應當安住何法。而能宣說及思惟耶。

          (Kinh: Bèn có tam-muội tối thắng như thế. Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, thâm tâm ưa thích muốn nói tam-muội này, cũng sẽ tư duy tam-muội này, họ nên an trụ trong pháp nào để có thể tuyên nói và tư duy?)

 

          Hiền Hộ Bồ Tát thay cho hàng đại chúng xuất gia đặt ra câu hỏi này. V́ lẽ nào? Hết thảy hữu t́nh trong thời Mạt Pháp chẳng khéo khải giáo, mà cũng chẳng có người khéo khải giáo! Cũng chẳng có người khéo hỏi, khéo đáp, nhằm thuận tiện truyền lại giáo pháp, cho nên Ngài thay mặt hữu t́nh khải vấn, khiến cho chúng ta quen thuộc, tư duy, tu tập.

 

          (Kinh) Phật cáo Hiền Hộ ngôn: - Hiền Hộ! Nhược hữu Bồ Tát xả gia, xuất gia, thâm nhạo quảng tuyên, phục dục tư duy như thị tam-muội giả.

          ()佛告賢護言。賢護。若有菩薩。舍家出家。深樂廣宣。復欲思惟如是三昧者。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Hiền Hộ rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu có Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, thích rộng tuyên nói sâu xa, lại muốn tư duy tam-muội như thế).

 

          Chúng ta nhất định phải chú ư một ngôn từ: “Tư duy như thị tam-muội” (tư duy tam-muội như thế). Kinh Hiền Hộ nhắc đi nhắc lại chúng ta phải tư duy tam-muội này như thế nào!

 

          (Kinh) Bỉ xuất gia Bồ Tát, đương tiên hộ tŕ thanh tịnh giới hạnh, bất khuyết giới hạnh, bất nhiễm giới hạnh, bất ô giới hạnh, bất trược giới hạnh, bất trước giới hạnh, bất động giới hạnh, bất bị ha giới hạnh, trí giả sở tán giới hạnh, thánh sở ái kính giới hạnh, ưng đương niệm tri như thị chư giới dă.

          ()彼出家菩薩。當先護持清淨戒行。不缺戒行。不染戒行。不污戒行。不濁戒行。不著戒行。不動戒行。不被呵戒行。智者所贊戒行。聖所愛敬戒行。應當念知如是諸戒也。

          (Kinh: Vị xuất gia Bồ Tát ấy trước hết hăy nên hộ tŕ giới hạnh thanh tịnh, giới hạnh chẳng khuyết, giới hạnh chẳng nhuốm bẩn, giới hạnh chẳng ô uế, giới hạnh chẳng nhơ bẩn, giới hạnh chẳng chấp trước, giới hạnh bất động, giới hạnh chẳng bị quở trách, giới hạnh được người trí khen ngợi, giới hạnh được bậc thánh kính yêu. Hăy nên nghĩ biết các giới như thế).

 

          “Hộ tŕ thanh tịnh giới hạnh” (hộ tŕ giới hạnh thanh tịnh): “Thanh tịnh” là dùng vô lậu giới thể để lợi ích rộng khắp thế gian, thủ hộ thanh tịnh. V́ thế, trong Tam TGiới, mỗi tụ đều có diệu dụng riêng. Chư Phật Như Lai nói giới có ba tụ: Biểu hiện nơi oai nghi (Nhiếp Luật Nghi Giới) th́ phần nhiều được Thanh Văn thủ hộ; biểu hiện nơi thiện pháp (Nhiếp Thiện Pháp Giới) th́ Bồ Tát hành pháp phần nhiều mến chuộng, hạnh lợi tha lợi ích rộng khắp chúng sanh (Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới) là pháp tối thượng thừa, phần nhiều do những người trong cơi đời hiện thời được gọi là hành pháp Kim Cang Thừa thủ hộ. Tam Tụ Tịnh Giới thật ra là do một giới hiển lộ, do một pháp tạo thành, tức là giới pháp thanh tịnh do chư Phật truyền trao. Đương nhiên, xuất gia hay tại gia, mỗi hạng người sẽ có giới tướng biểu hiện riêng.

          Thanh Văn hiển hiện pháp thuần bạch qua bốn oai nghi, tức là đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng ĺa tâm trí vô lậu, chẳng tạo, chẳng tác, thủ hộ tịch diệt, coi tịch diệt là vui. V́ thế, trong pháp Thanh Văn, “tịch diệt là vui” chính là thủ hộ tăng thượng, đích thân chứng đoạn diệt, cho đến đích thân chứng chân thật. Đó chính là cái được gọi là “chứng A La Hán quả, xa ĺa hậu hữu (thân trong đời sau), trụ trong hai loại Niết Bàn là Hữu Dư và Vô Dư”. Thừa này tịnh hóa thế gian, cho đến khiến cho chánh pháp có h́nh tướng trụ thế, biểu hiện trong bốn oai nghi. V́ thế, [pháp Thanh Văn Thừa] là pháp Thật Hữu.

          Trong giới hạnh của Bồ Tát, phần nhiều là diệu dụng của trí huệ trong Như Huyễn Quán. Do đó, đối với tâm trí động niệm, đều dùng Bồ Đề tâm để huân tu, phần nhiều vận dụng rộng răi nơi tâm trí, thuần thiện thế gian, để khiến cho chúng sanh liễu giải tâm trí. Từ vấn đề căn bản của tâm địa và tâm trí mà giải quyết hết thảy các pháp tắc, từ huân tu tâm địa mà phát khởi diệu dụng rộng lớn. Đó là điều được nhiếp thọ trọn khắp bởi giới Bồ Tát, được nhiếp thọ bởi trí huệ môn, là điều được thiết lập và vận dụng bởi tâm niệm.

          Bồ Tát giới và Thanh Văn giới tuy tên gọi khác nhau, nhưng xét theo nội dung, nếu là người có tâm Đại Thừa, tuy thọ giới Thanh Văn, vẫn có thể giữ giới Bồ Tát, có nhiều pháp thiện xảo. Nhưng cũng có khá nhiều kẻ tuy thủ hộ giới pháp Đại Thừa, nhưng tâm tánh yếu kém, phần nhiều lo tự lợi, giống hạnh của hàng “hạ sĩ” nói theo Tạng truyền Phật giáo. [Hạng căn tánh hạ sĩ] do sợ hăi luân hồi trong thế gian, bèn mong cầu xuất ly. Hạng hữu t́nh ấy tuy tŕ giới Bồ Tát, vẫn là cái tâm Thanh Văn. Trong cái tâm Thanh Văn ấy, đối với giới Bồ Tát, vẫn phần nhiều là hiển lộ oai nghi, phần nhiều ưa thích thể hiện oai nghi trong “đi, đứng, nằm, ngồi”. Nếu đă yêu thích trọn đủ oai nghi, th́ cũng sẽ có tâm địa thủ hộ, người ấy chẳng thể nghĩ bàn, là người thông đạt Nhị Thừa. Người trọn đủ hai pháp Bồ Tát và Thanh Văn chính là bậc thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, có thể khiến cho chánh pháp trụ thế, truyền bá. Truyền bá th́ phần nhiều là thể hiện đức hạnh của bậc Bồ Tát. “Trụ tŕ” là an trụ trong giới đức thanh tịnh, thủ hộ bốn oai nghi. V́ thế, trụ thế và truyền bá, mỗi sự đều có diệu tướng. Trụ tŕ là có nhiều môn Thiền Định, hoằng truyền th́ phần nhiều là dùng trí huệ để truyền đạt. V́ thế, Bồ Tát phần nhiều thủ hộ trí huệ, ít chú trọng Thiền Định. Các vị Thanh Văn th́ phần nhiều chuộng Thiền Định, ít có diệu dụng trí huệ, nhưng đấy chỉ là nói theo sự thiên trọng nơi các tướng.

          Nếu dựa theo tâm tánh để nói, hết thảy chúng sanh vốn là Phật. Nói theo giáo ngôn thuộc về quả địa, như Thiền Tông Trung Hoa, cho đến trong giáo pháp về Như Lai Tạng Tánh, phần nhiều tuyên thuyết giáo pháp như thế. Dùng sự giác ngộ nơi quả địa để xem xét thế gian, [sẽ thấy] chẳng có một pháp nào để có thể thành, chẳng có một chúng sanh để có thể độ, cho đến chẳng có một phiền năo nào để có thể đoạn. Tự tánh vốn quang minh, chẳng đắm nhiễm, nhưng dựa trên sự thủ hộ thanh tịnh của pháp cội nguồn, ngay trong hiện tiền bèn giải thoát rành rành, rốt ráo chẳng vướng mắc, tâm trí giống hệt như nhau. Như giáo ngôn thuộc về quả địa trong pháp môn Tịnh Độ, nương theo nguyện lực của Phật, dùng sự giác ngộ nơi quả địa làm cái tâm trong khi tu nhân, hiện tiền khởi tác dụng, chẳng nhờ vào phương tiện, xa ĺa tạo tác, chỉ tùy thuận Phật quả, chỉ tùy thuận Phật nguyện, cho nên thủ hộ thanh tịnh b́nh đẳng, yêu thích hết thảy hữu t́nh trong thế gian, cùng sanh về viên măn báo độ A Nậu Đa La. Cái được gọi là “viên măn báo độ” chẳng nhờ vào đến, đi, chẳng nhờ vào tu tŕ, do sức công đức của Phật mà thành tựu, do Tánh Đức và Tu Đức của Phật cùng lúc trọn đủ hồi thí, là pháp giống hệt như ông trưởng giả để lại gia sản cho con [trong kinh Pháp Hoa], chẳng nhờ vào phương tiện, tự nhiên trọn đủ. Đó là giáo pháp được hồi thí từ quả địa.

          Trong giới pháp tam thừa, giáo pháp cuối cùng dùng thệ nguyện để thủ hộ, như giáo ngôn Tịnh Độ dùng thệ nguyện của A Di Đà Phật để nhiếp hóa mười phương hữu t́nh, khiến cho họ tùy thuận Phật nguyện mà được giải thoát. Đấy là dùng tam-muội-da giới làm công đức chân thật, dùng chuyện lợi ích rộng khắp hữu t́nh làm giới pháp. V́ thế, trong tam tụ giới có Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới. Có nhiều người niệm Phật lấy Phật nguyện làm sanh mạng của chính ḿnh, người như thế thật sự là người thủ hộ tam-muội-da. Người ấy có thể yêu mến thế gian, chẳng xả hết thảy chúng sanh khổ năo, hồi hướng làm đầu. “Đầu” là như thế nào? Tức là chọn lựa một pháp tắc thanh tịnh như thế ḥng làm cho hết thảy chúng sanh thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề ngay trong thân hiện tại. Chuyện chẳng thể nghĩ bàn rất sâu như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể đích thân tuyên nói, hết thảy hữu t́nh tùy thuận lời tuyên giảng của đức Phật mà đạt được công đức và lợi ích, và cũng có thể tiến nhập pháp thiện xảo ấy!

          Đối với Tam Tụ Tịnh Giới trên đây, kinh nói “tŕ thanh tịnh giới hạnh” (giữ giới hạnh thanh tịnh) ngụ ư nói đến Tam Tụ Giới ấy. Kế đó, “bất khuyết giới hạnh”, “bất nhiễm giới hạnh”, “bất ô giới hạnh” v.v… chính là nói theo kiểu chia chẻ giới hạnh tỉ mỉ, v́ đối với mỗi điều giới đều nói lớn, nhỏ, nặng, nhẹ, và cũng nói thong thả hay cấp bách. [Để hiểu rơ những điều ấy], chẳng thể chỉ tốn công một ngày là được. Do thời gian hạn chế, chúng ta có thể học tập sau này. Ở đây, chỉ nghe danh tướng th́ cũng là phương tiện. Ở chỗ này, nhắc đến giới pháp tam thừa cũng là v́ muốn khiến cho mọi người liễu giải Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, sẽ thật sự thủ hộ sự tu tŕ thệ nguyện. Nếu chúng ta chẳng thủ hộ thệ nguyện, mà muốn nhập pháp tắc như vậy, muốn đạt được lợi ích như vậy, muốn khiến cho mười phương chư Phật thảy đều hiện tiền, muốn đối diện chư Phật để nghe pháp, muốn cho tâm trí tâm khai ư giải, sẽ không thể thành tựu được! V́ [những điều] muốn “khiến cho” như thế, quả thật là điều mà tam-muội cùng thủ hộ. Tam-muội do ǵ mà được thành tựu? Nương theo thệ nguyện để an lập căn bản. V́ thế có cái được gọi là “tam-muội-da thệ nguyện”. Đối với điều này, có nhiều chúng sanh tuy tu pháp mà chẳng biết!

          Do vậy, tam-muội cũng được dẫn phát từ sự thủ hộ giới luật. V́ thế, tỳ-kheo thọ giới phải nên lập thệ nguyện. Bồ Tát thọ giới cũng nên lập thệ nguyện. Thệ nguyện tam-muội-da giới lợi lạc trọn khắp hữu t́nh bất quá chỉ là danh xưng đơn giản đó thôi. Tuy là như thế, vẫn lập thệ nguyện. Chúng ta muốn đạt được công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền th́ cũng phải nên thủ hộ thệ nguyện. “Thanh tịnh giới hạnh” cũng lại giống như thế!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bỉ xuất gia Bồ Tát vân hà đương đắc thanh tịnh giới hạnh? Năi chí vân hà đương đắc thánh sở ái kính giới hạnh dă? Hiền Hộ! Bỉ xuất gia Bồ Tát ưng đương y bỉ Ba La Đề Mộc Xoa, thành tựu oai nghi, thành tựu chúng hạnh, năi chí thành tựu vi trần số đẳng giới hạnh.

          ()賢護。彼出家菩薩云何當得清淨戒行。乃至云何當得聖所愛敬戒行也。賢護。彼出家菩薩。應當依彼波羅提木叉。成就威儀。成就衆行。乃至成就微塵數等戒行。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Vị xuất gia Bồ Tát ấy như thế nào th́ sẽ đạt được giới hạnh thanh tịnh? Cho đến như thế nào th́ sẽ đắc giới hạnh được bậc thánh kính yêu? Này Hiền Hộ! Vị xuất gia Bồ Tát ấy hăy nên nương theo Ba La Đề Mộc Xoa để thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh, cho đến thành tựu các giới hạnh số lượng nhiều như vi trần).

 

          Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimokṣa) được nhắc tới ở đây chính là Bảo Giải Thoát Giới (保解脫戒, giới bảo vệ sự giải thoát). Trong Thanh Văn Thừa, Ba La Đề Mộc Xoa rất trân quư, được hàng Thanh Văn thủ hộ, được người có cuộc sống trọn đủ các thứ phước đức thù thắng trong cuộc đời lắm tỳ vết [trên thế gian này] thủ hộ. Trong quá khứ, bậc xuất gia sa-môn rất khó có, v́ sao? Phải vượt qua đủ mọi thứ ngăn trở th́ mới có thể tiến nhập pháp tắc xuất gia, lănh thọ giới giáo thanh tịnh của hàng xuất gia. Cho đến thủ hộ đủ loại oai nghi, tức cái được gọi là giáo ngôn Ba La Đề Mộc Xoa. Ba La Đề Mộc Xoa là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Các Cá Bảo Giải Thoát (các điều bảo vệ sự giải thoát), chính là giáo ngôn thanh tịnh trân bảo do đức Thế Tôn ban cho hàng xuất gia, mà cũng là giáo ngôn bí mật, khiến cho hết thảy người xuất gia biết lư do, biết duyên do, biết cái nhân gây nên phạm giới, biết cái quả do phạm giới, biết nhân, biết quả, biết sự chuyển đổi giữa nhân và quả. V́ thế, biết là phạm giới bèn biết sám hối. Công đức và nội dung của Ba La Đề Mộc Xoa chỉ có Phật và Phật mới đích thân biết; bởi lẽ, nó do đức Phật đích thân chế định, do đức Phật đích thân tuyên nói, được hết thảy hàng xuất gia yêu thích, thủ hộ. Ba La Đề Mộc Xoa rất sâu, chẳng thể nghĩ bàn! Nếu ai siêng gắng, sốt sắng thủ hộ, tu tập, người ấy sẽ là tṛng mắt của trời người, là người đáng được tam giới cúng dường.

          “Thành tựu oai nghi, thành tựu chúng hạnh” (Thành tựu oai nghi, thành tựu các hạnh): “Oai nghi” thuộc vào trong Oai Nghi Giới, được biểu hiện qua bảy chi nơi thân và miệng. “Chúng hạnh” (các hạnh) thuộc về Thiện Pháp Giới, tức là thiện pháp ứng trong hết thảy mọi nơi, tịnh hóa thế gian.

          “Năi chí thành tựu vi trần số đẳng giới hạnh” (Cho đến thành tựu các giới hạnh có số lượng nhiều như vi trần): Giới hạnh ấy chính là giới hạnh trọn khắp. Nếu có các vị xuất gia Bồ Tát thọ nhận giới pháp thanh tịnh, đạt được giới thể thanh tịnh, trọn khắp hết thảy mọi nơi chẳng giết, chẳng trộm, chẳng nói dối, chẳng dâm, chẳng uống rượu, cho đến trong các thứ pháp tắc mà đều thủ hộ mỗi pháp tắc, chẳng rối loạn lẫn nhau, chân thật chẳng dối. Đó là giới đức thanh tịnh.

 

          (Kinh) Kiến dĩ kinh bố, thanh tịnh hoạt mạng, ư chư giới trung, đương niệm thành tựu.

          ()見已驚怖。清淨活命。於諸戒中。當念成就。

          (Kinh: Thấy rồi kinh sợ, sống đời thanh tịnh. Trong các giới sẽ mong thành tựu).

 

          Giới là căn bản của Vô Thượng Bồ Đề. Tuy mỗi thừa trong tam thừa đều thủ hộ, chẳng lầm loạn lẫn nhau, nhưng chẳng thể đánh mất cái gốc “tạo lợi ích rộng lớn cho chúng sanh”. Đối với Giới, phải nên dấy ḷng thủ hộ, yêu thích thủ hộ. Nếu buông lung th́ sẽ là phá giới. Nếu đă buông lung, chính là đă nhuốm bẩn giới, làm ô uế giới. V́ sao? Nó sẽ nhanh chóng khiến cho giới đức tán hoại, giới thể phần nhiều bị ô nhiễm, phần nhiều chẳng được thế gian yêu chuộng, chẳng thể khiến cho chánh pháp trụ thế. Tỳ Ni (Vinaya, giới luật) có thể trụ thế, tức là Phật pháp trụ thế. V́ vậy, đức Thế Tôn căn dặn hữu t́nh trong thế gian: “Sau khi ta diệt độ, hăy lấy Giới làm thầy”.

 

          (Kinh) Ưng tín thậm thâm bất đắc trước Nhẫn, ư Không, vô tướng, vô nguyện chư pháp trung, văn thuyết chi thời, tâm bất kinh bố, vô hữu hối một.

          ()應信甚深不得着忍。於空無相無願諸法中。聞說之時。心不驚怖。無有悔沒。

          (Kinh: Hăy nên tin rất sâu, đừng chấp trước Nhẫn. Đối với các pháp Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, khi nghe nói, tâm chẳng kinh sợ, chẳng hối hận, lui sụt).

 

          Đối với ba pháp tắc thuộc về Tam Giải Thoát là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, đều rốt ráo yêu mến. “Không” là hết thảy các pháp tắc thế gian và pháp tắc xuất thế gian đều rốt cuộc là chẳng có ǵ để có thể đạt được, v́ bổn tánh của chúng là Không. Do nhận biết bản tánh vốn là Không, tự nhiên ĺa bỏ hết thảy các nguyện, cho nên hết thảy thế gian hay xuất thế gian, hết thảy phương tiện thiện xảo đồng thời tán hoại. V́ sao tán hoại? Do vốn chẳng tạo tác. Từ trong Không, Vô Tướng, Vô Nguyện mà an trụ thanh tịnh. Đó là đạt được thành tựu trong giải thoát môn. Các vị sa-môn xuất gia ắt phải nên thủ hộ pháp giải thoát môn. Nếu không, ắt sẽ bị nhiều thứ phiền năo xâm hại.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên, bỉ xuất gia Bồ Tát thành tựu như thị thanh tịnh giới hạnh, bất kiến giới hạnh, bất trước giới hạnh, năi chí thành tựu thánh sở ái kính giới hạnh dă.

          ()賢護。以是因緣。彼出家菩薩。成就如是清淨戒行。不見戒行。不著戒行。乃至成就聖所愛敬戒行也。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, vị xuất gia Bồ Tát ấy thành tựu giới hạnh thanh tịnh, giới hạnh chẳng thấy, giới hạnh chẳng chấp trước, cho đến thành tựu giới hạnh được bậc thánh yêu kính như thế).

 

          Khi hết thảy Bồ Tát tŕ giới, chẳng thấy giới, chẳng thấy tŕ giới, chẳng thấy phạm giới, trong lúc như thế, quang minh nơi tâm cảnh và vô lậu giới thể chân thật an trụ, vô trước giới thể thật sự thành tựu, vô vi giới thể chân thật lợi ích thế gian. Như thế th́ các thứ giới pháp thanh tịnh chẳng có người tŕ, chẳng có kẻ phạm, thủ hộ thanh tịnh, tŕ giới thanh tịnh. Tŕ giới thanh tịnh là chẳng có tri kiến chính ḿnh đang phạm giới hay tŕ giới. V́ thế, tôn trọng hết thảy, đối với người tŕ giới chẳng kính, đối với kẻ phạm giới chẳng sân. Thủ hộ giới pháp chân thật như thế, khiến cho chánh pháp trụ thế, tịnh hóa thế gian.

          Có nhiều chúng sanh dùng cái tâm yêu ghét để tŕ giới, dùng cái tâm ô nhiễm để tŕ giới, dùng cái tâm hữu sở đắc (có điều ǵ đó để đạt được) để tŕ giới. Đó chính là phạm giới. Trong phần văn tự ở phía sau, đức Thế Tôn có đă tuyên thuyết thanh tịnh. V́ sao tư duy của hết thảy phàm phu chẳng tương ứng với tư duy của đức Thế Tôn? V́ cái tâm của chúng sanh đắm nhiễm. Thấy các giới hạnh, các giới hạnh ô trược, các giới hạnh bại hoại, các giới hạnh nhuốm bẩn, bèn cho là ta có giới để tŕ, cho là kẻ khác phạm giới. Loại hữu t́nh ấy phần nhiều sẽ tu tŕ và huân tập theo kiểu “khen ḿnh, báng người”, sẽ mắc hại. V́ sao? Do tâm kiêu mạn, do tâm ô nhiễm, do tâm bất tịnh, do tâm hữu lậu, do tâm có nhiều đối đăi, do tâm trí sanh diệt. Chư Phật Như Lai tuyên nói giáo hóa thanh tịnh, giới đức thanh tịnh, thị hiện thanh tịnh cho hết thảy chúng sanh, xa ĺa đối đăi.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Bỉ xuất gia Bồ Tát, vân hà đắc hữu như thị bất thanh tịnh giới hạnh, khuyết giới hạnh, nhiễm trước giới hạnh, ô giới hạnh, y ỷ giới hạnh, trí sở ha hủy giới hạnh, thánh sở bất ái giới hạnh dă?

          ()爾時賢護菩薩復白佛言。世尊。彼出家菩薩。云何得有如是不清淨戒行。缺戒行。染著戒行。污戒行。依倚戒行。智所訶毀戒行。聖所不愛戒行也。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! V́ sao vị xuất gia Bồ Tát ấy có giới hạnh chẳng thanh tịnh, giới hạnh thiếu khuyết, giới hạnh đắm nhiễm, giới hạnh ô uế, giới hạnh dựa dẫm, giới hạnh bị bậc trí quở trách, chê bai, giới hạnh chẳng được bậc thánh mến chuộng như thế?)

 

          Hiền Hộ Bồ Tát v́ muốn hộ tŕ Phật pháp trụ thế, muốn thay cho các vị thiện tri thức xuất gia trong thời Mạt Pháp thưa hỏi các pháp tắc, khiến cho hết thảy hàng xuất gia sẽ thủ hộ giới pháp thanh tịnh, cho nên đặt ra câu hỏi này.

 

          (Kinh) Phật cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Nhược hữu xuất gia Bồ Tát thủ trước Sắc, thọ tŕ cấm giới, tu ư phạm hạnh.

          ()佛告賢護菩薩言。賢護。若有出家菩薩。取著色。受持禁戒。修於梵行。
          (Kinh: Đức Phật bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Nếu có xuất gia Bồ Tát chấp giữ Sắc, thọ tŕ cấm giới, tu tập phạm hạnh).

 

          Đối với cái gọi là Sắc, dù phạm, hay chẳng phạm, dù thiện hay ác, dù đúng hay sai, dù tốt hay xấu, đủ thứ như thế đều là đối với pháp mà sanh khởi.

 

          (Kinh) Như thị thủ trước Thọ, thủ trước Tưởng, thủ trước Hành, thủ trước Thức, thọ tŕ cấm giới, tu hành phạm hạnh. Tu hành dĩ, tác như thị niệm: Ngă kim như thị tŕ giới, như thị khổ hạnh, như thị tu học, như thị phạm hạnh, nguyện ngă vị lai, đắc sanh thiên thượng, hoặc sanh nhân gian, tự tại hữu sanh, thọ chư quả báo. Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên, bỉ xuất gia Bồ Tát thành tựu như thị bất thanh tịnh giới, năi chí thánh giả sở bất ái giới. Thị vị vi cầu hữu cố, vi hữu sanh cố, vi thọ dục quả cố, vi sanh xứ sở cố.

          ()如是取著受。取著想。取著行。取著識。受持禁戒。修行梵行。修行已。作如是念。我今如是持戒。如是苦行。如是修學。如是梵行。願我未來。得生天上。或生人間。自在有生。受諸果報。賢護。以是因緣。彼出家菩薩。成就如是不清淨戒。乃至聖者所不愛戒。是謂爲求有故。爲有生故。爲受欲果故。爲生處所故。

          (Kinh: Chấp giữ Thọ, chấp giữ Tưởng, chấp giữ Hành, chấp giữ Thức như thế. Thọ tŕ cấm giới, tu hành phạm hạnh. Đă tu hành bèn nghĩ như thế này: Ta nay tŕ giới như thế, khổ hạnh như thế, tu học như thế, phạm hạnh như thế, nguyện trong tương lai, ta được sanh lên trời, hoặc sanh trong nhân gian, tự tại tái sanh, thọ các quả báo. Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, vị xuất gia Bồ Tát ấy thành tựu giới chẳng thanh tịnh, cho đến giới chẳng được thánh nhân yêu mến như thế. Đó là v́ cầu hậu hữu (thân trong đời sau), v́ có sanh, v́ nhận lănh cái quả trong cơi Dục, v́ cầu chỗ sẽ sanh về).

         

          Trước đó, đă có các thứ đắm nhiễm ấy; sau đó, tất nhiên sẽ có các thứ phát tâm ấy. Do cái tâm đắm nhiễm, ắt tạo nghiệp ấy. Tuy siêng ṛng tu tŕ, nhưng v́ cầu báo trong đời sau, đó chính là cái hạnh ô nhiễm. Xét theo giới pháp và giáo pháp nhà Phật, đấy là kẻ phạm giới. V́ sao? Chư Phật Như Lai xuất thế, chẳng v́ tăng trưởng mạnh mẽ thế gian, chẳng v́ tổn giảm thế gian, chỉ v́ khiến cho chúng sanh trong thế gian xuất ly thế gian, v́ lợi ích thế gian. Nếu chúng ta dùng cái tâm thế tục để tư duy Phật pháp, sẽ có nhiều hạnh ô nhiễm, có hạnh muốn cầu thân thể trong đời sau. Nếu người tŕ giới tham cầu lợi ích do tŕ giới, người tu khổ hạnh tham cầu quả báo vui sướng trong đời vị lai, người như thế bị đức Thế Tôn gọi là “mầm cháy, hạt lép”, chẳng phải là bậc chánh hạnh!

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Thị cố bỉ xuất gia Bồ Tát, niệm dục thuyết thử tam-muội, tư thử tam-muội giả, yếu đương tiên cụ thanh tịnh giới hạnh, năi chí thành tựu thánh sở ái giới.

          ()賢護。是故彼出家菩薩。念欲說此三昧。思此三昧者。要當先具清淨戒行。乃至成就聖所愛戒。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! V́ thế, vị xuất gia Bồ Tát ấy nghĩ muốn nói tam-muội này, suy nghĩ tam-muội này, trước hết, phải nên trọn đủ giới hạnh thanh tịnh, cho đến thành tựu giới được thánh nhân yêu mến).

 

          Kinh văn đă dùng hai hạnh đúng pháp và phi pháp để so sánh, khiến cho chúng ta chọn lựa hạnh như pháp, bỏ đi hạnh phi pháp.

 

          (Kinh) Diệc niệm thường hành Đàn Ba La Mật, sở vị tối thắng thí, chư pháp thí, thượng thí, diệu thí, vi diệu thí, tinh diệu thí, vô thượng thí.

          ()亦念常行檀波羅蜜。所謂最勝施諸法施上施妙施微妙施精妙施無上施。

          (Kinh: Cũng muốn thường hành Đàn Ba La Mật, như là tối thắng thí, chư pháp thí, thượng thí, diệu thí, vi diệu thí, tinh diệu thí, vô thượng thí).

 

          “Tối thắng thí” là bố thí giáo ngôn Đệ Nhất Nghĩa Đế thù thắng nhất. “Chư pháp thí” là đối với các hữu t́nh hữu duyên bèn tùy cơ thí pháp, khiến cho họ trừ các nghi hoặc, thành tựu Bồ Đề. “Thượng thí”, “diệu thí”, “vi diệu thí” chính là tăng thượng thí pháp, cho đến nói các giáo ngôn theo thứ tự, khiến cho chúng sanh rốt ráo yêu mến. “Tinh diệu thí”, “vô thượng thí” nhằm dẫn dắt chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. “Thí” là các loại giáo pháp hồi thí Vô Thượng Bồ Đề. V́ thế nói là hoặc dùng Tài Bố Thí để hướng dẫn chúng sanh, hoặc dùng Pháp Bố Thí để hướng dẫn chúng sanh, hoặc dùng Vô Úy Bố Thí để hướng dẫn chúng sanh, mục đích duy nhất là muốn khiến cho chúng sanh thành tựu Vô Thượng Bồ Đề.

 

          (Kinh) Diệc thường dũng mănh, tinh tấn bất hưu, bất xả trọng đảm.

          ()亦常勇猛。精進不休。不捨重擔。

          (Kinh: Cũng thường dũng mănh, tinh tấn chẳng ngơi, chẳng bỏ gánh nặng).

 

          Hết thảy hiền thánh, người trí đă chứng đắc Bồ Đề tâm phần, Bồ Đề nghiệp phần, ĺa bỏ gánh nặng. Cái được gọi là “gánh nặng” chính là gánh nặng luân hồi, gánh nặng phiền năo. Ở đây, hiền thánh và người trí chia sẻ gánh nặng của chúng sanh, lợi ích rộng khắp hữu t́nh, dùng Đồng Sự để tu tŕ v́ yêu mến hữu t́nh trong thế gian.

 

          (Kinh) Bất vong chánh niệm, thường hành nhất tâm, chánh tín thanh tịnh, vô hữu tật đố, bất trước thế gian lợi dưỡng, danh văn, như pháp sách cầu, dĩ tế h́nh mạng, hằng hành khất thực, bất thọ biệt thỉnh.

          ()不忘正念。常行一心。正信清淨。無有嫉妒。不着世間利養名聞。如法索求。以濟形命。恆行乞食。不受別請。

          (Kinh: Chẳng quên chánh niệm, thường hành nhất tâm, chánh tín thanh tịnh, chẳng có ghen tỵ, chẳng chấp trước lợi dưỡng và tiếng tăm thế gian, đúng như pháp t́m cầu để duy tŕ thân mạng, luôn hành khất thực, chẳng nhận lời thỉnh riêng).

 

          Thuở đức Thế Tôn tại thế, có cho phép [các tỳ-kheo] nhận lời thỉnh cúng dường riêng, và cũng có pháp Đầu Đà chẳng chấp nhận biệt thỉnh, như tôn giả Ca Diếp tùy thời khất thực, chẳng tiếp nhận biệt thỉnh.

 

          (Kinh) Yếm ly nhân gian, nhạo A Lan Nhă.

          ()厭離人間。樂阿蘭若。

          (Kinh: Chán ĺa nhân gian, thích chốn tịch tĩnh).

 

          Pháp chán ĺa và pháp xuất ly tuy có sai biệt, nhưng chán ĺa chính là thiện xảo và cơ sở để xuất ly. Nếu chẳng có cái tâm chán ĺa xuất ly, sẽ rất khó thành tựu. Nói “xuất ly” tức là chẳng đối đăi, xa ĺa trần nhiễm của thế gian. Muốn thành tựu cái tâm xuất ly ấy th́ chán ĺa chính là phương tiện.

 

          (Kinh) Tôn sùng thánh chủng, kính sự Đầu Đà, tức thế ngữ ngôn, đản luận xuất thế, xử chúng tĩnh mặc, giả ngôn bất đa, thường kính ư tha, bất cảm khinh mạn.

          ()尊崇聖種。敬事頭陀。息世語言。但論出世。處衆靜默。假言不多。常敬於他。不敢輕慢。

          (Kinh: Tôn sùng gịng thánh, vâng giữ hạnh Đầu Đà, dứt bặt ngôn luận thế gian, chỉ luận đàm xuất thế, ở trong đại chúng mà yên lặng, ít nói, kiệm lời, thường kính trọng người khác, chẳng dám khinh mạn).

 

          Những điều này đều thật sự khiến cho chúng ta đúng như thật quán chiếu hành vi của chính ḿnh, là giáo pháp trực tiếp nhất để kiểm điểm hành vi của chính ḿnh.

 

          (Kinh) Ư nhất thiết thời, thường hành tàm quư.

          ()於一切時。常行慚愧。

          (Kinh: Trong hết thảy các thời, thường giữ ḷng hổ thẹn).

 

          Chúng ta đều biết: Trong Tùy Phiền Năo th́ Vô Tàm, Vô Quư, Phóng Dật, và Giải Đăi là thượng phẩm Tùy Phiền Năo. Hữu t́nh trong đời Mạt Pháp phần nhiều chẳng hổ thẹn, đối với pháp tánh phần nhiều giải ngộ, bèn ngỡ là đă chứng. V́ thế, đối với giáo ngôn của Như Lai, bèn dùng kiến giải của chính ḿnh, phần nhiều tạo thành tà kiến, tà tri. Thật ra là kiêu mạn, chẳng hiểu biết ǵ!

 

          (Kinh) Hữu ân tất tri, tri ân tất báo.

          ()有恩必知。知恩必報。

          (Kinh: Có ân ắt biết, biết ân ắt báo).

 

          Trên báo bốn trọng ân, hết thảy chúng xuất gia đều được bốn trọng ân thâu nhiếp. Đức Phật dạy bảo chúng ta, cho nên có Phật ân. Sư trưởng dạy bảo chúng ta, bèn có ân sư trưởng. Quốc độ chuyên chở chúng ta, cho nên có ân chuyên chở. Đối với các loại ân, hễ đă biết, sẽ chẳng thể quên: Hết thảy đàn-na hữu t́nh (thí chủ) như mẹ, dưỡng dục chúng ta. Chúng ta “tri ân tất báo” (biết ân, ắt báo) như thế nào?

 

          (Kinh) Ư thiện tri thức, thường niệm thân cận.

          ()於善知識。常念親近。

          (Kinh: Đối với thiện tri thức, thường nghĩ thân cận).

 

          Chẳng giải đăi.

 

          (Kinh) Chư sư tôn sở, cẩn sự vô vi.

          ()諸師尊所。謹事無違。

          (Kinh: Đối với các bậc sư tôn, kính cẩn phụng sự, chẳng trái nghịch).

 

          Hàng xuất gia đối với chỗ thọ giáo phải nên cẩn thận, chớ nên chống trái. Thật sự là rèn luyện cái tâm cung kính và tâm cảm ơn của chính ḿnh. Ở đây, chỉ có sự Tự Thọ Dụng được hiển hiện, các duyên khác chỉ là trợ duyên. Cho nên hết thảy thiện tri thức là tăng thượng trợ duyên.

 

          (Kinh) Nhược văn như thị thậm thâm kinh điển, chuyên tâm thính thọ, chung vô b́ yếm. Ư pháp sư sở, khởi từ phụ tâm, thiện tri thức tâm, năi chí sanh ư chư Như Lai tưởng.

          ()若聞如是甚深經典。專心聽受。終無疲厭。於法師所。起慈父心。善知識心。乃至生於諸如來想。

          (Kinh: Nếu nghe kinh điển rất sâu như thế, chuyên tâm nghe nhận, trọn chẳng mệt chán. Đối với pháp sư, khởi tâm tưởng như cha lành, tâm coi như thiện tri thức, cho đến sanh tâm coi họ như các đức Như Lai).

 

          Tưởng như thế chính là chánh tư duy thiện xảo. Trong giáo ngôn của đức Thế Tôn, nhất là trong kinh Địa Tạng, đă ghi chép khá nhiều câu chuyện: Có nhiều hữu t́nh trong thế tục vốn nhiều thiện căn, do gặp gỡ phàm phu tăng mà thành tựu thánh quả, cũng có nghĩa là nhờ vào ngoại duyên, tuy [các vị tăng ấy] chẳng phải là thánh nhân, nhưng cũng có thể khiến cho họ thành tựu. Huống hồ được gặp vị thầy có thể nương theo pháp mà truyền đạt, nương theo pháp để trao đổi ư? V́ thế, nếu đối với thầy mà sanh tâm tưởng thầy như là Như Lai, quả thật là diệu dụng nơi tự thân.

 

          (Kinh) Dĩ vi như thị vi diệu pháp cố, thành tựu Vô Thượng Đại Bồ Đề cố, chuyển tăng ái kính, tôn trọng tâm cố.

          ()以爲如是微妙法故。成就無上大菩提故。轉增愛敬尊重心故。

          (Kinh: Do v́ diệu pháp như thế, v́ thành tựu Vô Thượng Đại Bồ Đề, v́ càng tăng thêm ḷng yêu kính, ḷng tôn trọng).

 

           Cái tâm tôn trọng thật sự chẳng phải là quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng trong, chẳng ngoài, chẳng tự, chẳng tha, chỉ dựa theo cái tâm chân thật, cung kính, mà có thể cầu hết thảy các pháp, thành tựu hết thảy các thiện xảo. V́ thế, trong Câu Xá Luận, Thiên Thân Bồ Tát đă đề ra bốn pháp tu, tức là cung kính tu, vô gián tu (tu chẳng gián đoạn), vô nhiễm tu, tất mạng tu (畢命修, tu cho đến hết đời). Trong đó, cung kính tu chính là pháp tu hàng đầu, là pháp tắc trọng yếu đứng đầu. Nếu chúng ta chẳng biết cung kính, phần nhiều sẽ chẳng đạt được pháp ích, chẳng tăng trưởng thiện căn, tâm trí bế tắc. Hữu t́nh thời Mạt Pháp do ư thức cưỡng chấp, bế tắc, phần nhiều tự phụ là đă tự chứng, tự cho là đúng, cũng có lắm kẻ ngỡ ḿnh là quư báu, xâm phạm lẫn nhau, hứng chịu nhiều họa hại. Học Phật mà nếu chỉ tăng thêm tri kiến, kẻ đó sẽ đọa lạc v́ chẳng có pháp hạnh. Chúng ta phải nương theo pháp để hành, chớ nên chỉ tăng thêm tri kiến. Như thế th́ sẽ khéo đạt được pháp ích, khéo thủ hộ pháp tắc. Nhưng trong thời đại này, chúng ta trao đổi văn tự, trao đổi h́nh ảnh, trao đổi pháp tắc hết sức thuận tiện, nhưng kẻ nghe pháp rất nhiều, người hành tŕ thật ít! Kết quả là do đa văn mà tăng thượng mạn, do đa văn mà bế tắc tự tâm, do đa văn mà độc hại cả ḿnh lẫn người, tức là nghe mà chẳng hành, dẫu nghe mà chẳng biết, nghe xong tăng thêm tà mạn. Nghe xong rồi dùng ư riêng để lư giải, tức là cho rằng kiến giải của chính ḿnh là chánh xác, đâm ra bế tắc tự tâm, chẳng thể đắc vô ngại trí, đối với pháp tắc thanh tịnh, chẳng thể đích thân chứng đắc, tu tập. V́ thế, bị nhiều họa hại bởi tri kiến. Đó là cộng nghiệp của đời Mạt Pháp khiến thành ra như thế.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát hoặc thời chí ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị thậm thâm kinh pháp, bỉ pháp sư sở vô ái kính tâm, vô tôn trọng tâm, bất sanh từ phụ tưởng, bất sanh thiện tri thức tưởng, bất sanh chư Phật tưởng, bất sanh giáo sư tưởng, bất năng thân cận, thừa sự, cúng dường, tùy ư hà sở, văn thị kinh điển, đương tri thị nhân bất năng thính thọ, thư tả, giải thuyết, linh pháp cửu trụ. Như thị chi nhân, nhược năng thính thọ, nhược năng thư tả, nhược năng giải thuyết, linh pháp cửu trụ, vô hữu thị xứ!

          ()復次賢護。若彼菩薩或時至於聲聞人所。聞說如是甚深經法。彼法師所。無愛敬心。無尊重心。不生慈父想。不生善知識想。不生諸佛想。不生教師想。不能親近承事供養。隨於何所。聞是經典。當知是人。不能聽受。書寫解說。令法久住。如是之人。若能聽受。若能書寫。若能解說。令法久住。無有是處。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu vị Bồ Tát ấy hoặc có lúc đến chỗ của hàng Thanh Văn, nghe nói kinh pháp rất sâu như thế, đối với vị pháp sư ấy chẳng có tâm yêu kính, chẳng có tâm tôn trọng, chẳng sanh ư tưởng như cha lành, chẳng tưởng là thiện tri thức, chẳng sanh tâm tưởng như chư Phật, chẳng sanh tâm tưởng như thầy dạy, chẳng thể thân cận, thừa sự, cúng dường, ở nơi đó được nghe kinh điển ấy. Hăy nên biết người ấy chẳng thể nghe nhận, biên chép, giải nói, khiến cho pháp tồn tại lâu dài. Người như thế, nếu có thể nghe nhận, nếu có thể biên chép, nếu có thể giải nói, khiến cho pháp tồn tại lâu dài th́ chẳng có lẽ ấy!)

 

          Ở đây, đức Thế Tôn đă nêu bày hai loại pháp hạnh: Một là phi pháp hạnh, hai là như pháp hạnh, để chúng ta quan sát, chọn lựa.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát, hoặc phục chí ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị tăng thượng diệu pháp, bất sanh ái kính tâm, bất sanh tôn trọng tâm, năi chí bất sanh chư Phật tưởng, bất năng tận tâm thân cận, cúng dường giả, nhược năng độc tụng, nhược năng thọ tŕ, nhược năng giải thuyết, linh thị kinh điển bất tốc diệt giả, vô hữu thị xứ! Hà dĩ cố? Dĩ bất tôn trọng thị kinh điển cố. Thị cố tư pháp, bất cửu tất diệt.

          ()復次賢護。若彼菩薩。或復至於聲聞人所。聞說如是增上妙法。不生愛敬心。不生尊重心。乃至不生諸佛想。不能盡心親近供養者。若能讀誦。若能受持。若能解說。令是經典不速滅者。無有是處。何以故。以不尊重是經典故。是故斯法不久必滅。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát ấy lại đến chỗ của hàng Thanh Văn. nghe nói diệu pháp tăng thượng như thế, chẳng sanh tâm kính yêu, chẳng sanh tâm tôn trọng, cho đến chẳng sanh tâm tưởng như Phật, chẳng thể trọn hết tâm lực thân cận, cúng dường, mà nếu có thể đọc tụng, nếu có thể thọ tŕ, nếu có thể giải nói, khiến cho kinh điển ấy chẳng bị mau chóng diệt mất, chẳng có lẽ ấy! V́ sao vậy? Do chẳng tôn trọng kinh điển ấy. V́ thế, pháp ấy chẳng lâu sau ắt bị diệt mất).

 

          Chúng ta là kẻ diệt pháp, hay là kẻ khiến cho pháp được lưu truyền lâu dài trong cơi đời? Hoàn toàn do chúng ta có thể nghe pháp chánh hành hay không? Tức là nghe pháp rồi bèn y pháp hành tŕ.

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát hoặc phục chí ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị vi diệu kinh điển, sanh ái kính tâm, sanh tôn trọng tâm, cập khởi giáo sư tưởng, chư Như Lai tưởng, thân thừa cúng dường, tức năng thính thọ, diệc năng thư tả, phục năng giải thuyết, năng linh thị kinh cửu trụ lợi ích, tư hữu thị xứ.

          ()復次賢護。若彼菩薩。或復至於聲聞人所。聞說如是微妙經典。生愛敬心。生尊重心。及起教師想。諸如來想。親承供養。即能聽受。亦能書寫。復能解說。能令是經久住利益。斯有是處。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu vị Bồ Tát ấy đến chỗ hàng Thanh Văn, nghe nói kinh điển vi diệu như thế, sanh ḷng yêu kính, sanh tâm tôn trọng, và tưởng như giáo sư, tưởng như các Như Lai, đích thân, thừa sự, cúng dường, liền có thể nghe nhận, cũng có thể biên chép, lại có thể giải nói, sẽ có thể khiến cho kinh này tồn tại lâu dài, lợi ích, ắt có lẽ ấy).

 

          Ở đây, hướng dẫn cho chúng ta thủ hộ như thế, tu tập như thế, yêu mến pháp tắc này như thế. Tất cả những lời tuyên giảng của đức Phật dùng hai loại như pháp và phi pháp để tuyên nói, khiến cho chúng ta được thấy, được nghe, có thể vận dụng. Do vậy, phương tiện của đức Thế Tôn rất thiện xảo, nêu bày thanh tịnh đúng pháp và phi pháp [là như thế nào]. Trong khi chúng ta học tập, lựa chọn, phải nên nhận thức rơ ràng đúng pháp và phi pháp. Các chúng sanh tri kiến hỗn loạn, ngỡ phi pháp là đúng pháp, cho nên tuy hành pháp mà chẳng đạt được lợi ích, phần nhiều mắc hại. Nếu chúng ta quan sát tỉ mỉ, [sẽ thấy] phần nhiều là hành pháp chẳng đúng pháp như thế đó, dùng pháp ô nhiễm để hành tŕ giới pháp, dùng cái tâm ô nhiễm để hành pháp. Do vậy, phần nhiều chẳng tương ứng!

 

          (Kinh) Phục thứ Hiền Hộ! Nhược bỉ Bồ Tát phục ư Thanh Văn nhân sở, văn thuyết như thị vi diệu kinh điển, tức ư bỉ sở, sanh tôn trọng tâm, như chư Phật tưởng, thân cận, thừa sự, cung kính cúng dường giả, như thị chi nhân, tuy vị tu học như thị kinh điển, tức vi tu tập. Tuy vị giải thích, tức vi giải thuyết, linh thị diệu pháp cửu trụ thế gian, bất hủy, bất diệt, tư hữu thị xứ.

          ()復次賢護。若彼菩薩。復於聲聞人所。聞說如是微妙經典。即於彼所。生尊重心。如諸佛想。親近承事。恭敬供養者。如是之人。雖未修學如是經典。即爲修習。雖未解釋即爲解說。令是妙法久住世間。不毀不滅。斯有是處。

          (Kinh: Lại này Hiền Hộ! Nếu Bồ Tát ấy lại ở chỗ hàng Thanh Văn, nghe nói kinh điển vi diệu như thế, liền đối với người đó, sanh tâm tôn trọng, tưởng như chư Phật, thân cận, thừa sự, cung kính cúng dường, người như vậy tuy chưa tu học kinh điển như thế, mà chính là tu tập. Tuy chưa giải thích, mà chính là giải nói, khiến cho diệu pháp ấy tồn tại lâu dài trong thế gian, chẳng hủy, chẳng diệt. Có lẽ như thế ấy!)

 

          Ở đây, phải nên thủ hộ. V́ sao đức Thế Tôn phải giảng hai thứ pháp tắc đúng pháp và phi pháp, hai thứ pháp tắc hợp lẽ và chẳng hợp lẽ cặn kẽ như thế? V́ muốn khiến cho chúng ta đối với tự tâm đừng tự phụ, đừng tự phụ kiến giải của chính ḿnh. [Nếu tự phụ] như thế, sẽ chẳng tương ứng với pháp, phần nhiều sẽ hứng nhận các pháp ủy khuất, mê muội! Có nhiều chúng sanh siêng khổ hành phi pháp, đúng là kẻ đáng thương, tự cho là đúng, chẳng y giáo để hành, thật sự là kẻ mù hành sự mù quáng! Cổ nhân nói là “manh nhân kỵ manh mă” (người mù cưỡi ngựa đui), kết quả cứ suy ra sẽ tự biết!

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Dĩ năng ái kính tôn trọng pháp cố. Thị cố, thử kinh cửu trụ thế gian. Hiền Hộ! Dĩ thị nhân duyên, ngô kim ngữ nhữ, thị nhân ư thị thuyết pháp sư sở, sanh ái nhạo tâm, sanh kính trọng tâm, sanh tôn quư tâm, khởi thiện tri thức tưởng, khởi giáo sư tưởng, khởi chư Phật tưởng, tận tâm thừa sự, cung kính cúng dường dă. Hiền Hộ! Nhược năng như thị, thị tắc danh vi hành ngă sở hành, thọ ngă giáo giới dă. Phục thứ Hiền Hộ! Bỉ xuất gia Bồ Tát, tất dục giải thuyết như thử tam-muội. Phục dục tư duy thử tam-muội giả, thường đương nhạo hành A Lan Nhă sự.

          ()何以故。以能愛敬尊重法故。是故此經。久住世間。賢護。以是因緣。吾今語汝。是人於是說法師所。生愛樂心。生敬重心。生尊貴心。起善知識想。起教師想。起諸佛想。盡心承事。恭敬供養也。賢護。若能如是。是則名爲行我所行。受我教誡也。復次賢護。彼出家菩薩。必欲解說如此三昧。復欲思惟此三昧者。常當樂行阿蘭若事。

          (Kinh: V́ sao vậy? Do có thể yêu kính, tôn trọng pháp. V́ thế, kinh này tồn tại dài lâu trên thế gian. Này Hiền Hộ! Do nhân duyên ấy, ta nay bảo ông: Người ấy đối với vị thầy thuyết pháp, sanh tâm yêu mến, sanh tâm kính trọng, sanh tâm tôn quư, khởi ư tưởng coi như thiện tri thức, khởi ư tưởng coi như giáo sư, khởi ư tưởng coi như Phật, tận tâm thừa sự, cung kính cúng dường. Này Hiền Hộ! Nếu có thể như thế th́ gọi là hành các điều ta hành, tiếp nhận lời răn dạy của ta. Lại này Hiền Hộ! Vị xuất gia Bồ Tát ấy ắt muốn giải nói tam-muội như thế, lại muốn tư duy tam-muội này, sẽ thường thích làm các chuyện thuộc về A Lan Nhă).

 

          “A Lan Nhă sự” là xả hai thứ ồn náo nơi chính ḿnh và ồn náo do duyên khác đem lại. Đối với chuyện A Lan Nhă, có chuyện nói theo sự tướng, chẳng hạn như chúng ta ở nơi núi sâu rừng thẳm, xa ĺa thành, ấp, thôn, xóm. Đó là chỗ A Lan Nhă. Cũng có thể nói theo pháp tắc, tức là người thành tựu thủ hộ tâm trí A Lan Nhă, tâm trí xa ĺa ồn náo, tâm trí nhàn tĩnh, người ấy được gọi là “nhàn nhân” trong Phật pháp. [Nếu tâm trí xa ĺa ồn náo, nhàn tĩnh], nơi tụ hội đều là chỗ A Lan Nhă. do tâm trí nhàn tĩnh, do chẳng nhiễm trước, do chẳng nắm níu, tâm trí nhất thời, nhất như. Đó là người thành tựu tâm trí A Lan Nhă. V́ thế, có nơi chốn A Lan Nhă, có pháp tắc thành tựu nơi chốn A Lan Nhă. Ở đây, hai chuyện ấy bổ trợ lẫn nhau!

 

          (Kinh) Bất đắc cư xử tụ lạc, thành ấp. Xả ly bằng đảng, đa cầu chi xứ, bất tham y thực, bất đắc trữ tụ cốc mễ, thực cụ. Bất đắc thọ súc tài vật, sanh tư, bất đắc tham cầu danh văn, lợi dưỡng. Bất tích trọng mạng, thường niệm xả thân.

          ()不得居處聚落城邑。舍離朋黨多求之處。不貪衣食。不得貯聚穀米食具。不得受畜財物生資。不得貪求名聞利養。不惜重命。常念捨身。

          (Kinh: Chẳng được ở trong thôn xóm, thành, ấp. Ĺa bỏ bè đảng và chỗ nhiều tham cầu. Chẳng tham cơm áo, chẳng được tích trữ gạo, thóc, đồ ăn. Chẳng được nhận lấy, cất chứa tiền tài, các vật dụng sinh hoạt. Chẳng được tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng. Chẳng tiếc quư thân mạng, thường nghĩ xả thân).

 

          Trụ xứ A Lan Nhă có hai pháp nên hành. Trước kia, khi chúng tôi ở trong núi, có thiện tri thức dạy chúng tôi hai hạnh sau đây, tức là hạnh xả thân và hạnh xả thức. Trước là xả cái thân, đến chỗ A Lan Nhă, hoặc là chỗ hang động có La Sát sống, hoặc là vách đá cheo leo, hoặc nơi có cây to, hoặc bên hang thẳm, các chỗ hiểm trở, chỗ khó khăn. Ở tại chỗ hiểm nạn, mà chẳng có tai nạn, có thể hành pháp tắc để thủ hộ. Đối với chuyện xả thân ở đây, [phải hiểu] xả thân chẳng phải là tự sát! Nhưng nếu có La Sát muốn ăn thân này, có thể giao ra sanh mạng cúng dường, khiến cho quỷ ấy được nghe lời dạy về Đệ Nhất Nghĩa Đế. Xả thân này để thí giáo ngôn tối thượng thừa, cho đến xả thức, chẳng câu nệ hết thảy các pháp, chẳng câu nệ hết thảy các chỗ. Hiện thời, người trụ A Lan Nhă rất ít, có nhiều người né tránh thế gian. Nếu là người có tâm trí thật sự tịch tĩnh, xa ĺa ồn náo, chẳng hướng tới danh lợi, chẳng tham cầu quả báo danh lợi trong vị lai, thật sự hướng đến pháp tắc, sẽ được gọi là người cư trụ tại A Lan Nhă.

 

          (Kinh) Viễn ly tham trước, hằng tu tử tưởng, thường hành tàm quư.

          ()遠離貪。恆修死想。常行慚愧。

          (Kinh: Xa ĺa tham đắm, luôn tưởng như đă chết, thường giữ ḷng hổ thẹn).

 

          Rất nhiều người đă đọc truyện kư của ngài Mật Lặc Nhật Ba (Milarepa)[5], trong ấy, có khá nhiều cách tu tŕ tàm quư, cho đến xả thân để tu tŕ. Trong trụ xứ A Lan Nhă, các thiện tri thức phải nên siêng tu pháp này. Đối với Ban Châu tam-muội hạnh, cũng nên tư duy như thế, quan sát như thế, tu tŕ như thế.

 

          (Kinh) Bất tạo chư ác, nhiếp thọ chánh pháp, vô hữu nghi tâm, thường niệm viễn ly, bất thủ chúng tướng, đương tu từ tâm, vật hoài hiềm oán. Thường khởi từ bi, vô hành sân khuể, an tâm hỷ xả, mạc tưởng ái tăng, thường đương kinh hành, phá trừ Thụy Cái. Hiền Hộ! Xuất gia Bồ Tát nhược năng an trụ như thị pháp hạnh, tắc năng tu học, giải thuyết, tư duy như thị Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội dă.

          ()不造諸惡。攝受正法。無有疑心。常念遠離不取衆相。當修慈心。勿懷嫌怨。常起慈悲。無行瞋恚。安心喜舍。莫想愛憎。常當經行。破除睡蓋。賢護。出家菩薩若能安住如是法行。則能修學解說思惟如是念佛現前三昧也。

          (Kinh: Chẳng tạo các ác, nhiếp thọ chánh pháp, chẳng có tâm nghi, thường nghĩ xa ĺa, chẳng giữ lấy các tướng. Hăy nên tu từ tâm, đừng ôm ḷng hiềm oán. Thường dấy ḷng từ bi, chẳng dấy ḷng sân hận, an tâm nơi hỷ xả, đừng nghĩ đến yêu ghét. Hăy thường nên kinh hành, phá trừ cái chướng mê ngủ. Này Hiền Hộ! Xuất gia Bồ Tát nếu có thể an trụ trong pháp hạnh như thế, sẽ có thể tu học, giải nói, tư duy Niệm Phật Hiện Tiền tam-muội như thế).

 

          Trong phần trước, Hiền Hộ Bồ Tát đă thay mặt đại chúng xuất gia khải thỉnh giáo pháp, đức Thế Tôn đă như thật giải đáp pháp tắc đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, sở thuyết kinh điển, thậm thâm, thậm thâm, tối thắng vi diệu, bất khả tư nghị. Nhiên bỉ vị lai chư Bồ Tát đẳng, giải đăi, lăn nọa, tuy văn như thị thâm diệu kinh điển, sanh đại khủng bố, kinh nghi thoái một, bất phát hoan hỷ, ái nhạo chi tâm. Bỉ đẳng đương phục tác như thị niệm: Ngă kim đương ưng dư chư Phật sở, năi khả tu tập như thị kinh điển. Sở dĩ giả hà? Ngă kim tự tri đa chư chướng nạn, thân ngộ bệnh khổ, khí lực thậm vi, ninh kham tu hành như thị kinh điển?

          ()爾時賢護菩薩復白佛言。希有世尊。如來應供等正覺。所說經典。甚深甚深。最勝微妙。不可思議。然彼未來諸菩薩等。懈怠懶惰。雖聞如是深妙經典。生大恐怖。驚疑退沒。不發歡喜愛樂之心。彼等當復作如是念。我今當應餘諸佛所乃可修習如是經典。所以者何。我今自知多諸障難。身遇病苦。氣力甚微。寧堪修行如是經典。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Hy hữu Thế Tôn! Kinh điển do Như Lai Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đă nói rất sâu, thật sâu, vi diệu thù thắng nhất, chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng các vị Bồ Tát trong đời vị lai giải đăi, lười nhác, tuy nghe kinh điển sâu mầu như thế, lại sanh ḷng sợ hăi to lớn, kinh hoảng, ngờ vực, lui sụt, chẳng phát tâm hoan hỷ và yêu thích. Họ sẽ lại c̣n nghĩ như thế này: Ta nay hăy nên từ chỗ nơi các đức Phật khác tu tập kinh điển như thế. V́ sao vậy? Ta nay tự biết [chính ḿnh] nhiều chướng nạn, thân gặp bệnh khổ, khí lực hết sức yếu ớt, há kham nổi tu hành kinh điển như thế ư?)

 

          Do thân thể yếu kém, lắm chướng duyên, bèn chẳng tu hành pháp này. Chúng ta thường gặp những kẻ có kiểu suy nghĩ đúng như Hiền Hộ Bồ Tát đă nói. Trong một tài liệu thống kê những người hành pháp Ban Châu tại Đài Loan đă chỉ rơ: Tại Đài Loan, nhiều người mắc bệnh nan y hành pháp này, chẳng hạn như các bệnh nhân ung thư v.v… Trên thực tế, pháp này hết thảy mọi người đều có thể hành, chỉ cần ĺa bỏ các duyên, muốn chứng Chư Phật Hiện Tiền tam-muội, th́ sẽ có thể hành tŕ, nhưng người đời Mạt Pháp, thân tâm yếu kém, phước báo chẳng đủ, hễ hơi thoái đọa, nhân duyên hành pháp sẽ chẳng đủ. Đối với chuyện này, chúng ta phải nên khéo quan sát.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Bỉ bối như thị, ư thậm thâm pháp, cánh sanh phóng xả, viễn ly chi tâm, bất năng phát cần dũng mănh, tinh tấn, nhạo dục thành tựu như thị kinh điển. Thế Tôn! Nhĩ thời, diệc đương hữu chư Bồ Tát, tinh tấn cần cầu, chuyên niệm chi giả, ái nhạo thị pháp, khuyến tŕ thị pháp, nhiếp thọ thị pháp. Nhược chư pháp sư thuyết thị pháp giả, ư thị pháp trung, như pháp hành cố, năng xả thân mạng, bất trước danh văn, bất cầu lợi dưỡng, bất tự tuyên thuyết kỷ thân công năng, bất nhiễm y bát.

          ()世尊。彼輩如是。於甚深法。更生放舍遠離之心。不能發勤勇猛精進。樂欲成就如是經典。世尊。爾時亦當有諸菩薩。精進勤求專念之者。愛樂是法。勸持是法。攝受是法。若諸法師說是法者。於是法中。如法行故。能捨身命。不著名聞。不求利養。不自宣說己身功能。不染衣鉢。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Hạng người ấy như thế, đối với pháp rất sâu, lại sanh ḷng buông bỏ, xa ĺa, chẳng thể phát tâm siêng năng, dũng mănh, tinh tấn, mong muốn thành tựu kinh điển như thế. Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ, cũng sẽ có các Bồ Tát là người tinh tấn siêng cầu, chuyên niệm, yêu mến pháp này, khuyên tŕ pháp này, nhiếp thọ pháp này. Nếu các pháp sư nói pháp này, do ở trong pháp này đúng như pháp mà hành, có thể xả thân mạng, chẳng chấp trước tiếng tăm, chẳng cầu lợi dưỡng, chẳng tự tuyên nói công năng của chính ḿnh, chẳng nhiễm y bát).

 

          “Bất nhiễm y bát” tức là chẳng biểu lộ thiện duyên do ḿnh đă hành, hay công đức do tŕ giới, cho nên nói là “bất tuyên kỷ năng” (chẳng tuyên nói năng lực của chính ḿnh).

 

          (Kinh) Bất nhạo thành ấp, thường thú không nhàn sơn lâm tĩnh xứ. Kỳ hoặc văn thị vi diệu pháp cố, sanh đại hoan hỷ, cánh đương cụ túc, phát cần tinh tấn, thính thọ như thị vi diệu pháp môn, thường độc tụng cố, thường niệm tŕ cố, tư duy nghĩa cố, như thuyết hành cố, bỉ đẳng ư vị lai thế chư Như Lai sở, phi đồ trực dục cầu bỉ đa văn, diệc vô đản cầu tại ư hữu xứ.

          ()不樂城邑。常趣空閒山林靜處。其或聞是微妙法故。生大歡喜。更當具足發勤精進。聽受如是微妙法門。常讀誦故。常念持故。思惟義故。如說行故。彼等於未來世諸如來所。非徒直欲求彼多聞。亦無但求在於有處。

          (Kinh: Chẳng thích thành, ấp, thường đến chỗ tĩnh mịch nơi núi rừng thanh vắng. Hoặc do nghe pháp vi diệu này sanh ḷng hoan hỷ to lớn, hăy nên phát tâm siêng năng, tinh tấn trọn đủ, nghe nhận pháp môn vi diệu như thế. Do thường đọc tụng, do thường niệm tŕ, do tư duy ư nghĩa, do hành đúng như lời dạy, trong đời vị lai, họ sẽ ở chỗ các đức Như Lai không chỉ là mong cầu đa văn, mà cũng chẳng chỉ cầu phước báo nơi thân sau).

 

          Hai pháp đa văn và hữu xứ (mong có thân sau) chính là điều tham ái của hữu t́nh trong đời Mạt Pháp. Trong đại chúng xuất gia và tại gia học Phật hiện thời, người đa văn th́ nhiều, người hành pháp rất hiếm hoi. Chúng ta có thể quan sát chung quanh, có thể quan sát tự tâm, tùy tiện t́m một vị xuất gia học Phật hay kẻ tại gia, nếu thuyết pháp th́ ai nấy tựa hồ như Phật chẳng ngăn ngại, nhưng nói đến hành pháp, ai nấy đều chẳng được! Người tương ứng mười phần thưa thớt, kẻ đa văn quá ư là nhiều! Chúng ta có thể y giáo quan sát, đừng dùng tự tâm, tự mạn để quan sát!

          “Diệc vô đản cầu tại ư hữu xứ” nghĩa là chẳng cầu phước báo nơi thân sau. Kẻ hành các thiện duyên mà mong cầu thiện báo hay lạc báo (quả báo vui sướng) trong vị lai rất ư là đông, nhưng người chẳng cầu phước báo trong đời sau, lợi ích thế gian xuất ly luân hồi rộng khắp, hết sức thưa thớt! Đừng nói ai khác, hăy tự xét bản thân chúng ta, [sẽ thấy chính ḿnh phạm lỗi tham cầu y hệt]. Đấy là tướng trạng trong thời Mạt Pháp.

 

          (Kinh) Duy vị thành tựu chư công đức cố, thường niệm cần cầu, tinh tấn, dũng mănh. Thế Tôn! Nhiên phục ưng hữu văng tích tằng cúng dường chư Phật, túc chủng thiện căn chư thiện nam tử, thiện nữ nhân bối, phát đại tinh tấn, vị văn như thị vi diệu pháp cố, cánh phát như thị đại thệ trang nghiêm: Nguyện ngă đương đắc càn kiệt cơ phu, tán cốt, tiêu tủy, xí nhiên thân tâm, khổ hạnh bất tức, tất dục thành tựu như thị diệu điển, chung vô tạm thời giải đăi, lăn nọa, nhi bất thính văn vi diệu thắng pháp. Diệc vô bất tư thậm thâm nghĩa lư, phục vô xả tha, bất vị tuyên thuyết, nhi thường dũng mănh, hành đại tinh tấn, đản vị nhiếp thọ chư Bồ Tát cố, thính văn Như Lai như thị diệu điển. Văn dĩ, tức tiện sanh hoan hỷ tâm.

          ()唯爲成就諸功德故。常念勤求。精進勇猛。世尊。然復應有往昔已曾供養諸佛。宿種善根諸善男子善女人輩。發大精進爲聞如是微妙法故。更發如是大誓莊嚴。願我當得幹竭肌膚。散骨消髓熾然身心。苦行不息。必欲成就如是妙典。終無暫時懈怠懶惰。而不聽聞微妙勝法。亦無不思甚深義理。復無舍他。不爲宣說。而常勇猛行大精進。但爲攝受諸菩薩故。聽聞如來如是妙典。聞已。即便生歡喜心。

          (Kinh: Chỉ v́ thành tựu các công đức, thường nghĩ siêng cầu, tinh tấn, dũng mănh. Bạch Thế Tôn! Nhưng lại có các hàng thiện nam tử, thiện nữ nhân xưa kia đă từng cúng dường chư Phật, gieo các thiện căn từ trước, phát đại tinh tấn, do được nghe pháp vi diệu như thế, bèn phát đại thệ trang nghiêm như thế này: - Nguyện con sẽ khô cạn da thịt, nát xương, tiêu tủy, thân tâm hừng hực, khổ hạnh chẳng ngơi, ắt muốn thành tựu kinh điển mầu nhiệm như thế, trọn chẳng tạm thời giải đăi, lười nhác chẳng nghe pháp thù thắng vi diệu. Cũng chẳng hề không suy nghĩ nghĩa lư rất sâu, lại chẳng bỏ người khác, chẳng v́ họ tuyên nói. Lại thường dũng mănh, hành đại tinh tấn, chỉ v́ nhiếp thọ các vị Bồ Tát, lắng nghe kinh điển mầu nhiệm của Như Lai. Nghe xong, liền sanh tâm hoan hỷ).

 

          Đối với thệ nguyện đại trang nghiêm trong đoạn văn tự này, chúng ta hăy nên quan sát, siêng năng thủ hộ, chẳng thể ĺa bỏ! Nếu ĺa bỏ, đối với pháp này, khó thể thành tựu được!

 

           (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tán bỉ Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Như nhữ sở thuyết, ngă kim tùy hỷ. Hiền Hộ! Ngă tùy hỷ cố, nhất thiết tam thế hằng hà sa đẳng chư Phật Thế Tôn, giai diệc tùy hỷ”. Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Nhược hữu tại gia Bồ Tát, xử ư thế gian, văn thị tam-muội, dục tự tư duy, tức vị tha thuyết, năi chí nhất nhật, hoặc kinh nhất dạ, thị nhân an trụ kỷ chủng hành pháp, đương đắc thành tựu tư duy tam-muội, vị tha thuyết dă?

          ()爾時世尊贊彼賢護菩薩言。善哉善哉。如汝所說。我今隨喜。賢護。我隨喜故。一切三世恆河沙等諸佛世尊。皆亦隨喜。時彼賢護菩薩復白佛言。若有在家菩薩。處於世間聞是三昧。欲自思惟。即爲他說。乃至一日。或經一夜。是人安住幾種行法。當得成就思惟三昧。爲他說也。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi Hiền Hộ Bồ Tát rằng: “Lành thay! Lành thay! Đúng như ông đă nói, ta nay tùy hỷ. Này Hiền Hộ! Do ta tùy hỷ, hết thảy các đức Phật Thế Tôn trong ba đời nhiều như số cát sông Hằng cũng đều tùy hỷ”. Khi ấy, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Nếu có tại gia Bồ Tát, ở trong thế gian, nghe tam-muội này, muốn tự tư duy, liền v́ người khác nói, cho đến trong một ngày, hoặc trải qua một đêm. Người ấy an trụ trong mấy loại hành pháp th́ sẽ được thành tựu tư duy tam-muội này, v́ người khác tuyên thuyết?)

         

          Chúng ta thấy rất rơ ràng: Trong phần trước, Hiền Hộ Bồ Tát thay mặt đại chúng xuất gia thưa hỏi đức Thế Tôn [chúng con phải nên] dùng ǵ để vận dụng, thủ hộ, tu tập Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội? Nay Ngài thay mặt hàng tại gia Bồ Tát khải vấn.

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Hiền Hộ! Bỉ tại gia Bồ Tát xử ư thế gian, nhược dục tu tập, tư duy tam-muội, hoặc nhất nhật, nhất dạ, năi chí nhất cấu ngưu nhũ thời giả, ngô kim ngữ nhữ: Bỉ tại gia Bồ Tát, kư cư thế gian, đương ưng chánh tín, bất khởi xan tham, thường niệm hành thí, tùy đa thiểu thí, đương nhất thiết thí, bất cầu quả báo, ưng quy y Phật. Hựu quy y Pháp, diệc quy y Tăng, bất sự thiên thần, diệc vô lễ bái. Bất sanh tật đố, thường niệm tùy hỷ, đương tu thanh tịnh, như pháp hoạt mạng, bất ái nhi nữ, bất trước thê thiếp, bất nhiễm cư gia, bất đam tài bảo, thường nhạo xuất gia. Niệm trừ tu phát, tu Bát Quan Trai, hằng trụ già-lam, thường hoài tàm quư, phát Bồ Đề tâm, bất niệm dư thừa, kiến hữu tŕ giới thanh tịnh tỳ-kheo, tu phạm hạnh giả, chung vô điều hư, thường hành cung kính, tùng thùy văn học như thử tam-muội, đương ư sư sở, sanh ái kính tâm, khởi tôn trọng tâm, thiện tri thức tưởng, sanh giáo sư tưởng, khởi chư Phật tưởng. Nhất thiết chúng cụ, tất dĩ phụng chi. Thường đương thức ân, hằng tư báo đức, dĩ năng giáo ngă vi diệu pháp cố.

          ()佛言賢護。彼在家菩薩。處於世間。若欲修習思惟三昧。或一日一夜乃至一𤚲牛乳時者。吾今語汝。彼在家菩薩。既居世間。當應正信。不起慳貪。常念行施。隨多少施。當一切施。不求果報。應歸依佛。又歸依法。亦歸依僧。不事天神。亦無禮拜。不生嫉妒。常念隨喜。當須清淨。如法活命。不愛兒女。不著妻妾。不染居家。不躭財寶。常樂出家。念除鬚髮修八關齋。恆住伽藍。常懷慚愧。發菩提心。不念餘乘。見有持戒清淨比丘。修梵行者。終無調戲。常行恭敬。從誰聞學如此三昧。當於師所生愛敬心。起尊重心。善知識想。生教師想。起諸佛想。一切衆具。悉以奉之。常當識恩。恆思報德。以能教我微妙法故。

          (Kinh: Đức Phật nói: - Này Hiền Hộ! Vị tại gia Bồ Tát ấy ở trong thế gian, nếu muốn tu tập Tư Duy tam-muội, hoặc một ngày, một đêm, cho đến trong khoảng thời gian vắt sữa, ta nay bảo ông: Vị tại gia Bồ Tát ấy đă ở trong thế gian, hăy nên chánh tín, chẳng dấy ḷng keo tham, thường nghĩ bố thí, dẫu thí nhiều hay ít, đều nên thí cho hết thảy, chẳng cầu quả báo, hăy nên quy y Phật. Lại quy y Pháp, và cũng quy y Tăng, chẳng thờ thiên thần, mà cũng chẳng lễ bái [thiên thần]. Chẳng sanh ghen ghét, thường nghĩ tùy hỷ. Hăy nên tu thanh tịnh, đúng như pháp mà sống, chẳng yêu con cái, chẳng chấp trước thê thiếp, chẳng nhiễm đời sống tại gia, chẳng đắm đuối của cải, thường thích xuất gia. Nghĩ trừ bỏ râu tóc, tu Bát Quan Trai, luôn ở nơi già-lam, thường ôm ḷng hổ thẹn, phát Bồ Đề tâm, chẳng nghĩ tới các thừa khác. Thấy có tỳ-kheo tŕ giới thanh tịnh, người tu phạm hạnh, trọn chẳng đùa bỡn, thường luôn cung kính, theo vị ấy nghe học tam-muội như thế. Hăy nên đối với thầy, sanh tâm kính yêu, dấy ḷng tôn trọng, tưởng như thiện tri thức, tưởng như thầy dạy, dấy tâm tưởng như chư Phật. Hết thảy các vật đều dùng để dâng hiến. Thường nên biết ân, luôn nghĩ báo đức, do vị ấy có thể dạy ta pháp vi diệu).

 

          Chẳng phải là vô duyên cớ đức Thế Tôn khen ngợi, tán dương sự vi diệu của Phật pháp, mà v́ lợi ích thực tế của Phật pháp có thể thật sự khiến cho chúng ta thoát ĺa khổ năo v́ sanh tử, sự mê hoặc của sanh tử, khổ năo v́ phiền năo, sự mê hoặc của phiền năo, sự khổ năo của Kiến Tư, sự mê hoặc của Kiến Tư. Thật sự tiến nhập tự tại, tự biết đạo nghiệp Bồ Đề, cho đến viên măn A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, lợi ích rộng khắp trời người! Do đó, nghe diệu pháp vi diệu thù thắng này quả thật chẳng thể nghĩ bàn!

          “Khởi tôn trọng tâm, thiện tri thức tưởng, sanh giáo sư tưởng, khởi chư Phật tưởng. Nhất thiết chúng cụ, tất dĩ phụng chi, thường đương thức ân, hằng tư báo đức (dấy ḷng tôn trọng, tưởng như thiện tri thức, tưởng như thầy dạy, dấy tâm tưởng như chư Phật. Hết thảy các vật đều dùng để dâng hiến. Sẽ thường biết ân, luôn nghĩ báo đức), đây thật sự là nhằm dẫn phát tâm trí chúng ta thật sự tôn trọng, tự tôn (tự tôn trọng chân tâm của chính ḿnh) đúng như thật. Hết thảy các ngoại duyên đều là tăng thượng duyên phụ trợ để chọn lựa ḥng phát tâm. Hết thảy các pháp tắc trọn đủ tự thọ dụng và tha thọ dụng tuyệt đối xuất phát từ phát tâm.

 

          (Kinh) Hiền Hộ! Bỉ tại gia Bồ Tát, xử tục chi thời, ưng trụ như thị chư pháp hạnh dĩ. Nhiên hậu, giáo thị như thị tam-muội, như thị tư duy, như thị tu tập.

          ()賢護。彼在家菩薩。處俗之時。應住如是諸法行已。然後教示如是三昧。如是思惟。如是修習。

          (Kinh: Này Hiền Hộ! Vị tại gia Bồ Tát ấy lúc ở trong thế tục, hăy nên trụ trong các pháp hạnh như thế. Sau đấy, chỉ dạy tam-muội như thế, tư duy như thế, tu tập như thế).

 

          Trong phần trước đă nói “thường nghĩ xuất gia”, cho đến Bát Quan Trai Giới, phát Bồ Đề tâm, chẳng nghĩ tới các thừa khác, chỉ tu hành tinh tấn nơi pháp này, do nghe pháp mà sanh ư tưởng tôn trọng, [khởi lên] các thứ [tâm tưởng] như thế. Sau đó là “giáo thị như thị tam-muội, như thị tư duy, như thị tu tập” (chỉ dạy tam-muội như thế, tư duy như thế, tu tập như thế).

 

          (Kinh) Thời, bỉ Hiền Hộ Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, kim năi vị bỉ xuất gia, tại gia chư Bồ Tát bối chánh tín thành tựu, nhạo thâm pháp giả, tuyên thuyết như thị vô thượng diệu pháp, linh trụ như thị vô lượng pháp hạnh. Nhiên hậu đương đắc tư duy, giải thuyết như thị tam-muội.

          ()時彼賢護菩薩復白佛言。希有世尊。如來應供等正覺。今乃爲彼出家在家諸菩薩輩。正信成就樂深法者。宣說如是無上妙法。令住如是無量法行。然後當得思惟解說如是三昧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật rằng: - Hy hữu Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác nay v́ các vị xuất gia, tại gia Bồ Tát chánh tín thành tựu, ưa thích pháp sâu, tuyên nói vô thượng diệu pháp như thế, khiến cho họ trụ trong vô lượng pháp hạnh như thế. Sau đấy, sẽ được tư duy, giải nói tam-muội như thế).

 

          “Vô thượng diệu pháp”: “Vô thượng” là chẳng đối đăi, chẳng có tạo tác. Pháp th́ mỗi pháp đều có diệu dụng, chẳng nhiễm, chẳng chấp, khiến cho chúng sanh thoát khỏi tất cả trầm luân trong thế gian, như hữu t́nh trong Dục Giới phần nhiều trầm luân trong các pháp đối đăi mà chẳng hay biết, lắm điều phải chọn lựa, lẩn quẩn trong thiện ác. Như hữu t́nh Sắc Giới phần nhiều đắm nhiễm trong sự thủ hộ Thiền Định, thậm chí dùng Thiền Định làm chỗ y chỉ cho sanh mạng. Như hữu t́nh trong Vô Sắc Giới thường thủ hộ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Định. Đó đều là nghiệp tướng của lục đạo luân hồi. Người có thể vượt thoát tam giới là do có diệu pháp, cho nên “vô thượng diệu pháp” có thể khiến cho hữu t́nh trong thế gian thoát ĺa tam giới, chẳng hoại tam giới, lợi ích hữu t́nh rộng khắp. Kẻ thoát khỏi tam giới, chẳng bị tam giới câu thúc, chẳng bị tam giới trói buộc. Nếu chẳng bị thiện ác trói buộc, sẽ có thể tự tại xuất ly Dục Giới. Nếu chẳng bị đắm nhiễm bởi Thiền Định, sẽ xuất ly Sắc Giới, cho đến Vô Sắc Giới. Pháp như thế là trí huệ thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng chấp trước, là pháp tắc an lạc thanh tịnh trực tiếp thoát khỏi tam giới. Do vậy gọi là “diệu pháp”.

 

          (Kinh) “Thế Tôn! Như Lai diệt hậu, như thị tam-muội, ư Diêm Phù Đề, năng quảng hành phủ?” Phật cáo Hiền Hộ Bồ Tát ngôn: - Hiền Hộ! Ngă diệt độ hậu, thử tam-muội kinh, ư Diêm Phù Đề, tứ thiên niên trung quảng hành ư thế, nhi hậu ngũ bách niên, mạt nhất bách tuế trung, chánh pháp diệt thời, tỳ-kheo hành ác thời, phỉ báng chánh pháp thời, chánh pháp phá hoại thời, tŕ giới tổn giảm thời, phá giới xí thịnh thời, chư quốc tương phạt thời, đương tư chi tế, phả hữu chúng sanh xí nhiên thiện căn, văng tích dĩ tằng thân cận chư Phật, cúng dường, tu hành, thực thiện chủng tử, vị bỉ chư trượng phu bối đắc thị kinh cố, thử tam-muội điển phục đương lưu hành ư Diêm Phù Đề. Sở vị Phật oai thần cố, cố linh bỉ đẳng ư ngă diệt hậu, văn thử kinh dĩ, hoan hỷ thư tả, độc tụng, thọ tŕ, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thích, như thuyết tu hành.

          ()世尊。如來滅後。如是三昧。於閻浮提能廣行不。佛告賢護菩薩言。賢護。我滅度後。此三昧經。於閻浮提。四千年中廣行於世。而後五百年。末一百歲中。正法滅時。比丘行惡時。誹謗正法時。正法破壞時。持戒損減時。破戒熾盛時。諸國相伐時。當斯之際。頗有衆生熾然善根。往昔已曾親近諸佛。供養修行植善種子。爲彼諸丈夫輩得是經故。此三昧典復當流行於閻浮提。所謂佛威神故。故令彼等。於我滅後。聞此經已。歡喜書寫。讀誦受持。思惟其義。爲他解釋。如說修行。

          (Kinh: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, tam-muội như thế có thể lưu hành rộng răi trong Diêm Phù Đề hay chăng?” Đức Phật bảo Hiền Hộ Bồ Tát rằng: - Này Hiền Hộ! Sau khi ta diệt độ, nơi Diêm Phù Đề, kinh tam-muội này sẽ lưu hành rộng khắp cơi đời trong bốn ngàn năm, nhưng vào một trăm năm sau rốt của năm trăm cuối [thời Mạt Pháp], khi chánh pháp diệt, khi tỳ-kheo làm ác, khi chánh pháp bị phỉ báng, khi chánh pháp bị phá hoại, khi tŕ giới bị tổn giảm, khi phá giới lừng lẫy, khi các nước đánh lẫn nhau, trong thuở ấy, nếu có chúng sanh thiện căn lừng lẫy, xưa kia đă từng thân cận chư Phật, cúng dường, tu hành, gieo chủng tử lành, do các vị trượng phu ấy có được kinh này, kinh điển tam-muội này lại được lưu hành trong Diêm Phù Đề. Đó gọi là do oai thần của đức Phật, khiến cho họ sau khi ta diệt độ, họ đă nghe kinh này xong, bèn hoan hỷ biên chép, đọc tụng, thọ tŕ, tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải thích, tu hành đúng như lời dạy).

 

          Đây là đức Thế Tôn thọ kư, là lời chân thật, là lời như thật, chẳng phải là suy đoán. Chúng ta hăy khéo tư duy. Đức Thế Tôn nói “chánh pháp diệt thời” (khi chánh pháp diệt), hiện thời th́ Chánh Pháp và Tượng Pháp đều đă qua, đang bước vào thời Mạt Pháp, cũng là vào “hậu ngũ bách tuế” (năm trăm cuối cùng) th́ trong một trăm năm sau rốt [của năm trăm năm ấy], sẽ phát khởi lợi ích như thế đó. V́ sao kinh điển như thế có thể lưu thông trong Diêm Phù Đề? V́ các vị trượng phu đă từng gieo các thiện căn nơi kinh điển này tu tŕ, thủ hộ.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Hiền Hộ Bồ Tát, cập Bảo Đức Ly Xa Tử, văn Như Lai thuyết chánh pháp diệt thời, bi khấp vũ lệ.

          ()爾時賢護菩薩。及寶德離車子。聞如來說正法滅時。悲泣雨淚。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Hiền Hộ Bồ Tát và Bảo Đức Ly Xa Tử nghe đức Như Lai nói lúc chánh pháp diệt, buồn khóc trào lệ).

 

          Có nhiều vị thiện tri thức trông thấy đức Thế Tôn sắp nhập diệt, muốn khuyên đức Phật trụ thế v́ thương xót thế gian, cho nên “bi khấp vũ lệ” (buồn khóc, trào lệ). Ở đây, nghe nói lúc chánh pháp diệt th́ cũng giống như thế, v́ chư Phật Như Lai là chỗ nương cậy của chúng sanh, giáo pháp do chư Phật đă nói cũng là chiếc bè báu để hết thảy chúng sanh thoát ĺa biển khổ. Pháp này diệt sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh mất chỗ nương cậy, cho nên “buồn khóc trào lệ”.

 

          (Kinh) Tùng ṭa nhi khởi, chỉnh lư y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính, nhi bạch Phật ngôn.

          ()從座而起。整理衣服。偏袒右肩。右膝着地。合掌恭敬。而白佛言。

          (Kinh: Từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay cung kính, mà bạch cùng đức Phật rằng).

 

          “Thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa” (Trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất): Cho đến nhiễu theo chiều phải ba ṿng, đó là lễ tiết khải thỉnh giáo pháp của Ấn Độ do ḷng cung kính.

 

          (Kinh) “Thế Tôn! Ngă đẳng đương ư Như Lai diệt hậu. Hậu ngũ bách tuế, mạt bách niên trung, sa-môn điên đảo thời, chánh pháp dục diệt thời, phỉ báng chánh pháp thời, phá hoại chánh pháp thời, tŕ giới tổn giảm thời, phá giới tăng trưởng thời, chánh pháp hộ giảm thời, phi pháp hộ tăng thời, chúng sanh loạn thời, chư quốc tương phạt thời, năng ư Như Lai sở thuyết kinh điển diệu tam-muội trung, độc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư, vị tha quảng thuyết. Hà dĩ cố? Ngă tâm vô yếm, chung bất tri túc. Thị cố, ngă ư Như Lai sở thuyết Tu Đa La trung, năng thính văn cố, năng thư tả cố, năng độc tụng cố, năng thọ tŕ cố, năng tư duy cố, năng tu hành cố, năng quảng thuyết cố”. Nhĩ thời, Thương Chủ ưu-bà-tắc, Già Ha Ngập Đa cư sĩ chi tử, Na La Đạt Đa Ma Nạp đẳng, văn Như Lai thuyết vị lai thế trung, chánh pháp hoại diệt, vị chánh pháp cố, bi ai khấp lệ, tùng ṭa nhi khởi, chỉnh lư y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch Phật ngôn.

          ()世尊。我等當於如來滅後。後五百歲。末百年中。沙門顛倒時。正法欲滅時。誹謗正法時。破壞正法時。持戒損減時。破戒增長時。正法護減時。非法護增時。衆生亂時。諸國相伐時。能於如來所說經典妙三昧中。讀誦受持。思惟義理。爲他廣說。何以故。我心無厭終不知足。是故我於如來所說修多羅中。能聽聞故。能書寫故。能讀誦故。能受持故。能思惟故。能修行故。能廣說故。爾時商主優婆塞伽訶岌多。居士之子那羅達多摩納等。聞如來說未來世中正法壞滅。爲正法故。悲哀泣淚。從坐而起。整理衣服。偏袒右肩。右膝着地。恭敬合掌。而白佛言。

          (Kinh: “Bạch Thế Tôn! Sau khi đức Như Lai diệt độ, chúng con sẽ vào lúc một trăm năm rốt sau của năm trăm cuối, là lúc sa-môn điên đảo, lúc chánh pháp sắp diệt, lúc phỉ báng chánh pháp, lúc phá hoại chánh pháp, lúc tŕ giới tổn giảm, lúc phá giới tăng trưởng, lúc hộ tŕ chánh pháp giảm thiểu, lúc hộ tŕ phi pháp tăng trưởng, lúc chúng sanh loạn lạc, lúc các nước chinh phạt lẫn nhau, có thể đối với tam-muội mầu nhiệm trong kinh điển do đức Như Lai đă nói mà đọc tụng, thọ tŕ, tư duy nghĩa lư, v́ người khác rộng nói. V́ lẽ nào? Tâm con chẳng chán, trọn chẳng biết đủ. V́ thế, chúng con đối với Khế Kinh do Như Lai đă nói có thể lắng nghe, có thể biên chép, có thể đọc tụng, có thể thọ tŕ, có thể tư duy, có thể tu hành, có thể nói rộng khắp”. Lúc bấy giờ, ưu-bà-tắc Thương Chủ là con của cư sĩ Già Ha Ngập Đa, Na La Đạt Đa Ma Nạp v.v… nghe Như Lai nói chánh pháp sẽ hoại diệt trong đời vị lai, buồn bă tuôn lệ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, cung kính chắp tay, bạch với đức Phật rằng).

         

          Chúng ta thấy: Không chỉ là hàng xuất gia thực hiện lễ tiết “thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa” (trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất); tại gia Bồ Tát cũng giống như thế. Đây là phong tục tập quán của Ấn Độ, là phương thức biểu thị sự thủ hộ toàn thể.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă đẳng năng ư Như Lai sở thuyết diệu Tu Đa La, cập năng thọ tŕ Tu Đa La giả, ngă giai nhiếp hộ, linh đắc tăng trưởng. Thế Tôn! Ngă kim phục vị Như Lai sở thuyết vi diệu kinh điển, tác kỳ gia hộ, linh đắc quảng tuyên, cửu trụ ư thế. Hà dĩ cố? Dĩ thị kinh điển năng ư vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, đa sở thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố. Thế Tôn! Ngă đẳng đắc văn vị tằng hữu pháp, chí tâm thọ tŕ, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, quảng hành lưu bố dă. Thế Tôn! Ngă kim văn thử thậm thâm kinh pháp, nhất thiết thế gian vô hữu tín giả. Ngă tiên vị kỳ tạo thiện căn khí, nhiên hậu vị giải.

          ()世尊。我等能於如來所說妙修多羅。及能受持修多羅者。我皆攝護。令得增長。世尊。我今復爲如來所說微妙經典。作其加護。令得廣宣。久住於世。何以故。以是經典。能於無量阿僧祇劫。多所成就阿耨多羅三藐三菩提故。世尊。我等得聞未曾有法。至心受持。思惟其義。爲他解說。廣行流佈也。世尊。我今聞此甚深經法。一切世間無有信者。我先爲其造善根器。然後爲解。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng con có thể đối với Tu Đa La mầu nhiệm do Như Lai đă nói và người có thể thọ tŕ Tu Đa La, đều có thể nhiếp thọ, hộ tŕ, khiến cho tăng trưởng. Bạch Thế Tôn! Con nay lại v́ kinh điển vi diệu do Như Lai đă nói mà thực hiện gia hộ, khiến cho kinh được tuyên lưu rộng răi, tồn tại lâu dài trong thế gian. V́ sao vậy? Do kinh điển ấy có thể trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp thành tựu nhiều người đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Bạch Thế Tôn! Chúng con được nghe pháp chưa từng có, chí tâm thọ tŕ, tư duy nghĩa lư, v́ người khác giải nói, lưu truyền rộng răi. Bạch Thế Tôn! Chúng con nay nghe kinh pháp rất sâu này, [nếu như] hết thảy thế gian chẳng có ai tin, con sẽ trước hết v́ họ tạo pháp khí thiện căn, sau đó sẽ v́ họ giải nói).

 

           Chúng ta thấy các vị tại gia và xuất gia Bồ Tát đều khẳng định sau khi đức Thế Tôn diệt độ, lúc chánh pháp diệt, cho đến khi các thứ tướng ác hiện ra, họ sẽ làm cho pháp Ban Châu tam-muội này được lưu truyền rộng khắp trong cơi đời, truyền bá trong cơi đời, muốn lợi ích rộng khắp hữu t́nh; cho nên phát thệ nguyện như thế, thủ hộ Tam Bảo và giáo ngôn của Tam Bảo. Các vị tại gia và xuất gia Bồ Tát học Phật trong hiện thời đă dùng ǵ để nhận biết và thủ hộ tâm trí của chính ḿnh? Các vị thiện tri thức ơi! Hăy khéo quan sát, khéo liễu giải tâm nguyện và hành vi của chính ḿnh.

          Có khi thủ hộ Phật pháp càng trọng yếu hơn tự lực tu tŕ, v́ thủ hộ Phật pháp có thể khiến cho Phật pháp được truyền bá rộng khắp. Đương nhiên, tự lợi chân thật của người tu chứng cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu đă có thể thủ hộ, lại có thể chân thật tu hành, đấy thật sự là thành tựu thủ hộ. Nếu có thể khéo thủ hộ, truyền bá rộng khắp, dẫu chính ḿnh chưa hành tŕ pháp tắc, nhưng công đức và lợi ích do tùy hỷ sẽ chẳng thể nghĩ bàn như đức Thế Tôn đă tuyên thuyết trong bộ kinh này. Trong đời Mạt Pháp, nếu hộ tŕ đạo tràng, hộ tŕ giáo pháp, hộ tŕ người hành pháp, yêu thích thủ hộ, tán thán, tùy hỷ, công đức của người ấy sẽ chẳng thể nghĩ bàn. V́ Mạt Pháp là lúc pháp suy, thế mà nhân duyên thế tục hừng hực, tà kiến điên đảo hừng hực, cho nên nhân duyên hộ pháp, truyền bá Phật pháp, và tu tập Phật pháp càng quan trọng hơn!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chúng trung hữu ngũ bách tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, tứ bộ chúng đẳng, văn Như Lai thuyết vị lai thế trung, chánh pháp hoại diệt, vị chánh pháp cố, bi khấp vũ lệ, tùng ṭa nhi khởi, chỉnh tŕ y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, cung kính hiệp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă đẳng thọ tŕ Như Lai chánh pháp, nhiên chư Đại Sĩ thiện trượng phu bối, nhĩ thời ư ngă đương tác y chỉ, đương tác phú hộ, vị ngă kinh kỷ, năng linh ngă đẳng ư Như Lai sở thuyết như thị thậm thâm Tu Đa La trung, thủ chân thật nghĩa, như pháp tu hành. Duy nguyện Thế Tôn, phó chúc ngă đẳng chư thiện trượng phu phân minh lập kư. Hà dĩ cố? Thế Tôn! Ngă cập bỉ đẳng giai năng hộ tŕ, nhiếp thọ chánh pháp, cập nhiếp thọ giả cố.

          ()爾時衆中有五百比丘比丘尼優婆塞優婆夷四部衆等。聞如來說未來世中正法壞滅。爲正法故。悲泣雨淚。從坐而起。整持衣服。偏袒右肩。右膝着地。恭敬合掌。而白佛言。世尊。我等受持如來正法。然諸大士善丈夫輩。爾時於我當作依止。當作覆護。爲我經紀。能令我等於如來所說如是甚深修多羅中。取真實義。如法修行。唯願世尊。付囑我等諸善丈夫分明立記。何以故。世尊。我及彼等。皆能護持攝受正法及攝受者故。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong đại chúng có năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, bốn bộ chúng, nghe Như Lai nói trong đời vị lai, chánh pháp hoại diệt, v́ chánh pháp nên buồn khóc, trào lệ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, cung kính chắp tay, mà bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng con thọ tŕ chánh pháp của Như Lai, nhưng các vị thiện trượng phu đại sĩ này trong khi đó sẽ làm chỗ y chỉ cho chúng con, sẽ che chở, bảo vệ, lo toan cho chúng con, khiến cho chúng con có thể giữ lấy nghĩa chân thật nơi Tu Đa La rất sâu do Như Lai đă nói như thế, đúng như pháp tu hành. Chỉ mong đức Thế Tôn phân minh thọ kư, phó chúc cho chúng con và các vị thiện trượng phu ấy. V́ sao? Bạch Thế Tôn! Chúng con và họ đều có thể hộ tŕ, nhiếp thọ chánh pháp và người nhiếp thọ).

 

          Chúng ta thấy các vị xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, và chúng tại gia ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, v́ muốn khiến cho pháp này trụ thế, đă khuyến thỉnh đức Thế Tôn phân minh thọ kư, ḥng làm cho pháp này được rơ ràng tồn tại lâu dài trong cơi đời. Chúng ta học tập một pháp tắc, nếu chẳng có cội nguồn xuất xứ, sẽ chẳng thể thật sự giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như đối với các phiền năo “sanh, lăo, bệnh, tử”, [nếu chẳng hiểu rơ cội nguồn phát sanh các phiền năo ấy] mà có thể thật sự giải quyết, sẽ chẳng có lẽ ấy! Chúng ta có thể tiêu trừ đủ loại Phiền Năo Chướng, tiêu trừ đủ loại Sở Tri Chướng trong đời hiện tại, nhưng nếu chẳng thuận theo pháp giáo như lư, th́ cũng chẳng thể kiến lập từ đâu được! V́ thế, ở đây, nhằm mong đức Thế Tôn sẽ thọ kư phân minh cho các hữu t́nh mà khải thỉnh như thế.

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức tiện vi tiếu, phóng kim sắc quang, kỳ minh biến chiếu thập phương thế giới chư Phật quốc dĩ, hoàn chí Phật sở, hữu nhiễu tam táp, tùng đảnh thượng một.

          ()爾時世尊。即便微笑。放金色光。其明遍照十方世界諸佛國已。還至佛所。右繞三匝。從頂上沒。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn liềm mỉm cười, tỏa ra quang minh sắc vàng. Quang minh ấy chiếu trọn khắp các cơi Phật trong mười phương thế giới xong, trở về chỗ Phật, nhiễu theo chiều phải ba ṿng rồi biến mất nơi đỉnh đầu đức Phật).

 

          Đấy là tướng thọ kư của chư Phật. Tướng thọ kư của hết thảy chư Phật đều có phóng quang minh, lợi ích rộng khắp vô lượng thế giới, chiếu sáng vô lượng thế giới. Nếu trán của đức Thế Tôn phóng quang, tức là sẽ tuyên dương giáo pháp rộng khắp với các vị Bồ Tát. Nếu cổ họng phóng quang, sẽ tuyên dương giáo pháp rộng khắp với các bậc trí giả Thanh Văn. Nếu ngực phóng quang, sẽ tuyên nói các giáo pháp với chư thiên và nhân loại. Nếu rốn phóng quang, phần nhiều là thuyết pháp cho loài quỷ thần. Nếu đầu gối phóng quang, phần nhiều là chiếu rọi các hữu t́nh thuộc súc sanh đạo và thuyết pháp cho họ. Nếu bàn chân phóng quang, có thể lợi ích rộng khắp hữu t́nh trong u minh địa ngục. Do vậy, trong khắp các nơi của lục đạo, đức Phật dùng quang minh nhiếp thọ, đối với mỗi đường, đều có cơ chế tương ứng, khiến cho họ được độ thoát. Ở đây, quang minh của đức Thế Tôn nhập vào đỉnh đầu, nhiễu theo chiều phải ba ṿng, tức là khi đức Thế Tôn nói thọ kư, sẽ thị hiện tướng ấy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tôn giả A Nan tác như thị niệm: “Thế Tôn tích lai dĩ đa vi tiếu, nhiên ư tiếu thời, tất vi dị sự. Ngă kim ưng vấn vi tiếu nhân duyên”. Như thị niệm dĩ, tức tùng ṭa khởi, chỉnh tŕ y phục, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng hướng Phật, dĩ kệ bạch ngôn: - Kỳ tâm thanh tịnh, hạnh vô uế, hữu đại oai đức, cự thần thông. Nhất thiết tối tôn thế trung thượng, hiển hiện vô cấu như minh nguyệt, vô ngại thánh trí giải thoát tâm. Ca-lăng-già thanh thiên trung tối. Nhất thiết dị luân mạc năng động. Kim hốt vi tiếu hữu hà duyên?

          ()爾時尊者阿難作如是念。世尊。昔來已多微笑。然於笑時必爲異事。我今應問微笑因緣。如是念已。即從坐起。整持衣服。偏袒右肩。右膝着地。合掌向佛。以偈白言。其心清淨行無穢。有大威德巨神通。一切最尊世中上。顯現無垢如明月。無礙聖智解脫心。迦陵伽聲天中最。一切異輪莫能動。今忽微笑有何緣。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, tôn giả A Nan nghĩ như thế này: “Đức Thế Tôn trước nay đă mỉm cười nhiều lần, nhưng khi Ngài cười, ắt có chuyện lạ. Nay ta phải nên hỏi nhân duyên khiến Ngài mỉm cười”. Nghĩ như thế rồi, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, gối phải đặt sát đất, chắp tay hướng về đức Phật, dùng kệ bạch rằng: - Tâm Ngài thanh tịnh, hạnh chẳng uế. Có đại oai đức, thần thông lớn. Tôn quư nhất trong cả cơi đời, hiển hiện vô cấu như trăng sáng, tâm thánh trí giải thoát vô ngại, tiếng Ca Lăng hay tuyệt cơi trời, hết thảy dị thuyết chẳng thể động. Nay do duyên ǵ bỗng mỉm cười?)

 

          Tán tụng đức Thế Tôn có đại oai đức thanh tịnh, có đại oai đức thiện xảo, là bậc thầy tôn quư của thế gian, hiện tướng trăng sáng không cấu nhơ, dùng thánh trí vô ngại, tâm trí giải thoát để tuyên thuyết bằng âm thanh tuyệt vời, tức “Ca Lăng Già thanh” ([tiếng nói của đức Phật vi diệu] như tiếng chim Ca Lăng Tần Già hót) để truyền bá trong thế gian. Đức Thế Tôn thuyết pháp, trọn đủ tám loại diệu âm, thường gọi là phạm âm lưu truyền rộng khắp trong thế gian, khiến cho chúng sanh được nghe bèn đắc ngộ. “Ca Lăng Già thanh” chẳng phải là tiếng nam, hay tiếng nữ, tiếng chẳng trong trẻo, chẳng thô đục, tiếng chẳng cao, chẳng thấp, tiếng chẳng mạnh, chẳng yếu. Xa ĺa tám âm thanh thế gian như thế đó, dùng âm thanh thanh tịnh để truyền bá rộng khắp trong thế gian. “Nhất thiết dị luân mạc năng động” tức là hết thảy tri kiến ngoại đạo quyết định sẽ tùy thuận [Phật ngôn], có thể trừ nghi.

 

          (Kinh) Thông đạt chánh chân vị ngă thuyết, năng đa lợi ích Lưỡng Túc Tôn.

          ()通達正真爲我說。能多利益兩足尊。

          (Kinh: Thông đạt chánh chân v́ con nói, Lưỡng Túc Tôn tạo nhiều lợi ích).

 

          Tán thán đức Thế Tôn phước huệ trọn đủ, nói giáo pháp chân thật cho chúng ta.

 

          (Kinh) Văn thị Như Lai vi diệu âm, nhất thiết giai đương đại hoan hỷ.

          ()聞是如來微妙音。一切皆當大歡喜。

          (Kinh: Nghe tiếng vi diệu của Như Lai, hết thảy sẽ đều đại hoan hỷ).

 

          Như Lai dùng âm thanh vi diệu để mở mang tâm trí của con người, ban cho con người công đức thành tựu giải thoát, cho nên sẽ khiến cho nhiều chúng sanh hoan hỷ, hớn hở.

 

          (Kinh) Chư Phật Thế Tôn khởi hư tiếu? Phật phục phóng quang hữu thắng nhân. Thùy ư tư nhật hoạch đại lợi? Thị cố kim ưng tuyên tiếu chỉ. Thùy ư kim nhật đắc chứng chân? Thùy ư kim nhật thọ pháp vương? Thùy ư kim nhật tự quán đảnh? Thùy ư kim nhật đăng Phật vị? Thùy ư kim nhật lợi thế gian? Thùy đương tổng tuyên Phật pháp Tạng? Thùy ư Phật trí đắc thường trụ? Dĩ thị tôn ưng hiển tiếu duyên.

          ()諸佛世尊豈虛笑。佛復放光有勝人。誰於斯日獲大利。是故今應宣笑旨。誰於今日得證真。誰於今日受法王。誰於今日自灌頂。誰於今日登佛位。誰於今日利世間。誰當總宣佛法藏。誰於佛智得常住。以是尊應顯笑緣。

          (Kinh: Chư Phật Thế Tôn há cười suông? Phật phóng quang, có người thù thắng. Ngày nay ai được lợi to lớn? V́ thế, xin nói ư mỉm cười. Ngày nay ai được chứng lẽ chân? Ngày nay ai được Phật thọ kư? Ngày nay ai sẽ tự quán đảnh? Ngày nay ai sẽ lên ngôi Phật? Ngày nay ai sẽ lợi thế gian? Ai sẽ tổng tuyên Phật pháp tạng? Ai sẽ thường trụ nơi Phật trí? Phật hăy nên dạy duyên mỉm cười!)

 

          Ngài A Nan tán thán đức Thế Tôn có lợi ích như vậy, cho đến chứng chân, đạt được đại lợi, tiếp nhận vương vị, thọ nghi thức quán đảnh, cho đến tiếp nhận Phật vị để lợi ích thế gian, tuyên thuyết pháp tạng. Hết thảy chư Phật xuất thế, không vị nào chẳng v́ lợi ích thế gian, tuyên nói rộng răi pháp tạng, thẳng thừng chỉ bày tâm trí của hết thảy chúng sanh. Hết thảy các pháp tạng chẳng ĺa tâm trí hiện tiền của hết thảy chúng sanh. Do nhân duyên ấy, trước hết nói tới đại lợi, sau là nói đến nhập pháp vị, cho đến thành Phật lợi ích thế gian rộng khắp, tuyên dương pháp tạng.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tức dĩ kệ cáo trưởng lăo A Nan viết: - A Nan! Nhữ kiến Đại Tập phủ? Nhiếp hộ ngũ bách tùng ṭa khởi.

          ()爾時世尊。即以偈告長老阿難曰。阿難汝見大集不。攝護五百從坐起。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn dùng kệ bảo trưởng lăo A Nan rằng: - A Nan! Ông thấy Đại Tập chăng? Nhiếp hộ năm trăm người đứng dậy).

 

          Nay chúng ta đang học kinh Đại Tập; Đại Tập là đại chúng tụ tập, là kinh điển do đức Phật tuyên thuyết cho hữu t́nh trong Dục Giới và Sắc Giới. Như trong Long Tạng (Càn Long Đại Tạng Kinh), có các bộ (các tiểu loại) như Đại Tập Bộ, Bảo Tích Bộ, Bát Nhă Bộ, A Hàm Bộ, Tạp Bộ v.v… Kinh này thuộc về Đại Tập Bộ.

 

          (Kinh) Thân tâm hoan hỷ phát thành ngôn, ngă bối đương lai hoạch tư pháp, thử đẳng nhất tâm chiêm sát ngă, ngă ư hà thời diệc phục nhiên, hàm ư ngă tiền hưng đại thệ, ngă bối đương lai chứng tư đạo. Phục hữu bát bối tùng ṭa khởi, ngũ bách thượng thủ thử vi tôn. Bỉ ư mạt thế pháp hoại thời, vị thế gian pháp, cố tuyên thuyết. Ngă kim cáo nhữ như thị ngôn, ư thử chúng trung vô ngại trí. Thị bối phi ư nhất Phật sở, khởi lập hiệp chưởng kính chư tôn.

          ()身心歡喜發誠言。我輩當來獲斯法。此等一心瞻察我。我於何時亦復然。於我前興大誓。我輩當來證斯道。復有八輩從坐起。五百上首此爲尊。彼於末世法壞時。爲世間法故宣說。我今告汝如是言。於此衆中無礙智。是輩非於一佛所。起立合掌敬諸尊。

          (Kinh: Thân tâm hoan hỷ, nói chân thành: “Chúng con tương lai đắc pháp này”. Bọn họ nhất tâm nh́n ngắm Phật: “Khi nào con cũng được như thế?” Đều đối trước Phật, phát thệ lớn: “Mai sau chúng con chúng đạo này”. Lại tám loại chúng cùng đứng dậy, có năm trăm người làm thượng thủ. Họ trong đời mạt, khi pháp hoại, v́ pháp thế gian mà tuyên nói. Ta nay bảo ông như thế này: Như các vị ấy trí vô ngại, họ chẳng chỉ ở nơi một đức Phật, đứng dậy, chắp tay kính Thế Tôn).

 

          “Thị bối phi ư nhất Phật sở, khởi lập, hiệp chưởng, kính chư tôn” (Những người ấy chẳng phải ở chỗ một đức Phật, đứng dậy, chắp tay, cung kính các đức Thế Tôn): Những người nghe giáo ngôn này, có thể liên tục thủ hộ, quan sát, tu tập, chẳng phải chỉ gặp một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật.

 

          (Kinh) Ngă quán văng tích vô lượng thế, bát vạn chư Phật giai hiện tiền. Bát nhân vi thủ tùng ṭa khởi, hoàn vị hộ tŕ thị diệu pháp.

          ()我觀往昔無量世。八萬諸佛皆現前。八人爲首從坐起。還爲護持是妙法。

          (Kinh: Ta quán vô lượng đời xưa kia, tám vạn chư Phật đều hiện tiền. Tám người làm đầu đều đứng dậy, vẫn v́ hộ tŕ diệu pháp này).

 

          “Thị diệu pháp” chính là pháp tắc Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội.

 

          (Kinh) Tiền thử bát vạn ức do-tha, phục trị như thị số chư Phật.

          ()前此八萬億由他。復值如是數諸佛。

          (Kinh: Trước đó, tám vạn ức do-tha, lại gặp chư Phật số như thế).


          “Bát vạn ức”
th́ chúng ta dễ hiểu, nhưng đối với con số “do-tha” (na-do-tha, nayuta), thường là chúng ta chẳng thể vận dụng tư duy [để h́nh dung rơ ràng] cho mấy. Đó là số lượng cực đại, thậm chí chẳng thể tính kể, nhưng chư Phật Như Lai đối với chuyện chẳng thể nói kể, sẽ có cách diễn tả, c̣n có cách so sánh “bất khả xưng bất khả xưng”, cho đến thật sự c̣n có con số “vô sở khả xưng vô sở khả xưng”. Trong kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có phẩm Số Tự, chuyên môn nói đến sự biến hóa của số lượng. Tâm trí phàm phu đối với các con số có thể lưu tâm, nghĩ bàn, tư duy, ghi nhớ hết sức hữu hạn. Trong kinh điển Phật giáo thường nói “như hằng hà sa số chư Phật”, cho đến nói “vô lượng hằng hà sa số chư Phật”. Các con số như vậy đối với nhân loại chúng ta khó thể đơn giản nói rơ được, cho nên dùng Hằng hà sa làm đơn vị để thuyết minh, giống như chúng ta dùng các đơn vị số lượng trăm, ngàn, vạn, ức để miêu tả vậy.

 

          (Kinh) Tâm đắc giải thoát đại danh xưng, bỉ thời thử bối dĩ nhiếp tŕ.

          ()心得解脫大名稱。彼時此輩已攝持。

          (Kinh: Tâm đạt danh xưng giải thoát lớn; khi ấy, bọn họ đă nhiếp tŕ).

 

          Hết thảy giải thoát là v́ đối với danh xưng trong thế gian, chúng ta thường nói: Người nhàn tản trong Phật pháp xa ĺa hết thảy nhiệt năo, tức là Sở Tri Chướng phiền năo, các nỗi khổ phiền năo như sanh, lăo, bệnh, tử, cầu chẳng được, yêu thương phải chia ĺa, oán ghét cứ gặp gỡ, cho đến vô minh phiền năo, cho đến các phiền năo nhỏ nhặt như vi trần. Như vậy th́ “đại danh xưng” chính là người nhàn tản, là người vô tâm nhàn tản trong thế gian. Hữu t́nh trong thế gian có khá nhiều chấp trước, nhiều đắm chấp, chấp trước thiện, chấp trước ác, chấp trước được, chấp trước mất, chấp trước phàm, chấp trước thánh, những điều như thế khó thể thuật trọn. Do vậy, có nhiều gánh nặng, tức gánh nặng thiện, ác, trí, ngu v.v… rốt ráo giải thoát vượt khỏi lẽ thường, đó là “đại danh xưng”.

 

          (Kinh) Kim phục ư ngă thắng pháp trung, năng vi nhiếp hộ lợi ích thủ.

          ()今復於我勝法中。能爲攝護利益首。

          (Kinh: Nay lại trong thắng pháp của ta, đứng đầu nhiếp hộ các lợi ích).

 

          “Sư đạo” (vị thầy hướng dẫn), thiện tri thức, các vị A Xà Lê, các vị tại gia, xuất gia có thể giáo hóa thế gian, th́ gọi là “lợi ích thủ” (người đứng đầu tạo lợi ích).

 

          (Kinh) Giáo hóa vô lượng Bồ Tát chúng, đoạn trừ tật đố chư đại nhân, thử đẳng ư ngă diệt độ thời, thủ ngă xá-lợi hưng cúng dường, thiện tŕ ngă tư chư Phật sự, an trí khiếp tứ biến thập phương.

          ()教化無量菩薩衆。斷除嫉妒諸大人。此等於我滅度時。取我舍利興供養。善持我斯諸佛事。安置篋笥遍十方。

          (Kinh: Giáo hóa vô lượng các Bồ Tát, các đại nhân đoạn trừ ghen tỵ, bọn họ khi ta đă diệt độ, sẽ cùng cúng dường xá-lợi Phật, khéo giữ các Phật sự của ta, an trí khám thờ khắp mười phương).

 

          Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, dùng các thứ nhân duyên để tạo phước cho thế gian, khiến cho chúng sanh đều có chỗ để nương nhờ. Như chúng ta thấy tượng Phật, tức là do đức Thế Tôn lưu lại, tướng hảo có thể hóa độ chúng sanh. Giống như cha mẹ chúng ta đă chẳng c̣n trên cơi đời, di tượng của họ cũng có thể khiến cho chúng ta nhớ tưởng ân đức của cha mẹ, nhớ tưởng nội hàm lợi ích chân thật ân dưỡng dục của cha mẹ. Lại như xá-lợi (śarīra) th́ có toàn thân xá-lợi, xá-lợi do nát thân, xá-lợi xương, xá-lợi thịt, đủ loại xá-lợi, đều do chư Phật truyền lại cho cơi đời. Nay chúng ta thấy kinh điển Đại Thừa, kinh điển liễu nghĩa, đó cũng là Pháp Thân xá-lợi của chư Phật. Lại như các loại pháp phục đă chế định cũng do đức Thế Tôn hóa hiện, muốn khiến cho hết thảy những kẻ hữu duyên hễ tiếp túc bèn đạt được lợi ích độ thoát, người cúng dường cũng đạt được lợi ích.

          Trong thời vua A Dục (Aśoka Maurya), nhà vua đă kiến tạo tám vạn bốn ngàn tháp thờ xá-lợi của Phật. Theo ghi chép, tại Trung Hoa có mười tám chỗ, là nơi được phân bố xá-lợi nhiều nhất trên thế giới, là quốc gia rộng nhất, có xá-lợi răng của Phật, xá-lợi ngón tay của Phật, xá-lợi tóc của Phật, xá-lợi thịt của Phật, xá-lợi xương của Phật, xá-lợi kết tinh của Phật v.v… Các xá-lợi ấy đều có thể làm vật gia tŕ phước đức và trí huệ cho hữu t́nh trong đời Mạt Pháp, mà cũng là ruộng phước chân chánh xuất thế và nhập thế.

 

          (Kinh) B́nh địa tạo tháp, hoặc tại sơn, phó chúc thiên long cập kim điểu, tư đẳng y trượng ư thử kinh, thọ chung giai đắc sanh thiên thượng.

          ()平地造塔或在山。付囑天龍及金鳥。斯等依仗於此經。壽終皆得生天上。

          (Kinh: Đất bằng tạo tháp hoặc trên núi, căn dặn trời rồng và kim điểu, bọn họ nương cậy vào kinh này, thọ mạng hết, đều sanh thiên giới).

 

          Tạo tháp thờ phụng kinh điển, hoặc tạo tháp thờ xá-lợi cũng lại chẳng thể nghĩ bàn, có thể khiến cho trời, người được giải thoát, hoặc sau khi mất sẽ được sanh lên trời. Quả thật là cổ vũ khích lệ đối với phước báo nhân thiên.

 

          (Kinh) Hậu tuy chuyển sanh ư nhân gian, nhi thường bất ly thắng gia tánh, thiện tŕ ngă tư Bồ Đề sự, hoàn phát đại nguyện tùy bổn tâm.

          ()後雖轉生於人間。而常不離勝家姓。善持我斯菩提事。還發大願隨本心。

          (Kinh: Về sau, tuy sanh vào nhân gian, thường chẳng ĺa khỏi gịng cao quư, khéo tŕ Bồ Đề sự của ta, lại phát đại nguyện thuận tâm ḿnh).

 

          Trung Hoa từ sau thế kỷ mười chín đến nay, nhất là sau phong trào Ngũ Tứ và vận động phá tứ cựu[6], một mực kéo dài cho đến hiện tại, đề xướng b́nh đẳng, dân chủ, tự do, tức là chẳng có khái niệm “chủng tánh”. Ấn Độ cho tới hiện thời vẫn có bốn loại chủng tánh, biểu hiện mười phần rơ rệt trong kết cấu của xă hội. Kẻ sanh vào tầng lớp “tiện dân” sẽ bị kẻ khác kỳ thị; do vậy, “thường bất ly thắng gia tánh” đối với người Ấn Độ mà nói sẽ là mười phần trọng yếu! Nói theo phía người Hoa, thật ra, mọi người vẫn có phân biệt! Tuy nói là b́nh đẳng, nhưng gia đ́nh nông dân, gia đ́nh công nhân, gia đ́nh cán bộ, cho đến gia đ́nh cán bộ cao cấp, gia đ́nh cán bộ quân đội, ư thức sanh hoạt, cơ chế giáo dưỡng, cảm thọ về cái tôi, vẫn sai biệt rất lớn. Lại c̣n người thuộc sắc tộc Hán, người thuộc sắc tộc thiểu số, cảm nhận sai khác đều rất lớn, chúng ta chẳng thể nào không đối diện với những t́nh huống cụ thể ấy!

          Sanh trong gia đ́nh có ḍng họ sang cả là một thứ cổ vũ, là hướng dẫn tăng thượng cho phước báo nhân thiên. Đức Thế Tôn thuyết pháp thường dùng phước báo nhân thiên tăng thượng để hướng dẫn, khiến cho chúng ta tiến nhập Bồ Đề, chẳng phải là cơ duyên có thể lướt qua. V́ nếu chỉ nói đến giáo pháp Vô Thượng Bồ Đề, hết thảy chúng sanh tâm đều mê mờ, chẳng thể yêu thích. Nếu nói theo thứ tự tiến dần dần, sẽ có thể dẫn dắt chúng sanh yêu thích, hướng tới, thật sự thâm nhập tu tập pháp tắc trong Phật pháp. Do vậy, nói theo kiểu tăng thượng, sẽ là mười phần trọng yếu. V́ thế, trong quá tŕnh sơ chuyển pháp luân, đức Thế Tôn nói ra giáo ngôn nhân thiên ngũ thừa, nói giáo ngôn tam thừa, đợi cho tới khi nhân duyên chín muồi, Ngài chỉ nói Nhất Thừa. Như kinh Diệu Pháp Liên Hoa chỉ nói Nhất Thừa giáo, bỏ các phương tiện, khai quyền hiển thật, chỉ nói tối thượng thừa, ban cho hết thảy chúng sanh lợi ích rốt ráo, dùng liễu nghĩa giáo để chân thật hồi thí chúng sanh. Đó là dẫn dắt dần dần theo thứ tự.

          “Hoàn phát đại nguyện tùy bổn tâm” (lại c̣n phát ra đại nguyện thuận theo bổn tâm): “Bổn tâm” là hết thảy chúng sanh vốn là Phật, xác định nhận biết “hết thảy chúng sanh đều trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai”, tiến thẳng vào Bồ Đề, sanh tử trọn chẳng liên quan, trọn chẳng thể nhiễm. Nhưng tuy nói chẳng có sanh tử để có thể đắc, hết thảy chúng sanh trầm luân trong nhân quả không ǵ chẳng gánh vác, tâm trí mê muội. Do đó, đức Thế Tôn mới nói dần dần phước báo nhân thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, cho đến tối thượng thừa, khiến cho họ nhận biết bổn tâm, quy kết bổn tâm vốn sẵn trọn đủ, chẳng nhờ vào phương tiện, tự nhiên trở về pháp tánh rạng ngời, chiếu tỏ mười phương, mau chóng thoát khỏi biển khổ sanh tử, quả thật là hư vọng tạo tác, đối đăi tạo tác, tức là tạo tác liên tục ngay trong mỗi niệm hiện tiền.

 

           (Kinh) Hoặc thời vị pháp chí tha quốc, hằng trị như thị thâm diệu điển, đắc dĩ chuyển thọ chúng đa nhân, dĩ hoan hỷ tâm trừ tật đố.

          ()或時爲法至他國。恆值如是深妙典。得已轉授衆多人。以歡喜心除嫉妒。

          (Kinh: Có lúc v́ pháp đến nước khác, thường gặp diệu điển sâu như thế, đă được, dạy lại nhiều người khác, dùng tâm hoan hỷ trừ ghen tỵ).

 

          Trong thời đại này, cái tâm ghen tỵ đă trùm lấp tâm trí của rất nhiều vị xuất gia lẫn tại gia, hữu t́nh học Phật, hay không học Phật. Chẳng hạn như nh́n vào trạng thái toàn thể của nền kinh tế trong nước, mọi người ai nấy tăng cường chụp giựt. V́ thế, kẻ có tiền mong có tiền càng nhiều hơn, kẻ có quyền mong có quyền nhiều hơn. Nắm níu không được, chẳng tiếc lao tâm, chẳng tiếc lao lực, rốt cục chẳng đạt được, phần nhiều sanh mệt mỏi, phần nhiều là v́ đă xen tạp tâm ngạo mạn, tâm ghen tỵ! Hữu t́nh trong thế gian không ai chẳng là như thế, chúng ta có thể quan sát như thật.

 

          (Kinh) Cầu pháp tinh thành, vô giải quyện, khinh tài tiện mạng khởi ái thân, hàng phục nhất thiết chư ngoại luận, thường dĩ diệu pháp huệ thí bỉ.

          ()求法精誠無懈倦。輕財賤命豈愛身。降伏一切諸外論。常以妙法惠施彼。

          (Kinh: Cầu pháp tinh thành, chẳng lười mệt, coi thường tài mạng, há yêu thân? Hàng phục hết thảy ngoại đạo luận, thường dùng diệu pháp thí cho họ).

 

          Ở đây, nhắc đến một chướng ngại lớn nhất đối với tu pháp trong thời đại này. Chướng ngại ǵ vậy? Giải đăi, buông lung, chán mệt, chẳng thẹn, chẳng hổ! Đấy là trạng thái toàn thể trong thời đại này. Do vậy, bậc thành tựu xuất thế, trụ thế rất hiếm hoi, v́ giáo ngôn và ngôn thuyết học Phật dần dần tăng thêm nhiều, nhưng người thật sự thâm nhập tu tập ít ỏi. Do đó, hoàn toàn chẳng thể mười phần khiến cho người thế gian cảm nhận [Phật pháp] là nơi đáng nương cậy, đáng làm tṛng mắt, noi theo Phật pháp, sẽ khiến cho hữu t́nh trong thế gian thật sự tùy thuận giáo ngôn trí huệ thanh tịnh của Phật giáo để ĺa khổ, được vui. Chúng ta phải khéo thoát khỏi thời đại lắm kẻ giải đăi này, thành tựu Bồ Đề, như câu nói “hướng thượng nhất chiêu, toàn khán tự thân” (phương cách hướng thượng hoàn toàn tùy thuộc chính ḿnh). Muốn ĺa khỏi đời hiện tại, nhất định chẳng thể buông lỏng cái tâm mạnh mẽ, tâm tinh tấn, tâm như pháp tế nhị thực tiễn thủ hộ. Nếu buông lỏng mà muốn xuất ly thế gian này, quả thật sẽ là rất khó!

 

          (Kinh) Thời thế vô năng thọ tư kinh, diệc vô độc tụng, chuyển giáo nhân, duy hữu thử bối ngũ bách hiền, kim ư ngă tiền tùng ṭa khởi.

          ()時世無能受斯經。亦無讀誦轉教人。唯有此輩五百賢。今於我前從坐起。

          (Kinh: Khi đời không ai thọ kinh này, cũng chẳng đọc tụng, dạy người khác, chỉ có năm trăm hiền nhân này, nay đối trước ta đều đứng dậy).

 

          Nếu trước đó, chúng ta chẳng yêu mến và tu tập pháp này trong một thời gian khá dài, mà có thể trực tiếp thọ tŕ kinh điển này, thật sự sẽ gặp khó khăn nhất định, v́ ḷng tin tưởng, hướng tới vẫn chưa đủ, làm sao có thể nghe kinh pháp, ngưỡng mộ kinh pháp, thực hành kinh giáo cho được?

 

          (Kinh) Phục thử bát sĩ chư Bồ Tát, đương lai bắc thiên thọ tư pháp, nhạo hằng quảng tuyên đa lợi ích, hoằng thị thậm thâm Tu Đa La, thử bát Chánh Sĩ vi thượng thủ, bỉ ngũ bách số phục vô tăng, viễn ly tật đố, khí danh văn, lai thế đương thọ quảng đại pháp.

          ()復此八士諸菩薩。當來北天授斯法。樂恆廣宣多利益。弘是甚深修多羅。此八正士爲上首。彼五百數復無增。遠離嫉妒棄名聞。來世當授廣大法。

          (Kinh: Lại nữa, tám vị đại Bồ Tát ấy, sẽ đến bắc thiên thọ pháp này, luôn thích rộng tuyên nhiều lợi ích, hoằng dương Khế Kinh rất sâu này, tám Chánh Sĩ ấy làm thượng thủ, số năm trăm ấy chẳng tăng thêm, xa ĺa ghen tỵ, bỏ danh văn, đời sau sẽ dạy pháp rộng lớn).

 

          Đoạn văn tự này thật sự là thọ kư. Trong hiện tiền đại chúng, có phải là có hạng người này được thọ kư hay không? Tôi chẳng hiểu, mà cũng chẳng biết, nhưng mọi người đối với pháp mà nếu có thể sanh ḷng yêu thích, cũng chẳng loại trừ năm trăm vị hiền giả ấy, ai biết là người nào, là vị nào? Người có Thiên Nhăn thấy rơ, người có Túc Mạng Minh biết rơ, người có Lậu Tận Thông biết rơ, người hành pháp biết rơ, người thành tựu Bồ Đề biết rơ.

          “Thử bát Chánh Sĩ vi thượng thủ, bỉ ngũ bách số phục vô tăng” (tám Chánh Sĩ ấy làm thượng thủ, số năm trăm ấy chẳng tăng thêm): Tám vị Chánh Sĩ ấy và năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng nhau nguyện, bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng đều thủ hộ người tu tŕ Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, trong hết thảy mọi nơi, hết thảy mọi lúc, đều khiến cho hiện duyên của họ thành tựu, trọn đủ. Tám vị Chánh Sĩ và con số năm trăm chẳng có tăng giảm.

 

          (Kinh) Như thị tỳ-kheo cập ni bối, chư ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, xảo trí, vô đố, đăng pháp sư, đương thành Chánh Giác đại oai đức.

          ()如是比丘及尼輩。諸優婆塞優婆夷。巧智無妒登法師。當成正覺大威德。

          (Kinh: Hàng tỳ-kheo và ni như thế, các ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trí khéo, chẳng ganh làm pháp sư, sẽ thành Chánh Giác, oai đức lớn).

 

          Đây là đức Thế Tôn thọ kư t́nh h́nh hạng người ấy trong đời Mạt Pháp sẽ khiến cho giáo ngôn này được lưu truyền rộng răi trong cơi đời, tức là thọ kư cho tứ chúng, v́ đấy là pháp tắc để tứ chúng tham dự và thủ hộ. Chẳng phải chỉ nói riêng về hàng xuất gia, hoặc là nói đến bậc thánh, bậc trí, cũng chẳng phải chỉ nói riêng chúng tại gia, mà là tứ chúng đều gồm đủ.

 

          (Kinh) Bỉ bất tư nghị thần đức cụ, bách phước chi thể tướng trang nghiêm. Đắc vi diệu lạc trừ chúng khổ, trường bạt tam độc phiền năo căn.

          ()彼不思議神德具。百福之體相莊嚴。得微妙樂除衆苦。長拔三毒煩惱根。

          (Kinh: Trọn đủ thần đức chẳng nghĩ bàn, thể tướng trăm phước trọn trang nghiêm, đạt vi diệu lạc trừ các khổ, nhổ sạch rễ tam độc phiền năo).

 

          Nói “tướng trăm phước” tức là trọn đủ thiện xảo, như ngôn thuyết thiện xảo, thực thi thiện xảo (thực hiện thiện xảo), giáo thọ thiện xảo, cho đến tu tŕ thiện xảo, thành tựu thủ hộ thiện xảo, có thể khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui, dẹp trừ các nguồn khổ! Nói “tam độc” tức là tham, sân, si, tức căn bản phiền năo. Hữu t́nh thời Mạt Pháp trọn đủ tham, sân, si, đó là trạng thái biểu hiện nơi tâm trí của người đời. Nếu lắng ḷng quan sát, chúng ta sẽ có thể thấy rộng khắp các loại phiền năo căn của tham, sân, si.

 

          (Kinh) Thử đẳng tùng kim xả mạng dĩ, chung bất thọ sanh ác đạo trung, nhất thiết sanh trung thường ḥa hợp, sở ngộ Bồ Đề tối thắng sự.

          ()此等從今捨命已。終不受生惡道中。一切生中常和合。所遇菩提最勝事。

          (Kinh: Bọn họ từ nay xả mạng rồi, trọn chẳng thọ sanh trong đường ác. Trong hết thảy đời thường ḥa hợp, luôn gặp chuyện Bồ Đề tối thắng).

 

          Đức Thế Tôn thọ kư: Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết, pháp này một mực được tiếp tục lưu truyền rộng khắp cho đến vị lai. “Nhất thiết sanh trung thường ḥa hợp” (trong hết thảy các đời thường ḥa hợp). V́ hành pháp Ban Châu tức Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, khiến cho tâm trí chúng sanh điều nhu, từ bi, yêu mến thế gian. Ḥa hợp là một tiêu chí đặc biệt trọng yếu trong sự thủ hộ, v́ xa ĺa ghen ghét, v́ thường tùy hỷ, v́ tâm trí điều nhu, v́ yêu mến hữu t́nh trong thế gian, v́ muốn dẹp trừ nỗi khổ cho chúng sanh. Ḥa hợp là một đại pháp tắc khá trọng yếu, mà cũng là pháp tắc tập thể, nhất là trong cuộc sống hiện thời, do ở trong thời Mạt Pháp, hữu t́nh ương ngạnh, khó giáo hóa, phần nhiều chấp chặt ư kiến của chính ḿnh, cho nên tranh căi lẫn nhau hết sức thường xuyên!

 

          (Kinh) Kư xả nhất thiết ác thú sanh, diệc năng vĩnh ly chư nạn xứ, công đức bất khả tri biên tế, như thị vô lượng thọ đa phước, phục đương đắc kiến Di Lặc Phật, ư bỉ thường khởi ḥa hợp tâm, cung kính cúng dường lợi ích tha, duy cầu Vô Thượng Bồ Đề cố.

          ()既舍一切惡趣生。亦能永離諸難處。功德不可知邊際。如是無量受多福。復當得見彌勒佛。於彼常起和合心。恭敬供養利益他。唯求無上菩提故。

          (Kinh: Hết thảy đường ác chẳng c̣n sanh, cũng măi xa ĺa các chốn nạn, công đức chẳng thể biết ngằn mé, vô lượng thọ, phước nhiều như thế. Lại sẽ được thấy Di Lặc Phật, tâm thường ḥa hợp với kẻ khác, cung kính, cúng dường lợi ích họ, v́ chỉ cầu Vô Thượng Bồ Đề).

 

          Chúng ta biết Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda) là vị Phật đầu tiên trong Hiền Kiếp, Ngài xuất thế khi loài người thọ sáu vạn năm. Câu Na Hàm Mâu Ni (Kanakamuni) Thế Tôn là vị Thế Tôn thứ hai, xuất thế khi loài người thọ bốn vạn tuổi. Ca Diếp (Kāśyapa) Thế Tôn là vị Thế Tôn thứ ba. Phật Thích Ca là vị thứ tư, Phật Di Lặc là vị Thế Tôn thứ năm, theo thứ tự như thế đó. Tính theo thứ tự sẽ có một ngàn vị Phật xuất thế. Nay chúng ta đang thuộc vào tiểu kiếp thứ chín của Hiền Kiếp, thuộc kiếp giảm, thọ mạng của nhân loại ngày càng ngắn hơn, nhân duyên phước đức ngày một giảm bớt. Một mực giảm cho đến khi tuổi thọ của con người là mười năm, loài người rất lùn, lại có tam tai bầu bạn. Sau đó, lại dần dần tăng trưởng. Khi Phật Di Lặc giáng thế, con người thọ tám vạn bốn ngàn năm, thân cao bốn mươi mét. Cỏ cây cũng biến hóa. Chẳng hạn như hiện thời kiều mộc[7] có lẽ chỉ tương đương với quán mộc trong vị lai. Quán mộc trong hiện thời có thể giống như cỏ trong thuở ấy. Tùy thuộc vào phước đức và nhân duyên của con người biến hóa, thân thể cũng tăng giảm theo, trăm vị cũng tăng giảm theo. Do thiện ác tăng hay giảm, trăm vị tăng hay giảm. Do phước đức nhân duyên biến hóa, cái nghiệp duyên thể chất của con người cũng biến hóa.

 

          (Kinh) Bỉ thời, thử bối hằng tập hội, thừa sự siêu thế Lưỡng Túc Tôn, vị thử chư Phật diệu Bồ Đề, đương độ sanh tử đăng bỉ ngạn. Ư hậu mạt thế pháp hoại thời, bỉ đẳng diệc thường tŕ thử pháp. Như thị xứ sở hằng tu hành, ngộ Di Lặc thế sự nhược tư.

          ()彼時此輩恆集會。承事超世兩足尊。爲此諸佛妙菩提。當度生死登彼岸。於後末世法壞時。彼等亦常持此法。如是處所恆修行。遇彌勒世事若斯。

          (Kinh: Lúc ấy, bọn họ thường nhóm họp, thừa sự siêu thế Lưỡng Túc Tôn, do diệu Bồ Đề của chư Phật, sẽ vượt sanh tử, lên bờ kia. Mai sau Mạt Pháp, pháp sắp hoại, họ cũng thường luôn tŕ pháp này. Luôn tu hành nơi chốn như thế. Gặp đời Di Lặc như thế đó).

 

          Trong giáo ngôn, năm trăm vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ấy, cùng với tám vị Chánh Sĩ thường hộ tŕ pháp này, tiếp nối cho đến tận tương lai lúc gặp Di Lặc Thế Tôn.

 

          (Kinh) Sở khả ư thử Hiền Kiếp nội, quảng vị lợi ích thế gian đăng, bỉ nhất thiết xứ hộ thị kinh, an trụ tam thế vô úy sở.

          ()所可於此賢劫內。廣爲利益世間燈。彼一切處護是經。安住三世無畏所。

          (Kinh: Có thể ở trong Hiền Kiếp này, làm đèn soi đời rộng lợi ích, hộ tŕ kinh này khắp mọi nơi, an trụ ba đời, không sợ hăi).

 

          Đối với tám vị Chánh Sĩ, năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di là những vị có trí huệ, đức Phật đă thọ kư cho đến khi pháp vận của Phật Di Lặc bắt đầu, các vị ấy vẫn có thể lợi ích thế gian rộng khắp. Trọn cả Hiền Kiếp, các vị ấy đều có thể lợi ích thế gian rộng khắp. Đây là sự thọ kư rộng lớn, chẳng phải là một vị Phật Thế Tôn thọ kư. Cho nên khi họ gặp Di Lặc Thế Tôn, cũng sẽ truyền bá giáo pháp này rộng khắp. Như thế th́ nay chúng ta đang thuộc thời Mạt Pháp, sau khi đức Phật diệt độ, khi chánh pháp hoại, khi các điều ác hừng hực, chúng ta thủ hộ kinh Ban Châu Tam Muội, sẽ là phước đức và nhân duyên như thế nào? Sẽ giống như đức Phật đă thọ kư, chính là đèn sáng chiếu soi thế gian, có thể khiến cho hữu t́nh giải đăi, buông lung, chẳng hổ, chẳng thẹn trong thế gian sẽ sanh nhiều hổ thẹn, và liễu giải và thủ hộ thiện căn của chính ḿnh. Pháp này có thể khích lệ chúng sanh tự biết, tự giác, tự hiểu rơ.

 

          (Kinh) Tương lai ức số đa chư Phật, bất khả tư nghị nan đắc biên, tư giai cúng dường, quảng tu hành, thường hộ như thị thắng Phật sự.

          ()將來億數多諸佛。不可思議難得邊。斯皆供養廣修行。常護如是勝佛事。

          (Kinh: Tương lai chư Phật nhiều ức số, chẳng thể nghĩ bàn, khó biết trọn, thảy đều cúng dường, rộng tu hành, thường hộ thắng Phật sự như thế).

 

          Ở đây là nói [các vị hộ tŕ ấy] sẽ ở nơi chư Phật nhiều đến vạn ức số trong kiếp vị lai, “bất khả tư nghị nan đắc biên” (chẳng thể nghĩ bàn, khó biết được ngằn mé) tức là do nhân duyên rộng lớn đều cúng dường, tu hành rộng khắp, hộ tŕ các Phật sự thù thắng như thế. V́ thế, hành pháp Ban Châu cũng rộng khắp đến tận vị lai, cho đến ức số chư Phật. V́ sao? Do công đức sức tiếp nối rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội, do thiện căn ấy chẳng thể tan hoại, do chân thật chẳng thoái chuyển.

          Chúng ta đều biết, trong pháp tắc giáo ngôn của chư Phật, khá nhiều pháp tắc có thoái chuyển. Như trong giáo ngôn của Thanh Văn có một điển cố như sau: Một vị xuất gia vừa chứng đắc Sơ Quả, du hóa nhân gian, một lúc nọ, ở nơi tháp miếu của một vị Thế Tôn, bàn tay vô ư đặt trên tháp miếu. Khi đó, vị ấy đánh mất Sơ Quả. V́ sao? Tâm khinh mạn, tâm giải đăi mà ra. Đối trước tháp miếu của đức Thế Tôn mà lầm lạc sanh kiêu mạn, do cái tâm lười nhác mà thoái thất Sơ Quả. Trong khi chúng ta tu tập pháp tắc, có tiến, có lùi, đó là pháp tắc tự lực. Nếu thuận tánh tu tŕ pháp tắc bất thoái, đương nhiên là sẽ chẳng tiến, chẳng lùi, chỉ là thủ hộ thanh tịnh, b́nh đẳng. Trong đời hiện tại, nếu tu tŕ phước đức nhân duyên tăng thượng, sẽ có tiến, có thoái. Nếu thuần túy nương vào tự lực tu tŕ, muốn trong một đời thành tựu pháp tắc bất thoái chuyển, sẽ rất khó. V́ dẫu cho loại pháp tắc ấy đă rất khó gặp gỡ [mà nay ta đă được gặp gỡ], bản thân do chúng ta thiện ác xen tạp, sẽ phần nhiều noi theo điều thiện tạp nhiễm, tuy thường hành pháp, phần nhiều là một tiến, chín lùi. Đó gọi là “một nắng, mười lạnh”. Mọi người đối với chuyện này đều đă quán chiếu và cảm nhận rất nhiều, có thể quan sát được!

 

          (Kinh) Kỳ hữu tại tiền thành Bồ Đề, bỉ bỉ hàm đồng tu cúng dường, nhi hoặc ư tiên thủ diệt độ, ngă trụ đa thế na-do-tha. Kim thử Hiền Hộ đại Bồ Tát, cập thị Bảo Đức xuất chúng trân, Thương Chủ, Ngập Đa Già Ma Na, đương kiến hằng sa vô số Phật. Ư bỉ diệc thọ vô thượng kinh, tiền dĩ kinh lịch đa kiếp số. Diệu toán bất năng tận kỳ h́nh, vô lượng ức kiếp thùy năng tri. Nhược hữu chúng sanh đắc văn danh, hoặc ư giác thời, cập thụy mộng, năng phát dũng mănh sư tử hống, bỉ bối giai đắc Thiên Nhân Tôn.

          ()其有在前成菩提。彼彼咸同修供養。而或於先取滅度。我住多世那由他。今此賢護大菩薩。及是寶德出衆珍。商主岌多伽摩那。當見恆沙無數佛。於彼亦受無上經。前已經歷多劫數。妙算不能盡其形。無量億劫誰能知。若有衆生得聞名。或於覺時及睡夢。能發勇猛師子吼。彼輩皆得天人尊。

          (Kinh: Ai đă thành đạo Bồ Đề trước, họ đều cùng nhau tu cúng dường. Hoặc ai đă nhập Niết Bàn trước, ta trụ thế nhiều do-tha kiếp. Nay như Hiền Hộ đại Bồ Tát, cùng Bảo Đức xả các trân bảo, Thương Chủ, Ngập Đa Già Ma Na, sẽ thấy hằng sa vô số Phật. Cũng thọ kinh vô thượng nơi Phật, trước đă trải qua nhiều kiếp số. Dẫu giỏi toán, chẳng tính trọn hết, vô lượng ức kiếp ai biết được? Nếu có chúng sanh được nghe danh, hoặc lúc tỉnh giấc và nằm mộng, có thể dũng mănh sư tử hống, họ đều chứng đắc Thiên Nhân Tôn).

 

          “Thiên Nhân Tôn” là đấng được thế gian ứng cúng, là đấng Điều Ngự Trượng Phu.

 

          (Kinh) Nhược hữu chúng sanh đản văn danh, trực năng tín kính cập tùy hỷ. Nhất thiết tác Phật vô nghi lự, hà huống cúng dường ư bỉ thân!

          ()若有衆生但聞名。直能信敬及隨喜。一切作佛無疑慮。何況供養於彼身。

          (Kinh: Nếu có chúng sanh chỉ nghe tên, lập tức tín kính và tùy hỷ. Hết thảy thành Phật há ngờ chi? Huống hồ cúng dường thân vị ấy).

 

          Nếu có chúng sanh nghe danh tự, danh hiệu của các vị đại Bồ Tát đó, nghe danh hiệu của pháp tắc, cũng được thành Phật, chẳng có ngờ vực! “Trực năng tín kính cập tùy hỷ” (liền có thể tín kính và tùy hỷ): Bởi lẽ, pháp này là pháp siêng ṛng, pháp tinh tấn, có thể khiến cho Phật pháp được truyền bá rộng răi trong thế gian, là pháp lợi ích thế gian rộng khắp. Khá nhiều người vốn chẳng học Phật, do thấy người khác kinh hành Ban Châu mà hướng đến Phật pháp, yêu mến Phật pháp, cho đến có nguyện vọng tiến nhập ḥng hiểu rơ Phật pháp. V́ sao vậy? Do bản thân pháp tắc này là siêng ṛng, cảm động người khác tới mức cùng cực! Người thế tục đối với cơ chế ngủ nghê, ăn uống v.v… trong cuộc sống thường nhật đă dưỡng thành thói quen. Thế mà [người hành Ban Châu] ngày ăn một bữa, thường đi, chẳng nằm, chẳng ngồi, cho đến trừ bỏ ngủ nghê, thật sự là một pháp tắc tu hành cảm động ḷng người tột bậc. Nhưng trong ấy, do lại có Phật lực gia tŕ, Phật nguyện lực nhiếp tŕ, sức thần thông của Phật nhiếp tŕ, [cho nên] công đức và thiện căn của chính ḿnh được chín muồi, tương ứng. V́ thế, đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn từ Thập Phương Chư Phật Tất Giai Hiện Tiền tam-muội. Đă thế, phàm lẫn thánh đều có thể hành, cho nên pháp này rất rộng lớn, có thể cảm động thế gian rộng lớn, có thể khiến cho hữu t́nh trong thế gian đạt được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. V́ vậy, nay chúng ta duy tŕ và tu tập pháp này chính là chuyện hết sức có ư nghĩa, mười phần thỏa đáng, mười phần tương ứng, mà đối với thân phận học Phật hoặc cơ chế học Phật của chúng ta cũng đều rất thỏa đáng.

 

          (Kinh) Kỳ sở thọ pháp bất tư nghị, thọ mạng pháp trụ diệc vô lượng. Lợi ích quảng đại vô cùng tận, công đức trí huệ bất khả tri, bỉ quá khứ Phật nan tư lượng, thanh tịnh tŕ giới Hằng sa số, thử bối ư bỉ quảng hành thí, duy cầu Vô Thượng Phật Bồ Đề.

          ()其所受法不思議。壽命法住亦無量。利益廣大無窮盡。功德智慧不可知。彼過去佛難思量。清淨持戒恆沙數。此輩於彼廣行施。唯求無上佛菩提。

          (Kinh: Lănh nhận Phật pháp chẳng nghĩ bàn, thọ mạng, pháp trụ cũng vô lượng. Lợi ích rộng lớn chẳng cùng tận, công đức trí huệ chẳng thể biết, quá khứ chư Phật khó suy lường, thanh tịnh tŕ giới nhiều Hằng sa, họ thí rộng răi ở nơi ấy, chỉ cầu Vô Thượng Phật Bồ Đề).

 

          Niệm Phật thành Phật, quyết định [chứng đắc] Vô Thượng Bồ Đề, chẳng c̣n ngờ nữa! Duyên theo Phật, quyết định thành Phật. Chuyện này được chân thật chiếu kiến trong pháp duyên khởi. V́ sao? Duyên theo Phật, ắt sẽ rốt ráo biết tự tâm, do chẳng ĺa tâm pháp, cho nên rốt ráo Vô Thượng Bồ Đề.

 

          (Kinh) Bỉ chư công đức bất khả số, đa kiếp tuyên thuyết mạc năng cùng, ư Bồ Đề trung vô tăng giảm, thường niệm hộ tŕ thị kinh pháp.

          ()彼諸功德不可數。多劫宣說莫能窮。於菩提中無增減。常念護持是經法。

          (Kinh: Các công đức ấy chẳng thể đếm, nhiều kiếp tuyên nói chẳng tận cùng, trong Bồ Đề chẳng hề tăng giảm, thường nghĩ hộ tŕ kinh pháp này).

 

          Đức Thế Tôn cũng khó nghĩ bàn công đức và lợi ích của pháp này, cho nên “đa kiếp tuyên thuyết mạc năng cùng” (nhiều kiếp tuyên nói chẳng thể cùng tận).

 

          (Kinh) A Nan! Nhược nhân hộ thử kinh, thư tả, độc tụng, cập ức niệm, nhữ ưng quyết định hưng ái kính, chung bất ly thị ngũ bách trung.

          ()阿難若人護此經。書寫讀誦及憶念。汝應決定興愛敬。終不離是五百中。

          (Kinh: A Nan! Nếu người hộ kinh này, biên chép, đọc tụng và nghĩ nhớ, ông nên quyết định yêu kính họ, trọn chẳng ĺa năm trăm người ấy).

 

          Thiện tri thức ơi! Lời thọ kư này là sự gia tŕ tăng thượng và cổ vũ hết sức có ư nghĩa. Thật sự là ấn khế sự thành tựu. Trong năm trăm vị hiền giả, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di ấy, vị nào là bậc thiện xảo? Dù nhận biết hay không nhận biết, quư vị đều phải nên khéo thủ hộ pháp tắc.

 

          (Kinh) A Nan! Nhược nhân tŕ thử kinh, tự đương cần tâm cầu kiên cố. Tịnh tŕ cấm giới, xả thụy miên, quyết định đắc tư diệu tam-muội. Ngă Tỳ Ni xứ thuyết Mộc Xoa, chư tỳ-kheo học cư Lan Nhă. Nhược năng Đầu Đà bất xả ly, đắc thử tam-muội định vô nghi.

          ()阿難若人持此經。自當勤心求堅固。淨持禁戒舍睡眠。決定得斯妙三昧。我毗尼處說木叉。諸比丘學居蘭若。若能頭陀不捨離。得此三昧定無疑。

          (Kinh: A Nan! Nếu ai tŕ kinh này. Hăy nên tâm siêng cầu kiên cố. Giữ giới thanh tịnh, bỏ ngủ nghê, chắc chắn đắc tam-muội mầu nhiệm. Trong Luật Tạng nói đến Mộc Xoa, các tỳ-kheo học, trụ Lan Nhă. Nếu chẳng xả ĺa hạnh Đầu Đà, quyết đắc tam-muội này chẳng nghi).

 

          Mộc Xoa tức là Ba La Đề Mộc Xoa, dịch sang tiếng Hán là Các Cá Bảo Giải Thoát Giới (các giới bảo đảm sự giải thoát). Lan Nhă tức là chỗ A Lan Nhă, tâm trí tịch tĩnh, bỏ các ồn náo. Đầu Đà: Mười hai hạnh Đầu Đà, chẳng hề thọ thỉnh (tức chẳng nhận lời thỉnh cúng dường riêng), mặc y phấn tảo, ăn một bữa, một chiếc áo do các mảnh vải vụn chằm lại, tu một ḿnh dưới tàng cây v.v… Nếu ai có thể thường thủ hộ [hạnh ấy], nhất định sẽ có thể thành tựu tam-muội này.

 

          (Kinh) Nhất thiết biệt thỉnh tận năng xả, phàm thị mỹ vị giai đoạn trừ.

          ()一切別請盡能舍。凡是美味皆斷除。

          (Kinh: Hết thảy biệt thỉnh đều xả hết, phàm là vị ngon đều đoạn trừ).

 

          Tham cầu sắc, vị, tham chuộng lợi dưỡng, sẽ khó thể thành tựu pháp này.

 

          (Kinh) Sư sở thường khởi chư Phật tâm, thùy vân bất chứng tư tam-muội?

          ()師所常起諸佛心。誰云不證斯三昧

          (Kinh: Tâm thường tưởng thầy như chư Phật, lẽ đâu chẳng chứng tam-muội này?)

 

          Nếu đối với thầy, thường nói là trong pháp tắc giáo thọ tam-muội, tưởng thầy như Phật, cái tâm ấy sẽ viên măn. Viên măn là v́ có khởi đầu viên măn; cho nên chứng đắc tam-muội chẳng xa. Trong thời đại này, đối với kinh điển, đối với thầy dạy mà khởi lên ư tưởng đúng như pháp, sẽ khá khó khăn! V́ hữu t́nh trong đời Mạt Pháp có nhiều nghiệp tập, có lắm tâm nghiệp chẳng viên măn, cho nên tưởng thầy giống như Phật rất khó! Làm như thế nào? Y pháp, bất y nhân, chẳng đánh mất thiện xảo. Nhưng nếu quư vị nói: “Ta chẳng quan tâm chuyện này, ta biết sư trưởng là phương tiện hư giả lập ra. Nếu cái tâm viên măn, ta sẽ coi thầy giống như Phật”. Đó là quư vị thiện xảo, đạt được lợi ích ấy, chẳng phải do duyên nào khác, mà do tâm duyên sanh ra. Coi đó là sự thật, ắt sẽ thành tựu tam-muội này.

 

          (Kinh) Tham, khuể, si hoạn tiên giác tri, ngă mạn, tật đố hàm viễn ly.

          ()貪恚癡患先覺知。我慢嫉妒咸遠離

          (Kinh: Tham, giận, si hoạn nhận biết trước, ngă mạn, ghen tỵ đều xa ĺa).

 

          Đây là một nhân tố cơ bản nhất, hoặc có thể nói là pháp tắc thuộc về nền tảng ḥng thành tựu pháp tắc này.

 

          (Kinh) T́nh vô cấu trước niệm vô vi, độc tụng, tư duy thắng tam-muội.

          ()情無垢著念無爲。讀誦思惟勝三昧。

          (Kinh: T́nh chẳng chấp cấu, niệm vô vi. Đọc tụng, tư duy thắng tam-muội).

 

          Khi chúng ta đọc tụng kinh điển này, sẽ thấy phần nhiều là nhắc nhở chúng ta: Đây là tư duy tam-muội.

 

          (Kinh) Thanh tịnh ư xứ vô khả nhiễm, điều phục chư căn, tức oán hiềm. Nhất tâm chuyên niệm Như Lai thân, độc tụng, thọ tŕ diệu tam-muội. Nhược hữu Bồ Tát tại cư gia, tâm thường kiên trụ xuất gia sự, thọ tŕ, độc tụng khẩu nghiệp thành, tâm thường niệm học thử tam-muội.

          ()清淨意處無可染。調伏諸根息怨嫌。一心專念如來身。讀誦受持妙三昧。若有菩薩在居家。心常堅住出家事。受持讀誦口業成。心常念學此三昧。

          (Kinh: Tâm ư thanh tịnh chẳng thể nhiễm, điều phục các căn, dứt oán hiềm. Nhất tâm chuyên niệm thân Như Lai. Đọc tụng, thọ tŕ diệu tam-muội. Nếu có Bồ Tát sống tại gia, tâm thường trụ chắc chuyện xuất gia, khẩu nghiệp chuyên đọc tụng, thọ tŕ. Tâm thường niệm học tam-muội này).

 

          “Tâm thường kiên trụ xuất gia sự” (Tâm thường trụ vững nơi chuyện xuất gia): Tuy đang ở tại gia, nhưng thường nghĩ xuất gia, thường nghĩ tới y bát. Đấy là người tu hành tại gia có đủ thiện duyên và phước đức tăng thượng. Đức Thế Tôn đối với các vị đại Bồ Tát, tức tại gia Bồ Tát, đă dạy nhiều lượt như vậy, tán thán sự chân thật của công đức xuất gia. Trong đời Mạt Pháp này, tuy rất nhiều người xuất gia có vị đúng pháp, có kẻ chẳng đúng pháp, hoặc là có các thứ tướng trạng đáng nghi, nhưng vẫn chẳng thể ô nhiễm, nhuốm bẩn lợi ích và pháp tắc căn bản của xuất gia. Chớ nên v́ nghiệp duyên của con người, v́ nghiệp tập, chướng duyên, cộng nghiệp của thời đại mà ngăn chướng công đức xuất gia trong Phật pháp. Chớ nên v́ hoàn cảnh con người, hoàn cảnh của thời đại mà soi mói Tam Bảo. Nếu ai v́ một vị Tăng có những chỗ chẳng đúng pháp mà phỉ báng Tam Bảo, phỉ báng Tăng pháp, kẻ đó là người ngu muội. Nếu do đôi ba người hoặc nhiều người mà phỉ báng, cũng giống như thế. Cho đến do nhân duyên một đoàn thể, nhiều đoàn thể, hoặc do tăng nhân trong một thời đại có lắm lầm lỗi mà ngờ vực, phỉ báng công đức xuất gia của Tam Bảo th́ cũng giống như thế. V́ cớ sao? Công đức xuất gia chẳng do một kẻ nào mà có, mà là do công đức của người thật sự hành hạnh xuất gia thủ hộ và thành tựu. Đối với chuyện này, các vị thiện tri thức nhất định phải khéo quan sát, đừng v́ sai trái nơi hành vi của kẻ khác che lấp tâm duyên của chính ḿnh, chướng ngại pháp tắc và lợi ích của chính ḿnh. Thường nghe nói có người chửi bới Tăng pháp, tăng nhân, chớ nên như thế! Nghiệp tạo tác hành vi của con người trong mỗi thời đại hoàn bị hay không là do cộng nghiệp của thời đại ấy biểu hiện, chẳng phải do người xuất gia ấy muốn làm, mong làm, thực hiện. V́ thế, chớ nên chửi bới người xuất gia. Xuất gia chỉ là tướng mạo bề ngoài! Nếu quư vị tưởng người xuất gia như thấy Phật, quư vị sẽ thấy Phật. Nếu quư vị hễ thấy [người xuất gia] bèn sanh ư tưởng thị phi, chỗ nào cũng thấy lỗi lầm, tức là quư vị mang tâm tưởng lầm lỗi, sẽ mắc quả báo lầm lỗi, vướng duyên lầm lỗi. Các vị thiện tri thức ơi! Pháp do chúng ta duyên theo sẽ trở thành chủng tử, quả báo trong vị lai tất nhiên sẽ chín muồi. Do vậy, người thật sự tu hành chẳng thấy lỗi của thế gian. V́ sao ở đây [đức Phật dạy]: Ở bất cứ nơi nào, đều phải nghĩ đến pháp xuất gia? V́ công đức xuất gia chẳng phải bất cứ ai cũng có thể chiếm hữu, chẳng phải là người hiện tướng xuất gia hay tại gia có thể chiếm hữu. Chỉ có người hành pháp tắc xuất gia, ngưỡng mộ xuất gia th́ mới đạt được lợi ích, đạt được thiện xảo. Do vậy, người hành pháp tại gia thường nghĩ xuất gia, kiên cố cái tâm, “thọ tŕ, đọc tụng, thành tựu khẩu nghiệp, tâm thường mong học tam-muội này”. Đó là yêu cầu đối với người tại gia.

 

          (Kinh) Hằng ưng tu tŕ ngũ chủng giới, diệc thường sổ thọ Bát Giới Trai. Thường trụ tự miếu, xả tư sanh, độc tụng, tư duy thử tam-muội.

          ()恆應修持五種戒。亦常數受八戒齋。常住寺廟舍資生。讀誦思惟此三昧。

          (Kinh: Luôn nên tu tŕ năm loại giới, cũng thường xuyên thọ Bát Giới Trai. Thường ở chùa miếu, xả của cải, đọc tụng, tư duy tam-muội này).

 

          “Năm loại giới” là chẳng giết, chẳng trộm, chẳng nói dối, chẳng dâm, chẳng uống rượu, thanh tịnh thủ hộ như thế.          “Thọ tám giới”: Thông thường chúng ta đề xướng người tại gia ở trong chùa miếu thọ tŕ Bát Quan Trai Giới, hoặc là phi gia bát giới. Do đó, có thể làm chuyện của người xuất gia, khiến cho chúng ta chẳng đánh mất cái duyên thù thắng trong chùa, chẳng mất cơ hội thù thắng nơi tự viện, chẳng đánh mất công đức được đại chúng huân tu. Như thế th́ chúng ta chẳng đánh mất cơ hội của chính ḿnh, chẳng rối loạn nhân duyên của chính ḿnh, có thể thật sự khởi tác dụng của việc trụ trong tự viện, tác dụng của cộng tu, xa ĺa cái hại tại gia, công đức chẳng thể nghĩ bàn, cho tới trong một thế giới Diêm Phù Đề, nhiều thế giới, các hữu t́nh trong trọn khắp mỗi thế giới đều tŕ ngũ giới, chẳng bằng công đức thù thắng, công đức chẳng thể sánh bằng của một người thanh tịnh vâng giữ Bát Quan Trai Giới. V́ thế, các vị thiện tri thức ơi! Chúng ta là người xuất gia, đương nhiên phải thủ hộ pháp tắc xuất gia, thật sự hăy nên tôn trọng hiện duyên của chính ḿnh. C̣n người tại gia đến chùa miếu xin thọ tŕ, thủ hộ Bát Quan Trai Giới, quả thật là thiện căn của quư vị chẳng thể nghĩ bàn! Nếu kẻ tại gia chúng ta muốn thọ Bát Giới, muốn thủ hộ sẽ rất khó. V́ lẽ nào? Do tạp duyên hừng hực, do nhiều người quấy nhiễu, do bị ngoại duyên chế ngự, gây khó. Chúng ta thủ hộ tám giới ở trong tự viện rất dễ. Mọi người trọn đủ cái duyên thù thắng như vậy, ai nấy hăy nên quư trọng!

          “Thường trụ tự miếu, xả tư sanh” (thường ở trong chùa miếu, bỏ của cải), tức là chẳng tham cầu thế gian, thường yêu thích đạo tràng, yêu thích hành pháp, yêu thích duy tŕ pháp tắc Phật pháp, thích huân tập.

 

          (Kinh) Bất đương đam trước chúng phụ thiếp, vật ái nhi nữ cập trân tài, trụ ưu-bà-tắc hành tu tàm, đản đương ức tŕ thử tam-muội.

          ()不當耽著衆婦妾。勿愛兒女及珍財。住優婆塞行羞慚。但當憶持此三昧。

          (Kinh: Đừng nên đắm đuối các thê thiếp, đừng yêu con cái và của báu, trụ ưu-bà-tắc hành hổ thẹn, chỉ nên nhớ giữ tam-muội này).

 

          “Bất đương tham trước chúng phụ thiếp, vật ái nhi nữ cập trân tài”: Đấy là nói về nam nữ. Nam th́ đừng đắm đuối thê thiếp, nữ th́ đừng quá yêu đắm con cái và của cải. “Hành tu tàm” (giữ ḷng hổ thẹn), đó là nói ưu-bà-tắc phải nên biết tại gia chẳng thể làm chuyện của bậc đại trượng phu, phải hổ thẹn. Quư vị nói: “Tôi là tại gia cư sĩ, có cần sanh khởi ḷng hổ thẹn hay không?” Nếu đối với giáo ngôn của đức Thế Tôn, chẳng thể mạnh mẽ vứt bỏ các thứ trói buộc tại gia, quả thật phải nên sanh ḷng hổ thẹn. Quư vị chẳng thể xuất gia, hăy nên sanh ḷng hổ thẹn. Đó phương tiện tăng thượng trong tu pháp. Nếu quư vị nói chính ḿnh là kẻ tại gia không hổ, không thẹn, vẫn rất tốt đẹp, th́ đạo nghiệp khó thể tăng thượng thành tựu, v́ quư vị chẳng có tâm yêu thích tăng thượng!

 

          (Kinh) Mạc ư tha sở khởi hại tâm, duy tư trừ khử chư điều hư, vô xứ khả trước trụ ư nhẫn, đản niệm tư duy thử tam-muội.

          ()莫於他所起害心。唯思除去諸調戲。無處可著住於忍。但念思惟此三昧。

          (Kinh: Đừng dấy ḷng hăm hại người khác, chỉ nghĩ trừ bỏ các đùa bỡn, không chỗ chấp trước, trụ nơi Nhẫn, chỉ nghĩ tư duy tam-muội này).

 

          “Mạc ư tha sở khởi hại tâm” (Đừng đối với người khác dấy ḷng làm hại): Trong thế tục, đừng làm các điều ác, khó lắm! Nhưng trong tự viện, chẳng hạn như chúng xuất gia, nếu tạo ác nghiệp, hoặc tâm tưởng ác nghiệp, thật sự sẽ bị ràng buộc, lại c̣n không chỉ là những thứ tiếp nhận trong nội tâm. V́ sao xuất gia? Do có sự ngăn che, bảo vệ thiện xảo, v́ được mọi người nh́n ngó, được mọi người yêu mến, được mọi người thủ hộ, được mọi người giám sát, đốc thúc, được mọi người cúng dường. Do nhân duyên ấy, cho nên người xuất gia có phương tiện tu đạo, có phương tiện xuất ly. Chẳng hạn như tiếp nhận sự tín thí của mười phương. Của tín thí nuôi thân ta; nếu chẳng thành tựu đạo nghiệp, đời đời kiếp kiếp khó thể đền trả mười phương tín thí. Đêm ngày ba lượt trăn trở, dùng ǵ để triệt tiêu? V́ thế, hàng xuất gia nếu chẳng tu hành đạo nghiệp, nếu chẳng dùng tâm trí chân thật để thủ hộ đạo nghiệp, đúng là cho đến đời vị lai chẳng thể đền trả! Món nợ ấy lần lượt tăng trưởng, chẳng thể nghĩ bàn, khó thể tính lường! Đối với chuyện này, hàng tại gia ưu-bà-tắc phải nên sanh tâm hổ thẹn, v́ pháp tắc xuất gia có lợi ích chân thật như thế. Tuy thấy tợ hồ có áp lực, nhưng [pháp tắc xuất gia] thật sự khiến cho hữu t́nh chân thật xuất ly. Nếu người xuất gia chẳng thành tựu, cái nợ túc thế khó để đền trả, đời này qua đời khác, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, nhiều đời nhiều kiếp chẳng thể đền trả cái nợ thập phương. Đấy chẳng phải nói để [người nghe] sợ hăi, mà là nói đến nhân quả. Đó gọi là “tha phương tín thí, nhật dạ tam phiên” (Đối với tín thí từ phương khác, ngày đêm ba lượt trăn trở). Người tín thí có sức cũng lớn, công năng cũng cao, v́ tịnh tín cho nên chân thành. Chân thành th́ sẽ tăng trưởng chẳng ngớt!

          “Duy tư trừ khử chư điều hư” (chỉ nghĩ trừ khử các đùa bỡn): Do người tại gia có các thứ giải trí, các thứ phóng dật, các thứ hành vi chẳng ngăn đón, các thứ ngôn thuyết có ích hay vô ích, có trở ngại hay không trở ngại, cho nên có nhiều điều buông lung, gây hại cho cơi đời, [có hại] cho cả ḿnh lẫn người. Trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Long Thọ Bồ Tát có phẩm Tri Tại Gia Quá Hoạn, [quư vị] có thể tra duyệt văn tự ḥng liễu giải những họa hoạn của tại gia. Rất nhiều cư sĩ tuổi trẻ sẽ nói: “Tôi c̣n chưa hưởng thụ hết phước đức trong nhân gian. Thế gian c̣n rất nhiều thứ lạ lùng tốt đẹp, c̣n có những tṛ vui tôi chưa nếm thử”. Nhưng quư vị chẳng dám bảo đảm chính ḿnh c̣n có thể sống mấy ngày, sống mấy năm! Có người nói, “tôi về già sẽ học Phật”. Quư vị có thể sống đến già hay không, vẫn là một ẩn số! Ai cũng chẳng dám nói chính ḿnh có thể sống đến năm nào, tháng nào, ngày nào? Trừ phi chính ḿnh có Thiên Nhăn Minh, mười phần biết rơ tương lai của chính ḿnh. Hoặc là nói có sanh mạng tự tại lực, người như vậy có thể nắm giữ sanh mạng, nhưng người ấy tuyệt đối sẽ chẳng lần khân trong thế tục. Chúng ta vẫn cứ ngỡ chính ḿnh c̣n rất trẻ, có rất nhiều thời gian để vui chơi, buông lung, cho đến tiếp tục làm những chuyện có hại, tức là tham, sân, si, mạn, nghi, tri kiến chẳng chánh đáng. Đúng là hăy nên cảnh tỉnh chính ḿnh: Mạng người vô thường, trôi tuột qua như nước trên núi, sớm tối khó giữ được. Hôm nay hăy c̣n sống, ngày mai khó bảo đảm! Đó chẳng phải là lời dọa nạt, mà thật sự là lời chân thành! Có thể là v́ ngoại duyên của tôi lừng lẫy, cơ bản là mỗi ngày đều gặp phải cảnh cáo tử vong. V́ thế, đối với sanh tử vô thường, luôn có cảm giác mười phần thân thiết! Nhân loại đối diện với một người bạn nghiêm túc nhất, thân cận nhất là tử vong! Các bạn bè thân t́nh khác, tuổi thọ, cho đến tiếng tăm, lợi dưỡng, các thứ hưởng thụ, đều chẳng phải là bạn bè thật sự của ta, đều là gặp gỡ trong một lúc, do nhân duyên ḥa hợp mà tạm thời gặp gỡ! Chỉ có tử vong là thân cận nhất, luôn luôn bầu bạn, luôn luôn theo sát, chẳng hề ĺa bỏ! Chẳng có một khắc nào ĺa bỏ chúng ta, chỉ đến khi nhân duyên chín muồi, sẽ trở thành sự thật. Nếu chẳng quán như thế, đạo nghiệp của quư vị làm sao thành tựu cho được? Quư vị dùng ǵ để duyên khởi vậy? V́ thế, các vị thiện tri thức hăy khéo quan sát nhé!

 

          (Kinh) Mạc ư tài vật sanh chấp trước, hoa, hương, đồ phấn, cập chư man, vô xứ nhiễm trước an bỉ nhẫn, đản đương thọ tŕ thử tam-muội.

          ()莫於財物生執着。花香塗粉及諸鬘。無處染著安彼忍。但當受持此三昧。
          (Kinh: Đừng với tài vật sanh chấp trước, hương, hoa, phấn bôi, tóc mượt mà, chẳng hề nhiễm đắm, an trụ Nhẫn, chỉ nên thọ tŕ tam-muội này).

 

          “Vô xứ nhiễm trước an bỉ nhẫn” (Chẳng hề đắm nhiễm mà an trụ trong Nhẫn): Đối với các chỗ đắm nhiễm, tâm có thể thanh tịnh quan sát, chẳng nhiễm, chẳng chấp, đó là an nhẫn. Nhẫn là chấp nhận, tùy thuận. Vô Sanh Nhẫn chính là pháp Nhẫn chẳng tạo tác.

 

          (Kinh) Nhược tỳ-kheo-ni cầu thử kinh, đương cần quy kính, trừ tật đố, điều hư, cống cao, cập ngă mạn, chứng bỉ Bồ Đề diệc bất nan.

          ()若比丘尼求此經。當勤歸敬除嫉妒。調戲貢高及我慢。證彼菩提亦不難。

          (Kinh: Nếu tỳ-kheo-ni cầu kinh này, nên siêng quy kính, trừ ghen tỵ, đùa bỡn, kiêu căng, và ngă mạn, chứng Bồ Đề ấy cũng chẳng khó).

 

          Từ tỳ-kheo, ưu-bà-tắc, ngay lập tức nói đến tỳ-kheo-ni, v́ sao? Trong rất nhiều cách thuyết pháp, đức Thế Tôn đều nói theo kiểu như vậy. Được nhắc đến ở đây là do tỳ-kheo-ni cũng thuộc vào hai chúng xuất gia, chúng [tỳ-kheo-ni] này có phân lượng nhất định, cần phải nhắc đến. “Đương cần quy kính trừ tật đố, điều hư, cống cao, cập ngă mạn” (hăy nên siêng năng quy ngưỡng, kính trọng, trừ ghen ghét, đùa bỡn, kiêu căng và ngă mạn). Đấy đều là những lầm lỗi mà nữ chúng thường mắc phải!

 

          (Kinh) Ưng phát tinh tấn, phá thụy miên, nhất thiết chư cầu giai đương đoạn, tâm ái nhạo pháp, tịnh mạng tồn, duy đương độc tụng thử tam-muội.

          ()應發精進破睡眠。一切諸求皆當斷。心愛樂法淨命存。唯當讀誦此三昧。

          (Kinh: Nên phát tinh tấn, trừ ngủ nghỉ, hết thảy mong cầu đều nên đoạn. Tâm yêu mến pháp, giữ tịnh mạng. Chỉ nên đọc tụng tam-muội này).

 

          “Nhất thiết chư cầu giai đương đoạn” (hết thảy các mong cầu đều nên đoạn): Đó gọi là sống thiểu dục tri túc, an trụ trong tâm trí nhàn tĩnh, xa ĺa ồn náo. “Tâm ái nhạo pháp tịnh mạng tồn, duy đương độc tụng thử tam-muội” (tâm yêu thích pháp, luôn giữ ư niệm sống thanh tịnh, chỉ nên đọc tụng tam-muội này), khiến cho chúng ta chuyên thâm nhập, tu tập pháp tắc này. Trong tự viện, so ra có nhiều cơ hội và cũng có nhiều nhân duyên hơn để thực hiện chuyện này. Do vậy, sau đấy, chúng tôi cổ vũ mọi người hăy tận lực đến tự viện thọ giới, tu hành pháp tắc. Như thế th́ sẽ chẳng đánh mất nhân duyên thù thắng của tự viện, đợi đến khi chúng ta quay về thế tục, sẽ nói đến chuyện thế tục. Đó cũng là một phương tiện.

 

          (Kinh) Tâm thường bất cộng tham dục câu, mạc khởi khuể hận vô bách năo. Bất dĩ ma phược hệ chúng sanh, duy đương thọ tŕ thử tam-muội.

          ()心常不共貪慾俱。莫起恚恨無迫惱。不以魔縛系衆生。唯當受持此三昧。

          (Kinh: Tâm thường chẳng xen tạp tham dục, đừng dấy nóng giận, chẳng bức năo, đừng để ma trói buộc chúng sanh, chỉ nên thọ tŕ tam-muội này).

 

          Hăy đừng nên trộn lẫn với tham dục, chẳng xen tạp sân hận bức năo. Hiện thời, hữu t́nh trong thế gian sân hận, bức bách, năo hoạn là chuyện hết sức thường xuyên, hết sức dễ dàng sanh khởi. Nữ chúng càng biểu hiện dữ dội hơn! Hăy nên chú ư! Nhất là người xuất gia, tâm hăy nên thường sanh từ bi. Người xuất gia trong quá khứ, bất luận là tỳ-kheo, hay tỳ-kheo-ni, đều phải nên có hai thứ tu tŕ, tức là từ tâm quán và quang minh quán. Từ tâm quán là khiến cho hết thảy hữu duyên thanh thản, vui sướng, an lạc, hoặc dấy lên thiện niệm. Quang minh quán là trừ hết thảy đối đăi thiện ác, tâm chẳng vướng mắc, gột trừ cấu nhơ trong tâm, được trụ trong an lạc. Hai pháp ấy chính là pháp tắc ắt phải hành của hàng xuất gia. Nếu không có hai pháp hạnh ấy, xuất gia rất khó, bất luận xuất gia với h́nh thức như thế nào, sẽ luôn chẳng tương ứng, luôn rất khó đạt được lợi ích chân thật. Ở đây, vẫn hy vọng chúng ta xa ĺa các triền phược, chẳng phiền năo lẫn nhau. Nếu chúng ta cộng trụ mà chẳng có tâm từ bi, tâm yêu mến, tâm tạo thêm lợi ích cho đối phương, hoặc là chẳng cùng nhau huân tập, chẳng có tâm tu pháp, vậy th́ sẽ có năo hại, mà năo hại sẽ khiến cho tâm trí của kẻ khác phiền bực, chẳng thể an ổn, cho đến nẩy sanh oán hận, đối địch.

 

          (Kinh) Vô dĩ siểm khúc hữu sở vi, vật tham hảo y cập đồ huân, mạc hành lưỡng thiệt, ly phân tha, duy đương thọ tŕ thử tam-muội.

          ()無以諂曲有所爲。勿貪好衣及塗薰。莫行兩舌離分他。唯當受持此三昧。

          (Kinh: Đừng hành các hạnh tâm siểm khúc, đừng tham y đẹp và hương xông, đừng nói đôi chiều, lời ly gián, chỉ nên thọ tŕ tam-muội này).

 

          Ở đây, nữ chúng dễ vướng vào trạng thái này. “Vô dĩ siểm khúc hữu sở vi” (đừng làm các chuyện siểm khúc): Siểm khúc khiến cho kẻ khác bị thương tổn nhất, v́ nó chẳng thật. Nay chúng ta tu pháp, hăy y pháp, đừng y nhân. Hoàn cảnh như thế sẽ mười phần thích đáng, hữu ích. Mọi người đều duyên theo một pháp tắc trong Phật pháp để tới nơi đây. V́ thế, đối với pháp phải nên siêng ṛng, hăy nên đọc tụng kinh điển cho nhiều, hăy tu tập pháp tắc cho nhiều, ĺa bỏ nhân ngă thị phi, xa ĺa siểm khúc, xa ĺa a dua, nịnh hót, màu mè giả dối, hăy như thật tự biết pháp tắc của chính ḿnh, như thật thủ hộ tâm trí của chính ḿnh, gạt bỏ các hành vi chẳng thật. Thật ra, đối với các hành vi chẳng chân thật, ai nấy đều chẳng ưa. Đối với chuyện này, chúng tôi đề xướng “y pháp, bất y nhân” rất thuận tiện, v́ trong siểm khúc, sẽ có nhiều t́nh cảm giả dối xen vào.         

          “Vật tham hảo y cập đồ huân” (Đừng tham áo đẹp và hương xông): Chẳng tham đắm trang phục! [Miễn sao y phục] có thể chống lạnh, ngăn trùng, rắn, có thể che chỗ xấu xa, có thể khiến cho người trụ trong an lạc th́ là có ư nghĩa. Nó có thể khiến cho chúng ta thành tựu đạo nghiệp, như thế là đủ rồi! Đối với những thứ khác, chớ nên quá mức dụng tâm, kẻo tiêu hao sanh mạng và sự duy tŕ sanh mạng của chính ḿnh. Đồ huân (塗薰), tức là hương bôi và hương xông. Người Ấn Độ có thói quen ấy. Nay chúng ta cũng có huân hương, nhưng chẳng phải mong cầu tốt đẹp cho riêng ḿnh, mà là để khiến cho đại chúng an lạc, cho đến khiến cho người hộ pháp được an lạc, vui sướng.

          “Mạc hành lưỡng thiệt, ly phân tha” (Đừng nói đôi chiều, chia cách kẻ khác): Đây có thể là nghiệp tướng tột bậc đặc thù của nữ chúng. Bên này nói bên nọ, có tác dụng ly gián lẫn nhau, tổn hại cả ḿnh lẫn người, như thế sẽ khiến cho mọi người đều chẳng thoải mái. Đối với khẩu nghiệp, nữ chúng càng phải nên chú ư, v́ mọi người tụ hội rất dễ tán gẫu, hư luận nhiều lắm, thậm chí phê phán ưu khuyết, đúng sai. V́ thế, chúng ta ngoài lúc tu hành, hăy ít nói năng những lời tầm phào chẳng có ư nghĩa, tức là [đừng bàn luận] nhân ngă thị phi, hăy nói nhiều về pháp tắc, cho đến niệm Phật cho nhiều, cho đến “đánh chết ư niệm”, tịnh tâm niệm Phật. Đó là phương tiện.

 

          (Kinh) Nam nữ thanh sắc bất hệ tâm, tịch tuyệt vô chư tà niệm sự, ư giáo sư sở sanh Phật tưởng, duy đương thọ tŕ thử tam-muội.

          ()男女聲色不繫心。寂絕無諸邪念事。於教師所生佛想。唯當受持此三昧。

          (Kinh: Thanh sắc nam nữ chẳng bận ḷng, dứt bặt không c̣n chuyện tà niệm. Đối với thầy dạy, tưởng như Phật. Chỉ nên thọ tŕ tam-muội này).

         

          Tà niệm là tâm chẳng thể tự chế ngự được. Đó gọi là “diện đới sắc, tà thái ngoại dật” (mặt mang vẻ cợt nhả, tâm thái tà vạy bộc lộ ra ngoài, chẳng thể giấu giếm được), do tâm trí bất chánh. Nếu người nào tâm trí hoảng hốt, chẳng thể tự an lạc thủ hộ tâm trí, sẽ chẳng thể duy tŕ pháp tắc chân thật, c̣n người tâm trí đơn thuần, tâm trí thẳng thắn, tâm trí nhất như sẽ “duy đương thọ tŕ thử tam-muội” (chỉ nên thọ tŕ tam-muội này).

 

          (Kinh) Sở sanh vĩnh ly chúng ác đạo, ư Phật pháp trung bất không tín, phá trừ tam hữu chư chướng nạn, yếu thường thọ thị tam-ma-đề.

          ()所生永離衆惡道。於佛法中不空信。破除三有諸障難。要常受是三摩提。

          (Kinh: Thọ sanh măi ĺa các đường ác, đối với Phật pháp chẳng tin suông, phá trừ các chướng nạn ba cơi, phải thường thọ lănh tam-muội này).

 

          “Sở sanh vĩnh ly chúng ác đạo, ư Phật pháp trung bất không tín” (đối với chỗ thọ sanh, vĩnh viễn ĺa khỏi các đường ác. Đối với Phật pháp chẳng tin suông): Như hiện thời chúng xuất gia và tại gia ở nơi đây, đến tự viện mà nếu chẳng thể đúng pháp hành tŕ, sẽ đúng là xuất gia rỗng tuếch, học Phật phí công! Rơi vào trường hợp danh tự hư giả, thật sự chẳng tương ứng, chủ yếu là cô phụ bốn ân đức sâu nặng, cô phụ khát vọng của hữu t́nh trong tam đồ nạn duyên, cô phụ tín thí, cô phụ thầy dạy. V́ thế, trong Phật pháp, chúng ta phải nên chân thuật thủ hộ, tu tập đúng như lư.

          “Phá trừ tam hữu chư chướng nạn, yếu thường thọ thị tam-ma-đề” (phá trừ các chướng nạn trong tam giới, phải thường thọ lănh tam-ma-đề này): Tam-ma-đề là tam-muội, thành tựu an trụ, công đức chân thật. Bài kệ này tiếp nối phần Trường Hàng trước đó, không ngừng khích lệ chúng ta nhận biết pháp tắc tŕ giới đầy đủ. Sau khi chúng ta đă kết thúc học tập, mọi người có thời gian, hăy lật xem kinh điển, niệm Phật, kinh hành, tư duy, quan sát. Chớ nên nghĩ lúc chúng ta học tập chỉ học tập. Sau khi ra khỏi thời khóa, bèn tán gẫu. Nếu cứ như thế th́ thiện pháp chẳng thể duy tŕ liên tục được, tu pháp chẳng liên tục, đạo nghiệp chẳng liên tục, thiện căn công đức rất khó chín muồi! Cổ nhân đă nêu một thí dụ: Giống như nấu nước, đốt nóng tới sáu, bảy mươi độ, để nguội, lại đun đến ba mươi độ, hai mươi độ, lại để nguội. Cứ đun đi đun lại như thế, nói chung là chẳng thể tiếp tục đun sôi được! V́ thế, đối với pháp, chúng ta phải liên tục. Học tập trong hiện tiền là điều trọng yếu, nhưng học tập sau đó càng trọng yếu hơn, v́ thời gian học tập sau đó càng dài, càng nhiều hơn!

Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Kinh giảng kư

Phần 7 hết

 

         



[1] Cửu bộ giáo pháp (Navāṅga) tức là cách phân loại kinh điển Phật giáo theo truyền thống của Ba Lỵ Luật Tạng (Luật Tạng Nam Truyền bằng tiếng Pali) dựa theo thể loại kinh điển. Tức là Khế Kinh (Sutta), Ứng Tụng (Geyya, kỳ dạ), Kư Thuyết (Veyyākaraṇa), Kệ Tụng (Gāthā, già đà), Tự Thuyết (Udāna, ưu đà na), Như Thị Ngữ (Itivuttaka, y đế mục đa), Bổn Sanh (Jataka), Vị Tằng Hữu Pháp (Abbhutadhamma), và Trí Giải (Vedalla, ngài Huyền Trang dịch chữ này là Quảng Phá). Theo Ma Ha Tăng Kỳ Luật (do ngài Pháp Hiển dịch vào thời Đông Tấn), danh xưng của cửu phần giáo như sau: Tu Đa La, Kỳ Dạ (tương ứng với Ứng Tụng), Thọ Kư (tức Kư Thuyết), Già Đà, Ưu Đà Na (tương ứng với Tự Thuyết), Như Thị Ngữ, Bổn Sanh, Phương Quảng (tương ứng với Trí Giải), và Vị Tằng Hữu.

[2] Theo sách Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh Hiền Hộ Phần Thông Nghĩa của pháp sư Thích Trí Dụ, đă giảng hai câu này như sau: “Kẻ ngu tưởng h́nh bóng trong gương là thật, điên đảo chấp trước. Chẳng biết h́nh bóng trong gương là hư vọng, chẳng thật. Kẻ ngu đó bị lửa dục thiêu đốt, thật ra ḷng dục ấy chẳng phải do nữ nhân trong gương dấy lên, mà do cứ chấp nữ nhân là thật, tâm dâm dục của hắn dấy lên v́ do chính cái tâm điên đảo của chính ḿnh tạo ra”.

[3] Theo cách diễn giải trong bộ Đại Phương Đẳng Đại Tập Hiền Hộ Phần Thông Nghĩa, chữ Diễm ở đây phải hiểu là Dương Diễm (陽焰) tức ảo ảnh xuất hiện khi nắng gắt, hơi nóng khiến cho các lớp không khí gần mặt đất nh́n từ xa sẽ loang loáng như có nước.

[4] Thất Diệp Quật là cái hang cách thành Vương Xá (nay là thành phố Rajgir, tiểu bang Bihar) chừng hai cây số. Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật đă ngự ở đấy một thời gian. Ở nơi đó, Tam Tạng kinh điển được kết tập lần đầu do ngài A Nan trùng tuyên kinh tạng, và ngài Ưu Bà Ly trùng tuyên Luật Tạng.

[5] Jetsun Milarepa (1052–1135) là một vị đại hành giả thành tựu (Mahasiddha) của Phật giáo Tây Tạng. Ngài sanh trong một gia đ́nh giàu có ở miền Tây xứ Tây Tạng. Khi cha Ngài mất sớm, chú và thím Ngài đă t́m mọi cách tước đoạt gia sản, khiến cho mẹ, bản thân Ngài và em gái đều khốn cùng. Căm thù, Ngài bỏ nhà, t́m học thuật phù thủy, dùng phù chú giết chết chú, thím. Say máu trả thù, Ngài giết chết rất nhiều người. Sau đó, Ngài hối hận sâu xa, xin theo học với đại dịch giả Marpa, chịu rất nhiều thử thách, và bị hành hạ rất khắc nghiệt. Chẳng hạn, tôn giả Marpa bắt Ngài xây một cái tháp ba tầng, xây xong, bắt phá tan rồi xây lại. Bất cứ chuyện lớn nhỏ ǵ, Milarepa cũng đều bị đánh, chửi thậm tệ. Cuối cùng, sau nhiều năm, Marpa chấp thuận và dạy pháp cho Ngài. Đến lúc đó, Marpa mới cho biết ông cố ư hành hạ như vậy để tiêu trừ nghiệp chướng cho Milarepa. Sau khi đắc pháp, nhất là pháp môn Lục Du Già của Naropa, Milarepa lui về ẩn tu trong một sơn cốc, sống khổ hạnh, và cuối cùng chứng ngộ, trở thành bậc đại hành giả về nhiều Mật Pháp. Những bài thơ của Ngài diễn tả sự chứng ngộ được phổ thành ca khúc và lưu truyền rất rộng răi. Một đệ tử đắc pháp của Ngài là Gamgopa đă truyền thừa pháp mạch của Ngài, đặc biệt là pháp Đại Thủ Ấn (Mahamudra). Các môn đệ của Gamgopa đă lập nên tông phái Kargyupa (một trong bốn tông phái lớn nhất của Phật giáo Tây Tạng). Trong đó, tôn giả Dusum Khyenpa, đệ tử của Gamgopa, đă sáng lập chi phái Karma Kargyupa và trở thành Karmapa đời thứ nhất. Chi phái Karma Karguypa là chi phái lớn nhất trong phái Karyupa.

[6] Phá TCựu là một phong trào cách mạng do Mao Trạch Đông đề xướng song song với Cách Mạng Văn Hóa, chủ trương phá sạch cựu tư tưởng, cựu văn hóa, cựu phong tục, và cựu tập quán, nhằm mục đích tiêu diệt văn hóa cũ, suy tôn lănh tụ, và chủ yếu là đập tan những thành phần đối lập trong Đảng và chánh quyền. Nguyên nhân là do trước đó, Mao Trạch Đông đă liên tiếp đưa ra các kế hoạch ngũ niên điên rồ, không thực tế, khiến cho kinh tế Trung Hoa lụn bại, quần chúng bất măn, các thành phần lănh đạo trong Đảng cũng tỏ ra nghi ngờ khả năng lănh đạo của họ Mao. Bị mê hoặc bởi các luận thuyết của Mao Trạch Đông và sự tuyên truyền, khích động của bọn tay sai, các sinh viên học sinh nhanh chóng thành lập các đoàn quân Hồng Vệ Binh rộng khắp tại Hoa Lục, hùng hổ phá hủy các cổ vật, sách vở, tranh ảnh cổ, kể cả các di tích như điện đường, chùa chiền, miếu thờ, đạo quán, các nhà kỷ niệm của những danh sĩ thời cổ v.v… Thậm chí gia phả cũng bị đốt, xé; các vật dụng trang điểm, mỹ phẩm, các trang phục và dụng cụ trong nghệ thuật tuồng cổ và nghệ thuật dân gian đều bị phá hủy. Các màu sắc tươi sáng, rực rỡ, các kiểu trang trí đều bị cấm ngặt, v́ bị coi là tàn dư của phương Tây và chế độ cũ. Cả nước xám xịt trong sắc áo chàm của công nhân, mọi người ăn mặc đồng phục như nhau, tóc cắt ngắn củn như nhau. Các họa sĩ, thư pháp gia, nghệ sĩ, tăng sĩ, đạo sĩ, linh mục, giáo sĩ, thành phần trí thức, học thức đều bị tấn công, làm nhục trước công chúng. Cuộc vận động này được phát khởi vào ngày Một tháng Sáu năm 1966 qua bài báo Quét Sạch Ngưu Xà Quỷ Thần đăng trên Nhân Dân Nhật Báo. Sau đó, vào ngày 12 tháng Tám năm 1966, Lâm Bưu trong hội nghị toàn đảng Trung Cộng đă chính thức đề ra mười sáu điều lệ hành động để chính thức phát động phong trào này. Các đường phố bị đổi tên, chánh quyền cho người viết báo chữ to dán trên tường hô hào đả kích các tư tưởng cũ và thành phần trí thức. Thậm chí Khổng Miếu cũng bị tấn công, thi hài của Diễn Thánh Công (Khổng Lệnh Di, hậu duệ đời thứ 76 của Khổng Tử) bị quật khỏi mồ, lột truồng, và treo lủng lẳng trên cây trước Khổng Miếu. Hồng Vệ Binh phá hoại đến mức không thể kiểm soát, đến nỗi khi họ sắp tấn công vào Tử Cấm Thành Bắc Kinh, thủ tướng Châu Ân Lai phải hạ lệnh điều Giải Phóng Quân đến bảo vệ Tử Cấm Thành, nhưng phần lớn các nỗ lực của ông bị bọn cánh tả trong đảng như Khang Sanh, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều và chính Mao Trạch Đông vô hiệu hóa. Chính nhờ Châu Ân Lai, Bắc Kinh mới không bị đổi tên thành Đông Phương Hồng Thành.

[7] Kiều mộc (喬木, arbor) là cách gọi các loài cây có thân gỗ cứng. Điểm đặc trưng của kiều mộc là có một thân chính to, có chất gỗ cứng, cành lá vươn ra bốn phía, có thể tỏa bóng rợp, tàng cây có h́nh dáng nhất định, cao từ năm mét trở lên. Ta thường gọi là cây có thân mộc. Kiều mộc chia thành ba loại: Tiểu kiều mộc (từ chín mét trở xuống), trung kiều mộc (từ mười cho đến mười tám mét), đại kiều mộc (cao hơn mười mét).

Quán mộc (灌木, shrub, bush) là các loại mọc thành lùm hay bụi, không có thân chính rơ rệt. Tàng cây có h́nh dáng không nhất định, không cao quá sáu mét. Loại này vẫn có thể có thân gỗ, nhưng không thân chính rơ rệt. Trong loại này, c̣n có một loại được gọi là Á Quán Mộc (half shrub), có h́nh dạng như Quán Mộc nhưng thân mềm, phần lớn có thân ngầm dưới đất, mùa Đông chết rụi, đến mùa Xuân lại mọc lên.