Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 5
地藏菩薩本願經科注
古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯
Cổ Diêm, Khuông Am Thanh Liên bật-sô
Linh Thừa biên soạn
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản in trong tháng Bảy
năm 2017
của Phật Đà Giáo Dục
Cơ Kim Hội, Đài Loan)
Giảo chánh: Đức Phong
và Huệ Trang
Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, quyển Trung
3.2.2.3. Thị nghiệp
báo sai biệt (chỉ dạy nghiệp báo sai biệt)
3.2.2.3.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm
kinh này)
(Kinh)
Địa Ngục Danh Hiệu phẩm đệ
ngũ
(經)地獄名號品第五。
(Kinh:
Phẩm thứ năm: Danh hiệu của địa ngục)
3.2.2.3.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm
này)
3.2.2.3.2.1. Phổ Hiền thỉnh
thuyết (ngài Phổ Hiền xin nói [danh hiệu của
địa ngục])
(Kinh)
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Địa
Tạng Bồ Tát ngôn: - Nhân giả, nguyện vị thiên
long tứ chúng, cập vị lai, hiện tại nhất
thiết chúng sanh, thuyết Sa Bà thế giới cập Diêm
Phù Đề tội khổ chúng sanh, sở thọ báo xứ,
địa ngục danh hiệu, cập ác báo đẳng sự.
(經)爾時普賢菩薩摩訶薩白地藏菩薩言‧仁者‧願為天龍四眾‧及未來現在一切眾生‧說娑婆世界及閻浮提‧罪苦眾生‧所受報處‧地獄名號‧及惡報等事。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát bạch
cùng Địa Tạng Bồ Tát rằng: - Thưa nhân giả! Xin hăy v́ trời,
rồng, tứ chúng, và hết thảy chúng sanh trong đời
vị lai nói danh hiệu của địa ngục là chỗ
thọ báo của chúng sanh tội khổ trong thế giới
Sa Bà và Diêm Phù Đề, và những chuyện ác báo v.v…)
Kế đó,
sau phần nghiệp duyên và nghiệp cảm, bèn hỏi tướng
nghiệp báo sai biệt trong địa ngục; v́ thế nói
là “nhĩ thời” (lúc bấy giờ). Trong tiếng Phạn,
danh xưng Bật Thâu Bạt Tha (Viśva-bhadra), hoặc Tam Mạn Bạt Đà (Samantabhadra),
dịch sang tiếng Hán là Phổ Hiền. Theo kinh Bi Hoa (Karunā-pundarīka-sūtra), Ngài chính là vương
tử thứ năm của vua Vô Tránh Niệm
(Araṇasmṛti) trong quá khứ,
tên là Vô Sở Úy (Vaiśāradyāni). Do hạnh thù
thắng hơn các vị Bồ Tát khác, nên được
Phật Bảo Tạng (Ratnagarbha) đổi tên
thành Phổ Hiền. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: “Đạt
tột đỉnh của phục đạo[1],
do nhân trọn khắp, nên gọi là Phổ. Sau khi đoạn
đạo, gần với bậc cực thánh, nên nói là Hiền”.
Kim Quang Minh Kinh Sớ viết: “Địa vị tương
tự Chân, mỗi địa vị đều thuận
theo, không địa vị nào chẳng có. Như ngài Phổ
Hiền tu trọn vẹn hạnh Phổ Hiền, địa
vị gần với đấng tôn quư tột bậc, địa
vị tương tự ấy cao lắm”. Pháp Hoa Văn
Cú Kư viết: “Đă chứng th́ gọi là Chân, chưa chứng
th́ gọi là Tự (tương tự)”. Đức Phổ
Hiền là bậc Đẳng Giác, do so với địa vị
cực thánh (Phật) mà gọi là Tự, cho nên đặt tên
là Hiền.
Phẩm
này nhờ ngài Phổ Hiền phát khởi, v́ kiến hạnh đă trọn
khắp pháp giới th́ bi nguyện mới có thể đặc
biệt to lớn. Do ngài Phổ Hiền tin tưởng Như Lai Tạng,
lại c̣n biểu thị đă chứng Xuất Triền Pháp
Thân (Pháp Thân hiển lộ sau khi ĺa khỏi phiền năo),
v́ khiến cho hết thảy chúng sanh thấu đạt “toàn
thể y báo và chánh báo của A Tỳ ở ngay trong tự tâm
của bậc cực thánh. Thân và cơi của đức Tỳ
Lô Giá Na chẳng vượt khỏi một niệm của
phàm phu hạ căn” th́ mới thấu hiểu bổn
nguyên, thành tựu cực trí (trí của bậc cực thánh,
Phật trí). Quán chiếu ngược lại Phật trí, sẽ
thấy chẳng khác sơ tâm. Nhưng phẩm đức và
địa vị của hai vị Đại Sĩ (Địa
Tạng và Phổ Hiền) ngang nhau, trí hạnh b́nh đẳng,
lẽ đâu [đức Phổ Hiền] chẳng biết danh
hiệu và chuyện trong địa ngục hay sao? Ấy là v́ đức Địa
Tạng phân thân trong cơi âm, giáo hóa Nê Lê, Ngài nêu bày [những sự
thật về địa ngục] trước mặt mọi
người, chẳng ai không tin nhận. Do vậy, [đức
Phổ Hiền] đặc biệt nêu câu hỏi.
“Nhân giả”
(仁者) [là từ ngữ] tôn xưng đấng
Từ Dục (慈育, nuôi nấng chúng sanh bằng
ḷng Từ). Nhân từ chính là tổng thể của tâm đức
(các phẩm đức của tâm), do đức to lớn của
trời đất là Sanh. Con người do coi trọng sự
sống, tự nhiên sẽ có ḷng trắc ẩn, từ ái, đối
với mọi loài sẽ đều là mùa Xuân. V́ thế, xét
theo ư nghĩa, chữ Nhân (仁) do Nhân (人) và Nhị (二) ghép thành. “Nhị”
biểu thị trời trên, đất dưới. Con người
có thể chế ngự những dục vọng của chính
ḿnh, sẽ ḥa lẫn thành một Thể với trời đất,
rỗng rang, tột bậc công chánh.
Trời tượng trưng cho chư Phật, đất
tượng trưng cho chúng sanh. Tâm con người xen lẫn,
kết hợp vào đó, thẳng thừng khiến cho chúng
sanh và Phật có cùng một Thể. V́ thế, gọi là “nhân
giả” (đấng có ḷng nhân).
“Nguyện
vị thiên, long đẳng” (Xin hăy v́ hàng trời, rồng v.v…): Do nghe nói chẳng
cần biết là nam, nữ v.v… hễ đă tạo tội,
sẽ cảm nghiệp, sẽ đều cùng hứng chịu
[khổ quả] như nhau. V́ thế, [địa ngục ấy]
được gọi là Vô Gián. Sau đó, lại nghe nói “nhất thiết chúng sanh vị giải
thoát đẳng” (hết thảy chúng sanh
chưa giải thoát…), cho nên nguyện xin đức
Địa Tạng hăy v́ những kẻ như thế mà nói.
“Chúng sanh tội khổ” chính là những kẻ thọ
báo. Chỗ để thọ báo nói chung là lục đạo,
nói riêng th́ chỉ có địa ngục. Những chuyện ác
báo chính là cảnh phải trải qua khi thọ báo. Nói đại
lược, có chín loại:
- Nếu
nghe pháp mà nói lưỡi đôi chiều, gây rối người
khác, sẽ đọa làm
loài chó cụp tai.
- Nghe pháp
mà tâm không suy ngẫm pháp vị, đọa làm con lừa tai
dài.
- Keo tham,
ăn một ḿnh (không chia sẻ với người khác), đọa
trong ngạ quỷ. Sanh làm người, sẽ là kẻ nghèo
đói.
- Cho người
khác ăn những thứ dơ bẩn, sẽ đọa làm
lợn, bọ hung.
- Cướp
đoạt đồ vật của người khác, sẽ
đọa làm dê, bị người ta lột da, ăn thịt.
- Thích trộm
đồ vật của người khác, sẽ đọa
làm trâu, ngựa; sanh làm người th́ làm tôi tớ.
- Thích bịa
chuyện, đồn đăi chuyện xấu của người
khác, sẽ đọa địa ngục, bị nước
đồng sôi rót vào miệng, bị kéo lưỡi ra để
cày bừa.
- Thích uống
rượu say sưa, sẽ đọa trong Phí Thỉ (沸屎, phân sôi) Nê Lê, thoát khỏi
địa ngục sẽ làm con tinh tinh (chimpanzee), làm người
th́ là kẻ ương bướng, ngu xuẩn.
- Làm người
trên mà đánh đập kẻ dưới, khiến họ
không kêu vào đâu được, sẽ đọa vào địa
ngục. Thoát ra bèn làm trâu cày, bị xỏ mũi, chở nặng,
ḥng đền trả tội ương.
Nếu nói
rộng ra, sẽ là vô lượng!
(Kinh)
Sử vị lai thế mạt pháp chúng sanh, tri thị quả
báo.
(經)使未來世末法眾生‧知是果報。
(Kinh: Khiến cho chúng
sanh đời mạt pháp trong thuở mai sau biết những
quả báo ấy).
Từ chữ
“sử vị lai” (khiến cho đời mai sau) trở
đi, nói rơ ư nghĩa chánh yếu của [việc thưa hỏi
danh hiệu] địa ngục: Sở dĩ chúng sanh chịu
khổ là v́ họ chẳng biết quả báo. Phàm “không, vô
sở hữu, vô tướng, vô nguyện” là trí huệ
trọng yếu trong đạo, nhưng chẳng thể nói
với kẻ mới học! Họ nghe nói “vô sở hữu”
bèn buông tuồng cái tâm, chẳng c̣n tu giới nữa. Đă
nói “hết thảy đều không”, cần ǵ phải
làm [lành, tránh ác] chi nữa? Phàm là bậc thiện tri thức
muốn dạy kẻ mới học, phải nói dần dần
về ma sự để tạo nhân duyên ngăn ngừa ma;
[cũng như nói] chuyện tội khổ trong đường
sanh tử, năm đường rành rành, khiến cho họ
tin tội phước. Đă hiểu rơ mọi chuyện th́
mới có thể nói [không, vô tướng, vô tác v.v…] Do đó,
phải khiến cho vị lai chúng sanh biết quả báo!
3.2.2.3.2.2. Địa Tạng
thừa đáp (ngài Địa Tạng vâng
theo lời hỏi mà giải đáp)
3.2.2.3.2.2.1. Khiêm cung hứa thuyết
(khiêm
cung, hứa sẽ trả lời)
(Kinh)
Địa Tạng đáp ngôn: - Nhân giả! Ngă kim thừa
Phật oai thần, cập Đại Sĩ chi lực, lược
thuyết địa ngục danh hiệu, cập tội báo,
ác báo chi sự.
(經)地藏答言‧仁者‧我今承佛威神‧及大士之力‧略說地獄名號‧及罪報惡報之事。
(Kinh:
Địa Tạng đáp rằng: “Thưa nhân giả! Tôi
nay nương vào oai thần của đức Phật và sức
của Đại Sĩ, nói đại lược danh hiệu
của địa ngục và các chuyện tội báo, ác báo”).
“Thừa
Phật oai thần” (Nương vào oai thần của đức
Phật): Đấng giáo chủ cực thánh, nương nhờ
vào Ngài là chuyện đương nhiên, nhưng nói “và sức
của Đại Sĩ” là v́ lẽ nào? Ngài Phổ Hiền
là đích tử của Phật, tôn quư không ai bằng, sức
hạnh nguyện sâu xa; do vậy, tôn xưng Ngài là Đại
Sĩ. Truyện (phần chú giải kinh Dịch) viết: “Thông
cổ kim, nhiên biện phủ? Vị chi Sĩ” (Thông hiểu xưa nay, biện
định đúng sai th́ gọi là Sĩ). “Sĩ” (士) là sự, do chữ Thập
(十), biểu thị “có nhiều
sự việc, mọi chuyện trong vũ trụ đều
thuộc về phận sự của ta”, [ghép với] chữ
Nhất (一), hàm nghĩa “một và
khác đều quán thông”. V́ thế, Khổng Tử nói: “Thôi
nhất hợp thập vi Sĩ” (Sĩ là người có
thể từ một mà suy ra mười). Nay vạn hạnh
của ngài Phổ Hiền cũng thế, do một mà thành
mười, cho đến do ngàn mà thành vạn, hiểu rơ vạn
hạnh có cùng một tánh, độ chúng sanh bằng nhất
tâm. Do có thể kiến lập chuyện cực đại,
cho nên gọi là Đại Sĩ. “Lược thuyết”
(Nói đại lược)
là từ ngữ khiêm tốn.
3.2.2.3.2.2.2. Đáp thích ngục
báo (trả
lời, giải thích về những báo ứng trong địa
ngục)
3.2.2.3.2.2.2.1. Đáp địa
ngục danh hiệu (trả lời về danh hiệu
địa ngục)
3.2.2.3.2.2.2.1.1. Tổng thị
ngục xứ (nói chung về nơi chốn
của địa ngục)
(Kinh)
Nhân giả! Diêm Phù Đề Đông phương hữu sơn,
hiệu viết Thiết Vi. Kỳ sơn hắc thúy, vô nhật
nguyệt quang.
(經)仁者‧閻浮提東方有山‧號曰鐵圍。其山黑邃‧無日月光。
(Kinh:
Thưa nhân giả! Phía Đông Diêm Phù Đề có núi tên là Thiết
Vi (Cakravāda). Núi ấy tối tăm,
không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng).
Trong phẩm
Địa Ngục của kinh
Thế Kư thuộc quyển mười chín của Trường
A Hàm, đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Thử tứ
thiên hạ hữu bát thiên thiên hạ vi nhiễu. Kỳ ngoại,
phục hữu đại hải thủy, châu biến vi
nhiễu bát thiên thiên hạ. Phục hữu Đại Kim Cang
sơn, nhiễu đại hải thủy. Kim Cang sơn
ngoại, phục hữu đệ nhị Đại Kim
Cang sơn. Nhị sơn trung gian, yểu yểu minh minh. Nhật,
nguyệt, thần, thiên hữu đại oai lực, bất
năng dĩ quang chiếu cập ư bỉ bát đại
địa ngục, cố vân hắc thúy” (Trong tứ thiên
hạ này, có tám ngàn thiên hạ vây quanh. Phía ngoài lại có biển
nước lớn, vây quanh trọn khắp tám ngàn thiên hạ.
Lại có núi Đại Kim Cang (Vajra-parvata) vây quanh biển cả.
Ngoài núi Kim Cang, lại có rặng núi Đại Kim Cang thứ
hai. Khoảng giữa hai núi, tối tăm mờ mịt. Mặt
trời, mặt trăng, thần hoặc trời có đại oai lực
chẳng thể dùng quang minh chiếu thấu tám đại
địa ngục trong ấy. V́ thế nói là tối tăm).
“Thúy”
(邃) là sâu thẳm. Đă tối tăm,
lại c̣n sâu thăm thẳm. Do vậy, luận Lập Thế
A Tỳ Đàm nói: “Đức Thế Tôn nói có đại
địa ngục tên là Hắc Ám. Ở phía ngoài mỗi thế
giới đều có [địa ngục ấy], đều
là không che phủ. Chúng sanh trong ấy tự giơ tay lên, nhưng
mắt chẳng thể thấy. Dẫu cho mặt trời,
mặt trăng, và các vị có oai thần to lớn, tất
cả quang minh đều chẳng thể chiếu thấu nơi đó. Chư Phật
xuất thế th́ đại quang minh chiếu trọn khắp.
Do quang minh ấy, họ mới trông thấy nhau. Phần thế
giới ở giữa hai rặng núi đó và ở ngoài núi
Thiết Vi được gọi là Giới Ngoại”. Do ở phía Đông
Diêm Phù Đề, nên nói là “Đông phương hữu sơn”
(phía Đông có núi) v.v…
3.2.2.3.2.2.2.1.2. Biệt khai ngục
danh (nêu tên
từng địa ngục riêng biệt)
3.2.2.3.2.2.2.1.2.1. Chánh chủ địa
ngục (địa ngục chánh yếu)
(Kinh)
Hữu đại địa ngục, hiệu Cực Vô Gián.
Hựu hữu địa ngục, danh Đại A Tỳ.
(經)有大地獄‧號極無間。又有地獄‧名大阿鼻。
(Kinh:
Có đại địa ngục tên là Cực Vô Gián. Lại
có địa ngục, tên là Đại A Tỳ).
Hai đại
địa ngục Vô Gián và A Tỳ, [được các kinh
luận] nói gộp lại, hoặc nói tách ra, từ xưa đă
khó biện định. Theo kinh Trường A Hàm và kinh Quán
Phật Tam Muội, th́ nói gộp thành một ngục. Kinh tự
hỏi đáp: “V́ sao tên là địa ngục A Tỳ?” Phương
này dịch là địa ngục Vô Gián. Kinh này và kinh Lăng
Nghiêm coi đó là hai ngục. Kinh [Lăng Nghiêm] nói: “Cửu
t́nh nhất tưởng, hạ đỗng hỏa luân. Thân
nhập phong hỏa nhị giao quá địa, khinh sanh hữu
gián, trọng sanh Vô Gián. Thuần t́nh, tức trầm nhập
A Tỳ ngục” (Chín phần t́nh, một phần tưởng,
bèn trầm luân, lọt qua hỏa luân. Thân đi vào chỗ lửa
và gió giao xen, tội nhẹ th́ sanh vào ngục có gián đoạn,
tội nặng th́ sanh vào địa ngục Vô Gián. Thuần
t́nh th́ ch́m xuống, vào trong địa ngục A Tỳ). Chuyện
này do kinh nói khác biệt, các vị dịch sư dịch mỗi
người mỗi khác, khiến cho hai ngục được
gộp lại hay tách ra khác nhau. Riêng tôi cho rằng: Ví như
hai họ cùng sống trong một căn nhà, ra vào cùng bằng
một cửa. Mỗi họ có quyến thuộc riêng.
Người ngoài nh́n vào, không ai chẳng cho là giống nhau
hay khác nhau. Cùng ra bằng một cửa, nói là một th́ có trở
ngại ǵ? Đă là hai họ, chẳng ngại nói là hai! Do
hai ngục cùng ở một chỗ, chịu tội đại
lược như nhau, cho nên là một hay hai không nhất
định.
A là Vô, Tỵ
(Vici) là Giá (遮, ngăn che), hoặc là
Cứu. Nói gộp lại là Vô Giá, Vô Cứu (không ngăn trở,
không cứu giúp). Theo kinh Thập Luân, tội Ngũ Nghịch
là cực ác nhất. Lại có bốn loại tội lớn,
giống như bốn tội nghịch, phạm tội căn
bản v.v… Nếu kẻ nào phạm một tội [trong các
tội] đó, sau khi thân hoại, mạng hết, đều
đọa vào địa ngục A Tỳ. Đức Phật
bảo Tăng Hộ: “Hữu cửu chủng nhân thường
xử A Tỳ đại địa ngục trung: Nhất,
thực Tăng vật, nhị, Phật vật, tam, sát phụ,
tứ, sát mẫu, ngũ, sát A La Hán, lục, phá ḥa hợp Tăng,
thất, phá tỳ-kheo tịnh giới, bát, phá phạm tịnh
hạnh ni, cửu, tác Nhất Xiển Đề. Thị cửu
chủng nhân hằng tại địa ngục” (Có chín loại
người thường ở trong đại địa
ngục A Tỳ: Một, ăn đồ của Tăng;
hai, ăn vật cúng Phật; ba, giết cha; bốn, giết
mẹ; năm, giết A La Hán; sáu, phá ḥa hợp Tăng; bảy,
phá tịnh giới của tỳ-kheo; tám, phá tỳ-kheo-ni tịnh
hạnh; chín, là kẻ Nhất Xiển Đề. Chín loại
người ấy thường ở trong địa ngục).
Kinh Chánh
Pháp Niệm Xứ nói sự khổ trong địa ngục
A Tỳ hơn ngàn lần mười đại địa
ngục trước đó, thọ mạng cả một kiếp.
Kinh Quán Phật Tam Muội Hải lại nói: “A Tỳ địa
ngục tung quảng bát thiên do-tuần, thất trùng thiết
thành, thất tằng thiết vơng, đao lâm, kiếm lâm đẳng,
các các thất trùng, các hữu thập bát hàn băng đẳng
ngục” (Địa ngục A Tỳ có kích thước mỗi
bề là tám ngàn do-tuần, bảy lớp thành sắt, bảy
tầng lưới sắt, rừng đao, rừng gươm
v.v… mỗi thứ đều có bảy tầng. Mỗi mỗi
đều có mười tám ngục như Hàn Băng v.v…) Đấy
chính là các ngục như Tứ Giác, Phi Đao v.v… trong phần
kinh văn tiếp theo, đều là quyến thuộc của
A Tỳ. V́ thế, trong bộ luận Lập Thế A Tỳ
Đàm, sau khi giảng giải chuyện sanh vào tám địa
ngục xong, phẩm thứ chín bèn nói tới các địa
ngục ở ŕa ngoài, như Nhiệt Hôi (熱灰, tro nóng), Phẩn Thỉ
(糞屎, phân tiểu) v.v… đều ở
nơi đó, tức là như trong phần sau, sẽ đặt
ra một khoa riêng cho các địa ngục quyến thuộc.
Đó là cách biện định mẫu mực, các hậu
hiền chớ nên không biết!
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2. Quyến thuộc
đẳng ngục (các địa ngục quyến
thuộc)
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2.1. Ngục số
vô hạn (số lượng địa
ngục vô hạn)
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2.1.1. Liệt danh
(kể
tên)
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Tứ Giác.
(經)復有地獄‧名曰四角。
(Kinh:
Lại có địa ngục, tên là Bốn Cạnh).
[Trong các đoạn
kế tiếp] đều nói “phục hữu” (lại
có), do các ngục ấy đều là quyến thuộc của
đại địa ngục A Tỳ. Loại này rất
nhiều, cho nên dùng hai chữ ấy để chỉ ra. Tứ
Giác là như kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: “Hữu nhân thật
phi sa-môn, tự vị sa-môn. Nhược văn phụ nữ
ca, vũ, hư, tiếu, trang nghiêm cụ thanh, bất thiện
quan sát, tâm sanh ái nhiễm, lậu thất bất tịnh, thân
hoại, mạng chung, đọa ư Hợp đại địa ngục
thiết mạt hỏa xứ (thị Hợp địa ngục
đệ thập lục xứ). Sở vị nhiệt thiết
Tứ Giác địa ngục, châu vi thiết bích ngũ bách
do-tuần, tùng thượng vũ hỏa, vũ thiết.
Nhất thiết thân phần phân tán vi mạt, thường
chử, thường thiêu” (Có người thật sự
chẳng phải là sa-môn mà tự cho là sa-môn. Nếu nghe âm
thanh ca, múa, vui cười, hoặc [tiếng va chạm từ]
các vật trang sức… của phụ nữ mà chẳng khéo
quan sát, tâm sanh ái nhiễm, ṛ rỉ chất bất tịnh (xuất
tinh) th́ khi thân hoại, mạng hết, sẽ đọa
trong Hợp đại địa
ngục (địa ngục ép lại) ở chỗ Vụn
Sắt Bốc Lửa (tức là chỗ thứ mười
sáu trong Hợp địa ngục).
Đó gọi là địa ngục Bốn Cạnh Sắt Nóng,
chung quanh toàn là vách sắt, rộng đến năm trăm
do-tuần. Từ trên tuôn xuống lửa và sắt, hết
thảy thân thể [của tội nhân] tan nát thành vụn,
thường bị nấu, thường bị đốt).
Theo Lập
Thế A Tỳ Đàm Luận, trong địa ngục Hắc
Thằng (黑繩, dây đen) hết thảy
đều bằng sắt, ngày đêm thiêu đốt. Tội
nhân trong ấy bị ngục tốt truy bắt, quăng cho nằm sóng soài trên mặt đất. [Ngục
tốt] căn theo chỗ những sợi dây màu đen giăng
mắc để chặt [thân thể tội nhân] bằng búa
to, hoặc thành h́nh bát giác, hoặc thành lục giác, hoặc
thành bốn đoạn. Lại có khi chặt vụn từ
đầu đến chân như từng đốt mía. Đấy
là do khi xưa làm người, [những tội nhân đó] đă
tự tay hoặc bảo kẻ khác chặt, xẻo tay, chân,
mũi, tai, chặt ngang lưng, xẻo thịt v.v… [người
khác] nên thọ sanh trong đó!
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Phi Đao.
(經)復有地獄‧名曰飛刀。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Đao Bay).
Phi Đao
(đao bay) là địa ngục Đao Luân (刀輪, vầng đao). Kinh Quán
Phật Tam Muội Hải quyển năm nói: “Đao Luân
địa ngục giả, tứ diện đao sơn. Ư
chúng sơn trung, tích đao như chuyên. Hư không trung hữu
bát bách vạn ức cực đại đao luân, tùy thứ
nhi hạ, do như vũ trích” (Địa ngục Đao
Luân bốn phía là núi đao. Trong các quả núi, chứa đao
như ngói. Trong hư không, có tám trăm vạn ức vầng
đao hết sức to, lần lượt rơi xuống
giống như giọt mưa). Luận Lập Thế gọi
chúng là “mưa gươm, mưa búa ŕu” v.v… Chúng rơi
xuống chỗ nào, các phần thân thể bị chặt đứt,
đầu đứt rời như chẻ củi, tung tóe,
hỗn độn. Đó là do xưa kia làm người, [các
tội nhân ấy] theo đuổi việc chiến đấu,
hoặc cho kẻ khác vũ khí, sai họ chiến đấu,
tụ tập nhiều người, tùy ư sát hại. Do nghiệp
căn ấy, bèn sanh trong đó.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Hỏa Tiễn.
(經)復有地獄‧名曰火箭。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Tên Lửa).
Theo kinh Quán
Phật Tam Muội, Hỏa Tiễn (tên lửa) chính là năm
trăm ức địa ngục Thiết Cơ (鐵機, máy sắt): Có một
cái giường sắt, kích thước mỗi bề vừa
đúng bốn trăm do-tuần; trên đó, cắm đầy kim tua tủa. Giữa các
mũi kim, đều có vạn ức nỏ sắt. Trên cái
lẫy của nỏ sắt, có trăm ức lưỡi đao
bén nhọn. Tội nhân sanh [vào địa ngục này, sẽ
nằm] trên cái máy sắt đó, vạn ức cây kim sắt
từ dưới đưa lên, các mũi kim đều ngửa
lên, hay cắm xuống. Vô lượng nỏ sắt đồng
thời đều kéo căng, mỗi mũi nỏ sắt đều
bắn vào tim tội nhân. Một ngày, một đêm, sáu
trăm ức lần sống chết. Luận Lập Thế
nói: “Chúng sanh ngu si trong thế giới, v́ tham dục mà bất
hiếu với cha mẹ, chẳng kính trọng sư trưởng,
chẳng vâng theo sự dạy dỗ tốt lành, giết hại
chúng sanh, nuôi nấng những kẻ gian trá, cho nên hứng chịu
báo này”.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Giáp Sơn.
(經)復有地獄‧名曰夾山。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Núi Kẹp).
Giáp Sơn
(núi kẹp lại): Luận Tam Pháp Độ[2] viết: “Địa
ngục Chúng Hợp: Chúng sanh mắc tội, do sợ hăi ngục
tốt, vô lượng trăm ngàn người chạy vào
giữa núi. Đă vào rồi, tự nhiên trước sau bốc
lửa ngăn chặn họ, hai bên núi tự ép lại như
cối xay. Máu tuôn như sông, xương, thịt tan nát
hết sạch. Những kẻ sanh trong ấy là do thích cầm
đầu giày ṿ chúng sanh”. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói:
“Nhị sơn kiên tiên, thiết diễm hỏa nhiên,
lưỡng sương tác thế, nhất thời câu lai,
tạt địa ngục nhân. Tạt dĩ, ma chi, kỳ thân tán tận, vô
vật khả kiến. Như thị ma dĩ, nhi phục hoàn
sanh. Phục dĩ nhị sơn, như tiền tạt ma.
Như thị phục tạt, phục ma, vô lượng bách
thiên niên tuế. Thử do chúng nghiệp sở trí” (Hai quả núi ép cứng
ngắc, lửa sắt nóng cháy bừng. Hai vách núi h́nh thành
thế gọng ḱm, cùng lúc ép lại, kẹp tội nhân trong
địa ngục. Kẹp rồi chà xát, thân họ vỡ
tan, chẳng c̣n vật ǵ để thấy. Chà như thế
xong, họ sống lại [thân thể hồi phục]. Lại
bị hai quả núi kẹp chặt, chà xát như trước.
Cứ kẹp chặt, xay xát như thế trong vô lượng
trăm ngàn năm. Đó là do các nghiệp mà ra).
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Thông Thương.
(經)復有地獄‧名曰通槍。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Thương Đâm).
“Thông
thương” (giáo đâm): Thương (槍) là cái giáo dài. Lại nữa,
vót nhọn gỗ để tổn thương bọn trộm
cắp th́ gọi là Thương. Luận Lập Thế nói:
“Tội nhân đă qua địa ngục Phấn Thỉ,
thấy địa ngục Kiếm Diệp (lá gươm)
bèn dấy ḷng yêu đắm. Như rừng cây Am La chính là
con đường rừng gươm, có những mũi gai
nhọn hoắt, dao găm, dao cạo, đao, gươm, lưỡi
dao bén ngót trải khắp mặt đất. Tội nhân đi
vào con đường rừng ấy, chịu đủ mọi
nỗi khổ đâm thọc, xuyên qua v.v… Do nghiệp báo sát
sanh tăng thượng và cầm đầu chiến đấu
mà cảm vời”.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết Xa.
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết Sàng.
(經)復有地獄‧名曰鐵車。復有地獄‧名曰鐵牀。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Xe Sắt. Lại có địa
ngục tên là Giường Sắt).
“Thiết
Xa” (xe sắt): Kinh Lăng
Nghiêm dạy: “Tư báo kết tức, tắc vi hỏa
xa” (Quả báo của Tư
[tâm sở pháp] là thừa dịp hơi thở ra vào kết
thúc, bèn thành xe bốc lửa). Theo kinh Hiền Ngu, đức
Phật Thích Ca bắt đầu khởi từ tâm là lúc Ngài
đang ở trong địa ngục [bị phạt kéo xe bốc
lửa].
“Thiết
Sàng” (giường sắt): Theo
kinh Lăng Nghiêm, “dâm tập, tắc hữu thiết sàng,
đồng trụ” (do tập khí dâm dục mà có giường
sắt, trụ đồng). Kinh Tạp Tạng nói: “Kim
thân dâm dật, tử nhập địa ngục, ngọa
chi thiết sàng, hoặc băo đồng trụ. Ngục quỷ
nhiên hỏa, dĩ thiêu kỳ thân” (Thân hiện tại dâm
dật th́ lúc chết, sẽ đọa vào địa ngục,
nằm trên giường sắt, hoặc ôm cột đồng.
Quỷ canh ngục đốt lửa thiêu thân kẻ đó).
V́ thế, kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Tội nhân mạng
chung, tọa thiết sàng thượng. Như nhạn
vương tường, lạc hắc ám xứ. Đao luân
thượng hạ, trảm tỏa kỳ thân” (Tội
nhân chết đi, nằm trên giường sắt. Như
nhạn chúa bay lượn, rơi vào chỗ tối tăm.
Các vầng đao trên dưới chặt chém thân kẻ đó).
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết Ngưu.
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết Y.
(經)復有地獄‧名曰鐵牛。復有地獄‧名曰鐵衣。
(Kinh:
Lại có địa ngục, tên là Trâu Sắt. Lại có địa
ngục, tên là Áo Sắt).
“Thiết
Ngưu” (trâu sắt) sẽ nói tường
tận trong phần sau. “Thiết Y” (áo sắt): Theo luận Lập
Thế, có lúc ngục tốt chửi bới, đe dọa
người chịu tội. Kẻ ác đứng lên, tuy đứng, nhưng chẳng thể cử
động. Khi đó, vô lượng tội nhân hết sức
hoảng hốt, run rẩy dựa dẫm, [cả đám người
tội chao đảo] giống như rừng phan. Lúc ấy,
vô số ngàn vạn áo ca-sa bằng sắt nóng đỏ và áo
sắt nóng đỏ từ trên hư không rơi xuống.
Tội nhân kêu gào: “Áo đến rồi, áo đến rồi!”
Các tấm áo ấy rơi đến nơi, mỗi tấm
quấn phủ [tội nhân], da, thịt, gân, xương đều
cháy nát xong, áo sắt tự biến mất. Đó là do khi xưa
làm người, đánh đập, đấm đá chúng
sanh có sanh mạng. Lại có kẻ xuất gia phá giới, hưởng
dụng y phục và dây thắt lưng[3] của quốc
gia. Do nghiệp báo ấy, phải thọ sanh trong đó. Cổ
đức nói: “Hiện kiến ca-sa ly thể, tương
lai thiết điệp triền thân” (Nay thấy có [những tỳ-kheo]
áo ca-sa ĺa thân, trong tương lai áo sắt quấn thân) chính
là nói về chuyện này.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiên Nhận.
(經)復有地獄‧名曰千刃。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Ngàn Mũi Nhọn).
Thiên Nhận
(một ngàn mũi nhọn): Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Tự
hữu chúng sanh, bất thuận sư giáo, hưng ác nghịch
tâm, bất tri ân dưỡng, đạo sư, hại
sư, ô sư tịnh thực, tọa sư sàng ṭa, tróc
sư bát vu, mạ sư, báng sư, đả sư, sát
sư, dĩ chư độc dược, tŕ dĩ ẩm
sư. Nhược sa-môn, Bà-la-môn, tác chư phi pháp, vô hữu
tàm quư, bác tượng, phá tháp, kiếp pháp bảo vật, sát
bá, thúc, phụ mẫu, huynh, đệ, tỷ, muội. Như
thị tội nhân, mạng chung tọa ư đại kiếm
sàng thượng, bách ức kiếm nhận. Nhận giai xuất
hỏa, thiêu thích kỳ thân. Không trung hỏa luân, tùng thượng
nhi hạ, trực phách kỳ đảnh, kỳ thân toái liệt,
vi sổ thiên đoạn” (Có chúng sanh chẳng nghe theo lời
thầy dạy, dấy ḷng ác nghịch, chẳng biết ơn
dưỡng dục, trộm cắp của thầy, hại
thầy, làm bẩn thức ăn thanh tịnh của thầy,
ngồi lên giường, ṭa của thầy, đoạt bát
của thầy, chửi thầy, hủy báng thầy, đánh
thầy, giết thầy, lấy các thứ thuốc độc
đưa cho thầy uống. Nếu sa-môn, Bà-la-môn làm những
chuyện phi pháp, chẳng có tâm hổ thẹn, bóc [vàng, bạc,
hay các bảo thạch khảm] tượng, phá tháp, cướp
bảo vật trong tháp, giết bác, chú, cha, mẹ, anh em
trai, chị em gái, kẻ tội nhân như thế mạng
chung, sẽ ngồi trên giường gươm to lớn. Trăm ức mũi gươm
bén, mỗi mũi gươm đều bốc lửa, đốt,
đâm thân kẻ đó. Trong hư không, có từng vầng lửa
từ trên rơi xuống, bửa thẳng vào đỉnh đầu
kẻ đó. Thân kẻ đó vỡ vụn thành mấy ngàn
mảnh).
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết Lư.
(經)復有地獄‧名曰鐵驢。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Lừa Sắt).
Thiết
Lư (lừa sắt) sẽ được giải thích
trong phần sau.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Dương
Đồng. Phục hữu địa ngục, danh viết
Băo Trụ.
(經)復有地獄‧名曰烊銅。復有地獄‧名曰抱柱。
(Kinh: Lại
có địa ngục tên là Nước Đồng Sôi. Lại
có địa ngục tên là Ôm Cột).
“Dương
Đồng” (nước đồng sôi) như đă nói
trong phần trên. “Băo Trụ” (ôm cột): Kinh Quán Phật
Tam Muội nói: “Thế gian ngu si chúng sanh, nhiễm ái tà dâm,
mạng chung sanh đồng trụ đầu, mănh hỏa
diễm xí, phần thiêu kỳ thân. Kinh bố hạ thị,
kiến thiết sàng thượng, hữu đoan chánh
nữ. Nhược thị nữ nhân, kiến đoan chánh
nam, tâm sanh ái trước, tùng đồng trụ thượng,
dục đầu ư địa. Đồng trụ quán
thân, thiết vơng lạc cảnh. Thiết tủy chư
trùng, thiếp thực kỳ khu. Lạc thiết sàng thượng,
nam nữ câu thời lục căn hỏa khởi. Hữu
thiết chủy trùng, tùng nhăn nhi nhập, tùng nam căn xuất.
Nhược ô giới giả, biệt hữu vạn ức
chư tiểu trùng bối, như tiếu thư trùng. Trùng
hữu thập nhị chủy, chủy đầu xuất
hỏa, thiếp thực kỳ khu. Thử tà dâm báo, nhất
nhật, nhất dạ, cửu bách sanh tử” (Chúng sanh ngu si trong thế
gian, yêu đắm tà dâm, mạng hết bèn sanh nơi đầu
cột đồng, lửa mạnh cháy hừng hực, thiêu
đốt thân họ. Họ sợ hăi nh́n xuống, thấy
trên giường sắt có người nữ đoan chánh.
Nếu là nữ nhân th́ thấy người nam đoan chánh.
Tâm sanh yêu đắm, bèn từ trên cột đồng, muốn
buông ḿnh xuống đất. Cột đồng xuyên qua thân,
lưới sắt thít chặt cổ. Các con trùng có mỏ bằng
sắt đục khoét thân họ. Rơi xuống giường
sắt, nam nữ đều sáu căn bốc lửa. Có trùng
mỏ sắt từ mắt chui vào, từ nam căn chui ra.
Nếu là kẻ làm ô uế người giữ giới, sẽ
riêng có vạn ức các con trùng nhỏ giống như loài
gịi. Mỗi con trùng có mười hai cái mỏ, đầu mỏ
bốc lửa, đục khoét thân kẻ đó. Quả báo
tà dâm ấy trong một ngày, một đêm, chín trăm lần
chết đi, sống lại).
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Lưu Hỏa.
(經)復有地獄‧名曰流火。
(Kinh:
Lại có địa ngục, tên là Lửa Trôi Nổi).
Theo Tam Pháp
Độ Luận, Lưu Hỏa (tung lửa, lửa trôi nổi
thành từng vầng) chính là
địa ngục Đại Khiếu (大哭, gào khóc to lớn), tức
là trong núi sắt lớn, lửa cháy khắp nơi, chặn
đường bốn phía, không có chỗ đi. Ngục tốt
ác độc, chẳng nhân từ, giận dữ hỏi: “Ngươi
muốn đi đâu?” Vô duyên, vô cớ dùng lửa nung chày sắt,
phang vỡ đầu tội nhân. Những kẻ trong cơi này
làm cho muôn dân khốn khổ, sẽ sanh vào đó. Theo kinh Thủ
Lăng Nghiêm, trong hai tướng của vị báo (quả
báo do Vị), tướng thứ hai là phun khí thành lửa dữ
bay lơ lửng, đốt tan xương, tủy [tội
nhân], chính là ngục này vậy.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Canh Thiệt.
Phục hữu địa ngục, danh viết Tỏa
Thủ.
(經)復有地獄‧名曰耕舌。復有地獄‧名曰剉首。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Cày Lưỡi. Lại có
địa ngục tên là Chặt Đầu).
Canh Thiệt
(cày lưỡi) như trong phần sau sẽ giải thích. Tỏa
Thủ (chặt đầu): Tam Pháp Độ Luận nói: “Hoạt
địa ngục là ngục tốt dùng đao hay búa bén để
mổ xẻ, chặt, chém chúng sanh thọ tội như chặt,
chém đầu dê, tách rời da thịt”. Luận Lập
Thế nói: “Xưa kia, khi họ làm người đă bửa
vỡ toang đầu chúng sanh có mạng sống, hoặc [bổ
vỡ đầu] loài cá, rắn, rết v.v… đủ mọi
nghiệp, nên bị quả báo vỡ toang đầu”.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiêu Cước.
(經)復有地獄‧名曰燒腳。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Đốt Chân).
Theo luận
Lập Thế, Thiêu Cước (đốt chân) chính là địa
ngục Nhiệt Hôi (熱灰, tro nóng). Tội nhân từ đại địa
ngục thoát ra, thấy phía ngoài của Nhiệt Hôi như
chỗ đất trống bằng phẳng. Do thấy h́nh
tướng ấy bèn nghĩ: “Ta nên đến đó”. Do vậy, tội nhân đến nơi đó rồi,
chân giẫm lên tro nóng, da thịt liền nứt nẻ ví như
khối sáp rơi vào trong lửa mạnh. Hễ giở chân
lên, da thịt trở lại như cũ. Hoặc là lún đến
gối, đến eo, đến cổ, hoặc ch́m lỉm,
chẳng hiện. Đó là do xưa kia làm người, bắt
chúng sanh có sanh mạng bỏ vào lửa, hoặc
trong tro nóng, hay trong cát nóng. Hoặc là tà dâm vợ người
khác, coi thường phép tắc thế gian, hoặc là xuất
gia mà phá giới, đi, đứng, nằm, ngồi trong chốn
già-lam, hoặc giẫm đạp cảnh giới Tứ
Chi Đề (Caitiya)[4], hoặc giẫm
lên bóng của Chi Đề. Do nghiệp báo ấy, thọ
sanh trong đó.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Đạm
Nhăn. Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết
Hoàn.
(經)復有地獄‧名曰啗眼。復有地獄‧名曰鐵丸。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Ăn Mắt. Lại có địa
ngục tên là Ḥn Sắt).
Đạm
Nhăn (ăn mắt): Kinh Khởi Thế nói: “Đao diệp
lâm tiểu địa ngục trung, dĩ vô lượng
chư bất thiện nghiệp quả báo, cố hữu
thiết chủy ô, hốt nhiên sanh xuất, phi hướng
địa ngục chúng sanh lưỡng bác chi thượng. An lập cước dĩ, tức
dĩ thiết tủy trác bỉ tội nhân lưỡng nhăn
nhi khứ” (Trong tiểu địa ngục rừng lá
đao, do quả báo của vô lượng nghiệp bất
thiện, cho nên có quạ mỏ sắt bỗng dưng sanh
ra. Chúng nó bay tới hai vai của chúng sanh trong địa ngục,
đă đặt chân vững rồi, liền dùng mỏ sắt
khoét hai mắt của tội nhân mà bay đi). Kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ nói: “Tội nhân nhập đại kiếm
thụ thiết lâm chi trung, hữu thiết thứu điểu,
trác phá kỳ nhăn, nhi ẩm kỳ trấp. Thị bổn dữ
tửu ác nghiệp quả báo” (Tội nhân vào trong rừng
sắt có cây cối đầy gươm to, có chim ưng sắt
mổ vỡ mắt họ để uống chất dịch.
Đấy là do quả báo của ác nghiệp đem rượu
cho cho người khác). Thiết Hoàn như trong phần trước
đă nói.
(Kinh)
Phục hữu địa ngục, danh viết Tránh Luận.
Phục hữu địa ngục, danh viết Thiết Phu.
Phục hữu địa ngục, danh viết Đa Sân.
(經)復有地獄‧名曰諍論。復有地獄‧名曰鐵鈇。復有地獄‧名曰多嗔。
(Kinh:
Lại có địa ngục tên là Tranh Căi. Lại có địa
ngục tên là Ŕu Sắt. Lại có địa ngục tên là
Nhiều Sân Hận).
“Thiết
Phu” (ŕu sắt): Kinh Trường A Hàm nói: “Xuất Thiết
Hoàn địa thiết, chương hoảng tŕ tẩu, cầu
tự cứu hộ, túc đối sở khiên, bất giác
hốt chí Cân Phủ địa ngục, tung quảng ngũ
bách do-tuần. Ngục tốt nộ tróc tội nhân, phác nhiệt
thiết thượng. Dĩ nhiệt thiết cân phủ, chước
kỳ thủ, túc, nhĩ, tỵ, thân thể, khổ độc,
tân toan, bi hào khiếu hoán” (Ra khỏi thành sắt của
địa ngục Thiết Hoàn (viên sắt), tội nhân
kinh hoảng rảo chạy, cầu được cứu
giúp, che chở. Do oán đối đời trước dẫn
dắt, bất giác bỗng tới địa ngục Búa Ŕu,
kích thước mỗi bề năm trăm do-tuần. Ngục
tốt giận dữ, bắt tội nhân quăng lên sắt
nóng, dùng búa ŕu bằng sắt nung nóng, bửa vỡ toang chân,
tay, tai, mũi, thân thể. Khổ sở, cay đắng, kêu
khóc, gào thét). Kệ rằng: “Phù sĩ chi sanh, phủ tại
khẩu trung, sở dĩ trảm thân, do kỳ ác ngôn. Ưng
hủy giả dự, ưng dự giả hủy, khẩu
vi ác nghiệp, thân thọ kỳ tội” (Phàm người
sanh ra, búa ŕu nơi miệng! Sở dĩ chém thân, do v́ nói ác.
Đáng chê lại khen, đáng khen lại chê, miệng tạo
ác nghiệp, thân hứng tội ấy).
Tránh Luận
(tranh căi) và Đa Sân (nhiều sân hận) tuy chia thành hai ngục,
nhưng do cùng một nhân mà thành. Tranh căi do tham lam, ghen ghét mà
ra. Do v́ tham lam, ganh ghét, bèn lắm nỗi nóng giận. Do nhân
cảm quả, nên sanh trong ấy. Tam Pháp Độ Luận
nói: “Lại do tội ác, tay tự nhiên sanh ra móc sắt, sắc
bén như lưỡi đao, có h́nh dạng như nửa vầng
trăng. Ai nấy đều sanh ư kết oán: ‘Gă kia từng
áp bức ta, ta nay chèn ép hắn lại’. Do vậy, sanh ḷng nóng
giận, vồ chụp, cấu xé nhau như cắt đốn
tre, lau. Đó là những kẻ ở trong thế gian này, tâm
kết oán hận mà chết, nên sanh trong đó”. Cần
phải biết hết thảy đều là hư huyễn,
lừa dối. Chúng sanh ngu si, sân hận chửi bới, làm
hại, thậm chí đoạt mạng. Ngũ Ấm đều
là Không, không ta, không người, [thế mà cứ] đấu
đá lẫn nhau, ngang ngược độc hại. Do khởi
lên tội nặng ấy, đọa trong tam đồ, chịu
vô lượng khổ. V́ thế, Bồ Tát bảo chúng sanh
rằng: “Các ngươi đừng nên đấu đá
nơi những cái xét về căn bản là rỗng không. Thân
người c̣n chẳng thể được, huống hồ
gặp gỡ Phật! Nay đă đọa địa ngục,
hối hận th́ đă trễ rồi!”
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2.1.2. Chỉ quảng
(nói rộng)
(Kinh)
Địa Tạng bạch ngôn: “Nhân giả! Thiết Vi chi
nội, hữu như thị đẳng địa ngục,
kỳ số vô hạn”.
(經)地藏白言‧仁者‧鐵圍之內‧有如是等地獄‧其數無限。
(Kinh:
Ngài Địa Tạng bạch rằng: “Thưa nhân giả!
Trong Thiết Vi, có những địa ngục như thế,
số đến vô hạn”).
“Như
thị đẳng” (như thế đó) là nói các địa
ngục trong Thiết Vi như vừa thuật trong phần
trên. “Số vô hạn”: Trong mỗi ngục đều
có các tiểu ngục chẳng thể kể trọn. Nói là “có”
v́ phàm phu hư vọng dấy lên ái thủ (yêu mến, nắm
giữ), chấp có cảnh. V́ thế, có nhân, có quả, có
khổ, có lạc. Do đó, Duy Thức Luận nói: “Hết
thảy [những cảnh tượng] như địa ngục,
thấy giống như có ngục tốt v.v… có thể làm
chuyện bức bách, đều là do cái tâm ác nghiệp của
tội nhân hiện ra, trọn chẳng phải là ngoài tâm thật
sự có những chuyện như chó đồng, rắn sắt
v.v…” Hết thảy sự và pháp trong thế gian cũng đều
giống như thế.
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2.2. Ngục danh bất
đồng (tên địa ngục khác nhau)
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2.2.1. Liệt danh
(kể
tên)
(Kinh)
Cánh hữu Khiếu Hoán địa
ngục, Bạt Thiệt địa ngục, Phẩn Niệu
địa ngục.
(經)更有叫喚地獄。拔舌地獄。糞尿地獄。
(Kinh:
Cũng có địa ngục kêu gào, địa ngục kéo lưỡi, địa ngục
phân tiểu).
Theo Trường
A Hàm, Khiếu Hoán (kêu gào) được xếp vào tám đại
địa ngục nóng. Ngục thứ tư trong số ấy
là Khiếu Hoán, thứ năm là Đại Khiếu Hoán, mỗi
ngục đều có mười sáu du tăng (các địa
ngục phụ ở bốn phía địa ngục chính).
Do ngục tốt bắt lấy tội nhân, quăng vào chảo
to, đun sôi sùng sục. Lại quăng lên vỉ sắt nướng
to, lăn qua, lăn lại nung, nướng. V́ thế, tội
nhân kêu rú, gào thét. Lại c̣n có ngục Đại Hào Đào Khiếu
Hoán (ngục kêu rú, gào thét lớn). Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
nói: “Hắc Thằng địa ngục, hữu xứ
danh Đẳng Hoán, bỉ xứ ác thiêu, thọ khổ vô
gián. Cử tại hiểm ngạn, vô lượng do-tuần.
Nhiệt viêm hắc thằng, thúc phược hệ dĩ,
hậu thôi đọa thiết đao, nhiệt địa
chi thượng, thiết cẩu đạm thực. Nhất
thiết thân phần, phần phần phân ly, xướng thanh
hống hoán” (Địa ngục Hắc Thằng có chỗ
tên là Đẳng Hoán. Chỗ đó bị đốt dữ
dội, chịu khổ chẳng gián đoạn. Toàn thể
chỗ ấy ở nơi bờ dốc hiểm trở vô
lượng do-tuần. Sợi dây màu đen nung đỏ chằng
trói [tội nhân] chặt chẽ. Sau đó, [ngục tốt] đẩy
tội nhân té xuống cuộc đất nóng rực có đao
sắt, chó sắt ăn nuốt. Hết thảy các phần
trên thân thể, từng phần chia ĺa, rống thét, gào rú).
Theo đó, hai ngục Khiếu Hoán chỉ ở trong ngục
[nóng] thứ hai là Hắc Thằng (dây đen). Nói chung, tám ngục
liên tiếp, cho nên nói gộp chung như vậy. Kinh Trường
A Hàm nói: “Do sân khuể, hoài độc, tạo chư ác hạnh,
cố đọa Khiếu Hoán địa ngục. Do tập
chúng tà kiến, vị ái vơng sở khiên, tạo dị lậu
hạnh, đọa Đại Khiếu Hoán địa ngục”
(Do sân hận, ôm ḷng độc dữ, tạo các hạnh ác,
cho nên đọa vào địa ngục Khiếu Hoán. Do quen theo
các tà kiến, bị lưới ái lôi kéo, tạo các hạnh
khác lạ, thô tháp, sẽ đọa vào địa ngục
Đại Khiếu Hoán). Bạt Thiệt và Phẩn Niệu
như trong phần sau [sẽ giải thích].
(Kinh)
Đồng Tỏa địa ngục, Hỏa Tượng
địa ngục.
(經)銅鎖地獄。火象地獄。
(Kinh:
Địa ngục xiềng đồng, địa ngục voi lửa).
“Đồng
Tỏa” (xiềng xích bằng đồng): Kinh Quán Phật
Tam Muội nói: “Hắc Thằng
địa ngục giả, bát bách thiết tỏa, bát bách thiết
sơn, thụ đại thiết tràng, lưỡng đầu
hệ cảnh. Ngục tốt, La Sát, khu
hới tội nhân, linh phụ thiết sơn, thiết thằng
thượng tẩu, bất thắng lạc địa, đọa
hoạch thang trung, La Sát khu khởi. Khát cấp, ẩm thiết,
thôn thạch. Nhất nhật, nhất dạ, kinh lịch thị
khổ cửu thập vạn biến. Thử do ngu si chúng
sanh, thất chúng đệ tử, cửu thập lục
chủng Phạm Chí đẳng, pháp thuyết phi pháp, phi
pháp thuyết pháp, hoặc phạm khinh giới, cửu bất
sám hối sở trí nhĩ” (Địa ngục Hắc Thằng:
Tám trăm xiềng sắt, tám trăm núi sắt, dựng tràng
sắt lớn, hai đầu buộc vào cổ [tội nhân].
Ngục tốt, La Sát xua đuổi, quát tháo tội nhân, bắt
họ vác núi sắt đi trên dây sắt. Tội nhân không tránh
khỏi rơi xuống đất, ngă vào vạc đang đun
sôi. La Sát lùa họ đứng dậy. Do quá khát, bèn uống
nước sắt, nuốt đá. Một ngày, một đêm,
trải qua nỗi khổ ấy chín mươi vạn lần.
Đấy là do chúng sanh ngu si, bảy chúng đệ tử,
và chín mươi sáu loại Phạm Chí v.v… đối với
pháp bèn nói là phi pháp, bảo phi pháp là pháp, hoặc phạm giới
nhẹ, lâu ngày chẳng sám hối mà ra!)
Hỏa Tượng
(voi lửa) là như Tăng Hộ[5] tiến về
phía trước, thấy một con voi trắng bị lửa
rừng rực đốt thân. Đức Phật bảo: “Nhữ
kiến tượng giả, thị địa ngục nhân.
Ca Diếp Phật thời, thị xuất gia nhân, vị
tăng đương trù. Chư đàn-việt đẳng,
tương chư cúng dường, hướng tự thí tăng,
hoặc thực hậu lai. Đàn-việt bạch ngôn: ‘Đại
đức! Nhật do vị cố, khả đả kiền
chùy, tập tăng thí thực’. Tỳ-kheo ác khẩu, đáp
bạch y ngôn: ‘Chư tỳ-kheo đẳng do như bạch
tượng, thực bất năng băo. Hướng thực
dĩ cánh, đ́nh lưu nhật hậu’. Dĩ thị nhân duyên,
nhập ư địa ngục, thọ bạch tượng
thân. Hỏa thiêu thọ khổ, chí kim bất tuyệt”
(Ngươi thấy con voi ấy chính là kẻ ở trong địa
ngục. Thời đức Phật Ca Diếp, kẻ đó
là người xuất gia, trông coi bếp núc cho tăng chúng.
Các vị thí chủ đem các thứ cúng dường đến
chùa để cúng thí chư tăng, có khi đến sau bữa
ăn. Thí chủ thưa rằng: “Thưa đại đức!
Ngày chưa qua hết, có thể đánh kiền chùy nhóm tăng
để dâng cúng thức ăn hay không?”. Vị tỳ-kheo ấy
ác khẩu, trả lời những người tại gia: “Lũ
tỳ-kheo giống như voi trắng, ăn chẳng thể
no được! Nay giờ ăn đă qua rồi, để
lại đó cho ngày hôm sau!” Do nhân duyên ấy, vào trong địa
ngục, thọ thân voi trắng. Lửa đốt chịu
khổ tới nay chẳng dứt).
Kinh Chánh
Pháp Niệm Xứ lại nói: “Nhược nhân tác như
thị tâm, tượng nhược túy thời, năng đa
sát nhân, ngă tắc đắc thắng. Vi lệnh tượng
đấu, dữ tửu linh ẩm; đọa Khiếu Hoán
ngục trung, hữu đại tượng sanh, thân giai diễm
nhiên, nhất thiết thân phần giai năng đả xúc,
thủ bỉ nhân dĩ, xúc phá thân phần, phá toái đọa
lạc, xướng thanh đại hoán, cố sanh hỏa
tượng dă” (Nếu có kẻ nghĩ như thế này:
“Nếu khi voi say, sẽ có thể giết nhiều người,
ta sẽ thắng lợi”. Bèn cho voi ra đấu, cho nó uống
rượu, kẻ ấy sẽ đọa vào ngục Khiếu
Hoán, có con voi lớn sanh ra, thân toàn là lửa cháy rực. Hết thảy các phần trên
thân thể của nó đều có thể húc chạm. Nó bắt
lấy kẻ ấy rồi húc vỡ thân thể, [tội
nhân] tan nát rơi rớt, kêu gào, rú thét. V́ thế, sanh làm con
voi lửa).
(Kinh)
Hỏa Cẩu địa ngục, Hỏa Mă địa ngục,
Hỏa Ngưu địa ngục.
(經)火狗地獄。火馬地獄。火牛地獄。
(Kinh:
Địa ngục chó lửa, địa ngục ngựa lửa,
địa ngục trâu lửa).
Hỏa Cẩu
(chó lửa): Kinh Khởi Thế nói: “Nhiệt phí hôi hà lưỡng
ngạn, sở hữu chư cẩu, thân hắc tử sắc,
cấu nị khả úy, đạm bỉ địa ngục
chúng sanh thân nhục, luyến luyến giảo thực”
(Hai bên bờ sông tro sôi sùng sục, tất cả những
con chó thân có màu tím đen, bẩn thỉu đáng sợ, ăn
thịt nơi thân của chúng sanh trong địa ngục,
cắn xé, nuốt từng miếng một). Tam Pháp Độ
Luận nói: “[Ngục tốt] xua chúng sanh phạm tội vào chỗ đất bằng
sắt có lửa thiêu đốt để quay
cho họ chín rục. Đă chín rồi, lại đuổi
ra cho chó ác ăn. Chó ăn hết
sạch thịt xong, gió thổi qua khiến cho [tội nhân] sống lại, [thân
thể] trở lại như cũ. Do trong cơi này (ở
trong nhân gian) đă nuôi tằm, nấu, nướng, cho nên
sanh vào nơi ấy”.
Hỏa
Ngưu, Hỏa Mă (trâu lửa, ngựa lửa): Theo kinh Chánh
Pháp Niệm Xứ, có kẻ nào nếu trông thấy âm hộ
của trâu cái, ngựa cái v.v… sanh tâm phân biệt: “Chỗ ấy
chẳng khác ǵ phụ nữ”, bèn làm chuyện dâm dục với
chúng. Do vậy, đọa vào Hợp đại địa
ngục, sanh trong chỗ tṛn xoe, trông thấy những con trâu,
ngựa, sẽ giống như trước mà nghĩ nhớ,
tưởng như phụ nữ trong loài người, dục
tâm lừng lẫy, chạy đến chỗ trâu, ngựa.
Người đó đă đến gần âm hộ của
trâu, ngựa, do nghiệp nhân ác, đi vào trong âm hộ của
chúng, lọt vào bụng của chúng, lửa nóng đầy
dẫy, chịu khổ trong ấy.
(Kinh)
Hỏa Sơn địa ngục, Hỏa Thạch địa
ngục.
(經)火山地獄。火石地獄。
(Kinh:
Địa ngục núi lửa, địa ngục đá lửa).
Hỏa Sơn,
Hỏa Thạch (núi lửa, đá lửa): Theo kinh Khởi
Thế, địa ngục tên là Chúng Hợp. Chúng sanh sống
giữa hai núi tên là Bạch Dương, miệng ăn những
ngọn lửa rực cháy cực mạnh. Bọn họ vào
trong núi ấy, hai quả núi cùng nghiền, cùng ép, cùng chà xát vào
nhau. Chập lại, nghiền, ép, chà xát như thế xong,
[những quả núi ấy] trở về chỗ cũ, ví
như Tỳ Khư Nậu và Ra Tỳ Khư Nậu (đây
là tên của của hai thứ sét) chập vào nhau, cùng nghiền,
cùng chà xát, cùng ép xong, đều trở về chỗ cũ.
Đă thế, kẻ giữ ngục dùng tảng đá to bằng
sắt bốc lửa mạnh cháy rực quăng vào chúng
sanh trong địa ngục, khiến cho họ té ngửa trên
đá sắt nóng, rồi lấy tảng đá khác chặn bên
trên. Giống như cối xay trong thế gian, [hai tảng đá
ấy] nghiền tới, nghiền lui như cối xay. Cối
xay to đă vụn rồi, lại dùng cối xay nhuyễn hơn,
nghiền lần nữa thành bụi. Chỉ thấy máu mủ
tuôn ra, chẳng có vụn xương, tủy sót lại!
(Kinh) Hỏa Sàng địa ngục,
Hỏa Lương địa ngục.
(經)火牀地獄。火梁地獄。
(Kinh: Địa ngục giường lửa,
địa ngục kèo lửa).
Hỏa Sàng
(giường lửa) giống như Thiết Sàng (giường
sắt) trong phần trước. Hỏa Lương (kèo rường
lửa): Trong địa ngục có kèo sắt, cột sắt,
không ǵ chẳng phải là lửa. Hoặc bắt tội nhân
treo lên rường để đốt, hoặc dùng kèo sắt
đè thân để thiêu.
(Kinh)
Hỏa Ưng địa ngục, Cứ Nha địa ngục.
(經)火鷹地獄。鋸牙地獄。
(Kinh:
Địa ngực ưng sắt, địa ngục cưa
răng).
Hỏa Ưng
giống như Thiết Ưng trong phần trước.
Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, [nơi ấy] tên là Ô Khâu Sơn.
Núi ấy bốc lửa, ngọn lửa cao năm ngàn do-tuần.
Nơi đó có cây bằng sắt, trên cây có quạ sắt. Thân
con quạ tóe lửa khắp cả cây ấy. Tội nhân đến
đó, con quạ lửa mổ vỡ
toang đầu người, ăn óc, ăn mắt, ăn mũi,
ăn má, ăn tim, ăn phổi, ăn ruột non, ruột
già. Những con quạ ấy ăn người trong địa
ngục, phần thân thể nào cũng đều ăn. Do nghiệp
lực của tội lỗi, [tội nhân] đă bị ăn
hết bèn sống lại. Chuyện chim ưng và quạ [hành
hạ tội nhân] giống như nhau.
Cứ
Nha (cưa răng): Kinh Khởi Thế nói: “Thủ ngục
giả, thủ bỉ chúng sanh, phác trước nhiệt thiết
địa thượng. Dĩ thiết hắc thằng, biền
độ kỳ thân, tức dĩ thiết cứ, cứ bỉ
thân phá. Phá dĩ phục phá, năi chí đại phá” (Kẻ
giữ ngục bắt chúng sanh đó quăng lên chỗ đất
bằng sắt nóng. Dùng dây đen bằng sắt, đo đạc
thân họ, liền dùng cưa sắt, cưa xẻ thân họ.
Đă cưa rồi lại cưa nát hơn, cho đến
nát vụn). Đă cưa thân thể họ, lẽ nào chẳng
cưa răng họ? Ngục này là do bốn ác nghiệp nơi
miệng cảm vời.
(Kinh)
Bác B́ địa ngục, Ẩm Huyết địa ngục.
(經)剝皮地獄。飲血地獄。
(Kinh:
Địa ngục lột da, địa ngục uống máu).
Bác B́ (lột
da): Luận Lập Thế nói: “Ở giữa hai ngục
Cánh Sanh (sống lại, tức Đẳng Hoạt) và Hắc
Thằng, có địa ngục tên là Đại Hạng (ngơ
lớn). Nếu có tội nhân, bị lột da trên đất,
lại c̣n xẻo thịt kẻ ấy, chất lên trên da. Xưa
kia làm người, tội nhân đă làm nghề mổ, chặt,
giết dê, lợn, trâu, nai để tự nuôi thân, hoặc
săn bắt cá, chim v.v… Do nghiệp báo ấy, sẽ thọ
sanh trong đó”.
Ẩm
Huyết (uống máu): Theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, có một
chỗ riêng biệt thứ tám trong Hợp địa ngục,
tên là Châu Tru Châu Tru. Nếu kẻ nào trộm cắp, tà hạnh,
hoặc do không có người nữ, bèn hành dâm với dê, hoặc
lừa. Hoặc [hành dâm] nơi phù-đồ (tháp thờ Phật),
hoặc gần phù-đồ. Do ác nghiệp ấy, đọa
vào chốn ác, thường có ác trùng tên là Châu Tru Châu Tru ăn
nuốt thịt, uống máu kẻ ấy. Đă uống huyết
xong, lại làm đứt gân để uống tủy; hoặc
bắt tội nhân tự uống máu ḿnh. Như kinh đă nói
địa ngục vọng ngữ có mười tám chỗ,
ngục thứ mười bảy tên là Huyết Tủy Ẩm
(血髓飲, uống máu và tủy). Chỗ ấy có sông
tên là Nhiệt Huyết Dương Thủy. Sông ấy nóng sôi
lên, dùng nước đồng nóng, nước sáp trắng
cùng tích tụ trong đó (kinh Trường A Hàm gọi nó là địa
ngục Nùng Huyết (膿血, máu mủ). Tự nhiên
máu mủ nóng sôi sùng sục, trào ra. Tội nhân chạy đuổi
theo để tự ăn những thứ đó).
(Kinh)
Thiêu Thủ địa ngục, Thiêu Cước địa
ngục, Đảo Thích địa ngục.
(經)燒手地獄。燒腳地獄。倒刺地獄。
(Kinh:
Địa ngục đốt tay, địa ngục đốt
chân, địa ngục đâm ngược).
Thiêu Thủ
(đốt tay) và Thiêu Cước (đốt chân) cùng một
loại. Trong tám nhiệt ngục, ngục thứ sáu là Thiêu
Chá (燒炙, đốt, nướng),
ngục thứ bảy là Đại Thiêu Chá, [tội nhân trong
ấy] toàn thân đều bị đốt, da, thịt cháy
tan nát. Nay do biệt nghiệp, chỉ thiêu tay chân. Đấy
là do đă mổ giết sanh linh, chặt tay, chặt chân, đun,
nấu, nung, nướng. V́ thế, đọa vào trong ngục
này.
Đảo
Thích (đâm ngược): Kinh Lâu Thán nói: “Năo Lao Hà, tung quảng
nhị vạn lư, hà lưỡng biên hữu thiết thụ”
(Sông Khuấy Nhiễu có kích thước mỗi bề hai vạn
dặm. Hai bên bờ sông có cây cối bằng sắt). Luận
Lập Thế nói: “Cây Diêm Phù Lê có gai ngược, hết
thảy đều bằng sắt, ngày đêm thiêu đốt.
Cây cao một do-tuần, gai dài mười sáu tấc. Ngục
tốt nắm lấy cánh tay tội nhân, kéo lên cây đầy
gai, rồi lại kéo xuống. Kéo lên phía trên th́ gai [từ
phía trên] đâm xuống dưới, kéo xuống dưới
th́ gai đâm ngược lên trên. Bụng [tội nhân] vướng
vào cây, da, thịt toạc hết, lưng, eo cũng thế.
Chịu đựng sự tàn hại ấy là v́ xưa kia làm
người, đă tà dâm phụ nữ, hoặc vợ lừa
dối chồng. Lại có đủ mọi nghiệp báo tăng
thượng, bèn sanh trong ấy”.
(Kinh)
Hỏa Ốc địa ngục, Thiết Ốc địa
ngục, Hỏa Lang địa ngục.
(經)火屋地獄。鐵屋地獄。火狼地獄。
(Kinh:
Địa ngục nhà lửa, địa ngục nhà sắt,
địa ngục sói lửa).
Hỏa Ốc
(nhà lửa) và Thiết Ốc (nhà sắt) hai ngục giống
nhau, mỗi ngục được đặt tên theo điều
coi trọng. Hỏa Ốc thuần bằng sắt tạo
thành; c̣n Thiết Ốc lửa dữ cháy bừng bừng.
Kinh Khởi Thế nói: “Thời ngục tốt thủ bỉ
chúng sanh, trịch trí thiết ốc thất trung, xí nhiên
đại nhiệt, bức thiết nan nhẫn, chúng năo ḥa
hợp, toại đại khiếu hoán. Bỉ trung cánh hữu
thiết pḥng, thiết liễn, thiết các, thiết lâu. Kỳ
trung thán hỏa, phí dũng doanh dật” (Khi ấy, ngục
tốt tóm các chúng sanh đó, quăng vào trong nhà sắt đang
cháy bừng bừng hết sức nóng bức, bức bách
khó thể chịu nổi. Các thứ năo hại xen lẫn, [tội
nhân] bèn kêu gào thật to. Trong ấy, lại có pḥng sắt,
xe sắt, gác sắt, lầu sắt. Đốt than lửa
trong đó, sôi sục tràn đầy). Kinh Trường A Hàm
gọi ngục này là Thiêu Chá, chuyện [hành hạ trong ngục
ấy] đại để tương đồng.
Hỏa
Lang (sói lửa): Kinh Lâu Thán nói: “Tùng Năo Lao Hà đắc xuất,
nhập lang, dă can, tung quảng nhị vạn lư” (Từ
sông Quấy Nhiễu thoát ra, vào trong bầy sói, dă can[6], kích thước mỗi bề
hai vạn dặm). Kinh Khởi Thế nói: “Dĩ chư bất
thiện nghiệp quả báo, cố ư bỉ ngục xuất
sanh hồ, lang, thô ác khả úy. Bỉ địa ngục chúng
sanh thân nhục, cước đạp, khẩu xế, luyến
luyến nhi thực” (Do quả báo của các nghiệp bất
thiện, cho nên trong ngục ấy sanh cáo, sói thô ác đáng sợ.
Chúng nó chân giẫm, miệng xé thịt nơi thân của chúng
sanh trong địa ngục ấy thành từng miếng để
ăn).
3.2.2.3.2.2.2.1.2.2.2.2. Chỉ quảng
(nói rộng)
(Kinh)
Như thị đẳng địa ngục, kỳ trung các
các phục hữu chư tiểu địa ngục, hoặc
nhất, hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, năi chí
bách thiên. Kỳ trung danh hiệu, các các bất đồng.
(經)如是等地獄‧其中各各復有諸小地獄‧或一或二‧或三或四‧乃至百千。其中名號‧各各不同。
(Kinh:
Các địa ngục như thế, mỗi ngục trong ấy
lại có các tiểu địa ngục, hoặc một, hoặc
hai, hoặc ba, hoặc bốn, cho đến trăm ngàn.
Danh hiệu trong ấy, mỗi ngục mỗi khác).
Câu đầu
tiên tổng kết các ngục trên đây. Từ chữ “kỳ
trung” (trong ấy) trở đi, cho biết: Trong những
ngục như thế đó, mỗi ngục lại đều
tự có các tiểu địa ngục để làm quyến
thuộc, hoặc là một, hai, ba [tiểu địa ngục],
hoặc đến trăm ngàn, danh hiệu sai biệt, chẳng
thể chỉ bày trọn hết được!
3.2.2.3.2.2.2.2. Đáp tội báo ác
sự (trả lời về những sự ác do tội
báo)
3.2.2.3.2.2.2.2.1. Chánh thị ác
nghiệp cảm báo (dạy thẳng vào những
quả báo do ác nghiệp cảm vời)
3.2.2.3.2.2.2.2.1.1. Dạng thị
nghiệp cảm (chỉ bày nghiệp cảm)
(Kinh)
Địa Tạng Bồ Tát cáo Phổ Hiền Bồ Tát
ngôn: “Nhân giả! Thử giả giai thị Nam Diêm Phù Đề
hành ác chúng sanh, nghiệp cảm như thị”.
(經)地藏菩薩告普賢菩薩言‧仁者‧此者皆是南閻浮提行惡眾生‧業感如是。
(Kinh: Địa
Tạng Bồ Tát bảo Phổ Hiền Bồ Tát rằng:
“Thưa nhân giả! Đấy đều là những chúng
sanh làm ác trong Nam Diêm Phù Đề nghiệp cảm như thế
đó”).
Chỉ nói
về chúng sanh trong Diêm Phù Đề, do họ chí tánh vô định,
quen tạo nghiệp ác, cảm vời những địa
ngục ấy. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo nói: “Như thế
gian hỏa nhiệt, bất như Nê Lê trung hỏa nhiệt.
Như tŕ tiểu thạch, trước thế gian hỏa
trung, chí mộ bất tiêu. Thủ đại thạch trước
Nê Lê hỏa trung, tức tiêu. Diệc như hữu nhân tác ác,
tử tại Nê Lê trung, sổ thiên vạn tuế, kỳ nhân
bất tử” (Như độ nóng của lửa trong
thế gian, chẳng bằng độ nóng của lửa
trong địa ngục. Như cầm ḥn đá nhỏ, bỏ
vào trong lửa thế gian, [nung từ sáng] cho đến tối,
đá chẳng tiêu. Bỏ tảng đá to vào trong lửa Nê
Lê, lập tức tiêu mất. Cũng như có kẻ làm ác, chết
đi vào trong Nê Lê, mấy ngàn vạn năm, người ấy
chẳng chết). Đấy hoàn toàn là do nghiệp lực thiện
hay ác mà đến nỗi tiêu hay chẳng tiêu. V́ thế nói
là “nghiệp cảm như thế đó”.
3.2.2.3.2.2.2.2.1.2. Thích nghiệp
lực đại (giải thích về nghiệp
lực to lớn)
3.2.2.3.2.2.2.2.1.2.1. Chánh cử (nêu ra)
(Kinh)
Nghiệp lực thậm đại, năng địch Tu
Di, năng thâm cự hải, năng chướng thánh đạo.
(經)業力甚大‧能敵須彌‧能深巨海‧能障聖道。
(Kinh:
Nghiệp lực rất lớn có thể to hơn Tu Di, có
thể sâu hơn biển cả, có thể chướng ngại
thánh đạo).
Đây là
giải thích về cội nguồn của nghiệp cảm.
Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Cái chuốc lấy quả là
nhân, cũng gọi là nghiệp. Nghiệp của mười
pháp giới dấy lên trong tự tâm. Chỉ cần có tâm, các
nghiệp đều trọn đủ”. “Lực” là
lực dụng có thể kham thực hiện. Đức Phật
dạy: “Nhất thiết tráng, vô quá tâm. Tâm thị oán gia,
thường khi ngộ nhân. Tâm thủ địa ngục,
tâm thủ ngạ quỷ, tâm thủ súc sanh, tâm thủ nhân
thiên. Tác h́nh mạo giả, giai tâm sở vi” (Hết thảy
các thứ mạnh mẽ, không ǵ hơn nổi tâm! Tâm là kẻ
oán, thường lừa dối, khiến người ta lầm
lẫn. Do tâm mà giữ lấy địa ngục, do tâm mà
giữ lấy ngạ quỷ, do tâm mà giữ lấy súc
sanh, do tâm mà giữ lấy người, trời. Tạo tác
h́nh dạng, tướng mạo, đều do tâm làm ra). Sức
của nó to lớn nhất. Có thể lấy sự cao rộng
của núi Tu Di để sánh ví với nó. Đại dương
mênh mông, sâu thẳm, có thể dùng để
sánh ví sự thẳm sâu của nó. Thánh đạo rỗng
rang, thông suốt, có thể bị nó chướng ngại. Đấy
đều là do nghiệp lực của chúng sanh khiến thành
ra như vậy, nó chẳng phải là quá to th́ là ǵ đây?
Hai câu “núi, biển” nhằm nêu thí dụ. “Năng chướng
thánh đạo” (Có thể chướng
ngại thánh đạo): Nghiệp hữu lậu có thể
chướng ngại thánh đạo tam thừa; nghiệp
vô lậu có thể chướng ngại Trung Đạo nơi
Phật Tánh. Sách Kim Quang Minh Kinh Văn Cú viết: “Ba thứ
chướng gây chướng ngại Phật, bỏ ĺa Đệ
Nhất Nghĩa Thiên”. V́ thế biết nghiệp lực
sâu rộng và to lớn!
3.2.2.3.2.2.2.2.1.2.2. Giới khuyến
(khuyên
răn)
(Kinh)
Thị cố chúng sanh, mạc khinh tiểu ác, dĩ vi vô tội.
Tử hậu hữu báo, tiêm hào thọ chi. Phụ tử chí
thân, kỳ lộ các biệt, túng nhiên tương phùng, vô khẳng
đại thọ.
(經)是故眾生‧莫輕小惡‧以為無罪。死後有報‧纖毫受之。父子至親‧歧路各別。縱然相逢‧無肯代受。
(Kinh:
V́ thế, chúng sanh đừng coi thường điều ác
nhỏ, cho là vô tội. Sau khi chết, sẽ có báo ứng.
Tội dẫu mảy may, đều phải hứng chịu.
Cha con chí thân, đường nẻo khác biệt, dẫu gặp
gỡ nhau, chẳng bằng ḷng chịu khổ thế cho
nhau).
Dựa
theo lư do [nghiệp lực] có thể chướng ngại thánh
đạo [như vừa mới nói] trên đây để
khuyên răn. Trong thế gian, con người thường
nghĩ như thế này: “Những lỗi nhỏ nhặt
ai mà tính đến?” Trong kinh Duy Vô Tam Muội, đức Phật
đă bảo ngài A Nan: “Nhân sanh thế gian, sở dĩ bất
đắc đạo giả, đản tọa tư duy uế
niệm đa cố. Nhất niệm lai, nhất niệm
khứ, nhất nhật, nhất túc, hữu bát ức tứ
thiên vạn niệm, niệm niệm bất tức. Nhất
niệm thiện giả, đắc thiện quả báo. Nhất
niệm ác giả, đắc ác quả báo. Thị hưởng
ứng thanh, như ảnh tùy h́nh. Thị cố thiện ác,
tội phước các biệt. Như Diêm La vương cáo
tội nhân vân: - Nhân sanh tại thế gian thời, tội
quá tiểu thả khinh, tử tại địa hạ Nê
Lê, đại thả trọng” (Người sống trong
thế gian, sở dĩ chẳng đắc đạo chỉ
v́ suy nghĩ có nhiều ư niệm nhơ uế. Một niệm
đến, một niệm đi; một ngày, một đêm,
có tám ức bốn ngàn vạn niệm, các niệm chẳng
ngừng. Một niệm thiện bèn đạt được
quả báo thiện. Một niệm ác bèn đạt được
quả báo ác. Đó là do tiếng
vang ứng theo âm thanh, như bóng theo h́nh. Do vậy, thiện
ác, tội phước mỗi điều mỗi khác. Như
vua Diêm La bảo tội nhân: “Khi con người sống
trong thế gian, tội lỗi đă nhỏ lại nhẹ,
chết đi, sanh trong ngục Nê Lê dưới đất,
[quả báo] đă to lớn lại nặng nề”).
V́ thế, kinh Niết Bàn dạy: “Mạc
khinh tiểu ác, dĩ vi vô ương. Thủy trích tuy vi, tiệm
doanh đại khí. Lương dĩ tiêm giới chi ác, lịch
kiếp bất vong. Hào ly chi thiện, tích thế trường
tồn” (Đừng coi thường điều ác nhỏ,
cho là chẳng có ương họa ǵ! Giọt nước
tuy nhỏ, dần dần chứa đầy đồ đựng
lớn. Đó là v́ điều ác nhỏ nhặt, trải
bao kiếp chẳng mất. Điều thiện mảy may,
trải bao đời c̣n măi). Phước đă thành, ắt
thiên đường tự đến. Tội tích tụ, ắt
địa ngục tự vào! Đấy chính là lẽ tất
nhiên, chẳng thể nghi hoặc ǵ nữa!
Cha con thiên
tánh tương quan, thân thiết tột bậc; nhưng cha
tu thiện mà con làm ác, th́ cha sanh lên trời, con đọa trong
cảnh khổ. Đường lối đă khác, tất
nhiên khó thể gặp gỡ. Dẫu ngẫu nhiên gặp gỡ,
há cha chịu đem niềm vui nơi thiên đường đổi
lấy sự khổ trong địa ngục của con ư?
Con lành, cha ác, t́nh lư cũng thế! Như trong kinh Lại Trá
Ḥa La đă dạy: “Thiện ác tùy nhân, như ảnh tùy
thân. Nhân sanh độc sanh, tử diệc độc tử.
Thân tác thiện ác, thân độc đương chi, vô hữu
đại nhân giả” (Thiện ác theo người, như
bóng theo thân. Con người sanh ra một ḿnh, chết th́ cũng
chết trơ trọi một ḿnh. Thân làm chuyện thiện
ác, chỉ riêng thân ḿnh gánh chịu, chẳng có ai thay thế).
V́ thế, Phật Thuyết Tứ Tự Xâm Kinh có dạy: “Bất
kế vô thường, nhi phản tham ái, ngôn hữu phụ
mẫu, huynh đệ, thê tử, trung ngoại thân tộc,
lăo, bệnh, tử lai, thiện, ác, khổ, lạc, độc
tự đương chi, vô hữu đại giả” (Chẳng
xét đến vô thường, ngược ngạo tham ái, nói
có cha, mẹ, anh, em, vợ con, thân tộc trong ngoài, [thế
nhưng] già, bệnh, chết xảy đến, thiện, ác,
khổ, vui, riêng ḿnh hứng chịu, chẳng có ai thay cho).
V́ thế, khuyên chớ v́ điều ác nhỏ mà coi thường
để rồi cố ư gây tạo.
3.2.2.3.2.2.2.2.1.3. Nguyện nhân
thính ngôn (xin nhân giả nghe tôi nói)
3.2.2.3.2.2.2.2.1.3.1. Địa Tạng
khuyến thính (Địa Tạng khuyên nghe)
(Kinh)
Ngă kim thừa Phật oai lực, lược thuyết địa
ngục tội báo chi sự, duy nguyện nhân giả, tạm
thính thị ngôn.
(經)我今承佛威力‧略說地獄罪報之事。唯願仁者‧暫聽是言。
(Kinh:
Tôi nay nương vào oai lực của Phật, nói đại
lược chuyện tội báo trong địa ngục, kính
mong nhân giả tạm nghe lời ấy).
Ư nghĩa
dễ hiểu.
3.2.2.3.2.2.2.2.1.3.2. Phổ Hiền
thích ư (ngài Phổ Hiền giải thích dụng ư
thưa hỏi)
(Kinh)
Phổ Hiền đáp ngôn: “Ngô dĩ cửu tri tam ác đạo
báo, vọng nhân giả thuyết, linh hậu thế Mạt
Pháp nhất thiết ác hạnh chúng sanh, văn nhân giả
thuyết, sử linh quy Phật”.
(經)普賢答言‧吾已久知三惡道報。望仁者說‧令後世末法一切惡行眾生‧聞仁者說‧使令歸佛。
(Kinh:
Phổ Hiền đáp rằng: “Tôi biết sự báo ứng
trong ba đường ác đă lâu, vẫn mong nhân giả nói
ra, khiến cho hết thảy chúng sanh ác hạnh thời Mạt
Pháp mai sau nghe nhân giả nói sẽ quy hướng Phật”).
Đức
Phổ Hiền nói: “Ngài Địa Tạng mong tôi tạm
nghe nói tội báo đại lược như vậy, há tôi
chẳng biết chuyện khổ sở trong ác đạo
ư? Chỉ v́ nhân giả giáo hóa trong chốn tối tăm
ẩn kín đă lâu, làm giáo chủ cơi địa ngục, Ngài
đối trước đại chúng tuyên nói, mọi người
ắt tin tưởng, mới có thể khiến cho họ
quy hướng đức Phật được!” Vô Thường
Kệ có đoạn: “Có sanh ắt đều chết, tạo
nghiệp khổ bức thân, chỉ có Phật Bồ Đề,
là chỗ thật nương về”. Khuyên chúng sanh quy hướng
Phật chính là dụng ư chánh yếu để thưa hỏi
về địa ngục.
3.2.2.3.2.2.2.2.2. Biệt minh ngục
báo sai biệt (nói riêng về quả báo sai khác
trong các ngục)
3.2.2.3.2.2.2.2.2.1. Tổng thị
(dạy
chung)
(Kinh)
Địa Tạng bạch ngôn: “Nhân giả! Địa ngục
tội báo, kỳ sự như thị”. (經)地藏白言‧仁者‧地獄罪報‧其事如是。
(Kinh:
Địa Tạng bạch rằng: “Thưa nhân giả! Chuyện
tội báo trong địa ngục như sau…”)
Đoạn
kinh văn này có thể hiểu theo hai cách:
- Nhằm
tiểu kết phần trên, tức danh hiệu của các địa
ngục trong phần trên là như thế đó.
- Mở đầu
cho phần sau, tức là nói sẽ có những địa ngục
này nọ v.v… như thế này, như thế nọ. Nay hiểu
câu này nhằm chỉ chung những điều kế tiếp,
sẽ càng ổn thỏa hơn!
3.2.2.3.2.2.2.2.2.2. Biệt minh (nói riêng)
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, thủ tội nhân thiệt,
sử ngưu canh chi.
(經)或有地獄‧取罪人舌‧使牛耕之。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, kéo lưỡi tội nhân ra
cho trâu cày).
Ngục
thứ nhất, như kinh Bát Sư nói: “Lưỡng thiệt,
ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ, trấm nhân vô tội,
báng hủy tam tôn, tử nhập địa ngục. Ngục
trung quỷ thần, bạt xuất kỳ thiệt, dĩ
ngưu lê chi, dương đồng quán khẩu, cầu tử
bất đắc” (Nói đôi chiều, nói lời thôi ác,
nói dối, nói thêu dệt, gièm pha người vô tội, hủy
báng Tam Bảo, chết sẽ đọa vào địa ngục.
Quỷ tốt trong ngục kéo lưỡi kẻ đó ra
cho trâu cày, nước đồng sôi rót vào miệng, mong chết
mà chẳng được).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, thủ tội nhân tâm, Dạ-xoa
thực chi.
(經)或有地獄‧取罪人心‧夜叉食之。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục moi tim tội nhân cho Dạ-xoa
ăn).
“Thủ
tâm, Dạ-xoa thực” (Moi tim cho quỷ Dạ-xoa ăn):
Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Chư tội nhân sanh hôi hà
trung, chư kiếm thụ gian, hữu nhất La Sát, dĩ
xoa, xoa kỳ tâm xuất, dữ Dạ-xoa thực. Dĩ tích
thời thâu đạo sư trưởng, phụ mẫu tội
nhân duyên cố, nhất nhật, nhật dạ, ngũ bách ức
sanh tử, thọ khổ vô lượng” (Các tội nhân
sanh trong sông tro, giữa các cây đầy gươm, có một
La Sát dùng chĩa ba móc tim tội nhân ra cho Dạ-xoa ăn. Do
nhân duyên xưa kia phạm tội trộm cắp sư trưởng,
cha mẹ, trong một ngày một đêm có năm trăm ức
lần sống chết, chịu khổ vô lượng).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, hoạch thang thịnh
phí, chử tội nhân thân.
(經)或有地獄‧鑊湯盛沸‧煮罪人身。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, vạc sôi sùng sục, nấu
thân tội nhân).
“Hoạch
thang chử thân” (vạc sôi nấu thân): Trong kinh trên đây
có nói: “Hoạch Thang địa ngục hữu thập bát
hoạch. Nhất nhất hoạch tung quảng tứ thập
do-tuần, măn trung phí thiết. Ngũ bách La Sát cổ đại
thạch thán, thiêu kỳ đồng hoạch. Hỏa diễm
tương thừa, lục thập nhật bất diệt.
Diêm Phù Đề nhật măn thập tam vạn tuế. Hoạch
phí như tinh, hóa thành hỏa luân. Thử do hủy Phật
cấm giới, sát sanh từ tự, vi đạm nhục huyết,
phần thiêu sơn dă, sanh tầm chúng sanh, dĩ hỏa phần
thiêu, sanh hoạch thang trung, tốc tật tiêu lạn, duy
dư cốt tại. Thiết xoa liêu xuất, thiết cẩu
thực chi, ẩu thổ tại địa, tầm phục
hoàn hoạt. Ngục tốt khu hới, hoàn linh nhập hoạch”
(Địa ngục Vạc Sôi có mười tám cái vạc. Mỗi
cái vạc có kích thước
mỗi bề bốn mươi do-tuần, chứa đầy
nước sắt lỏng sôi sùng sục. Năm trăm La Sát
dồn những tảng than đá lớn để đun
những vạc đồng đó. Ngọn lửa cháy liên tục
suốt sáu mươi ngày chẳng tắt; tính theo thời
gian trong Diêm Phù Đề th́ tṛn mười ba vạn năm.
Vạc sôi [bốc hơi lên] như các ngôi sao [chi chít], hóa thành
vầng lửa. Đấy là do hủy hoại cấm giới
của Phật, sát sanh để cúng tế, ăn thịt,
uống máu [những sanh vật]; thiêu đốt núi non, đồng
rẫy, nướng sống chúng sanh. Do dùng lửa thiêu đốt,
nên sanh trong vạc sôi, nhanh chóng bị tiêu nát, chỉ c̣n lại
xương. [Quỷ tốt] dùng chĩa ba sắt vớt ra, cho chó sắt ăn. Nó ói ra đất,
[tội nhân] ngay lập tức sống lại. Ngục tốt
xua đuổi, quát mắng, lại trở vào trong vạc).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, xích thiêu đồng trụ,
sử tội nhân băo.
(經)或有地獄‧赤燒銅柱‧使罪人抱。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, nung đỏ cột đồng,
bắt tội nhân ôm).
“Nung đỏ
cột đồng” như đă giải thích trong phần
trước.
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, sử chư hỏa
thiêu, sấn cập tội nhân.
(經)或有地獄‧使諸火燒‧趁及罪人。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, khiến cho các thứ lửa
đốt, bay tấp vào thân tội nhân).
“Hỏa
thiêu sấn cập tội nhân” (lửa đốt bay tấp
vào thân tội nhân): Chữ Sấn (趁) (đọc là Sấn,
khứ thanh), có nghĩa là “đuổi theo, theo sát”. Kinh Khởi
Thế nói: “A Tỳ đại ngục chư chúng sanh bối,
dĩ bất thiện nghiệp quả báo, kinh vô lượng
thời, kiến ngục Đông môn hốt khai. Ngục chúng
kiến văn khai môn, tẩu hướng bỉ xứ. Tẩu
dĩ phục tẩu, đại tốc tật tẩu, ngă
đẳng kim giả, quyết ưng đắc thoát. Như
thị tẩu thời, thân chư chi tiết, chuyển phục
xí nhiên! Nam, Tây, Bắc môn, diệc phục như thị” (Các
chúng sanh trong đại ngục A Tỳ do quả báo của
nghiệp bất thiện [mà bị giam trong đó] đă vô
lượng thời, thấy cửa phía Đông của ngục
bỗng mở ra. Mọi người trong ngục thấy,
nghe cửa mở, bèn chạy đến đó, chạy miết,
càng chạy nhanh chóng hơn, [tự nhủ]: “Chúng ta nay sẽ
chắc chắn thoát nạn”. Khi họ chạy như thế,
các lóng đốt trên thân lại chuyển thành lửa cháy bừng
bừng. Cửa Nam, Tây, Bắc cũng giống như thế).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, nhất hướng hàn
băng.
(經)或有地獄‧一向寒冰。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, thuần là băng lạnh).
“Nhất
hướng hàn băng” (thuần là băng lạnh): Kinh
Lâu Thán dạy: “Tùng Lang Dă Can xuất, tẩu nhập Hàn Băng,
tung quảng nhị vạn lư. Nhân tất nhập kỳ
trung, phong tứ diện khởi hàn băng (Trường A
Hàm vân: “Nhị Kim Cang sơn gian, hữu đại phong khởi,
danh viết Tăng Khư”). Phong xuy nhân cơ phu, b́, nhục,
cân, cốt, nhập tủy trung tiện tử. Dĩ chư
bất thiện nghiệp quả báo, nhi sanh kỳ trung” (Từ ngục Lang Dă Can thoát ra, bèn đi vào ngục Hàn Băng.
Ngục ấy có kích thước mỗi bề hai vạn dặm
(kinh Trường A Hàm nói: “Giữa hai núi Kim Cang có gió to nổi
lên, tên là Tăng Khư (Sāṁkhya)”). Gió thổi qua da, thịt,
gân, xương của con người, lọt vào đến
tủy bèn chết. Do quả báo của nghiệp bất thiện
mà sanh trong ấy).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, vô hạn phẩn niệu.
(經)或有地獄‧無限糞尿。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, vô hạn phân, tiểu).
“Vô hạn
phẩn niệu” (vô hạn phân, nước tiểu):
Kinh Địa Ngục dạy: “Phí Thỉ ngục, hữu
thập bát cách, các bát thiên do-tuần. Thập bát thiết thành,
nhất nhất hữu thập bát cách. Cách trung tứ bích, bách
vạn ức kiếm thụ, giai sanh thiết trùng, khẩu
thổ nhiệt thỉ. Hữu t́nh ẩm thỉ, thử trùng
sáp thiệt, đạm tâm. Dĩ tiền thế phá Bát Trai
Giới, cập bất tịnh ác nghiệp cố” (Ngục
Phân Sôi có mười tám ngăn, mỗi ngăn rộng tám
ngàn do-tuần. Mười tám thành sắt, mỗi thành có mười
tám ngăn. Bốn vách của mỗi ngăn là tám vạn ức
cây cối đầy gươm, đều sanh ra trùng sắt.
Miệng chúng nó phun ra phân nóng. Hữu t́nh uống phân, con trùng
ấy bèn mút chặt lưỡi họ,
ăn tim. Do đời trước phá Bát Quan Trai Giới, và
do ác nghiệp bất tịnh).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, thuần phi tật lê.
(經)或有地獄‧純飛𨪏鏫。
(Kinh: Hoặc có địa ngục, thuần
là vuốt sắt bay).
“Thuần
phi tật lê”[7]: Kinh Quán Phật
Tam Muội nói: “Tội nhân lạc hắc ám xứ, hữu
thiết ô, tủy cự, trường lợi, tùng sơn
phi lai, trảo, trác tội nhân, thống cấp tật tẩu.
Túc hạ tật lê, xuyên cốt triệt tủy, kinh ngũ
bách vạn ức tuế” (Tội nhân rơi vào chỗ tối
tăm, có quạ sắt, mỏ to, dài, sắc, từ núi bay
đến, quắp, mổ tội nhân. Tội nhân đau đớn,
vội vàng chạy lẹ. Dưới chân có chông sắt xuyên
thấu xương, xuyên vào tủy, trải qua năm trăm vạn
ức năm).
Nay nói “thuần phi” (đều là [vuốt sắt]
bay), tức khắp ngục đều [có những thứ
xuyên móc] như thế. Đấy là do binh gia gài bẫy, bốn
phía đều chôn chông sắt, lao sắt để hại
người, cho nên sanh trong ngục này.
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, đa toản hỏa thương.
(經)或有地獄‧多攢火槍。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, đâm nhiều giáo lửa).
“Đa
toản hỏa thương” (đâm nhiều giáo lửa)
giống như ngục Thông Thương, chỉ [có điểm
khác biệt] là có nhiều lửa!
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, duy chàng hung bối.
(經)或有地獄‧唯撞胸背。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, chỉ đập ngực, lưng).
“Duy chàng
hung bối” (chỉ đập ngực, lưng): Theo kinh
Lăng Nghiêm, trong phần Lịch Thính thuộc quả báo của
Xúc, tức là có thể va đập, do Xúc làm nhân mà thành cái quả này.
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, đản thiêu thủ,
túc.
(經)或有地獄‧但燒手足。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục chỉ đốt tay, chân).
“Đản
thiêu thủ túc” (chỉ đốt tay, chân): Kinh Khởi
Thế dạy: “Tùng Ngại Điệp tiểu địa
ngục xuất, nghệ hướng hộc lượng ngũ
bách do-tuần tiểu địa ngục trung. Thủ ngục
giả thủ địa ngục bối, dĩ nhiệt
thiết hộc, khiển kỳ lượng hỏa, thiêu
thủ, thiêu cước, nhĩ, tỵ, chi tiết. Kim tùng biệt
nghiệp, biệt báo, cố đản
thiêu thủ, túc” (Từ tiểu địa ngục
Ngại Điệp (Cối Xay chồng chất) thoát ra, vào
trong tiểu địa ngục to bằng cái hộc rộng
năm trăm do-tuần. Kẻ giữ ngục bắt lấy bọn tội nhân, dùng hộc sắt nóng để
đong lửa thiêu tay, đốt chân, tai, mũi, chi thể.
Nay [có h́nh phạt như vậy] là do từ biệt nghiệp
mà có biệt báo, cho nên chỉ đốt chân, tay).
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, bàn kiểu thiết xà.
Hoặc hữu địa ngục, khu trục thiết cẩu.
(經)或有地獄‧盤繳鐵蛇。或有地獄‧驅逐鐵狗。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục cho rắn sắt quấn trói.
Hoặc có địa ngục, xua đuổi chó sắt [cắn
xé tội nhân]).
Rắn sắt,
chó sắt giống như trong những phần trước.
(Kinh)
Hoặc hữu địa ngục, tận giá thiết loa.
(經)或有地獄‧盡駕鐵騾。
(Kinh:
Hoặc có địa ngục, đều bị bắt cưỡi
trên con la sắt).
“Tận
giá thiết loa” (tội nhân đều bị bắt cưỡi
con la[8] sắt): Như
tỳ-kheo Tăng Hộ thấy một con lừa bị lửa
dữ thiêu thân. Đức Phật bảo: “Thật phi thị
lư, Ca Diếp Phật thời xuất gia nhân, đương
trù phân tăng ẩm thực, hằng tự trưởng
thọ nhị, tam nhân phần. Tŕ luật tỳ-kheo như
pháp ha trách, đáp ngôn: ‘Ngă đương tăng trù, thậm
đại lao khổ, nhữ bất tri ân, tráng tự như
lư, đản dưỡng nhất thân, hà bất mặc
nhiên?’ Dĩ thị nhập địa ngục trung, lư thân
thọ khổ” (Thật sự chẳng phải là lừa!
Ông ta là người xuất gia thời đức Phật Ca
Diếp, trông nom nhà bếp, [đảm nhiệm việc] chia thức ăn cho tăng
chúng, luôn tự chia cho ḿnh nhiều gấp đôi, gấp ba
người khác. Vị tỳ-kheo giữ luật bèn theo đúng
pháp quở trách, ông ta trả lời: “Tao lo bếp núc cho tăng
chúng, hết sức vất vả. Mày chẳng biết ơn,
khỏe mạnh như lừa mà chỉ biết nuôi béo cái
thân, sao không câm miệng đi?” Do vậy, vào trong địa
ngục, làm thân lừa chịu khổ). Nay nói “tận giá”
(đều cưỡi hết), đại khái là tội nhân
cưỡi trên lừa sắt, lửa đốt thân họ.
3.2.2.3.2.2.2.2.3. Kết nghiệp
hiển cảm khổ khí (tổng kết về
nghiệp, nêu rơ đó là nguyên do cảm vời các dụng cụ
hành h́nh)
(Kinh)
Nhân giả! Như thị đẳng báo, các các ngục
trung, hữu bách thiên chủng nghiệp đạo chi khí. Vô
phi thị đồng, thị thiết, thị thạch, thị
hỏa. Thử tứ chủng vật, chúng nghiệp hạnh
cảm.
(經)仁者‧如是等報‧各各獄中‧有百千種業道之器。無非是銅是鐵‧是石是火。此四種物‧眾業行感。
(Kinh:
Thưa nhân giả! Những quả báo như thế, trong mỗi
ngục đều có trăm ngàn thứ khí cụ để
hành h́nh theo từng nghiệp, không ǵ chẳng phải là bằng
đồng, bằng sắt, bằng đá, hay bằng lửa.
Bốn thứ vật ấy đều do các nghiệp hạnh
[bất thiện] cảm vời).
“Như
thị đẳng báo” (những thứ báo ứng như
thế) chỉ chung những chuyện trên đây. Do hết
thảy chúng sanh luôn sanh khởi ba loại tư duy bất
thiện, ngẫm nghĩ ngũ dục, nghĩ chuyện giận
dữ, tàn hại, nghĩ cách dối gạt, đều do
vô minh làm nhân khiến cho chúng sanh khởi. Thân hoại, mạng
hết, sẽ đọa vào đường ác. “Khí” (器) chính là những vật
dụng thường dùng hằng ngày. Nay đồng, sắt,
đá, lửa là [chất liệu] của những dụng
cụ hành h́nh trong địa ngục, đều do nghiệp
hạnh của tội nhân cảm vời, chẳng phải
do trời ban hay người tặng! Nghiệp hạnh tuy
nhiều, Thập Ác bao hàm trọn hết, Tam Độc làm
nhân, Thất Chi làm duyên, thực hiện ác nghiệp, tạo
tác khí cụ hành h́nh, để rồi chính ḿnh hứng chịu,
chẳng thể tránh né! V́ thế, Kim Quang Minh Kinh Kư chép: “Tâm
phá giới đă thành th́ có thể tạo ra địa ngục,
các thứ dụng cụ hành h́nh nghiêm ngặt. Chẳng có một
vật nào từ bên ngoài mà có”. V́ thế, luận
Duy Thức nói: “Như trong địa ngục, chẳng có
người làm chủ địa ngục, nhưng chúng sanh
trong địa ngục, do nghiệp tự nhiên, thấy vị
chủ của địa ngục và đủ mọi thứ
khổ, khởi tâm trông thấy: Đây là chốn địa
ngục, đây là lúc ban đêm hoặc ban ngày. Do ác nghiệp,
nên thấy chó, thấy quạ, hoặc thấy núi ép lại”.
Dùng đoạn văn ấy
làm chứng, [sẽ biết]: Do điều thiện, lẽ
ác huân tập cái tâm, khiến cho tâm dễ thấy, chứ thật
sự chẳng có địa ngục! Nhưng ngoài tâm tuy chẳng
có địa ngục, khi ác nghiệp đă thành, sẽ cưỡng
ép khiến tội nhân hư vọng thấy là có. V́ thế,
kinh Quyết Định Tỳ Ni dạy: “Ngă thuyết địa
ngục chư khổ sự, thật vô ác thú khả lai văng.
Đao, trượng, tật lê chúng khổ cụ, diệc
vô hữu năng tạo tác giả, do phân biệt cố nhi
kiến hữu. Vô lượng khổ độc bức kỳ
thân. Do như phân biệt chư huyễn diễm. Ư thử
phân biệt tất giai không” (Ta nói các chuyện khổ
trong địa ngục, nhưng thật ra chẳng có các đường
ác để qua lại. Các thứ dụng cụ hành h́nh như
đao, gậy, chông sắt, cũng chẳng có ai là người
có thể tạo tác. Do phân biệt mà thấy có vô lượng
khổ độc bức bách cái thân. Ví như phân biệt các
ngọn lửa hư huyễn, đối với sự phân
biệt ấy, đều là không) có phải là nói về
chuyện này đấy chăng?
3.2.2.3.2.2.3. Kết thị chỉ
quảng (tổng kết phần chỉ dạy rộng
răi)
(Kinh)
Nhược quảng thuyết địa ngục tội
báo đẳng sự, nhất nhất ngục trung, cánh hữu
bách thiên chủng khổ sở, hà huống đa ngục. Ngă
kim thừa Phật oai thần, cập nhân giả vấn, lược
thuyết như thị. Nhược quảng giải thuyết,
cùng kiếp bất tận.
(經)若廣說地獄罪報等事‧一一獄中‧更有百千種苦楚‧何況多獄。我今承佛威神‧及仁者問‧略說如是。若廣解說‧窮劫不盡。
(Kinh:
Nếu nói rộng những chuyện tội báo trong địa
ngục, trong mỗi ngục lại có trăm ngàn thứ khổ
sở, huống hồ nhiều ngục! Nay tôi nương
theo oai thần của đức Phật và lời hỏi
của nhân giả, nói đại lược như thế.
Nếu giải thích cặn kẽ, dẫu hết cả kiếp
vẫn chẳng hết).
“Tội
báo trăm ngàn khổ sở” đều do một niệm
tạo thành. Như kinh Chánh Pháp Niệm Xứ dạy: “Vân
hà ác nghiệp vô lượng chủng chủng, giai nhân ư
tâm, tương tục lưu chuyển. Như hà sấm lưu,
phiêu chư chúng sanh, linh đọa ác nghiệp quả báo chi
địa? Tại ư địa
ngục, thọ cực khổ năo. Thử chư chúng sanh, vân
hà như thị vị tâm sở cuống, vị ái sở
cuống. Cố cảm bách thiên chủng báo, sở độc
kỳ thân dă?” (Cớ sao vô lượng
các thứ ác nghiệp như thế đều do nơi tâm,
lưu chuyển liên tục như sông chảy xiết, trôi
giạt chúng sanh, khiến cho họ đọa vào chốn
quả báo của ác nghiệp? Ở trong địa ngục,
chịu khổ năo cùng cực. Các chúng sanh ấy cớ sao lại
bị tâm, bị ái mê hoặc dường ấy, đến
nỗi cảm vời trăm ngàn loại quả báo hành hạ
cái thân?)
“Hà huống
đa ngục” (huống hồ nhiều ngục): Chỉ
nói một ngục A Tỳ, đă có đủ mọi chuyện
khổ sở do tội báo, huống hồ nhiều ngục?
Tôi nay nương vào oai thần của đức Phật,
kính cẩn đáp lời hỏi của nhân giả, bất
quá nói đại lược những chuyện như vậy
thôi. Nếu muốn hiểu cặn kẽ tên của
các địa ngục và mỗi thứ dụng cụ hành h́nh, dẫu thọ mạng
trọn cả một kiếp, vẫn chẳng thể nói hết!
V́ sao? Nghiệp lực của chúng sanh chẳng thể
nghĩ bàn! Ấy là v́ tâm nghiệp giống như thợ vẽ,
do nghiệp của chính ḿnh mà vẽ thành các nơi hứng
chịu cái quả do nghiệp đă gây tạo. Do tâm có đủ loại khác nhau, cho nên
chịu khổ ở những chỗ khác nhau, có trăm ngàn
ức na-do-tha ác sự đáng sợ, chẳng có chuyện
nào giống nhau, chẳng thể sánh ví được! Chỉ
do chúng sanh thuở trước, do tiếp xúc cảnh mà sanh ḷng chấp trước, dấy ḷng yêu mến, nay phải chịu khổ trong
xúc cảnh dơ xấu. Do đó, quả báo đau khổ,
chuyện đau khổ, dụng cụ hành h́nh, rất khó nêu
trọn được! Phần nói về căn cơ được
giáo hóa đă xong.
3.2.3. Minh độ thoát duyên (nói về các duyên để
được cứu độ giải thoát)
Phần này được
chia thành hai đoạn:
- Hóa chủ
phóng quang tán thán.
- Các vua Diêm
La thưa hỏi và tán thán.
Kinh Bảo
Vũ nói: “Vân hà Bồ Tát năng linh xưng thán? Thiện
nam tử, như nguyệt xuất hiện, năng sử nhân
gian thành, ấp, tụ lạc, chư Sát-đế-lợi,
Bà-la-môn đẳng, nhược nam, nhược nữ, tất
giai xưng tán. Bồ Tát như thị, như nguyệt xuất
hiện, vị nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A-tố-lạc,
Kiện-đạt-phược đẳng, tất giai xưng
tán” (V́ sao Bồ Tát được ca ngợi? Này thiện
nam tử! Như mặt trăng xuất hiện, có thể
khiến cho các Sát-đế-lợi, Bà-la-môn dù nam hay nữ
trong các thành, ấp, xóm làng trong nhân gian thảy đều
khen ngợi. Cũng vậy, Bồ Tát xuất hiện giống
như vầng trăng, nên được hết thảy trời,
người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v… trong thế gian khen ngợi).
Đoạn
thứ nhất lại được chia làm hai phần:
- Đức
Thế Tôn tán thán công đức.
- Đức
Địa Tạng tạo lợi ích cho kẻ c̣n lẫn người
mất.
3.2.3.1. Hóa chủ phóng quang tán
thán (đức
giáo hóa chủ phóng quang minh, khen ngợi)
3.2.3.1.1. Thế Tôn tán thán công
đức (đức Thế Tôn khen ngợi
công đức)
3.2.3.1.1.1. Phẩm đề (tên gọi của phẩm
kinh)
(Kinh)
Như Lai Tán Thán phẩm đệ lục.
(經)如來讚歎品第六。
(Kinh:
Phẩm thứ sáu: Như Lai tán thán)
3.2.3.1.1.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm
này)
3.2.3.1.1.2.1. Như Lai tán thán từ
bi sự (đức Như Lai tán thán chuyện từ
bi) 3.2.3.1.1.2.1.1. Tự quang thanh xưng thán (trần thuật
chuyện phóng quang và phát ra âm thanh ca ngợi)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cử thân phóng đại quang minh,
biến chiếu bách thiên vạn ức Hằng hà sa đẳng
chư Phật thế giới.
(經)爾時世尊‧舉身放大光明‧徧照百千萬億恆河沙等諸佛世界。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khắp thân tỏa
quang minh to lớn, chiếu trọn khắp trăm ngàn vạn
ức các thế giới nhiều như cát sông Hằng).
Trong phần
trên đă nói về đấng hóa chủ và căn cơ được
hóa độ đă xong, đức Thế Tôn bèn thừa dịp
tán thán, ḥng nói rơ cái duyên độ thoát, cho nên nói là “nhĩ
thời” (lúc bấy giờ). Toàn thân phóng quang minh, hiển
thị đại địa cùng thành trí địa, thâu tóm
quần sanh đều nhập Vô Sanh. Như trong kinh Đại
Phẩm Bát Nhă có nói: Từ tướng bánh xe ngàn căm dưới
chân, tỏa ra sáu trăm vạn ức quang minh. Từ mười
ngón chân, hai mắt cá chân, đầu gối, gót chân, bắp
đùi, eo, bụng, lưng, rốn, tim, ngực, vai, cánh tay,
ngón tay, cổ, miệng, răng, lỗ mũi, mắt, tai,
tướng bạch hào, và nhục kế, mỗi nơi đều
tỏa ra sáu trăm vạn ức quang minh. Từ các luồng
sáng ấy, tỏa ra các vầng quang minh to lớn chiếu
trọn khắp các thế giới chư Phật trong mười
phương nhiều như cát sông Hằng. Nếu chúng sanh
gặp quang minh ấy, ắt đắc A Nậu Bồ
Đề (Vô Thượng Chánh Giác). Nay quang minh được
tỏa ra cũng giống như thế, cho nói “khắp
thân phóng đại quang minh, chiếu trọn khắp vạn
ức các cơi nhiều như cát”.
(Kinh)
Xuất đại âm thanh, phổ cáo chư Phật thế
giới nhất thiết chư Bồ Tát Ma Ha Tát, cập
thiên, long, quỷ, thần, nhân phi nhân đẳng.
(經)出大音聲‧普告諸佛世界一切諸菩薩摩訶薩‧及天龍鬼神‧人非人等。
(Kinh:
Phát ra âm thanh to lớn, bảo khắp hết thảy các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát và trời, rồng, quỷ, thần, người,
phi nhân v.v… trong các thế giới của chư Phật).
“Đại
âm thanh” chính là tướng Phạm thanh trong ba mươi
hai tướng. Luận Tân Tỳ Bà Sa nói: “Phạm thanh của
Như Lai: Trong cổ họng của Phật có đại chủng
mầu nhiệm, có thể nói các phạm âm ḥa nhă, vui đẹp
ḷng người như chim Yết La Tần Già (chim Ca Lăng
Tần Già), và phát ra âm thanh như sấm rền vang xa, như
tiếng trống của Đế Thích”. Đại Luận nói:
“Như năm thứ tiếng của Phạm Thiên Vương,
từ miệng phát ra: Một là rất sâu như sấm.
Hai là trong trẻo, thấu triệt, có thể nghe được
rất xa, người nghe vui sướng. Ba là nghe lọt vào
tâm, [người nghe] sanh ḷng kính yêu. Bốn là trọn vẹn
chắc thật, dễ hiểu. Năm là người nghe
muốn nghe chẳng chán”. V́ thế nói là “xuất đại
âm thanh”. “Cáo chư Bồ Tát” (bảo các Bồ Tát):
Nhằm lưu thông kinh này, cho nên bảo trời, rồng v.v…
hăy ủng hộ kinh này.
(Kinh)
Thính ngô kim nhật xưng dương tán thán Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát, ư thập phương thế giới,
hiện đại bất khả tư nghị, oai thần
từ bi chi lực, cứu hộ nhất thiết tội
khổ chi sự.
(經)聽吾今日稱揚讚歎地藏菩薩摩訶薩‧於十方世界‧現大不可思議‧威神慈悲之力‧救護一切罪苦之事。
(Kinh:
Nghe ta ngày nay xưng dương, tán thán Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát, trong mười phương thế giới, hiện
sức oai thần từ bi to lớn chẳng thể
nghĩ bàn để làm chuyện cứu vớt, che chở
hết thảy kẻ tội khổ).
“Thính”
(nghe) là do sức của tai. Đối với loài người,
sự dụ hoặc bên ngoài phần nhiều là do mắt
tiếp xúc; nhưng không lọt sâu vào ḷng người bằng
tai nghe. “Nghe” tạo hữu ích cho mọi người cũng
nhiều. V́ sao? Nh́n th́ tán loạn, mà nghe th́ tập trung. Cổ
nhân đă khéo khế hợp lư này, đă tạo chữ Thính
(聽) do Nhĩ (耳, tai), Đĩnh (𡈼, tốt lành), và Đắc (悳, tâm thẳng thắn)
ghép lại, hàm ư: Hễ tai nghe th́ những ǵ được
nghe là đức, tâm làm chủ. V́ thế, cần phải gom
cái nh́n lại, xoay trở lại cái nghe, hăy nghe ta ngày nay xưng
dương, tán thán.
Chữ
Hiện (現) ở đây có nghĩa
là “khởi lên”. Tuy biết các pháp vô tánh, Phật chủng vẫn
do duyên khởi. Chúng sanh do nhân này mà cảm, đức Địa
Tạng do duyên này mà ứng. “Đại”: Tánh ấy rộng
lớn, dung nạp rất nhiều. Đại sư tử
hống, lợi ích to lớn cho thánh lẫn phàm. “Bất
khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn): Ba thứ
Thể, Tướng, và Dụng đều chẳng thể
nghĩ bàn. Toan nói về chúng th́ ngôn từ chỉ tổn thương
sự thật. Toan nghĩ suy th́ suy nghĩ khiến sự thật
bị vùi lấp. V́ sao? Đă nói “các pháp vô tánh”, tức
là chẳng có bốn tánh[9] để
suy lường. Đă thế, Phật chủng là do duyên ḥng
đạt được lợi ích Tứ Tất Đàn. Ở
đây, Dụng khởi từ Thể, Dụng c̣n ngầm
khế hợp Lư. Thể nhờ vào Dụng để hiển
lộ, mà bản thân của Thể th́ không tịch. Thể
chính là Dụng, Dụng chính là Thể, tùy ư ban bố, cứu
bạt. “Thể, Dụng” chính là chẳng phải Thể và
Dụng, ban bố và cứu bạt chẳng phải là ban bố
và cứu bạt. Đấy chính là lợi ích Tất Đàn
chỉ riêng Viên Giáo mới có, cho nên nói “đại bất
khả tư nghị oai thần chi lực” (sức oai
thần to lớn chẳng thể nghĩ bàn). Nhưng đạo
từ bi, cứu bạt làm đầu, hoài băo của Bồ Tát lấy
xót thương cứu tế làm Dụng, thường ứng
hiện trọn khắp địa ngục, thay họ chịu
khổ. V́ thế nói “cứu hộ nhất thiết tội
khổ chi sự” (cứu vớt, che chở hết thảy
các chuyện tội khổ).
3.2.3.1.1.2.1.2. Lệnh phương
tiện hộ kinh (dạy [các vị Bồ Tát và
đại chúng] hăy phương tiện hộ tŕ kinh này)
(Kinh)
Ngô diệt độ hậu, nhữ đẳng chư Bồ
Tát đại sĩ, cập thiên, long, quỷ, thần đẳng,
quảng tác phương tiện, vệ hộ thị kinh,
linh nhất thiết chúng sanh, chứng Niết Bàn lạc.
(經)吾滅度後‧汝等諸菩薩大士‧及天龍鬼神等‧廣作方便‧衛護是經。令一切眾生‧證涅槃樂。
(Kinh:
Sau khi ta diệt độ, hàng Bồ Tát đại sĩ các
ông, và hết thảy trời, rồng, quỷ, thần v.v…
hăy tạo phương tiện rộng răi để bảo
vệ, hộ tŕ kinh này, khiến cho hết thảy chúng
sanh chứng niềm vui Niết Bàn).
Kinh Đại
Thừa nói Như Lai thật sự chẳng rốt ráo nhập
Niết Bàn, nay [đức Phật] nói “ngô diệt độ
hậu” (sau khi ta diệt độ) là v́ lẽ nào? Ấy
là v́ củi căn cơ đă hết, lửa ứng hóa bèn
tắt, thuận theo [lời thỉnh cầu của ma vương]
Ba Tuần mà thị hiện diệt độ. Đối
với phương tiện mà nói là “quảng tác” (rộng
thực hiện) v́ phương tiện chính là công cụ để
thực hiện nhị lợi (tự lợi và lợi tha)
của bậc Bồ Tát, chẳng thể tạm ĺa trong khoảnh
khắc! Do vậy, kinh Duy Ma Cật nói: “Vô phương tiện,
huệ phược. Hữu phương tiện, huệ giải”
(không phương tiện th́ huệ bị trói buộc. Có phương
tiện th́ huệ được cởi gỡ), ư nói: Chẳng
dùng cái tâm ái kiến để trang nghiêm cơi Phật, thành tựu
chúng sanh. Dùng pháp Không, Vô Tướng, Vô Tác pháp để tự
điều phục mà chẳng chán, nhàm; đó gọi là “huệ
giải có phương tiện”. Không có [phương tiện]
th́ bị trói buộc.
“Khuyên
bảo vệ, hộ tŕ kinh này” do kinh này là thuốc tốt
lành của chúng sanh. Ví như Chiên Đàn có thể trị bệnh
của mọi người, hết thảy chúng sanh không ai chẳng mong có được. Có người
có được nhiều cây hương Chiên Đàn, bó thành
củi đem bán, chẳng có ai mua! Kinh này có thể khiến
cho mọi người đắc đạo, không ai chẳng
đắc độ. Sau khi ta nhập Niết Bàn, lưu lại
kinh này trong thế gian, chẳng có ai nh́n tới, cũng giống
như Chiên Đàn bó thành củi đem bán, chẳng có ai mua.
V́ thế, đối với pháp, phải rộng tạo phương tiện,
bảo vệ, hộ tŕ lưu thông, khiến cho hết thảy
chúng sanh tội khổ sẽ lấp nguồn vô minh, nhổ
rễ sanh tử, thoát khỏi ác đạo tam đồ,
chứng Tam Đức tịch quang, ngơ hầu chẳng cô
phụ sức từ bi oai thần, cũng như tấm ḷng
cứu vớt bảo vệ bọn tội khổ của
bậc Đại Sĩ.
3.2.3.1.1.2.2. Phổ Quảng thỉnh
lợi ích sự (Phổ Quảng thưa hỏi
về chuyện lợi ích)
3.2.3.1.1.2.2.1. Đương cơ
thỉnh thuyết (bậc đương cơ
thỉnh Phật dạy bảo)
(Kinh)
Thuyết thị ngữ dĩ, hội trung hữu nhất Bồ
Tát, danh viết Phổ Quảng, hiệp chưởng, cung
kính, nhi bạch Phật ngôn.
(經)說是語已‧會中有一菩薩‧名曰普廣‧合掌恭敬‧而白佛言。
(Kinh:
Nói lời ấy xong, trong hội có một vị Bồ Tát
tên là Phổ Quảng, chắp tay, cung kính, mà bạch đức
Phật rằng).
Đoạn
này chia thành hai tiểu đoạn. Phần đầu là người
trùng tuyên bộ kinh này trần thuật oai nghi; từ chữ
“kim kiến” (nay thấy) trở đi là phần tán thán,
xin nói về lợi ích. Có một vị Bồ Tát liền vâng
mạng làm người bảo vệ kinh này, tên Ngài là Phổ
Quảng. Từ tâm phát khởi trí, trí trọn khắp pháp
giới là Phổ. Dùng trí hướng dẫn hạnh, hạnh
tṛn đầy hư không là Quảng. Tâm là cảnh thể (bản
thể của cảnh), Phổ Quảng là Dụng. Tâm tức
là Pháp Thân, Phổ là Bát Nhă, Quảng tức Giải Thoát, do Đại Sĩ chứng Tam
Đức (Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát) đă lâu, rộng cứu
giúp quần sanh. Tuy Dụng chẳng ĺa Thể, nhưng Thể
lại cậy vào Dụng để hiển lộ; do đó,
dùng Dụng để đặt tên. Nếu nói rộng chuyện
ấy, sẽ giống như Thập Phổ của đức
Quán Âm[10].
(Kinh)
Kim kiến Thế Tôn tán thán Địa Tạng Bồ Tát, hữu
như thị bất khả tư nghị đại oai thần
đức.
(經)今見世尊讚歎地藏菩薩‧有如是不可思議大威神德。
(Kinh:
Nay thấy đức Thế Tôn tán thán Địa Tạng
Bồ Tát có công đức oai thần to lớn chẳng thể
nghĩ bàn như thế).
Từ “kim
kiến” (nay thấy) trở đi, trước hết,
nhắc lại lời tán thán oai đức trong phần trên.
Đại Luận viết: “Hỏi: Chư Phật thoát
khỏi tam giới, chẳng chấp thế gian, chẳng
có Ngă và Ngă Sở, thấy ngoại đạo, kẻ ác, Bồ
Tát, và A La Hán b́nh đẳng giống hệt như nhau, chẳng
khác. V́ sao tán thán Bồ Tát? Đáp: Phật tuy chẳng có tôi, ta, chẳng có ghét, yêu, đối
với hết thảy các pháp tâm chẳng chấp trước,
thương xót chúng sanh, dùng tâm đại từ bi hướng
dẫn hết thảy. V́ thế, phân biệt: Đối với
người lành bèn tán thán, cũng là v́ muốn phá những điều
ác ma mong mỏi. Do đức Phật tán thán mà vô lượng
chúng sanh yêu thích Bồ Tát, cung kính, cúng dường. Về sau đều thành tựu
Phật đạo. Do vậy, chư Phật tán
thán Bồ Tát”. V́ sao tán thán? Do Địa
Tạng Bồ Tát từ kiếp lâu xa đến nay có thể
quán các pháp rốt ráo là không, mà cũng có thể khởi tâm đại
từ bi đối với chúng sanh. Hành Sanh Nhẫn, chẳng
thấy chúng sanh. Hành Pháp Nhẫn, chẳng chấp các pháp.
Tuy biết Niết Bàn là thật pháp (pháp chân thật) vô thượng,
nhưng chẳng chấp giữ chứng đắc. Tuy biết
chúng sanh như huyễn, như hóa, mà có thể khởi lên
thân, khẩu, ư nghiệp [cứu độ], có thể nói là
chí nguyện mênh mông. Có đại bi tâm, làm chuyện như
thế, thật là hiếm có!
(Kinh)
Duy nguyện Thế Tôn, vị vị lai thế mạt pháp
chúng sanh, tuyên thuyết Địa Tạng Bồ Tát lợi
ích nhân thiên nhân quả đẳng sự, sử chư thiên
long bát bộ, cập vị lai thế chúng sanh, đảnh
thọ Phật ngữ.
(經)唯願世尊‧為未來世末法眾生‧宣說地藏菩薩利益人天因果等事。使諸天龍八部‧及未來世眾生‧頂受佛語。
(Kinh:
Kính mong đức Thế Tôn v́ chúng sanh đời Mạt
Pháp trong vị lai mà tuyên nói những chuyện nhân quả lợi
ích trời, người v.v… của Địa Tạng Bồ
Tát, khiến cho trời, rồng tám bộ và chúng sanh đời
vị lai kính vâng lời Phật).
Nay đă
thấy đức Thế Tôn tán thán oai thần, công đức
to lớn chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát, nhưng
đối với những chuyện như nhân quả lợi
ích trời người v.v… càng nguyện [đức Phật]
rủ ḷng v́ đời vị lai [mà dạy bảo cho]. V́
thế, xin đức Phật tuyên nói. Đức Thế Tôn
thuyết pháp, chẳng ngoài bàn luận về Thí, Giới, sanh
thiên. Chánh tu gọi là Nhân, cái đă đạt được
th́ gọi là Quả. Những điều được nêu
rơ dưới đây đều xét theo phía trời người
để chỉ rơ nhân quả. Nếu dạy về Tam Hiền
Thập Địa trong Biệt Giáo th́ trong các kinh sách của
tông này (tông Thiên Thai) đă nói tường tận.
“Thiên,
long” là những người có thể cung kính tiếp nhận.
“Phật ngữ” là pháp để cung kính tiếp nhận.
Trong tâm lănh nạp là Thọ (受). Trong thân người, đỉnh
đầu được coi là tôn quư nhất. Nay nói “đảnh
thọ” [nhằm biểu lộ] cung kính tột bậc,
tin tưởng sâu xa. Chẳng tiếp nhận Phật ngữ,
làm sao có thể nói là Thọ cho được?
3.2.3.1.1.2.2.2. Thế Tôn thùy đáp
(đức
Thế Tôn rủ ḷng giải đáp)
3.2.3.1.1.2.2.2.1. Như Lai chánh đáp
(đức
Như Lai trả lời thẳng vào vấn đề)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.1. Giới thính, hứa
thuyết (răn hăy lắng nghe, chấp
thuận sẽ nói)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Phổ Quảng Bồ Tát, cập
tứ chúng đẳng: “Đế thính, đế thính, ngô đương
vị nhữ, lược thuyết Địa Tạng Bồ
Tát lợi ích nhân thiên phước đức chi sự”.
(經)爾時世尊告普廣菩薩‧及四眾等‧諦聽諦聽‧吾當為汝‧略說地藏菩薩利益人天福德之事。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Phổ Quảng
Bồ Tát và tứ chúng rằng: “Lắng nghe! Lắng nghe!
Ta nay sẽ v́ ông nói đại lược những chuyện
phước đức lợi ích trời, người của
Địa Tạng Bồ Tát”).
Răn bảo
“lắng nghe” v́ đây là chuyện từ bi oai thần
chẳng thể nghĩ bàn! “Phước” là điều thiện
giúp cho thiên đạo. Thiện bèn thuận theo trời, ḥa
khí ngày càng thấm đẫm. Từ chữ Thị (示) và chữ Phúc (畐) [ghép thành chữ Phước
(福)], chữ này thuộc loại
Hội Ư. “Đắc” (悳) chính là điều thiện
vốn sẵn có. Trực tâm là Đắc (悳). Tánh mạng vốn sẵn
chánh trực. Công lao dễ dàng, giản dị trong học vấn,
thiên sách Hồng Phạm[11] trần thuật
ngũ phước là “phước thọ, phú quư, khang
ninh (mạnh khỏe b́nh yên), hảo đức (đức
tốt đẹp), khảo chung (chết tốt lành)”. Sách
Luận Ngữ dạy ngũ đức là ôn (ôn ḥa), lương
(thiện lương), cung (cung kính), kiệm (cần kiệm),
nhượng (nhún nhường). Nếu xét theo giáo của
chúng ta (đạo Phật) th́ theo kinh Tứ Thiên Vương,
trong sáu ngày trai, sứ giả, thái tử, thiên vương sẽ
siêng năng tra xét chúng sanh, xem họ làm chuyện tốt lành
hay xấu xa. Nếu trong những ngày đó, giữ tâm trai
thanh tịnh, quy ngưỡng, kính lễ, cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát, chư thiên sẽ sai thiện thần
canh gác, bảo vệ môn hộ. Các thứ dịch bệnh hung
hiểm, các thứ tà, âm mưu sẽ bị tiêu diệt, đêm
chẳng có ác mộng. Quan huyện, giặc cướp, tai
biến nước, lửa trọn chẳng gây hại. Đến
khi hết tuổi thọ, họ sẽ đón hồn thần
của người ấy sanh lên trời. Do phước
đức nơi cơi trời, sở nguyện tự nhiên, cung
điện bảy báu tùy ư cư trụ. Hết tuổi thọ
[nơi cơi trời], sẽ hạ sanh trong nhà vương hầu,
diện mạo rạng rỡ, người khác trông thấy
sẽ hoan hỷ, gặp Phật,
gặp pháp, ắt đạt đến Nê Hoàn (Niết Bàn).
Đấy đều là do [tuân thủ] Ngũ Giới, Thập Thiện,
thâu liễm t́nh cảm, khống chế dục vọng. Nếu
trong sáu ngày trai mà được như thế th́ chính là chuyện
phước đức lợi ích trời, người.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.2. Thừa chỉ
nguyện văn (vâng theo lời dạy, mong được
nghe)
(Kinh)
Phổ Quảng bạch ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn, nguyện
nhạo dục văn”.
(經)普廣白言‧唯然‧世尊‧願樂欲聞。
(Kinh:
Phổ Quảng bạch rằng: “Thưa vâng đức Thế
Tôn! Con nguyện ưa thích nghe”).
Ư nghĩa
dễ hiểu.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3. Quảng minh lợi
ích (nói cặn
kẽ về lợi ích)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1. Giáo chủ
thuyết lợi ích (đức giáo chủ nói đến
lợi ích)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1. Quảng
thuyết lợi ích chi sự (rộng nói những sự
lợi ích)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1. Thông thị
văn danh đẳng ích (dạy chung những chuyện
lợi ích do nghe danh hiệu v.v…)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1. Cúng dường
đắc phước (do cúng dường mà được
phước)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.1. Văn danh
tán lễ phước (phước do nghe danh hiệu
bèn tán thán, lễ bái)
(Kinh)
Phật cáo Phổ Quảng Bồ Tát: - Vị lai thế trung, nhược
hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát danh giả, hoặc hiệp
chưởng giả, tán thán giả, tác lễ giả, luyến
mộ giả, thị nhân siêu việt tam thập kiếp tội.
(經)佛告普廣菩薩‧未來世中‧若有善男子‧善女人‧聞是地藏菩薩摩訶薩名者‧或合掌者‧讚歎者‧作禮者‧戀慕者‧是人超越三十劫罪。
(Kinh:
Đức Phật bảo Phổ Quảng Bồ Tát: “Trong đời
vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân,
nghe danh tự của vị Địa Tạng Bồ Tát Ma
Ha Tát này mà hoặc là chắp tay, tán thán, làm lễ, luyến
mộ, người ấy sẽ vượt thoát tội
trong ba mươi kiếp”).
Người
tu thiện được gọi là thiện nam hay thiện
nữ. Kẻ làm ác được gọi là ác nam hay ác nữ.
Như vua Diêm La răn truyền tội nhân: “Các ngươi
nay ra đi, làm con của kẻ khác, hăy nghĩ tưởng
hiếu thuận, báo ơn cha mẹ. Đang lúc tuổi trẻ
sung sức, hăy nhẫn nại kiêng ác làm lành, dốc ḷng tin
tưởng Tam Bảo, giữ giới, giữ đạo,
tu các công đức. Đừng làm ác nữa, kẻo trở
lại nơi đây”. Thiện chính là tinh túy tự nhiên
trong bản tánh của con người; nó phát khởi đúng
lúc, sẽ tốt đẹp không ǵ có thể diễn tả
được, không một điều [tốt đẹp
nào] chẳng phát xuất từ nó. V́ thế, [chữ Thiện
(善) dùng chữ Mỹ (美) nhằm giải thích cái
tâm, ḥng dạy học vấn căn bản cho trời, người.
V́ sao lại dùng chữ Nhị (二) và Ngôn (言) để [tạo chữ]?
Ngôn là tiếng của tâm. Nói lời thiện th́ người
khác cũng dùng điều thiện để đáp lại.
Tâm mọi người đều cư xử như nhau, có thể thấy được
cái tâm của trời. Nay nói
do nghe danh hiệu của đức Địa Tạng mà
chắp tay v.v… là do được nghe danh hiệu tốt lành.
Bởi lẽ, danh hiệu của Đại Sĩ được
trang nghiêm bằng vạn hạnh, vạn đức. Từ
một niệm tối sơ của tấm ḷng hiếu thảo
cứu mẹ, trở thành cội nguồn của chuyện
phát tâm cứu khổ cho lục đạo, [tâm niệm ấy]
sâu rộng không bờ bến! Tới nay đă hơn mười
một đại kiếp, nếu muốn phân biệt, dẫu
hết một kiếp vẫn chẳng thể trọn hết!
Do đó, chắp tay, tán thán, làm lễ v.v… đều vượt
thoát tội trong bao kiếp. Như [thần y] Kỳ Bà (Jīvaka) nhặt lấy cỏ,
không ǵ chẳng phải là thuốc, đều có thể trị
bệnh. Hết thảy trọn đủ như châu Như
Ư, thỏa măn trọn hết
nguyện ấy.
“Chắp
tay” biểu thị Quyền và Thật có cùng một Thể: Chín pháp giới
là Quyền, Phật giới là Thật. Nay đă khai hiển
“chúng sanh và Phật cùng một Thể”; đấy là thân nghiệp
cúng dường. Hoặc tán thán tướng hảo vi diệu,
hoặc khen ngợi công đức mênh mông, sâu xa; đấy là khẩu nghiệp cúng
dường. Dập đầu sát đất, ngũ luân[12] đều
trọn, hiểu rơ tánh không tịch, cảm ứng đạo
giao, chính là ba nghiệp đều cúng dường. Quyến
luyến, ngưỡng mộ khắng khít, tâm niệm chẳng
gián đoạn, hoặc tưởng oai đức của Bồ
Tát, hoặc giăi bày niềm buồn thương của chính
ḿnh; đấy là ư nghiệp cúng dường. Người ấy
vừa thoáng nghe danh hiệu Bồ Tát bèn chắp tay, tán thán
v.v… đều có thể vượt thoát trọng tội
trong ba mươi kiếp, đấy chẳng phải là sức
oai thần từ bi chẳng thể nghĩ bàn ư?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.2. Tố
họa h́nh tượng phước (phước do đắp,
vẽ h́nh tượng)
(Kinh)
Phổ Quảng! Nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân, hoặc thái họa h́nh tượng, hoặc thổ,
thạch, giao, tất, kim, ngân, đồng, thiết, tác thử
Bồ Tát, nhất chiêm, nhất lễ giả.
(經)普廣‧若有善男子‧善女人‧或彩畫形像‧或土石膠漆‧金銀銅鐵‧作此菩薩‧一瞻一禮者。
(Kinh:
Này Phổ Quảng! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ
nhân, hoặc vẽ vời h́nh tượng, hoặc dùng đất,
đá, keo, sơn, vàng, bạc, đồng, sắt làm tượng
vị Bồ Tát này, một lần chiêm ngưỡng, lễ
một lạy).
Trước
hết là tu nhân. “Thái họa” (vẽ vời) là như
kinh Pháp Hoa dạy: “Nhược nhân vị Phật cố,
kiến lập chư h́nh tượng” (nếu có người
v́ Phật mà tạo dựng các h́nh tượng). “Thái”
(彩) là màu sắc. Dùng ngũ sắc
để trang hoàng, tô vẽ h́nh tướng trăm phước.
“Thổ, thạch, giao, tất” (đất, đá, keo,
sơn): Hoặc dùng đất sạch để nặn, đắp
h́nh tượng, hoặc dùng đá cứng khéo điêu khắc
thành h́nh tượng. Theo kinh Ưu Bà Tắc Giới th́ không
được dùng chất keo [chế từ động vật] (cơi này có hai loại keo
làm từ da trâu và ruột cá). [Sử dụng hai chất
keo ấy để làm tượng] sẽ phạm tội thất
ư (tội ơ hờ, không cẩn thận). [Chất keo] được
dùng trong kinh này chính là keo từ nhựa cây (như các loại
bạch cập). Có người nói nước của đại
đậu (đậu nành, sách Bổn Thảo [Cương
Mục] bảo là đậu đen), có thể thay thế,
chế thành một loại keo trong. Như Quang Trạch[13] cho phép dùng keo
làm từ da trâu, rốt cuộc [tượng vẽ ấy] là vật bất tịnh,
sau này sẽ mắc quả báo bất tịnh. Ấy là do tượng
vẽ mà không dùng chất keo, lâu ngày sẽ bay mất màu, chất
vải trơ trụi không có keo, h́nh vẽ sẽ không dính
chắc [nền vải]. Đấy là thứ cần thiết
không thể thiếu khi
tạo loại
tượng này.
Vàng, bạc,
đồng, sắt tuy giá trị sang quư hay tầm thường
khác nhau, nhưng đều là những chất cứng chắc,
không thay đổi. Đổ khuôn đúc làm tượng th́
vĩnh viễn trang nghiêm. Tu Bạt Noa (Suvarṇa) dịch là Kim (vàng). Theo Đại Luận,
[chất vàng] t́m thấy từ cát, từ đá núi, hay từ chất đồng có màu đỏ.
Sách Thuyết Văn Giải Tự nói kim loại có năm màu,
hoàng kim quư nhất, do chôn lâu ngày không thay đổi, nung luyện
trăm lần chẳng nhẹ bớt. A Lộ Ba (Rūpya) dịch là Ngân (bạc).
Theo Đại Luận, bạc có được do nung đá.
Sách Nhĩ Nhă viết: “Chất kim loại màu trắng được
gọi là Bạc”. Đồng là thứ kim loại có màu
đỏ, kém hơn bạc. Kinh A Lỗ Lực chép: “Đa
Rị Lộ Ha, chú vân tam kim, vị kim, ngân, đồng. Tùng kim, tùng đồng, sắc
dữ kim tương tự, nhi đức đại hữu
gián hỹ” (Đa Rị Lộ Ha tức là ba thứ
kim loại, tức vàng, bạc, đồng. Đồng (銅) là do chữ Kim (金) và chữ Đồng
(同) ghép lại, có màu sắc tương tự như vàng, nhưng đặc tánh thua kém
vàng rất xa).
Cổ văn
dựa theo ư nghĩa mà chế chữ, [đă tạo chữ
Thiết nhằm] biểu thị “chẳng thể dựa
theo h́nh mạo để xét đoán con người
được”. Sắt là chất kim loại có màu đen.
[Chữ Thiết (銕, sắt) viết theo lối
cổ] do Di (夷) [và Kim (金) ghép lại], thể hiện
ư nghĩa “sắt là thứ tầm thường”. Sắt tầm
thường, luyện lâu ngày sẽ thành tinh thuần. Tuy
nung luyện trăm lần mà chẳng hao tổn, được
gọi là “chân cang”[14]. Trong ngũ
kim, sắt có địa vị thấp nhất, nhưng được
sử dụng nhiều nhất, là thứ hữu ích chẳng
thể thiếu đối với dân chúng. Trên đây là nói
về chuyện tạo tượng.
Theo Giới
Kinh, tiền bất tịnh chẳng nên dùng để tạo
tượng, có thể đổi lấy tiền thanh tịnh
đúng pháp để tạo tượng. Lại chớ nên
tạc tượng bán thân, [v́ tượng bán thân] chẳng
thể dấy khởi tướng tốt lành [trong tâm người
chiêm ngưỡng], họ sẽ đọa lạc trong sanh tử.
Người chiêm ngưỡng, lễ bái tượng Bồ
Tát một lượt, [tức là] do người khác dùng các
món vật [đă nói trên đây] để tạo h́nh tướng
thù thắng của Địa Tạng Bồ Tát, mà có thiện
nam, thiện nữ nào trông thấy, hoặc chỉ ngắm
nh́n chẳng lễ, hoặc vừa chiêm ngưỡng vừa
lễ bái, cho thấy tu nhân rất ít, nhưng đạt được
quả báo cực đại!
(Kinh)
Thị nhân bách phản sanh ư tam thập tam thiên, vĩnh
bất đọa ư ác đạo. Giả như thiên phước
tận cố, hạ sanh nhân gian, do vi quốc vương, bất
thất đại lợi.
(經)是人百返生於三十三天‧永不墮於惡道。假如天福盡故‧下生人間‧猶為國王‧不失大利。
(Kinh: Người ấy
trăm lần sanh trong ba mươi ba tầng trời, vĩnh
viễn chẳng đọa trong ác đạo. Nếu như
v́ phước trời đă
hết, sanh xuống nhân gian, vẫn là một vị quốc
vương, chẳng đánh mất lợi ích to lớn).
“Thị
nhân” (người ấy) tức là người tạo tượng,
chiêm lễ, sẽ sanh một trăm lượt trong ba mươi
ba tầng trời, lại c̣n vĩnh viễn chẳng đọa
vào ác đạo, do tạo tượng vốn là nghiệp
sanh thiên.
Kinh Tạo
Tượng Công Đức nói: “Nhược nhân lâm chung,
phát ngôn tạo tượng, năi chí như mạch cảnh, năng
trừ tam thế bát thập ức kiếp sanh tử chi tội,
hữu thập nhất công đức. Nhất, thế thế
nhăn mục thanh khiết. Nhị, sanh xứ vô ác. Tam, thường
sanh quư gia. Tứ, thân như tử ma kim sắc. Ngũ,
phong nhiêu trân ngoạn. Lục, sanh hiền thiện gia. Thất,
sanh đắc vi vương. Bát, tác Kim Luân Vương. Cửu,
sanh Phạm Thiên. Thập, bất đọa ác đạo. Thập
nhất, hậu sanh hoàn năng kính trọng Tam Bảo” (Nếu
kẻ nào lâm chung, thốt lời tạo tượng, dẫu
chỉ là tượng nhỏ như một hạt lúa ḿ, có
thể trừ tội trong tám mươi ức kiếp sanh
tử cả ba đời, có mười một công đức:
Một, đời đời mắt thanh khiết. Hai, sanh
vào chỗ không có điều ác. Ba, thường sanh trong nhà
tôn quư. Bốn, thân có màu như chất vàng tía đă được
giồi mài. Năm, những thứ đồ trân ngoạn
dư dật. Sáu, sanh trong nhà hiền thiện. Bảy, sanh
ra được làm vua. Tám, làm Kim Luân Vương. Chín, sanh
vào Phạm Thiên. Mười, chẳng đọa ác đạo.
Mười một, đời sau vẫn có thể kính trọng
Tam Bảo). V́ thế, sau đó liền nói: “Giả như
thiên phước” (nếu như phước trời). Ngài Diệu Lạc (tổ Kinh
Khê Trạm Nhiên)[15] nói: “[Thiện
căn do tạo tượng Bồ Tát, chiêm ngưỡng, lễ
bái] há có phải là thiện căn sanh trong nhân thiên của Dục
Giới ư?” V́ thế, hậu hiền giảng kinh này,
trọn chẳng thể chuẩn theo kinh Chánh Pháp Niệm Xứ
để nói Đao Lợi Thiên là “tam thập tam thiên”,
ắt phải dựa theo kinh Quán Đảnh Chú như tôi đă
trích dẫn [trong những phần trước]. Đấy
chính là điều xác định ngàn đời không sai vậy.
“Bất
thất đại lợi” (chẳng đánh mất lợi
ích to lớn): Nói chung th́ tuy sanh làm vua trong loài người,
vẫn chẳng đánh mất lợi ích to lớn do tạo
tượng, chiêm ngưỡng, lễ bái. Nếu xét sâu xa ư
ấy, ắt phải coi thành Phật là đại lợi!
Như kinh đă dạy “như thị chư nhân đẳng, tiệm tiệm tích công
đức, cụ túc đại bi tâm, giai dĩ thành Phật
đạo” (những người như thế ấy,
dần dần tích công đức, trọn đủ tâm đại
bi, đều đă thành Phật đạo) chính là nói lên ư
nghĩa này. V́ thế, ngài Diệu Lạc nói: “Kinh này (kinh
Pháp Hoa) muốn gồm thâu những điều thiện nhỏ
nhặt từ vô thỉ v́ chúng đều [là tư lương]
để tiến hướng Bồ Đề. Nếu
đă phát tâm, thuận theo những điều thiện mảy
may đă có, không ǵ chẳng phải là duyên nhân [để thành
Phật]”. Nay kinh này đă giống như kinh Pháp Hoa, phước
lợi tự chẳng nghĩ bàn!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3. Yếm
nữ cúng tượng phước (Chán nhàm thân nữ, được
phước do cúng dường tượng Bồ Tát)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.1. Yếm
nữ thân cúng tượng chuyển báo (chán nhàm thân nữ, do cúng
dường tượng mà chuyển báo)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.1.1. Minh
cúng tượng (nói về chuyện cúng dường
tượng)
(Kinh)
Nhược hữu nữ nhân, yếm nữ nhân thân, tận
tâm cúng dường Địa Tạng Bồ Tát họa tượng,
cập thổ, thạch, giao, tất, đồng, thiết
đẳng tượng.
(經)若有女人‧厭女人身‧盡心供養地藏菩薩畫像‧及土石膠漆‧銅鐵等像。
(Kinh:
Nếu có người nữ nhàm chán thân nữ, dốc ḷng
cúng dường tượng vẽ và các tượng bằng
đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt v.v… của
Địa Tạng Bồ Tát).
Hai câu đầu
là nói về ư khởi tâm cúng dường v́ chán nhàm thân nữ.
[Điều này] giống như trong lời nguyện của
Phật Dược Sư: “Nhược hữu nữ
nhân vị nữ bách ác chi sở bức năo, cực sanh yếm
ly, nguyện xả nữ thân” (nếu có nữ nhân bị
trăm điều ác của thân nữ bức bách, khổ
năo, hết sức chán nhàm, nguyện bỏ thân nữ). Bởi
lẽ, thân nữ nhân do dâm nghiệp mà có, nương theo ái
tâm mà sanh, là bẫy rập hăm người, là đồi g̣
tích tụ các thứ nhơ uế. Kinh Siêu Nhật Nguyệt
nói [thân nữ] có năm điều chướng ngại:
- Một
là không được làm Phạm Thiên Vương; do thanh tịnh
và cấu nhiễm bất đồng.
- Hai là không
được làm Đế Thích, do thiểu dục và đa
dục sai khác.
- Ba là không
được làm ma vương, do cứng cỏi và mềm
yếu sai khác.
- Bốn
là không được làm Chuyển Luân Vương, do nhân từ
và ganh ghét khác biệt vời vợi.
- Năm
là không được làm thân Phật, do vạn đức và
phiền năo khác biệt.
Kinh Ngọc
Da lại c̣n nói cặn kẽ mười điều ác nơi
thân nữ:
- Một
là mới sanh ra, cha mẹ chẳng vui mừng.
- Hai là tuy được chăm bẵm,
nhưng không được coi trọng lắm.
- Ba là tâm
thường sợ hăi kẻ khác.
- Bốn
là cha mẹ lo lắng về chuyện cưới gả.
- Năm
là phải ĺa khỏi cha mẹ trong khi c̣n sống.
- Sáu là sợ
sự mừng, giận của chồng.
- Bảy
là mang thai, sanh nở rất gian nan.
- Tám là ít
được cha mẹ quan tâm giao phó những việc trọng
đại.
- Chín là bị
chồng hạn chế.
- Mười
là khi già cả lại bị con cháu chê trách.
V́ thế,
người nữ có trí thường sanh ḷng chán nhàm [thân nữ].
Từ chữ
“tận tâm” trở đi là nói về cách cúng dường.
Kinh Tô Tất Địa đă nói chi tiết về các cách cúng
dường khác biệt. Đối với chuyện cúng
dường [theo kinh đó], bèn vâng theo Phổ Hiền Tỳ
Thủ Yết Ma để làm. [Pháp ấy] vốn trích từ
pháp Hư Không Khố Tạng[16], nương
vào Đại Viên Kính Trí và Thành Sở Tác Trí để thực
hiện. Cần phải nghiền ngẫm hai chữ “tận
tâm”. Những vật cúng như sẽ kể trong đoạn
kế tiếp đều thuộc về Sự, là Tài Thí. Nếu
chẳng ĺa tự tâm, dốc cạn tấc ḷng để
thực hiện, th́ hết thảy các pháp, dẫu hướng
theo phương diện Pháp hay theo phương diện Tài,
đều chẳng thành vấn đề, bởi toàn thể
Sự chính là Lư, Tài chính là Pháp vậy. Cách tạo tượng
giống như trong phần trước.
(Kinh)
Như thị nhật nhật bất thoái, thường dĩ
hoa, hương, ẩm thực, y phục, tằng thái, tràng
phan, tiền, bảo vật đẳng cúng dường.
(經)如是日日不退‧常以華香‧飲食‧衣服‧繒綵‧幢旛‧錢‧寶物等供養。
(Kinh:
Hằng ngày chẳng thoái chuyển như thế, thường
dùng hoa, hương, thức ăn, lọng lụa[17],
tràng phan, tiền, các thứ vật báu v.v… để cúng
dường).
Hằng ngày
đều như thế chẳng thoái chuyển, có thể
nói là “tâm luôn kiên cố, niệm nào cũng siêng năng, chuyên
ṛng”. Hoa, hương, thức ăn, y phục như đă
giải thích trong phần trước. “Tằng thái” (繒綵) tức là loại lụa
năm màu. Chữ Tằng (繒) có hai âm đọc:
- Một
là Tăng, cùng âm với chữ Tăng (增); có nghĩa như chữ
Tăng (矰) tức là sợi dây bằng
tơ bện dùng buộc vào mũi tên để bắn le,
nhạn, [khi bắn xong, sẽ dễ lôi con mồi về,
không phải chạy ra tận nơi nhặt]. Cổ thi có
câu: “Vị tất phùng tăng chước” (chưa chắc
đă gặp phải tên bắn) là nói về chuyện này.
- Hai là Tằng,
âm giống như chữ T́nh (情), có nghĩa là lụa.
Dâng tặng cho thần th́ gọi là Tằng (繒), nay [chữ “繒” ở đây phải] đọc
theo âm giống như chữ T́nh (tức là đọc thành
Tằng).
Tràng (幢) trong tiếng Phạn
là Thoát Xà (Dhvaja), Tư Tŕ Kư dịch là Tràng. Sách Lăng Nghiêm
Kinh Huân Văn Kư dẫn sách Nhĩ Nhă cho rằng: “Xà (闍) có nghĩa là Đài,
nhưng nói là Thoát th́ có nghĩa là đất chất chứa
[để làm nền đài] bị lở sụp”. Nay chẳng
dùng nghĩa ấy, v́ đây là [phiên âm] tiếng Phạn, thế
nhưng trong [Thích Dịch] Danh Nghĩa Tập [của ngài Pháp
Vân] đă coi từ ngữ này liên quan với chùa, tháp, đàn,
và tràng, cho nên ư nghĩa Đài cũng chẳng sai. Nhưng sách
Thuyết Văn Giải Tự giảng: “Tràng thuộc loại
cờ hiệu”. Sách Phụ Hành lại nói: “Phan là tiếng
gọi chung của các loại cờ hiệu”. Nay do thứ để cúng dường
trong Phật pháp có h́nh dạng giống như vậy, cho nên gọi là Phan (旛). Tức là Phan và Tràng cùng
một loại; phan to th́ gọi là Tràng. Tràng có nghĩa là “ngăn
che, chứa đựng”. Cắm chi chít trên mui xe h́nh dung sự che kín, tức
là Tràng cũng tương tự như vật dùng để
che phủ xe. V́ thế, đất Sở gọi nó là Trù (幬, màn hay rèm che), c̣n Quan Đông
và Quan Tây th́ gọi là Tràng. Phàm trong cách tạo phan, đừng
nên [thêu, vẽ] h́nh tượng Phật, Bồ Tát và danh hiệu
của các Ngài. [Bởi lẽ], phan là vật để dâng cúng, dâng cúng cho đấng
được cúng dường, sao lại dùng h́nh tượng
và danh hiệu của các Ngài để dâng cúng? “Tiền,
bảo vật” v.v… là tánh mạng của chúng sanh, là vật
liền khúc ruột, khó quên được. Có thể xả
tài vật coi như tánh mạng, trong tâm chẳng keo tiếc,
th́ nội tâm ngưng dứt keo tham, sẽ đạt được
vô lượng phước.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.1.2. Chuyển
báo quả (chuyển đổi quả báo)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.1.2.1. Minh
chuyển nữ thân (nói về chuyện chuyển
thân nữ thành nam)
(Kinh)
Thị thiện nữ nhân, tận thử nhất báo nữ
thân, bách thiên vạn kiếp, cánh bất sanh hữu nữ
nhân thế giới, hà huống phục thọ!
(經)是善女人‧盡此一報女身‧百千萬劫‧更不生有女人世界。何況復受。
(Kinh:
Thiện nữ nhân ấy khi hết thân nữ trong đời
này, sẽ trong trăm ngàn vạn kiếp trọn chẳng
sanh trong thế giới có nữ nhân, huống hồ c̣n phải
thọ thân nữ nữa ư).
Chuyện
chuyển báo khó khăn, cốt yếu là ḷng tinh thành. Nay đă
dốc trọn tấm ḷng cúng dường, lại c̣n ngày ngày
chẳng lui sụt, cho nên khi thọ xong quả báo trong đời
này, từ đấy trở đi, trong trăm ngàn vạn
kiếp, chẳng c̣n sanh vào thế giới có nữ nhân, tức
là nói tới Tây Phương Cực Lạc, một mực
chẳng có nữ nhân, huống hồ c̣n phải thọ thân
nữ trong tam giới nữa ư?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.1.2.2. Nguyện bất chuyển nữ ([trường hợp] người
nữ đó chẳng mong chuyển thân nữ)
(Kinh)
Trừ phi từ nguyện lực cố, yếu thọ nữ
thân, độ thoát chúng sanh. (經)除非慈願力故‧要受女身‧度脫眾生。
(Kinh:
Trừ phi do nguyện lực từ bi, cần thọ thân nữ
để độ thoát chúng sanh).
Như Ma
Da phu nhân, do pháp môn Đại Huyễn Nguyện Trí, vĩnh
viễn làm mẹ của một ngàn đức Phật. Đấy
là dùng pháp môn thuận ái để độ chúng sanh. Lại
như cô Bà Tu Mật Đa (Vasumitra) [trong hội Hoa Nghiêm] nói
pháp môn Ly Dục Tế: “Hết thảy chúng sanh tùy theo từng
loại hễ thấy ta, ta sẽ khiến cho họ đắc
hết thảy tam-muội”. Đấy là dùng pháp môn nghịch
ái để độ chúng sanh, đều là do sức thệ
nguyện từ ái tam-muội mà thị hiện làm nữ nhân.
“Trước là dùng dục để lôi kéo, sau đó khiến
cho họ nhập Phật Trí” chính là ư nghĩa này!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.1.2.3. Kết
bất thọ nữ thân (tiểu kết về
chuyện chẳng thọ thân nữ)
(Kinh)
Thừa tư cúng dường Địa Tạng lực cố,
cập công đức lực, bách thiên vạn kiếp, bất
thọ nữ thân.
(經)承斯供養地藏力故‧及功德力‧百千萬劫‧不受女身。
(Kinh:
Nương vào sức cúng dường Địa Tạng và
sức công đức, trong trăm ngàn vạn kiếp chẳng
thọ thân nữ).
Cúng dường
đức Địa Tạng chính là hành tinh tấn trong hiện
thời. “Cập công đức lực” (và sức công
đức) chính là do huân thập điều thiện mà phát
khởi. Chủng tử và hiện hành huân tập lẫn nhau,
công nghiệp hoàn thành, cho nên trong trăm ngàn vạn kiếp,
vĩnh viễn chẳng thọ thân nữ nhân.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.2. Yếm
xú bệnh lễ tượng hoạch phước (chán thân xấu xí, bệnh tật,
lễ tượng được phước)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.2.1. Chiêm
lễ (chiêm ngưỡng, lễ
bái)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược hữu nữ
nhân, yếm thị xú lậu, đa tật bệnh giả,
đản ư Địa Tạng tượng tiền, chí
tâm chiêm lễ, thực khoảnh chi gian.
(經)復次普廣‧若有女人‧厭是醜陋‧多疾病者。但於地藏像前‧志心瞻禮‧食頃之間。
(Kinh:
Lại này Phổ Quảng! Nếu có người nữ chán
ngán tấm thân hôi hám, xấu xí, lắm bệnh tật này,
chỉ đối trước tượng Địa Tạng,
chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái trong khoảng một bữa
ăn).
“Xú”
(醜) là hôi thối, dơ bẩn,
Lậu (陋) là xấu xí, thô kệch.
Trong cơi này (Trung Hoa), vào thời Hoàng Đế th́ có Mô Mẫu[18], nước
Tề có Vô Diêm Nữ, vợ của Lương Hồng là
Mạnh Quang, đều là những cô gái xấu trong thiên hạ
nhưng là những bậc hiền huệ. Theo kinh Nghiệp
Báo Sai Biệt, do mười nghiệp mà chịu báo xấu
xí:
- Một
là ưa giận dữ.
- Hai là ưa ganh ghét, oán hận.
- Ba là bịa
chuyện, gạt gẫm người khác.
- Bốn
là năo loạn chúng sanh.
- Năm
là chẳng có ḷng kính yêu cha mẹ.
- Sáu là chẳng
sanh ḷng cung kính đối với hiền thánh.
- Bảy
là xâm phạm, chiếm đoạt vật dụng cần
thiết trong cuộc sống, ruộng nương, và tài sản
của bậc hiền thánh.
- Tám là dập
tắt đèn thắp sáng trong tháp miếu thờ Phật.
- Chín là
thấy kẻ xấu xí bèn hủy báng, chê bai, khinh miệt.
- Mười
là quen hành các thói ác.
Cũng
do mười nghiệp mà mắc báo ứng lắm bệnh:
- Một
là thích đánh đập hết thảy chúng sanh.
- Hai là xúi
người khác đánh đập.
- Ba là khen
ngợi cách đánh.
- Bốn
là thấy [người khác] đánh đập bèn vui vẻ.
- Năm
là năo loạn cha mẹ.
- Sáu là năo
loạn hiền thánh.
- Bảy
là thấy kẻ oán khổ sở v́ bệnh tật, tâm hết
sức hoan hỷ.
- Tám là thấy
kẻ oán khỏi bệnh, sanh tâm bực bội.
- Chín là thấy
kẻ oán bị bệnh, chẳng cho họ thuốc trị
đúng bệnh.
- Mười
là đồ ăn cũ chưa tiêu hóa hết, lại ăn
thêm.
Do hai mươi
loại nghiệp ấy mà cảm thân nữ nhân xấu xí,
bệnh tật. Tướng mạo xấu xí, bị chồng
ghét bỏ, chuốc lấy tiếng gièm chê của mọi người,
thân lắm bệnh tật, đến nỗi chính ḿnh sầu
khổ, chuốc phải t́nh cảnh quyến thuộc lấn
hiếp. Ba điều ác cùng tụ tập, suốt một
đời lắm nỗi ưu sầu, há chẳng ôm ḷng chán
bỏ từ lâu ư? [Đây là nói về] căn cơ có thể
cảm và nguyên do gây tạo nên t́nh cảnh ấy, tiếp
theo là nói về chuyện tu nhân. “Thực khoảnh” (食頃) là thời gian một bữa ăn.
Dùng ít để hiển thị nhiều, dùng ngắn để
h́nh dung dài vậy!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.2.2. Chuyển
báo (chuyển
đổi quả báo)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.2.2.1. Tướng
mạo viên măn (tướng mạo viên măn)
(Kinh)
Thị nhân thiên vạn kiếp trung, sở thọ sanh thân,
tướng mạo viên măn.
(經)是人千萬劫中‧所受生身‧相貌圓滿。
(Kinh:
Người ấy trong ngàn vạn kiếp, nhận lănh tấm
thân tướng mạo viên măn)
Điều
này hiển lộ công năng chẳng thể nghĩ bàn của
việc tạm thời chiêm ngưỡng, lễ bái. “Viên”
(圓) là chẳng có tướng xấu
ác méo mó, vẹo vọ. “Măn” (滿) là không có tướng
xấu xí, cong quẹo. Đă đạt được tướng
mạo viên măn, thân thể tự nhiên chẳng có bệnh tật.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.2.2.2. Quư
tánh thọ sanh (thọ sanh trong gịng họ cao
quư)
(Kinh)
Thị xú lậu nữ nhân, như bất yếm nữ
thân, tức bách thiên vạn ức sanh trung, thường vi
vương nữ, năi cập vương phi, tể phụ,
đại tánh, đại trưởng giả nữ, đoan
chánh thọ sanh, chư tướng viên măn.
(經)是醜陋女人‧如不厭女身‧即百千萬億生中‧常為王女‧乃及王妃‧宰輔大姓‧大長者女。端正受生‧諸相圓滿。
(Kinh:
Người nữ hôi hám, xấu xí ấy nếu chẳng
chán thân nữ, sẽ trong trăm ngàn vạn đời thường
làm vương nữ, hoặc vương phi, con gái của
tể phụ, thế gia vọng tộc, hay con gái của đại
trưởng giả, thọ sanh đoan chánh, các tướng
viên măn).
Chẳng
chán thân nữ do chưa quên t́nh ái; nhưng công năng của
chiêm ngưỡng, lễ bái, chẳng sai sót mảy may! V́ thế,
trong vạn ức đời, thường làm con gái vương
gia, như cô Thắng Man (Śrīmālā)
con gái
vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), hoặc Thuật Đạt (Asuddharta) [con gái
của] A Xà Thế (Ajātaśatru).
“Vương
phi”: Phi (妃) là “hợp”, quư hiển
trong hàng phi tần ngự dụng, [địa vị] chỉ
thua Hoàng Hậu. Lại nữa, trong hậu cung của thiên
tử, dẫu là vợ cả hay vợ lẽ, đều
gọi là Phi; như các bà Mạt Lợi (Mallikā), Vi Đề Hy (Vaidehī) chẳng hạn. Tể phụ, thế gia vọng
tộc chính là tay chân của thiên tử, hoặc bậc nguyên
huân, a hành[19].
Hoặc sanh trong thế gia vọng tộc gịng Sát-đế-lợi,
hoặc sanh làm con gái của trưởng giả thuộc thế
gia vọng tộc trong giai cấp Bà-la-môn, như cô Tô Mạn
(Sumangala) con gái ông Tu Đạt Đa
(Sudatta), hoặc cô Nguyệt Thượng (Candrottarā) con ngài Duy Ma Cật (Vimalakīrti).
“Đoan
chánh”: Tiếng Phạn là A Ba La Đề Mục Già (Apratimukha), phương
này dịch là Đoan Chánh (端正). Biệt Hành Sớ viết: “Nữ
nhân đoan chánh là khởi đầu của bảy đức”.
Nhưng đoan chánh mà thiếu phước tướng th́
hoặc là sớm mồ côi, hay sớm ở góa, tài lộc chẳng
bền! Nay nói rơ diện mạo và tướng phù hợp, càng
hiển lộ đức của người ấy. Đoan chánh ắt được chồng
sủng ái, cũng như được tài lộc, kính trọng.
Nếu yêu thương kèm theo khinh mạn, sao có thể gọi
là đức? Yêu thương, kính trọng, cho nên gọi là
“tướng”. Nay đă đoan chánh viên măn, tướng
càng mầu nhiệm trọn khắp vậy!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.3.2.3. Kết
thành (tiểu
kết phần thành tựu này)
(Kinh)
Do chí tâm cố, chiêm lễ Địa Tạng Bồ Tát, hoạch
phước như thị. (經)由志心故‧瞻禮地藏菩薩‧獲福如是。
(Kinh:
Do chí tâm kiên cố, chiêm ngưỡng, lễ bái Địa
Tạng Bồ Tát bèn đạt được phước
như thế).
Hai chữ
“chí tâm” nghĩa sâu, ư trọng, xuyên suốt phần trước
lẫn phần sau, chớ nên xem nhẹ. Phàm một người
chuyển đổi quả báo, đúng là chuyện chẳng
dễ dàng! Ví như một gă nông dân bỗng đến trước
ṭa vua, như kẻ sống trong nhà xí chợt lên cung trời.
Phước đột ngột [như sấm nổ] giữa
đất bằng chẳng thể nào suy lường được!
Nay đạt được phước, đúng là do chí
tâm. “Chí” (志) là tâm đạt tới.
Người nữ xấu xí ấy dùng chiêm ngưỡng, lễ
bái để cảm, ngài Địa Tạng dùng từ lực
để ứng, đều là tâm. Nếu đối với
mỗi chuyện đều quen tánh so đo chẳng quên th́
Năng lẫn Sở rạch ṛi, phàm thánh khác nẻo, làm sao
có thể cảm ứng đạo giao, chuyển báo, đạt
phước cho nổi? Chỉ có trong lúc chiêm ngưỡng,
lễ bái, hiểu rơ Năng lẫn Sở đều
Không, cho nên trong khi cảm ứng, sẽ đạt đến
Giả và Trung chẳng thể bàn, cho nên người đàn
bà xấu xí chẳng hai, chẳng khác đức Địa
Tạng, hoàn toàn do công của chí tâm. V́ thế, kinh Tăng
Nhất A Hàm nói: “Nhược dục lễ Phật giả,
đương lai cập quá khứ, đương quán không,
vô pháp, thị danh lễ Phật nghĩa” (Nếu kẻ
muốn lễ Phật th́ hăy quán tương lai và quá khứ
đều là không, chẳng có pháp. Đó là ư nghĩa việc
lễ Phật). Chớ nên không biết bảy loại lễ[20] của Lặc
Na Tam Tạng!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.1.4. Kỹ
nhạc, tán cúng phước (phước do dùng âm nhạc
để tán thán, cúng dường)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, năng đối Bồ Tát tượng
tiền, tác chư kỹ nhạc, cập ca vịnh, tán thán,
hương, hoa cúng dường, năi chí khuyến ư nhất
nhân, đa nhân.
(經)復次普廣‧若有善男子‧善女人‧能對菩薩像前‧作諸伎樂‧及歌詠讚歎‧香花供養‧乃至勸於一人多人。
(Kinh:
Lại này Phổ Quảng! Nếu có thiện nam tử,
thiện nữ nhân, có thể đối trước tượng
Bồ Tát, tấu các kỹ nhạc, và ca, vịnh, dùng hương,
hoa cúng dường, cho đến khuyên một người
hay nhiều người).
Đoạn
kinh văn này chia thành hai tiểu đoạn:
- Đoạn đầu nói về
căn cơ có thể cúng dường.
- Từ chữ “như thị”
(như thế) trở đi, [nói về] phước đạt
được.
“Năng”
(người có thể cúng dường) là người tin tưởng,
tốt lành, thật sự thực hiện. Ḷng tin chẳng
chân thật, sẽ chẳng thể làm được! Sách
Thuyết Văn Giải Tự giảng chữ Kỹ (伎) nếu do Nữ (女) và Chi (支) ghép lại [tức chữ
Kỹ (妓)] th́ có nghĩa là “phụ nữ
làm nhạc công sử dụng những nhạc khí nhỏ”.
Từ Nhân (人) [và Chi (支) ghép thành Kỹ (伎)] th́ có nghĩa là “cho”.
Nhạc là chuyện trọng yếu của bậc thiên tử,
có thể quan sát, khảo cứu phong tục [để chế
định lễ nhạc tương ứng], khiến cho
dân chúng gột sạch những thứ xấu xa, tà vạy.
V́ thế, lễ nhạc chẳng thể rời thân dẫu
chỉ khoảnh khắc! Như Lễ Kư có nói: “Quỳ thỉ
chế nhạc dĩ thưởng chư hầu. Tự Hoàng
Đế hàm tŕ dĩ hạ, đại chế ư nhạc”
(Quỳ (tên nhạc quan của vua Thuấn) bắt đầu
chế nhạc để thiên tử thưởng cho chư
hầu. Từ khúc nhạc Hàm Tŕ[21] của Hoàng
Đế trở đi, các đời đều chế nhạc).
Bất quá, đấy là dựa theo cơi này mà nói như vậy
đó thôi!
“Ca vịnh”:
Sách Thượng Thư viết: “Thi ngôn chí, ca vịnh ngôn”
(thơ nhằm diễn tả chí, ca hát để lời
lẽ trong thơ được lan truyền)[22]. Trong phần
lời Tựa cho kinh Thi đă viết: “T́nh dấy động
bên trong, h́nh thành lời lẽ. Do ngôn từ chẳng đủ
để diễn tả, bèn than thở. Do than thở vẫn
chẳng đủ, bèn ca vịnh”. “Ca” (歌) là âm thanh của nhạc,
trực tiếp diễn tả đức ấy. Theo Sơn
Hải Kinh, tám đứa con của Đế Tuấn[23] [là những
người] khởi đầu ca hát. Nếu nói theo giáo của
chúng ta (đạo Phật) th́ là Phạm Bái. Bái (唄) của phương Tây
giống như phương Đông có Tán. “Tán” (讚) là theo lời văn mà
kết thành chương khúc; c̣n Bái là dùng những bài kệ
ngắn để ca tụng. Hai chuyện này tuy tên gọi
khác nhau, nhưng ư nghĩa thật sự đồng nhất.
Nay đă tấu nhạc ngũ thanh, bát âm[24], cùng ngân nga
ca vịnh, tán thán, lại c̣n bày hương, hoa, các vật cúng
dường. Không chỉ là tự ḿnh tin tưởng thực
hiện, mà lại c̣n khuyên khắp những người khác
làm theo, hoặc một người hay nhiều người,
tùy duyên chuyển hóa.
(Kinh)
Như thị đẳng bối, hiện tại thế
trung, cập vị lai thế, thường đắc bách
thiên quỷ thần, nhật dạ vệ hộ, bất linh
ác sự triếp văn kỳ nhĩ, hà huống thân thọ
chư hoạnh.
(經)如是等輩‧現在世中‧及未來世‧常得百千鬼神‧日夜衛護。不令惡事輒聞其耳‧何況親受諸橫。
(Kinh:
Những người như thế, trong đời hiện
tại và đời mai sau, thường được trăm
ngàn quỷ thần, ngày đêm bảo vệ, chẳng để
chuyện ác đột ngột lọt vào tai họ, huống
hồ là đích thân hứng chịu những chuyện ngang
trái ư?)
Người
như thế đáng nên được phước. V́ thế
nói “như thị đẳng bối” (hạng người
như thế). Nhưng tấu nhạc cúng dường tượng,
cớ sao lại được quỷ thần bảo vệ?
Lễ Kư viết: “Lễ nhạc chi hành hồ Âm Dương,
thông hồ quỷ thần” (Lễ nhạc vận chuyển
Âm, Dương, cảm thông quỷ thần). Sách Hán Thư
chép: “Nhạc là thứ thánh nhân dùng để cảm trời
đất, thông quỷ thần”; huống chi Càn Thát Bà và
Khẩn Na La đều là nhạc thần của thiên đế.
Nay đă dùng âm nhạc để ca vịnh đức Địa
Tạng, lẽ nào chẳng cảm Đế Thích sai Càn Thát
Bà và Khẩn Na La bảo vệ ư?
Nhưng “chuyện
ác chẳng nghe lọt vào tai” lại do đâu mà đạt
được như thế? Thưa: Chẳng nghe sách Lễ
Kư đă nói đó ư? “Phù nhạc, thanh minh tượng
thiên, quảng đại tượng địa, chung thỉ
tượng tứ thời, châu toàn tượng phong vũ”
(Nhạc trong sáng giống như trời, rộng lớn giống
như đất, từ đầu đến cuối giống
như bốn mùa, xoay chuyển trọn khắp giống như
gió, mưa). Nay đă tấu nhạc cúng dường tượng,
tự nhiên sẽ cảm vời khí tượng trong sáng của
trời đất, bốn mùa điều ḥa, mưa gió đúng
thời, làm sao có chuyện ác bỗng dưng nghe lọt vào
tai cho được? V́ thế nói Nhạc có nghĩa là Lạc
(vui). Quân tử vui do thấu đạt đạo, tiểu
nhân vui do đạt được điều ham muốn.
Huống chi nay đạt được phước, thật
sự là do tín tâm mà có, lẽ nào c̣n đích thân hứng chịu
các thứ ngang trái ư? Nếu dựa theo kinh Pháp Hoa nói: Dùng
kỹ nhạc để ca tụng đức, mở ra
nghiệp nhân thiên, tự nhiên đáng nên sớm thành Phật
đạo!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2. Cơ hủy
hoạch báo (do chê bai, hủy báng mà mắc
phải tội báo)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2.1. Chánh thị
(chỉ
dạy)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2.1.1. Thị
cơ hủy tướng (dạy về tướng
trạng gièm chê, hủy báng)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Vị lai thế trung, nhược
hữu ác nhân, cập ác thần, ác quỷ, kiến hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, quy kính, cúng dường, tán
thán, chiêm lễ Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng.
(經)復次普廣‧未來世中‧若有惡人‧及惡神惡鬼‧見有善男子‧善女人‧歸敬供養‧讚歎瞻禮‧地藏菩薩形像。
(Kinh:
Lại này Phổ Quảng! Trong đời vị lai, nếu
có người ác, và ác thần, ác quỷ, thấy có thiện
nam tử, thiện nữ nhân, quy hướng, cung kính, cúng
dường, tán thán, chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng
Địa Tạng Bồ Tát).
Trước
hết, nêu ra những thứ gièm chê, hủy báng, kế đó
là nói đến tướng trạng gièm chê, hủy báng. Chữ
Cưu Na La (Kunāla) trong tiếng Phạn, được
cơi này dịch là “ác nhân” (kẻ ác), c̣n dịch là “bất
hảo nhân”. Ác thần, lớn là nói đến Ba Ty Dạ
(Pāpīyas)[25], dịch sát nghĩa là Ác,
nhỏ th́ là những kẻ ác trong núi to, sông cái, núi nhỏ,
sông con. Ác quỷ th́ loại lớn là nói đến những
loài Cưu Bàn Trà (Kumbhāṇḍa,
Yếm Mị Quỷ, Đông Qua Quỷ) v.v… Nhỏ th́ tức là
những loài nương gá vào cỏ cây, ra oai, giáng phước.
Ác có ba loại: Một là ác, hai là đại ác, ba là ác trung ác
(kẻ ác nhất trong những kẻ ác). Ba loại ấy (ác
nhân, ác thần, ác quỷ) đều có ba loại ác.
Từ chữ
“kiến hữu” (thấy có) trở đi, nói về nguyên
do gièm báng. Đức Phật dạy: “Thanh trược dị
lưu, minh ngu dị thú, trung nịnh tương thù, tà
thường tật chánh. Cố trước dục chi nhân,
bất hiếu ngă vô dục chi hạnh. Ư thị, ác loại
toại sanh tật tâm. Sở dĩ tật chi giả, ác nhân,
khủng dĩ bỉ thiện, h́nh ngă chi ác dă. Ác thần, khủng
kỳ xuất giới, thất ngă chi quyến thuộc dă. Ác
quỷ, khủng kỳ trai giới, thất ngă chi huyết
nhục dă. Hoài tư tuy dị, vi ác thị đồng” (Trong
đục khác gịng, sáng suốt, ngu si khác đường, trung
nịnh khác biệt, cong vạy thường ghen ghét điều
chánh. V́ thế, kẻ đắm chấp dục vọng chẳng
ưa hạnh vô dục của ta. Do vậy, các loài ác bèn
sanh tâm ganh ghét. Sở dĩ ganh ghét là v́ kẻ ác sợ người
khác tốt lành sẽ bộc lộ điều ác của hắn.
Ác thần sợ [người tu hành] sẽ thoát khỏi tam
giới, khiến quyến thuộc của hắn bị
hao hụt. Ác quỷ sợ [người tu hành vâng giữ]
trai giới, sẽ chẳng được cúng tế máu thịt.
Mỗi loài ác tuy ôm ấp niềm riêng khác nhau, nhưng đều
làm ác giống như nhau).
Tăng Tử
nói: “Nhân chi hiếu thiện, phước tuy vị chí, khứ
họa viễn hỹ. Nhân chi vi ác, hung tuy vị chí, khứ
phước cận hỹ” (Người ưa điều
lành, tuy phước chưa đưa tới, đă cách xa họa.
Kẻ làm ác tuy điều hung hiểm chưa xảy tới,
nhưng đă mất phước rất gần). Sách Biện
Ma viết: “Thấy người nuôi dưỡng điều
thiện như mưa, sương móc thấm đượm
cây cỏ; gặp phải điều ác sẽ trừ sạch
như chim ưng, chim ó đuổi chim sẻ”. Sao mọi
người chẳng nỗ lực tu thiện, mà cam tâm làm người
ác, ác thần, ác quỷ vậy thay?
(Kinh)
Hoặc vọng sanh cơ hủy, báng vô công đức, cập
lợi ích sự, hoặc lộ xỉ tiếu, hoặc diện
bối phi, hoặc khuyến nhân cộng phi, hoặc nhất
nhân phi, hoặc đa nhân phi, năi chí nhất niệm sanh cơ
hủy giả.
(經)或妄生譏毀‧謗無功德‧及利益事。或露齒笑‧或面背非‧或勸人共非‧或一人非‧或多人非‧乃至一念生譏毀者。
(Kinh:
Hoặc lầm lạc sanh ḷng chê gièm, hủy báng, báng bổ
không có công đức và chuyện lợi ích, hoặc nhe răng
cười, hoặc chê sau lưng, hoặc khuyên người
khác cùng chê, hoặc một người chê, hoặc nhiều
người chê, cho đến một niệm sanh ḷng chê bai,
hủy báng).
“Cơ”
(譏) là nói trào phúng, chê bai. “Hủy”
(毀) là chuyện báng bổ, phá hoại. “Cơ” là sanh tâm đố
kỵ, ghen ghét. “Hủy” là khởi ư niệm tham lam, sân
hận. V́ thế biết tâm chính là cội nguồn dấy
lên điều ác, miệng là cái gốc chuốc họa. Toan
tính báng bổ thánh hiền, chèn ép oan uổng người lương
thiện; hư vọng bịa chuyện,
vô duyên vô cớ mặc t́nh phun độc. Thoạt đầu
là chê bai, khích bác nhẹ nhàng, về sau bèn vu hăm độc địa,
tự làm kẻ Nhất Xiển Đề, bài bác không có nhân
quả. Họ tuyên bố: “Những kẻ ấy chỉ trộm
cái danh hiền thiện suông, chứ quy y, cung kính, tán thán, lễ
bái [Địa Tạng Bồ Tát] thật ra chẳng có công đức!
Phí uổng tiền tài, há có lợi ích ǵ đâu!” Họ đâu
có biết thánh tượng bằng đất nặn, gỗ
tạc, biểu thị những pháp sâu xa! Kính cẩn, chân
thành, ân cần lễ bái, được phước vô biên.
Tâm khinh thường, hủy báng, chuốc tội bao kiếp,
ngu si, vô tri, trở ngại, thoái thất thiện căn. Hoặc
nhe răng cười khinh bỉ, hoặc trước mặt
bảo là đúng, sau lưng chê sai be bét! Chính ḿnh chê bai, lại
c̣n khuyên kẻ khác cùng đả phá. Hoặc khuyên được
một người, hoặc lại khuyên nhiều kẻ cùng
nhau chê trách. Đấy là nói tới những kẻ lắm điều hủy báng, ghét bỏ.
“Dẫu
chỉ một niệm” là nói những kẻ hủy báng,
ghét bỏ đôi chút. Họ đâu có biết các tội đều
khởi đầu từ đấy! Ví như gịng sông cuồn
cuộn khởi nguồn từ đầu nguồn nhỏ
như miệng ṿ. Cây phủ
rợp
trời, nẩy lá từ cái mầm bé tẹo! Môi, miệng
là chiếc cung, tâm suy nghĩ như dây cung, âm thanh như mũi
tên, một niệm như lẫy cung. Buông suông [lời phỉ
báng] trong đêm dài, chỉ nhuốm bẩn thân, miệng! Đoái
nghĩ quả báo về sau, há chẳng cẩn thận ư?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2.1.2. Hiển
cơ hủy báo (nêu rơ quả báo do gièm chê, hủy
báng)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2.1.2.1. Trực
đọa A Tỳ (đọa thẳng vào A Tỳ)
(Kinh)
Như thị chi nhân, Hiền Kiếp thiên Phật diệt
độ, cơ hủy chi báo, thượng tại A Tỳ
địa ngục, thọ cực trọng tội.
(經)如是之人‧賢劫千佛滅度‧譏毀之報‧尚在阿鼻地獄‧受極重罪。
(Kinh:
Người như thế khi một ngàn đức Phật
trong Hiền kiếp diệt độ cả rồi, do quả
báo của tội chê gièm, hủy báng, vẫn c̣n thọ tội
cực nặng trong địa ngục A Tỳ).
Bộp
chộp, ương bướng thành tánh, điên đảo,
khinh bạc quen thói, chẳng biết Phật đạo chánh
trực, chân thật, rộng sâu, lại phun ra những lời
lẽ khinh bạc, thiển cận của thế gian, toan
dùng cái tâm đố kỵ để hủy báng đạo
căn. Hạng người như thế giống như
chim găy cánh, chẳng thể bay lượn. Hăy nên biết hạng
người ấy trong đời vị lai, vĩnh viễn
chẳng thể đạt tới chỗ tốt lành trong
chốn nhân thiên.
Kiếp Bá
(Kalpa) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Phân Biệt
Thời Tiết. Bạt Tha (Bhadra) dịch sang tiếng Hán là
Hiền. Do có nhiều hiền nhân xuất thế, nên gọi
là Hiền Kiếp. Nay đang là Hiền Kiếp, có tất
cả một ngàn vị Phật xuất thế. Nay đức
Phật Thích Ca mới là vị Phật thứ tư,
hăy c̣n có chín trăm chín mươi sáu vị Phật [chưa
xuất thế]. Mỗi đức Phật xuất thế
rồi diệt độ, có thể nói là năm tháng lâu xa.
Nay nói là “thiên Phật diệt độ dĩ” (một
ngàn đức Phật đă diệt độ cả rồi),
mà do quả báo chê gièm, hủy báng, [tội nhân] vẫn c̣n trong
đại địa ngục A Tỳ, chịu tội cực
nặng, trọn chẳng có cùng tận!
Kinh Hưng Khởi Hạnh dạy: “Thế nhân sở tác
hạnh, hoặc tác thiện ác sự. Thử hạnh hoàn
quy thân, chung bất hủ bại vong” (Những hành vi của
người đời, hoặc làm chuyện thiện ác, hành
vi ấy sẽ trở về chính thân họ, trọn chẳng
hư nát, mất đi). Do kẻ báng pháp tội nghiệp cực
đại nên đọa vào ba ác đạo, khó thể xuất
ly, chớ nên chẳng cẩn thận!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2.1.2.2. Chuyển
sanh ác đạo ([quả báo trong địa ngục
đă hết], chuyển sanh vào đường ác)
(Kinh)
Quá thị kiếp dĩ, phương thọ ngạ quỷ.
Hựu kinh thiên kiếp, phục thọ súc sanh. Hựu kinh
thiên kiếp, phương đắc nhân thân.
(經)過是劫已‧方受餓鬼。又經千劫‧復受畜生。又經千劫‧方得人身。
(Kinh:
Qua khỏi số kiếp ấy rồi mới thọ thân
ngạ quỷ. Lại qua một ngàn kiếp lại làm thân
súc sanh. Lại qua một ngàn kiếp mới được
làm thân người).
Trải
bao kiếp trầm luân, vĩnh viễn đánh mất con đường
sanh thiên, theo duyên mà thọ báo, trọn chẳng có lúc thoát khổ!
Do báng bổ là “chẳng có pháp vị ǵ”, cảm vời quả
báo làm ngạ quỷ đói khát, chẳng biết chánh đạo;
[sau đó] thọ thân súc sanh, xương sống nằm
ngang. Chữ Xà Lê Đa (Preta) trong tiếng Phạn, dịch
là Ngạ Quỷ, đường này hiện diện trọn
khắp trong các đường khác, [ngoại trừ thiên đạo].
Do tâm ư siểm nịnh, dối trá, tạo tác hạ phẩm
Ngũ Nghịch, Thập Ác, cảm thân trong đường
này. Chữ Để Lật Xa (Tiryagyoni) trong
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Súc Sanh, đường
này cũng trọn khắp các chốn. Do ngu si, tham dục, tạo
tác trung phẩm Ngũ Nghịch, Thập Ác mà cảm thân
trong đường này. Trong hai đường ấy, trải
qua kiếp số dài lâu mới được làm người.
[Kinh văn] dùng chữ Phương (方) [ở đây] và chữ
Túng (縱) trong câu sau, tức là từ
ngữ diễn tả ư nghĩa “cũng chẳng nhất
định!”
(Kinh)
Túng thọ nhân thân, bần cùng, hạ tiện, chư căn
bất cụ, đa bị ác nghiệp, lai kết kỳ tâm,
bất cửu chi gian, phục đọa ác đạo.
(經)縱受人身‧貧窮下賤‧諸根不具。多被惡業‧來結其心。不久之間‧復墮惡道。
(Kinh:
Dẫu được làm người, nghèo cùng, hèn hạ,
các căn chẳng đủ, có lắm ác nghiệp vướng
mắc trong tâm, chẳng bao lâu sau, lại đọa vào đường
ác).
Dẫu được
làm thân người, dư nghiệp vẫn c̣n chưa hết!
Do xưa kia đoạn diệt pháp tài, nay cảm quả báo
bần cùng. Do xưa kia, hủy báng kẻ kính trọng tôn
dung [của Bồ Tát], nay chuốc lấy thân hạ tiện,
lại c̣n kèm thêm các căn tàn khuyết, đến nỗi
cửu kết[26] ràng buộc
cái tâm. Từ chỗ tối vào chỗ tối, từ khổ
đến khổ. Trong luận Đại Thừa, Kiên Ư Bồ
Tát nói: “Phỉ báng pháp Đại Thừa, chắc chắn
đọa ác đạo. Thiêu đốt thật đau khổ,
là do tội của nghiệp báo. Nếu từ địa ngục
thoát ra, lại chịu ác báo khác. Các căn thường khuyết
thiếu, thô kệch, vĩnh viễn chẳng nghe tiếng pháp.
Dẫu được nghe pháp th́ lại sanh ḷng báng pháp. Do nhân
duyên báng pháp, lại đọa vào địa ngục”. Ôi!
Chẳng đáng nên răn dè ư?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.1.2.2. Kết
huống (kết lại bằng cách nói “huống hồ”)
(Kinh)
Thị cố Phổ Quảng! Cơ hủy tha nhân cúng
dường, thượng hoạch thử báo, hà huống biệt
sanh ác kiến hủy diệt.
(經)是故普廣‧譏毀他人供養‧尚獲此報‧何況別生惡見毀滅。
(Kinh:
V́ vậy, Phổ Quảng! Gièm chê, hủy báng người
khác cúng dường c̣n mắc phải quả báo ấy, huống
hồ lại c̣n sanh ác kiến hủy diệt khác).
Hai chữ
“thị cố” (v́ vậy) thừa tiếp chặt chẽ
ư “vĩnh đọa A Tỳ, di kiếp kinh sanh nhi huống
xuất” (vĩnh viễn đọa vào A Tỳ, trải
bao kiếp nhiều đời, may ra mới thoát khỏi).
Thiện nhân cúng dường, lũ ác gièm chê, hủy báng, c̣n
mắc hại bao kiếp! Huống hồ kẻ sanh ác kiến
khác, như Di Lê Xa (Mleccha)[27] hủy diệt
Phật pháp, tội ấy c̣n quá hơn nữa! V́ thế,
kinh Bảo Vũ nói: “Nhược phỉ báng giả, thị
danh ngu nhân, đọa ư ác xứ, thọ chư khổ
năo. Hựu vị nhất thiết thế gian thiên, nhân, A-tố-lạc
đẳng chi sở khinh tiện” (Nếu là kẻ phỉ
báng th́ gọi là người ngu, đọa vào chỗ ác, chịu
các khổ năo. Lại c̣n bị hết thảy trời, người,
A Tu La v.v… trong thế gian khinh rẻ). V́ thế biết cái
tội phỉ báng đúng là đứng đầu các tội!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2. Biệt thị
cửu bệnh đẳng ích (riêng dạy về lợi
ích như người bệnh lâu năm…)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1. Cửu bệnh
ác tướng (tướng ác của bệnh
lâu năm)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.1. Thị
bệnh trung ác tướng (chỉ bày tướng
ác của bệnh tật)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.1.1. Thị
tướng (chỉ bày tướng trạng
bệnh tật)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược vị lai thế,
hữu nam tử, nữ nhân, cửu xử sàng chẩm, cầu
sanh, cầu tử, liễu bất khả đắc. Hoặc
dạ mộng ác quỷ, năi cập gia thân, hoặc du hiểm
đạo, hoặc đa yểm mị, cộng quỷ thần
du, nhật nguyệt tuế thâm, chuyển phục uông sái.
Miên trung khiếu khổ, thảm thê bất lạc giả.
(經)復次普廣‧若未來世‧有男子女人‧久處牀枕‧求生求死‧了不可得。或夜夢惡鬼‧乃及家親。或遊險道‧或多魘寐‧共鬼神遊。日月歲深‧轉復尪瘵。眠中叫苦‧慘悽不樂者。
(Kinh:
Lại này Phổ Quảng! Nếu trong đời vị
lai, có người nam, kẻ nữ, nằm trên giường
bệnh lâu ngày, mong sống, hoặc mong chết, trọn chẳng
thể được! Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ,
cho đến người nhà, hoặc đi trong đường
hiểm đạo, hoặc thường bị bóng đè, cùng
đi với quỷ thần, lâu năm chầy tháng, chuyển
thành gầy ṃn, bệnh lao. Kêu khổ trong khi ngủ, thê thảm,
chẳng vui).
Phật Thuyết
Y Kinh chép: “Nhân thân trung bổn
hữu tứ bệnh, nhất địa, nhị thủy,
tam hỏa, tứ phong” (Trong thân con người vốn có
bốn bệnh, một là đất, hai là nuớc, ba là lửa,
bốn là gió). Đại Trí Độ Luận nói: “Tứ
Đại làm thân, chúng thường xâm hại lẫn nhau.
Trong mỗi đại, có một trăm lẻ một chứng
bệnh dấy lên. Bệnh hàn có hai trăm lẻ hai thứ,
do nước và gió dấy lên. Bệnh nhiệt có hai trăm
lẻ hai loại, do đất và lửa dấy lên”. Ấy
là v́ Tứ Đại khó điều ḥa, lục phủ[28] càng khó ḥa hợp.
Do có báo thân, bỗng mắc phải bệnh tật lâu ngày.
Nay [bệnh t́nh] lâu năm chầy tháng, nằm bẹp trên
giường, chiếu, chẳng thể ngồi dậy được.
Đấy chính là dư ương do giết chóc, đến
nỗi khổ năo v́ bệnh tật bức bách lâu ngày. Muốn
sống mà lâm vào t́nh thế chẳng sống nổi, mong chết
mà lâm vào t́nh thế chẳng chết được!
“Mộng
thấy ác quỷ” v.v… do bệnh tật bức bách cái tâm,
tinh thần rối loạn, đêm gặp nhiều ác mộng,
kinh hoảng càng nặng hơn. Luận Duy Thức nói bốn
loại mộng: Một là tập khí vô minh, hai là điềm
báo trước thiện ác, ba là [một hay nhiều món
trong] Tứ Đại tăng nhiều, bốn là những điều
đă hay biết cũ nay diễn lại trong tâm.
Nay [mộng thấy] đi cùng ác quỷ, chính là điềm
báo trước của ác tướng; và mộng thấy người
nhà, chính là những điều đă hay biết cũ, nay diễn lại trong tâm. “Đi
trong đường hiểm” tức là một hay nhiều
món trong Tứ Đại tăng mạnh. “Đi cùng quỷ
thần” chính là tập khí vô minh.
Chữ Ô Tô Mạn [trong tiếng Phạn], cơi
này dịch là Yểm (bóng đè), tức là điềm chẳng cát tường [mộng thấy]
trong khi ngủ, ngầm phù hợp với cái tâm [của người bệnh]. Luận Hành[29] nói: “Nằm
thiêm thiếp mà chẳng ngủ được, nên gọi
là yểm mị”. Nằm thiêm thiếp lâu ngày chẳng tỉnh, [mơ thấy]
đi cùng quỷ thần, triền miên lâu năm, h́nh hài suy
kém. Uông (尪) là yếu đuối,
tức là bệnh gầy ṃn. Sái (瘵) là lao sái (lao phổi), thuộc
loại ngũ lao thất thương[30] v.v… Trong giấc
ngủ kêu khổ v.v… do thân là thứ gây khổ, các Ấm là b́nh gốm mới nặn c̣n chưa
nung, Tứ Đại rỗng tuếch, chống trái lẫn
nhau. Mang thân trong cơi người, gặp phải lúc uế
trược, nhận lănh tấm thân có thể chất hư
ngụy, ở trong cảnh kinh hăi. Vô lượng quỷ thần trong chốn u
minh, cùng với người nhà, quyến thuộc, nương
gá nhà cửa, nương gá miếu mạo, nương gá núi,
g̣, hễ có linh thức thảy đều có ảnh hưởng
[tới bệnh nhân], khiến cho [bệnh nhân] tâm thần mê
muội, thần thức mịt mờ, đến nỗi
trong khi mơ màng, gặp nhiều nỗi
kinh hoảng. V́ thế, ngủ không yên giấc, sáng tối
kêu khổ, nội tâm bứt rứt, động tĩnh sầu
thảm; đấy đều là những dáng vẻ khổ
sở trong cơn bệnh tật.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.1.2. Thích ư
(giải
thích ư nghĩa [của t́nh trạng khổ sở ấy])
(Kinh)
Thử giai thị nghiệp đạo luận đối,
vị định khinh trọng, hoặc nan xả thọ,
hoặc bất đắc dũ, nam nữ tục nhăn, bất
biện thị sự.
(經)此皆是業道論對‧未定輕重。或難捨壽‧或不得愈。男女俗眼‧不辯是事。
(Kinh:
Đấy đều là do c̣n tranh biện về oán đối
trong nghiệp đạo, chưa thể định tội
nặng nhẹ, cho nên khó xả thọ mạng, hoặc chẳng
được lành bệnh. Mắt tục của kẻ nam
người nữ chẳng thể biện định chuyện
này).
Đây là
giải thích: Ác tướng của bệnh
tật lâu ngày là do oán đối trong nghiệp đạo. V́
thế, đức Phật bảo vua A Xà Thế: “Nhất
thiết chư pháp giai vi duyên đối. Thế nhân sở
vi tác, các tự kiến kỳ hạnh. Hành thiện đắc
thiện báo, hành ác đắc ác báo. Thị cố đại
vương đương xả ác tùng thiện” (Hết
thảy các pháp đều đối ứng với duyên. Đối
với những ǵ người đời đă làm, mỗi
mỗi đều tự thấy hậu quả của nó. Làm
lành được báo lành, làm ác mắc ác báo. Do vậy, đại
vương hăy bỏ ác theo thiện). Nay đă do nghiệp
duyên oán đối đưa đến, nếu chẳng giao
tánh mạng ra, chẳng có cách nào tránh né! Nhưng do chưa
quyết định tội ấy nặng hay nhẹ, sao có
thể phán định sự sống chết của người
ấy cho được! V́ thế, kẻ đáng lẽ phải
chết, nhưng chưa thể
xả thọ ngay lập tức; kẻ chưa đáng phải
chết, vẫn c̣n phải chịu bệnh tật rề rề
khó lành. Sợ là ngũ âm chú trớ[31], có thể
chuốc lấy nỗi oán hờn ba đời, hồn lẩn
quẩn chốn âm ty, cơi trần đă nẩy sanh tai nạn.
Mắt phàm tục thô lậu của nhân gian, làm sao có
thể biện định những chuyện oán đối
do nghiệp báo cho được?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.2. Minh tu phước
thoát tội (nói rơ: Do tu phước mà thoát
tội)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.2.1. Chánh
thị phương quỹ (chỉ dạy phương
cách)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.2.1.1. Đối
tượng độc kinh (đối trước
tượng, đọc kinh)
(Kinh)
Đản đương đối chư Phật, Bồ
Tát tượng tiền, cao thanh chuyển độc thử
kinh nhất biến.
(經)但當對諸佛菩薩像前‧高聲轉讀此經一徧。
(Kinh:
Chỉ nên đối trước tượng chư Phật,
Bồ Tát, lớn tiếng chuyển đọc kinh này một
lượt).
Phàm là người
do chẳng giữ chừng mực cẩn thận, bị cảm
nhiễm các chứng bệnh hàn, nhiệt v.v… th́ thuốc thang
trong cơi đời có thể chữa trị. Nay là bệnh tật
do quả báo của ác nghiệp, cần phải cậy vào pháp
lực th́ mới hết bệnh được. Ấy là
v́ tâm của chư Phật lấy từ bi làm Thể, có thể
làm y vương, khéo chữa các bệnh nơi thân, tâm của
chúng sanh. Kinh là pháp dược, Bồ Tát là thầy thuốc khám bệnh, cho nên cần phải
đối trước tượng đọc kinh. Thế
nhưng, chỉ chuyển đọc một lượt, một
hạt kim đan điểm sắt thành vàng! Một lời
tột lư, chuyển phàm thành thánh, há đợi phải chuyển
đọc nhiều lượt ư?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.2.1.2. Vị
bệnh xả vật (v́ bệnh nhân mà thí xả vật
dụng)
(Kinh)
Hoặc thủ bệnh nhân khả ái chi vật, hoặc y
phục, bảo bối, trang viên, xá trạch.
(經)或取病人可愛之物‧或衣服寶貝‧莊園舍宅。
(Kinh:
Hoặc lấy những vật mà bệnh nhân yêu mến như
quần áo, vật quư báu, trang trại, vườn tược,
nhà cửa).
Bệnh
của người đời có hai loại: Bệnh do Tứ
Đại, tức là thân bệnh; và bệnh do Tam Độc
là tâm bệnh. Thân bệnh có thể dùng thuốc, tâm bệnh
ắt cần phải tu phước. Kinh Pháp Cú dạy: “Nhân
tác thiện ác, ương phước tùy nhân, tuy cánh sanh tử,
bất khả đắc miễn” (Người làm điều
thiện, ác, ương họa hay phước báo sẽ
theo người ấy, dẫu trải qua sống chết,
chẳng thể tránh khỏi được). V́ thế, cần
phải tu phước do tụng kinh để giải trừ.
Đối với vật đáng yêu mến, đẹp đẽ,
choáng lộn, quư trọng mà nay có thể cắt bỏ ḷng yêu
đắm, đoạn trừ gốc bệnh. Quần áo mặc
vào để làm đẹp thân thể. Vật quư báu là thứ
chất chứa để làm giàu. Trang trại, vườn
tược là thứ để du ngoạn. Nhà cửa là chỗ
cho con cháu yên thân, toàn là những thứ để ta hưởng
thụ, chẳng thể khuyết thiếu được.
Đây là nói đến những vật đem thí xả.
(Kinh)
Đối bệnh nhân tiền, cao thanh xướng ngôn: “Ngă
mỗ giáp đẳng, vị thị bệnh nhân, đối
kinh tượng tiền, xả chư đẳng vật.
Hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo Phật,
Bồ Tát h́nh tượng, hoặc tạo tháp tự, hoặc
nhiên du đăng, hoặc thí thường trụ”.
(經)對病人前‧高聲唱言‧我某甲等‧為是病人‧對經像前‧捨諸等物。或供養經像‧或造佛菩薩形像‧或造塔寺‧或然油燈‧或施常住。
(Kinh:
Đối trước bệnh nhân, lớn tiếng xướng
rằng: “Tôi tên là… v́ người bệnh này, đối trước
kinh, tụng, bỏ những vật này, hoặc để cúng
dường kinh tượng, hoặc tạo h́nh tượng
của Phật, Bồ Tát, hoặc tạo chùa, tháp, hoặc
thắp đèn dầu, hoặc cúng thí thường trụ”).
Từ chữ
“đối bệnh nhân” (đối trước người
bệnh) trở đi, tuyên xướng thí xả vật dụng.
Đối trước người bệnh lớn tiếng
xướng, chính là để cho người ấy biết
công đức của việc thí xả to lớn, trong tâm
ghi nhớ chẳng quên. Kinh dạy: “Nhất thiết chư
vật, tất giai phân tán, duy thử nguyện vương,
bất tương xả ly” (Hết thảy các vật
thảy đều phân tán, chỉ có nguyện vương này
chẳng hề ĺa bỏ) là nói đến chuyện này. Chữ
Na Măng trong tiếng Phạn, Hán dịch là “mỗ giáp” (某甲, tên này nọ). Giáp đứng
đầu Thiên Can, là số đầu tiên, chẳng ngại
liệt kê Ất, Bính… theo thứ tự.
Từ chữ
“cúng” trở đi là phương pháp tu phước. “Cúng
dường kinh tượng”: Pháp là Phật mẫu, Phật
sanh từ pháp. Tam thế Như Lai đều cúng dường
pháp. Tượng là di dung (遺容, dung nhan, h́nh ảnh để
lại) của đức Thế Tôn; tuy là đất nặn,
gỗ khắc, nhưng có thể khiến cho mọi người
đều nghĩ đến Phật, chẳng khác đức
Phật thật. V́ thế, thờ phụng sẽ được
phước. Tạo h́nh tượng của Phật, Bồ
Tát, hăy chuẩn theo kinh Tạo Tượng Phước Báo,
công đức rất nhiều, nay nêu đại lược
một đôi điều. Kinh dạy: “Thiên hạ nhân dân,
năng tác Phật h́nh tượng giả, thế thế sở
sanh chi xứ, nhăn mục tịnh khiết, diện mạo
đoan chánh, thân thể, thủ, túc, thường hảo
nhu nhuyễn, sanh ư thiên thượng, diệc phục tịnh
khiết, chư thiên trung thắng. Tử ma kim sắc, đoan
chánh vô tỷ. Tác Bồ Tát tượng, công đức diệc
nhĩ” (Nhân dân trong thiên hạ, có thể tạo h́nh tượng
Phật, đời đời sanh ở nơi đâu, mắt
trong sạch, diện mạo đoan chánh, thân thể, tay, chân
thường tốt đẹp mềm mại. Sanh lên cơi trời,
cũng lại tịnh khiết, thù thắng nhất trong chư
thiên. Thân có màu như vàng tía giồi mài, đoan chánh khôn sánh.
Công đức tạo tượng Bồ Tát cũng như thế).
Tháp, chùa
như trong phần trên [đă giải thích]. Kinh Tạp Bảo
Tạng nói: “Tạo lập tháp tự, mạng chung sanh Đao
Lợi thiên” (Tạo lập chùa, tháp. khi mạng chung, sanh
lên trời Đao Lợi). “Nhiên du đăng” (thắp
đèn dầu): Kinh Thí Đăng chép: “Phật cáo Xá Lợi
Phất: - Hữu nhân ư tháp, miếu, h́nh tượng, phụng
thí đăng minh, năi chí dĩ thiểu đăng, cự,
như thử phước đức, duy Phật năng tri”
(Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Có người
ở nơi tháp, miếu, h́nh tượng, cúng thí đèn chiếu
sáng, cho đến chút ít đèn, đuốc, phước
đức như thế chỉ Phật có thể biết).
Hoặc đem những vật mà người bệnh yêu mến
thí hết cho Chiêu Đề[32], cúng dường
chúng tăng. Đấy là nói tùy ư hành một thứ, liền
cảm quả báo thù thắng, chẳng phải là mỗi sự
đều phải làm hết.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.2.1.3. Thoát
tội tri mạng (thoát tội, biết túc mạng)
(Kinh)
Như thị tam bạch bệnh nhân, khiển linh văn
tri, giả linh chư thức phân tán, chí khí tận giả,
năi chí nhất nhật, nhị nhật, tam nhật, tứ
nhật, chí thất nhật dĩ lai, đản cao thanh bạch,
cao thanh độc kinh.
(經)如是三白病人‧遣令聞知。假令諸識分散‧至氣盡者‧乃至一日二日‧三日四日‧至七日已來‧但高聲白‧高聲讀經。
(Kinh:
Ba lượt thưa với bệnh nhân như thế, khiến
cho người ấy nghe biết. Nếu như các thức
đă phân tán cho đến khi người ấy tắt hơi,
cho đến một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến
bảy ngày trở lại, chỉ lớn tiếng xướng
bạch, lớn tiếng đọc kinh).
Thay người
bệnh xả vật, ắt bạch ba lượt để
người bệnh nghe biết, muốn khiến cho người
bệnh trong tâm nhận biết, biết rơ “ta có công đức
như thế đó”. “Giả linh” (nếu như), ư nói:
Nhờ vào phước thí ấy, bệnh hết, thân an, tốt
lành chi bằng? Giả sử đại nạn khó thoát, vĩnh
viễn dứt tuyệt duyên trong cơi đời, sẽ ngay
trong lúc [người bệnh] các thức phân tán, tắt hơi,
vẫn nên trong bảy ngày, lớn tiếng xướng bạch,
đọc kinh, người ấy ắt giải thoát trọng
tội, siêu thăng.
“Chư
thức phân tán” (các thức chia ĺa): Kinh Xử Thai chép: “Nhĩ
thời Thế Tôn, tương dục thị hiện thức
sở thú hướng, đạo thức, tục thức,
hữu vi thức, vô vi thức, hữu lậu thức, vô lậu
thức, hoa thức, quả thức, báo thức, vô báo thức,
thiên thức, long thức, năi chí nhân phi nhân thức. Thượng
chí nhị thập bát thiên thức, hạ chí Vô Cứu địa
ngục thức” (Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn sắp muốn thị hiện chỗ thức hướng
về, tức đạo thức, tục thức, hữu
vi thức, vô vi thức, hữu lậu thức, vô lậu
thức, hoa thức, quả thức, báo thức, vô báo thức,
thiên thức, long thức, cho đến nhân phi nhân thức.
Trên là đến thức của [chư thiên trong] hai mươi
tám tầng trời, dưới là đến thức [của
chúng sanh] trong địa ngục A Tỳ). Ở đây,
[kinh này chỉ nói “chư thức”] là nói chung. Nếu xét
theo một người, sẽ gọi tám thức thần là
“chư thức”.
“Khí tận” (tắt hơi) th́ chính
là như thường nói: “Phong trước, Hỏa sau, hồn
thần rời đi”. Thân hư nhược, xác lạnh
ngắt, h́nh hài cứng đờ! Sách Tông Kính Lục có đoạn
viết: “Hỏi: Đến ngày các căn tan tác, hư hoại,
lúc thức rời đi, bỏ tấm thân cũ này, để
thọ h́nh chất khác, cái thức đến đi có tướng
trạng như thế nào? Đáp: Kinh Hiển Thức dạy:
‘Phật cáo Hiền Hộ: - Thức chi vận chuyển,
thiên, diệt, văng, lai, do như Phong Đại, vô sắc, vô
h́nh, bất khả hiển hiện, nhi năng phát động
vạn vật, thị chúng h́nh trạng’ (Đức Phật
bảo ngài Hiền Hộ: - Sự vận chuyển, đổi
dời, diệt mất, đến đi của Thức giống
như Phong Đại, vô sắc, vô h́nh, chẳng thể hiển
hiện, mà có thể phát động muôn vật. Đó là h́nh
dạng của nó)”.
(Kinh)
Thị nhân mạng chung chi hậu, túc ương trọng tội,
chí ư Ngũ Vô Gián tội, vĩnh đắc giải thoát.
Sở thọ sanh xứ, thường tri túc mạng.
(經)是人命終之後‧宿殃重罪‧至於五無間罪‧永得解脫。所受生處‧常知宿命。
(Kinh:
Người ấy sau khi mạng chung, vĩnh viễn giải
thoát túc ương, tội nặng, cho đến tội ngũ
Vô Gián. Sanh ra ở nơi đâu, cũng đều thường
biết túc mạng).
Từ “thị
nhân” (người ấy) trở đi, nói rơ chuyển chướng,
thác sanh, vĩnh viễn giải thoát khỏi túc ương,
trọng tội, tội ngũ Vô Gián, chính là để hiển
thị phước bố thí thù thắng. Công đức Tam
Bảo sâu dầy, không chỉ [tội nhân] được
thoát tội, thọ sanh, mà c̣n có thể thường biết
Túc Mạng, tự nhiên biết rơ nhân quả, tội phước
phân minh, từ chỗ sáng vào chỗ sáng, ắt đạt đến
Phật quả!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.2.2. Huống
hiển lợi ích (nêu rơ lợi ích của kẻ
không có túc ương, trọng tội)
(Kinh)
Hà huống thiện nam tử, thiện nữ nhân, tự thư
thử kinh, hoặc giáo nhân thư, hoặc tự tố họa
Bồ Tát h́nh tượng, năi chí giáo nhân tố họa, sở thọ quả báo,
tất hoạch đại lợi.
(經)何況善男子‧善女人‧自書此經‧或教人書。或自塑畫菩薩形像‧乃至教人塑畫。所受果報‧必獲大利。
(Kinh:
Huống chi thiện nam tử, thiện nữ nhân tự chép
kinh này, hoặc dạy người khác chép, hoặc chính
ḿnh đắp, vẽ h́nh tượng Bồ Tát, cho đến
dạy người khác đắp, vẽ, sẽ đạt
được quả báo, ắt đạt được
lợi ích to lớn).
“Huống”
(況) là hăy thử suy xét, ư nói:
Thay kẻ đó xả thí mà c̣n đạt được phước
như thế. Suy ra tự làm, há có thể sánh được
ư? Luận Trung Biên Phân Biệt nói tu hành trong Đại
Thừa có mười điều, điều thứ nhất
là biên chép. Kinh Niết Bàn dạy: “Ư ác thế trung thư
tả kinh quyển, diệc khuyến tha nhân linh đắc
thư tả, cụ túc năng giải, tận kỳ nghĩa
vị” (Trong đời ác, biên chép kinh quyển, cũng
khuyên người khác biên chép, sẽ có thể thấu hiểu
đầy đủ trọn hết nghĩa vị [của
kinh]).
“Tố
họa h́nh tượng” (đắp, vẽ h́nh tượng):
Kinh Tạo Tượng dạy: “Tác Phật, Bồ Tát h́nh
tượng, kỳ phước vô lượng, vô cùng tận
thời, bất khả xưng số. Như thị tứ
thiên hạ giang, hà, hải thủy, thượng khả thăng
lượng. Tác Phật h́nh tượng, kỳ phước
thậm đa, đa tứ thiên hạ giang, hà, hải thủy
quá xuất thập bội. Hậu thế sở sanh,
thường hộ Phật đạo. Tác Phật h́nh
tượng, tử hậu bất phục nhập ư địa
ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chư ác đạo trung”
(Tạo h́nh tượng Phật, Bồ Tát, phước ấy
vô lượng, chẳng có lúc cùng tận, chẳng thể tính
kể số lượng. Như nước của sông cái,
sông con, biển trong tứ thiên hạ này c̣n có thể đong
lường được, chứ phước do tạo
h́nh tượng Phật rất nhiều, nhiều hơn cả
mười lần lượng nước nơi sông cái, sông
con, biển cả trong tứ thiên hạ. Sanh vào đời
sau, thường hộ tŕ Phật đạo. Tạo h́nh tượng
Phật, sau khi chết chẳng c̣n vào trong các đường
ác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). V́ thế,
do quả báo đạt được, ắt có lợi ích
to lớn!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.1.3. Kết
khuyến tu công đức (tiểu kết, khuyên
tu công đức)
(Kinh)
Thị cố, Phổ Quảng! Nhược kiến hữu
nhân độc tụng thị kinh, năi chí nhất niệm tán
thán thị kinh, hoặc cung kính giả.
(經)是故普廣‧若見有人讀誦是經‧乃至一念讚歎是經‧或恭敬者。
(Kinh:
Do vậy này Phổ Quảng! Nếu thấy có người
đọc tụng kinh này, cho đến một niệm tán
thán, hoặc cung kính kinh này).
Tiếp
nối công đức trong phần trên, nên nói “thị cố”
(do vậy). Đối trước kinh th́ là “độc”
(讀, đọc) v́ chưa thuộc.
Đọc thuộc th́ gọi là Tụng (誦) do đă thông thuộc kinh
văn. Căn có lợi, độn, thời có lâu, mau. “Thị
kinh” (kinh này) tức là kinh Địa Tạng. Nói là “thị”
th́ “toàn thể đều là”, chẳng có hai! Tông này (tông Thiên
Thai) dùng Lục Tức để hiển lộ Thị. Do
toàn thể tâm là kinh, ngoài kinh chẳng có tâm, nên nói “thị
kinh” (kinh này). “Nhất niệm tán thán”: Trong phần
trên th́ do một niệm gièm báng người cúng dường,
c̣n mắc tội ương bao kiếp. Một niệm tán
thán kinh này, ắt cảm phước trong nhiều đời.
Người cung kính đọc tụng đạt được
phước có cùng công năng với tán thán.
(Kinh)
Nhữ tu bách thiên phương tiện, khuyến thị đẳng
nhân, cần tâm mạc thoái, năng đắc vị lai, hiện
tại, thiên vạn ức bất khả tư nghị công
đức.
(經)汝須百千方便‧勸是等人‧勤心莫退。能得未來現在‧千萬億不可思議功德。
(Kinh:
Ông hăy nên dùng trăm ngàn phương tiện, khuyên những
người ấy dốc ḷng siêng gắng, đừng lui
sụt, sẽ có thể đạt được ngàn vạn
ức công đức chẳng thể nghĩ bàn trong đời
vị lai và hiện tại).
Từ “nhữ
tu” (ông hăy nên) trở đi, đức Phật khuyên răn
ngài Phổ Quảng hăy nên dùng trăm ngàn phương tiện
để khuyên bảo những người đọc tụng,
tán thán, cung kính ấy, như kinh Đại Phương Quảng
Tổng Tŕ đă dạy: “Phật diệt độ hậu,
nhược hữu pháp sư thiện tùy nhạo dục, vị
nhân thuyết pháp, năng linh Bồ Tát học Đại Thừa
giả, cập chư đại chúng, hữu phát nhất mao
hoan hỷ chi tâm, năi chí tạm hạ nhất trích lệ giả,
đương tri giai thị Phật chi thần lực” (Sau
khi đức Phật diệt độ, nếu có pháp
sư khéo thuận theo ḷng vui thích, mong muốn để thuyết
pháp cho người khác, có thể khiến cho Bồ Tát học
Đại Thừa, và các đại chúng có tâm hoan hỷ chừng
bằng mảy lông, thậm chí tạm rơi một giọt
lệ, hăy nên biết đấy đều là do thần lực
của đức Phật). Do điều này mà chứng biết:
Người đọc, tụng, tán thán, cung kính, không ǵ chẳng phải là do thần
lực của Phật, cho nên cần phải dùng phương
tiện để khuyên lơn.
“Cần
tâm mạc thoái” (tâm siêng gắng, đừng lui sụt):
Như trong kinh Kiên Ư, đức Phật bảo ngài A Nan: “Kỳ
hữu hảo tâm thiện ư chi nhân, văn Phật minh pháp, nhất
tâm nhi thính, năng nhất nhật khả, bất năng
nhất nhật, bán nhật khả. Bất năng bán nhật,
nhất thời khả, bất năng nhất thời, bán
thời khả, bất năng bán thời, tu du khả, kỳ
phước bất khả lượng, bất khả tư
dă. Nhữ đương quảng vị chư tỳ-kheo tăng,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, bạch y nhân dân
thuyết chi” (Nếu có kẻ hảo tâm, thiện ư, nghe
đức Phật thuyết pháp bèn nhất tâm lắng nghe,
có thể trong ṿng một ngày, hoặc chẳng thể một
ngày th́ nửa ngày cũng được. Nửa ngày chẳng
được, một giờ cũng được. Một
giờ chẳng thể th́ nửa giờ cũng được.
Nửa giờ chẳng được th́ trong khoảnh khắc
cũng được, phước ấy chẳng thể
lường, chẳng thể ca ngợi được! Ông
hăy nên rộng nói cho các vị tỳ-kheo tăng, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhân dân tại gia [hay biết]).
Tạm nghe mà c̣n như thế, huống là cung kính, tán thán, đọc
tụng ư? V́ thế, khuyên lơn [chúng sanh] tâm phải siêng
gắng, đừng lui sụt, sẽ có thể đạt
được công đức chẳng thể nghĩ bàn
trong vị lai và hiện tại.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.2. Mộng
mị kiến quỷ (mộng mị thấy quỷ)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.2.1. Mộng
kiến ác cảnh (mộng thấy cảnh ác)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.2.1.1. Thị
tướng (chỉ bày tướng trạng)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược vị lai thế
chư chúng sanh đẳng, hoặc mộng, hoặc mị,
kiến chư quỷ thần, năi cập chư h́nh, hoặc
bi, hoặc đề, hoặc sầu, hoặc thán, hoặc
khủng, hoặc bố.
(經)復次普廣‧若未來世諸眾生等‧或夢或寐‧見諸鬼神‧乃及諸形。或悲或啼‧或愁或歎‧或恐或怖。
(Kinh:
Lại này, Phổ Quảng! Nếu các chúng sanh trong đời
vị lai, hoặc trong mộng, hoặc trong khi mơ màng,
thấy các quỷ thần, cho đến các h́nh tướng
buồn bă, hoặc khóc lóc, hoặc sầu muộn, hoặc
than thở, hoặc hăi hùng, hoặc sợ sệt).
Mộng
trong đoạn này khác với mộng trong đoạn trước.
Trong đoạn trước là do oán đối của chính
ḿnh, c̣n đoạn này là quyến thuộc xa xưa ngấm
ngầm quấn quít, đều là chiêm bao thật sự. Tôn
chân nhân[33]
nói: “Mộng đều là hồn nhờ vào mộng để
tác động lên các vật. Do tâm thức [trong ban ngày] bị
hạn cuộc nơi thân thể, chẳng thể lưu thông.
Ban đêm, trong mộng th́ hồn rỗng rang, tĩnh lặng,
sẽ dùng những cảnh tượng tốt lành trong mộng
để báo trước điều tốt lành, dùng những
điều hung hiểm trong giấc mộng để báo
trước chuyện xấu”. V́ thế, Đông Lai Lữ
Thị[34]
nói: “Thân có thể tiếp xúc th́ là Sự, tinh thần gặp
gỡ th́ là mộng”. Nay do thân tiếp xúc, thần thức
gặp gỡ, cho nên có những chuyện trong mộng. Sách Châu
Lễ phân tích sáu loại mộng, phân tích mộng là cát hay
hung: Thông thường, kinh ngạc, nghĩ nhớ, tỉnh
giấc kể lại, vui sướng, và kinh hăi.
“Mị”
(寐) là mê mệt, mắt nhắm,
tinh thần ẩn tàng. Trang Tử nói: “Mị là giao tiếp
bằng hồn” chính là nói về ư này. Thấy các quỷ
thần, các quỷ thần ấy chính là thân thuộc nhiều
đời, nương vào giấc mộng để hiện
h́nh. Đấy chính là mộng thuộc loại b́nh thường.
“Chư h́nh” (các h́nh trạng): Nam, nữ, già, trẻ bất
đồng, người hay quỷ diện mạo chẳng
đồng nhất. “Bi đề” (悲啼, buồn bă, khóc lóc) th́
thuộc loại mộng kinh ngạc và sợ hăi. Theo sách thuốc,
do nương theo khí Âm, cho nên thấy quỷ thần. Khí nơi
phổi mà thịnh sẽ mộng thấy khóc lóc, bay lên, vẫy
vùng. Khí nơi tim mà thịnh, sẽ mộng thấy vui cười,
hay hăi hùng, sợ sệt. Ở đây là do thân thuộc cơ
cảm, chẳng do Âm, Dương, hư hay thực[35]. “Buồn
bă, khóc lóc, sầu thảm, than thở” là nói đến t́nh
trạng quỷ xin [người thân c̣n sống hăy] thương
xót.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.2.1.2. Thích ư
(giải
thích ư nghĩa)
(Kinh)
Thử giai thị nhất sanh, thập sanh, bách sanh, thiên
sanh, quá khứ phụ mẫu, nam, nữ, đệ, muội,
phu thê, quyến thuộc, tại ư ác thú, vị đắc
xuất ly.
(經)此皆是一生十生‧百生千生‧過去父母‧男女弟妹‧夫妻眷屬‧在於惡趣‧未得出離。
(Kinh:
Đấy đều là cha mẹ, con trai, con gái, em trai, em gái,
chồng, vợ, quyến thuộc một đời, mười
đời, trăm đời, ngàn đời trong quá khứ
đang ở trong đường ác chưa được
thoát khỏi).
Do là quyến
thuộc nhiều đời, nên hiện các thân h́nh. Do chưa
được tiếp xúc lúc họ c̣n sống, làm sao có thể
nghĩ đến họ cho được? Cha, mẹ, con
trai, con gái như đă giải thích trong phần trước.
“Đệ” (弟, em trai) là “đệ”
(第, thứ tự), [hàm nghĩa]
do theo thứ tự mà [anh] ở trước em. “Muội”
(妹, em gái) là “muội” (昧, tối tăm), ví như
mặt trời vừa mới mọc, mới mọc được
một chốc, vẫn c̣n tối tăm [tức là em gái c̣n
non nớt so với anh, chị]. “Phu thê” (chồng vợ)
hàm nghĩa “sánh đôi”. [Dân chúng b́nh phàm là] những người
có địa vị kém hơn kẻ sĩ (người có
quan chức, có học thức) th́ được gọi là
Thê, Thê (妻) có nghĩa là Tề (齊, mấp mé, ngang bằng).
Phàm là kẻ thấp kém, chẳng đáng để tôn xưng
bèn nói là “tề đẳng” (kẻ ngang hàng). Họ
(những thân quyến nhiều đời ấy) ở
trong các đường ác hoặc trầm luân nơi địa
phủ, hoặc đọa làm quỷ đă lâu ngày, thiếu
người giúp đỡ thoát khỏi.
(Kinh)
Vô xứ hy vọng phước lực cứu bạt,
đương cáo túc thế cốt nhục, sử tác phương
tiện, nguyện ly ác đạo.
(經)無處希望福力救拔‧當告宿世骨肉‧使作方便‧願離惡道。
(Kinh:
Không có chỗ nào để mong mỏi phước lực
cứu bạt, bèn nói với người ruột thịt trong
những đời trước để mong họ tạo
phương tiện ḥng thoát khỏi đường ác).
Đă không
có chỗ để mong mỏi phước lực cứu
vớt, bèn nói với người thân trong nhiều đời
xa xưa. Những quỷ thần ấy đă nghĩ nát nước
mà không có cách nào, đang ở trong cảnh khổ mong cầu
cứu, [nên đành phải nói với người thân nhiều
đời]. V́ thế biết: V́ cha mẹ v.v… trong quá khứ làm phước, sẽ
như cấp lương cho người từ xa đến.
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ dạy: “Nhược vị vong
nhân tu phước, hành bố thí, sanh quỷ đạo giả,
quỷ dung đắc phước. Dĩ quỷ tri hối,
tiền thân xan tham, cố vị thí thời, bỉ tắc hoan
hỷ. Nhược sanh dư đạo, đa vô đắc
lực” (Nếu v́ người đă mất tu phước,
làm chuyện bố thí, th́ nếu người [đă mất]
sanh vào quỷ đạo, sẽ được hưởng
phước. Do quỷ biết hối hận đời trước
đă trót keo, tham, cho nên khi được bố thí, họ
sẽ hoan hỷ. Nếu [người đă mất] sanh
trong các đường khác th́ phần nhiều chẳng đắc
lực). Nay những người ấy mong [người thân
c̣n sống] tạo phương tiện để họ được
ĺa khỏi ác đạo th́ sợ rằng họ thuộc
loại ngạ quỷ đấy chăng?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.2.2. Sắc
khiển độc kinh (truyền dạy hăy đọc
kinh)
(Kinh)
Phổ Quảng! Nhữ dĩ thần lực, khiển thị
quyến thuộc, linh đối chư Phật, Bồ Tát tượng
tiền, chí tâm tự độc thử kinh, hoặc thỉnh
nhân độc. Kỳ số tam biến, hoặc thất biến.
(經)普廣‧汝以神力‧遣是眷屬‧令對諸佛菩薩像前‧志心自讀此經‧或請人讀。其數三徧‧或七徧。
(Kinh:
Này Phổ Quảng! Ông dùng thần lực khiến cho những
quyến thuộc ấy đối trước tượng
của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc kỉnh
này, hoặc thỉnh người khác đọc, số đến
ba lần hoặc bảy lần).
V́ sao [đức
Phật] lại bảo ngài Phổ Quảng dùng thần lực
khiến cho quyến thuộc đọc kinh? Do kẻ ngu trong
thế gian ít người biết ơn. Lục thân đang
sống sờ sờ, họ c̣n chẳng hề đoái hoài,
huống hồ người thân đă cách mấy đời!
Dẫu có người nghĩ tưởng, do chưa biết
mặt, dẫu [người đă khuất] hiện h́nh
trong mộng mị, họ vẫn chẳng nghĩ tới.
V́ thế, ngài Phổ Quảng dùng thần lực ngấm
ngầm giúp đỡ, khiến họ mau chóng nghĩ nhớ,
khiến cho họ cung kính đối trước tượng
Phật, Bồ Tát, hoặc tự đọc kinh, hoặc
thỉnh người khác đọc. V́ sao tụng kinh này tới
ba lượt hay bảy lượt? Do chúng đều là những
con số Dương [trong Dịch học]. “Ba” là con số
của thiên, địa, nhân. Từ một mà lại gấp
bội lên th́ Tam Tài được trọn đủ. Một
thành hai là Dương sanh Âm; hai sanh ra ba là Âm và Dương ḥa
hợp. Ba sanh ra vạn vật, sanh sôi vô cùng. Bảy là con số
thuộc về Thiếu Dương. Đây cũng là biến
thể của hai và ba, hai thêm năm thành bảy, [bảy] cộng
thêm hai thành chín, tức là Lăo Dương. Chuyển ngục
quỷ nơi âm ty sanh vào dương thế thuộc cơi trời.
V́ thế, chỉ lấy con số ba và bảy, chẳng nêu
ra con số sáu và tám, bởi số âm khuyết hăm, chẳng
phải là đạo siêu thoát lên cơi sáng.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.2.3. Tồn
vong đắc ích (kẻ c̣n lẫn người
mất được lợi ích)
(Kinh)
Như thị ác đạo quyến thuộc, kinh thanh tất
thị biến số, đương đắc giải
thoát, năi chí mộng mị chi trung, vĩnh bất phục kiến.
(經)如是惡道眷屬‧經聲畢是徧數‧當得解脫。乃至夢寐之中‧永不復見。
(Kinh:
Khi tiếng tụng kinh trọn đủ số ấy th́
các quyến thuộc trong ác đạo như thế sẽ
được giải thoát, thậm chí trong khi mộng mị,
sẽ vĩnh viễn chẳng thấy họ nữa).
“Giải
thoát” là ĺa khỏi ác đạo; hoặc
sanh lên cơi trời, hoặc tiến nhập tam thừa thánh đạo.
Người thân đă mất được siêu thăng, sẽ
chẳng c̣n hiện h́nh trong mộng mị nữa.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.3. Hạ tiện
cầu hối (kẻ hèn hạ cầu sám hối)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.3.1. Tiêu năng
sám nhân (nêu ra người có thể sám hối)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược vị lai thế,
hữu chư hạ tiện đẳng nhân, hoặc nô, hoặc
tỳ, năi chí chư bất tự do chi nhân, giác tri túc nghiệp,
yếu sám hối giả.
(經)復次普廣‧若未來世‧有諸下賤等人‧或奴或婢‧乃至諸不自由之人。覺知宿業‧要懺悔者。
(Kinh:
Lại này Phổ Quảng! Nếu trong đời vị
lai có những kẻ hạ tiện, hoặc là tớ trai,
hoặc là tớ gái, cho đến những kẻ chẳng
được tự do, nhận biết là do nghiệp đời
trước, cần phải sám hối).
“Hạ
tiện”: Theo kinh Biện Ư, có năm sự [khiến cho
một người] thường sanh làm kẻ ty tiện
(kém hèn), làm nô tỳ cho kẻ khác:
- Một
là kiêu mạn, chẳng kính trọng cha mẹ.
- Hai là ương
ngạnh, chẳng có tâm cẩn trọng.
- Ba là buông
lung, chẳng lễ kính Tam Bảo.
- Bốn
là sống bằng nghề trộm cắp.
- Năm
là mắc nợ mà trốn tránh, chẳng đền trả.
Nhưng
hạ tiện là nói tương phản với tôn quư, nô tỳ
là nói tương phản những người thuộc thế
gia vọng tộc, mỗi nơi đều có sự khác biệt.
Nếu nói theo bốn phương, châu Bắc Uất Đan
Việt không có kẻ nào được coi là tôi tớ, cho nên
chẳng có sang, hèn. Ba châu kia mới có sang, hèn, do có vua, quan,
dân chúng khác biệt. Do có thế gia vọng tộc và tôi tớ
sai khác, cho nên mới có các loại sang, hèn khác nhau. Nói gộp
chung về sang hèn th́ có sáu bậc:
- Một
là tôn quư nhất trong những kẻ tôn quư, như Luân Vương
v.v…
- Hai là loại
kém hơn trong những bậc tôn quư, tức là các vị Túc
Tán Vương.
- Ba là bậc
hạ trong những người tôn quư, tức bá quan.
- Bốn
là kẻ hèn kém nhất trong những kẻ hèn kém, tức nô
tỳ, tôi tớ sai vặt…
- Năm
là những kẻ đỡ hèn kém hơn, tức kẻ hầu
thân cận, nông nô…
- Sáu là những kẻ đỡ hèn kém nhất, tức
bọn vợ lẽ, hầu thiếp v.v…
Nói gộp
chung thô lược như thế, chứ tách ra cặn kẽ,
sẽ chẳng thể cùng tận. “Những kẻ chẳng
được tự do” tức là những kẻ chẳng
thuộc vào hàng nô tỳ hèn kém, tức là bọn sai dịch
nơi công môn, nha lại v.v… Hằng
tháng được trả lương để hằng ngày
có cái mà sống, nghe lệnh đ̣i bèn đến, phải biết
đón ư chủ nhân, nghe theo lệnh sai khiến mà làm, tuân
theo oai thế của chủ nhân, thân chẳng được
tự tại, chẳng phải là bậc trượng phu.
“Túc nghiệp”: Đức Phật bảo
vua Ba Tư Nặc: “Phàm nhân xử thế, tôn ty quư tiện,
bần phú khổ lạc, giai do túc hạnh nhi trí tư quả.
Nhược thế chi ngu ngoan vô giác tri giả, ức khởi
cam chi, thả vị đắc chi. Nhược sảo hiệt
huệ, hữu giác tri giả, khởi duy ai chi, thành dục
thoát chi. Nhược dục ly thoát, tất tu sám-ma địch
đăng, hối quá khiên vưu” (Phàm là người sống
trong cơi đời, sang cả, thấp hèn, giàu, nghèo, khổ,
vui, đều do những hành vi đời trước dẫn
đến cái quả ấy. Nếu là kẻ ngu độn,
ương nướng, chẳng hiểu biết trong cơi đời,
có lẽ sẽ cam chịu, lại c̣n cho đó là chuyện đương
nhiên. Nếu là có đầu óc đôi chút, có hiểu biết,
há chẳng buồn sao, thật
sự mong thoát khỏi. Nếu muốn thoát ĺa, ắt cần phải sám hối
để gột sạch, hối hận tội lỗi và
oan trái trong quá khứ). Kinh Kim Quang Minh nói: “Hệ thuộc
ư tha, thường hữu bố úy, bất đắc tự
tại, nhi tạo chư ác, cố tu hành sám hối dă” (Phụ
thuộc vào người khác, sẽ thường bị lo sợ,
chẳng được tự tại, do tạo các ác, cho nên
phải tu hành sám hối). Chữ Sám-ma (Kṣama) trong
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Hối Quá (悔過, hối lỗi). [Nói “sám
hối”] là dùng cả tiếng Phạn lẫn tiếng Hán
ghép lại. Sách Phụ Hành viết: “Sám hối chỉ là
[sửa đổi sao cho] ba nghiệp tốt lành”.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.3.2. Thích sở
hối pháp (giảng về phương
pháp sám hối)
(Kinh)
Chí tâm chiêm lễ Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng,
năi chí nhất thất nhật trung, niệm Bồ Tát danh,
khả măn vạn biến.
(經)志心瞻禮地藏菩薩形像‧乃至一七日中‧念菩薩名‧可滿萬徧。
(Kinh:
Chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng Địa
Tạng Bồ Tát, cho đến trong ṿng bảy ngày có thể
niệm danh hiệu Bồ Tát trọn một vạn lần).
“Bảy
ngày”: Con số cùng tột trong thế gian là bảy. Nếu
niệm một ngày chưa cảm ứng th́ niệm suốt
bảy ngày, ắt sở cầu sẽ được toại
nguyện. V́ thế, kinh Thập Luân dạy: “Nhất nhật
xưng Địa Tạng, công đức đại danh
văn, thắng câu-chi kiếp trung, xưng dư trí giả
đức, năng giải chư chúng sanh, nhất thiết
phiền năo phược” (Xưng niệm đức Địa
Tạng một ngày th́ công đức sẽ lừng lẫy,
hơn công đức xưng niệm những bậc trí khác
trong câu-chi kiếp; [công đức ấy] có thể tháo gỡ
hết thảy những phiền năo trói buộc chúng sanh). V́
thế, cần phải xưng niệm danh hiệu của
Ngài đủ một vạn lần, biểu thị “trừ
khử muôn điều ác, tu tập muôn điều thiện”.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.3.3. Kết
chuyển báo ích (tiểu kết phần lợi
ích chuyển đổi quả báo)
(Kinh)
Như thị đẳng nhân, tận thử báo hậu, thiên
vạn sanh trung, thường sanh tôn quư, cánh bất kinh tam ác
đạo khổ.
(經)如是等人‧盡此報後‧千萬生中‧常生尊貴‧更不經三惡道苦。
(Kinh:
Những người như thế sau khi hết báo thân này,
trong ngàn vạn đời, thường sanh làm người
tôn quư, trọn chẳng chịu nỗi khổ trong ba đường
ác nữa).
Điều
này hiển thị sức đại oai thần của đức
Địa Tạng. Như đức Phật bảo ngài Biện
Ư: “Hữu ngũ sự đắc vi tôn quư, chúng nhân sở
kính. Nhất, thí huệ phổ quảng. Nhị, lễ kính
Tam Bảo cập chúng trưởng giả. Tam, nhẫn nhục,
vô hữu sân khuể. Tứ, nhu ḥa khiêm hạ. Ngũ, bác
văn kinh giới” (Có năm sự khiến cho [người
nào vâng làm theo], sẽ được tôn quư, mọi người
kính trọng: Một là bố thí rộng răi. Hai là lễ kính
Tam Bảo và các vị trưởng thượng. Ba là nhẫn
nhục, chẳng nóng giận. Bốn là nhu ḥa, khiêm tốn,
nhún nhường. Năm là rộng nghe kinh giới). Nay bảy
ngày xưng danh, há chỉ là tôn quư trong ngàn vạn đời, mà c̣n chẳng trải qua ác đạo,
tức là Phật quả ắt sẽ đạt được!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.4. Tân sản
hoạch phước (người mới sanh nở
được phước)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.4.1. Cử
chủng loại tân sản (nêu ra các loại người
mới sanh nở)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược vị lai thế
trung, Diêm Phù Đề nội, Sát-lợi, Bà-la-môn, trưởng
giả, cư sĩ, nhất thiết nhân đẳng, cập
dị tánh chủng tộc, hữu tân sản giả, hoặc
nam, hoặc nữ.
(經)復次普廣‧若未來世中‧閻浮提內‧剎利‧婆羅門‧長者‧居士‧一切人等‧及異姓種族‧有新產者‧或男或女。
(Kinh:
Lại này, Phổ Quảng! Nếu trong đời vị
lai, trong Diêm Phù Đề, Sát-lợi, Bà-la-môn, trưởng
giả, cư sĩ, hết thảy mọi người, và
những chủng tộc khác, có người mới sanh nở,
dù sanh con trai, hay sanh con gái).
Chỉ nói
về Nam Châu v́ Bắc Châu sanh con dưới gốc cây[36], cũng chẳng
trần trụi, dơ bẩn, khổ
năo! Hai châu Đông và Tây dục sự đă ít, sanh nở đương
nhiên cũng ít. Chỉ có nữ nhân ở Nam Châu sanh nở
nhiều, chịu khổ nhiều, do hết thảy chúng sanh, khi mẹ
sắp sanh con, toàn thân đau đớn, hứng chịu khổ
năo to lớn. Thoạt đứng, thoạt ngồi, chẳng
thể tự yên. V́ thế, đặc biệt nói về người
trong Diêm Phù Đề. “Sát-lợi v.v…”: Người tuy
sang hèn chẳng b́nh đẳng, nhưng lúc sanh ra th́ thiện,
ác ai biết? Ba mươi tám thất trọn đủ (tṛn
đủ chín tháng mười ngày hoài thai), ắt phải chuyển
dạ sanh trai hay gái. Đấy là do túc nghiệp nhân duyên, thuận
theo sự biến hóa của Âm Dương. V́ thế, trong
Bát Quái của Châu Dịch, Càn thuộc Dương là cha, Khôn
thuộc Âm là mẹ, sanh ba trai là Chấn, Khảm, Cấn,
ba gái là Tốn, Ly, Đoài, hóa sanh vạn vật. Theo kinh Tăng
Nhất A Hàm, nếu là con gái, thai nhi sẽ ở bên hông trái
của mẹ, nương vào xương sống, hướng
đầu về phía bụng mà trụ. Nếu là con trai, sẽ
ở bên hông phải của mẹ, nương vào bụng,
hướng đầu về xương sống mà trụ.
Do vậy biết là trai hay gái cũng đều do ái mà sanh,
do dâm dục mà có tánh mạng.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.4.2. Thị
kinh danh lợi ích (chỉ bày lợi ích của kinh
này và danh hiệu của đức Địa Tạng)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.4.2.1. Tụng
kinh, niệm danh (tụng kinh này, niệm danh hiệu
của Địa Tạng Bồ Tát)
(Kinh)
Thất nhật chi trung, tảo dữ độc tụng
thử bất tư nghị kinh điển, cánh vị niệm
Bồ Tát danh, khả măn vạn biến.
(經)七日之中‧早與讀誦此不思議經典‧更為念菩薩名‧可滿萬徧。
(Kinh:
Trong ṿng bảy ngày, hăy sớm đọc tụng kinh điển
chẳng thể nghĩ bàn này và có thể niệm danh hiệu
Bồ Tát cho người ấy đủ số một vạn
lần).
V́ sao hăy nên
sớm đọc kinh và xưng danh hiệu? Theo kinh Hộ Chư
Đồng Tử Chú, lúc đức Như Lai mới thành Chánh
Giác, có một Đại Phạm Thiên Vương đến
chỗ đức Phật, làm lễ, nói kệ rằng: “Hữu
Dạ Xoa, La Sát, thường hỷ đạm nhân thai, năng
linh nhân vô tử, thương hại ư bào thai. Nam nữ
giao hội thời, sử kỳ ư mê loạn, hoài nhâm bất
thành tựu, cập sanh thời đoạt thai, giai thị
chư ác quỷ, vị kỳ tác nhiễu hại. Ngă kim
thuyết bỉ danh, nguyện Phật thính ngă thuyết. Đệ
nhất danh Di Thù Ca, năi chí đệ thập ngũ danh Lam Bà.
Thử thập ngũ quỷ thần, thường du hành
thế gian, vị anh hài, tiểu nhi, tác ư khủng bố,
cập thuyết khủng bố h́nh tướng” (Có Dạ
Xoa, La Sát thường thích ăn thai người, khiến
cho người ta không có con, gây tổn hại cho bào thai. Khi
trai gái giao hợp, chúng nó khiến cho tâm ư họ mê loạn,
chẳng đậu thai được, và đến lúc sanh
nở bèn đoạt thai, đều là do các ác quỷ ấy
gây hại. Con nay nói tên chúng nó, thứ nhất tên là Di Thù Ca
(Mañjuka), cho đến quỷ
thứ mười lăm tên là Lam Bà (Ālambā). Mười lăm quỷ
thần ấy[37] thường
du hành trong thế gian, gây kinh hoảng, hăi hùng cho con thơ,
trẻ nhỏ, và nói h́nh tướng kinh khiếp của chúng).
Nay v́ đă sớm đọc kinh Bổn Nguyện và niệm
danh hiệu đức Địa Tạng, khiến cho các vị
thiện thần ủng hộ, bảo vệ môn hộ, ác quỷ
tự trốn xa!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.4.2.2. Thoát ương,
tăng thọ (thoát họa hại, tăng tuổi
thọ)
(Kinh)
Thị tân sanh tử, hoặc nam, hoặc nữ, túc hữu
ương báo, tiện đắc giải thoát, an lạc, dị
dưỡng, thọ mạng tăng trưởng.
(經)是新生子‧或男或女‧宿有殃報‧便得解脫。安樂易養‧壽命增長。
(Kinh:
Đứa trẻ mới sanh đó dù trai hay gái, nếu đời
trước có ương báo liền được giải
thoát, yên vui, dễ nuôi, thọ mạng tăng thêm).
Đoạn
này chia làm hai tiểu đoạn. Thứ nhất là chuyển
biến túc báo. “Túc ương báo”: Luận Du Già Sư
Địa nói: “Lại nữa, ở trong thai tạng (bào
thai), hoặc là do nghiệp lực từ trước, hoặc
do mẹ chẳng tránh khỏi sức bất b́nh đẳng
mà sanh ra loại gió tùy thuận, khiến cho nơi thai tạng,
hoặc tóc, hoặc lông, hoặc da, và các chi thể khác sanh
ra biến đổi khác lạ”. Nay đă tụng kinh, xưng
danh, sẽ khiến cho đứa bé dù trai hay gái mới sanh
đều thoát khỏi trọn hết quả báo do túc ương.
“Yên vui, dễ nuôi”: Khi thai tạng đă h́nh thành tột
cùng viên măn, người mẹ không chịu nổi cái thai nặng
nề ấy, vào ngày thứ tư, Nội Phong liền phát
khởi, sanh ra đại khổ năo. Thai tạng ấy lại
do Phần Phong phát sanh từ nghiệp báo khiến cho đầu
[thai nhi] chúc xuống dưới,
chân hướng lên trên, nhau thai quấn cuộn, hướng
đến sản môn. Đúng lúc lọt ḷng, nhau thai bèn nứt
tách ra, bám vào hai bên nách [đứa bé]. Khi ra khỏi sản
môn th́ gọi là Chánh Sanh Vị. Sanh xong th́ gọi là Xúc, nghĩa
là mắt tiếp xúc [cảnh vật bên ngoài] v.v… Nhưng
khi sanh có nhiều loại khác nhau, hoặc là sanh thuận,
hoặc là đẻ ngược. Thậm chí có đứa
một chân ra trước, được gọi là “đạp
liên sanh” (sanh ra theo kiểu đạp hoa sen). Nếu ruột
của mẹ cũng lọt theo ra th́ gọi là “bàn tràng
sanh” (quấn ruột mà sanh). Trường hợp này hiểm
ác nhất, mạng trong khoảnh khắc. Nay đă tụng
kinh, niệm danh, ắt b́nh yên, vui sướng, sanh nở, nuôi
nấng rất dễ dàng.
“Thọ
mạng tăng trưởng”: [Trong Phật Thuyết Hộ
Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh], Đại Phạm
lại bạch với đức Phật: “Thử
chư nữ đẳng, dục cầu tử tức bảo
mạng trường thọ giả, thường
đương hệ niệm tu hành thiện pháp. Ư nguyệt
bát nhật, thập ngũ nhật, thọ tŕ bát giới, thanh
tịnh tẩy mộc, tụng ngă sở thuyết đà-la-ni
chú giả, sở sanh đồng tử an ổn vô hoạn,
tận kỳ h́nh, thọ mạng bất trung yểu” (Những người nữ
ấy muốn cầu cho con cái giữ yên tánh mạng, sống
lâu, hăy nên thường hệ niệm, tu hành thiện pháp.
Trong ngày mồng Tám và ngày Rằm mỗi tháng, thọ tŕ tám
giới, tắm gội thanh tịnh, tụng chú đà-la-ni
do con đă nói th́ đứa trẻ được sanh ra ấy
sẽ an ổn, không hoạn nạn, cho đến hết đời
chẳng bị chết yểu). Nay đă tụng kinh,
xưng danh, sẽ không bị ác quỷ năo hại, cho nên thọ
mạng tăng trưởng.
(Kinh)
Nhược thị thừa phước sanh giả, chuyển
tăng an lạc, cập dữ thọ mạng.
(經)若是承福生者‧轉增安樂‧及與壽命。
(Kinh:
Nếu là đứa trẻ nương theo phước mà
sanh, sẽ tăng thêm an lạc và thọ mạng).
Từ chữ
“nhược thị” (nếu là) trở đi, ư nói: Tăng
phước trong hiện tại. “Thừa phước sanh”
(nương theo phước mà sanh): Kinh Tu Hành Đạo
Địa nói: “Nhân hạnh bất thuần, hoặc thiện,
hoặc ác, chí tam thập bát thất nhật, tại mẫu
phúc trung, tùy kỳ bổn hạnh, tự nhiên phong khởi,
túc hành thiện giả, tiện hữu hương phong, khả
kỳ thân ư, nhu nhuyễn vô hà, chánh kỳ cốt tiết, linh
kỳ đoan chánh, mạc bất ái kính. Hựu mẫu phúc
phong khởi, hoặc thượng, hoặc hạ, chuyển
kỳ nhi thân, nhi linh đảo huyền, đầu hướng
sản môn. Kỳ hữu phước giả, thời tâm niệm
ngôn, ngă đầu dục tŕ, thủy trung du hư, như đọa
cao sàng, hoa, hương chi xứ dă. Ác giả, phản thị”
(Do hạnh của mỗi người khác nhau, hoặc
thiện, hoặc ác, cho đến ba mươi tám thất
(chín tháng mười ngày), ở trong bụng mẹ, tùy theo
hạnh của chính ḿnh, tự nhiên gió nổi lên, kẻ xưa
kia đă làm lành bèn có gió thơm, sướng thân vừa ư, mềm
mại, không khuyết điểm, khiến cho các đốt
xương ngay ngắn, khiến cho [thân thể] đoan chánh,
không ai chẳng yêu mến. Trong bụng mẹ, gió lại nổi
lên, hoặc phía trên, hoặc phía dưới, xoay chuyển
thân thai nhi, khiến cho nó chúc đầu xuống, đầu
hướng đến sản môn. Kẻ có phước th́
khi ấy, tâm sẽ nghĩ rằng: “Ta gieo ḿnh vào ao tắm,
vui chơi trong nước, như té vào giường cao, vào
chỗ hương, hoa”. Kẻ ác th́ trái lại). Nay lại
sớm v́ đứa trẻ ấy tụng kinh, xưng danh,
nó lại nương vào phước xưa kia mà sanh, cho nên
đương nhiên phải an vui, tăng thêm an lạc. Thọ
mạng đương nhiên phải tăng thêm nhiều!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.5. Trai tụng
cảm báo (ngày thập trai tụng kinh cảm
báo) 3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.5.1. Tiêu trai nhật ư (nói về
ư nghĩa của các ngày trai)
(Kinh)
Phục thứ Phổ Quảng! Nhược vị lai thế
chúng sanh, ư nguyệt nhất nhật, bát nhật, thập
tứ nhật, thập ngũ nhật, thập bát nhật,
nhị thập tam, nhị thập tứ, nhị thập bát,
nhị thập cửu, năi chí tam thập nhật.
(經)復次普廣‧若未來世眾生。於月一日‧八日‧十四日‧十五日‧十八日‧二十三‧二十四‧二十八‧二十九日‧乃至三十日。
(Kinh:
Lại này Phổ Quảng! Nếu chúng sanh trong đời
vị lai, mỗi tháng vào ngày mồng Một, mồng Tám, Mười
Bốn, Rằm, Mười Tám, Hai Mươi Ba, Hai Mươi
Bốn, Hai Mươi Tám, Hai Mươi Chín, cho đến
ngày Ba Mươi).
Tŕ trai
trong cơi đời có ba loại: Trường trai (ăn chay
trường), ăn chay mỗi tháng sáu ngày, và mười
ngày khác nhau. Nay trước hết ấn định số
ngày trai [trong mỗi tháng]. Theo kinh Văn Thù Bồ Tát Thiện
Ác Tú Diệu, vào ngày mồng Một mỗi tháng, tiếng Phạn
là Bát Xà Để Hạ (Hán dịch là Phạm Vương),
là ngày Kiến Danh, hăy nên làm chuyện thuộc về thiện
nghiệp, khắc khổ tu hành, bố thí v.v… th́ sẽ tốt
lành. Ngày mồng Tám và Hai Mươi Ba, là ngày
Lực Chiến, thiện thần Bà Sa giáng hạ, hăy nên tận
lực tu tập. Ngày Mười Bốn và ngày Hai Mươi
Chín là ngày Dũng Mănh, thần Dược Sô giáng hạ. Ngày
Hai Mươi Bốn là ngày Hung Mănh, thần Rô Đạt Ra
Ni (Rudrani) giáng hạ. Ngày Hai Mươi Tám là ngày Tối Thắng,
thần Bát Chiết Để (tiếng Hán là thần thiên
ma) giáng hạ. Ngày Rằm và Ba Mươi là ngày Cát Tướng
(tướng trạng tốt đẹp), thần Tất Đa
Lô (Hán dịch là Hồn Linh Thần) giáng hạ. Hăy nên cúng tế
người đă khuất và bố thí, cúng dường cha
mẹ, bậc đáng tôn kính, chư thiên, giữ ǵn trai giới,
thí thực, và cúng bái các thứ th́ sẽ tốt lành. Do vậy,
lấy mười ngày ấy làm trai nhật.
Nhưng
hai chữ “năi chí” (cho đến) từ xưa đến
nay đều giảng là từ ngữ hàm ư giản lược.
Nay số ngày đă đến hai mươi chín rồi, mà lại
c̣n nói lược qua đến ngày ba mươi, [nếu
cho rằng] là vị pháp sư dịch kinh hành văn không suông
sẻ cho lắm th́ chẳng đúng, [viết như vậy]
hàm súc ư nghĩa sâu xa mà không ai biết! Tôi suy xét chữ Năi (乃), thấy cổ nhân giải
thích chữ Năi có nghĩa là “khó khăn”, nhưng dùng theo
ư nghĩa của chữ Nan trong từ ngữ “nan tâm” (trong
tâm ngại khó) th́ khác hẳn. V́ thế, [chữ Năi viết
theo lối cổ] h́nh dung ngữ điệu do dự, diễn
tả ư “đă khó khăn lại càng khó khăn hơn”. Do vậy,
[vị pháp sư dịch kinh] dùng chữ Năi ở đây với
dụng ư dạy người nghe: Nay nói từ ngày mồng Một
đến ngày Ba Mươi, mười ngày chẳng gián đoạn
như thế, tột bậc khó, hết sức khó! Nếu
chẳng chấp nhận cách hiểu này, hai chữ [Năi Chí] ấy
làm sao có thể giải thích cho suông sẻ được?
(Kinh)
Thị chư nhật đẳng, chư tội kết tập,
định kỳ khinh trọng.
(經)是諸日等‧諸罪結集‧定其輕重。
(Kinh:
Trong những ngày ấy, các tội kết tập, phán định
nặng, nhẹ).
Ba câu kể
từ “thị chư” (trong những ngày ấy) trở
đi, giải thích ư nghĩa của những ngày ấy. Theo
sách Phật Tổ Thống Kỷ, trích dẫn kinh Đề
Vị dạy về ba tháng ăn chay trường. Đức
Phật bảo trưởng giả Đề Vị rằng:
“Tứ thời giao đại, tuế chung tam phúc dĩ
giảo, nhất nguyệt lục tấu, chư thiên, Đế
Thích, thái tử, sứ giả, Diêm La quỷ thần, câu dụng
chánh nguyệt, ngũ nguyệt, cửu nguyệt đán nhật,
án hành vương, dân, long, quỷ, điểu, thú, vi thiện
ác giả, dữ tứ vương nhất nguyệt lục
tấu, sử vô uổng thác, phúc giảo chúng sanh tội phước
đa thiểu. Phước đa giả, sắc tư mạng
hạ Diêm La ngũ quan trừ tội, tăng lộc” (Bốn mùa đắp đổi,
cuối năm có ba lượt phúc thẩm, so sánh. Cứ mỗi
tháng, [tứ thiên vương] tấu tŕnh sáu lượt. Chư
thiên, Đế Thích, thái tử, sứ giả, Diêm La, quỷ
thần đều dùng ngày mồng Một của tháng Giêng,
tháng Năm, và tháng Chín để tra xét chuyện thiện ác
của vua, dân, rồng, quỷ, chim, thú [trong thế gian], so
sánh với lời tâu sáu lần mỗi tháng của tứ
thiên vương để [xét xử] không bị oan uổng,
sai lạc, phúc thẩm tội phước của chúng sanh nhiều
hay ít. Đối với người nhiều phước,
liền sắc truyền năm vị quan Diêm La dưới
quyền vị đặc trách để trừ tội hay
tăng lộc cho kẻ đó). V́ thế, dạy hăy giữ
ba tháng trường trai ấy.
[Sách ấy]
lại dẫn kinh Tứ Thiên Vương để giảng
về sáu ngày trai: “Đế Thích sắc tứ vương,
các trị nhất phương, bạch nguyệt bát nhật,
khiển sứ giả án sát chúng sanh thiện ác. Thập Tứ
nhật, khiển thái tử. Thập ngũ nhật, vương
thân lâm. Hắc nguyệt tam nhật, diệc như thị.
Nhược vương thân hạ, tinh tú, quỷ thần câu thời tùy
tùng. Như ngộ tu hành, trai giới, chư thiên tương
khánh, tức vi chú lộc, tăng toán” (Đế Thích sắc
truyền bốn vị thiên vương, mỗi vị cai
quản một phương. Vào ngày mồng Tám của bạch
nguyệt[38],
sai sứ giả tra xét thiện ác của chúng sanh. Ngày Mười
Bốn, sai thái tử [làm việc ấy]. Ngày Rằm, thiên vương
đích thân làm. Ba ngày (Hai Mươi Ba, Hai Mươi Chín, Ba
Mươi) trong hắc nguyệt cũng như vậy. Nếu
thiên vương đích thân giáng hạ, tinh tú, quỷ thần
đều cùng đi theo. Nếu gặp người tu hành,
trai giới, chư thiên vui mừng, tăng lộc, tăng
thọ cho người ấy).
Lại dẫn
kinh Thập Trai để nói về mười ngày trai: “Mỗi
nguyệt thập trai nhật, tŕ Phật, Bồ Tát hiệu,
khất phước, diệt tội” (mỗi tháng mười
ngày trai, tŕ danh hiệu Phật, Bồ Tát, cầu phước,
diệt tội) (đối với sáu ngày trai [như vừa
nêu trên đây], thêm vào bốn ngày trong tháng nữa, như
trong kinh Địa Tạng nói). Nay theo phép nước, hạ
lệnh cho các châu trong Thập Trực Nhật[39], không được
hành h́nh chính là v́ ư nghĩa này.
Kinh Tịnh
Độ Tam Muội lại nói: Trong tám vương nhật
(tức Lập Xuân, Xuân Phân, cho đến Lập Đông, Đông
Chí), chư thiên, Đế Thích, trấn thần gồm ba mươi
hai vị, tứ trấn đại vương (tứ thiên
vương), tư mạng, tư lộc, ngũ Diêm La đại
vương, tám vương sứ giả, đều đi
khắp bốn phương để tra xét. Lại nữa,
bốn vị vua trực nhật sẽ tấu lên [Đế
Thích] vào ngày Rằm và Ba Mươi, tra xét nhân dân lập hạnh
thiện ác. Vua cơi địa ngục cũng sai các vị
quan phụ tá, các tiểu vương cùng lúc đi tra xét, hễ
ai có tội bèn ghi chép. Phạm lỗi trong tám ngày trai thuộc
vương nhật (tám ngày tiết như Lập Xuân, Xuân Phân…)
trên đây mà phước mạnh th́ có thể bổ cứu,
an ổn, không có chuyện ǵ khác, do phước mà được
xá tội. Sau đó, do phạm lỗi nặng trong mười
ngày trai, số lượng tội nhiều, xét theo từng
điều tội mà giảm thọ, ấn định ngày,
tháng, năm sẽ chết, giao cho địa ngục. Địa
ngục nhận được văn thư, liền sai ngục
tốt ghi chép tên họ. Quỷ trong địa ngục chẳng
có ḷng Từ, [kẻ phạm tội
đó] chưa đến ngày chết, họ đă thôi thúc kẻ
đó làm ác, khiến cho mạng hắn bị rút ngắn. Kẻ
nhiều phước, sẽ tăng thêm tuổi thọ. Trời
sai thiện thần che chở người ấy, truyền
địa ngục dẹp trừ tội danh, tăng thêm thọ
mạng, về sau, sanh lên cơi trời. Những cách tŕ trai trên
đây đều phát xuất từ kinh Phật, đều
nên tuân phụng, sẽ hưởng phước
măi măi. Đừng nên cố ư vi phạm, để rồi
tự gánh họa ương. V́ thế, tôi ghi chép tường
tận ở đây.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.5.2. Thích độc
kinh chi ích (nói về lợi ích do đọc
kinh)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.5.2.1. Cử
Diêm Phù tội trạng (nêu ra tội trạng của
người trong châu Diêm Phù)
(Kinh)
Nam Diêm Phù Đề chúng sanh, cử chỉ động niệm,
vô bất thị nghiệp, vô bất thị tội. Hà huống
tứ t́nh sát hại, thiết đạo, tà dâm, vọng ngữ,
bách thiên tội trạng!
(經)南閻浮提眾生‧舉止動念‧無不是業‧無不是罪。何況恣情殺害‧竊盜‧邪婬‧妄語‧百千罪狀。
(Kinh:
Chúng sanh trong Nam Diêm Phù Đề cư xử, dấy lên ư niệm,
không ǵ chẳng phải là nghiệp, không ǵ chẳng phải
là tội. Huống chi mặc sức giết hại, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, trăm ngàn tội trạng).
Người
Nam Châu tâm thức vô định; huống hồ trong ư căn,
theo pháp tắc sanh thành có ba tánh thiện, ác, vô kư (không thiện
không ác); nhưng phàm phu nhiều lúc dấy lên ác niệm. “Cử”
(舉, hành động) là động,
Chỉ (止, không hành động) là
tĩnh. Dù động hay tĩnh, dấy lên ư niệm chẳng
đồng nhất. Kinh An Ban Thủ Ư dạy: “Nhất đàn
chỉ khoảnh, tâm hữu cửu bách lục thập chuyển”
(trong khoảng thời gian một cái khảy ngón tay, tâm chyển
đổi ư niệm chín trăm sáu mươi lần). Kinh
Nhân Vương dạy: “Nhất niệm hữu cửu thập
sát-na, nhất nhất sát-na trung, phục hữu cửu bách
sanh diệt” (Trong một niệm có chín mươi sát-na,
trong mỗi sát-na có chín trăm lần sanh diệt). Kinh Bồ
Tát Xử Thai dạy: “Nhất đàn chỉ khoảnh, hữu
tam thập nhị ức bách thiên niệm, niệm niệm
thành h́nh, h́nh h́nh hữu thức. Nhất niệm thiện, hữu
vô lượng thiện quả báo. Nhất niệm ác, hữu
vô lượng ác quả báo” (Trong khoảng một cái khảy
ngón tay, có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, niệm
niệm thành h́nh, mỗi h́nh đều có thức. Một niệm
thiện, có vô lượng thiện quả báo. Một niệm
ác, có vô lượng ác quả báo). V́ thế nói: “Cử chỉ
động niệm, vô phi thị nghiệp” (Hành động
hay tĩnh lặng, dấy lên ư niệm, không ǵ chẳng phải
là nghiệp).
Nhưng
phàm phu tạo nghiệp, hễ thân, khẩu dấy động,
đều do cái tâm sai khiến. Nếu tâm bất thiện
th́ mới có thể tổn hại chúng sanh. Nếu trong tâm
tốt lành th́ mới có
thể tương
ứng với phước. Tuy là tổn hại hay lợi ích
khác nhau, nhưng cái gốc của ba nghiệp đều bắt
nguồn từ tâm. V́ thế, hễ dấy động ư niệm
bèn thành nghiệp. Niệm thiện là phước, niệm ác
thành tội. Nhưng kiểm điểm tự tâm th́ trong mười
hai thời, nói chung là tội nhiều hơn phước; huống
hồ c̣n buông lung sáu t́nh thức, mặc sức tạo tác ba
nghiệp ư? Kinh Di Giáo dạy: “Túng thử tâm giả,
táng nhân thiện sự. Thí chi nô mă, cực lực khống
chế, thượng nan điều phục. Nhược túng
kỳ bôn dật, tổn vật vô nghi” (Buông lung cái tâm này
sẽ chôn vùi thiện sự của mỗi người. Ví
như ngựa hèn, cực lực khống chế nó, mà c̣n
khó điều phục. Nếu để mặc cho nó chạy
lung tung, sẽ tổn hại muôn vật chẳng ngờ chi). Giết
hại, trộm cắp, tà dâm là ba ác nghiệp nơi thân. Nói
dối v.v… bao gồm bốn nghiệp nơi miệng như
đă nói trong phần trước. “Trăm ngàn tội trạng”
tức là một sát nghiệp có thượng, trung, hạ,
cho đến tham, sân, si cũng có thượng, trung, hạ.
Nói chi tiết, sẽ chẳng thể nêu trọn hết được!
V́ thế, chỉ nói tổng quát là “trăm ngàn”. Cần
biết: Kết tội do xét theo
cái tâm mà nghiệp có nặng, hay nhẹ; như sân nặng nề th́ tội
nặng nề, sân nhẹ th́ tội nhẹ. Thành Thật Luận
viết: “Hoặc do sự việc nặng nề, bèn có quả
báo cố định. Hoặc do tâm coi trọng mà có quả
báo cố định. Như người do phiền năo sâu
dầy mà giết hại trùng, kiến, tội sẽ nặng
hơn kẻ do cẩu thả mà giết người. Nếu
tâm chẳng có sân, dẫu giết bề trên, cho đến giết
cha, mẹ, cũng chẳng thành tội nghịch”. V́ thế
biết các nghiệp theo lệ, sẽ có nhẹ hay nặng. Tuy chia thành nặng
và nhẹ, nhưng thọ báo chẳng sai sót mảy may, há có
nên mặc sức buông lung ư?
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.5.2.2. Thị
trai nhật độc kinh (dạy đọc kinh
trong ngày trai)
(Kinh)
Năng ư thị thập trai nhật, đối Phật,
Bồ Tát, chư hiền thánh tượng tiền, độc
thị kinh nhất biến.
(經)能於是十齋日‧對佛菩薩‧諸賢聖像前‧讀是經一遍。
(Kinh:
Có thể trong mười ngày trai ấy, đối trước
tượng của Phật, Bồ Tát, và các vị hiền thánh đọc
kinh này một lượt).
Lục
trai và thập trai tăng giảm khác nhau. Đại Luận
quyển sáu mươi lăm chép: “Vào sáu ngày trai, chư
thiên đến quan sát ḷng người. Ngày Rằm và Ba Mươi,
bạch lên chư thiên. Sáu ngày trai lại là ngày xấu, tạo
hung suy cho con người. Nếu có ai trong những ngày ấy
thọ tám giới, tŕ trai, bố thí, nghe pháp, khi đó, chư
thiên hoan hỷ, tiểu quỷ chẳng thừa dịp làm
hại, hành giả được lợi ích”. V́ thế,
sách Ma Ha Chỉ Quán xếp việc tuân giữ trai nhật vào
hàng đầu là có lư do vậy, nhưng cách tŕ trai hơi khác
biệt. Sách [Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ] Xiển Nghĩa Sao trích
dẫn thiên Tế Thống [trong Lễ Kư]: “Trai (齋) có nghĩa là Tề
(齊, san bằng), tức
là san bằng những chỗ bất b́nh đẳng, ḥng đạt
đến b́nh đẳng, cũng như làm cho thanh tịnh,
ngăn ngừa tà vật, dứt các ham muốn, tai chẳng
nghe nhạc”.
Nay trong đạo
Thích coi “chẳng ăn quá ngọ” là Trai, cũng do dựa
theo ư nghĩa “ngăn tà, dứt dục, san bằng những
thứ bất b́nh đẳng”. V́ thế, sách Thỉnh
Quán Âm Sớ viết: “Trai chỉ là Trung Đạo. Sau giữa
trưa, chẳng được ăn nữa, biểu thị
ngoài Trung Đạo pháp giới, chẳng có pháp nào khác nữa!” Do lẽ này, trong đạo
Thích, tăng lẫn tục đều coi “sau giữa trưa
không ăn nữa” là Trai. Gần đây, có quan niệm thông
tục “kẻ bạch y (tại gia) không ăn mặn, uống
rượu” th́ Trai (tức là coi ăn chay là Trai), cho nên
khác biệt. Kinh Pháp Cú dạy: “Từ tự chủng họa
căn, nhật dạ trưởng chi điều, đường
khổ bại thân bổn, pháp trai độ thế tiên” (cúng
tế [quỷ thần] là gieo cái gốc họa, ngày đêm
[cái gốc họa] ấy càng tăng trưởng cành nhánh,
khổ công vô ích mà chỉ có hại cho thân tâm. Chỉ có Bát
Trai Giới là pháp lợi ích hơn hết
để vượt thoát tam giới)[40]. V́ thế,
trong các ngày Lục Trai hay Thập Trai, hăy nên tŕ trai, bố thí, đọc
tụng kinh Bổn Nguyện. Đấy là nói rơ chuyện đọc
kinh.
(Kinh)
Đông, Tây, Nam, Bắc, bách do-tuần nội, vô chư tai nạn.
Đương thử cư gia, nhược trưởng,
nhược ấu, hiện tại, vị lai, bách thiên tuế
trung, vĩnh ly ác thú.
(經)東西南北‧百由旬內‧無諸災難。當此居家‧若長若幼‧現在未來百千歲中‧永離惡趣。
(Kinh:
Đông, Tây, Nam, Bắc, trong một trăm do-tuần, không
có các tai nạn. Những người sống trong nhà ấy,
dù lớn hay bé, trong hiện tại và vị lai, trong trăm
ngàn năm, vĩnh viễn ĺa khỏi đường ác).
Tiếp đó
là nói đến lợi ích. Trước hết nói rơ: Do đọc
kinh, các phương không có tai nạn. Nếu có một người
có thể trong các ngày trai, đều đọc kinh một
lượt, sẽ khiến cho bốn phương trong ṿng
một trăm do-tuần, trọn chẳng có tai nạn. Thứ
ngỗ nghịch nơi đất là Yêu (䄏), điều trái thời nơi
trời th́ gọi là Tai (災). Nói “quyên trừ yêu
tai” (trừ sạch các thứ yêu quái, tai nạn) là nói về
chuyện này.
Kế đến
là nói “người trong nhà ĺa khỏi đường ác”.
V́ sao chỉ đọc kinh một lượt mà lại đạt
được quả báo thù thắng? Điều này tỏ
rơ chuyện lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức
Địa Tạng. Nhưng nay có trường hợp chẳng
phải là không đọc kinh, thế mà chẳng đạt
được báo ứng tốt đẹp là v́ lẽ nào?
Thưa rằng, chuyện này có hai ư:
- Người
ở trong vùng ấy và quyến thuộc sống trong nhà đời
trước tội ác sâu nặng, cho nên khó trốn khỏi
định nghiệp.
- Hai, có thể là do tâm người đọc
kinh khác nhau. Người chí tâm tụng kinh đắc lực,
cho nên có thể chuyển biến túc ương. Kẻ chẳng
chí tâm, do sức cạn cợt, phước chẳng thể
thắng nổi tội, cho nên khó chuyển!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.1.2.5.2.3. Thích hiện
thế phước lợi (giải thích về phước
báo và lợi ích trong đời hiện tại)
(Kinh)
Năng ư thập trai nhật, mỗi chuyển nhất
biến, hiện thế linh thử cư gia, vô chư hoạnh
bệnh, y thực phong dật.
(經)能於十齋日‧每轉一遍。現世令此居家‧無諸橫病‧衣食豐溢。
(Kinh:
Có thể trong mười ngày trai, thường tụng một
lượt, th́ trong đời này sẽ khiến cho người
sống trong nhà chẳng có các bệnh ngang trái, áo cơm sung
túc).
“Hoạnh
bệnh” (bệnh ngang trái) chính là dịch bệnh đang
lưu hành, do phước suy mà bỗng dưng nhiễm bệnh.
Tuy do ác quỷ xằng bậy giáng họa, ban phước,
nhưng chính là do bản thân ta không có thiện lực nên phải chuốc lấy [tai họa].
Nay đă
tụng kinh, vĩnh viễn dứt bặt các thứ bệnh
ngang trái. Áo cơm sung túc là chuyện quan trọng nhất.
Kinh Kim Quang Minh dạy:
“Y nhân y thực, chư kết năo nhiệt” (do v́ cơm
áo mà vấn vít lo nghĩ, khổ năo). Kinh Dược Sư dạy:
“Vị y thực cố, tạo chư ác nghiệp” (V́
cơm áo mà tạo các ác nghiệp). Nay do đọc kinh trong
ngày trai, cho nên cảm vời quả báo dư dật. Không chỉ
là chẳng có nghiệp, mà c̣n tăng phước. Dẫu là
kẻ nghèo nàn không có cơm áo, cũng sẽ đạt được
quả báo sung túc, dư dả. Lợi ích của kinh há nghĩ
bàn được ư? Nói về chuyện lợi ích đă
xong.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.2. Tổng kết
oai thần chi
lực (tổng kết về sức oai thần của Bồ
Tát)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.2.1. Chánh kết
Địa Tạng lợi ích (kết lại sự lợi
ích của đức Địa Tạng)
(Kinh)
Thị cố Phổ Quảng! Đương tri Địa
Tạng Bồ Tát, hữu như thị đẳng bất
khả thuyết bách thiên vạn ức đại oai thần
lực, lợi ích chi sự.
(經)是故普廣‧當知地藏菩薩‧有如是等‧不可說百千萬億大威神力‧利益之事。
(Kinh:
V́ thế, Phổ Quảng! Hăy nên biết Địa Tạng
Bồ Tát có trăm ngàn vạn ức sức đại oai
thần và chuyện lợi ích chẳng thể diễn tả
như thế đó).
Kết lại
bằng một câu “như thị đẳng” (như
thế đó) nhằm chỉ rơ những điều đă
nói trên đây chỉ là nêu đại khái, như hai kinh Địa
Tạng Thập Luân và Chiêm Sát Thiện Ác đă nói cặn kẽ
chuyện này.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.2.2. Biệt thị
Diêm Phù hữu duyên (đặc biệt chỉ ra chúng
sanh trong Diêm Phù có duyên với đức Địa Tạng)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.2.2.1. Lược
thị hữu duyên (chỉ bày đại lược
sự hữu duyên)
(Kinh)
Diêm Phù chúng sanh, ư thử Đại Sĩ, hữu đại
nhân duyên.
(經)閻浮眾生‧於此大士‧有大因緣。
(Kinh:
Chúng sanh Diêm Phù có nhân duyên to lớn với vị Đại
Sĩ này)
“Nhân
duyên” chỉ là tên gọi khác của “cảm ứng”.
[Nói là] “đại”, hàm ư: Đấy là đại sự
nhân duyên muốn cho chúng sanh đều khai thị ngộ nhập
tri kiến của Phật. V́ thế, đích thân kim khẩu
của Đại Sĩ đă nói: “Chỉ cần làm thiện
sự trong Phật pháp, [dẫu chỉ bằng] một sợi
lông, một giọt nước, một hạt cát, một
hạt bụi, ta sẽ dần dần độ thoát, khiến
cho [kẻ ấy] đạt được lợi ích to lớn”.
“Lợi ích to lớn” chính là “vô lượng trân bảo
chẳng cầu mà tự đạt được” như
kinh Pháp Hoa đă nói, tức Bồ Đề Niết Bàn. Đại
nhân duyên như thế, không phải chỉ là mới ngày nay,
mà trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp đến nay,
Ngài luôn ở trong Diêm Phù Đề tùy theo căn cơ mà hóa
độ chúng sanh. Luôn luôn chẳng buông bỏ việc gieo
căn lành, làm cho cơ duyên chín muồi ḥng thoát khỏi tam đồ.
Ví như con rơi vào nơi nước lửa, cha mẹ lăng
xăng cứu vớt. Con bị bệnh tật, cha mẹ cháy
ḷng lo âu. Do chúng sanh trong Nam Diêm Phù Đề tội nghiệp
đặc biệt nặng nề, cho nên chúng sanh trong Nam châu
cũng đặc biệt tin tưởng Đại Sĩ
chẳng bỏ lơi. Do vậy, cao, thấp, sang, hèn, tăng,
tục, nam, nữ, không một ai chẳng nương theo Địa
Tạng Bồ Tát, cầu Ngài cứu bạt nước, lửa,
chữa trị bệnh tật. Ví như nam châm hút sắt, ứng
cảm đồng thời! Do có đại nhân duyên, hăy nên tỉnh
ngộ sâu xa!
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.1.2.2.2. Quảng
minh văn ích (nói rộng về lợi ích
do nghe danh hiệu của Ngài)
(Kinh)
Thị chư chúng sanh, văn Bồ Tát danh, kiến Bồ
Tát tượng, năi chí văn thị kinh tam tự, ngũ tự,
hoặc nhất kệ, nhất cú giả, hiện tại
thù diệu an lạc, vị lai chi thế, bách thiên vạn sanh,
thường đắc đoan chánh, sanh tôn quư gia.
(經)是諸眾生‧聞菩薩名‧見菩薩像。乃至聞是經‧三字五字‧或一偈一句者。現在殊妙安樂‧未來之世‧百千萬生‧常得端正‧生尊貴家。
(Kinh:
Các chúng sanh ấy nghe danh hiệu của Bồ Tát, thấy
tượng Bồ Tát, cho đến nghe kinh này ba chữ, năm
chữ, hoặc một bài kệ, một câu, hiện tại
được an lạc thù thắng nhiệm mầu, trong trăm
ngàn vạn đời trong tương lai, thường được
đoan chánh, sanh trong nhà tôn quư).
Đây là
nói về chuyện “nghe danh, thấy tượng”, nhắc đi, nhắc lại
công đức của Bồ Tát. Do chúng sanh và Phật vốn
có cùng một giác thể, tánh của biển giác là lắng trong, viên măn. Giác vốn
trong lặng, viên măn mầu nhiệm; do gió vô minh bất giác
dấy lên, hư vọng chia ra thành thấy, nghe, hay, biết,
hạn cuộc trong cảnh giới, tự cách biệt thành
chướng ngại. Do vậy, cái thấy không vượt
ra ngoài sắc được, cái nghe không thoát khỏi thanh được!
Nay xoay chuyển cái Nghe hư vọng ấy để nghe danh
hiệu Bồ Tát, xoay chuyển cái Thấy
hư vọng ấy để thấy tượng Bồ
Tát, khiến cho danh hiệu được nghe khế nhập
cảnh chân không, danh cũng là vô danh. Tượng được
thấy sẽ giống như Pháp Tánh Thân, có tượng nào
để có thể đạt được? Danh mà vô danh
th́ cái Nghe chân thật rành rành. Tượng mà chẳng có tượng
th́ cái Thấy chân thật rạng ngời. Như thế th́
tùy tiện lấy ba chữ trong kinh, sẽ ngay lập tức
phá Tam Hoặc, tiêu ba chướng, thành tựu ba trí, chứng
ba đức, hiển lộ ba thân. Hoặc lấy năm
chữ, ở nơi đâu cũng đều phá Ngũ Trụ,
thoát năm đường, lập Ngũ Căn, tăng trưởng
Ngũ Lực, thành tựu Ngũ Phần Pháp Thân. Do một
bài kệ bèn vượt thoát một môn. Do một câu bèn [chứng
nhập] một tánh viên minh. Hai, bốn, sáu, tám như thế,
tùy theo mỗi hạnh mà tăng con số lên. Trong hiện tại
bèn đạt được sự an lạc, thù thắng nhiệm
mầu, niệm niệm cùng gịng với bổn nguyện, tâm
tâm cùng hiện với Bồ Tát. Trong đời vị lai,
thường đạt được tướng hảo
đoan nghiêm, thanh tịnh, chánh đáng, ở nơi đâu
cũng đều sanh trong gia đ́nh tôn quư.
Như đức
Phật bảo vua Ba Tư Nặc: “Nhân từ khiêm thuận,
kính trưởng, ái tiểu, tắc vi quư nhân. Hung ác cường
lương, kiêu tứ tự đại, tắc vi tiện
nhân” (Nhân từ, khiêm nhường, thuận thảo, kính trọng
bậc trưởng thượng, yêu mến kẻ nhỏ
hơn, th́ là bậc quư nhân. Hung ác, ương bướng,
kiêu căng, phóng túng, tự cao tự đại th́ là kẻ
hèn hạ). Lại nói: “Tam giới luân chuyển, vô hữu
định phẩm. Tích thiện nhân ḥa, sanh ư hào tôn. Tập
ác phóng tứ, tiện sanh ty tiện” (Luân chuyển trong
ba cơi không có phẩm loại nhất định. Tích tụ
điều thiện, nhân từ, ôn ḥa, sẽ sanh trong gia đ́nh
có thế lực, tôn quư. Làm ác buông lung bừa băi, sẽ sanh
làm kẻ hèn hạ). Dùng những điều ấy để
xem xét, [sẽ biết]: Con người chớ nên làm ác, hăy
nên tu tập. Đức Thế Tôn nói về lợi ích đă
xong.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2. Phổ Quảng
thỉnh kinh danh (Phổ Quảng thưa hỏi
tên kinh) s3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2.1. Kết hiển thỉnh ư (tổng
kết những điều đă được dạy, nêu
ư nghĩa v́ sao thưa hỏi)
(Kinh)
Nhĩ thời, Phổ Quảng Bồ Tát, văn Phật Như
Lai xưng dương, tán thán Địa Tạng Bồ Tát dĩ,
hồ quỳ, hiệp chưởng.
(經)爾時普廣菩薩‧聞佛如來‧稱揚讚歎地藏菩薩已。胡跪合掌。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Phổ Quảng Bồ Tát nghe Phật Như Lai xưng dương,
tán thán Địa Tạng Bồ Tát xong, hồ quỳ, chắp
tay).
Trước
hết là người trùng tuyên kinh tường thuật, kế
đó, trần thuật ư nghĩa v́ sao [Phổ Quảng Bồ Tát] khải thỉnh.
“Hồ quỳ”: Sách Âm Nghĩa Chỉ Quy nói: “Đáng
lẽ không nên nói là Hồ Quỳ, v́ hậu duệ của
Phạm Thiên sống tại năm xứ Thiên Trúc, c̣n các chủng
tộc Nhung, Khương, Hồ sống tại phía Bắc
Thông Lănh. Nay kinh, luật phần nhiều dịch thành Hỗ
Quỳ (互跪), v́ ba chỗ dựng
thẳng lên[41], nên
gọi là Hỗ Quỳ. Tức là gối phải đặt
sát đất. Do gối phải có sức, có thể quỳ
lâu, [đang quỳ] đứng lên rất tiện, nên đặt
nó sát đất bèn vững vàng”. Nếu nữ ni (tỳ-kheo-ni)
thể chất yếu ớt, đức Phật cho phép trường
quỳ.
(Kinh)
Phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn, ngă cửu tri thị
Đại Sĩ, hữu như thử bất khả tư
nghị thần lực, cập đại thệ nguyện
lực. Vị vị lai chúng sanh, khiển tri lợi ích, cố
vấn Như Lai, dụy nhiên đảnh thọ”.
(經)復白佛言‧世尊‧我久知是大士‧有如此不可思議神力‧及大誓願力。為未來眾生‧遣知利益‧故問如來。唯然頂受。
(Kinh:
Lại bạch đức Phật rằng: “Bạch Thế
Tôn! Con biết vị Đại Sĩ này đă lâu, có thần
lực và đại thệ nguyện lực chẳng thể
nghĩ bàn như thế. Con muốn cho chúng sanh trong đời
vị lai biết lợi ích, cho nên thưa hỏi Như Lai.
Thưa vâng, con xin cung kính lănh nhận”).
Nói “cửu
tri” (biết đă lâu) tức Phổ Quảng
cũng cùng một loại với ngài Địa Tạng. Do
Ngài tự có thần lực và đại thệ nguyện
lực chẳng thể nghĩ bàn, cho nên có thể biết.
Đă biết mà lại hỏi, chính là do mong đức Như
Lai tuyên dương trong đại hội, khiến cho chúng
sanh trong đời vị lai biết Địa Tạng Bồ
Tát tạo lợi ích như thế, cho nên Ngài thưa hỏi.
“Dụy nhiên” là lời đáp ứng nhanh nhẹn, thể
hiện ư nghĩa chẳng nghi. Gần là nói đến những
câu ngay trước đó, xa là chỉ những đoạn
văn trước kia: “Nhữ đẳng chư Bồ
Tát, đương kư thị kinh, quảng tuyên lưu bố”
(Hàng Bồ Tát các ông hăy nên ghi nhớ kinh này, tuyên dương,
lưu thông rộng răi). Nhưng lúc đó, ngài Định Tự
Tại Vương chỉ vâng mạng lưu thông, chẳng
thưa hỏi tên kinh, suy ra th́ biết chuyện thần lực của đức
Địa Tạng c̣n chưa nói xong, đó là một lư do. Suy ngược lại
th́ biết ngài Phổ Quảng thưa hỏi, [đă được
dạy] tường tận về chuyện lợi ích. Đó
là lư do thứ hai. V́ thế biết: Chủ khách xướng
họa, phát khởi, tuyên dương lẫn nhau, ví như đe
và búa đập vào nhau, cao thấp tương ứng. Từ
chữ “cố vấn” (v́ thế thưa hỏi) trở
đi là lời kính vâng, cung kính tiếp nhận.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2.2. Chánh thỉnh
kinh danh (hỏi thẳng tên kinh)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2.2.1. Thỉnh (thưa hỏi)
(Kinh) Thế Tôn! Đương
hà danh thử kinh, sử ngă vân hà lưu bố?
(經)世尊‧當何名此經。使我云何流布。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Nên đặt tên kinh này như thế nào,
khiến cho con lưu truyền như
thế nào?)
“Đương
hà, vân hà” đều là những từ ngữ nghi vấn.
Từ lúc nói kinh cho đến nay, [đức Thế Tôn] tán
thán ngài Địa Tạng có công đức trừ một
ḿnh đức Phật ra, không ai có thể sánh bằng. Danh sở
dĩ gọi là danh, v́ nó có thể triệu vời cái thật.
Nay đă nói “thật đức của ngài Địa Tạng
chẳng thể nghĩ bàn”, tức là chẳng dùng tên để
gọi tên vậy, cho nên nói “đương hà danh thử
kinh” (nên đặt tên kinh này là ǵ). Danh đă chẳng lập,
khiến cho chúng con sẽ lại dựa vào pháp môn nào để
truyền bá? Theo Châu Lễ, suối chảy gọi là Bố
(布). Ư nói: Tiền trong thế
gian lưu thông giống như nước
suối tuôn chảy. Kinh được lưu truyền, lan
rộng cũng giống như vậy.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2.2.2. Đáp (trả lời)
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2.2.2.1. Đáp
kinh danh (đáp tên kinh)
(Kinh)
Phật cáo Phổ Quảng: “Thử kinh hữu tam danh, nhất
danh Địa Tạng Bổn Nguyện, diệc danh Địa
Tạng Bổn Hạnh, diệc danh Địa Tạng Bổn
Thệ Lực Kinh”.
(經)佛告普廣‧此經有三名。一名地藏本願‧亦名地藏本行‧亦名地藏本誓力經。
(Kinh:
Đức Phật bảo ngài Phổ Quang: “Kinh này có ba tên,
một là Địa Tạng Bổn Nguyện, c̣n gọi là
Địa Tạng Bổn Hạnh, cũng gọi là Địa
Tạng Bổn Thệ Lực Kinh”).
Ư nghĩa
của tên kinh như đă giải thích trong phần Luân Quán.
Lại giải thích chữ Bổn Nguyện: Tâm mong muốn
th́ gọi là Nguyện. Ḷng mong muốn vừa sâu vừa
chuyên. Nguyện hướng ra ngoài th́ toàn là nhân dục (những
ham muốn của con người), chỉ có thiên lư là ḷng
ham muốn thuộc về tánh, chính là cái tâm căn bản của
con người. [Chữ Nguyện (願) được ghép] từ
chữ Nguyên (原), nhằm dạy mọi
người hăy quay ngược lại cầu mong nơi cái
gốc ấy, mong mỏi điều thiện đáng mong mỏi
ấy. [Chữ Nguyện] lại được ghép thêm chữ
Hiệt (頁, cái đầu) là v́ lẽ
nào? Do tâm cầu được, bèn cúi đầu để
lắng ḷng suy nghĩ. Vậy th́ tham cũng đă dứt,
mà si cũng đă dứt. Đấy tuy là cách giải thích [chữ
Nguyện] theo đạo Nho, nhưng bổn nguyện của
đức Địa Tạng há cũng ra ngoài những điều
ấy ư? Không ǵ chẳng nhằm mong cho con người
khôi phục giác tánh vốn sẵn có, cùng trở về bí tạng;
đấy chính là nguyện của Đại Sĩ khi đó
(khi Ngài phát nguyện).
Bổn Hạnh
tức là hạnh nơi Bổn và Tích, cho nên tôi dựa theo ư
nghĩa ấy, căn cứ theo phần Thập Diệu thuộc
Bổn Môn trong sách Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa để
minh thị bổn địa có mười thứ chẳng
thể nghĩ bàn th́ văn nghĩa mới được
thông suốt, mới tỏ rơ: Các chuyện chẳng thể
nghĩ bàn của Bồ Tát được thành tựu trong
lúc ấy và sau này, đều là do nguyện hạnh thuộc
về Tích môn vậy.
Bổn
Thệ Lực, tiếng Phạn là Tăng Na (Saṁnāha), dịch sang tiếng Hán là Hoằng
Thệ. Có thuyết nói Tăng Na là Đại Thệ, c̣n Tăng
Niết (Saṁaddha) là Tự Thệ. Tăng
Na là Khải (鎧, áo giáp), Tăng Niết
là Trước (著), [nói gộp lại th́]
có nghĩa là “mặc áo giáp to”. Chữ Phạn này đọc
âm đúng phải là San Na Ha (dịch là Giáp) San Nại Đà
(dịch là Bị (被), tức đeo, khoác,
hoặc là Y, tức áo), hàm nghĩa “khoác, mặc áo giáp”.
Trong Mật Bộ nói đến ba mươi hai loại giáp
trụ v.v… tức là đại thệ trang nghiêm trong Đại
Phẩm Bát Nhă. Chữ Sa La trong tiếng Phạn, cơi này dịch
là Lực. Kinh Ấm Tŕ Nhập dạy: “Bỉ lực, ưng
dĩ hà vi nghĩa? Đáp: Vô
năng hoại vi lực nghĩa. Hữu sở ích vi lực
nghĩa. Hữu đảm vi lực nghĩa. Năng đắc
y vi lực nghĩa” (Lực ấy nên có những ư
nghĩa nào? Đáp: Chẳng thể hoại là ư nghĩa của
Lực. Có lợi ích là ư nghĩa của Lực. Có can đảm
là ư nghĩa của Lực. Có thể nương cậy được
là ư nghĩa của Lực). Nay Địa Tạng từ lúc
phát tâm ban đầu cho tới nay, chẳng bị thiên ma ngăn
trở, phá hoại, đó là một lực. Luôn lợi ích chúng
sanh, đấy là hai lực. Có tâm can đảm riêng giáo hóa
địa ngục, đấy là ba lực. Có thể làm nơi
nương tựa cho lục đạo, đó là bốn lực.
Đấy chính là sức thệ nguyện vốn có của
đức Địa Tạng, cho nên gọi là Bổn Thệ Lực Kinh.
3.2.3.1.1.2.2.2.1.3.2.2.2.2. Kết lưu
bố (kết lại phần lưu thông, truyền
bá)
(Kinh)
Duyên thử Bồ Tát, cửu viễn kiếp lai, phát đại
trọng nguyện, lợi ích chúng sanh. Thị cố nhữ
đẳng, y nguyện lưu bố.
(經)緣此菩薩‧久遠劫來‧發大重願‧利益眾生。是故汝等‧依願流布。
(Kinh:
Do vị Bồ Tát này từ kiếp lâu xa đến nay, đă
phát đại trọng nguyện lợi ích chúng sanh. V́ thế
các ông hăy nên nương theo ư nguyện mà lưu thông, truyền
bá).
Điều
này cho thấy danh hiệu Địa Tạng cũng do bổn
nguyện mà lập. Do v́ đại nguyện, cho nên lợi
ích chúng sanh. V́ thế, các ông cũng nên nương theo bổn
nguyện ấy mà lưu thông, truyền bá. Do đó, người
kết tập kinh chỉ dùng Bổn Nguyện để đặt
tựa đề kinh cũng là có thâm ư vậy!
3.2.3.1.1.2.2.2.2. Phổ Quảng
lễ thoái (ngài Phổ Quảng làm lễ,
lui ra)
(Kinh)
Phổ Quảng văn dĩ, hiệp chưởng, cung kính
tác lễ nhi thoái.
(經)普廣聞已‧合掌恭敬‧作禮而退。
(Kinh:
Ngài Phổ Quảng nghe xong, chắp tay, cung kính làm
lễ, lui ra).
Đối
với hai chữ “cung kính”, thường thấy những
vị giảng kinh không giảng tới, khiến cho những
kẻ mạt học trong đời sau chẳng biết phải
hiểu theo ư nghĩa nào! Nay tôi nêu đại lược cội
gốc chế tạo chữ ấy, ḥng [độc giả]
thấy được trong ấy bao hàm ư nghĩa “tâm học”.
Chữ Cung (viết theo lối cổ) thể hiện dáng vẻ
của đức tánh
Kính. Tay và
vẻ mặt chủ yếu nhằm thể hiện sự
cung kính. V́ thế, chữ Cung [viết theo lối cổ]
thể hiện ư nghĩa hai tay giao nhau. Do mọi người
trong lúc thông thường, tay buông lỏng, tâm lơi lỏng,
thể hiện dáng vẻ lười
nhác. Chắp tay lại, tâm ắt thâu liễm, thể hiện dáng vẻ trang trọng, trong ngoài ứng
hợp. Chữ Cung viết theo lối thông tục do không biết
chữ ấy đă chính là Tâm, lại c̣n thêm chữ Tâm (心) vào thành Cung (恭), tức là tâm có trong
ngoài!
Chữ Kính
(敬) viết theo lối cổ, thể
hiện sự duy nhất. Cổ nhân tập trung tinh thần
để học. Chỉ kính cẩn bề ngoài th́ dẫu
gượng ép bề ngoài, do trong tâm lén lút dấy động
[ư bất kính], sẽ chẳng thể duy tŕ được.
Miệng nói kính trọng [mà tâm thật sự chẳng kính],
hành vi ắt lười nhác, nói suông làm sao có thể chế
ngự điều ác thật sự cho được! [Nếu
hỏi] phải dốc sức như thế nào [để
kính] ư? Thưa rằng, đừng quên, đừng giúp
cho [ư bất kính] tăng trưởng. [Chữ Kính] do Cấp
(𦰶, hành vi cực nghiêm túc)
nhằm dạy [mọi người] đừng quên bẵng.
Hễ lơi lỏng, sẽ chẳng có công dụng ǵ! Vừa
mới cảm thấy hôn trầm, hăy nhanh chóng tự lay tỉnh.
Vừa mới cảm thấy tán loạn, hăy nhanh chóng tự
đoạn dứt. [Kế đó], chữ Cửu (久) nhằm dạy chớ
giúp cho nó (tán loạn, hôn trầm)
tăng
trưởng. Hễ gấp rút, ắt sẽ bị bức
bối, trong ngực như có vật ǵ gây nghẹn, huyết
khí chẳng thoải mái, làm sao có thể duy tŕ lâu dài được?
Tâm là chủ thể trong thân ta. Kính mà không yên định th́
tâm tự làm chủ, cần ǵ phải mượn thêm một
chữ Tâm nữa để đối trị cái tâm này. Dẫu
đáng sợ, hăy chớ sợ; dẫu thong dong, chớ lơi
là! Hăy giữ cho tâm miên mật, thiên đức lan truyền
trọn khắp, tâm thường linh hoạt, chẳng chết
cứng. Run sợ là dấy ḷng kính, răn dè là giữ ḷng
kính, nể sợ là kính cẩn thận trọng, nghiêm túc là
kính cẩn nghiêm nghị, ḥa thuận là kính trọng sâu thẳm,
khâm phục là kính trọng bậc thánh. Một đức tánh
Kính mà có [các mức độ] sống sít, chín muồi, sâu,
cạn; đấy chính là uyên nguyên của thánh học,
xét suy tâm họa (cách viết chữ theo ư nghĩa của tâm)
của cổ nhân, bèn biết đấy là tâm học. Há có
nên coi đó là cái học văn tự suông, chướng ngại
tánh linh, bế tắc ngộ môn, rốt cuộc chẳng
thấu đạt cái tâm! Nào có biết Tự Học (môn học
nghiên cứu về chữ) quả thật đă bao hàm cả
tánh linh, mở toang cửa ngộ. V́ thế, tôi nêu ra đại
lược, đừng chê là tôi ưa chuộng bơi móc
những thứ ngấm ngầm, ẩn kín để khoe khoang
khác lạ vậy!
Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 5 hết
[1] Phục đạo (伏道), c̣n gọi là Năng Phục Đạo, là địa
vị có thể chế ngự hữu lậu hiện hành gây
chướng ngại. Đoạn Đạo (斷道) đă hoàn toàn đoạn trừ các nghiệp
chướng hữu lậu, vô lậu, cũng như tập
khí.
[2] Tam Pháp Độ Luận là bộ
luận của phái Khả Trụ Tử Bộ (c̣n gọi
là Độc Tử Bộ, Vātsīputrīya,
một bộ phái Phật giáo của Thượng Tọa Bộ). Bộ luận này được
ngài Cù Đàm Tăng Già Đề Bà dịch sang tiếng Hán
vào thời Đông Tấn.
[3] Đấy là nói y phục thời
đức Phật tại thế: Chư tăng sau khi đă đắp
y, dùng một mảnh vải dài hẹp
làm đai lưng bó chặt
cho y khỏi tuột, gọi là Kushalaka. Ngoài ra c̣n có đai lưng giữ
cho chiếc xà rông ở phía dưới khỏi tuột, gọi
là Samakaksika. Hiện thời, khi không đắp y theo kiểu hở vai phải, chư Tăng các nước
theo Phật giáo Nam Truyền như Thái, Miến, Lào v.v… vẫn
thường thắt đai lưng Kushalaka ra ngoài y ca-sa.
[4] Chi Đề (Caitya) c̣n được
phiên âm là Chi Đề, Chi Đà, Chỉ Đế, Chế Đa,
Chế Để, Chế Để Da, có nghĩa đen là “tích
tập”. Lúc đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, các
đệ tử chất gỗ thơm thành đống lớn
để trà-tỳ (hỏa thiêu), gọi là Chi Đề. Do vậy về sau, các tháp miếu hoặc g̣ đống
để thờ phụng, kỷ niệm Phật, đều
được gọi là Chi Đề; cho đến
các loại khám thờ đục vào đá để thờ
Phật cũng gọi là Chi Đề. Luật Ma Ha Tăng
Kỳ quy định, hễ có xá-lợi thờ trong ấy
th́ gọi là Tháp (Stūpa), không có th́ gọi là Chi Đề.
Nhưng về sau, hai danh từ này được sử dụng lẫn lộn. Tứ Chi Đề chính là bốn
nơi có tháp miếu kỷ niệm nơi đức Phật
giáng sanh, thành đạo, chuyển pháp luân, và nhập Niết
Bàn.
[5] Tăng Hộ (Saṃgharakṣita)
là một đệ tử của ngài Xá Lợi Phất. Theo
kinh Nhân Duyên Tăng Hộ, trước
khi xuất gia, Tăng
Hộ từng cùng năm trăm thương nhân vào biển
cả. Trên đường trở về, bị lạc
mất đồng bạn, bèn đi một ḿnh. Ở bờ
biển, ông từng trông thấy năm trăm cảnh địa
ngục, bèn thưa hỏi đức Phật. Đức Phật
giải đáp từng cảnh và nêu rơ nhân duyên v́ sao chúng
sanh thọ khổ trong ấy.
[6]
Dă can (野干):
Theo kinh Phật, dă can là loài cáo hoang hoặc chó rừng, h́nh dáng
xấu xí, thân thể hôi thối, h́nh dáng giống cáo, màu lông
xanh lẫn vàng, thường kéo thành bầy như chó rừng,
tối đến tru như chó sói, ăn các loài thịt thối
rữa. Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng Dă Can là một
loại Hyena (linh cẩu đốm). Loài này rất hung bạo,
không chỉ ăn xác chết, mà c̣n săn bắt mồi,
hung bạo, đôi khi bắt nạt cả sư tử nếu
chúng đông hơn về số lượng. Tiếng kêu của
chúng nghe như tiếng người cười cuồng loạn,
nên người Anh thường gọi chúng là Laughing Hyena.
[7] Từ điển Khang Hy giải
thích Tật Lê là Thiết Qua (鐵撾). Qua là một loại
vũ khí có cán, đầu cán gắn móc như vuốt chim,
hoặc như h́nh bàn tay người, đúc bằng sắt
luyện, có các ngón quặp xuống, vừa có tác dụng tấn
công (móc, đập), vừa để chụp bắt, khóa
kín vũ khí của đối phương, nhất là đối
với các loại vũ khí dài như thương, giáo, kích v.v…
[8] La là con vật lai giữa lừa
và ngựa.
[9] Tứ tánh của mỗi pháp:
1. Tự tánh: Như so đo một niệm
tâm sanh từ các căn của chính ḿnh.
2. Tha tánh: So đo một niệm tâm sanh từ các trần.
3. Cộng tánh: Chấp trước
niệm tâm do căn và trần
cùng sanh ra.
4. Ly tánh: Chấp trước
tâm niệm chẳng sanh từ
căn và trần.
Nói chung, đây là sự suy lường chấp
trước dựa theo căn
và cảnh.
[10] Từ bi phổ, hoằng thệ
phổ, tu hành phổ, đoạn hoặc phổ, nhập pháp
môn phổ, thần thông phổ, phương tiện phổ,
thuyết pháp phổ, cúng dường chư Phật phổ,
thành tựu chúng sanh phổ.
[11] Hồng Phạm (洪範, khuôn phép lớn lao) là một thiên sách trong Thượng Thư
(tức kinh Thư). Nội dung của thiên sách này là những
lời khuyên dạy của Cơ Tử dành cho Châu Vũ
Vương (Cơ Phát) về đại pháp trong trời đất.
Về sau, sách Hán Thư đặt ra truyền thuyết: Khi
Đại Vũ trị thủy, trời
cao đă truyền
cho vua thiên sách Hồng Phạm dùng làm cương lănh cai trị.
Cơ Tử tên thật là Tử Tư Dư, thuộc hoàng
tộc nhà Thương (tức là con của Đế Văn
Đinh), là chú của Đế Tân (Trụ Vương). Ông từng
giữ chức Thái Sư, được phong ở đất
Cơ (nay là huyện Thái Cốc tỉnh Sơn Tây), nên Sử
thường gọi là ông là Cơ Tử. Ông từng khuyên
can vua Trụ chăm lo triều chánh, đừng mê đắm
dục lạc, nhưng bị Trụ vương cầm tù,
phải giả điên để tránh họa sát thân. Khi Châu
Vũ Vương phạt Trụ, Châu Vũ Vương đă
đón ông về hỏi đạo trị quốc.
[12] Ngũ Luân là Địa, Thủy,
Hỏa, Phong, và Không (hư không). Khi đảnh lễ, do năm
nơi đều áp sát đất, tức trán, hai bàn tay, hai
gối áp sát đất, biểu thị Ngũ Luân không tịch,
tâm địa b́nh đẳng, nhẫn nại như đất.
[13] Quang Trạch (467-529) là một vị Tăng
thời Nam Triều, pháp hiệu là Pháp Vân, do trụ tŕ chùa
Quang Trạch ở Giang Tô, nên thường gọi là Quang Trạch.
Sư giỏi giảng kinh Pháp Hoa, có soạn bộ Pháp Hoa
Kinh Nghĩa Kư, hay c̣n gọi là Quang Trạch Sớ. Những
lời phê phán trên đây đều do ngài Linh Thừa trích từ
sách Pháp Hoa Văn Cú của tổ Trí Giả.
[14] Chân Cang (真剛) là tên một thanh bảo kiếm thời cổ.
Theo truyền thuyết, vua nước Việt là Câu Tiễn
đă dùng ngựa trắng và trâu trắng tế thần núi
Côn Ngô, sai người lấy sắt từ núi đó, đúc
thành tám thanh kiếm báu: Yểm Nhật, Đoạn Thủy,
Chuyển Phách, Huyền Tiễn, Kinh Nghê, Diệt Hồn, Khước
Tà, và Chân Cang. Về sau, từ ngữ này
(Chân Cang) thường được
dùng để chỉ những thứ tinh luyện, sắc
bén vô song. V́ lẽ đó, khi Triệu Cao thao túng chánh quyền
nhà Tần sau khi Tần Thủy Hoàng chết, đă lập
ra một đội sát thủ (gọi là Lục Kiếm Nô),
dùng Chân Cang để đặt tên cho một thủ lănh của
bọn sát thủ này.
[15] Do ngài Kinh Khê Trạm Nhiên (tổ
thứ sáu của tông Thiên Thai) trụ tích tại chùa Diệu
Lạc ở Thường Châu để giảng kinh Pháp
Hoa, nên người thời ấy gọi Ngài là Diệu Lạc
đại sư. Những câu nói của Ngài khi được
ghi là “Diệu Lạc nói” trong suốt bộ Khoa Chú này
đều trích từ bộ Pháp Hoa Văn Cú Kư của Ngài.
[16] Hư Không Khố Tạng, tức là Hư
Không Tạng Bồ Tát (Ākāśagarbha),
c̣n được dịch là Hư Không Dựng, Hư Không Quang,
đôi khi phiên âm là A Sai Mạt v.v… Mật hiệu là Khố Tạng Kim Cang, là một
trong tám vị đại Bồ Tát được tôn sùng nhất
trong Phật giáo Đại Thừa (Văn Thù, Phổ
Hiền, Quán Âm, Kim Cang Thủ (hoặc Đại Thế
Chí), Hư Không Tạng, Địa Tạng, Di Lặc, và Trừ
Cái Chướng). Ngài biểu
thị trí huệ, công đức và của cải vô lượng
như hư không. Ngài thường được tạc tượng
như sau: Thân có màu chất báu, đầu
đội mũ báu Ngũ Phật. Tay phải cầm huệ kiếm báu tỏa
đủ màu. Tay trái đặt
cạnh hông, cầm hoa sen báu. Trên hoa có Như Ư bảo châu.
Trong Thai Tạng Giới Mạn Đà La, Ngài có một viện
riêng gọi là Hư Không Tạng Viện, và làm tôn chủ của
viện ấy. C̣n trong Kim Cang Giới Mạn Đà La, Ngài được gọi là Kim Cang Tràng Bồ
Tát.
[17] Tằng Thái chỉ có nghĩa
là các loại lụa, hay the lượt năm màu, dùng dâng cúng.
Do trong các tự viện, nhất là tự viện của Tây
Tạng, họ thường dùng lụa thêu hoa văn có năm
màu, kết thành những chiếc lọng dài, có nhiều lớp
may nhún lại, mỗi lớp một màu, nên chúng tôi tạm
dịch là “lọng lụa”.
[18] Mô Mẫu (嫫母) là thứ phi của Hiên Viên Hoàng Đế. Bà
là người cực xấu thời đó, Sử chép bà trán
dồ, mũi gẫy, béo phục phịch, da đen như
sơn, nhưng tột bậc hiền huệ. Khi nguyên phi là
Luy Tổ bệnh nặng qua đời, Hoàng Đế cử
bà chưởng quản hậu cung, trông nom việc tế tự.
Vô Diêm Nữ là Chung Ly Xuân, c̣n gọi
là Chung Vô Diệm (鍾無艷), quê ở Vô Diêm (無鹽, nay
là thôn Vô Diêm, huyện B́nh, tỉnh Sơn Đông). Sử chép
bà cực xấu xí, trán lồi, xương to, thân thể cục
mịch, to lớn như đàn ông, mũi huếch, bụng
phệ, hầu lộ, tóc thưa thớt, da đen kịt,
bốn mươi tuổi vẫn chưa lấy chồng.
Về sau, bà đến ra mắt Tề Tuyên Vương (Điền
Tích Cương) vạch ra bốn điều đáng lo ngại
cho nước Tề, khiến Tề Tuyên Vương tỉnh
ngộ, băi bỏ nữ nhạc, đuổi bọn quan lại
xua nịnh, nghe lời can gián, huấn luyện binh mă, tiết
kiệm quốc khố. Vua bèn lập bà thành vương hậu,
dùng bà làm cố vấn trị quốc. Đến đời
Nguyên, Trịnh Quang Tổ là một nhà soạn hư khúc (tuồng
hát), đă soạn tuồng Xú Nữ Tề Hậu Vô Diêm Liên
Hoàn, tô vẽ bà như một người văn vơ toàn tài, vốn
là tiên nữ mắc đọa mà mang h́nh dáng xấu xí, trực
tiếp cầm binh đánh dẹp các nước chư hầu
đối nghịch, khiến cho Tề Tuyên Vương trở
thành bá chủ chư hầu thời đó.
[19] Nguyên Huân (元勳) là danh từ khác để gọi các bậc
khai quốc công thần, hoặc những người có công
lao rất lớn đối với vương triều.
A Hành (阿衡): Vốn là một chức quan
được lập ra từ đời Thương, có
vai tṛ kiêm nhiệm cả Thái Sư lẫn Thái Bảo. Về
sau, A Hành được dùng dể chỉ các vị cố
vấn cao cấp của nhà vua hoặc Tể Tướng.
[20] Ngài Lặc Na Tam Tạng (Ratnamati)
do thấy dân chúng ở phương Bắc không có thói quen lễ
Phật, bèn chỉ ra bảy loại lễ:
1. Ngă mạn lễ: Thân tuy lễ
bái, chẳng có tâm cung kính, bề ngoài ra vẻ cung kính, trong
tâm ngă mạn.
2. Cầu danh lễ: Muốn có
được tiếng thơm là người tu hành siêng năng,
giả dối hiện oai nghi lễ bái.
3. Thân tâm lễ: Miệng niệm
danh hiệu Phật, tâm tưởng tướng hảo, công
đức của Phật, thân cung kính hành lễ, không có niệm
nào khác.
4. Trí tịnh lễ: Huệ tâm
sáng suốt, nhạy bén, đạt tới cảnh giới
của Phật, trong tâm thanh tịnh, rỗng rang, vô ngại.
Khi lễ một vị Phật chính là lễ hết thảy
chư Phật trong mười phương pháp giới.
5. Biến nhập pháp giới
lễ: Các pháp như thân, tâm, đều chẳng ĺa pháp giới
sẵn có. Lễ một lễ bèn trọn khắp pháp giới.
Tâm ta chẳng ĺa Phật, tánh tướng b́nh đẳng, vốn
chẳng có tăng hay giảm.
6. Chánh quán tu thành lễ: Tuy nhiếp
tâm nơi chánh niệm, lễ thân Phật chẳng khác lễ
thân chính ḿnh, thấy hết thảy chúng sanh có Phật tánh b́nh
đẳng với Phật. Hiểu rơ lư chúng sanh và Phật
b́nh đẳng, chỉ do mê hay giác mà sai khác.
7. Thật Tướng b́nh
đẳng lễ: Cách lễ trên đây c̣n có lễ và quán tách
rời, tự và tha khác biệt; c̣n trong cách lễ này chẳng
có tự lẫn tha, phàm và thánh như một, Thể và Dụng
bất nhị v.v…
[21] Hàm Tŕ (咸池) vốn là nơi mặt trời
lặn xuống theo thần thoại cổ Trung Hoa. Do đó
khi vua mất, cũng gọi là “hàm tŕ”. Nhưng Trịnh
Huyền chú giải Hàm Tŕ ở đây là một khúc nhạc
do Hoàng Đế đặt ra. Về sau, vua Nghiêu có tăng
bổ thêm.
[22] Chúng tôi dịch câu này theo cách
diễn giải của từ điển trực tuyến
Baidu.
[23] Đế Tuấn (帝俊) là vua cơi trời thời thượng
cổ trong thần thoại Trung Hoa. Đế Tuấn và vợ
là Hy Ḥa (羲和) đẻ ra mười mặt
trời, cùng với vợ lẽ là Thường Hy (常羲) đẻ ra mười hai mặt
trăng. Mười mặt trời chính là mười con
quạ vàng ba chân. Theo các nhà nghiên cứu, Đế Tuấn
chính là thị tộc tổ của các sắc dân Đông Di
và Bách Việt (nói cách khác, Đế Tuấn là nhân cách hóa của
chim thiêng, vật tổ của các dân tộc ấy). Đế
Tuấn lại c̣n sanh ra Hắc Xỉ (răng đen), U
Cốc (hang tối), Đế
Điểu, Yến Long v.v… Những người này trở
thành thỉ tổ của các quốc gia tương ứng.
[24] Ngũ Thanh là năm âm, tức
năm notes nhạc cơ bản: Cung, Thương, Giốc,
Chủy, Vũ. Bát âm là âm thanh từ các nhạc khí được
phân loại dựa theo chất liệu:
- Kim là các nhạc khí chế bằng
kim loại như biện chung (dàn chuông), năo bạt, thanh la,
cồng, chiêng, khánh, lục lạc v.v…
- Thạch là các nhạc khí bằng
đá hoặc phần chính yếu để phát ra âm thanh bằng
đá như biện khánh…
- Thổ nhạc khí làm bằng
đất như huân (sáo đất, ocarina), phẫu…
- Cách: Nhạc khí có màng rung bằng
da như các loại trống.
- Ty: Nhạc khí dùng dây như các
loại đàn nhị, đàn tranh, cổ cầm, không hầu
(harp) v.v…
- Mộc: Nhạc khí bằng gỗ
như mơ, phách, ngữ (có h́nh dáng hổ, hay kỳ lân, trên lưng
có nhiều mấu nổi lên, người diễn tấu dùng
thanh gỗ chà lên để phát ra âm thanh soàn soạt) v.v…
- Bào: Các loại nhạc khí dùng
quả bầu làm phần cộng hưởng như sênh,
vu (loại sênh lớn), hồ lô ty v.v…
- Trúc: Các nhạc cụ làm bằng
tre như tiêu, địch, quản, tŕ v.v…
[25] Ba Ty Dạ (Pāpīyas), hoặc c̣n viết
là Pāpman,
Pāpimant, c̣n phiên âm là Ba Tỳ Duyện, Ba Duyên, Ba Bệ, Ba Tỵ,
Ba Tỳ, Ba Ty Diện, tức là thiên ma Ba Tuần, hay Ma Vương.
[26] Cửu Kết (九結) là
chín thứ phiền năo thắt chặt, cuốn trói chúng sanh,
tức là Ái, Sân, Mạn, Vô Minh, Kiến (kiến giải thiên
lệch), Thủ (chấp giữ), Nghi, Tật (ghen ghét), Xan
(keo kiệt).
[27] Mleccha (c̣n phiên âm là Miệt Lệ
Xa, Di Ly Xa, Mật Lợi Xa, Tất Lật Xa, Di Lợi Xa)
nghĩa gốc là “kẻ dă man, mọi rợ”, chỉ các sắc
dân chưa được khai hóa, thiếu văn minh. Về
sau, từ ngữ này thường được dùng để
chỉ những kẻ ở biên địa tức những
vùng xa xôi, không văn minh. Nghĩa thứ hai là chỉ những
sắc dân man rợ xâm nhập Ấn Độ, phá hoại
văn hóa tôn giáo của Ấn Độ như các sắc dân
Ả Rập, Đột Quyết, hoặc
những người theo Hồi giáo tàn phá, hủy hoại các
chùa tháp của Ấn Độ giáo và Phật giáo, hoặc nói rộng hơn th́ là
những kẻ ỷ vào sức mạnh phá hoại Phật
pháp.
[28] Lục phủ: C̣n gọi là Lục Tạng,
tức ruột già, ruột non, bao tử, bàng quang, tam tiêu, và
mật, tương ứng với ngũ tạng (gan, tim, tỳ
(lá lách), phổi, và thận). Theo Trung Y, ngũ tạng là Âm,
lục phủ là Dương; ngũ tạng tương ứng
ngũ hành, c̣n lục phủ tương ứng với lục
t́nh (mừng, giận, thích, ghét, buồn, vui).
[29] Luận Hành (論衡) là trước tác trọng yếu của tư
tưởng gia Vương Sung thời Đông Hán, gồm mười
ba quyển, tám mươi lăm thiên, chủ yếu diễn
thuật quan điểm vô thần luận của tác giả,
nhằm phản đối sự sùng bái đối với
các thể loại sấm vĩ (sách tiên đoán, sấm giảng)
và các thứ phương thuật thần bí bói toán, bùa chú,
cầu khẩn quỷ thần đương thời.
[30] Theo Trung Y, Ngũ Lao là năm
chứng tổn thương do mệt nhọc quá sức: Nh́n
quá lâu sẽ tổn thương huyết, nằm quá lâu sẽ tổn thuơng khí, ngồi quá lâu sẽ tổn thương thịt, đứng quá lâu
sẽ tổn thương xương, đi quá lâu sẽ tổn thương gân. Thất Thương là
ăn quá no sẽ tổn thương tỳ (lá lách), giận dữ
sẽ tổn thương gan, nâng vật nặng quá
sức hoặc ngồi quá lâu nơi ẩm thấp sẽ tổn thương thận, uống đồ
lạnh sẽ tổn thương phổi, ưu sầu sẽ tổn thương tim, dầm mưa dăi gió, nhiễm
nóng lạnh sẽ tổn thương thân h́nh, hoảng sợ sẽ tổn thương chí. Nói tổng quát, ngũ
lao thất thương là từ ngữ phiếm chỉ tất
cả các tác nhân gây bệnh.
[31] Ngũ Âm Chú Trớ là một thuyết
trong Đạo giáo, theo đó, kẻ ác ở nơi miếu
thờ tà thần, dùng giấy vàng và châu sa viết tên họ
năm, tháng, ngày, giờ của người hắn tính nguyền
rủa, rồi nguyền rủa độc địa, phun
nước lên, sau đó giẫm đạp dưới chân,
nguyền cho người ấy mắc đủ loại tai
ương. Do tính theo ngũ phương nên gọi là Ngũ
Âm Chú Trớ (nguyền rủa theo năm âm thanh). Do đó,
trong Đạo giáo có riêng một bộ kinh là Thái Thượng
Lăo Quân Thuyết Giải Thích Chú Trớ Kinh để dạy
cách hóa giải tà thuật này. Ở đây, ngài Linh Thừa
chỉ mượn cách nói này để sánh ví bệnh nhân đang
bị cừu gia oán đối kiện cáo trong âm ty.
[32] Chiêu Đề (Caturdeśa) có nghĩa gốc là “bốn
phương”. Vật cúng thí cho tứ phương Tăng được
gọi là Chiêu Đề Tăng Vật. Ở đây, Chiêu Đề
được dùng với nghĩa Chiêu Đề Tăng
(chư tăng bốn phương).
[33] Tôn Chân Nhân là Tôn Tư Mạo
(541-682) là một đạo sĩ kiêm thầy thuốc trứ
danh đời Đường, có mỹ hiệu là Dược
Vương. Về sau, ông được Đạo giáo tôn
làm thần chủ quản y dược với thánh hiệu
là Thiên Y Diệu Ứng Quảng Viện Thiện Tế Chân
Quân. Ông tinh thông học thuyết của Bách Gia Chư Tử,
kiêm cả hai nhà Đạo và Phật. Các đời vua Châu
Tuyên Đế, Châu Tĩnh Đế, Tùy Văn Đế, Đường
Cao Tông đều dùng chức tước, tiền bạc
khuyến dụ ông làm ngự y, nhưng ông đều uyển
chuyển từ chối. Chỉ riêng Đường Thái Tông
được ông làm ngự y một thời gian ngắn rồi cáo bệnh về ẩn cư.
[34] Đông Lai Lữ Thị là Lữ
Tổ Khiêm (1137-1181), tự là Bá Cung. Do họ Lữ là một
danh gia vọng tộc ở quận Đông Lai (nay thuộc
vùng Yên Đài và Oai Hải tỉnh Sơn Đông), nên ông thường
được gọi là Đông Lai tiên sinh. Ông là một triết
gia và giáo dục gia nổi tiếng đời Nam Tống,
là cháu tám đời của danh thần Lữ Mông Chánh. Tư
tưởng của ông tạo nên học phái Lữ Học
(c̣n gọi là Vụ Học v́ quê ông ở Vụ Châu). Ông được
coi là nhân vật đại biểu cho Kim Hoa học phái thời
ấy.
[35] “Hư thực” là danh từ Trung Y để
phân loại bệnh tật. “Âm Dương, hàn nhiệt,
hư thực, biểu lư” được gọi là “trị
bệnh bát tự” (tám chữ để trị bệnh).
Hư là chánh khí trong thân thể quá yếu, không đủ, c̣n
Thực là tà khí quá nhiều, quá thịnh. Nói cách khác, khi các
hoạt động sinh lư b́nh thường của mỗi bộ
phận trong thân thể suy giảm, trục trặc th́ gọi
là hư chứng. Khi tà khí quá thịnh hoặc chánh khí không
hiển lộ rơ rệt th́ gọi là thực chứng. Biểu
hiện thường thấy của hư chứng là sắc
mặt xanh xao, trắng bệch, thân thể mỏi mệt,
ủ rũ, đổ mồ hôi trộm, tay chân lạnh, vô
lực, hơi thở ngắn, yếu ớt, phân lỏng,
bí tiểu tiện, mạch yếu v.v… Thực chứng ho
ra đàm, huyết đọng dưới da, nóng nảy, bứt
rứt, bụng trướng, cáu kỉnh, thở ph́ pḥ, đàm
dăi quá nhiều, lưỡi đầy bợn v.v…
[36] Trong A Di Đà Kinh Sớ Sao, tổ
Liên Tŕ có nói: Ở Bắc Câu Lô Châu (Uất Đan Việt),
mẹ thọ thai xong bèn sanh con dưới gốc cây. Sanh
xong, bỏ đi không nh́n tới nữa. Người qua đường
giơ ngón tay liền phun ra sữa nuôi cho đứa trẻ
lớn lên.
[37] Mười lăm quỷ
thần năo loạn trẻ con thường du hành trong thế
gian theo kinh Thủ Hộ Chư Đồng Tử và kinh Thủ
Hộ Đại Thiên Quốc Độ là: Di Thù Ca (Mañjuka), Di Ca Vương (Mrgarāja), Khiên Đà
(Skanda), A Ba Tất Ma La (Apasmāra), Mâu Trí Ca (Mustikā), Ma Trí
Ca (Mātrikā), Diêm Di Ca (Jāmikā), Ca Di Ni (Kāminī),
Lê Bà Đê ( Revatī), Phú Đa Na (Pūtana), Mạn Đa
Nan Đề (Mātrnāndā), Xá Cứu Ni (Śakunī),
Càn Trá Bà Ni (Kanthapaninī), Mục Khư Mạn Trà (Mukhamanditikā), và Lam Bà (Ālambā).
[38] Bạch Nguyệt (Śuklapakṣa) là cách tính lịch
của Ấn Độ, từ ngày mồng Một (trăng
non) cho đến ngày Rằm trăng tṛn gọi là Bạch Nguyệt.
Từ ngày Mười Sáu trở đi cho đến ngày cuối
tháng (không có trăng) gọi là Hắc Nguyệt (Kṛṣṇapakṣa).
[39] Thập Trực Nhật chính
là Thập Trai Nhật vừa nói. Kể từ đời Đường,
chính quyền đă hạ lệnh: Trong mười trai nhật,
nghiêm cấm tử h́nh tội nhân, giết mổ động
vật, và đánh bắt cá. Ngoài ra, trong ba tháng trường
trai (tháng Giêng, tháng Năm, và tháng Chín) cấm các hành vi giết
chóc như tử h́nh, giết mổ động vật.
[40] Chúng tôi dịch câu này theo cách
giải thích của Kiều Chánh Nhất trong bản bạch
thoại của bộ Pháp Cú Thí Dụ Kinh, phẩm Đao
Trượng.
[41] Tức là quỳ một chân,
ngẩng thẳng đầu, thẳng lưng, đầu gối
trái dựng thẳng lên, ḷng bàn chân trái áp đất. Các quỳ
này biểu thị ư tuân phục, sẵn sàng đứng lên
thực hiện việc được giao phó.