Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 8

地藏菩薩本願經科注

古鹽匡菴青蓮苾芻靈椉父輯

Cổ Diêm, Khuông Am Thanh Liên bật-sô Linh Thừa biên soạn

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản in trong tháng Bảy năm 2017

của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội, Đài Loan)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

3.3. Lưu thông phần

3.3.1. Biệt lưu thông (các phần lưu thông chuyên biệt)

3.3.1.1. Địa thần hộ pháp lưu thông

 

          “Lưu” () là tuôn chảy. “Thông” () là chẳng bị ngưng trệ. [Lưu thông là] muốn cho nước chánh pháp từ hiện thời chảy đến mai sau, [ngơ hầu] khuôn phép để lănh hội thánh giáo chẳng bị úng tắc trong đời sau. Bởi lẽ, đức Như Lai thuyết pháp chỉ lợi ích cho các căn cơ đang hiện diện, ắt phải nhờ vào kết tập, lưu truyền, khiến cho quần sanh [trong đời mai sau] nắm được khuôn phép tu hành như chính tai nghe, mắt thấy, chứng quả chẳng sót. Do ḷng Từ của đức Phật nồng hậu trong cơi đời hiện tại, xót thương đến tận những kiếp mai sau, cho nên cần phải lưu thông. Nay trước hết bàn về chuyện hộ pháp lưu thông.

 

3.3.1.1.1. Phẩm đề (tựa đề của phẩm này)

 

          (Kinh) Địa thần hộ pháp phẩm đệ thập nhất.

          ()地神護法品第十一

          (Kinh: Phẩm thứ mười một: Địa thần hộ pháp).

 

3.3.1.1.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm này)

3.3.1.1.2.1. Kiên Lao thán đức (Kiên Lao tán thán công đức)

3.3.1.1.2.1.1. Thông minh tích ngộ (nói tổng quát về những vị đại Bồ Tát mà chính ḿnh đă được gặp gỡ xưa kia)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kiên Lao địa thần bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă tùng tích lai, chiêm thị đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, giai thị đại bất khả tư nghị thần thông, trí huệ, quảng độ chúng sanh.

          ()爾時堅牢地神白佛言世尊我從昔來瞻視頂禮無量菩薩摩訶薩皆是大不可思議神通智慧廣度眾生。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kiên Lao địa thần bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con từ xưa tới nay đă chiêm ngưỡng, đảnh lễ vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát, đều là những bậc thần thông và trí huệ to lớn chẳng thể nghĩ bàn, rộng độ chúng sanh).

 

           “Nhĩ thời” (lúc bấy giờ) là lúc vừa nói xong bốn chương. Từ ngữ Niết Rị Sừ (涅哩鋤, Drdhā-prthivī-devatā) trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Kiên Lao, có hai nghĩa:

          - Xét theo Sự, tức là xét theo phương diện “có năng lực chuyên chở, phát sanh, làm cho đất đai ph́ nhiêu, nuôi nấng muôn dân, khiến cho muôn loài được an định”.

          - Xét theo pháp, do pháp môn Trí Độ thường hằng chẳng biến đổi; đó là Thường. Có thể chuyên chở núi sông, đó là Lạc. Có thể sanh ra muôn vật, đó là Tịnh. Sức đất tự tại, đó là Ngă. Có đủ bốn đức ấy, nên gọi là Thần (thiên sách Vũ Cống[1] viết: “Để tích giả giai địa nhĩ” (Vùng Để Tích toàn là đất), tức là nói đến vùng đất thấp (Để Tích) ở Đàm Hoài).

          Do có đủ hai ư nghĩa Sự và Pháp, cho nên có tên là Kiên Lao địa thần.

          Hỏi: Địa thần là nam hay nữ?

          Đáp: Là nữ. Trong quyển hai mươi của kinh Trường A Hàm, đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Hữu tứ đại thiên thần, nhất, địa thần, nhị, thủy thần, tam, phong thần, tứ, hỏa thần. Tích giả, địa thần ác kiến, ngôn ‘địa trung vô thủy, hỏa, phong’. Phật ngôn: ‘Địa trung hữu thủy, hỏa, phong, đản địa đại đa cố, địa đại đắc danh’. Thứ đệ thuyết pháp, địa thần hoan hỷ. Phật vị thuyết Tứ Đế, địa thần tức viễn trần, ly cấu, đắc pháp nhăn tịnh, bạch ngôn: ‘Ngă kim quy y Phật, Pháp, Tăng, tận h́nh thọ bất sát, năi chí bất ẩm tửu, thính ngă ư chánh pháp trung vi ưu-bà-di’. Thủy, hỏa, phong thần diệc nhiên” (Có bốn đại thiên thần, một là thần đất, hai là thần nước, ba là thần gió, bốn là thần lửa. Xưa kia, thần đất ác kiến, nói “trong đất chẳng có nước, lửa, gió”. Đức Phật dạy: “Trong nước có nước, lửa, gió, chỉ v́ địa đại nhiều, nên địa đại được xếp đứng đầu”. Đức Phật theo thứ tự nói pháp, thần đất hoan hỷ. Đức Phật v́ vị thần ấy nói Tứ Đế. Thần đất bèn xa ĺa trần cấu, đắc pháp nhăn tịnh, bạch rằng: “Con nay quy y Phật, Pháp, Tăng, cho đến hết thọ mạng chẳng giết, cho đến chẳng uống rượu, xin cho con làm ưu-bà-di trong chánh pháp”. Các thần nước, lửa, gió cũng thế). Do vậy, biết [địa thần] là nữ thần. Trong phần giải thích tựa đề, đă đem Khôn là mẹ phối ứng với vua trời là Càn, tức là cha, chẳng phải là nói đoán ṃ đâu nhé!

          “Bạch Phật”, ư nói: Hoằng dương kinh Phật, ắt phải cậy vào đất; để chuyển pháp, phải nhờ đến cái ăn. Đất cố nhiên do con (Kiên Lao địa thần) làm chủ, thức ăn cũng do con sanh ra. Nếu con chẳng hộ tŕ, dùng điều ǵ để lưu thông vậy thay? Do đó, đối trước đại hội trên cung trời, trong số vô lượng địa thần, vị này quả quyết đảm nhiệm trọng trách hộ pháp. V́ vậy, Ngài bước ra khỏi chỗ ngồi để thưa tŕnh. Trước hết, Ngài nói “ngă tùng tích lai” (con từ xưa tới nay), nêu rơ: “Con đă phát tâm, chẳng phải là trong một sáng, một chiều”.

          “Chiêm thị đảnh lễ” (chiêm ngưỡng, đảnh lễ): Nêu rơ Ngài đă gặp nhiều bậc thánh, [các vị ấy] đều chẳng phải là hạng vặt vănh. “Đại bất khả tư nghị” (to lớn chẳng thể nghĩ bàn): Ca ngợi sự tốt đẹp về thần thông, trí huệ [của các vị thánh ấy]. Thần thông và trí huệ chính là phương tiện để độ sanh, tức là tam mật diệu luân. Như đại tướng Tán Chi[2] nói: “Ngă hiện kiến bất khả tư nghị trí cảnh” (nay ta thấy cảnh trí huệ chẳng thể nghĩ bàn). Kim Quang Minh Kinh Sớ viết: “Nếu cảnh mà có thể dùng trí để biết, có thể dùng miệng để diễn tả, cảnh sẽ chẳng phải là bí mật. Chẳng thể dùng trí để biết, chẳng thể dùng thức để nhận biết, chẳng thể gọi tên, chẳng thể nói, th́ gọi là cảnh bí mật chẳng thể nghĩ bàn!” Nay các vị Bồ Tát đều dùng Tam Mật (thân mật, ngữ mật, ư mật) để rộng độ chúng sanh, cho nên đều là thần thông và trí huệ to lớn chẳng thể nghĩ bàn!

 

3.3.1.1.2.1.2. Biệt tán kim văn (riêng tán thán vị được nghe nói trong hiện thời) 3.3.1.1.2.1.2.1. Tán Địa Tạng đức (tán dương công đức của ngài Địa Tạng)

3.3.1.1.2.1.2.1.1. Thán thệ nguyện thâm trọng (tán thán thệ nguyện sâu nặng)

 

          (Kinh) Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, ư chư Bồ Tát, thệ nguyện thâm trọng. Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát ư Diêm Phù Đề hữu đại nhân duyên.

          ()是地藏菩薩摩訶薩於諸菩薩誓願深重。世尊是地藏菩薩於閻浮提有大因緣。

          (Kinh: Trong các vị Bồ Tát, vị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát này thệ nguyện sâu nặng. Bạch Thế Tôn! Vị Địa Tạng Bồ Tát này có đại nhân duyên với Diêm Phù Đề).

 

          Nêu chung thệ nguyện của đức Địa Tạng, Ngài đặc biệt hữu duyên với Diêm Phù. [Những điều này đều được nói rơ] trong đoạn kinh văn kế tiếp.

 

3.3.1.1.2.1.2.1.2. Cử Đại Sĩ lệ hiển (nêu ra một vài vị Đại Sĩ để chỉ rơ)

 

          (Kinh) Như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc, diệc hóa bách thiên thân h́nh, độ ư lục đạo, kỳ nguyện thượng hữu tất cánh.

          ()如文殊普賢觀音彌勒亦化百千身形度於六道。其願尚有畢竟。

          (Kinh: Như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cũng hóa hiện trăm ngàn thân h́nh độ thoát lục đạo, nguyện của các vị ấy c̣n có lúc hoàn măn).

 

          Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc như đă giải thích trong các phần trước. Quán Âm sẽ được giải thích trong phần sau. Theo kinh Thập Luân, ngoại trừ Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm v.v… các vị đại Bồ Tát đều chẳng sánh bằng ngài Địa Tạng. Nay địa thần c̣n nói các vị như Văn Thù v.v… vẫn thua kém một bậc, chẳng phải là nói “công đức có hơn, kém”, mà là do thệ nguyện có hoàn măn hay không!

           “Diệc hóa” (cũng hóa hiện): Như Đại Luận viết: “Mỗi lỗ chân lông của Biến Cát Bồ Tát (Văn Thù Bồ Tát) thường hiện ra các thế giới Phật và chư Phật, Bồ Tát trọn khắp mười phương để hóa độ chúng sanh”. Ngài Văn Thù phân thân biến hóa vào trong năm đường, hoặc làm Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc hiện thân Phật. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có nói: Ngài Văn Thù trong quá khứ là Long Chủng Tôn Phật (Nagesvara-raja). Bảy mươi hai ức đời làm Bích Chi Ca Phật (Bích Chi Phật, Pratyekabuddha).

          Trong kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn, đức Phật bảo ngài Bạt Đà La: “Thử Văn Thù Sư Lợi hữu đại từ bi, sanh ư thử quốc Đa La tụ lạc, Phạm Đức Bà-la-môn gia. Sanh thời, trạch hóa liên hoa. Tùng mẫu hữu hiếp xuất, thân tử kim sắc, đọa địa năng ngữ, bảo cái tùy phú. Ư Phật sở xuất gia, trụ Thủ Lăng Nghiêm Định. Phật Niết Bàn hậu, tứ bách ngũ thập tuế, đương chí Tuyết Sơn, vị ngũ bách tiên nhân, tuyên dương thập nhị bộ kinh, hóa linh trụ Bất Thoái dĩ, chí Bổn Sanh không dă trạch, Ni Câu Lâu Đà thụ hạ, nhập Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, mao khổng xuất kim sắc quang, biến chiếu thập phương thế giới, độ hữu duyên giả. Thân như tử kim sơn, chánh trường trượng lục, viên quang nghiêm hiển, diện các nhất tầm. Viên quang nội, ngũ bách hóa Phật. Nhất nhất hóa Phật, hữu ngũ Bồ Tát, dĩ vi thị giả. Thị Văn Thù Sư Lợi, hữu vô lượng thần thông biến hiện, bất khả cụ thuyết” (Ông Văn Thù Sư Lợi có tâm đại từ bi, sanh trong nhà Bà-la-môn Phạm Đức thuộc thôn làng Đa La của nước này. Khi ông ta sanh ra, nhà hóa sanh hoa sen. Từ hông phải của mẹ xuất sanh, thân sắc tử kim. Vừa rơi xuống đất, đă biết nói, lọng báu theo che phủ. Ông xuất gia nơi Phật, trụ trong Thủ Lăng Nghiêm Định. Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn bốn trăm năm mươi năm, ông ta sẽ tới Tuyết Sơn, v́ năm trăm tiên nhân tuyên dương mười hai bộ kinh, hóa độ họ trụ Bất Thoái xong, bèn tới vùng đầm nước nơi đồng trống Bổn Sanh, ở dưới cội Ni Câu Lâu Đà, nhập Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. Lỗ chân lông tỏa quang minh kim sắc, chiếu trọn khắp mười phương thế giới, độ kẻ hữu duyên. Thân như núi vàng tía, cao đúng một trượng sáu thước. Viên quang trang nghiêm, rơ rệt, chiếu mỗi phía xa một tầm. Trong viên quang, có năm trăm hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật, có năm vị hóa Bồ Tát làm thị giả. Ông Văn Thù Sư Lợi này có vô lượng thần thông biến hiện, chẳng thể nói trọn).

          Lại nữa, sư Biện Thông từ Ngũ Đài lên kinh đô, có vị lăo tăng nhờ t́m Bột Hà ở phía Bắc kinh thành để đưa giùm thư. Sư tới bên sông Quảng Từ, nghe trẻ nhỏ gọi [một con lợn] là Bột Hà, bèn đưa thư cho nó. Lợn vội ăn ngay, bỗng đứng thẳng như người mà thác. Mới biết vị lăo tăng chính là Văn Thù, c̣n Bột Hà chính là Phổ Hiền. Gă đồ tể họ Triệu đă nuôi con lợn ấy mười lăm năm. Do nó chỉ ăn cây bột hà (bạc hà), nên gọi tên như vậy. Hàn Sơn, Thập Đắc cũng [do hai vị Bồ Tát này hóa hiện] tương tự như vậy.

          Quán Âm th́ như phẩm Phổ Môn đă nói ba mươi hai ứng thân, và các truyện kư ghi chép càng nhiều. Di Lặc [hóa thân] th́ như Phó Đại Sĩ, Bố Đại tăng v.v… Đó là nói theo chuyện gần đây, kinh Huệ Thượng Bồ Tát chép: “Tích Câu Lâu Tần Phật thời, hữu tỳ-kheo danh Vô Cấu, nhàn cư sơn quật, cận hữu ngũ thần tiên. Hữu nhất nữ nhân, ngộ vũ nhập quật, vũ t́nh xuất khứ. Ngũ tiên kiến chi, các ngôn bỉ tỳ-kheo gian uế. Vô Cấu văn chi, tức dũng thân hư không, ngũ tiên đầu địa phục tội, tức thị Từ Thị” (Xưa kia, vào thời Câu Lâu Tần Phật (Câu Lưu Tôn Phật), có một tỳ-kheo tên là Vô Cấu, ẩn cư trong hang núi. Gần đó, có năm vị thần tiên. Có một nữ nhân gặp mưa, bèn lánh vào hang; mưa tạnh liền đi ra. Năm vị tiên trông thấy, đều nói tỳ-kheo ấy gian dâm, bẩn thỉu. Vô Cấu nghe nói, liền tung ḿnh lên hư không, năm vị tiên gieo ḿnh xuống đất chịu tội. Đấy chính là ngài Từ Thị). Do các vị Đại Sĩ ứng hiện chẳng có ngằn mé, cho nên nói tổng quát là “diệc hóa bách thiên thân h́nh” (cũng hóa hiện trăm ngàn thân h́nh). Nhưng các nguyện niệm ấy đều có lúc cùng tận, chẳng phải là không hoàn măn!

 

3.3.1.1.2.1.2.1.3. Hiển giáo hóa nan lượng (chỉ rơ Bồ Tát giáo hóa khó lường)

 

          (Kinh) Thị Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa lục đạo nhất thiết chúng sanh, sở phát thệ nguyện kiếp số như thiên bách ức Hằng hà sa.

          ()是地藏菩薩教化六道一切眾生所發誓願劫數如千百億恆河沙。

          (Kinh: Vị Địa Tạng Bồ Tát này giáo hóa hết thảy chúng sanh trong sáu đường, đă phát ra thệ nguyện trong số kiếp nhiều như số cát trong trăm ngàn sông Hằng).

 

          Như đă giải thích trong các phần trước.

 

3.3.1.1.2.1.2.2. Hộ cúng dường nhân (hộ tŕ người cúng dường)

3.3.1.1.2.1.2.2.1. Tố tượng, cúng tán đắc lợi ích (đắp tượng, cúng dường, tán thán, sẽ đạt được lợi ích)

3.3.1.1.2.1.2.2.1.1. Tu nhân

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă quán vị lai, cập hiện tại chúng sanh, ư sở trụ xứ, ư Nam phương thanh khiết chi địa, dĩ thổ, thạch, trúc, mộc, tác kỳ khám thất. Thị trung năng tố, họa, năi chí kim, ngân, đồng, thiết, tác Địa Tạng h́nh tượng, thiêu hương, cúng dường, chiêm lễ, tán thán.

          ()世尊我觀未來及現在眾生於所住處於南方清潔之地以土石竹木作其龕室。是中能塑畫乃至金銀銅鐵作地藏形像。燒香供養瞻禮讚歎。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Con thấy chúng sanh trong vị lai và hiện tại, tại chỗ họ ở, nơi cuộc đất thanh khiết ở phương Nam, dùng đất, đá, tre, gỗ, làm thành cái khám thờ, trong ấy có thể đắp, vẽ, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt, tạo h́nh tượng Địa Tạng, thắp hương, cúng dường, chiêm lễ, tán thán).

 

          Chân trí không ngằn mé, chẳng hạn cuộc Đông, Tây, Nam, Bắc; Pháp Thân không có h́nh tượng, há phải cậy vào đồng, sắt, vàng, bạc? Nhưng đất chính là chỗ để thờ tượng, tượng là cửa ngơ để khởi ḷng cung kính. Do thuận theo cơ nghi thế tục, chẳng hoại giả danh để luận đàm Thật Tướng. Pháp để xiển dương Tánh, ắt nhờ vào giả tướng để ngộ chân dung (dung mạo thật sự). V́ thế, nương theo nơi chốn để tạo h́nh tướng. Nhưng nói “ư sở trụ xứ” (tại chỗ họ ở) cũng là địa thần nói theo phương diện h́nh tích. Nếu luận theo Bổn, há có nơi nào để luận? Tứ Trí chẳng thể biện định đầu mối này, Ngũ Nhăn sao có thể thấy chỗ sâu thẳm ấy? Như trong kinh Thập Luân, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát bạch cùng đức Phật rằng: “Thử thiện nam tử tùng hà nhi lai? Sở cư Phật quốc khứ thử viễn cận?” (Vị thiện nam tử này từ đâu mà đến? Ở trong cơi Phật cách đây gần hay xa?) Đức Phật dạy: “Như thị Đại Sĩ, tùy sở chỉ trụ, chư Phật quốc độ, tùy sở an trụ, chư tam-ma-địa” (vị Đại Sĩ như thế tùy ư cư trụ trong các cơi Phật, tùy ư an trụ trong các chánh định). Theo đó, há Ngài hạn cuộc trong một phương, một chỗ ư?

          Nay nói làm cái thất ở phương Nam, xét theo kinh Khởi Thế, sẽ là phía Nam của châu Diêm Phù, ở ngoài hai núi Thiết Vi, có trụ xứ của cung điện vua Diêm Ma. Ngài Địa Tạng đặc biệt hiện thân trong địa ngục, làm U Minh giáo chủ; do vậy, thuận theo chỗ Ngài hiện thân mà làm cái thất ở phía Nam. Đấy chính là ư nghĩa trong pháp hội Đại Tập, Ngài đă hiện mưa hương, mây hoa từ thế giới phương Nam đến dự. Đấy là v́ coi Ngọ là Trung Đạo, quẻ Ly ở phía Nam là chánh, là mặt trời, là sáng rực. Do quẻ Ly rỗng rang ở giữa[3], cho nên sáng ngời, giống như “do các pháp là Không”, cho nên mặt trời trí huệ rạng ngời nơi Dương, chiếu trọn khắp thiên hạ. V́ thế, xét theo nơi chốn thuộc về Tích mà tạo tác cái thất thờ tượng, chính là v́ muốn cho ai nấy đều thoát khỏi con đường tối tăm đầy hầm bẫy, thăng lên cuộc đất thuộc về Dương, nơi quẻ Ly sáng ngời. Bởi lẽ, Âm chủ tử, mà Dương chủ sanh vậy.

          “Thanh khiết chi địa” (cuộc đất thanh khiết): Theo cách tạo đàn tràng trong Mật Bộ, ắt cần phải đào bỏ đất dơ, thay bằng đất sạch. Phải làm đàn tràng ở chỗ rừng sâu thanh vắng, hoặc chỗ đất sạch bên sông, th́ mới gọi là “đúng pháp”. V́ thế, nay cũng nói “ư thanh khiết địa” (ở chỗ đất thanh khiết).

          “Khám” () [theo nghĩa gốc] có nghĩa là “hang rồng”. Chữ Khám ghép từ chữ Hợp () [và Long ()], [chữ Hợp] hàm nghĩa [khi khí hậu chuyển sang giữa Thu, trời bắt đầu lạnh], các loài sâu bọ bèn phong kín hang hốc của chúng, tức là ư nghĩa “tĩnh đến cùng cực”. Long là tinh túy của thuần dương, trọn đủ sự biến hóa của thiên đạo. Dương (quẻ Càn) được khởi đầu bằng Tiềm Long (rồng ẩn)[4], chính là v́ chưa thấy đức thành tựu. V́ sao vậy? Chính là v́ thấy thiên đạo c̣n mờ mịt, không tiếng động, không mùi. Rồng ẩn mà chẳng ẩn, xuyên qua hỗn độn, mọi người sẽ thấy nó hiện mà chẳng hiện, ẩn mà chẳng ẩn. Hội tụ Âm Dương nhất trí, dứt bặt Tánh và Tu cùng nguồn. Đây chính là Đế và Quán chẳng khác biệt, là pháp môn tuyệt học vậy[5]. Những điều khác dễ hiểu!

3.3.1.1.2.1.2.2.1.2. Đắc ích (đạt được lợi ích)

3.3.1.1.2.1.2.2.1.2.1. Tiêu thị thập lợi (nêu bày mười điều lợi)

 

          (Kinh) Thị nhân cư xứ, tức đắc thập chủng lợi ích.

          ()是人居處即得十種利益。

          (Kinh: Nơi người ấy ở, liền được mười thứ lợi ích).

 

          Điều này hiển thị “người tôn quư, nơi chốn thù thắng”. Đấy là do đă nghe thệ nguyện và oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, bèn có thể tin hiểu, lại c̣n tạo thất, tạc tượng, cúng dường, lễ bái, tán thán. Thoạt đầu là một niệm tín giải; sau đó, kiêm hành Lục Độ. Do đă là chốn cư ngụ của một đệ tử tôn trọng [Bồ Tát nói riêng và Tam Bảo nói chung], dù ở bất cứ nơi đâu, cũng đều là cát tường. V́ vậy, điềm lành thường chen nhau đưa tới, [cho nên] có mười thứ lợi ích.

 

3.3.1.1.2.1.2.2.1.2.2. Trưng liệt thập danh (liệt kê mười thứ)    

         

          (Kinh) Hà đẳng vi thập? Nhất giả, thổ địa phong nhưỡng. Nhị giả, gia trạch vĩnh an.

          ()何等為十。一者土地豐壤。二者家宅永安。

          (Kinh: Những ǵ là mười? Một là đất đai ph́ nhiêu, hai là nhà cửa măi măi an ổn).

 

          Câu đầu tiên là gạn hỏi, từ chữ “nhất giả” (một là) trở đi, liệt kê. [Các thứ lợi ích] theo thứ tự sanh ra nhau, có mười điều lợi. Trước hết, nêu ra đất đai, do kiến lập chỗ ở. Kế đó, nói đến nhà cửa để an thân, cho đến “quỷ thần bảo vệ, giúp đỡ”; kết thúc bằng “[tạo thành cái] nhân gặp gỡ thánh hiền”.

           “Phong nhưỡng” (豐壤): “Phong” () là thịnh vượng, to lớn. Hễ sung túc th́ cúng tế sẽ trọn đủ các món vật, cho nên dùng chữ Đậu () to mập để tạo chữ Phong. Phía trên của chữ Phong (), có ba chữ Phong (, lợi lộc tràn đầy), ngụ ư: Đă thịnh vượng lại càng thịnh vượng hơn. Thiên sách Vũ Cống có câu: “Quyết thổ duy bạch nhưỡng” (cuộc đất này chỉ là đất mịn màu trắng). Câu này được chú giải như sau: “Đất mềm mịn, không vón cục, gọi là Nhưỡng. Nói là Bạch (trắng) v́ thấy màu sắc của nó tinh thuần. Nói là Nhưỡng v́ thấy đặc tánh đẹp đẽ của nó”. Quan Đại Tư Đồ đời Châu biện định có mười hai loại Nhưỡng () để nhận biết các loại đất, ḥng dạy [dân chúng] canh tác, trồng trọt. Nhưng biện định về đất đai, hăy nên xét theo hai khía cạnh, tức là màu sắc và tánh chất. Đại khái, đất tốt năm màu, đều là loại đất tốt ph́ nhiêu để trồng trọt; như nói “quyết thổ hắc phần, quyết thổ xích phần” (cuộc đất này là loại đất g̣ màu đen, cuộc đất kia là loại đất g̣ màu đỏ) v.v… Do vậy, trong phần chú giải về chương Địa Quan trong sách Châu Lễ, có chép: “Nhưỡng xích thổ, dĩ vạn vật tự sanh, tắc ngôn Thổ. Dĩ nhân sở canh nghệ, tắc viết Nhưỡng” (“Nhưỡng xích thổ”: Để vạn vật tự sanh trưởng th́ gọi là Thổ. Để cho mọi người cày cấy, trồng trọt, th́ gọi là Nhưỡng).

          “Nhưỡng” () là hài ḥa. Sách Dật Nhă giảng Nhưỡng có nghĩa là “ph́ nhiêu, không khô khan”. Kinh Thế Kư dạy: “Diêm Phù Đề sở hữu quốc, danh viết Ốc Nhưỡng Phong Lạc, đa xuất trân bảo, lâm thủy thanh tịnh” (Diêm Phù Đề có quốc gia tên là Ốc Nhưỡng Phong Lạc, sanh ra nhiều thứ quư báu, rừng và nước thanh tịnh) là nói đến chuyện này. Theo kinh Trường A Hàm, cuộc đất Diêm Phù Đề phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, kích thước mỗi bề là bảy ngàn do-tuần. Mặt con người [trong châu ấy] giống như h́nh thế của đất).

          Đă có được cuộc đất ph́ nhiêu, ắt nhà cửa sẽ măi măi an ổn. Chữ Gia () do Miên () và Chúng () ghép lại, tức là cha con, anh em, vợ chồng, ở chung với nhau ḥa hợp, vui vẻ. Chữ Trạch () do Miên () và Thác () ghép lại, hàm nghĩa: Chọn chỗ tốt lành để gởi thân, [ngơ hầu] điềm lành đưa tới, tai ương diệt mất.

 

          (Kinh) Tam giả, tiên vong sanh thiên. Tứ giả, hiện tồn ích thọ.

          ()三者先亡生天。四者現存益壽。

          (Kinh: Ba là người đă khuất sanh lên trời. Bốn là người c̣n sống tăng thêm tuổi thọ).

 

          Người sống đă yên ổn, tổ tiên cũng được phước, cũng được hưởng thiện nghiệp, và được sanh lên trời. Người đă mất c̣n như thế, huống hồ là [người tự tay] tạo thất, trang nghiêm tượng ư? Ví như kinh Kim Quang Minh có dạy: “Nhược hữu chúng sanh, vị cúng dường kinh điển cố, trang nghiêm ốc trạch. Năi chí trương huyền nhất phan, nhất cái, cập dĩ nhất y, Dục Giới Lục Thiên dĩ hữu tự nhiên thất bảo cung điện. Thị nhân mạng chung, tức đắc sanh bỉ, các các tự nhiên hữu thất thiên nữ, cộng tương ngu lạc. Nhật dạ thường thọ bất khả tư nghị vi diệu khoái lạc” (Nếu có chúng sanh v́ cúng dường kinh điển mà trang nghiêm nhà cửa, cho đến căng, treo một lá phan, một cái lọng, và dùng một cái y [để cúng dường]. Trên tầng trời thứ sáu của Dục Giới tự nhiên đă có cung điện bảy báu [chờ sẵn người ấy]. Người ấy mạng chung, liền được sanh về đó, ai nấy đều tự nhiên có bảy thiên nữ cùng nhau vui sướng. Ngày đêm thường hưởng sự vui sướng vi diệu chẳng thể nghĩ bàn). Nay kinh này cũng nói như thế, không chỉ là người đă khuất sanh thiên, mà cũng khiến cho người đang c̣n sống tăng thêm tuổi thọ. Kinh Kim Quang Minh dạy: “Diêm Phù Đề nội, dược thảo thụ mộc, căn, hành, chi, diệp, hoa, quả tư mậu, mỹ sắc, hương vị, giai tất cụ túc. Chúng sanh thực dĩ, tăng trưởng thọ, sắc, lực, biện, an, lục t́nh chư căn, cụ túc thông lợi” (Trong Diêm Phù Đề, cỏ thuốc, cây cối, rễ, thân, cành, lá, hoa, quả sum xuê, đẹp đẽ, thơm, ngon, thảy đều trọn đủ. Chúng sanh ăn xong, sẽ tăng trưởng tuổi thọ, sắc diện, thể lực, biện tài, an ổn, sáu căn trọn đủ, nhạy bén) là nói về ư này.

 

          (Kinh) Ngũ giả, sở cầu toại ư. Lục giả, vô thủy hỏa tai.

          ()五者所求遂意。六者無水火災。

          (Kinh: Năm là điều mong cầu được vừa ư. Sáu là không có tai nạn nước, lửa).

 

          Đă sống thọ mà mọi việc chẳng hài ḥa, há đáng quư ư? Nay phàm mọi chuyện mong cầu, không ǵ chẳng toại nguyện. Thuận theo chí ḿnh là Toại (), cũng là Xứng (, vừa ư), thường gọi là “tùy ư sử dụng, hưởng thụ vui sướng”. Các thứ thức ăn, quần áo, ngọa cụ (đồ trải nằm như chiếu, mền, đệm…), cung điện, nhà cửa, cây cối, rừng, vườn, sông, ao, giếng, suối, thảy đều trọn đủ, không ǵ chẳng toại ư. Toại ư ở bên trong, c̣n tai nạn hay cát tường ở bên ngoài. Nếu nói đến nước, lửa th́ đời người chẳng thể nào thiếu chúng một ngày. V́ nước chảy làm ẩm ướt, nhuần thấm vạn vật; do vậy, nó ở vào vị trí của quẻ Khảm ở phương Bắc. Lửa th́ khô nóng, khiến cho vạn vật khô khan, cho nên nó ở vị trí của quẻ Ly thuộc phương Nam. “Thủy hỏa kư tế” (nước lửa giúp sức cho nhau)[6] th́ vạn vật sanh thành. Nếu nước và lửa chẳng đúng thời, vạn vật sẽ cháy khô, hoặc hư nát, huống hồ chim Thương Dương[7] hiện ra nhảy múa, Hồi Lộc ngầm đến, ắt tai họa chẳng cạn! (Theo Bạch Trạch Đồ, tinh linh của lửa tên là Tất Phương (必方), h́nh dáng như chim, một chân. Gọi tên nó, nó sẽ bỏ đi. Tinh linh của nước tên là Vơng Tượng (罔象), h́nh dạng như đứa bé, mắt đỏ, da đen, tai to, móng vuốt dài. Dùng thừng trói nó th́ sẽ bắt được. Đem nấu, sẽ tốt lành).

 

          (Kinh) Thất giả, hư hao tịch trừ. Bát giả, đỗ tuyệt ác mộng.

          ()七者虛耗辟除。八者杜絕惡夢。

          (Kinh: Bảy là trừ sạch hư hao. Tám là dứt bặt ác mộng).

 

          Trong lẫn ngoài tuy đạt được an ninh, lại cần phải trừ khử hư hao. Sách Thuyết Văn Giải Tự giảng Hao () là một loại lúa. Sách Lữ Thị Xuân Thu[8] chép: “Phạn chi mỹ giả, Huyền Sơn chi ḥa, Nam Hải chi hao” (cơm ngon là giống lúa ở Huyền Sơn, là gạo ở Nam Hải) là nói về điều này. Như Tuân Tử nói: “Nhiều mà rối loạn th́ gọi là Hao”, tức là [Hao hiểu theo nghĩa] “giảm tổn, hư hao”. Trong bài Đối Sách[9] của Đổng Trọng Thư có câu: “Sát thiên hạ nhi tức hao” (xét sao cho thiên hạ sanh điều thiện, giảm bớt điều ác) là nói đến chuyện này (Chú thích: “Tức” () là sanh trưởng. “Hao” () là hư rỗng. Thế tục gọi ngày Mười Sáu tháng Giêng là Hao Ma Nhật (耗磨日), các cơ quan công quyền chẳng mở kho thóc trong ngày ấy).

          Kinh Kim Quang Minh dạy: “Nhược thử quốc độ, hữu chư suy hao, chủng chủng gian nan, dĩ ngă đẳng lực cố, linh như thị chủng chủng bách thiên suy hao chi sự, tất giai diệt tận” (Nếu cơi nước này có các thứ suy bại, hao tổn, đủ mọi thứ gian nan, do sức của chúng tôi, sẽ khiến cho trăm ngàn chuyện suy hao như vậy đều bị diệt sạch) là nói về chuyện này. Ban ngày các duyên đă thuận thảo, thích đáng, đêm th́ cần phải ngủ nghỉ, nằm mộng an tường. Nay trăm thứ ác mộng b́nh phàm giống như vỏ rễ cây bị vùi kín chẳng lộ ra được, như đầu mối của bó sợi gai bị cắt đứt, không thể nối tiếp được nữa!

 

          (Kinh) Cửu giả, xuất nhập thần hộ. Thập giả, đa ngộ thánh nhân.

          ()九者出入神護。十者多遇聖因。

          (Kinh: Chín là ra vào có thần bảo vệ. Mười là, thường gặp gỡ những cái nhân giúp tăng tấn thánh đạo).

 

          Ngày qua, tháng lại, ngồi hưởng sự tốt lành thuần mỹ. Ngày ra, đêm vào, càng mong được yên ổn. Nay do tu phước thiện, ra vào có thần bảo vệ. Kinh Kim Quang Minh chép: “Ngă đẳng tứ vương, nhị thập bát bộ chư quỷ thần đẳng, cập vô lượng bách thiên quỷ thần, dĩ tịnh thiên nhăn, quá ư nhân nhăn, thường quán ủng hộ thử Diêm Phù Đề” (Bốn vua chúng con, hai mươi tám bộ các quỷ thần, và vô lượng trăm ngàn quỷ thần, dùng thiên nhăn trong sạch hơn hẳn mắt của loài người để thường nh́n xem, ủng hộ cơi Diêm Phù Đề này) là nói về chuyện này. Chín loại trước đều là lợi ích thế gian. Loại thứ mười là cái nhân của quả thánh, chính là lợi ích xuất thế. “Thánh” () là chánh đáng, tức là cái nhân tu tập của bậc thánh chân chánh xuất thế. Như nghe pháp, ngộ đạo, trai tăng, bố thí, tạo tượng, sửa tháp, tu bổ kinh điển và thánh tượng [bị hư hoại] v.v... Kinh Niết Bàn dạy: “Thiện tri thức giả, linh nhân tiệm viễn ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, bổn vị hữu Định, Huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, tức tiện hữu chi. Vị cụ túc giả, tức đắc tăng quảng” (Thiện tri thức là bậc khiến cho mọi người dần dần xa ĺa pháp ác, tăng trưởng pháp lành. Kẻ vốn chưa có Định, Huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sẽ liền có. Kẻ chưa đầy đủ, sẽ được tăng trưởng rộng hơn). Thường được nhiều lượt gặp gỡ cái nhân của thánh đạo như thế! Nếu chẳng do tu cúng dường Đại Sĩ, sao có thể đạt được mười thứ lợi ích ấy?

 

3.3.1.1.2.1.2.2.1.3. Kết thành (kết lại phần thành tựu)

 

          (Kinh) Thế Tôn! Vị lai thế trung, cập hiện tại chúng sanh, nhược năng ư sở trụ xứ phương diện, tác như thị cúng dường, đắc như thị lợi ích.

          ()世尊未來世中及現在眾生若能於所住處方面作如是供養得如是利益。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Chúng sanh trong đời vị lai và hiện tại, nếu có thể ở nơi cư trụ của chính ḿnh, thực hiện sự cúng dường như thế, sẽ đạt được lợi ích như vậy).

 

          Tổng kết chung cả hai phần kinh văn nói về tu nhân và đạt được lợi ích. Kinh Thập Luân dạy: “Thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, ư kỳ Di Lặc, cập Diệu Cát Tường, tịnh Quán Tự Tại, Phổ Hiền chi loại, nhi vi thượng thủ, Căng-già sa đẳng, chư đại Bồ Tát sở, ư bách kiếp trung, chí tâm quy y, xưng danh, niệm tụng, lễ bái, cúng dường, cầu chư sở nguyện, bất như hữu nhân ư nhất thực khoảnh, chí tâm quy y Địa Tạng Bồ Tát, linh chư hữu t́nh sở nguyện măn túc. Như như ư bảo, diệc như phục tạng. Như thị Đại Sĩ, vị dục thành thục chư hữu t́nh cố, cửu tu kiên cố đại nguyện, đại bi, dũng mănh tinh tấn, quá chư Bồ Tát. Thị cố nhữ đẳng, ưng đương cúng dường” (Này thiện nam tử! Giả sử có người đối với các bậc thượng thủ của hàng đại Bồ Tát như Di Lặc, Diệu Cát Tường, cùng Quán Tự Tại, Phổ Hiền, số lượng nhiều như cát sông Hằng, trong trăm kiếp chí tâm quy y, xưng danh, niệm tụng, lễ bái, cúng dường, cầu thỏa các điều nguyện, chẳng bằng người trong khoảng một bữa ăn, chí tâm quy y Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho các hữu t́nh được thỏa măn điều nguyện, như báu như ư, cũng như kho tàng. Vị Đại Sĩ như thế, v́ muốn thành thục các hữu t́nh, đă tu đại nguyện, đại bi kiên cố từ lâu, dũng mănh, tinh tấn vượt xa các vị Bồ Tát. V́ thế, các ông hăy nên cúng dường). Kệ rằng: “Giả sử bách kiếp trung, tán thuyết kỳ công đức, do thượng bất năng tận, cố giai đương cúng dường” (Giả sử trong trăm kiếp, khen nói công đức Ngài, vẫn c̣n chẳng thể hết, hăy đều nên cúng dường). Sở dĩ cúng dường là v́ đạt được lợi ích như thế đó!

 

3.3.1.1.2.1.2.2.2. Độc kinh, cúng tượng, tiêu hoạnh sự (đọc kinh, thờ phụng tượng, sẽ tiêu trừ các chuyện ngang trái)

 

          (Kinh) Phục bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư sở trụ xứ, hữu thử kinh điển, cập Bồ Tát tượng, thị nhân cánh năng chuyển độc kinh điển, cúng dường Bồ Tát, ngă thường nhật dạ, dĩ bổn thần lực, vệ hộ thị nhân, năi chí thủy, hỏa, đạo tặc, đại hoạnh, tiểu hoạnh, nhất thiết ác sự, tất giai tiêu diệt.

          ()復白佛言世尊未來世中若有善男子善女人於所住處有此經典及菩薩像。是人更能轉讀經典供養菩薩。我常日夜以本神力衛護是人。乃至水火盜賊大橫小橫一切惡事悉皆銷滅。

          (Kinh: Lại bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nơi chỗ ḿnh ở, có kinh điển này và tượng Bồ Tát, người ấy lại có thể chuyển đọc kinh điển, cúng dường Bồ Tát, con sẽ thường suốt ngày đêm dùng thần lực của ḿnh bảo vệ người ấy, cho đến các tai nạn nước, lửa, giặc cướp, chuyện ngang trái lớn, nhỏ, hết thảy các chuyện ác, thảy đều tiêu diệt).

 

          Trước hết, nói đến kinh, tượng ở chỗ cư trú. Tiếp đó, nói đến thần lực hộ tŕ, diệt ác. Ta thấy tâm hộ pháp của địa thần trong kinh này giống như khi Ngài phát nguyện hộ tŕ kinh trong hội Kim Quang Minh. Ngài nói: “Nhược tùy thị kinh điển sở lưu bố xứ, ngă đương tại trung, thường tác túc vệ” (Nếu kinh điển này được lưu truyền đến chỗ nào, tôi sẽ thường canh giữ, bảo vệ nơi đó). Tiêu diệt nạn nước lửa, tức là chuyện thuộc các điều lợi ích sáu, bảy, và tám trên đây. “Đại hoạnh” là như chín thứ “hoạnh tử” (chết ngang xương) trong kinh Dược Sư. “Tiểu hoạnh” là như các chuyện ngang trái nói trong kinh Cửu Hoạnh.

          “Nhất thiết ác sự” (hết thảy chuyện ác) là như kinh Kim Quang Minh dạy: “Dĩ thị kinh cố, ác mộng, cổ đạo, ngũ tinh, chư tú, biến dị tai họa, nhất thiết ác sự, tiêu diệt vô dư. Vô lượng quỷ thần, cập chư Đại Sĩ, trú dạ tinh cần, ủng hộ tứ phương, linh vô tai họa, vĩnh ly chư khổ. Ứng tâm thích ư, tùy kỳ sở nhạo” (Do v́ kinh này, ác mộng, cổ thuật, ngũ tinh[10], các ngôi sao, tai họa biến đổi lạ lùng, hết thảy chuyện ác tiêu diệt chẳng c̣n sót. Vô lượng quỷ thần và các Đại Sĩ ngày đêm chuyên ṛng, siêng năng ủng hộ bốn phương, khiến cho chẳng có tai họa, vĩnh viễn ĺa khỏi các khổ. Vừa ḷng thích ư, tùy theo ḷng ưa thích). Há chẳng phải là ác sự tiêu diệt, điều thiện đông đầy, tai họa ngang trái tiêu diệt, điềm lành tụ tập ư?

          Trong đời có kẻ chẳng tin tưởng, cho đó là những lời lẽ dẫn dụ tiến nhập Phật môn, há chẳng nghe: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà chất chứa điều thiện, vui mừng có thừa. Nhà chứa điều bất thiện, tai ương có thừa). Lại chẳng nghe “xuất ngôn thiện, thiên lư chi ngoại ứng chi. Xuất bất thiện ngôn, thiên lư chi ngoại vi chi” (thốt lời tốt lành, ngoài ngàn dặm hưởng ứng. Thốt lời bất thiện, ngoài ngàn dặm chống đối). Lời nói và việc làm chính là then chốt của bậc quân tử, động thiên địa, cảm quỷ thần, há có nên chẳng tôn kính, thận trọng ư?

 

3.3.1.1.2.2. Giáo chủ thuật thành (đấng giáo chủ kể lại những thành tựu của địa thần)

3.3.1.1.2.2.1. Tán đức (khen ngợi đức)

3.3.1.1.2.2.1.1. Trực tán thần lực (trực tiếp tán dương thần lực)

 

          (Kinh) Phật cáo Kiên Lao địa thần: “Nhữ đại thần lực, chư thần thiểu cập”.

          ()佛告堅牢地神汝大神力諸神少及。

          (Kinh: Đức Phật bảo Kiên Lao địa thần: “Thần lực to lớn của bà, các vị thần khác ít có ai bằng”).

 

          “Đại thần lực” là những điều sẽ được nói trong phần sau. “Chư thần” là những người đồng loại [với địa thần], như khi Thiện Tài tham học với địa thần An Trụ, có trăm vạn địa thần, mỗi vị đều tỏa ra quang minh. Ư nói: Những vị thần như thế, hiếm có vị nào có thần lực sánh bằng bà ta!

 

3.3.1.1.2.2.1.2. Chuyển thích chủ vật (nói đến những vật do địa thần cai quản)

 

          (Kinh) Hà dĩ cố? Diêm Phù thổ địa, tất mông nhữ hộ. Năi chí thảo, mộc, sa, thạch, đạo, ma, trúc, vi, cốc, mễ, bảo bối, tùng địa nhi hữu, giai nhân nhữ lực.    

          ()何以故。閻浮土地悉蒙汝護。乃至草木沙石稻麻竹葦穀米寶貝從地而有皆因汝力。

          (Kinh: V́ sao vậy? Đất đai trong Diêm Phù Đều nhờ bà hộ tŕ. Cho đến cỏ cây, cát, đá, lúa, mè, tre, lau, gạo, thóc, bảo bối, đều từ đất mà có, đều do sức của bà).

 

          Hai câu đầu là giải thích chung. Từ chữ “năi chí” (cho đến) trở đi, giải thích từng điều riêng biệt. Trong hội Kim Quang Minh, địa thần tự nói: “Nhi thử đại địa, thâm thập lục vạn bát thiên do-tuần, tùng Kim Cang tế, chí hải địa thượng, tất đắc chúng vị, tăng trưởng cụ túc, phong nhưỡng ph́ nùng, quá ư kim nhật” (nhưng đại địa này sâu mười sáu vạn tám ngàn do-tuần từ Kim Cang Tế[11] cho đến đất trên mặt biển, đều có được các thứ vị, tăng trưởng trọn đủ. Đất đai ph́ nhiêu, phong phú hơn hẳn ngày nay).

          “Thảo, mộc” (cỏ cây): Sau khi thế giới mới thành lập, các hạt giống cỏ, cây, lúa, mè, tre, lau v.v… do đâu mà có? Theo kinh Trường A Hàm, có đại loạn phong từ thế giới Bất Bại thổi các hạt giống đến sanh trưởng trong thế gian này: Một là hạt cây có rễ, hai là hạt cây có củ, ba là hạt các loài cây có đốt, bốn là hạt cây có trái, năm là hạt của loại thực vật sanh ra hạt, tức là năm loại hạt. Cố nhiên là do oai lực của địa thần, mà cũng do nghiệp cảm của chúng sanh. Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy: “Phục hữu thập nghiệp, năng linh chúng sanh đắc ngoại ác báo. Nhược hữu chúng sanh ư thập bất thiện nghiệp đa tu tập cố, cảm chư ngoại vật tất bất cụ túc” (Lại có mười nghiệp có thể khiến cho chúng sanh bị ác báo bên ngoài. Nếu có chúng sanh thường hay tu tập mười nghiệp chẳng lành, sẽ cảm các vật bên ngoài thảy đều chẳng đầy đủ). Nếu tu Thập Thiện nghiệp, sẽ tương phản với t́nh h́nh trên đây. Đấy là do chúng sanh ác nghiệp lừng lẫy, đến nỗi địa thần chẳng bảo vệ, muôn vật tổn giảm. Nếu tu đức nhiều, sẽ tăng thêm oai lực của địa thần, vạn vật tốt đẹp hơn.

          V́ thế, địa thần nói: “Thị Kim Quang Minh, nhược quảng thuyết thời, ngă cập quyến thuộc sở đắc công đức, bội quá ư thường, tăng trưởng thân lực, tâm tấn, dũng nhuệ. Thế Tôn! Ngă phục cam lộ vô thượng pháp vị dĩ, Diêm Phù Đề địa phong nhưỡng bội thường. Như thử đại địa, chúng sanh sở y, tất năng tăng trưởng nhất thiết sở tu chi vật, linh chư chúng sanh tùy ư sở dụng, thọ ư khoái lạc” (Nếu lúc kinh Kim Quang Minh này được rộng nói, con và quyến thuộc sẽ đạt được công đức gấp bội lúc thường, tăng trưởng thân lực, tâm tinh tấn, dũng mănh, nhạy bén. Bạch Thế Tôn! Con uống cam lộ pháp vị vô thượng xong, đất Diêm Phù Đề sẽ ph́ nhiêu gấp mấy lần b́nh thường. Đại địa như thế là chỗ nương tựa của chúng sanh, luôn có thể tăng trưởng hết thảy những vật cần thiết, khiến cho các chúng sanh tùy ư sử dụng, hưởng vui sướng”).

          Do vậy, nay khen ngợi rằng: “Đất đai trong Diêm Phù, cho đến các thứ bảo bối, phàm những ǵ có từ đất đều do sức của bà mà ra”. “Bối” (, ṣ, ốc biển), là loài có vỏ cứng trong biển. Vật này có nhiều nếp xoắn cuộn, thể chất tự nhiên có đường vân. Lưng khum khum, tượng trưng cho trời thuộc Dương. Bụng nó phẳng, mở ra (miệng ốc), tức là đất thuộc Âm, giống như ḅ đi bằng bụng. Dân chúng thời cổ chất phác, dùng vỏ ṣ, ốc để đổi lấy rùa báu, cho nên chế thành chữ (tức “bảo bối”). Từ nguyên mẫu là vỏ ṣ, ốc, nhằm thuận tiện cho dân, đời sau mới bắt đầu đúc tiền. Tiền được lưu hành th́ vỏ ṣ, ốc bị bỏ đi, quyền đúc tiền gom về vua chúa. Nhưng tiện lợi cho dân chúng sử dụng, đức ngay thẳng lại bị suy đồi; tạo tiền giấy để ép uổng dân[12], trọn chẳng thể thực hiện đuợc!

 

3.3.1.1.2.2.2. Thuật sự (trần thuật những chuyện lợi ích)

3.3.1.1.2.2.2.1. Thuật thành xưng dương lợi ích sự (trần thuật những thành tựu do xưng dương lợi ích của đức Địa Tạng)

 

          (Kinh) Hựu thường xưng dương Địa Tạng Bồ Tát lợi ích chi sự, nhữ chi công đức, cập dĩ thần thông, bách thiên bội ư thường phần địa thần.

          ()又常稱揚地藏菩薩利益之事。汝之功德及以神通百千倍於常分地神。

          (Kinh: Lại thường xưng tụng, tán dương những chuyện lợi ích của Địa Tạng Bồ Tát, công đức và thần thông của bà gấp trăm ngàn lần những địa thần thông thường).

         

          “Xưng dương, tán thán” chính là môn thứ hai trong mười nguyện của đức Phật; bởi một niệm xưng dương, vạn đức tự trọn đủ. V́ thế, các Phật tử hễ đến pháp hội, vừa mới thấy, hoặc nghe đă lâu, đều tuyên dương phạm bái. Nay địa thần không chỉ có thể làm chủ mọi vật trong Diêm Phù Đề, lại c̣n tán dương những chuyện lợi ích của đức Địa Tạng, cho nên vị địa thần làm hộ pháp này có phước nghiệp và huệ nghiệp tự nhiên sâu rộng, công đức và thần thông cũng chẳng nghĩ bàn! So sánh với các vị địa thần khác, bà ta vượt xa vạn lần, v́ lẽ nào? Ấy là do oai đức và thần thông chẳng thể nghĩ bàn của Đại Sĩ. Ví như cam lộ của chư thiên, bất luận sang, hèn, lớn, bé, nếu ai đă nếm, không ai chẳng trường sanh bất tử!

 

3.3.1.1.2.2.2.2. Thuật thành độc cúng ủng hộ sự (trần thuật thành tựu do việc đọc tụng, cúng dường, ủng hộ)

3.3.1.1.2.2.2.2.1. Nam nữ cúng tượng, độc kinh (nam nữ thờ phụng tượng, đọc kinh)

 

          (Kinh) Nhược vị lai thế trung, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, cúng dường Bồ Tát, cập chuyển độc thị kinh, đản y Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh, nhất sự tu hành giả.

          ()若未來世中有善男子善女人供養菩薩及轉讀是經。但依地藏本願經一事修行者。

          (Kinh: Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân, cúng dường Bồ Tát, và chuyển đọc kinh này, chỉ nương theo một chuyện được nói trong kinh Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh để tu hành).

 

          Trước hết, nói về nhân và pháp. Từ chữ “đản y” (chỉ nương theo) trở đi, chính là dạy hăy chuyên tu, tức là “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (chế ngự tâm tại một chỗ, không chuyện ǵ chẳng hoàn thành). Nị Địa (Nidhi) trong tiếng Phạn được cơi này dịch là Y (), tức là nương dựa. Dựa theo công năng của kinh này để thoát ĺa biển khổ! Kinh Niết Bàn nói Tứ Y[13], tức là ư chỉ “y kinh liễu nghĩa, chẳng y kinh bất liễu nghĩa”. Cổ nhân bảo: “Thiên dương chi b́, bất như nhất hồ chi dịch” (da của ngàn con dê chẳng bằng cái nách của một con cáo). V́ thế biết, các kinh khác chẳng sánh bằng kinh này! Do người th́ có thể nghĩ bàn và chẳng thể nghĩ bàn, kinh th́ có khai hiển và chưa khai hiển. Nay chuyên đọc kinh khai hiển chẳng thể nghĩ bàn, tội nhanh chóng tiêu trừ, mà công cũng mau thành, cần ǵ phải cầu nhiều, tạp loạn tâm chí! Đấy tức là hạnh hữu tướng an lạc của ngài Nam Nhạc [Huệ Tư] vậy. Nói “tu hành” tức là “tu hành đúng như lời dạy”. Nếu nghe mà chẳng hành, sẽ như “kể chuyện ăn, đếm của báu”, sao khỏi đói, nghèo? Ngạn ngữ nói: “Thuyết đắc nhất trượng, bất như hành đắc nhất thốn” (Nói một trượng, chẳng bẳng làm được một tấc); đấy chính là lời răn dạy chân thật dành cho cơi đời vậy!

 

3.3.1.1.2.2.2.2.2. Ủng hộ trừ tai chứng quả (ủng hộ [hành giả] trừ tai ương, chứng quả)

3.3.1.1.2.2.2.2.2.1. Địa thần ủng hộ trừ tai (địa thần ủng hộ trừ tai chướng)

 

          (Kinh) Nhữ dĩ bổn thần lực nhi ủng hộ chi, vật linh nhất thiết tai hại, cập bất như ư sự, triếp văn ư nhĩ, hà huống linh thọ.

          ()汝以本神力而擁護之勿令一切災害及不如意事輒聞於耳。何況令受。

          (Kinh: Bà hăy dùng thần lực của chính ḿnh để ủng hộ, đừng để cho hết thảy các tai hại, và chuyện chẳng như ư lọt vào tai kẻ đó, huống hồ là phải hứng chịu).

 

          [Đức Phật] sắc truyền địa thần ủng hộ là v́ ḷng tin tốt lành ấy nếu Phật c̣n đang tại thế, sẽ đáng gọi là [địa vị] Tứ Tín. Nay sau khi đức Phật diệt độ, có thể coi là Ngũ Phẩm, bởi đọc kinh chính là phẩm thứ hai, cúng dường chính là phẩm thứ tư, tức Kiêm Hành Lục Độ Phẩm. Khởi đầu do một niệm tín giải cho đến khi thâm tín đă quán thành. Hăy nên biết Ngũ Phẩm Quán Hạnh giống như Phật, cho nên [đức Phật] dạy [địa thần] hăy ủng hộ.

          “Bổn thần lực”: Xét theo Sự, [địa thần] chủ quản đất đai là Bổn. Xét theo pháp, Tứ Đức (Thường, Lạc, Ngă, Tịnh) là Bổn. Do v́ cái Bổn như thế, thần lực bội phần vượt hơn những vị ủng hộ khác. Như trong kinh Kim Quang Minh, Kiên Lao bạch cùng đức Phật rằng: “Thuyết pháp tỳ-kheo tọa pháp ṭa thời, ngă thường trú dạ vệ hộ bất ly, ẩn tế kỳ h́nh, tại pháp ṭa hạ, đảnh đới kỳ túc. Nhất thiết tai hại đẳng, sở vị ngă đẳng chư vương, cập chư quỷ thần, kư xả ly dĩ, kỳ quốc đương hữu chủng chủng tai dị, tuệ tinh hiện quái, lưu tinh băng lạc, ngũ tinh thất độ, lưỡng nhật tịnh hiện, nhật nguyệt bạc thực, ác hồng sổ hiện, đại địa chấn động, bạo phong, ác vũ. Thử tai kư khởi, xâm hại nhân dân, cố vân tai hại” (Khi vị tỳ-kheo thuyết pháp ngồi nơi pháp ṭa, con thường ngày đêm hộ vệ chẳng ĺa, ẩn giấu thân h́nh, ở dưới pháp ṭa, đầu đội chân người ấy. “Hết thảy các tai hại” như là các vua và các quỷ thần chúng con đă ĺa bỏ th́ nước ấy sẽ có các thứ tai họa khác lạ: Sao chổi biến hiện quái dị, sao băng rơi rụng, ngũ tinh không vận hành đúng mực, hai mặt trời cùng hiện ra, nhật thực, nguyệt thực, cầu vồng xấu nhiều lần hiện ra, đại địa chấn động, gió lốc, mưa cuồng. Các tai nạn ấy đă dấy lên, xâm hại nhân dân, cho nên nói là “tai hại”).

          Lại nói: “Cốc mễ dũng quư, cơ cẩn đống ngạ, oán tặc xâm lược, nhân dân đa khổ, kỳ địa vô hữu khả ái nhạo xứ. Thử bất như ư sự dă” (Gạo thóc đắt đỏ tăng vọt, đói kém, rét lạnh, oán tặc xâm lược, nhân dân chịu nhiều nỗi khổ, cơi đất ấy không có nơi nào đáng yêu mến. Đấy là những chuyện chẳng như ư). Nay đă thờ phụng tượng, đọc kinh, chỉ nên nương theo bổn nguyện [của Địa Tạng Bồ Tát] để tu hành, những thứ tai hại và chuyện chẳng như ư ấy c̣n chẳng lọt vào tai, huống hồ là mắt thấy, thân hứng chịu ư?

 

3.3.1.1.2.2.2.2.2.2. Chư thiên ủng hộ chứng lạc (chư thiên ủng hộ, chứng yên vui)

3.3.1.1.2.2.2.2.2.2.1. Thị ủng hộ nhân (chỉ ra người ủng hộ)

 

          (Kinh) Phi đản nhữ độc hộ thị nhân cố, diệc hữu Thích Phạm quyến thuộc, chư thiên quyến thuộc, ủng hộ thị nhân.

          ()非但汝獨護是人故亦有釋梵眷屬諸天眷屬擁護是人

          (Kinh: Không chỉ có ḿnh bà ủng hộ người ấy, mà c̣n có quyến thuộc của Đế Thích, Phạm Vương, và quyến thuộc của chư thiên ủng hộ người ấy).

 

          Câu đầu tiên ư nói: Không chỉ riêng ḿnh Kiên Lao địa thần ủng hộ. Nếu có ai thật sự tu hành như vừa nói trên đây, cũng có Phạm Vương, Đế Thích, chư thiên quyến thuộc đều tới ủng hộ. Như tứ thiên vương bạch với đức Phật rằng: “Thị nhân nhược đắc văn thị kinh điển, năng đắc vị lai, hiện tại chủng chủng vô lượng công đức, ngă đương ẩn tế, bất hiện kỳ thân. Vị thính pháp cố, đương chí sở chỉ giảng pháp chi xứ. Đại Phạm thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Biện Thiên Thần, Công Đức Tôn Thiên, Tán Chi quỷ thần, đại tướng quân đẳng, nhị thập bát bộ quỷ thần đại tướng, Ma Hê Thủ La, Ma Ni Bạt Đà quỷ thần đại tướng, Quỷ Mẫu, cập ngũ bách quỷ tử, vô lượng bách thiên vạn ức na-do-tha quỷ thần chư thiên, như thị đẳng chúng, vị thính pháp cố, tất tự ẩn tế, bất hiện kỳ thân, chí thị nhân sở chỉ giảng pháp chi xứ” (Người ấy nếu được nghe kinh điển này, sẽ có thể đạt được vô lượng công đức trong hiện tại và vị lai. Chúng con sẽ ẩn giấu, chẳng hiện thân ḿnh, v́ nghe pháp mà sẽ đến chỗ giảng pháp. Đại Phạm thiên vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Đại Biện Thiên Thần[14], Công Đức Tôn Thiên[15], Tán Chi quỷ thần, đại tướng quân v.v… các đại tướng thuộc hai mươi tám bộ quỷ thần[16], Ma Hê Thủ La, Ma Ni Bạt Đà[17] quỷ thần đại tướng, Quỷ Tử Mẫu và năm trăm quỷ con, vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha quỷ thần, chư thiên, đại chúng như thế, v́ nghe pháp đều tự ẩn ḿnh, chẳng hiện thân h́nh, đến chỗ giảng pháp). Các kinh viên măn như Kim Quang Minh, Phương Đẳng v.v… đều được trời, rồng, thần, quỷ ủng hộ như thế đó. Huống hồ đối với kinh điển khai hiển tối thượng này th́ sức ủng hộ của Phạm Vương, Đế Thích há có thể diễn tả nổi ư?

 

3.3.1.1.2.2.2.2.2.2.2. Thích ủng hộ ư (giải thích ư nghĩa v́ sao ủng hộ)

 

          (Kinh) Hà cố đắc như thị thánh hiền ủng hộ? Giai do chiêm lễ Địa Tạng h́nh tượng, cập chuyển độc thị Bổn Nguyện kinh cố, tự nhiên tất cánh xuất ly khổ hải, chứng Niết Bàn lạc. Dĩ thị chi cố, đắc đại ủng hộ.

          ()何故得如是聖賢擁護。皆由瞻禮地藏形像及轉讀是本願經故。自然畢竟出離苦海證涅槃樂。以是之故得大擁護。

          (Kinh: V́ sao được thánh hiền ủng hộ như thế? Đều do chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng đức Địa Tạng và chuyển đọc kinh Bổn Nguyện này, tự nhiên được rốt ráo thoát ĺa biển khổ, chứng niềm vui Niết Bàn. Do bởi lẽ ấy, được ủng hộ to lớn).

 

          Câu đầu tiên là gạn hỏi. “Thánh” có nghĩa là chân chánh, “hiền” là tốt lành, ngay thẳng. Thêm nữa, vị chủ yếu th́ gọi là Thánh, quyến thuộc [của vị chủ ấy] gọi là Hiền, do bậc chánh trực là thiên hay thần. Từ “giai do” (đều do) trở đi là phần giải thích. Trong phần giải thích, có ba ư:

          1) Hai câu đầu là phần giải thích chánh yếu.

          2) Hai câu kể từ chữ “tự nhiên” trở đi, nêu ra lợi ích sẽ đạt được. Nói đến “khổ hải” (biển khổ) th́ theo kinh Trường A Hàm, nước trong bốn đại hải “hàm khổ” (鹹苦, mặn chát) do ba nhân duyên:

          a. Một là tự nhiên có mây phủ đầy khắp hư không cho đến tận trời Quang Âm, thảy đều tuôn mưa trọn khắp, gột rửa cung trời, gột sạch thiên hạ. Từ cung trời Phạm Ca Di (Brahma-kāyika) cho đến tám vạn các núi dưới gầm trời, núi chúa Tu Di, thảy đều được gột rửa. Những thứ mặn chát nhơ ác trong đó, các thứ dịch bất tịnh đều tuôn chảy xuống biển, hợp thành một vị.

          b. Hai là xưa kia có đại tiên nhân cấm chú nước biển, khiến cho nó luôn mặn chát, con người không uống được.

          c. Ba là đủ loại chúng sanh khác nhau sống trong ấy. Thân thể của chúng to lớn, hoặc một trăm do-tuần cho đến bảy trăm do-tuần, hô hấp, phun ra, hít vào, đại tiểu tiện trong đó, cho nên nước biển mặn chát.

          Nay nói tới “nghiệp hải” khổ sở muôn mối. Đă do lễ bái, đọc tụng, sẽ thoát ly chẳng khó. Nói “tự nhiên”, tức là chẳng miễn cưỡng. Nói “tất cánh” (rốt ráo) tức là rốt cuộc chẳng hư dối. Do vậy, hành giả hăy nên chí tâm. Nếu chí tâm, sẽ đạt được điều mong cầu, thoát khổ, chứng vui. Đấy chính là tâm ư phó chúc trên cung trời của đấng giáo chủ, mà cũng là ư niệm hóa độ mọi người trong u đồ của đức Địa Tạng. Điều thiết yếu là hạnh chuyên ṛng. Nhân quả chẳng sai chạy, dẫu chừng bằng lông tóc!

          3) Hai câu từ chữ “thị dĩ” (do vậy) trở đi, nhằm tổng kết ư nghĩa ủng hộ, lời văn dễ hiểu.

 

3.3.1.2. Kiến văn lợi ích lưu thông (phần lưu thông nói về lợi ích do thấy, nghe)

 

          Thấy tượng đức Địa Tạng, nghe danh hiệu đức Địa Tạng, không ai chẳng đạt được lợi ích to lớn. Cũng giống như đức Quán Âm, nghe danh hiệu Ngài, thấy thân tướng của Ngài, trong tâm niệm Ngài, đều có thể diệt khổ. Thấy thân kính lễ, tức là cơ duyên nơi thân nghiệp. Nghe danh hiệu bèn xưng niệm, tức là cơ duyên nơi khẩu nghiệp. Thân và miệng do tâm, tức là cơ duyên nơi ư nghiệp. Cơ cảm đă thành, sẽ tự ứng ngấm ngầm hay rơ rệt. Như thảo mộc trên đất, một trận mưa cùng tưới, không ǵ chẳng được thấm nhuần. Lợi ích do lưu thông, công năng há thể lường!

 

3.3.1.2.1. Phẩm đề (tựa đề của phẩm kinh này)

 

          (Kinh) Kiến văn lợi ích, phẩm đệ thập nhị.

          ()見聞利益品第十二

          (Kinh: Phẩm thứ mười hai: Lợi ích do thấy nghe).


3.3.1.2.2. Phẩm văn (kinh văn trong phẩm này)

3.3.1.2.2.1. Thích Ca hiện tướng thán đức sự (đức Thích Ca hiện tướng để tán thán những chuyện công đức)

3.3.1.2.2.1.1. Đảnh môn phóng quang chứng sự (đức Phật phóng quang từ đỉnh đầu để ấn chứng những sự ấy)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tùng đảnh môn thượng, phóng bách thiên vạn ức đại hào tướng quang.

          ()爾時世尊從頂門上放百千萬億大毫相光。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ trên đỉnh đầu, phóng ra trăm ngàn vạn ức đại hào tướng quang).

 

          Từ chữ “nhĩ thời” (lúc bấy giờ) cho đến “cáo chư đại chúng” (bảo các đại chúng) đều là những lời văn trần thuật của người trùng tuyên kinh ở ngay sau phẩm Địa Thần Hộ Pháp. “Phóng quang” nhằm chứng minh phần trước, phát khởi phần sau, khiến cho các chúng sanh thấy tướng, ngộ tâm, ai nấy đều tự biết thường quang chẳng thể nghĩ bàn vốn sẵn có [của đức Phật]. Hai câu từ chữ “tùng đảnh” (từ đỉnh đầu) trở đi là lời nêu chung [các thứ quang minh].

          Danh từ Ô Sắt Nị Sa (Uṣṇīṣa) trong tiếng Phạn, được cơi này dịch là Phật Đảnh (佛頂). Đỉnh đầu được nói là Môn () th́ như kinh Thiền Bí Yếu dạy: “Nhân thân tam phần, tễ vi trung nguyên, đầu vi điện đường, đảnh vi thiên môn, cố viết đảnh môn” (Thân người có ba phần, rốn là cội nguồn ở chính giữa. Đầu là điện đường, đỉnh đầu là cổng trời. Cho nên gọi là “đảnh môn”). V́ đầu làm chủ cả thân, đỉnh đầu là chỗ tôn quư nhất trên đầu. Do vậy, trong Đại Luận, A Tư tiên nhân nói: “Tướng đỉnh đầu [của Phật] không ai có thể thấy được. Dù trời hay người, chẳng có ai hơn được”, biểu thị Nhất Thiết Chủng Trí, tức là cái nhân siêu việt, là cái quả tột bậc. “Môn” có hai ư nghĩa “có thể thông suốt” và “bản thể”. Do vậy, đối với h́nh tượng và danh hiệu mầu nhiệm của đức Địa Tạng mà chiêm ngưỡng, lễ bái, xưng niệm, sẽ có công năng tiến hướng, thông đến cực quả. Mỗi người sẵn có cái “đảnh” ấy, trọn chẳng phải vay mượn, vậy th́ sáu đường và đức Địa Tạng, nói chung là một thân. Chúng sanh và Như Lai vốn chẳng phải là hai Thể, lập tức chính là lẫn nhau, há c̣n phải nhờ vào cửa để vào ư? Đó là ư nghĩa của bản thể!

          “Thượng”: Từ đỉnh đầu phóng quang, biểu thị từ nơi cái Thể của cực trí, khởi lên tác dụng đại quang minh ấy. Thể vốn là một, chúng sanh và Phật cùng sẵn có, nhưng Dụng th́ khác biệt, do tùy theo căn cơ mà lập bày. Đấy tức là lư tột bậc “một niệm trọn đủ tam thiên, tam thiên gồm trong một niệm, một niệm biến thành tam thiên, tam thiên biến thành một niệm”. V́ thế, có trăm ngàn vạn ức.

          “Đại hào tướng quang” biểu thị tam đức: Đại chính là Pháp Thân, do trọn khắp. “Hào tướng” (tướng bạch hào) tức là Giải Thoát; do bề ngoài là chắc thật, nhưng bên trong là Không. “Quang” chính là Bát Nhă, do chiếu thấu suốt vạn pháp. Do thân to, hào quang cũng to. Do bạch hào là Không, cho nên đại quang cũng là Không. V́ quang minh chiếu soi, cho nên đại hào cũng chiếu soi. “Ba” và “một” chẳng tách ĺa, “một” và “ba” chẳng thể lẫn lộn, chẳng hề có tương đồng, khác biệt, ngang, dọc, chúng sanh và Phật cùng chứng trọn vẹn. Đă nêu chung xong, dưới đây, sẽ nói riêng từng loại.

 

          (Kinh) Sở vị bạch hào tướng quang, đại bạch hào tướng quang.

          ()所謂白毫相光大白毫相光。

          (Kinh: Như là hào quang màu trắng, hào quang màu trắng lớn).

 

          “Hào tướng” (Ūrna-laksana) là một, tức là Thể (bản thể) của Dụng. Màu sắc của quang minh khác nhau, tức là Dụng của Thể. Sách Pháp Hoa Văn Cú dùng ngũ sắc để sánh ví năm đường. Màu xanh ví như nhân quả của địa ngục. Màu vàng ví như ngạ quỷ. Màu đỏ ví như súc sanh. Màu trắng ví như trời, người (Tu La được gộp chung vào bốn đường, vẫn thiếu màu đen). Màu sắc và h́nh dạng nhỏ ví như Nhị Thừa. Màu sắc và h́nh tượng lớn ví như Bồ Tát thuộc Thông Giáo. H́nh sắc ngắn ví như Bồ Tát thuộc Biệt Giáo. H́nh sắc dài ví như nhân quả của Phật. Các kinh văn tách ra hay gộp vào tùy ư. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ c̣n thêm tướng trường đoản (dài, ngắn) v.v… Nay do trong hội Pháp Hoa, chín pháp giới đồng quy, tam thừa đều được gom thành một, cho nên sách Văn Cú trích dẫn để sử dụng như thế.

          Nay đức Địa Tạng đặc biệt thương xót tam đồ trong lục đạo, cho nên lại sánh ví năm đường, và có sự chuyên biệt về mặt Sự. “Bạch hào tướng quang” là một trong ba mươi hai tướng. Từ ngữ Thúc Ly (Śukriṇi) trong tiếng Phạn được cơi này dịch là Bạch Sắc (màu trắng), là chánh sắc của phương Tây. Về bản chất, màu trắng đứng đầu các màu. Những thứ màu trắng có thể nhuốm màu, khởi hiện màu của các quang minh. Những ǵ để có thể dựa vào đó mà nhận biết th́ gọi là Tướng, chói rực như ngọn lửa th́ gọi là Quang.

          Đại Luận viết: “Tướng bạch hào ngự chót vót giữa hai mày, tỏa ánh sáng trắng vượt xa lưu ly. Trong lúc tu nhân đă hành bố thí thỏa ư người nhận, dấy lên nghiệp nhân duyên tự tại. Lại c̣n nắc nỏm ca tụng đức hạnh nhàn cư, cho nên có tướng bạch hào giữa hai mày, phía ngoài đủ tám cạnh, chính giữa rỗng, xoay theo chiều phải. Công đức của ba mươi hai tướng tăng lên gấp ngàn lần th́ mới thành tướng bạch hào trên trán. Công đức của một ngàn tướng bạch hào tăng gấp lên trăm lần mới thành một tướng đảnh cốt (tướng nhục kế)”. V́ thế, đức Như Lai tôn thắng bậc nhất. Nay từ trên đỉnh đầu cao tột, phóng hào tướng quang, phô bày toàn vẹn sự chẳng thể nghĩ bàn. Nói là “đại” v́ so với những điều trước đó, sẽ càng thù thắng, nhiệm mầu hơn! Những điều sau đây đều phỏng theo cách giải thích này.

 

          (Kinh) Thụy hào tướng quang, đại thụy hào tướng quang.

          ()瑞毫相光大瑞毫相光。

          (Kinh: Hào quang tốt lành, hào quang tốt lành lớn).

 

          “Thụy hào tướng quang”: Dùng ngọc làm tín vật th́ gọi là Thụy (). “Thụy” lại có nghĩa là điềm lành. Do vua trong nhân gian có đức, trời bèn ban điềm lành trải nhiều năm. Ban thưởng ngũ phước, trước hết, đưa ra vật này làm tin. Ở đây, [hai loại quang minh này] biểu thị sáu đường đều nương theo sức của đức Địa Tạng, tam đồ đều thanh thản siêu thăng, trời, người đều cùng thành Phật đạo. V́ thế, hiện hào tướng quang minh tốt lành này.

 

          (Kinh) Ngọc hào tướng quang, đại ngọc hào tướng quang.

          ()玉毫相光大玉毫相光。

          (Kinh: Hào quang ngọc, hào quang ngọc lớn).

 

          “Ngọc hào tướng quang”: Ngọc chính là tinh anh của trời đất, có phẩm đức ôn nhuận (Văn Phú[18] có câu: “Sơn hữu ngọc nhi tăng nhuận” (núi có ngọc càng thêm tươi đẹp). Ngọc mài giũa có thể chế thành vật dụng, biểu thị năm đường đều ĺa khỏi nỗi nóng bức trong nhà lửa, tăng trưởng sự tươi nhuận của núi Tánh. Chẳng phải là khí cụ để thoát khỏi tam đồ, th́ cũng là vật dụng tôn quư[19] để dự vào tứ thánh.

 

          (Kinh) Tử hào tướng quang, đại tử hào tướng quang.

          ()玉毫相光大玉毫相光。

          (Kinh: Hào quang màu tím, hào quang màu tím lớn).

 

          “Tử hào tướng quang”: Tiếng Phạn là La Sai, hoặc c̣n phiên âm là Lặc Xoa (Lakṣā), cơi này dịch là Tử Sắc (màu tím), tức là màu xen kẽ giữa đỏ và đen, biểu thị các loài chúng sanh khác nhau đều đạt được lợi ích. Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Chúng sanh được lợi ích khác nhau, hoặc là nhiều thứ lợi ích khác loại, hay là các thứ lợi ích thuần một loại” chính là nói đến điều này.

 

          (Kinh) Thanh hào tướng quang, đại thanh hào tướng quang.

          ()青毫相光大青毫相光。

          (Kinh: Hào quang màu xanh, hào quang màu xanh lớn).

 

          “Thanh hào tướng quang”: Từ ngữ Ni La (Nila) trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Thanh (màu xanh da trời đậm, xanh dương). Phương Đông thuộc Mộc, sanh từ Thủy. [Màu xanh] giống như đen mà nhạt hơn, màu sắc tươi hơn. Dùng điều này biểu thị hắc nghiệp trong địa ngục, do sanh khí tràn trề mà phát khởi cành nhánh của cội Bồ Đề.

 

          (Kinh) Bích hào tướng quang, đại bích hào tướng quang.

          ()碧毫相光大碧毫相光。

          (Kinh: Hào quang màu biếc, hào quang màu biếc lớn).

 

          “Bích hào tướng quang”: Thuyết Văn Giải Tự giảng [Bích] là sắc xanh đẹp của đá. Sách Tăng Vận[20] giảng “Bích là màu xanh đậm”. Điều này biểu thị hàng lợi căn trong địa ngục, tức là những người như Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) ở trong địa ngục mà vui sướng như trong Đệ Tam Thiền Thiên, vua A Xà Thế vào địa ngục Phách Cúc, tạm vào liền thoát ra.

 

          (Kinh) Hồng hào tướng quang, đại hồng hào tướng quang.

          ()紅毫相光大紅毫相光。

          (Kinh: Hào quang màu đỏ, hào quang màu đỏ lớn).

 

          “Hồng hào tướng quang”: Từ ngữ A Lô Na (Aruna) trong tiếng Phạn, được cơi này dịch là Xích Sắc (màu đỏ). Phương Nam thuộc Hỏa, khí thịnh sáng tỏ, xuất phát từ ư nghĩa của “lửa lớn”. Thế nhưng Hồng th́ trông hơi tối [so với Xích]; v́ thế, đặc biệt nói là Hồng. Chữ Hồng () do bộ Mịch (, sợi tơ) và Công () ghép lại, tức là công sức “kéo guồng, se tơ, dệt cửi” thuộc về nữ công. Điều này biểu thị súc sanh, do nghe danh hiệu, thấy tượng [của Địa Tạng Bồ Tát] liền phát tâm, gia hạnh, chánh nhân đă mê do vậy mà được hiển lộ, giống như chuyện đổ công dốc sức [trong hàm nghĩa] của chữ Hồng.

 

          (Kinh) Lục hào tướng quang, đại lục hào tướng quang.

          ()綠毫相光大綠毫相光。

          (Kinh: Hào quang màu xanh lá cây, hào quang màu xanh lá cây lớn).

 

          “Lục hào tướng quang”: “Lục” () là trong xanh. Nh́n phía trên, nước suối trong trẻo, có sắc xanh, tức là màu pha lẫn giữa xanh dương và vàng, biểu thị địa ngục cùng đổ vào gịng pháp.

 

          (Kinh) Kim hào tướng quang, đại kim hào tướng quang.

          ()金毫相光大金毫相光。

          (Kinh: Hào quang màu vàng, hào quang màu vàng lớn).

 

          “Kim hào tướng quang”: Tiếng Phạn là Y Ni Diên (Aiṇeya), cơi này là “kim sắc”. Kim loại có năm màu, hoàng kim đứng đầu, do chôn lâu ngày chẳng biến đổi, trăm lần nung luyện chẳng bị nhẹ bớt. Dùng điều này biểu thị ngạ quỷ, tuy mai một trong đường ác lâu ngày, nhưng Phật tánh chẳng mất. Kho tàng Trung Đạo vừa mở, nhanh chóng ĺa khỏi cảnh bụng rỗng.

 

          (Kinh) Khánh vân hào tướng quang, đại khánh vân hào tướng quang.

          ()慶雲毫相光大慶雲毫相光。

          (Kinh: Hào quang mây lành, hào quang mây lành lớn).

 

          “Khánh vân hào tướng quang”: Sách Tây Kinh Tạp Kư[21] chép: “Mây lành gọi là khánh vân, hoặc cảnh vân (景雲). Mây năm màu gọi là (), hoặc là Khanh (). Điều này biểu thị ĺa ngũ trụ phiền năo, hiển thị điềm lành Ngũ Phần Pháp Thân.

 

          (Kinh) Thiên luân hào quang, đại thiên luân hào quang.

          ()千輪毫光大千輪毫光。

          (Kinh: Hào quang ngàn vầng, hào quang ngàn vầng lớn).

          “Thiên luân hào quang”: Những loại luân quang (輪光, quang minh kết thành vầng) kể từ đây trở đi càng thù thắng hơn các loại tán quang (散光, quang minh túa bốn phía). Ấy là v́ [luân quang] biểu thị viên pháp, thích hợp viên căn, nhập viên môn, đạt được lợi ích viên măn. Do vậy, kinh Thập Luân dạy: “Luân giả, như măn nguyệt quang, thanh lương vô ngại, biến chư hư không, chiếu xúc nhất thiết vô chướng cảnh giới” (Luân là như ánh sáng của trăng tṛn, thanh lương vô ngại, trọn khắp hư không, chiếu chạm hết thảy cảnh giới chẳng chướng ngại). Sách Dật Nhă giảng Luân là “giáp ṿng trọn khắp”. Sách Tinh Uẩn viết: “Sở dĩ xe có thể vận chuyển là do bánh của nó có h́nh tṛn, điểm kỳ diệu nhất là ở giữa bánh xe lại trống rỗng”. Nói “ngàn” tức là “bánh xe ngàn căm”, biểu thị lục đạo nhất niệm thiên như, đến đây càng tỏ rơ: Chuyển biến viên măn vô ngại!

 

          (Kinh) Bảo luân hào quang, đại bảo luân hào quang.

          ()寶輪毫光大寶輪毫光。

          (Kinh: Hào quang vầng báu, hào quang vầng báu lớn).

 

          “Bảo luân hào quang” giống như trong phần trên, ở đây chú trọng chữ Bảo (). Như Khế Kinh dạy: “Nhược Sát-đế-lợi chủng, thiệu quán đảnh vị, ư thập ngũ nhật, trai mộc thăng điện. Đông phương hốt hữu kim luân bảo hiện. Kỳ luân thiên bức, cụ túc cốc vơng, thư diệu quang minh, lai ứng vương sở, định thị Kim Luân Vương” (Nếu ai thuộc gịng dơi Sát-đế-lợi, nối ngôi quán đảnh, vào ngày Rằm, trai giới, tắm gội, lên điện. Phương Đông bỗng có bánh xe báu bằng vàng hiện ra. Bánh xe ấy có ngàn căm, vành, niềng trọn đủ, tỏa quang minh mầu nhiệm chiếu đến chỗ nhà vua, th́ vị vua ấy chắc chắn là Kim Luân Vương). Điều này biểu thị người căn cơ viên măn trong năm đường, do được đức Địa Tạng dùng nước pháp quán đảnh, sẽ vượt lên, dự vào Viên Giáo, hướng đến kim luân, kế tục ngôi vị của đấng Pháp Vương. Trong đó, hoặc là dự vào địa vị Thiết Luân, cho đến Ma Ni Luân, chẳng thể phán quyết nhất định được!

 

          (Kinh) Nhật luân hào quang, đại nhật luân hào quang.

          ()日輪毫光大日輪毫光。

          (Kinh: Hào quang vầng mặt trời, hào quang vầng mặt trời lớn).

 

          “Nhật luân hào quang”: Hiện ra cung điện của Nhật thiên tử. “Nhật” là đầy ắp, [bởi lẽ, mặt trời có] quang minh tràn trề, biểu thị trí quang của Bồ Tát chiếu soi vô tư. Đại Luận chép: “Như nhật thiên tử thương xót chúng sanh, có cung điện bảy báu đi theo, đi ṿng quanh tứ thiên hạ từ đầu tới cuối, thường chẳng biếng nhác, ngưng dứt. Ánh sáng mặt trời chiếu trọn khắp, không ghét, không yêu, dù cao, dù thấp, dù sâu, dù cạn đều chiếu tới. Bồ Tát cũng giống như thế, từ sơ phát tâm, v́ độ chúng sanh, chẳng hề lười nhác, ngưng nghỉ, xuất hiện trong thế gian, trụ trong năm thần thông, ở trên hư không, tỏa quang minh trí huệ, diệt tà kiến và hư luận. Ví như sương mai thấy mặt trời bèn tiêu mất” là nói đến chuyện này.

 

          (Kinh) Nguyệt luân hào quang, đại nguyệt luân hào quang.

          ()月輪毫光大月輪毫光。

          (Kinh: Hào quang vầng trăng, hào quang vầng trăng lớn).

 

          “Nguyệt luân hào quang”: Hiện cung điện của Nguyệt thiên tử. “Nguyệt” là khuyết, [ư nói] trăng tṛn rồi khuyết. Điều này biểu thị Đại Sĩ trọn đủ Trí Đức và Đoạn Đức; v́ thế, có thể trừ khử sự nhiệt năo trong năm đường, tăng thêm sự thanh lương cho tứ chúng. Nhưng hai luân ấy (nhật luân và nguyệt luân) biểu thị Quyền Trí và Thật Trí của Đại Sĩ, chiếu theo Lư mà soi xét các căn cơ.

 

          (Kinh) Cung điện hào quang, đại cung điện hào quang.

          ()宮殿毫光大宮殿毫光。

          (Kinh: Hào quang cung điện, hào quang đại cung điện).

 

          “Cung điện hào quang”: Trong quang minh, hiện bóng cung điện. Chữ Cung đă được giải thích trong phần giảng về tựa đề [của phẩm Đao Lợi Thiên Cung]. “Điện” (殿) là ṭa nhà cao, to, có dáng vẻ lạ lùng chót vót, cao tột, đẹp đẽ rạng ngời, rỡ ràng, biểu thị từ tam đồ vượt thoát lên nhân thiên, hiển thị năm đường cùng quy vào Phật quả; cho nên có tướng trạng cao rạng.

 

          (Kinh) Hải vân hào quang, đại hải vân hào quang.

          ()海雲毫光大海雲毫光。

          (Kinh: Hào quang mây biển, hào quang mây biển lớn).

 

          “Hải vân hào quang”: Do mây quang minh phủ trọn khắp như biển, chẳng có ngằn hạn. Điều này biểu thị chúng sanh và Phật như một, y báo và chánh báo như một, nhiễm và tịnh cùng một nguồn, khổ và lạc chẳng khác. Như biển khó lường bờ mé, như mây chẳng phân biệt nguồn. Do vậy biết: T́nh sanh phân biệt, mỗi pháp rành rành, Trí nhập “nhất, vô”, chuyện nào cũng đều b́nh đẳng. [Các thứ quang minh được] kết thúc bằng hải vân là có duyên do vậy.

 

3.3.1.2.2.1.2. Khẩu luân xuất âm thán sự (miệng phát ra âm thanh tán thán)

         

          (Kinh) Ư đảnh môn thượng, phóng như thị đẳng hào tướng quang dĩ, xuất vi diệu âm, cáo chư đại chúng, thiên long bát bộ, nhân phi nhân đẳng: “Thính ngă kim nhật, ư Đao Lợi thiên cung, xưng dương tán thán Địa Tạng Bồ Tát”.

          ()於頂門上放如是等毫相光已。出微妙音告諸大眾天龍八部人非人等。聽我今日於忉利天宮稱揚讚歎地藏菩薩。

          (Kinh: Từ trên đảnh môn, phóng các hào tướng quang như thế xong, phát ra âm thanh vi diệu, bảo các đại chúng, trời rồng tám bộ, nhân, phi nhân v.v… rằng: “Hăy lắng nghe ta ngày nay ở trên cung trời Đao Lợi, xưng dương, khen ngợi Địa Tạng Bồ Tát”).

 

          Hai câu đầu nhằm tiểu kết phần trước. Từ chữ “xuất vi diệu” (thốt ra [âm thanh] vi diệu) trở đi, trần thuật lời bảo ban. Chữ “như thị” (như thế) là từ ngữ dùng để chỉ bày ḥng khen ngợi, [tức là] do hào quang từ đỉnh đầu đức Phật thù thắng, nhiệm mầu bậc nhất, cho nên bèn chỉ ra [sự vi diệu, thù thắng ấy] để tán thán: “Có phải là [tuyệt diệu] như thế đấy chăng?” Nhưng Như là “chẳng khác”, Thị là “chẳng sai”, tức là chúng sanh và Phật đều cùng do Thật Tướng, đúng hay sai đều khế hợp Chân Như. Đấy chính là bổn tâm phó chúc của đức Phật, cũng là tâm ư Đại Sĩ vâng lănh lời dạy, tịnh và uế cùng nhập vào một ánh sáng, y báo và chánh báo đều thành một sắc. V́ thế, người trùng tuyên kinh trần thuật cảnh chẳng thể nghĩ bàn, thốt lời tán thán như thế.

          Do vậy biết: Thoạt tiên, [mở đầu pháp hội] bèn phóng quang, biểu thị Tam Mật của bậc cực thánh, trong đó thuyết pháp là trọng yếu, cho nên quang minh từ miệng phát ra. Đến đây, nhằm biểu thị “lục đạo chắc chắn đạt được cái nhân viên măn, sẽ tiến hướng cực quả”, mà chứng nhập là điều trọng yếu, cho nên quang minh phóng ra từ đỉnh đầu. Quang tướng dường như giống nhau, nhưng dụng ư mỗi quang minh mỗi khác. Đại chúng là Tổng, “trời, rồng” là Biệt, đều là những căn cơ để đức Phật bảo ban. “Thính ngă” (nghe ta): Không chỉ là liên quan sâu xa nơi mặt Sự, mà c̣n liên quan đến sự hóa độ từ đầu đến cuối. Đức Phật lại c̣n căn dặn chúng trời người trong đời vị lai: Tuyệt đối chẳng phải là chuyện vặt vănh, tầm thường, ắt cần phải chuyên tâm lắng nghe, mới hiểu oai thần [của Địa Tạng Bồ Tát] chẳng thể suy lường!

 

          (Kinh) Ư nhân thiên trung lợi ích đẳng sự, bất tư nghị sự, siêu thánh nhân sự, chứng Thập Địa sự, tất cánh bất thoái A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề sự.

          ()於人天中利益等事不思議事超聖因事證十地事畢竟不退阿耨多羅三藐三菩提事。

          (Kinh: Những chuyện lợi ích trời, người, chuyện chẳng thể nghĩ bàn, chuyện thuộc về cái nhân siêu lên bậc thánh, chuyện chứng Thập Địa, chuyện rốt ráo chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

          Từ “ư nhân thiên” (trong trời người) trở đi, là lời tán thán tổng kết bao gồm bốn phương diện:

          1) “Lợi ích đẳng sự” (những chuyện lợi ích) nhằm tổng kết về việc xưng danh. Do xưng danh, đọc kinh, trời người đều được giải thoát.

          2) “Bất tư nghị sự” (chuyện chẳng thể nghĩ bàn): Tổng kết về Thể, nhưng Thể thuộc về Lư, nay cớ sao lại nói là Sự? Hăy nên biết: [Lư là cái để Sự] nương vào từ đầu đến cuối. Dù mê hay ngộ, đều có sẵn Lư, [cho nên] Lư chính là Sự. V́ thế, phải là “bất tư nghị sự”.

          3) Hai câu từ “siêu thánh nhân” (cái nhân siêu lên bậc thánh) trở đi nhằm tổng kết về Tông. Tông ắt phải là nhân và quả cùng thành.

          4) “Bất thoái Bồ Đề”: Tổng kết về Dụng.

          Đức Địa Tạng khéo thực hiện phương tiện, khiến cho [chúng sanh] thành tựu Bồ Đề. Nếu xét theo Tứ Nhất của kinh Pháp Hoa:

          1) Câu đầu tiên nhằm tán thán “giáo nhất” v́ trời người đều được lợi ích.

          2) Câu kế tiếp nhằm tán thán “lư nhất” v́ Lư sẵn đủ th́ Sự mới khởi tác dụng được.

          3) Hai câu ba và bốn tán thán “hạnh nhất”, do hạnh ắt vượt thoát cái nhân, sẽ có thể chứng quả.

          4) Câu thứ năm nhằm tán thán “nhân nhất”: Do đă đắc rốt ráo Bồ Đề, là người bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian.

          Đều nói là Sự v́ giống như “Như Lai do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong thế gian” của kinh Pháp Hoa. Bởi lẽ, thế gian, xuất thế gian, trong, ngoài, thiện, ác, lớn, nhỏ, thánh, phàm, không điều ǵ chẳng phải là các sự, chỉ là tác dụng khác nhau. Ví như đàn cầm, đàn sắt, không hầu, âm vận như nhau, nhưng thổi hoặc khảy khác nhau. Xét theo ư của phần tổng kết tán thán, dường như đều nhằm nói đến những điều sau đó. V́ lẽ nào vậy? Ấy là v́ những điều ngài Quán Âm thưa hỏi rất khác với những điều trước đó, đặc biệt nêu tỏ sự mầu nhiệm của bốn phương diện trên đây, xuyên suốt nhất quán trước lẫn sau. Dùng phần sau để nêu bày cụ thể phần trước, càng phô bày sâu xa hơn. Chớ nên nghĩ phần trước là kém cỏi, phần sau thù thắng, để rồi lạc mất trong mạch văn, đánh mất ư chỉ vậy!

 

3.3.1.2.2.2. Quán Âm thỉnh thuyết vị lưu thông (đức Quán Âm xin Phật nói [những chuyện ấy] để lưu thông)

3.3.1.2.2.2.1. Đương cơ thuật thỉnh (bậc đương cơ trần thuật, cầu thỉnh)

3.3.1.2.2.2.1.1. Kinh gia đề danh tự nghi (người trùng tuyên kinh trần thuật danh tự và lễ nghi thỉnh pháp của bậc đương cơ)

 

          (Kinh) Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất Bồ Tát Ma Ha Tát, danh Quán Thế Âm, tùng ṭa nhi khởi, hồ quỳ, hiệp chưởng.

          ()說是語時會中有一菩薩摩訶薩名觀世音從座而起胡跪合掌

          (Kinh: Nói lời ấy xong, trong hội có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Quán Thế Âm, từ chỗ ngồi đứng dậy, hồ quỳ, chắp tay).

 

          Điều này cho thấy sự khế hợp mầu nhiệm trong việc phát khởi, tuyên dương giữa chủ và khách, sự xướng họa tương ứng giữa thầy và tṛ. Đức Thế Tôn sở dĩ đối trước đại chúng tổng kết những lời tán thán, dụng ư nhằm khơi gợi ngài Quán Âm hăy thừa dịp đức Phật tán thán để níu lấy ngay ư ấy mà thưa hỏi. V́ thế, ngay sau khi đức Phật nói lời ấy xong, đức Quán Âm liền đứng dậy bạch Phật. “Thối trác đồng thời” (gà con trong trứng cựa quậy cho vỏ trứng vỡ, gà mẹ bèn cùng lúc mổ vỡ vỏ trứng cho gà con thoát ra) chính là nói đến chuyện này đấy!

          Tiếng Tây Trúc là A Na Bà Lâu Cát Đê Thâu (Avalokiteśvara), cơi này dịch là Quán Thế Âm. “Quán” là trí năng quán, dùng Tam Trí[22] chiếu chánh tánh, xem xét từ nguyên nhân đến kết quả. “Thế Âm” (âm thanh của thế gian) là cảnh được quán. Muôn h́nh tượng khác biệt, đủ mọi âm thanh xướng lên sai khác, Bồ Tát do ḷng Từ rộng lớn, đều khiến cho họ thoát khổ. Nêu gộp chung cảnh và trí, nên có tên là Quán Thế Âm (nước Mạt La Củ Trá (Malakūta)[23] ở bờ biển cực Nam của Ấn Độ. Trong đại hải ở phương Nam nước ấy, có quả núi tên là Bổ Đà Lạc Ca (Potalaka)[24], [trong núi] có cung trời bằng đá, là nơi chốn thường ngự của Quán Tự Tại Bồ Tát).

 

3.3.1.2.2.2.1.2. Đại Sĩ thuật tán, thỉnh thuyết (Đại Sĩ trần thuật, tán thán, xin đức Phật hăy nói)

3.3.1.2.2.2.1.2.1. Thuật tiền sở thán công đức (trần thuật lời tán thán công đức đă nói trước đó)

3.3.1.2.2.2.1.2.1.1. Thuật Địa Tạng oai thần (trần thuật oai thần của đức Địa Tạng)

 

          (Kinh) Bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ đại từ bi, lân mẫn tội khổ chúng sanh, ư thiên vạn ức thế giới, hóa thiên vạn ức thân, sở hữu công đức, cập bất tư nghị oai thần chi lực”.

          ()白佛言世尊是地藏菩薩摩訶薩具大慈悲憐愍罪苦眾生。於千萬億世界化千萬億身。所有功德及不思議威神之力。

          (Kinh: Bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Vị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát này sẵn ḷng đại từ bi, xót thương chúng sanh tội khổ, trong ngàn vạn ức thế giới, hóa hiện ngàn vạn ức thân, có công đức và sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn).

 

          Đức Thế Tôn muốn xưng dương các sự, ngài Quán Âm bèn hỏi ngay duyên do. V́ thế, chúng ta biết những ǵ được hỏi đáp sẽ đều chẳng ra ngoài những điều ấy. Thế nhưng, ắt phải nhờ Quán Âm [thưa thỉnh] là v́ [Ngài và đức Địa Tạng] chí đồng đạo hợp, đều có đại nhân duyên với Diêm Phù Đề. Như Ngài tán dương đức Địa Tạng sẵn ḷng đại từ bi, cho đến thần lực chẳng thể nghĩ bàn; đấy cũng là những điều đức Quán Âm vốn có. Theo kinh Bi Hoa, trong quá khứ, Ngài là thái tử thứ nhất của vua Vô Tránh Niệm (無諍念, không có ư niệm tranh căi), tên là Bất Thuấn (不眴). Do được phạm-chí Bảo Hải khuyên bảo, bèn phát hoằng thệ. V́ thế, đức Phật Bảo Tạng dạy: “Nhữ quán thiên nhân cập tam ác đạo nhất thiết chúng sanh, sanh đại bi tâm, dục đoạn chúng sanh chư khổ năo cố, dục đoạn chúng sanh chư phiền năo cố, dục linh chúng sanh trụ an lạc cố, kim đương tự nhữ vi Quán Thế Âm. Nhữ hành Bồ Tát đạo thời, dĩ hữu bách thiên vô lượng ức na-do-tha chúng sanh đắc ly khổ năo. Nhữ vi Bồ Tát thời, dĩ năng đại tác Phật sự” (Ông thấy trời, người và hết thảy chúng sanh trong ba đường ác bèn sanh tâm đại bi, v́ muốn đoạn các khổ năo của chúng sanh, v́ muốn đoạn các phiền năo của chúng sanh, v́ muốn khiến cho chúng sanh trụ trong an lạc, nay ta sẽ đặt tên cho ông là Quán Thế Âm. Khi ông hành đạo Bồ Tát, đă có trăm ngàn vô lượng ức na-do-tha chúng sanh được ĺa khổ năo. Lúc ông làm Bồ Tát, đă có thể làm Phật sự lớn lao). Do đức nghiệp ngang nhau th́ mới có thể phát khởi; v́ thế, nhờ Đại Sĩ thừa dịp thỉnh vấn.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.1.2. Thuật chư Phật tán đức (trần thuật chư Phật đều khen ngợi công đức của Địa Tạng Bồ Tát)

 

          (Kinh) Ngă văn Thế Tôn dữ thập phương vô lượng chư Phật, dị khẩu đồng âm, tán thán Địa Tạng Bồ Tát vân: “Chánh sử quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật, thuyết kỳ công đức, do bất năng tận”.

          ()我聞世尊與十方無量諸佛異口同音讚歎地藏菩薩云正使過去現在未來諸佛說其功德猶不能盡。

          (Kinh: Con nghe đức Thế Tôn và mười phương vô lượng chư Phật khác miệng cùng tiếng tán thán Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Nếu như quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật nói công đức của ông, vẫn chẳng thể hết được”).

 

          Lời tán thán của chư Phật có ư nghĩa như thế, nhưng không có kinh văn. Ở đây, có hai ư: Xa là nói đến đức Phật ở tại núi Già La Đế Da (Kharādīya)[25], là chỗ nương náu của các vị Mâu-ni tiên (ẩn cư tiên nhân), trong hội Đại Tập (tức trong kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân) đă rộng tán thán, đó là một ư. Gần th́ như đức Phật ở trên cung trời Đao Lợi, mười phương chư Phật cùng nhóm đến, phân thân của đức Địa Tạng đều cùng tới. Ngay trong lúc đức Phật Thích Ca tán thán mọi việc của đức Địa Tạng, há có biết chư Phật chẳng cùng tán thán ư? Đó là ư thứ hai. V́ sao [lại nói] nếu như tam thế chư Phật nói công đức của ngài Địa Tạng vẫn chẳng thể cùng tận?” Do núi hạnh của đức Địa Tạng cao hơn Tu Di, biển nguyện sâu thăm thẳm, huống hồ trí huệ và thần thông đều chẳng thể nghĩ bàn, há có thể tính kể nổi ư?

 

3.3.1.2.2.2.1.2.2. Thuật kim dục tán ích sự (trần thuật hiện thời [đức Phật] muốn tán thán những chuyện lợi ích)     

 

          (Kinh) Hướng giả, hựu mông Thế Tôn phổ cáo đại chúng, dục xưng dương Địa Tạng lợi ích đẳng sự.

          ()向者又蒙世尊普告大眾欲稱揚地藏利益等事。

          (Kinh: Vừa rồi lại được đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng rằng Ngài muốn xưng dương những chuyện lợi ích của đức Địa Tạng).

 

          Nói “vừa rồi” th́ cũng có xa và gần. Xa là như những phần kinh văn trong phẩm Như Lai Tán Thán, gần th́ như những chuyện bảo ban đại chúng sau khi đức Phật phóng quang.

 

3.3.1.2.2.2.1.2.3. Chánh thỉnh vị chúng dương đức (chánh thức thỉnh Phật hăy v́ đại chúng xưng dương công đức của ngài Địa Tạng)

 

          (Kinh) Duy nguyện Thế Tôn, vị hiện tại, vị lai nhất thiết chúng sanh, xưng dương Địa Tạng bất tư nghị sự, linh thiên long bát bộ, chiêm lễ hoạch phước.

          ()唯願世尊為現在未來一切眾生稱揚地藏不思議事。令天龍八部瞻禮獲福。

          (Kinh: Kính mong đức Thế Tôn v́ hết thảy chúng sanh trong hiện tại và tương lai xưng dương chuyện chẳng thể nghĩ bàn của đức Địa Tạng, khiến cho trời rồng tám bộ chiêm ngưỡng, lễ bái, được phước).

 

          Ở đây, nêu rơ dụng ư xưng dương đức Địa Tạng chính là v́ để cho trời rồng tám bộ chiêm ngưỡng, lễ bái, sẽ được phước. Đấy là do hết thảy chúng sanh hư vọng chấp trước “ta, người”, quen thói lười nhác, ngă mạn, bị bọc kín trong mê muội bao kiếp, chẳng biết Tam Bảo, thuận theo thói ngu xuẩn, ít khi gặp được bậc thập thánh, nào có biết mạng như đuốc [chập chờn] trước gió, khó thể giữ lâu được! Thân h́nh khác nào lửa xẹt từ đá, há tồn tại lâu dài! Huống hồ lại c̣n ngũ trược chen nhau xâm phạm, bốn con rắn[26] thường bức bách. Chẳng lễ Tam Bảo, sẽ khó thoát khỏi bốn gịng (kiến lưu, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu)! Do vậy, hành giả phải thường nên tác ư, chớ nên tự đọa! Sợ vô thường bỗng ập tới, không cách nào chiêm ngưỡng, lễ bái được! Ví như con chuột chui vào cái sừng [trâu, ḅ], đường cùng, sẽ tiến đến đâu? V́ thế, đức Phật đă dạy bài kệ rằng: “Mạng như phong trung đăng, bất tri diệt thời tiết, kim nhật phục minh nhật, bất giác tử luân chí. Minh minh tùng nghiệp duyên. Bất tri sanh hà đạo?” (Mạng như đèn trước gió, chẳng biết tắt lúc nào. Hôm nay lại ngày mai, chẳng ngờ bỗng chết mất. Mù mờ theo nghiệp duyên, chẳng biết sanh đường nào). Khi chiêm ngưỡng, lễ bái Phật, Bồ Tát, sẽ diệt trừ tội trong vô lượng sanh tử, tích tập trăm ngàn phước thiện duyên. Như kinh Tăng Nhất A Hàm đă dạy: “Lễ Phật hữu ngũ công đức: Nhất, đoan chánh; nhị, đắc diệu thanh; tam, đa nhiêu tài; tứ, sanh xứ cao quư; ngũ, sanh thiên thượng” (Lễ Phật có năm công đức: Một là đoan chánh, hai là được âm thanh tốt đẹp, ba là nhiều tài vật dư dật, bốn là sanh vào chỗ cao quư, năm là sanh lên trời). V́ thế, dạy trời người chiêm ngưỡng, lễ bái đức Địa Tạng, tự nhiên được phước.

 

3.3.1.2.2.2.2. Như Lai tán hứa (đức Như Lai tán thán, hứa khả)

3.3.1.2.2.2.2.1. Tán đức (tán thán công đức của ngài Quán Thế Âm)

3.3.1.2.2.2.2.1.1. Tán Sa Bà hữu duyên công đức (tán thán công đức hữu duyên với Sa Bà)

          (Kinh) Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát: - Nhữ ư Sa Bà thế giới, hữu đại nhân duyên.

          ()佛告觀世音菩薩汝於娑婆世界有大因緣。

          (Kinh: Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: - Ông có nhân duyên lớn với thế giới Sa Bà).

 

          Trước hết là Tổng Tán (tán thán chung). Từ “nhược thiên” (nếu trời) [trong đoạn kế tiếp] trở đi là phần Biệt Tán. [Đoạn này] vạch rơ: Ngài có duyên với Sa Bà, tức là cơ cảm đặc biệt thích hợp; nhưng Đại Sĩ hóa duyên, không cơi nào chẳng hiện thân. “Đại nhân duyên” nghĩa là có công năng sanh khởi, giúp cho thành tựu cực lớn chẳng thể nghĩ bàn! Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Thiện tri thức là đại nhân duyên. Nói ‘hóa đạo’ tức là làm cho [người được] hóa độ thấy Phật. Như Vô Tận Ư hỏi: ‘Do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế Âm? Đức Phật dùng bảy nạn, hai điều cầu mong để trả lời chuyện ấy”. Sách Biệt Hành Sớ viết: “Nhân duyên rất nhiều, nói đại lược th́ là cảnh và trí. Nếu xét theo phía chúng sanh, th́ lấy hai căn cơ thiện và ác làm nhân, lấy linh trí từ bi của thánh nhân làm duyên. Nếu nói theo phía thánh nhân, quán trí từ bi làm nhân, chúng sanh cơ cảm làm duyên. Đấy chính là do thánh mà duyên phàm, do phàm mà duyên thánh, đại khái chẳng ra ngoài Tứ Tất Đàn”.

 

          (Kinh) Nhược thiên, nhược long, nhược nam, nhược nữ, nhược thần, nhược quỷ, năi chí lục đạo tội khổ chúng sanh, văn nhữ danh giả, kiến nhữ h́nh giả, luyến mộ nhữ giả, tán thán nhữ giả.

          ()若天若龍若男若女若神若鬼乃至六道罪苦眾生。聞汝名者見汝形者戀慕汝者讚歎汝者。

          (Kinh: Dù trời hay rồng, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc thần, hoặc quỷ, cho đến chúng sanh tội khổ trong lục đạo, được nghe tên ông, thấy h́nh tượng của ông, luyến mộ ông, tán thán ông).

 

          Trong phần Biệt Tán, đă dùng ba cặp gồm sáu việc để nói về căn cơ, cũng như cảm ứng về tội phước trong lục đạo nhằm hiển thị đại nhân duyên. “Thiên, long” là một cặp trên, dưới. “Nam nữ” là một cặp trong, ngoài. “Thần quỷ” là một cặp u, hiển. Trong đó đă giản lược Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, và hai chúng xuất gia, tại gia, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, cho nên nói là “năi chí” (cho đến). Nhưng đặc biệt nêu ra trời, rồng v.v… là do họ cũng có sanh, lăo, bệnh tử. “Văn danh” (nghe tên) là như trong phẩm Phổ Môn [đă nói] nghe tên và thấy thân [Quán Thế Âm Bồ Tát], có thể diệt khổ trong các Hữu. “Luyến mộ” (quyến luyến, ngưỡng mộ) là do oai thần của Đại Sĩ, trọn đủ đại bi Thí Vô Úy, khiến cho quần sanh quyến luyến, nghĩ nhớ, ngưỡng mộ. Kinh Trường A Hàm chép: “Hoan hỷ dục kiến, ức niệm bất vong, sanh luyến mộ tâm” (hoan hỷ muốn thấy, nghĩ nhớ chẳng quên, sanh tâm luyến mộ) là nói về chuyện này. Luyến mộ chẳng thôi tức là sự tán thán được mở rộng; nhưng sức oai thần chẳng thể tán thán trọn hết được, [những chuyện ấy đă] được nói cặn kẽ trong phẩm Phổ Môn.

 

          (Kinh) Thị chư chúng sanh, ư vô thượng đạo, tất bất thoái chuyển, thường sanh nhân thiên, cụ thọ diệu lạc, nhân quả tương thục, ngộ Phật thọ kư.

          ()是諸眾生於無上道必不退轉。常生人天具受妙樂。因果將熟遇佛授記。

          (Kinh: Các chúng sanh ấy ắt chẳng thoái chuyển nơi đạo vô thượng, thường sanh trong trời người, hưởng trọn đủ niềm vui mầu nhiệm. Khi nhân quả chín muồi, sẽ gặp Phật thọ kư).

 

          Từ chữ “thị chư” (các chúng sanh ấy) trở đi, nói về sự hiệu nghiệm. Đă được hưởng lợi ích, sẽ rốt ráo thành Phật. Tuy [Bồ Tát] hiện thân ứng theo tâm nguyện của chúng sanh, kể ra có ba mươi hai thân khác biệt; thuyết pháp ứng hợp căn cơ, bèn chia thành mười chín loại sai khác. Nhưng bổn ư Đại Sĩ là nơi A Nậu Bồ Đề (Vô Thượng Chánh Giác). “Thường sanh nhân thiên” nghĩa là: Khi chưa thành tựu Phật đạo, rốt ráo chẳng đọa vào đường ác. “Nhân thiên thọ lạc” (hưởng vui trong đường trời, người): Tu tập nhân lành, nhân tṛn, quả chín, gặp Phật thọ kư. Đấy đều là đại sự nhân duyên. V́ vậy, kinh Đại Phẩm Bát Nhă dạy: “Bồ Tát Ma Ha Tát, dục tri chư pháp nhân duyên, đương học Bát Nhă Ba La Mật, tắc tuy phổ độ chúng sanh nhập Niết Bàn giới, thí như huyễn sư độ huyễn đệ tử, bỉ thử ly t́nh tuyệt kiến hỹ” (Bồ Tát Ma Ha Tát muốn biết các pháp nhân duyên, hăy nên học Bát Nhă Ba La Mật, tuy độ chúng sanh nhập Niết Bàn giới, mà ví như thầy huyễn độ tṛ huyễn, đôi bên đều ly t́nh, dứt bặt kiến chấp).

 

3.3.1.2.2.2.2.1.2. Tán thính, tuyên Địa Tạng công đức (khen ngợi việc nghe dạy, nói ra công đức của ngài Địa Tạng)

 

          (Kinh) Nhữ kim cụ đại từ bi, lân mẫn chúng sanh, cập thiên long bát bộ, thính ngô tuyên thuyết Địa Tạng Bồ Tát bất tư nghị lợi ích chi sự.

          ()汝今具大慈悲憐愍眾生及天龍八部。聽吾宣說地藏菩薩不思議利益之事。

          (Kinh: Nay ông trọn đủ ḷng đại từ bi, thương xót chúng sanh và trời rồng tám bộ, nghe ta tuyên nói chuyện lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát).

 

          Ba câu đầu trực tiếp chỉ ra người có thể nghe đức Phật tuyên nói sự lợi ích. Ở đây, hăy nên trích dẫn đầy đủ đoạn văn nói về “từ bi phổ” trong sách Biệt Hành Sớ: “Do Đại Sĩ hễ trông thấy hết thảy chúng sanh khổ năo, liền dấy ḷng đại từ bi, khiến cho mầm Bồ Đề nẩy nở. V́ thế nói: Dốc trọn ba nghiệp thỉnh cầu, tạo thành cái mầm mong được thoát khổ. Lấy Tứ Hoằng làm thệ nguyện, khiến cho [hành nhân] được thấm đẫm niềm vui bậc thượng. Tức là chân thân dẹp khổ, ứng thân ban vui”. Nay sao nói là “cụ” (, trọn đủ)? Chỉ v́ thương xót chúng sanh trong vị lai, khiến cho ai nấy đều được nghe nói sự lợi ích của đức Địa Tạng. Do vậy, nhấn mạnh bằng hai chữ “nhữ kim” (nay ông).

 

3.3.1.2.2.2.2.2. Giới thính (răn truyền hăy nghe)

         

          (Kinh) Nhữ đương đế thính, ngô kim thuyết chi.

          ()汝當諦聽吾今說之。

          (Kinh: Ông hăy nên lắng nghe, nay ta sẽ nói).

 

3.3.1.2.2.2.2.3. Nguyện văn (mong được nghe)      

 

          (Kinh) Quán Thế Âm ngôn: “Dụy nhiên Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.

          ()觀世音言唯然世尊願樂欲聞。

          (Kinh: Quán Thế Âm thưa: “Bạch Thế Tôn! Vâng ạ! Con mong muốn được nghe”).

 

          Những câu này đều dễ hiểu.

 

3.3.1.2.2.2.2.4. Chánh cáo (phần bảo ban chánh yếu)

3.3.1.2.2.2.2.4.1. Trường Hàng (lời dạy bảo theo thể loại Trường Hàng)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1. Biệt thị bất tư nghị sự (dạy riêng từng chuyện chẳng thể nghĩ bàn)

         

          Phần này gồm tám đoạn, từ đoạn thứ nhất là “chuyển thiên nhân suy tướng” (chuyển đổi tướng suy hao của trời người) cho đến đoạn thứ tám “an thủy lục hiểm đạo” (đi đường hiểm trở dù đường bộ hay đường thủy đều b́nh an). Mỗi chuyện đều nói là “chẳng thể nghĩ bàn”, v́ đều là hành xứ rất sâu của Đại Sĩ, lưu xuất từ tự tánh.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.1. Chuyển thiên nhân suy tướng (chuyển đổi tướng suy hao của trời, người)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.1.1. Ngũ suy tướng hiện (năm tướng suy hiện ra)

 

          (Kinh) Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát: - Vị lai, hiện tại chư thế giới trung, hữu thiên nhân thọ thiên phước tận, hữu ngũ suy tướng hiện, hoặc hữu đọa ư ác đạo chi giả.

          ()佛告觀世音菩薩未來現在諸世界中有天人受天福盡有五衰相現或有墮於惡道之者。

          (Kinh: Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: - Trong các thế giới nơi đời vị lai hay hiện tại, có vị trời nào hưởng hết phước trời, có năm tướng suy hiện ra, hoặc là có người đọa vào đường ác).

 

          Chư thiên trong tam giới, mỗi vị đều nương theo túc nghiệp. Túc phước sâu dầy, sẽ tăng tấn thánh luân; phước xưa kém mỏng, sẽ bị ác nghiệp lôi đi. Kinh Niết Bàn dạy: “Thiên thượng tuy vô đại khổ năo sự, nhiên kỳ thân thể nhu nhuyễn, tế hoạt, kiến ngũ tướng thời, cực thọ đại khổ, như địa ngục khổ, đẳng vô sai biệt. Như mật ḥa độc dược, sơ mỹ hậu khổ” (Trên trời, tuy không có chuyện đại khổ năo; nhưng thân thể họ mềm mại, trơn mịn, khi thấy năm tướng suy, sẽ chịu đựng nỗi khổ to lớn cùng cực giống hệt như nỗi khổ trong địa ngục, chẳng có sai biệt. Như mật ḥa với thuốc độc, thoạt đầu là ngon ngọt, sau là đắng). Theo Tân Tỳ Bà Sa Luận, chư thiên mạng chung th́ trước đó có hai loại ngũ suy tướng hiện ra, một là tiểu, hai là đại.

          Tiểu ngũ suy:

          - Một là thân phát ra âm thanh ác.

          - Hai là quang minh nơi thân yếu ớt, tối tăm.

          - Ba là nước tắm gội dính vào thân.

          - Bốn là chấp cảnh, chẳng xả được.

          - Năm là thân hư nhược, mắt nháy lia lịa.

          Đại ngũ suy:

          - Y phục nay bị nhơ uế.

          - Hai là măo hoa bị héo hết.

          - Ba là hai nách toát mồ hôi.

          - Bốn là thân thể sanh mùi hôi.

          - Năm là không thích chỗ ngồi của chính ḿnh.

          Tiểu ngũ tướng hiện, nếu chẳng quy y, cầu cứu, đại ngũ suy sẽ hiện ra, ắt sẽ từ cơi trời chết đi, đọa xuống. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ dạy: “Nghiệp tận hoài ưu năo, xả ly chư thiên nữ, thoái thời đại khổ năo, bất khả đắc thí dụ” (nghiệp hết sẽ ôm ḷng lo sầu, ĺa bỏ các thiên nữ. Khi thoái đọa sẽ khổ năo to lớn, chẳng thể sánh ví được). V́ thế, cần phải cầu cứu. “Hoặc hữu đọa ác đạo” (hoặc cũng có kẻ đọa vào đường ác): Tùy theo nghiệp lực mà đọa vào trong ba đường, như kinh Chiết Phục La Hán đă dạy: “Tích Đao Lợi thiên, hữu nhất thiên, thọ thùy tận, hữu thất chủng thụy hiện: Quang diệt, hoa ủy, sắc biến, y trần, dịch hăn, thân sấu, cập ly bổn tọa. Tức tự tư duy, thọ chung sanh Cưu Di Na Kiệt quốc, giới lại mẫu trư phúc trung tác đồn” (Xưa kia, cơi trời Đao Lợi có một vị trời tuổi thọ sắp hết, có bảy điềm hiện ra: Quang minh mất đi, hoa héo, sắc biến đổi, áo dính bụi, nách rịn mồ hôi, thân gầy c̣m, và rời khỏi ṭa của chính ḿnh. Vị ấy liền tự tư duy, biết sau khi chết, sẽ thọ sanh làm lợn con trong bụng lợn xề ghẻ lác tại nước Kushinagar) tức là một trường hợp vậy.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.1.2. Kiến văn chuyển báo (do thấy, nghe mà chuyển đổi quả báo)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.1.2.1. Thị tăng thiên phước (nêu rơ: Tăng thêm phước trời)

 

          (Kinh) Như thị thiên nhân, nhược nam, nhược nữ, đương hiện tướng thời, hoặc kiến Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, hoặc văn Địa Tạng Bồ Tát danh, nhất chiêm, nhất lễ. Thị chư thiên nhân chuyển tăng thiên phước, thọ đại khoái lạc, vĩnh bất đọa tam ác đạo báo.

          ()如是天人若男若女當現相時或見地藏菩薩形像或聞地藏菩薩名一瞻一禮。是諸天人轉增天福受大快樂永不墮三惡道報。

          (Kinh: Vị trời như thế dù nam hay nữ, nếu trong khi tướng suy hiện, hoặc thấy h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, hoặc nghe danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, một lần chiêm ngưỡng, lễ một lễ, các vị trời ấy sẽ chuyển thành tăng thêm phước trời, hưởng sự vui sướng to lớn, vĩnh viễn chẳng mắc phải quả báo đọa vào ba ác đạo).

 

          Trước hết, dạy cái nhân tu tập ḥng đối trị tướng đáng sợ. Nếu chư thiên nam, nữ nhằm lúc tướng suy đại hay tiểu hiện ra, hoặc thấy h́nh tượng của Địa Tạng, và nghe danh hiệu của Ngài, bèn vận dụng cả thân lẫn tâm, chiêm ngưỡng và lễ bái. Do đă tu phước thù thắng, tướng suy bèn diệt. Từ “thị chư” (các vị ấy) trở đi, chỉ rơ: Chuyển báo, tăng phước. Như Thiên Đế Thích khi đại tiểu suy tướng bỗng hiện ra, ḷng sanh sợ hăi, nghĩ như thế này: “Ai có thể cứu sự suy ách như vậy cho ta, ta sẽ quy y”. Ông ta tự biết rơ: “Trừ đức Phật Thế Tôn ra, không ai có thể cứu vớt, che chở”. Liền đến chỗ Phật, xót xa cầu thỉnh cứu giúp. Đức Phật thuyết pháp cho Đế Thích. Ông ta liền thấy lẽ chân thật, khiến cho các tướng suy ấy ngay lập tức đều bị tiêu diệt. Ông ta hoan hỷ, hớn hở, nói bài kệ Ái Ngữ: “Đại tiên ưng đương tri, ngă tức ư thử ṭa, hoàn đắc thiên thọ mạng, duy nguyện tôn ức tŕ” (Đấng đại tiên nên biết, con ở nơi ṭa này, được có lại mạng trời, xin tôn kính, nghĩ nhớ). Nay người chiêm ngưỡng, lễ bái đức Địa Tạng, chuyển biến suy tướng, tăng phước cũng giống như thế. Kinh Trường A Hàm dạy: “Sử bỉ chư thiên tăng ích ngũ phước: Nhất thiên thọ, nhị thiên sắc, tam thiên danh xưng, tứ thiên lạc, ngũ thiên oai đức” (Khiến cho các vị trời ấy tăng thêm năm phước: Một là tuổi thọ cơi trời, hai là sắc thân cơi trời, ba là danh xưng trong cơi trời, bốn là niềm vui sướng trong cơi trời, năm là oai đức trong cơi trời).

          “Vĩnh bất đọa ác đạo” (vĩnh viễn chẳng đọa vào đường ác): Như vị trời sẽ đọa làm lợn trong phần trước, sầu khổ, không biết t́m cách nào. Các vị trời khác bảo: “Chỉ có đức Phật mới có thể giúp ông thoát tội”. Ông ta bèn đến chỗ đức Phật, làm lễ, thưa hỏi. Đức Phật dạy: “Muốn thoát thân lợn sữa, hăy thường tụng Tam Tự Quy”. Vị trời ấy liền quy y. Bảy ngày sau, ông ta hạ sanh trong thành Duy Da Ly (Vaiśāli), làm con của ông trưởng giả. Lúc mới sanh ra, rơi xuống đất, cũng quỳ gối tam quy. Đến lúc bảy tuổi, chơi giỡn bên đường, gặp các vị Thân Tử (Xá Lợi Phất) và Mục Liên, đứa trẻ làm lễ, thỉnh đức Phật về nhà. Đức Phật v́ gia đ́nh ấy thuyết kinh, đứa trẻ và cha mẹ, thân thuộc đều đắc A Duy Việt Trí (bất thoái chuyển). Nh́n từ chuyện này, [sẽ thấy] nếu chiêm ngưỡng, lễ bái đức Địa Tạng, há chỉ có vĩnh viễn chẳng đọa vào đường ác, mà c̣n có thể nhanh chóng dự vào địa vị thánh. Do vậy biết: Do công đức sám hối, thân lẫn tâm đều vui sướng.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.1.2.2. Huống thí cúng lợi (huống hồ lợi ích do bố thí, cúng dường)

 

          (Kinh) Hà huống kiến văn Bồ Tát, dĩ chư hương, hoa, y phục, ẩm thực, bảo bối, anh lạc, bố thí cúng dường, sở hoạch công đức, phước lợi, vô lượng vô biên.

          ()何況見聞菩薩以諸香華衣服飲食寶貝瓔珞布施供養。所獲功德福利無量無邊。

          (Kinh: Huống hồ được thấy nghe Bồ Tát, bèn dùng hương, hoa, quần áo, thức ăn, vật báu, chuỗi anh lạc để bố thí, cúng dường, sẽ đạt được công đức và phước lợi vô lượng, vô biên).

 

          Trên đây là thấy tượng, nghe danh, chỉ chiêm ngưỡng, lễ bái, mà đă tăng phước, hưởng vui, chẳng đọa vào đường ác; huống hồ thấy nghe rồi lại c̣n ra sức cúng dường ư? V́ thế, đạt được công đức và phước lợi vô lượng vô biên. Như Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh Luận có chép: “Vấn: Vân hà bố thí quả báo? Đáp: Bố thí hữu nhất chủng quả, sở vị Thọ Dụng Quả. Phục hữu nhị chủng quả, sở vị hiện tại thọ quả, vị lai thọ quả. Phục hữu tam chủng quả, tức thử nhị chủng, phục gia Bát Nhă” (Hỏi: Quả báo của bố thí là như thế nào? Đáp: Bố thí có một loại quả, tức là Thọ Dụng Quả. Lại có hai loại quả, tức là quả sẽ hưởng trong hiện tại, và quả sẽ hưởng trong tương lai. Lại có ba loại quả, tức là hai loại ấy cộng thêm Bát Nhă). Nay công đức và phước lợi đạt được tương ứng với Bát Nhă, cho nên chẳng có ngằn mé và số lượng như hư không.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2. Chuyển lâm chung ác nghiệp (chuyển biến nghiệp ác khi lâm chung)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.1. Lâm chung văn danh ly khổ (lúc lâm chung, nghe danh hiệu sẽ ĺa khổ)

 

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm! Nhược vị lai, hiện tại, chư thế giới trung lục đạo chúng sanh, lâm mạng chung thời, đắc văn Địa Tạng Bồ Tát danh, nhất thanh lịch nhĩ căn giả, thị chư chúng sanh, vĩnh bất lịch tam ác đạo khổ.

          ()復次觀世音若未來現在諸世界中六道眾生臨命終時得聞地藏菩薩名一聲歷耳根者是諸眾生永不歷三惡道苦。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm! Nếu vị lai, hiện tại, lục đạo chúng sanh trong các thế giới khi sắp mạng chung, được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát một tiếng thoảng qua tai, các chúng sanh ấy vĩnh viễn chẳng phải chịu khổ trong ba đường ác).

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2. Quyến thuộc tố tượng chuyển báo (quyến thuộc tạc tượng, chuyển báo)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2.1. Tu tố tượng nhân (tu nhân tạc tượng)

 

          (Kinh) Hà huống lâm mạng chung thời, phụ mẫu, quyến thuộc tương thị mạng chung nhân xá trạch, tài vật, bảo bối, y phục, tố họa Địa Tạng h́nh tượng.

          ()何況臨命終時父母眷屬將是命終人舍宅財物寶貝衣服塑畫地藏形像。     
          (Kinh: Huống hồ khi sắp mạng chung, cha mẹ, quyến thuộc dùng nhà cửa, tài vật, của báu, quần áo của người mạng chung ấy để đắp, vẽ h́nh tượng Địa Tạng).

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2.2. Chuyển hiện báo, vị báo (chuyển biến quả báo trong hiện tại và tương lai)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2.2.1. Bệnh nhân tri nhân (người bệnh biết cái nhân)  

 

          (Kinh) Hoặc sử bệnh nhân vị chung chi thời, nhăn, nhĩ kiến văn, tri đạo quyến thuộc tương xá trạch, bảo bối đẳng, vị kỳ tự thân, tố họa Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng.

          ()或使病人未終之時眼耳見聞。知道眷屬將舍宅寶貝等為其自身塑畫地藏菩薩形像。

          (Kinh: Hoặc là khiến cho bệnh nhân lúc chưa mất, mắt thấy, tai nghe, biết quyến thuộc đem những thứ như nhà cửa, vật báu v.v… v́ chính ḿnh mà đắp, vẽ h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát).

 

          Đều giống như trước.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2.2.2. Thừa công chuyển báo (nhờ vào công đức để chuyển đổi quả báo)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2.2.2.1. Trọng bệnh tầm dũ, tăng thọ (bệnh nặng sẽ liền khỏi, tăng tuổi thọ)

 

          (Kinh) Thị nhân nhược thị nghiệp báo, hợp thọ trọng bệnh giả, thừa tư công đức, tầm tức trừ dũ, thọ mạng tăng ích.

          ()是人若是業報合受重病者承斯功德尋即除愈壽命增益。

          (Kinh: Người ấy nếu do nghiệp báo đáng phải bị bệnh nặng, sẽ nhờ vào công đức ấy mà liền lành bệnh, thọ mạng tăng thêm).

 

          V́ sao cần phải v́ người bệnh tu cúng dường, tạc tượng đức Địa Tạng th́ mới có thể lành bệnh, tăng thọ? Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Đường ác đáng sợ hăi, mạng người vô thường, một hơi thở ra không hít vào được nữa, đường dài ngàn năm biền biệt trên nẻo tối, chẳng có tư lương. Biển khổ càng sâu, thuyền bè há gởi vào đâu? Năm tháng hao hụt dần, phong đao chẳng c̣n được mấy, há có thể an ḷng ngồi đợi chua xót, khổ sở? Ví như chó hoang mất sạch, tai, đuôi, nanh, giả vờ ngủ vùi mong thoát khổ ư?” V́ thế, v́ người ấy tu phước để lập tức trừ ương họa, không chỉ là được lành bệnh mà c̣n tăng thọ. Ví như uống ngũ thạch[27], không chỉ lành bệnh, mà thân c̣n được sung măn.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.2.2.2.2.2. Mạng tận, diệt chướng, sanh thiên (nếu mạng đă hết, sẽ được diệt tội chướng, sanh lên trời)         

          (Kinh) Thị nhân nhược thị nghiệp báo mạng tận, ưng hữu nhất thiết tội chướng, nghiệp chướng, hợp đọa ác thú giả, thừa tư công đức, mạng chung chi hậu, tức sanh nhân thiên, thọ thắng diệu lạc. Nhất thiết tội chướng tất giai tiêu diệt.

          ()是人若是業報命盡應有一切罪障業障合墮惡趣者承斯功德命終之後即生人天受勝妙樂。一切罪障悉皆銷滅。

          (Kinh: Nếu người ấy do nghiệp báo mà mạng hết, lại v́ hết thảy tội chướng và nghiệp chướng, đáng đọa vào trong đường ác, nhưng nhờ công đức ấy, sau khi mạng chung, liền sanh làm trời, người, hưởng sự vui thù thắng, nhiệm mầu. Hết thảy tội chướng thảy đều tiêu diệt).

 

          “Nghiệp báo mạng tận” tức là phước lẫn mạng đều đă hết. Tuy phước lẫn mạng đều hết, công đức và phước lợi đă tu tập chẳng sai chạy. V́ thế, kẻ đáng có tội chướng Ngũ Nghịch, nghiệp chướng Thập Ác, đáng đọa trong đường ác chịu khổ, do nhờ vào công đức bán nhà tạo tượng, liền sanh làm trời, người, hưởng vui sướng; cả hai thứ tội chướng và nghiệp chướng trước đó đều tiêu diệt, chẳng thừa sót! Như trong kinh Đại Thừa, Kỳ Bà nói với vua A Xà Thế: “Tu nhất thiện tâm, năng phá bách vạn chủng ác. Như thiểu Kim Cang, năng hoại Tu Di. Diệc như tiểu hỏa, năng thiêu nhất thiết. Như thiểu độc dược, năng hại chúng sanh. Tiểu thiện diệc nhĩ, năng hoại đại ác” (Tu một thiện tâm có thể phá trăm vạn thứ ác. Như một chút kim cang có thể hư hoại núi Tu Di. Cũng như chút lửa, có thể đốt hết thảy. Như chút thuốc độc, có thể hại chúng sanh. Điều thiện nhỏ cũng thế, có thể phá hoại điều ác to lớn). Tuy gọi là tiểu thiện, thật ra là lớn. Do v́ nghĩa này, phải nên tu sám hối. Người có thể làm như vậy, ắt điều thiện có thể giúp phước trong cơi âm vậy.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3. Thị tiên vong sanh giới (chỉ dạy cơi người đă khuất sanh về)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.1. Thuật tư ức chi sự (nói đến những chuyện nghĩ nhớ)

 

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai thế, hữu nam tử, nữ nhân, hoặc nhũ bộ thời, hoặc tam tuế, ngũ tuế, thập tuế dĩ hạ, vong thất phụ mẫu, năi chí vong thất huynh, đệ, tỷ, muội. Thị nhân niên kư trưởng đại, tư ức phụ mẫu, cập chư quyến thuộc, bất tri lạc tại hà thú, sanh hà thế giới, sanh hà thiên trung?

          ()復次觀世音菩薩若未來世有男子女人或乳哺時或三歲五歲十歲已下亡失父母乃至亡失兄弟姊妹。是人年既長大思憶父母及諸眷屬。不知落在何趣生何世界生何天中。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm Bồ Tát! Nếu trong đời vị lai, có nam tử, nữ nhân, hoặc lúc c̣n đang bú mớm, hoặc ba tuổi, năm tuổi, mười tuổi trở xuống, mà cha mẹ đă mất, cho đến anh, em trai, chị, em gái đă mất, người ấy đă khôn lớn, nghĩ nhớ cha mẹ và các quyến thuộc, chẳng biết họ sanh vào đường nào, sanh trong thế giới nào, sanh trong cơi trời nào?)

 

          “Nhũ bộ thời” là lúc trẻ thơ c̣n quấn tă. “Nhũ” (, vú) là bầu thịt trước ngực. Sữa con bú do máu mẹ hóa thành. Con chưa sanh, ở trong thân mẹ, [chất nuôi dưỡng thai nhi] là máu [của mẹ]. Con đă sanh, máu biến thành sữa. Kinh Ngũ Đạo Thọ Sanh dạy: “Nhi sanh tam tuế, phàm ẩm nhất bách bát thập hộc nhũ (cổ tam thăng, đương kim nhất thăng), trừ kỳ thai trung thực huyết phần” (Con sống đến ba tuổi, uống một trăm tám mươi hộc[28] sữa (ba thưng thời cổ bằng một thưng hiện thời), trừ lúc ở trong thai ăn máu mẹ). Sách Thuyết Văn Giải Tự viết: “Bộ là nhấm, nuốt”. Chữ Bộ () từ Khẩu () và Phủ () hợp thành, chính là lúc mẹ nhai nhỏ [cơm hoặc thức ăn], mớm cho con. Như sách Dịch Lâm[29] viết: “Chim chóc ăn hạt thóc, mớm cho [chim con đang] há miệng chờ mớm”. Sách Dật Nhă viết: “Trẻ nhỏ bị đầy hơi gọi là Bộ. Bộ có nghĩa sương móc. Khi sương lạnh, bú sữa chẳng tiêu, sanh ra chứng bệnh này”. Nay người trưởng thành ăn nhiều thứ quá lạnh, ngực và miệng có mùi hôi như thức ăn rữa nát là do lẽ này. Từ lứa tuổi c̣n bú mớm cho tới lúc ba tuổi, tuy người thân mất trước hay sau khác nhau, nhưng do [tuổi thơ] vô tri, nên cảm thấy lớn hay nhỏ đều chẳng khác ǵ! Tới khi đă khôn lớn, bèn nghĩ nhớ, đấy chính là lương tâm của đứa con hiếu thảo, sao nỡ cam ḷng! Kinh Phạm Động[30] dạy: “Ngă thân Tứ Đại, Lục Nhập, tùng phụ mẫu sanh. Nhũ bộ dưỡng dục, y thực thành trưởng, ma môn ủng hộ” (Tứ Đại, Lục Nhập nơi thân ta do cha mẹ sanh ra. Bú mớm, nuôi nấng, cơm áo trưởng thành, vuốt ve, nâng niu, ǵn giữ). Nhưng có kẻ cho đến hết đời chẳng hề nghĩ thân ḿnh do đâu mà có! Đối với công nuôi nấng, bồng bế nhọc nhằn, sao chẳng nghĩ tới con dê non khụy chân cho [cha mẹ đă già] bú sữa của nó, con quạ có ḷng Từ mớm mồi ngược lại cho cha mẹ già, chim sẻ non trộm thóc bị bắt, nghĩ nhớ mẹ phải nhịn đói, chẳng lẽ người không bằng cầm thú ư? Nay sở dĩ nghĩ nhớ là do chẳng biết quyến thuộc rơi vào đường nào, thăng trầm khó lường! Chẳng biết sanh trong thế giới nào, ở chính giữa đất nước hay nơi biên địa khó đoán định. Chẳng biết sanh trong tầng trời nào, là định hay tán chẳng thể am tường! V́ thế, thức, ngủ nghĩ nhớ, muốn biết nơi chốn của họ!

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2. Thị tu kính chi công (chỉ bày công đức do tu cung kính)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.1. Tiên vong giải thoát (người đă khuất được giải thoát)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.1.1. Tu thắng nhân (tu cái nhân thù thắng)

 

          (Kinh) Thị nhân nhược năng tố họa Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, năi chí văn danh, nhất chiêm, nhất lễ, nhất nhật chí thất nhật, mạc thoái sơ tâm, văn danh, kiến h́nh, chiêm lễ cúng dường.

          ()是人若能塑畫地藏菩薩形像乃至聞名一瞻一禮一日至七日莫退初心。聞名見形瞻禮供養。

          (Kinh: Người ấy nếu có thể đắp, vẽ h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, cho đến nghe tiếng, chiêm ngưỡng một lần, lễ một lễ, từ một ngày cho đến bảy ngày, đừng lui sụt cái tâm ban đầu, nghe tên, thấy h́nh tượng, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường).

 

          Câu “mạc thoái sơ tâm” (đừng lui sụt cái tâm ban đầu) là lời răn quan trọng nhất. Người đời nay kiên quyết chọn lựa giữ vững điều thiện hằng ngày từ sáng đến tối, tôi chưa hề gặp! Như kẻ lo liệu làm phước, thoạt đầu th́ muốn làm nhiều, chưa làm xong mà đă giảm bớt. Kẻ học đạo thoạt đầu quyết chí tinh tấn, về sau lười nhác, mệt mỏi. Đó gọi là “mị bất hữu thỉ, tiễn khắc hữu chung” (không ai chẳng sốt sắng khởi đầu tiến hành, nhưng rốt cuộc hiếm ai làm đến cùng). Người khởi sự rồi hoàn tất, chỉ có bậc thánh nhân đấy chăng? V́ thế kinh dạy: “Ngư tử, Am-la hoa, Bồ Tát sơ phát tâm, tam sự nhân trung đa, cập kỳ kết quả thiểu” (Cá con và hoa xoài, Bồ Tát sơ phát tâm, ba chuyện nhân th́ nhiều, đạt kết quả ít ỏi). Răn nhắc đừng lui sụt cái tâm ban đầu là có dụng ư sâu xa vậy!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.1.2. Đắc lạc báo (được quả báo an vui)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.1.2.1. Đọa ác thú giả giải thoát (người đọa trong đường ác được giải thoát)

 

          (Kinh) Thị nhân quyến thuộc, giả nhân nghiệp cố, đọa ác thú giả, kế đương kiếp số, thừa tư nam, nữ, huynh, đệ, tỷ, muội, tố họa Địa Tạng h́nh tượng, chiêm lễ công đức, tầm tức giải thoát, sanh nhân thiên trung, thọ thắng diệu lạc.

          ()是人眷屬假因業故墮惡趣者計當劫數。承斯男女兄弟姊妹塑畫地藏形像瞻禮功德尋即解脫。生人天中受勝妙樂。

          (Kinh: Quyến thuộc của người ấy do v́ nghiệp nhân, đọa vào đường ác tính ra phải chịu nhiều kiếp, do nhờ công đức của con cái, anh, em trai, chị, em gái đắp vẽ h́nh tượng đức Địa Tạng, chiêm ngưỡng, lễ bái, liền được giải thoát, sanh trong trời, người, hưởng sự vui thù thắng, mầu nhiệm).

          “Giả nhân nghiệp”: “Giả” () tức là ba thứ Giả: Do cái nhân mà thành, tiếp nối, và đối đăi. Do chúng hư vọng chẳng thật, nên gọi là Giả. Sách Ma Ha Chỉ Quán viết: “Do nhân mà thành, tức là xét theo ngoại trần và nội căn. Tiếp nối: Tức là chỉ xét theo nội căn. Đối đăi: Đối đăi xét theo chiều dọc, th́ là cái Vô do đă diệt vô; đối đăi xét theo chiều ngang th́ là vô tâm vô vi”. Hết thảy phàm phu chưa dự vào thánh đạo, hễ khởi lên mảy may so đo, thảy đều là kiến chấp! Do v́ có kiến chấp, các khổ thuộc ba thứ Giả bèn nhóm họp. Phiền năo bèn dấy theo, kết nghiệp tràn lan, sanh tử cuồn cuộn. V́ thế nói là “đọa ác thú trung, kế đương kiếp số” (đọa trong đường ác, tính ra phải chịu nhiều kiếp). Đấy là nói quyến thuộc do nghiệp mà thọ sanh. Từ “thừa tư” (nhờ [phước đức] ấy) trở đi, ư nói nhờ phước mà siêu thăng. “Tầm tức giải thoát” (liền được giải thoát): Do căn cơ nhanh chóng, ứng hiện nhanh chóng, cho nên lợi ích nhanh chóng. Ví như cha mẹ tâm nghĩ đến con sâu nặng, lại c̣n lắm trí, nhiều tài, có thế lực lớn, các con mắc nạn, [cha mẹ] có thể lập tức cứu giúp. Nay Địa Tạng Bồ Tát tâm từ bi sâu nặng, Quyền Trí và Thật Trí sâu xa, thánh tài sung túc, thần lực tự tại, hễ quyến thuộc bị đọa ác thú, [do nhờ Bồ Tát tế độ], sẽ lập tức giải thoát.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.1.2.2. Sanh nhân thiên giả tăng nhân (người đă sanh trong đường trời, người sẽ tăng thêm cái nhân thánh đạo)

 

          (Kinh) Thị nhân quyến thuộc như hữu phước lực, dĩ sanh nhân thiên, thọ thắng diệu lạc giả, tức thừa tư công đức, chuyển tăng thánh nhân, thọ vô lượng lạc.

          ()是人眷屬如有福力已生人天受勝妙樂者即承斯功德轉增聖因受無量樂。

          (Kinh: Quyến thuộc của người ấy nếu có phước lực, đă sanh làm trời người, hưởng sự vui thù thắng, mầu nhiệm, sẽ nương vào công đức ấy, tăng thêm cái nhân thánh đạo, hưởng vô lượng sự vui).

 

          Cổ đức nói: “Đă sanh vào đường lành, công huân sẽ được tăng thêm. Kẻ chưa thoát khổ luân, sẽ sớm sanh về Tịnh Độ” chính là ư nghĩa của hai đoạn văn trên đây. “Chuyển tăng thánh nhân” (tăng thêm cái nhân của thánh đạo): Sẽ dự vào các địa vị thuộc tam thừa, hưởng niềm vui xuất thế. Như trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Phật bảo các tỳ-kheo: “Phàm phu chi nhân bất tác công đức, bất đắc tứ sự cúng dường, phục bất miễn tam ác đạo khổ, thị vị thân tâm câu bất lạc. Tác công đức A La Hán, tứ sự cúng dường, vô sở phạp đoản, phục miễn tam ác đạo khổ, thị vị thân tâm câu lạc” (Kẻ phàm phu chẳng làm công đức, chẳng được tứ sự cúng dường, lại chẳng tránh khỏi nỗi khổ trong ba ác đạo. Đó gọi là thân lẫn tâm đều chẳng vui sướng. Bậc A La Hán tạo công đức, được tứ sự cúng dường chẳng bị thiếu hụt, lại tránh khỏi sự khổ trong ba đường ác. Đó gọi là thân lẫn tâm đều vui sướng). Nay đă tăng thêm cái nhân thánh đạo, tức là thân lẫn tâm đều vui sướng vậy!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.2. Cụ cáo sanh giới (nói đầy đủ chỗ đă sanh về)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.2.1. Niệm danh Bồ Tát hiện thân (niệm danh hiệu, Bồ Tát hiện thân)          

 

          (Kinh) Thị nhân cánh năng tam thất nhật trung, nhất tâm chiêm lễ Địa Tạng h́nh tượng, niệm kỳ danh tự, măn ư vạn biến, đương đắc Bồ Tát hiện vô biên thân, cụ cáo thị nhân quyến thuộc sanh giới.

          ()是人更能三七日中一心瞻禮地藏形像念其名字滿於萬徧。當得菩薩現無邊身具告是人眷屬生界。

          (Kinh: Người ấy lại có thể trong hai mươi mốt ngày, nhất tâm chiêm ngưỡng, lễ bái h́nh tượng đức Địa Tạng, niệm danh tự của Ngài trọn một vạn lần, sẽ được Bồ Tát hiện vô biên thân, bảo cặn kẽ chỗ quyến thuộc đă sanh về).

 

          “Tố tượng, chiêm lễ” (Tạc tượng, chiêm ngưỡng, lễ bái) là dốc cạn ḷng ân cần được biểu hiện ra ngoài. Nhất tâm xưng danh là trong tâm siêng năng cung kính. Cơ và cảm dốc trọn ḷng thành, [Bồ Tát] bèn nhanh chóng ứng hiện thân h́nh. Đó gọi là “Bồ Tát thanh lương nguyệt, thường du tất cánh không, chúng sanh tâm thủy tịnh, Bồ Đề ảnh hiện trung” (Bồ Tát trăng trong mát, thường dạo rốt ráo không, nước tâm chúng sanh tịnh, Bồ Đề hiện bóng soi), cảm ứng chẳng sai chạy!

          Hỏi: Nay có người đă bao năm [ân cần xưng niệm, lễ bái như thế], nhưng chẳng được truyền dạy chút nào, v́ sao vậy? Đáp: Cần biết nhất tâm có Sự và Lư. Nếu cả hai đằng đều thiếu sót, sao có thể cảm thánh cho được! Ví như đến trước gương mà xoay lưng lại, đối trước hang động mà lặng im, làm sao có thể thấy được bóng dáng và tiếng vọng?

          “Vô biên thân” xét theo Sự th́ vô biên chính là hữu biên; xét theo Lư th́ hữu biên chính là vô biên. Nay dùng lễ tượng, xưng danh, đó là Sự nhất tâm, để khế nhập Lư nhất tâm như hư không vô biên, như hang trống dội lại tiếng vọng, như gương sáng hiện h́nh. V́ thế, [Bồ Tát] hiện vô biên thân bảo cặn kẽ chỗ đă sanh về!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.2.2. Mộng thần lănh kiến quyến thuộc (trong mộng thấy Bồ Tát dùng oai thần cho thấy người thân)

 

          (Kinh) Hoặc ư mộng trung, Bồ Tát hiện đại thần lực, thân lănh thị nhân, ư chư thế giới kiến chư quyến thuộc.

          ()或於夢中菩薩現大神力親領是人於諸世界見諸眷屬。

          (Kinh: Hoặc là trong mộng, Bồ Tát hiện đại thần lực, đích thân dẫn dắt người ấy thấy các quyến thuộc trong các thế giới).

 

          Trong phần trước là hiển cơ hiển ứng. V́ thế nói: Trong lúc xưng niệm, lễ bái, Bồ Tát hiện thân bảo ban, dạy cho biết quyến thuộc đă sanh về cơi nào. [C̣n trong đoạn này] quyến thuộc là minh cơ minh ứng (冥機冥應, cơ và ứng ngấm ngầm), cho nên bảo ban trong giấc mộng. Tức là giống như “chư thiên hiện mộng” trong luật Thiện Kiến, đấy chính là giấc mộng thật sự. Nhưng cần phải hiểu rơ: Chuyện thiện, ác, phàm, thánh, không ǵ chẳng phải là mộng! Thoạt đầu do người nằm mộng, chẳng biết quyến thuộc đă sanh về cơi nào, cho nên tạc Địa Tạng mộng tượng[31], trong mộng chiêm lễ, xưng danh, cho nên [Bồ Tát] hiện thân trong mộng răn dạy. V́ thế nói: Nếu càng thêm tinh tấn trong mộng th́ những điên đảo về danh xưng suông sẽ dứt bặt. Quay lại quán thế gian, [sẽ thấy] đều là chuyện trong mộng, chỉ có đại giác rạng ngời, được gọi là đại mộng giác.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.3.2.3. Hiện hoạch diệu báo (đạt được quả báo mầu nhiệm trong hiện tại)

 

          (Kinh) Cánh năng mỗi nhật, niệm Bồ Tát danh thiên biến, chí ư thiên nhật, thị nhân đương đắc Bồ Tát khiển sở tại thổ địa quỷ thần, chung thân vệ hộ. Hiện thế, y thực phong dật, vô chư tật khổ, năi chí hoạnh sự bất nhập kỳ môn, hà huống cập thân! Thị nhân tất cánh đắc Bồ Tát ma đảnh thọ kư.

          ()更能每日念菩薩名千遍至於千日。是人當得菩薩遣所在土地鬼神終身衛護。現世衣食豐溢無諸疾苦。乃至橫事不入其門何況及身。是人畢竟得菩薩摩頂授記。

          (Kinh: Nếu lại có thể mỗi ngày niệm danh hiệu Bồ Tát một ngàn lần cho đến một ngàn ngày, người ấy sẽ được Bồ Tát sai thổ địa, quỷ thần nơi đó bảo vệ suốt đời, đời này được cơm áo dư dật, không bị các bệnh khổ. Cho đến các chuyện ngang trái chẳng lọt qua cửa nhà ấy, huống hồ thân phải hứng chịu. Người ấy rốt cuộc được Bồ Tát xoa đầu thọ kư).

 

          Ở đây, tu nhân đă thù thắng, cảm quả cũng thù thắng, so với phần trước càng khác biệt vời vợi! “Thổ địa, quỷ thần” tức là những vị trông coi về đất đai, thóc lúa, hộ tŕ nhân dân, mà cũng là những vị hộ trạch, hộ thân. Nay họ đều vĩnh viễn hộ tŕ người ấy. Hiện tại hưởng ba điều vui sướng, về sau được diệu kư (thọ kư mầu nhiệm). Một là áo cơm dư dật, tức lớn bé đều an hưởng. Hai là không có các tật bệnh, tức thân lẫn tâm đều điều ḥa, thư thái. Ba là dứt bặt các chuyện ngang trái, tức các việc ăn ở đều yên b́nh. Đó là báo ứng trong kiếp người hiện tại, vẫn là chuyện nhỏ. C̣n như người ấy rốt cuộc được Bồ Tát xoa đầu an ủi, đích thân thọ kư, tức là cái nhân chân chánh quyết được thành tựu, đạt được diệu quả. Thế gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng thành tựu! Oai thần lợi ích là như thế đó!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.4. Thành độ sanh chứng quả (thành tựu chuyện độ sanh, chứng quả)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.4.1. Thuật phát tâm độ nhân (phát tâm độ người khác)   

 

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục phát quảng đại từ tâm, cứu độ nhất thiết chúng sanh giả, dục tu Vô Thượng Bồ Đề giả, dục xuất ly tam giới giả.

          ()復次觀世音菩薩若未來世有善男子善女人欲發廣大慈心救度一切眾生者欲修無上菩提者欲出離三界者。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm! Nếu trong đời vị lai có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn phát tâm đại từ rộng lớn cứu độ hết thảy chúng sanh, muốn tu Vô Thượng Bồ Đề, muốn thoát ĺa tam giới).

 

          Đấy là tâm đại Bồ Tát, tu tập Bát Nhă Ba La Mật, cho nên có thể phát khởi cái tâm độ người khác. Nhưng từ bi vốn sẵn đủ, chỉ v́ từ trước đă chấp “ta, người”, cho nên phân biệt đây, kia. Nay đă biết là đồng thể, cho nên phát tâm b́nh đẳng. Do đại từ, mong cho chúng sanh được vui sướng, cũng như ban bố sự vui. Do đại bi, thương xót chúng sanh đang chịu khổ, cũng mong họ thoát khỏi cảnh khổ, cho nên cứu độ hết thảy chúng sanh. Duyên trọn khắp pháp giới là Quảng, phổ độ quần mê là Đại. “Muốn tu Vô Thượng Bồ Đề”: Cho thấy người ấy tự cầu Phật quả, chính là như Ma Ha Chỉ Quán đă đề ra Vô Tác Tứ Đế: Hiểu rơ pháp tánh của chính ḿnh và hết thảy các pháp chẳng hai, chẳng khác, thượng cầu hạ hóa, phát Bồ Đề tâm. “Xuất ly tam giới” chính là từ Sơ Tín cho tới Thất Tín của Viên Giáo. Trước hết là trừ khử Kiến Tư hoặc, giă biệt măi măi nỗi khổ trong tam giới.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.4.2. Minh tu nhân thành nguyện (nói về sự tu nhân, thành tựu sở nguyện)

 

          (Kinh) Thị chư nhân đẳng, kiến Địa Tạng h́nh tượng, cập văn danh giả, chí tâm quy y. Hoặc dĩ hương, hoa, y phục, bảo bối, ẩm thực, cúng dường, chiêm lễ. Thị thiện nam nữ đẳng, sở nguyện tốc thành, vĩnh vô chướng ngại.

          ()是諸人等見地藏形像及聞名者至心歸依。或以香華衣服寶貝飲食供養瞻禮。是善男女等所願速成永無障礙。

          (Kinh: Những người ấy thấy h́nh tượng Địa Tạng và nghe danh hiệu của Ngài, chí tâm quy y, hoặc dùng hương, hoa, y phục, vật báu, thức ăn để cúng dường, chiêm ngưỡng, lễ bái. Các thiện nam nữ ấy sở nguyện mau chóng thành tựu, vĩnh viễn chẳng có chướng ngại).

 

          Kinh văn chia làm ba tiểu đoạn:

          - Thứ nhất là thấy, nghe quy y.

          - Thứ hai, từ “hoặc dĩ” trở đi là dốc cạn ḷng thành cúng dường.

          - Thứ ba là từ ‘thị thiện” trở đi, chuyện mong muốn được thành tựu.

          Dựa theo “phát Bồ Đề tâm” trong đoạn văn trên đây, đấy chính là chuyện thành tựu thượng phẩm. Như kinh Tô Tất Địa dạy: “Năng linh chủng chủng Tất Địa thành tựu, tăng ích phước đức, năi chí thành măn Pháp Vương Tử pháp, huống dư thế sự?” (Có thể thành tựu các thứ Tất Địa, tăng thêm phước đức, cho đến thành tựu viên măn pháp của Pháp Vương Tử, huống hồ những chuyện thế gian khác ư?) V́ thế, không chỉ là sở nguyện mau chóng thành tựu, mà c̣n vĩnh viễn chẳng bị chướng duyên trở ngại!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.5. Thành dục cầu nguyện sự (thành tựu những chuyện mong cầu)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.5.1. Thuật sở cầu nguyện sự (trần thuật những chuyện mong cầu)

         

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm! Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu hiện tại, vị lai bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự.

          ()復次觀世音若未來世有善男子善女人欲求現在未來百千萬億等願百千萬億等事。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm! Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân mong cầu trăm ngàn vạn ức nguyện, trăm ngàn vạn ức sự).

 

          Nguyện niệm ở bên trong, sự tướng thể hiện ở bên ngoài. Xét theo thế gian và xuất thế gian, bèn có trăm ngàn vạn ức: Hoặc cầu được thỏa nguyện trong đời hiện tại, hoặc mong đời khác xứng ḷng. Như kinh Thập Luân đă dạy: “Thử thiện nam tử, tùy sở tại xứ, nhược chư hữu t́nh, hoặc vị đa văn, tịnh tín, tịnh giới, tịnh lự, thần thông, Bát Nhă, giải thoát, diệu sắc, thanh, hương, vị, xúc, lợi dưỡng, danh văn, công đức, hoa quả, thụ lâm, sàng phu, xá trạch đẳng” (Thiện nam tử này ở bất cứ nơi đâu, nếu các hữu t́nh hoặc v́ đa văn, tịnh tín, tịnh giới, tịnh lự, thần thông, Bát Nhă, giải thoát, sắc, thanh, hương, vị, xúc mầu nhiệm, lợi dưỡng, tiếng tăm, công đức, hoa quả, rừng cây, giường đệm, nhà cửa v.v…) là nói về ư này.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.5.2. Minh nhân tu thành tựu (nói về cái nhân để tu ḥng đạt thành tựu)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.5.2.1. Nguyện cầu thành tựu

 

          (Kinh) Đản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng; như thị sở nguyện, sở cầu, tất giai thành tựu.

          ()但當歸依瞻禮供養讚歎地藏菩薩形像。如是所願所求悉皆成就。

          (Kinh: Chỉ nên quy y, chiêm ngưỡng, lễ bái, cúng dường, tán thán h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát th́ sở nguyện, sở cầu như thế thảy đều thành tựu).

 

          Theo như các nghi quỹ trong Mật Bộ, đều nói có ba phẩm hay năm phẩm Tất Địa (Siddhi, thành tựu). Nay xét ra, kinh Thập Luân dạy “hoặc vị chủng chủng thế xuất thế gian chư lợi lạc sự, ư truy cầu thời, vị chư ưu khổ chi sở bức thiết, hữu năng chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát giả, thử thiện nam tử công đức diệu định oai thần lực cố, linh bỉ nhất thiết giai ly ưu khổ, ư nguyện măn túc” (Hoặc v́ trong lúc truy cầu các thứ chuyện lợi lạc thế gian và xuất thế gian, bị các thứ lo sầu, khổ năo bức bách, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, th́ do sức công đức và oai thần diệu định của vị thiện nam tử ấy, sẽ khiến cho hết thảy đều ĺa khỏi ưu khổ, ư nguyện được thỏa măn) chính là nói về chuyện này.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.5.2.2. Mộng cảm ma đảnh (mộng thấy cảm vời Bồ Tát xoa đầu)

 

          (Kinh) Phục nguyện Địa Tạng Bồ Tát cụ đại từ bi, vĩnh ủng hộ ngă, thị nhân ư thụy mộng trung, tức đắc Bồ Tát ma đảnh thọ kư.

          ()復願地藏菩薩具大慈悲永擁護我。是人於睡夢中即得菩薩摩頂授記。

          (Kinh: Lại nguyện “Địa Tạng Bồ Tát sẵn ḷng đại từ bi, vĩnh viễn ủng hộ con”. Người ấy sẽ trong khi nằm mộng, liền được Bồ Tát xoa đầu, thọ kư).

         

          Quy y, cúng dường đúng pháp, tâm cầu khẩn đúng lẽ, cho nên cảm Đại Sĩ thọ kư trong mộng. Đấy chính là thọ kư tương ứng với sự phát tâm. Xoa đầu nhằm tỏ ư an ủi, chỉ dạy hành nhân sẽ đạt cực quả, thọ kư hành nhân sẽ chứng viên nhân. Nếu chẳng có tín lực kiên cố, làm sao có thụy tướng như thế được?

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6. Phát hiện sanh trí huệ (phát khởi trí huệ trong đời hiện tại)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.1. Thuật túc chướng căn độn (thuật bày hành nhân do túc chướng mà căn tánh chậm lụt)

 

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai thế, thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư Đại Thừa kinh điển thâm sanh trân trọng, phát bất tư nghị tâm, dục độc, dục tụng.

          ()復次觀世音菩薩若未來世善男子善女人於大乘經典深生珍重發不思議心欲讀欲誦。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm Bồ Tát! Nếu trong đời vị lai, thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với kinh điển Đại Thừa, sanh ḷng trân trọng sâu xa, phát tâm chẳng thể nghĩ bàn, muốn đọc, muốn tụng).

 

          Nói đến hai chúng nam nữ, nhằm nêu ra căn cơ tiếp nhận pháp. Kinh điển Đại Thừa chính là pháp Phương Đẳng. Đạo của đế vương được ghi chép thành sách, sách ấy được gọi là Điển (). V́ thế, sách của Ngũ Đế được gọi là Ngũ Điển, chính là kỷ cương thường hằng của đất nước. Chữ Điển được ghép từ chữ Sách () và chữ Kỷ (), thể hiện ư nghĩa “tôn sùng”. Kính trọng [kinh điển] như là lẽ tự nhiên, sẽ có ngày khai ngộ. Trong Phật pháp của chúng ta, cũng có thể khai ngộ Đệ Nhất Nghĩa Thiên.

          “Thâm sanh trân trọng” (sanh ḷng trân trọng sâu xa): Do Phật pháp như châu Như Ư, có thể sanh ra các thứ báu; v́ thế, trân trọng, kính ngưỡng, yêu chuộng. Nói “phát bất tư nghị tâm” (phát tâm chẳng thể nghĩ bàn) th́ có nghĩa là ǵ? Kinh La Vân Nhẫn Nhục dạy: “Phật chi minh pháp, dữ tục tương bối. Tục chi sở trân, đạo nhân sở tiện. Cố trước dục chi nhân bất hiếu ngă vô dục chi hạnh” (Pháp do đức Phật đă dạy tương phản thế tục. Những ǵ thế tục coi là trân quư, người tu đạo coi rẻ. V́ thế, kẻ chấp dục sẽ chẳng ưa hạnh vô dục của ta). Nay đă trân trọng, phát tâm đọc tụng, vậy th́ tâm và pháp là một Thể, ai có thể suy nghĩ, bàn luận cái tâm ấy là sâu hay cạn cho được? Đấy chính là nói về chuyện phát tâm thù thắng!

 

          (Kinh) Túng ngộ minh sư, giáo thị linh thục, toàn đắc, toàn vong, động kinh niên nguyệt, bất năng độc tụng.

          ()縱遇明師教視令熟旋得旋忘。動經年月不能讀誦。

          (Kinh: Dẫu gặp bậc minh sư dạy cho đọc thuộc, nhưng vừa học được lại quên mất ngay, trải bao năm tháng, chẳng thể đọc tụng).

 

          Kế tiếp, nói rơ căn độn. “Minh sư” là vị thầy có thể hiểu rơ trọn vẹn “tánh, tướng, hạnh, vị, nhân, quả”, kham làm khuôn phép cho mọi người. Vị này ngàn đời vạn kiếp khó gặp gỡ, nay may mắn gặp gỡ; nhưng dạy kẻ đó xem đọc kinh điển, bảo kẻ đó đọc thuộc, tụng thuộc. Hiềm rằng căn tánh ngu độn, vừa mới thuộc lại quên bẵng! Quanh năm suốt tháng, chẳng thể đối trước kinh bổn đọc cho suông sẻ, chẳng thể tụng thuộc ḷng được!

 

          (Kinh) Thị thiện nam tử đẳng, hữu túc nghiệp chướng, vị đắc tiêu trừ, cố ư Đại Thừa kinh điển, vô độc tụng tánh.

          ()是善男子等有宿業障未得消除。故於大乘經典無讀誦性。

          (Kinh: Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy do có nghiệp chướng xưa, chưa tiêu trừ được, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa, chẳng có khả năng đọc tụng).

 

          Tiếp đó, chỉ ra họ là phường độn căn. Do túc nghiệp chướng chưa tiêu, nên chẳng có khả năng đọc tụng kinh điển. “Căn độn” như đă giải thích trong phần trước. “Túc nghiệp chướng” có nhiều nhân duyên. Bởi lẽ, đọc tụng kinh điển là gieo liễu nhân. Do đời trước chẳng có thói quen đọc tụng, tức là chẳng gieo liễu nhân. Ngài Quy Sơn nói: “Đời này để luống qua, đời sau bế tắc” là nói về chuyện này. Hoặc do xưa kia chẳng thể thân cận Phật pháp, chẳng kính trọng sa-môn, Bà-la-môn, chướng ngại người khác thuyết pháp, chướng ngại kẻ khác học kinh, chướng ngại người khác đọc tụng, chướng ngại kẻ khác biên chép, cho đến đắm đuối, say sưa bét nhè, đánh mất chủng tử trí huệ. V́ thế, đời này dẫu gặp minh sư dạy dỗ, vẫn chẳng thể đọc tụng!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2. Thị tu nhân phát huệ (dạy tu cái nhân để phát sanh trí huệ)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.1. Tu nhân

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.1.1. Đối tượng trần tâm (đối trước tượng, giăi bày tấm ḷng)

 

          (Kinh) Như thị chi nhân, văn Địa Tạng Bồ Tát danh, kiến Địa Tạng Bồ Tát tượng, cụ dĩ bổn tâm, cung kính trần bạch.

          ()如是之人聞地藏菩薩名見地藏菩薩像具以本心恭敬陳白。

          (Kinh: Người như thế nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát, dốc trọn tấm ḷng, cung kính giăi bày).

 

          “Nghe danh hiệu, thấy tượng, giăi bày tấm ḷng”: Do danh hiệu Địa Tạng sanh từ trí huệ, c̣n tượng Đại Sĩ do công đức mà lập. V́ thế, xưng danh, thờ tượng, sẽ phát sanh huệ tánh. Nhưng cần phải cung kính th́ mới có thể cảm động. Do ḷng thành có thể cảm động muôn vật; chẳng chân thành, sẽ chẳng thể cảm động; huống hồ đối với Đại Sĩ ư?

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.1.2. Cầu huệ phương quỹ (phương cách, khuôn khổ để cầu trí huệ)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.1.2.1. Tu kính pháp (cách tu cung kính )

 

          (Kinh) Cánh dĩ hương, hoa, y phục, ẩm thực, nhất thiết ngoạn cụ, cúng dường Bồ Tát.

          ()更以香華衣服飲食一切玩具供養菩薩。

          (Kinh: Lại dùng hương, hoa, y phục, thức ăn, hết thảy các thứ trân ngoạn[32] cúng dường Bồ Tát).

 

          Cậy vào vật dụng để biểu thị ư; nhờ vào sự, ḥng hiển lộ cái tâm. Hương biểu thị trong sạch, ngấm ngầm thông thấu sâu xa. Hoa biểu thị viên măn, vui đẹp. Y phục biểu thị “thấy Tịch Nhẫn chẳng xả”. Thức ăn biểu thị huệ mạng thường c̣n. Các món trân ngoạn biểu thị du hư thần thông. V́ thế, nhờ vào những phương cách ấy ḥng biểu thị ḷng chí thành của ta.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.1.2.2. Phục thủy pháp (cách uống nước)

 

          (Kinh) Dĩ tịnh thủy nhất trản, kinh nhất nhật, nhất dạ, an Bồ Tát tiền, nhiên hậu, hiệp chưởng thỉnh phục, hồi thủ hướng Nam, lâm nhập khẩu thời, chí tâm trịnh trọng.

          ()以淨水一盞經一日一夜安菩薩前。然後合掌請服迴首向南。臨入口時至心鄭重。

          (Kinh: Dùng một chén nước sạch, đặt trước tượng Bồ Tát một ngày, một đêm; sau đấy, chắp tay thỉnh nước ấy để uống, quay đầu hướng về phía Nam, khi nước lọt vào miệng bèn chí tâm trịnh trọng).

 

          Dùng tịnh thủy là nhờ vào duyên để phát huệ. Do người trí thích nước, nước có tác dụng lưu thông, gột rửa nhơ uế, có công năng khiến cho mọi vật tươi nhuận. Nay cậy vào đó để gột sạch túc chướng, nhuần thấm sự ngu độn khô khan, tài bồi tánh năng đọc tụng, khiến cho huệ môn thông thoáng. V́ thế, kinh Thần Thủy dạy: “Thủy tại hà trung vi hà thủy, thủy tại tỉnh trung vi tỉnh thủy, thủy nhập Phật bát vi Phật thủy, nhập phúc trung vi chân thủy. Dĩ thanh trị trược, dĩ chánh trị tà, chúng tà đoạn tuyệt” (Nước ở trong sông là nước sông, nước ở nơi giếng là nước giếng. Nước vào trong bát của Phật là Phật thủy. Vào trong bụng là chân thủy. Dùng trong để trị đục, dùng chánh để trị tà, các thứ tà đoạn diệt). Do biết nước là chân thật, nên nay sử dụng. Một chén biểu thị nhất đạo thanh tịnh. Một ngày đêm biểu thị chế tâm nhất xứ. Ngày biểu thị trí sáng suốt, đêm biểu thị sự ngu ám. Đặt trước tượng Bồ Tát, cầu gia bị để đạt tiến bộ. Chắp tay thỉnh lấy nước ấy để uống, biểu thị nhất tâm kính cẩn vâng nhận. Quay đầu hướng về phía Nam biểu thị trái nghịch quẻ Khảm, hướng đến quẻ Ly. Sách Dật Nhă viết: “Trịnh, đ́nh dă. Kỳ địa đa b́nh, đ́nh đ́nh nhiên dă” ([sở dĩ gọi là nước] Trịnh, hàm nghĩa “bằng phẳng”, v́ đất đai nước ấy phần lớn ngang bằng, phẳng phiu), tức là biểu thị ngầm khế nhập b́nh đẳng, đó là đại trí huệ.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.1.2.3. Giới thận pháp (cách kiêng tránh, thận trọng)  

 

          (Kinh) Phục thủy kư tất, thận ngũ tân, tửu, nhục, tà dâm, vọng ngữ, cập chư sát hại, nhất thất nhật, hoặc tam thất nhật.

          ()服水既畢慎五辛酒肉邪淫妄語及諸殺害。一七日或三七日。

          (Kinh: Uống nước xong, hăy kiêng năm thứ cay nồng, ruợu, thịt, tà dâm, nói dối, và các thứ sát hại trong ṿng bảy ngày, hoặc hai mươi mốt ngày).

 

          Đây là dạy cách giúp mở mang huệ tánh; v́ thế, cần phải kiêng ngũ tân v.v… Trong kinh Lăng Già, Đại Huệ Bồ Tát hỏi: “Bỉ chư Bồ Tát đẳng, chí cầu Phật đạo giả, tửu, nhục cập dữ thông, ẩm thực vi vân hà?” (Các vị Bồ Tát ấy, chí tâm cầu Phật đạo, rượu, thịt, cùng với hành, ăn dùng sẽ ra sao?) Đức Phật đáp: “Nhất thiết nhục dữ thông, cập chư cửu, toán đẳng, chủng chủng phóng dật tửu, tu hành thường viễn ly” (hết thảy thịt và hành, cùng các thứ hẹ, tỏi… các thứ rượu buông lung, tu hành thường xa ĺa). “Ngũ Tân”[33]: Theo kinh Phạm Vơng, th́ là Đại Toán (大蒜, tỏi, sách Quảng Vận nói là Hồ Tuy (胡荽), tức ng̣ rí), Cách Thông (, một loại hành núi), Từ Thông (, hành thông thường), Lan Thông (, kiệu), và Hưng Cừ (興渠, c̣n gọi là Tức Tật (蒠蒺), tức cây A Ngụy). “Huân tân” (葷辛) có hai nghĩa (hôi thối và cay gắt). Hôi thối nhưng không cay là A Ngụy. Cay nhưng không hôi là hạt cải, gừng. Vừa hôi thối vừa cay gắt là NTân.

          Chữ Ma Thâu hoặc Tổ Rị trong tiếng Phạn đều dịch là Rượu, có cốc tửu (rượu chế từ ngũ cốc), quả tửu (rượu làm từ trái cây), dược tửu (rượu thuốc) khác nhau. Nếu đối với người thế tục, th́ rượu là thứ ắt phải dùng. Như Hán Thư chép: “Tửu giả, thiên chi mỹ lộc, sở dĩ di dưỡng thiên hạ, hưởng tự, kỳ phước, phù suy dưỡng tật” (Rượu là thứ lộc đẹp đẽ do trời ban, do nó có thể di dưỡng thiên hạ, hưởng dụng trong tế lễ để cầu phước, giúp kẻ yếu ớt dưỡng bệnh). Đối với pháp chúng (người tu hành theo Phật pháp), rượu là vật ắt phải kiêng, Như luận Đại Trang Nghiêm viết: “Đức Phật nói thân, miệng, ư, ác hạnh nơi ba nghiệp, chỉ có rượu là căn bản, lại đọa vào ác hạnh”. Kiêng thịt th́ như đă giải thích trong phần trước [về sát sanh].

          “Tà dâm”: Trong các ác nghiệp, chỉ có dâm nghiệp là nặng nhất. Tà niệm vừa manh nha, tà duyên sẽ tụ tập, các thứ thiện nguyện bởi đó mà tiêu sạch, các thứ mầm mống ác nghiệp từ đó mà dấy lên. V́ thế, tấm bảng sắt nơi điện Diêm La ắt coi dâm đứng đầu muôn điều ác. Trọn chẳng nghĩ sự vui thú dưới trăng, bên hoa hữu hạn, nào có biết giường sắt, trụ đồng, chịu khổ vô cùng! Nhưng phường phàm phu tục tử hiển nhiên lại noi theo đường sáng, [thế mà] bọn văn nhân học thức đọc sách nói chuyện đạo đức, lại cứ hay nói chuyện t́nh ái lả lơi, há có thể bấm tay tính đếm được ư? “Nói dối”“sát hại” như trong phần trước đă giải thích.

          “Bảy ngày”“hai mươi mốt ngày” là kỳ hạn kiêng tránh cần phải có để chuyển độn căn thành lợi căn, khử ngu thành trí. Bảy ngày chẳng phát, hai mươi mốt ngày chẳng được cảm ứng, chỉ v́ hồ nghi chẳng tin, và kẻ chẳng chí thành. Đấy là ư nghĩa lập kỳ hạn để cầu cảm ứng vậy!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.6.2.2. Phát huệ (phát sanh trí huệ)

 

          (Kinh) Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư thụy mộng trung, cụ kiến Địa Tạng Bồ Tát hiện vô biên thân, ư thị nhân xứ, thọ quán đảnh thủy.

          ()是善男子善女人於睡夢中具見地藏菩薩現無邊身於是人處授灌頂水。

          (Kinh: Người thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, trong khi ngủ mộng thấy rơ ràng Địa Tạng Bồ Tát hiện vô biên thân, ở chỗ người ấy dùng nước rưới lên đỉnh đầu).

 

          Tướng phát huệ chẳng dễ dàng xảy tới. Nếu không có ḷng tinh thành để cảm, sẽ do đâu mà ngầm ứng với căn cơ? Nói đến “thụy mộng” (trong khi ngủ mộng thấy) là v́ có khi ngủ mà chẳng mộng. Ngủ mà nằm mộng th́ như trong bài luận của ngài Ca Chiên Diên có nói: “Tâm chẳng ô nhiễm mà ngủ nằm mộng, tức là ngủ mà chẳng mê mệt. Tâm nhiễm ô ngủ nằm mộng, tức là ngủ mê mệt”. “Cụ kiến” (thấy trọn vẹn): Biểu thị thân thù thắng ứng với căn cơ viên măn. Nếu chẳng có thành tựu quán hạnh sâu, sao có thể thấy vô biên thân? Do vậy, đại sư (Trí Giả đại sư) nói: “Nhập quán như mộng, xuất quán như tỉnh giấc”. Ngài Tứ Minh phán định chuyện này thuộc địa vị Tương Tự, hoặc là tương tự như đă gần với cực quả. Nay dùng quán hạnh để thấy vô biên thân, tức là địa vị tương tự gần với chân quả, biểu thị tám tướng thành đạo của Sơ Trụ, phân thân trong trăm cơi v.v…

          “Thọ quán đảnh thủy” (dùng nước rưới đảnh) chính là địa vị tương tự gần với cực thánh (Phật quả). Dùng nước pháp để rưới lên đỉnh đầu, kế thừa ngôi vị của đấng Pháp Vương. Điều này tuy là do cái tâm mà cảm quả, từ sơ tâm ắt đạt đến rốt cùng, trong mộng được thọ kư, quyết chứng chẳng khó, cho nên là tương tự gần với địa vị cực quả. Chữ Tỳ Sái Ca (Abhişeka) trong tiếng Phạn, cơi này dịch là Quán Đảnh (灌頂): Dùng nước Ngũ Trí Như Lai để rưới lên đỉnh đầu người ấy, như Sát-đế-lợi vẩy nước lên đầu vương tử, [vương tử] ấy ắt nối ngôi đại bảo. Đây là nói về thụy tướng trong mộng vậy.

 

          (Kinh) Kỳ nhân mộng giác, tức hoạch thông minh, ưng thị kinh điển, nhất lịch nhĩ căn, tức đương vĩnh kư, cánh bất vong thất nhất cú, nhất kệ.

          ()其人夢覺即獲聰明。應是經典一歷耳根即當永記更不忘失一句一偈。

          (Kinh: Người ấy tỉnh mộng, liền được thông minh, đối với các kinh điển ấy, hễ một phen thoảng qua tai, sẽ liền nhớ măi, lại chẳng quên mất một câu, một kệ).

 

          Tiếp đó, nói về sự phát huệ. “Kỳ nhân” (người đó) là người nam hoặc kẻ nữ độn căn cầu huệ đă nói trên đây sau khi tỉnh mộng. Mộng là pháp vô minh, điên đảo. Quán là pháp giác trí ngộ lư, nơi mê có thể hiểu, v́ thế nói là “mộng giác”. Cần biết danh hiệu Phật như đại mộng giác (tỉnh giấc mộng lớn). Nay quán hạnh như Phật, nói theo ư nghĩa sẽ là “mộng giác”. Hoặc là phát khởi tự giải (sự hiểu biết tương tự), hoặc “nhập Phần Chân”, đều có ư nghĩa “mộng giác”.

          “Tức hoạch thông minh” (liền được thông minh): Chẳng giống như sự thông minh của người đời, chẳng hạn như Vương Sung qua chợ đọc sách, nhớ ngay nội dung[34], Dương Hùng vừa đọc liền thông suốt, mà là sau khi đă cảm Bồ Tát hiện thân, tỉnh giấc mộng, sẽ do cái tai thịt do cha mẹ sanh ra mà nghe thấu suốt các thứ âm thanh trong tam thiên đại thiên thế giới, từ ngay nơi con mắt thịt do cha mẹ sanh ra, mà thấy thấu suốt các thứ h́nh sắc trong tam thiên đại thiên thế giới. Do ḷng tin sâu đậm, quán thành tựu, cho nên phát sanh huệ thù thắng, thuộc ngay vào địa vị “sáu căn thanh tịnh”. Đại Luận viết: “Như kinh dạy hết thảy chúng sanh không có ai biết Phật tâm. Nếu đức Phật dùng thần lực khiến cho họ biết th́ thậm chí côn trùng cũng có thể biết”. Nay Địa Tạng Đại Sĩ dùng thần lực khiến cho người ấy biết, lẽ nào chẳng hiểu biết? Bởi thế, hết thảy kinh điển thoảng qua tai bèn nhớ măi, lại c̣n chẳng quên mất một câu, một kệ. Đấy chính là chuyển biến túc chướng “vừa mới thuộc bèn quên ngay”.

          Hỏi: Kinh do một đức Phật thuyết đă có tám vạn bốn ngàn quyển, làm sao có thể nhớ trọn hết chẳng quên mất được? Đáp: Bồ Tát ban cho sức Văn Tŕ Đà La Ni, cho nên có thể tiếp nhận. Do sức ức niệm đà-la-ni kiên cố cho nên chẳng quên. Đại Luận viết: “Mưa thuyết pháp của đức Phật phát xuất từ miệng Phật. Trừ hàng Bồ Tát hành Bát Nhă Ba La Mật ra, chẳng ai có thể tiếp nhận!” Nay đă có thể tiếp nhận, há chẳng phải là do sức Bát Nhă của Đại Sĩ ư?

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.7. Chuyển ác tướng toại cầu (chuyển tướng ác, mong cầu được toại nguyện)

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.7.1. Thuật kỳ trú dạ ác sự (thuật chuyện ác trong ngày đêm)     

 

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai thế, hữu chư nhân đẳng, y thực bất túc, cầu giả quai nguyện, hoặc đa bệnh tật, hoặc đa hung suy, gia trạch bất an, quyến thuộc phân tán, hoặc chư hoạnh sự, đa lai ngỗ thân, thụy mộng chi gian, đa hữu kinh bố.

          ()復次觀世音菩薩若未來世有諸人等衣食不足求者乖願。或多病疾或多凶衰。家宅不安眷屬分散。或諸橫事多來忤身。睡夢之間多有驚怖。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm Bồ Tát! Nếu trong đời vị lai có những kẻ áo cơm chẳng đủ, cầu mong chẳng được toại nguyện, hoặc lắm bệnh tật, hoặc nhiều chuyện hung hiểm, suy bại, nhà cửa chẳng yên, quyến thuộc chia ĺa, hoặc các sự ngang trái thường đến quấy nhiễu, trong khi ngủ nghỉ hay bị kinh sợ).

 

          “Y thực bất túc” (áo cơm chẳng đủ) là chuyện khổ sở nhất trong đời người. Như trưởng giả Đăng Chỉ ở thành Vương Xá (ông này lúc sanh ra ngón tay tỏa sáng như đèn, nên đặt tên như vậy. Do xưa kia dùng vàng thếp một ngón tay của tượng đất trong tháp mà được quả báo ấy), nhà giàu to như Tỳ Sa Môn. Về sau, do bị lũ giặc cướp bóc, tài vật khánh tận. Vợ con vứt bỏ, tôi tớ bỏ trốn. Người vốn thân thiết nhất, trở mặt như oán thù. Cực chẳng đă, phải đi khất thực, liền chuốc lấy sự khinh miệt. Do vậy, ông ta than thở: “Những kẻ bần cùng đến, đi, lui, tới, nói năng, cúi, ngửa, đều là lầm lỗi! Kẻ bần cùng như quỷ nhập tràng, như người mắc bệnh sẽ phải chết, khó thể chữa lành. Nghèo cũng như thế, lắm nỗi gian nan”. Nghèo lại c̣n có thể sanh ra đói rét, oán ghét, khật khùng, hẹp ḥi, ưu sầu, thê thảm, dằn vặt, bị chê trách, đổ tội. Các nỗi khổ như thế đều do bần cùng sanh ra. Than ôi! Lạ lùng thay! Nghèo có sức mạnh to lớn, có thể khiến cho người thân ĺa bỏ ta cực nhanh. V́ thế, Lục Cơ nói: “Người thân rơi rụng, ngày một hiếm hoi, bạn bè thưa thớt càng khó t́m”. Từ Văn Trường[35] nói: “Hết của, người nhà bỏ. Nhà nghèo, ít bạn chơi!” V́ thế, so sánh giữa khi giàu và lúc nghèo, có thể thấy được t́nh bạn. Do kiếp trước keo kiệt, tham lam, đến nỗi tạo thành họa hoạn trong đời này.

          “Hoạnh sự ngỗ thân” (chuyện ngang trái (tai vạ bất ngờ) quấy nhiễu cái thân): Ngỗ () là trái nghịch, chống đối ngang ngược, tức là “hoạnh lỵ kỳ ương” (bỗng dưng mắc phải ương họa) như kinh Pháp Hoa đă dạy. “Thụy mộng kinh bố” (ngủ nghê có nhiều nỗi sợ hăi): Như giấc mộng kỳ quái được nói trong Châu Lễ, như giấc mộng đáng sợ của Liệt Tử. Kinh Kim Quang Minh dạy: “Ác tinh tai dị, chúng tà cổ đạo, biến quái tương tục, ngọa kiến ác mộng, trú tắc ưu sầu” (sao xấu báo tai ương lạ lùng, các thứ cổ độc tà vạy, biến hiện quái lạ liên tiếp, đêm nằm thấy ác mộng, ngày th́ lo rầu). Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: “Ác mộng là điều ngấm ngầm, ẩn kín trong tâm linh, nghiệp hiện trong đó, mộng thấy những chuyện chẳng vừa ư”. V́ thế, có nhiều nỗi kinh hăi!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.7.2. Tu thiện tiêu diệt an lạc (do tu thiện mà tiêu diệt các điều xấu, được yên vui)

 

          (Kinh) Như thị nhân đẳng, văn Địa Tạng danh, kiến Địa Tạng h́nh, chí tâm cung kính, niệm măn vạn biến. Thị chư bất như ư sự, tiệm tiệm tiêu diệt, tức đắc an lạc, y thực phong dật, năi chí ư thụy mộng trung, tất giai an lạc.

          ()如是人等聞地藏名見地藏形至心恭敬念滿萬遍。是諸不如意事漸漸消滅即得安樂衣食豐溢。乃至於睡夢中悉皆安樂。

          (Kinh: Những người như thế nghe danh hiệu của ngài Địa Tạng, thấy h́nh tượng đức Địa Tạng, chí tâm cung kính, niệm trọn một vạn lần, các chuyện chẳng như ư ấy dần dần tiêu diệt, liền được an vui, áo cơm dư dật, cho đến trong khi ngủ nghê, đều được yên vui).

 

          Chí tâm cung kính, thấu triệt nguồn cội. Nghe danh mà chẳng bị danh mê hoặc, thấy tướng mà chẳng chấp tướng, ngầm khế hợp nền tảng chân thật th́ mới nói là “chí tâm”. Nếu dùng cái tâm như thế để niệm trọn một vạn lần, th́ muôn Hoặc (phiền năo) bị trừ khử toàn bộ, vạn đức hiển lộ trọn vẹn. V́ thế, phàm những chuyện chẳng như ư sẽ dần dần tiêu diệt, liền đạt được an ổn, vui sướng. Xưa kia áo cơm chẳng đủ, nay ngược lại dư dật, sung túc. Cho đến những nỗi kinh sợ trong giấc mộng [cũng đều chẳng c̣n], cũng đều được thân tâm an khang, vui sướng. Chuyển họa hại thành tốt lành như dùi vừa gơ xuống, trống liền kêu vang, đúng là chẳng thể nghĩ bàn!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.8. An thủy lục hiểm đạo (đi đường hiểm dù bộ hay thủy đều an toàn)

         

          Phàm mọi người ra vào, đi lại, chẳng thể nào không vướng phải nỗi gian nan, hiểm trở. Đường bộ th́ ngồi xe, cưỡi ngựa, đường thủy th́ ngồi thuyền, đáp bè, chẳng thoát khỏi các nạn cá, rồng, hổ, báo, há ngăn được nỗi lo vào chốn rừng sâu, bước trên băng mỏng? Nếu có thể xưng danh đức Địa Tạng, sẽ có thể tránh khỏi tai nạn bất ngờ hoặc ch́m đắm. Kinh văn chia thành hai phần.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.8.1. Thuật kinh lịch ác sự (thuật những chuyện ác phải trải qua)

 

          (Kinh) Phục thứ Quán Thế Âm Bồ Tát! Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc nhân trị sanh, hoặc nhân công tư, hoặc nhân sanh tử, hoặc nhân cấp sự, nhập sơn lâm trung, quá độ hà hải, năi cập đại thủy, hoặc kinh hiểm đạo.

          ()復次觀世音菩薩若未來世有善男子善女人或因治生或因公私或因生死或因急事。入山林中過渡河海乃及大水。或經險道。

          (Kinh: Lại này Quán Thế Âm Bồ Tát! Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc do kiếm sống, hoặc do chuyện công, việc tư, hoặc v́ sanh tử, hoặc v́ chuyện gấp mà vào rừng núi, vượt sông, vượt biển, và chỗ nước lớn, hoặc đi qua đường hiểm).

 

          Thoạt đầu nêu ra những người từng trải những chuyện này. Kế đó, nói về những cảnh phải trải qua. “Trị sanh”: Tuân Tử nói: “Thiểu nhi lư viết trị” (nói là Thiểu tức là nêu ra những chỗ trọng yếu, những điều ấy hợp lư, rành mạch th́ gọi là Trị). Kinh Dịch nói: “Đức to lớn của trời gọi là Sanh”. [Trị sanh] nghĩa là những chuyện cần phải lo liệu ḥng kiếm sống. “Công tư”: Hoặc làm cho các cơ quan công quyền, hay là tư doanh. “Công” là ngay thẳng. “Tư” () là tự bươn chải kiếm sống; nhưng xét ra đều giống như cầm thú đuổi theo sự ham muốn. Chữ Công () do Bát () và Khư (, tức chữ Tư () thời cổ) ghép lại, [hàm nghĩa] bỏ đi sự khác biệt, vạn vật trong trời đất mênh mông có cùng một Thể. “Khư” là tự lo toan. Cổ nhân thấy rơ điều kín nhiệm nơi tâm thuật, cho nên đă đặc biệt dùng h́nh dạng chẳng tṛn hay vuông với dụng ư chỉ dạy mọi người.

          H́nh tṛn (○) là thiên đạo, h́nh vuông là địa đạo. Nay [chữ Tư] tương phản, [ngụ ư]: Đấy chẳng phải là t́nh kiến chánh đáng, to lớn của trời đất, nó bắt nguồn từ chính bản thân ta. “Doanh” () là ta lo liệu sắp đặt. Trừ bỏ [những toan tính riêng tư] th́ phải do chính ḿnh trừ bỏ. [Vun bồi] ḷng nhân là do chính ḿnh [thực hiện], có phải là do ai khác ư? “Hoặc nhân sanh tử” (hoặc v́ sanh tử): Hoặc phải báo đáp chuyện sanh nở, tử vong, chẳng thể không dấn thân vào những chốn ấy! “Cấp sự” là chuyện nguy nan, cấp bách, hoặc bị quan phủ truy nă, hoặc bị đạo tặc cướp đoạt, hoặc do tai ương nước lửa bất ngờ xảy tới, hoặc bỗng dưng gặp phải kẻ oán. Phàm những chuyện thảng thốt cấp bách, hoặc hoạn nạn xảy đến bất ngờ đều là “cấp sự”. Ngay trong lúc ấy, bắt buộc phải lên núi cao, vào rừng rậm, ắt cần phải vượt sông sâu biển cả, hoặc vào đại dương mênh mông, hoặc do vâng theo việc công sai khiến, hoặc v́ cầu chuyện kinh doanh riêng tư, chẳng tránh khỏi đi qua những con đường hiểm nạn. Nếu luận theo tư doanh, th́ chính là làm kinh thương, buôn bán, vượt biển t́m những thứ quư giá. Như kinh Hiền Ngu nói: “Điền thực bách bội, thương cổ thiên bội, sĩ hoạn vạn bội, nhập hải cát hoàn đắc vô lượng bội” (Cày cấy, trồng trọt được lời trăm lần, buôn bán được lời ngàn lần, làm quan được lợi vạn lần. Vào biển mà thành công trở về th́ được lời gấp vô lượng lần). Do vậy bèn vào biển.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.1.8.2. Xưng danh lợi ích

 

          (Kinh) Thị nhân tiên đương niệm Địa Tạng Bồ Tát danh vạn biến, sở quá thổ địa, quỷ thần vệ hộ, hành, trụ, tọa, ngọa, vĩnh bảo an lạc, năi chí phùng ư hổ, lang, sư tử, nhất thiết độc hại, bất năng tổn chi.

          ()是人先當念地藏菩薩名萬遍所過土地鬼神衛護行住坐臥永保安樂。乃至逢於虎狼師子一切毒害不能損之。

          (Kinh: Người ấy trước hết hăy niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát một vạn lần th́ nơi các cuộc đất đi qua, quỷ thần bảo vệ, đi, đứng, ngồi, nằm, vĩnh viễn đảm bảo yên vui, thậm chí dẫu gặp cọp, sói, sư tử, hết thảy các loài độc hại, đều chẳng thể tổn hại).

 

          Đoạn này hiển thị lợi ích do xưng danh. “Thị nhân” (người ấy) chỉ chung chín pháp giới. Do Sơ Địa Bồ Tát c̣n chẳng tránh khỏi nạn cọp, sói, huống hồ những người thuộc các địa vị thấp hơn ư? Ắt phải niệm đủ một vạn lần là nêu ra con số tột cùng ḥng biểu thị ḷng chí thành. V́ thế, nơi những cuộc đất người ấy đi qua, sẽ tự được vô lượng đại quỷ, thiện thần ủng hộ, bảo vệ, trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, vĩnh viễn đảm bảo yên vui, không lo lắng ǵ. Gặp phải cọp, sói v.v… như kinh Thập Luân nói: “Nhược chư hữu t́nh, vị chư độc xà, độc trùng sở thích, hoặc bị chủng chủng độc dược sở trúng, cập chư hổ, lang, sư tử, hữu năng chí tâm xưng danh, nhất thiết giai đắc ly chư bố úy, bảo toàn thân mạng” (Nếu các hữu t́nh bị các thứ rắn độc, trùng độc cắn, hoặc bị trúng phải các thứ thuốc độc, và các loài cọp, sói, sư tử, mà có kẻ có thể chí tâm xưng danh, hết thảy đều được ĺa khỏi các sự kinh sợ, bảo toàn thân mạng). Đấy là do Địa Tạng Bồ Tát khéo nhập sức Đăng Cự Minh Định của chư Phật, khiến cho hết thảy các thứ tà vạy, cổ độc, các ác trùng, ác thú trong các cơi Phật thảy đều tiêu diệt. V́ thế gọi là “chuyện chẳng thể nghĩ bàn”.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.2. Tổng thuyết lợi ích vô tận (nói chung là lợi ích vô tận)

 

          (Kinh) Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Thị Địa Tạng Bồ Tát ư Diêm Phù Đề hữu đại nhân duyên. Nhược thuyết ư chư chúng sanh kiến văn lợi ích đẳng sự, bách thiên kiếp trung, thuyết bất năng tận”.

          ()佛告觀世音菩薩是地藏菩薩於閻浮提有大因緣。若說於諸眾生見聞利益等事百千劫中說不能盡。

          (Kinh: Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: - Vị Địa Tạng Bồ Tát này có nhân duyên lớn với Diêm Phù Đề. Nếu nói những chuyện lợi ích đối với các chúng sanh do thấy, nghe Ngài th́ trong trăm ngàn kiếp, vẫn chẳng thể nói hết được).

 

          Đoạn này tổng kết ư nghĩa ngài Địa Tạng đặc biệt thiên trọng Diêm Phù Đề. Kinh Thập Luân dạy: “Quy kính Địa Tạng giả, sở cầu giai măn túc, cụ túc thí công đức, bi mẫn chư chúng sanh. Giả sử bách kiếp trung, tán thuyết kỳ công đức, do thượng bất năng tận. Cố giai đương cúng dường” (Quy kính đức Địa Tạng, sở cầu đều thỏa măn, trọn đủ công đức thí, thương xót các chúng sanh. Giả sử trong trăm kiếp, khen nói công đức Ngài, vẫn chẳng thể trọn hết. V́ thế, nên cúng dường), [có ư nghĩa] hoàn toàn giống như đoạn kinh văn này. Do vậy, nói đại lược th́ có tám loại bất khả tư nghị sự!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.1.3. Kết khuyến Đại Sĩ lưu bố        

 

          (Kinh) Thị cố Quán Thế Âm! Nhữ dĩ thần lực lưu bố thị kinh, linh Sa Bà thế giới chúng sanh bách thiên vạn kiếp, vĩnh thọ an lạc.

          ()是故觀世音汝以神力流布是經。令娑婆世界眾生百千萬劫永受安樂。

          (Kinh: V́ thế, này Quán Thế Âm! Ông hăy dùng thần lực lưu thông, truyền bá kinh này, khiến cho chúng sanh nơi thế giới Sa Bà trong trăm ngàn vạn kiếp vĩnh viễn hưởng yên vui).

 

          Hai vị Đại Sĩ này đều cùng có đại nhân duyên với Nam châu, cho nên nhờ đức Quán Âm lưu thông. Có thể nói là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, cho nên chúng sanh trong sáu đường nơi Diêm Phù Đề lo ǵ tội chướng chẳng tiêu, công đức, phước lợi chẳng tràn trề? Tự nhiên trong trăm ngàn vạn kiếp, vĩnh viễn hưởng sự yên vui nơi tam thừa trong đường trời, người. Kinh Thập Luân có bài kệ: “Địa Tạng chân Đại Sĩ, thí chư chúng sanh lạc, cứu thoát tam hữu khổ, vũ vô lượng chủng vũ” (Địa Tạng chân Đại Sĩ, thí chúng sanh an lạc, cứu thoát khổ ba cơi, tuôn vô lượng loại mưa). Chân kinh vô thượng như thế, đúng là tṛng mắt của chúng sanh, là đèn sáng trong nhà tối, là kho báu cho kẻ nghèo cùng, là lương y cho kẻ bệnh tật. Há chẳng gấp lưu thông ư? Phần Trường Hàng đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2. Trùng Tụng

 

          V́ sao có phần kệ tụng? Luận Tỳ Bà Sa của ngài Long Thọ có đoạn văn [giải thích tác dụng của Kệ Tụng] như sau: “Một là thuận theo quốc độ. Thiên Trúc có cách nói rải hoa và xâu hoa. Như nơi đây, sau phần Tự bèn có bài minh. Hai là thuận theo sự ưa thích: Có kẻ thích nghe nói theo lối văn xuôi, có kẻ thích nghe chương cú (kệ tụng). Ba là thuận theo sự hiểu biết của chúng sanh, có kẻ do nói theo lối văn xuôi mà hiểu, hoặc có kẻ nhờ kệ tụng mà hiểu. Bốn là thuận theo căn tánh lợi căn hay độn căn. Kẻ lợi căn vừa nghe liền ngộ; phường độn căn phải nghe nói lần nữa mới ngộ”. Đấy là thuận theo bốn thứ lợi ích Tất Đàn, cho nên có phần Trùng Tụng. Phần này được chia thành ba tiểu đoạn:

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.1. Tổng thuyết thần lực nan tận (nói tổng quát thần lực khó thể trọn hết)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết kệ ngôn: - Ngô quán Địa Tạng oai thần lực, hằng hà sa kiếp thuyết nan tận. Kiến, văn, chiêm lễ nhất niệm gian, lợi ích nhân thiên vô lượng sự.

          ()爾時世尊而說偈言。吾觀地藏威神力恆河沙劫說難盡。見聞瞻禮一念間利益人天無量事。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng: - Ta quán Địa Tạng sức oai thần, hằng hà sa kiếp nói khó tận, thấy, nghe, chiêm lễ trong một niệm, vô lượng sự lợi ích trời, người).

 

          Mắt của Như Lai như một ngàn mặt trời, soi thấu suốt xưa nay, giống như nh́n vào một trái cây đặt trong ḷng bàn tay. V́ thế nói là “ngô quán” (ta thấy). Như đức Phật bảo Thiên Đế Thích rằng: “Thị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát hữu vô lượng vô số bất khả tư nghị thù thắng công đức chi sở trang nghiêm, nhất thiết thế gian Thanh Văn, Độc Giác sở bất năng trắc. Thử đại Bồ Tát như Như Ư Châu, vũ chúng tài bảo, tùy sở hy cầu, giai linh măn túc” (Vị Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát này có vô lượng vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn để trang nghiêm, hết thảy Thanh Văn và Độc Giác trong thế gian chẳng thể lường được. Vị đại Bồ Tát này như Như Ư Châu tuôn ra các thứ của cải, báu vật, tùy theo ḷng mong cầu mà đều khiến cho chúng sanh được thỏa măn). V́ thế, thấy, nghe, chiêm ngưỡng, lễ bái, tạm sanh một niệm, có vô lượng chuyện lợi ích trời, người. Do đó, dẫu nói trong hằng sa kiếp, cũng khó trọn hết sức oai thần của Ngài được.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2. Biệt tụng bất tư nghị sự (trùng tụng riêng từng chuyện chẳng thể nghĩ bàn)

 

          Phần Trường Hàng gồm tám chương, nay lược đi phần thứ hai và thứ năm, nên [Trùng Tụng] chỉ có sáu chương.         

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.1. Tụng chuyển suy tướng (trùng tụng về chuyển suy tướng)

         

          (Kinh) Nhược nam, nhược nữ, nhược long, thần, báo tận ưng đương đọa ác đạo, chí tâm quy y Đại Sĩ thân, thọ mạng chuyển tăng, trừ tội chướng.

          ()若男若女若龍神報盡應當墮惡道。至心歸依大士身壽命轉增除罪障。

          (Kinh: Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc rồng, thần. Báo hết đáng đọa vào đường ác. Chí tâm quy y tượng Đại Sĩ, thọ mạng tăng thêm, trừ tội chướng).

 

          Kinh Thích Đề Hoàn Nhân Vấn chép: “Thích Đề Hoàn Nhân cập Đao Lợi chư thiên, khiển nhạc thần Bàn Giá Dực vấn tấn Thế Tôn. Phật báo ngôn: “Sử nhữ Đế Thích cập Đao Lợi Thiên thọ mạng diên trường, khoái lạc vô hoạn. Sở dĩ nhiên giả? Chư thiên thế nhân, cập A-tu-luân chư chúng sanh đẳng, giai tham thọ mạng, an lạc vô hoạn” (Thích Đề Hoàn Nhân và chư thiên trời Đao Lợi sai nhạc thần Bàn Giá Dực đến thăm hỏi đức Thế Tôn. Đức Phật bảo: “Khiến cho Đế Thích của ông và chư thiên Đao Lợi thọ mạng tăng thêm, vui sướng, không họa hoạn. V́ lẽ nào vậy? Chư thiên, người đời, A-tu-luân (A Tu La), và các chúng sanh v.v… đều tham thọ mạng, an vui, không họa hoạn”). V́ thế nay cũng nói thọ mạng tăng thêm và trừ tội chướng.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.2. Tụng thị sanh giới (trùng tụng về chuyện dạy cho biết chỗ người đă mất sanh về)

 

          (Kinh) Thiếu thất phụ mẫu ân ái giả, vị tri hồn thần tại hà thú? Huynh, đệ, tỷ, muội, cập chư thân, sanh trưởng dĩ lai giai bất thức. Hoặc tố, hoặc họa Đại Sĩ thân, bi luyến chiêm lễ bất tạm xả. Tam thất nhật trung niệm kỳ danh. Bồ Tát đương hiện vô biên thể. Thị kỳ quyến thuộc sở sanh giới. Túng đọa ác thú tầm xuất ly. Nhược năng bất thoái thị sơ tâm, tức hoạch ma đảnh, thọ thánh kư. ()少失父母恩愛者未知魂神在何趣。兄弟姊妹及諸親生長以來皆不識。或塑或畫大士身悲戀瞻禮不暫捨。三七日中念其名菩薩當現無邊體。示其眷屬所生界縱墮惡趣尋出離。若能不退是初心即獲摩頂受聖記。

          (Kinh: Tuổi thơ đă mất mẹ cùng cha, chẳng biết hồn thần tại đường nào? Anh, chị, em ruột cùng quyến thuộc, đến nay khôn lớn đều chẳng biết. Hoặc tạc, hoặc vẽ h́nh Đại Sĩ. Xót, luyến, chiêm lễ, chẳng tạm rời. Hai mươi mốt ngày niệm danh hiệu. Bồ Tát sẽ hiện vô biên thân, dạy nơi quyến thuộc đă sanh về. Dẫu đọa đường ác liền thoát ĺa. Nếu chẳng lui sụt tâm thuở đầu, liền được xoa đầu, thọ thánh kư).

 

          Đoạn kinh văn này gồm ba tiểu đoạn: Hai hàng đầu, trùng tụng chuyện nghĩ nhớ. Ba hàng kế đó, trùng tụng chuyện bảo ban chỗ sẽ sanh về, ư nghĩa đều dễ hiểu. Tiểu đoạn thứ ba gồm hàng cuối cùng, trùng tụng chuyện đạt được quả báo trong hiện tại, được thọ kư. Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, có bốn loại thọ kư, tức là chưa phát tâm, vừa mới phát tâm, hiện tiền và vô sanh, đều được thọ kư. Ở đây là phát tâm kư (thọ kư cho hành nhân phát tâm). Đấy là nói theo Thế Đế. Nếu nói theo kinh Tịnh Danh: “Tùng như sanh đắc kư, tùng như diệt đắc kư, như vô sanh diệt, tắc tri vô kư” (Từ như sanh mà được thọ kư, từ như diệt mà được thọ kư. Nếu không có sanh diệt, th́ biết là vô kư). Kinh Tư Ích dạy: “Nguyện bất văn kư danh” (nguyện chẳng nghe danh tự thọ kư). Đại Phẩm Bát Nhă dạy: “Thọ kư thị hư luận” (thọ kư là hư luận). Đấy đều là nói theo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Nhưng những kinh khác thọ kư thiện, chẳng thọ kư ác, thọ kư nam, chẳng thọ kư nữ, c̣n kinh này đều thọ kư cả, giống như kinh Pháp Hoa khai hiển vậy.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.3. Tụng thành độ sanh (trùng tụng thành tựu chuyện độ sanh)  

 

          (Kinh) Dục tu Vô Thượng Bồ Đề giả, năi chí xuất ly tam giới khổ. Thị nhân kư phát đại bi tâm, tiên đương chiêm lễ Đại Sĩ tượng, nhất thiết chư nguyện tốc thành tựu. Vĩnh vô nghiệp chướng năng giá chỉ.

          ()欲修無上菩提者乃至出離三界苦。是人既發大悲心先當瞻禮大士像。一切諸願速成就永無業障能遮止。

          (Kinh: Ai muốn tu Vô Thượng Bồ Đề, cho đến thoát ĺa khổ tam giới. Người ấy đă phát tâm đại bi, trước nên chiêm lễ tượng Đại Sĩ, hết thảy các nguyện mau thành tựu. Nghiệp chướng vĩnh viễn chẳng ngăn trở).

 

          “Chư nguyện thành tựu” (các nguyện thành tựu) giống như trong phần trước [đă giải thích]. Nếu bị nghiệp chướng ngăn trở tức là các địa vị xuất Giả thuộc Biệt Giáo và Viên Giáo, giáo hóa chúng sanh, chẳng bị Trần Sa Hoặc và vô lậu nghiệp chướng ngại sự giáo hóa, chỉ dạy.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4. Tụng phát hiện trí (trùng tụng về chuyện phát hiện trí huệ)

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4.1. Tụng túc chướng căn độn (trùng tụng túc chướng độn căn)

 

          (Kinh) Hữu nhân phát tâm niệm kinh điển, dục độ quần mê siêu bỉ ngạn. Tuy lập thị nguyện bất tư nghị, toàn độc, toàn vong đa phế thất. Tư nhân hữu nghiệp chướng hoặc cố, ư Đại Thừa kinh bất năng kư.

          ()有人發心念經典欲度群迷超彼岸。雖立是願不思議旋讀旋忘多廢失。斯人有業障惑故於大乘經不能記。

          (Kinh: Có người phát tâm niệm kinh điển, muốn độ quần mê vượt bờ kia. Tuy lập nguyện ấy chẳng nghĩ bàn, vừa đọc liền quên, nhiều mất mát. Người ấy do có nghiệp chướng hoặc, chẳng thể ghi nhớ kinh Đại Thừa).

 

          Từ ngữ Đa La (Tāla) trong tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Ngạn (, bờ). Đại Luận viết: “Nếu nghe nhiều chữ, liền biết hết thảy các pháp bờ này hay bờ kia đều chẳng thể được, tức là đă đạt đến bờ kia Ba La Mật”. “Nghiệp, chướng, hoặc” chính là tam đạo. Căn tánh có lợi hay độn, hạnh có tinh tấn hay giải đăi. Nay đă phát tâm niệm kinh ḥng độ quần mê cùng lên bờ kia; người ấy cũng thuộc loại tinh tấn, cố nhiên chẳng phải là hạng giải đăi. Nhưng lập nguyện tuy hay khéo, nếu như căn tánh của người ấy thật sự chậm lụt, sẽ vừa học được liền quên ngay, lại c̣n nhiều lần bị bỏ lửng, quên mất. Đấy là do cái nhân tu tập chẳng sâu, túc nghiệp chướng nặng nề, thiếu công năng đa văn tụng tập. V́ thế, chẳng có trí nhớ mạnh mẽ được.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4.2. Tụng tu nhân phát huệ (trùng tụng về cái nhân tu tập để phát huệ)

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4.2.1. Tụng tu nhân (trùng tụng về tu nhân)

 

          (Kinh) Cúng dường Địa Tạng dĩ hương hoa, y phục, ẩm thực, chư ngoạn cụ.

          ()供養地藏以香華衣服飲食諸玩具。

          (Kinh: Cúng dường Địa Tạng bằng hương, hoa, y phục, thức ăn, các trân ngoạn).

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4.2.2. Tụng phục thủy (trùng tụng về chuyện uống nước)

         

          (Kinh) Dĩ tịnh thủy an Đại Sĩ tiền, nhất nhật nhất dạ cầu phục chi.

          ()以淨水安大士前一日一夜求服之。

          (Kinh: Đặt nước sạch trước tượng Đại Sĩ, cách một ngày đêm xin uống lấy).

 

          Ư nghĩa đều rơ ràng.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4.2.3. Tụng giới thận (trùng tụng về những thứ cần kiêng tránh)

 

          (Kinh) Phát ân trọng tâm, thận ngũ tân. Tửu, nhục, tà dâm, cập vọng ngữ. Tam thất nhật nội vật sát hại, chí tâm tư niệm Đại Sĩ danh.

          ()發殷重心慎五辛酒肉邪婬及妄語。三七日內勿殺害至心思念大士名。

          (Kinh: Phát tâm trân trọng, kiêng ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, và nói dối. Hai mươi mốt ngày đừng sát hại, chí tâm nghĩ nhớ Đại Sĩ danh).

         

          Hỏi: Ngũ Tân tuy hôi thối, nhưng chẳng tổn hại sanh mạng loài vật, v́ sao ăn vào có thể chướng ngại thánh đạo, liền đọa vào Vô Gián? Đáp: Chúng có tánh chất đặc biệt uế trược, có thể sanh ra nhiều lầm lỗi. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Thục thực phát dâm, sanh đạm tăng khuể. Thập phương thiên tiên hiềm xú viễn ly. Ngạ quỷ thỉ vẫn, thường dữ quỷ trụ. Phước đức nhật tiêu, trường vô lợi ích” (Ăn chín sẽ sanh khởi dâm, ăn sống tăng thêm nóng giận. Mười phương thiên tiên ghét hôi thối bèn tránh xa, ngạ quỷ liếm mép, thường ở chung với quỷ. Phước đức ngày một tiêu, trọn chẳng có lợi ích). V́ thế, kinh Tạp A Hàm dạy: “Thực ngũ tân nhân, xúc uế Tam Bảo, tử đọa Phẩn Thỉ địa ngục, xuất tác dă can, trư, cẩu. Nhược đắc nhân thân, kỳ thể tinh xú” (Kẻ ăn ngũ tân làm ô uế Tam Bảo, chết đọa vào địa ngục Phẩn Thỉ. Thoát ra, sẽ làm linh cẩu, lợn, chó. Nếu được làm thân người, thân thể hôi tanh). V́ thế, vị sa-môn ở Thiên Trúc là Giác Xưng bảo: “Ở nước ta, kẻ ăn thịt và ngũ tân bị đuổi ra khỏi thành”. Sách Tăng Kính Lục chép: “Ngài Đàm Du xứ Thiên Trúc đến lễ thạch lương tại Thiên Thai, gặp một vị thánh tăng bảo: - Khi mẹ ông hoài thai, đă đi qua vườn hành, thai khí bị phạm uế, không thể ở trong chùa được”. Tiên Truyện chép: “Lạc Tử Trường cả nhà uống rượu tiên đều thăng thiên, chỉ riêng có một đứa con rơi xuống đất. Thiên thần nói: - Gă này ăn tỏi, cho nên không đến [cơi tiên] được”. Do đó, Đạo Tạng có nói: “Tụng kinh Hoàng Đ́nh, kiêng ăn ngũ tân. Đạo sĩ thọ pháp, kỵ lấm bẩn bởi ngũ tân”. Nay các vị sư phần nhiều coi thường chuyện này, cho nên tôi phải chép ra tường tận.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.4.2.4. Tụng phát huệ (trùng tụng về chuyện phát huệ)

 

          (Kinh) Tức ư mộng trung kiến vô biên, giác lai tiện đắc lợi căn nhĩ. Ưng thị kinh giáo lịch nhĩ văn, thiên vạn sanh trung vĩnh bất vong. Dĩ thị Đại Sĩ bất tư nghị, năng sử tư nhân hoạch thử huệ.

          ()即於夢中見無邊覺來便得利根耳。應是經教歷耳聞千萬生中永不忘。以是大士不思議能使斯人獲此慧。

          (Kinh: Liền trong mộng thấy vô biên thân, tỉnh giấc liền được tai nhạy bén. Từ đấy, kinh giáo thoảng qua tai, ngàn vạn đời sau măi chẳng quên. Chính v́ Đại Sĩ chẳng nghĩ bàn, khiến cho người ấy đắc huệ này).

 

          Trước hết là phần Trùng Tụng, sau đó, kết lại lời dạy. Đấy là sức tổng tŕ sâu rộng của Đại Sĩ, có thể khiến cho kẻ độn căn trở thành lợi căn, kẻ ngu thành trí huệ. V́ thế gọi là “chẳng thể nghĩ bàn” (Đường Cao Tăng Truyện chép: Vào đời Tùy, ở chùa Cảnh Không tại Tương Châu, có Sầm xà-lê, họ Dương, người xứ Lâm Nguyên. Sư dựng gian nhà tụng kinh bên suối nơi núi Tán Cái ở phía Tây của chùa. Mỗi lần sư tụng kinh Kim Quang Minh, cảm tứ thiên vương đến nghe. Về sau, sư đọc kinh tạng, đều chẳng hề quên mất. Nay há chẳng đúng như vậy ư?)

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.5. Tụng chuyển ác tướng (trùng tụng về chuyện chuyển tướng ác)

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.5.1. Tụng trú dạ ác sự (trùng tụng về chuyện ác suốt ngày đêm)

 

          (Kinh) Bần cùng chúng sanh cập tật bệnh, gia trạch hung suy, quyến thuộc ly, thụy mộng chi trung tất bất an, cầu giả quai vi, vô xứng toại.

          ()貧窮眾生及疾病家宅凶衰眷屬離。睡夢之中悉不安求者乖違無稱遂。

          (Kinh: Chúng sanh bần cùng và bệnh tật, nhà cửa hung suy, quyến thuộc ĺa. Ngủ nghê luôn bị chẳng an lành. Cầu mong trái ư, chẳng thỏa ḷng).

         

          Ư nghĩa dễ hiểu.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.5.2. Tụng tu nhân an lạc (trùng tụng về chuyện tu cái nhân để đạt được an lạc)

 

          (Kinh) Chí tâm chiêm lễ Địa Tạng tượng, nhất thiết ác sự giai tiêu diệt, chí ư mộng trung tận đắc an, y thực phong nhiêu, thần quỷ hộ.

          ()至心瞻禮地藏像一切惡事皆消滅至於夢中盡得安衣食豐饒神鬼護。

          (Kinh: Chí tâm chiêm lễ tượng Địa Tạng, hết thảy chuyện ác đều tiêu diệt, thậm chí trong mộng đều được yên, cơm áo dư dật, thần quỷ hộ).

 

          “Y thực phong nhiêu” (áo cơm dư dật) là do quỷ thần làm chủ. Như sách thế gian viết: “Thiên B́nh Lại chủ tŕ sự sung túc, Lạp Phán Quan chủ tŕ sự tiết kiệm”. Do nay chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái thánh tượng Địa Tạng th́ áo cơm tăng nhiều, khiến cho người eo hẹp được dư dật, người thiếu khuyết được dồi dào.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.6. Tụng an thủy lục (trùng tụng chuyện đi đường bộ lẫn đường thủy đều an ổn)

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.6.1. Tụng kinh lịch ác sự (trùng tụng những chuyện ác phải trải qua)

         

          (Kinh) Dục nhập sơn lâm cập độ hải. Độc ác cầm thú, cập ác nhân. Ác thần, ác quỷ, tịnh ác phong, nhất thiết chư nạn, chư khổ năo.

          ()欲入山林及渡海毒惡禽獸及惡人惡神惡鬼並惡風一切諸難諸苦惱。

          (Kinh: Muốn vào núi, rừng, và vượt biển, cầm thú độc ác, và người ác. Ác thần, ác quỷ, cùng gió dữ, hết thảy các nạn, các khổ năo).

 

          Kinh Diệu Tư nói về rắn độc, có một nanh, hai nanh, ba nanh, và bốn nanh khác nhau. Gặp rắn một, hai nanh th́ nọc độc c̣n có thể trị được. Nếu ba nanh, chết nhiều, sống ít. Bốn nanh, chắc chắn chết, chẳng cứu được. “Ác nhân” là bọn trộm cướp, lục lâm, là lũ chặn đường cướp bóc. “Ác thần” tức hết thảy các vị thần ở núi non, sông ng̣i, rừng sâu, tùy tiện ra oai tác quái. “Ác quỷ” tức loài quỷ La Sát ăn thịt người. “Ác phong” là gió lốc, sóng thần như trong kinh Thỉnh Quán Âm đă nói. Theo kinh Nhân Vương Bát Nhă, có sáu loại gió: Đen, đỏ, xanh, trời, đất, và lửa. Biệt Hành Sớ giảng: “Gió được gọi là đen v́ rất đáng sợ”. Kinh Tăng Hộ chép: “Tật phong, mănh lăng, một nịch, phá hoại, ngạ quỷ sở đạm, hiểm chi thậm hỹ!” (Gió mạnh, sóng dữ, ch́m đắm, phá hoại, ngạ quỷ ăn nuốt, hiểm ác cùng cực). Những điều khác dễ hiểu!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.2.6.2. Tụng xưng danh lợi ích (trùng tụng lợi ích do xưng danh) 

 

          (Kinh) Đản đương chiêm lễ cập cúng dường, Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ tượng, như thị sơn, lâm, đại hải trung, ưng thị chư ác giai tiêu diệt.

          ()但當瞻禮及供養地藏菩薩大士像。如是山林大海中應是諸惡皆消滅。

          (Kinh: Chỉ nên chiêm lễ và cúng dường, tượng Địa Tạng Bồ Tát Đại Sĩ, như thế núi, rừng, và biển cả, các điều tai ác đều tiêu diệt).

 

          Kinh Bảo Vũ chép: “Vân hà Bồ Tát như sư tử hống? Thí như sư tử hao hống chi thời, ác thú, dă can các ư phương xứ kinh hăi tŕ tẩu, nhất thiết ác thú vô năng tổn hoại” (Bồ Tát như sư tử rống là như thế nào? Ví như lúc sư tử gầm rống, hết thảy ác thú, linh cẩu ở các nơi đều kinh hăi, rảo chạy, hết thảy ác thú chẳng thể tổn hoại) là nói về chuyện này. Ứng Nghiệm Truyện chép: “Hơn năm trăm người từ ngoại quốc đến nước Sư Tử, giong thuyền sang Phù Nam[36]. Bỗng gặp gió lốc, đọa vào nước quỷ, sắp bị ăn sạch. Mọi người trong thuyền hoảng sợ, niệm Quán Âm. Trong đó có một sa-môn Tiểu Thừa chẳng chịu xưng danh. Quỷ chụp lấy sa-môn ấy, ông ta run rẩy, bắt chước mọi người xưng niệm, cũng được thoát nạn”. Quán Âm đă ứng nghiệm như thế, ngài Địa Tạng cũng lợi ích như thế. V́ thế, xưng danh, chiêm ngưỡng, lễ bái, các điều ác tiêu diệt.

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.3. Kết tụng, phổ cáo lưu bố (kết lại lời trùng tụng, bảo khắp mọi người lưu thông, truyền bá)

3.3.1.2.2.2.2.4.2.3.1. Khuyến thính Địa Tạng thần lực (khuyên hăy nghe thần lực của Địa Tạng)

 

          (Kinh) Quán Âm chí tâm thính ngô thuyết. Địa Tạng vô tận bất tư nghị. Bách thiên vạn kiếp thuyết bất châu, quảng tuyên Đại Sĩ như thị lực.

          ()觀音至心聽吾說地藏無盡不思議。百千萬劫說不周廣宣大士如是力。

          (Kinh: Quán Âm chí tâm nghe ta nói. Địa Tạng vô tận chẳng nghĩ bàn. Trăm ngàn vạn kiếp nói chẳng trọn, rộng tuyên Đại Sĩ sức như thế).

 

          “Chí tâm” như đă giải thích trong phần trước. Do vậy, khuyên chí tâm lắng nghe là v́: Sự đă là vô tận chẳng thể nghĩ bàn, nếu chẳng ngầm khế hợp Tam Đế đến tột cùng, há có thể thấu triệt cùng tột để hiểu cùng tận tạng sâu mầu của Đại Sĩ ư? “Vô tận” tức là Tam Đế trong Viên Giáo. Nếu nói “Sắc tức Không”, chẳng phải là Sắc diệt Không, mà là vô tận thuộc về Không của Viên Giáo. Nếu nói “hết thảy các pháp nhân duyên quả báo vô tận”, cho đến “thảy đều có thể dung chứa hết thảy Phật pháp, cho nên gọi là vô tận”; đấy là vô tận thuộc về Giả của Viên Giáo. Nếu nói “pháp dù tận hay bất tận đều là tướng vô tận”, tướng vô tận chính là Không. Không chính là chẳng có tận và bất tận. V́ thế biết “chẳng phải là tận, chẳng phải là vô tận” chính là ư nghĩa của vô tận thật sự; đấy là vô tận thuộc về Trung trong Viên Giáo. Vô tận như thế há có thể nghĩ bàn ư? Do đó, trăm ngàn vạn kiếp, vi trần nói, cơi nước nói, hăm hở nói, vẫn chẳng thể nói trọn hết chuyện ấy. V́ vậy, ta nay trong đại hội trời, rồng, v́ họ rộng tuyên dương sức oai thần của ngài Địa Tạng như thế. Hai chữ “như thị” (như thế) cũng là nói về Tam Đế. Nếu không, làm sao có thể hiển lộ các thứ nhân duyên của Địa Tạng Bồ Tát, không ǵ chẳng phải chính là Không, Giả, Trung. V́ thế, chẳng đáng gọi là “sức chẳng thể nghĩ bàn như thế” ư?

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.3.2. Tổng tụng văn chiêm lợi lạc (trùng tụng chung về chuyện thấy nghe được lợi lạc)

 

          (Kinh) Địa Tạng danh tự nhân nhược văn, năi chí kiến tượng chiêm lễ giả, hương, hoa, y phục, ẩm thực phụng, cúng dường bách thiên thọ diệu lạc. Nhược năng dĩ thử hồi pháp giới, tất cánh thành Phật siêu sanh tử.

          ()地藏名字人若聞乃至見像瞻禮者。香華衣服飲食奉供養百千受妙樂。若能以此迴法界畢竟成佛超生死。

          (Kinh: Nếu ai được nghe danh Địa Tạng, cho đến thấy tượng bèn chiêm lễ, cúng hương, hoa, y phục, thức ăn, sẽ hưởng diệu lạc trăm ngàn kiếp. Công đức nếu hồi hướng pháp giới, rốt ráo thành Phật, thoát sanh tử).

 

          Bốn câu đầu nhằm tổng kết những chuyện như nghe danh hiệu, chiêm ngưỡng tượng v.v… ắt được hưởng trọn sự vui mầu nhiệm trong đường trời, người. Hai câu sau, kết lại “nếu đem [công đức của] những điều trên đây hồi hướng pháp giới, ắt sẽ siêu sanh tử thành Phật, do trọn đủ bốn lợi ích Tất Đàn”. V́ cớ ǵ vậy? Do danh hiệu Địa Tạng v.v… là v́ thế giới mà nói phân biệt, có thể khiến cho chúng sanh được lợi ích Hoan Hỷ. Nếu ai nấy đều v́ người khác mà nói danh tướng v.v… sẽ có thể khiến cho mọi người được lợi ích Sanh Trưởng Điều Thiện. Nếu năm tướng suy của chư thiên hiện ra, cho đến kẻ bôn ba nơi đường hiểm mà xưng danh, lễ tượng, sẽ chuyển tai họa thành cát tường, [tức là] có thể khiến cho mọi người đạt được lợi ích Phá Ác. Nếu dùng những chuyện trên đây để hồi hướng Đệ Nhất Nghĩa Đế, sẽ có thể khiến cho người khác được lợi ích Nhập Lư.

          Nhưng mỗi điều đều hồi hướng cho pháp giới, ấy là v́ Địa Tạng chỉ có danh tự. Tánh của danh tự là Không, chẳng trụ trong, ngoài, chặng giữa, nhưng hóa hiện h́nh bóng. Tánh của h́nh tượng cũng là ĺa, giống như h́nh tướng trong gương, hay hoa đốm trên hư không. Cúng dường những thứ như hương, hoa v.v… th́ Thể của chúng là nhân duyên, chẳng ĺa Trung Đạo Phật Tánh. Hưởng diệu lạc trong trăm ngàn kiếp, Thọ Ấm rỗng tuếch, rốt cuộc chẳng có người thọ, đều là do sức của hồi hướng pháp giới. V́ thế, sách Ma Ha Chỉ Quán nói: “Nếu suy lường một pháp, liền hiểu thấu pháp giới, thấu đạt tột cùng, rốt ráo theo chiều dọc lẫn chiều ngang, Lư Sự trọn đủ, thượng cầu, hạ hóa đều trọn đủ trong ấy, th́ mới gọi là phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề là Đạo, Đạo có thể thông đạt bờ kia theo chiều ngang lẫn chiều dọc, gọi là Phát Tâm Ba La Mật”. V́ thế, rốt ráo được thành tựu Pháp Thân Phật của Viên Giáo, vĩnh viễn vượt thoát Phần Đoạn và Biến Dịch Sanh Tử. Do đó, cần phải mỗi mỗi đều hồi hướng pháp giới!

 

3.3.1.2.2.2.2.4.2.3.3. Kết khuyến Quán Âm cáo bố (kết lại, khuyên Quán Âm bảo ban, lưu truyền)

 

          (Kinh) Thị cố, Quán Âm nhữ đương tri. Phổ cáo hằng sa chư quốc độ.

          ()是故觀音汝當知普告恆沙諸國土。

          (Kinh: V́ thế, Quán Âm hăy nên biết, bảo khắp hằng sa các quốc độ).

 

          “Thị cố” (v́ thế): Thừa tiếp ư nghĩa của tám sự việc được nói trên đây, ư nói: Vô tận chuyện chẳng thể nghĩ bàn như thế, nếu chẳng phải do chính bản thân ông, Quán Âm, th́ [người khác] làm sao có thể biết được? Sao có thể nói được? V́ thế, khuyên ông hăy nên bảo ban trọn khắp. Nói “phổ cáo” (bảo ban trọn khắp) tức là hăy nên lưu truyền khắp chín pháp giới. Nói “chư quốc” tức là há hạn cuộc trong cơi Đồng Cư ư? Do vậy biết: Pháp môn Địa Tạng bao trùm pháp giới, không ǵ ra ngoài, tột cùng chiều dọc, trọn khắp chiều ngang, đều cùng quy hướng.

Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú, phần 8 hết

         



[1] Vũ Cống (禹貢) là một thiên sách trong Thượng Thư, nói về địa lư, sản vật, và thuế khóa của cổ Trung Hoa. Thiên sách này thường được coi là do chính vua Đại Vũ biên soạn, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng thiên sách này được viết vào thời sau, sớm nhất là vào thời Chiến Quốc, không rơ ai là tác giả. Sách chia vùng Trung Nguyên (lưu vực giữa sông Hoàng Hà và Trường Giang) thành chín châu, ghi chép giản yếu về cương vực mỗi châu, các mạch núi, lưu vực các sông, đất đai, sản vật, thuế khóa, các dân tộc thiểu số, và các hiện tượng địa lư tự nhiên. Thiên sách này được coi là mẫu mực cho cách ghi chép về địa lư (hoặc thể loại phương chí) về sau này. Đàm Hoài là nay thuộc vùng Ôn Huyện tỉnh Hà Nam, tức là quận Hà Nội đời Tần, đời Đường đổi thành Hoài Châu. Để Tích là vùng đất thấp nhất của Đàm Hoài, tức là thôn B́nh Cao của Ôn Huyện hiện thời.

[2] Tán Chi (Pañcika), c̣n phiên âm là Tán Chi Ca, hay Tán Chi Tu Ma (có nghĩa là Mật Thần). Sau thời ngài Huyền Trang, tên vị này được phiên âm là Bán Chỉ Ca, hoặc Bán Chi Ca. Có thuyết nói vị này chính là con của Quỷ Tử Mẫu; nhưng theo kinh Ha Rị Đế Mẫu th́ Bán Chỉ Ca phải là chồng. Vị này là một trong tám vị đại tướng dưới quyền cai quản của Bắc Phương Tỳ Sa Môn thiên vương. Ngài quản lănh hai mươi tám bộ chúng quỷ thần tuần hành thế gian, thưởng thiện, phạt ác. Trong kinh Kim Quang Minh có riêng một phẩm, tức phẩm Tán Chi Quỷ Thần trần thuật lời phát nguyện của vị này.

[3] Quẻ Ly có gồm hai hào Dương (hai vạch liền) bên ngoài và một hào Âm (vạch đứt) ở giữa.

[4] Đây là cách giải thích trong Châu Dịch về quẻ Càn. Quẻ Càn có ba vạch, mỗi vạch được gọi là Cửu. Sách lại giải thích về ư nghĩa của vạch đầu tiên (sơ cửu) là “tiềm long vật dụng” (rồng ẩn chưa dùng được), và giải thích điều này giống như dương khí c̣n tiềm tàng, chưa thể hiện công năng to lớn của nó.

[5] Thoạt nh́n, cả một đoạn dài này nhằm giải thích chữ Long trong chữ Khám, dường như chẳng ăn nhập ǵ với đoạn kinh văn này. Theo ngu ư, pháp sư Linh Thừa dùng những lời lẽ để giải thích chữ Long nhằm nói lên ư nghĩa ẩn tàng trong Khám Thất. Cái khám thờ có đặt h́nh tượng của Bồ Tát bên trong, ví như “tiềm long” nhằm nhắc nhở chúng sanh ai nấy sẵn có Như Lai Tạng Tánh ẩn tàng trong vọng tâm, giống như rồng tiềm ẩn chưa phát khởi công năng bay lượn, tuôn mưa. Khi rồng hiện, khó thể thấy được toàn thân nó, nên nói là “hiện mà chẳng phải hiện, ẩn mà chẳng phải ẩn”. Cũng thế, Pháp Thân chẳng phải là Có, chẳng phải là Không, khởi tác dụng vô biên, nhưng chẳng thể chấp trước là Pháp Thân khởi tác dụng hay không.

[6] Thủy hỏa kư tế (水火既濟) là quẻ thứ sáu mươi ba trong sáu mươi tư quẻ Dịch, biểu thị Âm Dương điều ḥa, b́nh an, hài ḥa an lạc.

[7] Thương Dương (商羊) là một loại chim thần trong thần thoại Trung Hoa. Hễ nó xuất hiện, sẽ có mưa. Trước khi mưa to, nó sẽ nhảy múa trên một chân. Do đó, khi chim này xuất hiện, thường sẽ có lũ lụt. Hồi Lộc là thần lửa. Theo Đạo Giáo, Hồi Lộc (回祿) là tên gọi khác của thần lửa Chúc Dung (祝融). Có người nói Hồi Lộc thật ra là tên của Ngô Hồi và Lộc Chung ghép lại. Cả hai đều là thần lửa. Dân gian hay dùng chữ Hồi Lộc để chỉ hỏa tai. Chúc Dung hiệu là Xích Đế, cũng là thần mùa Hạ, vốn là vị thần phù tá của Thần Nông Thị, tên thật là Trọng Lê, là cháu nội của Chuyên Húc. Theo các nhà nghiên cứu, Chúc Dung vốn là tên một bộ lạc khéo sử dụng và duy tŕ lửa, cho nên có hẳn một chức quan trông coi về lửa, gọi là Chúc Dung.

[8] Lữ Thị Xuân Thu c̣n gọi là Lữ Lăm, là một bộ sách tập hợp những bài văn xuôi luận định về chính trị thời Xuân Thu Chiến Quốc, gồm hai mươi sáu quyển, chia thành một trăm sáu mươi thiên, do tể tướng Lữ Bất Vi và các môn hạ biên soạn. Sách hoàn tất vào năm thứ sáu đời Tân Vương Chánh (tức Tần Thủy Hoàng trước khi xưng đế, Tần Thủy Hoàng tên thật là Doanh Chánh).

[9] Đối sách (對策) là những bài viết của thí sinh nhằm trả lời những câu hỏi trong các trường thi thuở trước. Thường là vị chủ khảo sẽ lấy một câu trong kinh điển của Nho gia để ra đề thi, hoặc nêu một vấn đề, các thí sinh sẽ viết một bài văn tŕnh bày kiến giải và cách giải quyết vấn đề. Bài viết ấy được gọi là Đối Sách. Câu trích dẫn trên đây trích từ bài Hiền Lương Sách (đối sách về cách chọn lựa bậc hiền lương) của Đổng Trọng Thư.

[10] Ngũ Tinh là năm ngôi sao chính tương ứng với Ngũ Hành, tức Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, và Thổ Tinh, thường được biết đến dưới các danh xưng Thần Tinh, Thái Bạch, Huỳnh Hoặc, Tuế Tinh, và Trấn Tinh.

[11] Kim Cang Tế: Theo luận Câu Xá, thế giới được h́nh thành dựa trên ngũ luân, lớp dưới cùng là hư không luân, trên đó là phong luân, rồi đến thủy luân. Trên thủy luân là kim cang luân, tức kim cang tế, là nền tảng của đại địa.

[12] Đây là nói về thời cổ, khi triều đ́nh phát hành tiền giấy, do chất liệu kém, dễ bị giả mạo, lại in tùy tiện không có quư kim để bảo vệ giá trị, cho nên đồng tiền giấy nhiều khi hoàn toàn vô giá trị, gây khó khăn rất lớn cho cuộc sống của nhân dân.

[13] Tứ Y (Catvāri Pratisaranāni) là: Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, và y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.

[14] Đại Biện Thiên Thần chính là Biện Tài Thiên Nữ (Sarasvatī), c̣n gọi là Diệu Âm Thiên Nữ, hay Mỹ Âm Thiên. Vị thiên nữ này có công năng tăng trưởng trí huệ và phước đức, có biện tài lưu loát nhất. Bà được coi là một trong mười tám vị tôn thần chủ tŕ tài bảo trong Tạng Truyền Phật giáo, và là một trong bảy vị phước thần của Phật giáo Nhật Bản. Bà thường được tạc tượng có h́nh nữ Bồ Tát, tám tay, trong đó sáu tay cầm pháp khí lần lượt là hỏa luân, kiếm, cung, mũi tên, búa, dây thừng. Hai tay c̣n lại chắp trước ngực.

[15] Công Đức Tôn Thiên (Mahāśrī, Sridevi), c̣n gọi là Cát Tường Thiên Nữ, hoặc Bảo Tạng Thiên Nữ. Có thuyết nói bà là con gái của long vương Đức Xoa Ca (Takṣaka, Đa Thiệt, Thị Độc) và Quỷ Tử Mẫu, và là vợ của Tỳ Sa Môn thiên vương. Trong kinh Niết Bàn có nói Công Đức Thiên có một người em gái là Hắc Ám Thiên. Hai chị em luôn đi chung với nhau, chưa hề tách rời. Công Đức Thiên đem lại tốt lành, may mắn, tài sản, danh vọng cho mọi người, c̣n Hắc Ám Thiên đem lại suy hao, tai nạn, chết chóc, tiếng xấu... Do đó, người trí chẳng tham trước tài sản, vật chất thế gian, v́ biết những điều ấy luôn chứa đựng suy hao, tai nạn… Công Đức Tôn Thiên đặc biệt được tôn sùng trong Tạng Truyền Phật giáo và được coi là thần bảo hộ riêng của Đại Lai Lạt Ma.

[16] Hai mươi tám bộ quỷ thần tức là các vị quỷ thần trong bốn phương chính, phương trên và dưới (mỗi phương có bốn bộ) và bốn phương bàng (mỗi phương có một bộ), cộng thành hai mươi tám bộ. Có người cho rằng hai mươi tám vị quỷ thần đại tướng chính là hai mươi tám vị quỷ thần được nói trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại Đà La Ni khi Quán Thế Âm Bồ Tát nói kệ sắc truyền các vị quỷ thần đại tướng ủng hộ người thọ tŕ chú Đại Bi, tức là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, Ô Sô Quân Trà Uyên Câu Thi, Ma Hê Na La Diên, Kim Cang La Đà Ca Tỳ La…

[17] Ma Ni Bạt Đà (Maṇibhadra) là một trong tám vị đại tướng Dạ Xoa, dịch nghĩa là Bảo Hiền, hoặc Măn Hiền, là thuộc hạ của Tỳ Sa Môn thiên vương (Đa Văn thiên vương). Tám vị đại tướng Dạ Xoa là Bảo Hiền Dạ Xoa (tức Ma Ni Bạt Đà), Măn Nguyện Dạ Xoa (Bố Rô Na Bạt Đả La, Pūrnabhadra), Tán Chi Dạ Xoa (Bán Chỉ Ca, Pāñcika), Chúng Đức Dạ Xoa (Sa Đa Kỳ Lư, Śatagiri), Ứng Niệm Dạ Xoa (Hê Ma Phạ Đa, Himavanta), Đại Măn Dạ Xoa (Tỳ Sái Ca, Viśakha), Vô Tỷ Lực Dạ Xoa (A Trá Phạ Ca, Ātavaka), và Mật Nghiêm Dạ Xoa (Bán Giá La, Pañcala). Các vị này đều là hộ pháp thần.

[18] Văn Phú (文賦) là tác phẩm lư luận về văn nghệ của Lục Cơ (陸機) đời Tấn. Qua tác phẩm này, Lục Cơ chủ yếu đề xuất những cơ sở triết học và các biện pháp tu từ trong thi ca và các thể loại văn học thường dùng của Trung Hoa như phú, bi, minh, châm, tụng, luận, thuyết v.v… Tác phẩm này đă được dịch nhiều lần sang tiếng Anh với tựa đề Essay on Literature, Rhymeprose on Literature, The Art of Writing…

[19] Nguyên văn là “hô liễn” (瑚璉). Hô và Liễn vốn là hai thứ dụng cụ dùng trong tế lễ để chứa các loại ngũ cốc, chỉ có tông miếu của thiên tử và chư hầu mới được phép sử dụng. Chúng thường được trang trí, điêu khắc tinh xảo, hoa lệ. Cổ nhân dùng chữ Hô Liễn để chỉ nhân tài, hoặc những phương tiện siêu việt. Điển tích này phát xuất từ một đoạn vấn đáp giữa Khổng Tử và Tử Cống được chép trong thiên Công Dă Trưởng của sách Luận Ngữ: “Tử Cống vấn viết: Tứ dă hà như? Tử viết: Nhữ, khí dă. Viết: Hà khí dă? Viết: Hô liễn dă” (Tử Cống hỏi: “Thầy thấy Tứ là người như thế nào? (Tử Cống tên thật là Đoan Mộc Tứ). Khổng Tử đáp: “Ngươi là vật dụng”. Thưa: “Vật dụng ǵ ạ?” Đáp: “Hô liễn”). Các nhà chú giải giảng: Do hô liễn là vật dụng tôn quư, nên lời đánh giá của Khổng Tử cho thấy Ngài rất coi trọng Tử Cống, coi ông ta là người có tài năng to lớn đối với quốc gia.

[20] Tăng Vận có tên gọi đầy đủ là Tăng Tu Hỗ Chú Lễ Bộ Vận Lược, là tác phẩm chú giải, bổ sung cho tác phẩm Lễ Bộ Vận Lược của Mao Hoảng đời Tống. Sau đó, tác phẩm này lại được con ông là Mao Cư Chánh hiệu đính, tăng bổ lần nữa. Đây là một loại từ điển giải thích các chữ Hán, cách viết chánh xác, âm đọc và giải thích ư nghĩa.

[21] Tây Kinh Tạp Kư là tác phẩm ghi chép những câu chuyện được lưu truyền từ thời Tây Hán, tác giả không rơ là ai, có thuyết nói là Cát Hồng, hoặc Lưu Hâm. Tây Kinh chính là kinh đô Trường An. Trong tác phẩm này có những câu chuyện nổi tiếng như Chiêu Quân cống Hồ, cô gái góa Trác Văn Quân nghe khúc nhạc Phụng Cầu Hoàng do Tư Mă Tương Như gảy đàn bèn trốn theo anh ta v.v…

[22] Tam Trí: Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí. Nếu chỉ xét theo địa vị Bồ Tát th́ Tam Trí là thanh tịnh trí, nhất thiết trí, và vô ngại trí.

[23] Malakūta là một quốc gia cổ của Ấn Độ, nằm ở cực Nam bán đảo Ấn Độ, là lănh thổ của cổ vương triều Pāndya, thuộc địa bàn hai thành phố Madura và Tinnevelly hiện thời. Vương quốc này rộng hơn năm ngàn dặm, đất đai cằn cỗi, gập ghềnh, nhưng vùng biển này có rất nhiều báu vật. Tánh t́nh dân chúng cứng cỏi, mạnh bạo, tà chánh xen lẫn, thích trục lợi. Ngoại đạo rất đông, đa phần là tu sĩ khổ hạnh lơa thể. Nơi bờ biển phía Nam nước này có núi cao Mạt Lạt Da (Malaya) sanh ra các loại Bạch Đàn Hương và Chiên Đàn rất nổi tiếng.

[24] Bổ Đà Lạc Ca c̣n được phiên âm là Bố Đát Lạc Ca, Bổ Đà Lạc Già, Phổ Đà Lạc Ca, Phổ Đà Lạc Già, Bộ Đa La, Bố Đạt Lạp v.v… thường gọi là Phổ Đà Sơn, hoặc dịch nghĩa thành Quang Minh Sơn, Hải Đảo Sơn, Tiểu Hoa Thụ Sơn, Tiểu Bạch Hoa Thụ Sơn. Thông thường, các nhà nghiên cứu cho rằng Bổ Đà Lạc Ca nay chính là núi Bạc Bạc Nạp Tát Mẫu (Papanasam) thuộc huyện Tirunelveli, tiểu bang Tamil Nadu của Ấn Độ. Có thuyết nói núi Bổ Đà Lạc Ca phải thuộc đảo Sri Lanka (xét ra, thuyết sau hợp lư hơn v́ kinh thường nói Phổ Đà Sơn ở ngoài biển).

[25] Núi Già La Đế Da c̣n được phiên âm là Khư La Đế Da, Khư La Đà, Già La Đà, dịch nghĩa là Loa Lâm Sơn, chính là đạo tràng của đức Địa Tạng. Đức Phật đă nói kinh Địa Tạng Thập Luân tại nơi đây. Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa, núi này là một trong bảy ngọn kim sơn bao quanh núi Tu Di, cao bốn vạn do-tuần.

[26] Bốn con rắn chính là Tứ Đại. Kinh Đại Thừa thường tỷ dụ Tứ Đại (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) như bốn con rắn bỏ chung một rương. Khi chúng chẳng ḥa hợp (Tứ Đại bất điều), sẽ sanh ra các thứ bệnh tật.

[27] Toa thuốc Ngũ Thạch gọi tên đầy đủ là Ngũ Thạch Tán, hoặc Hàn Thực Tán, xuất hiện vào thời Ngụy - Tấn. Sau đời Đường th́ rất ít người dùng; v́ đây là một loại thuốc có chất độc, gây nên những biến động đáng kể về tâm lư và cảm xúc như hoang tưởng, căng thẳng, nhưng cho đến đời Thanh, qua sự ngoa truyền trong dân gian, nhiều người vẫn tưởng lầm đây là một loại thuốc tốt để chữa chứng bệnh trầm cảm, và thậm chí dùng như xuân dược. Người uống vào sẽ cảm thấy thân thể khô nóng, bức rức, bồn chồn, cần phải ăn đồ lạnh, tắm nước lạnh ngay trong mùa Đông mới cảm thấy dễ chịu (v́ thế gọi là Hàn Thực Tán). Ngoài ra, nó c̣n gây nên những phản ứng phụ như tiêu chảy, ăn mất ngon, tiểu gắt, ho, khó thở, lở loét da. Sở dĩ gọi là Ngũ Thạch v́ nó bao gồm năm thứ đá nghiền chung lại: Đá thạch nhũ, tử thạch anh (fluorite), bạch thạch anh (quartz), thạch lưu huỳnh (sulphur), và xích thạch chi (red bole clay, c̣n gọi là Armenian clay, là đất sét chứa oxide sắt và silicate nhôm).

[28] Một hộc là mười thạch, một thạch là mười đấu, một đấu là mười thưng (thăng).

[29] Dịch Lâm có tên gọi đầy đủ là Tiêu Thị Dịch Lâm do Tiêu Cám soạn dưới đời Tây Hán, là tác phẩm triển khai kinh Dịch, do phức hợp 64 quẻ của kinh Dịch mà thành 64x64=4.096 quẻ Dịch.

[30] Phạm Động Kinh chính là bản dịch khác của kinh Phạm Vơng (Brahmājala Sutra) trong Trường A Hàm.

[31] Do xét theo Lư, tất cả thế gian đều là mộng huyễn, huyễn cảnh. Người hành tŕ là mộng nhân (người trong mộng), chiêm lễ, xưng danh đều là hành vi trong mộng, tạc tượng Địa Tạng Bồ Tát th́ tượng ấy cũng là tượng trong mộng v́ là hữu h́nh, là sự tướng.

[32] “Ngoạn cụ” ở đây không thể hiểu là “các món đồ chơi” theo nghĩa thông thường, mà là các thứ trân ngoạn như các tảng đá, hoặc những khối gỗ, khối ngọc có h́nh thù lạ lùng, kỳ bí tự nhiên, hay các vật phẩm mỹ thuật được điêu khắc chế tác tinh xảo, trân kỳ, khiến cho người sở hữu sướng mắt, thỏa ḷng khi nh́n ngắm.

[33] Theo phần lớn các kinh Đại Thừa, Ngũ Tân (Pañca Parivyaya), c̣n gọi là Ngũ Huân, tức là năm thứ thực vật có mùi hôi nồng: Đại Toán (Laśuna, 大蒜, tỏi), Thông (Latārka, , hành), Giới (Palāṇḍu, , kiệu, c̣n gọi là Tiểu Toán), Cửu Thái (Gṛñjana, 韭菜, hẹ), và Hưng Cừ (Hiṅgu, 興渠). Hưng Cừ là một loại thực vật, c̣n có tên gọi khác là A Ngụy (hoặc c̣n phiên âm là A Ngu, Huân Cừ, Cáp Tích Ni, hoặc đọc trại thành A Ngùy), có tên khoa học là Ferula Assafoetida, mọc phổ biến tại Ấn Độ, Trung Á, Trung Đông. Loại rau này có mùi hăng c̣n hơn tỏi, gần như thành mùi hăng thum thủm (nên người Anh thường gọi nó là Devil’s dung), hoa mọc thành chùm, bé li ty màu vàng, h́nh như cái dù x̣e ra. Mỗi hoa có h́nh trứng, bên trong có hạt. Khi nấu lên th́ lại có vị hơi ngọt. Chất nhựa của loại rau này dùng làm vị thuốc gọi là A Ngụy, vị cay, có chất độc, dùng làm thuốc sát trùng, tan máu bầm, tiêu thực.

[34] Vương Sung tự là Trọng Nhậm, người xứ Thượng Ngu, huyện Cối Kê, là một văn gia nổi tiếng thời Đông Hán. Thuở bé, nhà nghèo không có tiền mua sách, ông ra chợ sách, đọc lướt qua quyển nào bèn nhớ như in nội dung cuốn sách ấy.

[35] Từ Văn Trường tức là Từ Vị (1521-1593), tên tự là Văn Trường, hiệu Thanh Đằng Lăo Nhân, là người huyện Sơn Âm, tỉnh Chiết Giang. Ông là một nhà văn học, thư họa, quân sự nổi tiếng đời Minh, được tôn xưng là Tam Đại Tài Tử đời Minh. Ông thông minh, văn chương trác tuyệt, nhưng suốt hai mươi mốt năm, thi Hương tám lần vẫn không đậu. Ông trở thành mạc liêu của Hồ Tông Hiến, chuyên làm mưu sĩ, có công giúp Hồ Tông Hiến dẹp tan giặc lùn (cướp biển Nhật Bản), nhưng rồi quan trường lận đận, suốt đời nghèo khổ. Ông là một nhân vật đặc biệt v́ nổi danh trên cả bốn lănh vực thư pháp, thơ ca, văn chương và hội họa.

[36] Phù Nam (Nokor Phnom, nghĩa là “thành đô trên núi”) là một quốc gia cổ ở Đông Nam Á, thuộc địa bàn của Nam Việt Nam, phía Nam Cao Miên. Thời cực thịnh, vương quốc này bao gồm cả phần lớn phía Nam Thái Lan. Quốc gia này tồn tại từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ sáu, kinh đô là Vyādhapura, tôn Bà La Môn giáo làm quốc giáo. Sử Trung Hoa chép Phù Nam có nền thương mại rất phồn thịnh và giao thương với các xứ Ấn Độ, do có nhiều sản vật quư như vàng, bạc, đồng, sắt, trầm hương, ngà voi, chim két năm màu, đậu khấu v.v… Di chỉ Óc Eo tại Việt Nam cho thấy Phù Nam đă giao thương với nhiều nước, v́ trong số các cổ vật, có cả tiền cổ của La Mă. Sử Trung Hoa chép nữ vương khai quốc tên là Liễu Diệp (Neang Nak Soma). Về sau, có một người tên là Hỗn Điền (Kaundinya Preah Thong) người xứ Kiểu Quốc đem binh thuyền tấn công. Liễu Diệp đem thủy quân nghênh chiến, Hỗn Điền dùng cung tên bắn xuyên qua thuyền của nữ vương. Nữ vương thua trận, phải lấy Hỗn Điền làm chồng. Hỗn Điền trở thành quốc vương thứ hai. Theo sử Trung Hoa, đến thế kỷ thứ sáu, quốc vương Chân Lạp (Chenla, vốn là một thuộc quốc của Phù Nam) là Ba Phạt Bạt Nam (Bhavavarman) dấy binh, đánh bại Phù Nam, biến Phù Nam thành thuộc quốc của Chân Lạp. Thái tử xứ Phù Nam phải lưu vong, chạy sang Java, lập ra vương triều Sơn Đế (Śailēndra). Tuy thế, các nhà nghiên cứu bác bỏ thuyết này, cho rằng vương triều Sơn Đế có cùng danh xưng với các vua Phù Nam chỉ là chuyện trùng hợp.