A Di Đà Phật Thánh Điển

阿彌陀佛聖典

Phần 5

Thích Ấn Quang đại sư giám định

Cư sĩ Phạm Cổ Nông giảo khám

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bổn in của Cao Hùng Tịnh Tông Học Hội năm 2011)

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

IX. Khuyến Tu Tịnh Nghiệp Chương

(勸修凈業章)

         

          Do những điều được nói trong các chương trước, có thể biết công đức của đức Phật và sự thù thắng của cơi ấy, [cũng như] sự tu hành đơn giản, trực tiếp, và lợi lạc do văng sanh, chúng ta há chẳng nên vui thích mong cầu, hướng đến như thế nào để mau chóng khởi sự tu hành ḥng t́m hiểu cái quả thù thắng này ư? Chương này chuyên tập hợp những lời lẽ khuyên tu Tịnh Độ trong các kinh luận, ḥng [độc giả sẽ thấy] chư Phật, Bồ Tát ngoài việc nói rộng răi ḥng khơi gợi, lại c̣n dặn ḍ để kết duyên. Có thể biết là tâm ư từ bi rộng sâu, chúng ta cũng nên cảm kích, dấy khởi [cái tâm tu tập] vậy!

 

* Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tu Từ Phần

(大方廣佛華嚴經修慈分)

         

          Vĩnh ly nhất thiết chư ác đạo khổ, tất sanh thanh tịnh Cực Lạc Phật quốc (CBETA, T10, no.306, p.961, a19-20).

          永離一切諸惡道苦。必生清凈極樂佛國。

          (Vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy nỗi khổ trong các đường ác, ắt sanh về cơi Phật Cực Lạc thanh tịnh).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Thọ kinh

(佛說無量壽經)

         

          Kỳ hữu chúng sanh, dục ư kim thế kiến Vô Lượng Thọ Phật, ưng phát vô thượng Bồ Đề chi tâm, tu hành công đức, nguyện sanh bỉ quốc.

          Phật cáo Di Lặc Bồ Tát, chư thiên nhân đẳng:

          - Vô Lượng Thọ quốc, Thanh Văn, Bồ Tát, công đức trí huệ bất khả xưng thuyết. Hựu kỳ quốc độ, vi diệu an lạc, thanh tịnh nhược thử. Hà bất lực vi thiện, niệm đạo chi tự nhiên, trước ư vô thượng hạ, đỗng đạt vô biên tế, nghi các cần tinh tấn, nỗ lực tự cầu chi, tất đắc siêu tuyệt khứ, văng sanh An Lạc quốc?

          Đương thục tư kế, viễn ly chúng ác, trạch kỳ thiện giả, cần nhi hành chi. Ái dục vinh hoa, bất khả thường bảo, giai đương biệt ly, vô khả lạc giả! Mạn Phật sở thế, đương cần tinh tấn. Kỳ hữu chí nguyện, sanh An Lạc quốc giả, khả đắc trí huệ minh đạt, công đức thù thắng, vật đắc tùy tâm sở dục, khuy phụ kinh giới, tại nhân hậu dă.

          Nhữ kim diệc khả tự yếm sanh, tử, lăo, bệnh thống khổ, ác lộ bất tịnh, vô khả lạc giả, nghi tự quyết đoạn, đoan thân chánh hạnh, ích tác chư thiện, tu kỷ khiết thể, tẩy trừ tâm cấu, ngôn hạnh trung tín, biểu lư tương ứng, nhân năng tự độ, chuyển tương chửng tế, tinh minh cầu nguyện, tích lũy thiện bổn. Tuy nhất thế cần khổ, tu du chi gian, hậu sanh Vô Lượng Thọ quốc, khoái lạc vô cực, trường dữ đạo đức hợp minh, vĩnh bạt sanh tử căn bản. Vô phục tham, khuể, ngu si khổ năo chi hoạn. Dục thọ nhất kiếp, bách kiếp, thiên ức vạn kiếp, tự tại tùy niệm, giai khả đắc chi. Vô vi tự nhiên, thứ ư Nê Hoàn chi đạo.

          Kỳ hữu đắc văn bỉ Phật danh hiệu, hoan hỷ, dũng dược, năi chí nhất niệm, đương tri thử nhân, vị đắc đại lợi, tắc thị cụ túc vô thượng công đức (CBETA, T12, no.360).

          其有眾生。欲於今世見無量壽佛。應發無上菩提之心。修行功德。願生彼國。

          佛告彌勒菩薩諸天人等。無量壽國。聲聞菩薩。功德智慧。不可稱說。又其國土。微妙安樂。清凈若此。何不力為善。念道之自然。着於無上下。洞達無邊際。宜各勤精進。努力自求之。必得超絕去。往生安樂國。當熟思計。遠離眾惡。擇其善者。勤而行之。愛欲榮華。不可常保。皆當別離。無可樂者。曼佛所世。當勤精進。其有至願。生安樂國者。可得智慧明達功德殊勝勿得隨心所欲。虧負經戒。在人後也。

          汝今亦可自厭生死。老病痛苦。惡露不凈。無可樂者。宜自決斷。端身正行。益作諸善。修己潔體。洗除心垢。言行忠信。表裡相應。人能自度。轉相拯濟。精明求願。積累善本。雖一世勤苦。須臾之間。後生無量壽國。快樂無極。長與道德合明。永拔生死根本。無復貪恚愚痴苦惱之患。欲壽一劫百劫千億萬劫。自在隨念。皆可得之。無為自然。次於泥洹之道。

          其有得聞彼佛名號。歡喜踴躍。乃至一念。當知此人。為得大利。則是具足無上功德。

          (Có những chúng sanh muốn trong đời này thấy Vô Lượng Thọ Phật, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành công đức, nguyện sanh cơi ấy.

          Đức Phật bảo Di Lặc Bồ Tát và các vị trời, người:

          - Trong cơi Vô Lượng Thọ, công đức và trí huệ của Thanh Văn, Bồ Tát, chẳng thể nói kể. Lại nữa, quốc độ ấy an lạc vi diệu, thanh tịnh dường ấy, sao chẳng gắng sức làm lành, nghĩ đến đạo pháp tự nhiên, hăy nên [nương vào chỗ] không trên không dưới, thông hiểu thấu suốt không ngằn mé, ai nấy hăy nên siêng năng tinh tấn, nỗ lực tự cầu, ắt sẽ được vượt thoát, văng sanh cơi An Lạc…

          Hăy nên suy nghĩ chín chắn, chọn lựa điều thiện để siêng năng thực hành. Ái dục, vinh hoa, chẳng thể giữ măi, [những thứ ấy] sẽ đều chia ĺa, chẳng đáng ưa thích! Gặp Phật tại thế, hăy nên siêng năng, tinh tấn. Những ai có chí nguyện sanh về cơi An Lạc, ḥng đạt được trí huệ sáng suốt, cao xa, công đức thù thắng, hăy đừng chiều theo ḷng ham muốn để rồi thiếu sót, phụ bạc kinh giới, thua kém kẻ khác!

          Các ngươi nay cũng nên tự chán các nỗi đau khổ do sanh tử, già bệnh, những điều ác bộc lộ, bất tịnh, chẳng đáng yêu mến. Hăy nên tự ḿnh dứt khoát đoạn trừ [những thứ ấy], thân ngay, hạnh chánh, làm nhiều điều lành hơn, tu tập sao cho thân thể của chính ḿnh tinh sạch, gột rửa những thứ dơ bẩn trong tâm, lời nói lẫn việc làm đều trung thực, đáng tin, trong và ngoài tương ứng, người đă có thể tự độ, sẽ có thể chuyển sang cứu vớt [kẻ khác], cầu nguyện tinh thuần, tích lũy gốc lành. Tuy siêng khổ một đời, [thật ra giống như] trong khoảnh khắc, sau đó sanh về cơi Vô Lượng Thọ, vui sướng không cùng cực, tương ứng với đạo đức dài lâu, vĩnh viễn nhổ trừ cội gốc sanh tử, chẳng c̣n lo bị khổ năo v́ tham, sân, ngu si. Muốn thọ một kiếp, trăm kiếp, ngàn ức muôn kiếp, đều tự tại đạt được theo ḷng mong. Tự nhiên vô vi, chỉ kém đạo Nê Hoàn (Niết Bàn).

          Kẻ nào được nghe danh hiệu đức Phật ấy, bèn hoan hỷ, hớn hở dẫu chỉ một niệm, hăy nên biết kẻ ấy đạt được điều lợi to lớn, liền trọn đủ công đức vô thượng).

 

* Đại Bảo Tích Kinh, Vô Lượng Thọ Như Lai Hội

(大寶積經無量壽如來會)

 

          A Nan! Nhược hữu chúng sanh ư tha Phật sát, phát Bồ Đề tâm, chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, cập hằng chủng thực chúng đa thiện căn, phát tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, thị nhân lâm mạng chung thời, Vô Lượng Thọ Phật dữ tỳ-kheo chúng, tiền hậu vi nhiễu, hiện kỳ nhân tiền, tức tùy Như Lai, văng sanh bỉ quốc, đắc Bất Thoái Chuyển, đương chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          Thị cố A Nan! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nguyện sanh Cực Lạc thế giới, dục kiến Vô Lượng Thọ Phật giả, ưng phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Phục đương chuyên niệm Cực Lạc quốc độ, tích tập thiện căn, ưng tŕ hồi hướng. Do thử kiến Phật, sanh bỉ quốc trung, đắc Bất Thoái Chuyển, năi chí Vô Thượng Bồ Đề (CBETA, T11, no.310, p.97, c26-p.98, a5).

          阿難。若有眾生。於他佛剎。發菩提心。專念無量壽佛。及恆種植眾多善根。發心迴向。願生彼國。是人臨命終時。無量壽佛。與比丘眾。前後圍繞。現其人前。即隨如來。往生彼國。得不退轉。當證無上正等菩提。是故阿難。若有善男子善女人。願生極樂世界。欲見無量壽佛者。應發無上菩提心。復當專念極樂國土。積集善根。應持迴向。由此見佛。生彼國中。得不退轉。乃至無上菩提。

          (Này A Nan! Nếu có chúng sanh ở các cơi Phật khác, phát Bồ Đề tâm, chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, và luôn gieo trồng nhiều thiện căn, phát tâm hồi hướng, nguyện sanh về cơi ấy. Người ấy khi mạng sắp hết, Vô Lượng Thọ Phật và các vị tỳ-kheo vây quanh trước sau, hiện ra trước người ấy. [Người ấy] liền theo Như Lai sanh về cơi ấy, đắc Bất Thoái Chuyển, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          Do vậy, A Nan! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, muốn thấy Vô Lượng Thọ Phật, hăy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề. Lại nên chuyên nghĩ tới cơi nước Cực Lạc, tích tập thiện căn, hăy nên đem những thiện căn ấy hồi hướng. Do vậy, sẽ được thấy Phật, sanh vào cơi ấy, đắc Bất Thoái Chuyển cho đến [chứng đắc] Vô Thượng Bồ Đề).

 

* Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh

(大乘無量壽莊嚴經)

 

          Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân đắc văn Vô Lượng Thọ Phật danh hiệu, phát nhất niệm tín tâm, quy y chiêm lễ. Đương tri thử nhân phi thị Tiểu Thừa, ư ngă pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử.

          Nhược hữu chúng sanh, ư thử chánh pháp, thọ tŕ, độc tụng, thư tả, cúng dường, bỉ nhân lâm chung, giả sử tam thiên đại thiên thế giới măn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ quốc độ. Đại Thánh pháp vương sở thuyết pháp, lợi ích nhất thiết chư quần sanh. Nhược hữu thọ tŕ, cung kính giả, Phật thuyết thử nhân chân thiện hữu (CBETA, T12, no. 363).

          若有善男子善女人。得聞無量壽佛名號。發一念信心。歸依瞻禮。當知此人。非是小乘。於我法中。得名第一弟子。

          若有眾生。於此正法。受持讀誦。書寫供養。彼人臨終。假使三千大千世界滿中大火。亦能超過生彼國土。大聖法王所說法。利益一切諸群生。若有受持恭敬者。佛說此人真善友。

          (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, dấy lên một niệm tin tưởng, quy y, chiêm lễ, hăy nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu Thừa, trong pháp của ta, [người ấy] được gọi là đệ tử bậc nhất.

          Nếu có chúng sanh đối với chánh pháp này mà thọ tŕ, đọc tụng, biên chép, cúng dường, người đó lâm chung, giả sử tam thiên đại thiên thế giới lửa mạnh đầy ắp, cũng có thể vượt qua, sanh vào cơi ấy. Những pháp do đấng Đại Thánh pháp vương đă nói, lợi ích hết thảy các quần sanh. Nếu có người thọ tŕ, cung kính, đức Phật nói người ấy là bậc thiện hữu thật sự).

 

* Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh

(佛說觀無量壽經)

 

          Nhược thiện nam tử cập thiện nữ nhân, đản văn Phật danh, nhị Bồ Tát danh, trừ vô lượng kiếp sanh tử chi tội, hà huống ức niệm? Nhược niệm Phật giả, đương tri thử nhân, tức thị nhân trung Phân Đà Lợi hoa, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát vi kỳ thắng hữu, đương tọa đạo tràng, sanh chư Phật gia (CBETA, T12, no.365, p.346, b10-14).

          若善男子及善女人。但聞佛名二菩薩名。除無量劫生死之罪。何況憶念。若念佛者。當知此人。即是人中芬陀利華。觀世音菩薩。大勢至菩薩。為其勝友。當坐道場。生諸佛家

          (Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhân, chỉ nghe danh hiệu Phật, danh hiệu của hai vị Bồ Tát, sẽ trừ tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống hồ nghĩ nhớ? Nếu là người niệm Phật, hăy nên biết người ấy chính là hoa Phân Đà Lợi (Puṇḍarika, hoa sen trắng) trong loài người, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là bạn thù thắng của người ấy. Người ấy sẽ ngồi đạo tràng (thành Phật), sanh trong nhà chư Phật).

 

* Phật Thuyết A Di Đà Kinh

(佛說阿彌陀經)

 

          Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí. Kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số chi sở năng tri, đản khả dĩ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp thuyết. Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ.

          Ngă kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sanh, văn thử thuyết giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ (CBETA, T12, no.366).

          極樂國土。眾生生者,皆是阿鞞跋致。其中多有一生補處,其數甚多。非是算數之所能知。但可以無量無邊阿僧祇劫說。舍利弗。眾生聞者。應當發願生彼國土。

          我見是利。故說此言。若有眾生。聞此說者應當發願生彼國土

          (Chúng sanh sanh về cơi nước Cực Lạc đều là bậc A Bệ Bạt Trí (Avaivartika, Bất Thoái Chuyển), trong số đó, có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ. Số ấy rất nhiều, chẳng thể tính toán mà ḥng biết được, chỉ có thể nói là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp.

          Ta thấy điều lợi này, cho nên nói lời này. Nếu có chúng sanh nghe lời này hăy nên phát nguyện sanh về cơi ấy).

 

* Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh

(稱讚凈土佛攝受經)

 

          Ngă quán như thị lợi ích an lạc đại sự nhân duyên, thuyết thành đế ngữ. Nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, đắc văn như thị Vô Lượng Thọ Phật bất khả tư nghị công đức danh hiệu, Cực Lạc thế giới tịnh Phật độ giả, nhất thiết giai ưng tín thọ phát nguyện, như thuyết tu hành, sanh bỉ Phật độ.

          Nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân, nhất thiết giai ưng ư Vô Lượng Thọ Cực Lạc thế giới thanh tịnh Phật độ, thâm tâm tín giải, phát nguyện văng sanh, vật hành phóng dật.      

          Ư thử tạp nhiễm Kham Nhẫn thế giới trung, ngũ trược ác thế, nhược hữu tịnh tín chư thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, văn thuyết như thị nhất thiết thế gian cực nan tín pháp, năng sanh tín giải, thọ tŕ, diễn thuyết, như giáo tu hành, đương tri thị nhân, thậm vi hy hữu, vô lượng Phật sở, tằng chủng thiện căn, thị nhân mạng chung, định sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ dụng chủng chủng, công đức trang nghiêm thanh tịnh Phật độ Đại Thừa pháp lạc, trú dạ lục thời, thân cận cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, du lịch thập phương cúng dường chư Phật. Ư chư Phật sở, văn pháp, thọ kư, phước huệ tư lương tật đắc viên măn, tốc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề (CBETA, T12, no.367).

          我觀如是利益安樂。大事因緣。說誠諦語。若有凈信諸善男子或善女人,得聞如是無量壽佛不可思議功德名號極樂世界凈佛土者。一切皆應信受發願。如說修行。生彼佛土。

          若有凈信諸善男子或善女人。一切皆應於無量壽極樂世界清凈佛土。深心信解。發願往生。勿行放逸。

          於此雜染堪忍世界中。五濁惡世。若有凈信諸善男子或善女人。聞說如是一切世間極難信法。能生信解受持演說。如教修行。當知是人。甚為希有。

          無量佛所。曾種善根。是人命終。定生西方極樂世界。受用種種。功德莊嚴清凈佛土大乘法樂。日夜六時。親近供養無量壽佛。遊歷十方供養諸佛。於諸佛所。聞法受記,福慧資糧。疾得圓滿。速證無上正等菩提。

          (Ta thấy đại sự nhân duyên lợi ích, an lạc như thế, nói lời thành thật: Nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân có ḷng tin trong sạch, được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn và thế giới Cực Lạc là cơi Phật thanh tịnh như thế, hết thảy đều nên tin nhận, phát nguyện, tu hành đúng như lời dạy, sanh về cơi Phật ấy.

          Nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ḷng tin trong sạch, hết thảy đều nên đối với cơi Phật thanh tịnh là thế giới Cực Lạc của Vô Lượng Thọ Phật, dốc ḷng tin hiểu sâu xa, phát nguyện văng sanh, chớ nên buông lung.       

          Trong thế giới tạp nhiễm Kham Nhẫn (Sa Bà) này, nhằm đời ác ngũ trược, nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ḷng tin trong sạch, nghe nói pháp hết thảy thế gian tột cùng khó tin như thế, mà có thể tin hiểu, thọ tŕ, diễn nói, tu hành đúng như lời dạy, hăy nên biết người ấy rất hiếm có. Ở chỗ vô lượng chư Phật, đă từng gieo thiện căn, người ấy mạng chung chắc chắn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ dụng các thứ pháp lạc Đại Thừa trong cơi Phật công đức trang nghiêm thanh tịnh, ngày đêm sáu thời thân cận cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, dạo chơi mười phương cúng dường chư Phật. Ở chỗ chư Phật, nghe pháp, được thọ kư, tư lương phước huệ mau chóng viên măn, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề).

 

* Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh

(月燈三昧經)

 

          Niệm Phật tướng hảo cập đức hạnh, năng sử chư căn bất loạn động, tâm vô mê hoặc dữ pháp hợp, đắc văn, đắc trí như đại hải.

          Thân khẩu cập ư giai thanh tịnh, tán thán chư Phật thường bất đoạn, thường tu như thị niệm Phật tướng, nhật dạ hằng kiến chư Như Lai. Nhược ngộ thùy tử tối trọng tật, thống năo bức bách cực vô liêu, Niệm Phật tam-muội thường bất xả, bất linh khổ thiết đoạt thử tâm. Tư do đắc thị tam-muội cố. Thị nhân lâm dục mạng chung thời, bi huệ hùng mănh Di Đà Phật. Thị Phật vị hiện trụ kỳ tiền. Dĩ tŕ như thị tam-muội cố, đắc kiến thập lực xứng sở cầu. Cập chư Thanh Văn trụ kỳ tiền, quyết định sanh bỉ An Lạc quốc. Nhữ đẳng vật hoài nghi. Bỉ Phật tự tại lực. Năng sanh tăng thượng tín. Tốc đắc sanh bỉ sát. Nữ nhân văn thán quốc. Năng sanh tăng thượng tín. Đắc vi nam tử thân. Năng văng ức Phật sát (CBETA, T15, no.639).

          念佛相好及德行。能使諸根不亂動。心無迷惑與法合。得聞得智如大海。

          身口及意皆清凈。讚歎諸佛常不斷。常修如是念佛相。日夜恆見諸如來。若遇垂死最重疾。痛惱逼迫極無聊。念佛三昧常不舍。不令苦切奪此心。斯由得是三昧故。是人臨欲命終時。悲慧雄猛彌陀佛。是佛為現住其前。以持如是三昧故。得見十力稱所求。及諸聲聞住其前。決定生彼安樂國。汝等勿懷疑。彼佛自在力。能生增上信。速得生彼剎。女人聞嘆國。能生增上信。得為男子身。能往億佛剎。

          (Niệm tướng hảo và đức hạnh của Phật, có thể khiến cho các căn chẳng loạn động, tâm chẳng mê hoặc, xứng hợp với pháp, đạt được sự nghe hiểu và đạt trí huệ như biển cả.

          Thân, miệng và ư đều thanh tịnh, thường tán thán chư Phật chẳng ngớt. Thường tu tướng niệm Phật như thế, ngày đêm luôn thấy các Như Lai. Nếu gặp phải căn bệnh rất nặng sắp chết, bị các sự khổ năo bức bách đến tột cùng, nhưng Niệm Phật tam-muội thường chẳng bỏ, chẳng để cho những sự khổ năo đoạt mất cái tâm. Do đă đạt được tam-muội ấy, người đó khi lâm chung, Phật Di Đà là đấng bi và huệ hùng mănh, sẽ hiện ra trước người ấy. Do tŕ tam-muội như vậy, sẽ thấy thập lực ứng hợp điều mong cầu. Phật cùng với chúng Thanh Văn đứng trước mặt, quyết định sanh về cơi An Lạc. Các ngươi đừng hoài nghi sức tự tại của đức Phật ấy, có thể sanh ḷng tin tăng thượng, sẽ mau chóng được sanh về cơi ấy. Nữ nhân nghe nói bèn ca ngợi nước ấy, có thể sanh ḷng tin tăng thượng, sẽ được làm thân nam tử, có thể đến ức cơi Phật).

 

* Bất Không Quyến Tác Thần Biến Chân Ngôn Kinh

(不空罥索神變真言經)

 

          Đại bi tâm quán A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát tụng tŕ chi giả, sở đắc phước uẩn, đồng đẳng tam thế nhất thiết Như Lai, giới giải thoát uẩn, diệc đẳng A Di Đà Phật, giải thoát Sắc Uẩn, diệc như Quán Thế Âm Bồ Tát (CBETA, T20, no.1092, p.318, a25-28).

          大悲心觀阿彌陀佛觀世音菩薩誦持之者。所得福蘊。同等三世一切如來。戒解脫蘊。亦等阿彌陀佛。解脫色蘊。亦如觀世音菩薩。

          (Kẻ tụng tŕ dùng đại bi tâm quán A Di Đà Phật và Quán Thế Âm Bồ Tát, đạt được phước uẩn ngang bằng hết thảy Như Lai trong ba đời, giới giải thoát uẩn cũng bằng với A Di Đà Phật, giải thoát Sắc Uẩn cũng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát).

 

* Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh

(千手千眼觀世音菩薩廣大圓滿無礙大悲心陀羅尼經)

         

          Thường tu cúng dường, chuyên xưng danh hiệu, đắc vô lượng phước, diệt vô lượng tội, mạng chung văng sanh A Di Đà Phật quốc (CBETA, T20, no.1060, p.110, a15-17).

          常須供養專稱名號,得無量福,滅無量罪,命終往生阿彌陀佛國。

          (Thường tu cúng dường, chuyên xưng danh hiệu, đạt được vô lượng phước, diệt vô lượng tội, mạng chung văng sanh cơi Phật A Di Đà).

 

* Đà La Ni Tập Kinh

(陀羅尼集經)

 

          Như thị ngă văn, nhất thời, Phật tại Bổ Đà Lạc Già sơn trung (thử vân hải đảo), dữ đại A La Hán chúng nhất thiên ngũ bách nhân câu. Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng ngũ thiên nhân câu, cập chư thiên, long, dạ-xoa, a-tố-la, ca-lỗ-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân phi nhân đẳng, tiền hậu vi nhiễu, lai nghệ Phật sở. Đáo Phật sở dĩ, ngũ thể đầu địa, đảnh lễ Phật túc, nhiễu Phật tam táp, khước tọa nhất diện. Nhĩ thời, Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật ngôn:

          - Thế Tôn! Nhược tứ bộ chúng, cập bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhất thiết chúng sanh tu hành thiện pháp, đắc sanh A Di Đà Phật quốc, tịnh kiến bỉ Phật, vân hà nhi đắc?

          Phật cáo Quán Thế Âm Bồ Tát ngôn:

          - Nhược tứ bộ chúng dục sanh bỉ quốc giả, ưng đương thọ tŕ A Di Đà Phật ấn, tịnh đà-la-ni, cập tác đàn pháp, cúng dường, lễ bái, phương đắc văng sanh bỉ Phật quốc độ. Nhược tứ bộ chúng, dĩ chúng hoa tán A Di Đà Phật, phát nguyện, tụng chú giả, đắc thập chủng công đức. Hà giả vi thập? Nhất giả tự phát thiện tâm. Nhị giả linh tha phát thiện tâm. Tam giả chư thiên hoan hỷ. Tứ giả tự thân đoan chánh, lục căn cụ túc, vô hữu tổn hoại. Ngũ giả sở sanh biến thành bảo địa. Lục giả sanh sanh thế thế sanh ư trung quốc, cập quư tánh trung sanh, trị Phật văn pháp, bất sanh biên địa, cập hạ tánh trung. Thất giả thành Chuyển Luân Vương, vương tứ thiên hạ. Bát giả sanh sanh thế thế thường đắc nam thân. Cửu giả đắc sanh A Di Đà Phật quốc, thất bảo hoa thượng, kết già phu tọa, thành A Tỳ Bạt Trí. Thập giả, thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tọa ư thất bảo sư tử ṭa thượng, phóng đại quang minh, dữ A Di Đà Phật đẳng vô hữu dị dă. Thị danh thập chủng tán hoa công đức.

          Nhược tứ bộ chúng tương tŕ thất bảo măn thế giới trung, bố thí thập phương nhất thiết chư Phật, bất như nhất tiền, nhất hoa, nhất hương hảo tâm bố thí A Di Đà Phật giả. Nhược tác thử công đức, nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, kim cang, chư thiên đẳng, giai tất hoan hỷ, tử sanh A Di Đà Phật quốc. Nhược nhân nhiên đăng cúng dường, sanh A Di Đà Phật quốc, tức đắc Thiên Nhăn, kiến ư nhất thiết thập phương thế giới chư Phật. Nhược nhân dĩ hương bố thí cúng dường, tử sanh A Di Đà Phật quốc, tức đắc hương thân. Thân thượng hương vân thường xuất. Nhược nhân ngũ thể đầu địa, cung kính lễ bái A Di Đà Phật giả, văng sanh bỉ quốc. Nhược nhân dĩ hương, hoa, y thực, thủy đàn đẳng, chủng chủng cúng dường, niệm bỉ Phật giả, văng sanh bỉ quốc, tức đắc hương, hoa, y thực. Nhược nhân bất dĩ hương, hoa, y thực đẳng cúng dường giả, tuy đắc sanh bỉ Tịnh Độ, nhi bất đắc hương, hoa, y thực đẳng chủng chủng cúng dường chi báo. Nhược Chuyển Luân Vương thập vạn tuế trung, măn tứ thiên hạ thất bảo bố thí thập phương chư Phật, bất như bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đẳng, nhất đàn chỉ khoảnh tọa Thiền, dĩ b́nh đẳng tâm, lân mẫn nhất thiết chúng sanh, niệm A Di Đà Phật công đức.

          Nhĩ thời, Phật cáo bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc-ca, ưu-bà-tư-ca, chư thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, đương phát tâm tụng A Di Đà kinh, niệm A Di Đà Phật, cập tụng tŕ ngă tam-muội đà-la-ni bí mật pháp tạng thần ấn chú giả, dục đắc thành tựu văng sanh bỉ quốc, cập cộng hộ niệm nhất thiết chúng sanh. Phục năng khổ hạnh chí tâm thọ tŕ, nhật nhật cúng dường, nhất tâm chuyên tại, mạc duyên dư cảnh.

          Pḥng nội sổ sổ thiêu hương, nhật nhật tụng A Súc Phật đà-la-ni, A Di Đà Phật đà-la-ni đẳng, diệt trừ thân trung Ngũ Nghịch, Tứ Trọng đẳng nhất thiết tội chướng. Nhược dục đắc sanh A Di Đà Phật quốc, nhật nhật tác thử cúng dường, tụng đà-la-ni pháp, thường tác thử pháp, nhất thiết pháp sự giai hữu chứng nghiệm, tử sanh A Di Đà Phật quốc. Nhược nhật nhật cúng dường, công đức đại hảo, bất khả cụ thuyết (CBETA, T18, no.901).

          如是我聞。一時。佛在補陀落伽山中。(此云海島)。與大阿羅漢眾一千五百人俱。觀世音菩薩、大勢至菩薩摩訶薩等五千人俱。及諸天、龍、夜叉、阿素羅、迦魯羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人等。前後圍繞。來詣佛所。到佛所已。五體投地。頂禮佛足。禮佛足已。繞佛三匝。卻坐一面。爾時觀世音菩薩白佛言。世尊。若四部眾及苾芻、苾芻尼、優婆塞、優婆夷、一切眾生。修行善法。得生阿彌陀佛國。並見彼佛。云何而得。佛告觀世音菩薩言。若四部眾欲生彼國者。應當受持阿彌陀佛印。並陀羅尼。及作壇法。供養禮拜。方得往生彼佛國土。若四部眾。以眾華散阿彌陀佛發願誦咒者。得十種功德。何者為十。一者自發善心。二者令他發善心。三者諸天歡喜。四者自身端正。六根具足無有損壞。五者所生變成寶地。六者生生世世生於中國。及貴姓中生。值佛聞法。不生邊地及下姓中。七者成轉輪王。王四天下。八者生生世世常得男身。九者得生阿彌陀佛國七寶華上。結跏趺坐。成阿毗跋致。十者成阿耨多羅三藐三菩提。坐於七寶師子座上。放大光明。與阿彌陀佛等無有異也。是名十種散華功德。若四部眾將持七寶滿世界中。布施十方一切諸佛。不如一錢一華一香好心布施阿彌陀佛者。若作此功德。一切諸佛菩薩金剛諸天等。皆悉歡喜。死生阿彌陀佛國。若人然燈供養。生阿彌陀佛國。即得天眼。見於一切十方世界諸佛。若人以香布施供養。死生阿彌陀佛國。即得香身。身上香雲常出。若人五體投地。恭敬禮拜阿彌陀佛者。往生彼國。若人以香華衣食水壇等。種種供養。念彼佛者。往生彼國。即得香華衣食。若人不以香華衣食等供養者。雖得生彼凈土。而不得香華衣食等種種供養之報。若轉輪王十萬歲中。滿四天下七寶布施十方諸佛。不如苾蒭、苾蒭尼、優婆塞、優婆夷等。一彈指頃坐禪。以平等心。憐愍一切眾生。念阿彌陀佛功德。

          爾時佛告苾蒭、苾蒭尼、優婆塞迦、優婆斯迦、諸善男子善女人等當發心誦阿彌陀經。念阿彌陀佛。及誦持我三昧陀羅尼秘密法藏神印咒者。欲得成就往生彼國。及共護念一切眾生。復能苦行至心受持。日日供養。一心專在。莫緣余境。房內數數燒香。日日誦阿閦佛陀羅尼。阿彌陀佛陀羅尼等。滅除身中五逆四重等一切罪障。若欲得生阿彌陀佛國。日日作此供養。誦陀羅尼法。常作此法。一切法事。皆有證驗。死生阿彌陀佛國。若日日供養。功德大好。不可具說。

          (Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Phật ở trong núi Bổ Đà Lạc Già (Potalaka, cơi này dịch [Bổ Đà Lạc Già] là Hải Đảo), cùng với các vị đại A La Hán một ngàn năm trăm người nhóm họp. Những vị Ma Ha Tát như Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát v.v… năm ngàn vị nhóm họp, và chư thiên, rồng, dạ-xoa, a-tố-la (a-tu-la), ca-lỗ-la (ca-lâu-la), khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân phi nhân v.v… trước sau vây quanh, đến chỗ đức Phật. Đă đến chỗ Phật rồi, năm vóc gieo xuống đất, đảnh lễ dưới chân Phật. Lễ dưới chân Phật xong, nhiễu quanh Phật ba ṿng, rồi ngồi sang một bên. Lúc bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát bạch đức Phật rằng:

          - Bạch Thế Tôn! Nếu bốn bộ chúng và bật-sô (tỳ-kheo), bật-sô-ni (tỳ-kheo-ni), ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hết thảy chúng sanh tu hành thiện pháp, được sanh về cơi A Di Đà Phật và thấy đức Phật ấy, như thế nào th́ sẽ đạt được [như vậy]?

          Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát rằng:

          - Nếu bốn bộ chúng muốn sanh về cơi ấy, hăy nên thọ tŕ ấn và đà-la-ni của A Di Đà Phật, và làm đàn pháp, cúng dường, lễ bái, th́ mới được sanh về cơi nước Phật ấy. Nếu bốn bộ chúng dùng các loại hoa để rải lên A Di Đà Phật, phát nguyện, tụng chú, sẽ được mười thứ công đức. Những ǵ là mười? Một là tự phát thiện tâm. Hai là khiến cho người khác phát thiện tâm. Ba là chư thiên hoan hỷ. Bốn là thân của chính ḿnh đoan chánh, sáu căn đầy đủ, chẳng bị tổn hoại. Năm là chỗ sanh ra biến thành cuộc đất báu. Sáu là đời đời kiếp kiếp sanh ở trung ương đất nước, và sanh trong ḍng họ cao quư, gặp Phật, nghe pháp, chẳng sanh nơi biên địa và sanh vào ḍng họ thấp kém. Bảy là thành Chuyển Luân Vương, làm vua tứ thiên hạ. Tám là đời đời kiếp kiếp thường được làm thân nam. Chín là được sanh về cơi A Di Đà Phật, ngồi xếp bằng trên hoa bảy báu, thành A Tỳ Bạt Trí (Bất Thoái Chuyển). Mười là thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngồi trên ṭa sư tử bảy báu, phóng đại quang minh, chẳng khác A Di Đà Phật. Đấy gọi là mười thứ công đức do rải hoa.

          Nếu bốn bộ chúng dùng bảy báu đầy ắp thế giới để bố thí mười phương hết thảy chư Phật, chẳng bằng dùng một đồng, một hoa, một hương với tấm ḷng tốt đẹp để bố thí A Di Đà Phật. Nếu làm công đức ấy, hết thảy chư Phật, Bồ Tát, kim cang, chư thiên v.v… thảy đều hoan hỷ, [người ấy] chết đi, sanh vào cơi A Di Đà Phật. Nếu có người thắp đèn cúng dường, sanh về cơi A Di Đà Phật, liền đắc Thiên Nhăn, trông thấy chư Phật trong hết thảy mười phương thế giới. Nếu có người dùng hương để bố thí, cúng dường, chết đi, sẽ sanh vào cơi A Di Đà Phật, liền được hương thân, [tức là] trên thân thường xuất hiện mây hương. Nếu có người năm vóc gieo xuống đất, cung kính lễ bái A Di Đà Phật, sanh về cơi ấy. Nếu có người dùng hương, hoa, y phục, thức ăn, thủy đàn v.v… các thứ cúng dường, niệm đức Phật ấy, sanh về cơi đó, liền được hương, hoa, y phục, ẩm thực. Nếu kẻ nào chẳng dùng hương, hoa, y phục, thức ăn v.v… để cúng dường, tuy được sanh về cơi Tịnh Độ ấy, nhưng chẳng được báo hương, hoa, y phục, thức ăn v.v… các thứ cúng dường. Nếu Chuyển Luân Vương trong mười vạn năm, dùng bảy báu đầy ắp tứ thiên hạ để bố thí mười phương chư Phật, chẳng bằng bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di v.v.. ngồi Thiền trong khoảng thời gian khảy ngón tay, dùng tâm b́nh đẳng, thương xót hết thảy chúng sanh để niệm công đức của A Di Đà Phật.

          Lúc bấy giờ, đức Phật bảo bật-sô, bật-sô-ni, ưu-bà-tắc-ca, ưu-bà-tư-ca:

          - Các thiện nam tử, thiện nữ nhân hăy nên phát tâm tụng kinh A Di Đà, niệm A Di Đà Phật, và tụng tŕ tam-muội đà-la-ni bí mật pháp tạng thần chú và ấn của ta, muốn được thành tựu văng sanh cơi ấy và cùng hộ niệm hết thảy chúng sanh. Lại có thể khổ hạnh, chí tâm thọ tŕ, hằng ngày cúng dường, nhất tâm chuyên chú, đừng duyên theo những cảnh khác.

          Trong nhà, nhiều lượt đốt hương, hằng ngày tụng đà-la-ni của A Súc Phật, đà-la-ni của A Di Đà Phật v.v… diệt trừ hết thảy tội chướng như Ngũ Nghịch, Tứ Trọng nơi thân. Nếu muốn được sanh về cơi A Di Đà Phật, hằng ngày làm pháp cúng dường và tụng đà-la-ni này, thường làm pháp này, hết thảy pháp sự sẽ đều có sự chứng nghiệm; chết đi, sanh vào cơi A Di Đà Phật. Nếu hằng ngày cúng dường, công đức sẽ hết sức tốt đẹp, chẳng thể nói trọn).

 

* Đông Phương Tối Thắng Đăng Vương Như Lai Trợ Hộ Tŕ Thế Gian Thần Chú Kinh

(東方最勝燈王如來助護持世間神咒經)

 

          Vô Lượng Thọ Phật thần bỉ đẳng hộ nhữ mạng, nguyện nhữ thọ bách thu (CBETA, T21, no.1354, p.871).

          無量壽佛神彼等護汝命。願汝壽百秋。

          (Vô Lượng Thọ Phật và các vị thần bảo vệ mạng của ông, nguyện cho ông sống lâu trăm tuổi).

 

* Phật Thuyết A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh

(佛說阿彌陀鼓音聲王陀羅尼經)

         

          Nhược năng thâm tín vô hồ nghi giả, tất đắc văng sanh A Di Đà quốc. Kỳ địa chân kim, thất bảo liên hoa, tự nhiên dũng xuất. Nhược hữu tứ chúng, thọ tŕ, độc tụng bỉ Phật danh hiệu, năi chí hữu vô hữu thủy, hỏa, độc dược, đao, trượng chi bố, diệc phục vô hữu dạ-xoa đẳng bố, trừ hữu quá khứ trọng tội nghiệp chướng, cực chí thập nhật, tất quả sở nguyện (CBETA, T12, no.370, p.353, a21-26).

          若能深信無狐疑者。必得往生阿彌陀國。其地真金。七寶蓮花。自然湧出。若有四眾。受持讀誦彼佛名號。乃至無有水火毒藥刀杖之怖。亦復無有夜叉等怖。除有過去重罪業障。極至十日。必果所願

          (Nếu có thể tin sâu, chẳng hồ nghi, ắt được văng sanh cơi A Di Đà. Đất nơi ấy bằng vàng ṛng, hoa sen bảy báu, tự nhiên trồi lên. Nếu có tứ chúng thọ tŕ, đọc tụng danh hiệu đức Phật ấy, cho đến chẳng có các nỗi sợ hăi nước, lửa, thuốc độc, đao, gậy, cũng chẳng có nỗi sợ dạ-xoa v.v… trừ khi có tội nặng và nghiệp chướng trong quá khứ, tối đa là đến mười ngày, ắt sẽ được thỏa nguyện).

 

* Bồ Tát Anh Lạc Kinh

(菩薩瓔珞經)

 

          Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Chúng Thủ Anh Lạc Bồ Tát viết: “Nhược hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, đàn chỉ chi khoảnh, cầu Bồ Tát đạo, bất kinh nhật dạ nhi thành Phật giả, thử thiện nam tử, thiện nữ nhân, chư căn cụ túc, vị tằng kinh lịch sanh tử chi nạn, hoặc tùng Vô Lượng Thọ Phật độ, nhất văn Như Lai thuyết bổn mạt Không, Vô Sanh Diệt đạo, tiện thành vô thượng chánh chân chi đạo” (CBETA, T16, no.656, p.107, c8-14).

          爾時世尊。告眾首瓔珞菩薩曰。若有菩薩摩訶薩。彈指之頃。求菩薩道。不經日夜而成佛者。此善男子善女人。諸根具足。未曾經歷生死之難。或從無量壽佛土。一聞如來說本末空無生滅道。便成無上正真之道。

          (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Chúng Thủ Anh Lạc Bồ Tát rằng: “Nếu có Bồ Tát Ma Ha Tát trong khoảng khảy ngón tay, cầu Bồ Tát đạo, chẳng trải qua một ngày một đêm mà đă thành Phật, th́ thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ấy các căn trọn đủ, chưa từng trải qua nạn sanh tử, hoặc là từ cơi Vô Lượng Thọ Phật, vừa nghe đức Như Lai nói đầu đuôi của đạo Không, Vô Sanh Diệt, bèn thành đạo vô thượng chánh chân”).

 

* Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Quỹ Nghi Kinh

(瑜伽集要救阿難陀羅尼焰口軌儀經)

 

          Chư Phật tử đẳng! Nhược văn A Di Đà Như Lai danh hiệu, năng linh nhữ đẳng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, liên hoa hóa sanh, nhập Bất Thoái địa (CBETA, T21, no.1318, p.471, a19-20).

          諸佛子等。若聞阿彌陀如來名號。能令汝等往生西方極樂世界。蓮花化生。入不退地。

          (Các vị Phật tử! Nếu nghe danh hiệu của A Di Đà Như Lai, sẽ có thể khiến cho các ông sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hóa sanh trong hoa sen, dự vào địa vị Bất Thoái).

 

* Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh

(佛說大乘莊嚴寶王經)

 

          Ư thử thế giới, nhược hữu nhân năng ức niệm Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát danh giả, thị nhân đương lai viễn ly sanh lăo bệnh tử vô thường chi khổ, do như nga vương tùy phong nhi khứ, tốc đắc văng sanh Cực Lạc thế giới, diện kiến Vô Lượng Thọ Như Lai thính văn diệu pháp. Như thị chi nhân vĩnh bất thọ luân hồi chi khổ, vô tham, sân, si, vô lăo, bệnh, tử, vô cơ cẩn khổ, bất thọ thai bào sanh thân chi khổ, thừa pháp oai lực, liên hoa hóa sanh, thường cư bỉ độ.

          Nhược nhân hằng niệm Đại Sĩ danh, đương đắc văng sanh Cực Lạc giới, diện kiến Như Lai Vô Lượng Thọ, thính văn diệu pháp chứng Vô Sanh (CBETA, T20, no.1050).

          於此世界。若有人能憶念觀自在菩薩摩訶薩名者。是人當來遠離生老病死無常之苦。猶如鵝王。隨風而去。速得往生極樂世界。面見無量壽如來。聽聞妙法。如是之人。永不受輪迴之苦。無貪瞋痴。無老病死。無饑饉苦。不受胎胞生身之苦。承法威力。蓮華化生。常居彼土。

          若人恆念大士名。當得往生極樂界。面見如來無量壽。聽聞妙法證無生。

          (Trong thế giới này, nếu có người nào có thể nghĩ nhớ danh hiệu của Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, người ấy trong tương lai sẽ xa ĺa nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử, ví như ngỗng chúa theo gió mà đi, mau chóng được văng sanh thế giới Cực Lạc, gặp gỡ Vô Lượng Thọ Như Lai, lắng nghe diệu pháp. Người như thế vĩnh viễn chẳng hứng chịu nỗi khổ luân hồi, chẳng có tham, sân, si, chẳng có già, bệnh, chết, chẳng có nỗi khổ đói kém, chẳng chịu nỗi khổ sanh ra từ bào thai, do nương vào oai lực của pháp mà hóa sanh trong hoa sen, thường sống trong cơi ấy.

          Nếu kẻ nào thường luôn niệm danh hiệu Đại Sĩ, sẽ được văng sanh thế giới Cực Lạc, gặp gỡ Vô Lượng Thọ Như Lai, lắng nghe diệu pháp, chứng Vô Sanh).

 

* Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi

(瑜伽集要焰口施食儀)

          Chư Phật tử đẳng! Nhược văn A Di Đà Như Lai danh hiệu, năng linh nhữ đẳng văng sanh Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ, liên hoa hóa sanh, nhập Bất Thoái địa (CBETA, T21, no.1320, p.478, c27-28).

          諸佛子等。若聞阿彌陀如來名號。能令汝等往生西方極樂凈土。蓮華化生。入不退地。

          (Này các Phật tử! Nếu nghe danh hiệu của A Di Đà Như Lai, sẽ có thể khiến cho các ngươi văng sanh Tây Phương Cực Lạc Tịnh Độ, hóa sanh trong hoa sen, dự vào địa vị Bất Thoái).

 

* Mục Liên Sở Vấn Kinh

(目連所問經)

 

          Phật cáo Mục Liên: - Thí như vạn xuyên trường lưu, hữu phù thảo mộc, tiền bất cố hậu, hậu bất cố tiền, đô hội đại hải. Thế gian diệc nhĩ, tuy hữu hào quư, phú lạc tự tại, tất bất đắc miễn sanh lăo bệnh tử. Chỉ do bất tín Phật kinh, hậu thế vi nhân, cánh thậm khốn kịch, bất năng đắc sanh thiên Phật quốc độ. Thị cố ngă thuyết: “Vô Lượng Thọ quốc, dị văng, dị thủ, nhi nhân bất năng tu hành văng sanh, phản sự cửu thập lục chủng tà đạo!” Ngă thuyết thị nhân danh “vô nhăn nhân”, danh “vô nhĩ nhân” (CBETA, T47, no.1958, p14, a20-27).

          佛告目連。譬如萬川長流。有浮草木。前不顧后。后不顧前。都會大海。世間亦爾。雖有豪貴。富樂自在。悉不得免生老病死。只由不信佛經。後世為人。更甚困劇。不能得生千佛國土。是故我說。無量壽國。易往易取。而人不能修行往生返事九十六種邪道。我說是人。名無眼人。名無耳人。

          (Đức Phật bảo ngài Mục Liên: - Ví như muôn ḍng sông dài, có cỏ cây trôi nổi, cái trước chẳng đoái hoài cái sau, cái sau chẳng màng đến cái trước, đều gặp gỡ trong biển cả. Thế gian cũng giống như vậy, tuy có kẻ quyền thế, sang cả, giàu vui tự tại, đều chẳng tránh khỏi sanh, già, bệnh, chết. Chỉ v́ chẳng tin kinh Phật, đời sau làm người, càng khốn khổ dữ dội hơn, chẳng thể sanh vào ngàn cơi Phật. V́ thế, ta nói: “Nước Vô Lượng Thọ dễ về, dễ đạt được, nhưng con người chẳng thể tu hành ḥng văng sanh, ngược ngạo phụng sự chín mươi sáu loại tà đạo”. Ta nói kẻ ấy là “kẻ không có mắt”, là “kẻ không có tai”).

 

* Đại Trí Độ Luận quyển thất

(大智度論卷七)

 

          Vấn viết: - Như Bồ Tát tam-muội, chủng chủng vô lượng, hà dĩ cố tán thị Bồ Tát Niệm Phật tam-muội, thường hiện tại tiền?

          Đáp viết: - Thị Bồ Tát niệm Phật cố, nhập Phật đạo trung. Dĩ thị cố Niệm Phật tam-muội thường hiện tại tiền. Phục thứ, Niệm Phật tam-muội năng trừ chủng chủng phiền năo, cập tiên thế tội. Dư chư tam-muội, hữu năng trừ dâm, bất năng trừ sân. Hữu năng trừ sân, bất năng trừ dâm. Hữu năng trừ si, bất năng trừ dâm, khuể. Hữu năng trừ tam độc, bất năng trừ tiên thế tội. Thị Niệm Phật tam-muội năng trừ chủng chủng phiền năo, chủng chủng tội. Phục thứ, Niệm Phật tam-muội hữu đại phước đức, năng độ chúng sanh. Thị chư Bồ Tát dục độ chúng sanh, chư dư tam-muội, vô như thử Niệm Phật tam-muội phước đức, năng tốc diệt chư tội giả.

          Phục thứ thường niệm Phật đắc chủng chủng công đức lợi ích. Thí như đại thần đặc mông ân sủng, thường niệm kỳ chủ, Bồ Tát diệc như thị, tri chủng chủng công đức, vô lượng trí huệ, giai tùng Phật đắc. Tri ân trọng cố, thường niệm Phật (CBETA, T25, no.1509).

          問曰。如菩薩三昧。種種無量。何以故贊是菩薩念佛三昧。常現在前。答曰。是菩薩念佛故。入佛道中。以是故念佛三昧常現在前。復次。念佛三昧。能除種種煩惱及先世罪。余諸三昧。有能除淫。不能除瞋,有能除。不能除淫,有能除痴。不能除淫恚,有能除三毒。不能除先世罪。是念佛三昧。能除種種煩惱種種罪。復次。念佛三昧。有大福德。能度眾生。是諸菩薩欲度眾生。諸餘三昧。無如此念佛三昧福德。能速滅諸罪者。

          復次常念佛得種種功德利益。譬如大臣特蒙恩寵。常念其主。菩薩亦如是。知種種功德無量智慧。皆從佛得。知恩重故常念佛。

          (Hỏi: - Như tam-muội của Bồ Tát chủng loại vô lượng, v́ sao tán thán môn Niệm Phật tam-muội này thường hiện hữu trước mặt?

          Đáp: - Do vị Bồ Tát ấy niệm Phật sẽ nhập Phật đạo. Bởi lẽ này, Niệm Phật tam-muội thường hiện tiền. Hơn nữa, Niệm Phật tam-muội có thể trừ các loại phiền năo và tội trong đời trước. Các loại tam-muội khác, có môn có thể trừ dâm, chẳng thể trừ sân. Có môn có thể trừ sân, chẳng thể trừ dâm. Có môn có thể trừ si, chẳng thể trừ dâm và sân. Có môn có thể trừ tam độc, chẳng thể trừ tội trong đời trước. Môn Niệm Phật tam-muội này có thể trừ các loại phiền năo và các thứ tội. Lại nữa, Niệm Phật tam-muội có đại phước đức, có thể độ chúng sanh. Đối với các vị Bồ Tát muốn độ chúng sanh, các môn tam-muội khác phước đức đều chẳng bằng môn Niệm Phật tam-muội này có thể mau chóng trừ diệt các tội.

          Lại nữa, thường niệm Phật sẽ đạt được các thứ công đức, lợi ích. Ví như một đại thần được vua đặc biệt ân sủng, sẽ thường nghĩ tới vua. Bồ Tát cũng giống như vậy, biết các thứ công đức và vô lượng trí huệ đều đạt được từ Phật. V́ biết ân sâu nặng nên thường niệm Phật).

 

* Đại Trí Độ Luận quyển cửu

(大智度論卷九)

 

          Phục nhất quốc hữu nhất tỳ-kheo, tụng A Di Đà kinh, cập Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật. Thị nhân dục tử thời, ngữ đệ tử ngôn: “A Di Đà Phật dữ bỉ đại chúng câu lai”. Tức thời, động thân tự quy. Tu du mạng chung chi hậu, đệ tử tích tân thiêu chi. Minh nhật hôi trung kiến thiệt bất thiêu, tụng A Di Đà kinh cố (CBETA, T25, no.1509, p.127, a9-13).

          復一國有一比丘。誦阿彌陀經。及摩訶般若波羅蜜,是人慾死時。語弟子言。阿彌陀佛。與彼大眾俱來。即時動身自歸。須臾命終之後。弟子積薪燒之。明日灰中見舌不燒。誦阿彌陀經故。

          (Lại trong một nước, có một vị tỳ-kheo tụng kinh A Di Đà và Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật. Người ấy sắp chết, bảo các đệ tử: “A Di Đà Phật và đại chúng của Ngài đều cùng đến”. Ngay lập tức, Sư động thân, trở về [Cực Lạc]. Trong chốc lát, sau khi Sư mạng chung, đệ tử chất củi đem thiêu. Hôm sau, thấy trong tro cái lưỡi chẳng cháy, v́ Sư tụng kinh A Di Đà vậy).

 

* Đại Trí Độ Luận quyển tam thập tứ

(大智度論卷三十四)

 

          Hựu như A Di Đà Phật thế giới trung chư Bồ Tát, thân xuất thường quang, chiếu thập vạn do-tuần. Vấn viết: “Bồ Tát thân quang như thị, bổn dĩ hà nghiệp nhân duyên đắc?” Đáp viết: “Thường tu Niệm Phật tam-muội, niệm chư Phật quang minh thần đức cố, đắc thân quang minh” (CBETA, T25, no.1509).

          又如阿彌陀佛世界中諸菩薩。身出常光。照十萬由旬。問曰。菩薩身光如是。本以何業因緣得。答曰。常修念佛三昧。念諸佛光明神德故。得身光明。

          (Lại như các vị Bồ Tát trong thế giới của A Di Đà Phật, thân phóng thường quang, chiếu xa mười vạn do-tuần. Hỏi: “Thân quang của Bồ Tát như thế, vốn là do nghiệp và nhân duyên nào mà được?” Đáp: “Thường tu Niệm Phật tam-muội, do niệm quang minh và đức hạnh thần diệu của chư Phật mà được quang minh nơi thân”).

 

* Đại Thừa Khởi Tín Luận - Đường Vu Điền Tam Tạng Thật Xoa Nan Đà dịch

(大乘起信論 - 唐于闐三藏實叉難陀譯)

 

          Phục thứ, sơ học Bồ Tát, trụ thử Sa Bà thế giới, hoặc trị hàn, nhiệt, phong, vũ bất thời, cơ cẩn đẳng khổ, hoặc kiến bất thiện khả úy chúng sanh, tam độc sở triền, tà kiến điên đảo, khí bối thiện đạo, tập hành yếu pháp Bồ Tát, trung tâm sanh khiếp nhược, khủng bất khả trị ngộ chư Phật, Bồ Tát, khủng bất năng thành tựu thanh tịnh tín tâm, sanh nghi, dục thoái giả, ưng tác thị niệm: “Thập phương sở hữu chư Phật, Bồ Tát, giai đắc đại thần thông, vô hữu chướng ngại, năng dĩ chủng chủng thiện xảo phương tiện, cứu bạt nhất thiết hiểm ách chúng sanh”. Tác thị niệm dĩ, phát đại thệ nguyện, nhất tâm chuyên niệm Phật cập Bồ Tát. Dĩ sanh như thị quyết định tâm cố, ư thử mạng chung, tất đắc văng sanh dư Phật sát trung, kiến Phật, Bồ Tát, tín tâm thành tựu, vĩnh ly ác thú. Như kinh trung thuyết: “Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, dĩ chư thiện căn, hồi hướng nguyện sanh, quyết định đắc sanh, thường kiến bỉ Phật, tín tâm tăng trưởng, vĩnh bất thoái chuyển. Ư bỉ văn pháp, quán Phật Pháp Thân, tiệm thứ tu hành, đắc nhập chánh vị” (CBETA, T32, no.1667, p.591, b17-c1).

          復次初學菩薩。住此娑婆世界。或值寒熱風雨不時饑饉等苦。或見不善可畏眾生。三毒所纏。邪見顛倒。棄背善道。習行要法菩薩。中心生怯弱。恐不可值遇諸佛菩薩。恐不能成就清凈信心。生疑欲退者。應作是念。十方所有諸佛菩薩。皆得大神通。無有障礙。能以種種善巧方便。救拔一切險厄眾生。作是念已。發大誓願。一心專念佛及菩薩。以生如是決定心故。於此命終必得往生余佛剎中。見佛菩薩。信心成就。永離惡趣。如經中說。若善男子善女人。專念西方極樂世界阿彌陀佛。以諸善根。迴向願生。決定得生。常見彼佛。信心增長。永不退轉。於彼聞法。觀佛法身。漸次修行。得入正位。

          (Lại nữa, hàng sơ học Bồ Tát ở trong thế giới Sa Bà này, nếu gặp những nỗi khổ như nóng, lạnh, gió mưa trái thời, đói kém v.v…, hoặc thấy chúng sanh bất thiện, đáng sợ, bị tam độc trói buộc, tà kiến điên đảo, vứt bỏ, trái nghịch thiện đạo, vị Bồ Tát đang tu tập pháp trọng yếu, trong tâm sanh ḷng khiếp hăi, sợ chẳng thể gặp gỡ chư Phật, Bồ Tát, sợ chẳng thể thành tựu tín tâm thanh tịnh, sanh ḷng nghi, muốn lùi bước, hăy nên nghĩ như thế này: “Tất cả chư Phật, Bồ Tát trong mười phương đều đắc đại thần thông, chẳng có chướng ngại, có thể dùng các thứ phương tiện thiện xảo để cứu vớt hết thảy chúng sanh trong chốn hiểm ách”. Nghĩ như vậy rồi, phát thệ nguyện lớn, nhất tâm chuyên niệm Phật và Bồ Tát. Do sanh cái tâm quyết định như thế, ở trong cơi này mạng chung, ắt được sanh về cơi Phật khác, thấy Phật, Bồ Tát, tín tâm thành tựu, vĩnh viễn rời khỏi đường ác. Như trong kinh đă nói: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, đem các thiện căn đều hồi hướng nguyện sanh, chắc chắn sẽ được văng sanh, thường thấy đức Phật ấy, tín tâm tăng trưởng, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển. Ở nơi Ngài nghe pháp, thấy Pháp Thân của Phật, lần lượt tu hành, được dự vào chánh vị”).

 

* Đại Thừa Khởi Tín Luận - Lương Tây Ấn Độ Tam Tạng pháp sư Chân Đế dịch[1]

(大乘起信論 - 梁西印度三藏法師真諦譯)

 

          Như Lai hữu thắng phương tiện, nhiếp hộ tín tâm, vị dĩ chuyên ư niệm Phật nhân duyên, tùy nguyện đắc sanh tha phương Phật độ, thường kiến ư Phật, vĩnh ly ác đạo. Như Tu Đa La thuyết: “Nhược nhân chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, sở tu thiện căn, hồi hướng nguyện cầu sanh bỉ thế giới, tức đắc văng sanh. Thường kiến Phật cố, chung vô hữu thoái” (CBETA, T32, no.1666, p.583, a15-19).

          如來有勝方便。攝護信心。謂以專意念佛因緣。隨願得生他方佛土。常見於佛。永離惡道。如修多羅說,若人專念西方極樂世界阿彌陀佛。所修善根。迴向願求生彼世界。即得往生。常見佛故。終無有退

          (Như Lai có phương tiện thù thắng, nhiếp thủ, hộ tŕ tín tâm, nghĩa là do nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, tùy theo ư nguyện mà được sanh về cơi Phật ở phương khác, thường thấy Phật, vĩnh viễn ĺa khỏi ác đạo. Như Tu Đa La (Khế Kinh) đă nói: “Nếu ai chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, hồi hướng tất cả thiện căn đă tu, nguyện cầu sanh về thế giới ấy, sẽ liền được văng sanh. Do thường thấy Phật, trọn chẳng thoái chuyển”).

 

X. Khuyến Tŕ Thánh Giáo Chương

(勸持聖教章)

 

          Quả báo văng sanh thù thắng đă là như trong phần trên vừa nói, cũng là do người ta đă hiểu biết vậy. Nhưng thánh giáo trong các kinh phần nhiều dùng thánh quả [sẽ chứng đắc] sau khi đă văng sanh để khuyên tu những pháp khác, tuy là cách nói phương tiện của đức Như Lai, nhưng từ đó cũng có thể thấy công đức vô lượng của Phật Di Đà, càng có thể thấy rơ bổn ư của Thích Ca Như Lai khen ngợi Tịnh Độ kèm thêm trong các kinh. Quả báo Tịnh Độ thù thắng đúng là đặc biệt thù thắng vậy!

 

* Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm

(大方廣佛華嚴經普賢行願品)

 

          Hựu phục thị nhân lâm mạng chung thời, tối hậu sát-na, nhất thiết chư căn tất giai tán hoại, nhất thiết thân thuộc tất giai xả ly, nhất thiết oai thế tất giai thoái thất. Phụ tướng, đại thần, cung thành nội ngoại, tượng mă, xa thặng, trân bảo phục tạng, như thị nhất thiết, vô phục tương tùy. Duy thử nguyện vương (Phổ Hiền thập đại nguyện vương) bất tương xả ly, ư nhất thiết thời, dẫn đạo kỳ tiền. Nhất sát-na trung, tức đắc văng sanh Cực Lạc thế giới. Đáo dĩ tức kiến A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát đẳng.

          Thiện nam tử! Bỉ chư chúng sanh nhược văn, nhược tín thử đại nguyện vương (Phổ Hiền thập đại nguyện) thọ tŕ, độc, tụng, quảng vị nhân thuyết, sở hữu công đức trừ Phật Thế Tôn, dư vô tri giả. Thị cố nhữ đẳng, văn thử nguyện vương, mạc sanh nghi niệm, ưng đương đế thọ. Thọ dĩ năng độc, độc dĩ năng tụng, tụng dĩ năng tŕ, năi chí thư tả, quảng vị nhân thuyết, thị chư nhân đẳng, ư nhất niệm trung, sở hữu hạnh nguyện giai đắc thành tựu, sở hoạch phước tụ vô lượng, vô biên, năng ư phiền năo, đại khổ hải trung, bạt tế chúng sanh, linh kỳ xuất ly, giai đắc văng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới (CBETA, T10, no.293, p.846).

          又復是人。臨命終時。最後剎那。一切諸根。悉皆散壞。一切親屬。悉皆舍離。一切威勢。悉皆退失。輔相大臣。宮城內外。象馬車乘。珍寶伏藏。如是一切。無復相隨。唯此願王(普賢十大願王)不相舍離。於一切時。引導其前。一剎那中。即得往生極樂世界。到已即見阿彌陀佛。文殊師利菩薩。普賢菩薩。觀自在菩薩。彌勒菩薩等。

          善男子。彼諸眾生。若聞若信。此大願王(普賢十大願)受持讀誦。廣為人說。所有功德。除佛世尊。余無知者。是故汝等。聞此願王。莫生疑念。應當諦受。受已能讀。讀已能誦。誦已能持。乃至書寫。廣為人說。是諸人等。於一念中。所有行願。皆得成就。所獲福聚。無量無邊。能於煩惱。大苦海中。拔濟眾生。令其出離,皆得往生阿彌陀佛極樂世界。

          (Lại nữa, người ấy khi mạng sắp chấm dứt, trong sát-na cuối cùng, hết thảy các căn đều hư nát, hết thảy thân thuộc thảy đều ĺa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều lui mất. Tể tướng phù tá, đại thần, cung điện, thành quách trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng quư báu, hết thảy các thứ như thế chẳng c̣n thuộc về người ấy nữa. Chỉ có nguyện vương này (mười đại nguyện vương của Phổ Hiền) là chẳng ĺa bỏ, trong hết thảy các thời, nó luôn dẫn đường đằng trước. Trong một sát-na, liền sanh về thế giới Cực Lạc. Đă đến nơi, liền thấy A Di Đà Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát v.v…

          Này thiện nam tử! Các chúng sanh ấy hoặc nghe, hoặc tin tưởng đại nguyện vương này (mười đại nguyện Phổ Hiền) thọ tŕ, đọc, tụng, rộng v́ người khác nói, tất cả công đức trừ Phật Thế Tôn, những kẻ khác đều không biết. V́ thế, các ngươi nghe nguyện vương này, đừng sanh ư niệm nghi ngờ, hăy nên nhận lănh chắc thật. Nhận rồi có thể đọc, đọc rồi có thể tụng, tụng rồi có thể tŕ, cho đến biên chép, rộng v́ người khác nói, những người ấy trong một niệm, tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, đạt được khối phước vô lượng, vô biên, có thể ở trong biển khổ phiền năo to lớn mà cứu giúp chúng sanh, khiến cho họ rời ĺa, đều được sanh về thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật).

 

* Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tu Từ Phần

(大方廣佛華嚴經修慈分)

 

          Hữu đắc văn thử Tu Từ kinh giả, tắc năng tiêu diệt vô thỉ thời lai chư ác nghiệp chướng, ly chúng bệnh ách, vị nhất thiết nhân chi sở ái kính. Ư kỳ trung gian, hoặc chí lâm chung, tất đắc phụng kiến thập phương chư Phật, cập dữ thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, hoặc đắc tam-muội, hoặc đắc Pháp Nhẫn, hoặc đắc nhập ư đà-la-ni môn. Kỳ tâm an ổn, vô hữu tử úy, vĩnh ly nhất thiết chư ác đạo khổ, tất sanh thanh tịnh Cực Lạc Phật quốc (CBETA, T10, no.306, p.961, a14-20).

          有得聞此修慈經者。則能銷滅無始時來諸惡業障。離眾病厄。為一切人之所愛敬。於其中間。或至臨終。必得奉見十方諸佛。及與授阿耨多羅三藐三菩提記。或得三昧。或得法忍。或得入於陀羅尼門。其心安隱。無有死畏。永離一切諸惡道苦。必生清凈極樂佛國。

          (Có ai được nghe kinh Tu Từ này, sẽ có thể tiêu diệt các nghiệp chướng ác từ thời vô thỉ đến nay, ĺa các bệnh tật, ách nạn, được hết thảy mọi người yêu kính. Trong khoảng thời gian ấy, hoặc đến khi lâm chung, ắt được gặp gỡ mười phương chư Phật, được các Ngài thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc đắc tam-muội, hoặc đắc Pháp Nhẫn, hoặc được nhập vào đà-la-ni môn. Tâm người ấy an ổn, chẳng hề sợ chết, vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy các nỗi khổ trong đường ác, ắt sanh vào Cực Lạc Phật quốc thanh tịnh).

 

* Đại Bảo Tích Kinh, Vô Biên Trang Nghiêm Hội

(大寶積經無邊莊嚴會)

 

          Nhược ư Hiền Kiếp trung, dục kiến chư Như Lai, tu học thử pháp môn, năng linh chư Phật hỷ, Vô Lượng Thọ oai quang, A Súc đại danh xưng, nhược dục kiến bỉ giả, đương học thử pháp môn (CBETA, T11, no.310, p.40, c20-24).

          若於賢劫中。欲見諸如來。修學此法門。能令諸佛喜。無量壽威光。阿閦大名稱。若欲見彼者。當學此法門。

          (Nếu ở trong Hiền Kiếp mà muốn thấy các đức Như Lai, tu học pháp môn này, có thể khiến cho chư Phật hoan hỷ. Vô Lượng Thọ Phật quang minh oai thần, A Súc Phật đại danh xưng, nếu muốn thấy các Ngài, hăy nên học pháp môn này).

 

* Phật Thuyết Thái Tử Loát Hộ Kinh

(佛說太子刷護經)

 

          Nhược hữu nhân dân văn thị kinh, tín hỷ giả, giai đương sanh A Di Đà quốc (CBETA, T12, no.343, p.154, c29-p.155, a1).

          若有人民。聞是經信喜者,皆當生阿彌陀國。

          (Nếu có nhân dân nghe kinh này, tin tưởng, vui mừng, sẽ đều sanh về cơi A Di Đà).

 

* Kim Quang Minh Kinh

(金光明經)

 

          Như thị kinh điển, thường vị tứ phương tứ Phật Thế Tôn chi sở hộ tŕ, Đông phương A Súc, Nam phương Bảo Tướng, Tây Vô Lượng Thọ, Bắc Vi Diệu Thanh (CBETA, T16, no.663, p.335, b11-13).

          如是經典。常為四方四佛世尊之所護持。東方阿閦。南方寶相。西無量壽。北微妙聲。

          (Kinh điển như thế thường được bốn vị Phật Thế Tôn ở bốn phương hộ tŕ: Phương Đông A Súc Phật, phương Nam Bảo Tướng Phật, phương Tây Vô Lượng Thọ, phương Bắc Vi Diệu Thanh).

 

* Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

(妙法蓮華經)

 

          Nhược hữu nữ nhân, văn thị kinh điển, như thuyết tu hành, ư thử mạng chung, tức văng An Lạc thế giới, A Di Đà Phật, đại Bồ Tát chúng vi nhiễu trụ xứ, sanh liên hoa trung, bảo tọa chi thượng (CBETA, T09, no.262, p.54, b29-c3).

          若有女人。聞是經典,如說修行。於此命終,即往安樂世界,阿彌陀佛大菩薩眾。圍繞住處。生蓮華中。寶座之上。

          (Nếu có người nữ nghe kinh điển này, tu hành đúng như lời dạy, mạng chung ở nơi đây liền sang thế giới An Lạc là trụ xứ của A Di Đà Phật có các vị đại Bồ Tát vây quanh, sanh trong hoa sen, ở trên ṭa báu).

 

* Chánh Pháp Hoa Kinh

(正法華經)

 

          Nhược hữu nữ nhân, ư ngũ trược thế, tối hậu mạt tục, văn thị kinh pháp, năng phụng hành giả, ư thị thọ chung, sanh An Dưỡng quốc, kiến Vô Lượng Thọ Phật, dữ chư Bồ Tát, quyến thuộc vi nhiễu, sanh bảo liên hoa, tọa sư tử ṭa (CBETA, T09, no.263, p.126, c6-9).

          若有女人。於五濁世。最後末俗。聞是經法。能奉行者。於是壽終。生安養國。見無量壽佛。與諸菩薩。眷屬圍繞。生寶蓮華。坐師子座。

          (Nếu có nữ nhân trong đời ngũ trược, nhằm lúc đời mạt cuối cùng, nghe kinh pháp này mà có thể phụng hành, do vậy, khi hết tuổi thọ, sẽ sanh về nước An Dưỡng, thấy Vô Lượng Thọ Phật và các Bồ Tát quyến thuộc vây quanh, sanh trong hoa sen báu, ngồi trên ṭa sư tử).

 

* Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

(添品妙法蓮華經)

 

          Nhược Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế trung, nhược hữu nữ nhân, văn thị kinh điển, như thuyết tu hành, ư thử mạng chung, tức văng An Lạc thế giới (CBETA, T09, no.264, p.189, b4-6).

          若如來滅后。后五百歲中。若有女人。聞是經典。如說修行。於此命終。即往安樂世界。

          (Nếu sau khi đức Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, tu hành đúng như lời dạy, mạng chung nơi cơi này, sẽ sang thế giới An Lạc).

 

* Phật Thuyết A Duy Việt Trí Giá Kinh

(佛說阿惟越致遮經)

 

          Giảng thuyết thị kinh điển, tắc chí An Lạc quốc, đắc đổ B́nh Đẳng Giác, A Di Đà vô niệm, nhi tu tùy kinh nghĩa, nhất thiết Phật sở diễn (CBETA, T09, no.266, p.223, b6-8).

          講說是經典。則至安樂國。得睹平等覺。阿彌陀無念。而修隨經義。一切佛所演。

          (Giảng nói kinh điển này, sẽ đến cơi An Lạc, được thấy đức B́nh Đẳng Giác. A Di Đà vô niệm nhưng tu hành th́ phải thuận theo ư nghĩa trong kinh do hết thảy các đức Phật đă giảng diễn).

 

* Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Kinh

(不退轉法輪經)

 

          Dục kiến Tam Phật Đà, An Dưỡng nan tư nghị, ưng vị diễn thử kinh, như Phật chi sở thuyết (CBETA, T09, no.267, p.251, a20-21).

          欲見三佛陀。安養難思議。應為演此經。如佛之所說。

          (Muốn thấy Tam Phật Đà (Sabuddha, Chánh Giác), cơi An Dưỡng chẳng thể nghĩ bàn, hăy nên diễn giảng kinh này đúng như đức Phật đă nói).

 

* Phật Thuyết Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Pháp Luân Kinh

(佛說廣博嚴凈不退轉法輪經)

 

          Dục văng An Lạc giới, đắc kiến A Di Đà, quang minh bất khả nghị, ưng lưu bố thị kinh, chư Phật chi sở thuyết (CBETA, T09, no.268, p.282, a16-18).

          欲往安樂界。得見阿彌陀。光明不可議。應流布是經。諸佛之所說。

          (Muốn đến cơi An Lạc, được thấy A Di Đà quang minh chẳng thể bàn, hăy nên lưu truyền kinh này là kinh được nói bởi chư Phật).

 

* Phật Thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh

(佛說藥師如來本願功德經)

 

          Nhược dục văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Như Lai sở giả, do đắc văn bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu cố, ư mạng chung thời, hữu bát Bồ Tát, thừa không nhi lai, thị kỳ đạo kính, tức ư bỉ giới, chủng chủng dị sắc Ba Đầu Ma hoa trung, tự nhiên hóa sanh (CBETA, T14, no.449, p.402, c20-24).

          若欲往生西方極樂世界阿彌陀如來所者。由得聞彼世尊藥師琉璃光如來名號故。於命終時。有八菩薩。乘空而來。示其道徑。即於彼界,種種異色。波頭摩華中。自然化生。

          (Nếu muốn văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chỗ của A Di Đà Như Lai, do được nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai này, khi mạng chung, sẽ có tám vị Bồ Tát vượt hư không mà đến, chỉ vẽ đường lối, sẽ liền ở trong cơi ấy, tự nhiên hóa sanh trong hoa Ba Đầu Ma (Padma, hoa sen đỏ) có đủ các thứ màu lạ lùng).

 

* Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh

(月燈三昧經)

 

           Nhược dục đắc kiến Di Đà Phật, cập bỉ An Lạc thế giới đẳng, phục đại bố úy ác thế thời, ưng đương văn tŕ thị tam-muội (CBETA, T15, no.639, p.551, c8-10).

          若欲得見彌陀佛。及彼安樂世界等。復大怖畏惡世時。應當聞持是三昧。

          (Nếu muốn được thấy Phật Di Đà và thế giới An Lạc của Ngài v.v… lại nhằm lúc đời ác sợ hăi to lớn, hăy nên nghe, tŕ tam-muội này).

 

* Vô Tự Bảo Khiếp Kinh

(無字寶篋經)

 

          Nhược năng thọ tŕ thử Quảng Bác Nghiêm Thượng Vương Vô Tự Bảo Khiếp pháp môn, nhược năng văn giả, bỉ nhân tắc vi dĩ cung kính ngă, tôn trọng, tán thán. Thiện nam tử! Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân, tắc vi lưỡng kiên hà đảm Bồ Đề, bỉ nhân tắc đắc bất đoạn biện tài, đắc thiện thanh tịnh chư Phật thế giới. Mạng chung chi thời, tắc đắc hiện kiến A Di Đà Phật, Thanh Văn, Bồ Tát, đại chúng vi nhiễu, hiện kỳ nhân tiền (CBETA, T17, no.828, p.872, a27-b3).

          若能受持此廣博嚴上王無字寶篋法門。若能聞者。彼人則為已恭敬我。尊重讚歎。善男子。是善男子善女人。則為兩肩荷擔菩提。彼人則得不斷辯才。得善清凈諸佛世界。命終之時。則得現見阿彌陀佛。聲聞菩薩。大眾圍繞。現其人前。

          (Nếu có thể thọ tŕ pháp môn Quảng Bác Nghiêm Thượng Vương Vô Tự Bảo Khiếp này, nếu có thể nghe, người ấy chính là đă cung kính, tôn trọng, tán thán ta. Này thiện nam tử! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy hai vai gánh vác Bồ Đề. Người ấy sẽ đắc biện tài chẳng gián đoạn, sẽ đắc các thế giới Phật tốt lành, thanh tịnh. Khi mạng chung, sẽ được thấy A Di Đà Phật, Thanh Văn, Bồ Tát, đại chúng vây quanh, hiện ra trước người ấy).

 

* Đại Thừa Ly Văn Tự Phổ Quang Minh Tạng Kinh

(大乘離文字普光明藏經)

 

          Ngă thử sở thuyết thậm thâm Phương Quảng hy hữu pháp môn, phi chư nhân giả, hữu thiểu thiện căn nhi năng thính thọ. Năng thính thọ giả, tức vi thừa sự cúng dường ư ngă, diệc vi hà đảm Vô Thượng Bồ Đề. Thị nhân đương đắc biện tài vô ngại, quyết định sanh ư thanh tịnh Phật độ. Thị nhân lâm chung, định đắc thân kiến A Di Đà Phật, Bồ Tát, đại chúng (CBETA, T17, no.829, p.873, c18-23).

          我此所說甚深方廣希有法門。非諸仁者。有少善根而能聽受。能聽受者。即為承事供養於我。亦為荷擔無上菩提。是人當得辯才無礙。決定生於清凈佛土。是人臨終。定得親見阿彌陀佛菩薩大眾。

          (Pháp môn Phương Quảng hiếm có rất sâu này do ta nói, chẳng phải là các vị nhân giả có chút ít thiện căn mà ḥng nghe nhận được. Người có thể nghe nhận chính là đă thừa sự, cúng dường ta, và cũng gánh vác Vô Thượng Bồ Đề. Người ấy sẽ đắc biện tài vô ngại, quyết định sanh về cơi Phật thanh tịnh. Người ấy lâm chung, nhất định sẽ được đích thân thấy A Di Đà Phật, Bồ Tát, đại chúng).

 

* Đại Thừa Biến Chiếu Quang Minh Tạng Vô Tự Pháp Môn Kinh

(大乘遍照光明藏無字法門經)

         

          Nhược đắc văn thử hy hữu pháp môn, đương tri thị nhân, cửu dĩ thành tựu vô lượng phước huệ. Đương tri thị nhân tắc vi thừa sự cúng dường ư ngă, đương tri thị nhân tắc vi hà đảm Phật đại Bồ Đề. Đương tri thị nhân quyết định đương đắc thành tựu biện tài, đương tri thị nhân quyết định đương đắc thanh tịnh Phật độ. Đương tri thị nhân lâm mạng chung thời, định đương đắc kiến A Di Đà Phật (CBETA, T17, no.830, p.875, c9-13).

          若得聞此希有法門。當知是人。久已成就無量福慧。當知是人。則為承事供養於我。當知是人。則為荷擔佛大菩提。當知是人。決定當得成就辯才。當知是人決定當得清凈佛土。當知是人。臨命終時。定當得見阿彌陀佛。

          (Nếu được nghe pháp môn hiếm có này, hăy nên biết người ấy thành tựu vô lượng phước huệ đă lâu. Hăy nên biết người ấy thừa sự, cúng dường ta. Hăy nên biết người ấy gánh vác Đại Bồ Đề của Phật. Hăy nên biết người ấy quyết định sẽ thành tựu biện tài, hăy nên biết người quyết định sẽ đạt được cơi Phật thanh tịnh. Hăy nên biết người ấy khi mạng sắp hết, nhất định sẽ được thấy A Di Đà Phật).

 

* Phật Thuyết Như Lai Trí Ấn Kinh

(佛說如來智印經)

 

          Ngă niệm quá khứ hằng sa kiếp, Phật hiệu Phước Quang Thế Gian Giải, kỳ thọ thất thập lục vạn ức, Thanh Văn chúng số vô hạn lượng. Hữu Chuyển Luân Vương danh Huệ Ngự, phu nhân Nguyệt Quán, thứ danh Viêm. Xả ly gia ái cầu chánh pháp. Ư nhất ức tuế thường hộ tŕ lục thập vạn ức tam thập vạn ư thử chư Phật hộ tŕ chánh pháp, tam thập hằng sa vị lai Phật hộ tŕ chánh pháp bất đoạn tuyệt. Thời Huệ Ngự vương A Súc Phật, nhữ đẳng ư bỉ thường câu sanh, dĩ hộ pháp duyên xả nữ thân, đương sanh Vô Lượng Cực Lạc quốc. Thử chúng hộ pháp diệc đương sanh, nhữ tương dục diệt vi dĩ trụ, tất sanh Cực Lạc thiên diệp hoa, tướng hảo trang nghiêm vi Phật tử. Kư sanh bỉ quốc cúng Chánh Giác. Trang Nghiêm Vương Kiếp vô kinh cức, ư bỉ đắc thành vô thượng đạo, chấp tŕ chánh pháp cập thiên nhân. Nhược hữu thư tả thử pháp ấn, độc tụng, tuyên thị, vị nhân thuyết. Thử công đức thân bất khả nghị, Phật tử đương sanh Cực Lạc quốc (CBETA, T15, no.633).

          我念過去恆沙劫。佛號福光世間解。其壽七十六萬億。聲聞眾數無限量。有轉輪王名慧御。夫人月觀次名炎。舍離家愛求正法。於一億歲常護持。六十萬億三十萬。於此諸佛護正法。三十恆沙未來佛。護持正法不斷絕。時慧御王阿閦佛。汝等於彼常俱生。以護法緣舍女身。當生無量極樂國。此眾護法亦當生。汝將欲滅為已住。必生極樂千葉華。相好莊嚴為佛子。既生彼國供正覺。莊嚴王劫無荊棘。於彼得成無上道。執持正法及天人。若有書寫此法印。讀誦宣示為人說。此功德身不可議。佛子當生極樂國。

          (Ta nhớ hằng sa kiếp trong quá khứ, có Phật hiệu là Phước Quang Thế Gian Giải, Ngài thọ bảy mươi sáu vạn ức năm. Chúng Thanh Văn chẳng có hạn lượng. Có Chuyển Luân Vương tên là Huệ Ngự, phu nhân là Nguyệt Quán, thứ thất tên là Viêm. Vua ĺa bỏ t́nh yêu thương gia đ́nh để cầu chánh pháp. Trong một ức năm, thường hộ tŕ chánh pháp của sáu mươi vạn ức ba mươi vạn chư Phật, hộ tŕ chánh pháp của ba mươi hằng sa vị lai Phật chẳng đoạn tuyệt. Vua Huệ Ngự thuở ấy [hiện thời] chính là A Súc Phật, các ông thường sanh cùng một chỗ với Ngài. Do duyên hộ pháp mà bỏ thân nữ, sẽ sanh trong cơi Vô Lượng Cực Lạc. Các vị hộ pháp này cũng sẽ sanh [vào đó], khi ông sắp diệt độ, ắt sanh trong đóa hoa ngàn cánh nơi Cực Lạc, làm Phật tử tướng hảo trang nghiêm. Đă sanh vào cơi ấy, sẽ cúng dường đấng Chánh Giác. Kiếp Trang Nghiêm Vương chẳng có gai góc, trong kiếp đó, ông sẽ thành vô thượng đạo, nắm giữ chánh pháp và trời, người. Nếu có kẻ nào biên chép pháp ấn này, đọc, tụng, tuyên nói, chỉ dạy, v́ người khác giảng giải, tấm thân công đức của người ấy sẽ chẳng thể bàn! Phật Tử sẽ sanh về cơi Cực Lạc).

 

* Bất Không Quyến Tác Đà La Ni Tự Tại Vương Chú Kinh

(不空罥索陀羅尼自在王咒經)

         

          Nhược hữu nhân thọ tŕ thử chú, dĩ chư hoa, hương, tràng phan, bảo cái cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, chung bất đọa ư địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chư ác thú trung, đương sanh Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật tiền, thọ mạng vô lượng, nhất thiết giai như Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát oai đức, thần lực (CBETA, T20, no.1097, p.432, a10-13).

          若有人受持此咒。以諸花香幢幡寶蓋供養。恭敬尊重讚歎。終不墮於地獄餓鬼畜生諸惡趣中。當生極樂世界阿彌陀佛前。壽命無量。一切皆如聖觀自在菩薩威德神力。

          (Nếu có người thọ tŕ chú này, dùng các thứ hoa, hương, tràng phan, lọng báu để cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, trọn chẳng đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong các đường ác, sẽ sanh trước mặt Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, thọ mạng vô lượng, hết thảy đều như oai đức và thần lực của Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát).

 

* Bất Không Quyến Tác Đà La Ni Kinh

(不空罥索陀羅尼經)

 

          Nhược hữu thọ tŕ độc tụng thử chú, dĩ hoa, tán hương, thiêu hương, đồ hương, hoa man, phan, cái, tràng đẳng cung kính, cúng dường, tôn kính, tán thán chi giả, bỉ đương đắc sanh Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật sát, thọ mạng vô lượng (CBETA, T20, no.1096, p.419, b5-8).

          若有受持讀誦此咒。以華散香燒香塗香華鬘幡蓋幢等。恭敬供養尊敬讚歎之者。彼當得生極樂世界無量壽佛剎。壽命無量。

          (Nếu có người thọ tŕ, đọc tụng chú này, dùng hoa, hương rời (hương bột), hương đốt, hương bôi, tràng hoa, phan, lọng, tràng v.v… để cung kính, cúng dường, tôn kính, tán thán, người ấy sẽ được sanh về thế giới Cực Lạc là cơi nước của Vô Lượng Thọ Phật, thọ mạng vô lượng).

 

* Bất Không Quyến Tác Thần Biến Chân Ngôn Kinh

(不空罥索神變真言經)

 

          Nhược dục thường kiến A Di Đà Phật, nhất thiết chư Phật, chư đại Bồ Tát, chư thiên thần giả, mỗi nhật đương tụng thỉnh triệu chân ngôn, gia tŕ hương vương, thiêu trác cúng dường nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, chư thiên, hương yên bất đoạn. Tác pháp tụng tŕ như thị chân ngôn, thời biệt bất khuyết, hằng ư mộng trung, đổ kiến nhất thiết.

          Như thị Liên Hoa Thủ Ấn Tam-muội-da, nhược thường nhất nhất y tam-muội-da tự quán tương ứng thọ tŕ, độc tụng giả, sở hữu cái chướng, Ngũ Nghịch trọng tội đương tự trừ diệt, bất trụy ác đạo. Phàm sở thi vi tắc đắc thành, kiến Bất Không Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa mạn-noa-la tam-muội-da. Ư đương lai thế, chứng thú A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề xứ, vi A Di Đà Phật chi chân tử, tùng pháp hóa sanh.

          Quán Thế Âm Bồ Tát nhất thời hiện thân nghênh chân ngôn giả văng ư Tây Phương, liên hoa hóa sanh, đắc Túc Trụ Trí, ức kiếp sanh sự nhi giai thức tri, năi chí Bồ Đề. Thị Bất Không Vương Tâm Đà La Ni Chân Ngôn mạn-đồ-la ấn tam-muội-da nhật tụng thiên ngôn, vị nhân ái kính. Nhược mạng chung dĩ, trực sanh Tây Phương, liên hoa hóa sanh, thức Túc Trụ Trí.

          Nhược thường bạch nguyệt bát nhật, thập ngũ nhật, trú dạ bất thực, đoạn chư ngôn luận, tụng tŕ mẫu đà-la-ni chân ngôn, bí mật tâm chân ngôn giả, tắc đắc vô thỉ nhất thiết tội chướng tận giai tiêu diệt. Nhược mạng chung hậu, đương đắc văng sanh An Lạc quốc độ.

          Hựu tụng mẫu đà-la-ni chân ngôn, bí mật tâm chân ngôn nhất bách bát biến, Quán Thế Âm Bồ Tát hiện chân tịnh thân, thọ dữ Nhất Thiết Quảng Đại Thành Tựu Thanh Tịnh Liên Hoa Quyến Tác tam-muội-da. A Di Đà Phật hiện tiền tán ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Tŕ chân ngôn giả, nhữ kim cúng dường Bất Không Quyến Tác Quán Thế Âm tượng giả, năi đương thừa sự cúng dường lục thập tứ thiên Như Lai sở thực chủng thiện căn”.

          Đắc chứng Bất Không Đại Ma Ni Hải Thanh Tịnh Cát Tường Liên Hoa Quán tam-muội-da, thọ mạng vạn tuế, cung điện trục thân, đằng văng Tây Phương A Di Đà Phật tiền, thính văn thâm pháp, đắc thọ kư biệt (CBETA, T20, no.1092).

          若欲常見阿彌陀佛一切諸佛諸大菩薩諸天神者。每日當誦請召真言。加持香王燒焯供養一切諸佛菩薩諸天。香煙不斷。作法誦持如是真言。時別不闕。恆於夢中。睹見一切。

          如是蓮花手印三昧耶。若常一一依三昧耶字觀相應受持讀誦者。所有蓋障五逆重罪。當自除滅。不墜惡道。凡所施為則得成。見不空廣大解脫蓮華曼拏羅三昧耶。於當來世。證趣阿耨多羅三藐三菩提處。為阿彌陀佛之真子。從法化生。

          觀世音菩薩一時現身迎真言者往於西方。蓮華化生。得宿住智。億劫生事。而皆識知。乃至菩提。是不空王心陀羅尼真言曼荼羅印三昧耶。日誦千言。為人愛敬。若命終已。直生西方。蓮花化生。識宿住智。

          若常白月八日十五日。晝夜不食。斷諸言論。誦持母陀羅尼真言秘密心真言者。則得無始一切罪障盡皆消滅。若命終后。當得往生安樂國土。

          又誦母陀羅尼真言秘密心真言一百八遍。觀世音菩薩現真凈身。授與一切廣大成就清凈蓮華罥索三昧耶。阿彌陀佛現前贊言。善哉善哉。持真言者。汝今供養不空罥索觀世音像者。乃當承事供養六十四千如來所植種善根。

          得證不空大摩尼海清凈吉祥蓮華觀三昧耶。壽命萬歲。宮殿逐身。騰往西方阿彌陀佛前。聽聞深法。得授記別。

          (Nếu muốn thường thấy A Di Đà Phật, hết thảy chư Phật, chư đại Bồ Tát, các vị thiên thần, mỗi ngày hăy nên tụng chân ngôn Thỉnh Triệu, gia tŕ vào loại hương tốt nhất, đốt lên để cúng dường hết thảy chư Phật, Bồ Tát, chư thiên, khói hương chẳng ngưng dứt. Tác pháp để tụng tŕ chân ngôn như thế, đừng để thiếu sót lúc nào, sẽ luôn ở trong mộng trông thấy hết thảy.

          Đối với Liên Hoa Thủ Ấn Tam-muội-da như thế, nếu đối với mỗi điều, thường nương theo cách quán chữ tương ứng tam-muội-da để thọ tŕ, đọc tụng th́ tất cả cái chướng, trọng tội Ngũ Nghịch sẽ tự trừ diệt, chẳng rơi vào ác đạo. Mọi chuyện thực hiện đều thành tựu, thấy Bất Không Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa mạn-noa-la tam-muội-da. Trong đời tương lai, sẽ chứng đắc, đạt đến chỗ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là con thật sự của A Di Đà Phật, từ pháp hóa sanh.

          Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ nhất thời hiện thân đón người tŕ chân ngôn về Tây Phương. [Người ấy] hóa sanh trong hoa sen, đắc Túc Trụ Trí, chuyện trong ức kiếp đời đều hay biết, cho đến Bồ Đề. Hằng ngày tụng một ngàn lần Bất Không Vương Tâm Đà La Ni Chân Ngôn mạn-noa-la tam-muội-da này, sẽ được mọi người yêu kính. Nếu mạng chung, sẽ sanh thẳng về Tây Phương, hóa sanh trong hoa sen, biết Túc Trụ Trí.

          Nếu thường trong ngày mồng Tám và Mười Lăm của Bạch Nguyệt, ngày đêm chẳng ăn, dứt các nói năng, tụng tŕ mẫu đà-la-ni chân ngôn và bí mật tâm chân ngôn, hết thảy tội chướng từ vô thỉ thảy đều tiêu diệt hết. Nếu sau khi mạng chung, sẽ được văng sanh An Lạc quốc độ.

          Lại nữa, tụng mẫu đà-la-ni chân ngôn và bí mật tâm chân ngôn một trăm lẻ tám biến, Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân chân tịnh, truyền trao Nhất Thiết Quảng Đại Thành Tựu Thanh Tịnh Liên Hoa Quyến Tác tam-muội-da. A Di Đà Phật hiện tiền, khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Này người tŕ chân ngôn! Ngươi nay cúng dường tượng Bất Không Quyến Tác Quán Thế Âm chính là đă gieo trồng thiện căn thừa sự, cúng dường sáu mươi bốn ngàn đức Như Lai”.

          Chứng đắc Bất Không Đại Ma Ni Hải Thanh Tịnh Cát Tường Liên Hoa Quán tam-muội-da, thọ mạng một vạn năm, cung điện theo thân, bay về trước mặt Tây Phương A Di Đà Phật, lắng nghe pháp sâu, được thọ kư).

 

* Phật Thuyết Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Thần Chú Kinh

(佛說十一面觀世音神咒經)

 

          Tŕ thử chú giả, hiện thân phục đắc tứ chủng quả báo. Hà giả vi tứ? Nhất giả, lâm mạng chung thời, đắc kiến thập phương vô lượng chư Phật. Nhị giả vĩnh bất đọa địa ngục. Tam giả bất vị nhất thiết cầm thú sở hại. Tứ giả mạng chung chi hậu sanh Vô Lượng Thọ quốc (CBETA, T20, no.1070, p.149, b14-24).

          持此咒者。現身復得四種果報。何者為四。一者臨命終時得見十方無量諸佛。二者永不墮地獄。三者不為一切禽獸所害。四者命終之後生無量壽國。

          (Người tŕ chú này, thân hiện đời lại được bốn thứ quả báo. Những ǵ là bốn? Một là khi lâm chung, sẽ thấy mười phương vô lượng chư Phật. Hai là vĩnh viễn chẳng đọa địa ngục. Ba là chẳng bị hết thảy chim, thú làm hại. Bốn là sau khi mạng chung, sẽ sanh về nước Vô Lượng Thọ).

 

* Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh

(十一面神咒心經)

 

          Phục đắc tứ chủng công đức thắng lợi. Nhất giả lâm mạng chung thời, đắc kiến chư Phật. Nhị giả chung bất đọa chư ác thú. Tam giả bất nhân hiểm ách nhi tử. Tứ giả đắc sanh Cực Lạc thế giới (CBETA, T20, no.1071, p.152, b32-26).

          復得四種功德勝利。一者臨命終時。得見諸佛。二者終不墮諸惡趣。三者不因險厄而死。四者得生極樂世界。

          (Lại được bốn thứ công đức, lợi ích thù thắng, một là khi lâm chung, được thấy chư Phật. Hai là trọn chẳng bất đọa vào các đường ác. Ba là chẳng do hiểm nguy, tai ách mà chết. Bốn là được sanh vào thế giới Cực Lạc).

 

* Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni Kinh

(佛頂尊勝陀羅尼經)

 

          Nhật nhật tụng thử đà-la-ni nhị thập nhất biến, tội diệt, phước tăng, chúng nhân ái kính, mạng chung chi hậu, sanh Cực Lạc quốc (CBETA, T19, no.968, p.354, c3-4).

          日日誦此陀羅尼二十一遍。罪滅福增。眾人愛敬。命終之後。生極樂國。

          (Hằng ngày tụng đà-la-ni này hai mươi mốt biến, tội diệt, phước tăng, mọi người yêu kính. Sau khi đă mất, sẽ sanh về cơi Cực Lạc).

 

* Phật Đảnh Tối Thắng Đà La Ni Kinh

(佛頂最勝陀羅尼經)

 

          Nhược hữu văn như thị chú giả, tận kỳ thọ mạng, văng Cực Lạc quốc, liên hoa hóa sanh, thường thức Túc Mạng (CBETA, T19, no.969, p.356, c24-25).

          若有聞如是咒者。盡其壽命。往極樂國。蓮華化生。常識宿命。

          (Nếu có người nghe chú như thế này, khi hết thọ mạng, sẽ về nước Cực Lạc, hóa sanh trong hoa sen, thường biết Túc Mạng).

 

* Đà La Ni Tập Kinh

(陀羅尼集經)

 

          Nhược hữu nhân năng nhật nhật cúng dường, tác ấn, tŕ chú, lâm mạng chung thời, mi gian quang minh, như A Di Đà Phật hào quang tương tự (CBETA, T18, no.901, p.797, c17-18).

          若有人能日日供養。作印持咒。臨命終時。眉間光明。如阿彌陀佛毫光相似。

          (Nếu có người có thể hằng ngày cúng dường, kết ấn, tŕ chú, khi lâm chung, quang minh giữa hai mày sẽ tương tự như quang minh nơi tướng bạch hào của A Di Đà Phật).

 

* Như Lai Phương Tiện Thiện Xảo Chú Kinh

(如來方便善巧咒經)

 

          Nhược năng như pháp tận mạng thọ tŕ, xả thọ chi hậu, sanh An Lạc quốc (CBETA, T21, no.1334, p.566, b6-7).

          若能如法盡命受持。舍壽之後生安樂國。

          (Nếu có thể đúng pháp thọ tŕ cho đến hết đời, sau khi xả mạng, sẽ sanh về cơi An Lạc).

 

* Hư Không Tạng Bồ Tát Vấn Thất Phật Đà La Ni Kinh

(虛空藏菩薩問七佛陀羅尼經)

 

          Nhược năng nhật nhật thọ tŕ, kỳ nhân mạng chung, tắc văng sanh Vô Lượng Thọ quốc, bất sanh nhân trung (CBETA, T21, no.1333, p.563, a21-22).

          若能日日受持。其人命終。則往生無量壽國。不生人中。

          (Nếu có thể hằng ngày thọ tŕ, người ấy mạng chung sẽ văng sanh cơi Vô Lượng Thọ, chẳng sanh trong loài người).

 

* Vô Cấu Tịnh Quang Đại Đà La Ni Kinh

(無垢凈光大陀羅尼經)

 

          Y pháp thất biến niệm tụng thần chú, linh nhữ mạng căn hoàn phục, tăng trưởng. Cửu hậu thọ chung, sanh Cực Lạc giới, ư bách thiên kiếp thọ đại thắng lạc.       

          Nhược hộ tịnh nhật biệt nhất biến, niệm tụng thử chú, măn túc bách niên, thị nhân mạng chung sanh Cực Lạc giới.

          Nhược hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, nhược tạo tháp, nhược giáo nhân tạo, nhược tu cố tháp, nhược tạo tiểu tháp, hoặc dĩ nê tác, hoặc dụng chuyên thạch, ưng tiên chú măn nhất thiên bát biến. Nhiên hậu tạo tác kỳ tháp, phân lượng hoặc như trảo giáp, hoặc trường nhất trửu, năi chí do-tuần. Dĩ kỳ chú lực cập chí tâm cố, ư nê đẳng trung, xuất diệu hương khí… thường vị nhất thiết chư Phật ức niệm, nhi dữ thọ kư, sanh Cực Lạc giới.

          Nhược kiến thử tháp giả, diệt Ngũ Nghịch tội, văn tháp linh thanh, tiêu chư ác nghiệp, xả thân đương sanh Cực Lạc thế giới (CBETA, T19, no.1024).

          依法七遍念誦神咒。令汝命根還復增長。久后壽終生極樂界。於百千劫受大勝樂。

          若護凈日別一遍。念誦此咒。滿足百年。是人命終。生極樂界。

          若有比丘、比丘尼、優婆塞、優婆夷。若造塔。若教人造。若修故塔。若造小塔。或以泥作。或用磚石。應先咒滿一千八遍。然後造作其塔。分量或如爪甲。或長一肘。乃至由旬。以其咒力及至心故。於泥等中。出妙香氣。常為一切諸佛憶念。而與授記。生極樂界。

          若見此塔者。滅五逆罪。聞塔鈴聲。消諸惡業。捨身當生極樂世界。

          (Theo đúng pháp tụng niệm thần chú bảy lần, sẽ khiến cho mạng căn của ông được phục hồi, tăng trưởng. Lâu sau, hết tuổi thọ, sanh về cơi Cực Lạc, trong trăm ngàn kiếp hưởng sự vui thù thắng to lớn.   

          Nếu mỗi ngày hộ tịnh một lần, tụng niệm chú này trọn đủ trăm năm, khi người ấy mạng chung, sẽ sanh về cơi Cực Lạc.

          Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoặc là tạo tháp, hoặc bảo người khác tạo, hoặc tu bổ tháp cũ, hoặc tạo tháp nhỏ, hoặc dùng đất bùn để làm, hoặc dùng gạch, đá, trước hết, hăy nên tụng chú đủ số một ngàn lẻ tám lần. Sau đấy, tạo tác tháp ấy, kích thước hoặc to bằng móng tay, hoặc cao một khủy tay, cho đến cao một do-tuần. Do sức của thần chú và sự chí tâm, từ trong [các vật liệu sử dụng] như bùn v.v… sẽ tỏa ra mùi thơm mầu nhiệm… thường được hết thảy chư Phật ức niệm, thọ kư, sẽ sanh về cơi Cực Lạc.

          Nếu thấy tháp ấy, sẽ diệt tội Ngũ Nghịch, nghe tiếng linh treo trên tháp, sẽ tiêu các ác nghiệp, xả thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc).

 

* Phật Thuyết Bảo Vơng Kinh

(佛說寶網經)

 

          Ư mạt hậu thế, văn thử kinh giả, phước siêu ư bỉ, vô năng hạn lượng, khải thọ kinh điển, tinh tư vô để, du chư Phật độ bất khả kế hội, kiến chư Chánh Giác, giảng vô hạn pháp, kiến A Di Đà, A Súc Như Lai (CBETA, T14, no.433, p.86, c21-23).

          於後末世。聞此經者。福超於彼。無能限量。啟受經典。精思無底。游諸佛土。不可計會。見諸正覺。講無限法。見阿彌陀阿閦如來。

          (Vào đời mạt sau này, kẻ nghe kinh này, phước vượt trỗi người khác chẳng thể hạn lượng. Khải thỉnh, tiếp nhận kinh điển, chuyên ṛng suy nghĩ không cùng tận, dạo chơi các cơi Phật chẳng thể tính kể, thấy các đấng Chánh Giác, nói pháp chẳng có ngằn hạn, thấy A Di Đà, A Súc Như Lai).

 

* Đại Phương Đẳng Đà La Ni Kinh

(大方等陀羅尼經)

 

          Ma Ha Đản Tŕ[2] đà-la-ni oai thần chi lực, năng trí chúng sanh đáo An Lạc quốc (CBETA, T21, no.1339, p.651, b14-15).

          摩訶袒持陀羅尼威神之力。能致眾生到安樂國。

          (Sức oai thần của Ma Ha Đản Tŕ đà-la-ni có thể đưa chúng sanh đến cơi An Lạc).

 

* Phật Thuyết A Di Đà Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh

(佛說阿彌陀鼓音聲王陀羅尼經)

 

          Thọ tŕ thử Cổ Âm Thanh Vương đà-la-ni, thập nhật, thập dạ, lục thời chuyên niệm, ngũ thể đầu địa, lễ kính bỉ Phật, kiên cố chánh niệm, tất trừ tán loạn, thiện năng linh tâm niệm niệm bất tuyệt, thập nhật chi trung, tất đắc kiến bỉ A Di Đà Phật (CBETA, T12, no.370, p.352, c3-6).

          受持此鼓音聲王陀羅尼。十日十夜。六時專念。五體投地。禮敬彼佛。堅固正念。悉除散亂。善能令心念念不絕。十日之中。必得見彼阿彌陀佛。

          (Thọ tŕ Cổ Âm Thanh Vương đà-la-ni này, mười ngày mười đêm sáu thời chuyên niệm, năm vóc gieo xuống đất, lễ kính đức Phật ấy, chánh niệm kiên cố, tán loạn đều trừ, khéo có thể giữ sao cho cái tâm niệm niệm chẳng dứt, trong ṿng mười ngày, ắt được thấy A Di Đà Phật).

 

* Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội Kinh

(五千五百佛名神咒除障滅罪經)

 

          Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ thử đà-la-ni giả, ư chư quỷ thần đắc vô sở úy, chuyển thử nhất sanh, đổ Di Đà Phật (CBETA, T14, no.443, p.330, a16-17).

          若有善男子善女人持此陀羅尼者。於諸鬼神。得無所畏。轉此一生。睹彌陀佛。

          (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tŕ đà-la-ni này, sẽ không sợ hăi các quỷ thần, sau khi xả thân này, sẽ thấy Phật Di Đà).

 

* Đại Pháp Cổ Kinh

(大法鼓經)

 

          Tuyên dương thử kinh, bất cố thân mạng, bách niên thọ chung, sanh An Lạc quốc (CBETA, T09, no.270, p.294, c1-2).

          宣揚此經。不顧身命。百年壽終。生安樂國。

          (Tuyên dương kinh này, chẳng đoái hoài thân mạng, sau khi đă hết trăm năm tuổi thọ, sẽ sanh về cơi An Lạc).

 

* Phật Thuyết Nhất Thiết Pháp Công Đức Trang Nghiêm Vương Kinh

 (佛說一切法功德莊嚴王經)

 

          Nhược hữu tạm văn thử kinh, lễ bái, tán thán, cúng dường, cung kính, hoạch vô lượng phước. Hà huống thư tả, độc tụng, thọ tŕ, chủng chủng hương hoa nhi vi cúng dường, cập thuyết pháp sư dĩ y thực đẳng nhi vi cúng dường. Như thị chi nhân nhất thiết chư Phật cộng sở hộ niệm, vị kỳ thọ kư, đương đắc văng sanh An Lạc thế giới. Như thị pháp sư, dữ Phật vô dị.

          Phật ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử, ngă diệc cúng dường như thị pháp sư, diệc vị thọ kư đương đắc sanh ư An Lạc thế giới, tốc thú Bồ Đề” (CBETA, T21, no.1374, p891, c1-2).

          若有暫聞此經。禮拜讚歎供養恭敬。獲無量福。何況書寫讀誦受持。種種香花而為供養。及說法師以衣食等而為供養。如是之人。一切諸佛共所護念。為其授記。當得往生安樂世界。如是法師。與佛無異。佛言善哉善哉。善男子。我亦供養如是法師。亦為授記當得生於安樂世界。速趣菩提

          (Nếu có kẻ tạm nghe kinh này, bèn lễ bái, tán thán, cúng dường, cung kính, sẽ được vô lượng phước. Huống hồ biên chép, đọc tụng, thọ tŕ, dùng các thứ hương, hoa để cúng dường, và cúng dường vị thầy thuyết pháp bằng áo, cơm v.v… Người như thế sẽ được hết thảy chư Phật cùng hộ niệm, sẽ được các Ngài thọ kư, sẽ được văng sanh thế giới An Lạc. Vị pháp sư như thế chẳng khác ǵ Phật!

          Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ta cũng cúng dường vị pháp sư như thế, cũng sẽ thọ kư vị ấy được sanh về thế giới Cực Lạc, mau chóng tiến đến Bồ Đề”).

 

* Quảng Đại Bảo Lâu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà La Ni Kinh

(廣大寶樓閣善住秘密陀羅尼經)

         

          Nhược tụng tŕ nhất biến, do đắc như thị vô lượng công đức, huống phục như pháp tác đàn. Nhược hữu tâm niệm địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, ác thú chư khổ năo giả, bỉ đẳng chúng sanh tất mông giải thoát, đắc sanh Cực Lạc thế giới (CBETA, T19, no.1006, p.646, b24-27).

          若誦持一遍。猶得如是無量功德。況復如法作壇。若有心念地獄餓鬼傍生惡趣諸苦惱者。彼等眾生。悉蒙解脫。得生極樂世界。

          (Nếu tụng tŕ một lần, c̣n được vô lượng công đức như thế, huống hồ đúng pháp lập đàn. Nếu có tâm nghĩ đến địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, những kẻ khổ năo trong các đường ác, những chúng sanh ấy ắt đều được giải thoát, được sanh về thế giới Cực Lạc).

 

* Đại Đà La Ni Mạt Pháp Trung Nhất Tự Tâm Chú Kinh

(大陀羅尼末法中一字心咒經)

 

          Nhược dục đắc liên hoa pháp thành tựu giả, dĩ tử đàn mộc vi nhất liên hoa. Nhị nhật vật thực, tả thủ chấp hoa, ư tượng tiền tọa, chí kỳ hỏa xuất. Đương nhĩ chi thời, cập chư đồng bạn phi đằng hư không, ư minh tiên chúng, vi Chuyển Luân Vương, ư bỉ xả mạng, đắc sanh Tây Phương Cực Lạc quốc độ (CBETA, T19, no. 956, p.319, c10-14).

          若欲得蓮花法成就者。以紫檀木。為一蓮華。二日勿食。左手執華。於像前坐。至其火出。當爾之時。及諸同伴飛騰虛空。於明仙眾。為轉輪王。於彼捨命。得生西方極樂國土。

          (Nếu muốn được thành tựu nơi pháp liên hoa, hăy dùng gỗ tử đàn làm một hoa sen. Hai ngày chẳng ăn, tay trái cầm hoa, ngồi trước tượng cho đến khi [hoa sen ấy] bốc lửa. Ngay trong khi ấy, sẽ cùng đồng bạn bay vọt lên hư không, làm Chuyển Luân Vương trong các vị minh tiên[3]. Xả mạng nơi đó, được sanh về Tây Phương Cực Lạc quốc độ).

 

* Phật Thuyết Vô Lượng Công Đức Đà La Ni Kinh

(佛說無量功德陀羅尼經)

 

          Nhược hữu chúng sanh đắc văn thử đà-la-ni, mỗi nhật thần triêu tụng nhị thập nhất biến, thị nhân ư thiên kiếp trung sở tích ác nghiệp tất giai tiêu diệt, hiện thân hoạch đắc an ổn, khoái lạc. Nhược nhân chí tâm tŕ tụng nhất lạc-xoa số, thị nhân đương lai đắc kiến Từ Thị Bồ Tát. Nhược tŕ tụng nhị lạc-xoa số, đương lai đắc kiến Quán Tự Tại Bồ Tát. Nhược tŕ tụng tam lạc-xoa số, đương lai đắc kiến Vô Lượng Thọ Phật (CBETA, T19, no. 934, p.80, b1-6).

          若有眾生得聞此陀羅尼。每日晨朝誦二十一遍。是人於千劫中所積惡業。悉皆消滅。現身獲得安隱快樂。若人至心持誦一洛叉數。是人當來得見慈氏菩薩。若持誦二洛叉數。當來得見觀自在菩薩。若持誦三洛叉數。當來得見無量壽佛。

          (Nếu có chúng sanh được nghe đà-la-ni này, sáng sớm mỗi ngày tụng hai mươi mốt lần, ác nghiệp đă tích tụ trong ngàn kiếp của người ấy thảy đều tiêu diệt, thân hiện tại đạt được an ổn, vui sướng. Nếu ai chí tâm tŕ tụng số đến một lạc-xoa[4], trong tương lai sẽ được thấy Từ Thị Bồ Tát. Nếu tŕ tụng số đến hai lạc-xoa, trong tương lai sẽ được thấy Quán Tự Tại Bồ Tát. Nếu tŕ tụng số đến ba lạc-xoa, trong tương lai sẽ được thấy Vô Lượng Thọ Phật).

 

* Phật Thuyết Đại Tập Hội Chánh Pháp Kinh

(佛說大集會正法經)

         

          Nhược nhân ư thử chánh pháp, năng thính thọ, thư tả nhất tứ cú kệ giả, thị nhân đương sanh quá cửu thập ngũ thiên câu-chi Phật sát dĩ, đắc chí Cực Lạc thế giới, kiến Phật văn pháp, thọ mạng bát vạn tứ thiên kiếp (CBETA, T13, no. 424, p.982, a6-9).

          若人於此正法。能聽受書寫一四句偈者。是人當生過九十五千俱胝佛剎已。得至極樂世界。見佛聞法。壽命八萬四千劫。

          (Nếu ai đối với chánh pháp này mà có thể lắng nghe, biên chép một bài kệ bốn câu, người ấy sẽ sanh qua khỏi chín mươi lăm ngàn câu-chi cơi Phật để đến thế giới Cực Lạc, thấy Phật nghe pháp, thọ mạng tám vạn bốn ngàn kiếp).

 

* Bất Không Quyến Tác Tỳ Lô Giá Na Phật Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn Kinh

(不空罥索毗盧遮那佛大灌頂光真言經)

 

          Dĩ nhất thiết Bất Không Như Lai Tỳ Lô Giá Na Như Lai chân thật đại nguyện đại quán đảnh quang chân ngôn thần thông, oai lực gia tŕ sa thổ chi lực, ứng thời tức đắc quang minh cập thân trừ chư tội báo, xả thử khổ thân, văng ư Tây Phương Cực Lạc quốc độ, liên hoa hóa sanh, năi chí Bồ Đề, cánh bất đọa lạc (CBETA, T19, no. 1002, p.606, b26-c1).

          以一切不空如來不空毗盧遮那如來,真實大願大灌頂光真言神通威力加持沙土之力。應時即得光明及身除諸罪報。舍此苦身。往於西方極樂國土。蓮華化生。乃至菩提。更不墮落。

          (Do thần thông và oai lực từ Chân Thật Đại Nguyện Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn của hết thảy Bất Không Như Lai và Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia tŕ vào cát và đất, ngay lập tức sẽ được quang minh chiếu đến thân, trừ các tội báo. Xả cái thân khổ sở này, sanh về Tây Phương Cực Lạc quốc độ, hóa sanh trong hoa sen, cho đến khi chứng đắc Bồ Đề, chẳng đọa lạc nữa).

 

* Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh

(佛說大乘莊嚴寶王經)

 

          Thử Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh trung, tự nhiên xuất vi diệu thanh, thị chư ngạ quỷ văn kỳ thanh, sở chấp Thân Kiến, tuy như sơn phong, cập chư phiền năo, Kim Cang trí chử phá hoại vô dư, tiện đắc văng sanh Cực Lạc thế giới, giai vi Bồ Tát.

          Nhược nhân đắc văn như thị kinh vương, nhi năng độc tụng, thị nhân nhược hữu ngũ vô gián nghiệp, giai đắc tiêu trừ. Lâm mạng chung thời, hữu thập nhị Như Lai nhi lai nghênh chi, cáo thị nhân ngôn: “Thiện nam tử! Vật ưng khủng bố. Nhữ kư văn thị Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, thị chủng chủng đạo, văng sanh Cực Lạc thế giới, hữu vi diệu cái, thiên quan, nhị đang, thượng diệu y phục, hiện như thị tướng, mạng chung quyết định văng sanh Cực Lạc thế giới” (CBETA, T20, no.1050).

          此大乘莊嚴寶王經中。自然出微妙聲。是諸餓鬼聞其聲。所執身見。雖如山峰。及諸煩惱。金剛智杵。破壞無餘。便得往生極樂世界。皆為菩薩。

          若人得聞如是經王。而能讀誦。是人若有五無間業。皆得消除。臨命終時。有十二如來而來迎之。告是人言。善男子。勿應恐怖。汝既聞是大乘莊嚴寶王經。示種種道。往生極樂世界。有微妙蓋天冠弭璫上妙衣服。現如是相。命終決定往生極樂世界。

          (Trong kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này, tự nhiên phát ra tiếng vi diệu, các ngạ quỷ ấy nghe âm thanh ấy, tuy chấp trước Thân Kiến như chót núi [cao ngất ngưởng] và các phiền năo [đều bị] chày kim cang trí huệ phá nát chẳng c̣n sót, liền được sanh về thế giới Cực Lạc, đều là Bồ Tát.

          Nếu ai được nghe vua trong các kinh như thế này mà có thể đọc, tụng, kẻ ấy nếu có nghiệp ngũ vô gián sẽ đều tiêu trừ. Khi lâm chung, có mười hai vị Như Lai đến đón, bảo người ấy rằng: “Này thiện nam tử! Chớ nên kinh hăi! Ông đă nghe kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương này dạy các thứ đạo, văng sanh thế giới Cực Lạc, có lọng vi diệu, măo trời, bông tai, y phục thượng diệu, hiện tướng như vậy, mạng chung chắc chắn văng sanh thế giới Cực Lạc”).

 

* A Rị Đa La Đà La Ni A Rô Lực Kinh

(阿唎多羅陀羅尼阿嚕力經)

 

          Hựu tiên tạo thập vạn tháp, ư nhất nhất tháp tiền, tụng nhất vạn biến, như pháp cúng dường giả, sở cầu Tất Địa giai đắc. Xả thân dĩ, nhậm ư văng sanh Cực Lạc thế giới.

          Hựu ư trực hướng hải tuyền thủy ngạn, tụ sa tạo nhất câu-chi tháp, mỗi tháp tiền tụng nhất lạc-xoa. Hữu nạn diệt trọng tội ưng đọa địa ngục, tất diệt vô dư, nhưng kiến thánh giả, mạng chung sanh Cực Lạc quốc độ, năi chí thành Phật.

          Hựu tâm niệm tụng quán tưởng, tâm tác tháp h́nh, năi chí bát bách biến, thử nhân mạng chung sanh Cực Lạc quốc độ.

          Hựu tiên ư tượng tiền tụng tam lạc-xoa, cúng dường thập vạn hành liên hoa, cánh tụng nhất câu-chi, tức ư niệm tụng xứ miên mộng trung, đắc kiến A Di Đà Phật cập Bồ Tát chúng, thính thuyết pháp âm, đắc bất thoái địa Bồ Tát vị (CBETA, T20, no.1039).

          又先造十萬塔。於一一塔前。誦一萬遍。如法供養者。所求悉地皆得。捨身已。任意往生極樂世界。

          又於直向海泉水岸。聚沙造一俱胝塔。每塔前誦一洛叉。有難滅重罪應墮地獄。悉滅無餘。仍見聖者。命終生極樂國土。乃至成佛。

          又心念誦觀想。心作塔形。乃至八百遍。此人命終。生極樂國土。

          又先於像前誦三洛叉。供養十萬莖蓮華。更誦一俱胝。即於念誦處眠夢中。得見阿彌陀佛及菩薩眾。聽說法音。得不退地菩薩位。

          (Lại nữa, trước hết tạo mười vạn cái tháp, đối trước mỗi tháp, tụng một vạn lần, đúng pháp cúng dường, Tất Địa (thành tựu) mong cầu sẽ đều đạt được. Đă xả thân, sẽ tùy ư văng sanh thế giới Cực Lạc.

          Lại đến thẳng chỗ bờ biển, suối, ḍng nước, gom cát làm thành một câu-chi cái tháp, trước mỗi tháp, tụng chú một lạc-xoa lần. Hễ có tai nạn, hư hao, hoặc trọng tội đáng đọa địa ngục thảy đều diệt sạch chẳng sót, lại c̣n thấy bậc thánh, mạng chung sanh về cơi nước Cực Lạc, cho đến thành Phật.

          Lại nữa, trong tâm niệm tụng, quán tưởng, trong tâm tưởng tạo các h́nh tượng tháp cho đến tám trăm lần, người ấy mạng chung sẽ sanh về cơi nước Cực Lạc.

          Lại nữa, đối trước tượng tụng ba lạc-xoa, cúng dường mười vạn cành hoa sen, lại tụng một câu-chi, sẽ ở chỗ niệm tụng, trong khi ngủ, mộng thấy A Di Đà Phật và các vị Bồ Tát, nghe âm thanh thuyết pháp, đạt được địa vị Bồ Tát Bất Thoái).

 

* Đại Bảo Quảng Bác Lâu Các Thiện Trụ Bí Mật Đà La Ni Kinh

(大寶廣博樓閣善住秘密陀羅尼經)

 

          Tài kết thử ấn, tụng chân ngôn, quán niệm địa ngục nhất thiết chúng sanh, bỉ địa ngục chúng sanh giai đắc giải thoát, do thử quán hạnh, giai đắc sanh Cực Lạc thế giới (CBETA, T19, no.1005A, p.631, a12-14).

          纔結此印誦真言。觀念地獄一切眾生。彼地獄眾生皆得解脫。由此觀行。皆得生極樂世界。

          (Vừa mới kết ấn này, tụng chân ngôn, quán niệm hết thảy chúng sanh trong địa ngục, các chúng sanh trong địa ngục ấy đều được giải thoát. Do quán hạnh này, sẽ đều sanh về thế giới Cực Lạc).

 

* Diệu Cát Tường B́nh Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh

(妙吉祥平等秘密最上觀門大教王經)

 

          Thử đại minh vương năng linh hữu t́nh phát Bồ Đề tâm, ngộ tối thượng pháp. Nhược hữu thọ tŕ thử chân ngôn giả, tư thắng thiện căn, năi chí thành Phật, vĩnh vô thoái chuyển, A Di Đà Phật hóa thân (CBETA, T20, no.1192, p.909, a26-28).

          此大明王。能令有情發菩提心。悟最上法。若有受持此真言者。滋勝善根。乃至成佛。永無退轉。阿彌陀佛化身。

          (Đại minh vương này có thể khiến cho hữu t́nh phát Bồ Đề tâm, ngộ pháp tối thượng. Nếu có người thọ tŕ chân ngôn này, sẽ nhờ vào thiện căn thù thắng này mà cho đến khi thành Phật, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, A Di Đà Phật hóa thân).

 

* Phổ Biến Quang Minh Diễm Man Thanh Tịnh Xí Thịnh Như Ư Bảo Ấn Tâm Vô Năng Thắng Đại Minh Vương Đại Tùy Cầu Đà La Ni Kinh

(普遍光明焰鬘清凈熾盛如意寶印心無能勝大明王大隨求陀羅尼經)

 

          Sanh thử tối thắng xứ, thư tả, tŕ, độc tụng, y pháp nhi đới chi, đắc văng An Lạc sát, liên hoa nhi hóa sanh, quyết định vô nghi hoặc.

          Dục sanh Cực Lạc quốc, tŕ đới thử minh vương, quyết định vô nghi hoặc (CBETA, T20, no.1153).

          生此最勝處。書寫持讀誦。依法而帶之。得往安樂剎。蓮華而化生。決定無疑惑。

          欲生極樂國。持帶此明王。決定無疑惑。

          (Sanh trong chỗ tối thắng này, biên chép, tŕ, đọc, tụng, theo đúng pháp mang theo, sẽ được sanh về cơi An Lạc, hóa sanh trong hoa sen, chắc chắn chẳng nghi hoặc.

          Muốn sanh về cơi Cực Lạc, tŕ, đeo minh vương này, chắc chắn chẳng nghi hoặc).

 

* Phật Thuyết Nhất Thiết Phật Nhiếp Tương Ứng Đại Giáo Vương Kinh Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Niệm Tụng Nghi Quỹ Kinh

(佛說一切佛攝相應大教王經聖觀自在菩薩念誦儀軌經)

 

          Nhược tŕ tụng nhất câu-chi số, đương đắc cụ túc Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Phật thân khẩu ư đẳng, lợi lạc chúng sanh. Nhất tâm chuyên chú, tŕ tụng bất giải, hữu sở cầu sự, tất hoạch thành tựu, kiến thọ khoái lạc. Mạng chung chi hậu, đương đắc sanh ư Cực Lạc thế giới (CBETA, T20, no.1051, p.65, c1-3).

          若持誦一俱胝數。當得具足極樂世界無量壽佛身口意等。利樂眾生。一心專註。持誦不懈。有所求事。必獲成就。見受快樂。命終之後。當得生於極樂世界。

          (Nếu tŕ tụng đủ số một câu-chi lần, sẽ được trọn đủ thân, khẩu, ư như Vô Lượng Thọ Phật trong thế giới Cực Lạc, lợi lạc chúng sanh. Nhất tâm chuyên chú, tŕ tụng chẳng lười nhác, có chuyện mong cầu ǵ, ắt được thành tựu, thọ hưởng vui sướng. Sau khi mạng chung, sẽ được sanh về thế giới Cực Lạc).

 

* Thập Nhất Diện Quán Tự Bồ Tát Tâm Mật Ngôn Niệm Tụng Nghi Quỹ Kinh

(十一面觀自在菩薩心密言念誦儀軌經)

 

          Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ tịnh tín tâm, ân trọng ức niệm, tác ư, hiện thế đắc thập chủng thắng lợi… Phục hoạch tứ chủng công đức. Nhất giả, lâm mạng chung thời đắc kiến Như Lai. Nhị giả, bất sanh ư ác thú. Tam giả, bất phi mạng chung. Tứ giả, tùng thử thế giới đắc sanh Cực Lạc quốc độ (CBETA, T20, no.1069).

          若有善男子善女人。以凈信心。殷重憶念作意。現世得十種勝利。復獲四種功德。一者臨命終時得見如來。二者不生於惡趣。三者不非命終。四者從此世界得生極樂國土。

          (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân do tín tâm thanh tịnh, ân cần, trịnh trọng, nghĩ nhớ, suy tưởng, trong đời hiện tại sẽ được mười thứ lợi ích thù thắng... Lại đạt được bốn thứ công đức. Một là khi lâm chung được thấy Như Lai. Hai là chẳng sanh vào đường ác. Ba là chẳng chết ngang trái. Bốn là từ thế giới này được sanh vào cơi nước Cực Lạc).

 

* Đại Phương Quảng Bồ Tát Tạng Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ Kinh

(大方廣菩薩藏文殊師利根本儀軌經)

 

          Đắc nhất thiết thiên nhân phụng trọng cúng dường, trụ thọ nhất đại kiếp, mạng chung chi hậu, văng sanh Cực Lạc thế giới (CBETA, T20, no.1191, p.897, c15-16).

          得一切天人奉重供養。住壽一大劫。命終之後。往生極樂世界。

          (Được hết thảy trời, người tôn trọng cúng dường, sống lâu một đại kiếp. Sau khi mạng chung, văng sanh Cực Lạc thế giới).

 

* Thánh Cứu Độ Phật Mẫu Nhị Thập Nhất Chủng Lễ Tán Kinh

(聖救度佛母二十一種禮讚經)

 

          Kính lễ đảnh quan nguyệt tướng mẫu, quan trung hiện thắng diệu nghiêm quang, A Di Đà Phật kế trung hiện, thường phóng chúng diệu bảo quang minh (CBETA, T20, no.1108A, p.479, a17-19).

          敬禮頂冠月相母。冠中現勝妙嚴光。阿彌陀佛髻中現。常放眾妙寶光明。

          (Kính lễ đấng Phật mẫu h́nh tướng như mặt trăng, đầu đội măo. Từ trong măo, Ngài hiện quang minh thù thắng mầu nhiệm, trang nghiêm. A Di Đà Phật hiện ra từ búi tóc, thường phóng các thứ quang minh báu mầu nhiệm).

 

* Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận

(大乘集菩薩學論)

 

          Dĩ thử thiện căn nguyện sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới Vô Lượng Thọ Như Lai tiền giả, nhược đắc văn thị Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai danh hiệu, thị nhân lâm mạng chung thời, bát đại Bồ Tát giai dĩ thần thông lai thị chánh đạo (CBETA, T32, no.1636, p.109, c29-p.110, a3).

          以此善根願生西方極樂世界無量壽如來前者。若得聞是藥師琉璃光王如來名號。是人臨命終時。八大菩薩皆以神通來示正道。

          (Do thiện căn này, nguyện sanh về trước đức Vô Lượng Thọ Như Lai trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu được nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, người ấy khi lâm chung, tám vị đại Bồ Tát đều dùng thần thông đến dạy chánh đạo).

A Di Đà Phật Thánh Điển chung

 

* Phụ Lục - Khai thị của Thiện Đạo đại sư

 

          1) Hết thảy phàm phu thiện ác được văng sanh, không ai chẳng đều nhờ vào đại nguyện nghiệp lực của A Di Đà Phật làm cái duyên tăng thượng.

          2) Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đi, đứng, ngồi, nằm, bất luận thời gian lâu hay mau, niệm niệm chẳng xả. Đấy gọi là nghiệp Chánh Định, phù hợp với nguyện của đức Phật ấy.

          3) Một là quyết định tin sâu đậm, bản thân nay đang là phàm phu sanh tử tội ác, từ bao kiếp lâu xa đến nay, thường ch́m đắm, thường lưu chuyển, chẳng có duyên để xuất ly.

          Hai là quyết định tin sâu đậm, bốn mươi tám đại nguyện của A Di Đà Phật nhiếp thọ chúng sanh, chẳng ngờ vực, chẳng lo âu, nương vào nguyện lực ấy, nhất định được văng sanh.

          4) Thâm tâm chính là tín tâm chân thật: Tin biết chính ḿnh là phàm phu trọn đủ phiền năo, thiện căn ít mỏng, trôi lăn trong ba cơi, chẳng ra khỏi căn nhà lửa. Nay tin biết thệ nguyện rộng lớn của đức Di Đà và xưng danh hiệu, tối thiểu là mười tiếng, hay một tiếng v.v… sẽ chắc chắn được văng sanh, cho đến nhất niệm, tâm chẳng nghi hoặc. V́ thế gọi là thâm tâm.

          5) Hết thảy phàm phu chẳng cần biết là tội phước nhiều hay ít, thời gian lâu hay mau, chỉ cần là trên là trọn một trăm năm, dưới là một ngày, bảy ngày, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di Đà, nhất định sẽ được văng sanh.

          6) Trong những phần trên, tuy đă nói về lợi ích của hai môn Định và Tán, nhưng xét ra bổn nguyện của Phật cốt yếu là “chúng sanh một mực chuyên xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật”.

          7) Nhất tâm tin ưa, cầu nguyện văng sanh, trên là cho đến hết tuổi thọ, dưới là gộp trong một niệm, nương vào nguyện lực của Phật, không ai chẳng đều được văng sanh.

          8) Nói “nam-mô” tức là Quy Mạng, cũng có nghĩa là hồi hướng phát nguyện. Nói “A Di Đà Phật” tức là nói đến sự hành tŕ. Do v́ nghĩa này mà ắt được văng sanh.

          9) Chỉ v́ trên là trọn hết tuổi thọ, dưới là mười niệm, do nguyện lực của Phật, không ai chẳng đều văng sanh. V́ thế, [pháp môn này] được gọi là dễ dàng.

          10) Bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng đều nói: “Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, xưng danh hiệu của tôi, nguyện sanh vào cơi tôi, tối thiểu mười niệm, mà nếu chẳng được sanh về, sẽ chẳng giữ lấy Chánh Giác”.

          11) Các hạnh khác tuy gọi là Thiện, nhưng nếu so với niệm Phật th́ hoàn toàn chẳng thể sánh bằng được!

          12) Do vậy, trong các kinh, chỗ nào cũng ca ngợi rộng răi công đức niệm Phật. Như trong kinh Vô Lượng Thọ, phần bốn mươi tám nguyện, chỉ nói rơ: Do chuyên niệm danh hiệu Di Đà mà được văng sanh. Lại như trong kinh Di Đà: Một ngày hoặc bảy ngày chuyên niệm danh hiệu Di Đà, sẽ được văng sanh. Lại được mười phương chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương chứng minh sự chân xác ấy. Lại như trong phần kinh văn [phân định] Định Thiện và Tán Thiện của kinh này (Quán Kinh), chỉ nói “chuyên niệm danh hiệu bèn được văng sanh”.

          13) Trên là cho đến hết thọ mạng, dưới là một ngày, một giờ, một niệm v.v… hoặc là từ một niệm, mười niệm, cho đến một thời, một ngày, một đời; đại ư là: Sau khi đă phát tâm, bèn thề trọn hết đời này, chẳng hề thoái chuyển, chỉ lấy [văng sanh] Tịnh Độ làm kỳ hạn.

          14) Xưng niệm A Di Đà Phật, nguyện văng sanh, đời này sẽ được tăng thêm tuổi thọ, chẳng mắc chín thứ nạn chết ngang trái.

          15) Chỉ có đối với chúng sanh chuyên niệm A Di Đà Phật th́ tâm quang của đức Phật ấy sẽ thường chiếu đến người đó, nhiếp thủ, hộ tŕ chẳng bỏ, nói chung là chẳng chiếu soi, nhiếp thủ, hộ tŕ người tu các hạnh nghiệp khác.

          16) Nếu có chúng sanh được sanh về cơi Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, đều là nhờ vào nghiệp lực do đại nguyện của A Di Đà Phật làm tăng thượng duyên.

          17) Hết thảy phàm phu tạo tội, chỉ hồi tâm niệm A Di Đà Phật, nguyện sanh về Tịnh Độ, trên là trọn hết trăm năm, dưới là cho đến bảy ngày, hoặc một ngày, mười tiếng, ba tiếng, một tiếng v.v… khi sắp mạng chung, đức Phật và thánh chúng tự đến đón tiếp, liền được văng sanh.

          18) Cực Lạc là cơi vô vi Niết Bàn, tùy duyên tạp thiện sợ khó được sanh về! V́ thế, khiến cho đức Như Lai chọn lựa pháp yếu là dạy hành nhân chuyên niệm Di Đà càng chuyên cần hơn!

          19) Nếu muốn bỏ sự chuyên tu để làm nhiều hạnh nghiệp khác nhau, trong trăm trường hợp, hiếm có được một hai [người thành tựu], trong ngàn trường hợp, hiếm có được dăm ba người [thành tựu văng sanh]!

          20) Hiện thời, như tôi thấy nghe, đạo tục các nơi giải hạnh bất đồng, chuyên tu và tạp tu sai khác, nhưng nếu là kẻ chuyên tâm dốc ư tu tập th́ mười người cả mười được văng sanh; kẻ tạp tu chẳng chí tâm, trong ngàn người chẳng được một người [văng sanh]!

          21) Thân sắc của Phật Di Đà như ṭa núi vàng, tướng hảo quang minh chiếu mười phương, chỉ có niệm Phật được quang minh của Ngài nhiếp thọ, sẽ biết bổn nguyện của Ngài mạnh mẽ nhất.

          22) Quang minh của đức Phật ấy vô lượng, chiếu mười phương cơi chẳng bị chướng ngại, chỉ thấy chúng sanh niệm Phật, nhiếp thủ chẳng bỏ. V́ thế, Ngài có tên là A Di Đà.

          23) Phàm phu nương theo nguyện lực của Phật, nhất định được văng sanh.

          24) Sanh ḷng tin chẳng nghi, nương theo nguyện lực của Phật, thảy đều được văng sanh.

          25) Phật quang chiếu trọn khắp, chỉ thâu nhiếp người niệm Phật.

 



[1] Đây là bản dịch khác của bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận do ngài Chân Đế người xứ Tây Ấn Độ dịch vào đời Lương, c̣n đoạn trước đó trích từ bản dịch của ngài Thật Xoa Nan Đà xứ Vu Điền, dịch vào đời Đường.

[2] Ma Ha Đản Tŕ là phiên âm của chữ Maha Tantra. Kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni, quyển một chép: “Này thiện nam tử! Có đà-la-ni tên Ma Ha Đản Tŕ, có đà-la-bi tên là Ma Ha Ly Bà Đế, có đà-la-ni tên là Bảo Tràng, có đà-la-ni tên là Bảo Diễm…”

[3] Minh tiên (明仙): Các vị tŕ chú đạt thành tựu.

[4] Lạc xoa (laksa) là một trăm ngàn. Từ ngữ này c̣n được phiên âm là lạc sa, lạc khất sử…