Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 17

         

Phụ lục 1: Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục (ghi chép những điều linh ứng hiển nhiên của kinh Pháp Hoa)

Tứ Minh Thạch Chi sa-môn Tông Hiểu[1] biên soạn

(四明石芝沙門宗曉編)

 

I. Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục, quyển thượng (法華經顯應錄卷上)

 

          Xưa kia, Vĩnh Minh Trí Giác thiền sư (tổ Vĩnh Minh Diên Thọ) dùng đại biện tài, soạn ra năm bài phú, tức là Hoa Nghiêm Cảm Thông, Kim Cang Chứng Nghiệm, Pháp Hoa Linh Thụy, Quán Âm Hiện Thần (Quán Âm biến hiện thần thông), và Thần Thê An Dưỡng (gởi tâm nơi Cực Lạc), ngơ hầu điểm xuyết thánh giáo, cổ vũ các căn cơ. Có thể nói Ngài có công to lớn đối với pháp vận trong thời Tượng Pháp. Nhưng soạn phú th́ đặc biệt chú trọng dùng [phương cách] ca vịnh, tán dương, đối với các sự tích nếu chẳng t́m từ truyện kư, sẽ chẳng thể biết trọn vẹn từ đầu đến cuối được! V́ thế, đối với Hoa Nghiêm bèn có Cảm Ứng Truyện, Kim Cang th́ có Ứng Nghiệm Lục, Pháp Hoa th́ có Linh Thụy Tập, Quán Âm th́ có Cảm Ứng Tập, Tịnh Độ bèn có Văng Sanh Truyện. Đọc kỹ, xem rộng, sẽ biết sự ứng nghiệm linh dị trong Phật pháp chẳng phải là một vài trường hợp đơn lẻ. Nay Linh Thụy Tập được lưu hành trong cơi đời có hai bản, tức là [một bản] chỉ ghi là Linh Thụy Tập, và [bản kia là] Tục Linh Thụy Tập.

          Trong Linh Thụy Tập, ghi chép sáu mươi chuyện, nhưng chẳng ghi tên người sưu tập, biên soạn, chỉ có lời tựa do Dương Hy soạn trong niên hiệu Gia Hựu[2]. Bản này đă có từ lâu, gần đây được khắc in vài lượt; nhưng trong ấy chẳng nêu xuất xứ [của các câu chuyện], mà cũng chẳng phân loại đạo tục. Đối với sự tích của chư Tổ, cũng chẳng ghi chép niên hiệu. Do có các thiếu sót ấy, cho nên chẳng phải là điển tịch mẫu mực.

          Tục Linh Thụy Tập do pháp sư Nguyên Dĩnh tại Ngô Hưng biên soạn trong niên hiệu Đại Quán[3] nhằm tiếp nối bản cũ. Sách được chia thành mười khoa, bắt đầu từ ngài Phổ Hiền chứng minh, cuối cùng là Hương Quang tỏ lộ điềm lành. Bản này khá tốt đẹp, đă loại trừ các khuyết điểm trong bản trước, hiềm rằng quê quán [của các nhân vật được nhắc tới trong sách] đă bị mất từ lâu, thường là phần nhiều chẳng được nhắc đến!

          Tôi trộm cho rằng bảo điển cùng tột Pháp Hoa quả thật là cội gốc to lớn để thể hiện sự linh hiển của chư Phật, là nguồn cội sâu thẳm để các loài chúng sanh đạt đạo, được bậc á thánh đại sĩ[4] khuyến phát, được các vị thượng thủ của chư thiên hộ tŕ. Hiện thời, dù hàng xuất gia hay kẻ tại gia, không ai chẳng dốc ḷng thành đọc tụng, tâm nghĩ nhớ tột bậc tu tập. Nếu công năng thần diệu, sự tích vĩ đại chẳng được ghi chép trong các sách vở, cơi đời sẽ chẳng được nghe ngôn hạnh của tiền nhân, sao có thể tạo thành đầu mối để khuyến tín cho được? Tông Hiểu lạm dự vào Tăng chúng, chí ưa thích Văn Tŕ, than thở sâu xa bản cũ chưa toàn vẹn, tục bản lại tàn khuyết. Do vậy, đổ công t́m ṭi khắp trong Đại Tạng, các truyện kư của chư Tăng trong ba triều, và các nội điển, ngoại thư, [hễ t́m được các sự tích linh ứng] dù ẩn hay hiển đều gom góp; cũ, mới cùng xếp bày, hợp thành hai trăm ba mươi chín chuyện. Trước là nêu bày [sự tích của các] bậc cổ thánh, xếp vào đầu sách; kế đó, phân biệt theo bốn thể lệ, tức là cao tăng, cao ni, tín nam, và tín nữ, chia thành hai quyển, đặt tên là Pháp Hoa Hiển Ứng Lục. Đó là v́ dựa theo tướng trạng thù thắng do thân khẩu cảm vời trong đời hiện tại [của các vị] thuộc tông Thiên Thai, coi đó là Hiển Cơ Hiển Ứng vậy. Mong sao sách này đều khiến cho người đọc dốc ḷng nơi Thật Tướng, bàn luận, nghĩ ngợi chân thừa, giữ vững tiết tháo vượt hơn tùng trúc, ḷng tinh thành đủ để xuyên thủng đá vàng! V́ thế, ḷng thành trần thuật sự ứng nghiệm, khác nào tiếng sáo triệu vời chim phượng hoàng, dùng điều này để biếu tặng cho người đời sau: Một người hiểu sẽ khuyên bảo ngàn vạn người. Không ai chẳng phải là kẻ ở trong ṭa nhà hư nát mà hay biết nạn lửa, đào bới [t́m nước] chốn cao nguyên, liền ngự trên cỗ xe cao rộng, thẳng thừng tạo tác cảnh giới rất sâu! Đấy chính là điều tôi mong mỏi! Trong các vị được ghi lại, có vị chỉ có sự tích, chẳng có sự cảm ứng [rơ rệt]. Đấy lại chính là “hiển cơ minh ứng” (căn cơ hiển nhiên, cảm ứng ngấm ngầm), mong người đọc hăy hiểu cho.

          Ngày mồng Một giữa Xuân (tháng Hai) năm Mậu Ngọ (1198) thuộc niên hiệu Khánh Nguyên[5], Tông Hiểu kính cẩn đề tựa.

 

1. Cổ thánh (bảy chuyện này đều trích từ kinh Pháp Hoa)

* Tháp báu của Phật Đa Bảo do nghe kinh mà từ dưới đất hiện lên

 

          Trong quá khứ, có vị Phật hiệu là Đa Bảo. Khi vị Phật này hành Bồ Tát đạo, đă phát đại thệ nguyện: “Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ, các quốc độ trong mười phương, hễ chỗ nào có nói kinh Pháp Hoa, tháp miếu của ta do nghe kinh sẽ vọt lên, hiện ra nơi đó để chứng minh”. Nay tháp của Đa Bảo Như Lai, do nghe nói kinh Pháp Hoa bèn từ đất vọt ra, khen ngợi: “Lành thay, lành thay!” Phật Đa Bảo có nguyện: “Ai muốn chỉ bày thân ta cho tứ chúng, cần phải nhóm họp phân thân chư Phật của vị Phật ấy. Đă nhóm đủ rồi mới mở tháp được!” Phật Đa Bảo chia ṭa ngồi, Phật Thích Ca cùng ngồi thuyết pháp. Thánh chúa Thế Tôn tuy diệt độ đă lâu, ở trong tháp báu c̣n v́ pháp mà đến, sao mọi người chẳng siêng năng v́ pháp?

 

* Phật Thích Ca làm vua cầu kinh chẳng mệt mỏi

 

          Đức Phật bảo tứ chúng: - Trong quá khứ vô lượng kiếp, ta cầu kinh Pháp Hoa chẳng lười nhác, mệt mỏi. Trong nhiều kiếp, thường làm quốc vương, phát nguyện cầu Vô Thượng Bồ Đề, tâm chẳng thoái chuyển; v́ pháp bỏ ngôi vua, giao việc triều chánh cho Thái Tử, đánh trống tuyên lệnh cầu pháp tứ phương: “Ai có thể v́ ta nói Đại Thừa, ta sẽ suốt đời cung cấp, hầu hạ”. Khi đó, có A Tư tiên đến thưa cùng vua rằng: “Ta có pháp Đại Thừa tên là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu chẳng trái nghịch ta, ta sẽ tuyên nói cho nhà vua”. Vua nghe lời tiên nhân nói, hoan hỷ, hớn hở, liền theo tiên nhân cung cấp các thứ cần dùng: Hái quả, gánh nước, nhặt củi, nấu nướng. Thậm chí dùng thân thể làm giường, ṭa [cho tiên nhân dựa, ngồi], thân tâm chẳng mệt mỏi. Khi đó, vua phụng sự trải qua ngàn năm, v́ pháp mà siêng năng, chuyên ṛng hầu hạ, khiến cho tiên nhân chẳng thiếu thốn. Vị vua khi ấy chính là đức Thích Ca Văn (Thích Ca Mâu Ni Phật). Tiên nhân thuở đó nay là Đề Bà Đạt Đa. [Đức Phật nói]: Do thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa khiến cho ta trọn đủ Lục Ba La Mật, thành Đẳng Chánh Giác, rộng độ chúng sanh.

 

* Thường Bất Khinh Bồ Tát lưu thông kinh Pháp Hoa

 

          Vào thuở xa xưa, trong thời Tượng Pháp của Oai Âm Vương Như Lai, tăng thượng mạn tỳ-kheo có thế lực to lớn. Lúc bấy giờ, có một vị tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. Vị tỳ-kheo ấy hễ trông thấy tứ chúng, thảy đều lễ bái, tán thán, nói như thế này: “Tôi tôn kính quư vị sâu xa, chẳng dám khinh mạn. Các vị hành Bồ Tát đạo, sẽ được thành Phật”. Vị tỳ-kheo ấy chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ hành lễ bái. Trong tứ chúng, có kẻ sanh ḷng sân khuể, tâm bất tịnh, ác khẩu rủa sả: “Gă vô trí tỳ-kheo này từ đâu đến đây? Chúng ta chẳng cần lời thọ kư hư vọng ấy!” Mọi người có khi dùng gậy gộc, ngói, đá đánh ném. Vị ấy chạy tránh ra đứng đằng xa, vẫn lớn tiếng xướng rằng: “Tôi chẳng dám khinh các vị. Các vị sẽ đều thành Phật”. Do thường nói lời ấy, cho nên bị gọi là Thường Bất Khinh. Vị tỳ-kheo ấy khi lâm chung, nghe từ hư không trọn đủ kinh Pháp Hoa do Oai Âm Vương Phật đă nói trước đó, đều có thể thọ tŕ, liền được sáu căn thanh tịnh, rộng v́ người khác nói kinh Pháp Hoa này. Bất Khinh thuở đó chính là Thích Ca Văn. Nếu trong đời trước ta chẳng thọ tŕ kinh này, v́ người khác giảng nói, sẽ chẳng thể mau chóng đắc Bồ Đề. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: “Thích Ca xuất thế, chần chừ chẳng nói. Bất Khinh vừa trông thấy [người khác], bèn lỗ măng nói, v́ lẽ nào? Đáp: [Những kẻ được Thường Bất Khinh nói “chẳng dám khinh”] vốn đă có điều thiện. Phật Thích Ca v́ bảo vệ hàng Tiểu Thừa, v́ họ chưa có điều thiện [cho nên Ngài chần chừ chẳng nói]. Bất Khinh do thấy họ đă có căn cơ Đại Thừa bèn cưỡng ép”. Trong bài Uẩn Tế Tụng của ngài Nam B́nh Thanh Biện có viết: “Gươm báu chưa dùng, cất hộp ngọc. Thất tinh bóng lạnh, hiện lờ mờ. Ân cần nói với người bên cạnh, Long Tuyền trong hộp chớ xem thường”.

 

* Ngài Hỷ Kiến đốt thân cúng dường kinh mầu nhiệm

 

          Trong quá khứ, Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật v́ Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát và các Thanh Văn nói kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát ấy thích tu tập khổ hạnh, nhất tâm cầu Phật đạo, tṛn một vạn hai ngàn năm, đắc Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam-muội. Đă đắc tam-muội ấy, liền nghĩ rằng: “Ta đắc tam-muội này đều do sức nghe kinh Pháp Hoa. Ta nay nên cúng dường Phật và kinh Pháp Hoa. Tuy ta đă dùng thần lực để cúng dường, chẳng bằng dùng thân cúng dường”. Liền đối trước Phật tự đốt thân, quang minh soi trọn khắp các thế giới nhiều như số cát trong tám mươi ức sông Hằng. Chư Phật trong các cơi ấy đồng thời tán thán: “Lành thay! Lành thay! Là chân tinh tấn, được gọi là pháp cúng dường thật sự”. Thân ấy cháy trong một ngàn hai trăm năm. Sau khi mạng chung, [Bồ Tát] lại sanh trong cơi của Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, trong vương cung của vua Tịnh Đức, bạch với cha rằng: “Con trước đó đă cúng dường Phật, đạt được Giải Nhất Thiết Chúng Ngữ Ngôn Đà La Ni. Lại nghe kinh Pháp Hoa này”. Cho đến sau khi đức Phật ấy diệt độ, ngài Hỷ Kiến liền đối trước tám vạn bốn ngàn tháp thờ xá-lợi, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm suốt bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường. Sách Pháp Hoa Văn Cú chú giải: “Hỷ Kiến nhanh chóng bỏ một thân, lại đốt hai cánh tay, khinh sanh mạng, tôn trọng pháp, mạng mất, đạo c̣n”.

 

* Ngài Diệu Âm từ xa đến nghe kinh Pháp Hoa

 

          Thích Ca Mâu Ni Phật phóng quang minh từ nhục kế, chiếu trọn khắp các thế giới nhiều như cát trong một trăm lẻ tám vạn ức na-do-tha sông Hằng. Qua khỏi số ấy, có cơi của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật. Cơi đó có Bồ Tát tên là Diệu Âm, đă gieo trồng cội đức từ lâu. Vị Bồ Tát ấy từ cơi của Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đến thế giới Sa Bà này, cúng dường Phật Thích Ca, và cũng muốn cúng dường, nghe kinh Pháp Hoa. Khi đó, Diệu Âm Bồ Tát biến mất trong cơi kia, cùng với tám vạn bốn ngàn Bồ Tát tới đây. Lúc ấy, Phật Đa Bảo bảo ngài Diệu Âm rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông có thể v́ cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa mà đến nơi đây”.

 

* Bốn vị tỳ-kheo tu tập Pháp Hoa thuở trước

 

          Xưa kia, có bốn vị tỳ-kheo, sanh ḷng ân cần, trân trọng tột bậc đối với kinh Pháp Hoa, nhưng chưa được cam lộ từ giáo pháp bí mật của kinh điển tưới tắm. Do vậy, họ kết bạn vào núi tu hành để cùng mong đắc Phật huệ. Ẩn cư lâu ngày, lương thực cạn sạch. Một bữa ăn phải đi vạn dặm, chí xông thấu trời thẳm há có thể đạt được ư? Một người bèn nói: “Bốn người bọn ta nghèo đến nỗi chẳng giữ nổi cái thân, pháp sẽ gởi gắm vào đâu? Ba người các anh hăy nên dốc hết tánh mạng phụng sự đạo, một ḿnh tôi sẽ cung cấp các thứ cần dùng cho các anh”. Từ đó, [vị ấy] chống tích trượng nơi xóm làng để t́m cầu các thứ cung cấp, dẫu nóng lạnh đắp đổi, vẫn cam tâm vui sướng, chẳng bực bội! V́ thế, ba người kia công đức viên thành, lợi ích trong một đời mà thành vô lượng đời. Người kia do nhiều lượt lăn lộn trong nhân gian, nhiều lần gặp thanh sắc, đồ gốm chưa nung khó thể ǵn giữ. Ngẫu nhiên thấy bậc vương giả ra vào, xe cộ rộn rịp, tâm sanh động niệm, mến chuộng sự vinh hoa ấy. Do công đức huân tu, theo niệm thọ báo, thường được làm vua trên cơi trời và nhân gian. Phước tuy chẳng thể lường, nhưng vẫn hữu hạn! Ba người đă đắc đạo, tụ lại bàn bạc: “Ta thoát khỏi lồng bẫy do công của người này. Ông ta đắm đuối quả báo, tăng trưởng hữu vi. Từ đây chết đi, sẽ ch́m vào hố lửa. May vẫn c̣n chưa đọa, đúng là lúc hăy nên lập cách giáo hóa. Một người nói: “Vị vua này chấp dục, lại c̣n tà kiến. Nếu chẳng dùng ái để lôi móc, sẽ chẳng có cách nào cứu bạt! Một người có thể làm vợ đoan chánh, hai người kia làm con thông minh. Vợ con như thế, ắt vua sẽ thuận theo. Lập cách giáo hóa như thế, ắt vua sẽ cải tà!” Quốc vương khi đó chính là vua Diệu Trang Nghiêm, nay là Hoa Đức Bồ Tát. Người vợ là phu nhân Tịnh Đức, nay là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ Tát. Hai con khi xưa tức là Tịnh Nhăn và Tịnh Tạng, nay là hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng. Nêu ra cái nhân trước của bốn vị thánh, cho nên phẩm này có tên là Bổn Sự. Nói cặn kẽ th́ như trong Pháp Hoa Văn Cú. Ngài Nam B́nh tụng rằng: “Tích niên tụ thủ tịch liêu khê, tam bộ thanh vân, nhất đọa nê. Tiểu kỹ lược thi cam chiết giác, đại gia phủ chưởng nhiếp thiên thê” (lược dịch: Năm xưa tụ họp chốn hoang vu, ba người giải thoát, một người mê. Tṛ mọn tạm bày thôi đắm đuối, nắm tay vượt thoát chốn tam đồ).

 

1.7. Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát lưu thông

          Lúc bấy giờ, Phổ Hiền Bồ Tát từ phương Đông đến, bạch Phật rằng: “Con từ cơi nước của Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, vẳng nghe thế giới Sa Bà này nói kinh Pháp Hoa, bèn cùng với các vị đại Bồ Tát cùng đến nghe nhận. Kính xin đức Thế Tôn hăy v́ con mà nói: Sau khi đức Như Lai diệt độ, người ta phải làm như thế nào để được kinh Pháp Hoa?” Đức Phật bảo ngài Phổ Hiền: “Nếu người đó thành tựu bốn pháp th́ sau khi Như Lai diệt độ, sẽ đạt được kinh Pháp Hoa này. Một là được chư Phật hộ niệm, hai là gieo các cội đức, ba là nhập Chánh Định Tụ, bốn là phát tâm cứu hết thảy chúng sanh. Thành tựu bốn pháp như thế, ắt sẽ đạt được kinh này”. Phổ Hiền bạch Phật rằng: “Trong đời ác trược vào năm trăm năm sau, hễ có người thọ tŕ kinh điển này, con sẽ thủ hộ, trừ các suy hoạn cho người ấy. Người ấy dù đi, hay đứng, đọc tụng kinh này, con sẽ liền cưỡi voi trắng sáu ngà, cùng các vị đại Bồ Tát tự hiện thân để cúng dường, thủ hộ, cũng v́ cúng dường kinh Pháp Hoa vậy. Nếu người ấy đối với kinh Pháp Hoa quên mất một câu, một kệ, con sẽ dạy cho”. Sách Pháp Hoa Văn Cú giải thích: “Phật nêu ra bốn pháp thâu tóm trọn vẹn một kinh. Pháp Hoa được trùng diễn, Phật huệ được trùng tuyên. Từ xa đến khuyến phát, có ư nghĩa như thế đó”. Ngài Nam B́nh tụng rằng: “Biến Cát tầm thanh đắc đắc lai, cự linh tài tịch tuyệt tiêm ai. Tượng vương hà sự tần di bộ, vị ái Phân Đà măn thế đài” (tạm dịch: Theo tiếng, Phổ Hiền đến cơi này. Thần linh tránh né, sạch trần ai. Voi chúa v́ đâu dời bước măi? Do chuộng kinh sen giẫm bậc rêu).

 

2. Cao tăng (gồm một trăm bảy mươi ba người)

 

* Tỳ-kheo Ma Ha La tại Thiên Trúc

         

          Xưa kia, tại nước Thiên Trúc, có một vị tỳ-kheo trụ A Lan Nhă, tên là Ma Ha La, đọc kinh Đại Thừa rất nhiều, đức hạnh hiển hách. Quốc vương chánh tín, từng trải tóc phủ chỗ đất bùn để tỳ-kheo đi qua. Lại có tỳ-kheo đến tâu với vua rằng: “Vị này chẳng đọc nhiều kinh điển, sao bệ hạ lại cúng dường trọng thể?” Vua đáp: “Có một hôm, trẫm từng nửa đêm muốn đến gặp vị tỳ-kheo ấy, liền đến chỗ Ngài, thấy Ngài ở trong một cái hang đọc kinh Pháp Hoa. Có một người quang minh sắc vàng ṛng, cưỡi voi chúa trắng [ở bên cạnh], chắp tay cúng dường. Trẫm vừa mới đến gần, người ấy liền biến mất. Trẫm hỏi đại đức: ‘V́ sao trẫm đến th́ người có quang minh sắc vàng ṛng ấy diệt mất?’ Tỳ-kheo bảo: ‘Đấy là Biến Cát Bồ Tát. Ngài Biến Cát tự nói: ‘Nếu có ai tụng kinh Pháp Hoa, ta sẽ cưỡi voi trắng đến dạy bảo. Tôi đọc kinh này, ngài Biến Cát tự đến’. Biến Cát chính là Phổ Hiền Bồ Tát trong kinh Pháp Hoa vậy. Trẫm nghe xong, lễ dưới chân [vị tỳ-kheo ấy] rồi lui về. V́ thế, trẫm nay thường cúng dường” (trích từ Đại Trí Độ Luận).

 

* Tam Tạng Hộ Pháp sư ở Đôn Hoàng

          Ngài Tam Tạng Đàm Ma La Sát (Dharma-rakṣa), phương này dịch là Pháp Hộ, vốn là người xứ Nhục Chi[6], tám tuổi ĺa cơi tục. Hễ kinh sách nào lướt qua mắt, Sư đều thuộc ḷng; mỗi ngày nhớ được một vạn chữ. Sư đi sang phương Tây, trải qua các nước, thông thạo ba mươi sáu loại ngôn ngữ, văn pháp, cách giải thích, âm đọc của chúng. Sự trụ tại Đôn Hoàng đă lâu, người thời ấy gọi Sư là Đôn Hoàng Bồ Tát. Vào thời Vũ Đế nhà Tây Tấn, Sư mang kinh bản tiếng Phạn đến Lạc Dương. Sư c̣n thông thạo rộng răi ngũ kinh, sử truyện [của Trung Hoa]. Trong niên hiệu Vĩnh Khang[7], Sư trụ trong ngôi chùa lớn ở ngoài cửa Thanh Môn của Trường An, dịch bộ Chánh Pháp Hoa Kinh gồm mười quyển, lại c̣n v́ tứ chúng diễn giảng. c̣n dịch các kinh khác, tổng cộng một trăm năm mươi bốn bộ, đều được sắc truyền lưu thông. Thuở đó, Sư ẩn cư trong núi sâu, trong núi có con suối trong vắt, có thể dùng để tắm rửa. Một hôm, do có tiều phu nhuốm bẩn, suối bỗng khô cạn. Ngài Pháp Hộ than rằng: “Người vô đức đến nỗi suối trong ngưng chảy. Đă thiếu thứ cần dùng, ta nên rời đi”. Nói xong, nước suối trong vắt lại trào lên. Chi Độn[8] tán thán: “Hộ công chứng Tịch, đạo đức uyên mỹ, vi ngâm khung cốc, khô tuyền sấu thủy. Mạc dĩ Hộ Công, thiên đĩnh hoằng ư, trạc túc lưu sa, khuynh bạt huyền trí” (Hộ công chứng tịch diệt, đạo đức thật sâu mầu, khẽ than chốn hang thẳm, suối khô bỗng nước trào, ngài Pháp Hộ cao thẳm, bẩm tánh đẹp tót vời, rửa chân chốn lưu sa, nắm vững lẽ huyền diệu) (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Tam Tạng pháp sư Cưu La Ma Thập thời Diêu Tần

 

          Pháp sư Cưu Ma La Thập, Hán dịch là Đồng Thọ, người xứ Quy Tư. Bảy tuổi xuất gia, mỗi ngày tụng một ngàn bài kệ. Mẹ Ngài từng dẫn con sang nước Nhục Chi, gặp một vị La Hán bảo: “Sa Di này tới năm ba mươi lăm tuổi, nếu chẳng phá giới, sẽ tuyên dương Phật giáo rộng lớn, độ vô số người. Nếu giới chẳng toàn vẹn, sẽ chỉ là một vị pháp sư tài năng, sáng suốt mà thôi!” Mẹ suy nghĩ lời ấy, một hôm bảo con: “Đối với giáo pháp sâu thẳm như Phương Đẳng, phải nên dốc một tấm ḷng son xiển dương rộng lớn. Chỉ có điều tận lực làm như thế th́ chẳng có ích cho bản thân con”. Ngài La Thập đáp: “Đạo của bậc đại sĩ là vong thân ḥng lợi lạc người khác. Nếu khiến cho đại pháp lưu truyền, sẽ có thể gột rửa cơi tục mông muội. Dẫu thân con trong ḷ than, vạc dầu, cũng chẳng hối hận!” Khi đó, Phù Kiên chiếm đóng Quan Trung[9]. Quan Thái Sử tâu rằng: “Có đức tinh xuất hiện trong phận dă[10] của ngoại quốc, sẽ có bậc đại trí vào phù tá Trung Quốc”. Phù Kiên nói: “Trẫm nghe Tây Vực có sư La Thập, chẳng phải là người đó hay sao?” Vua liền sai Lữ Quang dẫn binh chinh phạt Quy Tư. Lữ Quang đă bắt được ngài La Thập, về tới Lương Châu, nghe Phù Kiên đă bị Diêu Trành làm hại, bèn chiếm đóng vùng Quan Ngoại[11], tiếm xưng quốc hiệu là Hậu Lương.

          Diêu Trành chết, con là Diêu Hưng kế vị. Trong sân chầu, bỗng mọc cây cành nhánh giao kết với nhau. Hành trong vườn Tiêu Dao đều biến thành cỏ Xỉ[12]. Vua cho đó là điềm lành, bèn chinh phạt Lữ Long[13], đón Sư vào Trường An, dùng lễ quốc sư để đối đăi. Diêu Hưng suất lănh các sa-môn nghe ngài La Thập giảng kinh trong vườn Tiêu Dao. Biện tài của ngài La Thập vang khắp Hoa Hạ. Sư thấy các bản dịch cũ sai lệch so với bản tiếng Phạn, bèn vào năm Hoằng Thỉ thứ tám (406), ở chùa Thảo Đường, cùng với hơn tám trăm người như Tăng Triệu v.v… khảo đính các bản dịch kinh trước đó. Sư dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa thành một bộ bảy quyển.

          Diêu Hưng nói: “Pháp sư thông minh, giác ngộ siêu quần, thiên hạ không hai, sao có thể để Ngài không có người nối dơi cho được!” Do vậy, đem mười kỹ nữ ép Sư nhận lấy. Từ đó, người tịnh hạnh thẹn nghe nói đến chuyện ấy. Sư tới giảng thuyết, ắt đều bảo trước: “Ví như bùn thối sanh ra hoa sen, chỉ quan tâm hoa sen, đừng nh́n vào bùn thối!” Về sau, Sư bỗng ngă bệnh, liền bảo đại chúng: “Do pháp mà gặp gỡ, vẫn chưa trọn hết tấm ḷng, không thể nhờ vào đâu để đáp tạ. Mong cho các kinh đă dịch như Pháp Hoa v.v… đều cùng được truyền bá. Nếu tôi dịch chẳng sai lầm, nguyện sau khi thiêu thân, lưỡi chẳng cháy nát!” Nói xong, Sư qua đời. Đến khi xà-duy (Jhāpeti, trà-tỳ, hỏa thiêu), quả nhiên lưỡi chẳng cháy tan. Xem chi tiết cặn kẽ trong Lương Tăng Truyện (Lương Cao Tăng Truyện) và Tấn Thư[14]. Trong Nam Sơn Cảm Thông Truyện[15], Vi Đà Thiên đă nói: “Ngài La Thập thông minh, khéo hiểu Đại Thừa. Kể từ thời bảy đức Phật, Sư đă truyền bá, dịch thuật, đạt được những điều pháp vương gởi gắm! Thế tục phê phán Sư khuyết giới, chẳng cần bàn tới! Ngài La Thập thuộc địa vị Tam Hiền, há có phải là kẻ lơ mơ ư?”

 

* Pháp sư Huệ Duệ ở Trường An

 

          Thích Huệ Duệ là người Kư Châu, giữ khí tiết thanh cao, nghiêm túc. Sư tham học khắp nơi, đi tới tận địa giới của Nam Thiên Trúc. Đối với các sách vở ở chốn khác, không ǵ chẳng hiểu rơ. Chúa nhà Tần là Diêu Hưng vời Sư vào gặp, trông thấy phong thái, ngôn từ của Sư, vua hết sức tán thưởng, gọi Ngài là Tứ Hải Tiêu Lănh (người cầm đầu tiêu biểu trong bốn biển). Xưa kia, ngài Pháp Hộ dịch kinh Chánh Pháp Hoa, phẩm Thọ Quyết có câu: “Thiên kiến nhân, nhân kiến thiên” (người thấy trời, trời thấy người). Ngài La Thập dịch kinh Pháp Hoa, đến chỗ đó, bèn nói: “Lời này tương đồng cách nói tại Tây Vực, nhưng lời lẽ quá thô ráp!” Huệ Duệ nói: “Há chẳng phải là trời người giao tiếp đôi bên trông thấy nhau ư?” La Thập vui mừng nói: “Thật vậy!” Sư lănh ngộ cao vời dường ấy. Kinh phiên dịch vừa xong, [ngài La Thập] bèn sai Huệ Duệ giảng giải. Huệ Duệ bèn châm chước những điều u huyền, chia thành “cửu triệt” (, chín khuôn phép, đường lối):

          - Một, hôn thánh tương khấu triệt (phàm thánh gặp gỡ), tức phẩm Tự.

          - Hai, thiệp giáo quy Chân triệt (gom các giáo về lẽ chân), là bậc thượng căn (tức phẩm Phương Tiện).

          - Ba, hưng loại tiềm h́nh triệt (nêu bày sự thật, v́ chúng sanh chấp trước mà phải thị hiện quyền pháp ḥng dẫn về Nhất Thừa), tức người trung căn.

          - Bốn, thuật kim thông tích triệt (trần thuật chuyện hiện tại, phơi bày Bổn nơi Tích), trung căn lănh ngộ.

          - Năm, chương nhân tấn ngộ triệt (nêu bày cái nhân để kẻ hạ căn được lănh ngộ), tức là kẻ hạ căn (tiêu biểu là phẩm Hóa Thành).

          - Sáu, tán dương hạnh lư triệt, tức phẩm Pháp Sư.

          - Bảy, Bổn Tích vô sanh triệt, Đa Bảo bất diệt là Bổn, Thích Ca bất sanh là Tích. Bổn và Tích tuy khác, nhưng đều chẳng thể nghĩ bàn như nhau.

          - Tám, cử nhân trưng quả triệt (nêu ra cái nhân, gạn hỏi cái quả), tức các phẩm Dũng Xuất và Thọ Lượng.

          - Chín, xưng dương viễn tế triệt (khen ngợi công đức, lực dụng cùng cực của kinh ), tức là từ phẩm Tùy Hỷ cho đến hết phần Lưu Thông.

          Ngài Huệ Duệ lại viết lời tựa cho kinh này, xem [lời tựa ấy] trong Đại Tạng. [Lại chỉ rơ] kinh lại có hai mươi tám phẩm sanh khởi (tức là duyên khởi v́ sao có hai mươi tám phẩm theo thứ tự). Ngài Kinh Khê khen ngợi [lập luận của ngài Huệ Duệ] hết sức có thứ lớp phân minh. Sư thường hồi hướng, tán dương lợi ích tốt lành [của kinh Pháp Hoa] để nguyện sanh về Tây Phương. Ngày lâm chung, Sư tắm rửa, thay áo, đốt hương, lễ bái, ngồi chắp tay, hướng về Tây. Khi Sư mất, [đại chúng] thấy mây thơm năm màu từ trong pḥng thoát ra. Cơi đời xưng tụng “Thập Môn tứ thánh” (bốn vị thánh nhân môn đồ của ngài La Thập) là Sanh, Triệu, Dung, Duệ. Sư là một trong bốn vị ấy (xem Lương Cao Tăng Truyện, “cửu triệt” trích từ quyển thứ tám của Pháp Hoa Văn Cú).

 

* Pháp sư Đạo Sanh ở Hổ Khâu

 

          Sư húy là Đạo Sanh, lấy họ theo thầy là Trúc[16]. Sư quanh năm dốc chí học tập, lời lẽ trong sáng, mới mẻ, mọi người đều nể phục. Sư thường cho rằng: Điều trọng yếu để nhập đạo là phải dùng huệ giải làm gốc. V́ thế, Sư dùi mài nơi các kinh, chẳng nề hà nhọc nhằn, khổ sở, liền đến Quan Trung theo học với ngài La Thập. Do biện luận, vấn đáp cao vời, Sư thường được xưng tụng là bậc “thần ngộ”. Về sau, Sư ẩn giấu tung tích tại chùa Hổ Khâu, đá nơi giảng đài hăy c̣n.

          Có một thuở, Sư ở Bán Đường tụng kinh Pháp Hoa, bỗng có một con trĩ thường đến nghe kinh. Một hôm, chẳng thấy nó, Sư nghĩ tới nó, đêm mộng thấy nó nói: “Con do nghe kinh mà được thay đổi quả báo, nay làm con ở nhà nọ. Đợi sau mấy năm nữa, con sẽ đến phụng sự”. Tới khi Sư ḍ hỏi, quả đúng là như thế. Đến khi [đứa bé ấy] xuất gia, nào ngờ chưa trưởng thành mà đă mạng chung. Do vậy, Sư đem chôn trong rừng. Một tối, chợt có quang minh chiếu sáng vùng Đường Ổ, người trong làng kinh ngạc. Đào lên xem th́ thấy cái lưỡi [của đứa bé ấy] sanh hoa sen xanh. Do đó, dựng tháp, sau này biến thành chùa, tức là chùa Bán Đường hiện thời.

          Sư từng lập thuyết: “Chớ nên thọ báo do hành thiện, hăy đốn ngộ thành Phật”, nhưng kẻ chấp trước văn tự, thủ cựu cho đó là tà thuyết. Sư đối trước đại chúng phát thệ: “Nếu thuyết do tôi đă lập chẳng trái nghịch kinh, lúc xả mạng sẽ ngồi trên ṭa sư tử”. Về sau, kinh Đại Niết Bàn được dịch ra, quả nhiên phù hợp với các điều Sư đă nói. Sư liền thăng ṭa, giảng diễn, người nghe đều giải ngộ, vui sướng. Tiệc pháp sắp hoàn tất, bỗng đuôi của chiếc phất trần [Sư đang cầm nơi tay] lả tả rụng xuống. Sư vẻ mặt đoan nghiêm qua đời, dường như đang nhập Định. Người thời ấy nói: “Sanh Duệ phát thiên chân” (Đạo Sanh và Huệ Duệ giác ngộ chân tánh). V́ thế biết Ngài là bậc lỗi lạc (sự tích chùa Bán Đường trích từ Tục Linh Thụy Tập, các chuyện khác trích từ Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Đại thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư

 

          Sư húy Huệ Tư, sanh trong nhà họ Lư ở Vũ Tân. Thuở bé, Sư mộng thấy vị Phạm tăng khuyên xuất gia, liền nhập đạo. Sư lập chí mỗi ngày chỉ ăn một bữa, chẳng nhận cúng dường riêng. Suốt mười năm, Sư chuyên tụng Pháp Hoa, bảy năm thường hành Phương Đẳng, suốt chín mươi ngày thường ngồi tu Nhất Hạnh tam-muội. Do công tinh tấn ấy, Sư thấy thấu triệt sự tích hành đạo suốt ba đời. Tiếp đó, Sư đến chỗ thiền sư Huệ Văn nhà Bắc Tề[17] để theo học Thiền pháp. Sư nhiếp tâm suốt thời gian kết hạ. Cho đến khi an cư mùa Hạ đă hết, tuổi Hạ được tăng thêm, Sư bùi ngùi chẳng chứng được ǵ! Sư thả lỏng thân, dựa vào vách, trong khoảnh khắc lưng chưa kịp tựa vào vách, đă rỗng rang khai ngộ Pháp Hoa tam-muội và các pháp môn Đại Tiểu Thừa khác.

           Về sau, Sư trụ tại núi Đại Tô ở Quang Châu. Tăng tục làm phước quyên góp cho Sư chép kinh Bát Nhă và kinh Pháp Hoa bằng chữ vàng. Đại chúng thỉnh Sư giảng hai kinh, Sư liền diễn thuật, không ǵ chẳng sâu thẳm. Sau đó, Sư tới Nam Nhạc, thấy rừng suối thanh tịnh, bèn nói: “Đây là chỗ nền của chùa cũ”. [Đại chúng] vâng lời đào lên, quả nhiên thu được các vật dụng và nền cũ của điện đường. Sư lại tới dưới gộp đá, bảo: “Đời trước, tôi đă tọa Thiền tại đây, bị giặc chém đầu, do đó mạng chung, cho nên mới có đời này”. Mọi người cùng t́m kiếm, bèn t́m được đầu lâu. Sư t́m được, bèn đội lên đầu. V́ thế, dựng tháp để báo ơn trước. Trần Tuyên Đế[18] hạ chiếu vời Sư trụ tại chùa Thê Huyền, tăng tục đều kính ngưỡng.

          Sư từng đến chùa Ngơa Quan, gặp mưa mà chẳng ướt, đi trên bùn chẳng bị nhuốm bẩn. Hoặc hiện thân lớn nhỏ, hoặc lặng lẽ ẩn thân. B́nh đựng nước thường đầy ắp, dường như có đồng tử cơi trời hầu hạ. Nếu có người hỏi địa vị của Sư, đáp: “Tôi thuộc địa vị Thập Tín”. Ngày lâm chung, Sư nhóm họp môn đồ đông đảo để thuyết pháp, người nghe lạnh ḷng. Sư bèn nói: “Nếu có mười người chẳng tiếc thân mạng, thường tu Pháp Hoa hoặc Ban Châu tam-muội, tôi sẽ tận lực cung cấp. Nếu chẳng có người như vậy, tôi liền đi ngay”. Chuyện khổ hạnh khó khăn, chẳng có ai đáp lời! Do vậy, Sư liền thâu liễm ư niệm, xướng rằng: “Thánh chúng đến đón”, ung dung mạng chung, cảm vời mùi hương lạ đầy nhà, xa gần đều ngửi thấy. Sư thọ sáu mươi bốn tuổi, tức là năm Đại Kiến thứ chín (576) nhà Trần. Từ thuở có Phật pháp đến nay, phần nhiều [tăng sĩ] chú trọng nghĩa môn (giải thích, phô diễn giáo nghĩa), chỉ riêng Sư cùng hoằng dương Định Huệ. Sư thốt lời sâu tột, Thiền Tông Nam Bắc chẳng ai không tuân phụng. Ngài từng được Phổ Hiền Bồ Tát xoa đỉnh đầu, khiến [đầu Sư] bỗng mọc nhục kế, người khác trông thấy đều cho là hiếm có. Sư hành đại từ bi, vâng giữ giới Bồ Tát, chẳng dùng hay mặc các thứ làm bằng da, hoặc lụa là, chỉ khoác áo chằm vá bằng vải thô, xông xáo gió sương. Những điều Sư trước thuật, hoặc truyền dạy đều được chép thành sách, nhưng do lâu ngày, các văn từ của Sư đă bị thất lạc chẳng c̣n, chỉ c̣n Pháp Hoa An Lạc Hạnh Nghĩa và Phát Nguyện Văn lưu hành trong cơi đời (trích từ Đường Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Trí Giả đại sư ở núi Thiên Thai

 

          Ngài Trí Khải[19] là quốc sư hai triều Trần và Tùy, quê ở Dĩnh Xuyên. [Ḍng họ] nhiều đời sống tại huyện Hoa Dung thuộc Kinh Châu. Sư là con thứ hai của quan Thường Thị[20] Trần Khởi Tổ, mẹ họ Từ, mộng thấy mây thơm sáng ngời soi vào bụng, bèn mang thai Sư. Tới khi sanh nở, trong nhà hiện thần quang. Sư mỗi mắt có hai tṛng như vua Thuấn, lông mày có tám sắc như vua Nghiêu. Bảy tuổi Sư đến chùa, Tăng dạy truyền khẩu phẩm Ph Môn một lượt bèn thông suốt. Mười lăm tuổi, Sư bèn đối trước tượng ở Trường Sa phát thệ, nguyện làm sa-môn gánh vác chánh pháp. Mười tám tuổi, xuất gia tại chùa Quả Nguyn ở Tương Châu. Hai mươi tuổi, xuống tóc, thọ Cụ Túc, liền đến núi Đại Hiền, tụng kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh Phổ Hiền Quán suốt hai mươi ngày. Tụng xong ba bộ kinh ấy, Sư miệng tụng lời vàng, tay viết kinh, vẽ tượng, tâm thần sảng khoái, linh lợi, lại c̣n vui hưởng Thiền duyệt.

          Sau đó, Sư lại đến núi Đại Tô lễ đại thiền sư Huệ Tư. Ngài Huệ Tư trông thấy, than rằng: “Xưa kia cùng nghe kinh Pháp Hoa tại Linh Sơn, túc duyên theo đuổi, nay lại gặp gỡ”. Do vậy, truyền dạy Tứ An Lạc Hạnh thuộc Phổ Hiền đạo tràng. Sư ngày đêm cần mẫn hết mực, đúng như lời dạy mà mở mang tâm trí. Trải qua mười bốn ngày, Sư tụng kinh Pháp Hoa đến chỗ ngài Dược Vương xả thân được chư Phật cùng khen ngợi: “Thị chân tinh tấn, thị chân pháp cúng dường Như Lai” (Đấy là tinh tấn thật sự, là pháp cúng dường Như Lai chân thật). Tụng đến đó, tâm bám chặt nơi khổ hạnh, rỗng rang nhập Định, thấu hiểu Pháp Hoa dường như ánh sáng chiếu từ nơi cao thấu đến hang thẳm, liễu đạt các pháp tướng, dường như gió mát thổi qua thái hư. Ngài Huệ Tư ấn khả: “Chẳng phải là ông chẳng chứng, chẳng phải là tôi không biết. Ông nhập Định chính là tiền phương tiện của Pháp Hoa tam-muội. Tổng tŕ mà ông đă phát chính là Toàn Đà La Ni. Hạng pháp sư chấp trước văn tự dẫu ngàn người vạn kẻ, đều chẳng thể thấu hiểu cùng tột biện tài của ông được. Tôi hâm mộ Nam Nhạc đă lâu, hận pháp chẳng có người giao phó. Ông có thể truyền đăng hóa độ chúng sanh, đừng là kẻ cuối cùng đoạn diệt Phật chủng!”

          Sư tuân phụng lời giáo huấn nghiêm cẩn ấy, bèn chấn tích[21] Kim Lăng, trụ tại chùa Ngơa Quan, bắt đầu mở ra Pháp Hoa Huyền Nghĩa. Từ đấy, diễn giảng suốt tám năm. Sau đó, đồ chúng đông dần, nhưng người đắc đạo ít ỏi. Sư bèn lánh đời, giữ lấy sự huyền nhiệm, ẩn cư tại núi Thiên Thai. Thoạt đầu, Sư náu ḿnh nơi Ngân Địa, có lúc đi kinh hành trên ngọn Đông Nam, hoặc ở trong phương trượng tụng kinh Pháp Hoa, nhập tam-muội. Lũ ma và ác quỷ tranh nhau đến năo hại, Sư trụ trong Thiền Định, trọn chẳng cảm thấy sự biến hiện quái lạ của các thần. Có lúc nọ, Sư giảng tụng Pháp Hoa, cảm đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng giáng xuống trước mặt. Sư thuyết pháp, dùng “ngũ thời, bát giáo” để phán thích các kinh trong suốt một đời giáo hóa của đức Phật, không ǵ chẳng cùng tận. Giáo nghĩa Thiên Thai thật sự do Sư khởi xướng.

          Không lâu sau, Sư vâng chiếu trở ra Kim Lăng, giảng đại luận tại Đại Cực Điện, giảng kinh Nhân Vương tại chùa Quang Trạch. Vua nhà Trần lễ Sư ba lạy tỏ ḷng tôn kính. Tới khi nhà Tùy thôn tính nhà Trần, Sư bèn ẩn cư tại Lư Sơn. Trong niên hiệu Khai Hoàng[22], Dượng Đế cư phiên, thỉnh Sư làm vị thầy truyền Bồ Tát Giới, ban cho Sư hiệu là Trí Giả. Sau đó, Sư dưỡng già tại Thiên Thai.

          Một đêm, Sư bỗng mộng thấy gió to thổi sập bảo tháp. Khi đó, chiếu thư liên tiếp vời Sư đến chứng minh tượng tại Thạch Thành. Sư bèn cáo bệnh, rồi dặn bảo các đệ tử xướng kinh Pháp Hoa. Sư tự tán thán rằng: “Pháp môn như cha mẹ, huệ giải bởi đó sanh, Bổn và Tích mênh mông, vi diệu khó lường được. Phá búa, đứt dây đàn[23], chính là ngày hôm nay”. Lại bảo: “Nếu ta không lănh chúng, ắt thanh tịnh lục căn. V́ kẻ khác mà tổn ḿnh, lui sụt xuống ngũ phẩm. Các thầy bạn của ta và Quán Âm đến đón!” Nói xong, Sư ngồi xếp bằng qua đời, nhằm giờ Mùi ngày Hai Mươi Bốn tháng Mười một năm Kỷ Tỵ, tức năm Khai Hoàng 17 (597), xuân thu sáu mươi tuổi, hạ lạp bốn mươi năm. [Triều đ́nh] sắc truyền phong [nhục thể của Sư] trong tháp thiêng thuộc ngọn Tây Nam của rặng Phật Lũng. Mỗi năm, sai sứ giả đúng ngày đến mở tháp cúng tế. Lần mở niêm phong cuối cùng, chẳng thấy toàn thân của Ngài đâu nữa. Ngô Việt Tiền vương từng truy tặng Ngài thụy hiệu là Pháp Không Bảo Giác.

          Kể từ lúc Sư nhập diệt, đến nay đă là sáu trăm lẻ hai năm. Sư hoằng dương Giáo Quán, không chú trọng viết sớ giải, chỉ dùng biện tài như “sông treo”[24] giảng các ư nghĩa vượt ngoài văn tự của kinh. Sư nói Pháp Hoa Huyền Nghĩa và Văn Cú để mở mang diệu giải. Kế đó, diễn giảng [Ma Ha] Chỉ Quán để [hành nhân] nương vào giải mà lập chánh hạnh. V́ thế, ngài Kinh Khê nói: “Chẳng có Huyền Nghĩa, sẽ không có ǵ để hướng dẫn. Chẳng có Văn Cú, sẽ không có ǵ để ǵn giữ. Chẳng có Chỉ Quán, sẽ không có ǵ để thông đạt. Chẳng do một nhà (tông Thiên Thai) [lập giáo], sẽ không có ǵ để tiến nhập, chính là nói đến điều này đó chăng? Vĩ đại thay! Đạo sáng cứu đời được thấy trong ba bộ sách của tông Thiên Thai!” Sư giáo hóa, dẫn dắt hơn sáu mươi châu, đạo ấy càng lâu càng thêm rạng rỡ. Phàm các sự tích của Ngài đều được chép cặn kẽ trong truyện kư riêng và các ghi chép nơi mười hai đạo tràng của Thiên Thai!

 

* Trừng Chiếu luật sư ở Nam Sơn

 

          Luật chủ Đạo Tuyên là người xứ Đan Đồ, cha là Lại Bộ Thị Lang[25] Tiền Thân. Lúc mẹ mang thai Sư, mộng thấy mặt trăng xuyên vào ḷng. Rồi lại mộng thấy một vị Phạm tăng bảo: “Bà đang mang thai luật sư Tăng Hựu đời Lương (Tăng Hựu tức là ngài Tăng Hộ chùa Ẩn Nhạc tại Diệm Khê đời Nam Tề). Hăy nên cho [đứa bé này] xuất gia để hoằng dương Phật giáo rộng khắp”. Tới lúc Sư mười lăm tuổi, mẹ nhớ lại giấc mộng ấy, liền cho phép con ĺa tục. Sư miệt mài tụng các kinh như Pháp Hoa v.v… không ǵ chẳng thông suốt.

          Lúc mười sáu tuổi, Sư xuống tóc, thọ Cụ Túc, chuyên học Tỳ Ni (Luật Tạng). Về sau, Sư lại trung hưng đạo ấy, là người khéo kế tục ngài Ưu Ba Ly. Ba y của Sư đều bằng vải thô, ngày ăn một bữa chỉ toàn đậu. Chấy rận mặc sức sanh sôi, thân h́nh như gỗ, đất. Sư ở đâu cũng cảm thần hay loài vật dâng hiến hoa quả, cúng dường thức ăn cơi trời. Nếu Sư trượt chân nơi bậc thang, liền có Na Tra nâng đỡ; hoặc đắp đàn báu (giới đàn), có thần Tăng lễ bái, tán thán. Từ năm Càn Phong[26] trở đi, trời người lũ lượt kéo đến, cùng Sư đàm luận các tướng trạng trong Luật học. V́ thế, sớ sao[27] do Sư trước tác thể hiện được bổn ư của Phật, do cảm thông thần minh mà được như thế, thiên hạ hậu thế đều tôn sùng. Đạo của Sư là “pḥng phi, chỉ ác” (ngăn ngừa sai trái, dứt điều ác), được gọi là Nam Sơn giáo. Sư soạn bài tựa hoằng truyền kinh Pháp Hoa đặt ở đầu kinh ấy, chỉ thú rộng sâu, ngôn từ cao diệu, trăm vua chẳng sửa đổi được, ngàn đời truyền tụng. Sư nêu bày bổn nguyện rằng: “Mong được sớm thanh tịnh sáu căn, ngưỡng vọng hội tốt lành của đấng Từ Tôn, mau thành Tứ Đức, hướng đến cơ mưu huyền diệu nơi lạc độ” (sự tích của Sư có thể thấy trong bộ Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Pháp sư Từ Ân ở Kinh Triệu

 

          Sư húy Khuy Cơ, là cháu[28] của Uất Tŕ Kính Đức (Uất Tŕ Cung) đời Đường, cha là Kim Ngô Vệ Tướng Quân Uất Tŕ Kính Tông. Mẹ họ Bùi, đêm mộng thấy nuốt mặt trăng, bèn có thai. Sanh ra, Sư mới sáu tuổi đă thông huệ hơn người, lập tức viết binh thư tới mấy ngàn chữ. Thuở đó, Tam Tạng Huyền Trang sang phương Tây, thâu nhận một bé trai có trí nhớ rất mạnh. Do vậy, Ngài dẫn nó theo đến gặp ông Tông. Ông Tông gọi Khuy Cơ ra chào. Huyền Trang sai nó đọc [binh thư do Khuy Cơ] đă trước tác. Ngài Huyền Trang cho xem vài lượt, đứa bé đă nhớ như in văn từ đă đọc xong. Ngài Huyền Trang đùa bảo: “Đấy là sách cổ”. Kính Tông chẳng tin, Huyền Trang bảo đứa bé nhắc lại, [nó đọc] chẳng sai một chữ. Kính Tông giận con đạo văn, toan giết chết [Khuy Cơ]. Ngài Huyền Trang liền xin cho Khuy Cơ xuất gia. Khuy Cơ nói: “Chấp thuận cho tôi ba chuyện, tức ăn mặn, không kiêng sắc dục, ăn tối, th́ tôi liền xuất gia. Nếu không, thà chết dưới kiếm!” Huyền Trang ái mộ [Khuy Cơ] tài năng cao vời, giả vờ chấp thuận. Khuy Cơ nhập đạo tại chùa Đại Từ Ân, khéo thông hiểu Đại Tiểu Thừa. Phàm là luận sớ hễ đọc qua một lượt, bèn ghi nhớ chẳng sai.

          Trước đó, ở Tây Vực, ngài Huyền Trang nhận lănh Du Già Sư Địa Luận và tông chỉ Duy Thức từ luận sư Giới Hiền, nhưng chưa có ai kế thừa. [Đến nay truyền cho] Khuy Cơ lănh thọ. Sư hoặc tông, hoặc thích[29], soạn thuật hơn một trăm bộ sách, nên được gọi là Bách Bộ Luận Sư. Sư (ngài Khuy Cơ) giáo hóa đồ chúng các nơi, người được lợi ích rất đông. Sư sang phía Đông, tới Bác Lăng, có người thỉnh Sư giảng kinh Pháp Hoa, Sư bèn soạn bộ Pháp Hoa Huyền Tán Đại Sớ gồm mười quyển. Ngài giải thích tựa đề kinh như sau: “Nêu lời tuyên xướng tột bậc về giềng mối rộng lớn, phô tỏ danh xưng đẹp đẽ của cả bộ kinh. Pháp chứa đựng khuôn phép, xuyên suốt các điều tốt lành, nên gọi là Diệu. Hoa kèm thêm sự phát khởi tươi đẹp, gồm trọn các điều đẹp đẽ ḥng tỏ rơ hoa sen”. Ngài lập thuyết, dựng tông, xiển dương nghĩa lư uyên áo, các vị tông sư nơi đất Bắc thường nghiên cứu, học tập (ngôn hạnh của Sư được chép tường tận trong Đại Tống Tăng Truyện. Chuyện lúc Sư xuất gia được chép trong bộ Thích Thị Biên, quyển năm).

 

* Quốc sư Thanh Lương ở Ngũ Đài

 

          Ngài Thích Trừng Quán họ Hạ Hầu, người xứ Sơn Âm[30]. Sư xuất gia tại chùa Ứng Thiên, tụng kinh Pháp Hoa. Lúc mười bốn tuổi, Sư được ân chuẩn đắc độ[31]. Thoạt đầu, Sư học Nam Sơn Luật Tạng; sau đó, tại Kim Lăng, được truyền thừa Tam Luận. Lại sang núi Thiên Trúc học tập Hoa Nghiêm đại kinh. Về già, Sư trụ tại Tô Châu, nghe thiền sư Kinh Khê truyền dạy Thiên Thai Chỉ Quán, nghe giảng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma v.v… Sư lại tham học với các vị Ngưu Đầu Huệ Trung, Kính Sơn Đạo Khâm, thấu đạt pháp Thiền của Nam và Bắc Tông [trong nhà Thiền].        Sư học rộng, nghiên cứu sâu xa, kiến thức sâu rộng, trước tác các bộ sớ giải như Hoa Nghiêm Trinh Quán Sớ v.v… Sư tạc tượng, chép kinh chẳng thể kể trọn. Sư từng phát mười đại nguyện để suốt đời tu tập:

          - Một, chỉ giữ ba y một bát, chẳng chứa thêm thứ dư thừa nào khác.

          - Hai, vứt bỏ danh lợi đương thời như đồ thừa thăi.

          - Ba, mắt chẳng nh́n người nữ.

          - Bốn, chẳng in bóng nơi nhà người thế tục.

          - Năm, quanh năm tụng kinh Pháp Hoa.

          - Sáu, miệt mài đọc kinh Đại Thừa.

          - Bảy, miệt mài giảng kinh Hoa Nghiêm.

          - Tám, cả đời suốt ngày đêm chẳng nằm.

          - Chín, chẳng dối gạt đại chúng, khoe tài.

          - Mười, chẳng thoái thất ḷng đại từ bi.

          Sư sống qua chín đời vua, là thầy của bảy hoàng đế[32]. Đường Hiến Tông từng vời Sư vào cung giảng tông chỉ đại lược của kinh Hoa Nghiêm. Vua đẹp dạ, sắc truyền Hữu Ty đúc ấn, phong làm quốc sư, thống lănh Tăng chúng trong thiên hạ. Sư thọ một trăm lẻ hai tuổi, thân cao chín thước hai tấc, ban đêm mắt tỏa sáng, ngày th́ nh́n chẳng nháy. Thơ văn của Sư thanh điệu, âm vận như chuông rung. Phạm tăng xưng tụng Sư là hậu thân của ngài Văn Thù. [Sau khi Sư đă mất], trà-tỳ, lưỡi [chẳng cháy], giống như sen hồng, xá-lợi sáng ngời, tươi nhuận. Quan Tướng Quốc Bùi Hưu vâng sắc chỉ soạn bia [nơi tháp thờ xá-lợi của Ngài] (chuyện ngài sống qua chín triều vua, xem quyển năm bộ Thích Thị Biên. Những điều khác trích từ Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Quang thiền sư xứ Cao Ly

 

          Sa-môn Huyền Quang người đất Hùng Châu (Ungjin) thuộc Hải Đông (Cao Ly, Đại Hàn), từ bé đă chán trần tục, chuyên tu phạm hạnh. Tới lớn, bèn vượt biển thẳm sang Trung Hoa cầu Thiền pháp. Do vậy, du lăm Trung Hoa. Sư đến Hành Sơn, tham yết đại thiền sư Huệ Tư. Ngài Huệ Tư xem xét căn khí của Sư, truyền dạy Tứ An Lạc Hạnh. Huyền Quang thông minh, lanh lợi như búa thần, không chỗ cứng rắn nào chẳng phá được. Sư đă được bẩm thọ bèn hành tŕ, không lâu sau chứng Pháp Hoa tam-muội. Ngài Huệ Tư ấn khả rằng: “Sở chứng của ông chân thật, chẳng dối. Hăy nên trở về nước ḿnh, lập bày, thực hiện phương tiện quyền biến để hoằng dương giáo pháp của ta”. Huyền Quang đảnh lễ, từ biệt thầy, quẩy tích trượng trở lại Giang Nam, ngồi thuyền ra biển cả. Bỗng dưng trong đám mây màu, có người phơi phới, cầm cờ tiết đỏ rực[33] đi tới. Trong hư không có tiếng nói: “Thiên Đế triệu vời thiền sư Huyền Quang ở Hải Đông đích thân nói pháp môn Ngài chứng đắc tại cung rồng”. Huyền Quang ṿng tay thoái thác, chỉ thấy người áo xanh dẫn đường, liền vào cung thành.

          [Sư thấy long cung] chẳng giống như phủ thự của quan lại trong nhân gian, không đâu chẳng phải là quỷ thần có mai, có vảy. Đă tới điện báu. Tiếp đó. Sư bước lên đài báu, thuận theo lời hỏi mà đàm luận suốt bảy ngày. Xong việc, vua khom ḿnh tiễn biệt. Huyền Quang lại lên thuyền. Người trong thuyền cho biết chỉ mới trôi nổi trên biển nửa ngày mà thôi. Huyền Quang bèn đến Ông Sơn ở Hùng Châu kết lều tranh, [về sau] trở thành cảnh chùa. Sư thăng đường [thuyết pháp, trong số các người nghe], một người chứng Hỏa Quang tam-muội, một người nữa chứng Thủy Quang tam-muội, những người khác như các loài chim bám vào núi Tu Di, đều có cùng một sắc. Đối với chuyện thị hiện nhập diệt, chẳng biết rơ! Trong hai mươi tám vị được thờ tại tổ đường ở Nam Nhạc, Sư là một vị trong số đó (theo Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Thành thiền sư ở Kinh Châu

 

          Vị Tăng Huệ Thành là con nhà họ Đoàn ở Lễ Dương, làm Tăng sống tại chùa Thập Trụ. Sư tụng kinh Pháp Hoa và Đại Phẩm [Bát Nhă] hai mươi mấy quyển. Về sau, đi khắp nơi hỏi đạo, đến Lư Sơn, gặp gỡ Thiên Thai Khải thiền sư (Trí Giả đại sư). Do nghe giáo nghĩa Lục Túc của Nam Nhạc Huệ Tư đại ḥa thượng, liền tới yết kiến. Đă được gặp gỡ, bèn dốc ḷng ngưỡng mộ, muốn học Định nghiệp. Ngài Huệ Tư nói: “Công ông soạn sớ giải suốt một đời c̣n chẳng nóng bằng tôi thiêu tay, phí uổng công phu, tiếc thay!” Huệ Thành phát phẫn, vứt bỏ, đốt rụi các bản sớ giải [do chính ḿnh đă trước tác]. Suốt từ đêm đến sáng, Sư mở mắt tọa Thiền trải qua mười lăm năm. Ngài Huệ Tư lại dạy Sư vào đạo tràng Pháp Hoa và Ban Châu để tiêu chướng trong ba năm, lại c̣n dạy bảo chánh pháp. Sư bèn chứng Giải Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn tam-muội, so với chuyện nhắm mắt nhập Quán, mở mắt liền mất”, khác nào một trời một vực. Ngài Huệ Tư nói: “Trí Khải trước là phát khởi tam-muội, sau chứng tổng tŕ. Huệ Thành ngang ngửa, hai ông giải hạnh ngang nhau”. Huệ Thành bèn đến Chi Giang ở Kinh Châu dựng chùa. Do đạo đức lan tỏa, chẳng mấy chốc, chùa đă hoàn thành. Vua nhà Trần nhiều lần triệu vời, Sư mới đến truyền trao giới pháp rồi quay về. Khi Sư sắp siêu hóa, bèn giảng kinh Niết Bàn. Bỗng ngài Trí Giả từ chùa Ngọc Tuyền đến đó, ngầm phù hợp, cùng nhau đàm luận lư huyền diệu hồi lâu rồi qua đời (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Siêu thiền sư ở Chung Nam

 

          Sư tên là Huệ Siêu, sanh trong nhà họ Trầm ở Đan Dương. Tánh t́nh ôn ḥa, rộng răi. Sư xuất gia từ bé, công khóa chuyên tụng Pháp Hoa. Sư nghe danh đại thiền sư Huệ Tư ở Quang Châu, thông tỏ Định lẫn Huệ, lại c̣n giỏi giới luật, liền cùng với ngài Trí Giả trống ḷng, tịnh tâm, cung kính cầu học. Ngài Huệ Tư nói: “Huệ Siêu có tâm tánh của người đắc nhẫn”. Tới khi sang Hành sơn, Sư lại cùng ở với ngài Trí Giả, tụng kinh nhiều năm. Về sau, Sư ẩn cư tại Chung Nam, trải tám năm hành đạo, Tam Huệ tăng trưởng gấp bội. Tới niên hiệu Đại Nghiệp[34], vua xuống chiếu vời Sư vào cung cấm. Nhà Đại Đường khai quốc, Sư càng được trọng vọng tại kinh đô. Từ lúc nhập đạo, Sư liền tụng kinh Pháp Hoa suốt năm mươi mấy năm, hơn cả một vạn lượt. Cho tới khi mắc bệnh, sắp mất, Sư gọi đại chúng bảo rằng: “Đến đi là chuyện b́nh thường của chúng ta. Trường sanh chẳng mừng, [sáng sanh] tối chết chẳng sầu. Đệ Nhất Nghĩa Không, thanh tịnh trí quán chính là chỗ nương cậy của ta”. Nói xong, hướng về Tây, qua đời. Sư có di ngôn dặn để thi thể phơi trên ḥn đá dưới gốc tùng để thí cho chim, thú. Đệ tử vâng lời dạy, quàn xác hơn một tháng, vẻ mặt Sư vẫn như c̣n sống; sau đó, họ đặt [di thể] vào trong tháp (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Quán pháp sư ở Thiên Trúc

 

          Thích Chân Quán, họ Phạm, người xứ Tiền Đường. Mẹ Ngài tụng kinh Dược Sư và Quán Âm để cầu con, sanh ra Sư. Sư từ bé đă sẵn tiết tháo, trên lưỡi có vằn màu tía, tay hiện tướng lạ. Sư tụng kinh Pháp Hoa, mỗi ngày hết một quyển. Từ thầy được nghe Thập Tụng Luật, bèn dũng mănh tu tập. Sư bỗng mộng thấy có người nói: “Ông có căn cơ Đại Thừa, sao lại giữ tiểu đạo?” Sư bèn học Ma Ha Diễn, sáng tỏ mọi nỗi nghi nan, dũng mănh tiến nhập cửa huyền. Ngạn ngữ thời ấy có câu: “Tiền Đường có Chân Quán, là một vị tăng rưỡi trong thiên hạ”. Tuổi Sư xấp xỉ ngài Trí Giả, là pháp huynh, pháp đệ với nhau, đàm luận lẽ tịch chiếu cao siêu, vàng đá tương hợp.

          Về sau, Sư dựng chùa Nam Thiên Trúc ở núi Linh Ẩn để ở. Sư thường giảng kinh Pháp Hoa, coi đó là tâm yếu, thọ tŕ, đọc tụng, cung kính biên chép, hoằng dương, trọn đủ hạnh của năm loại pháp sư. Mỗi khi Sư rửa mặt, nước văng ra, đất chẳng thấm ướt, mọi người đều lấy làm lạ. Một ngày nọ, thần Cao Đ́nh thỉnh Ngài giảng Pháp Hoa, cảm vời thần [nghe giảng xong, xả] đền biến thành chùa. Có quan Tư Mă Lư Tử Thâm thỉnh Sư giảng Niết Bàn. Giảng tới phẩm Hiện Bệnh, Sư mộng thấy ba người cầm phan đến bảo: “Tịnh Cư Thiên sai chúng tôi đến đón”. Kế đó, Sư ngă bệnh, mộng thấy ngồi cùng xe với ngài Trí Giả, theo chầu đức Phật trở về núi. Tỉnh giấc, Sư than rằng: “Xưa kia đă có người bảo ta đến sáu mươi hai tuổi ắt phải chết. Do sức giảng kinh Pháp Hoa, tăng thêm tuổi thọ mười hai năm. Nay đă bảy mươi bốn tuổi, lại gặp chuyện ứng nghiệm này, sanh mạng ắt đă tới lúc chấm dứt vậy!” Sư bèn bảo người thân cận: “Muốn thoát sanh tử, phải nên tŕ giới, tu Định, học Huệ, hoằng dương, lưu thông chánh pháp, chớ để luống qua!” Khi đó, [mọi người] nghe trên không trung có tiếng âm nhạc. Tới nửa đêm, Sư liền ngồi xếp bằng mà tịch.

          Sư chính là thỉ tổ khai sơn của chùa Linh Sơn ở Hạ Thiên Trúc, hạnh nghiệp thần dị. Xưa kia, thiền sư Chương An Quán Đảnh đă soạn biệt truyện để ghi chép đức hạnh của Sư, lâu ngày [tác phẩm ấy] đă thất lạc. Nay chỉ thấy [hành trạng của Sư được ghi] trong Tục Cao Tăng Truyện. Mộ tháp của Sư vẫn c̣n, Từ Vân Tuân Thức sám chủ từng trùng tu. Chuyện này được chép cặn kẽ trong Linh Uyển Tập, đại lược như sau: Sư dốc chí nơi Phật thừa, khế hợp đạo tột bậc, trọn chẳng bị ảnh hưởng bởi thế lực to lớn của đế vương, công, hầu, hoàn toàn chẳng bị kẻ lắm tài khéo hay biện tài, danh vọng to lớn nhiễu loạn. Ṿi vọi nêu gương cho đời sau, thăm thẳm chẳng thể phỏng theo được! Nay cửa tháp tự mở, chẳng c̣n sót một vật ǵ. Chẳng biết có phải là toàn thân [của Sư] đă theo Phật Đa Bảo [đến mười phương] chứng minh kinh hay không? Hay giống như ngài Phật Lũng (Trí Giả đại sư) đến khắp nơi giáo hóa đó chăng? Kính cẩn soạn sáu bài thơ để vĩnh viễn nêu bày khuôn mẫu như sau: “Chẳng khuất phục vương hầu (ba lần Sư được vua Tùy vời vào chầu hỏi đạo, Tần Vương hai lượt mời coi phủ, thảy đều viện cớ bệnh tật để chẳng đến), giữ vững thân xuất gia, xương trắng đă thành đất, gió lành vẫn mát người. Mộ nát rồi lại đắp, chùa hoang lại trùng tu, riêng ḿnh đất chẳng ướt, không ai sánh gót Ngài” (những bài thơ khác xem trong Linh Uyển Tập).

 

* Thiền sư Chương An Tổng Tŕ

 

          Sư húy Quán Đảnh, Tổng Tŕ là thụy hiệu do Ngô Việt Vương phong tặng. Sư sanh trong gia đ́nh họ Ngô ở huyện Chương An (nay thuộc huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang). Kể từ thuở bé, mới ba tuổi, Sư đă có thể theo mẹ xưng danh hiệu Tam Bảo, người thuở đó đều kinh ngạc. Do vậy, Sư được đặt tiểu tự (tên gọi thân mật cho trẻ nhỏ) là Phi Phàm. Đă nhập đạo, mỗi ngày Sư có thể nhớ một vạn chữ. Dốc sức nơi lẽ huyền và đạo Nho, bẩm thừa pháp Định Huệ của tổ Thiên Thai, nối tiếp chí tổ, củng cố tông phong. Phàm những pháp do tổ Trí Giả nói, đều do Sư ghi chép thành văn bản.

          Về già, Sư trụ tại Xứng Tâm tinh xá, liên tục giảng Pháp Hoa, pháp hóa lưu truyền khắp cơi tục, tác dụng thần kỳ chẳng ngằn. Thuở đó, có người dân ở thôn Pháp Long, cách núi ba mươi dặm, nhiễm bệnh sắp chết. Con của người ấy chạy đến núi cầu cứu. Sư v́ người ấy tụng kinh Pháp Hoa, đốt hương chiên đàn. Người bệnh từ xa, ngửi thấy mùi hương bèn lành bệnh. Vùng núi phía Nam của vùng Lạc An được gọi là An Châu, cây biếc, suối trong, nhưng đường đi chẳng thông. Sư đến xem xét, lẩn quẩn chẳng rời, bèn phát thệ rằng: “Nếu cơi đất này khoảng khoát, bằng phẳng, tôi sẽ đến đây giảng kinh Pháp Hoa”. Chưa đầy mười ngày, cát trắng trào lên khắp nơi, [nơi ấy] phẳng phiu như gương ngọc. Để đền đáp chí nguyện khi trước, Sư đến đó giảng kinh. Sư lại từng giảng kinh Niết Bàn ở chùa Nhiếp Tĩnh, gặp phải cướp biển đến cướp đoạt. Sư gơ chuông, giảng kinh. Lũ giặc xông vào, thấy cờ quạt của quân đội chói rực ánh mặt trời. Kẻ cầm cung, người vác kích đều cao hơn cả trượng. Do vậy, chúng tháo chạy.

          Năm Trinh Quán thứ sáu (632), Sư thị hiện bị bệnh tại chùa Quốc Thanh, chẳng cho chữa trị. Trong thất có mùi hương lạ. Sư bảo đệ tử rằng: “Kinh Di Lặc nói ngày đức Phật nhập diệt, khói hương như mây. Quư vị hăy thắp nhiều hương, tôi sắp đi rồi”. Nói xong, qua đời. Khi đó, có thiền sư Trí Hy đă nhập diệt trước vào năm Trinh Quán nguyên niên (627), lúc sắp mất, [ngài Trí Hy] bảo: “Ta sanh lên trời Đâu Suất, thấy tổ Trí Giả ngồi trên một ṭa báu. Các hàng ghế đều có người, chỉ có một chỗ để trống. Thiên tử nói: - Đợi sáu năm nữa, thiền sư Quán Đảnh sẽ lên đây thuyết pháp”. Ư nghĩa ứng nghiệm của việc [Sư bảo đại chúng] dâng hương chính là v́ ngài Từ Thị (Di Lặc Bồ Tát) giáng hạ (theo Cô Sơn Nhàn Cư Biên).

 

* Thiên Thai Tảo thiền sư

 

          Sa-môn Trí Tảo, họ Trương, người xứ Thanh Nghi. Lúc mười bảy tuổi, song thân đều mất. Sư bị bệnh ngặt nghèo, biết là chẳng c̣n có cơ hội sống sót, ban đêm bỗng thấy mặt trăng, bèn niệm Nguyệt Quang Bồ Tát. Do vậy, lành bệnh, biết sâu xa Tam Bảo là chỗ nương cậy của ḿnh, liền đến chùa An Tĩnh xin xuất gia. Sư chí hướng kiệt xuất, cao vời, ngôn hạnh đều chân thật. Nghe nói ngài Trí Giả ngộ giải siêu quần, bèn t́m đến núi Thiên Thai thọ học. Tổ Trí Giả quan sát căn khí, dạy Sư hành Pháp Hoa tam-muội. Sư tu tập mười bốn ngày, đầu đêm tọa Thiền, thấy một con rồng chín đầu từ dưới đất trồi lên, bay lên hư không. Hôm sau, Sư thưa với thầy. Thầy dạy: “Điều ấy biểu thị chúng sanh trong chín pháp giới nghe kinh Pháp Hoa, trong tương lai sẽ phá vô minh nơi thế gian, nhập pháp tánh Không”.

          Sư lại từng ở chùa Bảo Lâm mong đắc Pháp Hoa tam-muội. Đêm đầu tiên vừa tu, dường như có người đến lắc cánh cửa. Sư hỏi th́ có tiếng đáp: “Tôi đến thắp đèn”. Mấy lượt như thế, hỏi đáp đều như trước. Trong chùa có thiền sư Huệ Thành nghe chuyện ấy, bèn nói: “Trong ṭa nhà ấy, trước nay có đại ác quỷ. Nay nghe tiếng ấy, ắt sẽ bị hại”. Trời sáng, vị ấy đến gơ cửa hỏi thăm, thấy Sư vẫn c̣n đó, rất mừng. Nhân đó, Huệ Thành báo lên Vĩnh Dương Vương[35], vương liền sai mấy chục quân lính và thuộc hạ cầm vũ khí bảo vệ. Sư đáp: “Mạng do nghiệp, há do pḥng vệ”. Sư cảm tạ, từ khước. Tới đêm thứ hai, quỷ vào đập mọi thứ. Suốt trong hai mươi mốt ngày luôn gây rối như thế. Sư thản nhiên, chẳng sợ hăi. Hành pháp sắp hoàn tất, thấy một bé trai mặc áo xanh khen ngợi “lành thay!” Nói xong, chẳng thấy đâu nữa! Sư đức hạnh đều vẹn toàn, là người phù tá tổ Trí Giả. Sư triều kiến thiên tử chín lần, hành sự tốt đẹp từ đầu đến cuối. Sư thọ tám mươi ba tuổi mới mất (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Chí thiền sư ở Lư Sơn

 

          Sư là con nhà họ Cố ở Cối Kê, đến tuổi vỡ ḷng bèn xuất gia. Sư theo hầu ngài Thiên Thai Trí Giả. Tổ Trí Giả thấy Sư thần thái ung dung, cao vời, đáng làm gương cho mọi người, bèn đặt tên là Đại Chí. Sư tụng kinh Pháp Hoa, âm thanh mộc mạc, nhàn tĩnh, trong trẻo, lan xa, khiến cho người nghe quên mệt. Về sau, Sư hành hạnh Đầu Đà tại ngọn núi Cam Lộ thuộc Lư Sơn. Có lúc lạc bước vào giữa bầy mănh thú, chúng đều tránh né. Nếu hết lương thực, chỉ dùng trái cây để duy tŕ tánh mạng mà thôi. Suốt bảy năm như thế, Sư tọa Thiền, tụng kinh chẳng ngơi.

          Về già, Sư trụ tại chùa Phước Lâm. Trong niên hiệu Đại Nghiệp, triều đ́nh phế trừ Phật giáo, Sư cảm khái đại pháp gặp cảnh ngược đăi, bèn mặc đồ tang, khóc lóc buồn bă suốt ba ngày đêm trong Phật đường, thề xả h́nh hài để nêu tỏ chánh giáo, liền tới Đông Đô dâng biểu[36] rằng: “Nguyện bệ hạ hưng long Tam Bảo, bần đạo sẽ đốt một tay nơi Tung Nhạc ḥng báo ân nước nhà”. Vua chấp thuận. Sư bèn tổ chức trai đàn lớn, bảy chúng đều tụ tập. Sư nhịn ăn ba ngày, lên một chiếc giàn lớn, dùng vải quấn chặt cánh tay, tưới sáp lên rồi đốt như thắp đuốc. Ánh sáng soi khắp núi non, hang hốc đều sáng ngời. Đại chúng thấy Ngài khổ hạnh, đau ḷng tận xương tủy, nhưng ngài Đại Chí thần sắc bất biến, hoặc tụng kinh văn, hoặc tán dương Phật đức, hoặc v́ đại chúng thuyết pháp, từng tiếng chẳng ngớt. Thiêu xong, Sư xuống khỏi giàn, ngồi xếp bằng nhập Định, bảy ngày sau liền qua đời. Sư lưu lại hơn bảy mươi trang nguyện văn, ngụ ư muốn làm thiện tri thức cho chúng sanh. Ai đọc cũng đều cảm kích, không ai chẳng rơi lệ! (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Duyệt thiền sư ở Kinh Châu

 

          Vị tăng Đạo Duyệt, họ ngoài đời là Trương, người Kinh Châu. Mười hai tuổi, xuất gia tại chùa Ngọc Tuyền, bản tính trầm ổn, cam sống nghèo hèn, nỗ lực giữ vững khí tiết. Sư quanh năm tụng Pháp Hoa để làm đức nghiệp. Chùa Ngọc Tuyền do tổ Trí Giả khai sơn, chưa có chuông, khánh. Tại đầu nguồn con suối, Sư t́m được một mảnh đá kỳ lạ, đem treo lên, mỗi khi tụng kinh đều gơ một lượt. Tiếng nó vang vọng trong trẻo, người nghe đều nghiêm túc; nẻo u minh nhiều lượt cảm vời điềm lành. Sư biết nhưng chẳng nói. Sư từng bị thủy thũng, bụng to như cái trống. Một đêm tụng kinh, nước bỗng tuôn ra, thủy thũng nhanh chóng tiêu mất.

          Thuở đó, Châu Sán[37] làm giặc cướp bóc, chỉ có ḿnh ngài Đạo Duyệt giữ chùa. Giặc sai Sư dẫn đường, Sư đáp: “Tăng chẳng phải là kẻ dẫn đường! H́nh hài hư huyễn này phó mặc cho gươm sắc!” Giặc kính nể, tha cho. Lúc đó, Hán Dương Vương thỉnh Sư làm thầy truyền giới, ban cho áo màu. Ngài Đạo Duyệt chẳng nhận. Vương hỏi v́ sao không mặc tơ lụa? Ngài Đạo Duyệt đáp: “Áo bằng tơ tằm tổn mạng, trái nghịch danh xưng nhẫn nhục. Áo vải giản dị, thanh bạch, biểu thị h́nh tướng từ bi”. Vương nói: “Trọng Do[38] chẳng thẹn với lời khen của phu tử. Sa-môn từ bi, nhẫn nhục là lẽ đương nhiên!” (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Việt thiền sư ở Thiên Thai

 

          Vị tăng Trí Việt, sanh trong nhà họ Trịnh ở Nam Dương, từ bé đă mang chí hướng thoát tục. Cha tính chuyện hôn nhân cho Sư, Sư dùng phương tiện tránh né. Thuở đó, Nhạc Dương điện hạ[39] thống lănh Kinh Châu, lấy làm lạ, cho Sư xuống tóc. Về sau, Sư vấn đạo khắp nơi. Tới Kim Lăng, gặp tổ Trí Giả đang xiển dương, giáo hóa, Sư bèn lắng ḷng theo học, thấu đạt sâu xa yếu nghĩa nhà Thiền. Sư lại c̣n giữ giới phẩm chuyên ṛng, tụng kinh Pháp Hoa hơn một vạn bộ. B́nh chứa nước luôn đầy, mọi người đều lấy làm lạ. Người theo học với tổ Trí Giả tuy đông, nhưng ngài Trí Việt đứng đầu. Tại Lộ Sơn Tinh Xá ở Lâm Hải, tổ Trí Giả sai Trí Việt làm người ảnh hưởng. Suốt hai mươi năm, ngoan ngoăn vâng theo lệnh thầy. Sau đó, Sư dưỡng bệnh tại chùa Quốc Thanh, nằm bên hông phải mà hóa, cảm vời núi lở, động đất, đạo tục đều thấy nghe (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Quán pháp sư ở Tiền Đường

 

          Sư Đẳng Quán sanh trong nhà họ Tôn ở Phú Dương. Sau khi đă xuất gia, nghe ngài Trí Giả khai pháp ở Phật Lũng, bèn theo nương cậy, thọ học. Sư chuyên tụng Pháp Hoa, lại c̣n có thể giảng nói. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư sang giảng tại chùa Pháp Nhẫn ở Dư Hàng. Bỗng một đêm, thấy một vị thần nói: “Con là thần đền Cao Đ́nh tại Tiền Đường. Thầy từng đi qua miếu đ́nh, đệ tử tuần du chẳng gặp, nay đặc biệt đến cầu thầy truyền giới pháp”. Sư liền v́ thần thắp hương, tuyên dạy. Tới nửa đêm hôm sau, Sư tắm rửa, thay áo sạch, gọi Huệ pháp sư đến, giảng giải giáo nghĩa Tam Quán rồi nói: “Ta đích thân được tổ Trí Giả dạy truyền khẩu pháp này”. Nói xong, Sư ngồi xếp bằng hướng về Tây, xưng danh hiệu Phật và tôn hiệu của tổ Thiên Thai Trí Giả, lặng lẽ qua đời (theo Linh Thụy Tập).

 

* Măn pháp sư đời Lương

 

          Pháp sư La Thập dịch kinh Pháp Hoa tại Trường An gồm hai mươi tám phẩm. Cung nhân tại Trường An thỉnh Ngài giảng phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm này bị cất giấu trong nội cung. Kinh được lưu truyền tại Giang Đông[40] chỉ có hai mươi bảy phẩm. Đời Lương, có Măn pháp sư giảng kinh này một trăm lượt, thiêu thân phụng sự pháp tại Trường Sa. Sư từng đem phẩm ấy đặt trước phẩm Tŕ. Đó là do Sư tự xếp đặt, chưa được lưu truyền trong thiên hạ. Đời Trần có đại thiền sư Nam Nhạc Huệ Tư đặt phẩm này sau phẩm Bảo Tháp. Văn bối dùng kinh Chánh Pháp Hoa để đối chiếu, thấy rất tương ứng. Nay bốn biển lặng trong, được thấy cựu bản ở Trường An, cho nên biết hai vị ấy đă thấu hiểu sâu xa ư kinh (trích từ Pháp Hoa Văn Cú).

 

* Trang pháp sư ở Lư Sơn

 

          Tỳ-kheo Pháp Trang là người ở Hoài Nam. Sư mười tuổi xuất gia, làm đệ tử tổ Huệ Viễn ở Lư Sơn. Sư bẩm tánh thẳng thắn, chất phác, nổi danh khổ hạnh. Sư lấy chuyện tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh thường tu. Thường trong đêm vắng, nghe trước pḥng của Sư có tiếng quân binh thủ vệ, há chẳng phải không duyên cớ mà thành như vậy ư? (theo Tục Linh Thụy Tập).

 

* Mạng pháp sư đời Hậu Châu

 

          Tỳ-kheo Huệ Mạng, họ Quách, người xứ Tấn Dương, thân thiết với đạo, nhàm ĺa vật chất, châu quận đều tán thán, tôn trọng. Từ mười lăm tuổi, Sư tụng kinh Pháp Hoa, trong ṿng hai mươi ngày đă tụng trôi chảy từ đầu đến đuôi. Tới khi xuất gia, Sư chuyên tu Pháp Hoa Sám Pháp. Vào ngày mồng Năm giữa mùa Đông năm Thiên Ḥa thứ ba (568)[41] nhà Châu, Sư ngồi xếp bằng, hướng thẳng về Tây, thấy Phật đến đón tiếp, bèn chắp tay thị tịch. Toàn thể đại chúng đều mộng thấy chư thiên giáng hạ, tràng phan chiếu sáng ngời. Lại nghe nhạc lạ, hương lạ, khen ngợi “lành thay!” (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Minh pháp sư ở Thiên Thai

 

          Sư có tên trước đó là Pháp Kinh, họ Châu, người đất Cối Kê. Thuở bé, Sư gom cát làm tháp, cắt rơm làm điện đường, chắp tay xưng danh hiệu Phật. Bỗng gặp một vị Tăng khất thực khuyên rằng: “Con nên sang núi Thiên Thai xuất gia. Nơi đó có bậc Bồ Tát áo mỏng thuyết pháp hóa độ cơi đời”. Đứa trẻ liền đi ngay, theo hầu tổ Trí Giả làm đệ tử. Tổ Trí Giả cười bảo: “Do xưa có nguyện lực, nay được gặp nhau”. Do vậy, Sư sáng tối chầu hầu quanh thầy, chẳng biếng nhác. Thầy nhân đó, dạy Sư tụng một bộ kinh Pháp Hoa, kiêm tu sám pháp. Về sau, Sư theo hầu ngài Trí Giả vào Lư Sơn. Sư ở trong gác đặt bức tượng tốt lành của Đào Khản[42], muốn soạn Pháp Hoa tam-muội, bỗng thấy một vị Tăng nói: “Pháp danh của thầy chưa hay lắm. Hăy nên sửa thành Phổ Minh sẽ chiếu tỏ ba đời!” Từ đấy, Sư đổi pháp hiệu [thành Phổ Minh]. Tuổi già, Sư quay về chùa Quốc Thanh. Pḥng Sư đang ở thiếu nước. Sư vừa nghĩ ngợi, trên đá bỗng tuôn ra gịng suối. Sư từng đúc tượng Phật Lô Xá Na cao một trượng sáu, cảm dị nhân thí vàng rồi ẩn mất. Có lúc, Sư ở trong rừng tùng tại Xích Thành hiện thân cao mấy chục trượng, thiền sư Chương An Quán Đảnh đích thân trông thấy. Dơi nh́n tác dụng của Sư, Ngài há có phải là kẻ tầm thường ư? (theo Tục Linh Thụy Tập).

 

* Thúy pháp sư ở Hà Âm

 

          Vị tăng Đàm Thúy không rơ họ, xuất gia trụ tại chùa Bạch Mă ở Hà Âm, ăn rau, mặc áo vải, hằng ngày tụng bộ kinh Chánh Pháp Hoa gồm mười quyển, lại c̣n v́ đại chúng giảng nói ư chỉ chung [của kinh ấy]. Bỗng Sư đêm mộng thấy có người gơ cửa, thưa: “Muốn thỉnh pháp sư giảng kinh chín mươi ngày”. Ngài Đàm Thúy chẳng chấp thuận. Người ấy cố kèo nài, Sư liền đi, dường như tỉnh giấc mà chưa tỉnh. Bỗng dưng Sư thấy ḿnh đang ở trong đền thờ thần Bạch Mă Ổ, một người đệ tử cũng tham dự. Từ đấy, mỗi ngày Sư đều ngầm đến, kẻ khác chẳng hay biết. Một hôm, có vị tăng trong chùa đi qua đền thờ thần, ngẫu nhiên thấy hai ṭa cao: Ngài Đàm Thúy ngồi ở ṭa phía Bắc, đệ tử ngồi ṭa phía Nam. Thoảng nghe tiếng giảng nói, lại ngửi thấy mùi hương lạ thơm ngào ngạt. Đạo tục truyền tụng, đều xưng tụng là thần dị. Kết hạ xong, thần cúng một con ngựa trắng, năm con dê trắng, năm mươi xấp lụa để cúng dường công lao giảng pháp. Sư chú nguyện, nhận lấy rồi đi; về sau, chẳng biết kết cục như thế nào (Theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Sanh tự chủ tại Thành Đô

 

          Tăng Sanh là người huyện Phi thuộc Thục Quận (Tứ Xuyên). Họ ngoài đời là Viên, làm Tăng từ bé. Do có tiếng khổ hạnh, Sư được Thái Thú Thành Đô là Tống Phong thỉnh trụ tŕ chùa Tam Hiền. Sư tụng kinh Pháp Hoa, lại tu tập Thiền Định. Sư từng tụng kinh trong núi, bỗng có một con cọp đến ngồi chồm hổm trước mặt. Sư tụng kinh xong nó mới đi. Sau này, sau khi tụng niệm, tu tập xong, Sư thường thấy bốn vị thần chầu hầu, bảo vệ chung quanh. Tuổi tuy đă già suy, hạnh nghiệp của Sư càng vững bền. Tới khi mắc bệnh, Sư căn dặn môn đệ rồi ngồi xếp bằng mà hóa (Theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Tự sư tại nước Cao Xương

 

          Vị tăng Pháp Tự ở Cao Xương[43], đức hạnh nghiêm cẩn, cao cả, ăn rau, uống nước. Sau đó, Sư vào đất Thục, sống tại vùng mộ của Lưu Sư để hành hạnh Đầu Đà. Hổ, rắn thấy Sư chẳng gây thương tổn. Sư thường ở trong nhà đá, tụng ba kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Kim Quang Minh. Trong một Hạ, Sư bỗng ở trong nhà đá, nằm bên hông trái, mạng chung, bảy ngày [thi thể] chẳng hoại. Mùi thơm lôi kéo người khác t́m đến. Mỗi tối, tỏa sáng chiếu thấu mấy dặm. Người làng lấy làm lạ, liền dựng tháp mộ nơi di thể. Sư là người thời Tấn (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Nghĩa pháp sư ở Cối Kê

 

          Sư Pháp Nghĩa, họ ngoài đời là Trúc. Mười ba tuổi nhập đạo, chuyên ṛng siêng hành phạm hạnh, tụng kinh Chánh Pháp Hoa, trụ tại chùa Ngơa Quan. Sau dời sang Bảo Sơn tinh xá ở Cối Kê. Năm Hàm Ḥa (327)[44] thứ hai, Sư nhiễm bệnh, nhưng tụng niệm, tu tập chẳng thiếu sót. Đêm mộng thấy một vị Tăng lôi ruột và bao tử của Sư ra gột rửa cấu uế xong, lại nhét vào trong bụng. Tỉnh giấc, bệnh tật đă tiêu trừ. Vua Tấn từng tuyên triệu Sư vào cung cấm để truyền thọ NGiới, cung phụng trọng hậu. Tới niên hiệu Đại Ḥa, Sư chẳng bệnh tật mà mất. Vua sắc truyền dựng tháp an táng tại Tân Đ́nh Cương, nay là chùa Trung Hưng (theo Linh Thụy Tập).

 

* Đạt thượng nhân ở đất Khương

 

          Trong niên hiệu Long An[45] đời Tấn, vị tăng Huệ Đạt khi đào cam thảo ở Sơn Bắc Lũng, người Khương[46] do đói kém đă bắt người về ăn thịt. Ngài Huệ Đạt bị chúng bắt, nhốt trong cũi. Chúng nó chọn người mập để ăn trước. Huệ Đạt hết sức hoảng sợ, nhất tâm xưng niệm danh hiệu Quán Âm, và tụng phẩm Phổ Môn. Người trong cũi bị chúng ăn sạch, chỉ c̣n Huệ Đạt và một đứa nhỏ, mạng chỉ c̣n lại một ngày. Huệ Đạt suốt đêm tŕ niệm, chẳng bỏ. Tới sáng, bỗng có một con hổ từ trong đám cỏ chạy ra, gào rống chấn động cả núi. Lũ người Khương hoảng sợ, tháo chạy. Cọp bèn cắn cũi thủng thành lỗ rồi bỏ đi. Huệ Đạt và đứa bé vội bỏ chạy, thoát nạn (theo Thai Tông Biệt Hành Nghĩa Sớ).

 

* Khoáng pháp sư ở Ngô Hưng

 

          Pháp sư Trúc Pháp Khoáng, họ ngoài đời là Cao, ngụ cư[47] ở Ngô Hưng. Sư chí hướng cao cả, trác tuyệt, giới hạnh uyên thâm. Do bổn sư ngă bệnh, Pháp Khoáng v́ thầy chí thành cầu đảo, lễ sám suốt bảy ngày đêm. Do vậy, cảm vời quang minh năm màu chiếu vào pḥng, bệnh thầy liền khỏi. Về sau, Sư trụ tại thạch thất trong núi Tiềm Thanh, thường diễn nói ư chỉ “hội tam thừa quy vào nhất thừa” của kinh Pháp Hoa và cái nhân của Tịnh Độ. Sư thường ngâm vịnh hai bộ (tức kinh Pháp Hoa và kinh Vô Lượng Thọ), có người th́ giảng, không có người th́ tụng niệm. Tạ An là Thái Thú ở Ngô Hưng, đặc biệt tới chỗ Sư bày tỏ ḷng tôn kính. Tấn Giản Văn Đế (Tư Mă Dục) triệu vời, sai Sư làm trai đàn, hành sám pháp để đuổi sao xấu. Sư về già, dời sang chùa Xương Nguyên ở Vũ Huyệt, v́ bá tánh cứu vớt khổ ách, không ǵ chẳng hiệu nghiệm. Có người thường thấy tại chỗ Sư đi hay ngồi, luôn có quỷ thần mấy chục kẻ hộ vệ trước sau. Sư thọ bảy mươi sáu tuổi, quan Thường Thị là Cố Khải soạn truyện ghi chép lại đức hạnh của Sư (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Vị sư bị quên mất tên ở Trường Sa

 

          Trong năm Kiến Hưng thứ hai (314) đời Tây Tấn (nhằm đời vua Tấn Mẫn Đế Tư Mă Nghiệp), ở phía Tây huyện Trường Sa, cách hơn một trăm dặm, trổ hai gốc hoa sen xanh mọc trên đất bằng. Đạo tục tranh nhau đến xem. Do vậy, đào sâu xuống một trượng hai thước đất, t́m được một cỗ quan tài bằng sành. Hoa sen mọc từ chỗ bị hư hoại của quan tài. Mở quan tài ra xem, thấy đầu lâu bị hoa sen xuyên qua. Rễ hoa sen mọc từ chỗ xương má và răng hàm của đầu lâu. Khi đó, có người nói: “Xưa kia có vị Tăng, chẳng biết tên họ, tụng kinh Pháp Hoa mười vạn bộ, không bệnh tật mà hóa, có di ngôn dùng áo liệm bằng giấy, dùng sành làm quan tài. Đây chính là quan tài của Sư”. Nay dựng chùa trên nền cũ tại Dịch Đ́nh[48], đặt tên là Liên Hoa vậy (xem trong Hồng Giác Phạm Văn Tự Thiền Tập).

 

* Hai vị tăng đă quên mất tên thời cổ

 

          Vị Tăng chùa Vương Hầu ở Phạm Dương đă quên mất tên, chuyên lấy việc tụng kinh Pháp Hoa làm công khóa thường nhật. Lúc Sư mới mất, tạm thời chôn dưới đê. Về sau cải táng, hài cốt đều hư nát, chỉ có cái lưỡi chẳng nát. Tại Ung Châu, lại có một vị Tăng cũng tụng Pháp Hoa, ẩn cư trong núi Bạch Lộc, cảm một bé trai đến hầu hạ. Tới khi Sư mất, vùi thân dưới gộp đá, các phần khác đều khô quắt, chỉ có cái lưỡi vẫn như cũ! (trích từ Tam Bảo Cảm Thông Lục).

 

* Vũ pháp sư ở Kư Châu

 

          Vị tăng Pháp Vũ người Kư Châu, lúc mười lăm tuổi đă quyết chí xuất gia, làm đệ tử ngài Huệ Thỉ. Ngài Huệ Thỉ giới hạnh tinh nghiêm, tu hạnh Đầu Đà. Pháp Vũ có phong phạm cao cả, dũng mănh, thấu đạt sâu xa đạo của thầy. Do tụng kinh Pháp Hoa, ngưỡng mộ, thề phỏng theo ngài Dược Vương thiêu thân cúng dường Đại Thừa. Khi đó, Tấn Vương nhà Ngụy Tần là Diêu Tự đang trấn thủ vùng Bồ Bản. Sư đem chuyện ấy tâu với vương, vương bảo: “Nhập đạo có nhiều lối, cần ǵ cứ phải hủy thân mạng! Chẳng dám cố trái ư, mong thầy hăy suy nghĩ đôi ba lượt”. Chí hướng, thệ nguyện của Pháp Vũ đă sâu nặng, Sư liền uống dầu thơm, dùng vải quấn thân, tưới dầu sáp lên, tụng phẩm Dược Vương rồi nổi lửa tự thiêu. Đạo tục tranh nhau đến xem, đều sanh ḷng thương tiếc (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Thiệu pháp sư ở Lâm Xuyên

 

          Ngài Huệ Thiệu chẳng biết quê quán. Lúc c̣n thơ, hễ mẹ mớm cá thịt, Sư liền phun ra. Do vậy, chẳng ăn mặn. Tám tuổi, Sư xuất gia làm Tăng, thông hiểu kinh Pháp Hoa, dùng khổ hạnh để nêu bày khí tiết. Về sau, do sư tăng yêu cầu, Sư trụ tại chùa Chiêu Đề ở Lâm Xuyên. Sư thường nghĩ ân Phật sâu nặng, thề muốn xả thân để báo đáp, bèn thuê người đẵn cũi, chất tại hang đá tại Đông Sơn cao đến một trượng. Chính giữa, khoét một cái khám. Trở về chùa, thưa với thầy, thầy can gián, nhưng Sư chẳng nghe. Do vậy, chọn ngày mở hội Bát Quan Trai trong núi. Cả xứ tụ về đầy nghẹt hang núi. Tới đêm, ngài Huệ Thiệu tự chạy hương, cầm đuốc đốt củi rồi vào khám ngồi, tụng phẩm Dược Vương xả thân. Lửa cháy tới trán vẫn nghe tiếng Sư tụng kinh. Đại chúng bỗng thấy một ngôi sao to như cái đấu giáng thẳng xuống lửa, chốc lát bay lên trời, đều cho đó là điềm lành thiên cung nghênh tiếp. Huệ Thiệu từng nói với một vị đồng học: “Chỗ tôi thiêu thân sẽ mọc một cây ngô đồng, xin đừng chặt”. Ba ngày sau, quả nhiên cây mọc lên. Đạo tục đều lấy làm lạ. Đó là năm Nguyên Gia 28 (451)[49] đời Tống (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Khánh pháp sư ở Lư Sơn

 

          Vị tăng Huệ Khánh, người xứ Quảng Lăng. Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Sư trụ tại Lư Sơn, học thông thạo kinh luật, giới hạnh tinh nghiêm. Suốt đêm, Sư tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma v.v… thường nghe trong bóng tối có tiếng khảy ngón tay tán thán. Sư từng gặp cơn lốc tại Tiểu Lôi, thuyền sắp ch́m, Huệ Khánh một dạ tụng kinh để cầu an ổn. Thuyền đang bị vùi dập trong sóng, bỗng cảm thấy có người nâng đỡ, kéo đi, chốc lát đến được bờ. Từ đấy, Sư tụng niệm, tu tập đến già chẳng lười nhác (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Quynh pháp sư ở Quảng Lăng

 

          Vị tăng Đạo Quynh, họ Mă, người xứ Phù Phong. Sư bỏ nhà lễ ngài Đạo Ư làm thầy. Thầy bị bệnh, sai nhóm Đạo Quưnh bốn người đến Hoắc Sơn hái chung nhũ[50]. Vào hang được mấy dặm, cưỡi bè gỗ vượt sông. Ba người chết ch́m, đèn đuốc lại tắt mất. Đạo Quynh một mực tụng kinh Pháp Hoa, niệm thánh hiệu Quán Âm. Trong chốc lát, thấy một tia sáng như lửa đóm, noi theo đó thoát ra. Sư lại từng cùng bốn vị đồng học đi về phương Nam lên kinh đô, trong đêm đi trên băng vượt sông. Giữa ḍng, băng nứt, đồng học không thể cứu giúp được. Đạo Quynh chỉ dựa vào tụng niệm, bỗng dưng dưới chân như có vật nâng đỡ. Lại thấy ánh sáng đỏ dẫn đường đằng trước, bèn tới được chùa Nam Giản.

          Lại có một đêm, Sư nhập Định, chợt thấy bốn người ngồi xe báu mời Đạo Quynh lên xe. Sư lên xe, bỗng thấy đang ở cạnh cầu Trầm Gia tại châu ấy. Bên đường, có một người ngồi trên hồ sàng[51] chỉ huy mọi người: “Trước đó, ta chỉ hạ lệnh cho mọi người biết trụ xứ của Sư thôi, sao lại phiền Sư từ xa đến tận đây? Hăy mau đưa Sư về!” Về đến chùa, mọi người đều chẳng biết Sư mới vừa đi về. Khi đó nhằm niên hiệu Nguyên Gia đời Tống (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Minh pháp sư ở Lâm Truy

 

          Trong niên hiệu Kiến Sơ đời Tống, có vị Tăng tên Phổ Minh, xuất gia từ bé, tánh t́nh thuần lương, chất phác, thường ăn rau, mặc áo vải. Sư dùng Pháp Hoa và Duy Ma làm nhật khóa. Khi tụng có áo riêng, ṭa riêng, chưa hề hỗn tạp. Thường là khi tụng tới phẩm Khuyến Phát, liền thấy đức Phổ Hiền cưỡi voi đứng trước mặt. Khi tụng kinh Duy Ma, liền nghe trong hư không có tiếng xướng nhạc. Vợ ông Vương Đạo Chân trong làng bệnh ngặt, thỉnh Sư tŕ chú. Sư mới vừa vào cửa, người bệnh đă chết ngất, bỗng thấy có một vật giống như con lửng chó (raccoon) dài mấy thước, chui theo lỗ chó trốn mất, bà ta liền lành bệnh. Lại có lần Sư đi gần chỗ có nước, có kẻ đồng cốt nói: “Thần minh trông thấy pháp sư đều rảo chạy” (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Huệ pháp sư ở Việt Châu

 

          Sa-môn Pháp Huệ, họ Hạ Hầu. Kể từ lúc mười lăm tuổi, Sư đă có kiến thức trác tuyệt, đến lúc thôi để chỏm, ngôn hạnh càng thêm cao cả. Trong niên hiệu Đại Minh[52] đời Tống, Sư sang Vũ Huyệt ở phương Đông, về dưỡng già tại ngọn Thiên Trụ, suốt đời dùng tụng niệm Pháp Hoa làm công khóa chẳng lười nhác, thọ dụng thanh đạm, ăn rau, mặc áo vải mà thôi! Sư thường ở riêng trong một ngôi gác, chẳng dính líu đến nhân gian suốt ba mươi mấy năm. Vương hầu mời mọc, đón rước, Sư đều chẳng gặp gỡ. Chỉ có Châu Ngung do có tín giải đều sâu được Sư đặc biệt tiếp kiến. Khi đó, người mộ đức chiêm lễ có thể nhờ theo Châu Ngung[53] mà gặp Sư (Theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Hầu pháp sư ở Kinh Châu

 

          Ngài Tăng Hầu, họ ngoài đời là Cung, nhiều đời sống ở Tây Lương. Trong niên hiệu Hiếu Kiến[54] đời Tống, Sư tới kinh đô. Đối với các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, và Kim Quang Minh, cứ hai ngày là tụng xong một bộ. Như thế cho đến sáu mươi mấy năm chẳng thiếu sót. Về sau, Sư ẩn cư tại một hang đá thuộc rặng núi phía sau kinh thành để làm chỗ tu Thiền và tụng niệm. Một hôm, Sư mắc bệnh nhẹ, bèn thay áo, rửa mặt, súc miệng, oai dung nghiêm túc, chắp tay qua đời, thọ tám mươi chín tuổi. Sư từ thuở mười tám tuổi cho đến lúc xả mạng, hễ bóng mặt trời chênh quá Ngọ đôi chút, [mà chưa kịp ăn trưa, Sư] sẽ chẳng thọ trai (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Tấn pháp sư ở kinh đô

 

          Sư tên là Huệ Tấn, là con cháu nhà họ Diêu ở Ngô Hưng. Từ thuở bé đă thích đi khắp nơi hành hiệp, tới bốn mươi tuổi mới tỉnh ngộ. Do vậy, xuất gia, bèn trụ tại chùa Cao Ṭa ở kinh đô. Sư chuyên tu phạm hạnh, một mực đạm bạc, thề tụng kinh Pháp Hoa. Sư dụng tâm nhọc nhằn, tụng niệm đến nỗi thành bệnh. Do vậy, Sư phát tâm tạo một trăm bộ kinh Pháp Hoa để sám hối tội lỗi thuở xưa. Bởi đó, hằng ngày tích cóp tiền bạc do thí chủ quyên tặng [để thuê người chép kinh]. Kinh chép đủ số th́ bệnh cũng lành. Sau đó, Sư càng phúng tụng gấp bội, hồi hướng các phước nghiệp, nguyện sanh Tây Phương. Một hôm, Sư bỗng nghe trên không trung có tiếng nói: “Đúng như ông ước nguyện, ắt sẽ được văng sanh”. Tới năm Vĩnh Minh thứ ba (485) đời Tề [Vũ Đế (Tiêu Trách) thuộc Nam Triều], Sư không bệnh mà hóa, thọ tám mươi lăm tuổi (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Quả pháp sư ở kinh đô

 

          Vị tăng Huệ Quả là người ở Dự Châu. Sư chẳng ăn mặn từ bé, trụ tại chùa Ngơa Quan ở kinh đô, để tụng các kinh như Pháp Hoa v.v… Sư từng ở trong nhà xí thấy một con quỷ cung kính thưa: “Xưa kia, tôi làm duy-na, do có chút việc không đúng pháp, phải đọa làm quỷ ăn phân. Tôi từng có ba ngàn đồng, chôn dưới cây thị. Xin pháp sư từ bi dùng món tiền ấy làm phước”. Sư liền bảo đại chúng đem món tiền ấy tạo một bộ kinh Pháp Hoa để truy điệu. Sau đó, Sư bỗng mộng thấy quỷ ấy đến cảm tạ, thưa: “Đă được sửa thành quả báo tốt đẹp hơn trước rất nhiều”. Đó là chuyện trong niên hiệu Thái Thỉ (465-471) đời Lưu Tống (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Du pháp sư ở Lư Sơn

 

          Sư húy là Tăng Du, họ ngoài đời là Châu, người xứ Ngô Hưng. Tuổi hai mươi xuất gia, hạnh nghiệp tinh thuần, trọn đủ. Sư dựng chùa Chiêu Đề ở phía Nam Lư Sơn để ở, thường tŕ kinh Pháp Hoa, chưa tùng thiếu sót chút nào! Một hôm, Sư bảo bạn bè: “Do kết sử gây lụy tam đồ cho nên có h́nh hài, nay t́nh kiến sắp hết, h́nh thể cũng nên bỏ đi, đường lối của ngài Dược Vương há xa xôi ư?” Sư bèn chất củi làm khám, sắp đặt trai tăng, từ biệt đại chúng. Hôm ấy, mưa lắc rắc, trời kéo mây. Sư bèn phát thệ rằng: “Nếu tôi bỏ thân chẳng hối tiếc, trời sẽ quang tạnh. Nếu không, trời sẽ đổ mưa to”. Nói xong, quả nhiên tạnh mưa. Đến đêm, Sư vào khám, chắp tay, ngồi xếp bằng, tụng phẩm Dược Vương Bổn Sự. Lửa cháy tới thân, Sư vẫn ngồi thản nhiên. Mọi người thấy một luồng hơi tía túa lên trời mấy ngày chẳng tan mất. Khi đó, Sư bốn mươi bốn tuổi, nhằm ngày mồng Ba tháng Sáu năm Hiếu Kiến thứ hai (455) đời Tống.

          Mười bốn ngày sau, nơi pḥng cũ của ngài Tăng Du bỗng mọc hai cây ngô đồng, cành lá sum suê, mọc vươn thẳng tắp. Người hiểu biết bảo đó là Sa La song thụ, quyết nêu rạng đạo Nê Hoàn (Niết Bàn), chắc ngài Tăng Du có phần, cho nên hiện điềm lành này! Do vậy, Sư có hiệu là Song Đồng Sa Môn. Trưởng biện của Ngô Quận là quan trưởng sử B́nh Nam đích thân trông thấy chuyện đó, bèn khen rằng: “Du du huyền cơ, mang mang chí đạo. Xuất sanh nhập tử, thục vi chí bảo” (Huyền cơ dằng dặc, đạo cực mênh mang, vào sanh ra tử, đúng là chí bảo). Đó là bài thứ nhất. “Tự tích Dược Vương, thù hóa tuyệt luân. Văng văn kỳ thuyết, kim đổ tư nhân” (Dấu xưa Dược Vương, giáo hóa tuyệt vời, xưa nghe nói đến, nay đích thân thấy). Đó là bài thứ hai. “Anh anh sa môn. Huệ định tâm cố, ngưng thần tử khí, biểu tích song thụ” (Bậc sa-môn anh tài, tâm huệ định kiên cố, ngưng thần hơi tía xong, biểu lộ thành Song Thụ). Đó là bài thứ ba. “Kỳ đức khả nhạo, kỳ tháo khả quư, văn chi tác hỹ, thức dương phảng phất” (đức ngài đáng chuộng, tiết tháo đáng quư, soạn văn tán dương, phong phạm phảng phất). Đó là bài thứ tư (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Ích pháp sư ở Chung Sơn

 

          Sư tên là Huệ Ích, người xứ Quảng Lăng. Sư xuất gia tại Thọ Xuân, sau này, náu ḿnh tại chùa Trúc Lâm. Sư khí tiết trác tuyệt, chuyên ṛng tụng Pháp Hoa, thệ nguyện đốt thân để thực hiện chân pháp cúng dường. Thoạt đầu, Sư thôi ăn ngũ cốc, chỉ uống bơ. Kẻ thấy nghe hủy báng hay tán thán rất nhiều. Sau đó, Sư thôi uống bơ, chỉ nuốt các viên hương. Tuy Tứ Đại yếu ớt, nhưng tinh thần thanh tỉnh, chánh niệm. Tống Hiếu Vũ Đế càng thêm kính trọng, ngạc nhiên sâu đậm, sai sứ giả đến can gián Sư thôi làm thế. Sư chẳng nghe theo.

          Trong ngày Phật Đản năm Đại Minh thứ bảy (463), Sư đặt cái vạc ở phía Nam của Chung Sơn, chuẩn bị dầu, rồi đến cung khuyết từ biệt hoàng đế. Vua nh́n Sư, sắc mặt bi thương, Sư đôi ba lượt dùng Phật pháp căn dặn rồi lui về. Vua đích thân xa giá đến xem. Khi đó, tứ chúng vội vàng kéo đến. Sư vào trong vạc, dùng bông vải bó thân, tưới dầu lên. Sư sắp nhóm lửa th́ vua ngăn lại. Ngài Huệ Ích kiên quyết, chẳng tuân theo, lại nói: “Thân hèn mạng tệ nào đáng để thánh ư quan tâm. Kính xin bệ hạ độ hai mươi người xuất gia ḥng giúp đỡ Phật pháp”. Vua đồng ư, Huệ Ích cầm đuốc tự thiêu, chắp tay tụng phẩm Dược Vương. Lửa cháy tới lông mi, lông mày, vẫn nghe tiếng tụng kinh. Mọi người nh́n vào, tiếng kêu đau ḷng vang rền hang núi. Vua bỗng nghe trên hư không có tiếng đàn, sáo, mùi hương lạ tỏa ngào ngạt cả ngày mới tan. Đêm đó, vua lại mộng thấy ngài Huệ Ích chống tích trượng t́m đến, lại căn dặn vua tuân hành Phật pháp. Hôm sau, vua mở đại hội, độ hai mươi người xuất gia, sắc truyền dựng chùa Dược Vương nơi Sư thiêu thân (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Tông pháp sư ở Pháp Hoa Đài

 

          Vị tăng Pháp Tông, người xứ Lâm Hải. Thuở bé, Sư thích săn bắn, từng ở Diệm Xuyên bắn trúng con nai có chửa, nó bỗng trở dạ sanh con. Nai mẹ vẫn mang mũi tên liếm con. Pháp Tông hối hận nói: “Tham sống, yêu con, loài có t́nh thức đều giống nhau”, bèn bẻ gẫy cung tên, xuống tóc làm Tăng, khất thực để tự nuôi thân. Mỗi ngày, Sư chỉ ăn một bữa, sáu thời lễ Phật để sám hối tội khiên thuở trước. Sư thường ngâm vịnh hai kinh Pháp Hoa và Duy Ma, tiếng vọng khắp bốn phương. Nam nữ theo Sư thọ Tam Quy, Ngũ Giới hơn ba ngàn người. Sư mở rộng chỗ cư trụ làm tinh xá, dùng kinh đă tụng để đặt tên, nên gọi là Pháp Hoa Đài (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Đăng pháp sư ở Lư Sơn

 

          Vị sư Tăng Đăng trụ tại chùa Đại Lâm núi Khuông Lư, chuyên tụng kinh Pháp Hoa suốt ngày đêm chẳng ngớt. Một hôm, bỗng thấy một ṭa điện đường bằng bạc từ từ hạ xuống nơi tăng pḥng, bỗng biến thành điện vàng. Sư bèn vào điện, ngồi, đứng, kinh hành như thế suốt ba năm. Tấn An Vương (Tiêu Tử Loan, con trai thứ bảy của Tề Vũ Đế Tiêu Trách) nghe nói, nhiều lần xuống chiếu nghênh đón. Do vậy, Sư tạm xuống núi. Vương và tứ chúng nghiêm cẩn cầm hương, hoa xin Sư truyền giới. Ngài Tăng Đăng nói: “Ban ngày nhiều tiếng ồn ào, xen tạp, tâm lắm nỗi tán loạn. Hăy nên thọ giới trong đêm khuya thanh vắng”. Đến đêm, đang trong lúc Sư thuyết giới tướng, Tam Quy, khóe miệng Sư bỗng tỏa quang minh chiếu khắp đại chúng. Mọi người thấy quang minh, đua nhau lễ bái, ồn ào. Sư liền thôi nói, quang minh thâu lại. Sư nói: “Ta vốn muốn truyền giới, nhưng kẻ thấy quang minh liền kêu gào. Quang minh hiện ra chỉ là tướng lành thọ giới, chưa phải là chánh duyên đắc giới. Nay làm lại từ đầu”. Đại chúng im lặng, Sư lại thuyết pháp, lại tỏa ra quang minh. Đại chúng lại ồn ào. Do vậy, Sư bèn thôi, [bảo họ] ngày mai lại tới. Sư liền từ biệt, trở về núi. Điện vàng đă hiện lại hồi phục như cũ. Một hôm, Sư bỗng bảo người cùng chùa: “Nay tôi lên điện vàng, chẳng trở lại nữa!” Ngay trong hôm ấy, Sư thong dong siêu hóa (theo Linh Thụy Tập).

 

* Chí thiền sư ở Dư Hàng

 

          Thời Đông Tấn, có vị tăng Pháp Chí kết am ở núi Dư Hàng, tụng kinh Pháp Hoa, sáng tối chẳng lười nhác. Có con chim trĩ làm tổ cạnh am. Mỗi khi nghe tiếng tụng kinh, nó bèn bay lượn cạnh ṭa, hoặc đứng chầu bên cạnh, tỏ vẻ nghe nhận. Bảy năm như thế, một ngày chim tiều tụy. Sư vỗ về bảo: “Ngươi tuy thuộc loài chim mà có thể nghe kinh, nếu thoát khỏi thân nghiệp báo, ắt sanh làm người”. Hôm sau, nó chết. Sư liền đem chôn. Đến đêm, Sư vừa nằm nghỉ, mộng thấy một bé trai đến bái tạ: “Con chính là chim trĩ, do nghe thầy tụng kinh mà được thoát thân chim. Đời này, làm con nhà họ Vương trước núi. Nách bên phải có lông chim trĩ, thầy có thể kiểm nghiệm”. Tới sáng, vị tăng đến nhà ấy, hỏi thăm th́ đúng là như thế. Một hôm, nhà họ Vương đăi trai tăng. Ngài Pháp Chí vừa đặt chân đến cửa, đứa nhỏ bỗng nói: “Ḥa thượng của con đă đến”, mọi người đều lấy làm lạ, ôm đứa bé cho Sư xem. Ngài Pháp Chí vỗ về, bảo: “Đây là bé trĩ của ta”, liền cởi áo nó xem kỹ. Dưới nách nó, quả nhiên có ba cọng lông chim trĩ, [bảo họ]: “Tới bảy tuổi nên cho nó xuất gia”. Cha mẹ nó vâng lời. Tới tuổi, bèn cho nó vào núi. Mười sáu tuổi xuống tóc, do nách nó có lông trĩ, đặt tên là Đàm Dực. Sư truyền dạy kinh Pháp Hoa, nó nhớ không sai một chữ. Đàm Dực chính là tổ thứ hai của núi ấy!

 

* Thiên y Phi Vân đại sư

 

          Sư húy Đàm Dực, gịng họ xem trong phần trước. Sư đă thành Tăng, tham học khắp nơi. Thoạt đầu, Sư đến Lư Sơn, nương tựa pháp sư Huệ Viễn để liễu ngộ tông thừa. Sau đó, vào Quan Trung lễ quán kinh luận do ngài La Thập đă dịch, thông đạt vô ngại, đắc đại biện tài. Về sau, Sư cùng đồng học là Đàm Học sang Cối Kê ở phương Đông, đến núi Tần Vọng, thấy núi có riêng năm ngọn, hai con suối, khí tượng hào hùng, tuyệt vời. Do vậy, bèn xẻ đá, trừ cỏ, tính ở lại trong núi. Sư chuyên tụng Pháp Hoa suốt mười hai năm. Một hôm, lúc sắp hoàng hôn, có một nữ nhân khoác áo màu, tay xách lồng trúc. Trong đó, có một con lợn trắng, hai củ tỏi. Cô ta đứng trước Sư khóc lóc nói: “Thiếp là con gái nhà nọ ở trước núi, vào núi hái rau Vi, trên đường gặp cọp dữ, rảo chạy đến đây. Trời đă tối, cây cỏ rậm rạp, sài lang tung hoành, trở về sẽ chẳng có lẽ sống, dám xin Sư cho ở nhờ một đêm có được hay chăng?” Sư viện lẽ hiềm nghi, kiên quyết khước từ, chẳng thuận. Cô ta chảy nước mắt, buồn khóc. Bất đắc dĩ, Sư phải nhường cho cô ta nằm trên giường cỏ rồi liền che đầu tụng kinh.

          Tới canh ba, cô ta kêu gào bị bệnh, bảo bụng đau quặn, mong Sư xem thử. Sư trao thuốc, cô ta càng đau đớn nhiều hơn, rên siết không dứt tiếng: “Nếu được Sư xoa bụng, may ra sẽ yên đôi chút. Nếu không, sẽ chết. Phật pháp lấy phương tiện từ bi làm gốc. Sư nỡ ḷng ngồi nh́n mà chẳng đưa tay cứu vớt ư?” Sư đáp: “Ta là tăng sĩ đă thọ đại giới, lư đâu xoa bóp thân người nữ!” Cô ta càng khẩn cầu tha thiết. Sư liền dùng khăn vải bọc đầu tích trượng để xoa bóp từ xa. Trong khoảnh khắc, cô ta bảo: “Đă chẳng cần nữa!”

          Sáng hôm sau, cô ta bước ra sân, áo màu biến thành mây lành, lợn biến thành voi trắng, tỏi hóa thành hai đóa hoa sen. Cô gái chân đạp lên hoa sen, cưỡi voi, ngự lên mây, bảo Sư: “Ta là Phổ Hiền Bồ Tát. Do chẳng lâu sau, ông sẽ về trong hàng đại chúng của ta, cho nên đặc biệt đến thử. Xem ra, tâm ông như nước, như trăng, chẳng thể ô nhiễm”. Nói xong, phơi phới ra đi. Lúc bấy giờ, trời tuôn mưa hoa, cơi đất đều rúng động. Người làng thấy nghe, không ai chẳng ca ngợi. Ngày hôm ấy, Thái Thú là Mạnh Công Nghĩ sáng sớm thức dậy xem xét công việc, bỗng thấy phương Nam mây lành ùn ùn giăng bủa, ánh sáng chiếu rực tới sân nhà. Phía dưới mây, mơ hồ có tiếng vàng, đá, tơ trúc. Ḍ hỏi mới biết là tướng trạng biến hóa do Sư gặp đức Phổ Hiền, bèn tâu tŕnh đạo hạnh của Sư lên triều đ́nh. Ông Mạnh bèn vâng chiếu dựng chùa, đề tên là Pháp Hoa (tức là chùa Thiên Y hiện thời). Khi đó nhằm năm Nghĩa Hy 13 (417) đời Tấn An Đế (Tư Mă Đức Tông).

          Sư thọ bảy mươi tuổi, viên tịch trong núi ấy. Tăng chúng trong chùa dùng chân thân của Sư để tạo thành tượng. Tới khi Đường Vũ Tông phế trừ Phật giáo, tăng chúng đem tượng ấy giấu trong ruột cây tại phía Nam của chùa, cho nên chẳng bị hủy hoại. Vũ Túc Vương nước Ngô Việt phong thụy hiệu là Phi Vân đại sư (Sự tích của Sư được các bộ Cao Tăng Truyện và Pháp Uyển Châu Lâm ghi chép. Đối với chuyện áo trời, lại có truyện ghi chép riêng. Đối với tất cả các chỗ giống nhau hay khác nhau, đều sao lục cẩn thận, tường tận).

 

* Minh pháp sư ở Việt Châu

 

          Sa-môn Hoằng Minh sanh trong nhà họ Doanh ở Cối Kê; xuất gia tại chùa Vân Môn, khí tiết, phẩm hạnh cao vời, mọi người đều chiêm ngưỡng. Sư tụng kinh Pháp Hoa, tọa Thiền, lễ sám, sáu thời chẳng thiếu sót, cảm vời nước trong tịnh b́nh thường đầy ắp. Mọi người nói là các thiên đồng tử hầu cận. Một hôm, Sư tọa Thiền xong, bỗng có một con hổ phủ phục trước mặt, một lúc lâu sau mới bỏ đi. Sau đó, Sư sang Thạch Mỗ Nham ở Vĩnh Hưng nhập định, cũng có sơn tinh đến quấy nhiễu. Ngài Hoằng Minh dùng dây lưng trói nó, sơn tinh nhún nhường, tạ lỗi, xin cởi trói, liền nói: “Sau này chẳng dám tới nữa!” Từ đó, nó tuyệt tích. Đó là chuyện vào năm Vĩnh Minh đời Tề (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Dự pháp sư ở kinh đô

 

          Vị tăng Huệ Dự người xứ Hoàng Long, từ bé đă chuyên học tập. Sư lên kinh đô, trụ tại chùa Linh Tướng, tham học trọn khắp các vị danh sư. Nếu nghe có kẻ phê phán ai đó, liền bịt tai không nghe. Sư tụng các kinh Pháp Hoa, Đại Niết Bàn v.v… Lại c̣n tu tập Thiền Định. Một hôm, nằm ngủ, Sư chợt mộng thấy ba người gơ cửa, áo mũ rạng rỡ, cầm lọng nghênh tiếp. Hỏi lư do, họ nói: “Tử kỳ của pháp sư đă đến, cho nên chúng tôi đến đón tiếp”. Huệ Dự nói: “C̣n có duyên nhỏ chưa xong, có thể tŕ hoăn một năm hay không?” Họ vâng lời ra đi. Tới đúng ngày ấy năm sau, lại mộng thấy ba người như trước. Do vậy, Sư liền qua đời. Sư cũng sống vào đời Tề (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Quỹ pháp sư ở kinh đô

 

          Vị tăng Pháp Quỹ đời Tề, họ ngoài đời là Nguyễn. Thuở nhỏ, theo xuất gia tại Kỳ Viên Tự. Bản tánh cung kính, trầm lặng, lấy chuyện tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp. Hễ được cúng thí, đều gom góp để tạc tượng. Gia đ́nh Sư kiều cư (ngụ cư) tại một ngôi chợ lớn tại kinh đô. Một hôm Sư về nhà, lại tới chùa Định Lâm, lại c̣n ở Kỳ Viên. Sau đó, có người hỏi ḍ ba chỗ, họ đều nói thấy Sư đến thọ trai. Ngày hôm ấy, Sư trở về pḥng cũ, nằm lặng yên qua đời. Thi thể thơm tho, mềm mại, gập hai ngón tay lại. Mọi người cho rằng Sư đă chứng Nhị Quả. Lương Vũ Đế khâm phục sự thần dị, thiết trai tăng tại chùa ấy, sắc truyền nhà chùa vâng chiếu an táng (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Biện pháp sư ở kinh đô

 

          Đời Tề có sa-môn Siêu Biện tại Đôn Hoàng, dĩnh ngộ từ bé, hành xử sâu xa, trầm tĩnh. Sư ở kinh đô; sau đó, Sư từ kinh đô đến Kiến Khang, qua Đông Việt[55], t́m đến tham lễ các vị danh sư. Sau đó, Sư quay về trụ tại chùa Định Lâm, nhàn cư dưỡng chí, vui thỏa chốn núi rừng cho đến hết đời. Sư mỗi lần tụng, đều tụng trọn một bộ Pháp Hoa bảy quyển, tâm mẫn tiệp, miệng thốt lời, luôn có thừa sức. Sư lễ danh hiệu một ngàn vị Phật hơn một trăm năm mươi vạn lạy. Sư chẳng ra khỏi cửa suốt ba mươi năm, thọ bảy mươi ba tuổi rồi tịch. Toàn thân được chôn tại phía Nam chùa. Ngài Tăng Hựu lập bia ghi chép đức hạnh của Sư (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Sa môn Trừng pháp sư

         

          Ngài Bạt Trừng lúc hai mươi tuổi xuất gia làm Tăng, căn khí quê kệch, chậm lụt, chẳng thể làm thế nào được! Sư bèn lập chí, thề tụng kinh Pháp Hoa để cầu về Tây. Mỗi ngày, Sư ghi nhớ một ḍng kinh, hoặc nhớ nửa bài kệ. Siêng khổ như thế tới tám mươi tuổi mới thông suốt cả bộ. Một hôm, Sư ngồi xếp bằng nhập Định, bỗng thấy một vị thần mặc áo đỏ, tay cầm tờ sớ cầu thỉnh, tới nói: “Thiên đế nghênh đón đại đức Bạt Trừng”. Sư nói: “Ta sanh ra ngu độn, tùy sức tụng tŕ, chuyên cầu Cực Lạc. Đao Lợi tuy là chỗ thù thắng, chẳng phải là nơi ta ước nguyện!” Do vậy, vị thần tạ từ rời đi.

          Lại một lúc khác, mộng thấy tháp lớn bằng bảy báu, thân Sư đang ở trong tầng thứ năm, nh́n ra xa thấy có thành tŕ bằng bảy báu chẳng có ngằn hạn. Phía ngoài, có hai vị Kim Cang cầm xử đứng hai bên, mấy chục người áo xanh tay cầm phất trần trắng, phy bậc thềm. Ngài Bạt Trừng hỏi th́ họ đáp: “Đây chính là bậc thềm của thành báu chốn Tây Phương”. Sư tỉnh mộng, liền bảo đệ tử: “Ông hăy đem y bát của ta để lo liệu cơm chay dâng cúng đại chúng”, lại nói: “Các ông lúc này có thấy ngàn đức Phật hay không?” Mọi người đáp: “Không thấy!” Lại nói: “Có cảm thấy mùi hương lạ thường hay không?” Đáp rằng: “Đều ngửi thấy”. Sư nói xong, hướng về Tây, lặng lẽ qua đời (theo Linh Thụy Tập).

 

* Vân pháp sư ở Kim Lăng

 

          Pháp sư là người xứ Dương Tiện, họ ngoài đời là Châu. Lúc mẹ Sư mới sanh ra Sư, thấy mây phủ đầy nhà. Do vậy, dùng chữ Vân làm tiểu tự. Sư bảy tuổi xuất gia, được đặt pháp danh là Pháp Vân. Sư điển trai, anh tuấn, trác tuyệt thuở đó. Lượng pháp sư trông thấy, khen ngợi: “Tâm trí của ta chẳng sánh bằng Vân. Ông này ắt sẽ là bậc rường cột nơi đại pháp”. Lúc ba mươi tuổi, Sư giảng Pháp Hoa và Tịnh Danh, biện tài như gió cuốn, học tṛ tụ về đông đảo. Lương Vũ Đế kính phục, sắc truyền Sư trụ tŕ chùa Quang Trạch. Pháp Vân từ thuở làm Sa Di đă yêu chuộng Pháp Hoa, chuyên ṛng tham cứu, suy niệm, từng đến chỗ vách đá sâu để riêng ḿnh đọc, giảng kinh này. Sư bày đá làm học tṛ, bẻ cành tùng làm phất trần, tự xướng, tự hướng dẫn, lại c̣n tự cật vấn. Hơn nữa, sớ giải tầng tầng, trước sau soi tỏ cặn kẽ lẫn nhau.

          Sư từng diễn giảng kinh này tại một ngôi chùa, bỗng cảm hoa trời có h́nh dạng như tuyết bay rơi xuống đầy trời, tràn vào trong điện, lơ lửng trên hư không chẳng rơi xuống. Sư giảng xong, chúng liền biến mất. Thuở đó, ngài Chí Công đạo siêu việt chư tăng, có lúc tới chỗ ngài Pháp Vân nói: “Tôi muốn hiểu sư tử hống, xin sư hăy giảng cho”. Sư liền lên pháp ṭa phân tích, ngài Chí Công khảy ngón tay nói: “Lành thay! Vi diệu quá!” Vũ Đế một hôm đem chuyện trời hạn hán hỏi ngài Chí Công: “Làm cách nào để có mưa?” Chí Công đáp: “Pháp Vân có thể khiến cho trời mưa. Hăy nên thỉnh sư Pháp Vân giảng kinh”. Ngài Pháp Vân giảng kinh Pháp Hoa, đến câu “kỳ trạch phổ hiệp” (nhuần thấm tưới khắp), trời liền giáng trận mưa to nhuần thấm. Quan Nghi Đồng[56] là Viên Ngang nói: “Nhà tôi có người thường cúng dường Tăng, phát nguyện ‘nguyện đạt được huệ giải như ngài Pháp Vân’, bỗng mộng thấy một vị Tăng bảo: ‘Sư Pháp Vân vào thời Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật đă giảng kinh này’, sao có thể sánh bằng được?” (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Viễn pháp sư đời Hậu Châu[57]

 

          Ngài Huệ Viễn làm Tăng, khí lượng chẳng cạn. Ngài cao chín thước năm tấc, lưng rộng chín ṿng ôm. Ngài lên ṭa thuyết pháp như sấm rền khiến sâu bọ tỉnh giấc. Nhằm lúc Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) muốn phế trừ hai giáo Thích và Đạo, triệu các sa-môn vào triều. Vua trần thuật: “Trẫm vâng lănh mạng trời, nuôi nấng dân đen. Tam giáo lưu truyền trong cơi đời, suy xét lư cùng tột, Nho th́ lễ, nghĩa, trung, tiết, thích đáng cho cơi đời, cần phải lập định. Chân Phật th́ chẳng có h́nh tượng, kính ngưỡng từ xa trong tâm, nhưng Phật tháp cao vót, tráng lệ. Đấy thật sự là thứ vô t́nh, sao có thể ban ân huệ, chẳng đáng để giữ lại! Ư trẫm như thế đó, các vị tôn đức nghĩ như thế nào?” Khi đó, hơn năm trăm vị Tăng thất sắc, không nói được ǵ!

          Ngài Huệ Viễn từ trong đại chúng bước ra, tâu: “Bệ hạ nói: ‘Chân Phật chẳng có h́nh tượng’, đúng như Ngài đă nói. Nhưng tai mắt sanh ra linh tri, nhờ vào kinh để nghe Phật pháp, cậy vào tượng để biểu thị lẽ chân. Nếy phế trừ, sẽ chẳng có ǵ để dấy ḷng tôn kính”. Vua nói: “Chân Phật trong hư không đều tự biết”. Huệ Viễn đáp: “Trước thời Hán Minh Đế, kinh tượng chưa truyền đến cơi này, v́ lẽ ǵ chẳng biết?” Vua chẳng đáp được. Ngài Huệ Viễn nói: “Nếu chẳng nhờ vào kinh giáo, trước thời Tam Hoàng chưa có văn tự, nhân loại phải nên hiểu Ngũ Thường rồi chứ?” Vua chẳng đáp được. Huệ Viễn nói: “Nếu cho rằng h́nh tượng vô t́nh phải phế bỏ, vậy th́ bảy miếu[58] của nước nhà há có phải là hữu t́nh ư?” Vua nói: “Trẫm cũng không cho rằng bảy miếu là đúng!” Huệ Viễn nói: “Nếu phế bảy miếu tức là chẳng tôn kính tổ tiên, sao có thể nói là giữ đạo Nho ư? Nếu tam giáo đều phế, lấy ǵ để trị quốc vậy?” Vua cũng chẳng đáp được. Huệ Viễn nói: “Bệ hạ nay dùng sức vua để phá diệt Tam Bảo, địa ngục chẳng chọn lựa sang hèn, sao chẳng sợ hăi?” Vua nói: “Chỉ khiến cho trăm họ được vui sướng, nào ngại địa ngục!” Huệ Viễn đáp: “Bệ hạ dùng tà kiến hóa độ người khác, dân chúng sẽ theo bệ hạ cùng vào A Tỳ, há có vui chi?” Vua giận dữ, truyền chư Tăng lui ra, sẽ lại triệu tập sau. Từ đó, vua thi hành chánh sách bạo ngược, cùng phế cả hai giáo Phật và Đạo. Ngài Huệ Viễn bèn ẩn cư ở Tây Sơn thuộc Cấp Quận, chuyên tụng kinh Pháp Hoa và Duy Ma, mỗi kinh trọn một ngàn lượt, thâm nhập lư càng sâu, kinh luôn để trong túi sách chẳng bỏ. Tới niên hiệu Đại Tượng[59], giáo pháp nhà Phật mới bắt đầu khôi phục. Đầu triều đại Đại Tùy, Sư mới lại dự vào hàng Tăng chúng[60], tiếng vang đến cung vua. Vua xuống chiếu sắc truyền Sư đứng đầu các sa-môn ở Lạc Châu để khuông pḥ Phật pháp. Tuy Huệ Viễn từ chối, vua chẳng thuận, Sư liền phải nhận địa vị ấy (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Phương pháp sư ở Dương Châu

 

          Sa-môn Trí Phương là người đất Thục (Tứ Xuyên), nổi danh xứ Dương Việt (vùng Dương Châu, Tô Châu). Sư [nói năng] từ nghĩa trong sáng, phong phú. Sư giảng kinh Pháp Hoa tới phẩm Bảo Tháp: “Tháp báu cao đẹp năm trăm do-tuần, ngang dọc mỗi bề hai trăm năm mươi do-tuần”, bèn nói: “Sao cứ phải khăng khăng cơi Phật xưa kia có sự cao đẹp ấy, ngay phước địa Dương Châu này cũng rất trang nghiêm. Ngay như tháp Di Thiên bảy tầng cùng nhật nguyệt tranh sáng, tháp Đồng Thái chín tầng đua sắc với khói mây. Giếng vuông th́ thả lá sen, thùng tṛn th́ đặt hoa sen bên cạnh. Giống như để an trụ th́ sống ở phương Nam, dường như Ni Khư th́ để trấn phương Bắc. Tai nghe, mắt thấy, có thể sánh đôi so lường vậy”. Ngài thốt lời thành vần điệu như thế đó. Thuở đó, có pháp sư Bảo Hải. Sư từng đối trước Lương Vũ Đế diễn giảng; hôm ấy, [Bảo Hải] cũng hiện diện, liền cật vấn rằng: “Trong kinh, cơi nước ba lượt biến đổi, phương này đổi uế thành tịnh. [Vậy th́] cũng có thể biến phàm thành thánh hay chăng?” Ngài Trí Phương đáp: “Hóa Phật rất nhiều, do [cơi nước] hẹp ḥi nên cần phải [biến hóa cho] rộng, chứ phàm thánh vốn tự như thế, cần ǵ phải nhọc công biến đổi?” Pháp Hải lại cật vấn: “Nếu nói sáu mươi tiểu kiếp như trong khoảng bữa ăn, chỉ là bậc thánh trông thấy [như thế. Vậy th́] chỉ là thánh thấy, chứ phàm chẳng thể thấy. Nếu phàm và thánh cùng thấy, phàm lẫn thánh đều là thánh hay sao?” Trí Phương cười bảo: “Cao ṭa có bao giờ nói như vậy, mà chính ḿnh tự nói, tự bắt bẻ”. Pháp Hải nhận biết ḿnh đă lỡ lời, bèn bào chữa: “Cái thưng gỗ ba ngăn, sao gọi là Trí Phương?” Trí Phương liền đáp ngay: “Ao tù toàn ngói, sỏi, sao gọi là Bảo Hải?” Mọi người cười x̣a, giải tán (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Tịnh pháp sư ở Chân Thừa

 

          Sư Huệ Tịnh người xứ Chân Thừa, gia đ́nh nhiều đời học Nho. Sư bẩm tánh hiểu biết trác tuyệt, mỗi ngày học thuộc tám ngàn câu, hiếm ai sánh bằng, đến nỗi thanh danh đẹp ḷng vua, quan liêu đều ngưỡng mộ. Năm Trinh Quán 13 (639), vua sắc truyền các học sĩ thuộc tam giáo tranh luận tại điện Hoằng Văn, vời Huệ Tịnh đến giảng kinh Pháp Hoa, đạo sĩ Thái Hoảng giảng Đạo Luận. Thái Hoảng hỏi: “Kinh đề là Tự Phẩm đệ nhất, chẳng rơ Tự và Đệ phân định như thế nào?” Huệ Tịnh đáp: “Như Lai nhập định, phóng quang, mưa hoa, chính là nền tảng to lớn để phá Nhị Thừa, lần lượt sẽ nói Nhất Thừa. V́ thế nói là Tự. Đệ là vị trí. Nhất là khởi đầu. Phần Tự đặt ở trước nhất; v́ thế nói là đệ nhất”. Thái Hoảng nói: “Đệ là em, là em th́ chẳng được gọi là Nhất. Hễ nói Nhất th́ chẳng nói Đệ! Hai chữ mâu thuẫn, sao có thể dung hội cho được?” Huệ Tịnh đáp: “Trước đó, tôi chẳng nói rồi đó sao. Đệ là vị trí. Nhất là khởi đầu. Tiên sinh chẳng hiểu câu đáp trước, lầm lẫn nêu bày lời cật vấn sau đó! Thái Hoảng nói: “Lời Sư chẳng ra khỏi mép, sao có thể lănh hội được?” Huệ Tịnh đáp: “Bồ Tát thuyết pháp, tiếng vang rền mười phương, đạo sĩ hiện diện tại đó, như mê, như say”. Thái Hoảng nói: “Dă can thuyết pháp, do đâu mà nghe được?” Huệ Tịnh nói: “Thiên cung pḥng vệ nghiêm mật, theo đúng lư chẳng có dấu vết loài thú! Đạo sĩ thần trí mông muội, nói người là súc vật”. Tâm vua hết sức vui sướng, cả hội hoan hỷ, hớn hở giải tán. Ngài Huệ Tịnh là bậc then chốt trong giáo pháp của chúng ta như thế đó (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Tam Tạng Kiệt pháp sư

 

          Vào đầu niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, có sa-môn Đàm Vô Kiệt (Dharmodgata, Pháp Dũng) ở Hoàng Long siêng ṛng hành khổ hạnh. Sư thường tụng phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, cùng với hai mươi lăm đồ chúng đi qua phương Tây, sang Thiên Trúc, trải đủ mọi hiểm nạn. Đàm Vô Kiệt chí nguyện càng kiên cố. Đă tới Xá Vệ, trên đường gặp bầy voi, Đàm Vô Kiệt tâm kiền thành tụng niệm, liền cảm sư tử từ trong rừng chạy ra, lũ voi tháo chạy. Lại có bầy trâu rừng rống lên ùa tới, sắp làm hại. Đàm Vô Kiệt miệt mài niệm như cũ, bỗng có con chim kên kên lớn bay tới, lũ trâu kinh hoảng, chạy mất hút. Mọi người được thoát nạn (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Lăng pháp sư

 

          Vị tăng Pháp Lăng, tụng tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa có công. Một đêm, Sư mộng thấy vào cơi âm. Quan cơi âm hỏi hạnh nghiệp xong, liền ghi lời phán định rằng: “Ba ác đạo bít lấp, đường nhân thiên thông suốt. Thấy Phật, siêng hành, không chỉ ngừng ở hóa thành, có thể chỉ bày cung trời là nơi sẽ thấy vị Phật tương lai” (Theo Linh Thụy Phú Chú Văn).

 

* Chiêu thượng nhân ở Tần Châu

 

          Trong niên hiệu Vĩnh Thái nhà Ngụy, tại chùa Đan Lănh tại Tần Châu, có vị tăng tên là Tăng Chiêu, bẩm tánh thanh nhàn, thường thích đi đây đó văn cảnh. Một hôm, Sư tới Huỳnh Sơn, thấy dưới thác nước có một cái hang, liền vào đó. Đi chừng năm sáu dặm, lại ra khỏi hang, thấy có con suối chảy xen trong đá mấy dặm về phía Đông Bắc. Bỗng thấy một căn nhà bụi phủ tới tận đầu gối, nh́n bốn phía là rừng sâu. Trong chốc lát, Sư gặp một vị Tăng, khoảng sáu mươi tuổi, lông mày bạc trắng dài hơn một trượng quấn ṿng trên tai, vui vẻ tiếp chuyện. Hỏi ra, vị Tăng ấy đáp: “Ba người đồng học chúng tôi đến đây lánh đời, một người chưa trở lại, một người th́ đang nhập Diệt Định”. Sư lại hỏi: “Hiện thời người nào làm vua?” v.v…Vị Tăng lấy thóc lúa giă ra để làm bữa ăn. Vị tăng hỏi Tăng Chiêu: “Ông thường tụng kinh ǵ?” Tăng Chiêu thưa: “Tụng kinh Pháp Hoa”. Sư gật đầu nói: “Nghiệp tinh tấn rất tốt”. Tăng liền chỉ: “Các kinh ở chái Đông nhà này đều do ta tụng, có muốn nghe hay không?” Tăng Chiêu chắp tay thưa vâng. Vị tăng liền tụng, âm điệu rơ ràng, Sư tụng từ đêm tới sáng. Tăng Chiêu buồn ngủ, vị tăng bảo: “Ông hăy tự ngủ, ta vẫn thường [thức suốt đêm tụng niệm] như thế”. Sáng hôm sau, Tăng lại dọn thức ăn. Tăng Chiêu từ tạ lui về, vị tăng cũng chẳng giữ lại, chỉ nói: “Đồng học của ta đă ra ngoài. Nếu ông được gặp, ắt sẽ đại khai ngộ”. Tăng Chiêu trở về, kết bạn trở lại t́m kiếm, chẳng thấy ở chỗ nào (Theo Tục Linh Thụy Tập).

 

* Thừa pháp sư đời Nguyên Ngụy

 

          Trong thời Nguyên Ngụy, tại phương Bắc có Thừa thiền sư thọ tŕ Pháp Hoa, tinh tấn chẳng lười nhác. Mạng chung, Sư thác sanh làm con thứ năm nhà họ Tiết ở Hà Đông. Sanh ra, đă có thể nói chuyện đời trước, chẳng thích ở trong cơi tục, ư muốn lại làm Tăng. Cha ông ta làm thứ sử Tứ Châu, bèn theo cha đến chỗ trấn nhậm. Tới chùa Thất Đế ở Trung Sơn, ông ta giật ḿnh nhớ chỗ kinh hành thuở trước. Do vậy, t́m đệ tử thuở đó, bảo: “Ông c̣n nhớ chuyện khi theo tôi vượt sông đến Lang Sơn hay không? Thừa thiền sư nay chính là thân tôi! Bàn thờ linh trong pḥng có thể bỏ đi!” Cha mẹ sợ ông ta xuất gia, liền cưới vợ cho. Sau đó, ông ta quên hẳn chuyện túc mạng, nhưng thường sanh ḷng chán ĺa, giữ ḿnh đoan chánh, sống thanh tĩnh (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Trạm pháp sư ở Tề Châu

 

          Vị tăng Chí Trạm, người Tề Châu, bẩm tánh thuần hậu, giảm bớt muôn duyên, chất trực, chỉ lấy nhân từ làm gốc. Sư trụ tại chùa Hàm Thảo nơi hang sâu thuộc núi Nhân Đầu, quanh năm tụng Pháp Hoa, chưa từng bỏ lỡ chút nào. Hôm Sư sắp mất, Chí Công tâu với Lương Vũ Đế rằng: “Bậc thánh tăng Tu Đà Hoàn tại chùa Hàm Thảo ở phương Bắc hôm nay diệt độ”. Trong ngoài nghe tin, đều hướng về đó vọng bái, “ngài Chí Trạm sắp mất!” Ngài Chí Trạm vắng lặng, chẳng c̣n thừa sót phiền năo, đoan nghiêm qua đời. Hai tay đều có một ngón duỗi ra. Khi đó, có vị phạm tăng luận rằng: “Duỗi một ngón tay là chứng Sơ Quả”. Đạo tục tôn sùng, kính trọng, dựng tháp thờ toàn thân Sư tại núi ấy. Chim thú chẳng làm bẩn tháp, tới nay vẫn c̣n (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Thiên pháp sư ở Giang Lăng

 

          Vị tăng tên là Tăng Thiên ở Ngô Quận, sanh từ nhà họ Nghiêm. Sư từ bé đă sắc sảo, thần dị, người quen biết đều lấy làm lạ. Sư theo hầu pháp sư Đạo Tắc, cũng là sự quyền biến biểu lộ ra bên ngoài, coi trọng sâu xa. Ngài Tăng Thiên đến các nơi giảng pháp, biện tài mặc sức tung hoành. Lương Cao Tổ (Lương Vũ Đế)[61] sắc truyền Sư giảng tập giáo nghĩa tại điện Hưng Thiện. Vua coi trọng Sư thông duệ, bèn phong Sư làm gia tăng[62]. Ngài Tăng Thiên từ lúc tṛn hai mươi tuổi liền tụng kinh Pháp Hoa, vượt hơn sáu ngàn bộ. Một hôm, Sư đang tĩnh tọa, dường như ngủ thiếp đi, mộng thấy Phổ Hiền Bồ Tát quang minh thơm ngát chiếu chạm thân thể, Bồ Tát đích thân xoa đầu. Sư ghi lại chuyện ấy, nhưng chẳng kể với ai. Đến khi đă lớn tuổi, mới dần dần kể cho người cùng chí hướng biết. Đối mỗi kinh trong mười tám bộ như Pháp Hoa, Đại Phẩm, Niết Bàn v.v… Sư đều giảng mười lượt, đều soạn nghĩa sớ (sách chú giải ư nghĩa) lưu truyền hàng hậu học. Về sau, Sư thị tịch, chôn tại núi Trung Hoa ở Giang Lăng (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Quán pháp sư ở Nam Giản

 

          Huệ Quán làm Tăng, do nghe Tiên pháp sư ở chùa Nam Giản giảng pháp, mà thành người lănh đạo. Về sau, do mắc bệnh, bèn đóng cửa, không ra ngoài, chuyên tụng Pháp Hoa, kiền thành cầu sám hối, bệnh liền khỏi hẳn. Từ đấy, Sư chẳng bỏ sót hạnh nghiệp ấy. Lương Vũ Đế kính trọng, sắc truyền Sư trụ tŕ chùa Nam Giản để hoằng dương, giảng giải Pháp Hoa. Sư từ ngữ phong phú, ư nghĩa dồi dào, luôn hơn hẳn các cách diễn đạt của người khác. V́ thế, đương thời có câu ngạn ngữ: “Ca la ngữ, Huệ Quán lục” (chép lại kịp lúc lời sư Huệ Quán nói ra), [hàm ư] người đương thời chép lại [lời Sư giảng giải] coi như châu ngọc (theo Linh Thụy Tập).

 

* Nhẫn thiền sư ở Kinh Châu

 

          Vị tăng Pháp Nhẫn người xứ Giang Lăng, xuất gia tại chùa Thiên Hoàng, giới hạnh trọn đủ, chuyên tŕ Pháp Hoa và Duy Ma, mỗi ngày hai lượt. Do chùa đông người tụ tập, nhiều tiếng ồn ào, Sư bèn qua Phúc Thuyền Nham ở Kinh Châu để hành hạnh Đầu Đà, yên tĩnh quán tưởng suốt ba mươi năm. Sư tự vào núi, chẳng cần ngoại hộ. Lương thực đă cạn sạch, bèn dùng trái cây, hoặc bảy ngày ăn một bữa. Từng có lúc cả một kỳ Kết Hạ (ba tháng) mà chỉ tốn ba đấu gạo, tới ngày Tự Tứ, hăy c̣n năm thưng. Sư chỉ bó gối trong khám thất, chưa từng bước ra ngoài. Một hôm, bỗng có con voi đến phía sau khám. Sư nằm bệnh mười ngày rồi nằm bên hông phải mà hóa. Y bát bụi phủ, hư nát, đại chúng ước lượng chưa đáng giá mười đồng. Khi đó nhằm thời Hậu Lương[63] (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Lẫm pháp sư tại Ngọc Tuyền

 

          Vị tăng Pháp Lẫm đời Hậu Lương là con nhà họ Nghiêm ở Chi Giang. Sư mới mười lăm tuổi, kiến thức đă khác lạ tót vời. Sư xuất gia tại chùa Ngọc Tuyền, chẳng mặc lụa là, khất thực tự nuôi thân. Dùng vải thô làm áo, Thiền niệm làm nghiệp, quanh năm tụng Pháp Hoa, chẳng đặt hông xuống giường. Sư đi khắp nơi tham yết, tầm đạo, không nơi xa xôi nào chẳng tới. Sư khí chất, dung mạo thanh cao, nghiêm túc, người trông thấy không ai chẳng ngưỡng mộ phong thái cao cả. Sư từng đến Đại Nhạc, gặp một vị huyện lệnh, xét hỏi giấy thông hành. Pháp Lẫm thường mang theo một hộp đựng kinh Pháp Hoa, liền bảo: “Trong hộp này có giấy thông hành”. Quan huyện lục soát, chẳng t́m thấy, bèn tức giận, [chất vấn]. Sư đáp: “Kinh này là h́nh tích đă hành của chư Phật, bần đạo noi theo đó để hành. Đấy chính là giấy thông hành của Lẫm vậy”. Huyện lệnh bỏ tù Sư, suốt bảy ngày chẳng cho ăn. Sư chỉ nhất tâm tụng kinh. Huyện lệnh bị ác mộng, bèn sám hối, thả Sư. Về sau, Sư ở lại Mặc Sơn, ngồi mất dưới gộp đá. Mọi người ngửi thấy mùi hương lạ, mười ngày mới tan (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Lăng Pháp Hoa ở Ngạc Châu

 

          Tăng Lăng, họ ngoài đời là Hứa, người xứ Nam Dương. Đến tuổi hai mươi bèn ĺa tục, dự kỳ thi dành cho tăng sĩ. Sư phần nhiều sống ở Ngạc Chử, thường nuôi một con khỉ và một con chó. Sư dùng bát gỗ thọ thực, thức ăn c̣n dư th́ cho hai con thú ăn. Ăn xong, khỉ cầm bát không, cưỡi chó mà đi. Tăng Lăng mặc cho chó đi ḷng ṿng, trọn chẳng quản tới. Sư đọc tụng các kinh, riêng lấy Pháp Hoa làm kinh trọng yếu, tịnh tâm tu tŕ. Mỗi lần tụng là tṛn bảy lượt, thậm chí bảy mươi, hoặc bảy trăm lượt, số lượng chẳng ít. Âm thanh phóng khoáng, có khi như tiếng đàn, tiếng sáo. Người bên cạnh nh́n vào, [nhận thấy] Sư chẳng c̣n thấy nghe, chân tay của Tăng Lăng đều rút vào trong ḷng, h́nh dạng giống như con rùa rúc vào trong mai. Hoặc có lúc Sư ở chốn tửu quán, ăn thịt, uống rượu, đều là chẳng biết do đâu mà có! V́ thế, ngạn ngữ có câu: “Lăng Pháp Hoa, năm chỗ đều co rút, thịt lợn đầy miệng, má”. Khi đó, tại ngôi chùa gần đó, có vị tỳ-kheo-ni ngộ giải kinh luận, xướng suất giảng dạy, người nghe kéo tới như mây đùn. Tăng Lăng nghe vậy, bảo: “Đó là do tà quỷ gia tŕ, há có chánh lư? Cần phải đến giảo nghiệm”. Một hôm, Sư đến chùa ấy nhằm lúc vị ni đang giảng nói, Tăng Lăng bèn lớn tiếng quở trách: “Tiểu tỳ! Ta đă đến sao ngươi không xuống khỏi ṭa?” Ni vừa nghe tiếng liền ngă nhào, đứng trước điện đường, mồ hôi tuôn ướt đất, đứng sững bất động. Sư hỏi đến huệ giải, bà ta câm lặng như kẻ si điếc. Một trăm ngày sau mới khôi phục bổn tánh. Đó là chuyện trong niên hiệu Đại Nghiệp đời Tùy (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Kiên pháp sư ở Đông Nhạc

 

          Thích Hnh Kiên đời Tùy chẳng biết người xứ nào, thường tu Thiền Quán, giữ tiết tháo hết sức nghiêm cẩn. Do có việc đi qua Thái Sơn, đến đêm, Sư vào miếu thờ thần núi để nghỉ đêm. Người giữ đền nói: “Nơi đây chẳng có quán xá, chỉ có ṭa thần miếu này, nhưng người ngủ lại nơi này, ắt sẽ chết bất ngờ”. Hạnh Kiên nói “chẳng sao”, bèn trải rơm dưới chái miếu. Hạnh Kiên ngồi ngay ngắn, tụng kinh chừng một canh giờ, bỗng thấy vị thần ấy áo mũ rất lớn, hướng về Sư chắp tay. Hạnh Kiên hỏi: “Nghe nói ai nghỉ lại đây phần nhiều bị chết mất, có phải là v́ đàn việt làm hại hay không?” Thần đáp: “Do người sắp chết t́nh cờ tới đây, nghe tiếng đệ tử mà tự chết, chẳng phải là đệ tử giết”. Sư lại hỏi: “Cơi đời truyền tụng Thái Sơn cai trị quỷ đúng không?” Thần nói: “Đệ tử phước bạc, có chuyện ấy”. Hạnh Kiên nói: “Có hai vị Tăng đồng học đă chết, nay c̣n là quỷ hay không?” Thần hỏi tên rồi cho biết: Một người đă sanh trong nhân gian, người kia đang chịu đối chất trong tù ngục. Sư muốn đến gặp, thần sai thuộc hạ dẫn vào trong viện. Sư thấy một người đang kêu gào trong lửa, thân h́nh biến đổi chẳng nhận biết được, máu thịt cháy khét. Hạnh Kiên chẳng nỡ nh́n, liền trở về chái miếu, lại ngồi cùng với thần. Hạnh Kiên nói: “Tôi muốn cứu vị Tăng ấy có được hay không?” Thần đáp: “Được chứ! Có thể v́ người ấy chép kinh Pháp Hoa, ắt sẽ được thoát khỏi!” Sau đó, Sư từ biệt thần. Sáng ra, người trông miếu thấy Hạnh Kiên chẳng chết, ngạc nhiên. Hạnh Kiên rời đi, nhanh chóng hoàn nguyện trước. Kinh chép, đóng thành sách xong, cầm đến miếu. Thần xuất hiện như cũ, Sư báo cho thần biết chuyện ấy. Thần nói: “Sư v́ người ấy vừa chép tựa đề kinh, người ấy đă thoát khỏi rồi. Nay ông ta sanh trong nhân gian, nhưng nơi đây không thanh khiết, chẳng nên đặt kinh. Xin thầy lại đem về tặng vào chùa để cúng dường”. Sư bèn giă biệt thần (theo Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Luân pháp sư ở Việt Châu

 

          Thích Tăng Luân lúc mới năm tuổi, tự thấy quang minh màu trắng đầy nhà, bèn đến chùa Vân Môn ở Việt Châu xin xuất gia. Hạnh tu của Sư là tụng kinh Pháp Hoa. Trong niên hiệu Khai Hoàng, Phật pháp hết sức hưng thịnh. Sư nghe Lư luật sư giảng pháp tại Vũ Dương, bỗng thấy quang minh năm màu giống như bánh xe chiếu vào tự tâm, liền ở trong quang minh lễ năm mươi ba vị Phật. Quang minh vẫn chưa mất, Sư lại lễ năm mươi lăm vị Phật, quang minh mới thu lại. Lúc Sư tám mươi lăm tuổi, bỗng gọi đệ tử, bảo: “Đêm thanh hôm nay, ta sẽ được giải thoát các pháp, tức là thành đạo vô học, chẳng biết thiên đế có đón tiếp hay không?” Nói xong liền qua đời. Ngày an táng, tiết trời hết sức trong trẻo, không mây mà bỗng đổ mưa, mọi người đều lấy làm lạ (theo Tục Linh Thụy Tập).

 

* Siêu pháp sư ở Tề Châu

 

          Trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, có vị tăng Huệ Siêu, lập hạnh tót vời. Sư thường tụng Pháp Hoa, có một đệ tử đă quên mất tên, đang tuổi cầu học, cũng thông thạo ba quyển kinh Pháp Hoa. Một hôm, đứa đệ tử ấy ngă bệnh, chết ở đất Tề, cách Thái Sơn không xa. Huệ Siêu đến dâng hương, trần thuật cặn kẽ ư định v́ sao đến đó. Tượng gỗ bỗng phát ra tiếng bảo: “Sư giới hạnh chuyên ṛng, gắng gỏi, điều Sư hỏi han, tôi chẳng dám bẩm báo”. Liền dẫn Sư đến trước phủ quân[64]. Huệ Siêu hỏi: “Đệ tử tôi nay ở tại chỗ nào?” Phủ quân nói: “Người chết ở nơi đây, chưa có chỗ để sanh về”. Huệ Siêu nói: “Tôi muốn gặp mặt có được hay không?” Phủ quân liền sai người hầu dẫn Sư đi về phía Đông rặng núi mấy chục bước, quả nhiên gặp mặt. Do vậy, Sư hỏi [đứa đệ tử ấy] sướng khổ như thế nào? Đệ tử thưa: “Chỉ bị g̣ bó, trói buộc, cũng chẳng sướng khổ ǵ! Nghĩ chỗ sanh về chưa quyết định, xin thầy cứu vớt cho”. Sư hỏi: “Làm công đức ǵ?” Đệ tử nói: “Xin thầy tạo một bộ kinh Pháp Hoa, đăi trai tăng một trăm vị”. Sư trở về liền chép kinh, trai tăng. Xong việc, lại đến yết kiến phủ quân. Phủ quân tiếp đăi như trước, Sư kể lại những ǵ đă làm. Phủ quân nói: “Sư vừa mới chép xong chữ Diệu trong tựa đề kinh, vị ấy đă sanh vào chỗ thù thắng”. Sư hỏi: “Sanh vào nơi đâu?” Phủ quân nói: “Sanh làm con trai nhà giàu họ Vương ở Tề Quận, đợi nó tṛn ba tuổi, sẽ có thể đến t́m”. Ba năm sau, Sư liền t́m đến, nói: “Muốn được gặp gỡ con trai đàn việt”. Họ Vương cự tuyệt, nói chẳng có con. Sư bèn kể cặn kẽ lời phủ quân. Người vợ đang ở trong pḥng, bảo chồng: “Pháp sư linh cảm dường ấy, có thể cho gặp mặt”, liền ôm con ra đặt ngoài cũi. Đứa trẻ vừa thấy Sư, chạy đến nhào vào thầy, ôm thầy buồn khóc hồi lâu. Cho tới khi nó lớn lên, mang chí nguyện xuất gia, lại trở về phụng sự sư Huệ Siêu (theo Linh Thụy Tập).

 

* Từ thiền sư ở Kỳ Châu

 

          Vị tăng tên Hiếu Từ sống ở chùa Từ Môn. Từ bé, Sư đă tin theo Tam Giai Phật pháp do thiền sư Tín Hành đề xướng, bèn tu khổ hạnh, thân thường khất thực, mặc y phấn tảo, sáu thời lễ sám. Hễ trụ nơi đâu, Sư cũng dùng lời sau đây để giáo hóa người khác, đề xướng: “Kẻ tụng kinh Đại Thừa liền vào địa ngục A Tỳ trong mười phương, hăy mau sám hối”. Một lúc nọ, sau khi Sư thuyết pháp ở Kỳ Châu, có vị ưu-bà-di tŕ kinh Pháp Hoa khuyên những người hữu duyên cùng tụng. Sư nói: “Ngươi tŕ Pháp Hoa, chẳng thích hợp căn cơ, đáng đọa địa ngục, hăy mau bỏ tụng đi!” Những người khác đều bỏ tụng. Vị ưu-bà-di cầm đầu chẳng tức giận, liền trong ngày đại trai, vạn người tụ hội, đốt hương, phát thệ rằng: “Nếu tôi tŕ kinh Pháp Hoa chẳng xứng hợp ư Phật, nguyện thân nhiễm bệnh ngặt khiến cho đại chúng trông thấy. Lại nguyện thân này hăm nhập địa ngục ngay khi c̣n sống. Nếu tôi tŕ kinh Pháp Hoa xứng thuận ư Phật, nguyện thiền sư liền thọ ngay báo ấy”. [Bà ta] nói xong, Hiếu Từ liền bị thần đánh, mất tiếng, chẳng thể nói được. Những kẻ đề xướng, ghi chép của Sư cũng bị mất tiếng. Trong số đó, có năm vị lăo thiền sư cũng chẳng thể nói được. Những người bỏ đọc tụng do thấy sự báo ứng lạ lùng ấy lại đọc tụng như trước (theo Tự Kính Lục).

 

* Sùng pháp sư ở Tương Châu

 

          Vị tăng Pháp Sùng dốc chí nơi kinh luận, tinh thông Pháp Hoa nhất, soạn sớ giải bốn quyển. Sư từng tới Lộc Sơn ở Tương Châu. Sơn tinh hóa thành phu nhân tới chỗ ngài Pháp Sùng xin thọ giới. Do vậy, [sơn tinh] bỏ ngọn núi đang ở để dựng chùa, chẳng mấy chốc hóa thành cuộc đẹp đẽ ở đất Tương (theo tục Linh Thụy Tập).

 

* Hai vị tăng ở Dương Châu và Kỳ Châu

 

          Đầu niên hiệu Khai Hoàng, tại Dương Châu có vị tăng tụng thông thạo kinh Niết Bàn, khoe khoang hạnh nghiệp ấy. Tại Đông Sơn ở Kỳ Châu có sa-di chỉ tụng phẩm Phổ Môn. Hai người đều chết bất ngờ, cùng tới âm ty. Diêm Vương liền mời sa-di ngự ṭa vàng, tụng kinh mà vị ấy thường tụng, hết sức trịnh trọng. Lại để vị Tăng kia ngồi ṭa bạc, tụng kinh Niết Bàn, tâm chẳng tôn kính cho lắm. Tụng xong, vua hỏi người giữ sổ sách, rồi bảo: “Hai người đều c̣n tuổi thọ”, bèn thả về. Vị tăng tụng kinh Niết Bàn ỷ ḿnh tụng nhiều, tâm rất oán hận, hỏi trụ xứ của sa- di, nguyện sau này sẽ t́m kiếm. Hai người đă sống lại, vị tăng tụng kinh Niết Bàn tới Kỳ Châu, thật sự t́m được sa-di, hỏi han nguyên do. Sa-di thưa: “Con tụng phẩm này có áo riêng, chỗ riêng, đốt hương chú nguyện rồi mới mở miệng [tụng niệm], hành pháp này chẳng biếng nhác, chứ chẳng có thuật ǵ khác”. Tăng cảm tạ rằng: “Ta có tội sâu lắm! Ta tụng kinh Niết Bàn oai nghi chẳng tề chỉnh, thân và miệng bất tịnh, qua quưt cho xong đó thôi!” Cổ nhân có nói: “Nhiều mà ác chẳng bằng ít mà lành”, được chứng nghiệm qua chuyện này. Đấy cũng là tinh tấn, nhưng chưa phải là Ba La Mật (theo Chỉ Quán Phụ Hành).

 

* Thái pháp sư ở My Châu

 

          Thời Đại Tùy, có vị tăng tên là Pháp Thái, họ Lữ. Thoạt đầu, Sư làm đạo sĩ đă mười mấy năm, bỗng chán đạo ấy, hồi tâm về đấng Đại Giác, qua Tỵ Sơn ở My Châu, theo thầy xuống tóc, tŕ tụng kinh Pháp Hoa, liền được thông thạo. Sư c̣n đích thân chép một bộ kinh ấy, có vài điều linh dị. Do vậy, lo liệu hai ngàn đồng, mang kinh tới Ích Châu để trang hoàng. Sư mang kinh tới Tạc Kiều th́ cầu găy, rơi xuống nước. Tuy người hầu vớt được Sư, nhưng mất rương đựng áo. Pháp Thái gào to: “Tiền bạc, vật dụng chẳng quản, sao nỡ mất kinh? Có ai vớt được, tôi sẽ biếu hai ngàn đồng”. Khi đó, có người lặn xuống nước t́m kiếm, chỉ t́m được tiền bạc, vật dụng. Pháp Thái bèn đi dọc sông t́m kiếm, bỗng thấy trên cồn băi có một gói vải, nhặt lấy xem thử, th́ ra là kinh. Kinh được cỏ cây nâng đỡ, trọn chẳng ướt chỗ nào! Sư bèn đem trang hoàng, đem về chùa thờ phụng. Thường nghe có mùi hương lạ ngưng đọng, Sư càng tinh tấn gấp bội. Mỗi đêm tụng niệm một bộ là lệ thường. Trong chùa có Bưu pháp sư chuyên giảng dạy, chiều tối xem đọc [kinh điển], ngại Pháp Thái tụng kinh gây phiền, muốn ép Sư đọc nhỏ tiếng. [Bưu pháp sư] đến chỗ Sư, bỗng thấy trước cửa pḥng Pháp Thái có vô số vị thần đều quỳ gối, chắp tay. Bưu pháp sư hổ thẹn, toát mồ hôi, lui về (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Cung thượng nhân ở Thành Đô

 

          Thượng nhân Huệ Cung, họ ngoài đời là Châu, là người ở phủ Thành Đô, xuất gia tại chùa Thiệu Đề, kết bạn với vị tăng Huệ Viễn để siêng năng học đạo, mong thành pháp khí. Huệ Viễn sang Trường An nghe giảng Thành Thật Luận rồi trở về quê giảng dạy, trác tuyệt không ai bằng! Huệ Cung sang Kinh Dương, tham phỏng học đạo rồi quay về. Thấm thoát đă ba mươi năm. Đêm hội ngộ chuyện tṛ, Huệ Viễn nói năng như nước chảy, Huệ Cung câm lặng, chẳng đáp được. Huệ Viễn chê cười, Huệ Cung nói: “Tôi bẩm tánh cực ngu, chẳng hiểu biết ǵ!” Huệ Viễn hỏi: “Có tụng nổi một kinh nào chăng?” Huệ Cung đáp: “Biết tụng phẩm Phổ Môn”. Huệ Viễn vẫn khinh thường. Huệ Cung nói: “Quyển kinh tuy nhỏ, nhưng do chính miệng đức Phật tuyên thuyết. Tôi sẽ v́ huynh tụng một lượt”. Huệ Cung liền trải ṭa tụng niệm. Vừa mới cất tiếng, liền cảm thấy có mùi hương; kế đó thấy hoa trời rơi tán loạn, nhạc trời vang rền. Tụng kinh xong, [các thứ tướng lành] ngưng dứt. Huệ Viễn làm lễ, tán thán, xin Huệ Cung lưu lại dạy bảo. Huệ Cung nói: “Chẳng phải là sức của tôi, mà là sức của chư Phật”. Huệ Cung bèn giũ áo rời đi, chẳng biết kết cục như thế nào! (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Ẩn thiền sư ở Kinh Châu

 

          Thiền sư Pháp Ẩn trụ đă lâu ở phía Đông rặng Phúc Thuyền tại Kinh CHâu, dùng chuyện tụng kinh Pháp Hoa làm hạnh nghiệp của chính ḿnh. Sư thường hận chưa rảnh để quán tâm, bèn sang Tùng Tư để hỏi phương cách nơi thiền sư Pháp Thường, đạt được lư thú sâu xa. Một hôm, Sư đến từ biệt bạn cũ là Hồ Quân Nghĩa, nhưng không gặp, bèn đề trên vách: “Ngày tháng năm đó, tôi sẽ đi xa”. Sau đó, Sư bỗng nói với chư tăng rằng: “Hôm nay tôi sẽ ngủ một giấc dài, ngày mai chẳng thức dậy”. Mọi người chen chúc ngoài cửa xem, thấy Sư nằm bên hông phải, như ve thoát xác. Xem năm tháng Sư đă đề trên vách khi trước, không ǵ chẳng phù hợp! (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Sung pháp sư ở Lư Sơn

 

          Sư tên là Pháp Sung, con nhà họ Tất ở Cửu Giang, chán đời xuất gia, thường tŕ Pháp Hoa và Đại Phẩm rất nhiều lượt, nhưng chưa ghi nhớ. Sư trụ tại chùa Hóa Thành ở Lư Sơn, lại tu tập chánh định, chẳng dính dáng nhân gian, thường khuyên chúng Tăng chẳng cho người nữ vào chùa: [Nếu cho họ vào], trên là tổn hại sự giáo hóa của Phật, dưới là sẽ vướng vào lời đồn thổi của thế tục. Có kẻ chẳng thuận theo, Pháp Sung nói: “Chánh giáo chẳng lưu hành, theo nghĩa phải nên sớm chết, c̣n lo ǵ cơi nước không tuân phụng giới ư?” Liền ngầm sang đỉnh Hương Lô, gieo thân cho nát xương, thề sanh Tịnh Độ. Có người thấy Sư rơi xuống, liền t́m kiếm th́ thấy ngài Pháp Sung thân thể chẳng bị tổn hại, tụng kinh như cũ. V́ thế, khẩn khoản mời Sư về chùa. Tăng cảm động trước chuyện Sư dùng cái chết để can gián, liền thôi cho nữ nhân vào chùa. Sáu năm sau, Sư mất, đang lúc nắng gắt, nhưng thi thể chẳng hư nát, thơm tho như hoa lan. Đó là chuyện trong niên hiệu Khai Hoàng (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Tú thượng nhân ở Hoàng Châu

 

          Cuối đời Tùy, có vị tăng Huyền Tú, sống tại chùa Tùy Hoa ở Hoàng Châu, tánh thanh cao, ôn ḥa, thường tụng Pháp Hoa luôn có tướng lạ, nhưng Sư chẳng cho đó là lạ. Lúc đó, đang mùa Hạ nắng gắt, bạn bè sai người hầu tới mời Sư đi hóng mát. Kẻ hầu đến trước pḥng cửa Sư, bỗng thấy có người ngựa chen chúc canh giữ, hoảng sợ quay về. Bạn bè đích thân đến đó, thấy đúng như vậy, xoay ḿnh đi vào cửa sau, thấy binh giáp càng nhiều, chật ních không trung, chẳng thể đếm nổi. Tứ chúng truyền tụng sôi nổi, đều nói là “thần dị” (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Sanh pháp sư ở Tề Châu

 

          Thích Tăng Sanh ở Tề Châu, tánh thích cô độc. Thoạt đầu, Sư không trụ một nơi cố định. Chỉ cần là chốn già lam, chẳng cần biết có Tăng chúng hay không, Sư liền tạm ở nơi đó, khất thực để tự sống. Sư tụng kinh Pháp Hoa [tại đó] tṛn một ngàn bộ liền dời sang nơi khác. Trong niên hiệu Khai Hoàng, Sư tới chùa Linh Nham tŕ tụng. Một đêm, bỗng thấy thần nhân mấy chục người phủ phục lắng nghe. Tăng Sanh hỏi: “Các vị là ai?” Thần thưa: “Đệ tử là sơn thần, sống ở đây đă bảy trăm năm. Nay nghe tiếng pháp sư tụng kinh, đặc biệt tới nghe nhận; xin thầy v́ chúng con tụng niệm”. Rất lâu sau họ mới rời đi. Từ đấy, họ thường tới. Kế đó, Sư sang chùa Pháp Tạng ở Tương Châu để lo khắc Đại Tạng. Sư thắp đèn trong mắt để cúng dường Đại Thừa, tụng niệm không ngừng. Về sau, Sư tịch tại đó (theo Linh Thụy Tập).

 

* Lượng pháp sư ở Tô Châu

 

          Trong niên hiệu Đại Nghiệp, tại Hổ Khâu có sư Tăng Lượng, mười hai tuổi xuất gia, học đạo, chỉ tụng Pháp Hoa. Tụng chưa đầy bốn mươi ngày, đă thông suốt cả bộ. Sư đi về phương Nam, đến Cối Kê, đối trước tượng Tam Sanh[65] ở huyện Diệm và tháp xá-lợi ở Mậu Sơn, ở mỗi nơi đều đốt một ngón tay nhằm biểu thị dùng huệ đăng để cúng dường. Sau đó, Sư quay về quê cũ, trụ tại chùa Bắc Thiền. Một hôm, Sư bỗng đ̣i nước nóng để tắm rửa, từ biệt các đàn việt, ngồi ngay ngắn, qua đời, cảm mùi hương lạ đầy pḥng (theo Linh Thụy Tập).

 

* Hiển thiền sư nước Bá Tế[66]

 

          Sa-môn Huệ Hiển ở nước Bá Tế, xuất gia từ bé, có chí lớn, chỉ tụng kinh Pháp Hoa. Nếu cầu phước hoặc thỉnh nguyện, không ǵ chẳng như ư. Sư nghe giảng Tam Luận, liền đến nghe nhận. Pháp vừa nhiễm vào tâm thức, huệ giải càng tăng. Thoạt đầu, Sư trụ tại chùa Tu Đức ở nước ấy, có đại chúng th́ giảng, không có th́ thanh tĩnh tụng niệm. Tứ phương vẳng nghe đạo phong, đều đến tham yết, xin chỉ dạy. Sư phiền chán phải đón tiếp, bèn qua núi Đạt Noa[67] ở phương Nam. Núi ấy hết sức sâu và hiểm trở, Huệ Hiển ngồi trong ấy, chuyên tu hành như cũ, rốt cuộc chết tại đó. Đồng học đặt thi thể Sư trong hang đá. Cọp ăn sạch thân thể, chỉ c̣n đầu lâu và lưỡi c̣n lại. Trải qua ba năm, lưỡi đỏ tươi, mềm mại hơn trước; về sau biến thành màu tím, cứng như đá. Đạo tục ngưỡng mộ vô cùng, dựng tháp để ghi nhớ. Đó là chuyện xảy ra vào đầu niên hiệu Trinh Quán đời Đường (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Hỷ pháp sư ở Kinh Châu

 

          Vị tăng Pháp Hỷ sanh trong nhà họ Lư ở Tương Dương. Bảy tuổi, Sư xuất gia tại chùa Thanh Khê ở Kinh Châu. Đại chúng trong chùa hơn bốn mươi người, Pháp Hỷ làm sa di, tu hạnh Đầu Đà hầu hạ tăng chúng. Ngày th́ nấu nướng, đêm th́ tụng niệm, tu tập. Trong núi chẳng có dầu, dùng củi để thắp sáng. Mỗi đêm, Sư tụng một trang kinh. Tuy học các kinh, chỉ lấy Pháp Hoa làm cốt lơi. Tùy Văn Đế sắc truyền Sư trụ tại chùa Thiền Định. Lúc tuổi già, do mong được cảm thông, thề tụng kinh Pháp Hoa một ngàn lượt. Do vậy, chẳng ở trong pḥng cũ mà đi ṿng quanh nhiễu tháp. Trong hai oai nghi, thề hành đủ số một vạn tám trăm hạnh trong bổn nguyện. Tăng chúng trong chùa bỗng thấy cỗ xe báu thắng ngựa trắng vào pḥng Pháp Hỷ, t́m th́ chẳng thấy. Đó là chuyện cảm thông vậy!

          Về sau, Sư về dưỡng già tại Lô Lăng. Năm Trinh Quán thứ sáu (632), Sư nhiễm bệnh, gọi môn nhân đến bảo: “Vô thường đă tới, chớ chú trọng ồn náo, phiền nhiễu. Tam giới hư vọng, chỉ là nhất tâm”. Đại chúng bỗng nghe ở phía Bắc khu rừng có tiếng âm nhạc và xe cộ văng vẳng; do vậy, thưa với Pháp Hỷ. Pháp Hỷ nói: “Đă xả quả báo thế gian, như thế nào lại sanh vào chỗ vui sướng?” Trong khoảnh khắc, mùi hương lạ đầy thất, Sư ngồi ngay ngắn mà hóa (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Thông pháp sư ở Chung Nam

 

          Vị Tăng tên Hội Thông là người xứ Ung Châu, từ bé đă ưa thích học đạo, tánh cương nghị, tiết tháo cao cả. Sư ẩn cư tại Báo Lâm Cốc ở núi Chung Nam để chuyên dốc sức đọc kinh Pháp Hoa. Do thấy ngài Dược Vương xả thân, Sư liền mong phỏng theo, riêng gom góp gỗ củi ḥng thực hiện. Cuối niên hiệu Trinh Quán, trong đêm thanh, Sư tụng phẩm Bổn Sự của Bồ Tát, dùng lửa đốt thân. Khói lửa hừng hực, Sư nghiễm nhiên ngồi xếp bằng tụng kinh như cũ. Lúc đó, mọi người bỗng thấy từ phương Tây có luồng sáng trắng to lớn xuyên vào đống lửa. Thiêu xong, [đại chúng] gom góp di hài, liền dựng tháp thù thắng để lưu truyền hành trạng bất hủ của Sư (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Thông pháp sư ở Ngưu Đầu

 

          Sa-môn Trí Thông ở Tử Châu, họ ngoài đời là Trần. Tám tuổi xuất gia, làm đệ tử của pháp sư Chánh Đạo, chuyên tụng Pháp Hoa, và dùng kinh ấy để giảng dạy. Sư trụ trong núi Ngưu Đầu, oai nghi giữ giới, hàng phục các đạo sĩ. Thường có hai con ngỗng đến nghe thuyết pháp. Sư giảng hơn trăm lượt, hai lần phóng quang. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư từ biệt đại chúng mà mất. Toàn thể nhà cửa, điện đường trong chùa đều chấn động, biến thành sắc trắng trong khoảng một bữa ăn (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Mân pháp sư ở Tô Châu

 

          Sư húy Huệ Mân, người xứ Hà Đông. Chín tuổi xuất trần, lại c̣n siêng tu bạch nghiệp (thiện nghiệp), tụng kinh Pháp Hoa, sau một tháng liền thông thạo. Mười lăm tuổi, thỉnh pháp nơi Quang pháp sư ở Tân La, tài hoa bộc phát, được khen ngợi là túc sĩ (bậc lăo thành học rộng). Lúc mười lăm tuổi, Sư trở về chùa Thi Quang Hưng ở Hải Diêm giảng kinh Pháp Hoa. Mùi hương lạ, tiếng khảy ngón tay nhiều lượt vang trên không trung. Thính chúng như mây đùn, đều nói là điềm lành. Sau đó, Sư dời sang chùa Thông Huyền, kết đồ chúng hành đạo mười bảy năm, chân không ra khỏi cổng chùa. Cuối đời Tùy, ly loạn, vùng Ngô Trung đói kém, tứ chúng chạy nạn, chỉ có ngài Huệ Mân kiên quyết thà chết giữ chùa, tu Thiền, tụng niệm. Triều đại nhà Đường mở ra, Sư trụ tại chùa Nam Giản. Hai con thỏ, một con báo cùng thân cận, ở chung với Sư. Ba ngày trước khi Sư sắp mất, mùi hương lạ ngập nhà, toàn thể đại chúng hỏi Sư, Sư đáp: “Ngày mai ta sẽ ra đi; sanh tử là chuyện thường của con người. Gởi thân trong cơi đời như mây trôi, ai nấy hăy nghĩ tới vô thường, sớm cầu tự độ”. Tới hạn, quả nhiên Sư thuận theo vô thường mà hóa (Theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Đạt pháp sư ở Ly Sơn

 

          Trong niên hiệu Trinh Quán, có vị tăng tên Huệ Đạt, sống tại Tân Lương Tự ở Ly Sơn. Sư dốc chí tụng kinh Pháp Hoa, tính ra hơn sáu ngàn lượt. Trong các oai nghi đi, ngồi, tiếng tụng niệm chẳng dứt. Sư giữ ḷng yêu tiếc sanh mạng của chúng sanh, một mực nh́n xuống, trên đất nếu có trùng, bọ, liền xoay ḿnh tránh né. Có người gạn hỏi, Sư đáp: “Bọn chúng và tôi sanh tử bất định, đâu có biết ai sẽ thành Chánh Giác trước! Há nên khinh thường?” Sau này, Sư ngồi xếp bằng qua đời, người khác cho là Sư đang nhập Định. Lưu lại năm đêm mới biết Sư đă qua đời từ lâu. Thân thể lại chẳng hư thối, bèn chôn luôn cả giường trong hang đá (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Tục thượng nhân ở Ung Châu

 

          Lúc nhà Đường vừa mở nước, tại huyện Lễ Tuyền ở Ung Châu có vị Tăng tên Di Tục, từ bé đă tụng kinh Pháp Hoa trọn mấy ngàn lượt. Một hôm, Sư nhiễm bệnh sắp mất, liền căn dặn bạn là Huệ Khoách rằng: “Do đọc tụng, tôi mong điềm lành ứng hiện để sanh tín tâm cho cơi tục. Sau khi tôi chết, chôn rồi th́ mười năm sau xin hăy đào lên. Nếu lưỡi hư hoại th́ biết tôi đọc tụng chẳng có công hiệu ǵ! Nếu vẫn c̣n, xin hăy báo với đạo tục xây dựng một tháp để biểu thị tướng trạng linh ứng”. Nói xong, qua đời. Về sau, [Huệ Khoách] làm theo lời dặn, thấy máu thịt của Sư đă tan hết sạch, chỉ c̣n lưỡi chẳng hư hoại, bèn đựng lưỡi trong hộp, dựng tháp ở gộp đá phía Nam Cam Cốc (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Pháp sư Cao Tịch thời cổ

 

          Vị tăng Cao Tịch làm bạn với Nhẫn pháp sư chùa Kiến Sơ, tụng thông thạo kinh Pháp Hoa, nhưng không tinh tường giới luật. Một hôm, Sư bệnh sắp mất, Nhẫn pháp sư hỏi: “Ông chết rồi, sẽ thọ sanh ở đâu? Xin hăy báo cho biết”. Cao Tịch nói: “Trước nay, tôi thường cảm khái chuyện ấy. Nếu do thiện ác trong chốn âm thầm [mà sanh về đâu], chắc chắn sẽ báo cho ông biết”. Sau đó, Sư mất. Suốt hai năm vẫn chẳng có tin tức. Tới năm thứ ba, Nhẫn pháp sư bèn đến nhà Cao Tịch, cùng người nhà trèo lên núi. Nhẫn pháp sư ngồi một ḿnh, trong lúc mông lung, thấy Cao Tịch bảo: “Lúc lâm chung đă ước hẹn, muốn báo tin đă lâu, nhưng v́ sự duyên chẳng thực hiện được, cho nên đến trễ. Tôi nay làm tiểu lại ở Thái Sơn, cũng chẳng khổ cho lắm”. Nhẫn pháp sư hỏi: “Ông b́nh sanh tụng kinh, nghe pháp, sao lại có quả báo như thế?” Cao Tịch nói: “Do nhờ đó mà được như vậy. Nếu không, c̣n kém hơn nữa”. Nói xong ẩn mất. Do vậy, Nhẫn pháp sư càng thêm tinh tấn (xem ở cuối bản in kinh Pháp Hoa thời cổ).

 

* Vị tăng chùa Ngộ Chân

 

          Trong niên hiệu Trinh Quán, vị tăng tên là Diên Cán thuộc chùa Ngộ Chân núi Vương Thuận, ban đêm đi qua Lam Khê, bỗng nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa. Âm thanh ấy tuy nhỏ nhưng vang xa. Lúc đó, trăng sao đă mờ, ngó bốn phía mấy chục dặm không có ai. Vị tăng nghiêng tai nghe kỹ, rồi vội trở về, t́m bạn đến cùng t́m kiếm. Họ nhận thấy âm thanh ấy từ trong đất vang ra, bèn đánh dấu chỗ ấy. Tới sáng hôm sau đào lên, từ trong đất vùi, t́m được một chiếc đầu lâu, màu sắc đă khô xỉn, chỉ riêng môi và lưỡi tươi nhuận. Sư liền mang về, dùng hộp đá đựng, cất bên hông đại điện. Từ đó, mỗi đêm thường nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa. Nam nữ ở Trường An kéo nhau đến xem. Trong niên hiệu Khai Nguyên, bỗng bị vị Tăng xứ Tân La lấy trộm hộp ấy đem đi. Tăng chúng trong chùa đuổi theo th́ ông ta đă về tới Hải Quốc (Đại Hàn) rồi (theo Thái B́nh Quảng Kư).

 

* Vị tăng chùa Huyền Pháp

 

          Tại phường An Ấp ở Trường An có chùa Huyền Pháp, vốn là nhà cũ của người trong làng là Trương Tần. Trương Tần từng cúng dường một vị Tăng. Vị tăng ấy chuyên niệm kinh Pháp Hoa cả mười mấy năm. Đồ đệ của Tần bỗng vu cáo vị Tăng ấy thông dâm với một đứa hầu gái, lại c̣n do chuyện khác mà giết chết Sư. Sau đó, trong nhà ấy nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa chẳng ngớt suốt ngày đêm. Trương Tần biết sư bị oan, thẹn hối chẳng kịp. V́ thế, đổi nhà thành chùa (theo Thái B́nh Quảng Kư).

 

* Vị tăng chùa Trĩ Sơn

 

          Ở ngoài thành Quế Phủ, cách Giang Đông năm dặm có chùa Trĩ Sơn. Thoạt đầu, có một vị Tăng dựng am nơi đây, hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, lại c̣n có thể giảng nói. Bỗng có một con trĩ thường đến xếp cánh lắng nghe. Hết quyển thứ năm, trĩ chẳng đến nữa! Tám năm sau, nhà dân dưới chân núi sanh ra một đứa con trai. Đứa bé mới tám tuổi, chẳng ăn mặn, chẳng đùa giỡn, kiên quyết muốn xuất gia với vị Tăng ấy. Cha mẹ cho nó đi tu. Một hôm, Sư tắm rửa, bảo nó chà lưng giùm. Nó nhất quyết không chịu cởi áo. Sư hỏi, nó đáp: “Con đời trước chính là chim trĩ. Do nghe Sư giảng kinh, tụng niệm mà được quả báo làm người. Nay dưới nách vẫn c̣n lông chim trĩ. V́ thế chẳng cởi áo”. Do vậy, Sư dạy nó năm quyển đầu của kinh ấy, giống như nó đă quen học tập từ trước. Hai quyển sau nó chẳng thể học. Từ đó, núi ấy dùng chim trĩ để gọi tên. Do có núi bèn dựng chùa, chùa đến nay hăy c̣n (theo Giới Sát Loại).

 

* Thông pháp sư ở Dương Châu

 

          Vị tăng tên Trí Thông trụ tại chùa Bạch Mă ở Dương Châu, chuyên tu tập Tam Luận, rồi qua sông, trụ tại chùa An Lạc. Gặp lúc nhà Tùy mất nước, Sư nghĩ cách quay về chẳng được, bèn núp trong lau lách bên sông, tụng kinh Pháp Hoa. Suốt bảy ngày chẳng đói, luôn có bốn con cọp đi tuần chung quanh. Trí Thông nói: “Ta đă mười ngày không ăn, mạng chỉ trong hơi thở, ngươi có thể ăn thịt ta”. Hổ thốt ra tiếng người: “Tạo trời lập đất, chẳng có lẽ ấy!” Bỗng thấy có một ông cụ kẹp nách một chiếc thuyền nhỏ tới nói: “Sư muốn vượt sông th́ lên thuyền”. Bốn con hổ nh́n thấy bèn ứa lệ. Huệ Thông nói: “Giữ ǵn trong lúc nguy ngập, cứu nạn chính là lúc này”. Bèn cùng bốn con hổ lên thuyền, thuận lợi vượt sang bờ Nam. Thuyền cập bờ, thuyền và ông cụ bỗng chẳng thấy đâu nữa! Trí Thông dẫn bốn con hổ nghỉ tại phía Tây tháp Tây Hà, kinh hành, thiền tụng, thề không ngủ. Đồ chúng theo Sư tám mươi mấy người. Nếu có chuyện hung hiểm, hổ sẽ rống to. Do vậy, mọi người sẽ cảnh giác. Tới giữa niên hiệu Trinh Quán, lúc Sư đă chín mươi chín tuổi, trong ngày Phật Đản, Sư đốt ḷ hương, lễ khắp các vị thánh tăng, trở về tĩnh thất, ngồi đoan nghiêm qua đời (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Hưởng pháp sư ở Thê Hà

 

          Pháp Hưởng người xứ Dương Châu, thân cao tám thước. Cốt cách, bộ dáng khôi ngô. Mười sáu tuổi xuất gia, tu tập siêng khổ, tụng thông suốt kinh Pháp Hoa, coi đó là đức nghiệp. Đến già, Sư sang chùa Tây Hà, lập thêm Pháp Hoa Đường để hành Pháp Hoa tam-muội của tổ Trí Giả. Tinh tấn suốt hai mươi mốt ngày, thu được điềm lành linh nghiệm to lớn. Sư nhận biết, nhưng chẳng nói. Có một thuở nọ, cọp xâm hại nhân dân suốt mấy chục ngày. Đạo tục thiết đại trai cầu giải nạn, hổ bỗng xông vào chỗ hành lễ, quắp một người mang đi. Sư đuổi theo sau, kêu nó đứng lại: “Sao lại lỗ măng vậy? Nay đang cử hành trai đàn, hăy thả người ra”. Hổ liền thả người ấy. Sau đó, các con hổ đều kéo đến. Sư dùng trượng gơ đầu hổ, giảng thuyết chánh pháp. Từ đấy, chúng chẳng c̣n làm hại nữa! (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Thành pháp sư ở Chung Nam

 

          Vị tăng tên Pháp Thành ở Ung Châu, từ bé đă dĩnh ngộ khác thường. Sư xuất gia tại chùa Lam Điền, theo hầu ngài Tăng Hoằng. Tăng Hoằng cũng là một vị tăng thần dị. Pháp Thành vâng lời thầy răn, tụng kinh Pháp Hoa, lấy đó làm bạch nghiệp. Lại hành tŕ Pháp Hoa tam-muội, từng mộng thấy đức Phổ Hiền khuyên biên chép đại giáo. Sư liền cậy người chép tám bộ Bát Nhă, lại chép kinh Hoa Nghiêm, cảm chim có màu lạ nhảy múa nơi án chép kinh. Sư chép kinh Hoa Nghiêm ở nơi đất trống, do có chuyện phải đi, chưa kịp thu dọn. Mưa to trút tầm tă. Tới khi trở về, án chép kinh vẫn c̣n nguyên đó, các thứ khác đều bị cuốn trôi. Tới giữa niên hiệu Trinh Quán, Sư ngă bệnh, có chí nguyện sanh lên trời Đâu Suất, bèn nói: “Nay có đồng tử đến đón, ta đi đây”. Nói xong, miệng phóng quang minh, mùi hương lạ đầy thất, điềm nhiên ngồi qua đời. Sư tụng kinh Pháp Hoa mỗi kỳ kết Hạ năm trăm lần, những lúc khác th́ tŕ kèm thêm, vẫn được hai lượt. Nếu như gặp khách đến chưa tụng xong bộ kinh, sẽ chẳng nói chuyện chi khác. Tính đại lược trong mười năm, số các bộ kinh được tụng phải hơn một vạn (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Diễm pháp sư ở Tô Châu

         

          Sa-môn Trí Diễm đời Đường là con nhà họ Châu ở Ngô Quận. Mẹ họ Trương, nằm mộng thấy lên ngồi trên tướng luân[68] của tháp chùa Thông Huyền, bèn sanh ra Sư. Tám tuổi, Sư xuất gia, phong cách kiên cường, tài hoa, tài năng khác vời. Mười hai tuổi, Sư đọc trôi chảy kinh Pháp Hoa, ai nấy đều gọi là “thần đồng”. Tới khi chính thức xuống tóc (thọ Cụ Túc Giới), Sư liền ra ngoài (du phương tham học) để nghe giảng, thông huệ khai phát. Sau đó, Sư ẩn cư tại núi Vũ Khâu ở Tô Châu. Ngoài lúc giảng giải, tu luyện, Sư đều tu Phổ Hiền Sám, tụng kinh Pháp Hoa, tính ra ba ngàn bộ. Ḷ hương chưa đốt, tự tỏa khói thơm tho. B́nh chứa nước để dùng vào ban tối mới cạn, đă ngầm tràn đầy nước, dường như có các đồng tử cơi trời hầu hạ vậy. Sư lại hành ba thứ Tịnh nghiệp, tu tập mười sáu phép Quán mầu nhiệm (các phép Quán trong Quán Kinh), từng dẫn dắt hơn năm trăm người. Mỗi tháng, Sư tổ chức trai hội giảng kinh, trải hơn mười năm, thệ nguyện giống hệt như Lư Sơn, nào có khác ǵ? Trước sau, Sư giảng Pháp Hoa và Duy Ma mỗi kinh đều ba mươi lượt. Giảng Quán Kinh một trăm lần. Tới khi gần mất, Sư răn nhắc, khích lệ học tṛ, thản nhiên qua đời (Theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Tạng pháp sư ở Việt Châu

 

          Pháp sư Cát Tạng người xứ Kim Lăng, bảy tuổi xuất gia, nương cậy pháp sư Hưng Hoàng Lăng. Đối với những chỗ quyết nghi, Sư khéo thông đạt lẽ uyên áo. Do sang chơi Bách Việt, Sư ngụ tại chùa Gia Tường, giảng kinh, diễn giáo. Người hỏi đạo kéo đến như mây. Tùy Dượng Đế khâm phục, sắc truyền Sư trụ tại chùa Nhật Nghiêm. Khi đó, đại chúng ưa thích, tôn sùng diệu kinh, Sư liền v́ họ phân tích. Bốn bộ chúng nghe tiếng, cầu thỉnh muôn cách. Sư từng chép hai ngàn bộ kinh Pháp Hoa, tạo hai mươi lăm bức tượng. Lại dựng Phổ Hiền Đường, cung kính đối trước thánh tượng tọa Thiền, tụng niệm. Tới thời Vũ Tắc Thiên đời Đường, do khâm kính đức hạnh của Sư, xuống chiếu mời Sư trụ tŕ chùa Diên Hưng. Khi đó, Sư tuổi đă cao, bệnh phát ra, triều đ́nh ban tặng thuốc thang. Ngài Cát Tạng biết sắp thọ chung, soạn bộ luận Tử Bất Bố (chết chẳng sợ hăi). Nội dung đại lược như sau: Tử do sanh mà có, hăy nên sợ sanh. Nếu ta chẳng sanh, do đâu mà có tử? Viết xong, bỗng vào lúc sáng sớm, tắm gội, thay áo, thắp hương, niệm Phật, an nhiên ngồi qua đời. Sư giảng Pháp Hoa hơn một trăm lượt, lại c̣n giảng Đại Phẩm, Đại Luận, Hoa Nghiêm, Duy Ma, mỗi kinh đều mười lượt, lại c̣n viết sớ giải lưu hành trong cơi đời (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Bạt pháp sư ở Tương Châu

 

          Vị tăng ở Tương Dương là Trí Bạt, con nhà họ Trương, sáu tuổi xuất gia tại chùa Thường Tế trong quận ấy. Hằng ngày, Sư tụng năm trang kinh Pháp Hoa. Đối với nghĩa lư trong kinh, áng chừng có chỗ nắm vững, bèn nói: “Kinh này chính là đại sự xuất thế to lớn của chư Phật. Một người đắc đạo, chẳng hoằng dương sẽ không được!” Sư thề suốt đời nương tựa, hành tŕ để khai hóa cho kẻ tục nhân mông muội được nghe hiểu trọn vẹn. Sư vâng mạng lệnh của pháp sư Cát Tạng ở kinh đô trần thuật lại, Trí Bạt nói: “Nhất Thừa là mây, bèn chia thành ba. Cũng có thể là Nhất Thừa tuôn mưa, chia thành ba [trận mưa] hay không?” Đại chúng chẳng đáp được. Ngài Cát Tạng nói: “Câu hỏi này của ông Bạt đă thấu đạt sâu xa ư chỉ của kinh!” Ngài bèn phó chúc đại pháp [cho Trí Bạt]. Về sau, Sư trụ tại chùa Kỳ Xà, thường giảng Pháp Hoa, mỗi năm giảng năm lần. Một hôm, Sư bỗng cáo biệt đại chúng, mọi người đều chẳng lường được ư Sư. Sư liền ngồi xếp bằng mà hóa (Theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Huưnh pháp sư ở Biện Châu

 

          Sư tên là Công Huưnh, họ ngoài đời là Biên. Sáu tuổi xin theo Phật, mẹ lấy làm lạ, dạy truyền miệng kinh Quán Âm, Sư liền thuộc ngay. Mười sáu tuổi, Sư được thỏa chí. Do vậy, vào Thái Sơn, theo hầu Hoằng pháp sư. Công Huưnh nói: “Khoanh tay ngồi yên trong núi rừng chính là đường lối tốt lành cho riêng ḿnh, c̣n như duy tŕ những đường lối khác, chẳng dùng cách giáo hóa khuyên dụ sẽ chẳng thể được!” Sư bèn đi về phương Nam tham học, trụ tại chùa Huệ Phước nơi đất Biện (Khai Phong, tỉnh Hà Nam), chuyên dùng Pháp Hoa làm công khóa trọng yếu, soạn năm quyển sớ. thường giảng diễn trong trấn. Mỗi lần Sư giảng đến phẩm Dược Thảo Dụ, trời ắt đổ mưa, mọi người đều lấy làm lạ. Sư giảng kinh Pháp Hoa từ đầu đến cuối, tính ra năm mươi lần, c̣n giảng giải các kinh khác, chưa dễ nêu trọn. Về sau, Sư mất tại chùa ấy. Trước hôm Sư mất, có mùi hương lạ và quang minh. Ngài Công Huưnh trông thấy, bèn nói: “Nguyện nương theo điềm lành này sanh về Tịnh Độ”. Nước trong cái giếng Sư uống, lúc Sư mất bỗng khô cạn. Tống táng xong xuôi mấy hôm sau, nước mới lại đầy tràn như cũ (theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Chứng pháp sư ở kinh đô

 

          Ông nội của pháp sư Trí Chứng chính là vua Minh Đế nhà Tiêu Lương[69]. Sư trụ tại chùa Đại Trang Nghiêm ở kinh đô, coi nhẹ địa vị, vinh hoa, ưa chuộng đạo nghiệp. Gia đ́nh Sư nhiều đời thờ Phật, đặc biệt tôn sùng kinh Pháp Hoa. Người trên kẻ dưới trong họ đều kiền thành tụng niệm. Sư từng soạn sớ giải cho kinh, ngầm thâu thập lời phê chú của mấy vị [cổ đức chú giải trước đó], in hằn trong tâm tưởng. Soạn xong, vua bảo người trong họ dâng lên vua Đường. Sư thường tự diễn giảng, hoằng dương. Cha của Sư giữ chức Thái Phủ Khanh[70], tâm chuộng thiện pháp, từ trẻ tới già, tụng trọn một vạn lượt. Lại sai người sao chép, tính ra hơn một ngàn bộ. Mỗi ngày vào chầu vua, ắt sai kẻ hầu bưng kinh đi trước. Hễ công việc rảnh rỗi đôi chút, ông liền đọc tụng. Bạn đồng triều ngưỡng mộ, coi là tuyệt luân. Kể từ Phật pháp truyền sang phương Đông, họ Tiêu quả thật là gương mẫu cho thiên hạ về hành tŕ Pháp Hoa (theo Tăng Truyền Truyện)

          Vị quan trong cơi tục là Tiêu Tử Lương đă tạo một ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Ông mộng thấy một người tặng cho một bộ kinh, nói có chỗ sai lầm, tức là trong phẩm Thọ Lượng thuộc quyển thứ năm thiếu mất câu “nhất trần nhất kiếp” (mỗi vi trần là một kiếp), đó chính là chỗ cốt lơi tột bậc của Pháp Hoa. Do vậy, ông ghi thêm câu đó, bèn cảm điềm lành có chim sẻ trắng bay lượn (Chuyện này trích từ bài văn chú giải bài Linh Thụy Phú của thiền sư Diên Thọ. Ông Tiêu Tử Lương ắt là quan Thái Phủ Khanh [cha của pháp sư Trí Chứng]; do vậy chép thêm vào đây).

         

* An pháp sư ở Trường Sa

 

          Vị Tăng tên Pháp An trụ tại chùa Kiến Nguyên, nghe Sủng pháp sư giảng giải, thông đạt rộng răi các lẽ huyền diệu trọng yếu. Sư lại quanh năm tụng Pháp Hoa, giảng giải bốn mươi lần. Bốn góc giảng ṭa bỗng sanh một bụi hoa, có mười mấy nhánh. Trắng vàng xen kẽ, cao năm sáu tấc, h́nh dạng giống như hoa sen, thơm tho, tỏa sáng chói ngời. Có kẻ nghi là do khí hậu nóng ẩm mà trổ hoa. Lại qua mấy ngày sau, ở bên giảng sàng (chỗ pháp sư ngồi giảng) và chỗ ngồi của đại chúng đều sanh tám chín cành hoa, [hoa nở] suốt một tháng mới héo tàn. Đạo tục xúm lại xem, đều nói là điềm lành do giảng kinh. Về sau, Sư mất tại Trường Sa (theo Linh Thụy Tập).

 

* Hướng pháp sư ở Giang Đô

 

          Vị tăng Huệ Hướng họ Lưu, thường tụng kinh Pháp Hoa, kiêm giảng giải nghĩa sâu. Về sau, Sư tới Giang Đô ở Hoài Dương, trụ tại thôn Cố Đ́nh, mọi người thỉnh Sư giảng kinh này. Khi đó, Sư đă một trăm lẻ một tuổi, dáng vẻ vẫn tráng kiện, bỗng bảo đại chúng: “Tôi phải đi rồi”. Nói xong, chắp tay ngồi ngay ngắn, qua đời. Họ liền chôn Sư ở Đồng Sơn. Về sau, tiều phu thường nghe tiếng tụng kinh ở chỗ chôn Sư. Một hôm, quan Tư Mă Triệu Nguyên Khác đi qua đó, thấy một đóa hoa sen, kinh ngạc hỏi han. Người trong thôn thưa đó là mộ của Hướng pháp sư. Nguyên Khác sai thuộc hạ đào lên, thấy một khối xương trắng, nhưng lưỡi vẫn nghiễm nhiên đỏ tươi. Rễ sen sanh từ cái lưỡi đó. Trông thấy tướng lành linh dị ấy, châu quận dâng sớ. Vua sắc truyền dựng tháp để tôn sùng, kính phụng tại đó (theo Linh Thụy Tập).

 

* Pháp sư Bảo Thông

 

          Ngài Bảo Thông phạm hạnh tu tập chuyên ṛng, quanh năm tụng phẩm Đà La Ni của kinh Pháp Hoa, khá có linh dị. Khi đó, trong thôn Dương Kiều, có người họ Triệu, vợ bị thần ám, mời Bảo Thông đến tŕ chú. Bảo Thông tới nơi, thần liền hiện h́nh. Bảo Thông nói: “Thần ở trong thôn, lẽ ra phải nên tạo phước, sao lại ngược ngạo ám người?” Thần thưa: “Đây chẳng phải là do đệ tử làm, mà lũ tiểu quỷ thuộc hạ gây ra”. Bèn gọi tiểu quỷ tới trước mặt trách phạt. Do vậy, vợ họ Triệu lành bệnh. Sau đó, vợ họ Triệu lại phát bệnh, ca ngâm suốt ngày! Họ lại đến báo với ngài Bảo Thông. Bảo Thông lại đến nơi, thấy con quỷ đă từng bị quở trách trước giường bệnh. Bảo Thông nói: “Trước kia đă từng răn trị, sao ngươi lại tái phạm? Nếu ngươi không đi, ta sẽ tụng chú khiến cho đầu ngươi nứt thành bảy miếng như cành cây A Lê”. Quỷ bèn khấu đầu xin Sư thương xót. Từ đó trở đi, bệnh khỏi hẳn, quỷ chẳng c̣n tới nữa (theo Linh Thụy Tập).

 

* Nghi thiền sư ở Tô Châu

 

          Thiền sư Tăng Nghi trụ tại chùa Khai Nguyên ở Tô Châu. Tại đại Phật điện, Sư bỗng thấy một phụ nữ ôm con tới thưa với Sư: “Con tôi mắc bệnh, xin Sư tụng một bộ kinh Pháp Hoa”. Thiền sư vừa tụng xong, liền có một người áo đỏ, đeo gươm tới lễ bái, thưa: “Hôm trước, vợ tôi v́ con bị bệnh, nhờ thầy tụng kinh, nay đă lành bệnh, đặc biệt đến cảm tạ. Nghe nói Sư xây đại điện, kính dùng mười ngàn đồng để góp sức. Đệ tử là Hứa tướng quân”. Sư hỏi: “Ông ở nơi đâu?” Họ Hứa nói: “Ở sau nhà của Sư”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa. Sư sai người đào đất t́m kiếm, thấy một bộ hài cốt, có bội kiếm đặt ngang thân. Mọi người đều than lạ. Sư làm lễ cúng, an táng (theo Linh Thụy Tập).

 

* Chiếu sư ở Biện Châu

 

          Vị tăng Thần Chiếu là người Biện Châu. Lúc Sư chín tuổi, gặp thời ly loạn, quyến thuộc chết sạch, chỉ c̣n Sư và mẹ bơ vơ, không nơi nương tựa. Không lâu sau, mẹ chết. Sư bèn nương theo Minh Trí luật sư xuất gia. Phàm những ǵ được nghe giảng giải một lượt, Sư đều chẳng quên. Sư chỉ lấy tụng kinh Pháp Hoa làm đức nghiệp. Sư lại nuôi một con chó, đi đâu nó cũng đi theo. Tới khi Sư ngă bệnh, chó tru suốt đêm, mọi người chẳng biết v́ lẽ ǵ. Tới khi Sư đă tịch, họ mới hiểu điềm báo của con chó. Tới khi an táng, chó phủ phục, khóc ṛng, bỏ ăn mà chết (theo Tục Linh Thụy Tập).

 

* Trang pháp sư ở Kinh Châu

 

          Trong niên hiệu Cảnh Long[71] đời Đường, có vị tăng tên Huyền Trang[72], người xứ Giang Lăng. Nhập đạo từ bé, thông hiểu rộng răi Đại Thừa và Tiểu Thừa. Sư thông hiểu kinh Pháp Hoa nhất, coi như tánh mạng. Suốt năm mươi năm, mỗi ngày tụng bảy lượt. Sư từng tụng ra tiếng trong tĩnh thất, cảm thiên nhân giáng hạ lắng nghe. Khi Sư thiết trai, giảng giải, điềm lành lũ lượt. Hiếu Ḥa Đế[73] coi trọng đức hạnh của Sư, thiết trai để Sư giảng giải tại Lâm Quang Điện. Huyền Trang dâng biểu xin hồi hương, vua xuống chiếu ban cho ngự thi, trăm quan cùng họa vận. Xem chi tiết trong Đại Tống Cao Tăng Truyện.

 

* Triệt thiền sư ở Giáng Châu

 

          Thiền sư Pháp Triệt, người Giáng Châu. Từ bé đă cần mẫn, thông thuộc kinh Pháp Hoa, thường coi đó là hạnh nghiệp để khuyên dụ, giáo hóa hết thảy. Sư lập điện đường tại Tây Hà thuộc Cô Sơn, sáng lập già-lam. Chỗ ấy vốn chẳng có nước, một hôm, đất sụt xuống, gịng suối trong tuôn ra. V́ thế, thứ sử Tần Châu là Pḥng Nhân Dụ đích thân xin vua ban biển đề tên chùa, dùng ngay chữ Hăm Tuyền làm tên. Sư c̣n khéo tŕ chú, có nhiều ứng nghiệm. Tháng Hai năm Vĩnh Huy thứ hai (651) đời Đường [thuộc triều vua Đường Cao Tông], Sư biết ḿnh sắp chết, căn dặn đồ chúng, rồi ngồi thẳng qua đời. Khi đó, sắc trời quang đăng, mưa hoa như tuyết, thơm ngát nhưng không tan. Cành lá cây cỏ đều có màu trắng như bột, [hiện tướng ấy kéo dài] tṛn đôi ba ngày rồi mới biến mất. Sư mất đă ba năm, thân vẫn ngồi yên, bất hoại. Công hạnh của Sư đúng là khó nghĩ bàn (theo Linh Thụy Tập).

 

* Nghĩa pháp sư ở Sơn Âm

 

          Thích Đại Nghĩa là con nhà họ Từ ở Sơn Âm, sanh ra đă sáng láng hơn người. Lên bảy tuổi, cha dạy đọc sách, mỗi ngày Sư nhớ mấy ngàn câu. Mười hai tuổi, đi tu tại chùa Linh Ẩn ở Sơn Âm. Kinh giáo hễ đọc rồi đều thông thuộc, mọi người đều kính sợ. Nhằm lúc Đường Trung Tông kế vị, ban ân cho mở giới đàn thế độ tăng chúng. Sư thi đậu hạng nhất trong cuộc khảo hạch về kinh Pháp Hoa. Từ đấy, Sư tu tập, nghe kinh, hoằng dương xiển hóa tại chùa Xứng Tâm. Trong niên hiệu Khai Nguyên[74], Sư chôn cha mẹ; do vậy, vào Phật Lũng ở Thiên Thai đọc Đại Tạng ḥng báo ân cù lao. Sư yết kiến ngài Tả Khê, theo học Chỉ Quán, siêu nhiên ngộ tâm. Để hoàn tất đại sự, Sư b́nh sanh tụng Pháp Hoa và Niết Bàn, giữ giới Đại Tiểu Thừa làm hạnh nghiệp. Lúc Sư mất, đại chúng đều nghe trên hư không có tiếng tấu nhạc cơi trời (theo Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Tu pháp sư ở Thiên Thai

 

          Pháp sư Quảng Tu họ ngoài đời là Lưu, người xứ Đông Dương. Bẩm tánh kiên nghị, thông sáng hơn người. Khi trưởng thành, Sư nương cậy tổ mười bốn của tông Thiên Thai là Thúy pháp sư, đạt được hết truyền thừa của thầy. Người học chen nhau theo hầu, lắm phen chật ních ngoài cửa. Sư hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, Duy Ma, và Kim Quang Minh v.v… sáu thời hành đạo. Tuổi già càng thêm vững chí. Mỗi năm, Sư tu sám hối bốn mươi chín ngày. Đó chính là môn thứ tư tức Tùy Tự Ư tam-muội trong Chỉ Quán. Sau đó, Sư truyền trao Tam Quán cho môn nhân và tín chúng tại gia. Trong niên hiệu Hội Xương[75], Sư mất tại chùa Thiền Lâm, di quan sang kim địa nơi Phật Lũng. Đệ tử là Lương Vấn tạo mộ phần, hỏa táng, thâu được hơn một ngàn viên xá-lợi, bèn dựng tháp để thờ (theo Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Đoan Pháp Hoa ở Minh Châu

 

          Theo Đại Tống Cao Tăng Truyện ghi chép, vị tăng Toại Đoan, họ ngoài đời là Trương, chẳng biết quê quán. Sư xin xuất gia tại chùa Đức Nhuận. Chùa ấy chính là Hám Trạch Thư Đường của quan Ngô Thái Phó (tức là chùa Đông Phổ Tế tại Từ Khê hiện thời). Sư là người chất trực, thanh cao, thuần hậu, chẳng giao du bừa băi. Được thầy truyền dạy kinh Pháp Hoa, Sư tụng đọc như đă quen từ trước, mọi người đều kinh hăi, tán thán. Trong mười hai thời, miệng niệm chẳng bỏ sót. Tới già vẫn chẳng lười nhác. Năm Hàm Thông thứ hai (861) đời Đường [Ư Tông], sau khi ngồi xếp bằng, Sư thanh thản, an định qua đời. Trong khoảnh khắc, miệng sanh ra bảy đóa sen xanh, tinh khiết, thơm tho ngào ngạt. Xa gần chen nhau đến xem. Do vậy, [môn đệ] tạo khám, chôn Sư dưới chân núi Đông Sơn. Suốt hai mươi mấy năm, trong tháp nhiều lượt hiện quang minh. Tới khi mở tháp ra xem, h́nh chất hệt như c̣n sống, lại rước về chùa, đắp sơn để ǵn giữ. Đến nay, chân thân Ngài vẫn c̣n đó (nghe nói lại).

          Đối với chuyện bảy cành hoa sen, tôi từng hỏi ḍ bậc kỳ túc, họ đều nói “Trước đó vẫn c̣n, sau loạn Kiến Viêm[76] mới bị mất”. Nhưng chân thân của Sư c̣n đó, cổ điện oai nghiêm, tiên hiền đều kính sợ. Có người làm thơ để lưu truyền đức hạnh của Ngài. Trương Ngang làm thơ rằng: “Tăng sử danh văn tại, vân khám hương hỏa thâm. Thử thân phi cố vật, bất hoại bổn tùng tâm. Môn tĩnh hồ sơn bích, đ́nh hàn cối bá âm. Hậu nhân hoàn khả kế, chân giáo quyển hoàng kim” (Danh lừng trong tăng sử, khám mây hương lửa dày, thân chẳng phải vật cũ, chẳng hoại tâm thuở đầu. Cửa tĩnh, núi hồ biếc, sân lạnh rợp bóng tùng. Người đời sau kế tục, chân giáo quư tựa vàng). Vị tăng Bảo Xung đề thơ rằng: “Kinh tích tụng bạch liên, Thần di kỷ bách niên, sắc thân di thử địa. Chân tánh tại hà thiên? Hồ nguyệt doanh hoàn khuyết, nham hoa lạc phục nghiên. Duy sư công đức cốt, đoan tọa nhược an Thiền” (Đă tụng kinh sen từ thuở trước, tinh thần truyền lại mấy trăm năm? Sắc thân để lại nơi này nhỉ, chân tánh tầng trời nào ngự đây? Trăng in mặt hồ tṛn rồi khuyết, gành đá hoa rơi, bông lại đơm. Chỉ có xương sư ngời công đức, đoan tọa an vui trong lẽ Thiền) (hai bài thơ ấy được khắc vào đá).

 

* Tố pháp sư ở Kinh Triệu

 

          Vị tăng Thủ Tố bản tánh cao cả, bén nhạy tuyệt luân. Sư trụ tại chùa Đại Hưng Thiện ở kinh đô, luôn lấy việc tụng niệm, hành tŕ làm chuyện quan trọng nhất. Sư không bước chân ra khỏi cổng chùa suốt ba mươi năm, tụng kinh Pháp Hoa ba vạn bảy ngàn bộ. Hằng đêm, thường có con lửng chó (raccoon) đi vây quanh nghe kinh. Khi Sư thọ trai, sẽ có chim quạ đậu trên tay mổ thức ăn. Trong niên hiệu Trường Khánh (821-825) đời Đường, có vị tăng là U Huyền đề tặng rằng: “Tam vạn liên kinh tam thập xuân, bán sanh bất đạp viện môn trần” (ba vạn kinh sen ba mươi xuân, nửa đời chẳng dính bụi ngoài sơn môn), quả thật là câu thơ hay đáng sao lục (Theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Tam Bạch ḥa thượng ở Gia Ḥa

 

          Sư tên là Nguyên Huệ, là hậu duệ của quan B́nh Nguyên Nội Sử Lục Cơ đời Tấn. Thuở c̣n để chỏm, Sư đă dĩnh ngộ, trưởng thành th́ ôn nhuận. Sau khi xuất trần, thọ giới, Sư vào Ngũ Đài Sơn chiêm lễ thánh tích. Trở về, Sư an cư tại chùa Kiến Hưng, lập chí “tŕ tam bạch” (giữ ba thứ trắng). Trong niên hiệu Hội Xương[77] gặp nạn [triều đ́nh] sa thải [tăng sĩ]. Đến đời Đường Tuyên Tông, Sư lại dự vào gịng pháp. Trong niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư đưa xá-lợi xương Phật sang Phượng Tường, đốt ngón cái bên trái, miệng tụng kinh Pháp Hoa, ngón cái bèn mọc lại. B́nh sanh, Sư tụng kinh Pháp Hoa chẳng đếm nổi số. “Tam bạch” là cơm trắng, nước trắng, muối trắng. Thân lại chẳng c̣n đụng chạm, miệng tụng chân kinh, ư chẳng duyên theo hư vọng. Ba điều ấy minh bạch, cho nên có danh hiệu đẹp đẽ ấy. V́ thế, người đất Ngô gọi Sư là Tam Bạch ḥa thượng (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Sở pháp sư ở Ôn Châu

 

          Thích Hồng Sở đời Đường, người xứ Vĩnh Gia. Hồng Sở và anh em khí độ rộng răi, đều chuộng thoát tục. Song thân cũng bằng ḷng, anh em giúp đỡ lẫn nhau, thẳng thừng tụng tŕ, tu tập kinh Pháp Hoa. Khi đó, chùa Đại Vân hoang vu, bỏ phế, Đường Chiêu Tông sắc truyền trùng tu, Sư trông coi cho hoàn thành. Lương Thái Tổ (Châu Ôn) ban y tía và phong hiệu, Sư từ tạ chẳng nhận. Khi đó, Trịnh Thuyết tặng thơ rằng: “Giá thượng tử y nhàn bất trước, án đầu kim tự tọa trường khan” (Chẳng màng y tía phơi trên giá, chữ vàng trên án chẳng buồn nh́n). Sư bản tánh rộng răi, từ bi, mặt không có sắc giận, mắt chẳng ngó xéo, chẳng thốt lời hư vọng. Sư giảng kinh Pháp Hoa tới năm mươi lượt. Có lúc, giảng đường bỗng sanh một đóa hoa sen, đài to, cánh kép, tỏa hương thơm ngát. Mọi người đua nhau khen lạ. Sư c̣n trích máu chép một bộ kinh này, cho đến nay vùng Vĩnh Gia coi là của báu truyền đời (Theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Cử pháp sư ở Việt Châu

 

          Vị tăng Hồng Cử chính là anh của sư Hồng Sở [vừa nói trên đây]. Sư xuất gia tại chùa Long Cung ở đất Việt, tinh thông kinh Pháp Hoa. Do vậy, đắc độ. Về sau, Sư qua Trường An học Tỳ Ni. Do đọc chữ ở bia chùa Hóa Độ, mắt mới lướt qua hai hàng, có vị Cử Nhân trông thấy, yêu cầu Sư đọc lại, [Sư đọc lại] chẳng sai một chữ. có trí nhớ mạnh mẽ dường ấy. Sư ngày đêm tụng kinh, thường thấy quỷ thần phù trợ, hộ vệ, hoặc v́ Sư thêm hương, thêm đèn. Tới niên hiệu Trường Hưng nhà Lư Đường[78], Sư không bệnh, ngồi mất. [Đệ tử đặt Sư vào trong khám], cho tới canh ba, Sư gơ tay vào cửa khám nói: “Do thiện hữu ở cơi Phật hiềm ta ăn mặc bất tịnh, cho nên chuyển về [để thay đổi]”. Thay đổi [y phục] xong, Sư lại ngồi ra đi. Đến ngày thứ bảy, đỉnh đầu Sư vẫn c̣n ấm. Sau khi an táng, thường có một con hổ nhiễu quanh tháp kêu gào (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Hối pháp sư ở Đông Kinh

 

          Thích Trinh Hối, họ Bao, người Ngô Quận. Mười ba tuổi, xuất gia tại chùa Long Hưng, giữ tánh trầm tĩnh, tranh giành từng giây phút để tu tập, [cho nên] qua khỏi một năm, Sư đă tụng lưu loát kinh Pháp Hoa, dùng đó làm thường nghiệp. Mỗi ngày, Sư tụng trọn hai bộ. Mười chín tuổi, xuống tóc. Từ đấy, quanh vùng Y Lạc[79], hễ chỗ nào có giảng pháp, không đâu Sư chẳng tới nghe. Trong niên hiệu Thiên Hựu (904-907) đời Đường, Sư tới trú ngụ tại chùa Tướng Quốc ở kinh đô, giảng kinh Pháp Hoa khoảng mười lượt, nhưng người ta chưa quy hướng, kính trọng. Sư biết là “bán hàng hóa lạ lùng” cũng phải có thời cơ. Sau đó, Sư gặp thủ lănh Tống Châu là ông Khổng ngưỡng mộ cao hạnh của Sư, bèn bỏ ra bổng lộc dựng điện đường để Sư giảng Pháp Hoa quanh năm tại Tây Tháp Viện. Từ đấy bèn ứng cơ.

          Sư lại giở xem Đại Tạng để mở rộng tri kiến. Phàm là ngôn từ của bách gia chư tử trong sách vở thế gian, Sư chẳng ngó tới, răn môn nhân rằng: “Các thuyết dị đoan khiến cho chân tâm của ta bị ch́m đắm rối loạn, cần ǵ phải học tập? Ta chỉ nguyện sư tử hống, trọn chẳng làm chó rừng gào rú!” Về sau, khi sắp mất, Sư tự chuẩn bị nước nóng tắm gội, thay áo sạch sẽ, ngâm xướng phẩm Thượng Sanh, lễ Phật. Sư bỗng hướng vọng hư không, thưa: “Nhọc công thánh chúng xếp hàng trên không tới đón”. Đồ đệ, bạn lữ khi đó đều nghe tiếng nhạc trời. Trong khoảnh khắc, Sư qua đời (theo Đại Tống Cao Tăng Truyện).

 

* Vị tăng chùa Thanh Y ở Đàm Châu

 

          Tại ngơ Bắc trên đường phố tại cửa Đàm Châu có chùa Thanh Y. Xưa kia, có vị Tăng đă quên mất tên, tụng kinh Pháp Hoa tại nơi đây, thường đạt được linh dị, cơi đời chẳng thể lưu truyền cặn kẽ. Có lúc, cảm vời hai đồng tử mặc áo xanh tới phụng dưỡng. Sau khi Sư mất, được an táng, bỗng trên mộ sanh hai đóa hoa sen. Đào lên xem th́ ra hoa sen mọc từ lưỡi. Khi đó, châu quận ghi lại chuyện đó, tŕnh tấu triều đ́nh. Do vậy, vua ban cho tấm biển đề tên là “chùa Thanh Y”, dựng chùa tại đó (theo Linh Thụy Tập).

 

* Kinh đề trên vách đá tại chùa Cô Sơn ở Hàng Châu

 

          Chùa Cô Sơn ở Tây Hồ tại Hàng Châu. Vách đá khắc kinh Pháp Hoa ở trong chùa. Thoạt đầu vào năm Nguyên Ḥa 12 (817), khi Nghiêm Hưu Phục làm Thứ Sử, vị tăng tên Huệ Minh đă bắt đầu có cái tâm thực hiện, hoàn tất vào năm Trường Khánh thứ tư (824), khi Bạch Cư Dị làm Thứ Sử. Vách khắc kinh theo chiều dọc là sáu thước năm tấc, theo chiều ngang là năm mươi bảy thước sáu tấc. Tiền chuyển vận do Nghiêm Hưu Phục, Bạch Cư Dị, thứ sử Hồ Châu Thôi Huyền Lượng, thứ sử Mục Châu Vi Văn Khác, thứ sử Xử Châu Vi Công Lập, thứ sử Cù Châu Trương Duật, thứ sử Tô Châu Lư Lượng, thứ sử Việt Châu Nguyên Chẩn, thứ sử Xử Châu Trần Hỗ [cùng đóng góp]. Thứ sử Bạch xin tôi đề văn. Tôi thấy sở dĩ vị Tăng mưu tính cho khắc kinh lên đá, cho đề văn lên bia, là v́ muốn cho chẳng hư hoại. Nay văn đă khắc trên bia, kinh đă khắc trên đá, lại là chuyện do chín vị chư hầu xướng suất, cúng tiền. Nói gần th́ cũng đáng gọi là do biểu lộ sự tôn sùng khác thường mà thành chuyện bất hủ. Nói xa xôi, th́ chẳng biết có phần mấy vạn năm, bị trời đất cùng chèn ép, bị âm dương cùng nung nấu, bị lửa gió cùng tàn phá, tên gọi và h́nh hài đều diệt, bốn biển chín châu đều là một hạt vi trần trong cơi thái hư, sao biết là bất hủ được chăng? Do suy nghĩ như thế th́ [xét ra] mưu tính của vị Tăng cũng ổn vậy. Ngự Sử Nguyên Chẩn ghi (theo Đường Văn Túy).

         

* Kinh khắc trên vách đá tại Pháp Hoa Viện ở Tô Châu

 

          Trong Pháp Hoa Viện chùa Trọng Huyền ở Tô Châu, dùng vách đá để khắc kinh đạo Phật. Khai thị ngộ nhập tri kiến của chư Phật, dùng liễu nghĩa độ vô biên, dùng Viên Giáo phổ độ vô cùng, không ǵ tôn quư bằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chứng Vô Sanh Nhẫn, tạo Bất Nhị môn, trụ giải thoát chẳng thể nghĩ bàn, không ǵ tột bậc bằng kinh Duy Ma Cật. Tiếp độ tứ sanh cửu loại nhập Vô Dư Niết Bàn, nhưng thật sự chẳng độ, không ǵ hơn kinh Kim Cang Bát Nhă. Diệt tội, gom phước, tịnh hóa hết thảy đường ác, không ǵ nhanh chóng bằng kinh Phật Đảnh Tôn Thắng. Ứng niệm thuận nguyện, sanh vào cơi Cực Lạc, không ǵ nhanh chóng bằng kinh A Di Đà. Nêu rơ chánh quán Thật Tướng, không ǵ hơn kinh Phổ Hiền Quán. Diễn nói tự tánh, chấp nhận Bổn Giác, không ǵ sâu bằng kinh Thật Tướng Pháp Mật. Rỗng tuếch pháp trần, nương vào vô trí, không ǵ bằng Bát Nhă Tâm Kinh. Tám loại kinh ấy trọn đủ mười hai bộ loại, hợp thành mười một vạn sáu ngàn tám trăm năm mươi bảy chữ, bao gồm ư chỉ trọng yếu của tam thừa, trọn hết tạng bí mật của chư Phật.

          Vách đá ấy gồm bốn tầng, cao một tầm (tám thước), dài mười lăm trượng, dày một thước tám tấc. Có hoa sen bằng đá che phủ trên dưới, có thần bằng đá tạc để bảo vệ trước sau. Nước chẳng thể nhấn ch́m, lửa chẳng thể đốt cháy, gió chẳng thể thổi nát. Đó gọi là “thí pháp vô thượng cho đến hết đời vị lai”. Vách đá khắc kinh ấy được làm vào năm Trường Khánh thứ hai (822) đời Đường, hoàn thành vào năm Đại Ḥa thứ ba (829), sa-môn Thanh Hoảng vạch ra kế hoạch, tăng Khế Nguyên viết chữ, quan Đô Thủ Bạch Cư Dị ban lời ca tụng (trích từ Bạch Thị Trường Khánh Tập).

 

* Kinh sen tại chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai

 

          Tôi vừa đến Thiên Thai lễ tổ tháp. Tới chùa Quốc Thanh, nghe nói người coi kho cất giữ các di vật lạ; do vậy, kèo nài cho xem. Vị ấy đem ra rất nhiều vật, nay nêu đại lược bốn món:

          - Một là khám chứa tượng thờ bằng tử đàn hương, cao chừng một thước. Trong ấy, điêu khắc tám tướng thánh dung của Thích Ca Như Lai như tướng giáng sanh v.v… Khám thờ gồm hơn bảy trăm h́nh tượng, tinh xảo thần diệu, thật sự khó nghĩ tưởng. Đấy là tổ Trí Giả khi truyền Bồ Tát Giới cho Tùy Dượng Đế đă được ban tặng.

          - Hai là bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ vàng do tổ Trí Giả chép tay. Toàn bộ bản kinh bút pháp thuần túy, khác nào do trời tạo ra. Đấy là khi tổ chúng ta vâng chiếu của Trần Tuyên Đế mà viết ở Kim Lăng.

          - Ba là Tâm Kinh viết trên lá bối tại Thiên Trúc. Vào triều đại Đại Tùy, một vị Phạm tăng đă mang đến tặng cho tổ Trí Giả.

          - Bốn là kinh Pháp Hoa viết bằng chữ vàng do Tiền Việt Vương chép, vi diệu, tinh xảo, mẫu mực. Phía sau đề: “Ngô Việt quốc vương Tiền Thục kính chép”. [Các bản trân quư của] kinh này [tại chùa Quốc Thanh] gồm hai mươi bộ, bộ kinh ấy là một trong hai mươi bộ đó. Nay lại thấy Thọ thiền sư dâng bài Pháp Hoa Kinh Linh Thụy Phú [lên Ngô Việt Vương], Tiền Việt Vương soạn văn tán dương. Do đó, vua truyền lệnh dùng vàng để chép một trăm bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, [đó là] chuyện thù thắng tột bậc lắm thay! Xét ra, từ xưa đế vương lưu truyền Phật giáo cố nhiên là nhiều, nhưng chưa hề nghe [có vua chúa nào] biên chép siêng năng như thế. Ấy là v́ [nhà vua] chẳng phụ trong hội Linh Sơn [được đức Phật] phó chúc mà đặc biệt đến Chấn Đán làm đầu mối quy y cho quần sanh vậy! Tông Hiểu do sưu tập, biên soạn đă xong, đối với chuyện đă được thấy khi trước cứ canh cánh trong ḷng, nguyện khiến cho người chưa nghe sẽ được nghe, bèn nâng bút ghi lại.

Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục, quyển thượng hết

 

 

 



[1] Tông Hiểu (1151-1214) là một vị cao Tăng thời Nam Tống, quê ở Tứ Minh (nay là huyện Ngân, tỉnh Chiết Giang). Sư có pháp tự là Đạt Tiên, hiệu là Thạch Chi. Sư thọ Cụ Túc Giới lúc mười tám tuổi, theo học với các vị Cụ Am Cường và Vân Am Hồng. Sư từng làm trụ tŕ chùa Thúy La tại Tứ Minh rồi ẩn cư tại Tây Sơn, chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Về sau, Sư trụ tại chùa Diên Khánh, ngoài việc giảng diễn, Sư dốc sức biên soạn Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục, Lạc Bang Văn Loại, Minh Lương Sùng Thích Chí, Lạc Bang Di Cảo, Tứ Minh Giáo Hạnh Lục, Tam Giáo Xuất Hưng Tụng Chú, Bảo Vân Chấn Tổ Tập, Kim Quang Minh Chiếu Giải, Thí Thực Thông Lăm, Minh Giáo Biên v.v… Sư từng trích máu chép kinh Pháp Hoa, dùng mực chép các bộ Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Bát Nhă, Niết Bàn… Sư từng bỏ tiền đào giếng tại Thành Nam, đặt tên là Pháp Hoa Tuyền, lập đ́nh nghỉ chân cho khách lữ hành, thí trà nước.

[2] Gia Hựu là niên hiệu thứ chín và là niên hiệu cuối cùng của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) sử dụng từ năm 1056 đến năm 1063.

[3] Đại Quán là niên hiệu của Tống Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1107 đến năm 1110.

[4] Do các vị Đẳng Giác Bồ Tát đă gần với địa vị Diệu Giác nên gọi là “á thánh”.

[5] Khánh Nguyên là niên hiệu của Tống Ninh Tông (Triệu Khoách) nhà Nam Tống từ năm 1195 đến năm 1200.

[6] Nhục Chi, c̣n đọc là Nguyện Thị là một sắc dân sống trên vùng thảo nguyên thuộc địa phận tỉnh Cam Túc của Trung Hoa hiện thời vào thế kỷ thứ nhất. Sau khi bị người Hung Nô đánh bại, họ tách thành hai nhóm:

- Đại Nhục Chi di cư tới vùng thung lũng Ili (phía Bắc Thiên Sơn, thuộc biên giới giữa Kazakhstan và Trung Hoa). Sau đó, họ bị người Ô Tôn (Wusun) đánh đuổi, phải di cư đến Khang Cư (Sogdia), cuối cùng đến lănh thổ Đại Hạ (Bactria). Trong thế kỷ thứ nhất, một bộ tộc của Đại Nhục Chi là Quư Sương (Kushana) trở thành hùng mạnh nhất, lập nên vương triều Quư Sương có lănh thổ chiếm trọn vùng trũng Tarim và vùng đồng bằng giữa sông Pataliputra và sông Hằng. Vương triều này đóng vai tṛ quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo vào Trung Hoa. Một vài bộ lạc của họ đă di cư đến tận vùng biên giới giữa Tajikistan và Uzbekistan hiện thời.

- Tiểu Nhục Chi di cư về phương Nam đến giáp vùng biên giới Tây Tạng. Một nhóm nhỏ của nhánh này ḥa nhập vào tộc người Yết ở Sơn Tây (người Yết sau này lập ra nhà Hậu Triệu).

[7] Vĩnh Khang là niên hiệu của Tấn Huệ Đế (Tư Mă Trung) từ năm 300 đến năm 301.

[8] Chi Độn, tức ngài Chi Đạo Lâm (314-366). Sư vốn họ Quan, tên là Độn, quê ở Trần Lưu tỉnh Hà Nam, nhưng theo gia đ́nh xuống Giang Nam từ bé. Do Sư theo học đạo với một vị Tăng xứ Nhục Chi, bèn đổi họ là Chi, pháp hiệu là Đạo Lâm.

[9] Quan Trung (關中) là vùng đồng bằng nằm ở trung bộ tỉnh Thiểm Tây, ở dưới chân núi Tần Lănh. Vùng này thời cổ đất đai trù phú, là một trung tâm kinh tế quan trọng từ đời Tần đến đời Đường. V́ để vào vùng này vào thời Chiến Quốc, phải đi qua bốn cửa ải, tức Đại Tán Quan ở phía Tây, Hàm Cốc Quan ở phía Đông, Vũ Quan ở phía Nam, và Tiêu Quan ở phía Bắc, nên gọi là Quan Trung (ở trong các cửa ải). Kinh đô Trường An (thành phố Tây An hiện thời) chính là kinh đô của nhiều triều đại (Tây Châu, Tần, Tây Hán, Tân, Tây Tấn, Tiền Tần, Hậu Tần, Tây Ngụy, Bắc Châu, Tùy, Đường).

[10] “Phận dă” (分野) là một khái niệm quan trọng trong thiên văn học cổ của người Hán. Họ chia các ngôi sao trên bầu trời (thật ra, họ chỉ quan tâm hai mươi tám cḥm sao, tức Nhị Thập Bát Tú) thành từng khu vực tương ứng với châu quốc của Trung Hoa. Họ căn cứ vào đường dịch chuyển của Tuế Tinh (Mộc Tinh) trong suốt một năm (đường di chuyển ấy được gọi là hoàng đạo), mà chia hoàng đạo thành mười hai cung hoàng đạo (c̣n gọi là Thập Nhị Thứ), tức Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tu Tứ, Giáng Lâu, Đại Lương, Thật Thẩm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, và Tích Mộc. Chẳng hạn Tinh Kỷ ứng với hai cḥm sao Đẩu, Ngưu (tương với cḥm sao Ma Yết (Scorpion, ḅ cạp) trong tử vi phương Tây) và khu vực Ngô, Dương Châu của Trung Hoa. Khi nào có sao “lạ” (tức các ngôi sao chưa biết đến trước đó, hoặc các ngôi sao không thuộc một phận dă nào đó), hoặc các lưu tinh bỗng di chuyển vào một phận dă khác, quan Thái Sử hoặc vị đứng đầu Khâm Thiên Giám sẽ bói toán để xem điềm cát hung, hoặc xem vùng đất đó có loạn lạc hay điềm bất tường nào hay không.

[11] Đời Tần - Hán, do kinh đô đặt tại Trường An thuộc tỉnh Thiểm Tây, cho nên vùng đất ở ngoài ải Hàm Cốc th́ gọi là Quan Ngoại (關外). Từ đời Đường trở đi, vùng đất ngoài ải Nhạn Môn Quan th́ gọi là Quan Ngoại. Lữ Quang chiếm đóng vùng đất ở phía Tây tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc.

[12] Cỏ Xỉ () theo sách cổ là một loại cỏ thơm. Hiện thời, các nhà nghiên cứu cho rằng đây là tên gọi khác của loài dược thảo Bạch Chỉ (白芷), rễ được dùng làm thuốc, có tác dụng chữa phong thấp, trừ mủ, giải cảm v.v…

[13] Lữ Long là con trai của Lữ Bảo (em trai Lữ Quang). Khi đó, Lữ Quang chết, em trai của Lữ Long là Lữ Siêu không phục Lữ Toản (con trai của Lữ Quang), dấy loạn giết chết Lữ Toản, ủng hộ Lữ Long lên ngôi vua nhà Hậu Lương. Lữ Long làm vua chưa đầy hai năm th́ bị Diêu Hưng nhà Diêu Tần công phạt, nhà Hậu Lương diệt vong.

[14] Tấn Thư là bộ sử chép về lịch sử nhà Tấn từ thời Tư Mă Ư cho đến năm Nguyên Hy thứ hai (420) đời Tấn Cung Đế, Lưu Dụ phế Tấn Đế, lập ra nhà Lưu Tống. Bộ sử này do hai mươi mốt người cầm đầu bởi Pḥng Huyền Linh, vâng lnh Đường Thái Tông biên soạn cho đến năm Trinh Quán 22 (648) mới hoàn thành, gồm 130 quyển.

[15] Bộ sách này có tên gọi là Đạo Tuyên Luật Sư Cảm Thông Lục, c̣n gọi là Đạo Tuyên Luật Sư Cảm Thiên Thị Truyện (truyện ngài Đạo Tuyên luật sư cảm vị trời hầu hạ), hoặc c̣n gọi là Luật Tướng Cảm Thông Truyện. Trong ấy có chép nhiều cuộc vấn đáp giữa ngài Đạo Tuyên (tổ Nam Sơn Luật Tông) và vị trời ấy về các sự tướng trong Luật Tông.

[16] Ngài Đạo Sanh họ Ngụy, quê ở Cự Lộc, do nương theo ngài Trúc Pháp Thải xuất gia nên đổi họ là Trúc. Sau này theo Huệ Duệ, Huệ Nghiêm sang Trường An, mới trở thành đồ chúng của pháp sư La Thập. Sư trước tác Nhị Đế Luận, Phật Tánh Thường Hữu Luận, Pháp Thân Vô Sắc Luận, Phật Vô Sanh Tịnh Độ Luận v.v… có những ư nghĩa độc đáo vượt trước thời đại, nên bị kẻ thủ cựu chấp chặt văn tự phê phán nặng nề. Nhất là khi Sư đọc bản Nê Hoàn Kinh sáu quyển, liền đề xướng “Xiển Đề cũng có thể thành Phật” liền bị quy kết là tà ngụy, phản giáo. Sư phải náu ḿnh tại Hổ Khâu. Sư giảng kinh cho đá nghe, hỏi: “Nếu tôi giảng kinh đúng ư Phật, đá hăy gật đầu”. Quả nhiên đá gật đầu. Măi cho đến khi kinh Niết Bàn được dịch đủ, mọi người mới khâm phục kiến giải lỗi lạc của Sư.

[17] Bắc Tề (Cao Tề, Hậu Tề) là một triều đại do người Tiên Ty sáng lập vào thời Nam Bắc Triều, tồn tại từ năm 550 tới năm 577, do Văn Tuyên Đế (Cao Dương) vốn là quyền thần nhà Đông Ngụy soán ngôi nhà Đông Ngụy lập ra. Kinh đô là Nghiệp Thành (nay là huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Bắc). Nhà Bắc Tề truyền được sáu đời rồi bị Bắc Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) diệt quốc.

[18] Trần Tuyên Đế (530-582) tên thật là Trần Húc, là hoàng đế thứ tư của nhà Trần thuộc Nam Triều thời Nam Bắc Triều. Ông được coi là một vị vua có tài năng và siêng năng coi sóc việc nước.

 

[19] Đúng ra, tên Ngài phải đọc là Trí Nghĩ (智顗), nhưng từ trước đến nay sách vở quen ghi tên ngài là Trí Khải (có lẽ do lầm lẫn giữa chữ Khải () và Nghĩ - ), cho nên chúng tôi vẫn tuân theo cách đọc này.

[20] Trần Khởi Tổ từng giữ chức Sứ Tŕ Tiết Tán Kỵ Thường Thị, nên thường gọi là quan Thường Thị.

[21] Theo cổ chế, Tăng sĩ đi khất thực hoặc du hóa cầm theo tích trượng, gọi là “chấn tích”. Do vậy, “chấn tích” ở đây có nghĩa là Sư dời sang hành đạo tại Kim Lăng (Nam Kinh).

[22] Khai Hoàng là niên hiệu của Tùy Văn Đế (Dương Kiên) từ năm 581 đến năm 600, lúc này Tùy Dượng Đế (Dương Quảng) c̣n đang là hoàng tử, với tước hiệu là Tấn Vương. Do Dương Quảng c̣n là phiên vương (chư hầu làm phên dậu của hoàng đế), cho nên nói là “cư phiên”.

[23] Nguyên văn “xuyết cân, đoạn huyền”. Đây là thành ngữ ngụ ư đă thôi làm ǵ đó. Câu này dựa theo một câu nói trong truyện Dương Hùng sách Hán Thư: “Chung Kỳ tử, Bá Nha đoạn huyền, nhi bất khẳng dữ chúng cổ. Quỳ nhân vong, tắc tượng thạch xuyết cân, nhi bất cảm vọng trác” (Chung Kỳ chết, Bá Nha cắt đứt dây đàn, chẳng chịu khảy đàn cho mọi người. Thợ nề khéo chết, thợ đá phá búa chẳng dám đẽo bừa băi).

[24] “Sông treo” (Huyền Hà) c̣n gọi là Địa Thượng Hà tức là ḷng sông cao hơn mặt đất chung quanh. Vùng hạ lưu sông Hoàng thuộc địa phận tỉnh Hà Nam và Sơn Đông có hơn 800 km ḷng sông cao hơn mặt đất chung quanh khiến nước sông đổ ra biển cuồn cuộn rất hùng mănh.

[25] Thị Lang là chức quan được lập ra từ thời Hán, vốn đầu tiên là chức quan cận thần của hoàng đế. Về sau, do guồng máy hành chính cồng kềnh, Thị Lang được phái làm phụ tá cho các Thượng Thư. Lúc mới được bổ vào Thượng Thư Tỉnh, quan viên được gọi là Lang Trung, tṛn một năm thành Thượng Thư Lang, tối thiểu ba năm mới được bổ làm Thị Lang. Thị Lang tương đương với phó bộ trưởng (thứ trưởng) hiện thời.

[26] Càn Phong là niên hiệu của Đường Cao Tông (Lư Trị) từ năm 666 đến năm 668. Trước sau, Đường Cao Tông sử dụng 14 niên hiệu khác nhau trong thời gian nhà vua trị v́.

[27] Sư trước tác chú giải Tứ Phần Luật khá nhiều bộ, chẳng hạn như Tứ Phần Luật Xan Phiền Bổ Khuyết Hành Sự Sao, Tứ Phần Luật Xan Bổ Tùy Cơ Yết Ma Sớ, Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Hàm Chú Giới Bổn Sớ, Tứ Phần Luật Tỳ Ni Sao v.v…

[28] Uất Tŕ Kính Tông là em trai của Uất Tŕ Kính Đức. Uất Tŕ là một bộ tộc lớn thuộc lớp quư tộc của người Tiên Ty tại nước Vu Điền thời cổ. Họ vốn là người Tắc, tức Tư Cơ Thái (Sycthians). Sau khi vào Trung Nguyên, họ trở thành một bộ tộc hùng mạnh của người Tiên Ty, lập nhiều chiến công dưới thời Bắc Ngụy, trở thành một trong tám bộ tộc khai quốc công thần của nhà Bắc Ngụy. Uất Tŕ có nghĩa là người chinh phục, hoặc người thắng lợi. Do nỗ lực Hán hóa của nhà Bắc Ngụy, người trong bộ tộc đều lấy chữ Uất Tŕ làm họ.

[29] Chú giải kinh luận chỉ chú trọng giáo nghĩa chánh yếu hoặc pháp môn chủ chốt trong một bộ kinh th́ gọi là “tông kinh”, phán định kinh luận và giải thích từng câu th́ gọi là “thích kinh”.

[30] Sơn Âm thuộc Việt Châu (nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang).

[31] Tức là được thọ đại giới (Cụ Túc Giới) trước khi đủ mười tám tuổi.

[32] Tổ sống qua các đời vua nhà Đường: Huyền Tông (Đường Minh Hoàng tức Lư Long Cơ), Túc Tông (Lư Hanh), Đại Tông (Lư Dự), Đức Tông (Lư Quát), Thuận Tông (Lư Tụng), Hiến Tông (Lư Thuần), Mục Tông (Lư Hằng), Kính Tông (Lư Đam), Văn Tông (Lư Ngang). Kể từ thời Đường Đại Tông, ngài được tôn làm Quốc Sư nên nói là “thầy của bảy hoàng đế”.

[33] Cờ tiết là biểu hiện của sứ giả. Theo truyền thuyết cổ đại, sứ giả của Thiên Đế hoặc thần tiên bậc cao sẽ cầm cờ tiết màu đỏ.

[34] Đại Nghiệp là niên hiệu của Tùy Dượng Đế (Dương Quảng) từ năm 605 đến năm 618.

[35] Trong lịch sử có tám người được phong Vĩnh Dương Vương, chuyện này lại không ghi rơ niên hiệu, chỉ nói Sư là đệ tử tổ Trí Giả, mà tổ sống vào đời Trần, như vậy có lẽ Vĩnh Dương Vương là Trần Bá Trí, tự Sách Chi, là con trai thứ mười hai của Trần Thế Tố (Trần Thiến). Ông này là người tính t́nh đôn hậu, học rộng, từng giữ các chức Thị Trung, Tả Sứ, Tán Kỵ Thường Thị. Về sau làm Thượng Thư Tả Bộc Xạ, kiêm chức Tư Nghiệp Quốc Tử Giám.

[36] Bầy tôi gởi sớ hoặc công văn để tâu tŕnh lên vua th́ gọi là ‘dâng biểu’.

[37] Châu Sán vốn là quan huyện thời Tùy, về sau làm phản, quy tụ loạn dân tới mười vạn người, đem quân chiếm đất vùng Hồ Bắc, An Huy, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, giết chóc vô số. Hắn từng xưng là Sở Vương, lập ra nước Sở. Nhưng khi thiếu lương, hắn và thuộc hạ đă tàn nhẫn ăn thịt người. Hắn từng đầu hàng nhà Đường, được Đường Cao Tổ Lư Uyên phong làm Sở Vương rồi lại phản Đường, chạy theo Vương Thế Sung chống Đường. Cuối cùng bị Đường vương Lư Thế Dân (tức Đường Thái Tông sau này) giết chết.

[38] Trọng Do, tên tự là Tử Lộ, c̣n gọi là Quư Lộ, người đất Biện, nước Lỗ, là đệ tử trứ danh của Khổng Tử, được xếp vào hàng Thập Triết (mười môn sinh đắc ư nhất của Khổng Tử). Ông là người theo học với Khổng Tử sớm nhất. Ông nổi tiếng với chuyện đi rất xa đội gạo về nuôi cha mẹ. Có khi quá túng quẫn, phải hái rau lê, rau hoắc cho cha mẹ đỡ ḷng. Về sau, ông ra làm thuộc hạ của đại phu nước Vệ là Khổng Khôi, đă khá giả th́ cha mẹ không c̣n nữa. Ông thường đau xót, than thở. Trong tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu, cụ Lư Văn Phức đă viết như sau: “Thầy Tử Lộ cũng người nước L, thờ hai thân từng bữa canh lê. Thường khi đội gạo đi về, xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai. Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc, gót nam du nhẹ bước tang bồng. Xe trăm cỗ, thóc muôn chung. Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao. Thân phú quư ngắm vào thêm tủi, đức cù lao chạnh tới ḷng đau. Nào khi đội gạo, canh rau. Muốn c̣n như cũ, dễ hầu được chăng?”

[39] Nhạc Dương điện hạ chính là Tiêu Sát, ông là con trai của Chiêu Minh thái tử (Tiêu Thống), tức là cháu nội của Lương Vũ Đế. Về sau, Tiêu Sát trở thành Lương Tuyên Đế.

[40] Giang Đông là từ ngữ chỉ chung nằm ở phía Đông Trường Giang (sông Dương Tử) tại Hoa Nam. Vùng này c̣n gọi là Giang Tả, hoặc Giang Biểu. Do đời Đường lập ra khu hành chính Giang Nam Đông Đạo thuộc địa phận Giang Đông, nên về sau vùng này c̣n gọi là Giang Nam, bao gồm khu vực phía Nam tỉnh An Huy, phía Nam Tô Châu, Giang Tây. Từ ngữ này đôi khi hiểu theo nghĩa phiếm chỉ là vùng đất phía Nam Trường Giang giáp biển.

[41] Thiên Ḥa là niên hiệu của Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) nhà Bắc Châu từ năm 566 đến năm 572.

[42] Bức tượng này chẳng phải là tượng khắc hay vẽ của Đào Khản, mà là tượng Văn Thù Bồ Tát. Nguyên lai, Đào Khản là một danh tướng đời Tây Tấn. Khi ông làm thứ sử Quảng Châu, có ngư dân đến báo: Gần bờ biển, đến tối thường có ánh sáng chiếu lên. Đào Khản liền sai người t́m kiếm, rốt cuộc t́m được một bức tượng Bồ Tát kim sắc, trên lưng đề “tượng Văn Thù Sư Lợi do vua A Dục tạo”. Đào Khản liền thỉnh về thờ tại chùa Hàn Khê ở huyện Vũ Xương, dân chúng quen gọi là “Đào Khản thụy tượng” (bức tượng tốt lành của Đào Khản). Tới khi Đào Khản trở về Kinh Châu, sai người chuyển vận bức tượng theo. Dù dùng sức mạnh của nhiều người cộng thêm trâu ḅ kéo, chỉ miễn cưỡng chuyển được tượng tới kè đá. Khi chuyển tượng lên thuyền, thuyền ch́m ngay. Đào Khản biết Bồ Tát không chịu đi, lại rước về thờ tại chùa Hàn Khê như cũ. Về sau, tổ Huệ Viễn dựng chùa Đông Lâm tại Lư Sơn. Chùa xây xong, tổ thắp hương thỉnh cầu, tượng chuyển về đó nhẹ nhàng, không tốn chút công sức nào. Từ đó, tượng được thờ tại chùa Đông Lâm.

[43] Cao Xương là một quốc gia cổ ở Tây Vực. Cao Xương là phiên âm của chữ Qocho trong tiếng Uigur (Duy Ngô Nhĩ), thuộc địa bàn thành phố Thổ Lỗ Phiên (Turpan Shehiri) thuộc tỉnh Tân Cương hiện thời. Vùng này thời Tần - Hán là một khu chiếm đóng và đặt đồn điền của người Hán, trực thuộc quyền quản hạt của Lương Châu. Tới thời Bắc Lương, một tay hào phú ở Cao Xương là Hám Sảng do được người Nhu Nhiên (Rouran, Lâu Lan) chống lưng, đă tự lập làm Thái Thú, biến nơi này thành một quốc gia độc lập. Cho tới thời Thái B́nh Chân Quân (440-451), Thư Cừ Vô Húy đánh bại Hám Sảng, chiếm Cao Xương, đổi tên thành Bắc Lương Cao Xương. Đến năm 460, Cao Xương bị người Nhu Nhiên thôn tính, đưa Hám Bá Châu lên làm vua. Cao Xương trải qua nhiều triều đại do các sắc dân khác nhau chiếm đóng, thành lập các vương triều khác nhau. Cao Xương Quốc tồn tại cho đến năm 640 th́ bị nhà Đường thôn tính, đổi thành Cao Xương Huyện. Sau đó, đến năm 840, vùng này bị người Hồi Hột chiếm, gọi là Cao Xương Hồi Hột.

[44] Hàm Ḥa là niên hiệu của Tấn Thành Đế (Tư Mă Diễn) từ năm 326 đến năm 334.

[45] Long An là niên hiệu của Tấn An Đế (Tư Mă Đức Tông) nhà Đông Tấn từ năm 397 đến năm 402.

[46] Người Khương c̣n gọi là Nhĩ Mă (Rma), là một sắc dân thiểu số sống tại vùng Tây Nam Trung Hoa (chủ yếu là tại Tứ Xuyên). Tuy họ có văn tự riêng nhưng đă bị thất truyền. Ngôn ngữ của họ chia thành hai loại lớn là Bắc Khương và Nam Khương thuộc ngữ hệ Tạng Miến (Tibeto-Burman languages).

[47] Không phải dân địa phương đến sống ở một vùng nào đó th́ gọi là “ngụ cư”.

[48] Dịch Đ́nh ở đây là cái đ́nh nghỉ chân. Thuở xưa, do chuyển vận công văn cho mau chóng, thiết lập dịch trạm. Tại dịch trạm có chỗ cho phu trạm đổi ngựa, uống nước, chuyển công văn cho người khác đưa tiếp v.v… Quy định cứ bao nhiêu dặm th́ đặt một dịch trạm. Về sau, trên quan lộ, cứ cách bao nhiêu dặm lại lập cái đ́nh làm chỗ nghỉ chân cho người đi đường, gọi là Dịch Đ́nh. Đôi khi dịch đ́nh có đặt sẵn củi nước cho hành nhân uống nước hay tự nấu cơm.

[49] Nguyên Gia là niên hiệu từ năm 424 tới năm 453 của Tống Văn Đế (Lưu Nghĩa Long) nhà Lưu Tống thời Nam Triều.

[50] Thạch nhũ mọc trong ḷng hang có h́nh nón th́ gọi là chung nhũ (stalagmite).

[51] Hồ sàng c̣n gọi là “giao ỷ” là một loại ghế xếp, chỗ mặt ghế để ngồi thường dùng dây bện hoặc các giải băng vải dày căng trên mặt ghế để có thể xếp lại dễ dàng.

[52] Đại Minh là niên hiệu của Tống Hiếu Vũ Đế (Lưu Tuấn) thuộc Nam Triều từ năm 457 đến năm 464.

[53] Châu Ngung, tự là Ngạn Luân, người ở An Thành, huyện Nhữ Nam. Ông nổi tiếng có văn tài từ bé, học rộng, ưa thích Phật giáo. Ông được bạn thân của ông nội là Tiêu Huệ Khai thưởng thức tài năng, mang theo vào đất Thục, làm cố vấn trong quân rồi làm huyện lệnh của Ph́ Hương và Thành Đô. Ông thường nói Huệ Khai tánh t́nh quá nghiệt ngă, thường dùng kinh Phật để khuyên can. Về sau, ông trở thành phủ quân hành tham quân của An Thành Vương Lưu Hoài. Đến năm Kiến Nguyên nguyên niên (479), ông được phong làm huyện lệnh Sơn Âm, rồi thăng làm Thái Tử Bộc, kiêm trước tác, giảo định lễ nhạc. Sau ông ẩn cư ở Chung Sơn, chuyên ăn chay, ở riêng một ḿnh trong lều tranh trong núi. Tuy vậy, về sau do bị triệu vời, ông nhận chức Quốc Tử Bác Sĩ, rồi mất trong khi đang giữ chức Cấp Sự Trung. Ông viết nhiều tác phẩm như Châu Ngung Tập, Châu Dịch Luận, Đầu Hồ Kinh v.v… nhưng đều bị thất truyền.

[54] Hiếu Kiến là niên hiệu của Tống Hiếu Vũ Đế sử dụng từ năm 454 đến 456.

[55] Đông Việt c̣n gọi là Mân Việt chính là một quốc gia cổ được thành lập tại vùng Phước Kiến hiện thời. Sau khi nước Việt của Câu Tiễn bị Sở diệt quốc, một số người thuộc bộ tộc Ư Việt chạy tới kết hợp với bộ tộc Mân lập ra quốc gia này, đặt kinh đô tại Đông Dă (thành phố Phước Châu hiện thời). Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên, đă xóa sổ Mân Việt, lập ra quận Mân Trung. Do người Việt bất khuất, nhà Tần không phái huyện lệnh cai trị, chỉ phong cho lănh tụ người Việt làm quận trưởng. Cho tới khi Lưu Bang diệt Tần và Hạng Vũ lập ra nhà Hán, đă phong Vô Tự làm Mân Việt Vương. Đó là thời thịnh trị của Mân Việt. Tới thời Hán Vũ Đế, do các mưu mẹo của người Hán gây chia rẽ, cuối cùng Mân Việt hoàn toàn bị diệt quốc. Về sau, khi nói tới Mân Việt th́ có nghĩa là phần lớn tỉnh Phước Kiến và một phần tỉnh Giang Tây.

[56] Viên Ngang làm quan trải hai triều đại Nam Tề và Nam Lương, từng làm quan tới chức Thượng Thư Lệnh, kiêm nhiệm chức Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, nên thường được gọi là Nghi Đồng Viên Ngang.

[57] Ở đây ngài Tông Hiểu viết lầm, xét theo sự kiện được nêu trong câu chuyện này th́ phải là nhà Bắc Châu (v́ Châu Vũ Đế là vua thứ ba của nhà Bắc Châu, do quyền thần Vũ Văn Thái thời Tây Ngụy kiến lập nền móng quyền lực. Sau khi Vũ Văn Thái mất, cháu trai ông ta là Vũ Văn Hộ nắm quyền, buộc Tây Ngụy Cung Đế thoái vị, nhường ngôi cho Vũ Văn Giác tức Hiếu Mẫn Đế, chính thức kiến lập nhà Bắc Châu). Trong khi đó, Hậu Châu là triều đại cuối cùng của thời Ngũ Đại (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Châu). Hậu Châu do Quách Oai sáng lập năm 951, c̣n Bắc Châu do Vũ Văn Hộ sáng lập vào năm 557.

[58] Bảy miếu tức miếu thờ tổ tiên của đế vương thời cổ. Lễ Kư quy định thiên tử thờ tổ tiên bảy đời. Miếu thờ Thái Tổ (vua sáng lập triều đại) đặt ở giữa, hai bên mỗi bên có ba miếu thờ ḍng Chiêu (bên trái) và ba miếu thờ ḍng Mục (bên phải). Tính từ Thái Tổ, nếu thế hệ thuộc đời số lẻ th́ thờ bên Mục, số chẵn th́ thờ bên Chiêu.

[59] Đại Tượng là niên hiệu của Châu Tĩnh Đế (Vũ Văn Xiển, cháu nội của Châu Vũ Đế) sử dụng từ năm 579 đến năm 580.

[60] V́ Châu Vũ Đế phế Phật, đuổi tăng sĩ về nhà, tăng sĩ phải ẩn náu, không c̣n được cạo tóc, hành đạo, cho nên coi như đă không c̣n Tăng tướng. Khi pháp nạn chấm dứt, các vị tăng phải thọ giới lại.

[61] Cao Tổ là miếu hiệu của Lương Vũ Đế. Miếu hiệu là danh xưng để dùng trong khi tuyên sớ cúng tế các vị đế vương đă qua đời tại Thái Miếu. Miếu hiệu thường chỉ có một chữ đi kèm với Tổ hay Tông (chữ Tổ thường dùng cho vị sáng lập vương triều, hoặc những vị coi như có công ngang với vua sáng lập), trong khi thụy hiệu là tên nhằm ca ngợi đức của nhà vua rất dài. Miếu hiệu thường có ư nghĩa khen chê của người đời sau đối với một vị vua, như Thái Tổ và Cao Tổ là vua khai sáng triều đại. Thái Tông là người phát dương quang đại vương triều. Thế Tổ và Thành Tổ thường là người có công lao không kém vị vua khai sáng. Thế Tông là người khiến cho vương triều bền vững. Hiến Tông, Thánh Tông, Trung Tông là những vị vua khiến cho triều đại trung hưng. Nhân Tông, Duệ Tông, Hiếu Tông là vua nhân ái, hiếu thuận, hiền lương. Triết Tông, Thành Tông, Hưng Tông, Hiển Tông là những vị vua giữ vững sự thành tựu của triều đại trước. Túc Tông hàm nghĩa ư nguyện trung hưng triều đại chưa thành công, có tâm mà không thực hiện được! Tuyên Tông, Cảnh Tông là vừa có công vừa có tội. Đức Tông là vua từng gặp phải cảnh loạn lạc phải đào vong. Ninh Tông hàm ư vua quá nhu nhược. Chân Tông, Huyền Tông, Lư Tông, Thần Tông, Đạo Tông là vua thích chuyện huyền diệu, ưa chuộng Đạo giáo. Văn Tông là vua nhu nhược, thiếu năng lực. Vũ Tông là vua ưa chuộng vũ lực, thích chinh chiến. Cao Tông là triều đại trở nên suy vi. Mục Tông, Quang Tông là vua có thời gian làm vua quá ngắn ngủi, hầu như không làm được ǵ. Độ Tông, Thuận Tông, Định Tông hàm nghĩa vua thuộc quá tŕnh chuyển tiếp, ảnh hưởng không lớn. Huệ Tông là không có phương pháp trị quốc, giang sơn bị tàn phá. Hy Tông là vua hủ bại, hôn ám. Ai Tông, Tư Tông là vua mất nước.

[62] Gia tăng là vị Tăng riêng cho nhà vua học đạo, khác với quốc sư vừa là thầy vừa là người thống lănh Tăng chúng cả nước. Đôi khi quốc sư c̣n kiêm nhiệm địa vị cố vấn tối cao của nhà vua và hoàng tộc.

[63] Hậu Lương (907-923) là một vương triều thời Ngũ Đại, do Châu Ôn (Lương Thái Tổ) soán ngôi nhà Đường. Do trước đó, Châu Ôn (Châu Toàn Trung) được phong là Lương Vương, nên lấy quốc hiệu là Lương. Gọi là Hậu Lương nhằm phân biệt với nhà Nam Lương (Tiền Lương) của Lương Vũ Đế thời Nam Bắc Triều. Do vua sáng lập họ Châu, nên c̣n gọi là Châu Lương. Đôi khi sử gọi triều đại này là Ngụy Lương theo cách nói phủ nhận của các triều đại cùng thời. Về sau, vương triều này bị diệt bởi nhà Hậu Đường của Lư Tồn Húc.

[64] Phủ Quân (府君) là danh xưng hàm ư nhiều nghĩa:

- Cách gọi tôn kính quan Thái Thú hoặc Tri Phủ.

- Tiếng tôn xưng khi nói về cha hay ông nội.

- Tiếng tôn xưng chung đối với người nam đă chết.

Khi nói về các vị thành hoàng một vùng, người Hoa hay gọi là Phủ Quân. Ở đây, Phủ Quân là tiếng tôn xưng thần núi Thái Sơn, tức Đông Nhạc Đại Đế. Trong tín ngưỡng dân gian, Đông Nhạc Đại Đế chủ quản thần hồn người mới chết, thống lănh các thành hoàng trong thiên hạ. Thần Đông Nhạc xét xử tội báo, thẩm vấn trước khi giao tội nhân cho Phong Đô Đại Đế (cai quản địa ngục).

[65] Đây chính là tượng Di Lặc Bồ Tát, thường được gọi là Giang Nam Đệ Nhất Đại Phật. Tượng được điêu khắc từ năm Vĩnh Minh thứ tư (386) nhà Nam Tề cho đến năm Thiên Giám 15 (516) đời Lương, mất ba mươi năm mới hoàn tất. Do tượng là công sức của ba vị Tăng Hộ, Tăng Thục và Tăng Hựu nối tiếp nhau chủ tŕ tạo tác, nên gọi là Tam Sanh Tượng. Tượng Di Lặc ngồi xếp bằng, ṭa ngồi cao 2m, thân cao 13,74m, đầu cao 3,8m. Tượng được tạc dưới h́nh thức Bố Đại ḥa thượng, có dung mạo thanh nhă, hoan hỷ, siêu thoát, trí huệ. Tuy tượng rất to, nhưng rất đẹp đẽ, sinh động, không hề thô vụng.

[66] Bá Tế (Baekje, hoặc Paekche), c̣n phiên âm là Bách Tế, là một vương quốc cổ nằm ở phía Tây Nam bán đảo Đại Hàn, tồn tại từ thế kỷ 18 trước Công Nguyên cho đến năm 660, là một trong ba vương quốc cổ của Đại Hàn (tức Cao Câu Ly (Goguryeo, đôi khi c̣n gọi là Cao Lệ), Tân La (Silla) và Bách Tế). Vương quốc Bách Tế được sáng lập bởi Ôn Tộ vương (Onjo), con trai thứ ba của Châu Mông (Jumong). Châu Mông là người sáng lập vương quốc Cao Câu Ly. Vương quốc này lần lượt đóng đô tại thành Úy Lễ (Wiriyeseong, tức Hanam ngày nay), Hùng Tân (Unjin, c̣n gọi là Hùng Châu), cuối cùng là Tứ Tỳ (Sabi, nay thuộc quận Phù Dư (Buyeo), phía Tây Đại Hàn). Thời cực thịnh, Bách Tế kiểm soát toàn bộ miền Tây Đại Hàn, kể cả một phần lănh thổ Liêu Tây của Trung Hoa. Dân Bách Tế giỏi hàng hải, buôn bán khắp vùng Đông Á và góp phần lớn trong việc truyền bá Phật giáo sang Nhật Bản. Năm 660, Bách Tế bị liên quân Tân La và nhà Đường đánh bại dưới triều vua Nghĩa Từ (Uija), bị sát nhập vào vương quốc Thống Nhất Tân La (Tongsilsilla).

[67] Tức là núi Hán Noa (Hallasan), đôi khi viết theo kiểu Hán tự (Hanja) là Hán Nă sơn, vốn là một núi lửa nằm trên đảo Jeju (Tế Châu) ở cực Nam Hàn quốc. Qua nhiều triều đại, núi có tên là Buak (Phủ Nhạc), Seonsan (Tiên sơn), Wonsan (Viên sơn), Jinsan (Trấn sơn), Dumuak (Đầu Vô Nhạc), Burasan (Phù La sơn), và Yeongjusan (Doanh Châu sơn).

[68] Tướng Luân (相輪) là một cấu trúc có h́nh cột dài, thường đặt trên đầu các tháp hoặc nóc các ṭa điện (nhất là trong các đền chùa của Nhật Bản), mô phỏng lọng nhiều tầng che Phật trong quá khứ. Tướng luân gồm một trụ dài, xuyên qua các thành phần như sau (tính từ trên đỉnh xuống):

- Bảo châu (宝珠): Có h́nh cầu hoặc giọt nước mắt, đôi khi phần này được tạo h́nh có các tia lửa bao quanh (trong trường hợp này, nó được gọi hỏa viêm bảo châu). Đôi khi trong phần này, có đặt ngọc quư hoặc xá lợi.

- Phần kế tiếp gọi là Long Xa (竜車), thường chỉ là một khối cầu, nhỏ hơn một chút so với phần Bảo Châu.

- Phần kế tiếp gọi là Thủy Yên (水煙) gồm bốn miếng kim loại, khắc rỗng, nhiều họa tiết, đặt vuông góc 90 độ.

- Phần kế tiếp là Phong Đạc (風鐸), gồm nhiều chiếc chuông nhỏ gắn quanh phần Thủy Yên.

- Dưới đó là Cửu Luân (九輪) gồm chín miếng đồng hoặc kim loại có h́nh bát úp, mô phỏng lọng báu nhiều tầng. Tuy thế, đôi khi phần này chỉ có tám hay bảy miếng.

- Phần Thọ Hoa (受花) bằng kim loại mô phỏng đóa sen có cánh cong lên. Thường là hoa sen tám cánh, đôi khi làm thành hai tầng cánh.

- Phần Phục Bát (伏鉢) có h́nh bát úp ngược.

- Cuối cùng là Lộ Bàn (露盤) là phần đế của tướng luân.

[69] Tiêu Lương (502-557) c̣n gọi là Nam Lương, Tiền Lương, hoặc Nam Triều Lương chính là triều đại do Tiêu Diễn (Lương Vũ Đế) sáng lập. Do đất phong của Tiêu Diễn là Lương Quận, nên khi làm hoàng đế, nhà vua đă chọn quốc hiệu là Lương. Lănh thổ nhà Lương bao gồm trọn vùng Hoa Nam gồm 107 châu và 586 quận, kinh đô là Kiến Khang (Nam Kinh). Lương Minh Đế tên thật là Tiêu Vị. Cha của Tiêu Vị là Nhạc Dương Quận Vương Tiêu Sát (con trai của Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống) bất ḥa với Tiêu Dịch (con trai thứ bảy của Lương Vũ Đế). Khi Tiêu Dịch lên ngôi, trở thành Lương Nguyên Đế, Tiêu Sát bèn quy thuộc nhà Tây Ngụy, được phong làm Lương Vương, cai quản vùng Tương Dương, Kinh Châu. Tiêu Sát bèn tự xưng đế, cũng lấy quốc hiệu là Lương, lấy Giang Lăng làm kinh đô. Sử gọi nước Lương này là Tây Lương, tồn tại ba mươi năm, truyền được ba đời vua. Tây Lương về sau bị Tùy Văn Đế (Dương Kiên) diệt quốc.

[70] Thái Phủ Khanh gọi đầy đủ là Thái Phủ Tự Khanh, tức là người đứng đầu Thái Phủ Tự. Thái Phủ Tự là cơ quan được thiết lập từ thời Bắc Tề, có nhiệm vụ chưởng quản kho tàng của cung đ́nh và các cơ sở thương mại do hoàng gia làm chủ (việc thương mại này được gọi là “hoàng thương”). Đến đời Tùy, Thái Phủ Tự quản lư toàn bộ việc mậu dịch tại các châu quận, quản lư bổng lộc của các quan liêu, điều hành vật giá. Đồng thời, triều đ́nh c̣n thiết lập Thiếu Phủ Giám chuyên lo kiến tạo cung điện, sản xuất vật dụng cho triều đ́nh. Đến thời Minh - Thanh, Thái Phủ Tự và Thiếu Phủ Giám bị gộp chung vào bộ Công.

[71] Cảnh Long là niên hiệu của Đường Trung Tông (Lư Hiển) từ năm 707 đến năm 710.

[72] Vị này không phải là Tam Tạng pháp sư Huyền Trang (thường gọi là Đường Tam Tạng hoặc Đường Tăng), v́ ngài Đường Tam Tạng Huyền Trang pháp sư (602-664) họ Trần, quê ở Lạc Dương, sống vào thời Đường Thái Tông và Đường Cao Tông.

[73] Đường Trung Tông có thụy hiệu là Hiếu Ḥa Hoàng Đế, về sau Đường Huyền Tông tôn phong là Hiếu Ḥa Đại Thánh Hoàng Đế, rồi lại dâng thụy hiệu lần nữa là Đại Ḥa Đại Thánh Đại Chiêu Hiếu Hoàng Đế. Do vậy, Sử thường gọi ông là Hiếu Ḥa Đế. Ông từng làm vua lần thứ nhất khi cha là Đường Cao Tông qua đời vào năm 684. Chưa đầy một tháng, ông bị mẹ là Vũ Tắc Thiên phế truất, ép nhường ngôi cho em là Lư Đán (Đường Duệ Tông) kế vị. Năm 698, ông lại được Vũ Tắc Thiên chỉ định làm Thái Tử. Đến năm 705, do Tể Tướng Trương Gián Chi, Thị Lang Thôi Huyền Vĩ, tả vũ lâm tướng quân Hoàn Nhan Phạm v.v… dùng cấm quân đảo chánh Vũ Tắc Thiên (Sử gọi là Thần Long Chánh Biến) thành công, lại đưa Lư Hiển lên ngôi vua trở lại. Trong lịch sử, ông là người duy nhất có ông nội (Đường Thái Tông), cha (Đường Cao Tông), mẹ (Vũ Tắc Thiên), em trai (Đường Duệ Tông), con (Đường Thương Đế Lư Trọng Mậu), cháu trai (Đường Huyền Tông Lư Long Cơ là con trai thứ ba của Đường Duệ Tông) đều là hoàng đế, rất hiếm thấy.

[74] Khai Nguyên là niên hiệu của Đường Huyền Tông từ năm 713 đến năm 741.

[75] Hội Xương là niên hiệu của Đường Vũ Tông (Lư Viêm) sử dụng từ năm 841 đến năm 847.

[76] Kiến Viên (1127-1130) là niên hiệu của Tống Cao Tông (Triệu Cấu). Trong năm Kiến Viêm thứ ba (1129), thống chế Miêu Phó và thứ sử Oai Châu Lưu Chánh Ngạn phát động binh biến (làm phản, đảo chánh), ủng hộ đưa Thái Tử Triệu Phu mới ba tuổi lên ngôi, bức Cao Tông thoái vị. Sử gọi chuyện này là “Kiến Viêm binh biến”. Về sau, phe phản loạn bị Trương Tuấn và Hàn Thế Trung của nhà Tống dẹp tan.

[77] Hội Xương là niên hiệu của Đường Vũ Tông (Lư Viêm). Năm 845, do mê đắm Đạo Giáo, nghe theo mưu mô của đạo sĩ Triệu Quy Chân, Vũ Tông tấn công Phật giáo trên quy mô lớn. Trừ bốn ngôi quốc tự Từ Ân, Tiến Phước, Tây Minh, Trang Nghiêm tại Trường An, mỗi chùa giữ lại 10 tăng sĩ trông nom, toàn bộ chùa miếu trong cả nước bị phá hoại hay đóng cửa, tượng Phật, chuông khánh bằng đồng bị nấu chảy để đúc tiền, các thứ dụng cụ khác bằng kim loại sẽ đúc thành nông cụ. Tăng sĩ bị đuổi về đời, ruộng nương và tài sản bị sung công. Sử gọi cuộc đàn áp này là “Hội Xương pháp nạn”. Cho tới năm Hội Xương thứ bảy (847), Vũ Tông chết, pháp nạn mới chấm dứt.

[78] Trường Hưng là niên hiệu của Đường Minh Tông (Lư Tự Nguyên) nhà Hậu Đường từ năm 930 đến năm 934. Hậu Đường (hoặc Lư Đường) là triều đại thứ hai thời Ngũ Đại, chỉ tồn tại 14 năm. Triều đại này do Lư Tồn Úc sáng lập sau khi diệt nhà Hậu Lương của Châu Ôn, với danh nghĩa khôi phục Đường triều, cho nên cũng xưng quốc hiệu là Đường.

[79] Y Lạc là sông Y Thủy và Lạc Thủy là hai con sông bao quanh Lạc Dương, nên Lạc Dương cũng thường được gọi là Y Lạc. Tấn Giao là kinh đô Trường An.