Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 18

         

II. Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục, quyển hạ (法華經顯應錄卷上)

* Đạt thiền sư ở Hồng Châu

                   

          Thiền sư Pháp Đạt, người xứ Hồng Châu, bảy tuổi xuất gia, tụng kinh Pháp Hoa. Sau khi đă xuống tóc, thọ Cụ Túc Giới, Sư đến lễ thiền sư Lục Tổ Huệ Năng ở Tào Khê. Tổ bảo: “Ông lễ mà đầu không sát đất, chẳng bằng không lễ! Xem ra, trong tâm ông ắt chứa đựng vật ǵ đó!” Pháp Đạt thưa: “Con đă niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn bộ”. Tổ nói: “Lễ vốn để đánh găy tràng ngạo mạn, [thế mà ông lễ bái] đầu chẳng hề chạm đất”. Tổ lại nói: “Ông nay tên là Pháp Đạt, siêng tụng chưa ngưng nghỉ, chỉ là tụng suông theo âm thanh, minh tâm th́ gọi là Bồ Tát, chỉ tin theo lời Phật vô ngôn, hoa sen từ miệng phát ra”. Tổ lại nói: “Kinh ấy lấy ǵ làm tông?” Pháp Đạt thưa: “Học nhân ngu độn không biết”. Tổ nói: “Kinh ấy lấy nhân duyên xuất thế làm tông. Chỉ có một đại sự là tri kiến của Phật! Ông chớ nên hiểu sai rằng khai thị ngộ nhập chính là tri kiến của Phật, chứ bọn ta chẳng có phần! Ngài đă là Phật, đă đầy đủ tri kiến, cớ sao lại phải khai? Hăy nên biết tri kiến của Phật chỉ là tự tâm của ông, chẳng có cái Thể nào khác! Chỉ v́ tự che lấp quang minh, tham ái trần cảnh, nhọc công Phật phải từ tam-muội khởi, dùng các thứ khuyên nhủ để [chúng sanh] ngưng dứt [trần lao]. Ông chỉ chấp niệm kinh là công đức, có khác ǵ mao ngưu yêu chuộng cái đuôi?”

          Pháp Đạt thưa: “Nếu đúng như Tổ dạy, con chẳng cần tụng kinh ư?” Tổ bảo: “Kinh có lỗi ǵ mà ngăn chướng ông niệm. Hăy nghe ta nói kệ: Tâm mê, Pháp Hoa chuyển. Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa. Tụng lâu, chẳng hiểu ḿnh, là oán cừu của nghĩa. Vô niệm, niệm tức chánh. Hữu niệm, niệm thành tà. Hữu vô đều chẳng được, xe trâu trắng ngự hoài”. Pháp Đạt đă được khai mở, hoan hỷ nói kệ rằng: “Tụng kinh ba ngàn bộ. Tào Khê một câu quên. Chẳng hiểu ư xuất thế, đâu hết cuồng nhiều đời. Dê, nai, trâu quyền lập. Trước, giữa, sau khéo bày. Ai biết trong nhà lửa. Vốn sẵn đấng pháp vương”. Tổ nói: “Nay ông mới đáng gọi là vị Tăng niệm kinh”. Pháp Đạt đă lănh thọ huyền chỉ; từ đó, tụng tŕ chẳng thiếu sót. Xem tường tận [chuyện này] trong Truyền Đăng Lục.

 

* Dung thiền sư núi Ngưu Đầu

 

          Bộ Đường Tục Tăng Truyện có chép vị tăng Pháp Hùng, họ ngoài đời là Vi, người xứ Nhuận Châu. Gia đ́nh nhiều đời học Nho; Sư thông thạo rộng khắp sử sách, nhưng chẳng có ư định kinh bang tế thế. Một hôm, Sư ngẫu nhiên đọc Bát Nhă, liễu đạt Chân Không, bèn bỏ Nho, trốn vào Lữu Sơn, đổi áo phùng dịch[1] thành nâu ṣng, tham cứu đạo này. Trong suốt hai mươi năm, chuyên ṛng chẳng biếng nhác. Trong niên hiệu Trinh Quán, Sư ở thạch thất núi Ngưu Đầu v́ tứ chúng hơn bốn trăm người, giảng kinh Pháp Hoa. Khi đó, tuyết đọng đầy bậc thềm. Bỗng từ trong băng đọng, nẩy sanh hai đóa hoa, h́nh dạng như hoa phù dung, rạng rỡ như sắc vàng, suốt cả bảy ngày mới ẩn.

          Lại có vị quan lớn là Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư giảng Bát Nhă, cảm vời đại địa rúng động. Chuông, khánh, hương án thảy đều rung động, bay ra ngoài chùa, Sư vẫn điềm nhiên chẳng hay. Lưu Vũ Tích lại viết bia nơi tháp Sư rằng: “Công đức thần diệu của Sư cảm sườn núi khô hạn có suối trào ra, sen trổ giữa tuyết mênh mông, rắn to khuất phục, bầy nai nghe pháp. Xét ra, Sư trụ tại Ngưu Đầu… Tứ Tổ Đạo Tín thiền sư ngửa trông núi ấy có khí lành, hỏi thăm th́ quả nhiên thấy có nhiều… dấu tích[2]. Một lời khế ngộ, truyền đại pháp của Phật. Từ đó, ứng duyên giảng kinh, đều đạt được linh nghiệm”. Bèn biết xưa nay Thiền và Giáo vận dụng lẫn nhau, nhưng hiện thời chẳng phải là như vậy!

 

* Thiền sư Thái Bạch ở Minh Châu

 

          Cảnh Đức Thiền Tự tại núi Thiên Đồng đă có từ thời Tây Tấn. [Thoạt đầu], có người học Phật lập đền thờ trên gộp đá, trải qua bốn trăm năm. Tới năm Khai Nguyên 20 (732) đời Đường, cao tăng Pháp Tuyền dựa theo đồ kư[3], vạch lùm bụi, t́m được dấu tích cũ, bèn tạo tinh xá ở sườn núi phía Đông. Quan Chánh Tự của Bí Thư Tỉnh[4] là Vạn Tế Dung trước hết dựng tháp Đa Bảo ở góc Tây Nam, cao vót tới mấy nhận[5]. Ngài Pháp Tuyền sống tại đó, hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, cảm đồng tử cơi trời đạp mây thăng giáng, đem thức ăn cơi trời dâng cúng. Đến đêm, Sư nhiễu tháp, kinh hành. Người khác từ xa thấy thân Sư cao bằng Tướng Luân trên đỉnh tháp. Thoạt đầu, mẹ Sư nằm mộng thấy thiên nữ Cát Tường[6] dẫn bà đến cung của Ma Lợi Chi Thiên[7]. Sau đó, bà hoài thai Sư. Do vậy, được gọi là thiền sư Thái Bạch. Trong chùa có Phạm Đích soạn bài kư thuật rơ chuyện này (theo Tứ Minh Đồ Kinh).

 

* Tích thiền sư ở Hồ Châu

 

          Ni sư húy là Đạo Tích, hiệu Tổng Tŕ, không rơ người xứ nào. Ngài đắc pháp nơi tổ Bồ Đề Đạt Ma. Xét theo Truyền Đăng Lục, ngài Đạt Ma chẳng khế hợp Lương Vũ Đế, bèn sang Thiếu Lâm, nh́n vách chín năm. Một hôm, Tổ bảo đại chúng: “Ta muốn về lại Thiên Trúc ở phương Tây, các vị hăy nói sở đắc của chính ḿnh”. Khi đó, ngài Đạo Dục nói: “Như con thấy, chẳng chấp văn tự, chẳng ĺa văn tự, đó là công dụng của đạo”. Tổ bảo: “Ông đạt được phần da của ta”. Ni Tổng Tŕ thưa: “Nay con hiểu: Như ngài Khánh Hỷ (A Nan) thấy cơi của A Súc Phật, hễ thấy rồi sẽ chẳng thấy nữa”. Tổ bảo: “Bà được phần thịt của ta”. Ngài Đạo Phó thưa: “Tứ Đại vốn là Không, Ngũ Ấm chẳng phải là có, nhưng theo chỗ con thấy th́ chẳng có một pháp”. Tổ bảo: “Ông được phần xương của ta”. Ngài Huệ Khả lễ bái, đứng nguyên tại chỗ ḿnh. Tổ bảo: “Ông đạt được phần tủy của ta”. Tổ Đạt Ma bèn phó pháp cho ngài Huệ Khả để lập tông.

          Ngài Đạo Tích tuy chưa đạt được phần tủy [trong giáo pháp của tổ Đạt Ma], nhưng chí hành đạo chưa hề quên. Ngài liền ẩn cư trên đỉnh núi của rặng Biện Lănh tại Hồ Châu, ngày đêm tụng kinh Pháp Hoa trọn mười vạn bộ. Gần hai mươi năm chẳng xuống núi. Về sau, Ngài quy tịch. [Môn nhân] dựng tháp đựng toàn thân tại chỗ Ngài kết am tranh. Tới Đại Đồng nguyên niên (535), trong tháp bỗng có một đóa hoa sen xanh. Đạo tục đều lấy làm lạ; do vậy, mở tháp ra xem, thấy nhục thân của ni sư bất hoại. Hoa ấy sanh từ lưỡi của Ngài. Lại từ trong tháp t́m thấy một bộ kinh Sen (kinh Pháp Hoa). Châu quận dâng biểu tấu tŕnh sự việc, triều đ́nh sắc truyền dựng chùa Pháp Hoa. Chùa ấy đến đời Đại Tống sửa biển đề thành Quán Âm Viện, dùng Pháp Hoa để đặt tên cho núi. Tháp của ni sư hăy c̣n. Trong niên hiệu Thuần Hy[8], vị tăng trụ tŕ là Tịnh Nhiên lại xây Tổ Đường để phụng sự hương khói, khắc đá ghi lại [sự tích của ngài Đạo Tích].

 

* Thượng tọa Thiên Hạ ở Hồ Châu  

 

          Sư vốn tên là Băo Ngọc (, ôm ngọc), họ Đường, người xứ An Cát ở Ngô Hưng. Mẹ họ Mai, khi mới vừa ốm nghén đă ghét thức ăn mặn tanh hôi. Đến khi Sư sanh ra, trong độ tuổi mọc răng sữa, đă nghĩ tới Phật thừa. Sư bèn theo xuất gia với ni Tổng Tŕ chùa Pháp Hoa, nguyện tụng kinh Pháp Hoa. Ba tháng đă đọc thông suốt. Từ đó, hằng ngày Sư tŕ bảy bộ. Lúc vừa hai mươi tuổi, Sư lên kinh đô thọ giới. Khi đó, hoàng đế Đường Túc Tông đêm mộng thấy một vị tăng ở xứ Ngô tụng kinh Pháp Hoa, miệng tỏa quang minh năm màu, giọng xứ Ngô trong trẻo. Cho tới sáng ra chầu, vua sắc truyền hơn hai trăm vị Tăng tại kinh thành có thể tụng Pháp Hoa vào cung cấm. Vua nh́n th́ thấy họ đều chẳng phải là người trong giấc mộng.

          Băo Ngọc vừa vào cửa ải, vị quan coi cửa ải hỏi “v́ sao Sư từ xa đến?” Sư đáp: “Tôi khéo tụng kinh Pháp Hoa, cầm kinh đến thọ giới”. Vị quan tâu lên; vua liền giáng chỉ triệu kiến. Vua viết: “Giọng nói và dáng vẻ của Sư giống như người trẫm đă mộng thấy”. Vua liền ban pháp ṭa cho ngồi để tụng kinh. Tới phẩm Tùy Hỷ Công Đức, khóe miệng Sư phóng quang minh năm màu. Vua hết sức vui sướng, nói: “Chính là ánh sáng như trẫm đă thấy trong mộng”. Kinh tụng vừa xong, vua ban canh thất bảo, sai đắp đàn thơm riêng để Sư thọ giới, ban hiệu là Đại Quang, phong làm Thiên Hạ thượng tọa. Sư ở kinh đô ba năm, chuyên nhất tŕ tụng. Lại vâng sắc chỉ tới hành đạo tại chùa Thiên Phước, trải qua hai mươi tám ngày, Phạm âm trọn khắp, vua [ở trong cung] c̣n nghe tiếng. Sư ở riêng tại Lam Điền tinh xá. Sư lại vâng chiếu trụ tŕ chùa Tư Thánh.

          Sư Đại Quang viện cớ mẹ c̣n ở đất Ngô, dâng biểu xin quay về báo ân. Vua chẳng đồng ư. Sư lại đeo vật trang hoàng lên đầu, đội kinh Pháp Hoa tụng niệm, liền có chiếu chấp thuận cho Sư trở về. Đại Quang tâu rằng: “Thần trở về quê hương, có ba điều nguyện: Một là phụng dưỡng mẹ già. Hai là xin bệ hạ độ Tăng trong thiên hạ. Ba là mong tu bổ chùa Pháp Hoa”. Vua xuống chiếu ban tiền cho Hồ Châu để dựng một ṭa tháp Đa Bảo, tượng Di Lặc, một bộ kinh Pháp Hoa, một người hầu. Đă về quê, Sư dựng am tại Tùng Kính của chùa Pháp Hoa, hằng ngày tŕ kinh kệ Pháp Hoa để báo đại ân của vua. Tới cuối Đông, khi niên hiệu đổi thành Vĩnh Trinh[9], Sư sang từ biệt thứ sử Nhan Pḥng Thiện, nói: “Tôi phải đi. Cơi người vô thường, giống như mộng huyễn”. Trở về chùa, Sư điềm nhiên ngồi qua đời, cảm mùi hương lạ phảng phất suốt ba ngày chẳng tan. Sư được chôn cạnh am. Thưở ấy, đại chúng đều nói Sư là hậu thân của ni sư Tổng Tŕ đời Lương. Sự giáo hóa của bậc chí nhân ai có thể luận bàn được thay! Chuyện này được thấy ghi trên bia do Nhiên sư đă lập.

          Nếu xét theo Đại Tống Tăng Truyện, sách ấy cho rằng Đại Quang và Băo Ngọc là hai người [khác nhau], tức là do sưu tầm tài liệu sai lệch. Nay tôi lại trích lục tiểu truyện trong sách ấy để chép thêm: Khi Sư trụ tại Lam Điền, tăng chúng trong chùa trước đó mộng thấy đồng tử cơi trời giáng hạ, bảo: “Tiếng tụng kinh của ngài Đại Quang thấu tới trời Hữu Đảnh, chẳng phải là chuyện nói suông”. Sư Đại Quang một hôm ngồi yên nơi đạo tràng, tự thấy thần nhân từ trời giáng xuống, dùng tay xoa bóp tim Sư. Từ đấy, Sư công lực càng thêm mạnh hơn, thân thể, tinh thần chẳng mệt nhọc. Có lần Sư vô t́nh đi trong núi, bỗng rơi xuống giếng, liền nghĩ tới tháp Phật Đa Bảo, nguyện tŕ phẩm ấy mười vạn lượt, bỗng dưng tung ḿnh thoát ra, dường như có thần nhân nâng lên.

          Về sau, Sư vâng chiếu trụ chùa Tư Thánh, chùa do Văn Đức hoàng hậu[10] xây dựng. Chùa bỗng bị hỏa tai, từ trong ngói, gạch, t́m được mấy bộ kinh không tổn hại một chữ. Đem chuyện ấy tŕnh tấu lên, vua giáng chỉ xây lại. Đại Quang nhận lănh kinh văn, tinh tấn gấp bội. Kế đó, Sư xin trở về đất Ngô. Đă trở về, Sư đến huyện Ô Tŕnh. Tướng quốc Lư Thân làm thứ sử của Ngô Hưng, ở lại đạo tràng tŕ kinh [của sư Đại Quang]. Ông bỗng thấy bạch quang đầy khắp hư không. T́m xem th́ thấy ngài Đại Quang đang ngồi yên, tŕ kinh; ánh sáng tỏa ra từ mặt Ngài. Áo ca-sa của Sư bốn mươi năm chưa từng giặt giũ, nhưng giới hương ngào ngạt. Sư mỗi ngày ăn một bữa, suốt bảy mươi năm chưa hề ăn phi thời. Lư tướng quốc trọn chẳng tin tưởng Không môn cho mấy, nhưng hết sức kính trọng Sư, đích thân viết văn bia, ghi là Mặc Chiếu Tŕ Kinh Đại Đức Thần Dị Bi Minh (bài minh ngự chế nơi văn bia ghi lại chuyện thần dị của vị đại đức tŕ kinh).

 

* Thiền sư Đại Viên ở Tây Kinh

 

          Tên húy của ngài là Sở Kim, sanh trong nhà họ Trần ở đất Kinh Triệu (kinh đô). Mẹ Ngài do mộng thấy chư Phật, bèn có thai Sư. Sư quả thật là con đấng pháp vương, bảy tuổi đă chán cơi tục, theo xuất gia tại chùa Long Hưng ở phủ nhà. Tới khi lễ tạng thám kinh[11], rút được kinh Pháp Hoa, liền tụng thông suốt, thanh vận như nước chảy. Sau khi đă thọ Cụ Túc Giới, Sư thăng đường nghe giảng, nhanh chóng thâu nhận tạng báu. Sư từng trong đêm thanh phô diễn, tán vịnh kinh này, tụng tới phẩm Bảo Tháp, thân tâm nhẹ nhàng, bỗng thấy tháp báu ở đằng trước, phân thân của Phật Thích Ca đầy dẫy trên hư không. Từ đó, Sư không ra khỏi Thiền pḥng, tụng niệm suốt sáu năm, thề dựng tháp ấy để đền đáp sự linh ứng.

          Hoài băo chân thành vừa dấy, đàn na tín thí t́m đến, liền khởi công xây cất. Tại chỗ đắp nền, Sư mỗi đêm tŕ niệm công khóa. Đại chúng bỗng nghe tiếng nhạc trời, mùi hương lạ ngào ngạt. Sư đă khế lư, tiến nhập Phật tâm, liền cảm vời vua mộng thấy. Đường Huyền Tông thấy dưới pháp danh [của người dựng tháp] có chữ Kim[12], thăng triều hỏi [các quan đó] là ai, nhưng chẳng ai biết. Thanh danh của Sư truyền đến kinh đô, phù hợp với điều vua t́m cầu từ giấc mộng. Do vậy, vua ban năm mươi vạn đồng, một ngàn xấp lụa để [dùng làm chi phí] xây cất. Lại ngự đề bức hoành Đa Bảo Tháp để treo nơi tháp… [Tháp xây xong], Sư hành sám pháp, liền cảm mây ngũ sắc vờn quanh trên tháp... [Sư bày tỏ ước nguyện] “ta muốn tập hợp bảy vị tăng, hợp thành cùng một chí nguyện, ngày đêm tụng tŕ dưới tháp, khiến cho khói hương chẳng dứt, pháp âm vô cùng”. Mọi người vui vẻ vâng theo. Mỗi dịp Xuân Thu, Sư tập hợp bốn mươi chín người đồng hạnh cùng hành tŕ Pháp Hoa tam-muội. Sư liền được vua hạ chiếu chấp thuận thành thường lệ. Trong đạo tràng, thâu được rất nhiều xá-lợi. Một hôm, Sư vẽ tượng Phổ Hiền, cảm được mười chín viên xá-lợi hiện ra từ ngọn bút. Sư lại trích huyết chép các kinh như Pháp Hoa Hành Pháp v.v… cũng dùng vàng ṛng [ḥa mực] chép ba mươi sáu bộ kinh mầu nhiệm này để trấn tháp báu. Lại chép một ngàn bộ phân phát cho đại chúng thọ tŕ.

          Hóa duyên hoàn tất, ngày Thất Tịch (mồng Bảy tháng Bảy) năm Càn Nguyên thứ hai (759) [đời Đường Túc Tông], Sư nằm bên hông phải, an nhiên qua đời. Xuân thu sáu mươi hai năm. Thiên tử đau xót, sai sứ phúng điếu. Sư được dựng tháp tại Pháp Hoa Lan Nhă ở phía Tây thành ấy. Từ thuở để chỏm, Sư đă cam phận đạm bạc, chẳng mặc tơ lụa, chân chỉ đi hài bằng cỏ bện, mỗi ngày ăn một bữa trưa, khổ học suốt ba Đông. Đức hạnh [của Sư] nhiều đến nỗi chẳng thể tuyên dương, ghi chép trọn đủ. Tới năm Trinh Nguyên 13 (797), Đậu Văn Trường tâu rằng: “Trong năm Thiên Bảo, ngài Sở Kim đă v́ nước dựng tháp, đặt tại Pháp Hoa đạo tràng, nay đă hơn sáu mươi năm, tăng chúng lễ niệm, tiếng tụng kinh chẳng dứt. Đă trải qua bốn đời vua mà chưa từng biểu dương phẩm đức”. Vua xuống chiếu chấp thuận, sắc truyền thụy hiệu là Tại Viên thiền sư (Sự tích của Sư ghi trong Đại Tống Cao Tăng Truyện do dựa theo bia Phi Tích Thiền Sư. Tướng lành linh dị được chép trong bài kư của Sầm Huân. Do ghi chép bất đồng, có chỗ sai khác. Nay tổng hợp cả hai bài văn ấy để mong [hành trạng của Sư] được toàn mỹ).

 

* Tuân pháp sư ở Tô Châu

 

          Sư giữ chí nguyện cao khiết khác vời, chẳng màng sự vinh diệu… Nhất tâm tam quán, sùng phụng Phật thừa. Do chép rộng kinh Pháp Hoa, bèn lập Khán Kinh Viện tại núi Chi H́nh ở Tô Châu. Ngày thứ nhất phát tâm, ngày thứ hai liền quy hoạch nền móng, chẳng vượt khỏi lề lối. Điện các xây dựng hoàn tất. Đại Lịch nguyên niên (766), các quan đứng đầu Tô Châu như Vi Nguyên Phủ v.v… đều cùng thấy tướng thù thắng, bèn cùng nhau dâng biểu. Vua xuống chiếu đặc biệt dựng Pháp Hoa Đạo Tràng. Dọc theo Trường Giang về phương Đông, kiến lập mười bảy chỗ, đều do sức của Tuân pháp sư. Sư lại c̣n chọn ra hai mươi bảy vị Tăng hạnh chuyên ṛng để thường tŕ kinh này ḥng báo ân vua. Sư lại đúc tượng Lô Xá Na Phật, dựng tháp Đa Bảo, tạo tượng Di Đà, chép ba bộ lớn (Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán) đầy khắp đạo tràng.

          Về sau, Sư hành Pháp Hoa tam-muội tại Linh Nham, bỗng thấy ánh sáng to lớn túa lên trời. Tuân pháp sư ngự trong chánh niệm, nghiễm nhiên ở trong quang minh. Hôm sau, Sư đem chuyện ấy hỏi ngài Kinh Khê Trạm Nhiên, Ngài bảo: “Quang minh trí huệ từ tâm lưu xuất, chẳng phải là do ḷng tinh thành đạt đến cùng cực ư?” Lại có lần Sư ở trong chùa ḿnh, vào Pháp Hoa đạo tràng, tự thấy thân ḿnh ngồi trên không trung. Bậc đă chứng ngộ trước biết đấy chính là tướng trạng đă gột sạch phiền cấu. Sư quy tịch, [trước hôm đó], trong núi ấy có hai vị tăng là Ích pháp sư và Hàn pháp sư cùng nằm mộng thấy đại điện đổ nát. Thật ra, đấy là điềm báo Tuân pháp sư đă mất (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Vận pháp sư ở Tây Hà

 

          Trong niên hiệu Trinh Quán, có pháp sư Đàm Vận. Từ bé, Sư đă khác thế tục, chuyên tụng kinh Pháp Hoa; nhưng hăy c̣n hai quyển [chưa tụng xong]. Sư vào Hằng Nhạc t́m nơi yên tĩnh để tụng cho xong bộ kinh ấy. Bỗng gặp một vị ẩn thiền sư nói: “Tụng kinh không ǵ chẳng phải là đạo duyên!”… [Nói xong], Ngài đem âm vận tụng niệm mà ḿnh thường hành để dạy bảo, Sư kính cẩn hành theo. Sư đọc kinh tới khi trụ tại Ngũ Đài suốt hai mươi năm. Thân mặc áo cũ nát, mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Đối với kinh đă tụng khi trước, tâm chẳng nghĩ mà miệng niệm suốt ba mươi năm, chẳng sót một chữ nào! Về sau, Sư thông suốt cả hai quyển sau.

          Sư thường muốn khiết tịnh chép một bộ kinh ấy. Đă mấy năm chẳng thực hiện được, bỗng cảm vời một thư sinh đến nói [chính ḿnh] giỏi sao chép. Ngài Đàm Vận bèn lập quy củ, [thư sinh ấy] liền [tuân theo quy củ ấy], ở trong nhà đá sao chép. Sáng vào, chiều ra, bộ dạng khác lạ, thâm sâu. Chưa đầy mười ngày, bảy quyển đă trọn đủ. Sư vui mừng, nấu cơm đáp tạ, bỗng chẳng thấy [thư sinh ấy] đâu nữa. Về sau, giặc giă loạn lạc, Sư giấu kinh trong hang đá. Giặc yên, trở về t́m kinh. Do chôn trong rừng, rương và vải gói kinh đă mục nát, nhưng kinh vẫn y như thuở đầu. Sư ngồi mất tại núi B́nh Dao ở Tây Hà. [Sư thọ] hơn tám mươi tuổi. Sư ẩn cư trong núi rừng sáu mươi năm, chẳng màng danh lợi, chẳng nuôi người hầu, không ghi tên vào sổ sách [quản lư Tăng Ni của triều đ́nh], chẳng cô phụ trách nhiệm của chính ḿnh. Đúng là bậc thượng sĩ đức nghiệp vĩ đại, thanh khiết (Theo Tục Cao Tăng Truyện).

 

* Chương pháp sư ở Đông Kinh

 

          Pháp sư Phó Chương, người phủ Khai Phong. Cha Sư là phú nông tại ấp Bành Ân. Ngoài việc thế tục, [ông cụ] luôn tụng niệm kinh Phật, lại c̣n hiểu ư chỉ giảng nói [trong kinh]. Mẹ Sư họ H́nh, mộng thấy vào chùa, tay ôm lấy pháp khí, do vậy mà hoài thai Sư. Cha biết con là đứa bé khác lạ, chỉ tay vào bụng vợ, thề sẽ cho con xuất gia. Sư mười một tuổi nhập đạo, được thầy dạy kinh Pháp Hoa, Nhân Vương, Tịnh Danh, chẳng bao lâu đă thông suốt. Tới khi thôi để chỏm, bèn nghe giảng, học tập kinh Pháp Hoa ở chỗ Lăng pháp sư. Sư miệt mài nơi pháp thủy suốt hai mươi năm, chưa từng xao lăng ngày nào. Sư nói kệ tịch diệt. Khi trà-tỳ, khói hết, lửa tắt, lưỡi chẳng cháy thành tro. Trước đó, cha của Sư đọc tụng kinh Pháp Hoa, sau khi mất, hỏa thiêu, lưỡi cũng chẳng hoại. Cha con có cùng một chứng nghiệm, đúng là hiếm có! (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Luân Tăng Lục ở Tinh Châu

 

          Sa-môn Kế Luân, họ Tào, quê ở Tấn Dương. Tuổi thiếu niên, Sư đă mang chí lớn, quyết cầu xuất gia. Bổn Sư truyền dạy kinh Pháp Hoa, Sư mỗi ngày niệm ba trang, lay động sự tu tập trong quá khứ. Sau khi đă làm Tăng[13], Sư học thông thuộc kinh này, thấu hiểu giáo nghĩa uẩn tàng tột bậc. Do vậy, soạn Pháp Hoa Kinh Sao ba quyển. Họ Lưu chiếm cứ vùng Tinh Phần, coi trọng đạo hạnh của Sư, phong cho Sư làm Hữu Nhai Tăng Lục[14]. Sư đối xử với đại chúng vừa khoan dung vừa kiên quyết, chẳng ai dám trái nghịch, chống đối. Một ngày nọ, Sư thị hiện ngă bệnh, nêu ư nguyện muốn sanh về Tri Túc Thiên (Đâu Suất Thiên). Sau khi Sư mất, đỉnh đầu vẫn nóng cả nửa ngày mới lạnh. Sau khi xà-duy (trà-tỳ, hỏa thiêu), xá-lợi sáng bóng, xa gần tranh nhau thỉnh về cúng dường (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Anh pháp sư ở Ngũ Đài

 

          Trong niên hiệu Khai Nguyên đời Đường, có vị tăng tên Thần Anh, người xứ Thương Châu. Sư phúng tụng kinh điển, ngày đêm chẳng lười nhác. Sư tham học khắp các tri thức, tới núi Ngũ Đài. Một hôm, Sư vào chơi khu rừng ở phía Tây chùa, bỗng nhiên thấy một ṭa viện, có biển đề là Pháp Hoa. Ngài Thần Anh thong thả bước vào, thấy một ṭa tháp Đa Bảo Phật rực rỡ, tráng lệ y như kinh Pháp Hoa đă nói. Lại có tượng Văn Thù và Phổ Hiền bằng ngọc thạch tinh tế, đẹp đẽ rạng ngời, khéo léo khó lường. Quy mô của ṭa viện giống như Thập Tự tại núi Ngũ Đài… Ngài Thần Anh ra khỏi chùa, kể với chúng Tăng những điều phi thường đă thấy. [Họ cùng Sư đi t́m], đi chừng ba mươi dặm, chẳng thấy có ǵ. Ngài Thần Anh buồn khóc nói: “Đây chính là đức đại thánh cảnh tỉnh ngộ tôi”. Sư liền kết lều tranh ở lại chỗ dường như có tháp Đa Bảo, phát nguyện rằng: “Con sẽ ở trên nền của viện biến hóa này mà dựng một ngôi chùa, ḥng đáp tạ sự linh ứng”. Lâu ngày chy tháng, đàn tín như rừng, Sư bèn tậu ngọc thạch từ Dịch Châu cách đó ngàn dặm để tạo tượng hai vị Bồ Tát, xinh khéo như đă từng trông thấy. Viện đă hoàn thành, lại đặt tên là Pháp Hoa. Ngài Thần Anh thuyết pháp, trụ tŕ, chỉnh tề như được cắt xén vậy! (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Lân cung phụng ở kinh đô

 

          Sư họ ngoài đời là Phạm, người Duyện Châu. Cha Ngài không thích Tam Bảo, hễ thấy Tăng ắt khạc nhổ. Sư có nhũ danh là Lân Nhi, từ bé, hễ gặp Tăng liền ngưỡng mộ. Do vậy, Sư trốn nhà xuất gia, nương vào chùa Quảng Ái tại Đông Đô. Tới lúc được thọ giới, pháp danh là Tử Lân. Sau mười một năm, Sư bỗng nhớ cha mẹ, trở về thăm. Cha đă mù mắt, mẹ mất đă ba năm rồi. Sư muốn báo ân nuôi nấng, v́ thế, tới đền thờ thần Thái Sơn (Đông Nhạc Đại Đế) cầu biết chỗ mẹ sanh về đâu trong cơi âm. Sư liền trải tọa cụ, một dạ tụng kinh Pháp Hoa, thề gặp Thiên Tề Vương[15]. Vương thương xót tâm Sư khẩn thiết, hiện h́nh hỏi han. Ngài T Lân nói: “Mẹ tôi họ Vương mất đă ba năm rồi, nay ở nơi đâu?” Kẻ giữ sổ sách của vua nói: “Vương thị nay đang bị giam trong ngục chịu khổ!” Từ Lân hỏi: “Mẹ tôi tội ǵ mà đến nỗi ấy?” Vua nói: “Lúc sanh ḥa thượng, mẹ Ngài ăn nhiều trứng gà. Lại lấy ḷng trắng trứng để bôi lên ghẻ nhọt trên đầu”. [Sư than khóc]: “Mẹ do Lân mà tạo nghiệp, phải chịu khổ trong ngày nay, há Lân chẳng có phần ư?” [Sư cầu xin mẹ được phóng thích. Vua nói]: “Không có cách nào phóng thích. Nếu Sư qua Mậu Sơn lễ tháp A Dục Vương…”[16] Sư đối trước [tháp thờ xá-lợi] tại chùa Chương Sơn, dập đầu xót xa thưa thỉnh. Lễ tới bốn vạn lạy, bỗng nghe có tiếng gọi “T Lân”. Nh́n lên hư không, thấy mẹ ở trong đám mây, cảm tạ: “Do sức của con, mẹ được sanh lên trời Đao Lợi. Do vậy, tới báo với con”. Nói xong ẩn mất. Nay trên đỉnh núi sau chùa A Dục Vương, có Thúy Vi Am chính là nơi Sư cư trụ. Về sau, Sư giảng giải rộng răi kinh luận, thanh danh rất hậu. Túc Tông hoàng đế triệu vào cung cấm để thưa hỏi. Sư biện tài cao thâm, mẫn tiệp, được vua ban cho áo tía, phong làm quan Cung Phụng[17] (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Siêu pháp sư ở Lư Sơn

 

          Vị tăng Cảnh Siêu luôn tŕ giới, bẩm tánh khuôn phép, chất trực, chẳng hề cẩu thả, lười nhác. Sư trụ tại Lư Sơn, chỉ lấy việc tụng kinh Pháp Hoa làm sự vụ thường nhật. Sư lễ kinh Hoa Nghiêm mỗi chữ là một lạy, [lễ như thế] đă hai lượt. Sư đốt một ngón tay để cúng dường. Kế đó, lễ Pháp Hoa, cũng đốt ngón tay như thế. Từ đó, dưới da nơi thân Sư ẩn ẩn xuất hiện xá-lợi, tṛn trặn, bóng sáng. Hễ có người xin, nơi chiếu Sư ngồi, hoặc chỗ đi đều có [xá-lợi rơi ra]. Trong năm Thiên Phước[18] đời Thạch Tấn, Sư mất tại am (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Chân pháp sư ở Lạc Kinh (kinh đô Lạc Dương)

         

          Pháp sư tên là Hồng Chân, là con nhà họ Thuần Vu ở Hoạt Châu. Sư ngộ cơi trần là lồng rọ từ bé, quyết cầu xuất ly, bẩm tánh chuyên nhất, xuất trần. Thầy dạy cho diệu pháp, học một lượt đă thông suốt. Cả đời Sư tụng kinh Pháp Hoa khoảng một vạn lần… Về sau, Sư đến triều đ́nh dâng biểu xin thiêu thân để cúng dường tháp thờ Phật. Vua chẳng đồng ư, ngài Hồng Chân than thở: “Thiện căn kém cỏi, ma chướng càng mạnh”. Bèn lui về chùa Quảng Ái, xả sạch y bát, bố thí bất kể lúc nào. Bỗng Sư ngồi điềm nhiên qua đời. Qua mấy ngày mà vẻ mặt vẫn như c̣n sống. Khi đưa đi thiêu hóa, lưỡi nghiễm nhiên hăy c̣n, càng thêm tươi đỏ. Người vùng Y Lạc (Lạc Dương) kính trọng Sư như Phật. Đó là chuyện vào thời Lưu Hán[19] (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Vị tăng quên mất tên ở Đàm Châu

 

          Trong niên hiệu Càn Hựu (948) đời Hán, tại Đàm Châu có một vị Tăng đă quên mất tên, luôn tụng kinh Pháp Hoa, miệng chẳng nói lời chi khác. Trường Sa Văn Chiêu Vương (Mă Hy Phạm) đặc biệt tôn trọng, triệu vời Sư về Tương Tây Viện ở phủ Thiên Sách để cúng dường. Nhưng Sư nói chuyện quỷ dị, một hôm gọi vị tri điện tăng[20] sai ông ta hăy mau di chuyển tượng Phật sang hai chái. Đại chúng đều cho là Sư đă phát cuồng. Sư trợn mắt cười, trong khoảnh khắc tự vào chánh điện, chiếm ṭa Phật, nghiễm nhiên ngồi qua đời. Đạo tục trong cả châu đều tôn kính, lấy làm lạ (Theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Vị thần tăng núi Tuyên Thành

 

          Dưới thời Tiền Vũ Túc Vương (Tiền Lưu), có vị Tăng tên Tự Tân, trụ tại Thụy Ứng Viện, từng vào núi Tuyên Thành hái thuốc. Sư đi vào động chừng mấy dặm, bỗng thấy dưới cội tùng bên khe suối có am tranh. Một vị tăng lông mày trắng như tuyết, khoác ca-sa tọa Thiền, bên cạnh có một cái khánh. Tự Tân gơ khánh, vị Tăng mở mắt hỏi “do duyên nào mà đến đây?” Sư bèn nổi lửa, nấu trà tiếp đăi. Chiều xuống, Tự Tân được vị tăng nhường chỗ cho ngủ, chính ḿnh th́ vào trong một cái ổ lớn trên chót cây tùng để tụng kinh Pháp Hoa, âm thanh tột bậc trong trẻo, khiến người khác ưa thích nghe. Chốc lát lại nghe quở mắng: “Bầy súc sanh lông lá này sao lại khổ sở khiến cho chúng sanh sợ hăi, mau trở về rừng đi, đi nhanh đi!” Tự Tân liếc nh́n th́ ra là hổ báo. Sáng hôm sau, Tự Tân xin ở lại hầu hạ Sư. Sư đáp: “Nơi này toàn cỏ khô, bốn phía tuyệt chẳng có khói bếp, chẳng phải là chỗ thầy cư ngụ được!” Sư lại hái kê, nấu thành cơm đăi ăn rồi tiễn về, c̣n nói: “Ông ăn món này, cả đời chẳng thiếu cái ăn”. Tự Tân trở về tự viện, [mới biết đă rời chùa] hơn một tháng rồi. Tới khi trở lại t́m [chỗ vị thần tăng ở] th́ đă quên mất đường (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Vị tăng ở phủ Thành Đô

 

          Phủ Thành Đô có vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa hữu công. Tuy Vương Quân và Lư Thuận[21] hai phen dấy loạn đất Thục, Sư cũng chẳng gặp hại. Một hôm, Sư bỗng thấy sơn bộc[22] nói: “Sáng mai tiên sinh thỉnh Sư tụng kinh, sẽ nghênh đón ở chợ bán thuốc”. Sư tới nơi th́ có người đă chờ ở đó, dẫn vào Khê Lănh, [trông thấy] mấy tầng khói biếc rồi thấy một ngôi gác trên Khê Sơn, đó chính là chỗ người ấy ở. Người hầu ra thưa: “Tiên sinh thỉnh Sư tụng kinh; do già bệnh nên [tiên sinh] thức dậy chậm trễ. Nếu tụng tới phẩm Bảo Tháp, xin báo cho biết”. Sư báo [đă tụng tới phẩm đó], tiên sinh quả nhiên đi ra, mặc y phục nhà quê, cầm gậy bằng gỗ lê, hai mày rủ xuống tận vai, lặng lẽ chắp tay, thắp hương, nghe kinh ở bên cạnh. Lúc mời Sư thọ trai th́ mâm đan bằng dây mây, đũa tre, cơm nấu bằng hạt kê, [rau bằng] cẩu kỷ và hoa cúc, chẳng nêm muối hay dầu, nhưng ăn ngon như cam lộ. Dùng cơm xong, biếu tặng Sư sáu lượng tiền bạc. Người hầu thưa: “Tiên sinh gởi lời nhắn Sư đă từ xa đến, tạ lỗi chẳng kịp đón tiếp”. Người hầu liền đưa Sư về. Ở trên đường, Tăng hỏi: “Tiên sinh họ là ǵ?” Đáp: “Họ Tôn”. Hỏi: “Tên ǵ?” Người hầu liền viết hai chữ Tư Mạc[23] trên bàn tay của Sư. Sư kinh hăi, người hầu chẳng thấy đâu nữa. T́m kiếm suốt ba ngày, hoàn toàn đă quên mất lối. Trở về, nh́n lại món tiền tặng th́ là một trăm đồng vàng. Trong ấy, có năm sáu phần là vàng, một nửa c̣n là sắt. Do một bữa cơm ấy mà Sư thân nhẹ nhàng, chẳng bệnh tật. Tới niên hiệu Nguyên Hy đời Tống, Sư đă một trăm năm mươi tuổi, dạo chơi măi nơi đô thị. Về sau, ẩn mất chẳng thấy nữa! (theo Sơn Dă Lục).

 

* Ngang pháp sư ở Tương Châu

 

          Tại Tương Châu, có pháp sư Đạo Ngang, trụ tại chùa Khai Nguyên. Sư thường giảng kinh Pháp Hoa. Một hôm giảng xong, bỗng thấy thánh chúng cầm tràng phan và tấu nhạc từ không trung hạ xuống, bảo rằng: “Đâu Suất Đà Thiên đặc biệt đến đón tiếp”. Ngài Đạo Ngang nói: “Cơi trời là căn bản sanh tử, trước nay tôi chưa hề mong. Nguyện của tôi là Tây Phương”. Nói xong, họ chẳng hiện nữa. Trong khoảnh khắc, liền nghe tiếng nhạc ở Tây Phương rộn ră, khác hẳn nhạc khi trước. Sư vui vẻ, nói: “Đă tới lúc rồi, ta sẽ đi đây. Mọi người hăy khéo trụ, siêng niệm Di Đà, cùng sanh về cơi tịnh”. Nói xong, lư hương rơi khỏi tay, Sư liền ở trên ṭa cao, nhắm mắt, qua đời. Tứ chúng hết sức kinh ngạc, tán thán (theo Văng Sanh Lược Truyện).

 

* Trí Giác thiền sư ở Hàng Châu

 

          Sư húy Diên Thọ, người đất Dư Hàng. Từ thuở bé, Sư đă biết kính trọng Phật thừa. Tuổi hai mươi học tập, tụng niệm Pháp Hoa, thực hiện cả năm hạnh, mới vừa sáu mươi ngày đă xong xuôi. Thuở đó, có con dê quỳ nghe kinh. Sư từng làm quan trông coi tiền thuế ở Bắc Quách, thấy tôm cá liền mua ngay để phóng sanh hết cả. Sư lấy trộm tiền công quỹ để dùng phóng sanh. Sự việc bị phát giác, Sư mắc tội chết. Tiền vương (vua xứ Ngô Việt) sai sứ quan sát. Nếu Sư sợ hăi liền giết chết; nếu không th́ tha. Tới khi [đao phủ] sắp vung đao, sắc diện Sư chẳng thay đổi, [sứ giả liền vâng lệnh vua] xá tội ấy. Do vậy, Sư xin xuất gia tại Thúy Nham ở Minh Châu. Văn Mục Vương (Tiền Nguyên Quán, vua xứ Ngô Việt) cho phép Sư xuống tóc. Sư từng hành Pháp Hoa tam-muội tại chùa Quốc Thanh. Ban đêm thấy thần cầm kích tiến vào. Sư trách kẻ đó tự tiện bước vào. Thần thưa: “Con gieo tịnh nghiệp đă lâu mới đến được nơi đây”.

          Lại có một lần, Sư giữa đêm tu hành xong, hoa sen cúng dường trước tượng Phổ Hiền bỗng rơi vào tay. Do vậy, Sư nghĩ tới hai điều nguyện: Một là nguyện suốt đời thường tụng Pháp Hoa, hai là nguyện suốt đời rộng lợi ích các phẩm (các loại chúng sanh). Nhớ tới hai điều nguyện ấy, Sư lại thích Thiền tịch (tọa Thiền), chẳng thể tự quyết. Sư bèn làm hai cái thăm, một đề là “nhất tâm thiền định”, hai là đề “tụng kinh, vạn thiện trang nghiêm”. Giữa hai con đường ấy, sẽ có một con đường thành công, cần phải rút thăm bảy lượt. Sư bèn tinh thành cầu đảo Phật, Tổ, thuận tay rút thăm. Cả bảy lượt, đều rút được cái thăm “tụng kinh, vạn thiện trang nghiêm”. Do vậy, Sư một dạ chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư liền qua đỉnh núi Thiên Trụ, tụng kinh suốt ba năm. Trong Thiền Quán, Sư thấy đức Quán Âm dùng cam lộ rưới vào miệng, từ đó, phát khởi biện tài của đức Quán Âm.

          Thoạt đầu, Sư trụ tại Tuyết Đậu, sau chọn [trụ tích tại] Vĩnh Minh. Đại chúng [theo học] tới hai ngàn người. Người đương thời gọi Sư là Di Lặc Hạ Sanh. Sư hết sức siêng năng tinh tấn, mỗi ngày hành một trăm lẻ tám thiện sự. Sư b́nh sanh tụng kinh khoảng một vạn ba ngàn bộ, soạn Tông Kính Lục gồm một trăm quyển. Tác phẩm ấy được đưa vào Đại Tạng. Tới niên hiệu Khai Bảo[24] nhà Đại Tống, Sư thị hiện ngă bệnh, dâng hương, bảo ban đại chúng rồi ngồi xếp bằng mà tịch (Sự tích của Sư đều được chép cặn kẽ trong Đại Tống Tăng Truyện, Tăng Bảo Truyện, Bảo Châu Tập. Chuyện Sư dùng tiền công quỹ để phóng sanh, xem trong bộ Đông Pha Đại Toàn).

 

* Đức pháp sư ở Tứ Châu

 

          Trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc[25], vị tăng tên Hoài Đức ở Giang Nam, tự ĺa tục, kính cẩn dùng nguyện để trang nghiêm thân. Sư tụng thông thuộc Pháp Hoa, do vậy đắc độ. Từ đó, tuy lên ṭa giảng, Sư rốt cuộc chuyên chú tụng tŕ. Tuổi già, Sư du hóa bốn phương, lễ tháp của ngài Tăng Già. Nhà Đại Tống sai sứ giả cầm phan, hoa dâng cúng. Ngài Hoài Đức thề muốn đốt thân cúng dường. Trước hết, Sư xả y bát để đăi trai tăng. Kế đó, dùng giấy làm y phục quấn thân, tưới sáp, lễ bái, từ tạ tăng chúng, tay cầm hai cây đuốc, lên đỉnh đống củi, nổi lửa tụng kinh. Ngọn lửa bốc cao, thân Ngài nghiêng ngửa, vẫn nghe tiếng tụng kinh. Người xem không ai chẳng buồn tiếc. Cho tới khi thu thập tàn cốt, xá-lợi rất nhiều. Sứ giả trở về tấu tŕnh, vua c̣n phải biến sắc mặt (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Nham pháp sư ở Hàng Châu

 

          Vị tăng tên Thiệu Nham là con nhà họ Lưu ở Ung Châu, bảy tuổi nhập đạo. Kinh sách hễ xem qua, sẽ giống như ôn tập. Sư du hành khắp nơi, tới Hàng Châu, quải tích tại chùa Thủy Tâm. Sư luôn tŕ kinh Pháp Hoa chẳng xả suốt ngày đêm. Chợt cảm vời trên đất nẩy sanh hoa sen, cả thành chiêm ngưỡng, sư Thiệu Nham vội đạp cho nát. Nhân đó, Sư phát thệ phỏng theo ngài Dược Vương thiêu thân. Khi đó, Tiền vương dốc ḷng tôn trọng, quy kính, khẩn khoản xin Sư đừng làm. Sư lại ngầm gieo thân xuống sông Tào Nga để nuôi cá. Sư nhảy xuống sông, nhưng chẳng ch́m, nói: “Dường như có thần nhân nâng chân”. Đúng lúc gặp ngư dân vớt lên. Tiền vương liền dựng Thượng Phương Viện, vời Sư sống tại đó. Trong niên hiệu Khai Bảo, Sư cảm bệnh, chẳng dùng thuốc thang, cơm nước, liền dặn ḍ rằng: “Ta tụng kinh Pháp Hoa tới hai vạn bộ, quyết dùng đó để mong về An Dưỡng. Nay may mắn thỏa ḷng ấp ủ”. Nói xong bèn ngồi mất. [Môn đồ] di quan đến trà-tỳ ở núi Long Tỉnh, thu được xá-lợi chẳng đếm xiết. Xương sáng bóng như ngọc. Họ bèn dùng hộp đá đựng lấy, đặt ở Ảnh Đường. Thái Sư Tôn Thừa Hựu soạn văn bia (theo Đại Tống Tăng Truyện).

 

* Vân thượng nhân ở Hành Nhạc

 

          Sở Vân thượng nhân ở Hành Nhạc, sanh vào cuối đời Đường, là người có chí hạnh. Sư từng trích máu chép một bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dài bảy tấc, rộng bốn tấc, dày hai tấc. Sư làm hộp đựng bằng Chiên Đàn cất trong Phước Nghiêm Tam Sanh Tạng. Lại khắc tám chữ trên hộp rằng: “Nếu mở kinh này, thề đồng Từ Thị”. Trong niên hiệu Hoàng Hựu[26] có quư nhân đến chơi núi, trông thấy, nghi là hư vọng, sai người dùng kềm phá [niêm phong], liền có máu như từng sợi chảy ra. Trong khoảnh khắc, gió, sấm rung chuyển núi, khói mây ùa vào nhà, [mọi người] sờ soạng, chẳng thấy đường suốt cả ngày. Quư nhân hết sức kinh hăi, dốc ḷng thành sám hối. Than ôi! Nguyện lực dường ấy!

          Tôi từng đến thăm nơi đó, đến đảnh lễ, nh́n kỹ vẫn thấy tơ máu như cũ. Thiền Nguyệt Quán Hưu có thơ vịnh rằng: “Dịch b́, thích huyết thành hà khổ, vị tả Linh Sơn tam hội văn. Thập chỉ lịch càn chung thất trục. Hậu lai cầu pháp cánh vô quân” (tạm dịch: Lột da trích máu, v́ sao khổ? V́ chép Linh Sơn tam hội văn. Huyết mười ngón cạn thành bảy quyển, cầu pháp sau này ai bằng ông). Chuyện này được thấy chép trong Lâm Gian Lục. Trong niên hiệu Thuần Hy, quan Tham Chánh Phạm Thành Đại đă đi qua chùa này, xin được thấy bộ kinh ấy, dùng kệ tán thán rằng: “Phật tử chân pháp thân, hoảng diệu tử kim sắc, tán măn thập phương giới, tụ vi thất quyển thư, thất quyển biến hà sa, chấn dược thuyết diệu pháp. Phi tụ diệc phi tán, thị tắc pháp nhăn quán” (chân pháp thân Phật tử, màu vàng tía chói ngời, tỏa khắp mười phương cơi, tụ thành sách bảy quyển. Bảy quyển cát sông Hằng, phấn chấn nói diệu pháp, chẳng tụ cũng chẳng tán, chính là pháp nhăn quán).

 

* Quang pháp sư ở Kỳ Châu

 

          Tại chùa Vĩnh Lạc ở Kỳ Châu, có vị tăng tên là Đạo Quang. Sư là người thuần hậu, được xóm làng tôn kính. Sư từng trích huyết ḥa mực để chép một bộ kinh Pháp Hoa. Bên cạnh mỗi ḍng đều vẽ vời tô điểm như giọt mưa trên hư không, chỉnh tề như cá bàng chài[27] quây quần, đều do sức tinh tấn tạo thành, hương tri kiến hun xông. Nếu chẳng phải như vậy, sao có thể vi diệu dường ấy? Lại nữa, trong một hào tướng, thấy một vạn tám ngàn cơi Phật, trong một sát-na nhập Vô Lượng Nghĩa tam-muội, gọi là “báo Phật ân”. Kinh hành, nói năng, im lặng, không ǵ chẳng phải là thọ dụng. Tôi từ phương Bắc trở về, trông thấy bộ kinh ấy do Sư chép, xét hành vi của Sư, đúng là tương ứng với ngôn ngữ của Phật, Bồ Tát, há c̣n có ư niệm thế gian ư? Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Niệm niệm bất dữ thế gian tâm hợp, thị đại tinh tấn” (niệm nào cũng chẳng dính dáng đến thế gian, th́ là đại tinh tấn). Đó chính là [nói về] sư Đạo Quang vậy (theo Thạch Môn Văn Tự Thiền).

 

* Ngôn Pháp Hoa ở kinh đô

 

          Ngôn Pháp Hoa chẳng biết từ đâu tới, Ngài du hành tại kinh đô. Thoạt đầu, thấy Sư trụ tại Câu Chi Viện thuộc Cảnh Đức, phạm tướng lạ lùng, cổ xưa, nh́n thẳng chẳng nháy, mồm luôn mấp máy chẳng biết Sư đang nói ǵ. Tương truyền là Sư đang tụng kinh Pháp Hoa; v́ thế, [đại chúng] gọi là [Ngôn Pháp Hoa]. Ngài ăn uống chẳng chọn lựa, đạo tục gọi Ngài là “cuồng tăng”. Khi Tống Nhân Tông, chưa lập Thái Tử, vào ban đêm, thắp hương cầu khấn: “Ngày mai, con thiết trai tại điện Hóa Thành, thỉnh Pháp Hoa đại sĩ giáng lâm”. Sáng ra, vua khoác pháp phục chờ đợi. Bỗng có người tâu rằng: “Ngôn Pháp Hoa từ cửa ngách bên phải đi vào tẩm điện, quát Sư ngưng lại chẳng được”. Vua cười bảo: “Trẫm thỉnh Ngài đến”. Đă đến nơi, Sư thăng lên giường ngự, ngồi xếp bằng, thọ cúng xong, Vua nói: “Trẫm do chưa lập Thái Tử, các đại thần đều bàn tán. V́ thế trẫm muốn biết có con cái hay không, xin Đại Sĩ quyết đoán cho!” Sư cầm bút viết: “Thập tam, thập tam”  mấy chục hàng. Vua không hiểu ư Sư. Về sau, Tống Anh Tông[28] lên ngôi vua, chính là con trai thứ mười ba của Bộc An Ư Vương, mọi người mới hiểu ư ấy. Lúc sắp mất, Sư nói: “Ta từ vô lượng kiếp đến nay, thành tựu quốc độ Thệ Đa, phân thân hoằng dương, giáo hóa, nay trở về Nam”. Nói xong bèn tịch (theo Tăng Bảo Truyện).

 

* Ân Pháp Hoa ở Diêu Giang

 

          Phía trên Long Tuyền ở Dư Diêu có vị tăng tên là Thiệu Ân, chẳng biết người thời nào! Sư chuyên tụng kinh Pháp Hoa làm đức nghiệp. Khi đó, tại Hổ Khâu có bậc tu nhă trong họ Thích[29] soạn ca từ để tán dương chuyện ấy. Ư nghĩa ca từ rạng rỡ, trác tuyệt xưa nay. Hạnh nghiệp của ngài Thiệu Ân tuy chưa được ghi chép trong truyện kư, nhưng xem kỹ bài ca ấy, đủ thấy công hạnh tụng niệm, tu tập của Sư. Nêu đại lược như sau: “Sắc núi trầm trầm, khói tùng bảng lảng, dưới khu rừng vắng, trên tảng đá to, có một vị tăng, xếp bằng trên đó, cầm ngang tích trượng, tụng kinh Sen Trắng, từ sáng đến tối. Bên phải, bên trái, dấu cọp, vết sói, mười đống, năm đống, hoa chất tán loạn. Ngẫu nhiên gặp gỡ, chưa biết sâu xa, chẳng biết người thời nay, hay người thời xưa. Sư là Đàm Ngạn, hay là Đàm Dực?” Cho đến nói: “Người đời nếu thấy, h́nh dáng của sư, ai biết tâm sư? Người đời dẫu biết tâm sư, ai có thể biết tên sư? Sư tên Y Vương Hành Phật Lệnh, đến trị tâm bệnh cho chúng sanh nhọc nhằn, có thể khiến cho kẻ cuồng đắc định, kẻ nhơ được tịnh, kẻ tà được chánh, kẻ phàm thành thánh. Như thế th́ không chỉ loài người cung kính, mà cũng sẽ khiến cho rồng, quỷ tán vịnh. Há phường trái giác xuôi theo trần lao chẳng đảnh lễ, quy mạng ư?”

 

* Cổ thiền sư ở Linh Phong

 

          Trong niên hiệu Kiến Trung Tĩnh Quốc (1011), có Cổ thiền sư, đạo hiệu là Linh Phong Tẩu (ông già ở Linh Phong). Lúc mười ba tuổi, Sư do nghe người khác tụng kinh Pháp Hoa, bỗng như trở về chốn cũ, do vậy bèn niệm kinh ấy. Chẳng mấy tháng đă thông suốt. Các anh cho là có thể dạy bảo, bèn ngăn cấm, bắt đọc sách Nho. Sư liền bị bệnh mắt chẳng lành, bèn cầu nguyện với Tăng Già đại sĩ[30]. Bỗng Sư mộng thấy sét đánh trúng mắt, đang ngủ gào to, mọi người kinh hăi đến xem, thấy mắt đă hết bệnh. Sư bèn xin xuất gia, quả nhiên thi đậu [cuộc khảo hạch về] kinh này. [Tăng quan] tâu lên [triều đ́nh], được phép xuống tóc. Sau đó, Sư tham học ba mươi năm; do vậy, lơ là việc tụng niệm. Tuổi già, Sư nghĩ tới, bèn tụng thử, chẳng sót một chữ. Sư lại tham cứu rỗng rang ư chỉ của kinh, tham cứu thấu hiểu “ư tổ sư từ Tây qua”, cảm ân sâu của Phật, liền dựa theo đề cương của từng phẩm, viết thành ba mươi hai bài tụng. Bài đầu tiên là: “Huưnh tuyệt ngôn tư xưng diệu pháp. Bổn lai thanh tịnh dụ liên hoa. Hội Quyền quy Thật chân phương tiện. Phổ vị nhân trừ nhăn lư sa” (nói nghĩ dứt bặt gọi diệu pháp. Vốn sẵn thanh tịnh ví liên hoa. Hội Quyền về Thật, chân phương tiện. Trừ cát trong mắt cho mọi người). Bài tụng cuối cùng như sau: “Bất thuyết thuyết kinh siêu tích tích, bất ngôn ngôn cú hiển huyền huyền. Thảng nhân kích tiết khai tâm nhăn. Nhất hội Linh Sơn thượng nghiễm nhiên” (chẳng nói, nói kinh vượt mọi Tích. Chẳng bảo, mọi câu hiển lẽ huyền. Nếu do khơi gợi, khai tâm nhăn. Một hội Linh Sơn vẫn nghiễm nhiên).

 

* Khả thiền sư ở Lư Sơn

 

          Thích Tổ Khả, tự Chánh B́nh, là con của Tô Bá Cố[31] ở Tây Thục, em của Dưỡng Trực (Tô Tường). Trong niên hiệu Sùng Ninh[32], Sư trụ tại Lư Sơn. Thuở bé, theo đuổi học vấn trong gia đ́nh, dự vào Giang Tây Thi Phái[33], tài năng sâu thẳm, ư tưởng sâu xa, tao nhă, chẳng kém cổ nhân. Một hôm, Sư bỗng mạnh mẽ tỉnh ngộ, nói: “Diện mạo đă vào Thu, cứ chuyên ngâm vịnh, nếu bỗng bị ma chết lôi đi, chiến tướng nào bày ra để đối địch?” Do vậy, yết kiến bậc kỳ túc, thưa: “Trong tạng thừa bí điển, kinh nào là thù thắng?” Bậc kỳ túc bảo: “Pháp Hoa là vua trong các kinh”. Cố nhiên, Tổ Khả tin tưởng, bèn cung kính xem xong, nói: “Kinh này tạm được, chỉ có hai câu ‘hương phong xuy ủy hoa, cánh vũ tân hảo giả’ (gió thơm cuốn đi hoa héo, lại mưa hoa mới đẹp) là khá xứng hợp với ư trong đoạn sau!” Do Khả Cố coi thường, thốt ra lời ấy, liền mắc bệnh Ca Ma La (bệnh cùi), khắp thân thối nát, chẳng thể gần, cả ba mươi năm mới mất. V́ thế, trong tùng lâm gọi Sư là Lại Khả (ông Khả cùi). Kinh dạy: “Nhược kiến thọ tŕ thị kinh giả, xuất kỳ quá ác, thử nhân hiện thế đắc bạch lại bệnh” (nếu thấy người thọ tŕ kinh này mà nói lỗi ác của kẻ đó, người ấy trong đời này sẽ bị bệnh bạch lại) có thể suy ra mà biết: Phật ngôn chẳng hư huyễn vậy! (theo Chú Pháp Hoa Kinh).

 

* Quán đại sư ở Hàng Châu

 

          Sư tên là Thiện Thăng, là hậu duệ của họ Trọng tại Tiền Đường. Sư mười tuổi xuất gia, mười lăm tuổi thông thạo kinh Pháp Hoa. Mười bảy xuống tóc, sang Đông Kinh học đạo ba mươi năm, giao du với bậc cao nho, hoặc người thông đạt đạo Thích, thấu hiểu Phật học sâu xa. Trong niên hiệu Thiên Hy[34], Sư vâng chiếu làm Tăng Lục, cùng với Giản Trường v.v… chú thích Ngự Chế Pháp Âm Tập, Sư được dự vào trong số những người biên soạn. Xong việc, được vua ban hiệu, Sư liền trở về quê. Trong niên hiệu Khang Định[35], Sư vào núi Thiên Trúc, sống tại Nhật Quán Am của Tuân Thức Sám Chủ. Sư chẳng xuống núi suốt mười mấy năm, tụng kinh Pháp Hoa hơn một vạn biến. Tôi tới Tiền Đường, liền vào núi gặp. Sư khỏe mạnh, tinh tường, sáng suốt, nói năng như cũ. Một hôm, Sư gửi thư nói: “Nguyện của tôi đă trọn rồi, sắp qua đời. Người ta ắt sẽ chôn tôi dưới tháp. Xin ông ghi nhớ, ngày sau sẽ đem thiêu hóa”. Do vậy, tôi soạn bài minh rằng: “Sơn nguyệt đ́nh đ́nh hề sư chi tâm, sơn tuyền lănh lănh hề sư chi cầm, kỳ tánh tồn hề thục vi cổ kim. Liêu chí chi hề Thiên Trúc chi sầm” (Trăng soi đỉnh núi ṿi vọi, ấy là tâm Sư, nước khe núi lành lạnh, ấy là tiếng đàn của Sư. Tánh ấy tồn tại nào phân xưa nay. Tạm gởi chí nơi đỉnh Thiên Trúc) (Phạm Văn Hy ghi, xem trong bộ Thánh Tống Văn Hải).

 

* Đoan Sư Tử ở Hồ Châu

 

          Sư tên là Pháp Đoan, họ ngoài đời là Khâu, người xứ Ô Tŕnh. Từ lúc thôi bú sữa, Sư liền chẳng ăn mặn. Chưa đến tuổi hai mươi, đă thi khảo hạch kinh điển. [Trúng tuyển], Sư xuống tóc, theo tu học tại Giải Không Viện ở Ngô Sơn. Thoạt đầu, theo pháp sư Tường Phù Tịnh Giác học Thai Hành Tam Quán. Về sau, Sư đi tham học khắp nơi. Sư đắc pháp đạo [của thiền phái] Hoàng Long, ba lượt chuyển dời đến Tây Dư, thường thực hiện sư tử hống. Lại c̣n làm sư tử hư, mọi người gọi Sư là Đoan Sư Tử. Về sau, Sư lui về trụ tại Quy Vân Am ở Ngô Sơn, suốt ngày đêm tụng kinh Pháp Hoa. Làm thơ rằng: “Niên lăo hoàng hoàng thần cánh thanh, dạ thâm u thất tụng liên kinh. Nhi tôn thùy giác ưng hiềm ngă. Thạch bản thời xao tam tứ thanh” (Tuổi già hoảng hốt, càng thanh tỉnh, đêm sâu thất kín tụng kinh sen. Cháu con say giấc càng bực lăo, khánh đá lại khua ba bốn phen).

          Có mộ của mẹ Sư ở trước núi khoảng một dặm. Mỗi sáng, Sư thong thả đi đến đó tụng kinh một bộ rồi mới về. Người ở Hồ Châu tranh nhau thỉnh Sư tụng kinh. Sư nhất quyết [người thỉnh] phải có đủ năm trăm đồng mới bắt đầu tụng kinh. Đọc mấy câu rồi liền cầm tiền bỏ đi, hễ gặp người đói lạnh bèn cho hết. Sư chuộng lời ca từ của ngư phủ, hễ sáng trăng bèn ngâm ngợi cho tới sáng! Tại Tráp Khê (Chiết Giang), có vị tăng tên là Hồi Đầu, dẫu hàng sĩ phu cũng tin vào sự hư vọng của hắn; Tú Châu có cuồng tăng hiệu là Bất Thác, thuyết pháp cuồng loạn cơi đời, Sư đều có thể phá trừ[36]. Du Tú Lăo viết bài sớ trần thuật chuyện Sư khai đường thuyết pháp như sau: “Xô ngă Hồi Đầu, đạp ngă Bất Thác, bảy quyển kinh Sen chưa tụng, một tiếng ca ngư phủ đă nghe trước”. Sư nghe lời ấy, liền lên ṭa ngâm rằng: “Vốn là một gă câu cá ở Tiêu Tương, từ Đông, từ Nam, từ Tây, từ Bắc”. Đại chúng khen hay. Sư nói: “Ta quán pháp của đấng pháp vương, pháp của đấng pháp vương là như thế”, liền bước xuống ṭa. Về sau, Sư do bị bệnh liền mất, thọ bảy mươi hai tuổi. Người Đông Ngô thờ phụng, gọi Ngài là Tán Thánh (Sư có ngữ lục, cũng xem trong Tăng Bảo Truyện).

 

* Oánh giáo chủ ở Minh Châu

 

          Sư húy là Oánh, chẳng biết pháp tự, trụ tại Quảng Nghiêm Viện ở Giang Đông, là môn đệ của tôn giả Diên Khánh Pháp Trí, bẩm thừa Giáo Quán, bản lănh sâu xa. V́ thế, người ta gọi Sư là Giáo Chủ. Sư từng dùng bạc [ḥa mực] để chép một bộ kinh Pháp Hoa gồm bảy quyển. [Đối với] danh tự của Phật, Bồ Tát trong ấy th́ đổi sang viết bằng chữ vàng. Bút pháp cứng cáp, vượt xa giới thư pháp, kinh đựng trong hộp có trục ngọc, người trông thấy đều kính sợ. Rốt cuộc, Sư quy tịch tại viện ấy, mộ tháp hăy c̣n. Nay kinh ấy tuy đă trải qua nhiều năm, vẫn nghiễm nhiên c̣n đó. Trong niên hiệu Kiến Viêm[37], viện đường bị cướp phá nát, trong đống ngói sỏi, chỉ t́m được một bộ kinh ấy. Trong niên hiệu Thuần Hy[38], có Pháp Liên Giảng Chủ trụ tŕ [chùa ấy]. Một hôm, Sư đang ngủ say, bỗng nghe có tiếng huyên náo như tiếng ngàn vạn người. Sư kinh hăi, chồm dậy mới thấy là Phương Trượng Biệt Thất bị hỏa hoạn. Lửa đă bao trùm cả ṭa nhà. Kinh ấy được đặt trên chiếc đài nhỏ gác lên trụ. Sư xông vào lửa, đỡ xuống, kinh chẳng bị tổn hại ǵ. Than ôi! Kinh này hai lượt trải qua lửa dữ, xa là do công huân Đại Thừa được thiên long bảo vệ, gần th́ do hạnh nguyện kiên cố của pháp sư ǵn giữ. Phật dạy người đọc kinh này, lửa chẳng thể đốt, đă được ứng nghiệm vậy (Tông Hiểu đích thân được Pháp Liên Giảng Chủ kể lại).

 

* Cửu Pháp Hoa ở Minh Châu

 

          Vị Tăng tên Khả Cửu ở Khai Nguyên thuộc Minh Châu thường tụng kinh Pháp Hoa. Người đương thời gọi Sư là Cửu Pháp Hoa. B́nh sanh, Sư hồi hướng thiện căn tŕ tụng để trang nghiêm Tịnh Độ. Năm Nguyên Hựu thứ tám (1092), Sư không bệnh mà ngồi ngay ngắn qua đời. Qua ba ngày sau, Sư bỗng sống lại, nói: “Thần thức của ta dạo chơi Tịnh Độ. Tướng trạng cơi ấy hệt như sự trang nghiêm mà Thập Lục Quán Kinh đă nói. Đài sen trong ao bảy báu đều ghi tên họ người sẽ văng sanh. Một đài sen tử kim ghi tên Huân Pháp Hoa thuộc Quảng Giáo Viện tại phủ Thành Đô xứ Đại Tống đă sanh về đó. Lại có một đài vàng ghi Tôn Thập Nhị Lang ở Minh Châu. Lại có một đài vàng ghi tên Cửu Pháp Hoa ở Minh Châu. Lại c̣n một đài bạc ghi tên Từ đạo cô ở Minh Châu”. Nói xong, Sư lại ngồi mất. Năm năm sau, quả nhiên Từ đạo cô ngồi qua đời. Lúc bà mất, mùi hương lạ đầy thất. Mười hai năm sau, Tôn Thập Nhị Lang mất; khi đó, nghe tiếng thiên nhạc. Tướng lành linh ứng trùng điệp, mọi người đều ngưỡng mộ (theo Long Thư Tịnh Độ Văn).

 

* Phạm pháp chủ ở Tô Châu

 

          Sư tên là Tịnh Phạm, người xứ Gia Ḥa, họ ngoài đời là Thả. Mẹ mộng thấy quang minh đầy nhà, thấy thần nhân giống như Phật; do vậy hoài thai Sư. Sư sanh ra, mới mười tuổi, đă nương vào chùa Thắng Quả để xuất gia, xuống tóc. Sư theo hai vị pháp sư là Trạm và Khiêm học giáo, đạt được truyền thừa. Thoạt đầu, Sư trụ tại Vô Lượng Thọ Viện, giảng kinh Pháp Hoa mười mấy lượt. Trong niên hiệu Đại Quán[39], Sư tập hợp hai mươi bảy vị tăng tu Pháp Hoa Sám. Mỗi kỳ, phương tiện và chánh tu gồm hai mươi tám ngày, thực hiện liên tiếp ba hội. Ḷng tinh thành cảm thông bề trên, cảm đức Phổ Hiền truyền thọ pháp Yết Ma, gọi tên Tịnh Phạm tỳ-kheo, tiếng như gơ chuông. Khi đó, tri huyện Trường Châu là Vương Công Độ đích thân thấy chuyện ấy, khắc đá ghi lại bài kư.

          Sư lại từng mộng thấy một người mặc áo vàng mời vào cơi âm, thấy vua (Diêm vương) sai thuộc hạ kiểm sổ sách, nói: “Tịnh Phạm tỳ-kheo trải nhiều kiếp số giảng kinh Pháp Hoa”. Liền sai sứ giả đưa Sư về. Một hôm, trong khi Thiền Quán, toàn thể đại chúng thấy kim giáp thần nhân hồ quỳ trước mặt Sư. Lại nữa, trong kỳ tu Sám ở nơi khác, được Vi Đà Thiên kiểm điểm trong đại chúng có kẻ nào giới hạnh chẳng nghiêm tịnh. Sám kỳ tuy đă dự định từ trước, nhưng sau đó, quả nhiên chẳng tu sám pháp toàn vẹn được. Lúc đó, quan thái thú ở Cô Tô là Ứng Công có đứa tớ gái bị quỷ mị gây rối, liền thỉnh Sư truyền giới. Yêu quái ấy liền diệt. Cát thị thỉnh Sư thí giới để siêu độ chồng, thấy chồng nhiễu quanh Sư ba ṿng rồi rời đi. Ông Giả là quan Đăi Chế[40], thấy đạo hạnh của Sư liền bổ nhiệm Sư làm quản nội pháp chủ. Sư truyền tŕ hơn bốn mươi năm. Sau khi mất, hỏa thiêu, thâu được xá-lợi ngũ sắc (theo Bảo Châu Tập).

 

* Minh Ngộ pháp sư ở Hồ Châu

 

          Đại sư Nhược Quán, người ở trấn Thế Ô, họ ngoài đời là Tiền. Sư xuất gia tại Gia Hội Viện, lập hạnh tót vời, tứ chúng khâm ngưỡng. Năm Thiệu Hưng 18 (1148), Sư từng kết mười vạn người cùng tu hành Tịnh nghiệp. Bảng khuyến hóa ghi: “Tôi trộm nghĩ sanh tử không ngằn mé, luân hồi chẳng dứt. Chỉ có về An Dưỡng là chẳng thoái chuyển. Tôi ẩn giấu tung tích chốn núi non, sanh diệt mộng huyễn gần hai mươi năm, chẳng vào thành thị. Thường xem hai kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh, mỗi ngày một trăm lượt. Tính ra đă sáu mươi vạn bộ, thề cùng pháp giới chúng sanh trang nghiêm Tịnh Độ. Người nhập hội mỗi người niệm Phật hiệu mười vạn tiếng. Người đắc đạo trước sẽ lần lượt độ thoát người sau. Người mạng chung trước sau đều cầm hoa sen văng sanh Tịnh Độ”. Một hôm, Không Tướng Giảng Chủ đến thăm. Thọ trai xong, Sư bỗng cầm bút viết kệ, rồi ngồi xếp bằng qua đời. Ngài Không Tướng chứng minh [tướng trạng văng sanh của Sư] hết sức khác lạ thù thắng. Hôm trà-tỳ nhằm ngay lúc giữa trưa, xá-lợi đua nhau xuất hiện, sáng ngời chói mắt. Đạo tục tranh nhau nhặt lấy, xương cũng chẳng c̣n. Than ôi! Sự tụng tŕ của Sư trong cơi đời chưa từng có. Phàm kẻ thấy nghe, không ai chẳng bội phần ca ngợi! (theo Bảo Châu Tập).

 

* Bao pháp sư ở Ôn Châu

 

          Sa-môn Khế Bao, gởi thân trong nhà họ Từ, là người xứ Hoành Dương nơi đất Đại. Từ bé, Sư đă ôm chí hướng xuất tục. Sư đắc độ nơi Thọ Thánh Viện, là người giản dị, thận trọng, thông sáng. Cho đến khi tham học, do đến Bách Việt, trông thấy hạnh nghiệp của thiền sư Đàm Dực ở núi Thiên Y, xúc động, ngưỡng mộ, bèn phát tâm suốt đời tụng kinh Pháp Hoa. Từ đấy, Sư trở về quê nhà, chẳng dính líu đến việc đời, một dạ tuyên dương, tŕ tụng. Cho đến cuối Đông, khi niên hiệu đổi thành Chí Ḥa (1054), Sư niệm Phật suốt bảy ngày, tắm gội, thay áo, xưng tụng Phật hiệu mà qua đời. Thường ngày, đối với các kinh chú Đại Thừa, danh hiệu của Phật, Bồ Tát th́ Sư hoặc ra rả niệm, hoặc trích máu biên chép. Nếu nh́n vào các ghi chép, sẽ [thấy hành trạng của Sư] được ghi chép trong các tác phẩm riêng; ở đây, chẳng thể thuật trọn.

          Đương thời, hàng văn sĩ đến thăm tháp của Ngài, phần nhiều để lại thơ vịnh. Nay nêu đại lược ba chương, ngơ hầu [độc giả] có thể thấy muôn một công hạnh của Sư vậy! Châu Khản ở Vĩnh Gia đề thơ rằng: “Phi sương phi lộ. Hàn không, hàn dạ, dạ dạ bán băng, lan can tử hoàng, thiên chúng hiệp chỉ, chưởng thính tụng tự. Tự đáo nhật thượng” (Sương tuôn, móc rưới, trời đêm rét buốt, đêm lạnh băng đọng, lan can sắc tía, chư thiên chắp tay, lắng nghe giọng tụng, cho đến sáng bừng). Trường Cát ở Thiên Thai đề thơ: “Kim nghê hương phún không nhàn đường. Kinh thanh tùng vận ḥa thanh thương. Tây phong nguyệt lạc hàn dạ trường. Bạch phù dung măn tâm địa hương” (Tạm dịch: Nghê vàng[41] hương tỏa viện thanh nhàn, thông quyện tiếng kinh vang thánh thót. Trăng lặn, gió Tây, đêm buốt lạnh. Phù dung thơm ngát cơi tâm điền). Có danh nhân chẳng ghi tên họ nói: “Ưng hướng Thứu phong thân đắc kư. Đề hồ hương vị măn tâm điền. Nhân gian kiếp thạch chung tu hoại. Nan hoại ngô sư thiệt thượng liên” (Linh Sơn đáng được thân thọ kư, hương vị đề hồ ngập tự tâm, kiếp thạch[42] nhân gian dầu có hoại, lưỡi thầy vẫn khó hoại sen hồng) (theo Chi Viên Tập).

 

* Pháp sư Thanh Biện ở Nam B́nh

 

          Pháp sư Ôn Tề sanh trong nhà họ Châu ở Tiền Đường. Sư xuất gia chuyên học tập giáo nghĩa Thiên Thai, thâm nhập chỗ sâu thẳm của Pháp Hoa, tiếng tăm rền khắp. Sư bảy lượt ngồi đạo tràng, người theo về như mây. Lúc sư trụ tŕ Nam B́nh, viên Xu Mật Sứ là Tưởng Dĩnh Thúc tặng thơ rằng: “Đạo nhân trùng diễn liên hoa giáo. Phật Lũng gia phong hảo đế thính” (Đạo nhân nhiều lượt giảng kinh Sen, Phật Lũng gia phong măi khéo truyền). Sư từng nói: “Ta thấy Pháp Hoa Nhất Thừa đă được bậc tiên hiền nhiều phen tán dương, trần thuật, nhưng chưa nghe nói có vị nào dùng kệ để phu dương. Xưa kia, Thiện Huệ đại sĩ[43] ca tụng kinh Kim Cang trọn chẳng chán. Ta thuở bé đă từng học theo cái học của bá gia trong sáu kinh đạo Nho, thích viết thơ thẩn. Nay tuy già lụn, đối với chuyện này, gieo vần cũng chẳng xấu hổ vậy!” Do vậy, đối với mỗi phẩm trong hai mươi tám phẩm [của kinh Pháp Hoa], Sư đều đặt một bài tụng. Đối với phẩm Tự, Sư viết: “Nhất đa thâm diệu tích niên hy, vân ảnh phi hoa ảnh tượng kỳ, Di Lặc, Văn Thù lưỡng nhiêu thiệt, thỉ tri cung bẩm cựu oai nghi” (tạm dịch: Một nhiều thâm diệu nhiều năm hiếm, mây rợp hoa bay cũng lạ kỳ, Văn Thù, Di Lặc cùng đua tiếng, mới hay vốn giữ cựu oai nghi). Đối với phẩm Phương Tiện th́ viết: “Trùng quan vô kiện thán nan nhập, diệu thủ xao khai xứ xứ thông. Mật diệp tàn chi đốn linh lạc. Trác nhiên cao cách chiến thanh phong” (tạm dịch: Cửa nhiều tầng không ch́a khóa, chỉ đành than thở khó vào suông. Tay khéo nếu như vừa gơ, mở. Nơi nơi chốn chốn thảy đều thông. Lá dày, cành úa mau rơi rụng. Phong cách cao vời thách gió Đông). Các bài tụng này đă có bản in lưu hành từ trước, chỉ chép một hai bài, ngơ hầu đồng đạo ngưỡng mộ!

 

* Dĩnh pháp sư ở Hồ Châu

 

          Trong niên hiệu Đại Quán, tại Ngô Hưng có pháp sư Nguyên Dĩnh truyền dạy tông [Thiên Thai] tại Phật Lũng. Sư nghĩa học rộng sâu, tôi đích thân thấy trước thuật của Sư được ghi rất nhiều trong các mục lục giáo điển. Trong đó, có bộ Pháp Hoa Tục Linh Thụy Tập, cơi đời chưa được thấy tác phẩm ấy. Về sau, t́m cầu khắp nơi, quả nhiên t́m được. Sách ấy gồm hai quyển, ghi chép hơn một trăm người, chia thành mười khoa: Một là Phổ Hiền chứng minh, hai là diệu nhân thành tựu, ba là quỷ thần cung kính, bốn là cầm thú khâm phục, năm là sở nguyện thành tựu, sáu là hóa Phật đến đón, bảy là văng sanh Tịnh Độ, tám là quả báo sanh thiên, chín là lưỡi chẳng hư hoại, mười là hương quang biểu lộ điềm lành. Ấy là v́ Phật Thừa là một, nhưng cảm vời tùy theo cơ nghi, thụy tướng rất nhiều. Nếu Sư chẳng tổng hợp lại để nêu bày, cơi đời sao có thể biết được? Cuối cùng Sư kết xướng rằng: “Nếu coi Thật Tướng là Pháp Hoa th́ các kinh, các hạnh, không ǵ chẳng phải là Pháp Hoa. Nếu coi chuyện hy hữu là điềm linh ứng tốt lành, thân này, thân khác, không ǵ chẳng phải là điềm lành linh ứng. Nay riêng v́ lẽ này, gom các sự tích lạ lùng, nguyện cho người thấy nghe cũng sẽ đạt được điều mà người con Phật đáng nên đạt được”.

 

* Nhă xà-lê ở Hàng Châu

 

          A-xà-lê Tùng Nhă, người xứ Tiền Đường, dốc ḷng tu tập tại Tịnh Trụ Viện, nương theo thầy Hải Nguyệt Đô chùa Thiên Trúc, đạt được truyền thừa Tam Quán của tông Thiên Thai, nhưng không có ư dấn ḿnh vào cơi đời, bèn nói: “Hâm mộ hư danh sao bằng tu thật hạnh; nói năng thanh tịnh mà hạnh ô trược, [sẽ bị] hiền thánh quở trách”. náu ḿnh tại Thiên Vương Viện ở Nam Sơn, chuyên lấy đọc tụng làm nghiệp hạnh. B́nh sanh, Sư xem kinh Pháp Hoa năm tạng[44], kinh Kim Cang bốn tạng, kinh Di Đà mười tạng, lễ Phật Thích Ca ba mươi vạn lạy, lễ tháp thờ chân thân [của ứng thân Phật, Bồ Tát] mười lượt. [Đối với] mỗi chữ [trong kinh văn] đều lễ ba lạy th́ Sư lễ kinh Pháp Hoa [như thế] ba lượt. Lễ Phật Di Đà một trăm vạn lạy. Tụng Phật hiệu của Ngài năm ngàn vạn câu. Khi đó, Hiến Sứ[45] Dương Kiệt khâm phục sự tinh tu của Ngài, tự soạn An Lạc Quốc Tán gồm ba mươi chương biếu tặng. Sư muốn cho hóa đạo vô cùng, bèn vẽ chân dung tam bối cửu phẩm, ghép vào bài văn tán dương ấy, cho khắc lên đá tại Tịnh Trụ Viện. Suốt đời, Sư chẳng xoay lưng về phía Tây. Ḷng tinh thành như thế đó. Về sau, Sư chẳng bệnh tật mà ngồi qua đời, cảm mùi hương lạ đầy nhà, nhạc trời rền vang hư không. Mọi người đều nói đó là điềm cảm vời thánh chúng từ Tây Phương đến đón Sư vậy (theo Bảo Châu Tập).

 

* Ác pháp sư ở Hàng Châu

 

          Thích Duy Ác là con nhà họ Kim ở Tiền Đường, ĺa tục từ thuở thơ dại. Sư siêng năng dốc sức nơi kinh Pháp Hoa. [Sau khi] thi đậu kỳ khảo thí kinh sách, bèn được dự vào gịng pháp. Sư lập chí sâu xa, tĩnh lặng, đóng cửa, tạ tuyệt mọi chuyện, lắng ḷng tụng kinh này đủ năm ngàn lượt. Từ năm Khang Định thứ hai (1041), Sư bắt đầu duyệt Tạng (xem Đại Tạng Kinh). Cứ hết một quyển bèn tụng năm quyển Tâm Kinh. Một tạng đă măn, năm tạng Tâm Kinh cũng trọn vẹn. Sư ba lượt duyệt Đại Tạng như thế. Sư xem kinh Hoa Nghiêm hai trăm bộ, kinh Kim Quang Minh năm ngàn bộ, Tâm Kinh một trăm tạng. Kim Cang, Tiểu Di Đà, chú Đại Bi, mỗi thứ hai mươi tạng. Lăng Nghiêm, Viên Giác, Duy Ma, mỗi thứ ba ngàn bộ, kinh Thiên Phật Danh hai ngàn bộ, tôn hiệu Di Đà một ngàn vạn tiếng. Tất cả nhân lành đều một dạ trang nghiêm Tịnh Độ. Mùa Thu năm Sùng Ninh nguyên niên (1102), Sư bỗng mắc bệnh, kết ấn, ngồi mất, thọ tám mươi chín tuổi. Hỏa thiêu th́ mấy chiếc răng chẳng cháy thành tro. Linh Chi Đại Trí Luật Sư ngưỡng mộ phẩm đức của Sư, đề rằng: “Tôi từng thấy các vị cao tăng trong ba triều đại chỉ tu Thiền, tụng kinh, tướng lạ lúc lâm chung há chẳng phải là tâm thần tĩnh lặng, chú mục nơi thánh cảnh đó ư? Môn trọng yếu để xuất ly, không ǵ hơn được pháp này! Cổ đức đă nói: Làm Tăng mà chẳng dùng mười khoa để phụng sự Phật, uổng phí trăm năm. Nhắn nhủ học nhân trong tương lai, há chẳng mong được bằng Ngài ư?” (theo Bảo Châu Tập).

 

* Dị xà-lê ở Dư Diêu

 

          A-xà-lê Đàm Dị sanh trong nhà họ Đỗ ở Diêu Giang, thoát tục tại chùa Long Tuyền. Trong niên hiệu Hoàng Hựu (1049-1054), Sư được ân chuẩn đắc độ, tu tập giáo pháp Thiên Thai tại vùng Lưỡng Chiết[46]. Sở nghiệp đă toại, trở về chốn cũ. Nếu ép Sư làm trụ tŕ, Sư đều kiên quyết chẳng thuận. Tuổi già, Sư bế quan, dứt tuyệt mọi chuyện, chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư tụng kinh Pháp Hoa đủ năm ngàn bộ. Kinh Phổ Hiền Quán, kinh Di Đà, [mỗi thứ] một vạn quyển, Phật hiệu chẳng thể tính số. Khi đổi sang niên hiệu Sùng Ninh (1102), Sư bỗng mắc bệnh, gọi đồ đệ, dặn họ dâng hương, bảo rằng: “Đă tới lúc ta sanh về Tịnh Độ. Ta sẽ nương đài kim cang theo Phật về Tây. Nguyện [đại chúng] nỗ lực tấn tu ḥng được gặp gỡ!” Nói xong, tay kết Phật ấn, đạm bạc ngồi qua đời. Khi trà-tỳ, lưỡi và xâu chuỗi chẳng hoại, mọi người đều kính trọng (theo Chi Viên Tập).

 

* Thông thượng nhân ở Tiền Đường

 

          Vị Tăng tên Tư Thông, người Tiền Đường. Lúc mười lăm tuổi, cha mẹ muốn con lấy vợ, Sư chán ghét sâu xa tù ngục gia đ́nh, liền trốn vào núi Thiên Trúc Linh Ẩn, xuất gia tại chùa Pháp An. Sư lập chí siêng khổ. Hằng ngày, Sư ra ngoài thành khất thực, đêm chẳng ngủ, chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Tới lúc hai mươi tuổi, Sư ôm kinh đi thi, liền đỗ kỳ thi tuyển Tăng. Từ đó, mỗi ngày tŕ hai bộ; ngoài ra th́ niệm Phật hiệu. Nếu có kẻ nói: “Tụng kinh là đủ rồi, cần ǵ phải niệm thêm Phật hiệu?” Sư đáp: “Mạng chung muốn sanh về nước ấy, há chẳng hệ niệm trong tâm?” Một hôm, Sư mắc bệnh thời khí, bèn nói: “Ta trong đêm đă thấy Phật, Bồ Tát, thánh chúng cùng nói đều đến tiếp dẫn; hai ngày nữa, ta sẽ ra đi”. Đệ tử là Tổ An thưa: “Sợ là ma cảnh, chẳng thể vội vàng theo ngay!” Sư đáp: “Lúc ta mạng chung, nếu nơi ngực sanh hoa sen, tức là điềm ứng nghiệm đă sanh về Tịnh Độ vậy”. Hai ngày sau, trời mới hửng sáng, Sư bảo Tổ An gơ khánh, nói: “Phật và Bồ Tát đă đầy trong hư không”. Đại chúng cùng niệm Phật, Sư lặng lẽ qua đời. Ḍ thử, toàn thân đều lạnh, chỉ có nơi ngực có một khoảng chừng bằng bàn tay ôn nhuận, h́nh dạng như hoa sen x̣e nở, quả nhiên phù hợp với lời Sư đă nói (theo Bảo Châu Tập).

 

* Chiếu pháp sư ở Tú Châu

 

          Pháp sư Linh Chiếu, người Đông Dương, sanh ra đă cao cả bất phàm, có chí nguyện làm Tăng. Từ khi vào Không Môn, Sư chưa từng nằm xuống, ngày đêm lễ tụng. Chưa đầy một tháng, Sư đă thông thuộc hai kinh Pháp Hoa và Kim Quang Minh. Đến tuổi hai mươi, Sư thi đỗ khoa khảo hạch kinh điển. Sau khi thọ Cụ Túc, Sư quảy tráp theo học các nơi, thấu đạt trọn hết đạo Tam Quán của tông Thiên Thai, thăm viếng các chùa nổi tiếng. Tuổi già, trụ tại chùa Siêu Quả ở Hoa Đ́nh. Trong niên hiệu Nguyên Phong[47], kết xă hơn hai vạn người, phỏng theo phong thái của Đông Lâm, hâm mộ giáo huấn sanh về Tây Phương. Sư từng mộng thấy Di Đà Tam Thánh, Sư quỳ hỏi: “Con suốt đời tụng kinh cầu sanh Tịnh Độ, có được thỏa nguyện hay chăng?” Ngài Quán Âm chỉ dạy: “Tịnh Độ chẳng xa, hễ có nguyện liền sanh, chớ nên ngờ nữa!”

          Lại nữa, trong đêm thanh, Sư tụng kinh, mộng thấy ngài Phổ Hiền, do vậy liền phát tâm tạo tượng Bồ Tát, thề tụng một vạn bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa để trang nghiêm quả báo nơi Tịnh Độ. Sư tụng các kinh khác chẳng tính nổi số. Sư bỗng nằm bệnh, bảo đại chúng rằng: “Ta trong khi bệnh thấy có tướng lạ, quyết sẽ thỏa nguyện sanh về Tịnh Độ”. Sư bèn xếp chân qua đời. Lúc xà-duy (hỏa táng), lưỡi chẳng hoại, mềm mại, tươi nhuận như lúc c̣n sống, xá-lợi tràn trề, đỏ trắng xen lẫn, há có thể nói chẳng phải là do sức tinh tấn duy tŕ ư? (theo Chi Viên Tập).

 

* Trạm pháp sư ở Ô Trấn

 

          Sư họ Tiêu, tên là Duy Trạm, [gia tộc] nhiều đời sống ở Vĩnh Gia. Mẹ Sư ban đêm mộng thấy nuốt bảo tháp mà có thai Sư. Sư ĺa tục từ bé, chuyên tụng Pháp Hoa. Khảo thí trúng cách, được xuất gia. Sư theo học với Đông Linh Khâm công, Huệ Giác Ngọc công, Phổ Từ Thâm công, giồi mài nghiêm mật, đạt trọn hết lẽ huyền áo. Trong niên hiệu Kiến Viêm, Sư thuyết pháp tại Thọ Thánh Viện, viết các bộ Quang Minh Kư, Hộ Quốc Kư v.v… Phàm thực hiện Phật sự, đều đạt ứng nghiệm. Sư mỗi ngày tụng một bộ Pháp Hoa, niệm Phật hiệu hai vạn tiếng. B́nh nhật, Sư ít ngủ. Mỗi lúc nắng gắt hoàng hôn, Sư ngồi ngay ngắn trong chỗ cỏ cây rậm rạp để thí cho muỗi ṃng đốt. Đệ tử thấy Sư tuổi đă cao, xin thôi khổ hạnh. Sư nói: “Các loài xuẩn động sao có thể kết duyên thù thắng cùng Pháp Hoa? Khiến cho chúng nó hút máu ta để gieo chủng tử Đại Thừa! Nguyện đời đời giải thoát”.

          Về sau, Sư thoái cư am thất, suốt mấy năm chuyên ṛng tu Tịnh nghiệp. Một hôm, Sư nhiễm bệnh, ngồi nghiễm nhiên qua đời. Khói trà-tỳ bay tới đâu, chỗ đó có xá-lợi. Dân chúng thỉnh cầu, đều được như nguyện. Đoan Sư Tử từng tham học với Sư, có bài kệ khóc rằng: “Sơn tăng hà sự dă bi t́nh, vị ức lâm gian thiện hữu nhân. Vạn bộ liên kinh do vị măn. Thập phương duyên thục dĩ phân thân. Đ́nh tiền lăo thụ phiêu hoàng diệp. Vân ngoại thiềm quang tố măn luân. Nhược vấn ngă sư hành xứ khứ, vô biên giới nội dĩ thê thần” (tạm dịch: Sơn tăng sao cũng đẫm buồn thương? V́ nhớ bạn lành chốn núi rừng. Vạn bộ kinh sen c̣n chửa trọn, mười phương duyên chín đă phân thân. Cây cỗi trước sân vàng lá rụng, vượt mây vầng nguyệt sáng mười phần. Thầy tôi nếu hỏi về đâu tá? Vô biên cơi nước thảy hiện thân) (theo Bảo Châu Tập).

 

* Minh Trí pháp sư ở Minh Châu

 

          Sư húy Trung Lập, con nhà họ Trần ở Ngân Chi. Mẹ mộng thấy vầng mặt trời xuyên vào bụng mà sanh ra Sư. Sư từ bé đă cao vời bất phàm, bèn cho xuất gia. Mới chín tuổi, được thầy dạy kinh Pháp Hoa, Sư vừa mới đọc đă in sâu vào thần thức. Trong niên hiệu Gia Hựu[48], Sư dự thi [khảo hạch kinh điển] ở phủ Khai Phong, đắc độ, theo xuất gia với ngài Quảng Trí chùa Diên Khánh tại quận nhà. Sư siêng năng học đạo, chẳng biết bản lănh sâu tới đâu. Về sau, Sư được thỉnh trụ tŕ chùa ấy. Từ đầu đến cuối, trong mười năm, Sư mở rộng pháp ṭa. Mỗi năm đều chọn lựa đồ chúng cùng tu Pháp Hoa Sám. Một hôm, trong khi Thiền Quán, bỗng [mọi người] thấy một chiếc thuyền to. Đại chúng muốn lên thuyền đều không thể, một ḿnh Sư qua lại trong đó. Từ đó, huệ giải phát khởi như suối trào, Sư giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán, mỗi bộ mấy chục lượt. B́nh thời, dường như chẳng thể nói, nhưng khi giảng giải, biện định, th́ Sư hùng hồn, cương nghị, thính giả nghe quên mệt. Suốt đời, Sư tụng kinh Pháp Hoa cả vạn lần. Các hạnh môn khác chẳng dễ ǵ chép đủ. Sư bỗng mắc bệnh, hai lượt ngửi thấy mùi hương lạ, bèn triệu tập học tṛ, bảo: “Ai nấy hăy nên tấn tu, sẽ lại gặp gỡ trong hội của chư Phật”. Nói xong, hướng về Tây ngồi mất. Quan Đăi Chế Triều Thuyết Chi soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Ngài, quả thật là của báu văn chương tại Tứ Minh vậy!

 

* Pháp sư Vô Úy ở Minh Châu

 

          Sư tên là Pháp Cửu, họ ngoài đời là Trịnh, người xứ Diêu Giang. Bảy tuổi, Sư xuất gia tại Long Tuyền Tự. Trong niên hiệu Chánh Ḥa[49], thi đỗ khóa khảo thí kinh Pháp Hoa, được xuống tóc. Tới tuổi năm mươi, quy ẩn nơi núi Thanh Tu thuộc Minh Châu. Sư phong thái cao đẹp, trí huệ sắc bén hơn người, đối với chúng sanh chẳng hề vui giận, cười nói như xuân về. Thoạt đầu, Sư nghe giảng, tu tập dưới ṭa của ngài Quảng Nghiêm Trí Dũng. Kế đó, tham học khắp nơi rồi ở dưới pháp ṭa của ngài Tô Đài Huệ Giác, khăng khăng dốc sức, chẳng ngại nóng lạnh, đạt được trọn hết truyền thừa huyền diệu của tông Thiên Thai. Kế đó, Sư quảy gói dạo chơi mây nước, gặp ngài Đại Huệ tại Song Kính, được ấn khả sâu xa. Hiềm rằng tông phong lôi kéo Sư nhập thế, buộc Ngài trụ tŕ Thanh Tu Viện bảy năm. Ngài mở học đường, dạy dỗ đại chúng, thầy tṛ nghiêm túc, hết sức có phong độ của tùng lâm thời cổ. Trong núi có Sư Tử Nham, Sư bèn lập Vô Úy Thất, an trụ trong đó. Khóa tụng thường nhật là mười bộ kinh. Riêng một bộ Pháp Hoa, Sư tụng tới hai mươi vạn lượt. Cảnh giới u thâm chẳng ai có thể đạt tới được!

          Thầy Tuyết Khê Hy Nhan từng làm thơ truy điệu rằng: “Sa khám minh diệt triện yên tàn. Thất trục liên kinh tại thiệt đoan. Cảo mộc thân chi song kỷ lănh, lưu tuyền thanh lạc xỉ nha hàn. Hiểm di nhất tiết chung vô biến. Phục lạp tam y cánh độc nan. Do hận tê chi tùng thử thỉ. Đàm huyền vô phục khẩu lan phiên” (tạm dịch: Bảy quyển kinh sen trên chót lưỡi, giảng ṭa đèn tắt, khói hương tàn. Thân gỗ héo gầy, song ghế lạnh. Suối tuôn róc rách, rét run người. Hiểm, yên một tiết không thay đổi, càng hiếm ba y suốt trọn năm. Vẫn hận cơ phong nay dứt bặt, đàm huyền thôi vẳng tiếng thầy tuyên). Khi đó, có Hà Khuê thuộc Lại Bộ ngưỡng vọng đạo hạnh của Sư, kết giao làm bạn phương ngoại. Ông ta từng trong ngày giỗ của mẹ, cậy Sư thăng ṭa tụng kinh Pháp Hoa. Do ḷng tinh thành cảm vời [điềm lành], bèn soạn Nhất Thừa Am Kư để ghi lại phẩm đức của Sư.

 

* Chiếu xà-lê ở Hàng Châu

 

          Sư Tư Chiếu người Tiền Đường. Sau khi đă là Tăng, Sư tham học khắp nơi, nghiên cứu tông thừa. Do giải đă đạt được, liền lập hạnh. Mỗi đêm cho đến canh tư, Sư liền thức dậy, huân luyện Tịnh nghiệp, xưng tụng Phật danh. Các tỳ-kheo giải đăi nghe tiếng Sư [tụng niệm], chẳng dám ngủ yên! Xưa kia, tỳ-kheo Pháp Tạng phát ra bốn mươi tám nguyện, Sư cũng ngưỡng vọng phỏng theo, liền cầm lư hương, bạch rằng: “Cổ Phật chẳng đoạt nguyện của kim Phật. Kim Phật há trái nguyện của cổ Phật ư?” Sư tự tin dường ấy. Sư từng trích máu chép một bộ Pháp Hoa, cứ mỗi chữ là một lễ. Thực hiện mười lượt như thế. Như thế cho đến các kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm v.v… tổng cộng lễ hơn hai trăm bảy mươi quyển. Sư đọc kinh Pháp Hoa một ngàn bộ, Quán Kinh năm tạng, Di Đà mười tạng. Lại c̣n giáo hóa đạo tục kết hệ niệm tịnh nghiệp hội suốt ba mươi năm. Một hôm, Sư bị bệnh, đêm mộng thấy thân vàng trượng sáu. Từ đó, mỗi ngày luân phiên thỉnh bảy vị Tăng giúp Sư thành tựu mười niệm. Đủ bảy ngày, Sư ngồi dậy, chắp tay, cùng đại chúng lớn tiếng xưng Phật hiệu. Hồi lâu, Sư gập ngón tay kết ấn, lặng lẽ ngồi qua đời. Xà-duy, răng và xâu chuỗi chẳng hoại, đại chúng đều thấy. V́ thế, chẳng phải là giả trá, hư huyễn vậy (theo Bảo Châu Tập).

 

* Nam thượng nhân ở Hành Châu

 

          Đầu niên hiệu Thiệu Hưng[50], tại Hành Châu có vị tăng tên Tổ Nam, trụ tại chùa Pháp Luân thuộc quận ấy. Kể từ khi xuống tóc, Sư chuyên tu khổ hạnh, cắt ngón tay lấy máu chép kinh Pháp Hoa mười mấy bộ, kinh Kim Cang một trăm quyển, kinh Di Đà năm vạn quyển. Biên chép như thế suốt hai mươi bảy năm, từ đầu đến cuối hệt như nhau. Sư thường niệm Di Đà cầu sanh Tịnh Độ. Lúc tuổi già, huyết cạn, thân khô, không bệnh tật, vẫn có thể đi ngồi được. Một hôm, Sư yết kiến phương trượng, gặp mặt rồi trọn chẳng nói ǵ, bỗng Sư ngồi ngay ngắn, nhắm mắt qua đời. Hóa ra, ư Sư muốn vị Đường Đầu chứng minh hậu sự vậy. Sau khi hỏa táng, nơi giữa mày của Sư tuôn ra ngũ sắc xá-lợi, chẳng đếm nổi bao nhiêu viên. Đạo tục thỉnh cầu, đều được như nguyện. To lớn thay! Phật tử khắc khổ, xét khắp xưa nay, hiếm ai sánh bằng! Trong lúc tọa thoát, há chẳng phải là trở về Tây Phương ư? (theo Bảo Châu Tập).

 

* Tông đại sư ở Minh Châu

 

          Tại Quảng Phước Viện ở trong thành, vị tăng Khả Tông, họ ngoài đời là Dương, người Ngân huyện. Sư bảy tuổi xuất gia, tụng thông thuộc kinh Pháp Hoa. Hai mươi hai tuổi, thi đậu khảo thí về kinh điển, bèn xuống tóc. Sư cốt cách thanh cao hơn người, chí thú khác người, oai nghi tề chỉnh, nói năng thận trọng, lập công khóa thường nhật đọc tụng sách Phật. Hễ rảnh rỗi th́ giở xem ngoại điển, giỏi thơ phú, khéo viết thư pháp theo lối chữ Thảo. Đến già, một hôm bỏ sạch [thơ phú, thư pháp, xem đọc ngoại điển], dốc ḷng thành tu Tịnh nghiệp. Sư xem trọn Đại Tạng Kinh một lượt, chín năm huân tu Pháp Hoa Sám. Đi, đứng, nằm ngồi thường ở trong đó, chẳng thấy lầm lỗi của thế gian. Một hôm, Sư ngă bệnh, gọi đệ tử nói: “Đại sự của ta sắp tới rồi, các con hăy nên tinh tấn hành đạo, đừng quên mất lời ta. Ta b́nh sanh tấn tu, chưa từng phạm giới. Nếu thật sự đắc đạo, chết rồi ắt có điềm lạ”. Sau mấy ngày, bỗng trên chân giường nẩy sanh một gốc cỏ Chi màu trắng, có vằn như hoa sen. Sư trông thấy bèn nói rằng: “Chỗ ta ở hiện ra điềm này, đă đến lúc phải đi rồi”. Liền viết kệ rằng: “Vô kinh khả tụng, vô Phật khả niệm. Kim nhật lâm hành, đại gia chứng nghiệm” (Chẳng có kinh để tụng, chẳng có Phật để niệm, hôm nay sẽ ra đi, mọi người hăy chứng nghiệm). Sư buông bút, ngồi xếp bằng qua đời. Người trong quận chen nhau đến xem.

          Quan Thái Thú Đăi Chế là ông Tần cũng dốc ḷng muốn thấy, bèn khoét đất chỗ hoa mọc, thấy điều lạ lùng là đất khô ran mà rễ cành và hoa mơn mởn. Mọi người tấm tắc hồi lâu, dâng hương rồi quay về. Bậc hiền nhân thuở trước đă tán thán rằng: “Kinh khán nhất Đại Tạng giáo, sám-ma cửu tải huân tu, dĩ chứng Pháp Hoa tam-muội. Bạch liên b́nh địa sanh thu” (Xem kinh trọn một giáo pháp Đại Tạng, huân tu sám hối suốt chín năm, đă chứng Pháp Hoa tam-muội, đất bằng sen trắng trổ tươi tắn). Chuyện này xảy ra vào năm Thiệu Hưng 16 (1146). Viện ấy có ghi lại t́nh trạng, hoa ấy tới nay vẫn c̣n, nay ghép thêm [h́nh vẽ hoa ấy] vào tiểu truyện để người đọc có thể h́nh dung.

 

* Thật thiền sư ở Minh Châu

 

          Vị tăng trụ tŕ truyền pháp của thiền viện Nhiêu Ích tại Thạch Môn, huyện Tứ Minh, là Ngạn Thật xuất tục từ nhỏ, tụng kinh Pháp Hoa. Đến tuổi hai mươi, thi kinh sách, được ân chuẩn đắc độ. Từ đấy, suốt sáu mươi năm, chẳng quên kinh nơi tâm và miệng. Tuổi già, Sư trụ tại chùa Thiên Y ở Thiệu Hưng, giữ chức Thủ Tọa Liêu. Ngày Hai Mươi Lăm tháng Năm năm Càn Đạo thứ năm (1170), bỗng từ chỗ chiếu trúc trải dưới án kinh, sanh ra một đóa hoa lạ. Hoa ấy màu xanh và trắng, hai cánh có gân nhỏ giống như hoa sen, mỗi ngày một to hơn, cao chừng một thước. Tới khi hoa tàn, đến ngày Mười Bốn tháng Sáu, lại mọc ra một cành, cũng có hai lá, dài bốn tấc, linh thụy dị thường. Cơi đời truyền tụng ca ngợi rất nhiều. Trong quận, có quan thừa ở huyện Vũ Khang là Tăng Tấn yêu chuộng đạo bèn trần thuật duyên cớ, cho khắc gỗ in rồi biếu tặng, chỉ có ba ngàn bản. Nay tôi lại đăng tải, ngơ hầu chuyện này chẳng bị thất truyền.

 

* Pháp sư Trừng Chiếu ở Minh Châu

 

          Ḍng họ của pháp sư nhiều đời sống tại Từ Khê. họ Trần, tên là Giác Tiên. Trừng Chiếu là pháp hiệu được ban tặng. Sư sanh ra thông minh, mẫn tiệp, xuất gia tại Tinh Tấn Viện. Thầy dạy kinh Pháp Hoa, Sư vừa đọc đă thông thuộc. Sau khi thọ giới, thoạt đầu, Sư theo học với ngài Diên Khánh Minh Trí, lại theo học với ngài Thiên Trúc Huệ Giác. Sư học hỏi, suy tư, đối với Giáo Quán của tông Thiên Thai, không ǵ chẳng thấu hiểu. Mọi người thỉnh Sư trụ tŕ Bảo Lâm Viện. Sư liên hoàn giảng tập Pháp Hoa Tam Đại Bộ (Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán), truyền dạy chưa từng phí uổng ngày nào. Mùa Xuân năm Tĩnh Khang (1127), trời đại hạn, Sư đối trước long thiên giảng kinh, trời liền mưa dầm suốt ba ngày, trăm dặm hoan hô. Đạo tục cảm kích sự thần dị của Sư, bèn dựng Quang Minh Tràng để vĩnh viễn nêu bày.

          Kế đó, Sư dời sang pháp ṭa Diên Khánh, khôi phục, hoằng dương giáo pháp của Tổ, đi khắp trong ngoài. Năm Thiệu Hưng thứ tám (1138), Sư lui về Bảo Lâm để tính an cư cho đến hết đời. Ngoài việc giáo hóa, Sư chỉ lấy Pháp Hoa làm tâm yếu, khóa tụng hằng ngày chưa hề thiếu khuyết. Sư đă tụng kinh đến một vạn bộ. Sư chọn chỗ sâu kín trong [cuộc đất đặt] Phương Trượng để dựng một gian thất, đặt tên là Diệu Liên Đường. Sư an trụ trong đó, chỉ chú trọng một chuyện ấy, chí mong về Tây. Sư tŕ kinh Di Đà bốn mươi bảy tạng, tam tâm (tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai) đặt nơi Tịnh nghiệp, có thể nói là “chuyên chú”. Về sau, Sư cảm bệnh nhẹ, v́ đại chúng thuyết pháp, an nhiên qua đời.

          Liêm Bố soạn văn bia ghi đức hạnh của Sư có đoạn: “Khi Sư trụ tại Diên Khánh, thầy Nguyệt Đường vừa tới tham học. Sư biết đó là căn khí thích đáng, liền bảo rằng: ‘Ông ắt trụ tại núi này’. Sau này, quả nhiên phù hợp lời ấy. Ngài Nguyệt Đường sắp mất, liền bảo môn nhân rằng: ‘Nơi tháp của cụ Trừng Chiếu ở trong lùm cỏ tại Bảo Lâm, thường có người trong đêm sâu thanh tĩnh nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa’. Chuyện này rất lạ, huống hồ Sư trụ trong núi này, truyền tŕ cật lực. Ta chết rồi, các ông hăy nên dựng riêng một ṭa tháp tại Tổ Lũng để đón [linh cốt] của Ngài dời về đó”. Tới khi mở tháp [của ngài Trừng Chiếu] để rước [linh cốt] về, thấy trên linh cốt của Sư mọc một cành ngọc trúc, màu sắc như đồng xanh!

 

* Pháp sư Nguyệt Đường tại Minh Châu

 

          Sư húy Huệ Tuân, đạo hiệu Nguyệt Đường, họ Trần. Tổ tiên là người Vĩnh Gia, đến đời ông Ngài, bèn dời sang Cù Sơn thuộc Minh Châu. Mẹ Ngài từng mộng thấy một vị Tăng đến nhà hóa duyên, sau đó có thai Ngài. Từ thuở để chỏm, Ngài cử chỉ cao vời bất phàm. Do vậy, xả gia vào cửa Phật, giồi mài trong Tổ Ấn Viện. Thầy dạy kinh Pháp Hoa, xem đọc mấy lượt liền thông thuộc, mọi người đều kinh hăi, lấy làm lạ. Sau khi đă thọ Cụ Túc, Sư trở về thăm cha mẹ. Bà nội khuyên nhủ: “Cháu đă xuất gia, hăy nên là vị tăng giống như một Phật tử trung hậu của Ôn Châu, đừng quan tâm lưu luyến nhà cha mẹ!” Sư vâng theo lời dạy ấy, dốc chí học tập. Thoạt đầu, theo học với ngài Trừng Chiếu chùa Diên Khánh. Thầy vừa thấy, liền biết là pháp khí. Thuở đó, ngài Thảo Am là bậc nhất, Sư liền lên phương Bắc cầu đạo, thông hiểu trọn hết đạo trọng yếu. Kế đó, Sư muốn học thêm, bèn tham học khắp vùng Lưỡng Chiết. Quay về, gặp thầy Viên Biện tại Nam Hồ đang khôi phục, hoằng dương tông chỉ. Sư trí giải cao ngất, cơ phong lănh ngộ sắc bén.

          Cuối niên hiệu Thiệu Hưng, Sư được chọn làm Trụ Tŕ. [Sau đó] qua bốn lượt chuyển đổi, Ngài dời tới Diên Khánh. Pháp ṭa ṿi vọi, muôn ư chỉ đông đầy, mọi người ca ngợi Ngài biện tài tuyên dương thong dong chẳng khác ngài Phú Lâu Na, há chẳng phải đúng như vậy ư? Sư tuy thuận duyên tiếp độ chúng sanh, nhưng nội hạnh càng siêng gắng. Công khóa hằng ngày lấy [tụng trọn hết] bảy quyển kinh Pháp Hoa là lệ thường. Dẫu lạnh buốt, nắng gắt, bệnh tật, vẫn chẳng lười nhác. Suốt mười năm đều như thế, ngôn lẫn hạnh đều trọn vẹn. Một hôm, Sư ngă bệnh, khí sắc dường như sắp ra đi. Đệ tử thỉnh Sư thuyết pháp. Sư nói: “Há pháp có nói năng ư?” Sư liền cầm bút viết kệ để bảo ban đại chúng, xưng Phật hiệu liên tiếp. [Sau đó], hai tay buông xuống, kết Di Đà Ấn[51], ngồi xếp bằng qua đời. Theo di ngôn, tuân theo chế định của Phật [quàn xác] năm ngày sau mới hỏa thiêu, pháp cốt chia làm hai phần: Một phần đưa về Thân Lũng ở Cù Sơn, một phần dựng tháp ở Nam Thành Tổ Nguyên. Có kẻ bàn rằng chư Tổ đều được táng toàn thân, [không nên chia đôi pháp cốt, họ] bèn dùng tóc cắt từ đỉnh đầu của Sư để biểu thị chí nguyện của Sư. Chưa đầy một năm sau, ngẫu nhiên có học nhân đến xin mở tháp thờ tóc Sư để chiêm lễ, bỗng thấy cả một vốc xá-lợi, tươi sáng lóng lánh. Ghi chép lại chuyện này th́ có quan Đề Cử là ông Lục Nguyên soạn bài tán. Ở đây, chỉ ghi lại các điểm chánh yếu đó thôi!

 

* Ḥa Pháp Hoa ở Minh Châu

 

          Đời Tống, tại Quảng Tế thuộc huyện Phụng Hóa, có vị Tăng tên là Pháp Ḥa, sanh trong nhà họ Giang. Sư ĺa tục từ bé, bẩm tánh b́nh dị, mặc áo vải chằm vá, có phong độ của cổ nhân, thường tụng kinh Pháp Hoa, sáng tối chẳng nghỉ. V́ thế, người thuở đó gọi Sư là Ḥa Pháp Hoa. Trong viện có giảng tăng để có thể nương tựa. Một hôm, Sư đắp y đến thưa hỏi về chuyện Dược Vương thiêu thân. Thầy chẳng hiểu dụng tâm của Sư, bèn giảng giải ư chỉ “chân pháp cúng dường”. Pháp Ḥa nghe lời ấy, hoan hỷ, hớn hở rời đi. Khi đó, nhằm đêm Hai Mươi Bốn trong tiết Thượng Nguyên, nơi góc Đông Bắc của Phương Trung Viện, lửa lớn cháy tận trời. Một vị Tăng chạy tới chữa lửa, bỗng thấy Sư chắp tay ngồi xếp bằng trong lửa, miệng ra rả tụng kinh. Trước mặt, bày hương đèn cúng dường kinh Pháp Hoa. Lại c̣n đặt bài tụng giă biệt cơi đời vào văn phát nguyện. Bài tụng như sau: “Nước xiết chèo thuyền, đến bờ chẳng trôi. Tàn tuyết theo lửa hồng tan sạch. Thân thanh thản theo bước thánh hiền phiêu du”.   Nguyện văn đại lược như sau: “Pháp Ḥa nguyện đốt thân hư huyễn này để thành hương vô giá. Trước là dâng lên mười phương Tam Bảo diệu pháp thượng thừa. Kế đến, dâng thiên long bát bộ. Trước là mong nhị thánh hồi loan[52] trùng hưng xă tắc, sau là nguyện con khi tái sanh trong đời sau, thường diễn Đại Thừa, rộng độ các phẩm” v.v…

          Lửa bốc cao, trong ấy có luồng sáng năm màu chiếu lên không. Đêm ấy chẳng có gió lộng, bỗng nghe có tiếng trống rền lẫm liệt, lại có mùi hương lạ ngào ngạt. Hôm sau, bổn sư thâu liệm hài cốt ở ngoài pḥng. Có bốn tín nữ đến lễ chỗ Ngài hóa thân, thấy chỗ tro c̣n lại rúng động, bèn thử bới ra t́m, ngẫu nhiên được hai mươi mấy viên xá-lợi. Mọi người kéo nhau tới xem. Di cốt như các viên châu chồng chất. Từ đó, tiếng đồn lan xa, người đến thỉnh càng đông, ứng hiện càng nhiều. Xương và tro đều bị thỉnh sạch.

          Có người thỉnh được một cái răng, chứa trong tráp, có nhà giàu ưa thích, mong đổi lấy bằng ba mươi ngàn đồng. Sư được mọi người dốc ḷng tôn kính như thế đó… Hiềm rằng tứ chúng lũ lượt kéo tới chiêm lễ, người kính mộ khác nào ong dồn kiến tụ, khiến cho việc lễ chân thân nơi đỉnh Ngọc Kỷ gây trở ngại. Liền có người thưa kiện là nhà chùa làm chuyện mê hoặc quần chúng. Thái Thú Thiếu Bảo Quách công cai trị nghiêm ngặt, bắt vị tăng chủ chùa tống giam. Mấy ngày sau, sau khi bản án tŕnh lên, [quan cầm bút toan phê án xử tội], bỗng có một con ruồi bám vào đầu bút, phát ra tiếng khóc ai oán, xua đuổi chẳng được. Quan biết là do di thân (thân thể c̣n sót lại của sư Pháp Ḥa) cảm thông, liền quăng bút tha cho. Đó là năm Giáp Dần tức năm Thiệu Hưng thứ tư (1134). Viện chẳng lập bia nêu chí, Tông Hiểu đến thăm, hăy c̣n bậc kỳ túc trong viện từng đích thân thấy nghe. Do vậy, ghi lại để mong ngày sau sẽ chép vào tăng sử.

 

* Tá Pháp Hoa ở Minh Châu

 

          Vị tăng tên Vân Tá xuất gia tại Hải Huệ Viện ở đất Ngân, chuyên tŕ kinh Pháp Hoa. Sư thi đậu [cuộc khảo hạch kinh điển], được phép xuất gia. Từ đấy, Sư tham học tông Thiên Thai. Dẫu qua lại nhiều nơi [để tham học] đă nhiều năm, nhưng chưa hề phế bỏ hạnh nghiệp. Về già, Sư trở về Diên Khánh. Bốn mươi mấy năm, quanh quẩn nơi tĩnh thất, tụng đọc rơ ràng, du dương. Hằng ngày, Sư lấy chuyện tụng đủ bốn bộ [kinh Pháp Hoa] làm chuẩn. Lúc ngoài tám mươi, Sư ngẫu nhiên mắc bệnh cũ, chẳng đến nỗi suy sụp, khốn khổ, liền tắm gội, thay áo chỉnh tề, nghiêm túc, bảo các huynh đệ phúng tụng phẩm An Lạc Hạnh. Trong khoảng bữa ăn, Sư ngồi ngay ngắn qua đời. Cho tới lúc hỏa táng, khói lửa như kim sắc, hoặc có năm màu thơm ngát. Tới lúc thâu thập di cốt, th́ thấy xương Ngài có màu đen, kiên cố, trong rỗng, ngoài tṛn, có h́nh dạng như [các hạt] xâu chuỗi bằng gỗ Mộc Hoạn[53], mọi người đều lấy làm lạ.

 

* Kinh Pháp Hoa tại chùa Nhạc Lâm ở Minh Châu

 

          Chùa Tông Phước tại Nhạc Lâm, huyện Phụng Hóa thuộc Minh Châu có Sắc Tứ Sùng Ninh Các, là nơi thờ phụng chân tượng của ngài Bố Đại ḥa thượng. Năm Thiệu Hưng 31 (1161) bị hỏa hoạn, cháy sạch. Từ trong ngói gạch, t́m được một bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, chẳng tổn hại mảy may, đó là đầu mối linh ứng của chân pháp môn vậy. Khi đó, có pháp sư Nguyệt Đường Huệ Tuân làm thơ ca ngợi rằng: “Ngọc trục kim văn khởi phạm cung, tín tri diệu kệ diệc nan đồng. Kỷ tằng lâu các tùy yên mặc. Nhất bộ liên kinh xuất hỏa hồng. Hương phủng thụy quang phân bảo giám. Nguyệt hàm chân sắc xạ hàn không. Khả lân pháp mạt nhân kiêu mạn, trùng hiển Ma Đằng trúc phạm công” (Trục ngọc, kinh vàng, dựng phạm cung. Biết rơ diệu kệ cũng khó đồng. Mấy tng lầu gác tan thành khói, một bộ kinh Sen thoát lửa hồng. Hương tỏa thụy quang nâng quyển báu, trăng soi chân sắc rực hư không. Đáng thương pháp mạt, người kiêu mạn. Hiện lại Ma Đằng đă dày công)[54].
          Có người nói: “Trước kia, tại Tuyền Châu có một ṭa gác báu thuộc Tịnh Nhân Thiền Viện bị hỏa hoạn. Trong đám tro tàn, chỉ riêng có một bộ kinh Pháp Hoa nghiễm nhiên như cũ. Tứ chúng không ai chẳng khâm ngưỡng công đức thần diệu của Phật pháp
. Vị tăng tên là Triều Phụng bèn làm bài thơ ấy”. Nhưng người và vật ở hai nơi quá xa, không cách nào hỏi han biết được. Nay tôi ghi lại cả hai chuyện, mong người biết đầu mối sẽ đính chánh cho.

 

* Bài thơ của thầy Giám Tông ở Minh Châu

         

          Cuối niên hiệu Thiệu Hưng, tại Vận Giám Tự Pḥng của Từ Khê Đông Tự thuộc Minh Châu có một đứa trẻ từ vùng núi tên là Hồng Chí, xuất gia lúc bảy tuổi. Do được thầy răn dạy đúng mực, nó tụng thông suốt kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày tới lúc đêm thâu, nó nhiễu quanh điện Phổ Hiền tụng kinh, âm thanh thanh nhă, người nghe đều lấy làm lạ. Trong chùa có Tuyết Am Tông Sư Giám Công tặng thơ rằng: “Sở sở sơn đồng t́nh tự nhàn. Vị tri thân thế lưỡng tương can, thời tương bích triện dao song hạ, mỗi bả thanh liên vị thiệt đoan. Hồ nguyệt phi lai vân ốc lănh. Tùng phong xuy lạc tiễn sàng hàn. Thử thời lưu thủy thanh thê uyển, trắc nhĩ thiên tiên phạ dạ lan” (đứa bé vùng núi thanh tao, tâm t́nh thanh nhàn, chẳng biết thân thế hai đằng liên quan, đúng thời ở bên dưới khung cửa sổ chạm trổ, nó sẽ dùng chót lưỡi như đóa sen xanh [để tụng niệm]. Ánh trăng bên hồ chiếu tới ngôi nhà phủ trong mây lạnh. Gió lùa cuốn lá thông rơi trên giường lạnh. Khi đó, tiếng nước chảy róc rách êm ả, nghiêng tai nghe tiếng thiên tiên, sợ [vô ư] làm vỡ đêm thâu).

 

* Toàn Pháp Hoa ở Minh Châu

 

          Trong niên hiệu Nguyên Hựu, tại Từ Phước Viện ở Minh Châu có Toàn Pháp Hoa, tụng kinh ba mươi năm. Tính theo bộ, sẽ là một vạn năm ngàn. Sư thường ở trong một cái thất tiêu điều, ngồi lọt thỏm trong ghế, tay cầm xâu chuỗi, chí thành tụng niệm trong tâm. Ngoài cửa lăng xăng, Sư vẫn bất động. Ngày là vậy, mà đêm cũng vậy, chẳng có mảy may lười nhác. Sư có đệ tử là Phạm Dung, lên kinh đô tham học. Khi đó, Tả Nhai Tăng Lục là Tịnh Chiếu Thiền Sư Đạo Trăn, trụ tại Thập Phương Tịnh Nhân Lễ Tự, nghe đức hạnh của Sư, bèn gởi thi phú [biếu tặng]. Bậc hiền nhân trong triều đ́nh trông thấy, đều gởi lời chúc tụng rất nhiều. Quan Tả Triêu Tán Lang Đại Lư Tự Bạ là Từ Vân soạn lời tựa, khắc vào đá nơi viện.

          Nay ghi lại sáu bài, để truyền tụng đức hạnh của Sư. Tăng Lục viết: “Kỷ hồi thất trục đoạn vi biên, tŕ tụng do tâm cửu dũ kiên. Văn thuyết cao niên bội tinh tấn. Thiệt căn ưng tự nhất hồng liên” (mấy lần bảy quyển dây lề đứt[55], tŕ tụng tâm thành càng vững bền, nghe nói tuổi cao càng tinh tấn, lưỡi Ngài nhất định nẩy hồng liên). Tả Triều Nghị Đại Phu Thượng Thư Đồn Điền Lang Trung là Lư Chi Thuần viết: “Khứ lư vi tăng thoát hộ biên, tinh tŕ diệu pháp cửu di kiên. Thân tâm thanh tịnh tương hà tịnh. Đại hoa phong điên ngọc tỉnh liên” (ĺa tục, xuất gia, thoát buộc ràng, chuyên tŕ diệu pháp vững ḷng son. Thân tâm đều tịnh, c̣n ǵ tịnh? Giếng ngọc sen tươi đỉnh Đại Hoa). Tả Triều Phụng Đại Phu Thượng Thư Hộ Bộ Lang Trung là Lâm Thiệu viết: “Ẩn kỷ tiêu nhiên tụng bảo biên. Chân Như bất động thử tâm kiên. Thanh thần sổ quyển liêu giá nhăn. Hảo đối Khuông Lư xă lư liên” (Dựa ghế lặng thinh tụng kinh báu, Chân Như bất động tâm càng bền, tinh mơ mấy quyển lướt qua mắt, khéo xứng Khuông Lư dự hội sen). Tả Triều Tán Đại Phu Thượng Thư H́nh Bộ Lang Trung là Mạc Quân Trần viết: “Đại sự nhân duyên tụng thất biên, nhất lô hương hỏa lăo di kiên. Sư ưng ngộ nhập thân thanh tịnh. Nguyện hiệu đương niên tán bích liên” (Đại sự nhân duyên tụng bảy quyển, một ḷ hương đốt vững bền tâm. Sư đă ngộ nhập thân thanh tịnh, sen biếc mong Sư rải hiện tiền). Tả Triều Phụng Lang Hành Bí Thư Tỉnh Trước Tác là Hoàng Đ́nh Kiên nói: “Nhiếp ư tŕ kinh tận kiếp hôi, nhân gian xứ xứ diệu liên khai. Đà niên tụng măn tam thiên bộ, hựu mịch Tào Khê nhất cú lai” (Nhiếp ư tŕ kinh tận kiếp trần, nhân gian chốn chốn nở sen tươi, bao năm tụng trọn ba ngàn bộ, lại kiếm Tào Khê một câu thiền) (Khắc đá chép hai mươi bài).

 

* Thân Pháp Hoa ở Minh Châu

 

          Vị tăng tên Trí Thân, họ ngoài đời là Tiết, người làng Vạn Linh thuộc huyện Ngân. Từ thuở bé, xuất gia tại chùa Thê Tâm, được thầy dạy kinh Pháp Hoa, thề đọc thuộc ḷng. Đầu niên hiệu Thiệu Hưng, triều đ́nh mở khoa thi kinh sách, Sư trúng tuyển làm Tăng. T đó, học trọn khắp giáo luật. Đă khai phát bổn tâm, Sư bèn trở về chỗ cũ, đóng cửa ở trong một cái thất, dứt hẳn danh lợi. Hằng ngày, Sư lấy tŕ một bộ kinh Pháp Hoa làm chuẩn. Khi đó, ở phía Đông thành, đại chúng nhóm họp tụng tập kinh này, thỉnh Sư làm giáo thọ. Sư chẳng từ chối được, bèn tận lực chủ tŕ. Sư đặt tên cho hội ấy là Đàm Hoa Xă, đến nay hăy c̣n. Về già, Sư càng thêm dụng công tu hành, mỗi ngày tụng hai bộ, hoặc đến ba bộ. Sư thập phần xứng chức, chẳng thiếu sót trong việc giảng dạy lẫn tŕ tụng. Khi đó, có nhiều vị học Thiền, học Giáo bèn [xướng vịnh] lan truyền danh tiếng của Sư. Thơ ca tích tập từ các trước tác của hơn ba mươi người, cũng là chuyện nổi tiếng một thời.

          Đệ tử Sư là Pháp Mâu vẫn c̣n giữ được bút tích của Sư, nay tóm tắt các điều trọng yếu, ngơ hầu truyền xa. Thiền sư Huệ Phổ ở Thương Châu làm thơ xướng rằng: “Thiệt thượng thanh liên phún dị hương. Công thành vạn bộ khả du dương. Vị thường an tẩm trường tinh tấn. Cá thị tăng trung chân đống lương” (Trên lưỡi sen xanh phun hương lạ, kinh tụng vạn bộ đáng tuyên dương. Chưa từng ngủ nghỉ, luôn tinh tấn, quả đúng tăng nhân bậc đống lương). La Nguyệt thiền sư đề: “Kinh liêm chung nhật đối lô hương. Lưu thủy thanh thanh tự ức dương, hữu đạo chỉ ưng sanh gián thế. Cao tăng bất độc tại Tề Lương” (Nước chảy êm đềm dường khen ngợi, tụng kinh suốt buổi trước ḷ hương, bậc hữu đạo sanh trong cơi thế, cao tăng đâu phải chỉ Tề Lương[56]). Sư Huệ Vân nói: “Mật thất liên phương viễn thấu hương. Tam châu đại sự quảng phu dương. Lữu tỳ hạ hữu ḱnh thiên trụ. Đại hạ cao đường không đống lương” (Mật thất hương sen tỏa ngát hương, tam châu đại sự rộng phu dương, trụ chống trời cao lều tranh có, viện lớn ṭa cao thiếu cột rường)[57]. Thầy Trí Tâm viết: “Trúc phần cúng khóa băo văn hương, thiệt quyển triều âm biến cử dương. Thước đỉnh hữu hoài huân tịnh phạm. Yến nê vô phục nọa điêu lương” (mộ trúc tụng kinh hương sực nức, triều âm lưỡi chuyển tiếng vang rền, sẻ quẩn đỉnh hương xông phạm hạnh. Yến thôi kết tổ bẩn kèo hoa)[58].

 

* Thuần Pháp Hoa tại Minh Châu

 

          Vị tăng tên Đạo Thuần tại Huệ Đăng Viện thuộc Ngân Thủy, họ ngoài đời là Vương. Sư nhập đạo trong niên hiệu Chánh Ḥa. Tới niên hiệu Kiến Viêm, giặc giă (quân Kim) tràn vào cơi, sát hại lương dân không thể đếm. Sư trông thấy ôm ḷng trắc ẩn, nghĩ chỉ có Phật pháp là có thể cứu vớt. Do vậy phát đại tâm, công khóa chuyên tụng niệm Pháp Hoa. Chỉ trong hai mươi năm, Sư tụng trọn một vạn bốn ngàn bộ. Tụng tập [kinh Pháp Hoa] trước đó chẳng tính vào số ấy. Bước vào tuổi bảy mươi, Sư thiết trai tăng, lễ sám. Sau đó, được Tuần thiền sư ở Nguyễn Sơn soạn sớ, đại lược như sau: Kể từ khi nước nhà gặp nạn đao binh, con người gặp phải nỗi lo đồ thán. Do vậy, cảm phát tấm ḷng son, càng thêm tu tập bạch nghiệp, thọ tŕ bí cáo Nhất Thừa[59], quyết để lại dư phong siêng năng, tinh tấn, khói hương chẳng ngừng vờn quanh nơi song cửa sáng ngời. Kinh văn giở măi trên án kinh thanh tịnh. Xuân thu qua mắt, mấy phen lá rụng, hoa thắm, sự vật hư hoại, vạn cảnh nước chảy mây tan. Thấy long nữ thành Phật, biết rơ chẳng phải là tướng. Ngưỡng mộ Dược Vương thiêu cánh tay, thề muốn vong thân. Ba lần tắm gội, ba phen hun đúc, tiêu tháng ngày nơi bảy ngàn hai trăm[60]. Một duỗi, một cuộn, lật quyển vàng nơi chín vạn tám ngàn[61], đạt được duyên không nạn, vui mừng sâu xa”. Sư thọ tám mươi bảy tuổi. Ngày Rằm tháng Mười năm Thiệu Hưng 27 (1157), Sư tắm gội, rửa tay, thay áo sạch, bảo ban đại chúng rồi ra đi. Sau khi trà-tỳ, đại chúng tranh nhau thu thập xá-lợi, chẳng biết số lượng. Sự giáo hóa của Phật chẳng phải càng thêm sáng ngời bởi vị này ư?

 

* Giới giảng sư ở Minh Châu

 

          Tại Pháp Khánh Viện ở Quản Giang thuộc Ngân Xuyên, có vị tăng tên là Pháp Giới, họ ngoài đời là Đỗ. Chánh nhân xuất gia, hạnh nghiệp chân thật. B́nh sanh, sư ăn rau, chẳng đoái tưởng h́nh hài. Sư từng tạo Đại Phật Điện tại viện ấy, dựng tháp Đa Bảo, đào vét ao to để tưới tắm ruộng đất. Đại chúng chịu ân chẳng ít. Năm Thiệu Hưng 20 (1150), pháp đường hư nát, Sư phát tâm sửa chữa. Sư liền lặn lội trong nhân gian, trích máu chép một bộ kinh Pháp Hoa, gom góp tiền bố thí để hoàn thành. Xây dựng xong, Sư chia các cuộn kinh chép làm ba phần, bọc trong ba tầng vải bọc. Phía ngoài quấn giấy dầu, đặt trong ba viên hỏa châu [gắn ở kèo chính của đại điện], ư muốn dùng để trấn tự viện vĩnh viễn chẳng hư hoại. Hai mươi năm sau, kèo chính lại bị hư, ngài Pháp Giới lại trùng tu. Sư lấy hỏa châu xuống, xem kinh đă đặt trong đó th́ trọn chẳng thấy trang nào, đạo tục đều than lạ. Có người hiểu biết bảo do thành ư của của Sư, cảm vời thiên long đón về thờ phụng rồi. Vị tăng ấy về sau truyền thừa giáo nghĩa Thiên Thai, trụ tŕ núi này, Tông Hiểu từng đích thân bái phỏng; bởi thế, biết tường tận chuyện này.

 

2. Cao ni (gồm mười ba vị)

* Hinh pháp sư ở Lạc Dương

         

          Thời Đông Tấn có ni sư Trúc Đạo Hinh, sanh trong nhà họ Dương ở Thái Sơn. Sư bẩm tánh chuyên chú, cẩn thận, chẳng hề trái nghịch chúng sanh. Khi làm sa-di, bị đại chúng sai khiến, Sư cam chịu khổ, chẳng mệt mỏi. Lúc hai mươi tuổi, Sư tụng hai kinh Pháp Hoa và Duy Ma, nghiên cứu, t́m cầu ư vị nơi nghĩa lư. Đến già, càng thêm siêng năng. [Truyền thống] tỳ-kheo-ni tụng kinh được khởi đầu từ ngài Đạo Hinh vậy. Sư trụ tại Đông Tự ở Lạc Dương, tuân giữ khí tiết, giới hạnh, được mọi người tôn kính. Khi đó, có một ả tên là Dương Lệnh Biện, chuyên tu tập thuật hít thở của Hoàng Lăo, cũng được mọi người kính trọng, nhưng ganh ghét ngài Đạo Hinh, liền ngầm đem thuốc độc bỏ vào thức ăn của Ngài. Ngài Đạo Hinh trúng độc, đệ tử hỏi nguyên do bị bệnh. Ni sư đáp: “Đạo chẳng thành đều là nhằm đền trả túc duyên đó thôi!” Sư liền qua đời (Theo Đại Tạng Cao Ni Truyện trong ḥm kinh chữ Quần).

 

* Hiền pháp sư ở Tư Châu

 

          Ni sư húy Trí Hiền, họ ngoài đời là Triệu, người Thường Sơn. Sư tu giới hạnh cẩn trọng, tuy phóng khoáng nhưng chẳng xen tạp. Khi đó, quan cai quản châu quận là Thái Thú Đỗ Bá tin phục Hoàng Lăo, đố kỵ đạo Phật, t́m cách kiềm chế, đặt ra các quy định ngặt nghèo chẳng thể thực hiện được để thử thách ngài Trí Hiền. Thấy ngài Trí Hiền thừa sức chịu đựng, liền ép buộc Sư ở một ḿnh [không được có đồ chúng]. Ngài Trí Hiền biết ư hắn, thề chẳng vi phạm [lệnh cấm của hắn]. Tới khi Phù Kiên lên ngôi, đặc biệt kính trọng ni sư, v́ ni sư tạo áo ca-sa thêu thùa [để ban tặng]. Về sau, Sư trụ tại Tây Tự, hiển dương rộng lớn đại pháp. Sư tụng kinh Chánh Pháp Hoa cứ một ngày đêm là hết một bộ. Chỗ Ngài ở thường có các loài chim nương đậu; khi Ngài kinh hành, chúng liền bay theo (theo Cao Ni Truyện).

 

* Thọ pháp sư ở Giang Lăng

 

          Trong niên hiệu Nguyên Gia nhà Tống, có ni sư Đạo Thọ, chẳng rơ là người ở đâu. Sư thanh cao, ḥa nhă, điềm đạm, tĩnh lặng, được ca ngợi là người có hiếu, cung kính. Từ bé, Sư đă thọ Ngũ Giới, chưa từng hủy phá. Do buồn v́ nỗi tang cha mà trở thành ốm yếu, bệnh tật đă lâu năm chẳng lành. Sư từng phát nguyện: “Nếu tôi lành bệnh, sẽ liền xuất gia”. Quả nhiên lành bệnh; do vậy bèn xuống tóc. Tuổi già, Sư trụ tại chùa Kỳ Hoàn ở Giang Lăng, siêng khổ hơn người. Sư tụng kinh Pháp Hoa trọn ba ngàn lượt, thường thấy điềm lành quang minh, nhưng chẳng nói. Một đêm, Sư bỗng thấy trên hư không có lọng báu rủ xuống che đỉnh đầu. Người đương thời nói đó là sự ứng nghiệm do tŕ tụng (theo Cao Ni Truyện).

 

* Ngọc pháp sư ở Giang Lăng

 

          Ni sư Huệ Ngọc, người Trường An, siêng hành giới thiện, đạo đức đều hoàn bị. Sư giáo hóa du hành chẳng ngại nóng lạnh. Sư trụ tại chùa Mục Ngưu ở Giang Lăng, tụng kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm v.v… trong ṿng mười ngày đă thông suốt, cơi đời cho là kỳ lạ. Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Tống, Sư khổ hạnh trai giới, phát thệ rằng: “Nếu con thành tâm có cảm ứng, sau khi xả thân, ắt thấy cơi Phật. Trong bảy ngày, nguyện thấy Phật quang”. Tới đêm thứ năm, trong rừng cây ở phía Đông chùa bỗng hiện tướng quang minh, h́nh sắc chói ngời. Mọi người trông thấy đều hoan hỷ. Sư liền lập Thiền Đường nơi cuộc đất tỏa quang minh để an trụ thanh chúng (theo Cao Ni Truyện).

 

* Tuyên pháp sư ở Sơn Âm

 

          Ni sư Pháp Tuyên là con gái nhà họ Vương ở Diệm Xuyên. Từ bé, Sư đă quyết chí ĺa tục, bảy tuổi liền ăn chay. Mười tám tuổi, Sư tụng thông thuộc kinh Pháp Hoa, lại c̣n có thể thấu hiểu chỉ quy. Trong lúc ngồi, nằm, Sư liền thấy trướng lọng che phía trên. Bỗng có kẻ mai mối, Sư đều từ khước. Đến tuổi hai mươi, cha mẹ dẫn Ngài đến chùa Tề Minh xuất gia. Ngay trong hôm đó, trướng lọng chẳng hiện nữa. Từ đó, Sư thông thạo rộng khắp kinh luận, nghiên cứu thông hiểu lư sâu. Tuổi già, Sư dời sang chùa Chiêu Minh ở Sơn Âm, nhiều lượt giảng kinh luật, thanh danh rền khắp vùng Vũ Huyệt. Hễ được cúng thí, Sư đều dùng để tạc tượng, chép kinh. Đời Lương, Vương Nguyên Giản ở Hành Dương đến quận thỉnh Sư làm thầy cho mẹ ḿnh (theo Cao Ni Truyện).

 

* Ni sư Hoa Thủ ở Cao Bưu

 

          Ni sư người huyện Cao Bưu, chí tiết thanh sạch, ngôn ngữ và hành vi thanh cao, tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa suốt ngày đêm chẳng bỏ. Thoạt đầu, Sư tụng một quyển, bỗng trên móng tay phải sanh một đóa hoa có h́nh dạng như lụa buộc. Theo thứ tự, tụng tới quyển thứ năm, trên năm móng tay đều sanh một hoa. Tụng đến quyển thứ sáu và thứ bảy, trên bàn tay cùng sanh hai hoa to hơn hoa trên móng tay. Do vậy, thanh danh truyền đến cung vua. Trần Vũ Hoàng (Trần Bá Tiên)[62] sắc truyền nhập cung cho vua xem, Từ đấy trở đi, người trong quận đua nhau gọi bà là Hoa Thủ Ni (theo Linh Thụy Tập).

 

* Ni sư Pháp Tín ở Hà Đông

 

          Trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường, có ni sư Pháp Tín, tŕ tụng thông suốt kinh Pháp Hoa. Sư thệ nguyện nghiêm cẩn từ đầu đến cuối, c̣n muốn chép một bộ thật tinh tường, bèn t́m kiếm người chép, hứa trả giá gấp bội. Mỗi sáng thức dậy, [người chép kinh phải] tắm gội, thay áo mới sạch. Trên án kinh, lại c̣n khoét vách, [đặt ống] thông ra ngoài, h́nh dạng như ống trúc. Người viết hễ thở ra, liền nhẹ ngậm ống trúc phun hơi thở ra ngoài. Chép kinh bảy quyển, mất tám năm mới xong. Ni sư bày cỗ chay, bái sám ăn mừng, lập đạo tràng thanh tịnh, hương, hoa tín phụng. Tới năm Trinh Quán 13 (639), có vị tăng ở chùa Long Môn là Pháp Đoan thường giảng kinh này. Do bản kinh này của Sư tốt đẹp tột bậc, ông ta liền sai người đi thỉnh. Sư cố từ chối, chẳng được, đành tự đưa đến. Tới khi Pháp Đoan mở ra đọc, chỉ thấy giấy vàng, trọn chẳng có một chữ nào! Pháp Đoan xấu hổ, sợ hăi, liền trao trả. Sư biết là do mạo phạm, bèn dùng nước thơm xối rửa hộp đựng kinh, đội kinh nhiễu Phật kinh hành suốt bảy ngày đêm. Tới lúc mở ra xem, kinh hoàn phục như cũ! (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Hai vị pháp sư Pháp Nhẫn ở Đông Kinh

 

          Họ Hoàng ở Tấn Lăng sanh hai con gái, chị năm tuổi, em ba tuổi. Thấy có người tụng kinh Pháp Hoa trong sân, chị em nghe xong bèn nói: “Tôi hiểu kinh này”. Từ đấy trở đi, họ bèn có thể đàm luận nghĩa Thật Tướng. Về sau, cùng làm ni tại chùa An Quốc ở kinh đô. Chị pháp danh là Tŕ Pháp, em là Huệ Nhẫn. Hai vị cùng chí hướng tu Pháp Hoa tam-muội. Bỗng có một vị ni tự xưng là Không Cô, dung mạo, ngôn từ rất lạ lùng, cùng ở chung với họ. Thường là tới nửa đêm, quang minh nơi thân chói ngời. Ba năm như thế rồi rời đi. Nếu có ai hỏi, hai vị ni cười x̣a chẳng đáp. Người hiểu biết đoán đấy là đức Phổ Hiền. Do vậy, danh rền kinh đô, dẫu là thiền sư Nhất Hạnh[63] cũng dốc ḷng kính ngưỡng. Lương Túc đă ghi chép hành trạng của họ.

 

* Hai chị em ni sư ở Kinh Châu

 

          Đầu thời Trinh Quán, tại Kinh Châu có hai vị ni là chị em, cùng tụng Pháp Hoa, nhàm chán sâu xa thân thể, đều muốn xả thân để cầu vô thượng đạo. Từ đấy, trở đi, họ liền đoạn ngũ cốc, uống các loại dầu thơm, bảo sẵn đạo tục ngày ước hẹn đốt thân. Trên phố lớn, họ bày hai ṭa cao, dùng vải thấm sáp quấn thân, chỉ chừa khuôn mặt. Hai vị tụng kinh Pháp Hoa tới phẩm Dược Vương, chị dùng lửa đốt đỉnh đầu em, em dùng lửa đốt đỉnh đầu chị. Trong đêm khuya thanh tĩnh, hai bó đuốc cháy rực sáng ngời. Lửa cháy tới mắt, tiếng tụng kinh vẫn c̣n vang vọng. Cho tới sáng, cả ṭa [họ ngồi] cũng cháy, xương thịt đều tiêu, chỉ lưỡi vẫn c̣n. Đại chúng dựng tháp để biểu dương muôn đời, xem khoa Di Thân trong Tục Cao Tăng Truyện.

 

* Nhuận pháp sư ở Nhuận Châu

 

          Ni sư Pháp Nhuận, trụ tại chùa Tam Muội Vương ở Đan Dương. Từ bé, Sư đă ít nói, tu ṛng thiền huệ, tụng thông thạo kinh Diệu Pháp Liên Hoa suốt ngày đêm chẳng thiếu sót. Tới lúc bảy mươi bốn tuổi, Sư mạng chung, di ngôn để lộ xác thí cho chúng sanh, căn dặn đệ tử vâng theo. Trùng, thú ăn sạch, chỉ c̣n lưỡi và tim, lưỡi vẫn đỏ, tim hơi đen. Đại chúng liền dựng tháp thờ phụng (theo Linh Thụy Tập).

 

* Ni sư Trí Thông ở kinh đô

 

          Trong niên hiệu Nguyên Gia đời Lưu Tống, tại chùa Giản Tĩnh ở kinh đô, có ni sư Trí Thông, tuổi tác và diện mạo đều đẹp đẽ. Ni sư tin đạo chẳng chuyên dốc, bèn hoàn tục làm vợ của ông Lương Quần Phủ. Về sau, bà ta sanh một trai tṛn bảy tuổi th́ nhà nghèo chẳng trông cậy vào đâu được! Thuở làm ni, bà ta có mấy quyển kinh như Pháp Hoa v.v… đều viết trên lụa, bèn giặt giũ, gột tẩy để may áo. Con mặc vào ngă bệnh. Bà ta hoảng hốt, kinh hăi, hổ thẹn, khắp thân biến thành tróc lở, hư nát, trông giống như bị bỏng lửa, sanh ra trùng trắng. Mỗi ngày, có hơn cả một thưng [trùng như thế]. Đau đớn, bứt rứt, ngày đêm kêu gào. Bỗng nghe trên không trung có tiếng bảo: “Hoại kinh làm áo, mắc phải báo ứng kịch liệt ấy”. Hơn mười ngày sau, bà ta bèn chết (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

3. Tín nam (ba mươi hai người)

* Lưu Di Dân ở Lư Sơn

 

          Lưu Tŕnh Chi đức hiệu là Di Dân, là hậu duệ của Sở Nguyên Vương (Lưu Giao)[64] đời Hán. Ông thông thạo sách vở của bách gia, ưa chuộng nhất Phật lư, đạo nghĩa khiến bậc công hầu kính trọng, nhưng hễ được mời mọc, chèo kéo, ông đều thoái thác, tránh né. Viễn công ở Lư Sơn kết liên xă gồm mười tám vị hiền nhân, tôn ông làm thượng khách. Từ đó, ông chọn sống tại Tây Lâm, suốt mười hai năm tu Niệm Phật tam-muội. Một hôm, ông mắc bệnh, chú tâm niệm xong, thấy quang minh từ tướng bạch hào của Phật. Lại thấy thân Phật Di Đà như núi tử kim, hào quang tỏa ra các màu sắc. Tŕnh Chi thỉnh Phật xoa đỉnh đầu, dùng y che cho con. Phật liền xoa đầu ông, kéo y che cho. Ông lại thấy thân ḿnh vào ao bảy báu, uống nước tám công đức. Uống vào, [cảm thấy] nước thơm ngọt, mùi hương lạ toát ra từ lỗ chân lông. Do vậy, ông bảo đại chúng: “Khi tướng này đă hiện th́ duyên Tịnh Độ của tôi đă tới”. Ông liền đối trước tôn tượng, dâng hương, chúc nguyện rằng: “Con vâng theo di giáo của đức Thích Ca, biết đến Tây Phương Tịnh Độ. Trước là cầm hương này dâng lên đức Thích Ca, kế đó, cúng Phật Di Đà, nguyện đều chiết phục, nhiếp thọ. Ba là phụng tŕ kinh Pháp Hoa mầu nhiệm, do vậy được văng sanh. Công do kinh này”. Nói xong, ông hướng về Tây, chắp tay, qua đời. Ông Lưu được như thế, toàn là do sức của kinh Pháp Hoa. Do vậy, thỉnh Tăng chúng cùng tụng kinh này mấy trăm biến để làm trợ hạnh (theo Lư Sơn Tập của pháp sư Huệ Viễn).

 

* Người do tụng kinh mà lưỡi thông lợi tại Tinh Châu

 

          Dưới triều đại Vũ Thành hoàng đế nhà Bắc Tề[65], ở sườn núi Đông Hăn tại Tinh Châu, có người đào đất, thấy có một chỗ trắng vàng xen lẫn. Bỗng t́m được một vật, có h́nh dạng như hai cái môi. Trong đó, có một cái lưỡi màu đỏ tươi nhuận. Châu huyện lấy làm lạ, đem chuyện ấy tâu lên. Vua hỏi quan lại, không ai đáp được. Vua bèn xuống chiếu sai sa-môn Đại Thống Pháp Thượng [xem xét]. Pháp Thượng tâu: “Đấy là quả báo của người tŕ kinh Pháp Hoa lục căn bất hoại. Người này tụng ngàn bộ, hiện ra sự ứng nghiệm như thế”. Vua bèn sắc truyền quan Trung Thư là Cao Trân: “Khanh là người tin tưởng, tự đến xem, ắt có sự linh dị”. Cao Trân vâng mệnh đến đó, bèn tụ tập các vị tăng tŕ kinh Pháp Hoa, cầm ḷ hương nhiễu quanh, tuyên tụng kinh này, bảo rằng: “Bồ Tát Niết Bàn đă nhằm lúc Tượng Pháp lưu hành; nếu không sai lầm, xin hiện tướng lành linh ứng”. Nói rồi cao giọng tụng kinh. Lưỡi và môi ấy ngay lập tức chấn động, có dáng vẻ như đang đọc tụng. Tứ chúng trông thấy, không ai chẳng rởn da gà. Đạo Trân trở về tâu lên, vua hạ chiếu dùng hộp đá đựng, lập tháp để biểu dương (theo Lương Cao Tăng Truyện).

 

* Trưởng sử Trương Sướng

 

          Đời Tấn có Trương Sướng làm trưởng sử[66] của Tiếu vương[67]. Vương và Trương Sướng do có chuyện bị trói buộc ở chỗ Đ́nh Úy[68]. Trương Sướng đă có chánh tín từ trước, liền phát tâm tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa một ngàn lần để cầu thoát nạn. Tiếng niệm vang ra, gông cùm liền hư găy, hai người đều được thoát ra. Quán Âm Truyện của Tạ Phu đời Tấn có ghi chép truyện này, sách Thiên Thai Biệt Hành Nghĩa Sớ[69] có trích dẫn.

 

* Trinh Tiết xử sĩ Dữu Sân

 

          Dữu Sân đời Lương, tự là Ngạn Bảo, người Tân Dă. Thuở bé, do nghe răn nhắc, bèn dốc sức học kinh sử. Ông bẩm tánh hiền lành, đơn giản, đặc biệt yêu thích chốn lâm tuyền, ăn rau, áo vải thô, chẳng chú trọng sản nghiệp. Thuở bé, ông đă quen biết Lương Vũ Đế. Tới khi vua khởi binh, phong cho ông làm B́nh Tây Phủ Kư Thất[70]. Lại hạ chiếu phong làm Hoàng Môn Thị Lang[71], ông đều lấy cớ bị bệnh không dậy nổi. Tuổi già, ông chuyên dốc ḷng nơi đạo Thích. Trong nhà lập đạo tràng, sáu thời lễ sám, tụng kinh Pháp Hoa mỗi ngày một lượt. Bỗng trong một đêm thanh, ông thấy một đạo nhân tự xưng là Nguyện Công, dung mạo và cử chỉ rất lạ, gọi Dữu Sân là Thượng Hạnh tiên sinh, trao cho hương rồi đi. Về sau, ông mắc bệnh, kinh ngạc nói: “Nguyện Công lại đến, chẳng thể ở lâu”. Vẻ mặt ông chẳng thay đổi, bỗng dưng qua đời. Cả nhà đều nghe trên hư không xướng rằng: “Thượng Hạnh tiên sinh đă sanh về Di Đà tịnh vực”. Vua xuống chiếu ban thụy hiệu là Trinh Tiết Xử Sĩ để hiển lộ khí tiết cao cả của ông (theo Nam Sử).

 

* Thứ sử Ngụy Châu Thôi Ngạn Vũ

 

          Trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy, thứ sử Ngụy Châu là Thôi Ngạn Vũ ở Bác Lăng lên đường nhận chức. Tới một ấp, ông bỗng bảo người theo hầu: “Xưa kia, ta đă từng làm vợ người khác trong ấp này, nay biết chỗ ở cũ”. Do vậy, cưỡi ngựa theo đường nẻo quanh co đến một căn nhà, sai người hầu gơ cửa. Chủ nhà là một ông lăo ra chào, mời vào. Ông Vũ thăng đường, ngồi xuống. Ông cũ hỏi: “Quan nhân do chuyện ǵ mà đến đây?” Ông Vũ nói: “Đời trước tôi là vợ ông”. Ông cụ nói: “Lấy ǵ làm bằng chứng để kiểm nghiệm?” Ông Vũ nói: “Quyển kinh Pháp Hoa do tôi đă tụng khi trước và năm chiếc thoa vàng giấu trong vách phía Đông, cách mặt đất chừng sáu bảy thước. Chỗ cao gồ lên trên tường chính là chỗ đó. Trang cuối của quyển thứ bảy kinh ấy bị lửa đốt mất chữ. Tôi nay tụng kinh ấy, phần sau thường quên mất”. Do vậy, sai người khoét chỗ cao trên tường, quả nhiên t́m được kinh bị lửa thiêu mất trang cuối, và cũng kiếm được thoa vàng, giống hệt như lời ông Vũ đă nói. Chủ nhà khóc nói: “Lúc vợ tôi c̣n sống thường tụng kinh này, thoa vàng cũng là của bà ta”. Ngạn Vũ lại nói: “Bọng cây ḥe trước sân là chỗ tôi chứa tóc rụng khi sanh nở”. Thử cho kẻ khác t́m, quả nhiên thấy tóc ấy. Chủ nhà trông thấy, vui buồn đan xen. Ngạn Vũ bèn tặng y phục, vật dụng rồi đi (theo Linh Thụy Tập).

 

* Thư sinh ở Tinh Châu

 

          Phía Tây thành Tinh Châu có một thư sinh, chưa tới tuổi ba mươi, tụng tŕ kinh Pháp Hoa, đạt được ư của Phật pháp, thệ nguyện đốt thân cúng dường Đại Thừa. Anh ta bèn gom góp mấy trăm bó rơm khô, xếp thành một cái lầu. Ai hỏi nguyên cớ, đều giấu kín chẳng nói. Anh ta bỗng nửa đêm nổi lửa tự thiêu, đến khi có người tới cứu th́ đă cháy đến bụng rồi! (Theo Linh Thụy Tập).

 

* Sầm Văn Bổn ở Giang Lăng

 

          Trung Thư Lệnh[72] Sầm Văn Bổn là người Giang Lăng, ôm ḷng chánh tín từ nhỏ, thường tụng phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa. Ngẫu nhiên do công cán, ông ngồi thuyền vượt Tùng Giang ở đất Ngô. Giữa ḍng nổi gió, người lẫn thuyền đều ch́m. Văn Bổn nổi lên mặt nước, nghe có người nói: “Chỉ niệm Phật, tụng kinh ắt chẳng chết”. Nói như thế ba lượt. Do đó, ông theo sóng cuốn lên được bờ Bắc. Sau đó, ông trai tăng tại Giang Lăng, chúng tăng đều tụ tập. Có một vị Tăng rời đi sau cùng, bảo Văn Bổn: “Thiên hạ mới loạn, ông may mắn chẳng bị hại, sẽ gặp lúc thái b́nh mà được phú quư”. Nói xong đi mất, Văn Bổn có một lúc trong chén ăn cơm t́m được hai viên xá-lợi, đạt được phú quư thái b́nh đều đúng như lời vị tăng đă nói (theo Linh Thụy Tập).

 

* Vương Phạm Hạnh ở Lâm Nghi

 

          Trong niên hiệu Khai Hoàng, tại Lâm Nghi có Vương Phạm Hạnh, từ bé đă mù hai mắt. Mẹ thương xót, dạy truyền khẩu kinh Pháp Hoa. Phạm Hạnh tụng được một vạn bảy ngàn bộ. Sau đó, mắt tuy mù, nhưng các chuyện như ngày đêm đi lại, bện đệm, may áo v.v… đều chẳng trở ngại. Người khác nghi ông có sở đắc riêng biệt, hỏi th́ trọn chẳng chịu nói. Ông áo vải, ăn rau, suốt đời không lấy vợ. Lúc bảy mươi mốt tuổi bèn mất, di ngôn bỏ xác trong thi lâm mặc cho chim thú ăn nuốt. Thịt hết, xương c̣n, lưỡi chẳng hoại, màu như hoa sen. Người em trai là Huệ Nghĩa dùng hộp sứ đựng lấy, hương đèn tôn kính thờ phụng (theo Linh Thụy Tập).

 

* Vương Yêm ở Lâm Nghi

 

          Vương Yêm là người Lâm Nghi thuộc Lang Gia, ông nội và cha đều làm quan to. Vương Yêm làm quan tới chức Hoàng Môn Thị Lang, bẩm tánh vụng về, chậm lụt, chuyên ưa thích Đại Thừa, tụng một bộ Pháp Hoa từ đầu tới cuối thông suốt. Về sau, ông chết v́ bệnh. Ông có em trai là Cố, tức thái thú Tân An, cũng tụng kinh Pháp Hoa. Ông Cố bỗng mộng thấy anh trai nói: “Ta sanh về Tây Phương trong thai hoa sen cánh sắt. Sau năm trăm năm hoa nở mới được thấy Phật. Do chuyên chí siêng khổ tụng kinh, cho nên được sanh về Tây Phương. Do chậm lụt nên vẫn c̣n phải thọ thai báo. Nay bảo cho các ngươi biết, hăy nên nghĩ đến quả báo sau này mà dốc ḷng siêng năng nơi kinh điển, đừng biếng nhác”. Nói xong liền từ biệt (theo Linh Thụy Tập).

 

* Lục Thuần ở Ngô Quận

 

          Lục Thuần là người Ngô Quận, tuy tại gia, tâm thường mộ đạo. Một bộ kinh Pháp Hoa ngày đêm tŕ tụng. Về sau, ông bỗng bị bệnh, một mực nằm ngửa, mở mắt nh́n lên trần nhà, trọn chẳng tạm nháy mắt. Có vị Tăng quen biết đến hỏi: “Ông nằm ngửa để nh́n trần nhà làm ǵ vậy?” Đáp: “Phật thọ kư Lục Thuần sẽ sanh lên trời Dạ Ma. Nay tôi trông thấy cung điện, thành khuyết và các thiên chúng trên cơi trời ấy. V́ thế, tôi nay ngắm nh́n chẳng mệt”. Bốn ngày sau, ông mất. Đó là chuyện trong niên hiệu Đại Nghiệp (theo Linh Thụy Tập).

 

* Nghiêm Pháp Hoa ở Dương Châu

 

          Trong triều đại Đại Tùy, có Nghiêm Cung là người Đan Dương, cả nhà tin tưởng, thường tụng kinh Pháp Hoa. Có lúc, tụng tới phẩm Bảo Tháp, ông bèn buông kinh than thở: “Trong tháp báu có hai vị Như Lai. Phân thân chư Phật số lượng chẳng ít, v́ sao ta nay chẳng thể cảm thấy?” Ông than thở, cảm khái rất lâu. Tới đêm, mộng thấy một vị Hồ tăng, tự xưng là Pháp Thoát bảo: “Nếu tụng kinh này, muốn thấy chư Phật, hăy nên giải nói, lưu thông, cúng dường, nguyện ấy có thể thỏa”. Nhân đó, Nghiêm Cung phát tâm tạo một trăm bộ kinh. Chưa kịp thực hiện, ông bỗng mắc bệnh nặng, bèn phát nguyện tạo thêm một ngàn bộ. Bệnh đă lành, ông liền dựng Tạo Kinh Đường trong nhà ḿnh Dương Đô. Dù giấy hay bút [để chép kinh], ắt đều phải tịnh tâm, chẳng được dối trá, hễ cần liền lo liệu. Thư sinh [chép kinh] thường có mười mấy người, ông đúng pháp cung cấp. Nghiêm Cung đích thân kiểm giảo [các bản kinh đă chép], dẫu nhọc nhằn chẳng than mệt.

          Từng có người vay một vạn đồng từ số tiền tạo kinh. Nghiêm Cung bất đắc dĩ phải đưa cho. Kẻ đó được tiền, thuyền ra giữa gịng, bỗng thuyền bị lật, tiền mất, người c̣n. Ngày hôm ấy, ông Cung vào kho, thấy tiền bạc ẩm ướt, khá ngạc nhiên! Về sau, gặp người vay tiền, mới biết ông ta bị ch́m thuyền. Một hôm, bỗng có một vị dị tăng khoảng tám mươi tuổi, tự nói: “Ta từ nước Quy Tư đến, nay sẽ sang núi La Phù, nghe ông tạo kinh, xin thỉnh một bộ”. Nghiêm Cung trao kinh, Tăng tặng một b́nh vàng nặng bốn mươi lượng, nguyện giúp tạo kinh. Nói xong rời đi. Nghiêm Cung ḍ theo, chẳng biết vị ấy ở đâu!

          Lại có Hầu Chí từ Bà Dương đến, tới hồ Cung Đ́nh gặp trận gió, người cùng thuyền đều chết ch́m, chỉ có Hầu Chí c̣n sống. Có người dẫn ông ta vào miếu, thấy thần nhân cầm gươm ngồi, hỏi Hầu Chí: “Có biết ông Nghiêm Cung tạo kinh Pháp Hoa ở Tưởng Sơn hay không? Ta muốn gởi một vạn đồng để dự vào công đức đó!” Nói xong, ẩn mất. Ngày kế đó, Hầu Chí tới Đương Đồ, bỗng thấy có một người tự nói là họ Hứa đến t́m Hầu Chí, để lại một vạn đồng, ép ông ta nhận lấy rồi đi. Hầu Chí suy nghĩ, mới biết là tiền của thần, liền chở đến Giang Ninh, giao tiền cho Nghiêm Cung.

          Nghiêm Cung càng vững chí, tạo tới ba ngàn bộ. Lại có người đánh cá trong đêm thấy có ngọn lửa lấp loáng nổi trên mặt sông, bèn lấy thuyền ra đón lấy, th́ ra là một rương kinh do ông Nghiêm Cung tạo. Sau đó, ông phát nguyện rằng: “Không một chữ nào chẳng qua mắt, không chữ nào mà chẳng dụng tâm”. Do Nghiêm Cung tạo nhiều kinh, con cháu vẫn nối tiếp nghiệp ấy. Cơi đời gọi ông là Cung Pháp Hoa. Cuối đời Tùy, đạo tặc tung hoành, nghe ông tích thiện, đều cùng ước hẹn chẳng vào làng ấy, người làng đều được nhờ! (xem trong Linh Thụy Tập và Nam Sơn Tam Bảo Cảm Ứng Lục).

 

* Sử Ha Thệ ở kinh đô

 

          Đời Đường, tại làng Phong Cốc ở phía Tây Nam kinh thành, có Sử Ha Thệ ḷng ôm ấp thiện đạo từ bé, giữ khí tiết thanh cao, thường tụng phẩm An Lạc Hạnh của kinh Pháp Hoa chẳng sót thời khắc nào. Ông ôm ḷng bi nhẫn, thề chẳng cưỡi ngựa, do kinh dạy thương xót hết thảy, ngầm giữ trong tâm, thanh danh truyền đến tận quan lại đứng đầu địa phương. Ông qua lại giữa kinh thành và quê nhà, tâm luôn ngầm tŕ tụng, do sợ gặp kẻ quen biết, toàn đi ngơ rẽ. Tới ngày lâm chung, cảm hương lạ ngập nhà. Thân thích, làng xóm đều ngửi thấy. An táng mười năm, vợ ông ta chết, [con cái] bèn chôn chung một chỗ [với cha]. Do vậy, mở quan tài ra xem, thấy lưỡi vẫn tươi hồng. Do vậy, dời đi, chôn ông riêng một chỗ để hiển lộ công hạnh (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Lư Sơn Long ở Phùng Dực

 

          Tả Giám Môn Hiệu Úy[73] Lư Sơn Long, người xứ Phùng Dực. Trong niên hiệu Vũ Đức[74] đời Đường bỗng chết đột ngột. Do sờ thấy tim c̣n nóng, người nhà không nỡ an táng. Bảy ngày sau, ông sống lại, nói rằng: “Thoạt đầu bị một sứ giả bắt tới trước điện Diêm Vương, thấy mấy ngàn tù nhân. Vua hỏi Sơn Long rằng: “Ngươi tạo phước nghiệp ǵ?” Đáp: “Tụng được hai quyển kinh Pháp Hoa”. Vua khen đại thiện, liền sai trải ṭa, thỉnh ông tụng kinh. Sơn Long xướng “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự phẩm đệ nhất”, vua liền bảo thôi. Sơn Long hạ ṭa. Nh́n lại, các tù nhân đều bay lên không mà đi. Vương xưng tụng do công đức của kinh, khiến cho mọi người đều được giải thoát. Vua liền sai đưa Sơn Long tái sanh. Lại truyền sứ giả dẫn dạo chơi các ngục. Sơn Long thấy một ṭa thành sắt cao lớn, phía trên có nhà, chung quanh có nhiều cửa sổ nhỏ. Nam nữ đều bay vào, chẳng thoát ra được nữa! Sơn Long buồn đau, sợ hăi, xưng “nam-mô Phật”, xin sứ giả dẫn ra. Lại thấy các chuyện như vạc sôi sùng sục v.v… Sứ giả nói: “Nay ông được thoát, đều là do sức của kinh. Ông trở về hăy nên đăi ăn chúng tôi”. Sơn Long bèn hứa. Đă sống lại, ông thấy thân thuộc đang chuẩn bị đồ liệm, liền sai chuẩn bị đồ ăn đặt bên chỗ có nước để cúng tế. Bỗng thấy ba người đến cảm tạ: “Ông chẳng thất tín”. Nói xong, họ ẩn mất (theo Thái B́nh Quảng Kư).

 

* Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở Long Châu

 

          Năm Trinh Quán thứ năm (631), Lệnh Hồ Nguyên Quỹ là người huyện Ba Tây thuộc Long Châu, tin tưởng, coi trọng Phật pháp, chép các kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Niết Bàn v.v… Ông sợ phạm sai lầm, bèn cậy Kháng thiền sư kiểm giảo. Kinh chép xong liền mang đến trang trại ở Kỳ Châu. Một hôm, ông đi khỏi, trang trại ấy bị lửa từ bên ngoài cháy lan, trong chốc lát cháy rụi. Nguyên Quỹ trở về than thở khôn xiết. Do vậy, bảo người khác gạt tro, t́m thấy ống đồng bịt vàng, bỗng thấy các kinh c̣n y nguyên, màu vàng vẫn chẳng thay đổi, nhưng tựa đề Kim Cang Bát Nhă bị cháy đen. Ông bèn tự nói nguyên nhân: Do lúc viết, có một vị quan nhân có thể viết, người ấy do đi gấp, chẳng rảnh để khiết tịnh, mà cầm bút viết ngay. Do vậy bị lửa thiêu. Người ấy hiện thời c̣n sống, kinh tốt lành cũng c̣n. Chuyện này do sư Thần Sát chủ chùa Tây Minh tại kinh đô chính mắt trông thấy bèn kể lại (trích từ Nam Sơn Cảm Thông Lục).

 

* Đổng Hùng ở Hà Đông

 

          Đổng Hùng người Hà Đông. Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, ông ta làm Đại Lư Thừa[75], chánh tín, thờ Phật, ăn chay đă nhiều năm. Về sau, do có chuyện, ông cùng với đồng sự Lư Kính Huyền, Vương Hân bị tù đày. Đổng Hùng chuyên niệm phẩm Phổ Môn đủ ba ngàn lượt để cầu thoát khỏi. Bỗng một đêm, gông cùm tự rơi rớt, lính coi ngục kinh hoảng. Họ xích lại, niêm phong rồi rời đi. Đổng Hùng lại phúng tụng đến khi trống đổ canh năm, xiềng xích lại tự tuột ra. Kính Huyền trọn chẳng tin Phật, tới khi thấy Đổng Hùng có chuyện ấy, mới biết Phật pháp linh ứng. Vương Hân cũng niệm tôn hiệu của tám vị Bồ Tát ba vạn lần, cùng với Đổng Hùng đều được xá tội (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Viên Chí Thông ở Lũng Thành

 

          Viên Chí Thông người huyện Lũng Thành. Từ bé, ông đă trai giới, tụng hai kinh Pháp Hoa và Kim Cang. Lúc hai mươi tuổi, bị bắt lính, bị sai đi đánh dẹp tám giặc man, cách nhà vạn dặm. Trên đường, ông tŕ tụng chẳng dứt. Tới biên cương phía Nam, quân đại bại, phần nhiều bị tổn thương, kinh hoảng không cùng. Bỗng có năm người cưỡi ngựa đi đằng trước, người cuối cùng nói với Chí Thông: “Ông tu thiện quả, tụng niệm kinh văn, chúng tôi thủ hộ những người tốt lành khiến cho họ chẳng thể bị hại. Ông đi thêm chừng bảy dặm, có một ṭa tháp, có thể vào núp trong đó. Quân man sẽ trở về doanh trại của họ”. Lại thấy hai vị tăng bảo Chí Thông: “Đàn việt do sức đọc tụng, cho nên vừa sai năm người hộ vệ. Ông hăy nên tinh tấn, sẽ luôn có thiện thần khuông phù, tán trợ”. Nói xong, nương theo hư không bay đi. Ông tự nghĩ ḿnh đă trải qua ba trận, không có tấc sắt trong tay. Giặc man b́nh định, ông được trở về.

          Năm Trinh Quán thứ tám (634), ông mắc bệnh qua đời, thấy sứ giả bắt tới trước điện Diêm Vương. Vua hỏi làm thiện hnh ǵ? Chí Thông thưa: “Thường tŕ hai kinh Pháp Hoa và Kim Cang, trai giới, lễ sám”. Vua nghe nói, chắp tay khen “lành thay”, truy xét xem nguyên nhân giả thật nào khiến cho ông tới đây? Vua tâu lên thiên tào kiểm điểm, vua lại lấy án từ viết rằng: “Người này hăy c̣n sáu năm tuổi thọ”. Vua sai đem giường vàng, ghế ngọc lên điện, xếp bày mền đệm, thỉnh Chí Thông ngồi trên đó để tụng kinh, mỗi kinh vừa hết một quyển liền thôi. Vua sai người giữ sổ sách đem sổ ghi công đức tới, thấy trong đó viết: “Chí Thông tụng Pháp Hoa và Kim Cang mỗi thứ một vạn lượt”. Lễ Phật, trai sám đều ghi rơ từng điều trong ấy. Vua nói: “Đức nghiệp của ông quá sâu, hăy nên cho xem địa ngục để biết tội phước chẳng sai!” Sai người dẫn ông đi về phía Tây chừng năm dặm, thấy một ṭa thành lớn, lầu canh chen chúc, lưới sắt buông phủ. Trong cửa có ngục tốt, thân h́nh cao lớn, tay cầm chĩa sắt, đứng ở hai bên. Chó bằng đồng ở ngay trước cửa, phun nước đồng sôi thiêu đốt tội nhân. Mười tám địa ngục đều ở trong đó. Chí Thông trông thấy run sợ, lại đến chỗ vua. Vua bảo: “Ông thấy địa ngục, càng phải nên siêng tu. V́ thế, nay tôi xin cho ông được sống thọ”. Chí Thông sống lại, thuật chuyện như trên (theo Linh Thụy Tập).

 

* Mộ Dung Văn Sách ở Tần Châu

 

          Trong niên hiệu Đại Nghiệp, tại Tần Châu có Mộ Dung Văn Sách tụng kinh Pháp Hoa và Kim Cang suốt ngày đêm không ngớt. Một hôm, bỗng có hai người cầm một tờ văn thiếp cho xem nói: “Diêm La đại vương sai tới bắt ông, ông hăy đi ngay”. Văn Sách kinh sợ, theo sứ giả tới một ṭa thành lớn, có sáu tầng tường vây, cửa nẻo hắc ám. Bước vào, liền thấy cung điện, có Diêm Vương đang ngồi, bộ hạ hộ vệ oai nghiêm. Phía dưới có nam nữ thuộc các nước, h́nh dáng khác biệt. Mỗi người đều được gọi tên, tới Văn Sách, vua hỏi có hạnh nghiệp ǵ? Văn Sách thưa các chuyện có thể thực hiện như tụng kinh Kim Cang, Pháp Hoa, trai giới v.v… Vua chắp tay, sai tra sổ sách, bảo: “Chưa đáng chết!” Vua phán đưa về. Văn Sách đi về phía Tây chẳng biết đường nẻo, bỗng gặp một vị sa-di nói: “Ông có thể đi theo tôi”. Qua khỏi sáu tầng cửa, gặp chỗ hắc ám, sa-di tay cầm bó đuốc sáng [soi đường]. Ông liền được thoát ra, sống lại. Do vậy, Văn Sách tụng niệm chuyên ṛng, siêng gắng (theo Linh Thụy Tập).

 

* Người cùi ở Giáng Châu

 

          Đời Đường, tại chùa Hăm Tuyền thuộc Cô Sơn, Giáng Châu, có thiền sư Pháp Triệt. Sư đi trong núi, thấy một người cùi ở trong huyệt đất xin Sư thức ăn. Sư thương xót, dẫn về sống trong chùa, vẫn đào huyệt đất cho người ấy ở, trao cho cơm áo, căn dặn người ấy tụng kinh Pháp Hoa. Kẻ ấy hoàn toàn chẳng biết chữ, đă thế c̣n dốt nát. Sư dạy từng câu một, trọn chẳng nề hà mệt nhọc. Sư dạy được một nửa, người ấy bỗng mộng thấy được một vị tăng chỉ dạy. Từ đó về sau, dần dần thông huệ. Tới quyển thứ năm, thứ sáu, lở loét trên thân dần dần lành. Khi thông thuộc cả bộ kinh, toàn thân lành bệnh. Đức Phật nói kinh là thuốc lành chữa bệnh tật, lời ấy đă được chứng nghiệm (theo Linh Thụy Tập).

 

* Cao Văn ở kinh đô

 

          Trong niên hiệu Long Sóc[76], tại kinh đô có Cao Văn là cháu nội của Cao Biểu Nhân[77], từng đọc kinh Pháp Hoa. Một hôm, anh ta cưỡi ngựa ra ngoài ca Thuận Nghĩa, bỗng thấy hai kỵ sĩ đuổi theo. Hỏi han th́ họ nói: “Ta là sứ giả của Diêm Vương đến bắt ngươi!” Cao Văn kinh hoảng, trốn tránh đều chẳng khỏi, liền bị họ túm xuống ngựa, lôi tuột đầu tóc giống như dao cắt. Người nhà cáng về, tới khi sống lại, bèn nói: “Diêm Vương hỏi ta v́ sao ăn trộm trái cây của Tăng? V́ sao kể lỗi Tam Bảo? Bèn theo đúng pháp chịu tội, chẳng dám thốt lời. Vua phán tội trộm trái cây đáng nuốt bốn trăm năm mươi viên sắt, chịu phạt trong bốn năm. Cái tội kể lỗi đáng bị cày lưỡi. Sau đó, sai thả ra, bèn sống lại”. Được ít lâu sau, Cao Văn lại chết ngất, miệng như nuốt vật, toàn thân đỏ au, có tướng trạng khổ sở. Lại trải qua một ngày mới tỉnh lại, nói: “Ta trải qua bốn ngày trong địa ngục, nuốt hết ḥn sắt, khổ sở chẳng thể nói nổi! [Quỷ sứ] vừa mới muốn kéo lưỡi ra cày, nhưng kéo không ra, tra hồ sơ th́ nguyên nhân là do từng đọc kinh Pháp Hoa, cho nên chẳng thể lôi lưỡi ra được, bèn thả cho sống lại”. X Nay thấy ông ta đang ở chùa Hóa Độ, nghe pháp, sám hối nơi pháp sư Viên Măn (theo Nam Sơn Tam Bảo Cảm Thông Lục).

 

* Tiêu Khanh và tỳ nữ Tố Ngọc

 

          Trong năm Long Sóc thứ ba (663), có vợ chồng Tư Nguyên Thiếu Thường Bá Thôi Nghĩa Khởi chẳng tin Phật pháp cho lắm! Cha vợ của ông ta là Tiêu Khanh, rượu thịt chẳng cho vào cửa, chuyên tụng Pháp Hoa, Bát Nhă mấy ngàn lượt. Một hôm, vợ ông ta (vợ Thôi Nghĩa Khởi) chết, ông v́ bà ta tu phước ba thất. Cúng chay xong, bà ta nhập vào cô tớ gái tên Tố Ngọc nói: “Lúc sống, tôi tuy nghe nói đến địa ngục nhưng chẳng tin, nay chịu khổ chẳng thể nói được! Do các vị v́ tôi tụng kinh, thắp đèn, bèn được tạm trở về. Mấy ngày nữa, tôi sẽ đến dẫn Tố Ngọc tới cơi âm”. Tới kỳ, quả nhiên Tố Ngọc chết đột ngột. Cô ta bỗng thấy một ṭa quan phủ to lớn. Phu nhân vào biệt viện. Trong chốc lát, vạc lửa, giường sắt đều kéo tới, phu nhân hứng chịu các sự khổ sở. Bỗng nhiên, Tố Ngọc thấy cha bà ta là Tiêu Khanh ngồi trên đài hoa sen, bảo Tố Ngọc rằng: “Con gái ta lúc sống chẳng nghe lời ta, chẳng tin thiện ác, thường có nhiều sân hận, đố kỵ, nay chịu nỗi khổ này. Ngươi trở về, hăy nên bảo con cái cô ta làm các công đức để cô ta được giải thoát”. Lúc bất giờ, [Tố Ngọc] lại thấy một vị tăng Bà La Môn từ không trung hạ xuống, dạy Tố Ngọc tụng kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Dược Sư, mỗi thứ một biến, hoàn toàn dùng tiếng Phạm để tụng. Tố Ngọc hoàn toàn hiểu ngôn âm. Như thế suốt ba ngày, Tố Ngọc mới sống lại, thuật cặn kẽ chuyện trên đây. Khi đó, có Tiết tướng quân nghe chuyện, bèn kính trọng, sắp đặt cỗ chay mời Tố Ngọc, bảo cô hăy thử niệm các kinh ấy. Cô ta liền lên ṭa tụng niệm, chẳng sót chữ nào. Một vị Phạm tăng hiện diện tại đó, chắp tay tán thán: “Giống hệt như tại Tây Vực, ngữ âm chẳng khác”. Toàn thể đại chúng kinh ngạc. Ông Tiết bèn tâu lên thiên tử, thiên tử tán thán: “Trong bá quan cũng có người chẳng tin Phật pháp, [thế mà] cơi âm như thế đó, há chẳng sợ hăi ư?” Quư nhân trong triều nghe nói, đều sanh chánh tín (Theo Cảm Thông Lục).

 

* Ưu-bà-tắc ở Phủ Châu

 

          Tại Phủ Châu có chùa Hoa Tạng cách huyện về phía Nam bảy mươi bước. Xưa kia, trong thời Lư Đường, chùa có tên là Quang Độ Tự. V́ đời Đường có ưu-bà-tắc chuyên tụng kinh Pháp Hoa tại đây. Một hôm, ông đột nhiên thấy một cụ già nói: “Thất Lang Quân ở Đàm Pha (miếu thờ Đàm Pha Thất Lang Quân có chép trong tự điển[78] của quận ấy) bảo rằng: Xin hăy ngưng tŕ tụng chốc lát để mượn đường đi qua. Trong ngày hôm nay, sẽ kiến tạo tinh xá”. Chiều hôm ấy, sấm sét, mưa gió ồ ạt, khi trời quang tạnh, bỗng thấy kèo, xà, cột, chất chồng phía trên. Sau này, vị ưu-bà-tắc ấy quy tịch, được dựng tháp thờ toàn thân ở phía Nam chùa. Tới niên hiệu Tường Phù[79] thuộc bổn triều, trong tháp bỗng sanh bảy đóa hoa sen, cả quận đều lấy làm lạ. Thái Thú đích thân tâu lên, [vua truyền] sửa biển đề theo tên được ban hiện thời (theo Phủ Châu Đồ Kinh).

 

* Trương Bỉnh ở Kư Châu

 

          Trương Bỉnh cai trị Kư Châu. Một hôm, có gă trộm cướp bóc tài vật của dân, lại gian dâm con gái của họ. Cha mẹ tố cáo, ông tức giận, sai bày giàn đóng đinh tên cướp ở cửa [công đường]. Ba ngày sau, sai người băm vụn hắn. Mọi người bàn tán [ông làm như vậy] khiến dân chúng thỏa dạ. Mấy năm sau, ông bỗng bị bắt tới âm phủ, nghe trên điện, sau rèm châu có tiếng quát vang: “Trương Bỉnh sao dám phi pháp sát hại mạng người?” [Quỷ sứ] dẫn ông đến trước ngục để đối chất, ông liền thấy một tù nhân máu thịt đầm đ́a, khóc rằng: “Mày phi pháp giết tao, nay tao không có chỗ thọ sanh”! Ông mới nhớ đó là gă giặc ở Kư Châu, liền mắng nhiếc: “Dẫu giết vạn cái thân của mày cũng chẳng đủ rửa nhục cho cha mẹ của họ, mày c̣n dám tố cáo ư?” Có một viên nha lại bên cạnh nói: “Ngũ h́nh[80] đều có thường điển, cũng chẳng trách bị thưa kiện vậy!”[81] Ông nh́n lại th́ ra đó là một thuộc hạ khi ông giữ chức ở Hà Dương. Ông hỏi: “Nên làm như thế nào?” Viên nha lại đáp: “May là tuổi thọ của ông chưa hết, chỉ cần khiến cho nó thọ sanh là được rồi!” Ông bối rối, hỏi viên nha lại cách thực hiện. Viên nha lại nói: “Công đức chuyển dời to lớn không ǵ bằng kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. Ông liền hứa tụng một trăm bộ; tăng thêm đến một ngàn bộ, gă tù nhân đó vẫn chẳng buông tha. Viên nha lại nói: “Chẳng cần nhiều như vậy. Chỉ cốt sao [tŕ niệm] lâu dài, sao bằng mỗi ngày tŕ một bộ, cho đến hết đời chẳng bỏ ư?” Trương Bỉnh bằng ḷng làm theo lời đó, gă tù nhân bỗng được thả đi. Trương Bỉnh đă sống lại, liền suốt đời chẳng quên tŕ tụng! (theo Nhạo Thiện Tập).

 

* Vô Vi Quân Lư Ngộ

         

          Năm Thiệu Hưng 28 (1158), Vô Vi Quân Chỉ Huy Sứ Lư Ngộ đón tiếp vị quận thái thú[82] mới ở phía Tây thành. Đă đi hơn mưi dặm, nghe thái thú c̣n ở xa, ông liền trở về nhà. Bỗng nhiên thấy khoảng một trăm người từ bên cạnh đường xuất hiện, đều như những đứa trẻ dăm ba tuổi, hô to xông tới trước mặt, hợp lại công kích. Thoạt đầu, ông Lư chẳng sợ cùng chúng nó đấu sức. Mỗi nắm đấm vung ra, ắt có mười mấy đứa ngă lăn xuống đất. Chúng nó vừa ngă liền đứng dậy, đă tan tác rồi liền hợp lại. Như thế bốn lượt, có đứa hăm hở trèo lên vai, giựt khăn, nắm tóc. Ông Lư càng quẫn bách, chẳng thể chạy thoát được. Chúng nó vừa tấn công vừa lôi lên trước. Bỗng có một cụ già áo vải, giày cỏ, chẳng biết từ đâu đến, lớn tiếng quát rằng: “Vị quan nhân này thường tŕ kinh Pháp Hoa. Nếu tổn thương ông ta, há chẳng phiền lụy ta ư?” Cụ quát bảo chúng nó lui ra, quỷ liền tan mất, cụ già cũng chẳng thấy đâu nữa! Ông Lư trở về tới cửa thành, không thể đi nổi nữa. Người giữ cửa nâng trở về. Tới nhà, ông hôn mê bất tỉnh. Các con cởi áo nh́n xem, chỉ thấy vết bầm xanh khắp thân, liền chiêu hồn ở chỗ ấy, thỉnh Tăng tụng kinh Pháp Hoa. Hơn nửa năm, ông mới có thể chống gậy đi lại, ông ngờ cụ già là thổ thn (theo Di Kiên Đinh Chí).

 

* Tả Thân ở Thai Châu

 

          Tả Thân là người Lâm Hải thuộc Thai Châu. Tánh t́nh khiêm cung, ngay thẳng. Ông luôn giữ thái độ chẳng nhận của phi nghĩa dẫu mảy may. Chưa đến tuổi trưởng thành, ông đă thọ Bồ Tát Giới từ pháp sư Thần Chiếu ở Đông Dịch. Từ đó, giữ vững, ngoài lúc thọ trai vào buổi trưa ra, dẫu thuốc thang cũng không uống. Ông cho khắc tượng Tây Phương Tam Thánh, chuyên cần hương đèn, tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn bốn trăm bộ, kinh Kim Cang Bát Nhă hai vạn lần, dựng cầu, đắp đường, cứu trợ kẻ cô độc, túng thiếu. Năm Thiệu Thánh thứ ba (1096), ông ngă bệnh, vẫn gắng ngồi dậy lớn tiếng niệm Phật, căn dặn người thân cận, bảo con thỉnh vị tăng Tịnh Viên giảng Pháp Hoa đại nghĩa, lại c̣n thọ thêm giới pháp. Ông liền mộng thấy ba người vẻ mặt tươi nhuận, tinh sạch, đứng trên bờ sông, rủ ông lên thuyền, chớp mắt đi về phương Tây. Ông tỉnh giấc, liền thỉnh tăng phúng tụng kinh Di Đà. Chưa tụng xong, bèn nói: “Ta đă thấy Phật quang, ắt sanh về Tịnh Độ”. Ông bèn chồm dậy tắm rửa, thay áo, dặn ḍ đừng khóc, rồi xưng Phật hiệu, kết ấn, vui sướng qua đời (theo Bảo Châu Tập).

 

* Phạm Nghiễm tại phủ Lâm An

 

          Phạm Nghiễm người huyện Nhân Ḥa. Ông thường ăn chay, chẳng dính líu chuyện đời. Con ông chẳng thể duy tŕ gia nghiệp, ông chẳng màng tới, chỉ nói: “Ta là khách trọ mà thôi!” Do vậy, ông hằng ngày đọc kinh Pháp Hoa, chuyên tâm chẳng lười nhác. Lại c̣n biên chép một bộ kinh ấy. Trong niên hiệu Đại Quán, ông đă hơn bảy mươi tuổi, bỗng gọi cháu là Từ Khản bảo: “Cháu hăy nên v́ ta lo liệu hậu sự. Ta chỉ sống đôi ba ngày nữa thôi”. Kế đó, Từ Khản nghe ông Phạm Nghiễm ở trong Phật đường lớn tiếng gọi Phổ Hiền Bồ Tát, vâng dạ mấy lượt, phần nhiều nói hai chữ “cố thị” (cố nhiên là như thế). Từ Khản hỏi han, ông đáp: “Ta thấy Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà, quang minh soi vào ta, thuần là kim sắc, cho biết: Do ta xem kinh Pháp Hoa, niệm Phật Di Đà, được sanh về Tịnh Độ. Cho nên Ngài đến báo cho biết, giờ Măo ngày mai, ta sẽ ra đi, Ngài và đức Phật sẽ cùng đến tiếp dẫn. Kể từ đấy, ta vâng dạ”. Tới lúc đó, ông Nghiễm liền niệm Phật, Bồ Tát, trông thấy thánh chúng x̣e tay, tự nói: “Nghiễm là người như thế nào mà được Phật, Bồ Tát tiếp dẫn?” Ông nói liên tiếp: “Thật là ngại quá” rồi ngồi chắp tay, nhắm mắt qua đời (theo Bảo Châu Tập).

 

* Triều đăi chế ở Tung Sơn

 

          Vào thời Tống Huy Tông, ông Triều Thuyết Chi giữ chức Trung Thư Đăi Chế, tên tự là Dĩ Đạo, là cháu bốn đời của Văn Nguyên Công (Triều Quưnh)[83]. Văn Nguyên Công giữ tước Thái Tử Thiếu Phó, về dưỡng lăo tại Thanh Phong, tâm vui hưởng cảnh nhàn, quy hướng Phật Thừa. Ông soạn bia Pháp Tạng, có Kim Đạo Viện Tập được lưu hành trong cơi đời. Ông hiểu lư mầu nhiệm, cốt lơi của Nho và Mặc. Triều Đăi Chế do sẵn có gia học, xem khắp các kinh sách nhà Phật. Do làm quan mà tới Tứ Minh, dự vào hàng ngũ môn đệ của pháp sư Diên Khánh Minh Trí, đạt được chỗ sâu thẳm trong giáo nghĩa Thiên Thai. Tông Hiểu từng đọc mấy bài trong bộ Tung Sơn Tập của ông diễn giảng cặn kẽ các pháp như cảnh quán nhất niệm tam thiên v.v… Xét bản lănh của ông, nếu chẳng có Lương Kính Chi[84] tái thế, không ai có thể sánh bằng ông được. Cháu nội của ông tên là Tử Kiện, có bài kư viết: “Ông nội tôi học giáo pháp của ngài Thiên Thai Trí Giả, hằng ngày tụng kinh Pháp Hoa, có đạo hiệu là Thiên Thai Giáo Tăng. Lại c̣n được gọi là Lăo Pháp Hoa”. Nh́n vào những điều được nói, đủ biết ông đă thọ dụng Phật thừa viên diệu, uẩn tàng chẳng cạn vậy!

 

* Lục Lang Trung tại Minh Châu

 

          Lục Nguyên Đạo hiệu là Tỉnh Am cư sĩ, sống tại Hoành Khê thuộc Minh Châu, là cháu nội của Văn Chương Tả Thừa Tướng Lục Điền. Ông làm quan tới chức H́nh Bộ Đô Quan Lang Trung[85], đảm nhiệm chức Đề Cử tại Phước Kiến. Do tang mẹ nên về quê. Do va chạm lời nói với Trịnh Hưng Duệ, bèn xin từ quan, về nhà. Khách đến, ông ắt chắp tay nói: “Tôi cùng ông Trịnh chẳng có hiềm khích; đấy là cừu oán nhiều đời. Nếu tâm này chẳng quên, ắt đôi bên sẽ ăn miếng trả miếng chẳng có lúc nào dứt. Tôi kính cẩn dùng thiện pháp để giải trừ”. Ông bèn dốc chí tŕ kinh Pháp Hoa. Mỗi sáng, ông thức dậy tắm gội, thay quần áo, vào tịnh thất, dâng hương, ngồi xếp bằng, mắt chẳng nháy. Trước hết, xướng kệ rằng: “Quán thủ thanh thần bối diệp khai, bất cầu chư phước, bất nhương tai. Thế duyên đoạn xứ tùng tha đoạn, kiếp hỏa quang trung vũ nhất hồi” (sáng dậy rửa tay để tụng kinh, chẳng cầu được phước, giải tai ương, duyên đời nên đoạn đều nên đoạn, kiếp hỏa sáng ḷa múa một hồi). Sau đó, ông mở quyển kinh ra tụng đọc, chẳng rề rà, chẳng gấp gáp, tiếng tụng như chuỗi ngọc. Mỗi ngày, ông tụng một biến suốt ba mươi năm. Tới tuổi tám mươi, bèn tăng thành ba bộ.

          Nh́n vào thơ phú của ông, sẽ thấy được ư ông; chẳng hạn như thơ ông có câu “thanh thần tam độ đáo Linh Sơn” (sáng sớm ba lượt đến Linh Sơn). Ông dùng giấy mực vẽ [cảnh pháp hội Linh Sơn] gồm một trăm bức, tạo thành một bức vẽ lớn, con ông tích lại thành một quyển to. Tính chung số lượt tụng kinh là chín ngàn bốn trăm tám mươi lăm lần. Tính số quyển th́ là sáu vạn sáu ngàn ba trăm chín mươi lăm quyển. Lúc rảnh rỗi, ông lại đọc Tỳ Lô Đại Tạng[86]. Phàm giáo nghĩa Thiên Thai, Luật Bộ, Thiếu Lâm tâm tông (Thiền Tông), không ǵ chẳng tham cứu rộng răi. Ông lại tụng Phật hiệu Di Đà, một dạ về Tây. Năm Thiệu Hy thứ năm (1194), ông đă tám mươi lăm tuổi. Ngày mồng Sáu tháng Tư, ông đ̣i nước nóng để tắm gội, đội mũ, mặc áo chỉnh tề, liền nằm qua đời. Tới khi nhập liệm, [người nhà] bỗng ngửi thấy mùi hoa sen ngào ngạt, chẳng biết từ đâu đến. Tới khi đậy nắp quan tài, mới biết hơi thơm ấy phun ra từ miệng và mũi [của ông]. Khi đó, nữ nhân đa số chẳng ngửi thấy mùi hương, há có phải là do ngũ chướng ngăn lấp đó chăng? Em trai ông là Hoa Văn Các Học Sĩ[87] Lục Du soạn mộ chí cho ông, có nói cặn kẽ chuyện ấy.

 

* Đỗ Tín ở Minh Châu

 

          Tại cuộc đất tên là Quản Giang thuộc làng Tường Phụng, huyện Ngân, có Đỗ Tín kết Bội Phục Xă để tụng kinh Pháp Hoa. Ông dành ra hai gian nhà để làm chỗ cho đại chúng tụ tập. Về sau, có một gă không ra ǵ họ Uất Tŕ sống ở đó, bèn phế bỏ chỗ ấy, biến thành chỗ giết chóc, nấu nướng. Năm Càn Đạo thứ tám (1172), mưa Thu khiến cho nước lụt dâng trào. Đỗ Tín ở gần suối, tuy nhà cao năm tầng vẫn bị lũ cuốn trôi, đất đá cũng chẳng c̣n. Kinh của ông ta tụng theo sóng trôi đi mười mấy dặm, ngừng ở băi đất hoang thuộc Nam Hải. Ba bốn ngày sau nước rút, có người họ Kim ở Quản Sơn nhặt được. Thoạt đầu mở gói ra xem, thấy lầy nhầy nước bùn. Kế đó, mở kinh ra xem, trong ngoài thanh tịnh chẳng có một tí ướt át nào. Vĩ đại thay! Phật nói đọc tụng kinh này nước chẳng thể trôi; nh́n vào chuyện tốt lành kỳ lạ này, quả thật là phù hợp! Trong đời có gă ma hủy kinh Phật, chúng nó có biết là “có chỗ chẳng thể diệt tuyệt” như thế hay chăng?

 

* Ngô Chấn ở Minh Châu

 

          Tại huyện Từ Khê, có Phụng Công Ngô Chấn, tâm chú trọng thiện đạo. Ông từng dùng mực tự chép một bộ kinh Pháp Hoa, đọc tụng chẳng sơ sót. Ngày Hai Mươi tháng Sáu năm Nhân Dần trong niên hiệu Thiệu Hy[88] [nhà ông] bị hỏa hoạn, mọi người vội vàng chữa lửa, đồ đạc bị thất tán. Sau cơn hỏa hoạn, ông nghĩ tới kinh ấy. Hôm sau, mới t́m được ở nhà hàng xóm, hiềm rằng đă mất quyển thứ tư. Ông biết là bị lửa đốt. Bảy ngày sau, con trai ông là Hưng Tông lật ngói gạch t́m kiếm, thấy kinh ấy nghiễm nhiên dưới đó, chỉ có phần đầu quyển hơi bị tổn hoại đôi chút. Tứ chúng trông thấy đều than thở là lạ lùng. Kinh ấy được con cháu ông trân quư, ǵn giữ. Một hôm, thiền sư Nhật Chiếu do nhận lời mời, đi qua chỗ ấy, bèn xin đến thăm. Do vậy, họ xin Sư lưu lại một bài tụng, [Sư viết]: Cư sĩ Tứ Nhất ở Diên Lăng bẩm tánh tinh thuần, chuyên dốc, nguyện lực vững chắc, đích thân chép kinh Liên Hoa, gặp hỏa hoạn chẳng hoại. Do vậy, đề bài kệ quê kệch để chứng minh như sau: “Kiếp hỏa trung tồn thất quyển kinh, duy bằng nhất niệm khế thiên chân, đằng kim huy cổ hồn vô biến. Tận thị Linh Sơn hội thượng nhân” (kiếp hỏa riêng c̣n bảy quyển kinh, chỉ nhờ một niệm khế thiên chân, sáng rực xưa nay không biến đổi, Linh Sơn toàn bậc thượng thiện nhân). Chuyết Am Đức Quang chùa A Dục Vương viết.

 

* Trần Thế Nhân ở Minh Châu

 

          Trong niên hiệu Thiệu Hy, phía sau Tuần Kiểm Ty[89] ở ngoài cửa Tây của Minh Châu, có Trần Thế Nhân, đêm mộng thấy một dị nhân, mũ xiêm hùng vĩ tựa như bậc vương giả, gọi Thế Nhân bảo: “Ta có bảy viên minh châu ban cho ngươi”. Thế Nhân thưa: “Nhà tôi thô hèn, chẳng dám tham nhận lấy”. Vị vua ấy nói: “Châu này là của báu vô giá. Ta đă cho ngươi, ngươi chỉ nên nhận lănh”. Thế Nhân bèn kư tên, ôm về đặt trên bàn, bỗng dưng [các viên châu] tỏa ra quang minh to lớn, người nhà không ai chẳng hoan hỷ. Ông tỉnh mộng, suy nghĩ, tuy chẳng biết nguyên do, nhưng trong tâm luôn cho là tướng lành. Sáng ra bỗng một người bạn thân đến cửa, khuyên nhủ hăy tụng kinh Pháp Hoa. Ông liền phát tâm dự hội [tụng kinh Pháp Hoa ấy]. Ghi tên xong, bỗng nhớ đến bảy viên châu và vị vua trong giấc mộng, đó chẳng phải là đấng pháp vương ban cho ta bảy quyển kinh Pháp Hoa đó ư? Tâm thần cảm vời như thế đó. Người truyền dạy kinh là Tạ Văn Bân. Do giấc mộng ấy, thuận duyên phù hợp, bèn được làm tăng, tới nay vẫn c̣n. Khi đó, nhiều người dùng kệ tán thán, pháp sư Từ Thất Diệu Vân chùa Diên Khánh nói: “Đắc châu thất khỏa mộng phân minh, thiên hiểu phùng nhân khuyến tụng kinh, vị động xỉ nha tiên cảm ứng, phương tri diệu pháp bổn viên thành” (được châu bảy hạt mộng phân minh, sáng ra gặp bạn khuyên tụng kinh, chưa động môi răng đă cảm ứng, mới hay diệu pháp vốn viên thành). Vị thiền sư đă xin thôi làm trụ tŕ của chùa Báo Ân là Huệ Anh nói: “Mộng lư minh châu thất khỏa viên, toàn cai diệu pháp phỉ tâm truyền. Chỉ kim hội đắc cá trung ư, tận tại xuân phong bách thảo biên” (minh châu trong mộng bảy hạt tṛn, toàn thể diệu pháp vốn tâm truyền, hễ nay thấu hiểu chân ư ấy, gió xuân trăm cỏ thổi rập rờn).

 

* Uông Kính ở phủ Khánh Nguyên

 

          Tại Lôi Phong thuộc Ngân Huyện có Uông Kính, con ông tên là Long Chuyên. Gia đ́nh sống bằng nghề đồ tể. Lúc Uông Kính tám mươi tám tuổi, bỗng có thiện tâm, từ niên hiệu Càn Đạo[90] liền gia nhập Pháp Hoa xă. Tới ngày Mười Bảy giữa Đông năm Khánh Nguyên cải nguyên (1194), bị hỏa hoạn. Cả hai gian nhà tranh bắt lửa cháy rụi. Kinh Pháp Hoa trong Phật đường được hàng xóm cứu ra, chỉ được một nửa, phần c̣n lại vẫn ở trong khói lửa bốc lên hừng hực. Người đứng gần xem th́ nói là làn khí giống như lụa trắng, kẻ ở xa th́ nói giống như rồng trắng cuộn ḿnh. Làn hơi ấy nghi ngút bốc lên xông thẳng đến Từ Khê Áo cách đó mười mấy dặm, quyện vào hàng cây. Có tiều phu họ Chương nhặt được, chính là bảy phẩm kinh từ phẩm Phương Tiện trở đi. Kế đó, có người phụ nữ vùng núi họ Thịnh, từ nơi đồng hoang lại nhặt được phẩm Tự. Uông Kính nhất nhất thỉnh về, chỉ thiếu phần tựa hoằng truyền mà thôi. Tông Hiểu ẩn cư chẳng xa, nhưng nghe nói lại chẳng đích xác. Một hôm, tôi đến thăm ông Kính, xin xem kinh ấy, th́ ra là bản kinh do tiến sĩ Uông Trạch cúng thí.

 

* Vương Văn Phú ở Minh Châu

 

          Trên hồ Quảng Đức ở phía Tây huyện Ngân, có hai anh em họ Vương, sống bằng nghề chài lưới. Anh là Văn Phú hơi có thiện tâm, lúc rảnh rỗi bèn đọc kinh Pháp Hoa. Kinh đặt trong Phật đường. Trong tháng Tư của năm Thuần Hy thứ năm (1178), mưa to trút xuống. Bỗng sấm sét đánh chết vợ người em, lửa trời đốt rụi nhà tranh, chỉ chừa lại ba cây cột đỡ bốn kèo nhà bắc trên Phật đường, kinh nghiễm nhiên đặt dưới đó. Cho tới khi thầy đồng bói toán, bốn phương đến xem, đều nói là “thần dị”.

 

4. Tín nữ (gồm mười bốn người)

* Vợ chàng họ Mă ở Thiểm Hữu      

 

          Vợ chàng họ Mă, chẳng rơ xuất xứ. Thời Đại Đường, Phật giáo hưng thịnh, đất Thiểm Hữu[91] có tập tục cưỡi ngựa bắn tên, nghe danh hiệu Tam Bảo bèn khinh miệt. Cô ta thương xót họ ngu muội, đến chỗ đó. Mọi người thấy thiếu nữ phong vận đơn chiếc, muốn che chở cô ta. Cô gái nói: “Tôi chẳng có cha mẹ, cũng mong có chỗ nương nhờ; nhưng chẳng ham muốn tài sản thế gian, chỉ cần là người thông minh, hiền thiện, có thể tụng kinh Phật th́ tôi sẽ muốn theo”. Đám đàn ông đều ùa đến xem mắt. Cô ta bèn trao cho họ phẩm Phổ Môn, ai có thể trong một đêm đọc thông thuộc th́ sẽ gả cho. Tới hôm sau, người tụng thông thuộc chỉ c̣n hai mươi mấy người. Cô ta nói: “Con gái chỉ một thân, gia thế trinh khiết, chẳng thể dùng một thân phụng sự nhiều người, hăy đổi sang tụng thứ khác”. Do vậy, dùng Kim Cang Bát Nhă. Tới hôm sau, có mười người thuộc. Cô gái lại trao cho họ bảy quyển Pháp Hoa, ước hẹn ba ngày đọc thông thuộc. Tới kỳ hạn, chỉ có chàng họ Mă có thể đọc thấu triệt. Cô gái nói: “Chàng đă có thể thắng mọi người, có thể thưa với cha mẹ, có đủ mai mối, sính lễ th́ mới thành thân”.

          Cho tới khi họ Mă dùng lễ đón về, sắp tới cửa, cô gái bèn nói: “Vừa mới phải ứng phó lễ lạc, trong người không khỏe, xin cho một căn pḥng riêng. Chờ đến khi thân thể ổn rồi sẽ lại gặp chàng”. Do vậy, họ dọn riêng cho cô ta ở pḥng khác. Tiệc đăi khách chưa tàn, cô ta đă qua đời, thân thể rữa nát; họ bèn chôn ngay. Chưa được mấy ngày, có một vị tăng mặc y tăng-già lê màu tía, dáng vẻ quê mùa, cũ kỹ đến t́m cô gái. Họ Mă dẫn Sư tới chỗ chôn cất. Vị tăng liền dùng tích trượng gạt đất cát, thấy thi thể cô gái đă tiêu tan, chỉ c̣n xương như cái khóa vàng. Vị tăng liền nhặt lấy, gột rửa trong sông, treo lên tích trượng, bảo mọi người: “Vị thánh nhân này thương xót các ngươi chẳng tin chánh pháp, bèn phương tiện khuyên dụ, hóa độ. Hăy nghĩ tới cái nhân lành, ḥng khỏi đọa vào biển khổ”. Sư bỗng nhiên vọt lên không đi mất. Mọi người trông thấy đều buồn khóc, chiêm lễ chẳng dừng.

          Từ đấy, cả xứ thờ Phật, tụng kinh là do sức của cô gái (theo Thích Thị Biên Tân Lục). Trong Quán Âm Tán của Sơn Cốc đạo nhân có đoạn ghi: “Thiết dục chân kiến Quán Thế Âm, kim sa than đầu Mă lang phụ” (nếu muốn thấy đức Quán Thế Âm thật sự, [chính là] vợ chàng họ Mă trên băi cát vàng). Lại nữa, Vạn Thọ Thể thiền sư ở B́nh Giang làm kệ tụng rằng: “Thập phần mỹ mạo thùy gia nữ, bách bội thông minh thị Mă lang. Kham tiếu kim sa than bạn ước. Thỉ chung nhân á bất thành song” (Gái nhà ai mười phần xin đẹp? Thông minh trăm vẻ Mă lang quân. Nực cười ước hẹn bên cồn cát, dẫu cho cưới gả chẳng thành đôi).

 

* Hai người chị dâu, em chồng ở Hoài Ninh

 

          Bờ Bắc của sông bảo vệ thành gần Hoài Ninh có chùa Hoa Đài. Thoạt đầu là trong một gia tộc lớn có cô con gái có thể tụng kinh Pháp Hoa. Anh cô ta lấy vợ, tâm [chị dâu] cũng ưa thích [Phật pháp]. Chẳng mấy chốc, chị dâu và em chồng đều có thể tụng thuộc. Thường đến lúc đêm khuya thanh tĩnh, gió mát trăng trong, hai người đồng thanh tụng niệm. Dẫu là tiếng vàng khua ngọc chạm trong cơi đời, vẫn không ǵ có thể sánh bằng âm vận [tụng niệm] ấy. Một thuở nọ, họ ngă bệnh, chị dâu lẫn em chồng đều chết. Một ngày kia, từ mộ chị dâu bỗng sanh một đóa sen hồng, nở x̣e hết sức đẹp đẽ. Mọi người đều lấy làm lạ. Khai quật mộ th́ thấy rễ sen từ miệng chị dâu quấn ṿng quanh mộ cô em chồng. Lại đào mộ em chồng, [th́ ra] rễ sen có gốc từ miệng cô em chồng. Ấy là do cô em chồng dạy chị dâu tụng kinh, cho nên biểu lộ nguyên do như thế. Châu quận nghe biết, bèn tŕnh tấu. Vua bèn ban biển đề Hoa Đài Tự để dựng chùa (theo Linh Thụy Tập).

 

* Vương Huệ Xưng đời Nam Tống

 

          Năm Nguyên Gia 14 (437) đời Tống, gia đ́nh Tôn Ngạn Tằng nhiều đời thờ Phật. Ông có một người thiếp tên là Vương Huệ Xưng, tin tưởng Phật pháp từ bé, tụng kinh Pháp Hoa lâu ngày. Một hôm, bỗng thấy ven sông có ánh sáng nhiều màu. Ông sai người đào sâu xuống ba thước, t́m được một bức tượng Phật bằng vàng. Kể cả quang minh và ṭa sen [th́ tượng cao] hai thước một tấc, bàn chân ghi: “Năm Canh Tư nhằm Kiến Vũ nguyên niên (317), các đạo nhân như Pháp Tân v.v… thuộc chùa Ngơa Quan tạo”, họ liền trau chuốt để thờ phụng (Theo Tam Bảo Cảm Thông Truyện).

 

* Đứa tớ gái của Tô thứ sử     

         

          Trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường [Cao Tổ, tức Lư Uyên], Đô Thủy Sứ[92] Tô Trường được phong làm thứ sử Ba Châu, đem cả gia đ́nh đến chỗ trấn nhậm. Do vậy, họ vượt sông Giang Lăng. Giữa gịng gió băo, thuyền bè ch́m đắm. Nam nữ hơn sáu mươi người đều cùng lúc mất mạng, chỉ có đứa tớ gái thường đọc kinh Pháp Hoa. Sóng bủa vào thuyền, cô ta bèn đội hộp đựng kinh lên đầu, thề cùng kinh chết, nhưng cô chẳng ch́m ngay, cứ dập dềnh theo sóng. Khoảnh khắc đến bờ, cô ta nâng hộp đựng kinh, trèo lên, mở kinh ra xem, trọn chẳng bị thấm ướt. Về sau, cô ta lấy chồng ở Dương Châu, càng dốc ḷng tin tưởng, tụng niệm hơn xưa (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Trần thị ở Trường An

 

          Lưu Công Tín tại phường Thông Quỹ ở Trường An, có vợ là Trần thị. Mẹ vợ do bệnh mà chết trước. Trần thị bỗng chết đột ngột, thấy một người dẫn vào địa ngục, thấy trọn khắp các tướng tội. Sau đó, bà ta thấy một cửa ngục bằng đá bỗng mở ra, mẹ ở trong đó đang chịu khổ cực nặng. Mẹ thấy con gái bèn nói: “Con hăy nên v́ mẹ chép một bộ kinh Pháp Hoa để mẹ được thoát khỏi”. Nói xong, cửa đóng lại. Trần thị sống lại, kể chuyện, ông Lưu tin tưởng, liền cậy em rể là Triệu Sư Tử chép kinh ấy. Bỗng có kinh sanh (người chép kinh thuê) cầm một bộ kinh Pháp Hoa mới chép xong xin đổi lấy tiền. Họ Triệu nói: “May là có kinh này có thể mua, chẳng cần phải chép”. Ông Lưu nghe theo, trang hoàng [bộ kinh ấy] cho đẹp đẽ, đưa kinh cho Trần thị. Trần thị một hôm cúng cơm cho mẹ, mộng thấy mẹ nói: “Trước kia mẹ bảo con chép một bộ kinh, sao con không làm?” Con thưa: “Đă mua một bộ rồi”. Mẹ nói: “Ta v́ kinh đó mà chịu tội nặng hơn. Ngục tốt đánh vỡ xương sống của ta v́ chẳng nên lấy kinh của nhà họ Phạm làm của ḿnh!”. Người con tỉnh giấc, vội mời người viết. Kinh chép xong, lại mộng thấy mẹ bo: “Mẹ nhờ sức kinh đă thoát khỏi âm ty, an thân nơi chốn tốt lành, nay đến báo với con. Con hăy giữ tín tâm, khéo sống trên thế gian”. Cô con gái bèn ḍ hỏi [xuất xứ] của bản kinh trước, quả nhiên là viết cho người họ Phạm. Đó là chuyện trong năm Long Sóc[93] đời Đường (theo Pháp Uyển Châu Lâm).

 

* Phí thị ở Ninh Châu

 

          Đời Tống, vợ ông La Dư là Phí Thị, người xứ Ninh Thục. Cha bà húy là Duyệt, làm thái thú Ninh Châu. Bà Phí tín kính Tam Bảo, tụng kinh Pháp Hoa, trong khoảng mấy năm, siêng khổ chẳng lười nhác. Bà bỗng bị mắc bệnh đau tim, trở thành nguy ngập. Cả nhà hoảng sợ, bà Phí dấy lên ư niệm: “Ta tụng kinh siêng khổ, ắt được gia hộ tốt lành, trọn chẳng v́ chuyện này mà lâm vào tử địa”. Nghĩ xong bèn nằm ngủ, liền mộng thấy Phật đích thân duỗi tay qua cửa sổ xoa lên tim, trong ngoài đều thấy kim quang đầy nhà. Lại nghe mùi hương lạ vây bủa người khác. Từ đó lành bệnh, người trông thấy không ai chẳng sanh ḷng tin! (theo Thái B́nh Quảng Kư)

 

* Con gái Nhậm Trưng Quân ở Thai Châu

 

          Chùa Dũng Tuyền ở huyện Lâm Hải ở Thai Châu, vào đời Đường trước kia là chỗ ở của ông Nhậm Trưng Quân. Ông Nhậm dốc chí thanh bạch, cao cả, kiên cường, lại c̣n tin sâu Phật pháp, tu nhiều thiện quả. Ông có cô con gái nhật khóa chuyên tụng kinh Pháp Hoa. Có một lúc, trong gian pḥng tụng kinh sanh ra bảy gốc sen xanh, cơi đời đều lấy làm lạ. Trưng Quân trông thấy, thiện tâm phát khởi, liền muốn xả nhà biến thành chùa. Chuyện ấy c̣n đang thầm tính, khi đó, có thiền sư Cao Ngọc trụ tích kết am tại núi Lâu Thạch, cách nhà ông chẳng xa. Trong khi Sư Thiền Định, tích trượng của Sư bay đến cắm xuống sân nhà Trưng Quân. Ông tận lực nhổ lên, nhưng tích trượng đă cắm sâu xuống ba thước đất. Nước suối phun lên cao ba thước. Do vậy, ông liền xây chùa tại ngôi nhà ấy, thỉnh thiền sư khai sơn thuyết pháp, trụ tŕ. V́ lẽ đó, chùa có tên là Dũng Tuyền Viện, hăy c̣n bài kư. Chuyện này nghe từ Tịnh Minh Giảng Sư Bảo Cái tại Phụng Hóa. Sư Bảo Cái từng đến chùa đó khắc bia [câu chuyện ấy].

 

* Chị dâu của Thái Thú quận Cao An

 

          Chị dâu của Triều Phụng Thái Thú Tôn Vu ở góa năm mười chín tuổi, tự thề mỗi ngày ăn một bữa, suốt đời tụng kinh Pháp Hoa, chẳng tái giá nữa. Khi ông Vu làm thái thú quận Cao An, chị dâu đă bảy mươi hơn, diện mạo tươi sáng, đi lại nhẹ nhàng. Vào tháng Sáu mùa Hạ năm Chánh Ḥa thứ sáu (1117), bà bỗng thu dọn kinh bổn, thu xếp quần áo chia cho người hầu. Ông Vu hỏi nguyên nhân, bà cười bảo: “Ba ngày nữa chị sẽ chết”. Đến lúc đó, quả nhiên bà không bệnh, an tĩnh qua đời (theo Hồng Giác Phạm Trí Chứng Truyện).

 

* Kỹ nữ Lô Mị Nhi tại Dĩnh Châu

 

          Âu Dương Văn Trung Công (Âu Dương Tu) khi cai trị tại Dĩnh Châu, có một quan nô[94] tên là Lô Mị Nhi, sắc diện, dáng vẻ đoan trang, diễm lệ, khéo cười nói. Trong miệng cô ta thường có mùi hoa sen tỏa ra. Người ngồi xung quanh đều lấy làm lạ, nhưng chẳng biết nguyên do. Bỗng có một vị Tăng từ đất Thục đến, khá hiểu biết chuyện đời trước. Do vậy, ông Âu kể với vị ấy chuyện này. Vị tăng nói: “Nàng ta đời trước từng làm ni, tụng kinh Pháp Hoa ba mươi năm, do một niệm sai lầm mà đến nông nỗi này!” Ông Âu Dương Tu chưa tin. Về sau, ông gặp cô kỹ nữ ấy bèn hỏi: “Nàng có từng đọc kinh Pháp Hoa hay chưa?” Cô ta nói: “Thiếp thất thân nơi chốn này, chẳng rảnh rỗi được!” Ông sai đem kinh cho cô ta. Cô ta vừa xem bèn tụng như đă thuộc làu; đổi sang kinh khác th́ không thể đọc được! Vị tăng ấy nói há có sai ư? Xem chuyện này trong bộ Độn Tề Nhàn Lăm [của Trần Chánh Mẫn]. Than ôi! Làm ni ba mươi năm tụng kinh, đấy cũng là hạng người tinh tấn, do một niệm sai lầm bèn sa chân. Ư niệm của người đời há nên bất chánh ư? Nay làm thân kỹ nữ, dùng thân tôn quư nhất trong loài người để hứng chịu sự hèn tệ, bất tịnh của kẻ khác. Nếu có thể hồi quang phản chiếu, chán ngán chuyện đă làm, chuyên dốc ḷng thành đọc tụng kinh Đại Thừa, th́ long nữ trong một sát-na nhanh chóng thành Chủng Trí Giác, ai nấy đều có phần! Nếu chẳng tỉnh ngộ, ác cảnh hiện tiền, địa ngục, tam đồ chẳng có chỗ trốn tránh!

 

* Kỹ nữ Dương Vận ở Hồ Châu

 

          Tại Hồ Châu có xướng kỹ[95] tên Dương Vận, tự chép kinh Pháp Hoa. Mỗi lần cầm bút ắt đều trước đó ăn chay, tắm gội, thay áo. Về sau, cô ta bị bệnh chết trong đêm. Mẹ cô ta mộng thấy Dương Vận đến từ biệt: “Con do sức chép kinh, nay được thác sanh làm con gái nhà họ Thái là huyện lại[96] thuộc huyện sảnh Ô Tŕnh”. Khi đó, vợ ông Thái là Phương Nương trong đêm ấy, mộng thấy có người khiêng kiệu đến nhà, ra đón th́ là Dương Vận nói đến xin ở nhờ. Bà tỉnh dậy sanh ra một gái. Mẹ cô ngày sau t́m đến thăm, cô con gái lặng lẽ mỉm cười (theo Khuê Xa Chí).

 

* Quách đạo nhân ở phủ Lâm An

 

          Đạo nhân Quách Thị, pháp danh Diệu Viên, là người huyện Nhân Ḥa. Từ bé, bà đă được gả vào nhà họ Văn ở An Khê. Chồng bà ta thích ăn chơi, chẳng quan tâm tới gia nghiệp. Do vậy, bà ta xin về (trở lại nhà cha mẹ đẻ), khoác áo tu đạo tại gia, lập chí ăn chay trường, tụng kinh Pháp Hoa, tu Pháp Hoa Sám, tụng kinh Di Đà và niệm Phật hiệu. Bà thường hướng về Tây, quán kỹ mặt trời lặn. Một hôm, trên hư không có tiếng nói: “Này Quách Diệu Viên! Như bà tu tập, chắc chắn sanh về An Dưỡng”. Từ đấy, trở đi, bà càng thêm tinh tấn, tâm chẳng tạm nghỉ. Tới lúc lâm chung, bà tắm gội, thay áo, thỉnh tăng niệm Phật, ngồi ngay ngắn qua đời. Đó là chuyện trong năm Ất Sửu (1145) niên hiệu Thiệu Hưng (theo Bảo Châu Tập).

 

* Trầm thị ở Minh Châu

 

          Đầu niên hiệu Thiệu Hưng, họ Ngũ ở Thạch Thu có cô dâu mới họ Trầm, là người Định Hải thuộc Giang Nam. Cô ta bẩm tánh trinh thục, tự tu thiện quả. Mẹ chồng mỗi sáng tụng kinh Pháp Hoa, con dâu cẩn thận hầu hạ. Hễ mẹ mở kinh ra, đều đến nghe nhận, hoặc một hai phẩm cho đến một quyển, lâu ngày chẳng biết mỏi mệt. Một lúc nọ, cô ta mắc bệnh, liền thưa với mẹ chồng: “Do mẹ chồng tụng kinh, con dâu mới được nghe. Duyên trần gian đă hết, chẳng kịp hầu hạ, nguyện sẽ gặp gỡ trong hội của chư Phật vào đời khác. Con mạn phép làm bài kệ để lại: B́nh sanh vui sướng, chết cũng phong lưu, đến bước cuối cùng, căn dặn đầu giường”. Nói xong, vươn ḿnh ngồi dậy, xếp bằng qua đời. Mẹ chồng thấy con dâu siêu thoát như vậy, đến kể với thiền sư Hoằng Trí chùa Thiên Đồng. Sư nghe rồi tán thán, vui mừng. [Gia đ́nh] bèn liệm vào khám, tới khi hỏa thiêu, từ trong tro, t́m được vô số hạt rạng ngời cứng chắc, sáng lóng lánh, tứ chúng trông thấy đều than thở hy hữu. Đấy là chuyện do Pháp Chánh Tông Sư thuộc chùa Hồ Tâm đích thân thấy nghe. V́ thế, được truyền tụng trong cơi đời.

 

* Đứa tớ gái nhà họ Triệu ở Minh Châu

 

          Cuối niên hiệu Thiệu Hưng, tại huyện Phụng Hóa, có người họ Triệu. An nhân[97] mẹ ông ta trọng Phật, trai giới, tụng kinh Pháp Hoa. Trong nhà có một đứa tớ gái, lâu ngày nhớ được bốn câu, tức là “thanh liên hoa hương, bạch liên hoa hương, hoa thụ hương, quả thụ hương”. Từ đó, cô ta động tĩnh, làm lụng đều ngâm vịnh [bốn câu ấy] chẳng dứt. Người khác nghe thấy, cho là cô ta nói đùa, chẳng biết cô ta cũng có chỗ dụng tâm. Một ngày, làm việc trái ư chủ nhân, cô ta bị lăng tŕ đến chết. Họ bèn vùi thây cô ta ở hậu viên. Không lâu sau, nơi đó bỗng trổ một đóa hoa sen xanh, hương sắc đáng yêu. Kẻ khác chẳng biết cô ta, chỉ có an nhân là ngầm biết. Đó là chỗ cảm ứng do tụng bốn câu kinh. An nhân lại chẳng ẩn giấu đức của cô ta, ngầm nói với Hư Đường pháp sư là Bổn Không, sư Bổn Không thường nói tương tự để giáo hóa người khác. Tông Hiểu từng đích thân nghe nói, bèn chép kèm vào đây!

 

* Châu Như Nhất ở Minh Châu

 

          Châu Thị tên là Như Nhất, là vợ ông Tiết ở Tứ Minh, là hậu duệ của Khâm Thành Hoàng Hậu[98], tức là cháu hai đời của Uyên Thánh Cung. Từ lúc gả cho ông Tiết, bà coi cơi đời như bụi đất, bùn lầy. Lúc ngoài hai mươi, liền nói với chồng muốn ở một ḿnh thanh tịnh, tự khoác pháp phục tu tại gia, ăn chay trường. Bà từng dùng lụa vàng sai kinh sanh (người chép kinh thuê) biên chép bảy quyển của kinh Pháp Hoa, đích thân dùng nhung biếc để thêu trên đó. Nét thêu vờn quanh kín kẽ, trông như nét mực vừa viết xong. Mất mười năm mới hoàn thành. Bà lại thêu tượng Di Đà, Quán Âm, chẳng khác ǵ hội họa. Từ tựa đề kinh, bà tôn kính lạy tám vạn bốn ngàn lạy. Cứ mỗi câu, mỗi chữ, đều xướng lễ ba lần. Một bộ kinh Pháp Hoa mất ba tháng có thể tụng thuộc. Lại khuyên hai vạn người niệm Phật Di Đà. Bà cho khắc gỗ để in h́nh Phật, niệm mười vạn tiếng mới ngưng. Bà lại bán đồ tư trang để làm ba ngày pháp hội, tụ hội đạo tục cả vạn người, cúng trai một ngàn vị tỳ-kheo, tạo tràng báu chứa kinh Pháp Hoa và tên người niệm Phật để đón về chùa Diên Khánh. Bà bỗng mắc bệnh nhẹ, tới lúc nhắm mắt, liền ngồi dậy, xếp bằng. Ông Tiết nói: “Trong nhà ta không có kiểu ấy, xin hăy nằm xuống”. Bà liền nằm bên hông phải, qua đời. Năm đó, bà ta ba mươi bảy tuổi, thiên sư Bảo Đàm ở Quất Châu tán thán.

Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục, quyển hạ chung

 

* Bài tựa khắc in bộ Pháp Hoa Kinh Hiển Ứng Lục

 

          Pháp Hoa kinh là vua các kinh, là lời luận đàm cùng cực rốt ráo. V́ thế, kinh được tŕ tụng nhiều nhất, mà người đạt được linh nghiệm chẳng thể kể xiết. Nhưng các sự tích ấy được ghi chép rải rác trong sách vở, chẳng thể thấy trọn. Dẫu có người sưu tập, nhưng cũng chẳng đủ nhiều, sơ sót quả thật chẳng ít! Pháp sư Thạch Chi Tông Hiểu đời Tống có hai quyển Hiển Ứng Lục đă chọn lựa các chuyện cảm ứng hiển nhiên xưa nay được chép rành mạch, rơ ràng trong sách vở, và những điều Sư được đích thân thấy nghe, biên tập hoàn thiện, quả thật đủ để nêu bày chứng cớ khơi gợi ḷng tin từ đời trước ḥng khuyên bảo mai sau. Bộ sách ấy đă được lưu truyền, nhưng lâu ngày bị khuất lấp. Tôi ngẫu nhiên có được [sách ấy] để xem đọc, muốn khắc ván để lưu truyền rộng răi, nhưng duyên chưa tới. Gần đây, các vị lăo túc thuộc Tịnh Nghiệp Xă trong núi thấy vậy, bảo tôi rằng: “Năm thứ diệu hạnh chính là cái nhân thù thắng của Tịnh Độ. Sách này được lưu thông, há chẳng tùy hỷ ư?” Bèn khuyên những người trong liên xă chia sẻ tịnh tài thơm thảo để cùng giúp cho chuyện này [thành tựu]. Tôi vui mừng, giảo chánh lần nữa để khắc in.

          Hưởng Bảo[99], thượng tuần giữa Thu năm Đinh Mùi (1727), Đông Duệ sa-môn Lượng Điển kính cẩn trần thuật.



[1] Phùng Dịch (逢掖) vốn là một loại áo rộng tay mà Nho sĩ thường mặc. Do phần nách áo (thân áo nối với tay áo) may rất rộng nên gọi là Phùng Dịch (Dịch () là chữ giả tá của Dịch () có nghĩa là nách).

[2] Do trong nguyên bản có nhiều chữ bị mất, nên câu này dịch không trọn vẹn.

[3] Đồ Kư (圖記) là cách gọi khác của Phương Chí (方志), tức sách vở ghi lại h́nh thế, đặc điểm, phong tục của một địa phương.

[4] Bí Thư Tỉnh c̣n gọi là Lan Đài, Lân Đài, Phùng Sơn, hoặc Bí Thư Giám, là một cơ quan hành chánh được thiết lập từ thời Hoàn Đế nhà Đông Hán, trực thuộc Thái Thường Tự, về sau thành một cơ quan chuyên biệt. Cơ quan này có trách nhiệm quản lư tất cả hồ sơ, sổ sách, thư tịch, các trước tác của hoàng gia, cũng như soạn thảo các văn bản dùng trong tế lễ của hoàng tộc. Từ đời Đường trở đi, trong Bí Thư Tỉnh lại thiết lập các chức quan Bí Thư Giám (đứng đầu Bí Thư Tỉnh), Bí Thư Thiếu Giám (c̣n gọi là Lan Đài Thị Lang) làm phó, Bí Thư Thừa (giống như người xử lư thường vụ), Bí Thư Lang, Giảo Thư Lang, Chánh Tự, Chủ Sự, Lệnh Sử, Thư Lệnh Sử, Điển Thư, Khải Thư, Đ́nh Trưởng, Chưởng Cố, Thục Chỉ, Trang Hoàng, Bút Tượng, tổng số đến tám mươi tám người.

[5] Nhận (, c̣n đọc là Nhẫn) là đơn vị đo lường thời cổ, được quy định là chiều dài khi giang thẳng hai tay của một người đàn ông trưởng thành. Đời Châu quy định tám thước là một Nhận, đời Hán th́ bảy thước là một Nhận.

[6] Cát Tường thiên nữ (Lakṣmī), c̣n dịch là Công Đức Thiên Nữ, Tài Bảo Thiên Nữ, Bảo Tạng Thiên Nữ, Công Đức Thiên Nữ (Sridevi), Thế Mẫu, Nhũ Hải Nữ, Cát Khánh Nữ, Liên Hoa Nghiêm Sức, Cụ Tài, Bạch Sắc, Đại Danh Xưng, Liên Hoa Nhăn, Đại Quang Diệu, Bảo Quang… là vị thiên nữ chủ tŕ tài bảo, ban phước lạc cho chúng sanh, giữ vai tṛ hộ pháp trong Phật giáo (thuộc nhóm Nhị Thập Chư Thiên). Bà là vợ của Tỳ Nữu Thiên (Vishnu, Tỳ Thấp Nô). Thần chú Thiện Nữ Thiên thuộc Thập Tiểu Chú trong khóa tụng buổi sáng của Thiền môn là bài chú do bà đă nói trong kinh Kim Quang Minh. Trong Phật giáo Tây Tạng, bà được coi là vị hộ pháp bảo hộ riêng của Đại Lai Lạt Ma. Điểm đặc biệt là khác với các h́nh tượng xinh đẹp hiền hậu như thường thấy trong Ấn giáo hoặc Phật giáo Bắc Tông nói chung, Tạng truyền Phật giáo tạc tượng bà dưới dạng phẫn nộ, da đen đúa, nhe nanh, trợn mắt, bốn tay, da xanh dương, cưỡi lừa, dùng yên cương bằng các con rắn, đeo chuỗi anh lạc kết bằng đầu lâu v.v…

[7] Ma Lợi Chi Thiên (Marici, có nghĩa là tia sáng) là một vị Bồ Tát thị hiện thân thiên nữ, thuộc nhóm Nhị Thập Tứ Thiên thường được mô tả trong các mạn đà la của Phật giáo. Ngài được coi là vị thiên nữ tương ứng với ánh sáng mặt trời, chủ tŕ việc trừ si ám cho chúng sanh. Ngài thường được tạc tượng dưới h́nh dạng thiên nữ có ba mặt, h́nh dung tươi trẻ xinh đẹp, tám tay, ngồi trên ṭa sen đặt trên lưng của tám con lợn. Theo các nhà nghiên cứu, Đạo Giáo đă vay mượn vị Bồ Tát này từ Phật giáo để tạo ra nữ thần Đẩu Mẫu Nguyên Quân (mẹ của Cửu Hoàng Đại Đế tức chín v́ sao trong chùm sao Bắc Đẩu (Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân) cộng với Tả Phù và Hữu Bật).

[8] Thuần Hy là niên hiệu của Tống Hiếu Tông (Triệu Thận) từ năm 1174 đến năm 1189.

[9] Vĩnh Trinh là niên hiệu của Đường Thuận Tông (Lư Tụng) sử dụng từ năm 805 đến năm 806.

[10] Văn Đức hoàng hậu (601-636) chính là vợ vua Đường Thái Tông. Sử không chép tên bà, chỉ biết bà là người Tiên Ty, họ Trưởng Tôn, có hiệu là Quán Âm Tỳ (đầy tớ của đức Quán Âm), con gái của quan Hữu Kiêu Vệ Tướng Quân Trưởng Tôn Thịnh. Anh bà là Trưởng Tôn Vô Kỵ được xếp vào hàng khai quốc công thần của nhà Đường. Bà mồ côi cha từ lúc tám tuổi, được cậu là Cao Sĩ Liêm nuôi dưỡng. Bà lấy Lư Thế Dân (Đường Thái Tông) lúc 13 tuổi, được phong là Tần Vương Phi. Bà là người hiền hậu luôn can ngăn chồng, tận lực bảo vệ các vị đại thần trung chánh quá thẳng tính làm trái ư vua. Bà mất khi mới 36 tuổi, được chôn tại Chiêu Lăng.

[11] Lễ tạng thám kinh: Khi chưa biết chắc nên tu tập pháp môn nào ḥng phù hợp căn cơ, cổ đức thường lễ sám tinh thành, sau đó vào Tàng Kinh Các, lễ bái Đại Tạng Kinh, nhắm mắt rút một quyển kinh, mở ra trúng kinh nào th́ tu theo pháp môn dạy trong kinh đó.

[12] Theo bi kư tại tháp Đa Bảo tại chùa Thiên Phước, sự kiện này được ghi chép rơ ràng hơn: Đường Huyền Tông trong năm Thiên Bảo nguyên niên (742) mộng thấy ḿnh bước lên một ṭa bảo tháp chín tầng. Vua thấy trên đó có đề pháp danh của người kiến tạo, phía dưới có ghi một chữ Kim. Vua hỏi triều đ́nh, mới biết có thiền sư Sở Kim [đang quyên góp dựng tháp Đa Bảo], bèn thưởng vàng lụa để dựng tháp. Mất bốn năm, tháp mới xây xong, được vua đích thân ngự đề tên tháp. Lối chữ viết của Nhan Chân Khanh trên bia tháp này được coi là mẫu mực thư pháp, nên có nhiều người rập chữ (tức là dùng giấy than chà lên bia để lấy nét chữ đem bán cho người đang tập viết).

[13] Ư nói: Sau khi đă thọ Cụ Túc Giới th́ mới chính thức là Tăng.

[14] Đây là một chức vụ quản lư các tăng ni để đảm bảo không có tăng sĩ giả danh chẳng thọ giới trà trộn vào hàng ngũ tăng ni. Chức quan này được thiết lập dưới đời Đường và Tống nhằm quản trị tăng ni và bổ nhiệm các vị tăng giữ chức vụ quản lư, kiểm tăng, trục xuất tăng sĩ giả mạo hoặc vi phạm giới luật. Thoạt đầu, trong niên hiệu Trinh Nguyên, lập ra chức Tả Nhai và Hữu Nhai Công Đức Sứ, sau đó đặt thêm chức Hữu Nhai và Tả Nhai Tăng Lục để giúp. Đến đời Tống, lập ra riêng một cơ cấu quản trị gọi là Tăng Lục Ty. Tăng sĩ phải thông qua khảo hạch mới được Tăng Lục Ty cho phép thọ giới và cấp giấy chứng nhận gọi là Độ Điệp. Trong Tăng Lục Ty, lại đặt ra các chức Tăng Lục (đứng đầu tăng sĩ cả nước), không c̣n chức Công Đức Sứ, phía dưới có các vị phụ tá như Giảng Kinh Thủ Ṭa, Giảng Luận Thủ Ṭa, Giám Nghĩa v.v… Các chức vụ này dưới thời Minh - Thanh được coi như quan chức của triều đ́nh có phẩm trật và lương bổng, nhưng bỏ các danh xưng Tả Nhai và Hữu Nhai.

[15] Thiên Tề Vương chính là tước hiệu của thần núi Thái Sơn. Vị thần này được Đạo Giáo tôn xưng là Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Đại Sanh Nhân Thánh Đại Đế, nên được gọi tắt là Thiên Tề Vương, đôi khi c̣n gọi là Thái Sơn Phủ Quân, Đông Nhạc Đế Quân, Nhạc Đế Gia, Nhạc Đế v.v… Theo Đạo Giáo, Ngài đứng đầu năm vị đại đế cai quản ngũ nhạc, có chức trách cai trị cơi âm. Ngài được coi là một vị thần hộ pháp trong Hán truyền Phật giáo.

[16] Phần này nguyên bản bị mất chữ.

[17] Cung Phụng quan là danh xưng để chỉ chung các quan viên thuộc Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh. Đôi khi, quan viên thuộc Ngự Sử Đài cũng gọi là Cung Phụng Quan. Xét ra, Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh đều là các cơ cấu hành chánh, không thích hợp cho một vị Tăng, Ngự Sử Đài cũng thế. Đời Đường, có lập ra Cung Phụng Cục bao gồm những người có một tài khéo đặc biệt nào đó để cống hiến đế vương; những người thuộc Cung Phụng Cục đều gọi là Cung Phụng Quan. Có lẽ Sư thuộc trường hợp này v́ là vị thầy hỏi đạo của nhà vua.

[18] Thiên Phước là niên hiệu của Hậu Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) từ năm 936 tới năm 944. Vào thời Ngũ Đại, Thạch Kính Đường thuộc sắc dân Sa Đà, do lập nhiều công lao với nhà Hậu Đường, trở thành quyền thần. Ông ta diệt nhà Hậu Đường năm 936, lập ra nhà Hậu Tấn. Triều đại này trước sau chỉ tồn tại được hai đời vua, tồn tại 12 năm. Nhà Hậu Tấn bị Khiết Đan diệt quốc, v́ khởi đầu, Thạch Kính Đường nhờ quân Khiết Đan ủng hộ mà đủ sức diệt Hậu Đường. Sau đó, để lấy ḷng người Khiết Đan, Thạch Kính Đường đă cắt đất của mười sáu châu thuộc các tỉnh Hà Bắc và Sơn Tây cho vương triều Liêu của người Khiết Đan, tôn vua Liêu (Da Luật Đức Quang) làm cha, dẫn tới việc các ngoại tộc như Mông Cổ, Khiết Đan, Đảng Hạng, Nữ Chân v.v… chiếm đóng miền Bắc Trung Hoa hơn 400 năm cho tới khi Châu Nguyên Chương thống nhất Trung Hoa.

[19] Nhà Lưu Hán (c̣n gọi là Hậu Hán) là triều đại do Lưu Trí Viễn (thuộc sắc tộc Sa Đà) thành lập vào thời Ngũ Đại sau khi nhà Hậu Tấn (Thạch Tấn) diệt vong và Liêu Thái Tông (Da Luật Đức Quang) của nhà Liêu vừa chết, khiến cho t́nh h́nh nước Liêu rối ren. Trí Viễn đă thừa cơ sáng lập nhà Hậu Hán, nhưng chỉ làm vua được một năm rồi chết, con là Lưu Thừa Hựu (Hán Ẩn Đế) lên ngôi, chẳng biết cách cai trị, lại nghi kỵ công thần Quách Oai, toan giết chết ông ta. Quách Oai làm phản, diệt nhà Hậu Hán, lập ra nhà Hậu Châu. Trước sau, nhà Hậu Hán chỉ tồn tại chưa đầy bốn năm!

[20] Tri điện tăng là vị tăng trông coi chánh điện trong một tùng lâm, chuyên lo bảo tŕ, sắp đặt, trang hoàng trong chánh điện.

[21] Vương Quân vốn xuất thân là nông dân vốn là thuộc hạ của quan Kiềm Hạt Ích Châu (nay là Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên) là Phù Thiệu Thọ. Năm Hàm B́nh thứ ba (1000), quân đồn thú là Triệu Diên Thuận chẳng chịu nổi thượng cấp chèn ép, tụ họp đồng bạn giết chết Phù Thiệu Thọ, tôn Vương Quân làm lănh tụ, đặt quốc hiệu là Đại Thục, niên hiệu là Hóa Thuận, công phá Hán Châu (nay là huyện Quảng Hán tỉnh Tứ Xuyên). Số người đi theo lên đến mười mấy vạn. Quân khởi nghĩa đánh bại tướng nhà Tống là Dương Hoài Trung. Măi cho đến tháng Chín năm ấy, tướng nhà Tống là Trương Cát vận chuyển lương thảo đến nơi, sai bộ tướng là Lôi Hữu Chung phản công, phá tan quân phản loạn tại Thành Đô. Vương Quân phá ṿng vây, chạy đến Phú Thuận. Thế cùng lực kiệt, ông ta tự tử vào tháng Mười năm ấy.

Năm Thuần Hóa thứ tư (993), tại huyện Thanh Thành một tay phú nông chuyên trồng trà là Vương Tiểu Ba đề ra khẩu hiệu “san bằng giàu nghèo”, tuyên bố “ta ghét giàu nghèo bất b́nh đẳng, ta sẽ v́ các ngươi thực hiện công bằng”, phát động khởi nghĩa. Sau khi hắn tử trận năm ấy, em vợ hắn là Lư Thuận trở thành lănh tụ quân khởi nghĩa. Lư Thuận suất lănh đại quân từ Giang Nguyên tấn công Thục Châu, Cung Châu, giết chết quan tri châu, thông phán v.v… Sau đó, chia quân thành hai tấn công và chiếm đóng một loạt các quận huyện tại Tứ Xuyên như Song Lưu, Ôn Giang, B́ Huyện v.v… Cánh quân do Lư Thuận suất lănh th́ tấn công Thành Đô, Hán Châu, Bành Châu. Quân phản loạn đông tới mấy chục vạn người. Hai lượt triều đ́nh nhà Tống sai người dẹp loạn đều đại bại, Lư Thuận bèn xưng là Đại Thục Vương, lấy niên hiệu là Ứng Vận. Về sau, Tống Thái Tông phải phái các tướng lănh nhiều kinh nghiệm như Vương Kế Ân, Lôi Hữu Chung, Doăn Nguyên v.v… từ nhiều ngả phối hợp tấn công, mất một năm mới giết chết Lư Thuận, cầm tù các lănh tụ quân phản loạn khác. Dư đảng vẫn dấy binh các nơi, măi cho đến năm Chí Đạo thứ hai (996) mới hoàn toàn dẹp yên.

[22] Sơn bộc: Tùy tùng, người hầu của thần núi.

[23] Tôn Tư Mạc (541-682) là một y sĩ kiêm đạo sĩ trứ danh đời Đường. Ông được coi là một thầy thuốc kiêm hóa học gia vĩ đại thời cổ, được tôn xưng là Dược Vương. Triều Tống sắc phong tôn hiệu Diệu Ứng Chân Nhân, Đạo Giáo tôn ông là Thiên Y Diệu Ứng Quảng Viện Thiện Tế Chân Quán, tôn thờ làm Y Thần. Ông sống vào thời Tây Ngụy, nổi tiếng thông minh và nhớ dai từ bé. Ông tinh thông học thuyết của bách gia chư tử, hứng thú sâu đậm với đạo Lăo Trang, giỏi lư luận âm dương, giỏi bói toán. Điểm đặc biệt là ông cũng hiểu kinh Phật rất sâu. Ông lắm bệnh tật từ bé, đến nỗi than thở “tiền mua thuốc làm khánh kiệt gia sản”. Nhận thấy dân nghèo chết v́ không có tiền mua thuốc, nên từ lúc mười tám tuổi, ông lập chí học y để cứu người, trở thành một vị y sư lỗi lạc. Các đời vua Châu Tuyên Đế, Châu Tĩnh Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông, Đường Cao Tông đều ra sức dùng quan cao lộc cả để chèo kéo ông làm ngự y, nhưng ông đều uyển chuyển từ chối, hoặc chỉ làm ngự y một thời gian ngắn cho vua Đường Thái Tông. Ông cáo bệnh, xin về hưu, ẩn cư trong núi Vương Ốc. Tác phẩm Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương (các toa thuốc trọng yếu đáng giá ngàn vàng ứng dụng cho các trường hợp cấp bách) của ông được đánh giá rất cao. Dân gian Trung Hoa truyền tụng rằng sau khi chết, trở thành thần, ông kết bái huynh đệ với hai vị thầy thuốc nổi tiếng khác là Ngô Thao và Hứa Tốn, gọi chung là Bảo Sanh Tam Chân Nhân. Có nơi như vùng Mân Nam, Đài Loan lại tương truyền rằng Tôn Tư Mạc, Ngô Thao và Hứa Tốn thật ra chỉ là cùng một người, tái sanh trong các triều đại khác nhau để cứu đời và được gọi chung là Bảo Sanh Đại Đế.

[24] Khai Bảo là niên hiệu của Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) sử dụng từ năm 968 cho đến năm 976.

[25] Thái B́nh Hưng Quốc là niên hiệu của Tống Thái Tông (Triệu Quang Nghĩa) từ năm 976 đến năm 984.

[26] Hoàng Hựu là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1049 đến năm 1054.

[27] Nguyên văn “lại ngư” (瀨魚, wrasse, rainbow fish) là một loại cá biển nhỏ, nhiều màu sắc rực rỡ. Chúng có tập tính bơi thành bầy ngay ngắn, nương theo các đàn cá lớn hơn để kiếm ăn.

[28] Tống Anh Tông vốn tên là Triệu Tông Thật, về sau đổi tên thành Triệu Thự, là con của Bộc An Ư Vương (Triệu Doăn Nhượng), cháu nội của Triệu Nguyên Phần (con trai thứ tư của Tống Thái Tông). Khi ba tuổi, được Tống Nhân Tông (do ba người con trai của Tống Nhân Tông đều chết sớm) đưa vào cung nuôi dưỡng. Anh em của Tống Nhân Tông đều chết cả rồi, nên Triệu Thự được lập làm hoàng tử khi ông đă ba mươi tuổi. Ông lên ngôi vua năm Gia Hựu thứ tám (1063) sau khi Tống Nhân Tông chết.

[29] “Tu nhă” (修雅) là từ ngữ tán thán người thanh cao, không thô tục. “Tu nhă trong họ Thích” tức là một vị tăng thanh cao.

[30] Ngài Tăng Già (628-710) là cao tăng đời Đường, được tôn xưng là Tứ Châu Đại Thánh, c̣n được dân gian tôn xưng là Tứ Châu Phật. Ngài từ Lương Châu vào Trung Hoa khuyến hóa, hóa duyên chủ yếu tại các vùng Tần, Lạc, Ngô, Sở. Năm Long Sóc nguyên niên (601), Ngài nhận lời thỉnh đến Tứ Châu truyền giáo. Sư thuyết pháp xong, bảo chủ nhân: “Nơi này chính là đất già lam xưa kia, đào đất lên sẽ biết”. Chủ nhân sai người đào lên, quả nhiên t́m được một tấm bia, đề tên Hương Tích Tự, một tượng Phật, đại sư bảo đó là Phổ Chiếu Vương Phật. Chủ nhân liền phát tâm biến nhà thành chùa, tức Phổ Chiếu Vương Tự. Đường Trung Tôn tôn ngài làm quốc sư, đón về kinh làm phương trượng chùa Tiến Phước. Từng có người đàm luận Phật pháp với Sư, bỗng thấy Ngài hóa thành Thập Nhất Diện Quán Âm. Sư nhập Niết Bàn năm Cảnh Long thứ tư (710), chân thân chẳng mục nát.

[31] Bá Cố chính là tên tự của Tô Kiên, một thi nhân nổi danh đời Bắc Tống. Ông này quê ở Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến, làm quan đến chức Kiến Xương Quân Thông Phán, bạn rất thân với Tô Đông Pha.

[32] Sùng Ninh là niên hiệu của Tống Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1102 đến năm 1106.

[33] Giang Tây Thi Phái là một trào lưu thơ ca đời Tống, do Hoàng Đ́nh Kiên chủ xướng, các thành viên bao gồm Trần Sư Đạo, Phan Đại Lâm, Tạ Dật, Hồng Sô, Nhiêu Tiết, Tăng Tổ Khả, Từ Phủ, Hồng Bằng, Lâm Mẫn Tu, Tô Dương v.v… Đại đa số các thành viên là người Giang Tây. Thơ của họ chuộng dùng điển cố, gieo những vần hiểm, âm điệu du dương, phần nhiều chú trọng h́nh thức.

[34] Thiên Hy là niên hiệu của Tống Chân Tông (Triệu Đức Xương) từ năm 1017 tới năm 1021.

[35] Khang Định là niên hiệu của Tống Nhân Tông (Triệu Trinh) từ năm 1040 đến năm 1041.

[36] Trong tác phẩm Lâm Gian Lục do pháp sư Huệ Hồng biên tập, chuyện này được nói rơ ràng hơn: “Khi đó, có một gă cuồng tăng sách động mọi người tuân theo thói tục, ngay cả hàng sĩ đại phu cũng tin theo lời hư vọng của hắn. Hắn mới vừa cùng Thái Thú Nhuận Châu ăn thịt, Sư đă xông tới, chỉ vào hắn nói: “Ngay trong lúc này, Phật là như thế nào?” Hồi Đầu quẫn bách, chẳng trả lời được. Sư đập vào đầu hắn, xô ngă rồi bỏ đi. Lại có cuồng tăng hiệu là Bất Thác, thuyết pháp ở Tú Châu. Người nghe đông nghẹt cả thành. Sư nắm chặt hắn, hỏi: “Phật là như thế nào?” Bất Thác c̣n đang nghĩ ngợi, Sư đạp ngă hắn rồi đi”.

[37] Kiến Viêm là niên hiệu của Tống Cao Tông từ năm 1127 đến năm 1129.

[38] Thuần Hy là niên hiệu của Tống Hiếu Tông từ năm 1174 đến năm 1189.

[39] Đại Quán là niên hiệu của Tống Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1107 đến năm 1110.

[40] Đăi Chế là chức quan được thiết lập từ đời Đường, từ ngũ phẩm trở lên, có nhiệm vụ trực ban hằng ngày tại Trung Thư Tỉnh và Môn Hạ Tỉnh để vua tham khảo ư kiến khi có chánh sự cần phải giải quyết. Năm Văn Minh nguyên niên (684), triều đ́nh hạ lệnh: Quan ngũ phẩm trở lên, có tiếng thanh liêm, phải luân phiên túc trực ở Chương Thiện Môn và Minh Phước Môn để làm cố vấn cho hoàng đế. Chuyện này được gọi là Đăi Chế (chờ chiếu chỉ). Đến đời Tống, triều đ́nh thiết lập chức vụ này thành chức quan thường trực, có trách nhiệm vừa làm cố vấn vừa truyền đạt chiếu chỉ của nhà vua. Đối với mỗi điện đường để thiết tiểu triều hay đại triều, đều lập quan Đăi Chế riêng, như Bảo Ḥa Điện Đăi Chế, Long Đồ Các Đăi Chế, Thiên Chương Các Đăi Chế v.v…

[41] Nghê ở đây là con Toan Nghê, tức một loại sư tử, do có truyền thuyết nói Toan Nghê là một trong chín đứa con của rồng, thích ngửi và phun khói hương, cho nên người ta thường đắp h́nh nó trên các cái lư hay đỉnh đốt hương.

[42] Kiếp thạch: Để giải thích một đại kiếp dài lâu như thế nào, kinh văn thường dùng tỷ dụ như sau: Có một ḥn đá mỗi bề rộng bốn mươi dặm. Cứ mỗi trăm năm, thiên nhân giáng xuống dùng áo trời phẩy qua một lần cho đến khi ḥn đá ấy ṃn hết th́ là một đại kiếp.

[43] Thiện Huệ đại sĩ tức là Phó Đại Sĩ. Phó Đại Sĩ (497-569), tên là Phó Hấp, tự Huyền Phong, tự hiệu là Thiện Huệ đại sĩ, người huyện Nghĩa Ô thuộc Vụ Châu, là một cư sĩ trứ danh trong Phật giáo sống vào thời Lương Vũ Đế, hành tung thần dị. Ngài cùng với tổ Đạt Ma và Bảo Chí thiền sư được gọi là Lương Đại Tam Đại Sĩ (ba vị đại sĩ đời Lương). Ngài được coi là hóa thân của Di Lặc Bồ Tát, giảng giải kinh Kim Cang theo một phong cách riêng biệt, và được đánh giá là người tiên phong khiến cho Thiền Tông hưng thịnh tại Trung Hoa.

[44] Theo Phật Học Từ Điển của Đinh Phước Bảo, Tạng là cách tính số lượng kinh đă đọc tụng. Cứ năm ngàn không trăm bốn mươi tám quyển (lần đọc tụng) được tính là một tạng. Cách tính này bắt nguồn từ Khai Nguyên Thích Giáo Lục thống kê trong thời ấy, kinh điển nhà Phật [được dịch sang tiếng Hán] gồm năm ngàn không trăm bốn mươi tám quyển. Nếu tính theo các Đại Tạng Kinh đời sau như Tống Tạng, Vĩnh Lạc Đại Tạng, Càn Long Tạng th́ số lượng các quyển trong Đại Tạng Kinh càng nhiều hơn nữa, nhưng thế tục đă quen gọi con số năm ngàn không trăm bốn mươi tám quyển (lượt) là một Tạng. Ngoài ra, c̣n có những cách hiểu khác như năm trăm là một tạng (hiểu tương ứng theo ngũ vị tấn tu có năm trăm môn Ba La Mật), hoặc coi một ngàn là một tạng (nhằm hiển thị bách giới thiên như), hoặc coi ba ngàn là một tạng (theo quan điểm ba ngàn tánh tướng của tông Thiên Thai), hoặc coi năm ngàn là một tạng (do năm trăm môn ba la mật, mỗi môn đều có Thập Như Thị), hoặc coi một vạn là một tạng (hiển thị ư nghĩa: Vạn đức cùng phô bày), hoặc coi tám vạn bốn ngàn là một tạng, hiển thị ư nghĩa tám vạn bốn ngàn trần lao. Tuy có nhiều cách nói, nhưng cách hiểu một tạng là năm ngàn không trăm bốn mươi tám quyển vẫn là cách hiểu phổ biến nhất.

[45] Hiến Sứ là danh thông tục để gọi chức quan Đề H́nh (Đề Điểm H́nh Lộ), c̣n gọi là Hiến Ty, tức chức quan chưởng quản việc tố tụng, chấp pháp, và quản trị tù ngục tại các châu huyện.

[46] Do Sư sống vào thời Tống Nhân Tông, Lưỡng Chiết ở đây phải hiểu là Lưỡng Chiết Lộ (Lộ là một khu vực hành chánh đời Tống. Lănh thổ Đại Tống được chia thành mười lăm lộ), bao gồm mười bốn châu như Tô Châu, Thường Châu, Nhuận Châu, Hàng Châu, Hồ Châu, Minh Châu, Việt Châu v.v… Tức là bao gồm toàn bộ tỉnh Chiết Giang, thành phố Trấn Giang của tỉnh Giang Tô, và Thượng Hải hiện thời. Sở dĩ gọi là Lưỡng Chiết v́ dựa theo tên gọi Chiết Giang Đông Đạo và Chiết Giang Tây Đạo thời Ngũ Đại. Lưỡng Chiết Lộ thoạt đầu có tên là Lưỡng Chiết Đông Bắc Lộ được lập ra trong năm Thái B́nh Hưng Quốc thứ ba (978). Đến thời Nam Tống, lại tách ra thành Lưỡng Chiết Tây Lộ và Lưỡng Chiết Đông Lộ.

[47] Nguyên Phong là niên hiệu của Tống Thần Tông (Triệu Húc) từ năm 1078 đến năm 1085.

[48] Gia Hựu là niên hiệu của Tống Nhân Tông từ năm 1056 đến năm 1063.

[49] Chánh Ḥa là niên hiệu của Tống Huy Tông (Triệu Cát) từ năm 1111 đến năm 1118.

[50] Thiệu Hưng là niên hiệu của Tống Cao Tông (Triệu Cấu) từ năm 1131 đến năm 1162.

[51] Di Đà Ấn gần giống như ấn Thiền Định, hai tay xếp lại đặt trước bụng, ḷng bàn tay ngửa lên, tay phải đặt trên tay trái, đặt ở trước bụng, hai ngón nhỏ và ngón cái của mỗi tay tạo thành h́nh khuyên tṛn, lưng hai ngón trỏ đặt sát nhau. Ấn này c̣n gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh Ấn (tượng Phật Di Đà ngồi thường được tạc kết ấn này). Cũng kết ấn như thế, nhưng thay ngón trỏ bằng ngón giữa th́ thành Thượng Phẩm Trung Sanh Ấn. Vẫn kết ấn như thế, nhưng thay ngón bằng ngón đeo nhẫn th́ gọi là Thượng Phẩm Hạ Sanh Ấn. Hai tay nâng lên ngang ngực, hai bàn tay đặt trước hai vai, ḷng bàn tay hướng ra trước, ngón trỏ và ngón cái tạo thành h́nh khuyên nơi mỗi bàn tay th́ gọi là Trung Phẩm Thượng Sanh Ấn. Cũng giữ nguyên tư thế ấy, nhưng thay ngón trỏ bằng ngón giữa th́ là Trung Phẩm Trung Sanh Ấn. Cũng làm như thế, thay ngón giữa bằng ngón áp út th́ gọi là Trung Phẩm Hạ Sanh Ấn. Hai ḷng bày tay hướng ra trước, tay phải giơ lên đặt gần vai, tay trái hướng xuống dưới, ngón trỏ và ngón cái kết thành h́nh khuyên. Đó là Hạ Phẩm Thượng Sanh Ấn. Lần lượt thay ngón trỏ bằng ngón giữa và ngón áp út, sẽ có Hạ Phẩm Trung Sanh Ấn và Hạ Phẩm Hạ Sanh Ấn. Trong Mật Tông c̣n dạy một loại ấn Di Đà nữa, tức là ấn được Phật Di Đà sử dụng trong Kim Cang Giới Mạn Đà La: Hai bàn tay chắp lại, giơ ngang ngực, hai ngón giữa dựng lên hơi cong chống vào nhau như cánh sen. Hai ngón cái đặt chéo nhau, các ngón c̣n lại đan chéo vào nhau, sao cho ngón phải ở trên, ngón trái ở dưới. Sách Mật Tông chú giải rằng: Các ngón đan vào nhau biểu thị sanh tử kết phược, cong x̣e giống như hoa sen tám cánh, biểu thị Như Lai Tạng Thức, đồng thời biểu thị phàm thánh bất nhị. Ngón giữa cong như cánh sen biểu thị Bổn Tôn tức Phật tánh siêu xuất trần phược. Nói cách khác, trong sanh tử triền phược, chân tánh chẳng mất. Để tiến nhập Chân Như pháp giới, không thể nào t́m cầu phương tiện ở ngoài triền phược, phải tự chuyển hóa triền phược thành cảnh giới như như bất nhị.

[52] Trong tháng Mười Một năm 1125, do triều đ́nh nhà Tống hủ bại, nhà Liêu yếu kém, Kim Thái Tông của người Nữ Chân (tức dân Măn Thanh sau này) xua quân Nam Hạ. Quân Kim thiện chiến, tiến công chiếm sạch vùng Bắc Hoàng Hà. Tống Huy Tông hốt hoảng, muốn trốn khỏi kinh đô. Triều thần xin nhà vua nhường ngôi cho Thái Tử Triệu Hoàn. Ngày 7 tháng 1, Huy Tông xuống chiếu nhường ngôi cho thái tử, xưng Giáo Chủ Đạo Quân Thái Thượng Hoàng, thái tử Triệu Hoàn trở thành Khâm Tông, niên hiệu là Tĩnh Khang. Khâm Tông nhu nhược, thiếu quyết đoán, chỉ tính kế tháo chạy, một ḷng nghị ḥa, tuy nhiều trung thần, tướng giỏi, quân dân quyết tâm kháng địch. Vua lại mê tín, cấp vũ khí cho bọn du đăng lập ra đội quân gồm 7777 người, gọi là Lục Giáp Binh, nhưng họ không chống nổi quân Kim. Lúc bấy giờ có gă đạo sĩ bịp bợm là Quách Kinh xưng có pháp thuật đánh tan quân Kim. Tướng lănh cần vương là Trương Thúc Dạ sai hắn cầm quân, hắn lén mở cửa thành bỏ trốn, quân Kim tha cơ đánh úp kinh đô Biện Kinh. Thấy quân Tống c̣n đông, dân chúng nhiều người yêu nước, quân Kim nhân nhượng, đ̣i nhà Tống đầu hàng. Cuối cùng, cha con Huy Tông và Khâm Tông bị Kim Thái Tông ra lệnh bắt giải về Bắc, các tông thất nhà Tống bị cầm tù, nhà Bắc Tống diệt vong. Sử gọi sự kiện này là Tĩnh Khang Chi Biến (biến loạn trong năm Tĩnh Khang) hay Tĩnh Khang chi sỉ (nỗi nhục Tĩnh Khang). Ở đây, sư Pháp Ḥa nguyện hai vua được thả về để trùng hưng xă tắc nhà Tống.

[53] Mộc Hoạn (Aristakāksa) là một loại cây thân gỗ, rụng lá theo mùa, nở hoa nhỏ màu vàng vào mùa Hạ. Quả của nó tách ra làm ba, chứa nhiều hạt cứng, tṛn, đen tuyền, kích thước từ 5 đến 8 mm, có thể dùng làm hạt xâu chuỗi.

[54] Ở đây, do cố gắng chuyển ngữ thành thơ, nhưng v́ văn bút vụng về, ư thơ của ngài Nguyệt Đường đă bị bỏ sót, xin dịch nghĩa như sau: Trục ngọc, kinh văn bằng chữ vàng, được dựng phạm cung (chùa tháp) để thờ phụng. Biết chắc là các bài kệ mầu nhiệm trong kinh văn cũng khó có ǵ để có thể sánh bằng! Mấy tầng lầu gác do hỏa hoạn đă bị ám khói đen như mực, chỉ riêng bộ kinh Pháp Hoa thoát khỏi lửa đỏ. Kinh điển quư báu được hương thơm, ánh sáng tốt lành nâng đỡ. Ánh trăng chứa đựng màu sắc chân thật chiếu lên hư không trong đêm lạnh. Đáng thương người đời Mạt Pháp kiêu mạn, cho nên [Tam Bảo] lại hiển hiện lần nữa công lao đắp nền (tạo cơ sở truyền tŕ Phật pháp tại Trung Hoa) của ngài Ca Diếp Ma Đằng.

[55] Vi biên (韋編) là cái dây buộc lề sách bằng da trâu. Thuở xưa, chưa có giấy, sách viết lên các thẻ tre rồi dùng dây bằng da trâu buộc lại cho khỏi thất lạc, cái dây ấy gọi là Vi Biên. Khổng Tử đọc kinh Dịch đến nỗi ba lượt vi biên bị đứt. Ở đây do Sư đọc kinh Pháp Hoa nhiều lượt, nên Từ Vân cũng dùng điển tích này để sánh ví sự dụng công của Sư chẳng kém Khổng Tử.

[56] Ư nói: Không phải chỉ đời Tề, đời Lương mới có bậc cao tăng!

[57] Hai câu này mang ư nghĩa ca ngợi sư Trí Thân: Ngài tuy sống trong lều tranh rách nát nhưng là bậc lương đống (rường cột chính yếu) cho Phật pháp, ví như trụ chống trời, c̣n các nơi tự viện cao lớn, nguy nga lại không có người làm rường cột cho Phật pháp như Ngài.

[58] Ư nói: Sư ẩn cư trong lều tranh nơi rừng trúc, không bon chen với đời, giống như vùi thân trong nấm mộ bằng trúc, nhưng hương thơm giới hạnh bát ngát. Ân thanh tụng kinh của sư cuồn cuộn như sóng biển, v́ lều vắng, chim sẻ bay quẩn quanh nơi ḷ hương, vô t́nh được hun đúc bởi phạm hạnh của Sư. Chim én cũng thôi làm tổ nơi nhà cao sang (thôi tha bùn kết tổ nơi chốn có rường kèo chạm khắc của nhà giàu có) để kéo về nơi Sư ḥng nghe kinh.

[59] Bí cáo Nhất Thừa chính là kinh Pháp Hoa, do kinh phơi bày bảo ban lẽ bí mật nên gọi là “bí cáo”.

[60] Sư tụng kinh trong 20 năm, một năm âm lịch chỉ có 360 ngày, tức là 360x20=7.200 ngày. V́ thế nói là tiêu tháng ngày nơi bảy ngàn hai trăm”. Trước mỗi lần tụng kinh, Sư đều tắm gội, xông hương thanh tịnh, nên nói là “ba lần tắm gội, ba lần xông”.

[61] Sư tụng được một vạn bốn ngàn bộ, mà kinh Pháp Hoa có bảy quyển nên 14.000x7=98.000 quyển, do vậy nói “lật quyển vàng nơi chín vạn tám ngàn”. Hơn nữa, đời Tống chưa in kinh theo lối đóng thành sách (phương sách) mà vẫn in kinh trên một miếng giấy dài, hai đầu có trục gỗ để tiện mở kinh, nên mới gọi là Quyển. Khi đọc kinh phải mở ra một đầu, cuộn vào một đầu để đọc phần kế tiếp, nên nói là “một cuộn, một duỗi”. Giấy in kinh thường tẩm nhựa cây ḥe để giấy vừa dai vừa chống mối mt nên có sắc vàng. V́ thế gọi là “quyển vàng” (hoàng quyển).

[62] Trần Vũ Hoàng là thụy hiệu của Trần Bá Tiên (Trần Cao Tổ), người sáng lập vương triều nhà Trần trong thời Nam Bắc Triều.

[63] Nhất Hạnh (683-727) là một vị cao tăng đời Đường. Ngài họ Trương, pháp hiệu là Kính Hiền, đạo hiệu Đại Huệ thiền sư, c̣n gọi là Nhất Hạnh A-xà-lê. Ngài c̣n được xưng tụng là nhà thiên văn học, lịch pháp gia, toán học gia, phong thủy gia lỗi lạc nhất thời ấy. Ngài được tôn xưng là một vị tổ trong bát tổ của Chân Ngôn Tông (Mật Tông Đông Độ). Ngài là hậu duệ của Trương Công Cẩn (đại thần thời Đường Thái Tông). Năm hai mươi tuổi, do song thân đều khuất bóng, lại gặp gỡ Hoằng Cảnh đại sư chùa Ngọc Tuyền điểm hóa, Ngài manh nha ư niệm xuất gia. Sau đó, Ngài xin xuất gia với pháp sư Phổ Tịch ở Tung Sơn. Do thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, cho nên có pháp danh là Nhất Hạnh. Khi pháp sư Thiện Vô Úy từ Na Lan Đà tại Thiên Trúc đến Trường An, Sư theo ngài học Thai Tạng giáo pháp. Ngài vâng lệnh Đường Huyền Tông, theo hầu Sư và tham gia đạo tràng dịch kinh Đại Nhật. Khi ngài Kim Cang Trí đến Lạc Dương, Ngài lại được truyền thọ giáo pháp Kim Cang Giới. Ngài thông thạo Phạm văn, đồng thời hiểu sâu xa toán pháp và thiên văn học của Ấn Độ. Do vậy, Ngài là người có tŕnh độ thiên văn học và lịch pháp cao nhất thời ấy. Đặc biệt, Ngài là người thông thạo lượng giác học (trigonometry), vận dụng chúng rất xảo diệu trong công cuộc trắc địa, tính quỹ đạo tinh tú. Do tinh thông lịch số, Ngài được vua Đường sai tu chỉnh Đại Diễn Lịch, cùng với Lương Lệnh Toản chế tạo hoàng đạo du nghi, hỗn nghi, phục củ v.v… để xem thiên văn, tính toán quỹ đạo của các tinh tú để tính lịch chính xác hơn, thực hiện công cuộc trắc địa đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ngài là Đại Nhật Kinh Sớ (chú giải kinh Đại Nhật). Có lẽ do quá lao lực, Ngài mất khi mới 45 tuổi, nhưng khi mất, Ngài ngồi xếp bằng, an nhiên thị tịch. Các tác phẩm nổi tiếng của Ngài là Đại Nhật Kinh Sớ, Đại Diễn Lịch, Nhiếp Điều Phục Tạng, Đại Tỳ Lô Giá Na Phật Nhăn Tu Hành Nghi Quỹ.

[64] Ông này chính là em ruột của Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Ông này từng theo học với Phù Khâu Bá (học tṛ của Tuân Tử), từng chú thích kinh Thi. Khi Lưu Bang khởi nghĩa chống Tần, ông theo phù tá anh, rất được Lưu Bang tín nhiệm. Sau này, khi đă thành hoàng đế, Lưu Bang nghi kỵ các công thần, bèn giả vờ đi chơi đến Vân Mộng, lập kế bắt giam Hàn Tín đang làm Sở Vương, giáng xuống làm Hoài Âm Hầu, chia nước Sở thành hai: Lưu Cổ làm Kinh Vương, Lưu Giao làm Sở Vương.

[65] Vũ Thành hoàng đế chính là Cao Trạm, là con trai thứ tư của Cao Hoan (quyền thần nhà Đông Ngụy). Sau khi Cao Hoan và người anh cả là Cao Trừng chết, người anh thứ hai của ông là Cao Dương nắm trọn quyền hành. Cao Dương thao túng Đông Ngụy, cuối cùng ép Ngụy Hiếu Tĩnh Đế (Nguyên Thiện Kiến) phải nhường ngôi, lập ra nhà Cao Tề.

[66] Trưởng Sử là chức quan có nhiệm vụ tương đương với Bí Thư Trưởng, c̣n gọi là Biệt Giá. Chức quan này có tánh chất không nhất định. Thời Hán, Trưởng Sử là quan phụ tá của Thái Thú (người đứng đầu một quận). Đến thời Nam Bắc Triều, Trưởng Sử là cấp dưới của Thứ Sử, nhưng thường cai trị một quận, hoặc các châu phủ. Trong các vương phủ, người đứng đầu coi việc hành chánh cũng gọi là Trưởng Sử. Đến thời Đường, người đứng đầu hành chánh các vương phủ, đô hộ phủ, đô đốc phủ, tướng soái phủ, châu phủ, đều gọi là Trưởng Sử. Nếu là Đại Đô Đốc Phủ, Trưởng Sử có quyền điều khiển Tiết Độ Sứ. Đến đời Tống th́ chỉ có thân vương phủ (vương gia thuộc hoàng tộc), công chúa phủ mới có chức quan Trưởng Sử.

[67] Tiếu Vương ở đây là Tư Mă Thừa (264-322). Ông là cháu nội của Tư Mă Tấn (con trai thứ sáu của Tư Mă Ư). Thời Đông Tấn, ông làm quan đến chức Thứ Sử Tương Châu. Khi Vương Đôn dấy loạn, ông cầm binh đánh dẹp, bị vây khổn tại Trường Sa (trị sở của Tương Châu). Cuối cùng, Trường Sa thất thủ, Tư Mă Thừa và thuộc hạ bị bắt, không lâu sau, bị giết chết.

[68] Đ́nh Úy (c̣n gọi là Đại Lư Tự Khanh, hoặc Tác Sĩ) là chức quan được thiết lập vào đời Tần, chưởng quản h́nh ngục, dự vào Cửu Khanh. Có thể hiểu Đ́nh Úy tương đương với Bộ Trưởng Tư Pháp, đồng thời là Chánh Án Tối Cao Pháp Viện hiện thời.

[69] Tức là bộ Quán Âm Nghĩa Sớ. Tác phẩm này nhằm chú giải phẩm Phổ Môn do tổ Trí Khải giảng, đệ tử là Chương An Quán Đảnh ghi lại. Tuân theo cách giải thích như trong Pháp Hoa Văn Cú, tổ cũng dùng tứ giáo, tứ thích (nhân duyên, ước giáo, bổn tích và quán tâm) để giải thích phẩm Phổ Môn. Về sau, ngài Tri Lễ lại c̣n soạn Quán Âm Nghĩa Sớ Kư để chú giải bộ sớ này.

[70] Kư Thất là chức quan văn chưởng quản văn thư. Từ đời Tấn trở đi, các quan địa phương, vương gia, vương phủ đều có chức quan Kư Thất để quản trị văn thư. Trong quân đội th́ lập ra Kư Thất Tham Quân để soạn thảo các văn thư thông cáo, báo tin, tấu tŕnh t́nh h́nh chiến trận về triều đ́nh, ghi chép công huân, lịch công tác v.v…

[71] Hoàng Môn Thị Lang c̣n gọi là Hoàng Môn Lang, hoặc Cấp Sự Hoàng Môn Thị Lang, tức là chức quan hầu cận thân cận nhất của hoàng đế. Thoạt đầu, người giữ chức vị này là người đóng vai tṛ truyền đạt chiếu chỉ của hoàng đế. Về sau, với guồng máy hàng chính ph́nh to, Hoàng Môn Thị Lang trực thuộc Môn Hạ Tỉnh (cơ quan có trách nhiệm thẩm tra chiếu lệnh, tức là đóng vai tṛ giám sát các chiếu lệnh đă ban hành có được đúng với quy định hay không. Nói cách khác, trong cơ cấu Tam Tỉnh, Thượng Thư Tỉnh tương đương với cơ quan hành pháp tối cao, người đứng đầu Thượng Thư Tỉnh tương đương với Thủ Tướng hiện thời (Lục Bộ trực thuộc Thượng Thư Tỉnh). Trung Thư Tỉnh tương đương với guồng máy lập pháp, quyết định quốc sách, soạn thảo chiếu chỉ. Môn Hạ Tỉnh đóng vai tṛ giám sát, đàn hặc các quan chức, quan chức đứng đầu Môn Hạ Tỉnh gọi là Thị Trung. Từ đời Tùy trở đi, Hoàng Môn Thị Lang (Môn Hạ Thị Lang) là phó thủ trưởng của Môn Hạ Tỉnh. Đến đời Tống, vai tṛ của ba tỉnh bị xóa nḥa v́ người đứng đầu các quan được gọi là Thượng Thư Tả Bộc Xạ kiêm Môn Hạ Thị Lang. Tuy danh xưng ba tỉnh vẫn c̣n, nhưng thực chất chỉ là một tỉnh. Dưới Hoàng Môn Thị Lang quan Trung Thường Thị (đến đời Đường Tống gọi là Tả Tán Kỵ Thường Thị), và dưới nữa là các quan gián nghị đại phu.

[72] Trung Thư Lệnh là người đứng đầu cơ quan Trung Thư Tỉnh. Thoạt đầu, Trung Thư Tỉnh chỉ có trách nhiệm quản trị văn khố, thư pḥng của hoàng đế, do các hoạn quan đảm nhiệm. Do vua khi đọc chiếu chỉ, lúc muốn quyết định thường hỏi ư kiến của người hầu chung quanh, mà hoạn quan không đủ học thức, cũng như do họ sống lẩn quẩn trong cung cấm, bị hoen ố bởi các chuyện đấu đá trong cung đ́nh, nên dễ đưa ra những ư kiến sai lạc. Do vậy, Trung Thư Tỉnh dần dần mở rộng cho các đại sĩ phu tham dự và trở thành một cơ cấu tham vấn giúp hoàng đế quyết định quyết sách, thậm chí soạn thảo chiếu chỉ. Sau này, các chức vị Trung Thư Lệnh, Thượng Thư Lệnh, Thượng Thư Bộc Xạ… dần dần trở thành hư vị, chỉ là tước do các trọng thần giữ quyền hành trọng yếu kiêm nhiệm. Dưới đời Đường Thái Tông, Sầm Văn Bổn thoạt đầu làm Bí Thư Lang, Trung Thư Thị Lang, cùng với Lệnh Hồ Đức Phân biên soạn Châu Thư (sử kư nhà Bắc Châu). Về sau, ông được bổ làm Trung Thư Lệnh, cùng giữ ngôi tể tướng với các vị Trưởng Tôn Vô Kỵ, Cao Sĩ Liêm, Đường Kiệm, Dương Sư Đạo, Lưu Tự, Mă Châu, Chử Toại Lương… Ông là người điềm tĩnh, trung hậu, chân thật, rất được Đường Thái Tông tín nhiệm. Khi Đường Thái Tông chinh phạt Cao Ly, đă ủy nhiệm ông phù tá thái tử Lư Trị giám quốc, đồng thời quản trị mọi việc hậu cần điều phối quân lương, chiến phí cho chiến dịch.

[73] Tả Giám Môn Vệ là một trong mười sáu vệ tức là các cơ cấu quản lư cấm vệ quân (quân binh bảo vệ hoàng thành và hoàng cung). Tả Giám Môn Vệ và Hữu Giám Môn Vệ có trách nhiệm bảo vệ các cửa cung (nhất là chống lại phản loạn khi họ tấn công vào cung cấm, toan hại vua), nhưng không được quyền điều động quân đội thuộc quyền quan phủ doăn (quan cai trị kinh đô). Đứng đầu mỗi vệ là tướng quân, phó quan gọi là lang tướng. Dưới đó đặt các chức hiệu úy và trực trưởng. Lại c̣n lập ra các chức trưởng sử, tư mă, lục sự và thương tào tham vận sứ, binh tào tham vận sứ v.v… Hiệu úy trực tiếp cầm quân, huấn luyện quân đội, do vậy, đôi khi có sức ảnh hưởng mạnh hơn các tướng quân và có nhiều thủ hạ trung thành hơn. Chẳng hạn vào thời Đông Hán, khi đại tướng quân Hà Tiến bị hoạn quan mưu sát, các thủ hạ như Viên Thiệu, Tào Tháo đă dấy binh báo thù và trở thành các quân phiệt đáng gờm thuở ấy.

[74] Vũ Đức là niên hiệu của Đường Cao Tổ (Lư Uyên) từ năm 618-626.

[75] Đại Lư Thừa là chức quan phụ tá cho trưởng quan của Đại Lư Tự. Đại Lư Tự là cơ quan tư pháp, đảm nhiệm việc chấp pháp, xét án, điều tra và xử phạt v.v… Thoạt đầu, đời Tần Hán có quan Đ́nh Úy, đến đời Bắc Tề đổi thành Đại Lư Tự, người đứng đầu Đại Lư Tự là Đại Lư Tự Khanh, phó quan th́ gọi là Thiếu Khanh, và các cấp cộng sự thuộc hạ gọi chung là Thừa.

[76] Long Sóc là niên hiệu của Đường Cao Tông (Lư Trị) từ năm 661 đến năm 663.

[77] Cao Biểu Nhân là con trai thứ ba của Cao Huưnh (Thượng Thư Tả Bộc Xạ đời Tùy), được phong làm Bột Hải Quận Công. Tới nhà Đường, ông làm Thứ Sử Tân Châu, từng phụng mạng đi sứ Nhật Bản.

[78] Tự điển (祀典): Sách ghi chép các vị thần thánh được sắc phong, tức là các vị thần được coi là chánh thần được công nhận, có thần phả đàng hoàng, và những vị thượng đẳng thần c̣n được quan viên địa phương chủ tŕ tế lễ (Tự () ở đây có nghĩa là “thờ cúng”). Những thần thánh không được ghi tên vào tự điển của châu huyện, sẽ gọi là tà thần, hay dâm thần (hiểu theo ư nghĩa là vị thần bậy bạ, vớ vẩn, do quỷ mị nương vào, không phải là thần thánh công chánh).

[79] Tường Phù gọi đủ là Đại Trung Tường Phù là niên hiệu thứ ba của Tống Chân Tông, sử dụng từ năm 1008 đến năm 1016.

[80] Ngũ H́nh là năm loại h́nh phạt nhằm trừng trị kẻ phạm tội thời cổ, theo thời điểm mà hơi khác nhau:

- Thời Tiên Tần (trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Nguyên), ngũ h́nh là Mặc (, c̣n gọi là Ḱnh (), tức là xăm chữ vào trán hoặc mặt tội nhân), Tỵ (, cắt mũi), Nguyệt (, hoặc tẫn (), chặt một chân, hai chân, hoặc phá vỡ xương bánh chè), Cung (,c̣n gọi là dâm h́nh (淫刑), hủ h́nh (腐刑), tàm thất h́nh (蠶室刑), tức là thiến), Đại Tịch (大辟,tử h́nh, lại chia thành chém, đâm cho chết, thắt cổ, chôn xuống hố cho chết, dùng ngựa hay xe kéo phanh thây, lăng tŕ, luộc trong vạc dầu…)

- Từ thời Hán trở đi, ngũ h́nh là Xuy (, dùng roi nhỏ đánh vào mông, nặng nhất là năm mươi roi), Trượng (, dùng gậy thô to đánh vào mông, nặng nhất là 100 trượng. Tội nhân sau khi bị phạt trượng thường tan xương, nát thịt, tàn tật suốt đời), đồ (, bắt làm lao dịch. Tội đồ thường bị phạt trượng trước khi làm lao dịch), lưu (, đi đày đến biên cương, không cho trở về quê nhà. Đi xa nhất là 3.000 dặm, c̣n bị phạt 100 trượng trước khi đi đày. Luật nhà Tống cho phép dùng tiền để khỏi bị phạt trượng), tử (, phạt chết).

H́nh phạt dành cho nữ giới th́ khác, nhưng cũng tàn nhẫn không kém, chẳng hạn như tản h́nh là dùng nhiều thanh gỗ xâu dây kẹp nát ngón tay để tra khảo.

[81] Câu này do hơi tối nghĩa nên xin diễn giải thêm: Để quy định xử phạt th́ phải tuân theo mức độ quy định của pháp điển (luật lệ của quốc gia). Gă đó tuy đáng tội chết, nhưng ông xử phạt quá nghiêm khắc (băm vụn hắn ra), cho nên hắn mới có dịp tố cáo trong cơi âm.

[82] Chỉ Huy Sứ là người đứng đầu quân đội tại một địa phương. Ở đây Vô Vi Quân là quân đội địa phương đóng tại lỵ sở thuộc Lô Châu thời ấy, bao gồm Sào Huyện, Lô Huyện và Giang Huyện. Quan thái thú đứng đầu một quận, nên gọi là quận thái thú. Quận và huyện tại Trung Hoa rất lớn, chẳng hạn cả miền Bắc nước ta cho đến vùng Thanh Nghệ thời Bắc Thuộc chỉ được gọi là Giao Chỉ Quận.

[83] Triều Quưnh (960-1126) người xứ Thanh Phong thuộc Thiền Châu. Ông đỗ tiến sĩ năm 980, được bổ làm Thái Thường Thừa, được nâng lên Tri Chế Cáo thời Tống Chân Tông, rồi được cử vào Hàn Lâm Vin, sau đó được thăng làm Tri Thẩm Quan Viện, Hàn Lâm Học Sĩ Thừa Chỉ. Ông được vua tín nhiệm, cử làm Công Bộ Thượng Thư rồi Lễ Bộ Thượng Thư, gia phong hàm Thái Tử Thiếu Phó. Khi ông mất, được ban thụy hiệu là Văn Nguyên Công. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Pháp Tạng Túy Kim Lục (tổng hợp những hiểu biết của ông về Phật học) và Chiêu Đức Tân Biên (ghi nhận những suy nghĩ của ông về đạo b́nh trị, khuyên mọi người sống đức hạnh).

[84] Cư sĩ Lương Kính Chi (751-793), tên thật là Tiêu, Kính Chi là tên tự, người huyện Định Tây, tỉnh Cam Túc. Ông làm quan đến chức Hàn Lâm Học Sĩ, kiêm Hữu Bộc Khuyết (đảm nhiệm việc can gián vua, tiến cử hiền tài). Ông theo học Thiên Thai Chỉ Quán với ngài Kinh Khê Trạm Nhiên, đạt được tâm yếu, từng biên soạn các bộ Thiên Thai Chỉ Quán (sáu quyển) Chỉ Quán Thống Lệ được đánh giá rất cao.

[85] Đô Quan Ty là một cơ cấu trực thuộc H́nh Bộ, chuyên đặc trách xét án (điều tra và tái thẩm nếu có nghi vấn), đồng thời giám sát các trại giam. Khi gặp chiến sự, sẽ giúp sức cho việc quân sự. Đô Quan Lang Trung là người đứng đầu cơ quan này.

[86] Tỳ Lô Đại Tạng là Đại Tạng Kinh được khắc bởi chùa Khai Nguyên thuộc núi Đông Chi, huyện Mân của Phước Châu (Phước Kiến). Công cuộc khắc kinh này do các vị tăng như Bổn Minh, Bổn Ngộ, Hành Sùng v.v… phát khởi, và các vị cư sĩ tại địa phương như Sái Tuấn Thần, Trần Tuân, Trần Tĩnh, Lưu Tiệm v.v… tán trợ, khởi công từ năm Chánh Ḥa thứ hai (1112) cho đến năm Thiệu Hưng 21 (1151), tức là mất 39 năm mới hoàn tất (công cuộc bị gián đoạn do quân Kim xâm lăng Bắc Tống). Kinh được chia thành 595 ḥm, gồm 1.451 bộ, 6.132 quyển. Do quyển đầu tiên của tạng kinh này có đề “Phước Châu Quản Nội chúng tăng kư Khai Nguyên thiền tự điêu tạo Tỳ Lô Giá Na Đại Tạng Kinh ấn bản nhất phó ngũ bách dư hàm” (các vị Tăng thuộc Phước Châu gởi thân nơi Khai Nguyên thiền tự khắc tạo bản in Tỳ Lô Giá Na Đại Tạng Kinh gồm hơn năm trăm ḥm kinh), cho nên bản này được gọi là Tỳ Lô Đại Tạng.

[87] Hoa Văn Các là một ngôi lầu gác được thiết lập vào năm Khánh Nguyên thứ hai (1196) bởi Tống Ninh Tông (Triệu Khoách) để tàng trữ các tác phẩm ngự chế của ông nội là Tống Hiếu Tông (Triệu Thận). Vua cho đặt ra các chức quan Học Sĩ, Trực Học Sĩ, Đăi Chế, Trực Các v.v… để quản thủ, biên tập.

[88] Có lẽ ở đây bị chép sai, v́ trong niên hiệu Thiệu Hy (1190-1194), tức niên hiệu của Tống Quang Tông (Triệu Đôn) chỉ có Giáp Dần (1194) hoặc Nhâm Tư (1192).

[89] Tuần Kiểm Ty là cơ quan trực thuộc quyền quản trị của các châu huyện, có trách nhiệm trông coi trị an, bắt cướp, tuần tiễu đề pḥng giặc cướp, trộm cắp, nhất là các chỗ hoang vắng hay ít người ở.

[90] Càn Đạo là niên hiệu của Tống Hiếu Tông (Triệu Thận) từ năm 1165 đến năm 1173.

[91] Thiểm Hữu chính là tỉnh Thiểm Tây, cổ nhân gọi phía Tây là Hữu, phía Đông là Tả. Do vậy, Sơn Tả chính là Sơn Đông.

[92] Đô Thủy Sứ là chức trưởng quan của Đô Thủy Giám. Cơ quan này có trách nhiệm quản trị hệ thống tưới tiêu, sông ng̣i, thủy lợi, ao hồ, tu bổ kiến thiết cầu cống, đê điều, kể cả quản trị các ngư dân đánh cá trong nội địa trên toàn quốc.

[93] Long Sóc là niên hiệu của Đường Cao Tông (Lư Trị) từ năm 661 đến năm 663.

[94] Quan nô có hai nghĩa:

- Nô lệ trong các phủ thự của các quan.

- Kỹ nữ được cấp giấy phép hành nghề của triều đ́nh, c̣n gọi là quan kỹ.

Ở đây, phải hiểu theo ư nghĩa thứ hai.

[95] Tức là kỹ nữ có tài hát múa, đánh đàn, chỉ bán nghệ không bán thân.

[96] Thuộc hạ của quan huyện, tức là các nha lại.

[97] An Nhân là phong hiệu của vợ quan. Thời Tống, vợ của quan chức từ Triều Phụng Lang trở lên th́ gọi là An Nhân. Nhưng trong thời Minh - Thanh, vợ quan thuộc lục phẩm gọi là An Nhân. Riêng tại Quảng Đông vào thời cổ, trong nhà quyền quư hay giàu có, con dâu thường gọi mẹ chồng là An Nhân.

[98] Khâm Thành Hoàng Hậu (1052-1102) không rơ tên, chỉ biết là họ Châu, là phi tần của Tống Thần Tông, mẹ đẻ của Tống Triết Tông. Bà sinh từ phủ Khai Phong. Cha bà là Thôi Kiệt mất sớm, mẹ cải giá lấy ông Châu Sĩ An, nên bà được đổi sang họ Châu. Bà được tuyển vào cung lúc 16 tuổi. Bà sanh được hai trai là Triệu Hú (Tống Triết Tông), Thái Vương Triệu Tự, và một gái là Hiền Tĩnh trưởng công chúa. Khi Triết Tông lên ngôi, bà được phong là Thánh Thụy Hoàng Thái Phi. Tới khi bà mất, Tống Huy Tông mới truy phong bà là Khâm Thành Hoàng Hậu.

[99] Hưởng Bảo (Kyōhō) là niên hiệu của Nhật Bản từ năm 1716 đến năm 1736 dưới đời thiên hoàng Trung Ngự Môn (Nakamikado).