Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 3

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

1.2.1.1.5. Trả lời câu hỏi

 

          Gồm hai phần: Một là văn Trường Hàng, hai là kệ tụng.

 

1.2.1.1.5.1. Phần kinh văn Trường Hàng

         

          Chia thành bốn phần: Một suy nghĩ, cân nhắc để giải đáp, hai là nêu đại lược chuyện đă từng thấy để trả lời, ba là nêu rộng chuyện đă từng thấy để trả lời, bốn là phán định phân minh để giải đáp.

 

1.2.1.1.5.1.1. Suy nghĩ, cân nhắc để giải đáp

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi ngữ Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát, cập chư đại sĩ: - Thiện nam tử đẳng! Như ngă duy thổn, kim Phật Thế Tôn dục thuyết đại pháp, vũ đại pháp vũ, xuy đại pháp loa, kích đại pháp cổ, diễn đại pháp nghĩa.

          ()爾時文殊師利。語彌勒菩薩摩訶薩及諸大士。善男子等。如我惟忖。今佛世尊欲說大法。雨大法雨。吹大法螺。擊大法鼓。演大法義。

            (Kinh: Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi bảo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát và các vị đại sĩ: - Các thiện nam tử! Như tôi suy nghĩ, cân nhắc, nay đức Phật Thế Tôn muốn nói đại pháp, xối mưa pháp lớn, thổi ốc pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn pháp nghĩa lớn).

 

          “Thiện nam tử”: Mở ra bảy phương tiện là Thiện. Có thể nghe pháp độc diệu là Nam, c̣n nói là “thiện trượng phu”. Danh xưng “trượng phu” (丈夫) cũng áp dụng cho cả bốn giáo; ở đây, phải hiểu là thuộc Viên Giáo. “Duy” () là suy nghĩ, “thổn” () là suy lường. Suy tính hiện thời giống như xưa kia, suy lường xưa kia giống như hiện tại. Nhưng ngài Văn Thù là cổ Phật, lẽ nào chẳng biết? Nơi Tích, bèn thị hiện tư duy đó thôi! “Dục thuyết đại pháp” (muốn nói đại pháp): Giải đáp đó là tướng lành thuyết pháp. [Văn Thù Bồ Tát] suy nghĩ: Xưa kia, sau khi chư Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, bèn khai Quyền, hiển Thật, gồm thâu vô lượng về một. Nay tôi phán đoán, đức Phật đă nói kinh Vô Lượng Nghĩa, cũng sẽ khai Quyền hiển Thật, dung hội vô lượng về một, “một” chính là đại pháp.

          “Vũ đại pháp vũ” (xối mưa pháp lớn) là trả lời [thắc mắc] về điềm lành “mưa hoa”. Suy nghĩ chư Phật thuở trước, sau khi tuôn bốn loại hoa vào khắp các nhân vị (địa vị tu nhân) Trụ, Hạnh, Hướng, Địa thuộc Viên Giáo. Tôi phán đoán đức Phật hiện thời, sau khi mưa hoa, ắt cũng sẽ đều thành tạo cái nhân thành Phật cho [các vị Bồ Tát] thuộc [các địa vị] Trụ, Hạnh, Hướng, Địa.

          “Xuy đại pháp loa” (thổi ốc pháp lớn): Thổi ốc (tù và) làm hiệu lệnh, giải đáp thắc mắc cho tâm đại chúng hoan hỷ trước điềm lành. [Ngài Văn Thù] suy nghĩ tứ chúng xưa kia trông thấy điềm lành bèn hoan hỷ, đạt được điều chưa từng có, trừ chướng, dấy động căn cơ, tức là sửa đổi khiến cho giáo, hạnh, lư của mọi người đều đồng nhất; bèn đoán rằng đại chúng hiện thời do hoan hỷ, cũng sẽ trừ chướng, dấy động căn cơ, thay đổi theo giáo, hạnh, lư giống như người thuở trước, sửa đổi rất sâu!

          “Kích đại pháp cổ” (đánh trống đại pháp): Giải đáp thắc mắc về điềm lành “cơi đất chấn động”. Suy nghĩ: Xưa kia, sau khi đại địa chấn động, liền có sáu lượt phá giặc Vô Minh; [do vậy tôi] phán đoán đối với vị Phật hiện thời (Phật Thích Ca), sau khi đại địa chấn động, cũng sẽ sáu lượt phá Vô Minh Hoặc. Đó là chỗ mầu nhiệm nhất của thanh giáo[1].

          “Diễn đại pháp nghĩa”: Giải đáp thắc mắc về tướng lành “phóng quang”. Suy nghĩ: Xưa kia, chư Phật phóng quang minh từ tướng bạch hào; sau đó, nói kinh Pháp Hoa. Do đạo của chư Phật giống như nhau, tôi đoán rằng sau khi đức Phật hiện thời phóng quang, cũng sẽ nói kinh Pháp Hoa. Ngài (Văn Thù Bồ Tát) nói rộng về năm điều [chứng tỏ] đạo của chư Phật giống nhau. Năm câu như thế đều là do suy nghĩ các điều trong quá khứ mà phán định hiện tại. Tôi nói thêm để dung hội ư nghĩa: [Chánh kinh] chỉ thiếu phần [Bồ Tát] suy nghĩ về tướng lành nhập Định, nhưng các điềm lành như mưa hoa, cơi đất chấn động v.v… đều do nhập Định mà có, [nói về các tướng lành ấy] th́ ư nghĩa đă đầy đủ rồi, chẳng cần phải nhọc ḷng ngờ vực! Do thiếu khuyết điều này, nên gọi là “lược đáp” (略答, giải đáp đại lược). Chuyện suy nghĩ, cân nhắc để giải đáp này nhằm trả lời thắc mắc về sáu điều lành trong cơi này.

 

1.2.1.1.5.1.2. Nêu đại lược chuyện đă từng thấy để giải đáp

 

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Ngă ư quá khứ chư Phật, tằng kiến thử thụy, phóng tư quang dĩ, tức thuyết đại pháp. Thị cố, đương tri: Kim Phật hiện quang, diệc phục như thị, dục linh chúng sanh hàm đắc văn tri nhất thiết thế gian nan tín chi pháp, cố hiện tư thụy.

          ()諸善男子。我於過去諸佛。曾見此瑞。放斯光已。卽說大法。是故當知今佛現光。亦復如是。欲令眾生咸得聞知一切世間難信之法。故現斯瑞。

          (Kinh: Các thiện nam tử! Nơi chư Phật quá khứ, tôi đă từng thấy điều lành này. Sau khi đă phóng quang minh như thế ấy, liền nói đại pháp. V́ thế, hăy nên biết: Nay đức Phật hiện tướng quang minh cũng giống như thế, muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mà hết thảy thế gian khó tin, cho nên hiện điềm lành ấy).

 

          Đây là nêu đại lược chuyện đă từng thấy, chỉ nói về chuyện phóng quang chính là giải đáp sáu điềm lành trong các cơi khác; v́ sáu điều lành nơi các cơi khác đều được soi tỏ bởi quang minh do đức Phật đă phóng ra. “Văn” (, nghe) là nói đến tín hạnh, “tri” (, biết) là nói đến pháp hạnh. Hết thảy các pháp khó tin trong thế gian, đó gọi là “thâu nhiếp vô lượng về một, khiến cho đại chúng khai thị ngộ nhập”, thay đổi giáo, hạnh, lư của mọi người, sáu phen phá vô minh, hiển lộ đạo của chư Phật đồng nhất, b́nh đẳng. Đó chẳng phải là điều mà căn cơ của chín pháp giới kia có thể tin tưởng được!

 

1.2.1.1.5.1.3. Rộng nêu các điều từng thấy để trả lời

         

          Tức là cùng trả lời các nghi vấn về cơi này và cơi kia. Ngài Di Lặc do quang minh mà thấy phương Đông theo chiều ngang (thấy trong không gian) bèn thưa hỏi. Ngài Văn Thù dẫn chuyện xưa kia thấy Phật theo chiều dọc (thời gian) để đáp, nhằm hiển thị mười phương ba đời chư Phật cùng một đạo. Kinh văn chia thành ba đoạn: Một là dẫn chứng một vị Phật giống như vậy, hai là dẫn chứng hai vạn vị Phật đều giống như vậy, ba là dẫn chứng vị Phật tối hậu cũng giống như vậy.

 

1.2.1.1.5.1.3.1. Dẫn chứng một vị Phật giống như vậy

 

          Gồm ba phần: Một là thời tiết, hai là nêu tên, ba là thuyết pháp.

 

1.2.1.1.5.1.3.1.1. Thời tiết

         

          (Kinh) Chư thiện nam tử! Như quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp.

          ()諸善男子。如過去無量無邊不可思議阿僧祇劫。

          (Kinh: Các thiện nam tử! Như vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp trong quá khứ).

 

1.2.1.1.5.1.3.1.2. Nêu tên

         

          (Kinh) Nhĩ thời hữu Phật, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()爾時有佛。號日月燈明如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, có Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          “Nhĩ thời” (lúc bấy giờ) là thuở chẳng thể nghĩ bàn kiếp trong quá khứ. “Thời” chẳng phải là pháp thật có, do nương vào Sắc và Tâm mà giả lập, thuận theo thói tục mà phân biệt, chẳng hoại giả danh. Đó là Thế Giới Tất Đàn. Nghe “vô lượng kiếp” liền biết chuyện sanh tử dài lâu, sanh tâm chán ĺa. Đó là Vị Nhân Tất Đàn. [Nghe biết] trước kiếp lại có kiếp, sẽ chẳng sanh Đoạn Kiến. [Nghe nói] sau mỗi kiếp, lại có một kiếp khác, sẽ chẳng sanh Thường Kiến. Đó là Đối Trị Tất Đàn. Quán thời điểm lâu xa ấy giống hệt như trong ngày nay, mười đời xưa nay chẳng ĺa một niệm hiện tại. Đó là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Khi đức Phật xuất thế trong thuở ấy, cũng nói tam thừa, tức [thuở đó] cũng là thời Ngũ Trược giống như lúc đức Phật xuất thế trong hiện thời. Nếu nói “ba đại A-tăng-kỳ kiếp tu hành tích tập thành Phật”, đó chính là nói theo tướng trạng trong Tam Tạng. Nếu nói “biết rơ tánh của thời và kiếp là Không, một niệm tương ứng với huệ, đại giác rạng ngời”. Đó chính là Phật tướng trong Thông Giáo. Nếu nói “trong chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, hành trọn hết vô biên các hạnh trong pháp giới, đoạn trừ hai phẩm ngu (vô minh) vi tế và cực vi tế bèn thành Phật”. [Nếu nói] “Ứng Thân ngồi trọn khắp dưới trăm ức cây [Bồ Đề]”. Đó chính là Phật tướng trong Biệt Giáo. Nếu nói “hiểu vô lượng vô số kiếp là một niệm, biết rơ tánh của một niệm chính là [cùng một] tánh từ xưa tới nay. Trí nhập ba đời, nhưng chẳng qua lại. Nhập tam-muội trong khoảng một sát-na, có thể thị hiện chuyện thành Bồ Đề xưa nay trong các biển quốc độ. Do v́ chúng sanh, chẳng sanh mà thị hiện có sanh”. Đó chính là Phật tướng trong Viên Giáo.

          Xét theo Bổn Tích, đức Phật Thích Ca trong hiện thời vốn thành Phật đă lâu. Đó là Bổn. Ngài thị hiện [giáng sanh] nơi vương cung là Tích. Chiêm nghiệm [điều này], liền biết đức Phật kia (Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật) cũng phải giống như thế. Xét theo quán tâm, quán Ngũ Ấm trong mỗi niệm đều sanh bởi nhân duyên, tức Không, tức Giả, tức Trung. Đó gọi là “có Phật xuất hiện trong cơi đời”. [Xét theo Lục Tức Phật], từ Danh Tự mà có Phật, cho đến Cứu Cánh có Phật.

          Nhật Nguyệt Đăng Minh (Candrasūryapradīpa) là danh hiệu riêng (biệt hiệu). “Như Lai” v.v... là các danh hiệu chung (thông hiệu). Hết thảy chư Phật đều có thông hiệu và biệt hiệu, đều là thuận theo thế gian mà giả lập. Đó là Thế Giới Tất Đàn. Nghe danh hiệu bèn sanh khởi điều lành, chính là Vị Nhân Tất Đàn. Vượt xa hết thảy phạm, ma, sa-môn, bà-la-môn v.v… tức là Đối Trị Tất Đàn. Nếu nghe danh hiệu của chư Phật đều đạt được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, tức là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

          Trong biệt hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, Nhật biểu thị huệ, Nguyệt biểu thị Định, tức là phẩm đức tự hành. Đăng Minh là phẩm đức “hóa độ người khác”. Lại nữa, Nhật Nguyệt Đăng [trong Nhật Nguyệt Đăng Minh] biểu thị nhất tâm tam trí[2]. Hăy nên biết Phật trước (Phật trong quá khứ) và Phật sau (Phật trong hiện tại và tương lai), tự hành như nhau, hóa độ người khác giống nhau, nhất tâm tam trí giống nhau. Lại nữa, Phật có vô lượng đức, phải nên có vô lượng hiệu. Như kinh Hoa Nghiêm nói ở trong thế giới Sa Bà này, Phật Thích Ca có trăm ức mười ngàn danh hiệu, hà huống các Ứng Thân trọn khắp các cơi số nhiều như vi trần, danh hiệu há có cùng tận ư? Nhưng mỗi danh hiệu đều chiêu vời thật đức, đều là dùng hết cả kiếp để diễn nói công đức ấy, trọn chẳng thể cùng tận! Dùng nay để suy ra xưa, lẽ nào riêng Nhật Nguyệt Đăng Minh lại chẳng giống như vậy?

          Đối với các thông hiệu như Như Lai v.v…, tiếng Phạn là Đa Đà A Già Độ (Tathāgata), c̣n phiên âm là Đát Thát A Kiệt, cơi này dịch thành Như Lai. A La Ha (阿羅訶, Arhat, A La Hán) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Ứng Cúng (應供), cũng dịch là Chí Chân (至真), hoặc c̣n dịch là Vô Sở Trước (無所著, chẳng chấp trước). Tam Miệu Tam Phật Đà (Samyak-saṃbuddha) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Chánh Biến Tri, c̣n dịch là Đẳng Chánh Giác. Bệ Xỉ Giá La Na Tam Ban Na (Vidyā-caraṇa-saṃpanna) trong tiếng Phạn được phương này dịch là Minh Hạnh Túc. Tu Già Đà (Sugata) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Thiện Thệ (善逝, khéo qua lại), c̣n dịch là Hảo Khứ (好去, khéo đi). Lộ Già Bại (Lokavida) trong tiếng Phạn, phương này dịch là Thế Gian Giải. A Nậu Đa La (Anuttara) trong tiếng Phạn, phương này dịch là Vô Thượng Sĩ. Phú Lâu Sa Đàm Miệu Bà La Đề (Puruṣa-damya-sārathi)) trong tiếng Phạn, phương này dịch là Điều Ngự Trượng Phu. Xá Đa Đề Bà Ma Nậu Xá Nẫm (Śāsta Deva-manuṣyāṇaṃ) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Thiên Nhân Giáo Sư. Chữ Phật Đà trong tiếng Phạn, phương này dịch là Tri Giả Giác Giả, Lộ Ca Na Tha (Lokanatha) trong tiếng Phạn, được phương này dịch là Thế Tôn, tức là trọn đủ mười hiệu công đức chân thật như trên. V́ thế, được hết thảy thế gian tôn kính. Để giải thích mười hiệu này, ắt cần phải xét theo tứ giáo và sự khai hiển, nay chẳng nói rườm rà. Bổn Tích và quán tâm phỏng theo đó cũng có thể biết.

 

1.2.1.1.5.1.3.1.3. Thuyết pháp

 

          (Kinh) Diễn thuyết chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện. Kỳ nghĩa thâm viễn, kỳ ngữ xảo diệu, thuần nhất vô tạp, cụ túc thanh bạch phạm hạnh chi tướng. Vị cầu Thanh Văn giả, thuyết ứng Tứ Đế pháp, độ sanh, lăo, bệnh, tử, cứu cánh Niết Bàn. Vị cầu Bích Chi Phật giả, thuyết ứng thập nhị nhân duyên pháp. Vị chư Bồ Tát, thuyết ứng Lục Ba La Mật, linh đắc A Nậu Đa La Tam Miu Tam Bồ Đề, thành Nhất Thiết Chủng Trí.

          ()演說正法。初善。中善。後善。其義深遠。其語巧妙。純一無雜。具足清白梵行之相。為求聲聞者。說應四諦法。度生老病死。究竟涅槃。為求辟支佛者。說應十二因緣法。為諸菩薩。說應六波羅蜜。令得阿耨多羅三藐三菩提。成一切種智。

          (Kinh: Diễn nói chánh pháp, chặng đầu tốt lành, chặng giữa tốt lành, chặng cuối tốt lành. Ư nghĩa sâu mầu, lời lẽ khéo nhiệm, thuần nhất chẳng xen tạp, trọn đủ tướng phạm hạnh trắng sạch. V́ người cầu Thanh Văn, bèn nói pháp Tứ Đế tương ứng, độ sanh, già, bệnh, chết, [đạt đến] rốt ráo Niết Bàn. V́ người cầu Bích Chi Phật, nói pháp tương ứng là mười hai nhân duyên. V́ các Bồ Tát, nói pháp tương ứng là Lục Ba La Mật, khiến cho họ đắc A Nậu Đa La Tam Miu Tam Bồ Đề, thành Nhất Thiết Chủng Trí).

 

          Đây là nói rơ vị Phật xưa kia đă v́ Thật mà hành Quyền, nói Đốn, nói Tiệm, khai Quyền hiển Thật để cùng quy vào pháp “chẳng Đốn, chẳng Tiệm”, giống như t́nh huống được trông thấy trong quang minh, và cũng tương đồng với sự thuyết pháp của Phật Thích Ca. Thoạt đầu nói “diễn thuyết chánh pháp” tức là nói về pháp Đốn Giáo. Ba chặng đầu, giữa, và cuối đều tốt lành, ước theo Đốn Giáo th́ là ba đoạn Tự, Chánh, Lưu Thông. Ư nghĩa này sâu xa, chính là liễu nghĩa trong Đốn Giáo, Nhị Thừa chẳng thể ḍ lường ngằn mé. “Kỳ ngữ xảo diệu” (lời lẽ hay khéo, mầu nhiệm) tức là kinh văn Đốn Giáo, dung hội Lư, nói thẳng thừng, khiến cho tâm Bồ Tát vui sướng. “Thuần nhất vô tạp” (thuần nhất chẳng xen tạp) tức là Đốn Giáo chẳng xen lẫn với Nhị Thừa. “Cụ túc”: Đốn Giáo nói về pháp môn măn tự. “Thanh bạch”: Đốn Giáo chẳng có tỳ vết nhị biên. “Phạm hạnh”: Chính là vô duyên Từ trong Đốn Giáo. Trên đây là nói vị Phật xưa kia nói Đốn pháp giống như đức Phật [Thích Ca] nói Hoa Nghiêm trong hiện thời. [Điều này] tương ứng với lời hỏi thứ nhất về chuyện thánh chúa sư tử diễn nói kinh pháp vi diệu trong phần trên.

          Kế đó nói “vị cầu Thanh Văn” (v́ người cầu Thanh Văn) v.v… là nói vị Phật xưa kia đă thí tam thừa, có ư nghĩa giống như vị Phật trong hiện thời (Phật Thích Ca) nói từ Tam Tạng cho tới Phương Đẳng, Bát Nhă, nhằm đáp lời hỏi “nếu ai gặp khổ” cho đến “Phật tử tu các thứ hạnh” trong phần trước. Tứ Đế có bốn loại (sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác), chi tiết th́ như trong sách Huyền Nghĩa đă giảng. Nay v́ hàng Thanh Văn, bèn nói pháp tương ứng là pháp sanh diệt. Đó gọi là “quả báo trong tam giới” khổ sở thật sự, chẳng thể tạo vui sướng. Phiền năo và nghiệp thật sự là cái nhân gây ra khổ, chẳng có cái nhân nào khác nữa! Hễ nhân diệt, quả sẽ diệt, cho đến an lạc rốt ráo. Đạo diệt khổ chỉ là Giới, Định, Huệ, chẳng c̣n đạo nào khác. Nhân duyên cũng có bốn loại như [sách Pháp Hoa] Huyền Nghĩa đă nói. Nay v́ Bích Chi Phật lại nói tướng tương ứng sanh diệt có thể nghĩ bàn, tức Vô Minh và Hành là hai chi có thể dẫn khởi, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ là các chi được dẫn khởi. Ái và Thủ là các chi có thể sanh khởi. Sanh, Lăo, Tử là các chi được sanh khởi. Cái được dẫn khởi và cái được sanh khởi chính là Khổ Đế. Cái có thể dẫn khởi và sanh khởi chính là Tập Đế. Vô Minh diệt cho đến Lăo, Tử diệt, đó là Diệt Đế. Trí quán nhân duyên chính là Đạo Đế.

          Thanh Văn độn căn; do vậy, v́ họ nói tổng tướng pháp Tứ Đế. Căn cơ của Bích Chi Phật nhạy bén hơn, v́ thế nói biệt tướng pháp nhân duyên. Bốn giáo tướng Ba La Mật như đă nói đại lược trong phần trước. Nếu trực tiếp nói về Lục Độ trong Tam Tạng th́ thuộc về A Hàm. Nếu luận định đối chiếu giữa Sự và Lư, phần nhiều dùng Lư đoạt Sự, bèn thuộc vào Phương Đẳng. Nếu kèm theo Sự để bàn về Lư, phần nhiều dùng Lư dung hội Sự, sẽ thuộc về Bát Nhă. Phần sau [của đoạn kinh văn này] nói “đắc A Nậu Đa La [Tam Miệu Tam Bồ Đề] v.v… chính là nói đức Phật quá khứ đă khai Quyền hiển Thật, có ư nghĩa giống với thời Pháp Hoa của đức Phật trong hiện tại. Nếu quán sơ sài theo mạch văn th́ câu “linh đắc” (khiến cho đạt được) dường như chỉ là thừa tiếp ư nghĩa của câu “vị chư Bồ Tát” (v́ các Bồ Tát); nhưng nếu xem xét kỹ càng mạch văn, sẽ thấy ư nghĩa ấy (“thành Nhất Thiết Chủng Trí”) chính là kết luận chung cho việc diễn nói chánh pháp cho Thanh Văn, Duyên Giác v.v… Bởi lẽ, từ ban đầu nói pháp Đốn nhằm khiến cho chúng sanh thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí; đối với kẻ chưa thành tựu, bèn khéo khuyên dụ dần dần, dùng [các giáo nghĩa thuộc] Tam Tạng, Thông, Biệt, kèm theo các thứ phương tiện như nói đối chiếu, nói kèm thêm v.v… để thành thục họ, hoặc là định, bất định, hoặc hiển, hoặc mật, chẳng phải là một chuyện, nhưng đều nhằm dẫn về Pháp Hoa. Như thế th́ dù là Thanh Văn, hay là Bích Chi Phật, hay Sự độ, thậm chí cho tới pháp Biệt Giáo được nói kèm thêm trong Hoa Nghiêm, không ǵ chẳng nhằm khiến cho [người được hóa độ] đắc Vô Thượng Bồ Đề, thành tựu Nhất Thiết Chủng Trí. Điều này tương ứng với lời hỏi về chuyện từ trong quang minh trông thấy đức Phật nhập Niết Bàn, [đại chúng] dựng tháp [thờ xá-lợi] trong các cơi khác, nhưng chẳng thấy trong cơi khác có pháp hội nói kinh Pháp Hoa. Do vậy, dẫn đến nghi vấn, trở thành Phát Khởi Tự. Nay dẫn chuyện xưa tương đồng, nhằm hiển thị Pháp Hoa là sự luận đàm cuối cùng tột bậc về liễu nghĩa, từ nay trở đi, chẳng c̣n có ǵ có thể nói nữa, chỉ có “chẳng phải diệt” mà xướng “nhập diệt” đó thôi! Giáo pháp trong suốt một đời đức Phật được quy kết rốt ráo trong một ḿnh kinh này. Mười phương ba đời, không đâu chẳng đều như vậy. Được gọi là Diệu, há có phải là nói suông ư? Phần thứ nhất, “dẫn chứng một vị Phật giống như vậy” đă xong!

 

1.2.1.1.5.1.3.2. Kế đó, dẫn chứng hai vạn vị Phật cũng đều giống như vậy

 

          (Kinh) Thứ phục hữu Phật, diệc danh Nhật Nguyệt Đăng Minh. Thứ phục hữu Phật, diệc danh Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như thị nhị vạn Phật, giai đồng nhất tự, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hựu đồng nhất tánh, tánh Phả La Đọa. Di Lặc đương tri! Sơ Phật, hậu Phật, giai đồng nhất tự, danh Nhật Nguyệt Đăng Minh, thập hiệu cụ túc, sở khả thuyết pháp, sơ trung hậu thiện.

          ()次復有佛。亦名日月燈明。次復有佛。亦名日月燈明。如是二萬佛。皆同一字。號日月燈明。又同一姓。姓頗羅墮。彌勒當知。初佛後佛。皆同一字。名日月燈明。十號具足。所可說法。初中後善。

          (Kinh: Kế đó, lại có Phật cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Kế đó, lại có Phật cũng tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hai vạn vị Phật như thế, đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Lại có cùng một họ, tức là họ Phả La Đọa. Di Lặc hăy nên biết! Vị Phật đầu tiên và các vị Phật sau đó đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, mười hiệu trọn đủ, pháp do các Ngài nói chặng đầu, chặng giữa, và chặng cuối đều tốt lành).

         

          Vị Phật trước, vị Phật sau, không vị nào chẳng thí Đốn, thí Tiệm, ḥng [chúng sanh được hóa độ, sẽ] hội nhập “phi Đốn, phi Tiệm”. Ngài Văn Thù khéo nói, chẳng chú trọng văn từ rườm rà. V́ thế, đối với vị Phật đầu tiên, nói cặn kẽ Đốn, Tiệm đă đồng, chẳng qua chỉ nêu đại lược về sự khai hiển (khai Quyền, hiển Thật). Nay đối với hai vạn vị Phật, chỉ nói cùng tên, cùng họ, cùng đủ mười hiệu giống nhau, thuyết pháp tốt lành như nhau. Cho đến vị Phật cuối cùng, mới nói cặn kẽ sự tương đồng giữa hiện tại và tương lai. Nhật Nguyệt Đăng Minh đă gọi là danh, mà cũng gọi là tự, hoặc cũng gọi là hiệu. V́ thế, biết ba thứ “danh, tự, hiệu” chỉ là giả lập, vốn chẳng có thân, sơ, chẳng giống như người hiện thời hư vọng sanh phân biệt, có chuyện kiêng tên húy và chẳng kiêng tên húy.

          Phả La Đọa (Bharadvaja) là họ, được dịch nghĩa là Tiệp Tật (捷疾, nhanh chóng), cũng dịch là Lợi Căn, c̣n dịch là Măn Ngữ, thuộc chủng tánh Bà La Môn. Giải thích theo quán tâm th́ Thập Thiện mỗi điều đều có bách giới thiên như, hợp thành một vạn. Tự hành và hóa độ người khác đều trọn đủ, nên thành hai vạn.

 

1.2.1.1.5.1.3.3. Dẫn chứng vị Phật cuối cùng cũng giống như vậy

 

          Phần này lại chia làm ba: Một là chuyện đă từng trông thấy giống như chuyện đă xảy ra trong hiện tại, hai là chuyện đă từng trông thấy giống với chuyện đang xảy ra trong hiện tại, ba là chuyện đă từng trông thấy giống với chuyện sẽ xảy ra trong hiện tại.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.1. Chuyện đă từng trông thấy giống như chuyện đă xảy ra trong hiện tại

 

          (Kinh) Kỳ tối hậu Phật vị xuất gia thời, hữu bát vương tử, nhất danh Hữu Ư, nhị danh Thiện Ư, tam danh Vô Lượng Ư, tứ danh Bảo Ư, ngũ danh Tăng Ư, lục danh Trừ Nghi Ư, thất danh Hưởng Ư, bát danh Pháp Ư. Thị bát vương tử oai đức tự tại, các lănh tứ thiên hạ. Thị chư vương tử, văn phụ xuất gia, đắc A Nậu Đa La Tam Miu Tam Bồ Đề, tất xả vương vị, diệc tùy xuất gia, phát Đại Thừa ư, thường tu phạm hạnh, giai vi pháp sư. Dĩ ư thiên vạn Phật sở, thực chư thiện bổn.

          ()其最後佛未出家時。有八王子。一名有意。二名善意。三名無量意。四名寶意。五名增意。六名除疑意。七名響意。八名法意。是八王子。威德自在。各領四天下。是諸王子。聞父出家得阿耨多羅三藐三菩提。悉捨王位。亦隨出家。發大乘意。常修梵行。皆為法師。已於千萬佛所植諸善本。

          (Kinh: Vị Phật cuối cùng lúc chưa xuất gia, có tám vương tử: Một tên là Hữu Ư (Mati), hai tên là Thiện Ư (Sumati), ba tên là Vô Lượng Ư (Anantamati), bốn tên là Bảo Ư (Ratimati), năm tên là Tăng Ư (Viśeṣamati), sáu tên là Trừ Nghi Ư (Vimatisamudghātin), bảy tên là Hưởng Ư (Ghoṣamati), tám tên là Pháp Ư (Dharmamati). Tám vương tử ấy oai đức tự tại, mỗi vị đều thống lănh bốn thiên hạ. Các vị vương tử ấy nghe tin cha xuất gia đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều bỏ ngôi vua, cũng theo cha xuất gia, phát ư Đại Thừa, thường tu phạm hạnh, đều là pháp sư, đă trồng các cội đức nơi ngàn vạn vị Phật).

 

          Vị Phật thuở trước có tám người con, vị Phật hiện tại chỉ có một, số lượng tuy khác, nhưng đều xuất hiện trong cơi Đồng Cư. Do cơi nước có Kiến Tư, đều thị hiện có con. Chuyện có con giống nhau, nhưng một hay tám là do duyên, mỗi bên đều có sự biểu thị riêng. Một con biểu thị nhất đạo thanh tịnh, tám con biểu thị Bát Chánh Đạo[3]. Lại nữa, con của vị Phật xưa kia phát ư Đại Thừa, con của vị Phật hiện tại (tức La Hầu La) trụ trong quả Tiểu Thừa, sao ở đây lại nói là “giống nhau”? Xưa kia, giáo hóa đă xong, hiển lộ chuyện thuộc Bổn, nên nói là “phát Đại Thừa ư”. [Con của vị Phật] trong hiện tại th́ chưa nêu bày Tích, [cho nên] vẫn nói là La Hán, đến kinh văn trong phần sau sẽ hiển Bổn, [mới biết La Hầu La] chính là Bồ Tát. Đó là ư nghĩa giống nhau. Mỗi vị [vương tử của Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật] đều thống lănh tứ thiên hạ[4], tức là Kim Luân Vương. Có kẻ nói “Luân Vương chưa chắc đă gặp Phật”, lời ấy chẳng đúng!

 

1.2.1.1.5.1.3.3.2. Chuyện đă từng thấy giống như chuyện trong hiện tại

         

          Gồm hai phần: Một là hiện tướng lành giống nhau, hai là nghi niệm giống nhau.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.2.1. Hiện tướng lành giống nhau

 

          Lại chia thành hai tiểu đoạn: Một là giống như sáu tướng lành trong cơi này. Hai là giống như sáu tướng lành trong cơi khác.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.2.1.1. Giống như sáu tướng lành trong cơi này

 

          (Kinh) Thị thời, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật thuyết Đại Thừa kinh, danh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết thị kinh dĩ, tức ư đại chúng trung, kết gia phu tọa, nhập ư Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động. Thị thời, thiên vũ mạn-đà-la hoa, ma-ha-mạn-đà-la hoa, mạn-thù-sa hoa, ma-ha-mạn-thù-sa hoa, nhi tán Phật thượng, cập chư đại chúng. Phổ Phật thế giới, lục chủng chấn động. Nhĩ thời, hội trung tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, cập chư tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương đẳng. Thị chư đại chúng, đắc vị tằng hữu, hoan hỷ hiệp chưởng, nhất tâm quán Phật. Nhĩ thời, Như Lai phóng mi gian bạch hào tướng quang, chiếu Đông phương vạn bát thiên độ, mỵ bất châu biến.

          ()是時日月燈明佛。說大乘經。名無量義。教菩薩法。佛所護念。說是經已。卽於大眾中結加趺坐。入於無量義處三昧。身心不動。是時天雨曼陀羅華。摩訶曼陀羅華。曼殊沙華。摩訶曼殊沙華。而散佛上。及諸大眾。普佛世界。六種震動。爾時會中比丘比丘尼優婆塞優婆夷。天龍夜叉乾闥婆阿修羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽。人。非人。及諸小王。轉輪聖王等。是諸大眾。得未曾有。歡喜合掌。一心觀佛。爾時如來。放眉間白毫相光。照東方萬八千土。靡不周徧。

          (Kinh: Lúc đó, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật nói kinh Đại Thừa tên là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói kinh ấy xong, liền ở giữa đại chúng, ngồi xếp bằng, nhập Vô Lượng Nghĩa Xứ tam-muội, thân tâm bất động. Lúc ấy, trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha-mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha-mạn-thù-sa để rải lên Phật và các đại chúng. Khắp thế giới Phật, sáu thứ chấn động. Lúc bấy giờ, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, và các tiểu vương, Chuyển Luân Thánh Vương v.v… trong hội, các đại chúng ấy đều đạt được điều chưa từng có, hoan hỷ chắp tay, nhất tâm quán Phật. Lúc bấy giờ, Như Lai phóng quang từ tướng bạch hào giữa hai mày, chiếu sáng một vạn tám ngàn cơi ở phương Đông, không đâu chẳng trọn khắp).

 

1.2.1.1.5.1.3.3.2.1.2. Giống như sáu tướng lành trong cơi kia

 

          (Kinh) Như kim sở kiến thị chư Phật độ.

          ()如今所見是諸佛土。

          (Kinh: Như các cơi Phật trông thấy trong ngày nay).

 

          Chỉ nói “như kim sở kiến” (như thấy trong hiện thời), văn giản lược nhưng ư nghĩa trọn vẹn. Phần thứ nhất, hiện điều lành giống nhau đă xong.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.2.2. Nghi niệm giống nhau

 

          (Kinh) Di Lặc đương tri: Nhĩ thời, hội trung hữu nhị thập ức Bồ Tát nhạo dục thính pháp. Thị chư Bồ Tát, kiến thử quang minh phổ chiếu Phật độ, đắc vị tằng hữu, dục tri thử quang sở vị nhân duyên.

          ()彌勒當知。爾時會中。有二十億菩薩。樂欲聽法。是諸菩薩。見此光明普照佛土。得未曾有。欲知此光所為因緣。

          (Kinh: Di Lặc hăy nên biết: Trong hội thuở đó, có hai mươi ức Bồ Tát vui thích, muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát đó trông thấy quang minh ấy chiếu trọn khắp cơi Phật, đạt được điều chưa từng có, muốn biết quang minh ấy do v́ nhân duyên nào).

 

          Đă nói “muốn biết quang minh do nhân duyên nào” th́ theo đúng lư, phải có hai phần Tự nêu câu hỏi và trả lời câu hỏi, nhưng chẳng rườm lời. Phần thứ hai, “chuyện đă từng thấy giống như hiện thời đă xong.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3. Chuyện đă từng thấy sẽ giống như trong hiện tại

         

          Gồm năm phần: Một là do bậc đương cơ mà thuyết pháp giống nhau, hai là thời tiết giống nhau, ba là xướng “nhập diệt” giống nhau, bốn là thọ kư giống nhau, năm là sau khi Phật diệt độ, kinh lưu thông giống nhau.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.1. Do bậc đương cơ mà thuyết pháp giống nhau

 

          (Kinh) Thời hữu Bồ Tát, danh viết Diệu Quang, hữu bát bách đệ tử. Thị thời, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật tùng tam-muội khởi. Nhân Diệu Quang Bồ Tát, thuyết Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

          ()時有菩薩。名曰妙光。有八百弟子。是時日月燈明佛。從三昧起。因妙光菩薩。說大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。

          (Kinh: Khi đó, có Bồ Tát tên là Diệu Quang, có tám trăm đệ tử. Lúc ấy, Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật từ tam-muội xuất, v́ Diệu Quang Bồ Tát nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm).

 

          Vị Phật xưa kia khởi Định, v́ Diệu Quang Bồ Tát (Varaprabha)[5] nói kinh. Vị Phật hiện tại khởi Định, v́ Xá Lợi Phất nói kinh. Xá Lợi Phất là thầy của La Hầu La. Diệu Quang xưa kia là thầy của tám vương tử, cho nên nói là “giống nhau”. Lại nữa, Xá Lợi Phất đă được thọ kư, thật sự là Bồ Tát. Xưa kia, lúc Diệu Quang nghe Pháp, việc ǵ phải thị hiện làm Thanh Văn?

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.2. Thời tiết giống nhau

 

          (Kinh) Lục thập tiểu kiếp, bất khởi vu ṭa, thời hội thính giả, diệc tọa nhất xứ, lục thập tiểu kiếp, thân tâm bất động, thính Phật sở thuyết, vị như thực khoảnh. Thị thời chúng trung, vô hữu nhất nhân, nhược thân, nhược tâm, nhi sanh giải quyện.

          ()六十小劫。不起于座。時會聽者。亦坐一處。六十小劫。身心不動。聽佛所說。謂如食頃。是時眾中。無有一人。若身若心。而生懈倦。

          (Kinh: Sáu mươi tiểu kiếp, chẳng đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Người nghe trong hội khi đó, cũng ngồi một chỗ suốt sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm bất động, nghe lời Phật dạy, cho là như trong khoảng bữa ăn. Trong đại chúng khi đó, chẳng có một ai dù thân hay tâm sanh lười nhác, mệt mỏi).

         

          Điều này giống như kinh văn trong phần sau nói “năm mươi tiểu kiếp coi như nửa ngày”, do Phật lực gia tŕ, cho nên quên dài, thấy là ngắn. Trong phần sau, sẽ giải thích cặn kẽ.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.3. Xướng nhập diệt giống nhau

 

          (Kinh) Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật ư lục thập tiểu kiếp, thuyết thị kinh dĩ, tức ư Phạm, ma, sa-môn, Bà-la-môn, thiên, nhân A Tu La chúng trung, nhi tuyên thử ngôn: “Như Lai ư kim nhật trung dạ, đương nhập Vô Dư Niết Bàn”.

          ()日月燈明佛。於六十小劫說是經已。卽於梵魔沙門婆羅門天人阿修羅眾中而宣此言。如來於今日中夜。當入無餘涅槃。

          (Kinh: Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật trong sáu mươi tiểu kiếp, nói kinh ấy xong, liền ở trong đại chúng Phạm, ma, sa-môn, Bà-la-môn, trời, người, A Tu La, tuyên bố lời này: “Vào nửa đêm hôm nay, Như Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn”).

 

          Xưa kia nói Pháp Hoa liền xướng “nhập diệt”. Trong phẩm Hiện Bảo Tháp [của kinh Pháp Hoa], đức Phật hiện thời cũng nói Như Lai không lâu sau sẽ nhập Niết Bàn. Giáo hóa đă xong, xướng “nhập diệt” giống như nhau. Phạm là chúa của Sắc Giới, Ma (Māras) là chúa của Dục Giới (tức Tha Hóa Tự Tại thiên chúa). Sa-môn (śramaṇa) được phương này dịch là Cần Tức (勤息, siêng năng dứt diệt [phiền năo]). Người xuất gia đều được gọi bằng danh xưng này. Bà-la-môn được phương này dịch là Tịnh Duệ (淨裔, hậu duệ thanh tịnh [của Phạm Thiên]), c̣n dịch là Phạm Chí (梵志, dốc chí sống cuộc đời thanh tịnh), tức là chủng tánh tôn quư trong hàng tại gia. Nói “thiên, nhân, A Tu La” nhằm nêu đại lược ba loại thiện đạo, đều là [liệt kê] theo phương diện thù thắng do họ dễ nhập Phật pháp vậy.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.4. Thọ kư giống nhau

 

          (Kinh) Thời hữu Bồ Tát, danh viết Đức Tạng. Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật tức thọ kỳ kư, cáo chư tỳ-kheo: “Thị Đức Tạng Bồ Tát, thứ đương tác Phật, hiệu viết Tịnh Thân Đa Đà A Già Độ, A La Ha, Tam Miệu Tam Phật Đà.

          ()時有菩薩。名曰德藏。日月燈明佛卽授其記。告諸比丘。是德藏菩薩。次當作佛。號曰淨身多陀阿伽度阿羅訶三藐三佛陀。

          (Kinh: Khi ấy có Bồ Tát tên là Đức Tạng[6]. Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật liền thọ kư cho vị ấy, bảo các tỳ-kheo: “Ông Đức Tạng Bồ Tát (Śrīgarbha) này kế tiếp sẽ làm Phật, hiệu là Tịnh Thân (Vimalāṅganetra) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri”).

 

          Thọ kư cho Thanh Văn là phần Chánh Tông của kinh này, chẳng nên tiết lộ sẵn. Nay nói thọ kư cho bậc Bổ Xứ tức là giống như Phật Thích Ca thọ kư Di Lặc vậy.

          Hỏi: Trong Pháp Hoa chưa hề thọ kư cho ngài Di Lặc, há có nên dẫn chứng là giống nhau?

          Đáp: Chỉ xét theo một đời giáo hóa của đôi bên giống nhau, nghĩa ấy là đủ rồi, cần ǵ cứ phải câu nệ cưỡng ép tương xứng từng chi tiết nhỏ nhặt! Huống hồ Phạn bản của kinh Pháp Hoa chất đống dài đến tám dặm, không thể nào truyền trọn hết sang Trung Hoa được? Ai biết là trong bản tiếng Phạn chẳng có phần kinh văn thọ kư cho bậc Bổ Xứ hay không? Trong phần Thọ Kư, nêu đại lược ba đức, dù ba hay mười, đều là b́nh đẳng!

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.5. Sau khi Phật diệt độ, lưu thông kinh giống nhau

 

          Gồm ba đoạn: Một, nói về sự nhập diệt, hai là nói đến lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật nhập diệt, ba là tổng kết, dung hội xưa nay.

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.5.1. Nói đến sự nhập diệt

 

          (Kinh) Phật thọ kư dĩ, tiện ư trung dạ, nhập Vô Dư Niết Bàn.

          ()佛授記已。便於中夜入無餘涅槃。

          (Kinh: Đức Phật thọ kư xong, liền vào nửa đêm, nhập Vô Dư Niết Bàn).

 

          Thọ kư rồi liền nhập Niết Bàn: Tuy cùng xuất hiện trong cơi Đồng Cư, nhưng Ngũ Trược chưa quá đáng; v́ thế, chẳng cần nói thêm kinh Đại Niết Bàn. Như đức Phật Ca Diếp trong cơi này cũng nói kinh Pháp Hoa xong, bèn nhập Niết Bàn. Nhưng Vô Dư Niết Bàn nghĩa thông với Đại Thừa và Tiểu Thừa, cần phải giảng rơ đôi chút. Có người nói: “Tiểu Thừa do c̣n bị trói buộc nơi quả th́ gọi là Hữu Dư, thân lẫn trí đều như tro th́ gọi là Vô Dư. Đại Thừa do đă thấu hiểu cùng tận ngũ trụ, cho nên gọi là Vô Dư”. Đấy cũng là một cách giải thích. Luận chung về Niết Bàn, có ba loại:

          - Một là tánh tịnh Niết Bàn: Thánh phàm b́nh đẳng, tức Pháp Thân đức.

          - Hai là viên tịnh Niết Bàn, ra khỏi chướng, viên minh, tức Bát Nhă đức.

          - Ba là phương tiện tịnh Niết Bàn: V́ chúng sanh, chẳng phải sanh mà thị hiện có sanh, chẳng phải diệt mà thị hiện có diệt, tức Giải Thoát đức.

          Duy Thức lại nói có bốn thứ Niết Bàn:

          - Một là Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn: Phật và chúng sanh b́nh đẳng cùng có, chẳng do tu mà đạt được.

          - Hai là Hữu Dư Y Niết Bàn, tức là Chân Như thoát khỏi Phiền Năo Chướng, dư y[7] chưa diệt. Tam thừa khi mới chứng Vô Học đạo, sẽ đạt được [loại Niết Bàn này].

          - Ba là Vô Dư Y Niết Bàn, tức là phiền năo đă hết, khổ y cũng diệt. Đó là sở chứng của bậc Vô Học trong tam thừa khi thân và trí đều tận.

          - Bốn là Vô Trụ Xứ Niết Bàn, tức là Chân Như vượt ngoài Sở Tri Chướng, đại bi Bát Nhă thường giúp đỡ, chẳng trụ trong sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn, cho đến tột cùng đời vị lai, tịch mà thường chiếu, lợi ích chúng sanh.

          Nay đem bốn [loại Niết Bàn trong Duy Thức] đối chiếu với ba [loại Niết Bàn trước đó] để có thể hiểu ư nghĩa. Tự tánh thanh tịnh chính là tánh tịnh. Hữu Dư, Vô Dư, thoát khỏi Phiền Năo Chướng th́ chính là vô trụ. Thoát khỏi Sở Tri Chướng th́ là viên tịnh. Từ Thể khởi Dụng, nhiều lượt xướng sanh, xướng diệt, nhưng thật sự chẳng sanh, chẳng diệt, tức là phương tiện tịnh. Duy Thức lại nói: “Hết thảy chúng sanh chỉ có loại đầu tiên (tự tánh thanh tịnh Niết Bàn), hàng Nhị Thừa vô học có ba loại đầu (tự tánh thanh tịnh, hữu dư, vô dư Niết Bàn), chỉ có đức Thế Tôn có thể nói trọn đủ cả bốn”. Bởi lẽ, tánh tịnh Pháp Thân chúng sanh đều cùng có. V́ thế, đều có loại thứ nhất. Khi hàng Nhị Thừa chứng Vô Học, th́ là Hữu Dư Y, chẳng gọi là Vô Dư. Cho tới khi nhập diệt th́ mới gọi là Vô Dư, chẳng gọi là Hữu Dư. Đấy chính là trước sau chẳng cùng lúc, cho nên nói là “có cả ba thứ đầu tiên”. Như Lai ngồi dưới cội Bồ Đề, thành Đẳng Chánh Giác, tất cả thân tâm chẳng c̣n hữu lậu. Khổ y[8] vĩnh viễn hết sạch, th́ gọi là Vô Dư Y. Khổ y chẳng tồn tại, tức là Ngũ Uẩn chân thường th́ gọi là Hữu Dư Y. Chẳng trụ vào hai bên, th́ gọi là Vô Trụ Xứ. Đấy chính là ư nghĩa “bốn loại Niết Bàn đồng thời trọn đủ”. V́ thế, có thể nói là “trọn đủ cả bốn loại”. Do vậy bảo là thoạt đầu, thành Chánh Giác, đă nhập trọn vẹn bốn loại Niết Bàn”. Nay nói “nửa đêm nhập Tịch Diệt”, tức là v́ hàng độn căn trong cơi Đồng Cư mà thị hiện diệt độ giống như Nhị Thừa. Đấy chính là diệu dụng của phương tiện thanh tịnh, chẳng phải là thật sự diệt bèn nói là diệt, diệt có bao giờ diệt ư?

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.5.2. Nói về lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ

 

          (Kinh) Phật diệt độ hậu, Diệu Quang Bồ Tát tŕ Diệu Pháp Liên Hoa kinh măn bát thập tiểu kiếp, vị nhân diễn thuyết. Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật bát tử giai sư Diệu Quang. Diệu Quang giáo hóa, linh kỳ kiên cố A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị chư vương tử cúng dường vô lượng bách thiên vạn ức Phật dĩ, giai thành Phật đạo. Kỳ tối hậu thành Phật giả, danh viết Nhiên Đăng. Bát bách đệ tử trung, hữu nhất nhân, hiệu Cầu Danh, tham trước lợi dưỡng. Tuy phục độc tụng chúng kinh, nhi bất thông lợi, đa sở vong thất, cố hiệu Cầu Danh. Thị nhân diệc dĩ chủng chư thiện căn nhân duyên cố, đắc trị vô lượng bách thiên vạn ức chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.

          ()佛滅度後。妙光菩薩。持妙法蓮華經。滿八十小劫。為人演說。日月燈明佛八子。皆師妙光。妙光教化。令其堅固阿耨多羅三藐三菩提。是諸王子。供養無量百千萬億佛已。皆成佛道。其最後成佛者。名曰然燈。八百弟子。中有一人。號曰求名。貪著利養。雖復讀誦眾經。而不通利。多所忘失。故號求名。是人亦以種諸善根因緣故。得值無量百千萬億諸佛。供養恭敬尊重讚歎。

          (Kinh: Sau khi đức Phật diệt độ, Diệu Quang Bồ Tát tŕ kinh Diệu Pháp Liên Hoa trọn tám mươi tiểu kiếp, v́ người khác diễn nói. Tám người con của Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật đều tôn ngài Diệu Quang làm thầy. Diệu Quang giáo hóa, khiến cho họ kiên cố nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Các vị vương tử ấy đă cúng dường vô lượng trăm ngàn vạn ức Phật rồi, đều thành Phật đạo. Vị thành Phật cuối cùng tên là Nhiên Đăng[9]. Trong tám trăm đệ tử, có một người tên là Cầu Danh (Yaśaskāma). Do tham đắm lợi dưỡng, dẫu đọc tụng các kinh, nhưng chẳng thông suốt, phần nhiều quên mất, nên được gọi là Cầu Danh. Người ấy cũng do nhân duyên đă gieo các thiện căn mà được gặp vô lượng trăm ngàn vạn ức chư Phật, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán).

 

          “Diệt hậu” (sau khi đức Phật diệt độ) nói rơ lúc lưu thông kinh. Diệu Quang là người lưu thông kinh. “Tám mươi tiểu kiếp” là nói rơ thời gian lưu thông kinh bao lâu. Tám người con và Cầu Danh là nói đến lợi ích do lưu thông kinh. “Kiên cố”: Đă thành tựu trước đó từ lâu rồi. Cầu Danh là vị kế tiếp được Bổ Xứ làm Phật, cùng hiển lộ nhân duyên trong Phật đạo “hoàn toàn cậy vào thầy và bạn”, mà cũng hoàn toàn do tu chứng, hai đằng chẳng hư dối vậy!

 

1.2.1.1.5.1.3.3.3.5.3. Tổng kết, dung hội xưa nay

 

          (Kinh) Di Lặc đương tri: Nhĩ thời, Diệu Quang Bồ Tát, khởi dị nhân hồ? Ngă thân thị dă. Cầu Danh Bồ Tát, nhữ thân thị dă.

          ()彌勒當知。爾時妙光菩薩。豈異人乎。我身是也。求名菩薩汝身是也。

          (Kinh: Di Lặc hăy nên biết: Diệu Quang Bồ Tát khi đó, há phải ai khác? Chính là thân ta. Cầu Danh Bồ Tát chính là thân ông).

 

          Nói rơ lợi ích do lưu thông kinh, hướng dẫn tám vương tử và tám trăm đệ tử, cho đến kết lại, dung hội xưa nay. Gần là giải trừ điều nghi, nhằm ngầm mở ra thọ lượng. Hoặc là có kẻ nghi ngờ: “Ngài Di Lặc là bậc Bổ Xứ, không nên hỏi, ngài Văn Thù chẳng phải là Bổ Xứ, không nên đáp!” Nay nói rơ Di Lặc thuộc trong số tám trăm [đệ tử của Diệu Quang Bồ Tát], phải nên thưa hỏi. Văn Thù trước kia đă làm thầy, hoằng dương và lưu truyền diệu pháp, cho nên Ngài giải trừ mối nghi chẳng sai lầm! Lại nữa, người nhỏ nhất trong tám vương tử đă thành Nhiên Đăng Phật; Nhiên Đăng thọ kư cho Phật Thích Ca. Nay Văn Thù vốn là sư tổ, lại làm đệ tử Phật Thích Ca. Thầy tṛ không nhất định, nhằm ngầm hiển thị “sanh mà chẳng sanh, diệt mà chẳng diệt”.

          Hỏi: Xưa kia, Di Lặc đă từng thấy chư Phật, từng nghe Pháp Hoa, cớ sao nghi ngờ thưa hỏi?

          Đáp: Do cơ nghi của đại chúng trong thuở đó cần phải được kích phát.

          Phần thứ ba, “rộng nêu những chuyện từng thấy để giải đáp đă xong.

 

1.2.1.1.5.1.4. Phán định phân minh để giải đáp

 

          (Kinh) Kim kiến thử thụy, dữ bổn vô dị, thị cố duy thổn, kim nhật Như Lai đương thuyết Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

          ()今見此瑞。與本無異。是故惟忖。今日如來當說大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。

          (Kinh: Nay thấy tướng lành này, chẳng khác thuở đó. V́ thế, tôi xét nghĩ, ngày nay Như Lai sẽ nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm).

 

          Sáu tướng lành xưa và nay đă giống nhau, xét nghĩ quyết định chẳng sai: Đức Phật sẽ nói Đại Thừa, chắc chắn đó là tướng lành trước khi thuyết pháp. [Do bản kinh] có tên là Diệu Pháp Liên Hoa, chắc chắn trước đó có tướng lành mưa hoa. Pháp để dạy Bồ Tát, chắc chắn là trước đó có tướng lành đại chúng hoan hỷ. Do [kinh ấy] được Phật hộ niệm, chắc chắn là trước đó có tướng lành cơi đất chấn động. V́ cách giải đáp là trước hết nêu ra dấu hiệu tương ứng, sau đó mới khẳng định. Do vậy, nay phán định rơ ràng để đại chúng nhất loạt hiểu rơ, chẳng ngờ. Huống chi đại thánh Văn Thù đă suy nghĩ trước rồi mới đoan quyết ư? Phần Trường Hàng trong lời đáp đă xong.

 

1.2.1.1.5.2. Kệ tụng

 

          Gồm hai phần: Một là phần kệ tụng nêu cặn kẽ các chuyện đă từng thấy để giải đáp, hai là phần kệ tụng về lời giải đáp do phán định phân minh.

 

1.2.1.1.5.2.1. Kệ tụng nêu cặn kẽ các chuyện đă từng thấy để giải đáp

 

          Chia thành hai phần: Một là kệ tụng về một đức Phật [và đức Phật hiện tại hiện tướng lành] giống nhau, hai là kệ tụng về vị Phật cuối cùng [và đức Phật hiện tại hiện tướng lành] giống nhau, chẳng trùng tụng phần “suy xét và nêu bày đại lược”, chỉ trùng tụng phần nêu bày cặn kẽ. Nhưng trong phần [trùng tụng] về sự nêu bày cặn kẽ, chỉ trùng tụng vị Phật đầu tiên và cuối cùng, tỉnh lược các vị Phật trung gian là đă đủ hiển lộ ư nghĩa rồi, chẳng cần phải rườm lời!

 

1.2.1.1.5.2.1.1. Kệ tụng về một đức Phật giống nhau

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Văn Thù Sư Lợi ư đại chúng trung, dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă niệm quá khứ thế, vô lượng vô số kiếp. Hữu Phật nhân trung tôn, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Thế Tôn diễn thuyết pháp. Độ vô lượng chúng sanh. Vô số ức Bồ Tát, linh nhập Phật trí huệ.

          ()爾時文殊師利。於大眾中。欲重宣此義而說偈言。我念過去世。無量無數劫。有佛人中尊。號日月燈明。世尊演說法。度無量眾生。無數億菩薩。令入佛智慧。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi ở trong đại chúng, muốn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Tôi nhớ đời quá khứ, vô lượng vô số kiếp, có Phật nhân trung tôn[10], hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Thế Tôn diễn nói pháp, độ vô lượng chúng sanh, vô số ức Bồ Tát, khiến nhập trí huệ Phật).

 

          Bài kệ tụng này nói về thời tiết, nhân duyên, danh hiệu, và thuyết pháp v.v…

 

1.2.1.1.5.2.1.2. Kệ tụng về vị Phật cuối cùng giống nhau

 

          Chia thành ba phần: Một là kệ tụng về chuyện đă thấy giống hệt như chuyện đă xảy ra trong hiện tại, hai là kệ tụng về chuyện đă từng thấy giống như chuyện đang xảy ra trong hiện tại, ba là kệ tụng về chuyện đă thấy giống như chuyện sẽ xảy ra trong hiện tại.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.1. Kệ tụng về chuyện đă thấy giống như chuyện đă xảy ra trong hiện tại

 

          (Kinh) Phật vị xuất gia thời, sở sanh bát vương tử, kiến đại thánh xuất gia, diệc tùy tu phạm hạnh.

          ()佛未出家時。所生八王子。見大聖出家。亦隨修梵行。

          (Kinh: Lúc Phật chưa xuất gia, sanh ra tám vương tử, thấy đại thánh xuất gia, cũng theo tu phạm hạnh).

 

1.2.1.1.5.2.1.2.2. Kệ tụng về chuyện đă từng thấy giống như chuyện đang xảy ra trong hiện tại

         

           Chia thành hai phần: Một là kệ tụng hiện điềm lành giống nhau, hai là kệ tụng về nghi niệm giống nhau.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.2.1. Kệ tụng điềm lành giống nhau

         

          Lại chia thành hai phần: Một là kệ tụng sáu điều lành trong cơi này giống nhau, hai là kệ tụng sáu điều lành trong cơi khác giống nhau.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.2.1.1. Kệ tụng sáu điều lành trong cơi này giống nhau        

 

          (Kinh) Thời Phật thuyết Đại Thừa, kinh danh Vô Lượng Nghĩa. Ư chư đại chúng trung, nhi vị quảng phân biệt. Phật thuyết thử kinh dĩ, tức ư pháp ṭa thượng. Gia phu tọa tam-muội, danh Vô Lượng Nghĩa Xứ. Thiên vũ mạn-đà hoa. Thiên cổ tự nhiên minh. Chư thiên, long, quỷ thần, cúng dường Nhân Trung Tôn. Nhất thiết chư Phật độ, tức thời đại chấn động. Phật phóng mi gian quang, hiện chư hy hữu sự.

          ()時佛說大乘。經名無量義。於諸大眾中。而為廣分別。佛說此經已。卽於法座上。加趺坐三昧。名無量義處。天雨曼陀華。天鼓自然鳴。諸天龍鬼神。供養人中尊。一切諸佛土。卽時大震動。佛放眉間光。現諸希有事。

          (Kinh: Phật nói kinh Đại Thừa, tên là Vô Lượng Nghĩa. Ở trong các đại chúng, v́ họ rộng phân biệt. Phật nói kinh ấy xong, liền ngay trên pháp ṭa, xếp bằng, nhập tam-muội, tên Vô Lượng Nghĩa Xứ. Trời mưa hoa mạn-đà, trống trời tự nhiên vang. Chư thiên, rồng, quỷ thần, cúng dường Nhân Trung Tôn. Hết thảy các cơi Phật, lập tức chấn động lớn. Phật phóng quang giữa mày, hiện các chuyện hy hữu).

 

          Trong bài kệ tụng, nêu ra chuyện trống trời tự vang tiếng, biểu thị chuyện Vô Vấn Tự Thuyết (không ai hỏi mà tự nói) trong phẩm Phương Tiện. “Hiện các chuyện hy hữu” tức là trùng tụng chung các điều lành.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.2.1.2. Kệ tụng sáu điều lành trong cơi khác giống nhau

 

          Phần kinh văn Trường Hàng chỉ nói đại lược “như kim sở kiến thị chư Phật độ” (như các cơi Phật được trông thấy trong hiện thời), phần kệ tụng này nói chi tiết. Dẫu lời văn tung hoành biến hóa, nói chung chẳng ra ngoài ư nghĩa sáu tướng lành.

 

          (Kinh) Thử quang chiếu Đông phương. Vạn bát thiên Phật độ, thị nhất thiết chúng sanh, sanh tử nghiệp báo xứ. Hữu kiến chư Phật độ, dĩ chúng bảo trang nghiêm, lưu ly, pha ly sắc, tư do Phật quang chiếu.

          ()此光照東方。萬八千佛土。示一切眾生。生死業報處。有見諸佛土。以眾寶莊巖。琉璃玻璃色。斯由佛光照。

          (Kinh: Quang ấy chiếu phương Đông, vạn tám ngàn cơi Phật, hiện hết thảy chúng sanh, chỗ sanh tử nghiệp báo. Thấy có các cơi Phật, dùng các báu trang nghiêm, lưu ly, màu pha lê, đều do Phật quang soi).

 

          Đây là trùng tụng chuyện thấy tướng lành trong sáu đường nơi cơi ấy, lại c̣n hiển lộ kèm thêm các cơi tịnh uế bất đồng.

 

          (Kinh) Cập kiến chư thiên, nhân, long, thần, Dạ Xoa chúng, Càn Thát, Khẩn Na La, các cúng dường kỳ Phật.

          ()及見諸天人。龍神夜叉眾。乾闥緊那羅。各供養其佛。

          (Kinh: Và thấy các trời, người, rồng, thần, chúng Dạ Xoa, Càn Thát, Khẩn Na La, đều cúng dường Phật ấy).

 

          Bài tụng này hiển thị trong sáu đường có căn cơ thuộc về Phật giới.

 

          (Kinh) Hựu kiến chư Như Lai, tự nhiên thành Phật đạo. Thân sắc như kim sơn, đoan nghiêm thậm vi diệu. Như tịnh lưu ly trung. Nội hiện chân kim tượng, Thế Tôn tại đại chúng, phu diễn thâm pháp nghĩa.

          ()又見諸如來。自然成佛道。身色如金山。端嚴甚微妙。如淨琉璃中。內現真金像。世尊在大眾。敷演深法義。

          (Kinh: Lại thấy các Như Lai, tự nhiên thành Phật đạo. Thân sắc như núi vàng, đoan nghiêm rất vi diệu. Như nơi lưu ly sạch, hiện h́nh tượng vàng ṛng, Thế Tôn giữa đại chúng, phô diễn pháp nghĩa sâu).

 

          Đây là trùng tụng về điều lành thấy đức Phật ấy và nghe Ngài thuyết pháp. “Tự nhiên thành Phật đạo”: Phương tiện đạo th́ thêm dụng tâm tu tập. Phát chân đạo tức là tùy ư tự nhiên hợp với Lư. Tạng Phật (Phật trong Tạng Giáo) hễ ngồi xuống th́ tùy ư [vận dụng] ba mươi bốn tâm, Phật trong Thông Giáo th́ một niệm tương ứng, chẳng cần phải vận dụng công sức. Diệu Giác trong Biệt Giáo và Viên Giáo vốn đạt được tương ứng, tự nhiên thành Phật đạo; đó là Báo Thân. “Lưu ly” là Pháp Thân vốn thanh tịnh. “Tượng vàng” là ứng theo [tâm nguyện của] chúng sanh mà hiện h́nh. “Thâm pháp nghĩa” (pháp nghĩa sâu) chính là Đốn Giáo Đại Thừa.

 

          (Kinh) Nhất nhất chư Phật độ, Thanh Văn chúng vô số. Nhân Phật quang sở chiếu, tất kiến bỉ đại chúng. Hoặc hữu chư tỳ-kheo, tại ư sơn lâm trung, tinh tấn tŕ tịnh giới, do như hộ minh châu.

          ()一一諸佛土。聲聞眾無數。因佛光所照。悉見彼大眾。或有諸比丘。在於山林中。精進持淨戒。猶如護明珠。

          (Kinh: Trong mỗi một cơi Phật, hàng Thanh Văn vô số, do Phật quang chiếu đến, đều thấy đại chúng đó. Hoặc có các tỳ-kheo, ở trong chốn núi rừng, tinh tấn giữ tịnh giới, như bảo vệ minh châu).

 

          Đây là trùng tụng tướng lành đắc đạo của tứ chúng trong cơi kia. Nêu ra Thanh Văn để nói gộp chung tam thừa trong Tạng Giáo. Nêu ra tỳ-kheo để gộp chung tứ chúng. Hoặc hiểu bài kệ thứ hai nhằm nói về Lục Độ trong phần sau th́ cũng được!

 

          (Kinh) Hựu kiến chư Bồ Tát, hành Thí, Nhẫn Nhục đẳng, kỳ số như Hằng sa, tư do Phật quang chiếu. Hựu kiến chư Bồ Tát, thâm nhập chư Thiền Định, thân tâm tịch bất động, dĩ cầu vô thượng đạo. Hựu kiến chư Bồ Tát, tri pháp tịch diệt tướng, các ư kỳ quốc độ, thuyết pháp cầu Phật đạo.

          ()又見諸菩薩。行施忍辱等。其數如恒沙。斯由佛光照。又見諸菩薩。深入諸禪定。身心寂不動。以求無上道。又見諸菩薩。知法寂滅相。各於其國土。說法求佛道。

          (Kinh: Lại thấy các Bồ Tát, hành tŕ Thí, Nhẫn Nhục… Số như cát sông Hằng, đều do Phật quang chiếu. Lại thấy các Bồ Tát, thâm nhập các Thiền Định. Thân tâm lặng bất động, để cầu vô thượng đạo. Lại thấy các Bồ Tát, biết pháp tướng tịch diệt, đều ở trong nước ḿnh, thuyết pháp cầu Phật đạo).

 

          Đây là kệ tụng nói về tướng lành hành Bồ Tát hạnh trong cơi ấy. Lục Độ đă chung khắp bốn giáo, ắt Phương Đẳng, Bát Nhă sẽ đều tương đồng giữa phương Đông và cơi này. Phần kệ tụng thứ nhất về chuyện hiện tướng lành giống nhau đă xong.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.2.2. Trùng tụng về nghi niệm giống nhau

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tứ bộ chúng, kiến Nhật Nguyệt Đăng Phật, hiện đại thần thông lực. Kỳ tâm giai hoan hỷ, các các tự tương vấn: “Thị sự hà nhân duyên?”

          ()爾時四部眾。見日月燈佛。現大神通力。其心皆歡喜。各各自相問。是事何因緣。

          (Kinh: Bấy giờ, bốn bộ chúng, thấy Nhật Nguyệt Đăng Phật, hiện sức đại thần thông, tâm họ đều hoan hỷ, ai nấy đều thắc mắc: “Chuyện này nhân duyên nào?”)

         

          Phần thứ hai, trùng tụng về chuyện từng trông thấy giống như chuyện đang xảy ra trong hiện thời đă nói xong.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3. Kệ tụng về chuyện đă từng thấy giống như chuyện sẽ xảy ra trong hiện tại

         

          Gồm năm phần: Một là kệ tụng [nêu rơ] do người đương cơ mà thuyết pháp, hai là kệ tụng về thời tiết, bốn là kệ tụng về chuyện tuyên bố nhập diệt, năm là kệ tụng về chuyện lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.1. Trùng tụng về chuyện do người đương cơ mà thuyết pháp

 

          (Kinh) Thiên nhân sở phụng tôn, thích tùng tam-muội khởi, tán Diệu Quang Bồ Tát: “Nhữ vi thế gian nhăn, nhất thiết sở quy tín, năng phụng tŕ pháp tạng. Như ngă sở thuyết pháp, duy nhữ năng chứng tri”. Thế Tôn kư tán thán, linh Diệu Quang hoan hỷ, thuyết thị Pháp Hoa kinh.

          ()天人所奉尊。適從三昧起。讚妙光菩薩。汝為世間眼。一切所歸信。能奉持法藏。如我所說法。唯汝能證知。世尊旣讚歎。令妙光歡喜。說是法華經。

          (Kinh: Đấng trời người tôn phụng, vừa từ tam-muội xuất, khen Diệu Quang Bồ Tát: “Ông là mắt thế gian, mọi người tin, hướng về. Hay vâng giữ pháp tạng, như pháp của ta nói, chỉ ḿnh ông chứng biết”. Thế Tôn đă tán thán, khiến Diệu Quang hoan hỷ, nói kinh Pháp Hoa này).

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.2. Trùng tụng về thời tiết

 

          (Kinh) Măn lục thập tiểu kiếp, bất khởi ư thử ṭa, sở thuyết thượng diệu pháp, thị Diệu Quang pháp sư, tất giai năng thọ tŕ.

          ()滿六十小劫。不起於此座。所說上妙法。是妙光法師。悉皆能受持。

          (Kinh: Trọn sáu nươi tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi đó, pháp sư Diệu Quang ấy, đều có thể thọ tŕ).

 

          Sau khi nói xong Thí Thuyết Châu trong kinh văn thuộc phần sau, [đức Phật] liền bảo ngài Xá Lợi Phất rằng: “Vô trí nhân trung, mạc thuyết thử kinh” v.v… (giữa những kẻ vô trí, đừng nói kinh này). Hăy nên biết Diệu Quang đều có thể thọ tŕ đúng như hiện thời Xá Lợi Phất nhận lănh lời phó chúc của đức Phật.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.3. Trùng tụng về chuyện tuyên bố nhập diệt

 

          (Kinh) Phật thuyết thị Pháp Hoa, linh chúng hoan hỷ dĩ, tầm tức ư thị nhật, cáo ư thiên nhân chúng: “Chư pháp Thật Tướng nghĩa, dĩ vị nhữ đẳng thuyết, ngă kim ư trung dạ, đương nhập ư Niết Bàn. Nhữ nhất tâm tinh tấn, đương ly ư phóng dật, chư Phật thậm nan trị, ức kiếp thời nhất ngộ”.

          ()佛說是法華。令眾歡喜已。尋卽於是日。告於天人眾。諸法實相義。已為汝等說。我今於中夜。當入於涅槃。汝一心精進。當離於放逸。諸佛甚難值。億劫時一遇。

          (Kinh: Phật nói kinh Pháp Hoa, khiến chúng hoan hỷ rồi, liền ngay trong hôm ấy, bảo các trời người rằng: “Nghĩa Thật Tướng các pháp, đă v́ các ông nói, ta nay vào nửa đêm, sẽ nhập vào Niết Bàn. Ông nhất tâm tinh tấn, hăy ĺa các buông lung, chư Phật rất khó gặp, ức kiếp gặp một lần”).

 

          Trong kinh văn có tuyên bố sẽ nhập diệt và có chúc lụy. Chúc lụy giống như di giáo.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.4. Trùng tụng về chuyện thọ kư

 

          (Kinh) Thế Tôn chư tử đẳng, văn Phật nhập Niết Bàn, các các hoài bi năo: “Phật diệt nhất hà tốc?” Thánh chúa pháp trung vương, an ủy vô lượng chúng: “Ngă nhược diệt độ hậu, nhữ đẳng vật ưu bố. Thị Đức Tạng Bồ Tát, ư vô lậu Thật Tướng, tâm dĩ đắc thông đạt. Kỳ thứ đương tác Phật, hiệu viết vi Tịnh Thân, diệc độ vô lượng chúng”.

          ()世尊諸子等。聞佛入涅槃。各各懷悲惱。佛滅一何速。聖主法中王。安慰無量眾。我若滅度後。汝等勿憂怖。是德藏菩薩。於無漏實相。心已得通達。其次當作佛。號曰為淨身。亦度無量眾。

          (Kinh: Các con đức Thế Tôn, nghe Phật nhập Niết Bàn, ai nấy buồn áo năo: “Sao Phật diệt nhanh vậy?” Thánh chúa vua các pháp, an ủi vô lượng chúng: “Như sau ta diệt độ, các ngươi đừng lo sợ, Đức Tạng Bồ Tát đây, với Thật Tướng vô lậu, tâm đă được thông đạt. Kế tiếp sẽ làm Phật, danh hiệu là Tịnh Thân, cũng độ vô lượng chúng).

 

          Trong kinh văn có nói tới chuyện buồn khóc, có an ủi, phủ dụ. Do [đại chúng] buồn khóc, cho nên [Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật] an ủi, phủ dụ. Do an ủi, phủ dụ, bèn thọ kư cho vị Bổ Xứ Phật, giống như vị Phật trong hiện tại (Thích Ca Mâu Ni Phật) giao phó chúng sanh chưa đắc độ cho ngài Di Lặc.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.5. Kệ tụng về chuyện lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ

 

          Lại chia thành ba phần: Một là kệ tụng về sự thị hiện diệt độ, cúng dường, tinh tấn; hai là kệ tụng về lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ; ba là kệ tụng tiểu kết, dung hội xưa nay.

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.5.1. Kệ tụng về sự thị hiện diệt độ, cúng dường, tinh tấn

 

          (Kinh) Phật thử dạ diệt độ, như tân tận, hỏa diệt, phân bố chư xá-lợi, nhi khởi vô lượng tháp. Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, kỳ số như Hằng sa, bội phục gia tinh tấn, dĩ cầu vô thượng đạo.

          ()佛此夜滅度。如薪盡火滅。分佈諸舍利。而起無量塔。比丘比丘尼。其數如恒沙。倍復加精進。以求無上道。

          (Kinh: Đêm ấy, Phật diệt độ, như củi hết, lửa tắt, phân chia các xá-lợi, để dựng vô lượng tháp. Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, số như cát sông Hằng, càng tinh tấn gấp bội, để cầu đạo vô thượng).

 

          Phần Trường Hàng chỉ nói “nhập Niết Bàn”, kệ tụng kể thêm dựng tháp và tứ chúng tinh tấn cầu đạo. Đó gọi là “đối với kẻ đáng nên dùng Niết Bàn để đắc độ, liền hiện Niết Bàn để độ thoát họ”. “Tân tận, hỏa diệt” (củi hết, lửa tắt): Tiểu Thừa coi cái thân quả báo là củi, trí huệ là lửa. Huệ nương vào báo thân, thân diệt th́ trí mất, tức là hễ diệt bèn vĩnh viễn diệt. Đại Thừa coi căn cơ là củi, thích ứng căn cơ là lửa. Căn cơ đắc độ của chúng sanh đă hết, thân ứng hiện bèn diệt, ứng hiện trọn khắp pháp giới, chẳng thể biết cùng tận được!

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.5.2. Kệ tụng về lợi ích do lưu thông kinh sau khi Phật diệt độ    

 

          (Kinh) Thị Diệu Quang Bồ Tát, phụng tŕ Phật pháp tạng, bát thập tiểu kiếp trung, quảng tuyên Pháp Hoa kinh. Thị chư bát vương tử, Diệu Quang sở khai hóa, kiên cố vô thượng đạo, đương kiến vô số Phật. Cúng dường chư Phật dĩ, tùy thuận hành đại đạo, tương kế đắc thành Phật, chuyển thứ nhi thọ kư. Tối hậu Thiên Trung Thiên, hiệu viết Nhiên Đăng Phật, chư tiên chi đạo sư, độ thoát vô lượng chúng. Thị Diệu Quang pháp sư, thời hữu nhất đệ tử, tâm thường hoài giải đăi, tham trước ư danh lợi, cầu danh lợi vô yếm, đa du tộc tánh gia, khí xả sở tập tụng, phế vong, bất thông lợi. Dĩ thị nhân duyên cố, hiệu chi vi Cầu Danh, diệc hành chúng thiện nghiệp, đắc kiến vô số Phật, cúng dường ư chư Phật, tùy thuận hành đại đạo, cụ Lục Ba La Mật. Kim kiến Thích Sư Tử. Kỳ hậu đương tác Phật, hiệu danh viết Di Lặc, quảng độ chư chúng sanh. Kỳ số vô hữu lượng.

          ()是妙光菩薩。奉持佛法藏。八十小劫中。廣宣法華經。是諸八王子。妙光所開化。堅固無上道。當見無數佛。供養諸佛已。隨順行大道。相繼得成佛。轉次而授記。最後天中天。號曰然燈佛。諸仙之導師。度脫無量眾。是妙光法師。時有一弟子。心常懷懈怠。貪著於名利。求名利無厭。多遊族姓家。棄捨所習誦。廢忘不通利。以是因緣故。號之為求名。亦行眾善業。得見無數佛。供養於諸佛。隨順行大道。具六波羅蜜。今見釋師子。其後當作佛。號名曰彌勒。廣度諸眾生。其數無有量。

          (Kinh: Ngài Diệu Quang Bồ Tát, vâng giữ Phật pháp tạng, trong tám mươi tiểu kiếp, tuyên rộng kinh Pháp Hoa. Tám vị vương tử đó, được Diệu Quang khai hóa, đạo vô thượng kiên cố, được thấy vô số Phật. Đă cúng dường chư Phật, tùy thuận hành đại đạo, nối tiếp nhau thành Phật, lần lượt thọ kư nhau. Thiên Trung Thiên cuối cùng, hiệu là Phật Nhiên Đăng, đạo sư của các tiên[11], độ thoát vô lượng chúng. Pháp sư Diệu Quang ấy, có một vị đệ tử, thường ôm ḷng biếng nhác, tham đắm nơi danh lợi. Cầu danh lợi chẳng chán, thường đến nhà quyền quư, buông bỏ việc tu tập, quên bẵng, chẳng thông suốt. Do bởi nhân duyên ấy, được gọi là Cầu Danh. Cũng hành các thiện nghiệp, được thấy vô số Phật, cúng dường các đức Phật, tùy thuận hành đại đạo, trọn Lục Ba La Mật. Nay thấy Thích Sư Tử. Sau này sẽ làm Phật, danh hiệu là Di Lặc, rộng độ các chúng sanh. Số lượng chẳng chừng hạn).

 

1.2.1.1.5.2.1.2.3.5.3. Kệ tụng tiểu kết, dung hội xưa nay

 

          (Kinh) Bỉ Phật diệt độ hậu, giải đăi giả nhữ thị. Diệu Quang pháp sư giả, kim tắc ngă thân thị.

          ()彼佛滅度後。懈怠者汝是。妙光法師者。今則我身是。

          (Kinh: Phật ấy diệt độ rồi, kẻ lười nhác là ông, c̣n pháp sư Diệu Quang, nay chính là thân tôi).

 

          Phần thứ nhất, kệ tụng nêu cặn kẽ những chuyện đă trông thấy để trả lời đă xong.

 

1.2.1.1.5.2.2. Kệ tụng phán đoán phân minh để giải đáp

 

          Gồm ba đoạn: Một là kệ tụng nói kinh Pháp Hoa, hai là kệ tụng về pháp để dạy hàng Bồ Tát, ba là kệ tụng về chuyện được Phật hộ niệm.

 

1.2.1.1.5.2.2.1. Kệ tụng nói kinh Pháp Hoa

 

          (Kinh) Ngă kiến Đăng Minh Phật, bổn quang thụy như thử, dĩ thị tri kim Phật, dục thuyết Pháp Hoa kinh.

          ()我見燈明佛。本光瑞如此。以是知今佛。欲說法華經。

          (Kinh: Tôi thấy Phật Đăng Minh, tướng sáng lành như thế, bèn biết Phật hiện thời, muốn nói kinh Pháp Hoa).

 

1.2.1.1.5.2.2.2. Kệ tụng về pháp để dạy hàng Bồ Tát

 

          (Kinh) Kim tướng như bổn thụy, thị chư Phật phương tiện. Kim Phật phóng quang minh, trợ phát Thật Tướng nghĩa. Chư nhân kim đương tri, hiệp chưởng nhất tâm đăi, Phật đương vũ pháp vũ, sung túc cầu đạo giả.

          ()今相如本瑞。是諸佛方便。今佛放光明。助發實相義。諸人今當知。合掌一心待。佛當雨法雨。充足求道者。

          (Kinh: Tướng nay giống điềm xưa, phương tiện của chư Phật. Nay Phật phóng quang minh, giúp bày nghĩa Thật Tướng. Mọi người hăy nên biết, chắp tay một dạ chờ. Phật sẽ tuôn mưa pháp, thấm trọn người cầu đạo).

 

1.2.1.1.5.2.2.3. Kệ tụng về sự hộ niệm của Phật

 

          (Kinh) Chư cầu tam thừa nhân, nhược hữu nghi hối giả, Phật đương vị trừ đoạn, linh tận vô hữu dư.

          ()諸求三乘人。若有疑悔者。佛當為除斷。令盡無有餘。

          (Kinh: Người cầu pháp tam thừa, nếu nghi ngờ, hối hận, Phật sẽ trừ dứt cho, hết sạch chẳng c̣n sót).

 

          Trong phần kinh văn trước đó, ngài Di Lặc đă giải trừ bốn điều cật vấn, khiến cho ngài Văn Thù ắt phải đáp. Trong phần phán đoán phân minh để giải đáp này, ngài Văn Thù cũng đoạn trừ bốn nghi vấn ngấm ngầm, khiến cho Di Lặc chẳng c̣n thắc mắc nữa:

          1) Mối nghi thứ nhất, do ngài Văn Thù nêu cặn kẽ chuyện quá khứ Phật đă từng nói Pháp Hoa, cho nên ngài Di Lặc thầm nghi, toan hỏi: “Chư Phật thuận theo các duyên, người và thời đều khác nhau. Tuy cổ Phật đặt tên kinh là Pháp Hoa, chắc ǵ vị Phật hiện nay cũng gọi như thế?” Văn Thù bèn dùng bài kệ thứ nhất để đoạn nghi: “Ngă kiến Đăng Minh Phật, bổn quang thụy như thử. Dĩ thị tri kim Phật, dục thuyết Pháp Hoa kinh” (Tôi thấy Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật vốn có tướng quang minh tốt lành như thế. Do vậy biết đức Phật trong hiện thời cũng muốn nói kinh Pháp Hoa). Đấy là đoạn trừ nghi niệm đối với danh hiệu của kinh.

          2) Do vậy, ngài Di Lặc lại nghi: “Vốn có danh đồng, nghĩa đồng, mà cũng có danh đồng, nghĩa khác. Tên gọi này nhằm hiển thị, chuốc vời điều ǵ vậy?” Ngài Văn Thù liền dùng bài kệ thứ hai để đoạn nghi: “Kim tướng như bổn thụy, thị chư Phật phương tiện, kim Phật phóng quang minh, trợ phát Đệ Nhất Nghĩa” (tướng trong hiện thời giống như điềm lành xưa kia, đó là phương tiện của chư Phật. Nay đức Phật phóng quang minh để giúp phát khởi Đệ Nhất Nghĩa). Đấy là đoạn trừ nghi niệm về Thể.

          3) Ngài Di Lặc lại nghi: “Thật Tướng vô tướng, ai có thể lănh hội được?” Ngài Văn Thù liền dùng bài kệ thứ ba để đoạn nghi: “Chư nhân kim đương tri, hiệp chưởng, nhất tâm đăi, Phật đương vũ pháp vũ, sung túc cầu đạo giả” (Mọi người hăy nên biết, chắp tay, nhất tâm chờ, Phật sẽ tuôn mưa pháp, khiến cho người cầu đạo được trọn đủ). Đó là đoạn nghi về Tông.

          4) Nhân đó, ngài Di Lặc lại nghi: “Phật tuôn mưa pháp, chỉ nhằm nhuần thấm Bồ Tát, hay là cũng thấm nhuần Nhị Thừa vậy?” Ngài Văn Thù liền dùng bài kệ thứ tư để đoạn nghi: “Chư cầu tam thừa nhân, nhược hữu nghi hối giả, Phật đương vị trừ đoạn, linh tận vô hữu dư” (Những người cầu pháp tam thừa, nếu có ngờ vực, hối hận, Phật sẽ v́ họ đoạn trừ, khiến cho những điều ấy hết sạch, chẳng c̣n sót). Đó là đoạn nghi về Dụng.

          Ngài Di Lặc nhiều phen sanh nghi, ngài Văn Thù nhiều lượt đoạn nghi. Sự đă cùng, Lư đă tận, liền đạt được bổn hoài, trọn đủ hai món trang nghiêm! (“Sự đă cùng” tức là ba điều nghi đối với tên kinh, Tông, và Dụng, “Lư tận” là Thể đă được hiển). Trong chương khai Quyền hiển Thật của Tích Môn, phần thứ nhất là Tự Phần đă xong.

 

2. Phương Tiện phẩm đệ nhị (方便品第二, phẩm thứ hai: Phương Tiện)

 

          Phẩm này thuộc vào phần Chánh Tông của kinh này. Vạn pháp đều dung hội. Chứng Tín là nhằm chứng thực điều này. Phát Khởi nhằm phát khởi điều này. Thí Dụ nhằm sánh ví điều này. Cho đến lưu thông, cũng nhằm lưu thông điều này! Giải thích phẩm này chia thành hai phần: Trước là nói đại lược, sau là nói chi tiết. Phần nói đại lược chia thành hai đoạn: Trước là chánh thích (phần giải thích chánh yếu), sau là liệu giản (phán định nhằm loại trừ).

          Phần Chánh Thích gồm ba điều:

          - Một, “Phương là phương pháp, Tiện là Dụng (tác dụng)”. Pháp cũng có vuông, tṛn; Dụng th́ có phù hợp hay chẳng phù hợp. Tam thừa quyền biến là thước vuông, là vuông vắn[12], Nhất Thật là thước tṛn, là tṛn trặn. Nếu trí hướng theo khuôn khổ, sẽ là khéo dụng pháp thiên lệch để phù hợp căn cơ của chúng sanh. Nếu trí hướng đến sự viên dung th́ khéo dùng pháp viên dung để phù hợp căn cơ của chúng sanh. Như kinh này khiến cho [chúng sanh] ĺa các chấp trước, thoát khỏi nỗi khổ trong tam giới. V́ thế, Như Lai ân cần xưng dương, tán thán phương tiện; bởi lẽ, thuận theo ḷng mong muốn của chúng sanh th́ chẳng phải là bổn hoài của Phật. Cách [hiểu chữ Phương Tiện theo kiểu] này có thể dùng để giải thích các kinh khác, chẳng đúng với ư nghĩa của phẩm này!

          - Hai, nếu nói Phương Tiện là Môn. Môn là “có thể thông”, thông tới điều được thông. Phương tiện quyền biến đại lược đều làm cửa [để thông vào] chân thật. Chân thật được hiển lộ nhờ công của phương tiện. Từ [công năng] hiển lộ mà có tên như vậy. V́ thế, dùng Môn để giải thích Phương Tiện. Như kinh này mở cửa phương tiện để chỉ bày tướng chân thật. Nghĩa này có thể giải thích các kinh khác, chẳng phải là ư của phẩm này.

          - Ba, nếu nói Phương là Bí (bí mật), Tiện là diệu. Nơi Tích th́ thành bí mật, nay khai bày Tích, [điều bí mật ấy] sẽ trở thành diệu, khéo thông đạt các phương, chính là “bí mật thật sự”: Chỉ ra bảo châu vô giá trong áo lót, trao thưởng viên châu duy nhất trên đỉnh đầu nhà vua, chẳng hai, chẳng khác. Chỉ rơ kẻ làm khách là con ông trưởng giả, cũng chẳng hai, chẳng khác. Phương tiện và Môn chính là bí diệu, như kinh này dạy: “Duy ngă tri thị tướng, thập phương Phật diệc nhiên. Chỉ chỉ bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (chỉ ta biết tướng này, mười phương Phật cũng thế. Thôi đi, chẳng cần nói; pháp ta mầu nhiệm khó nghĩ được). V́ thế, dùng Bí để giải thích Phương, dùng Diệu để giải thích Tiện th́ sẽ đúng ư của phẩm này.

          Kế đó là liệu giản:

          - Cách giải thích thứ nhất chính là phương tiện ở ngoài Thể, là sự quyền biến nhằm giáo hóa chúng sanh, thuận theo ư người khác để nói. Cách giải thích thứ hai, cũng là phương tiện ở ngoài Thể, là quyền biến ḥng tự hành hóa độ người khác, cũng là thuận theo ư người khác mà nói. Cách giải thích thứ ba là đồng thể phương tiện, tức là sự quyền biến để tự hành, thuận theo ư của chính ḿnh mà nói.  

          - Lại nữa, cách giải thích Phương Tiện thứ nhất, chẳng phải là “năng nhập” (chủ thể tiến nhập), chẳng phải là “sở nhập” (đối tượng được tiến nhập). Cách giải thích Phương Tiện thứ hai là năng nhập, chẳng phải là sở nhập. Cách giải thích Phương Tiện thứ ba là năng nhập, [mà cũng là] sở nhập.

          - Lại nữa, cách giải thích Phương Tiện thứ nhất là Bí, chẳng phải là Diệu. Cách giải thích Phương Tiện thứ hai là Bí, có thể nhập Diệu. Cách giải thích Phương Tiện thứ ba th́ Bí chính là Diệu. Xét ra, trong kinh Chánh Pháp Hoa, phẩm này được gọi là phẩm Thiện Quyền, Quyền tức là phương tiện, chẳng hai, chẳng khác. “Cúi đầu, giơ tay, đều thành Phật đạo” chính là phương tiện khéo léo, quyền biến. Phần giải thích đại lược đă xong.

          Kế đó là giải thích cặn kẽ; [đối với các ư kiến của tổ Trí Giả nhằm] đả phá luận thuyết của các vị cổ đức, tôi chẳng sao lục. Phẩm này là phương tiện của Như Lai, thâu nhiếp hết thảy các pháp như Không chứa đựng Sắc, như biển thâu nạp các gịng, há có thể chỉ dùng một gịng, một nhánh để giải thích sự to lớn của pháp giới được ư? Nay nói về Quyền Thật, trước hết lập ra bốn câu, tức là: “Hết thảy các pháp đều là Quyền. Hết thảy các pháp đều là Thật. Hết thảy các pháp đều vừa là Quyền, vừa là Thật. Hết thảy các đều chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật”.

          “Hết thảy các pháp đều là Quyền”: Như kinh văn dạy “tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bổn mạt” v.v… của pháp giới là như thế. Những lời lẽ như vậy đều là Quyền (những lời nói về Hữu sẽ chẳng ra ngoài bách giới thiên như).

          “Hết thảy các pháp là Thật”: Như kinh văn nói Như Lai khéo nói các pháp đẹp ḷng mọi người. Tâm mọi người coi chuyện “nhập Thật” là điều vui sướng (có nghĩa là “phù hợp căn cơ”). Lại nói “các pháp vốn thường là tướng tịch diệt” (cội gốc của các pháp). Lại nói: “Lời của Như Lai nói đều nhằm đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí” (cốt lơi của hóa nghi). Lại nói “đều là chân thật, chẳng dối” (cội nguồn của bổn hạnh). Đại kinh lại nói: “Bốn câu đều chẳng thể nói” (quên mất Lư nơi giáo, các kinh văn đều coi nhập Chứng là Thật; cho nên biết “có nói” hay “chẳng nói”, không ǵ chẳng đều lấy chân thật làm gốc).

          “Hết thảy các pháp đều vừa là Quyền, vừa là Thật”: Như kinh văn nói “tướng như thật của các pháp” chính là để nói rơ hết thảy vừa là Quyền vừa là Thật. Chẳng hạn như Bất Tịnh Quán vừa là thật, vừa là hư (do đối trị dục nên là Thật. Do tưởng [dục là] hư giả nên là Hư. Chỉ một phép Quán này mà đă là vừa thật vừa hư, nào ngại pháp nào cũng vừa thật vừa hư).

          “Hết thảy các pháp đều chẳng phải Quyền, chẳng phải Phật”: Như kinh văn nói: “Phi như, phi dị” (chẳng phải như, chẳng phải khác). Lại nói: “Diệc phục bất hành thượng, trung, hạ pháp, hữu vi, vô vi, thật, bất thật pháp, phi hư, phi thật, như Thật Tướng dă” (Cũng lại chẳng hành pháp thượng, trung, hạ, pháp hữu vi, vô vi, thật, bất thật, chẳng hư, chẳng thật, như Thật Tướng). Nếu hết thảy các pháp đều là Quyền, có ǵ chẳng bị phá? Dẫu cho trăm ngàn vị sư, mỗi vị sư lập ra trăm ngàn thuyết, không ǵ chẳng phải là Quyền! Những điều do Như Lai đă nói c̣n là Quyền, huống hồ [các ngôn thuyết của] các vị sư trong loài người há chẳng phải là Quyền ư? Nếu hết thảy các pháp đều là Thật, lại có ǵ chẳng bị phá? Chỉ có một sự thật này, hai điều khác đều chẳng thật, chỉ là một đạo cứu cánh, há có nhiều đạo cứu cánh ư? Các kiến giải khác biệt của các sư đều nhằm phá chuyện “nhập Thật”, há c̣n bảo vệ hang ổ đó ư? Nếu hết thảy các pháp đều vừa là Quyền vừa là Thật, lại c̣n có ǵ chẳng bị phá? Hết thảy đều có Quyền, có Thật, vậy th́ tự là một đường, chẳng phải là cách hiểu nào khác! Trong mỗi pháp, đều có Quyền và Thật, há có nên cứ một mực là Quyền, hay một mực là Thật? Nếu hết thảy các pháp đều chẳng phải là Quyền, mà cũng chẳng phải là Thật, có ǵ chẳng bị phá, c̣n phân vân chi nữa? Cưỡng sanh kiến lập, thẳng thừng nêu tên mà c̣n là như thế, huống hồ luận định chỉ thú ư? Cần hiểu bốn câu ấy chỉ là một pháp tánh. Pháp tánh chỉ là Chân Như Thật Tướng như như Niết Bàn. Do Thể của pháp tánh chẳng trái nghịch các pháp, chẳng thọ các pháp, chẳng trụ trong các pháp, chẳng vào trong các pháp. V́ thế, mỗi một danh tự, mỗi một tâm pháp, mỗi câu kệ, mỗi nhân quả, mỗi mỗi phàm thánh, mỗi mỗi y báo và chánh báo, cho đến “thập song” (mười cặp định luận Quyền Thật) trong phần sau, không ǵ chẳng phải là pháp giới, tự tại vô ngại. Nghĩa này có thể thành tựu, nói cặn kẽ th́ như trong mười môn Bất Nhị đă nói, dù gốc hay ngọn, Thể và Lư chẳng khác. Nói mà chẳng nói, chẳng nói mà nói, chiếu tánh chẳng xa, tự tại vô cùng. Dẫu vô cùng, chẳng ra ngoài bốn câu. Bốn câu chẳng có câu, không có câu mà là câu, câu nào cũng đều riêng thâu nhiếp mười phương Phật pháp. Nhưng bốn câu trong mỗi giáo trước thời Pháp Hoa, câu nào cũng đều chưa diễn tả thông suốt [bổn hoài của Phật], cho đến hội này bèn là “một vị chẳng khác”.

          Cụ thể như trong phẩm Dược Thảo Dụ, sai khác chính là chẳng sai khác, chẳng sai khác chính là sai khác. Đấy chính là câu thứ ba “vừa Quyền, vừa Thật” được tách thành mười pháp. Đối với mười pháp ấy, sẽ có tám lượt giải thích:

          - Một là nêu tên.

          - Hai là sanh khởi.

          - Ba là giải thích.

          - Bốn là dẫn chứng.

          - Năm là gom mười môn ấy thành ba loại Quyền Thật.

          - Sáu là phân biệt ba loại Quyền Thật chiếu soi ba loại Nhị Đế.

          - Bảy là dựa theo các kinh để phán định Quyền Thật.

          - Tám là dựa theo Bổn Tích để phán định Quyền Thật.

          (Chia thành từng chương để giải thích riêng biệt là v́ đă biết các pháp dung nhập trọn khắp lẫn nhau. Nêu ra Thật th́ ngay trong Thật có Quyền, đó là nói “dùng Quyền ấy làm phẩm Phương Tiện”. Nêu ra Quyền th́ chính là Quyền chẳng thể nghĩ bàn. Quyền ấy có Thật, bèn dùng cái Quyền ấy gọi là phẩm Phương Tiện. Nêu ra “vừa Quyền, vừa Thật”, th́ mỗi đằng đều có chỗ hướng về. Đấy chính là sự tương tức (Thật chính là Quyền, Quyền chính là Thật) trong “Quyền, Thật” nơi Tích, thâu nhiếp ba thứ “Quyền, Thật” nơi Tích. V́ thế, dùng ngay phương tiện chân thật để làm phẩm Phương Tiện. Nêu ra “chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật” th́ chỉ là lư phương tiện. Lư gồm thâu ba câu (“là Quyền”, “là Thật”, “vừa là Thật vừa là Quyền”) đều là phẩm Phương Tiện. Đấy chính là câu nào cũng đều trọn khắp, đều là phẩm Phương Tiện, cần ǵ phải riêng đối với câu thứ ba lại tách ra thành mười pháp: Một là danh tiện, do trọn đủ Quyền và Thật. Hai là nghĩa tiện, do thâu nhiếp trọn khắp. Các câu khác là nghĩa tiện, nhưng chẳng gọi là Tiện. Ba điều khác tuy có nghĩa Quyền, nhưng danh xưng Quyền chẳng được như trong câu thứ ba, từ ngay nơi tên gọi đă trọn đủ [ư nghĩa Quyền]. Dùng “ngay nơi Thật mà là Quyền” ấy để tạo thành phẩm này.

          V́ thế, đối với mười cặp [phán định Quyền Thật] trong phần sau, cặp nào cũng đều trọn đủ danh tướng Quyền và Thật, đều lấy “từ ngay nơi Thật mà là Quyền” làm phẩm Phương Tiện. Huống chi, phần giải thích tổng quát ba cặp đầu đều bao trùm tám môn (nêu tên, sanh khởi, giải thích v.v…) trong phần luận định về mười cặp ấy. Nếu chẳng phải là như thế, sẽ chẳng phải là Sự Lư phương tiện cho đến Tất Đàn, chẳng phải là liệt kê tên gọi của pháp tướng trong phương tiện, cho đến chẳng phải là mười nghĩa thuộc về Bổn Tích trong kinh này. Mười nghĩa chẳng hai, nhưng Bổn Tích dường như sai khác. Bổn và Tích tuy khác, nhưng đều chẳng nghĩ bàn giống hệt như nhau. Tướng của mười nghĩa khác biệt, nhưng Thật Tướng như nhau. Do v́ chúng sanh [căn tánh khác biệt], mà nêu tên và sanh khởi, cho đến Bổn Tích, Lư Sự, thậm chí Tất Đàn khác nhau. Hễ hiểu ư sẽ quên lời, giải thoát khỏi ngôn thuyết. Nếu thấy được ư này, sẽ thường im lặng mà thường nói, lời nói và xử sự chẳng trái nghịch. Lại c̣n dùng ư chỉ ấy làm cảnh để quán, khiến cho thấy rơ ràng cảnh được quán. Các lời giải thích khác thiếu khuyết chính ở chỗ này! Nhưng trong tám môn ấy (nêu tên, sanh khởi, giải thích v.v…), bảy môn đầu thuộc về Tích Môn, môn thứ tám thuộc về Bổn Môn. Tuy chưa đến phần Bổn Môn [của kinh Pháp Hoa], nhưng lư Quyền Thật đă trọn khắp. V́ thế, kinh văn trong phần sau có nói: “Thị ngă phương tiện, chư Phật diệc nhiên” (là phương tiện của ta, chư Phật cũng thế). V́ thế, danh xưng Phương Tiện thông với Bổn lẫn Tích.

          Lại nữa, tám môn y có thứ tự theo ư nghĩa như sau: Nếu chẳng “nêu tên”, sẽ chẳng có ǵ để giải thích. Nếu chẳng “sanh khởi”, sẽ mê muội nơi thứ tự được diễn nói. “Giải thích” nhằm chỉ bày tướng trạng của phần luận định mười cặp Quyền Thật. “Dẫn chứng” nhằm ngăn ngừa kẻ chẳng tin. “Kết quy” nhằm chỉ rơ nguyên ư của phẩm này. “Phân biệt” là khiến cho phần giải thích phẩm này có chỗ quy kết. Phần giải thích phán định nhằm biết chỗ tồn tại của thô và diệu. Như thế th́ mới tỏ lộ ư chỉ sâu xa của phẩm này được. Lại biện định sẵn về Bổn Tích, khiến cho [người nghe] biết Quyền, Thật, Tự, Tha nơi Bổn địa th́ mới tỏ lộ sự giáo hóa to lớn nơi Tích là lâu xa hay gần đây).

          [Nói tường tận th́ tám môn ấy như sau]:

          1) Nêu tên: [Mười cặp luận định về Quyền Thật th́] một là Sự Lư Quyền Thật, hai là Lư Giáo Quyền Thật, ba là Giáo Hạnh Quyền Thật, bốn là Phược Thoát (trói buộc và giải thoát) Quyền Thật, năm là Nhân Quả Quyền Thật, sáu là Thể Dụng Quyền Thật, bảy là Tiệm Đốn Quyền Thật, tám là Khai Hợp Quyền Thật, chín là Thông Biệt Quyền Thật, mười là Tất Đàn Quyền Thật.

          2) Sanh khởi: Từ cái gốc là Vô Trụ mà lập ra hết thảy các pháp. Vô Trụ là Lư. Hết thảy các pháp là Sự. Do Lư và Sự mà có Giáo. Do Giáo mà có Hạnh. Do Hạnh mà có trói buộc và giải thoát. Do giải thoát mà thành nhân quả. Từ quả mà Thể hiển hiện công năng, tác dụng. Do Dụng mà có sự giáo hóa Tiệm hay Đốn. Do tách ra thành Tiệm và Đốn, mà có khai hợp (tách ra hay gộp lại). Từ khai hợp mà có lợi ích thông hay biệt. Do lợi ích có thông và biệt, mà phân biệt hai loại lợi ích. Do phân biệt hai loại lợi ích, cho nên có Tứ Tất Đàn (Trong mười cặp này, năm cặp đầu là từ nhân tới quả; năm cặp sau là tác dụng thù thắng sẵn có nơi cái quả. Trong cái nhân, nếu chẳng có bốn điều đầu th́ ư nghĩa của nhân sẽ nông cạn, hẹp ḥi. Nếu chẳng có năm điều sau, tác dụng của quả sẽ thô thiển, nông cạn. Trong ấy, giáo chính là thánh hóa (sự hóa độ của bậc thánh, tức sự giáo hóa của Phật), lại c̣n dựa theo người tiếp nhận mà đặt tên).

          Lại nữa, tuy kinh văn nêu lên người có thể giáo hóa, nhưng phải xét theo người được hóa độ để hiểu nghĩa. V́ thế, trong năm cặp sau, đối với Thể và Dụng, chỉ dùng một cặp tương ứng với người được hóa độ, bốn cặp kia do dựa theo người có thể hóa độ mà lập danh. Điều này lại tương đồng với mười diệu nghĩa. Nếu chẳng như thế, ai sẽ biết phương tiện cần phải có đủ mười pháp? Ai biết mười pháp có ư nghĩa trọn khắp trong một kinh? Nếu không có mười pháp, sẽ trở thành kinh văn chẳng nói đến nhân quả cũng như người hóa độ và kẻ được hóa độ! V́ thế, dùng mười cặp [để giảng giải Phương Tiện] th́ các điều trọng yếu tột bậc sẽ được thấu hiểu tận cùng.

          “Phương” chính là mười cặp [luận định Quyền Thật] trong kinh này. Nếu như thế, kinh này từ đầu đến cuối đều gọi phương tiện. Lại c̣n chỉ ra những điều đă dạy trước kia đều là lập bày [để dẫn dụ về Nhất Thật] th́ mới có thể nói đến phương tiện trong kinh này. V́ thế biết: Chứng Tín trong Tự Phần nhằm phát khởi phương tiện. Thí Dụ chỉ là phương tiện để so sánh, nhân duyên chỉ là phương tiện xưa kia, Bổn Môn chỉ là phương tiện lâu xa. Lưu Thông chỉ là phương tiện để chư Phật, Bồ Tát hoằng thông giáo pháp. Do là phương tiện, cho nên gọi là chân thật. Nếu hiểu được ư ấy, sẽ như nh́n vào trái cây trong bàn tay, do một bộ kinh Pháp Hoa mà có thể biết cái tâm, trong khoảng sát-na bèn thấu hiểu giáo môn trong suốt một đời đức Phật. Nhân quả, tự tha, gộp thành một pháp. Mười phương, ba đời, chẳng ôm ḷng mong cầu chi khác. Dùng mười pháp thừa (mười cặp luận định Quyền Thật) để quan sát, sẽ có chỗ đặt chân nơi Pháp Hoa tam-muội. Đường tu vô thượng Phật quả sẽ có thể hy vọng).

          3) Giải thích:

          - Một là Lư Sự Quyền Thật. Lư là Chân Như. Chân Như vốn tịnh, dẫu có Phật hay chẳng có Phật, vẫn thường hằng, chẳng đổi khác. V́ thế, gọi Lư là Thật. Sự là tâm, ư, thức v.v… dấy lên nghiệp tịnh hay bất tịnh, thay đổi, chuyển dời bất định. V́ thế, gọi Sự là Quyền. Nếu chẳng có Lư, sẽ không có ǵ để lập Sự. Nếu chẳng có Sự, sẽ không thể hiển thị Lư. Sự có công năng hiển thị Lư. V́ thế, ân cần khen ngợi phương tiện (ai chịu coi các thứ như tâm hữu lậu trong tam giới v.v... là phẩm Phương Tiện được Như Lai khen ngợi? Nếu chẳng như thế, ư nghĩa “v́ chúng sanh” đặt ở chỗ nào? Ngôn từ về tướng thế gian sẽ giải thích như thế nào đây?)

          - Hai là Lư Giáo Quyền Thật: Lư Sự trên đây được gọi chung là Lư. Chẳng hạn như Chân và Tục đều gọi là Đế. Chư Phật do thấu hiểu [Lư Sự ấy] mà thành thánh. “Thánh”“chân chánh, chân thật”, muốn dùng pháp của chính ḿnh để độ chúng sanh. Do Lư mà lập Giáo, Giáo chính là Quyền. Chẳng có Giáo, sẽ không có ǵ để hiển lộ Lư. V́ thế, Như Lai ca ngợi phương tiện (từ vô minh pháp tánh cho đến hết thảy các pháp thuộc giới ngoại đều là các điều được diễn nói. Tâm, ư, thức được gọi là Thể v́ trọn đủ hết thảy các pháp thuộc giới ngoại. Ai biết giáo pháp của kinh Pháp Hoa dùng các pháp như thế ấy để diễn nói? Nếu chẳng như vậy, Nghiêm vương (vua Diệu Trang Nghiêm) tà kiến, Điều Đạt (Đề Bà Đạt Đa) ác nghịch, sẽ do đâu mà có? Quả giáo[13] luận về điều này, người diễn nói cũng là Quyền. V́ thế biết giáo này chỉ nhằm nói lư này. Chẳng do kinh này, ai sẽ chịu khen ngợi phẩm Phương Tiện này là giáo pháp chỉ ra chỗ mê? Nếu chẳng như vậy, đức Phật từ tam-muội khởi, sẽ tán thán điều ǵ vậy?)

          - Ba là Giáo Hạnh Quyền Thật. Nương vào Giáo để cầu Lư, sẽ sanh ra chánh hạnh. Do Hạnh có tiến nhập sâu hay cạn khác nhau; v́ thế, Hạnh được gọi là Quyền. Giáo chẳng có tiến nhập sâu hay cạn khác biệt; v́ thế, gọi là Thật. Chẳng có Giáo, sẽ không có ǵ để lập Hạnh; chẳng có Hạnh, lấy ǵ để lănh hội Giáo? Do Hạnh mà hiểu Giáo. V́ thế, khen ngợi phương tiện (Nếu chẳng như vậy, các môn như Phương Tiện Ba La Mật v.v… của Như Lai làm sao chứng được?)

          - Bốn là Phược Thoát Quyền Thật. Hạnh trái nghịch Lư, sẽ bị trói buộc (phược, ). Trói buộc là hư vọng; v́ thế gọi là Quyền. Hạnh thuận Lư, sẽ sanh ra Giải, Giải ngầm ứng hợp với Lư. V́ thế gọi Thật (trong các kinh, bậc Địa Tiền (Bồ Tát chưa đạt đến Sơ Địa) vẫn là trái Lư; v́ chưa nhận biết Quyền. Riêng kinh này chỉ rơ “không ǵ chẳng phải là cái nhân thành Phật” ḥng hiển thị Thật). Chẳng trói buộc, sẽ không do đâu mà cầu giải thoát. Được giải thoát là nhờ bị trói buộc, như nhờ xác chết mà vượt biển[14]. V́ thế, khen ngợi Phương Tiện (ai biết trong kinh này, đức Phật cũng coi ác hạnh cũng là phương tiện thiện xảo? Thí dụ về xác chết áp dụng cho hết thảy).

          - Năm là Nhân Quả Quyền Thật. Nhân có tác dụng tiến nhập tạm thời, nên gọi là Quyền. Quả nhất định vĩnh viễn chứng vào lúc cuối cùng, nên gọi là Thật. Chẳng có quả th́ nhân sẽ chẳng có ǵ để mong mỏi. Không có nhân, quả sẽ chẳng thể tự hiển hiện được. Quả do nhân mà đạt được. V́ thế, khen ngợi phương tiện.

          - Sáu là Thể Dụng Quyền Thật. Các phương tiện trước đó là nhân. Chánh quán để tiến nhập Sơ Trụ là quả (Sơ Trụ trong Viên Giáo là Phần Chứng Quả). Trụ, xuất là Thể, Dụng. Thể chính là Thật Tướng, chẳng có phân biệt. Dụng chính là lập ra hết thảy các pháp, hơn kém khác nhau. Như chỉ một cơi đại địa mà sanh ra các thứ mầm mộng (Sơ Trụ [thị hiện] làm Phật trong một trăm thế giới, tức là có thể thị hiện trong mười pháp giới). Chẳng có đất, sẽ không có ǵ để sanh ra vạn vật. Chẳng sanh, sẽ không có ǵ để hiển thị đất. Lần theo gịng t́m được nguồn; suy từ Dụng mà biết Thể. V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.

          - Bảy là Tiệm Đốn Quyền Thật. Luận chung về chuyện tu nhân chứng quả, từ Thể dấy lên tác dụng, đều có Tiệm và Đốn. Nay nói về chuyện khởi tác dụng: Dụng Tiệm là Quyền, dụng Đốn là Thật. Nếu chẳng có Tiệm dẫn khởi, sẽ không do đâu để nhập Đốn được! V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.

          - Tám là Khai Hợp Quyền Thật. Từ Đốn tách ra thành Tiệm, Tiệm chẳng tự hợp (do hai giáo Tạng và Thông chẳng phế trừ tiểu pháp), cũng chẳng hợp Đốn (hàng Bồ Tát trong ba giáo (Tạng, Thông, Biệt) chẳng nhập Thật). V́ thế, gọi là Quyền. Tiệm đến rốt ráo vẫn hợp với Đốn. V́ thế là Thật. Do tách ra (khai), cho nên hợp (gộp lại). Khai có sức hợp. V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.

          - Chín là Thông Biệt Quyền Thật. Thông tức là lợi ích chẳng thường hằng của pháp bán tự, Biệt là lợi ích thường trụ của pháp măn tự. Nhưng lợi ích thường hằng và đạo dài lâu, dễ [khiến cho hành nhân] nẩy sanh thoái thất. V́ thế, dùng hóa thành tiếp dẫn [để hành nhân] sanh ư tưởng an ổn. Sau đấy mới diệt sự biến hóa, dẫn đến chỗ có của báu. Nếu chẳng có lợi ích chưa toàn vẹn, sẽ chẳng thể lănh hội lợi ích thường hằng. Lợi ích bán phần có công năng hiển thị lợi ích măn phần. V́ thế, khen ngợi Phương Tiện.

          - Mười là Tất Đàn Quyền Thật. Ba môn Thế Giới, Vị Nhân, Đối Trị Tất Đàn do thuộc vào thế gian, nên là Quyền. Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn do xuất thế gian, nên là Thật. Chẳng do thế gian, sẽ chẳng đạt được xuất thế gian. Do ba món Tất Đàn mà đạt được Đệ Nhất Nghĩa. V́ thế, Như Lai ân cần khen ngợi Phương Tiện. Phần thứ ba, giải thích đă xong.

          4) Dẫn chứng: Mười nghĩa này thông với đại giáo và tiểu giáo, gồm trọn hết thảy các pháp. Nay lại dẫn kinh này: “Bất như tam giới kiến ư tam giới” (chẳng như tam giới mà thấy tam giới), tam giới là Sự. “Bất như tam giới kiến” là Lư. Đó là dẫn chứng về Lư, Sự, Quyền, Thật. Tướng tịch diệt của pháp chẳng thể dùng ngôn từ để tuyên nói, đó là Lư. “Do v́ sức phương tiện mà nói với năm tỳ-kheo” chính là Giáo. Đó là dẫn chứng về Lư Giáo Quyền Thật (cần phải nói: “Nhược vô tánh giả, vị thuyết nhân thiên, năi chí Tu La vi hạ phẩm thiện (nếu là kẻ vô tánh (chẳng có căn tánh Đại Tiểu Thừa), bèn v́ kẻ đó nói pháp nhân thiên, cho đến Tu La là hạ phẩm thiện). “Năi chí vị thuyết vô tác Tứ Đế” (cho đến v́ kẻ đó nói Vô Tác Tứ Đế). V́ thế biết: Theo Lư th́ đều là chẳng thể nói. Theo Sự th́ lớn hay nhỏ đều có thể nói).

          Nếu nghe kinh này, sẽ là khéo hành Bồ Tát đạo. Lại c̣n “nhữ đẳng sở hành, thị Bồ Tát đạo. Phật tử hành đạo dĩ, lai thế đắc tác Phật” (điều các ông đă hành là Bồ Tát đạo. Phật tử đă hành đạo, đời sau sẽ được làm Phật) v.v… Đấy là dẫn chứng về Giáo Hạnh Quyền Thật. “Đản ly hư vọng, danh vi giải thoát. Kỳ thật vị đắc nhất thiết giải thoát” (chỉ là hư vọng mà gọi là giải thoát. Thật ra là chưa đạt được hết thảy các giải thoát). Đó là dẫn chứng về Phược Thoát Quyền Thật (trong Tiểu th́ hư vọng gọi là Phược (trói buộc), ĺa [khỏi trói buộc] là giải thoát. Nếu xét theo Đại Thừa, cái được gọi là trói buộc đó, nay chỉ gọi là Thoát). Hành trọn tất cả các đạo pháp của chư Phật là nhân, thành tựu đắc quả nơi đạo tràng là quả. Đấy là dẫn chứng về nhân quả Quyền Thật. “Ngă dĩ Phật nhăn quán” (ta dùng Phật nhăn để xem) là Thể, “kiến lục đạo chúng sanh” (thấy chúng sanh trong sáu đường) là Dụng. Đấy là dẫn chứng về Thể Dụng Quyền Thật.

          “Thỉ kiến ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ, nhập Như Lai huệ” (vừa mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, liền đều tin nhận, nhập trí huệ của Như Lai), nhanh chóng trừ khử sự tu tập trước kia, người học tập Tiểu Thừa th́ là Tiệm. Đấy chính là dẫn chứng của Tiệm Đốn Quyền Thật. Đứa con nghèo thoạt đầu trốn đi, chặng giữa dọn phân; đó là Khai. Sau đó, được giao tài sản, th́ là Hợp. Đó là dẫn chứng về Khai Hợp Quyền Thật. Trước là diệt hóa thành, đó là Thông Ích. Sau đó, tới chỗ có của báu, th́ là Biệt Ích. Đấy là dẫn chứng của Thông Biệt Quyền Thật. Các thứ ham muốn, các thứ tánh, tướng, ức niệm v.v… chính là dẫn chứng của Tất Đàn Quyền Thật.

          Đă dẫn cả bộ kinh làm chứng, nay dẫn chứng riêng trong một phẩm. Tuy chẳng theo thứ tự, nhưng phần kinh văn về mười điều ấy (mười cặp Phương Tiện Quyền Thật) đều đủ. “Chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng, kỳ trí huệ môn nan giải, nan nhập” (trí huệ của chư Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ ấy khó hiểu, khó nhập). Hết thảy sự, lư, cảnh, trí v.v… đều gọi là Thật. Lập bày, diễn nói, biện định ngôn giáo đều là trí huệ môn. Đấy là dẫn chứng Lư Giáo để luận định Quyền Thật. “Nan giải, nan nhập, nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất năng tri” (khó hiểu, khó nhập, hết thảy Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng thể biết được) chính là đối với trói buộc hay giải thoát mà luận định Quyền Thật. “Phật tằng thân cận bách thiên vạn ức vô số chư Phật, tận hành chư Phật vô lượng đạo pháp, dũng mănh tinh tấn, danh xưng phổ văn” (Phật từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, hành trọn hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mănh tinh tấn, thanh danh rền khắp), tức là dựa theo giáo hạnh để luận định Quyền Thật. “Thành tựu thậm thâm vị tằng hữu pháp, tùy nghi sở thuyết, ư thú nan giải” (Thành tựu pháp chưa từng có rất sâu, tùy theo lẽ thích đáng mà nói, khó hiểu nổi ư thú), chính là dựa theo Thể và Dụng để luận định Quyền Thật. “Ngô tùng thành Phật dĩ lai” (Kể từ khi ta thành Phật đến nay), thành Phật là quả, quả ắt có nhân. Đấy chính là dùng nhân quả để luận định Quyền Thật. Các thứ nhân duyên, các thứ thí dụ, ngôn giáo rộng diễn, vô số phương tiện, hướng dẫn chúng sanh ĺa các chấp trước, tức là luận định Quyền Thật xét theo Tiệm Đốn. Như Lai phương tiện tri kiến Ba La Mật đều đă trọn đủ, tức là dựa theo khai hợp để luận định Quyền Thật. “Như Lai năng chủng chủng phân biệt, xảo thuyết chư pháp, ngôn từ nhu nhuyễn, duyệt khả chúng tâm” (Như Lai có thể dùng các thứ phân biệt để khéo nói các pháp, ngôn từ mềm mỏng, khiến cho đại chúng đẹp ḷng), tức là luận định Quyền Thật dựa theo thông ích và biệt ích. Nói tóm gọn, vô lượng vô biên pháp chưa từng có, Phật đă đều thành tựu, tức là ba môn Tất Đàn (Thế Giới, Vị Nhân, Đối Trị) thành tựu. “Chỉ Xá Lợi Phất! Bất tu phục thuyết” (thôi đi, Xá Lợi Phất! Chẳng cần phải nói nữa) tức là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Đó là luận định Quyền Thật dựa trên Tứ Tất Đàn. “Phật thành tựu pháp hiếm có, khó hiểu bậc nhất, chỉ có Phật và Phật mới có thể hiểu rốt ráo Thật Tướng của các pháp”; đó chính là Lư. Nói “các pháp tướng như thế” v.v… đấy chính là Sự. Đó chính là luận định Quyền Thật theo Lư Sự. Đoạn này nói đại lược năm thứ Quyền Thật của Phật, vị Phật nào cũng đều như thế. Phần thứ tư là Dẫn Chứng đă xong.

          5) Quy kết mười pháp trên đây thành ba loại Quyền Thật. Trước là Thông Kết, sau là Biệt Kết:

          - Trước hết, Thông Kết th́ mười pháp ấy chung cho bốn giáo, hợp thành bốn mươi món Quyền Thật. Như trong Tam Tạng, tự chứng mười pháp (Lư Sự Quyền Thật, Lư Giáo Quyền Thật, Giáo Hạnh Quyền Thật v.v…) th́ gọi là “tự hành Quyền Thật”. Đă nói ra mười pháp để lợi ích chúng sanh, th́ gọi là “hóa tha Quyền Thật”. Trong mười pháp giáo hóa người khác, có Thật và Quyền, đều gộp lại thành Quyền. Tự hành có mười pháp, cũng có Thật Quyền, đều gộp thành Thật, gọi chung là “tự hành hóa tha Quyền Thật”. Đối với mười pháp trong ba giáo kia, đối với mỗi giáo, đều gộp lại thành ba thứ Quyền Thật (tức tự hành Quyền Thật, hóa tha Quyền Thật, tự hành hóa tha Quyền Thật) cũng giống như thế (đấy là thông trong thông). Lại trong mỗi giáo, đều dùng bốn thứ “Lư Sự, giáo hạnh, phược thoát, nhân quả” để làm “tự hành Quyền Thật”, dùng hai loại Lư Giáo và Khai Hợp để làm “hóa tha Quyền Thật”. Đối với mỗi giáo, đều dùng bốn loại “Thể Dụng, Tiệm Đốn, Thông Biệt, Tất Đàn” để làm “tự tha Quyền Thật”. Danh tự tuy đồng, mỗi thứ đều có ư nghĩa khác biệt (đó là biệt trong thông).

          - Kế đó là biệt kết. Ba giáo trước (Tạng, Thông, Biệt) dù thông hay biệt, đều là hóa tha Quyền Thật, do đều nói theo ư của người khác. Viên Giáo dù thông hay biệt, xét ra đều là “tự hành Quyền Thật” v́ nói theo ư ḿnh. Ba món “hóa tha Quyền Thật” dù quyền hay thật, đều gọi là Quyền, c̣n “tự hành Quyền Thật” đều gọi là Thật.

          Kế đó, lại kết thành bốn câu. Hễ “nói theo ư của người khác”, tức là hết thảy các pháp đều là Quyền. Hễ “nói theo ư ḿnh tức là hết thảy các pháp đều là Thật. Chấp nhận cả hai, tức là “hết thảy các pháp vừa là Quyền, vừa là Thật”. Ngăn trở cả hai (phủ định cả hai) tức là “hết thảy các pháp chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật”.

          Kế đó, kết thành ba lượt để giải thích phẩm kinh này. Nếu là tự hành và tự ư th́ phần kinh văn này được gọi là đạo tràng sở đắc pháp” (pháp đạt được từ đạo tràng, là Thật). Đại Kinh nói tu đạo đắc cố” (do tu đạo mà đạt được, đó là Quyền). Thâu nhiếp Đại Thừa, xứng với trí như lư, như lượng (như lư là Thật, như lượng là Quyền), đều là tự hành Quyền Thật trong Viên Giáo. Nói theo ư ḿnh, tuy Phật chẳng thể thuyết pháp nơi ấy, dẫu có thể nói phương tiện, chúng sanh chẳng thể tiếp nhận. Nếu khởi đầu chỉ nói pháp này để thâu nhiếp chúng sanh th́ sẽ chẳng thể được; v́ thế nói “bất khả thuyết, bất khả thuyết”.

          Gác chuyện này lại, dùng tự hành Quyền Thật kèm thêm Quyền Thật trong Biệt Giáo để nhiếp thủ chúng sanh, th́ người đại cơ lợi căn sẽ trực tiếp chứng đắc, c̣n kẻ độn căn sẽ phải ṿng vèo mới đạt được. Tiểu cơ th́ lợi hay độn đều chẳng đạt được. Đấy chính là ư nghĩa trong Hoa Nghiêm.

          Gác việc ấy lại, chỉ dùng bán tự Quyền Thật để thâu nhiếp chúng sanh th́ người đại cơ dù lợi căn hay độn căn đều ngầm đạt được, nhưng chẳng đạt được hiển nhiên. Tiểu cơ th́ lợi căn hay độn căn chắc chắn cũng đều chẳng đạt được. Đó chính là ư nghĩa trong Tam Tạng.

          Gác chuyện này lại, dùng chung Quyền Thật của tứ giáo để cùng nhiếp thủ chúng sanh th́ đại cơ dù lợi căn hay độn căn sẽ thẳng thừng hay ṿng vèo mà đạt được, nhưng tiểu cơ th́ lợi căn hay độn căn đều chắc chắn chẳng đạt được. Đó là ư nghĩa của thời Phương Đẳng.

          Gác chuyện ấy lại, xả ba thứ Quyền Thật của Tam Tạng, dùng ba thứ Quyền Thật (tự hành, hóa tha, tự hành hóa tha) của Thông, Biệt, Viên để cùng tiếp độ chúng sanh th́ đại cơ dù lợi căn hay độn căn đều đạt được. Tiểu cơ dù lợi hay độn chắc chắn đều chẳng đạt được. Đó là ư nghĩa trong thời Bát Nhă.

          Gác chuyện ấy lại, bỏ ba thứ Quyền Thật trước đó, chỉ dùng tự hành Quyền Thật trong Viên Giáo để tiếp độ chúng sanh, đại tiểu dù lợi căn hay độn căn đều đạt được. Đó là ư nghĩa của thời Pháp Hoa.

          Trí huệ của Như Lai không ǵ chẳng thông đạt, xét rơ thời nghi có thể sử dụng hay không? V́ thế, giải thích phẩm này như sau: - Phương là các pháp, Tiện là vận dụng thiện xảo. Khéo léo dùng phương pháp để tiếp độ chúng sanh chứng đắc. V́ thế, ân cần khen ngợi phương tiện (đấy là xét theo chuyện sử dụng ba loại pháp (tự hành, hóa tha, tự hành hóa tha Quyền Thật) trong bốn thời trước (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă), sẽ chẳng thể đạt tới Thật. V́ thế, chỉ trở thành ư nghĩa sơ khởi để giải thích phẩm này. Nếu tới thời Pháp Hoa, dẫu gọi là pháp dụng, vẫn trở thành cách vận dụng pháp bí diệu, cho nên có thể dùng ư nghĩa ấy để giải thích phẩm kinh này. Tức là đối với danh xưng “phương pháp”, trước kia áp dụng cho cả bốn giáo, đến nay (đến khi nghe phẩm Phương Tiện này), sẽ chẳng c̣n ba giáo trước nữa).

          Lại nữa, Như Lai tự chứng Quyền Thật đều chẳng thể nói. Do nghĩ thương chúng sanh, nếu Phật nói ra tự chứng Quyền [của chính ḿnh] để làm cửa nẻo, th́ do chẳng phù hợp cơ nghi của chúng sanh, chúng sanh sẽ chẳng thể tiến nhập. V́ thế, sự tự chứng nơi Quyền cũng chẳng thể nói được. Nếu nói Quyền Thật trong Biệt Giáo để làm cửa nẻo th́ kẻ lợi căn tiến nhập, kẻ độn căn chẳng thể tiến nhập được. [Như vậy th́] thời Hoa Nghiêm chẳng thích hợp căn cơ của chúng sanh. Quyền Thật trong Biệt Giáo cũng chẳng thể nói. Nói Quyền Thật của Tam Tạng làm cửa nẻo, người lợi căn ngầm tiến nhập, kẻ độn căn vẫn chẳng nhập. [Do vậy], thời Tam Tạng chẳng thích hợp cơ nghi của chúng sanh, cũng chẳng thể nói. Nói ba thứ hóa tha Quyền Thật làm cửa nẻo, người lợi căn ngầm tiến nhập, kẻ độn căn vẫn chẳng nhập; đó là thời Phương Đẳng chẳng thích hợp cơ nghi của chúng sanh, cũng chẳng thể nói! Nói hai loại hóa tha Quyền Thật làm cửa nẻo, người lợi căn tiến nhập, kẻ độn căn vẫn chẳng nhập; [cho nên] thời Bát Nhă cũng chẳng thể nói, v́ chẳng thích hợp cơ nghi của chúng sanh. Bỏ ba loại hóa tha Quyền Thật, chỉ nói tự hành Quyền th́ người lợi căn lẫn kẻ độn căn đều được nhập. Từ đầu tới cuối, đều lấy phương tiện làm môn. V́ thế, Như Lai khen ngợi phương tiện. Giải thích phẩm này bằng câu “phương tiện là cửa nẻo để nhập Thật” chính là do ư nghĩa này.

          Trong phần trước, nói rơ Như Lai có thể biết phương tiện, có thể sử dụng phương tiện; c̣n phần này nói rơ hành giả có thể tùy thuận phương tiện (trước hết, dựa theo phương pháp để nói rơ Như Lai có thể biết, có thể sử dụng phương tiện. Pháp là cái có thể biết, Dụng là cái có thể dùng. Chúng sanh chẳng biết đó là phương tiện của Phật, nay [kinh văn] đều phô bày ra cho chúng sanh biết. Phần này dạy rơ chúng sanh hăy tùy thuận phương tiện, tức là từ môn này mà tùy thuận Thật, nhưng cũng chẳng biết phương tiện chính là cái Thật để thuận theo. Nay cũng phơi bày ra. Lại nữa, cả hai chương đều có hai ư Ứng và Cơ, nhưng chương trước phần nhiều nói theo Ứng, tức là nói về Như Lai. Chương sau phần lớn nói theo Cơ, tức là nói theo phía hành giả. V́ thế, lời ân cần khen ngợi đều do Phật mà có).

          Lại nữa, Như Lai tự chứng, những điều đạt được do tu đạo trong hết thảy các phương tiện đều là chân thật, nhưng sự chân thật ấy đều chẳng thể nói được. Dẫu có thể nói ra, chúng sanh chẳng thể ngay lập tức là Thật (chứng nhập Thật). Dùng sức phương tiện, kèm theo “bất tức” (chẳng thể chứng nhập) để nói một thứ “tức”, hàng lợi căn có thể “tức” (chứng nhập), độn căn chẳng thể “tức”. Hoa Nghiêm lại thuần nói về một thứ “bất tức” (chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật), hàng lợi căn bèn ngầm “tức”, độn căn chẳng “tức”. Tam Tạng (Tạng Giáo) lại kèm thêm ba món “bất tức” (chẳng nói đến “tức Không, tức Giả, tức Trung”) để nói một món “tức” (nói giáo pháp Tam Tạng tức là Thật), kẻ lợi căn có thể “tức”, độn căn chẳng “tức”. Phương Đẳng lại kèm thêm hai thứ “bất tức” (chẳng chấp vào Nhị Biên, chẳng chấp các pháp tức là Thật, hay tức là Quyền) để nói một thứ “tức” (bản thể các pháp tức là Không), kẻ lợi căn có thể tức, hàng độn căn chẳng tức. Bát Nhă lại phế bỏ ba thứ “bất tức”, thuần nói “hết thảy tức” (hết thảy các pháp tức là Không, ngay cả cái Không ấy cũng là Không), lợi căn và độn căn đều có thể “tức”, từ nơi phương tiện mà được thấy chân thật. Pháp Hoa th́ có hai ư:

          - Dùng phương tiện từ ngay trong phương tiện, đó là một ư.

          - Phương tiện tức là chân thật, chân thật tức là viên nhân (cái nhân viên măn), viên nhân tức là phương tiện để tự hành.

          Tự hành phương tiện như thế, nay mới chứng nhập. V́ thế, để giải thích phẩm này, bèn nói: “Phương là Bí, Tiện là Diệu, khéo thông đạt các phương pháp th́ chính là bí mật thật sự. Do tự hành phương tiện mà có danh xưng ấy. V́ thế nói là phẩm Phương Tiện!” Phần thứ năm, “gộp mười nghĩa thành ba loại Quyền Thật đă xong.      

          6) Phân biệt hai thứ Quyền Thật để chiếu ba loại Nhị Đế:

          Trong phần trước đă từ Thông và Biệt để quy kết Quyền và Thật (Thông gồm mười cặp, mỗi cặp đều có ba loại Quyền Thật. Biệt th́ có bốn tự (tức bốn loại tự hành Quyền Thật), hai tha (hai món hóa tha Quyền Thật) và bốn món “cùng tự và tha”, tức tự hành hóa tha Quyền Thật). Nay vẫn dựa theo trí chiếu ấy, sẽ dễ thấy ư nghĩa. Nếu đều dùng mười loại để giảng rơ chuyện tự hành hai trí (Quyền Trí và Thật Trí) th́ sẽ là chiếu Nhị Đế (Tục Đế và Chân Đế) thuận theo trí. Nếu đều dùng mười pháp ứng hợp với các duyên, th́ sẽ là chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh kiến. Nếu “gom bốn thành hai” th́ chính là chiếu Nhị Đế thuận theo trí và t́nh (trong mỗi giáo, đều gộp bốn điều (“tức là Quyền”, “tức là Thật”, “vừa là Quyền vừa là Thật”, “chẳng phải Quyền chẳng phải Thật”) thành hai loại, tức là đối với tự hành Quyền Thật đều gom vào Thật, hóa tha Quyền Thật đều gom vào Quyền. Do vậy, chỉ thành hai. Đó thông trong thông vậy).

          Nếu tách ra để chiếu Đế th́ [các môn] Sự Lư, Giáo Hạnh, Phược Thoát, Nhân Quả đều là tự chứng, tức là chiếu Nhị Đế thuận theo trí. Lư Giáo và Khai Hợp, hai môn này thuộc về Hóa Tha, tức là chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh kiến. Thể Dụng, Tiệm Đốn, Phân Biệt, Tất Đàn, bốn môn ấy đều chung cho tự và tha, tức là chiếu Nhị Đế thuận theo trí và t́nh (đó là biệt trong thông).

          Lại gộp chung th́ Tam Tạng Giáo có ba mươi loại Nhị Trí (Thật Trí và Quyền Trí), tức là hai loại trí để giáo hóa người khác, tức là thuận theo t́nh kiến mà chiếu Nhị Đế. Thông Giáo và Biệt Giáo cộng lại có sáu mươi loại Nhị Trí, tức là tự tha Nhị Trí chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh và trí. Thông Giáo th́ có lúc giống như Tam Tạng trong phần trước chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh kiến, c̣n ba mươi loại Nhị Trí của Biệt Giáo là tự tha Nhị Trí, chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh và trí (Trước là thâu nhiếp Thông Giáo thành “tự tha”, do có thể thông với Biệt Giáo và Viên Giáo. Thông Giáo là sơ môn của Đại Thừa. Kế đó, phán định Thông Giáo chỉ là Tha, do trong giáo ấy, chẳng nói đến lư Trung Đạo, giống như sự đoạn diệt trong Tạng Giáo). Chỉ có ba mươi thứ Quyền Thật trong Viên Giáo chính là tự hành nhị trí, chiếu Nhị Đế thuận theo trí. Lại nữa, ba giáo dù Thông hay Biệt (vẫn là nói: Đối với mười cặp thuộc Thông, th́ trong mười cặp, mỗi cặp đều có ba loại (tự hành, hóa tha, và tự hành hóa tha). Xét theo Biệt, sẽ có bốn cặp là tự hành, hai cặp là hóa tha v.v…) đều nhằm thích ứng duyên, đều là hóa tha nhị trí, chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh kiến. Viên Giáo dù thông hay biệt đều là tự hành Nhị Trí, tức là chiếu Nhị Đế thuận theo trí. Gộp chung Quyền Thật của ba giáo (Tạng, Thông, Biệt) th́ đều là Quyền, c̣n Quyền Thật của Viên Giáo đều là Thật. Đấy chính là tự tha hai trí, chiếu Nhị Đế thuận theo t́nh và trí. Phần sáu, “phân biệt Quyền Thật chiếu Nhị Đế” đă xong.

          7) Bảy là dựa theo các kinh để phán định Quyền Thật:

          Trước hết là Hoa Nghiêm, luận theo giáo th́ chỉ là măn tự. Luận về thời, chỉ là sữa. Luận về pháp, chỉ là một tự hành [Quyền Thật] và một hóa tha [Quyền Thật]. Luận về người (đối tượng tiếp nhận) chỉ là Bồ Tát, chứ hàng Nhị Thừa như điếc, như câm. Nay kinh văn nói: “Vị tằng hướng nhân thuyết như thị sự dă” (Chưa từng hướng về người khác nói chuyện như thế).

          Kế đó là Tam Tạng (thời A Hàm), luận về giáo, chỉ là bán tự. Luận về thời, th́ là lạc. Luận về pháp th́ là một loại hóa tha. Luận về người, chỉ là Nhị Thừa. Kinh này nói: “Trụ lập môn ngoại, trước tệ cấu y, chấp trừ phn khí dă” (đứng ở ngoài cửa, mặc áo xấu dơ, cầm dụng cụ dọn phân).

          Kế đến là Phương Đẳng. Luận về giáo, đối với bán tự mà nói măn tự. Luận về thời, cùng nói đến lạc và tô. Luận về pháp, có ba loại hóa tha [Quyền Thật], một loại tự hành [Quyền Thật]. Luận về người th́ là tiểu căn hâm mộ Đại Thừa. Nay kinh này nói: “Tâm tương thể tín, nhập xuất vô nan dă” (Tâm dần dần hiểu biết, tin tưởng, ra vào chẳng khó khăn).

          Kế đó là Bát Nhă, luận về giáo th́ kèm theo bán tự để nói về măn tự. Luận về thời, kèm sanh tô và thục tô. Luận về pháp, có hai loại hóa tha, một loại tự hành. Luận về người, th́ Đại giúp cho Tiểu, Tiểu dạy Đại. Nay kinh này nói: “Xuất nạp, thủ dữ, giai sử linh tri dă” (giao ra, thâu vào, nhận lấy, ban cho, đều khiến cho hiểu biết).

          Nay thời Pháp Hoa, luận về giáo th́ là phế bán tự, nói măn tự. Luận về thời, thuần là đề hồ. Luận về pháp, chỉ có tự hành. Luận về người, “thử thật thị ngă tử, ngă chi sở sanh, ngă thật thị phụ, phó dĩ gia nghiệp, thọ kư tác Phật” (đây thật sự là con ta, do ta sanh ra, ta thật sự là cha nó. Giáo phó gia nghiệp cho nó, thọ kư sẽ thành Phật). Những điều các giáo trước chẳng nói, nay đều tuyên thuyết, chánh trực xả phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng. V́ thế, tự hành Quyền được gọi là phẩm Phương Tiện. Những điều khác hoặc là tự tha nhị trí, hoặc hóa tha nhị trí (có thể là đối với ba điều Giáo, Hạnh, Lư, trước đó đă thấu hiểu; nhưng chuyện khơi mở cho người khác (tức chuyện khai Quyền hiển Thật, hội tam quy nhất) th́ các giáo (các giáo pháp trước thời Pháp Hoa) đều chẳng có).

          Lại nữa, Hoa Nghiêm đối với hai loại Bồ Tát, nói một tự (tự hành Quyền Thật) và một tha (hóa tha Quyền Thật), chẳng màng hàng Nhị Thừa không nghe, không hiểu. Tam Tạng th́ đối với Nhị Thừa nói một phép hóa tha Quyền Thật, chẳng màng tới hàng Bồ Tát. V́ thế, chẳng có tự hành Quyền Thật. Phương Đẳng đối ứng cả Tiểu và Đại. Đối với Nhị Thừa, bèn nói hai loại hóa tha Quyền Thật. Đối với Bồ Tát th́ nói một tự hành Quyền Thật, một hóa tha Quyền Thật. Bát Nhă th́ đối với Nhị Thừa nói một hóa tha Quyền Thật, đối với Bồ Tát th́ nói một tự hành Quyền Thật, một hóa tha Quyền Thật. Pháp Hoa đối ứng trọn khắp những người căn cơ đă chín muồi, chỉ nói một tự hành Quyền Thật, chẳng c̣n có hóa tha Quyền Thật. Kinh văn nói: “Bồ Tát văn thị pháp, nghi vơng giai dĩ trừ, thiên nhị bách La Hán, tất diệc đương tác Phật” (Bồ Tát nghe pháp này, lưới nghi đều đă trừ, ngàn hai trăm La Hán, cũng đều sẽ thành Phật). Hết thảy chúng sanh đều đă nhập phương tiện tự hành. V́ thế, có tên là phẩm Phương Tiện. Phần thứ bảy, dựa theo các kinh để phán định Quyền Thậtđă xong.

          8) Xét theo Bổn Tích để phán định Quyền Thật:

          Nơi Bổn địa, Như Lai từ lâu đă chứng đắc hết thảy Quyền Thật, gọi là tự hành Quyền Thật. Trong chặng giữa, thị hiện dấu tích, cũng chỉ nói kèm thêm. Ngày nay, thị hiện dấu tích nơi Tịch Diệt đạo tràng, kèm theo hóa tha Quyền Thật của Biệt Giáo để nói đến tự hành Quyền Thật. Kế đó, nói một thứ hóa tha Quyền Thật, sau đó nói tam thừa, kế đó nói hai loại hóa tha Quyền Thật, rồi lại nói “phế trừ tam thừa” v.v… đều gọi là “hóa tha Quyền Thật”. Gom lại th́ Quyền Thật nơi Bổn được gọi chung là Thật. Gom lại Quyền Thật nơi Tích được gọi chung là Quyền; tức là tự tha hợp Quyền Thật (tự hành hóa tha Quyền Thật). Kết lại điều này, sẽ thành bốn câu: “Hết thảy là Thật”, “hết thảy là Quyền”, “hết thảy vừa là Quyền vừa là Thật”, “hết thảy chẳng phải Quyền, chẳng phải Thật”.

          Nơi Bổn, ngài Xá Lợi Phất đă chứng hết thảy Quyền Thật, tức là tự hành Quyền Thật. Nơi Tích, th́ tại Lộc Uyển, Ngài chỉ lănh nhận hóa tha Quyền Thật. Trong thời Phương Đẳng, kẻ chấp vào một thừa (Tiểu Thừa), sẽ bị ba thừa chiết phục. Trong thời Bát Nhă, dùng hai thừa kia (Bồ Tát Thừa và Duyên Giác Thừa) để chuyển một thừa (Thanh Văn Thừa). Tới thời Pháp Hoa, phế ba thừa, ngộ nhất thừa (Phật Thừa), đều là hóa tha Quyền Thật. Gom Quyền Thật nơi Bổn làm Thật, gom Quyền Thật nơi Tích làm Quyền, tức là tự tha Quyền Thật, có thể biết là cũng trọn đủ bốn câu. Nếu nói theo Tích của Phật th́ cũng là hóa tha Quyền Thật, cũng gọi là phẩm Phương Tiện. Nếu xét từ chuyện dẫn nhập viên nhân để tự hành th́ cũng là phẩm Phương Tiện. Nếu xét theo Quyền nơi Tích của Xá Lợi Phất th́ cũng là phẩm Phương Tiện. Nếu từ Tích của ngài Xá Lợi Phất mà nhập Thật th́ cũng là phẩm Phương Tiện. Do các nghĩa như thế mà gọi là phẩm Phương Tiện.

 

2.1. Nói thẳng vào phần Tích Môn

 

          Chia làm hai phần:

          - Từ phần kinh văn hiện thời cho đến “đại sanh hoan hỷ” (sanh hoan hỷ to lớn) chính là đại lược chỉ ra tam thừa để hiển lộ Nhất Thừa; do [hàng Thanh Văn] dấy động chấp trước bèn sanh nghi.

          - Kế đó, từ “nhĩ thời, Thế Tôn cáo Xá Lợi Phất: - Nhữ dĩ ân cần tam thỉnh, khởi đắc bất thuyết” (lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất: - Ông đă ân cần thỉnh cầu ba lượt, há chẳng thể không nói) cho đến phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Kư chính là nói rộng về chuyện khai tam thừa, hiển lộ Nhất Thừa ḥng đoạn nghi sanh tín.

 

2.1.1. Đại lược chỉ ra tam thừa để hiển lộ Nhất Thừa, [hàng Thanh Văn] dấy động chấp trước bèn sanh nghi      

2.1.1.1. Đại lược chỉ ra tam thừa, ḥng hiển lộ Nhất Thừa

2.1.1.1.1. Trường hàng và trùng tụng tán thán hai trí của Phật

2.1.1.1.1.1. Trường Hàng       

2.1.1.1.1.1.1. Dựa vào ngôn từ để tán thán hai trí

2.1.1.1.1.1.1.1. Nêu ra hai trí Quyền Thật của chư Phật

2.1.1.1.1.1.1.1.1. Tán thán hai trí Quyền Thật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn tùng tam-muội an tường nhi khởi, cáo Xá Lợi Phất: - Chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng, kỳ trí huệ môn nan giải, nan nhập, nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất năng tri.

          ()爾時世尊。從三昧安詳而起。告舍利弗。諸佛智慧。甚深無量。其智慧門。難解難入。一切聲聞辟支佛所不能知。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ tam-muội an tường mà khởi, bảo Xá Lợi Phất: - Trí huệ của chư Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ ấy khó hiểu, khó nhập, hết thảy Thanh Văn, Bích Chi Phật đều chẳng thể biết).

 

          “Nhĩ thời” là lúc ngài Văn Thù đă trả lời câu hỏi xong. Đức Phật thường ngự trong Định, sao lại nói là “khởi”? Ở đây, có sự thị hiện. Các vị cổ Phật khi nói kinh này, ắt trước hết nhập Vô Lượng Nghĩa, tức là nhập Pháp Hoa. Nay đức Phật [Thích Ca] cũng vậy, đó là thể hiện Thế Giới Tất Đàn. Xót thương từ Định khởi, quán lư, quán cơ, đôi đằng đều suy xét kỹ càng, ắt nói chẳng sai lầm, tăng trưởng tín tâm của chúng sanh. Đó là thể hiện Vị Nhân Tất Đàn. Xót thương từ Định khởi, Phật tịch mà thường chiếu, [thế mà] vẫn cần phải nhập Định rồi mới thuyết pháp, huống hồ kẻ tán tâm lại toan nói xằng bậy ư? Đấy là thể hiện Đối Trị Tất Đàn. Xót thương từ Định khởi, nhập Định duyên theo lư, tâm an trụ trong Thật Tướng, xuất Định bèn khiến cho kẻ khác an trụ cái tâm nơi Thật Tướng. Đó là chỉ bày Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Xót thương từ Định khởi, an trụ trong bốn pháp ấy, cho nên nói là “an tường nhi khởi” (tứ giáo đều có Tứ Tất Đàn, nay cần phải xét tách bạch từng giáo để hiển lộ sự viên măn).

          “Cáo Xá Lợi Phật” (bảo Xá Lợi Phất) v́ Ngài là người trí huệ bậc nhất trong hàng Tiểu Thừa, muốn nhờ vào đó để phá trí huệ Tiểu Thừa, ḥng hiển lộ trí huệ Đại Thừa. Đó chính là lời giới thiệu của người kết tập kinh.  

          Hỏi: “Cáo Xá Lợi Phất” ở đây có ǵ khác biệt với Đại Phẩm [Bát Nhă][15]?

          Đáp: Sao lại chỉ có Đại Phẩm? Bắt đầu từ Tứ A Hàm cho đến cuối cùng trong kinh này, chỗ nào cũng đều bảo, nhưng mỗi chỗ đều khác nhau. Trong Tứ A Hàm, hoặc là v́ phát khởi sanh diệt pháp luân cho nên bảo [Xá Lợi Phất]. Thời Phương Đẳng th́ do bài xích [các pháp thiên tiểu] cho nên bảo. Thời Bát Nhă do tăng thêm nên bảo. Kinh này v́ khai tam hiển nhất (vạch ra tam thừa là quyền biến, hiển lộ Nhất Thừa mới là chân thật) cho nên bảo. Trong luận, ngài Thiên Thân có nói: “Bảo Thân Tử mà chẳng nói với các vị Thanh Văn khác, là v́ [Xá Lợi Phất] trí huệ sâu xa. Chẳng nói với các vị Bồ Tát là v́ có năm điều: Một, do đây là chuyện phải làm của hàng Thanh Văn. Hai, do hồi hướng đại Bồ Đề. Ba, khiến cho họ chẳng khiếp nhược. Bốn, khiến cho các người khác phát khởi sự suy nghĩ tốt lành. Năm, khiến cho họ chẳng dấy khởi cái tâm việc làm đă xong”. Hăy nên biết năm ư ấy đều chẳng giống các kinh khác. Trước hết là hiển lộ giáo, chẳng nói “Thanh Văn được nhập trí huệ của Phật”.

          “Chư Phật trí huệ thậm thâm vô lượng” (trí huệ của chư Phật rất sâu vô lượng): Tán thán Thật Trí, chẳng phải là ba loại hóa tha Quyền Thật. V́ thế nói là “chư Phật”. Nhằm chỉ rơ Thật nơi tự hành, cho nên nói là “trí huệ”. Đó là cái Thể của trí huệ, tức là nhất tâm tam trí. Theo chiều dọc, thấu triệt nguồn cội như Lư, nên nói là “thậm thâm” (rất sâu). Theo chiều ngang, tột cùng bờ mé của pháp giới, nên nói là “vô lượng”. Đấy là từ ngữ ca ngợi. Vô lượng rất sâu, cao sâu, rộng khắp. Ví như rễ sâu, ắt cành nhánh sum suê; nguồn xa, ắt gịng chảy sẽ dài. Thật Trí đă như thế, Quyền Trí cũng giống như thế.

          “Kỳ trí huệ môn nan giải, nan nhập” (môn trí huệ ấy khó hiểu, khó nhập): Tán thán Quyền Trí. Tiền phương tiện của tự hành đạo có sức tiến nhập, nên gọi là Môn (đó là cái nhân chân thật của bốn mươi địa vị). Từ Môn mà nhập đạo ([đạt đến] quả vị Diệu Giác); thuộc về đạo th́ gọi là Thật, trước khi nhập đạo th́ là Quyền (đây là xét theo nhân quả để luận Quyền Thật trong mười cặp, tức Sự Lư, Lư Giáo v.v… trong phần trước). Thập Trụ mới hiểu được, v́ thế là “nan giải” (khó hiểu). Do Thập Địa mới nhập, nên là “nan nhập”, chẳng phải là kẻ thuộc bảy phương tiện có thể suy lường. Đấy chính là từ ngữ tán thán Quyền, nhưng riêng nêu “Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng thể biết” v́ họ chấp trước nặng nề, cho nên riêng phá trước (Nhị Thừa thuộc Tạng Giáo và Thông Giáo, Bồ Tát trong Thông Giáo, Tam Hiền của Biệt Giáo, Thập Tín trong Viên Giáo, được gọi chung là “thất phương tiện”). Đối với bổn ư nơi Pháp Thân, vốn phải dùng Tự Hành Quyền Thật để xét, không căn cơ nào thoát khỏi. V́ thế nói là “bất tri” (chưa kết duyên th́ gọi là Pháp Thân. Sau khi đă kết duyên th́ gọi là “vô cơ”). Hoa Nghiêm đốn chiếu, [hàng Nhị Thừa] như điếc, như câm; v́ thế nói “không biết”. Phương Đẳng quở trách, bài xích [hàng Tiểu Thừa chấp trước pháp thiên tiểu] chỉ giữ ư niệm thanh tu cho riêng ḿnh. V́ thế nói “chẳng biết”. Bát Nhă chuyển giáo[16], chẳng có tâm mong cầu, nên nói “chẳng biết”. Nay căn cơ Đại Thừa đă được khơi gợi, phát khởi, phóng quang chấn động cơi đất, đạo của chư Phật trong cơi này, cơi kia, dù xưa hay nay, đều giống như nhau! Do ôm ḷng nghi hoặc, cho nên nói là “không biết”. Hàng lợi căn Bồ Tát thấu hiểu từng điều, c̣n độn căn th́ giống như Nhị Thừa; đó cũng là “chẳng biết!”

 

2.1.1.1.1.1.1.1.2. Cùng giải thích Quyền và Thật

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Phật tằng thân cận bách thiên vạn ức vô số chư Phật, tận hành chư Phật vô lượng đạo pháp, dũng mănh tinh tấn, danh xưng phổ văn.

          ()所以者何。佛曾親近百千萬億無數諸佛。盡行諸佛無量道法。勇猛精進。名稱普聞。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Phật từng thân cận trăm ngàn vạn ức vô số chư Phật, hành trọn hết vô lượng đạo pháp của chư Phật, dũng mănh tinh tấn, danh xưng vang rền trọn khắp).

 

          “Phật tằng thân cận…” (Phật từng thân cận): Giải thích Thật Trí. Ấy là v́ ngoài th́ gặp gỡ nhiều vị Phật, nhận lănh những điều trọng yếu tột cùng. V́ thế, Thật Trí rất sâu. Lại do trong th́ tu hành thuần hậu, hành trọn hết các đạo pháp. V́ thế, Thật Trí vô lượng. “Vô lượng”: Giải thích theo chiều cao bèn rộng răi. Thậm thâm” (rất sâu): Giải thích theo chiều dọc th́ cao tột. “Dũng mănh tinh tấn…” là giải thích Quyền Trí. Ấy là v́ dũng mănh tinh tấn bèn có thể nhập môn khó nhập. Đă nhập môn, sẽ được nhuần thấm không ngằn mé, chúng sanh đều khâm ngưỡng đức thù thắng; cho nên gọi là “phổ văn” (nghe trọn khắp); cũng có thể hiểu “do dũng mănh tinh tấn th́ có thể nhập pháp môn, tức là giải thích Quyền Trí sâu xa. “Danh xưng phổ văn” tức là Quyền Trí rộng răi. Tuy chẳng nói “Quyền Trí rộng sâu”, nhưng cứ phỏng theo Thật Trí th́ nghĩa ấy sẽ thành tựu.

 

2.1.1.1.1.1.1.1.3. Cùng kết lại hai trí

 

          (Kinh) Thành tựu thậm thâm vị tằng hữu pháp, tùy nghi sở thuyết, ư thú nan giải.

          ()成就甚深未曾有法。隨宜所說。意趣難解。

          (Kinh: Thành tựu pháp rất sâu chưa từng có, tùy theo cơ nghi mà nói, ư thú khó hiểu).

 

          Xứng lư rốt ráo, cho nên nói là “thành tựu”. Đạt đến bờ kia, nên nói là “thậm thâm” (rất sâu). Đó là tiểu kết về Thật Trí. Tương xứng căn cơ khiến cho họ lănh hội, cho nên nói là “tùy nghi”. [Những người thuộc] bảy phương tiện chẳng biết, v́ thế nói là “nan giải” (khó hiểu). Đó là tiểu kết về Quyền Trí. Hoặc có thể nói “thành tựu thậm thâm vị tằng hữu pháp” (thành tựu pháp chưa từng có rất sâu) là tiểu kết về tự hành Quyền Thật. “Tùy nghi sở thuyết, ư thú nan giải” (thuận theo cơ nghi mà nói, ư thú khó hiểu) là tiểu kết về hóa tha Quyền Thật. Tự hành Quyền Thật th́ đều gọi là Thật. Hóa tha Quyền Thật th́ đều gọi là Quyền. Phần thứ nhất, nói về Quyền Thật của chư Phật đă xong.

 

2.1.1.1.1.1.1.2. Nói về Quyền Thật của Phật Thích Ca

2.1.1.1.1.1.1.2.1. Cùng tán thán Quyền Thật

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Ngô tùng thành Phật dĩ lai, chủng chủng nhân duyên, chủng chủng thí dụ, quảng diễn ngôn giáo, vô số phương tiện, dẫn đạo chúng sanh, linh ly chư trước.

          ()舍利弗。吾從成佛已來。種種因緣。種種譬喻。廣演言教。無數方便。引導眾生令離諸著。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ta từ khi thành Phật đến nay, dùng các thứ nhân duyên, các thứ thí dụ, rộng diễn ngôn giáo, vô số phương tiện để hướng dẫn chúng sanh ĺa khỏi các chấp trước).

 

          [Nếu] Thật Trí chẳng viên măn, Phật đạo sẽ chẳng thành! Đă nói “thành Phật” th́ một thành, hết thảy đều thành, tức là tán thán Thật Trí. Từ câu “chủng chủng nhân duyên” (các thứ nhân duyên) trở đi, tán thán Quyền Trí. Hơn bốn mươi năm, dùng ba loại hóa tha Quyền Thật ḥng phù hợp căn cơ, khiến cho chúng sanh lănh hội. V́ thế nói “các thứ nhân duyên”. “Thí dụ” là như các tỷ dụ cây chuối, bọt nước v.v… trong Tiểu Thừa, hoặc các thí dụ thành Càn Thát Bà, huyễn sự v.v… trong Đại Thừa. “Quảng diễn” là có thể từ một pháp nói ra vô lượng nghĩa. “Vô số phương tiện” tức là bảy loại phương tiện. “Dẫn đạo”: Diễn nói “tán Thập Thiện” ḥng ĺa chấp trước tam đồ. Nói “tịnh Thập Thiện” ḥng ĺa chấp trước Dục Giới. Nói Tam Tạng ḥng ĺa chấp trước Kiến Tư. Nói pháp Bồ Tát để ĺa chấp trước Niết Bàn. Nói Phật pháp để ĺa chấp trước thuận đạo pháp ái[17].

 

2.1.1.1.1.1.1.2.2. Cùng giải thích Quyền Thật

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Như Lai phương tiện tri kiến Ba La Mật, giai dĩ cụ túc.

          ()所以者何。如來方便知見波羅蜜。皆已具足。

          (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Phương tiện tri kiến Ba La Mật của Như Lai đều đă đầy đủ).

 

          Hai chữ Như Lai nhằm nói đến Thật Trí. Từ trong Chân Như Thật Tướng mà được thành Phật, cho nên gọi là Như Lai. Hai chữ “phương tiện” nhằm giải thích Quyền Trí. Do phương tiện thiện xảo, cho nên có thể dùng các thứ nhân duyên, các thứ thí dụ để diễn nói rộng răi các ngôn giáo. Tri kiến Ba La Mật chính là cùng nêu lên Quyền và Thật. “Tri kiến”: Nhất Thiết Chủng Trí được gọi là Thật Tri (實知). Phật nhăn gọi là Thật Kiến. Đạo Chủng Trí gọi là Quyền Tri (權知). Pháp Nhăn gọi là Quyền Kiến. Do đu cùng đạt đến bờ mé của Lư Sự, cho nên đều gọi là Ba La Mật. “Giai dĩ cụ túc” (đều đă trọn đủ): Quyền lẫn Thật đều rốt ráo.

 

2.1.1.1.1.1.1.2.3. Cùng tổng kết Quyền Thật

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như Lai tri kiến quảng đại thâm viễn, vô lượng, vô ngại, lực, vô sở úy, Thiền Định, giải thoát, tam-muội, thâm nhập vô tế, thành tựu nhất thiết vị tằng hữu pháp.

          ()舍利弗。如來知見。廣大深遠。無量。無礙。力無所畏。禪定解脫。三昧。深入無際。成就一切未曾有法。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn, sâu xa, vô lượng, vô ngại, lực, vô sở úy, Thiền Định, giải thoát, tam-muội, thâm nhập chẳng ngằn mé, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có).

 

          “Quảng đại” (rộng lớn) là nói theo chiều ngang, “thâm viễn” (sâu xa) là nói theo chiều dọc. Thật Trí chẳng phải dọc, chẳng phải ngang. Mượn lời khen ngợi theo chiều dọc lẫn chiều ngang, [ḥng diễn tả ư] chiếu soi chẳng có cùng cực, giống như hộp to th́ nắp to. “Vô lượng”: Địa vị Phật là đại từ bi hỷ xả. “Vô ngại” là tứ biện tài nơi địa vị Phật. “Lực”Thập Lực thuộc địa vị Phật. “Vô sở úy” là tứ vô sở úy thuộc địa vị Phật. “Thiền” là Thật Tướng Thiền. “Định” là Thủ Lăng Nghiêm Định. “Tam-muội” là vương tam-muội. “Thâm nhập vô tế” (Thâm nhập chẳng ngằn mé) là tổng kết Quyền Trí theo chiều dọc sâu xa. “Thành tựu nhất thiết vị tằng hữu pháp” (thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có): Tổng kết Quyền Trí theo chiều ngang rộng lớn. Phần thứ nhất, “nhờ vào ngôn từ để tán thán hai trí đă xong.

 

2.1.1.1.1.1.2. Ngăn dứt ngôn từ tán thán hai trí

2.1.1.1.1.1.2.1. Nêu ra duyên do ngăn dứt sự tán thán

2.1.1.1.1.1.2.1.1. Thẳng thừng nêu ra duyên do ngăn dứt sự tán thán        

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như Lai năng chủng chủng phân biệt, xảo thuyết chư pháp, ngôn từ nhu nhuyễn, duyệt khả chúng tâm.

          ()舍利弗。如來能種種分別。巧說諸法。言辭柔軟。悅可眾心。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như Lai có thể phân biệt các thứ, khéo nói các pháp, lời lẽ mềm mỏng, đẹp ḷng đại chúng).

 

          “Chủng chủng phân biệt xảo thuyết chư pháp” (các thứ phân biệt, khéo nói các pháp) là nhắc lại Quyền. “Ngôn từ nhu nhuyễn duyệt khả chúng tâm” (lời lẽ mềm mỏng, đẹp ḷng đại chúng) là nhắc lại Thật. Kinh văn trong đoạn trước [trần thuật chuyện từ trong quang minh] thấy nơi các cơi khác, [chư Phật] nói đốn pháp, có nói [chư Phật] “phát ra âm thanh mềm mỏng”. Kinh văn trong phần sau chép ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) lănh ngộ, bèn thưa “văn Phật nhu nhuyễn âm” (nghe âm thanh mềm mỏng của đức Phật). V́ thế nói là “cử Thật” (nêu ra Thật) th́ tâm đại chúng do đạt được Thật mà vui sướng. Trong phần trước, đă cậy vào ngôn từ để tán thán, trước là Thật, sau là Quyền, nhằm chỉ rơ từ Thật mà dẫn khởi Quyền. Nay chấm dứt lời tán thán bằng ngôn từ [theo thứ tự] trước Quyền, sau Thật là v́ muốn gom Quyền về Thật.

 

2.1.1.1.1.1.2.1.2. Nêu ra cảnh dứt bặt ngôn từ

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Thủ yếu ngôn chi, vô lượng vô biên vị tằng hữu pháp, Phật tất thành tựu.

          ()舍利弗。取要言之。無量無邊未曾有法。佛悉成就。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Nói tóm lại, vô lượng vô biên các pháp chưa từng có, Phật đều thành tựu).

 

          “Thủ yếu”: Nêu bày đầu mối, c̣n nói “nêu đại lược”. “Vô lượng vô biên” là nói đến Quyền. “Vị tằng hữu pháp” (pháp chưa từng có) là nói về Thật. Nói hai chuyện ấy Phật đă đều thành tựu, do tu đạo mà đạt được th́ chuyện ấy có thể nói. Nếu chỉ nói một chuyện, ắt chẳng nên nói là “tất” (, đều). Tất” tức là nói cả Quyền lẫn Thật đều chẳng thể nghĩ bàn. Phần thứ nhất, nêu lên nguyên do dứt bặt lời tán thán đă xong.

 

2.1.1.1.1.1.2.2. Thẳng thừng ngăn dứt sự tán thán bằng ngôn từ

2.1.1.1.1.1.2.2.1. Dứt bặt sự tán thán bằng ngôn từ

 

          (Kinh) Chỉ, Xá Lợi Phất! Bất tu phục thuyết.

          ()止。舍利弗。不須復說。

          (Kinh: Thôi! Xá Lợi Phất! Đừng nên nói nữa).

 

          Pháp này sâu xa, vắng lặng, ngôn ngữ dứt bặt, Thể chẳng thể nói được. V́ thế, [thốt lời] ngăn trở để tán thán. Nếu từ bi giảng nói, nghe rồi chẳng thể hiểu, sẽ tổn thương thiện căn. V́ thế, ngăn trở [đừng thưa hỏi nữa].

 

2.1.1.1.1.1.2.2.2. Giải thích ư ngăn trở tán thán

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Phật sở thành tựu đệ nhất hy hữu nan giải chi pháp, duy Phật dữ Phật, năi năng cứu tận chư pháp Thật Tướng. Sở vị: Chư pháp như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh đẳng.

          ()所以者何。佛所成就第一希有難解之法。唯佛與佛。乃能究盡諸法實相。所謂諸法如是相。如是性。如是體。如是力。如是作。如是因。如是緣。如是果。如是報。如是本末究竟等。

          (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Phật đă thành tựu pháp hiếm có, khó hiểu bậc nhất, chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo Thật Tướng của các pháp, tức là các pháp tướng như thế, tánh như thế, thể như thế, lực như thế, tác như thế, nhân như thế, duyên như thế, quả như thế, báo như thế, gốc ngọn rốt ráo b́nh đẳng như thế).

 

          Đấy là giải thích lư do v́ sao ngăn trở tán thán. Có hai ư:

          - Một, Phật là bậc tối thượng, thành tựu tu đắc pháp tối thượng. V́ thế, chẳng thể nói, tức là nói theo trí huệ có thể thấu hiểu rốt ráo.

          - Hai là cảnh giới rất sâu chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, chẳng thể nói; tức là nói theo Thật Tướng của pháp được thấu hiểu rốt ráo.

          Thành tựu” đối lập với “chẳng thành tựu”. “Đệ nhất” tương phản với “chẳng phải đệ nhất”. “Hy hữu” tương phản với bất hy hữu, “khó hiểu” đối lập với “chẳng khó hiểu”. Đem quả đối ứng với cái nhân, tự đối ứng với tha, cần phải xét theo giáo vị[18], phân biệt, chọn lọc cặn kẽ những kẻ khác, ḥng hiển thị Phật là bậc tối thượng. Quyền Thật theo chiều ngang trọn vẹn, cho nên chẳng thể nói, chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo.

          [Chúng sanh nghe Phật thuyết pháp] chặng đầu và chặng giữa, chỉ đạt được một phần, chưa tột cùng nguồn cội, như trăng đêm Mười Bốn, tác dụng của ánh trăng chưa trọn vẹn. Chỉ riêng Phật với Phật mới thấu hiểu rốt ráo ngằn mé, như trăng đêm Rằm, Thể không ǵ chẳng tṛn đầy, ánh sáng không đâu chẳng trọn khắp, nhằm hiển thị Quyền Thật theo chiều dọc sâu xa. Do tu đạo mà đạt được, cho nên chẳng thể nói!

          “Thật Tướng của các pháp”: Nêu đại lược cảnh Quyền Thật rất sâu! “Chư pháp” chính là bách giới thiên như, tức là Quyền trong Thật. Thật Tướng là nói đến lư thể Trung Đạo, tức là Thật nơi Quyền. Đó gọi là “chư pháp b́nh đẳng như thế đó”. Để giải thích cặn kẽ cảnh Quyền Thật rất sâu, cần phải lập ra bốn lượt giải thích:

          - Một là dựa theo mười pháp giới.

          - Hai là dựa theo Phật pháp giới.

          - Ba là xét theo sự ly hợp (tách ra hay gộp vào).

          - Bốn là xét theo địa vị.

          Kinh nói “chư pháp”, cho nên dùng mười pháp giới để giải thích. Kinh nói “Phật sở thành tựu hy hữu chi pháp” (Phật đă thành tựu pháp hiếm có), cho nên dùng Phật pháp giới để giải thích. Kinh nói “chỉ chỉ, bất tu thuyết, ngă pháp diệu nan tư” (thôi, thôi, chẳng cần nói. Pháp của ta mầu nhiệm khó nghĩ), cho nên dùng tách ra hay gộp vào để giải thích. Kinh nói: “Duy Phật dữ Phật năi năng cứu tận” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu tột cùng); v́ thế, dùng địa vị để giải thích.

          1) Một là xét theo mười pháp giới, [mười pháp giới] tức là lục phàm tứ thánh (sáu đường và bốn thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật). Pháp tuy vô lượng, chẳng ra ngoài con số mười. Trong mỗi pháp giới, tuy lại có nhiều chi phái, nhưng chẳng ra khỏi Thập Như. Như địa ngục giới, chia ra sẽ có đủ tướng, tánh, cho đến bổn mạt [của địa ngục giới], cũng có đủ tướng, tánh, bổn mạt… của súc sanh giới, cho đến cũng có đủ tướng, tánh, bổn mạt… của Phật pháp giới, chẳng hề khuyết giảm. V́ thế, A Tỳ Đàm Tỳ Bà Sa viết: “Địa ngục đạo thành tựu pháp của Tha Hóa Thiên”, tức là nói theo lệ này. Chín pháp giới kia cũng giống như thế. Hăy nên biết: Mỗi pháp giới đều có đầy đủ Thập Như của chín pháp giới kia. Nếu chiếu theo Thập Như thuộc chín pháp giới, thuộc vào địa vị của chính ḿnh, th́ gọi là Quyền. Chiếu theo Thập Như của Phật giới thuộc địa vị của chính ḿnh th́ gọi là Thật. Trong một có trọn đủ vô lượng, trong vô lượng có một. V́ thế, gọi là “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn). Phàm phu tuy có đủ, nhưng tuyệt lư, mê t́nh (tự coi thường [bản thân], cho là chính ḿnh chẳng có phần, cho nên nói là “tuyệt lư”. Suy nghĩ theo dị kiến, cho nên nói là “mê t́nh”). Nhị Thừa tuy có đủ, nhưng xả ly cầu thoát (ba đường chính là [cảnh giới để ngộ chân thường], nhưng họ bỏ đó, chẳng quán, né tránh Không để cầu Không, đâm ra [Quyền Thật sẵn có ấy] trở thành phương tiện giúp cho sự giải thoát nhỏ nhoi). Bồ Tát tuy có đủ, nhưng do chẳng chiếu trọn vẹn, cho nên gọi là “chẳng rơ ràng” (Tạng Giáo và Thông Giáo chiếu lục đạo, Biệt Giáo chiếu theo thứ tự. V́ thế nói là “chẳng trọn vẹn”). Như Lai hiểu thấu triệt, chiều dọc lẫn chiều ngang đều trọn đủ (vô lượng trong một là “chiều ngang”. Vô lượng chính là một, tức là “chiều dọc”. Nhiều và một chính là lẫn nhau; v́ thế nói “trọn đủ”), chỉ riêng Phật hiểu rơ, những kẻ khác chẳng thấy, chẳng thể tuyên nói, giăi bày. V́ thế, “chỉ chỉ tuyệt ngôn” (thôi, thôi, hăy dứt lời). Do phần Huyền Nghĩa trong phần trước đă nói rồi, cho nên nay không ghi cặn kẽ.

          b) Xét theo Phật pháp giới để giải thích: Phật giới chẳng có tướng, chẳng phải là không có tướng, mà nói “như thị tướng”, tức là nói đến nhân duyên của vạn thiện. V́ thế, kinh văn trong phần sau viết “chúng bảo trang hiệu” (các thứ báu trang hoàng). Phật giới chẳng phải là tánh, mà cũng chẳng phải là không có tánh, mà nói là “như thị tánh”, tức là nói đến liễu nhân của trí huệ. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói “hữu đại bạch ngưu” (có trâu trắng lớn). Phật giới chẳng phải là Thể, chẳng phải là không có Thể, mà nói “như thị Thể”, chính là nói đến chánh nhân của Thật Tướng. V́ thế, kinh văn trong phần sau có nói “kỳ xa cao quảng” (xe ấy cao rộng). Phật giới chẳng phải là lực, chẳng phải không là lực, mà nói “như thị lực”, tức là từ lực, thiện căn lực v.v… của Bồ Đề đạo tâm. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Hựu ư kỳ thượng, trương thiết hiển cái” (lại trên xe ấy chưng bày tàn lọng). Phật giới chẳng phải là tác, chẳng phải là bất tác, mà nói “như thị tác”, tức là nói đến tùy ư vô công dụng đạo. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói “kỳ tật như phong” (nhanh như gió). Phật giới chẳng phải nhân, chẳng phải không là nhân, mà nói “như thị nhân” chính là nói tới bốn mươi mốt địa vị. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Thừa thị bảo thừa, du vu tứ phương” (ngồi xe báu ấy dạo chơi bốn phương). Phật giới chẳng phải duyên mà cũng chẳng phải không là duyên, mà nói “như thị duyên”, tức là nói đến hết thảy trợ Bồ Đề đạo. V́ thế kinh văn trong phần sau nói: “Hựu đa bộc tùng, nhi thị vệ chi” (Có nhiều tôi tớ theo hầu và bảo vệ). Phật giới chẳng phải quả, chẳng phải không là quả, mà nói là “như thị quả”, tức là nói đến Diệu Giác rạng ngời, viên nhân ắt chứng đắc. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói: “Trực chí đạo tràng” (tới thẳng đạo tràng). Phật giới chẳng phải là báo mà cũng chẳng phải không là báo, thế mà nói “như thị báo”, tức là nói đến Đại Bát Niết Bàn. V́ thế, kinh văn trong phần sau nói “đắc vô lượng vô lậu thanh tịnh chi quả báo” (đạt được quả báo vô lượng vô lậu thanh tịnh). Phật giới chẳng phải gốc, chẳng phải ngọn, mà nói là “bổn mạt” th́ bổn (gốc) là Phật tướng, mạt (ngọn) tức là Phật báo. Đó là tự hành Quyền. Phật chẳng b́nh đẳng, chẳng bất b́nh đẳng, mà nói “cứu cánh đẳng” (rốt ráo b́nh đẳng) tức là nói đến Thật Tướng. V́ thế, gọi chương này là Thật Tướng, tức là tự hành Thật. Từ ngay nơi Thật mà là Quyền; v́ thế nói là “bổn mạt”. Từ ngay nơi Quyền mà là Thật, cho nên nói “đẳng”.

          (Hỏi: “Phật giới ở đây có ǵ khác với Phật giới trong mười pháp giới thuộc phần trước?”

          Đáp: Trong phần trước là c̣n đang mê, đang ở trong nhân, thông với ngộ, thông với quả. C̣n ở đây chỉ có quả, chẳng thông với nhân và mê. V́ thế, mỗi pháp đều sử dụng [cách nói] “song phi” (đều chẳng phải), “phi tướng” tức là chẳng Giả, “phi bất tướng” tức là chẳng Không. Tuy nêu ra “song phi”, vẫn có ư nghĩa Tam Đế. Chín pháp giới kia cứ chuẩn theo đây sẽ biết, bèn biết “bổn mạt cứu cánh đẳng”. Như thế th́ mới gọi là “Phật Thừa rốt ráo”. V́ thế, đều dùng kinh văn nói về cỗ xe to để tổng kết.

          Xét theo kinh văn trong phẩm này, chính là Thật Tướng sẵn có của các pháp trong Phật quả. Trong phần nói Thí Dụ th́ chính là cỗ xe lớn trang nghiêm để đến đạo tràng. Đối với đời trước th́ chính là chỗ khai Quyền hiển Thật nơi quả Phật tột cùng. Trong Bổn môn, chính là diệu pháp được khế nhập bởi vị Phật đă thành Phật từ lâu. Nếu đă hiểu phần Chánh Tông, há c̣n mê đối với phần Lưu Thông ư? Đối với một câu, một kệ như thế mà có thể hết sức tin tưởng, th́ thuyết “tam đức, tam quỹ”[19] sẽ rạng ngời trước mắt. Nếu hiểu ư này, dẫu diễn nói rộng răi suốt tám năm[20], đều chẳng ra ngoài một niệm. Trải suốt năm mươi tiểu kiếp, nghiễm nhiên giống như một sát-na! Phỏng theo đó, sẽ biết giáo pháp thích hợp căn cơ suốt một đời của đức Phật ở ngay trong tâm tánh. Mười phương Phật sự rành rành trước mắt. Căn tánh của pháp giới hễ nắm vững dễ thông, tùy nghi diễn nói, đều chỉ về Tạng lư).

          Đấy là tự hành Quyền Thật của Như Lai, vô thượng nhất. Vô thượng tướng cho đến vô thượng quả báo theo chiều ngang rộng răi, theo chiều dọc sâu thẳm, chẳng có ǵ hơn được! V́ thế, nêu bày “Thật Tướng của các pháp”. Phỏng theo lệ ấy, cũng nên nói Thật Tánh, Thật Thể, Thật Lực, cho đến Cứu Cánh Đẳng của các pháp, [nhưng chánh kinh] chỉ nêu lên một điều (tức Thật Tướng của các pháp) để nói gộp chung đó thôi. Như Lai chiếu trọn khắp, ngang lẫn dọc đều trọn vẹn, như nh́n vào trái cây trong ḷng bàn tay. Chỉ v́ phàm phu giống như hai mắt đều mù, Nhị Thừa như mắt chột, Bồ Tát như nh́n trong đêm tối, mông lung chẳng biết rơ, chẳng thể nói được! V́ thế, “chỉ chỉ tuyệt ngôn” (thôi thôi, đừng nói).

          c. Xét theo tách ra hay gộp vào để giải thích. Như tâm Phật quán thập giới Thập Như th́ vô thượng tướng cho đến vô thượng quả báo đều chỉ là một Phật pháp giới. Như biển gồm thâu muôn gịng, như ngàn chiếc xe đi cùng một đường. Đấy chính là Tự Hành Quyền Thật. Nếu thuận theo ư của người khác, bèn có Thập Như, tánh, tướng v.v… của chín pháp giới; tức là Hóa Tha Quyền Thật. Hóa Tha tuy vẫn có Thật, nhưng đều gộp chung vào Quyền; tự hành tuy vẫn có Quyền, nhưng đều gộp chung vào Thật, tức là Tự Hành Hóa Tha Quyền Thật. Thuận theo người khác th́ là Khai, thuận theo chính ḿnh th́ là Hợp. Ngang dọc đều chiếu trọn vẹn, khai hợp tự tại. Tuy tách ra vô lượng, nhưng vô lượng là một. Tuy gộp lại làm một, một mà vô lượng. Tuy [dường như có] vô lượngmột, mà chẳng phải một, chẳng phải vô lượng! Tuy chẳng phải một, chẳng phải vô lượng, mà là một, là vô lượng. Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu cùng tận. Phàm phu phỉ báng, chẳng tin; Nhị Thừa mê mờ, chẳng tiếp nhận, Bồ Tát chẳng hiểu rơ cội gốc của trần. Do v́ nghĩa này, bèn “chỉ chỉ tuyệt ngôn”.

          d. Bốn là xét theo địa vị để giải thích. “Như thị tướng” là hết thảy chúng sanh đều có Thật Tướng, vốn tự sẵn có. Đấy chính là tướng mạo của Như Lai Tạng. “Như thị tánh” tức là tánh đức trí huệ Đệ Nhất Nghĩa Không. “Như thị Thể” chính là lư pháp tánh Trung Đạo. Đó là Tam Đức chung cho cả mười pháp giới, địa vị nào cũng đều có. Nếu thấu hiểu ba đức ấy, sẽ dự vào địa vị Thập Tín, bèn gọi là “như thị lực, như thị tác”. Dự vào bốn mươi mốt địa vị, th́ gọi là “như thị nhân, như thị duyên”. Nếu đạt tới địa vị Phật th́ gọi là “như thị quả, như thị báo”. Ba món đầu gọi là Bổn, ba món sau gọi là Mạt. Trước sau đều là ba đức, gọi là Cứu Cánh Đẳng. Tam Đức nơi địa vị đầu tiên th́ thông với ác và thiện, thông hiền, thông thánh, thông Tiểu, thông Đại, thông với khởi đầu, thông với cùng cực (kết quả cuối cùng). Dẫu ở trong ác mà chẳng ch́m, tuy ở nơi thiện mà chẳng thăng lên. Tuy ở nơi hiền mà chẳng thấp kém, tuy ở nơi thánh mà chẳng cao. Tuy ở nơi Tiểu mà chẳng hẹp ḥi, tuy ở nơi Đại mà chẳng rộng răi. Tuy ở khởi đầu mà chẳng mới mẻ. Tuy ở tột bậc mà chẳng cũ kỹ! V́ thế là chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói được. V́ thế, “chỉ chỉ tuyệt ngôn”.

          Lại nữa, “tam đức cứu cánh đẳng (tam đức rốt ráo b́nh đẳng) là tướng và tánh của mười pháp giới, Quyền Thật gộp vào, tách ra, sai biệt ngần ấy. Dùng b́nh đẳng đại huệ để như thật quán, cứu cánh giai đẳng” (rốt ráo đều b́nh đẳng). Nếu mê cảnh này, bèn có tánh tướng của sáu pháp giới, gọi là Thế Đế. Nếu hiểu cảnh này, tức là có tánh, tướng của Nhị Thừa, gọi là Chân Đế. Thấu đạt điều này, chẳng mê, chẳng hiểu, tức là có tướng tánh của Bồ Tát giới Phật giới, tức Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Nếu dùng huệ ấy để b́nh đẳng xem xét Tục Đế, Tục Đế chẳng phải là mê. B́nh đẳng xem xét Chân Đế th́ Chân Đế chẳng phải là giải. Chẳng phải giải, chẳng phải mê, đều chẳng phải là mê hay giải, chỉ gọi là “b́nh đẳng”. Nếu song chiếu th́ Quyền chính là Thật, Thật chính là Quyền, tuy hai mà chẳng hai; cũng gọi là Cứu Cánh Đẳng (đấy là dựa theo Hoặc để thấu hiểu Đẳng).

          Lại nữa, đối với cảnh Quyền Thật bất nhị, [chúng sanh thuộc về] bảy loại phương tiện đều chẳng thể dùng trí bất nhị để coi cảnh bất nhị là b́nh đẳng được. Chỉ có chư Phật dùng trí bất nhị để coi cảnh bất nhị b́nh đẳng. V́ thế nói là Cứu Cánh Đẳng (đó là b́nh đẳng xét theo người).

          Lại nữa, nay căn cơ Đại Thừa được kích phát, chẳng nói về “tướng, tánh” của chín giới mà nói thẳng thừng “tướng, tánh” của hết thảy, đều nhập vào trong tướng, tánh của Phật giới. Các giáo trước đó chưa nói, tức xưa chẳng b́nh đẳng với nay. Giáo pháp hiện thời nói ra, liền biết xưa và nay b́nh đẳng. V́ thế nói là “cứu cánh đẳng” (đó là sự b́nh đẳng xét theo giáo).

          Lại nữa, sở dĩ phải dùng bốn lượt để giải thích, nhằm chỉ lư thâu nhiếp trọn khắp, cho nên dựa theo mười pháp giới để giải thích. Nhằm nói rơ cực chứng cao tột, cho nên dựa theo Phật giáo để giải thích. Nhằm nói rơ tác dụng giáo hóa của Phật, cho nên xét theo “hợp ly” (gộp lại hay tách ra) để giải thích. Nhằm nói rơ Tam Đức trọn khắp, cho nên xét theo các địa vị để giải thích. Phần thứ nhất, tức phần văn Trường Hàng tán thán hai trí của đức Phật đă xong!

 

          * Ghi chú của người chuyển ngữ:

 

          Do phần giảng về Thập Như quá sâu, quá phức tạp, chúng tôi xin trích thêm lời giảng của pháp sư Phổ Hành như sau [để những liên hữu trí huệ cạn kém như mạt nhân có thể hiểu sơ lược về Thập Như]:

          “Chư pháp” tức là các pháp thuộc mười pháp giới, từ dưới là địa ngục giới cho đến tột cùng là Phật pháp giới. Mỗi một pháp đều có trọn đủ các đặc tánh như sau: Tướng sai biệt, tánh bất biến, Thể của sắc thân, công dụng lực, công năng tạo tác, nhân chứa đựng quả, duyên ḥng giúp cho cái nhân kết thành quả, cái quả do cái nhân cảm thành, báo khổ lạc tương ứng với cái nhân, tướng là gốc, báo là ngọn. Từ gốc đến ngọn, nếu dùng Tam Đế Không, Giả, Trung để quán viên dung, th́ chỗ quy kết của chúng đều là lư b́nh đẳng Thật Tướng. Do vậy nói “như thị tướng” cho đến “như thị bổn mạt cứu cánh đẳng”.

 

2.1.1.1.1.2. Trùng tụng

2.1.1.1.1.2.1. Kệ tụng về chuyện mượn ngôn từ để tán thán hai trí

 

          Đối chiếu kệ tụng với phần kinh văn [Trường Hàng] trên đây, sẽ có [cách nói] cặn kẽ hay đại lược sai khác ḥng dễ hiển lộ.

 

2.1.1.1.1.2.1.1. Kệ nói gộp lại để tán thán nhị Phật, nhị trí

 

          Phần kinh văn Trường Hàng đối với hai vị Phật đều tán thán, biểu thị hóa duyên khác nhau. Trong kệ tụng, gộp hai vị Phật lại để tán thán, nhằm biểu thị hai trí tương đồng.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Thế Hùng bất khả lượng, chư thiên cập thế nhân, nhất thiết chúng sanh loại, vô năng tri Phật giả, Phật lực, vô sở úy. Giải thoát chư tam-muội, cập Phật chư dư pháp, vô năng trắc lượng giả.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。世雄不可量。諸天及世人。一切眾生類。無能知佛者。佛力無所畏。解脫諸三昧。及佛諸餘法。無能測量者。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Thế Hùng[21] chẳng thể lường, chư thiên và người đời, hết thảy loài chúng sanh, không ai hiểu biết Phật, Phật lực, vô sở úy, giải thoát, các tam-muội, và các pháp khác của Phật, không ai suy lường nổi).

 

          Bài kệ thứ nhất trùng tụng chung Thật Trí của hai vị Phật. Bài kệ thứ hai, trùng tụng chung Quyền Trí của hai vị Phật. “Chư dư pháp” (các pháp khác): Tức là hóa tha Quyền Thật, tức là dùng tự hành để hóa tha. Từ trong một pháp, mở ra vô lượng. Tất cả các phương tiện, không ǵ chẳng từ ngay nơi Quyền mà chính là Thật. V́ thế, cũng chẳng thể suy lường.

 

2.1.1.1.1.2.1.2. Kệ tụng gộp chung hai vị Phật để giải thích lời tán thán và kết lại lời tán thán

 

          (Kinh) Bổn tùng vô số Phật, cụ túc hành chư đạo, thậm thâm vi diệu pháp, nan kiến, nan khả liễu. Ư vô lượng ức kiếp, hành thử chư đạo dĩ, đạo tràng đắc thành quả, ngă dĩ tất tri kiến.

          ()本從無數佛。具足行諸道。甚深微妙法。難見難可了。於無量億劫。行此諸道已。道場得成果。我已悉知見。

          (Kinh: Vốn từ vô số Phật, hành trọn đủ các đạo, pháp vi diệu rất sâu, khó thấy, khó thể hiểu. Trong vô lượng ức kiếp, đă hành các đạo ấy, đắc quả nơi đạo tràng, ta đều thấy biết trọn).

 

          Bài tụng này nhằm giải thích và kết lại ư nghĩa của hai chương trước, nhưng văn tự biến hóa, chẳng cần phải ghép đối ứng từng câu. Bởi lẽ, nói đến hai pháp Quyền Thật vi diệu rất sâu, sẽ là khó thấy, khó hiểu nhất. Do ta và chư Phật vốn đă ở nơi vô số vị Phật, hành đầy đủ trọn hết vô lượng đạo pháp. Do trong vô lượng kiếp đă hành đạo ấy, bèn ngồi nơi đạo tràng, thành tựu Phật quả. V́ thế, có thể thấy biết trọn hết pháp vi diệu Quyền Thật này. Trong vô lượng kiếp, hành đạo trọn đủ. V́ thế, Quyền Trí viên măn, thành chánh quả nơi đạo tràng. Do vậy, Thật Trí viên măn. Đấy cũng là xét theo nhân quả để luận định Quyền Thật. Phần thứ nhất, dựa vào ngôn từ để tán thán hai trí đă xong.

 

2.1.1.1.1.2.2. Kệ tụng về chuyện dứt bặt ngôn từ tán thán hai trí

2.1.1.1.1.2.2.1. Kệ tụng giải thích ư nghĩa v́ sao Phật dạy “thôi tán thán”

         

          (Kinh) Như thị đại quả báo, chủng chủng tánh tướng nghĩa, ngă cập thập phương Phật, năi năng tri thị sự.

          ()如是大果報。種種性相義。我及十方佛。乃能知是事。

          (Kinh: Quả báo lớn như thế, các thứ nghĩa tánh, tướng… Ta và mười phương Phật, mới biết chuyện như thế).

 

          Đây là trùng tụng ư nghĩa “chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo Thật Tướng của các pháp b́nh đẳng”. Đầu tiên là nêu ra quả báo; sau đó, nêu ra tánh tướng trước hết [để đại diện], các thứ trong khoảng giữa (tức các món Như Thị c̣n lại trong Thập Như Thị) sẽ có thể biết. “Đại quả báo” tức là quả báo mầu nhiệm. “Các thứ tánh, tướng” chính là trăm giới ngàn pháp sai biệt bất đồng. “Nghĩa” chính là Cứu Cánh Đẳng.

 

2.1.1.1.1.2.2.2. Trùng tụng chuyện dứt tuyệt ngôn từ tán thán

 

          (Kinh) Thị pháp bất khả thị, ngôn từ tướng tịch diệt, chư dư chúng sanh loại, vô hữu năng đắc giải. Trừ chư Bồ Tát chúng, tín lực kiên cố giả.

          ()是法不可示。言辭相寂滅。諸餘眾生類。無有能得解。除諸菩薩眾。信力堅固者。

          (Kinh: Pháp này chẳng thể chỉ, tướng ngôn từ tịch diệt, các loài chúng sanh khác, chẳng ai có thể hiểu. Trừ các vị Bồ Tát, có tín lực kiên cố).

 

          Đây là trùng tụng ư chỉ “hăy thôi đi, chẳng cần nói nữa”. “Thị pháp” (pháp này) tức là diệu cảnh Quyền Thật được chiếu bởi hai trí (Quyền Trí và Thật Trí) của chư Phật. Đó gọi là “Thật Tướng của các pháp bách giới thiên như chẳng thể nghĩ bàn”. Thật Tướng chẳng có nơi chốn; v́ thế, chẳng thể chỉ bày, chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được. Do vậy, “ngôn từ tướng tịch diệt”. Dẫu Phật có thể nói pháp “chẳng thể nói” này, nhưng chúng sanh chẳng thể nào hiểu được! V́ thế, thôi đi, chẳng cần nói nữa!” Do đă chẳng thể hiểu được, vậy th́ pháp sẽ trọn chẳng thể truyền ư? Do đó, nói “trừ chư Bồ Tát chúng, tín lực kiên cố giả” (trừ các vị Bồ Tát là những người có tín lực kiên cố) th́ có thể hiểu được! Tín lực kiên cố là nói tới bậc Thập Tín trong Viên Giáo. Tiếp theo đây, nói cặn kẽ các chúng sanh khác đều chẳng thể hiểu được.

 

          (Kinh) Chư Phật đệ tử chúng, tằng cúng dường chư Phật, nhất thiết lậu dĩ tận, trụ thị tối hậu thân. Như thị chư nhân đẳng, kỳ lực sở bất kham. Giả sử măn thế gian, giai như Xá Lợi Phất, tận tư cộng độ lượng, bất năng trắc Phật trí. Chánh sử măn thập phương, giai như Xá Lợi Phất, cập dư chư đệ tử, diệc măn thập phương sát, tận tư cộng độ lượng, diệc phục bất năng tri. Bích Chi Phật lợi trí, vô lậu tối hậu thân, diệc măn thập phương giới. Kỳ số như trúc lâm, tư đẳng cộng nhất tâm. Ư ức vô lượng kiếp, dục tư Phật Thật Trí, mạc năng tri thiểu phần. Tân phát ư Bồ Tát, cúng dường vô số Phật, liễu đạt chư nghĩa thú. Hựu năng thiện thuyết pháp, như đạo, ma, trúc, vi, sung măn thập phương sát, nhất tâm dĩ diệu trí, ư Hằng hà sa kiếp, hàm giai cộng tư lượng, bất năng tri Phật trí. Bất thoái chư Bồ Tát, kỳ số như Hằng sa, nhất tâm cộng tư cầu, diệc phục bất năng tri.

          ()諸佛弟子眾。曾供養諸佛。一切漏已盡。住是最後身。如是諸人等。其力所不堪。假使滿世間。皆如舍利弗。盡思共度量。不能測佛智。正使滿十方。皆如舍利弗。及餘諸弟子。亦滿十方剎。盡思共度量。亦復不能知。辟支佛利智。無漏最後身。亦滿十方界。其數如竹林。斯等共一心。於億無量劫。欲思佛實智。莫能知少分。新發意菩薩。供養無數佛。了達諸義趣。又能善說法。如稻麻竹葦。充滿十方剎。一心以妙智。於恒河沙劫。咸皆共思量。不能知佛智。不退諸菩薩。其數如恒沙。一心共思求。亦復不能知。

          (Kinh: Các đệ tử chư Phật, từng cúng dường chư Phật, hết thảy lậu đă hết, trụ nơi thân cuối cùng. Những người như thế đó, sức đều chẳng kham được! Giả sử đầy thế gian, đều như Xá Lợi Phất, vắt óc cùng suy lường, chẳng thể ḍ Phật trí. Dẫu trọn khắp mười phương, đều như Xá Lợi Phất, và các đệ tử khác, cũng trọn mười phương cơi, vắt óc cùng suy lường, vẫn chẳng thể biết nổi! Bích Chi Phật trí sáng, thân vô lậu cuối cùng, cũng đầy mười phương cơi, số nhiều như rừng trúc, bọn họ cùng một ḷng, trong ức vô lượng kiếp, mong suy Phật Thật Trí, chẳng thể biết chút phần. Tân phát ư Bồ Tát, cúng dường vô số Phật, liễu đạt các nghĩa thú, lại hay khéo thuyết pháp, như lúa, mè, tre, lau, đầy ắp mười phương cơi, nhất tâm dùng trí mầu, trong Hằng hà sa kiếp, đều cùng nhau suy lường, chẳng thể biết Phật trí. Các Bồ Tát bất thoái, số như cát sông Hằng, nhất tâm cùng nghĩ cầu, cũng chẳng thể biết được!)

 

          Sáu câu đầu vạch rơ: Hàng lậu tận đệ tử chẳng biết. Bốn câu kế tiếp, chỉ ra ngài Xá Lợi Phất không biết. Phần thứ ba gồm sáu câu, vạch ra các đại đệ tử chẳng biết. Phần thứ tư gồm tám câu, chỉ ra Bích Chi Phật chẳng biết. Bích Chi Phật nghịch thuận quán mười hai nhân duyên, v́ thế gọi là “lợi trí” (trí huệ nhạy bén, thông sáng). “Phật Thật Trí”: Tự hành Quyền Thật đều gọi là Thật. Phần thứ năm gồm mười câu, chỉ ra hàng phát tâm Bồ Tát chẳng biết. Hoặc là nói những người tu Lục Độ ba A-tăng-kỳ kiếp nhưng chưa đoạn Hoặc, hay là nói đến người phát tâm trong hai giáo Thông và Biệt, họ đối với giáo của chính ḿnh đều có thể liễu đạt nghĩa thú Tứ Đế, nương theo đó mà phát khởi Tứ Hoằng Thệ Nguyện, ai nấy đều có thể phô diễn đạo pháp thuộc giáo của ḿnh, lần lượt so với những người thuộc các loại trước đó, đều có thể xưng là bậc diệu trí. Như Tạng Giáo do siêu việt thế gian, nên gọi là Diệu, Thông Giáo do liễu đạt “[vạn pháp] chính là Không”, cho nên là Diệu, Biệt Giáo do ngưỡng vọng, tin tưởng Trung Đạo nên là Diệu. Phần thứ sáu gồm bốn câu, vạch rơ Bất Thoái Bồ Tát chẳng biết. Thông Giáo đoạn trừ phiền hoặc thuộc giới nội, dẫu đắc bất thoái, nhưng chẳng biết biệt lư Trung Đạo. Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) thuộc Biệt Giáo, tuy đắc Vị Bất Thoái và Hạnh Bất Thoái, chẳng biết Trung Đạo “trọn đủ hết thảy các pháp, chính là hết thảy các pháp”.

 

2.1.1.1.1.2.2.3. Trùng tụng cảnh dứt bặt ngôn từ

 

          (Kinh) Hựu cáo Xá Lợi Phất! Vô lậu bất tư nghị, thậm thâm vi diệu pháp, ngă kim dĩ cụ đắc, duy ngă tri thị tướng, thập phương Phật diệc nhiên.

          ()又告舍利弗。無漏不思議。甚深微妙法。我今已具得。唯我知是相。十方佛亦然。

          (Kinh: Lại bảo Xá Lợi Phất! Vô lậu chẳng nghĩ bàn, pháp vi diệu rất sâu, ta nay đă đạt đủ, chỉ ta biết tướng ấy, mười phương Phật cũng thế).

 

          Đây là phần kệ tụng nói về vô lượng vô biên pháp chưa từng có, Phật đều đă thành tựu. Hai câu cuối cùng cũng là trùng tụng “chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu suốt rốt ráo Thật Tướng của các pháp b́nh đẳng”. “Vô lậu” là Thật Tướng thuần nhất. Ngoài Thật Tướng, chẳng có pháp nào khác! “Bất tư nghị” (chẳng nghĩ bàn): Tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ dứt bặt. “Thậm thâm vi diệu” (rất sâu vi diệu): Chỉ có chư Phật chứng nhập, khế ngộ! Do lại nương theo nghĩa vô lậu, đối với Thập Như trong phần trước, nếu xét theo mười pháp giới để giải thích, Thập Như của mười pháp giới gồm thâu lư tánh của phàm lẫn thánh chẳng sơ sót, thâu nhiếp Tam Đế chẳng sơ sót, thâu nhiếp Quyền Trí và Thật Trí chẳng sơ sót. Do nương theo nghĩa chẳng thể nghĩ bàn, Thập Như trong phần trước nếu xét theo nghĩa “khai, hợp” để giải thích, th́ ngay nơi Quyền chính là Thật, ngay nơi Thật chính là Quyền, cho nên chẳng thể nghĩ bàn, do nương theo nghĩa vi diệu rất sâu! Đối với Thập Như trong phần trước, xét theo Phật pháp giới để giải thích th́ là nương theo [ư nghĩa] “chỉ có ta biết nghĩa ấy”. Đối với Thập Như trong phần trước, xét theo địa vị để giải thích, hai đằng đều có thể biết. Trong phần khai hiển đại lược, phần thứ nhất là văn Trường Hàng và Trùng Tụng tán thán hai trí của Phật đă xong.

 

2.1.1.1.2. Kệ tụng trùng tuyên chuyện khi đức Phật đại lược khai Quyền hiển Thật, [hàng Nhị Thừa] dấy động chấp trước, sanh nghi

2.1.1.1.2.1. Chư Phật hiển Thật

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất đương tri, chư Phật ngữ vô dị, ư Phật sở thuyết pháp, đương sanh đại tín lực, Thế Tôn pháp cửu hậu, yếu đương thuyết chân thật.

          ()舍利弗當知。諸佛語無異。於佛所說法。當生大信力世尊法久後。要當說真實。

          (Kinh: Xá Lợi Phất nên biết, chư Phật nói chẳng khác, đối với pháp Phật nói, nên sanh đại tín lực. Pháp Thế Tôn lâu sau, phải nên nói chân thật).

 

          “Chư Phật ngữ vô dị” (lời chư Phật chẳng khác): Điều này hiển thị chư Phật giáo hóa giống nhau. Hai câu kế đó nhằm khuyến tín. Hai câu sau cùng hiển lộ lẽ Thật. Có thể thấy những điều đă nói từ trước đến nay đều chẳng phải là chân thật. Do [đức Phật] phá trừ sự chấp trước xưa kia, nên nay [đại chúng trong hội] sanh nghi. Trong kinh văn thuộc phần sau, [ngài Xá Lợi Phất có nói] “tương phi ma tác Phật” (chẳng phải ma hiện làm Phật ư?) chính là v́ do nghe lời này [bèn sanh ngờ vực]. Phật đă dùng lời chân thật khuyên tin tưởng, sao lại ngược ngạo sanh nghi? V́ ngăn ngừa “do nghi mà sanh báng”, cho nên cần phải khuyến tín.

 

2.1.1.1.2.2. Nêu rơ Phật Thích Ca mở ra tam thừa

 

          (Kinh) Cáo chư Thanh Văn chúng, cập cầu Duyên Giác thừa, ngă linh thoát khổ phược, đăi đắc Niết Bàn giả, Phật dĩ phương tiện lực, thị dĩ tam thừa giáo, chúng sanh xứ xứ trước, dẫn chi linh đắc xuất.

          ()告諸聲聞眾。及求緣覺乘。我令脫苦縛。逮得涅槃者。佛以方便力。示以三乘教。眾生處處著。引之令得出。

          (Kinh: Bảo các vị Thanh Văn, và người cầu Duyên Giác, khiến họ thoát khổ trói, đạt đến đạo Niết Bàn, Phật dùng sức phương tiện, chỉ dạy đạo tam thừa, chúng sanh nơi nơi chấp, dẫn họ thoát ra khỏi).

 

          Bài kệ thứ nhất thẳng thừng chỉ ra: Xưa kia đă lập ra ba thừa. Thanh Văn là Tiểu Thừa, Duyên Giác là Trung Thừa, [c̣n những ai] ba A-tăng-kỳ tu Lục Độ, thoát khỏi các nỗi khổ ràng buộc, đạt tới Niết Bàn th́ chính là Đại Thừa. Hai câu kế tiếp thẳng thừng đả phá: [Cả ba thừa ấy] đều là do phương tiện mà giả nói, toàn là chẳng thật. Hai câu sau nhằm giải thích ư nghĩa v́ sao lập bày như thế: V́ dẫn dắt họ thoát khỏi chấp trước, là chuyện bất đắc dĩ đó thôi. Phần thứ nhất, nêu đại lược về chuyện Khai Quyền Hiển Thật đă xong.

 

2.1.1.2. Khởi nghi, thưa hỏi

2.1.1.2.1. Trần thuật mối nghi

2.1.1.2.1.1. Lời trần thuật của người kết tập kinh

 

          (Kinh) Nhĩ thời, đại chúng trung, hữu chư Thanh Văn, lậu tận A La Hán, A Nhă Kiều Trần Như đẳng, thiên nhị bách nhân, cập phát Thanh Văn, Bích Chi Phật tâm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà-di, các tác thị niệm.

          ()爾時大眾中。有諸聲聞。漏盡阿羅漢。阿若憍陳如等千二百人。及發聲聞辟支佛心比丘比丘尼優婆塞優婆夷。各作是念。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong đại chúng có các vị Thanh Văn, lậu tận A La Hán như A Nhă Kiều Trần Như v.v… một ngàn hai trăm người, và các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu bà-di phát tâm Thanh Văn và Bích Chi Phật, ai nấy nghĩ như thế này).

 

          Trong phần trên, [đức Phật đă] chê trách tam thừa đều là phương tiện. Nay [chánh kinh] chỉ trần thuật hàng Nhị Thừa dấy ḷng nghi, là v́ họ chấp trước nặng nề, nghi sâu, cho nên riêng nêu ra. Như trong phần sau, khi trần thuật những người ôm ḷng nghi, bèn nói số lượng các vị Bồ Tát cầu thành Phật khoảng chừng tám vạn người. V́ thế biết là tam thừa đều khởi ḷng nghi.

 

2.1.1.2.1.2. Nói rơ chuyện sanh nghi

 

          (Kinh) Kim giả Thế Tôn hà cố ân cần xưng thán phương tiện, nhi tác thị ngôn: “Phật sở đắc pháp thậm thâm nan giải, hữu sở ngôn thuyết, ư thú nan tri, nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất năng cập. Phật thuyết nhất giải thoát nghĩa, ngă đẳng diệc đắc thử pháp, đáo ư Niết Bàn, nhi kim bất tri thị nghĩa sở thú!

          ()今者世尊。何故慇懃稱歎方便。而作是言。佛所得法甚深難解。有所言說。意趣難知。一切聲聞辟支佛所不能及。佛說一解脫義。我等亦得此法。到於涅槃。而今不知是義所趣。

          (Kinh: Nay đức Thế Tôn v́ lẽ nào ân cần khen ngợi phương tiện, mà nói như thế này: “Đức Phật đạt được pháp rất sâu, khó hiểu, ngôn thuyết do Phật nói ra ư nghĩa khó biết. Hết thảy Thanh Văn, Bích Chi Phật chẳng thể biết nổi”. Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng đă đắc pháp ấy, đạt tới Niết Bàn, nhưng nay chẳng biết nghĩa này đi về đâu?)

 

          “Hà cố ngôn Phật sở đắc pháp thậm thâm nan giải” (V́ sao nói Phật đạt được pháp rất sâu khó hiểu): Nghi Thật Trí của Phật. “Hà cố ngôn hữu sở ngôn thuyết ư thú nan tri” (V́ sao nói ngôn thuyết do Phật nói ra ư nghĩa khó biết) là nghi Quyền Trí của Phật. Do trước kia, Phật nói ra trí huệ của tam thừa, [chúng sanh thuộc căn cơ tam thừa] cùng chứng chẳng sai kém, chỉ có dư tập (tập khí c̣n thừa sót) là đă hết hay chưa hết đó thôi! Nay Ngài bỗng ca ngợi hai trí của Như Lai chẳng phải là điều chúng ta có thể đạt được; v́ thế, bèn sanh nghi. Từ câu “Phật thuyết nhất giải thoát nghĩa” (Phật nói một nghĩa giải thoát) trở đi, là tự nghi điều chính ḿnh đă đạt được. Thánh đạo tam thừa là lẽ trọng yếu chân thật để vượt thoát, ta tu lư ấy cũng đạt đến Niết Bàn, nhưng nay đức Phật bỗng nói [các lư ấy] đều là phương tiện, chẳng biết điều ǵ mới là chân thật? Do vậy nói “chẳng biết nghĩa ấy đi về đâu”. Phần thứ nhất, trần thuật nghi vấn đă xong.

 

2.1.1.2.2. Xin giải quyết mối nghi

 

          Trong phần này, kinh văn gồm ba lượt thỉnh và hai lần ngăn trở, cộng với một lần ngăn trở trong đoạn trước thành ba lượt ngăn trở. Ngăn trở lần thứ nhất là v́ lư sâu khó hiểu. Thỉnh lần đầu là v́ ḿnh lẫn người xin được giải trừ mối nghi. Ngăn trở lần thứ hai v́ [đại chúng nghe pháp ấy sẽ] kinh sợ, ngờ vực chẳng tin. Thỉnh lần thứ hai là v́ người gieo căn lành đă lâu ắt đều hiểu. Ngăn trở lần cuối cùng là v́ kẻ nào hủy báng [pháp này], ắt đọa vào đường ác. Lần thỉnh cuối cùng là v́ hàng lợi căn sẽ được lợi ích. Hoặc có thể hiểu là Phật sẵn biết do dùng ba lượt ngăn trở th́ người đạt được lợi ích trước sau sẽ không giống nhau, cho nên ba lượt ngăn trở để được cầu thỉnh ba lần.

 

2.1.1.2.2.1. Thỉnh lần thứ nhất

2.1.1.2.2.1.1. Trường Hàng

2.1.1.2.2.1.1.1. Nêu bày mối nghi về nhị trí

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Xá Lợi Phất tri tứ chúng tâm nghi, tự diệc vị liễu, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Hà nhân, hà duyên, ân cần xưng thán chư Phật đệ nhất phương tiện thậm thâm vi diệu nan giải chi pháp?”

          ()爾時舍利弗。知四眾心疑。自亦未了。而白佛言。世尊。何因何緣。慇懃稱歎諸佛第一方便。甚深微妙難解之法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Xá Lợi Phất biết tâm nghi của tứ chúng, chính ḿnh cũng chẳng rơ, bèn bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân nào, duyên nào mà ân cần khen ngợi pháp phương tiện rất sâu, vi diệu, khó hiểu bậc nhất của chư Phật?”)

 

2.1.1.2.2.1.1.2. Nêu bày lời thỉnh

 

          (Kinh) Ngă tự tích lai, vị tằng tùng Phật văn như thị thuyết. Kim giả, tứ chúng hàm giai hữu nghi, duy nguyện Thế Tôn phu diễn tư sự, Thế Tôn hà cố ân cần xưng thán thậm thâm vi diệu nan giải chi pháp?

          ()我自昔來。未曾從佛聞如是說。今者四眾咸皆有疑。惟願世尊敷演斯事。世尊何故慇懃稱歎甚深微妙難解之法。

          (Kinh: Con từ xưa đến nay chưa từng nghe Phật nói như thế. Nay tứ chúng đều có ḷng nghi, kính mong đức Thế Tôn nêu bày chuyện này: V́ sao đức Thế Tôn ân cần ca ngợi pháp rất sâu vi diệu khó hiểu?)

 

2.1.1.2.2.1.2. Kệ tụng

2.1.1.2.2.1.2.1. Trùng tụng mối nghi đối với hai trí

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Huệ nhật đại thánh tôn, cửu năi thuyết thị pháp, tự thuyết đắc như thị, lực, vô úy, tam-muội, Thiền Định, giải thoát đẳng, bất khả tư nghị pháp. Đạo tràng sở đắc pháp, vô năng phát vấn giả, ngă ư nan khả trắc, diệc vô năng vấn giả. Vô vấn nhi tự thuyết, xưng thán sở hành đạo, trí huệ thậm vi diệu, chư Phật chi sở đắc.

            ()爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言慧日大聖尊。久乃說是法。自說得如是。力無畏三昧。禪定解脫等。不可思議法。道場所得法。無能發問者。我意難可測。亦無能問者。無問而自說。稱歎所行道。智慧甚微妙。諸佛之所得。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Đại thánh tôn huệ nhật, nói pháp này đă lâu, tự nói đắc như thế, lực, vô úy, tam-muội, Thiền Định, giải thoát thảy, pháp chẳng thể nghĩ bàn. Pháp đắc nơi đạo tràng, không ai thưa hỏi được, con nghĩ rất khó lường, cũng chẳng thể thưa hỏi. Chẳng hỏi mà tự nói, khen ngợi đạo đă hành, trí huệ rất vi diệu, chư Phật đă đạt được).

 

          “Thị pháp” (pháp này) là nói đến Thật Trí. “Lực, vô úy đẳng” là nói đến Quyền Trí. “Đạo tràng sở đắc” ([pháp] đạt được nơi đạo tràng) là tự hành Quyền Thật. “Ngă ư nan khả trắc” (ư con chẳng thể lường) là nói đến hóa tha Quyền Thật (do đồng thể phương tiện, cho nên khó lường). “Sở hành đạo”: Kết lại tự hành Quyền. “Phật sở đắc” kết lại tự hành Thật, “vô vấn tự thuyết” (chẳng hỏi mà tự nói) tức kết lại ư nghĩa hóa tha. Nếu chẳng muốn tự hành, hóa độ người khác, sao lại chẳng hỏi mà tự khen ngợi vậy?

 

2.1.1.2.2.1.2.2. Trùng tụng chuyện tứ chúng thuộc tam thừa đều nghi hoặc

 

          (Kinh) Vô lậu chư La Hán, cập cầu Niết Bàn giả, kim giai đọa nghi vơng, Phật hà cố thuyết thị? Kỳ cầu Duyên Giác giả, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, chư thiên, long, quỷ thần, cập Càn Thát Bà đẳng, tương thị hoài do dự, chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn: Thị sự vi vân hà? Nguyện Phật vị giải thuyết.

          ()無漏諸羅漢。及求涅槃者。今皆墮疑網。佛何故說是。其求緣覺者。比丘比丘尼。諸天龍鬼神。及乾闥婆等。相視懷猶豫。瞻仰兩足尊。是事為云何。願佛為解說。

          (Kinh: Các La Hán vô lậu, và người cầu Niết Bàn, nay đều đọa lưới nghi; “V́ sao Phật nói vậy?” Những người cầu Duyên Giác, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, các trời, rồng, quỷ thần, cùng với Càn Thát Bà… nh́n nhau đều do dự[22], chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn[23]: Chuyện này là thế nào? Mong Phật giải nói cho).

 

          Câu đầu nói đến Tiểu Thừa, câu thứ hai nói về Lục Độ Đại Thừa. Bài kệ thứ hai nói về Trung Thừa và tứ chúng v.v…

 

2.1.1.2.2.1.2.3. Kệ tụng nêu ra niềm nghi của chính ḿnh

 

          (Kinh) Ư chư Thanh Văn chúng, Phật thuyết ngă đệ nhất, ngă kim tự ư trí, nghi hoặc bất năng liễu, vi thị cứu cánh pháp? Vi thị sở hành đạo?

          ()於諸聲聞眾。佛說我第一。我今自於智。疑惑不能了。為是究竟法。為是所行道。

          (Kinh: Trong các vị Thanh Văn, Phật nói con bậc nhất, nay trong tâm trí con, ngờ vực, chẳng thể rơ, đó là pháp rốt ráo? Hay là đạo đă hành?)

 

          “Cứu cánh pháp” (pháp rốt ráo) là quả. “Sở hành đạo” là nhân. Trong đoạn kinh văn trước đó, Phật bài xích pháp tam thừa do Ngài đă dạy đều là phương tiện. Nay con nghi tam thừa, mỗi thừa đều có nhân quả, nương theo lời dạy mà tu chứng, chưa hề sai lầm. Nếu nói đó là phương tiện, chẳng phải chân thật, th́ cái quả đă chứng chẳng thật ư? Hay là cái nhân đă hành chẳng thật ư?

 

2.1.1.2.2.1.2.4. Kệ tụng về nỗi nghi của Phật tử

 

          (Kinh) Phật khẩu sở sanh tử, hiệp chưởng, chiêm ngưỡng đăi, nguyện xuất vi diệu âm, thời vị như thật thuyết.

          ()佛口所生子。合掌瞻仰待。願出微妙音。時為如實說。

          (Kinh: Con sanh từ miệng Phật[24], chắp tay, chiêm ngưỡng chờ, nguyện thốt ra diệu âm, đúng thời như thật nói).

 

          Đấy là nói tới Bồ Tát thuộc Thông Giáo và Biệt Giáo có nghi vấn. Nếu họ chẳng nghi, lẽ nào lại chắp tay, chiêm ngưỡng ư?

 

2.1.1.2.2.1.2.5. Nêu chung đại chúng cùng nghi để cầu thỉnh

 

          (Kinh) Chư thiên, long, thần đẳng, kỳ số như Hằng sa, cầu Phật chư Bồ Tát, đại số hữu bát vạn, hựu chư vạn ức quốc, Chuyển Luân Thánh Vương chí, hiệp chưởng dĩ kính tâm, dục văn cụ túc đạo.

          ()諸天龍神等。其數如恒沙。求佛諸菩薩。大數有八萬。又諸萬億國。轉輪聖王至。合掌以敬心。欲聞具足道。

          (Kinh: Các trời, rồng, thần thảy, số như cát sông Hằng, các Bồ Tát cầu Phật, số nhiều đến tám vạn, lại từ vạn ức nước, Chuyển Luân Thánh Vương đến, chắp tay, tâm kính trọng, muốn nghe đạo trọn đủ[25]).

 

          Lần “thỉnh vấn” thứ nhất đă xong.

 

2.1.1.2.2.2. Ngăn trở [bảo đừng hỏi] lần thứ hai, v́ sợ [thính chúng] hoài nghi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất: “Chỉ, chỉ, bất tu phục thuyết. Nhược thuyết thị sự, nhất thiết thế gian, chư thiên cập nhân, giai đương kinh nghi”.

          ()爾時佛告舍利弗。止止。不須復說。若說是事。一切世間諸天及人。皆當驚疑。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: “Thôi, thôi, đừng nên nói nữa! Nếu nói chuyện này, hết thảy chư thiên và người trong thế gian sẽ đều kinh hăi, ngờ vực”).

 

2.1.1.2.2.3. Thưa hỏi lần thứ hai, nêu rơ [trong đại chúng có những người] túc căn nhạy bén, cho nên chẳng hoài nghi

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất trùng bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện thuyết chi. Duy nguyện thuyết chi. Sở dĩ giả hà? Thị hội vô số bách thiên vạn ức A-tăng-kỳ chúng sanh tằng kiến chư Phật, chư căn mănh lợi, trí huệ minh liễu, văn Phật sở thuyết, tắc năng kính tín”. Nhĩ thời, Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: “Pháp vương vô thượng tôn, duy thuyết nguyện vật lự. Thị hội vô lượng chúng, hữu năng kính tín giả”.

          ()舍利弗重白佛言。世尊。惟願說之。惟願說之。所以者何。是會無數百千萬億阿僧祇眾生。曾見諸佛。諸根猛利。智慧明了。聞佛所說。則能敬信。爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言。法王無上尊。惟說願勿慮。是會無量眾。有能敬信者。

          (Kinh: Xá Lợi Phất lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính mong Ngài hăy nói. Kính xin Ngài hăy nói. V́ lẽ nào vậy? Trong hội này, vô số trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ chúng sanh từng thấy chư Phật, các căn nhạy bén, trí huệ sáng tỏ, nghe lời Phật dạy, đều có thể sanh ḷng kính tín”. Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất muốn nói lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: “Đấng pháp vương vô thượng, xin hăy nói chớ nghi, vô lượng chúng trong hội, có thể kính tin vậy”).

 

2.1.1.2.2.4. Ngăn trở lần thứ ba để bảo vệ kẻ tăng thượng mạn

 

          (Kinh) Phật phục chỉ Xá Lợi Phất: “Nhược thuyết thị sự, nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La, giai đương kinh nghi. Tăng thượng mạn tỳ-kheo, tương trụy ư đại khanh”. Nhĩ thời, Thế Tôn trùng thuyết kệ ngôn: “Chỉ chỉ, bất tu thuyết. Ngă pháp diệu nan tư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tín”.

          ()佛復止舍利弗。若說是事。一切世間天人阿修羅皆當驚疑。增上慢比丘。將墜於大阬。爾時世尊重說偈言。止止不須說。我法妙難思。諸增上慢者。聞必不敬信。

          (Kinh: Đức Phật lại ngăn Xá Lợi Phất: “Nếu nói chuyện này, hết thảy trời, người, A Tu La trong thế gian sẽ đều kinh hăi, ngờ vực. Hạng tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ rơi vào hầm to”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại bằng kệ như sau: “Thôi thôi, chớ nói nữa! Pháp ta diệu khó nghĩ, những kẻ tăng thượng mạn, nghe rồi chẳng kính tín”).

 

2.1.1.2.2.5. Thỉnh lần thứ ba, trần thuật sẽ có nhiều người được lợi ích, đời đời tiếp nhận sự giáo hóa, chẳng dấy tâm tăng thượng mạn

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Xá Lợi Phất trùng bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện thuyết chi, duy nguyện thuyết chi. Kim thử hội trung, như ngă đẳng tỷ bách thiên vạn ức, thế thế dĩ tằng tùng Phật thọ hóa. Như thử nhân đẳng, tất năng kính tín, trường dạ an ổn, đa sở nhiêu ích”. Nhĩ thời, Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: “Vô thượng lưỡng túc tôn, nguyện thuyết đệ nhất pháp. Ngă vi Phật trưởng tử, duy thùy phân biệt thuyết. Thị hội vô lượng chúng, năng kính tín thử pháp. Phật dĩ tằng thế thế, giáo hóa như thị đẳng, giai nhất tâm hiệp chưởng, dục thính thọ Phật ngữ. Ngă đẳng thiên nhị bách, cập dư cầu Phật giả, nguyện vị thử chúng cố, duy thùy phân biệt thuyết. Thị đẳng văn thử pháp, tắc sanh đại hoan hỷ”.

          ()爾時舍利弗重白佛言。世尊。惟願說之。惟願說之。今此會中。如我等比百千萬億。世世已曾從佛受化。如此人等。必能敬信。長夜安隱。多所饒益。爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言。無上兩足尊。願說第一法。我為佛長子。惟垂分別說。是會無量眾。能敬信此法。佛已曾世世。教化如是等。皆一心合掌。欲聽受佛語。我等千二百。及餘求佛者。願為此眾故。惟垂分別說。是等聞此法。則生大歡喜。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Xá Lợi Phất lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kính mong hăy nói, kính mong hăy nói. Nay trong hội này, có trăm ngàn vạn ức người như chúng con, đời đời đă từng được Phật giáo hóa. Những người như thế ắt có thể kính tin, đêm dài an ổn, đạt được nhiều lợi ích rộng lớn”. Lúc bấy giờ, Xá Lợi Phất muốn trùng tuyên nghĩa này, bèn nói kệ rằng: “Đấng lưỡng túc vô thượng, xin nói pháp bậc nhất. Con là trưởng tử Phật, xin phân biệt nói cho. Hội này vô lượng chúng, hay kính tin pháp này. Phật đă từng đời đời, giáo hóa họ như thế, đều nhất tâm chắp tay, muốn nghe nhận lời Phật. Chúng con ngàn hai trăm, và người cầu Phật khác, nguyện Phật v́ bọn họ, rủ ḷng phân biệt nói, bọn họ nghe pháp này, ắt sanh hoan hỷ lớn”).

 

          Phần thứ nhất, đại lược khai tam hiển nhất, dấy động chấp trước sanh nghi đă xong.

 

          Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 3 hết

 



[1] Thanh giáo (聲教): Do đức Phật dùng âm thanh (ngôn ngữ) để giáo hóa nhằm phù hợp căn tánh của chúng sanh trong cơi Sa Bà, nên gọi là “thanh giáo” (giáo hóa bằng âm thanh).

[2] Nhất tâm tam trí là đồng thời trong một tâm mà đạt được Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí và Nhất Thiết Chủng Trí.

[3] Chú thích của pháp sư Phổ Hành: “Cổ nhân cho rằng tám người con biểu thị Bát Chánh Đạo, hoặc biểu thị tám thức, nhưng tên của tám vị đều có chữ Ư, tợ hồ chẳng tương ứng với sự biểu thị pháp. Nay dựa theo kinh văn để giải thích như sau: Duy Thức Luận gọi cái thức thứ bảy (Mạt Na Thức) luôn suy xét, so lường là Ư. “Ư” ấy luôn duyên theo thức thứ tám, chấp có thật ngă, thật pháp. V́ thế gọi là Hữu Ư. Nó cũng thông với tánh thiện, nên có tên là Thiện Ư. Do chẳng mất tánh quư báu (Như Lai Tạng), nên gọi là Bảo Ư. Duyên lực tăng trưởng thù thắng, nên gọi là Tăng Ư. Như hang vọng tiếng dội, nên gọi Hưởng Ư. Luôn duyên theo Pháp Trần, nên gọi là Pháp Ư. Chẳng thể diễn tả, suy lường, nên gọi là Vô Lượng Ư. Hễ nghi niệm nẩy sanh đều nên trừ dứt, cho nên gọi là Trừ Nghi Ư”.

[4] Tứ thiên hạ tức là bốn đại châu (Đông Thắng, Tây Ngưu, Nam Diêm Phù Đề, Bắc Câu Lô). Do bốn châu ấy vây quanh núi Tu Di, nên gọi là Tứ Thiên Hạ.

[5] Pháp sư Phổ Hành chú giải: “Diệu là chẳng thể nghĩ bàn, Quang có thể chiếu tan vô minh. Do vậy, Bồ Tát tên là Diệu Quang”.

[6] Pháp sư Phổ Hành chú thích: “Bồ Tát hàm tàng vô lượng công đức, cho nên gọi là Đức Tạng. Tịnh Thân: Thân Phật thanh tịnh, tướng hảo trang nghiêm, cho nên hiệu là Tịnh Thân”.

[7] “Y” có nghĩa là c̣n có thân nương vào hữu lậu, do c̣n Hoặc nghiệp sót thừa, cho nên gọi là Dư. Hữu Dư Y tức là Hoặc nghiệp gây nên sanh tử đă hết, nhưng vẫn c̣n có khổ quả hữu lậu sót thừa. Chẳng hạn như ngài Kiều Phạm Ba Đề đă chứng thánh quả, nhưng c̣n ác tật miệng luôn nhai nhóp nhép như trâu nhơi.

[8] Khổ y tức là thân do khổ báo. V́ thân là chỗ để con người nương vào mà tồn tại, nên thân được gọi là Y.

[9] Nhiên Đăng Phật (Dipaṁkara), c̣n dịch là Định Quang Phật, Đăng Quang Phật, Phổ Quang Phật, hoặc có lúc c̣n phiên âm là Đề Hoàn Yết Phật. Theo kinh Thụy Ứng: “Khi Định Quang Phật xuất thế, ta làm Bồ Tát, tên là Nho Đồng, mua hoa đến cúng Định Quang Phật, rải hoa cúng dường. Hoa ngừng trên không trung, Phật hiểu ư, bèn tán thán: - Ông đă học thanh tịnh trong vô số kiếp, do vậy bèn thọ kư, trong chín mươi mốt kiếp sau, trong kiếp có tên là Hiền Kiếp, ông sẽ làm Phật, hiệu là Thích Ca Văn”. Trí Độ Luận quyển chín chép: “Khi Nhiên Đăng Phật sanh ra, hết thảy mọi thứ chung quanh như được đèn chiếu sáng, nên gọi là Nhiên Đăng thái tử. Khi Ngài thành Phật, cũng hiệu là Nhiên Đăng, cựu dịch là Định Quang Phật”. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 13, trong kiếp quá khứ lâu xa, có vua tên là Địa Chủ, đem nửa phần Diêm Phù Đề trao cho bầy tôi của vua là Thiện Minh thống trị. Lúc phu nhân của Thiện Minh sanh con, cả Diêm Phù Đề sáng rực quang minh sắc vàng. Đứa sanh ra dung mạo đoan chánh, đủ ba mươi hai tướng; do vậy, đặt tên là Đăng Quang. Lúc hai mươi chín tuổi, Đăng Quang xuất gia học đạo, thành Phật ngay trong đêm ấy. Thiện Minh và bốn mươi ức người đến chỗ Đăng Quang Như Lai nghe thuyết pháp. Như Lai lại đến chỗ vua Địa Chủ thuyết pháp. Địa Chủ chính là tiền thân của Phật Thích Ca.

[10] Đây là một trong các đức hiệu của Phật. Trong nhân loại, đức Phật tôn quư nhất, thù thắng nhất. V́ thế gọi là Nhân Trung Tôn (bậc đáng tôn quư trong nhân loại).

[11] Chú thích của pháp sư Phổ Hành: “Tiên ở đây phải hiểu là người tu hành. Bát Nhă Đăng Luận viết: - Các vị Thanh Văn, Bồ Tát v.v… đều được gọi là Tiên”.

[12] Ư nói sự quyền biến của tam thừa do thích hợp với từng loại căn cơ, cho nên không thể dung nạp hết thảy mọi căn tánh, hoặc dung thông với mọi hoàn cảnh được, giống như thước vuông có góc cạnh, không thể đặt vào đâu cũng phù hợp được!

[13] Theo lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, Quả Giáo hiểu đơn giản chính là dùng sự giác ngộ nơi quả địa thù thắng làm cái tâm tu hành cho chúng sanh trong khi tu nhân. Nói cách khác, chỗ phát xuất để tu hành trong quả giáo chính là từ cái quả do mười phương Như Lai đạt được. Chẳng hạn như dùng Tịnh Độ để xét th́ Phật hiệu chính là danh hiệu nơi quả đức của Phật, là sự kết tinh của giác ngộ, là bản thể chân tâm của chư Phật, cho nên tŕ danh hiệu Phật chính là trực tiếp huân tập Phật quả vào trong tâm của chính ḿnh. V́ thế, pháp môn Tịnh Độ gọi là Quả Giáo.

[14] Đây là một thí dụ trong kinh, như người rơi xuống biển, phải nương vào cái thây nổi để vượt sóng gió vào bờ. Đây là tỷ dụ để thoát sanh tử, phải nương vào các phương tiện quyền biến. Sau khi đă đến bờ, bèn bỏ phương tiện, không khư khư chấp trước phương tiện nữa.

[15] Đại Phẩm Bát Nhă là tên gọi tắt của bộ Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Kinh, gồm chín mươi mốt phẩm, do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán. Bộ kinh này được ngài Long Thọ chú giải, soạn thành Đại Trí Độ Luận, và được ngài Cát Tạng chú thích thêm bằng tác phẩm Đại Phẩm Nghĩa Sớ. Đây là các tác phẩm trọng yếu cho các hành giả nghiên cứu giáo nghĩa Bát Nhă.

[16] Đây là một thuật ngữ của tông Thiên Thai để mô tả thời Bát Nhă. Do đức Phật bảo hàng Thanh Văn như ngài Tu Bồ Đề thay Phật thuyết Bát Nhă cho các vị Bồ Tát nên gọi là “chuyển giáo”.

[17] Pháp ái tức là ḷng yêu thích thiện pháp của Bồ Tát. Pháp ái có hai thứ:

1. Căn cơ Tiểu Thừa và Bồ Tát do chưa đoạn pháp chấp, cho nên yêu mến Niết Bàn Thiên Không, và yêu mến, chấp trước các thiện pháp. Pháp ái loại này cần phải đoạn trừ.

2. Đại bi của Phật cũng gọi là vô thượng pháp ái, hoặc vô thượng chân ái.

Thuận đạo pháp ái (c̣n gọi là Tự Đạo pháp ái, tương tự pháp ái) là pháp ái của hàng Bồ Tát chưa nhập Sơ Trụ. Chân đạo pháp ái là pháp ái của bậc Bồ Tát đă từ Sơ Trụ trở lên.

[18] Giáo vị ở đây là nói theo ngũ vị giáo trong kinh Niết Bàn, tức các vị sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ.

[19] Tam Đức là Pháp Thân, Bát Nhă, và Giải Thoát. Tam Quỹ (三軌) là một khái niệm trong tông Thiên Thai, hàm ư ba pháp có thể dùng làm khuôn phép, tức là:

1. Chân Tánh Quỹ: Chẳng hư ngụy là Chân, chẳng thay đổi là Tánh. Chân Tánh Quỹ chính là bản thể của Chân Như Thật Tướng.

2. Quán Chiếu Quỹ: Trí huệ quán thấu đạt chân tánh.

3. Tư Thành Quỹ: Trí giúp cho việc quán chiếu khiến cho vạn hạnh trong chân tánh được khai phát.

[20] Theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, thời Pháp Hoa được đức Phật nói trong suốt tám năm.

[21] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phật là bậc anh hùng tuyệt thế, có thể hiểu những điều mà người đời chẳng hiểu được, có thể hành những điều người đời khó hành, có thể chứng những điều người đời khó chứng, có thể đoạn những điều người đời khó đoạn. V́ thế, gọi là Thế Hùng”.

[22] Pháp sư Phổ Hành chú giải: “Do () vốn là tên của một loài thú. Nó vốn dự pḥng loài người làm hại, nên có lúc leo tót lên cây, có lúc lại tuột xuống. V́ thế, dùng từ ngữ Do Dự để sánh ví sự nghi hoặc, bất định”.

[23] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Lưỡng Túc Tôn: Phật trọn đủ hai trí Quyền và Thật, tôn quư cao thượng nhất, nên gọi là Lưỡng Túc Tôn”.

[24] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Pháp Thân của Bồ Tát do nghe pháp được nói từ kim khẩu của đức Phật mà sanh, v́ thế gọi là Phật khẩu sở sanh tử”.

[25] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Xưa kia nói pháp Nhị Thừa, chính là bán tự giáo, chẳng gọi là ‘trọn đủ’. Nay cầu thỉnh Phật hăy nói Nhất Thừa măn tự giáo th́ mới là trọn đủ”.