Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 5

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa, quyển thứ hai

Đất Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật

妙法蓮華經綸貫會義

古吳後學蕅益智旭述

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

3. Phẩm thứ ba: Thí Dụ (Thí Dụ phẩm đệ tam, 譬喻品第三)

 

          Giải thích phẩm Phương Tiện đă xong, kế đến giải thích phẩm Thí Dụ. Giải thích phẩm này, cũng chia làm hai: Trước là Tổng, sau là Biệt.

 

3.1. Tổng luận

3.1.1. Tổng Thích

 

          Thí () là so sánh, Dụ () là răn bảo cho thông hiểu. Mượn chuyện này để so sánh với chuyện kia, nhờ vào chuyện nông cạn để răn dạy sâu xa. [Trong phẩm này], trước là văn Trường Hàng, sau là Kệ Tụng, nói cặn kẽ Quyền và Thật của năm loại Phật (chư Phật nói chung, tam thế Phật, và Phật Thích Ca). Bậc thượng căn lợi trí nghe pháp viên dung bèn đắc ngộ, phường trung hạ căn vẫn giữ mê chấp chẳng bỏ. [Đức Phật] đại bi chẳng ngơi, trí thiện xảo vô biên, lại dùng chuyện tương tự để sánh ví, ḥng mở mang tâm trí cho họ, chỉ bảo khiến cho họ ngộ. V́ thế, nói là Thí Dụ.

 

3.1.2. Biệt Thích

 

          Dùng nhân duyên, xét theo giáo, Bổn Tích và quán tâm [để giải thích].

 

3.1.2.1. Nhân duyên

 

          Dùng chuyện cha con trong thế gian để sánh ví thầy tṛ xuất thế. Do chuyện đă từng có mà được nghe điều chưa từng có, bèn hớn hở, hoan hỷ. Đó là Thế Giới Ích (Thế Giới Tất Đàn). Lại dùng các vật dụng trong thế gian để sánh ví khí cụ xuất thế gian, khiến cho [chúng sanh] được nghe giáo pháp diễn tả bằng âm thanh của đức Phật, sẽ chẳng bỏ mất Đại Thừa, [thấu hiểu] “những ǵ các ngươi đă hành chính là Bồ Tát đạo”. Đấy là Vị Nhân Ích (Vị Nhân Tất Đàn). Lại dùng sự diệt mất trong thế gian để sánh ví sự diệt độ xuất thế, dẹp trừ nỗi khổ nạn ấy, khiến cho họ khỏi bị nung đốt: “Ta đă đắc Lậu Tận, nghe pháp cũng trừ ưu năo”. Đó là Đối Trị Ích (Đối Trị Tất Đàn). Lại nữa, dùng sự bất sanh bất diệt của thế gian để sánh ví sự bất sanh bất diệt xuất thế gian, ngồi cỗ xe báu ấy đến thẳng đạo tràng, an trụ trong Thật Trí, ta nhất định sẽ thành Phật. Đó là Đệ Nhất Nghĩa Ích (Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn). Đức Phật dùng một âm thanh nói thí dụ, khéo khiến cho trung căn và hạ căn đều đạt được bốn món lợi ích Tất Đàn. V́ thế nói ra phẩm Thí Dụ.

 

3.1.2.2. Xét theo giáo

 

          Ư Phật vốn tán dương Phật Thừa, nhưng v́ chúng sanh chẳng thể kham nổi, bèn suy nghĩ t́m kiếm phương tiện đại bi của chư Phật thuở trước, đi đến Lộc Uyển, xưng dương, tán thán ba cỗ xe (tam thừa). Pháp Nhị Thừa để trung hạ căn tự tế độ, ân ấy chẳng ai sánh bằng! Bồ Tát đánh xe trâu, chở họ thoát khỏi lửa. V́ thế gọi là Ma Ha Tát. Đấy là thí dụ trong Tam Tạng Giáo. Lại nữa, có ba hạng người cùng sợ bị thiêu đốt: Thanh Văn như con hoẵng, chạy thẳng không trở lại. Duyên Giác như nai mẹ, vừa chạy vừa ngoái lại nh́n. Bồ Tát như voi to, dùng thân chặn đao và tên cho cả bầy cùng thoát thân. Đó là thí dụ trong Thông Giáo.

          Lại nữa, Nhị Thừa phát tâm nông cạn, duyên theo lư cạn, trí huệ yếu ớt, chỉ đoạn Thông Hoặc, chẳng thể trừ khử đến tận cùng, chẳng phải là Ba La Mật. Bồ Tát phát tâm lâu xa, lư sâu, trí mạnh, có thể đoạn Biệt Hoặc, tột cùng nguồn tánh. Do vậy, kinh Đại Phẩm nói: “Nhị Thừa như huỳnh hỏa, Bồ Tát như nhật quang” (Nhị Thừa như lửa đom đóm, Bồ Tát như ánh sáng mặt trời). Đó là thí dụ trong Biệt Giáo.

          Lại nữa, “thỉ kiến ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ, nhập Như Lai huệ, như tư chi nhân, dị khả hóa độ, bất linh Như Lai sanh vu b́ khổ” (mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, đều cùng tin nhận, nhập trí huệ của Như Lai. Người như vậy có thể hóa độ dễ dàng, chẳng khiến cho Như Lai sanh vào chốn mệt nhọc, khổ sở). Như trong kinh Hoa Nghiêm, từ ngay nơi Sự mà [chứng nhập] Chân, chẳng cần đến thí dụ (chẳng phải là trong kinh Hoa Nghiêm không có thí dụ, nhưng người đă nhập đạo chẳng phải nhờ vào đó). V́ kẻ chưa nhập mà suốt hơn bốn mươi năm, [đức Phật] dùng phương tiện lạ để giúp hiển lộ Đệ Nhất Nghĩa. Nay tại Linh Sơn, quyết định nói Đại Thừa, khiến cho khắp hết thảy đều được “khai, thị, ngộ, nhập” tri kiến của Phật, chẳng để riêng một ai được diệt độ. Hiện thời giống như thoạt đầu, thoạt đầu giống như hiện thời, chẳng hai, chẳng khác. Bậc thượng căn lợi trí vừa nghe liền có thể hiểu, chẳng khiến cho Như Lai sanh vào chốn mệt nhọc, khổ sở, mà cũng chẳng cần phải nói thí dụ. Chỉ v́ phường trung hạ căn lẩn quẩn nơi ngơ rẽ; v́ thế, nay cần phải có thí dụ cỗ xe lớn để họ đạt được lợi ích. Đó gọi là thí dụ trong Viên Giáo.

 

3.1.2.3. Xét theo Bổn Tích

          Trong Tích Môn đă có thí dụ về tứ giáo. Dùng Tích để suy ra Bổn: Ngay trong lúc thành đạo thuở ban sơ, cũng nên dùng các thí dụ để thành thục chúng sanh. Lại v́ hạt sen mà trổ hoa v.v… dùng các thí dụ [như thế] để sánh ví Bổn, thực hiện Tích. Nói cặn kẽ th́ như trong phần luận về Huyền Nghĩa đă nói.

 

3.1.2.4. Xét theo quán tâm

 

          Không như trâu trắng, Giả như dụng cụ, Trung như Thể của chiếc xe (tựa đề của phẩm này đáng lẽ phải đặt sau phần chư thiên nói kệ, trước thí dụ về nhà lửa. Do người san định kinh điều chỉnh, cho nên xếp đặt như vậy).

          Phần thứ nhất là Pháp Thuyết Châu, có năm đoạn văn như trên [trong quyển một của bộ sách này] nhằm giảng thẳng vào Pháp Thuyết đă xong.

 

3.2. Thân Tử lănh nhận, thông hiểu

3.2.1. Người kết tập kinh trần thuật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Xá Lợi Phất dũng dược, hoan hỷ, tức khởi hiệp chưởng, chiêm ngưỡng tôn nhan.

          ()爾時舍利弗。踊躍歡喜。卽起合掌。瞻仰尊顏。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất hớn hở, hoan hỷ, liền đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan tôn quư [của đức Phật]).

 

          “Dũng dược, hoan hỷ” (hớn hở, hoan hỷ): Trần thuật sự thông hiểu trong nội tâm. “Hiệp chưởng, chiêm ngưỡng” (chắp tay, chiêm ngưỡng): Trần thuật h́nh thái bên ngoài. Tin hiểu trong tâm là “hoan hỷ”. Vui mừng biểu lộ ra ngoài thần sắc th́ gọi là “dũng dược” (hớn hở). Từ người mầu nhiệm (đức Phật), được nghe diệu pháp, đạt được diệu giải. Nội ngoại ḥa hợp, khiến đạt được sự hoan hỷ ấy. Đó là giải thích theo Thế Giới Tất Đàn.

          Lại đổi Tiểu, học theo Đại, bỏ chuyện “nghèo hèn, sống trong am tranh”, nhận lấy gia nghiệp của bậc phú hào; nay mới biết chính ḿnh thật sự là con của đức Phật. Do vậy, hoan hỷ. Đó là giải thích theo Vị Nhân Tất Đàn.

          Lại nữa, buồn rầu lẫn hối hận đều dứt, nghi nan cùng trừ, chướng ngại trong ngoài đều gột sạch thênh thang. V́ thế nói: “Ngă dĩ đắc Lậu Tận, văn diệc trừ ưu năo” (ta đă được Lậu Tận, nghe nói cũng trừ ưu năo). Đó là dùng Đối Trị Tất Đàn để giải thích chữ “hoan hỷ”.

          Lại nữa, những ǵ Phật tử đáng nên đạt được, ta đều đă đạt được, an trụ trong Thật Trí, ta nhất định sẽ thành Phật. V́ thế hoan hỷ. Đó là dùng Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn để giải thích.

          Xét theo giáo, hoan hỷ là vui mừng v́ dự vào địa vị. A La Hán thoát khỏi lồng rọ tam giới, phá các quả nơi Tứ Trụ (thiên trụ, phạm trụ, thánh trụ, Phật trụ), đối với điều hại chẳng lo buồn, gặp điều lợi chẳng vui sướng. Nay nói “hoan hỷ”, chắc chắn chẳng phải là niềm vui thế gian! Nếu đă sáng tỏ Khổ Nhẫn, tận Vô Sanh Trí trước đó đă đạt được, th́ nay sẽ chẳng hoan hỷ lần nữa. Như ba hạng người cùng dùng vô ngôn để nói năng. Thể [Không Quán] và Tích [Không Quán] tuy khác nhau, đều chứng Không giống hệt như nhau, hoan hỷ giống hệt như nhau. Nếu đă đạt được từ lâu, cũng sẽ chẳng lại hoan hỷ nữa. Nếu cả hai đằng đều Không, Quán sẽ là phương tiện đạo. Giả Quán quét sạch sự chật hẹp, thô lậu của Nhị Thừa. Không Quán quét sạch sự ồn ào, hạn hẹp của phàm phu. Do đă vượt khỏi lỗi ác nhị biên, cho nên đại hoan hỷ. Chứng đạo giống như trong Viên Giáo, tức là Phát Tâm Trụ cũng được gọi là Hoan Hỷ Trụ.

          Lại nữa, Sơ Hạnh (địa vị đầu tiên trong Thập Hạnh) được gọi là Hoan Hỷ Hạnh. Sơ Địa cũng được gọi là Hoan Hỷ Địa. Thân Tử (ngài Xá Lợi Phất) đă là bậc thượng căn, lợi trí, chắc là đă siêu việt, tiến nhập Hoan Hỷ Địa. Nếu chẳng siêu việt, tiến nhập, ắt cũng thuộc Hoan Hỷ Trụ.

          Xét theo Bổn Tích, ngài Thân Tử thành Phật đă lâu, hiệu là Kim Long Đà, ứng tích phụ trợ Phật Thích Ca, là bậc đệ tử trí huệ. Thoạt đầu, Ngài từ ngoại đạo, dẹp tà, quy chánh, thị hiện sự hoan hỷ nơi vị sữa ḥng lợi ích phàm phu. Kế đó, thị hiện sự hoan hỷ nơi vị lạc, nhằm lợi ích hiền thánh. Kế đó, thị hiện sự hoan hỷ nơi hai thứ tô (sanh tô và thục tô) ḥng lợi ích Bồ Tát. Nay Ngài thị hiện sự hoan hỷ nơi vị đề hồ, nhằm lợi ích người học Phật đạo. Các thứ hoan hỷ như thế đều được thực hiện nơi Tích.

          Xét theo Quán Tâm, Quán Tâm chính là “Không, Giả, Trung”, từ Danh THoan Hỷ cho đến Cứu Cánh Hoan Hỷ.

          “Tức khởi hiệp chưởng” (liền đứng dậy, chắp tay), biểu thị đă hiểu Quyền. Xưa kia, Quyền và Thật là hai, như hai bàn tay chẳng chắp lại. Nay hiểu Quyền chính là Thật, như hai bàn tay chắp lại. “Chiêm ngưỡng tôn nhan” biểu thị “đều là Thật”, chẳng c̣n nghĩ ǵ khác, chỉ duyên theo Phật cảnh. “Hoan hỷ dũng dược” (hoan hỷ, hớn hở) là nói chung sự hoan hỷ do ba nghiệp đều tiếp nhận, thấu hiểu. “Tức khởi hiệp chưởng” là thân nghiệp. “Chiêm ngưỡng tôn nhan” là ư nghiệp. Sau đó, bạch với đức Phật là khẩu nghiệp. [Đoạn kinh văn này] nêu trọn sự lănh nhận, thấu hiểu nơi ba nghiệp.

 

3.2.2. Ngài Thân T tự trần thuật

3.2.2.1. Trường Hàng

32.2.1.1. Nêu ra ba điều hoan hỷ

 

          (Kinh) Nhi bạch Phật ngôn: - Kim tùng Thế Tôn, văn thử pháp âm, tâm hoài dũng dược, đắc vị tằng hữu.

          ()而白佛言。今從世尊聞此法音。心懷踊躍。得未曾有。

          (Kinh: Bèn bạch cùng đức Phật rằng: - Nay con nghe pháp âm này từ đức Thế Tôn, ôm ḷng hớn hở, đạt được điều chưa từng có).

 

          “Kim tùng Thế Tôn” (nay từ đức Thế Tôn): Nói rơ con đích thân thân cận Phật thân. V́ thế gọi là “thân hỷ”. Nghe pháp âm ấy từ nơi miệng Phật, nghe xong hoan hỷ, nên gọi là “khẩu hỷ”. Đạt được điều chưa từng có, tức là tâm con có thể thấu hiểu ư Phật. V́ thế, gọi là “ư hỷ”.

 

3.2.2.1.2. Giải thích

         

          Nêu ra những sơ sót trước kia ḥng hiển lộ điều đạt được trong hiện thời. Lại do nỗi cảm thương trước kia mà tạo thành niềm hoan hỷ trong hiện tại.      

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Ngă tích tùng Phật văn như thị pháp, kiến chư Bồ Tát thọ kư tác Phật, nhi ngă đẳng bất dự tư sự, thậm tự cảm thương, thất ư Như Lai vô lượng tri kiến.

          ()所以者何。我昔從佛聞如是法。見諸菩薩受記作佛。而我等不預斯事。甚自感傷。失於如來無量知見。

          (Kinh: V́ lẽ nào vậy? Xưa kia từ nơi Phật, con được nghe pháp như thế, thấy các Bồ Tát được thọ kư thành Phật, nhưng chúng con chẳng được dự vào chuyện ấy, hết sức cảm thương, đánh mất vô lượng tri kiến của Như Lai).

 

          Tuy cũng từ đức Phật nghe pháp như thế, nhưng bản thân chẳng được dự vào chuyện ấy, tức là thân cách xa Phật. V́ thế, chẳng có thân hỷ. Đó gọi là “tuy gần mà xa”. Lại nghe mà khác nào chẳng nghe, cho nên chẳng có khẩu hỷ. Hết sức tự cảm thương, cho nên chẳng có ư hỷ. Thấy các Bồ Tát được thọ kư thành Phật, tức là nói đến thời Phương Đẳng khen Viên ngợi Đại, lại do bị quở trách, bài xích Tiểu pháp mà cảm thương.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă thường độc xử sơn lâm thụ hạ, nhược tọa, nhược hành, mỗi tác thị niệm: “Ngă đẳng đồng nhập pháp tánh, vân hà Như Lai dĩ Tiểu Thừa pháp nhi kiến tế độ?”

          ()世尊。我常獨處山林樹下若坐若行。每作是念。我等同入法性。云何如來以小乘法而見濟度。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Con thường ở một ḿnh trong núi rừng, dưới cội cây, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, thường nghĩ như thế này: “Chúng ta cùng nhập pháp tánh, cớ sao Như Lai dùng pháp Tiểu Thừa để tế độ?”)

 

          Dưới cội cây trong núi rừng là chỗ suy nghĩ. “Nhược tọa, nhược hành” (hoặc ngồi, hoặc kinh hành) là tư thế suy niệm. Nói “đồng nhập pháp tánh” tức là Tạng Giáo và Thông Giáo đều coi Thiên Chân là pháp tánh. Khi nghe Tam Tạng, bèn hư vọng chấp trước “Đại Sĩ thật sự chỉ chế phục Hoặc trong ba A-tăng-kỳ kiếp”, tự vui thích pháp tánh đă chứng trước đó, chẳng nên suy niệm [những giáo pháp khác]. Ấy là do khi nghe thời Phương Đẳng, ngầm đạt được lợi ích chung, nghe nói Thật Tướng của các pháp, người trong tam thừa đều cùng đạt được, [bèn thắc mắc]: “Đă là cùng nhập Chân Đế pháp tánh, cớ sao Bồ Tát được thọ kư, chúng con rốt cuộc vẫn trụ trong Tiểu quả?” Bởi thế, nghi niệm chẳng thể giải quyết được! Chẳng biết “nương vào Trung Đạo pháp tánh của Đại Thừa th́ mới có giáo nghĩa thành Phật”. [Đức Phật] “dùng pháp Tiểu Thừa để tế độ” là v́ [hàng Tiểu Thừa] chẳng nghe Đại pháp, cho nên chẳng có khẩu hỷ. Hư vọng so đo [chính ḿnh và hàng Bồ Tát] cùng nhập pháp tánh, chẳng hiểu Quyền lư. Do vậy, chẳng có ư hỷ. Ở riêng một chỗ để ngồi, hoặc kinh hành, tức là thân cách xa Phật, cho nên chẳng có thân hỷ!

 

          (Kinh) Thị ngă đẳng cữu, phi Thế Tôn dă! Sở dĩ giả hà? Nhược ngă đẳng đăi thuyết sở nhân thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, tất dĩ Đại Thừa nhi đắc độ thoát. Nhiên ngă đẳng bất giải phương tiện tùy nghi sở thuyết. Sơ văn Phật thuyết, ngộ tiện tín thọ, tư duy, thủ chứng.

          ()是我等咎。非世尊也。所以者何。若我等待說所因成就阿耨多羅三藐三菩提者。必以大乘而得度脫。然我等不解方便隨宜所說。初聞佛說。遇便信受。思惟取證。

          (Kinh: Đó là lỗi của chúng con, chẳng phải lỗi của đức Thế Tôn. V́ cớ sao vậy? Nếu chúng con chờ Phật nói cái nhân thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ắt sẽ do pháp Đại Thừa mà được độ thoát. Nhưng chúng con chẳng hiểu đức Phật đă dùng phương tiện, thuận theo cơ nghi để nói, vừa mới nghe đức Phật nói [Tiểu pháp], đă liền tin nhận, tư duy, chứng lấy).

 

          Thoạt đầu suy nghĩ cho là Như Lai có ḷng thiên vị, cho nên Ngài dùng pháp Tiểu Thừa để tế độ [hàng Nhị Thừa]. Suy nghĩ lâu ngày, dẫn đến tự quy lỗi về ḿnh. V́ thế nói “thị ngă đẳng cữu, phi Thế Tôn dă” (là lỗi của chúng con, chẳng phải lỗi của đức Thế Tôn). Từ câu “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, giải thích v́ sao đă tạo thành lỗi. Ấy là v́ trong thời Bát Nhă chuyển giáo, phó tài[1], ngầm đạt được lợi ích riêng biệt, đă biết Trung Đạo pháp tánh ở ngoài tam giới chính là chánh nhân để thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, nhưng chúng con là độn căn, đă chẳng thể tiếp nhận, đáng nên chờ lúc [mặt trời] chiếu đến núi cao trước (tức thời Hoa Nghiêm) [đă xong, Phật sẽ dần dần hóa độ], [chúng con] lại muốn mau chóng chứng đắc, trông thấy Tiểu pháp bèn vội vàng chấp lấy để chứng nhập. Lại chẳng biết tạm ngừng nghỉ đôi chút để chờ giáo pháp thuộc các thời Phương Đẳng, Bát Nhă. V́ thế, quy lỗi vào ḿnh. Nhưng vẫn chẳng biết sở chứng (những ǵ chính ḿnh đă chứng) chẳng phải là diệt độ thật sự, [chẳng biết] những ǵ đă hành chính là Bồ Tát đạo. Chẳng đợi [đức Phật] nói đến cái nhân [của Bồ Tát đạo], tức là chẳng hiểu Thật. Chẳng hiểu [đức Phật] do phương tiện tùy theo cơ nghi mà nói [các pháp trung hạ], tức là chẳng hiểu Quyền. Do chẳng hay khéo thấu hiểu Quyền và Thật, cho nên chẳng có ư hỷ. Do tin nhận ngay lời dạy thuở ban đầu, cho nên chẳng có khẩu hỷ. Tư duy, chứng lấy Thiên Chân Niết Bàn, tức là trái nghịch, xa ĺa Pháp Thân thường lạc của Như Lai, cho nên chẳng có thân hỷ. Đều là dùng lỗi lầm thuở trước để giải thích sự hoan hỷ trong hiện thời. Phần thứ hai là giải thích đă xong.

 

3.2.2.1.3. Tiểu kết nhằm kết lại ba điều hoan hỷ được thành tựu trong hiện thời

3.2.2.1.3.1. Tiểu kết

 

          (Kinh) Thế Tôn! Ngă tùng tích lai, chung nhật cánh dạ, mỗi tự khắc trách, nhi kim tùng Phật văn sở vị văn, vị tằng hữu pháp, đoạn chư nghi hối, thân ư thái nhiên, khoái đắc an ổn.

          ()世尊。我從昔來。終日竟夜每自剋責。而今從佛聞所未聞未曾有法。斷諸疑悔。身意泰然。快得安隱。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Con từ trước đến nay, suốt ngày thâu đêm thường tự trách ḿnh, nay từ đức Phật mà được nghe pháp chưa từng có trước nay chưa hề nghe, dứt các ngờ vực, hối hận, thân ư thảnh thơi, vui sướng, an ổn).

 

          Nhắc lại chuyện quy lỗi vào ḿnh trong phần trước, gọi là tự “khắc trách”, tỏ rơ hiện thời ba nghiệp đều hoan hỷ trọn khắp. [Nói] “tùng Phật” là thân cận Phật thân, nhằm tiểu kết ư “thân hỷ”. “Văn pháp” (nghe pháp) là [được nghe] viên âm từ kim khẩu, kết lại ư “khẩu hỷ”. “Khoái đắc an ổn” (vui sướng, an ổn) tức là ư ḿnh giống như ư Phật, tiểu kết “ư hỷ”. Nói “văn sở vị văn” (nghe điều chưa từng nghe): Núi cao được chiếu trước, chẳng dự vào pháp tịch[2]. Do vậy, “chưa nghe”. Tam Tạng là nói quyền biến, chẳng diễn nói lư Trung Đạo, cho nên là “chưa nghe”. Phương Đẳng quở trách tiểu pháp, mầm cháy hạt lép chẳng có phần, cho nên “chưa nghe”. Bát Nhă chuyển giáo, chỉ v́ Bồ Tát, cho nên [hàng Nhị Thừa] “chưa nghe”.

          Lại nữa, [trong thời] Tam Tạng, chỉ nghe Thiên Chân. Thông Giáo chỉ nghe “tức Chân”, Biệt Giáo chỉ nghe “thoát khỏi nhị biên th́ mới gọi là Trung Đạo”, chưa nghe “phương tiện chính là chân thật”. V́ thế, gọi là “pháp chưa từng có”. [Thắc mắc Như Lai] “v́ sao dùng tiểu pháp để tế độ” tức là nghi Phật; đó là lỗi của chúng con. Đấy là tự hối hận, nay chẳng c̣n ngờ vực nữa, mà cũng chẳng c̣n hối hận nữa! Do vậy, thảnh thơi, an ổn!

 

3.2.2.1.3.2. Thành tựu

 

          (Kinh) Kim nhật năi tri chân thị Phật tử, tùng Phật khẩu sanh, tùng pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần.

          ()今日乃知真是佛子。從佛口生。從法化生。得佛法分。

          (Kinh: Ngày nay mới biết con thật sự là Phật tử, sanh từ miệng Phật, từ pháp hóa sanh, có phần nơi Phật pháp).

 

          Thật sự là Phật tử th́ thân được gần Phật, ư nghĩa “thân hỷ” đă thành. “Tùng Phật khẩu sanh” (sanh từ miệng Phật), ư nghĩa “khẩu hỷ” đă thành. “Tùng pháp hóa sanh” (hóa sanh từ pháp), ư nghĩa “ư hỷ” đă thành. “Đắc Phật pháp phần” (có phần nơi Phật pháp), tức là phần chứng tam đức bí tạng. Nhưng khi ngài Thân Tử vừa mới chứng A La Hán, cũng được gọi là trưởng tử của Phật. “Sanh từ miệng Phật, từ pháp hóa sanh” là từ hiện thời mà so sánh với quá khứ. Trước kia chỉ là Quyền, cho nên chẳng gọi là Chân, ngày nay mới là Chân. Đó là xét theo ư nghĩa đối đăi.

          Lại nữa, trong thời Phương Đẳng và Bát Nhă, Bồ Tát được gọi là “Phật tử”, chứ Thanh Văn chẳng có phần nơi Phật pháp. Nay mới biết chính ḿnh vốn là Phật tử chân thật. Đó là xét theo ư nghĩa khai hiển (khai tam, hiển nhất). Phần thứ nhất, kinh văn Trường Hàng đă xong.

 

3.2.2.2. Kệ Tụng  

3.2.2.2.1. Trùng tụng nêu bày các điều hoan hỷ và chưa từng có

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Ngă văn thị pháp âm, đắc sở vị tằng hữu, tâm hoài đại hoan hỷ, nghi vơng giai dĩ trừ.

          ()爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言。我聞是法音。得所未曾有。心懷大歡喜。疑網皆已除。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất muốn nói lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Con nghe pháp âm này, được điều chưa từng có, tâm hết sức hoan hỷ, lưới nghi đều đă trừ).

 

          “Ngă văn” (con nghe) tức là đích thân nghe từ đức Phật, cùng nêu ra thân và khẩu, “đắc vị tằng hữu” (đạt được điều chưa từng có) là nêu ra ư. Những điều khác dễ thấy.

 

3.2.2.2.2. Trùng tụng nhằm giải thích

3.2.2.2.2.1. Trùng tụng về chuyện chẳng mất phần nơi Phật pháp

 

          (Kinh) Tích lai mông Phật giáo, bất thất ư Đại Thừa, Phật âm thậm hy hữu, năng trừ chúng sanh năo, ngă dĩ đắc lậu tận, văn diệc trừ ưu năo.

          ()昔來蒙佛教。不失於大乘。佛音甚希有。能除眾生惱。我已得漏盡。聞亦除憂惱。

          (Kinh: Từ xưa nhờ Phật dạy, chẳng đánh mất Đại Thừa, tiếng Phật rất hy hữu, trừ chúng sanh phiền năo. Con đă đắc Lậu Tận, nghe cũng trừ ưu năo).

 

          “Bất thất Đại Thừa” là nói đến thân hỷ. “Phật âm hy hữu” nói tới khẩu hỷ. “Lậu tận trừ năo” (hết lậu hoặc, trừ phiền năo): Nói về ư hỷ. Xưa vốn chẳng hề mất, chỉ v́ mê mà lầm tưởng là đă bị mất.

 

3.2.2.2.2.1. Trùng tụng về lầm lỗi khi trước

 

          (Kinh) Ngă xử ư sơn cốc, hoặc tại lâm thụ hạ, nhược tọa, nhược kinh hành, thường tư duy thị sự. Ô hô, thâm tự trách, vân hà nhi tự khi? Ngă đẳng diệc Phật tử, đồng nhập vô lậu pháp, bất năng ư vị lai, diễn thuyết vô thượng đạo. Kim sắc tam thập nhị, Thập Lực, chư giải thoát, đồng cộng nhất pháp trung, nhi bất đắc thử sự! Bát thập chủng diệu hảo, thập bát bất cộng pháp, như thị đẳng công đức, nhi ngă giai dĩ thất. Ngă độc kinh hành thời, kiến Phật tại đại chúng, danh văn măn thập phương, quảng nhiêu ích chúng sanh. Tự duy thất thử lợi, ngă vị tự khi cuống.    

          ()我處於山谷。或在林樹下。若坐若經行。常思惟是事。嗚呼深自責。云何而自欺。我等亦佛子。同入無漏法。不能於未來。演說無上道。金色三十二。十力諸解脫。同共一法中。而不得此事。八十種妙好。十八不共法。如是等功德。而我皆已失。我獨經行時。見佛在大眾。名聞滿十方。廣饒益眾生。自惟失此利。我為自欺誑。

          (Kinh: Con ở nơi hang núi, trong rừng, dưới cội cây, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, thường suy nghĩ chuyện này. Than ôi! Rất tự trách, sao lại tự dối ḿnh? Con cũng là Phật tử, cùng nhập pháp vô lậu, chẳng thể trong vị lai, diễn nói đạo vô thượng. Thân vàng băm hai tướng, Thập Lực, các giải thoát, cùng chung trong một pháp, nhưng chẳng đắc chuyện này! Tám mươi thứ diệu hảo, mười tám pháp bất cộng, các công đức như thế, con thảy đều đă mất! Khi con riêng kinh hành, thấy Phật trong đại chúng, tiếng tăm trọn mười phương, rộng lợi ích chúng sanh. Tự nghĩ mất lợi này, chính con tự lừa dối).

 

          Đây là trùng tụng chuyện do nghe Phương Đẳng đả phá, bài xích Tiểu pháp, ngầm đạt được lợi ích chung. “Vô lậu pháp” chính là pháp tánh được nói trong phần Trường Hàng, tức là Thiên Chân Niết Bàn, [“vô lậu”] hàm nghĩa chẳng rơi rớt sanh tử!

 

          (Kinh) Ngă thường ư nhật dạ, mỗi tư duy thị sự, dục dĩ vấn Thế Tôn: “Vi thất, vi bất thất?” Ngă thường kiến Thế Tôn, xưng tán chư Bồ Tát. Dĩ thị ư nhật dạ, trù lượng như thị sự. Kim văn Phật âm thanh, tùy nghi nhi thuyết pháp, vô lậu nan tư nghị, linh chúng chí đạo tràng.

          ()我常於日夜。每思惟是事。欲以問世尊。為失為不失。我常見世尊。稱讚諸菩薩。以是於日夜。籌量如是事。今聞佛音聲。隨宜而說法。無漏難思議。令眾至道場。

          (Kinh: Con thường suốt ngày đêm, luôn suy nghĩ chuyện này, muốn hỏi đức Thế Tôn: “Là mất, hay chẳng mất?” Con thường thấy Thế Tôn, khen ngợi các Bồ Tát. Do vậy suốt ngày đêm, suy lường việc như vậy. Nay nghe tiếng của Phật, tùy cơ nghi thuyết pháp, vô lậu, khó nghĩ bàn, khiến chúng đến đạo tràng).

 

          Đây là trùng tụng chuyện đă nghe Bát Nhă chuyển giáo, ngầm đạt được lợi ích riêng biệt. Nếu giải thích “ngày đêm” theo sự biểu thị pháp th́ “ngày” chính là Niết Bàn, “đêm” chính là sanh tử. Hơn nữa, phàm phu sanh tử và Niết Bàn của Nhị Thừa (Thiên Chân Niết Bàn) đều gọi là “đêm”, Trung Đạo pháp tánh được gọi là “ngày”. “Vô lậu nan tư nghị” (Vô lậu, khó nghĩ bàn) chính là Trung Đạo pháp tánh, do chẳng rơi rớt vào hai bên.

 

          (Kinh) Ngă bổn trước tà kiến, vi chư phạm chí sư. Thế Tôn tri ngă tâm, bạt tà thuyết Niết Bàn, ngă tất trừ tà kiến, ư Không pháp đắc chứng. Nhĩ thời, tâm tự vị, đắc chí ư diệt độ.

          ()我本著邪見。為諸梵志師。世尊知我心。拔邪說涅槃。我悉除邪見。於空法得證。爾時心自謂。得至於滅度。

          (Kinh: Con vốn chấp tà kiến, làm thầy các phạm chí[3]. Thế Tôn biết tâm con, dẹp tà, nói Niết Bàn, con trừ sạch tà kiến, được chứng đắc pháp Không. Lúc đó, tâm tự nhủ: Đă đạt đến diệt độ).

 

          Đây là trùng tụng chuyện thoạt đầu nghe đức Phật dạy về ngộ bèn tin nhận, tư duy, chứng lấy. Phần thứ hai, “trùng tụng các điều giải thích” đă xong.

 

3.2.2.2.3. Trùng tụng kết luận

3.2.2.2.3.1. Trùng tụng để kết luận

3.2.2.2.3.1.1. Trùng tụng để tiểu kết

 

          (Kinh) Nhi kim năi tự giác, phi thị thật diệt độ. Nhược đắc tác Phật thời, cụ tướng tam thập nhị. Thiên, nhân, Dạ Xoa chúng, long, thần đẳng cung kính. Thị thời năi khả vị, vĩnh tận diệt vô dư. Phật ư đại chúng trung, thuyết ngă đương tác Phật, văn như thị pháp âm, nghi hối tất dĩ trừ.

          ()而今乃自覺。非是實滅度。若得作佛時。具相三十二。天人夜叉眾。龍神等恭敬。是時乃可謂。永盡滅無餘。佛於大眾中。說我當作佛。聞如是法音。疑悔悉已除。

          (Kinh: Nhưng nay mới tự biết: Chẳng phải thật diệt độ!” Nếu lúc được thành Phật, trọn đủ băm hai tướng. Trời, người, các Dạ Xoa, rồng, thần thảy cung kính. Lúc ấy mới được nói: “Dứt hết hẳn, chẳng sót!” Phật ở trong đại chúng, nói con sẽ thành Phật, nghe pháp âm như thế, nghi hối đều đă trừ).

         

          “Làm Phật có đủ các tướng”: Kết lại ư nghĩa về thân hỷ. “Thuyết ngă tác Phật” (nói con sẽ thành Phật): Kết lại ư nghĩa về khẩu hỷ. “Trừ hết nghi hối” kết lại ư nghĩa ư hỷ. [Thanh Văn tiểu quả] chỉ đoạn Kiến Tư, thoát khỏi Phần Đoạn [sanh tử], nhưng c̣n có vô minh và Biến Dịch [sanh tử]. Nếu được làm Phật, chuyển Ngũ Uẩn vô thường trong chín pháp giới, chứng đắc Ngũ Uẩn thường lạc. Khi đó, ngũ trụ rốt ráo hết sạch, nhị tử (Biến Dịch sanh tử và Phần Đoạn sanh tử) vĩnh viễn mất, bèn có thể nói là “chân diệt” (thật sự diệt độ). “Cụ tướng tam thập nhị” (trọn đủ ba mươi hai tướng): Lại nói đến sắc thân mầu nhiệm của Pháp Thân. Mỗi tướng không ǵ chẳng phải là tướng hải[4], không ǵ chẳng phải là Tánh Đức hiển lộ trọn vẹn. V́ thế nói là “cụ” (, đầy đủ).

 

3.2.2.2.3.1.2. Thuật lại điều nghi ngờ, hối hận

 

          (Kinh) Sơ văn Phật sở thuyết, tâm trung đại kinh nghi, tương phi ma tác Phật, năo loạn ngă tâm da?

          ()初聞佛所說。心中大驚疑。將非魔作佛。惱亂我心耶。

          (Kinh: Thoạt đầu nghe Phật nói, tâm ngờ, rất kinh sợ, phải chăng ma giả Phật, năo loạn ḷng ta ư?)

 

          Đây là nói rơ: Không chỉ sanh nghi trong thời Phương Đẳng, mà trong thời Bát Nhă cũng sanh ḷng hối hận. Ở trong kinh này, thoạt đầu khi nghe giảng đại lược khai tam, hiển nhất, tâm Ngài vẫn c̣n kinh hăi, hối hận. Do vậy, ba lượt cầu thỉnh chẳng thôi!

 

3.2.2.2.3.1.3. Trần thuật sự lănh nhận thấu hiểu

 

          (Kinh) Phật dĩ chủng chủng duyên, thí dụ, xảo ngôn thuyết. Kỳ tâm an như hải. Ngă văn, nghi vơng đoạn. Phật thuyết quá khứ thế, vô lượng diệt độ Phật, an trụ phương tiện trung, diệc giai thuyết thị pháp. Hiện tại, vị lai Phật, kỳ số vô hữu lượng, diệc dĩ chư phương tiện, diễn thuyết như thị pháp. Như kim giả Thế Tôn, tùng sanh cập xuất gia, đắc đạo chuyển pháp luân, diệc dĩ phương tiện thuyết. Thế Tôn thuyết thật đạo. Ba Tuần vô thử sự. Dĩ thị ngă định tri, phi thị ma tác Phật. Ngă đọa nghi vơng cố, vị thị ma sở vi. Văn Phật nhu nhuyễn âm, thâm viễn thậm vi diệu, diễn sướng thanh tịnh pháp. Ngă tâm đại hoan hỷ, nghi hối vĩnh dĩ tận, an trụ Thật Trí trung.

          ()佛以種種緣。譬喻巧言說。其心安如海。我聞疑網斷。佛說過去世。無量滅度佛。安住方便中。亦皆說是法。現在未來佛。其數無有量。亦以諸方便。演說如是法。如今者世尊。從生及出家。得道轉法輪。亦以方便說。世尊說實道。波旬無此事。以是我定知。非是魔作佛。我墮疑網故。謂是魔所為。聞佛柔軟音。深遠甚微妙。演暢清淨法。我心大歡喜。疑悔永已盡。安住實智中。

          (Kinh: Phật dùng các thứ duyên, thí dụ, ngôn từ khéo, tâm bèn yên như biển. Con nghe, lưới nghi dứt. Phật nói đời quá khứ, vô lượng Phật diệt độ, an trụ trong phương tiện, cũng đều nói pháp này. Hiện tại, vị lai Phật, số ấy chẳng hạn lượng, cũng dùng các phương tiện, diễn nói pháp như thế. Như nay đức Thế Tôn, từ giáng sanh, xuất gia, đắc đạo, chuyển pháp luân, cũng dùng phương tiện nói. Thế Tôn nói thật đạo, Ba Tuần[5] không chuyện ấy. Do vậy, con biết chắc, chẳng phải ma giả Phật! Con do đọa lưới nghi, cho là ma làm ra. Nghe tiếng Phật mềm mỏng, sâu xa, rất vi diệu, diễn bày pháp thanh tịnh. Tâm con rất hoan hỷ, nghi hối măi trừ sạch, an trụ trong Thật Trí).

 

          Đây là trần thuật sự lănh ngộ trọn vẹn ư chỉ khai hiển của năm loại Phật (chư Phật, Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, và Phật Thích Ca) để tổng kết ba điều hoan hỷ (thân hỷ, khẩu hỷ, ư hỷ). Phần thứ nhất, “trùng tụng để tiểu kết” đă xong.

 

3.2.2.2.3.2. Trùng tụng về sự thành tựu

 

          (Kinh) Ngă định đương tác Phật, vị thiên nhân sở kính, chuyển vô thượng pháp luân, giáo hóa chư Bồ Tát.

          ()我定當作佛。為天人所敬。轉無上法輪。教化諸菩薩。

          (Kinh: Con nhất định thành Phật, được trời người tôn kính, chuyển pháp luân vô thượng, giáo hóa các Bồ Tát).

 

          Chỉ trùng tụng một câu “có phần nơi Phật pháp” th́ ba điều hoan hỷ đều cùng thành tựu. Nếu muốn phân biệt th́ “trời, người tôn kính” là thành tựu nơi thân, “chuyển pháp luân vô thượng” chính là thành tựu nơi miệng, “giáo hóa các Bồ Tát” chính là thành tựu nơi ư. Phần thứ hai, ngài Thân Tử lănh nhận, thấu hiểu” đă xong.

 

3.2.2.3. Như Lai nêu ra sự thành tựu

3.2.2.3.1. Xưa kia, [đức Phật] đă từng dạy đại pháp [cho ngài Xá Lợi Phất]

 

          Trần thuật từ xưa ngài Xá Lợi Phất đă chẳng hiểu sai lời Phật dạy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất: - Ngô kim ư thiên, nhân, sa-môn, Bà La Môn đẳng đại chúng trung thuyết, ngă tích tằng ư nhị vạn ức Phật sở, vị vô thượng đạo cố, thường giáo hóa nhữ. Nhữ diệc trường dạ tùy ngă thọ học. Ngă dĩ phương tiện dẫn đạo nhữ cố, sanh ngă pháp trung.

          ()爾時佛告舍利弗。吾今於天人沙門婆羅門等大眾中說。我昔曾於二萬億佛所。為無上道故。常教化汝。汝亦長夜隨我受學。我以方便引導汝故。生我法中。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Ta nay ở trong đại chúng trời, người, sa-môn, Bà La Môn v.v… mà nói: Trước kia, ta đă từng ở nơi hai vạn ức Phật, v́ đạo vô thượng, thường giáo hóa ông. Ông cũng ở trong đêm dài theo ta học. Ta dùng phương tiện hướng dẫn ông sanh trong pháp của ta).

 

          “Vô thượng đạo”: Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói: “Thân vô thượng là tướng hảo (câu đầu tiên là quả). Thọ tŕ vô thượng tức là tự lợi, lợi lạc người khác. (Thân, miệng, ư) trọn đủ vô thượng tức là mạng, kiến, giới (hai câu này chính là Lục Ḥa trong Đại Thừa). Trí huệ vô thượng tức là bốn món vô ngại. Chẳng nghĩ bàn vô thượng chính là Lục Ba La Mật (hai câu này nói đến phước và trí). Giải thoát vô thượng có thể hoại hai chướng. (Chứng) hạnh vô thượng, tức là Thánh Hạnh, Phạm Hạnh (Thiên Hạnh là sở chứng, Bệnh Hạnh, và Anh Nhi Hạnh[6] là quả dụng. Do vậy, chỉ nêu lên hai hạnh. Sáu câu sau đều là cái nhân). Lại nữa, thân vô thượng gọi là đại trượng phu. Thọ tŕ vô thượng là đại từ bi. Trọn đủ vô thượng gọi là “đến bờ kia”. Trí vô thượng gọi là Nhất thiết Trí. Chẳng nghĩ bàn vô thượng gọi là A La Ha (Ứng Cúng). Giải thoát vô thượng gọi là Đại Niết Bàn. Hạnh vô thượng gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà (Chánh Đẳng Chánh Giác)” (Bảy điều này đều từ cái quả mà lập, tức là sáu cái nhân đều từ quả mà đặt ra danh xưng). Kinh này nói đến đạo vô thượng viên thông.

          “Trường dạ” (đêm dài): Xưa kia, tuy dùng Đại Thừa để giáo hóa, [nhưng ngài Xá Lợi Phất] chưa phá vô minh, trong tâm tuy tối tăm v́ Hoặc, vẫn theo Phật tiếp nhận sự giáo hóa. “Phương tiện dẫn đạo, sanh ngă pháp trung” (phương tiện hướng dẫn sanh vào trong pháp của ta): Một là xưa kia dùng Đại Thừa để giáo hóa, đời này sanh ḷng hiểu biết đối với Đại pháp. Hai là dùng Quyền để hướng dẫn tiểu căn, khiến cho họ chứng tiểu quả.

 

3.2.2.3.2. Giữa chừng quên mất, giữ lấy tiểu pháp, nêu bày nguyên do cảm thương, ngờ vực, hối hận      

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Ngă tích giáo nhữ chí nguyện Phật đạo. Nhữ kim tất vong, nhi tiện tự vị dĩ đắc diệt độ.

          ()舍利弗。我昔教汝志願佛道。汝今悉忘。而便自謂已得滅度。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ta trước kia đă giáo hóa ông chí nguyện Phật đạo. Ông nay quên hết, bèn tự cho rằng “đă được diệt độ”).

 

3.2.2.3.3. Lại v́ [Xá Lợi Phất] nói đại pháp, trần thuật sự thấu hiểu ngày nay chẳng hư dối

 

          (Kinh) Ngă kim hoàn dục linh nhữ ức niệm bổn nguyện sở hành đạo cố, vị chư Thanh Văn thuyết thị Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.

          ()我今還欲令汝憶念本願所行道故。為諸聲聞說是大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。

          (Kinh: Ta nay vẫn muốn khiến cho ông nghĩ nhớ đạo đă hành nơi bổn nguyện, v́ các Thanh Văn nói kinh Đại Thừa có tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm này).

 

          Phần thứ ba, Như Lai trần thuật sự thành tựu đă xong.

 

3.2.2.4. Thọ kư

3.2.2.4.1. Trường Hàng

         

          Đă hiểu đại pháp, tự biết sẽ thành Phật, cần ǵ phải đợi thọ kư! Thọ kư là v́ có bốn ư:

          - Một, trước kia chưa thọ kư cho hàng Nhị Thừa. V́ thế, nay cần phải thọ kư.

          - Hai, độn căn chưa ngộ, dùng thọ kư để khích lệ họ.

          - Ba, khiến cho người nghe sẽ kết duyên.

          - Bốn, nhằm thỏa măn bổn nguyện [của người được thọ kư].

 

3.2.2.4.1.1. Thời tiết

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhữ ư vị lai thế, quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp.

          ()舍利弗。汝於未來世。過無量無邊不可思議劫。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ông trong đời vị lai, qua khỏi vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn kiếp).

 

          Hỏi: Ngài Thân Tử là bậc thượng căn, đắc ngộ ngay trong tầng đầu tiên (Pháp Thuyết Châu), tức là đă khai tri kiến của Phật, dự vào bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo, có thể lập tức thành Phật, giống như long nữ [được nói trong phẩm Đề Bà Đạt Đa]. V́ sao nay thọ kư Ngài c̣n phải trải qua chừng ấy kiếp [mới thành Phật]?

          Đáp: Xét theo chỗ ứng hiện thành Phật, cần phải có cơ duyên. Các vị Thanh Văn ấy trước kia chưa từng nhiếp thủ cơi Phật thanh tịnh. Nay sau khi được thọ kư, phải kết duyên với chúng sanh. Căn cơ của chúng sanh khác nhau, dẫn đến kiếp số nhiều hay ít. Long nữ tuy là súc sanh, nhưng“thừa gấp”, trước đó đă tu tập phương tiện. Nếu xét theo Quyền Tích, sẽ phải nên biện lun riêng, [long nữ thị hiện như thế] nhằm phù hợp cơ nghi, tùy theo căn cơ [của chúng sanh trong thuở ấy] mà [thời gian từ lúc được thọ kư cho đến khi thành Phật] dài hay ngắn.

 

3.2.2.4.1.2. Nhân hạnh

 

          (Kinh) Cúng dường nhược can thiên vạn ức Phật, phụng tŕ chánh pháp, cụ túc Bồ Tát sở hành chi đạo.

          ()供養若干千萬億佛。奉持正法。具足菩薩所行之道。

          (Kinh: Cúng dường chừng ấy ngàn vạn ức Phật, vâng giữ chánh pháp, trọn đủ đạo phải hành của hàng Bồ Tát).

 

          Một là cúng dường Phật, hai là ǵn giữ pháp, bèn có thể trọn đủ Bồ Tát đạo, tức là viên măn hai thứ trang nghiêm phước và huệ.

 

3.2.2.4.1.3. Đắc quả

 

          (Kinh) Đương đắc tác Phật, hiệu viết Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

          ()當得作佛。號曰華光如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。

          (Kinh: Sẽ được làm Phật, hiệu là Hoa Quang (Padmaprabha) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).

 

          Thọ kư đầy đủ thông hiệu và biệt hiệu. Thông hiệu (Như Lai, Ứng Cúng v.v...) th́ như trong phần trước đă giải thích. Biệt hiệu là Hoa Quang. Thấy Phật phóng quang, nói kinh Pháp Hoa, được thọ kư trước hết. V́ thế, có danh hiệu ấy. Lại nữa, Hoa chính là phước đức. Quang là trí huệ. Hoa là duyên nhân Phật tánh. Quang là liễu nhân Phật tánh. Bốn giáo (Tạng, Thông, Biệt, Viên) đều luận về phước huệ, đều luận duyên nhân và liễu nhân. Nay chỉ nói về Viên. Lại nữa, chứng Diệu Hoa Quang Minh tam-muội đă lâu. Nơi Tích th́ thị hiện thành Phật trong vị lai. Lại xét theo quán tâm th́ Giả tức Không, tức Trung, bèn gọi là Hoa. Không mà tức Giả, tức Trung, th́ gọi là Quang. Trung tức Không, tức Giả, th́ gọi là Như Lai.

 

3.2.2.4.1.4. Quốc độ

 

          (Kinh) Quốc danh Ly Cấu, kỳ thổ b́nh chánh, thanh tịnh nghiêm sức, an ổn phong lạc. Thiên nhân xí thịnh, lưu ly vi địa. Hữu bát giao đạo, hoàng kim vi thằng, dĩ giới kỳ trắc. Kỳ bàng các hữu thất bảo hàng thụ, thường hữu hoa quả.

          ()國名離垢。其土平正。清淨嚴飾。安隱豐樂。天人熾盛。琉璃為地。有八交道。黃金為繩以界其側。其傍各有七寶行樹。常有華果。

          (Kinh: Cơi nước tên Ly Cấu (Viraja), đất đai bằng phẳng, ngay ngắn, trang hoàng thanh tịnh, an ổn, giàu vui, trời người đông đảo, lưu ly làm đất, có tám đường giao nhau[7], vàng ṛng làm dây để ngăn chia bên đường. Mỗi bên đường đều có hàng cây bảy báu, thường có hoa quả).

 

          Trước hết, nêu ra tên của cơi nước; kế đó, mô tả tướng trạng của cơi ấy. Chẳng cao hay thấp là “b́nh”, chẳng lệch, khuyết là “chánh”. Từ chữ “an ổn” trở đi nói đến sự thọ dụng trong cơi ấy. Từ chữ “lưu ly” trở đi, nói thêm về tướng thù thắng, đều do tịnh hạnh cảm vời, làm tăng thượng duyên cho các chúng sanh.

 

3.2.2.4.1.5. Thuyết pháp

 

          (Kinh) Hoa Quang Như Lai diệc dĩ tam thừa giáo hóa chúng sanh. Xá Lợi Phất! Bỉ Phật xuất thời, tuy phi ác thế, dĩ bổn nguyện cố, thuyết tam thừa pháp.      ()華光如來。亦以三乘教化眾生。舍利弗。彼佛出時。雖非惡世。以本願故。說三乘法。

          (Kinh: Hoa Quang Như Lai cũng dùng tam thừa để giáo hóa chúng sanh. Này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy xuất thế, tuy chẳng phải đời ác, nhưng v́ bổn nguyện nói pháp tam thừa).

 

          Chuẩn theo [cách giáo hóa] giống như Phật Thích Ca, cho nên nói “diệc dĩ” (cũng dùng). Từ “Xá Lợi Phất” trở đi, nhằm giải trừ nghi hoặc. Nghi rằng: “Như trong phần trước đă nói, Phật [Thích Ca] xuất thế nhằm lúc ngũ trược, v́ bất đắc dĩ, cho nên phương tiện nói tam thừa. Nay cơi Phật Hoa Quang thanh tịnh như thế, sao cũng dùng tam thừa để giáo hóa? Giải rằng: “Dĩ bổn nguyện cố” (do v́ bổn nguyện). “Bổn nguyện”: Theo như kinh Đại Bi Không Tạng dạy: “Xá Lợi Phất tằng ư lục thập kiếp hành Bồ Tát đạo, nhân Bà La Môn khất nhăn thoái thời, nguyện thành Phật nhật, khai tam thừa pháp dă” (Xá Lợi Phất từng trong sáu mươi kiếp hành Bồ Tát đạo. Lúc Ngài v́ bị Bà La Môn xin mắt mà thoái thất, đă nguyện lúc thành Phật, sẽ mở ra pháp tam thừa). Hơn nữa, trong quốc độ Cực Lạc của Phật Di Đà cũng dùng tam thừa để giáo hóa. Ấy là do nguyện từ bi sâu nặng, nhiếp thủ kẻ đới nghiệp văng sanh. Chẳng nhờ vào tam thừa, họ sẽ chẳng thể dần dần tiến nhập.

          Nói chung, trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, bất luận tịnh hay uế, ban thí tam thừa th́ nhiều, thuần Nhất Thừa th́ ít. Lại nữa, Bồ Tát có hai loại:

          - Một là học Đại Thừa từ đầu.

          - Hai là từ tu tập Tiểu Thừa mà nhập Đại Thừa.

          Luận về lợi căn hay độn căn, dường như người từ đầu đă học thẳng Đại Thừa là lợi căn. Luận về lực dụng th́ người đào thải [Tiểu pháp], dần dần tiến nhập [Đại Thừa] sẽ mạnh mẽ hơn. V́ thế, Hương Tích Bồ Tát[8] học cả hai cách. Hăy nên biết: Người học thẳng vào [Đại Thừa], sẽ chẳng am hiểu các hạnh cho mấy. Ví như bắt đầu từ chốn rẫy bái, thử đủ mọi chức nghiệp, lần lượt từng trải từ cạn đến sâu, sẽ biết mọi việc có thực hiện được hay không? Sau đó thăng lên địa vị cao tột, sẽ có thể buông rủ xiêm áo mà trị v́ thiên hạ!

 

3.2.2.4.1.6. Tên của kiếp

 

          (Kinh) Kỳ kiếp danh Đại Bảo Trang Nghiêm. Hà cố danh viết Đại Bảo Trang Nghiêm? Kỳ quốc trung dĩ Bồ Tát vi đại bảo cố.

          ()其劫名大寶莊嚴。何故名曰大寶莊嚴。其國中以菩薩為大寶故。

          (Kinh: Kiếp ấy tên là Đại Bảo Trang Nghiêm (Mahāratnaprati Maṇḍita). V́ sao gọi là Đại Bảo Trang Nghiêm? Do trong cơi ấy coi Bồ Tát là đại bảo).

 

3.2.2.4.1.7. Số lượng đại chúng

 

          (Kinh) Bỉ chư Bồ Tát vô lượng vô biên, bất khả tư nghị, toán số, thí dụ sở bất năng cập, phi Phật trí lực, vô năng tri giả. Nhược dục hành thời, bảo hoa thừa túc. Thử chư Bồ Tát phi sơ phát ư, giai cửu thực đức bổn. Ư vô lượng bách thiên vạn ức Phật sở, tịnh tu phạm hạnh, hằng vị chư Phật chi sở xưng thán, thường tu Phật huệ, cụ đại thần thông, thiện tri nhất thiết chư pháp chi môn, chất trực, vô ngụy, chí niệm kiên cố. Như thị Bồ Tát sung măn kỳ quốc.

          ()彼諸菩薩。無量無邊。不可思議。算數譬喻所不能及。非佛智力。無能知者。若欲行時。寶華承足。此諸菩薩非初發意。皆久植德本。於無量百千萬億佛所。淨修梵行。恆為諸佛之所稱歎。常修佛慧。具大神通。善知一切諸法之門。質直無偽。志念堅固。如是菩薩。充滿其國。

          (Kinh: Các vị Bồ Tát ấy vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, tính đếm, thí dụ, đều chẳng thể biết nổi số. Chẳng có trí lực của Phật th́ không ai có thể biết nổi! Nếu lúc họ muốn đi, hoa báu đỡ chân. Các vị Bồ Tát ấy chẳng phải là sơ phát ư, đều là gieo cội đức đă lâu. Trong vô lượng trăm ngàn vạn ức cơi Phật, tịnh tu phạm hạnh, luôn được chư Phật ca ngợi, thường tu Phật huệ, có đủ thần thông to lớn, khéo biết hết thảy các pháp môn, ngay thẳng, chẳng dối, chí niệm kiên cố. Các vị Bồ Tát như thế đầy ắp cơi ấy).

 

3.2.2.4.1.8. Thọ lượng

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Hoa Quang Phật thọ thập nhị tiểu kiếp, trừ vi vương tử vị tác Phật thời. Kỳ quốc nhân dân, thọ bát tiểu kiếp.

          ()舍利弗。華光佛壽十二小劫。除為王子未作佛時。其國人民。壽八小劫。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Hoa Quang Phật thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc Ngài làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân trong nước ấy thọ tám tiểu kiếp).

 

          “Mười hai tiểu kiếp” là nói thẳng về thời tiết ấy. Tịnh Độ chẳng có tiểu tam tai, tức là chẳng có đao binh, tật dịch, đói kém tổn thương dân chúng và muôn vật. Đấy chính là Kiếp. Nhưng luận định thời gian của một tiểu kiếp lâu xa cỡ nào, chỉ có thể dùng thời gian một tăng một giảm trong cơi này để hiểu số lượng. Các phần sau đều chuẩn theo đây để biết [kiếp số].

 

3.2.2.4.1.9. Bổ xứ

 

          (Kinh) Hoa Quang Như Lai quá thập nhị tiểu kiếp, thọ Kiên Măn Bồ Tát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, cáo chư tỳ-kheo: “Thị Kiên Măn Bồ Tát thứ đương tác Phật, hiệu viết Hoa Túc An Hành Đa Đà A Già Độ, A La Ha, Tam Miệu Tam Phật Đà. Kỳ Phật quốc độ, diệc phục như thị”.

          ()華光如來過十二小劫。授堅滿菩薩阿耨多羅三藐三菩提記。告諸比丘。是堅滿菩薩。次當作佛號曰華足安行多陀阿伽度阿羅訶三藐三佛陀。其佛國土。亦復如是。

          (Kinh: Hoa Quang Như Lai sau mười hai tiểu kiếp, bèn thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho Kiên Măn Bồ Tát (Dhṛtiparipūrṇa), bảo các tỳ-kheo: “Ông Kiên Măn Bồ Tát đây, kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu là Hoa Túc An Hành (Padmavṛṣabhavikrama) Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. Cơi Phật của Ngài cũng giống như thế”).

 

          Chí niệm kiên cố, khéo biết hết thảy các pháp môn. V́ thế, gọi là Kiên Măn. Nếu lúc muốn đi, hoa báu đỡ chân; v́ thế gọi là Hoa Túc An Hành. Hoa Quang Như Lai dùng tam thừa hóa độ, nhưng hàng Bồ Tát của Ngài thù thắng, quốc độ trang nghiêm như thế. Hiềm rằng người đời coi thường, chê trách tam thừa, chỉ khoe khoang Nhất Thật, nào có biết Quyền và Thật là một Thể bất nhị, nào có biết đến tông chỉ “khai Quyền, hiển Thật!”

 

3.2.2.4.1.10. Pháp trụ lâu mau

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Thị Hoa Quang Phật diệt độ chi hậu, Chánh Pháp trụ thế tam thập nhị tiểu kiếp, Tượng Pháp trụ thế diệc tam thập nhị tiểu kiếp.

          ()舍利弗。是華光佛滅度之後。正法住世三十二小劫。像法住世亦三十二小劫。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Vị Hoa Quang Phật ấy sau khi diệt độ, Chánh Pháp trụ thế ba mươi hai tiểu kiếp, Tượng Pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp).

 

          Phần kinh văn Trường Hàng đă xong.

 

3.2.2.4.2. Kệ tụng

3.2.2.4.2.1. Trùng tụng [các ư nghĩa trong] phần Trường Hàng (phần Bổ Xứ bị lược đi không trùng tụng)

3.2.2.4.2.1.1. Trùng tụng chuyện đắc quả

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Xá Lợi Phất lai thế, thành Phật phổ trí tôn[9], hiệu danh viết Hoa Quang, đương độ vô lượng chúng.

          ()爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。舍利弗來世。成佛普智尊。號名曰華光。當度無量眾。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Xá Lợi Phất đời sau, thành Phật phổ trí tôn, danh hiệu là Hoa Quang, sẽ độ vô lượng chúng).

 

3.2.2.4.2.1.2. Truy tụng hạnh nhân

 

          (Kinh) Cúng dường vô số Phật, cụ túc Bồ Tát hạnh, thập lực đẳng công đức, chứng ư vô thượng đạo.

          ()供養無數佛。具足菩薩行。十力等功德。證於無上道。

          (Kinh: Cúng dường vô số Phật, trọn đủ hạnh Bồ Tát, thập lực các công đức, chứng đắc vô thượng đạo).

 

3.2.2.4.2.1.3. Trùng tụng thời tiết và tên gọi của kiếp

 

          (Kinh) Quá vô lượng kiếp dĩ, kiếp danh Đại Bảo Nghiêm.

          ()過無量劫已。劫名大寶嚴。

          (Kinh: Qua vô lượng kiếp sau, kiếp tên Đại Bảo Nghiêm).

 

3.2.2.4.2.1.4. Trùng tụng quốc độ

 

          (Kinh) Thế giới danh Ly Cấu, thanh tịnh vô hà uế, dĩ lưu ly vi địa, kim thằng giới kỳ đạo, thất bảo tạp sắc thụ, thường hữu hoa quả thật.

          ()世界名離垢。清淨無瑕穢。以琉璃為地。金繩界其道。七寶雜色樹。常有華果實。

          (Kinh: Thế giới tên Ly Cấu, thanh tịnh, chẳng lỗi, dơ, dùng lưu ly làm đất, dây vàng ngăn chia đường, cây bảy báu nhiều màu, thường có hoa, quả, hạt).

         

3.2.2.4.2.1.5. Trùng tụng số lượng đại chúng

 

          (Kinh) Bỉ quốc chư Bồ Tát, chí niệm thường kiên cố, thần thông Ba La Mật, giai dĩ tất cụ túc, ư vô số Phật sở, thiện học Bồ Tát đạo.

          ()彼國諸菩薩。志念常堅固。神通波羅蜜。皆已悉具足。於無數佛所。善學菩薩道。

          (Kinh: Các Bồ Tát cơi ấy, chí niệm thường bền chắc, thần thông Ba La Mật, thảy đều trọn đủ cả, nơi vô số chư Phật, khéo học đạo Bồ Tát).

 

3.2.2.4.2.1.6. Trùng tụng chuyện thuyết pháp

 

          (Kinh) Như thị đẳng đại sĩ, Hoa Quang Phật sở hóa.

          ()如是等大士。華光佛所化。

          (Kinh: Các đại sĩ như thế, Phật Hoa Quang giáo hóa).

 

3.2.2.4.2.1.7. Trùng tụng thọ lượng

 

          (Kinh) Phật vi vương tử thời, khí quốc, xả thế vinh, ư tối mạt hậu thân, xuất gia thành Phật đạo. Hoa Quang Phật trụ thế, thọ thập nhị tiểu kiếp. Kỳ quốc nhân dân chúng, thọ mạng bát tiểu kiếp.

          ()佛為王子時。棄國捨世榮。於最末後身。出家成佛道。華光佛住世。壽十二小劫。其國人民眾。壽命八小劫。

          (Kinh: Lúc Phật làm vương tử, bỏ nước, bỏ vinh hoa, ở nơi thân cuối cùng, xuất gia thành Phật đạo. Hoa Quang Phật trụ thế, thọ mười hai tiểu kiếp. Các nhân dân nước ấy, thọ mạng tám tiểu kiếp).

 

3.2.2.4.2.1.8. Trùng tụng pháp trụ bao lâu

 

          (Kinh) Phật diệt độ chi hậu, Chánh Pháp trụ ư thế, tam thập nhị tiểu kiếp, quảng độ chư chúng sanh. Chánh Pháp diệt tận dĩ, Tượng Pháp tam thập nhị, xá-lợi quảng lưu bố, thiên nhân phổ cúng dường.

          ()佛滅度之後。正法住於世。三十二小劫。廣度諸眾生。正法滅盡已。像法三十二。舍利廣流布。天人普供養。

          (Kinh: Sau khi Phật diệt độ, Chánh Pháp trụ trong đời, ba mươi hai tiểu kiếp, rộng độ các chúng sanh. Chánh Pháp đă diệt tận, Tượng Pháp băm hai kiếp, xá-lợi lưu truyền rộng, trời người cúng dường khắp).

 

          Lúc Chánh Pháp trụ thế, có giáo, hạnh, và quả, chẳng khác thuở Phật tại thế. V́ thế nói “quảng độ chúng sanh”. Chuyển sang thời Tượng Pháp, có giáo, có hạnh, nhưng chứng quả hiếm lắm! Chỉ dùng xá-lợi để làm Phật sự trọn khắp. V́ thế gọi là Tượng Pháp. Phần trùng tụng Trường Hàng đă xong.

 

3.2.2.4.2.2. Tiểu kết tán thán

 

          (Kinh) Hoa Quang Phật sở vi, kỳ sự giai như thị, kỳ lưỡng túc thánh tôn, tối thắng vô luân thất, bỉ tức thị nhữ thân, nghi ưng tự hân khánh.

          ()華光佛所為。其事皆如是。其兩足聖尊。最勝無倫匹。彼卽是汝身。宜應自欣慶。

          (Kinh: Chuyện Hoa Quang Phật làm, thảy đều là như thế. Đấng lưỡng túc thánh tôn, tối thắng, chẳng sánh bằng, Ngài chính là thân ông, hăy nên tự vui mừng).

         

          Phần bốn, nói về thọ kư đă xong.

 

3.2.2.5. Tứ chúng hoan hỷ

3.2.2.5.1. Trường Hàng

3.2.2.5.1.1. Người kết tập trần thuật đại chúng hoan hỷ

 

          (Kinh) Nhĩ thời, tứ bộ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già đẳng đại chúng kiến Xá Lợi Phất ư Phật tiền thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, tâm đại hoan hỷ, dũng dược vô lượng.

          ()爾時四部眾。比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。天龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽等大眾。見舍利弗。於佛前受阿耨多羅三藐三菩提記。心大歡喜。踊躍無量。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, bốn bộ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v… đại chúng thấy ngài Xá Lợi Phất ở trước Phật được thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tâm hoan hỷ to lớn, hớn hở vô lượng).

 

3.2.2.5.1.2. Trần thuật sự cúng dường

 

          (Kinh) Các các thoát thân sở trước thượng y, dĩ cúng dường Phật. Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm thiên vương đẳng, dữ vô số thiên tử, diệc dĩ thiên diệu y, thiên mạn-đà-la hoa, ma-ha mạn-đà-la hoa đẳng, cúng dường ư Phật. Sở tán thiên y, trụ hư không trung, nhi tự hồi chuyển. Chư thiên kỹ nhạc bách thiên vạn chủng, ư hư không trung, nhất thời câu tác, vũ chúng thiên hoa.

          ()各各脫身所著上衣。以供養佛。釋提桓因。梵天王等。與無數天子。亦以天妙衣。天曼陀羅華。摩訶曼陀羅華等。供養於佛。所散天衣。住虛空中而自迴轉。諸天伎樂百千萬種。於虛空中一時俱作。雨眾天華。

          (Kinh: Ai nấy đều cởi áo thượng diệu đang khoác trên thân để cúng dường Phật. Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm thiên vương v.v… và vô số thiên tử, cũng dùng áo mầu nhiệm cơi trời, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la v.v… của cơi trời cúng dường đức Phật. Các áo trời được rải lên dừng ở trong hư không rồi tự xoay chuyển. Trăm ngàn vạn loại kỹ nhạc của chư thiên cùng lúc đều tấu lên trong hư không, mưa các hoa trời).

 

          “Thượng y” tức là y phục quư giá. Ở đây, nói chung tứ chúng và tám bộ. Nếu chỉ nói theo phía tỳ-kheo và tỳ-kheo ni th́ [“thượng y”] là tăng-già-lê đại y. Pháp của tỳ-kheo ở Tây Trúc chỉ nhận lănh tối đa là ba y. Ba y hoàn toàn chẳng thể bỏ, v́ sao lại cởi ra để cúng Phật? Chẳng hạn như trong kinh Đại Phẩm có nói: “Tam bách tỳ-kheo văn Bát Nhă dĩ, giai dĩ tăng-già-lê nhi dụng cúng dường” (Ba trăm vị tỳ-kheo nghe Bát Nhă xong, đều dùng y Tăng-già-lê để cúng dường). Trí Độ Luận giải thích: “Hoặc là quên tướng v́ pháp, hoặc là ngay trong hôm ấy sẽ đạt được”. Nếu xét theo sự biểu thị pháp, ca-sa hoại sắc, vốn là đạo chứng Chân của Thanh Văn. Nay cởi ra để cúng Phật, biểu thị xả pháp chấp Tiểu Thừa, hướng đến Vô Thượng Bồ Đề. Lại nữa, thiên y (áo trời) biểu thị Tịch Diệt Pháp Nhẫn, thiên hoa biểu thị diệu huệ của Đại Thừa, thiên nhạc biểu thị giải thoát thường lạc. “Trụ trong hư không mà tự xoay chuyển” biểu thị nhân quả, y báo, chánh báo, tự, tha đều nương vào pháp tánh tự nhiên mà xoay chuyển.

 

3.2.2.5.1.3. Thật sự lănh nhận, thấu hiểu

 

          (Kinh) Nhi tác thị ngôn: “Phật tích ư Ba La Nại, sơ chuyển pháp luân, kim năi phục chuyển vô thượng tối đại pháp luân”.

          ()而作是言。佛昔於波羅柰初轉法輪。今乃復轉無上最大法輪。

          (Kinh: Mà nói như thế này: “Xưa kia, đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tại Ba La Nại, nay lại chuyển pháp luân vô thượng lớn nhất”).

 

          Trước là lănh ngộ sự thực hiện Quyền trong thuở trước, kế đó là lănh ngộ sự hiển Thật trong hiện thời, thuần nói về viên lư. V́ thế nói là “vô thượng”. Chẳng giống như Thượng [trong các Quyền pháp] có kèm thêm sự đối đăi. Dứt bặt sự đối đăi, chẳng có ǵ ra ngoài pháp ấy, cho nên nói là “tối đại” (lớn nhất). Các pháp dù Tiểu hay Đại có thể kèm thêm sự đối đăi, [nhưng hễ dung nhập vào pháp luân này, các pháp ấy] đều trở thành Đại. Phần kinh văn Trường Hàng đă xong.

 

3.2.2.5.2. Kệ tụng

3.2.2.5.2.1. Trùng tụng khai Quyền hiển Thật

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư thiên tử dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Tích ư Ba La Nại, chuyển Tứ Đế pháp luân, phân biệt thuyết chư pháp, ngũ chúng chi sanh diệt. Kim phục chuyển tối diệu, vô thượng đại pháp luân. Thị pháp thậm thâm áo, thiểu hữu năng tín giả.

          ()爾時諸天子。欲重宣此義而說偈言。昔於波羅柰。轉四諦法輪。分別說諸法。五眾之生滅。今復轉最妙。無上大法輪。是法甚深奧。少有能信者。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các thiên tử muốn nói lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Xưa tại Ba La Nại, chuyển pháp luân Tứ Đế, phân biệt nói các pháp. Năm chúng đều sanh diệt. Nay lại chuyển pháp luân, tối diệu, lớn vô thượng. Pháp này rất sâu mầu, ít ai tin tưởng được!)

 

          “Ngũ chúng” chính là Ngũ Ấm. Ấm là Khổ Đế, do Tập mà sanh. Hễ sanh th́ ắt phải t́m ṭi Diệt. Sanh đă diệt, [Khổ] sẽ diệt, gọi là Diệt Đế, có thể diệt Khổ và Tập th́ gọi là Đạo Đế. Các điều khác dễ hiểu!

 

3.2.2.5.2.2. Tự thuật sự thấu hiểu, tùy hỷ hồi hướng

 

          (Kinh) Ngă đẳng tùng tích lai, sổ văn Thế Tôn thuyết, vị tằng văn như thị, thâm diệu chi thượng pháp. Thế Tôn thuyết thị pháp, ngă đẳng giai tùy hỷ. Đại trí Xá Lợi Phất, kim đắc thọ tôn kư. Ngă đẳng diệc như thị, tất đương đắc tác Phật. Ư nhất thiết thế gian, tối tôn, vô hữu thượng. Phật đạo phả tư nghị, phương tiện tùy nghi thuyết. Ngă sở hữu phước nghiệp. Kim thế, nhược quá thế, cập kiến Phật công đức, tận hồi hướng Phật đạo.

          ()我等從昔來。數聞世尊說。未曾聞如是。深妙之上法。世尊說是法。我等皆隨喜。大智舍利弗。今得受尊記。我等亦如是。必當得作佛。於一切世間。最尊無有上。佛道叵思議。方便隨宜說。我所有福業。今世若過世。及見佛功德。盡迴向佛道。

          (Kinh: Chúng con từ trước nay, nhiều lượt nghe Phật nói, chưa từng nghe thượng pháp, sâu mầu như thế đó. Thế Tôn nói pháp này, chúng con đều tùy hỷ. Đại trí Xá Lợi Phất, nay được thọ tôn kư. Chúng con sẽ như thế, ắt sẽ được thành Phật. Trong hết thảy thế gian, tôn quư nhất, vô thượng. Phật đạo há nghĩ bàn, phương tiện tùy nghi nói. Bao phước nghiệp của con, đời này hay đời trước, và công đức thấy Phật, đều hồi hướng Phật đạo).

 

          Bốn câu đầu trần thuật sự giải ngộ, mười câu kế tiếp nói về sự tùy hỷ, bốn câu cuối cùng là hồi hướng. “Ngă đẳng diệc như thị” (Chúng con cũng như thế): Sẽ lănh nhận, giải ngộ giống như Thân Tử, sẽ như Thân Tử trần thuật cặn kẽ sự thành tựu, sẽ được thọ kư như Thân Tử.          
          Hỏi: Các vị đại Thanh Văn như Ca Diếp, Thiện Cát (Tu Bồ Đề) c̣n chưa giải ngộ, tứ chúng là hạng người như thế nào mà đắc ngộ trước?

          Đáp: Tứ chúng trời người cũng có ba căn: Thượng căn giống như ngài Thân Tử, trung căn th́ giống như bốn vị [sẽ được thọ kư] trong phẩm sau, hạ căn th́ giống như năm trăm người [được thọ kư sau đó]. Lại nữa, các vị Ca Diếp, Thân Tử v.v… hoàn toàn là Quyền hạnh; do trung căn và hạ căn chưa mở mang, cho nên các vị Ca Diếp, Măn Từ Tử đều cùng thị hiện “chẳng hiểu”. Kinh Tịnh Danh nói: “Chúng sanh vị dũ, Bồ Tát diệc vị dũ” (Chúng sanh chưa lành bệnh, Bồ Tát cũng chưa khỏi bệnh)… Phần thứ nhất là Pháp Thuyết Châu đă xong.

 

3.3. Thí Thuyết Châu

 

          Phần này gồm bốn phần: Một là kinh văn trong phẩm này chánh thức nêu thí dụ về khai tam hiển nhất; hai là phẩm Tín Giải chỉ ra sự lănh ngộ của trung căn, ba là phẩm Dược Thảo Dụ chính là Như Lai trần thuật sự thành tựu. Bốn là phẩm Thọ Kư nhằm trao cho sự huyền kư quyết định.

 

3.3.1. Chánh thức nêu thí dụ về khai tam hiển nhất

3.3.1.1. Cầu thỉnh

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Xá Lợi Phất bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă kim vô phục nghi hối, thân ư Phật tiền, đắc thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư. Thị chư thiên nhị bách tâm tự tại giả, tích trụ Học địa, Phật thường giáo hóa ngôn: “Ngă pháp năng ly sanh, lăo, bệnh, tử, cứu cánh Niết Bàn”. Thị Học, Vô Học nhân diệc các tự dĩ ly ngă kiến, cập hữu vô kiến đẳng, vị đắc Niết Bàn, nhi kim ư Thế Tôn tiền văn sở vị văn, giai đọa nghi hoặc. Thiện tai Thế Tôn! Nguyện vị tứ chúng, thuyết kỳ nhân duyên, linh ly nghi hối.

          ()爾時舍利弗白佛言。世尊。我今無復疑悔。親於佛前得受阿耨多羅三藐三菩提記。是諸千二百心自在者。昔住學地。佛常教化言。我法能離生老病死。究竟涅槃。是學無學人。亦各自以離我見及有無見等。謂得涅槃。而今於世尊前聞所未聞。皆墮疑惑。善哉世尊。願為四眾說其因緣。令離疑悔。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Con nay chẳng c̣n ngờ vực, hối hận, đích thân đối trước Phật, được thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Một ngàn hai trăm vị tâm được tự tại đây xưa kia thuộc địa vị Hữu Học, Phật thường giáo hóa rằng: “Pháp của ta có thể ĺa sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết Bàn”. Những vị Hữu Học, Vô Học ấy ai nấy cũng tự cho rằng chính ḿnh đă ĺa ngă kiến và các kiến chấp “có, không” th́ là đắc Niết Bàn, nhưng nay họ ở trước đức Thế Tôn được nghe điều chưa từng nghe, đều rơi vào nghi hoặc. Lành thay đức Thế Tôn! Xin hăy v́ tứ chúng nói nhân duyên ấy, khiến cho họ ĺa ngờ vực, hối hận).

 

           Trong đoạn này:

          - Trước hết [ngài Xá Lợi Phất] tự thuật [chính ḿnh] chẳng nghi.

          - Kế đó từ “thị chư” (các vị này) trở đi, trần thuật những người cùng hàng với Ngài có niềm nghi hoặc.

          - Ba, từ chữ “thiện tai” (lành thay) trở đi, v́ trọn khắp tứ chúng, thỉnh cầu đức Phật dạy bảo.

          “Những người cùng hàng” là có cùng hạnh. Do niệm t́nh cũ, nên cần phải v́ họ cầu thỉnh. Tứ chúng là hóa cảnh (đối tượng được giáo hóa). Lại vận dụng đại bi, cho nên v́ đại chúng mà thỉnh cầu trọn khắp. “Văn sở vị văn” (nghe điều chưa từng nghe) tức là [nghe] những điều thuộc Pháp Thuyết Châu trong phần trước cho đến [nghe đức Phật] trần thuật sự thành tựu, truyền trao thọ kư. [Những điều ấy] bất đồng với giáo pháp họ đă nắm giữ trước kia và quả vị họ đă chứng đắc. [Nói tới] “nhân duyên” [hàm ư]: V́ sao trước kia [đức Phật] nói tam thừa, nay chỉ nói nhất thừa? Cần phải nói rơ duyên do này!

          Hỏi: Phàm phu cũng có người vừa nghe liền ngộ, nay một ngàn hai trăm vị [Thanh Văn] đă nghe giảng đại lược và cặn kẽ về chuyện “khai tam, hiển nhất”, và nghe ngài Thân Tử trần thuật sự lănh ngộ được thọ kư, rồng, quỷ c̣n có thể phỏng theo đó mà tùy hỷ. V́ sao [các vị Thanh Văn] vẫn mê?

          Đáp: Có hai nghĩa: Một là chấp trước đă lâu. Hai là người đă dự vào địa vị, hễ hiểu sẽ phá chấp. Chấp đă bị phá liền dự vào Sơ Trụ. Phàm phu chẳng có hai nghĩa ấy, có thể dễ hiểu hơn!

 

3.3.1.2. Giải đáp

3.3.1.2.1. Phát khởi

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất: - Ngă tiên bất ngôn chư Phật Thế Tôn, dĩ chủng chủng nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện thuyết pháp, giai vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề da? Thị chư sở thuyết giai vị hóa Bồ Tát cố. Nhiên Xá Lợi Phất, kim đương phục dĩ thí dụ cánh minh thử nghĩa. Chư hữu trí giả, dĩ thí dụ đắc giải.

          ()爾時佛告舍利弗。我先不言諸佛世尊。以種種因緣譬喻言辭方便說法。皆為阿耨多羅三藐三菩提耶。是諸所說。皆為化菩薩故。然舍利弗。今當復以譬喻更明此義。諸有智者。以譬喻得解。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Trước kia, ta chẳng nói chư Phật Thế Tôn dùng các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện thuyết pháp, đều v́ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ư? Các lời ấy đều v́ giáo hóa Bồ Tát. Nhưng này Xá Lợi Phất, nay ta sẽ dùng thí dụ để nói rơ hơn nghĩa ấy, những người có trí sẽ do thí dụ mà được hiểu).

 

          Trong kinh văn, trước là đè nén, sau là dẫn nhập[10]. Từ “ngă tiên bất ngôn” (trước kia, ta chẳng nói) trở đi, nhắc đến Quyền đă được nêu ra trong phần trước. Câu “giai vị A Nậu” (đều v́ Vô Thượng) là nói đến Thật đă được nêu ra trong phần trước. “Giai vị hóa Bồ Tát” (đều v́ giáo hóa Bồ Tát): Dù Quyền hay Thật, đều nhập Niết Bàn vô trụ của Phật đạo. Trong phần trước đă nói rơ, cớ sao cứ chấp giáo, cứ mê ám chẳng hiểu? Quở trách như thế đó. Đó là “chèn ép”, khiến cho [thính chúng] phát phẫn, dũng mănh. Từ chữ “nhiên Xá Lợi Phất trở đi, [thể hiện ư] tiếp dẫn an ủi. Trước đó, đă quở trách thống thiết, [đức Phật] lại sợ họ sẽ mặc cảm hèn kém, tự ch́m đắm, bèn hứa sẽ nói thí dụ. Nếu ai có thể hiểu [hàm ư trong thí dụ ấy] th́ vẫn được gọi là bậc trí.

 

3.3.1.2.2. Nói thẳng vào thí dụ

3.3.1.2.2.1. Trường Hàng

 

          Gồm hai phần: Một là lập thí dụ, hai đối ứng [những điều được nói trong thí dụ] với sự biểu thị pháp. Nhưng giữa thí dụ và phần kết hợp với pháp, sẽ có [những chỗ được nói] chi tiết hay giản lược. Nếu phần thí dụ nói giản lược, mà phần kết hợp với pháp lại nói rộng th́ trước hết đem thí dụ đối chiếu với pháp xong, đến phần tổng hợp, lại cần phải giải thích cặn kẽ. Nếu thí dụ nói chi tiết, mà phần kết hợp với pháp (phần giải thích ư nghĩa biểu thị pháp của mỗi sự việc trong thí dụ) giản lược, há lẽ nào đức Thế Tôn phí công nói rườm rà! Vẫn cần phải giải thích thí dụ cặn kẽ, c̣n phần đối với phần biểu thị pháp, sẽ chỉ nói đối chiếu đại lược.

 

3.3.1.2.2.1.1. Lập thí dụ

3.3.1.2.2.1.1.1. Tổng thí

3.3.1.2.2.1.1.1.1. Thí dụ về ông trưởng giả (sánh ví đức Phật Thích Ca)

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược quốc ấp, tụ lạc, hữu đại trưởng giả, kỳ niên suy mại, tài phú vô lượng, đa hữu điền trạch, cập chư đồng bộc.

          ()舍利弗。若國邑聚落。有大長者。其年衰邁。財富無量。多有田宅及諸僮僕。

          (Kinh: Xá Lợi Phất! Như nơi quốc ấp, xóm làng, có đại trưởng giả đă già yếu, của cải vô lượng, có nhiều ruộng nương, nhà cửa, và các tôi tớ).

 

          Câu “quốc ấp, tụ lạc…” chỉ rơ ông ta có danh vọng, phẩm hạnh. Câu hữu đại trưởng giả” (có đại trưởng giả) nêu ra địa vị và phong hiệu của ông ta. “Kỳ niên suy mại” (tuổi đă già suy) nói về đức nghiệp. Danh như khách, hạnh như chủ. Hạnh có thân và sơ (Thật hạnh là thân, Quyền hạnh là sơ). Danh có xa hay gần. V́ thế, nêu ra xứ sở nhằm hiển thị danh và hạnh. Biên giới là chỗ xa nhất của một nước. Chỗ có người cai quản là Ấp, sống trong ấy. “Tụ lạc” là chỗ xóm giềng, gần nhất. Danh và hạnh của trưởng giả trọn khắp ba chỗ (quốc, ấp, tụ lạc)[11]. Gần th́ chẳng thấy những lỗi tệ nhỏ nhặt, xa th́ chỉ nắm giữ phong thái cao cả. Miệng chẳng phải lựa lời, thân chẳng phải chọn hạnh, ư chẳng phải chọn pháp, danh và hạnh tương xứng, là bậc đại nhân chân thật. Dùng chuyện này để thí dụ ba nghiệp của Như Lai thuận theo trí huệ, tương xứng căn cơ để thực hiện giáo hóa, tiếng tăm vang dội trọn khắp, đức trọn khắp pháp giới. “Quốc” ví như cơi Thật Báo, “ấp” ví như cơi Phương Tiện, “tụ lạc” ví như cơi Đồng Cư. Từ Bổn là cơi Tịch Quang rủ ḷng thị hiện trong ba cơi (Đồng Cư, Phương Tiện, Thật Báo). Nhiếp dấu tích trong ba cơi về Tịch Quang nơi Bổn. Danh và hạnh tương xứng, dào dạt trọn khắp. Là bậc trưởng giả trong thế gian, cần phải trọn đủ mười đức:

          - Một là gịng họ sang quư, hoặc là hậu duệ của hoàng đế, hoặc gia tộc quư hiển.

          - Hai là địa vị cao, phù tá bậc A Hành[12].

          - Ba là giàu to, vàng thóc dư dật.

          - Bốn là oai thế mạnh mẽ, tôn nghiêm long trọng, chẳng cần phải nghiêm nghị mà có oai.

          - Năm là trí sâu, tâm như kho vũ khí[13], tài năng lạ lùng, vượt xa người khác.

          - Sáu là tuổi cao, tóc bạc, quắc thước, mọi người khâm phục.

          - Bảy là hạnh thanh tịnh, bạch khuê[14] không tỳ vết.

          - Tám là lễ nghĩa đầy đủ, trọn vẹn, cư xử đúng chừng mực.

          - Chín được bề trên khen ngợi, được một người (hoàng đế) tôn kính.

          - Mười là kẻ dưới quy phục, bốn biển đều tôn sùng.

          Có đủ mười đức ấy th́ gọi là “đại trưởng giả”. Dùng những điều này để sánh vị trưởng giả xuất thế là Như Lai. Ngài sanh từ Chân Như Thật Tế tam thế:

          - Một là gịng họ cao quư, công tu thành tựu, đắc đạo, mười hiệu vô cực.

          - Hai là địa vị cao quư, pháp tài vạn đức thảy đều trọn đủ.

          - Ba là giàu to, Thập Lực hùng mănh, hàng ma, chế phục ngoại đạo.

          - Bốn là oai mănh, nhất tâm tam trí, không ǵ chẳng thông đạt.

          - Năm là trí sâu, sớm thành Chánh Giác lâu xa dường ấy.

          - Sáu là cao tuổi, hạnh nghiệp thuận theo trí, hành xử chẳng lầm lỗi.   

          - Bảy là hạnh thanh tịnh, trọn đủ oai nghi của Phật, tâm như biển cả.

          - Tám là lễ tiết trọn đủ, mười phương Đại Giác đều cùng ca ngợi.

          - Chín là được người trên (chư Phật) khen ngợi, bảy loại phương tiện đều y chỉ.

          - Mười là kẻ dưới nương về (đối với quả Phật trong tứ giáo, đối với mỗi giáo đều luận định mười đức. Bậc Sơ Trụ của Viên Giáo cũng phần chứng mười đức trong Viên Giáo).

          Xét theo quán tâm, cái trí để quán tâm sanh từ Thật Tướng. Sanh trong nhà Phật, chủng tánh chân chánh, tức là “gịng họ tôn quư”. Tam Hoặc chẳng dấy lên, tuy chưa thấu suốt lẽ Chân, đă mặc áo của Như Lai, được gọi là Tịch Diệt Nhẫn, tức là “địa vị cao cả”. Tam Đế bao hàm hết thảy công đức, chính là “giàu to”. Trí huệ chánh quán, hàng phục ái kiến, tức là “oai mănh”. Trung Đạo cùng chiếu Quyền và Thật đều sáng tỏ, tức là “trí sâu”. Tích tập thiện căn đă lâu, có thể tu phép Quán ấy. Phép Quán ấy vượt trên bảy phương tiện, tức “tuổi tác đă cao”. Phép Quán ấy quán tâm tánh, được gọi là “thượng định”, có thể khiến cho tam nghiệp chẳng lầm lỗi; tức là “hạnh thanh tịnh”. Trải duyên, đối cảnh, oai nghi chẳng mất, tức “lễ tiết trọn đủ”. Có thể quán như thế chính là tướng “tín giải sâu xa”. Chư Phật đều hoan hỷ, khen ngợi người tŕ pháp, tức là “được người trên khen ngợi”. Bốn bộ trời, rồng cung kính cúng dường, tức là “người dưới nương về”.

          Trong phần sau, kinh nói “Phật tử trụ thử địa” (Phật tử trụ nơi đây), tức là sự thọ dụng của Phật. Đấy chính là “trưởng giả” xét theo quán tâm (Mười đức ấy chẳng ra ngoài ba thứ cảnh, trí, hạnh. Tuy chưa dự vào địa vị, như vương tử c̣n ở trong thai, cho nên gọi là “quán hạnh mười đức của Như Lai”. Nếu xét theo xuất thế, sẽ tùy thuộc vào giáo để quán từng quả riêng biệt, chuẩn theo giáo ấy để quán tương ứng, nhân quả tự rạch ṛi. Tức là dùng tam quán để đối ứng bốn giáo, nắm giữ trọn vẹn đức tướng để tán thán Quán, khiến cho kẻ hậu học tu nhân trọn đủ. Dùng quán mười đức để thành tựu cái quả mười đức, ḥng có thể nhất tâm chiếu trọn ba pháp, tức là quán tâm mười đức trọn đủ. V́ thế, dẫn các đoạn kinh văn như “Phật tử đẳng” ḥng làm chứng cho quán tâm. Lại nữa, mười đức ấy ghép với mười pháp thành các thừa, theo thứ tự kết hợp, hết sức sâu xa! V́ sao vậy? Thật Tướng chính là cảnh chẳng thể nghĩ bàn, duyên theo Lư mà dấy lên Thệ (thề nguyền). V́ thế, gọi là Trụ Nhẫn. Do tâm an định nơi Lư, xứng Lư hàm tàng, trừ Phiền Hoặc nơi Tam Đế, được gọi là “phá trọn khắp”. Trung Đạo song chiếu, không bế tắc ǵ chẳng thông. Vô tác đạo phẩm vượt xa bảy phương tiện, giúp đỡ ba nghiệp, đối với Lư chẳng lầm lỗi, đối với cảnh chẳng mất. Do nương vào địa vị chân thật, tín giải đă sâu, cho nên có thể an nhẫn, chẳng sanh pháp ái, cho nên mới cảm kẻ thấp hơn cúng dường. Mười pháp của ba giáo lần lượt giải thích, sẽ trở thành mười pháp quán tâm trong kinh này. Mười phép Quán như thế không chỉ thuộc trong địa vị Quán Hạnh xét theo chiều ngang! Từ sơ tâm cho đến cuối cùng, mười phép Quán trọn đủ. V́ thế, mười đức ấy có ư nghĩa càng sâu hơn theo chiều dọc. Lại c̣n cùng với mười thừa theo chiều ngang cùng mất).

          Trong phần nói về đức nghiệp, đức có trong, ngoài. Trong chính là trí lược (智略, tài trí và mưu lược), ngoài là tư tài (貲財, tiền tài, tài vật). Tuổi cao bèn thông đạt rộng răi xưa nay, ví như Trí Đức của Phật. “Suy mại” (già suy) th́ căn tánh, chí niệm thuần thục, ví như Đoạn Đức của Phật. “Của cải ví như ngoại đức. “Vô lượng” là sánh ví chung vạn đức, “ruộng đất” có thể dưỡng mạng, sánh ví riêng chuyện Thiền Định có thể phụ giúp Bát Nhă. “Nhà” có thể gởi thân, ví như thật cảnh là chỗ để trí nương náu (như mười tám Không môn[15] v.v…) Nếu luận về phước đức, không có hạnh nào chẳng tu. Nếu luận theo trí huệ, sẽ là không có cảnh nào chẳng chiếu. V́ thế nói là “đa hữu điền trạch” (có nhiều ruộng nương, nhà cửa). “Đồng bộc” (僮僕) là kẻ để sai khiến, hầu hạ, ví như phương tiện tri kiến đều đă trọn đủ. Ḥa quang đồng trần trong sáu đường, tùy thuận các căn cơ. Đó chính là tôi tớ của Thật Trí.

 

3.3.1.2.2.1.1.1.2. Thí dụ về nhà cửa

 

          Sánh ví sự an ổn trên đây để đối chiếu với sự chẳng an ổn. “Chẳng an ổn” chính là tam giới.

 

          (Kinh) Kỳ gia quảng đại.

          ()其家廣大。

          (Kinh: Nhà ấy rộng lớn).

         

          Chúng sanh nhọc nhằn, đều ở trong tam giới. Như Lai ứng hóa, đau xót mà gia bị. V́ thế nói là “quảng đại”.

         

3.3.1.2.2.1.1.1.3. Thí dụ [ṭa nhà rộng lớn ấy chỉ có] một cửa

 

          Sánh ví [điều đă nói] trong phần trên, “dùng các thứ pháp môn để tuyên nói, chỉ bày Phật đạo”.

 

          (Kinh) Duy hữu nhất môn.

          ()唯有一門。

          (Kinh: Chỉ có một cửa).

 

          Kinh văn nói: “Dĩ Phật giáo môn xuất tam giới khổ, đắc Niết Bàn chứng” (Dùng cửa Phật giáo để thoát nỗi khổ trong tam giới, chứng đắc Niết Bàn). Hăy nên biết Lư chính là điều được tuyên nói bởi giáo. Nay lấy giáo diễn nói Lư ấy làm môn. Lư đă là một, Giáo chẳng dung hai. V́ thế bèn nói là “một”. Lại có trạch môn và xa môn. “Trạch” () là sanh tử, “môn” () là con đường thoát sanh tử. Đó là nói theo phương tiện giáo. “Xa” (xe) là Đại Thừa, “môn” là lời dạy trong Viên Giáo. Nếu trạch môn chính là xa môn, khi ra khỏi nhà lửa, sẽ đáng được cỗ xe to, cần ǵ phải đợi đ̣i hỏi? Nếu trạch môn chẳng phải là xa môn, trong lúc [các con] đ̣i xin, chỉ là từ nhà lửa thoát ra, há có con đường nào khác? Lại c̣n có người đă có trạch môn, chưa đạt được xa môn, trụ ở chỗ nào? Hăy nên biết “chê trách” (tức trong thời Phương Đẳng và Bát Nhă quở trách pháp Nhị Thừa) th́ Xa và Trạch măi măi khác biệt, [tới khi] “khai” (thời Pháp Hoa khai tam hiển nhất) th́ hai môn chẳng khác; Xa và Trạch là một, hai môn có khác biệt ǵ? Do vậy, tam thừa có hai nghĩa:

          - Nương theo giáo, ra khỏi nhà [lửa], chẳng thấy cỗ xe nhỏ.

          - Trong chặng giữa, đă điều phục hai vị (sanh tô và thục tô) thuần thục, bèn từ cha đ̣i xin cỗ xe mà cha đă hứa trước đó. Đă đ̣i th́ phải cho, mở cánh cửa nhỏ ấy, [các đệ tử Phật mới biết] không ǵ chẳng phải là đại giáo.

          Lư nhỏ nhoi trong cửa, rốt cuộc chẳng phải là đường nào khác! Lư tuyệt đối chẳng hai, thô và diệu cùng một Thể. Pháp trụ nơi pháp vị, tướng thế gian là thường. Tam giới c̣n như thế, có khác biệt ǵ? Nếu trước đó đă chẳng có ǵ khác, lấy ǵ để luận đồng? Người ch́m đắm trong khổ nay đều tụ tập.

 

3.3.1.2.2.1.1.1.4. Thí dụ về năm trăm người

 

          Sánh ví chúng sanh trong phần trước, tức là [chúng sanh thuộc] năm đường vậy.

 

          (Kinh) Đa chư nhân chúng, nhất bách, nhị bách, năi chí ngũ bách nhân chỉ trụ kỳ trung.

          ()多諸人眾。一百。二百。乃至五百人止住其中。

          (Kinh: Có nhiều người, một trăm, hai trăm, cho đến năm trăm người cư trụ trong ấy).

         

          “Một trăm” là trời, “hai trăm” là người, cho đến “năm trăm” tức là ba đường ác. Không nói đến Tu La, v́ Tu La hoặc gộp trong quỷ đạo, hoặc gộp trong bốn đường khác, như trong kinh Đại Phật Đảnh (kinh Lăng Nghiêm) đă nói.

 

3.3.1.2.2.1.1.1.5. Thí dụ về bốc lửa

 

          Sánh ví pháp an ổn trong phần trên đối chiếu với pháp chẳng an ổn, tức là nói đến ngũ trược. Kinh văn lại chia làm hai phần:

          - Một là tướng trạng thoát khỏi nhà bị đốt cháy, ví như [thoát khỏi] quả báo trong lục đạo.

          - Hai là tướng lửa thiêu đốt, ví như tám khổ, ngũ trược.

 

3.3.1.2.2.1.1.1.5.1. Tướng trạng nhà bị đốt cháy

 

          (Kinh) Đường các hủ cố, tường bích đồi lạc, trụ căn hủ bại, lương đống khuynh nguy.

          ()堂閣朽故。牆壁隤落。柱根腐敗。梁棟傾危。

          (Kinh: Nhà, gác do mục cũ, tường vách sụp đổ, chân cột hư mục, kèo rường nghiêng ngả).

 

          “Đường” ví như Dục Giới, “các”[16] ví như Sắc Giới và Vô Sắc Giới. “Hủ” (, hư mục) ví như tam giới tệ ác, vô thường. V́ thế, sánh ví tam giới chẳng phải đến nay mới tạo ra. “Tường bích” (牆壁, tường vách)[17] ví như Tứ Đại, “đồi lạc” (隤落, sụp xuống, nghiêng ngả) ví như tổn giảm. “Trụ căn” (chân cột) ví như mạng. “Hủ bại” (腐敗, mục nát) ví như nguy ngập, chẳng lâu bền. “Lương đống” (梁棟, kèo rường)[18] ví như ư thức. “Khuynh nguy” (傾危, nghiêng ngả, có thể rơi xuống bất cứ lúc nào) ví như biến đổi chẳng ngừng. Vô Sắc tuy chẳng có sắc chất Tứ Đại thô thiển, nhưng xét theo Định Quả Sắc th́ cũng là vách tường. Tam giới đều dùng ư thức để duy tŕ, chỉ xét theo nhân quả thuộc chánh báo trong tam giới để giải thích, sẽ bao gồm cả y báo, chẳng cần phải gộp chung y báo và chánh báo để thí dụ. Y báo chỉ là chút phần trong Tướng Phần của thức thứ tám mà thôi. Lại như thành và hoại mỗi đằng đều chia thành hai mươi loại, đă chẳng có hữu t́nh, sao có thể giải thích ư nghĩa ngũ trược thiêu đốt sao cho khít khao đôi chút; v́ thế chẳng dùng. Lại dựa theo quán tâm để giải thích th́ “đường” ví như phần dưới của thân, “các” ví như phần trên gồm đầu v.v… “Tường bích” ví như da, thịt. “Đồi lạc” ví như già suy. “Trụ căn” ví như hai chân, “hủ bại” ví như suy đồi, “lương đống” ví như xương sống. “Khuynh nguy” ví như cái chết.

 

3.3.1.2.2.1.1.1.5.2. Tướng lửa thiêu đốt

 

          (Kinh) Châu táp câu thời soát nhiên hỏa khởi, phần thiêu xá trạch.

          ()周匝俱時欻然火起。焚燒舍宅。

          (Kinh: Khắp nơi cùng lúc bỗng dưng bốc lửa, thiêu đốt nhà cửa).

 

          Tám khổ trọn khắp trong TĐại (địa, thủy, hỏa, phong), TSanh (thai, noăn, thấp, hóa). V́ thế nói là “châu táp” (周匝, giáp ṿng, trọn khắp) đều là vô thường. Do vậy nói “câu thời” (cùng lúc). “Soát nhiên” (欻然, bỗng dưng) ví như vốn chẳng có, nay lại có. Vốn chẳng có sự khổ ấy, do vô minh mà có. Phần thứ năm, thí dụ về lửa bốc đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.1.6. Thí dụ về ba mươi đứa con

         

          Sánh ví chuyện biết tánh t́nh và sự ham muốn của trời người được nói trong phần trên, tức là nói tới hành nhân trong tam thừa.

 

          (Kinh) Trưởng giả chư tử, nhược thập, nhị thập, hoặc chí tam thập, tại thử trạch trung.

          ()長者諸子。若十。二十。或至三十。在此宅中。

          (Kinh: Các con của trưởng giả, hoặc mười, hai mươi, cho đến ba mươi ở trong nhà ấy).

 

          Từng tu tập Phật pháp, thiên tánh liên quan, gọi những người đă kết duyên là “con”. “Hoặc mười” là con Bồ Tát, “hai mươi’ và “ba mươi” chính là con trong Nhị Thừa. Các căn cơ ấy đều được thoát khỏi nhà. Nếu chẳng phải là căn cơ ấy th́ là năm trăm người. Hoặc là Bích Chi Phật được tính riêng, hay gộp chung khác biệt, hoặc gộp trong Tiểu Thừa, hoặc coi là Trung Thừa, đều nói là mười người, do đều có tánh thập trí (một là Thế trí, hai là Tha Tâm trí, ba là Khổ trí, bốn là Tập trí, năm là Diệt trí, sáu là Đạo trí, bảy là Pháp trí, tám là Tỷ trí, chín là Tận trí, mười là Vô Sanh trí). Phần thứ nhất, Tổng Thí đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.2. Biệt thí

3.3.1.2.2.1.1.2.1. Thí dụ về ông trưởng giả trông thấy lửa

 

          Sánh ví chuyện đức Phật trông thấy ngũ trược bèn dấy tâm đại bi.

 

          (Kinh) Trưởng giả kiến thị đại hỏa tùng tứ diện khởi, tức đại kinh bố, nhi tác thị niệm: “Ngă tuy năng ư thử sở thiêu chi môn, an ổn đắc xuất, nhi chư tử đẳng ư hỏa trạch nội, nhạo trước hy hư, bất giác, bất tri, bất kinh, bất bố, hỏa lai bức thân, khổ thống thiết dĩ, tâm bất yếm hoạn, vô cầu xuất ư”.

          ()長者見是大火從四面起。卽大驚怖。而作是念。我雖能於此所燒之門安隱得出。而諸子等。於火宅內樂著嬉戲。不覺不知。不驚不怖。火來逼身。苦痛切已。心不厭患。無求出意。

          (Kinh: Trưởng giả thấy lửa lớn ấy từ bốn phía bốc lên, liền hết sức kinh sợ, nghĩ như thế này: “Tuy ta có thể an ổn thoát ra từ cái cửa đang cháy này, nhưng các con của ta ở trong nhà lửa, ham thích nô đùa, chẳng hay, chẳng biết, chẳng kinh, chẳng sợ. Lửa sẽ cháy đến thân, đau đớn cùng cực, [nhưng chúng nó] tâm chẳng chán nhàm, lo sợ, chẳng có ư mong thoát ra”).

         

          Tuy đoạn kinh văn này có bốn tiểu đoạn, nhưng chỉ có ba ư:

          - Một là trưởng giả trông thấy [lửa cháy], đấy là nêu ra người có thể thấy, ví như trong phần trên [chánh kinh có] nói: “Ta dùng Phật nhăn để xem xét”.

          - Hai là lửa lớn từ bốn phía bốc lên, đó là nêu ra điều được trông thấy. Ví như trong phần trên đă nói [Như Lai] trông thấy lục đạo chúng sanh.

          - Ba là lập tức hết sức kinh sợ, sánh ví [điều được nói trong] phần trên: V́ các chúng sanh ấy mà dấy ḷng đại bi.

          - Bốn là từ “chư tử” (các con) trở đi, nói rộng thêm về những điều trông thấy trong phần hai, vẫn nhằm giải thích ư nghĩa “kinh sợ”.

          “Thân, thọ, tâm, pháp” chính là bốn phía của ṭa nhà. Từ bốn phía ấy, dấy lên “tứ đảo” (bốn thứ điên đảo)[19] về thường, lạc, ngă, tịnh, cho nên tám nỗi khổ đều tụ tập. Nếu biết “thân bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngă”, thọ, tâm và pháp cũng thế, th́ lửa phiền năo sẽ tắt, nghiệp khổ hoàn toàn dứt. “Tức đại kinh bố” (liền hết sức kinh sợ): Do nghĩ đến những kẻ thoái thất đại thiện, cho nên kinh hăi, lo rầu; do lo lắng họ sẽ dấy lên điều ác nặng nề, cho nên hoảng sợ. “Kinh” () tức là ḷng Từ, nghĩ họ chẳng có sự vui. “Bố” () chính là bi, lo buồn họ sẽ chịu khổ.

          “Ngă tuy năng ư thử sở thiêu chi môn, an ổn đắc xuất” (Tuy ta có thể từ cái cửa đang bị cháy này mà an ổn thoát ra): Giải thích và kết lại ư nghĩa “kinh bố”. Tuy là lời nói chưa trọn hết, nhưng đă nêu rơ: Phật dùng sức trí huệ có thể t́m thấy chánh giáo, thấy chân lư đă được diễn nói, chẳng bị nguy khốn bởi ngũ trược và tám khổ, cho nên An. Bốn trận gió lốc đảo kiến (tri kiến điên đảo) chẳng thể động. V́ thế là Ổn. Vượt ngoài nỗi lo sầu, xơ xác, cho nên nói là “đắc xuất” (thoát ra). Nhưng chúng sanh chẳng như vậy, bị lửa thiêu đốt. Như Lai [do ḷng] từ bi, vẫn bị lửa ưu bi chiếu rực, cho nên nói là “tuy”. “Sở thiêu chi môn” (cái cửa đang bị thiêu đốt): Cửa th́ ắt có khung cửa và cánh cửa, có khoảng trống [giữa khung cửa]. Chẳng có khung và cánh cửa, sẽ không có ǵ để chỉ ra cửa. Chẳng có chỗ trống, sẽ không có ǵ để thông qua. Khung và cánh cửa có thể cháy sạch, khoảng trống giữa khung cửa th́ chẳng thể thiêu. Dùng chuyện này để sánh ví giáo năng thuyên (chủ thể diễn nói) và sở thuyên (điều được diễn nói). Nếu chẳng diễn nói, biện định, sẽ không có ǵ để dạy. Nếu không có điều được diễn nói, làm sao thoát ra? Diễn nói, biện định có thể là vô thường. Điều được diễn nói chẳng vô thường, cho nên dạy điều được tuyên nói. V́ thế, gọi là “an ổn đắc xuất”. Chủ thể diễn nói có thể ṃn diệt, cho nên nói là “sở thiêu chi môn” (cửa bị thiêu đốt). Chẳng từ cái cửa đang bị thiêu đốt, sẽ do đâu mà được an ổn thoát ra? Nhờ vào ngôn giáo khế hợp điều được diễn nói. Đại kinh dạy: “Nhân vô thường cố, nhi quả thị thường” (do nhân là vô thường mà quả là thường) chính là nói đến điều này. Như giáo môn vô thường của Tiểu Thừa là từ cái cửa đang bị đốt cháy mà thoát ra; c̣n trong giáo môn thường trụ của Đại Thừa, văn tự chính là giải thoát, giáo ấy chính là Lư. Hễ thông đạt “thiêu chính là chẳng thiêu”, bèn an ổn thoát ra. Nếu xét theo Quyền Trí của Như Lai th́ tức là từ cái cửa đang bị cháy mà thoát ra. Nếu xét theo Thật Trí, tức là do thấu hiểu cái bị đốt mà an ổn thoát ra. V́ thế, trước đó, dựa vào vạt áo, ghế, bàn, chẳng thoát ra được! Sau đó, dùng vô thường để thoát ra, chính là ư này.

          “Nhạo trước hy hư” (ham thích chơi giỡn): Chấp vào cái thấy là Hy (), chấp vào Ái th́ là Hư (). Lại đắm đuối nơi tứ kiến[20] th́ gọi là Hy, oan uổng chôn vùi công lao th́ gọi là Hư. Đắm đuối ngũ trần là Hy, rỗng tuếch chẳng đạt được ǵ là Hư. Uổng công sanh tử mà chẳng chán ĺa, như trẻ nhỏ chơi giỡn, đều chẳng nói  “có lửa”; đó là “bất giác”. Chẳng biết lửa là thứ nóng bức, đó là “bất tri”. Đă chẳng biết lửa nóng, chẳng lo thân thể bị thương tổn, đó là “bất kinh” (chẳng kinh hăi). Chẳng sợ đoạn mạng, đó là “bất bố” (chẳng sợ sệt). Dùng những điều ấy để sánh ví chúng sanh hoàn toàn chẳng nhận biết ngũ ấm, bát khổ, chẳng biết tứ đảo, tam độc. Đă chẳng biết Hoặc, sao có thể lo sợ Hoặc xâm tổn Pháp Thân, đoạn mất huệ mạng? Chẳng biết Khổ như thế, chẳng biết Tập, chẳng sợ tổn thương Đạo, chẳng sợ đánh mất Diệt. V́ chẳng nghe giáo pháp Tứ Đế, cho nên chẳng có Văn Huệ và Tư Huệ, nên gọi là “bất giác”. Chẳng có Tu Huệ, gọi là “bất tri”. Chẳng có kiến giải, gọi là “bất kinh”. Chẳng có tư duy giải, gọi là “bất bố”. Kiến Đế tức là “kinh ngộ” (kinh sợ, ngộ ra). Tư duy tức là “yếm bố” (chán nhàm, sợ hăi). Lại chẳng hiểu hiện tại là khổ, chẳng biết vị lai là khổ. V́ thế, trong phần sau, kinh nói: “Hiện thọ chúng khổ, hậu thọ địa ngục đẳng khổ” (Nay hứng chịu các khổ, về sau, sẽ chịu các nỗi khổ như địa ngục v.v…).

          “Hỏa lai bức thân” (lửa cháy đến bức bách tấm thân), chính là ngũ thức thân. Ngũ thức thông tam thọ (khổ, lạc, phi khổ phi lạc), tam thọ chính là tam khổ. Niệm nào cũng tương ứng với tam thọ, v́ thế nói “khổ thống thiết dĩ” (đau khổ bức thiết). “Tâm bất yếm hoạn” (tâm chẳng chán nhàm, lo sợ) tức là thức thứ sáu. Đồng thời, ư thức cùng với năm thức kia chỉ biết phân biệt ba thứ thọ, dấy lên tham, giận, si, tạo ra cái nhân gây khổ, sao có thể chán ngán, lo sợ, mong cầu thoát ra? V́ thế nói là “vô cầu xuất ư” (chẳng có ư nguyện mong thoát ra). “Hy hư” ví như Kiến Trược và Phiền Năo Trược. “Bất giác, bất tri, bất kinh, bất bố” ví như Chúng Sanh Trược. “Hỏa lai bức thân khổ thống thiết dĩ” (lửa cháy đến bức bách tấm thân, đau khổ cùng cực) ví như Mạng Trược. “Tâm bất yếm hoạn, vô cầu xuất ư” (tâm chẳng chán nhàm, lo rầu, chẳng có ư cầu xuất ly) ví như Kiếp Trược.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2. Thí dụ bỏ ghế, dùng xe

 

          Sánh ví chuyện “thực thi phương tiện để giáo hóa” trong phần trên, chia làm hai phần:

          - Một là thí dụ về bỏ ghế, dùng xe.

          - Hai là thí dụ về dùng xe [tốt nhất] để ban cho.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.1. Thí dụ bỏ ghế, dùng xe

 

          Sánh ví chuyện suy nghĩ “nếu dùng Đại Thừa để hóa độ ngay th́ sẽ chẳng được”. Phần này lại chia làm hai:

          - Một, tính dùng Khuyến Môn nhưng không được.

          - Hai, tính dùng Giới Môn, nhưng cũng không được.

          Kinh văn trong phần trước chẳng tách thành hai môn Khuyến và Giới, nhưng nêu chung ba ư:

          - Một, toan dùng Đại Thừa để hóa độ.

          - Hai, chúng sanh chẳng có căn cơ [tương ứng].

          - Ba, nghĩ muốn thôi hóa độ.

          Nay hai môn đều nói rơ “pháp toan sử dụng để độ chẳng có căn cơ thích hợp”, nhưng ư niệm toan thôi hóa độ chỉ là ư ngầm!

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.1.1. Tính dùng Khuyến Môn nhưng không được

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Thị trưởng giả tác thị tư duy: “Ngă thân thủ hữu lực, đương dĩ y kích, nhược dĩ kỷ, án, tùng xá xuất chi”. Phục cánh tư duy: “Thị xá duy hữu nhất môn, nhi phục hiệp tiểu. Chư tử ấu trĩ, vị hữu sở thức, luyến trước hư xứ, hoặc đương đọa lạc, vị hỏa sở thiêu”.

          ()舍利弗。是長者作是思惟。我身手有力。當以衣裓。若以几案。從舍出之。復更思惟。是舍惟有一門。而復陿小。諸子幼稚。未有所識。戀著戲處。或當墮落。為火所燒。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Vị trưởng giả ấy suy nghĩ như thế này: “Tay và thân ta có sức, nên dùng lẵng hoa, hoặc dùng ghế, bàn để thoát khỏi nhà”. Lại suy nghĩ: “Nhà này chỉ có một cửa, lại c̣n hẹp nhỏ. Các con thơ dại, chưa hiểu biết, luyến tiếc chỗ vui đùa, sợ sẽ rơi té, bị lửa thiêu đốt”).

 

          “Tác thị tư duy” (suy nghĩ như thế này) sánh ví sự suy nghĩ trong hai mươi mốt ngày [sau khi đức Phật thành đạo] được nói trong phần trước. “Thân” ví như thần thông có thể gánh vác, “tay” ví như trí huệ nâng đỡ. Nương vào tam-muội Đoạn Đức, sẽ có thần thông. Nương vào Trí Đức trong trí huệ, sẽ có thể thuyết pháp. Sức Trí Đoạn có thể thành tựu Pháp Thân. Trí Đoạn ấy lại từ hai môn Khuyến và Giới mà nhập. Khuyến tức là Vị Nhân Tất Đàn, Giới (răn dạy) tức là Đối Trị Tất Đàn. Hai thứ Tất Đàn này tạo phương tiện cho Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

          Thoạt đầu, Như Lai muốn dùng Khuyến Môn để khiến cho [tam thừa] vâng hành các điều thiện, thành tựu Thập Lực, Tứ Vô Sở Úy, Nhất Thiết Chủng Trí, nhưng chúng sanh chẳng thể kham nổi. Kế đó, tính dùng Giới Môn khiến cho họ đừng làm các điều ác, ḥng chứng đại Niết Bàn, nhưng họ cũng chẳng kham được. Chẳng có căn cơ, bèn ngưng dứt giáo hóa. V́ thế biết: Tính dùng Đại Thừa th́ chỉ là hai môn Khuyến Giới Tất Đàn, thần thông, trí huệ đó thôi! Sức Định Huệ trang nghiêm, dùng điều ấy để độ chúng sanh chính là nghĩa này vậy. Trong phần trước, đă tán thán “trưởng giả kỳ niên suy mại” (trưởng giả tuổi cao, suy yếu) tức là sánh ví Trí Đoạn, Trí Đoạn chính là “thân thủ hữu lực” (thân và tay có sức). “Y kích” (衣裓) là đồ để đựng hoa bên Tây Trúc, sánh ví tri kiến của Như Lai. “Ghế” là sánh ví Tứ Vô Sở Úy. “Bàn” sánh ví Thập Lực. Đấy là từ đại lược mà nói rộng ra thành sai khác. Nói đại lược th́ gọi tri kiến của Như Lai. “Tri” tức là Nhất Thiết Chủng Trí. “Kiến” tức là Phật nhăn. Danh từ đại lược, nghĩa thẳm sâu. Ví như một cái y kích (lẵng hoa) chứa được nhiều [hoa]. Ngự trong Trung Đạo để nói th́ gọi là Tứ Vô Sở Úy, nhằm đối ứng với Tứ Đế. Như ghế đối với pháp th́ nhỏ và dài, đối với vật th́ là sự an ổn nhỏ. Nói rộng ra th́ là Thập Lực, ngang lẫn dọc đều gồm trọn. Như bàn có nhiều chân, đối với pháp th́ rộng, đối với vật th́ là sự an ổn to tát. Trong hai mươi mốt ngày[21], tư duy nói Phật pháp rộng hay lược như thế. Đó chính là suy tính dùng Khuyến Môn.

          Từ “phục cánh tư duy” (lại c̣n suy nghĩ) trở đi, nói rơ “không có căn cơ” [tương xứng để tiếp nhận pháp ấy]. “Duy hữu nhất môn, nhi phục hiệp tiểu” (chỉ có một cửa, lại c̣n nhỏ hẹp): “Môn” là nói đến “xa môn” của Đại Thừa. Giải thích điều này có Biệt và Thông. Biệt là tách từng chữ ra để giải thích riêng biệt. “Nhất” là một lư, một đạo thanh tịnh. “Môn” là nói đến chánh giáo, thông với điều được thông. “Tiểu” có nghĩa là bảy phương tiện như đoạn, thường v.v… đều chẳng thể nhập. Nếu luận theo giáo lư rộng răi, sẽ chẳng hẹp nhỏ. Chúng sanh chẳng thể dùng giáo lư ấy để tự thông, dẫu [Phật] muốn đàm luận, nhưng [chúng sanh] chẳng có căn cơ. V́ thế nói là “hẹp nhỏ”.

          “Thông” là ba món lư, giáo, hạnh, mỗi món đều cùng nói là “một cửa hẹp nhỏ”.

          1) Lư: Lư thuần chẳng xen tạp, v́ thế nói là Nhất. Do Lư có thể thông, cho nên nói là Môn. Vi diệu khó biết, nên nói là “hẹp nhỏ”.

          2) Giáo: Mười phương đều chắc thật t́m cầu, chẳng có thừa nào khác, chỉ có một Phật Thừa. V́ thế nói là Nhất. Giáo ấy có thể thông, cho nên nói là Môn. Giáo ấy vi diệu, phàm phu chẳng biết xuất xứ, tức là chẳng biết Quyền. Chẳng biết nhập xứ, tức là chẳng biết Thật. Hàng Nhị Thừa do nghe nói, ít người biết lẽ xuất yếu, vĩnh viễn chẳng biết nhập. Bồ Tát tuy tự biết xuất, cũng chẳng biết nhập. Cả bảy phương tiện đều chẳng biết xuất, nhập. V́ thế nói: “Nhược đản tán Phật Thừa, chúng sanh một tại khổ” (nếu chỉ khen ngợi Phật Thừa, chúng sanh ch́m đắm trong khổ). Chẳng thể dùng Giáo để tự thông, muốn nói mà chẳng có căn cơ. V́ thế nói là “hẹp nhỏ”.

          3) Hạnh: Dùng viên nhân để tự hành, hành đạo to lớn, thẳng thừng, chẳng có ǵ gây chướng nạn được. V́ thế gọi là Nhất. Khéo hành Bồ Tát đạo, tới thẳng đạo tràng. V́ thế gọi là Môn. Diệu hạnh khó hành, phương tiện chẳng có căn cơ. Cho nên nói là “hẹp nhỏ”.

          “Chư tử ấu trĩ” (các con thơ dại): Tuy ở chỗ hai vạn vị Phật dạy vô thượng đạo, nhưng thiện căn Đại Thừa yếu nhỏ, bèn gọi là “ấu trĩ”. Nếu nghe Đại Thừa, có thể sanh ḷng hủy báng, tức là “v hữu sở thức” (chưa hiểu biết). Đó là thiện yếu ớt. Lúc thoạt đầu thoái thất Đại Thừa, chấp sâu kiến ái. Lúc chịu tám khổ, chấp sâu y báo và chánh báo. Dục Giới chấp ngũ trần, Sắc Giới chấp vị Thiền, Vô Sắc Giới chấp Định. V́ thế gọi là “luyến trước hư xứ” (luyến tiếc chỗ vui chơi). Đó là ác mạnh mẽ. Đọa lạc có hai trường hợp:

          - Một là thơ dại, nhớ tưởng chỗ ḿnh vốn vui chơi, cho nên đọa lạc. Ví như chấp trước ngũ dục, đọa trong tam đồ.

          - Hai là không hiểu biết, chấp trước các thứ chẳng kiên cố, cho nên đọa lạc. Ví như kẻ báng Đại Thừa, đọa trong tam đồ.

          V́ vậy nói “chúng sanh chư căn độn, trước lạc si sở manh” (chúng sanh các căn độn, chấp lạc, bị mù ḷa bởi ngu si), sao có thể độ cho được? Lại nói: “Nhược đản tán Phật Thừa, phá pháp bất tín cố, trụy ư tam ác đạo” (Nếu chỉ khen Phật Thừa, do phá pháp chẳng tin, rơi vào ba đường ác). Đă không có căn cơ để khuyên, đă bao hàm ư nghĩa “muốn ngưng dứt sự giáo hóa”.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.1.2. Tính dùng Giới Môn nhưng chẳng được

 

          (Kinh) Ngă đương vị thuyết bố úy chi sự: Thử xá dĩ thiêu, nghi thời tật xuất, vô linh vi hỏa chi sở thiêu hại”. Tác thị niệm dĩ, như sở tư duy, cụ cáo chư tử: “Nhữ đẳng tốc xuất”. Phụ tuy lân mẫn, thiện ngôn dụ dụ, nhi chư tử đẳng, nhạo trước hy hư, bất khẳng tín thọ, bất kinh, bất úy, liễu vô xuất tâm, diệc phục bất tri hà giả thị hỏa, hà giả vi xá? Vân hà vi thất? Đản Đông Tây tẩu hư, thị phụ nhi dĩ.

          ()我當為說怖畏之事。此舍已燒。宜時疾出。無令為火之所燒害。作是念已。如所思惟。具告諸子。汝等速出。父雖憐愍。善言誘諭。而諸子等。樂著嬉戲。不肯信受。不驚不畏。了無出心。亦復不知何者是火。何者為舍。云何為失。但東西走戲。視父而已。
          (Kinh: “Ta hăy nên v́ chúng nó nói tới chuyện đáng sợ hăi. Nhà này đă bị cháy, hăy nên đúng lúc mau chóng thoát ra, chớ để lửa đốt làm hại”. Nghĩ như thế rồi, đúng như đă suy nghĩ, cặn kẽ bảo các con: “Các con hăy mau ra khỏi”. Cha tuy thương xót, khéo nói khuyên dụ, nhưng các con mến đắm chơi đùa, chẳng chịu tin nhận, chẳng kinh hăi, chẳng sợ sệt, trọn chẳng có tâm ra khỏi, cũng lại chẳng biết ǵ là lửa, ǵ là nhà, ǵ là tổn thất? Chỉ Đông Tây chạy giỡn, nh́n cha mà thôi).

 

          Đấy là tướng đối trị, như kinh Đại Phẩm có nói: “Tứ Niệm Xứ là Ma Ha Diễn. Dĩ bất khả đắc cố, dị ư Tiểu Thừa” (Tứ Niệm Xứ là Đại Thừa, do chẳng thể được, cho nên khác với Tiểu Thừa). Đă chấp vào chỗ chơi giỡn, cho nên nói đến chuyện kinh sợ để họ được thoát ly. Nói Ngũ Ấm Xá (nhà ngũ ấm) đă bị lửa ngũ trược đốt, hăy nên gấp ĺa bỏ. Nếu ở lâu, ắt đoạn thiện căn. V́ thế nói “vô linh vi hỏa chi sở thiêu hại” (chẳng để cho bị lửa đốt, tổn hại). Đấy là chuyện tính làm. Từ “phụ tuy lân mẫn” (cha tuy thương xót) trở đi, nói rơ “[chúng sanh] chẳng có căn cơ”. “Bất kinh, bất úy” (chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hăi) như đă giải thích trong phần trước. Chẳng biết bát khổ ngũ trược có thể đốt cháy thiện căn. Nếu chẳng biết lửa, chẳng biết các pháp Ấm, Giới, Nhập là các thứ gây nên khổ. Nếu chẳng biết nhà, sẽ chẳng biết đă đánh mất cội nguồn của Pháp Thân. Nếu chẳng biết như thế nào là tổn thất, sẽ trái nghịch sáng, hướng theo tối, qua lại trong sanh tử, như rảo chạy Đông Tây. Lại dấy lên kiến ái, như đùa giỡn, chẳng hướng theo đại giáo. V́ thế nói “thị phụ nhi dĩ” (nh́n cha mà thôi). [Tính dùng] Giới để giáo hóa, [chúng sanh] lại chẳng có căn cơ, đă bao hàm ư nghĩa [toan] “chấm dứt sự giáo hóa” trong ấy. Phần thứ nhất, “thí dụ về bỏ mấy loại giáo hóa” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.2. Thí dụ về dùng xe

 

          Sánh ví chuyện nghĩ “giống như chư Phật, dùng tam thừa [để giáo hóa], sẽ tương xứng với cơ nghi”.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.1. Thí dụ về toan dùng ba loại xe

 

          Đây là thí dụ về chuyện [Phật Thích Ca] suy nghĩ quá khứ chư Phật cũng dùng ba thừa để giáo hóa như đă nói trong phần trước.     

 

          (Kinh) Nhĩ thời, trưởng giả tức tác thị niệm: “Thử xá dĩ vi đại hỏa sở thiêu. Ngă cập chư tử nhược bất thời xuất, tất vị sở phần! Ngă kim đương thiết phương tiện, linh chư tử đẳng đắc miễn tư hại”.

          ()爾時長者卽作是念。此舍已為大火所燒。我及諸子若不時出。必為所焚。我今當設方便令諸子等得免斯害。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trưởng giả liền nghĩ như thế này: “Nhà này đă bị lửa lớn đốt cháy. Ta và các con nếu chẳng kịp thời thoát ra, ắt bị lửa đốt. Ta nay nên lập phương tiện khiến cho các con tránh khỏi nỗi hại này”).

 

          Công năng giáo hóa của Đại Thừa là mạng của cha. Chúng sanh được tốt lành to lớn chính là mạng của con. Nếu sự tốt lành to lớn bị chấm dứt, tức là con mất mạng. Mạng của con đă đoạn th́ công giáo hóa cũng phế, tức là mạng cha bị đoạn! V́ thế nói “nhược bất thời xuất, tất vị hỏa sở phần” (nếu chẳng kịp thời thoát ra, ắt sẽ bị lửa đốt). Trong đoạn trước, kinh văn đă nói “năng ư sở thiêu chi môn an ổn đắc xuất” (có thể từ cái cửa đang bị cháy mà an ổn thoát ra), ở đây sao lại nói “nhược bất thời xuất, tất vị hỏa sở phần”? Những người thoát ra trong phần trước chính là Pháp Thân xuất. Nay nói “nhược bất thời xuất” (nếu chẳng kịp thời thoát ra), tức là Ứng Thân có cùng bệnh. Chúng sanh khổ sở, có điều thiện, sẽ cùng với Ứng Thân thoát ra. Nếu chúng sanh đoạn mất điều thiện, sẽ chẳng cùng Ứng Thân đúng lúc thoát ra, tức là sẽ đều bị thiêu đốt. Ấy là v́ muốn dùng Ứng Thân để hóa độ, khiến cho họ đúng lúc thoát ra. “Ngă kim đương thiết phương tiện” (ta nay nên lập phương tiện) tức là suy tính muốn thực hiện pháp Quyền.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.2. Thí dụ về chuyện đă sẵn biết tâm con ưa thích điều ǵ

 

          Sánh ví chuyện “khi tư duy như thế, mười phương chư Phật đều hiện” trong phần trước.

 

          (Kinh) Phụ tri chư tử tiên tâm, các hữu sở háo chủng chủng trân ngoạn kỳ dị chi vật, t́nh tất nhạo trước.

          ()父知諸子先心。各有所好種種珍玩奇異之物。情必樂著。

          (Kinh: Cha biết tánh các con, mỗi đứa đều ưa thích các thứ quư báu, lạ lùng, [nếu có vật như thế], ḷng chúng nó ắt sẽ ưa thích).

 

          Xưa kia từng tu tập Tiểu pháp, đó là “tiên tâm” (tâm trước kia). [Mỗi cá nhân] tánh t́nh, ham muốn khác nhau, tức là mỗi người có sở thích riêng. Lại nữa, chúng sanh xưa kia từng tu tập Đại pháp, nhưng tu tập Đại pháp chưa nồng hậu. Đó chính là nhược điểm to lớn. Ưa thích, hâm mộ Niết Bàn th́ là “mạnh mẽ chút ít”. Như ngài Thân Tử thoái thất nơi lục tâm (tâm hành Lục Độ), biết nơi Bổn đă tu tập đại pháp th́ gọi là “biết tiên tâm”. Biết họ lui sụt, hâm mộ Niết Bàn, gọi là “tri các hữu sở háo” (biết mỗi người đều có điều ưa thích riêng).

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.3. Thí dụ về chuyện ưa thích ba loại xe hiếm có   

 

          Sánh ví “tư duy chuyện trên đây đă xong, liền đến Ba La Nại” v.v

 

          (Kinh) Nhi cáo chi ngôn: “Nhữ đẳng sở khả ngoạn hảo, hy hữu nan đắc. Nhữ nhược bất thủ, hậu tất ưu hối! Như thị chủng chủng dương xa, lộc xa, ngưu xa, kim tại môn ngoại, khả dĩ du hư. Nhữ đẳng ư thử hỏa trạch, nghi tốc xuất lai, tùy nhữ sở dục, giai đương dữ nhữ”.

          ()而告之言。汝等所可玩好。希有難得。汝若不取。後必憂悔。如此種種羊車鹿車牛車。今在門外。可以遊戲。汝等於此火宅。宜速出來。隨汝所欲。皆當與汝。

          (Kinh: Bèn bảo rằng: “[Cha có] những thứ mà các con sẽ ưa thích, hiếm có[22], khó được. Nếu các con không lấy, sau này ắt sẽ buồn rầu, hối hận[23]. Các thứ xe dê, xe nai, xe trâu[24] như thế nay đặt ngoài cửa, có thể dạo chơi[25]. Các con đang ở trong nhà lửa này, hăy nên mau thoát ra, tùy theo ḷng muốn, sẽ đều cho con”).

 

          Từ “nhữ đẳng sở khả” (các con có thể) trở đi là sánh ví sự Khuyến Chuyển. Từ “như thị chủng chủng” (các thứ trở đi), sánh ví Thị Chuyển. “Tùy nhữ sở dục giai đương dữ nhữ” (tùy theo ḷng muốn của các con, sẽ đều ban cho) chính là sánh ví Chứng Chuyển.

          Hỏi: Ba loại xe, hai loại người được sai khiến[26], một hóa thành, thành có, xe không, đều nhằm sánh ví phương tiện, sao lại khác nhau?

          Đáp: Phàm lập ra thí dụ, mỗi thí dụ đều thuận theo một nghĩa, chớ nên chấp vào một cách, rồi ngờ vực các cách [sánh ví] khác! Tách ra thành một, hai, hay ba, chỉ là gộp lại hay tách ra, v́ sự tín giải đối với tam châu khác biệt, cho nên có sai khác, nhưng đều nhằm thí dụ phương tiện, nghĩa lư chẳng khác! Xe do nêu chung phương tiện (tam thừa), cho nên có ba. Người được sai khiến th́ do đối ứng riêng với từng sự khó khăn, cho nên có hai. “Thành” th́ do đối với hai hay ba chỗ, cho nên có một. Hăy nên biết: Thành cũng do người mà có hai. V́ thế nói theo chỗ ngưng dứt bèn nói tới hai[27]. Nếu nói theo chỗ khó khăn th́ xe cũng chỉ có hai loại (nan hành và dị hành). “Người được sai khiến” xét theo ư nghĩa cũng kiêm Bồ Tát. Cả ba điều ấy đều có “nhân, giáo, lư, hạnh”. “Thành” nếu nói là “hóa”, th́ cũng là chẳng có! Xe do tạo tác, cho nên vẫn có. Người được sai khiến nếu xét theo Quyền th́ cũng là tương đồng, cho nên cũng có! Do Quyền vốn chẳng thật, cho nên [người được sai khiến] cũng là không! Đối chiếu giữa Quyền và Thật, đều bao gồm bốn câu: “Do quyền biến hóa hiện, cho nên đều có. Xét theo Thật nghĩa th́ đều là không. Do đều thông với Quyền và Thật, cho nên vừa có vừa không. Đồng ước theo một Lư, cho nên cả hai đằng đều phế (chẳng có, chẳng không)”.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.4. Thí dụ [mỗi loại xe] đều phù hợp với ư nguyện của các con

 

          Sánh ví sự “thọ hành ngộ nhập” trong phần trước, tức là chuyển pháp luân v.v…

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chư tử văn phụ sở thuyết trân ngoạn chi vật, thích kỳ nguyện cố, tâm các dũng nhuệ, hỗ tương thôi bài, cạnh cộng tŕ tẩu, tranh xuất hỏa trạch.

          ()爾時諸子。聞父所說珍玩之物。適其願故。心各勇銳。互相推排。競共馳走。爭出火宅。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các con nghe cha nói có món đồ chơi quư báu, xứng với ḷng mong ước, tâm đều hăng hái, xô đẩy lẫn nhau, đua nhau rảo chạy, tranh nhau ra khỏi nhà lửa).

 

          Kệ tụng trong phần trước vốn giản lược. Trong phần này, nói thí dụ cặn kẽ, nêu chi tiết tướng trạng từ tu nhân cho tới đắc quả. Nói “thích kỳ nguyện” (xứng với ḷng mong ước) tức là căn cơ và giáo pháp tương xứng, tức Văn Huệ (Tứ Niệm Xứ). “Dũng nhuệ” (hăng hái) chính là Tư Huệ. Tâm tư dấy lên suy nghĩ, chính là phương tiện Chánh Cần (Tứ Chánh Cần). “Hỗ tương thôi bài” (xô đẩy lẫn nhau): Thúc đẩy bốn chân lư (Tứ Đế), trừ khử, chế phục Kiến Hoặc. Xem khắp trên dưới Bát Đế[28] ba mươi hai hạnh, th́ gọi là “hỗ tương” (lẫn nhau). Điều này thuộc vào Tu Huệ, thuộc các địa vị Noăn và Đảnh. “Cạnh” () là tranh giành lư thù thắng, chính là địa vị Nhẫn Pháp. Quán rút gọn lại, hướng đến Khổ Pháp Nhẫn. “Cộng” () là địa vị Thế Đệ Nhất, cùng quán bất cứ hạnh nào thuộc bốn hạnh thuộc Khổ Đế, chẳng khác Khổ Pháp Nhẫn. “Tŕ tẩu” (馳走, rong ruổi): Nhập mười sáu tâm thuộc địa vị Kiến Đạo, nhanh chóng thấy Lư, sánh ví “Niết Bàn âm” (âm thanh Niết Bàn) trong phần trên. Kiến Đạo là đạt được một phần Niết Bàn. “Tranh xuất” (giành nhau thoát ra): Tư duy đạo. Tranh nhau ra khỏi tam giới, thành tựu quả Vô Học, đoạn hết Tư Hoặc th́ mới ra khỏi nhà lửa, tức là sánh ví chuyện có các danh xưng “A La Hán, Pháp, Tăng” sai biệt được nói trong kệ tụng thuộc phần trước (phẩm Phương Tiện).

          Giải thích theo quán tâm, Trung Đạo chánh quán là quán thẳng vào Thật Tướng, tâm và pháp tương xứng th́ gọi là “thích kỳ nguyện” (tương xứng ḷng mong mỏi). Do cảnh vô biên, quán cũng vô biên, th́ gọi là Dũng. Tâm thấu hiểu cảnh nhạy bén th́ gọi là Nhuệ. Tâm và cảnh xem xét lẫn nhau, gọi là “hỗ tương thôi bài” (xô đẩy lẫn nhau). Tâm vương và tâm số (tâm sở) duyên theo cảnh nhanh chóng, gọi là “cạnh cộng tŕ tẩu” (đua nhau rảo chạy), trải khắp hết Ấm, Giới, Nhập v.v… không ǵ chẳng phải là Thật Tướng, gọi là “ra khỏi nhà lửa” (Xét theo giáo th́ có tướng từ tu nhân cho tới chứng quả trong bốn giáo. Nay xét theo Tạng Giáo. Xét theo Quán, cũng có bốn giáo sai khác, nay chỉ xét theo Viên). Phần thứ hai, thí dụ về bỏ ghế, dùng xe đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3. Thí dụ về b́nh đẳng ban cho loại xe to

 

          Sánh ví “hiển Thật” trong phần trước. Phần này chia thành bốn [tiểu đoạn]:

          - Một, thí dụ cha hoan hỷ v́ thấy các con thoát nạn.

          - Hai, thí dụ các con đ̣i xe.

          - Ba, thí dụ b́nh đẳng ban cho các cỗ xe lớn.

          - Bốn, thí dụ các con được xe, hoan hỷ.

          Trong bài kệ thuộc phần trên, trước là căn cơ dấy khởi, sau đó Phật hoan hỷ. Nay trước hết là Phật hoan hỷ; sau đó, con đ̣i xe. Kinh văn nói có trước sau, nhưng nghĩa chẳng có trước sau.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.1. Thí dụ cha hoan hỷ v́ thấy các con thoát nạn

 

           Sánh ví chuyện “ta nay vui mừng, không sợ hăi” [được nói] trong phần trên.

 

          (Kinh) Thị thời trưởng giả kiến chư tử đẳng an ổn đắc xuất, giai ư tứ cù đạo trung lộ địa nhi tọa, vô phục chướng ngại, kỳ tâm thái nhiên, hoan hỷ, dũng dược.

          ()是時長者。見諸子等安隱得出。皆於四衢道中露地而坐。無復障礙。其心泰然。歡喜踴躍。

          (Kinh: Khi đó, trưởng giả thấy các con an ổn thoát ra, đều ngồi nơi đất trống tại ngă tư đường, chẳng c̣n chướng ngại, tâm ư thanh thản, hoan hỷ, hớn hở).

         

          “Tứ cù đạo” (ngă tư đường) sánh ví Tứ Đế Quán. “Lộ địa” (đất trống): Các Tư Hoặc trong tam giới đều hết. “Tọa” (ngồi): Ví như trụ trong quả, chẳng tiến lên. Các con đă thoát khỏi sự trói buộc nơi quả, cho nên chẳng c̣n chướng ngại, sanh ư tưởng an ổn. V́ thế, cái tâm thảnh thơi. Con đă thoát nạn, cha bèn hoan hỷ.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.2. Thí dụ các con đ̣i xe

 

          Sánh ví căn cơ Đại Thừa đă phát khởi, đều dùng cái tâm cung kính đến chỗ đức Phật [thỉnh pháp] như đă nói trong phần trên.

 

          (Kinh) Thời chư tử đẳng các bạch phụ ngôn: “Phụ tiên sở hứa ngoạn hảo chi cụ, dương xa, lộc xa, ngưu xa, nguyện thời tứ dữ”.

          ()時諸子等各白父言。父先所許玩好之具。羊車鹿車牛車。願時賜與。

          (Kinh: Khi ấy, các con đều thưa với cha: “Trước đó, cha đă hứa cho đồ ưa thích, xe dê, xe nai, xe trâu, xin cha liền ban cho”).

 

          Ba loại xe ví như quả vị tam thừa. V́ cầu quả tam thừa, cho nên thoát khỏi tam giới. Đă thoát khỏi tam giới, thật sự chẳng có quả tam thừa để có thể chứng. Lại nữa, thời Phương Đẳng chê trách, thời Bát Nhă đào thải. Kinh này nêu rơ “phương tiện chẳng phải là thật”, cho nên phải ân cần thỉnh ba lượt. Nói là “đ̣i xe” tức là trước đó, đă hứa [ba quả vị] quyền biến, nay chính là thỉnh cầu Nhất Thật trong hiện thời. V́ thế, nói là căn cơ Đại Thừa phát động. Cần biết: Trong thời Phương Đẳng, nhiều lượt bị vùi dập, chẳng biết v́ sao, căn cơ bị thôi thúc. Đến thời Bát Nhă, chuyển giáo, phó tài, nhưng chẳng biết chính ḿnh có đạt được hay không, bèn có ư niệm t́m cầu. Nay trong hội Pháp Hoa, thốt lời thỉnh ba lượt, càng thêm thỉnh cầu mong mỏi!

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3. Thí dụ b́nh đẳng thí các cỗ xe lớn cho các con

          Sánh ví thẳng thừng sự “hiển Thật” trong phần trên: Thẳng thừng bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.1. Nêu bày đề mục

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhĩ thời, trưởng giả các tứ chư tử đẳng nhất đại xa.

          ()舍利弗。爾時長者。各賜諸子等一大車。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Lúc bấy giờ, trưởng giả đều cho mỗi con một cỗ xe lớn giống như nhau).

 

          “Các tứ chư tử” (đều cho các con): Do các con b́nh đẳng, tâm cha ắt b́nh đẳng. Ví như hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh đă đồng, b́nh đẳng là Phật tử. Phật tâm chẳng thiên vị! “Đẳng nhất đại xa” (một cỗ xe lớn giống như nhau): Do pháp b́nh đẳng, không ǵ chẳng phải là Phật pháp. Ví như hết thảy các pháp đều là Ma Ha Diễn (Đại Thừa), tu tập đôi chút, không ǵ chẳng phải là diệu thừa. Chỉ v́ cùng một tánh, ban cho đều có ư nghĩa b́nh đẳng, tức là tùy theo sự tu tập đă quen [của mỗi chúng sanh] đối với Tứ Đế, Nhân Duyên, Lục Độ, Tứ Đẳng (từ, bi, hỷ, xả), cho đến sắc tâm, nghịch thuận, y báo, chánh báo, hạnh lư, nhân quả, tự tha, giải Hoặc (cởi gỡ phiền năo), lớn, nhỏ, phước huệ, vô lượng các pháp đều thuận theo sự tu tập từ trước mà khai thị chân thật. Do sự tu tập trước đó khác nhau, cho nên nói là “các”, đều là Ma Ha Diễn. Một nhiếp hết thảy, trọn khắp, nhập khắp. V́ thế nói là “đại xa”.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.2. Giải thích về xe

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.2.1. Nói về thể chất của xe

 

          (Kinh) Kỳ xa cao quảng, chúng bảo trang hiệu, châu táp lan thuẫn, tứ diện huyền linh. Hựu ư kỳ thượng, trương thiết hiển cái, diệc dĩ trân kỳ tạp bảo nhi nghiêm sức chi: Bảo thằng giao lạc, thùy chư hoa anh, trùng phu uyển diên, an trí đan chẩm. Giá dĩ bạch ngưu, phu sắc sung khiết, h́nh thể xu hảo, hữu đại cân lực, hành bộ b́nh chánh, kỳ tật như phong. Hựu đa bộc tùng nhi thị vệ chi.

          ()其車高廣。眾寶莊校。周匝欄楯。四面懸鈴。又於其上張設幰蓋。亦以珍奇雜寶而嚴飾之。寶繩交絡。垂諸華纓。重敷婉筵。安置丹枕。駕以白牛。膚色充潔。形體姝好。有大筋力。行步平正。其疾如風。又多僕從而侍衛之。

          (Kinh: Xe đó cao rộng, trang hoàng bằng các báu, lan can vây quanh, bốn phía treo linh[29]. Trên đó lại căng che bày màn lọng, cũng dùng các thứ báu quư lạ để trang hoàng. Dây báu giăng xen[30], treo rủ các chuỗi hoa, trải đệm mềm nhiều tầng[31], đặt gối màu đỏ[32], dùng trâu trắng kéo xe. [Trâu có] sắc da căng đầy, tươi tắn, sạch sẽ, h́nh thể đẹp đẽ, gân cốt mạnh mẽ, bước đi ngay ngắn, nhanh nhẹn như gió. Lại có nhiều tôi tớ theo hầu, bảo vệ).

 

          Xe giả danh có tướng cao, rộng, ví như tri kiến của Như Lai sâu xa, theo chiều ngang trọn khắp bờ mé của pháp giới, theo chiều dọc thấu triệt nguồn cội của Tam Đế (pháp giới Tam Đế trọn chẳng phải là ngang hay dọc. Tuy chẳng có ngang dọc, pháp giới xét theo phương diện trọn khắp, nói là “ngang” th́ sẽ thuận tiện. Tam Đế tên khác nhau, nói là “dọc” th́ sẽ thuận tiện. Hiển lộ bất nhị cho nhau, cứ suy nghĩ sẽ thấy ngay!)

          “Chúng bảo trang hiệu” (trang hoàng bằng các báu): Ví như được tô điểm bằng vạn hạnh. “Châu táp lan thuẫn” (các lan can bao quanh): Ví như đà-la-ni, có thể ǵn giữ muôn điều thiện, ngăn trở các điều ác. “Tứ diện huyền linh” (bốn phía treo linh), sánh ví Tứ Vô Ngại Biện, dưới là hóa độ chúng sanh. “Trương thiết hiển cái” (căng che màn, lọng[33]): Ví như Tứ Vô Lượng Tâm, phạm hạnh chẳng thể nghĩ bàn. Trong các đức, từ bi cao nhất, che trọn khắp hết thảy. “Diệc dĩ trân kỳ tạp bảo nhi nghiêm sức chi” (cũng dùng các thứ báu quư lạ để trang hoàng): Ví như muôn điều thiện chân thật trang nghiêm ḷng từ bi ấy. V́ thế, Đại Kinh nói: “Từ nhược cụ túc Thập Lực, Vô Úy đẳng, danh Như Lai từ” (Nếu ḷng Từ trọn đủ Thập Lực, Vô Úy v.v… th́ sẽ gọi là ḷng Từ của Như Lai).

          “Bảo thằng giao lạc” (dây báu giăng xen) ví như Tứ Hoằng Thệ Nguyện, tâm đại từ kiên cố. “Thùy chư hoa anh” (treo rủ các chuỗi hoa) sánh ví Tứ Nhiếp Thần Thông v.v… khiến cho chúng sanh vui sướng, mà cũng sánh ví tràng hoa Thất Giác mầu nhiệm. “Trùng phu uyển diên” (trải đệm mềm nhiều tầng): Sánh ví quán sát, luyện tập, huân tu hết thảy các môn Thiền, trùng điệp, mềm mại. “An trí đan chẩm” (Xếp đặt gối màu đỏ): “Đan” () tức là ánh sáng đỏ, sánh ví pháp vô phân biệt. “Chẩm” (, gối) có trong và ngoài. Nếu là gối ở ngoài xe (tức đệm lót ngồi của người đánh xe), th́ c̣n gọi là Chẩn (). Bất cứ xe đến nơi đâu, đều cần phải giữ cho chỗ đó cân bằng; ví như từ ngay trong động mà tĩnh, ngay trong tĩnh mà động. Nếu là gối ở trong xe th́ là chỗ để [hành khách] dựa ḿnh hay tựa đầu. Ví như Nhất Hạnh tam-muội ngăn dứt hết thảy hạnh, thân, trí thủ.

          “Giá dĩ bạch ngưu” (xe được kéo bằng trâu trắng): Sánh ví vô lậu Bát Nhă, có thể hướng dẫn hết thảy vạn hạnh như Đế, Duyên, Độ (Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ) v.v… đạt đến Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí). “Bạch” (màu trắng) là cái gốc của mọi màu, tương ứng với bổn tịnh vô lậu. Thể trọn đủ vạn đức như “phu sung” (da căng đầy). Chẳng nhiễm phiền năo như “sắc khiết” (màu sáng sạch). Lại nữa, Tứ Niệm Xứ của Viên Giáo là trâu trắng. Tứ Chánh Cần, hai điều thiện thế gian[34] viên măn giống như da căng đầy. Hết sạch hai điều ác trong thế gian như màu sắc sáng sạch. Tứ Như Ư Túc xứng với hạnh, tâm như “h́nh thể xu hảo” (h́nh thể đẹp đẽ). Cân” (gân) ví như Ngũ Căn giữ vững, có thể sanh ra [Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ]. “Lực” ví như Ngũ Lực có tác dụng chế phục, dẹp trừ [phiền năo]. “Hành bộ b́nh chánh” (bước đi ngay ngắn): Ví như Định và Huệ cân bằng. Lại ví như Thất Giác Chi điều ḥa, cân bằng. “Kỳ tật như phong” (nhanh lẹ như gió): Ví như hành Bát Chánh Đạo, nhanh chóng đạt đến Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí).

          “Bộc tùng” (僕從, kẻ hầu, tùy tùng) ví như Phương Tiện Ba La Mật có thể khéo léo tùy thuận mỗi người, hầu hạ, tuân lệnh. Ma, ngoại đạo, Nhị Thừa đều thuận theo phương tiện trí mà vận dụng. V́ thế, kinh Tịnh Danh nói: “Giai ngô thị giả” (đều là người hầu của ta). Hơn nữa, thần thông nơi quả vị vận chuyển, sai sử tùy ư, th́ gọi là “bộc tùng”.

          Giải thích theo quán tâm, một niệm tâm tánh trong hiện tiền theo chiều dọc chẳng có trước, sau, theo chiều ngang dứt bặt bờ mé, tức Không, tức Giả, tức Trung. V́ thế là “cao”. Trọn đủ bách giới thiên như, nên là “quảng” (rộng). Tánh đức nhiều hơn số cát sông Hằng, nên gọi là “chúng bảo trang hiệu” (trang hoàng bằng các báu). Ngoài tâm chẳng có pháp, chỉ ra cái tâm sẽ gồm thâu hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Do đó, nói là “châu táp lan thuẫn” (lan can bao quanh). Tâm có thể ứng trọn khắp hết thảy, diễn nói các âm giáo (các giáo pháp được diễn tả bằng âm thanh, ngôn ngữ). V́ thế gọi là “tứ diện huyền linh” (bốn phía treo linh). Tâm quư nhất trong các pháp, không pháp nào chẳng bao trùm. V́ thế nói là “trương thiết hiển cái” (căng che màn, lọng). Tâm vương quán tưởng, ắt tương ứng với các thiện tâm sở[35]. V́ thế gọi là “diệc dĩ trân kỳ tạp bảo nhi nghiêm sức chi” (cũng dùng các thứ báu quư lạ để trang hoàng). Thiện tâm và tâm sở làm đẳng vô gián duyên cho nhau; v́ thế nói là “bảo thằng giao lạc” (giây báu giăng xen). Các tâm sở thuộc về thiện tâm sanh ra vô lượng trí huệ, phước đức; v́ thế nói là “thùy chư hoa anh” (treo rủ các chuỗi hoa). Một niệm tâm tánh ấy trọn đủ các pháp nhu nhuyễn, khinh an trùng trùng vô tận, v́ thế nói là “trùng phu uyển diên” (trải nhiều tầng đệm mềm mại). Quán tâm tánh này động chính là tĩnh, tĩnh chính là động, có thể động, có thể tĩnh, động và tĩnh bất nhị. V́ thế gọi là “an trí đan chẩm” (xếp đặt gối đỏ). Lư tâm tánh do diệu quán mà hiển; v́ thế nói là “giá dĩ bạch ngưu” (xe dùng trâu trắng để kéo). Diệu quán xứng tánh trọn đủ các công đức như thế; do vậy gọi là “phu sung” (da dẻ căng đầy). Chẳng xen tạp phiền năo, v́ thế gọi là “sắc khiết” (màu sạch sẽ). Viên dung tự tại; v́ thế nói là “h́nh thể xu hảo” (h́nh thể đẹp đẽ). Viên quán có thể sanh trưởng thiện căn mạnh nhất, cho nên có “đại cân” (gân cốt mạnh mẽ). Viên quán có thể dẹp tan hết thảy các ái kiến thuộc giới nội và giới ngoại nhất, cho nên “hữu đại lực” (có sức mạnh to lớn). Viên quán chính là Chỉ, chính là Quán, Định và Huệ chẳng hai. V́ thế, nói là “hành bộ b́nh chánh” (bước đi ngay ngắn). Viên quán xứng tánh vô tác, mặc t́nh nhập vô công dụng đạo. V́ thế nói là “kỳ tật như phong” (nhanh nhẹn như gió). Viên quán nhiếp trọn khắp các pháp, hết thảy các pháp đều mặc t́nh viên quán sai khiến. V́ thế nói là “hựu đa bộc tùng nhi thị vệ chi” (lại có nhiều tôi tớ theo hầu, bảo vệ).

          Hăy nên biết Thể của cái xe chẳng cao, chẳng rộng, mà luận bàn cao rộng, tức chánh nhân lư tánh. Trâu trắng chính là liễu nhân huệ tánh. Các vật dụng tức duyên nhân thiện tánh. Ba pháp chẳng ngang dọc, không phải là cùng một chỗ hay khác biệt, chẳng thể nghĩ bàn, th́ gọi là Phật Thừa. Hết thảy chúng sanh chỉ có Tánh Đức Phật Thừa, nghe Phật Thừa ấy, sẽ có thể sanh tín giải, đó là Danh Tự Phật Thừa. Niệm nào cũng đều quán tâm, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, thô cấu rơi rụng trước, sáu căn thanh tịnh, chính là Tương Tự Phật Thừa. Khai thị ngộ nhập, dạo chơi bốn phương, tức là Phần Chứng Phật Thừa, “đến thẳng đạo tràng”. Các hạnh đều dứt, tức là đạt đến Cứu Cánh Phật Thừa. Tự hạnh đă măn, chuyên chở người khác chẳng nghỉ ngơi, tột cùng thời vị lai, lợi lạc vô tận. Đó là “xe trâu trắng lớn” hiểu theo quán tâm.

          Lại nữa, trong đoạn kinh văn này, trọn đủ quán pháp thuộc mười thừa. Xe ấy cao rộng, tức là cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Trâu trắng gồm thâu trọn vẹn các Độ làm Thể [của cái xe ấy]. “Căng che màn lọng” tức là thật sự phát Bồ Đề tâm. Do v́ đại từ, ban cho khắp mười pháp giới niềm vui của Đạo và Diệt. Do v́ đại bi, dẹp trừ trọn khắp nỗi khổ v́ Khổ và Tập của mười pháp giới. “Xếp đặt gối đỏ bên trong [thùng xe]” tức là khéo xếp đặt Chỉ Quán, có thể nằm, có thể ngồi, khéo tự điều ḥa cho thích đáng. “Nhanh nhẹn như gió” tức là phá trọn khắp các pháp. Nhất tâm tam quán, không Hoặc nào chẳng phá. “Xếp đặt gối đỏ bên ngoài” tức là khéo biết thông, tắc: Đi được th́ đi, nên dừng bèn dừng. “Xe kéo bằng trâu trắng” tức là đạo phẩm điều ḥa thích đáng. Ba mươi bảy phẩm viên măn, mầu nhiệm như đă nói trong phần trước. “Bộc tùng thị vệ” tức là đối trị nhằm giúp cho sự khai hiển. Dùng các thứ phương tiện trong ba giáo trước để giúp hiển lộ Đệ Nhất Nghĩa. Đă nói “bước đi ngay ngắn”, ắt dạo bốn phương, đến đạo tràng. Trọn chẳng đem phàm lạm thánh, tức là có thể biết địa vị thứ tự. Đă nói “hữu đại cân lực” th́ nhất định có thể an nhẫn các chướng trong, ngoài, thuận, nghịch. Đă nói “nhanh nhẹn như gió”, ắt chẳng đắm nhiễm các pháp ái tương tự đạo. Thượng căn th́ chỉ quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn, trong một pháp, ngộ trọn vẹn mười pháp. Trung căn th́ từ hai đến sáu, trong bất cứ pháp nào, cũng đều ngộ trọn vẹn mười pháp. Hạ căn lần lượt dùng trọn mười pháp th́ mới được khai ngộ. Xét trong toàn thể giáo quán, không ǵ quan trọng hơn điều này. Hăy suy nghĩ, tu tập.

          Lại nữa, xe này cao rộng, tức là Thể như thế. Các thứ Độ trọn vẹn là tướng như thế. Trâu trắng chính là Tánh như thế. Đó là ba pháp thuộc Tánh Đức, chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Nếu thấu hiểu pháp ấy, đạt tới Ngũ Phẩm, Thập Tín, th́ gọi là Lực như thế và Tác như thế. Nếu đạt tới khai, thị, ngộ, nhập th́ gọi là Nhân như thế và Duyên như thế. Nếu đạt tới địa vị tột cùng là Diệu Giác th́ gọi là Quả như thế và Báo như thế. Chúng sanh trọn đủ ba pháp ấy th́ gọi là Bổn (gốc). Như Lai tu đắc ba pháp th́ gọi là Mạt (ngọn). Tánh Đức và tu đắc chẳng hai, chẳng khác, gọi là Cứu Cánh Đẳng (rốt ráo b́nh đẳng). V́ thế, xe trâu trắng lớn ai nấy đều có, há liên quan ǵ đến chuyện Phật ban thưởng. Nhưng nếu đức Phật chẳng nói ra, [chúng sanh] sẽ hằng ngày sử dụng mà chẳng biết. Lại nữa, chẳng do Pháp Hoa khai hiển, th́ đối với cái được gọi là “độc nhất Đại Thừa” vượt xa chín pháp giới, ai sẽ biết tam thừa là pháp được thực thi quyền biến, cho đến y báo, chánh báo, sắc, tâm, Hoặc nghiệp, khổ v.v… của thế gian, không ǵ chẳng phải là Ma Ha Diễn (Đại Thừa)!

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.2.2. Giải thích nguyên do có xe

 

          (Kinh) Sở dĩ giả hà? Thị đại trưởng giả tài phú vô lượng, chủng chủng chư tạng tất giai sung dật.

          ()所以者何。是大長者。財富無量。種種諸藏。悉皆充溢。

          (Kinh: V́ cớ sao vậy? Vị đại trưởng giả ấy của cải vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ắp).

 

          Do của cải đầy kho, cho nên có thể thưởng cho mỗi đứa con cỗ xe to giống hệt như nhau. Của cải vô lượng ví như phước huệ viên măn nơi quả địa. “Các thứ kho tàng” chính là Hnh Tạng và Lư Tạng. Hết thảy các pháp quy vào Đàn (bố thí), chẳng vượt ra ngoài được. Giới, Nhẫn v.v… cũng đều như thế. Đó là coi hạnh là Như Lai Tạng. Hết thảy các pháp hướng đến Sắc, nhưng chẳng hướng đến được. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, cho đến Giới, Nhập v.v… cũng như thế. Đó là dựa theo Lư để giải thích Như Lai Tạng. Tự hành Hạnh Lư ấy th́ gọi là Sung. Hóa độ người khác th́ gọi là Dật. Thật Trí viên măn th́ gọi là Sung, vận dụng Quyền Trí th́ gọi là Dật. Nhập Trung Đạo là Sung, song chiếu nên gọi là Dật. Không chỉ là chất chứa nhiều, mà c̣n đều đầy ắp, có pháp nào chẳng phải là Ma Ha Diễn (Đại Thừa)? V́ thế, Đại Thừa vô lượng (Ấm, Giới, Nhập v.v… lấy bất cứ một pháp nào, không ǵ chẳng phải là Lư Tạng. Thấu đạt Lư Tạng ấy, cho nên khiến cho các Độ đều trở thành Hạnh Tạng. Chẳng thấu đạt Lư Tạng ấy, uổng công tu các hạnh). Phần thứ hai, “giải thích các xe b́nh đẳng” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.3. Giải thích tâm b́nh đẳng

 

          (Kinh) Nhi tác thị niệm: “Ngă tài vật vô cực, bất ưng dĩ hạ liệt tiểu xa dữ chư tử đẳng. Kim thử ấu đồng giai thị ngô tử, ái vô thiên đảng. Ngă hữu như thị thất bảo đại xa, kỳ số vô lượng. Ưng đương đẳng tâm các các dữ chi, bất nghi sai biệt. Sở dĩ giả hà? Dĩ ngă thử vật châu cấp nhất quốc, do thượng bất quỹ, hà huống chư tử?”

          ()而作是念。我財物無極。不應以下劣小車與諸子等。今此幼童。皆是吾子。愛無偏黨。我有如是七寶大車。其數無量。應當等心各各與之。不宜差別。所以者何。以我此物周給一國。猶尚不匱。何況諸子。

          (Kinh: Bèn nghĩ như thế này: “Ta có của cải vô cực, chẳng nên đem xe nhỏ xấu kém cho các con. Nay những đứa trẻ bé bỏng này đều là con của ta, yêu thương chẳng thiên vị. Ta có xe lớn bảy báu như thế, số tới vô lượng. Tâm hăy nên b́nh đẳng ban cho mỗi đứa con, chớ nên sai khác. V́ lẽ nào vậy? Do các vật của ta đem châu cấp cả một nước vẫn chưa thiếu hụt, hà huống các con ư?”)

 

          Giả sử giàu có nhưng [người nhận] chẳng phải là con, chắc sẽ keo tiếc. Giả sử [người nhận] là con, nhưng [cha] nghèo nàn, chắc sẽ chẳng thể châu cấp. Nay tự hành đă măn, cho nên của cải vô lượng. Hóa duyên đă chín muồi, cho nên đối với con chẳng thiên vị đứa nào, bèn nói “các các dữ chi” (đều cho mỗi đứa con). Chẳng thay đổi bổn tập (sự tu tập vốn có) mà chỉ bày chân thật. Như ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) từ trí huệ mà khai tri kiến của Phật, trọn đủ hết thảy Phật pháp. Ngài Mục Liên do thần thông mà khai tri kiến của Phật, trọn đủ hết thảy Phật pháp. Những vị khác có thể phỏng theo đó mà biết. Lại nữa, hết thảy các giáo thuộc Phương Đẳng, Bát Nhă v.v…, Niệm Xứ, Chánh Cần, Căn, Lực, Giác, Đạo v.v… hết thảy các hạnh, các thứ tên gọi khác nhau, đều nhằm khai thị Thật Tướng. Cho đến đối với hết thảy các pháp, cũng đều như thế. V́ thế nói “kỳ số vô lượng” (số ấy vô lượng). Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao thế) trở đi, nêu tỷ dụ để giải thích. “Nhất quốc” là sánh ví cơi Tịch Quang lư tánh. “Chư tử” (các con) ví như những người kết duyên trong cơi Đồng Cư. Trước hết, nhằm giải thích có nhiều tài sản, cho cả một nước c̣n đủ, huống hồ cho các con! Ví như đại viên nhân bao gồm trọn khắp thiện, ác, lợi ích trọn khắp pháp giới, Lư cũng chẳng cùng tận, huống hồ những người kết duyên trong cơi Đồng Cư!

          Kế đó, giải thích “các con”. Đối với những kẻ chẳng phải là con mà vẫn trọn đủ, huống hồ là đối với con! Ví như kẻ vô duyên mà đức Phật vẫn độ, huống hồ người hữu duyên ư? Nói tới những kẻ chẳng phải là con, nhằm loại trừ các duyên bất đồng nơi chánh nhân. V́ thế, bèn nói theo kiểu ngăn chặn th́ là “phi” (chẳng phải, tức là nói có phân biệt giữa “con” và “chẳng phải con”). Nhưng ḷng Từ của Phật phủ khắp, rốt ráo chẳng thiên vị, huống hồ đối với con là những kẻ đă kết duyên [mà chẳng hóa độ] ư? Xét theo vô duyên đại từ, đối với lư vốn sẵn có, hết thảy chúng sanh, không ai chẳng phải là Phật tử! Xét theo hóa nghi để nói, do đời trước chưa kết duyên, cho nên [kẻ như vậy] chẳng phải là con! Như Lai thường ban cấp, nhưng bản thân con chẳng trở về. Đại từ đều che chở trọn hết, v́ thế nói là “châu cấp”.

          Trời, người dù thiện hay ác, bản thể chính là pháp giới. V́ thế, cái xe thuộc về quả của cha chính là cái xe thuộc về Lư của con. Chỉ mở ra t́nh kiến ấy, giả danh “b́nh đẳng ban cho” chúng sanh vô tận, xe vẫn chẳng cùng tận. Do chẳng cùng tận, cho nên chẳng thiếu hụt. Do chẳng thiếu hụt, cho nên chẳng thiên vị. Hư vọng mê th́ là “đóng lại”, ngộ vốn chẳng phải là “mở ra”. “Đối với kẻ vô duyên c̣n độ”: Con đă kết duyên, tức là kẻ đă kết duyên từ trước, nay [duyên ấy] chín muồi bèn được độ thoát. Đối với đứa con thuộc về chánh nhân là kẻ chưa kết duyên, bèn v́ họ gieo chủng tử. Nhiều lượt gieo, nhiều lượt chín muồi, nhiều lượt giải thoát cho đến cùng tận vị lai, chẳng có lúc nào xong! Đó gọi là vị trưởng giả cha lành xuất thế đại từ bi. Phần thứ ba, “b́nh đẳng thí cho các con cỗ xe lớn” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.4. Các con được xe đều hoan hỷ

 

          Sánh ví sự “thọ hành, ngộ nhập, lưới nghi đều đă trừ” v.v… đă nói trong phần trên.

 

          (Kinh) Thị thời chư tử các thừa đại xa, đắc vị tằng hữu, phi bổn sở vọng.

          ()是時諸子。各乘大車。得未曾有。非本所望。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, các con đều ngồi xe lớn, đạt được điều chưa từng có, vốn chẳng phải là điều mong mỏi).

 

          Vốn cầu các loại xe dê, xe nai, xe trâu, mong thoát khỏi Phần Đoạn [sanh tử], nay được xe trâu trắng, hết sạch Biến Dịch [sanh tử], vượt quá điều ḿnh vốn mong mỏi, há chẳng hoan hỷ? Phần thứ ba, “b́nh đẳng thí cỗ xe lớn” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.4. Thí dụ chẳng hư vọng

 

          Sánh ví điều chẳng hư dối trong phần trên, khiến cho [thính chúng] chẳng ngờ vực pháp bí yếu của đấng pháp vương.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.4.1. Gạn hỏi

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Ư nhữ ư vân hà? Thị trưởng giả đẳng dữ chư tử trân bảo đại xa, ninh hữu hư vọng phủ?

          ()舍利弗。於汝意云何。是長者等與諸子珍寶大車。寧有虛妄不。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ư ông nghĩ sao? Vị trưởng giả ấy b́nh đẳng cho các con cỗ xe lớn quư báu, há có hư vọng hay chăng?)

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.4.2. Trả lời

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất ngôn: “Bất dă, Thế Tôn! Thị trưởng giả đản linh chư tử đắc miễn hỏa nạn, toàn kỳ khu mạng, (tắc tiện) phi vi hư vọng. Hà dĩ cố? Nhược toàn thân mạng, tiện vi dĩ đắc ngoạn hảo chi cụ, huống phục phương tiện ư bỉ hỏa trạch nhi bạt tế chi.

          ()舍利弗言。不也。世尊。是長者但令諸子得免火難。全其軀命。(則便)非為虛妄。何以故。若全身命。便為已得玩好之具。況復方便於彼火宅而拔濟之。  

          (Kinh: Xá Lợi Phất thưa: - Bạch Thế Tôn! Không ạ! Ông trưởng giả ấy chỉ khiến cho các con thoát khỏi nạn lửa, bảo toàn thân mạng của chúng nó th́ đă là chẳng hư vọng. V́ sao vậy? Nếu thân mạng được bảo toàn th́ chính là đă được món đồ chơi tốt đẹp, huống hồ c̣n dùng phương tiện cứu vớt [chúng nó] thoát khỏi nhà lửa).

 

          Đồ chơi đáng ưa thích trong thế gian, có ǵ trọng hơn mạng người? Được toàn vẹn thân mạng tức là chẳng hư vọng. Huống hồ c̣n tốn công [thực hiện] bao nhiêu thứ phương tiện để [các con] được cứu bạt, há có nên trách móc trưởng giả là hư vọng ư? Ư nghĩa rơ ràng là [đức Phật nói ra ba thừa] chỉ nhằm [dẫn dụ], khiến cho toàn thể [hành nhân] Tiểu Thừa sẽ đắc năm phần Pháp Thân, nhập Không huệ mạng, tức là đă đạt được các thứ đồ chơi ưa thích từ trước. Huống chi Ngài c̣n dùng phương tiện cứu vớt, khiến cho họ đắc Pháp Thân huệ mạng của Đại Thừa ư? Thoát nạn th́ gọi là “chẳng hư dối”, cũng gọi là “dùng nặng để đoạt nhẹ, chẳng hư dối” vậy.

 

          (Kinh) Thế Tôn! Nhược thị trưởng giả năi chí bất dữ tối tiểu nhất xa, do bất hư vọng. Hà dĩ cố? Thị trưởng giả tiên tác thị ư: “Ngă dĩ phương tiện, linh tử đắc xuất”. Dĩ thị nhân duyên, vô hư vọng dă, hà huống trưởng giả tự tri tài phú vô lượng, dục nhiêu ích chư tử đẳng dữ đại xa.

          ()世尊。若是長者乃至不與最小一車。猶不虛妄。何以故。是長者先作是意。我以方便令子得出。以是因緣。無虛妄也。何況長者自知財富無量。欲饒益諸子。等與大車。

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Nếu vị trưởng giả ấy thậm chí chẳng cho một cỗ xe nhỏ nhất, vẫn chẳng hư vọng. V́ sao vậy? Vị trưởng giả ấy trước đó đă nghĩ như thế này: “Ta dùng phương tiện khiến cho các con thoát ra”. Do nhân duyên ấy, chẳng hư vọng. Huống chi ông trưởng giả tự biết của cải vô lượng, muốn tạo lợi ích rộng lớn cho các con mà b́nh đẳng ban cho cỗ xe lớn).

         

          Về phía ông trưởng giả, do chẳng trái nghịch bổn tâm, cho nên chẳng hư vọng. Nơi các con, do vượt quá điều họ mong mỏi, cho nên chẳng hư vọng.

 

3.3.1.2.2.1.1.2.2.4.3. Trần thuật lời tán thán

 

          (Kinh) Phật cáo Xá Lợi Phất: - Thiện tai, thiện tai. Như nhữ sở ngôn.

          ()佛告舍利弗。善哉善哉。如汝所言。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói).

 

          Nói “thiện tai” trùng lặp nhằm trần thuật hai đằng đều chẳng hư vọng.

          Hỏi: Sao Phật chẳng tự nói không hư vọng?

          Đáp: Phật hứa ba mà cho một, tự nói [chính ḿnh chẳng hư vọng] sẽ khó khăn (đại chúng nghe nói như vậy sẽ khó chấp nhận). Ngài Thân Tử nói Phật chẳng hư vọng, do niềm tin đă xác lập, cho nên trở thành dễ dàng. Phần thứ nhất “lập thí dụ” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.2. Đối ứng thí dụ với pháp (chỉ ra ư nghĩa biểu thị pháp)

3.3.1.2.2.1.2.1. Đối ứng Tổng Thí với pháp

3.3.1.2.2.1.2.1.1. Đối ứng ba thí dụ như “trưởng giả” với pháp

 

          Tuy chẳng theo đúng thứ tự với thí dụ đă lập trên đây, nhưng ư nghĩa chẳng thiếu sót.

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như Lai diệc phục như thị, tắc vi nhất thiết thế gian chi phụ. Ư chư bố úy, suy năo, ưu hoạn, vô minh ám tế, vĩnh tận vô dư, nhi tất thành tựu vô lượng tri kiến, lực, vô sở úy, hữu đại thần lực, cập trí huệ lực, cụ túc phương tiện trí huệ Ba La Mật, đại từ, đại bi, thường vô giải quyện, hằng cầu thiện sự, lợi ích nhất thiết, nhi sanh tam giới hủ cố hỏa trạch.

          ()舍利弗。如來亦復如是。則為一切世間之父。於諸怖畏衰惱憂患無明闇蔽。永盡無餘。而悉成就無量知見力無所畏。有大神力。及智慧力。具足方便智慧波羅蜜。大慈大悲。常無懈倦。恆求善事。利益一切。而生三界朽故火宅。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như Lai cũng giống như thế, là cha của hết thảy thế gian. Trong các sợ hăi, suy năo, lo buồn, vô minh, tối tăm, che lấp, vĩnh viễn hết sạch chẳng sót, mà trọn thành tựu vô lượng tri kiến, lực, vô sở úy, có đại thần lực, và sức trí huệ, trọn đủ phương tiện trí huệ Ba La Mật, đại từ, đại bi, thường chẳng lười mỏi, luôn cầu thiện sự, lợi ích hết thảy, cho nên sanh trong nhà lửa tam giới cũ nát).

 

          Như Lai tương ứng với thí dụ về trưởng giả. “Lợi ích nhất thiết” (lợi ích hết thảy): “Hết thảy” tương ứng với thí dụ về năm trăm người. “Nhi sanh tam giới hủ cố hỏa trạch” (mà sanh trong nhà lửa tam giới cũ nát) kết hợp với thí dụ về nhà cửa. “Tắc vi nhất thiết thế gian chi phụ” (là cha của hết thảy thế gian): Chỉ chung ba cơi Đồng Cư, Phương Tiện và Thật Báo, tương ứng với thí dụ về quốc, ấp, tụ lạc. “Ư chư bố úy…. Vĩnh tận vô dư” (trong các sợ hăi… vĩnh viễn hết chẳng c̣n sót): Hiển thị Đoạn Đức của Phật. “Nhi tất thành tựu vô lượng tri kiến” (đều thành tựu vô lượng tri kiến): Hiển thị Trí Đức của Phật, tương ứng với thí dụ nội đức “kỳ niên suy mại” (tuổi cao, già suy) trong phần trên. “Lực, vô sở úy” tương ứng với ngoại đức “của cải vô lượng” trong phần trước. “Hữu đại thần lực” (có đại thần lực): Do tu Thiền Định sâu xa mà đạt được, tương ứng với “nhiều ruộng” trong phần trên. “Cập trí huệ lực” (và sức trí huệ): Trí ắt chiếu cảnh, như chỗ để gởi thân, tương ứng với “nhiều nhà cửa” trong phần trên. “Cụ túc phương tiện” (Trọn đủ phương tiện) tương ứng với “đa chư bộc tùng” (có nhiều tôi tớ) trong phần trên. Đại từ, đại bi v.v… tương ứng với “đa chư nhân chúng” (có nhiều người) trong phần trên, cho đến năm trăm người, v́ ḷng từ bi nên độ nhiều. “Tam giới” chính là “nhà ấy rộng lớn”.

 

3.3.1.2.2.1.2.1.2. Đối ứng ư nghĩa biểu pháp của ba thí dụ như ba mươi đứa con v.v…

 

          (Kinh) Vị độ chúng sanh sanh, lăo, bệnh, tử, ưu bi, khổ năo, ngu si ám tế, tam độc chi hỏa, giáo hóa linh đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

          ()為度眾生。生老病死。憂悲苦惱。愚癡闇蔽。三毒之火。教化令得阿耨多羅三藐三菩提。

          (Kinh: V́ độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ năo, ngu si, tối tăm che lấp, tam độc, giáo hóa khiến cho họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          “Vị độ chúng sanh” (v́ độ chúng sanh) là nói tới kẻ hữu duyên, tương ứng với thí dụ về ba mươi đứa con. “Sanh, lăo, bệnh, tử” cho đến “tam độc chi hỏa” tương ứng với thí dụ “lửa bốc cháy”. Giáo hóa khiến cho họ đắc Bồ Đề, tương ứng với thí dụ “chỉ có một cửa”. Phần thứ nhất, “đối ứng ư nghĩa biểu pháp với phần Tổng Thíđă xong.

 

3.3.1.2.2.1.2.2. Đối ứng pháp với phần Biệt T

3.3.1.2.2.1.2.2.1. Đối ứng pháp với thí dụ thấy lửa

 

          (Kinh) Kiến chư chúng sanh, vị sanh, lăo, bệnh, tử, ưu bi, khổ năo chi sở thiêu chử, diệc dĩ ngũ dục, tài lợi cố, thọ chủng chủng khổ. Hựu dĩ tham trước truy cầu cố, hiện thọ chúng khổ, hậu thọ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ chi khổ. Nhược sanh thiên thượng, cập tại nhân gian, bần cùng, khốn khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội ngộ khổ. Như thị đẳng chủng chủng chư khổ, chúng sanh một tại kỳ trung, hoan hỷ du hư, bất giác, bất tri, bất kinh, bất bố, diệc bất sanh yếm, bất cầu giải thoát. Ư thử tam giới hỏa trạch, Đông Tây tŕ tẩu, tuy tao đại khổ, bất dĩ vi hoạn. Xá Lợi Phất! Phật kiến thử dĩ, tiện tác thị niệm: “Ngă vi chúng sanh chi phụ, ưng bạt kỳ khổ nạn, dữ vô lượng vô biên Phật trí huệ lạc, linh kỳ du hư”.

          ()見諸眾生。為生老病死憂悲苦惱之所燒煮。亦以五欲財利故。受種種苦。又以貪著追求故。現受眾苦。後受地獄畜生餓鬼之苦。若生天上及在人間。貧窮困苦。愛別離苦。冤憎會苦。如是等種種諸苦。眾生沒在其中。歡喜遊戲。不覺不知。不驚不怖。亦不生厭。不求解脫。於此三界火宅。東西馳走。雖遭大苦。不以為患。舍利弗。佛見此已。便作是念。我為眾生之父。應拔其苦難。與無量無邊佛智慧樂。令其遊戲。

          (Kinh: Thấy các chúng sanh bị đốt nấu bởi sanh, lăo, bệnh, tử, lo buồn, khổ năo, cũng v́ ngũ dục, tài lợi mà chịu các thứ khổ. Lại do tham đắm truy cầu mà nay đang hứng chịu các nỗi khổ, về sau chịu khổ trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu sanh trên trời và nhân gian th́ bần cùng, khốn khổ, khổ v́ yêu thương mà phải chia ĺa, khổ v́ oán ghét mà phải gặp gỡ, đủ mọi nỗi khổ như thế đó. Chúng sanh ch́m đắm trong ấy, hoan hỷ vui chơi, chẳng hay, chẳng biết, chẳng hăi, chẳng sợ, cũng chẳng sanh chán ngán, chẳng cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa ấy, rảo chạy Đông Tây, tuy gặp khổ to lớn, chẳng coi đó là điều đáng lo. Này Xá Lợi Phất! Phật thấy điều đó rồi, liền nghĩ như thế này: “Ta là cha của chúng sanh, hăy nên dẹp nỗi khổ nạn cho họ, ban cho niềm vui trí huệ của vô lượng vô biên chư Phật, khiến cho họ được vui chơi”).

 

          Chữ Kiến trong đoạn này tương ứng với cái thấy của ông trưởng giả trong phần trên. Các chúng sanh cho đến các thứ khổ, tương ứng với lửa lớn từ bốn bề bốc lên, tức là lửa tám khổ. Từ tứ đảo (bốn kiến chấp điên đảo) dấy lên. Chúng sanh ch́m đắm trong đó, cho đến chẳng coi đó là chuyện đáng lo, tương ứng với ư nghĩa “các con chẳng có ư cầu thoát ra” trong phần trên. Chẳng quán Khổ Tập, cho nên chẳng sanh nhàm chán. Chẳng quán Đạo Diệt, cho nên chẳng cầu giải thoát. “Xá Lợi Phất! Phật kiến thử dĩ” (này Xá Lợi Phất! Phật đă thấy điều ấy rồi), tương ứng với “sự kinh hăi lớn lao” trong phần trên. “Dẹp trừ khổ nạn” là đại bi, “ban cho niềm vui của Phật” là đại từ.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2. Đối ứng pháp với thí dụ bỏ ghế, dùng xe

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1. Đối ứng thí dụ bỏ ghế” với pháp    

 

          Chỉ đối ứng với Khuyến môn, chẳng đối ứng với Giới môn. Trong phần Pháp Thuyết trước đó, cũng chỉ khuyến thiện, chẳng nói kiêng ác. Hăy nên biết: Khuyến tu là chánh, răn ác là phụ. Lại nữa, khuyến thiện chính là răn ác, răn ác là khuyến thiện. Nay ứng hợp với khuyến thiện, phải biết cũng là tương ứng với răn ác. Kinh văn lại chia làm hai phần:

          - Một là tương ứng thí dụ “bỏ ghế với pháp.

          - Hai là xét theo từng chi tiết trong thí dụ để nêu ra ư nghĩa biểu pháp tương ứng.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.1. Đối ứng thí dụ bỏ ghế” với ư nghĩa biểu thị pháp

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như Lai phục tác thị niệm: - Nhược ngă đản dĩ thần lực, cập trí huệ lực, xả ư phương tiện, vị chư chúng sanh tán Như Lai tri kiến, lực, vô sở úy giả, chúng sanh bất năng dĩ thị đắc độ. Sở dĩ giả hà? Thị chư chúng sanh vị miễn sanh, lăo, bệnh, tử, ưu, bi, khổ năo, nhi vị tam giới hỏa trạch sở thiêu, hà do năng giải Phật chi trí huệ!

          ()舍利弗。如來復作是念。若我但以神力及智慧力。捨於方便。為諸眾生讚如來知見力無所畏者。眾生不能以是得度。所以者何。是諸眾生。未免生老病死憂悲苦惱。而為三界火宅所燒。何由能解佛之智慧。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như Lai lại nghĩ như thế này: - Nếu ta chỉ dùng thần lực và trí huệ lực, bỏ các phương tiện, v́ các chúng sanh khen ngợi tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai th́ chúng sanh sẽ chẳng thể do đó mà đắc độ. V́ cớ sao vậy? Các chúng sanh ấy chưa tránh khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ năo, bị nhà lửa tam giới thiêu đốt, sẽ chẳng thể do đâu mà hiểu trí huệ của Phật được!).

 

          Các câu “nhược ngă đản dĩ” (nếu ta chỉ dùng) v.v… tương ứng với chuyện suy tính dùng pháp nào để độ trong phần trên. Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, tương ứng với “chẳng dùng pháp nào để độ được” trong phần trước. “Thần lực” tương ứng với “sức nơi thân”, “trí huệ lực” tương ứng với “sức nơi tay”. “Như Lai tri kiến” tương ứng với y kích (lẵng hoa), “lực” tương ứng với bàn, “vô sở úy” tương ứng với ghế. “Vị miễn sanh, lăo, bệnh, tử” (chưa tránh khỏi sanh, già, bệnh, chết) tương ứng với các con thơ dại trong phần trước. “Hà do năng giải Phật chi trí huệ” (do đâu mà có hiểu trí huệ của Phật) tương ứng với “chỉ có một cửa mà lại hẹp nhỏ” trong phần trước.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.1.2. Xét theo từng chi tiết trong thí dụ để nêu ra ư nghĩa biểu pháp tương ứng

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như bỉ trưởng giả, tuy phục thân thủ hữu lực, nhi bất dụng chi, đản dĩ ân cần phương tiện, miễn tế chư tử hỏa trạch chi nạn, nhiên hậu các dữ trân bảo đại xa. Như Lai diệc phục như thị, tuy hữu lực, vô sở úy, nhi bất dụng chi.

          ()舍利弗。如彼長者。雖復身手有力而不用之。但以殷勤方便。勉濟諸子火宅之難。然後各與珍寶大車。如來亦復如是。雖有力無所畏而不用之。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả đó tuy thân và tay có sức, nhưng chẳng dùng, chỉ dùng phương tiện ân cần, cứu giúp các con thoát nạn nhà lửa, sau đấy đều cho mỗi đứa con xe lớn quư báu. Như Lai cũng giống như thế, tuy có lực, vô sở úy, nhưng chẳng dùng).

 

          Nêu ra thí dụ nhằm nói rơ “ẩn Đại để thực hiện Quyền”, sau đó mới hiển Thật. Đối ứng khít khao nhằm nêu rơ hai ư: Do chẳng có căn cơ, cho nên ẩn Đại, thi Quyền hiển Thật như sẽ được nói trong phần kinh văn kế tiếp. Phần đầu, kết hợp thí dụ “bỏ ghế [dùng xe]” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2. Đối ứng thí dụ dùng xe” với ư nghĩa biểu thị pháp

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.1. Tính dùng ba loại xe và sẵn biết tâm của các con

 

          (Kinh) Đản dĩ trí huệ phương tiện, ư tam giới hỏa trạch, bạt tế chúng sanh, vị thuyết tam thừa, Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Thừa.

          ()但以智慧方便。於三界火宅拔濟眾生。為說三乘。聲聞。辟支佛。佛乘。

          (Kinh: Chỉ dùng phương tiện trí huệ, ở trong nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, v́ họ nói ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, và Phật Thừa).

 

          “Trí huệ phương tiện” tương ứng với chuyện suy nghĩ dùng cách nào thích hợp [để hóa độ]. “Vị thuyết tam thừa” (v́ họ nói ba thừa) tương ứng với chuyện sẵn biết tâm ưa thích của các con.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2. Đối ứng với pháp chuyện khen ngợi ba loại xe hy hữu

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.1. Tương ứng với Thị Chuyển

 

          (Kinh) Nhi tác thị ngôn: “Nhữ đẳng mạc đắc nhạo trụ tam giới hỏa trạch (Khổ Đế), vật tham thô tệ sắc, thanh, hương, vị, xúc dă. Nhược tham trước sanh ái, tắc vi sở thiêu (Tập Đế). Nhữ tốc xuất tam giới, đương đắc tam thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Thừa (Đạo Diệt nhị Đế).

          ()而作是言。汝等莫得。樂住三界火宅(苦諦)。勿貪麤弊色聲香味觸也。若貪著生愛。則為所燒(集諦)。汝速出三界當得三乘。聲聞。辟支佛。佛乘(道滅二諦)。

          (Kinh: Bèn nói như thế này: “Các ngươi đừng ham ở trong nhà lửa tam giới (Khổ Đế), đừng tham sắc, thanh, hương, vị, xúc thô tệ. Nếu tham đắm, sẽ sanh ái, sẽ bị đốt cháy (Tập Đế). Các ngươi hăy mau ra khỏi tam giới, sẽ đạt được ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Thừa (Đạo Đế và Diệt Đế)).

 

          Tương ứng với ba loại xe nay đang ở ngoài cửa. Các ngươi hăy nên mau chóng ra khỏi căn nhà lửa ấy.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.2. Tương ứng với Chứng Chuyển

 

          (Kinh) Ngă kim vị nhữ bảo nhậm thử sự, chung bất hư dă. Nhữ đẳng đản đương cần tu tinh tấn. Như Lai dĩ thị phương tiện dụ tấn chúng sanh.

          ()我今為汝保任此事。終不虛也。汝等但當勤修精進。如來以是方便誘進眾生。

          (Kinh: Ta nay v́ các ngươi bảo đảm chuyện này, trọn chẳng hư dối. Các ngươi chỉ nên siêng năng tinh tấn”. Như Lai dùng phương tiện ấy để khuyên dụ chúng sanh).

 

          Tương ứng với “tùy ḷng các con muốn, sẽ đều ban cho”.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.3. Tương ứng với Khuyến Chuyển

 

          (Kinh) Phục tác thị ngôn: “Nhữ đẳng đương tri thử tam thừa pháp, giai thị thánh sở xưng thán, tự tại vô hệ, vô sở y cầu, thừa thị tam thừa, dĩ vô lậu căn, lực, giác, đạo, Thiền Định, giải thoát, tam-muội đẳng, nhi tự ngu lạc, tiện đắc vô lượng an ổn khoái lạc”.

          ()復作是言。汝等當知此三乘法。皆是聖所稱歎。自在無繫。無所依求。乘是三乘。以無漏根力覺道禪定解脫三昧等而自娛樂。便得無量安隱快樂。

          (Kinh: Lại nói như thế này: “Các ngươi hăy nên biết pháp tam thừa này, đều được bậc thánh khen ngợi, tự tại chẳng trói buộc, chẳng có ǵ nương tựa, mong cầu, nương vào ba thừa ấy, dùng vô lậu ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát thánh đạo, Thiền Định, giải thoát, tam-muội v.v… để tự vui sướng, liền đạt được vô lượng vui sướng an ổn).

 

          Tương ứng với “nhữ đẳng sở khả ngoạn hảo’” (món đồ chơi các con ưa thích) trong phần trên, hy hữu, khó có. Tam thừa đều là phương tiện của chư Phật dùng làm phương cách tiếp dẫn chúng sanh. V́ thế, được bậc thánh khen ngợi. Đạt được trí vô sanh là “tự tại”. Đạt được tận trí là “vô hệ” (không trói buộc). “Sự sanh của ta đă hết, chẳng thể có hậu hữu” th́ gọi là “vô sở y”. Việc làm đă xong, phạm hạnh đă lập, gọi là “vô sở cầu”. “Căn, lực, giác, đạo…” gồm chung hữu lậu và vô lậu. Ba mươi bảy phẩm của địa vị Tam Hiền thuộc hữu lậu. Ba mươi bảy phẩm trong địa vị Hữu Học và Vô Học thuộc về vô lậu. Thiền tức Tứ Thiền, Định tức Vô Sắc Tứ Định, cũng bao gồm hữu lậu và vô lậu. Ở đây nói về vô lậu. “Giải thoát” tức bát giải thoát. “Tam-muội” tức ba môn tam-muội. Đấy là vô lậu. “Đẳng” tức là b́nh đẳng giữ lấy để rèn luyện huân tu các môn Thiền. “Vô lượng an ổn khoái lạc” chính là Chân Không Niết Bàn, vĩnh viễn ĺa tai hoạn. Phần thứ hai, cùng kết hợp với pháp để tán thán ba loại xe hiếm có đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.3. Phù hợp với ước nguyện của các con

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược hữu chúng sanh, nội hữu trí tánh, tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, ân cần tinh tấn, dục tốc xuất tam giới, tự cầu Niết Bàn. Thị danh Thanh Văn Thừa. Như bỉ chư tử, vị cầu dương xa, xuất ư hỏa trạch. Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên huệ, nhạo độc thiện tịch, thâm tri chư pháp nhân duyên. Thị danh Bích Chi Phật Thừa. Như bỉ chư tử, vị cầu lộc xa, xuất ư hỏa trạch. Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, cần tu tinh tấn, cầu Nhất Thiết Trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, Như Lai tri kiến lực, vô sở úy, mẫn niệm an lạc vô lượng chúng sanh, lợi ích thiên nhân, độ thoát nhất thiết. Thị danh Đại Thừa. Bồ Tát cầu thử thừa cố, danh vi Ma Ha Tát. Như bỉ chư tử, vị cầu ngưu xa, xuất ư hỏa trạch.

          ()舍利弗。若有眾生。內有智性。從佛世尊聞法信受殷勤精進。欲速出三界。自求涅槃。是名聲聞乘。如彼諸子。為求羊車。出於火宅。若有眾生。從佛世尊聞法信受殷勤精進。求自然慧。樂獨善寂。深知諸法因緣。是名辟支佛乘。如彼諸子。為求鹿車。出於火宅。若有眾生。從佛世尊聞法信受。勤修精進。求一切智。佛智。自然智。無師智。如來知見力無所畏。愍念安樂無量眾生。利益天人。度脫一切。是名大乘。菩薩求此乘故。名為摩訶薩。如彼諸子。為求牛車。出於火宅。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sanh trong tâm có trí tánh, từ Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, ân cần, tinh tấn, muốn mau thoát khỏi tam giới, tự cầu Niết Bàn. Đó gọi là Thanh Văn Thừa. Như các đứa con v́ cầu xe dê, ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sanh từ Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên huệ, ưa thích ở riêng một ḿnh nơi tốt lành, thanh vắng, biết sâu xa nhân duyên của các pháp. Đó gọi là Bích Chi Phật Thừa. Như các con v́ cầu xe nai, ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sanh từ Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, siêng tu tinh tấn, cầu Nhất Thiết Trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, sức tri kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, nghĩ thương xót an lạc vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát hết thảy. Đó gọi là Đại Thừa. Bồ Tát do cầu thừa ấy, gọi là Ma Ha Tát. Như các con v́ cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa).

         

          “Nội hữu trí tánh” (trong tâm có trí tánh): Xưa kia đă ưa thích, mong muốn tu tập tam thừa, trở thành trí tánh tam thừa. V́ thế, đức Phật ban cấp giáo pháp tam thừa. “Văn pháp tín thọ” (nghe pháp tin nhận) tức Văn Huệ, tương ứng “phù hợp ư nguyện” trong phần trước. “Ân cần” tức Tư Huệ, tương ứng với “tâm ai nấy đều mạnh mẽ, hăng hái” trong phần trên. “Tinh tấn” tức Tu Huệ, tương ứng với “thôi bài” (xô đẩy) trong phần trên. Do trừ khử ác, cho nên là Tinh, suy lư hiểu rơ là Tấn. “Dục tốc xuất tam giới” (muốn mau ra khỏi tam giới) tương ứng với “đua nhau rảo chạy, tranh nhau thoát ra” trong phần trên, như dê [cứ cắm đầu chạy] chẳng nh́n lại bầy đàn ở đằng sau. Đó gọi là Thanh Văn Thừa.

          “Cầu tự nhiên huệ”: Mười hai nhân duyên vốn tự sẵn có, chẳng phải do Phật, trời, người v.v… tạo tác! Hơn nữa, Bích Chi Phật phần nhiều là người hành pháp. Từ người khác nghe đôi chút, sẽ tự suy ra nhiều nghĩa lư. V́ thế, sánh ví với nai. Nai chẳng nương theo người. “Cầu Nhất Thiết Trí” tức là muốn biết trọn khắp hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng giống như Nhị Thừa chỉ cầu xuất thế. Trí ấy c̣n gọi là “Phật trí”, do Nhị Thừa sẽ chẳng thể đạt được! Lại c̣n gọi là Tự Nhiên Trí, v́ vượt thoát sự giác ngộ của chính ḿnh. Lại c̣n gọi là Vô Sư Trí, Phật là bậc đại sư của trời, người, chẳng có ai là thầy của Phật. Hơn nữa, xét theo Phật quả trong Tam Tạng để giải thích tứ trí. Hăy nên biết trong tứ giáo, bốn trí tên gọi giống nhau, nhưng nghĩa thật sự khác biệt vời vợi, chẳng nói rườm rà về chuyện này! Bồ Tát ứng với các điều ấy mà tu nhân, an nhẫn chuyên chở [chúng sanh thoát khỏi tam giới]. V́ thế, sánh ví với trâu. Phần thứ hai, “kết hợp thí dụ bỏ ghế, dùng xe với pháp” đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.3. Đối ứng thí dụ “b́nh đẳng thí xe lớn” với pháp

 

          Phần kinh văn nói về thí dụ có bốn phần: Một là thoát nạn, hai là [các con] đ̣i xe, ba là b́nh đẳng ban cho, bốn là hoan hỷ. Nay chỉ đối ứng với pháp phần thoát nạn, đă kiêm ư nghĩa “đ̣i xe”. Chỉ đối ứng với pháp thí dụ “b́nh đẳng ban cho” th́ đă kiêm ư nghĩa “hoan hỷ”. Kinh văn chia làm hai phần:

          - Một là nêu chung hai thí dụ “thoát nạn” và “b́nh đẳng ban cho”.      

          - Hai là gộp chung cả hai thí dụ [để nêu ư nghĩa biểu thị pháp].

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.3.1. Cùng nêu ra hai thí dụ “thoát nạn” và “b́nh đẳng ban cho”

 

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như bỉ trưởng giả kiến chư tử đẳng an ổn, đắc xuất hỏa trạch, đáo vô úy xứ, tự duy tài phú vô lượng, đẳng dĩ đại xa nhi tứ chư tử.

          ()舍利弗。如彼長者。見諸子等安隱得出火宅。到無畏處。自惟財富無量。等以大車而賜諸子。

            (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia thấy các con an ổn, ra khỏi nhà lửa, đến chỗ không sợ hăi, tự nghĩ của cải vô lượng, b́nh đẳng dùng xe lớn cho các con).

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.3.2. Nêu ư nghĩa biểu thị pháp của hai thí dụ ấy

 

          (Kinh) Như Lai diệc phục như thị, vi nhất thiết chúng sanh chi phụ. Nhược kiến vô lượng ức thiên chúng sanh, dĩ Phật giáo môn, xuất tam giới khổ, bố úy hiểm đạo, đắc Niết Bàn lạc.

          ()如來亦復如是。為一切眾生之父。若見無量億千眾生。以佛教門。出三界苦怖畏險道。得涅槃樂。

          (Kinh: Như Lai cũng lại như thế, là cha của hết thảy chúng sanh. Nếu thấy vô lượng ức ngàn chúng sanh dùng cửa Phật giáo để thoát khỏi nỗi khổ tam giới, và con đường nguy hiểm đáng kinh sợ, đạt được niềm vui Niết Bàn).

 

          Trước hết, kết hợp với pháp chuyện “thoát nạn” trong thí dụ. “Dĩ Phật giáo môn” (dùng cửa Phật giáo): Nương theo chân lư được nói trong giáo để dấy lên thánh hạnh tam thừa. V́ thế được thoát khổ.

 

          (Kinh) Như Lai nhĩ thời, tiện tác thị niệm: “Ngă hữu vô lượng vô biên trí huệ, lực, vô úy đẳng chư Phật pháp tạng. Thị chư chúng sanh giai thị ngă tử, đẳng dữ Đại Thừa, bất linh hữu nhân độc đắc diệt độ, giai dĩ Như Lai diệt độ nhi diệt độ chi. Thị chư chúng sanh thoát tam giới giả, tất dữ chư Phật Thiền Định giải thoát đẳng ngu lạc chi cụ, giai thị nhất tướng, nhất chủng, thánh sở xưng thán, năng sanh tịnh diệu đệ nhất chi lạc.

          ()如來爾時便作是念。我有無量無邊智慧力無畏等諸佛法藏。是諸眾生。皆是我子。等與大乘。不令有人獨得滅度。皆以如來滅度而滅度之。是諸眾生脫三界者。悉與諸佛禪定解脫等娛樂之具。皆是一相一種。聖所稱歎。能生淨妙第一之樂。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Như Lai liền nghĩ như thế này: - Ta có vô lượng vô biên pháp tạng của chư Phật như trí huệ, lực, vô úy v.v… Các chúng sanh này đều là con của ta, [ta hăy nên] b́nh đẳng ban cho Đại Thừa, chẳng để riêng một ai được diệt độ, mà đều dùng sự diệt độ của Như Lai để diệt độ họ. Các chúng sanh ấy thoát khỏi tam giới, đều được ban cho các vật dụng tạo niềm vui sướng như Thiền Định, giải thoát v.v… của chư Phật, [các món vật ấy] đều là một tướng, một loại, được bậc thánh khen ngợi, có thể sanh ra niềm vui tịnh diệu bậc nhất).

 

          Kế đó, đối ứng các thí dụ như “b́nh đẳng ban cho” v.v… với pháp. “Ngă hữu vô lượng… chư Phật pháp tạng” (Ta có vô lượng pháp tạng của chư Phật): Đối ứng với “của cải vô lượng, các kho tàng đầy ắp” trong phần trên, đó là nguyên do có xe. “Thị chư chúng sanh giai thị ngă tử… ngu lạc chi cụ” (các chúng sanh này đều là con của ta… các vật dụng tạo niềm vui sướng), đối ứng với các tâm trong phần trước. Thiền Định, giải thoát của chư Phật đều nương vào Trung Đạo Thật Tướng. V́ thế khác với Thiền Định, giải thoát của Nhị Thừa, đều là nhất tướng cho đến đệ nhất lạc, tương ứng với phần nói về thể chất của xe trong phần trên. Phần thí dụ nói chi tiết, phần này nói đại lược, nhưng dùng tam đức để gồm thâu các nghĩa:

          - Nhất tướng là Thật Tướng, tức Pháp Thân đức.

          - “Nhất chủng” tức là Chủng Trí, tức Bát Nhă đức.

          - “Có thể sanh ra niềm vui tịnh diệu bậc nhất”, “vui” tức là chẳng khổ, tức là Giải Thoát đức.

          Ba đức chẳng thể nghĩ bàn th́ gọi là “cao quảng đại xa” (xe to cao rộng). Phần thứ ba, đối ứng với pháp bốn thí dụ về xe đă xong.

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.4. Đối ứng thí dụ “chẳng hư vọng” với pháp

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.4.1. Nhắc lại thí dụ

         

          (Kinh) Xá Lợi Phất! Như bỉ trưởng giả sơ dĩ tam xa dụ dẫn chư tử, nhiên hậu đản dữ đại xa, bảo vật trang nghiêm, an ổn đệ nhất, nhiên bỉ trưởng giả vô hư vọng chi cữu.

          ()舍利弗。如彼長者。初以三車誘引諸子。然後但與大車。寶物莊嚴。安隱第一。然彼長者無虛妄之咎。

          (Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả thoạt đầu dùng ba loại xe để khuyên dụ các con, sau đấy, chỉ cho xe lớn, trang nghiêm bằng bảo vật, an ổn bậc nhất, nhưng ông trưởng giả chẳng phạm lỗi hư vọng).

 

3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.4.2. Đối ứng với pháp

 

          (Kinh) Như Lai diệc phục như thị, vô hữu hư vọng. Sơ thuyết tam thừa, dẫn đạo chúng sanh. Nhiên hậu đản dĩ Đại Thừa nhi độ thoát chi. Hà dĩ cố? Như Lai hữu vô lượng trí huệ, lực, vô sở úy chư pháp chi tạng, năng dữ nhất thiết chúng sanh Đại Thừa chi pháp, đản bất tận năng thọ. Xá Lợi Phất! Dĩ thị nhân duyên, đương tri chư Phật phương tiện lực cố, ư nhất Phật Thừa, phân biệt thuyết tam.

          ()如來亦復如是。無有虛妄。初說三乘。引導眾生。然後但以大乘而度脫之。何以故。如來有無量智慧力無所畏諸法之藏。能與一切眾生大乘之法。但不盡能受。舍利弗。以是因緣。當知諸佛方便力故。於一佛乘。分別說三。

          (Kinh: Như Lai cũng giống như thế, chẳng có hư vọng. Thoạt đầu nói tam thừa để hướng dẫn chúng sanh. Sau đó, chỉ dùng Đại Thừa để độ thoát. V́ sao vậy? Như Lai có kho tàng gồm vô lượng các pháp trí huệ, lực, vô sở úy, có thể ban cho hết thảy chúng sanh pháp Đại Thừa, nhưng họ đều chẳng thể tiếp nhận trọn hết. Này Xá Lợi Phất! Do nhân duyên ấy, hăy nên biết chư Phật do sức phương tiện mà đối với một Phật Thừa bèn phân biệt nói thành ba).

 

          Có thể ban cho hết thảy chúng sanh pháp Đại Thừa. Do đă nói “dùng tài vật của ta châu cấp cho cả một nước c̣n chẳng thiếu hụt”, nhưng [chúng sanh] chẳng thể đều tiếp nhận. V́ thế, bất đắc dĩ v́ một mà tách thành ba. Ba thừa là do chúng sanh, chẳng phải là bổn ư của Phật. Nay nói Đại Thừa chẳng trái nghịch bổn tâm, cho nên chẳng hư dối. Trước đó, ngài Xá Lợi Phất đă hỏi: “Nguyện v́ tứ chúng nói nhân duyên ấy”. Cho nên nay [đức Phật] đáp lời: “Do bởi nhân duyên ấy mà phân biệt nói thành ba”. Trong phần hai của Thí Thuyết, phần thứ nhất là Trường Hàng đă xong.

 

3.3.1.2.2.2. Trùng tụng

3.3.1.2.2.2.1. Trùng tụng chuyện lập thí dụ

3.3.1.2.2.2.1.1. Trùng tụng trưởng giả

 

          Lược đi không trùng tụng “một cửa” và “ba mươi đứa con”.

 

          (Kinh) Phật dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Thí như trưởng giả.

          ()佛欲重宣此義而說偈言。譬如長者

          (Kinh: Đức Phật muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Ví như có trưởng giả).

         

          Chỉ trùng tụng danh hiệu của địa vị, tức là kiêm danh và hạnh để tán thán đức, giống như nêu lên Phật hiệu liền biết vạn đức.

 

3.3.1.2.2.2.1.2. Trùng tụng nhà cửa

 

          (Kinh) Hữu nhất đại trạch, kỳ trạch cửu cố, nhi phục đốn tệ, đường xá cao nguy. Trụ căn tồi hủ. Lương đống khuynh tà. Cơ bệ[36] đồi hủy. Tường bích di sách. Nê đồ[37] trĩ lạc. Phú thiêm[38] loạn trụy. Chuyên lữ[39] sai thoát. Châu chướng khuất khúc, tạp uế sung biến.

          ()有一大宅。其宅久故。而復頓弊。堂舍高危。柱根摧朽。梁棟傾斜。基陛隤毀。牆壁圯坼。泥塗阤落。覆苫亂墜。椽梠差脫。周障屈曲。雜穢充徧。

          (Kinh: Có một căn nhà lớn, nhà ấy đă cũ kỹ, sắp hư nát rất mau, pḥng ốc rất nguy hiểm, chân cột đă mục nát, kèo rường đều nghiêng lệch, nền, thềm đều hư nát, tường vách đều rệu ră, đất trát vách rơi rụng. Tranh lợp rơi tán loạn. Kèo, đ̣n tay trật khớp, quanh co và ngổn ngang, các chất dơ đầy khắp)[40].

 

          Giải thích theo nhân duyên, “hữu nhất đại trạch” (có một căn nhà lớn) là nói đến cơi tam thiên đại thiên thế giới Đồng Cư. Tam giới chẳng có khởi đầu là “cửu” (lâu đời). Chẳng phải nay mới tạo tác; đó là “cố” (cũ kỹ). Vô thường hèn kém, thô lậu th́ là “đốn tệ” (sẽ nhanh chóng bị hư nát). Sắc Giới là “đường” (nhà to), Dục Giới là “xá” (nhà ở). Chẳng tránh khỏi đọa lạc là “cao nguy” (hết sức nguy hiểm). Mạng căn duy tŕ là Trụ. Bốn tướng đổi dời là “tồi hủ” (hư nát, mục ră). Ư thức ràng buộc là “lương đống”. Bị các sự khổ làm hư hoại th́ gọi là “khuynh tà” (nghiêng ngả, lệc lạc). Hạnh nghiệp trong quá khứ là “cơ bệ” (nền và thềm). Nghiệp vận chuyển dịch, diệt mất là “đồi hủy” (hư nát). Tứ Đại là “tường bích” (tường vách). Tổn hại lẫn nhau là “di sách” (rệu ră). Da dẻ là “nê đồ” (đất trát vách hoặc vôi vữa trát tường). Sắc thân mạnh mẽ tráng kiện chẳng tồn tại măi, đó là “trĩ lạc” (rơi rụng). Bốn oai nghi chẳng chánh đáng là “phú thiêm loạn trụy” (cỏ tranh lợp mái rơi tán loạn). Năm thức chẳng nhạy bén, chẳng làm chủ cảnh, tức là “chuyên lữ sai thoát” (các kèo đ̣n trật khớp). Ư thức rong ruổi khắp nơi là “châu chướng” (ngổn ngang). Trải khắp sáu căn chấp giữ cảnh là “khuất khúc” (quanh co). Đối với trọn khắp sáu trần, dấy lên tham, giận, si, là “tạp uế sung biến” (các chất bẩn đầy ắp trọn khắp). Nói chung là dùng sắc và tâm trong tam giới làm Thể của nhà.

          Giải thích theo quán tâm, một niệm hiện tiền, Ngũ Ấm, thân tâm, tánh ấy vốn tự theo chiều dọc tột cùng, theo chiều ngang trọn khắp, gọi là “một ngôi nhà lớn”. Từ vô thỉ đến nay, ư thức tăm tối lan truyền, chẳng có tác giả, gọi là “cửu cố” (lâu đời cũ kỹ). Niệm nào cũng vô thường, mê t́nh hèn ác, gọi là “đốn tệ” (nhanh chóng hư nát). Bụng là “đường”, lưng là “xá”. Hai chân là “trụ căn”. Xương sống là “lương đống” (rường kèo). Mông và đùi là “cơ bệ” (nền và thềm). Da thịt là tường vách. Màu da là đất trát tường, râu tóc là cỏ tranh lợp mái. Hàm răng và khớp xương là “chuyên lữ” (đ̣n tay). Trọn khắp trong thân là “châu chướng”. Ruột non, ruột già là “khuất khúc” (quanh co). Đại tiểu tiện bất tịnh là “các chất dơ bẩn đầy dẫy”. Một thân như thế, ngoài thân càng không có vật nào khác, được gọi là “một ngôi nhà lớn”, chính là sở hữu của Lư Tức Trưởng Giả. Nếu có thể quan sát trong mỗi niệm, biết tất cả tánh khổ thuộc về Ngũ Ấm trong thân tâm th́ chính là Pháp Thân đức. Tất cả Hoặc nhiễm chính là Bát Nhă đức. Tất cả nghiệp hạnh chính là Giải Thoát đức, tức là chuyển thành Danh Tự Trưởng Giả. Cho đến chuyển thành Cứu Cánh Trưởng Giả. Tự giác, giác tha lợi ích vô tận. Nếu chẳng quan sát cho đến tột cùng đời vị lai, luôn ở trong nhà lửa, đốt rồi lại đốt, trọn chẳng biết cái Thể của ṭa nhà lớn ấy chính là cỗ xe trâu trắng lớn. Buồn thay, rầu thay!

 

3.3.1.2.2.2.1.3. Trùng tụng “năm trăm người”

 

          (Kinh) Hữu ngũ bách nhân, chỉ trụ kỳ trung.

          ()有五百人。止住其中。

          (Kinh: Có năm trăm người, lưu trụ trong ấy).

 

          Sánh ví [chúng sanh trong] năm đường. Đă có năm đường, sẽ có căn tánh tam thừa, kèm thêm ba mươi đứa con.

 

3.3.1.2.2.2.1.4. Trùng tụng chuyện lửa bốc cháy

 

          Một là trùng tụng chuyện trên mặt đất, sánh ví Dục Giới. Hai là trùng tụng chuyện trong hang hốc, sánh ví Sắc Giới. Ba là trùng tụng chuyện ở ngoài hang hốc, sánh ví Vô Sắc Giới. Bốn là tổng kết các nạn chẳng phải là một thứ.

          Hỏi: Kinh văn [thuộc phần Trường Hàng] đă có thí dụ và phần kết hợp đối ứng [thí dụ] với pháp, v́ sao lại xét theo từng thí dụ để giải thích [ư nghĩa biểu thị pháp của chúng]?

          Đáp: Thí dụ nói chi tiết, mà phần giải thích ư nghĩa biểu thị pháp th́ đại lược, theo đúng lẽ phải nên giải thích thí dụ, huống hồ “si, kiêu, điêu, thứu” cho đến Dạ Xoa, ngạ quỷ v.v… nếu chẳng nhằm sánh ví các lợi sử và độn sử, cớ ǵ phải liệt kê rườm rà các sự vật và danh tướng ấy? Há Phật thốt lời vô nghĩa ư?

 

3.3.1.2.2.2.1.4.1. Trùng tụng chuyện trên mặt đất

3.3.1.2.2.2.1.4.1.1. Nói rơ các loại bị thiêu đốt

 

          Sánh ví chúng sanh có Thập Sử.

 

          (Kinh) Si, kiêu, điêu, thứu, ô, thước, cưu, cáp, ngoan xà, phúc yết, ngô công, du diên, thủ cung, bách túc, dứu ly, hề thử, chư ác trùng bối, giao hoành tŕ tẩu, thỉ niệu xú xứ, bất tịnh lưu dật. Khương lang chư trùng, nhi tập kỳ thượng. Hồ, lang, dă can, thư tước, tiễn đạp, tễ niết tử thi. Cốt nhục lang tịch. Do thị quần cẩu, cạnh lai bác toát, cơ luy chương hoàng, xứ xứ cầu thực, đấu tránh tra xế, nhai sài hào phệ. Kỳ xá khủng bố, biến trạng như thị.

          ()鴟梟鵰鷲。烏鵲鳩鴿。蚖蛇蝮蠍。蜈蚣蚰蜒。守宮百足。鼬貍鼷鼠。諸惡蟲輩。交橫馳走。屎尿臭處。不淨流溢。蜣蜋諸蟲。而集其上。狐狼野干。咀嚼踐踏。嚌齧死屍。骨肉狼藉。由是群狗。競來搏撮。饑羸慞惶。處處求食。鬥諍摣掣。啀喍嗥吠。其舍恐佈。變狀如是。

          (Kinh: Diều, cú, ưng, kên kên, quạ, khách, bồ câu, ngói, rắn độc và ḅ cạp, rết cùng với cuốn chiếu, tắc kè, loài trăm chân, chồn, cầy, cùng chuột cống, các loài trùng ác thảy, cùng rảo chạy ngang dọc, chỗ phân tiểu hôi thối, thứ bất tịnh chảy tràn. Các trùng như bọ hung, bu xúm xít trên đó. Cáo, sói, và chó rừng, cắn xé và giày xéo, ngoạm gặm các xác chết. Xương thịt rơi vương văi. V́ thế, các bầy chó, tranh nhau giành ngoạm lấy, đói gầy và hoảng loạn, t́m cái ăn khắp nơi, giành giật, cấu xé nhau, gầm gừ, sủa inh ỏi. Nhà ấy đáng kinh sợ, khắp nơi đều như vậy).

 

          Ở đây, trước hết sánh ví Ngũ Độn Sử. Tám loại chim như diều hâu, cú v.v… sánh ví Mạn Sử của chúng sanh, tự nâng cao chính ḿnh, khinh thường người khác. Như chim bay vọt lên cao, nh́n xuống. Lấn lướt người khác là Mạn. Tự cậy ḿnh là Kiêu. V́ thế dùng Kiêu để giải thích Mạn. Kinh Văn Thù Vấn nói tám loại kiêu, nay dùng [tám loại kiêu ấy] để phối ứng với tám loại chim: Kiêu căng v́ thể lực tốt, dồi dào ví như diều hâu. Kiêu căng v́ gịng họ ví như chim cú. Kiêu căng v́ giàu có giống như chim ưng. Kiêu căng v́ tự tại ví như kên kên. Kiêu căng v́ thọ mạng ví như chim quạ. Kiêu căng v́ thông minh giống như chim khách (chim thước). Kiêu căng v́ là việc thiện giống như bồ câu. Kiêu căng v́ sắc đẹp giống như chim ngói.

          Kế đó, hai câu từ “ngoan xà…” [trở đi] nhằm sánh ví Sân Sử. “Ngoan” () là rắn đen. Ngoan xà không đụng đến vẫn cắn, ví như nổi giận phi lư. “Phúc” () là hủy (,rắn lục, viper), dài ba tấc, to như ngón tay, trên mũi có gai. Rắn lục và ḅ cạp hễ động đến bèn chích, ví như do chấp Lư mà nổi sân. Loại trùng đầu đỏ gọi là “ngô công” (rết), đầu chẳng đỏ th́ gọi là “du diên” (cuốn chiếu) ví như sân v́ hư luận. Kế đó, tám câu nói về “thủ cung” là thí dụ chung về Si Sử. “Thủ cung” (守宮) chính là “yển đ́nh” (蝘蜓, cắc kè). Thủ cung, bách túc[41], ngây ngốc, vô tri, ví như độc đầu vô minh[42]. “Dứu” (, chồn) giống như chuột mà cũng ăn chuột. Ly (, cầy) thuộc loại mèo. “Hề” () tức cam khẩu thử[43]. Bốn loại này tương ứng với vô minh.

          “Chư ác trùng bối, giao hoành tŕ tẩu” (các loài trùng ác ruổi chạy ngang dọc): Kết lại hai loại vô minh tương ứng với độc đầu. Duyên khắp tam giới nên là “giao hoành” (ngang dọc), lăng xăng qua lại nhanh chóng nên là “tŕ tẩu” (rong ruổi) tức là từ Si làm căn bản, dấy lên đủ loại kết sử. Hai câu “thỉ niệu” (phân tiểu) nói về cảnh chấp trước bởi si tâm, đều là vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh. Hai câu “khương lang” (bọ hung) nói tới vô minh do mê nơi Sự, do hư vọng so đo “thường, lạc, ngă, tịnh” mà sanh đắm nhiễm. Tám câu như “hồ lang” (cáo, sói) sánh ví chung Tham Sử. Cáo và sói ví như ḷng tham do có sức, [tức là] dùng oai thế để đoạt lấy. “Dă can” (chó rừng) sánh ví tâm tham mà không có sức, theo người khác xin xỏ. “Thư tước” (咀嚼, cắn xé) ví như do hữu dụng bèn chiếm lấy. “Tiễn đạp” (踐踏, giày xéo) ví như không cần mà vẫn lấy. Lại nữa, ít ỏi th́ bèn cắn xé, nhiều th́ giày xéo.

          “Tễ niết” (嚌齧, cắn ngoạm): Sánh ví tham lam nuốt lấy không chán. “Tử thi” (xác chết) sánh ví ngũ dục thô tệ. “Cốt nhục lang tịch” (xương thịt vung văi) ví như tích tụ ngũ trần chẳng biết ngưng đủ. “Do thị quần cẩu cạnh lai bác toát” (do vậy, lũ chó tranh nhau ngoạm lấy): Ví như những kẻ có sức mạnh lớn như vua, giặc v.v… [Câu này] chỉ ra: Các vật được tích tụ bởi kẻ hữu lực hay vô lực đều là do cưỡng đoạt. “Cơ” (, đói): Sánh ví “thường chẳng biết đủ”. “Luy” (, gầy c̣m) là sánh ví “cầu mong chẳng được vừa ư”. “Chương hoàng” (慞惶, hoảng loạn) ví như các thứ toan tính, truy cầu, nghĩa là kẻ lắm ham muốn, tuy giàu có mà vẫn [giống như] nghèo túng.

          Lại nữa, ḷng tham do tâm yêu mến bèn tham “thịt” ngũ trần. Ḷng tham do kiến chấp sẽ tham “xương” đạo lư. Do tri kiến mong cầu, t́m ṭi, sẽ có nhiều kiến giải, tức là “có nhiều xương”. Chó cần xương, sẽ tranh nhau cắn ngoạm. Đối với cái tâm kiến chấp, do chưa đạt được thức ăn chánh pháp, th́ gọi là “đói”. Chẳng thể chế phục, đoạn trừ Kiến Hoặc th́ gọi là “gầy c̣m”. Chốn chốn cầu giải th́ gọi là “chương hoàng” (hoảng loạn). Thị phi lẫn nhau, đấu tranh lẫn nhau, ư cho là sai, như hướng về phía trước xâu xé, lại cho là đúng, hướng về sau giành giật. Thốt ra ngôn luận phán quyết lẽ đúng sai, như nhai xế hào phệ” (gầm gừ, sủa inh ỏi). Điều này tương ứng với bốn câu “thị chư quần cẩu…” (lũ chó ấy). Tất cả sáu câu ấy đều nhằm thí dụ Nghi Sử. “Kỳ xá khủng bố, biến trạng như thị” (nhà ấy đáng kinh sợ, khắp nơi đều là t́nh trạng như thế) tổng kết năm Độn Sử vừa nói trên đây (Kiến thuộc về Lợi Sử, sẽ nói trong phần sau. Nay xét theo lợi trong độn, cho nên đề ra đạo lư ḥng khởi nghi. Nhếch môi lộ răng là Nhai Sài (啀喍). Phát ra tiếng gào rống to th́ gọi là “hào phệ”, 嗥吠).

 

          (Kinh) Xứ xứ giai hữu, ly, mỵ, vơng, lượng, Dạ Xoa, ác quỷ, thực đạm nhân nhục. Độc trùng chi thuộc, chư ác cầm thú, phu nhũ sản sanh, các tự tàng hộ. Dạ Xoa cạnh lai, tranh thủ thực chi. Thực chi kư băo, ác tâm chuyển xí, đấu tránh chi thanh, thậm khả bố úy. Cưu Bàn Trà quỷ, tôn cứ thổ đóa. Hoặc thời ly địa, nhất xích, nhị xích, văng phản du hành, túng dật hy hư, tróc cẩu lưỡng túc, phác linh thất thanh. Dĩ cước gia cảnh, bố cẩu tự lạc. Phục hữu chư quỷ, kỳ thân trường đại, lơa h́nh hắc sấu, thường trụ kỳ trung, phát đại ác thanh, khiếu hô cầu thực. Phục hữu chư quỷ, kỳ yết như châm. Phục hữu chư quỷ, thủ như ngưu đầu, hoặc thực nhân nhục, hoặc phục đạm cẩu, đầu phát bồng loạn, tàn hại hung hiểm, cơ khát sở bức, khiếu hoán tŕ tẩu.

          ()處處皆有。魑魅魍魎。夜叉惡鬼。食噉人肉。毒蟲之屬。諸惡禽獸。孚乳產生。各自藏護。夜叉競來。爭取食之。食之旣飽。惡心轉熾。鬥諍之聲。甚可怖畏。鳩槃茶鬼。蹲踞土埵。或時離地。一尺二尺。往返遊行。縱逸嬉戲。捉狗兩足。撲令失聲。以腳加頸。怖狗自樂。復有諸鬼。其身長大。裸形黑瘦。常住其中。發大惡聲。叫呼求食。復有諸鬼。其咽如鍼。復有諸鬼。首如牛頭。或食人肉。或復噉狗。頭髮髼亂。殘害兇險。飢渴所逼。叫喚馳走。

          (Kinh: Khắp nơi thảy đều có, loài ly, mỵ, vơng, lượng, Dạ Xoa và ác quỷ, ăn nuốt thịt loài người. Các loài trùng độc địa, các chim thú bạo ác, ấp, bú mớm, sanh nở, đều tự giấu, bảo vệ. Dạ Xoa tranh nhau đến, giành giật để ăn nuốt. Ăn đă no nê xong, tâm ác càng dữ dội, tiếng chúng đấu đá nhau, thật rất đáng kinh hăi. Loài quỷ Cưu Bàn Trà, ngồi xổm trên đống đất, hoặc có lúc rời đất, cách đất một, hai thước. Xẹt qua rồi xẹt lại, buông lung, đùa bỡn chơi, nắm lấy hai chân chó, đánh nó kêu thất thanh. Lại dùng chân chẹn cổ, dọa chó để tự vui. Lại có các loài quỷ, thân h́nh chúng cao lớn, trần truồng, đen c̣m cơi, thường sống ở nơi đó, phát ra tiếng ác lớn, kêu gào đ̣i thức ăn. Lại có những con quỷ, cổ họng bé như kim. Lại có những con quỷ, đầu giống như đầu trâu. Hoặc là ăn thịt người, hoặc lại ăn thịt chó. Đầu tóc rối tung lên, tàn hại và hung hiểm, bị đói khát bức bách, gào thét chạy cuồng lên).

 

          Ở đây sánh ví năm Lợi Sử. Hai câu “xứ xứ giai hữu” (nơi nơi đều có) nhằm nói chung năm thứ Lợi Sử trọn khắp tam giới, Ngũ Ấm, Tứ Đế, bất cứ chỗ nào cũng đều luôn có. Quỷ quái trong núi gọi là Ly. Quỷ quái nơi đầm lầy gọi là Mỵ. Quỷ quái biến hóa nơi gỗ đá th́ gọi là Vơng Lượng. Ba bài kệ [bắt đầu bằng chữ] Dạ Xoa, nhằm sánh ví riêng về tà kiến. “Thịt người” sánh ví thiện báo xuất thế gian. “Thực đạm nhân nhục” (ăn nuốt thịt người) sánh ví sự bài bác chẳng có nhân quả xuất thế gian. “Độc trùng cầm thú, phu nhũ sản sanh, các tự tàng hộ” (các loài trùng độc và chim thú ấp trứng, cho con bú, sanh nở, mỗi loài đều che giấu, bảo vệ con ḿnh) ví như nhân quả thế gian. Cái nhân có thể sanh ra quả, th́ gọi là “tàng”. Ắt có chẳng mất (nhân ắt có quả, quả ấy chẳng mất), th́ gọi là “hộ”. “Tranh thủ thực chi” (tranh nhau giành giật để ăn) sánh ví chuyện bài bác chẳng có nhân quả thế gian. “Thực chi kư băo” (ăn đă no nê rồi) sánh ví tà kiến thành tựu. “Ác tâm chuyển xí” (tâm ác trở nên dữ dội hơn) sánh ví tà kiến tăng rộng. “Đấu tránh chi thanh” (Tiếng đấu đá) sánh ví tà luận bài bác chẳng có nhân quả. “Thậm khả bố úy” (hết sức đáng sợ hăi) sánh ví tà luận ấy có thể khiến cho con người đọa lạc trong tam đồ. Một bài kệ rưỡi từ chữ Cưu Bàn Trà trở đi, sánh ví riêng về Giới Thủ Kiến. Cưu Bàn Trà (Kumbhāṇḍa) là một loài quỷ đáng sợ. Ngồi xổm th́ gọi là Tôn (), ngồi vững vàng th́ gọi là Cứ (). Chỗ đất có h́nh thế cao gọi là “thổ đóa” (土埵), ví như ngoại đạo nương vào Giới Thủ Kiến, tu hành Thập Thiện, sẽ có thể sanh vào chỗ cao nhất trong Dục Giới là Lục Thiên. “Hoặc thời ly địa nhất xích, nhị xích” (hoặc có lúc ĺa khỏi mặt đất một, hai thước): Sánh ví nương vào Giới Thủ Kiến, tu chứng Tứ Thiền. Sanh trong Sắc Giới gọi là “ĺa khỏi đất một thước”. Hoặc nương vào Giới Thủ Kiến mà đạt được Tứ Không Định, sanh vào Vô Sắc Giới, th́ gọi là “ĺa khỏi mặt đất hai thước”.

          “Văng phản du hành” (xẹt qua rồi xẹt lại): “Văng” là ví như sanh vào hai giới trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới), “phản” ví như sanh trở lại Dục Giới. “Túng dật hy hư” (buông lung cứ đùa bỡn): Ví như chẳng nhập chánh đạo, trọn chẳng thể đạt tới Thật. “Tróc cẩu lưỡng túc” (nắm lấy hai chân chó): Ví như hư vọng chấp trước khổ hạnh là tịnh. “Phác linh thất thanh” (đánh chó khiến nó kêu thất thanh) ví như hư vọng chấp trước “tu khổ hạnh sẽ không mắc khổ quả”. “Dĩ cước gia cảnh” (dùng chân chẹn cổ chó) sánh ví dùng khổ hạnh để mong cầu lạc quả. “Bố cẩu tự lạc” (dọa chó để tự vui): Ví như dùng khổ hạnh để tạm chế phục phiền năo, hoặc có lúc hơi đạt được mùi vị Thiền.

          Sáu câu từ “phục hữu chư quỷ, kỳ thân trường đại” (lại có các loài quỷ, thân h́nh nó cao lớn): Sánh ví riêng Thân Kiến. Theo chiều dọc, chấp ngă trong ba đời th́ gọi là Trường. Theo chiều ngang, trọn khắp Ngũ Ấm chấp Ngă th́ gọi là Đại. Chấp ngă tự tại, chẳng tu thiện pháp, tức là chẳng hổ thẹn. V́ thế gọi là “lơa h́nh” (trần truồng). Dùng điều ác để trang nghiêm, nên gọi là “hắc”. Chẳng có tư lương công đức, nên gọi là “sấu” (gầy). Hư vọng chấp có ngă, vĩnh viễn chẳng thể thoát khỏi tam giới, v́ thế nói “thường trụ kỳ trung” (thường trụ trong đó). Thốt lời tuyên thuyết các thứ ngă tướng, v́ thế nói “phát đại ác thanh”. Hư vọng chấp có ngă để có thể đạt được Niết Bàn. V́ thế, gọi là “khiếu hoán cầu thực” (kêu gào đ̣i thức ăn). Kế đó, “phục hữu chư quỷ, kỳ yết như châm” (lại có các loài quỷ, cổ họng như cái kim): Riêng sánh ví Kiến Thủ Kiến, cổ họng bé tí, tánh mạng nguy ngập, mà mong bảo toàn tánh mạng, như đối với Phi Tưởng vô thường, cứ lầm lạc chấp trước đó là Niết Bàn.

          Kế đó, hai bài kệ như “phục hữu chư quỷ, thủ như ngưu đầu” (lại có các loài quỷ, đầu chúng như đầu trâu) v.v… nhằm riêng sánh ví Biên Kiến. Nương vào Thân Kiến, dấy lên Đoạn Kiến và Thường Kiến, như đầu trâu có hai sừng. Đoạn Kiến và Thường Kiến có thể đoạn thiện căn xuất thế. “Hoặc thực nhân nhục” (hoặc là ăn thịt người): Có thể đoạn thiện căn thế gian. “Hoặc phục đạm cẩu” (hoặc lại ăn thịt chó): Có lúc chấp Đoạn, có lúc chấp Thường, trước sau xoay chuyển, như “đầu phát bồng loạn” (đầu tóc bù rối). Chấp Thường sẽ phá hại chánh lư vô thường. Chấp Đoạn sẽ phá hoại chánh lư duyên khởi. Chấp Thường sẽ rơi vào hố Thường, chấp Đoạn sẽ rơi vào hố Đoạn. V́ thế nói là “tàn hại hung hiểm”. Do không có thức ăn trí huệ, không có đồ uống Thiền Định, cho nên nói là “cơ khát sở bức” (bị đói khát bức bách). Tuyên xướng tà luận Đoạn Thường, cho nên nói là “khiếu hoán” (kêu gào). Luân hồi sanh tử chẳng thôi, v́ thế nói là “tŕ tẩu” (rong ruổi).

 

          (Kinh) Dạ Xoa, ngạ quỷ, chư ác điểu thú, cơ cấp tứ hướng, khuy khán song dũ. Như thị chư nạn, khủng úy vô lượng.

          ()夜叉餓鬼。諸惡鳥獸。饑急四向。窺看窗牖。如是諸難。恐畏無量。

          (Kinh: Dạ Xoa và ngạ quỷ, các loài chim thú ác, quá đói chạy bốn phương, ŕnh ngó qua song cửa. Các hoạn nạn như thế, vô lượng nỗi kinh hăi).

 

          Đây là tổng kết tướng lợi độn phiền năo của chúng sanh trong Dục Giới. Hoàn toàn là cái tâm hữu lậu. Thường thiếu thốn đạo vị, cho nên nói là “cơ cấp” (bị đói quá sức). Tà quán Không lư, hâm mộ, ngưỡng mộ đạo vị; cho nên nói “tứ hướng, khuy khán”. Cái tâm nhiều vướng mắc, đắm chấp, chẳng hiểu chánh lư, như nh́n qua cửa sổ để quán Không, chẳng được vô ngại. Phần thứ nhất nói về các thứ bị thiêu đốt đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.1.2. Nguyên do bốc lửa

 

          Sánh ví nguyên do dấy khởi ngũ trược.

 

          (Kinh) Thị hủ cố trạch, thuộc vu nhất nhân, kỳ nhân cận xuất, vị cửu chi gian, ư hậu xá trạch, hốt nhiên hỏa khởi.

          ()是朽故宅。屬于一人。其人近出。未久之間。於後宅舍。忽然火起。

          (Kinh: Căn nhà cũ nát đó, vốn thuộc về một người, người ấy vừa mới ra, chẳng được bao lâu, sau đó nhà cửa bỗng dưng lửa bùng lên).

 

          Tam giới là chỗ đức Phật ứng hóa. Kể từ khi phát tâm tới nay, thệ nguyện độ thoát. V́ thế nói “thuộc vu nhất nhân” (thuộc về một người). Trưởng giả ở trong nhà, có thể trông nom lửa cẩn thận. Do ông ta ra ngoài, các con vô tri, khiến cho lửa bốc lên. Ví như khi đức Phật thân cận Đại Thông Trí Thắng Phật, thường giáo hóa bọn họ, khiến cho họ chế phục ngũ trược. Cơ cảm của chúng sanh đă hết, Như Lai xả ứng thân. Ngay sau đó, ngũ trược bèn dấy lên, Phật ứng duyên trong cơi khác, chẳng phải là vĩnh viễn bỏ đi. V́ thế nói là “cận xuất”. Hơn nữa, bậc đă chứng Vô Sanh chẳng sanh trong tam giới nữa, cho nên nói là “xuất”. Chẳng lâu sau bèn ứng hiện, nên nói là “cận”. Phẩm Thọ Lượng nói: “Sổ hiện Niết Bàn” (nhiều lượt thị hiện nhập Niết Bàn), tức là ư nghĩa “xuất trạch” (ra khỏi nhà) vậy. Tam giới là nhà, Ngũ Ấm là xá.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.1.3. Nêu ra bản thể của lửa

 

          Sánh ví ngũ trược dấy khởi.

 

          (Kinh) Tứ diện nhất thời, kỳ diễm câu xí, đống lương chuyên trụ, bộc thanh chấn liệt, tồi chiết đọa lạc, tường bích băng đảo.

          ()四面一時。其燄俱熾。棟梁椽柱。爆聲震裂。摧折墮落。牆壁崩倒。

          (Kinh: Bốn mặt cùng một lúc, ngọn lửa đều hừng hực. Kèo, rường, xà, và cột, nứt nổ tiếng vang rền, nát gẫy và rơi rụng, tường vách đều đổ sụp).

 

          “Tứ diện” ví như thân, thọ, tâm, pháp. Đột ngột dấy lên tứ đảo, ngũ trược, bát khổ. V́ thế nói “nhất thời kỳ diễm câu xí” (bỗng chốc ngọn lửa cùng cháy rực). Mạng đoạn là “bộc” (bùng nổ), phong đao cứa nát thân là “liệt” (xé rách). Tắt hơi, xương xẩu chia ĺa là “tồi chiết đọa lạc” (nát gẫy, rơi rụng). Tứ Đại tan tác là “tường bích băng đảo” (tường vách đổ sụp). Do ngũ trược, tứ đảo mà thân mạng vô thường.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.1.4. Tướng bị thiêu đốt

         

          Sánh ví bát khổ, ngũ trược bức bách, năo hại chúng sanh lợi căn và độn căn.

 

          (Kinh) Chư quỷ thần đẳng, dương thanh đại khiếu, điêu thứu chư điểu, Cưu Bàn Trà đẳng, châu chương hoàng bố, bất năng tự xuất.

          ()諸鬼神等。揚聲大叫。鵰鷲諸鳥。鳩槃茶等。周慞惶怖。不能自出。

          (Kinh: Các loài quỷ thần thảy, cùng kêu gào ầm ĩ. Các chim ưng, kên kên… và Cưu Bàn Trà thảy, kinh hoảng chạy quẩn quanh, chẳng thể tự thoát được).

 

          “Chư quỷ thần đẳng” (các loài quỷ thần): Gom chung hết thảy các Lợi Sử và Độn Sử. “Dương thanh đại khiếu (Cất tiếng kêu to): Hoảng sợ, luống cuống. “Điêu thứu chư điểu” (các loài chim như Ưng, kên kên): Nêu ra Độn Sử mạnh nhất trong các Độn Sử. Nói “Cưu Bàn Trà” có nghĩa là đề ra thứ mạnh mẽ nhất trong các Lợi Sử. Nhưng đều “châu chương hoàng bố, bất năng tự xuất” (kinh hoảng chạy quẩn quanh, chẳng thể tự thoát ra): Do vậy biết là nếu chẳng có Tam Bảo, Tứ Đế, pháp Tứ Niệm Xứ, dẫu là trời, rồng, thần thánh, chắc chắn chẳng thoát khỏi luân hồi. Phần thứ nhất, trùng tụng chuyện trên mặt đất nhằm sánh ví Dục Giới đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.2. Trùng tụng chuyện trong hang hốc nhằm sánh ví Sắc Giới

3.3.1.2.2.2.1.4.2.1. Nêu ra các loài bị thiêu đốt

 

          (Kinh) Ác thú độc trùng, tàng thoán khổng huyệt, Tỳ Xá Xà quỷ, diệc trụ kỳ trung.

          ()惡獸毒蟲。藏竄孔穴。毘舍闍鬼。亦住其中。

          (Kinh: Ác thú và trùng độc, ẩn nấp trong hang lỗ. Loài quỷ Tỳ Xá Xà, cũng trụ ở trong ấy).

 

          “Khổng huyệt” (lỗ hang) tuy chẳng thông thoáng bằng ngoài cửa, vẫn có thể tránh khỏi lửa dữ. Do tránh khỏi lửa dữ, sánh ví Tứ Thiền tuy chẳng sánh bằng sự an lạc nơi giới ngoại (ngoài tam giới), vẫn tránh khỏi sự thô ác trong Dục Giới. “Ác thú, độc trùng” là nói chung về Độn Sử chúng sanh. “Tỳ Xá Xà quỷ”: Nêu đại lược Lợi Sử chúng sanh vẫn có thể đắc Thiền, sanh vào Sắc Giới. Tỳ Xá Xà (Piśāca, Điên Cuồng Quỷ) được phương này dịch là Đạm Tinh Khí (ăn nuốt tinh khí).

 

3.3.1.2.2.2.1.4.2.2. Nói rơ nguyên do bốc lửa và thế lửa cháy

         

          (Kinh) Bạc phước đức cố, vị hỏa sở bức, cộng tương tàn hại, ẩm huyết đạm nhục.

          ()薄福德故。為火所逼。共相殘害。飲血噉肉。

          (Kinh: Do phước đức mỏng manh, bị lửa nóng bức bách, liền tàn hại lẫn nhau, uống máu rồi ăn thịt).

 

          Câu “bạc phước đức cố” (do phước đức mỏng) nói về nguyên do bốc lửa. Từ “vị hỏa sở bức” (bị lửa bức bách) trở đi, nói về thế lửa cháy, ư nói: Trong lỗ hang, tuy chẳng có lửa dữ, vẫn có sự nóng bức, ví như trong Tứ Thiền, tuy chẳng có ác pháp của Dục Giới, vẫn có nỗi khổ vi tế do ái vị. Lần lượt chán ghét cơi dưới, ưa thích cơi trên. Do dùng cơi trên để chế phục cơi dưới, cho nên nói “tàn hại lẫn nhau”. Chấp vào sự lặng lẽ th́ ví như “uống máu”. Chấp trước công đức chi ly th́ giống như “ăn thịt”.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.2.3. Tướng bị lửa thiêu

 

          (Kinh) Dă can chi thuộc, tịnh dĩ tiền tử, chư đại ác thú, cạnh lai thực đạm. Xú yên bồng bột, tứ diện sung tắc.

          ()野干之屬。並已前死。諸大惡獸。競來食噉。臭煙熢孛。四面充塞。

          (Kinh: Các loài như dă can, đều đă bị chết trước, các loài ác thú lớn, tranh nhau đến ăn nuốt. Khói thối bốc ngùn ngụt, tràn lấp cả bốn phía).

 

          Dă can ví như ḷng tham trong Dục Giới, cho nên đă chết trước! Các ác thú lớn ví như ḷng tham trong Sắc Giới, có thể nuốt ḷng tham trong Dục Giới. Tứ đảo và bát khổ trong Dục Giới giống như lửa dữ. Tứ đảo trong Sắc Giới ví như “xú yên” (khói thối), bao gồm thân, thọ, tâm, pháp và Tứ Đại. V́ thế nói “tứ diện sung tắc” (bốn phía đều tràn ngập). Phần thứ hai, trùng tụng chuyện trong hang hốc để sánh ví Sắc Giới đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.3. Trùng tụng chuyện ngoài hang hốc nhằm sánh ví Vô Sắc Giới

3.3.1.2.2.2.1.4.3.1. Nói về các loài bị thiêu đốt

 

          (Kinh) Ngô công, du diên, độc trùng chi loại, vị hỏa sở thiêu, tranh tẩu xuất huyệt, Cưu Bàn Trà quỷ, tùy thủ nhi thực.

          ()蜈蚣蚰蜒。毒蟲之類。為火所燒。爭走出穴。鳩槃茶鬼。隨取而食。

          (Kinh: Con rết và cuốn chiếu, các loài trùng độc hại, do bị lửa nung đốt, tranh nhau chạy khỏi hang, loài quỷ Cưu Bàn Trà, tùy tiện bắt lấy ăn).

 

          Chán sợ cái lồng Sắc là chướng ngại thô thiển, vui thích hướng về Vô Sắc, ngỡ là sự ĺa thoát tịnh diệu. V́ thế nói “vị hỏa sở thiêu, tranh tẩu xuất huyệt” (bị lửa thiêu, tranh nhau chạy ra khỏi hang). Đă giữ lấy thượng định, sẽ diệt các duyên thuộc cơi dưới. V́ thế nói “Cưu Bàn Trà quỷ, tùy thủ nhi thực” (quỷ Cưu Bàn Trà tùy ư bắt lấy ăn), nhưng nói chung Lợi Sử và Độn Sử đều có thể kham đắc Vô Sắc Định. Nay riêng xét theo sự chán nhàm Độn Sử, chán cơi dưới, cho nên nắm níu cơi trên. Lợi Sử chứng [cảnh giới thuộc] cơi trên, cho nên diệt cơi dưới.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.3.2. Nói về tướng thiêu đốt

 

          (Kinh) Hựu chư ngạ quỷ, đầu thượng hỏa nhiên, cơ khát nhiệt năo, châu chướng muộn tẩu.

          ()又諸餓鬼。頭上火然。饑渴熱惱。周慞悶走。

          (Kinh: Lại c̣n các ngạ quỷ, trên đầu lửa bừng cháy, đói khát, nóng bức khổ. Mê mẩn chạy quẩn quanh).

 

          Chư thiên thuộc Tứ Không Thiên hoàn toàn thiếu thức ăn vô lậu, v́ thế [sánh ví] như ngạ quỷ. Tuy ở tột đỉnh của tam giới, chẳng tránh khỏi vô thường thiêu đốt. V́ thế như “đầu thượng hỏa nhiên” (trên đầu bị đốt lửa). Không có thức ăn chánh đạo, cho nên đói. Chẳng có nước ép trợ đạo, cho nên khát. Vẫn bị tám khổ vi tế bức bách, cho nên Nhiệt (nóng bức). Vẫn bị các Hoặc vi tế hiện hành, cho nên Năo. Vẫn nhiều lượt luân hồi trong sanh tử, chẳng biết lẽ xuất yếu, cho nên nói “châu chướng muộn tẩu” (mê muội chạy quẩn quanh). Phần thứ ba, “trùng tụng chuyện ở ngoài hang hốc để sánh ví Vô Sắc Giới” đă xong.

 

3.3.1.2.2.2.1.4.4. Tổng kết các nạn chẳng phải chỉ có một thứ

 

          (Kinh) Kỳ trạch như thị, thậm khả bố úy, độc hại hỏa tai, chúng nạn phi nhất.

          ()其宅如是。甚可怖畏。毒害火災。眾難非一。

          (Kinh: Nhà ấy như thế đó, hết sức đáng sợ hăi, hỏa tai lắm độc hại, các nạn chẳng phải một).

 

          Phần thứ nhất, trùng tụng Tổng Thí đă xong.

          Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa

phần 5 hết

 



[1] “Chuyển giáo, phó tài” là thuật ngữ của tông Thiên Thai nhằm miêu tả thời Bát Nhă. Trong thời này, đức Phật sai ngài Tu Bồ Đề thay Phật tuyên nói kinh Bát Nhă cho hàng Đại Thừa Bồ Tát. Đó gọi là “chuyển giáo”. Diệu lư Đại Thừa vốn chẳng phải là pháp hàng Thanh Văn có thể biết, nhưng do sức gia bị của Phật, hàng Thanh Văn có thể diễn nói pháp Bát Nhă. Mục đích là khiến cho hàng Thanh Văn thâm nhập diệu lư Đại Thừa, giống như giao phó tài sản gia nghiệp của Như Lai cho họ, nên gọi là “phó tài”.

[2] Ư nói trong thời Hoa Nghiêm, hàng Thanh Văn tuy dự hội mà chẳng lănh hội, cho nên tuy hiện diện mà cũng như không hiện diện. V́ thế nói là “chẳng dự vào tiệc pháp”.

[3] Phạm chí (Brahmacārin) là danh xưng chung để gọi các tu sĩ Bà La Môn. Phạm Chí có nghĩa là “người có chí hướng tu hành phạm hạnh” hoặc “chí hướng cầu sanh lên Phạm Thiên”.

[4] Mỗi tướng của Như Lai hàm chứa vô lượng tướng chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế gọi là “tướng hải”.

[5] Ba Tuần (Pāpīyas, Pāpman, Māra-pāpman) c̣n phiên âm là Ba Bệ Duyên, Ba Bệ, Pha Tuần, Á Tỳ, dịch nghĩa là Sát Giả (kẻ giết chóc), Ác Vật, Ác Trung Ác, Ác Ái, là tên của ma vương thời đức Phật Thích Ca tại thế. Ba Tuần chính là Lục Dục Thiên Chúa (Tự Tại Thiên Vương), thường quấy nhiễu Phật và các đệ tử. Ba Tuần là chữ bị viết sai ngoa, v́ theo các bản kinh cổ, tên của Ma Vương phải viết là Ba Duyện (Huyện) (), nhưng bị viết sai thành Ba Tuần (波旬). Sách Huệ Lâm Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa Chương, quyển mười chép: “Chữ Mục () [trong tên Ma Vương] bị viết sai thành Nhật (), nên viết thành chữ Tuần (), nay kiểm bản tiếng Phạn th́ vốn chẳng có âm Tuần [Do trong tiếng Hán, chữ (Huyện), có ba âm đọc là Duyện, Huyn và Tuần]. Đó là v́ biên chép sai lạc, truyền tụng sai ngoa đă lâu”.

[6] Đây là năm hạnh phải tu tập của Bồ Tát theo kinh Đại Bát Niết Bàn:

1) Thánh Hạnh: Thánh có nghĩa là Chánh. Bồ Tát nương vào Giới, Định, Huệ tu các hạnh.

2) Phạm Hạnh: Phạm nghĩa là “thanh tịnh”. Bồ Tát chẳng đắm nhiễm nhị biên th́ gọi là Tịnh. Dùng tịnh tâm để vận dụng từ bi, ban vui, dẹp khổ cho chúng sanh.

3) Thiên Hạnh: Thiên ở đây là nói đến Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Do lư thiên nhiên (chân tánh, Phật tánh, pháp tánh) mà Bồ Tát thành tựu diệu hạnh.

4) Anh Nhi Hạnh: Anh Nhi (trẻ thơ) ví như nhân thiên và Tiểu Thừa. Bồ Tát dùng tâm từ bi, thị hiện giống như nhân, thiên v.v… hành các điều thiện nhỏ nhoi để tiếp dẫn họ.

5) Bệnh Hạnh: Bồ Tát do tâm b́nh đẳng, vận dụng ḷng vô duyên đại bi, thị hiện có phiền năo giống như chúng sanh, có bệnh khổ v.v… để ḥa quang đồng trần ḥng tiếp dẫn chúng sanh.

[7] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Bát giao đạo là đường lớn thông suốt tám phương, dùng vàng ṛng làm dây giăng hai bên đường để làm ranh giới”.

[8] Theo kinh Duy Ma Cật, khi chư Bồ Tát và chư tỳ-kheo theo chân Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tới thăm cư sĩ Duy Ma Cật đang bị bệnh. Sau khi chư Bồ Tát luận thuyết pháp môn Bất Nhị, cư sĩ Duy Ma Cật thấy sắp đến giờ chư Tăng thọ trai, bèn sai hóa nhân đến cơi Chúng Hương ở thượng phương là quốc độ của Hương Tích Như Lai. Trong cơi ấy, đức Phật dùng cơm thơm làm Phật sự, tức là Ngài dùng cái bát thơm, chứa đầy cơm thơm, trao cho đại chúng. Đại chúng ngửi mùi hoặc ăn vào đều ngộ Vô Sanh Nhẫn, đều thành Bồ Tát, đều cùng có hiệu là Hương Tích Bồ Tát. Khi hóa nhân của ngài Duy Ma Cật đến cơi Chúng Hương xin cơm, chín trăm vạn ức Hương Tích Bồ Tát đều xin Hương Tích Phật cho phép họ theo hóa nhân đến cơi Sa Bà nghe pháp.

[9] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Thành Phật, trọn đủ Nhất Thiết Chủng Trí, được thế gian tôn kính, ngưỡng mộ, cho nên gọi là Phổ Trí Tôn”.

[10] Ư nói: Trước hết, đức Phật quở các vị Thanh Văn chẳng chú ư đức Phật đă nói rơ trước đó: Phật dùng các nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để phương tiện thuyết pháp ư? Thế mà vẫn c̣n thắc mắc v́ sao trước kia Phật nói tam thừa, nay lại chỉ nói Nhất Thừa, c̣n nghi hoặc, chẳng tin ư? Sau đó, đức Phật từ bi hứa dùng thí dụ để họ sẽ từ từ thấu hiểu.

[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chỗ có lănh thổ, nhân dân, và người cầm quyền th́ gọi là Quốc. Một khu vực hành chánh như một huyện th́ gọi là Ấp. Làng xóm th́ gọi là Tụ Lạc. Những điều này nhằm sánh ví chỗ giáo hóa của bậc hóa chủ (vị chủ tŕ sự giáo hóa, chẳng hạn như Phật). Cổ đức cho rằng theo thứ tự [quốc, ấp, tụ lạc] nhằm sánh ví đại thiên, trung thiên, tiểu thiên thế giới, và cũng là theo thứ tự sánh ví ba cơi Thật Báo, Hữu Dư, và Đồng Cư”.

[12] A Hành (阿衡) vốn là một chức quan đời Ân Thương, tương đương với Thái Sư hay Thái Bảo, nắm quyền Tể Tướng. Do vậy, về sau A Hành là một danh xưng để gọi Tể Tướng hay Thừa Tướng, hoặc Thủ Phụ (người đứng đầu các vị đại học sĩ dưới thời nhà Minh), tức là người đứng đầu guồng máy hành pháp của triều đ́nh.

[13] Hàm ư tâm trí có nhiều mưu mẹo quyền biến, sách lược hay khéo.

[14] Bạch khuê là một loại ngọc trắng, thường dùng làm vật dụng để tế lễ vào thời cổ, thường được dùng để sánh ví thân thanh khiết, không lỗi lầm.

[15] Thập Bát Không (Astādaśa śūnyatāh) là mười tám món Không nhằm phá các thứ tà thuyết chấp trước:

1) Nội Không (Adhyātma-śūnyatā): Trong sáu nội xứ của các căn, chẳng có ngă, ngă sở và cũng chẳng có các pháp như nhăn, nhĩ v.v…

2) Ngoại Không (Bahirdhā-śūnyatā): Sáu ngoại xứ trong các pháp sắc, thanh v.v… chẳng có ngă, ngă sở và các pháp như sắc, thanh v.v…

3) Nội Ngoại Không (Adhyātma-bahirdhā-śūnyatā): Trong mười hai xứ thuộc về sáu căn và sáu cảnh (lục trần), chẳng có ngă, ngă sở, và các pháp ấy.

4) Không Không (Śūnyatā-śūnyatā) chẳng chấp vào ba thứ Không trên đây.

5) Đại Không (Mahā-śūnyatā) tức mười phương thế giới, vốn chẳng có tướng phương hướng nhất định, chẳng có tướng đây kia.

6) Đệ Nhất Nghĩa Không (Paramārtha-śūnyatā), c̣n gọi là Thắng Nghĩa Không, Chân Thật Không, ĺa ngoài hết thảy các pháp, chẳng có Thật Tướng Đệ Nhất Nghĩa để có thể đạt được, chẳng chấp trước Thật Tướng.

7) Hữu Vi Không (Sajskrta-śūnyatā): Pháp tạo thành do nhân duyên tụ hợp và pháp nhân duyên cũng như pháp tướng đều chẳng thể được!

8) Vô Vi Không (Asajskrta-śūnyatā): Ĺa khỏi sự chấp giữ nhất định đối với Niết Bàn.

9) Tất Cánh Không (Atyanta-śūnyatā), c̣n gọi là Chí Cánh Không, tức là đối với Hữu Vi Không và Vô Vi Không đều phá hết thảy các pháp, rốt ráo chẳng c̣n thừa sót.

10) Vô Thỉ Không (Anavarāgra-śūnyatā), c̣n gọi là Vô Hạn Không, Vô Tiền Hậu Không, hoặc Vô Tế Không, tức hết thảy các pháp tuy sanh khởi từ vô thỉ, nhưng cũng xả ĺa sự chấp tướng đối với pháp ấy.

11) Tán Không (Anavakāra-śūnyatā) c̣n gọi là Bất Xả Không, Bất Xả Ly Không, tức các pháp chỉ do giả ḥa hợp mà có, rốt ráo xa ĺa tướng tán diệt, vô sở hữu.

12) Tánh Không (Prakrti-śūnyatā), c̣n gọi là Bổn Tánh Không, Phật Tánh Không, tức là tự tánh của các pháp là Không.

13) Tự Tướng Không (Svalaksana-śūnyatā), c̣n gọi là Tự Cộng Tướng Không, Tướng Không, tức các tướng tổng, biệt, đồng, dị của các pháp đều chẳng thể được!

14) Chư Pháp Không (Sarva-dharma-śūnyatā), c̣n gọi là Nhất Thiết Pháp Không, tức Uẩn, Xứ, Giới v.v…, hết thảy các pháp tự tướng bất định, ĺa chấp tướng.

15) Bất Khả Đắc Không (Anupalambha-śūnyatā), c̣n gọi là Vô Sở Hữu Không, tức là trong các pháp nhân duyên, cầu Ngă và Pháp đều bất khả đắc.

16) Vô Pháp Không (Abhāva-śūnyatā), c̣n gọi là Vô Tánh Không, tức là các pháp nếu đă hoại diệt, chẳng có tự tánh để có thể đạt được, pháp vị lai cũng giống như thế.

17) Hữu Pháp Không (Svabhāva-śūnyatā) c̣n gọi là Tự Tánh Không, Phi Hữu Tánh Không, các pháp chỉ do nhân duyên mà có. V́ thế, sự tồn tại trong hiện tại chẳng phải là thật sự tồn tại.

18) Vô Pháp Hữu Pháp Không (Abhāva-svabhāva-śūnyatā), c̣n gọi là Vô Tánh Tự Tánh Không, tức là hết thảy các pháp sanh diệt và pháp vô vi, hết thảy pháp đều bất khả đắc.

[16] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nhà có một tầng gọi là Đường, từ hai tầng trở lên th́ gọi là Các”.

[17] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tường bao vây phía ngoài nhà th́ gọi là Tường, cái để ngăn chia thành từng gian trong nhà th́ gọi là Bích”.

[18] Lương là kèo nhà, c̣n gọi là xà nhà, tức là những thanh gỗ dài để chịu lực nâng đỡ mái nhà, thường đặt trực tiếp trên các đầu cột, có tác dụng nối các cột với nhau để tạo thành bộ khung chịu lực cho toàn thể mái nhà. Đống chính là kèo chính, tức đ̣n dông.

[19] Tứ Đảo là bốn thứ vọng kiến điên đảo, gồm hai loại:

1 Đối với sanh diệt là vô thường, vô lạc, vô ngă, bất tịnh, lại chấp trước là thường, lạc, ngă, tịnh. Đó là Tứ Đảo của phàm phu

2 Đối với Niết Bàn là thường, lạc, ngă, tịnh, lại chấp trước là vô thường, vô lạc, vô ngă, bất tịnh. Đó là Tứ Đảo của hàng Nhị Thừa.

[20] Tứ Kiến là bốn thứ kiến giải chấp trước, tức nhất, dị, thường, phi thường (một, khác, thường, chẳng thường). Trí Độ Luận quyển bảy giảng: “Lại có bốn thứ kiến: Thế gian là thường, thế gian là vô thường, thế gian vừa thường vừa vô thường, thế gian chẳng thường mà cũng chẳng vô thường. Hoặc thế gian là hữu biên hay vô biên, cũng giống như thế”. Hoa Nghiêm Kinh Sớ quyển ba giảng: “Kiến giải của ngoại đạo chẳng ngoài tứ kiến: 1) Chấp vào một, như các vị Số Luận chấp trong nhân phải có quả, do nhân và quả chẳng khác nhau mà chấp vào một. 2) Chấp là khác. Thắng Luận sư do chấp trong nhân không có quả, do nhân và quả khác nhau bèn chấp vào khác. 3) Chấp chẳng một chẳng khác. Lặc Sa Bà luận sư chấp trong nhân có quả, và cũng có nhân mà không có quả. Do chấp vào hữu lẫn vô, nên nói “cũng một, cũng khác”. 4) Chấp chẳng một chẳng khác, như Ni Kiền Tử chấp nhân quả đều chẳng phải một, chẳng phải khác”.

[21] Sau khi đức Phật thành đạo, đă dùng hai mươi mốt ngày để quán tưởng nên hóa độ chúng sanh như thế nào.

[22] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây là sánh ví phương tiện trong tam thừa, là pháp bảo để xuất thế, cho nên quư báu, lạ lùng”.

[23] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây là sánh ví: Đối với quả vị tam thừa, nếu chẳng thừa dịp gặp Phật mà hăng hái tu tập ḥng chứng đạo quả, sau này ắt sẽ buồn rầu, ân hận”.

[24] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Xe dê chậm chạp, ví như quả Thanh Văn. Xe nai chạy nhanh hơn, ví như quả Duyên Giác. Xe trâu chở nặng, ví như quả Bồ Tát. ‘Ở ngoài cửa’: Sánh ví vượt ra ngoài tam giới”.

[25] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây là sánh ví có thể vận dụng tam thừa [để thoát khỏi tam giới]. Hỏi: Tam thừa có tác dụng chuyên chở hành nhân thoát ĺa sanh tử. Nay đă ở ngoài cửa sanh tử, c̣n dùng Thừa để làm ǵ? Đáp: Tam thừa đều là phương tiện giả lập, hoàn toàn chẳng phải là có thật. Nhưng đi trên con đường sanh tử, nếu đă thật sự vượt ra ngoài cửa sanh tử, lại thả chiếc bè Từ qua lại sanh tử, rong ruổi trong Ngũ Ấm, vẫn phải dùng đến tam thừa để hóa độ. Do vận dụng tự tại nên nói là du hư”.

[26] Hai loại người sai sử chính là hai loại người được ông trưởng giả sai khiến trong phẩm Tín Giải:

1. Khi đứa con nghèo mon men đến chỗ cha tính xin làm mướn, thấy cha giàu sang, oai thế, sợ hăi lánh đi. Cha trông thấy, sai người hầu bắt lại. Con sợ bị phạt tội, ngất xỉu. Cha liền bảo họ thả cho đứa con đi.

2. Sau đó sai kẻ hầu h́nh sắc tiều tụy, không có oai đức đến rủ con tới làm công cho cha.

[27] “Ngưng dứt” ở đây là diệt độ. Do có Thiên Chân Niết Bàn và Vô Dư tịch tĩnh Niết Bàn rốt ráo nên nói là “thành có hai”.

[28] Pháp Tướng Duy Thức Tông đối với Thế Tục Đế lập ra bốn tầng nghĩa (Thế Gian Thế Tục Đế, Đạo Lư Thế Tục Đế, Chứng Đắc Thế Tục Đế, Thắng Nghĩa Thế Tục Đế) và đối với Thắng Nghĩa Đế lại lập ra bốn tầng nghĩa nữa (Thế Gian Thắng Nghĩa Đế, Đạo Lư Thắng Nghĩa Đế, Chứng Đắc Thắng Nghĩa Đế, và Thắng Nghĩa Thắng Nghĩa Đế), gọi gộp chung là Bát Đế. Do nội dung của mỗi tầng quá rườm rà nên không ghi vào đây! Trong mỗi Đế ấy, lại có Tứ Thánh Đế, gọi gộp chung là ba mươi hai hạnh.

[29] “Linh” là từ ngữ gọi chung các loại chuông có quả lắc để tạo ra tiếng, trong khi chuông bát (chuông gia tŕ) th́ gọi là đại khánh, chuông treo dùng dùi để gơ th́ gọi là Chung. Linh có nhiều thứ, thường là đúc bằng đồng, chia ra làm hai loại:

- Loại có h́nh chuông, bên trong có treo quả lắc thường dùng tay để lắc vang ra tiếng (thường gọi là thủ linh hay dao linh). Kim Cang Linh (Drilba) của Mật Tông thuộc loại này. Loại linh này c̣n có thể treo quanh các tháp, các kiến trúc thờ tự, gió động sẽ vang ra tiếng. Loại linh này khác phong linh (do phong linh chế bằng nhiều chất liệu và có h́nh dáng khác nhau, nhưng phong linh thường là có các thanh kim loại va vào nhau, hoặc các ống kim loại, thủy tinh, sành sứ, gỗ, đá v.v… để phát ra tiếng khi gió lùa qua).

- Loại có h́nh cầu, bên trong có một hạt cứng bằng kim loại. Loại linh này thường dùng để treo vào cổ các thú cưng (chó, mèo), hay dùng cho nhạc ngựa, nhạc lừa, hoặc đeo vào cổ chân cổ tay để nhảy múa, hay dùng như một món trang sức…

[30] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Dùng các chất báu kết thành dây, giăng xen để giữ cho màn, lọng khỏi bị thổi bay”.

[31] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đẹp đẽ, mềm mại th́ gọi là Uyển. Nệm để lót ngồi gọi là Diên. Trùng phu uyển diên là trong xe lót nhiều đệm dày êm ái”.

[32] Theo pháp sư Phổ Hành, “đan” ở đây phải hiểu là đan dược, tức các loại dược phẩm được lót vào trong gối dựa, có tác dụng an thần, thư thái. Ở đây, chúng tôi dịch là “gối đỏ” dựa theo lời giảng của tổ Ngẫu Ích.

[33] Pháp sư Phổ Hành: “Màn căng phủ trên xe gọi là Hiển, thứ che trên đỉnh xe được gọi là Cái”.

[34] Đây là nói đối ứng với Tứ Chánh Cần: Hai điều thiện thế gian chính là điều thiện đă nẩy sanh và điều thiện sẽ sanh. Hai điều ác thế gian cũng giống như thế: Điều ác đă làm và điều ác sắp làm.

[35] Theo Bách Pháp Minh Môn Luận, Thiện tâm sở bao gồm mười một pháp: Tín, Tinh Tấn (Cần), Tàm, Quư, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh An, Chẳng Phóng dật, Hành Xả, và Bất Hại.

[36] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nền móng nhà là Cơ, các bậc thềm, tam cấp là Bệ”.

[37] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nê là chất dùng để trát vách, xây vách. Chữ ‘’ phải đọc là Trĩ, có nghĩa là rơi rụng, hư nát”.

[38] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phú thiêm: Dùng cỏ tranh để bện thành tấm lợp nhà. Các tấm tranh ấy được gọi là Phú Thiêm”.

[39] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Các xà ngang có h́nh góc tṛn nối kết với nhau bằng mộng th́ gọi là Chuyên Lữ”.

[40] Chúng tôi dịch đoạn này theo cách diễn giải của pháp sư Phổ Hành.

[41] Bách túc (Centipedes) tức là loài trùng thân h́nh nhỏ dài, có nhiều đốt, mỗi đốt có một cặp chân, ta thường gọi chung là Rết, tuy chúng có nhiều chủng loại khác nhau. Kích cỡ của chúng dao động từ vài millimeter đến cả 30 cm. Loài bách túc thường có nọc độc. Cũng giống như Bách Túc, c̣n có một số loài trùng thường gọi là Thiên Túc (Millipedes) mà chủng loại đặc trưng là cuốn chiếu. Thiên Túc khác với Bách Túc ở chỗ các cặp chân ở phía dưới, trong khi Bách Túc chân ở hai bên ḿnh. Bách Túc di chuyển nhanh, ăn thịt các côn trùng khác, có độc, c̣n Thiên Túc chậm chạp, ăn vụn chất hữu cơ và lá mục, phần nhiều có thể cuộn tṛn lại khi gặp nguy hiểm.

[42] Độc đầu vô minh, c̣n gọi là Bất Cộng Vô Minh, tức là trong một loại của sáu thứ phiền hoặc lớn (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến), đột ngột dấy lên vô minh, chẳng cùng hiện hành với năm loại kia, nên gọi là Độc Đầu Vô Minh. Hễ có liên quan đến năm loại khác th́ gọi là Tương Ứng Vô Minh.

[43] Cam Khẩu Thử (甘口鼠) theo truyền thuyết là một loài chuột rất lớn, có chất độc, có thể ăn cả người và các loài thú to như nai. Ai gặp phải nó, sẽ bị nó phun hơi độc khiến tứ chi bủn rủn, ngứa ngáy. Nhưng hiện thời, Hề Thử chỉ có nghĩa là loài chuột nhà như chuột cống, chuột chù…