Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
Luân Quán Hội Nghĩa
phần 5
Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh Thai Tông Hội Nghĩa, quyển thứ hai
Đất
Cổ Ngô, Ngẫu Ích Trí Húc trước thuật
妙法蓮華經綸貫會義
古吳後學蕅益智旭述
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và
Huệ Trang
3. Phẩm thứ ba: Thí Dụ (Thí Dụ
phẩm đệ tam, 譬喻品第三)
Giải
thích phẩm Phương Tiện đă xong, kế đến
giải thích phẩm Thí Dụ. Giải
thích phẩm này, cũng chia làm hai: Trước là Tổng,
sau là Biệt.
3.1. Tổng luận
3.1.1. Tổng Thích
Thí (譬) là so sánh, Dụ
(喻) là răn bảo
cho thông hiểu. Mượn chuyện này để so sánh với
chuyện kia, nhờ vào chuyện nông cạn để răn
dạy sâu xa. [Trong phẩm này], trước là văn Trường
Hàng, sau là Kệ Tụng, nói cặn kẽ Quyền và Thật
của năm loại Phật (chư Phật nói chung, tam thế
Phật, và Phật Thích Ca). Bậc thượng căn lợi
trí nghe pháp viên dung bèn đắc ngộ, phường trung hạ
căn vẫn giữ mê chấp chẳng bỏ. [Đức
Phật] đại bi chẳng ngơi, trí thiện
xảo vô biên, lại dùng chuyện tương tự để
sánh ví, ḥng mở mang tâm trí cho họ, chỉ bảo khiến
cho họ ngộ. V́ thế, nói là Thí Dụ.
3.1.2. Biệt Thích
Dùng nhân
duyên, xét theo giáo, Bổn Tích và quán tâm [để giải thích].
3.1.2.1. Nhân duyên
Dùng chuyện cha con
trong thế gian để sánh ví thầy tṛ xuất thế.
Do chuyện đă từng có mà được nghe điều
chưa từng có, bèn hớn hở, hoan hỷ. Đó là Thế
Giới Ích (Thế Giới Tất Đàn). Lại dùng các vật
dụng trong thế gian để sánh ví khí cụ xuất
thế gian, khiến cho [chúng sanh] được nghe giáo pháp
diễn tả bằng âm thanh của đức Phật, sẽ chẳng
bỏ mất Đại Thừa, [thấu hiểu] “những
ǵ các ngươi đă hành chính là Bồ Tát đạo”. Đấy
là Vị Nhân Ích (Vị Nhân Tất Đàn). Lại dùng sự
diệt
mất trong thế gian để sánh ví sự diệt độ
xuất thế, dẹp trừ nỗi khổ nạn ấy,
khiến cho họ khỏi bị nung đốt: “Ta đă
đắc Lậu Tận, nghe pháp cũng trừ ưu năo”.
Đó là Đối Trị Ích (Đối Trị Tất Đàn).
Lại nữa, dùng sự bất sanh bất diệt của
thế gian để sánh ví sự bất sanh bất diệt
xuất thế gian, ngồi cỗ xe báu ấy đến thẳng đạo tràng, an trụ trong Thật Trí, ta nhất định
sẽ thành Phật. Đó là Đệ Nhất Nghĩa Ích (Đệ
Nhất Nghĩa Tất Đàn). Đức Phật dùng một
âm thanh nói thí dụ, khéo khiến cho trung căn và hạ căn
đều đạt được bốn món lợi ích
Tất Đàn. V́ thế nói ra phẩm Thí Dụ.
3.1.2.2. Xét theo giáo
Ư Phật vốn tán
dương Phật Thừa, nhưng v́ chúng sanh chẳng thể
kham nổi, bèn suy nghĩ t́m kiếm phương
tiện đại bi của chư Phật thuở trước,
đi đến Lộc Uyển, xưng dương, tán thán
ba cỗ xe (tam thừa). Pháp Nhị Thừa để trung
hạ căn tự tế độ, ân ấy chẳng ai sánh
bằng! Bồ Tát đánh xe trâu, chở họ thoát khỏi
lửa. V́ thế gọi là Ma Ha Tát. Đấy là thí dụ
trong Tam Tạng Giáo. Lại nữa, có ba hạng người
cùng sợ bị thiêu đốt: Thanh Văn như con hoẵng,
chạy thẳng không trở lại. Duyên Giác như nai mẹ,
vừa chạy vừa ngoái lại nh́n. Bồ Tát như voi
to, dùng thân chặn đao và tên cho cả bầy cùng thoát thân.
Đó là thí dụ trong Thông Giáo.
Lại nữa, Nhị
Thừa phát tâm nông cạn, duyên theo lư cạn, trí huệ yếu
ớt, chỉ đoạn Thông Hoặc, chẳng thể trừ
khử đến tận cùng, chẳng phải
là Ba La Mật. Bồ Tát phát tâm lâu xa, lư sâu, trí mạnh, có thể
đoạn Biệt Hoặc, tột cùng nguồn tánh. Do vậy,
kinh Đại Phẩm nói: “Nhị Thừa như huỳnh
hỏa, Bồ Tát như nhật quang” (Nhị
Thừa như lửa đom đóm, Bồ Tát như ánh sáng
mặt trời). Đó là thí dụ trong Biệt Giáo.
Lại nữa, “thỉ
kiến ngă thân, văn ngă sở thuyết, tức giai tín thọ,
nhập Như Lai huệ, như tư chi nhân, dị khả
hóa độ, bất linh Như Lai sanh vu b́ khổ” (mới
thấy thân ta, nghe lời ta nói, đều cùng tin nhận,
nhập trí huệ của Như Lai. Người như vậy
có thể hóa độ dễ dàng, chẳng khiến cho Như
Lai sanh vào chốn mệt nhọc, khổ sở). Như
trong kinh Hoa Nghiêm, từ ngay nơi Sự mà [chứng nhập]
Chân, chẳng cần đến thí dụ (chẳng phải
là trong kinh Hoa Nghiêm không có thí dụ, nhưng người
đă nhập đạo chẳng phải nhờ vào đó).
V́ kẻ chưa nhập mà suốt hơn bốn
mươi năm, [đức Phật] dùng phương tiện
lạ để giúp hiển lộ Đệ Nhất
Nghĩa. Nay tại Linh Sơn, quyết định nói Đại
Thừa, khiến cho khắp hết thảy đều được
“khai, thị, ngộ, nhập” tri kiến của Phật,
chẳng để riêng một ai được diệt độ.
Hiện thời giống như thoạt đầu, thoạt
đầu giống như hiện thời, chẳng hai, chẳng
khác. Bậc thượng căn lợi trí vừa nghe liền
có thể hiểu, chẳng khiến cho Như Lai sanh vào chốn
mệt nhọc, khổ sở, mà cũng chẳng cần phải
nói thí dụ. Chỉ v́ phường trung hạ căn lẩn
quẩn nơi ngơ rẽ; v́ thế, nay cần phải có thí
dụ “cỗ xe lớn” để
họ đạt được lợi ích. Đó gọi là
thí dụ trong Viên Giáo.
3.1.2.3. Xét theo Bổn Tích
Trong Tích Môn đă có
thí dụ về tứ giáo. Dùng Tích để suy ra Bổn:
Ngay trong lúc thành đạo thuở ban sơ, cũng nên dùng
các thí dụ để thành thục chúng sanh. Lại v́ hạt
sen mà trổ hoa v.v… dùng các thí dụ [như thế] để
sánh ví Bổn, thực hiện Tích. Nói cặn kẽ th́ như
trong phần luận về Huyền Nghĩa đă nói.
3.1.2.4. Xét theo quán tâm
Không như
trâu trắng, Giả như dụng cụ, Trung như Thể
của chiếc xe (tựa đề của phẩm này đáng
lẽ phải đặt sau phần chư thiên nói kệ,
trước thí dụ về nhà lửa. Do người san định
kinh điều chỉnh, cho nên xếp đặt như vậy).
Phần thứ nhất
là Pháp Thuyết Châu, có năm đoạn văn như trên [trong
quyển một của bộ sách này] nhằm giảng thẳng
vào Pháp Thuyết đă xong.
3.2. Thân Tử lănh nhận, thông hiểu
3.2.1. Người kết tập kinh
trần thuật
(Kinh) Nhĩ thời,
Xá Lợi Phất dũng dược, hoan hỷ, tức khởi hiệp chưởng, chiêm
ngưỡng tôn nhan.
(經)爾時舍利弗。踊躍歡喜。卽起合掌。瞻仰尊顏。
(Kinh: Lúc
bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất hớn hở, hoan hỷ,
liền đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng
dung nhan tôn quư [của đức Phật]).
“Dũng dược,
hoan hỷ” (hớn hở, hoan hỷ): Trần thuật
sự thông hiểu trong nội tâm. “Hiệp chưởng,
chiêm ngưỡng” (chắp tay, chiêm ngưỡng): Trần
thuật h́nh thái bên ngoài. Tin hiểu trong tâm là “hoan hỷ”.
Vui mừng biểu lộ ra ngoài thần sắc th́ gọi
là “dũng dược” (hớn hở). Từ người
mầu nhiệm (đức Phật), được nghe diệu
pháp, đạt được diệu giải. Nội ngoại
ḥa hợp, khiến đạt được sự hoan hỷ
ấy. Đó là giải thích theo Thế Giới Tất Đàn.
Lại đổi Tiểu,
học theo Đại, bỏ chuyện “nghèo hèn, sống
trong am tranh”, nhận lấy gia nghiệp của bậc
phú hào; nay mới biết chính ḿnh thật sự là con của
đức Phật. Do vậy, hoan hỷ. Đó là giải thích
theo Vị Nhân Tất Đàn.
Lại nữa, buồn
rầu lẫn hối hận đều dứt, nghi nan cùng
trừ, chướng ngại trong ngoài đều gột sạch
thênh thang. V́ thế nói: “Ngă dĩ đắc Lậu Tận,
văn diệc trừ ưu năo” (ta đă được
Lậu Tận, nghe nói cũng trừ ưu năo). Đó là dùng
Đối Trị Tất Đàn để giải thích chữ
“hoan hỷ”.
Lại nữa, những
ǵ Phật tử đáng nên đạt được, ta đều
đă đạt được, an trụ trong Thật Trí,
ta nhất định sẽ thành Phật. V́ thế hoan hỷ.
Đó là dùng Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn để
giải thích.
Xét theo giáo, hoan hỷ
là vui mừng v́ dự vào địa vị. A La Hán thoát khỏi
lồng rọ tam giới, phá các quả nơi Tứ Trụ
(thiên trụ, phạm trụ, thánh trụ, Phật trụ),
đối với điều hại chẳng lo buồn, gặp
điều lợi chẳng vui sướng. Nay nói “hoan hỷ”,
chắc chắn chẳng phải là niềm vui thế gian!
Nếu đă sáng tỏ Khổ Nhẫn, tận Vô Sanh Trí trước
đó đă đạt được, th́ nay sẽ chẳng
hoan hỷ lần nữa. Như ba hạng người cùng
dùng vô ngôn để nói năng. Thể [Không Quán] và Tích
[Không Quán] tuy khác nhau, đều chứng Không giống hệt
như nhau, hoan hỷ giống hệt như nhau. Nếu đă
đạt được từ lâu, cũng
sẽ chẳng lại hoan hỷ nữa. Nếu cả
hai đằng đều là Không, Quán sẽ là phương
tiện đạo. Giả Quán quét sạch sự chật hẹp,
thô lậu của Nhị Thừa. Không Quán quét sạch sự
ồn ào, hạn hẹp của phàm phu. Do đă vượt
khỏi lỗi ác nhị biên, cho nên đại hoan hỷ.
Chứng đạo giống như trong Viên Giáo, tức là
Phát Tâm Trụ cũng được gọi là Hoan Hỷ Trụ.
Lại nữa, Sơ
Hạnh (địa vị đầu tiên trong Thập Hạnh)
được gọi là Hoan Hỷ Hạnh. Sơ Địa
cũng được gọi là Hoan Hỷ Địa. Thân
Tử (ngài Xá Lợi Phất) đă là bậc thượng
căn, lợi trí, chắc là đă siêu việt,
tiến nhập Hoan Hỷ Địa. Nếu chẳng siêu việt, tiến nhập, ắt cũng
thuộc Hoan Hỷ Trụ.
Xét theo Bổn Tích, ngài Thân Tử thành Phật đă lâu, hiệu là Kim Long Đà,
ứng tích phụ trợ Phật Thích Ca, là bậc đệ
tử trí huệ. Thoạt đầu, Ngài từ
ngoại đạo, dẹp tà, quy chánh, thị hiện sự
hoan hỷ nơi vị sữa ḥng lợi ích phàm phu. Kế
đó, thị hiện sự hoan hỷ nơi vị lạc,
nhằm lợi ích hiền thánh. Kế đó, thị hiện
sự hoan hỷ nơi hai thứ tô (sanh tô và thục tô) ḥng
lợi ích Bồ Tát. Nay Ngài thị hiện sự hoan hỷ
nơi vị đề hồ, nhằm lợi ích người
học Phật đạo. Các thứ hoan hỷ như thế
đều được thực hiện nơi Tích.
Xét theo Quán Tâm, Quán Tâm
chính là “Không, Giả, Trung”, từ Danh Tự Hoan Hỷ cho đến
Cứu Cánh Hoan Hỷ.
“Tức khởi
hiệp chưởng” (liền đứng dậy, chắp
tay), biểu thị đă hiểu Quyền. Xưa kia, Quyền
và Thật là hai, như hai bàn tay chẳng chắp lại.
Nay hiểu Quyền chính là Thật, như hai bàn tay chắp
lại. “Chiêm ngưỡng tôn nhan” biểu thị “đều
là Thật”, chẳng c̣n nghĩ ǵ khác, chỉ duyên theo Phật
cảnh. “Hoan hỷ dũng dược” (hoan hỷ, hớn hở)
là nói chung sự hoan hỷ do ba nghiệp đều tiếp
nhận, thấu hiểu. “Tức khởi hiệp chưởng”
là thân nghiệp. “Chiêm ngưỡng tôn nhan” là ư nghiệp.
Sau đó, bạch với đức Phật là khẩu nghiệp. [Đoạn kinh văn này] nêu trọn sự lănh nhận, thấu
hiểu nơi ba nghiệp.
3.2.2. Ngài Thân Tử tự trần thuật
3.2.2.1. Trường Hàng
32.2.1.1. Nêu ra ba điều hoan hỷ
(Kinh)
Nhi bạch Phật ngôn: - Kim tùng Thế Tôn, văn thử pháp
âm, tâm hoài dũng dược, đắc vị tằng hữu.
(經)而白佛言。今從世尊聞此法音。心懷踊躍。得未曾有。
(Kinh: Bèn
bạch cùng đức Phật rằng: - Nay con nghe pháp âm này
từ đức Thế Tôn, ôm ḷng hớn hở, đạt
được điều chưa từng có).
“Kim tùng Thế Tôn”
(nay từ đức Thế Tôn): Nói rơ con đích thân thân cận
Phật thân. V́ thế gọi là “thân hỷ”. Nghe pháp âm ấy
từ nơi miệng Phật, nghe xong hoan hỷ, nên gọi là “khẩu hỷ”. Đạt được
điều chưa từng có, tức là tâm con có thể thấu
hiểu ư Phật. V́ thế, gọi là “ư hỷ”.
3.2.2.1.2. Giải thích
Nêu ra những
sơ sót trước kia ḥng hiển lộ điều đạt
được trong hiện thời. Lại do nỗi cảm
thương trước kia mà tạo thành niềm hoan hỷ
trong hiện tại.
(Kinh) Sở
dĩ giả hà? Ngă tích tùng Phật văn như thị pháp,
kiến chư Bồ Tát thọ kư tác Phật, nhi ngă đẳng
bất dự tư sự, thậm tự cảm thương,
thất ư Như Lai vô lượng tri kiến.
(經)所以者何。我昔從佛聞如是法。見諸菩薩受記作佛。而我等不預斯事。甚自感傷。失於如來無量知見。
(Kinh: V́ lẽ
nào vậy? Xưa kia từ nơi Phật, con được
nghe pháp như thế, thấy các Bồ Tát được
thọ kư thành Phật, nhưng chúng con chẳng được
dự vào chuyện ấy, hết sức cảm thương,
đánh mất vô lượng tri kiến của Như Lai).
Tuy
cũng từ đức Phật nghe pháp như thế, nhưng
bản thân chẳng được dự vào chuyện ấy,
tức là thân cách xa Phật. V́ thế, chẳng có thân hỷ.
Đó gọi là “tuy gần mà xa”. Lại nghe mà khác nào
chẳng nghe, cho nên chẳng có khẩu hỷ. Hết sức
tự cảm thương, cho nên chẳng có ư hỷ. Thấy
các Bồ Tát được thọ kư thành Phật, tức
là nói đến thời Phương Đẳng khen Viên ngợi
Đại, lại do bị quở trách, bài xích Tiểu pháp mà cảm thương.
(Kinh) Thế
Tôn! Ngă thường độc xử sơn lâm thụ hạ,
nhược tọa, nhược hành, mỗi tác thị niệm:
“Ngă đẳng đồng nhập pháp tánh, vân hà Như Lai dĩ
Tiểu Thừa pháp nhi kiến tế độ?”
(經)世尊。我常獨處山林樹下若坐若行。每作是念。我等同入法性。云何如來以小乘法而見濟度。
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Con thường ở một ḿnh trong núi rừng,
dưới cội cây, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, thường
nghĩ như thế này: “Chúng ta cùng nhập pháp tánh, cớ
sao Như Lai dùng pháp Tiểu Thừa để tế độ?”)
Dưới cội
cây trong núi rừng là chỗ suy nghĩ. “Nhược tọa,
nhược hành” (hoặc ngồi,
hoặc kinh hành) là tư thế suy niệm. Nói “đồng
nhập pháp tánh” tức là Tạng Giáo và Thông Giáo đều
coi Thiên Chân là pháp tánh. Khi nghe Tam Tạng, bèn hư vọng chấp
trước “Đại Sĩ thật sự chỉ chế
phục Hoặc trong ba A-tăng-kỳ kiếp”, tự vui
thích pháp tánh đă chứng trước đó, chẳng nên
suy niệm [những giáo pháp khác]. Ấy là do khi nghe thời
Phương Đẳng, ngầm đạt được
lợi ích chung, nghe nói Thật Tướng của các pháp, người
trong tam thừa
đều cùng đạt được, [bèn thắc mắc]:
“Đă là cùng nhập Chân Đế pháp tánh, cớ sao Bồ
Tát được thọ kư, chúng con rốt cuộc vẫn
trụ trong Tiểu quả?”
Bởi thế, nghi niệm chẳng thể
giải quyết được! Chẳng biết “nương
vào Trung Đạo pháp tánh của Đại Thừa th́ mới
có giáo nghĩa thành Phật”. [Đức Phật] “dùng
pháp Tiểu Thừa để tế độ” là v́ [hàng
Tiểu Thừa] chẳng nghe Đại pháp, cho nên chẳng
có khẩu hỷ. Hư vọng so đo [chính ḿnh và hàng Bồ
Tát] cùng nhập pháp tánh, chẳng hiểu Quyền lư. Do vậy,
chẳng có ư hỷ. Ở
riêng một chỗ để ngồi, hoặc
kinh hành, tức là thân cách xa Phật, cho nên chẳng có thân hỷ!
(Kinh) Thị ngă
đẳng cữu, phi Thế Tôn dă! Sở dĩ giả hà?
Nhược ngă đẳng đăi thuyết sở nhân thành tựu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, tất
dĩ Đại Thừa nhi đắc độ thoát. Nhiên
ngă đẳng bất giải phương tiện tùy nghi sở
thuyết. Sơ văn Phật thuyết, ngộ tiện tín
thọ, tư duy, thủ chứng.
(經)是我等咎。非世尊也。所以者何。若我等待說所因成就阿耨多羅三藐三菩提者。必以大乘而得度脫。然我等不解方便隨宜所說。初聞佛說。遇便信受。思惟取證。
(Kinh: Đó là
lỗi của chúng con, chẳng phải lỗi của đức
Thế Tôn. V́ cớ sao vậy? Nếu chúng con chờ Phật
nói cái nhân thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ắt
sẽ do pháp Đại Thừa mà được độ
thoát. Nhưng chúng con chẳng hiểu đức Phật
đă dùng phương tiện, thuận theo cơ nghi để
nói, vừa mới nghe đức Phật nói [Tiểu pháp], đă liền
tin nhận, tư duy, chứng lấy).
Thoạt đầu
suy nghĩ cho là Như Lai có ḷng thiên vị,
cho nên Ngài dùng pháp Tiểu Thừa để tế độ [hàng Nhị Thừa]. Suy nghĩ
lâu ngày, dẫn đến tự quy lỗi về ḿnh. V́ thế
nói “thị ngă đẳng cữu, phi Thế Tôn dă” (là
lỗi của chúng con, chẳng phải lỗi của đức
Thế Tôn). Từ câu “sở dĩ giả hà” (v́ cớ
sao vậy) trở đi, giải thích v́ sao đă tạo thành
lỗi. Ấy là v́ trong thời Bát Nhă chuyển giáo, phó tài[1], ngầm đạt
được lợi ích riêng biệt, đă biết Trung Đạo
pháp tánh ở ngoài tam giới chính là chánh nhân để thành
tựu Vô Thượng Bồ Đề, nhưng chúng con là độn căn, đă chẳng thể tiếp nhận,
đáng nên chờ lúc [mặt trời] chiếu đến núi cao trước (tức thời Hoa Nghiêm) [đă xong, Phật sẽ dần dần hóa độ], [chúng con] lại muốn mau chóng chứng
đắc, trông thấy
Tiểu pháp bèn vội vàng chấp lấy để chứng
nhập. Lại chẳng biết tạm ngừng nghỉ đôi
chút để chờ giáo pháp thuộc các thời Phương
Đẳng, Bát Nhă. V́ thế, quy lỗi vào ḿnh. Nhưng vẫn
chẳng biết sở chứng (những ǵ chính ḿnh đă
chứng) chẳng phải là diệt độ thật sự,
[chẳng biết] những ǵ đă hành chính là Bồ Tát
đạo. Chẳng đợi [đức Phật] nói đến
cái nhân [của Bồ Tát đạo], tức là chẳng hiểu
Thật. Chẳng hiểu [đức Phật] do phương
tiện tùy theo cơ
nghi mà nói [các pháp trung hạ], tức là chẳng hiểu
Quyền. Do chẳng hay khéo thấu hiểu Quyền và Thật,
cho nên chẳng có ư hỷ. Do tin nhận ngay lời dạy
thuở ban đầu, cho nên chẳng có khẩu hỷ. Tư
duy, chứng lấy Thiên Chân Niết Bàn, tức là trái nghịch,
xa ĺa Pháp Thân thường lạc của Như Lai, cho nên chẳng
có thân hỷ. Đều là dùng lỗi lầm thuở trước
để giải thích sự hoan hỷ trong hiện thời.
Phần thứ hai là giải thích đă xong.
3.2.2.1.3. Tiểu kết nhằm kết lại ba điều
hoan hỷ được thành tựu trong hiện thời
3.2.2.1.3.1. Tiểu kết
(Kinh) Thế Tôn!
Ngă tùng tích lai, chung nhật cánh dạ, mỗi tự khắc
trách, nhi kim tùng Phật văn sở vị văn, vị tằng hữu pháp, đoạn
chư nghi hối, thân ư thái nhiên, khoái đắc an ổn.
(經)世尊。我從昔來。終日竟夜每自剋責。而今從佛聞所未聞未曾有法。斷諸疑悔。身意泰然。快得安隱。
(Kinh: Bạch
Thế Tôn! Con từ trước đến nay, suốt ngày
thâu đêm thường tự trách ḿnh, nay từ đức
Phật mà được nghe pháp chưa từng có trước
nay chưa hề nghe, dứt các ngờ vực, hối hận,
thân ư thảnh thơi, vui sướng, an ổn).
Nhắc lại chuyện
quy lỗi vào ḿnh trong phần trước, gọi là tự
“khắc trách”, tỏ rơ hiện thời ba nghiệp đều hoan hỷ
trọn khắp. [Nói] “tùng Phật” là thân cận Phật
thân, nhằm tiểu kết ư “thân hỷ”. “Văn pháp”
(nghe pháp) là [được nghe] viên âm từ kim khẩu, kết
lại ư “khẩu hỷ”. “Khoái đắc an ổn”
(vui sướng, an ổn) tức là ư ḿnh giống
như ư Phật, tiểu kết “ư hỷ”. Nói “văn
sở vị văn” (nghe điều chưa từng nghe):
Núi cao được chiếu trước, chẳng dự
vào pháp tịch[2]. Do vậy, “chưa
nghe”. Tam Tạng là nói quyền biến, chẳng diễn
nói lư Trung Đạo, cho nên là “chưa nghe”. Phương
Đẳng quở trách tiểu pháp, mầm cháy hạt lép
chẳng có phần, cho nên “chưa nghe”. Bát Nhă chuyển
giáo, chỉ v́ Bồ Tát, cho nên [hàng Nhị Thừa] “chưa
nghe”.
Lại nữa,
[trong thời] Tam Tạng, chỉ nghe Thiên Chân. Thông
Giáo chỉ nghe “tức Chân”, Biệt Giáo chỉ nghe “thoát
khỏi nhị biên th́ mới gọi là Trung Đạo”,
chưa nghe “phương tiện chính là chân thật”. V́
thế, gọi là “pháp chưa từng có”. [Thắc mắc
Như Lai] “v́ sao dùng tiểu pháp để tế độ”
tức là nghi Phật; đó là lỗi của chúng con. Đấy
là tự hối hận, nay chẳng c̣n ngờ vực nữa,
mà cũng chẳng c̣n hối hận nữa! Do vậy, thảnh
thơi, an ổn!
3.2.2.1.3.2. Thành tựu
(Kinh) Kim nhật
năi tri chân thị Phật tử, tùng Phật khẩu sanh, tùng
pháp hóa sanh, đắc Phật pháp phần.
(經)今日乃知真是佛子。從佛口生。從法化生。得佛法分。
(Kinh: Ngày nay
mới biết con thật sự là Phật tử, sanh từ
miệng Phật, từ pháp hóa sanh, có phần nơi Phật
pháp).
Thật sự là Phật
tử th́ thân được gần Phật, ư nghĩa “thân
hỷ” đă thành. “Tùng Phật khẩu sanh” (sanh từ
miệng Phật), ư nghĩa “khẩu hỷ” đă thành.
“Tùng pháp hóa sanh” (hóa sanh từ pháp), ư nghĩa “ư hỷ”
đă thành. “Đắc Phật pháp phần” (có phần
nơi Phật pháp), tức là phần chứng tam đức
bí tạng. Nhưng khi ngài Thân Tử
vừa mới chứng A La Hán, cũng được gọi
là “trưởng
tử” của Phật.
“Sanh từ miệng Phật, từ pháp hóa sanh” là từ
hiện thời mà so sánh với quá khứ. Trước kia
chỉ là Quyền, cho nên chẳng gọi là Chân, ngày nay mới
là Chân. Đó là xét theo ư nghĩa đối đăi.
Lại nữa,
trong thời Phương Đẳng và Bát Nhă, Bồ Tát
được gọi là “Phật tử”, chứ Thanh
Văn chẳng có phần nơi Phật pháp. Nay mới biết
chính ḿnh vốn là Phật tử chân thật. Đó là xét
theo ư nghĩa “khai hiển” (khai tam, hiển
nhất). Phần thứ nhất, kinh văn Trường Hàng
đă xong.
3.2.2.2. Kệ Tụng
3.2.2.2.1. Trùng tụng nêu bày các điều
hoan hỷ và chưa từng có
(Kinh) Nhĩ thời,
Xá Lợi Phất dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết
kệ ngôn: - Ngă văn
thị pháp âm, đắc sở vị tằng hữu, tâm
hoài đại hoan hỷ, nghi vơng giai dĩ trừ.
(經)爾時舍利弗。欲重宣此義而說偈言。我聞是法音。得所未曾有。心懷大歡喜。疑網皆已除。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, ngài Xá Lợi
Phất muốn nói lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:
- Con nghe pháp âm này, được điều chưa từng
có, tâm hết sức hoan hỷ, lưới nghi đều đă
trừ).
“Ngă văn” (con
nghe) tức là đích thân nghe từ đức Phật, cùng
nêu ra thân và khẩu, “đắc vị tằng hữu”
(đạt được điều chưa từng có) là
nêu ra ư. Những điều khác dễ thấy.
3.2.2.2.2. Trùng tụng nhằm giải
thích
3.2.2.2.2.1. Trùng tụng về chuyện
chẳng mất phần nơi Phật pháp
(Kinh) Tích lai mông
Phật giáo, bất thất ư Đại Thừa, Phật
âm thậm hy hữu, năng trừ chúng sanh năo, ngă dĩ đắc
lậu tận, văn diệc trừ ưu năo.
(經)昔來蒙佛教。不失於大乘。佛音甚希有。能除眾生惱。我已得漏盡。聞亦除憂惱。
(Kinh: Từ xưa
nhờ Phật dạy, chẳng đánh mất Đại
Thừa, tiếng Phật rất hy hữu, trừ chúng sanh
phiền năo. Con đă đắc Lậu Tận, nghe cũng
trừ ưu năo).
“Bất thất Đại
Thừa” là nói đến thân hỷ. “Phật âm hy hữu”
nói tới khẩu hỷ. “Lậu tận trừ năo”
(hết lậu hoặc, trừ phiền năo): Nói về ư hỷ.
Xưa vốn chẳng hề mất, chỉ v́ mê mà lầm
tưởng là đă bị mất.
3.2.2.2.2.1. Trùng tụng về lầm
lỗi khi trước
(Kinh) Ngă xử
ư sơn cốc, hoặc tại lâm thụ hạ, nhược
tọa, nhược kinh hành, thường tư duy thị
sự. Ô hô, thâm tự trách, vân hà nhi tự khi? Ngă đẳng
diệc Phật tử, đồng nhập vô lậu pháp, bất
năng ư vị lai, diễn thuyết vô thượng đạo.
Kim sắc tam thập nhị, Thập Lực, chư giải
thoát, đồng cộng nhất pháp trung, nhi bất đắc
thử sự! Bát thập chủng diệu hảo, thập
bát bất cộng pháp, như thị đẳng công đức,
nhi ngă giai dĩ thất. Ngă độc kinh hành thời, kiến
Phật tại đại chúng, danh văn măn thập
phương, quảng nhiêu ích chúng sanh. Tự duy thất thử
lợi, ngă vị tự khi cuống.
(經)我處於山谷。或在林樹下。若坐若經行。常思惟是事。嗚呼深自責。云何而自欺。我等亦佛子。同入無漏法。不能於未來。演說無上道。金色三十二。十力諸解脫。同共一法中。而不得此事。八十種妙好。十八不共法。如是等功德。而我皆已失。我獨經行時。見佛在大眾。名聞滿十方。廣饒益眾生。自惟失此利。我為自欺誑。
(Kinh: Con ở
nơi hang núi, trong rừng, dưới cội cây, hoặc
ngồi, hoặc kinh hành, thường suy nghĩ chuyện
này. Than ôi! Rất tự trách, sao lại tự dối ḿnh? Con
cũng là Phật tử, cùng nhập pháp vô lậu, chẳng
thể trong vị lai, diễn nói đạo vô thượng.
Thân vàng băm hai tướng, Thập Lực, các giải
thoát, cùng chung trong một pháp, nhưng chẳng đắc
chuyện này! Tám mươi thứ diệu hảo, mười
tám pháp bất cộng, các công đức như thế, con
thảy đều đă mất! Khi con riêng kinh hành, thấy
Phật trong đại chúng, tiếng tăm trọn mười
phương, rộng lợi ích chúng sanh. Tự nghĩ mất
lợi này, chính con tự lừa dối).
Đây là
trùng tụng chuyện do nghe Phương Đẳng đả phá, bài xích Tiểu
pháp, mà ngầm đạt
được lợi ích chung. “Vô lậu pháp” chính là
pháp tánh được nói trong phần Trường Hàng, tức
là Thiên Chân Niết Bàn, [“vô lậu”] hàm nghĩa “chẳng
rơi rớt sanh tử!”
(Kinh) Ngă thường
ư nhật dạ, mỗi tư duy thị sự, dục
dĩ vấn Thế Tôn: “Vi thất, vi bất thất?” Ngă
thường kiến Thế Tôn, xưng tán chư Bồ Tát.
Dĩ thị ư nhật dạ, trù lượng như thị
sự. Kim văn Phật âm thanh, tùy nghi nhi thuyết pháp, vô
lậu nan tư nghị, linh chúng chí đạo tràng.
(經)我常於日夜。每思惟是事。欲以問世尊。為失為不失。我常見世尊。稱讚諸菩薩。以是於日夜。籌量如是事。今聞佛音聲。隨宜而說法。無漏難思議。令眾至道場。
(Kinh: Con thường
suốt ngày đêm, luôn suy nghĩ chuyện này, muốn hỏi
đức Thế Tôn: “Là mất, hay chẳng mất?” Con thường
thấy Thế Tôn, khen ngợi các Bồ Tát. Do vậy suốt
ngày đêm, suy lường việc như vậy. Nay nghe tiếng
của Phật, tùy cơ nghi thuyết pháp, vô lậu, khó nghĩ
bàn, khiến chúng đến đạo tràng).
Đây là trùng tụng
chuyện đă nghe Bát Nhă chuyển giáo, ngầm đạt được
lợi ích riêng biệt. Nếu giải thích “ngày đêm”
theo sự biểu thị pháp th́ “ngày” chính là Niết
Bàn, “đêm” chính là sanh tử. Hơn nữa, phàm phu sanh
tử và Niết Bàn của Nhị Thừa (Thiên Chân Niết Bàn) đều
gọi là “đêm”, Trung Đạo pháp tánh được
gọi là “ngày”. “Vô lậu nan tư nghị” (Vô lậu,
khó nghĩ bàn) chính là Trung Đạo pháp tánh, do chẳng rơi
rớt vào hai bên.
(Kinh) Ngă bổn
trước tà kiến, vi chư phạm chí sư. Thế
Tôn tri ngă tâm, bạt tà thuyết Niết Bàn, ngă tất trừ
tà kiến, ư Không pháp đắc chứng. Nhĩ thời,
tâm tự vị, đắc chí ư diệt độ.
(經)我本著邪見。為諸梵志師。世尊知我心。拔邪說涅槃。我悉除邪見。於空法得證。爾時心自謂。得至於滅度。
(Kinh: Con vốn
chấp tà kiến, làm thầy các phạm chí[3]. Thế Tôn biết
tâm con, dẹp tà, nói Niết Bàn, con trừ sạch tà kiến,
được chứng đắc pháp Không. Lúc đó, tâm tự
nhủ: “Đă đạt
đến diệt độ”).
Đây là trùng tụng
chuyện thoạt đầu nghe đức Phật dạy
về ngộ bèn tin nhận, tư duy, chứng lấy. Phần
thứ hai, “trùng tụng các điều giải thích” đă
xong.
3.2.2.2.3. Trùng tụng kết luận
3.2.2.2.3.1. Trùng tụng để kết
luận
3.2.2.2.3.1.1. Trùng tụng để tiểu
kết
(Kinh)
Nhi kim năi tự giác, phi thị thật diệt độ. Nhược
đắc tác Phật thời, cụ tướng tam thập
nhị. Thiên, nhân, Dạ Xoa chúng, long, thần đẳng cung
kính. Thị thời năi khả vị, vĩnh tận diệt
vô dư. Phật ư đại chúng trung, thuyết ngă đương
tác Phật, văn như thị pháp âm, nghi hối tất dĩ
trừ.
(經)而今乃自覺。非是實滅度。若得作佛時。具相三十二。天人夜叉眾。龍神等恭敬。是時乃可謂。永盡滅無餘。佛於大眾中。說我當作佛。聞如是法音。疑悔悉已除。
(Kinh: Nhưng nay mới
tự biết: “Chẳng
phải thật diệt độ!” Nếu lúc
được thành Phật, trọn đủ băm hai tướng.
Trời, người, các Dạ Xoa, rồng, thần thảy
cung kính. Lúc ấy mới được nói: “Dứt hết
hẳn, chẳng sót!” Phật ở trong đại chúng, nói
con sẽ thành Phật, nghe pháp âm như thế, nghi hối đều
đă trừ).
“Làm Phật có đủ
các tướng”: Kết lại ư
nghĩa về thân hỷ. “Thuyết ngă tác Phật” (nói
con sẽ thành Phật): Kết lại ư nghĩa về khẩu
hỷ. “Trừ hết nghi hối” kết lại ư nghĩa
ư hỷ. [Thanh Văn tiểu quả] chỉ đoạn Kiến
Tư, thoát khỏi Phần Đoạn [sanh tử], nhưng
c̣n có vô minh và Biến Dịch [sanh tử]. Nếu được
làm Phật, chuyển Ngũ Uẩn vô thường trong chín
pháp giới, chứng đắc Ngũ Uẩn thường
lạc. Khi đó, ngũ trụ rốt ráo hết sạch, nhị
tử (Biến Dịch sanh tử và Phần
Đoạn sanh tử) vĩnh viễn mất, bèn có thể
nói là “chân diệt” (thật sự diệt độ).
“Cụ tướng tam thập nhị” (trọn đủ
ba mươi hai tướng): Lại nói đến sắc
thân mầu nhiệm của Pháp Thân. Mỗi tướng không
ǵ chẳng phải là tướng hải[4],
không ǵ chẳng phải là Tánh Đức hiển lộ trọn
vẹn. V́ thế nói là “cụ” (具, đầy đủ).
3.2.2.2.3.1.2. Thuật lại điều
nghi ngờ, hối hận
(Kinh) Sơ
văn Phật sở thuyết, tâm trung đại kinh nghi,
tương phi ma tác Phật, năo loạn ngă tâm da?
(經)初聞佛所說。心中大驚疑。將非魔作佛。惱亂我心耶。
(Kinh: Thoạt
đầu nghe Phật nói, tâm ngờ, rất kinh sợ, phải
chăng ma giả Phật, năo loạn ḷng ta ư?)
Đây là nói rơ: Không
chỉ sanh nghi trong thời Phương Đẳng, mà trong
thời Bát Nhă cũng sanh ḷng hối hận. Ở trong kinh
này, thoạt đầu khi nghe giảng đại lược
“khai tam, hiển
nhất”, tâm Ngài vẫn
c̣n kinh hăi, hối hận. Do vậy, ba lượt cầu
thỉnh chẳng thôi!
3.2.2.2.3.1.3. Trần thuật sự lănh
nhận thấu hiểu
(Kinh) Phật dĩ
chủng chủng duyên, thí dụ, xảo ngôn thuyết. Kỳ
tâm an như hải. Ngă văn, nghi vơng đoạn. Phật
thuyết quá khứ thế, vô lượng diệt độ
Phật, an trụ phương tiện trung, diệc giai
thuyết thị pháp. Hiện tại, vị lai Phật, kỳ
số vô hữu lượng, diệc dĩ chư
phương tiện, diễn thuyết như thị pháp. Như
kim giả Thế Tôn, tùng sanh cập xuất gia, đắc
đạo chuyển pháp luân, diệc dĩ phương tiện
thuyết. Thế Tôn thuyết thật đạo. Ba Tuần
vô thử sự. Dĩ thị ngă định tri, phi thị
ma tác Phật. Ngă đọa nghi vơng cố, vị thị ma
sở vi. Văn Phật nhu nhuyễn âm, thâm viễn thậm
vi diệu, diễn sướng thanh tịnh pháp. Ngă tâm đại
hoan hỷ, nghi hối vĩnh dĩ tận, an trụ Thật
Trí trung.
(經)佛以種種緣。譬喻巧言說。其心安如海。我聞疑網斷。佛說過去世。無量滅度佛。安住方便中。亦皆說是法。現在未來佛。其數無有量。亦以諸方便。演說如是法。如今者世尊。從生及出家。得道轉法輪。亦以方便說。世尊說實道。波旬無此事。以是我定知。非是魔作佛。我墮疑網故。謂是魔所為。聞佛柔軟音。深遠甚微妙。演暢清淨法。我心大歡喜。疑悔永已盡。安住實智中。
(Kinh: Phật
dùng các thứ duyên, thí dụ, ngôn từ khéo, tâm bèn yên như
biển. Con nghe, lưới nghi dứt. Phật nói đời
quá khứ, vô lượng Phật diệt độ, an trụ
trong phương tiện, cũng đều nói pháp này. Hiện
tại, vị lai Phật, số ấy chẳng hạn lượng,
cũng dùng các phương tiện, diễn nói pháp như thế.
Như nay đức Thế Tôn, từ giáng sanh, xuất gia,
đắc đạo, chuyển pháp luân, cũng dùng phương
tiện nói. Thế Tôn nói thật đạo, Ba Tuần[5] không chuyện ấy. Do vậy,
con biết chắc, chẳng phải ma giả Phật! Con do
đọa lưới nghi, cho là ma làm ra. Nghe tiếng Phật
mềm mỏng, sâu xa, rất vi diệu, diễn bày pháp
thanh tịnh. Tâm con rất hoan hỷ, nghi hối măi trừ
sạch, an trụ trong Thật Trí).
Đây là trần
thuật sự lănh ngộ trọn vẹn ư chỉ
khai hiển của năm loại Phật (chư Phật, Phật
quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, và Phật
Thích Ca) để tổng kết ba điều hoan hỷ (thân
hỷ, khẩu hỷ, ư hỷ). Phần thứ nhất, “trùng
tụng để tiểu kết” đă xong.
3.2.2.2.3.2. Trùng tụng về sự thành
tựu
(Kinh) Ngă định
đương tác Phật, vị thiên nhân sở kính, chuyển
vô thượng pháp luân, giáo hóa chư Bồ Tát.
(經)我定當作佛。為天人所敬。轉無上法輪。教化諸菩薩。
(Kinh: Con nhất
định thành Phật, được trời người
tôn kính, chuyển pháp luân vô thượng, giáo hóa các Bồ Tát).
Chỉ trùng tụng
một câu “có phần nơi Phật pháp” th́ ba điều
hoan hỷ đều cùng thành tựu. Nếu muốn phân biệt
th́ “trời, người tôn kính” là thành tựu nơi
thân, “chuyển pháp luân vô thượng” chính là thành tựu
nơi miệng, “giáo hóa các Bồ Tát” chính là thành tựu
nơi ư. Phần thứ hai, “ngài Thân Tử
lănh nhận, thấu hiểu” đă
xong.
3.2.2.3. Như Lai nêu ra sự thành tựu
3.2.2.3.1. Xưa kia, [đức Phật] đă từng
dạy đại pháp [cho ngài Xá Lợi Phất]
Trần
thuật từ xưa ngài Xá Lợi Phất đă chẳng
hiểu sai lời Phật dạy.
(Kinh) Nhĩ thời,
Phật cáo Xá Lợi Phất: - Ngô kim ư thiên, nhân, sa-môn, Bà
La Môn đẳng đại chúng trung thuyết, ngă tích tằng
ư nhị vạn ức Phật sở, vị vô thượng
đạo cố, thường giáo hóa nhữ. Nhữ diệc
trường dạ tùy ngă thọ học. Ngă dĩ phương
tiện dẫn đạo nhữ cố, sanh ngă pháp trung.
(經)爾時佛告舍利弗。吾今於天人沙門婆羅門等大眾中說。我昔曾於二萬億佛所。為無上道故。常教化汝。汝亦長夜隨我受學。我以方便引導汝故。生我法中。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Ta
nay ở trong đại chúng trời, người, sa-môn, Bà
La Môn v.v… mà nói: “Trước kia, ta đă từng ở nơi hai vạn
ức Phật, v́ đạo vô thượng, thường giáo
hóa ông. Ông cũng ở trong đêm dài theo ta học. Ta dùng phương
tiện hướng dẫn ông sanh trong pháp của ta”).
“Vô thượng đạo”: Luận
Thập Trụ Tỳ Bà Sa nói: “Thân vô thượng là tướng
hảo (câu đầu tiên là quả). Thọ tŕ vô thượng
tức là tự lợi, lợi lạc người khác. (Thân,
miệng, ư) trọn đủ vô thượng tức là mạng,
kiến, giới (hai câu này chính là Lục Ḥa trong Đại
Thừa). Trí huệ vô thượng tức là bốn món vô
ngại. Chẳng nghĩ bàn vô thượng chính là Lục Ba
La Mật (hai câu này nói đến phước và trí). Giải
thoát vô thượng có thể hoại hai chướng. (Chứng)
hạnh vô thượng, tức là Thánh Hạnh, Phạm Hạnh
(Thiên Hạnh là sở chứng, Bệnh Hạnh, và Anh Nhi Hạnh[6] là quả dụng.
Do vậy, chỉ nêu lên hai hạnh. Sáu câu sau đều là
cái nhân). Lại nữa, thân vô thượng gọi là đại
trượng phu. Thọ tŕ vô thượng là đại từ
bi. Trọn đủ vô thượng gọi là “đến
bờ kia”. Trí vô thượng gọi là Nhất thiết Trí.
Chẳng nghĩ bàn vô thượng gọi là A La Ha (Ứng Cúng).
Giải thoát vô thượng gọi là Đại Niết
Bàn. Hạnh vô thượng gọi là Tam Miệu Tam Phật
Đà (Chánh Đẳng Chánh Giác)” (Bảy điều này đều
từ cái quả mà lập, tức là sáu cái nhân đều từ
quả mà đặt ra danh xưng). Kinh này nói đến đạo
vô thượng viên thông.
“Trường dạ”
(đêm dài): Xưa kia, tuy dùng Đại
Thừa để giáo hóa, [nhưng ngài Xá Lợi Phất] chưa
phá vô minh, trong tâm tuy tối tăm v́ Hoặc, vẫn theo Phật
tiếp nhận sự giáo hóa. “Phương tiện dẫn
đạo, sanh ngă pháp
trung” (phương tiện hướng dẫn sanh vào trong
pháp của ta): Một là xưa kia dùng Đại Thừa
để giáo hóa, đời này sanh ḷng
hiểu biết đối với Đại pháp. Hai là dùng
Quyền để hướng dẫn tiểu căn, khiến
cho họ chứng tiểu quả.
3.2.2.3.2. Giữa chừng quên mất,
giữ lấy tiểu pháp, nêu bày nguyên do cảm thương,
ngờ vực, hối hận
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Ngă tích giáo nhữ chí nguyện Phật đạo.
Nhữ kim tất vong, nhi tiện tự vị “dĩ đắc
diệt độ”.
(經)舍利弗。我昔教汝志願佛道。汝今悉忘。而便自謂已得滅度。
(Kinh:
Này Xá Lợi Phất! Ta trước kia đă giáo hóa ông chí
nguyện Phật đạo. Ông nay quên hết,
bèn tự cho rằng “đă được diệt độ”).
3.2.2.3.3. Lại v́ [Xá Lợi Phất]
nói đại pháp, trần thuật sự thấu hiểu
ngày nay chẳng hư dối
(Kinh) Ngă kim hoàn
dục linh nhữ ức niệm bổn nguyện sở
hành đạo cố, vị chư Thanh Văn thuyết thị
Đại Thừa kinh, danh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát
Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.
(經)我今還欲令汝憶念本願所行道故。為諸聲聞說是大乘經。名妙法蓮華。教菩薩法。佛所護念。
(Kinh:
Ta nay vẫn muốn khiến cho ông nghĩ nhớ đạo
đă hành nơi bổn nguyện, v́ các Thanh Văn nói kinh Đại
Thừa có tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp, Phật
Sở Hộ Niệm này).
Phần thứ ba, “Như Lai trần thuật sự thành tựu” đă xong.
3.2.2.4. Thọ kư
3.2.2.4.1. Trường Hàng
Đă hiểu đại
pháp, tự biết sẽ thành Phật, cần ǵ phải đợi
thọ kư! Thọ kư là v́ có bốn ư:
- Một, trước
kia chưa thọ kư cho hàng Nhị Thừa. V́ thế, nay cần
phải thọ kư.
- Hai, độn căn
chưa ngộ, dùng thọ kư để khích lệ họ.
- Ba, khiến cho người
nghe sẽ kết duyên.
- Bốn, nhằm thỏa
măn bổn nguyện [của người được thọ
kư].
3.2.2.4.1.1. Thời tiết
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Nhữ ư vị lai thế, quá vô lượng vô
biên bất khả tư nghị kiếp.
(經)舍利弗。汝於未來世。過無量無邊不可思議劫。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Ông trong đời vị lai, qua khỏi vô lượng
vô biên chẳng thể nghĩ bàn kiếp).
Hỏi: Ngài Thân Tử
là bậc thượng căn, đắc ngộ ngay trong tầng
đầu tiên (Pháp Thuyết Châu), tức là đă khai tri kiến
của Phật, dự vào bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo,
có thể lập tức thành Phật, giống như long nữ
[được nói trong phẩm Đề Bà Đạt Đa].
V́ sao nay thọ kư Ngài c̣n phải
trải qua chừng ấy kiếp [mới
thành Phật]?
Đáp: Xét theo chỗ
ứng hiện thành Phật, cần phải có cơ duyên. Các
vị Thanh Văn ấy trước kia chưa từng nhiếp thủ cơi Phật thanh tịnh. Nay
sau khi được thọ kư, phải kết duyên với
chúng sanh. Căn cơ của chúng sanh khác nhau, dẫn đến
kiếp số nhiều hay ít. Long nữ tuy là súc sanh, nhưng v́ “thừa gấp”,
trước đó đă tu tập phương tiện. Nếu
xét theo Quyền Tích, sẽ phải nên biện
luận riêng, [long nữ thị hiện như thế] nhằm phù hợp
cơ nghi, tùy theo căn cơ [của chúng sanh trong thuở ấy]
mà [thời gian từ lúc được thọ kư cho đến
khi thành Phật] dài hay ngắn.
3.2.2.4.1.2. Nhân hạnh
(Kinh) Cúng dường
nhược can thiên vạn ức Phật, phụng tŕ chánh
pháp, cụ túc Bồ Tát sở hành chi đạo.
(經)供養若干千萬億佛。奉持正法。具足菩薩所行之道。
(Kinh: Cúng dường
chừng ấy ngàn vạn ức Phật, vâng giữ chánh
pháp, trọn đủ đạo phải hành của hàng Bồ
Tát).
Một là cúng dường
Phật, hai là ǵn giữ pháp, bèn có thể trọn đủ
Bồ Tát đạo, tức là viên măn hai thứ trang nghiêm phước
và huệ.
3.2.2.4.1.3. Đắc quả
(Kinh) Đương
đắc tác Phật, hiệu viết Hoa Quang Như Lai, Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
(經)當得作佛。號曰華光如來。應供。正徧知。明行足。善逝。世間解。無上士。調御丈夫。天人師。佛。世尊。
(Kinh:
Sẽ được làm Phật, hiệu là Hoa Quang (Padmaprabha) Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn).
Thọ kư đầy
đủ thông hiệu và biệt hiệu. Thông hiệu (Như
Lai, Ứng Cúng v.v...) th́ như trong phần trước đă
giải thích. Biệt hiệu là Hoa Quang. Thấy Phật phóng
quang, nói kinh Pháp Hoa, được thọ kư trước hết.
V́ thế, có danh hiệu ấy. Lại nữa, Hoa chính là phước
đức. Quang là trí huệ. Hoa là duyên nhân Phật tánh. Quang
là liễu nhân Phật tánh. Bốn giáo (Tạng, Thông, Biệt,
Viên) đều luận về phước huệ, đều
luận duyên nhân và liễu nhân. Nay chỉ
nói về Viên. Lại nữa, chứng Diệu Hoa Quang Minh tam-muội
đă lâu. Nơi Tích th́ thị hiện thành Phật trong vị
lai. Lại xét theo quán tâm th́ Giả tức Không, tức Trung,
bèn gọi là Hoa. Không mà tức Giả, tức Trung, th́ gọi
là Quang. Trung tức Không, tức Giả, th́ gọi là Như
Lai.
3.2.2.4.1.4. Quốc độ
(Kinh) Quốc
danh Ly Cấu, kỳ thổ b́nh chánh,
thanh tịnh nghiêm sức, an ổn phong lạc. Thiên nhân xí
thịnh, lưu ly vi địa. Hữu bát
giao đạo, hoàng kim vi thằng, dĩ giới kỳ trắc.
Kỳ bàng các hữu thất bảo hàng thụ, thường
hữu hoa quả.
(經)國名離垢。其土平正。清淨嚴飾。安隱豐樂。天人熾盛。琉璃為地。有八交道。黃金為繩以界其側。其傍各有七寶行樹。常有華果。
(Kinh: Cơi nước
tên Ly Cấu (Viraja), đất đai bằng phẳng, ngay ngắn, trang hoàng thanh tịnh, an
ổn, giàu vui, trời người đông đảo, lưu
ly làm đất, có tám đường giao nhau[7], vàng ṛng làm dây để
ngăn chia bên đường. Mỗi bên đường đều
có hàng cây bảy báu, thường có hoa quả).
Trước hết,
nêu ra tên của cơi nước; kế đó, mô tả tướng
trạng của cơi ấy. Chẳng cao hay thấp là “b́nh”,
chẳng lệch, khuyết là “chánh”. Từ chữ “an
ổn” trở đi nói đến sự thọ dụng
trong cơi ấy. Từ chữ “lưu ly” trở đi, nói
thêm về tướng thù thắng, đều do tịnh hạnh
cảm vời, làm tăng thượng duyên cho các chúng sanh.
3.2.2.4.1.5. Thuyết pháp
(Kinh) Hoa Quang Như
Lai diệc dĩ tam thừa giáo hóa chúng sanh. Xá Lợi Phất!
Bỉ Phật xuất thời, tuy phi ác thế, dĩ bổn
nguyện cố, thuyết tam thừa pháp. (經)華光如來。亦以三乘教化眾生。舍利弗。彼佛出時。雖非惡世。以本願故。說三乘法。
(Kinh: Hoa
Quang Như Lai cũng dùng tam thừa để giáo hóa chúng
sanh. Này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy xuất
thế, tuy chẳng phải đời ác, nhưng v́ bổn
nguyện mà nói pháp tam
thừa).
Chuẩn
theo [cách giáo hóa] giống như Phật Thích Ca, cho nên nói “diệc
dĩ” (cũng dùng). Từ “Xá Lợi Phất” trở
đi, nhằm giải trừ nghi hoặc. Nghi rằng: “Như
trong phần trước đă nói, Phật [Thích Ca] xuất
thế nhằm lúc ngũ trược, v́ bất đắc
dĩ, cho nên phương tiện nói tam thừa. Nay cơi Phật
Hoa Quang thanh tịnh như thế, sao cũng dùng tam thừa
để giáo hóa?” Giải
rằng: “Dĩ bổn nguyện cố” (do v́ bổn
nguyện). “Bổn nguyện”: Theo như kinh Đại
Bi Không Tạng dạy: “Xá Lợi Phất tằng ư lục
thập kiếp hành Bồ Tát đạo, nhân Bà La Môn khất
nhăn thoái thời, nguyện thành Phật nhật, khai tam thừa
pháp dă” (Xá Lợi Phất từng trong sáu mươi kiếp
hành Bồ Tát đạo. Lúc Ngài v́ bị Bà La Môn xin mắt mà
thoái thất, đă nguyện lúc thành Phật, sẽ mở
ra pháp tam thừa). Hơn nữa, trong quốc độ Cực
Lạc của Phật Di Đà cũng dùng tam thừa để
giáo hóa. Ấy là do nguyện từ bi sâu nặng, nhiếp
thủ kẻ đới nghiệp văng sanh. Chẳng nhờ
vào tam thừa, họ sẽ chẳng thể dần dần
tiến nhập.
Nói chung, trong cơi Phàm
Thánh Đồng Cư, bất luận tịnh hay uế, ban thí tam thừa
th́ nhiều, thuần Nhất Thừa th́ ít. Lại nữa,
Bồ Tát có hai loại:
- Một là
học Đại Thừa từ đầu.
- Hai là từ
tu tập Tiểu Thừa mà nhập Đại Thừa.
Luận về lợi
căn hay độn căn, dường như người
từ đầu đă học thẳng Đại Thừa
là lợi căn. Luận về lực dụng th́ người
đào thải [Tiểu pháp],
dần dần tiến nhập [Đại Thừa] sẽ
mạnh mẽ hơn. V́ thế, Hương Tích Bồ Tát[8]
học cả hai cách. Hăy nên biết: Người học thẳng
vào [Đại Thừa], sẽ chẳng am hiểu các hạnh
cho mấy. Ví như bắt đầu từ chốn rẫy
bái, thử đủ mọi chức nghiệp, lần lượt
từng trải từ cạn đến sâu, sẽ biết
mọi việc có thực hiện được hay không?
Sau đó thăng lên địa vị cao tột, sẽ có
thể buông rủ xiêm áo mà trị v́ thiên hạ!
3.2.2.4.1.6. Tên của kiếp
(Kinh) Kỳ kiếp
danh Đại Bảo Trang Nghiêm. Hà cố danh viết Đại
Bảo Trang Nghiêm? Kỳ quốc trung dĩ Bồ Tát vi đại
bảo cố.
(經)其劫名大寶莊嚴。何故名曰大寶莊嚴。其國中以菩薩為大寶故。
(Kinh: Kiếp
ấy tên là Đại Bảo Trang Nghiêm (Mahāratnaprati Maṇḍita).
V́ sao gọi là Đại Bảo Trang Nghiêm? Do trong cơi ấy
coi Bồ Tát là đại bảo).
3.2.2.4.1.7. Số lượng đại
chúng
(Kinh) Bỉ
chư Bồ Tát vô lượng vô biên, bất khả tư
nghị, toán số, thí dụ
sở bất năng cập, phi Phật trí lực, vô năng
tri giả. Nhược dục hành thời, bảo hoa thừa
túc. Thử chư Bồ Tát phi sơ phát ư, giai cửu thực
đức bổn. Ư vô lượng bách thiên vạn ức
Phật sở, tịnh tu phạm hạnh, hằng vị
chư Phật chi sở xưng thán, thường tu Phật
huệ, cụ đại thần thông, thiện tri nhất
thiết chư pháp chi môn, chất trực, vô ngụy, chí niệm kiên cố. Như
thị Bồ Tát sung măn kỳ quốc.
(經)彼諸菩薩。無量無邊。不可思議。算數譬喻所不能及。非佛智力。無能知者。若欲行時。寶華承足。此諸菩薩非初發意。皆久植德本。於無量百千萬億佛所。淨修梵行。恆為諸佛之所稱歎。常修佛慧。具大神通。善知一切諸法之門。質直無偽。志念堅固。如是菩薩。充滿其國。
(Kinh: Các vị
Bồ Tát ấy vô lượng
vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, tính đếm, thí dụ,
đều chẳng thể biết nổi số. Chẳng
có trí lực của Phật th́ không ai có thể biết nổi!
Nếu lúc họ muốn đi,
hoa báu đỡ chân. Các vị Bồ Tát ấy chẳng phải
là sơ phát ư, mà đều là gieo cội đức đă lâu. Trong vô
lượng trăm ngàn vạn ức cơi Phật, tịnh
tu phạm hạnh, luôn được chư Phật ca ngợi,
thường tu Phật huệ, có đủ thần thông to
lớn, khéo biết hết thảy các pháp môn, ngay thẳng,
chẳng dối, chí niệm kiên cố. Các vị Bồ Tát
như thế đầy ắp cơi ấy).
3.2.2.4.1.8. Thọ lượng
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Hoa Quang Phật thọ thập nhị tiểu kiếp,
trừ vi vương tử vị tác Phật thời. Kỳ
quốc nhân dân, thọ bát tiểu kiếp.
(經)舍利弗。華光佛壽十二小劫。除為王子未作佛時。其國人民。壽八小劫。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Hoa Quang Phật thọ mười hai tiểu kiếp,
trừ lúc Ngài làm vương
tử chưa thành Phật. Nhân dân trong nước ấy thọ
tám tiểu kiếp).
“Mười hai
tiểu kiếp” là nói thẳng về thời tiết ấy.
Tịnh Độ chẳng có tiểu tam tai, tức là chẳng
có đao binh, tật dịch, đói kém tổn thương
dân chúng và muôn vật. Đấy chính là Kiếp.
Nhưng luận định thời gian của một tiểu
kiếp lâu xa cỡ nào, chỉ có thể dùng thời gian một
tăng một giảm trong cơi này để hiểu số
lượng. Các phần sau đều chuẩn theo đây để
biết [kiếp số].
3.2.2.4.1.9. Bổ xứ
(Kinh) Hoa Quang Như
Lai quá thập nhị tiểu kiếp, thọ Kiên Măn Bồ
Tát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư, cáo chư
tỳ-kheo: “Thị Kiên Măn Bồ Tát thứ đương
tác Phật, hiệu viết Hoa Túc An Hành Đa Đà A Già Độ,
A La Ha, Tam Miệu Tam Phật Đà. Kỳ Phật quốc độ,
diệc phục như thị”.
(經)華光如來過十二小劫。授堅滿菩薩阿耨多羅三藐三菩提記。告諸比丘。是堅滿菩薩。次當作佛號曰華足安行多陀阿伽度阿羅訶三藐三佛陀。其佛國土。亦復如是。
(Kinh: Hoa
Quang Như Lai sau mười hai tiểu kiếp, bèn thọ
kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cho Kiên Măn Bồ
Tát (Dhṛtiparipūrṇa), bảo các tỳ-kheo: “Ông Kiên Măn
Bồ Tát đây, kế tiếp sẽ thành Phật, hiệu
là Hoa Túc An Hành (Padmavṛṣabhavikrama) Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri. Cơi Phật của Ngài
cũng giống như thế”).
Chí niệm kiên cố,
khéo biết hết thảy các pháp môn. V́ thế, gọi là
Kiên Măn. Nếu lúc muốn đi, hoa báu đỡ chân; v́ thế
gọi là Hoa Túc An Hành. Hoa Quang Như Lai dùng tam thừa hóa độ,
nhưng hàng Bồ Tát của Ngài thù thắng, quốc độ trang nghiêm
như thế. Hiềm rằng người đời coi thường,
chê trách tam thừa, chỉ khoe khoang Nhất Thật, nào có
biết Quyền và Thật là một Thể bất nhị,
nào có biết đến tông chỉ “khai Quyền, hiển
Thật!”
3.2.2.4.1.10. Pháp trụ lâu mau
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Thị Hoa Quang Phật diệt độ chi hậu,
Chánh Pháp trụ thế tam thập nhị tiểu kiếp,
Tượng Pháp trụ thế diệc tam thập nhị tiểu
kiếp.
(經)舍利弗。是華光佛滅度之後。正法住世三十二小劫。像法住世亦三十二小劫。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Vị Hoa Quang Phật ấy sau khi diệt độ,
Chánh Pháp trụ thế ba mươi hai tiểu kiếp, Tượng
Pháp trụ thế cũng ba mươi hai tiểu kiếp).
Phần kinh văn
Trường Hàng đă xong.
3.2.2.4.2. Kệ tụng
3.2.2.4.2.1. Trùng tụng [các ư nghĩa
trong] phần Trường Hàng (phần Bổ
Xứ bị lược đi không trùng tụng)
3.2.2.4.2.1.1. Trùng tụng chuyện đắc
quả
(Kinh) Nhĩ thời,
Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Xá Lợi
Phất lai thế, thành Phật phổ trí tôn[9], hiệu
danh viết Hoa Quang, đương độ vô lượng
chúng.
(經)爾時世尊。欲重宣此義而說偈言。舍利弗來世。成佛普智尊。號名曰華光。當度無量眾。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa
này, bèn nói kệ rằng: - Xá Lợi Phất đời sau,
thành Phật phổ trí tôn, danh hiệu là Hoa Quang, sẽ độ
vô lượng chúng).
3.2.2.4.2.1.2. Truy tụng hạnh nhân
(Kinh) Cúng dường
vô số Phật, cụ túc Bồ Tát hạnh, thập lực
đẳng công đức, chứng ư vô thượng đạo.
(經)供養無數佛。具足菩薩行。十力等功德。證於無上道。
(Kinh: Cúng
dường vô số Phật, trọn đủ hạnh Bồ
Tát, thập lực các công đức, chứng đắc vô
thượng đạo).
3.2.2.4.2.1.3. Trùng tụng thời tiết
và tên gọi của kiếp
(Kinh) Quá vô lượng
kiếp dĩ, kiếp danh Đại Bảo Nghiêm.
(經)過無量劫已。劫名大寶嚴。
(Kinh: Qua vô
lượng kiếp sau, kiếp tên Đại Bảo Nghiêm).
3.2.2.4.2.1.4. Trùng tụng quốc
độ
(Kinh) Thế giới
danh Ly Cấu, thanh tịnh vô hà uế, dĩ lưu ly vi
địa, kim thằng giới kỳ đạo, thất
bảo tạp sắc thụ, thường hữu hoa quả
thật.
(經)世界名離垢。清淨無瑕穢。以琉璃為地。金繩界其道。七寶雜色樹。常有華果實。
(Kinh: Thế
giới tên Ly Cấu, thanh tịnh, chẳng lỗi, dơ,
dùng lưu ly làm đất, dây vàng ngăn chia đường,
cây bảy báu nhiều màu, thường có hoa, quả, hạt).
3.2.2.4.2.1.5. Trùng tụng số lượng
đại chúng
(Kinh) Bỉ quốc
chư Bồ Tát, chí niệm thường kiên cố, thần
thông Ba La Mật, giai dĩ tất cụ túc, ư vô số Phật
sở, thiện học Bồ Tát đạo.
(經)彼國諸菩薩。志念常堅固。神通波羅蜜。皆已悉具足。於無數佛所。善學菩薩道。
(Kinh: Các Bồ
Tát cơi ấy, chí niệm thường bền chắc, thần
thông Ba La Mật, thảy đều trọn đủ cả,
nơi vô số chư Phật, khéo học đạo Bồ
Tát).
3.2.2.4.2.1.6. Trùng tụng chuyện
thuyết pháp
(Kinh) Như thị
đẳng đại sĩ, Hoa Quang Phật sở hóa.
(經)如是等大士。華光佛所化。
(Kinh: Các đại
sĩ như thế, Phật Hoa Quang giáo hóa).
3.2.2.4.2.1.7. Trùng tụng thọ lượng
(Kinh) Phật
vi vương tử thời, khí quốc, xả thế
vinh, ư tối mạt hậu thân, xuất gia thành Phật
đạo. Hoa Quang Phật trụ thế, thọ thập
nhị tiểu kiếp. Kỳ quốc nhân dân chúng, thọ mạng
bát tiểu kiếp.
(經)佛為王子時。棄國捨世榮。於最末後身。出家成佛道。華光佛住世。壽十二小劫。其國人民眾。壽命八小劫。
(Kinh: Lúc Phật
làm vương tử, bỏ nước, bỏ vinh hoa, ở
nơi thân cuối cùng, xuất gia thành Phật đạo. Hoa
Quang Phật trụ thế, thọ mười hai tiểu kiếp.
Các nhân dân nước ấy, thọ mạng tám tiểu kiếp).
3.2.2.4.2.1.8. Trùng tụng pháp trụ
bao lâu
(Kinh) Phật
diệt độ chi hậu, Chánh Pháp trụ ư thế,
tam thập nhị tiểu kiếp, quảng độ
chư chúng sanh. Chánh Pháp diệt tận dĩ, Tượng
Pháp tam thập nhị, xá-lợi quảng lưu bố, thiên
nhân phổ cúng dường.
(經)佛滅度之後。正法住於世。三十二小劫。廣度諸眾生。正法滅盡已。像法三十二。舍利廣流布。天人普供養。
(Kinh: Sau khi Phật
diệt độ, Chánh Pháp trụ trong đời, ba mươi
hai tiểu kiếp, rộng độ các chúng sanh. Chánh Pháp đă
diệt tận, Tượng Pháp băm hai kiếp, xá-lợi
lưu truyền rộng, trời người cúng dường
khắp).
Lúc Chánh Pháp trụ
thế, có giáo, hạnh, và quả, chẳng khác thuở Phật
tại thế. V́ thế nói “quảng độ chúng sanh”.
Chuyển sang thời Tượng Pháp, có giáo, có hạnh, nhưng
chứng quả hiếm lắm! Chỉ dùng xá-lợi để
làm Phật sự trọn khắp. V́ thế gọi là Tượng
Pháp. Phần trùng tụng Trường Hàng đă xong.
3.2.2.4.2.2. Tiểu kết tán thán
(Kinh) Hoa Quang Phật
sở vi, kỳ sự giai như thị, kỳ lưỡng
túc thánh tôn, tối thắng vô luân thất, bỉ tức thị
nhữ thân, nghi ưng tự hân khánh.
(經)華光佛所為。其事皆如是。其兩足聖尊。最勝無倫匹。彼卽是汝身。宜應自欣慶。
(Kinh: Chuyện
Hoa Quang Phật làm, thảy đều là như thế. Đấng
lưỡng túc thánh tôn, tối thắng, chẳng sánh bằng,
Ngài chính là thân ông, hăy nên tự vui mừng).
Phần bốn, nói
về thọ kư đă xong.
3.2.2.5. Tứ chúng hoan hỷ
3.2.2.5.1. Trường Hàng
3.2.2.5.1.1. Người kết tập
trần thuật đại chúng hoan hỷ
(Kinh) Nhĩ thời,
tứ bộ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La,
Ma Hầu La Già đẳng đại chúng kiến Xá Lợi
Phất ư Phật tiền thọ A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề kư, tâm đại hoan hỷ, dũng
dược vô lượng.
(經)爾時四部眾。比丘。比丘尼。優婆塞。優婆夷。天龍。夜叉。乾闥婆。阿修羅。迦樓羅。緊那羅。摩睺羅伽等大眾。見舍利弗。於佛前受阿耨多羅三藐三菩提記。心大歡喜。踊躍無量。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, bốn bộ chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v… đại
chúng thấy ngài Xá Lợi Phất ở trước Phật
được thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, tâm hoan hỷ to lớn, hớn hở vô lượng).
3.2.2.5.1.2. Trần thuật sự cúng
dường
(Kinh) Các các
thoát thân sở trước thượng y, dĩ cúng dường
Phật. Thích Đề Hoàn Nhân, Phạm thiên vương đẳng,
dữ vô số thiên tử, diệc dĩ thiên diệu y, thiên
mạn-đà-la hoa, ma-ha mạn-đà-la hoa đẳng, cúng
dường ư Phật. Sở tán thiên y, trụ hư
không trung, nhi tự hồi chuyển. Chư thiên kỹ nhạc
bách thiên vạn chủng, ư hư không trung, nhất thời câu tác, vũ chúng
thiên hoa.
(經)各各脫身所著上衣。以供養佛。釋提桓因。梵天王等。與無數天子。亦以天妙衣。天曼陀羅華。摩訶曼陀羅華等。供養於佛。所散天衣。住虛空中而自迴轉。諸天伎樂百千萬種。於虛空中一時俱作。雨眾天華。
(Kinh:
Ai nấy đều cởi áo thượng diệu đang
khoác trên thân để cúng dường Phật. Thích Đề
Hoàn Nhân, Phạm thiên vương v.v… và vô số thiên tử,
cũng dùng áo mầu nhiệm cơi trời, hoa mạn-đà-la,
hoa ma-ha mạn-đà-la v.v… của cơi trời cúng dường
đức Phật. Các áo trời được rải lên
dừng ở trong hư không rồi tự xoay chuyển. Trăm
ngàn vạn loại kỹ nhạc của chư thiên cùng lúc
đều tấu lên trong hư không, mưa các hoa trời).
“Thượng y”
tức là y phục quư giá. Ở đây, nói chung tứ chúng và
tám bộ. Nếu chỉ nói theo phía tỳ-kheo và tỳ-kheo ni
th́ [“thượng y”] là tăng-già-lê đại y. Pháp của
tỳ-kheo ở Tây Trúc chỉ nhận lănh tối đa là
ba y. Ba y hoàn toàn
chẳng thể bỏ, v́ sao lại cởi ra để cúng
Phật? Chẳng hạn như trong kinh Đại Phẩm
có nói: “Tam bách tỳ-kheo văn Bát Nhă dĩ, giai dĩ tăng-già-lê
nhi dụng cúng dường” (Ba trăm vị tỳ-kheo nghe
Bát Nhă xong, đều dùng y Tăng-già-lê để
cúng dường). Trí Độ Luận giải thích: “Hoặc
là quên tướng v́ pháp, hoặc là ngay trong hôm ấy sẽ
đạt được”. Nếu xét theo sự biểu
thị pháp, ca-sa hoại sắc, vốn là đạo chứng
Chân của Thanh Văn. Nay cởi ra để cúng Phật,
biểu thị xả pháp chấp Tiểu Thừa, hướng
đến Vô Thượng Bồ Đề. Lại nữa,
thiên y (áo trời) biểu thị Tịch Diệt Pháp Nhẫn,
thiên hoa biểu thị diệu huệ của Đại Thừa,
thiên nhạc biểu thị giải thoát thường lạc.
“Trụ trong hư không mà tự xoay chuyển” biểu
thị nhân quả, y báo, chánh báo, tự, tha đều nương
vào pháp tánh tự nhiên mà xoay chuyển.
3.2.2.5.1.3. Thật sự lănh nhận,
thấu hiểu
(Kinh)
Nhi tác thị ngôn: “Phật tích ư Ba La Nại, sơ chuyển pháp luân, kim năi phục
chuyển vô thượng tối đại pháp luân”.
(經)而作是言。佛昔於波羅柰初轉法輪。今乃復轉無上最大法輪。
(Kinh: Mà
nói như thế này: “Xưa kia, đức Phật chuyển
pháp luân lần đầu tại Ba La Nại, nay lại chuyển
pháp luân vô thượng lớn nhất”).
Trước là lănh
ngộ sự thực hiện Quyền trong thuở trước,
kế đó là lănh ngộ sự hiển Thật trong hiện
thời, thuần nói về viên lư. V́ thế nói là “vô thượng”.
Chẳng giống như Thượng [trong các Quyền pháp]
có kèm thêm sự đối đăi. Dứt bặt sự đối
đăi, chẳng có ǵ ra ngoài pháp ấy, cho nên nói là “tối
đại” (lớn nhất). Các pháp dù Tiểu hay Đại có thể kèm
thêm sự đối đăi, [nhưng hễ dung nhập vào
pháp luân này, các pháp ấy] đều trở thành Đại.
Phần kinh văn Trường Hàng đă xong.
3.2.2.5.2. Kệ tụng
3.2.2.5.2.1. Trùng tụng khai Quyền
hiển Thật
(Kinh) Nhĩ thời,
chư thiên tử dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết
kệ ngôn: - Tích ư Ba La Nại, chuyển Tứ Đế
pháp luân, phân biệt thuyết chư pháp, ngũ chúng chi sanh
diệt. Kim phục chuyển tối diệu, vô thượng
đại pháp luân. Thị pháp thậm thâm áo, thiểu hữu
năng tín giả.
(經)爾時諸天子。欲重宣此義而說偈言。昔於波羅柰。轉四諦法輪。分別說諸法。五眾之生滅。今復轉最妙。無上大法輪。是法甚深奧。少有能信者。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, các thiên tử muốn nói lại nghĩa này, bèn nói
kệ rằng: - Xưa tại Ba La Nại, chuyển pháp
luân Tứ Đế, phân biệt nói các pháp. Năm chúng đều
sanh diệt. Nay lại chuyển pháp luân, tối diệu, lớn
vô thượng. Pháp này rất sâu mầu, ít ai tin tưởng
được!)
“Ngũ chúng”
chính là Ngũ Ấm. Ấm là Khổ Đế, do Tập mà
sanh. Hễ sanh th́ ắt phải t́m ṭi Diệt. Sanh đă diệt,
[Khổ] sẽ diệt, gọi là Diệt Đế, có thể
diệt Khổ và Tập th́ gọi là Đạo Đế.
Các điều khác dễ hiểu!
3.2.2.5.2.2. Tự thuật sự thấu
hiểu, tùy hỷ hồi hướng
(Kinh) Ngă đẳng
tùng tích lai, sổ văn Thế Tôn thuyết, vị tằng
văn như thị, thâm diệu chi thượng pháp. Thế
Tôn thuyết thị pháp, ngă đẳng giai tùy hỷ. Đại
trí Xá Lợi Phất, kim đắc thọ tôn kư. Ngă đẳng
diệc như thị, tất đương đắc tác
Phật. Ư nhất thiết thế gian, tối tôn, vô hữu thượng. Phật đạo phả tư
nghị, phương tiện tùy nghi thuyết. Ngă sở hữu
phước nghiệp. Kim thế, nhược quá thế, cập
kiến Phật công đức, tận hồi hướng
Phật đạo.
(經)我等從昔來。數聞世尊說。未曾聞如是。深妙之上法。世尊說是法。我等皆隨喜。大智舍利弗。今得受尊記。我等亦如是。必當得作佛。於一切世間。最尊無有上。佛道叵思議。方便隨宜說。我所有福業。今世若過世。及見佛功德。盡迴向佛道。
(Kinh: Chúng con từ
trước nay, nhiều lượt nghe Phật nói, chưa
từng nghe thượng pháp, sâu mầu như thế đó.
Thế Tôn nói pháp này, chúng con đều tùy hỷ. Đại
trí Xá Lợi Phất, nay được thọ tôn kư. Chúng
con sẽ như thế, ắt sẽ được thành Phật.
Trong hết thảy thế gian, tôn quư nhất, vô thượng.
Phật đạo há nghĩ bàn, phương tiện tùy
nghi nói. Bao phước nghiệp của con, đời này
hay đời trước, và công đức thấy Phật,
đều hồi hướng Phật đạo).
Bốn câu đầu
trần thuật sự giải
ngộ, mười câu kế tiếp nói về sự tùy hỷ,
bốn câu cuối cùng là hồi hướng. “Ngă đẳng
diệc như thị” (Chúng con cũng như thế): Sẽ
lănh nhận, giải ngộ giống như Thân Tử, sẽ
như Thân Tử trần thuật cặn kẽ sự thành
tựu, sẽ được thọ kư như Thân Tử.
Hỏi: Các vị đại
Thanh Văn như Ca Diếp, Thiện Cát (Tu Bồ Đề)
c̣n chưa giải ngộ, tứ chúng là hạng người
như thế nào mà đắc ngộ trước?
Đáp: Tứ chúng
trời người cũng có ba căn: Thượng căn
giống như ngài Thân Tử, trung căn th́ giống như
bốn vị [sẽ được thọ kư] trong phẩm
sau, hạ căn th́ giống như năm trăm người
[được thọ kư sau đó]. Lại nữa, các vị
Ca Diếp, Thân Tử v.v… hoàn toàn là Quyền hạnh; do trung
căn và hạ căn chưa mở mang, cho nên các vị Ca
Diếp, Măn Từ Tử đều cùng thị hiện “chẳng
hiểu”. Kinh Tịnh Danh nói: “Chúng sanh vị dũ, Bồ
Tát diệc vị dũ” (Chúng sanh chưa lành bệnh, Bồ
Tát cũng chưa khỏi bệnh)… Phần thứ nhất
là Pháp Thuyết Châu đă xong.
3.3. Thí Thuyết Châu
Phần này gồm
bốn phần: Một là kinh văn trong phẩm này chánh thức
nêu thí dụ về khai tam hiển nhất; hai là phẩm Tín
Giải chỉ ra sự lănh ngộ của trung căn, ba là
phẩm Dược Thảo Dụ chính là Như Lai trần
thuật sự thành tựu. Bốn là phẩm Thọ Kư nhằm
trao cho sự huyền kư quyết định.
3.3.1. Chánh thức nêu thí dụ về
khai tam hiển nhất
3.3.1.1. Cầu thỉnh
(Kinh) Nhĩ thời,
Xá Lợi Phất bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Ngă kim vô
phục nghi hối, thân ư Phật tiền, đắc thọ
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kư. Thị
chư thiên nhị bách tâm tự tại giả, tích trụ Học địa,
Phật thường giáo hóa ngôn: “Ngă pháp năng ly sanh, lăo, bệnh,
tử, cứu cánh Niết Bàn”. Thị Học, Vô Học nhân
diệc các tự dĩ ly ngă kiến, cập hữu vô kiến
đẳng, vị đắc Niết Bàn, nhi kim ư Thế
Tôn tiền văn sở vị văn, giai đọa nghi hoặc.
Thiện tai Thế Tôn! Nguyện vị tứ chúng, thuyết
kỳ nhân duyên, linh ly nghi hối.
(經)爾時舍利弗白佛言。世尊。我今無復疑悔。親於佛前得受阿耨多羅三藐三菩提記。是諸千二百心自在者。昔住學地。佛常教化言。我法能離生老病死。究竟涅槃。是學無學人。亦各自以離我見及有無見等。謂得涅槃。而今於世尊前聞所未聞。皆墮疑惑。善哉世尊。願為四眾說其因緣。令離疑悔。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: - Bạch
Thế Tôn! Con nay chẳng c̣n ngờ vực, hối hận,
đích thân đối trước Phật, được
thọ kư Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Một ngàn
hai trăm vị tâm được tự tại đây xưa
kia thuộc địa vị Hữu Học, Phật thường
giáo hóa rằng: “Pháp của ta có thể ĺa sanh, già, bệnh,
chết, rốt ráo Niết Bàn”. Những vị Hữu Học,
Vô Học ấy ai nấy cũng tự cho rằng chính ḿnh
đă ĺa ngă kiến và các kiến chấp “có, không” th́ là đắc
Niết Bàn, nhưng nay họ ở trước đức
Thế Tôn được nghe điều chưa từng
nghe, đều rơi vào nghi hoặc. Lành thay đức Thế
Tôn! Xin hăy v́ tứ chúng nói nhân duyên ấy, khiến cho họ
ĺa ngờ vực, hối hận).
Trong đoạn này:
- Trước hết
[ngài Xá Lợi Phất] tự thuật [chính ḿnh] chẳng nghi.
- Kế đó từ
“thị chư” (các vị này) trở đi, trần
thuật những người cùng hàng với Ngài có niềm nghi hoặc.
- Ba, từ chữ “thiện
tai” (lành thay) trở đi, v́ trọn khắp tứ
chúng, thỉnh cầu đức Phật dạy bảo.
“Những người
cùng hàng” là có cùng hạnh. Do niệm t́nh cũ, nên cần
phải v́ họ cầu thỉnh. Tứ chúng là hóa cảnh
(đối tượng được giáo hóa). Lại vận
dụng đại bi, cho nên v́ đại chúng mà thỉnh cầu
trọn khắp. “Văn sở vị văn” (nghe điều
chưa từng nghe) tức là [nghe] những điều thuộc
Pháp Thuyết Châu trong phần trước cho đến [nghe đức Phật] trần thuật
sự thành tựu, truyền trao thọ kư.
[Những điều ấy] bất đồng với giáo
pháp họ đă nắm giữ trước kia và quả vị
họ đă chứng đắc. [Nói tới] “nhân duyên”
[hàm ư]: V́ sao trước kia [đức Phật] nói tam thừa,
nay chỉ nói nhất thừa? Cần phải nói rơ duyên do này!
Hỏi: Phàm phu
cũng có người vừa nghe liền ngộ, nay một
ngàn hai trăm vị [Thanh Văn] đă nghe giảng đại
lược và cặn kẽ về chuyện “khai tam, hiển
nhất”, và nghe ngài Thân Tử
trần thuật sự lănh ngộ được thọ kư,
rồng, quỷ c̣n có thể phỏng theo đó mà tùy hỷ.
V́ sao [các vị Thanh Văn] vẫn mê?
Đáp: Có hai nghĩa:
Một là chấp trước đă lâu. Hai là người
đă dự vào địa vị, hễ hiểu sẽ phá
chấp. Chấp đă bị phá liền dự vào Sơ Trụ.
Phàm phu chẳng có hai nghĩa ấy, có thể dễ hiểu
hơn!
3.3.1.2. Giải đáp
3.3.1.2.1. Phát khởi
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Xá Lợi Phất: - Ngă tiên bất
ngôn chư Phật Thế Tôn, dĩ chủng chủng nhân
duyên, thí dụ, ngôn từ,
phương tiện thuyết pháp, giai vị A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề da? Thị chư sở
thuyết giai vị hóa Bồ Tát cố. Nhiên Xá Lợi Phất,
kim đương phục dĩ thí dụ cánh minh thử nghĩa. Chư hữu
trí giả, dĩ thí dụ đắc giải.
(經)爾時佛告舍利弗。我先不言諸佛世尊。以種種因緣譬喻言辭方便說法。皆為阿耨多羅三藐三菩提耶。是諸所說。皆為化菩薩故。然舍利弗。今當復以譬喻更明此義。諸有智者。以譬喻得解。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, đức Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: -
Trước kia, ta chẳng nói chư Phật Thế Tôn dùng
các thứ nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện
thuyết pháp, đều v́ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
ư? Các lời ấy đều v́ giáo hóa Bồ Tát. Nhưng
này Xá Lợi Phất, nay ta sẽ dùng thí dụ để nói
rơ hơn nghĩa ấy, những người có trí sẽ
do thí dụ mà được hiểu).
Trong kinh văn, trước
là đè nén, sau là dẫn nhập[10].
Từ “ngă tiên bất ngôn” (trước kia, ta chẳng
nói) trở đi, nhắc đến
Quyền đă được nêu ra trong phần trước.
Câu “giai vị A Nậu” (đều v́ Vô Thượng)
là nói đến Thật đă được nêu ra trong phần
trước. “Giai vị hóa Bồ Tát” (đều v́ giáo
hóa Bồ Tát): Dù Quyền hay Thật, đều nhập Niết
Bàn vô trụ của Phật đạo. Trong phần trước
đă nói rơ, cớ sao cứ chấp giáo, cứ mê ám chẳng
hiểu? Quở trách như thế đó. Đó là “chèn ép”, khiến
cho [thính chúng] phát phẫn, dũng mănh. Từ chữ “nhiên
Xá Lợi Phất” trở đi,
[thể hiện ư] tiếp dẫn an ủi. Trước đó,
đă quở trách thống thiết, [đức Phật] lại
sợ họ sẽ mặc cảm hèn kém, tự ch́m đắm,
bèn hứa sẽ nói thí dụ. Nếu ai có thể hiểu
[hàm ư trong thí dụ ấy] th́ vẫn được gọi
là bậc trí.
3.3.1.2.2. Nói thẳng vào thí dụ
3.3.1.2.2.1. Trường Hàng
Gồm hai
phần: Một là lập thí dụ, hai là đối ứng [những điều được
nói trong thí dụ] với sự biểu thị pháp. Nhưng
giữa thí dụ và phần kết hợp với pháp, sẽ
có [những chỗ được nói] chi tiết hay giản
lược. Nếu phần thí dụ nói giản lược,
mà phần kết hợp với pháp lại nói rộng th́ trước
hết đem thí dụ đối chiếu với pháp xong,
đến phần tổng hợp, lại cần phải giải
thích cặn kẽ. Nếu thí dụ nói chi tiết, mà phần
kết hợp với pháp (phần giải thích ư nghĩa biểu
thị pháp của mỗi sự việc trong thí dụ) giản
lược, há lẽ nào đức Thế Tôn phí công nói rườm
rà! Vẫn cần phải giải thích thí dụ cặn kẽ,
c̣n phần đối với phần biểu thị pháp, sẽ
chỉ nói đối chiếu đại lược.
3.3.1.2.2.1.1. Lập thí dụ
3.3.1.2.2.1.1.1. Tổng thí
3.3.1.2.2.1.1.1.1. Thí dụ về ông trưởng
giả (sánh ví đức Phật Thích Ca)
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Nhược quốc ấp, tụ lạc,
hữu đại trưởng giả, kỳ niên suy mại,
tài phú vô lượng, đa hữu điền trạch, cập
chư đồng bộc.
(經)舍利弗。若國邑聚落。有大長者。其年衰邁。財富無量。多有田宅及諸僮僕。
(Kinh: Xá
Lợi Phất! Như nơi quốc ấp, xóm làng, có đại
trưởng giả đă già yếu, của cải vô
lượng, có nhiều ruộng nương, nhà cửa, và
các tôi tớ).
Câu “quốc
ấp, tụ lạc…” chỉ rơ ông ta có danh vọng, phẩm
hạnh. Câu “hữu đại
trưởng giả” (có đại trưởng
giả) nêu ra địa vị và phong hiệu của ông ta.
“Kỳ niên suy mại” (tuổi đă già suy) nói về đức
nghiệp. Danh như khách, hạnh như chủ. Hạnh có
thân và sơ (Thật hạnh là thân, Quyền hạnh là sơ). Danh có xa hay gần. V́ thế,
nêu ra xứ sở nhằm hiển thị danh và hạnh. Biên
giới là chỗ xa nhất của một nước. Chỗ
có người cai quản là Ấp, sống trong ấy. “Tụ
lạc” là chỗ xóm giềng, gần nhất. Danh và hạnh
của trưởng giả trọn khắp ba chỗ (quốc,
ấp, tụ lạc)[11].
Gần th́ chẳng thấy những lỗi tệ nhỏ
nhặt, xa th́ chỉ nắm giữ phong thái cao cả. Miệng
chẳng phải lựa lời, thân chẳng phải chọn
hạnh, ư chẳng phải chọn pháp, danh và hạnh tương
xứng, là bậc đại nhân chân thật. Dùng chuyện
này để thí dụ ba nghiệp của
Như Lai thuận theo trí huệ, tương xứng
căn cơ để thực hiện giáo hóa, tiếng tăm
vang dội trọn khắp, đức trọn khắp pháp
giới. “Quốc” ví như cơi Thật Báo, “ấp”
ví như cơi Phương Tiện, “tụ lạc” ví như
cơi Đồng Cư. Từ Bổn là cơi Tịch Quang rủ
ḷng thị hiện trong ba cơi (Đồng Cư, Phương
Tiện, Thật Báo). Nhiếp dấu tích trong ba cơi về Tịch
Quang nơi Bổn. Danh và hạnh tương xứng, dào dạt
trọn khắp. Là bậc trưởng giả trong thế
gian, cần phải trọn đủ mười đức:
- Một là gịng họ
sang quư, hoặc là hậu duệ của hoàng đế, hoặc
gia tộc quư hiển.
- Hai là địa vị
cao, phù tá bậc A Hành[12].
- Ba là giàu to, vàng thóc
dư dật.
- Bốn là oai thế
mạnh mẽ, tôn nghiêm long trọng, chẳng cần phải
nghiêm nghị mà có oai.
- Năm là trí sâu, tâm
như kho vũ khí[13],
tài năng lạ lùng, vượt xa người khác.
- Sáu là tuổi cao, tóc
bạc, quắc thước, mọi người khâm phục.
- Bảy là hạnh
thanh tịnh, bạch khuê[14]
không tỳ vết.
- Tám là lễ nghĩa
đầy đủ, trọn vẹn, cư xử đúng
chừng mực.
- Chín được
bề trên khen ngợi, được một người
(hoàng đế) tôn kính.
- Mười là kẻ
dưới quy phục, bốn biển đều tôn sùng.
Có đủ mười
đức ấy th́ gọi là “đại trưởng
giả”. Dùng những điều này để sánh vị
trưởng giả xuất thế là Như Lai. Ngài sanh từ
Chân Như Thật Tế tam thế:
- Một là gịng họ
cao quư, công tu thành tựu, đắc đạo, mười
hiệu vô cực.
- Hai là địa vị
cao quư, pháp tài vạn đức thảy đều trọn
đủ.
- Ba là giàu to, Thập Lực hùng mănh, hàng ma,
chế phục ngoại đạo.
- Bốn là oai mănh, nhất
tâm tam trí, không ǵ chẳng thông đạt.
- Năm là trí sâu, sớm
thành Chánh Giác lâu xa dường ấy.
- Sáu là cao tuổi, hạnh
nghiệp thuận theo trí, hành xử chẳng lầm lỗi.
- Bảy là hạnh
thanh tịnh, trọn đủ oai nghi của Phật, tâm như
biển cả.
- Tám là lễ tiết
trọn đủ, mười phương Đại Giác đều
cùng ca ngợi.
- Chín là được
người trên (chư Phật) khen ngợi, bảy loại
phương tiện đều y chỉ.
- Mười là kẻ
dưới nương về (đối với quả Phật
trong tứ giáo, đối với mỗi giáo đều luận
định mười đức. Bậc Sơ Trụ của
Viên Giáo cũng phần chứng mười đức trong
Viên Giáo).
Xét theo quán tâm, cái trí
để quán tâm sanh từ Thật Tướng. Sanh trong nhà
Phật, chủng tánh chân chánh, tức là “gịng họ tôn quư”.
Tam Hoặc chẳng dấy lên, tuy chưa thấu suốt lẽ
Chân, đă mặc áo của Như Lai, được gọi
là Tịch Diệt Nhẫn, tức là “địa vị cao
cả”. Tam Đế bao hàm hết thảy công đức,
chính là “giàu to”. Trí huệ chánh quán, hàng phục ái kiến, tức
là “oai mănh”. Trung Đạo cùng chiếu Quyền và Thật đều
sáng tỏ, tức là “trí sâu”. Tích tập thiện căn đă
lâu, có thể tu phép Quán ấy. Phép Quán ấy vượt trên
bảy phương tiện, tức “tuổi tác đă cao”.
Phép Quán ấy quán tâm tánh, được gọi là “thượng
định”, có thể khiến cho tam nghiệp chẳng lầm
lỗi; tức là “hạnh thanh tịnh”. Trải duyên, đối cảnh, oai nghi chẳng mất, tức “lễ
tiết trọn đủ”. Có thể quán như thế chính
là tướng “tín giải sâu xa”. Chư Phật đều
hoan hỷ, khen ngợi người tŕ pháp, tức là “được
người trên khen ngợi”. Bốn bộ trời, rồng
cung kính cúng dường, tức là “người dưới
nương về”.
Trong phần sau,
kinh nói “Phật tử trụ thử địa” (Phật
tử trụ nơi đây), tức là sự thọ dụng
của Phật. Đấy chính là “trưởng giả”
xét theo quán tâm (Mười đức ấy chẳng ra ngoài
ba thứ cảnh, trí, hạnh. Tuy chưa dự vào địa
vị, như vương tử c̣n ở trong thai, cho nên gọi là “quán hạnh mười đức của
Như Lai”. Nếu xét theo xuất thế, sẽ tùy thuộc
vào giáo để quán từng quả riêng biệt, chuẩn theo
giáo ấy để quán tương ứng, nhân quả tự
rạch ṛi. Tức là dùng tam quán để đối ứng
bốn giáo, nắm giữ trọn vẹn đức tướng
để tán thán Quán, khiến cho kẻ hậu học tu nhân
trọn đủ. Dùng quán mười đức để
thành tựu cái quả mười đức, ḥng có thể nhất tâm chiếu trọn ba pháp, tức là
quán tâm mười đức trọn đủ. V́ thế,
dẫn các đoạn kinh văn như “Phật tử đẳng”
ḥng làm chứng cho quán tâm. Lại nữa, mười đức
ấy ghép với mười pháp thành các
thừa, theo thứ tự kết hợp, hết
sức sâu xa! V́ sao vậy? Thật Tướng chính là cảnh
chẳng thể nghĩ bàn, duyên theo Lư mà dấy lên
Thệ (thề nguyền). V́ thế, gọi là Trụ
Nhẫn. Do tâm an định nơi Lư, xứng Lư hàm tàng,
trừ Phiền Hoặc nơi Tam Đế, được
gọi là “phá trọn khắp”. Trung Đạo song chiếu,
không bế tắc ǵ chẳng thông. Vô tác đạo
phẩm vượt xa bảy phương tiện, giúp đỡ
ba nghiệp, đối với Lư chẳng lầm lỗi,
đối với cảnh chẳng mất. Do nương vào
địa vị chân thật, tín giải đă sâu, cho nên có
thể an nhẫn, chẳng sanh pháp ái, cho nên mới cảm
kẻ thấp hơn cúng dường. Mười pháp của
ba giáo lần lượt giải thích, sẽ trở thành mười
pháp quán tâm trong kinh này. Mười phép Quán như thế không
chỉ thuộc trong địa vị Quán Hạnh xét theo chiều ngang! Từ sơ tâm cho đến cuối
cùng, mười phép Quán trọn đủ. V́ thế, mười
đức ấy có ư nghĩa càng sâu hơn theo chiều dọc.
Lại c̣n cùng với mười thừa theo chiều ngang cùng
mất).
Trong phần nói về
đức nghiệp, đức có trong, ngoài. Trong chính là
trí lược (智略, tài trí và
mưu lược), ngoài là tư tài (貲財, tiền
tài, tài vật). Tuổi cao bèn thông đạt rộng răi xưa
nay, ví như Trí Đức của Phật. “Suy mại”
(già suy) th́ căn tánh, chí niệm thuần thục, ví như
Đoạn Đức của Phật. “Của cải” ví như
ngoại đức. “Vô lượng” là sánh ví chung vạn
đức, “ruộng đất” có thể dưỡng
mạng, sánh ví riêng chuyện Thiền Định có thể
phụ giúp Bát Nhă. “Nhà” có thể gởi thân, ví như thật cảnh là chỗ để trí nương
náu (như mười tám Không môn[15]
v.v…) Nếu luận về phước đức, không có hạnh
nào chẳng tu. Nếu luận theo trí huệ, sẽ là không
có cảnh nào chẳng chiếu. V́ thế nói là “đa hữu
điền trạch” (có nhiều ruộng nương,
nhà cửa). “Đồng bộc” (僮僕) là kẻ
để sai khiến, hầu hạ, ví như phương
tiện tri kiến đều đă trọn đủ. Ḥa
quang đồng trần trong sáu đường, tùy thuận
các căn cơ. Đó chính là tôi tớ của Thật Trí.
3.3.1.2.2.1.1.1.2. Thí dụ về nhà cửa
Sánh ví sự
an ổn trên đây để đối chiếu với sự
chẳng an ổn. “Chẳng an ổn” chính là tam giới.
(Kinh) Kỳ gia
quảng đại.
(經)其家廣大。
(Kinh:
Nhà ấy rộng lớn).
Chúng sanh nhọc nhằn,
đều ở trong tam giới. Như Lai ứng hóa, đau
xót mà gia bị. V́ thế nói là “quảng đại”.
3.3.1.2.2.1.1.1.3. Thí dụ [ṭa nhà rộng
lớn ấy chỉ có] một cửa
Sánh ví [điều đă
nói] trong phần trên, “dùng các thứ pháp môn để tuyên
nói, chỉ bày Phật đạo”.
(Kinh) Duy hữu
nhất môn.
(經)唯有一門。
(Kinh: Chỉ
có một cửa).
Kinh văn nói: “Dĩ
Phật giáo môn xuất tam giới khổ, đắc Niết
Bàn chứng” (Dùng cửa Phật giáo để thoát nỗi
khổ trong tam giới, chứng đắc Niết Bàn). Hăy
nên biết Lư chính là điều được tuyên nói bởi
giáo. Nay lấy giáo diễn nói Lư ấy làm môn. Lư đă là một,
Giáo chẳng dung hai. V́ thế bèn nói là “một”. Lại có trạch
môn và xa môn. “Trạch” (宅) là sanh tử,
“môn” (門) là con đường
thoát sanh tử. Đó là nói theo phương tiện giáo. “Xa”
(xe) là Đại Thừa, “môn” là lời dạy trong Viên
Giáo. Nếu trạch môn chính là xa môn, khi ra khỏi nhà lửa,
sẽ đáng được cỗ xe to, cần ǵ phải
đợi đ̣i hỏi? Nếu trạch môn chẳng phải
là xa môn, trong lúc [các
con] đ̣i xin, chỉ là từ
nhà lửa thoát ra, há có con đường nào khác? Lại c̣n
có người đă có trạch môn, chưa đạt được
xa môn, trụ ở chỗ nào? Hăy nên biết “chê trách” (tức
trong thời Phương Đẳng và Bát Nhă quở trách pháp
Nhị Thừa) th́ Xa và Trạch măi măi khác biệt, [tới khi] “khai” (thời
Pháp Hoa khai tam hiển nhất) th́ hai môn chẳng khác; Xa và Trạch là một,
hai môn có khác biệt ǵ? Do vậy, tam thừa có hai nghĩa:
- Nương theo giáo,
ra khỏi nhà [lửa], chẳng thấy cỗ xe nhỏ.
- Trong chặng giữa,
đă điều phục hai vị (sanh tô và thục tô) thuần
thục, bèn từ cha đ̣i xin cỗ xe mà cha đă hứa trước đó. Đă đ̣i th́ phải cho, mở cánh cửa nhỏ ấy,
[các đệ tử Phật mới biết] không ǵ chẳng
phải là đại giáo.
Lư nhỏ nhoi trong cửa,
rốt cuộc chẳng phải là đường nào khác!
Lư tuyệt đối chẳng hai, thô và diệu cùng một
Thể. Pháp trụ nơi pháp vị, tướng thế gian là thường.
Tam giới c̣n như thế, có khác biệt ǵ? Nếu trước đó đă
chẳng có ǵ khác, lấy ǵ để luận đồng?
Người ch́m đắm trong khổ nay đều tụ
tập.
3.3.1.2.2.1.1.1.4. Thí dụ về năm
trăm người
Sánh ví chúng
sanh trong phần trước, tức là [chúng sanh thuộc] năm
đường vậy.
(Kinh) Đa chư
nhân chúng, nhất bách, nhị bách, năi chí ngũ bách nhân chỉ
trụ kỳ trung.
(經)多諸人眾。一百。二百。乃至五百人止住其中。
(Kinh:
Có nhiều người, một trăm, hai trăm, cho đến
năm trăm người cư trụ trong ấy).
“Một trăm” là
trời, “hai trăm” là người, cho đến “năm
trăm” tức là ba đường ác. Không nói đến
Tu La, v́ Tu La hoặc gộp trong quỷ đạo, hoặc
gộp trong bốn đường khác, như trong kinh Đại
Phật Đảnh (kinh Lăng Nghiêm) đă nói.
3.3.1.2.2.1.1.1.5. Thí dụ về bốc
lửa
Sánh ví pháp
an ổn trong phần trên đối chiếu với pháp chẳng
an ổn, tức là nói đến ngũ trược. Kinh văn
lại chia làm hai phần:
- Một là tướng
trạng thoát khỏi nhà bị đốt cháy,
ví như [thoát khỏi] quả báo trong lục
đạo.
- Hai là tướng
lửa thiêu đốt, ví như tám khổ, ngũ trược.
3.3.1.2.2.1.1.1.5.1. Tướng trạng
nhà bị đốt cháy
(Kinh) Đường
các hủ cố, tường bích đồi lạc, trụ
căn hủ bại, lương đống khuynh nguy.
(經)堂閣朽故。牆壁隤落。柱根腐敗。梁棟傾危。
(Kinh: Nhà, gác
do mục cũ, tường vách sụp đổ, chân cột
hư mục, kèo rường nghiêng ngả).
“Đường” ví như
Dục Giới, “các”[16]
ví như Sắc Giới và Vô Sắc Giới. “Hủ”
(朽, hư mục)
ví như tam giới tệ ác, vô thường. V́ thế, sánh
ví tam giới chẳng phải đến nay mới tạo
ra. “Tường bích” (牆壁, tường
vách)[17]
ví như Tứ Đại, “đồi lạc” (隤落, sụp xuống,
nghiêng ngả) ví như tổn giảm. “Trụ căn”
(chân cột) ví như mạng. “Hủ bại” (腐敗, mục
nát) ví như nguy ngập, chẳng lâu bền. “Lương
đống” (梁棟, kèo rường)[18]
ví như ư thức. “Khuynh nguy” (傾危, nghiêng ngả,
có thể rơi xuống bất cứ lúc nào) ví như biến
đổi chẳng ngừng. Vô Sắc tuy chẳng có sắc
chất Tứ Đại thô thiển, nhưng xét theo Định
Quả Sắc th́
cũng là vách tường. Tam giới đều dùng ư thức
để duy tŕ, chỉ xét theo nhân quả thuộc chánh báo trong
tam giới để giải thích, sẽ bao gồm cả y
báo, chẳng cần phải gộp chung y báo và chánh báo để
thí dụ. Y báo chỉ là chút phần trong Tướng Phần
của thức thứ tám mà thôi. Lại như thành và hoại
mỗi đằng đều chia thành hai mươi loại,
đă chẳng có hữu t́nh, sao có thể giải thích ư nghĩa
ngũ trược thiêu đốt sao cho khít khao đôi chút;
v́ thế chẳng dùng. Lại dựa theo quán tâm để
giải thích th́ “đường” ví như phần dưới
của thân, “các” ví như phần trên gồm đầu
v.v… “Tường bích” ví như da, thịt. “Đồi
lạc” ví như già suy. “Trụ căn” ví như hai
chân, “hủ bại” ví như suy đồi, “lương
đống” ví như xương sống. “Khuynh nguy”
ví như cái chết.
3.3.1.2.2.1.1.1.5.2. Tướng lửa
thiêu đốt
(Kinh) Châu táp câu
thời soát nhiên hỏa khởi, phần thiêu xá trạch.
(經)周匝俱時欻然火起。焚燒舍宅。
(Kinh: Khắp
nơi cùng lúc bỗng dưng bốc lửa, thiêu đốt
nhà cửa).
Tám khổ trọn
khắp trong Tứ Đại (địa,
thủy, hỏa, phong), Tứ Sanh (thai, noăn,
thấp, hóa). V́ thế nói là “châu táp” (周匝, giáp ṿng,
trọn khắp) đều là vô thường. Do vậy nói “câu
thời” (cùng lúc). “Soát nhiên” (欻然, bỗng dưng) ví như vốn chẳng
có, nay lại có. Vốn chẳng có sự khổ ấy, do
vô minh mà có. Phần thứ năm, “thí dụ
về lửa bốc” đă
xong.
3.3.1.2.2.1.1.1.6. Thí dụ về ba mươi
đứa con
Sánh ví chuyện biết
tánh t́nh và sự ham muốn của trời người
được nói trong phần trên, tức là nói tới hành
nhân trong tam thừa.
(Kinh) Trưởng
giả chư tử, nhược thập, nhị thập,
hoặc chí tam thập, tại thử trạch trung.
(經)長者諸子。若十。二十。或至三十。在此宅中。
(Kinh:
Các con của trưởng giả, hoặc mười, hai
mươi, cho đến ba mươi ở trong nhà ấy).
Từng tu tập Phật pháp, thiên tánh liên quan, gọi những người
đă kết duyên là “con”. “Hoặc mười” là con Bồ
Tát, “hai mươi’ và “ba mươi” chính là con trong Nhị
Thừa. Các căn cơ ấy đều được thoát khỏi
nhà. Nếu chẳng phải là căn cơ ấy th́ là năm
trăm người. Hoặc là Bích Chi Phật được
tính riêng, hay gộp chung khác biệt, hoặc gộp trong Tiểu
Thừa, hoặc coi là Trung Thừa, đều nói là “mười người”, do đều
có tánh thập trí (một là Thế trí, hai là Tha Tâm trí, ba là Khổ
trí, bốn là Tập trí, năm là Diệt trí, sáu là Đạo
trí, bảy là Pháp trí, tám là Tỷ trí, chín là Tận trí, mười
là Vô Sanh trí). Phần thứ nhất, Tổng Thí đă
xong.
3.3.1.2.2.1.1.2. Biệt thí
3.3.1.2.2.1.1.2.1. Thí dụ về ông trưởng
giả trông thấy lửa
Sánh ví chuyện
đức Phật trông thấy ngũ trược bèn dấy
tâm đại bi.
(Kinh) Trưởng
giả kiến thị đại hỏa tùng tứ diện
khởi, tức đại kinh bố, nhi tác thị niệm:
“Ngă tuy năng ư thử sở thiêu chi môn, an ổn đắc
xuất, nhi chư tử đẳng ư hỏa trạch
nội, nhạo trước hy hư, bất giác, bất tri, bất
kinh, bất bố, hỏa lai bức thân, khổ thống
thiết dĩ, tâm bất yếm hoạn, vô cầu xuất
ư”.
(經)長者見是大火從四面起。卽大驚怖。而作是念。我雖能於此所燒之門安隱得出。而諸子等。於火宅內樂著嬉戲。不覺不知。不驚不怖。火來逼身。苦痛切已。心不厭患。無求出意。
(Kinh:
Trưởng giả thấy lửa lớn ấy từ bốn
phía bốc lên, liền hết sức kinh sợ, nghĩ như
thế này: “Tuy ta có thể an ổn thoát ra từ cái cửa
đang cháy này, nhưng các con của ta ở trong nhà lửa,
ham thích nô đùa, chẳng hay, chẳng biết, chẳng kinh,
chẳng sợ. Lửa sẽ cháy đến thân, đau đớn
cùng cực, [nhưng chúng nó] tâm chẳng
chán nhàm, lo sợ, chẳng có ư mong thoát ra”).
Tuy đoạn kinh
văn này có bốn tiểu đoạn, nhưng chỉ có
ba ư:
- Một là trưởng
giả trông thấy [lửa cháy], đấy là nêu ra người có thể
thấy, ví như trong phần trên [chánh kinh có] nói: “Ta dùng Phật
nhăn để xem xét”.
- Hai là lửa lớn
từ bốn phía bốc lên, đó là nêu ra điều được trông thấy. Ví như
trong phần trên đă nói [Như Lai] trông thấy
lục đạo chúng sanh.
- Ba là lập tức
hết sức kinh sợ, sánh ví [điều được
nói trong] phần trên: V́ các chúng sanh ấy mà dấy ḷng đại
bi.
- Bốn là từ “chư
tử” (các con) trở đi, nói rộng thêm về những
điều trông thấy trong phần hai, vẫn nhằm giải
thích ư nghĩa “kinh sợ”.
“Thân, thọ, tâm,
pháp” chính là bốn phía của ṭa nhà. Từ bốn phía ấy,
dấy lên “tứ đảo” (bốn thứ điên đảo)[19]
về thường, lạc, ngă, tịnh, cho nên tám nỗi
khổ đều tụ tập. Nếu biết “thân bất
tịnh, khổ, vô thường, vô ngă”, thọ, tâm và pháp
cũng thế, th́ lửa phiền năo sẽ tắt, nghiệp
khổ hoàn toàn dứt. “Tức đại kinh bố” (liền
hết sức kinh sợ): Do nghĩ đến những kẻ
thoái thất đại thiện, cho nên kinh hăi, lo rầu; do
lo lắng họ sẽ dấy lên điều
ác nặng nề, cho nên hoảng sợ. “Kinh” (驚) tức là ḷng
Từ, nghĩ họ chẳng có sự vui. “Bố”
(怖) chính là bi, lo
buồn họ sẽ chịu khổ.
“Ngă tuy năng ư
thử sở thiêu chi môn, an ổn đắc xuất” (Tuy
ta có thể từ cái cửa đang bị cháy này mà an ổn
thoát ra): Giải thích và kết lại ư nghĩa “kinh bố”.
Tuy là lời nói chưa trọn hết, nhưng đă nêu rơ:
Phật dùng sức trí huệ có thể t́m thấy chánh giáo, thấy chân lư đă được
diễn nói, chẳng bị nguy khốn bởi ngũ trược
và tám khổ, cho nên An. Bốn trận gió lốc đảo
kiến (tri kiến điên đảo) chẳng thể động.
V́ thế là Ổn. Vượt ngoài nỗi lo sầu, xơ
xác, cho nên nói là “đắc xuất” (thoát ra). Nhưng chúng
sanh chẳng như vậy, bị lửa thiêu đốt.
Như Lai [do ḷng] từ bi, vẫn bị lửa ưu bi chiếu
rực, cho nên nói là “tuy”. “Sở thiêu chi môn” (cái cửa đang
bị thiêu đốt): Cửa th́ ắt có khung cửa và cánh
cửa, có khoảng trống [giữa khung cửa]. Chẳng
có khung và cánh cửa, sẽ không có ǵ để chỉ ra cửa.
Chẳng có chỗ trống, sẽ không có ǵ để thông qua.
Khung và cánh cửa có thể cháy sạch, khoảng trống
giữa khung cửa th́ chẳng thể thiêu. Dùng chuyện này
để sánh ví giáo có năng
thuyên (chủ thể diễn nói) và sở thuyên (điều
được diễn nói). Nếu chẳng diễn nói, biện
định, sẽ không có ǵ để dạy. Nếu không
có điều được diễn nói, làm sao thoát ra? Diễn
nói, biện định có thể là vô thường. Điều
được diễn nói chẳng vô thường, cho nên dạy
điều được tuyên nói. V́ thế, gọi là “an
ổn đắc xuất”. Chủ thể diễn nói có
thể ṃn diệt, cho nên nói là “sở thiêu chi môn” (cửa
bị thiêu đốt). Chẳng từ cái cửa đang bị
thiêu đốt, sẽ do đâu mà được an ổn
thoát ra? Nhờ vào ngôn giáo mà khế hợp
điều được diễn nói. Đại kinh dạy:
“Nhân vô thường cố, nhi quả thị thường”
(do nhân là vô thường mà quả là thường) chính là nói đến
điều này. Như giáo môn vô thường của Tiểu
Thừa là từ cái cửa đang bị đốt cháy mà
thoát ra; c̣n trong giáo môn thường trụ của Đại
Thừa, văn tự chính là giải thoát, giáo ấy chính là
Lư. Hễ
thông đạt “thiêu chính là chẳng thiêu”, bèn an ổn thoát
ra. Nếu xét theo Quyền Trí của Như Lai th́ tức là từ
cái cửa đang bị cháy mà thoát ra. Nếu xét theo Thật
Trí, tức là do thấu hiểu cái bị đốt mà an ổn
thoát ra. V́ thế, trước đó, dựa vào vạt áo, ghế,
bàn, chẳng thoát ra được! Sau đó, dùng vô thường
để thoát ra, chính là ư này.
“Nhạo trước
hy hư” (ham thích chơi giỡn): Chấp vào cái thấy là
Hy (嬉), chấp
vào Ái th́ là Hư (戲). Lại
đắm đuối nơi tứ kiến[20]
th́ gọi là Hy, oan uổng chôn vùi công lao th́ gọi là Hư. Đắm
đuối ngũ trần là Hy, rỗng tuếch chẳng đạt
được ǵ là Hư. Uổng công sanh tử mà chẳng chán
ĺa, như trẻ nhỏ chơi giỡn, đều chẳng
nói “có lửa”; đó là “bất giác”. Chẳng biết lửa là thứ
nóng bức, đó là “bất tri”. Đă chẳng biết
lửa nóng, chẳng lo thân thể bị thương tổn,
đó là “bất kinh” (chẳng kinh hăi). Chẳng sợ
đoạn mạng, đó là “bất bố” (chẳng
sợ sệt). Dùng những điều ấy để sánh
ví chúng sanh hoàn toàn chẳng nhận biết ngũ ấm, bát
khổ, chẳng biết tứ đảo, tam độc. Đă
chẳng biết Hoặc, sao có thể lo sợ Hoặc xâm
tổn Pháp Thân, đoạn mất huệ mạng? Chẳng
biết Khổ như thế, chẳng biết Tập, chẳng
sợ tổn thương Đạo, chẳng sợ đánh
mất Diệt. V́ chẳng nghe giáo pháp Tứ Đế, cho
nên chẳng có Văn Huệ và Tư Huệ, nên gọi là “bất
giác”. Chẳng có Tu Huệ, gọi là “bất tri”. Chẳng
có kiến giải, gọi là “bất kinh”. Chẳng có
tư duy giải, gọi là “bất bố”. Kiến Đế
tức là “kinh ngộ” (kinh sợ, ngộ ra). Tư duy
tức là “yếm bố” (chán nhàm, sợ hăi). Lại
chẳng hiểu hiện tại là khổ, chẳng biết
vị lai là khổ. V́ thế, trong phần sau, kinh nói: “Hiện
thọ chúng khổ, hậu thọ địa ngục đẳng
khổ” (Nay hứng chịu các khổ, về sau, sẽ
chịu các nỗi khổ như địa ngục v.v…).
“Hỏa lai bức
thân” (lửa cháy đến bức bách tấm thân), chính
là ngũ thức thân. Ngũ thức thông tam thọ (khổ,
lạc, phi khổ phi lạc), tam thọ chính là tam khổ.
Niệm nào cũng tương ứng với tam thọ, v́
thế nói “khổ thống thiết dĩ” (đau khổ
bức thiết). “Tâm bất yếm hoạn” (tâm chẳng
chán nhàm, lo sợ) tức là thức thứ sáu. Đồng
thời, ư thức cùng với năm thức kia chỉ biết
phân biệt ba thứ thọ, dấy lên tham, giận, si, tạo
ra cái nhân gây khổ, sao có thể chán ngán, lo sợ, mong cầu
thoát ra? V́ thế nói là “vô cầu xuất ư” (chẳng có
ư nguyện mong thoát ra). “Hy hư” ví như Kiến Trược
và Phiền Năo Trược. “Bất giác, bất tri, bất
kinh, bất bố” ví như Chúng Sanh Trược. “Hỏa
lai bức thân khổ thống thiết dĩ” (lửa cháy
đến bức bách tấm thân, đau khổ cùng cực) ví như Mạng Trược.
“Tâm bất yếm hoạn, vô cầu xuất ư” (tâm chẳng
chán nhàm, lo rầu, chẳng có ư cầu xuất ly) ví như
Kiếp Trược.
3.3.1.2.2.1.1.2.2. Thí dụ bỏ ghế, dùng xe
Sánh ví chuyện
“thực thi phương tiện để giáo hóa” trong
phần trên, chia làm hai phần:
- Một là
thí dụ về bỏ ghế, dùng xe.
- Hai là thí dụ
về dùng xe [tốt nhất] để ban cho.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.1. Thí dụ “bỏ ghế, dùng xe”
Sánh ví chuyện
suy nghĩ “nếu dùng Đại Thừa để hóa độ
ngay th́ sẽ chẳng
được”. Phần này lại chia làm hai:
- Một, tính dùng
Khuyến Môn nhưng không được.
- Hai, tính dùng Giới
Môn, nhưng cũng không được.
Kinh văn trong phần
trước chẳng tách thành hai môn Khuyến và Giới, nhưng
nêu chung ba ư:
- Một, toan dùng Đại
Thừa để hóa độ.
- Hai, chúng sanh chẳng
có căn cơ [tương
ứng].
- Ba, nghĩ muốn
thôi hóa độ.
Nay hai môn đều
nói rơ “pháp toan sử dụng để độ chẳng có
căn cơ thích hợp”, nhưng ư niệm “toan thôi hóa
độ” chỉ là
ư ngầm!
3.3.1.2.2.1.1.2.2.1.1. Tính dùng Khuyến Môn nhưng không được
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Thị trưởng giả tác thị tư duy: “Ngă
thân thủ hữu lực, đương dĩ y kích, nhược
dĩ kỷ, án, tùng xá xuất chi”. Phục cánh tư
duy: “Thị xá duy hữu nhất môn, nhi phục hiệp tiểu.
Chư tử ấu trĩ, vị hữu sở thức,
luyến trước hư xứ, hoặc đương đọa
lạc, vị hỏa sở thiêu”.
(經)舍利弗。是長者作是思惟。我身手有力。當以衣裓。若以几案。從舍出之。復更思惟。是舍惟有一門。而復陿小。諸子幼稚。未有所識。戀著戲處。或當墮落。為火所燒。
(Kinh:
Này Xá Lợi Phất! Vị trưởng giả ấy suy
nghĩ như thế này: “Tay và thân ta có sức, nên dùng lẵng
hoa, hoặc dùng ghế, bàn để thoát khỏi nhà”. Lại
suy nghĩ: “Nhà này chỉ có một cửa, lại c̣n hẹp
nhỏ. Các con thơ dại, chưa hiểu biết, luyến
tiếc chỗ vui đùa, sợ sẽ rơi té, bị lửa
thiêu đốt”).
“Tác thị tư
duy” (suy nghĩ như thế này) sánh ví sự suy nghĩ
trong hai mươi mốt ngày [sau khi đức Phật thành
đạo] được nói trong phần trước. “Thân”
ví như thần thông có thể gánh vác, “tay” ví như trí
huệ nâng đỡ. Nương vào tam-muội Đoạn
Đức, sẽ có thần thông. Nương
vào Trí Đức trong trí huệ, sẽ có thể thuyết
pháp. Sức Trí Đoạn có thể thành tựu Pháp Thân. Trí
Đoạn ấy lại từ hai môn Khuyến và Giới
mà nhập. Khuyến tức là Vị Nhân Tất Đàn, Giới
(răn dạy) tức là Đối Trị Tất Đàn. Hai
thứ Tất Đàn này tạo phương tiện cho Đệ
Nhất Nghĩa Tất Đàn.
Thoạt đầu,
Như Lai muốn dùng Khuyến Môn để khiến cho [tam
thừa] vâng hành các điều thiện, thành tựu Thập
Lực, Tứ Vô Sở Úy, Nhất Thiết Chủng Trí, nhưng
chúng sanh chẳng thể
kham nổi. Kế đó, tính dùng Giới Môn khiến cho họ đừng làm các điều ác,
ḥng chứng đại Niết Bàn, nhưng họ cũng
chẳng kham được. Chẳng có căn cơ, bèn ngưng dứt giáo hóa. V́ thế biết: Tính dùng Đại
Thừa th́ chỉ là hai môn Khuyến Giới Tất Đàn,
thần thông, trí huệ đó thôi! Sức Định Huệ
trang nghiêm, dùng điều ấy để độ chúng sanh
chính là nghĩa này vậy. Trong phần trước, đă
tán thán “trưởng giả kỳ niên suy mại” (trưởng
giả tuổi cao, suy yếu) tức là sánh ví Trí Đoạn,
Trí Đoạn chính là “thân thủ hữu lực” (thân
và tay có sức). “Y kích” (衣裓) là đồ để đựng
hoa bên Tây Trúc, sánh ví tri kiến của Như Lai. “Ghế”
là sánh ví Tứ Vô Sở Úy. “Bàn” sánh ví Thập Lực. Đấy
là từ đại lược mà nói rộng ra thành sai khác.
Nói đại lược th́ gọi là “tri kiến
của Như Lai”. “Tri” tức là Nhất Thiết Chủng Trí. “Kiến”
tức là Phật nhăn. Danh từ đại lược, nghĩa
thẳm sâu. Ví như một cái y kích (lẵng hoa) chứa được
nhiều [hoa]. Ngự trong Trung Đạo để nói th́ gọi
là Tứ Vô Sở Úy, nhằm đối ứng với Tứ Đế.
Như ghế đối với pháp th́ nhỏ và dài, đối
với vật th́ là sự an ổn nhỏ. Nói rộng ra th́
là Thập Lực, ngang lẫn dọc đều gồm trọn.
Như bàn có nhiều chân, đối với pháp th́ rộng,
đối với vật th́ là sự an ổn to tát.
Trong hai mươi mốt ngày[21],
tư duy nói Phật pháp rộng hay lược như thế.
Đó chính là suy tính dùng Khuyến Môn.
Từ “phục cánh
tư duy” (lại c̣n suy nghĩ) trở đi, nói rơ “không
có căn cơ” [tương xứng để tiếp nhận
pháp ấy]. “Duy hữu nhất môn, nhi phục hiệp tiểu”
(chỉ có một cửa, lại c̣n nhỏ hẹp): “Môn”
là nói đến “xa môn” của Đại Thừa. Giải
thích điều này có Biệt và Thông. Biệt là tách từng
chữ ra để giải thích riêng biệt. “Nhất”
là một lư, một đạo thanh tịnh. “Môn” là nói
đến chánh giáo, thông với điều được
thông. “Tiểu” có nghĩa là bảy phương tiện
như đoạn, thường v.v… đều chẳng thể
nhập. Nếu luận theo giáo lư rộng răi, sẽ chẳng
hẹp nhỏ. Chúng sanh chẳng thể dùng giáo lư ấy để
tự thông, dẫu [Phật] muốn đàm luận, nhưng
[chúng sanh] chẳng có căn cơ. V́ thế nói là “hẹp
nhỏ”.
“Thông” là ba món lư,
giáo, hạnh, mỗi món đều cùng nói là “một cửa
hẹp nhỏ”.
1) Lư: Lư thuần
chẳng xen tạp, v́ thế nói là Nhất. Do Lư có thể
thông, cho nên nói là Môn.
Vi diệu khó biết, nên nói là “hẹp nhỏ”.
2) Giáo: Mười
phương đều chắc thật t́m cầu, chẳng
có thừa nào khác, chỉ có một Phật Thừa. V́ thế
nói là Nhất. Giáo ấy có thể thông, cho nên nói là Môn. Giáo ấy
vi diệu, phàm phu chẳng biết xuất xứ, tức là
chẳng biết Quyền. Chẳng biết nhập xứ,
tức là chẳng biết Thật. Hàng Nhị Thừa do nghe nói, ít người biết lẽ xuất yếu,
vĩnh viễn chẳng biết nhập. Bồ Tát tuy tự
biết xuất, cũng chẳng biết nhập. Cả bảy
phương tiện đều chẳng biết xuất,
nhập. V́ thế nói: “Nhược đản tán Phật
Thừa, chúng sanh một tại khổ” (nếu chỉ
khen ngợi Phật Thừa, chúng sanh ch́m đắm trong khổ).
Chẳng thể dùng Giáo để tự thông, muốn nói mà
chẳng có căn cơ. V́ thế nói là “hẹp nhỏ”.
3) Hạnh:
Dùng viên nhân để tự hành, hành đạo to lớn, thẳng
thừng, chẳng có ǵ gây chướng nạn được.
V́ thế gọi là Nhất. Khéo hành Bồ Tát đạo, tới
thẳng đạo tràng. V́ thế gọi là Môn. Diệu hạnh
khó hành, phương tiện chẳng có căn cơ. Cho nên
nói là “hẹp nhỏ”.
“Chư tử ấu
trĩ” (các con thơ dại): Tuy ở chỗ hai vạn vị
Phật dạy vô thượng đạo, nhưng thiện
căn Đại Thừa yếu nhỏ, bèn gọi là “ấu
trĩ”. Nếu nghe Đại Thừa, có thể sanh ḷng
hủy báng, tức là “vị hữu sở
thức” (chưa hiểu biết). Đó là thiện yếu ớt. Lúc
thoạt đầu thoái thất Đại Thừa, chấp
sâu kiến ái. Lúc chịu tám khổ, chấp sâu y báo và chánh
báo. Dục Giới chấp ngũ trần, Sắc Giới
chấp vị Thiền, Vô Sắc Giới chấp Định.
V́ thế gọi là “luyến trước hư xứ” (luyến
tiếc chỗ vui chơi). Đó là ác mạnh mẽ. Đọa
lạc có hai trường hợp:
- Một là thơ dại,
nhớ tưởng chỗ ḿnh vốn vui
chơi, cho nên đọa lạc. Ví như chấp trước
ngũ dục, đọa trong tam đồ.
- Hai là không hiểu
biết, chấp trước các thứ chẳng kiên cố,
cho nên đọa lạc. Ví như kẻ báng Đại Thừa,
đọa trong tam đồ.
V́ vậy nói “chúng
sanh chư căn độn, trước lạc si sở manh” (chúng sanh các căn độn,
chấp lạc, bị mù ḷa bởi ngu
si), sao có thể độ cho được? Lại nói:
“Nhược đản tán Phật Thừa, phá pháp bất
tín cố, trụy ư tam ác đạo” (Nếu chỉ
khen Phật Thừa, do phá pháp chẳng tin, rơi vào ba đường
ác). Đă không có căn cơ để khuyên, đă bao hàm ư
nghĩa “muốn ngưng dứt sự giáo hóa”.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.1.2. Tính dùng Giới Môn nhưng
chẳng được
(Kinh) “Ngă đương
vị thuyết bố úy chi sự: Thử xá dĩ thiêu, nghi thời tật xuất, vô
linh vi hỏa chi sở thiêu hại”.
Tác thị niệm dĩ, như sở tư duy, cụ cáo
chư tử: “Nhữ đẳng tốc xuất”. Phụ
tuy lân mẫn, thiện ngôn dụ dụ, nhi chư tử đẳng,
nhạo trước hy hư, bất khẳng tín thọ, bất
kinh, bất úy, liễu vô xuất tâm, diệc phục bất
tri hà giả thị hỏa, hà giả vi xá? Vân hà vi thất?
Đản Đông Tây tẩu hư, thị phụ nhi dĩ.
(經)我當為說怖畏之事。此舍已燒。宜時疾出。無令為火之所燒害。作是念已。如所思惟。具告諸子。汝等速出。父雖憐愍。善言誘諭。而諸子等。樂著嬉戲。不肯信受。不驚不畏。了無出心。亦復不知何者是火。何者為舍。云何為失。但東西走戲。視父而已。
(Kinh:
“Ta hăy nên v́ chúng nó nói tới chuyện đáng sợ hăi. Nhà
này đă bị cháy, hăy nên đúng lúc mau chóng thoát ra, chớ để
lửa đốt làm hại”. Nghĩ như thế rồi,
đúng như đă suy nghĩ, cặn
kẽ bảo các con: “Các con hăy mau ra
khỏi”. Cha tuy thương xót, khéo nói khuyên dụ, nhưng
các con mến đắm chơi đùa, chẳng chịu tin
nhận, chẳng kinh hăi, chẳng sợ sệt, trọn chẳng
có tâm ra khỏi, cũng lại chẳng biết ǵ là lửa,
ǵ là nhà, ǵ là tổn thất? Chỉ Đông
Tây chạy giỡn, nh́n cha mà thôi).
Đấy
là tướng đối trị, như kinh Đại Phẩm
có nói: “Tứ Niệm Xứ là Ma Ha Diễn. Dĩ bất
khả đắc cố, dị ư Tiểu Thừa”
(Tứ Niệm Xứ là Đại Thừa, do chẳng thể
được, cho nên khác với
Tiểu Thừa). Đă chấp vào chỗ chơi giỡn,
cho nên nói đến chuyện kinh sợ để họ được
thoát ly. Nói Ngũ Ấm Xá (nhà ngũ ấm) đă bị lửa
ngũ trược đốt, hăy nên gấp ĺa bỏ. Nếu
ở lâu, ắt đoạn thiện căn. V́ thế nói “vô
linh vi hỏa chi sở thiêu hại” (chẳng để
cho bị lửa đốt, tổn hại). Đấy là
chuyện tính làm. Từ “phụ tuy lân mẫn” (cha tuy thương
xót) trở đi, nói rơ “[chúng sanh] chẳng có căn
cơ”. “Bất kinh, bất úy” (chẳng
kinh hoảng, chẳng sợ hăi) như đă giải thích
trong phần trước. Chẳng biết bát khổ và ngũ trược có thể đốt cháy thiện
căn. Nếu chẳng biết lửa, chẳng biết các
pháp Ấm, Giới, Nhập là các thứ gây nên khổ. Nếu chẳng
biết nhà, sẽ chẳng biết đă đánh mất cội
nguồn của Pháp Thân. Nếu chẳng biết như thế
nào là tổn thất, sẽ trái nghịch sáng,
hướng theo tối, qua lại trong sanh tử, như rảo
chạy Đông Tây. Lại dấy lên kiến ái, như đùa
giỡn, chẳng hướng theo đại giáo. V́ thế
nói “thị phụ nhi dĩ” (nh́n cha mà thôi). [Tính dùng] Giới
để giáo hóa, [chúng sanh] lại chẳng
có căn cơ, đă bao hàm ư nghĩa [toan] “chấm dứt
sự giáo hóa” trong ấy. Phần thứ nhất, “thí dụ
về bỏ mấy loại giáo hóa” đă xong.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.2. Thí dụ về dùng xe
Sánh ví chuyện
nghĩ “giống như chư Phật, dùng tam thừa [để
giáo hóa], sẽ tương xứng với cơ nghi”.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.1. Thí dụ về
toan dùng ba loại xe
Đây là
thí dụ về chuyện [Phật Thích
Ca] suy nghĩ quá khứ chư Phật cũng
dùng ba thừa để giáo hóa như đă
nói trong phần trước.
(Kinh) Nhĩ thời,
trưởng giả tức tác thị niệm: “Thử xá dĩ
vi đại hỏa sở thiêu. Ngă cập chư tử nhược
bất thời xuất, tất vị sở phần! Ngă kim
đương thiết phương tiện, linh chư tử
đẳng đắc miễn tư hại”.
(經)爾時長者卽作是念。此舍已為大火所燒。我及諸子若不時出。必為所焚。我今當設方便令諸子等得免斯害。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, trưởng giả liền nghĩ như thế
này: “Nhà này đă bị lửa lớn đốt cháy. Ta và các
con nếu chẳng kịp thời thoát ra, ắt bị lửa
đốt. Ta nay nên lập phương tiện khiến
cho các con tránh khỏi nỗi hại này”).
Công năng giáo hóa của
Đại Thừa là mạng của cha. Chúng sanh được
tốt lành to lớn chính là mạng của con. Nếu sự
tốt lành to lớn bị chấm dứt, tức là con mất
mạng. Mạng của con đă đoạn th́ công giáo hóa cũng
phế, tức là mạng cha bị đoạn! V́ thế nói
“nhược bất thời xuất, tất vị hỏa
sở phần” (nếu chẳng kịp thời thoát ra, ắt
sẽ bị lửa đốt). Trong đoạn trước, kinh văn đă nói “năng ư sở thiêu chi môn an ổn đắc
xuất” (có thể từ cái cửa đang bị cháy mà an ổn thoát ra), ở đây sao lại nói “nhược
bất thời xuất, tất vị hỏa
sở phần”? Những người
thoát ra trong phần trước chính là Pháp Thân xuất. Nay nói
“nhược bất thời xuất” (nếu chẳng
kịp thời thoát ra), tức là Ứng Thân có cùng bệnh.
Chúng sanh khổ sở, có điều thiện, sẽ cùng với
Ứng Thân thoát ra. Nếu chúng sanh đoạn mất điều
thiện, sẽ chẳng cùng Ứng Thân đúng
lúc thoát ra, tức là sẽ đều bị thiêu đốt.
Ấy là v́ muốn dùng Ứng Thân để hóa độ,
khiến cho họ đúng lúc thoát ra. “Ngă kim đương
thiết phương tiện” (ta nay nên lập phương
tiện) tức là suy tính muốn thực hiện pháp Quyền.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.2. Thí dụ về chuyện
đă sẵn biết tâm con ưa thích điều ǵ
Sánh ví chuyện
“khi tư duy như thế, mười phương chư
Phật đều hiện” trong phần trước.
(Kinh) Phụ tri
chư tử tiên tâm, các hữu sở háo chủng chủng
trân ngoạn kỳ dị chi vật, t́nh tất nhạo trước.
(經)父知諸子先心。各有所好種種珍玩奇異之物。情必樂著。
(Kinh: Cha biết
tánh các con, mỗi đứa đều ưa thích các thứ
quư báu, lạ lùng, [nếu có vật như thế], ḷng chúng
nó ắt sẽ ưa thích).
Xưa kia từng tu
tập Tiểu pháp,
đó là “tiên tâm” (tâm trước kia). [Mỗi cá nhân] tánh
t́nh, ham muốn khác nhau, tức là mỗi người có sở
thích riêng. Lại nữa, chúng sanh xưa kia từng tu tập
Đại pháp,
nhưng tu tập Đại pháp
chưa nồng hậu. Đó chính là nhược điểm
to lớn. Ưa thích, hâm mộ Niết Bàn th́ là “mạnh mẽ
chút ít”. Như ngài Thân Tử thoái thất nơi lục tâm
(tâm hành Lục Độ), biết nơi Bổn đă tu tập
đại pháp th́ gọi là “biết tiên tâm”. Biết họ
lui sụt, hâm mộ Niết Bàn, gọi là “tri
các hữu sở háo” (biết mỗi người đều
có điều ưa thích riêng).
3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.3. Thí dụ về
chuyện ưa thích ba loại xe hiếm có
Sánh ví “tư duy chuyện
trên đây đă xong, liền đến Ba La Nại” v.v…
(Kinh) Nhi cáo chi
ngôn: “Nhữ đẳng sở khả ngoạn hảo, hy hữu
nan đắc. Nhữ nhược bất thủ, hậu tất
ưu hối! Như thị chủng chủng dương
xa, lộc xa, ngưu xa, kim tại môn ngoại, khả dĩ
du hư. Nhữ đẳng ư thử hỏa trạch, nghi tốc
xuất lai, tùy nhữ sở dục, giai đương dữ
nhữ”.
(經)而告之言。汝等所可玩好。希有難得。汝若不取。後必憂悔。如此種種羊車鹿車牛車。今在門外。可以遊戲。汝等於此火宅。宜速出來。隨汝所欲。皆當與汝。
(Kinh:
Bèn bảo rằng: “[Cha có] những thứ mà các con sẽ ưa thích, hiếm có[22], khó được.
Nếu các con không lấy, sau này ắt sẽ buồn rầu,
hối hận[23]. Các thứ xe dê,
xe nai, xe trâu[24]
như thế nay đặt ngoài cửa, có thể dạo
chơi[25].
Các con đang ở trong nhà lửa này, hăy nên mau thoát ra, tùy
theo ḷng muốn, sẽ đều cho con”).
Từ “nhữ đẳng
sở khả” (các con có thể) trở đi là sánh ví sự
Khuyến Chuyển. Từ “như thị chủng chủng”
(các thứ trở đi), sánh ví Thị Chuyển. “Tùy nhữ
sở dục giai đương dữ nhữ” (tùy theo
ḷng muốn của các con, sẽ đều ban cho) chính là sánh
ví Chứng Chuyển.
Hỏi: Ba loại
xe, hai loại người được sai khiến[26],
một hóa thành, thành có, xe không, đều nhằm sánh ví phương
tiện, sao lại khác nhau?
Đáp: Phàm lập
ra thí dụ, mỗi thí dụ đều thuận theo một
nghĩa, chớ nên chấp vào một cách, rồi ngờ
vực các cách [sánh ví] khác! Tách ra thành một, hai, hay ba, chỉ
là gộp lại hay tách ra, v́ sự tín giải đối với
tam châu khác biệt, cho nên có sai khác, nhưng đều nhằm
thí dụ phương tiện, nghĩa lư chẳng khác! Xe do
nêu chung phương tiện (tam thừa), cho nên có
ba. Người được sai khiến
th́ do đối ứng riêng với từng sự khó khăn,
cho nên có hai. “Thành” th́ do đối với hai hay ba chỗ,
cho nên có một. Hăy nên biết: Thành cũng do người mà
có hai. V́ thế nói theo chỗ ngưng dứt bèn nói tới hai[27]. Nếu nói theo chỗ khó khăn th́ xe cũng chỉ có
hai loại (nan hành
và dị hành). “Người được sai khiến” xét theo ư nghĩa cũng kiêm Bồ Tát. Cả ba điều ấy đều có “nhân, giáo, lư,
hạnh”. “Thành” nếu nói là “hóa”, th́ cũng là
chẳng có! Xe do tạo tác, cho nên vẫn có. Người được sai khiến nếu xét theo
Quyền th́ cũng là tương đồng, cho nên cũng
có! Do Quyền vốn chẳng thật, cho nên [người được
sai khiến] cũng là không! Đối chiếu giữa Quyền và
Thật, đều bao gồm bốn câu: “Do quyền biến
hóa hiện, cho nên đều
có. Xét theo Thật nghĩa th́ đều là không. Do đều
thông với Quyền và Thật, cho nên vừa có vừa không.
Đồng ước theo một Lư, cho nên cả hai đằng
đều phế (chẳng có, chẳng không)”.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.2.4. Thí dụ [mỗi
loại xe] đều phù hợp với ư nguyện của
các con
Sánh ví sự “thọ
hành ngộ nhập” trong phần trước, tức là
chuyển pháp luân v.v…
(Kinh) Nhĩ thời,
chư tử văn phụ sở thuyết trân ngoạn chi
vật, thích kỳ nguyện cố, tâm các dũng nhuệ,
hỗ tương thôi bài, cạnh cộng tŕ tẩu, tranh xuất
hỏa trạch.
(經)爾時諸子。聞父所說珍玩之物。適其願故。心各勇銳。互相推排。競共馳走。爭出火宅。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, các con nghe cha nói có món đồ chơi quư báu, xứng
với ḷng mong ước, tâm đều hăng hái, xô đẩy
lẫn nhau, đua nhau rảo chạy, tranh nhau ra khỏi nhà
lửa).
Kệ tụng trong
phần trước vốn giản lược. Trong phần
này, nói thí dụ cặn kẽ, nêu chi tiết tướng
trạng từ tu nhân cho tới đắc quả. Nói “thích
kỳ nguyện” (xứng với ḷng mong ước) tức
là căn cơ và giáo pháp tương xứng, tức Văn
Huệ (Tứ Niệm Xứ). “Dũng nhuệ” (hăng
hái) chính là Tư Huệ. Tâm tư dấy lên suy nghĩ, chính
là phương tiện Chánh Cần (Tứ Chánh Cần). “Hỗ
tương thôi bài” (xô đẩy lẫn nhau): Thúc đẩy
bốn chân lư (Tứ Đế), trừ khử, chế phục
Kiến Hoặc. Xem khắp trên dưới Bát Đế[28]
ba mươi hai hạnh, th́ gọi là “hỗ tương”
(lẫn nhau). Điều này thuộc vào Tu Huệ, thuộc
các địa vị Noăn và Đảnh. “Cạnh” (競) là tranh giành
lư thù thắng, chính là địa vị Nhẫn Pháp. Quán rút
gọn lại, hướng đến Khổ Pháp Nhẫn.
“Cộng” (共) là địa
vị Thế Đệ Nhất, cùng quán bất cứ hạnh
nào thuộc bốn hạnh thuộc Khổ Đế, chẳng
khác Khổ Pháp Nhẫn. “Tŕ tẩu” (馳走, rong ruổi):
Nhập mười sáu tâm thuộc địa vị Kiến
Đạo, nhanh chóng thấy Lư, sánh ví “Niết Bàn âm” (âm
thanh Niết Bàn) trong phần trên. Kiến Đạo là đạt
được một phần Niết Bàn. “Tranh xuất”
(giành nhau thoát ra): Tư duy đạo. Tranh nhau ra khỏi tam
giới, thành tựu quả Vô Học, đoạn hết Tư
Hoặc th́ mới ra khỏi nhà lửa, tức là sánh ví chuyện
có các danh xưng “A La Hán, Pháp, Tăng” sai biệt được nói trong kệ tụng
thuộc phần trước (phẩm Phương Tiện).
Giải thích theo quán
tâm, Trung Đạo chánh quán là quán thẳng vào Thật Tướng,
tâm và pháp tương xứng th́ gọi là “thích kỳ nguyện”
(tương xứng ḷng mong mỏi). Do cảnh vô biên, quán
cũng vô biên, th́ gọi là Dũng. Tâm thấu hiểu cảnh
nhạy bén th́ gọi là Nhuệ. Tâm và cảnh xem xét lẫn
nhau, gọi là “hỗ tương thôi bài” (xô đẩy
lẫn nhau). Tâm vương và tâm số (tâm sở) duyên
theo cảnh nhanh chóng, gọi là “cạnh cộng tŕ tẩu”
(đua nhau rảo chạy), trải khắp hết Ấm,
Giới, Nhập v.v… không ǵ chẳng phải là Thật
Tướng, gọi là “ra khỏi nhà lửa” (Xét theo
giáo th́ có tướng từ tu nhân cho tới chứng quả
trong bốn giáo. Nay xét theo Tạng Giáo. Xét theo Quán, cũng có
bốn giáo sai khác, nay chỉ xét theo Viên). Phần thứ hai,
“thí dụ về bỏ ghế, dùng xe” đă xong.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3. Thí dụ về b́nh
đẳng ban cho loại xe to
Sánh ví “hiển
Thật” trong phần trước. Phần này chia thành bốn
[tiểu đoạn]:
- Một, thí dụ
cha hoan hỷ v́ thấy các con thoát nạn.
- Hai, thí dụ các con
đ̣i xe.
- Ba, thí dụ b́nh
đẳng ban cho các cỗ xe lớn.
- Bốn, thí dụ
các con được xe, hoan hỷ.
Trong bài kệ thuộc
phần trên, trước là căn cơ dấy khởi, sau
đó Phật hoan hỷ. Nay trước hết là Phật
hoan hỷ; sau đó, con đ̣i xe. Kinh văn nói có trước
sau, nhưng nghĩa chẳng có trước sau.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.1. Thí dụ cha hoan hỷ
v́ thấy các con thoát nạn
Sánh ví chuyện “ta nay vui mừng,
không sợ hăi” [được nói] trong phần trên.
(Kinh) Thị thời
trưởng giả kiến chư tử đẳng an ổn
đắc xuất, giai ư tứ cù đạo trung lộ
địa nhi tọa, vô phục chướng ngại, kỳ
tâm thái nhiên, hoan hỷ, dũng dược.
(經)是時長者。見諸子等安隱得出。皆於四衢道中露地而坐。無復障礙。其心泰然。歡喜踴躍。
(Kinh: Khi đó,
trưởng giả thấy các con an ổn thoát ra, đều
ngồi nơi đất trống tại ngă tư đường, chẳng c̣n chướng ngại, tâm ư thanh
thản, hoan hỷ, hớn hở).
“Tứ cù đạo”
(ngă tư đường) sánh ví Tứ Đế Quán.
“Lộ địa” (đất trống): Các Tư Hoặc
trong tam giới đều hết. “Tọa” (ngồi):
Ví như trụ trong quả, chẳng tiến lên. Các con đă
thoát khỏi sự trói buộc nơi quả, cho nên chẳng c̣n chướng ngại, sanh ư tưởng an ổn. V́ thế, cái tâm thảnh
thơi. Con đă thoát nạn, cha bèn hoan hỷ.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.2. Thí dụ các con đ̣i
xe
Sánh ví căn cơ Đại
Thừa đă phát khởi, đều dùng cái tâm cung kính đến
chỗ đức Phật [thỉnh pháp] như đă nói trong
phần trên.
(Kinh) Thời
chư tử đẳng các bạch phụ ngôn: “Phụ tiên
sở hứa ngoạn hảo chi cụ, dương xa, lộc
xa, ngưu xa, nguyện thời tứ dữ”.
(經)時諸子等各白父言。父先所許玩好之具。羊車鹿車牛車。願時賜與。
(Kinh: Khi ấy,
các con đều thưa với cha: “Trước đó, cha đă
hứa cho đồ ưa thích, xe dê, xe nai, xe trâu, xin cha liền
ban cho”).
Ba loại xe ví như
quả vị tam thừa. V́ cầu quả tam thừa, cho nên
thoát khỏi tam giới. Đă thoát khỏi tam giới, thật
sự chẳng có quả tam thừa để có thể chứng. Lại nữa, thời
Phương Đẳng chê trách, thời Bát Nhă đào thải.
Kinh này nêu rơ “phương tiện chẳng phải là thật”,
cho nên phải ân cần thỉnh ba lượt. Nói là “đ̣i
xe” tức là trước đó, đă hứa [ba quả
vị] quyền biến, nay chính là thỉnh cầu Nhất
Thật trong hiện thời. V́ thế, nói là “căn cơ
Đại Thừa phát động”. Cần
biết: Trong thời Phương Đẳng, nhiều lượt
bị vùi dập, chẳng biết v́ sao, căn cơ bị
thôi thúc. Đến thời Bát Nhă, chuyển giáo, phó tài, nhưng
chẳng biết chính ḿnh có đạt được hay không,
bèn có ư niệm t́m cầu. Nay trong hội Pháp Hoa, thốt lời
thỉnh ba lượt, càng thêm thỉnh cầu mong mỏi!
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3. Thí dụ b́nh đẳng
thí các cỗ xe lớn cho các con
Sánh
ví thẳng thừng sự “hiển Thật” trong phần
trên: Thẳng thừng bỏ phương tiện, chỉ nói
đạo vô thượng.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.1. Nêu bày đề mục
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Nhĩ thời, trưởng giả các tứ chư
tử đẳng nhất đại xa.
(經)舍利弗。爾時長者。各賜諸子等一大車。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Lúc bấy giờ, trưởng giả đều
cho mỗi con một cỗ xe lớn giống như nhau).
“Các tứ chư tử” (đều
cho các con): Do các con b́nh đẳng, tâm cha ắt b́nh đẳng.
Ví như hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Phật
tánh đă đồng, b́nh đẳng là Phật tử. Phật
tâm chẳng thiên vị! “Đẳng nhất đại
xa” (một cỗ xe lớn giống như nhau): Do pháp b́nh
đẳng, không ǵ chẳng phải là Phật pháp. Ví như
hết thảy các pháp đều là Ma Ha Diễn (Đại
Thừa), tu tập đôi chút, không ǵ chẳng phải là diệu
thừa. Chỉ v́ cùng một tánh, ban cho đều có ư nghĩa b́nh đẳng, tức là
tùy theo sự tu tập đă quen [của mỗi chúng sanh] đối
với Tứ Đế, Nhân Duyên, Lục Độ, Tứ
Đẳng (từ, bi, hỷ, xả), cho đến sắc
tâm, nghịch thuận, y báo, chánh báo, hạnh lư, nhân quả,
tự tha, giải Hoặc (cởi
gỡ phiền năo), lớn, nhỏ, phước huệ, vô
lượng các pháp đều thuận theo sự tu tập
từ trước mà khai thị chân thật. Do sự tu tập
trước đó khác nhau, cho nên nói là “các”, đều
là Ma Ha Diễn. Một nhiếp hết thảy, trọn khắp,
nhập khắp. V́ thế nói là “đại xa”.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.2. Giải thích về
xe
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.2.1. Nói về thể
chất của xe
(Kinh) Kỳ xa
cao quảng, chúng bảo trang hiệu, châu táp lan thuẫn, tứ
diện huyền linh. Hựu ư kỳ thượng,
trương thiết hiển cái, diệc dĩ trân kỳ tạp
bảo nhi nghiêm sức chi: Bảo thằng giao lạc, thùy
chư hoa anh, trùng phu uyển diên, an trí đan chẩm. Giá dĩ
bạch ngưu, phu sắc sung khiết, h́nh thể xu hảo,
hữu đại cân lực, hành bộ b́nh chánh, kỳ tật
như phong. Hựu đa bộc tùng nhi thị vệ chi.
(經)其車高廣。眾寶莊校。周匝欄楯。四面懸鈴。又於其上張設幰蓋。亦以珍奇雜寶而嚴飾之。寶繩交絡。垂諸華纓。重敷婉筵。安置丹枕。駕以白牛。膚色充潔。形體姝好。有大筋力。行步平正。其疾如風。又多僕從而侍衛之。
(Kinh: Xe đó
cao rộng, trang hoàng bằng các báu, lan can vây quanh, bốn phía
treo linh[29].
Trên đó lại căng che bày màn lọng, cũng dùng các thứ
báu quư lạ để trang hoàng. Dây báu giăng xen[30], treo rủ các
chuỗi hoa, trải đệm mềm nhiều tầng[31], đặt gối
màu đỏ[32], dùng trâu trắng
kéo xe. [Trâu có] sắc da căng đầy, tươi tắn,
sạch sẽ, h́nh thể đẹp đẽ, gân cốt
mạnh mẽ, bước đi ngay ngắn, nhanh nhẹn
như gió. Lại có nhiều tôi tớ theo hầu, bảo vệ).
Xe giả
danh có tướng cao, rộng, ví như tri kiến của Như
Lai sâu xa, theo chiều ngang trọn khắp bờ mé của pháp
giới, theo chiều dọc thấu triệt nguồn cội
của Tam Đế (pháp giới Tam Đế trọn chẳng
phải là ngang hay dọc. Tuy chẳng có ngang dọc, pháp giới
xét theo phương diện trọn khắp, nói là “ngang” th́
sẽ thuận tiện. Tam Đế tên khác nhau, nói là “dọc”
th́ sẽ thuận tiện. Hiển lộ bất nhị cho
nhau, cứ suy nghĩ sẽ thấy ngay!)
“Chúng bảo trang
hiệu” (trang hoàng bằng các báu): Ví như được
tô điểm bằng vạn hạnh. “Châu táp lan thuẫn”
(các lan can bao quanh): Ví như đà-la-ni, có thể ǵn giữ
muôn điều thiện, ngăn trở các điều ác. “Tứ
diện huyền linh” (bốn phía treo linh), sánh ví Tứ
Vô Ngại Biện, dưới là hóa độ chúng sanh. “Trương
thiết hiển cái” (căng che màn, lọng[33]):
Ví như Tứ Vô Lượng Tâm, phạm hạnh chẳng
thể nghĩ bàn. Trong các đức, từ bi cao nhất,
che trọn khắp hết thảy. “Diệc dĩ trân kỳ
tạp bảo nhi nghiêm sức chi” (cũng dùng các thứ
báu quư lạ để trang hoàng): Ví như muôn điều
thiện chân thật trang nghiêm ḷng từ bi ấy. V́ thế,
Đại Kinh nói: “Từ nhược cụ túc Thập Lực,
Vô Úy đẳng, danh Như Lai từ” (Nếu ḷng Từ trọn đủ Thập Lực, Vô Úy v.v… th́ sẽ
gọi là ḷng Từ của Như Lai).
“Bảo thằng
giao lạc” (dây báu giăng xen) ví như Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, tâm đại từ kiên cố. “Thùy chư hoa
anh” (treo rủ các chuỗi hoa) sánh ví Tứ Nhiếp Thần
Thông v.v… khiến cho chúng sanh vui sướng, mà cũng sánh ví
tràng hoa Thất Giác mầu nhiệm. “Trùng phu uyển diên”
(trải đệm mềm nhiều tầng): Sánh ví quán
sát, luyện tập, huân tu hết thảy các môn Thiền, trùng
điệp, mềm mại. “An trí đan chẩm” (Xếp
đặt gối màu đỏ): “Đan” (丹) tức
là ánh sáng đỏ, sánh ví pháp vô phân biệt. “Chẩm”
(枕, gối)
có trong và ngoài. Nếu là gối ở ngoài xe (tức đệm
lót ngồi của người đánh xe), th́ c̣n gọi là
Chẩn (軫). Bất cứ xe đến nơi đâu,
đều cần phải giữ
cho chỗ đó cân bằng; ví như từ
ngay trong động mà tĩnh, ngay trong tĩnh mà động.
Nếu là gối ở trong xe th́ là chỗ để [hành khách]
dựa ḿnh hay tựa đầu. Ví như Nhất Hạnh tam-muội
ngăn dứt hết thảy hạnh, thân, trí thủ.
“Giá dĩ bạch
ngưu” (xe được kéo bằng trâu trắng): Sánh
ví vô lậu Bát Nhă, có thể hướng dẫn hết thảy
vạn hạnh như Đế, Duyên, Độ (Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Độ) v.v… đạt đến Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí).
“Bạch” (màu trắng) là cái gốc của mọi màu,
tương ứng với bổn tịnh vô lậu. Thể
trọn đủ vạn đức như “phu sung” (da căng
đầy). Chẳng
nhiễm phiền năo như “sắc khiết” (màu sáng sạch). Lại
nữa, Tứ Niệm Xứ của Viên Giáo là trâu trắng.
Tứ Chánh Cần, hai điều thiện thế gian[34]
viên măn giống như da căng đầy. Hết sạch
hai điều ác trong thế gian như màu sắc sáng sạch.
Tứ Như Ư Túc xứng với hạnh, tâm như “h́nh thể xu hảo” (h́nh thể
đẹp đẽ). “Cân” (gân) ví như Ngũ
Căn giữ vững, có thể sanh ra [Tín, Tấn, Niệm,
Định, Huệ]. “Lực” ví như Ngũ Lực có
tác dụng chế phục, dẹp trừ [phiền năo]. “Hành
bộ b́nh chánh” (bước đi ngay ngắn): Ví như
Định và Huệ cân bằng. Lại ví như Thất
Giác Chi điều ḥa, cân bằng. “Kỳ tật như
phong” (nhanh lẹ như gió): Ví như hành Bát Chánh Đạo,
nhanh chóng đạt đến Tát Bà Nhă (Nhất Thiết Trí).
“Bộc tùng” (僕從, kẻ hầu,
tùy tùng) ví như Phương Tiện Ba La Mật có thể
khéo léo tùy thuận mỗi người, hầu hạ, tuân lệnh.
Ma, ngoại đạo, Nhị Thừa đều thuận
theo phương tiện trí mà vận dụng. V́ thế, kinh
Tịnh Danh nói: “Giai ngô thị giả” (đều là người
hầu của ta). Hơn nữa, thần thông nơi quả
vị vận chuyển, sai sử tùy ư, th́ gọi là “bộc
tùng”.
Giải thích theo quán
tâm, một niệm tâm tánh trong hiện tiền theo chiều
dọc chẳng có trước, sau, theo
chiều ngang dứt bặt bờ mé, tức Không, tức
Giả, tức Trung. V́ thế là “cao”. Trọn đủ
bách giới thiên như, nên là “quảng” (rộng). Tánh đức nhiều
hơn số cát sông Hằng, nên gọi là “chúng bảo trang
hiệu” (trang hoàng bằng các báu). Ngoài tâm chẳng có pháp,
chỉ ra cái tâm sẽ gồm thâu hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian. Do đó, nói là “châu táp lan thuẫn”
(lan can bao quanh). Tâm có thể ứng trọn khắp hết
thảy, diễn nói các âm giáo (các giáo pháp được diễn
tả bằng âm thanh, ngôn ngữ). V́ thế gọi là “tứ
diện huyền linh” (bốn phía treo linh). Tâm quư nhất
trong các pháp, không pháp nào chẳng bao trùm. V́ thế nói là “trương
thiết hiển cái” (căng che màn, lọng). Tâm vương
quán tưởng, ắt tương ứng với các thiện
tâm sở[35]. V́ thế
gọi là “diệc dĩ trân kỳ tạp bảo nhi nghiêm
sức chi” (cũng dùng các thứ báu quư lạ để
trang hoàng). Thiện tâm và tâm sở làm đẳng vô gián duyên
cho nhau; v́ thế nói là “bảo thằng giao lạc” (giây
báu giăng xen). Các tâm sở thuộc về thiện tâm sanh
ra vô lượng trí huệ, phước đức; v́ thế
nói là “thùy chư hoa anh” (treo rủ các chuỗi hoa). Một
niệm tâm tánh ấy trọn
đủ các pháp nhu nhuyễn, khinh an trùng trùng vô tận, v́ thế
nói là “trùng phu uyển diên” (trải nhiều tầng đệm
mềm mại). Quán tâm
tánh này động chính là tĩnh, tĩnh chính là động,
có thể động, có thể tĩnh, động và tĩnh
bất nhị. V́ thế gọi là “an trí đan chẩm”
(xếp đặt gối đỏ). Lư tâm tánh do diệu quán
mà hiển; v́ thế nói là “giá dĩ bạch ngưu”
(xe dùng trâu trắng để kéo). Diệu quán xứng tánh
trọn đủ các công đức như thế; do vậy
gọi là “phu sung” (da dẻ căng đầy). Chẳng
xen tạp phiền năo, v́ thế gọi là “sắc khiết”
(màu sạch sẽ). Viên dung tự tại; v́ thế nói là “h́nh
thể xu hảo” (h́nh thể đẹp đẽ). Viên
quán có thể sanh trưởng thiện căn mạnh nhất,
cho nên có “đại cân” (gân cốt mạnh mẽ). Viên
quán có thể dẹp tan hết thảy các ái kiến thuộc
giới nội và giới ngoại nhất, cho nên “hữu
đại lực” (có sức mạnh
to lớn). Viên quán chính là Chỉ, chính là Quán, Định và Huệ
chẳng hai. V́ thế, nói là “hành bộ b́nh chánh” (bước
đi ngay ngắn). Viên quán xứng tánh vô tác, mặc t́nh nhập
vô công dụng đạo. V́ thế nói là “kỳ tật
như phong” (nhanh nhẹn như gió). Viên quán nhiếp trọn
khắp các pháp, hết thảy các pháp đều mặc t́nh
viên quán sai khiến. V́ thế nói là “hựu đa bộc
tùng nhi thị vệ chi” (lại có nhiều tôi tớ
theo hầu, bảo vệ).
Hăy nên biết Thể
của cái xe chẳng cao, chẳng rộng, mà luận bàn cao
rộng, tức chánh nhân lư tánh. Trâu trắng chính là liễu
nhân huệ tánh. Các vật dụng tức duyên nhân thiện tánh.
Ba pháp chẳng ngang dọc, không phải là cùng một chỗ
hay khác biệt, chẳng thể nghĩ bàn, th́ gọi là Phật
Thừa. Hết thảy chúng sanh chỉ có Tánh Đức Phật
Thừa, nghe Phật Thừa ấy, sẽ có thể sanh tín
giải, đó là Danh Tự Phật Thừa. Niệm nào cũng
đều quán tâm, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp,
thô cấu rơi rụng trước, sáu căn thanh tịnh,
chính là Tương Tự Phật Thừa. Khai thị ngộ
nhập, dạo chơi bốn phương, tức là Phần Chứng Phật Thừa, “đến thẳng đạo
tràng”. Các hạnh đều dứt, tức là đạt đến
Cứu Cánh Phật Thừa. Tự hạnh đă măn, chuyên
chở người khác chẳng nghỉ ngơi, tột
cùng thời vị lai, lợi lạc vô tận. Đó là “xe
trâu trắng lớn” hiểu theo quán tâm.
Lại nữa, trong
đoạn kinh văn này, trọn đủ quán pháp thuộc
mười thừa. Xe ấy cao rộng, tức là cảnh
chẳng thể nghĩ bàn. Trâu trắng gồm thâu trọn
vẹn các Độ làm Thể [của cái xe ấy]. “Căng
che màn lọng” tức là thật sự phát Bồ Đề
tâm. Do v́ đại từ, ban cho khắp mười pháp giới
niềm vui của Đạo và Diệt. Do v́ đại bi,
dẹp trừ trọn khắp nỗi khổ v́ Khổ và Tập
của mười pháp giới. “Xếp đặt gối
đỏ bên trong [thùng xe]” tức là khéo xếp đặt
Chỉ Quán, có thể nằm, có thể ngồi, khéo tự điều
ḥa cho thích đáng. “Nhanh nhẹn như gió” tức là phá
trọn khắp các pháp. Nhất tâm tam quán, không Hoặc nào
chẳng phá. “Xếp đặt gối đỏ bên ngoài”
tức là khéo biết thông, tắc: Đi được th́
đi, nên dừng bèn dừng. “Xe kéo bằng trâu trắng”
tức là đạo phẩm điều ḥa thích đáng. Ba
mươi bảy phẩm viên măn, mầu nhiệm như đă
nói trong phần trước. “Bộc tùng thị vệ”
tức là đối trị nhằm giúp cho sự khai hiển.
Dùng các thứ phương tiện trong ba giáo trước để
giúp hiển lộ Đệ Nhất Nghĩa. Đă nói “bước
đi ngay ngắn”, ắt dạo bốn phương, đến
đạo tràng. Trọn chẳng đem phàm lạm thánh, tức
là có thể biết địa vị thứ tự. Đă nói
“hữu đại cân lực” th́ nhất định có
thể an nhẫn các chướng trong, ngoài, thuận, nghịch.
Đă nói “nhanh nhẹn như gió”, ắt chẳng đắm
nhiễm các pháp ái tương
tự đạo. Thượng căn th́ chỉ quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn, trong một
pháp, ngộ trọn vẹn mười pháp. Trung căn th́ từ
hai đến sáu, trong bất cứ pháp nào, cũng đều
ngộ trọn vẹn mười pháp. Hạ căn lần
lượt dùng trọn mười pháp th́ mới được
khai ngộ. Xét trong toàn thể giáo quán, không ǵ quan trọng hơn
điều này. Hăy suy nghĩ, tu tập.
Lại nữa, xe này
cao rộng, tức là Thể như thế. Các thứ Độ
trọn vẹn là tướng như thế. Trâu trắng
chính là Tánh như thế. Đó là ba pháp thuộc Tánh Đức,
chúng sanh và Phật b́nh đẳng. Nếu thấu hiểu
pháp ấy, đạt tới Ngũ Phẩm, Thập Tín, th́
gọi là Lực như thế và Tác như thế. Nếu đạt
tới “khai, thị, ngộ, nhập” th́ gọi
là Nhân như thế và Duyên như thế. Nếu đạt
tới địa vị tột cùng là Diệu Giác th́ gọi
là Quả như thế và Báo như thế. Chúng sanh trọn
đủ ba pháp ấy th́ gọi là Bổn (gốc). Như
Lai tu đắc ba pháp th́ gọi là Mạt (ngọn). Tánh Đức
và tu đắc chẳng hai, chẳng khác, gọi là Cứu Cánh
Đẳng (rốt ráo b́nh đẳng). V́ thế, xe trâu trắng
lớn ai nấy đều có, há liên quan ǵ đến chuyện
Phật ban thưởng. Nhưng nếu đức
Phật chẳng nói ra, [chúng sanh] sẽ hằng ngày sử
dụng mà chẳng biết. Lại nữa, chẳng do Pháp Hoa
khai hiển, th́ đối với cái được gọi
là “độc nhất Đại Thừa” vượt
xa chín pháp giới, ai sẽ biết tam thừa là pháp được thực thi
quyền biến, cho đến y báo, chánh báo, sắc, tâm, Hoặc
nghiệp, khổ v.v… của thế gian, không ǵ chẳng phải
là Ma Ha Diễn (Đại Thừa)!
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.2.2. Giải thích nguyên
do có xe
(Kinh) Sở dĩ
giả hà? Thị đại trưởng giả tài phú vô
lượng, chủng chủng chư tạng tất giai
sung dật.
(經)所以者何。是大長者。財富無量。種種諸藏。悉皆充溢。
(Kinh:
V́ cớ sao vậy? Vị đại trưởng giả ấy
của cải vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều
đầy ắp).
Do của cải đầy
kho, cho nên có thể thưởng cho mỗi đứa con cỗ
xe to giống hệt như nhau. Của cải vô lượng
ví như phước huệ viên măn nơi quả địa.
“Các thứ kho tàng” chính là Hạnh Tạng và Lư Tạng.
Hết thảy các pháp quy vào Đàn (bố thí), chẳng vượt
ra ngoài được. Giới, Nhẫn v.v… cũng đều
như thế. Đó là coi hạnh là Như Lai Tạng. Hết
thảy các pháp hướng đến Sắc, nhưng chẳng
hướng đến được. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, cho đến Giới, Nhập v.v… cũng như
thế. Đó là dựa theo Lư để giải thích Như
Lai Tạng. Tự hành Hạnh và Lư ấy th́ gọi là Sung.
Hóa độ người khác th́ gọi là Dật. Thật
Trí viên măn th́ gọi là Sung, vận dụng Quyền Trí th́ gọi
là Dật. Nhập Trung Đạo là Sung, song chiếu nên
gọi là Dật. Không chỉ là chất chứa nhiều, mà
c̣n đều đầy ắp, có pháp nào chẳng phải là
Ma Ha Diễn (Đại
Thừa)? V́ thế, Đại Thừa vô lượng (Ấm,
Giới, Nhập v.v… lấy bất cứ một pháp nào, không
ǵ chẳng phải là Lư Tạng. Thấu đạt Lư Tạng
ấy, cho nên khiến cho các Độ đều trở thành
Hạnh Tạng.
Chẳng thấu đạt Lư Tạng ấy, uổng công
tu các hạnh). Phần thứ hai, “giải thích các xe b́nh
đẳng” đă xong.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.3.3. Giải thích tâm b́nh
đẳng
(Kinh) Nhi tác thị
niệm: “Ngă tài vật vô cực, bất ưng dĩ hạ
liệt tiểu xa dữ chư tử đẳng. Kim thử
ấu đồng giai thị ngô tử, ái vô thiên đảng.
Ngă hữu như thị thất bảo đại xa, kỳ
số vô lượng. Ưng đương đẳng tâm
các các dữ chi, bất nghi sai biệt. Sở dĩ giả
hà? Dĩ ngă thử vật châu cấp nhất quốc, do thượng
bất quỹ, hà huống chư tử?”
(經)而作是念。我財物無極。不應以下劣小車與諸子等。今此幼童。皆是吾子。愛無偏黨。我有如是七寶大車。其數無量。應當等心各各與之。不宜差別。所以者何。以我此物周給一國。猶尚不匱。何況諸子。
(Kinh:
Bèn nghĩ như thế này: “Ta có của cải vô cực,
chẳng nên đem xe nhỏ xấu kém cho các con. Nay những
đứa trẻ bé bỏng này đều là con của ta,
yêu thương chẳng thiên vị. Ta có xe lớn bảy báu
như thế, số tới vô lượng. Tâm hăy nên b́nh
đẳng ban cho mỗi đứa con, chớ nên sai khác. V́ lẽ nào
vậy? Do các vật của ta đem châu cấp cả một
nước vẫn chưa thiếu hụt, hà huống các
con ư?”)
Giả sử giàu có
nhưng [người nhận] chẳng phải là con, chắc
sẽ keo tiếc. Giả sử [người nhận] là con,
nhưng [cha] nghèo nàn, chắc sẽ chẳng thể châu cấp.
Nay tự hành đă măn, cho nên của cải vô lượng.
Hóa duyên đă chín muồi, cho nên đối với con chẳng
thiên vị đứa nào, bèn nói “các các dữ chi” (đều
cho mỗi đứa con). Chẳng thay đổi bổn tập
(sự tu tập vốn có) mà chỉ bày chân thật. Như
ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) từ trí huệ mà khai
tri kiến của Phật, trọn đủ hết thảy
Phật pháp. Ngài Mục Liên do
thần thông mà khai tri kiến của Phật, trọn đủ
hết thảy Phật pháp. Những vị khác có thể phỏng
theo đó mà biết. Lại nữa, hết thảy các giáo
thuộc Phương Đẳng, Bát Nhă v.v…, Niệm Xứ,
Chánh Cần, Căn, Lực, Giác, Đạo v.v… hết thảy
các hạnh, các thứ tên gọi khác nhau, đều nhằm
khai thị Thật Tướng. Cho đến đối với
hết thảy các pháp, cũng đều như thế. V́
thế nói “kỳ số vô lượng” (số ấy
vô lượng). Từ “sở dĩ giả hà” (v́ cớ
sao thế) trở đi, nêu tỷ dụ để giải
thích. “Nhất quốc” là sánh ví cơi Tịch Quang lư tánh. “Chư
tử” (các con) ví như những người kết duyên
trong cơi Đồng Cư. Trước hết, nhằm giải
thích có nhiều tài sản, cho cả một nước c̣n đủ,
huống hồ cho các con! Ví như đại viên nhân bao gồm
trọn khắp thiện, ác, lợi ích trọn khắp pháp
giới, Lư cũng chẳng cùng tận, huống hồ những
người kết duyên trong cơi Đồng Cư!
Kế đó, giải
thích “các con”. Đối với những kẻ chẳng phải
là con mà vẫn trọn đủ, huống hồ là đối
với con! Ví như kẻ vô duyên mà đức Phật vẫn
độ, huống hồ người hữu duyên ư? Nói
tới những kẻ chẳng phải là con, nhằm loại
trừ các duyên bất đồng nơi chánh nhân. V́ thế,
bèn nói theo kiểu ngăn chặn th́ là “phi” (chẳng phải,
tức là nói có phân biệt giữa “con” và “chẳng phải
con”). Nhưng ḷng Từ của Phật phủ khắp, rốt
ráo chẳng thiên vị, huống hồ đối với con
là những kẻ đă kết duyên [mà chẳng hóa độ]
ư? Xét theo vô duyên đại từ, đối với lư vốn
sẵn có, hết thảy chúng sanh, không ai chẳng phải
là Phật tử! Xét theo hóa nghi để nói, do đời
trước chưa kết duyên, cho nên [kẻ như vậy]
chẳng phải là con! Như Lai thường ban cấp, nhưng
bản
thân con chẳng trở về. Đại từ đều
che chở trọn hết, v́ thế nói là “châu cấp”.
Trời,
người dù thiện hay ác, bản
thể chính là pháp giới. V́ thế, cái xe thuộc về
quả của cha chính là cái xe thuộc về Lư của con.
Chỉ mở ra t́nh kiến ấy, giả danh “b́nh đẳng
ban cho” chúng sanh vô tận, xe vẫn chẳng cùng tận.
Do chẳng cùng tận, cho nên chẳng thiếu hụt. Do chẳng
thiếu hụt, cho nên chẳng
thiên vị. Hư vọng mê th́ là “đóng lại”, ngộ vốn chẳng phải là “mở
ra”. “Đối với kẻ vô duyên c̣n độ”: Con
đă kết duyên, tức là kẻ đă kết duyên từ
trước, nay [duyên ấy] chín muồi bèn được
độ thoát. Đối với đứa con thuộc về
chánh nhân là kẻ chưa kết duyên, bèn v́ họ gieo chủng
tử. Nhiều lượt gieo, nhiều lượt chín muồi,
nhiều lượt giải thoát cho đến cùng tận vị lai, chẳng có lúc nào xong! Đó gọi là
“vị trưởng
giả cha lành xuất thế đại từ bi”. Phần
thứ ba, “b́nh đẳng thí cho các con cỗ xe lớn” đă
xong.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.3.4. Các con được
xe đều hoan hỷ
Sánh ví sự “thọ
hành, ngộ nhập, lưới nghi đều đă trừ”
v.v… đă nói trong phần trên.
(Kinh) Thị thời
chư tử các thừa đại xa, đắc vị tằng
hữu, phi bổn sở vọng.
(經)是時諸子。各乘大車。得未曾有。非本所望。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, các con đều ngồi xe lớn, đạt được
điều chưa từng có, vốn chẳng phải là điều
mong mỏi).
Vốn cầu các loại
xe dê, xe nai, xe trâu, mong thoát khỏi Phần Đoạn [sanh
tử], nay được xe trâu trắng, hết sạch
Biến Dịch [sanh tử], vượt quá điều ḿnh
vốn mong mỏi, há chẳng hoan hỷ? Phần thứ ba,
“b́nh đẳng thí cỗ xe lớn” đă xong.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.4. Thí dụ chẳng hư
vọng
Sánh ví điều chẳng
hư dối trong phần trên, khiến cho [thính chúng] chẳng
ngờ vực pháp bí yếu của đấng pháp vương.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.4.1. Gạn hỏi
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Ư nhữ ư vân hà? Thị trưởng giả đẳng
dữ chư tử trân bảo đại xa, ninh hữu hư
vọng phủ?
(經)舍利弗。於汝意云何。是長者等與諸子珍寶大車。寧有虛妄不。
(Kinh:
Này Xá Lợi Phất! Ư ông nghĩ sao? Vị trưởng giả
ấy b́nh đẳng cho các con cỗ xe lớn quư báu, há có
hư vọng hay chăng?)
3.3.1.2.2.1.1.2.2.4.2. Trả lời
(Kinh) Xá Lợi
Phất ngôn: “Bất dă, Thế Tôn! Thị trưởng giả
đản linh chư tử đắc miễn hỏa nạn,
toàn kỳ khu mạng, (tắc tiện) phi vi hư vọng.
Hà dĩ cố? Nhược toàn thân mạng, tiện vi dĩ
đắc ngoạn hảo chi cụ, huống phục phương
tiện ư bỉ hỏa trạch nhi bạt tế chi.
(經)舍利弗言。不也。世尊。是長者但令諸子得免火難。全其軀命。(則便)非為虛妄。何以故。若全身命。便為已得玩好之具。況復方便於彼火宅而拔濟之。
(Kinh: Xá Lợi
Phất thưa: - Bạch Thế Tôn! Không ạ! Ông trưởng giả
ấy chỉ khiến cho các con thoát khỏi nạn lửa,
bảo toàn thân mạng của chúng nó th́ đă là chẳng hư
vọng. V́ sao vậy? Nếu thân mạng được bảo
toàn th́ chính là đă được món đồ chơi tốt
đẹp, huống hồ c̣n dùng phương tiện cứu
vớt [chúng nó] thoát khỏi nhà lửa).
Đồ chơi đáng ưa thích trong
thế gian, có ǵ trọng hơn mạng người? Được
toàn vẹn thân mạng tức là chẳng hư vọng. Huống
hồ c̣n tốn công [thực hiện] bao nhiêu thứ phương
tiện để [các con] được cứu bạt, há
có nên trách móc trưởng giả là hư
vọng ư? Ư nghĩa rơ ràng là [đức Phật nói ra ba thừa]
chỉ nhằm [dẫn dụ], khiến
cho toàn thể [hành nhân] Tiểu Thừa sẽ đắc năm
phần Pháp Thân, nhập Không huệ mạng, tức là đă
đạt được các thứ đồ chơi ưa
thích từ trước. Huống chi Ngài c̣n dùng phương
tiện cứu vớt, khiến cho họ đắc Pháp Thân huệ mạng
của Đại Thừa ư? Thoát nạn th́ gọi là “chẳng
hư dối”, cũng gọi là “dùng nặng để đoạt
nhẹ, chẳng hư dối” vậy.
(Kinh) Thế Tôn!
Nhược thị trưởng giả năi chí bất dữ
tối tiểu nhất xa, do bất hư vọng. Hà dĩ
cố? Thị trưởng giả tiên tác thị ư: “Ngă dĩ
phương tiện, linh tử đắc xuất”. Dĩ
thị nhân duyên, vô hư vọng dă, hà huống trưởng
giả tự tri tài phú vô lượng, dục nhiêu ích
chư tử đẳng dữ đại xa.
(經)世尊。若是長者乃至不與最小一車。猶不虛妄。何以故。是長者先作是意。我以方便令子得出。以是因緣。無虛妄也。何況長者自知財富無量。欲饒益諸子。等與大車。
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Nếu vị trưởng giả ấy
thậm chí chẳng cho một cỗ xe nhỏ nhất, vẫn
chẳng hư vọng. V́ sao vậy? Vị trưởng giả
ấy trước đó đă nghĩ như thế này: “Ta
dùng phương tiện khiến cho các con thoát ra”. Do nhân duyên
ấy, chẳng hư vọng. Huống chi ông trưởng
giả tự biết của cải vô lượng, muốn
tạo lợi ích rộng lớn cho các con mà b́nh đẳng
ban cho cỗ xe lớn).
Về phía ông trưởng
giả, do chẳng trái nghịch bổn tâm, cho nên chẳng
hư vọng. Nơi các con, do vượt quá điều họ
mong mỏi, cho nên chẳng hư vọng.
3.3.1.2.2.1.1.2.2.4.3. Trần thuật lời
tán thán
(Kinh) Phật
cáo Xá Lợi Phất: - Thiện tai, thiện tai. Như nhữ
sở ngôn.
(經)佛告舍利弗。善哉善哉。如汝所言。
(Kinh: Đức
Phật bảo ngài Xá Lợi Phất: - Lành thay! Lành thay! Đúng
như lời ông nói).
Nói “thiện tai”
trùng lặp nhằm trần thuật hai đằng đều
chẳng hư vọng.
Hỏi: Sao Phật
chẳng tự nói không hư vọng?
Đáp: Phật hứa
ba mà cho một, tự nói [chính ḿnh chẳng hư vọng] sẽ
khó khăn (đại
chúng nghe nói như vậy sẽ khó chấp nhận). Ngài Thân Tử nói Phật chẳng hư vọng, do niềm
tin đă xác lập, cho nên trở thành dễ dàng. Phần thứ
nhất “lập thí dụ” đă xong.
3.3.1.2.2.1.2. Đối ứng thí dụ
với pháp (chỉ ra ư nghĩa biểu
thị pháp)
3.3.1.2.2.1.2.1. Đối ứng Tổng Thí với
pháp
3.3.1.2.2.1.2.1.1. Đối ứng ba thí
dụ như “trưởng giả” với pháp
Tuy chẳng theo đúng
thứ tự với thí dụ đă lập trên đây, nhưng
ư nghĩa chẳng thiếu sót.
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Như Lai diệc phục như thị, tắc vi
nhất thiết thế gian chi phụ. Ư chư bố úy,
suy năo, ưu hoạn, vô minh ám tế, vĩnh tận vô dư,
nhi tất thành tựu vô lượng tri kiến, lực, vô
sở úy, hữu đại thần lực, cập trí huệ
lực, cụ túc phương tiện trí huệ Ba La Mật,
đại từ, đại bi, thường vô giải quyện,
hằng cầu thiện sự, lợi ích nhất thiết,
nhi sanh tam giới hủ cố hỏa trạch.
(經)舍利弗。如來亦復如是。則為一切世間之父。於諸怖畏衰惱憂患無明闇蔽。永盡無餘。而悉成就無量知見力無所畏。有大神力。及智慧力。具足方便智慧波羅蜜。大慈大悲。常無懈倦。恆求善事。利益一切。而生三界朽故火宅。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Như Lai cũng giống như thế, là cha của
hết thảy thế gian. Trong các sợ hăi, suy năo, lo buồn,
vô minh, tối tăm, che lấp, vĩnh viễn hết sạch
chẳng sót, mà trọn thành tựu vô lượng tri kiến,
lực, vô sở úy, có đại thần lực, và sức
trí huệ, trọn đủ phương tiện trí huệ
Ba La Mật, đại từ, đại bi, thường
chẳng lười mỏi, luôn cầu thiện sự, lợi
ích hết thảy, cho nên sanh trong nhà
lửa tam giới cũ nát).
Như Lai
tương ứng với thí dụ về trưởng giả.
“Lợi ích nhất thiết” (lợi ích hết thảy):
“Hết thảy” tương ứng với thí dụ về
năm trăm người. “Nhi sanh tam giới hủ cố
hỏa trạch” (mà sanh trong nhà lửa tam giới cũ
nát) kết hợp với thí dụ về nhà cửa. “Tắc
vi nhất thiết thế gian chi phụ” (là cha của hết
thảy thế gian): Chỉ chung ba cơi Đồng Cư, Phương
Tiện và Thật Báo, tương ứng với thí dụ
về quốc, ấp, tụ lạc. “Ư chư bố úy…. Vĩnh
tận vô dư” (trong các sợ hăi… vĩnh viễn hết
chẳng c̣n sót): Hiển thị Đoạn Đức của
Phật. “Nhi tất thành tựu vô lượng tri kiến”
(đều thành tựu vô lượng tri kiến): Hiển
thị Trí Đức của Phật, tương ứng với
thí dụ nội đức “kỳ niên suy mại” (tuổi
cao, già suy) trong phần trên. “Lực,
vô sở úy” tương ứng với ngoại đức
“của cải vô lượng” trong phần
trước. “Hữu đại thần lực” (có đại
thần lực): Do tu Thiền Định sâu xa mà đạt
được, tương ứng với “nhiều ruộng” trong phần trên. “Cập trí
huệ lực” (và sức trí huệ):
Trí ắt chiếu cảnh, như chỗ để gởi
thân, tương ứng với “nhiều nhà cửa” trong phần trên. “Cụ túc phương
tiện” (Trọn đủ phương tiện) tương
ứng với “đa chư bộc tùng” (có nhiều tôi
tớ) trong phần trên. Đại từ, đại
bi v.v… tương ứng với “đa chư nhân chúng”
(có nhiều người) trong phần trên, cho đến
năm trăm người, v́ ḷng từ bi nên độ nhiều.
“Tam giới” chính là “nhà ấy rộng lớn”.
3.3.1.2.2.1.2.1.2. Đối ứng ư
nghĩa biểu pháp của ba thí dụ như ba mươi
đứa con v.v…
(Kinh) Vị độ
chúng sanh sanh, lăo, bệnh, tử, ưu bi, khổ năo,
ngu si ám tế, tam độc chi hỏa, giáo hóa linh đắc
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
(經)為度眾生。生老病死。憂悲苦惱。愚癡闇蔽。三毒之火。教化令得阿耨多羅三藐三菩提。
(Kinh:
V́ độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa sanh, già, bệnh, chết, lo buồn,
khổ năo, ngu si, tối tăm che lấp, tam độc, giáo
hóa khiến cho họ đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác).
“Vị độ
chúng sanh” (v́ độ chúng sanh) là nói tới kẻ hữu
duyên, tương ứng với thí dụ về ba mươi
đứa con. “Sanh, lăo, bệnh, tử” cho đến
“tam độc chi hỏa” tương ứng với
thí dụ “lửa bốc cháy”. Giáo hóa khiến cho họ đắc
Bồ Đề, tương ứng với thí dụ “chỉ
có một cửa”. Phần thứ nhất, “đối ứng ư nghĩa biểu pháp với phần
Tổng Thí” đă xong.
3.3.1.2.2.1.2.2. Đối ứng pháp với
phần
Biệt Thí
3.3.1.2.2.1.2.2.1. Đối ứng pháp
với thí dụ “thấy lửa”
(Kinh)
Kiến chư chúng sanh, vị sanh, lăo, bệnh, tử, ưu
bi, khổ
năo chi sở thiêu chử, diệc dĩ ngũ dục, tài lợi
cố, thọ chủng chủng khổ. Hựu dĩ tham
trước truy cầu cố, hiện thọ chúng khổ,
hậu thọ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ chi
khổ. Nhược sanh thiên thượng, cập tại nhân gian, bần cùng, khốn
khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội ngộ khổ.
Như thị đẳng chủng chủng chư khổ,
chúng sanh một tại kỳ trung, hoan hỷ du hư, bất
giác, bất tri, bất kinh, bất bố, diệc bất
sanh yếm, bất cầu giải thoát. Ư thử tam giới
hỏa trạch, Đông Tây tŕ tẩu, tuy tao đại khổ,
bất dĩ vi hoạn. Xá Lợi Phất! Phật kiến
thử dĩ, tiện tác thị niệm: “Ngă vi chúng sanh chi
phụ, ưng bạt kỳ khổ nạn, dữ vô lượng
vô biên Phật trí huệ lạc, linh kỳ du hư”.
(經)見諸眾生。為生老病死憂悲苦惱之所燒煮。亦以五欲財利故。受種種苦。又以貪著追求故。現受眾苦。後受地獄畜生餓鬼之苦。若生天上及在人間。貧窮困苦。愛別離苦。冤憎會苦。如是等種種諸苦。眾生沒在其中。歡喜遊戲。不覺不知。不驚不怖。亦不生厭。不求解脫。於此三界火宅。東西馳走。雖遭大苦。不以為患。舍利弗。佛見此已。便作是念。我為眾生之父。應拔其苦難。與無量無邊佛智慧樂。令其遊戲。
(Kinh: Thấy
các chúng sanh bị đốt nấu bởi sanh, lăo, bệnh,
tử, lo buồn, khổ năo, cũng v́ ngũ dục, tài lợi
mà chịu các thứ khổ. Lại do tham đắm truy cầu mà nay đang hứng
chịu các nỗi khổ, về sau chịu khổ trong địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nếu sanh trên trời và nhân
gian th́ bần cùng, khốn khổ, khổ v́ yêu thương
mà phải chia ĺa, khổ v́ oán ghét mà phải gặp gỡ,
đủ mọi nỗi khổ như thế đó. Chúng
sanh ch́m đắm trong ấy, hoan hỷ vui chơi, chẳng
hay, chẳng biết, chẳng hăi, chẳng sợ, cũng
chẳng sanh chán ngán, chẳng cầu giải thoát. Ở trong
nhà lửa ấy, rảo chạy Đông Tây, tuy gặp khổ
to lớn, chẳng coi đó là điều đáng lo. Này Xá Lợi
Phất! Phật thấy điều đó rồi, liền
nghĩ như thế này: “Ta là cha của chúng sanh, hăy nên dẹp
nỗi khổ nạn cho họ, ban cho niềm vui trí huệ
của vô lượng vô biên chư Phật, khiến cho họ được vui chơi”).
Chữ Kiến
trong đoạn này tương ứng với cái thấy của
ông trưởng giả trong phần trên. Các chúng
sanh cho đến các thứ khổ, tương ứng với
lửa lớn từ bốn bề bốc lên, tức là lửa
tám khổ. Từ tứ đảo (bốn kiến chấp
điên đảo) dấy lên. Chúng sanh ch́m đắm trong đó,
cho đến chẳng coi đó là chuyện đáng lo, tương
ứng với ư nghĩa “các con chẳng có ư cầu thoát ra”
trong phần trên. Chẳng quán Khổ Tập, cho nên chẳng
sanh nhàm chán. Chẳng quán Đạo Diệt, cho nên chẳng
cầu giải thoát. “Xá Lợi Phất! Phật kiến thử
dĩ” (này Xá Lợi Phất! Phật đă thấy điều
ấy rồi), tương ứng với “sự kinh hăi lớn
lao” trong phần trên. “Dẹp trừ khổ nạn” là
đại bi, “ban cho niềm vui của Phật” là đại
từ.
3.3.1.2.2.1.2.2.2. Đối ứng pháp
với thí dụ “bỏ ghế, dùng xe”
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1. Đối ứng
thí dụ “bỏ ghế” với pháp
Chỉ đối ứng
với Khuyến môn, chẳng đối ứng với Giới
môn. Trong phần Pháp Thuyết trước đó, cũng chỉ
khuyến thiện, chẳng nói kiêng ác. Hăy nên biết: Khuyến
tu là chánh, răn ác là phụ. Lại nữa, khuyến thiện
chính là răn ác, răn ác là khuyến thiện. Nay ứng hợp
với khuyến thiện, phải biết cũng là
tương ứng với răn ác. Kinh văn lại chia
làm hai phần:
- Một là
tương ứng thí dụ “bỏ ghế” với pháp.
- Hai là xét theo từng chi tiết
trong thí dụ để
nêu ra ư nghĩa biểu pháp tương ứng.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.1. Đối ứng
thí dụ “bỏ ghế” với ư nghĩa biểu
thị pháp
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Như Lai phục tác thị niệm: - Nhược
ngă đản dĩ thần lực, cập trí huệ lực,
xả ư phương tiện, vị chư chúng sanh tán
Như Lai tri kiến, lực, vô sở úy giả, chúng sanh bất
năng dĩ thị đắc độ. Sở dĩ giả
hà? Thị chư chúng sanh vị miễn sanh, lăo, bệnh, tử,
ưu, bi, khổ năo, nhi vị tam giới hỏa trạch sở
thiêu, hà do năng giải Phật chi trí huệ!
(經)舍利弗。如來復作是念。若我但以神力及智慧力。捨於方便。為諸眾生讚如來知見力無所畏者。眾生不能以是得度。所以者何。是諸眾生。未免生老病死憂悲苦惱。而為三界火宅所燒。何由能解佛之智慧。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Như Lai lại nghĩ như thế này: - Nếu ta
chỉ dùng thần lực và trí huệ lực, bỏ các phương
tiện, v́ các chúng sanh khen ngợi tri kiến, lực, vô sở
úy của Như Lai th́ chúng sanh sẽ chẳng thể do đó
mà đắc độ. V́ cớ sao vậy? Các chúng sanh ấy
chưa tránh khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ
năo, bị nhà lửa tam giới thiêu đốt, sẽ chẳng thể
do đâu mà hiểu trí
huệ của Phật được!).
Các câu “nhược
ngă đản dĩ” (nếu ta chỉ dùng) v.v… tương
ứng với chuyện suy tính dùng pháp nào để độ trong phần trên. Từ “sở dĩ
giả hà” (v́ cớ sao vậy) trở đi, tương
ứng với “chẳng dùng pháp nào để độ được”
trong phần trước. “Thần lực” tương
ứng với “sức nơi thân”, “trí huệ lực”
tương ứng với “sức nơi tay”. “Như Lai tri
kiến” tương ứng với y kích (lẵng hoa), “lực”
tương ứng với bàn, “vô sở úy” tương
ứng với ghế. “Vị miễn sanh, lăo, bệnh, tử”
(chưa tránh khỏi sanh, già, bệnh, chết) tương ứng
với các con thơ dại trong phần
trước. “Hà do năng giải Phật chi trí huệ” (do đâu
mà có hiểu trí huệ của Phật) tương ứng với
“chỉ có một cửa mà lại hẹp nhỏ” trong phần trước.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.1.2. Xét theo từng chi tiết
trong thí dụ để nêu ra ư nghĩa
biểu pháp tương ứng
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Như bỉ trưởng giả, tuy phục thân
thủ hữu lực, nhi bất dụng chi, đản dĩ
ân cần phương tiện, miễn tế chư tử
hỏa trạch chi nạn, nhiên hậu các dữ trân bảo
đại xa. Như Lai diệc phục như thị, tuy hữu
lực, vô sở úy, nhi bất dụng chi.
(經)舍利弗。如彼長者。雖復身手有力而不用之。但以殷勤方便。勉濟諸子火宅之難。然後各與珍寶大車。如來亦復如是。雖有力無所畏而不用之。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Như ông trưởng giả đó tuy thân và tay có
sức, nhưng chẳng dùng, chỉ dùng phương tiện
ân cần, cứu giúp các con thoát nạn nhà lửa, sau đấy
đều cho mỗi đứa con xe lớn quư báu. Như
Lai cũng giống như thế, tuy có lực, vô sở úy,
nhưng chẳng dùng).
Nêu ra thí dụ nhằm
nói rơ “ẩn Đại để thực hiện Quyền”,
sau đó mới hiển Thật. Đối ứng khít khao
nhằm nêu rơ hai ư: Do chẳng có căn cơ, cho nên ẩn
Đại, thi Quyền hiển Thật như sẽ được
nói trong phần kinh văn kế tiếp. Phần đầu,
kết hợp thí dụ “bỏ ghế
[dùng xe]” đă xong.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2. Đối ứng thí
dụ “dùng xe” với ư nghĩa biểu
thị pháp
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.1. Tính dùng ba loại
xe và sẵn biết tâm của các con
(Kinh) Đản
dĩ trí huệ phương tiện, ư tam giới hỏa
trạch, bạt tế chúng sanh, vị thuyết tam thừa,
Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Thừa.
(經)但以智慧方便。於三界火宅拔濟眾生。為說三乘。聲聞。辟支佛。佛乘。
(Kinh: Chỉ
dùng phương tiện trí huệ, ở trong nhà lửa tam
giới cứu vớt chúng sanh, v́ họ nói ba thừa Thanh Văn,
Bích Chi Phật, và Phật Thừa).
“Trí huệ phương
tiện” tương ứng với chuyện suy nghĩ
dùng cách nào thích hợp [để hóa độ].
“Vị thuyết tam thừa” (v́ họ nói ba thừa) tương
ứng với chuyện sẵn biết tâm ưa thích của
các con.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2. Đối ứng
với pháp chuyện khen ngợi ba loại xe hy hữu
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.1. Tương ứng
với Thị Chuyển
(Kinh)
Nhi tác thị ngôn: “Nhữ đẳng mạc đắc nhạo
trụ tam giới hỏa trạch (Khổ Đế), vật
tham thô tệ sắc, thanh, hương, vị, xúc dă. Nhược
tham trước sanh ái, tắc vi sở thiêu (Tập Đế).
Nhữ tốc xuất tam giới, đương đắc
tam thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Thừa (Đạo
Diệt nhị Đế).
(經)而作是言。汝等莫得。樂住三界火宅(苦諦)。勿貪麤弊色聲香味觸也。若貪著生愛。則為所燒(集諦)。汝速出三界當得三乘。聲聞。辟支佛。佛乘(道滅二諦)。
(Kinh: Bèn nói
như thế này: “Các ngươi đừng ham ở trong nhà
lửa tam giới (Khổ Đế), đừng tham sắc,
thanh, hương, vị, xúc thô tệ. Nếu tham đắm, sẽ
sanh ái, sẽ bị đốt cháy (Tập Đế). Các
ngươi hăy mau ra khỏi tam giới, sẽ đạt được
ba thừa Thanh Văn, Bích
Chi Phật, Phật Thừa” (Đạo
Đế và Diệt Đế)).
Tương ứng
với ba loại xe nay đang ở ngoài cửa. Các ngươi
hăy nên mau chóng ra khỏi căn nhà lửa ấy.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.2. Tương ứng
với Chứng Chuyển
(Kinh) Ngă kim vị
nhữ bảo nhậm thử sự, chung bất hư dă. Nhữ
đẳng đản đương cần tu tinh tấn.
Như Lai dĩ thị phương tiện dụ tấn chúng
sanh.
(經)我今為汝保任此事。終不虛也。汝等但當勤修精進。如來以是方便誘進眾生。
(Kinh: “Ta nay v́ các
ngươi bảo đảm chuyện này, trọn chẳng hư dối. Các ngươi chỉ
nên siêng năng tinh tấn”. Như Lai dùng phương tiện
ấy để khuyên dụ chúng sanh).
Tương ứng
với “tùy ḷng các con muốn, sẽ đều ban cho”.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.2.3. Tương ứng
với Khuyến Chuyển
(Kinh)
Phục tác thị ngôn: “Nhữ đẳng đương
tri thử tam thừa pháp, giai thị thánh sở xưng thán,
tự tại vô hệ, vô sở y cầu, thừa thị tam
thừa, dĩ vô lậu căn, lực, giác, đạo, Thiền
Định, giải thoát, tam-muội đẳng, nhi tự
ngu lạc, tiện đắc vô lượng an ổn khoái
lạc”.
(經)復作是言。汝等當知此三乘法。皆是聖所稱歎。自在無繫。無所依求。乘是三乘。以無漏根力覺道禪定解脫三昧等而自娛樂。便得無量安隱快樂。
(Kinh: Lại
nói như thế này: “Các ngươi hăy nên biết pháp tam thừa
này, đều được bậc thánh khen ngợi, tự
tại chẳng trói buộc, chẳng có ǵ nương tựa,
mong cầu, nương vào ba thừa ấy, dùng vô lậu ngũ
căn, ngũ lực, thất giác chi, bát thánh đạo, Thiền
Định, giải thoát, tam-muội v.v… để tự
vui sướng, liền đạt được vô lượng
vui sướng an ổn).
Tương ứng
với “nhữ đẳng sở khả ngoạn hảo’”
(món đồ chơi các con ưa thích) trong phần trên, hy hữu,
khó có. Tam thừa đều là phương tiện của
chư Phật dùng làm phương cách tiếp dẫn chúng
sanh. V́ thế, được bậc thánh khen ngợi. Đạt
được trí vô sanh là “tự tại”. Đạt
được tận trí là “vô hệ” (không trói buộc). “Sự sanh của ta đă hết, chẳng thể có
hậu hữu” th́ gọi là “vô sở y”. Việc làm đă
xong, phạm hạnh đă lập, gọi là “vô sở cầu”.
“Căn, lực, giác, đạo…” gồm chung hữu lậu
và vô lậu. Ba mươi bảy phẩm của địa
vị Tam Hiền thuộc hữu lậu. Ba mươi bảy
phẩm trong địa vị Hữu Học và Vô Học
thuộc về vô lậu. Thiền tức Tứ Thiền, Định
tức Vô Sắc Tứ Định, cũng bao gồm hữu
lậu và vô lậu. Ở đây nói về vô lậu. “Giải
thoát” tức bát giải thoát. “Tam-muội” tức ba
môn tam-muội. Đấy là vô lậu. “Đẳng” tức
là b́nh đẳng giữ lấy để rèn luyện huân
tu các môn Thiền. “Vô lượng an ổn khoái lạc”
chính là Chân Không Niết Bàn, vĩnh viễn ĺa tai hoạn. Phần
thứ hai, “cùng kết
hợp với pháp để tán thán ba loại xe hiếm có” đă xong.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.2.3. Phù hợp với
ước nguyện của các con
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Nhược hữu chúng sanh, nội hữu trí tánh,
tùng Phật Thế Tôn, văn pháp tín thọ, ân cần tinh tấn,
dục tốc xuất tam giới, tự cầu Niết
Bàn. Thị danh Thanh Văn Thừa. Như bỉ chư tử,
vị cầu dương xa, xuất ư hỏa trạch.
Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế Tôn, văn
pháp tín thọ, ân cần tinh tấn, cầu tự nhiên huệ,
nhạo độc thiện tịch, thâm tri chư pháp nhân
duyên. Thị danh Bích Chi Phật Thừa. Như bỉ
chư tử, vị cầu lộc xa, xuất ư hỏa
trạch. Nhược hữu chúng sanh, tùng Phật Thế
Tôn, văn pháp tín thọ, cần tu tinh tấn, cầu Nhất
Thiết Trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, Như
Lai tri kiến lực, vô sở úy, mẫn niệm an lạc
vô lượng chúng sanh, lợi ích thiên nhân, độ thoát nhất
thiết. Thị danh Đại Thừa. Bồ Tát cầu thử
thừa cố, danh vi Ma Ha Tát. Như bỉ chư tử, vị
cầu ngưu xa, xuất ư hỏa trạch.
(經)舍利弗。若有眾生。內有智性。從佛世尊聞法信受殷勤精進。欲速出三界。自求涅槃。是名聲聞乘。如彼諸子。為求羊車。出於火宅。若有眾生。從佛世尊聞法信受殷勤精進。求自然慧。樂獨善寂。深知諸法因緣。是名辟支佛乘。如彼諸子。為求鹿車。出於火宅。若有眾生。從佛世尊聞法信受。勤修精進。求一切智。佛智。自然智。無師智。如來知見力無所畏。愍念安樂無量眾生。利益天人。度脫一切。是名大乘。菩薩求此乘故。名為摩訶薩。如彼諸子。為求牛車。出於火宅。
(Kinh: Này Xá Lợi
Phất! Nếu có chúng sanh trong tâm có trí tánh, từ Phật Thế
Tôn nghe pháp, tin nhận, ân cần, tinh tấn, muốn mau thoát
khỏi tam giới, tự cầu Niết Bàn. Đó gọi
là Thanh Văn Thừa. Như các đứa con v́ cầu xe dê,
ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sanh từ Phật Thế
Tôn nghe pháp, tin nhận, ân cần tinh tấn, cầu tự
nhiên huệ, ưa thích ở riêng một ḿnh nơi tốt
lành, thanh vắng, biết sâu xa nhân duyên của các pháp. Đó
gọi là Bích Chi Phật Thừa. Như các con v́ cầu xe nai,
ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sanh từ Phật Thế
Tôn nghe pháp, tin nhận, siêng tu tinh tấn, cầu Nhất
Thiết Trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, sức tri
kiến, lực, vô sở úy của Như Lai, nghĩ thương
xót an lạc vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người,
độ thoát hết thảy. Đó gọi là Đại Thừa.
Bồ Tát do cầu thừa ấy, gọi là Ma Ha Tát. Như
các con v́ cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa).
“Nội hữu trí
tánh” (trong tâm có trí tánh): Xưa kia đă ưa thích, mong muốn tu tập
tam thừa, trở thành trí tánh
tam thừa. V́ thế, đức Phật ban
cấp giáo pháp tam thừa. “Văn pháp tín thọ” (nghe
pháp tin nhận) tức Văn Huệ, tương ứng “phù
hợp ư nguyện” trong phần trước. “Ân cần”
tức Tư Huệ, tương ứng với “tâm ai nấy đều mạnh mẽ, hăng hái”
trong phần trên. “Tinh tấn” tức Tu Huệ, tương
ứng với “thôi bài” (xô đẩy) trong phần trên.
Do trừ khử ác, cho nên là Tinh,
suy lư hiểu rơ là Tấn. “Dục tốc xuất tam giới”
(muốn mau ra khỏi tam giới) tương ứng với
“đua nhau rảo chạy, tranh nhau thoát ra” trong phần trên,
như dê [cứ cắm đầu chạy] chẳng nh́n lại
bầy đàn ở đằng sau. Đó gọi là Thanh
Văn Thừa.
“Cầu tự nhiên
huệ”: Mười hai nhân duyên vốn tự sẵn có,
chẳng phải do Phật, trời, người v.v… tạo
tác! Hơn nữa, Bích Chi Phật phần nhiều là người
hành pháp. Từ người khác nghe đôi chút, sẽ tự
suy ra nhiều nghĩa lư. V́ thế, sánh ví với nai. Nai chẳng
nương theo người. “Cầu Nhất Thiết Trí”
tức là muốn biết trọn khắp hết thảy các
pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng giống như
Nhị Thừa chỉ cầu xuất thế. Trí ấy c̣n
gọi là “Phật trí”, do Nhị Thừa sẽ chẳng
thể đạt được! Lại c̣n gọi là Tự
Nhiên Trí, v́ vượt thoát sự giác ngộ của chính ḿnh.
Lại c̣n gọi là Vô Sư Trí, Phật là bậc đại
sư của trời, người, chẳng có ai là thầy
của Phật. Hơn nữa, xét theo Phật quả trong
Tam Tạng để giải thích tứ trí. Hăy nên biết trong
tứ giáo, bốn trí có tên gọi
giống nhau, nhưng nghĩa thật sự khác biệt
vời vợi, chẳng nói rườm rà về chuyện này!
Bồ Tát ứng với các điều ấy mà tu nhân, an nhẫn
chuyên chở [chúng sanh thoát khỏi tam giới]. V́ thế, sánh
ví với trâu. Phần thứ hai, “kết hợp thí dụ bỏ ghế, dùng xe với pháp” đă
xong.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.3. Đối ứng thí
dụ “b́nh đẳng thí xe lớn” với pháp
Phần kinh văn nói
về thí dụ có bốn phần: Một là thoát nạn, hai
là [các con] đ̣i xe, ba là b́nh đẳng ban cho, bốn là hoan
hỷ. Nay chỉ đối ứng với pháp phần thoát
nạn, đă kiêm ư nghĩa “đ̣i xe”. Chỉ đối ứng
với pháp thí dụ “b́nh đẳng ban cho” th́ đă kiêm ư
nghĩa “hoan hỷ”. Kinh văn chia làm hai phần:
- Một là
nêu chung hai thí dụ “thoát nạn” và “b́nh đẳng ban cho”.
- Hai là gộp
chung cả hai thí dụ [để nêu ư nghĩa biểu thị
pháp].
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.3.1. Cùng nêu ra hai thí dụ
“thoát nạn” và “b́nh đẳng ban cho”
(Kinh) Xá Lợi
Phất! Như bỉ trưởng giả kiến chư tử
đẳng an ổn, đắc xuất hỏa trạch, đáo
vô úy xứ, tự duy tài phú vô lượng, đẳng dĩ
đại xa nhi tứ chư tử.
(經)舍利弗。如彼長者。見諸子等安隱得出火宅。到無畏處。自惟財富無量。等以大車而賜諸子。
(Kinh:
Này Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả kia thấy
các con an ổn, ra khỏi nhà lửa, đến chỗ không
sợ hăi, tự nghĩ của cải vô lượng, b́nh đẳng
dùng xe lớn cho các con).
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.3.2. Nêu ư nghĩa biểu
thị pháp của hai thí dụ ấy
(Kinh) Như Lai
diệc phục như thị, vi nhất thiết chúng sanh
chi phụ. Nhược kiến vô lượng ức thiên chúng
sanh, dĩ Phật giáo môn, xuất tam giới khổ, bố
úy hiểm đạo, đắc Niết Bàn lạc.
(經)如來亦復如是。為一切眾生之父。若見無量億千眾生。以佛教門。出三界苦怖畏險道。得涅槃樂。
(Kinh: Như
Lai cũng lại như thế, là cha của hết thảy
chúng sanh. Nếu thấy vô lượng ức ngàn chúng sanh dùng
cửa Phật giáo để thoát khỏi nỗi khổ tam
giới, và con đường nguy hiểm đáng kinh sợ,
đạt được niềm vui Niết Bàn).
Trước hết,
kết hợp với pháp chuyện “thoát nạn” trong thí dụ.
“Dĩ Phật giáo môn” (dùng cửa Phật giáo): Nương
theo chân lư được nói trong giáo để dấy lên thánh
hạnh tam thừa. V́ thế được thoát khổ.
(Kinh) Như Lai
nhĩ thời, tiện tác thị niệm: “Ngă hữu vô
lượng vô biên trí huệ, lực, vô úy đẳng chư
Phật pháp tạng. Thị chư chúng sanh giai thị ngă tử,
đẳng dữ Đại Thừa, bất linh hữu nhân
độc đắc diệt độ, giai dĩ Như
Lai diệt độ nhi diệt độ chi. Thị chư
chúng sanh thoát tam giới giả, tất dữ chư Phật
Thiền Định giải thoát đẳng ngu lạc chi cụ,
giai thị nhất tướng, nhất chủng, thánh sở
xưng thán, năng sanh tịnh diệu đệ nhất
chi lạc.
(經)如來爾時便作是念。我有無量無邊智慧力無畏等諸佛法藏。是諸眾生。皆是我子。等與大乘。不令有人獨得滅度。皆以如來滅度而滅度之。是諸眾生脫三界者。悉與諸佛禪定解脫等娛樂之具。皆是一相一種。聖所稱歎。能生淨妙第一之樂。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Như Lai liền nghĩ như thế này: - Ta có vô
lượng vô biên pháp tạng của chư Phật như
trí huệ, lực, vô úy v.v… Các chúng sanh này đều là con của ta, [ta hăy nên] b́nh đẳng
ban cho Đại Thừa, chẳng để riêng một ai
được diệt độ, mà đều dùng sự
diệt độ của Như Lai để diệt độ
họ. Các chúng sanh ấy thoát khỏi tam giới, đều
được ban cho các vật dụng tạo niềm vui
sướng như Thiền Định, giải thoát v.v… của
chư Phật, [các món vật ấy] đều là một tướng,
một loại, được bậc thánh khen ngợi, có
thể sanh ra niềm vui tịnh diệu bậc nhất).
Kế đó, đối
ứng các thí dụ như “b́nh đẳng ban cho” v.v…
với pháp. “Ngă hữu vô lượng… chư Phật pháp
tạng” (Ta có vô lượng pháp tạng của chư Phật):
Đối ứng với “của cải vô lượng, các
kho tàng đầy ắp” trong phần trên, đó là nguyên do có
xe. “Thị chư chúng sanh giai thị ngă tử… ngu lạc
chi cụ” (các chúng sanh này đều là con của ta… các vật
dụng tạo niềm vui sướng), đối ứng
với các tâm trong phần trước. Thiền Định,
giải thoát của chư Phật đều nương vào
Trung Đạo Thật Tướng. V́ thế khác với
Thiền Định, giải thoát của Nhị Thừa, đều
là nhất tướng cho đến đệ nhất lạc,
tương ứng với phần nói về thể chất
của xe trong phần trên. Phần thí dụ nói chi tiết,
phần này nói đại lược, nhưng dùng tam đức
để gồm thâu các nghĩa:
- “Nhất tướng” là Thật Tướng, tức Pháp Thân đức.
- “Nhất chủng” tức là
Chủng Trí, tức Bát Nhă đức.
- “Có thể
sanh ra niềm vui tịnh diệu bậc nhất”, “vui”
tức là chẳng khổ, tức là Giải Thoát đức.
Ba đức chẳng
thể nghĩ bàn th́ gọi là “cao quảng đại xa”
(xe to cao rộng). Phần thứ ba, “đối
ứng với pháp bốn thí dụ về xe” đă xong.
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.4. Đối ứng thí
dụ “chẳng hư vọng” với pháp
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.4.1. Nhắc lại thí
dụ
(Kinh)
Xá Lợi Phất! Như bỉ trưởng giả sơ
dĩ tam xa dụ dẫn chư tử, nhiên hậu đản
dữ đại xa, bảo vật trang nghiêm, an ổn đệ
nhất, nhiên bỉ trưởng giả vô hư vọng
chi cữu.
(經)舍利弗。如彼長者。初以三車誘引諸子。然後但與大車。寶物莊嚴。安隱第一。然彼長者無虛妄之咎。
(Kinh:
Này Xá Lợi Phất! Như ông trưởng giả thoạt
đầu dùng ba loại xe để khuyên dụ các con, sau
đấy, chỉ cho xe lớn, trang nghiêm bằng bảo vật,
an ổn bậc nhất, nhưng ông trưởng giả chẳng
phạm lỗi hư vọng).
3.3.1.2.2.1.2.2.2.1.4.2. Đối ứng
với pháp
(Kinh) Như Lai
diệc phục như thị, vô hữu hư vọng.
Sơ thuyết tam thừa, dẫn đạo chúng sanh. Nhiên
hậu đản dĩ Đại Thừa nhi độ
thoát chi. Hà dĩ cố? Như Lai hữu vô lượng trí
huệ, lực, vô sở úy chư pháp chi tạng, năng dữ
nhất thiết chúng sanh Đại Thừa chi pháp, đản
bất tận năng thọ. Xá Lợi Phất! Dĩ thị
nhân duyên, đương tri chư Phật phương tiện
lực cố, ư nhất Phật Thừa, phân biệt
thuyết tam.
(經)如來亦復如是。無有虛妄。初說三乘。引導眾生。然後但以大乘而度脫之。何以故。如來有無量智慧力無所畏諸法之藏。能與一切眾生大乘之法。但不盡能受。舍利弗。以是因緣。當知諸佛方便力故。於一佛乘。分別說三。
(Kinh: Như
Lai cũng giống như thế, chẳng có hư vọng.
Thoạt đầu nói tam thừa để hướng dẫn
chúng sanh. Sau đó, chỉ dùng Đại Thừa để
độ thoát. V́ sao vậy? Như Lai có kho tàng gồm vô
lượng các pháp trí huệ, lực, vô sở úy, có thể
ban cho hết thảy chúng sanh pháp Đại Thừa,
nhưng họ đều chẳng thể tiếp nhận
trọn hết. Này Xá Lợi Phất! Do nhân duyên ấy, hăy
nên biết chư Phật do sức phương tiện mà đối
với một Phật Thừa bèn phân biệt
nói thành ba).
Có thể ban cho hết
thảy chúng sanh pháp Đại Thừa. Do đă nói “dùng tài vật
của ta châu cấp cho cả một nước c̣n chẳng
thiếu hụt”, nhưng [chúng sanh] chẳng thể đều
tiếp nhận. V́ thế, bất đắc
dĩ v́ một mà tách thành ba. Ba thừa là do chúng sanh, chẳng
phải là bổn ư của Phật. Nay nói Đại Thừa
chẳng trái nghịch bổn tâm, cho nên chẳng hư dối.
Trước đó, ngài Xá Lợi Phất đă hỏi: “Nguyện
v́ tứ chúng nói nhân duyên ấy”. Cho nên nay [đức Phật]
đáp lời: “Do bởi nhân duyên ấy mà phân biệt nói
thành ba”. Trong phần hai của Thí Thuyết, phần thứ
nhất là Trường Hàng đă xong.
3.3.1.2.2.2. Trùng tụng
3.3.1.2.2.2.1. Trùng tụng chuyện lập
thí dụ
3.3.1.2.2.2.1.1. Trùng tụng trưởng
giả
Lược đi
không trùng tụng “một cửa” và “ba mươi đứa
con”.
(Kinh) Phật dục
trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn: - Thí như trưởng
giả.
(經)佛欲重宣此義而說偈言。譬如長者。
(Kinh: Đức
Phật muốn nhắc lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: - Ví như có trưởng
giả).
Chỉ trùng tụng
danh hiệu của địa vị, tức là
kiêm danh và hạnh để tán thán đức, giống như
nêu lên Phật hiệu liền biết vạn đức.
3.3.1.2.2.2.1.2. Trùng tụng nhà cửa
(Kinh) Hữu nhất
đại trạch, kỳ trạch cửu cố, nhi phục
đốn tệ, đường xá cao nguy. Trụ căn
tồi hủ. Lương đống khuynh tà. Cơ bệ[36] đồi hủy.
Tường bích di sách. Nê đồ[37] trĩ lạc. Phú
thiêm[38] loạn trụy.
Chuyên lữ[39]
sai thoát. Châu chướng khuất khúc, tạp uế sung biến.
(經)有一大宅。其宅久故。而復頓弊。堂舍高危。柱根摧朽。梁棟傾斜。基陛隤毀。牆壁圯坼。泥塗阤落。覆苫亂墜。椽梠差脫。周障屈曲。雜穢充徧。
(Kinh: Có một
căn nhà lớn, nhà ấy đă cũ kỹ, sắp hư
nát rất mau, pḥng ốc rất nguy hiểm, chân cột đă
mục nát, kèo rường đều nghiêng lệch, nền,
thềm đều hư nát, tường vách đều rệu
ră, đất trát vách rơi rụng. Tranh lợp rơi tán
loạn. Kèo, đ̣n tay trật khớp, quanh co và ngổn ngang,
các chất dơ đầy khắp)[40].
Giải thích theo nhân
duyên, “hữu nhất đại trạch” (có một căn
nhà lớn) là nói đến cơi tam thiên đại thiên thế
giới Đồng Cư. Tam giới chẳng có khởi đầu
là “cửu” (lâu đời). Chẳng phải nay mới
tạo tác; đó là “cố” (cũ kỹ). Vô thường
hèn kém, thô lậu th́ là “đốn tệ” (sẽ nhanh
chóng bị hư nát). Sắc Giới là “đường”
(nhà to), Dục Giới là “xá” (nhà ở). Chẳng
tránh khỏi đọa lạc là “cao nguy” (hết sức
nguy hiểm). Mạng căn duy tŕ là Trụ. Bốn tướng
đổi dời là “tồi hủ” (hư nát, mục
ră). Ư thức ràng buộc là “lương đống”. Bị
các sự khổ làm hư hoại th́ gọi là “khuynh tà”
(nghiêng ngả, lệc
lạc). Hạnh nghiệp trong quá khứ là “cơ bệ”
(nền và thềm). Nghiệp vận chuyển dịch, diệt
mất là “đồi hủy” (hư nát). Tứ Đại
là “tường bích” (tường vách). Tổn hại
lẫn nhau là “di sách” (rệu ră). Da dẻ là “nê đồ”
(đất trát vách hoặc vôi vữa trát tường).
Sắc thân mạnh mẽ tráng kiện chẳng tồn tại
măi, đó là “trĩ lạc” (rơi rụng). Bốn
oai nghi chẳng chánh đáng là “phú thiêm loạn trụy”
(cỏ tranh lợp mái rơi tán loạn). Năm thức chẳng
nhạy bén, chẳng làm chủ cảnh, tức là “chuyên lữ
sai thoát” (các kèo đ̣n trật khớp). Ư thức rong ruổi
khắp nơi là “châu chướng” (ngổn ngang). Trải
khắp sáu căn chấp giữ cảnh là “khuất khúc”
(quanh co). Đối với trọn khắp sáu trần, dấy
lên tham, giận, si, là “tạp uế sung biến” (các
chất bẩn đầy ắp trọn khắp). Nói chung
là dùng sắc và tâm trong tam giới làm Thể của nhà.
Giải thích theo quán
tâm, một niệm hiện tiền, Ngũ Ấm, thân tâm, tánh
ấy vốn tự theo chiều dọc tột cùng, theo chiều
ngang trọn khắp, gọi là “một ngôi nhà lớn”.
Từ vô thỉ đến nay, ư thức tăm tối lan truyền,
chẳng có tác giả, gọi là “cửu cố” (lâu đời
cũ kỹ). Niệm nào cũng vô thường, mê t́nh hèn ác,
gọi là “đốn tệ” (nhanh chóng hư nát). Bụng
là “đường”, lưng là “xá”. Hai chân là “trụ
căn”. Xương sống là “lương đống”
(rường kèo). Mông và đùi là “cơ bệ” (nền
và thềm). Da thịt là tường vách. Màu da là đất
trát tường, râu tóc là cỏ tranh lợp mái. Hàm răng và khớp xương
là “chuyên lữ” (đ̣n tay). Trọn khắp trong thân là
“châu chướng”. Ruột non, ruột già là “khuất
khúc” (quanh co). Đại tiểu tiện bất tịnh
là “các chất dơ bẩn đầy dẫy”. Một
thân như thế, ngoài thân càng không có vật nào khác, được
gọi là “một ngôi nhà lớn”, chính là sở hữu
của Lư Tức Trưởng Giả. Nếu có thể quan
sát trong mỗi niệm, biết tất cả tánh khổ
thuộc về Ngũ Ấm trong thân tâm th́ chính là Pháp Thân
đức. Tất cả Hoặc nhiễm chính là Bát Nhă
đức. Tất cả nghiệp hạnh chính là Giải
Thoát đức, tức là chuyển thành Danh Tự Trưởng
Giả. Cho đến chuyển thành Cứu Cánh Trưởng
Giả. Tự giác, giác tha lợi ích vô tận. Nếu chẳng
quan sát cho đến tột cùng đời
vị lai, luôn ở trong nhà lửa, đốt rồi lại
đốt, trọn chẳng biết cái Thể của
ṭa nhà lớn ấy chính là cỗ xe trâu trắng lớn. Buồn
thay, rầu thay!
3.3.1.2.2.2.1.3. Trùng tụng “năm trăm
người”
(Kinh) Hữu ngũ
bách nhân, chỉ trụ kỳ trung.
(經)有五百人。止住其中。
(Kinh: Có năm
trăm người, lưu trụ trong ấy).
Sánh ví [chúng sanh trong]
năm đường. Đă có năm đường, sẽ
có căn tánh tam thừa, kèm thêm ba mươi đứa con.
3.3.1.2.2.2.1.4. Trùng tụng chuyện lửa
bốc cháy
Một là
trùng tụng chuyện trên mặt đất, sánh ví Dục
Giới. Hai là trùng tụng chuyện trong hang hốc, sánh ví
Sắc Giới. Ba là trùng tụng chuyện ở ngoài hang hốc,
sánh ví Vô Sắc Giới. Bốn là tổng kết các nạn
chẳng phải là một thứ.
Hỏi: Kinh văn
[thuộc phần Trường Hàng] đă có thí dụ và phần
kết hợp đối ứng [thí dụ] với pháp, v́ sao
lại xét theo từng thí dụ để giải thích [ư
nghĩa biểu thị pháp của chúng]?
Đáp: Thí dụ nói
chi tiết, mà phần giải thích ư nghĩa biểu thị
pháp th́ đại lược, theo đúng lẽ phải nên
giải thích thí dụ, huống hồ “si, kiêu, điêu, thứu”
cho đến Dạ Xoa, ngạ quỷ v.v… nếu chẳng nhằm sánh ví các lợi sử và độn
sử, cớ ǵ phải liệt kê rườm rà các sự vật
và danh tướng ấy? Há Phật thốt
lời vô nghĩa ư?
3.3.1.2.2.2.1.4.1. Trùng tụng chuyện
trên mặt đất
3.3.1.2.2.2.1.4.1.1. Nói rơ các loại bị
thiêu đốt
Sánh ví chúng sanh có Thập
Sử.
(Kinh) Si, kiêu,
điêu, thứu, ô, thước,
cưu, cáp, ngoan
xà, phúc yết, ngô công, du diên, thủ cung, bách túc, dứu ly,
hề thử, chư ác trùng bối, giao hoành tŕ tẩu, thỉ
niệu xú xứ, bất tịnh lưu dật. Khương
lang chư trùng, nhi tập kỳ thượng. Hồ, lang,
dă can, thư tước, tiễn đạp, tễ niết
tử thi. Cốt nhục lang tịch. Do thị quần cẩu,
cạnh lai bác toát, cơ luy chương hoàng, xứ xứ cầu
thực, đấu tránh tra xế, nhai sài hào phệ. Kỳ
xá khủng bố, biến trạng như thị.
(經)鴟梟鵰鷲。烏鵲鳩鴿。蚖蛇蝮蠍。蜈蚣蚰蜒。守宮百足。鼬貍鼷鼠。諸惡蟲輩。交橫馳走。屎尿臭處。不淨流溢。蜣蜋諸蟲。而集其上。狐狼野干。咀嚼踐踏。嚌齧死屍。骨肉狼藉。由是群狗。競來搏撮。饑羸慞惶。處處求食。鬥諍摣掣。啀喍嗥吠。其舍恐佈。變狀如是。
(Kinh: Diều,
cú, ưng, kên kên, quạ, khách, bồ câu, ngói, rắn độc
và ḅ cạp, rết cùng với cuốn chiếu, tắc kè,
loài trăm chân, chồn, cầy, cùng chuột cống, các loài
trùng ác thảy, cùng rảo chạy ngang dọc, chỗ phân
tiểu hôi thối, thứ bất tịnh chảy tràn. Các
trùng như bọ hung, bu xúm xít trên đó. Cáo, sói, và chó rừng,
cắn xé và giày xéo, ngoạm gặm các
xác chết. Xương thịt rơi vương văi. V́ thế,
các bầy chó, tranh nhau giành ngoạm lấy, đói gầy và
hoảng loạn, t́m cái ăn khắp nơi, giành giật,
cấu xé nhau, gầm gừ, sủa inh ỏi. Nhà ấy đáng
kinh sợ, khắp nơi đều như vậy).
Ở đây, trước
hết sánh ví Ngũ Độn Sử. Tám loại chim như
diều hâu, cú v.v… sánh ví Mạn Sử của chúng sanh, tự
nâng cao chính ḿnh, khinh thường người khác. Như chim
bay vọt lên cao, nh́n xuống. Lấn lướt người
khác là Mạn. Tự cậy ḿnh là Kiêu. V́ thế dùng Kiêu để
giải thích Mạn. Kinh Văn Thù Vấn nói tám loại kiêu,
nay dùng [tám loại kiêu ấy] để phối ứng với
tám loại chim: Kiêu căng v́ thể lực tốt, dồi
dào ví như diều hâu. Kiêu căng v́ gịng họ ví như
chim cú. Kiêu căng v́ giàu có giống như chim ưng. Kiêu căng
v́ tự tại ví như kên kên. Kiêu căng v́ thọ mạng
ví như chim quạ. Kiêu căng v́ thông minh giống như
chim khách (chim thước). Kiêu căng v́ là việc thiện
giống như bồ câu. Kiêu căng v́ sắc đẹp
giống như chim ngói.
Kế đó, hai câu
từ “ngoan xà…” [trở đi] nhằm sánh
ví Sân Sử. “Ngoan” (蚖) là rắn
đen. Ngoan xà không đụng đến vẫn cắn, ví
như nổi giận phi lư. “Phúc” (蝮) là hủy (虺,rắn lục,
viper), dài ba tấc, to như ngón tay, trên mũi có gai. Rắn
lục và ḅ cạp hễ động đến bèn chích, ví
như do chấp
Lư mà nổi sân. Loại trùng đầu đỏ
gọi là “ngô công” (rết), đầu chẳng đỏ
th́ gọi là “du diên” (cuốn chiếu) ví như sân v́ hư
luận. Kế đó, tám câu nói
về “thủ cung” là thí dụ chung về Si Sử. “Thủ
cung” (守宮) chính là “yển
đ́nh” (蝘蜓, cắc kè). Thủ cung, bách túc[41],
ngây ngốc, vô tri, ví như độc đầu vô minh[42].
“Dứu” (鼬, chồn) giống như chuột mà cũng ăn chuột.
Ly (貍, cầy) thuộc
loại mèo. “Hề” (鼷) tức
cam khẩu thử[43].
Bốn loại này tương ứng với vô minh.
“Chư ác trùng bối, giao hoành tŕ tẩu” (các loài trùng ác
ruổi chạy ngang dọc): Kết lại hai loại vô
minh tương ứng với độc đầu. Duyên
khắp tam giới nên là “giao hoành” (ngang dọc), lăng
xăng qua lại nhanh chóng nên là “tŕ tẩu” (rong ruổi)
tức là từ Si làm căn bản, dấy lên đủ loại
kết sử. Hai câu “thỉ niệu” (phân tiểu) nói
về cảnh chấp trước bởi si tâm, đều
là vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh. Hai câu “khương
lang” (bọ hung) nói tới vô minh do mê nơi Sự, do hư
vọng so đo “thường, lạc, ngă, tịnh” mà
sanh đắm nhiễm. Tám câu như “hồ lang” (cáo,
sói) sánh ví chung Tham Sử. Cáo và sói ví như ḷng tham do có sức,
[tức là] dùng oai thế để đoạt lấy. “Dă
can” (chó rừng) sánh ví tâm tham mà không có sức, theo người
khác xin xỏ. “Thư tước” (咀嚼, cắn xé) ví như
do hữu dụng bèn chiếm
lấy. “Tiễn đạp” (踐踏, giày xéo) ví như
không cần mà vẫn lấy. Lại nữa, ít ỏi th́ bèn
cắn xé, nhiều th́ giày xéo.
“Tễ niết”
(嚌齧, cắn ngoạm): Sánh ví tham lam nuốt lấy không
chán. “Tử thi” (xác chết) sánh ví ngũ dục thô tệ.
“Cốt nhục lang tịch” (xương thịt vung
văi) ví như tích tụ ngũ trần chẳng biết ngưng đủ. “Do
thị quần cẩu cạnh lai bác toát” (do vậy, lũ
chó tranh nhau ngoạm lấy): Ví như những kẻ có sức
mạnh lớn như vua, giặc v.v… [Câu này] chỉ ra: Các vật được
tích tụ bởi kẻ hữu lực hay vô lực đều
là do cưỡng đoạt. “Cơ” (饑, đói): Sánh ví “thường
chẳng biết đủ”. “Luy” (羸,
gầy c̣m) là sánh ví “cầu mong chẳng được vừa
ư”. “Chương hoàng” (慞惶, hoảng loạn)
ví như các thứ toan tính, truy cầu,
nghĩa là kẻ lắm ham muốn, tuy giàu có mà vẫn [giống
như] nghèo túng.
Lại nữa, ḷng
tham do tâm yêu mến bèn tham “thịt” ngũ trần. Ḷng tham
do kiến chấp sẽ tham “xương” đạo lư. Do
tri kiến mong cầu, t́m ṭi, sẽ có nhiều kiến giải,
tức là “có nhiều xương”. Chó cần xương, sẽ
tranh nhau cắn ngoạm. Đối với cái tâm kiến
chấp, do chưa đạt được thức ăn
chánh pháp, th́ gọi là “đói”. Chẳng thể chế phục,
đoạn trừ Kiến Hoặc th́ gọi là “gầy c̣m”.
Chốn chốn cầu giải th́ gọi là “chương
hoàng” (hoảng loạn). Thị phi lẫn nhau, đấu
tranh lẫn nhau, ư cho là sai, như hướng về phía trước
xâu xé, lại cho là đúng, hướng về sau giành giật.
Thốt ra ngôn luận phán quyết lẽ đúng
sai, như “nhai xế hào phệ” (gầm gừ, sủa inh ỏi). Điều
này tương ứng với bốn câu “thị chư quần
cẩu…” (lũ chó ấy). Tất cả sáu câu ấy
đều nhằm thí dụ Nghi Sử. “Kỳ xá khủng
bố, biến trạng như thị” (nhà ấy đáng
kinh sợ, khắp nơi đều là t́nh trạng như thế)
tổng kết năm Độn Sử vừa nói trên đây
(Kiến thuộc về Lợi Sử, sẽ nói trong phần
sau. Nay xét theo lợi trong độn, cho nên đề ra đạo
lư ḥng khởi nghi. Nhếch môi lộ răng là Nhai Sài (啀喍). Phát ra tiếng
gào rống to th́ gọi là “hào phệ”, 嗥吠).
(Kinh) Xứ xứ
giai hữu, ly, mỵ, vơng,
lượng, Dạ Xoa, ác quỷ, thực đạm nhân nhục.
Độc trùng chi thuộc, chư ác cầm thú, phu nhũ sản
sanh, các tự tàng hộ. Dạ Xoa cạnh lai, tranh thủ thực
chi. Thực chi kư băo, ác tâm chuyển xí, đấu tránh chi
thanh, thậm khả bố úy. Cưu Bàn Trà quỷ, tôn cứ
thổ đóa. Hoặc thời ly địa, nhất xích,
nhị xích, văng phản du hành, túng dật hy hư, tróc cẩu lưỡng
túc, phác linh thất thanh. Dĩ cước gia cảnh, bố
cẩu tự lạc. Phục hữu chư quỷ, kỳ
thân trường đại, lơa h́nh hắc sấu, thường
trụ kỳ trung, phát đại ác thanh, khiếu hô cầu
thực. Phục hữu chư quỷ, kỳ yết như
châm. Phục hữu chư quỷ, thủ như ngưu
đầu, hoặc thực nhân nhục, hoặc phục đạm
cẩu, đầu phát bồng loạn, tàn hại hung hiểm,
cơ khát sở bức, khiếu hoán tŕ tẩu.
(經)處處皆有。魑魅魍魎。夜叉惡鬼。食噉人肉。毒蟲之屬。諸惡禽獸。孚乳產生。各自藏護。夜叉競來。爭取食之。食之旣飽。惡心轉熾。鬥諍之聲。甚可怖畏。鳩槃茶鬼。蹲踞土埵。或時離地。一尺二尺。往返遊行。縱逸嬉戲。捉狗兩足。撲令失聲。以腳加頸。怖狗自樂。復有諸鬼。其身長大。裸形黑瘦。常住其中。發大惡聲。叫呼求食。復有諸鬼。其咽如鍼。復有諸鬼。首如牛頭。或食人肉。或復噉狗。頭髮髼亂。殘害兇險。飢渴所逼。叫喚馳走。
(Kinh: Khắp
nơi thảy đều có, loài ly, mỵ, vơng, lượng,
Dạ Xoa và ác quỷ, ăn nuốt thịt loài người.
Các loài trùng độc địa, các chim thú bạo ác, ấp,
bú mớm, sanh nở, đều tự giấu, bảo vệ.
Dạ Xoa tranh nhau đến, giành giật để ăn
nuốt. Ăn đă no nê xong, tâm ác càng dữ dội, tiếng
chúng đấu đá nhau, thật rất đáng kinh hăi. Loài
quỷ Cưu Bàn Trà, ngồi xổm trên đống đất,
hoặc có lúc rời đất, cách đất một, hai
thước. Xẹt qua rồi xẹt lại, buông lung, đùa bỡn
chơi, nắm lấy hai chân chó, đánh nó kêu thất thanh.
Lại dùng chân chẹn cổ, dọa chó để tự
vui. Lại có các loài quỷ, thân h́nh chúng cao lớn, trần
truồng, đen c̣m cơi, thường sống ở nơi đó, phát ra tiếng ác lớn, kêu gào đ̣i thức
ăn. Lại có những con quỷ, cổ họng bé như
kim. Lại có những con quỷ, đầu giống như
đầu trâu. Hoặc là ăn thịt người, hoặc
lại ăn thịt chó. Đầu tóc rối tung lên, tàn hại
và hung hiểm, bị đói khát bức bách, gào thét chạy
cuồng lên).
Ở đây sánh ví năm
Lợi Sử. Hai câu “xứ xứ giai hữu” (nơi
nơi đều có) nhằm nói chung năm thứ Lợi Sử
trọn khắp tam giới, Ngũ Ấm, Tứ Đế,
bất cứ chỗ nào cũng đều luôn có. Quỷ quái
trong núi gọi là Ly. Quỷ quái nơi đầm lầy gọi
là Mỵ. Quỷ quái biến hóa nơi gỗ đá th́ gọi
là Vơng Lượng. Ba bài kệ [bắt đầu bằng
chữ] Dạ Xoa, nhằm sánh ví riêng về tà kiến. “Thịt
người” sánh ví thiện báo xuất thế
gian. “Thực đạm nhân nhục” (ăn nuốt thịt
người) sánh ví sự bài bác chẳng
có nhân quả xuất thế gian. “Độc trùng cầm
thú, phu nhũ sản sanh, các tự tàng hộ” (các loài
trùng độc và chim thú ấp trứng, cho con bú, sanh nở,
mỗi loài đều che giấu, bảo vệ con ḿnh) ví như nhân
quả thế gian. Cái nhân có thể sanh ra quả, th́ gọi
là “tàng”. Ắt có chẳng mất (nhân ắt có quả,
quả ấy chẳng mất), th́ gọi
là “hộ”. “Tranh thủ thực chi” (tranh nhau giành
giật để ăn) sánh ví chuyện bài bác chẳng có
nhân quả thế gian. “Thực chi kư băo” (ăn đă
no nê rồi) sánh ví tà kiến thành tựu. “Ác tâm chuyển
xí” (tâm ác trở nên dữ dội hơn) sánh ví tà kiến
tăng rộng. “Đấu tránh chi thanh” (Tiếng đấu
đá) sánh ví tà luận bài bác chẳng có nhân quả. “Thậm
khả bố úy” (hết sức đáng sợ hăi) sánh ví
tà luận ấy có thể khiến cho con người đọa
lạc trong tam đồ. Một bài kệ rưỡi từ
chữ Cưu Bàn Trà trở đi, sánh ví riêng về Giới
Thủ Kiến. Cưu Bàn Trà (Kumbhāṇḍa) là một loài quỷ
đáng sợ. Ngồi xổm th́ gọi là Tôn (蹲), ngồi vững vàng th́ gọi là Cứ (踞). Chỗ đất có
h́nh thế cao gọi là “thổ đóa” (土埵), ví như ngoại
đạo nương vào Giới Thủ Kiến, tu hành Thập Thiện,
sẽ có thể sanh vào chỗ cao nhất trong Dục Giới
là Lục Thiên. “Hoặc thời ly địa
nhất xích, nhị xích” (hoặc
có lúc ĺa khỏi mặt đất một, hai thước):
Sánh ví nương vào Giới Thủ Kiến, tu chứng Tứ
Thiền. Sanh trong Sắc Giới gọi là “ĺa khỏi đất
một thước”. Hoặc nương vào Giới Thủ
Kiến mà đạt được Tứ Không Định, sanh vào Vô Sắc
Giới, th́ gọi là
“ĺa khỏi mặt đất hai thước”.
“Văng phản du hành”
(xẹt qua rồi xẹt lại): “Văng” là ví như sanh
vào hai giới trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới), “phản”
ví như sanh trở lại Dục Giới. “Túng dật hy
hư” (buông lung cứ đùa bỡn): Ví như chẳng nhập
chánh đạo, trọn chẳng thể đạt tới Thật.
“Tróc cẩu lưỡng túc” (nắm
lấy hai chân chó): Ví như hư vọng chấp trước
khổ hạnh là tịnh. “Phác linh thất thanh” (đánh
chó khiến nó kêu thất thanh) ví như hư vọng chấp
trước “tu khổ hạnh sẽ không mắc khổ quả”.
“Dĩ cước gia cảnh” (dùng chân chẹn cổ
chó) sánh ví dùng khổ hạnh để mong cầu
lạc quả. “Bố cẩu tự lạc” (dọa
chó để tự vui): Ví như dùng khổ hạnh để
tạm chế phục phiền năo, hoặc có lúc hơi đạt
được mùi vị Thiền.
Sáu câu từ “phục
hữu chư quỷ, kỳ thân trường đại”
(lại có các loài quỷ, thân h́nh nó cao lớn): Sánh ví riêng Thân
Kiến. Theo chiều dọc, chấp ngă trong ba đời th́
gọi là Trường. Theo chiều ngang, trọn khắp
Ngũ Ấm chấp Ngă th́ gọi là Đại. Chấp ngă
tự tại, chẳng tu thiện pháp, tức là chẳng hổ
thẹn. V́ thế gọi là “lơa h́nh” (trần truồng).
Dùng điều ác để trang nghiêm, nên gọi là “hắc”.
Chẳng có tư lương công đức, nên gọi là “sấu”
(gầy). Hư vọng chấp có ngă, vĩnh viễn chẳng
thể thoát khỏi tam giới, v́ thế nói “thường
trụ kỳ trung” (thường trụ trong đó). Thốt
lời tuyên thuyết các thứ ngă tướng, v́ thế nói
“phát đại ác thanh”. Hư vọng chấp có ngă để
có thể đạt được Niết Bàn. V́ thế, gọi
là “khiếu hoán cầu thực” (kêu gào đ̣i thức ăn).
Kế đó, “phục hữu chư quỷ, kỳ yết
như châm” (lại có các loài quỷ, cổ họng như
cái kim): Riêng sánh ví Kiến Thủ Kiến, cổ họng bé
tí, tánh mạng nguy ngập, mà mong bảo toàn tánh mạng, như
đối với Phi Tưởng vô thường, cứ lầm
lạc chấp trước đó là Niết Bàn.
Kế đó, hai bài
kệ như “phục hữu chư quỷ, thủ
như ngưu đầu” (lại có các loài quỷ, đầu
chúng như đầu trâu) v.v… nhằm riêng sánh ví Biên Kiến.
Nương vào Thân Kiến, dấy lên Đoạn Kiến và
Thường Kiến, như đầu trâu có hai sừng. Đoạn
Kiến và Thường Kiến có thể đoạn thiện
căn xuất thế. “Hoặc thực nhân nhục”
(hoặc là ăn thịt người): Có thể đoạn
thiện căn thế gian. “Hoặc phục đạm cẩu”
(hoặc lại ăn thịt chó): Có lúc chấp Đoạn,
có lúc chấp Thường, trước sau xoay chuyển, như
“đầu phát bồng loạn” (đầu tóc bù rối).
Chấp Thường sẽ phá hại chánh lư vô thường.
Chấp Đoạn sẽ phá hoại chánh lư duyên khởi. Chấp
Thường sẽ rơi vào hố Thường, chấp Đoạn
sẽ rơi vào hố Đoạn. V́ thế nói là “tàn hại
hung hiểm”. Do không có thức ăn trí huệ, không có đồ
uống Thiền Định, cho nên nói là “cơ
khát sở bức” (bị đói khát bức bách). Tuyên xướng
tà luận Đoạn Thường, cho nên nói là “khiếu
hoán” (kêu gào). Luân hồi sanh tử chẳng thôi, v́ thế
nói là “tŕ tẩu” (rong ruổi).
(Kinh) Dạ Xoa,
ngạ quỷ, chư ác điểu thú, cơ cấp tứ
hướng, khuy khán song dũ. Như thị chư nạn,
khủng úy vô lượng.
(經)夜叉餓鬼。諸惡鳥獸。饑急四向。窺看窗牖。如是諸難。恐畏無量。
(Kinh: Dạ
Xoa và ngạ quỷ, các loài chim thú ác, quá đói chạy bốn
phương, ŕnh ngó qua song cửa. Các hoạn nạn như
thế, vô lượng nỗi kinh hăi).
Đây là tổng kết
tướng lợi độn phiền năo của chúng sanh trong
Dục Giới. Hoàn toàn là cái tâm hữu lậu. Thường
thiếu thốn đạo vị, cho nên nói là “cơ
cấp” (bị đói quá sức). Tà quán Không lư, hâm mộ,
ngưỡng mộ đạo vị; cho nên nói “tứ hướng,
khuy khán”. Cái tâm nhiều vướng mắc, đắm
chấp, chẳng hiểu chánh lư, như nh́n qua cửa sổ
để quán Không, chẳng được vô ngại. Phần
thứ nhất “nói về
các thứ bị thiêu đốt” đă xong.
3.3.1.2.2.2.1.4.1.2. Nguyên do bốc lửa
Sánh ví nguyên do dấy
khởi ngũ trược.
(Kinh) Thị hủ
cố trạch, thuộc vu nhất nhân, kỳ nhân cận
xuất, vị cửu chi gian, ư hậu xá trạch, hốt
nhiên hỏa khởi.
(經)是朽故宅。屬于一人。其人近出。未久之間。於後宅舍。忽然火起。
(Kinh: Căn
nhà cũ nát đó, vốn thuộc về một người,
người ấy vừa mới ra, chẳng được
bao lâu, sau đó nhà cửa bỗng
dưng lửa bùng lên).
Tam giới là chỗ
đức Phật ứng hóa. Kể từ khi phát tâm tới
nay, thệ nguyện độ thoát. V́ thế nói “thuộc
vu nhất nhân” (thuộc về một người). Trưởng
giả ở trong nhà, có thể trông nom lửa cẩn thận.
Do ông ta ra ngoài, các con vô tri, khiến cho lửa bốc lên. Ví
như khi đức Phật thân cận Đại Thông Trí
Thắng Phật, thường giáo hóa bọn họ, khiến
cho họ chế phục ngũ trược. Cơ cảm
của chúng sanh đă hết, Như Lai xả ứng thân. Ngay
sau đó, ngũ trược bèn dấy lên, Phật ứng
duyên trong cơi khác, chẳng phải là vĩnh viễn bỏ đi.
V́ thế nói là “cận xuất”. Hơn nữa, bậc
đă chứng Vô Sanh chẳng sanh trong tam giới nữa, cho nên nói là “xuất”.
Chẳng lâu sau bèn ứng hiện, nên nói là “cận”. Phẩm
Thọ Lượng nói: “Sổ hiện Niết Bàn”
(nhiều lượt thị hiện nhập Niết Bàn), tức là ư nghĩa “xuất
trạch” (ra khỏi nhà) vậy. Tam giới là nhà, Ngũ
Ấm là xá.
3.3.1.2.2.2.1.4.1.3. Nêu ra bản thể của
lửa
Sánh ví ngũ
trược dấy khởi.
(Kinh) Tứ diện
nhất thời, kỳ diễm câu xí, đống lương
chuyên trụ, bộc thanh chấn liệt, tồi chiết đọa
lạc, tường bích băng đảo.
(經)四面一時。其燄俱熾。棟梁椽柱。爆聲震裂。摧折墮落。牆壁崩倒。
(Kinh: Bốn
mặt cùng một lúc, ngọn lửa đều hừng hực.
Kèo, rường, xà, và cột, nứt nổ tiếng vang rền,
nát gẫy và rơi rụng, tường vách đều đổ
sụp).
“Tứ diện”
ví như thân, thọ, tâm, pháp. Đột ngột dấy lên
tứ đảo, ngũ trược, bát khổ. V́ thế
nói “nhất thời kỳ diễm câu xí” (bỗng chốc
ngọn lửa cùng cháy rực). Mạng đoạn là “bộc”
(bùng nổ), phong đao cứa nát thân là “liệt” (xé rách).
Tắt hơi, xương xẩu chia ĺa là “tồi chiết
đọa lạc” (nát gẫy, rơi rụng). Tứ Đại
tan tác là “tường bích băng đảo” (tường
vách đổ sụp). Do ngũ trược, tứ đảo
mà thân mạng vô thường.
3.3.1.2.2.2.1.4.1.4. Tướng bị thiêu đốt
Sánh ví bát khổ, ngũ
trược bức bách, năo hại chúng sanh lợi căn và
độn căn.
(Kinh) Chư quỷ
thần đẳng, dương thanh đại khiếu, điêu
thứu chư điểu, Cưu Bàn Trà đẳng, châu chương
hoàng bố, bất năng tự xuất.
(經)諸鬼神等。揚聲大叫。鵰鷲諸鳥。鳩槃茶等。周慞惶怖。不能自出。
(Kinh: Các loài
quỷ thần thảy, cùng kêu gào ầm ĩ. Các chim ưng,
kên kên… và Cưu Bàn Trà thảy, kinh hoảng chạy quẩn
quanh, chẳng thể tự thoát được).
“Chư quỷ thần
đẳng” (các loài quỷ thần): Gom chung hết thảy
các Lợi Sử và Độn Sử. “Dương thanh đại
khiếu” (Cất
tiếng kêu to): Hoảng sợ, luống cuống. “Điêu
thứu chư điểu” (các loài chim như Ưng, kên
kên): Nêu ra Độn Sử mạnh nhất trong các Độn
Sử. Nói “Cưu Bàn Trà” có nghĩa là đề ra thứ
mạnh mẽ nhất trong các Lợi Sử. Nhưng đều
“châu chương hoàng bố, bất năng tự xuất”
(kinh hoảng chạy quẩn quanh, chẳng thể tự
thoát ra): Do vậy biết là nếu chẳng có Tam Bảo, Tứ
Đế, pháp Tứ Niệm Xứ, dẫu là trời, rồng,
thần thánh, chắc chắn chẳng thoát khỏi luân hồi.
Phần thứ nhất, “trùng tụng chuyện
trên mặt đất nhằm sánh ví Dục Giới” đă
xong.
3.3.1.2.2.2.1.4.2. Trùng tụng chuyện
trong hang hốc nhằm sánh ví Sắc Giới
3.3.1.2.2.2.1.4.2.1. Nêu ra các loài bị
thiêu đốt
(Kinh)
Ác thú độc trùng, tàng thoán khổng huyệt, Tỳ Xá Xà
quỷ, diệc trụ kỳ trung.
(經)惡獸毒蟲。藏竄孔穴。毘舍闍鬼。亦住其中。
(Kinh: Ác thú và
trùng độc, ẩn nấp trong hang lỗ. Loài quỷ Tỳ
Xá Xà, cũng trụ ở trong ấy).
“Khổng huyệt”
(lỗ hang) tuy chẳng thông thoáng bằng ngoài cửa, vẫn có
thể tránh khỏi lửa dữ. Do tránh khỏi lửa dữ,
sánh ví Tứ Thiền tuy chẳng sánh bằng sự an lạc
nơi giới ngoại (ngoài tam giới), vẫn
tránh khỏi sự thô ác trong Dục Giới. “Ác thú, độc
trùng” là nói chung về Độn Sử chúng sanh. “Tỳ
Xá Xà quỷ”: Nêu đại lược Lợi Sử chúng
sanh vẫn có thể đắc Thiền, sanh vào Sắc Giới.
Tỳ Xá Xà (Piśāca, Điên Cuồng
Quỷ) được phương này dịch là Đạm
Tinh Khí (ăn nuốt tinh khí).
3.3.1.2.2.2.1.4.2.2. Nói rơ nguyên do bốc
lửa và thế lửa cháy
(Kinh) Bạc phước
đức cố, vị hỏa sở bức, cộng tương
tàn hại, ẩm huyết đạm nhục.
(經)薄福德故。為火所逼。共相殘害。飲血噉肉。
(Kinh: Do phước
đức mỏng manh, bị lửa nóng bức bách, liền
tàn hại lẫn nhau, uống máu rồi ăn thịt).
Câu “bạc phước
đức cố” (do phước đức mỏng) nói
về nguyên do bốc lửa. Từ “vị hỏa sở
bức” (bị lửa bức bách) trở đi, nói về thế lửa cháy, ư nói: Trong
lỗ hang, tuy chẳng có lửa dữ, vẫn có sự nóng
bức, ví như trong Tứ Thiền, tuy chẳng có ác pháp của
Dục Giới, vẫn có nỗi khổ vi tế do ái vị. Lần lượt chán ghét cơi dưới, ưa thích cơi trên. Do dùng cơi
trên để chế phục cơi dưới, cho nên nói “tàn
hại lẫn nhau”. Chấp vào sự lặng lẽ th́
ví như “uống máu”. Chấp trước công đức
chi ly th́ giống như “ăn thịt”.
3.3.1.2.2.2.1.4.2.3. Tướng bị lửa
thiêu
(Kinh) Dă can chi
thuộc, tịnh dĩ tiền tử, chư đại ác
thú, cạnh lai thực đạm. Xú yên bồng bột, tứ
diện sung tắc.
(經)野干之屬。並已前死。諸大惡獸。競來食噉。臭煙熢孛。四面充塞。
(Kinh: Các loài
như dă can, đều đă bị chết trước, các
loài ác thú lớn, tranh nhau đến ăn nuốt. Khói thối
bốc ngùn ngụt, tràn lấp cả bốn phía).
Dă can ví như ḷng
tham trong Dục Giới, cho nên đă chết trước! Các
ác thú lớn ví như ḷng tham trong Sắc Giới, có thể
nuốt ḷng tham trong Dục Giới. Tứ đảo và bát
khổ trong Dục Giới giống như lửa dữ. Tứ
đảo trong Sắc Giới ví như “xú yên” (khói thối), bao gồm
thân, thọ, tâm, pháp và Tứ Đại. V́ thế nói “tứ
diện sung tắc” (bốn phía đều tràn ngập).
Phần thứ hai, “trùng tụng
chuyện trong hang hốc để sánh ví Sắc Giới” đă xong.
3.3.1.2.2.2.1.4.3. Trùng tụng chuyện
ngoài hang hốc nhằm sánh ví Vô Sắc Giới
3.3.1.2.2.2.1.4.3.1. Nói về các loài bị
thiêu đốt
(Kinh)
Ngô công, du diên, độc trùng chi loại, vị hỏa sở
thiêu, tranh tẩu xuất huyệt, Cưu Bàn Trà quỷ, tùy
thủ nhi thực.
(經)蜈蚣蚰蜒。毒蟲之類。為火所燒。爭走出穴。鳩槃茶鬼。隨取而食。
(Kinh: Con
rết và cuốn
chiếu, các loài trùng độc hại, do bị
lửa nung đốt, tranh nhau chạy khỏi hang, loài quỷ
Cưu Bàn Trà, tùy tiện bắt lấy ăn).
Chán sợ cái lồng
Sắc là chướng ngại thô thiển, vui thích hướng
về Vô Sắc, ngỡ là sự ĺa thoát tịnh diệu. V́
thế nói “vị hỏa sở thiêu, tranh tẩu xuất
huyệt” (bị lửa thiêu, tranh nhau chạy ra khỏi
hang). Đă giữ lấy thượng định, sẽ
diệt các duyên thuộc cơi dưới. V́ thế nói “Cưu
Bàn Trà quỷ, tùy thủ nhi thực” (quỷ Cưu Bàn Trà
tùy ư bắt lấy ăn), nhưng nói chung Lợi Sử và Độn
Sử đều có thể kham đắc Vô Sắc Định.
Nay riêng xét theo sự chán nhàm Độn Sử, chán cơi dưới, cho nên nắm níu cơi trên. Lợi Sử
chứng [cảnh giới thuộc] cơi trên, cho
nên diệt cơi dưới.
3.3.1.2.2.2.1.4.3.2. Nói về tướng
thiêu đốt
(Kinh) Hựu chư
ngạ quỷ, đầu thượng hỏa nhiên, cơ
khát nhiệt năo, châu chướng muộn tẩu.
(經)又諸餓鬼。頭上火然。饑渴熱惱。周慞悶走。
(Kinh: Lại
c̣n các ngạ quỷ, trên đầu lửa bừng cháy, đói
khát, nóng bức khổ.
Mê mẩn chạy quẩn quanh).
Chư thiên thuộc
Tứ Không Thiên hoàn toàn thiếu thức ăn vô lậu, v́
thế [sánh ví] như ngạ quỷ. Tuy ở tột đỉnh
của tam giới, chẳng tránh khỏi vô thường thiêu
đốt. V́ thế như “đầu thượng hỏa
nhiên” (trên đầu bị đốt lửa). Không có thức
ăn chánh đạo, cho nên đói. Chẳng có nước ép
trợ đạo, cho nên khát. Vẫn bị tám khổ vi tế bức bách,
cho nên Nhiệt (nóng bức). Vẫn bị các Hoặc vi tế
hiện hành, cho nên Năo. Vẫn nhiều lượt luân hồi
trong sanh tử, chẳng biết lẽ xuất yếu, cho nên
nói “châu chướng muộn tẩu” (mê muội chạy
quẩn quanh). Phần thứ ba, “trùng tụng chuyện ở
ngoài hang hốc để sánh ví Vô Sắc Giới” đă
xong.
3.3.1.2.2.2.1.4.4. Tổng kết các nạn
chẳng phải chỉ có một thứ
(Kinh) Kỳ trạch
như thị, thậm khả bố úy, độc hại
hỏa tai, chúng nạn phi nhất.
(經)其宅如是。甚可怖畏。毒害火災。眾難非一。
(Kinh:
Nhà ấy như thế đó, hết sức đáng sợ
hăi, hỏa tai lắm độc hại, các nạn chẳng
phải một).
Phần thứ nhất,
trùng tụng Tổng Thí đă xong.
Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh Luân Quán Hội Nghĩa
phần 5
hết
[1] “Chuyển giáo, phó tài” là thuật
ngữ của tông Thiên Thai nhằm miêu tả thời Bát Nhă.
Trong thời này, đức Phật sai ngài Tu Bồ Đề thay
Phật tuyên nói kinh Bát Nhă cho hàng Đại Thừa Bồ Tát.
Đó gọi là “chuyển giáo”. Diệu lư Đại
Thừa vốn chẳng phải là pháp hàng Thanh Văn có thể
biết, nhưng do sức gia bị của Phật, hàng
Thanh Văn có thể diễn nói pháp Bát Nhă. Mục đích là
khiến cho hàng Thanh Văn thâm nhập diệu lư Đại
Thừa, giống như giao phó tài sản gia nghiệp của
Như Lai cho họ, nên gọi là “phó tài”.
[2] Ư nói trong thời Hoa Nghiêm, hàng Thanh Văn tuy dự hội mà chẳng lănh hội, cho
nên tuy hiện diện mà cũng như không hiện diện.
V́ thế nói là “chẳng dự vào tiệc pháp”.
[3] Phạm chí (Brahmacārin) là
danh xưng chung để gọi các tu sĩ Bà La Môn. Phạm
Chí có nghĩa là “người có chí hướng tu hành phạm
hạnh” hoặc “chí hướng cầu sanh lên Phạm
Thiên”.
[4] Mỗi tướng của Như
Lai hàm chứa vô lượng tướng chẳng thể
nghĩ bàn. V́ thế gọi là “tướng hải”.
[5] Ba Tuần (Pāpīyas, Pāpman, Māra-pāpman) c̣n phiên âm là Ba Bệ Duyên, Ba Bệ,
Pha Tuần, Á Tỳ, dịch nghĩa là Sát Giả (kẻ giết
chóc), Ác Vật, Ác Trung Ác, Ác Ái, là tên của ma vương thời
đức Phật Thích Ca tại thế. Ba Tuần chính là
Lục Dục Thiên Chúa (Tự Tại Thiên Vương),
thường quấy nhiễu Phật và các đệ tử.
Ba Tuần là chữ bị viết sai ngoa, v́ theo các bản
kinh cổ, tên của Ma Vương phải viết là Ba Duyện
(Huyện) (波䀏), nhưng bị viết sai thành Ba Tuần (波旬). Sách Huệ Lâm Nhất Thiết
Kinh Âm Nghĩa Chương, quyển mười chép: “Chữ
Mục (目) [trong tên Ma Vương] bị viết
sai thành Nhật (日), nên viết thành chữ
Tuần (旬), nay kiểm
bản tiếng Phạn th́ vốn chẳng có âm Tuần [Do
trong tiếng Hán, chữ 䀏 (Huyện), có ba âm đọc là Duyện, Huyện và Tuần]. Đó là v́ biên chép sai
lạc, truyền tụng sai ngoa đă lâu”.
[6] Đây là năm hạnh phải tu tập
của Bồ Tát theo kinh Đại Bát Niết Bàn:
1) Thánh Hạnh: Thánh có nghĩa là Chánh. Bồ Tát
nương vào Giới, Định, Huệ tu các hạnh.
2) Phạm Hạnh: Phạm nghĩa
là “thanh tịnh”. Bồ Tát chẳng đắm nhiễm nhị
biên th́ gọi là Tịnh. Dùng tịnh tâm để vận dụng
từ bi, ban vui, dẹp khổ cho chúng sanh.
3) Thiên Hạnh: Thiên ở đây là nói đến Đệ Nhất Nghĩa Thiên. Do lư
thiên nhiên (chân tánh, Phật tánh, pháp tánh) mà Bồ Tát thành tựu diệu hạnh.
4) Anh Nhi Hạnh: Anh Nhi (trẻ
thơ) ví như nhân thiên và Tiểu Thừa. Bồ Tát dùng
tâm từ bi, thị hiện giống như nhân, thiên v.v…
hành các điều thiện nhỏ nhoi để tiếp dẫn
họ.
5) Bệnh Hạnh: Bồ Tát do tâm b́nh
đẳng, vận dụng ḷng vô duyên đại bi, thị
hiện có phiền năo giống như chúng sanh, có bệnh khổ
v.v… để ḥa quang đồng trần
ḥng tiếp dẫn chúng sanh.
[7] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Bát
giao đạo là đường lớn thông suốt tám phương,
dùng vàng ṛng làm dây giăng hai bên đường để
làm ranh giới”.
[8] Theo kinh Duy Ma
Cật, khi chư Bồ Tát và chư tỳ-kheo theo chân Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát tới thăm cư sĩ Duy Ma Cật
đang bị bệnh. Sau khi chư Bồ Tát luận thuyết
pháp môn Bất Nhị, cư sĩ Duy Ma Cật thấy sắp
đến giờ chư Tăng thọ trai, bèn sai hóa nhân đến
cơi Chúng Hương ở thượng phương là quốc
độ của Hương Tích Như Lai. Trong cơi ấy, đức
Phật dùng cơm thơm làm Phật sự, tức là Ngài dùng
cái bát thơm, chứa đầy cơm thơm, trao cho đại
chúng. Đại chúng ngửi mùi hoặc ăn vào đều
ngộ Vô Sanh Nhẫn, đều thành Bồ Tát, đều
cùng có hiệu là Hương Tích Bồ Tát. Khi hóa nhân của
ngài Duy Ma Cật đến cơi Chúng Hương xin cơm, chín
trăm vạn ức Hương Tích Bồ Tát đều
xin Hương Tích Phật cho phép họ theo hóa nhân đến
cơi Sa Bà nghe pháp.
[9] Pháp sư Phổ
Hành giảng: “Thành Phật, trọn đủ Nhất Thiết
Chủng Trí, được thế gian tôn kính, ngưỡng
mộ, cho nên gọi là Phổ Trí Tôn”.
[10] Ư nói: Trước hết,
đức Phật quở các vị Thanh Văn chẳng chú
ư đức Phật đă nói rơ trước đó: Phật
dùng các nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để phương
tiện thuyết pháp ư? Thế mà vẫn c̣n thắc mắc
v́ sao trước kia Phật nói tam thừa, nay lại chỉ
nói Nhất Thừa, c̣n nghi hoặc, chẳng tin ư? Sau
đó, đức Phật từ bi hứa dùng thí dụ
để họ sẽ từ từ thấu hiểu.
[11] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Chỗ
có lănh thổ, nhân dân, và người cầm quyền th́ gọi
là Quốc. Một khu vực hành chánh như một huyện
th́ gọi là Ấp. Làng xóm th́ gọi là Tụ Lạc. Những
điều này nhằm sánh ví chỗ giáo hóa của bậc hóa
chủ (vị chủ tŕ sự giáo hóa, chẳng hạn như
Phật). Cổ đức cho rằng theo thứ tự [quốc,
ấp, tụ lạc] nhằm sánh ví đại thiên, trung
thiên, tiểu thiên thế giới, và cũng là theo thứ tự
sánh ví ba cơi Thật Báo, Hữu Dư, và Đồng Cư”.
[12] A Hành (阿衡) vốn
là một chức quan đời Ân Thương,
tương đương với Thái Sư hay Thái Bảo,
nắm quyền Tể Tướng. Do vậy, về sau A
Hành là một danh xưng để gọi Tể Tướng
hay Thừa Tướng, hoặc Thủ Phụ (người
đứng đầu các vị đại học sĩ
dưới thời nhà Minh), tức là người đứng
đầu guồng máy hành pháp của triều đ́nh.
[13] Hàm ư tâm trí có nhiều mưu mẹo
quyền biến, sách lược hay khéo.
[14] Bạch khuê là một loại ngọc
trắng, thường dùng làm vật dụng để tế
lễ vào thời cổ, thường được dùng
để sánh ví thân thanh khiết, không lỗi lầm.
[15] Thập
Bát Không (Astādaśa śūnyatāh) là mười tám món
Không nhằm phá các thứ tà thuyết chấp trước:
1)
Nội Không (Adhyātma-śūnyatā): Trong sáu nội xứ của các căn, chẳng có ngă,
ngă sở và cũng chẳng có các pháp như nhăn, nhĩ v.v…
2)
Ngoại Không (Bahirdhā-śūnyatā): Sáu ngoại xứ
trong các pháp sắc, thanh v.v… chẳng có ngă, ngă sở và các pháp
như sắc, thanh v.v…
3)
Nội Ngoại Không (Adhyātma-bahirdhā-śūnyatā):
Trong mười hai xứ thuộc về sáu căn và sáu cảnh
(lục trần), chẳng có ngă, ngă sở, và các pháp ấy.
4)
Không Không (Śūnyatā-śūnyatā) chẳng chấp
vào ba thứ Không trên đây.
5)
Đại Không (Mahā-śūnyatā) tức mười
phương thế giới, vốn chẳng có tướng
phương hướng nhất định, chẳng có tướng
đây kia.
6)
Đệ Nhất Nghĩa Không (Paramārtha-śūnyatā),
c̣n gọi là Thắng Nghĩa Không, Chân Thật Không, ĺa ngoài
hết thảy các pháp, chẳng có Thật Tướng Đệ
Nhất Nghĩa để có thể đạt được,
chẳng chấp trước Thật Tướng.
7)
Hữu Vi Không (Sajskrta-śūnyatā): Pháp tạo thành do nhân
duyên tụ hợp và pháp nhân duyên cũng như pháp tướng
đều chẳng thể được!
8)
Vô Vi Không (Asajskrta-śūnyatā): Ĺa khỏi sự chấp
giữ nhất định đối với Niết Bàn.
9)
Tất Cánh Không (Atyanta-śūnyatā), c̣n gọi là Chí Cánh
Không, tức là đối với Hữu Vi Không và Vô Vi Không đều
phá hết thảy các pháp, rốt ráo chẳng c̣n thừa sót.
10)
Vô Thỉ Không (Anavarāgra-śūnyatā), c̣n gọi là Vô
Hạn Không, Vô Tiền Hậu Không, hoặc Vô Tế Không, tức
hết thảy các pháp tuy sanh khởi từ vô thỉ, nhưng
cũng xả ĺa sự chấp tướng đối với
pháp ấy.
11)
Tán Không (Anavakāra-śūnyatā) c̣n gọi là Bất Xả
Không, Bất Xả Ly Không, tức các pháp chỉ do giả ḥa
hợp mà có, rốt ráo xa ĺa tướng tán diệt, vô sở
hữu.
12)
Tánh Không (Prakrti-śūnyatā), c̣n gọi là Bổn Tánh Không,
Phật Tánh Không, tức là tự tánh của các pháp là Không.
13)
Tự Tướng Không (Svalaksana-śūnyatā), c̣n gọi
là Tự Cộng Tướng Không, Tướng Không, tức
các tướng tổng, biệt, đồng, dị của
các pháp đều chẳng thể được!
14)
Chư Pháp Không (Sarva-dharma-śūnyatā), c̣n gọi là Nhất
Thiết Pháp Không, tức Uẩn, Xứ, Giới v.v…, hết
thảy các pháp tự tướng bất định, ĺa chấp
tướng.
15)
Bất Khả Đắc Không (Anupalambha-śūnyatā), c̣n
gọi là Vô Sở Hữu Không, tức là trong các pháp nhân
duyên, cầu Ngă và Pháp đều bất khả đắc.
16)
Vô Pháp Không (Abhāva-śūnyatā), c̣n gọi là Vô Tánh Không,
tức là các pháp nếu đă hoại diệt, chẳng có tự
tánh để có thể đạt được, pháp vị
lai cũng giống như thế.
17)
Hữu Pháp Không (Svabhāva-śūnyatā) c̣n gọi là Tự
Tánh Không, Phi Hữu Tánh Không, các pháp chỉ do nhân duyên mà có. V́
thế, sự tồn tại trong hiện tại chẳng phải
là thật sự tồn tại.
18)
Vô Pháp Hữu Pháp Không (Abhāva-svabhāva-śūnyatā),
c̣n gọi là Vô Tánh Tự Tánh Không, tức là hết thảy
các pháp sanh diệt và pháp vô vi, hết thảy pháp đều
bất khả đắc.
[16] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nhà
có một tầng gọi là Đường, từ hai tầng
trở lên th́ gọi là Các”.
[17] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Tường
bao vây phía ngoài nhà th́ gọi là Tường, cái để
ngăn chia thành từng gian trong nhà th́ gọi là Bích”.
[18] Lương là kèo nhà, c̣n gọi là xà
nhà, tức là những thanh gỗ dài để chịu lực
nâng đỡ mái nhà, thường đặt trực tiếp
trên các đầu cột, có tác dụng nối các cột với
nhau để tạo thành bộ khung chịu lực cho toàn
thể mái nhà. Đống chính là kèo chính, tức đ̣n dông.
[19] Tứ Đảo
là bốn thứ vọng kiến điên đảo, gồm
hai loại:
1 Đối với sanh diệt
là vô thường, vô lạc, vô ngă, bất tịnh, lại
chấp trước là thường, lạc, ngă, tịnh.
Đó là Tứ Đảo của phàm phu
2 Đối với Niết
Bàn là thường, lạc, ngă, tịnh, lại chấp
trước là vô thường, vô lạc, vô ngă, bất tịnh.
Đó là Tứ Đảo của hàng Nhị Thừa.
[20] Tứ Kiến là bốn thứ kiến
giải chấp trước, tức nhất, dị,
thường, phi thường (một, khác, thường,
chẳng thường). Trí Độ Luận quyển bảy
giảng: “Lại có bốn thứ kiến: Thế gian là
thường, thế gian là vô thường, thế gian vừa
thường vừa vô thường, thế gian chẳng
thường mà cũng chẳng vô thường. Hoặc thế
gian là hữu biên hay vô biên, cũng giống như thế”.
Hoa Nghiêm Kinh Sớ quyển ba giảng: “Kiến giải
của ngoại đạo chẳng ngoài tứ kiến: 1)
Chấp vào một, như các vị Số Luận chấp
trong nhân phải có quả, do nhân và quả chẳng khác nhau
mà chấp vào một. 2) Chấp là khác. Thắng Luận sư do chấp
trong nhân không có quả, do nhân và quả khác nhau bèn chấp
vào khác. 3) Chấp chẳng một chẳng
khác. Lặc Sa Bà luận sư chấp trong nhân có quả, và
cũng có nhân mà không có quả. Do chấp vào hữu lẫn vô, nên nói “cũng một,
cũng khác”. 4) Chấp chẳng một chẳng khác, như
Ni Kiền Tử chấp nhân quả đều chẳng phải
một, chẳng phải khác”.
[21] Sau khi đức
Phật thành đạo, đă dùng hai mươi mốt ngày
để quán tưởng nên hóa độ chúng sanh như
thế nào.
[22] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây
là sánh ví phương tiện trong tam thừa, là pháp bảo
để xuất thế, cho nên quư báu, lạ lùng”.
[23] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây
là sánh ví: Đối với quả vị tam thừa, nếu
chẳng thừa dịp gặp Phật mà hăng hái tu tập
ḥng chứng đạo quả, sau này ắt sẽ buồn
rầu, ân hận”.
[24] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Xe
dê chậm chạp, ví như quả Thanh Văn. Xe nai chạy
nhanh hơn, ví như quả Duyên Giác. Xe trâu chở nặng,
ví như quả Bồ Tát. ‘Ở ngoài cửa’: Sánh ví vượt
ra ngoài tam giới”.
[25] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đây
là sánh ví có thể vận dụng tam thừa [để
thoát khỏi tam giới]. Hỏi: Tam thừa có tác dụng
chuyên chở hành nhân thoát ĺa sanh tử. Nay đă ở ngoài cửa
sanh tử, c̣n dùng Thừa để làm ǵ? Đáp: Tam thừa
đều là phương tiện giả lập, hoàn toàn chẳng
phải là có thật. Nhưng đi trên con đường
sanh tử, nếu đă thật sự vượt ra ngoài cửa
sanh tử, lại thả chiếc bè Từ qua lại sanh tử,
rong ruổi trong Ngũ Ấm, vẫn phải dùng đến
tam thừa để hóa độ. Do vận dụng tự
tại nên nói là du hư”.
[26] Hai loại người sai sử
chính là hai loại người được ông trưởng
giả sai khiến trong phẩm Tín Giải:
1. Khi đứa con nghèo mon men đến
chỗ cha tính xin làm mướn, thấy cha giàu sang, oai thế,
sợ hăi lánh đi. Cha trông thấy, sai người hầu bắt lại. Con sợ bị phạt
tội, ngất xỉu. Cha liền bảo họ thả
cho đứa con đi.
2. Sau đó sai kẻ hầu h́nh sắc
tiều tụy, không có oai đức đến rủ con tới
làm công cho cha.
[27] “Ngưng dứt”
ở đây là diệt độ. Do có Thiên Chân Niết Bàn và
Vô Dư tịch tĩnh Niết Bàn rốt ráo nên nói là “thành
có hai”.
[28] Pháp Tướng Duy Thức Tông
đối với Thế Tục Đế lập ra bốn
tầng nghĩa (Thế Gian Thế Tục Đế, Đạo
Lư Thế Tục Đế, Chứng Đắc Thế Tục
Đế, Thắng Nghĩa Thế Tục Đế) và
đối với Thắng Nghĩa Đế lại lập
ra bốn tầng nghĩa nữa (Thế Gian Thắng Nghĩa
Đế, Đạo Lư Thắng Nghĩa Đế, Chứng
Đắc Thắng Nghĩa Đế, và Thắng Nghĩa
Thắng Nghĩa Đế), gọi gộp chung là Bát Đế.
Do nội dung của mỗi tầng quá rườm rà nên
không ghi vào đây! Trong mỗi Đế ấy, lại có
Tứ Thánh Đế, gọi gộp chung là ba mươi
hai hạnh.
[29] “Linh” là từ
ngữ gọi chung các loại chuông có quả lắc để
tạo ra tiếng, trong khi chuông bát (chuông gia tŕ) th́ gọi là
đại khánh, chuông treo dùng dùi để gơ th́ gọi là
Chung. Linh có nhiều thứ, thường là đúc bằng đồng,
chia ra làm hai loại:
- Loại có h́nh chuông, bên
trong có treo quả lắc thường dùng tay để lắc
vang ra tiếng (thường gọi là thủ linh hay dao linh).
Kim Cang Linh (Drilba) của Mật Tông thuộc loại này. Loại
linh này c̣n có thể treo quanh các tháp, các kiến trúc thờ tự,
gió động sẽ vang ra tiếng. Loại linh này khác
phong linh (do phong linh chế bằng nhiều chất liệu
và có h́nh dáng khác nhau, nhưng phong linh thường là có các thanh
kim loại va vào nhau, hoặc các ống kim loại, thủy
tinh, sành sứ, gỗ, đá v.v… để phát ra tiếng
khi gió lùa qua).
- Loại có h́nh cầu, bên
trong có một hạt cứng bằng kim loại. Loại linh
này thường dùng để treo vào cổ các thú cưng
(chó, mèo), hay dùng cho nhạc ngựa, nhạc lừa, hoặc
đeo vào cổ chân cổ tay để nhảy múa, hay dùng
như một món trang sức…
[30] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Dùng
các chất báu kết thành dây, giăng xen để giữ
cho màn, lọng khỏi bị thổi bay”.
[31] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Đẹp
đẽ, mềm mại th́ gọi là Uyển. Nệm
để lót ngồi gọi là Diên. Trùng phu uyển diên là
trong xe lót nhiều đệm dày êm ái”.
[32] Theo pháp sư Phổ Hành, “đan”
ở đây phải hiểu là đan dược, tức
các loại dược phẩm được lót vào trong gối
dựa, có tác dụng an thần, thư thái. Ở đây,
chúng tôi dịch là “gối đỏ” dựa theo lời giảng
của tổ Ngẫu Ích.
[33] Pháp sư Phổ Hành: “Màn căng
phủ trên xe gọi là Hiển, thứ che trên đỉnh
xe được gọi là Cái”.
[34] Đây là nói đối ứng với
Tứ Chánh Cần: Hai điều thiện thế gian chính
là điều thiện đă nẩy sanh và điều thiện
sẽ sanh. Hai điều ác thế gian cũng giống
như thế: Điều ác đă làm và điều ác sắp
làm.
[35] Theo Bách Pháp
Minh Môn Luận, Thiện tâm sở bao gồm mười một
pháp: Tín, Tinh Tấn (Cần), Tàm, Quư, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, Khinh
An, Chẳng Phóng dật, Hành Xả, và Bất Hại.
[36] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nền
móng nhà là Cơ, các bậc thềm, tam cấp là Bệ”.
[37] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Nê
là chất dùng để trát vách, xây vách. Chữ ‘阤’ phải đọc
là Trĩ, có nghĩa là rơi rụng, hư nát”.
[38] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Phú
thiêm: Dùng cỏ tranh để bện thành tấm lợp
nhà. Các tấm tranh ấy được gọi là Phú Thiêm”.
[39] Pháp sư Phổ Hành giảng: “Các
xà ngang có h́nh góc tṛn nối kết với nhau bằng mộng
th́ gọi là Chuyên Lữ”.
[40] Chúng tôi dịch đoạn này theo
cách diễn giải của pháp sư Phổ Hành.
[41] Bách túc (Centipedes) tức là loài trùng
thân h́nh nhỏ dài, có nhiều đốt, mỗi đốt
có một cặp chân, ta thường gọi chung là Rết,
tuy chúng có nhiều chủng loại khác nhau. Kích cỡ của
chúng dao động từ vài millimeter đến cả 30 cm. Loài bách túc
thường có nọc độc. Cũng giống như
Bách Túc, c̣n có một số loài trùng thường gọi là Thiên Túc (Millipedes) mà chủng loại
đặc trưng là cuốn chiếu. Thiên Túc khác với
Bách Túc ở chỗ các cặp chân ở phía dưới,
trong khi Bách Túc chân ở hai bên ḿnh. Bách Túc di chuyển nhanh,
ăn thịt các côn trùng khác, có độc, c̣n Thiên Túc chậm
chạp, ăn vụn chất hữu cơ và lá mục, phần
nhiều có thể cuộn tṛn lại khi gặp nguy hiểm.
[42] Độc đầu vô minh, c̣n gọi
là Bất Cộng Vô Minh, tức là trong một loại của
sáu thứ phiền hoặc lớn (tham, sân, si, mạn, nghi,
ác kiến), đột ngột dấy lên vô minh, chẳng
cùng hiện hành với năm loại kia, nên gọi là Độc
Đầu Vô Minh. Hễ có liên quan đến năm loại
khác th́ gọi là Tương Ứng Vô Minh.
[43] Cam Khẩu Thử (甘口鼠) theo truyền thuyết là một loài
chuột rất lớn, có chất độc, có thể
ăn cả người và các loài thú to như nai. Ai gặp
phải nó, sẽ bị nó phun hơi độc khiến tứ
chi bủn rủn, ngứa ngáy. Nhưng hiện thời, Hề
Thử chỉ có nghĩa là loài chuột nhà như chuột
cống, chuột chù…