Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh
Giảng
Kư, phần 11
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng
Tham lăo ḥa thượng chủ giảng
夢參老和尚主講
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
(Kinh) Phục thứ, thiện
nam tử! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi,
chân thiện Bà-la-môn, chân thiện tể quan, chân thiện
cư sĩ, chân thiện trưởng giả, chân thiện
sa-môn, chân thiện Phiệt-xá, chân thiện Thú-đạt-la,
nhược nam, nhược nữ, thành tựu thập chủng
Hữu Y Hạnh Luân. Ư hiện thân trung, tốc năng
chủng thực Thanh Văn Thừa chủng, linh bất thoái
thất, hoặc ư hiện thân thành Thanh Văn Thừa
chư thánh pháp khí, phi Độc Giác Thừa, Đại Thừa
thánh khí. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, cụ túc
tịnh tín, tín hữu nhất thiết thiện ác nghiệp
quả. Nhị giả, cụ túc tàm quư, viễn ly nhất
thiết ác hữu, ác kiến. Tam giả, an trụ luật
nghi, viễn ly sát sanh, năi chí ẩm tửu. Tứ giả, an
trụ từ tâm, viễn ly nhất thiết sân khuể, phẫn
năo. Ngũ giả, an trụ bi tâm, cứu bạt nhất
thiết luy nhược hữu t́nh. Lục giả, an trụ
hỷ tâm, viễn ly nhất thiết ngữ tứ ác nghiệp.
Thất giả, an trụ xả tâm, viễn ly nhất thiết
xan tham, tật đố. Bát giả, cụ chánh quy y, viễn
ly nhất thiết vọng chấp cát, hung, chung bất quy
y tà thần, ngoại đạo. Cửu giả, cụ túc tinh
tấn, kiên cố, dũng mănh tu chư thiện pháp. Thập
giả, thường nhạo tịch tĩnh, tư cầu
pháp nghĩa, hoan duyệt vô quyện.
(經)復次,善男子,若有真善剎帝利、真善婆羅門、真善宰官、真善居士、真善長者、真善沙門、真善筏舍、真善戍達羅,若男若女,成就十種有依行輪,於現身中,速能種植聲聞乘種,令不退失;或於現身,成聲聞乘諸聖法器,非獨覺乘、大乘聖器。何等為十?一者、具足淨信,信有一切善惡業果;二者、具足慚愧,遠離一切惡友惡見;三者、安住律儀,遠離殺生乃至飲酒;四者、安住慈心,遠離一切瞋恚忿惱;五者、安住悲心,救拔一切羸弱有情;六者、安住喜心,離遠一切語四惡業;七者、安住舍心,遠離一切慳貪嫉妒;八者、具正歸依,遠離一切妄執吉凶,終不歸依邪神外道;九者、具足精進,堅固勇猛修諸善法;十者、常樂寂靜,思求法義,歡悅無倦。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Nếu
có chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện Bà-la-môn, chân
thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện
trưởng giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Phiệt-xá,
chân thiện Thú-đạt-la, dù nam hay nữ, thành tựu mười
thứ Hữu Y Hạnh Luân, th́ trong thân hiện tại sẽ
có thể nhanh chóng gieo trồng chủng tử Thanh Văn Thừa
chẳng thoái thất, hoặc là trong thân hiện tại, sẽ
thành pháp khí của các địa vị thánh nhân trong Thanh Văn
Thừa, chẳng phải là pháp khí của Độc Giác Thừa
và Đại Thừa. Những ǵ là mười? Một là
trọn đủ tịnh tín, tin có hết thảy nghiệp
quả thiện và ác. Hai là trọn đủ hổ thẹn,
xa ĺa hết thảy bạn ác và ác kiến. Ba là an trụ
luật nghi, xa ĺa sát sanh, cho đến uống rượu.
Bốn là an trụ từ tâm, xa ĺa hết thảy sân khuể,
phẫn năo. Năm là an trụ bi tâm, cứu bạt hết
thảy hữu t́nh suy yếu. Sáu là an trụ hỷ tâm, xa ĺa
hết thảy bốn ác nghiệp nơi lời ăn tiếng
nói. Bảy là an trụ xả tâm, xa ĺa hết thảy keo, tham,
ghen ghét. Tám là có sự quy y chân chánh, xa ĺa hết thảy chấp
trước cát hung hư vọng, trọn
chẳng quy y tà thần, ngoại đạo. Chín là trọn
đủ tinh tấn, kiên cố, dũng mănh tu các thiện
pháp. Mười là thường ưa tịch tĩnh, suy
nghĩ, t́m cầu pháp nghĩa, vui thích không mệt).
Vô Y Hạnh Luân có mười món, Hữu Y Hạnh
Luân cũng có mười món. Trong đời hiện tại, có thể
nhanh chóng gieo trồng chủng tánh Thanh Văn Thừa, khiến
cho chủng tử ấy chẳng bị
thoái thất, hoặc là trong đời hiện tại
bèn thành tựu pháp khí của các địa vị thánh nhân
trong Thanh Văn Thừa. Các địa vị thánh nhân chính là
Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, và Tứ Quả,
[nhưng người ấy] chẳng phải là pháp khí cho các
địa vị thánh nhân trong Độc Giác và Đại
Thừa, mà cũng chẳng phải là pháp khí của Độc
Giác Thừa!
“Hà đẳng vi thập? Nhất giả,
cụ túc tịnh tín” (Những ǵ là mười? Một
là trọn đủ ḷng tin thanh tịnh), tức là tin thiện
ác nhân quả. “Nhị giả, cụ túc tàm quư” (hai là
trọn đủ hổ thẹn): Thường cảm thấy
chính ḿnh chưa đủ, [tức là] tu hành chẳng trọn
đủ, nghe pháp cũng chẳng đủ, trí huệ cũng
chẳng có. Đối với ác hữu, ác kiến, quư vị
nhất định phải xa ĺa. “Tam giả, an trụ
luật nghi” (ba là an trụ trong luật nghi): “An trụ
luật nghi” là xa ĺa sát sanh, cho đến uống rượu.
Tối thiểu là an trụ trong Tam Quy, Ngũ Giới.
“Tứ giả, an trụ từ tâm” (Bốn
là an trụ trong từ tâm): Phải có tâm đại bi. “Từ”
là mong dẹp trừ hết thảy đau khổ của chúng
sanh. Thấy họ khổ chính là ta khổ, cũng là một
loại tâm “thay thế”, tức mong thay họ chịu
khổ. Trong nguyện hồi hướng thuộc mười
đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, [Bồ
Tát đă] nguyện v́ chúng sanh chịu hết thảy các khổ nạn,
khiến cho họ được giải thoát. Đấy
là tâm đại bi của Bồ Tát, xa ĺa hết thảy sân
khuể, phẫn hận, năo hại. Tiểu Thừa chỉ
cần chính ḿnh chẳng sân khuể, chẳng phẫn năo, chẳng
năo hại chúng sanh. Từ tâm như
thế là được rồi! Nhưng nay mười thiện
luân này là Hữu Y Sở (有依所, có chỗ
nương cậy để sanh khởi thiện căn, phước
đức), được gọi là Hữu Y Luân (有依輪). Hữu
Y Luân dựa trên Thập Luân, cả ba thừa đều có,
tùy thuộc quư vị dùng cái tâm ǵ. Tâm Đại Thừa sẽ
tín ngưỡng Đại Thừa, ḷng từ bi rộng lớn.
Ḷng từ bi của Nhị Thừa chẳng rộng lớn
bằng.
“Ngũ giả, an trụ bi tâm” (năm
là an trụ trong bi tâm): Cứu vớt chúng sanh suy yếu. “Lục
giả, an trụ hỷ tâm” (sáu là an trụ trong hỷ tâm):
Xa ĺa hết thảy bốn ác nghiệp nơi lời ăn,
tiếng nói. Lúc nói năng, chớ nên nói dối, chớ nên
dối gạt người khác, chớ nên ăn nói thô ác tổn
thương người khác. Cổ nhân nói: “Lương
ngôn nhất cú thâm Đông noăn” (một lời tốt lành
khiến người nghe dẫu trời Đông giá lạnh
vẫn cảm thấy ấm áp): Nghe một lời tốt
lành, trong ḷng rất khoan khoái, rất an ủi, rất ấm
áp. “Ác ngữ thương nhân lục nguyệt hàn” (lời
ác tổn thương người nghe, khiến
họ rét buốt dù đang là tháng Sáu): Tháng Sáu nóng như vậy,
một câu nói của quư vị tổn thương người
ta như xối một thùng nước đá lên đầu
người ta, lạnh run, sẽ tổn thương người
ta, có ư nghĩa ấy! Đấy là chuyên nói về ngữ
nghiệp trong thập ác nghiệp. Chớ nên nói thêu dệt,
nói lời vô ích đối với người khác. Những
chuyện như tà ngữ, hoặc biểu diễn Tướng
Thanh[1] đă tạo nghiệp
rất nhiều.
“Thất giả, an trụ xả tâm” (bảy
là an trụ trong tâm xả): Thường có cái tâm xả ly. Cái tâm xả ly ấy chính là tâm xả
ly thế gian. Nếu Đại Thừa th́ xả
ly Nhị Thừa, c̣n [“xả
ly” như chánh kinh đă nói th́ là] xa ĺa hết
thảy keo kiệt, tham lam, ghen tỵ. Những
điều này đều nói theo Nhị Thừa. “Bát giả,
cụ chánh quy y” (Tám là quy y chân chánh):
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng là “chánh quy
y”. Xa ĺa hết
thảy chấp trước cát hung xằng bậy, trọn
chẳng quy y tà thần, ngoại đạo.
“Cửu giả, cụ túc tinh tấn, kiên
cố, dũng mănh, tu chư thiện pháp” (chín là trọn
đủ tinh tấn, kiên cố, dũng mănh, tu các pháp lành):
Đối với Thập Thiện Nghiệp, chúng tôi nói một
điều là chẳng ác ngữ. Quư vị vĩnh viễn
chẳng nói ác ngữ, tức là nói lời tán dương,
giữ vững một hạnh là được. Không chỉ là trong một đời,
mà là vô lượng đời, đều giữ vững một
hạnh.
“Thập giả, thường nhạo tịch
tĩnh, tư cầu pháp nghĩa” (Mười là thường
ưa tịch tĩnh, suy nghĩ, t́m cầu pháp nghĩa): Thường
ưa thích tịch tĩnh; ở đây chính là cái tâm tịch
tĩnh, chẳng phải là cầu hoàn cảnh tịch tĩnh.
[Chỉ t́m cầu] hoàn cảnh tịch tĩnh th́ vẫn chưa
được? Mong ở trong núi để được
tịch tĩnh ư? Trên núi vẫn chẳng tịch tĩnh!
Một người tu đạo ở trong lều cỏ trên
núi rừng, khi đang nhập Định, trong tâm rất tĩnh.
Chim nhỏ ở bên ngoài kêu chao chác, ríu rít, người
đó sanh khởi ác niệm: “Ta mai sau sẽ biến thành loại
chim ưng trọc đầu chuyên ăn thịt những
con chim ấy”. Công đức của người ấy chuyển
hướng toàn bộ. Một niệm sân tâm dấy, ác niệm
nổi lên, trăm vạn cửa chướng mở, người
đó liền đọa lạc, biến thành con chim ưng
đầu trọc (bald eagle), chuyên ăn thịt chim nhỏ.
Ở trong núi rừng có tạo tội hay không? Ư niệm hết
sức trọng yếu!
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu
chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện
Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược nữ,
thành thử thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, ư hiện
thân trung, tốc năng chủng thực Thanh Văn Thừa
chủng, linh bất thoái thất.
(經)善男子,若有真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,成此十種有依行輪,於現身中,速能種植聲聞乘種,令不退失。
(Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có
chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến
chân thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ, thành tựu
mười loại Hữu Y Hạnh Luân này, nơi thân hiện
đời, có thể nhanh chóng gieo trồng chủng tử Thanh
Văn Thừa, khiến cho chẳng thoái thất).
Chủng tánh Thanh Văn Thừa ấy chẳng bị
thoái thất, cũng có thể chứng đắc tất cả
thánh pháp của Thanh Văn Thừa trong đời hiện
tại. Mười loại Hữu Y Luân này được nói theo Thanh
Văn Thừa. Vừa rồi [trong chánh kinh] có mấy câu nói
trực tiếp về pháp khí thuộc các thánh vị (địa vị thánh nhân) trong Thanh
Văn Thừa, chẳng phải là Độc Giác Thừa,
chẳng phải là chứng pháp Đại Thừa, [bởi
lẽ, do mười Hữu Y Luân trên đây sẽ] chẳng thể
chứng đắc [pháp Đại Thừa được],
mà [hành
nhân] cũng chẳng trở thành pháp khí của Độc
Giác và Đại Thừa.
(Kinh) Hoặc ư hiện thân, chứng
Thanh Văn Thừa sở hữu thánh pháp, thành Thanh Văn
Thừa chư thánh pháp khí, phi chứng Độc Giác, Đại
Thừa thánh pháp, phi thành Độc Giác, Đại Thừa
thánh khí. Ưng tri thử
trung Độc Giác, Đại Thừa, giai như thị
thuyết. Thiện nam tử! Như thị thập chủng
Hữu Y Hạnh Luân, nhất thiết Thanh Văn, Độc
Giác, Bồ Tát, chư Phật Như Lai, giai đồng cộng
hữu.
(經)或於現身,證聲聞乘所有聖法,成聲聞乘諸聖法器;非證獨覺大乘聖法,非成獨覺大乘聖器,應知此中獨覺大乘,皆如是說。善男子,如是十種有依行輪,一切聲聞、獨覺、菩薩、諸佛如來,皆同共有。
(Kinh: Hoặc là trong thân hiện tại
chứng tất cả thánh pháp thuộc Thanh Văn Thừa,
trở thành pháp khí của các địa vị thánh nhân thuộc
Thanh Văn Thừa, chẳng chứng các thánh pháp thuộc Độc
Giác hay Đại Thừa, chẳng phải là pháp khí cho các địa
vị thánh nhân thuộc Độc Giác hay Đại Thừa.
Hăy nên biết đối với Độc Giác và Đại
Thừa ở trong ấy, đều nói như thế. Này
thiện nam tử! Mười loại Hữu Y Hạnh
Luân như thế, hết thảy Thanh Văn, Độc
Giác, Bồ Tát, và chư Phật Như Lai đều cùng có).
Ư nghĩa của đoạn kinh văn này hoàn
toàn chẳng phải là nói đối ứng với Thanh
Văn Thừa.
(Kinh) Thiện nam tử! Phục hữu
thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, bất cộng Thanh
Văn, duy dữ Độc Giác, Bồ Tát, Như Lai, giai
đồng cộng hữu. Nhược hữu chân thiện
Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la
đẳng, nhược nam, nhược nữ, thành thử
thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, ư hiện thân
trung, tốc năng chủng thực Độc Giác Thừa
chủng, linh bất thoái thất. Hoặc ư hiện thân, chứng
Độc Giác Thừa sở hữu thánh pháp, thành Độc
Giác Thừa chư thánh pháp khí. Hà đẳng vi thập? Nhất
giả, tu hành thanh tịnh thân, ngữ, ư nghiệp. Nhị
giả, cụ túc tàm quư, yếm hoạn tự thân. Tam giả,
ư Ngũ Thủ Uẩn, thâm sanh bố úy. Tứ giả,
kiến sanh tử hà, cực vi nan độ. Ngũ giả,
thường nhạo tịch tĩnh, ly chư
hội náo. Lục giả, nhạo A Luyện Nhă, bất cơ
tha thất. Thất giả, thủ hộ chư căn, tâm
thường tịch định. Bát giả, thiện quán
duyên khởi, thẩm sát nhân quả. Cửu giả, thường
nhạo cần tu Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự. Thập giả,
ư tập khởi pháp, năng thiện trừ diệt.
(經)善男子,復有十種有依行輪,不共聲聞,唯與獨覺、菩薩、如來皆同共有。若有真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,成此十種有依行輪,於現身中,速能種植獨覺乘種,令不退失;或於現身,證獨覺乘所有聖法,成獨覺乘諸聖法器。何等為十?一者、修行清淨身語意業;二者、具足慚愧,厭患自身;三者、於五取蘊深生怖畏;四者、見生死河極為難渡;五者、常樂寂靜,離諸憒鬧;六者、樂阿練若,不譏他失;七者、守護諸根,心常寂定;八者、善觀緣起,審察因果;九者、常樂勤修等持靜慮;十者、於集起法能善除滅。
(Kinh: Này thiện nam tử! Lại có
mười thứ Hữu Y Hạnh Luân chẳng chung với
Thanh Văn, chỉ có Độc Giác, Bồ Tát, Như Lai là
đều cùng chung có. Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi
vương, cho đến chân thiện Thú-đạt-la v.v…
dù nam hay nữ, thành tựu mười loại Hữu Y Hạnh
Luân này, sẽ ngay trong thân hiện thời có thể mau chóng
gieo trồng chủng tử Độc Giác Thừa khiến
cho chẳng thoái thất. Hoặc là ngay trong thân hiện tại, chứng tất
cả thánh pháp thuộc Độc Giác Thừa, trở thành
các pháp khí thuộc thánh vị của Độc Giác Thừa.
Những ǵ là mười? Một là tu hành thân, ngữ, ư nghiệp
thanh tịnh. Hai là trọn đủ hổ thẹn, chán nhàm
thân ḿnh. Ba là sanh ḷng sợ hăi sâu xa đối với Ngũ
Thủ Uẩn. Bốn là thấy sông sanh tử tột bậc
khó vượt. Năm là thường thích tịch tĩnh, ĺa
các ồn náo. Sáu là thích A Luyện Nhă, chẳng chê bai lỗi
lầm của người khác. Bảy là thủ hộ các căn,
tâm thường tịch định. Tám là khéo quán duyên khởi,
xét kỹ nhân quả. Chín là thường thích siêng tu Đẳng
Tŕ, Tĩnh Lự. Mười là đối với các pháp
nhóm họp, dấy lên, có thể khéo trừ diệt).
Phần trước
nói về mười loại Hữu Y Hạnh của Thanh
Văn Thừa; tiếp đó, [trong phần
này] nói về Độc Giác Thừa. Hữu Y Hạnh Luân trong
phần này chuyên nói về Độc Giác Thừa và Bồ
Tát, thiên trọng Duyên Giác và Bồ Tát, khác với A La Hán. Mười
thứ luân trong phần trước (các luân được
nói trong phẩm thứ hai), Đại Thừa Bồ Tát và Độc
Giác Thừa đều trọn đủ. Lại c̣n có mười
loại Hữu Y Hạnh Luân mà Độc Giác Thừa, Bồ
Tát, và Như Lai đều cùng trọn đủ. Nếu có
quốc vương là bậc thiện thuận, cũng cầu
pháp giải thoát, cho đến chủng tánh thấp nhất
(Thú-đà-la) trong bốn loại chủng tánh, dù là nam hay nữ,
nếu có thể thành tựu mười loại luân này, th́ trong cuộc
sống hiện thời, người ấy có thể gieo
trồng chủng tánh Độc Giác Thừa khiến cho chẳng
thoái thất, mà cũng nương vào Duyên Giác Thừa để
nhập pháp, ngộ đạo. Đấy là Trung Thừa.
Thanh Văn Thừa là Tiểu Thừa, Bồ
Tát là Đại Thừa; hoặc là trong đời hiện
tại, người ấy có thể chứng đắc,
hoặc chẳng chứng đắc trong đời hiện
tại, nhưng vị lai cũng sẽ chứng đắc.
Gieo chủng tử sẽ thành pháp khí thánh nhân trong Độc
Giác Thừa, [pháp khí] cũng tức là dụng cụ chứa
đựng pháp. “Hà đẳng vi thập?” (Những ǵ
là mười): Mười loại luân nào vậy? “Nhất
giả, tu hành thanh tịnh thân, ngữ, ư nghiệp” (một
là tu hành thân, ngữ, ư nghiệp thanh tịnh): Thân nghiệp
là chẳng có hành vi giết, trộm, dâm. Ngữ nghiệp là
chẳng có hành vi “nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều,
nói thô ác”. Ư niệm chẳng dấy lên tham, sân, si. Đấy gọi
là “thanh tịnh thân, ngữ, ư”.
“Nhị giả, cụ túc tàm quư, yếm hoạn
tự thân” (Hai là trọn đủ hổ thẹn, chán
ghét tự thân): Luôn cảm thấy chính ḿnh cách thánh đạo
rất xa, chẳng thể thanh tịnh, chẳng thể giải
thoát phiền năo của thế gian, chán ĺa thân tâm của chính
ḿnh. Người đó chán nhàm thân tâm của chính ḿnh, chẳng
buông lung nơi ăn, mặc, cư xử. “Tam giả, ư
Ngũ Thủ Uẩn, thâm sanh bố úy” (ba là sanh ḷng sợ
hăi Ngũ Thủ Uẩn sâu xa): Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, những điều ấy gọi là Ngũ Thủ
Uẩn. Do năm loại ấy, người ta sẽ giữ
lấy điều ác, chẳng làm lành. Đối với Sắc pháp, cũng
chính là đối với hết thảy các thứ h́nh sắc
bèn tham cầu. Tâm pháp là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn
pháp ấy đều thuộc về tâm pháp. Đây là Hữu
Y Luân thứ ba. “Tứ giả, kiến sanh tử hà, cực
vi nan độ” (bốn là thấy sông sanh tử, tột
bậc khó vượt): Khi người đó nương vào
loại thứ tư này để quan sát, [đă nhận biết]
biển khổ sanh tử rất khó vượt qua. Giống
như chúng ta ch́m nổi trong gịng sông sanh tử, chết đây,
sanh kia, đă chết rồi lại sanh, sanh rồi lại
chết. Nếu bất tử, sẽ
bất sanh; nếu bất sanh, sẽ bất
tử. Biển sanh tử ấy rất khó vượt qua, sẽ
ch́m đắm trong biển sanh tử!
“Ngũ giả, thường nhạo tịch
tĩnh, viễn ly hội náo” (năm là thường thích
tịch tĩnh, xa các ồn náo): Kẻ đó thường
mong cầu tịch tĩnh, tâm ĺa ồn ào, náo nhiệt, ở
trong trần thế mà muốn t́m đến núi rừng, t́m
đến chốn thanh nhàn. “Lục giả, nhạo A Luyện
Nhă, bất cơ tha thất” (sáu là thích chốn A Luyện
Nhă, chẳng chê gièm lỗi lầm của người khác):
V́ phản đối sự ồn náo, người ấy
mong mỏi A Luyện Nhă (A Lan Nhă) tức là chỗ tịch
tĩnh. Do vậy, đối với sai lầm của kẻ
khác, người ấy không chê gièm, chẳng hủy
báng, chẳng châm chích người khác! “Thất giả,
thủ hộ chư căn, tâm thường tịch định”
(bảy là ǵn giữ, bảo vệ các căn, tâm thường
tịch định): Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, phải thường
luôn thủ hộ kỹ càng, đừng để phạm
sai lầm. Tâm thường trụ trong vắng lặng, ở
trong Định, chẳng phập phều, mà cũng chẳng
hôn trầm.
“Bát giả, thiện quán duyên khởi, thẩm
sát nhân quả” (Tám là khéo quán duyên khởi, xét kỹ nhân
quả): Khởi tu như vậy, khéo quan sát duyên khởi của
các pháp, nhưng vị này là Độc Giác, xuất sanh vào lúc
chẳng có Phật tại thế, th́ là Độc Giác. Khi
có Phật xuất thế th́ vị này gọi là Duyên Giác, nương
vào mười hai nhân duyên để quán pháp mười hai nhân
duyên, quán sự sanh khởi và tiêu mất của chúng. V́ sao
một năm có bốn mùa? V́ sao cây cối Xuân sanh, Hạ
trưởng, Thu giảm thiểu, Đông ẩn tàng? Quán các
duyên khởi ấy. V́ lẽ
nào mà chúng có thể sanh trưởng? V́ lẽ
nào mà chúng tiêu mất? Quán hết thảy
nhân quả báo ứng trong đời người, báo ứng
thiện ác, nhân quả. Do nhân nào mà kết thành quả nào. Chúng
ta gieo thiện nhân, tuyệt đối sẽ đắc thiện
quả. Gieo ác nhân, quư vị tuyệt đối phải hứng
chịu khổ báo. Quan sát v́
sao người này khổ như vậy? V́ sao người kia
có phước báo tốt đẹp dường
ấy? [Nói] “v́ sao” hàm ư quan sát. Nh́n vào điều người
ấy đă làm, đă thực hiện; điều ấy
chỉ có thể nói theo đời hiện tại. Độc
Giác Thừa nhập Định trong núi, có thể thấy tám
vạn đại kiếp, có bao nhiêu chuyện trong vạn
vạn năm, vạn ức năm. Từ trong Định,
Ngài có thể thấy trong nhiều đời người ấy
đă làm ǵ, đều có thể thấy rơ; nhưng Ngài có một
khuyết điểm là chẳng độ chúng sanh, chẳng
nói cho người khác biết!
“Cửu giả, thường nhạo cần
tu, Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự” (Chín là thường ưa
thích siêng tu Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự): Tĩnh Lự là Định,
người ấy có thể b́nh đẳng duy tŕ, khiến
cho Định chẳng mất. Định có nhiều loại,
Định của người ấy là Đẳng Tŕ, chẳng
hạn như tu đạo Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo,
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Chánh Cần, Tứ Như
Ư Túc, bèn thường luôn siêng năng
[hành tŕ], chẳng giải đăi! “Thập giả, ư tập
khởi pháp, năng thiện trừ diệt”: “Tập”
(集) có nghĩa
là “tụ tập”. Khi bậc Độc Giác tu đạo,
từ trong thân tâm, sanh khởi các thứ nhân. Đối với
các nhân, Ngài có thể tiêu mất, trừ diệt. Ác nhân nhất
định phải tiêu mất, thiện nhân phải khiến
cho tăng trưởng.
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu
chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện
Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược nữ,
thành thử thập chủng Hữu Y Hạnh Luân. Ư hiện
thân trung, tốc năng chủng thực Độc Giác Thừa
chủng, linh bất thoái thất, hoặc ư hiện thân,
chứng Độc Giác Thừa sở hữu thánh pháp, thành
Độc Giác Thừa chư thánh pháp khí. Thiện nam tử!
Thị danh nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác Hữu
Y Hạnh Luân. Nhất thiết Thanh Văn, cập chư Độc
Giác, y chỉ thử luân, tốc năng siêu độ tam hữu
đại hải, tốc năng thú nhập Bát Niết Bàn
thành.
(經)善男子,若有真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,成此十種有依行輪,於現身中,速能種植獨覺乘種,令不退失;或於現身,證獨覺乘所有聖法,成獨覺乘諸聖法器。善男子,是名一切聲聞、獨覺有依行輪。一切聲聞及諸獨覺,依止此輪,速能超渡三有大海,速能趣入般涅槃城。
(Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có chân
thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân
thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ, thành tựu mười
loại Hữu Y Hạnh Luân này, th́
trong thân hiện tại, sẽ có thể mau chóng chứng tất
cả thánh pháp thuộc Độc Giác Thừa, thành pháp khí
cho các thánh vị trong Độc Giác Thừa. Này thiện
nam tử! Đó gọi là Hữu Y Hạnh Luân của hết
thảy Thanh Văn và Độc Giác. Hết thảy Thanh
Văn và các Độc Giác y chỉ luân này, sẽ có thể
mau chóng vượt thoát biển cả tam hữu, có thể
mau chóng tiến nhập ṭa thành Bát Niết
Bàn).
“Thiện nam tử” là danh xưng đức
Phật dùng để gọi Kim Cang Tạng Bồ Tát. Pháp
này do Kim Cang Tạng Bồ Tát thỉnh vấn. Nếu có quốc
vương tốt đẹp, cho đến bốn loại
chủng tánh tốt lành, bất luận người ấy là nam hay
nữ, nếu thành tựu mười loại Hữu Y Hạnh
Luân này, trong khi người ấy tu hành, hoặc là trong cuộc
sống, có thể tiêu diệt tội nghiệp và Hoặc
(phiền năo) của người ấy, có thể gieo trồng
chủng tánh Độc Giác Thừa, khiến cho chủng tánh
ấy chẳng bị thoái thất, đời này chưa thành
tựu đạo quả Độc Giác Thừa, th́ trong vị
lai, sẽ có thể
chứng đắc. Hoặc là trong đời này, có thể
trở thành pháp khí của các địa vị thánh nhân, hoặc
có thể chứng đắc [các địa vị ấy] trong
đời này.
“Thiện nam tử! Thị danh nhất thiết
Thanh Văn, Độc Giác Hữu Y Hạnh Luân” (Này thiện
nam tử! Đó gọi là Hữu Y Hạnh Luân của hết
thảy Thanh Văn và Độc Giác): Hết thảy Thanh
Văn và các Độc Giác y chỉ luân này, sẽ có thể
mau chóng vượt qua biển cả Tam Hữu (tam giới),
có thể mau chóng tiến nhập thành Bát Niết Bàn, tức
là có thể đạt tới địa vị bất sanh, bất tử,
chứng đắc Niết Bàn. Niết Bàn ấy chẳng rốt
ráo, chẳng phải là Niết Bàn rốt ráo của đức
Phật, cho nên có sai biệt!
(Kinh) Thiện
nam tử! Hữu Y Hạnh Luân thị hà cú nghĩa? Ngôn Hữu
Y giả, danh hữu chấp thủ, hữu ngă sở y, hữu
sở nhiếp thọ, hữu sở hệ thuộc. Hạnh
vị Uẩn Hạnh, Giới Hạnh, Xứ Hạnh, Hữu Hệ Thuộc Hạnh.
Luân vị giáo thọ, giáo giới chi luân. Như Chuyển Luân
Vương sở thừa xa luân, hoặc thủ hành luân. Như
thị nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác, y chỉ
thử luân, cầu Niết Bàn đạo. Cố thử nhị
chủng phi Đại Thừa khí. Sở dĩ giả hà? Do
bỉ y chỉ hạ liệt hạnh cố, phi Đại
Thừa khí. Do bỉ chấp thủ tự chư Uẩn Hạnh,
kinh bố, yếm hoạn, tự cầu giải thoát nhất
thiết ưu khổ, bất cầu giải thoát nhất
thiết hữu t́nh nhi tu hành cố, phi Đại Thừa
khí. Do bỉ y chỉ tự chư Giới Hạnh, kinh bố,
yếm hoạn, tự cầu giải thoát nhất thiết
ưu khổ, bất cầu giải thoát nhất thiết
hữu t́nh nhi tu hành cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ
nhiếp thọ tự chư Xứ Hạnh, kinh bố, yếm
hoạn, tự cầu giải thoát nhất thiết ưu
khổ, bất cầu giải thoát nhất thiết hữu
t́nh nhi tu hành cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ hệ
thuộc hữu hệ thuộc hạnh, ư chư hữu
t́nh, bất nhạo nhiếp
thọ, vô hữu từ bi, hữu hệ thuộc cố,
phi Đại Thừa khí. Do bỉ quán tha cụ thọ chúng
khổ, xả nhi bất cứu, đản vị tự
thân cầu giải thoát cố, phi Đại Thừa khí. Do
bỉ tự đoạn chư phiền năo thủ, bất
nhạo đoạn trừ nhất thiết hữu t́nh
chư phiền năo thủ, phi Đại Thừa khí. Do bỉ
bất năng ngự Đại Thừa luân, thú Bồ
Đề cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ bất
năng tùy đại quang luân thú Bồ Đề cố,
phi Đại Thừa khí. Do bỉ hỷ nhạo độc
nhất vô lữ, nhập Niết Bàn thành nhi tu hành cố,
phi Đại Thừa khí.
(經)善男子,有依行輪,是何句義?言有依者,名有執取、有我所依、有所攝受、有所繫屬;行謂蘊行、界行、處行、有系屬行;輪謂教授教誡之輪,如轉輪王所乘車輪,或首行輪。如是一切聲聞、獨覺,依止此輪求涅槃道,故此二種非大乘器。所以者何?由彼依止下劣行故,非大乘器。由彼執取自諸蘊行,驚怖厭患,自求解脫一切憂苦,不求解脫一切有情而修行故,非大乘器。由彼依止自諸界行,驚怖厭患,自求解脫一切憂苦,不求解脫一切有情而修行故,非大乘器。由彼攝受自諸處行,驚怖厭患,自求解脫一切憂苦,不求解脫一切有情而修行故,非大乘器。由彼系屬有系屬行,於諸有情不樂攝受,無有慈悲,有系屬故,非大乘器。由彼觀他,具受眾苦,舍而不救,但為自身求解脫故,非大乘器。由彼自斷諸煩惱首,不樂斷除一切有情諸煩惱首,非大乘器。由彼不能馭大乘輪趣菩提故,非大乘器。由彼不能隨大光輪趣菩提故,非大乘器。由彼喜樂獨一無侶,入涅槃城而修行故,非大乘器。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân là cú nghĩa như
thế nào? Nói Hữu Y th́ gọi là có chấp giữ, có cái
để ngă nương tựa, có cái để nhiếp
thọ, có cái hệ thuộc. Hạnh là Uẩn Hạnh, Giới
Hạnh, Xứ Hạnh, Hữu Hệ Thuộc Hạnh.
Luân là sự chuyển vận “răn dạy, truyền dạy”,
như bánh xe (Luân Bảo) được Chuyển Luân Vương
ngự lên, hoặc thủ hành luân (hành
luân đứng đầu). Hết
thảy Thanh Văn, Độc Giác như thế nương
theo cái luân này để
cầu đạo Niết Bàn. Do vậy, hai loại [căn
khí] này chẳng phải là căn khí Đại Thừa. V́ cớ
sao vậy? Do họ y chỉ hạnh kém hèn, nên chẳng phải
là căn khí Đại Thừa. Do họ chấp giữ các
Uẩn Hạnh của chính ḿnh rồi sợ hăi, chán ghét, tự
cầu giải thoát hết thảy ưu khổ, chẳng
cầu giải thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành, nên
chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ y
chỉ các Giới Hạnh của chính ḿnh để rồi
sợ hăi, chán ghét, tự cầu giải thoát hết thảy
ưu khổ, chẳng cầu giải thoát hết thảy hữu
t́nh mà tu hành, cho nên chẳng phải là căn khí Đại
Thừa. Do họ nhiếp thọ các Xứ Hạnh của
chính ḿnh rồi sợ hăi, chán ghét, tự cầu giải
thoát hết thảy ưu khổ, chẳng cầu giải
thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành, nên chẳng phải
là căn khí Đại Thừa. Do họ bị trói buộc, phụ thuộc vào Hữu Hệ Thuộc Hạnh (hạnh có hệ thuộc),
đối với các hữu t́nh chẳng thích nhiếp thọ,
chẳng có ḷng từ bi, do có hệ thuộc, cho nên chẳng
phải là căn khí Đại Thừa. Do họ quán kẻ
khác chịu đủ mọi thứ khổ mà bỏ mặc
chẳng cứu, chỉ v́ cầu giải thoát cho chính ḿnh,
nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ
tự đoạn các phiền năo đầu sỏ, chẳng
thích đoạn trừ các phiền năo đầu sỏ cho hết
thảy hữu t́nh, nên chẳng phải là căn khí Đại
Thừa. Do họ chẳng thể cưỡi bánh xe Đại
Thừa để tiến nhập Bồ Đề, nên chẳng
phải là căn khí Đại Thừa. Do họ chẳng
thể nương theo đại quang luân tiến hướng
Bồ Đề, nên chẳng phải là căn khí Đại
Thừa. Do họ vui thích đơn độc, không bè bạn, tiến nhập
thành Niết Bàn để tu hành, cho nên chẳng phải là
căn khí Đại Thừa).
“Thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân thị
hà cú nghĩa?” (Này thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân
là cú nghĩa[2] như
thế nào?): Danh cú ngôn ngữ ấy có ư nghĩa như thế
nào? “Ngôn Hữu Y giả” (nói là Hữu Y): Đối với
từ ngữ Hữu Y Hạnh Luân, trước hết giảng
về Hữu Y. Hữu Y là ǵ? Là “chấp thủ” (執取), tức
là chấp trước lấy hay bỏ. Trước hết
phải có Ngă, sau đó mới pháp để ta “y” (nương
dựa) vào, tức là cảnh. Pháp nào tốt đẹp bèn
nhiếp thọ (攝受, thâu tóm,
nắm giữ), “hữu sở nhiếp thọ, hữu sở
hệ thuộc” (có cái được nhiếp thọ, có
cái trói buộc, phụ thuộc).
Điều ấy được gọi là Hữu Y. Hữu Y là ǵ? Nương
theo sự chấp trước, giữ lấy của người
ấy, sẽ có Ngă (tức là cái Ta để làm chủ
thể cho hành động nắm giữ). Hễ có Ngă, bèn có
Ngă Sở (我所, cái thuộc
về ta), Ngă Sở c̣n được gọi là Ngă Sở Y (我所依). Chẳng
hạn như cuộc sống của chúng ta chẳng ĺa khỏi
ăn mặc, cư trụ, đi lại. Mùa Đông
lạnh lẽo, chúng ta cần phải giữ ấm, điều này gọi là Hữu Y trong cuộc
sống. Chỉ v́ chấp trước các thứ ấy, bèn tham
luyến, [cho nên sẽ] có cái nhiếp thọ, có cái hệ thuộc.
Các thứ ấy trói buộc, khiến
cho quư vị chẳng
thể thoát ly được.
Giải thích đơn giản về chữ
“Hạnh”. Trong Hữu Y Hạnh, Hạnh là ǵ? [Hạnh
bao gồm] Uẩn Hạnh, Giới Hạnh, Xứ Hạnh,
Hữu Hệ Thuộc Hạnh. Uẩn (蘊) là Ngũ Uẩn,
tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm loại
ấy thường xuyên vận động không ngừng, đó
là Hạnh. “Hạnh” có nghĩa là “vận
động”, thường
xuyên không ngừng vận động. Hết thảy các sự
là cảnh, kể cả thân thể của quư vị. Thân thể
của quư vị do bốn đại chủng (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) hợp
thành, hết thảy động tác nơi thân thể đều
chẳng rời Ngũ Uẩn.
Thọ (受) có nghĩa
là “tiếp nhận”. Cảnh giới bên ngoài đă chẳng
có, nhưng nội tâm lănh nạp cảnh giới từ Pháp
Trần của chính ḿnh, cùng nó tiếp xúc; đó là Uẩn Hạnh. Giới là mười tám giới.
Mười tám giới bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư (đó là lục căn, 六根), Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp (đấy gọi là lục
trần, 六塵), Nhăn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư Thức (gọi là lục thức,
六識). Sáu căn,
sáu trần, sáu thức, ba loại ấy gộp chung lại,
ba nhân sáu thành mười tám. “Giới” (界) nghĩa
là mỗi pháp đều có phạm vi, có
giới hạn của nó. Xứ (處) là mười
hai chỗ, tức mắt quán sắc, tai nghe tiếng, lưỡi
biết vị, thức thâu nhiếp pháp. Mỗi cảnh giới
[bao gồm] sáu trần
tiếp xúc với sáu thức, đó gọi là Thập Nhị
Xứ. Trần và Thức tiếp xúc với Căn, tức
lục căn. Lục căn và lục trần tiếp xúc, đó
là chỗ Thức hoạt động.
Hữu Hệ Thuộc là ǵ? Có nghĩa là “trói
buộc”. Lại có Vô Hệ Thuộc Hạnh, tức là
đă giải thoát th́ không hệ thuộc. Trong mỗi hạnh,
lại có rất nhiều “quyến thuộc” phụ
thuộc. Nói tới sắc ngoài thân, giống như thân thể
của chúng ta vốn thuộc vào chính ḿnh, nhưng các sắc
ở ngoài thân chúng ta th́ chính là [đối tượng]
để chúng ta thọ dụng. Có những thứ là hệ
thuộc, có những thứ là chán ĺa. Tức là những sắc
nào quư vị không ưa thích bèn chán ĺa nó, thuộc loại
yêu, ghét. Hễ yêu thích bèn mong giữ làm thứ của riêng
ḿnh; hễ
chán ghét bèn mong thoát khỏi nó. Đấy là “có hệ thuộc”;
điều này được gọi là Hữu Y Hạnh.
Luân là “giáo thọ, giáo giới chi luân” [nghĩa là] đức
Phật thuyết pháp cho chúng ta, dạy bảo, răn dạy
chúng ta phải nên làm như thế nào. Điều này giống
như cái bánh xe (Luân Bảo) mà Chuyển Luân Thánh
Vương ngự lên [để bay khắp bốn bộ
châu], cũng giống như chúng ta ngồi xe hơi, nó có thể
vận chuyển chúng ta. Nhưng Luân có công năng nghiền
nát. Hễ dưới bánh xe có chướng ngại chi
đó, hễ là thứ nhỏ th́ nó có thể nghiền nát.
Hết thảy Thanh Văn và Độc Giác nương vào
Hữu Y Hạnh Luân, sẽ
có thể chứng đắc Niết Bàn đạo.
“Hoặc thủ hành luân” nghĩa là ǵ? “Thủ”
(首) có nghĩa là “đầu”, tức
là đoạn phiền năo. Đây là chặt đầu phiền
năo, đoạn dứt các phiền năo, khéo cầu đắc
Niết Bàn. Hai loại [Hữu Y Hạnh Luân] này thuộc về
Thanh Văn và Duyên Giác. Kinh vốn chỉ nói về Độc
Giác; ở đây, đă đem Thanh Văn trong phần
trước nói gộp chung lại. Người hành Hữu
Y Hạnh Luân này chẳng phải là pháp khí Đại Thừa,
chẳng phải là Bồ Tát, chẳng phải là dụng cụ
chứa đựng Đại Thừa, mà là Tiểu Thừa.
Khí lượng của họ chỉ to chừng ấy. V́
sao nói như vậy? “Do bỉ y chỉ tự chư Giới
Hạnh, kinh bố,
yếm hoạn” (do họ y chỉ
các Giới Hạnh của chính ḿnh bèn sợ hăi, chán ghét): Người
ấy y chỉ Hữu Y Hạnh Luân, chỉ nghĩ đến
chính ḿnh, chẳng mong để cho các thứ khổ, lạc
trói buộc ḿnh, chẳng muốn để
cho các thứ đau khổ ràng buộc ḿnh. Đối với
sanh, lăo, bệnh, tử, yêu thương phải chia ĺa, oán
ghét phải gặp gỡ, cầu chẳng được,
người ấy rất kinh sợ, chán ghét các khổ nạn
ấy. Đặc biệt là bệnh, rất chán ghét bệnh.
Lại c̣n “cầu chẳng được”, quư vị
mong cầu mà chẳng đạt được, muốn
buông bỏ lại bỏ chẳng nổi! Yêu thương
phải chia ĺa, oán ghét phải gặp gỡ, người ấy
muốn giải thoát các nỗi ưu khổ ấy, nhưng
chỉ cầu mong giải thoát cho chính ḿnh. “Bất cầu
giải thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành” (chẳng
cầu giải thoát cho hết thảy hữu t́nh mà tu hành):
Người ấy v́ giải thoát chính ḿnh mà tu hành, chẳng
phải v́ hết thảy hữu t́nh mà xuất ly.
“Phi Đại Thừa khí” (chẳng phải
là pháp khí Đại Thừa), chẳng thuộc về Bồ
Tát Thừa, chẳng
phải là pháp khí của Đại Thừa. Người ấy
hệ thuộc Hành, Uẩn, Giới, Xứ, mong đoạn
diệt chúng. Kẻ ấy chẳng màng hết thảy hữu
t́nh ưu khổ. Thấy
hết thảy hữu t́nh chịu thống khổ, người
ấy đều chẳng cứu độ, cho nên phải
đến ở nơi tịch tĩnh, thậm chí xa cách mọi
người. Người ấy “bất cầu giải
thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành” (chẳng cầu
giải thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành), cho nên nói người
ấy “phi Đại Thừa khí, do bỉ hệ thuộc
Hữu Hệ Thuộc Hạnh” (chẳng phải căn
khí Đại Thừa, do người ấy phụ thuộc
hạnh có hệ thuộc): Sự hệ thuộc này liên
quan đến duyên niệm, tức là sự
tin ưa của người ấy có hệ
thuộc, v́ đối với điều ǵ người ấy
không tin ưa, sẽ bài xích. “Chẳng hệ thuộc”
th́ đối với các chúng sanh khác, họ chẳng nhiếp
thọ, chẳng chịu giáo dục họ, chẳng chịu
giúp đỡ người khác khiến cho họ thoát ĺa đau
khổ. “Vô hữu từ bi” (chẳng có ḷng từ bi),
v́ sao? Người ấy chỉ cầu chính ḿnh giải
thoát khỏi ưu khổ, đó gọi là “có hệ thuộc”,
bị trói buộc, “chẳng phải là căn khí Đại
Thừa”.
“Do bỉ quán tha cụ thọ chúng khổ,
xả nhi bất cứu” [nghĩa là] người
ấy thấy hết thảy chúng sanh chịu đựng
rất nhiều khổ nạn, nhưng chẳng cứu
độ, mà cũng chẳng chịu thuyết pháp ḥng lợi ích chúng
sanh, chỉ cầu tự liễu
thoát. Do chẳng muốn ở trong trần thế, cho nên “phi
Đại Thừa khí” (chẳng phải căn khí Đại
Thừa). Do người ấy tự ḿnh “đoạn phiền
năo thủ”. “Thủ” (首) là h́nh
dung từ, [“đoạn phiền năo thủ”] là chặt
đầu phiền năo, chặt đứt phiền năo, đoạn
sạch phiền năo. “Bất nhạo đoạn trừ
nhất thiết hữu t́nh chư phiền năo thủ”
(chẳng thích đoạn trừ hết thảy đầu
mối phiền năo cho hết thảy hữu t́nh): Chẳng
chịu đoạn phiền năo cho các chúng sanh, mà cũng
chẳng chịu giúp đỡ chúng sanh, không thuyết pháp nhằm
lợi lạc người khác. V́ thế, chúng tôi nói “niệm kinh,
tŕ chú, lễ bái, phát nguyện đều hồi hướng
cho hết thảy chúng sanh”; đấy
là Bồ Tát.
Hàng Thanh Văn Nhị Thừa làm ǵ? Họ
chỉ hồi hướng cho chính ḿnh, trọn chẳng nghĩ
tới chúng sanh, cho đến lục thân quyến thuộc
của chính ḿnh, họ cũng chẳng độ. Do vậy,
mọi người cho rằng người xuất gia vô t́nh,
tu hành ắt phải giống như cục gỗ, giống
như tảng đá; nhưng điều này chẳng đúng.
Họ không chịu cứu độ chúng sanh, thấy chết
mà chẳng cứu, dẫu chúng sanh đang ở trong biển
khổ sanh tử. Họ đă thành đạo, chẳng hạn
như đạt được sáu loại thần thông,
đắc Lậu Tận Thông, phải nên thuyết pháp cho chúng
sanh, nhưng họ không chịu, tự ḿnh trụ trong Thiền
Định hưởng thụ vui sướng. Do vậy, họ
chẳng phải là căn khí Đại Thừa.
“Bất năng ngự Đại Thừa
luân, thú Bồ Đề đạo” (chẳng thể ngự
trên bánh xe Đại Thừa để tiến hướng
Bồ Đề đạo): Chẳng thể điều
khiển Đại Thừa luân. “Luân” có nghĩa là nghiền
nát. Đại Thừa luân cũng có công năng chuyên chở.
Đại Thừa luân vận chuyển [hành nhân] tiến vào
Đại Thừa, Đại Thừa th́ phải lợi
ích chúng sanh. Do vậy, cảnh giới tự chứng của
Đại Thừa và Tiểu Thừa đại khái đều
giống nhau, nhưng một đằng là chịu đem cảnh
giới do chính ḿnh tự chứng bố thí chúng sanh, một
đằng là chẳng chịu bố thí, sợ rơi vào hầm
phiền năo. Họ tự độ ḿnh c̣n chưa xong, đối
với chuyện độ người khác họ chẳng
dám léo hánh! Họ “bất năng tùy đại quang luân
thú” (chẳng thể theo đại quang luân để tiến
nhập): “Đại quang luân” là trí huệ, có nghĩa
là Bát Nhă. Hàng Độc Giác Thừa và hàng Thanh Văn Thừa
chẳng thể nương theo đại quang luân để
tiến nhập Bồ Đề đạo, ḥng đạt
tới Niết Bàn rốt ráo, chứng quả. Cho nên “chẳng
phải là căn khí Đại Thừa”.
Độc Giác Thừa rất cô độc,
họ cũng chẳng kết hợp với đạo hữu.
Độc Giác là như thế nào? Họ tự ḿnh tĩnh
tu, quán tướng sanh diệt của hết thảy các pháp. Từ
trong tướng sanh diệt, t́m ra lư
bất sanh bất diệt, đă t́m được cái “chẳng
sanh diệt” th́ sanh trụ dị sẽ diệt. Do vậy,
bảo họ chẳng phải là căn khí Đại Thừa.
Trong phần trên, chúng ta đă nói đến hai loại Thập
Y Luân, tức Thập Hữu Y Luân, một đằng là Thanh
Văn, một đằng là Độc Giác. Các pháp ấy có
phải là tốt đẹp hay không? Có phải là pháp để
chúng ta trực tiếp tiến hướng Đại Thừa
hay chăng?
(Kinh) Thiện nam tử! Hữu chư
chúng sanh, ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp,
vị tác cù lao, chánh cần
tu học, như thị chúng sanh, căn cơ vị thục,
căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu. Nhược
hữu vị thuyết vi diệu, thậm thâm Đại
Thừa chánh pháp, thuyết thính nhị nhân, câu hoạch
đại tội, diệc vi vi nghịch nhất thiết
chư Phật. Sở dĩ giả hà? Nhược chư chúng
sanh ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, vị
tác cù lao, chánh cần tu học, căn cơ vị thục,
căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu, nhi tiện
thính thọ vi diệu, thậm thâm Đại Thừa chánh
pháp. Như thị chúng sanh thật thị ngu si,
tự vị thông duệ, hăm đoạn diệt biên, trụy
điên cuồng tưởng, chấp vô nhân luận. Ư
chư nghiệp quả, sanh đoạn diệt tưởng,
bát vô nhất thiết thiện tác, ác tác, vọng thuyết Đại
Thừa, hoại loạn ngă pháp, phi pháp thuyết pháp, pháp
thuyết phi pháp, thật phi sa-môn, thuyết thị sa-môn; thật
thị sa-môn, thuyết phi sa-môn; thật phi Tỳ Nại
Da, thuyết thị Tỳ Nại Da, thật thị Tỳ
Nại Da, thuyết phi Tỳ Nại Da.
(經)善男子,有諸眾生,於聲聞乘、獨覺乘法,未作劬勞正勤修學,如是眾生根機未熟,根機下劣,精進微少;若有為說微妙甚深大乘正法,說聽二人俱獲大罪,亦為違逆一切諸佛。所以者何?若諸眾生,於聲聞乘、獨覺乘法,未作劬勞正勤修學,根機未熟,根機下劣,精進微少,而便聽受微妙甚深大乘正法;如是眾生實是愚癡,自謂聰睿陷斷滅邊,墜顛狂想執無因論,於諸業果生斷滅想,撥無一切善作、惡作,妄說大乘,壞亂我法,非法說法,法說非法,實非沙門說是沙門,實是沙門說非沙門,實非毗奈耶說是毗奈耶,實是毗奈耶說非毗奈耶。
(Kinh: Này thiện nam tử! Có các chúng sanh
đối với pháp Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa,
chưa nhọc nhằn, siêng năng
chánh đáng tu học. Hạng
chúng sanh như thế, căn
cơ chưa chín muồi, căn cơ kém hèn, tinh tấn ít ỏi.
Nếu có người v́ kẻ ấy nói chánh pháp Đại
Thừa vi diệu rất sâu, người nói lẫn kẻ
nghe đều mắc tội lớn, mà cũng là trái nghịch hết
thảy chư Phật. V́ cớ sao vậy? Nếu các chúng
sanh đối với pháp Thanh Văn Thừa và Độc
Giác Thừa chưa vất vả, siêng năng chánh đáng
tu học, căn cơ chưa chín muồi, căn cơ kém
hèn, tinh tấn ít ỏi, mà liền nghe nhận chánh pháp Đại
Thừa vi diệu rất sâu, chúng sanh như thế thật
là ngu si, tự cho là thông duệ, bị hăm trong đoạn
diệt, rơi vào suy tưởng điên cuồng, chấp
trước luận thuyết “không có cái nhân”, đối với
các nghiệp quả, sanh ư tưởng đoạn diệt,
bài bác “không có hết
thảy chuyện làm lành hay làm ác”, xằng
bậy nói Đại Thừa, hoại loạn pháp của
ta, phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, thật sự chẳng
phải là sa-môn mà nói là sa-môn, thật sự là sa-môn mà nói là chẳng
phải sa-môn, thật sự chẳng phải là Tỳ Nại
Da mà nói là Tỳ Nại Da, thật sự là Tỳ Nại Da
mà nói chẳng phải là Tỳ Nại Da).
Đức Phật nói về cách dạy bảo
sai lầm [của các vị giảng sư]: Nếu khi [người
nghe] c̣n chưa biết đi, mà đă bảo họ chạy,
[người nghe] sẽ bị vấp ngă. Do vậy, có các chúng
sanh chưa từng đổ công dốc sức nơi Khổ,
Tập, Diệt, Đạo, và mười hai nhân duyên, “vị tác
cù lao” (chưa từng vất vả), tức
là chưa hề đổ công dốc sức, chẳng khéo dụng
công tu hành. Pháp ấy chưa tu thành, căn khí Đại Thừa
vẫn chưa chín muồi. Chúng sanh như thế chưa tu
pháp Nhị Thừa, mà trực tiếp học pháp Đại
Thừa, sẽ chẳng thể được!
“Căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi
thiểu” (căn cơ hèn kém, tinh tấn ít ỏi): Nếu
đời này chẳng nghe pháp Đại Thừa, kẻ đó
sẽ sanh khởi hủy báng. Căn cơ chưa chín muồi,
kẻ ấy căn cơ kém cỏi. Lại c̣n cái tâm tinh tấn
tu đạo rất ít, mà cũng chẳng chịu tinh tấn,
cứ giải đăi,
tham đắm ngũ dục thế gian. Tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê chính là năm cội rễ của
địa ngục. Kẻ đó tham cầu cảnh
giới ngũ dục, ăn, ở, ngủ nghê chiếm rất
nhiều thời gian trong một ngày. Chúng ta nghĩ xem: Bận
bịu v́ cái ăn, cái mặc, đă mệt nhoài th́ phải
ngủ nghê. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ
trong một ngày trôi qua, quư vị c̣n được bao nhiêu thời
gian để học đạo? C̣n như niệm kinh, chúng
ta tu tập cách niệm kinh, giữa người tại gia
và kẻ xuất gia. đương nhiên là chẳng thể
so sánh được! Người xuất gia tu hành năm
tiếng đồng hồ là quá ít! Trong hai
mươi bốn tiếng đồng hồ, quư vị chỉ
tu năm tiếng đồng hồ, mười chín tiếng
đồng hồ c̣n lại quư vị làm ǵ? Ngủ nghê chiếm
thời gian rất nhiều. Trong một đời người,
ngủ nghê chiếm thời gian quá nhiều. Có những kẻ
ngủ tám tiếng đồng hồ, vẫn cho là không đủ!
Nay chúng ta bái sám, kể cả bái sám thánh hiệu
lẫn tĩnh tọa, cũng chỉ một tiếng đồng hồ là xong,
mọi người bèn tán gẫu. Đương nhiên tán gẫu
th́ cũng là bàn luận Phật pháp. Bàn ǵ đi nữa, th́ cũng phải
bận bịu ăn uống. Từ mười giờ rưỡi
đến mười một giờ rưỡi, suốt
một tiếng đồng hồ, sau đó là nghỉ ngơi
một chặp, gần như một tiếng đồng
hồ, thế là hai tiếng đồng hồ tùy tiện
trôi đi! Thức dậy lại bận bịu chuyện nhà.
Nếu quư vị sắp xếp thời
gian, quả thật
là [thời gian] tinh tấn rất ít! Người như vậy
mà giảng cho họ chánh pháp Đại
Thừa vi tế rất sâu, khiến cho họ nhập quán,
khiến cho họ tham cứu, khiến cho họ tu hành, lănh
hội, sẽ chẳng thể
được! Kẻ nói lẫn người nghe đều
mắc tội lớn! V́ sao? Người nói chẳng biết
căn cơ, người nghe sẽ
có thể sanh khởi tội báng pháp. Làm như thế là đă
trái nghịch hết thảy chư Phật, chẳng phù hợp
lời dạy của chư Phật. Từ Tiểu Thừa
đến Đại Thừa, quư vị trước hết
cần biết thế
gian này là khổ, nỗi khổ
ấy do đâu mà có?
Do chúng tạo nghiệp, tức là Tập (集, nhóm họp
các nghiệp). Khổ và Tập là nhân quả thế gian. Diệt, Đạo:
Phải biết tịch diệt là vui sướng, là thành tựu.
Quư vị phải biết, phải quan sát, đấy là tu Đạo
ḥng chứng Niết Bàn, là nhân quả xuất thế gian. Đó
là hai tầng nhân quả. Nói theo Tiểu Thừa, pháp này vốn
là pháp Tứ Đế, là Tiểu Thừa, nhưng do người
ấy lợi ích chúng sanh, cho nên gọi là Đại Thừa.
Không chỉ là chính ḿnh phải tu đạo, chứng Niết
Bàn, chính ḿnh chẳng tạo nghiệp nữa, chẳng c̣n thọ
khổ quả, [mà c̣n phải] khiến cho chúng sanh đều
biết. Đấy là Đại Thừa.
Pháp chẳng có lớn hay nhỏ, quư vị
chính là người thọ pháp. Quư vị nghe Đại Thừa
nói “các pháp là Không, nhân quả thiện ác chẳng tồn
tại, căn bản là chẳng có”, [nếu
không liễu giải], quư vị sẽ đọa
nhập Đoạn Diệt Không. Vậy th́ sẽ thuận
theo cảnh giới ngũ dục, phương diện này
dường như đă trống không, phương diện
kia xác thực hoàn toàn chẳng không. Do vậy, nói pháp Đại
Thừa th́ sợ rằng kẻ đó [nghe xong], sẽ
rơi vào Đoạn Kiến, cũng chẳng rơi vào
Thường Kiến. Nếu coi Niết Bàn là Thường
Kiến, coi nghĩa Không là Đoạn Kiến; đó là sai
lầm!
Do vậy, có một hạng chúng sanh, chưa
hề chánh thức tu Thanh
Văn hay Độc Giác Thừa, chẳng hề dụng
công, chẳng nhọc nhằn tu tập, chẳng tinh tấn,
căn cơ c̣n chưa chín muồi. “Căn cơ hạ
liệt” (căn cơ kém hèn), chỉ có tinh tấn đôi
chút, đừng tới nghe nhận chánh pháp Đại Thừa
rất sâu. Nhưng kẻ
đó cho rằng chính ḿnh là căn khí Đại Thừa, tự
cho ḿnh là thông duệ, có trí huệ, nhưng
[nghe xong] chỉ hăm vào Đoạn Diệt, tức là Đoạn Kiến. Đoạn
Kiến là kẻ đó nói đến Không, [lầm tưởng]
“hết thảy các pháp đều Không, vậy
th́ có ǵ là khổ hay lạc để đạt được
nữa? Trên thực tế, chúng vốn
chẳng có mà!” Khi chúng tôi giảng
kinh Chiêm Sát, nửa quyển hạ là nói “hai bên (Có và Không)
đều chẳng lập”, nhưng kẻ đó rơi
vào phía Đoạn Kiến. Do tham đắm
cảnh giới ngũ dục, kẻ đó rất tinh tấn,
nhưng đối với chuyện tu Lục Ba La Mật,
kẻ đó rất giải đăi, tinh tấn ít ỏi. Như
thế là rơi vào “điên cuồng tưởng”.
“Chấp vô nhân
luận” (chấp vào luận thuyết “chẳng có cái nhân”)
tức là chẳng tin nhân quả. Đối với hết
thảy nghiệp quả, làm ác nghiệp sẽ mắc khổ
báo, làm thiện nghiệp sẽ
được thiện báo, sanh lên trời hưởng thụ
vui sướng, cho đến thành đạo. Kẻ chẳng
tin nhân quả, bèn sanh khởi suy tưởng đoạn diệt,
bài bác hết thảy chuyện làm lành, làm ác, hư vọng
tự xưng là Đại Thừa. Kẻ đó học Đại
Thừa, coi pháp Đại Thừa là Đoạn Diệt Tưởng,
vướng nơi Không, chấp trước Không, coi
hết thảy chuyện làm lành, làm ác, làm chuyện xấu,
làm chuyện tốt của Phật pháp đều giống
y hệt như nhau [v́ hiểu lầm ư chỉ] “Đại Thừa
luôn nói b́nh
đẳng, diệt cả hai bên”. Trong
kinh Duy Ma Cật, Văn Thù Bồ Tát hỏi cư sĩ Duy
Ma Cật: “Giới, Định, Huệ là như thế
nào?” Cư sĩ Duy Ma Cật đáp: “Dâm, nộ, si”.
Đấy có nghĩa là ǵ? Dâm, nộ, si chẳng có thật
thể. Giới, Định, Huệ cũng chẳng có thật
thể, cùng là bản thể của Pháp Thân, cũng là bản
thể của pháp tánh. “Đáp”
chính là đối ứng. Vị này nói nửa này, vị kia
nói nửa kia, chẳng có thiện hay ác. Giả sử quư vị
chẳng tu hành Khổ, Tập, Diệt, Đạo, lại
chứng đắc nghĩa Không ấy, sẽ rơi vào Đoạn
Diệt Không, sẽ bài bác là “chẳng có nhân quả!” Bài bác chẳng
có nhân quả, phá hoại, rối loạn pháp của Phật,
rốt cuộc đối với Phật pháp bèn nói đúng
thành sai! Dâm, nộ, si là phi pháp, kẻ đó nói là đúng, nói
chánh pháp thành phi pháp, phi pháp nói thành chánh pháp!
“Hoại loạn ngă pháp” (phá hoại, rối loạn pháp của
ta): Vốn chẳng phải là Phật pháp, kẻ đó lại
nói là Phật pháp. Vốn là Phật pháp, kẻ đó lại
nói “chẳng phải là Phật pháp”. Vốn chẳng phải
là người xuất gia, chẳng phải là sa-môn thật
sự, lại nói là sa-môn. Đối
với sa-môn thật sự, bèn
nói chẳng phải là sa-môn. Đấy là điên đảo.
Thật sự chẳng phải là Tỳ Nại Da, tức chẳng
phải giới luật, như đối với Phật pháp
tại Đông Độ, các quy củ trong chùa miếu chẳng
phải là giới luật, mà là do tổ sư quy định.
Những điều ấy được gọi là Thanh Quy (清規), lại
nói đó là giới luật. Do vậy, [có kẻ lầm lạc
chủ trương] chẳng học giới luật do đức
Phật truyền lại, học kỹ Thanh Quy là được
rồi. Đấy đều là “pháp nói
là phi pháp”, thật
sự chẳng phải là Tỳ Nại Da lại nói là Tỳ
Nại Da, thật sự là Tỳ Nại Da lại bảo chẳng
phải là Tỳ Nại Da.
(Kinh) Ngu si, điên đảo, kiêu mạn,
tật đố, bằng đảng chi tâm, ư Đại
Thừa pháp xưng tán, ủng vệ, linh quảng lưu bố.
Ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, báng hủy,
chướng tế, bất linh lưu bố, bất năng
như thật y Thanh Văn Thừa, hoặc Độc Giác
Thừa, hoặc Vô Thượng Thừa xả tục, xuất
gia, thọ Cụ Túc Giới, thành bật-sô tánh, diệc bất
như thật tu tập nhất thiết thiện pháp nhân
duyên. Ư ngă đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc
phi pháp khí, vị cần tu hành Học, Vô Học hạnh, năi
chí chứng đắc tối hậu cực quả chân thiện
dị sanh, tŕ giới, phá giới, vô giới giả sở,
chủng chủng hủy mạ, ha trách, năo loạn, đoạt
kỳ y bát, bất thính thọ dụng chư tư sanh cụ,
hệ phược, cấm bế.
(經)愚癡顛倒、憍慢、嫉妒、朋黨之心,於大乘法,稱讚擁衛,令廣流佈;於聲聞乘、獨覺乘法,謗毀障蔽,不令流佈;不能如實依聲聞乘,或獨覺乘,或無上乘,舍俗出家,受具足戒,成苾芻性,亦不如實修集一切善法因緣;於我弟子,或是法器,或非法器,謂勤修行學無學行,乃至證得最後極果真善異生,持戒、破戒、無戒者所,種種毀罵,呵嘖惱亂,奪其衣缽,不聽受用諸資生具繫縛禁閉。
(Kinh: Tâm ngu si, điên đảo, kiêu
căng, ngạo mạn,
ghen tỵ, bè đảng. Đối với pháp Đại
Thừa, bèn xưng dương, tán thán, ủng hộ, bảo
vệ, khiến được lưu truyền rộng răi.
Đối với pháp thuộc Thanh Văn Thừa và Độc
Giác Thừa, bèn
hủy báng, chướng lấp, chẳng cho lưu truyền.
Chẳng thể như thật nương theo Thanh Văn
Thừa, hoặc Độc Giác Thừa, hoặc Vô Thượng
Thừa để xả tục, xuất gia, thọ Cụ
Túc Giới, thành bật-sô tánh, cũng chẳng đúng như
thật tu tập nhân duyên của hết thảy các thiện
pháp. Đối với các đệ
tử của ta, hoặc là pháp khí, hay chẳng phải pháp
khí, khuyên họ siêng năng tu tập
Học và Vô Học hạnh, cho đến đối với
bậc chân thiện dị sanh chứng đắc cực
quả tối hậu, tŕ giới, hay phá giới, kẻ không
có giới, mà dùng đủ cách hủy báng, chửi rủa,
quở trách, năo loạn, đoạt y bát của họ, chẳng
cho hưởng dụng các thứ vật cần dùng trong cuộc
sống, trói buộc, nhốt kín).
“Ngu si, điên đảo, kiêu mạn, tật
đố, bằng đảng chi tâm” (cái tâm ngu si, điên
đảo, kiêu căng, ngạo mạn,
ghen tỵ, kết bè kéo đảng): Chùa này hủy báng chùa
kia, chùa kia hủy báng chùa này. Nhóm cư sĩ này hủy báng nhóm
cư sĩ kia. Rốt cuộc ai đúng, ai sai? Điên đảo
đúng sai! Kẻ học pháp Thanh Văn Thừa và Độc
Giác Thừa bèn hủy báng Đại Thừa. Kẻ học
pháp Đại Thừa hủy báng, ngăn chướng pháp
Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa, chẳng cho lưu
truyền, [khăng khăng] “đấy là pháp Tiểu Thừa,
chẳng để cho nó tồn tại”. Chẳng thể đúng
như thật nương theo pháp Thanh Văn Thừa, hoặc
Độc Giác Thừa, hoặc Vô Thượng Thừa để
xả tục, xuất gia. Sau khi nghe pháp, sẽ nhập đạo.
Kẻ chẳng thể làm như vậy, đương
nhiên là chẳng thể xuất gia, chẳng thể thọ
Cụ Túc Giới, chẳng thể trở thành tỳ-kheo,
chẳng thể trở thành bậc xuất gia.
“Diệc bất như thật tu tập nhất
thiết thiện pháp nhân duyên” (cũng chẳng như thật
tu tập hết thảy nhân duyên thiện pháp): Tu tập các nhân
duyên thiện pháp bèn làm chuyện tốt lành. Đối với
hết thảy thiện pháp, chớ nên v́ điều thiện
ấy nhỏ nhặt [mà không làm]. Chúng ta bỏ một đồng
cho người cùng khổ, hoặc cúng cho pháp hội trong
chùa miếu, quư vị quyên tặng một đồng cũng được. Đó gọi
là tùy hỷ. Đă chẳng hiến tặng, lại c̣n hủy
báng, tức là chẳng như thật tu tập hết thảy
nhân duyên thiện pháp. “Ư ngă đệ tử, hoặc
thị pháp khí, hoặc phi pháp khí” (Đối với các đệ
tử của ta, hoặc là pháp khí, hay chẳng phải là pháp
khí): Người tu hành khéo học như thế, sẽ là dụng
cụ chứa đựng pháp. “Hoặc phi pháp khí” là kẻ
phá giới. Phá giới sẽ chẳng tốt! Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di như thế ấy, tức tứ
chúng đệ tử [như thế ấy], sẽ
chẳng thể gọi là siêng năng tu hành. “Cần tu hành” (勤修行) là tinh tấn
siêng ṛng tu hành.
“Học, Vô Học hạnh” (Hạnh Hữu
Học và Vô Học): Tức là địa vị Hữu Học
và Vô Học. Địa vị Vô Học là đă chứng quả
A La Hán. Địa vị Hữu Học là ǵ? Bảy địa
vị đều là địa vị hữu học, tức
Sơ Quả Hướng, Sơ Quả, Nhị Quả Hướng,
Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả, Tứ Quả
Hướng, đều gọi là địa vị Hữu
Học. Chứng đắc quả A La Hán là địa vị
Vô Học, cho đến “chân thiện dị sanh chứng
đắc cực quả tối hậu”; đấy là
chứng đắc quả A La Hán, đoạn Kiến Tư
Hoặc. Đó là pháp khí.
Hoặc là kẻ phá giới,
“tŕ giới, phá giới, vô giới giả sở” (tŕ
giới, phá giới, kẻ chẳng có giới): Có kẻ là
tŕ giới, có kẻ là phá giới, hoặc ngay cả giới
ǵ cũng đều chẳng có. Đấy là [nói các loại
người] học pháp Đại Thừa. Ở đây là nói
về chân thiện Sát-đế-lợi vương, chân thiện
Thú-đạt-la, tức là bốn chủng tánh đối với
tỳ-kheo phá giới, tỳ-kheo tŕ giới, hoặc tỳ-kheo
chẳng có giới nào, đều chẳng phân biệt, cứ
nhất loạt chửi bới, hủy
báng, rủa xả, quở trách, năo loạn, thậm chí c̣n tước
đoạt y bát chẳng cho họ thọ dụng. Hết
thảy những vật dụng cần thiết trong cuộc
sống của họ đều bị tước đoạt,
họ c̣n có thể sống sót hay chăng? Họ sẽ chẳng
thể sống sót, cho đến c̣n bị giam cầm trong
tù ngục.
(Kinh) Như thị bát vô nhất thiết
nhân quả Đoạn Diệt Luận giả, tuy tại
nhân trung, thật thị La Sát, ư đương lai thế,
vô số đại kiếp, nan đắc nhân thân. Ninh tại
địa ngục, thọ vô lượng khổ, bất xử
nhân trung, khởi Đoạn Diệt Kiến. Như thị
si nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế
khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất
ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan
nhẫn. Mạng chung, định sanh Vô Gián địa ngục. Ư chư
ác thú, luân chuyển văng lai, thọ chư khổ năo, nan khả
cứu tế, đa bách thiên kiếp, nan phục nhân thân. Tuy
quá vô lượng, vô số kiếp dĩ, hoàn đắc nhân
thân, nhi sanh ngũ trược, vô Phật thế giới, sanh
manh, sanh lung, ấm, á, vô thiệt, chủng chủng trọng
bệnh, thường sở anh triền, hoặc thân toa xú, nhân
bất hỷ kiến. Ngôn từ chuyết nột, nhĩ sở
ác văn. Tâm
thường mê loạn, vô sở giải liễu, sanh bần
cùng gia, chúng sự khuyết phạp, bất phùng thiện hữu,
tùy ác hữu hành, nhạo tác ác nghiệp, háo chấp ác kiến,
tạo Vô Gián tội, phục hoàn trùng đọa Vô Gián
địa ngục, chuyển luân ác thú, nan hữu xuất kỳ.
(經)如是撥無一切因果斷滅論者,雖在人中,實是羅剎,於當來世無數大劫難得人身。寧在地獄受無量苦,不處人中起斷滅見。如是癡人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄,於諸惡趣輪轉往來,受諸苦惱難可救濟,多百千劫難復人身。雖過無量無數劫已,還得人身,而生五濁無佛世界,生盲生聾,瘖啞無舌,種種重病常所嬰纏;或身矬醜,人不喜見;言詞拙訥,耳所惡聞;心常迷亂,無所解了;生貧窮家,眾事闕乏;不逢善友,隨惡友行;樂作惡業,好執惡見,造無間罪,復還重墮無間地獄,轉輪惡趣難有出期。
(Kinh: Kẻ bài bác không có hết thảy
nhân quả, tin theo Đoạn Diệt Luận như thế,
tuy ở trong loài người, thật sự là La Sát. Trong đời
tương lai, vô số đại kiếp, khó được
làm người. Thà ở trong địa ngục chịu vô
lượng khổ, chẳng làm người mà dấy lên Đoạn
Diệt Kiến! Kẻ si như thế, chẳng lâu sau sẽ
bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều
ngày đêm, bị
đớ lưỡi, chẳng thể nói được. Hứng
chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực
khó thể chịu đựng. Mạng chung, chắc chắn
sanh vào địa ngục Vô Gián. Luân chuyển qua lại
trong các đường ác, chịu các khổ năo, khó thể
cứu vớt, nhiều trăm ngàn kiếp, khó lại được
làm thân người. Tuy trải qua vô lượng vô số
kiếp sau, sẽ lại được làm người,
nhưng sẽ sanh trong thế giới ngũ trược, không
có Phật, mù điếc từ lúc lọt ḷng, ngọng, câm,
không lưỡi, đủ thứ bệnh nặng thường
ràng buộc tấm thân, hoặc thân thể lùn tịt, xấu
xí, người khác chẳng thích thấy, lời lẽ vụng
về, lắp bắp, tai nghe điều xấu, tâm thường
mê loạn chẳng hiểu biết ǵ. Sanh trong nhà bần cùng,
các sự thiếu khuyết, chẳng gặp bạn lành, hành
theo bạn ác, thích tạo ác nghiệp, thích chấp ác kiến,
tạo tội Vô Gián rồi lại đọa vào địa
ngục Vô Gián, luân chuyển trong đường ác, khó có
thuở thoát ra).
“Bát vô nhất thiết nhân quả, Đoạn
Diệt Luận giả” (bài bác không có hết thảy nhân
quả, tin theo Đoạn Diệt Luận): [Tức là kẻ
luôn khăng khăng cho rằng] “ta làm như vậy
chẳng phạm sai lầm, chẳng mắc quả báo”. Đấy
là Đoạn Diệt Luận. “Tuy tại nhân trung, thật
thị La Sát” (tuy ở trong loài người mà thật ra
là La Sát): Tuy
kẻ đó sanh trong loài người, nhưng đấy là
ma vương giết người, mà cũng là quỷ La Sát.
“Ư đương lai thế, vô số đại kiếp,
nan đắc nhân thân” [nghĩa là] sau đời này, trải
qua thời gian rất dài về sau, muốn khôi phục thân
người, sẽ rất khó khăn. Phải chịu vô
lượng khổ trong địa ngục. V́ sao người
ấy phải phá pháp, hủy báng Tăng và Phật như vậy?
V́ người ấy sanh khởi Đoạn Diệt Kiến,
hiểu sai bét nghĩa Không của Đại Thừa. Tiếp
đó, chúng ta sẽ giải thích vấn đề này.
“Như thị si nhân bất cửu tiện
đương chi thể phế khuyết” (Kẻ si như
thế chẳng bao lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, thiếu
khuyết): Tuy kẻ ấy chẳng tin nhân quả, nhân quả
sẽ t́m tới kẻ đó; khi [nhân quả] t́m đến,
kẻ đó sẽ chịu khổ. Hạng người ngu
si ấy chẳng có trí huệ, thân thể trong đời này sẽ “bất cửu chi thể phế khuyết” (chẳng lâu sau, chi thể
tàn phế, thiếu khuyết), hoặc là do sanh bệnh mà tàn
phế, thiếu khuyết, hoặc là như trong hiện tại,
bị tai nạn xe cộ, hoặc gặp thiên tai, thủy
tai, hỏa hoạn, đều có thể khiến cho tứ
chi của người ấy tàn khuyết, nhưng người
tàn phế v́ bệnh tật th́ nhiều. Trong một thời
gian rất dài, “ư đa nhật dạ, kết thiệt
bất ngôn” (trong nhiều ngày đêm, bị đớ lưỡi
chẳng thể nói): Lại c̣n chẳng thể nói được!
Do nguyên nhân nào? Bệnh khổ khiến cho người ấy
thành ra như vậy. Nghiệp báo chuyển đến thân người
ấy; đó gọi
là báo ứng do khởi Đoạn Diệt Kiến, khiến
cho người ấy đau khổ sâu đậm, rất
khó chịu đựng nổi. Sau khi mạng chung, nhất
định sanh vào địa ngục Vô Gián.
“Ư chư ác thú, luân chuyển văng lai”
(Luân chuyển qua lại trong các đường ác): “Ác thú”
(惡趣) là ba ác
đạo, tức địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
“Thọ chư khổ năo, nan khả cứu tế” (chịu
các khổ năo, khó thể cứu vớt), trải qua bao nhiêu
kiếp? “Đa bách thiên kiếp” (nhiều trăm ngàn
kiếp): Chẳng phải là một trăm ngàn kiếp, hai
trăm ngàn kiếp, mà là rất nhiều trăm ngàn kiếp.
Nếu muốn khôi phục thân người, tức là được
đầu thai làm người trong nhân gian, chẳng dễ
dàng! Ắt cần phải trải qua thời gian vô lượng kiếp
dài ngần ấy th́ mới có thể được làm thân
người. Đối với con số vô số kiếp ấy,
nếu nói theo tiểu kiếp th́ cũng là bao nhiêu vạn vạn
năm. Vô số kiếp nếu dùng thời gian trong nhân gian
để tính toán thời hạn th́ rất khó tính đếm.
“Nhi sanh ngũ trược, vô Phật thế giới”
(nhưng sanh trong thế giới ngũ trược, không có
Phật): Đấy
là Ngũ Trược, ác thế Kiếp Trược, Kiến
Trược, Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược,
và Mạng Trược. Tới khi ấy, [sẽ sanh vào] thế
giới chẳng có Phật, tức là sanh vào thời kỳ
giống như chúng ta trong hiện thời.
“Sanh manh, sanh lung” (mù bẩm sanh, điếc
bẩm sanh): Sanh ra đă là kẻ mù hay kẻ điếc,
chẳng được, trọn chẳng
phải là về sau bị bệnh [mới mù hay điếc].
Kẻ đó vừa sanh ra đă mù, hoặc sanh ra đă câm,
hay không có lưỡi, hoặc lưỡi ngắn, hoặc
lưỡi đặc biệt to, nói năng chẳng rơ ràng,
lại c̣n mắc phải đủ thứ bệnh nặng.
Hoặc là lúc c̣n thơ ấu đă bị đủ loại
bệnh tật quấn trói. Hiện thời, có đứa
trẻ c̣n chưa sanh mà đă bị nạo thai, v́ thai đă
chết trong bụng mẹ. Đó là do túc nghiệp trong quá
khứ của nó.
“Hoặc thân toa xú” nghĩa
là vừa lùn, vừa
xấu xí. “Nhân bất hỷ kiến” (người khác
chẳng thích gặp): Trong tâm kẻ khác chẳng ưa thích,
không muốn trông thấy, hoặc
nói chuyện với người đó. “Ngôn từ chuyết
nột”, “nột” (訥) là nói
lúng búng trong miệng, thường gọi là “nói lắp”.
Chẳng biết kẻ đó đang nói ǵ, nói không rơ ràng, một
câu phải nói cả buổi, vẫn chẳng thể nói rơ được.
Đó là cà lăm!
“Nhĩ sở ác văn” [nghĩa là] tai
chẳng nghe thấy, ư thức mê loạn, tinh thần phân
liệt. Có kẻ tinh thần phân liệt từ bé. Tôi đă
gặp rất nhiều kẻ như vậy, cầu niệm
Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ cho họ, cũng có người
được lành, có người dẫu niệm, vẫn
chẳng lành. Lứa năm ba tuổi cũng có, hoặc mười
mấy tuổi cũng có, v́ đủ mọi nguyên nhân như
kinh hoảng v.v… khiến cho tâm kẻ ấy thường mê
loạn, thứ ǵ cũng đều chẳng biết, tinh
thần phân liệt mà! Lại c̣n sanh vào gia đ́nh nhất
định là gia đ́nh nghèo khổ. Các vật dụng cần
thiết trong cuộc sống “chúng sự khuyết phạp” (các thứ thiếu thốn), [nghĩa là] thiếu ăn, thiếu mặc!
Người như vậy sanh trong t́nh huống
như vậy, lại c̣n có đủ thứ nhân duyên [chẳng tốt đẹp], há c̣n
có thể gặp gỡ người tốt lành ư? “Bất
phùng thiện hữu” (chẳng gặp bạn lành), chẳng
có nhân duyên ấy. Chẳng gặp bạn lành, bèn gặp bạn
ác, chơi với bạn bè toàn là bạn ác, cùng những kẻ
đó làm chuyện ác. “Nhạo tác ác nghiệp” (thích làm
nghiệp ác), “háo chấp ác kiến” (ưa chấp trước
ác kiến): Kẻ đó giải thích, nh́n nhận vấn
đề hết sức sai lầm, hết sức lệch
lạc, nhưng chấp trước chẳng buông bỏ được.
Tạo tội Ngũ Vô Gián như thế đó!
Ngũ Vô Gián rất nhiều, chịu khổ
chẳng gián đoạn, thời gian không gián đoạn.
Thời gian chịu khổ rất dài, chẳng như trong
nhân gian, từ lúc bị bệnh cho đến lúc lành bệnh
chỉ có một khoảng thời gian, tức là hữu gián
(có gián đoạn). Thời gian chịu khổ hữu gián,
[chẳng
hạn như] ở trong tù cũng có
thể ra khỏi tù. Thời gian thi hành án đă đủ, cũng có thể
thoát ra; đó đều là hữu gián. Ngục Vô Gián chẳng
có gián đoạn. Như trong địa ngục đó, có một
cái giường lớn, to hơn tám vạn dặm. Một
người nằm trên giường đó thọ tội,
thấy thân h́nh đầy chật cả giường. Một
vạn người cũng là thân đầy chật cả
giường. Đó là ư nghĩa “chẳng gián đoạn”.
Đă tạo loại tội này, sau khi sanh vào nhân gian, thọ
mạng của người như vậy vẫn chẳng
dài, sau khi chết đi, lại vào địa ngục Vô Gián,
tức là trở lại luân chuyển trong đường ác,
có thể từ địa ngục Vô Gián thoát ra, chuyển làm
người, vẫn c̣n đỡ. Nếu chẳng chuyển
sanh làm người, chắc là chuyển sang làm súc sanh, hay chuyển
sang ngạ quỷ đạo!
(Kinh) Như thị ngu si Đoạn Diệt
Luận giả, hoại loạn, hủy diệt ngă chi chánh
pháp, bức năo, trích phạt ngă chư đệ tử tŕ giới,
phá giới, cập vô giới giả, giai linh bất an tu chư
thiện phẩm. Do thị nhân duyên, đa bách thiên kiếp,
một chúng ác thú, tùng ám nhập ám, nan hữu xuất kỳ.
Như thị chúng sanh sở hữu tội báo, giai vi vị
cầu thính tập Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp,
tiên cầu thính tập vi diệu, thậm thâm Đại Thừa
chánh pháp. Như thị ngu si Đoạn Diệt Luận giả,
hạ liệt nhân thân, thượng nan khả đắc.
Huống đương năng thành hiền thánh pháp khí? Thượng
bất năng đắc Thanh Văn, Độc Giác sở
chứng Niết Bàn, huống đắc quảng đại
thậm thâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề? Như
thị chúng sanh sở hữu quá thất, giai do vị học
Thanh Văn Thừa pháp, Độc Giác Thừa pháp, tiên nhập
Đại Thừa.
(經)如是愚癡斷滅論者,壞亂毀滅我之正法,逼惱謫罰我諸弟子,持戒、破戒及無戒者,皆令不安修諸善品,由是因緣,多百千劫沒眾惡趣,從闇入闇,難有出期。如是眾生所有罪報,皆為未求聽習聲聞、獨覺乘法,先求聽習微妙甚深大乘正法。如是愚癡斷滅論者,下劣人身尚難可得,況當能成賢聖法器?尚不能得聲聞獨覺所證涅槃,況得廣大甚深無上正等菩提?如是眾生所有過失,皆由未學聲聞乘法、獨覺乘法,先入大乘。
(Kinh: Kẻ ngu si, theo Đoạn Diệt
Luận như thế phá hoại, rối loạn, hủy
diệt chánh pháp của ta, bức bách, năo hại, trừng
phạt các đệ tử tŕ giới, phá giới, và không
có giới của ta, đều khiến cho họ chẳng
an ổn tu các thiện phẩm. Do nhân duyên ấy, trải qua
nhiều trăm ngàn kiếp, ch́m đắm trong các đường
ác, từ chốn tối tăm vào chỗ tối tăm, khó
có thuở thoát ra. Tất cả tội báo của chúng sanh như
thế đều v́ chưa cầu nghe giảng, tu tập
pháp Thanh Văn và Độc Giác, mà trước đó đă
cầu nghe giảng, tu tập chánh pháp Đại Thừa vi
diệu rất sâu. Kẻ ngu si theo Đoạn Diệt Luận
như thế, thân người hèn kém c̣n khó thể được,
huống hồ là sẽ có thể trở thành pháp khí hiền
thánh ư? C̣n chẳng thể đắc Niết Bàn do Thanh
Văn hay Độc Giác đă chứng, huống hồ đạt
được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề
rộng lớn rất sâu ư? Tất cả lầm lỗi
của chúng sanh như thế đều là do chưa học
pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc Giác Thừa mà đă
nhập Đại Thừa trước).
“Như thị ngu si Đoạn Diệt Luận
giả” (Kẻ ngu si theo Đoạn Diệt Luận như
thế): Đây là kẻ tin theo Đoạn Diệt Luận,
bài bác không có nhân quả. “Hoại loạn, hủy diệt
ngă chi chánh pháp” (phá hoại, gây rối loạn, hủy diệt
chánh pháp của ta), khiến cho chánh pháp của đức Phật
bị hủy diệt. Nếu hủy diệt tức là diệt
pháp nhăn của chúng sanh, mọi người sẽ chẳng
có chánh pháp để có thể nghe. Kẻ đó ngăn trở
rất nhiều người, chướng ngại người
khác tin tưởng con đường của đức Phật.
“Bức năo, trích phạt ngă chư đệ tử tŕ giới,
phá giới, cập vô giới giả” (Bức bách, năo hại,
trừng phạt các đệ tử tŕ giới, phá giới,
và không có giới của ta), đối với đệ tử
của ta, bất luận tŕ giới, phá giới, và không có giới,
kẻ đó đều khiến cho họ chẳng thể an
tâm, tu tập thiện phẩm, chẳng thể tin tưởng
nhân quả, hành đạo, lễ Phật, bái sám. Các nhân duyên
ấy đều chẳng có. Kẻ ác ấy v́ nhân duyên trừng
phạt, phá hoại Phật pháp, hủy Tăng, báng đạo,
“đa bách thiên kiếp, một chúng ác thú” (trong nhiều
trăm ngàn kiếp, ch́m đắm trong các đường ác),
thường chịu khổ trong ba ác đạo. “Tùng ám nhập
ám” (từ chốn tối tăm vào chỗ tối tăm):
Từ chỗ hắc ám vẫn là vào chỗ hắc ám, dẫu
sanh vào nhân gian, người ấy cũng vẫn chẳng
phải là một người hoàn bị, mù, điếc, câm,
ngọng, mắc phải đủ thứ bệnh tật ngặt
nghèo.
“Tùng ám nhập ám, nan hữu xuất kỳ”
(từ tối tăm vào tối tăm, khó có thuở thoát
ra): Mong thoát ly loại khổ nạn ấy rất ư là khó. Tất cả
tội báo của chúng sanh như thế, như trong phần
trên đă nói tội báo nhiều ngần ấy, họ trót
phạm sai lầm, hứng chịu nỗi khổ và quả báo, đều
v́ “vị cầu thính tập Thanh Văn, Độc Giác Thừa
pháp, tiên cầu thính tập vi tế thậm thâm Đại
Thừa chánh pháp” (chưa cầu nghe giảng, tu tập
pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa, mà đă cầu
nghe, tu tập trước chánh pháp Đại Thừa vi tế,
rất sâu). Đối với cái quả báo ấy, bèn nêu ra
cái nhân, nhân ǵ vậy?
Do c̣n chưa nghe chánh pháp Tiểu Thừa, chẳng nghe pháp Nhị
Thừa, mà trước hết đă nghe chánh pháp Đại
Thừa.
Tôi nhớ thuở đầu, vào Phật Học
Viện, lăo pháp sư Từ Châu[3] buổi sáng giảng
Tứ Phần Giới, buổi chiều giảng kinh Hoa
Nghiêm, một đằng là pháp Tiểu Thừa, là pháp Tiểu
Thừa nhỏ nhất, một đằng là pháp Đại
Thừa viên măn nhất, Đại Thừa và Tiểu Thừa
kết hợp! Học pháp Tiểu Thừa nhằm kiểm
điểm các việc quư vị đă làm trong suốt một
ngày. Đối với các việc làm nơi thân, tâm, tâm quư vị
nghĩ những điều ǵ? Thân thể đă làm những
ǵ? Có thể kết hợp với kinh Hoa Nghiêm hay không? Nếu
chẳng thể kết hợp th́ làm như thế nào? Phải
sám hối! Học pháp Tiểu Thừa th́ phải sám hối
tội lỗi, cảnh giác, răn nhắc thân tâm của chính
ḿnh chớ nên buông lung, chớ nên cuồng vọng tự
đại; nhưng điều ấy chưa đủ, ắt
cần phải học pháp Đại Thừa th́ mới có
thể liễu sanh tử, mới có thể hoàn tất hai mươi
loại Đoạn, chứng Niết Bàn rốt ráo của Phật.
Nếu học pháp Đại Thừa, phải
nhận biết nhân quả thiện ác chẳng sai một mảy. Chớ
nên v́ học Đại Thừa bèn coi nhân quả thế
gian và xuất thế gian đều diệt mất. [Nếu
cho là như vậy], sai lầm mất
rồi! Nếu quư vị học pháp Đại Thừa th́ đối
với cái quả
Niết Bàn chứng đắc trong pháp Thanh Văn Thừa
và pháp Độc Giác Thừa, vẫn
phải hoằng dương rộng lớn, lại c̣n
phải khuyên hết thảy chúng sanh học tập.
Chúng ta học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, những điều nói trong nửa quyển đầu
và nửa quyển sau quả thực là hai việc khác nhau,
Nửa quyển đầu nói về thiện ác, nhân quả.
Chiêm sát thiện ác nhân quả, tức là xét coi quư vị làm
lành nhiều, hay làm ác nhiều, hăy tự ḿnh chiêm nghiệm
một phen! Thân, khẩu, ư của quư vị đều tồn
tại khá nhiều ác nghiệp. Quư vị đương
nhiên biết đời hiện tại, nhưng đời
quá khứ chẳng biết! Phải chiêm nghiệm xem trong đời
quá khứ vô lượng kiếp trước đă làm những
ǵ? Chiêm nghiệm đời sau, trong tương lai sẽ
sanh vào chỗ nào? Đấy là xét từ định nghiệp
của quư vị, nó sẽ chuyển hóa bởi sự tu hành
của quư vị, chẳng do định số ấy. Có thể
chiêm nghiệm Chiêm Sát Luân bất cứ lúc nào. Hôm nay, lúc chiêm
sát, quư vị thấy ḿnh có thể phải chịu khổ
báo. Hằng ngày bái sám, sáng ngày mốt lại
chiêm sát, có thể là [sẽ thấy]
tội nghiệp tiêu mất, khổ báo đă xong rồi,
chẳng c̣n nữa! Chiêm Sát là ư nghĩa này!
(Kinh) Thiện nam tử! Thí như hoại
b́nh, đa chư hà khích, thịnh du, nhũ đẳng, tận
giai sấm lậu. Năng
thịnh, sở thịnh, nhị câu hoại thất. Sở
dĩ giả hà? Khí hữu thất cố. Như thị
chúng sanh, ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa
pháp, vị tác cù lao, chánh cần tu học, căn cơ vị
thục, căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu,
nhược hữu vị thuyết vi diệu, thậm thâm
Đại Thừa chánh pháp, thuyết thính nhị nhân, câu hoạch
đại tội, diệc vị vi nghịch nhất thiết
chư Phật, sở hữu quá thất, quảng thuyết
như tiền. Thí như thế gian khố tạng đồi
huyệt, trí chư bảo hóa, đa hữu tán thất.
Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, báng hủy
bất tín, bất khẳng tu học, vị thuyết Đại
Thừa, bất như thật giải, nhân thử tạo
tội, luân chuyển vô cùng. Thí như châu thuyền, đa
chư tiết lậu, bất nhậm thừa tải, phiếm
ư đại hải.
(經)善男子,譬如壞瓶多諸瑕隙,盛油乳等盡皆滲漏,能盛所盛,二俱壞失。所以者何?器有失故。如是眾生,於聲聞乘、獨覺乘法,未作劬勞正勤修學,根機未熟,根機下劣,精進微少;若有為說微妙甚深大乘正法,說聽二人俱獲大罪,亦為違逆一切諸佛,所有過失廣說如前。譬如世間庫藏頹穴,置諸寶貨多有散失;如是眾生於二乘法謗毀不信,不肯修學,為說大乘不如實解,因此造罪輪轉無窮。譬如舟船多諸泄漏,不任乘載泛於大海。
(Kinh: Này thiện nam tử! Ví như cái
b́nh hư hoại, có nhiều vết rạn, kẽ nứt,
đựng dầu, sữa v.v… sẽ đều bị ṛ rỉ
hết. Đồ chứa đựng và thứ để
chứa đựng, cả hai đều hư mất. V́ cớ
sao vậy? Do v́ đồ đựng có khuyết điểm.
Chúng sanh cũng giống như thế, đối với các
pháp thuộc Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa chưa
nhọc nhằn, siêng năng tu học chánh đáng, căn cơ
chưa chín muồi, căn cơ kém hèn, tinh tấn ít ỏi.
Nếu có người v́ kẻ đó nói chánh pháp Đại
Thừa vi diệu rất sâu, người nói lẫn kẻ
nghe, hai đằng đều mắc tội lớn, mà cũng
trái nghịch hết thảy chư Phật, tất cả
lầm lỗi như đă nói rộng trong phần trên. Ví
như kho chứa trong thế gian cũ nát, có hang hốc, th́ các
thứ của báu, hàng hóa chứa trong ấy, phần nhiều
sẽ bị thất tán. Chúng sanh cũng giống như thế,
hủy báng chẳng tin pháp Nhị Thừa, chẳng chịu
tu học, mà v́ họ nói Đại Thừa, họ sẽ
chẳng hiểu đúng như thật. Do vậy bèn tạo
tội, luân chuyển vô cùng. Ví như tàu, thuyền, có nhiều
chỗ bị ṛ rỉ, chẳng thể chuyên chở, vượt
qua biển cả được).
“Thiện nam tử! Thí như hoại b́nh”
(Này thiện nam tử! Ví như cái b́nh đă hư hoại).
“Hoại b́nh” là cái b́nh c̣n chưa nung, c̣n chưa nắn
kỹ, c̣n có những lỗ thủng,
kẽ nứt, kẽ hở. [Cái b́nh] như vậy mà quư vị
dùng để đựng dầu, đựng sữa, có bị
chảy mất hay không? “Tận giai sấm lậu” (đều
bị ṛ rỉ hết)! V́ lẽ nào? Chẳng phải là đồ
đựng [thích hợp] để chứa đựng, chẳng
phải là đồ đựng rất tốt, đựng
ǵ rồi cũng sẽ mất đi. Dụng cụ chứa
đựng ấy cũng hư hoại, đó là món đồ
ấy có khuyết điểm. Cũng có nghĩa là người
thuyết
pháp đối với người thọ pháp, phải xét
xem kè nghe
là căn khí nào, đáng nên nói pháp nào, như thế th́ kẻ ấy
sẽ
có thể tiếp nhận. Nếu kẻ ấy chẳng
phải là căn khí ấy, mà là [căn khí] Thanh Văn hay Độc
Giác Thừa, chẳng nói cho họ nghe chánh pháp Thanh
Văn hay Độc Giác Thừa, lại ngược ngạo
nói chánh pháp Đại Thừa. Đó gọi là “phi khí” (chẳng phải là căn
khí).
Nêu một thí dụ, như Thiền Tông Trung
Hoa, do thời đại bức bách, chẳng có kinh luận
để có thể học. Vào thời Tam Vũ diệt Phật, riêng ḿnh Thiền Tông hưng
thịnh v́ kinh nào cũng chẳng phải học, mà cũng
chẳng cần niệm Phật. [Nghe ngài Triệu Châu nói] “niệm Phật
một tiếng, súc miệng hai ngày” [bèn tưởng rằng thật sự phải làm như thế, v́ niệm Phật
sẽ làm] cho miệng chẳng sạch sẽ suốt ba ngày! Hàm nghĩa
chẳng phải là như vậy! [Ngài Triệu Châu nói như
vậy], v́ đó là thuần túy Đại Thừa [dùng tự lực để tu], chẳng
cậy vào một tí phương tiện nào. Đó là tham cứu
để đốn ngộ, minh tâm kiến tánh. Nhưng điều
này đă dưỡng thành thói quen ǵ? Từ đời Đường
cho đến nay, người ở trong Thiền Đường
rất ít học pháp. Quư vị
giảng kinh tại đó, họ cũng chẳng nghe, cũng
chẳng đến Niệm Phật Đường. Họ
ở lỳ trong Thiền đường, ngoài ăn no, ngủ
kỹ ra, vẫn là ngủ kỹ, ăn no, cứ mịt mờ
như thế. Thậm chí tụng niệm công khóa, quá đường, họ đều
trốn tránh, chuyện ǵ cũng đều chẳng tin. Đó
là rất nguy hiểm. Vẫn chẳng bằng niệm Phật
trong Niệm Phật Đường, hoặc học giáo lư
trong học đường, vẫn tốt hơn!
Khi học giáo nghĩa, vị pháp sư nào dạy
quư vị, cũng đều là dạy từ Tiểu đến
Đại. chẳng phải là vừa mới học bèn học
ngay Đại Thừa. Quư vị ở trong Phật Học
Viện, cũng phải nói tám thức, phân tích ư niệm của
quư vị, cho đến điều phục tốt đẹp
ba nghiệp thân, khẩu, ư của quư vị th́ mới có thể
tiến nhập Đại Thừa. Nếu không, sẽ giống
như cái b́nh nứt, c̣n mong đựng thứ ǵ được
nữa? Cái b́nh đă hư rồi, đồ đựng cũng
mất đi. Do vậy nói: Khi chúng
sanh “ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp,
vị tác cù lao, chánh cần tu học” (đối với
pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc Giác Thừa, chưa
vất vả siêng năng chánh đáng tu học), căn cơ
chưa chín muồi, căn cơ hèn kém, lại chẳng có sức
tinh tấn, nếu nói đại pháp vi diệu rất sâu
cho họ, “thính thuyết nhị nhân, câu hoạch
đại tội” tức là người
nói lẫn kẻ nghe đều có tội. “Diệc vị
vi nghịch nhất thiết chư Phật” (cũng là trái nghịch
hết thảy chư Phật), tất cả lỗi lầm
đă nói cặn kẽ như trong phần trước. Ví
như nhà kho trong thế gian mà hư nát, có hang hốc, th́ những
thứ quư báu, hàng hóa đặt trong ấy sẽ phần
nhiều bị thất lạc. Căn nhà quư vị dành để
đựng hàng hóa [mà rách nát như vậy th́] không chỉ là
bảo thạch cất giữ mà lương thực cũng
bị mất, v́ trong ấy có hang hốc, người khác
có thể tiến vào. Nơi ấy đă hư nát rồi!
“Ư Nhị Thừa pháp, báng hủy, bất
tín, bất khẳng tu học” (Đối với pháp Nhị
Thừa, hủy báng, chẳng tin, không chịu tu học): Đối
với pháp Nhị Thừa đă chẳng tin, mà cũng chẳng
tu học. Nói với họ pháp Đại Thừa, họ có
thể tiếp nhận ư? Chẳng thể lănh hội được!
V́ vậy, tạo tội, luân chuyển trong tam ác đạo,
chịu khổ vô cùng. “Thí như châu thuyền, đa chư
tiết lậu” (ví như tàu, thuyền, có nhiều chỗ
ṛ rỉ), thuyền đă thủng, chẳng c̣n là một
chiếc thuyền tốt. “Bất nhậm thừa tải,
phiếm ư đại hải” (chẳng thể chuyên
chở, vượt biển cả được): Nếu
nhờ chiếc thuyền ấy để vượt đại
dương, quư vị sẽ vùi thân trong biển cả!
(Kinh) Như thị chúng sanh, đa hoài
xan tật, ư Nhị Thừa pháp, vị tằng tu học,
vọng hiệu Đại Thừa, thật hoài Đoạn
Kiến, kiêu mạn, siểm khúc, thành tiết lậu thân, bất
kham bằng nhập Nhất Thiết Trí hải. Thí như hữu
nhân, kỳ mục manh cổ, bất kham tŕnh thị chủng
chủng trân bảo. Như thị chúng sanh kiêu mạn, phóng
dật, chấp trước Không kiến, bất học Nhị
Thừa, manh vô huệ mục, bất nhậm hiển thị
vô thượng Đại Thừa công đức trân bảo.
Thí như hữu nhân, kỳ thân xú uế, tuy dĩ chủng
chủng thượng diệu hương đồ, nhi cánh
bất năng linh thân hương khiết. Như thị chúng
sanh, ngu si, kiêu mạn, ư Nhị Thừa pháp, bất nhạo
cần tu, bất đoạn sát sanh, năi chí tà kiến. Tuy cần
thính thọ vô thượng Đại Thừa, nhi cánh bất
năng giải thậm thâm pháp. Thí như thạch điền,
tuy thực hảo chủng, cần gia doanh nậu, chung vô quả
thật. Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, kiêu
mạn, giải đăi, bất nhạo cần tu, tham cầu
ngũ dục, tằng vô yếm quyện, tuy ư
bỉ thân, thực Đại Thừa chủng, tinh tấn
cần khổ, chung vô sở thành. Thí như ung khí, tiên trữ
độc dược, đầu thiểu thạch mật,
bất nhậm thực dụng. Như thị chúng sanh, ư
Nhị Thừa pháp, bất khẳng tu học, chấp vô nhân
luận, vị thuyết Đại Thừa, chung bất năng
thành tự tha lợi ích.
(經)如是眾生多懷慳嫉,於二乘法未曾修學,妄號大乘,實懷斷見,憍慢諂曲成泄漏身,不堪憑入一切智海。譬如有人,其目盲瞽,不堪呈示種種珍寶;如是眾生憍慢放逸,執著空見,不學二乘,盲無慧目,不任顯示無上大乘功德珍寶。譬如有人,其身臭穢,雖以種種上妙香塗,而竟不能令身香潔;如是眾生愚癡憍慢,於二乘法不樂勤修,不斷殺生乃至邪見,雖勤聽受無上大乘,而竟不能解甚深法。譬如石田,雖植好種,勤加營耨,終無果實;如是眾生於二乘法,憍慢懈怠,不樂勤修,貪求五欲,曾無厭倦,雖於彼身植大乘種,精進勤苦,終無所成。譬如甕器,先貯毒藥,投少石蜜,不任食用;如是眾生於二乘法不肯修學,執無因論,為說大乘,終不能成自他利益。
(Kinh: Chúng sanh như thế, trong tâm có nhiều
điều keo kiệt, ghen ghét, chưa từng tu học pháp
Nhị Thừa, xằng bậy xưng là Đại Thừa,
thật sự ôm giữ Đoạn Kiến, kiêu căng, ngạo mạn,
siểm khúc, trở thành cái thân ṛ rỉ, chẳng kham tiến
nhập biển Nhất Thiết Trí. Ví như có người,
con mắt đui mù, chẳng thể chỉ cho người
đó thấy các thứ trân bảo. Cũng giống như
thế, chúng sanh kiêu mạn, buông lung, chấp trước
Không Kiến, chẳng học Nhị Thừa, mù ḷa, không có
con mắt Huệ, chẳng kham hiển thị công đức
trân bảo Đại Thừa vô thượng. Ví như có người,
thân thể hôi bẩn, tuy dùng các thứ hương tốt đẹp
nhất để bôi lên,
trọn chẳng thể khiến cho thân thể thơm sạch
được. Cũng giống như thế, chúng sanh ngu
si, kiêu căng, ngạo mạn,
chẳng thích siêng tu pháp Nhị Thừa, chẳng đoạn
sát sanh, cho đến tà kiến. Tuy siêng năng nghe, nhận
Đại Thừa vô thượng, nhưng trọn chẳng
thể hiểu pháp rất sâu. Ví như ruộng toàn đá,
dẫu gieo hạt giống tốt, siêng năng chăm bón,
cày cuốc, trọn chẳng có quả hạt. Cũng giống
như thế, chúng sanh đối với pháp Nhị Thừa
mà kiêu mạn, giải đăi, chẳng ưa siêng tu, tham cầu
ngũ dục, chưa từng chán mệt. Nơi thân người
ấy, tuy đă gieo chủng tánh Đại Thừa, tinh tấn,
siêng khổ, trọn chẳng thành tựu. Ví như cái ṿ, trước
đó đă chứa thuốc độc, bỏ thêm chút thạch
mật, chẳng thể dùng để ăn được.
Cũng giống như thế, chúng sanh chẳng chịu tu
học pháp Nhị Thừa, chấp trước luận
thuyết “không có cái nhân”, dẫu v́ kẻ đó nói Đại
Thừa, trọn chẳng thể thành tựu lợi ích cho
ḿnh lẫn người).
Người học pháp ấy “đa hoài
xan tật, ư Nhị Thừa pháp” (tâm nhiều keo kiệt,
ghen tỵ, đối với pháp Nhị Thừa) người
ấy chẳng tu học. “Vọng hiệu Đại Thừa”
tức là hư vọng, tự xưng là Đại Thừa.
Trên thực tế là “thật hoài Đoạn Kiến”
(thật sự ôm ấp tri kiến Đoạn Diệt), Đoạn
Diệt Kiến th́ chẳng tin tưởng nhân quả. V́ Thanh
Văn, Duyên Giác phải nói về nhân quả, nói về báo ứng.
Pháp tắc Đại Thừa là nói Không Kiến, bất quá
Không Kiến của kẻ đó thật ra là Đoạn Diệt
Không Kiến, tức là Đoạn Kiến, chẳng phải
là Không Kiến thật sự. V́ sao đức Phật thuyết
pháp, có lúc chẳng nói Hữu, mà nói đến Phi Hữu? Có
lúc nói về Không th́ chẳng nói là Không, mà nói là Phi Không? Dụng ư là để
quư vị đừng chấp trước. Quư vị đừng
nên chấp trước Hữu; cái Hữu ấy là phi hữu.
Cũng đừng nên chấp trước Không, cái Không ấy
là Phi Không, như vậy bèn cũng Có cũng Không. Đó gọi
là tứ cú (bốn câu): “Không, có; chẳng phải có chẳng
phải không; cũng có cũng không”; bốn câu như thế
đó. Hết thảy các pháp do đức Phật đă nói
đều ĺa khỏi bốn câu, v́ những câu ấy đều
chẳng chánh xác!
Giống như kẻ mù, quư vị bày đủ
thứ trân bảo trước mặt kẻ đó, kẻ đó
vẫn chẳng trông thấy, chẳng thể tiếp nhận.
Hàng Nhị Thừa khi chưa tu học, toan dùng cái thân toàn là
Lậu Hoặc để mong tiến
vào biển Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể được!
Người như thế giống hệt như kẻ mù,
ngay cả trân bảo cũng chẳng thể nhận biết.
Chúng sanh như thế tự ôm ḷng kiêu căng,
ngạo mạn, vốn thuộc loại “vô học bất
thuật” (chẳng có học
thức mà cũng chẳng có tài năng ǵ), vẫn cứ ngỡ chính ḿnh trác tuyệt, cứ buông
lung, lười nhác.
“Chấp trước Không Kiến, bất
học Nhị Thừa”: Chấp trước Không Kiến
th́ Không có rất nhiều loại. “Manh vô huệ mục”
(mù ḷa, chẳng có con mắt Huệ): Chẳng hiển
thị công đức trân bảo Đại Thừa vô thượng.
Quư vị cho kẻ đó trân bảo Đại Thừa, tức
pháp Đại Thừa, kẻ đó chẳng nhận biết!
“Thí như hữu nhân, kỳ thân xú uế, tuy dĩ chủng
chủng thượng diệu hương đồ, nhi cánh
bất linh kỳ thân hương khiết” (ví như có kẻ
thân thể hôi bẩn, tuy dùng các thứ hương tốt
nhất để bôi, trọn chẳng thể khiến cho
thân thể thơm sạch): “Xú uế” là do ghẻ lở
hoặc chảy mủ, tuy quư vị cho người ấy
xức cả đống nước hoa, vẫn chẳng
có cách nào!
“Bất đoạn sát sanh, năi chí tà kiến”
(chẳng đoạn sát sanh, cho đến tà kiến): Kẻ
đó nói “sát sanh chẳng
có tội”. Lại
giống như có người nói “lợn, dê sanh ra để
làm thức ăn cho con người”. Đó gọi là “tà kiến”.
Cho đến nói “quư vị làm ác, hại người, nhất
định thọ báo, hại người rốt cuộc
là hại ḿnh”. Chúng ta nói như vậy, kẻ đó chẳng
tin! Hắn chỉ thấy người sống hưởng
lạc, chẳng thấy người chết chịu tội!
Kẻ đó chẳng có trí huệ, làm sao có thể thấy
cho được? Điều này thuộc về tà kiến.
Tuy kẻ đó vẫn nghe Đại Thừa rất siêng năng,
nhưng “bất năng giải thậm thâm pháp” tức
là chẳng thể hiểu
pháp nghĩa rất sâu, cho nên chẳng ngộ được!
“Thí như thạch điền” (ví như thửa ruộng
toàn đá): Đất ruộng toàn là đá lổn nhổn,
làm sao có thể gieo hạt giống cho nổi? Nếu quư vị
gieo xuống, chẳng thể nào kết hạt được!
Do vậy, “chúng sanh ư pháp
Nhị Thừa, kiêu mạn, giải đăi, bất nhạo
cần tu” (chúng sanh đối với pháp Nhị Thừa
mà kiêu căng, ngạo mạn,
lười nhác, chẳng thích siêng tu): V́ sao chẳng thích siêng
tu? “Tham cầu ngũ dục”: Tham luyến cảnh giới
ngũ dục, kẻ đó sẽ giải đăi, cũng chẳng
phiền chán, cũng chẳng siêng tu. “Tuy ư bỉ thân
thực Đại Thừa chủng” ư nói quư vị đă
gieo chủng tử Đại Thừa cho các chúng sanh ấy,
nhưng họ toàn là ruộng đá, chẳng thể sanh trưởng,
mà họ cũng chẳng siêng ṛng tu học. “Chung vô sở
thành” (trọn chẳng thành tựu): Từ đầu đến
cuối chẳng có thành tựu. Chẳng hạn như chúng
ta đọc kinh Địa Tạng, chúng ta cho rằng kinh Địa
Tạng là Đại Thừa hay Tiểu Thừa? Nói là Đại
Thừa, th́ kinh toàn giảng về nỗi khổ trong địa
ngục. Nói là Tiểu Thừa th́ Địa Tạng Bồ
Tát chuyện ǵ cũng đều gia tŕ quư vị. Tam thừa
đạo quả, quư vị đều có thể đạt
được từ kinh Địa Tạng. Do vậy, kinh
ấy chẳng phải Đại, mà cũng chẳng phải
Tiểu, mà cũng là Đại, cũng là Tiểu, tùy thuộc
người lănh hội, tùy thuộc quư vị có suy nghĩ
như thế nào, thuộc loại pháp khí nào?
Chúng ta nói Tam Quy, Ngũ Giới. Bước đầu
tiên để nhập Phật môn là phải thọ Tam Quy,
Ngũ Giới. Tam Quy, Ngũ Giới thuộc Đại Thừa
hay Tiểu Thừa? Trọn chẳng có ai phán định Tam
Quy, Ngũ Giới là Tiểu Thừa, mà cũng chẳng có
ai phán định Tam Quy, Ngũ Giới là Đại Thừa.
Nếu quư vị thọ Tam Quy, Ngũ Giới, măi cho đến
khi phát Bồ Tát tâm lợi ích chúng sanh, th́ sẽ là Đại
Thừa. Sau khi quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
chán ĺa thế gian, mong cầu xuất ly, trước hết
chỉ lo cho chính ḿnh, chẳng quan tâm tới ai khác, th́ sẽ
là Tiểu Thừa. Hết thảy các pháp chẳng có lớn
hay nhỏ, chỉ tùy thuộc dụng tâm như thế nào?
Nhưng ở đây, theo thứ tự, xét theo giáo nghĩa
của đức Phật, như kinh A Hàm là Tiểu Thừa,
kinh Bát Nhă là Đại Thừa. Kinh A Hàm cũng có ư nghĩa
Đại Thừa, nhưng chúng ta chẳng lănh hội được.
Đức Phật thuyết pháp chẳng đơn thuần,
trọn chẳng phải là Tiểu th́ tuyệt đối Tiểu,
Đại th́ tuyệt đối là Đại, chẳng phải
như vậy! Phật pháp chẳng có pháp cố định,
dựa theo tâm mà lập, chiếu theo cái tâm chúng sanh của những người học Phật như chúng ta
để lập ra pháp Đại Thừa hay Tiểu Thừa.
“Thí như ung khí, tiên trữ độc
dược, đầu thiểu thạch mật, bất nhậm
thực dụng” (ví như cái ṿ, trước
đó đă chứa
độc dược, bỏ vào chút thạch mật, sẽ
chẳng thể dùng để ăn): Hoặc là một cái
bát, cái ṿ, hoặc là một cái lu, tùy tiện lấy một
món đồ đựng nào đó, trong quá khứ đă chứa
thuốc độc, nếu quư vị chẳng rửa sạch,
lại bỏ thạch mật vào đó. Thạch Mật (石蜜) là đường
phèn, tuy đă biến đổi, nhưng vẫn chẳng
thể ăn. Ăn vào, sẽ bị trúng độc. Giải
quyết vấn đề như thế nào? “Như thị
chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, bất khẳng tu học,
chấp vô nhân luận” (cũng giống như thế, chúng
sanh đối với pháp Nhị Thừa chẳng chịu
tu học, chấp trước luận thuyết “chẳng
có cái nhân”), tức là chẳng nói nhân quả, [đó là] Vô Nhân Luận.
Quư vị nói pháp Đại Thừa cho người như vậy,
người ấy có thể thành tựu lợi ích cho ḿnh lẫn
người hay không? Không chỉ là chẳng thể lợi ích
cho người khác, mà ngay cả chính ḿnh cũng chẳng đạt
được lợi ích!
(Kinh) Thí như ung khí, tiên trữ thạch
mật, đầu thiểu độc dược, bất
nhậm thực dụng.
Như thị chúng sanh, tinh cần tu học Nhị Thừa
chánh pháp do vị thành tựu, vị thuyết Đại Thừa,
nhị câu hoại thất. Thí như hữu nhân, si cuồng,
tâm loạn, vị tác âm nhạc, bất năng liễu tri.
Như thị chúng sanh ư Nhị Thừa pháp, vị tằng
tu học, tham, sân, si đẳng mănh lợi phiền năo, nhiễu
loạn kỳ tâm, chấp trước vô nhân, cập Đoạn
Diệt Luận, căn cơ vị thục, vị thuyết
Đại Thừa, tuy kinh đa thời, nhi bất
năng giải. Thí như hữu nhân bất trước giáp
trụ, bất tŕ đao, trượng, triếp nhập trận
trung, tất tao thương hại, thọ chư khổ năo.
Như thị chúng sanh, ư Nhị
Thừa pháp, vị tằng tu học, trí huệ hiệp liệt,
căn khí vị thành, vị thuyết Đại Thừa, tất
sanh vọng chấp. Do thử triển chuyển, tạo ác
vô cùng. Như thị si nhân, bất cửu tiện đương
chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết
thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống
thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián
địa ngục, ư chư ác thú, luân chuyển văng lai. Ưng tri như
tiền thứ đệ quảng thuyết.
(經)譬如甕器,先貯石蜜,投少毒藥,不任食用;如是眾生精勤修學,二乘正法猶未成就,為說大乘,二俱壞失。譬如有人癡狂心亂,為作音樂不能了知;如是眾生於二乘法未曾修學,貪瞋癡等猛利煩惱擾亂其心,執著無因及斷滅論,根機未熟,為說大乘,雖經多時而不能解。譬如有人不著甲冑,不持刀杖,輒入陣中,必遭傷害受諸苦惱;如是眾生於二乘法未曾修學,智慧狹劣,根器未成,為說大乘,必生妄執,由此展轉造惡無窮。如是癡人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄,於諸惡趣輪轉往來,應知如前次第廣說。
(Kinh: Ví như cái ṿ chứa, trước
đó chứa thạch mật, bỏ vào một chút độc
dược, chẳng dùng để ăn được.
Chúng sanh cũng như thế, siêng ṛng tu học chánh pháp Nhị
Thừa vẫn chưa thành tựu, mà v́ họ
nói Đại Thừa, th́ hai đằng đều hư
hoại, mất đi. Ví như có người, si cuồng,
loạn tâm, v́ kẻ đó mà tấu âm nhạc th́ kẻ đó
chẳng thể hiểu biết. Chúng sanh cũng như thế,
chưa từng tu học pháp Nhị Thừa, phiền năo tham,
sân, si v.v… mạnh mẽ, nhiễu loạn cái tâm, chấp
trước không có cái nhân và Đoạn Diệt Luận, căn
cơ chưa chín muồi, v́ họ mà nói Đại
Thừa, dẫu trải qua nhiều thời gian, họ vẫn
chẳng thể hiểu. Ví như có người chẳng mặc
giáp trụ, chẳng cầm đao, gậy, xông bừa vào
trận, ắt bị tổn thương, chịu các khổ
năo. Chúng sanh cũng như thế, chưa từng tu học
pháp Nhị Thừa, trí huệ hẹp kém, chưa thành căn
khí, mà v́ họ
nói Đại Thừa, họ ắt sanh chấp trước
xằng bậy. Do vậy, xoay vần tạo ác vô cùng. Kẻ
si như thế chẳng lâu sau, sẽ bị tứ chi tàn
phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm, đớ
lưỡi chẳng thể nói, chịu các khổ độc,
đau đớn cùng cực khó nhẫn. Mạng chung, nhất
định sanh vào địa ngục Vô Gián, ở trong các đường
ác, luân chuyển qua lại. Hăy nên biết
như trong phần trên đă theo thứ tự nói cặn kẽ).
“Thí như ung khí, tiên trữ thạch mật”
(Ví như cái ṿ, trước
hết chứa thạch mật): Quư vị cho vào đó một
tí thuốc độc, một chút là được rồi,
quư vị vẫn chẳng thể ăn được, ăn
vào sẽ bị trúng độc
chết. “Như thị chúng sanh, tinh cần tu học Nhị
Thừa chánh pháp, do vị thành tựu” (chúng sanh như thế,
siêng ṛng tu học chánh pháp Nhị Thừa, vẫn chưa thành
tựu): Cũng giống như có hạng chúng sanh tu pháp Nhị
Thừa, v́ giải đăi, tu ǵ cũng đều chẳng
thành tựu. Nếu lại nói pháp Đại Thừa cho họ, Nhị Thừa
đă hỏng rồi, Đại Thừa cũng hư luôn,
hai đằng họ đều chẳng thể thành tựu
được! “Thí như hữu nhân, si cuồng tâm loạn,
vị tác âm nhạc, bất năng liễu tri” (Ví như
có người, si cuồng, tâm loạn, v́ kẻ ấy tấu
âm nhạc, [kẻ đó] chẳng thể hiểu biết):
Tâm kẻ đó đă loạn rồi, quư vị gảy đàn
hoặc ca hát cho kẻ đó nghe, thứ ǵ cũng đều
chẳng lọt tai. Giống như chúng sanh chưa từng
tu học pháp Nhị Thừa, tham, sân, si rất mạnh mẽ,
phiền năo nhiễu loạn cái tâm kẻ đó. Kẻ đó
“chấp trước vô nhân” (chấp trước “chẳng có cái
nhân”), quư vị
nói ǵ, kẻ đó cũng chẳng nghe, v́ kẻ đó chấp
trước Đoạn Diệt Luận. Đối với
người như vậy, quư vị nói pháp ǵ cũng chẳng
thành. Dẫu quư vị
nói bao lâu đi nữa, kẻ đó cũng chẳng thể
lư giải!
“Thí như hữu nhân, bất trước
giáp trụ, bất tŕ đao, trượng, triếp nhập
trận trung, tất tao thương hại, thọ chư
khổ năo” (Ví như có người chẳng mặc giáp
trụ, chẳng cầm đao, gậy, xông bừa vào trận,
ắt bị tổn thương, chịu các khổ năo): Đấy
là nói trong lúc chiến tranh, ra trận,
đều phải khoác khôi giáp, bên trong c̣n mặc thêm áo giáp.
“Trụ” (冑) là thứ
mặc bên trong. “Khải giáp” (鎧甲) là thứ
khoác bên ngoài. Tôi ở Tây Tạng, thấy hằng năm vào
tiết Xuân, họ đua ngựa, bắn cung, đều đội thiết
khôi[4], đeo thiết giáp
khá nặng. Ngựa hiện thời căn bản là chẳng
chịu nổi. Bộ thiết khôi thiết giáp ấy nặng
cả trăm cân, lại thêm thân người nặng một
trăm cân nữa, c̣n phải có người tới giúp th́
mới mặc được, đều bằng sắt thật
sự. Họ diễn tuồng vẫn chỉ là h́nh dung. Tây
Tạng diễn tuồng sử dụng thiết khôi, thiết
giáp thật sự để kéo cung, bắn tên. Nếu ngay
cả những thứ này mà quư vị chẳng pḥng hộ kỹ
càng, trong tay chẳng có đao, mà cũng chẳng có cung tên,
chỉ là hai nắm tay trống rỗng mà xông vào trận đánh
nhau, không được rồi! Hiện thời, càng không thể!
Hiện thời dùng súng ống, lại
khác hẳn thời ấy!
Do vậy, nói pháp Đại Thừa cho kẻ
đó, hắn chẳng rơi vào Đoạn Diệt Kiến,
th́ cũng rơi vào Thường Kiến, sẽ chấp
trước hai bên. Do vậy mà lần lượt tạo ác
vô cùng, tạo ra rất nhiều sai trái. Kẻ cuồng si
không có trí huệ như thế, chẳng lâu sau sẽ bị
tứ chi tàn phế, thiếu khuyết. Do hủy báng Tam Bảo,
mờ mịt nhân quả. “Ư đa nhật dạ, kết
thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống
thiết nan nhẫn” (trong nhiều ngày đêm, bị đớ
lưỡi, chẳng thể nói được, chịu các
khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể
chịu đựng). Sau khi mạng chung, nhất định
sanh vào địa ngục Vô Gián. “Ư chư ác thú, luân chuyển
văng lai, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng
thuyết” (Luân chuyển qua lại trong các đường
ác, hăy nên biết như đă nói cặn kẽ theo thứ tự
trong phần trước): Những điều này trong phần
trước đều đă nói rồi, ở trong địa
ngục chịu khổ, chịu khổ vô cùng tận.
(Kinh) Thiện nam tử! Thị cố
trí giả, tiên ưng quán sát nhất thiết chúng tâm, nhiên hậu
thuyết pháp. Tiên đương khởi phát từ tâm, bi
tâm, hỷ tâm, ích tâm, bất giải đăi tâm, năng nhẫn
thọ tâm, bất kiêu mạn tâm, bất tật đố
tâm, bất xan lận tâm, đẳng dẫn định
tâm, nhiên hậu vị tha tuyên thuyết chánh pháp, chung bất
linh tha chư chúng sanh loại, văn sở thuyết pháp,
luân chuyển sanh tử, đọa đại hiểm nạn.
Thị cố, Như Lai thiện đạt nhất thiết
chúng sanh tâm tướng, dĩ Vô Trần Cấu, Vô Thủ
Hành Luân, vị thuyết chánh pháp. Cụ đại giáp trụ
nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị tha thuyết pháp,
diệc phục như thị. Do bi mẫn cố, vị
linh đoạn diệt chư phiền năo cố, vị linh
siêu độ tam hữu hải cố, vị chư chúng
sanh ư tam thừa trung, tùy tâm sở nhạo, tùy thú Nhất
Thừa, tốc viên măn cố, vị thuyết chánh pháp,
chung bất linh kỳ luân chuyển sanh tử, đọa đại
hiểm nạn.
(經)善男子,是故智者先應觀察一切眾心,然後說法,先當發起慈心、悲心、喜心、益心、不懈怠心、能忍受心、不憍慢心、不嫉妒心、不慳吝心、等引定心,然後為他宣說正法,終不令他諸眾生類,聞所說法,輪轉生死,墮大險難。是故如來善達一切眾生心相,以無塵垢、無取行輪,為說正法;具大甲冑一切菩薩摩訶薩眾,為他說法亦復如是。由悲愍故,為令斷滅諸煩惱故,為令超渡三有海故,為諸眾生於三乘中隨心所樂,隨趣一乘速圓滿故,為說正法,終不令其輪轉生死,墮大險難。
(Kinh: Này thiện nam tử! V́ thế,
người có trí, trước
hết hăy nên quan sát cái tâm của hết thảy mọi người,
sau đấy thuyết pháp. Trước hết, hăy nên phát khởi
từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, tâm lợi ích, tâm chẳng giải
đăi, tâm có thể chịu đựng, tâm chẳng kiêu mạn,
tâm chẳng ghen ghét, tâm chẳng bủn xỉn, tâm đẳng
dẫn định. Sau đấy, v́ họ tuyên thuyết chánh
pháp, trọn chẳng để các loài chúng sanh khác nghe pháp đă
nói mà luân chuyển sanh tử, đọa vào hiểm nạn
to lớn. V́ thế, Như Lai khéo thông đạt tâm tướng
của hết thảy chúng sanh, dùng Vô Trần Cấu,
Vô Thủ Hành Luân v́ họ nói
chánh pháp. Hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn
đủ giáp trụ, v́ người khác thuyết pháp cũng
giống như thế. Do thương xót, do muốn khiến
cho chúng sanh đoạn diệt các phiền năo, v́ khiến
cho họ vượt thoát biển ba cơi, v́ để các chúng
sanh từ trong ba thừa, tùy ḷng ưa thích mà chọn lựa
tiến theo một thừa, sẽ
mau được viên măn, v́ nói chánh pháp trọn chẳng để
cho chúng
sanh luân chuyển sanh tử, đọa vào trong hiểm nạn
to lớn).
Người có trí huệ trước hết
phải quan sát chúng sanh, quan sát xem tâm niệm của họ
là ǵ? Chuyện này ắt cần phải đắc Tha Tâm Thông
và Túc Mạng Thông. Nếu không trọn đủ [các món thần
thông ấy], sẽ làm như thế nào? Trước hết,
quư vị phải phát tâm. “Phát Từ tâm”: Từ
tâm là ban cho chúng sanh hết thảy sự vui sướng, dẹp
trừ đau khổ cho chúng sanh. “Đại bi tâm” là
thấy chúng sanh đau khổ giống hệt như chính
ḿnh đau khổ. Đó gọi là phát Bồ Đề tâm. Trọn
đủ nhiều loại tâm như vậy, sanh khởi tâm hoan
hỷ, vui mừng đối với pháp, vui mừng đối
với chúng sanh. Sanh “ích tâm”, tức là nhất định
tạo lợi ích cho chúng sanh. “Bất giải đăi tâm”:
Tu pháp, thuyết pháp đều phải tinh tấn, có thể
chịu đựng sự năo hại của chúng sanh, đủ
mọi thứ hủy báng đều có thể chịu đựng,
v́ sẽ tiêu tai. “Bất kiêu mạn tâm”: Chúng sanh và ta đều
b́nh đẳng. Nếu thoát ly chúng sanh, quư vị sẽ chẳng
thể thành Phật. Hôm nào đó, tôi đă cùng mọi người
nói đến chuyện báo đáp tứ trọng ân, có biết
tứ trọng ân là ǵ hay không? Chúng ta chỉ biết cha, mẹ,
Phật, chẳng biết ân chúng sanh. Báo tứ trọng ân, điều
thứ nhất là báo chúng sanh ân. Chẳng có chúng sanh, quư vị
sẽ chẳng thể thành Phật. Từ bi hỷ xả đối
với ai? Chúng sanh thành tựu Phật đạo cho quư vị.
Có thể chịu đựng, chẳng kiêu căng, ngạo mạn,
lại c̣n chẳng ganh tỵ, chẳng bủn xỉn!
“Đẳng dẫn định tâm”: Phải
trọn đủ nhiều tâm ngần ấy! Do định
lực, dẫn khởi sự vui sướng nơi thân tâm,
thân tâm an tịnh. Đó gọi là “đẳng dẫn”
(等引). Sau đó,
v́ người ấy tuyên thuyết chánh pháp, nói đại
pháp, chẳng khiến cho người ấy v́ nghe thuyết
pháp mà luân chuyển sanh tử. Chỉ cần được
nghe pháp, sẽ khiến cho người ấy đoạn
tuyệt con đường sanh tử, tối thiểu là đoạn
tuyệt nỗi khổ nơi ba ác đạo. Trước
kia, tôi giảng Hoa Nghiêm, giảng Pháp Hoa. Thoạt đầu,
học pháp, đă trải qua hai Phật Học Viện, năm
năm đầu học Hoa Nghiêm tại Cổ Sơn. Năm
năm sau là ở Trạm Sơn Tự, học tứ giáo với
lăo pháp sư Đàm Hư, tức là lấy kinh Pháp Hoa làm chủ.
Sau khi đă tới Mỹ, đổi sang học kinh Địa
Tạng, bèn giảng Địa Tạng Tam Kinh. Nếu
ai có thể niệm kinh Địa Tạng, tin kinh Địa
Tạng, thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát,
thờ tượng Địa Tạng, sẽ tuyệt
đối đoạn dứt tam đồ, hiểm nạn
chẳng c̣n nữa. Đức Phật nói như thế đó.
Tôi cho rằng giảng pháp này, chúng sanh sẽ không c̣n luân
chuyển sanh tử, đọa trong khổ năo to lớn. Sau
đó, có khi c̣n giảng Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm,
giảng ba phẩm kinh Hoa Nghiêm, cũng giảng Văn Thù Bồ
Tát dạy chúng ta khéo dùng cái tâm như thế nào. Chúng ta chỉ
cần biết dụng tâm là được rồi. Khéo dùng
cái tâm, sẽ đoạn hết thảy ác. Quư vị biết
dụng tâm, gặp điều ǵ sẽ phát nguyện điều
ǵ, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật.
“Như Lai thiện đạt nhất thiết
chúng sanh tâm tướng, dĩ Vô Trần Cấu, Vô Thủ Hành Luân, vị thuyết
chánh pháp” (Như Lai khéo thông đạt tâm tướng của hết
thảy chúng sanh, dùng Vô Trần Cấu, Vô Thủ Hành Luân để
nói chánh pháp cho họ): Tiếp đó, nói đến Phật
luân, ư nghĩa của mấy đoạn
kinh văn này rất sâu, quư vị phải chú ư nghe. “Cụ
đại giáp trụ nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát
chúng” (hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn
đủ giáp trụ): Người ấy ở trong chúng
sanh mà chẳng bị chúng sanh tiêm nhiễm, ở trong chiến
trận đội khôi, mặc giáp, chẳng bị thương
tổn, là bậc đại Bồ Tát, như vậy th́ mới
có thể thuyết pháp cho người khác. Đấy là “do
bi mẫn cố, vị linh đoạn diệt chư phiền
năo cố” (do v́ thương xót, v́ muốn đoạt diệt
các phiền năo): Thương xót hết thảy chúng sanh, khiến
cho hết thảy chúng sanh đoạn trừ các phiền
năo ấy. “Vị linh siêu độ tam hữu hải”
(v́ khiến cho họ vượt thoát biển ba cơi): Dục
Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới được
gọi chung là Tam Hữu. Thông thường, “tam hữu” là nói đến
điều này!
“Vị chư chúng sanh ư tam thừa trung,
tùy tâm sở nhạo, tùy thú nhất thừa” (v́ khiến
cho các chúng sanh từ trong tam thừa, tùy ḷng ưa thích, sẽ
tiến hướng theo một thừa), tức
là thuyết pháp trọn khắp, cả ba thừa đều
nói. Chúng sanh có duyên với thừa nào, học thừa ấy
sẽ rất tốt, cho nên cả ba thừa “đại,
trung, tiểu” đều nói. “Tốc viên măn cố”
(v́ mau chóng viên măn): Nếu tùy theo căn cơ mà thuyết
pháp, người ấy do tương ứng căn cơ, sẽ đắc
độ. Như thế th́ sẽ khiến cho người
ấy viên măn rất nhanh chóng. “Vị thuyết chánh pháp, chung
bất linh kỳ luân chuyển sanh tử, đọa đại
hiểm nạn” (v́ họ nói chánh
pháp, trọn chẳng khiến cho họ luân chuyển sanh tử,
đọa vào hiểm nạn to lớn): Mục đích thuyết
pháp là khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui, chẳng
c̣n đọa trong hiểm nạn. “Hiểm nạn” chính
là sự hiểm nạn trong tam đồ.
(Kinh) Vân hà danh Vô Trần
Cấu Hành Luân? Vô Trần Cấu giả, vị thuyết
pháp thời, bất vị hữu Uẩn, bất vị hữu
Xứ, bất vị hữu Giới, bất vị hữu
Dục Giới, bất vị hữu Sắc Giới, bất
vị hữu Vô Sắc Giới, bất vị hữu thử
thế, bất vị hữu tha thế,
bất vị hữu chư Hành, bất vị hữu Thọ,
bất vị hữu Tưởng, bất vị hữu Tư, bất
vị hữu Xúc, bất
vị hữu tác ư, bất vị hữu vô minh, năi chí bất
vị hữu lăo tử, bất vị hữu hành, cập
bất hành cố. Vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh
pháp, duy vị nhất thiết chư Uẩn, Xứ, Giới,
quảng thuyết năi chí hành dữ bất hành, giai tịch
diệt cố, vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp.
Dĩ thị nghĩa cố, danh Vô Trần Cấu. Hành giả,
sở vị vị năng vĩnh đoạn tử thử, sanh bỉ,
vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp. Sở vị:
Vị năng vĩnh đoạn chư Uẩn, Xứ, Giới,
quảng thuyết năi chí vị năng vĩnh đoạn hành dữ bất hành,
vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp. Thị danh vi Hành.
Luân giả, sở vị như măn nguyệt quang, thanh
lương vô ngại, biến măn hư không, chiếu xúc nhất
thiết vô chướng cảnh giới. Như thị Như
Lai, cập chư Bồ Tát, sở hữu thần thông, kư
thuyết, giáo giới, tam chủng thắng luân tác dụng
vô ngại, biến chư thế giới, lợi lạc nhất
thiết sở hóa chúng sanh, linh chư chúng sanh bất dị
quy thú, bất cộng nhất thiết thế gian chúng sanh,
bất cộng nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác,
năng linh chúng sanh đoạn diệt sanh tử chư khổ
năo pháp, chứng đắc an lạc Bồ Đề Niết
Bàn. Thị danh vi Luân. Như thị danh vi chư Phật, Bồ
Tát Vô Trần Cấu Hành Luân.
(經)云何名無塵垢行輪?無塵垢者,謂說法時,不為有蘊,不為有處,不為有界,不為有欲界,不為有色界,不為有無色界,不為有此世,不為有他世,不為有諸行,不為有受,不為有想,不為有思,不為有觸,不為有作意,不為有無明,乃至不為有老死,不為有行及不行故,為諸眾生宣說正法;唯為一切諸蘊、處、界,廣說乃至行與不行皆寂滅故,為諸眾生宣說正法;以是義故,名無塵垢。行者,所謂為能永斷死此生彼,為諸眾生宣說正法;所謂為能永斷諸蘊處界,廣說乃至為能永斷行與不行,為諸眾生宣說正法;是名為行。輪者,所謂如滿月光,清涼無礙徧滿虛空,照觸一切無障境界;如是如來及諸菩薩所有神通、記說、教誡三種勝輪,作用無礙遍諸世界,利樂一切所化眾生,令諸眾生不異歸趣,不共一切世間眾生,不共一切聲聞、獨覺,能令眾生斷滅生死諸苦惱法,證得安樂菩提涅槃,是名為輪。如是名為諸佛菩薩無塵垢行輪。
(Kinh: Thế nào là Vô
Trần Cấu Hành Luân? Vô Trần Cấu tức là khi thuyết
pháp, chẳng v́ có Uẩn, chẳng v́ có Xứ, chẳng v́
có Giới, chẳng v́ có Dục Giới, chẳng v́ có Sắc
Giới, chẳng v́ có Vô Sắc Giới, chẳng v́ có đời
này, chẳng v́ có đời khác, chẳng v́ có các Hành, chẳng
v́ có Thọ, chẳng v́ có Tưởng, chẳng v́ có Tư,
chẳng v́ có Xúc, chẳng v́ có tác ư (dấy khởi ư niệm),
chẳng v́ có vô minh, cho đến chẳng v́ có già, chết,
chẳng v́ có hành và bất hành. V́ các chúng sanh tuyên nói chánh
pháp, chỉ v́ hết thảy các Uẩn, Xứ, Giới, nói
rộng là cho đến hành và bất hành đều tịch
diệt, v́ các chúng sanh tuyên nói chánh pháp. Do v́ nghĩa ấy,
gọi là Vô Trần Cấu. Hành tức là có thể vĩnh
viễn đoạn dứt “chết đây, sanh kia”. V́ các chúng
sanh tuyên nói chánh pháp, tức là có thể vĩnh viễn đoạn
các Uẩn, Xứ, Giới, nói rộng là cho đến có thể
vĩnh viễn đoạn hành và bất hành, v́ các chúng sanh tuyên
nói chánh pháp. Đấy gọi là Hành. Luân tức là như ánh
trăng tṛn, trong mát, vô ngại, trọn khắp hư không,
chiếu chạm hết thảy cảnh giới chẳng chướng
ngại. Như Lai và các vị Bồ Tát cũng như thế,
tất cả ba loại luân thù thắng là thần thông, kư
thuyết (thuyết pháp ứng với sự mong mỏi,
nghĩ nhớ của chúng sanh), giáo giới (răn dạy) tác dụng
vô ngại, trọn khắp các thế giới, lợi lạc
hết thảy chúng sanh được giáo hóa, khiến cho
các chúng sanh chẳng quy hướng theo đường khác,
nhưng chẳng giống như hết thảy chúng sanh
trong thế gian, chẳng chung với hết thảy Thanh
Văn và Độc Giác, có thể khiến cho chúng sanh đoạn
diệt các pháp sanh tử khổ năo, chứng đắc an
lạc Bồ Đề Niết Bàn. Đấy gọi là Luân.
Như thế gọi là Vô Trần Cấu Hành Luân của chư
Phật, Bồ Tát).
Điều này gọi là Vô Trần Cấu Luân
(無塵垢輪), là nghĩa
Không. [Trong đoạn trước] vừa mới nói [thuyết
pháp không đúng căn cơ, sẽ
khiến cho người nghe] đọa vào Đoạn Diệt
Kiến, nhưng ở đây là thuyết pháp vi diệu, mà chẳng
khiến cho kẻ nghe đọa vào Đoạn Diệt Kiến.
“Hữu” là sắc pháp, bao gồm tâm pháp. “Hữu uẩn”
là Ngũ Uẩn, tức Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Bất vị hữu
Xứ” (chẳng v́ có Xứ) là mười hai Xứ. “Bất
vị hữu Giới’ (chẳng v́ có Giới) là mười
tám Giới. Lại nói riêng
về một điều, “bất vị hữu Dục
Giới”, “bất vị hữu Sắc Giới”,
“bất vị hữu Vô Sắc Giới” (chẳng v́ có Dục
Giới, chẳng v́ có Sắc Giới, chẳng v́ có Vô Sắc
Giới), tức là tam giới. “Bất vị hữu thử
thế”, “bất vị hữu tha thế” (chẳng
v́ có đời này, chẳng v́ có đời khác), “thử
thế” là đời này, “bất vị tha thế”
là nói tới tương
lai. “Bất vị hữu chư hành, bất vị hữu
Thọ, bất vị hữu Tưởng, bất vị hữu
Tư, bất vị hữu Xúc, bất vị hữu tác ư”
(chẳng v́ có các Hành, chẳng v́ có Thọ, chẳng v́ có Tưởng,
chẳng v́ có Tư, chẳng v́ có Xúc, chẳng v́ có tác ư): Đấy
là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
“Bất vị hữu vô minh” (Chẳng
v́ có vô minh), cho đến
chẳng v́ có già, chết. Đấy là mười hai nhân
duyên. Mười hai nhân duyên th́ Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc,
Danh Sắc duyên Lục Xứ, cho đến già chết.
“Bất vị Ngũ Thủ Uẩn”
(chẳng v́ Ngũ Thủ Uẩn), Ngũ Thủ Uẩn[5] là Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, [cùng với] mười tám Giới, mười
hai Xứ, chẳng có Tác Ư, Tư, Tưởng, Thọ, Hành,
hết thảy đều chẳng tồn tại, như mộng,
huyễn, bọt, bóng, cho đến Vô Trần Cấu Hành, cho
đến đối với hành và bất hành, các thứ ấy
đều nhằm hiển thị nghĩa Trung Đạo,
chẳng rơi vào hai bên Đoạn và Thường.
Đoạn kinh văn tiếp đó nhằm
nhắc lại, v́ sao phải nhắc lại? V́ ư nghĩa này
chẳng dễ hiểu! Đức Phật thuyết pháp là
thanh tịnh, “thanh tịnh
luân trần cấu” là những
ǵ đă làm, những điều giáo hóa đă nói đều
là thanh tịnh. Trong khi thuyết pháp, chẳng chấp trước cái này,
mà cũng chẳng chấp trước
cái kia. Hết thảy đều chẳng chấp
trước, chẳng có đây và kia. Đây và kia đều
là đối đăi. Hễ có đối đăi, bèn có trần
cấu, cho nên pháp chẳng có đối đăi. Ĺa khỏi
hai bên, hiển lộ Trung Đạo, ly tứ cú, tuyệt
bách phi.
Muốn đoạn sanh tử, phải hành Vô
Trần Cấu Luân này, khiến cho hết thảy đều
tịch diệt, đều thanh tịnh. Những điều
chúng ta vừa đọc trên đây đều là v́ tịch
diệt, nói chánh pháp cho chúng sanh. Do v́ nghĩa ấy, nên gọi
là Vô Trần Cấu. Hành giả, nếu làm như vậy, sẽ
có thể vĩnh viễn đoạn dứt “chết đây,
sanh kia”, đó gọi là Hành. Vô Trần Cấu ắt cần
phải đạt đến vĩnh viễn dứt sanh tử,
chứng Niết Bàn rốt ráo. Đấy là chánh pháp, chánh
pháp rốt ráo, vĩnh viễn đoạn các Uẩn, Xứ,
Giới, Ngũ Uẩn, Thập Nhị Xứ, Thập Bát
Giới.
Nếu nói rộng, hết thảy hành và bất
hành đều phải đoạn tuyệt, chẳng có hành, mà cũng
chẳng có bất hành, đấy mới gọi là Vô Trần
Cấu Luân. Vô Trần Cấu Luân là như vậy, chẳng
có hành, mà cũng chẳng có bất hành. Hành tức là bất
hành, bất hành tức là hành. Các pháp do đức Phật
đă nói đều không có khởi đầu, không có kết thúc. Do
vậy gọi là Viên. Quư vị t́m cái khởi đầu sẽ
chẳng có, t́m cái kết thúc cũng chẳng có. Đó là ư
nghĩa Viên. Hiện thời, dùng điều này để
hiển thị Vô Trần Cấu Luân. Trong ấy, có mười
loại giáp trụ luân. Luân là nói tỷ dụ, tỷ dụ
ǵ vậy? Ví như pháp, dùng bánh xe để nói. Bánh xe có thể
nghiền nát hết thảy các vật chướng ngại ở dưới nó. Trong Phật
giáo, sánh ví những điều đức Phật đă nói
giống như Luân. Luân ấy giống như trăng Rằm,
quang minh chiếu trọn khắp. Nếu là mùa Hạ, ban đêm ánh trăng vừa chiếu bèn rất
trong mát. Ư nghĩa của việc sánh ví [những điều
Phật dạy] như quang minh nhằm thuyết minh [những
pháp ấy] không bị chướng ngại. Quang minh hiển
hiện trong không trung, chẳng có chướng ngại, cũng
tức là tướng cảnh giới vô chướng ngại.
Đấy là h́nh dung tất cả tác dụng thù thắng của
[ba thứ thuyết pháp luân là] thần thông, kư thuyết, và
giáo giới của Phật và đại Bồ Tát cũng đều vô ngại.
C̣n đối với thần thông, nơi sáu
căn của đức Phật, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư đều biến thành thần thông. Vậy th́ thiên
nhăn, thiên nhĩ, [đối với mỗi căn] đều
thêm một chữ Thiên. Thiên (天) [ở đây] có nghĩa
là tự nhiên. Khi quư vị chứng đắc, đă hiểu
rơ, đă khai ngộ, khôi phục bản thể vốn có, các
cảnh giới bị mê hoặc hay bị chướng ngại
đều tiêu mất, sẽ có thần thông. Thần thông là
bổn tánh trí huệ của quư vị. Cái Thể của thần
thông là trí huệ. “Thần” (神) là chẳng
dựa vào sự nghĩ bàn. Người khác thấy một
sự kiện [kỳ diệu], bèn nói người ấy là
chân thần. Chân thần giống như ảo thuật, có
cảm giác người ấy là thần. Hoặc là nuốt
đao, phun lửa, quư vị cảm thấy [người làm
được như vậy] đúng là rất thần
dị, v́ quư vị chẳng thể làm. Quư vị thấy họ
làm, cảm giác rất thần dị. Thần thông của Phật
rất tự nhiên. Ngài trông thấy chúng sanh, biết chúng
sanh tướng, biết đời quá khứ của chúng
sanh, đáng nên nói pháp ǵ cho họ,
khiến cho họ có thể khai ngộ. [Đó là thần thông].
C̣n “kư thuyết” (記說) là đại
Bồ Tát hoặc chư Phật, đối với những
điều chúng sanh nghĩ nhớ trong tâm, các Ngài đều
ghi nhớ, tức là ghi nhớ những điều thuộc
về tu nhân và tác dụng của cái tâm người ấy
trong khi tu nhân, để thuyết pháp [tương ứng với
điều họ nghĩ nhớ ấy]. Đó gọi là “kư
thuyết”. “Giáo giới” (教誡, răn
dạy): Phàm là pháp do đức Phật đă nói đều
gọi là “giáo giới”. Như khi chúng ta thỉnh cầu
giáo giới từ thượng sư, [giáo giới] có nghĩa
là “răn nhắc, khích lệ, giáo hóa” quư vị. Giáo giới
có nghĩa là thuyết pháp. Vốn là vị thầy răn dạy
quư vị về giới luật, dạy quư vị nên làm như
thế nào.
Ba loại pháp luân thù thắng ấy có tác dụng
vô chướng ngại, tức là tác dụng chẳng bị
trở ngại, chẳng phải là chỉ độ cho một
chúng sanh nào đó, chẳng độ chúng sanh khác, hoặc độ
trong thế giới này, chẳng thể độ trong thế
giới khác. [Nếu như thế] th́ là có phân biệt! Do vậy
nói [Phật pháp] lợi lạc hết thảy chúng sanh, tức là lợi lạc
hết thảy chúng sanh được hóa độ, khiến
cho các chúng sanh ấy tam thừa cùng tu chẳng sai khác. Chỉ
cần quư vị tu hành theo giáo pháp do đức Phật
đă dạy, khởi đầu bằng Tam Quy là được
rồi! Dùng ḷng tin Đại Thừa để tu Tam Quy, cái
mà quư vị quy hướng chính là cái để quư vị nương
cậy, quy về cái tâm của chính ḿnh. Đó là rốt ráo.
Hết thảy các pháp đă đạt đến
chỗ rốt ráo, tức là một niệm tâm b́nh thường
của quư vị trong hiện tiền chính là rốt ráo nhất.
“Quy thú” (歸趣) là quy
y cái tâm của quư vị, quy hướng tam thừa đạo
quả, hoặc là quy y Phật quả. Đấy là chỗ
riêng biệt (bất cộng) so với hết thảy chúng
sanh trong thế gian. Điều
này chuyên nói về Phật, Bồ Tát, không chỉ riêng biệt
so với hết thảy chúng sanh trong thế gian, mà đối
với hết thảy chúng sanh thuộc
Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa thuộc xuất thế
gian cũng khác biệt. Đức
Phật đại từ đại bi, vô lượng từ,
bi, hỷ, xả, chẳng giống như hàng Nhị Thừa.
V́ sao chẳng cùng chung (bất cộng)? Tiếp đó, [chánh
kinh] nói về hàng Nhị Thừa. Nhị Thừa chỉ v́
chính ḿnh, chẳng v́ chúng sanh. Chúng sanh đau khổ, họ chẳng
quản, mà cũng chẳng cứu độ. V́ Phật, Bồ
Tát có thể đoạn diệt hết thảy khổ năo sanh
tử cho chúng sanh, sanh tử là do phiền
năo của chúng sanh mà dấy lên. Trong sanh tử luân hồi,
chúng sanh có vô lượng vô biên khổ năo. [Chư Phật, Bồ
Tát] khiến cho họ ngưng dứt, đoạn diệt sanh
tử khổ luân, chẳng xoay vần trong lục đạo
luân hồi. Như thế th́ sẽ chứng đắc
điều ǵ? Chứng đắc Niết Bàn an lạc Bồ
Đề. Bồ Đề là giác, v́ đă giác ngộ, v́ đă
bất sanh, bất diệt.
Niết Bàn là bất sanh, bất
diệt, đạt được an lạc rốt ráo, đó
gọi là Luân. Tôi giải thích chữ Luân này chính là “thuyết
pháp”. Đó
mới gọi là rốt ráo, đă đạt tới Vô Trần
Cấu. Vô Thủ Hành, Hành th́ chẳng có năng hành và sở
hành (chẳng có người làm và việc được làm),
chẳng chấp giữ. Đó gọi là “chứng
đắc”. An lạc
như vậy, “như thị giả, danh vi chư
Phật, Bồ Tát Vô Trần Cấu Hành Luân” (như
thế bèn gọi là Vô Trần Cấu Hành Luân của chư
Phật và Bồ Tát).
(Kinh) Vân hà danh vi Vô Thủ Hành Luân? Vị
ư chư pháp, vô sở quái ngại. Do như nhật quang
phổ chiếu nhất thiết, tam thừa căn khí, tùy
kỳ sở nghi, tuyên thuyết chánh pháp, vô sở chấp
trước. Vị chư Như Lai vị chư chúng sanh thuyết
như thị pháp, do như hư không, vô sai
biệt tướng, dĩ vô lượng Định du hư
tự tại trang nghiêm trụ tŕ, vị chư chúng sanh thuyết
vi diệu pháp, vô sở chấp
trước. Cụ đại giáp trụ nhất thiết
Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị tha thuyết pháp, diệc
phục như thị, vị thuyết chư pháp phi hữu,
phi không, phi tức sắc không, phi ly sắc không, năi chí phi tức
thức không, phi ly thức không, phi tức nhăn không, phi ly nhăn
không, năi chí phi tức ư không, phi ly ư không, phi tức sắc không,
phi ly sắc không, năi chí phi tức pháp không, phi ly pháp không, phi
tức nhăn thức không, phi ly nhăn thức không, năi chí phi tức
ư thức không, phi ly ư thức không, phi tức Dục Giới
Không, phi
ly Dục Giới Không, năi
chí phi tức Hư Không Vô Biên Xứ Không, phi
ly Hư Không Vô Biên Xứ Không, phi
tức Thức Vô Biên Xứ Không, phi ly Thức Vô Biên Xứ
Không, phi tức Vô Sở Hữu Xứ Không, phi ly Vô Sở Hữu
Xứ Không, phi tức Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Không, phi ly Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Không, phi
tức Tứ Niệm Trụ Không, phi ly Tứ Niệm Trụ
Không, năi chí phi tức bát chi thánh đạo không, phi ly bát chi
thánh đạo không, phi tức duyên khởi pháp không, phi ly duyên
khởi pháp không, phi tức Tam Bất Hộ Không, phi ly Tam Bất
Hộ Không, phi tức Tứ Vô Sở Úy Không, phi ly Tứ Vô
Sở Úy Không, phi tức Thập Lực Không, phi ly Thập
Lực Không, phi tức Thập Bát Bất Cộng Pháp Không,
phi ly Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, phi tức đại
từ đại bi đại hỷ đại xả không,
phi ly đại từ đại bi đại hỷ đại
xả không, phi tức Niết Bàn không, phi ly Niết Bàn không.
Thị danh Như Lai cập chư Bồ Tát, vị chư
chúng sanh tuyên thuyết xứ trung vi diệu chánh pháp.
(經)云何名為無取行輪?謂於諸法無所罣礙,猶如日光普照一切,三乘根器隨其所宜,宣說正法,無所執著。謂諸如來,為諸眾生說如是法,猶如虛空無差別相,以無量定遊戲自在莊嚴住持,為諸眾生說微妙法,無所執著。具大甲冑一切菩薩摩訶薩眾,為他說法,亦復如是。謂說諸法非有,非空;非即色空,非離色空;乃至非即識空,非離識空;非即眼空,非離眼空;乃至非即意空,非離意空;非即色空,非離色空;乃至非即法空,非離法空;非即眼識空,非離眼識空;乃至非即意識空,非離意識空;非即欲界空,非離欲界空;乃至非即虛空無邊處空,非離虛空無邊處空;非即識無邊處空,非離識無邊處空;非即無所有處空,非離無所有處空;非即非想非非想處空,非離非想非非想處空;非即四念住空,非離四念住空;乃至非即八支聖道空,非離八支聖道空;非即緣起法空,非離緣起法空;非即三不護空,非離三不護空;非即四無所畏空,非離四無所畏空;非即十力空,非離十力空;非即十八不共法空,非離十八不共法空;非即大慈大悲大喜大舍空,非離大慈大悲大喜大舍空;非即涅槃空,非離涅槃空;是名如來及諸菩薩,為諸眾生宣說處中微妙正法。
(Kinh: Vô Thủ Hành Luân là như thế
nào? Tức là trong các pháp chẳng vướng mắc, ví như
ánh sáng mặt trời chiếu trọn khắp hết thảy.
Đối với căn khí tam thừa, tùy theo căn cơ
thích đáng mà tuyên nói chánh pháp, chẳng chấp trước.
Tức là các đức Như Lai v́ các chúng sanh nói pháp như
thế. Ví như hư không chẳng có tướng sai biệt,
dùng vô lượng định du hư tự tại trang nghiêm để
trụ tŕ, v́ các chúng sanh thuyết vi diệu pháp chẳng chấp
trước. Hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn
đủ giáp trụ, v́ người khác thuyết pháp cũng
giống như thế. Tức là nói các pháp chẳng phải
có, chẳng phải không, chẳng phải chính là sắc không,
chẳng phải là ĺa sắc không, cho đến chẳng
phải chính là thức không, chẳng phải là ĺa thức không,
chẳng phải chính là nhăn không, chẳng phải là ĺa nhăn không,
cho đến chẳng phải chính là ư không, chẳng phải
là ĺa ư không, chẳng phải chính là sắc không, chẳng phải
là ĺa sắc không, cho đến chẳng phải chính là pháp
không, chẳng phải là ĺa pháp không, chẳng phải chính
là nhăn thức không, chẳng phải là ĺa nhăn thức không, cho
đến chẳng phải chính là ư thức không, chẳng
phải là ĺa ư thức không, chẳng phải chính là Dục
Giới Không, chẳng
phải là ĺa Dục Giới Không, cho
đến chẳng phải chính là Hư Không Vô Biên Xứ Không,
chẳng phải là ĺa Hư Không Vô Biên Xứ Không, chẳng
phải chính là Thức Vô Biên Xứ Không, chẳng phải
là ĺa Thức Vô Biên Xứ Không, chẳng phải chính là Vô Sở
Hữu Xứ Không, chẳng phải là ĺa Vô Sở Hữu Xứ
Không, chẳng phải chính là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ Không, chẳng phải là ĺa Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ Không, chẳng phải chính là Tứ Niệm
Trụ Không, chẳng phải là ĺa Tứ Niệm Trụ
Không, cho đến chẳng phải chính là bát chi thánh đạo
không, chẳng phải là ĺa bát chi thánh đạo không, chẳng
phải chính là duyên khởi pháp không, chẳng phải là ĺa duyên
khởi pháp không, chẳng phải chính là Tam Bất Hộ
Không, chẳng phải là ĺa Tam Bất Hộ Không, chẳng
phải chính là Tứ Vô Sở Úy Không, chẳng phải là
ĺa Tứ Vô Sở Úy Không, chẳng phải chính là Thập Lực
Không, chẳng phải là ĺa Thập Lực Không, chẳng phải
chính là Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, chẳng phải
là ĺa Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, chẳng phải chính
là đại từ đại bi đại hỷ đại
xả không, chẳng phải là ĺa đại từ đại
bi đại hỷ đại xả không, chẳng phải
chính là Niết Bàn Không, chẳng phải là ĺa Niết Bàn Không.
Đấy gọi là Như Lai và các Bồ Tát v́ các chúng sanh
tuyên thuyết vi diệu chánh pháp nơi các Xứ).
“Vân hà danh vi Vô Thủ Hành Luân?” (Thế
nào gọi là Vô Thủ Hành Luân): [Trong phần trước],
gộp chung hai điều ấy để nói; nay tách ra. Trước
tiên nói về Vô Trần Cấu Hành Luân. Kế đó, nói về
Vô Thủ Hành Luân.
“Vị ư chư pháp vô sở quái ngại,
do như nhật quang phổ chiếu nhất thiết” (Tức
là chẳng vướng mắc nơi các pháp, ví như ánh sáng
mặt trời chiếu trọn khắp hết thảy): Trong
phần trước, dùng ánh trăng để h́nh dung sự
tiêu trừ nhiệt năo của chúng ta. Trong phần này, dùng ánh
nắng để h́nh dung sự tiêu trừ hắc ám. Ánh sáng mặt trời chiếu
khắp hết thảy. Đối với tất cả Thanh
Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ
Tát Thừa, kẻ đó đáng dùng pháp ǵ để đắc
độ, bèn nói pháp đó, thích ứng với căn cơ.
Pháp nào tương ứng với kẻ đó, bèn nói pháp đó.
Hết thảy chúng sanh cho đến Thanh Văn, Duyên Giác
đều có chấp trước. Thanh Văn và Duyên Giác chẳng
c̣n Ngă Chấp, đă đoạn Ngă Chấp, nhưng hăy c̣n
Pháp Chấp. [Họ cho rằng] “Ngă là giả, Pháp là thật”.
Do vậy, trong kinh Kim Cang, đức Phật bảo ngài Tu
Bồ Đề: “Tri ngă thuyết pháp, như phiệt dụ
giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”, [nghĩa là] ông
hăy biết các pháp do ta đă nói cho ông trước kia là để
độ ông liễu sanh tử, giống như chiếc
thuyền để vượt sông. Đă vượt sông
xong rồi, chẳng cần thuyền nữa, c̣n chấp
trước để làm chi?
Nói tới chánh pháp, đúng theo căn cơ mà
thuyết pháp th́ [các pháp đă nói ấy] đều là chánh pháp,
khiến cho họ đắc độ th́ gọi là chánh
pháp. Chẳng đúng căn cơ, dẫu quư vị nói chánh
pháp nhiều cỡ nào đi nữa, vẫn chẳng trừ
khử nổi chấp trước, chẳng trừ nổi
khổ năo, đấy vẫn chẳng phải là chánh pháp! V́
họ (người nghe) chẳng lư giải. [Chánh pháp là pháp]
khiến cho chúng sanh chẳng chấp trước nữa! Chư
Phật Như Lai v́ các chúng sanh, nói pháp như thế, pháp ǵ
vậy? Kế đó, [kinh văn liệt kê] các pháp như thế
do đức Phật đă nói. “Như thị” là từ
ngữ để chỉ pháp, nhằm chỉ các thứ ǵ đó.
Những pháp như thế chính là các pháp nào vậy? Pháp ấy dường
như hư không, chẳng có tướng sai biệt. “Tướng”
chính là hết thảy các thứ được kiến lập
trong hư không. Bản thân hư không chẳng có tướng
sai biệt. Đối với tất cả chúng sanh thuộc
các đường trong tam thừa, đức Phật
đều nói vô lượng loại Định. Có vô lượng
thứ Định. Định chẳng phải là ngồi
im chẳng nói năng ǵ, sáu căn bất động th́ mới
là Định! Trọn chẳng phải là như thế! Định
là hết thảy các hành động đều ở trong Định.
Chư Phật, Bồ Tát thấy các chúng sanh huyễn hóa, pháp
do đức Phật đă nói cũng là pháp huyễn hóa. Khi
độ chúng sanh giống như chúng ta đang chơi đùa
(“du hư”). Chơi đùa ǵ vậy? “Tự tại trang
nghiêm trụ tŕ” tức là Phật thuyết pháp để
trụ tŕ, trụ tŕ ngay nơi pháp, trang nghiêm pháp ấy, nhưng
trên thực tế, chẳng có pháp ấy!
“Vị chư chúng sanh thuyết vi diệu
pháp, vô sở chấp trước, cụ đại giáp trụ”
(v́ các chúng sanh nói pháp vi diệu, chẳng chấp trước,
trọn đủ đại giáp trụ): “Trọn đủ
đại giáp trụ” là khi
chiến đấu với phiền năo của chúng sanh, chẳng
hề sợ hăi, chẳng bị chúng sanh ô nhiễm. Nếu
công phu không sâu, chẳng có định lực, vốn là độ
chúng sanh, đến cuối cùng lại đâm ra giống hệt
như chúng sanh, đă bị chúng sanh nhuốm bẩn! Nếu
khởi chấp trước đối với pháp, hoặc
dấy chấp trước đối với tướng
chúng sanh, đó chẳng phải là liễu nghĩa rốt
ráo. Lúc thoạt đầu, nếu [nói
ngay] như thế th́ không được, phải biết
vào lúc nào, sẽ thuyết pháp nào!
Vô Trần Cấu Luân là như thế nào? Phật
hành Vô Hạnh Luân. Vô Hạnh Luân chính là Vô Thủ Hành Luân, [nghĩa
là] chẳng giữ lấy hết thảy các pháp, tức là
từ ngay trong sự vận động của nó, Hành là “vận
động”, trong hết thảy tác dụng của nó, trí huệ
phương tiện thiện xảo chẳng phải là căn
bản, mà là huyễn hóa. Loại phương
tiện thiện xảo ấy chính là pháp vi diệu.
Pháp vi diệu là ǵ? Tiếp
đó, [chánh kinh] giải thích pháp vi diệu.
Điều ǵ cũng chẳng chấp trước, chẳng có ǵ để chấp trước. “Cụ đại giáp trụ” (trọn đủ giáp
trụ lớn): Đại giáp trụ là ǵ? Nghĩa Không, hết
thảy vô tác! Do vậy nói Bồ Tát Ma Ha Tát, tức là Đại
Bồ Tát, [nói theo tiếng Phạn] là Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma
Ha dịch nghĩa là Đại, khi độ chúng sanh, hoặc
lợi ích chúng sanh, tâm từ bi hỷ xả của Ngài lớn
nhất, lớn nhất trong các pháp, nên gọi là Thể Tuớng.
Chúng sanh có thể hiểu rơ cái tâm của chính ḿnh, [hiểu
rơ] thể tướng của tự tâm, sẽ thuyết pháp
cho chúng sanh, tức là nói (thuyết pháp) như thế đó.
[Do vậy chánh kinh ghi là] “diệc phục như thị”
(cũng giống như thế đó).
“Thuyết chư pháp phi hữu, phi không, phi tức
sắc không, phi ly sắc không, năi chí phi tức thức không,
phi ly thức không” (nói các pháp chẳng
có, chẳng không, chẳng phải chính là sắc không, chẳng
phải là ĺa sắc không, cho đến chẳng phải chính
là thức không, chẳng phải là ĺa thức không): Pháp do đức
Phật đă nói chẳng chấp trước tướng.
Nói Có th́ chúng sanh liền chấp trước Có. Nói Khổ,
thật sự khổ, tam khổ, bát khổ, cho đến
vô lượng các khổ, sanh, lăo, bệnh, tử khổ, yêu
thương phải chia ĺa, ngũ ấm lừng lẫy, cầu
chẳng được, chuyện quư vị mong cầu chẳng
đạt được mục đích, khổ v́ chết.
Mỗi cá nhân đều có nỗi khổ v́ cầu chẳng
được! Sanh khổ, bệnh khổ. [Chúng sanh] đă
quên mất sanh khổ. Đối với nỗi khổ lúc
được sanh ra, quư vị đều mê mờ, chẳng
nhớ. Nỗi khổ v́ qua lại luân chuyển, quư vị
chẳng nhớ. Lại nói tới các pháp Có; nếu nói là Có,
chúng sanh bèn chấp trước. Đức Phật chẳng
nói Có, trong giáo nghĩa Đại Thừa đều nói “phi
Hữu”. Cái Hữu ấy chẳng phải là Hữu (phi
Hữu), phi Hữu chẳng phải là Không! Phi Không th́ chẳng
phải là Hữu! Chẳng phải vậy! Đấy là nói
đến nghĩa Không. Cái Không ấy chẳng phải là rỗng
không như quư vị chấp trước. Do đối ứng
với sự chấp trước [cái Không] của quư vị
mà nói là phi Không; đối với sự chấp trước
cái Có của quư vị mà nói là phi Hữu.
Hết thảy các pháp đều có hai khía cạnh
là Hữu và Không, phi Hữu phi Không là Trung Đạo. Chẳng
nói quyết định là Có, mà cũng chẳng nói quyết
định là Không. Không tức là Có, Có tức là Không. Không ở
trong Hữu, Hữu ở trong Không. Đấy mới là “Sắc
tức là Không, Không tức là Sắc”; đó là nói chung. Nói
chung th́ “các pháp chẳng phải Có, chẳng phải Không”.
Tiếp đó, nói phân biệt từng điều.
Trước tiên là nói đến Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Chúng ta không nói tới
Ngũ Uẩn. Pháp Ngũ Uẩn cũng là Không. Bản thân
Sắc là Không, đúng chưa? Đă ĺa Sắc th́ ở nơi
Sắc bèn nói là Không ư? Hay là từ ĺa Sắc mà nói là Không?
Ở nơi Sắc mà nói là Không th́ nó vốn là Có. Chẳng
hạn như đóa hoa này, chúng ta nói đóa hoa này là Không chứ
ǵ? Không là Có, nhưng nó chẳng thật
sự tồn tại, v́ chẳng có tự thể. Nói nó là “phi
Hữu”, tức là từ ngay nơi Hữu mà nói là “phi
Hữu”, nói “phi Hữu” chính là Không, nhưng phi Không!
Hiện thời c̣n có sự thật cụ thể tồn tại,
cớ sao là Không? Đối với vấn đề này, quư
vị phải ngộ, phải tham cứu!
Như thân thể này của chúng ta, có hay không?
Xác thực là có. Danh tự và h́nh tướng của một
người đều là có, nhưng
người ấy chẳng phải là một thứ ǵ thật
sự tồn tại, v́ có thể biến hóa, chẳng có thể
tánh của chính nó. Thân thể của chúng ta do Tứ Đại
Chủng hợp thành, tức Địa, Thủy, Hỏa, Phong.
Kinh Lăng Nghiêm nói bảy đại, tức là kèm thêm Không,
Căn, và Thức. Địa, Thủy, Hỏa, Phong thành tựu
thân thể, chẳng Không th́ cũng không được? Mọi
người có thể nói xem: Thân thể của chúng ta v́ sao có chỗ trống không? Trong bụng
quư vị, giữa ngũ tạng, lục phủ đều
có những kẽ hở, giữa khí quan này và khí quan kia đều
có khoảng trống. Nếu chẳng có khoảng trống,
dính chặt với nhau thành một khối, mỗi khí quan sẽ
đánh mất tác dụng. Địa, Thủy, Hỏa,
Phong tách ĺa. Nếu trong bụng chẳng có không khí, quư vị
c̣n có thể sống sót hay chăng? Không có nước th́ chẳng
thứ ǵ tồn tại được. Nếu chẳng có
không khí, quư vị sẽ lập tức tắt thở! Khi con
người đến lúc tử vong cuối cùng, người
ấy cũng chẳng ăn, cũng chẳng
uống, vẫn có thể sống mấy ngày, nhưng đă
đoạn khí th́ sẽ
chết. Do vậy, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không,
Căn, và Thức [được gọi chung là Thất Đại].
“Căn” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, tức
sáu căn, c̣n có Thức,
thân thể tuy đă hoại, thức thứ tám bất hoại.
V́ thế, đối với hết thảy
các pháp, trước tiên nêu ra Sắc pháp. Sắc pháp là Không ư?
Sắc pháp chẳng phải là Không, mà cũng chẳng phải
là Có, là
“Sắc tức là Không”, hay “Không tức là Sắc”? Hai đằng điên đảo! Sắc ấy có phải
là Không hay chăng? Vẫn chẳng thể nói như thế
được! Sắc chẳng phải “chính là Không”, mà Không
cũng chẳng phải “chính là Sắc”! Không là Không, Sắc
là Sắc; Sắc là Sắc, Không là Không. Chẳng phải chỉ
Sắc pháp là như thế, mà Thọ, Tưởng, Hành, Thức
[cũng như thế], [chánh kinh] nói lược ba món Tưởng,
Hành, Thức. “Năi chí” có ư nghĩa “lược
bớt”.
“Phi tức Thọ không, phi tức Hành không,
phi tức Tưởng không” (chẳng phải “chính là Thọ
không”, chẳng phải “chính là Hành không”, chẳng phải “chính
là Tưởng không”): Đối với những điều
này chẳng lặp lại. Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức đều là như thế. Nói tới Uẩn,
chẳng phải Uẩn chính là Không, mà cũng chẳng phải
Không chính là Uẩn, có ư nghĩa như thế đó. Đấy
là Ngũ Uẩn Sắc pháp. [Như vậy th́] khi Tức (chính
là) th́ là Không, hay khi Ly (ĺa khỏi) mới là Không? “Tức”
cũng chẳng đúng, mà “Ly” cũng chẳng đúng!
Chẳng phải Tức, chẳng phải Ly. Mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư, tức là lại nói tới lục
căn, như vậy th́ “phi tức Nhăn Không, phi ly Nhăn Không”,
“năi chí” là lại nói lược bớt [để nói
thẳng vào] “phi tức Ư Không, phi ly Ư Không”. Lược
bớt ǵ vậy? Lược bớt bốn căn trung
gian, tức là lược bớt tai, mũi, lưỡi và
thân, dùng “năi chí” để [thể hiện ư nghĩa] “nói lướt
qua”. Đối
với mỗi nhóm pháp, đều nói theo kiểu như vậy. Kinh Đại
Bát Nhă sáu trăm quyển nói qua, nói lại, xoay vần như
vậy. Do chẳng giản lược, chẳng có từ
ngữ “năi chí”, cả sáu điều đều nêu ra,
bày ra từng pháp; cho nên văn tự trong kinh văn [Đại
Bát Nhă] rất nhiều. Có ư nghĩa như thế đó.
Trong các kinh khác, Ngài dùng hai chữ “năi chí”
để nói đại lược. Do vậy, trong đoạn
kinh văn này, quư vị hiểu một ư nghĩa trong ấy,
bèn hiểu toàn bộ, “phi Tức, phi Ly”, đó là nghĩa
Trung Đạo. “Tức” cũng chẳng phải, mà
Ly cũng chẳng phải! Quư vị đọc kinh điển
Đại Thừa, ly tứ cú, tuyệt bách phi[6], nói như thế nào
cũng không đúng. Tứ Cú là “có, không, chẳng phải
có chẳng phải không, cũng có cũng không”. Đó gọi
là Tứ Cú. Tức “Sắc là Không” chẳng đúng, “ĺa
Sắc chính là Không” cũng chẳng đúng, “ĺa Thức
chính là Không” cũng chẳng đúng, “Thức chính là Không”
cũng chẳng đúng. Đó là ư nghĩa “ly tứ cú” (ĺa khỏi bốn câu). “Phi tức Sắc không, phi ly Sắc không”, cho đến “phi tức Pháp không, phi ly Pháp không”,
v́ sao lại nói một lần nữa? Chẳng nói tới Sắc
Tâm pháp (tức Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Trước
tiên nói về Sắc pháp (Sắc, Thanh, Hương, Vị),
sau đó nói về Tâm pháp (Pháp). Tâm là Pháp, nói đến tâm
pháp, cũng đều là “phi Tức, phi Ly”. Sau đó lại
nói đến Lục Thức, “phi tức Nhăn Thức không,
phi ly Nhăn Thức không”. Kế đó lại nói lược
bớt, cho đến Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư, sáu
thức, “năi chí phi tức Ư Thức không, phi ly Ư Thức không”:
“Ly” chẳng thể, mà “Tức” cũng chẳng
thể. Đó cũng là ư nghĩa “phi Tức phi Ly”.
“Phi tức Dục Giới không, phi ly Dục
Giới không, năi chí phi tức Hư Không Vô Biên Xứ Không”,
trong ấy đă nói đại lược khá nhiều. Dục
Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới đều lược
đi. Dục Giới sáu tầng trời, Sắc Giới
mười tám tầng trời đều bị lược
đi, nói ngay vào Tứ Không Thiên, tức là Thức Vô Biên Xứ
Thiên, Vô Sở Hữu Xứ Thiên, Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ Thiên, và Không Vô
Biên Xứ Thiên. Tứ Không Thiên cũng chẳng phải là
Không, mà cũng chẳng phải là Hữu. Tứ Không Thiên kiến
lập trong hư không, phải nên là Không ư? Chẳng phải
vậy! V́ họ (chư thiên) trụ trong tầng trời ấy,
có ư thức. Họ cho là không có, nhưng trên thực tế
th́ vẫn là có! Vô Sở Hữu Xứ vốn chẳng có, nhưng
thêm vào một chữ Xứ, [hàm nghĩa] là “c̣n có”. Vô Sở
Hữu là không có, thêm vào chữ Xứ v́ họ cho rằng
sanh lên trời th́ vẫn là có xứ sở, giống như
chúng ta có chỗ cư trụ. Tứ Không Thiên là ngoại
đạo thiên, nhưng [các vị đă chứng] quả A
La Hán cũng ở tại Tứ Không Thiên. Trụ trong các cơi
trời khác nhau, họ nhập môn Định ấy là trụ
trong chánh định, c̣n Tứ Thiền Bát Định th́ ở
trong Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ
Định… Người nhập môn Định nào bèn tới
tầng trời đó. [Tứ Thiền Bát Định và Định
của A La Hán] được gọi [gộp chung] là Cửu
Thứ Đệ Định.
Trong các pháp Hữu, đă nêu ra nhiều thí dụ
như vậy. Ở đây là nêu lên thánh đạo, tức
pháp do đức Phật thuyết như Tứ Niệm Xứ,
Tứ Như Ư Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ
Đề (Thất Giác Chi), Bát Chánh
Đạo, ba mươi bảy đạo phẩm, đấy
đều là Bồ Đề thánh pháp. [Chánh kinh nói đại
lược]
“tức Tứ Niệm Xứ Không, hoặc ly Tứ Niệm
Xứ Không”, kế đó dùng chữ “năi chí” để
lược bớt, [nói ngay vào] “bát chi thánh đạo không,
ly bát chi thánh đạo không” tức là lược bớt
[các pháp trung gian. Nói cụ thể] th́ Tứ Chánh Cần, Tứ
Như Ư Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ
Đề đều lược bớt, chẳng nói cặn
kẽ. Pháp do đức Phật thuyết cũng như thế.
Không chỉ các pháp thế
gian là Không, mà pháp do đức Phật nói cũng là Không, nhưng
chẳng thể thiên chấp bên Không. Hễ thiên lệch về
Không bèn là Đoạn Kiến. Thiên lệch về Hữu bèn
là Thường Kiến. Không phải là chấp Thường, th́ sẽ là
chấp Đoạn. Chẳng
phải chấp Có th́ là chấp Không. Đấy đều
là ư nghĩa Bát Nhă.
Kinh Thập Luân vốn giảng về Có, giảng
về Khổ, muốn cho quư vị chán ĺa. Chẳng thể
phán định một bộ kinh tuyệt đối là Đại
Thừa hay Tiểu Thừa. Trong ấy, sẽ dính líu một
phần. Chẳng hạn như trong kinh Bát Nhă, trong ấy đều
là từ “chẳng Có, chẳng Không” mà lănh hội. Nêu lên
các tướng ấy v́ đức Phật đă nói các pháp
ấy, thế gian có các tướng ấy, tam giới hai mươi
lăm Hữu đều có các tướng ấy! Phải
hiểu rơ Tức và Ly từ trong ấy. Tức là từ nơi
Sắc mà nói là Không, từ nơi Không mà nói là Sắc. Ĺa Sắc
và Không, tức Sắc và Không. Ĺa khỏi Tứ Niệm Trụ
Không, hoặc “tức Tứ Niệm Trụ Không” đều
chẳng đúng. Hiểu ư nghĩa này là được rồi!
Đó gọi là diệu pháp. Do vậy, người học Phật
pháp, phải nên hiểu ư nghĩa viên măn. Quư vị chấp
trước như thế nào cũng đều chẳng đúng.
Đấy là để phá chấp
trước, bèn nói cho họ
pháp chấp trước.
Chúng ta thường nói tới pháp duyên khởi.
Các pháp duyên khởi, duyên sanh vô tự tánh. Pháp duyên khởi là
Không, là Có. Như vậy “phi tức duyên khởi pháp không”,
chẳng phải bản thân pháp duyên khởi là Không, mà cũng
chẳng phải “ly duyên khởi pháp không”. Hiểu tánh
không duyên khởi.
Những điều ấy đều là nói về tánh Không,
nói rất nhiều điều, đều là tánh Không. V́ sao
có duyên khởi? Duyên khởi là các thứ nhân duyên, do nhiều
thứ duyên hợp thành. Hễ thiếu một duyên, pháp ấy
chẳng thành, có ư nghĩa như thế đó. Nếu quư vị
hiểu đạo lư duyên khởi tánh không, sẽ đều
hiểu các đạo lư này. Chuyên nói về duyên khởi tánh
không c̣n có mấy bộ kinh nữa! Pháp duyên khởi, tức
pháp duyên khởi là không, ĺa pháp duyên khởi là không. Trước
mỗi pháp, đều thêm một chữ Phi (chẳng phải) là như
quư vị nói “chỉ có ngôn thuyết, chẳng có thật nghĩa”.
Pháp ngôn thuyết chẳng phải là pháp. Rời ĺa ngôn thuyết
th́ là Có ư? Rời ĺa
ngôn thuyết c̣n có ǵ để hiển thị? Chẳng
hiển thị được! Nói đến Chân Như, nói
đến rốt ráo, chẳng có ngôn thuyết.
“Chỉ có ngôn thuyết, đều chẳng
có thật nghĩa”: Chỉ cần nói ra, nói thứ ǵ cũng
đều chẳng phải là thứ ấy, nhưng chẳng
phải là vọng ngữ. Đừng quan tâm đến thứ
ấy, đó chẳng phải là nói lời hư giả, chẳng
phải vậy! Quư vị nói đến điều ǵ th́ cũng
đều chẳng phải [thật sự] là điều đó!
Nói tới một thứ ǵ đó, th́ đó chỉ là một cách biểu thị,
là một kư hiệu. Chẳng hạn như chúng ta nói tới
Hỏa, Hỏa [trong lời nói của quư vị] tuyệt
đối chẳng phải là Hỏa [thật sự]. Nếu
có Hỏa trong câu nói ấy, nó sẽ đốt cháy quư vị.
Hăy nên hiểu hàm nghĩa
này, quư vị nói đến thứ ǵ cũng đều chẳng
phải là thứ đó. Quư vị nói tới Trương
Tam, th́ Trương Tam là tượng trưng. “Trương
Tam” [trong câu nói của quư vị] chẳng phải là bản
thân Trương Tam, chỉ là kư hiệu về ông ta. Đă
là kư hiệu th́ Trương Tam cũng được, mà Trương
Tứ cũng có thể, sửa thành Trương Ngũ cũng
được luôn, sửa thành thứ ǵ cũng đều
được. Kư hiệu có thể tùy tiện thay đổi,
chẳng phải là thật thể. Từ điều
này, quư vị
có thể lănh hội được!
Bản tâm, chân tâm của chúng ta, hết thảy
các ngôn ngữ đều chẳng thể biểu hiện được.
Đó gọi là “ly Chân Như”. Đại Thừa Khởi
Tín Luận, kinh điển Đại Thừa đều gọi
là “ly ngôn Chân Như”, ĺa “ngôn ngữ dứt bặt,
tâm hành xứ diệt”. Muốn suy nghĩ, quan sát [th́ sẽ
thấy] đều là chẳng có. Hễ quan sát là sai mất
rồi, “bách phi” tức là ư nghĩa này. Chỉ cần
quư vị dấy động ư niệm, đă sai lầm mất
rồi. Ư nghĩa này rất sâu, chẳng phải là bổn
nghĩa của kinh này!
[Từ ngữ] Tam Bất Hộ chỉ là nói
về đức Phật, tức là: Thân, khẩu, ư ba nghiệp
của đức Phật thuần thiện. Ngài tùy tiện
làm như thế nào, thân làm như thế nào cũng đều
là thiện, đạt tới chân, thiện, mỹ, rốt
ráo thanh tịnh, vĩnh viễn xa ĺa lỗi lầm, chẳng
cần phải ngăn ngừa, ǵn giữ nữa. “Hộ”
(護) [trong Tam
Bất Hộ] có nghĩa là “ǵn giữ,
ngăn ngừa”. Phật
chẳng cần ngăn ngừa ǵn giữ, nhưng A La Hán và
Bồ Tát vẫn phải ngăn ngừa, ǵn giữ. Thân, ngữ, ư
nghiệp đều phải chú ư, v́ thân, ngữ, ư [của
A La Hán và Bồ Tát] vẫn c̣n có vô minh, tập khí vi tế.
Khi xưa, tại Ấn Độ có một
vị tôn giả, tập khí từ vô lượng kiếp đến
nay hết sức nặng nề. V́ từ vô lượng
đời đến nay, Ngài nếu chẳng phải là quốc vương,
th́ là bậc đại trưởng
giả, nhiễm thành thói quen ăn nói trong vô lượng
kiếp, gọi người khác là “tiểu tỳ” (小婢, đứa tớ
gái hèn mọn). Ngài hoàn toàn chẳng phải
là kiêu mạn, mà là do thói quen. Ngài gặp Phật, nghe pháp, chứng
đạo, có sức thần thông. Long vương, trời,
quỷ thần đều hộ tŕ Ngài. Khi Ngài qua sông, chẳng
qua được, bèn hô: “Tiểu tỳ! Ngăn gịng chảy
lại”, bảo long vương ngăn gịng chảy lại.
Long vương biết Ngài đă chứng đắc A La Hán, liền
ngăn gịng nước cho Ngài đi qua. Ngài cũng chẳng
một chữ cám ơn, đi luôn! Long vương
bèn đến mách với đức Phật, nói vị tôn
giả ấy quá sức bất lịch sự, quá kiêu ngạo,
tự măn. Đức Phật bảo long vương, tôn giả
chẳng có tâm coi thường, mà là do tập khí trong quá khứ.
Tuy đă chứng quả A La Hán, chỉ có thể đoạn
Kiến Tư Hoặc hiện hành, đoạn tuyệt thô
hoặc, nhưng tế Hoặc chẳng đoạn, hăy c̣n
tập khí. Chúng ta muốn đoạn tập khí rất khó,
tập khí từ nhiều đời bao kiếp vẫn mang
theo. Người tu đạo vừa thấy liền biết
tập khí của quư vị. Ai nấy đều biết rơ
tập khí của chính ḿnh, nhưng sửa đổi tập
khí rất khó. Đức Phật liền bảo long vương:
“Được rồi! Để ta bảo ông ta xin lỗi
với ông, bảo ông ta sám hối với ông”. Liền bảo
vị A La Hán ấy đến sám hối với long vương.
Vị A La Hán ấy lại
nói: “Tiểu tỳ đừng giận”. Ha, ha! Ở trước
mặt đức Phật, vẫn c̣n gọi người khác là “tiểu tỳ”.
Đức Phật bảo đấy là tập khí của vị
ấy, chẳng có cách nào thay đổi. Nếu vị ấy
thay đổi được tập khí ấy, sẽ là đại
Bồ Tát.
Chúng ta có rất nhiều vấn đề, mỗi người đều khác nhau. Một
mẹ sanh chín con, chín con khác nhau. Mỗi người có tập
khí riêng biệt, chủng tử khác nhau, tuyệt đối
chẳng giống nhau. Do vậy, người tu đạo
phải ǵn giữ ba nghiệp. Đó gọi là Tam Bất Hộ.
“Tam Bất Hộ không”: Tam Bất Hộ chẳng có.
Ba nghiệp của Phật chẳng có. Chẳng Tức, cũng
chẳng Không, cũng là chẳng Ly. Do đă ĺa ba
thứ Bất Hộ, nên nói là Không. Quư vị nói xem Không ǵ vậy?
Rời ĺa thật thể, c̣n nói Không chi nữa? Tức là Tam
Bất Hộ là Không. Tam Bất Hộ Không là ba nghiệp thân,
khẩu, ư của Phật. Thân, khẩu, ư nghiệp của đức
Phật thanh tịnh. V́ thế, Tứ Vô Sở Úy, Thập
Lực, Thập Bát Bất Cộng Pháp, cho đến đại
từ, đại bi, hỷ, xả đều
như thế, cho đến Phật chứng đắc Niết
Bàn. Niết Bàn bất sanh, bất
diệt, chẳng phải là Không ư? Đó là “tức Niết
Bàn không, ly Niết Bàn không”, Tức chẳng thể, mà Ly
cũng chẳng thể. Bản thân Niết Bàn là “bất
không, bất
diệt”, “bất sanh, bất diệt”, chẳng nhiễm, chẳng tịnh.
Đây chính là chánh pháp vi diệu do hết thảy
Như Lai và đại Bồ Tát tuyên nói cho chúng sanh. Đó gọi
là Vô Trần Cấu Luân. Tùy thuận chấp trước, th́ sẽ chẳng thanh tịnh, sẽ có trần cấu.
Do vậy, chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh mà chẳng
thấy chúng sanh, suốt ngày độ chúng sanh mà chẳng
có chúng sanh nào để có thể độ. Suốt ngày thuyết
pháp, mà cũng chẳng nói pháp nào, chẳng nói một câu nào,
bao hàm ư nghĩa như thế đó. Đấy chẳng phải
là đốn nghĩa. “Đốn nghĩa” là ly ngôn
thuyết, nhưng có ngôn thuyết th́ chẳng phải là Đốn
Giáo. Dùng Vô Thủ Hành Luân này để nói pháp vi diệu. Hễ
nói đến pháp vi diệu th́ Tức cũng chẳng thể,
mà Ly cũng chẳng thể, nói Không chẳng thể, mà nói
Có cũng chẳng thể!
(Kinh) Thiện nam tử! Như thị
Như Lai vị chư chúng sanh, dĩ Vô Trần Cấu Hành
Luân thuyết pháp, như măn nguyệt quang, thanh lương
vô ngại, biến măn hư không, chiếu xúc nhất thiết
vô chướng cảnh giới, năi chí quảng thuyết. Hựu
dĩ Vô Thủ Hành Luân thuyết vi diệu pháp, ư nhất
thiết pháp vô sở quái ngại, do như nhật quang phổ
chiếu nhất thiết, tam thừa căn khí, tùy kỳ sở
nghi, tuyên thuyết chánh pháp, vô sở chấp trước. Vị
chư Như Lai vị chư chúng sanh thuyết như thị
pháp, do như hư không, vô sai biệt tướng, dĩ vô
lượng Định du hư tự tại trang nghiêm trụ
tŕ, vị chư chúng sanh thuyết vi diệu pháp, vô sở
chấp trước, linh ư tam thừa tùy nghi thú nhập.
Cụ đại giáp trụ nhất thiết Bồ Tát Ma
Ha Tát chúng, vị tha thuyết pháp diệc phục như thị,
linh chư chúng sanh, văn thử tối thắng thậm
thâm pháp dĩ, ư tam thừa trung, tùy kỳ sở nhạo,
tùy thú nhất thừa, chủng chủng thiện căn, giai
đắc thành thục, tùy ư nhất thừa, cực
thiện an trụ, chung bất linh kỳ ư sanh tử
trung, tăng trưởng chủng chủng ác bất thiện
pháp, linh ư Niết Bàn kiên cố bất thoái.
(經)善男子,如是如來為諸眾生,以無塵垢行輪說法,如滿月光,清涼無礙徧滿虛空,照觸一切無障境界,乃至廣說。又以無取行輪說微妙法,於一切法無所罣礙,猶如日光普照一切,三乘根器隨其所宜,宣說正法,無所執著。謂諸如來,為諸眾生說如是法,猶如虛空無差別相,以無量定遊戲自在莊嚴住持,為諸眾生說微妙法,無所執著,令於三乘隨宜趣入。具大甲冑一切菩薩摩訶薩眾,為他說法,亦復如是。令諸眾生,聞此最勝甚深法已,於三乘中隨其所樂,隨趣一乘,種種善根皆得成熟;隨於一乘,極善安住,終不令其於生死中,增長種種惡不善法,令於涅槃堅固不退。
(Kinh: Này thiện nam tử! Cũng như
thế, Như Lai v́ các chúng sanh dùng Vô Trần Cấu Hành Luân
để thuyết pháp, như ánh sáng trăng tṛn, trong mát vô
ngại, trọn khắp hư không, chiếu chạm hết
thảy cảnh giới chẳng chướng ngại, cho đến
nói rộng là lại dùng Vô Thủ Hành Luân để nói pháp
vi diệu. Trong hết thảy các pháp, đều chẳng
vướng mắc, ví như ánh mặt trời chiếu trọn
khắp hết thảy. Đối với căn khí tam thừa,
tùy theo từng căn khí thích đáng mà tuyên nói chánh pháp chẳng
chấp trước. Tức là các Như Lai v́ các chúng sanh nói
pháp như thế, ví như hư không chẳng có tướng
sai khác, dùng vô lượng Định du hư tự tại
trang nghiêm trụ tŕ, v́ các chúng sanh nói pháp vi diệu chẳng
chấp trước, khiến cho tam thừa tùy theo căn
khí thích đáng mà tiến nhập. Hết thảy các vị
Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ đại giáp trụ v́
người khác thuyết pháp cũng giống như thế,
khiến cho các chúng sanh nghe pháp tối thắng rất sâu này
xong, từ trong tam thừa, sẽ tùy ḷng ưa thích mà tiến
nhập một thừa, các thứ thiện căn đều
được chín muồi, tột khéo an trụ trong một
thừa, trọn chẳng khiến cho họ tăng trưởng
các thứ pháp ác, bất thiện trong sanh tử, khiến
cho họ kiên cố bất thoái đối với Niết
Bàn).
Do Vô Trần
Cấu Hành Luân giống như ánh trăng: Trăng
tṛn trong mát, vô ngại, ánh trăng đầy khắp hư
không, chiếu chạm hết thảy cảnh giới không
chướng ngại. Ánh trăng chiếu sáng ngời, trăng
chẳng khởi ư tưởng chiếu sáng ngời, mà tự
nhiên là như thế. Người tiếp nhận cũng chẳng
suy nghĩ mà tiếp nhận, cũng chẳng phải là có ư nghĩ mong
tiếp nhận. Pháp vi diệu, trong hết thảy các pháp
không vướng mắc, không chấp trước.
Không vướng mắc, chẳng ngăn ngại, tức
là “chẳng phải có, chẳng phải không, chính là có, chính
là không” đều chẳng thể. “Do như nhật quang
phổ chiếu nhất thiết” (ví như ánh sáng mặt
trời, chiếu trọn khắp hết thảy): Mặt
trời mọc lên, sự tối tăm trên đại địa
đều tiêu mất. Đức Phật đối với
căn khí tam thừa, tức Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ
Tát, tùy theo pháp mà họ nương cậy, đức Phật
thuyết pháp chẳng phải v́ Ngài muốn thuyết pháp, mà
v́ chúng sanh cần đến. Căn cơ đă chín muồi,
sẽ được Phật tuyên thuyết chánh pháp. Mỗi
pháp nói ra đều là “chẳng thỉnh sẽ không nói”, đều
có nhân duyên. V́ được thỉnh, đức Phật mới
nói; lại có trợ
duyên, chư đại Bồ Tát đến giúp giáo hóa. Văn
Thù, Phổ Hiền, Quán Âm Bồ Tát các Ngài đâu cần
nghe pháp, nhưng tới giúp đức Phật hoằng dương
giáo hóa, đến chứng minh: Sở dĩ các Ngài thành đạo
là v́ đă tu hành, chứng đắc [các pháp được
nói ấy].
“Vô sở chấp trước”: Đối
với hết thảy các pháp, chẳng chấp trước.
V́ các chúng sanh mà nói pháp
như thế. Pháp như thế “do như hư không, vô
sai biệt tướng” (giống như hư không, chẳng
có tướng sai biệt). Từ các pháp do đức Phật
nói, chúng ta biết có nhân quả thế gian, nhân quả xuất
thế gian, quả báo thiện ác. Đấy đều là nói
tương ứng với căn cơ. Trong hư không, chẳng
có tướng này, chẳng có tướng kia. Có tướng th́ chính
là bản thân của cái tướng ấy.
“Dĩ vô lượng Định du hư tự
tại trang nghiêm trụ tŕ” là dùng vô lượng môn Định
để trang nghiêm tự tại trụ tŕ. Trụ tŕ ǵ vậy?
Trụ tŕ diệu pháp này, trụ tŕ mà chẳng trụ tŕ! “Trang nghiêm chúng sanh, thật phi trang nghiêm, thị danh
trang nghiêm” (trang nghiêm chúng sanh mà thật sự
chẳng trang nghiêm. Đó gọi là trang nghiêm): Đấy là
sử dụng một câu nói trong kinh Kim Cang. Chớ nên chấp
trước văn tự trong đoạn kinh này. Đối
với giải thoát, có trói buộc th́ mới giải thoát.
Chẳng bị trói buộc, sẽ chẳng thể nói đến
giải thoát. Không trói buộc
th́ không tháo gỡ. Chẳng có trói buộc, sẽ chẳng
có giải thoát! Chúng sanh đoạn phiền
năo, chứng Bồ Đề. Có phiền năo để có thể đoạn
hay không? Chẳng có phiền năo để đoạn, há có Bồ
Đề để có thể chứng? Cư sĩ Trương
Vô Tận[7] đă
nói hai câu như sau: “Đoạn trừ phiền năo trùng tăng
bệnh”, tức là nói quư vị mong đoạn phiền
năo, sẽ lại tăng thêm một tầng bệnh nữa! Tăng thêm ǵ vậy?
Đoạn phiền năo. Sự “đoạn” ấy là bệnh.
“Thú hướng Chân Như diệc thị tà”, tà tri tà
kiến! Quư vị muốn
thú hướng (hướng về, tiến nhập) Chân Như
để chứng Thật Tướng th́ đều là tà
kiến. Đó là đạt đến liễu nghĩa rốt
ráo. Chỉ cần mở miệng th́ đă sai lầm, ĺa tứ
cú, tuyệt bách phi. Chẳng nói năng chi hết th́ có đúng
hay không? V́ sao đức Phật lại quở trách hạng Tăng
dê câm? Tăng dê câm rốt cuộc chẳng biết nên làm như
thế nào! Có nhập
th́ mới biết được.
Đấy đều là nghĩa Thật
Tướng trong Đại Thừa liễu nghĩa mà quư vị
phải chứng. Ư nghĩa của diệu pháp là khiến
cho quư vị chẳng chấp trước ǵ, nhằm
đạt đến mục đích như
thế ấy! Khiến cho chúng sanh nghe điều ǵ, cũng đều
chẳng chấp trước; đối với điều
ǵ, cũng đều chẳng chấp trước. Khi đức
Phật thuyết pháp, có vô lượng ức chúng sanh tới
nghe pháp. Có người hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thuở
đó tại Ấn Độ có bao nhiêu nhân
khẩu?” Tôi nói: “Tôi cũng không biết, làm sao tôi biết Ấn
Độ có bao nhiêu nhân khẩu? Tối
thiểu là chẳng nhiều như hiện thời!” Người
đó lại hỏi: “Trong hội thuyết pháp của đức
Phật có nhiều người ngần ấy hay sao?” Tôi nói:
“Đấy chẳng phải là người!” Người đó
hỏi: “Chẳng phải là người th́ là ǵ?’ “Chư
thiên, Bồ Tát từ các thế giới ở phương
khác đến, ở trên hư không”. “Thế giới này
dung nạp nổi sao?” Tôi nói: “Đó là cách nh́n của quư vị”.
Lư giải như vậy hoàn toàn là sai, đó gọi là chấp
trước. Đức Phật thuyết pháp trong hư không,
pháp âm do Ngài nói ra trọn khắp hết thảy mọi chỗ.
Có một vị pháp sư thuyết pháp, chỉ
cần có năm người trở lên, vị ấy sẽ
không nói nữa. Chúng tôi ở chùa Pháp Nguyên, khi các vị lăo ḥa
thượng thuyết giới, cứ năm mươi người
là một đàn [truyền giới], vẫn chẳng kịp
thời gian. Cách làm như vậy chẳng hợp pháp. Thông
thường là một đối một. Quư vị thấy
các vị đại đức như thật khai ngộ, đều
là một đối một truyền giới. Giới sư
hỏi người ấy, nói đúng với căn cơ của
người ấy (người thọ giới). Chúng ta chẳng
có bản lănh “thích hợp khắp ba căn” như đức
Phật. Trong thời đức Phật, đức Phật
nói một đoạn pháp, sẽ có rất nhiều người
khai ngộ, chứng quả, cho đến phát Bồ Đề
tâm. Chúng ta nói rất nhiều lần mà cũng chẳng có ai
phát Bồ Đề tâm, mà có phát Bồ Đề tâm, quư vị
cũng không biết, nhưng cũng
chẳng phải là thật sự phát. Đạt tới Sơ
Trụ th́ mới có thể phát Bồ Đề tâm thật
sự. Đó gọi là “tùy nghi thuyết pháp”.
“Vị tha thuyết pháp, diệc phục
như thị, linh chư chúng sanh văn thử tối thắng
thậm thâm pháp dĩ” (v́ người khác thuyết pháp cũng
giống như thế, khiến cho các chúng sanh nghe pháp tối
thắng rất sâu này xong): Pháp thù thắng sâu nhất chính
là tâm pháp. Đối với “phi tức, phi ly” như vừa
nói trên đây, chớ nên suy nghĩ nơi văn tự, mà
phải là cái tâm ta thấu đạt. Quư vị nói xem, cái tâm
của quư vị có h́nh dạng thật sự là ǵ? Tư
duy th́ chẳng phải là cái tâm ấy, rời ĺa tư duy
th́ tâm ta lại ở nơi đâu? Quư vị phải ĺa tâm
ư thức để tham cứu. Hễ tham cứu bèn khai ngộ.
Dùng cái tâm phân biệt, quư vị đến chỗ lăo ḥa thượng,
thỉnh Ngài khai thị, suốt đời quư vị sanh khởi cái tâm phân biệt,
Ngài sẽ đánh quư vị. Đó là diệu nghĩa rất
sâu!
Như ḥa thượng Câu Chi, người ta
đến thỉnh vấn Ngài, bất luận là ai thỉnh
vấn, Ngài đều dùng
một ngón tay để dạy Thiền, ai đến hỏi
cũng khai ngộ. Bất luận ai thỉnh pháp, Ngài đều
giơ một ngón tay, người t́m đến liền khai
ngộ, liền khấu đầu lễ bái, cảm tạ
Ngài. Có một hôm Ngài không ở nhà, chỉ có một tiểu
đồ đệ có mặt. Người khác tới hỏi
pháp, [đồ đệ] nói sư
phụ không ở nhà, người ấy bèn thỉnh vấn:
“Như thế
nào là ư của tổ sư từ phương Tây sang?” Vị
tiểu đồ đệ bèn duỗi tay ra. Ôi! Người
đó lại rất cao hứng, khấu đầu lễ tạ, rời
đi, đă khai ngộ rồi! Sư phụ trở về, hỏi: “Có ai
đến hay không?” Đồ đệ thưa: “Có người
đến thỉnh pháp”. Sư phụ lại nói: “Con trả
lời như thế nào?” Tiểu đồ đệ thưa:
“Con bắt chước thầy. Ông ta hỏi như thế
nào là ư của tổ sư từ phương Tây sang, con liền
làm như thế này…” Sư phụ lại hỏi: “Biểu
thị của ông ta như thế nào?” “Ông ta khấu đầu
cảm ơn, nói đă khai ngộ rồi”. Ḥa thượng
Câu Chi hỏi: “Con có ngộ hay không?” “Con không biết”. “Được!
Ta hỏi con, như thế nào là ư của tổ sư từ
phương Tây sang?” Đồ đệ bèn giơ một
ngón tay lên, thầy liền một đao chém đứt phăng
ngón tay ấy! Đau đến nỗi đồ đệ
vừa gào, vừa rên. [Thầy
mắng]: “Ngươi đừng có kêu gào nữa, làm lại!”
Tiểu đồ đệ cố nhịn đau, ḥa thượng
Câu Chi lại hỏi: “Như thế nào là ư của tổ sư
từ phương Tây sang?” Đồ
đệ liền khai ngộ, mà cũng chẳng đau!
Mọi người có ngộ hay không? Ngộ
được ǵ? Trước là Có, sau là Không, chẳng phải
Không, chẳng
phải Có. Chẳng
phải Có, không có chi hết,
bèn nói là Không. Không th́ c̣n nói ǵ nữa! Đă là không có, c̣n nói tới
Không chi nữa! Chúng ta cứ thong thả tham cứu đi!
Trong phần diễn tả trên đây, đă nói ra rất nhiều
lư do, chẳng có lư do nào để có thể nói. Nếu nói,
sẽ rơi vào Đệ Nhị Nghĩa, Đệ Tam Nghĩa,
vĩnh viễn lầm lỡ, chẳng thể ngộ được.
Làm như thế nào? Dựa theo giáo lư, dựa theo kinh bổn
để xem. Như thế sẽ rất nhọc nhằn,
vừa đọc tụng, vừa lễ bái, vừa sám hối.
Nếu thật sự có bản lănh, sẽ lập tức
hoát nhiên đại ngộ. Dẫu đă ngộ, vẫn phải
học từ đầu. Tuy đă ngộ,
nhưng chưa có bản lănh, vẫn chưa phải là Phật,
đó gọi là “ngộ
được Lư Tức Phật”.
Trong tam thừa, tùy ḷng ưa thích, “tùy thú nhất
thừa, chủng chủng thiện căn, giai đắc
thành thục” (tùy ư tiến hướng theo một thừa
nào, các thứ tthiện căn đều được chín
muồi): Các thiện căn đă gieo trong quá khứ đều
đă chín muồi. “Tùy ư nhất thừa, cực thiện
an trụ” nghĩa là: Thừa nào cũng được,
tột bậc khéo an trụ, tức là người ấy có
thể đoạn Hoặc, chứng Chân, an trụ bất động,
chẳng c̣n thọ sanh tử luân hồi nữa!
(Kinh) Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha
Tát vị đoạn vô lượng, vô số
chúng sanh sanh tử lưu chuyển, vị tha thuyết pháp.
Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự đoạn
sanh tử lưu chuyển, vị tha thuyết pháp. Bồ
Tát Ma Ha Tát vị linh vô lượng, vô số
chúng sanh độ tứ bộc lưu, vị tha thuyết
pháp. Thanh Văn, Độc
Giác đản vị linh kỷ độ tứ bộc
lưu, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị trừ
vô lượng, vô số
chúng sanh chư phiền năo bệnh, vị tha thuyết pháp.
Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự trừ
chư phiền năo bệnh, vị tha thuyết pháp. Bồ
Tát Ma Ha Tát vị đoạn chúng sanh chư Uẩn phiền
năo tập khí tương tục linh tận vô dư, vị
tha thuyết pháp, Thanh Văn, Độc Giác đản vị
tự đoạn chư Uẩn phiền năo tập khí tương
tục hữu dư bất tận, vị tha thuyết pháp.
Bồ Tát Ma Ha Tát vị thành đại bi đẳng lưu
quả cố, đại bi vi nhân, vị tha thuyết pháp. Thanh
Văn, Độc Giác bất vị đại bi đẳng
lưu quả cố, vô đại bi nhân, vị tha thuyết
pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát ư chư chúng sanh hữu sở cố
niệm, nhi vị thuyết pháp. Thanh
Văn, Độc Giác ư chư chúng sanh vô sở cố
niệm, nhi vị thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị tức
nhất thiết tha chúng sanh
khổ, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản
vị tự tức kỷ sở hữu khổ, vị tha
thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị măn nhất thiết
chúng sanh pháp vị, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn,
Độc Giác đản vị tự măn kỷ thân pháp vị,
vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị chư chúng sanh
đắc thắng pháp minh, vị tha thuyết pháp. Thanh
Văn, Độc Giác đản vị tự kỷ đắc
thắng pháp minh, vị tha thuyết pháp.
(經)善男子,菩薩摩訶薩,為斷無量無數眾生生死流轉,為他說法;聲聞、獨覺,但為自斷生死流轉,為他說法。菩薩摩訶薩,為令無量無數眾生渡四瀑流,為他說法;聲聞、獨覺,但為令己渡四瀑流,為他說法。菩薩摩訶薩,為除無量無數眾生諸煩惱病,為他說法;聲聞、獨覺,但為自除諸煩惱病,為他說法。菩薩摩訶薩,為斷眾生諸蘊煩惱,習氣相續令盡無餘,為他說法;聲聞、獨覺,但為自斷諸蘊煩惱,習氣相續有餘不盡,為他說法。菩薩摩訶薩,為成大悲等流果故,大悲為因,為他說法;聲聞、獨覺,不為大悲等流果故,無大悲因,為他說法。菩薩摩訶薩,於諸眾生有所顧念,而為說法;聲聞、獨覺,於諸眾生無所顧念,而為說法。菩薩摩訶薩,為息一切他眾生苦,為他說法;聲聞、獨覺,但為自息己所有苦,為他說法。菩薩摩訶薩,為滿一切眾生法味,為他說法;聲聞、獨覺,但為自滿己身法味,為他說法。菩薩摩訶薩,為諸眾生得勝法明,為他說法;聲聞、獨覺,但為自己得勝法明,為他說法。
(Kinh: Này thiện nam tử! Bồ Tát
Ma Ha Tát v́ đoạn sanh tử lưu
chuyển của vô lượng, vô số chúng
sanh, mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc
Giác chỉ v́ đoạn sanh tử lưu chuyển của
chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha
Tát v́ khiến cho vô lượng vô số chúng sanh vượt
qua bốn gịng thác
mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc
Giác chỉ v́ chính ḿnh vượt qua bốn
gịng thác mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha
Tát v́ trừ các bệnh phiền năo của vô lượng
vô số chúng sanh mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn,
Độc Giác chỉ vị trừ các bệnh phiền năo
của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ
Tát Ma Ha Tát v́ đoạn trừ hết sạch chẳng c̣n
thừa sót các tập khí phiền năo liên tục nơi các Uẩn
của chúng sanh mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh
Văn, Độc Giác chỉ v́ đoạn trừ tập
khí liên tục nơi các Uẩn
phiền năo của chính
ḿnh hăy c̣n thừa sót, chẳng tận, mà v́ người khác
thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ thành tựu quả đại
bi đẳng lưu, dùng đại bi làm nhân, mà v́ người
khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chẳng v́ quả
đại bi đẳng lưu, chẳng dùng đại bi
làm nhân, mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát
do quan tâm các chúng
sanh mà v́ họ thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chẳng
quan tâm tới chúng sanh mà v́ họ thuyết pháp. Bồ Tát Ma
Ha Tát v́ dứt khổ cho hết thảy các chúng sanh khác mà
thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ dứt tất
cả các khổ của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết
pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ khiến cho hết thảy chúng sanh
viên măn pháp vị mà thuyết pháp. Thanh Văn, Độc
Giác chỉ v́ viên măn pháp vị của chính ḿnh mà v́ người
khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ khiến cho các chúng sanh
đạt được pháp minh thù thắng mà v́ người
khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ chính
ḿnh đắc pháp minh thù thắng mà v́ người khác thuyết
pháp).
Chúng ta thường nói hàng Nhị
Thừa cũng ôm bát khất thực, người ta thỉnh
họ thuyết pháp, họ cũng thuyết pháp; nhưng mục
đích của họ chỉ nhằm đoạn
sanh tử, ngưng dứt sanh tử lưu chuyển của chính
ḿnh. Họ thuyết pháp chẳng nhằm khiến cho chúng
sanh đoạn trừ sanh tử. Đấy là sự khác
biệt giữa hàng Nhị Thừa và Bồ Tát. Hết thảy
mọi chuyện họ (hàng Nhị Thừa) đă làm đều
v́ chính ḿnh, chẳng phải v́ độ vô lượng
chúng sanh đang ở trong khổ luân sanh tử lưu chuyển
mà thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát khiến cho hết thảy
vô lượng vô số chúng sanh vượt bốn gịng thác
mà v́ họ thuyết pháp. Bốn gịng thác là bốn loại
căn bản của sanh tử, cho đến loại cuối
cùng là “vô minh bộc lưu” (gịng thác vô minh). Thanh
Văn và Độc Giác chẳng phải vậy, họ chỉ v́ vượt
thoát bốn gịng thác của chính ḿnh. Họ thuyết pháp cho
chúng sanh nhằm mục đích thuần v́ chính ḿnh, chẳng
v́ người khác.
Bồ Tát thuyết pháp chưa từng
nghĩ tới chính ḿnh. Hết thảy mọi chuyện của
Bồ Tát đều v́ độ chúng sanh. Chúng ta niệm phẩm
Phổ Hiền Hạnh Nguyện, hoặc niệm phẩm
Tịnh Hạnh, [sẽ thấy] Ngài gặp một chuyện nào, cũng đều
nghĩ tới Phật pháp, tức là nghĩ tới chúng
sanh, chỉ mong chúng sanh được thành Phật. Mỗi
câu đều là như thế, hễ gặp chuyện ǵ
cũng đều “đương nguyện chúng sanh”
(nguyện cho chúng sanh), nguyện họ đoạn phiền
năo, chứng Bồ Đề, đều là nguyện cho họ
cắt đứt gịng sanh tử, nhập Nhất Thiết
Trí, đều là như vậy. Thanh Văn và Độc
Giác chẳng phải vậy.
Bồ Tát Ma Ha Tát v́ trừ khử các bệnh
phiền năo của vô lượng vô số chúng sanh mà v́ họ
thuyết pháp. Bồ Tát thuyết pháp nhằm mục
đích khiến cho chúng sanh đều đoạn Hoặc,
chứng Chân, chẳng c̣n luân chuyển trong sanh tử. “Thanh
Văn, Độc Giác đản vị tự trừ chư
phiền năo bệnh, vị tha thuyết pháp” [nghĩa là] Bồ
Tát v́ trừ bệnh phiền năo cho chúng sanh mà thuyết pháp,
chẳng v́ chính ḿnh, c̣n Độc
Giác và Thanh Văn là v́ trừ bệnh phiền năo của chính
ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. “Bồ Tát Ma Ha Tát
vị đoạn chúng sanh chư Uẩn phiền năo tập
khí tương tục linh tận vô dư, vị tha thuyết
pháp” (Bồ Tát Ma Ha Tát v́ đoạn các tập khí phiền
năo liên tục nơi các Uẩn
của chúng sanh khiến
cho hết sạch, chẳng c̣n sót, mà v́ người khác thuyết
pháp): Tuy chính ḿnh chưa thành Phật, mà Ngài làm cho chúng sanh
đều thành Phật. Địa Tạng Bồ Tát một
mực ở địa vị Bồ Tát, nhưng các chúng sanh
được Ngài hóa độ có rất nhiều vị đă
thành Phật. Trong kinh Địa Tạng, chư Phật
đến từ mười phương [tham dự pháp hội trên cung trời Đao
Lợi] đều do Địa Tạng Vương Bồ Tát
hóa độ, giáo hóa thành Phật. Chính Ngài vẫn là Bồ
Tát, đấy là chủng tánh đại Bồ
Tát. Không chỉ khiến cho chúng sanh đoạn phiền năo,
đoạn các Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, Ngũ Uẩn phiền năo, mà c̣n mong đoạn
tập khí, chẳng để cho tập khí tiếp nối,
chẳng để cho phiền năo tiếp
nối, khiến cho hết thảy phiền năo đều hết
sạch, chẳng c̣n thừa sót. Ngài thuyết pháp cho chúng
sanh như thế
đó!
“Bồ Tát Ma Ha Tát vị thành đại bi
đẳng lưu quả cố” (Bồ Tát Ma Ha Tát v́ thành
tựu quả đại bi đẳng lưu): Đại
bi làm nhân, v́ người khác thuyết pháp. Tâm đại bi
của Ngài b́nh đẳng. “Lưu” (流): Cùng
loại là Lưu, [hàm ư]
khiến cho hết thảy chúng sanh đều giống
như Ngài, đều thành tựu viên măn Bồ Đề. Ngài
dùng cái tâm đại bi làm nhân, hy vọng hết thảy chúng
sanh đều phát đại bi tâm, v́ độ hết thảy
chúng sanh mà thuyết pháp cho họ. Thanh Văn, Độc
Giác thuyết pháp chẳng phải v́ đại bi đẳng
lưu quả. Họ chẳng phải v́ đẳng lưu.
“Đẳng lưu” (等流) có nghĩa
là làm cho hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng với
ta, đều thành cùng một
loại. “Lưu” là một loại. Bồ Tát Ma Ha Tát v́
nghĩ tưởng các chúng sanh mà thuyết pháp. “Cố niệm” (顧念) là “gia
hộ, gia tŕ, nhiếp thọ”, dùng cái tâm đại bi,
từ bi hỷ xả để nhiếp thọ chúng sanh. Nhiếp
thọ họ như vậy, thuyết pháp cho họ; c̣n Thanh Văn Độc
Giác th́ sao? Họ v́ chính ḿnh, chẳng có tâm đại từ
đại bi, chẳng nghĩ nhớ, chẳng giống Phật.
Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, hễ gặp vị
đại Bồ Tát nào, Ngài cũng đều dặn ḍ vị
ấy: “Sau khi ta nhập Niết Bàn, đối với các
đệ tử của ta trong thời Mạt Pháp, đừng
bỏ sót một ai, đều v́ ta độ họ, khiến
cho họ ĺa khỏi sanh tử”. Đối với mỗi
vị đại Bồ Tát, đều dặn ḍ như thế,
bất luận Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ
Hiền, Ngài đều là nhắc nhở như vậy. Đồng
thời, lập ra đủ loại pháp phương tiện
để dạy quư vị duyên niệm Phật, Pháp, Tăng
Tam Bảo. Thanh Văn và Duyên Giác chẳng quan tâm như thế.
Bồ Tát v́ dứt diệt khổ năo cho hết thảy chúng
sanh, dứt diệt thống khổ của hết thảy
chúng sanh mà thuyết pháp cho họ, khiến cho họ đạt
được thanh lương. Thanh Văn và Độc Giác
v́ diệt tất cả sự khổ
của chính ḿnh mà thuyết pháp cho kẻ khác, chẳng phải
v́ người khác, mà v́ chính ḿnh. Họ làm chuyện cần
làm [để giúp chính ḿnh giải thoát] như thế đó.
V́ ai? V́ chính ḿnh!
“Bồ Tát Ma Ha Tát vị măn nhất thiết
chúng sanh pháp vị, vị tha thuyết
pháp” (Bồ Tát v́ khiến cho hết thảy chúng sanh viên măn
pháp vị mà v́ họ thuyết pháp): Chúng ta ăn thứ ǵ,
cũng đều tham đắm vị ngon của nó. Pháp có
pháp vị, tức là hương vị của pháp. Chư đại
Bồ Tát chỉ dạy chúng ta sao cho quư vị có thể học
pháp tinh tấn, hoan hỷ, sung sướng, tức là đă
đạt được
pháp vị, đạt được thanh lương. Đă
đạt được thanh lương, sẽ trừ
khử nhiệt năo và đói kém cho quư vị. Hễ đă có
pháp vị, chúng ta sẽ có pháp. Bồ Tát thuyết pháp như
thế đó. C̣n Thanh Văn và Độc Giác chỉ nhằm
thỏa măn pháp vị của chính ḿnh, chẳng phải v́ chúng
sanh, họ v́ thỏa măn pháp
vị của chính ḿnh mà thuyết pháp cho
chúng sanh.
“Bồ Tát Ma Ha Tát vị chư chúng sanh
đắc thắng pháp minh” (Bồ Tát Ma Ha Tát v́ làm cho chúng
sanh đạt được pháp minh thù thắng): Từ nơi
pháp, sanh ra quang minh trí huệ thù thắng. “Minh” là giác
ngộ, giác có nghĩa là minh. Tam giác viên minh, tức là tự
giác, giác tha, giác hạnh viên măn. Đối với ba loại
giác ấy, nay chúng ta chỉ cầu tự giác là được
rồi. Chúng ta không có minh, chẳng đủ sức! Khi Bồ
Tát thuyết pháp cho chúng sanh, sẽ khiến cho hết thảy
chúng sanh đều đạt được pháp thù thắng,
có thể sanh ra quang minh trí huệ. V́ như thế mà thuyết
pháp cho chúng sanh. Thanh Văn và Độc Giác chỉ v́ chính ḿnh
đạt được pháp minh thù thắng mà v́ người
khác thuyết pháp.
(Kinh) Thiện nam tử! Dĩ yếu ngôn
chi, Bồ Tát Ma Ha Tát vô lượng luật nghi, phổ vị
trừ diệt nhất thiết chúng sanh đại vô minh ám,
đại bố úy sự, nhất thiết suy tổn, đắc
đại quang minh, cập đại danh xưng, như thật
giác ngộ Nhất Thiết Trí trí, vị tha thuyết pháp. Thanh
Văn, Độc Giác thiểu phần luật nghi, đản
vị diệt trừ tự vô minh ám, đắc tiểu
quang minh, cập tiểu danh xưng, như thật giác ngộ
thiểu phần pháp trí, vị tha thuyết pháp. Thiện
nam tử! Thanh Văn, Độc Giác, vô hữu ư tha thật
hoài cố niệm, vô hữu ư tha thật hoài bi trắc,
vô hữu ư tha thật bất khinh lộng, vô hữu ư
tha thật vi lợi ích, vô hữu ư tha thật vi bạt
tế, vô hữu ư tha thật hành tiến cử, vô hữu
ư tha thật dục xưng thán, vô hữu ư tha thật
vô siểm khúc, nhi hành tán mỹ, vô hữu
ư tha bất cố kỷ thân, linh bỉ an lạc, vô hữu
ư tha bất khởi ngộ thất thân, ngữ, ư nghiệp.
Thiện nam tử! Trụ Đại Thừa giả vô hữu
ư kỷ, thật hoài cố niệm, quảng thuyết
năi chí vô hữu ư tha phát khởi ngộ thất thân, ngữ,
ư nghiệp!
(經)善男子,以要言之,菩薩摩訶薩無量律儀,普為除滅一切眾生大無明闇、大怖畏事、一切衰損,得大光明及大名稱,如實覺悟一切智智,為他說法;聲聞、獨覺,少分律儀,但為滅除自無明闇,得小光明及小名稱,如實覺悟少分法智,為他說法。善男子,聲聞、獨覺,無有於他,實懷顧念;無有於他,實懷悲惻;無有於他,實不輕弄;無有於他,實為利益;無有於他,實為拔濟;無有於他,實行薦舉;無有於他,實欲稱嘆;無有於他,實無諂曲而行讚美;無有於他,不顧己身令彼安樂;無有於他,不起誤失身語意業。善男子,住大乘者,無有於己,實懷顧念;廣說乃至無有於他,發起誤失身語意業。
(Kinh: Này thiện nam tử! Nói tóm lại,
vô lượng luật nghi của Bồ Tát Ma Ha Tát đều
v́ trừ diệt trọn khắp vô minh tối tăm to lớn,
chuyện sợ hăi to lớn, hết thảy suy tổn của
hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đạt được
quang minh to lớn và danh xưng to lớn, đúng như thật
giác ngộ trí Nhất Thiết Trí, bèn v́ người khác thuyết
pháp. Chút phần luật nghi của Thanh Văn và Độc
Giác chỉ nhằm diệt trừ tối tăm vô minh của
chính ḿnh, đạt được quang minh nhỏ và danh xưng
nhỏ nhoi, đúng như thật giác ngộ chút phần pháp
trí, v́ người khác thuyết pháp. Này thiện nam tử! Thanh
Văn và Độc Giác chẳng thật sự ôm ḷng quan tâm người
khác, chẳng thật sự ôm ḷng xót thương, trắc
ẩn người khác, chẳng thật sự không khinh rẻ,
chọc ghẹo người khác, chẳng thật sự tạo
lợi ích cho người khác, chẳng thật sự v́ cứu
vớt người khác, chẳng thật sự làm những
chuyện tăng tấn người khác, chẳng thật
sự muốn khen ngợi người khác, chẳng thật
sự không siểm khúc khen ngợi người khác, chẳng
hề không màng chính ḿnh mà khiến cho người khác an lạc,
chẳng hề không dấy lên thân, ngữ, ư nghiệp lầm
lạc đối với người khác. Người trụ
Đại Thừa chẳng v́ nghĩ nhớ chính ḿnh, nói rộng
là cho đến chẳng phát khởi thân ngữ ư nghiệp
lầm lạc đối với người khác).
Trí Nhất Thiết Trí là nói đến Phật,
chỉ có Phật th́ mới có thể gọi là “trí Nhất
Thiết Trí”. “Dĩ yếu
ngôn chi” tức là nói tóm gọn. Nói chung, Bồ Tát Ma Ha Tát tuân hành
vô lượng luật nghi. “Luật” (律) là giới
điều, “nghi” (儀) là bốn
oai nghi, đi, đứng, ngồi, nằm. Nghi là phương
tiện của luật. Vậy th́ hết thảy các pháp, hết
thảy luật nghi của các Ngài đều nhằm mục
đích trừ khử vô minh hắc ám cho hết thảy chúng
sanh, cho đến khiến cho chúng sanh vĩnh viễn chẳng
kinh sợ. Người sống trong hắc ám, dễ nẩy
sanh sợ hăi; ở trong quang minh, sẽ chẳng nẩy
sanh sợ hăi. Nếu có đại trí huệ, bất luận
chuyện ǵ cũng đều thấy thấu suốt, sẽ
chẳng có cảm giác sợ hăi. Nếu chẳng thấy thấu
suốt, sẽ chẳng đạt được trí huệ,
vẫn phải ṃ mẫm trên con đường hắc ám.
Phía trước có phải là hầm bẫy hay không, quư vị
chẳng biết. Đi trên đường, sẽ nẩy
sanh sợ hăi, sẽ có chuyện
đáng sợ, cho đến bị tổn giảm, tức
là sợ thiện nghiệp bị tổn giảm, chỉ sợ
ác nghiệp sẽ tăng trưởng.
Nghe pháp nhằm mục đích khiến cho chính
ḿnh có thể đạt được đại quang
minh, cho đến danh xưng tốt đẹp. Nói theo khía
cạnh xă hội, cái danh chính là sanh mạng thứ hai. Nếu
quư vị có danh tiếng tốt đẹp, ai trông thấy
cũng đều cung kính, đều tán thán, đều tùy
hỷ. Tiếng ác lan xa, quư vị sẽ gặp trở ngại.
Đúng như thật
giác ngộ trí Nhất Thiết Trí, khiến cho hết thảy
chúng sanh đều có thể giác ngộ thành Phật. Thuyết
pháp cho họ như vậy, Bồ Tát muốn cho hết thảy
chúng sanh đều thành Phật, sẽ khiến cho hắc ám,
vô minh dần dần suy tổn, quang minh trí huệ và danh xưng
[tăng trưởng], khiến cho họ giác ngộ, rốt
ráo tăng trưởng cho đến
thành tựu trí Nhất
Thiết Trí.
Đối với chút phần luật nghi của
Thanh Văn và Độc Giác, [nếu nh́n theo sự tướng],
chúng ta chỉ biết giới điều của Bồ Tát
là mười giới trọng, bốn mươi tám giới
khinh như kinh Phạm Vơng đă nói. Đấy là luật
nghi của Bồ Tát. [Trong khi đó], giới tỳ-kheo gồm
hai trăm năm mươi điều, tám vạn tế hạnh,
c̣n có tám vạn điều nơi ư, giới căn bản
là hai trăm năm mươi điều. Nếu [dựa
theo sự tướng đó], cho rằng giới Bồ Tát
rất ít, c̣n tỳ-kheo Thanh Văn, Duyên Giác có rất nhiều giới cấm, lư giải
như thế là sai lầm. Mỗi điều giới trong
kinh Phạm Vơng bao hàm vô lượng vô số giới. Ngoài
Chỉ ra, c̣n có Tác. Trong giới luật của tỳ-kheo, rất
nhiều điều là Tác Tŕ, tức là những chuyện phải
nên làm. Do vậy, phải biết, đối với Bồ
Tát luật nghi, hễ phát Bồ Đề tâm, sẽ thọ
Tam Tụ Tịnh Giới:
1) Tất cả các luật nghi đều được
bao gồm trong Nhiếp Luật Nghi Giới. Chỉ cần
đức Phật dạy chuyện ǵ chẳng được phép làm th́ đều
là Luật.
2) Đối với Nhiếp Thiện Pháp Giới,
chuyện ǵ đức Phật muốn quư vị thực hiện,
đó là chuyện đáng nên làm, quư vị
đều phải thực hiện. Sự nghiệp lợi
ích chúng sanh và hết thảy thiện pháp quư vị đều
phải thực hiện. Bất luận là pháp Thập Thiện,
cho đến Tam Quy, Ngũ Giới, cho đến pháp Thanh
Văn, quư vị đều phải thực hiện. Trong hết
thảy các pháp, chỉ cần là thiện pháp th́ đều
phải làm. [Đó là Nhiếp Thiện Pháp Giới].
3) Khó thực hiện nhất là Nhiêu Ích Hữu
T́nh Giới, tức là khiến cho hết thảy chúng sanh
đều đạt được lợi ích.
Thanh Văn và Duyên Giác chẳng phải là như
vậy, chỉ v́ chính ḿnh, diệt trừ tối tăm vô
minh, tức là diệt trừ vô minh của chính ḿnh, đạt
được quang minh nhỏ nhoi. V́ tâm lượng của
họ chẳng lớn, cho nên đạt được lợi
ích rất nhỏ.
“Tiểu danh xưng”: Danh tiếng
chẳng lớn. Trong tam thiên đại thiên thế giới
và các quốc độ ở phương khác, vô lượng
thế giới đều biết tới các vị đại
Bồ Tát như Văn Thù Sư
Lợi, Địa Tạng Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ
Tát; đó gọi là “đại danh xưng”. Chẳng
phải là tiếng tăm trong thế gian này, tiếng tăm
trong thế gian này rất bé! “Như thật giác ngộ
thiểu phần pháp trí” (đúng như thật giác ngộ
chút phần pháp trí): Họ chẳng phải là trí Nhất
Thiết Trí (tức Nhất Thiết Chủng Trí), mà là Nhất
Thiết Trí. “Thiểu phần pháp” là ǵ vậy? Khổ,
Tập, Diệt, Đạo, mười hai nhân duyên. Họ
có trí huệ đối với pháp ấy, bèn nói cho chúng sanh pháp
như vậy!
“Thiện nam tử! Thanh Văn, Độc
Giác vô hữu ư tha thật hoài cố niệm” (Này thiện
nam tử! Thanh Văn và Độc Giác chẳng thật sự
quan tâm đến người khác): Thanh Văn và Độc
Giác chẳng quan tâm chúng sanh, chỉ quan tâm chính ḿnh. “Vô hữu
ư tha thật hoài bi trắc” (chẳng thật sự có
ḷng xót thương, trắc
ẩn đối với người khác): Cái tâm trắc ẩn
ai nấy đều có, đó là tâm đại bi. Thanh Văn
đối đăi với chúng sanh chỉ v́ sanh tử của
chính ḿnh, chẳng quan tâm đến chúng sanh. “Vô hữu
ư tha thật bất khinh lộng, vô hữu ư tha thật
vi lợi ích” (chẳng thật sự không khinh thường, trào lộng người
khác, chẳng thật sự tạo lợi ích cho người
khác): Bồ Tát thật sự chẳng khinh bỉ, chẳng
trào lộng người khác, chẳng năo hại chúng sanh. La
Hán chẳng vậy, nói theo tâm lư, họ đối với chúng
sanh chẳng thuyết pháp đúng thật. Chẳng chân thật
bồi dưỡng người khác, mà là chân thật bồi
luyện chính ḿnh. Công
đức do tu hết thảy các pháp đều chuyên nhằm
hồi hướng cho chính ḿnh, chẳng hồi hướng
cho người khác. Có rất nhiều đạo hữu, niệm
kinh xong, hoặc bái sám xong, chỉ hồi hướng cho chính
ḿnh. Bảo họ hồi hướng cho pháp giới chúng
sanh, họ nói: “Đợi cho đến khi tôi đă tự
độ rồi mới nói sau”.
Tôi gặp rất nhiều người như
vậy, [luôn mang tâm lư]: “Tôi hồi hướng cho họ th́
lại được ǵ cơ chứ? Nhọc nhằn niệm,
nhọc nhằn lạy, hồi hướng hết cho họ
ư?” Chẳng thể hồi hướng như vậy th́
là cái tâm Tiểu Thừa. Nhưng họ cũng biết hồi
hướng, hồi hướng cho chính ḿnh trong tương
lai, [cứ nghĩ] hồi hướng cho người khác
có lợi ích chi đâu? Chẳng có! Họ cũng biết: Khi
họ khất thực, có người cúng dường thức
ăn cho họ, th́ họ cũng hồi hướng cho người
ta. Đức Phật đă dạy như vậy. Chẳng
hồi hướng th́ không được. Họ cũng
phải hỏi người ấy:
“Quư vị cúng dường thức ăn cho tôi, có mong cầu
ǵ, muốn làm ǵ? Quư vị nói ra, tôi sẽ thuyết pháp cho
quư vị, sẽ hồi hướng cho quư vị”. Đấy
là La Hán. Bồ Tát sẽ chẳng như vậy! Bồ Tát nhận
vật cúng dường của quư vị, sẽ có thể hồi
hướng, măi cho đến khi quư vị thành Phật, chẳng do đạt được
chút ít đă cho là đủ!
“Vô hữu ư tha thật hành tiến cử,
vô hữu ư tha thật dục xưng thán, vô hữu ư
tha thật vô siểm khúc, nhi hành tán mỹ” (chẳng thật
sự giúp người khác tăng tấn, chẳng thật
sự muốn khen ngợi người khác, chẳng thật
sự không siểm khúc, ca ngợi người khác): Thanh
Văn chẳng làm chuyện này! “Vô hữu ư tha bất
cố kỷ thân, linh bỉ an lạc” (chẳng v́ người
khác mà chẳng màng thân ḿnh, khiến cho họ được
an lạc): Chúng ta thường nói, chẳng v́ cầu an lạc
cho chính ḿnh, chỉ mong chúng sanh được ĺa khổ. Đấy
là đại Bồ Tát, chẳng phát nguyện hư dối.
C̣n có mười đại nguyện vương của Phổ
Hiền hồi hướng chúng sanh, nguyện chịu khổ
thay cho hết thảy chúng sanh. Như Ngài ngồi tù, “ta vô tù,
quư vị thoát ra”. Quư vị bị bệnh, “ta thay quư vị
gánh chịu, quư vị được khoẻ mạnh”, các
vị đại Bồ Tát xác thực là có thể làm được
[như thế ấy].
Có rất nhiều đạo hữu đă
phát cái nguyện ấy; về sau, bị lửa thiêu thân, quư
vị phát nguyện thay người khác bị bệnh, người
đó lành bệnh. Khi mắc bệnh, quư vị đừng
nên ôm ḷng oán hận. Lúc đó, ta hành Bồ
Tát đạo mới thành công, hành Bồ Tát đạo sẽ
có thành tựu. Nếu không, quư vị có muốn thay thế,
chỉ sợ chẳng thay nổi! Mọi người
đều biết Tuyên Hóa thượng nhân. Sư là người
Đông Bắc, lúc mười bảy tuổi, mẹ Sư
mất, Sư giữ đạo hiếu bên mộ mẹ suốt
ba năm. Thuở đó, vùng Đông Bắc tuyết rơi
nhiều, rất lạnh. Vào lúc chúng tôi c̣n trẻ, [mùa Đông,
trời lạnh] hai ba chục độ âm. Sư là người
ở huyện Ngũ Thường, thuộc miền Bắc
của Cáp Nhĩ Tân (Harbin), rất lạnh. Sư giữ
mộ tại đó, có rất
nhiều cảm ứng. Do vậy, cả một vùng Cáp Nhĩ
Tân, rất nhiều huyện đều biết tiếng, gọi
Sư là “Bạch thiện nhân”[8]. Tới năm 1946,
1947, Sư từ vùng Đông Bắc mới nhập Phật
pháp. Đấy là v́ “tha nhân” (người khác), tuy là v́
mẹ của chính ḿnh, nhưng mẹ của chính ḿnh cũng
là tha nhân, v́ tha nhân mà chẳng màng thân thể của chính
ḿnh, khiến cho người khác an lạc. Đấy là Bồ
Tát. Chuyện ǵ cũng chẳng suy nghĩ cho chính ḿnh, hễ
ta có chuyện ǵ tốt đẹp đều dâng tặng cho
chúng sanh, bất luận là ai. Đặc biệt là cừu
nhân của ta, ta đều nhường cho kẻ ấy. Từ
đấy về sau, kẻ ấy chẳng kết oán cừu
với quư vị nữa. Oan nghiệp giữa
quư vị và kẻ đó nhờ vậy mà tiêu mất.
Bất luận người ấy có tiếp nhận hay không,
oán nghiệp giữa quư vị và người đó đă tiêu
mất. Đó gọi là hành Bồ Tát đạo.
“Vô hữu ư tha bất khởi ngộ
thất thân, ngữ, ư nghiệp” (Chẳng khởi lên lầm
lỗi nơi
thân, ngữ, ư nghiệp đối với người
khác): Thân, miệng, ư đều làm cho người khác hoan hỷ,
khiến cho người khác vui sướng. Thân, miệng, ư
trọn chẳng tổn thương người khác, chẳng
khởi lên, chẳng phạm sai lầm ấy. Thật sự
là Đại Thừa Bồ Tát, đối với chính ḿnh
từ trước đến nay chưa hề bận tâm đến
chính ḿnh, luôn chiếu cố người khác. Thân, ngữ, ư
nghiệp của chính ḿnh có thể lầm lạc đối
với chính ḿnh, nhưng đối với chúng sanh, trọn
chẳng phạm sai lầm. Đối với chuyện này,
chúng ta sai phạm rất nhiều, đặc biệt là đối
với người thân cận càng trái phạm đặc
biệt nhiều. Đối với người thân nhất
của chính ḿnh hay vợ chồng là dễ phạm nhất,
đối với con cái càng dễ phạm: “Tao nuôi này, mày là
con trai, mày là con gái tao, mày không nghe lời tao, nghe ai?” Đấy
là phạm sai lầm nơi thân nghiệp và ngữ nghiệp
đối với chúng sanh. Đánh, chửi lại càng chẳng
nên!
(Kinh) Phục thứ thiện nam tử!
Hữu chư chúng sanh bẩm tánh bạo ác, ngôn từ thô quánh,
thật thị ngu si, hoài thông minh mạn, bất đoạn
sát sanh, năi chí tà kiến, ư tha sở đắc lợi dưỡng,
cung kính, thế sở xưng dự, thâm sanh tật đố,
thường tự truy cầu lợi dưỡng, cung
kính, thế sở xưng dự, tằng vô yếm quyện,
hằng tự tán dự, khinh hủy ư tha, bất tự
pḥng hộ thân, ngữ, ư nghiệp, thường nhạo tập
hành nhất thiết ác hạnh, nội hành sẩm độc,
vô hữu bi mẫn, vô tàm, vô quư, hỷ xúc năo tha, ư
chư phước điền, háo giản thắng liệt,
ư quy ngă pháp chư xuất gia nhân, thường nhạo
tư cầu sở hữu hà khích. Tài đắc thiểu tướng,
vị thẩm chân hư, tức tiện khinh hủy, ha mạ,
trích phạt. Kỳ tâm
cang cường, ngận lệ mê loạn, thường hỷ
xúc năo chư xuất gia nhân, bất tỉnh kỷ quá, niệm
cơ tha khuyết. Tuy văn
tán thán Đại Thừa công đức, phát ư thú cầu,
nhi tâm háo vi chư trọng ác sự, tằng vị tịch
tĩnh. Cuống
hoặc tha cố, ư Đại Thừa
pháp, hiện tự thính văn, giáo tha thính văn, hiện tự
độc tụng, giáo tha độc tụng, vị tự
tiến cử, lăng phục tha cố. Ư Đại
Thừa pháp, cung kính
tán mỹ, tự ư Đại Thừa chư hành cảnh
giới, bất tằng tu học, vị năng ngộ giải,
nhi tự xưng hiệu “ngă thị Đại Thừa”, dụ
khuyến tha nhân, phụ kỷ tu học, quy cầu danh lợi,
dĩ tự hoạt mạng.
(經)復次,善男子,有諸眾生,稟性暴惡,言辭粗獷,實是愚癡,懷聰明慢,不斷殺生乃至邪見;於他所得利養恭敬、世所稱譽,深生嫉妒;常自追求利養恭敬、世所稱譽,曾無厭倦;恆自讚譽,輕毀於他;不自防護身語意業,常樂習行一切惡行;內行磣毒,無有悲愍,無慚無愧,喜觸惱他;於諸福田好簡勝劣,于歸我法諸出家人,常樂伺求所有瑕隙,才得少相未審真虛,即便輕毀呵罵謫罰;其心剛強,佷戾迷亂,常喜觸惱諸出家人;不省己過,念譏他闕,雖聞讚歎大乘功德發意趣求,而心好為諸重惡事;曾未寂靜誑惑他故,於大乘法,現自聽聞、教他聽聞,現自讀誦、教他讀誦;為自薦舉陵伏他故,於大乘法,恭敬讚美;自於大乘諸行境界不曾修學,未能悟解,而自稱號‘我是大乘’,誘勸他人附己修學,規求名利以自活命。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Có
các chúng sanh bẩm tánh bạo ác, ngôn từ thô lỗ, tục
tằn, thật sự là ngu si, tự phụ thông minh, chẳng
đoạn sát sanh, cho đến tà kiến. Đối với
chuyện người khác đạt được lợi
dưỡng, cung kính, được cơi đời khen ngợi,
bèn sanh ḷng ghen tỵ sâu xa, thường tự truy cầu lợi
dưỡng, cung kính, và sự ngợi khen trong cơi đời
chưa từng chán mệt. Luôn tự ca ngợi, khinh miệt,
hủy báng người khác, chẳng tự ǵn giữ thân, ngữ,
ư nghiệp. Thường thích thực hiện hết thảy
ác hạnh. Trong ḷng xấu xa, ác độc, chẳng có ḷng
bi mẫn, chẳng hổ, chẳng thẹn, thích xúc phạm, năo loạn
người khác. Đối với các phước điền,
thích phân biệt hơn, kém. Đối với những người
xuất gia quy y pháp của ta, thường thích moi t́m tỳ
vết của họ. Hễ t́m được chút tướng,
chẳng tra xét thật giả, liền lập tức khinh miệt,
hủy báng, quở trách, chửi mắng, trừng phạt.
Tâm kẻ đó ương ngạnh, hung tợn, mê loạn,
thường chuộng xúc phạm, năo loạn
các vị xuất gia, chẳng nhận biết lỗi ḿnh,
chỉ luôn nghĩ tưởng, chê cười sai sót của
kẻ khác. Tuy nghe tán thán công đức
Đại Thừa bèn sanh ḷng t́m cầu, nhưng tâm chuộng
làm các chuyện ác nặng nề, chưa từng tịch tĩnh.
V́ lừa dối kẻ khác, bèn tự làm ra vẻ nghe nhận
pháp Đại Thừa, dạy người khác lắng
nghe, làm ra vẻ tự đọc tụng, dạy người
khác đọc tụng. V́ tự đề cao ḿnh, lấn
hiếp, chèn ép người khác, bèn cung kính, khen ngợi Đại
Thừa, nhưng tự ḿnh đối với các cảnh giới
sở hành của Đại Thừa chưa từng tu học,
chẳng thể ngộ giải, lại tự rêu rao “ta là Đại
Thừa”, khuyến dụ kẻ khác nương theo ḿnh tu học
để gom cầu danh lợi, ḥng tự nuôi thân).
“Tà kiến” là ngu si, là vô minh, luôn dùng tà
kiến để thay thế. “Phục thứ” (lại
nữa), đức Phật lại nói tiếp: Có chúng
sanh bẩm tánh thô bạo, ác tánh chẳng đổi, rất
thô bạo, ăn nói không ra thể thống ǵ, thường
xuyên muốn động thủ đánh người. Chửi
người khác không lại, hoặc bị người khác
chửi bới ngược lại, sẽ chẳng chịu
được. Kẻ đó chửi rủa người khác,
nếu người khác chửi ngược lại, sẽ
động thủ đánh người! “Ư tha sở đắc
lợi dưỡng, cung
kính, thế sở xưng dự, thâm sanh tật đố” (thấy
người khác đạt được lợi dưỡng, cung
kính, cơi đời khen chuộng, sanh ḷng ghen ghét sâu xa): Đấy
là biểu hiện chẳng có trí huệ. Kẻ đó
có tâm ghen tỵ, cũng rất thông minh [theo kiểu] thông
minh mạn. Thấy người khác đạt được
đôi chút tốt lành, như được tiếng tăm
tốt đẹp, hoặc được cúng dường,
buôn bán có lời, kẻ đó sẽ nghĩ phương cách
phá hoại! Nếu là cùng nghề th́ sẽ là oan gia.
“Thường tự truy cầu lợi
dưỡng, cung
kính”: Điều kẻ đó mong cầu chính là tiếng tăm
và lợi dưỡng. “Thế sở xưng dự, tằng
vô yếm quyện” (Đối với lời khen ngợi
trong cơi đời, chưa từng chán mệt): Đối
với chuyện này, kẻ đó rất tinh tấn. Tuy người
khác chẳng khen ngợi, kẻ đó cũng tự ḿnh ca
ngợi chính ḿnh, khen ḿnh, chê người! Đối với
thân, miệng, ư của chính ḿnh, kẻ đó chẳng ǵn giữ,
ngăn ngừa, cứ chằm chặp canh chừng thân, miệng,
ư của kẻ khác, quở kẻ khác ăn nói chẳng đúng,
thân thể làm chuyện không đúng, thường uốn nắn
thân, miệng, ư của kẻ khác, c̣n thân, miệng, ư của
chính ḿnh th́ chẳng ǵn giữ, ngăn ngừa!
Những điều kẻ ấy mong mỏi,
tập luyện là ǵ? Hết thảy ác hạnh, toàn làm ác,
chẳng làm việc thiện. “Nội tâm sẩm độc”:
Chữ “sẩm” (碜) này có
nghĩa là ǵ? Xấu ác, hỗn loạn. Đó là độc.
Độc ǵ vậy? Là chất độc của ác hạnh.
Một tí tâm bi mẫn người khác cũng chẳng có. Mẫn
(愍) kém hơn
[bi] một chút, tức là thương xót người khác. Bi
là đại bi, lớn hơn. Chúng ta thường xuyên h́nh
dung con người như thế này: “Cái tâm trắc ẩn
ai nấy đều có”. Câu kinh này cho thấy không phải
ai cũng đều là như vậy! Có những kẻ hung
ác, quen thói thô bạo, chưa từng có tâm trắc ẩn.
Không chỉ đối với người ngoài, mà đối
với vợ con của hắn, vẫn là như vậy. Chẳng hổ,
không thẹn! Trong ḷng hắn ưa thích chuyện ǵ? Gây phiền
năo cho kẻ khác, luôn muốn làm cho người khác hứng
chịu khổ năo. Nếu có chuyện hơi tốt đẹp,
muốn làm chuyện phước đức, hắn sẽ
quấy phá. Có rất nhiều kẻ như vậy, cầm
tiền của kẻ khác để làm chuyện tốt, chính
kẻ đó chẳng có công đức, cứ ngỡ chính ḿnh
đă chiếm tiện nghi, thật ra, kẻ đó đang tạo
tội. Tại Đại Lục, kẻ [làm như vậy]
được gọi là “thiện trùng tử” (善蟲子, con sâu
làm rầu thiện sự, con sâu ăn bám thiện sự),
chuyên môn nuốt trắng tiền tài của ḥa thượng
hoặc cư sĩ. Hạng người như thế được
gọi là “thiện trùng tử”, là thứ kư sanh trùng, tức
kư sanh trùng nơi thiện sự, chiếm lợi ích của
người khác để tạo lợi ích cho riêng ḿnh.
Có một kẻ rêu rao rùm beng chính ḿnh là hiếu
tử. Mẹ hắn ngă bệnh, hắn muốn cắt thịt
để bồi bổ mẹ. Bất quá, hắn chẳng
cắt thịt của chính ḿnh. Người khác đợi
sẵn ở nhà vệ sinh, khi hắn đang tiêu tiểu, bèn
vung dao chém hắn, hắn chẳng kêu ầm lên hay sao? Người
khác nói: “Ngươi đừng kêu. Cắt thịt dâng mẹ
là ḷng hiếu lớn nhất. Sao ngươi vẫn c̣n kêu?”
Mọi người nghe xong cảm thấy chuyện này như
thế nào? Tuy là chuyện cười, nhưng xác thực là
có kẻ như thế đấy. Đối với hết
thảy phước điền, hắn cứ kén chọn cái
nào là tốt, ta nên làm; cái nào chẳng tốt, ta không nên làm. Phước
đức đă bị giảm khinh, thiện căn này rất
bé, thiện căn kia rất to, to th́ ta nên làm, nhỏ nhoi ta
chớ nên làm!
Khi Lưu Bị phó thác con côi [cho các đại
thần], đă dặn Lưu Thiện[9] phải nhớ kỹ
hai câu: “Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi”, nghĩa là đừng
thấy chuyện rất nhỏ nhặt, tuy là chuyện xấu
rất nhỏ, chẳng có ảnh hưởng ǵ, ngươi
cũng đừng nên làm. “Vật dĩ thiện tiểu
nhi bất vi”, chớ v́ điều thiện này rất
nhỏ mà chẳng làm. Nếu ngươi làm, sẽ sanh khởi
công đức to lớn. Giống như thí xả cho kẻ
khác một ít tiền, một đồng, một xu, tâm quư
vị một mực từ bi, cung kính, đích thân đưa
cho người ta, công đức vô lượng. Nếu là
quốc vương, hoặc đại thần, bố thí
cho kẻ cùng khổ, hoặc ăn mày, đích thân an ủi,
bất luận tiền bao nhiêu, công đức của người
ấy hơn hẳn cúng dường vô lượng Hằng
hà sa chư Phật. Kinh Địa Tạng dạy như thế
đó.
Đối với người xuất gia trong
pháp của ta, kẻ đó thường
chuộng t́m cầu các tỳ vết. Kẻ đó chẳng
làm ǵ khác, chỉ ráo riết bới lông t́m vết. Hễ thấy
lỗi của người xuất gia, kẻ đó t́m được
một chút, “tài đắc thiểu tướng” (mới
t́m được một chút), hắn chẳng kiểm nghiệm
là thật hay giả, liền “khinh hủy, ha mạ, trích
phạt” (khinh miệt,
hủy báng, chửi mắng, trừng phạt). Sai lầm mất
rồi, đấy là đại ác! Kẻ như thế chẳng
nghe người khác khuyên bảo, cái tâm cứng cỏi, khó
thể điều phục. “Hận lệ mê loạn”
tức là hung tàn, bạo ác, tâm rất mê loạn. Do vậy,
mục đích của kẻ đó “thường hỷ xúc
năo chư xuất gia nhân” (thường chuộng xúc phạm, năo loạn
những người xuất gia): Thấy các ḥa thượng
và người xuất gia phiền năo, kẻ đó rất
khoái chí, mục đích của hắn là thường mong t́m
lỗi của người xuất gia, khiến cho quư vị
phiền năo, khiến cho quư vị tu chẳng thành. Đó là
ma quỷ. Con cái của ma vương Ba Tuần đến
năo loạn người xuất gia. Sau đó, hắn cũng
xuất gia, mặc y phục xuất gia, chẳng làm Phật
sự, mà càng phá hoại mạnh hơn!
Hạng người này rất nhiều, làm
thiện trùng tử chẳng thành, bèn vào tận bên trong [Phật
giáo], đục ruỗng từ
trong ra ngoài. Vào trong Phật giáo để phá hoại Phật
giáo, hủy diệt Phật giáo, vĩnh viễn chẳng
nghĩ đến sai trái của chính ḿnh. Luôn chê bai, hủy
báng kẻ khác, t́m khuyết điểm của người
ta. Nghe tán thán công đức của Đại Thừa, hắn
cũng biết đấy là chuyện tốt. Vừa nghe người
ta tán thán công
đức của Đại Thừa, hắn cũng phát tâm
mong cầu Đại Thừa, muốn t́m cầu. Nhưng
trong tâm hắn ưa chuộng giết, trộm, dâm, dối,
chưa hề tịch tĩnh, chẳng ngưng dứt tạo
lỗi ác, chẳng tĩnh được chính ḿnh, hết
sức tán loạn! V́ sao? Nghiệp khiến cho hắn mê loạn.
Nghiệp chướng mà! Đó gọi là nghiệp chướng
thật sự. Quư vị thấy những kẻ đó nghiệp
chướng rất nặng, nhưng chẳng thể khuyên
họ. Nếu quư vị khuyên họ, họ sẽ tức
giận, gây phiền năo cho quư vị. Do đó, Thích Ca Mâu Ni
Phật đă bảo vua Diêm La: “Chúng sanh trong thế giới
Sa Bà này ương ngạnh, khó điều phục, tập
khí rất sâu nặng”. Làm ác sự trọng đại,
trước nay chưa hề tĩnh lặng, lừa dối
gạt gẫm người khác, toàn là giả vờ bày tṛ!
“Ư Đại Thừa pháp, hiện tự
thính thọ” (Đối với pháp
Đại Thừa, tự làm ra vẻ nghe nhận): Đối
với pháp Đại Thừa, kẻ đó tự nghe, mà cũng
dạy người khác nghe. “Hiện tự độc tụng,
giáo tha độc tụng. Vị tự tiến cử, lăng
phục tha cố. Ư Đại Thừa pháp, cung kính tán mỹ.
Tự ư Đại Thừa pháp chư hành cảnh giới,
vị tằng tu học, bất năng ngộ giải, nhi
tự xưng hiệu ngă thị Đại Thừa, dụ
khuyến tha nhân” (Làm ra vẻ
tự đọc tụng, dạy kẻ khác đọc tụng,
nhằm đề cao chính ḿnh, lấn hiếp, chế phục
kẻ khác. Cung kính, khen ngợi pháp Đại Thừa, nhưng
chính ḿnh đối với các cảnh giới sở hành của
Đại Thừa, chưa từng tu học, chẳng thể
ngộ giải, mà tự xưng “ta là Đại Thừa”,
khuyên dụ kẻ khác): Khuyên dụ người khác tin tưởng,
nương theo hắn tu học. Hai câu đầu, quư vị
nghe thấy tốt lắm. Phần sau chẳng phải vậy,
có dụng tâm khác, dụng tâm chẳng đúng! Kẻ đó
nói: “Tôi đă nghe rồi, bộ kinh này hay lắm, quư vị
hăy theo tôi đi nghe. Nay tôi đang đọc tụng kinh chi
đó, quư vị có đọc tụng hay không? Tôi đề
cử, hướng dẫn quư vị, nhưng quư vị phải
nghe theo tôi”. Đấy chính là dối gạt người ta.
Lấn hiếp, chèn ép người khác v́ để
hàng phục kẻ khác. Đối với pháp Đại Thừa,
tán dương, cung kính, đó là giả tướng, giả
vờ tán thán, cung kính. Đối với các hạnh và tướng
cảnh giới trong Đại Thừa, trước nay hắn
chưa hề tu học, có học cũng chẳng vô, khỏi
bàn đến chuyện ngộ giải! Làm sao thấu hiểu
cho nổi! Nhưng kẻ
đó tự thổi phồng “ta là người học Đại
Thừa”, khuyên mọi người hăy theo học với ta,
nghe lời ta. Thật ra, kẻ đó giả dối ḥng “quy
cầu danh lợi”, tức là nhằm mục đích muốn
cầu danh kiếm lợi để tự nuôi sống cái thân.
Đó gọi là “sống
bằng tà mạng”. Kẻ
đó mạo nhận pháp Đại Thừa, dưới lớp
ngụy trang ấy, kẻ đó bèn theo đuổi danh lợi.
Một ḿnh c̣n chưa thỏa, lại c̣n kéo bè kết đảng,
lập băng vầy nhóm!
(Kinh) Thí như phá giới, ác tŕ luật
sư, tự phạm Thi La, nhạo hành ác hạnh. Vị
danh lợi cố, dụ khuyến tha nhân, linh cần tu học
Tỳ Nại Da Tạng. Như thị siểm khúc, hư
trá chúng sanh, hạ tiện nhân thân, thượng đương
nan đắc, thoái thất thiện thú, Nhị Thừa Niết
Bàn, huống đắc Đại Thừa? Chung vô
thị xứ! Đương đọa ác thú, nan hữu
xuất kỳ. Chư hữu trí nhân, bất ưng thân cận,
nhi vô tàm quư, ư đại chúng trung, tự hiệu Đại
Thừa, như sư tử hống. Vị danh lợi cố,
dụ cuống ngu si, linh thân phụ kỷ, cộng vi bằng
đảng. Thí như hữu lư, phi sư tử b́, nhi
tiện tự vị dĩ vi sư tử. Hữu nhân dao kiến,
vị chân sư tử. Cập chí minh
dĩ, giai thức thị lư, hàm cộng thóa ngôn: “Thử
phi sư tử, thị thực bất tịnh, chân tệ ác
lư”, chủng chủng ha sất, giai cộng xả khứ.
Ngă thuyết như thị Bổ Đặc Già La thường
nhạo tập hành thập ác nghiệp đạo, thiêu diệt
nhất thiết nhân thiên chủng tử, thượng thoái
Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp, huống ư Đại
Thừa năng thành pháp khí? Ngu si, kiêu mạn, tự hiệu
Đại Thừa, cuống hoặc tha nhân, chiêu tập lợi
dưỡng.
(經)譬如破戒惡持律師,自犯尸羅,樂行惡行,為名利故,誘勸他人,令勤修學毗奈耶藏;如是諂曲虛詐眾生,下賤人身尚當難得,退失善趣二乘涅槃,況得大乘?終無是處,當墮惡趣,難有出期。諸有智人不應親近,而無慚愧,於大眾中自號大乘如師子吼,為名利故,誘誑愚癡令親附己,共為朋黨。譬如有驢披師子皮,而便自謂以為師子,有人遙見,謂真師子,及至鳴已,皆識是驢,咸共唾言:‘此非師子,是食不淨真弊惡驢。’種種呵叱,皆共舍去。我說如是補特伽羅,常樂習行十惡業道,燒滅一切人天種子,尚退聲聞、獨覺乘法,況於大乘能成法器?愚癡憍慢,自號大乘,誑惑他人,招集利養。
(Kinh: Ví như luật sư phá giới,
ác tŕ, tự phạm giới luật, thích làm ác hạnh. Do
v́ danh lợi, khuyên dụ kẻ khác để họ siêng năng
tu học Tỳ Nại Da Tạng. Kẻ siểm khúc, dối
trá như thế, thân người hạ tiện c̣n khó có được,
thoái thất đường lành, Nhị Thừa Niết
Bàn, huống hồ đắc Đại Thừa ư? Trọn
chẳng có lẽ ấy, mà sẽ đọa vào đường
ác, khó có thuở thoát ra. Những người có trí chớ nên
thân cận [kẻ ấy], mà gă đó chẳng hổ thẹn,
ở trong đại chúng, tự xưng là Đại Thừa,
như sư tử rống. Do v́ danh lợi, dụ dỗ,
gạt gẫm kẻ ngu si, khiến cho họ quy phục hắn,
kết thành bè đảng. Ví như có con lừa, khoác da sư
tử, bèn tự cho ḿnh là sư tử. Có người nh́n từ
xa, ngỡ là sư tử thật, đến khi nó kêu, ai nấy
đều biết nó là lừa, đều cùng thóa mạ: “Đấy
chẳng phải là sư tử, mà là con lừa ăn đồ
bất tịnh, thật sự tệ ác”, đủ mọi
thứ chửi bới, trách mắng, đều cùng bỏ đi.
Ta nói Bổ Đặc Già La như thế thường thích
thực hành thập ác nghiệp đạo, đốt cháy
hết thảy chủng tử trời, người, đối
với pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa c̣n bị
thoái thất, huống hồ có thể trở thành pháp khí Đại
Thừa ư? Ngu si, kiêu mạn, tự xưng là Đại
Thừa, dối gạt, mê hoặc người khác để
tom góp lợi dưỡng).
“Thí như phá giới, ác tŕ luật sư”,
luật sư[10] là giả, kẻ đó
phá giới, “ác tŕ” (惡持) là hành tŕ theo điều
ác. Hắn tŕ ác pháp, chẳng hành giới pháp. Hạng luật sư
như vậy tự ḿnh phạm giới, tức là phạm
Thi La. “Nhạo hành ác hành” (thích làm hạnh ác): V́ danh lợi,
lại c̣n khuyên dụ kẻ khác, “linh cần tu Tỳ Nại
Da Tạng” tức là khuyên người khác siêng tu giới
luật, làm ra vẻ ta đây là một người học
Giới, khuyên người khác đều phải học Giới, tŕ Luật, nhưng
chính ḿnh đă phạm Thi La. Đă thế, lại c̣n siểm
khúc, chẳng thật. “Như thị siểm khúc, hư
trá chúng sanh”, tức là hư dối chẳng thật, lừa
gạt chúng sanh, kẻ như vậy “hạ liệt nhân
thân thượng đương nan đắc”, [ư nói] mong
làm thân người thấp hèn [c̣n chẳng được].
Một khi thân người đă mất đi, mong được
làm thân người thấp hèn, rất khó! Cổ nhân nói: “Trước
cửa địa ngục, Tăng, đạo đông”, có
nghĩa là như thế đó. Kẻ đó chẳng phải
là Tăng nhân chân
chánh, cũng chẳng phải là người tu đạo
chân chánh.
V́ sao? Kẻ đó v́ danh, v́ lợi, lừa gạt,
vờ vĩnh. Đức Phật thấy rơ thời Mạt
Pháp: Trong thời
Chánh Pháp, người thành đạo nhiều, nhưng Mạt
Pháp th́ quư vị chẳng thấy người thành đạo.
Kẻ [phá giới, dối trá] như vậy, quư vị chẳng
mở mắt nh́n th́ không thấy, hễ mở mắt liền
thấy, nhưng nói theo phía bản thân chúng ta, dẫu thấy
mà coi như chẳng phát hiện, phải
nhẫn thọ, cứ
coi kẻ đó như thánh tăng. Quư vị làm theo như vậy, sẽ đạt được phước đức,
đạt được phước đức của bậc
thánh tăng. Quư vị coi thánh tăng thành phàm phu tăng, trở
thành tỳ-kheo phá giới, th́ điều ǵ cũng chẳng
đạt được. Dẫu người đó là thánh
tăng, quư vị cũng chẳng đạt được.
Cho nên giống như ḥa thượng Tế Điên, gặp
vị ḥa thượng phá giới ấy, điều ǵ quư
vị cũng chẳng đạt được, v́ quư vị
không có cái tâm ấy.
Do đó người như vậy rốt cuộc phải
đọa vào ác thú. “Nan hữu xuất kỳ” (khó có lúc
thoát ra): Chẳng đạt được thân người
thấp hèn! V́ sao? Đă đọa vào địa ngục, đến
lúc làm người, sẽ làm thân người thấp hèn, các
chi thể chẳng vẹn toàn. Hoặc là điên rồ, hoặc
là lục căn chẳng trọn đủ. “Chư hữu
trí nhân bất ưng thân cận” (những người có
trí chẳng nên thân cận): Người có trí huệ chớ
nên thân cận kẻ đó, kẻ đó là phường không
hổ thẹn. Kẻ đó ở trong đại chúng “tự
hiệu Đại Thừa” (tự xưng là Đại
Thừa), giống như “sư tử rống”, thật ra,
chỉ v́ danh lợi. “Dụ cuống ngu si, linh thân phụ
kỷ” (dụ dỗ, gạt gẫm kẻ ngu si, thân cận,
quy phục chính ḿnh), khiến cho
kẻ khác thân cận hắn, cùng hắn kết bè kéo
cánh, hắn làm người cầm đầu.
Bản thân hắn chẳng tu hành, mà cũng
chẳng lư giải, chẳng có trí huệ, chỉ v́ tiếng
tăm, lợi dưỡng, khiến cho kẻ khác thân cận,
quy thuộc hắn, hắn liền đạt được
mục đích. Đức Phật nói tỷ dụ, loại
người ấy giống như con lừa trong loài súc
sanh. Con lừa th́ tài khéo ǵ cũng đều chẳng có.
Trong quá khứ, có câu nói [ví von] là “Kiềm
lư chi kỹ” (黔驢之技, tài nghệ
của con lừa đất Kiềm). Kiềm (黔) là tỉnh
Quư Châu. Có người ở địa phương khác, mua
một con lừa chở về. Cọp ở Quư Châu chưa
từng thấy lừa, hoảng sợ trước con vật
to lớn, chẳng dám quấy rối nó. Lâu ngày, cọp thấy
nó cũng chẳng có ǵ đặc biệt, chẳng có bản
lănh ǵ, liền thử quấy rối lừa, cọp kéo đuôi
lừa, lừa bèn lấy chân đá. Cọp trông thấy, nói:
“Tài nghệ của ngươi chỉ đến thế. Bản
lănh của ngươi chỉ lớn chừng đó”. Cọp
liền ăn thịt lừa!
Điều bất đồng là kẻ
đó chẳng có hổ thẹn, lại chẳng chịu học,
cho rằng chính ḿnh học pháp Đại Thừa, thậm
chí giải nói cho kẻ khác, cho rằng chính ḿnh cũng
đang sư tử hống, cũng sư tử hống giống
như Phật, nhưng kẻ đó có một khuyết
điểm “v́ danh lợi”. Nếu chẳng v́ danh lợi,
kẻ đó sẽ chẳng làm như vậy. Dụ dỗ
người khác, dẫn dắt những kẻ chẳng
khác ǵ hắn cho mấy, đều là phường ngu si, thậm
chí c̣n ngu si hơn kẻ
đó. “Cộng vi bằng đảng” (cùng kết
thành băng đảng): Giống như trong hiện thời,
kết thành một bang, một phái, có khác chi con lừa? Tự
cho là sư tử thật sự, nhưng chẳng có bản
lănh thật sự của sư tử, đợi cho đến
khi hắn rống lên, tiếng lừa rống và tiếng
sư tử rống hai đằng sai khác quá xa! “Thử
phi sư tử, thị thực bất tịnh” (đấy
chẳng phải là sư tử, mà là thứ ăn đồ
bất tịnh). “Thực bất tịnh” có thể giải
thích bằng hai cách. Xét theo Phật giáo để giải
thích, những ǵ kẻ đó đă làm đều chẳng
thanh tịnh, chẳng phải là hạnh môn thanh tịnh.
Đó là giả dạng, giả trất, là con lừa xấu
ác. Mọi người sau khi đă nhận biết bèn chửi
mắng hắn, chẳng chung bè chung phái với hắn, ĺa
bỏ hắn!
“Ngă thuyết như thị Bổ Đặc
Già La thường nhạo tập hành thập ác nghiệp đạo”
(Ta nói Bổ Đặc Già La như thế thường thích
tập tành thập ác nghiệp đạo): Đức Phật
nói loại chúng sanh ấy trong quá khứ đă tiêm nhiễm
rất sâu. Những chuyện kẻ đó làm toàn là chuyện
thuộc thập ác đạo, thích làm thập ác đạo
nghiệp, miệng ưa nói dối, nói thêu dệt, nói thô ác,
nói đôi chiều, trong ḷng mơ tưởng tham, sân, si, thân
thể tạo tác giết, trộm, dâm. Đấy là thập
ác nghiệp. Thiêu hủy hết thảy chủng tử làm người,
cho đến chủng tử sanh lên trời. Nhân thiên c̣n chẳng
thể làm, há c̣n có thể có pháp Thanh Văn hay Duyên Giác chi nữa?
Hoặc là pháp Duyên Giác, pháp Thanh Văn đă học trong đời
quá khứ đều thoái thất, thứ ǵ cũng chẳng
c̣n. Đối với Đại Thừa, kẻ ấy chẳng
trở thành pháp khí Đại Thừa.
Kẻ đó tự nói là Đại Thừa,
chứng tỏ hắn chẳng phải là Đại Thừa!
Tất cả những ǵ kẻ đó có là “ngu si, kiêu mạn”,
tự ḿnh ngụy trang. Hiện thời, bất luận là
tứ chúng đệ tử, luôn cho rằng pháp ḿnh đang
học rất tuyệt diệu, bất luận là Hiển
pháp hay Mật pháp, nhưng hoàn toàn chẳng thật sự tu.
Nh́n từ hiện tượng, dường như là tu tập,
hiện thời đương nhiên đều là Đại
Thừa, đều tự xưng là Đại Thừa. Hiện
thời, bất luận vị nào cũng đều [vỗ
ngực xưng ḿnh] viên dung, chẳng có ai nói ta tu Khổ, Tập,
Diệt, Đạo. [Người nói chính ḿnh tu tập Khổ,
Tập, Diệt, Đạo] ít lắm!
Hiện thời, lại c̣n có một nguyên nhân
khác: Sau khi kẻ đó xuất gia, bèn thoát ly giáo nghĩa. Vừa
vào chùa, được tiếp cận sư phụ, đặc
biệt là chùa Thiền Tông, hoặc
chùa Tịnh Độ tại Đại Lục, ngay cả
Đại Thừa cũng chẳng thừa nhận! Thật
ra, đấy là v́ các tổ sư trong quá khứ đă nói như
vậy, họ đều là bắt chước nói theo [nhưng
chẳng hiểu thâm ư, dụng ư khuyên nhất tâm, “chuyên tinh hành
tŕ, đừng tham đắm đa văn khi chưa đạt chuyên tâm, thấu
hiểu pháp môn chính ḿnh đang tu” của
chư Tổ], cứ nhai nhải: “Niệm một câu A Di
Đà Phật, theo chiều dọc cùng tột tam giới,
theo chiều ngang bao trùm tám giáo, thứ ǵ cũng đều
trọn đủ. Niệm một câu A Di Đà Phật là đủ
rồi”. Hàng Bồ Tát mới vừa xuất gia, mới
vừa phát ư, thứ ǵ cũng đều chẳng biết,
chỉ biết niệm một câu A Di Đà Phật, như
thế bèn rất kiêu ngạo: “Ta niệm một câu A Di
Đà Phật, so với ngươi học kinh Hoa Nghiêm bao
nhiêu năm có ích ǵ hay chăng? Kinh Pháp Hoa chẳng cần phải
học! Ta niệm một câu A Di Đà Phật đều có”.
Thế nhưng [họ quên rằng] kinh Di Đà chẳng nói
như vậy, kinh Vô Lượng Thọ cũng chẳng nói
như vậy. Cho nên kẻ đó chẳng học Giáo, mà cũng
chẳng thâm nhập! Nếu thật sự niệm đến
mức nhất tâm bất loạn th́ công đức của
A Di Đà Phật quả thật chẳng thể nghĩ bàn,
nhưng [sơ cơ hành nhân] chẳng làm được!
Ngoài ra, có rất nhiều kẻ tọa Thiền,
thứ ǵ cũng chẳng biết, nhưng rất kiêu ngạo, tánh t́nh rất nóng nảy. V́ kẻ
đó chẳng tu, chẳng nhập Định, sẽ phát
triển theo cá tánh. Chẳng học tập giáo nghĩa, do có
sự thiếu hụt này, kẻ ấy chẳng nhận thức
chính ḿnh, mà cũng chẳng nhận thức người khác,
càng chẳng biết đức Phật dạy bảo, truyền
dạy chúng ta những ǵ. Đức Phật quở trách hạng
người này là “ngu si mạn”. Tự xưng
là Đại Thừa, cho rằng chính ḿnh ghê gớm lắm,
lại c̣n lường gạt người khác nhằm mục
đích tom góp lợi dưỡng!
(Kinh) Thí như si mạn,
vô thủ túc nhân, dục hưng chiến phạt, nhập ư
đại trận, đồ thiết công hiệu, chung vô
khắc thành. Trá hiệu Đại Thừa, diệc phục
như thị. Tín thủ, giới túc, vô hữu nhất toàn,
bất tự nhai quỹ sở kham hạnh nghiệp, dục
hưng chiến phạt phiền năo đại trận, đồ
thiết công hiệu, chung vô khắc thành! Ngă thuyết thị
nhân bất hộ tam nghiệp, chuyên hành ác hạnh, vọng
hiệu Đại Thừa, thật ư tam thừa, giai
phi pháp khí, nhi dục phá hoại nhất
thiết chúng sanh dũng kiện, kiên lao phiền năo đại
trận, dục giai hiển thị nhất thiết chúng
sanh bát chi thánh đạo, linh nhập vô úy Niết Bàn chi thành,
chung vô thị xứ! Sở dĩ giả hà? Thiện nam tử!
Phù Đại Thừa giả, thọ tŕ đệ nhất
thanh tịnh luật nghi, tu hành đệ nhất vi diệu
thiện hạnh, cụ túc đệ nhất kiên cố tàm
quư, thâm kiến, thâm úy hậu thế khổ quả, viễn
ly sở hữu nhất thiết ác pháp, thường nhạo
tu hành nhất thiết thiện pháp, từ bi thường
biến nhất thiết hữu t́nh, hằng phổ vị
tác lợi ích an lạc, cứu tế, độ thoát nhất
thiết hữu t́nh, sở hữu ách nạn, sanh tử chúng
khổ, bất cố tự thân sở hữu an lạc, duy
cầu an lạc nhất thiết hữu t́nh. Như thị
danh vi trụ Đại Thừa giả.
(經)譬如癡慢無手足人,欲興戰伐入於大陣,徒設功效,終無克成;詐號大乘,亦復如是。信手、戒足,無有一全,不自崖揆所堪行業,欲興戰伐煩惱大陣,徒設功效,終無克成。我說是人,不護三業,專行惡行,妄號大乘,實於三乘皆非法器,而欲破壞一切眾生勇健堅牢煩惱大陣,欲皆顯示一切眾生八支聖道,令入無畏涅槃之城,終無是處。所以者何?善男子,夫大乘者,受持第一清淨律儀,修行第一微妙善行,具足第一堅固慚愧,深見深畏後世苦果,遠離所有一切惡法,常樂修行一切善法,慈悲常徧一切有情,恆普為作利益安樂,救濟度脫一切有情,所有厄難生死眾苦,不顧自身所有安樂,唯求安樂一切有情,如是名為住大乘者。
(Kinh: Ví như kẻ si mạn, chẳng
có chân tay, muốn đi chiến đấu, chinh phạt, vào
trong trận lớn, mưu toan lập công, trọn chẳng
thành công. Kẻ dối trá xưng là Đại Thừa, cũng
giống như thế. Tay Tín, chân Giới, không một thứ
ǵ vẹn toàn, chẳng tự suy xét, cân nhắc hạnh nghiệp
có thể làm, muốn chiến đấu, chinh phạt trong
đại trận phiền năo, mưu toan lập công, trọn
chẳng thành công! Ta nói người như thế chẳng
bảo vệ ba nghiệp, chuyên hành ác hạnh, hư vọng
xưng là Đại Thừa, quả thật đều chẳng
phải là pháp khí trong tam thừa, mà muốn phá hoại đại
trận phiền năo cứng chắc, dũng mănh của hết
thảy chúng sanh, muốn đều hiển thị tám chi
thánh đạo của hết thảy chúng sanh, khiến cho
họ đều vào ṭa thành Niết
Bàn không sợ hăi, trọn chẳng có lẽ ấy! V́ cớ
sao vậy? Này thiện nam tử! Phàm Đại Thừa là thọ
tŕ luật nghi thanh tịnh bậc nhất, tu hành thiện hạnh
vi diệu bậc nhất, trọn đủ hổ thẹn
kiên cố bậc nhất, thấy sâu xa và sợ sâu xa khổ
quả trong đời sau, xa ĺa tất cả hết thảy
ác pháp, thường thích tu hành hết thảy thiện pháp,
thường từ bi trọn khắp hết thảy hữu
t́nh, luôn tạo lợi ích an lạc, cứu tế, độ
thoát trọn khắp tất cả các thứ khổ và ách nạn
sanh tử của hết thảy hữu t́nh, chẳng màng tất
cả an lạc của chính ḿnh, chỉ cầu an lạc hết
thảy hữu t́nh. Như thế th́ gọi là người
trụ trong Đại Thừa).
Ví như có một người tay lẫn
chân đều không có, c̣n muốn tham gia chiến trận,
muốn đánh giặc, [đó là ư nghĩa của câu] “dục
hưng chiến phạt nhập ư đại trận”,
có thể thành công hay không? Bản lănh ǵ cũng đều
không có, trống trơn, công hiệu ǵ cũng đều chẳng
có. Vậy th́ có thể thành tựu nổi không? “Chung vô khắc
thành” (trọn chẳng thể thành): Quư vị chẳng
thể nào chiến thắng địch nhân, chỉ bị địch
nhân tiêu diệt. Giống như chính ḿnh chẳng có học
vấn lẫn tài nghệ, ngay cả phiền năo Kiến Tư
Hoặc nông cạn nhất cũng chẳng thể đoạn,
làm sao có thể làm chuyện lợi ích hết thảy chúng sanh
cho được? Đấy là dối trá xưng là Đại
Thừa!
Người học Phật trong hiện thời
chiến đấu với ai? Chính ḿnh chiến đấu
với bản thân, quư vị phải chiến đấu với
phiền năo và tập khí của chính ḿnh. Khởi đầu
trước hết từ Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Cảnh
giới ngũ dục ấy quư vị chẳng khắc phục
được. Người ta chửi quư vị hai câu, quư vị bị lửa
giận xông cao ba trượng.
Đó chuyện bé tí, bé tẹo, quư vị chẳng thể đối
trị nổi, làm sao có thể lợi ích hết thảy
chúng sanh? Thậm chí đặt Ngă Kiến
vào vị trí bậc nhất, chuyện ǵ cũng đều
suy tính cho chính ḿnh. Như thế th́ quư vị làm sao có thể
liễu sanh tử cho nổi? Nói là Đại Thừa, thế mà ngay cả
liễu sanh tử c̣n chẳng thể! Quư vị mong đoạn
phiền năo, có thể đạt thanh tịnh đôi chút, thế
mà ngay cả điều rất thô thiển, quư vị cũng
chẳng đạt được! Rất hời hợt,
xáo động, rất bộp chộp, rất nông nổi,
suốt ngày luôn tán loạn, bảo đó là Đại Thừa
th́ ai mà tin được? Ai cũng chẳng thể tin nổi!
“Tín thủ, Giới túc, vô hữu nhất
toàn” (Tay Tín, chân Giới, không một điều nào vẹn
toàn): Tín tâm ví như tay, tŕ giới ví như chân. Vậy th́ quư
vị chẳng có tín tâm, lại chẳng giữ giới thanh
tịnh, tức là “không tay,
không chân”. Chẳng
có tín tâm, lại chẳng có giới hạnh, thứ ǵ cũng
đều chẳng đầy đủ! “Bất tự nhai quỹ” [nghĩa
là] v́ chẳng biết tự lượng
sức. Chính ḿnh hăy tự cân nhắc bản thân, quư vị có
công đức ǵ? Có đức hạnh ǵ? Chẳng biết
tự lượng sức ḿnh, quư vị đối với
hạnh nghiệp mà chính ḿnh có thể kham thực hiện,
hăy học theo hạnh đó, hoặc là Thanh Văn Thừa,
hoặc là Duyên Giác Thừa, quư vị có thể làm được
hay không? Người ta nói “thông minh bất quá nạp tử”
(thông minh chẳng hơn tăng sĩ), “nạp tử”
(衲子, kẻ
mặc áo bằng các mụn vải chằm lại) là nói đến
người xuất gia. Quư vị chớ nên thấy người
xuất gia chẳng làm chuyện ǵ! Họ học điều
ǵ, hiểu điều
đó, hết sức thông minh. Kẻ có
Thế Trí Biện Thông, vừa học liền hiểu ngay.
Nếu có đôi chút Định lực gia tŕ, bất
luận học điều ǵ, sẽ hiểu rất nhanh. Nếu
ngay cả chút trí huệ ấy cũng không có, quư vị làm
chuyện ǵ cũng đều chẳng nên hồn, tùy tiện
làm một tí chuyện ǵ cũng đều là chân tay vụng
về!
Đời Thanh, Ngọc Lâm quốc sư[11] ở chùa Niêm Hoa, đó
là ngôi chùa mà tôi được thọ giới. Sư làm Phương Trượng tại đó.
Hoàng đế đến chùa thăm viếng, Sư giữ
hoàng đế lại thọ trai. Nhưng giấy dán cửa
sổ nơi trai pḥng bị rách, gió lùa vang tiếng ù ù, Ngọc
Lâm quốc sư bèn gắp mấy hạt cơm trong chén để
lên bàn. Chú tiểu sa-di liền bước đến cầm
mấy hạt cơm và tờ giấy dán chỗ rách. Vua Càn
Long[12] thở dài, đúng
là khá quá, “thông minh bất quá nạp tử”. Ngọc Lâm
quốc sư bèn khen ngợi hoàng đế: “Linh lợi
bất quá đế vương”. Tuy đấy là chuyện
cũ, quư vị thấy tiểu ḥa thượng có rất
nhiều chuyện chúng ta nghĩ không ra, chú bé thay quư vị làm
rất tốt. Đó là thông minh bề ngoài. Mặt khác, nếu có trí huệ
thật sự, có ḥa thượng
biểu hiện ngu xuẩn, đần độn gần
chết, tướng mạo rất xấu xí, thô kệch.
Có rất nhiều ḥa thượng có dị tướng, quư
vị thấy họ rất xấu, chẳng hạn như
thiền sư Đạo An[13]. Vào đời Tấn,
Sư lúc c̣n bé mười mấy tuổi đă vào chùa. Sư
phụ của Ngài coi thường: “Người ǵ mà vừa
xấu, vùa lùn, mặt
lại rỗ”. Không chỉ đen thủi đen thui, một bên mặt lại
rỗ, lại lùn tịt, các sư huynh trong chùa đều
coi thường Ngài. Ngài chỉ đành đi trồng trọt,
làm rất lâu. Có một hôm, Sư thưa cùng thầy: “Sư
phụ cũng nên cho con một quyển kinh để niệm”.
“Ngươi muốn niệm kinh hả? Được
thôi!” Thuận tay lấy một quyển kinh mỏng tanh cho
Sư. Vào vườn, Sư c̣n phải làm việc. Đại
khái là vào lúc tạm nghỉ, bèn cầm kinh đọc. Buổi
tối quay về, thưa với thầy: “Thầy đổi
cho con quyển khác”. “Ngươi có xem không đó?” Sư thưa:
“Con có xem, xem xong hết rồi”. Thầy cũng lười
nói với Sư, lại lấy ra một quyển dầy gấp
ba quyển trước, Sư
lại cầm đi. Tối hôm sau, quay về, lại thưa
với thầy: “Thầy lại đổi cho con quyển
khác”. Thầy rất ngạc nhiên: “V́ sao ngươi lại đổi nữa?” Sư thưa:
“Con đọc xong rồi!” Thầy bèn từ phần sau quyển
kinh ấy, tùy tiện lấy bất cứ đoạn kinh
văn nào để hỏi, Sư cũng đều đọc
làu làu; thầy mới phát hiện ra chỗ kỳ đặc
của Sư. Pháp sư Đạo An là một vị đại
đức có thành tựu sớm nhất tại Trung Hoa.
Chớ nên xét đoán con người qua tướng
mạo, nhưng người ấy thật sự có bản
lănh đó! Không chỉ là tín tâm kiên định, mà giới hạnh
cũng thanh tịnh, đều có tài năng chân thật, nhưng
chính ḿnh rất khiêm hư. Phàm là người thật sự
có đức hạnh, sẽ đều rất khiêm hư,
chẳng cho là chính ḿnh tuyệt diệu, trọn chẳng thể
như thế. V́ [người ấy biết ḿnh] c̣n kém Phật
rất xa, ngay cả Phật cũng rất khiêm tốn. Đức
Phật coi hết thảy chúng sanh là thầy. Mọi người
thấy phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: “Nếu
chẳng có chúng sanh, một vị Phật cũng chẳng
thành được!” Do vậy, muốn báo ân chúng sanh th́
phải độ chúng sanh. Nếu chẳng có loại bản
lănh ấy, chính ḿnh ngay cả tay lẫn chân đều không
có, c̣n muốn đánh trận ư? Quư vị vẫn chưa
phát khởi tín tâm, vẫn chưa có cái tâm tín kính
Tam Bảo, giới cũng chẳng tŕ, như thế th́ c̣n
nói là Đại Thừa nỗi ǵ? Tiểu Thừa cũng
chẳng có, nhân thiên thừa cũng chẳng bảo đảm!
Hạng người như thế chẳng thể
bảo vệ thân, miệng, ư của chính ḿnh, tùy tiện buông
lung thân, miệng, ư. “Buông lung” là chuyên làm ác hạnh, chuyên
làm chuyện xấu. Chính hắn vẫn hư vọng tự
xưng là Đại Thừa. Học pháp Đại Thừa,
Thanh Văn, Duyên Giác Thừa, tam thừa đều chẳng
phải là pháp khí. Kẻ đó chẳng phải là một người
học pháp, mà là kẻ phá hoại người khác học
pháp. Kẻ đó kết bè, kéo đảng,
hắn có thể giúp đỡ đạo hữu và đệ
tử của hắn trừ khử phiền năo hay không? Phiền
năo của chúng sanh giống như chiến trường vậy!
Phiền năo ấy kiên cố, dũng mănh, giống như một
mặt trận lớn, khi quư vị muốn vào đó chiến
đấu, tuy chẳng hoàn toàn thất bại, nhưng quư
vị vẫn vùi ḿnh trong phiền năo!
Đoạn kinh văn này bao hàm các ư nghĩa ấy.
Đức Phật nói đoạn kinh này theo kiểu thí dụ.
Tức là có những kẻ xằng bậy xưng là Đại
Thừa, mà chính ḿnh ngay cả Khổ, Tập, Diệt,
Đạo đều chẳng đoạn, chẳng tu, nhân
quả thế gian đều chẳng tu. Suốt ngày làm ác
hạnh, đó là Tập. Tập (集) là “cảm vời”, tức cảm vời
khổ quả. Căn bản là kẻ đó chẳng tu tŕ đạo
Nhị Thừa, đạo xuất thế. Không chỉ chẳng
tu, mà tín tâm cũng chẳng trọn đủ. Đă có tín tâm,
kẻ đó sẽ chẳng dám tạo tội, sẽ luôn luôn
pḥng thủ, bảo vệ ư niệm, chẳng dám khởi lên
ư niệm xấu, há c̣n dám thật sự làm ư? Quư vị
thấy chuyện lợi ích trước mắt, tuyệt
đối chẳng nẩy ḷng tham, v́ biết hễ tham, sẽ phải
nhận lănh chuyện không tốt đẹp, chẳng thể
tiêu tai nổi! Kẻ đó ngay cả cái tâm c̣n chẳng có, Bát
Thánh Đạo lẫn Thất Bồ Đề đều
chẳng có, mong vào thành Niết Bàn sẽ
chẳng thể được, trọn chẳng có lẽ
ấy! Bất luận lúc nào cũng đều chẳng thể
làm được!
Thật sự là pháp khí Đại Thừa, hành
tŕ luật nghi thanh tịnh là nói đến bậc tỳ-kheo
Bồ Tát. Không chỉ là giới tỳ-kheo thanh tịnh, mà
giới Bồ Tát cũng thanh tịnh. Hoặc là thọ giới
tỳ-kheo, hai trăm năm mươi giới đều thanh tịnh.
Thọ Bồ Tát giới chẳng dễ dàng, v́ mười
giới trọng và bốn mươi tám giới khinh là giới
Phạm Vơng. Giới Phạm Vơng có yêu cầu rất sâu, rất
rộng. Giới Phạm Vơng được thọ tŕ bởi
địa vị Bồ Tát nào? Chính là Đăng Địa
Bồ Tát, từ Hoan Hỷ Địa cho đến Pháp Vân
Địa. Khi nói giới này, chẳng do Thích Ca Mâu Ni Phật
nói, mà là do [Báo Thân] Lô Xá Na Phật
nói. Đấy là giới do Báo Thân Phật nói. Khi Lô Xá Na Phật
nói giới này, chính là nói
cho một ngàn vị Thích Ca Mâu Ni Phật. Đại hóa thân
là Lô Xá Na Phật, ngồi trên hoa sen trăm ngàn cánh. Mỗi
ṭa [của mỗi vị Phật Thích Ca] ở trên một cánh
sen, tức là trên mỗi cánh sen [nơi ṭa liên hoa của Lô Xá
Na Phật] có một vị Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài có trăm
ức quốc độ, trăm ức tiểu hóa Thích Ca
Mâu Ni Phật, c̣n Lô Xá Na Phật là đại hóa. Như thế
tức là [Báo Thân
Lô Xá Na Phật của
Pháp Thân] Tỳ Lô Giá Na Phật nói giới Phạm Vơng cho một
ngàn vị Phật Thích Ca, mỗi vị trong một ngàn vị
Phật Thích Ca do Ngài (Tỳ
Lô Giá Na Phật) tương ứng biến hiện. Đó
là “thiên bách ức” Thích Ca, tức là một trăm ức
lần trăm ức Phật Thích Ca. Như vậy là Ngài nói
giới Phạm Vơng cho một trăm ức Phật Thích Ca.
[Mỗi vị trong số] một trăm ức Phật Thích
Ca lại vào trong quốc độ của chính ḿnh giáo hóa,
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đă ở trong Diêm Phù Đề
của chúng ta mà nói giới Phạm Vơng.
Do vậy, tŕ giới Phạm Vơng là có thể
tŕ mười giới trọng và bốn mươi tám giới
khinh. Thấy pháp tánh, tâm niệm, và Pháp Thân của chính ḿnh. Pháp tánh tương hợp, có
tương hợp một phần th́ mới có thể tŕ giới
được! [Các vị Bồ Tát thuộc] địa vị
Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng) đều chẳng dám nói “đă
tŕ giới thanh tịnh”, đặc
biệt là đối với phương diện lợi ích
chúng sanh và độ chúng sanh. Phương tiện thiện
xảo huệ chẳng trọn đủ, sẽ chẳng
dám nói là “thọ
tŕ thanh tịnh giới”. Ở đây
nói “thọ tŕ” th́ không chỉ tŕ thanh tịnh, mà c̣n là
bậc nhất, vượt hơn hẳn các loại thọ
tŕ thông thường. Không chỉ là địa vị Thập
Tín, mà địa vị Thập Trụ, địa vị
Thập Hạnh, địa vị Thập Hồi Hướng,
Đăng Địa, đạt tới mức độ
ấy, th́ mới có
thể thọ tŕ thanh tịnh giới. Hết thảy các thiện hạnh
do người ấy đă làm đều vi diệu, như
vậy th́ tŕ thanh tịnh giới chính là Nhiếp
Luật Nghi Giới trong Tam Tụ Tịnh Giới. Vi diệu
pháp là Nhiếp Thiện Pháp Giới. Đức Phật nói hết
thảy các pháp, không chỉ là trong hết thảy các pháp do đức
Phật đă nói, mà đối với hết thảy các pháp
trong thế gian, người ấy đều là bậc nhất.
Phải có công, xảo, minh. Bồ Tát có Công Xảo Minh (Sīlpāsthāna-vidyā).
Tŕ thanh tịnh giới, học vi diệu
pháp rất khó! V́ sao vi diệu thiện hạnh chẳng dễ
dàng? Muốn khiến cho chúng sanh có thể đắc độ,
khi cơ duyên chín muồi, sẽ hóa độ
họ. Có khi thị hiện nghịch hạnh để độ
họ, như giết, trộm, dâm, đấy là nghịch
hạnh, phải thực hiện nghịch hạnh để
độ kẻ đó. Chẳng có trí huệ, chẳng chứng
đắc, quư vị chẳng thấy nổi căn cơ
của người khác, sẽ chẳng thể
thực hiện ổn
thỏa. Nếu quư vị vẫn cứ làm như thế, sẽ
là phạm giới. Đó gọi là vi diệu. Nếu nói Bồ
Tát chẳng thể uống rượu, càng chẳng thể
bán rượu. Tội ác do bán rượu lớn hơn tội
uống rượu rất nhiều. Có lúc Bồ Tát v́ lợi
ích chúng sanh bèn uống rượu. Tế Công luôn uống rượu,
điên điên khùng khùng, dùng rượu để độ
người. Ngài uống rượu để độ người
khác, chúng ta chẳng làm được. Đó gọi là vi diệu
hạnh của Bồ Tát. Ngài làm như vậy là tŕ thanh tịnh
giới.
“Cụ túc đệ nhất kiên cố tàm
quư” (trọn đủ hổ thẹn kiên cố bậc
nhất): Kiên cố tàm quư chẳng dễ dàng. Có hai loại
thanh tịnh:
- Một loại là kiên cố chẳng phạm,
kiên định chẳng phạm. Đó là thanh tịnh, căn
bản là thanh tịnh.
- Loại kia là hễ phạm liền sám, vừa
phạm liền sám hối, chẳng
giấu diếm khuyết điểm của chính ḿnh, luôn bộc
lộ, trọn đủ cái tâm hổ thẹn, luôn cảm
thấy chính ḿnh chẳng có trí huệ, chẳng có đức,
trong quá khứ chẳng tu. Luôn cảm thấy chính ḿnh cần
hướng về chúng sanh sám hối, hướng về
chư Phật sám hối. Nếu làm chuyện xấu, sẽ
thấy khổ quả hết sức đáng sợ, đọa
địa ngục khổ lắm!
“Thâm kiến” là thấy rất sâu, thấy
được chuyện trong rất nhiều kiếp. “Thâm
úy” (Sợ hăi sâu xa) là thấy chúng sanh chịu khổ nạn
trong địa ngục, chính người ấy sẽ chẳng
dám làm chuyện xấu.
“Viễn ly sở hữu nhất thiết
ác pháp” (xa ĺa tất cả hết thảy ác pháp): Đôi
chút điều ác nhỏ nhặt, người ấy cũng
xa lánh chẳng làm, lại c̣n tránh thật xa! “Thường
nhạo tu hành nhất thiết thiện pháp” (thường
thích tu hành hết thảy các thiện
pháp): Đấy là Nhiếp Thiện Pháp Giới, trong ấy,
trọn đủ Tam Tụ Tịnh Giới của Bồ
Tát như đức Phật đă dạy. Nhiếp Luật
Nghi Giới là luật nghi thanh tịnh. Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới
là dùng vi diệu pháp để độ thoát hết thảy
chúng sanh, sợ khổ quả trong đời sau sâu xa! Nhiêu
Ích Hữu T́nh là thường thích tu hành hết thảy thiện
pháp, thường từ bi trọn khắp hết thảy
hữu t́nh. Từ bi là b́nh đẳng đại bi, trong tâm
chẳng có ư niệm
sai khác. Tâm
sai biệt của chúng ta rất nhiều! Người này rất
thông minh, bèn bằng ḷng giáo hóa nhiều hơn. Kẻ nọ
rất ngu si, ta chẳng
muốn dạy hắn. Hắn quá đần, dạy
một trăm lần, hắn vẫn chẳng hiểu, lại
c̣n rất rườm rà, quư vị bèn phiền chán. Đấy
chẳng phải là Bồ Tát. Bồ Tát là người có ái
tâm bậc nhất, hết sức từ bi, có ḷng đại
bi. Đại bi có rất nhiều ư nghĩa: Có từ, có nghĩa,
có Thể, có tướng, th́ mới là đại
bi thật sự.
“Từ bi thường biến nhất thiết
hữu t́nh, hằng phổ vị tác lợi ích, an lạc”
(thường từ bi trọn khắp hết thảy hữu
t́nh, luôn tạo lợi ích, an lạc trọn khắp): Khiến
cho hết thảy chúng sanh đều được an lạc,
đều được vui sướng. Cứu tế, độ
thoát tất cả hết thảy hữu t́nh chúng sanh đang
mắc ách nạn trong sanh tử, trừ khử hết thảy
các khổ cho chúng sanh. Trong khi chúng sanh đang hứng chịu
khổ nạn, chính là lúc dễ độ nhất. Quư vị
nói, họ sẽ chịu tin. Vào trong tù ngục thuyết pháp,
vào trong bệnh viện thuyết pháp cho bệnh nhân đang
nằm bẹp giường, trong khi họ đang bị khổ
đau hành hạ, quư vị bảo họ niệm Quán Thế
Âm Bồ Tát, họ sẽ chịu niệm. Niệm Địa
Tạng Bồ Tát, khi đó họ đang rất khổ, cũng
sẽ niệm
thử một phen. Nhưng khi ấy có một điều nguy
hiểm, quư vị chớ nên lo lắng cho sự an vui của
chính ḿnh. Hễ quư vị lo lắng cho sự an vui của chính
ḿnh, sẽ độ chẳng thành. Có khi quư vị đến
nơi đó sẽ rất nguy hiểm, đến chỗ bệnh
nhân, có thể sẽ mang theo bệnh trở về! Nếu
quư vị muốn chịu khổ thay cho họ, sẽ thật
sự thay thế. Chẳng giả đâu nhé. Nếu quư vị
nguyện rất chân thật, xác thực là sẽ có thể
chịu thay, nhưng hễ xảy ra nơi thân quư vị, đừng
nên áo năo, hối hận!
Chúng tôi không nói to lớn chi cả. Tại Nữu
Ước có rất nhiều đoàn thể trợ niệm.
Hễ có người văng sanh, họ sẽ đến tham dự
[trợ niệm]. Đương nhiên, trong số ấy có
khi là đệ tử Phật, có khi chẳng phải là đệ
tử Phật, hoặc bản thân họ là đệ tử
Phật, khi quyến thuộc của họ sắp chết,
bèn mời đoàn thể trợ niệm đến. Trợ
niệm đoàn cũng phát cái nguyện
ấy. Đến đó, thường là đem theo oán nghiệp
của người ấy trở về. Quỷ vốn muốn
t́m người ấy tính sổ, sẽ t́m người [trợ
niệm ấy] để tính sổ. Người đó trở
về bèn phát sốt, hoặc là bị chi đó! V́ người
ấy hoàn toàn chẳng phải là hằng ngày tự niệm,
cũng chẳng tu hành chi hết, chẳng có sức mạnh
đề kháng. Do vậy, quư vị tham gia trợ niệm,
hành Bồ Tát đạo, trước hết phải xem xét
sức lực của
chính ḿnh là như thế nào? V́ sao hàng Nhị
Thừa chẳng
dám làm? Họ
hiểu sức của chính ḿnh chẳng đủ, chẳng
dám phát đại tâm. Khá nhiều đạo hữu của
chúng ta là đạo hữu Từ Tế[14], đến bố
thí, chẳng ngán người khác bẩn thỉu, hoặc nơi
chốn rất tệ, chẳng thanh khiết, quư vị
đến đó để hành Bồ Tát đạo.
Trong phẩm thứ mười của kinh Địa
Tạng, Địa Tạng Bồ Tát đă xin đức Phật
chỉ dạy: “V́ sao trên
thế giới này, phước đức do bố thí khác
biệt rất lớn như vậy?” Đức Phật dạy: Quư vị dùng cái tâm ǵ để
bố thí? Trong khi quư vị hành bố thí, tâm thái của quư
vị là ǵ? Dùng thái độ ǵ? Luôn liên quan rất lớn
với tâm thái, tác phong, và lời ăn tiếng nói. Đương
nhiên là quư vị cho người khác vật này nọ, người
đó trong tâm hoan hỷ, trong tâm cũng [cảm
thấy] được cứu độ. Có khi quư vị cho người
ta thứ này thứ nọ, mà người nhận rất bực
bội v́ quư vị xem thường người khác. Khi đi
ăn xin, họ vẫn có ḷng tự trọng. Quư vị phải
rất tôn kính họ, đưa đồ tận tay họ;
sau đó, c̣n phải nói mấy câu an ủi. Nếu là Phật
tử, hăy nói thêm vài câu Phật pháp cho người ấy, sẽ
càng tốt hơn!
Do vậy, khi chúng sanh có khổ nạn, quư vị
đừng nên bận tâm cho sự an vui của chính ḿnh. Bồ
Tát phát nguyện “chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh, chỉ
mong chúng sanh được ĺa khổ”. Hàm nghĩa là như
thế đó. “Duy cầu an lạc nhất thiết hữu
t́nh, như thị danh vi trụ
Đại Thừa giả” (chỉ
cầu an lạc hết thảy hữu t́nh. Như thế
th́ gọi là người trụ trong Đại Thừa). Đấy
là thật sự trụ Đại Thừa, là Bồ Tát thật
sự!
(Kinh) Thiện nam tử! Hữu hà đẳng
tướng, danh Thanh Văn Thừa? Vị chư chúng sanh
thường cần tinh tấn, an trụ chánh niệm, nhạo
Đẳng Dẫn Định, ly chư siểm cuống,
tín tri nghiệp quả, bất trước ngũ dục,
thế gian bát pháp sở bất năng nhiễm, tu thiện
dũng mănh, như cứu đầu nhiên, thường thẩm
đế quán chư Uẩn, Giới, Xứ, hằng nhạo
an trụ sở hữu thánh chủng. Cụ thử tướng
giả, danh Thanh Văn Thừa! Như thị chúng sanh, thượng
vị năng thành Độc Giác Thừa khí, huống phục
năng thành Đại Thừa pháp khí? Thiện
nam tử! Hữu hà đẳng tướng danh Độc
Giác Thừa? Vị chư chúng sanh cụ thượng Thanh
Văn nhất thiết công đức, phục năng ư
bỉ Ngũ Thủ Uẩn trung, sổ sổ an trụ tùy
Vô Thường
Quán, sổ
sổ an trụ tùy Sanh Diệt
Quán, phổ
ư nhất thiết duyên sanh pháp trung, năng thẩm đế
quán giai thị diệt pháp. Cụ thử tướng giả,
danh Độc Giác Thừa. Như thị chúng sanh, phi Đại
Thừa khí.
(經)善男子,有何等相名聲聞乘?謂諸眾生,常勤精進,安住正念,樂等引定,離諸諂誑,信知業果,不著五欲,世間八法所不能染,修善勇猛如救頭燃,常審諦觀諸蘊、界、處,恆樂安住所有聖種,具此相者,名聲聞乘。如是眾生,尚未能成獨覺乘器,況復能成大乘法器?善男子,有何等相名獨覺乘?謂諸眾生,具上聲聞一切功德,復能於彼五取蘊中,數數安住隨無常觀,數數安住隨生滅觀,普於一切緣生法中,能審諦觀皆是滅法,具此相者,名獨覺乘。如是眾生,非大乘器!
(Kinh: Này thiện nam tử! Có các tướng
nào th́ gọi là Thanh Văn Thừa? Tức là các chúng sanh thường
siêng tinh tấn, an trụ chánh niệm, thích Đẳng Dẫn
Định, ĺa các siểm nịnh, dối trá, tin biết
nghiệp quả, chẳng chấp trước ngũ dục,
chẳng bị nhiễm tám pháp thế gian, tu thiện dũng
mănh như cứu đầu cháy, thường quan sát cặn
kẽ, chắc thật các Uẩn, Giới, Xứ, luôn thích
an trụ trong tất cả thánh chủng. Có các tướng
ấy th́ gọi là Thanh Văn Thừa. Chúng sanh như thế
c̣n chưa thể thành căn khí Độc Giác Thừa, huống
c̣n có thể trở thành pháp khí Đại Thừa ư? Này
thiện nam tử! Có các tướng nào th́ gọi là Độc
Giác Thừa? Tức là các chúng sanh đă trọn đủ hết
thảy công đức trên đây của Thanh Văn, lại
có thể đối với Ngũ Thủ Uẩn nhiều
lượt an trụ
thuận theo Vô Thường Quán, nhiều
lượt an trụ thuận theo Sanh Diệt Quán, v́ khắp
hết thảy các pháp duyên sanh mà có thể quán cặn kẽ,
chắc thật, đều là diệt pháp. Có các tướng
ấy, th́ gọi là Độc Giác Thừa. Chúng sanh như
thế chẳng phải là pháp khí Đại Thừa).
Pháp Thanh Văn là ǵ? Trụ
Thanh Văn Thừa là ǵ? Thanh Văn Thừa là nói học
theo đạo Tiểu Thừa, học quả A La Hán. Tâm lượng
của họ chẳng lớn, nhưng họ có chánh niệm,
có chánh lạc, có Định lực, có thể từ Định
lực dẫn khởi các niềm vui sướng. Đối
với các loại Định, đều b́nh đẳng dẫn
khởi các sự vui sướng. Người ấy chẳng
có tâm siểm khúc, chẳng có tâm lừa dối. Người
ấy biết nghiệp quả thiện ác, ḷng tin rất khẩn thiết. Có lúc
nghe dường như là chuyện đùa, nhưng trên thực
tế, quả thật là như vậy! Tại Nữu
Ước, chúng tôi có một vị đạo hữu thấy
ở lề đường có hai mươi đồng Mỹ
Kim, chẳng biết
do ai đánh rơi, ông ta nghĩ: “Ta nhặt lấy, chẳng
phạm tội trộm cắp”. Ông ta tính nhặt lên, nhặt
rồi lại nghĩ: “Ta phải làm sao với hai
mươi đồng này? Vạn nhất phạm sai lầm
th́ sao?” Rốt cuộc, ông ta không nhặt, bèn đi qua.
Người phía sau cũng thấy, cho rằng ông ta không thấy,
thật ra ông ta có thấy, chỉ là không nhặt. Khi người
phía sau đă nhặt rồi, vị đạo hữu ấy
cảm thấy ḿnh đă bỏ lỡ, bèn quay đầu lại
nói: “Đó là tiền tôi đánh rơi”. Về sau, ông ta
đến sám hối với tôi: “Thưa sư phụ! Con nói
con đánh rơi là sai trái. Con đă nghĩ sai rồi!” Tính
nhặt rồi lại chẳng nhặt, tín tâm không kiên
định! Phải thật sự đối với hết
thảy mọi
sự đều chẳng băn khoăn. Khi đi đường,
thứ ǵ cũng đều chẳng màng, có lợi ích hay
không lợi ích, đều chẳng trông
thấy! Ông ta thưa: “Sau đấy, con nghĩ tới mấy
cách, con nhặt lên để cho người nghèo, chẳng
phải là rất tốt hay sao? Con lại làm công đức”.
Tôi nói: “Ông chẳng có công đức, đó là công đức
của người làm mất tiền!”
Khi gặp cảnh giới, quư vị biết
đó có phải là hư giả hay không, tín tâm có chân thật
hay không? Nếu quư vị tin tưởng quả báo thiện
ác, đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê, sẽ chẳng tham luyến. Mọi người
mỗi sáng, lúc phải thức dậy, chẳng ḅ dậy nổi,
vẫn mong ngủ thêm một chút, tối thiểu là phải
ườn ra một chút, năm phút cũng được,
chẳng phải là vừa tỉnh giấc bèn lập tức
ngồi dậy. Trước nay, chẳng
hề cảm thấy chính ḿnh ngủ rất nhiều, luôn
có cảm giác ngủ không đủ; đấy là dục vọng.
Khi ăn, thứ nào vừa mắt bèn ăn sạch; thứ nào thấy
không ngon, sẽ chẳng
thèm nh́n tới. Đấy là ngũ dục. Nữ đạo
hữu cũng yêu thích mua sắm. Chúng tôi sang Hương Cảng,
có mấy nữ đạo hữu cùng đi, mê mua sắm lắm! Đi mua sắm suốt cả
ngày, trở về luôn luôn là bao này, túi nọ. Cứ trông
thấy là muốn mua! Bản
thân việc mua sắm là tâm tham. Nhăn căn dẫn khởi ư
thức của quư vị tham luyến, dọn cả công ty
bách hóa về nhà quư vị, vẫn
chẳng thỏa ḷng! V́ cứ sau một hai năm, vật
chất, y phục đều thay đổi, những thứ
quư vị khuân về trước kia đều lỗi thời
rồi! Mở công ty bách hóa, chẳng thể ứ đọng
hàng hóa, hàng hóa ứ đọng sẽ lỗ tiền! Do vậy,
cảnh giới ngũ dục chẳng phải là dễ dàng
đâu nhé!
Chúng tôi cho rằng: Nếu tín tâm rất tốt,
tin Phật rất thành khẩn, đến khi dục cảnh
hiện tiền, quư vị quờ quạng bất
định, có thể chẳng thuận theo cảnh giới
ngũ dục hay không? Chúng ta khi bái sám,
hằng ngày niệm: Đối với tám pháp của thế
gian, vọng tâm chẳng động. Tám pháp thế gian chính
là xưng, cơ, khổ, lạc, ái, tắng, hủy, dự
(khen, chê, khổ, vui, yêu, ghét, hủy báng, ca ngợi). Bốn
thứ là tốt, bốn thứ là xấu. Khen ngợi quư vị,
châm chọc quư vị, hủy báng quư vị! Trước kia,
Tô Đông Pha viết trên bàn “bát phong xuy bất động”
(tám gió thổi chẳng động). Thiền sư Phật
Ấn đến chỗ ông ta, trông thấy bèn viết hai
chữ “phóng thí” (放屁, thả
rắm). Ông Tô trở về, thấy thế, nổi giận
đùng đùng. Phủ nha của ông ta ở bờ bên này Tây
Hồ tại Hàng Châu, c̣n chùa Tịnh Từ ở bên kia Tây
Hồ. Tô Đông Pha không nhịn được, ngồi
thuyền vượt sông, t́m thiền sư Phật Ấn,
đến chỗ thiền sư Phật Ấn để tranh
căi cho ra lẽ! Tô Đông Pha hỏi: “Cớ sao đối với
câu ‘bát phong xuy bất
động’, ngươi
viết là thả rắm?” Thiền sư Phật Ấn hỏi:
“Đúng vậy hả?” Tô Đông Pha cự nự: “Làm sao mà
không đúng cho được, ngươi c̣n dựa vào đâu
[mà dám chê bai]?” Thiền sư Phật Ấn bèn nói: “Đúng
th́ đúng, nhưng thật ra, Ngài đă tám gió đều động!
Tôi thả rắm một cái đă lôi Ngài qua sông!”
Tô Đông Pha cứng họng! Tám gió thổi bất động,
Phóng Thí vẫn là giả, vẫn chẳng phải là thật,
chỉ là văn tự. Nếu là thật, quư vị phải
nên làm ǵ? C̣n có những kẻ tự nhận đạo lực
dường như rất sâu, tám gió đều chẳng thổi
động được. Chẳng cần đến tám
gió, tùy tiện chửi một câu, quư vị lập tức
nổi lôi đ́nh!
“Thường thẩm đế quán” tức
là thường suy nghĩ, xem xét, đối chiếu một
phen. Các Uẩn, Giới, Xứ dùng ǵ để đối
chiếu? Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập Nhị
Xứ, trong khi Thức đối ứng Sắc, khi có Thanh
tiếp xúc với Thức, quư vị phải nên đối
chiếu đôi chút. Âm thanh đẹp đẽ, hay âm thanh
chửi rủa, hoặc âm thanh quư vị không thích nghe. Chẳng
hạn khi chúng ta tọa Thiền, tĩnh tọa, tiếng
xe hơi sẽ khiến cho quư vị bực bội. Tọa
Thiền là t́m chỗ tịch tĩnh, quư vị chẳng có loại
Định lực ấy, sẽ cảm thấy âm thanh ồn
ào. Ở nơi đô thị ồn ào, bèn mong vào sống nơi
rừng núi. Núi rừng cũng chẳng thanh tịnh. Núi rừng
có rất nhiều âm thanh, như tiếng thú kêu. Nhằm lúc
quư vị ở trong sơn động, ngay cả rắn
cũng kêu. Tiếng dế, tiếng của các loại trùng,
quư vị sẽ đều nghe thấy. Đặc biệt
là con ve vào mùa Hè, quư vị cảm thấy ồn gần chết.
Quả thật chẳng thể tĩnh tọa nổi. Đấy
là cái tâm của quư vị bất an, quư vị ở đó cũng
chẳng trốn được! Tiếng gió thổi, tiếng
gió lùa rung cây, đặc biệt là vào mùa Đông, tiếng
gió lùa qua những cành cây khô khốc trụi lá, đêm nghe xào
xạc, xào xạc, quư vị ngỡ quỷ đến! Nếu
quư vị chẳng chấp trước hết thảy âm
thanh, âm thanh sẽ chẳng thể quấy nhiễu quư vị
được!
Có đôi câu đối: “Phong thanh, vũ
thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại” (tiếng gió,
tiếng mưa, tiếng chuông khánh, tiếng nào cũng tự
tại). Khi chẳng đạt đến cảnh giới
đó, quư vị ở trong chùa cũng thấy phiền. Hằng
ngày đều gơ chuông. Chùa lớn c̣n có chuông U Minh. Suốt ngày
đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều
phải gơ. Trước kia, tại Hiển Tông Tự có một
vị lăo ḥa thượng. Ngài phụ trách thỉnh chuông, thỉnh
chuông suốt bốn mươi năm. Ngài kê một cái giường
bên cạnh chuông, ngủ luôn tại đó. Ngày đêm, Ngài đều
ngủ tại đó, thỉnh chuông. Tôi hỏi: “Hằng ngày
thầy ngủ được bao lâu?” Ngài đáp: “Tôi luôn ngủ”.
Tôi hỏi: “Chuông th́ sao?” Ngài đáp: “Chuông vẫn cứ gơ!”
Ngài đă dưỡng thành thói quen. Ngài ngủ ngay tại đó
ngay trong khi chuông đang ngân “boong”! Ngài biết thuận
theo tiếng chuông, đợi khi tiếng chuông vừa dứt,
lại gơ một tiếng. Âm thanh ngừng lại bèn gơ một
tiếng. Đó gọi là chuông U Minh.
“Hằng nhạo an trụ sở hữu
thánh chủng” (luôn thích an trụ trong tất cả các thánh
chủng): Ĺa khỏi Uẩn, Giới, Xứ, an trụ trong thánh chủng,
biết là vô thường, biết hết thảy các pháp đều
là Khổ, Không. Cái Không ấy
là Nhị Thừa Không, Không trong “Pháp Bất Không, Ngă Không”,
đó gọi là “thánh chủng”. “Thánh chủng” là nói tới
ǵ? “Cụ thử tướng giả, danh Thanh
Văn Thừa” (có đủ
các tướng ấy th́ gọi là Thanh Văn Thừa): Có kẻ
tự xưng là Đại Thừa, coi thường Tiểu
Thừa: “Đó là pháp Thanh Văn Thừa, ta không cần học!”
Quư vị ngay cả h́nh dáng Thanh Văn Thừa c̣n chưa đạt
được nữa kia! Đạt tới cảnh giới
ấy là cảnh giới A La Hán. Thanh Văn Thừa lại
kém hơn Độc Giác Thừa. “Thượng vị năng
thành Độc Giác Thừa khí” (vẫn chưa thể thành
pháp khí của Độc Giác Thừa): Chỉ có thể là pháp
khí của Thanh Văn Thừa, chẳng phải là pháp khí Độc
Giác Thừa. Ngay cả pháp khí Độc Giác Thừa c̣n chưa
đạt, sao có thể thành pháp khí của Đại Thừa?
Pháp khí của Độc Giác Thừa lại
là h́nh trạng ra sao? “Vị chư chúng sanh cụ thượng
Thanh Văn nhất thiết công đức” nghĩa là công
đức của Thanh Văn quư vị đều trọn đủ,
nhưng tiến nhập lại sâu hơn họ,
có thể đối với Ngũ Thủ Uẩn “sổ
sổ an trụ” (nhiều lượt an trụ). Có
thể an trụ trong Ngũ Thủ Uẩn, tức là có thể
biết hết thảy các pháp vô thường. Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức Ngũ Uẩn đều là pháp vô
thường, chẳng giữ lấy, chẳng chấp
trước. Vô Thường Quán là quán các pháp vô thường,
người ấy cũng có thể thâm nhập quán chiếu.
Tùy sanh, tùy diệt, vô thường quán, chẳng phải là Đoạn
Kiến, chẳng giống ngoại đạo. Tùy thời sanh
diệt, đấy là pháp sanh diệt. Hết
thảy các pháp Ngũ Thủ Uẩn đều là pháp sanh diệt,
đều là vô thường, nhưng trong vô thường, người
ấy lại duyên theo hết thảy các pháp. Do duyên khởi
mà người ấy có thể nhận biết Lư của chúng.
Tánh của các pháp duyên khởi là Không, Thể là Không. Có thể
quan sát suy xét kỹ càng [các pháp ấy] đều là diệt
pháp. Diệt th́ sẽ thành đạo, như vậy th́ mới
có thể đạt được Độc Giác Thừa,
tiến hơn Thanh Văn một bước, nhưng hạng
chúng sanh ấy chẳng phải là Đại Thừa. Quư vị
thấy Thanh Văn Thừa là h́nh trạng như thế nào?
Độc Giác Thừa
là h́nh trạng như thế nào? Quư vị có chứng đắc
hay chăng? Ngay cả pháp khí của Thanh Văn Thừa, quư
vị c̣n chưa đủ tŕnh độ, ngay cả pháp khí
của Độc Giác Thừa cũng chẳng đủ tŕnh
độ, làm sao nói quư vị là Đại Thừa cho nổi?
Có hàm nghĩa như thế đó!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn trùng hiển
thử nghĩa, nhi thuyết tụng viết: - Nhược
chân thiện nhân Sát-đế-lợi, năi chí chân thiện Thú-đạt-la,
tu Tín đẳng thập Hữu Y Luân. Ư Thanh Văn Thừa
tốc thành khí. Cầu Độc Giác Thừa tam nghiệp
tịnh. Cụ túc tàm quư, bố chư Uẩn. Tri quá, nhạo
tĩnh, trụ không nhàn. Niệm thủ chư căn, tâm tịch
định. Thiện quán duyên khởi, tu Tĩnh Lự. Chư
Uẩn, Giới, Xứ xảo năng quán. Cụ thử thập
hạnh Hữu Y Luân, thành thắng thừa khí độ Hữu
hải. Tu cộng tam thừa Nhị Thừa luân, tự cầu
giải thoát phiền năo khổ. Bất độ hữu
t́nh, bất xả tập. Thử nhân câu phi Đại Thừa
khí. Ngu si, giải đăi, căn hạ liệt. Ư Nhị
Thừa pháp bất cần tu, Định bất năng cụ
Đại Thừa luân. Cố phi Đại Thừa quảng
đại khí.
(經)爾時,世尊重顯此義,而說頌曰:若真善人剎帝利,乃至真善戍達羅,修信等十有依輪,於聲聞乘速成器。求獨覺乘三業淨,具足慚愧怖諸蘊,知過樂靜住空閑,念守諸根心寂定。善觀緣起修靜慮,諸蘊界處巧能觀,具此十行有依輪,成勝乘器度有海。修共三乘二乘輪,自求解脫煩惱苦,不度有情不舍習,此人俱非大乘器。愚癡懈怠根下劣,於二乘法不勤修,定不能具大乘輪,故非大乘廣大器。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn nói kệ tụng rằng: - Nếu
chân thiện nhân Sát-đế-lợi, cho đến chân thiện
Thú-đạt-la, tu mười Hữu Y Luân như Tín… Mau thành
pháp khí Thanh Văn Thừa. Cầu Độc Giác Thừa ba
nghiệp tịnh, trọn đủ hổ thẹn, sợ
các Uẩn. Biết lỗi, chuộng tĩnh, trụ thanh vắng.
Niệm giữ các căn, tâm tịch định. Khéo quán
duyên khởi, tu Tĩnh Lự. Các Uẩn, Giới, Xứ khéo
quán tưởng. Hành trọn mười món Hữu Y Luân, thành
thắng thừa khí, vượt biển Hữu. Tu chung ba
thừa Nhị Thừa luân, tự cầu giải thoát phiền
năo khổ. Chẳng độ hữu t́nh, xả tập khí,
người ấy chẳng phải Đại Thừa khí.
Ngu si, giải đăi, căn kém hèn. Chẳng siêng tu tập
pháp Nhị Thừa. Quyết chẳng thể trọn Đại
Thừa luân. Chẳng phải Đại Thừa quảng đại
khí).
“Nhược chân thiện nhân Sát-đế-lợi,
năi chí chân thiện Thú-đạt-la” (nếu là bậc chân
thiện Sát-đế-lợi, cho đến
chân thiện Thú-đạt-la): Chân thiện Sát-đế-lợi,
chân thiện Bà-la-môn, chân thiện Phiệt-xá, chân thiện Thú-đạt-la,
bốn chủng tánh ấy “tu Tín đẳng thập Hữu
Y Luân” (tu mười
Hữu Y Luân như Tín v.v…): Mười Hữu Y Luân ấy
ngoại trừ Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, vẫn
phải tu. Đấy là năm địa
vị đầu trong Thập Tín. Trong
Hữu Y Luân, có mười pháp. Phải tu mười luân ấy th́
mới có thể mau chóng trở thành pháp khí của Thanh
Văn Thừa. Tiến hơn bước nữa, cầu Độc
Giác Thừa th́ tam nghiệp thanh tịnh, trọn đủ
ḷng hổ thẹn, đối với hết thảy các Uẩn
và Giới, sanh khởi cảm
giác sợ hăi, chẳng dấy khởi tham đắm. Biết
sức lực của chính ḿnh là như thế nào, chính ḿnh
phải trụ nơi thanh vắng, ở nơi vắng lặng,
ǵn giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư của chính
ḿnh, khiến cho cái tâm của quư vị có thể tịch định.
Tức là đối với pháp Độc Giác Thừa, tu Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, cho đến
sanh, lăo, tử khổ, đều phải khéo quán duyên khởi!
Độc Giác Thừa chẳng giống Đại
Thừa. Duyên khởi của Đại Thừa là biết hết
thảy nhân duyên sanh khởi của hết thảy các pháp: Nhân duyên
khởi, nhân duyên diệt, pháp duyên khởi chẳng có tự
tánh. Bản thể của pháp tự tánh duyên khởi chính là
Không. Đấy là nghĩa Không trong Đại Thừa, chẳng
giống với nghĩa Không của hàng Nhị Thừa. Đấy
chỉ là khéo quán duyên khởi để tu Định,
tu tam-muội. Tĩnh Lự là Định, tức là quư vị tĩnh
lặng. Sự suy tư ấy thoạt đầu vẫn phải
t́m ṭi, vẫn phải trải qua rất nhiều quá tŕnh th́
quư vị mới có thể định được!
Như Sổ Tức Quán được nói
trong bộ kinh này, nếu quư vị tu Sổ Tức Quán, phải
khéo quán duyên khởi để tu môn Định ấy, khéo
có thể quán Uẩn, Xứ, Giới, quán Ngũ Uẩn, quán
mười tám Giới, quán mười hai Xứ. Do có phương
tiện huệ thiện xảo
để quan sát, quan sát các pháp ấy đều là pháp duyên
khởi. Hết thảy Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới,
Thập Nhị Xứ đều là pháp duyên khởi, duyên khởi
tánh Không. Tánh Không là
Đại Thừa. Duyên khởi
là Duyên Giác. Quán pháp
duyên khởi, cũng đạt đến nghĩa Không. Cái
Không ấy chẳng giống như cái Không
trong Đại Thừa. Cái Không ấy
(Không trong Đại Thừa) chẳng phải là Không [theo
kiểu rỗng không], cái Không ấy là
Chân Không. Chân Không là chứng đắc một nửa Chân
Không. Cái Không của Bồ Tát được gọi là Phi
Không, Phi Không chẳng phải là Không. Chẳng phải là Không
th́ là ǵ? Diệu Hữu. Diệu Hữu chẳng phải là
Có, phi Hữu, đó là Chân Không. Hàm nghĩa của Chân Không bao
gồm ư nghĩa lợi ích hết thảy chúng sanh.
Nhị Thừa đă đạt tới nghĩa
Không, đă được an lạc trong ấy.
Họ v́ cầu an lạc cho chính ḿnh, trụ trong Tĩnh Lự,
trụ trong môn Định ấy. Đó là điểm bất
đồng [giữa Nhị Thừa
và Đại Thừa]. Họ đă vượt
biển sanh tử, độ thoát tam giới. Họ là pháp
khí của thừa thù thắng, tức là Nhị Thừa thù
thắng. Thừa này cao hơn nhân thiên thừa, có thể vượt
biển Hữu (vượt thoát tam giới), tu tam thừa luân
chung cho cả ba thừa. Đây là cộng đạo (共道, đạo chung)
của tam thừa, nhưng họ chỉ có thể tu Nhị
Thừa Luân, chẳng thể tu Đại Thừa Luân.
“Tự cầu giải thoát phiền năo khổ”,
v́ sao có thể biết họ là Nhị Thừa Luân? Họ chỉ
cầu chính ḿnh giải thoát. Giải thoát ǵ vậy? Giải
thoát phiền năo, có thể trừ bỏ phiền năo. Họ
gặp ǵ cũng chẳng khởi
phân biệt, cho đến ư niệm tiếp xúc Pháp Trần,
vẫn chẳng sanh khởi phân biệt, đoạn dứt
Tư Hoặc, ư niệm chẳng dấy Hoặc. Đó gọi
là giải thoát nỗi khổ phiền năo. Đă chẳng có
nỗi khổ phiền năo th́ nỗi khổ sanh tử cũng
chẳng có. Nhưng khuyết điểm của họ là ǵ?
“Bất độ hữu t́nh, bất xả tập” (chẳng
độ hữu t́nh, chẳng xả tập khí): Tập khí
vẫn tồn tại! Kiến
Tư Hoặc đă không c̣n, nhưng Trần Sa Hoặc vẫn
tồn tại. Tập khí nhiều như cát bụi, rất
khó đoạn, v́ họ chẳng xả tập khí, chẳng
độ chúng sanh. Cho nên, họ chẳng phải là pháp khí Đại
Thừa. Do vậy, Thanh Văn và Độc Giác đều chẳng phải là khí cụ chứa đựng Đại
Thừa.
“Ngu si, giải đăi, căn hạ liệt. Ư Nhị
Thừa pháp bất cần tu, Định bất năng cụ
Đại Thừa Luân, cố phi Đại Thừa quảng
đại khí” (ngu si, biếng nhác, căn
cơ kém hèn, chẳng siêng tu tập pháp Nhị Thừa. Định
chẳng thể trọn đủ Đại Thừa luân.
Do vậy, chẳng phải là pháp khí rộng lớn của
Đại Thừa): Chẳng phát tâm Bồ Đề. Đức
Phật quở trách hàng Nhị Thừa là vị họ căn
khí kém hèn, giải đăi. Chẳng thể tu pháp Nhị Thừa
th́ làm sao có thể cầu Đại Thừa? Kẻ đối
với pháp Nhị Thừa chẳng siêng năng tu hành, chẳng
chứng quả Nhị Thừa, căn cơ hèn kém, làm sao có
thể cầu Đại Thừa cho được? Đức
Phật dạy: Chúng ta phải chiếu theo giáo nghĩa để
đoán định, họ chẳng thể trọn đủ
Đại Thừa Luân, tức là họ chẳng thể ngồi
trên cỗ xe ấy, chẳng ngự trên cái Luân
ấy (Đại Thừa Luân) được.
Luân có nghĩa là xe lăn bánh, Thừa là có công năng vận
chuyển. Thừa có Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Tiểu Thừa ngồi trên cỗ xe nhỏ, như chiếc
xe dê trong kinh Pháp Hoa, sức kéo của xe dê rất yếu nhẹ.
Trung Thừa là xe kéo bằng nai, có sức mạnh hơn xe
dê. Đại bạch ngưu xa là Đại Thừa, trong
thí dụ của kinh Pháp Hoa, Đại Thừa Luân cách biệt
Nhị Thừa Luân rất xa. V́ thế nói [pháp khí Nhị Thừa]
chẳng phải là pháp khí rộng lớn của Đại
Thừa.
(Kinh) Ngu si độc nhất cầu giải
thoát. Liệt ư, hạ
hạnh, vô từ
bi. Nhạo trước Đoạn Kiến, hướng
ác thú. Khí xả
chánh pháp, thuyết phi pháp. Hủy báng Nhị Thừa, xả
luật hạnh. Thọ Cụ Túc Giới, hiệu Đại
Thừa. Phá loạn ngă pháp, hoặc
chúng sanh. Do thử nhân thân nan phục đắc. Năo loạn
ngă pháp chư hiền thánh, trích phạt bị xích ca-sa nhân.
Ha mạ, giá đoạt y bát đẳng, trường thời
thoái thất nhân thiên thú.
(經)愚癡獨一求解脫,劣意下行無慈悲,樂著斷見向惡趣,棄舍正法說非法。譭謗二乘舍律行,受具足戒號大乘,破亂我法惑眾生,由此人身難復得。惱亂我法諸賢聖,謫罰被赤袈裟人,呵罵遮奪衣缽等,長時退失人天趣。
(Kinh: Ngu si, độc nhất cầu
giải thoát. Ư hèn, hạnh kém, chẳng từ bi. Ham chuộng
Đoạn Kiến, hướng đường ác. Vứt
bỏ chánh pháp, nói phi pháp. Hủy báng Nhị Thừa, bỏ
luật hạnh. Thọ Cụ Túc Giới, xưng Đại
Thừa. Phá loạn pháp ta, rối chúng sanh. Do vậy, khó lại
được làm người. Năo loạn pháp ta và hiền
thánh, trừng phạt người mặc ca-sa đỏ. Quở
mắng, ngăn đoạt y và bát… Lui mất đường
trời người dài lâu).
“Ngu si độc nhất cầu giải
thoát, liệt ư, hạ hạnh, vô từ bi” (ngu si, độc
nhất cầu giải thoát, ư hèn, hạnh kém, chẳng từ
bi): Đức Phật phê b́nh hàng Nhị Thừa là ngu si, không
có trí huệ, chẳng cầu Bồ Đề đạo,
chỉ cầu giải thoát cho chính ḿnh, chẳng giải trừ
thống khổ cho người khác (đó
là ư nghĩa của câu “độc nhất cầu giải
thoát”). Người khác có thống khổ, căn bản là
họ chẳng quan tâm. Họ phát tâm rất kém hèn, chẳng
thù thắng, hạnh chẳng rộng, chẳng có tâm từ
bi.
“Nhạo trước Đoạn Kiến, hướng ác
thú. Khí xả chánh
pháp, thuyết phi pháp” (Đắm
chuộng Đoạn Kiến, hướng đường
ác, vứt bỏ chánh pháp, nói phi pháp): Đại Thừa là
ǵ? Họ mong cầu nghĩa Không của Đại Thừa,
[do chẳng hiểu thâm nghĩa] “các pháp đều là Không,
không tu, không chứng”, bèn chấp giữ Đoạn Kiến,
chẳng biết khi Bồ Tát lợi ích chúng sanh th́ hết
thảy các pháp đều phải tu. Nếu đắm chuộng
Đoạn Kiến, [cho rằng] chết rồi là hết,
cần phải tu để làm ǵ cơ chứ? Họ lấy
rất nhiều câu trong Đại Thừa để che đậy
[sự lười nhác của bản
thân]. Chẳng hạn như kinh Lăng Nghiêm dạy: “Hà
tạ cù lao, khẳng hệ tu chứng?” [nghĩa là] tu chứng
là giả, cần ǵ phải phí công phu. Họ dùng ngay câu kinh
ấy để ra vẻ “ta đă
chứng đắc”. [Chẳng biết
hai câu ấy nhằm nói đến] bậc đại Bồ Tát
đă chứng đắc pháp tánh, trực tiếp ngộ được
pháp tánh, hiểu các pháp duyên khởi đều chẳng có
thật tánh. Bản thân các pháp duyên khởi đă trọn đủ
thật tánh. Đối với “duyên khởi tánh Không”,
chỉ giữ lấy “tánh Không” th́ gọi là Đoạn
Kiến, hay Đoạn Diệt Kiến. Như thế th́
chẳng thể gọi là Đại Thừa được! Kẻ đó
thuộc về đường ác, sẽ tiến hướng
đọa lạc trong ba đường ác, đọa lạc
trong địa ngục.
“Khí xả chánh pháp, thuyết phi pháp” (Vứt
bỏ chánh pháp, nói phi pháp): Pháp Nhị Thừa là chánh pháp, Thập
Thiện Đạo là chánh pháp. Thập Thiện có sâu và cạn.
Thanh Văn và Duyên
Giác cũng hành Thập Thiện, đại Bồ Tát
cũng hành Thập Thiện, chư Phật đều hành Thập
Thiện. Tam Bất Hộ là thân, miệng, ư của Phật
hoàn toàn thanh tịnh, chẳng cần phải bảo vệ.
Hàng Nhị Thừa và Bồ Tát vẫn phải ǵn giữ thân,
miệng, ư, luôn ngăn giữ thân, miệng, ư. Thân, miệng,
ư là mười nghiệp. Luôn bảo
vệ mười nghiệp, chẳng để sai trái. “Hủy báng Nhị
Thừa, xả luật hạnh” là không tŕ giới. Nhị Thừa chuyên nói tới tŕ
giới. Hai trăm năm mươi giới đều tŕ
thanh tịnh, chứng đắc quả A La Hán. Nếu chúng
ta chẳng tŕ thanh tịnh, sẽ chẳng thể chứng
đắc. Kẻ hủy báng pháp Nhị Thừa sẽ chẳng
học giới luật Nhị Thừa, chẳng thọ tŕ
giới luật, thậm chí đă thọ Cụ Túc Giới
mà vẫn chẳng hành tŕ. Thọ Cụ Túc Giới, vừa
thọ xong, bèn nói chính
ḿnh là Đại Thừa, [nại
cớ ấy, để khỏi tuân thủ giới luật].
“Phá loạn ngă pháp, hoặc chúng sanh”: Đấy
là mê hoặc chúng sanh, hủy báng, phá hoại chánh pháp của
Phật. “Do thử nhân thân nan phục đắc” (do vậy,
khó lại được làm người): Kẻ hủy báng
như thế đọa vào Đoạn Kiến, cho đến
phá loạn Phật pháp. Những kẻ ấy sau khi xả
báo, lại muốn được làm người, sẽ rất khó, chẳng đạt được!
“Năo loạn ngă pháp chư hiền thánh,
trích phạt bị xích ca-sa nhân” (năo loạn các vị hiền
thánh trong pháp của ta, trừng phạt người mặc
ca-sa đỏ): Quở trách người đắp y ca-sa,
cho đến hủy báng, năo loạn. Trong ấy có thánh nhân
và hiền nhân. Trước khi A La Hán nhập Định, Ngài
ở chung với phàm phu Tăng, vị nào là thánh nhân? Vị
nào là phàm nhân? Vị nào chứng thánh quả? Quư vị chẳng
biết, chẳng phân biệt rơ ràng. Do vậy, [năo loạn Tăng chúng sẽ là] năo loạn các vị
hiền thánh trong Phật pháp. “Hiền nhân” là nói tới
bảy địa vị [trong Nhị
Thừa], tức Sơ Quả Hướng, Sơ Quả, Nhị
Quả Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng,
Tam Quả, Tứ Quả Hướng. Chứng quả A La
Hán th́ mới gọi là thánh nhân. Nói theo pháp Nhị Thừa là
như thế đó. Do vậy, nếu quở trách, chửi
bới, khiển trách, ô nhục người đắp ca-sa,
trong ấy sẽ có hiền
mà cũng có thánh. Nếu quở trách, mắng chửi họ,
cho đến ngăn trở, tước đoạt y và bát
của họ. “Trường thời thoái thất nhân thiên
thú” [nghĩa là] kẻ đó
mong tái sanh trong nhân đạo, hoặc
sanh lên thiên đạo, đều chẳng thể được.
(Kinh) Thị cố nhược dục
phục nhân thân, bất hoạn thiệt cấm nhi xả mạng,
thường nhạo trị ngộ chư Phật giả,
phổ ưng hoằng hộ tam thừa pháp, dục đắc
tam thừa tối thượng thừa. Ưng thiện quán
sát tam thừa pháp, hoan hỷ vị tha phổ khai thị, đương
đắc thành Phật định vô nghi. Phá giới, xan tật, hoài kiêu
mạn. Tự tán, hủy
tha, hiệu
Đại Thừa. Xả ly thử nhân, y trí giả,
định đương thành Phật, độ
tam giới. Ư tam thừa khí tùy sở nghi, từ bi vị
thuyết tam thừa pháp. Tùy nguyện linh măn vô xan tật, đương
đắc thành Phật định vô nghi.
(經)是故若欲復人身,不患舌𦧈而舍命,常樂值遇諸佛者,普應弘護三乘法。欲得三乘最上乘,應善觀察三乘法,歡喜為他普開示,當得成佛定無疑。破戒慳嫉懷憍慢,自讚毀他號大乘,舍離此人依智者,定當成佛度三界。於三乘器隨所宜,慈悲為說三乘法,隨願令滿無慳嫉,當得成佛定無疑。
(Kinh: V́ thế, mong lại được
thân người, chẳng bị đớ lưỡi mà xả
mạng, thường thích gặp gỡ với chư Phật,
hoằng hộ trọn khắp pháp tam thừa, mong đắc
tam thừa tối thượng thừa. Nên khéo quan sát pháp
tam thừa. Hoan hỷ v́ họ khắp khai thị, sẽ được
thành Phật quyết chẳng ngờ. Phá giới, keo, ghen, thường
kiêu mạn. Khen ḿnh, chê người, xưng Đại Thừa.
Xả ĺa người ấy, nương bậc trí, quyết
sẽ thành Phật vượt tam giới. Tam thừa pháp
khí thuận cơ nghi, từ bi v́ họ nói tam thừa, khiến
được măn nguyện, chẳng keo, ganh. Sẽ được
thành Phật, quyết chẳng nghi).
“Thị cố nhược dục phục
nhân thân, bất hoạn thiệt cấm nhi xả mạng”
(V́ thế nếu muốn lại được làm người,
chẳng bị đớ lưỡi, xả tánh mạng):
Quư vị mong lại được làm thân người, có
hai t́nh huống:
1) Tuy vẫn được làm thân người,
nhưng rất khó có thân thể toàn vẹn. Một loại
[khuyết tật] là lưỡi. Lưỡi quá ngắn, hoặc
quá dài, chẳng thể nói được. Có miệng mà chẳng
thể nói. Đó là một trường hợp.
2) Hoặc là xả mạng, sanh vào nhân gian chẳng
bao lâu đă chết, lại xả thân người. Xả
xong bèn vào địa ngục.
Nếu có lưỡi [mà chẳng nói được],
sẽ sống lâu hơn một chút. Chẳng có lưỡi,
thọ mạng sẽ ngắn hơn! V́ kẻ đó tiếp
tục làm ác, mới từ địa ngục thoát ra, rất
khó tăng trưởng thiện căn. Đă quen thói làm ác,
rất khó sửa đổi tập khí. Đoạn Kiến
Tư Hoặc c̣n dễ, chứ sửa đổi tập
khí rất khó. Phá giới th́ sám hối có thể thay đổi, chứ phá Kiến th́
chẳng có cách nào, Phật cũng chẳng thể cứu kẻ
đó. Kiến tức là tri kiến. Kẻ đó nh́n nhận
vấn đề luôn khác với mọi người, đặc
biệt lệch lạc, đặc biệt hẹp ḥi, luôn
chẳng phù hợp pháp, báng bổ chánh pháp là phi pháp, nói phi
pháp là chánh pháp. Hễ ai có loại kiến giải ấy, sẽ
chẳng dễ độ. Tập khí nơi tri kiến mang
theo từ vô lượng đời. “Thường nhạo
trị ngộ chư Phật giả” (thường thích
gặp gỡ chư Phật): Nếu quư vị mong thường
gặp chư Phật, phải hoằng dương pháp tam
thừa.
“Dục đắc tam thừa tối thượng
thừa, ưng thiện quán sát tam thừa pháp” (Nếu
muốn đắc pháp tối thượng thừa trong tam
thừa, hăy nên khéo quán sát pháp tam thừa): Nếu quư vị
mong đạt được pháp Đại Thừa, hăy khéo
quan sát pháp tam thừa. Pháp tam thừa rốt
cuộc là nói đến điều ǵ? “Hoan
hỷ vị chúng sanh phổ khai thị” (Hoan hỷ v́ chúng
sanh khai thị trọn khắp). Ở đây, chữ Phổ
(普, trọn khắp) là đừng
chọn lựa, đừng nên chỉ khai thị cho kẻ
có tiền, có thế; chẳng khai thị cho kẻ không tiền,
không thế. Đôi khi chúng ta thấy súc sanh, khuyên mọi người
hăy niệm Tam Quy cho nó. [Quư vị cứ nghĩ] chúng nó không
hiểu, [dẫu nói Tam Quy] chẳng có tác dụng ư? Quư vị
thọ quán đảnh, có hiểu hay không? V́ sao quư vị muốn
thọ quán đảnh? Đó gọi là “gieo chủng tử”. Có khá
nhiều người thọ quán đảnh, căn bản
là chẳng hiểu. Đă thọ đại quán đảnh
thật sự, họ vẫn chẳng biết. Mỗi phép
quán đảnh, đều có một bài chú chủ yếu. Đă
thọ quán đảnh, nhất định phải niệm
chú. Tối thiểu là niệm mười vạn biến,
thường thọ tŕ, niệm cho nhiều. Có người
thọ quán đảnh xong, tôi hỏi người ấy: “Quư
vị có thọ tŕ hay không?” Người ấy hỏi: “Thọ
tŕ ǵ vậy?” Tôi nói: “Quư vị thọ quán đảnh ǵ vậy?”
“Tôi cũng không biết”. Như vậy th́ có công đức
hay không? Có một ít, gieo chủng tử mà thôi!
Bất luận loại súc sanh nào, quư vị
niệm Tam Quy cho nó. Quư vị đối trước chó,
cho đến những con cá ta phóng sanh, chúng đều mở
mắt rất to ngó quư vị. Quư vị nói Tam Quy cho chó, chó
liền mở to mắt nh́n quư vị. Bất luận nó hiểu
hay không, quư vị đă gieo chủng tử cho nó, có ư nghĩa
như vậy. Nhất định phải làm như vậy,
hăy nên khéo quan sát pháp tam thừa. “Hoan hỷ vị tha phổ
khai thị, đương đắc thành Phật định
vô nghi” (hoan hỷ v́ người khác khai thị trọn
khắp, sẽ được thành Phật, chắc chắn
chẳng nghi ngờ): Người có thể làm như vậy,
đấy mới là Đại Thừa thật sự, nhất
định có thể thành Phật.
“Phá giới, xan, tật, hoài kiêu mạn, tự
tán, hủy tha, hiệu Đại Thừa” (phá giới,
keo kiệt, ghen ghét, ôm ḷng kiêu mạn, tự khen ḿnh, chê người,
mà xưng là Đại Thừa): Không chỉ chẳng phải
là Đại Thừa, Tiểu Thừa cũng chẳng phải,
chẳng nhập Phật môn, ngay cả mấp mé Phật pháp
cũng chẳng có, chẳng cần để ư đến hạng người như
thế. “Xả ly thử nhân y trí giả, định đương
thành Phật độ tam giới” (hăy ĺa bỏ kẻ ấy,
nương theo người trí huệ, chắc chắn sẽ
thành Phật, độ tam giới): Hạng người phá
giới, keo kiệt, ghen tỵ, lại ôm ḷng kiêu căng, ngạo mạn
như thế, tán thán chính ḿnh, hủy báng người khác.
Hễ hủy báng người khác, tất nhiên là sẽ có hơi
hướng tán thán chính ḿnh! Hăy ĺa bỏ người như
thế, nương cậy bậc có trí huệ, nhất
định sẽ thành Phật, độ thoát tam giới, thoát
khỏi tam giới.
“Ư tam thừa khí tùy sở nghi, từ
bi vị thuyết tam thừa pháp” (Đối với các
pháp khí tam thừa, hăy tùy thuận cơ nghi, từ bi v́ họ
nói pháp tam thừa): Đối với người thuộc tam thừa, người
ấy thuộc loại căn cơ nào, “nghi” (宜) có nghĩa
là “đáng
nên”, tức
là người ấy đáng nên tiếp nhận pháp nào, quư
vị bèn từ bi nói cho người ấy pháp đó. “Tùy
nguyện linh măn vô xan, tật, đương đắc thành
Phật định vô nghi” (thuận theo ư nguyện khiến
cho họ được thỏa măn, chẳng keo kiệt,
ghen ghét, th́ sẽ thành Phật chắc chắn chẳng nghi
ngờ): Tùy theo ư nguyện của người ấy, khiến
cho người ấy thỏa măn. Ngàn vạn
phần chớ nên bủn xỉn pháp! [Nếu] bủn xỉn, tham lam, ghen ghét đối với
pháp, quư vị sẽ mắc quả báo đớ lưỡi,
chẳng thể nói được!
(Kinh) Tri Uẩn, Giới, Xứ giai không
tịch, vô sở y trụ thí hư không, thuyết pháp đẳng
nhiếp chư hữu t́nh, đương hoạch diệu
giác vô biên trí. Phá giới, ư nhạo hoài ác tâm, văn thuyết
Đại Thừa thắng công đức, trá hiệu Đại
Thừa vị danh lợi, như tệ lư phi sư tử
b́. Ngă kim phổ cáo nhất thiết chúng, nhược dục
tật đắc thắng Bồ Đề, đương
thiện tu tŕ Thập Thiện Nghiệp, hộ tŕ ngă pháp,
vật hủy hoại!
(經)知蘊界處皆空寂,無所依住譬虛空,說法等攝諸有情,當獲妙覺無邊智。破戒意樂懷噁心,聞說大乘勝功德,詐號大乘為名利,如弊驢披師子皮。我今普告一切眾,若欲疾得勝菩提,當善修持十善業,護持我法勿毀壞。
(Kinh: Biết Uẩn, Giới, Xứ
đều không tịch, chẳng hề nương trụ
như hư không, thuyết pháp b́nh đẳng nhiếp hữu
t́nh, sẽ đắc diệu giác vô biên trí. Phá giới, ư ưa
ôm ḷng ác, nghe công đức Đại Thừa thù thắng,
vờ xưng Đại Thừa v́ danh lợi, như lừa
ác khoác da sư tử. Ta nay bảo khắp hết thảy chúng,
nếu muốn mau đạt thắng Bồ Đề, hăy
khéo tu tŕ Thập Thiện Nghiệp, hộ tŕ pháp ta, đừng
hủy hoại).
Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập
Nhị Xứ đều là duyên khởi, chẳng có tự
tánh. Tánh thể của chúng là không
tịch. “Không” là chẳng có tướng trụ, chẳng
đến, chẳng đi. Biết hết thảy các pháp như
Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới đều là không tịch,
đó là đạt được công phu. Nếu quư vị
có thể học Duy Thức Tam Thập Luận, có thể
hiểu rơ Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập Nhị
Xứ, đều chẳng phải là chuyện dễ! Sau đó,
quư vị lại quán, quán tưởng ǵ? Các pháp ấy căn
bản là chẳng có. Sáu thức Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,
Thân, Ư là hư vọng, như mộng, huyễn, bọt, bóng.
Bên ngoài th́ đối ứng với sáu trần, tức Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp cũng là rỗng không, hư
huyễn như mộng, huyễn, bọt,
bóng. Căn đối ứng với Trần thành mười
hai Xứ, đều là tịch tĩnh, chẳng đến,
chẳng đi, bất sanh, bất diệt. Do bản tánh thường
tịch tĩnh, do các pháp như huyễn, đều chẳng
y chỉ. V́ chẳng y chỉ, hư không nương vào đâu?
Hư không chẳng nương vào thứ ǵ cả! Nói loại pháp
này để nhiếp thọ các hữu t́nh; đấy mới
là diệu nghĩa Đại Thừa, khiến cho hết
thảy chúng sanh đều đạt được trí huệ
diệu giác vô biên, đạt được Không Huệ. Cái
Không ấy chính là Bát Nhă, chính là cái Không mà Quán Tự Tại Bồ
Tát dùng để chiếu “Ngũ Uẩn đều không”,
mười tám Giới đều không, mười hai Xứ
đều không. Cái Không của Bát Nhă ấy là không mà phi không.
“Không phi không” chính là Chiếu.
“Phá giới, ư nhạo hoài ác tâm” (phá giới,
ư thích ôm ḷng độc ác): Phàm là kẻ phạm giới, phá
giới, tâm kẻ đó chẳng tốt lành, nhất định
là ác tâm. Nghe nói công đức Đại Thừa to lớn,
chính kẻ đó cũng lừa dối người khác, nói:
“Ta cũng là Đại Thừa”. [Đó là] “trá hiệu Đại
Thừa” (dối trá xưng là Đại Thừa). Công đức
của Đại Thừa to lớn, tâm mọi người
đều hướng đến, đặc biệt là chúng
ta thích hướng về Đại Thừa, hướng
về Mật, hướng về viên măn, hướng về
rốt ráo. Nếu nói pháp này chẳng rốt ráo, ta sẽ chẳng
học pháp này, ta muốn học pháp rốt ráo. Khá lắm! Học
pháp rốt ráo, chí hướng khá lắm, nhưng [nếu người
học] chẳng phải là căn khí, th́ sẽ liên quan đến
danh lợi!
“Như tệ lư phi sư tử b́”
(giống như con lừa tệ hại, khoác da sư tử):
Giống như thí dụ đă nói trong phần trước. Chỉ là một
con lừa tệ hại, khoác da sư tử, ngụy trang làm
sư tử, bị người khác biết tỏng ṭng
tong! “Ngă kim phổ cáo nhất thiết chúng, nhược
dục tật đắc thắng Bồ Đề” (nay
ta bảo trọn khắp hết thảy đại chúng, nếu
muốn nhanh chóng đạt được Bồ Đề
thù thắng): Nay ta nói cùng mọi người, quư vị nếu
muốn chứng đắc quả Bồ Đề rất
nhanh chóng, hăy khéo tu tŕ Thập Thiện Nghiệp, hăy khéo tu tập
Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp tu thành,
có thể khiến cho Phật pháp chẳng bị hủy hoại.
(Kinh) Ngă tích chư dư Khế Kinh thuyết,
ưng cầu đại giác, hành Đại Thừa, xả
ly Thanh Văn, Độc Giác Thừa, vị thanh tịnh giả
thuyết tư pháp. Tằng cúng vô lượng câu-chi Phật,
đoạn ác, cần lao tu tịnh tâm. Ngă vị khuyến
tấn bỉ chúng sanh, cố thuyết Nhất Thừa, vô đệ
nhị. Kim thử chúng cụ tam thừa khí, hữu đản
kham trụ Thanh Văn Thừa, tâm cực ưu bố, đa
sự nghiệp. Bỉ phi thượng diệu Bồ
Đề khí. Hữu si nhạo tĩnh, trụ Độc
Giác, bỉ phi thượng diệu Bồ Đề khí. Hữu
kham an trụ thượng diệu trí. Cố tùy sở nhạo,
thuyết tam thừa. Cụ tịnh công đức, nhạo
giải thoát. Văn thuyết Đại Thừa đọa
ác thú, như bệnh đàm ấm, giáo phục nhũ. Thử
tăng độc hại, phi trừ tật. Như thị
phi khí Thanh Văn Thừa, văn thuyết Đại Thừa
tâm mê loạn, tiện khởi Đoạn Kiến, đọa
ác thú. Cố ưng thuyết pháp, thẩm quán cơ.
(經)我昔諸餘契經說,應求大覺行大乘,舍離聲聞獨覺乘,為清淨者說斯法。曾供無量俱胝佛,斷惡勤勞修淨心,我為勸進彼眾生,故說一乘無第二。今此眾具三乘器,有但堪住聲聞乘,心極憂怖多事業,彼非上妙菩提器;有癡樂靜住獨覺,彼非上妙菩提器;有堪安住上妙智,故隨所樂說三乘。具淨功德樂解脫,聞說大乘墮惡趣,如病痰癊教服乳,此增毒害非除疾。如是非器聲聞乘,聞說大乘心迷亂,便起斷見墮惡趣,故應說法審觀機。
(Kinh: Ta xưa trong các Khế Kinh nói,
nên cầu đại giác, hành Đại Thừa, ĺa bỏ
Thanh Văn, Độc Giác Thừa, v́ bậc thanh tịnh thuyết
pháp ấy. Từng cúng vô lượng câu-chi Phật, đoạn
ác, siêng năng, tu tịnh tâm. Ta v́ khuyến khích chúng sanh ấy,
chỉ nói nhất thừa, không thừa khác. Nay đại
chúng đủ căn cơ tam thừa, có người chỉ
kham Thanh Văn Thừa, tâm cực lo sợ, lắm sự
nghiệp. Chẳng phải Bồ Đề thượng
diệu khí! Kẻ si, chuộng tĩnh, trụ Độc
Giác, chẳng phải Bồ Đề thượng diệu
khí. Kẻ kham an trụ trí thượng diệu, tùy ḷng họ thích, nói
ba thừa. Đủ tịnh công đức, chuộng giải
thoát. Nghe nói Đại Thừa, đọa đường
ác. Như bị nghẹn đàm, dạy uống sữa. Tăng
thêm độc hại, chẳng trừ bệnh. Căn khí Thanh
Văn, phi Đại Thừa, nghe nói Đại Thừa tâm
mê loạn, liền dấy Đoạn Kiến, đọa đường
ác. Nói pháp phải nên quán căn cơ).
“Ngă tích chư dư Khế
Kinh thuyết, ưng cầu đại giác, hành Đại
Thừa” (ta xưa kia trong các Khế Kinh khác nói: “Hăy nên cầu đại
giác, hành Đại Thừa”): Trong các
kinh khác, ta nói như vậy, khuyên mọi người, khuyên
hết thảy chúng sanh đều nên học Đại Thừa,
hành pháp Đại Thừa, đại giác cầu thành Phật.
“Xả ly Thanh Văn, Độc Giác Thừa” (ĺa bỏ
Thanh Văn và Độc Giác Thừa): Chẳng cần học
pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa.
Ta nói pháp ấy là v́ những người thanh tịnh mà nói,
“vị thanh tịnh giả thuyết tư pháp” (v́ những
người thanh tịnh mà nói pháp này). Câu này nhằm trả
lời câu hỏi của Kim Cang Tạng Bồ Tát.
Trước kia, trong các kinh điển Đại
Thừa khác, [đức Phật] đă từng nói như thế
này: “Đều phải nên học Đại Thừa, chẳng
cần học Thanh Văn và Độc Giác Thừa”. Đó
là v́ Ngài nói với những người thanh tịnh. V́ những
người ấy đều đă cúng dường vô
lượng câu-chi Phật, “đoạn ác, cần lao tu tịnh
tâm” (đoạn ác, siêng khổ tu tịnh tâm), tịnh tâm
phải tu đến mức thành tựu kha khá. “Ngă vị
khuyến tấn bỉ chúng sanh, cố thuyết nhất thừa,
vô đệ nhị” (ta v́ khuyến tấn các chúng sanh ấy,
cho nên nói nhất thừa, chẳng có thừa thứ hai): Kinh
Pháp Hoa nói như vậy. “Chỉ thử thị nhất
thật, dư nhị tắc vi chân” (chỉ có pháp này là duy
nhất chân thật, hai thừa khác đều chẳng thật)
nhằm nói cho những người ấy, tức là thuyết
pháp đúng với căn cơ.
“Kim thử chúng cụ tam thừa khí, hữu
đản kham trụ Thanh Văn Thừa” (nay trong đại
chúng này có đủ căn cơ tam thừa, có những người
chỉ có thể trụ trong Thanh Văn Thừa): Nay ta chỉ
nói trọn khắp cho người trong tam thừa. Kinh Đại
Tập Thập Luân nói trọn khắp tam thừa. Nay trong đại
chúng này, có những người chỉ có thể trụ
trong Thanh Văn Thừa. Trong tâm người
ấy sợ hăi rất nhiều chuyện, họ chẳng
phải là căn khí Bồ Đề thượng diệu.
Hàng Độc Giác trụ tịch tĩnh, “bỉ phi thượng
diệu Bồ Đề khí” (kẻ đó chẳng phải
là pháp khí của Bồ Đề thượng diệu). “Hữu
kham an trụ thượng diệu trí, cố tùy sở nhạo
thuyết tam thừa” (có kẻ có thể
an trụ trí thượng diệu; v́ thế, tùy theo ḷng
ưa thích của họ mà nói tam thừa): Có người thích
Đại Thừa, thuộc căn khí ấy, có thể trụ
trong Đại Thừa, có trí huệ mầu nhiệm ấy,
ta liền nói cho người ấy pháp Đại Thừa.
“Cụ tịnh công đức nhạo giải thoát, văn
thuyết Đại Thừa đọa ác thú” [nghĩa là]
c̣n có hạng người khác, họ mong cầu giải
thoát thanh tịnh [chẳng có tâm phổ độ chúng sanh],
nghe nói Đại Thừa, lại đâm ra đọa vào đường
ác.
Tiếp đó nói tỷ dụ: “Như bệnh
đàm ấm giáo phục nhũ, thử tăng độc
hại, phi trừ tật” (như mắc bệnh nghẹn
đờm, bảo kẻ đó
uống sữa, sẽ tăng độc hại, chẳng
trừ bệnh tật): Kẻ đó chỉ mong cầu ĺa
khỏi nỗi khổ trong ba đường ác, hoặc chỉ
mong cầu ĺa khỏi nỗi khổ trong tam giới, người
ấy đă trọn đủ công đức của hai trăm
năm mươi giới, mong giải thoát ǵ vậy? Giải
thoát nhân gian, cầu đạt được sự tịch
tĩnh của Nhị Thừa. Nếu ta nói pháp Đại
Thừa cho kẻ đó, kẻ đó không chỉ chẳng
tiếp nhận, mà c̣n sẽ hủy báng, nhất định
đọa vào ác đạo. Như người mắc bệnh
đàm, ấm đàm (癊痰) là chứng bệnh cổ
họng không thoải mái (viêm họng), cho người ấy
uống sữa, yết hầu càng nóng thêm, viêm nặng hơn.
Đó là độc hại, hoàn toàn
chẳng phải là trừ khử bệnh cho người
đó. Uống chút nước hoàng liên sẽ đỡ hơn
nhiều. Đó là cắt thuốc đúng bệnh.
“Như thị phi khí Thanh Văn Thừa, văn thuyết Đại Thừa tâm mê loạn” (kẻ
thuộc Thanh Văn Thừa, chẳng phải là pháp khí Đại
Thừa, nghe nói Đại Thừa, tâm sẽ mê loạn): Đối với kẻ chẳng
phải là pháp khí Đại Thừa, [nghe giảng Đại
Thừa], nhất định sẽ mê loạn. Kẻ chẳng
phải là pháp khí Nhị Thừa, nếu nói pháp Nhị Thừa
cho người ấy, họ cũng chẳng thể chứng
nhập, v́ họ là căn khí Đại Thừa. Đối
với hạng pháp khí Thanh Văn Thừa, nói pháp Đại
Thừa cho người ấy, họ nghe xong, tâm sẽ loạn,
ngay cả Thanh Văn Thừa cũng chẳng đạt được.
Ngược lại, họ sẽ dấy khởi Đoạn
Kiến, đọa vào ác thú Không. Không chỉ chẳng thể lănh ngộ nghĩa
Không, mà c̣n đọa vào Ác Thú Không, đọa
vào đường ác. “Cố ưng thuyết pháp thẩm
quán cơ” nghĩa là khi thuyết pháp, nhất định
phải cẩn thận, nhất định phải xem xét
căn cơ cẩn thận.
Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
11 hết
[1] Tướng Thanh (相聲) có thể tạm
hiểu như Tấu Hài của người Việt,
nhưng phức tạp hơn. H́nh thức biểu diễn
này xuất hiện từ đời Thanh tại Bắc
Kinh. Người biểu diễn được gọi là
Tượng Sanh (像生). Thoạt đầu,
các nghệ nhân mô phỏng
ngôn ngữ và hành vi của người khác để châm biếm,
chọc cười. Về sau, đơn giản là dùng kỹ
năng chọc cười, bằng các biện pháp nhấn nhá, châm biếm, hư lộng, tạo những
nút thắt, và cách giải quyết thông minh để gây ngạc
nhiên, tán thưởng cho khán thính giả, nên gọi là Khẩu
Tướng Thanh. Người biểu diễn có thể là
một hay nhiều người, có thể là đối đáp,
khích bác lẫn nhau, tận dụng tối đa các h́nh thức
chơi chữ, câu đối, điển tích, kèm theo hát
xướng, ngâm thơ để tạo hiệu quả tốt
hơn. Nghệ nhân phải thông hiểu kinh sách, điển
cố để vận dụng linh hoạt, tạo hiệu ứng kinh ngạc,
cảm thán cho người nghe, nhất là vận dụng
điển cố kinh sách Nho gia theo kiểu hiểu lệch
lạc, xuyên tạc ư nghĩa.
[2] Theo Phật Học Từ Điển
của Đinh Phước Bảo, Cú Nghĩa là giải
thích ư nghĩa, nghĩa lư của từng câu.
[3] Pháp sư Từ
Châu (1877-1958), pháp danh là Phổ Hải, pháp tự
Từ Châu, người huyện Tùy, tỉnh Hồ Bắc,
là một vị danh tăng thời cận đại. Ngài được coi là một
nhà giáo dục lỗi lạc trong Phật giáo Trung Hoa. Sư
sanh trong một gia đ́nh tin Phật, cha lẫn mẹ
đều là cư sĩ Phật giáo thuần thành. Sư
đă từng dạy học. Đến năm 1919, Sư cùng
vợ đều xuất gia với lăo ḥa thượng
Nguyên Chiếu tại chùa Phật Hoàn ở quê nhà. Sau đó,
Sư nhập chúng tu học tại chùa Trường Sanh ở
Dương Châu rồi quải đơn tại chùa Giang Thiên ở Trấn Giang.
Năm 1914, Sư xin vào Hoa Nghiêm Đại Học do pháp
sư Nguyệt Hà sáng lập. Sau khi tốt nghiệp, Sư
dành trọn năm năm tham bái Phổ Đà và
Cửu Hoa. Năm 1920, Sư giúp các pháp sư Giới Trần
và Liễu Trần kế thừa di học của ngài Nguyệt
Hà, kiến lập Hoa Nghiêm Đại Học tại
chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Năm sau, lập Pháp Giới
Học Viện tại chùa Hưng Phước ở Thường
Thục. Năm 1928, Sư sáng lập Trúc Lâm Phật
Học Viện tại chùa Trúc Lâm ở Trấn Giang. Năm
1929, nhận lời thỉnh của tổ Ấn Quang và ḥa
thượng Chân Đạt, Sư làm trụ tŕ chùa Linh Nham. Năm 1931,
Sư lại nhận lời mời của
ḥa thượng Hư Vân đến lập Pháp Giới Học
Viện tại chùa Dũng Tuyền ở Phước Châu rồi
mở Pháp Giới Học Viện tại chùa Pháp Hải ở
Phước Châu vào năm 1936. Năm 1952, Sư làm trụ
tŕ chùa Nam Phổ Đà. Sư từng làm hội trưởng
hội Phật giáo Trung Quốc vào năm 1956, rồi làm Xử
Lư Thường Vụ của hội vào năm 1957.
[4] Khôi (盔) là loại mũ che kín đầu bằng
sắt hoặc đồng để chắn, tên đạn.
[5]
Nếu nói chi tiết hơn, Ngũ Thủ Uẩn chính là
phiền năo phát sanh từ Ngũ Uẩn. Theo Duy Thức, Thủ
ở đây là tên gọi khác của phiền năo. Gọi là
Ngũ Thủ Uẩn do dựa theo ba ư nghĩa:
1. Ngũ Uẩn
do phiền năo mà sanh khởi.
2. Do v́ có
Ngũ Uẩn mà có các phiền năo hệ thuộc.
3. Ngũ Uẩn
làm cơ sở để sanh khở phiền năo.
Cách hiểu thứ
ba phổ biến nhất.
[6] “Bách phi” là một trăm kiểu
phủ định, cũng hàm nghĩa “phủ định hết
thảy các chấp trước”. Bách phi được triển
khai từ tứ cú. Tức là đối với “có, không,
chẳng phải có chẳng phải không, cũng có
cũng không”, mỗi câu trong ấy đều
có đủ bốn câu, hợp thành bốn lần bốn,
tức là mười sáu câu. Mười sáu câu ấy lại
ghép với ba thời (quá khứ, vị lai, hiện tại)
thành 16x3=48 câu. 48 câu ấy lại ghép với hai điều
“đă khởi, chưa khởi” thành 48x2=96 câu. 96 câu ấy
cộng với tứ cú căn bản (có, không, chẳng phải
có chẳng phải không, cũng có cũng không) thành một
trăm câu, gọi là “bách phi”.
[7] Cư sĩ Trương
Thương Anh (1043-1121), tự Thiên Giác, hiệu Vô Tận
Cư Sĩ, người xứ Tân Tân, thuộc Thục Châu
(nay là tỉnh Tứ Xuyên). Ông đậu Tiến
Sĩ đời Tống Nhân Tông, làm quan đến chức
Thượng Thư Hữu Thừa Chuyển Tả Thừa.
Ông có tài hùng biện, nói thẳng không e ngại, thông hiểu
Phật giáo, thường thích trao đổi Phật pháp với
Tăng chúng, được người đời xưng
tụng là
Tướng Công Thiền.
Các bài văn như Hộ Pháp Luận, Tục Thanh
Lương Truyện của ông đều được đánh giá chẳng khác ǵ khí vận
của một bậc Thiền Tăng. Thoạt đầu,
ông không tin Phật, c̣n ưa chỉ trích Phật
giáo. Một hôm, ông đến chùa chơi, thấy Đại
Tạng Kinh được khắc chữ vàng trên b́a, bực
bội nói: “Sách đạo Khổng của ta c̣n chẳng
được trân trọng bằng giáo pháp của người
Hồ, sao người ta lại trân trọng Phật giáo
đến thế?” Trở về, ông liền khởi sự viết Vô Phật Luận để
bài xích Phật giáo. Một hôm, đến chơi nhà một
đồng liêu, thấy trên khám thờ Phật có để
một quyển kinh Duy Ma Cật, ông tiện tay lật xem.
Đọc đến câu “thử bệnh phi Địa Đại,
diệc bất ly Địa Đại” (bệnh này chẳng
phải là Địa Đại, mà cũng chẳng ĺa Địa Đại), dường
như có cảm ngộ, than thở: “Lời của
người Hồ mà cũng được như thế
này ư?” bèn mượn về nhà đọc tiếp. Bà
vợ bảo: “Ông đọc kỹ kinh này rồi hăy viết
Vô Phật Luận”. Ông ngạc nhiên, thôi viết luận bài
xích, lưu tâm đọc kỹ kinh Phật. Vào năm Nguyên
Hựu thứ nhất (1086), khi giữ chức đề
điểm h́nh ngục ở Hà Đông, ông triều bái núi
Thanh Lương, được Văn Thù Bồ Tát hóa hiện
trên hư không, liền vẽ lại h́nh tượng của
Ngài. Bức tranh ấy được thờ tại
đó. Trong niên hiệu Đại Quán, do hạn hán lâu ngày,
Thương Anh được vua sai cầu mưa. Ông ba lần
vào Ngũ Đài cầu mưa đều được ứng
nghiệm. Năm Nguyên Hựu thứ sáu (1091), khi giữ chức
Tào Vận Sứ ở Giang Tây, ông tham yết Đông Lâm Chiếu
Giác Thường Tổng thiền sư thuộc thiền
phái Hoàng Long Huệ Nam, được Thiền Sư ấn
khả. Tuy đắc Thiền chỉ, ông vẫn chuyên tâm
niệm Phật. Liên Tŕ đại sư ca ngợi: “Trương
Vô Tận lănh ngộ chân chỉ của Thiền Tông, vẫn nhất tâm nhất ư phụng
tŕ Tịnh Độ, xác thực là bậc trí sáng vô cùng”. Khi mất, ông an tường ngồi
xếp bằng, bảo mọi người “kinh Pháp Hoa nói từ đất vọt
lên tháp báu của Phật Đa Bảo, [Phật Đa Bảo] chia ṭa với Phật Thích Ca. Đó là chuyện chẳng hư dối”. Nói xong, ông đọc kệ thị
tịch, cúi đầu qua đời.
[8] Ḥa thượng Tuyên Hóa (1918-1995), tục danh là Bạch
Ngọc Thư, c̣n có tên là Ngọc Hỷ. Năm 19 tuổi,
ḥa thượng xuất gia tại chùa Tam Duyên, cầu thỉnh
lăo ḥa thượng Thường Trí làm thế độ
sư, được ban pháp danh An Từ, pháp tự Độ
Luân. Tới năm 1946, Sư gặp ḥa thượng Hư
Vân, năm 1947 Sư mới thọ Cụ Túc Giới, cho
đến năm 1948 mới được ḥa thượng
Hư Vân ấn khả, ban cho đạo hiệu Tuyên Hóa, trở thành truyền nhân đời
thứ chín của tông Quy Ngưỡng trong nhà Thiền, được
xếp vào hàng ngũ mười đại đệ tử
của ḥa thượng Hư Vân, cho nên lăo pháp sư Mộng
Tham mới nói “cho đến năm 1946, 1947, thượng
nhân mới vào cửa Phật”.
[9]
Lưu Thiện, tên tự là Công Tự và Thăng Chi, tên gọi
thuở bé là A Đẩu, con trai của Lưu Bị và Cam
Mai (Chiêu Liệt Hoàng Hậu). Về sau, Lưu Thiện nối
ngôi Lưu Bị (Hán Chiêu Liệt Đế). Sử thường
gọi Lưu Thiện là Thục Hán Hậu Chúa. Khi Tôn Quyền
sai người đón Tôn phu nhân về lại Đông Ngô
đă bắt cóc Lưu Thiện theo, phải nhờ Triệu
Vân (Triệu Tử Long) dũng mănh đột phá mới
cướp Lưu Thiện trở về được. Về
sau, nhà Thục Hán bị Tào Ngụy thôn tính, Lưu Thiện
bị bắt đưa về kinh đô Lạc
Dương của nước Ngụy, giữ chức vị
bù nh́n là An Lạc Huyện Công.
[10] Vị Tăng tinh thông, chuyên hành tŕ giới luật tinh nghiêm,
có đủ tư cách dạy dỗ, truyền giới luật cho Tăng
chúng th́ gọi là Luật Sư.
[11] Ngọc Lâm Thông Tú (1614-1675), thường
được gọi là Ngọc Lâm quốc sư, người
huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là một vị cao tăng
thuộc tông Lâm Tế đời Thanh. Ngài thọ Cụ Túc
Giới với ngài Khánh Sơn Viên Tu, từng làm trụ tŕ
chùa Báo Ân ở Vũ Khang, tỉnh Chiết Giang. Về sau,
Ngài vâng chiếu vào kinh truyền pháp, được phong hiệu là Đại Giác thiền
sư. Năm Thuận Trị thứ mười bảy
(1660), khi vợ yêu của Thuận Trị là Đổng Ngạc
Phi qua đời sau một thời gian bệnh tật v́ sanh nở, Thuận Trị chán ngán thế
sự, muốn xuất gia, ngài Ngọc Lâm cực lực
can ngăn. Nghe lời, Thuận Trị sai người thay
ḿnh xuống tóc, tôn ngài Ngọc Lâm làm bổn sư. Do chuyện
này, khi Thuận Trị mất sớm, các nhà tiểu thuyết
Trung Hoa đă bịa ra chuyện vua giả chết, trốn
khỏi hoàng cung, lên núi Ngũ Đài tu hành.
[12] Ở đây, có lẽ lăo pháp sư
nói nhầm, v́ ngài Ngọc Lâm mất năm 1675, khi đó là
năm Khang Hy thứ mười bốn, mà Càn Long (Hoằng
Lịch) măi đến năm 1711 mới sanh ra đời. Hoặc v́ là một truyền
thuyết trong dân gian, cho nên đă nêu danh tánh
hoàng đế không chánh xác.
[13]
Thích Đạo An (312-385) họ Vệ, người xứ
Phù Liễu, Thường Sơn (nay là huyện Kư, tỉnh
Hà Bắc), là vị cao tăng trứ danh thời Tấn. Ngài
là thầy của sơ tổ Huệ Viễn của Tịnh
Độ Tông. Sư là người tiên phong đề
xướng nghiên cứu Trung Quán Bát Nhă tại Trung Hoa. Ngài
Cưu Ma La Thập từng gọi ngài Đạo An là
Đông Phương Thánh Nhân. Cha mẹ mất sớm, phải
nhờ người anh họ nuôi đến trưởng
thành. Sư h́nh dạng xấu xí, thấp chủn, nhưng
cực kỳ thông minh. Bảy tuổi đă có thể đọc
sách trôi chảy và làm thơ, viết văn, sức ghi nhớ
rất mạnh. Sư xuất gia lúc 12 tuổi. Quyển
kinh đầu tiên là Biện Ư Kinh rất mỏng, quyển
kinh thứ ba là Thành Cụ Quang Minh có hơn một vạn
chữ, Sư nhớ không sai một chữ (khi đó,
Sư mới 15 tuổi). Thầy của Sư mới kinh dị,
lưu tâm bồi dưỡng, cho Ngài thọ Cụ Túc Giới.
Về sau, Sư tham học với ngài Phật Đồ Trừng.
Ngài Phật Đồ Trừng hết sức yêu quư,
nhưng đại chúng vẫn coi thường v́ ngài Đạo
An quá xấu xí. Do vậy, mỗi lần giảng kinh xong,
ngài Phật Đồ Trừng sai ngài Đạo An giảng
lại một lượt, ai cũng kinh ngạc. Sau khi ngài
Phật Đồ Trừng viên tịch, do t́nh h́nh bất ổn
thời ấy, Sư phải lênh đênh khắp nơi,
không có chỗ trụ cố định. Dẫu bôn ba vẫn
tụ tập đại chúng tu học, giảng kinh. Măi
đến năm 365, Sư đến Tương Dương
mới an cư. Ngài là người đầu tiên đề
xướng tư tưởng văng sanh Đâu Suất Nội
Viện để làm đệ tử Di Lặc Bồ Tát,
chờ đến khi Phật Di Lặc giáng thế, sẽ
trở lại nhân gian hóa độ chúng sanh. Ngài soạn bộ
Tổng Lư Chúng Kinh Mục Lục, tác phẩm này được
coi như là sách thống kê kinh Phật đầu tiên tại
Trung Hoa. Ngài chế định Tăng Ni Quy Phạm và Phật
Pháp Hiến Chương, lập ra những quy định
về các tự viện Phật giáo, đề nghị
tăng ni đều lấy chữ Thích làm họ trước
pháp danh (tức là coi ḿnh là con cháu của Phật Thích Ca),
đặt quy cách thống nhất cho Tăng phục,
cũng như đề xướng tiêu chí trong phiên dịch
kinh Phật, góp phần hoàn thiện cách phiên dịch và giải
thích kinh điển.
[14]
Từ Tế
là tổ chức từ thiện phi chính phủ của
Đài Loan do ni sư Chứng Nghiêm sáng lập từ năm
1966. Tổ chức này thường được biết
đến dưới tên Tzu Chi Foundation (Từ Tế
Cơ Kim Hội). Họ tham gia cứu trợ thiện nguyện
trong các lănh vực y tế, thiên tai, bảo vệ môi trường.
Thoạt đầu chỉ có ḿnh ni sư Chứng Nghiêm và
ba mươi phụ nữ tự nguyện mỗi ngày
để dành 50 xu tạo thành quỹ giúp các gia đ́nh nghèo
khó trong vùng. Cho tới năm 1986, tổ chức này có
hơn tám ngàn hội viên và mở bệnh viện đầu
tiên vào năm 1986 tại thành phố Hoa Liên. Năm 1994, mở Từ Tế Y Học Viện
(tức trường cao đẳng y khoa),
cho đến năm 2000 chuyển thành Từ Tế Đại
Học, bao gồm các phân khoa Y Khoa, Giáo Dục, và các ngành nhân
văn.
Cho tới năm 2013, tổ chức này có khoảng 10 triệu
hội viên và có chi nhánh trên 47 quốc gia.