Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh

Giảng Kư, phần 11

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

夢參老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Phục thứ, thiện nam tử! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện Bà-la-môn, chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện trưởng giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Phiệt-xá, chân thiện Thú-đạt-la, nhược nam, nhược nữ, thành tựu thập chủng Hữu Y Hạnh Luân. Ư hiện thân trung, tốc năng chủng thực Thanh Văn Thừa chủng, linh bất thoái thất, hoặc ư hiện thân thành Thanh Văn Thừa chư thánh pháp khí, phi Độc Giác Thừa, Đại Thừa thánh khí. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, cụ túc tịnh tín, tín hữu nhất thiết thiện ác nghiệp quả. Nhị giả, cụ túc tàm quư, viễn ly nhất thiết ác hữu, ác kiến. Tam giả, an trụ luật nghi, viễn ly sát sanh, năi chí ẩm tửu. Tứ giả, an trụ từ tâm, viễn ly nhất thiết sân khuể, phẫn năo. Ngũ giả, an trụ bi tâm, cứu bạt nhất thiết luy nhược hữu t́nh. Lục giả, an trụ hỷ tâm, viễn ly nhất thiết ngữ tứ ác nghiệp. Thất giả, an trụ xả tâm, viễn ly nhất thiết xan tham, tật đố. Bát giả, cụ chánh quy y, viễn ly nhất thiết vọng chấp cát, hung, chung bất quy y tà thần, ngoại đạo. Cửu giả, cụ túc tinh tấn, kiên cố, dũng mănh tu chư thiện pháp. Thập giả, thường nhạo tịch tĩnh, tư cầu pháp nghĩa, hoan duyệt vô quyện.

          ()復次,善男子,若有真善剎帝利、真善婆羅門、真善宰官、真善居士、真善長者、真善沙門、真善筏舍、真善戍達羅,若男若女,成就十種有依行輪,於現身中,速能種植聲聞乘種,令不退失;或於現身,成聲聞乘諸聖法器,非獨覺乘、大乘聖器。何等為十?一者、具足淨信,信有一切善惡業果;二者、具足慚愧,遠離一切惡友惡見;三者、安住律儀,遠離殺生乃至飲酒;四者、安住慈心,遠離一切瞋恚忿惱;五者、安住悲心,救拔一切羸弱有情;六者、安住喜心,離遠一切語四惡業;七者、安住舍心,遠離一切慳貪嫉妒;八者、具正歸依,遠離一切妄執吉凶,終不歸依邪神外道;九者、具足精進,堅固勇猛修諸善法;十者、常樂寂靜,思求法義,歡悅無倦。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện Bà-la-môn, chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện trưởng giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Phiệt-xá, chân thiện Thú-đạt-la, dù nam hay nữ, thành tựu mười thứ Hữu Y Hạnh Luân, th́ trong thân hiện tại sẽ có thể nhanh chóng gieo trồng chủng tử Thanh Văn Thừa chẳng thoái thất, hoặc là trong thân hiện tại, sẽ thành pháp khí của các địa vị thánh nhân trong Thanh Văn Thừa, chẳng phải là pháp khí của Độc Giác Thừa và Đại Thừa. Những ǵ là mười? Một là trọn đủ tịnh tín, tin có hết thảy nghiệp quả thiện và ác. Hai là trọn đủ hổ thẹn, xa ĺa hết thảy bạn ác và ác kiến. Ba là an trụ luật nghi, xa ĺa sát sanh, cho đến uống rượu. Bốn là an trụ từ tâm, xa ĺa hết thảy sân khuể, phẫn năo. Năm là an trụ bi tâm, cứu bạt hết thảy hữu t́nh suy yếu. Sáu là an trụ hỷ tâm, xa ĺa hết thảy bốn ác nghiệp nơi lời ăn tiếng nói. Bảy là an trụ xả tâm, xa ĺa hết thảy keo, tham, ghen ghét. Tám là có sự quy y chân chánh, xa ĺa hết thảy chấp trước cát hung hư vọng, trọn chẳng quy y tà thần, ngoại đạo. Chín là trọn đủ tinh tấn, kiên cố, dũng mănh tu các thiện pháp. Mười là thường ưa tịch tĩnh, suy nghĩ, t́m cầu pháp nghĩa, vui thích không mệt).

 

          Vô Y Hạnh Luân có mười món, Hữu Y Hạnh Luân cũng có mười món. Trong đời hiện tại, có thể nhanh chóng gieo trồng chủng tánh Thanh Văn Thừa, khiến cho chủng tử ấy chẳng bị thoái thất, hoặc là trong đời hiện tại bèn thành tựu pháp khí của các địa vị thánh nhân trong Thanh Văn Thừa. Các địa vị thánh nhân chính là Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, và Tứ Quả, [nhưng người ấy] chẳng phải là pháp khí cho các địa vị thánh nhân trong Độc Giác và Đại Thừa, mà cũng chẳng phải là pháp khí của Độc Giác Thừa!

          “Hà đẳng vi thập? Nhất giả, cụ túc tịnh tín” (Những ǵ là mười? Một là trọn đủ ḷng tin thanh tịnh), tức là tin thiện ác nhân quả. “Nhị giả, cụ túc tàm quư” (hai là trọn đủ hổ thẹn): Thường cảm thấy chính ḿnh chưa đủ, [tức là] tu hành chẳng trọn đủ, nghe pháp cũng chẳng đủ, trí huệ cũng chẳng có. Đối với ác hữu, ác kiến, quư vị nhất định phải xa ĺa. “Tam giả, an trụ luật nghi” (ba là an trụ trong luật nghi): “An trụ luật nghi” là xa ĺa sát sanh, cho đến uống rượu. Tối thiểu là an trụ trong Tam Quy, Ngũ Giới.

          “Tứ giả, an trụ từ tâm” (Bốn là an trụ trong từ tâm): Phải có tâm đại bi. “Từ” là mong dẹp trừ hết thảy đau khổ của chúng sanh. Thấy họ khổ chính là ta khổ, cũng là một loại tâm “thay thế”, tức mong thay họ chịu khổ. Trong nguyện hồi hướng thuộc mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, [Bồ Tát đă] nguyện v́ chúng sanh chịu hết thảy các khổ nạn, khiến cho họ được giải thoát. Đấy là tâm đại bi của Bồ Tát, xa ĺa hết thảy sân khuể, phẫn hận, năo hại. Tiểu Thừa chỉ cần chính ḿnh chẳng sân khuể, chẳng phẫn năo, chẳng năo hại chúng sanh. Từ tâm như thế là được rồi! Nhưng nay mười thiện luân này là Hữu Y Sở (有依所, có chỗ nương cậy để sanh khởi thiện căn, phước đức), được gọi là Hữu Y Luân (有依輪). Hữu Y Luân dựa trên Thập Luân, cả ba thừa đều có, tùy thuộc quư vị dùng cái tâm ǵ. Tâm Đại Thừa sẽ tín ngưỡng Đại Thừa, ḷng từ bi rộng lớn. Ḷng từ bi của Nhị Thừa chẳng rộng lớn bằng.

          “Ngũ giả, an trụ bi tâm” (năm là an trụ trong bi tâm): Cứu vớt chúng sanh suy yếu. “Lục giả, an trụ hỷ tâm” (sáu là an trụ trong hỷ tâm): Xa ĺa hết thảy bốn ác nghiệp nơi lời ăn, tiếng nói. Lúc nói năng, chớ nên nói dối, chớ nên dối gạt người khác, chớ nên ăn nói thô ác tổn thương người khác. Cổ nhân nói: “Lương ngôn nhất cú thâm Đông noăn” (một lời tốt lành khiến người nghe dẫu trời Đông giá lạnh vẫn cảm thấy ấm áp): Nghe một lời tốt lành, trong ḷng rất khoan khoái, rất an ủi, rất ấm áp. “Ác ngữ thương nhân lục nguyệt hàn” (lời ác tổn thương người nghe, khiến họ rét buốt dù đang là tháng Sáu): Tháng Sáu nóng như vậy, một câu nói của quư vị tổn thương người ta như xối một thùng nước đá lên đầu người ta, lạnh run, sẽ tổn thương người ta, có ư nghĩa ấy! Đấy là chuyên nói về ngữ nghiệp trong thập ác nghiệp. Chớ nên nói thêu dệt, nói lời vô ích đối với người khác. Những chuyện như tà ngữ, hoặc biểu diễn Tướng Thanh[1] đă tạo nghiệp rất nhiều.

          “Thất giả, an trụ xả tâm” (bảy là an trụ trong tâm xả): Thường có cái tâm xả ly. Cái tâm xả ly ấy chính là tâm xả ly thế gian. Nếu Đại Thừa th́ xả ly Nhị Thừa, c̣n [xả ly như chánh kinh đă nói th́ là] xa ĺa hết thảy keo kiệt, tham lam, ghen tỵ. Những điều này đều nói theo Nhị Thừa. “Bát giả, cụ chánh quy y” (Tám là quy y chân chánh): Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng là chánh quy y. Xa ĺa hết thảy chấp trước cát hung xằng bậy, trọn chẳng quy y tà thần, ngoại đạo.

          “Cửu giả, cụ túc tinh tấn, kiên cố, dũng mănh, tu chư thiện pháp” (chín là trọn đủ tinh tấn, kiên cố, dũng mănh, tu các pháp lành): Đối với Thập Thiện Nghiệp, chúng tôi nói một điều là chẳng ác ngữ. Quư vị vĩnh viễn chẳng nói ác ngữ, tức là nói lời tán dương, giữ vững một hạnh được. Không chỉ là trong một đời, mà là vô lượng đời, đều giữ vững một hạnh.

          “Thập giả, thường nhạo tịch tĩnh, tư cầu pháp nghĩa” (Mười là thường ưa tịch tĩnh, suy nghĩ, t́m cầu pháp nghĩa): Thường ưa thích tịch tĩnh; ở đây chính là cái tâm tịch tĩnh, chẳng phải là cầu hoàn cảnh tịch tĩnh. [Chỉ t́m cầu] hoàn cảnh tịch tĩnh th́ vẫn chưa được? Mong ở trong núi để được tịch tĩnh ư? Trên núi vẫn chẳng tịch tĩnh! Một người tu đạo ở trong lều cỏ trên núi rừng, khi đang nhập Định, trong tâm rất tĩnh. Chim nhỏ ở bên ngoài kêu chao chác, ríu rít, người đó sanh khởi ác niệm: “Ta mai sau sẽ biến thành loại chim ưng trọc đầu chuyên ăn thịt những con chim ấy”. Công đức của người ấy chuyển hướng toàn bộ. Một niệm sân tâm dấy, ác niệm nổi lên, trăm vạn cửa chướng mở, người đó liền đọa lạc, biến thành con chim ưng đầu trọc (bald eagle), chuyên ăn thịt chim nhỏ. Ở trong núi rừng có tạo tội hay không? Ư niệm hết sức trọng yếu!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược nữ, thành thử thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, ư hiện thân trung, tốc năng chủng thực Thanh Văn Thừa chủng, linh bất thoái thất.

          ()善男子,若有真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,成此十種有依行輪,於現身中,速能種植聲聞乘種,令不退失。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ, thành tựu mười loại Hữu Y Hạnh Luân này, nơi thân hiện đời, có thể nhanh chóng gieo trồng chủng tử Thanh Văn Thừa, khiến cho chẳng thoái thất).

 

          Chủng tánh Thanh Văn Thừa ấy chẳng bị thoái thất, cũng có thể chứng đắc tất cả thánh pháp của Thanh Văn Thừa trong đời hiện tại. Mười loại Hữu Y Luân này được nói theo Thanh Văn Thừa. Vừa rồi [trong chánh kinh] có mấy câu nói trực tiếp về pháp khí thuộc các thánh vị (địa vị thánh nhân) trong Thanh Văn Thừa, chẳng phải là Độc Giác Thừa, chẳng phải là chứng pháp Đại Thừa, [bởi lẽ, do mười Hữu Y Luân trên đây sẽ] chẳng thể chứng đắc [pháp Đại Thừa được], mà [hành nhân] cũng chẳng trở thành pháp khí của Độc Giác và Đại Thừa.

 

          (Kinh) Hoặc ư hiện thân, chứng Thanh Văn Thừa sở hữu thánh pháp, thành Thanh Văn Thừa chư thánh pháp khí, phi chứng Độc Giác, Đại Thừa thánh pháp, phi thành Độc Giác, Đại Thừa thánh khí. Ưng tri thử trung Độc Giác, Đại Thừa, giai như thị thuyết. Thiện nam tử! Như thị thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Tát, chư Phật Như Lai, giai đồng cộng hữu.

          ()或於現身,證聲聞乘所有聖法,成聲聞乘諸聖法器;非證獨覺大乘聖法,非成獨覺大乘聖器,應知此中獨覺大乘,皆如是說。善男子,如是十種有依行輪,一切聲聞、獨覺、菩薩、諸佛如來,皆同共有

          (Kinh: Hoặc là trong thân hiện tại chứng tất cả thánh pháp thuộc Thanh Văn Thừa, trở thành pháp khí của các địa vị thánh nhân thuộc Thanh Văn Thừa, chẳng chứng các thánh pháp thuộc Độc Giác hay Đại Thừa, chẳng phải là pháp khí cho các địa vị thánh nhân thuộc Độc Giác hay Đại Thừa. Hăy nên biết đối với Độc Giác và Đại Thừa ở trong ấy, đều nói như thế. Này thiện nam tử! Mười loại Hữu Y Hạnh Luân như thế, hết thảy Thanh Văn, Độc Giác, Bồ Tát, và chư Phật Như Lai đều cùng có).

 

          Ư nghĩa của đoạn kinh văn này hoàn toàn chẳng phải là nói đối ứng với Thanh Văn Thừa.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Phục hữu thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, bất cộng Thanh Văn, duy dữ Độc Giác, Bồ Tát, Như Lai, giai đồng cộng hữu. Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược nữ, thành thử thập chủng Hữu Y Hạnh Luân, ư hiện thân trung, tốc năng chủng thực Độc Giác Thừa chủng, linh bất thoái thất. Hoặc ư hiện thân, chứng Độc Giác Thừa sở hữu thánh pháp, thành Độc Giác Thừa chư thánh pháp khí. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, tu hành thanh tịnh thân, ngữ, ư nghiệp. Nhị giả, cụ túc tàm quư, yếm hoạn tự thân. Tam giả, ư Ngũ Thủ Uẩn, thâm sanh bố úy. Tứ giả, kiến sanh tử hà, cực vi nan độ. Ngũ giả, thường nhạo tịch tĩnh, ly chư hội náo. Lục giả, nhạo A Luyện Nhă, bất cơ tha thất. Thất giả, thủ hộ chư căn, tâm thường tịch định. Bát giả, thiện quán duyên khởi, thẩm sát nhân quả. Cửu giả, thường nhạo cần tu Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự. Thập giả, ư tập khởi pháp, năng thiện trừ diệt.

          ()善男子,復有十種有依行輪,不共聲聞,唯與獨覺、菩薩、如來皆同共有。若有真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,成此十種有依行輪,於現身中,速能種植獨覺乘種,令不退失;或於現身,證獨覺乘所有聖法,成獨覺乘諸聖法器。何等為十?一者、修行清淨身語意業;二者、具足慚愧,厭患自身;三者、於五取蘊深生怖畏;四者、見生死河極為難渡;五者、常樂寂靜,離諸憒鬧;六者、樂阿練若,不譏他失;七者、守護諸根,心常寂定;八者、善觀緣起,審察因果;九者、常樂勤修等持靜慮;十者、於集起法能善除滅。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Lại có mười thứ Hữu Y Hạnh Luân chẳng chung với Thanh Văn, chỉ có Độc Giác, Bồ Tát, Như Lai là đều cùng chung có. Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương, cho đến chân thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ, thành tựu mười loại Hữu Y Hạnh Luân này, sẽ ngay trong thân hiện thời có thể mau chóng gieo trồng chủng tử Độc Giác Thừa khiến cho chẳng thoái thất. Hoặc là ngay trong thân hiện tại, chứng tất cả thánh pháp thuộc Độc Giác Thừa, trở thành các pháp khí thuộc thánh vị của Độc Giác Thừa. Những ǵ là mười? Một là tu hành thân, ngữ, ư nghiệp thanh tịnh. Hai là trọn đủ hổ thẹn, chán nhàm thân ḿnh. Ba là sanh ḷng sợ hăi sâu xa đối với Ngũ Thủ Uẩn. Bốn là thấy sông sanh tử tột bậc khó vượt. Năm là thường thích tịch tĩnh, ĺa các ồn náo. Sáu là thích A Luyện Nhă, chẳng chê bai lỗi lầm của người khác. Bảy là thủ hộ các căn, tâm thường tịch định. Tám là khéo quán duyên khởi, xét kỹ nhân quả. Chín là thường thích siêng tu Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự. Mười là đối với các pháp nhóm họp, dấy lên, có thể khéo trừ diệt).

 

          Phần trước nói về mười loại Hữu Y Hạnh của Thanh Văn Thừa; tiếp đó, [trong phần này] nói về Độc Giác Thừa. Hữu Y Hạnh Luân trong phần này chuyên nói về Độc Giác Thừa và Bồ Tát, thiên trọng Duyên Giác và Bồ Tát, khác với A La Hán. Mười thứ luân trong phần trước (các luân được nói trong phẩm thứ hai), Đại Thừa Bồ Tát và Độc Giác Thừa đều trọn đủ. Lại c̣n có mười loại Hữu Y Hạnh Luân mà Độc Giác Thừa, Bồ Tát, và Như Lai đều cùng trọn đủ. Nếu có quốc vương là bậc thiện thuận, cũng cầu pháp giải thoát, cho đến chủng tánh thấp nhất (Thú-đà-la) trong bốn loại chủng tánh, dù là nam hay nữ, nếu có thể thành tựu mười loại luân này, th́ trong cuộc sống hiện thời, người ấy có thể gieo trồng chủng tánh Độc Giác Thừa khiến cho chẳng thoái thất, mà cũng nương vào Duyên Giác Thừa để nhập pháp, ngộ đạo. Đấy là Trung Thừa.

          Thanh Văn Thừa là Tiểu Thừa, Bồ Tát là Đại Thừa; hoặc là trong đời hiện tại, người ấy có thể chứng đắc, hoặc chẳng chứng đắc trong đời hiện tại, nhưng vị lai cũng sẽ chứng đắc. Gieo chủng tử sẽ thành pháp khí thánh nhân trong Độc Giác Thừa, [pháp khí] cũng tức là dụng cụ chứa đựng pháp. “Hà đẳng vi thập?” (Những ǵ là mười): Mười loại luân nào vậy? “Nhất giả, tu hành thanh tịnh thân, ngữ, ư nghiệp” (một là tu hành thân, ngữ, ư nghiệp thanh tịnh): Thân nghiệp là chẳng có hành vi giết, trộm, dâm. Ngữ nghiệp là chẳng có hành vi “nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác”. Ư niệm chẳng dấy lên tham, sân, si. Đấy gọi là “thanh tịnh thân, ngữ, ư”.

          “Nhị giả, cụ túc tàm quư, yếm hoạn tự thân” (Hai là trọn đủ hổ thẹn, chán ghét tự thân): Luôn cảm thấy chính ḿnh cách thánh đạo rất xa, chẳng thể thanh tịnh, chẳng thể giải thoát phiền năo của thế gian, chán ĺa thân tâm của chính ḿnh. Người đó chán nhàm thân tâm của chính ḿnh, chẳng buông lung nơi ăn, mặc, cư xử. “Tam giả, ư Ngũ Thủ Uẩn, thâm sanh bố úy” (ba là sanh ḷng sợ hăi Ngũ Thủ Uẩn sâu xa): Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những điều ấy gọi là Ngũ Thủ Uẩn. Do năm loại ấy, người ta sẽ giữ lấy điều ác, chẳng làm lành. Đối với Sắc pháp, cũng chính là đối với hết thảy các thứ h́nh sắc bèn tham cầu. Tâm pháp là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bốn pháp ấy đều thuộc về tâm pháp. Đây là Hữu Y Luân thứ ba. “Tứ giả, kiến sanh tử hà, cực vi nan độ” (bốn là thấy sông sanh tử, tột bậc khó vượt): Khi người đó nương vào loại thứ tư này để quan sát, [đă nhận biết] biển khổ sanh tử rất khó vượt qua. Giống như chúng ta ch́m nổi trong gịng sông sanh tử, chết đây, sanh kia, đă chết rồi lại sanh, sanh rồi lại chết. Nếu bất tử, sẽ bất sanh; nếu bất sanh, sẽ bất tử. Biển sanh tử ấy rất khó vượt qua, sẽ ch́m đắm trong biển sanh tử!

          “Ngũ giả, thường nhạo tịch tĩnh, viễn ly hội náo” (năm là thường thích tịch tĩnh, xa các ồn náo): Kẻ đó thường mong cầu tịch tĩnh, tâm ĺa ồn ào, náo nhiệt, ở trong trần thế mà muốn t́m đến núi rừng, t́m đến chốn thanh nhàn. “Lục giả, nhạo A Luyện Nhă, bất cơ tha thất” (sáu là thích chốn A Luyện Nhă, chẳng chê gièm lỗi lầm của người khác): V́ phản đối sự ồn náo, người ấy mong mỏi A Luyện Nhă (A Lan Nhă) tức là chỗ tịch tĩnh. Do vậy, đối với sai lầm của kẻ khác, người ấy không chê gièm, chẳng hủy báng, chẳng châm chích người khác! “Thất giả, thủ hộ chư căn, tâm thường tịch định” (bảy là ǵn giữ, bảo vệ các căn, tâm thường tịch định): Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, phải thường luôn thủ hộ kỹ càng, đừng để phạm sai lầm. Tâm thường trụ trong vắng lặng, ở trong Định, chẳng phập phều, mà cũng chẳng hôn trầm.

          “Bát giả, thiện quán duyên khởi, thẩm sát nhân quả” (Tám là khéo quán duyên khởi, xét kỹ nhân quả): Khởi tu như vậy, khéo quan sát duyên khởi của các pháp, nhưng vị này là Độc Giác, xuất sanh vào lúc chẳng có Phật tại thế, th́ là Độc Giác. Khi có Phật xuất thế th́ vị này gọi là Duyên Giác, nương vào mười hai nhân duyên để quán pháp mười hai nhân duyên, quán sự sanh khởi và tiêu mất của chúng. V́ sao một năm có bốn mùa? V́ sao cây cối Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu giảm thiểu, Đông ẩn tàng? Quán các duyên khởi ấy. V́ lẽ nào mà chúng có thể sanh trưởng? V́ lẽ nào mà chúng tiêu mất? Quán hết thảy nhân quả báo ứng trong đời người, báo ứng thiện ác, nhân quả. Do nhân nào mà kết thành quả nào. Chúng ta gieo thiện nhân, tuyệt đối sẽ đắc thiện quả. Gieo ác nhân, quư vị tuyệt đối phải hứng chịu khổ báo. Quan sát v́ sao người này khổ như vậy? V́ sao người kia có phước báo tốt đẹp dường ấy? [Nói] “v́ sao” hàm ư quan sát. Nh́n vào điều người ấy đă làm, đă thực hiện; điều ấy chỉ có thể nói theo đời hiện tại. Độc Giác Thừa nhập Định trong núi, có thể thấy tám vạn đại kiếp, có bao nhiêu chuyện trong vạn vạn năm, vạn ức năm. Từ trong Định, Ngài có thể thấy trong nhiều đời người ấy đă làm ǵ, đều có thể thấy rơ; nhưng Ngài có một khuyết điểm là chẳng độ chúng sanh, chẳng nói cho người khác biết!

          “Cửu giả, thường nhạo cần tu, Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự” (Chín là thường ưa thích siêng tu Đẳng Tŕ, Tĩnh Lự): Tĩnh Lự là Định, người ấy có thể b́nh đẳng duy tŕ, khiến cho Định chẳng mất. Định có nhiều loại, Định của người ấy là Đẳng Tŕ, chẳng hạn như tu đạo Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư Túc, bèn thường luôn siêng năng [hành tŕ], chẳng giải đăi! “Thập giả, ư tập khởi pháp, năng thiện trừ diệt”: “Tập” () có nghĩa là “tụ tập”. Khi bậc Độc Giác tu đạo, từ trong thân tâm, sanh khởi các thứ nhân. Đối với các nhân, Ngài có thể tiêu mất, trừ diệt. Ác nhân nhất định phải tiêu mất, thiện nhân phải khiến cho tăng trưởng.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Thú-đạt-la đẳng, nhược nam, nhược nữ, thành thử thập chủng Hữu Y Hạnh Luân. Ư hiện thân trung, tốc năng chủng thực Độc Giác Thừa chủng, linh bất thoái thất, hoặc ư hiện thân, chứng Độc Giác Thừa sở hữu thánh pháp, thành Độc Giác Thừa chư thánh pháp khí. Thiện nam tử! Thị danh nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác Hữu Y Hạnh Luân. Nhất thiết Thanh Văn, cập chư Độc Giác, y chỉ thử luân, tốc năng siêu độ tam hữu đại hải, tốc năng thú nhập Bát Niết Bàn thành.

          ()善男子,若有真善剎帝利王,乃至真善戍達羅等,若男若女,成此十種有依行輪,於現身中,速能種植獨覺乘種,令不退失;或於現身,證獨覺乘所有聖法,成獨覺乘諸聖法器。善男子,是名一切聲聞、獨覺有依行輪。一切聲聞及諸獨覺,依止此輪,速能超渡三有大海,速能趣入般涅槃城。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện Thú-đạt-la v.v… dù nam hay nữ, thành tựu mười loại Hữu Y Hạnh Luân này, th́ trong thân hiện tại, sẽ có thể mau chóng chứng tất cả thánh pháp thuộc Độc Giác Thừa, thành pháp khí cho các thánh vị trong Độc Giác Thừa. Này thiện nam tử! Đó gọi là Hữu Y Hạnh Luân của hết thảy Thanh Văn và Độc Giác. Hết thảy Thanh Văn và các Độc Giác y chỉ luân này, sẽ có thể mau chóng vượt thoát biển cả tam hữu, có thể mau chóng tiến nhập ṭa thành Bát Niết Bàn).

 

          “Thiện nam tử” là danh xưng đức Phật dùng để gọi Kim Cang Tạng Bồ Tát. Pháp này do Kim Cang Tạng Bồ Tát thỉnh vấn. Nếu có quốc vương tốt đẹp, cho đến bốn loại chủng tánh tốt lành, bất luận người ấy là nam hay nữ, nếu thành tựu mười loại Hữu Y Hạnh Luân này, trong khi người ấy tu hành, hoặc là trong cuộc sống, có thể tiêu diệt tội nghiệp và Hoặc (phiền năo) của người ấy, có thể gieo trồng chủng tánh Độc Giác Thừa, khiến cho chủng tánh ấy chẳng bị thoái thất, đời này chưa thành tựu đạo quả Độc Giác Thừa, th́ trong vị lai, sẽ có thể chứng đắc. Hoặc là trong đời này, có thể trở thành pháp khí của các địa vị thánh nhân, hoặc có thể chứng đắc [các địa vị ấy] trong đời này.

          “Thiện nam tử! Thị danh nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác Hữu Y Hạnh Luân” (Này thiện nam tử! Đó gọi là Hữu Y Hạnh Luân của hết thảy Thanh Văn và Độc Giác): Hết thảy Thanh Văn và các Độc Giác y chỉ luân này, sẽ có thể mau chóng vượt qua biển cả Tam Hữu (tam giới), có thể mau chóng tiến nhập thành Bát Niết Bàn, tức là có thể đạt tới địa vị bất sanh, bất tử, chứng đắc Niết Bàn. Niết Bàn ấy chẳng rốt ráo, chẳng phải là Niết Bàn rốt ráo của đức Phật, cho nên có sai biệt!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân thị hà cú nghĩa? Ngôn Hữu Y giả, danh hữu chấp thủ, hữu ngă sở y, hữu sở nhiếp thọ, hữu sở hệ thuộc. Hạnh vị Uẩn Hạnh, Giới Hạnh, Xứ Hạnh, Hữu HThuộc Hạnh. Luân vị giáo thọ, giáo giới chi luân. Như Chuyển Luân Vương sở thừa xa luân, hoặc thủ hành luân. Như thị nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác, y chỉ thử luân, cầu Niết Bàn đạo. Cố thử nhị chủng phi Đại Thừa khí. Sở dĩ giả hà? Do bỉ y chỉ hạ liệt hạnh cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ chấp thủ tự chư Uẩn Hạnh, kinh bố, yếm hoạn, tự cầu giải thoát nhất thiết ưu khổ, bất cầu giải thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ y chỉ tự chư Giới Hạnh, kinh bố, yếm hoạn, tự cầu giải thoát nhất thiết ưu khổ, bất cầu giải thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ nhiếp thọ tự chư Xứ Hạnh, kinh bố, yếm hoạn, tự cầu giải thoát nhất thiết ưu khổ, bất cầu giải thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ hệ thuộc hữu hệ thuộc hạnh, ư chư hữu t́nh, bất nhạo nhiếp thọ, vô hữu từ bi, hữu hệ thuộc cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ quán tha cụ thọ chúng khổ, xả nhi bất cứu, đản vị tự thân cầu giải thoát cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ tự đoạn chư phiền năo thủ, bất nhạo đoạn trừ nhất thiết hữu t́nh chư phiền năo thủ, phi Đại Thừa khí. Do bỉ bất năng ngự Đại Thừa luân, thú Bồ Đề cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ bất năng tùy đại quang luân thú Bồ Đề cố, phi Đại Thừa khí. Do bỉ hỷ nhạo độc nhất vô lữ, nhập Niết Bàn thành nhi tu hành cố, phi Đại Thừa khí.

          ()善男子,有依行輪,是何句義?言有依者,名有執取、有我所依、有所攝受、有所繫屬;行謂蘊行、界行、處行、有系屬行;輪謂教授教誡之輪,如轉輪王所乘車輪,或首行輪。如是一切聲聞、獨覺,依止此輪求涅槃道,故此二種非大乘器。所以者何?由彼依止下劣行故,非大乘器。由彼執取自諸蘊行,驚怖厭患,自求解脫一切憂苦,不求解脫一切有情而修行故,非大乘器。由彼依止自諸界行,驚怖厭患,自求解脫一切憂苦,不求解脫一切有情而修行故,非大乘器。由彼攝受自諸處行,驚怖厭患,自求解脫一切憂苦,不求解脫一切有情而修行故,非大乘器。由彼系屬有系屬行,於諸有情不樂攝受,無有慈悲,有系屬故,非大乘器。由彼觀他,具受眾苦,舍而不救,但為自身求解脫故,非大乘器。由彼自斷諸煩惱首,不樂斷除一切有情諸煩惱首,非大乘器。由彼不能馭大乘輪趣菩提故,非大乘器。由彼不能隨大光輪趣菩提故,非大乘器。由彼喜樂獨一無侶,入涅槃城而修行故,非大乘器。

        (Kinh: Này thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân là cú nghĩa như thế nào? Nói Hữu Y th́ gọi là có chấp giữ, có cái để ngă nương tựa, có cái để nhiếp thọ, có cái hệ thuộc. Hạnh là Uẩn Hạnh, Giới Hạnh, Xứ Hạnh, Hữu Hệ Thuộc Hạnh. Luân là sự chuyển vận “răn dạy, truyền dạy”, như bánh xe (Luân Bảo) được Chuyển Luân Vương ngự lên, hoặc thủ hành luân (hành luân đứng đầu). Hết thảy Thanh Văn, Độc Giác như thế nương theo cái luân này để cầu đạo Niết Bàn. Do vậy, hai loại [căn khí] này chẳng phải là căn khí Đại Thừa. V́ cớ sao vậy? Do họ y chỉ hạnh kém hèn, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ chấp giữ các Uẩn Hạnh của chính ḿnh rồi sợ hăi, chán ghét, tự cầu giải thoát hết thảy ưu khổ, chẳng cầu giải thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ y chỉ các Giới Hạnh của chính ḿnh để rồi sợ hăi, chán ghét, tự cầu giải thoát hết thảy ưu khổ, chẳng cầu giải thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành, cho nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ nhiếp thọ các Xứ Hạnh của chính ḿnh rồi sợ hăi, chán ghét, tự cầu giải thoát hết thảy ưu khổ, chẳng cầu giải thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ bị trói buộc, phụ thuộc vào Hữu Hệ Thuộc Hạnh (hạnh có hệ thuộc), đối với các hữu t́nh chẳng thích nhiếp thọ, chẳng có ḷng từ bi, do có hệ thuộc, cho nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ quán kẻ khác chịu đủ mọi thứ khổ mà bỏ mặc chẳng cứu, chỉ v́ cầu giải thoát cho chính ḿnh, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ tự đoạn các phiền năo đầu sỏ, chẳng thích đoạn trừ các phiền năo đầu sỏ cho hết thảy hữu t́nh, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ chẳng thể cưỡi bánh xe Đại Thừa để tiến nhập Bồ Đề, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ chẳng thể nương theo đại quang luân tiến hướng Bồ Đề, nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Do họ vui thích đơn độc, không bè bạn, tiến nhập thành Niết Bàn để tu hành, cho nên chẳng phải là căn khí Đại Thừa).

 

          “Thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân thị hà cú nghĩa?” (Này thiện nam tử! Hữu Y Hạnh Luân là cú nghĩa[2] như thế nào?): Danh cú ngôn ngữ ấy có ư nghĩa như thế nào? “Ngôn Hữu Y giả” (nói là Hữu Y): Đối với từ ngữ Hữu Y Hạnh Luân, trước hết giảng về Hữu Y. Hữu Y là ǵ? Là “chấp thủ” (執取), tức là chấp trước lấy hay bỏ. Trước hết phải có Ngă, sau đó mới pháp để ta “y” (nương dựa) vào, tức là cảnh. Pháp nào tốt đẹp bèn nhiếp thọ (攝受, thâu tóm, nắm giữ), “hữu sở nhiếp thọ, hữu sở hệ thuộc” (có cái được nhiếp thọ, có cái trói buộc, phụ thuộc). Điều ấy được gọi là Hữu Y. Hữu Y là ǵ? Nương theo sự chấp trước, giữ lấy của người ấy, sẽ có Ngă (tức là cái Ta để làm chủ thể cho hành động nắm giữ). Hễ có Ngă, bèn có Ngă Sở (我所, cái thuộc về ta), Ngă Sở c̣n được gọi là Ngă Sở Y (我所). Chẳng hạn như cuộc sống của chúng ta chẳng ĺa khỏi ăn mặc, cư trụ, đi lại. Mùa Đông lạnh lẽo, chúng ta cần phải giữ ấm, điều này gọi là Hữu Y trong cuộc sống. Chỉ v́ chấp trước các thứ ấy, bèn tham luyến, [cho nên sẽ] có cái nhiếp thọ, có cái hệ thuộc. Các thứ ấy trói buộc, khiến cho quư vị chẳng thể thoát ly được.

          Giải thích đơn giản về chữ “Hạnh”. Trong Hữu Y Hạnh, Hạnh là ǵ? [Hạnh bao gồm] Uẩn Hạnh, Giới Hạnh, Xứ Hạnh, Hữu Hệ Thuộc Hạnh. Uẩn () là Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm loại ấy thường xuyên vận động không ngừng, đó là Hạnh. “Hạnh” có nghĩa là vận động, thường xuyên không ngừng vận động. Hết thảy các sự là cảnh, kể cả thân thể của quư vị. Thân thể của quư vị do bốn đại chủng (Địa, Thủy, Hỏa, Phong) hợp thành, hết thảy động tác nơi thân thể đều chẳng rời Ngũ Uẩn.

          Thọ () có nghĩa là “tiếp nhận”. Cảnh giới bên ngoài đă chẳng có, nhưng nội tâm lănh nạp cảnh giới từ Pháp Trần của chính ḿnh, cùng nó tiếp xúc; đó là Uẩn Hạnh. Giới là mười tám giới. Mười tám giới bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư (đó là lục căn, 六根), Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp (đấy gọi là lục trần, 六塵), Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư Thức (gọi là lục thức, 六識). Sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba loại ấy gộp chung lại, ba nhân sáu thành mười tám. “Giới” () nghĩa là mỗi pháp đều có phạm vi, có giới hạn của nó. Xứ () là mười hai chỗ, tức mắt quán sắc, tai nghe tiếng, lưỡi biết vị, thức thâu nhiếp pháp. Mỗi cảnh giới [bao gồm] sáu trần tiếp xúc với sáu thức, đó gọi là Thập Nhị Xứ. Trần và Thức tiếp xúc với Căn, tức lục căn. Lục căn và lục trần tiếp xúc, đó là chỗ Thức hoạt động.

          Hữu Hệ Thuộc là ǵ? Có nghĩa là “trói buộc”. Lại có Vô Hệ Thuộc Hạnh, tức là đă giải thoát th́ không hệ thuộc. Trong mỗi hạnh, lại có rất nhiều “quyến thuộc” phụ thuộc. Nói tới sắc ngoài thân, giống như thân thể của chúng ta vốn thuộc vào chính ḿnh, nhưng các sắc ở ngoài thân chúng ta th́ chính là [đối tượng] để chúng ta thọ dụng. Có những thứ là hệ thuộc, có những thứ là chán ĺa. Tức là những sắc nào quư vị không ưa thích bèn chán ĺa nó, thuộc loại yêu, ghét. Hễ yêu thích bèn mong giữ làm thứ của riêng ḿnh; hễ chán ghét bèn mong thoát khỏi nó. Đấy là “có hệ thuộc”; điều này được gọi là Hữu Y Hạnh.

          Luân là “giáo thọ, giáo giới chi luân” [nghĩa là] đức Phật thuyết pháp cho chúng ta, dạy bảo, răn dạy chúng ta phải nên làm như thế nào. Điều này giống như cái bánh xe (Luân Bảo) mà Chuyển Luân Thánh Vương ngự lên [để bay khắp bốn bộ châu], cũng giống như chúng ta ngồi xe hơi, nó có thể vận chuyển chúng ta. Nhưng Luân có công năng nghiền nát. Hễ dưới bánh xe có chướng ngại chi đó, hễ là thứ nhỏ th́ nó có thể nghiền nát. Hết thảy Thanh Văn và Độc Giác nương vào Hữu Y Hạnh Luân, sẽ có thể chứng đắc Niết Bàn đạo.

          “Hoặc thủ hành luân” nghĩa là ǵ? “Thủ” () có nghĩa là đầu, tức là đoạn phiền năo. Đây là chặt đầu phiền năo, đoạn dứt các phiền năo, khéo cầu đắc Niết Bàn. Hai loại [Hữu Y Hạnh Luân] này thuộc về Thanh Văn và Duyên Giác. Kinh vốn chỉ nói về Độc Giác; ở đây, đă đem Thanh Văn trong phần trước nói gộp chung lại. Người hành Hữu Y Hạnh Luân này chẳng phải là pháp khí Đại Thừa, chẳng phải là Bồ Tát, chẳng phải là dụng cụ chứa đựng Đại Thừa, mà là Tiểu Thừa. Khí lượng của họ chỉ to chừng ấy. V́ sao nói như vậy? “Do bỉ y chỉ tự chư Giới Hạnh, kinh bố, yếm hoạn” (do họ y chỉ các Giới Hạnh của chính ḿnh bèn sợ hăi, chán ghét): Người ấy y chỉ Hữu Y Hạnh Luân, chỉ nghĩ đến chính ḿnh, chẳng mong để cho các thứ khổ, lạc trói buộc ḿnh, chẳng muốn để cho các thứ đau khổ ràng buộc ḿnh. Đối với sanh, lăo, bệnh, tử, yêu thương phải chia ĺa, oán ghét phải gặp gỡ, cầu chẳng được, người ấy rất kinh sợ, chán ghét các khổ nạn ấy. Đặc biệt là bệnh, rất chán ghét bệnh. Lại c̣n “cầu chẳng được”, quư vị mong cầu mà chẳng đạt được, muốn buông bỏ lại bỏ chẳng nổi! Yêu thương phải chia ĺa, oán ghét phải gặp gỡ, người ấy muốn giải thoát các nỗi ưu khổ ấy, nhưng chỉ cầu mong giải thoát cho chính ḿnh. “Bất cầu giải thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành” (chẳng cầu giải thoát cho hết thảy hữu t́nh mà tu hành): Người ấy v́ giải thoát chính ḿnh mà tu hành, chẳng phải v́ hết thảy hữu t́nh mà xuất ly.

          “Phi Đại Thừa khí” (chẳng phải là pháp khí Đại Thừa), chẳng thuộc về Bồ Tát Thừa, chẳng phải là pháp khí của Đại Thừa. Người ấy hệ thuộc Hành, Uẩn, Giới, Xứ, mong đoạn diệt chúng. Kẻ ấy chẳng màng hết thảy hữu t́nh ưu khổ. Thấy hết thảy hữu t́nh chịu thống khổ, người ấy đều chẳng cứu độ, cho nên phải đến ở nơi tịch tĩnh, thậm chí xa cách mọi người. Người ấy “bất cầu giải thoát nhất thiết hữu t́nh nhi tu hành” (chẳng cầu giải thoát hết thảy hữu t́nh mà tu hành), cho nên nói người ấy “phi Đại Thừa khí, do bỉ hệ thuộc Hữu Hệ Thuộc Hạnh” (chẳng phải căn khí Đại Thừa, do người ấy phụ thuộc hạnh có hệ thuộc): Sự hệ thuộc này liên quan đến duyên niệm, tức là sự tin ưa của người ấy hệ thuộc, v́ đối với điều ǵ người ấy không tin ưa, sẽ bài xích. “Chẳng hệ thuộc” th́ đối với các chúng sanh khác, họ chẳng nhiếp thọ, chẳng chịu giáo dục họ, chẳng chịu giúp đỡ người khác khiến cho họ thoát ĺa đau khổ. “Vô hữu từ bi” (chẳng có ḷng từ bi), v́ sao? Người ấy chỉ cầu chính ḿnh giải thoát khỏi ưu khổ, đó gọi là “có hệ thuộc”, bị trói buộc, “chẳng phải là căn khí Đại Thừa”.

          “Do bỉ quán tha cụ thọ chúng khổ, xả nhi bất cứu” [nghĩa là] người ấy thấy hết thảy chúng sanh chịu đựng rất nhiều khổ nạn, nhưng chẳng cứu độ, mà cũng chẳng chịu thuyết pháp ḥng lợi ích chúng sanh, chỉ cầu tự liễu thoát. Do chẳng muốn ở trong trần thế, cho nên “phi Đại Thừa khí” (chẳng phải căn khí Đại Thừa). Do người ấy tự ḿnh “đoạn phiền năo thủ”. “Thủ” () là h́nh dung từ, [“đoạn phiền năo thủ”] là chặt đầu phiền năo, chặt đứt phiền năo, đoạn sạch phiền năo. “Bất nhạo đoạn trừ nhất thiết hữu t́nh chư phiền năo thủ” (chẳng thích đoạn trừ hết thảy đầu mối phiền năo cho hết thảy hữu t́nh): Chẳng chịu đoạn phiền năo cho các chúng sanh, cũng chẳng chịu giúp đỡ chúng sanh, không thuyết pháp nhằm lợi lạc người khác. V́ thế, chúng tôi nói niệm kinh, tŕ chú, lễ bái, phát nguyện đều hồi hướng cho hết thảy chúng sanh; đấy là Bồ Tát.     

          Hàng Thanh Văn Nhị Thừa làm ǵ? Họ chỉ hồi hướng cho chính ḿnh, trọn chẳng nghĩ tới chúng sanh, cho đến lục thân quyến thuộc của chính ḿnh, họ cũng chẳng độ. Do vậy, mọi người cho rằng người xuất gia vô t́nh, tu hành ắt phải giống như cục gỗ, giống như tảng đá; nhưng điều này chẳng đúng. Họ không chịu cứu độ chúng sanh, thấy chết mà chẳng cứu, dẫu chúng sanh đang ở trong biển khổ sanh tử. Họ đă thành đạo, chẳng hạn như đạt được sáu loại thần thông, đắc Lậu Tận Thông, phải nên thuyết pháp cho chúng sanh, nhưng họ không chịu, tự ḿnh trụ trong Thiền Định hưởng thụ vui sướng. Do vậy, họ chẳng phải là căn khí Đại Thừa.

          “Bất năng ngự Đại Thừa luân, thú Bồ Đề đạo” (chẳng thể ngự trên bánh xe Đại Thừa để tiến hướng Bồ Đề đạo): Chẳng thể điều khiển Đại Thừa luân. “Luân” có nghĩa là nghiền nát. Đại Thừa luân cũng có công năng chuyên chở. Đại Thừa luân vận chuyển [hành nhân] tiến vào Đại Thừa, Đại Thừa th́ phải lợi ích chúng sanh. Do vậy, cảnh giới tự chứng của Đại Thừa và Tiểu Thừa đại khái đều giống nhau, nhưng một đằng là chịu đem cảnh giới do chính ḿnh tự chứng bố thí chúng sanh, một đằng là chẳng chịu bố thí, sợ rơi vào hầm phiền năo. Họ tự độ ḿnh c̣n chưa xong, đối với chuyện độ người khác họ chẳng dám léo hánh! Họ “bất năng tùy đại quang luân thú” (chẳng thể theo đại quang luân để tiến nhập): “Đại quang luân” là trí huệ, có nghĩa là Bát Nhă. Hàng Độc Giác Thừa và hàng Thanh Văn Thừa chẳng thể nương theo đại quang luân để tiến nhập Bồ Đề đạo, ḥng đạt tới Niết Bàn rốt ráo, chứng quả. Cho nên “chẳng phải là căn khí Đại Thừa”.

          Độc Giác Thừa rất cô độc, họ cũng chẳng kết hợp với đạo hữu. Độc Giác là như thế nào? Họ tự ḿnh tĩnh tu, quán tướng sanh diệt của hết thảy các pháp. Từ trong tướng sanh diệt, t́m ra lư bất sanh bất diệt, đă t́m được cái “chẳng sanh diệt” th́ sanh trụ dị sẽ diệt. Do vậy, bảo họ chẳng phải là căn khí Đại Thừa. Trong phần trên, chúng ta đă nói đến hai loại Thập Y Luân, tức Thập Hữu Y Luân, một đằng là Thanh Văn, một đằng là Độc Giác. Các pháp ấy có phải là tốt đẹp hay không? Có phải là pháp để chúng ta trực tiếp tiến hướng Đại Thừa hay chăng?

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Hữu chư chúng sanh, ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, vị tác cù lao, chánh cần tu học, như thị chúng sanh, căn cơ vị thục, căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu. Nhược hữu vị thuyết vi diệu, thậm thâm Đại Thừa chánh pháp, thuyết thính nhị nhân, câu hoạch đại tội, diệc vi vi nghịch nhất thiết chư Phật. Sở dĩ giả hà? Nhược chư chúng sanh ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, vị tác cù lao, chánh cần tu học, căn cơ vị thục, căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu, nhi tiện thính thọ vi diệu, thậm thâm Đại Thừa chánh pháp. Như thị chúng sanh thật thị ngu si, tự vị thông duệ, hăm đoạn diệt biên, trụy điên cuồng tưởng, chấp vô nhân luận. Ư chư nghiệp quả, sanh đoạn diệt tưởng, bát vô nhất thiết thiện tác, ác tác, vọng thuyết Đại Thừa, hoại loạn ngă pháp, phi pháp thuyết pháp, pháp thuyết phi pháp, thật phi sa-môn, thuyết thị sa-môn; thật thị sa-môn, thuyết phi sa-môn; thật phi Tỳ Nại Da, thuyết thị Tỳ Nại Da, thật thị Tỳ Nại Da, thuyết phi Tỳ Nại Da.

          ()善男子,有諸眾生,於聲聞乘、獨覺乘法,未作劬勞正勤修學,如是眾生根機未熟,根機下劣,精進微少;若有為說微妙甚深大乘正法,說聽二人俱獲大罪,亦為違逆一切諸佛。所以者何?若諸眾生,於聲聞乘、獨覺乘法,未作劬勞正勤修學,根機未熟,根機下劣,精進微少,而便聽受微妙甚深大乘正法;如是眾生實是愚癡,自謂聰睿陷斷滅邊,墜顛狂想執無因論,於諸業果生斷滅想,撥無一切善作、惡作,妄說大乘,壞亂我法,非法說法,法說非法,實非沙門說是沙門,實是沙門說非沙門,實非毗奈耶說是毗奈耶,實是毗奈耶說非毗奈耶。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Có các chúng sanh đối với pháp Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa, chưa nhọc nhằn, siêng năng chánh đáng tu học. Hạng chúng sanh như thế, căn cơ chưa chín muồi, căn cơ kém hèn, tinh tấn ít ỏi. Nếu có người v́ kẻ ấy nói chánh pháp Đại Thừa vi diệu rất sâu, người nói lẫn kẻ nghe đều mắc tội lớn, mà cũng trái nghịch hết thảy chư Phật. V́ cớ sao vậy? Nếu các chúng sanh đối với pháp Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa chưa vất vả, siêng năng chánh đáng tu học, căn cơ chưa chín muồi, căn cơ kém hèn, tinh tấn ít ỏi, mà liền nghe nhận chánh pháp Đại Thừa vi diệu rất sâu, chúng sanh như thế thật là ngu si, tự cho là thông duệ, bị hăm trong đoạn diệt, rơi vào suy tưởng điên cuồng, chấp trước luận thuyết “không có cái nhân”, đối với các nghiệp quả, sanh ư tưởng đoạn diệt, bài bác không có hết thảy chuyện làm lành hay làm ác, xằng bậy nói Đại Thừa, hoại loạn pháp của ta, phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, thật sự chẳng phải là sa-môn mà nói là sa-môn, thật sự là sa-môn mà nói là chẳng phải sa-môn, thật sự chẳng phải là Tỳ Nại Da mà nói là Tỳ Nại Da, thật sự là Tỳ Nại Da mà nói chẳng phải là Tỳ Nại Da).

 

          Đức Phật nói về cách dạy bảo sai lầm [của các vị giảng sư]: Nếu khi [người nghe] c̣n chưa biết đi, mà đă bảo họ chạy, [người nghe] sẽ bị vấp ngă. Do vậy, có các chúng sanh chưa từng đổ công dốc sức nơi Khổ, Tập, Diệt, Đạo, và mười hai nhân duyên, vị tác cù lao” (chưa từng vất vả), tức là chưa hề đổ công dốc sức, chẳng khéo dụng công tu hành. Pháp ấy chưa tu thành, căn khí Đại Thừa vẫn chưa chín muồi. Chúng sanh như thế chưa tu pháp Nhị Thừa, mà trực tiếp học pháp Đại Thừa, sẽ chẳng thể được!

          “Căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu” (căn cơ hèn kém, tinh tấn ít ỏi): Nếu đời này chẳng nghe pháp Đại Thừa, kẻ đó sẽ sanh khởi hủy báng. Căn cơ chưa chín muồi, kẻ ấy căn cơ kém cỏi. Lại c̣n cái tâm tinh tấn tu đạo rất ít, mà cũng chẳng chịu tinh tấn, cứ giải đăi, tham đắm ngũ dục thế gian. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê chính là năm cội rễ của địa ngục. Kẻ đó tham cầu cảnh giới ngũ dục, ăn, ở, ngủ nghê chiếm rất nhiều thời gian trong một ngày. Chúng ta nghĩ xem: Bận bịu v́ cái ăn, cái mặc, đă mệt nhoài th́ phải ngủ nghê. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ trong một ngày trôi qua, quư vị c̣n được bao nhiêu thời gian để học đạo? C̣n như niệm kinh, chúng ta tu tập cách niệm kinh, giữa người tại gia và kẻ xuất gia. đương nhiên là chẳng thể so sánh được! Người xuất gia tu hành năm tiếng đồng hồ là quá ít! Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quư vị chỉ tu năm tiếng đồng hồ, mười chín tiếng đồng hồ c̣n lại quư vị làm ǵ? Ngủ nghê chiếm thời gian rất nhiều. Trong một đời người, ngủ nghê chiếm thời gian quá nhiều. Có những kẻ ngủ tám tiếng đồng hồ, vẫn cho là không đủ!

          Nay chúng ta bái sám, kể cả bái sám thánh hiệu lẫn tĩnh tọa, cũng chỉ một tiếng đồng hồ là xong, mọi người bèn tán gẫu. Đương nhiên tán gẫu th́ cũng là bàn luận Phật pháp. Bàn ǵ đi nữa, th́ cũng phải bận bịu ăn uống. Từ mười giờ rưỡi đến mười một giờ rưỡi, suốt một tiếng đồng hồ, sau đó là nghỉ ngơi một chặp, gần như một tiếng đồng hồ, thế là hai tiếng đồng hồ tùy tiện trôi đi! Thức dậy lại bận bịu chuyện nhà. Nếu quư vị sắp xếp thời gian, quả thật là [thời gian] tinh tấn rất ít! Người như vậy mà giảng cho họ chánh pháp Đại Thừa vi tế rất sâu, khiến cho họ nhập quán, khiến cho họ tham cứu, khiến cho họ tu hành, lănh hội, sẽ chẳng thể được! Kẻ nói lẫn người nghe đều mắc tội lớn! V́ sao? Người nói chẳng biết căn cơ, người nghe sẽ có thể sanh khởi tội báng pháp. Làm như thế là đă trái nghịch hết thảy chư Phật, chẳng phù hợp lời dạy của chư Phật. Từ Tiểu Thừa đến Đại Thừa, quư vị trước hết cần biết thế gian này là khổ, nỗi khổ ấy do đâu mà có? Do chúng tạo nghiệp, tức là Tập (, nhóm họp các nghiệp). Khổ và Tập là nhân quả thế gian. Diệt, Đạo: Phải biết tịch diệt là vui sướng, là thành tựu. Quư vị phải biết, phải quan sát, đấy là tu Đạo ḥng chứng Niết Bàn, là nhân quả xuất thế gian. Đó là hai tầng nhân quả. Nói theo Tiểu Thừa, pháp này vốn là pháp Tứ Đế, là Tiểu Thừa, nhưng do người ấy lợi ích chúng sanh, cho nên gọi là Đại Thừa. Không chỉ là chính ḿnh phải tu đạo, chứng Niết Bàn, chính ḿnh chẳng tạo nghiệp nữa, chẳng c̣n thọ khổ quả, [mà c̣n phải] khiến cho chúng sanh đều biết. Đấy là Đại Thừa.

          Pháp chẳng có lớn hay nhỏ, quư vị chính là người thọ pháp. Quư vị nghe Đại Thừa nói “các pháp là Không, nhân quả thiện ác chẳng tồn tại, căn bản là chẳng có”, [nếu không liễu giải], quư vị sẽ đọa nhập Đoạn Diệt Không. Vậy th́ sẽ thuận theo cảnh giới ngũ dục, phương diện này dường như đă trống không, phương diện kia xác thực hoàn toàn chẳng không. Do vậy, nói pháp Đại Thừa th́ sợ rằng kẻ đó [nghe xong], sẽ rơi vào Đoạn Kiến, cũng chẳng rơi vào Thường Kiến. Nếu coi Niết Bàn là Thường Kiến, coi nghĩa Không là Đoạn Kiến; đó là sai lầm!

          Do vậy, có một hạng chúng sanh, chưa hề chánh thức tu Thanh Văn hay Độc Giác Thừa, chẳng hề dụng công, chẳng nhọc nhằn tu tập, chẳng tinh tấn, căn cơ c̣n chưa chín muồi. “Căn cơ hạ liệt” (căn cơ kém hèn), chỉ có tinh tấn đôi chút, đừng tới nghe nhận chánh pháp Đại Thừa rất sâu. Nhưng kẻ đó cho rằng chính ḿnh là căn khí Đại Thừa, tự cho ḿnh là thông duệ, có trí huệ, nhưng [nghe xong] chỉ hăm vào Đoạn Diệt, tức là Đoạn Kiến. Đoạn Kiến là kẻ đó nói đến Không, [lầm tưởng] “hết thảy các pháp đều Không, vậy th́ có ǵ là khổ hay lạc để đạt được nữa? Trên thực tế, chúng vốn chẳng có mà!” Khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát, nửa quyển hạ là nói “hai bên (Có và Không) đều chẳng lập”, nhưng kẻ đó rơi vào phía Đoạn Kiến. Do tham đắm cảnh giới ngũ dục, kẻ đó rất tinh tấn, nhưng đối với chuyện tu Lục Ba La Mật, kẻ đó rất giải đăi, tinh tấn ít ỏi. Như thế là rơi vào “điên cuồng tưởng”.

          “Chấp vô nhân luận” (chấp vào luận thuyết “chẳng có cái nhân”) tức là chẳng tin nhân quả. Đối với hết thảy nghiệp quả, làm ác nghiệp sẽ mắc khổ báo, làm thiện nghiệp sẽ được thiện báo, sanh lên trời hưởng thụ vui sướng, cho đến thành đạo. Kẻ chẳng tin nhân quả, bèn sanh khởi suy tưởng đoạn diệt, bài bác hết thảy chuyện làm lành, làm ác, hư vọng tự xưng là Đại Thừa. Kẻ đó học Đại Thừa, coi pháp Đại Thừa là Đoạn Diệt Tưởng, vướng nơi Không, chấp trước Không, coi hết thảy chuyện làm lành, làm ác, làm chuyện xấu, làm chuyện tốt của Phật pháp đều giống y hệt như nhau [v́ hiểu lầm ư chỉ] Đại Thừa luôn nói b́nh đẳng, diệt cả hai bên. Trong kinh Duy Ma Cật, Văn Thù Bồ Tát hỏi cư sĩ Duy Ma Cật: “Giới, Định, Huệ là như thế nào?” Cư sĩ Duy Ma Cật đáp: “Dâm, nộ, si”. Đấy có nghĩa là ǵ? Dâm, nộ, si chẳng có thật thể. Giới, Định, Huệ cũng chẳng có thật thể, cùng là bản thể của Pháp Thân, cũng là bản thể của pháp tánh. “Đáp” chính là đối ứng. Vị này nói nửa này, vị kia nói nửa kia, chẳng có thiện hay ác. Giả sử quư vị chẳng tu hành Khổ, Tập, Diệt, Đạo, lại chứng đắc nghĩa Không ấy, sẽ rơi vào Đoạn Diệt Không, sẽ bài bác là “chẳng có nhân quả!” Bài bác chẳng có nhân quả, phá hoại, rối loạn pháp của Phật, rốt cuộc đối với Phật pháp bèn nói đúng thành sai! Dâm, nộ, si là phi pháp, kẻ đó nói là đúng, nói chánh pháp thành phi pháp, phi pháp nói thành chánh pháp!

          “Hoại loạn ngă pháp” (phá hoại, rối loạn pháp của ta): Vốn chẳng phải là Phật pháp, kẻ đó lại nói là Phật pháp. Vốn là Phật pháp, kẻ đó lại nói “chẳng phải là Phật pháp”. Vốn chẳng phải là người xuất gia, chẳng phải là sa-môn thật sự, lại nói là sa-môn. Đối với sa-môn thật sự, bèn nói chẳng phải là sa-môn. Đấy là điên đảo. Thật sự chẳng phải là Tỳ Nại Da, tức chẳng phải giới luật, như đối với Phật pháp tại Đông Độ, các quy củ trong chùa miếu chẳng phải là giới luật, mà là do tổ sư quy định. Những điều ấy được gọi là Thanh Quy (清規), lại nói đó là giới luật. Do vậy, [có kẻ lầm lạc chủ trương] chẳng học giới luật do đức Phật truyền lại, học kỹ Thanh Quy là được rồi. Đấy đều là pháp nói là phi pháp, thật sự chẳng phải là Tỳ Nại Da lại nói là Tỳ Nại Da, thật sự là Tỳ Nại Da lại bảo chẳng phải là Tỳ Nại Da.

 

          (Kinh) Ngu si, điên đảo, kiêu mạn, tật đố, bằng đảng chi tâm, ư Đại Thừa pháp xưng tán, ủng vệ, linh quảng lưu bố. Ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, báng hủy, chướng tế, bất linh lưu bố, bất năng như thật y Thanh Văn Thừa, hoặc Độc Giác Thừa, hoặc Vô Thượng Thừa xả tục, xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, thành bật-sô tánh, diệc bất như thật tu tập nhất thiết thiện pháp nhân duyên. Ư ngă đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí, vị cần tu hành Học, Vô Học hạnh, năi chí chứng đắc tối hậu cực quả chân thiện dị sanh, tŕ giới, phá giới, vô giới giả sở, chủng chủng hủy mạ, ha trách, năo loạn, đoạt kỳ y bát, bất thính thọ dụng chư tư sanh cụ, hệ phược, cấm bế.

          ()愚癡顛倒、憍慢、嫉妒、朋黨之心,於大乘法,稱讚擁衛,令廣流佈;於聲聞乘、獨覺乘法,謗毀障蔽,不令流佈;不能如實依聲聞乘,或獨覺乘,或無上乘,舍俗出家,受具足戒,成苾芻性,亦不如實修集一切善法因緣;於我弟子,或是法器,或非法器,謂勤修行學無學行,乃至證得最後極果真善異生,持戒、破戒、無戒者所,種種毀罵,呵嘖惱亂,奪其衣缽,不聽受用諸資生具繫縛禁閉。

          (Kinh: Tâm ngu si, điên đảo, kiêu căng, ngạo mạn, ghen tỵ, bè đảng. Đối với pháp Đại Thừa, bèn xưng dương, tán thán, ủng hộ, bảo vệ, khiến được lưu truyền rộng răi. Đối với pháp thuộc Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa, bèn hủy báng, chướng lấp, chẳng cho lưu truyền. Chẳng thể như thật nương theo Thanh Văn Thừa, hoặc Độc Giác Thừa, hoặc Vô Thượng Thừa để xả tục, xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, thành bật-sô tánh, cũng chẳng đúng như thật tu tập nhân duyên của hết thảy các thiện pháp. Đối với các đệ tử của ta, hoặc là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, khuyên họ siêng năng tu tập Học và Vô Học hạnh, cho đến đối với bậc chân thiện dị sanh chứng đắc cực quả tối hậu, tŕ giới, hay phá giới, kẻ không có giới, mà dùng đủ cách hủy báng, chửi rủa, quở trách, năo loạn, đoạt y bát của họ, chẳng cho hưởng dụng các thứ vật cần dùng trong cuộc sống, trói buộc, nhốt kín).

 

          “Ngu si, điên đảo, kiêu mạn, tật đố, bằng đảng chi tâm” (cái tâm ngu si, điên đảo, kiêu căng, ngạo mạn, ghen tỵ, kết bè kéo đảng): Chùa này hủy báng chùa kia, chùa kia hủy báng chùa này. Nhóm cư sĩ này hủy báng nhóm cư sĩ kia. Rốt cuộc ai đúng, ai sai? Điên đảo đúng sai! Kẻ học pháp Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa bèn hủy báng Đại Thừa. Kẻ học pháp Đại Thừa hủy báng, ngăn chướng pháp Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa, chẳng cho lưu truyền, [khăng khăng] “đấy là pháp Tiểu Thừa, chẳng để cho nó tồn tại”. Chẳng thể đúng như thật nương theo pháp Thanh Văn Thừa, hoặc Độc Giác Thừa, hoặc Vô Thượng Thừa để xả tục, xuất gia. Sau khi nghe pháp, sẽ nhập đạo. Kẻ chẳng thể làm như vậy, đương nhiên là chẳng thể xuất gia, chẳng thể thọ Cụ Túc Giới, chẳng thể trở thành tỳ-kheo, chẳng thể trở thành bậc xuất gia.

          “Diệc bất như thật tu tập nhất thiết thiện pháp nhân duyên” (cũng chẳng như thật tu tập hết thảy nhân duyên thiện pháp): Tu tập các nhân duyên thiện pháp bèn làm chuyện tốt lành. Đối với hết thảy thiện pháp, chớ nên v́ điều thiện ấy nhỏ nhặt [mà không làm]. Chúng ta bỏ một đồng cho người cùng khổ, hoặc cúng cho pháp hội trong chùa miếu, quư vị quyên tặng một đồng cũng được. Đó gọi là tùy hỷ. Đă chẳng hiến tặng, lại c̣n hủy báng, tức là chẳng như thật tu tập hết thảy nhân duyên thiện pháp. “Ư ngă đệ tử, hoặc thị pháp khí, hoặc phi pháp khí” (Đối với các đệ tử của ta, hoặc là pháp khí, hay chẳng phải là pháp khí): Người tu hành khéo học như thế, sẽ là dụng cụ chứa đựng pháp. “Hoặc phi pháp khí” là kẻ phá giới. Phá giới sẽ chẳng tốt! Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di như thế ấy, tức tứ chúng đệ tử [như thế ấy], sẽ chẳng thể gọi là siêng năng tu hành. Cần tu hành” (勤修行) là tinh tấn siêng ṛng tu hành.

          “Học, Vô Học hạnh” (Hạnh Hữu Học và Vô Học): Tức là địa vị Hữu Học và Vô Học. Địa vị Vô Học là đă chứng quả A La Hán. Địa vị Hữu Học là ǵ? Bảy địa vị đều là địa vị hữu học, tức Sơ Quả Hướng, Sơ Quả, Nhị Quả Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả, Tứ Quả Hướng, đều gọi là địa vị Hữu Học. Chứng đắc quả A La Hán là địa vị Vô Học, cho đến “chân thiện dị sanh chứng đắc cực quả tối hậu”; đấy là chứng đắc quả A La Hán, đoạn Kiến Tư Hoặc. Đó là pháp khí.

          Hoặc là kẻ phá giới, “tŕ giới, phá giới, vô giới giả sở” (tŕ giới, phá giới, kẻ chẳng có giới): Có kẻ là tŕ giới, có kẻ là phá giới, hoặc ngay cả giới ǵ cũng đều chẳng có. Đấy là [nói các loại người] học pháp Đại Thừa. Ở đây là nói về chân thiện Sát-đế-lợi vương, chân thiện Thú-đạt-la, tức là bốn chủng tánh đối với tỳ-kheo phá giới, tỳ-kheo tŕ giới, hoặc tỳ-kheo chẳng có giới nào, đều chẳng phân biệt, cứ nhất loạt chửi bới, hủy báng, rủa xả, quở trách, năo loạn, thậm chí c̣n tước đoạt y bát chẳng cho họ thọ dụng. Hết thảy những vật dụng cần thiết trong cuộc sống của họ đều bị tước đoạt, họ c̣n có thể sống sót hay chăng? Họ sẽ chẳng thể sống sót, cho đến c̣n bị giam cầm trong tù ngục.

 

          (Kinh) Như thị bát vô nhất thiết nhân quả Đoạn Diệt Luận giả, tuy tại nhân trung, thật thị La Sát, ư đương lai thế, vô số đại kiếp, nan đắc nhân thân. Ninh tại địa ngục, thọ vô lượng khổ, bất xử nhân trung, khởi Đoạn Diệt Kiến. Như thị si nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn. Mạng chung, định sanh Vô Gián địa ngục. Ư chư ác thú, luân chuyển văng lai, thọ chư khổ năo, nan khả cứu tế, đa bách thiên kiếp, nan phục nhân thân. Tuy quá vô lượng, vô số kiếp dĩ, hoàn đắc nhân thân, nhi sanh ngũ trược, vô Phật thế giới, sanh manh, sanh lung, ấm, á, vô thiệt, chủng chủng trọng bệnh, thường sở anh triền, hoặc thân toa xú, nhân bất hỷ kiến. Ngôn từ chuyết nột, nhĩ sở ác văn. Tâm thường mê loạn, vô sở giải liễu, sanh bần cùng gia, chúng sự khuyết phạp, bất phùng thiện hữu, tùy ác hữu hành, nhạo tác ác nghiệp, háo chấp ác kiến, tạo Vô Gián tội, phục hoàn trùng đọa Vô Gián địa ngục, chuyển luân ác thú, nan hữu xuất kỳ.

          ()如是撥無一切因果斷滅論者,雖在人中,實是羅剎,於當來世無數大劫難得人身。寧在地獄受無量苦,不處人中起斷滅見。如是癡人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄,於諸惡趣輪轉往來,受諸苦惱難可救濟,多百千劫難復人身。雖過無量無數劫已,還得人身,而生五濁無佛世界,生盲生聾,瘖啞無舌,種種重病常所嬰纏;或身矬醜,人不喜見;言詞拙訥,耳所惡聞;心常迷亂,無所解了;生貧窮家,眾事闕乏;不逢善友,隨惡友行;樂作惡業,好執惡見,造無間罪,復還重墮無間地獄,轉輪惡趣難有出期。

          (Kinh: Kẻ bài bác không có hết thảy nhân quả, tin theo Đoạn Diệt Luận như thế, tuy ở trong loài người, thật sự là La Sát. Trong đời tương lai, vô số đại kiếp, khó được làm người. Thà ở trong địa ngục chịu vô lượng khổ, chẳng làm người mà dấy lên Đoạn Diệt Kiến! Kẻ si như thế, chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm, bị đớ lưỡi, chẳng thể nói được. Hứng chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, chắc chắn sanh vào địa ngục Vô Gián. Luân chuyển qua lại trong các đường ác, chịu các khổ năo, khó thể cứu vớt, nhiều trăm ngàn kiếp, khó lại được làm thân người. Tuy trải qua vô lượng vô số kiếp sau, sẽ lại được làm người, nhưng sẽ sanh trong thế giới ngũ trược, không có Phật, mù điếc từ lúc lọt ḷng, ngọng, câm, không lưỡi, đủ thứ bệnh nặng thường ràng buộc tấm thân, hoặc thân thể lùn tịt, xấu xí, người khác chẳng thích thấy, lời lẽ vụng về, lắp bắp, tai nghe điều xấu, tâm thường mê loạn chẳng hiểu biết ǵ. Sanh trong nhà bần cùng, các sự thiếu khuyết, chẳng gặp bạn lành, hành theo bạn ác, thích tạo ác nghiệp, thích chấp ác kiến, tạo tội Vô Gián rồi lại đọa vào địa ngục Vô Gián, luân chuyển trong đường ác, khó có thuở thoát ra).

 

          “Bát vô nhất thiết nhân quả, Đoạn Diệt Luận giả” (bài bác không có hết thảy nhân quả, tin theo Đoạn Diệt Luận): [Tức là kẻ luôn khăng khăng cho rằng] ta làm như vậy chẳng phạm sai lầm, chẳng mắc quả báo. Đấy là Đoạn Diệt Luận. “Tuy tại nhân trung, thật thị La Sát” (tuy ở trong loài người mà thật ra La Sát): Tuy kẻ đó sanh trong loài người, nhưng đấy là ma vương giết người, mà cũng là quỷ La Sát. “Ư đương lai thế, vô số đại kiếp, nan đắc nhân thân” [nghĩa là] sau đời này, trải qua thời gian rất dài về sau, muốn khôi phục thân người, sẽ rất khó khăn. Phải chịu vô lượng khổ trong địa ngục. V́ sao người ấy phải phá pháp, hủy báng Tăng và Phật như vậy? V́ người ấy sanh khởi Đoạn Diệt Kiến, hiểu sai bét nghĩa Không của Đại Thừa. Tiếp đó, chúng ta sẽ giải thích vấn đề này.

          “Như thị si nhân bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết” (Kẻ si như thế chẳng bao lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, thiếu khuyết): Tuy kẻ ấy chẳng tin nhân quả, nhân quả sẽ t́m tới kẻ đó; khi [nhân quả] t́m đến, kẻ đó sẽ chịu khổ. Hạng người ngu si ấy chẳng có trí huệ, thân thể trong đời này sẽ “bất cửu chi thể phế khuyết” (chẳng lâu sau, chi thể tàn phế, thiếu khuyết), hoặc là do sanh bệnh mà tàn phế, thiếu khuyết, hoặc là như trong hiện tại, bị tai nạn xe cộ, hoặc gặp thiên tai, thủy tai, hỏa hoạn, đều có thể khiến cho tứ chi của người ấy tàn khuyết, nhưng người tàn phế v́ bệnh tật th́ nhiều. Trong một thời gian rất dài, “ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn” (trong nhiều ngày đêm, bị đớ lưỡi chẳng thể nói): Lại c̣n chẳng thể nói được! Do nguyên nhân nào? Bệnh khổ khiến cho người ấy thành ra như vậy. Nghiệp báo chuyển đến thân người ấy; đó gọi là báo ứng do khởi Đoạn Diệt Kiến, khiến cho người ấy đau khổ sâu đậm, rất khó chịu đựng nổi. Sau khi mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián.

          “Ư chư ác thú, luân chuyển văng lai” (Luân chuyển qua lại trong các đường ác): “Ác thú” (惡趣) là ba ác đạo, tức địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. “Thọ chư khổ năo, nan khả cứu tế” (chịu các khổ năo, khó thể cứu vớt), trải qua bao nhiêu kiếp? “Đa bách thiên kiếp” (nhiều trăm ngàn kiếp): Chẳng phải là một trăm ngàn kiếp, hai trăm ngàn kiếp, mà là rất nhiều trăm ngàn kiếp. Nếu muốn khôi phục thân người, tức là được đầu thai làm người trong nhân gian, chẳng dễ dàng! Ắt cần phải trải qua thời gian vô lượng kiếp dài ngần ấy th́ mới có thể được làm thân người. Đối với con số vô số kiếp ấy, nếu nói theo tiểu kiếp th́ cũng là bao nhiêu vạn vạn năm. Vô số kiếp nếu dùng thời gian trong nhân gian để tính toán thời hạn th́ rất khó tính đếm. “Nhi sanh ngũ trược, vô Phật thế giới” (nhưng sanh trong thế giới ngũ trược, không có Phật): Đấy là Ngũ Trược, ác thế Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo Trược, Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược. Tới khi ấy, [sẽ sanh vào] thế giới chẳng có Phật, tức là sanh vào thời kỳ giống như chúng ta trong hiện thời.

          “Sanh manh, sanh lung” (mù bẩm sanh, điếc bẩm sanh): Sanh ra đă là kẻ mù hay kẻ điếc, chẳng được, trọn chẳng phải là về sau bị bệnh [mới mù hay điếc]. Kẻ đó vừa sanh ra đă mù, hoặc sanh ra đă câm, hay không có lưỡi, hoặc lưỡi ngắn, hoặc lưỡi đặc biệt to, nói năng chẳng rơ ràng, lại c̣n mắc phải đủ thứ bệnh nặng. Hoặc là lúc c̣n thơ ấu đă bị đủ loại bệnh tật quấn trói. Hiện thời, có đứa trẻ c̣n chưa sanh mà đă bị nạo thai, v́ thai đă chết trong bụng mẹ. Đó là do túc nghiệp trong quá khứ của nó.

          “Hoặc thân toa xú” nghĩa là vừa lùn, vừa xấu xí. “Nhân bất hỷ kiến” (người khác chẳng thích gặp): Trong tâm kẻ khác chẳng ưa thích, không muốn trông thấy, hoặc nói chuyện với người đó. “Ngôn từ chuyết nột”, “nột” () là nói lúng búng trong miệng, thường gọi là “nói lắp”. Chẳng biết kẻ đó đang nói ǵ, nói không rơ ràng, một câu phải nói cả buổi, vẫn chẳng thể nói rơ được. Đó là cà lăm!

          “Nhĩ sở ác văn” [nghĩa là] tai chẳng nghe thấy, ư thức mê loạn, tinh thần phân liệt. Có kẻ tinh thần phân liệt từ bé. Tôi đă gặp rất nhiều kẻ như vậy, cầu niệm Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ cho họ, cũng có người được lành, có người dẫu niệm, vẫn chẳng lành. Lứa năm ba tuổi cũng có, hoặc mười mấy tuổi cũng có, v́ đủ mọi nguyên nhân như kinh hoảng v.v… khiến cho tâm kẻ ấy thường mê loạn, thứ ǵ cũng đều chẳng biết, tinh thần phân liệt mà! Lại c̣n sanh vào gia đ́nh nhất định là gia đ́nh nghèo khổ. Các vật dụng cần thiết trong cuộc sống “chúng sự khuyết phạp (các thứ thiếu thốn), [nghĩa là] thiếu ăn, thiếu mặc!

          Người như vậy sanh trong t́nh huống như vậy, lại c̣n có đủ thứ nhân duyên [chẳng tốt đẹp], há c̣n có thể gặp gỡ người tốt lành ư? “Bất phùng thiện hữu” (chẳng gặp bạn lành), chẳng có nhân duyên ấy. Chẳng gặp bạn lành, bèn gặp bạn ác, chơi với bạn bè toàn là bạn ác, cùng những kẻ đó làm chuyện ác. “Nhạo tác ác nghiệp” (thích làm nghiệp ác), “háo chấp ác kiến” (ưa chấp trước ác kiến): Kẻ đó giải thích, nh́n nhận vấn đề hết sức sai lầm, hết sức lệch lạc, nhưng chấp trước chẳng buông bỏ được. Tạo tội Ngũ Vô Gián như thế đó!

          Ngũ Vô Gián rất nhiều, chịu khổ chẳng gián đoạn, thời gian không gián đoạn. Thời gian chịu khổ rất dài, chẳng như trong nhân gian, từ lúc bị bệnh cho đến lúc lành bệnh chỉ có một khoảng thời gian, tức là hữu gián (có gián đoạn). Thời gian chịu khổ hữu gián, [chẳng hạn như] ở trong tù cũng có thể ra khỏi tù. Thời gian thi hành án đă đủ, cũng có thể thoát ra; đó đều là hữu gián. Ngục Vô Gián chẳng có gián đoạn. Như trong địa ngục đó, có một cái giường lớn, to hơn tám vạn dặm. Một người nằm trên giường đó thọ tội, thấy thân h́nh đầy chật cả giường. Một vạn người cũng là thân đầy chật cả giường. Đó là ư nghĩa “chẳng gián đoạn”. Đă tạo loại tội này, sau khi sanh vào nhân gian, thọ mạng của người như vậy vẫn chẳng dài, sau khi chết đi, lại vào địa ngục Vô Gián, tức là trở lại luân chuyển trong đường ác, có thể từ địa ngục Vô Gián thoát ra, chuyển làm người, vẫn c̣n đỡ. Nếu chẳng chuyển sanh làm người, chắc là chuyển sang làm súc sanh, hay chuyển sang ngạ quỷ đạo!

 

          (Kinh) Như thị ngu si Đoạn Diệt Luận giả, hoại loạn, hủy diệt ngă chi chánh pháp, bức năo, trích phạt ngă chư đệ tử tŕ giới, phá giới, cập vô giới giả, giai linh bất an tu chư thiện phẩm. Do thị nhân duyên, đa bách thiên kiếp, một chúng ác thú, tùng ám nhập ám, nan hữu xuất kỳ. Như thị chúng sanh sở hữu tội báo, giai vi vị cầu thính tập Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp, tiên cầu thính tập vi diệu, thậm thâm Đại Thừa chánh pháp. Như thị ngu si Đoạn Diệt Luận giả, hạ liệt nhân thân, thượng nan khả đắc. Huống đương năng thành hiền thánh pháp khí? Thượng bất năng đắc Thanh Văn, Độc Giác sở chứng Niết Bàn, huống đắc quảng đại thậm thâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề? Như thị chúng sanh sở hữu quá thất, giai do vị học Thanh Văn Thừa pháp, Độc Giác Thừa pháp, tiên nhập Đại Thừa.

          ()如是愚癡斷滅論者,壞亂毀滅我之正法,逼惱謫罰我諸弟子,持戒、破戒及無戒者,皆令不安修諸善品,由是因緣,多百千劫沒眾惡趣,從闇入闇,難有出期。如是眾生所有罪報,皆為未求聽習聲聞、獨覺乘法,先求聽習微妙甚深大乘正法。如是愚癡斷滅論者,下劣人身尚難可得,況當能成賢聖法器?尚不能得聲聞獨覺所證涅槃,況得廣大甚深無上正等菩提?如是眾生所有過失,皆由未學聲聞乘法、獨覺乘法,先入大乘。

          (Kinh: Kẻ ngu si, theo Đoạn Diệt Luận như thế phá hoại, rối loạn, hủy diệt chánh pháp của ta, bức bách, năo hại, trừng phạt các đệ tử tŕ giới, phá giới, và không có giới của ta, đều khiến cho họ chẳng an ổn tu các thiện phẩm. Do nhân duyên ấy, trải qua nhiều trăm ngàn kiếp, ch́m đắm trong các đường ác, từ chốn tối tăm vào chỗ tối tăm, khó có thuở thoát ra. Tất cả tội báo của chúng sanh như thế đều v́ chưa cầu nghe giảng, tu tập pháp Thanh Văn và Độc Giác, mà trước đó đă cầu nghe giảng, tu tập chánh pháp Đại Thừa vi diệu rất sâu. Kẻ ngu si theo Đoạn Diệt Luận như thế, thân người hèn kém c̣n khó thể được, huống hồ là sẽ có thể trở thành pháp khí hiền thánh ư? C̣n chẳng thể đắc Niết Bàn do Thanh Văn hay Độc Giác đă chứng, huống hồ đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề rộng lớn rất sâu ư? Tất cả lầm lỗi của chúng sanh như thế đều là do chưa học pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc Giác Thừa mà đă nhập Đại Thừa trước).

 

          “Như thị ngu si Đoạn Diệt Luận giả” (Kẻ ngu si theo Đoạn Diệt Luận như thế): Đây là kẻ tin theo Đoạn Diệt Luận, bài bác không có nhân quả. “Hoại loạn, hủy diệt ngă chi chánh pháp” (phá hoại, gây rối loạn, hủy diệt chánh pháp của ta), khiến cho chánh pháp của đức Phật bị hủy diệt. Nếu hủy diệt tức là diệt pháp nhăn của chúng sanh, mọi người sẽ chẳng có chánh pháp để có thể nghe. Kẻ đó ngăn trở rất nhiều người, chướng ngại người khác tin tưởng con đường của đức Phật. “Bức năo, trích phạt ngă chư đệ tử tŕ giới, phá giới, cập vô giới giả” (Bức bách, năo hại, trừng phạt các đệ tử tŕ giới, phá giới, và không có giới của ta), đối với đệ tử của ta, bất luận tŕ giới, phá giới, và không có giới, kẻ đó đều khiến cho họ chẳng thể an tâm, tu tập thiện phẩm, chẳng thể tin tưởng nhân quả, hành đạo, lễ Phật, bái sám. Các nhân duyên ấy đều chẳng có. Kẻ ác ấy v́ nhân duyên trừng phạt, phá hoại Phật pháp, hủy Tăng, báng đạo, “đa bách thiên kiếp, một chúng ác thú” (trong nhiều trăm ngàn kiếp, ch́m đắm trong các đường ác), thường chịu khổ trong ba ác đạo. “Tùng ám nhập ám” (từ chốn tối tăm vào chỗ tối tăm): Từ chỗ hắc ám vẫn là vào chỗ hắc ám, dẫu sanh vào nhân gian, người ấy cũng vẫn chẳng phải là một người hoàn bị, mù, điếc, câm, ngọng, mắc phải đủ thứ bệnh tật ngặt nghèo.

          “Tùng ám nhập ám, nan hữu xuất kỳ” (từ tối tăm vào tối tăm, khó có thuở thoát ra): Mong thoát ly loại khổ nạn ấy rất ưkhó. Tất cả tội báo của chúng sanh như thế, như trong phần trên đă nói tội báo nhiều ngần ấy, họ trót phạm sai lầm, hứng chịu nỗi khổ và quả báo, đều v́ “vị cầu thính tập Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp, tiên cầu thính tập vi tế thậm thâm Đại Thừa chánh pháp” (chưa cầu nghe giảng, tu tập pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa, mà đă cầu nghe, tu tập trước chánh pháp Đại Thừa vi tế, rất sâu). Đối với cái quả báo ấy, bèn nêu ra cái nhân, nhân ǵ vậy? Do c̣n chưa nghe chánh pháp Tiểu Thừa, chẳng nghe pháp Nhị Thừa, mà trước hết đă nghe chánh pháp Đại Thừa.

          Tôi nhớ thuở đầu, vào Phật Học Viện, lăo pháp sư Từ Châu[3] buổi sáng giảng Tứ Phần Giới, buổi chiều giảng kinh Hoa Nghiêm, một đằng là pháp Tiểu Thừa, là pháp Tiểu Thừa nhỏ nhất, một đằng là pháp Đại Thừa viên măn nhất, Đại Thừa và Tiểu Thừa kết hợp! Học pháp Tiểu Thừa nhằm kiểm điểm các việc quư vị đă làm trong suốt một ngày. Đối với các việc làm nơi thân, tâm, tâm quư vị nghĩ những điều ǵ? Thân thể đă làm những ǵ? Có thể kết hợp với kinh Hoa Nghiêm hay không? Nếu chẳng thể kết hợp th́ làm như thế nào? Phải sám hối! Học pháp Tiểu Thừa th́ phải sám hối tội lỗi, cảnh giác, răn nhắc thân tâm của chính ḿnh chớ nên buông lung, chớ nên cuồng vọng tự đại; nhưng điều ấy chưa đủ, ắt cần phải học pháp Đại Thừa th́ mới có thể liễu sanh tử, mới có thể hoàn tất hai mươi loại Đoạn, chứng Niết Bàn rốt ráo của Phật. Nếu học pháp Đại Thừa, phải nhận biết nhân quả thiện ác chẳng sai một mảy. Chớ nên v́ học Đại Thừa bèn coi nhân quả thế gian và xuất thế gian đều diệt mất. [Nếu cho là như vậy], sai lầm mất rồi! Nếu quư vị học pháp Đại Thừa th́ đối với cái quả Niết Bàn chứng đắc trong pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc Giác Thừa, vẫn phải hoằng dương rộng lớn, lại c̣n phải khuyên hết thảy chúng sanh học tập.

          Chúng ta học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, những điều nói trong nửa quyển đầu và nửa quyển sau quả thực là hai việc khác nhau, Nửa quyển đầu nói về thiện ác, nhân quả. Chiêm sát thiện ác nhân quả, tức là xét coi quư vị làm lành nhiều, hay làm ác nhiều, hăy tự ḿnh chiêm nghiệm một phen! Thân, khẩu, ư của quư vị đều tồn tại khá nhiều ác nghiệp. Quư vị đương nhiên biết đời hiện tại, nhưng đời quá khứ chẳng biết! Phải chiêm nghiệm xem trong đời quá khứ vô lượng kiếp trước đă làm những ǵ? Chiêm nghiệm đời sau, trong tương lai sẽ sanh vào chỗ nào? Đấy là xét từ định nghiệp của quư vị, nó sẽ chuyển hóa bởi sự tu hành của quư vị, chẳng do định số ấy. Có thể chiêm nghiệm Chiêm Sát Luân bất cứ lúc nào. Hôm nay, lúc chiêm sát, quư vị thấy ḿnh có thể phải chịu khổ báo. Hằng ngày bái sám, sáng ngày mốt lại chiêm sát, có thể là [sẽ thấy] tội nghiệp tiêu mất, khổ báo đă xong rồi, chẳng c̣n nữa! Chiêm Sát là ư nghĩa này!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như hoại b́nh, đa chư hà khích, thịnh du, nhũ đẳng, tận giai sấm lậu. Năng thịnh, sở thịnh, nhị câu hoại thất. Sở dĩ giả hà? Khí hữu thất cố. Như thị chúng sanh, ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, vị tác cù lao, chánh cần tu học, căn cơ vị thục, căn cơ hạ liệt, tinh tấn vi thiểu, nhược hữu vị thuyết vi diệu, thậm thâm Đại Thừa chánh pháp, thuyết thính nhị nhân, câu hoạch đại tội, diệc vị vi nghịch nhất thiết chư Phật, sở hữu quá thất, quảng thuyết như tiền. Thí như thế gian khố tạng đồi huyệt, trí chư bảo hóa, đa hữu tán thất. Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, báng hủy bất tín, bất khẳng tu học, vị thuyết Đại Thừa, bất như thật giải, nhân thử tạo tội, luân chuyển vô cùng. Thí như châu thuyền, đa chư tiết lậu, bất nhậm thừa tải, phiếm ư đại hải.

          ()善男子,譬如壞瓶多諸瑕隙,盛油乳等盡皆滲漏,能盛所盛,二俱壞失。所以者何?器有失故。如是眾生,於聲聞乘、獨覺乘法,未作劬勞正勤修學,根機未熟,根機下劣,精進微少;若有為說微妙甚深大乘正法,說聽二人俱獲大罪,亦為違逆一切諸佛,所有過失廣說如前。譬如世間庫藏頹穴,置諸寶貨多有散失;如是眾生於二乘法謗毀不信,不肯修學,為說大乘不如實解,因此造罪輪轉無窮。譬如舟船多諸泄漏,不任乘載泛於大海。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ví như cái b́nh hư hoại, có nhiều vết rạn, kẽ nứt, đựng dầu, sữa v.v… sẽ đều bị ṛ rỉ hết. Đồ chứa đựng và thứ để chứa đựng, cả hai đều hư mất. V́ cớ sao vậy? Do v́ đồ đựng có khuyết điểm. Chúng sanh cũng giống như thế, đối với các pháp thuộc Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa chưa nhọc nhằn, siêng năng tu học chánh đáng, căn cơ chưa chín muồi, căn cơ kém hèn, tinh tấn ít ỏi. Nếu có người v́ kẻ đó nói chánh pháp Đại Thừa vi diệu rất sâu, người nói lẫn kẻ nghe, hai đằng đều mắc tội lớn, mà cũng trái nghịch hết thảy chư Phật, tất cả lầm lỗi như đă nói rộng trong phần trên. Ví như kho chứa trong thế gian cũ nát, có hang hốc, th́ các thứ của báu, hàng hóa chứa trong ấy, phần nhiều sẽ bị thất tán. Chúng sanh cũng giống như thế, hủy báng chẳng tin pháp Nhị Thừa, chẳng chịu tu học, mà v́ họ nói Đại Thừa, họ sẽ chẳng hiểu đúng như thật. Do vậy bèn tạo tội, luân chuyển vô cùng. Ví như tàu, thuyền, có nhiều chỗ bị ṛ rỉ, chẳng thể chuyên chở, vượt qua biển cả được).

 

          “Thiện nam tử! Thí như hoại b́nh” (Này thiện nam tử! Ví như cái b́nh đă hư hoại). “Hoại b́nh” là cái b́nh c̣n chưa nung, c̣n chưa nắn kỹ, c̣n có những lỗ thủng, kẽ nứt, kẽ hở. [Cái b́nh] như vậy mà quư vị dùng để đựng dầu, đựng sữa, có bị chảy mất hay không? “Tận giai sấm lậu” (đều bị ṛ rỉ hết)! V́ lẽ nào? Chẳng phải là đồ đựng [thích hợp] để chứa đựng, chẳng phải là đồ đựng rất tốt, đựng ǵ rồi cũng sẽ mất đi. Dụng cụ chứa đựng ấy cũng hư hoại, đó là món đồ ấy có khuyết điểm. Cũng có nghĩa là người thuyết pháp đối với người thọ pháp, phải xét xem kè nghe là căn khí nào, đáng nên nói pháp nào, như thế th́ kẻ ấy sẽ có thể tiếp nhận. Nếu kẻ ấy chẳng phải là căn khí ấy, mà là [căn khí] Thanh Văn hay Độc Giác Thừa, chẳng nói cho họ nghe chánh pháp Thanh Văn hay Độc Giác Thừa, lại ngược ngạo nói chánh pháp Đại Thừa. Đó gọi là “phi khí” (chẳng phải là căn khí).

          Nêu một thí dụ, như Thiền Tông Trung Hoa, do thời đại bức bách, chẳng có kinh luận để có thể học. Vào thời Tam Vũ diệt Phật, riêng ḿnh Thiền Tông hưng thịnh v́ kinh nào cũng chẳng phải học, mà cũng chẳng cần niệm Phật. [Nghe ngài Triệu Châu nói] niệm Phật một tiếng, súc miệng hai ngày” [bèn tưởng rằng thật sự phải làm như thế, v́ niệm Phật sẽ làm] cho miệng chẳng sạch sẽ suốt ba ngày! Hàm nghĩa chẳng phải là như vậy! [Ngài Triệu Châu nói như vậy], v́ đó là thuần túy Đại Thừa [dùng tự lực để tu], chẳng cậy vào một tí phương tiện nào. Đó là tham cứu để đốn ngộ, minh tâm kiến tánh. Nhưng điều này đă dưỡng thành thói quen ǵ? Từ đời Đường cho đến nay, người ở trong Thiền Đường rất ít học pháp. Quư vị giảng kinh tại đó, họ cũng chẳng nghe, cũng chẳng đến Niệm Phật Đường. Họ ở lỳ trong Thiền đường, ngoài ăn no, ngủ kỹ ra, vẫn là ngủ kỹ, ăn no, cứ mịt mờ như thế. Thậm chí tụng niệm công khóa, quá đường, họ đều trốn tránh, chuyện ǵ cũng đều chẳng tin. Đó là rất nguy hiểm. Vẫn chẳng bằng niệm Phật trong Niệm Phật Đường, hoặc học giáo lư trong học đường, vẫn tốt hơn!

          Khi học giáo nghĩa, vị pháp sư nào dạy quư vị, cũng đều là dạy từ Tiểu đến Đại. chẳng phải là vừa mới học bèn học ngay Đại Thừa. Quư vị ở trong Phật Học Viện, cũng phải nói tám thức, phân tích ư niệm của quư vị, cho đến điều phục tốt đẹp ba nghiệp thân, khẩu, ư của quư vị th́ mới có thể tiến nhập Đại Thừa. Nếu không, sẽ giống như cái b́nh nứt, c̣n mong đựng thứ ǵ được nữa? Cái b́nh đă hư rồi, đồ đựng cũng mất đi. Do vậy nói: Khi chúng sanh “ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, vị tác cù lao, chánh cần tu học” (đối với pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc Giác Thừa, chưa vất vả siêng năng chánh đáng tu học), căn cơ chưa chín muồi, căn cơ hèn kém, lại chẳng có sức tinh tấn, nếu nói đại pháp vi diệu rất sâu cho họ, “thính thuyết nhị nhân, câu hoạch đại tội” tức là người nói lẫn kẻ nghe đều có tội. “Diệc vị vi nghịch nhất thiết chư Phật” (cũng trái nghịch hết thảy chư Phật), tất cả lỗi lầm đă nói cặn kẽ như trong phần trước. Ví như nhà kho trong thế gian mà hư nát, có hang hốc, th́ những thứ quư báu, hàng hóa đặt trong ấy sẽ phần nhiều bị thất lạc. Căn nhà quư vị dành để đựng hàng hóa [mà rách nát như vậy th́] không chỉ là bảo thạch cất giữ mà lương thực cũng bị mất, v́ trong ấy có hang hốc, người khác có thể tiến vào. Nơi ấy đă hư nát rồi!

          “Ư Nhị Thừa pháp, báng hủy, bất tín, bất khẳng tu học” (Đối với pháp Nhị Thừa, hủy báng, chẳng tin, không chịu tu học): Đối với pháp Nhị Thừa đă chẳng tin, mà cũng chẳng tu học. Nói với họ pháp Đại Thừa, họ có thể tiếp nhận ư? Chẳng thể lănh hội được! V́ vậy, tạo tội, luân chuyển trong tam ác đạo, chịu khổ vô cùng. “Thí như châu thuyền, đa chư tiết lậu” (ví như tàu, thuyền, có nhiều chỗ ṛ rỉ), thuyền đă thủng, chẳng c̣n là một chiếc thuyền tốt. “Bất nhậm thừa tải, phiếm ư đại hải” (chẳng thể chuyên chở, vượt biển cả được): Nếu nhờ chiếc thuyền ấy để vượt đại dương, quư vị sẽ vùi thân trong biển cả!

 

          (Kinh) Như thị chúng sanh, đa hoài xan tật, ư Nhị Thừa pháp, vị tằng tu học, vọng hiệu Đại Thừa, thật hoài Đoạn Kiến, kiêu mạn, siểm khúc, thành tiết lậu thân, bất kham bằng nhập Nhất Thiết Trí hải. Thí như hữu nhân, kỳ mục manh cổ, bất kham tŕnh thị chủng chủng trân bảo. Như thị chúng sanh kiêu mạn, phóng dật, chấp trước Không kiến, bất học Nhị Thừa, manh vô huệ mục, bất nhậm hiển thị vô thượng Đại Thừa công đức trân bảo. Thí như hữu nhân, kỳ thân xú uế, tuy dĩ chủng chủng thượng diệu hương đồ, nhi cánh bất năng linh thân hương khiết. Như thị chúng sanh, ngu si, kiêu mạn, ư Nhị Thừa pháp, bất nhạo cần tu, bất đoạn sát sanh, năi chí tà kiến. Tuy cần thính thọ vô thượng Đại Thừa, nhi cánh bất năng giải thậm thâm pháp. Thí như thạch điền, tuy thực hảo chủng, cần gia doanh nậu, chung vô quả thật. Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, kiêu mạn, giải đăi, bất nhạo cần tu, tham cầu ngũ dục, tằng vô yếm quyện, tuy ư bỉ thân, thực Đại Thừa chủng, tinh tấn cần khổ, chung vô sở thành. Thí như ung khí, tiên trữ độc dược, đầu thiểu thạch mật, bất nhậm thực dụng. Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, bất khẳng tu học, chấp vô nhân luận, vị thuyết Đại Thừa, chung bất năng thành tự tha lợi ích.

          ()如是眾生多懷慳嫉,於二乘法未曾修學,妄號大乘,實懷斷見,憍慢諂曲成泄漏身,不堪憑入一切智海。譬如有人,其目盲瞽,不堪呈示種種珍寶;如是眾生憍慢放逸,執著空見,不學二乘,盲無慧目,不任顯示無上大乘功德珍寶。譬如有人,其身臭穢,雖以種種上妙香塗,而竟不能令身香潔;如是眾生愚癡憍慢,於二乘法不樂勤修,不斷殺生乃至邪見,雖勤聽受無上大乘,而竟不能解甚深法。譬如石田,雖植好種,勤加營耨,終無果實;如是眾生於二乘法,憍慢懈怠,不樂勤修,貪求五欲,曾無厭倦,雖於彼身植大乘種,精進勤苦,終無所成。譬如甕器,先貯毒藥,投少石蜜,不任食用;如是眾生於二乘法不肯修學,執無因論,為說大乘,終不能成自他利益。

          (Kinh: Chúng sanh như thế, trong tâm có nhiều điều keo kiệt, ghen ghét, chưa từng tu học pháp Nhị Thừa, xằng bậy xưng là Đại Thừa, thật sự ôm giữ Đoạn Kiến, kiêu căng, ngạo mạn, siểm khúc, trở thành cái thân ṛ rỉ, chẳng kham tiến nhập biển Nhất Thiết Trí. Ví như có người, con mắt đui mù, chẳng thể chỉ cho người đó thấy các thứ trân bảo. Cũng giống như thế, chúng sanh kiêu mạn, buông lung, chấp trước Không Kiến, chẳng học Nhị Thừa, mù ḷa, không có con mắt Huệ, chẳng kham hiển thị công đức trân bảo Đại Thừa vô thượng. Ví như có người, thân thể hôi bẩn, tuy dùng các thứ hương tốt đẹp nhất để bôi lên, trọn chẳng thể khiến cho thân thể thơm sạch được. Cũng giống như thế, chúng sanh ngu si, kiêu căng, ngạo mạn, chẳng thích siêng tu pháp Nhị Thừa, chẳng đoạn sát sanh, cho đến tà kiến. Tuy siêng năng nghe, nhận Đại Thừa vô thượng, nhưng trọn chẳng thể hiểu pháp rất sâu. Ví như ruộng toàn đá, dẫu gieo hạt giống tốt, siêng năng chăm bón, cày cuốc, trọn chẳng có quả hạt. Cũng giống như thế, chúng sanh đối với pháp Nhị Thừa mà kiêu mạn, giải đăi, chẳng ưa siêng tu, tham cầu ngũ dục, chưa từng chán mệt. Nơi thân người ấy, tuy đă gieo chủng tánh Đại Thừa, tinh tấn, siêng khổ, trọn chẳng thành tựu. Ví như cái ṿ, trước đó đă chứa thuốc độc, bỏ thêm chút thạch mật, chẳng thể dùng để ăn được. Cũng giống như thế, chúng sanh chẳng chịu tu học pháp Nhị Thừa, chấp trước luận thuyết “không có cái nhân”, dẫu v́ kẻ đó nói Đại Thừa, trọn chẳng thể thành tựu lợi ích cho ḿnh lẫn người).

 

          Người học pháp ấy “đa hoài xan tật, ư Nhị Thừa pháp” (tâm nhiều keo kiệt, ghen tỵ, đối với pháp Nhị Thừa) người ấy chẳng tu học. “Vọng hiệu Đại Thừa” tức là hư vọng, tự xưng là Đại Thừa. Trên thực tế là “thật hoài Đoạn Kiến” (thật sự ôm ấp tri kiến Đoạn Diệt), Đoạn Diệt Kiến th́ chẳng tin tưởng nhân quả. V́ Thanh Văn, Duyên Giác phải nói về nhân quả, nói về báo ứng. Pháp tắc Đại Thừa là nói Không Kiến, bất quá Không Kiến của kẻ đó thật ra là Đoạn Diệt Không Kiến, tức là Đoạn Kiến, chẳng phải là Không Kiến thật sự. V́ sao đức Phật thuyết pháp, có lúc chẳng nói Hữu, mà nói đến Phi Hữu? Có lúc nói về Không th́ chẳng nói là Không, mà nói là Phi Không? Dụng ư là để quư vị đừng chấp trước. Quư vị đừng nên chấp trước Hữu; cái Hữu ấy là phi hữu. Cũng đừng nên chấp trước Không, cái Không ấy là Phi Không, như vậy bèn cũng Có cũng Không. Đó gọi là tứ cú (bốn câu): “Không, có; chẳng phải có chẳng phải không; cũng có cũng không”; bốn câu như thế đó. Hết thảy các pháp do đức Phật đă nói đều ĺa khỏi bốn câu, v́ những câu ấy đều chẳng chánh xác!

          Giống như kẻ mù, quư vị bày đủ thứ trân bảo trước mặt kẻ đó, kẻ đó vẫn chẳng trông thấy, chẳng thể tiếp nhận. Hàng Nhị Thừa khi chưa tu học, toan dùng cái thân toàn là Lậu Hoặc để mong tiến vào biển Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể được! Người như thế giống hệt như kẻ mù, ngay cả trân bảo cũng chẳng thể nhận biết. Chúng sanh như thế tự ôm ḷng kiêu căng, ngạo mạn, vốn thuộc loại “vô học bất thuật” (chẳng có học thức mà cũng chẳng có tài năng ǵ), vẫn cứ ngỡ chính ḿnh trác tuyệt, cứ buông lung, lười nhác.

          “Chấp trước Không Kiến, bất học Nhị Thừa”: Chấp trước Không Kiến th́ Không có rất nhiều loại. “Manh vô huệ mục” (mù ḷa, chẳng có con mắt Huệ): Chẳng hiển thị công đức trân bảo Đại Thừa vô thượng. Quư vị cho kẻ đó trân bảo Đại Thừa, tức pháp Đại Thừa, kẻ đó chẳng nhận biết! “Thí như hữu nhân, kỳ thân xú uế, tuy dĩ chủng chủng thượng diệu hương đồ, nhi cánh bất linh kỳ thân hương khiết” (ví như có kẻ thân thể hôi bẩn, tuy dùng các thứ hương tốt nhất để bôi, trọn chẳng thể khiến cho thân thể thơm sạch): “Xú uế” là do ghẻ lở hoặc chảy mủ, tuy quư vị cho người ấy xức cả đống nước hoa, vẫn chẳng có cách nào!        

          “Bất đoạn sát sanh, năi chí tà kiến” (chẳng đoạn sát sanh, cho đến tà kiến): Kẻ đó nói sát sanh chẳng có tội. Lại giống như có người nói “lợn, dê sanh ra để làm thức ăn cho con người”. Đó gọi là “tà kiến”. Cho đến nói “quư vị làm ác, hại người, nhất định thọ báo, hại người rốt cuộc là hại ḿnh”. Chúng ta nói như vậy, kẻ đó chẳng tin! Hắn chỉ thấy người sống hưởng lạc, chẳng thấy người chết chịu tội! Kẻ đó chẳng có trí huệ, làm sao có thể thấy cho được? Điều này thuộc về tà kiến. Tuy kẻ đó vẫn nghe Đại Thừa rất siêng năng, nhưng “bất năng giải thậm thâm pháp” tức là chẳng thể hiểu pháp nghĩa rất sâu, cho nên chẳng ngộ được! “Thí như thạch điền” (ví như thửa ruộng toàn đá): Đất ruộng toàn là đá lổn nhổn, làm sao có thể gieo hạt giống cho nổi? Nếu quư vị gieo xuống, chẳng thể nào kết hạt được!     Do vậy, “chúng sanh ư pháp Nhị Thừa, kiêu mạn, giải đăi, bất nhạo cần tu” (chúng sanh đối với pháp Nhị Thừa mà kiêu căng, ngạo mạn, lười nhác, chẳng thích siêng tu): V́ sao chẳng thích siêng tu? “Tham cầu ngũ dục”: Tham luyến cảnh giới ngũ dục, kẻ đó sẽ giải đăi, cũng chẳng phiền chán, cũng chẳng siêng tu. “Tuy ư bỉ thân thực Đại Thừa chủng” ư nói quư vị đă gieo chủng tử Đại Thừa cho các chúng sanh ấy, nhưng họ toàn là ruộng đá, chẳng thể sanh trưởng, mà họ cũng chẳng siêng ṛng tu học. “Chung vô sở thành” (trọn chẳng thành tựu): Từ đầu đến cuối chẳng có thành tựu. Chẳng hạn như chúng ta đọc kinh Địa Tạng, chúng ta cho rằng kinh Địa Tạng là Đại Thừa hay Tiểu Thừa? Nói là Đại Thừa, th́ kinh toàn giảng về nỗi khổ trong địa ngục. Nói là Tiểu Thừa th́ Địa Tạng Bồ Tát chuyện ǵ cũng đều gia tŕ quư vị. Tam thừa đạo quả, quư vị đều có thể đạt được từ kinh Địa Tạng. Do vậy, kinh ấy chẳng phải Đại, mà cũng chẳng phải Tiểu, mà cũng là Đại, cũng là Tiểu, tùy thuộc người lănh hội, tùy thuộc quư vị có suy nghĩ như thế nào, thuộc loại pháp khí nào?

          Chúng ta nói Tam Quy, Ngũ Giới. Bước đầu tiên để nhập Phật môn là phải thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Tam Quy, Ngũ Giới thuộc Đại Thừa hay Tiểu Thừa? Trọn chẳng có ai phán định Tam Quy, Ngũ Giới là Tiểu Thừa, mà cũng chẳng có ai phán định Tam Quy, Ngũ Giới là Đại Thừa. Nếu quư vị thọ Tam Quy, Ngũ Giới, măi cho đến khi phát Bồ Tát tâm lợi ích chúng sanh, th́ sẽ là Đại Thừa. Sau khi quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, chán ĺa thế gian, mong cầu xuất ly, trước hết chỉ lo cho chính ḿnh, chẳng quan tâm tới ai khác, th́ sẽ là Tiểu Thừa. Hết thảy các pháp chẳng có lớn hay nhỏ, chỉ tùy thuộc dụng tâm như thế nào? Nhưng ở đây, theo thứ tự, xét theo giáo nghĩa của đức Phật, như kinh A Hàm là Tiểu Thừa, kinh Bát Nhă là Đại Thừa. Kinh A Hàm cũng có ư nghĩa Đại Thừa, nhưng chúng ta chẳng lănh hội được. Đức Phật thuyết pháp chẳng đơn thuần, trọn chẳng phải là Tiểu th́ tuyệt đối Tiểu, Đại th́ tuyệt đối là Đại, chẳng phải như vậy! Phật pháp chẳng có pháp cố định, dựa theo tâm mà lập, chiếu theo cái tâm chúng sanh của những người học Phật như chúng ta để lập ra pháp Đại Thừa hay Tiểu Thừa.

          “Thí như ung khí, tiên trữ độc dược, đầu thiểu thạch mật, bất nhậm thực dụng” (ví như cái ṿ, trước đó đă chứa độc dược, bỏ vào chút thạch mật, sẽ chẳng thể dùng để ăn): Hoặc là một cái bát, cái ṿ, hoặc là một cái lu, tùy tiện lấy một món đồ đựng nào đó, trong quá khứ đă chứa thuốc độc, nếu quư vị chẳng rửa sạch, lại bỏ thạch mật vào đó. Thạch Mật (石蜜) là đường phèn, tuy đă biến đổi, nhưng vẫn chẳng thể ăn. Ăn vào, sẽ bị trúng độc. Giải quyết vấn đề như thế nào? “Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, bất khẳng tu học, chấp vô nhân luận” (cũng giống như thế, chúng sanh đối với pháp Nhị Thừa chẳng chịu tu học, chấp trước luận thuyết “chẳng có cái nhân”), tức là chẳng nói nhân quả, [đó là] Vô Nhân Luận. Quư vị nói pháp Đại Thừa cho người như vậy, người ấy có thể thành tựu lợi ích cho ḿnh lẫn người hay không? Không chỉ là chẳng thể lợi ích cho người khác, mà ngay cả chính ḿnh cũng chẳng đạt được lợi ích!

 

          (Kinh) Thí như ung khí, tiên trữ thạch mật, đầu thiểu độc dược, bất nhậm thực dụng. Như thị chúng sanh, tinh cần tu học Nhị Thừa chánh pháp do vị thành tựu, vị thuyết Đại Thừa, nhị câu hoại thất. Thí như hữu nhân, si cuồng, tâm loạn, vị tác âm nhạc, bất năng liễu tri. Như thị chúng sanh ư Nhị Thừa pháp, vị tằng tu học, tham, sân, si đẳng mănh lợi phiền năo, nhiễu loạn kỳ tâm, chấp trước vô nhân, cập Đoạn Diệt Luận, căn cơ vị thục, vị thuyết Đại Thừa, tuy kinh đa thời, nhi bất năng giải. Thí như hữu nhân bất trước giáp trụ, bất tŕ đao, trượng, triếp nhập trận trung, tất tao thương hại, thọ chư khổ năo. Như thị chúng sanh, ư Nhị Thừa pháp, vị tằng tu học, trí huệ hiệp liệt, căn khí vị thành, vị thuyết Đại Thừa, tất sanh vọng chấp. Do thử triển chuyển, tạo ác vô cùng. Như thị si nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục, ư chư ác thú, luân chuyển văng lai. Ưng tri như tiền thứ đệ quảng thuyết.

          ()譬如甕器,先貯石蜜,投少毒藥,不任食用;如是眾生精勤修學,二乘正法猶未成就,為說大乘,二俱壞失。譬如有人癡狂心亂,為作音樂不能了知;如是眾生於二乘法未曾修學,貪瞋癡等猛利煩惱擾亂其心,執著無因及斷滅論,根機未熟,為說大乘,雖經多時而不能解。譬如有人不著甲冑,不持刀杖,輒入陣中,必遭傷害受諸苦惱;如是眾生於二乘法未曾修學,智慧狹劣,根器未成,為說大乘,必生妄執,由此展轉造惡無窮。如是癡人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄,於諸惡趣輪轉往來,應知如前次第廣說。

          (Kinh: Ví như cái ṿ chứa, trước đó chứa thạch mật, bỏ vào một chút độc dược, chẳng dùng để ăn được. Chúng sanh cũng như thế, siêng ṛng tu học chánh pháp Nhị Thừa vẫn chưa thành tựu, v́ họ nói Đại Thừa, th́ hai đằng đều hư hoại, mất đi. Ví như có người, si cuồng, loạn tâm, v́ kẻ đó mà tấu âm nhạc th́ kẻ đó chẳng thể hiểu biết. Chúng sanh cũng như thế, chưa từng tu học pháp Nhị Thừa, phiền năo tham, sân, si v.v… mạnh mẽ, nhiễu loạn cái tâm, chấp trước không có cái nhân và Đoạn Diệt Luận, căn cơ chưa chín muồi, v́ họ nói Đại Thừa, dẫu trải qua nhiều thời gian, họ vẫn chẳng thể hiểu. Ví như có người chẳng mặc giáp trụ, chẳng cầm đao, gậy, xông bừa vào trận, ắt bị tổn thương, chịu các khổ năo. Chúng sanh cũng như thế, chưa từng tu học pháp Nhị Thừa, trí huệ hẹp kém, chưa thành căn khí, v́ họ nói Đại Thừa, họ ắt sanh chấp trước xằng bậy. Do vậy, xoay vần tạo ác vô cùng. Kẻ si như thế chẳng lâu sau, sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó nhẫn. Mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián, ở trong các đường ác, luân chuyển qua lại. Hăy nên biết như trong phần trên đă theo thứ tự nói cặn kẽ).

 

          “Thí như ung khí, tiên trữ thạch mật” (Ví như cái ṿ, trước hết chứa thạch mật): Quư vị cho vào đó một tí thuốc độc, một chút là được rồi, quư vị vẫn chẳng thể ăn được, ăn vào sẽ bị trúng độc chết. “Như thị chúng sanh, tinh cần tu học Nhị Thừa chánh pháp, do vị thành tựu” (chúng sanh như thế, siêng ṛng tu học chánh pháp Nhị Thừa, vẫn chưa thành tựu): Cũng giống như có hạng chúng sanh tu pháp Nhị Thừa, v́ giải đăi, tu ǵ cũng đều chẳng thành tựu. Nếu lại nói pháp Đại Thừa cho họ, Nhị Thừa đă hỏng rồi, Đại Thừa cũng hư luôn, hai đằng họ đều chẳng thể thành tựu được! “Thí như hữu nhân, si cuồng tâm loạn, vị tác âm nhạc, bất năng liễu tri” (Ví như có người, si cuồng, tâm loạn, v́ kẻ ấy tấu âm nhạc, [kẻ đó] chẳng thể hiểu biết): Tâm kẻ đó đă loạn rồi, quư vị gảy đàn hoặc ca hát cho kẻ đó nghe, thứ ǵ cũng đều chẳng lọt tai. Giống như chúng sanh chưa từng tu học pháp Nhị Thừa, tham, sân, si rất mạnh mẽ, phiền năo nhiễu loạn cái tâm kẻ đó. Kẻ đó “chấp trước vô nhân” (chấp trước chẳng có cái nhân), quư vị nói ǵ, kẻ đó cũng chẳng nghe, v́ kẻ đó chấp trước Đoạn Diệt Luận. Đối với người như vậy, quư vị nói pháp ǵ cũng chẳng thành. Dẫu quư vị nói bao lâu đi nữa, kẻ đó cũng chẳng thể lư giải!

          “Thí như hữu nhân, bất trước giáp trụ, bất tŕ đao, trượng, triếp nhập trận trung, tất tao thương hại, thọ chư khổ năo” (Ví như có người chẳng mặc giáp trụ, chẳng cầm đao, gậy, xông bừa vào trận, ắt bị tổn thương, chịu các khổ năo): Đấy là nói trong lúc chiến tranh, ra trận, đều phải khoác khôi giáp, bên trong c̣n mặc thêm áo giáp. “Trụ” () là thứ mặc bên trong. “Khải giáp” (鎧甲) là thứ khoác bên ngoài. Tôi ở Tây Tạng, thấy hằng năm vào tiết Xuân, họ đua ngựa, bắn cung, đều đội thiết khôi[4], đeo thiết giáp khá nặng. Ngựa hiện thời căn bản là chẳng chịu nổi. Bộ thiết khôi thiết giáp ấy nặng cả trăm cân, lại thêm thân người nặng một trăm cân nữa, c̣n phải có người tới giúp th́ mới mặc được, đều bằng sắt thật sự. Họ diễn tuồng vẫn chỉ là h́nh dung. Tây Tạng diễn tuồng sử dụng thiết khôi, thiết giáp thật sự để kéo cung, bắn tên. Nếu ngay cả những thứ này mà quư vị chẳng pḥng hộ kỹ càng, trong tay chẳng có đao, mà cũng chẳng có cung tên, chỉ là hai nắm tay trống rỗng mà xông vào trận đánh nhau, không được rồi! Hiện thời, càng không thể! Hiện thời dùng súng ống, lại khác hẳn thời ấy!

          Do vậy, nói pháp Đại Thừa cho kẻ đó, hắn chẳng rơi vào Đoạn Diệt Kiến, th́ cũng rơi vào Thường Kiến, sẽ chấp trước hai bên. Do vậy mà lần lượt tạo ác vô cùng, tạo ra rất nhiều sai trái. Kẻ cuồng si không có trí huệ như thế, chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết. Do hủy báng Tam Bảo, mờ mịt nhân quả. “Ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn” (trong nhiều ngày đêm, bị đớ lưỡi, chẳng thể nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng). Sau khi mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián. “Ư chư ác thú, luân chuyển văng lai, ưng tri như tiền, thứ đệ quảng thuyết” (Luân chuyển qua lại trong các đường ác, hăy nên biết như đă nói cặn kẽ theo thứ tự trong phần trước): Những điều này trong phần trước đều đă nói rồi, ở trong địa ngục chịu khổ, chịu khổ vô cùng tận.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thị cố trí giả, tiên ưng quán sát nhất thiết chúng tâm, nhiên hậu thuyết pháp. Tiên đương khởi phát từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, ích tâm, bất giải đăi tâm, năng nhẫn thọ tâm, bất kiêu mạn tâm, bất tật đố tâm, bất xan lận tâm, đẳng dẫn định tâm, nhiên hậu vị tha tuyên thuyết chánh pháp, chung bất linh tha chư chúng sanh loại, văn sở thuyết pháp, luân chuyển sanh tử, đọa đại hiểm nạn. Thị cố, Như Lai thiện đạt nhất thiết chúng sanh tâm tướng, dĩ Vô Trần Cấu, Vô Thủ Hành Luân, vị thuyết chánh pháp. Cụ đại giáp trụ nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị tha thuyết pháp, diệc phục như thị. Do bi mẫn cố, vị linh đoạn diệt chư phiền năo cố, vị linh siêu độ tam hữu hải cố, vị chư chúng sanh ư tam thừa trung, tùy tâm sở nhạo, tùy thú Nhất Thừa, tốc viên măn cố, vị thuyết chánh pháp, chung bất linh kỳ luân chuyển sanh tử, đọa đại hiểm nạn.

          ()善男子,是故智者先應觀察一切眾心,然後說法,先當發起慈心、悲心、喜心、益心、不懈怠心、能忍受心、不憍慢心、不嫉妒心、不慳吝心、等引定心,然後為他宣說正法,終不令他諸眾生類,聞所說法,輪轉生死,墮大險難。是故如來善達一切眾生心相,以無塵垢、無取行輪,為說正法;具大甲冑一切菩薩摩訶薩眾,為他說法亦復如是。由悲愍故,為令斷滅諸煩惱故,為令超渡三有海故,為諸眾生於三乘中隨心所樂,隨趣一乘速圓滿故,為說正法,終不令其輪轉生死,墮大險難。

          (Kinh: Này thiện nam tử! V́ thế, người có trí, trước hết hăy nên quan sát cái tâm của hết thảy mọi người, sau đấy thuyết pháp. Trước hết, hăy nên phát khởi từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, tâm lợi ích, tâm chẳng giải đăi, tâm có thể chịu đựng, tâm chẳng kiêu mạn, tâm chẳng ghen ghét, tâm chẳng bủn xỉn, tâm đẳng dẫn định. Sau đấy, v́ họ tuyên thuyết chánh pháp, trọn chẳng để các loài chúng sanh khác nghe pháp đă nói mà luân chuyển sanh tử, đọa vào hiểm nạn to lớn. V́ thế, Như Lai khéo thông đạt tâm tướng của hết thảy chúng sanh, dùng Vô Trần Cấu, Vô Thủ Hành Luân v́ họ nói chánh pháp. Hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ giáp trụ, v́ người khác thuyết pháp cũng giống như thế. Do thương xót, do muốn khiến cho chúng sanh đoạn diệt các phiền năo, v́ khiến cho họ vượt thoát biển ba cơi, v́ để các chúng sanh từ trong ba thừa, tùy ḷng ưa thích chọn lựa tiến theo một thừa, sẽ mau được viên măn, v́ nói chánh pháp trọn chẳng để cho chúng sanh luân chuyển sanh tử, đọa vào trong hiểm nạn to lớn).

 

          Người có trí huệ trước hết phải quan sát chúng sanh, quan sát xem tâm niệm của họ là ǵ? Chuyện này ắt cần phải đắc Tha Tâm Thông và Túc Mạng Thông. Nếu không trọn đủ [các món thần thông ấy], sẽ làm như thế nào? Trước hết, quư vị phải phát tâm. “Phát Từ tâm”: Từ tâm là ban cho chúng sanh hết thảy sự vui sướng, dẹp trừ đau khổ cho chúng sanh. “Đại bi tâm” là thấy chúng sanh đau khổ giống hệt như chính ḿnh đau khổ. Đó gọi là phát Bồ Đề tâm. Trọn đủ nhiều loại tâm như vậy, sanh khởi tâm hoan hỷ, vui mừng đối với pháp, vui mừng đối với chúng sanh. Sanh “ích tâm”, tức là nhất định tạo lợi ích cho chúng sanh. “Bất giải đăi tâm”: Tu pháp, thuyết pháp đều phải tinh tấn, có thể chịu đựng sự năo hại của chúng sanh, đủ mọi thứ hủy báng đều có thể chịu đựng, v́ sẽ tiêu tai. “Bất kiêu mạn tâm”: Chúng sanh và ta đều b́nh đẳng. Nếu thoát ly chúng sanh, quư vị sẽ chẳng thể thành Phật. Hôm nào đó, tôi đă cùng mọi người nói đến chuyện báo đáp tứ trọng ân, có biết tứ trọng ân là ǵ hay không? Chúng ta chỉ biết cha, mẹ, Phật, chẳng biết ân chúng sanh. Báo tứ trọng ân, điều thứ nhất là báo chúng sanh ân. Chẳng có chúng sanh, quư vị sẽ chẳng thể thành Phật. Từ bi hỷ xả đối với ai? Chúng sanh thành tựu Phật đạo cho quư vị. Có thể chịu đựng, chẳng kiêu căng, ngạo mạn, lại c̣n chẳng ganh tỵ, chẳng bủn xỉn!

          “Đẳng dẫn định tâm”: Phải trọn đủ nhiều tâm ngần ấy! Do định lực, dẫn khởi sự vui sướng nơi thân tâm, thân tâm an tịnh. Đó gọi là “đẳng dẫn” (等引). Sau đó, v́ người ấy tuyên thuyết chánh pháp, nói đại pháp, chẳng khiến cho người ấy v́ nghe thuyết pháp mà luân chuyển sanh tử. Chỉ cần được nghe pháp, sẽ khiến cho người ấy đoạn tuyệt con đường sanh tử, tối thiểu là đoạn tuyệt nỗi khổ nơi ba ác đạo. Trước kia, tôi giảng Hoa Nghiêm, giảng Pháp Hoa. Thoạt đầu, học pháp, đă trải qua hai Phật Học Viện, năm năm đầu học Hoa Nghiêm tại Cổ Sơn. Năm năm sau là ở Trạm Sơn Tự, học tứ giáo với lăo pháp sư Đàm Hư, tức là lấy kinh Pháp Hoa làm chủ. Sau khi đă tới Mỹ, đổi sang học kinh Địa Tạng, bèn giảng Địa Tạng Tam Kinh. Nếu ai có thể niệm kinh Địa Tạng, tin kinh Địa Tạng, thấy tượng Địa Tạng Bồ Tát, thờ tượng Địa Tạng, sẽ tuyệt đối đoạn dứt tam đồ, hiểm nạn chẳng c̣n nữa. Đức Phật nói như thế đó. Tôi cho rằng giảng pháp này, chúng sanh sẽ không c̣n luân chuyển sanh tử, đọa trong khổ năo to lớn. Sau đó, có khi c̣n giảng Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, giảng ba phẩm kinh Hoa Nghiêm, cũng giảng Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta khéo dùng cái tâm như thế nào. Chúng ta chỉ cần biết dụng tâm là được rồi. Khéo dùng cái tâm, sẽ đoạn hết thảy ác. Quư vị biết dụng tâm, gặp điều ǵ sẽ phát nguyện điều ǵ, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật.

          “Như Lai thiện đạt nhất thiết chúng sanh tâm tướng, dĩ Vô Trần Cấu, Vô Thủ Hành Luân, vị thuyết chánh pháp” (Như Lai khéo thông đạt tâm tướng của hết thảy chúng sanh, dùng Vô Trần Cấu, Vô Thủ Hành Luân để nói chánh pháp cho họ): Tiếp đó, nói đến Phật luân, ư nghĩa của mấy đoạn kinh văn này rất sâu, quư vị phải chú ư nghe. “Cụ đại giáp trụ nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát chúng” (hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ giáp trụ): Người ấy ở trong chúng sanh mà chẳng bị chúng sanh tiêm nhiễm, ở trong chiến trận đội khôi, mặc giáp, chẳng bị thương tổn, là bậc đại Bồ Tát, như vậy th́ mới có thể thuyết pháp cho người khác. Đấy là “do bi mẫn cố, vị linh đoạn diệt chư phiền năo cố” (do v́ thương xót, v́ muốn đoạt diệt các phiền năo): Thương xót hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh đoạn trừ các phiền năo ấy. “Vị linh siêu độ tam hữu hải” (v́ khiến cho họ vượt thoát biển ba cơi): Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới được gọi chung là Tam Hữu. Thông thường, “tam hữu” là nói đến điều này!

          “Vị chư chúng sanh ư tam thừa trung, tùy tâm sở nhạo, tùy thú nhất thừa” (v́ khiến cho các chúng sanh từ trong tam thừa, tùy ḷng ưa thích, sẽ tiến hướng theo một thừa), tức là thuyết pháp trọn khắp, cả ba thừa đều nói. Chúng sanh có duyên với thừa nào, học thừa ấy sẽ rất tốt, cho nên cả ba thừa “đại, trung, tiểu” đều nói. “Tốc viên măn cố” (v́ mau chóng viên măn): Nếu tùy theo căn cơ mà thuyết pháp, người ấy do tương ứng căn cơ, sẽ đắc độ. Như thế th́ sẽ khiến cho người ấy viên măn rất nhanh chóng. “Vị thuyết chánh pháp, chung bất linh kỳ luân chuyển sanh tử, đọa đại hiểm nạn” (v́ họ nói chánh pháp, trọn chẳng khiến cho họ luân chuyển sanh tử, đọa vào hiểm nạn to lớn): Mục đích thuyết pháp là khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được vui, chẳng c̣n đọa trong hiểm nạn. “Hiểm nạn” chính là sự hiểm nạn trong tam đồ.

 

          (Kinh) Vân hà danh Vô Trần Cấu Hành Luân? Vô Trần Cấu giả, vị thuyết pháp thời, bất vị hữu Uẩn, bất vị hữu Xứ, bất vị hữu Giới, bất vị hữu Dục Giới, bất vị hữu Sắc Giới, bất vị hữu Vô Sắc Giới, bất vị hữu thử thế, bất vị hữu tha thế, bất vị hữu chư Hành, bất vị hữu Thọ, bất vị hữu Tưởng, bất vị hữu Tư, bất vị hữu Xúc, bất vị hữu tác ư, bất vị hữu vô minh, năi chí bất vị hữu lăo tử, bất vị hữu hành, cập bất hành cố. Vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp, duy vị nhất thiết chư Uẩn, Xứ, Giới, quảng thuyết năi chí hành dữ bất hành, giai tịch diệt cố, vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp. Dĩ thị nghĩa cố, danh Vô Trần Cấu. Hành giả, sở vị vị năng vĩnh đoạn tử thử, sanh bỉ, vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp. Sở vị: Vị năng vĩnh đoạn chư Uẩn, Xứ, Giới, quảng thuyết năi chí vị năng vĩnh đoạn hành dữ bất hành, vị chư chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp. Thị danh vi Hành. Luân giả, sở vị như măn nguyệt quang, thanh lương vô ngại, biến măn hư không, chiếu xúc nhất thiết vô chướng cảnh giới. Như thị Như Lai, cập chư Bồ Tát, sở hữu thần thông, kư thuyết, giáo giới, tam chủng thắng luân tác dụng vô ngại, biến chư thế giới, lợi lạc nhất thiết sở hóa chúng sanh, linh chư chúng sanh bất dị quy thú, bất cộng nhất thiết thế gian chúng sanh, bất cộng nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác, năng linh chúng sanh đoạn diệt sanh tử chư khổ năo pháp, chứng đắc an lạc Bồ Đề Niết Bàn. Thị danh vi Luân. Như thị danh vi chư Phật, Bồ Tát Vô Trần Cấu Hành Luân.

          ()云何名無塵垢行輪?無塵垢者,謂說法時,不為有蘊,不為有處,不為有界,不為有欲界,不為有色界,不為有無色界,不為有此世,不為有他世,不為有諸行,不為有受,不為有想,不為有思,不為有觸,不為有作意,不為有無明,乃至不為有老死,不為有行及不行故,為諸眾生宣說正法;唯為一切諸蘊、處、界,廣說乃至行與不行皆寂滅故,為諸眾生宣說正法;以是義故,名無塵垢。行者,所謂為能永斷死此生彼,為諸眾生宣說正法;所謂為能永斷諸蘊處界,廣說乃至為能永斷行與不行,為諸眾生宣說正法;是名為行。輪者,所謂如滿月光,清涼無礙徧滿虛空,照觸一切無障境界;如是如來及諸菩薩所有神通、記說、教誡三種勝輪,作用無礙遍諸世界,利樂一切所化眾生,令諸眾生不異歸趣,不共一切世間眾生,不共一切聲聞、獨覺,能令眾生斷滅生死諸苦惱法,證得安樂菩提涅槃,是名為輪。如是名為諸佛菩薩無塵垢行輪。

          (Kinh: Thế nào là Vô Trần Cấu Hành Luân? Vô Trần Cấu tức là khi thuyết pháp, chẳng v́ có Uẩn, chẳng v́ có Xứ, chẳng v́ có Giới, chẳng v́ có Dục Giới, chẳng v́ có Sắc Giới, chẳng v́ có Vô Sắc Giới, chẳng v́ có đời này, chẳng v́ có đời khác, chẳng v́ có các Hành, chẳng v́ có Thọ, chẳng v́ có Tưởng, chẳng v́ có Tư, chẳng v́ có Xúc, chẳng v́ có tác ư (dấy khởi ư niệm), chẳng v́ có vô minh, cho đến chẳng v́ có già, chết, chẳng v́ có hành và bất hành. V́ các chúng sanh tuyên nói chánh pháp, chỉ v́ hết thảy các Uẩn, Xứ, Giới, nói rộng là cho đến hành và bất hành đều tịch diệt, v́ các chúng sanh tuyên nói chánh pháp. Do v́ nghĩa ấy, gọi là Vô Trần Cấu. Hành tức là có thể vĩnh viễn đoạn dứt “chết đây, sanh kia”. V́ các chúng sanh tuyên nói chánh pháp, tức là có thể vĩnh viễn đoạn các Uẩn, Xứ, Giới, nói rộng là cho đến có thể vĩnh viễn đoạn hành và bất hành, v́ các chúng sanh tuyên nói chánh pháp. Đấy gọi là Hành. Luân tức là như ánh trăng tṛn, trong mát, vô ngại, trọn khắp hư không, chiếu chạm hết thảy cảnh giới chẳng chướng ngại. Như Lai và các vị Bồ Tát cũng như thế, tất cả ba loại luân thù thắng là thần thông, kư thuyết (thuyết pháp ứng với sự mong mỏi, nghĩ nhớ của chúng sanh), giáo giới (răn dạy) tác dụng vô ngại, trọn khắp các thế giới, lợi lạc hết thảy chúng sanh được giáo hóa, khiến cho các chúng sanh chẳng quy hướng theo đường khác, nhưng chẳng giống như hết thảy chúng sanh trong thế gian, chẳng chung với hết thảy Thanh Văn và Độc Giác, có thể khiến cho chúng sanh đoạn diệt các pháp sanh tử khổ năo, chứng đắc an lạc Bồ Đề Niết Bàn. Đấy gọi là Luân. Như thế gọi là Vô Trần Cấu Hành Luân của chư Phật, Bồ Tát).

 

          Điều này gọi là Vô Trần Cấu Luân (無塵垢輪), là nghĩa Không. [Trong đoạn trước] vừa mới nói [thuyết pháp không đúng căn cơ, sẽ khiến cho người nghe] đọa vào Đoạn Diệt Kiến, nhưng ở đây là thuyết pháp vi diệu, chẳng khiến cho kẻ nghe đọa vào Đoạn Diệt Kiến. “Hữu” là sắc pháp, bao gồm tâm pháp. “Hữu uẩn” là Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. “Bất vị hữu Xứ” (chẳng v́ có Xứ) là mười hai Xứ. “Bất vị hữu Giới’ (chẳng v́ có Giới) là mười tám Giới. Lại nói riêng về một điều, “bất vị hữu Dục Giới”, “bất vị hữu Sắc Giới”, “bất vị hữu Vô Sắc Giới” (chẳng v́ có Dục Giới, chẳng v́ có Sắc Giới, chẳng v́ có Vô Sắc Giới), tức là tam giới. “Bất vị hữu thử thế”, “bất vị hữu tha thế” (chẳng v́ có đời này, chẳng v́ có đời khác), “thử thế” là đời này, “bất vị tha thế” nói tới tương lai. “Bất vị hữu chư hành, bất vị hữu Thọ, bất vị hữu Tưởng, bất vị hữu Tư, bất vị hữu Xúc, bất vị hữu tác ư” (chẳng v́ có các Hành, chẳng v́ có Thọ, chẳng v́ có Tưởng, chẳng v́ có Tư, chẳng v́ có Xúc, chẳng v́ có tác ư): Đấy là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

          “Bất vị hữu vô minh” (Chẳng v́ có vô minh), cho đến chẳng v́ có già, chết. Đấy là mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên th́ Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, Danh Sắc duyên Lục Xứ, cho đến già chết.

          “Bất vị Ngũ Thủ Uẩn” (chẳng v́ Ngũ Thủ Uẩn), Ngũ Thủ Uẩn[5] là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, [cùng với] mười tám Giới, mười hai Xứ, chẳng có Tác Ư, Tư, Tưởng, Thọ, Hành, hết thảy đều chẳng tồn tại, như mộng, huyễn, bọt, bóng, cho đến Vô Trần Cấu Hành, cho đến đối với hành và bất hành, các thứ ấy đều nhằm hiển thị nghĩa Trung Đạo, chẳng rơi vào hai bên Đoạn và Thường.

          Đoạn kinh văn tiếp đó nhằm nhắc lại, v́ sao phải nhắc lại? V́ ư nghĩa này chẳng dễ hiểu! Đức Phật thuyết pháp là thanh tịnh, thanh tịnh luân trần cấu là những ǵ đă làm, những điều giáo hóa đă nói đều là thanh tịnh. Trong khi thuyết pháp, chẳng chấp trước cái này, mà cũng chẳng chấp trước cái kia. Hết thảy đều chẳng chấp trước, chẳng có đây và kia. Đây và kia đều là đối đăi. Hễ có đối đăi, bèn có trần cấu, cho nên pháp chẳng có đối đăi. Ĺa khỏi hai bên, hiển lộ Trung Đạo, ly tứ cú, tuyệt bách phi.

          Muốn đoạn sanh tử, phải hành Vô Trần Cấu Luân này, khiến cho hết thảy đều tịch diệt, đều thanh tịnh. Những điều chúng ta vừa đọc trên đây đều là v́ tịch diệt, nói chánh pháp cho chúng sanh. Do v́ nghĩa ấy, nên gọi là Vô Trần Cấu. Hành giả, nếu làm như vậy, sẽ có thể vĩnh viễn đoạn dứt “chết đây, sanh kia”, đó gọi là Hành. Vô Trần Cấu ắt cần phải đạt đến vĩnh viễn dứt sanh tử, chứng Niết Bàn rốt ráo. Đấy là chánh pháp, chánh pháp rốt ráo, vĩnh viễn đoạn các Uẩn, Xứ, Giới, Ngũ Uẩn, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới.

          Nếu nói rộng, hết thảy hành và bất hành đều phải đoạn tuyệt, chẳng có hành, mà cũng chẳng có bất hành, đấy mới gọi là Vô Trần Cấu Luân. Vô Trần Cấu Luân là như vậy, chẳng có hành, mà cũng chẳng có bất hành. Hành tức là bất hành, bất hành tức là hành. Các pháp do đức Phật đă nói đều không có khởi đầu, không kết thúc. Do vậy gọi là Viên. Quư vị t́m cái khởi đầu sẽ chẳng có, t́m cái kết thúc cũng chẳng có. Đó là ư nghĩa Viên. Hiện thời, dùng điều này để hiển thị Vô Trần Cấu Luân. Trong ấy, có mười loại giáp trụ luân. Luân là nói tỷ dụ, tỷ dụ ǵ vậy? Ví như pháp, dùng bánh xe để nói. Bánh xe có thể nghiền nát hết thảy các vật chướng ngại ở dưới nó. Trong Phật giáo, sánh ví những điều đức Phật đă nói giống như Luân. Luân ấy giống như trăng Rằm, quang minh chiếu trọn khắp. Nếu là mùa Hạ, ban đêm ánh trăng vừa chiếu bèn rất trong mát. Ư nghĩa của việc sánh ví [những điều Phật dạy] như quang minh nhằm thuyết minh [những pháp ấy] không bị chướng ngại. Quang minh hiển hiện trong không trung, chẳng có chướng ngại, cũng tức là tướng cảnh giới vô chướng ngại. Đấy là h́nh dung tất cả tác dụng thù thắng của [ba thứ thuyết pháp luân là] thần thông, kư thuyết, và giáo giới của Phật và đại Bồ Tát cũng đều vô ngại.

          C̣n đối với thần thông, nơi sáu căn của đức Phật, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư đều biến thành thần thông. Vậy th́ thiên nhăn, thiên nhĩ, [đối với mỗi căn] đều thêm một chữ Thiên. Thiên () [ở đây] có nghĩa là tự nhiên. Khi quư vị chứng đắc, đă hiểu rơ, đă khai ngộ, khôi phục bản thể vốn có, các cảnh giới bị mê hoặc hay bị chướng ngại đều tiêu mất, sẽ có thần thông. Thần thông là bổn tánh trí huệ của quư vị. Cái Thể của thần thông là trí huệ. “Thần” () là chẳng dựa vào sự nghĩ bàn. Người khác thấy một sự kiện [kỳ diệu], bèn nói người ấy là chân thần. Chân thần giống như ảo thuật, có cảm giác người ấy là thần. Hoặc là nuốt đao, phun lửa, quư vị cảm thấy [người làm được như vậy] đúng là rất thần dị, v́ quư vị chẳng thể làm. Quư vị thấy họ làm, cảm giác rất thần dị. Thần thông của Phật rất tự nhiên. Ngài trông thấy chúng sanh, biết chúng sanh tướng, biết đời quá khứ của chúng sanh, đáng nên nói pháp ǵ cho họ, khiến cho họ có thể khai ngộ. [Đó là thần thông]. C̣n “kư thuyết” (記說) là đại Bồ Tát hoặc chư Phật, đối với những điều chúng sanh nghĩ nhớ trong tâm, các Ngài đều ghi nhớ, tức là ghi nhớ những điều thuộc về tu nhân và tác dụng của cái tâm người ấy trong khi tu nhân, để thuyết pháp [tương ứng với điều họ nghĩ nhớ ấy]. Đó gọi là “kư thuyết”. “Giáo giới” (教誡, răn dạy): Phàm là pháp do đức Phật đă nói đều gọi là “giáo giới”. Như khi chúng ta thỉnh cầu giáo giới từ thượng sư, [giáo giới] có nghĩa là “răn nhắc, khích lệ, giáo hóa” quư vị. Giáo giới có nghĩa là thuyết pháp. Vốn là vị thầy răn dạy quư vị về giới luật, dạy quư vị nên làm như thế nào.

          Ba loại pháp luân thù thắng ấy có tác dụng vô chướng ngại, tức là tác dụng chẳng bị trở ngại, chẳng phải là chỉ độ cho một chúng sanh nào đó, chẳng độ chúng sanh khác, hoặc độ trong thế giới này, chẳng thể độ trong thế giới khác. [Nếu như thế] th́ là có phân biệt! Do vậy nói [Phật pháp] lợi lạc hết thảy chúng sanh, tức là lợi lạc hết thảy chúng sanh được hóa độ, khiến cho các chúng sanh ấy tam thừa cùng tu chẳng sai khác. Chỉ cần quư vị tu hành theo giáo pháp do đức Phật đă dạy, khởi đầu bằng Tam Quy là được rồi! Dùng ḷng tin Đại Thừa để tu Tam Quy, cái mà quư vị quy hướng chính là cái để quư vị nương cậy, quy về cái tâm của chính ḿnh. Đó là rốt ráo.

          Hết thảy các pháp đă đạt đến chỗ rốt ráo, tức là một niệm tâm b́nh thường của quư vị trong hiện tiền chính là rốt ráo nhất. “Quy thú” (歸趣) là quy y cái tâm của quư vị, quy hướng tam thừa đạo quả, hoặc là quy y Phật quả. Đấy là chỗ riêng biệt (bất cộng) so với hết thảy chúng sanh trong thế gian. Điều này chuyên nói về Phật, Bồ Tát, không chỉ riêng biệt so với hết thảy chúng sanh trong thế gian, mà đối với hết thảy chúng sanh thuộc Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa thuộc xuất thế gian cũng khác biệt. Đức Phật đại từ đại bi, vô lượng từ, bi, hỷ, xả, chẳng giống như hàng Nhị Thừa. V́ sao chẳng cùng chung (bất cộng)? Tiếp đó, [chánh kinh] nói về hàng Nhị Thừa. Nhị Thừa chỉ v́ chính ḿnh, chẳng v́ chúng sanh. Chúng sanh đau khổ, họ chẳng quản, mà cũng chẳng cứu độ. V́ Phật, Bồ Tát có thể đoạn diệt hết thảy khổ năo sanh tử cho chúng sanh, sanh tử do phiền năo của chúng sanh mà dấy lên. Trong sanh tử luân hồi, chúng sanh có vô lượng vô biên khổ năo. [Chư Phật, Bồ Tát] khiến cho họ ngưng dứt, đoạn diệt sanh tử khổ luân, chẳng xoay vần trong lục đạo luân hồi. Như thế th́ sẽ chứng đắc điều ǵ? Chứng đắc Niết Bàn an lạc Bồ Đề. Bồ Đề là giác, v́ đă giác ngộ, v́ đă bất sanh, bất diệt. Niết Bàn là bất sanh, bất diệt, đạt được an lạc rốt ráo, đó gọi là Luân. Tôi giải thích chữ Luân này chính là thuyết pháp. Đó mới gọi là rốt ráo, đă đạt tới Vô Trần Cấu. Vô Thủ Hành, Hành th́ chẳng có năng hành và sở hành (chẳng có người làm và việc được làm), chẳng chấp giữ. Đó gọi là chứng đắc. An lạc như vậy, “như thị giả, danh vi chư Phật, Bồ Tát Vô Trần Cấu Hành Luân” (như thế bèn gọi là Vô Trần Cấu Hành Luân của chư Phật và Bồ Tát).

 

          (Kinh) Vân hà danh vi Vô Thủ Hành Luân? Vị ư chư pháp, vô sở quái ngại. Do như nhật quang phổ chiếu nhất thiết, tam thừa căn khí, tùy kỳ sở nghi, tuyên thuyết chánh pháp, vô sở chấp trước. Vị chư Như Lai vị chư chúng sanh thuyết như thị pháp, do như hư không, vô sai biệt tướng, dĩ vô lượng Định du hư tự tại trang nghiêm trụ tŕ, vị chư chúng sanh thuyết vi diệu pháp, vô sở chấp trước. Cụ đại giáp trụ nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị tha thuyết pháp, diệc phục như thị, vị thuyết chư pháp phi hữu, phi không, phi tức sắc không, phi ly sắc không, năi chí phi tức thức không, phi ly thức không, phi tức nhăn không, phi ly nhăn không, năi chí phi tức ư không, phi ly ư không, phi tức sắc không, phi ly sắc không, năi chí phi tức pháp không, phi ly pháp không, phi tức nhăn thức không, phi ly nhăn thức không, năi chí phi tức ư thức không, phi ly ư thức không, phi tức Dục Giới Không, phi ly Dục Giới Không, năi chí phi tức Hư Không Vô Biên Xứ Không, phi ly Hư Không Vô Biên Xứ Không, phi tức Thức Vô Biên Xứ Không, phi ly Thức Vô Biên Xứ Không, phi tức Vô Sở Hữu Xứ Không, phi ly Vô Sở Hữu Xứ Không, phi tức Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Không, phi ly Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Không, phi tức Tứ Niệm Trụ Không, phi ly Tứ Niệm Trụ Không, năi chí phi tức bát chi thánh đạo không, phi ly bát chi thánh đạo không, phi tức duyên khởi pháp không, phi ly duyên khởi pháp không, phi tức Tam Bất Hộ Không, phi ly Tam Bất Hộ Không, phi tức Tứ Vô Sở Úy Không, phi ly Tứ Vô Sở Úy Không, phi tức Thập Lực Không, phi ly Thập Lực Không, phi tức Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, phi ly Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, phi tức đại từ đại bi đại hỷ đại xả không, phi ly đại từ đại bi đại hỷ đại xả không, phi tức Niết Bàn không, phi ly Niết Bàn không. Thị danh Như Lai cập chư Bồ Tát, vị chư chúng sanh tuyên thuyết xứ trung vi diệu chánh pháp.

          ()云何名為無取行輪?謂於諸法無所罣礙,猶如日光普照一切,三乘根器隨其所宜,宣說正法,無所執著。謂諸如來,為諸眾生說如是法,猶如虛空無差別相,以無量定遊戲自在莊嚴住持,為諸眾生說微妙法,無所執著。具大甲冑一切菩薩摩訶薩眾,為他說法,亦復如是。謂說諸法非有,非空;非即色空,非離色空;乃至非即識空,非離識空;非即眼空,非離眼空;乃至非即意空,非離意空;非即色空,非離色空;乃至非即法空,非離法空;非即眼識空,非離眼識空;乃至非即意識空,非離意識空;非即欲界空,非離欲界空;乃至非即虛空無邊處空,非離虛空無邊處空;非即識無邊處空,非離識無邊處空;非即無所有處空,非離無所有處空;非即非想非非想處空,非離非想非非想處空;非即四念住空,非離四念住空;乃至非即八支聖道空,非離八支聖道空;非即緣起法空,非離緣起法空;非即三不護空,非離三不護空;非即四無所畏空,非離四無所畏空;非即十力空,非離十力空;非即十八不共法空,非離十八不共法空;非即大慈大悲大喜大舍空,非離大慈大悲大喜大舍空;非即涅槃空,非離涅槃空;是名如來及諸菩薩,為諸眾生宣說處中微妙正法。

          (Kinh: Vô Thủ Hành Luân là như thế nào? Tức là trong các pháp chẳng vướng mắc, ví như ánh sáng mặt trời chiếu trọn khắp hết thảy. Đối với căn khí tam thừa, tùy theo căn cơ thích đáng mà tuyên nói chánh pháp, chẳng chấp trước. Tức là các đức Như Lai v́ các chúng sanh nói pháp như thế. Ví như hư không chẳng có tướng sai biệt, dùng vô lượng định du hư tự tại trang nghiêm để trụ tŕ, v́ các chúng sanh thuyết vi diệu pháp chẳng chấp trước. Hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ giáp trụ, v́ người khác thuyết pháp cũng giống như thế. Tức là nói các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải chính là sắc không, chẳng phải là ĺa sắc không, cho đến chẳng phải chính là thức không, chẳng phải là ĺa thức không, chẳng phải chính là nhăn không, chẳng phải là ĺa nhăn không, cho đến chẳng phải chính là ư không, chẳng phải là ĺa ư không, chẳng phải chính là sắc không, chẳng phải là ĺa sắc không, cho đến chẳng phải chính là pháp không, chẳng phải là ĺa pháp không, chẳng phải chính là nhăn thức không, chẳng phải là ĺa nhăn thức không, cho đến chẳng phải chính là ư thức không, chẳng phải là ĺa ư thức không, chẳng phải chính là Dục Giới Không, chẳng phải là ĺa Dục Giới Không, cho đến chẳng phải chính là Hư Không Vô Biên Xứ Không, chẳng phải là ĺa Hư Không Vô Biên Xứ Không, chẳng phải chính là Thức Vô Biên Xứ Không, chẳng phải là ĺa Thức Vô Biên Xứ Không, chẳng phải chính là Vô Sở Hữu Xứ Không, chẳng phải là ĺa Vô Sở Hữu Xứ Không, chẳng phải chính là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Không, chẳng phải là ĺa Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Không, chẳng phải chính là Tứ Niệm Trụ Không, chẳng phải là ĺa Tứ Niệm Trụ Không, cho đến chẳng phải chính là bát chi thánh đạo không, chẳng phải là ĺa bát chi thánh đạo không, chẳng phải chính là duyên khởi pháp không, chẳng phải là ĺa duyên khởi pháp không, chẳng phải chính là Tam Bất Hộ Không, chẳng phải là ĺa Tam Bất Hộ Không, chẳng phải chính là Tứ Vô Sở Úy Không, chẳng phải là ĺa Tứ Vô Sở Úy Không, chẳng phải chính là Thập Lực Không, chẳng phải là ĺa Thập Lực Không, chẳng phải chính là Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, chẳng phải là ĺa Thập Bát Bất Cộng Pháp Không, chẳng phải chính là đại từ đại bi đại hỷ đại xả không, chẳng phải là ĺa đại từ đại bi đại hỷ đại xả không, chẳng phải chính là Niết Bàn Không, chẳng phải là ĺa Niết Bàn Không. Đấy gọi là Như Lai và các Bồ Tát v́ các chúng sanh tuyên thuyết vi diệu chánh pháp nơi các Xứ).

 

          “Vân hà danh vi Vô Thủ Hành Luân?” (Thế nào gọi là Vô Thủ Hành Luân): [Trong phần trước], gộp chung hai điều ấy để nói; nay tách ra. Trước tiên nói về Vô Trần Cấu Hành Luân. Kế đó, nói về Vô Thủ Hành Luân.

          “Vị ư chư pháp vô sở quái ngại, do như nhật quang phổ chiếu nhất thiết” (Tức là chẳng vướng mắc nơi các pháp, ví như ánh sáng mặt trời chiếu trọn khắp hết thảy): Trong phần trước, dùng ánh trăng để h́nh dung sự tiêu trừ nhiệt năo của chúng ta. Trong phần này, dùng ánh nắng để h́nh dung sự tiêu trừ hắc ám. Ánh sáng mặt trời chiếu khắp hết thảy. Đối với tất cả Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa, kẻ đó đáng dùng pháp ǵ để đắc độ, bèn nói pháp đó, thích ứng với căn cơ. Pháp nào tương ứng với kẻ đó, bèn nói pháp đó. Hết thảy chúng sanh cho đến Thanh Văn, Duyên Giác đều có chấp trước. Thanh Văn và Duyên Giác chẳng c̣n Ngă Chấp, đă đoạn Ngă Chấp, nhưng hăy c̣n Pháp Chấp. [Họ cho rằng] “Ngă là giả, Pháp là thật”. Do vậy, trong kinh Kim Cang, đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: “Tri ngă thuyết pháp, như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”, [nghĩa là] ông hăy biết các pháp do ta đă nói cho ông trước kia là để độ ông liễu sanh tử, giống như chiếc thuyền để vượt sông. Đă vượt sông xong rồi, chẳng cần thuyền nữa, c̣n chấp trước để làm chi?

          Nói tới chánh pháp, đúng theo căn cơ mà thuyết pháp th́ [các pháp đă nói ấy] đều là chánh pháp, khiến cho họ đắc độ th́ gọi là chánh pháp. Chẳng đúng căn cơ, dẫu quư vị nói chánh pháp nhiều cỡ nào đi nữa, vẫn chẳng trừ khử nổi chấp trước, chẳng trừ nổi khổ năo, đấy vẫn chẳng phải là chánh pháp! V́ họ (người nghe) chẳng lư giải. [Chánh pháp là pháp] khiến cho chúng sanh chẳng chấp trước nữa! Chư Phật Như Lai v́ các chúng sanh, nói pháp như thế, pháp ǵ vậy? Kế đó, [kinh văn liệt kê] các pháp như thế do đức Phật đă nói. “Như thị” là từ ngữ để chỉ pháp, nhằm chỉ các thứ ǵ đó. Những pháp như thế chính là các pháp nào vậy? Pháp ấy dường như hư không, chẳng có tướng sai biệt. “Tướng” chính là hết thảy các thứ được kiến lập trong hư không. Bản thân hư không chẳng có tướng sai biệt. Đối với tất cả chúng sanh thuộc các đường trong tam thừa, đức Phật đều nói vô lượng loại Định. Có vô lượng thứ Định. Định chẳng phải là ngồi im chẳng nói năng ǵ, sáu căn bất động th́ mới là Định! Trọn chẳng phải là như thế! Định là hết thảy các hành động đều ở trong Định. Chư Phật, Bồ Tát thấy các chúng sanh huyễn hóa, pháp do đức Phật đă nói cũng là pháp huyễn hóa. Khi độ chúng sanh giống như chúng ta đang chơi đùa (“du hư”). Chơi đùa ǵ vậy? “Tự tại trang nghiêm trụ tŕ” tức là Phật thuyết pháp để trụ tŕ, trụ tŕ ngay nơi pháp, trang nghiêm pháp ấy, nhưng trên thực tế, chẳng có pháp ấy!

          “Vị chư chúng sanh thuyết vi diệu pháp, vô sở chấp trước, cụ đại giáp trụ” (v́ các chúng sanh nói pháp vi diệu, chẳng chấp trước, trọn đủ đại giáp trụ): Trọn đủ đại giáp trụ là khi chiến đấu với phiền năo của chúng sanh, chẳng hề sợ hăi, chẳng bị chúng sanh ô nhiễm. Nếu công phu không sâu, chẳng có định lực, vốn là độ chúng sanh, đến cuối cùng lại đâm ra giống hệt như chúng sanh, đă bị chúng sanh nhuốm bẩn! Nếu khởi chấp trước đối với pháp, hoặc dấy chấp trước đối với tướng chúng sanh, đó chẳng phải là liễu nghĩa rốt ráo. Lúc thoạt đầu, nếu [nói ngay] như thế th́ không được, phải biết vào lúc nào, sẽ thuyết pháp nào!

          Vô Trần Cấu Luân là như thế nào? Phật hành Vô Hạnh Luân. Vô Hạnh Luân chính là Vô Thủ Hành Luân, [nghĩa là] chẳng giữ lấy hết thảy các pháp, tức là từ ngay trong sự vận động của nó, Hành là “vận động”, trong hết thảy tác dụng của nó, trí huệ phương tiện thiện xảo chẳng phải là căn bản, mà là huyễn hóa. Loại phương tiện thiện xảo ấy chính là pháp vi diệu.

          Pháp vi diệu là ǵ? Tiếp đó, [chánh kinh] giải thích pháp vi diệu. Điều ǵ cũng chẳng chấp trước, chẳng có ǵ để chấp trước. “Cụ đại giáp trụ” (trọn đủ giáp trụ lớn): Đại giáp trụ là ǵ? Nghĩa Không, hết thảy vô tác! Do vậy nói Bồ Tát Ma Ha Tát, tức là Đại Bồ Tát, [nói theo tiếng Phạn] là Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha dịch nghĩa là Đại, khi độ chúng sanh, hoặc lợi ích chúng sanh, tâm từ bi hỷ xả của Ngài lớn nhất, lớn nhất trong các pháp, nên gọi là Thể Tuớng. Chúng sanh có thể hiểu rơ cái tâm của chính ḿnh, [hiểu rơ] thể tướng của tự tâm, sẽ thuyết pháp cho chúng sanh, tức là nói (thuyết pháp) như thế đó. [Do vậy chánh kinh ghi là] “diệc phục như thị” (cũng giống như thế đó).

          “Thuyết chư pháp phi hữu, phi không, phi tức sắc không, phi ly sắc không, năi chí phi tức thức không, phi ly thức không” (nói các pháp chẳng có, chẳng không, chẳng phải chính là sắc không, chẳng phải là ĺa sắc không, cho đến chẳng phải chính là thức không, chẳng phải là ĺa thức không): Pháp do đức Phật đă nói chẳng chấp trước tướng. Nói Có th́ chúng sanh liền chấp trước Có. Nói Khổ, thật sự khổ, tam khổ, bát khổ, cho đến vô lượng các khổ, sanh, lăo, bệnh, tử khổ, yêu thương phải chia ĺa, ngũ ấm lừng lẫy, cầu chẳng được, chuyện quư vị mong cầu chẳng đạt được mục đích, khổ v́ chết. Mỗi cá nhân đều có nỗi khổ v́ cầu chẳng được! Sanh khổ, bệnh khổ. [Chúng sanh] đă quên mất sanh khổ. Đối với nỗi khổ lúc được sanh ra, quư vị đều mê mờ, chẳng nhớ. Nỗi khổ v́ qua lại luân chuyển, quư vị chẳng nhớ. Lại nói tới các pháp Có; nếu nói là Có, chúng sanh bèn chấp trước. Đức Phật chẳng nói Có, trong giáo nghĩa Đại Thừa đều nói “phi Hữu”. Cái Hữu ấy chẳng phải là Hữu (phi Hữu), phi Hữu chẳng phải là Không! Phi Không th́ chẳng phải là Hữu! Chẳng phải vậy! Đấy là nói đến nghĩa Không. Cái Không ấy chẳng phải là rỗng không như quư vị chấp trước. Do đối ứng với sự chấp trước [cái Không] của quư vị mà nói là phi Không; đối với sự chấp trước cái Có của quư vị mà nói là phi Hữu.

          Hết thảy các pháp đều có hai khía cạnh là Hữu và Không, phi Hữu phi Không là Trung Đạo. Chẳng nói quyết định là Có, mà cũng chẳng nói quyết định là Không. Không tức là Có, Có tức là Không. Không ở trong Hữu, Hữu ở trong Không. Đấy mới là “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”; đó là nói chung. Nói chung th́ “các pháp chẳng phải Có, chẳng phải Không”.

          Tiếp đó, nói phân biệt từng điều. Trước tiên là nói đến Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chúng ta không nói tới Ngũ Uẩn. Pháp Ngũ Uẩn cũng là Không. Bản thân Sắc là Không, đúng chưa? Đă ĺa Sắc th́ ở nơi Sắc bèn nói là Không ư? Hay là từ ĺa Sắc mà nói là Không? Ở nơi Sắc mà nói là Không th́ nó vốn là Có. Chẳng hạn như đóa hoa này, chúng ta nói đóa hoa này là Không chứ ǵ? Không là Có, nhưng nó chẳng thật sự tồn tại, v́ chẳng có tự thể. Nói nó là “phi Hữu”, tức là từ ngay nơi Hữu mà nói là “phi Hữu”, nói “phi Hữu” chính là Không, nhưng phi Không! Hiện thời c̣n có sự thật cụ thể tồn tại, cớ sao là Không? Đối với vấn đề này, quư vị phải ngộ, phải tham cứu!

          Như thân thể này của chúng ta, có hay không? Xác thực là có. Danh tự và h́nh tướng của một người đều là có, nhưng người ấy chẳng phải là một thứ ǵ thật sự tồn tại, v́ có thể biến hóa, chẳng có thể tánh của chính nó. Thân thể của chúng ta do Tứ Đại Chủng hợp thành, tức Địa, Thủy, Hỏa, Phong. Kinh Lăng Nghiêm nói bảy đại, tức là kèm thêm Không, Căn, và Thức. Địa, Thủy, Hỏa, Phong thành tựu thân thể, chẳng Không th́ cũng không được? Mọi người có thể nói xem: Thân thể của chúng ta v́ sao có chỗ trống không? Trong bụng quư vị, giữa ngũ tạng, lục phủ đều có những kẽ hở, giữa khí quan này và khí quan kia đều có khoảng trống. Nếu chẳng có khoảng trống, dính chặt với nhau thành một khối, mỗi khí quan sẽ đánh mất tác dụng. Địa, Thủy, Hỏa, Phong tách ĺa. Nếu trong bụng chẳng có không khí, quư vị c̣n có thể sống sót hay chăng? Không có nước th́ chẳng thứ ǵ tồn tại được. Nếu chẳng có không khí, quư vị sẽ lập tức tắt thở! Khi con người đến lúc tử vong cuối cùng, người ấy cũng chẳng ăn, cũng chẳng uống, vẫn có thể sống mấy ngày, nhưng đă đoạn khí th́ sẽ chết. Do vậy, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Căn, và Thức [được gọi chung là Thất Đại]. “Căn” là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, tức sáu căn, c̣n có Thức, thân thể tuy đă hoại, thức thứ tám bất hoại.

          V́ thế, đối với hết thảy các pháp, trước tiên nêu ra Sắc pháp. Sắc pháp là Không ư? Sắc pháp chẳng phải là Không, mà cũng chẳng phải là Có, là
“Sắc tức là Không”, hay “Không tức là Sắc”
? Hai đằng điên đảo! Sắc ấy có phải là Không hay chăng? Vẫn chẳng thể nói như thế được! Sắc chẳng phải “chính là Không”, mà Không cũng chẳng phải “chính là Sắc”! Không là Không, Sắc là Sắc; Sắc là Sắc, Không là Không. Chẳng phải chỉ Sắc pháp là như thế, mà Thọ, Tưởng, Hành, Thức [cũng như thế], [chánh kinh] nói lược ba món Tưởng, Hành, Thức. “Năi chí” có ư nghĩa lược bớt.

          “Phi tức Thọ không, phi tức Hành không, phi tức Tưởng không” (chẳng phải “chính là Thọ không”, chẳng phải “chính là Hành không”, chẳng phải “chính là Tưởng không”): Đối với những điều này chẳng lặp lại. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là như thế. Nói tới Uẩn, chẳng phải Uẩn chính là Không, mà cũng chẳng phải Không chính là Uẩn, có ư nghĩa như thế đó. Đấy là Ngũ Uẩn Sắc pháp. [Như vậy th́] khi Tức (chính là) th́ là Không, hay khi Ly (ĺa khỏi) mới là Không? “Tức” cũng chẳng đúng, mà “Ly” cũng chẳng đúng! Chẳng phải Tức, chẳng phải Ly. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, tức là lại nói tới lục căn, như vậy th́ “phi tức Nhăn Không, phi ly Nhăn Không”, “năi chí” là lại nói lược bớt [để nói thẳng vào] “phi tức Ư Không, phi ly Ư Không”. Lược bớt ǵ vậy? Lược bớt bốn căn trung gian, tức là lược bớt tai, mũi, lưỡi và thân, dùng “năi chí” để [thể hiện ư nghĩa] “nói lướt qua. Đối với mỗi nhóm pháp, đều nói theo kiểu như vậy. Kinh Đại Bát Nhă sáu trăm quyển nói qua, nói lại, xoay vần như vậy. Do chẳng giản lược, chẳng có từ ngữ “năi chí”, cả sáu điều đều nêu ra, bày ra từng pháp; cho nên văn tự trong kinh văn [Đại Bát Nhă] rất nhiều. Có ư nghĩa như thế đó.

          Trong các kinh khác, Ngài dùng hai chữ “năi chí” để nói đại lược. Do vậy, trong đoạn kinh văn này, quư vị hiểu một ư nghĩa trong ấy, bèn hiểu toàn bộ, “phi Tức, phi Ly”, đó là nghĩa Trung Đạo. “Tức” cũng chẳng phải, mà Ly cũng chẳng phải! Quư vị đọc kinh điển Đại Thừa, ly tứ cú, tuyệt bách phi[6], nói như thế nào cũng không đúng. Tứ Cú là “có, không, chẳng phải có chẳng phải không, cũng có cũng không”. Đó gọi là Tứ Cú. Tức “Sắc là Không” chẳng đúng, “ĺa Sắc chính là Không” cũng chẳng đúng, “ĺa Thức chính là Không” cũng chẳng đúng, “Thức chính là Không” cũng chẳng đúng. Đó là ư nghĩa “ly tứ cú” (ĺa khỏi bốn câu). “Phi tức Sắc không, phi ly Sắc không”, cho đến “phi tức Pháp không, phi ly Pháp không”, v́ sao lại nói một lần nữa? Chẳng nói tới Sắc Tâm pháp (tức Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Trước tiên nói về Sắc pháp (Sắc, Thanh, Hương, Vị), sau đó nói về Tâm pháp (Pháp). Tâm là Pháp, nói đến tâm pháp, cũng đều là “phi Tức, phi Ly”. Sau đó lại nói đến Lục Thức, “phi tức Nhăn Thức không, phi ly Nhăn Thức không”. Kế đó lại nói lược bớt, cho đến Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư, sáu thức, “năi chí phi tức Ư Thức không, phi ly Ư Thức không”: “Ly” chẳng thể, mà “Tức” cũng chẳng thể. Đó cũng là ư nghĩa “phi Tức phi Ly”.

          “Phi tức Dục Giới không, phi ly Dục Giới không, năi chí phi tức Hư Không Vô Biên Xứ Không”, trong ấy đă nói đại lược khá nhiều. Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới đều lược đi. Dục Giới sáu tầng trời, Sắc Giới mười tám tầng trời đều bị lược đi, nói ngay vào Tứ Không Thiên, tức là Thức Vô Biên Xứ Thiên, Vô Sở Hữu Xứ Thiên, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, Không Vô Biên Xứ Thiên. Tứ Không Thiên cũng chẳng phải là Không, mà cũng chẳng phải là Hữu. Tứ Không Thiên kiến lập trong hư không, phải nên là Không ư? Chẳng phải vậy! V́ họ (chư thiên) trụ trong tầng trời ấy, có ư thức. Họ cho là không có, nhưng trên thực tế th́ vẫn là có! Vô Sở Hữu Xứ vốn chẳng có, nhưng thêm vào một chữ Xứ, [hàm nghĩa] là “c̣n có”. Vô Sở Hữu là không có, thêm vào chữ Xứ v́ họ cho rằng sanh lên trời th́ vẫn là có xứ sở, giống như chúng ta có chỗ cư trụ. Tứ Không Thiên là ngoại đạo thiên, nhưng [các vị đă chứng] quả A La Hán cũng ở tại Tứ Không Thiên. Trụ trong các cơi trời khác nhau, họ nhập môn Định ấy là trụ trong chánh định, c̣n Tứ Thiền Bát Định th́ ở trong Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định… Người nhập môn Định nào bèn tới tầng trời đó. [Tứ Thiền Bát Định và Định của A La Hán] được gọi [gộp chung] là Cửu Thứ Đệ Định.

          Trong các pháp Hữu, đă nêu ra nhiều thí dụ như vậy. Ở đây là nêu lên thánh đạo, tức pháp do đức Phật thuyết như Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ư Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề (Thất Giác Chi), Bát Chánh Đạo, ba mươi bảy đạo phẩm, đấy đều là Bồ Đề thánh pháp. [Chánh kinh nói đại lược] “tức Tứ Niệm Xứ Không, hoặc ly Tứ Niệm Xứ Không”, kế đó dùng chữ “năi chí” để lược bớt, [nói ngay vào] “bát chi thánh đạo không, ly bát chi thánh đạo không” tức là lược bớt [các pháp trung gian. Nói cụ thể] th́ Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề đều lược bớt, chẳng nói cặn kẽ. Pháp do đức Phật thuyết cũng như thế. Không chỉ các pháp thế gian là Không, mà pháp do đức Phật nói cũng là Không, nhưng chẳng thể thiên chấp bên Không. Hễ thiên lệch về Không bèn là Đoạn Kiến. Thiên lệch về Hữu bèn là Thường Kiến. Không phải là chấp Thường, th́ sẽ là chấp Đoạn. Chẳng phải chấp Có th́ là chấp Không. Đấy đều là ư nghĩa Bát Nhă.

          Kinh Thập Luân vốn giảng về Có, giảng về Khổ, muốn cho quư vị chán ĺa. Chẳng thể phán định một bộ kinh tuyệt đối là Đại Thừa hay Tiểu Thừa. Trong ấy, sẽ dính líu một phần. Chẳng hạn như trong kinh Bát Nhă, trong ấy đều là từ “chẳng Có, chẳng Không” mà lănh hội. Nêu lên các tướng ấy v́ đức Phật đă nói các pháp ấy, thế gian có các tướng ấy, tam giới hai mươi lăm Hữu đều có các tướng ấy! Phải hiểu rơ Tức và Ly từ trong ấy. Tức là từ nơi Sắc mà nói là Không, từ nơi Không mà nói là Sắc. Ĺa Sắc và Không, tức Sắc và Không. Ĺa khỏi Tứ Niệm Trụ Không, hoặc “tức Tứ Niệm Trụ Không” đều chẳng đúng. Hiểu ư nghĩa này là được rồi! Đó gọi là diệu pháp. Do vậy, người học Phật pháp, phải nên hiểu ư nghĩa viên măn. Quư vị chấp trước như thế nào cũng đều chẳng đúng. Đấy là để phá chấp trước, bèn nói cho họ pháp chấp trước.

          Chúng ta thường nói tới pháp duyên khởi. Các pháp duyên khởi, duyên sanh vô tự tánh. Pháp duyên khởi là Không, là Có. Như vậy “phi tức duyên khởi pháp không”, chẳng phải bản thân pháp duyên khởi là Không, mà cũng chẳng phải “ly duyên khởi pháp không”. Hiểu tánh không duyên khởi. Những điều ấy đều là nói về tánh Không, nói rất nhiều điều, đều là tánh Không. V́ sao có duyên khởi? Duyên khởi là các thứ nhân duyên, do nhiều thứ duyên hợp thành. Hễ thiếu một duyên, pháp ấy chẳng thành, có ư nghĩa như thế đó. Nếu quư vị hiểu đạo lư duyên khởi tánh không, sẽ đều hiểu các đạo lư này. Chuyên nói về duyên khởi tánh không c̣n có mấy bộ kinh nữa! Pháp duyên khởi, tức pháp duyên khởi là không, ĺa pháp duyên khởi là không. Trước mỗi pháp, đều thêm một chữ Phi (chẳng phải) là như quư vị nói “chỉ có ngôn thuyết, chẳng có thật nghĩa”. Pháp ngôn thuyết chẳng phải là pháp. Rời ĺa ngôn thuyết th́ là Có ư? Rời ĺa ngôn thuyết c̣n có ǵ để hiển thị? Chẳng hiển thị được! Nói đến Chân Như, nói đến rốt ráo, chẳng có ngôn thuyết.

          “Chỉ có ngôn thuyết, đều chẳng có thật nghĩa”: Chỉ cần nói ra, nói thứ ǵ cũng đều chẳng phải là thứ ấy, nhưng chẳng phải là vọng ngữ. Đừng quan tâm đến thứ ấy, đó chẳng phải là nói lời hư giả, chẳng phải vậy! Quư vị nói đến điều ǵ th́ cũng đều chẳng phải [thật sự] là điều đó! Nói tới một thứ ǵ đó, th́ đó chỉ là một cách biểu thị, là một kư hiệu. Chẳng hạn như chúng ta nói tới Hỏa, Hỏa [trong lời nói của quư vị] tuyệt đối chẳng phải là Hỏa [thật sự]. Nếu có Hỏa trong câu nói ấy, nó sẽ đốt cháy quư vị. Hăy nên hiểu hàm nghĩa này, quư vị nói đến thứ ǵ cũng đều chẳng phải là thứ đó. Quư vị nói tới Trương Tam, th́ Trương Tam là tượng trưng. “Trương Tam” [trong câu nói của quư vị] chẳng phải là bản thân Trương Tam, chỉ là kư hiệu về ông ta. Đă là kư hiệu th́ Trương Tam cũng được, mà Trương Tứ cũng có thể, sửa thành Trương Ngũ cũng được luôn, sửa thành thứ ǵ cũng đều được. Kư hiệu có thể tùy tiện thay đổi, chẳng phải là thật thể. Từ điều này, quư vị có thể lănh hội được!

          Bản tâm, chân tâm của chúng ta, hết thảy các ngôn ngữ đều chẳng thể biểu hiện được. Đó gọi là “ly Chân Như”. Đại Thừa Khởi Tín Luận, kinh điển Đại Thừa đều gọi là “ly ngôn Chân Như”, ĺa “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Muốn suy nghĩ, quan sát [th́ sẽ thấy] đều là chẳng có. Hễ quan sát là sai mất rồi, “bách phi” tức là ư nghĩa này. Chỉ cần quư vị dấy động ư niệm, đă sai lầm mất rồi. Ư nghĩa này rất sâu, chẳng phải là bổn nghĩa của kinh này!

          [Từ ngữ] Tam Bất Hộ chỉ là nói về đức Phật, tức là: Thân, khẩu, ư ba nghiệp của đức Phật thuần thiện. Ngài tùy tiện làm như thế nào, thân làm như thế nào cũng đều là thiện, đạt tới chân, thiện, mỹ, rốt ráo thanh tịnh, vĩnh viễn xa ĺa lỗi lầm, chẳng cần phải ngăn ngừa, ǵn giữ nữa. “Hộ” () [trong Tam Bất Hộ] có nghĩa là ǵn giữ, ngăn ngừa. Phật chẳng cần ngăn ngừa ǵn giữ, nhưng A La Hán và Bồ Tát vẫn phải ngăn ngừa, ǵn giữ. Thân, ngữ, ư nghiệp đều phải chú ư, v́ thân, ngữ, ư [của A La Hán và Bồ Tát] vẫn c̣n có vô minh, tập khí vi tế.

          Khi xưa, tại Ấn Độ có một vị tôn giả, tập khí từ vô lượng kiếp đến nay hết sức nặng nề. V́ từ vô lượng đời đến nay, Ngài nếu chẳng phải là quốc vương, th́ là bậc đại trưởng giả, nhiễm thành thói quen ăn nói trong vô lượng kiếp, gọi người khác là “tiểu tỳ” (小婢, đứa tớ gái hèn mọn). Ngài hoàn toàn chẳng phải là kiêu mạn, mà là do thói quen. Ngài gặp Phật, nghe pháp, chứng đạo, có sức thần thông. Long vương, trời, quỷ thần đều hộ tŕ Ngài. Khi Ngài qua sông, chẳng qua được, bèn hô: “Tiểu tỳ! Ngăn gịng chảy lại”, bảo long vương ngăn gịng chảy lại. Long vương biết Ngài đă chứng đắc A La Hán, liền ngăn gịng nước cho Ngài đi qua. Ngài cũng chẳng một chữ cám ơn, đi luôn! Long vương bèn đến mách với đức Phật, nói vị tôn giả ấy quá sức bất lịch sự, quá kiêu ngạo, tự măn. Đức Phật bảo long vương, tôn giả chẳng có tâm coi thường, mà là do tập khí trong quá khứ. Tuy đă chứng quả A La Hán, chỉ có thể đoạn Kiến Tư Hoặc hiện hành, đoạn tuyệt thô hoặc, nhưng tế Hoặc chẳng đoạn, hăy c̣n tập khí. Chúng ta muốn đoạn tập khí rất khó, tập khí từ nhiều đời bao kiếp vẫn mang theo. Người tu đạo vừa thấy liền biết tập khí của quư vị. Ai nấy đều biết rơ tập khí của chính ḿnh, nhưng sửa đổi tập khí rất khó. Đức Phật liền bảo long vương: “Được rồi! Để ta bảo ông ta xin lỗi với ông, bảo ông ta sám hối với ông”. Liền bảo vị A La Hán ấy đến sám hối với long vương. Vị A La Hán ấy lại nói: “Tiểu tỳ đừng giận”. Ha, ha! Ở trước mặt đức Phật, vẫn c̣n gọi người khác là “tiểu tỳ”. Đức Phật bảo đấy là tập khí của vị ấy, chẳng có cách nào thay đổi. Nếu vị ấy thay đổi được tập khí ấy, sẽ là đại Bồ Tát.

          Chúng ta có rất nhiều vấn đề, mỗi người đều khác nhau. Một mẹ sanh chín con, chín con khác nhau. Mỗi người có tập khí riêng biệt, chủng tử khác nhau, tuyệt đối chẳng giống nhau. Do vậy, người tu đạo phải ǵn giữ ba nghiệp. Đó gọi là Tam Bất Hộ. “Tam Bất Hộ không”: Tam Bất Hộ chẳng có. Ba nghiệp của Phật chẳng có. Chẳng Tức, cũng chẳng Không, cũng là chẳng Ly. Do đă ĺa ba thứ Bất Hộ, nên nói là Không. Quư vị nói xem Không ǵ vậy? Rời ĺa thật thể, c̣n nói Không chi nữa? Tức là Tam Bất Hộ là Không. Tam Bất Hộ Không là ba nghiệp thân, khẩu, ư của Phật. Thân, khẩu, ư nghiệp của đức Phật thanh tịnh. V́ thế, Tứ Vô Sở Úy, Thập Lực, Thập Bát Bất Cộng Pháp, cho đến đại từ, đại bi, hỷ, xả đều như thế, cho đến Phật chứng đắc Niết Bàn. Niết Bàn bất sanh, bất diệt, chẳng phải là Không ư? Đó là “tức Niết Bàn không, ly Niết Bàn không”, Tức chẳng thể, mà Ly cũng chẳng thể. Bản thân Niết Bàn là bất không, bất diệt, bất sanh, bất diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh.

          Đây chính là chánh pháp vi diệu do hết thảy Như Lai và đại Bồ Tát tuyên nói cho chúng sanh. Đó gọi là Vô Trần Cấu Luân. Tùy thuận chấp trước, th́ sẽ chẳng thanh tịnh, sẽ có trần cấu. Do vậy, chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh mà chẳng thấy chúng sanh, suốt ngày độ chúng sanh mà chẳng có chúng sanh nào để có thể độ. Suốt ngày thuyết pháp, mà cũng chẳng nói pháp nào, chẳng nói một câu nào, bao hàm ư nghĩa như thế đó. Đấy chẳng phải là đốn nghĩa. Đốn nghĩa là ly ngôn thuyết, nhưng có ngôn thuyết th́ chẳng phải là Đốn Giáo. Dùng Vô Thủ Hành Luân này để nói pháp vi diệu. Hễ nói đến pháp vi diệu th́ Tức cũng chẳng thể, mà Ly cũng chẳng thể, nói Không chẳng thể, mà nói Có cũng chẳng thể!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Như thị Như Lai vị chư chúng sanh, dĩ Vô Trần Cấu Hành Luân thuyết pháp, như măn nguyệt quang, thanh lương vô ngại, biến măn hư không, chiếu xúc nhất thiết vô chướng cảnh giới, năi chí quảng thuyết. Hựu dĩ Vô Thủ Hành Luân thuyết vi diệu pháp, ư nhất thiết pháp vô sở quái ngại, do như nhật quang phổ chiếu nhất thiết, tam thừa căn khí, tùy kỳ sở nghi, tuyên thuyết chánh pháp, vô sở chấp trước. Vị chư Như Lai vị chư chúng sanh thuyết như thị pháp, do như hư không, vô sai biệt tướng, dĩ vô lượng Định du hư tự tại trang nghiêm trụ tŕ, vị chư chúng sanh thuyết vi diệu pháp, vô sở chấp trước, linh ư tam thừa tùy nghi thú nhập. Cụ đại giáp trụ nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát chúng, vị tha thuyết pháp diệc phục như thị, linh chư chúng sanh, văn thử tối thắng thậm thâm pháp dĩ, ư tam thừa trung, tùy kỳ sở nhạo, tùy thú nhất thừa, chủng chủng thiện căn, giai đắc thành thục, tùy ư nhất thừa, cực thiện an trụ, chung bất linh kỳ ư sanh tử trung, tăng trưởng chủng chủng ác bất thiện pháp, linh ư Niết Bàn kiên cố bất thoái.

          ()善男子,如是如來為諸眾生,以無塵垢行輪說法,如滿月光,清涼無礙徧滿虛空,照觸一切無障境界,乃至廣說。又以無取行輪說微妙法,於一切法無所罣礙,猶如日光普照一切,三乘根器隨其所宜,宣說正法,無所執著。謂諸如來,為諸眾生說如是法,猶如虛空無差別相,以無量定遊戲自在莊嚴住持,為諸眾生說微妙法,無所執著,令於三乘隨宜趣入。具大甲冑一切菩薩摩訶薩眾,為他說法,亦復如是。令諸眾生,聞此最勝甚深法已,於三乘中隨其所樂,隨趣一乘,種種善根皆得成熟;隨於一乘,極善安住,終不令其於生死中,增長種種惡不善法,令於涅槃堅固不退。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Cũng như thế, Như Lai v́ các chúng sanh dùng Vô Trần Cấu Hành Luân để thuyết pháp, như ánh sáng trăng tṛn, trong mát vô ngại, trọn khắp hư không, chiếu chạm hết thảy cảnh giới chẳng chướng ngại, cho đến nói rộng là lại dùng Vô Thủ Hành Luân để nói pháp vi diệu. Trong hết thảy các pháp, đều chẳng vướng mắc, ví như ánh mặt trời chiếu trọn khắp hết thảy. Đối với căn khí tam thừa, tùy theo từng căn khí thích đáng mà tuyên nói chánh pháp chẳng chấp trước. Tức là các Như Lai v́ các chúng sanh nói pháp như thế, ví như hư không chẳng có tướng sai khác, dùng vô lượng Định du hư tự tại trang nghiêm trụ tŕ, v́ các chúng sanh nói pháp vi diệu chẳng chấp trước, khiến cho tam thừa tùy theo căn khí thích đáng mà tiến nhập. Hết thảy các vị Bồ Tát Ma Ha Tát trọn đủ đại giáp trụ v́ người khác thuyết pháp cũng giống như thế, khiến cho các chúng sanh nghe pháp tối thắng rất sâu này xong, từ trong tam thừa, sẽ tùy ḷng ưa thích mà tiến nhập một thừa, các thứ thiện căn đều được chín muồi, tột khéo an trụ trong một thừa, trọn chẳng khiến cho họ tăng trưởng các thứ pháp ác, bất thiện trong sanh tử, khiến cho họ kiên cố bất thoái đối với Niết Bàn).

 

          Do Vô Trần Cấu Hành Luân giống như ánh trăng: Trăng tṛn trong mát, vô ngại, ánh trăng đầy khắp hư không, chiếu chạm hết thảy cảnh giới không chướng ngại. Ánh trăng chiếu sáng ngời, trăng chẳng khởi ư tưởng chiếu sáng ngời, mà tự nhiên là như thế. Người tiếp nhận cũng chẳng suy nghĩ mà tiếp nhận, cũng chẳng phải có ư nghĩ mong tiếp nhận. Pháp vi diệu, trong hết thảy các pháp không vướng mắc, không chấp trước. Không vướng mắc, chẳng ngăn ngại, tức là “chẳng phải có, chẳng phải không, chính là có, chính là không” đều chẳng thể. “Do như nhật quang phổ chiếu nhất thiết” (ví như ánh sáng mặt trời, chiếu trọn khắp hết thảy): Mặt trời mọc lên, sự tối tăm trên đại địa đều tiêu mất. Đức Phật đối với căn khí tam thừa, tức Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, tùy theo pháp mà họ nương cậy, đức Phật thuyết pháp chẳng phải v́ Ngài muốn thuyết pháp, mà v́ chúng sanh cần đến. Căn cơ đă chín muồi, sẽ được Phật tuyên thuyết chánh pháp. Mỗi pháp nói ra đều là “chẳng thỉnh sẽ không nói”, đều có nhân duyên. V́ được thỉnh, đức Phật mới nói; lại có trợ duyên, chư đại Bồ Tát đến giúp giáo hóa. Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm Bồ Tát các Ngài đâu cần nghe pháp, nhưng tới giúp đức Phật hoằng dương giáo hóa, đến chứng minh: Sở dĩ các Ngài thành đạo là v́ đă tu hành, chứng đắc [các pháp được nói ấy].

          “Vô sở chấp trước”: Đối với hết thảy các pháp, chẳng chấp trước. V́ các chúng sanh nói pháp như thế. Pháp như thế “do như hư không, vô sai biệt tướng” (giống như hư không, chẳng có tướng sai biệt). Từ các pháp do đức Phật nói, chúng ta biết có nhân quả thế gian, nhân quả xuất thế gian, quả báo thiện ác. Đấy đều là nói tương ứng với căn cơ. Trong hư không, chẳng có tướng này, chẳng có tướng kia. Có tướng th́ chính là bản thân của cái tướng ấy.

          “Dĩ vô lượng Định du hư tự tại trang nghiêm trụ tŕ” là dùng vô lượng môn Định để trang nghiêm tự tại trụ tŕ. Trụ tŕ ǵ vậy? Trụ tŕ diệu pháp này, trụ tŕ mà chẳng trụ tŕ! “Trang nghiêm chúng sanh, thật phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm” (trang nghiêm chúng sanh mà thật sự chẳng trang nghiêm. Đó gọi là trang nghiêm): Đấy là sử dụng một câu nói trong kinh Kim Cang. Chớ nên chấp trước văn tự trong đoạn kinh này. Đối với giải thoát, có trói buộc th́ mới giải thoát. Chẳng bị trói buộc, sẽ chẳng thể nói đến giải thoát. Không trói buộc th́ không tháo gỡ. Chẳng có trói buộc, sẽ chẳng có giải thoát! Chúng sanh đoạn phiền năo, chứng Bồ Đề. Có phiền năo để có thể đoạn hay không? Chẳng có phiền năo để đoạn, há có Bồ Đề để có thể chứng? Cư sĩ Trương Vô Tận[7] đă nói hai câu như sau: “Đoạn trừ phiền năo trùng tăng bệnh”, tức là nói quư vị mong đoạn phiền năo, sẽ lại tăng thêm một tầng bệnh nữa! Tăng thêm ǵ vậy? Đoạn phiền năo. Sự “đoạn” ấy là bệnh. “Thú hướng Chân Như diệc thị tà”, tà tri tà kiến! Quư vị muốn thú hướng (hướng về, tiến nhập) Chân Như để chứng Thật Tướng th́ đều là tà kiến. Đó là đạt đến liễu nghĩa rốt ráo. Chỉ cần mở miệng th́ đă sai lầm, ĺa tứ cú, tuyệt bách phi. Chẳng nói năng chi hết th́ có đúng hay không? V́ sao đức Phật lại quở trách hạng Tăng dê câm? Tăng dê câm rốt cuộc chẳng biết nên làm như thế nào! Có nhập th́ mới biết được.

          Đấy đều là nghĩa Thật Tướng trong Đại Thừa liễu nghĩa mà quư vị phải chứng. Ư nghĩa của diệu pháp là khiến cho quư vị chẳng chấp trước ǵ, nhằm đạt đến mục đích như thế ấy! Khiến cho chúng sanh nghe điều ǵ, cũng đều chẳng chấp trước; đối với điều ǵ, cũng đều chẳng chấp trước. Khi đức Phật thuyết pháp, có vô lượng ức chúng sanh tới nghe pháp. Có người hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thuở đó tại Ấn Độ có bao nhiêu nhân khẩu?” Tôi nói: “Tôi cũng không biết, làm sao tôi biết Ấn Độ có bao nhiêu nhân khẩu? Tối thiểu là chẳng nhiều như hiện thời!” Người đó lại hỏi: “Trong hội thuyết pháp của đức Phật có nhiều người ngần ấy hay sao?” Tôi nói: “Đấy chẳng phải là người!” Người đó hỏi: “Chẳng phải là người th́ là ǵ?’ “Chư thiên, Bồ Tát từ các thế giới ở phương khác đến, ở trên hư không”. “Thế giới này dung nạp nổi sao?” Tôi nói: “Đó là cách nh́n của quư vị”. Lư giải như vậy hoàn toàn là sai, đó gọi là chấp trước. Đức Phật thuyết pháp trong hư không, pháp âm do Ngài nói ra trọn khắp hết thảy mọi chỗ.

          Có một vị pháp sư thuyết pháp, chỉ cần có năm người trở lên, vị ấy sẽ không nói nữa. Chúng tôi ở chùa Pháp Nguyên, khi các vị lăo ḥa thượng thuyết giới, cứ năm mươi người là một đàn [truyền giới], vẫn chẳng kịp thời gian. Cách làm như vậy chẳng hợp pháp. Thông thường là một đối một. Quư vị thấy các vị đại đức như thật khai ngộ, đều là một đối một truyền giới. Giới sư hỏi người ấy, nói đúng với căn cơ của người ấy (người thọ giới). Chúng ta chẳng có bản lănh “thích hợp khắp ba căn” như đức Phật. Trong thời đức Phật, đức Phật nói một đoạn pháp, sẽ có rất nhiều người khai ngộ, chứng quả, cho đến phát Bồ Đề tâm. Chúng ta nói rất nhiều lần mà cũng chẳng có ai phát Bồ Đề tâm, mà có phát Bồ Đề tâm, quư vị cũng không biết, nhưng cũng chẳng phải là thật sự phát. Đạt tới Sơ Trụ th́ mới có thể phát Bồ Đề tâm thật sự. Đó gọi là “tùy nghi thuyết pháp”.

          “Vị tha thuyết pháp, diệc phục như thị, linh chư chúng sanh văn thử tối thắng thậm thâm pháp dĩ” (v́ người khác thuyết pháp cũng giống như thế, khiến cho các chúng sanh nghe pháp tối thắng rất sâu này xong): Pháp thù thắng sâu nhất chính là tâm pháp. Đối với “phi tức, phi ly” như vừa nói trên đây, chớ nên suy nghĩ nơi văn tự, mà phải là cái tâm ta thấu đạt. Quư vị nói xem, cái tâm của quư vị có h́nh dạng thật sự là ǵ? Tư duy th́ chẳng phải là cái tâm ấy, rời ĺa tư duy th́ tâm ta lại ở nơi đâu? Quư vị phải ĺa tâm ư thức để tham cứu. Hễ tham cứu bèn khai ngộ. Dùng cái tâm phân biệt, quư vị đến chỗ lăo ḥa thượng, thỉnh Ngài khai thị, suốt đời quư vị sanh khởi cái tâm phân biệt, Ngài sẽ đánh quư vị. Đó là diệu nghĩa rất sâu!

          Như ḥa thượng Câu Chi, người ta đến thỉnh vấn Ngài, bất luận là ai thỉnh vấn, Ngài đều dùng một ngón tay để dạy Thiền, ai đến hỏi cũng khai ngộ. Bất luận ai thỉnh pháp, Ngài đều giơ một ngón tay, người t́m đến liền khai ngộ, liền khấu đầu lễ bái, cảm tạ Ngài. Có một hôm Ngài không ở nhà, chỉ có một tiểu đồ đệ có mặt. Người khác tới hỏi pháp, [đồ đệ] nói sư phụ không ở nhà, người ấy bèn thỉnh vấn: Như thế nào là ư của tổ sư từ phương Tây sang?” Vị tiểu đồ đệ bèn duỗi tay ra. Ôi! Người đó lại rất cao hứng, khấu đầu lễ tạ, rời đi, đă khai ngộ rồi! Sư phụ trở về, hỏi: “Có ai đến hay không?” Đồ đệ thưa: “Có người đến thỉnh pháp”. Sư phụ lại nói: “Con trả lời như thế nào?” Tiểu đồ đệ thưa: “Con bắt chước thầy. Ông ta hỏi như thế nào là ư của tổ sư từ phương Tây sang, con liền làm như thế này…” Sư phụ lại hỏi: “Biểu thị của ông ta như thế nào?” “Ông ta khấu đầu cảm ơn, nói đă khai ngộ rồi”. Ḥa thượng Câu Chi hỏi: “Con có ngộ hay không?” “Con không biết”. “Được! Ta hỏi con, như thế nào là ư của tổ sư từ phương Tây sang?” Đồ đệ bèn giơ một ngón tay lên, thầy liền một đao chém đứt phăng ngón tay ấy! Đau đến nỗi đồ đệ vừa gào, vừa rên. [Thầy mắng]: “Ngươi đừng có kêu gào nữa, làm lại!” Tiểu đồ đệ cố nhịn đau, ḥa thượng Câu Chi lại hỏi: “Như thế nào là ư của tổ sư từ phương Tây sang?” Đồ đệ liền khai ngộ, mà cũng chẳng đau!

          Mọi người có ngộ hay không? Ngộ được ǵ? Trước là Có, sau là Không, chẳng phải Không, chẳng phải Có. Chẳng phải Có, không có chi hết, bèn nói là Không. Không th́ c̣n nói ǵ nữa! Đă là không có, c̣n nói tới Không chi nữa! Chúng ta cứ thong thả tham cứu đi! Trong phần diễn tả trên đây, đă nói ra rất nhiều lư do, chẳng có lư do nào để có thể nói. Nếu nói, sẽ rơi vào Đệ Nhị Nghĩa, Đệ Tam Nghĩa, vĩnh viễn lầm lỡ, chẳng thể ngộ được. Làm như thế nào? Dựa theo giáo lư, dựa theo kinh bổn để xem. Như thế sẽ rất nhọc nhằn, vừa đọc tụng, vừa lễ bái, vừa sám hối. Nếu thật sự có bản lănh, sẽ lập tức hoát nhiên đại ngộ. Dẫu đă ngộ, vẫn phải học từ đầu. Tuy đă ngộ, nhưng chưa có bản lănh, vẫn chưa phải là Phật, đó gọi là ngộ được Lư Tức Phật.

          Trong tam thừa, tùy ḷng ưa thích, “tùy thú nhất thừa, chủng chủng thiện căn, giai đắc thành thục” (tùy ư tiến hướng theo một thừa nào, các thứ tthiện căn đều được chín muồi): Các thiện căn đă gieo trong quá khứ đều đă chín muồi. “Tùy ư nhất thừa, cực thiện an trụ” nghĩa là: Thừa nào cũng được, tột bậc khéo an trụ, tức là người ấy có thể đoạn Hoặc, chứng Chân, an trụ bất động, chẳng c̣n thọ sanh tử luân hồi nữa!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát vị đoạn vô lượng, vô số chúng sanh sanh tử lưu chuyển, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự đoạn sanh tử lưu chuyển, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị linh vô lượng, vô số chúng sanh độ tứ bộc lưu, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản vị linh kỷ độ tứ bộc lưu, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị trừ vô lượng, vô số chúng sanh chư phiền năo bệnh, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự trừ chư phiền năo bệnh, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị đoạn chúng sanh chư Uẩn phiền năo tập khí tương tục linh tận vô dư, vị tha thuyết pháp, Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự đoạn chư Uẩn phiền năo tập khí tương tục hữu dư bất tận, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị thành đại bi đẳng lưu quả cố, đại bi vi nhân, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác bất vị đại bi đẳng lưu quả cố, vô đại bi nhân, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát ư chư chúng sanh hữu sở cố niệm, nhi vị thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác ư chư chúng sanh vô sở cố niệm, nhi vị thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị tức nhất thiết tha chúng sanh khổ, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự tức kỷ sở hữu khổ, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị măn nhất thiết chúng sanh pháp vị, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự măn kỷ thân pháp vị, vị tha thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát vị chư chúng sanh đắc thắng pháp minh, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự kỷ đắc thắng pháp minh, vị tha thuyết pháp.

          ()善男子,菩薩摩訶薩,為斷無量無數眾生生死流轉,為他說法;聲聞、獨覺,但為自斷生死流轉,為他說法。菩薩摩訶薩,為令無量無數眾生渡四瀑流,為他說法;聲聞、獨覺,但為令己渡四瀑流,為他說法。菩薩摩訶薩,為除無量無數眾生諸煩惱病,為他說法;聲聞、獨覺,但為自除諸煩惱病,為他說法。菩薩摩訶薩,為斷眾生諸蘊煩惱,習氣相續令盡無餘,為他說法;聲聞、獨覺,但為自斷諸蘊煩惱,習氣相續有餘不盡,為他說法。菩薩摩訶薩,為成大悲等流果故,大悲為因,為他說法;聲聞、獨覺,不為大悲等流果故,無大悲因,為他說法。菩薩摩訶薩,於諸眾生有所顧念,而為說法;聲聞、獨覺,於諸眾生無所顧念,而為說法。菩薩摩訶薩,為息一切他眾生苦,為他說法;聲聞、獨覺,但為自息己所有苦,為他說法。菩薩摩訶薩,為滿一切眾生法味,為他說法;聲聞、獨覺,但為自滿己身法味,為他說法。菩薩摩訶薩,為諸眾生得勝法明,為他說法;聲聞、獨覺,但為自己得勝法明,為他說法。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Bồ Tát Ma Ha Tát v́ đoạn sanh tử lưu chuyển của vô lượng, vô số chúng sanh, mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ đoạn sanh tử lưu chuyển của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ khiến cho vô lượng vô số chúng sanh vượt qua bốn gịng thác mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ chính ḿnh vượt qua bốn gịng thác mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ trừ các bệnh phiền năo của vô lượng vô số chúng sanh mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ vị trừ các bệnh phiền năo của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ đoạn trừ hết sạch chẳng c̣n thừa sót các tập khí phiền năo liên tục nơi các Uẩn của chúng sanh mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ đoạn trừ tập khí liên tục nơi các Uẩn phiền năo của chính ḿnh hăy c̣n thừa sót, chẳng tận, mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ thành tựu quả đại bi đẳng lưu, dùng đại bi làm nhân, mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chẳng v́ quả đại bi đẳng lưu, chẳng dùng đại bi làm nhân, mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát do quan tâm các chúng sanh mà v́ họ thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chẳng quan tâm tới chúng sanh mà v́ họ thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ dứt khổ cho hết thảy các chúng sanh khác mà thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ dứt tất cả các khổ của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ khiến cho hết thảy chúng sanh viên măn pháp vị mà thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ viên măn pháp vị của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ khiến cho các chúng sanh đạt được pháp minh thù thắng mà v́ người khác thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác chỉ v́ chính ḿnh đắc pháp minh thù thắng mà v́ người khác thuyết pháp).

 

          Chúng ta thường nói hàng Nhị Thừa cũng ôm bát khất thực, người ta thỉnh họ thuyết pháp, họ cũng thuyết pháp; nhưng mục đích của họ chỉ nhằm đoạn sanh tử, ngưng dứt sanh tử lưu chuyển của chính ḿnh. Họ thuyết pháp chẳng nhằm khiến cho chúng sanh đoạn trừ sanh tử. Đấy là sự khác biệt giữa hàng Nhị Thừa và Bồ Tát. Hết thảy mọi chuyện họ (hàng Nhị Thừa) đă làm đều v́ chính ḿnh, chẳng phải v́ độ vô lượng chúng sanh đang ở trong khổ luân sanh tử lưu chuyển mà thuyết pháp. Bồ Tát Ma Ha Tát khiến cho hết thảy vô lượng vô số chúng sanh vượt bốn gịng thác mà v́ họ thuyết pháp. Bốn gịng thác là bốn loại căn bản của sanh tử, cho đến loại cuối cùng là “vô minh bộc lưu” (gịng thác vô minh). Thanh Văn và Độc Giác chẳng phải vậy, họ chỉ v́ vượt thoát bốn gịng thác của chính ḿnh. Họ thuyết pháp cho chúng sanh nhằm mục đích thuần v́ chính ḿnh, chẳng v́ người khác.

          Bồ Tát thuyết pháp chưa từng nghĩ tới chính ḿnh. Hết thảy mọi chuyện của Bồ Tát đều v́ độ chúng sanh. Chúng ta niệm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, hoặc niệm phẩm Tịnh Hạnh, [sẽ thấy] Ngài gặp một chuyện nào, cũng đều nghĩ tới Phật pháp, tức là nghĩ tới chúng sanh, chỉ mong chúng sanh được thành Phật. Mỗi câu đều là như thế, hễ gặp chuyện ǵ cũng đều “đương nguyện chúng sanh” (nguyện cho chúng sanh), nguyện họ đoạn phiền năo, chứng Bồ Đề, đều là nguyện cho họ cắt đứt gịng sanh tử, nhập Nhất Thiết Trí, đều là như vậy. Thanh Văn và Độc Giác chẳng phải vậy.

          Bồ Tát Ma Ha Tát v́ trừ khử các bệnh phiền năo của vô lượng vô số chúng sanh mà v́ họ thuyết pháp. Bồ Tát thuyết pháp nhằm mục đích khiến cho chúng sanh đều đoạn Hoặc, chứng Chân, chẳng c̣n luân chuyển trong sanh tử. “Thanh Văn, Độc Giác đản vị tự trừ chư phiền năo bệnh, vị tha thuyết pháp” [nghĩa là] Bồ Tát v́ trừ bệnh phiền năo cho chúng sanh mà thuyết pháp, chẳng v́ chính ḿnh, c̣n Độc Giác và Thanh Văn là v́ trừ bệnh phiền năo của chính ḿnh mà v́ người khác thuyết pháp. “Bồ Tát Ma Ha Tát vị đoạn chúng sanh chư Uẩn phiền năo tập khí tương tục linh tận vô dư, vị tha thuyết pháp” (Bồ Tát Ma Ha Tát v́ đoạn các tập khí phiền năo liên tục nơi các Uẩn của chúng sanh khiến cho hết sạch, chẳng c̣n sót, mà v́ người khác thuyết pháp): Tuy chính ḿnh chưa thành Phật, mà Ngài làm cho chúng sanh đều thành Phật. Địa Tạng Bồ Tát một mực ở địa vị Bồ Tát, nhưng các chúng sanh được Ngài hóa độ có rất nhiều vị đă thành Phật. Trong kinh Địa Tạng, chư Phật đến từ mười phương [tham dự pháp hội trên cung trời Đao Lợi] đều do Địa Tạng Vương Bồ Tát hóa độ, giáo hóa thành Phật. Chính Ngài vẫn là Bồ Tát, đấy là chủng tánh đại Bồ Tát. Không chỉ khiến cho chúng sanh đoạn phiền năo, đoạn các Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Ngũ Uẩn phiền năo, mà c̣n mong đoạn tập khí, chẳng để cho tập khí tiếp nối, chẳng để cho phiền năo tiếp nối, khiến cho hết thảy phiền năo đều hết sạch, chẳng c̣n thừa sót. Ngài thuyết pháp cho chúng sanh như thế đó!

          “Bồ Tát Ma Ha Tát vị thành đại bi đẳng lưu quả cố” (Bồ Tát Ma Ha Tát v́ thành tựu quả đại bi đẳng lưu): Đại bi làm nhân, v́ người khác thuyết pháp. Tâm đại bi của Ngài b́nh đẳng. “Lưu” (): Cùng loại là Lưu, [hàm ư] khiến cho hết thảy chúng sanh đều giống như Ngài, đều thành tựu viên măn Bồ Đề. Ngài dùng cái tâm đại bi làm nhân, hy vọng hết thảy chúng sanh đều phát đại bi tâm, v́ độ hết thảy chúng sanh mà thuyết pháp cho họ. Thanh Văn, Độc Giác thuyết pháp chẳng phải v́ đại bi đẳng lưu quả. Họ chẳng phải v́ đẳng lưu. “Đẳng lưu” (等流) có nghĩa là làm cho hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng với ta, đều thành cùng một loại. “Lưu” là một loại. Bồ Tát Ma Ha Tát v́ nghĩ tưởng các chúng sanh mà thuyết pháp. “Cố niệm” (顧念) là “gia hộ, gia tŕ, nhiếp thọ”, dùng cái tâm đại bi, từ bi hỷ xả để nhiếp thọ chúng sanh. Nhiếp thọ họ như vậy, thuyết pháp cho họ; c̣n Thanh Văn Độc Giác th́ sao? Họ v́ chính ḿnh, chẳng có tâm đại từ đại bi, chẳng nghĩ nhớ, chẳng giống Phật. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, hễ gặp vị đại Bồ Tát nào, Ngài cũng đều dặn ḍ vị ấy: “Sau khi ta nhập Niết Bàn, đối với các đệ tử của ta trong thời Mạt Pháp, đừng bỏ sót một ai, đều v́ ta độ họ, khiến cho họ ĺa khỏi sanh tử”. Đối với mỗi vị đại Bồ Tát, đều dặn ḍ như thế, bất luận Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Ngài đều là nhắc nhở như vậy. Đồng thời, lập ra đủ loại pháp phương tiện để dạy quư vị duyên niệm Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Thanh Văn và Duyên Giác chẳng quan tâm như thế. Bồ Tát v́ dứt diệt khổ năo cho hết thảy chúng sanh, dứt diệt thống khổ của hết thảy chúng sanh mà thuyết pháp cho họ, khiến cho họ đạt được thanh lương. Thanh Văn và Độc Giác v́ diệt tất cả sự khổ của chính ḿnh mà thuyết pháp cho kẻ khác, chẳng phải v́ người khác, mà v́ chính ḿnh. Họ làm chuyện cần làm [để giúp chính ḿnh giải thoát] như thế đó. V́ ai? V́ chính ḿnh!

          “Bồ Tát Ma Ha Tát vị măn nhất thiết chúng sanh pháp vị, vị tha thuyết pháp” (Bồ Tát v́ khiến cho hết thảy chúng sanh viên măn pháp vị mà v́ họ thuyết pháp): Chúng ta ăn thứ ǵ, cũng đều tham đắm vị ngon của nó. Pháp có pháp vị, tức là hương vị của pháp. Chư đại Bồ Tát chỉ dạy chúng ta sao cho quư vị có thể học pháp tinh tấn, hoan hỷ, sung sướng, tức là đă đạt được pháp vị, đạt được thanh lương. Đă đạt được thanh lương, sẽ trừ khử nhiệt năo và đói kém cho quư vị. Hễ đă có pháp vị, chúng ta sẽ có pháp. Bồ Tát thuyết pháp như thế đó. C̣n Thanh Văn và Độc Giác chỉ nhằm thỏa măn pháp vị của chính ḿnh, chẳng phải v́ chúng sanh, họ v́ thỏa măn pháp vị của chính ḿnh thuyết pháp cho chúng sanh.

          “Bồ Tát Ma Ha Tát vị chư chúng sanh đắc thắng pháp minh” (Bồ Tát Ma Ha Tát v́ làm cho chúng sanh đạt được pháp minh thù thắng): Từ nơi pháp, sanh ra quang minh trí huệ thù thắng. “Minh” là giác ngộ, giác có nghĩa là minh. Tam giác viên minh, tức là tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn. Đối với ba loại giác ấy, nay chúng ta chỉ cầu tự giác là được rồi. Chúng ta không có minh, chẳng đủ sức! Khi Bồ Tát thuyết pháp cho chúng sanh, sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh đều đạt được pháp thù thắng, có thể sanh ra quang minh trí huệ. V́ như thế mà thuyết pháp cho chúng sanh. Thanh Văn và Độc Giác chỉ v́ chính ḿnh đạt được pháp minh thù thắng mà v́ người khác thuyết pháp.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Dĩ yếu ngôn chi, Bồ Tát Ma Ha Tát vô lượng luật nghi, phổ vị trừ diệt nhất thiết chúng sanh đại vô minh ám, đại bố úy sự, nhất thiết suy tổn, đắc đại quang minh, cập đại danh xưng, như thật giác ngộ Nhất Thiết Trí trí, vị tha thuyết pháp. Thanh Văn, Độc Giác thiểu phần luật nghi, đản vị diệt trừ tự vô minh ám, đắc tiểu quang minh, cập tiểu danh xưng, như thật giác ngộ thiểu phần pháp trí, vị tha thuyết pháp. Thiện nam tử! Thanh Văn, Độc Giác, vô hữu ư tha thật hoài cố niệm, vô hữu ư tha thật hoài bi trắc, vô hữu ư tha thật bất khinh lộng, vô hữu ư tha thật vi lợi ích, vô hữu ư tha thật vi bạt tế, vô hữu ư tha thật hành tiến cử, vô hữu ư tha thật dục xưng thán, vô hữu ư tha thật vô siểm khúc, nhi hành tán mỹ, vô hữu ư tha bất cố kỷ thân, linh bỉ an lạc, vô hữu ư tha bất khởi ngộ thất thân, ngữ, ư nghiệp. Thiện nam tử! Trụ Đại Thừa giả vô hữu ư kỷ, thật hoài cố niệm, quảng thuyết năi chí vô hữu ư tha phát khởi ngộ thất thân, ngữ, ư nghiệp!

          ()善男子,以要言之,菩薩摩訶薩無量律儀,普為除滅一切眾生大無明闇、大怖畏事、一切衰損,得大光明及大名稱,如實覺悟一切智智,為他說法;聲聞、獨覺,少分律儀,但為滅除自無明闇,得小光明及小名稱,如實覺悟少分法智,為他說法。善男子,聲聞、獨覺,無有於他,實懷顧念;無有於他,實懷悲惻;無有於他,實不輕弄;無有於他,實為利益;無有於他,實為拔濟;無有於他,實行薦舉;無有於他,實欲稱嘆;無有於他,實無諂曲而行讚美;無有於他,不顧己身令彼安樂;無有於他,不起誤失身語意業。善男子,住大乘者,無有於己,實懷顧念;廣說乃至無有於他,發起誤失身語意業。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nói tóm lại, vô lượng luật nghi của Bồ Tát Ma Ha Tát đều v́ trừ diệt trọn khắp vô minh tối tăm to lớn, chuyện sợ hăi to lớn, hết thảy suy tổn của hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đạt được quang minh to lớn và danh xưng to lớn, đúng như thật giác ngộ trí Nhất Thiết Trí, bèn v́ người khác thuyết pháp. Chút phần luật nghi của Thanh Văn và Độc Giác chỉ nhằm diệt trừ tối tăm vô minh của chính ḿnh, đạt được quang minh nhỏ và danh xưng nhỏ nhoi, đúng như thật giác ngộ chút phần pháp trí, v́ người khác thuyết pháp. Này thiện nam tử! Thanh Văn và Độc Giác chẳng thật sự ôm ḷng quan tâm người khác, chẳng thật sự ôm ḷng xót thương, trắc ẩn người khác, chẳng thật sự không khinh rẻ, chọc ghẹo người khác, chẳng thật sự tạo lợi ích cho người khác, chẳng thật sự v́ cứu vớt người khác, chẳng thật sự làm những chuyện tăng tấn người khác, chẳng thật sự muốn khen ngợi người khác, chẳng thật sự không siểm khúc khen ngợi người khác, chẳng hề không màng chính ḿnh mà khiến cho người khác an lạc, chẳng hề không dấy lên thân, ngữ, ư nghiệp lầm lạc đối với người khác. Người trụ Đại Thừa chẳng v́ nghĩ nhớ chính ḿnh, nói rộng là cho đến chẳng phát khởi thân ngữ ư nghiệp lầm lạc đối với người khác).

 

          Trí Nhất Thiết Trí là nói đến Phật, chỉ có Phật th́ mới có thể gọi là “trí Nhất Thiết Trí”. Dĩ yếu ngôn chi” tức là nói tóm gọn. Nói chung, Bồ Tát Ma Ha Tát tuân hành vô lượng luật nghi. “Luật” () là giới điều, “nghi” () là bốn oai nghi, đi, đứng, ngồi, nằm. Nghi là phương tiện của luật. Vậy th́ hết thảy các pháp, hết thảy luật nghi của các Ngài đều nhằm mục đích trừ khử vô minh hắc ám cho hết thảy chúng sanh, cho đến khiến cho chúng sanh vĩnh viễn chẳng kinh sợ. Người sống trong hắc ám, dễ nẩy sanh sợ hăi; ở trong quang minh, sẽ chẳng nẩy sanh sợ hăi. Nếu có đại trí huệ, bất luận chuyện ǵ cũng đều thấy thấu suốt, sẽ chẳng có cảm giác sợ hăi. Nếu chẳng thấy thấu suốt, sẽ chẳng đạt được trí huệ, vẫn phải ṃ mẫm trên con đường hắc ám. Phía trước có phải là hầm bẫy hay không, quư vị chẳng biết. Đi trên đường, sẽ nẩy sanh sợ hăi, sẽ có chuyện đáng sợ, cho đến bị tổn giảm, tức là sợ thiện nghiệp bị tổn giảm, chỉ sợ ác nghiệp sẽ tăng trưởng.

          Nghe pháp nhằm mục đích khiến cho chính ḿnh có thể đạt được đại quang minh, cho đến danh xưng tốt đẹp. Nói theo khía cạnh xă hội, cái danh chính là sanh mạng thứ hai. Nếu quư vị có danh tiếng tốt đẹp, ai trông thấy cũng đều cung kính, đều tán thán, đều tùy hỷ. Tiếng ác lan xa, quư vị sẽ gặp trở ngại. Đúng như thật giác ngộ trí Nhất Thiết Trí, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể giác ngộ thành Phật. Thuyết pháp cho họ như vậy, Bồ Tát muốn cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật, sẽ khiến cho hắc ám, vô minh dần dần suy tổn, quang minh trí huệ và danh xưng [tăng trưởng], khiến cho họ giác ngộ, rốt ráo tăng trưởng cho đến thành tựu trí Nhất Thiết Trí.

          Đối với chút phần luật nghi của Thanh Văn và Độc Giác, [nếu nh́n theo sự tướng], chúng ta chỉ biết giới điều của Bồ Tát là mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh như kinh Phạm Vơng đă nói. Đấy là luật nghi của Bồ Tát. [Trong khi đó], giới tỳ-kheo gồm hai trăm năm mươi điều, tám vạn tế hạnh, c̣n có tám vạn điều nơi ư, giới căn bản là hai trăm năm mươi điều. Nếu [dựa theo sự tướng đó], cho rằng giới Bồ Tát rất ít, c̣n tỳ-kheo Thanh Văn, Duyên Giác có rất nhiều giới cấm, lư giải như thế là sai lầm. Mỗi điều giới trong kinh Phạm Vơng bao hàm vô lượng vô số giới. Ngoài Chỉ ra, c̣n có Tác. Trong giới luật của tỳ-kheo, rất nhiều điều là Tác Tŕ, tức là những chuyện phải nên làm. Do vậy, phải biết, đối với Bồ Tát luật nghi, hễ phát Bồ Đề tâm, sẽ thọ Tam Tụ Tịnh Giới:

          1) Tất cả các luật nghi đều được bao gồm trong Nhiếp Luật Nghi Giới. Chỉ cần đức Phật dạy chuyện ǵ chẳng được phép làm th́ đều là Luật.

          2) Đối với Nhiếp Thiện Pháp Giới, chuyện ǵ đức Phật muốn quư vị thực hiện, đó là chuyện đáng nên làm, quư vị đều phải thực hiện. Sự nghiệp lợi ích chúng sanh và hết thảy thiện pháp quư vị đều phải thực hiện. Bất luận là pháp Thập Thiện, cho đến Tam Quy, Ngũ Giới, cho đến pháp Thanh Văn, quư vị đều phải thực hiện. Trong hết thảy các pháp, chỉ cần là thiện pháp th́ đều phải làm. [Đó là Nhiếp Thiện Pháp Giới].

          3) Khó thực hiện nhất là Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới, tức là khiến cho hết thảy chúng sanh đều đạt được lợi ích.

          Thanh Văn và Duyên Giác chẳng phải là như vậy, chỉ v́ chính ḿnh, diệt trừ tối tăm vô minh, tức là diệt trừ vô minh của chính ḿnh, đạt được quang minh nhỏ nhoi. V́ tâm lượng của họ chẳng lớn, cho nên đạt được lợi ích rất nhỏ.

          “Tiểu danh xưng”: Danh tiếng chẳng lớn. Trong tam thiên đại thiên thế giới và các quốc độ ở phương khác, vô lượng thế giới đều biết tới các vị đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi, Địa Tạng Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát; đó gọi là “đại danh xưng”. Chẳng phải là tiếng tăm trong thế gian này, tiếng tăm trong thế gian này rất bé! “Như thật giác ngộ thiểu phần pháp trí” (đúng như thật giác ngộ chút phần pháp trí): Họ chẳng phải là trí Nhất Thiết Trí (tức Nhất Thiết Chủng Trí), mà là Nhất Thiết Trí. “Thiểu phần pháp” là ǵ vậy? Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mười hai nhân duyên. Họ có trí huệ đối với pháp ấy, bèn nói cho chúng sanh pháp như vậy!

          “Thiện nam tử! Thanh Văn, Độc Giác vô hữu ư tha thật hoài cố niệm” (Này thiện nam tử! Thanh Văn và Độc Giác chẳng thật sự quan tâm đến người khác): Thanh Văn và Độc Giác chẳng quan tâm chúng sanh, chỉ quan tâm chính ḿnh. “Vô hữu ư tha thật hoài bi trắc” (chẳng thật sự có ḷng xót thương, trắc ẩn đối với người khác): Cái tâm trắc ẩn ai nấy đều có, đó là tâm đại bi. Thanh Văn đối đăi với chúng sanh chỉ v́ sanh tử của chính ḿnh, chẳng quan tâm đến chúng sanh. “Vô hữu ư tha thật bất khinh lộng, vô hữu ư tha thật vi lợi ích” (chẳng thật sự không khinh thường, trào lộng người khác, chẳng thật sự tạo lợi ích cho người khác): Bồ Tát thật sự chẳng khinh bỉ, chẳng trào lộng người khác, chẳng năo hại chúng sanh. La Hán chẳng vậy, nói theo tâm lư, họ đối với chúng sanh chẳng thuyết pháp đúng thật. Chẳng chân thật bồi dưỡng người khác, mà là chân thật bồi luyện chính ḿnh. Công đức do tu hết thảy các pháp đều chuyên nhằm hồi hướng cho chính ḿnh, chẳng hồi hướng cho người khác. Có rất nhiều đạo hữu, niệm kinh xong, hoặc bái sám xong, chỉ hồi hướng cho chính ḿnh. Bảo họ hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, họ nói: “Đợi cho đến khi tôi đă tự độ rồi mới nói sau”.

          Tôi gặp rất nhiều người như vậy, [luôn mang tâm lư]: “Tôi hồi hướng cho họ th́ lại được ǵ cơ chứ? Nhọc nhằn niệm, nhọc nhằn lạy, hồi hướng hết cho họ ư?” Chẳng thể hồi hướng như vậy th́ là cái tâm Tiểu Thừa. Nhưng họ cũng biết hồi hướng, hồi hướng cho chính ḿnh trong tương lai, [cứ nghĩ] hồi hướng cho người khác có lợi ích chi đâu? Chẳng có! Họ cũng biết: Khi họ khất thực, có người cúng dường thức ăn cho họ, th́ họ cũng hồi hướng cho người ta. Đức Phật đă dạy như vậy. Chẳng hồi hướng th́ không được. Họ cũng phải hỏi người ấy: “Quư vị cúng dường thức ăn cho tôi, có mong cầu ǵ, muốn làm ǵ? Quư vị nói ra, tôi sẽ thuyết pháp cho quư vị, sẽ hồi hướng cho quư vị”. Đấy là La Hán. Bồ Tát sẽ chẳng như vậy! Bồ Tát nhận vật cúng dường của quư vị, sẽ có thể hồi hướng, măi cho đến khi quư vị thành Phật, chẳng do đạt được chút ít đă cho là đủ!

          “Vô hữu ư tha thật hành tiến cử, vô hữu ư tha thật dục xưng thán, vô hữu ư tha thật vô siểm khúc, nhi hành tán mỹ” (chẳng thật sự giúp người khác tăng tấn, chẳng thật sự muốn khen ngợi người khác, chẳng thật sự không siểm khúc, ca ngợi người khác): Thanh Văn chẳng làm chuyện này! “Vô hữu ư tha bất cố kỷ thân, linh bỉ an lạc” (chẳng v́ người khác mà chẳng màng thân ḿnh, khiến cho họ được an lạc): Chúng ta thường nói, chẳng v́ cầu an lạc cho chính ḿnh, chỉ mong chúng sanh được ĺa khổ. Đấy là đại Bồ Tát, chẳng phát nguyện hư dối. C̣n có mười đại nguyện vương của Phổ Hiền hồi hướng chúng sanh, nguyện chịu khổ thay cho hết thảy chúng sanh. Như Ngài ngồi tù, “ta vô tù, quư vị thoát ra”. Quư vị bị bệnh, “ta thay quư vị gánh chịu, quư vị được khoẻ mạnh”, các vị đại Bồ Tát xác thực là có thể làm được [như thế ấy].

          Có rất nhiều đạo hữu đă phát cái nguyện ấy; về sau, bị lửa thiêu thân, quư vị phát nguyện thay người khác bị bệnh, người đó lành bệnh. Khi mắc bệnh, quư vị đừng nên ôm ḷng oán hận. Lúc đó, ta hành Bồ Tát đạo mới thành công, hành Bồ Tát đạo sẽ có thành tựu. Nếu không, quư vị có muốn thay thế, chỉ sợ chẳng thay nổi! Mọi người đều biết Tuyên Hóa thượng nhân. Sư là người Đông Bắc, lúc mười bảy tuổi, mẹ Sư mất, Sư giữ đạo hiếu bên mộ mẹ suốt ba năm. Thuở đó, vùng Đông Bắc tuyết rơi nhiều, rất lạnh. Vào lúc chúng tôi c̣n trẻ, [mùa Đông, trời lạnh] hai ba chục độ âm. Sư là người ở huyện Ngũ Thường, thuộc miền Bắc của Cáp Nhĩ Tân (Harbin), rất lạnh. Sư giữ mộ tại đó, có rất nhiều cảm ứng. Do vậy, cả một vùng Cáp Nhĩ Tân, rất nhiều huyện đều biết tiếng, gọi Sư là “Bạch thiện nhân”[8]. Tới năm 1946, 1947, Sư từ vùng Đông Bắc mới nhập Phật pháp. Đấy là v́ “tha nhân” (người khác), tuy là v́ mẹ của chính ḿnh, nhưng mẹ của chính ḿnh cũng là tha nhân, v́ tha nhân mà chẳng màng thân thể của chính ḿnh, khiến cho người khác an lạc. Đấy là Bồ Tát. Chuyện ǵ cũng chẳng suy nghĩ cho chính ḿnh, hễ ta có chuyện ǵ tốt đẹp đều dâng tặng cho chúng sanh, bất luận là ai. Đặc biệt là cừu nhân của ta, ta đều nhường cho kẻ ấy. Từ đấy về sau, kẻ ấy chẳng kết oán cừu với quư vị nữa. Oan nghiệp giữa quư vị và kẻ đó nhờ vậy mà tiêu mất. Bất luận người ấy có tiếp nhận hay không, oán nghiệp giữa quư vị và người đó đă tiêu mất. Đó gọi là hành Bồ Tát đạo.

          “Vô hữu ư tha bất khởi ngộ thất thân, ngữ, ư nghiệp” (Chẳng khởi lên lầm lỗi nơi thân, ngữ, ư nghiệp đối với người khác): Thân, miệng, ư đều làm cho người khác hoan hỷ, khiến cho người khác vui sướng. Thân, miệng, ư trọn chẳng tổn thương người khác, chẳng khởi lên, chẳng phạm sai lầm ấy. Thật sự là Đại Thừa Bồ Tát, đối với chính ḿnh từ trước đến nay chưa hề bận tâm đến chính ḿnh, luôn chiếu cố người khác. Thân, ngữ, ư nghiệp của chính ḿnh có thể lầm lạc đối với chính ḿnh, nhưng đối với chúng sanh, trọn chẳng phạm sai lầm. Đối với chuyện này, chúng ta sai phạm rất nhiều, đặc biệt là đối với người thân cận càng trái phạm đặc biệt nhiều. Đối với người thân nhất của chính ḿnh hay vợ chồng là dễ phạm nhất, đối với con cái càng dễ phạm: “Tao nuôi này, mày là con trai, mày là con gái tao, mày không nghe lời tao, nghe ai?” Đấy là phạm sai lầm nơi thân nghiệp và ngữ nghiệp đối với chúng sanh. Đánh, chửi lại càng chẳng nên!

 

          (Kinh) Phục thứ thiện nam tử! Hữu chư chúng sanh bẩm tánh bạo ác, ngôn từ thô quánh, thật thị ngu si, hoài thông minh mạn, bất đoạn sát sanh, năi chí tà kiến, ư tha sở đắc lợi dưỡng, cung kính, thế sở xưng dự, thâm sanh tật đố, thường tự truy cầu lợi dưỡng, cung kính, thế sở xưng dự, tằng vô yếm quyện, hằng tự tán dự, khinh hủy ư tha, bất tự pḥng hộ thân, ngữ, ư nghiệp, thường nhạo tập hành nhất thiết ác hạnh, nội hành sẩm độc, vô hữu bi mẫn, vô tàm, quư, hỷ xúc năo tha, ư chư phước điền, háo giản thắng liệt, ư quy ngă pháp chư xuất gia nhân, thường nhạo tư cầu sở hữu hà khích. Tài đắc thiểu tướng, vị thẩm chân hư, tức tiện khinh hủy, ha mạ, trích phạt. Kỳ tâm cang cường, ngận lệ mê loạn, thường hỷ xúc năo chư xuất gia nhân, bất tỉnh kỷ quá, niệm cơ tha khuyết. Tuy văn tán thán Đại Thừa công đức, phát ư thú cầu, nhi tâm háo vi chư trọng ác sự, tằng vị tịch tĩnh. Cuống hoặc tha cố, ư Đại Thừa pháp, hiện tự thính văn, giáo tha thính văn, hiện tự độc tụng, giáo tha độc tụng, vị tự tiến cử, lăng phục tha cố. Ư Đại Thừa pháp, cung kính tán mỹ, tự ư Đại Thừa chư hành cảnh giới, bất tằng tu học, vị năng ngộ giải, nhi tự xưng hiệu “ngă thị Đại Thừa”, dụ khuyến tha nhân, phụ kỷ tu học, quy cầu danh lợi, dĩ tự hoạt mạng.

          ()復次,善男子,有諸眾生,稟性暴惡,言辭粗獷,實是愚癡,懷聰明慢,不斷殺生乃至邪見;於他所得利養恭敬、世所稱譽,深生嫉妒;常自追求利養恭敬、世所稱譽,曾無厭倦;恆自讚譽,輕毀於他;不自防護身語意業,常樂習行一切惡行;內行磣毒,無有悲愍,無慚無愧,喜觸惱他;於諸福田好簡勝劣,于歸我法諸出家人,常樂伺求所有瑕隙,才得少相未審真虛,即便輕毀呵罵謫罰;其心剛強,佷戾迷亂,常喜觸惱諸出家人;不省己過,念譏他闕,雖聞讚歎大乘功德發意趣求,而心好為諸重惡事;曾未寂靜誑惑他故,於大乘法,現自聽聞、教他聽聞,現自讀誦、教他讀誦;為自薦舉陵伏他故,於大乘法,恭敬讚美;自於大乘諸行境界不曾修學,未能悟解,而自稱號我是大乘,誘勸他人附己修學,規求名利以自活命。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Có các chúng sanh bẩm tánh bạo ác, ngôn từ thô lỗ, tục tằn, thật sự là ngu si, tự phụ thông minh, chẳng đoạn sát sanh, cho đến tà kiến. Đối với chuyện người khác đạt được lợi dưỡng, cung kính, được cơi đời khen ngợi, bèn sanh ḷng ghen tỵ sâu xa, thường tự truy cầu lợi dưỡng, cung kính, và sự ngợi khen trong cơi đời chưa từng chán mệt. Luôn tự ca ngợi, khinh miệt, hủy báng người khác, chẳng tự ǵn giữ thân, ngữ, ư nghiệp. Thường thích thực hiện hết thảy ác hạnh. Trong ḷng xấu xa, ác độc, chẳng có ḷng bi mẫn, chẳng hổ, chẳng thẹn, thích xúc phạm, năo loạn người khác. Đối với các phước điền, thích phân biệt hơn, kém. Đối với những người xuất gia quy y pháp của ta, thường thích moi t́m tỳ vết của họ. Hễ t́m được chút tướng, chẳng tra xét thật giả, liền lập tức khinh miệt, hủy báng, quở trách, chửi mắng, trừng phạt. Tâm kẻ đó ương ngạnh, hung tợn, mê loạn, thường chuộng xúc phạm, năo loạn các vị xuất gia, chẳng nhận biết lỗi ḿnh, chỉ luôn nghĩ tưởng, chê cười sai sót của kẻ khác. Tuy nghe tán thán công đức Đại Thừa bèn sanh ḷng t́m cầu, nhưng tâm chuộng làm các chuyện ác nặng nề, chưa từng tịch tĩnh. V́ lừa dối kẻ khác, bèn tự làm ra vẻ nghe nhận pháp Đại Thừa, dạy người khác lắng nghe, làm ra vẻ tự đọc tụng, dạy người khác đọc tụng. V́ tự đề cao ḿnh, lấn hiếp, chèn ép người khác, bèn cung kính, khen ngợi Đại Thừa, nhưng tự ḿnh đối với các cảnh giới sở hành của Đại Thừa chưa từng tu học, chẳng thể ngộ giải, lại tự rêu rao “ta là Đại Thừa”, khuyến dụ kẻ khác nương theo ḿnh tu học để gom cầu danh lợi, ḥng tự nuôi thân).

 

          “Tà kiến” là ngu si, là vô minh, luôn dùng tà kiến để thay thế. “Phục thứ” (lại nữa), đức Phật lại nói tiếp: Có chúng sanh bẩm tánh thô bạo, ác tánh chẳng đổi, rất thô bạo, ăn nói không ra thể thống ǵ, thường xuyên muốn động thủ đánh người. Chửi người khác không lại, hoặc bị người khác chửi bới ngược lại, sẽ chẳng chịu được. Kẻ đó chửi rủa người khác, nếu người khác chửi ngược lại, sẽ động thủ đánh người! “Ư tha sở đắc lợi dưỡng, cung kính, thế sở xưng dự, thâm sanh tật đố” (thấy người khác đạt được lợi dưỡng, cung kính, cơi đời khen chuộng, sanh ḷng ghen ghét sâu xa): Đấy là biểu hiện chẳng có trí huệ. Kẻ đó có tâm ghen tỵ, cũng rất thông minh [theo kiểu] thông minh mạn. Thấy người khác đạt được đôi chút tốt lành, như được tiếng tăm tốt đẹp, hoặc được cúng dường, buôn bán có lời, kẻ đó sẽ nghĩ phương cách phá hoại! Nếu là cùng nghề th́ sẽ là oan gia.

          “Thường tự truy cầu lợi dưỡng, cung kính”: Điều kẻ đó mong cầu chính là tiếng tăm và lợi dưỡng. “Thế sở xưng dự, tằng vô yếm quyện” (Đối với lời khen ngợi trong cơi đời, chưa từng chán mệt): Đối với chuyện này, kẻ đó rất tinh tấn. Tuy người khác chẳng khen ngợi, kẻ đó cũng tự ḿnh ca ngợi chính ḿnh, khen ḿnh, chê người! Đối với thân, miệng, ư của chính ḿnh, kẻ đó chẳng ǵn giữ, ngăn ngừa, cứ chằm chặp canh chừng thân, miệng, ư của kẻ khác, quở kẻ khác ăn nói chẳng đúng, thân thể làm chuyện không đúng, thường uốn nắn thân, miệng, ư của kẻ khác, c̣n thân, miệng, ư của chính ḿnh th́ chẳng ǵn giữ, ngăn ngừa!

          Những điều kẻ ấy mong mỏi, tập luyện là ǵ? Hết thảy ác hạnh, toàn làm ác, chẳng làm việc thiện. “Nội tâm sẩm độc”: Chữ “sẩm” () này có nghĩa là ǵ? Xấu ác, hỗn loạn. Đó là độc. Độc ǵ vậy? Là chất độc của ác hạnh. Một tí tâm bi mẫn người khác cũng chẳng có. Mẫn () kém hơn [bi] một chút, tức là thương xót người khác. Bi là đại bi, lớn hơn. Chúng ta thường xuyên h́nh dung con người như thế này: “Cái tâm trắc ẩn ai nấy đều có”. Câu kinh này cho thấy không phải ai cũng đều là như vậy! Có những kẻ hung ác, quen thói thô bạo, chưa từng có tâm trắc ẩn. Không chỉ đối với người ngoài, mà đối với vợ con của hắn, vẫn là như vậy. Chẳng hổ, không thẹn! Trong ḷng hắn ưa thích chuyện ǵ? Gây phiền năo cho kẻ khác, luôn muốn làm cho người khác hứng chịu khổ năo. Nếu có chuyện hơi tốt đẹp, muốn làm chuyện phước đức, hắn sẽ quấy phá. Có rất nhiều kẻ như vậy, cầm tiền của kẻ khác để làm chuyện tốt, chính kẻ đó chẳng có công đức, cứ ngỡ chính ḿnh đă chiếm tiện nghi, thật ra, kẻ đó đang tạo tội. Tại Đại Lục, kẻ [làm như vậy] được gọi là “thiện trùng tử” (善蟲子, con sâu làm rầu thiện sự, con sâu ăn bám thiện sự), chuyên môn nuốt trắng tiền tài của ḥa thượng hoặc cư sĩ. Hạng người như thế được gọi là “thiện trùng tử”, là thứ kư sanh trùng, tức kư sanh trùng nơi thiện sự, chiếm lợi ích của người khác để tạo lợi ích cho riêng ḿnh.

          Có một kẻ rêu rao rùm beng chính ḿnh là hiếu tử. Mẹ hắn ngă bệnh, hắn muốn cắt thịt để bồi bổ mẹ. Bất quá, hắn chẳng cắt thịt của chính ḿnh. Người khác đợi sẵn ở nhà vệ sinh, khi hắn đang tiêu tiểu, bèn vung dao chém hắn, hắn chẳng kêu ầm lên hay sao? Người khác nói: “Ngươi đừng kêu. Cắt thịt dâng mẹ là ḷng hiếu lớn nhất. Sao ngươi vẫn c̣n kêu?” Mọi người nghe xong cảm thấy chuyện này như thế nào? Tuy là chuyện cười, nhưng xác thực là có kẻ như thế đấy. Đối với hết thảy phước điền, hắn cứ kén chọn cái nào là tốt, ta nên làm; cái nào chẳng tốt, ta không nên làm. Phước đức đă bị giảm khinh, thiện căn này rất bé, thiện căn kia rất to, to th́ ta nên làm, nhỏ nhoi ta chớ nên làm!

          Khi Lưu Bị phó thác con côi [cho các đại thần], đă dặn Lưu Thiện[9] phải nhớ kỹ hai câu: “Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi”, nghĩa là đừng thấy chuyện rất nhỏ nhặt, tuy là chuyện xấu rất nhỏ, chẳng có ảnh hưởng ǵ, ngươi cũng đừng nên làm. “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi”, chớ v́ điều thiện này rất nhỏ mà chẳng làm. Nếu ngươi làm, sẽ sanh khởi công đức to lớn. Giống như thí xả cho kẻ khác một ít tiền, một đồng, một xu, tâm quư vị một mực từ bi, cung kính, đích thân đưa cho người ta, công đức vô lượng. Nếu là quốc vương, hoặc đại thần, bố thí cho kẻ cùng khổ, hoặc ăn mày, đích thân an ủi, bất luận tiền bao nhiêu, công đức của người ấy hơn hẳn cúng dường vô lượng Hằng hà sa chư Phật. Kinh Địa Tạng dạy như thế đó.

          Đối với người xuất gia trong pháp của ta, kẻ đó thường chuộng t́m cầu các tỳ vết. Kẻ đó chẳng làm ǵ khác, chỉ ráo riết bới lông t́m vết. Hễ thấy lỗi của người xuất gia, kẻ đó t́m được một chút, “tài đắc thiểu tướng” (mới t́m được một chút), hắn chẳng kiểm nghiệm là thật hay giả, liền “khinh hủy, ha mạ, trích phạt” (khinh miệt, hủy báng, chửi mắng, trừng phạt). Sai lầm mất rồi, đấy là đại ác! Kẻ như thế chẳng nghe người khác khuyên bảo, cái tâm cứng cỏi, khó thể điều phục. “Hận lệ mê loạn” tức là hung tàn, bạo ác, tâm rất mê loạn. Do vậy, mục đích của kẻ đó “thường hỷ xúc năo chư xuất gia nhân” (thường chuộng xúc phạm, năo loạn những người xuất gia): Thấy các ḥa thượng và người xuất gia phiền năo, kẻ đó rất khoái chí, mục đích của hắn là thường mong t́m lỗi của người xuất gia, khiến cho quư vị phiền năo, khiến cho quư vị tu chẳng thành. Đó là ma quỷ. Con cái của ma vương Ba Tuần đến năo loạn người xuất gia. Sau đó, hắn cũng xuất gia, mặc y phục xuất gia, chẳng làm Phật sự, mà càng phá hoại mạnh hơn!

          Hạng người này rất nhiều, làm thiện trùng tử chẳng thành, bèn vào tận bên trong [Phật giáo], đục ruỗng từ trong ra ngoài. Vào trong Phật giáo để phá hoại Phật giáo, hủy diệt Phật giáo, vĩnh viễn chẳng nghĩ đến sai trái của chính ḿnh. Luôn chê bai, hủy báng kẻ khác, t́m khuyết điểm của người ta. Nghe tán thán công đức của Đại Thừa, hắn cũng biết đấy là chuyện tốt. Vừa nghe người ta tán thán công đức của Đại Thừa, hắn cũng phát tâm mong cầu Đại Thừa, muốn t́m cầu. Nhưng trong tâm hắn ưa chuộng giết, trộm, dâm, dối, chưa hề tịch tĩnh, chẳng ngưng dứt tạo lỗi ác, chẳng tĩnh được chính ḿnh, hết sức tán loạn! V́ sao? Nghiệp khiến cho hắn mê loạn. Nghiệp chướng mà! Đó gọi là nghiệp chướng thật sự. Quư vị thấy những kẻ đó nghiệp chướng rất nặng, nhưng chẳng thể khuyên họ. Nếu quư vị khuyên họ, họ sẽ tức giận, gây phiền năo cho quư vị. Do đó, Thích Ca Mâu Ni Phật đă bảo vua Diêm La: “Chúng sanh trong thế giới Sa Bà này ương ngạnh, khó điều phục, tập khí rất sâu nặng”. Làm ác sự trọng đại, trước nay chưa hề tĩnh lặng, lừa dối gạt gẫm người khác, toàn là giả vờ bày tṛ!

          “Ư Đại Thừa pháp, hiện tự thính thọ” (Đối với pháp Đại Thừa, tự làm ra vẻ nghe nhận): Đối với pháp Đại Thừa, kẻ đó tự nghe, mà cũng dạy người khác nghe. “Hiện tự độc tụng, giáo tha độc tụng. Vị tự tiến cử, lăng phục tha cố. Ư Đại Thừa pháp, cung kính tán mỹ. Tự ư Đại Thừa pháp chư hành cảnh giới, vị tằng tu học, bất năng ngộ giải, nhi tự xưng hiệu ngă thị Đại Thừa, dụ khuyến tha nhân” (Làm ra vẻ tự đọc tụng, dạy kẻ khác đọc tụng, nhằm đề cao chính ḿnh, lấn hiếp, chế phục kẻ khác. Cung kính, khen ngợi pháp Đại Thừa, nhưng chính ḿnh đối với các cảnh giới sở hành của Đại Thừa, chưa từng tu học, chẳng thể ngộ giải, mà tự xưng “ta là Đại Thừa”, khuyên dụ kẻ khác): Khuyên dụ người khác tin tưởng, nương theo hắn tu học. Hai câu đầu, quư vị nghe thấy tốt lắm. Phần sau chẳng phải vậy, có dụng tâm khác, dụng tâm chẳng đúng! Kẻ đó nói: “Tôi đă nghe rồi, bộ kinh này hay lắm, quư vị hăy theo tôi đi nghe. Nay tôi đang đọc tụng kinh chi đó, quư vị có đọc tụng hay không? Tôi đề cử, hướng dẫn quư vị, nhưng quư vị phải nghe theo tôi”. Đấy chính là dối gạt người ta.

          Lấn hiếp, chèn ép người khác v́ để hàng phục kẻ khác. Đối với pháp Đại Thừa, tán dương, cung kính, đó là giả tướng, giả vờ tán thán, cung kính. Đối với các hạnh và tướng cảnh giới trong Đại Thừa, trước nay hắn chưa hề tu học, có học cũng chẳng vô, khỏi bàn đến chuyện ngộ giải! Làm sao thấu hiểu cho nổi! Nhưng kẻ đó tự thổi phồng “ta là người học Đại Thừa”, khuyên mọi người hăy theo học với ta, nghe lời ta. Thật ra, kẻ đó giả dối ḥng “quy cầu danh lợi”, tức là nhằm mục đích muốn cầu danh kiếm lợi để tự nuôi sống cái thân. Đó gọi là sống bằng tà mạng. Kẻ đó mạo nhận pháp Đại Thừa, dưới lớp ngụy trang ấy, kẻ đó bèn theo đuổi danh lợi. Một ḿnh c̣n chưa thỏa, lại c̣n kéo bè kết đảng, lập băng vầy nhóm!

 

          (Kinh) Thí như phá giới, ác tŕ luật sư, tự phạm Thi La, nhạo hành ác hạnh. Vị danh lợi cố, dụ khuyến tha nhân, linh cần tu học Tỳ Nại Da Tạng. Như thị siểm khúc, hư trá chúng sanh, hạ tiện nhân thân, thượng đương nan đắc, thoái thất thiện thú, Nhị Thừa Niết Bàn, huống đắc Đại Thừa? Chung vô thị xứ! Đương đọa ác thú, nan hữu xuất kỳ. Chư hữu trí nhân, bất ưng thân cận, nhi vô tàm quư, ư đại chúng trung, tự hiệu Đại Thừa, như sư tử hống. Vị danh lợi cố, dụ cuống ngu si, linh thân phụ kỷ, cộng vi bằng đảng. Thí như hữu lư, phi sư tử b́, nhi tiện tự vị dĩ vi sư tử. Hữu nhân dao kiến, vị chân sư tử. Cập chí minh dĩ, giai thức thị lư, hàm cộng thóa ngôn: “Thử phi sư tử, thị thực bất tịnh, chân tệ ác lư”, chủng chủng ha sất, giai cộng xả khứ. Ngă thuyết như thị Bổ Đặc Già La thường nhạo tập hành thập ác nghiệp đạo, thiêu diệt nhất thiết nhân thiên chủng tử, thượng thoái Thanh Văn, Độc Giác Thừa pháp, huống ư Đại Thừa năng thành pháp khí? Ngu si, kiêu mạn, tự hiệu Đại Thừa, cuống hoặc tha nhân, chiêu tập lợi dưỡng.

          ()譬如破戒惡持律師,自犯尸羅,樂行惡行,為名利故,誘勸他人,令勤修學毗奈耶藏;如是諂曲虛詐眾生,下賤人身尚當難得,退失善趣二乘涅槃,況得大乘?終無是處,當墮惡趣,難有出期。諸有智人不應親近,而無慚愧,於大眾中自號大乘如師子吼,為名利故,誘誑愚癡令親附己,共為朋黨。譬如有驢披師子皮,而便自謂以為師子,有人遙見,謂真師子,及至鳴已,皆識是驢,咸共唾言:此非師子,是食不淨真弊惡驢。種種呵叱,皆共舍去。我說如是補特伽羅,常樂習行十惡業道,燒滅一切人天種子,尚退聲聞、獨覺乘法,況於大乘能成法器?愚癡憍慢,自號大乘,誑惑他人,招集利養。

          (Kinh: Ví như luật sư phá giới, ác tŕ, tự phạm giới luật, thích làm ác hạnh. Do v́ danh lợi, khuyên dụ kẻ khác để họ siêng năng tu học Tỳ Nại Da Tạng. Kẻ siểm khúc, dối trá như thế, thân người hạ tiện c̣n khó có được, thoái thất đường lành, Nhị Thừa Niết Bàn, huống hồ đắc Đại Thừa ư? Trọn chẳng có lẽ ấy, mà sẽ đọa vào đường ác, khó có thuở thoát ra. Những người có trí chớ nên thân cận [kẻ ấy], mà gă đó chẳng hổ thẹn, ở trong đại chúng, tự xưng là Đại Thừa, như sư tử rống. Do v́ danh lợi, dụ dỗ, gạt gẫm kẻ ngu si, khiến cho họ quy phục hắn, kết thành bè đảng. Ví như có con lừa, khoác da sư tử, bèn tự cho ḿnh là sư tử. Có người nh́n từ xa, ngỡ là sư tử thật, đến khi nó kêu, ai nấy đều biết nó là lừa, đều cùng thóa mạ: “Đấy chẳng phải là sư tử, mà là con lừa ăn đồ bất tịnh, thật sự tệ ác”, đủ mọi thứ chửi bới, trách mắng, đều cùng bỏ đi. Ta nói Bổ Đặc Già La như thế thường thích thực hành thập ác nghiệp đạo, đốt cháy hết thảy chủng tử trời, người, đối với pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa c̣n bị thoái thất, huống hồ có thể trở thành pháp khí Đại Thừa ư? Ngu si, kiêu mạn, tự xưng là Đại Thừa, dối gạt, mê hoặc người khác để tom góp lợi dưỡng).

 

          “Thí như phá giới, ác tŕ luật sư”, luật sư[10] là giả, kẻ đó phá giới, “ác tŕ” (惡持) là hành tŕ theo điều ác. Hắn tŕ ác pháp, chẳng hành giới pháp. Hạng luật sư như vậy tự ḿnh phạm giới, tức là phạm Thi La. “Nhạo hành ác hành” (thích làm hạnh ác): V́ danh lợi, lại c̣n khuyên dụ kẻ khác, “linh cần tu Tỳ Nại Da Tạng” tức là khuyên người khác siêng tu giới luật, làm ra vẻ ta đây là một người học Giới, khuyên người khác đều phải học Giới, tŕ Luật, nhưng chính ḿnh đă phạm Thi La. Đă thế, lại c̣n siểm khúc, chẳng thật. “Như thị siểm khúc, hư trá chúng sanh”, tức là hư dối chẳng thật, lừa gạt chúng sanh, kẻ như vậy “hạ liệt nhân thân thượng đương nan đắc”, [ư nói] mong làm thân người thấp hèn [c̣n chẳng được]. Một khi thân người đă mất đi, mong được làm thân người thấp hèn, rất khó! Cổ nhân nói: “Trước cửa địa ngục, Tăng, đạo đông”, có nghĩa là như thế đó. Kẻ đó chẳng phải là Tăng nhân chân chánh, cũng chẳng phải là người tu đạo chân chánh.

          V́ sao? Kẻ đó v́ danh, v́ lợi, lừa gạt, vờ vĩnh. Đức Phật thấy rơ thời Mạt Pháp: Trong thời Chánh Pháp, người thành đạo nhiều, nhưng Mạt Pháp th́ quư vị chẳng thấy người thành đạo. Kẻ [phá giới, dối trá] như vậy, quư vị chẳng mở mắt nh́n th́ không thấy, hễ mở mắt liền thấy, nhưng nói theo phía bản thân chúng ta, dẫu thấy mà coi như chẳng phát hiện, phải nhẫn thọ, cứ coi kẻ đó như thánh tăng. Quư vị làm theo như vậy, sẽ đạt được phước đức, đạt được phước đức của bậc thánh tăng. Quư vị coi thánh tăng thành phàm phu tăng, trở thành tỳ-kheo phá giới, th́ điều ǵ cũng chẳng đạt được. Dẫu người đó là thánh tăng, quư vị cũng chẳng đạt được. Cho nên giống như ḥa thượng Tế Điên, gặp vị ḥa thượng phá giới ấy, điều ǵ quư vị cũng chẳng đạt được, v́ quư vị không có cái tâm ấy.       

          Do đó người như vậy rốt cuộc phải đọa vào ác thú. “Nan hữu xuất kỳ” (khó có lúc thoát ra): Chẳng đạt được thân người thấp hèn! V́ sao? Đă đọa vào địa ngục, đến lúc làm người, sẽ làm thân người thấp hèn, các chi thể chẳng vẹn toàn. Hoặc là điên rồ, hoặc là lục căn chẳng trọn đủ. “Chư hữu trí nhân bất ưng thân cận” (những người có trí chẳng nên thân cận): Người có trí huệ chớ nên thân cận kẻ đó, kẻ đó là phường không hổ thẹn. Kẻ đó ở trong đại chúng “tự hiệu Đại Thừa” (tự xưng là Đại Thừa), giống như “sư tử rống”, thật ra, chỉ v́ danh lợi. “Dụ cuống ngu si, linh thân phụ kỷ” (dụ dỗ, gạt gẫm kẻ ngu si, thân cận, quy phục chính ḿnh), khiến cho kẻ khác thân cận hắn, cùng hắn kết bè kéo cánh, hắn làm người cầm đầu.

          Bản thân hắn chẳng tu hành, mà cũng chẳng lư giải, chẳng có trí huệ, chỉ v́ tiếng tăm, lợi dưỡng, khiến cho kẻ khác thân cận, quy thuộc hắn, hắn liền đạt được mục đích. Đức Phật nói tỷ dụ, loại người ấy giống như con lừa trong loài súc sanh. Con lừa th́ tài khéo ǵ cũng đều chẳng có. Trong quá khứ, có câu nói [ví von] là “Kiềm lư chi kỹ” (黔驢之技, tài nghệ của con lừa đất Kiềm). Kiềm () là tỉnh Quư Châu. Có người ở địa phương khác, mua một con lừa chở về. Cọp ở Quư Châu chưa từng thấy lừa, hoảng sợ trước con vật to lớn, chẳng dám quấy rối nó. Lâu ngày, cọp thấy nó cũng chẳng có ǵ đặc biệt, chẳng có bản lănh ǵ, liền thử quấy rối lừa, cọp kéo đuôi lừa, lừa bèn lấy chân đá. Cọp trông thấy, nói: “Tài nghệ của ngươi chỉ đến thế. Bản lănh của ngươi chỉ lớn chừng đó”. Cọp liền ăn thịt lừa!

          Điều bất đồng là kẻ đó chẳng có hổ thẹn, lại chẳng chịu học, cho rằng chính ḿnh học pháp Đại Thừa, thậm chí giải nói cho kẻ khác, cho rằng chính ḿnh cũng đang sư tử hống, cũng sư tử hống giống như Phật, nhưng kẻ đó có một khuyết điểm “v́ danh lợi”. Nếu chẳng v́ danh lợi, kẻ đó sẽ chẳng làm như vậy. Dụ dỗ người khác, dẫn dắt những kẻ chẳng khác ǵ hắn cho mấy, đều là phường ngu si, thậm chí c̣n ngu si hơn kẻ đó. “Cộng vi bằng đảng” (cùng kết thành băng đảng): Giống như trong hiện thời, kết thành một bang, một phái, có khác chi con lừa? Tự cho là sư tử thật sự, nhưng chẳng có bản lănh thật sự của sư tử, đợi cho đến khi hắn rống lên, tiếng lừa rống và tiếng sư tử rống hai đằng sai khác quá xa! “Thử phi sư tử, thị thực bất tịnh” (đấy chẳng phải là sư tử, mà là thứ ăn đồ bất tịnh). “Thực bất tịnh” có thể giải thích bằng hai cách. Xét theo Phật giáo để giải thích, những ǵ kẻ đó đă làm đều chẳng thanh tịnh, chẳng phải là hạnh môn thanh tịnh. Đó là giả dạng, giả trất, là con lừa xấu ác. Mọi người sau khi đă nhận biết bèn chửi mắng hắn, chẳng chung bè chung phái với hắn, ĺa bỏ hắn!

          “Ngă thuyết như thị Bổ Đặc Già La thường nhạo tập hành thập ác nghiệp đạo” (Ta nói Bổ Đặc Già La như thế thường thích tập tành thập ác nghiệp đạo): Đức Phật nói loại chúng sanh ấy trong quá khứ đă tiêm nhiễm rất sâu. Những chuyện kẻ đó làm toàn là chuyện thuộc thập ác đạo, thích làm thập ác đạo nghiệp, miệng ưa nói dối, nói thêu dệt, nói thô ác, nói đôi chiều, trong ḷng mơ tưởng tham, sân, si, thân thể tạo tác giết, trộm, dâm. Đấy là thập ác nghiệp. Thiêu hủy hết thảy chủng tử làm người, cho đến chủng tử sanh lên trời. Nhân thiên c̣n chẳng thể làm, há c̣n có thể có pháp Thanh Văn hay Duyên Giác chi nữa? Hoặc là pháp Duyên Giác, pháp Thanh Văn đă học trong đời quá khứ đều thoái thất, thứ ǵ cũng chẳng c̣n. Đối với Đại Thừa, kẻ ấy chẳng trở thành pháp khí Đại Thừa.

          Kẻ đó tự nói là Đại Thừa, chứng tỏ hắn chẳng phải là Đại Thừa! Tất cả những ǵ kẻ đó có là “ngu si, kiêu mạn”, tự ḿnh ngụy trang. Hiện thời, bất luận là tứ chúng đệ tử, luôn cho rằng pháp ḿnh đang học rất tuyệt diệu, bất luận là Hiển pháp hay Mật pháp, nhưng hoàn toàn chẳng thật sự tu. Nh́n từ hiện tượng, dường như là tu tập, hiện thời đương nhiên đều là Đại Thừa, đều tự xưng là Đại Thừa. Hiện thời, bất luận vị nào cũng đều [vỗ ngực xưng ḿnh] viên dung, chẳng có ai nói ta tu Khổ, Tập, Diệt, Đạo. [Người nói chính ḿnh tu tập Khổ, Tập, Diệt, Đạo] ít lắm!

          Hiện thời, lại c̣n có một nguyên nhân khác: Sau khi kẻ đó xuất gia, bèn thoát ly giáo nghĩa. Vừa vào chùa, được tiếp cận sư phụ, đặc biệt là chùa Thiền Tông, hoặc chùa Tịnh Độ tại Đại Lục, ngay cả Đại Thừa cũng chẳng thừa nhận! Thật ra, đấy là v́ các tổ sư trong quá khứ đă nói như vậy, họ đều là bắt chước nói theo [nhưng chẳng hiểu thâm ư, dụng ư khuyên nhất tâm, chuyên tinh hành tŕ, đừng tham đắm đa văn khi chưa đạt chuyên tâm, thấu hiểu pháp môn chính ḿnh đang tu” của chư Tổ], cứ nhai nhải: “Niệm một câu A Di Đà Phật, theo chiều dọc cùng tột tam giới, theo chiều ngang bao trùm tám giáo, thứ ǵ cũng đều trọn đủ. Niệm một câu A Di Đà Phật là đủ rồi”. Hàng Bồ Tát mới vừa xuất gia, mới vừa phát ư, thứ ǵ cũng đều chẳng biết, chỉ biết niệm một câu A Di Đà Phật, như thế bèn rất kiêu ngạo: “Ta niệm một câu A Di Đà Phật, so với ngươi học kinh Hoa Nghiêm bao nhiêu năm có ích ǵ hay chăng? Kinh Pháp Hoa chẳng cần phải học! Ta niệm một câu A Di Đà Phật đều có”. Thế nhưng [họ quên rằng] kinh Di Đà chẳng nói như vậy, kinh Vô Lượng Thọ cũng chẳng nói như vậy. Cho nên kẻ đó chẳng học Giáo, mà cũng chẳng thâm nhập! Nếu thật sự niệm đến mức nhất tâm bất loạn th́ công đức của A Di Đà Phật quả thật chẳng thể nghĩ bàn, nhưng [sơ cơ hành nhân] chẳng làm được!

          Ngoài ra, có rất nhiều kẻ tọa Thiền, thứ ǵ cũng chẳng biết, nhưng rất kiêu ngạo, tánh t́nh rất nóng nảy. V́ kẻ đó chẳng tu, chẳng nhập Định, sẽ phát triển theo cá tánh. Chẳng học tập giáo nghĩa, do có sự thiếu hụt này, kẻ ấy chẳng nhận thức chính ḿnh, mà cũng chẳng nhận thức người khác, càng chẳng biết đức Phật dạy bảo, truyền dạy chúng ta những ǵ. Đức Phật quở trách hạng người này là ngu si mạn. Tự xưng là Đại Thừa, cho rằng chính ḿnh ghê gớm lắm, lại c̣n lường gạt người khác nhằm mục đích tom góp lợi dưỡng!

 

          (Kinh) Thí như si mạn, vô thủ túc nhân, dục hưng chiến phạt, nhập ư đại trận, đồ thiết công hiệu, chung vô khắc thành. Trá hiệu Đại Thừa, diệc phục như thị. Tín thủ, giới túc, vô hữu nhất toàn, bất tự nhai quỹ sở kham hạnh nghiệp, dục hưng chiến phạt phiền năo đại trận, đồ thiết công hiệu, chung vô khắc thành! Ngă thuyết thị nhân bất hộ tam nghiệp, chuyên hành ác hạnh, vọng hiệu Đại Thừa, thật ư tam thừa, giai phi pháp khí, nhi dục phá hoại nhất thiết chúng sanh dũng kiện, kiên lao phiền năo đại trận, dục giai hiển thị nhất thiết chúng sanh bát chi thánh đạo, linh nhập vô úy Niết Bàn chi thành, chung vô thị xứ! Sở dĩ giả hà? Thiện nam tử! Phù Đại Thừa giả, thọ tŕ đệ nhất thanh tịnh luật nghi, tu hành đệ nhất vi diệu thiện hạnh, cụ túc đệ nhất kiên cố tàm quư, thâm kiến, thâm úy hậu thế khổ quả, viễn ly sở hữu nhất thiết ác pháp, thường nhạo tu hành nhất thiết thiện pháp, từ bi thường biến nhất thiết hữu t́nh, hằng phổ vị tác lợi ích an lạc, cứu tế, độ thoát nhất thiết hữu t́nh, sở hữu ách nạn, sanh tử chúng khổ, bất cố tự thân sở hữu an lạc, duy cầu an lạc nhất thiết hữu t́nh. Như thị danh vi trụ Đại Thừa giả.

          ()譬如癡慢無手足人,欲興戰伐入於大陣,徒設功效,終無克成;詐號大乘,亦復如是。信手、戒足,無有一全,不自崖揆所堪行業,欲興戰伐煩惱大陣,徒設功效,終無克成。我說是人,不護三業,專行惡行,妄號大乘,實於三乘皆非法器,而欲破壞一切眾生勇健堅牢煩惱大陣,欲皆顯示一切眾生八支聖道,令入無畏涅槃之城,終無是處。所以者何?善男子,夫大乘者,受持第一清淨律儀,修行第一微妙善行,具足第一堅固慚愧,深見深畏後世苦果,遠離所有一切惡法,常樂修行一切善法,慈悲常徧一切有情,恆普為作利益安樂,救濟度脫一切有情,所有厄難生死眾苦,不顧自身所有安樂,唯求安樂一切有情,如是名為住大乘者。

          (Kinh: Ví như kẻ si mạn, chẳng có chân tay, muốn đi chiến đấu, chinh phạt, vào trong trận lớn, mưu toan lập công, trọn chẳng thành công. Kẻ dối trá xưng là Đại Thừa, cũng giống như thế. Tay Tín, chân Giới, không một thứ ǵ vẹn toàn, chẳng tự suy xét, cân nhắc hạnh nghiệp có thể làm, muốn chiến đấu, chinh phạt trong đại trận phiền năo, mưu toan lập công, trọn chẳng thành công! Ta nói người như thế chẳng bảo vệ ba nghiệp, chuyên hành ác hạnh, hư vọng xưng là Đại Thừa, quả thật đều chẳng phải là pháp khí trong tam thừa, mà muốn phá hoại đại trận phiền năo cứng chắc, dũng mănh của hết thảy chúng sanh, muốn đều hiển thị tám chi thánh đạo của hết thảy chúng sanh, khiến cho họ đều vào ṭa thành Niết Bàn không sợ hăi, trọn chẳng có lẽ ấy! V́ cớ sao vậy? Này thiện nam tử! Phàm Đại Thừa là thọ tŕ luật nghi thanh tịnh bậc nhất, tu hành thiện hạnh vi diệu bậc nhất, trọn đủ hổ thẹn kiên cố bậc nhất, thấy sâu xa và sợ sâu xa khổ quả trong đời sau, xa ĺa tất cả hết thảy ác pháp, thường thích tu hành hết thảy thiện pháp, thường từ bi trọn khắp hết thảy hữu t́nh, luôn tạo lợi ích an lạc, cứu tế, độ thoát trọn khắp tất cả các thứ khổ và ách nạn sanh tử của hết thảy hữu t́nh, chẳng màng tất cả an lạc của chính ḿnh, chỉ cầu an lạc hết thảy hữu t́nh. Như thế th́ gọi là người trụ trong Đại Thừa).

 

          Ví như có một người tay lẫn chân đều không có, c̣n muốn tham gia chiến trận, muốn đánh giặc, [đó là ư nghĩa của câu] “dục hưng chiến phạt nhập ư đại trận”, có thể thành công hay không? Bản lănh ǵ cũng đều không có, trống trơn, công hiệu ǵ cũng đều chẳng có. Vậy th́ có thể thành tựu nổi không? “Chung vô khắc thành” (trọn chẳng thể thành): Quư vị chẳng thể nào chiến thắng địch nhân, chỉ bị địch nhân tiêu diệt. Giống như chính ḿnh chẳng có học vấn lẫn tài nghệ, ngay cả phiền năo Kiến Tư Hoặc nông cạn nhất cũng chẳng thể đoạn, làm sao có thể làm chuyện lợi ích hết thảy chúng sanh cho được? Đấy là dối trá xưng là Đại Thừa!

          Người học Phật trong hiện thời chiến đấu với ai? Chính ḿnh chiến đấu với bản thân, quư vị phải chiến đấu với phiền năo và tập khí của chính ḿnh. Khởi đầu trước hết từ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Cảnh giới ngũ dục ấy quư vị chẳng khắc phục được. Người ta chửi quư vị hai câu, quư vị bị lửa giận xông cao ba trượng. Đó chuyện bé tí, bé tẹo, quư vị chẳng thể đối trị nổi, làm sao có thể lợi ích hết thảy chúng sanh? Thậm chí đặt NKiến vào vị trí bậc nhất, chuyện ǵ cũng đều suy tính cho chính ḿnh. Như thế th́ quư vị làm sao có thể liễu sanh tử cho nổi? Nói là Đại Thừa, thế mà ngay cả liễu sanh tử c̣n chẳng thể! Quư vị mong đoạn phiền năo, có thể đạt thanh tịnh đôi chút, thế mà ngay cả điều rất thô thiển, quư vị cũng chẳng đạt được! Rất hời hợt, xáo động, rất bộp chộp, rất nông nổi, suốt ngày luôn tán loạn, bảo đó là Đại Thừa th́ ai mà tin được? Ai cũng chẳng thể tin nổi!

          “Tín thủ, Giới túc, vô hữu nhất toàn” (Tay Tín, chân Giới, không một điều nào vẹn toàn): Tín tâm ví như tay, tŕ giới ví như chân. Vậy th́ quư vị chẳng có tín tâm, lại chẳng giữ giới thanh tịnh, tức là không tay, không chân. Chẳng có tín tâm, lại chẳng có giới hạnh, thứ ǵ cũng đều chẳng đầy đủ! “Bất tự nhai quỹ” [nghĩa là] v́ chẳng biết tự lượng sức. Chính ḿnh hăy tự cân nhắc bản thân, quư vị có công đức ǵ? Có đức hạnh ǵ? Chẳng biết tự lượng sức ḿnh, quư vị đối với hạnh nghiệp mà chính ḿnh có thể kham thực hiện, hăy học theo hạnh đó, hoặc là Thanh Văn Thừa, hoặc là Duyên Giác Thừa, quư vị có thể làm được hay không? Người ta nói “thông minh bất quá nạp tử” (thông minh chẳng hơn tăng sĩ), “nạp tử” (衲子, kẻ mặc áo bằng các mụn vải chằm lại) là nói đến người xuất gia. Quư vị chớ nên thấy người xuất gia chẳng làm chuyện ǵ! Họ học điều ǵ, hiểu điều đó, hết sức thông minh. Kẻ có Thế Trí Biện Thông, vừa học liền hiểu ngay. Nếu đôi chút Định lực gia tŕ, bất luận học điều ǵ, sẽ hiểu rất nhanh. Nếu ngay cả chút trí huệ ấy cũng không có, quư vị làm chuyện ǵ cũng đều chẳng nên hồn, tùy tiện làm một tí chuyện ǵ cũng đều là chân tay vụng về!

          Đời Thanh, Ngọc Lâm quốc sư[11] ở chùa Niêm Hoa, đó là ngôi chùa mà tôi được thọ giới. Sư làm Phương Trượng tại đó. Hoàng đế đến chùa thăm viếng, Sư giữ hoàng đế lại thọ trai. Nhưng giấy dán cửa sổ nơi trai pḥng bị rách, gió lùa vang tiếng ù ù, Ngọc Lâm quốc sư bèn gắp mấy hạt cơm trong chén để lên bàn. Chú tiểu sa-di liền bước đến cầm mấy hạt cơm và tờ giấy dán chỗ rách. Vua Càn Long[12] thở dài, đúng là khá quá, “thông minh bất quá nạp tử”. Ngọc Lâm quốc sư bèn khen ngợi hoàng đế: “Linh lợi bất quá đế vương”. Tuy đấy là chuyện cũ, quư vị thấy tiểu ḥa thượng có rất nhiều chuyện chúng ta nghĩ không ra, chú bé thay quư vị làm rất tốt. Đó là thông minh bề ngoài. Mặt khác, nếu có trí huệ thật sự, có ḥa thượng biểu hiện ngu xuẩn, đần độn gần chết, tướng mạo rất xấu xí, thô kệch. Có rất nhiều ḥa thượng có dị tướng, quư vị thấy họ rất xấu, chẳng hạn như thiền sư Đạo An[13]. Vào đời Tấn, Sư lúc c̣n bé mười mấy tuổi đă vào chùa. Sư phụ của Ngài coi thường: “Người ǵ mà vừa xấu, vùa lùn, mặt lại rỗ”. Không chỉ đen thủi đen thui, một bên mặt lại rỗ, lại lùn tịt, các sư huynh trong chùa đều coi thường Ngài. Ngài chỉ đành đi trồng trọt, làm rất lâu. Có một hôm, Sư thưa cùng thầy: “Sư phụ cũng nên cho con một quyển kinh để niệm”. “Ngươi muốn niệm kinh hả? Được thôi!” Thuận tay lấy một quyển kinh mỏng tanh cho Sư. Vào vườn, Sư c̣n phải làm việc. Đại khái là vào lúc tạm nghỉ, bèn cầm kinh đọc. Buổi tối quay về, thưa với thầy: “Thầy đổi cho con quyển khác”. “Ngươi có xem không đó?” Sư thưa: “Con có xem, xem xong hết rồi”. Thầy cũng lười nói với Sư, lại lấy ra một quyển dầy gấp ba quyển trước, Sư lại cầm đi. Tối hôm sau, quay về, lại thưa với thầy: “Thầy lại đổi cho con quyển khác”. Thầy rất ngạc nhiên: “V́ sao ngươi lại đổi nữa?” Sư thưa: “Con đọc xong rồi!” Thầy bèn từ phần sau quyển kinh ấy, tùy tiện lấy bất cứ đoạn kinh văn nào để hỏi, Sư cũng đều đọc làu làu; thầy mới phát hiện ra chỗ kỳ đặc của Sư. Pháp sư Đạo An là một vị đại đức có thành tựu sớm nhất tại Trung Hoa.

          Chớ nên xét đoán con người qua tướng mạo, nhưng người ấy thật sự có bản lănh đó! Không chỉ là tín tâm kiên định, mà giới hạnh cũng thanh tịnh, đều có tài năng chân thật, nhưng chính ḿnh rất khiêm hư. Phàm là người thật sự có đức hạnh, sẽ đều rất khiêm hư, chẳng cho là chính ḿnh tuyệt diệu, trọn chẳng thể như thế. V́ [người ấy biết ḿnh] c̣n kém Phật rất xa, ngay cả Phật cũng rất khiêm tốn. Đức Phật coi hết thảy chúng sanh là thầy. Mọi người thấy phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có nói: “Nếu chẳng có chúng sanh, một vị Phật cũng chẳng thành được!” Do vậy, muốn báo ân chúng sanh th́ phải độ chúng sanh. Nếu chẳng có loại bản lănh ấy, chính ḿnh ngay cả tay lẫn chân đều không có, c̣n muốn đánh trận ư? Quư vị vẫn chưa phát khởi tín tâm, vẫn chưa có cái tâm tín kính Tam Bảo, giới cũng chẳng tŕ, như thế th́ c̣n nói là Đại Thừa nỗi ǵ? Tiểu Thừa cũng chẳng có, nhân thiên thừa cũng chẳng bảo đảm!

          Hạng người như thế chẳng thể bảo vệ thân, miệng, ư của chính ḿnh, tùy tiện buông lung thân, miệng, ư. “Buông lung” là chuyên làm ác hạnh, chuyên làm chuyện xấu. Chính hắn vẫn hư vọng tự xưng là Đại Thừa. Học pháp Đại Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác Thừa, tam thừa đều chẳng phải là pháp khí. Kẻ đó chẳng phải là một người học pháp, mà là kẻ phá hoại người khác học pháp. Kẻ đó kết bè, kéo đảng, hắn có thể giúp đỡ đạo hữu và đệ tử của hắn trừ khử phiền năo hay không? Phiền năo của chúng sanh giống như chiến trường vậy! Phiền năo ấy kiên cố, dũng mănh, giống như một mặt trận lớn, khi quư vị muốn vào đó chiến đấu, tuy chẳng hoàn toàn thất bại, nhưng quư vị vẫn vùi ḿnh trong phiền năo!

          Đoạn kinh văn này bao hàm các ư nghĩa ấy. Đức Phật nói đoạn kinh này theo kiểu thí dụ. Tức là có những kẻ xằng bậy xưng là Đại Thừa, mà chính ḿnh ngay cả Khổ, Tập, Diệt, Đạo đều chẳng đoạn, chẳng tu, nhân quả thế gian đều chẳng tu. Suốt ngày làm ác hạnh, đó là Tập. Tập ()cảm vời, tức cảm vời khổ quả. Căn bản là kẻ đó chẳng tu tŕ đạo Nhị Thừa, đạo xuất thế. Không chỉ chẳng tu, mà tín tâm cũng chẳng trọn đủ. Đă có tín tâm, kẻ đó sẽ chẳng dám tạo tội, sẽ luôn luôn pḥng thủ, bảo vệ ư niệm, chẳng dám khởi lên ư niệm xấu, há c̣n dám thật sự làm ư? Quư vị thấy chuyện lợi ích trước mắt, tuyệt đối chẳng nẩy ḷng tham, v́ biết hễ tham, sẽ phải nhận lănh chuyện không tốt đẹp, chẳng thể tiêu tai nổi! Kẻ đó ngay cả cái tâm c̣n chẳng có, Bát Thánh Đạo lẫn Thất Bồ Đề đều chẳng có, mong vào thành Niết Bàn sẽ chẳng thể được, trọn chẳng có lẽ ấy! Bất luận lúc nào cũng đều chẳng thể làm được!

          Thật sự là pháp khí Đại Thừa, hành tŕ luật nghi thanh tịnh là nói đến bậc tỳ-kheo Bồ Tát. Không chỉ là giới tỳ-kheo thanh tịnh, mà giới Bồ Tát cũng thanh tịnh. Hoặc là thọ giới tỳ-kheo, hai trăm năm mươi giới đều thanh tịnh. Thọ Bồ Tát giới chẳng dễ dàng, v́ mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh là giới Phạm Vơng. Giới Phạm Vơng có yêu cầu rất sâu, rất rộng. Giới Phạm Vơng được thọ tŕ bởi địa vị Bồ Tát nào? Chính là Đăng Địa Bồ Tát, từ Hoan Hỷ Địa cho đến Pháp Vân Địa. Khi nói giới này, chẳng do Thích Ca Mâu Ni Phật nói, mà là do [Báo Thân] Lô Xá Na Phật nói. Đấy là giới do Báo Thân Phật nói. Khi Lô Xá Na Phật nói giới này, chính là nói cho một ngàn vị Thích Ca Mâu Ni Phật. Đại hóa thân là Lô Xá Na Phật, ngồi trên hoa sen trăm ngàn cánh. Mỗi ṭa [của mỗi vị Phật Thích Ca] ở trên một cánh sen, tức là trên mỗi cánh sen [nơi ṭa liên hoa của Lô Xá Na Phật] có một vị Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài có trăm ức quốc độ, trăm ức tiểu hóa Thích Ca Mâu Ni Phật, c̣n Lô Xá Na Phật là đại hóa. Như thế tức là [Báo Thân Lô Xá Na Phật của Pháp Thân] Tỳ Lô Giá Na Phật nói giới Phạm Vơng cho một ngàn vị Phật Thích Ca, mỗi vị trong một ngàn vị Phật Thích Ca do Ngài (Tỳ Lô Giá Na Phật) tương ứng biến hiện. Đó là “thiên bách ức” Thích Ca, tức là một trăm ức lần trăm ức Phật Thích Ca. Như vậy là Ngài nói giới Phạm Vơng cho một trăm ức Phật Thích Ca. [Mỗi vị trong số] một trăm ức Phật Thích Ca lại vào trong quốc độ của chính ḿnh giáo hóa, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đă ở trong Diêm Phù Đề của chúng ta mà nói giới Phạm Vơng.

          Do vậy, tŕ giới Phạm Vơng là có thể tŕ mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Thấy pháp tánh, tâm niệm, và Pháp Thân của chính ḿnh. Pháp tánh tương hợp, có tương hợp một phần th́ mới có thể tŕ giới được! [Các vị Bồ Tát thuộc] địa vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng) đều chẳng dám nói đă tŕ giới thanh tịnh, đặc biệt là đối với phương diện lợi ích chúng sanh và độ chúng sanh. Phương tiện thiện xảo huệ chẳng trọn đủ, sẽ chẳng dám nói là thọ tŕ thanh tịnh giới. Ở đây nói “thọ tŕ” th́ không chỉ tŕ thanh tịnh, mà c̣n là bậc nhất, vượt hơn hẳn các loại thọ tŕ thông thường. Không chỉ là địa vị Thập Tín, mà địa vị Thập Trụ, địa vị Thập Hạnh, địa vị Thập Hồi Hướng, Đăng Địa, đạt tới mức độ ấy, th́ mới có thể thọ tŕ thanh tịnh giới. Hết thảy các thiện hạnh do người ấy đă làm đều vi diệu, như vậy th́ tŕ thanh tịnh giới chính Nhiếp Luật Nghi Giới trong Tam Tụ Tịnh Giới. Vi diệu pháp là Nhiếp Thiện Pháp Giới. Đức Phật nói hết thảy các pháp, không chỉ là trong hết thảy các pháp do đức Phật đă nói, mà đối với hết thảy các pháp trong thế gian, người ấy đều là bậc nhất. Phải có công, xảo, minh. Bồ Tát có Công Xảo Minh (Sīlpāsthāna-vidyā).

          Tŕ thanh tịnh giới, học vi diệu pháp rất khó! V́ sao vi diệu thiện hạnh chẳng dễ dàng? Muốn khiến cho chúng sanh có thể đắc độ, khi cơ duyên chín muồi, sẽ hóa độ họ. Có khi thị hiện nghịch hạnh để độ họ, như giết, trộm, dâm, đấy là nghịch hạnh, phải thực hiện nghịch hạnh để độ kẻ đó. Chẳng có trí huệ, chẳng chứng đắc, quư vị chẳng thấy nổi căn cơ của người khác, sẽ chẳng thể thực hiện ổn thỏa. Nếu quư vị vẫn cứ làm như thế, sẽ là phạm giới. Đó gọi là vi diệu. Nếu nói Bồ Tát chẳng thể uống rượu, càng chẳng thể bán rượu. Tội ác do bán rượu lớn hơn tội uống rượu rất nhiều. Có lúc Bồ Tát v́ lợi ích chúng sanh bèn uống rượu. Tế Công luôn uống rượu, điên điên khùng khùng, dùng rượu để độ người. Ngài uống rượu để độ người khác, chúng ta chẳng làm được. Đó gọi là vi diệu hạnh của Bồ Tát. Ngài làm như vậy là tŕ thanh tịnh giới.

          “Cụ túc đệ nhất kiên cố tàm quư” (trọn đủ hổ thẹn kiên cố bậc nhất): Kiên cố tàm quư chẳng dễ dàng. Có hai loại thanh tịnh:

          - Một loại là kiên cố chẳng phạm, kiên định chẳng phạm. Đó là thanh tịnh, căn bản thanh tịnh.

          - Loại kia là hễ phạm liền sám, vừa phạm liền sám hối, chẳng giấu diếm khuyết điểm của chính ḿnh, luôn bộc lộ, trọn đủ cái tâm hổ thẹn, luôn cảm thấy chính ḿnh chẳng có trí huệ, chẳng có đức, trong quá khứ chẳng tu. Luôn cảm thấy chính ḿnh cần hướng về chúng sanh sám hối, hướng về chư Phật sám hối. Nếu làm chuyện xấu, sẽ thấy khổ quả hết sức đáng sợ, đọa địa ngục khổ lắm!

          “Thâm kiến” là thấy rất sâu, thấy được chuyện trong rất nhiều kiếp. “Thâm úy” (Sợ hăi sâu xa) là thấy chúng sanh chịu khổ nạn trong địa ngục, chính người ấy sẽ chẳng dám làm chuyện xấu.

          “Viễn ly sở hữu nhất thiết ác pháp” (xa ĺa tất cả hết thảy ác pháp): Đôi chút điều ác nhỏ nhặt, người ấy cũng xa lánh chẳng làm, lại c̣n tránh thật xa! “Thường nhạo tu hành nhất thiết thiện pháp” (thường thích tu hành hết thảy các thiện pháp): Đấy là Nhiếp Thiện Pháp Giới, trong ấy, trọn đủ Tam Tụ Tịnh Giới của Bồ Tát như đức Phật đă dạy. Nhiếp Luật Nghi Giới là luật nghi thanh tịnh. Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới là dùng vi diệu pháp để độ thoát hết thảy chúng sanh, sợ khổ quả trong đời sau sâu xa! Nhiêu Ích Hữu T́nh là thường thích tu hành hết thảy thiện pháp, thường từ bi trọn khắp hết thảy hữu t́nh. Từ bi là b́nh đẳng đại bi, trong tâm chẳng có ư niệm sai khác. Tâm sai biệt của chúng ta rất nhiều! Người này rất thông minh, bèn bằng ḷng giáo hóa nhiều hơn. Kẻ nọ rất ngu si, ta chẳng muốn dạy hắn. Hắn quá đần, dạy một trăm lần, hắn vẫn chẳng hiểu, lại c̣n rất rườm rà, quư vị bèn phiền chán. Đấy chẳng phải là Bồ Tát. Bồ Tát là người có ái tâm bậc nhất, hết sức từ bi, có ḷng đại bi. Đại bi có rất nhiều ư nghĩa: Có từ, có nghĩa, có Thể, có tướng, th́ mới là đại bi thật sự.

          “Từ bi thường biến nhất thiết hữu t́nh, hằng phổ vị tác lợi ích, an lạc” (thường từ bi trọn khắp hết thảy hữu t́nh, luôn tạo lợi ích, an lạc trọn khắp): Khiến cho hết thảy chúng sanh đều được an lạc, đều được vui sướng. Cứu tế, độ thoát tất cả hết thảy hữu t́nh chúng sanh đang mắc ách nạn trong sanh tử, trừ khử hết thảy các khổ cho chúng sanh. Trong khi chúng sanh đang hứng chịu khổ nạn, chính là lúc dễ độ nhất. Quư vị nói, họ sẽ chịu tin. Vào trong tù ngục thuyết pháp, vào trong bệnh viện thuyết pháp cho bệnh nhân đang nằm bẹp giường, trong khi họ đang bị khổ đau hành hạ, quư vị bảo họ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, họ sẽ chịu niệm. Niệm Địa Tạng Bồ Tát, khi đó họ đang rất khổ, cũng sẽ niệm thử một phen. Nhưng khi ấy có một điều nguy hiểm, quư vị chớ nên lo lắng cho sự an vui của chính ḿnh. Hễ quư vị lo lắng cho sự an vui của chính ḿnh, sẽ độ chẳng thành. Có khi quư vị đến nơi đó sẽ rất nguy hiểm, đến chỗ bệnh nhân, có thể sẽ mang theo bệnh trở về! Nếu quư vị muốn chịu khổ thay cho họ, sẽ thật sự thay thế. Chẳng giả đâu nhé. Nếu quư vị nguyện rất chân thật, xác thực là sẽ có thể chịu thay, nhưng hễ xảy ra nơi thân quư vị, đừng nên áo năo, hối hận!

          Chúng tôi không nói to lớn chi cả. Tại Nữu Ước có rất nhiều đoàn thể trợ niệm. Hễ có người văng sanh, họ sẽ đến tham dự [trợ niệm]. Đương nhiên, trong số ấy có khi là đệ tử Phật, có khi chẳng phải là đệ tử Phật, hoặc bản thân họ là đệ tử Phật, khi quyến thuộc của họ sắp chết, bèn mời đoàn thể trợ niệm đến. Trợ niệm đoàn cũng phát cái nguyện ấy. Đến đó, thường là đem theo oán nghiệp của người ấy trở về. Quỷ vốn muốn t́m người ấy tính sổ, sẽ t́m người [trợ niệm ấy] để tính sổ. Người đó trở về bèn phát sốt, hoặc là bị chi đó! V́ người ấy hoàn toàn chẳng phải là hằng ngày tự niệm, cũng chẳng tu hành chi hết, chẳng có sức mạnh đề kháng. Do vậy, quư vị tham gia trợ niệm, hành Bồ Tát đạo, trước hết phải xem xét sức lực của chính ḿnh là như thế nào? V́ sao hàng Nhị Thừa chẳng dám làm? Họ hiểu sức của chính ḿnh chẳng đủ, chẳng dám phát đại tâm. Khá nhiều đạo hữu của chúng ta là đạo hữu Từ Tế[14], đến bố thí, chẳng ngán người khác bẩn thỉu, hoặc nơi chốn rất tệ, chẳng thanh khiết, quư vị đến đó để hành Bồ Tát đạo.

          Trong phẩm thứ mười của kinh Địa Tạng, Địa Tạng Bồ Tát đă xin đức Phật chỉ dạy: V́ sao trên thế giới này, phước đức do bố thí khác biệt rất lớn như vậy? Đức Phật dạy: Quư vị dùng cái tâm ǵ để bố thí? Trong khi quư vị hành bố thí, tâm thái của quư vị là ǵ? Dùng thái độ ǵ? Luôn liên quan rất lớn với tâm thái, tác phong, và lời ăn tiếng nói. Đương nhiên là quư vị cho người khác vật này nọ, người đó trong tâm hoan hỷ, trong tâm cũng [cảm thấy] được cứu độ. Có khi quư vị cho người ta thứ này thứ nọ, mà người nhận rất bực bội v́ quư vị xem thường người khác. Khi đi ăn xin, họ vẫn có ḷng tự trọng. Quư vị phải rất tôn kính họ, đưa đồ tận tay họ; sau đó, c̣n phải nói mấy câu an ủi. Nếu là Phật tử, hăy nói thêm vài câu Phật pháp cho người ấy, sẽ càng tốt hơn!

          Do vậy, khi chúng sanh có khổ nạn, quư vị đừng nên bận tâm cho sự an vui của chính ḿnh. Bồ Tát phát nguyện “chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh, chỉ mong chúng sanh được ĺa khổ”. Hàm nghĩa là như thế đó. “Duy cầu an lạc nhất thiết hữu t́nh, như thị danh vi trụ Đại Thừa giả” (chỉ cầu an lạc hết thảy hữu t́nh. Như thế th́ gọi là người trụ trong Đại Thừa). Đấy là thật sự trụ Đại Thừa, là Bồ Tát thật sự!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Hữu hà đẳng tướng, danh Thanh Văn Thừa? Vị chư chúng sanh thường cần tinh tấn, an trụ chánh niệm, nhạo Đẳng Dẫn Định, ly chư siểm cuống, tín tri nghiệp quả, bất trước ngũ dục, thế gian bát pháp sở bất năng nhiễm, tu thiện dũng mănh, như cứu đầu nhiên, thường thẩm đế quán chư Uẩn, Giới, Xứ, hằng nhạo an trụ sở hữu thánh chủng. Cụ thử tướng giả, danh Thanh Văn Thừa! Như thị chúng sanh, thượng vị năng thành Độc Giác Thừa khí, huống phục năng thành Đại Thừa pháp khí? Thiện nam tử! Hữu hà đẳng tướng danh Độc Giác Thừa? Vị chư chúng sanh cụ thượng Thanh Văn nhất thiết công đức, phục năng ư bỉ Ngũ Thủ Uẩn trung, sổ sổ an trụ tùy Vô Thường Quán, sổ sổ an trụ tùy Sanh Diệt Quán, phổ ư nhất thiết duyên sanh pháp trung, năng thẩm đế quán giai thị diệt pháp. Cụ thử tướng giả, danh Độc Giác Thừa. Như thị chúng sanh, phi Đại Thừa khí.

          ()善男子,有何等相名聲聞乘?謂諸眾生,常勤精進,安住正念,樂等引定,離諸諂誑,信知業果,不著五欲,世間八法所不能染,修善勇猛如救頭燃,常審諦觀諸蘊、界、處,恆樂安住所有聖種,具此相者,名聲聞乘。如是眾生,尚未能成獨覺乘器,況復能成大乘法器?善男子,有何等相名獨覺乘?謂諸眾生,具上聲聞一切功德,復能於彼五取蘊中,數數安住隨無常觀,數數安住隨生滅觀,普於一切緣生法中,能審諦觀皆是滅法,具此相者,名獨覺乘。如是眾生,非大乘器!

          (Kinh: Này thiện nam tử! Có các tướng nào th́ gọi là Thanh Văn Thừa? Tức là các chúng sanh thường siêng tinh tấn, an trụ chánh niệm, thích Đẳng Dẫn Định, ĺa các siểm nịnh, dối trá, tin biết nghiệp quả, chẳng chấp trước ngũ dục, chẳng bị nhiễm tám pháp thế gian, tu thiện dũng mănh như cứu đầu cháy, thường quan sát cặn kẽ, chắc thật các Uẩn, Giới, Xứ, luôn thích an trụ trong tất cả thánh chủng. Có các tướng ấy th́ gọi là Thanh Văn Thừa. Chúng sanh như thế c̣n chưa thể thành căn khí Độc Giác Thừa, huống c̣n có thể trở thành pháp khí Đại Thừa ư? Này thiện nam tử! Có các tướng nào th́ gọi là Độc Giác Thừa? Tức là các chúng sanh đă trọn đủ hết thảy công đức trên đây của Thanh Văn, lại có thể đối với Ngũ Thủ Uẩn nhiều lượt an trụ thuận theo Vô Thường Quán, nhiều lượt an trụ thuận theo Sanh Diệt Quán, v́ khắp hết thảy các pháp duyên sanh mà có thể quán cặn kẽ, chắc thật, đều là diệt pháp. Có các tướng ấy, th́ gọi là Độc Giác Thừa. Chúng sanh như thế chẳng phải là pháp khí Đại Thừa).

 

          Pháp Thanh Văn là ǵ? Trụ Thanh Văn Thừa là ǵ? Thanh Văn Thừa là nói học theo đạo Tiểu Thừa, học quả A La Hán. Tâm lượng của họ chẳng lớn, nhưng họ có chánh niệm, có chánh lạc, có Định lực, có thể từ Định lực dẫn khởi các niềm vui sướng. Đối với các loại Định, đều b́nh đẳng dẫn khởi các sự vui sướng. Người ấy chẳng có tâm siểm khúc, chẳng có tâm lừa dối. Người ấy biết nghiệp quả thiện ác, ḷng tin rất khẩn thiết. Có lúc nghe dường như là chuyện đùa, nhưng trên thực tế, quả thật là như vậy! Tại Nữu Ước, chúng tôi có một vị đạo hữu thấy ở lề đường có hai mươi đồng Mỹ Kim, chẳng biết do ai đánh rơi, ông ta nghĩ: “Ta nhặt lấy, chẳng phạm tội trộm cắp”. Ông ta tính nhặt lên, nhặt rồi lại nghĩ: “Ta phải làm sao với hai mươi đồng này? Vạn nhất phạm sai lầm th́ sao?” Rốt cuộc, ông ta không nhặt, bèn đi qua. Người phía sau cũng thấy, cho rằng ông ta không thấy, thật ra ông ta có thấy, chỉ là không nhặt. Khi người phía sau đă nhặt rồi, vị đạo hữu ấy cảm thấy ḿnh đă bỏ lỡ, bèn quay đầu lại nói: “Đó là tiền tôi đánh rơi”. Về sau, ông ta đến sám hối với tôi: “Thưa sư phụ! Con nói con đánh rơi là sai trái. Con đă nghĩ sai rồi!” Tính nhặt rồi lại chẳng nhặt, tín tâm không kiên định! Phải thật sự đối với hết thảy mọi sự đều chẳng băn khoăn. Khi đi đường, thứ ǵ cũng đều chẳng màng, có lợi ích hay không lợi ích, đều chẳng trông thấy! Ông ta thưa: “Sau đấy, con nghĩ tới mấy cách, con nhặt lên để cho người nghèo, chẳng phải là rất tốt hay sao? Con lại làm công đức”. Tôi nói: “Ông chẳng có công đức, đó là công đức của người làm mất tiền!”

          Khi gặp cảnh giới, quư vị biết đó có phải là hư giả hay không, tín tâm có chân thật hay không? Nếu quư vị tin tưởng quả báo thiện ác, đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, sẽ chẳng tham luyến. Mọi người mỗi sáng, lúc phải thức dậy, chẳng ḅ dậy nổi, vẫn mong ngủ thêm một chút, tối thiểu là phải ườn ra một chút, năm phút cũng được, chẳng phải là vừa tỉnh giấc bèn lập tức ngồi dậy. Trước nay, chẳng hề cảm thấy chính ḿnh ngủ rất nhiều, luôn có cảm giác ngủ không đủ; đấy là dục vọng. Khi ăn, thứ nào vừa mắt bèn ăn sạch; thứ nào thấy không ngon, sẽ chẳng thèm nh́n tới. Đấy là ngũ dục. Nữ đạo hữu cũng yêu thích mua sắm. Chúng tôi sang Hương Cảng, có mấy nữ đạo hữu cùng đi, mê mua sắm lắm! Đi mua sắm suốt cả ngày, trở về luôn luôn là bao này, túi nọ. Cứ trông thấy là muốn mua! Bản thân việc mua sắm là tâm tham. Nhăn căn dẫn khởi ư thức của quư vị tham luyến, dọn cả công ty bách hóa về nhà quư vị, vẫn chẳng thỏa ḷng! V́ cứ sau một hai năm, vật chất, y phục đều thay đổi, những thứ quư vị khuân về trước kia đều lỗi thời rồi! Mở công ty bách hóa, chẳng thể ứ đọng hàng hóa, hàng hóa ứ đọng sẽ lỗ tiền! Do vậy, cảnh giới ngũ dục chẳng phải là dễ dàng đâu nhé!

          Chúng tôi cho rằng: Nếu tín tâm rất tốt, tin Phật rất thành khẩn, đến khi dục cảnh hiện tiền, quư vị quờ quạng bất định, có thể chẳng thuận theo cảnh giới ngũ dục hay không? Chúng ta khi bái sám, hằng ngày niệm: Đối với tám pháp của thế gian, vọng tâm chẳng động. Tám pháp thế gian chính là xưng, cơ, khổ, lạc, ái, tắng, hủy, dự (khen, chê, khổ, vui, yêu, ghét, hủy báng, ca ngợi). Bốn thứ là tốt, bốn thứ là xấu. Khen ngợi quư vị, châm chọc quư vị, hủy báng quư vị! Trước kia, Tô Đông Pha viết trên bàn “bát phong xuy bất động” (tám gió thổi chẳng động). Thiền sư Phật Ấn đến chỗ ông ta, trông thấy bèn viết hai chữ “phóng thí” (放屁, thả rắm). Ông Tô trở về, thấy thế, nổi giận đùng đùng. Phủ nha của ông ta ở bờ bên này Tây Hồ tại Hàng Châu, c̣n chùa Tịnh Từ ở bên kia Tây Hồ. Tô Đông Pha không nhịn được, ngồi thuyền vượt sông, t́m thiền sư Phật Ấn, đến chỗ thiền sư Phật Ấn để tranh căi cho ra lẽ! Tô Đông Pha hỏi: “Cớ sao đối với câu bát phong xuy bất động, ngươi viết là thả rắm?” Thiền sư Phật Ấn hỏi: “Đúng vậy hả?” Tô Đông Pha cự nự: “Làm sao mà không đúng cho được, ngươi c̣n dựa vào đâu [mà dám chê bai]?” Thiền sư Phật Ấn bèn nói: “Đúng th́ đúng, nhưng thật ra, Ngài đă tám gió đều động! Tôi thả rắm một cái đă lôi Ngài qua sông!” Tô Đông Pha cứng họng! Tám gió thổi bất động, Phóng Thí vẫn là giả, vẫn chẳng phải là thật, chỉ là văn tự. Nếu là thật, quư vị phải nên làm ǵ? C̣n có những kẻ tự nhận đạo lực dường như rất sâu, tám gió đều chẳng thổi động được. Chẳng cần đến tám gió, tùy tiện chửi một câu, quư vị lập tức nổi lôi đ́nh!

          “Thường thẩm đế quán” tức là thường suy nghĩ, xem xét, đối chiếu một phen. Các Uẩn, Giới, Xứ dùng ǵ để đối chiếu? Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập Nhị Xứ, trong khi Thức đối ứng Sắc, khi có Thanh tiếp xúc với Thức, quư vị phải nên đối chiếu đôi chút. Âm thanh đẹp đẽ, hay âm thanh chửi rủa, hoặc âm thanh quư vị không thích nghe. Chẳng hạn khi chúng ta tọa Thiền, tĩnh tọa, tiếng xe hơi sẽ khiến cho quư vị bực bội. Tọa Thiền là t́m chỗ tịch tĩnh, quư vị chẳng có loại Định lực ấy, sẽ cảm thấy âm thanh ồn ào. Ở nơi đô thị ồn ào, bèn mong vào sống nơi rừng núi. Núi rừng cũng chẳng thanh tịnh. Núi rừng có rất nhiều âm thanh, như tiếng thú kêu. Nhằm lúc quư vị ở trong sơn động, ngay cả rắn cũng kêu. Tiếng dế, tiếng của các loại trùng, quư vị sẽ đều nghe thấy. Đặc biệt là con ve vào mùa Hè, quư vị cảm thấy ồn gần chết. Quả thật chẳng thể tĩnh tọa nổi. Đấy là cái tâm của quư vị bất an, quư vị ở đó cũng chẳng trốn được! Tiếng gió thổi, tiếng gió lùa rung cây, đặc biệt là vào mùa Đông, tiếng gió lùa qua những cành cây khô khốc trụi lá, đêm nghe xào xạc, xào xạc, quư vị ngỡ quỷ đến! Nếu quư vị chẳng chấp trước hết thảy âm thanh, âm thanh sẽ chẳng thể quấy nhiễu quư vị được!

          Có đôi câu đối: “Phong thanh, vũ thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại” (tiếng gió, tiếng mưa, tiếng chuông khánh, tiếng nào cũng tự tại). Khi chẳng đạt đến cảnh giới đó, quư vị ở trong chùa cũng thấy phiền. Hằng ngày đều gơ chuông. Chùa lớn c̣n có chuông U Minh. Suốt ngày đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều phải gơ. Trước kia, tại Hiển Tông Tự có một vị lăo ḥa thượng. Ngài phụ trách thỉnh chuông, thỉnh chuông suốt bốn mươi năm. Ngài kê một cái giường bên cạnh chuông, ngủ luôn tại đó. Ngày đêm, Ngài đều ngủ tại đó, thỉnh chuông. Tôi hỏi: “Hằng ngày thầy ngủ được bao lâu?” Ngài đáp: “Tôi luôn ngủ”. Tôi hỏi: “Chuông th́ sao?” Ngài đáp: “Chuông vẫn cứ gơ!” Ngài đă dưỡng thành thói quen. Ngài ngủ ngay tại đó ngay trong khi chuông đang ngân “boong”! Ngài biết thuận theo tiếng chuông, đợi khi tiếng chuông vừa dứt, lại gơ một tiếng. Âm thanh ngừng lại bèn gơ một tiếng. Đó gọi là chuông U Minh.

          “Hằng nhạo an trụ sở hữu thánh chủng” (luôn thích an trụ trong tất cả các thánh chủng): Ĺa khỏi Uẩn, Giới, Xứ, an trụ trong thánh chủng, biết là vô thường, biết hết thảy các pháp đều là Khổ, Không. Cái Không ấy là Nhị Thừa Không, Không trong “Pháp Bất Không, Ngă Không”, đó gọi là thánh chủng. Thánh chủng là nói tới ǵ? “Cụ thử tướng giả, danh Thanh Văn Thừa” (có đủ các tướng ấy th́ gọi là Thanh Văn Thừa): Có kẻ tự xưng là Đại Thừa, coi thường Tiểu Thừa: “Đó là pháp Thanh Văn Thừa, ta không cần học!” Quư vị ngay cả h́nh dáng Thanh Văn Thừa c̣n chưa đạt được nữa kia! Đạt tới cảnh giới ấy là cảnh giới A La Hán. Thanh Văn Thừa lại kém hơn Độc Giác Thừa. “Thượng vị năng thành Độc Giác Thừa khí” (vẫn chưa thể thành pháp khí của Độc Giác Thừa): Chỉ có thể là pháp khí của Thanh Văn Thừa, chẳng phải là pháp khí Độc Giác Thừa. Ngay cả pháp khí Độc Giác Thừa c̣n chưa đạt, sao có thể thành pháp khí của Đại Thừa?

          Pháp khí của Độc Giác Thừa lại là h́nh trạng ra sao? “Vị chư chúng sanh cụ thượng Thanh Văn nhất thiết công đức” nghĩa là công đức của Thanh Văn quư vị đều trọn đủ, nhưng tiến nhập lại sâu hơn họ, có thể đối với Ngũ Thủ Uẩn “sổ sổ an trụ” (nhiều lượt an trụ). Có thể an trụ trong Ngũ Thủ Uẩn, tức là có thể biết hết thảy các pháp vô thường. Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức Ngũ Uẩn đều là pháp vô thường, chẳng giữ lấy, chẳng chấp trước. Vô Thường Quán là quán các pháp vô thường, người ấy cũng có thể thâm nhập quán chiếu. Tùy sanh, tùy diệt, vô thường quán, chẳng phải là Đoạn Kiến, chẳng giống ngoại đạo. Tùy thời sanh diệt, đấy là pháp sanh diệt. Hết thảy các pháp Ngũ Thủ Uẩn đều là pháp sanh diệt, đều là vô thường, nhưng trong vô thường, người ấy lại duyên theo hết thảy các pháp. Do duyên khởi mà người ấy có thể nhận biết Lư của chúng. Tánh của các pháp duyên khởi là Không, Thể là Không. Có thể quan sát suy xét kỹ càng [các pháp ấy] đều là diệt pháp. Diệt th́ sẽ thành đạo, như vậy th́ mới có thể đạt được Độc Giác Thừa, tiến hơn Thanh Văn một bước, nhưng hạng chúng sanh ấy chẳng phải là Đại Thừa. Quư vị thấy Thanh Văn Thừa là h́nh trạng như thế nào? Độc Giác Thừa là h́nh trạng như thế nào? Quư vị có chứng đắc hay chăng? Ngay cả pháp khí của Thanh Văn Thừa, quư vị c̣n chưa đủ tŕnh độ, ngay cả pháp khí của Độc Giác Thừa cũng chẳng đủ tŕnh độ, làm sao nói quư vị là Đại Thừa cho nổi? Có hàm nghĩa như thế đó!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn trùng hiển thử nghĩa, nhi thuyết tụng viết: - Nhược chân thiện nhân Sát-đế-lợi, năi chí chân thiện Thú-đạt-la, tu Tín đẳng thập Hữu Y Luân. Ư Thanh Văn Thừa tốc thành khí. Cầu Độc Giác Thừa tam nghiệp tịnh. Cụ túc tàm quư, bố chư Uẩn. Tri quá, nhạo tĩnh, trụ không nhàn. Niệm thủ chư căn, tâm tịch định. Thiện quán duyên khởi, tu Tĩnh Lự. Chư Uẩn, Giới, Xứ xảo năng quán. Cụ thử thập hạnh Hữu Y Luân, thành thắng thừa khí độ Hữu hải. Tu cộng tam thừa Nhị Thừa luân, tự cầu giải thoát phiền năo khổ. Bất độ hữu t́nh, bất xả tập. Thử nhân câu phi Đại Thừa khí. Ngu si, giải đăi, căn hạ liệt. Ư Nhị Thừa pháp bất cần tu, Định bất năng cụ Đại Thừa luân. Cố phi Đại Thừa quảng đại khí.

          ()爾時,世尊重顯此義,而說頌曰:若真善人剎帝利,乃至真善戍達羅,修信等十有依輪,於聲聞乘速成器。求獨覺乘三業淨,具足慚愧怖諸蘊,知過樂靜住空閑,念守諸根心寂定。善觀緣起修靜慮,諸蘊界處巧能觀,具此十行有依輪,成勝乘器度有海。修共三乘二乘輪,自求解脫煩惱苦,不度有情不舍習,此人俱非大乘器。愚癡懈怠根下劣,於二乘法不勤修,定不能具大乘輪,故非大乘廣大器。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trùng tuyên lại nghĩa này, bèn nói kệ tụng rằng: - Nếu chân thiện nhân Sát-đế-lợi, cho đến chân thiện Thú-đạt-la, tu mười Hữu Y Luân như Tín… Mau thành pháp khí Thanh Văn Thừa. Cầu Độc Giác Thừa ba nghiệp tịnh, trọn đủ hổ thẹn, sợ các Uẩn. Biết lỗi, chuộng tĩnh, trụ thanh vắng. Niệm giữ các căn, tâm tịch định. Khéo quán duyên khởi, tu Tĩnh Lự. Các Uẩn, Giới, Xứ khéo quán tưởng. Hành trọn mười món Hữu Y Luân, thành thắng thừa khí, vượt biển Hữu. Tu chung ba thừa Nhị Thừa luân, tự cầu giải thoát phiền năo khổ. Chẳng độ hữu t́nh, xả tập khí, người ấy chẳng phải Đại Thừa khí. Ngu si, giải đăi, căn kém hèn. Chẳng siêng tu tập pháp Nhị Thừa. Quyết chẳng thể trọn Đại Thừa luân. Chẳng phải Đại Thừa quảng đại khí).

 

          “Nhược chân thiện nhân Sát-đế-lợi, năi chí chân thiện Thú-đạt-la” (nếu là bậc chân thiện Sát-đế-lợi, cho đến chân thiện Thú-đạt-la): Chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện Bà-la-môn, chân thiện Phiệt-xá, chân thiện Thú-đạt-la, bốn chủng tánh ấy “tu Tín đẳng thập Hữu Y Luân” (tu mười Hữu Y Luân như Tín v.v…): Mười Hữu Y Luân ấy ngoại trừ Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, vẫn phải tu. Đấy là năm địa vị đầu trong Thập Tín. Trong Hữu Y Luân, có mười pháp. Phải tu mười luân ấy th́ mới có thể mau chóng trở thành pháp khí của Thanh Văn Thừa. Tiến hơn bước nữa, cầu Độc Giác Thừa th́ tam nghiệp thanh tịnh, trọn đủ ḷng hổ thẹn, đối với hết thảy các Uẩn và Giới, sanh khởi cảm giác sợ hăi, chẳng dấy khởi tham đắm. Biết sức lực của chính ḿnh là như thế nào, chính ḿnh phải trụ nơi thanh vắng, ở nơi vắng lặng, ǵn giữ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư của chính ḿnh, khiến cho cái tâm của quư vị có thể tịch định. Tức là đối với pháp Độc Giác Thừa, tu Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Danh Sắc, cho đến sanh, lăo, tử khổ, đều phải khéo quán duyên khởi!

          Độc Giác Thừa chẳng giống Đại Thừa. Duyên khởi của Đại Thừa là biết hết thảy nhân duyên sanh khởi của hết thảy các pháp: Nhân duyên khởi, nhân duyên diệt, pháp duyên khởi chẳng có tự tánh. Bản thể của pháp tự tánh duyên khởi chính là Không. Đấy là nghĩa Không trong Đại Thừa, chẳng giống với nghĩa Không của hàng Nhị Thừa. Đấy chỉ là khéo quán duyên khởi để tu Định, tu tam-muội. Tĩnh Lự là Định, tức quư vị tĩnh lặng. Sự suy tư ấy thoạt đầu vẫn phải t́m ṭi, vẫn phải trải qua rất nhiều quá tŕnh th́ quư vị mới có thể định được!

          Như Sổ Tức Quán được nói trong bộ kinh này, nếu quư vị tu Sổ Tức Quán, phải khéo quán duyên khởi để tu môn Định ấy, khéo có thể quán Uẩn, Xứ, Giới, quán Ngũ Uẩn, quán mười tám Giới, quán mười hai Xứ. Do có phương tiện huệ thiện xảo để quan sát, quan sát các pháp ấy đều là pháp duyên khởi. Hết thảy Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập Nhị Xứ đều là pháp duyên khởi, duyên khởi tánh Không. Tánh Không là Đại Thừa. Duyên khởi là Duyên Giác. Quán pháp duyên khởi, cũng đạt đến nghĩa Không. Cái Không ấy chẳng giống như cái Không trong Đại Thừa. Cái Không ấy (Không trong Đại Thừa) chẳng phải là Không [theo kiểu rỗng không], cái Không ấy là Chân Không. Chân Không là chứng đắc một nửa Chân Không. Cái Không của Bồ Tát được gọi là Phi Không, Phi Không chẳng phải là Không. Chẳng phải là Không th́ là ǵ? Diệu Hữu. Diệu Hữu chẳng phải là Có, phi Hữu, đó là Chân Không. Hàm nghĩa của Chân Không bao gồm ư nghĩa lợi ích hết thảy chúng sanh.

          Nhị Thừa đă đạt tới nghĩa Không, đă được an lạc trong ấy. Họ v́ cầu an lạc cho chính ḿnh, trụ trong Tĩnh Lự, trụ trong môn Định ấy. Đó là điểm bất đồng [giữa Nhị Thừa và Đại Thừa]. Họ đă vượt biển sanh tử, độ thoát tam giới. Họ là pháp khí của thừa thù thắng, tức là Nhị Thừa thù thắng. Thừa này cao hơn nhân thiên thừa, có thể vượt biển Hữu (vượt thoát tam giới), tu tam thừa luân chung cho cả ba thừa. Đây là cộng đạo (共道, đạo chung) của tam thừa, nhưng họ chỉ có thể tu Nhị Thừa Luân, chẳng thể tu Đại Thừa Luân.

          “Tự cầu giải thoát phiền năo khổ”, v́ sao có thể biết họ là Nhị Thừa Luân? Họ chỉ cầu chính ḿnh giải thoát. Giải thoát ǵ vậy? Giải thoát phiền năo, có thể trừ bỏ phiền năo. Họ gặp ǵ cũng chẳng khởi phân biệt, cho đến ư niệm tiếp xúc Pháp Trần, vẫn chẳng sanh khởi phân biệt, đoạn dứt Tư Hoặc, ư niệm chẳng dấy Hoặc. Đó gọi là giải thoát nỗi khổ phiền năo. Đă chẳng có nỗi khổ phiền năo th́ nỗi khổ sanh tử cũng chẳng có. Nhưng khuyết điểm của họ là ǵ? “Bất độ hữu t́nh, bất xả tập” (chẳng độ hữu t́nh, chẳng xả tập khí): Tập khí vẫn tồn tại! Kiến Tư Hoặc đă không c̣n, nhưng Trần Sa Hoặc vẫn tồn tại. Tập khí nhiều như cát bụi, rất khó đoạn, v́ họ chẳng xả tập khí, chẳng độ chúng sanh. Cho nên, họ chẳng phải là pháp khí Đại Thừa. Do vậy, Thanh Văn và Độc Giác đều chẳng phải là khí cụ chứa đựng Đại Thừa.

          “Ngu si, giải đăi, căn hạ liệt. Ư Nhị Thừa pháp bất cần tu, Định bất năng cụ Đại Thừa Luân, cố phi Đại Thừa quảng đại khí” (ngu si, biếng nhác, căn cơ kém hèn, chẳng siêng tu tập pháp Nhị Thừa. Định chẳng thể trọn đủ Đại Thừa luân. Do vậy, chẳng phải là pháp khí rộng lớn của Đại Thừa): Chẳng phát tâm Bồ Đề. Đức Phật quở trách hàng Nhị Thừa là vị họ căn khí kém hèn, giải đăi. Chẳng thể tu pháp Nhị Thừa th́ làm sao có thể cầu Đại Thừa? Kẻ đối với pháp Nhị Thừa chẳng siêng năng tu hành, chẳng chứng quả Nhị Thừa, căn cơ hèn kém, làm sao có thể cầu Đại Thừa cho được? Đức Phật dạy: Chúng ta phải chiếu theo giáo nghĩa để đoán định, họ chẳng thể trọn đủ Đại Thừa Luân, tức là họ chẳng thể ngồi trên cỗ xe ấy, chẳng ngự trên cái Luân ấy (Đại Thừa Luân) được. Luân có nghĩa là xe lăn bánh, Thừa là có công năng vận chuyển. Thừa có Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tiểu Thừa ngồi trên cỗ xe nhỏ, như chiếc xe dê trong kinh Pháp Hoa, sức kéo của xe dê rất yếu nhẹ. Trung Thừa là xe kéo bằng nai, có sức mạnh hơn xe dê. Đại bạch ngưu xa là Đại Thừa, trong thí dụ của kinh Pháp Hoa, Đại Thừa Luân cách biệt Nhị Thừa Luân rất xa. V́ thế nói [pháp khí Nhị Thừa] chẳng phải là pháp khí rộng lớn của Đại Thừa.

 

          (Kinh) Ngu si độc nhất cầu giải thoát. Liệt ư, hạ hạnh, vô từ bi. Nhạo trước Đoạn Kiến, hướng ác thú. Khí xả chánh pháp, thuyết phi pháp. Hủy báng Nhị Thừa, xả luật hạnh. Thọ Cụ Túc Giới, hiệu Đại Thừa. Phá loạn ngă pháp, hoặc chúng sanh. Do thử nhân thân nan phục đắc. Năo loạn ngă pháp chư hiền thánh, trích phạt bị xích ca-sa nhân. Ha mạ, giá đoạt y bát đẳng, trường thời thoái thất nhân thiên thú.

          ()愚癡獨一求解脫,劣意下行無慈悲,樂著斷見向惡趣,棄舍正法說非法。譭謗二乘舍律行,受具足戒號大乘,破亂我法惑眾生,由此人身難復得。惱亂我法諸賢聖,謫罰被赤袈裟人,呵罵遮奪衣缽等,長時退失人天趣。

          (Kinh: Ngu si, độc nhất cầu giải thoát. Ư hèn, hạnh kém, chẳng từ bi. Ham chuộng Đoạn Kiến, hướng đường ác. Vứt bỏ chánh pháp, nói phi pháp. Hủy báng Nhị Thừa, bỏ luật hạnh. Thọ Cụ Túc Giới, xưng Đại Thừa. Phá loạn pháp ta, rối chúng sanh. Do vậy, khó lại được làm người. Năo loạn pháp ta và hiền thánh, trừng phạt người mặc ca-sa đỏ. Quở mắng, ngăn đoạt y và bát… Lui mất đường trời người dài lâu).

 

          “Ngu si độc nhất cầu giải thoát, liệt ư, hạ hạnh, vô từ bi” (ngu si, độc nhất cầu giải thoát, ư hèn, hạnh kém, chẳng từ bi): Đức Phật phê b́nh hàng Nhị Thừa là ngu si, không có trí huệ, chẳng cầu Bồ Đề đạo, chỉ cầu giải thoát cho chính ḿnh, chẳng giải trừ thống khổ cho người khác (đó là ư nghĩa của câu “độc nhất cầu giải thoát”). Người khác có thống khổ, căn bản là họ chẳng quan tâm. Họ phát tâm rất kém hèn, chẳng thù thắng, hạnh chẳng rộng, chẳng có tâm từ bi.

          “Nhạo trước Đoạn Kiến, hướng ác thú. Khí xả chánh pháp, thuyết phi pháp” (Đắm chuộng Đoạn Kiến, hướng đường ác, vứt bỏ chánh pháp, nói phi pháp): Đại Thừa là ǵ? Họ mong cầu nghĩa Không của Đại Thừa, [do chẳng hiểu thâm nghĩa] “các pháp đều là Không, không tu, không chứng”, bèn chấp giữ Đoạn Kiến, chẳng biết khi Bồ Tát lợi ích chúng sanh th́ hết thảy các pháp đều phải tu. Nếu đắm chuộng Đoạn Kiến, [cho rằng] chết rồi là hết, cần phải tu để làm ǵ cơ chứ? Họ lấy rất nhiều câu trong Đại Thừa để che đậy [sự lười nhác của bản thân]. Chẳng hạn như kinh Lăng Nghiêm dạy: “Hà tạ cù lao, khẳng hệ tu chứng?” [nghĩa là] tu chứng là giả, cần ǵ phải phí công phu. Họ dùng ngay câu kinh ấy để ra vẻ “ta đă chứng đắc”. [Chẳng biết hai câu ấy nhằm nói đến] bậc đại Bồ Tát đă chứng đắc pháp tánh, trực tiếp ngộ được pháp tánh, hiểu các pháp duyên khởi đều chẳng có thật tánh. Bản thân các pháp duyên khởi đă trọn đủ thật tánh. Đối với “duyên khởi tánh Không”, chỉ giữ lấy “tánh Không” th́ gọi là Đoạn Kiến, hay Đoạn Diệt Kiến. Như thế th́ chẳng thể gọi là Đại Thừa được! Kẻ đó thuộc về đường ác, sẽ tiến hướng đọa lạc trong ba đường ác, đọa lạc trong địa ngục.

          “Khí xả chánh pháp, thuyết phi pháp” (Vứt bỏ chánh pháp, nói phi pháp): Pháp Nhị Thừa là chánh pháp, Thập Thiện Đạo là chánh pháp. Thập Thiện có sâu và cạn. Thanh Văn Duyên Giác cũng hành Thập Thiện, đại Bồ Tát cũng hành Thập Thiện, chư Phật đều hành Thập Thiện. Tam Bất Hộ là thân, miệng, ư của Phật hoàn toàn thanh tịnh, chẳng cần phải bảo vệ. Hàng Nhị Thừa và Bồ Tát vẫn phải ǵn giữ thân, miệng, ư, luôn ngăn giữ thân, miệng, ư. Thân, miệng, ư là mười nghiệp. Luôn bảo vệ mười nghiệp, chẳng để sai trái. Hủy báng Nhị Thừa, xả luật hạnh là không tŕ giới. Nhị Thừa chuyên nói tới tŕ giới. Hai trăm năm mươi giới đều tŕ thanh tịnh, chứng đắc quả A La Hán. Nếu chúng ta chẳng tŕ thanh tịnh, sẽ chẳng thể chứng đắc. Kẻ hủy báng pháp Nhị Thừa sẽ chẳng học giới luật Nhị Thừa, chẳng thọ tŕ giới luật, thậm chí đă thọ Cụ Túc Giới mà vẫn chẳng hành tŕ. Thọ Cụ Túc Giới, vừa thọ xong, bèn nói chính ḿnh là Đại Thừa, [nại cớ ấy, để khỏi tuân thủ giới luật].

          “Phá loạn ngă pháp, hoặc chúng sanh”: Đấy là mê hoặc chúng sanh, hủy báng, phá hoại chánh pháp của Phật. “Do thử nhân thân nan phục đắc” (do vậy, khó lại được làm người): Kẻ hủy báng như thế đọa vào Đoạn Kiến, cho đến phá loạn Phật pháp. Những kẻ ấy sau khi xả báo, lại muốn được làm người, sẽ rất khó, chẳng đạt được!

          “Năo loạn ngă pháp chư hiền thánh, trích phạt bị xích ca-sa nhân” (năo loạn các vị hiền thánh trong pháp của ta, trừng phạt người mặc ca-sa đỏ): Quở trách người đắp y ca-sa, cho đến hủy báng, năo loạn. Trong ấy có thánh nhân và hiền nhân. Trước khi A La Hán nhập Định, Ngài ở chung với phàm phu Tăng, vị nào là thánh nhân? Vị nào là phàm nhân? Vị nào chứng thánh quả? Quư vị chẳng biết, chẳng phân biệt rơ ràng. Do vậy, [năo loạn Tăng chúng sẽ là] năo loạn các vị hiền thánh trong Phật pháp. “Hiền nhân” là nói tới bảy địa vị [trong Nhị Thừa], tức Sơ Quả Hướng, Sơ Quả, Nhị Quả Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả, Tứ Quả Hướng. Chứng quả A La Hán th́ mới gọi là thánh nhân. Nói theo pháp Nhị Thừa là như thế đó. Do vậy, nếu quở trách, chửi bới, khiển trách, ô nhục người đắp ca-sa, trong ấy sẽ có hiền mà cũng có thánh. Nếu quở trách, mắng chửi họ, cho đến ngăn trở, tước đoạt y và bát của họ. “Trường thời thoái thất nhân thiên thú” [nghĩa là] kẻ đó mong tái sanh trong nhân đạo, hoặc sanh lên thiên đạo, đều chẳng thể được.

 

          (Kinh) Thị cố nhược dục phục nhân thân, bất hoạn thiệt cấm nhi xả mạng, thường nhạo trị ngộ chư Phật giả, phổ ưng hoằng hộ tam thừa pháp, dục đắc tam thừa tối thượng thừa. Ưng thiện quán sát tam thừa pháp, hoan hỷ vị tha phổ khai thị, đương đắc thành Phật định vô nghi. Phá giới, xan tật, hoài kiêu mạn. Tự tán, hủy tha, hiệu Đại Thừa. Xả ly thử nhân, y trí giả, định đương thành Phật, độ tam giới. Ư tam thừa khí tùy sở nghi, từ bi vị thuyết tam thừa pháp. Tùy nguyện linh măn vô xan tật, đương đắc thành Phật định vô nghi.

          ()是故若欲復人身,不患舌𦧈而舍命,常樂值遇諸佛者,普應弘護三乘法。欲得三乘最上乘,應善觀察三乘法,歡喜為他普開示,當得成佛定無疑。破戒慳嫉懷憍慢,自讚毀他號大乘,舍離此人依智者,定當成佛度三界。於三乘器隨所宜,慈悲為說三乘法,隨願令滿無慳嫉,當得成佛定無疑。

          (Kinh: V́ thế, mong lại được thân người, chẳng bị đớ lưỡi mà xả mạng, thường thích gặp gỡ với chư Phật, hoằng hộ trọn khắp pháp tam thừa, mong đắc tam thừa tối thượng thừa. Nên khéo quan sát pháp tam thừa. Hoan hỷ v́ họ khắp khai thị, sẽ được thành Phật quyết chẳng ngờ. Phá giới, keo, ghen, thường kiêu mạn. Khen ḿnh, chê người, xưng Đại Thừa. Xả ĺa người ấy, nương bậc trí, quyết sẽ thành Phật vượt tam giới. Tam thừa pháp khí thuận cơ nghi, từ bi v́ họ nói tam thừa, khiến được măn nguyện, chẳng keo, ganh. Sẽ được thành Phật, quyết chẳng nghi).

 

          “Thị cố nhược dục phục nhân thân, bất hoạn thiệt cấm nhi xả mạng” (V́ thế nếu muốn lại được làm người, chẳng bị đớ lưỡi, xả tánh mạng): Quư vị mong lại được làm thân người, có hai t́nh huống:

          1) Tuy vẫn được làm thân người, nhưng rất khó có thân thể toàn vẹn. Một loại [khuyết tật] là lưỡi. Lưỡi quá ngắn, hoặc quá dài, chẳng thể nói được. Có miệng mà chẳng thể nói. Đó là một trường hợp.

          2) Hoặc là xả mạng, sanh vào nhân gian chẳng bao lâu đă chết, lại xả thân người. Xả xong bèn vào địa ngục.

          Nếu có lưỡi [mà chẳng nói được], sẽ sống lâu hơn một chút. Chẳng có lưỡi, thọ mạng sẽ ngắn hơn! V́ kẻ đó tiếp tục làm ác, mới từ địa ngục thoát ra, rất khó tăng trưởng thiện căn. Đă quen thói làm ác, rất khó sửa đổi tập khí. Đoạn Kiến Tư Hoặc c̣n dễ, chứ sửa đổi tập khí rất khó. Phá giới th́ sám hối có thể thay đổi, chứ phá Kiến th́ chẳng có cách nào, Phật cũng chẳng thể cứu kẻ đó. Kiến tức là tri kiến. Kẻ đó nh́n nhận vấn đề luôn khác với mọi người, đặc biệt lệch lạc, đặc biệt hẹp ḥi, luôn chẳng phù hợp pháp, báng bổ chánh pháp là phi pháp, nói phi pháp là chánh pháp. Hễ ai có loại kiến giải ấy, sẽ chẳng dễ độ. Tập khí nơi tri kiến mang theo từ vô lượng đời. “Thường nhạo trị ngộ chư Phật giả” (thường thích gặp gỡ chư Phật): Nếu quư vị mong thường gặp chư Phật, phải hoằng dương pháp tam thừa.

          “Dục đắc tam thừa tối thượng thừa, ưng thiện quán sát tam thừa pháp” (Nếu muốn đắc pháp tối thượng thừa trong tam thừa, hăy nên khéo quán sát pháp tam thừa): Nếu quư vị mong đạt được pháp Đại Thừa, hăy khéo quan sát pháp tam thừa. Pháp tam thừa rốt cuộc là nói đến điều ǵ? “Hoan hỷ vị chúng sanh phổ khai thị” (Hoan hỷ v́ chúng sanh khai thị trọn khắp). Ở đây, chữ Phổ (, trọn khắp) là đừng chọn lựa, đừng nên chỉ khai thị cho kẻ có tiền, có thế; chẳng khai thị cho kẻ không tiền, không thế. Đôi khi chúng ta thấy súc sanh, khuyên mọi người hăy niệm Tam Quy cho nó. [Quư vị cứ nghĩ] chúng nó không hiểu, [dẫu nói Tam Quy] chẳng có tác dụng ư? Quư vị thọ quán đảnh, có hiểu hay không? V́ sao quư vị muốn thọ quán đảnh? Đó gọi là gieo chủng tử. Có khá nhiều người thọ quán đảnh, căn bản là chẳng hiểu. Đă thọ đại quán đảnh thật sự, họ vẫn chẳng biết. Mỗi phép quán đảnh, đều có một bài chú chủ yếu. Đă thọ quán đảnh, nhất định phải niệm chú. Tối thiểu là niệm mười vạn biến, thường thọ tŕ, niệm cho nhiều. Có người thọ quán đảnh xong, tôi hỏi người ấy: “Quư vị có thọ tŕ hay không?” Người ấy hỏi: “Thọ tŕ ǵ vậy?” Tôi nói: “Quư vị thọ quán đảnh ǵ vậy?” “Tôi cũng không biết”. Như vậy th́ có công đức hay không? Có một ít, gieo chủng tử mà thôi!

          Bất luận loại súc sanh nào, quư vị niệm Tam Quy cho nó. Quư vị đối trước chó, cho đến những con cá ta phóng sanh, chúng đều mở mắt rất to ngó quư vị. Quư vị nói Tam Quy cho chó, chó liền mở to mắt nh́n quư vị. Bất luận nó hiểu hay không, quư vị đă gieo chủng tử cho nó, có ư nghĩa như vậy. Nhất định phải làm như vậy, hăy nên khéo quan sát pháp tam thừa. “Hoan hỷ vị tha phổ khai thị, đương đắc thành Phật định vô nghi” (hoan hỷ v́ người khác khai thị trọn khắp, sẽ được thành Phật, chắc chắn chẳng nghi ngờ): Người có thể làm như vậy, đấy mới là Đại Thừa thật sự, nhất định có thể thành Phật.

          “Phá giới, xan, tật, hoài kiêu mạn, tự tán, hủy tha, hiệu Đại Thừa” (phá giới, keo kiệt, ghen ghét, ôm ḷng kiêu mạn, tự khen ḿnh, chê người, mà xưng là Đại Thừa): Không chỉ chẳng phải là Đại Thừa, Tiểu Thừa cũng chẳng phải, chẳng nhập Phật môn, ngay cả mấp mé Phật pháp cũng chẳng có, chẳng cần để ư đến hạng người như thế. “Xả ly thử nhân y trí giả, định đương thành Phật độ tam giới” (hăy ĺa bỏ kẻ ấy, nương theo người trí huệ, chắc chắn sẽ thành Phật, độ tam giới): Hạng người phá giới, keo kiệt, ghen tỵ, lại ôm ḷng kiêu căng, ngạo mạn như thế, tán thán chính ḿnh, hủy báng người khác. Hễ hủy báng người khác, tất nhiên là sẽ có hơi hướng tán thán chính ḿnh! Hăy ĺa bỏ người như thế, nương cậy bậc có trí huệ, nhất định sẽ thành Phật, độ thoát tam giới, thoát khỏi tam giới.

          “Ư tam thừa khí tùy sở nghi, từ bi vị thuyết tam thừa pháp” (Đối với các pháp khí tam thừa, hăy tùy thuận cơ nghi, từ bi v́ họ nói pháp tam thừa): Đối với người thuộc tam thừa, người ấy thuộc loại căn cơ nào, “nghi” () có nghĩa là đáng nên, tức là người ấy đáng nên tiếp nhận pháp nào, quư vị bèn từ bi nói cho người ấy pháp đó. “Tùy nguyện linh măn vô xan, tật, đương đắc thành Phật định vô nghi” (thuận theo ư nguyện khiến cho họ được thỏa măn, chẳng keo kiệt, ghen ghét, th́ sẽ thành Phật chắc chắn chẳng nghi ngờ): Tùy theo ư nguyện của người ấy, khiến cho người ấy thỏa măn. Ngàn vạn phần chớ nên bủn xỉn pháp! [Nếu] bủn xỉn, tham lam, ghen ghét đối với pháp, quư vị sẽ mắc quả báo đớ lưỡi, chẳng thể nói được!

         

          (Kinh) Tri Uẩn, Giới, Xứ giai không tịch, vô sở y trụ thí hư không, thuyết pháp đẳng nhiếp chư hữu t́nh, đương hoạch diệu giác vô biên trí. Phá giới, ư nhạo hoài ác tâm, văn thuyết Đại Thừa thắng công đức, trá hiệu Đại Thừa vị danh lợi, như tệ lư phi sư tử b́. Ngă kim phổ cáo nhất thiết chúng, nhược dục tật đắc thắng Bồ Đề, đương thiện tu tŕ Thập Thiện Nghiệp, hộ tŕ ngă pháp, vật hủy hoại!

          ()知蘊界處皆空寂,無所依住譬虛空,說法等攝諸有情,當獲妙覺無邊智。破戒意樂懷噁心,聞說大乘勝功德,詐號大乘為名利,如弊驢披師子皮。我今普告一切眾,若欲疾得勝菩提,當善修持十善業,護持我法勿毀壞。

          (Kinh: Biết Uẩn, Giới, Xứ đều không tịch, chẳng hề nương trụ như hư không, thuyết pháp b́nh đẳng nhiếp hữu t́nh, sẽ đắc diệu giác vô biên trí. Phá giới, ư ưa ôm ḷng ác, nghe công đức Đại Thừa thù thắng, vờ xưng Đại Thừa v́ danh lợi, như lừa ác khoác da sư tử. Ta nay bảo khắp hết thảy chúng, nếu muốn mau đạt thắng Bồ Đề, hăy khéo tu tŕ Thập Thiện Nghiệp, hộ tŕ pháp ta, đừng hủy hoại).

 

          Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập Nhị Xứ đều là duyên khởi, chẳng có tự tánh. Tánh thể của chúng là không tịch. “Không” là chẳng có tướng trụ, chẳng đến, chẳng đi. Biết hết thảy các pháp như Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới đều là không tịch, đó là đạt được công phu. Nếu quư vị có thể học Duy Thức Tam Thập Luận, có thể hiểu rơ Ngũ Uẩn, Thập Bát Giới, Thập Nhị Xứ, đều chẳng phải là chuyện dễ! Sau đó, quư vị lại quán, quán tưởng ǵ? Các pháp ấy căn bản là chẳng có. Sáu thức Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư là hư vọng, như mộng, huyễn, bọt, bóng. Bên ngoài th́ đối ứng với sáu trần, tức Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp cũng là rỗng không, hư huyễn như mộng, huyễn, bọt, bóng. Căn đối ứng với Trần thành mười hai Xứ, đều là tịch tĩnh, chẳng đến, chẳng đi, bất sanh, bất diệt. Do bản tánh thường tịch tĩnh, do các pháp như huyễn, đều chẳng y chỉ. V́ chẳng y chỉ, hư không nương vào đâu? Hư không chẳng nương vào thứ ǵ cả! Nói loại pháp này để nhiếp thọ các hữu t́nh; đấy mới là diệu nghĩa Đại Thừa, khiến cho hết thảy chúng sanh đều đạt được trí huệ diệu giác vô biên, đạt được Không Huệ. Cái Không ấy chính là Bát Nhă, chính là cái Không mà Quán Tự Tại Bồ Tát dùng để chiếu “Ngũ Uẩn đều không”, mười tám Giới đều không, mười hai Xứ đều không. Cái Không của Bát Nhă ấy là không mà phi không. Không phi không chính là Chiếu.

          “Phá giới, ư nhạo hoài ác tâm” (phá giới, ư thích ôm ḷng độc ác): Phàm là kẻ phạm giới, phá giới, tâm kẻ đó chẳng tốt lành, nhất định là ác tâm. Nghe nói công đức Đại Thừa to lớn, chính kẻ đó cũng lừa dối người khác, nói: “Ta cũng là Đại Thừa”. [Đó là] “trá hiệu Đại Thừa” (dối trá xưng là Đại Thừa). Công đức của Đại Thừa to lớn, tâm mọi người đều hướng đến, đặc biệt là chúng ta thích hướng về Đại Thừa, hướng về Mật, hướng về viên măn, hướng về rốt ráo. Nếu nói pháp này chẳng rốt ráo, ta sẽ chẳng học pháp này, ta muốn học pháp rốt ráo. Khá lắm! Học pháp rốt ráo, chí hướng khá lắm, nhưng [nếu người học] chẳng phải là căn khí, th́ sẽ liên quan đến danh lợi!         

          “Như tệ lư phi sư tử b́” (giống như con lừa tệ hại, khoác da sư tử): Giống như thí dụ đă nói trong phần trước. Chỉ là một con lừa tệ hại, khoác da sư tử, ngụy trang làm sư tử, bị người khác biết tỏng ṭng tong! “Ngă kim phổ cáo nhất thiết chúng, nhược dục tật đắc thắng Bồ Đề” (nay ta bảo trọn khắp hết thảy đại chúng, nếu muốn nhanh chóng đạt được Bồ Đề thù thắng): Nay ta nói cùng mọi người, quư vị nếu muốn chứng đắc quả Bồ Đề rất nhanh chóng, hăy khéo tu tŕ Thập Thiện Nghiệp, hăy khéo tu tập Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp tu thành, có thể khiến cho Phật pháp chẳng bị hủy hoại.

 

          (Kinh) Ngă tích chư dư Khế Kinh thuyết, ưng cầu đại giác, hành Đại Thừa, xả ly Thanh Văn, Độc Giác Thừa, vị thanh tịnh giả thuyết tư pháp. Tằng cúng vô lượng câu-chi Phật, đoạn ác, cần lao tu tịnh tâm. Ngă vị khuyến tấn bỉ chúng sanh, cố thuyết Nhất Thừa, vô đệ nhị. Kim thử chúng cụ tam thừa khí, hữu đản kham trụ Thanh Văn Thừa, tâm cực ưu bố, đa sự nghiệp. Bỉ phi thượng diệu Bồ Đề khí. Hữu si nhạo tĩnh, trụ Độc Giác, bỉ phi thượng diệu Bồ Đề khí. Hữu kham an trụ thượng diệu trí. Cố tùy sở nhạo, thuyết tam thừa. Cụ tịnh công đức, nhạo giải thoát. Văn thuyết Đại Thừa đọa ác thú, như bệnh đàm ấm, giáo phục nhũ. Thử tăng độc hại, phi trừ tật. Như thị phi khí Thanh Văn Thừa, văn thuyết Đại Thừa tâm mê loạn, tiện khởi Đoạn Kiến, đọa ác thú. Cố ưng thuyết pháp, thẩm quán cơ.

          ()我昔諸餘契經說,應求大覺行大乘,舍離聲聞獨覺乘,為清淨者說斯法。曾供無量俱胝佛,斷惡勤勞修淨心,我為勸進彼眾生,故說一乘無第二。今此眾具三乘器,有但堪住聲聞乘,心極憂怖多事業,彼非上妙菩提器;有癡樂靜住獨覺,彼非上妙菩提器;有堪安住上妙智,故隨所樂說三乘。具淨功德樂解脫,聞說大乘墮惡趣,如病痰癊教服乳,此增毒害非除疾。如是非器聲聞乘,聞說大乘心迷亂,便起斷見墮惡趣,故應說法審觀機。

          (Kinh: Ta xưa trong các Khế Kinh nói, nên cầu đại giác, hành Đại Thừa, ĺa bỏ Thanh Văn, Độc Giác Thừa, v́ bậc thanh tịnh thuyết pháp ấy. Từng cúng vô lượng câu-chi Phật, đoạn ác, siêng năng, tu tịnh tâm. Ta v́ khuyến khích chúng sanh ấy, chỉ nói nhất thừa, không thừa khác. Nay đại chúng đủ căn cơ tam thừa, có người chỉ kham Thanh Văn Thừa, tâm cực lo sợ, lắm sự nghiệp. Chẳng phải Bồ Đề thượng diệu khí! Kẻ si, chuộng tĩnh, trụ Độc Giác, chẳng phải Bồ Đề thượng diệu khí. Kẻ kham an trụ trí thượng diệu, tùy ḷng họ thích, nói ba thừa. Đủ tịnh công đức, chuộng giải thoát. Nghe nói Đại Thừa, đọa đường ác. Như bị nghẹn đàm, dạy uống sữa. Tăng thêm độc hại, chẳng trừ bệnh. Căn khí Thanh Văn, phi Đại Thừa, nghe nói Đại Thừa tâm mê loạn, liền dấy Đoạn Kiến, đọa đường ác. Nói pháp phải nên quán căn cơ).

 

          “Ngă tích chư dư Khế Kinh thuyết, ưng cầu đại giác, hành Đại Thừa” (ta xưa kia trong các Khế Kinh khác nói: Hăy nên cầu đại giác, hành Đại Thừa): Trong các kinh khác, ta nói như vậy, khuyên mọi người, khuyên hết thảy chúng sanh đều nên học Đại Thừa, hành pháp Đại Thừa, đại giác cầu thành Phật. “Xả ly Thanh Văn, Độc Giác Thừa” (ĺa bỏ Thanh Văn và Độc Giác Thừa): Chẳng cần học pháp Thanh Văn và Độc Giác Thừa. Ta nói pháp ấy là v́ những người thanh tịnh mà nói, “vị thanh tịnh giả thuyết tư pháp” (v́ những người thanh tịnh mà nói pháp này). Câu này nhằm trả lời câu hỏi của Kim Cang Tạng Bồ Tát.

          Trước kia, trong các kinh điển Đại Thừa khác, [đức Phật] đă từng nói như thế này: “Đều phải nên học Đại Thừa, chẳng cần học Thanh Văn và Độc Giác Thừa”. Đó là v́ Ngài nói với những người thanh tịnh. V́ những người ấy đều đă cúng dường vô lượng câu-chi Phật, “đoạn ác, cần lao tu tịnh tâm” (đoạn ác, siêng khổ tu tịnh tâm), tịnh tâm phải tu đến mức thành tựu kha khá. “Ngă vị khuyến tấn bỉ chúng sanh, cố thuyết nhất thừa, vô đệ nhị” (ta v́ khuyến tấn các chúng sanh ấy, cho nên nói nhất thừa, chẳng có thừa thứ hai): Kinh Pháp Hoa nói như vậy. “Chỉ thử thị nhất thật, dư nhị tắc vi chân” (chỉ có pháp này là duy nhất chân thật, hai thừa khác đều chẳng thật) nhằm nói cho những người ấy, tức là thuyết pháp đúng với căn cơ.

          “Kim thử chúng cụ tam thừa khí, hữu đản kham trụ Thanh Văn Thừa” (nay trong đại chúng này có đủ căn cơ tam thừa, có những người chỉ có thể trụ trong Thanh Văn Thừa): Nay ta chỉ nói trọn khắp cho người trong tam thừa. Kinh Đại Tập Thập Luân nói trọn khắp tam thừa. Nay trong đại chúng này, có những người chỉ có thể trụ trong Thanh Văn Thừa. Trong tâm người ấy sợ hăi rất nhiều chuyện, họ chẳng phải là căn khí Bồ Đề thượng diệu. Hàng Độc Giác trụ tịch tĩnh, “bỉ phi thượng diệu Bồ Đề khí” (kẻ đó chẳng phải là pháp khí của Bồ Đề thượng diệu). “Hữu kham an trụ thượng diệu trí, cố tùy sở nhạo thuyết tam thừa” (có kẻ có thể an trụ trí thượng diệu; v́ thế, tùy theo ḷng ưa thích của họ mà nói tam thừa): Có người thích Đại Thừa, thuộc căn khí ấy, có thể trụ trong Đại Thừa, có trí huệ mầu nhiệm ấy, ta liền nói cho người ấy pháp Đại Thừa. “Cụ tịnh công đức nhạo giải thoát, văn thuyết Đại Thừa đọa ác thú” [nghĩa là] c̣n có hạng người khác, họ mong cầu giải thoát thanh tịnh [chẳng có tâm phổ độ chúng sanh], nghe nói Đại Thừa, lại đâm ra đọa vào đường ác.

          Tiếp đó nói tỷ dụ: “Như bệnh đàm ấm giáo phục nhũ, thử tăng độc hại, phi trừ tật” (như mắc bệnh nghẹn đờm, bảo kẻ đó uống sữa, sẽ tăng độc hại, chẳng trừ bệnh tật): Kẻ đó chỉ mong cầu ĺa khỏi nỗi khổ trong ba đường ác, hoặc chỉ mong cầu ĺa khỏi nỗi khổ trong tam giới, người ấy đă trọn đủ công đức của hai trăm năm mươi giới, mong giải thoát ǵ vậy? Giải thoát nhân gian, cầu đạt được sự tịch tĩnh của Nhị Thừa. Nếu ta nói pháp Đại Thừa cho kẻ đó, kẻ đó không chỉ chẳng tiếp nhận, mà c̣n sẽ hủy báng, nhất định đọa vào ác đạo. Như người mắc bệnh đàm, ấm đàm (癊痰)chứng bệnh cổ họng không thoải mái (viêm họng), cho người ấy uống sữa, yết hầu càng nóng thêm, viêm nặng hơn. Đó là độc hại, hoàn toàn chẳng phải là trừ khử bệnh cho người đó. Uống chút nước hoàng liên sẽ đỡ hơn nhiều. Đó là cắt thuốc đúng bệnh.

          “Như thị phi khí Thanh Văn Thừa, văn thuyết Đại Thừa tâm mê loạn” (kẻ thuộc Thanh Văn Thừa, chẳng phải là pháp khí Đại Thừa, nghe nói Đại Thừa, tâm sẽ mê loạn): Đối với kẻ chẳng phải là pháp khí Đại Thừa, [nghe giảng Đại Thừa], nhất định sẽ mê loạn. Kẻ chẳng phải là pháp khí Nhị Thừa, nếu nói pháp Nhị Thừa cho người ấy, họ cũng chẳng thể chứng nhập, v́ họ là căn khí Đại Thừa. Đối với hạng pháp khí Thanh Văn Thừa, nói pháp Đại Thừa cho người ấy, họ nghe xong, tâm sẽ loạn, ngay cả Thanh Văn Thừa cũng chẳng đạt được. Ngược lại, họ sẽ dấy khởi Đoạn Kiến, đọa vào ác thú Không. Không chỉ chẳng thể lănh ngộ nghĩa Không, mà c̣n đọa vào Ác Thú Không, đọa vào đường ác. “Cố ưng thuyết pháp thẩm quán cơ” nghĩa là khi thuyết pháp, nhất định phải cẩn thận, nhất định phải xem xét căn cơ cẩn thận.

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 11 hết



[1] Tướng Thanh (相聲) có thể tạm hiểu như Tấu Hài của người Việt, nhưng phức tạp hơn. H́nh thức biểu diễn này xuất hiện từ đời Thanh tại Bắc Kinh. Người biểu diễn được gọi là Tượng Sanh (像生). Thoạt đầu, các nghệ nhân mô phỏng ngôn ngữ và hành vi của người khác để châm biếm, chọc cười. Về sau, đơn giản là dùng kỹ năng chọc cười, bằng các biện pháp nhấn nhá, châm biếm, hư lộng, tạo những nút thắt, và cách giải quyết thông minh để gây ngạc nhiên, tán thưởng cho khán thính giả, nên gọi là Khẩu Tướng Thanh. Người biểu diễn có thể là một hay nhiều người, có thể là đối đáp, khích bác lẫn nhau, tận dụng tối đa các h́nh thức chơi chữ, câu đối, điển tích, kèm theo hát xướng, ngâm thơ để tạo hiệu quả tốt hơn. Nghệ nhân phải thông hiểu kinh sách, điển cố để vận dụng linh hoạt, tạo hiệu ứng kinh ngạc, cảm thán cho người nghe, nhất là vận dụng điển cố kinh sách Nho gia theo kiểu hiểu lệch lạc, xuyên tạc ư nghĩa.

[2] Theo Phật Học Từ Điển của Đinh Phước Bảo, Cú Nghĩa là giải thích ư nghĩa, nghĩa lư của từng câu.

[3] Pháp sư Từ Châu (1877-1958), pháp danh là Phổ Hải, pháp tự Từ Châu, người huyện Tùy, tỉnh Hồ Bắc, là một vị danh tăng thời cận đại. Ngài được coi là một nhà giáo dục lỗi lạc trong Phật giáo Trung Hoa. Sư sanh trong một gia đ́nh tin Phật, cha lẫn mẹ đều là cư sĩ Phật giáo thuần thành. Sư đă từng dạy học. Đến năm 1919, Sư cùng vợ đều xuất gia với lăo ḥa thượng Nguyên Chiếu tại chùa Phật Hoàn ở quê nhà. Sau đó, Sư nhập chúng tu học tại chùa Trường Sanh ở Dương Châu rồi quải đơn tại chùa Giang Thiên ở Trấn Giang. Năm 1914, Sư xin vào Hoa Nghiêm Đại Học do pháp sư Nguyệt Hà sáng lập. Sau khi tốt nghiệp, Sư dành trọn năm năm tham bái Phổ Đà và Cửu Hoa. Năm 1920, Sư giúp các pháp sư Giới Trần và Liễu Trần kế thừa di học của ngài Nguyệt Hà, kiến lập Hoa Nghiêm Đại Học tại chùa Cửu Liên ở Hán Khẩu. Năm sau, lập Pháp Giới Học Viện tại chùa Hưng Phước ở Thường Thục. Năm 1928, sáng lập Trúc Lâm Phật Học Viện tại chùa Trúc Lâm ở Trấn Giang. Năm 1929, nhận lời thỉnh của tổ Ấn Quang và ḥa thượng Chân Đạt, làm trụ tŕ chùa Linh Nham. Năm 1931, lại nhận lời mời của ḥa thượng Hư Vân đến lập Pháp Giới Học Viện tại chùa Dũng Tuyền ở Phước Châu rồi mở Pháp Giới Học Viện tại chùa Pháp Hải ở Phước Châu vào năm 1936. Năm 1952, Sư làm trụ tŕ chùa Nam Phổ Đà. Sư từng làm hội trưởng hội Phật giáo Trung Quốc vào năm 1956, rồi làm Xử Lư Thường Vụ của hội vào năm 1957.

[4] Khôi () là loại mũ che kín đầu bằng sắt hoặc đồng để chắn, tên đạn.

[5] Nếu nói chi tiết hơn, Ngũ Thủ Uẩn chính là phiền năo phát sanh từ Ngũ Uẩn. Theo Duy Thức, Thủ ở đây là tên gọi khác của phiền năo. Gọi là Ngũ Thủ Uẩn do dựa theo ba ư nghĩa:

1. Ngũ Uẩn do phiền năo mà sanh khởi.

2. Do v́ có Ngũ Uẩn mà có các phiền năo hệ thuộc.

3. Ngũ Uẩn làm cơ sở để sanh khở phiền năo.

Cách hiểu thứ ba phổ biến nhất.

[6] “Bách phi” là một trăm kiểu phủ định, cũng hàm nghĩa “phủ định hết thảy các chấp trước”. Bách phi được triển khai từ tứ cú. Tức là đối với “có, không, chẳng phải có chẳng phải không, cũng có cũng không”, mỗi câu trong ấy đều có đủ bốn câu, hợp thành bốn lần bốn, tức là mười sáu câu. Mười sáu câu ấy lại ghép với ba thời (quá khứ, vị lai, hiện tại) thành 16x3=48 câu. 48 câu ấy lại ghép với hai điều “đă khởi, chưa khởi” thành 48x2=96 câu. 96 câu ấy cộng với tứ cú căn bản (có, không, chẳng phải có chẳng phải không, cũng có cũng không) thành một trăm câu, gọi là “bách phi”.

[7] Cư sĩ Trương Thương Anh (1043-1121), tự Thiên Giác, hiệu Vô Tận Cư Sĩ, người xứ Tân Tân, thuộc Thục Châu (nay là tỉnh Tứ Xuyên). Ông đậu Tiến Sĩ đời Tống Nhân Tông, làm quan đến chức Thượng Thư Hữu Thừa Chuyển Tả Thừa. Ông có tài hùng biện, nói thẳng không e ngại, thông hiểu Phật giáo, thường thích trao đổi Phật pháp với Tăng chúng, được người đời xưng tụng là Tướng Công Thiền. Các bài văn như Hộ Pháp Luận, Tục Thanh Lương Truyện của ông đều được đánh giá chẳng khác ǵ khí vận của một bậc Thiền Tăng. Thoạt đầu, ông không tin Phật, c̣n ưa chỉ trích Phật giáo. Một hôm, ông đến chùa chơi, thấy Đại Tạng Kinh được khắc chữ vàng trên b́a, bực bội nói: “Sách đạo Khổng của ta c̣n chẳng được trân trọng bằng giáo pháp của người Hồ, sao người ta lại trân trọng Phật giáo đến thế?” Trở về, ông liền khởi sự viết Vô Phật Luận để bài xích Phật giáo. Một hôm, đến chơi nhà một đồng liêu, thấy trên khám thờ Phật có để một quyển kinh Duy Ma Cật, ông tiện tay lật xem. Đọc đến câu “thử bệnh phi Địa Đại, diệc bất ly Địa Đại” (bệnh này chẳng phải là Địa Đại, mà cũng chẳng ĺa Địa Đại), dường như có cảm ngộ, than thở: “Lời của người Hồ mà cũng được như thế này ư?” bèn mượn về nhà đọc tiếp. Bà vợ bảo: “Ông đọc kỹ kinh này rồi hăy viết Vô Phật Luận”. Ông ngạc nhiên, thôi viết luận bài xích, lưu tâm đọc kỹ kinh Phật. Vào năm Nguyên Hựu thứ nhất (1086), khi giữ chức đề điểm h́nh ngục ở Hà Đông, ông triều bái núi Thanh Lương, được Văn Thù Bồ Tát hóa hiện trên không, liền vẽ lại h́nh tượng của Ngài. Bức tranh ấy được thờ tại đó. Trong niên hiệu Đại Quán, do hạn hán lâu ngày, Thương Anh được vua sai cầu mưa. Ông ba lần vào Ngũ Đài cầu mưa đều được ứng nghiệm. Năm Nguyên Hựu thứ sáu (1091), khi giữ chức Tào Vận Sứ ở Giang Tây, ông tham yết Đông Lâm Chiếu Giác Thường Tổng thiền sư thuộc thiền phái Hoàng Long Huệ Nam, được Thiền Sư ấn khả. Tuy đắc Thiền chỉ, ông vẫn chuyên tâm niệm Phật. Liên Tŕ đại sư ca ngợi: “Trương Vô Tận lănh ngộ chân chỉ của Thiền Tông, vẫn nhất tâm nhất ư phụng tŕ Tịnh Độ, xác thực là bậc trí sáng vô cùng”. Khi mất, ông an tường ngồi xếp bằng, bảo mọi người kinh Pháp Hoa nói từ đất vọt lên tháp báu của Phật Đa Bảo, [Phật Đa Bảo] chia ṭa với Phật Thích Ca. Đó là chuyện chẳng hư dối. Nói xong, ông đọc kệ thị tịch, cúi đầu qua đời.

[8] Ḥa thượng Tuyên Hóa (1918-1995), tục danh là Bạch Ngọc Thư, c̣n có tên là Ngọc Hỷ. Năm 19 tuổi, ḥa thượng xuất gia tại chùa Tam Duyên, cầu thỉnh lăo ḥa thượng Thường Trí làm thế độ sư, được ban pháp danh An Từ, pháp tự Độ Luân. Tới năm 1946, Sư gặp ḥa thượng Hư Vân, năm 1947 Sư mới thọ Cụ Túc Giới, cho đến năm 1948 mới được ḥa thượng Hư Vân ấn khả, ban cho đạo hiệu Tuyên Hóa, trở thành truyền nhân đời thứ chín của tông Quy Ngưỡng trong nhà Thiền, được xếp vào hàng ngũ mười đại đệ tử của ḥa thượng Hư Vân, cho nên lăo pháp sư Mộng Tham mới nói “cho đến năm 1946, 1947, thượng nhân mới vào cửa Phật”.

[9] Lưu Thiện, tên tự là Công Tự và Thăng Chi, tên gọi thuở bé là A Đẩu, con trai của Lưu Bị và Cam Mai (Chiêu Liệt Hoàng Hậu). Về sau, Lưu Thiện nối ngôi Lưu Bị (Hán Chiêu Liệt Đế). Sử thường gọi Lưu Thiện là Thục Hán Hậu Chúa. Khi Tôn Quyền sai người đón Tôn phu nhân về lại Đông Ngô đă bắt cóc Lưu Thiện theo, phải nhờ Triệu Vân (Triệu Tử Long) dũng mănh đột phá mới cướp Lưu Thiện trở về được. Về sau, nhà Thục Hán bị Tào Ngụy thôn tính, Lưu Thiện bị bắt đưa về kinh đô Lạc Dương của nước Ngụy, giữ chức vị bù nh́n là An Lạc Huyện Công.

[10] Vị Tăng tinh thông, chuyên hành tŕ giới luật tinh nghiêm, có đủ tư cách dạy dỗ, truyền giới luật cho Tăng chúng th́ gọi là Luật Sư.

[11] Ngọc Lâm Thông Tú (1614-1675), thường được gọi là Ngọc Lâm quốc sư, người huyện Giang Âm, tỉnh Giang Tô, là một vị cao tăng thuộc tông Lâm Tế đời Thanh. Ngài thọ Cụ Túc Giới với ngài Khánh Sơn Viên Tu, từng làm trụ tŕ chùa Báo Ân ở Vũ Khang, tỉnh Chiết Giang. Về sau, Ngài vâng chiếu vào kinh truyền pháp, được phong hiệu là Đại Giác thiền sư. Năm Thuận Trị thứ mười bảy (1660), khi vợ yêu của Thuận Trị là Đổng Ngạc Phi qua đời sau một thời gian bnh tật v́ sanh nở, Thuận Trị chán ngán thế sự, muốn xuất gia, ngài Ngọc Lâm cực lực can ngăn. Nghe lời, Thuận Trị sai người thay ḿnh xuống tóc, tôn ngài Ngọc Lâm làm bổn sư. Do chuyện này, khi Thuận Trị mất sớm, các nhà tiểu thuyết Trung Hoa đă bịa ra chuyện vua giả chết, trốn khỏi hoàng cung, lên núi Ngũ Đài tu hành.

[12] Ở đây, có lẽ lăo pháp sư nói nhầm, v́ ngài Ngọc Lâm mất năm 1675, khi đó là năm Khang Hy thứ mười bốn, mà Càn Long (Hoằng Lịch) măi đến năm 1711 mới sanh ra đời. Hoặc v́ là một truyền thuyết trong dân gian, cho nên đă nêu danh tánh hoàng đế không chánh xác.

[13] Thích Đạo An (312-385) họ Vệ, người xứ Phù Liễu, Thường Sơn (nay là huyện Kư, tỉnh Hà Bắc), là vị cao tăng trứ danh thời Tấn. Ngài là thầy của sơ tổ Huệ Viễn của Tịnh Độ Tông. Sư là người tiên phong đề xướng nghiên cứu Trung Quán Bát Nhă tại Trung Hoa. Ngài Cưu Ma La Thập từng gọi ngài Đạo An là Đông Phương Thánh Nhân. Cha mẹ mất sớm, phải nhờ người anh họ nuôi đến trưởng thành. Sư h́nh dạng xấu xí, thấp chủn, nhưng cực kỳ thông minh. Bảy tuổi đă có thể đọc sách trôi chảy và làm thơ, viết văn, sức ghi nhớ rất mạnh. Sư xuất gia lúc 12 tuổi. Quyển kinh đầu tiên là Biện Ư Kinh rất mỏng, quyển kinh thứ ba là Thành Cụ Quang Minh có hơn một vạn chữ, Sư nhớ không sai một chữ (khi đó, Sư mới 15 tuổi). Thầy của Sư mới kinh dị, lưu tâm bồi dưỡng, cho Ngài thọ Cụ Túc Giới. Về sau, Sư tham học với ngài Phật Đồ Trừng. Ngài Phật Đồ Trừng hết sức yêu quư, nhưng đại chúng vẫn coi thường v́ ngài Đạo An quá xấu xí. Do vậy, mỗi lần giảng kinh xong, ngài Phật Đồ Trừng sai ngài Đạo An giảng lại một lượt, ai cũng kinh ngạc. Sau khi ngài Phật Đồ Trừng viên tịch, do t́nh h́nh bất ổn thời ấy, Sư phải lênh đênh khắp nơi, không có chỗ trụ cố định. Dẫu bôn ba vẫn tụ tập đại chúng tu học, giảng kinh. Măi đến năm 365, Sư đến Tương Dương mới an cư. Ngài là người đầu tiên đề xướng tư tưởng văng sanh Đâu Suất Nội Viện để làm đệ tử Di Lặc Bồ Tát, chờ đến khi Phật Di Lặc giáng thế, sẽ trở lại nhân gian hóa độ chúng sanh. Ngài soạn bộ Tổng Lư Chúng Kinh Mục Lục, tác phẩm này được coi như là sách thống kê kinh Phật đầu tiên tại Trung Hoa. Ngài chế định Tăng Ni Quy Phạm và Phật Pháp Hiến Chương, lập ra những quy định về các tự viện Phật giáo, đề nghị tăng ni đều lấy chữ Thích làm họ trước pháp danh (tức là coi ḿnh là con cháu của Phật Thích Ca), đặt quy cách thống nhất cho Tăng phục, cũng như đề xướng tiêu chí trong phiên dịch kinh Phật, góp phần hoàn thiện cách phiên dịch và giải thích kinh điển.

[14] Từ Tế là tổ chức từ thiện phi chính phủ của Đài Loan do ni sư Chứng Nghiêm sáng lập từ năm 1966. Tổ chức này thường được biết đến dưới tên Tzu Chi Foundation (Từ Tế Cơ Kim Hội). Họ tham gia cứu trợ thiện nguyện trong các lănh vực y tế, thiên tai, bảo vệ môi trường. Thoạt đầu chỉ có ḿnh ni sư Chứng Nghiêm và ba mươi phụ nữ tự nguyện mỗi ngày để dành 50 xu tạo thành quỹ giúp các gia đ́nh nghèo khó trong vùng. Cho tới năm 1986, tổ chức này có hơn tám ngàn hội viên và mở bệnh viện đầu tiên vào năm 1986 tại thành phố Hoa Liên. Năm 1994, mở Từ Tế Y Học Viện (tức trường cao đẳng y khoa), cho đến năm 2000 chuyển thành Từ Tế Đại Học, bao gồm các phân khoa Y Khoa, Giáo Dục, và các ngành nhân văn. Cho tới năm 2013, tổ chức này có khoảng 10 triệu hội viên và có chi nhánh trên 47 quốc gia.