Đại Thừa Địa Tạng Kinh

Thập Luân Giảng Kư, phần 15

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

夢參老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

VIII. Hoạch Ích Chúc Lụy phẩm đệ bát (獲益囑累品第八, phẩm thứ tám, Đạt Được Lợi ích và Chúc Lụy)

 

          (Kinh) Phật thuyết như thị đại pháp môn thời, ư chúng hội trung, hữu Căng-già sa đẳng Bồ Tát Ma Ha Tát, quá khứ cửu tập Niệm Phật tư duy, kim văn Thế Tôn sở thuyết Niệm Phật Tu Quán phương tiện, giai đắc Niệm Phật tam-ma-địa môn. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn thị pháp dĩ, giai đắc Nhất Thiết Định Mạng Hoa Man đà-la-ni môn. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc nhất thiết Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ đà-la-ni môn. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc Nhất Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ Thuận Nhẫn. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, viễn trần ly cấu, ư chư pháp trung, sanh tịnh pháp nhăn, đắc Dự Lưu quả. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, đắc Nhất Lai quả. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, đắc Bất Hoàn quả. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, giai đắc tối thượng A La Hán quả. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tâm cầu xuất ly tam giới lao ngục, y Phật xuất gia, thú nhập chánh pháp. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tận thọ an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo, y Thanh Văn Thừa, phát tâm bất thoái. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tận thọ an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo, y Độc Giác Thừa, phát tâm bất thoái. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tận thọ an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo, y Đại Thừa trung, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề tâm, bất phục thoái chuyển. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, đắc thế chánh kiến. Do thử chánh kiến, trừ diệt nhất thiết văng ác thú nhân, phiền năo ác nghiệp, tăng trưởng nhất thiết hướng thiện thú nhân, chánh nguyện thiện nghiệp. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, giai thọ Tam Quy, an trụ Cận Sự, Cận Trụ tịnh giới, nhạo cúng dường Phật, nhạo thính văn pháp, nhạo phụng sự Tăng, trú dạ tinh cần, tằng vô giải phế. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, viễn ly nhất thiết tà thú, tà quy, ác ư, ác nghiệp, ư Phật pháp trung, đắc quyết định tín, khí xả gia pháp, thanh tịnh xuất gia.

          ()佛說如是大法門時,於眾會中,有殑伽沙等菩薩摩訶薩,過去久習念佛思惟,今聞世尊所說念佛修觀方便,皆得念佛三摩地門。復有無量無邊眾生,聞是法已,皆得一切定命華鬘陀羅尼門。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆得一切首楞伽摩電光依止陀羅尼門。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆得一切法自在轉光明依止順忍。復有無量無邊眾生,聞佛所說,遠塵離垢,於諸法中生淨法眼,得預流果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,得一來果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,得不還果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆得最上阿羅漢果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,心求出離三界牢獄,依佛出家,趣入正法。復有無量無邊眾生,聞佛所說,盡壽安住十善業道,依聲聞乘發心不退。復有無量無邊眾生,聞佛所說,盡壽安住十善業道,依獨覺乘發心不退。復有無量無邊眾生,聞佛所說,盡壽安住十善業道,依大乘中,發阿耨多羅三藐三菩提心,不復退轉。復有無量無邊眾生,聞佛所說,得世正見,由此正見,除滅一切往惡趣因、煩惱惡業,增長一切向善趣因、正願善業。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆受三歸,安住近事、近住、淨戒,樂供養佛,樂聽聞法,樂奉事僧,晝夜精勤,曾無懈廢。復有無量無邊眾生,聞佛所說,遠離一切邪趣、邪歸、惡意、惡業,於佛法中得決定信,棄舍家法,清淨出家。

          (Kinh: Khi đức Phật nói đại pháp môn như thế, trong chúng hội có các vị Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như cát sông Hằng, trong quá khứ đă tu tập Niệm Phật tư duy từ lâu, nay nghe đức Thế Tôn nói về phương tiện Niệm Phật Tu Quán, đều đắc Niệm Phật tam-ma-địa môn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe pháp ấy rồi, đều đắc Nhất Thiết Định Mạng Hoa Man đà-la-ni môn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đều đắc hết thảy Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ đà-la-ni môn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đều đắc Nhất Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ Thuận Nhẫn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe đức Phật nói, xa ĺa trần cấu, sanh pháp nhăn thanh tịnh trong các pháp, đắc quả Dự Lưu. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đắc quả Nhất Lai. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe đức Phật nói, đắc quả Bất Hoàn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đều đắc tối thượng A La Hán quả. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, tâm cầu thoát ĺa lao ngục tam giới, nương theo đức Phật xuất gia, tiến nhập chánh pháp. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, cho đến hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp Đạo, nương theo Thanh Văn Thừa, phát tâm bất thoái. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, cho đến hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp Đạo, nương theo Độc Giác Thừa, phát tâm bất thoái. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, cho đến hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp Đạo, nương theo Đại Thừa, phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng c̣n thoái chuyển. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đắc chánh kiến thế gian. Do chánh kiến ấy, diệt trừ hết thảy các cái nhân, phiền năo, và ác nghiệp tiến đến đường ác, tăng trưởng hết thảy cái nhân, chánh nguyện, và thiện nghiệp hướng vào đường lành. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật dạy, đều thọ Tam Quy, an trụ tịnh giới Cận Sự và Cận Trụ, thích cúng dường Phật, thích nghe pháp, thích phụng sự Tăng, ngày đêm siêng ṛng, chưa từng lười nhác, bỏ phế. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, xa ĺa hết thảy đường tà, quy y tà, ác ư, ác nghiệp. Trong Phật pháp, đạt được niềm tin quyết định, vứt bỏ pháp thế tục, thanh tịnh xuất gia).

 

          Đây là phẩm cuối cùng của kinh Đại Tập Thập Luân, pháp hội tới đây đă viên măn. Sau khi nghe pháp, những ai đạt được lợi ích? Cũng như thâu được hiệu quả ǵ? Điều thứ nhất, có bao nhiêu vị Bồ Tát trong đại chúng? Có các vị đại Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng. Trong quá khứ, các Ngài đă học pháp môn Niệm Phật tư duy, Niệm Phật ở đây không nhất định là niệm A Di Đà Phật. Chữ Phật trong Niệm Phật ở đây là nói phổ quát. Phàm là [nói tới] Niệm Phật tức là nói theo ư nghĩa “hết thảy chư Phật”. Tu Niệm Phật Quán, dùng phương tiện tu Quán để xưng danh hiệu Phật, quán tưởng tượng Phật. Đấy là điều họ đă học trong quá khứ, ở trong pháp hội Đại Tập này, nghe giảng cách tư duy và quán tưởng Niệm Phật, họ đạt được lợi ích, nhập tam-ma-địa, đắc Niệm Phật tam-muội. Trong ấy, có khi là niệm Hóa Thân Phật, có khi là niệm Báo Thân Phật, có khi là niệm Pháp Thân Phật, tùy thuộc sức quán tưởng của chính ḿnh mạnh hay yếu mà đạt được pháp môn cũng khác nhau. Đấy là nói về Bồ Tát Ma Ha Tát, họ đắc Niệm Phật tam-muội, nhập Niệm Phật tam-muội.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn thị pháp dĩ, giai đắc Nhất Thiết Định Mạng Hoa Man Đà-la-ni môn” (lại có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe pháp này rồi, đều đắc Nhất Thiết Định Mạng Hoa Man Đà-la-ni môn): Đây là tên của môn Định. Nhất Thiết Định Mạng Hoa Man Đà-la-ni Môn là tên của một môn tam-muội khác.  

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc nhất thiết Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ Đà-la-ni Môn” (lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật dạy, đắc hết thảy Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ Đà-la-ni Môn): Môn Định này có tên là [Thủ] Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ Đà-la-ni.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc Nhất Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ Thuận Nhẫn” (lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật dạy đều đắc Nhất Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ Thuận Nhẫn): Y Chỉ Thuận Nhẫn vẫn là Định. “Y chỉ thuận nhẫn” là y chỉ môn Định ấy, Chỉ là Định.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, viễn trần ly cấu, ư chư pháp trung, sanh tịnh pháp nhăn” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, xa ĺa trần cấu, sanh pháp nhăn thanh tịnh đối với các pháp): “Sanh tịnh pháp nhăn” là mắt đạt được pháp thanh tịnh, tức là có chánh tri, chánh kiến, chẳng có tà tri, tà kiến, cũng là đoạn dứt Kiến Hoặc. Do nghe đức Phật nói mà đắc quả Dự Lưu. Quả Dự Lưu là quả Tu Đà Hoàn, tức Sơ Quả.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết” (lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói): Sau đó, họ thành tựu quả Nhất Lai. Quả Nhất Lai là Tư Đà Hàm, tức là c̣n một lần sanh trong tam giới nhân gian; đó gọi là Nhất Lai Quả. “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, đắc Bất Hoàn quả” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đắc quả Bất Hoàn): Quả Bất Hoàn là quả A Na Hàm, là quả thứ ba. “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc tối thượng A La Hán quả” (lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói đều đắc quả A La Hán tối thượng), liền chứng Tứ Quả A La Hán. Trong pháp hội này, đức Phật thuyết pháp b́nh đẳng. Điều này cho thấy: Căn cơ bất đồng [tuy cùng nghe một pháp], vẫn đạt được hiệu quả bất đồng. Có người đắc Sơ Quả, có người đắc Tứ Quả. Có chúng sanh nghe đức Phật nói, bèn có thể an trụ trong tâm xuất ly. Xuất ly ǵ vậy? Xuất ly tam giới. Người ấy nghe đức Phật thuyết pháp, tâm cảm nhận thế giới này hết sức ô trược, nẩy sanh tâm chán ĺa, thoát ĺa nhà tù tam giới, cũng có nghĩa là xuất gia. “Xuất gia thú nhập chánh pháp” [nghĩa là] nương theo đức Phật xuất gia, tiến nhập chánh pháp.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, tận thọ an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, cho đến hết thọ mạng, bèn an trụ trong Thập Thiện Nghiệp Đạo): Kể từ sau khi nghe pháp trong hiện thời cho đến hết thọ mạng, tức là đă chết, trong thời gian ấy, người đó một mực chẳng trái nghịch Thập Thiện Nghiệp Đạo. Có người nương theo Thanh Văn Thừa, phát Bồ Đề tâm, biết Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Đạo. Có người nghe Độc Giác Thừa, tu mười hai nhân duyên, học pháp nhân duyên. Có vô lượng vô biên chúng sanh “văn Phật sở thuyết, tận thọ an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo” (nghe đức Phật nói, trọn hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp Đạo): “An trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo” tức là tu pháp Thập Thiện. Tu pháp Thập Thiện có thể sanh trong nhân thiên thừa. C̣n có người sau khi nghe pháp, nương theo Đại Thừa, phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng c̣n thoái chuyển. Tín tâm kiên định, sau khi nghe pháp, trụ trong Đại Thừa, phát tâm thành Phật.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, đắc thế chánh kiến” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đạt được chánh kiến thế gian): Chánh kiến ấy chẳng phải là xuất thế, mà là chánh kiến thế gian. Chánh kiến là phân biệt tà chánh, phân biệt điều ǵ là thiện, điều ǵ là ác, điều ǵ là chánh xác, điều ǵ là chánh tri chánh kiến, điều ǵ là tà tri tà kiến. Nếu người ấy chứng đắc chánh kiến, sẽ có thể trừ diệt hết thảy nhân quả, ác nghiệp tiến hướng đường ác. Trừ diệt cái nhân của phiền năo và ác nghiệp, sẽ chẳng cảm lấy khổ quả, sẽ chẳng cảm nhận quả chướng của phiền năo và ác nghiệp, tăng trưởng hết thảy các nhân tiến hướng đường lành. “Chánh nguyện thiện nghiệp”: Nguyện của người ấy là phát nguyện tu hành thiện nghiệp, chẳng tạo ác nghiệp.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai thọ Tam Quy” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đều thọ Tam Quy), tức là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. “An trụ ư Cận Sự, Cận Trụ tịnh giới” (an trụ trong tịnh giới của Cận Sự và Cận Trụ): [Luật nghi của] Cận Sự, Cận Trụ là Tam Quy, Ngũ Giới. Cận Trụ tịnh giới là Bát Quan Trai Giới. “Nhạo cúng dường Phật, nhạo thính văn pháp” (Thích cúng dường Phật, thích nghe pháp): Nghe thuyết pháp. “Nhạo phụng sự Tăng” [phải hiểu theo nghĩa rộng] là ưa thích cúng dường Tam Bảo, theo Phật nghe pháp, theo Tăng nghe pháp, ngày đêm siêng ṛng, chẳng giải đăi, “tằng vô giải phế” (chưa từng giải đăi, phế bỏ): Sau khi nghe pháp, đạt được hiệu quả tinh tấn.

          “Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, viễn ly nhất thiết tà thú, tà quy, ác ư, ác nghiệp” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, xa ĺa hết thảy đường tà, quy y tà, ác ư, ác nghiệp): Chẳng khởi ác tâm, chẳng làm ác nghiệp nữa. “Ư Phật pháp trung, đắc quyết định tín” (Đạt được tín tâm thanh tịnh đối với Phật pháp): Tín tâm bất thoái. “Khí xả gia pháp, thanh tịnh xuất gia” (buông bỏ pháp tại gia, xuất gia thanh tịnh): “Xuất gia” ở đây chẳng phải là thành đạo, đă xuất gia vẫn phải tu hành. Trong pháp hội này, tức là pháp hội Đại Tập Thập Luân, đức Phật nói ra mấy loại Thập Luân, một là Thập Luân của quốc vương, nương theo pháp thế gian nhằm biểu thị Thập Luân của Phật. Và cũng nói tới Hữu Y và Vô Y. Vô Y là không có Tam Bảo để có thể nương dựa; do vậy, tạo ác nghiệp, sẽ thọ báo, chẳng biết sẽ theo đường nào! Hữu Y là nương cậy Tam Bảo, Vô Y là nói tới Thập Ác Luân. Hữu Y là nói tới Thập Thiện Luân. Cuối cùng là nói về Thập Luân của Bồ Tát. Bộ kinh này có tên gọi là Đại Tập Thập Luân Kinh. Sau khi mọi người nghe pháp, sẽ đạt được lợi ích bất đồng. Bất luận nghe pháp cùng một nơi, nhưng người nghe tiếp nhận khác nhau, mỗi người có nhân duyên khác nhau. Giống như hiện thời, chúng tôi giảng hơn hai tháng, do chẳng phải là giảng hằng ngày, mà là đứt quăng, có thể nghe toàn bộ bản kinh này, tính ra chẳng được mấy người, đều là bị gián đoạn.

          Đấy là nguyên nhân ǵ? Nhân duyên bất đồng. Hoàn toàn chẳng phải là quư vị muốn gián đoạn. [Khi nhân duyên đă chín muồi], quư vị chẳng gián đoạn cũng bị gián đoạn, quư vị mong gián đoạn cũng chẳng thể gián đoạn được! Tới lúc [hội đủ nhân duyên nghe kinh] th́ quư vị lại đến [nghe giảng kinh], ai có nhân duyên nấy! Nhưng chúng ta hăy nên hiểu mỗi người có nhân duyên riêng, đừng hâm mộ kẻ khác rồi chính ḿnh sanh tâm thoái đọa, cũng chớ nên thấy người khác có nhân duyên tốt đẹp bèn hâm mộ kẻ đó, chẳng cần thiết! Mỗi người tạo cái nhân riêng, kết thành cái quả riêng biệt. Có ư nghĩa như thế đó. Có người nghe bộ kinh này, có thể đắc vô thượng tam-muội. Có người nghe kinh xong, thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Thọ Tam Quy, Ngũ Giới chỉ là gieo thiện căn. Khá nhiều đạo hữu gần đây mới thọ Tam Quy, chẳng nghe kinh cũng thọ Tam Quy. Đấy là nhân duyên bất đồng. Phàm là các pháp sanh bởi nhân duyên th́ chẳng chân thật!

          Nói xong bộ kinh này, đức Phật căn dặn, phó thác cho ai? Căn dặn, phó thác cho Hư Không Tạng. “Tạng” () có nghĩa là chứa đựng. Chứa đựng ǵ vậy? Hư không! “Không” th́ c̣n có ǵ nữa? “Không” là chẳng có. “Không” có nghĩa là mong chúng ta đều xóa sạch phiền năo, tập khí, nghiệp chướng. Nhờ vào danh nghĩa ấy, chúng ta có thể lư giải. Nếu xóa sạch các ô nhiễm, ô uế, bẩn thỉu, sẽ chỉ c̣n lại thanh tịnh. Thanh tịnh chính là công đức của Pháp Thân. Nay chúng ta đă nghe, mọi người cùng nhau học tập, đạt được lợi ích ǵ? Trong tâm mỗi người đều có điều thâu hoạch. Bộ kinh này kể từ lúc pháp sư Huyền Trang phiên dịch sang tiếng Hán, măi cho đến hiện thời, không có ai giảng giải. Chúng tôi giảng là lần đầu tiên, có lẽ sẽ có sai lầm. Nếu có sai lầm, xin sám hối. Chúng ta cùng nhau học tập bộ kinh này, vẫn là rất khó khăn, mọi người đều phải phát tâm th́ mới có thể viên măn. Hôm nay kể như là đă hoàn thành rồi.

          Bộ kinh này khơi gợi chúng ta, bảo cho chúng ta biết, tu hành nhất định phải đoạn Thập Ác, hành Thập Thiện; tối thiểu, chúng ta phải nên có tín tâm ấy. Sau đó, trong cuộc sống thường nhật, đừng nên bày ra bộ mặt dữ tợn với người khác, luôn có vẻ mặt tươi cười, hoan hỷ đối với người khác. Nếu người khác rất phiền năo, họ thấy thái độ của ta rất tốt đẹp, ngọn lửa phiền năo của họ sẽ hạ xuống. Giả sử đối với người ấy nổi nóng, kể cả đối đăi với con cái và bạn bè của chính ḿnh. Người hiện thời, đối với cha mẹ của chính ḿnh, thường có vẻ mặt đối với cha mẹ giống như vẻ mặt của tiểu ḥa thượng đối với lăo ḥa thượng, luôn luôn chẳng vừa ư như vậy. Vẻ mặt ấy giống như ai đó có nhiều tiền mà chẳng cho kẻ đó, đôi bên chẳng thể tṛ chuyện được! Trong Phật giáo, [nếu hành xử như vậy], quư vị đă phạm giới. Phạm giới ǵ vậy? Mọi người biết không? Sân khuể! Trong tâm luôn tạo một ấn tượng chẳng thanh tịnh cho người khác. Miệng thốt lời ác, nói thêu dệt, những điều này đều thuộc về Thập Ác nghiệp. V́ trong ư có sân tâm, khí sắc bên ngoài tự nhiên sẽ chẳng dễ coi. Đấy là điều tất nhiên! Khi đó, bàn chuyện với người khác, ít khi bàn bạc thành công!

          Đă học kinh Đại Tập Thập Luân, nhận biết ác luân là ǵ, thiện luân là ǵ, trong cuộc sống hằng ngày, [các nghiệp] nơi thân và miệng chiếm hết bảy điều, ư thức chỉ chiếm có ba. Đấy là thiện hay ác ở ngay trong cái tâm của quư vị. Chúng ta nghe xong, hăy nên đạt được những điều tốt đẹp như đă nói trong phần trước. Thập Luân của Phật và Thập Luân của đại Bồ Tát, chúng ta không đạt được, tối thiểu là chúng ta thọ Tam Quy. Chúng ta phải có sự nương tựa, dựa vào sức gia tŕ của Tam Bảo, khiến cho chúng ta chẳng tạo nghiệp Thập Ác, tận lực hành nghiệp Thập Thiện, giữ ǵn chẳng mất thân người, gặp Phật, nghe pháp, thường gặp gỡ thiện tri thức, nghe pháp tu đạo.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện nam tử! Ngô kim tŕ thử Địa Tạng Thập Luân Đại Kư pháp môn, phó chúc nhữ thủ. Nhữ đương thọ tŕ, quảng linh lưu bố. Nhược chư chúng sanh ư thử pháp môn, hữu năng độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, trụ chánh hạnh giả, nhữ đương vị bỉ thủ hộ thập pháp, linh ư trường dạ, lợi ích an lạc. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, vị bỉ thủ hộ nhất thiết tài vị, linh vô tổn phạp. Nhị giả, vị bỉ thủ hộ nhất thiết oán địch, linh bất xâm hại. Tam giả, vị bỉ thủ hộ, linh xả nhất thiết tà kiến, tà quy, thập ác nghiệp đạo. Tứ giả, vị bỉ thủ hộ, linh miễn nhất thiết thân ngữ trích phạt. Ngũ giả, vị bỉ thủ hộ, giá đoạn nhất thiết báng hủy, khinh lộng. Lục giả, vị bỉ thủ hộ, linh ư nhất thiết quỹ phạm, Thi La, giai đắc vô phạm. Thất giả, vị bỉ thủ hộ, linh tất trừ diệt nhất thiết phi nhân, Tứ Đại quai phản, phi thời lăo bệnh. Bát giả, vị bỉ thủ hộ, bất tao nhất thiết phi thời, phi lư, tai hoạnh, yểu một. Cửu giả, vị bỉ thủ hộ, mạng dục chung thời, đắc kiến nhất thiết chư Phật sắc tượng. Thập giả, vị bỉ thủ hộ, linh kỳ chung hậu, văng sanh thiện thú, lợi ích an lạc. Thiện nam tử! Nhược chư hữu t́nh ư thử pháp môn, hữu năng độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, trụ chánh hạnh giả, nhữ đương vị bỉ cần gia thủ hộ như thị thập pháp, linh ư trường dạ, lợi ích an lạc”. Thời Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn! Ngă đương thọ tŕ như thị pháp môn, quảng linh lưu bố. Nhược chư hữu t́nh ư thử pháp môn, hữu năng độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, trụ chánh hạnh giả, ngă đương vị bỉ, thủ hộ thập pháp, linh ư trường dạ, lợi ích, an lạc”. Thời Bạc Già Phạm thuyết thị kinh dĩ, ư chúng hội trung, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm đẳng, cập chư thiên long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân đẳng, nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.

          ()爾時,世尊告虛空藏菩薩摩訶薩言:善男子,吾今持此地藏十輪大記法門,付囑汝手,汝當受持,廣令流佈。若諸眾生,於此法門,有能讀誦,思惟其義,為他解說,住正行者,汝當為彼守護十法,令於長夜利益安樂。何等為十?一者、為彼守護一切財位,令無損乏;二者、為彼守護一切怨敵,令不侵害;三者、為彼守護,令舍一切邪見、邪歸、十惡業道;四者、為彼守護,令免一切身語謫罰;五者、為彼守護,遮斷一切謗毀輕弄;六者、為彼守護,令於一切軌範、尸羅皆得無犯;七者、為彼守護,令悉除滅一切非人、四大乖反、非時老病;八者、為彼守護,不遭一切非時非理災橫夭歿;九者、為彼守護,命欲終時,得見一切諸佛色像;十者、為彼守護,令其終後,往生善趣,利益安樂。善男子,若諸有情,於此法門,有能讀誦,思惟其義,為他解說,住正行者,汝當為彼勤加守護如是十法,令於長夜,利益安樂。時虛空藏菩薩摩訶薩白佛言:唯然世尊,我當受持如是法門,廣令流佈。若諸有情,於此法門,有能讀誦,思惟其義,為他解說,住正行者,我當為彼守護十法,令於長夜,利益安樂。時薄伽梵說是經已,於眾會中,虛空藏菩薩摩訶薩、地藏菩薩摩訶薩、金剛藏菩薩摩訶薩、好疑問菩薩摩訶薩,天藏大梵等,及諸天、龍、藥叉、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、人非人等,一切大眾,聞佛所說,皆大歡喜,信受奉行。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Này thiện nam tử! Ta nay đem pháp môn Địa Tạng Thập Luân Đại Kư này phó chúc vào tay ông. Ông hăy nên thọ tŕ, lưu truyền rộng răi. Nếu các chúng sanh đối với pháp môn này mà có thể đọc tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh, ông hăy nên v́ người đó thủ hộ mười pháp, khiến cho người đó lợi ích, an lạc trong đêm dài. Những ǵ là mười? Một là v́ người ấy thủ hộ hết thảy của cải, địa vị, chẳng để cho hao tổn, thiếu thốn. Hai là v́ người ấy thủ hộ chẳng để cho hết thảy oán địch xâm hại. Ba là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho bỏ hết thảy tà kiến, tà quy, thập ác nghiệp đạo. Bốn là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho tránh khỏi hết thảy sự trừng phạt nơi thân và lời nói. Năm là v́ người ấy thủ hộ, ngăn che, đoạn trừ hết thảy báng hủy, khinh mạn, trào lộng. Sáu là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho hết thảy khuôn phép và Thi La đều chẳng trái phạm. Bảy là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho các thứ già bệnh trái thời do phi nhân hay Tứ Đại chẳng điều ḥa gây ra đều bị trừ diệt. Tám là v́ người ấy thủ hộ, chẳng gặp hết thảy các tai nạn bất ngờ trái thời, phi lư, và chết yểu. Chín là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho khi mạng sắp hết, được thấy h́nh tướng của hết thảy chư Phật. Mười là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho sau khi mạng chung, được sanh về đường lành, lợi ích an lạc. Này thiện nam tử! Nếu các hữu t́nh đối với pháp môn này, có thể đọc tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh, ông hăy nên v́ người ấy càng thêm siêng năng thủ hộ mười pháp như thế, khiến cho được lợi ích an lạc trong đêm dài”. Khi đó, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bạch với đức Phật rằng: “Kính vâng đức Thế Tôn! Con sẽ thọ tŕ pháp môn như thế này, lưu truyền rộng răi. Nếu các hữu t́nh đối với pháp môn này, có thể đọc, tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh, con sẽ v́ người ấy thủ hộ mười pháp, khiến cho được lợi ích và an lạc trong đêm dài”. Khi đó, đức Bạc Già Phạm nói kinh này xong, trong chúng hội, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm v.v… và các trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân v.v… hết thảy đại chúng nghe lời đức Phật dạy, đều hoan hỷ to lớn, tin nhận, vâng làm).

 

          “Thiện nam tử! Ngô kim tŕ thử Địa Tạng Thập Luân Đại Kư pháp môn, phó chúc nhữ thủ” ( Này thiện nam tử! Ta nay đem pháp môn Địa Tạng Thập Luân Đại Kư phó chúc vào tay ông): Ta nay dặn ḍ, giao phó ông một chuyện: “Chúc” () là căn dặn, phó thác; “lụy” () làm phiền ông, giao cho ông gánh vác. Gánh vác điều ǵ? Ông hăy “quảng linh lưu bố” (lưu truyền rộng răi) bộ kinh này, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể đạt được lợi ích nơi pháp môn này. Phải làm như thế nào th́ mới được lợi lạc? Đức Phật chẳng yêu cầu rất cao. Nếu yêu cầu cao, đức Phật biết chúng sanh thời Mạt Pháp chẳng làm được! Đọc tụng là được rồi. Có thể đọc, xem, nghe, đồng thời phải tư duy các đạo lư được nói trong bộ kinh này. Không chỉ tự ḿnh hiểu rơ, mà sau đấy c̣n phải giải nói cho người khác, khiến cho hành vi của họ đoan chánh. Quư vị đồng thời phải tu Huệ, tu Định, hoàn toàn chẳng phải tu Thập Thiện Nghiệp là đủ rồi. Đó là pháp dành cho nhân thiên, c̣n phải tu Định. Muốn thành thánh nhân th́ phải tu Giới, Định, Huệ.

          Giả sử chẳng có ai có thể đọc tụng, tư duy đạo lư này, như thế th́ Hư Không Tạng Bồ Tát phải chịu trách nhiệm thủ hộ họ. Thủ hộ ǵ vậy? Đức Phật nói mười pháp khiến cho Hư Không Tạng Bồ Tát thủ hộ người có thể đọc, tụng, tư duy đạo lư trong bộ kinh này, khiến cho họ có thể được an lạc, vui sướng trong đêm dài, có thể đạt được chỗ tốt đẹp. Lợi ích chính là chỗ tốt đẹp. Chỗ tốt đẹp ǵ vậy? Khiến cho người ấy vui sướng trong đêm dài. Đêm dài tương đương với hắc ám. Suốt một đời này, quư vị luôn ở trong hắc ám. Đó là nói thế giới Sa Bà giống như hắc ám, chẳng có quang minh, dường như vĩnh viễn ở trong hắc ám. Khiến cho họ đạt được chỗ tốt đẹp, được an lạc, được quang minh, đạt được lợi ích, cũng tức là chẳng có chuyện phiền năo, nói chung là vui vẻ, sung sướng.

          Những ǵ là mười? “Nhất giả, vị bỉ thủ hộ nhất thiết tài vị, linh vô tổn phạp” (một là thủ hộ hết thảy tài vật, địa vị, khiến cho chẳng bị tổn hại, thiếu thốn): Nếu có người đọc tụng bộ kinh này, tư duy đạo lư trong bộ kinh này, ông phải nên thủ hộ người ấy, khiến cho người ấy chẳng bị tổn thất tài sản. Đức Phật biết chúng sanh tham tài, coi tiền là bậc nhất. [Do vậy] điều thứ nhất là bảo vệ tiền tài của họ, sao cho chẳng bị tổn thất. Mặt khác là khiến cho người đó khi đă có thâu nhập, đă đạt được, sẽ chẳng bị tổn thất. Tiền tài chưa đạt được th́ làm thế nào để đạt được? [Câu kinh trên đây] chứa đựng ư nghĩa này. Tiền tài bị tổn thất v́ nó là của chung năm nhà, tức quốc gia tịch thâu, kẻ trộm ăn cắp mất, bị lửa đốt. Như thế th́ bị giặc cướp đoạt, lửa đốt, bị người khác cướp đoạt, hoặc là quốc vương tịch thâu, nước nhấn ch́m, các thứ ấy c̣n có thể ngăn ngừa. V́ trong nhiều đời bao kiếp quá khứ, quư vị đă mắc nợ kẻ khác, họ đến đ̣i nợ quư vị, [sanh làm] con cháu bất hiếu phá sạch gia sản của quư vị. Rất nhiều đế vương, quan lại cao cấp chẳng quá ba đời đă tiêu sạch tài sản. Có phước đức th́ thực hiện tốt đẹp, sẽ có thể ǵn giữ rất lâu!

          Mọi người đọc những câu chuyện trong Địa Tạng Bồ Tát Cảm Ứng Lục, trong ấy có chép khi con cháu bất hiếu cướp đoạt tài sản của [cha mẹ, ông bà], chuyển thành [tài sản] của con cháu. Sau đó, chẳng hiếu kính đối với họ, vẫn là ngỗ nghịch. Đó là đến đ̣i nợ, đến báo oán. Một cặp vợ chồng già, có tám đứa con, chẳng có đứa nào hiếu thuận. Sau đó, họ thỉnh tượng Địa Tạng, thờ phụng Địa Tạng Bồ Tát, suốt ngày từ sáng đến tối thắp hương, lễ bái. Chẳng lễ bái th́ c̣n đỡ, vừa lễ bái, cả tám đứa con lần lượt chết sạch. Đến Tết, cặp vợ chồng già ấy than oán với Địa Tạng Bồ Tát, càu nhàu: “Địa Tạng Vương Bồ Tát ơi! Khi chúng con chưa thờ phụng Ngài, tuy chúng nó ngỗ nghịch như thế nào đi nữa, vẫn c̣n có đứa chướng tai gai mắt. Nay chúng nó chết ráo cả rồi, Tết đến chỉ c̣n hai đứa già chúng con!” Cầu nguyện xong, chập tối hôm Mười Ba, chư thần hạ giới. Địa Tạng Vương Bồ Tát đương nhiên là có thần thông, liền báo mộng cho cả hai người bọn họ: “Sáng mai các vị đến bên sông, có thể thấy được tám đứa con ấy”. Cụ già nằm mộng, buổi sáng thức dậy. Cụ ông c̣n chưa nói, cụ bà đă bảo: “Hôm qua tôi nằm mộng, mơ thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát báo mộng, bảo: Sáng nay chúng ta có thể đến bên sông để trông thấy tám đứa con”. Cụ ông nói: “Tôi cũng mơ thấy như vậy. Được rồi, hai đứa ḿnh phải đi xem thử”. Hai người đến bến sông nh́n, trông thấy trong nước, tám đứa con lần lượt hóa hiện, đều là oan gia trong quá khứ. Hai người bọn họ sở dĩ phát tài là do hại kẻ khác, hoặc cướp đoạt, hoặc dùng thủ đoạn bóc lột tài sản của kẻ khác. Họ vừa nh́n thấy bèn choáng váng. Sau khi trở về, chẳng dám oán hận, lại đối trước Địa Tạng Bồ Tát cầu sám hối. Buổi tối, lại được Địa Tạng Bồ Tát thác mộng dạy bảo: “Tặng quư vị đứa con. Thọ mạng của hai người sẽ rất dài, v́ hai vị là hộ pháp của ta, là thí chủ của ta, ta sẽ gia tŕ quư vị”. Hai người tỉnh giấc, suy tưởng: “Có thể có chuyện này hay không? Bà cụ này già quá rồi, c̣n sanh con sao nổi? Đó là chuyện chẳng thể xảy ra trong nhân gian!” Nhưng kể từ sau khi nằm mộng, bà cụ liền mang thai, tuổi đă già mà sanh một đứa con. Hai người họ sống đến chín mươi mấy tuổi, gần một trăm tuổi, c̣n được đứa con lo liệu cho hai cụ đến chết. Trong Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục có câu chuyện ấy.

          “Nhị giả, vị bỉ thủ hộ nhất thiết oán địch, linh bất xâm hại” (hai là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho hết thảy oán địch chẳng xâm hại): Chuyện này rất khó! Kẻ oán địch chuyển sanh làm con cháu, chuyển làm con cái của chính quư vị. Quư vị càng yêu thương nó, nó càng hại quư vị, là như thế đó. Do quư vị chẳng thể giải quyết được khúc mắc này, giải quyết như thế nào? Quư vị khuyên nó tin Phật, chính ḿnh hằng ngày bái sám. Nó càng không nghe lời, quư vị đối với nó càng tốt. Hơn nữa, quư vị c̣n phải sám hối, ta rất có lỗi với nó, nó đến đ̣i nợ, ta không thể chấp nhặt với nó được. Quư vị hóa giải như thế đó. Nếu đứa con cũng rất tốt, chẳng phải là quư vị nợ nó, mà là nó nợ quư vị, vậy là rất tốt. Nhưng đức Phật căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát: Nếu có kẻ đọc tụng kinh Thập Luân, xem kinh Thập Luân, học tập nghĩa lư của kinh Thập Luân, điều thứ nhất là thủ hộ tài vật của người đó. Điều thứ hai là thủ hộ, chẳng cho oán địch xâm hại kẻ đó. Điều thứ ba là giữ ǵn, khiến cho người ấy chẳng có tà kiến, tà quy y, quy y mười ác đạo. Ông phải thủ hộ, đừng để người ấy đọa vào mười ác đạo. Nếu người ấy tà kiến, tà quy, sẽ đọa vào mười ác đạo, đọa vào địa ngục Ngũ Vô Gián. Do vậy, trước khi người ấy phát tác, phải chú trọng thủ hộ trước, khiến cho người ấy chẳng đọa lạc vào đó.

          “Tứ giả, vị bỉ thủ hộ, linh miễn nhất thiết thân ngữ trích phạt” (bốn là thủ hộ khiến cho người ấy tránh khỏi hết thảy trách phạt nơi thân và ngữ): Hoặc là thân thể bị trừng phạt, hoặc kẻ khác dùng lời lẽ trách phạt người ấy, hoặc dùng đủ loại h́nh cụ để trừng phạt thân thể người ấy. Ông phải thủ hộ kỹ càng, đừng để người ấy hứng chịu các sự trừng phạt ấy.

          “Ngũ giả, vị bỉ thủ hộ, giá đoạn nhất thiết báng hủy, khinh lộng” (năm là v́ người ấy thủ hộ ngăn che, dứt trừ hết thảy hủy báng, khinh miệt, trào lộng): Đấy là hai phương diện. Một mặt là kẻ khác chẳng hủy báng, chẳng khinh miệt, trào lộng người đó, đem người đó ra đùa bỡn. Hai là chính người đó chẳng phạm sai lầm ấy, chẳng hủy báng kẻ khác, chẳng hủy báng Tam Bảo, chẳng hủy báng danh dự của kẻ khác. Đó là hai phương diện. Đức Phật căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát, ông phải thủ hộ, khiến cho chính người ấy cũng chẳng phạm lỗi, mà cũng chẳng bị hứng chịu quả báo loại này.

          “Lục giả, vị bỉ thủ hộ, linh ư nhất thiết quỹ phạm, Thi La, giai đắc vô phạm” (sáu là thủ hộ người ấy khiến cho hết thảy khuôn phép và Thi La đều chẳng phạm): Nếu người ấy là hàng xuất gia, hoặc là tứ chúng đệ tử, Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, Sa Di, Sa Di Ni giới, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni giới, hết thảy luật nghi, Thi La là giới, “quỹ phạm” (軌範) là quy củ. Bất luận là quy củ hay giới luật đều chẳng trái phạm.

          “Thất giả, vị bỉ thủ hộ, linh tất trừ diệt nhất thiết phi nhân, Tứ Đại quai phản, phi thời lăo bệnh” (Bảy là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho hết thảy các thứ già bệnh trái thời do phi nhân và Tứ Đại chẳng điều ḥa gây ra): Thủ hộ khiến cho người ấy chẳng bị phi nhân năo hại, cũng tức là quỷ thần [năo hại]. Quỷ thần năo hại khiến cho Tứ Đại của người ấy chẳng điều ḥa. “Phản” () là chẳng b́nh thường, không đáng già mà già khọm. Không nên bệnh mà bị bệnh. “Phi thời” (非時) là c̣n chưa tới lúc thọ mạng chấm dứt, đó gọi là “hoạnh tử” (橫死, chết đột ngột). Vốn có thể sanh trưởng b́nh thường, nhưng do mắc bệnh, tức là bị phi nhân nhiễu hại. Đặc biệt là trẻ nhỏ, rất dễ bị bệnh kinh phong. Đó là quỷ thần năo hại, tổn giảm thọ mạng của nó. Già bệnh “phi thời” là chưa đến lúc già đă già khọm, chưa đến lúc bệnh mà đă bệnh tật. Người đó mới bốn mươi tuổi, mà lưng đă c̣ng, chân cũng lết đi chẳng nổi, đều liên quan đến phi thời năo hại. Đức Phật căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát phải thủ hộ họ, khiến cho họ b́nh an, khỏe mạnh, cát tường.

          “Bát giả, vị bỉ thủ hộ bất tao nhất thiết phi thời, phi lư tai hoạnh, yểu một” (Tám là thủ hộ để người ấy chẳng gặp hết thảy tai ương ngang trái và chết yểu chẳng đúng lúc, vô lư): Chuyện này nói rất rơ ràng. Chuyện chẳng hợp đạo lư, tức là tai họa tự nhiên, đơn giản nhất là tai nạn xe cộ. Khi chúng tôi ngừng chân ở Hương Cảng, chỉ trong ṿng hai ngày, đă trông thấy một tai nạn. Họ thi công ở phía trên, phía dưới có đường đi, c̣n bắc ván [cho thợ nề đứng]. Phía trên rơi xuống vật ǵ đó, khiến cho tấm ván sút ra, đập trúng sọ người [đi bộ] dưới đó. Nếu người ấy đi chậm một chút, sẽ chẳng bị rơi trúng, đi nhanh một chút cũng vượt qua. Người ấy chẳng nhanh, chẳng chậm, vừa khéo! Mỗi tai nạn xe cộ đều là như vậy. Đấy đều là các tai nạn ngang xương, chết yểu phi lư. Kinh Dược Sư nói chín loại hoạnh tử (chết ngang trái) là do ư nghĩa này. Đức Phật căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát: Phàm là ai đọc kinh Thập Luân, ông đều phải thủ hộ người ấy, khiến cho người ấy chẳng gặp phải tai nạn kiểu này!

          “Cửu giả, vị bỉ thủ hộ, mạng dục chung thời, đắc kiến nhất thiết chư Phật sắc tượng” (Chín là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho khi mạng chung, được thấy h́nh tướng của hết thảy chư Phật): Điều này rất khó, hoàn toàn chẳng phải là ai khi chết cũng đều có thể thấy h́nh tượng Phật. [Khi lâm chung], nghe có người khuyên quư vị niệm Phật, chuyện này rất khó xảy ra. Đặc biệt là trong hiện tại càng không thể. Hễ có bệnh, sẽ đưa vào bệnh viện. Đặc biệt là kiều dân sống tại Mỹ. Đưa vào bệnh viện, bệnh viện không cho phép tiến hành các nghi thức tôn giáo, quư vị có thể khuyên người ấy niệm Phật hay không? Đưa cho người ấy một máy niệm Phật, bệnh viện sẽ nói quư vị quấy rầy người khác, lấy đi, căn bản là chẳng cho phép quư vị [sử dụng]. Quư vị đem bệnh nhân về, không được. Đưa vô đó, chẳng thể đưa ra. Làm thế nào đây? Quư vị phải dặn rơ mọi chuyện trước: Chỉ cần khi quư vị có bệnh, đừng đưa vô bệnh viện! Gặp phải t́nh huống ấy, quư vị mong thấy tượng Phật, cũng chẳng trông thấy. Chúng ta có thể đọc kinh Đại Tập Thập Luân, Hư Không Tạng Bồ Tát sẽ thủ hộ. Không chỉ trông thấy tượng Phật, mà c̣n có người đến trợ niệm, đến trước mặt quư vị niệm Phật, thấy h́nh tượng đức Địa Tạng, thấy h́nh tượng Phật, thấy h́nh tượng Quán Âm Bồ Tát. Hễ trông thấy, quư vị bèn sanh khởi cái tâm hướng về, nghiệp chướng sẽ tiêu mất. Do vậy, đức Phật dặn ḍ Hư Không Tạng Bồ Tát thủ hộ người đọc tụng kinh Thập Luân, khiến cho người ấy vào lúc lâm chung có thể trông thấy h́nh tượng của chư Phật.

          “Thập giả, vị bỉ thủ hộ, linh kỳ chung hậu, văng sanh thiện thú, lợi ích an lạc” (mười là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho sau khi mạng chung, sẽ sanh vào đường lành, lợi ích, an lạc): Điều này rất khó! Do vậy, đức Phật căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát. Phàm là người đọc kinh Thập Luân, giống như mọi người [đang hiện diện trong hội giảng kinh, hay đọc bài giảng này, hoặc chỉ đọc kinh này] đều có tư cách này. Phàm là đă nghe kinh Thập Luân, dẫu chẳng nghe toàn bộ, chỉ nghe một câu, vẫn tính. Một câu, một kệ được nói trong kinh này, “nhất cú” là một câu, câu khẩn yếu nhất là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nếu được nghe bốn câu, nghe nhiều hơn càng tốt, quư vị nhất định được sanh vào đường lành, chẳng đọa vào trong tam đồ, khiến cho quư vị được lợi ích, an lạc.

          “Thiện nam tử, nhược chư hữu t́nh ư thử pháp môn, hữu năng độc tụng, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết, trụ chánh hạnh giả” (Này thiện nam tử! Nếu có các hữu t́nh đối với pháp môn này mà có thể đọc, tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh): “Chánh hạnh” chính là Thập Thiện Nghiệp Đạo đă được nói trong phần trước. Có thể trụ trong Thập Thiện nghiệp. “Nhữ đương vị bỉ cần gia thủ hộ như thị thập pháp” (ông hăy nên v́ người ấy càng siêng năng thủ hộ mười pháp như thế): Đức Phật dặn ḍ mười pháp ấy lần nữa; ông phải chú ư, nhất định phải thủ hộ, chớ nên thiếu sót. “Linh ư trường dạ, lợi ích an lạc” (khiến cho họ được lợi ích, yên vui trong đêm dài): Vĩnh viễn đạt được lợi ích. “Thời Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Dụy nhiên, Thế Tôn” [nghĩa là] đúng như thế, bạch đức Thế Tôn, con nghe lời Ngài căn dặn. “Ngă đương thọ tŕ như thị pháp môn, quảng linh lưu bố” (con sẽ thọ tŕ pháp môn như thế, lưu truyền rộng răi): Chúng sanh phải được nghe pháp môn này th́ mới có thể hữu duyên với Ngài. Nếu ai chẳng nghe pháp môn này, mà cũng chẳng đọc, chẳng tụng, Ngài sẽ chẳng thể bảo vệ người ấy được. Làm thế nào đây? Chính ḿnh phải nên thọ tŕ pháp môn này, truyền bá rộng răi pháp môn này, khiến cho hết thảy hữu t́nh đều có thể biết pháp môn này.

          Giả sử các hữu t́nh đối với pháp môn này có thể “độc tụng, tư duy kỳ nghĩa” (đọc, tụng, tư duy ư nghĩa), “vị tha giải thuyết, trụ chánh hạnh giả” (v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh), con sẽ nhất định v́ người ấy thủ hộ mười pháp ấy, “linh ư trường dạ lợi ích, an lạc” (khiến cho được lợi ích, an lạc trong đêm dài).

          “Thời Bạc Già Phạm thuyết thị kinh dĩ, ư chúng hội trung, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm đẳng” (Lúc đức Bạc Già Phạm nói kinh này xong, trong chúng hội, Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm v.v…) Đấy là các vị đương cơ thỉnh pháp trong kinh Thập Luân, cho đến “thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân đẳng, nhất thiết đại chúng văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ, phụng hành” (trời, rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân v.v… hết thảy đại chúng nghe đức Phật nói đều hoan hỷ to lớn, tin nhận, làm theo): Kinh Đại Tập Thập Luân đến đây là viên măn.

          Nay chúng tôi lại nói lần nữa về một phương tiện gọi là Xuất Nhập Tức Quán. Đức Phật khai thị cho chúng ta một phương tiện gọi là Xuất Nhập Tức Quán. Xuất Nhập Tức Quán (出入息觀) là quán hơi thở ra vào, chú ư sự hô hấp của quư vị, thở ra và hít vào. Quán () là chú ư, [Sổ Tức Quán là] chú ư hơi thở ra vào. “Xuất nhập tức” có nghĩa là ǵ? Chính là tu tập “tŕ lai khứ niệm” (持來去, nắm giữ ư niệm đến đi). “Ư niệm đến” là nhập (hít vào), ư niệm đi là thở ra. Hít vào là Nhập, thở ra là Xuất. Tu tŕ lai khứ niệm có thể đạt tới Tùy Thuận Không Nhẫn, Tùy Thuận Vô Tướng Nhẫn, Tùy Thuận Vô Nguyện Nhẫn, có thể chứng đắc ba môn giải thoát. Nói cách khác, có thể giải thoát! Niệm như thế nào? Quan sát hơi thở ra vào như thế nào? Có sáu loại tŕnh tự, thở ra một hơi, hít vào một hơi th́ gọi là “hô hấp”. Giữa hai hơi hít vào thở ra ấy, đếm là một. Nếu quư vị đếm như thế, từ một đến mười; cứ một lần thở ra hít vào, lại đếm [một số]. Sau đó lại thở ra hít vào, lại đếm là một lần thở ra hít vào, đếm cho đến mười. Sau đó, lại đếm từ đầu, lại là một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười. Đếm xong, lại đếm từ đầu, đếm xong [mười lần thứ hai], lại đếm [từ đầu từ một đến mười lần thứ ba, cứ như thế].

          Đấy là tu Định, quư vị cứ thử xem. Quư vị hễ đếm liền lộn số. Vốn là đếm hơi hít vào, hoặc vốn đếm hơi thở ra, quư vị lại đếm đảo ngược, [tức là] vốn đếm hơi hít vào, quư vị lại đếm hơi thở ra. Quư vị chọn lựa như thế nào cũng được, đếm hơi thở ra cũng được [nhưng phải thống nhất]. Miễn sao cứ một hơi thở ra hít vào th́ đếm là một, mười lượt thở ra hít vào đếm tới mười. Đếm đủ mười lượt như vậy, quư vị phải lắng ḷng để đếm, phải chuyên chú. Hăy thử xem, ắt cần phải đắc Định, dốc hết sức chuyên chú. Chúng ta đều nói “niệm Phật chuyên chú một cảnh”, thế mà niệm nào vọng tưởng cũng dấy lên. Quư vị đếm hơi thở ra vào, tức là quư vị hít vào nơi tâm. Hễ sơ ư th́ lại đếm sai. Đối với con số mười ấy, hiện thời, quư vị luôn đếm số chẳng thành, hăy thuận theo sự hít thở, thuận theo sự thở ra hít vào để đếm. Khi thâm nhập tới mức nhất định, sẽ có thể chẳng cần đếm số, sẽ cảm thấy đếm số quá thô. Thoạt đầu dụng công, đếm số cảm thấy tự nhiên, không cần phải tác ư, tự nhiên nương theo hơi thở ra vào, ư niệm chẳng chạy loạn, chuyên chú nơi một cảnh. Ư niệm chẳng chạy loạn, ngay ư niệm “tùy thuận theo ư niệm” cũng chẳng có. Đă chẳng có niệm th́ là Chỉ, Chỉ là Định. Khi đă định, hơi thở ra vào cực vi tế, quư vị chẳng thể cảm thấy. Phép Quán này bất đồng, phép Quán này là tư duy, giác chiếu. Khi đă chiếu, sẽ chuyển ư niệm theo hơi thở, chuyển thành thanh tịnh, chẳng c̣n nữa. Trong khi đang tu Định, có các loại hiện tượng. Định có thể sanh ra Huệ, sẽ phát quang minh. Hễ Định phát ra quang minh, quư vị đối với thân thể của chính ḿnh, ngũ tạng, lục phủ, hết thảy mạch chuyển, kinh lạc xoay quanh, tóc mọc, quư vị đều có thể biết. Ngay cả tóc mọc dài ra, quư vị cũng đều nhận biết, thấy rất rơ ràng. Quán là quán như thế. Quư vị chẳng cần tác ư quán mà tự nhiên bèn quán.

          Quán năm thứ nghiệp bất tịnh, quư vị sẽ sanh khởi tâm chán ĺa, quán thấy thân thể của chính ḿnh bất tịnh, quán cảnh giới bên ngoài cũng sanh bất tịnh. Chuyển là trở về với tịnh. “Tịnh” là ǵ? Không nghĩa. Đă thanh tịnh, quán thanh tịnh. Trước hết, chúng tôi nói đại khái về điều này; sau đó, lại nói theo Lục Diệu Môn của Trí Giả đại sư. Trí Giả đại sư không nói là Chuyển, Ngài nói là Hoàn, cũng là quán hơi thở ra vào. Lục Diệu Môn là căn cứ theo các kinh luận mà soạn, các kinh đều có phương pháp này. Bất quá trong các kinh khác, không rơ ràng như vậy. Kinh Đại Tập Thập Luân đă nói hết sức rơ ràng!

          Trước tiên là nói về Sổ (). Đối với Sổ, mọi người xem kinh văn, có hai loại Tác Ư. Khi đếm số trong phép Sổ, có thể dấy lên hai loại ư ấy. “Năng y phục chư tầm tứ” (có thể nương cậy [vào tướng hơi thở ra vào] để chế phục các tầm, tứ): Các ư niệm chúng ta suy nghĩ thường là tầm tứ. [Tầm () là t́m cầu sự vật nơi tướng thô], “Tứ” () là ḍ xét [nơi tướng tế], tức là dấy vọng niệm. Chúng ta dùng điều ǵ để có thể ngưng dứt vọng niệm? Dựa theo tướng hơi thở ra vào. Thở ra là Hô (), Hô là thoát ra. Hấp () là hít vào. Khi hít vào, xem tướng trạng của nó, chú ư nó. Khi quư vị chú ư, [sẽ nhận thấy] hơi thở rất thô. Khi quư vị mới ngồi xuống, hơi thở ra vào rất thô, quư vị có thể cảm nhận được, cũng có thể thấy hơi thở ra như thế. Cứ tiếp tục quán tướng hơi thở ra vào ấy, nó sẽ vi tế dần, có thể xả tướng hơi thở ra vào ấy. Thuận theo tướng hơi thở ấy, sẽ dần dần có thể xả. Xả ǵ vậy? Xả các tầm tứ ấy, chẳng c̣n tầm tứ (t́m cầu, suy xét thô tướng lẫn tế tướng của các sự vật). “Phục” () là ĺa, có thể rời ĺa vọng niệm.

          “Thiện thủ nhập xuất tức tướng” (khéo giữ lấy tướng hơi thở ra vào): Được gọi là “thiện thủ” (善取, khéo giữ lấy) nghĩa là “không giữ lấy”. “Thiện thủ” là chẳng lấy hay bỏ. Khi đó, hơi thở ra vào rất tự nhiên, hơi thở ra vào rất vi tế. Nếu đă đạt tới mức vi tế, thứ nhất là có thể xả, thứ hai là khéo giữ lấy tướng hơi thở ra vào. “Nhập tướng hơi thở ra vào” tức là thuận theo hơi thở ra vào, tự ḿnh vận động, tức là thuận theo ư niệm của quư vị, cũng là chuyên chú một cảnh, tâm tuyệt đối chẳng tán loạn. Đối với Sổ Tức Quán, tứ giáo hay ngũ giáo đều dạy về Sổ Tức Quán.

          Đối với Sổ Tức Quán th́ tứ giáo hay ngũ giáo đều nói đến Sổ Tức Quán. Đếm hơi thở ra vào th́ gọi là Sổ Tức, Tức () là “xuất nhập tức” (hơi thở ra vào). Nói chung, sáu môn ấy đều gọi là Sổ Tức Quán. Chỉ () là diệt tướng “xuất nhập tức”, chẳng c̣n nữa. Người ấy có thể diệt trừ tướng thị hiện xuất nhập tức. Đă diệt xong th́ là Định, có thể trụ trong thắng tam-ma-địa, [tức tam-ma-địa] rất thù thắng. Người ấy hễ trụ trong Định, sẽ hết sức vui sướng, ĺa khỏi tướng sanh diệt. Định có tên gọi là Ly Sanh Hỷ Lạc Địa, [hàm ư] ĺa khỏi sanh diệt, trong tâm cảm thấy hết sức hoan hỷ. Khi quư vị quan sát sẽ biết, có thể cảm nhận hơi thở ra vào đă diệt, chẳng có hơi thở ra vào. Loại công phu này chẳng phải một hai ngày mà có thể đạt được. Trong khi quư vị tu tập, căn cơ b́nh thường, người có thiện căn tốt, hầu như là khoảng một trăm ngày có thể dần dần nhập Định. Nhập Định th́ Sổ Tức Diệt. Khi đó, chính ḿnh có thể quán cảnh. Cái tâm quán chiếu và cảnh được quán, tâm và cảnh chỉ là một. Đă quán chiếu điều này, quán chiếu điều kia, xem kinh văn, khi ấy mới có thể an trụ cái tâm, tâm và cảnh chẳng có sai khác. Chuyển là tiến cao hơn bước nữa. Chuyển có nghĩa là Hoàn.

          “Năng phương tiện xả chư Thủ Uẩn” (có thể phương tiện xả các Thủ Uẩn): Ngũ Thủ Uẩn: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp là sáu trần. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư là sáu căn. [Căn và Trần] giữ lấy Ngũ Thủ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thức ấy phân biệt hết thảy các sắc tướng bên ngoài, đó gọi là Ngũ Thủ Uẩn. Trong khi ấy, người đó có thể phương tiện thiện xảo xả Ngũ Uẩn. “Xả” chẳng phải là rốt ráo xả! Rốt ráo xả là như Quán Tự Tại Bồ Tát chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không, người ấy đă dần dần đạt tới nghĩa Không. Lúc ấy có thể thành thánh, tiến nhập thánh địa, đạt được thành tựu. Sự thành tựu ấy c̣n chưa đoạn phiền năo, chỉ là hàng phục. Đợi cho tới khi đă tịnh rồi th́ mới có thể đoạn phiền năo, đoạn hết Kết Sử. Cho tới khi đoạn Kiến Hoặc, người ấy sẽ chứng Sơ Quả, dần dần mới đoạn Tư Hoặc. Đoạn mấy phẩm liền chứng Sơ Quả, dần dần mới đoạn Tư Hoặc. Đoạn mấy phẩm, bèn chứng mấy phẩm. Tư Hoặc đều đoạn hết, sẽ là quả A La Hán. Lại đoạn tập khí phiền năo, tùy theo sự dụng công tu tập của quư vị. Đó gọi là tu tập Nhập Xuất Tức Quán, sẽ có thể tùy thuận quán Ngũ Thủ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

          Kế đó, nói về cách quán Ngũ Thủ Uẩn. Hơi thở ra vào nương vào đâu? Nương vào Sắc Thủ Uẩn. Sắc thân là sắc tướng, đó là Sắc Thủ Uẩn. Đối với hơi thở ra vào như thế, người ấy tạo tác hơi thở ra vào, hơi thở ra vào chính là tạo tác. Tạo tác ǵ vậy? Quư vị có thở ra hít vào th́ mới có thể hô hấp, hô hấp th́ mới duy tŕ cái thân của quư vị được! Hơi thở ra vào ấy, hít vào, thở ra, rồi lại hít vào thở ra, quư vị sẽ cảm nhận, lănh thọ. Nếu chỉ thở ra, chẳng hít vào, quư vị sẽ chẳng thoải mái. Quư vị sẽ cảm nhận được sự lănh nạp ấy, “thọ” () có nghĩa lănh nạp, tức thuộc về Thọ Uẩn. Đối với hơi thở ra vào, qua lại, quư vị giữ lấy tướng của nó, tướng thở ra, tướng hít vào, quán chiếu tướng thở ra hít vào, điều này thuộc về Tưởng. Tưởng Thủ Uẩn có thể liễu đạt nhận biết các h́nh tướng tạo tác bởi hơi thở ra hít vào. Liễu đạt, nhận biết chính là Thức Thủ Uẩn. Do năm Thủ Uẩn tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, bèn tu hành Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh, khiến cho quư vị nhập Định, có thể ngưng dứt ba nghiệp thân, miệng, ư, nương theo quán lực mà có thể đạt tới mục đích. Đạt tới mục đích ǵ vậy? Nhập Định, từng bước thâm nhập Vô Minh, Ái, Thủ, tu hành từng bước một, dần dần có thể viên măn.

          Trong kinh này, Sổ Tức Quán được nói rất đơn giản. Trong Lục Diệu Môn thuộc bộ Tiểu Chỉ Quán của Trí Giả đại sư, đă chia ra rất nhiều khoa. Lục Diệu Môn gồm sáu loại; ở đây, chúng tôi chỉ nói một loại trong ấy, v́ Lục Diệu Môn là căn bản để tu Định. Bất luận Thanh Văn, Độc Giác, hay Bồ Tát, Lục Diệu Môn đều là con đường ắt phải trải qua. Khi tu đạo, nhất định phải trải qua, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng như thế. Thoạt đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật thực hành Bát Nhă Quán, nương theo sáu loại Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh này, hết thảy các hạnh môn đều do đây mà khai phát. Hàng ma, thành đạo, đức Phật thị hiện cho chúng ta một quy củ để tu tập tốt đẹp, đó là ǵ? Sắc Tịch tam-muội, Tâm Tịch tam-muội, [nghĩa là] hết thảy các sắc đều tịch tĩnh, đă đắc định, tâm cũng ngưng dứt. Khi ấy, sẽ đạt tới Nhất Tâm tam-muội, cũng là Niệm Phật tam-muội. Trong phần trước, tôi đă thuận theo kinh văn để giảng. Cách niệm của tôi là dùng phương pháp niệm Phật để tu Sổ Tức Quán, hoàn toàn chẳng cần Sổ (đếm số). Hàm nghĩa của Sổ là một hơi thở ra, hít vào. Tôi chia hơi thở ra thành hai phần, thở ra là chữ A, hít vào là Di, lại thở ra là Đà, hít vào là Phật. Chuyển như vậy, lần lượt chuyền vần, “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, thuận theo hơi thở ra vào mà chuyển như vậy.

          Tôi dùng cách này để tu Định. Sau đó, tôi lại đổi thành niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng là như vậy. Tôi không dùng đến con số, cũng chẳng phải đếm số từ một đến mười. Phương pháp tu hành của mọi người khác, tùy thuộc sự lựa chọn của quư vị. Sổ, Tùy, Chỉ đều có hàm nghĩa như vậy, cũng là sáu loại ấy. Sáu loại Sổ Pháp, tức là phương pháp đếm số. Lục Diệu Môn có tổng cộng mười pháp. Sổ Tức Quán là pháp thứ hai trong Lục Diệu Môn, được gọi là Thứ Đệ Tương Sanh Lục Diệu Môn (次第相生六妙門, sáu môn mầu nhiệm lần lượt sanh ra nhau). Tôi đọc các danh từ ấy cho quư vị nghe đôi chút.

          Thứ nhất là Lịch Biệt Đối Trụ Chư Thiền Lục Diệu Môn (歷別對住諸禪六妙門,  sáu môn mầu nhiệm lần lượt trụ vào các loại Thiền Định), hết thảy Thiền Định đều chẳng rời khỏi Lục Diệu Môn.

          Loại thứ hai là Thứ Đệ Tương Sanh Lục Diệu Môn, [nghĩa là] theo thứ tự, sanh ra Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Hoàn trong Lục Diệu Môn có ư nghĩa giống như Chuyển, theo thứ tự mà sanh. Như vậy sau khi đă Sổ, sẽ sanh ra Tùy. Đă có Tùy, lại có thể sanh ra Chỉ. Đă Chỉ rồi bèn có thể sanh ra Quán. Từ Chỉ mà sanh Quán, từ Quán mà sanh ra Hoàn. Từ Hoàn mà có Tịnh. Điều thứ sáu là Tịnh, đấy là Lục Diệu Môn sanh khởi theo thứ tự. Quư vị tu môn Thiền Định nào cũng đều có Lục Diệu Môn.

          Thứ ba, Tùy Tiện Nghi Lục Diệu Môn (隨便宜六妙門); thứ tư, Tùy Đối Trị Lục Diệu Môn (隨對治六妙門); thứ năm, Tương Nhiếp Lục Diệu Môn (相攝六妙門); thứ sáu, Thông Biệt Lục Diệu Môn (通別六妙門); thứ bảy, Toàn Chuyển Lục Diệu Môn (旋轉六妙門); thứ tám, Quán Tâm Lục Diệu Môn (觀心六妙門); thứ chín, Viên Quán Lục Diệu Môn (圓觀六妙門), các môn này sâu lắm. Thứ mười là chứng đắc Phật quả, tức Chứng Tướng Lục Diệu Môn (證相六妙門). Khi chứng cũng có Lục Diệu Môn. Hiện thời, tôi dựa theo kinh Đại Thừa Đại Tập Thập Luân để dẫn chứng Thứ Đệ Tương Sanh Lục Diệu Môn. Thứ Đệ Tương Sanh là chiếc cầu thang để quư vị mong nhập Phật đạo sẽ từng bước tiến lên. Nếu quư vị đang ở trong Dục Giới mà muốn tu Định th́ sẽ rất khó khăn, làm như thế nào? Hăy dựa theo sáu loại ấy để có thể thành tựu Định lực cho quư vị.

          Môn thứ nhất là tu Sổ, tức là đếm số, đếm mười số. Một lượt thở ra hít vào tính đếm một, thở ra hít vào đếm hai, thở ra hít vào đếm ba, [cho đến mười] rồi quay trở lại [đếm từ một] như thế.

          Điều thứ hai là Chứng Số, tức là quư vị chứng con số vừa đếm ấy. Số có hai loại: Một là tu, hai là chứng. Sau khi đă chứng bèn chuyển nhập, chuyển nhập vào Tùy. Sau khi đă chứng, cách đếm số ấy bèn ngưng dứt, chẳng c̣n đếm nữa, đó là Tùy. Tu Sổ nhằm điều ḥa hơi thở của quư vị, điều ḥa rất thô thành rất vi tế. Chúng ta dần dần điều ḥa như thế, nhưng quư vị chớ nên gấp gáp. Khi đếm số, phải thong thả, thuận theo hơi thở ra vào tự nhiên, không cần Tác Ư. Hễ Tác Ư, Định sẽ rất khó sanh khởi, đó chẳng phải là tự nhiên. Điều ḥa hơi thở phải như thế nào? Chẳng nhanh, chẳng chậm, chẳng rít, chẳng trơn, nhất định phải tu đến mức độ an tường, chậm răi như vậy, từ một đến mười, đếm như thế đó.

          Sở dĩ chúng ta có thể nhiếp tâm là dựa vào đếm số. Nếu quư vị có thể nhiếp tâm, tức là dùng niệm A Di Đà Phật để nhiếp tâm, quư vị niệm Phật, niệm đến mức thuận theo hơi thở ra vào mà chuyển, cứ chuyển măi, hơi thở chẳng c̣n, quư vị vẫn cảm nhận Phật hiệu thuận theo quư vị mà chuyển (đó là Tùy). Như thế là quư vị đă Định. Nhưng pháp Tùy lại tùy thuộc cách tu của mỗi người. Trước hết, quư vị phải biết con số, từ một đến mười, nhiếp cái tâm, chẳng để cho nó rong ruổi nhanh hay chậm, khiến cho cái tâm được nhiếp trụ, chẳng chạy tán loạn, chẳng có lúc nào nghĩ ngợi chi khác. Nếu cái tâm nghĩ đến chuyện ǵ đó, [đừng quan tâm tới nó], cứ để cho nó qua đi. Nếu muốn suy tưởng chuyện ǵ, sẽ chẳng có thời gian, nó vĩnh viễn chẳng có kẽ hở để xen vào được, khiến cho ư tưởng, tạp niệm rối bời sẽ chẳng thể dấy lên được!

          Đối với Chứng Số th́ như thế nào mới coi là “chứng đắc”? Quư vị nhận biết cái tâm tự nhiên thuận theo cách đếm mười lượt ấy, chẳng c̣n lầm loạn nữa, tự nhiên theo đúng thứ tự th́ là chứng đắc. Từ một tới mười, quư vị không cần phải suy nghĩ, chẳng cần phải vận tâm để đếm, chẳng dùng bất cứ công sức nào để đôn đốc. Thoạt đầu, nếu quư vị chẳng chú ư đôi chút, sẽ loạn ngay, đếm sai ngay. Cho tới khi đếm thành thục, từ một đến mười không lầm loạn, tùy ư có thể đếm như vậy, chẳng cần mất công tốn sức, dần dần ngoại duyên đều rơi rụng. Tâm trụ, dứt bặt duyên niệm, nghĩa là “duyên theo hơi thở [để đếm số]” [đă dứt], tức là chuyện nương theo hơi thở để niệm chẳng c̣n nữa. Sau khi cái “duyên niệm” (nương tựa vào hơi thở để niệm) ấy chẳng c̣n, quư vị sẽ cảm thấy hơi thở như có như không. Nói là “chẳng có hơi thở”, th́ dường như vẫn có hơi thở vi tế. Nói “có”, đă chẳng c̣n hơi thở nữa. Không có hơi thở, tức là xét theo phương diện dụng công, đă chẳng c̣n hơi thở nữa. Tới khi đó, tư tưởng đă chẳng c̣n suy nghĩ đếm số nữa, đă vứt bỏ con số. Đó gọi là Tùy.

          Loại thứ hai là Tu Tùy th́ phải Chứng Tùy. Tu Tùy là phải vứt bỏ phương pháp đếm số ấy. Tâm quư vị tự nhiên chuyển theo hơi thở ra vào, tâm chẳng chạy lung tung, chẳng cần phải đếm số nữa. Đếm số nhằm ngăn giữ cái tâm [khỏi tán loạn]. Cái tâm tán loạn đă chẳng c̣n rong ruổi tán loạn nữa, chẳng cần phải pḥng bị, thuận theo tâm niệm để thuận theo hơi thở ra vào. Nhưng hơi thở ra vào ấy rất bé nhỏ, hơi thở như sợi tơ, giống như hơi thở của người sắp đoạn khí vậy. Nhưng cái tâm của quư vị đă hoàn toàn chẳng có ngoại vật, thuận theo hơi thở. Hơi thở vi tế thuận theo cái duyên của nó mà vận dụng, đó gọi là Tùy (). “Tùy” là thuận theo hơi thở làm duyên. Hơi thở cực vi tế, khiến cho hành giả trụ trong niệm, cho đến cuối cùng là Chứng Tùy, tâm đă tịnh, chẳng loạn nữa. Đó Tùy Trụ, cái tâm đă định, chẳng c̣n rối loạn nữa. Khi đó, quư vị cảm nhận hơi thở hoặc dài hay ngắn, rơ ràng, phân minh, cho đến nhận biết hơi thở ấy không chỉ từ mũi thoát ra, không chỉ ở chót mũi, mà mỗi lỗ chân lông trên cơ thể đều dường như toát ra hơi thở vi tế, chúng cũng hít vào, cũng đang thở ra, đó gọi là Biến. Biến () là trọn khắp toàn thân đều đang thở ra, hít vào. Do vậy, cái tâm vi tế của quư vị tùy ư nương nhau, liên đới lẫn nhau. Người ấy thở ra, không nhất định phải là hơi thở từ mũi thở ra, hơi thở nơi mũi đă chẳng nhận biết nữa, khắp nơi đều có thể thở ra. Khi đó, người tu hành bèn bỏ Tùy, chẳng c̣n chú ư đến hơi thở nữa, đă nhập Định, hơi thở chẳng c̣n nữa, đó là Chỉ.

          Cách tu Chỉ là như thế nào? Một là Tu Chỉ, hai là Chứng Chỉ. Khi Tu Chỉ, tư tưởng duyên lự đều trở thành Định. Định là Tức Định (息定, Định do ngưng dứt). Quư vị đă ngưng dứt [vọng niệm], cảm nhận được hơi thở [rất vi tế]. Ở trong Định, hơi thở ra vào đều hiện hữu. Nơi mỗi lỗ chân lông, thuận theo mỗi hơi thở ra vào, tất cả [lỗ chân lông] đều có thở ra hít vào. Lỗ chân lông thông thoáng; nếu không, làm sao có thể toát mồ hôi cho được? Lỗ chân lông toát mồ hôi tức là thông. Có lúc quư vị chẳng thở ra, mà các lỗ chân lông thở. [Khi đă Định] th́ sẽ ngưng dứt, tức là hết thảy duyên lự đều dứt, đă định, [thô tướng của] hít thở [nơi mũi] đă ngừng. Đă ngừng rồi, chẳng nghĩ tới Sổ (đếm số), chẳng nghĩ tới Tùy, tịnh cái tâm để tu hành.

          Chứng Chỉ th́ sao? Khi ấy, cũng chẳng biết đến thân, mà cũng chẳng biết đến tâm. Tâm và thân như một, chẳng có ǵ nữa, đă nhập Định. Nhưng loại Định này vẫn chưa nhập Không, vẫn thuộc vào hữu tướng. Phải chuyển cái Định này thành vô tướng. Khi chứng, chẳng thấy tướng trong ngoài, phương pháp Định là giữ cho cái tâm tùy ư bất động. Người tu hành như thế đă nhập tam-muội, tâm nẩy sanh cảm giác vui sướng tịch tĩnh, nhưng chẳng có Huệ, chỉ là Định. Chúng ta nói “Chỉ Quán song vận, Định Huệ song tu”. Nếu chỉ có Định th́ chẳng được. Người ấy (người tu pháp môn Sổ Tức Quán này) khởi lên huệ chiếu để quán. Quán chính là huệ chiếu. Chẳng có phương tiện là Huệ, sẽ chẳng thể phá sanh tử. Tuy đă đắc Định, Định vẫn chẳng thể phá nổi sanh tử, vẫn phải lưu chuyển, tức là chẳng tu thành công, làm như thế nào đây? Vẫn phải nhờ vào Giả, vẫn phải phá hoại sanh tử.

          “Phục tác thị niệm, kim tập Định giả giai thuộc nhân duyên” (lại nghĩ như thế này: Môn Định nay đang tu tập đều thuộc về nhân duyên). Môn Định ấy do tu Sổ và Tùy như thế mà ra. Tu đến mức ấy chính là pháp nhân duyên, thuộc về pháp Ngũ Uẩn, thuộc về pháp mười tám giới, do ḥa hợp mà có. Quán chiếu là khởi niệm. Đă khởi niệm, tức là khởi lên quán chiếu để niệm. Chuyện này hư dối chẳng thật, nay ta định để làm ǵ? Nay ta chẳng thấy, chẳng nhận biết, mà cũng chẳng niệm, cũng chẳng khởi giác chiếu. Ta phải nên quán chiếu, phải chiếu. Hễ khởi niệm th́ dấy niệm như thế xong, chẳng chấp trước cái tâm ấy, chẳng chấp trước môn Định ấy, chẳng hưởng thụ sự vui sướng ấy để rồi khởi quán phân biệt. Đó là Quán.

          Chỉ Quán là dấy lên Quán Chiếu. Tu Quán th́ sao? Từ trong môn Định ấy, bèn dùng Huệ tâm sở phân biệt, quan sát hơi thở ra vào vi tế, quan sát nó giống như gió trong không trung. Như đức Phật đă nói, trên thân thể chúng ta có ba mươi sáu món vật, đều là chẳng thật sự tồn tại, hư huyễn chẳng thật. Đấy là tu tập Tích Không Quán, chẳng phải là Thể Không Quán. Thể Không Quán th́ [liễu giải] ngay bản thể chính là Không, c̣n ở đây [là Tích Không Quán], tức là phải phân tích cái Không, chia chẻ cái Không. Tâm là vô thường, chẳng trụ trong mỗi sát-na, cũng chẳng có Ngă, cho đến thân, thọ, tâm pháp, đều chẳng có tự tánh. Như vậy th́ môn Định của ta nương tựa vào đâu? Ta định như thế nào? Định nương vào đâu? Tu Quán tức là tùy thời quan sát. Quan sát trong Định như thế đó th́ gọi là Tư Duy Tu. Quán và Huệ cân bằng, chúng ta thường nói là “Chỉ Quán song vận”, có hàm nghĩa này. Dùng điều này để quán hơi thở, nhận biết hơi thở ra vào, mỗi lỗ chân lông nơi toàn thể thân tâm, hết thảy các lỗ chân lông đều đang thở ra hít vào. Chuyện này đ̣i hỏi quư vị phải khai trí huệ, tâm nhăn khai minh, tự ḿnh quán chiếu ba mươi sáu món vật rành rẽ. Khi đó, quư vị sanh khởi tâm chán ĺa đối với thân thể này. Quán mỗi lỗ chân lông đang hít thở đó là lỗ huyệt của loài trùng, là lỗ thở của chúng. Quán đó là chỗ chúng ẩn nấp, trong lẫn ngoài đều bất tịnh, từ bên trong ra ngoài, chẳng có chút ǵ sạch sẽ. Khi đó, trong tâm sanh khởi bi lẫn hỷ. Bi (Buồn) v́ cái xác thân của chính ḿnh [bất tịnh dường ấy], vui v́ chính ḿnh cũng có thể tiến bộ, phá Tứ Điên Đảo. Đối với thân thể bất tịnh, triệt để nhận biết thật sự là bất tịnh, cái tâm yêu mến luyến tiếc thân thể mới đoạn dứt. Đó gọi là Chứng.

          Rốt ráo chứng đắc quán chiếu, trong tâm duyên theo cảnh giới được quán, buông bỏ cảnh giới Định. Sự duyên quán ấy vẫn thuộc trong Định. Đấy vẫn chưa phải là sự quán chiếu trong khi đi lại, mà là trong khi đang tĩnh tọa, định cảnh chuyển thành quán chiếu. Đó là Định Huệ song vận. Khi ấy, quán chiếu dùng cách phân biệt, dùng phương pháp phân tích, nhận biết cái niệm ấy đang lưu động. Niệm c̣n đang lưu động th́ chẳng chân thật, hăy nên xả Quán tu Hoàn.

          Nói đến Hoàn tức là xả Quán tu Chuyển. Một là Tu Chuyển, hai là Chứng Chuyển. Tu Chuyển là quan sát: Trong tâm ta dấy khởi một niệm, bèn quán chiếu niệm ấy từ tâm sanh khởi. Tâm sanh th́ pháp mới sanh. Đấy là điều ta phân tích, vẫn chẳng phải là bổn duyên căn bản, chẳng phải là bản thể của Pháp Thân, phải dùng Phản Quán để quán cái tâm. Quán cái tâm hiện tại, cái tâm ấy sanh khởi từ chỗ nào? Dần dần nhận biết cái tâm ấy sanh từ Quán, hay chẳng phải sanh từ Quán? Nếu chẳng phải cái tâm sanh từ Quán th́ ai đang quán? Cái tâm ấy rốt cuộc sanh khởi từ nơi đâu? Tâm sanh một niệm, tâm ấy lại diệt. Niệm này khởi, niệm kia diệt, đó là quán sự sanh diệt của cái tâm. Quán cái tâm này sanh khởi do cái tâm kia diệt mất. Quán như thế, nếu là từ tâm cũng sanh ra tâm, từ diệt cũng sanh tâm, cũng tức là sanh khởi hai cái tâm, đó là tâm sanh diệt. Chỉ quán một điều đă rất tốn công sức, thế mà tổng cộng lại có bốn câu, tức là “sanh, diệt, chẳng sanh, chẳng diệt”. Sau khi quán xong, khi đó, biết cái tâm của ta vốn bất sanh. Đă là bất sanh th́ chẳng có. Bất sanh là chẳng có, chẳng có th́ là Không. Đă Không th́ ta c̣n có ǵ để quán tâm nữa? Đă không th́ ngay cả cái tâm năng quán (cái tâm quán chiếu) cũng không có. Cái tâm năng quán chẳng có, sao ta lại có thể quán cái cảnh cho được? Tâm ta đối cảnh, tâm đă là chẳng có, vậy th́ cảnh c̣n có hay không? Cảnh lẫn trí đều cùng mất.

          Tôi thường xuyên nói với các đạo hữu, sám hối th́ phải niệm như vậy, tưởng như vậy. Sám hối như thế là thanh tịnh nhất. “Tâm vong, cảnh tịch, lưỡng câu không, thị tắc danh vi chân sám hối” (tâm mất, cảnh lặng, hai đằng đều không. Đó gọi là chân sám hối). Tâm cũng chẳng có, cảnh cũng chẳng có, quư vị có tội ǵ để có thể sám hối nữa hay chăng? Tội chẳng có, quán tưởng như thế đó. Tu Không Quán thành công th́ mới không có. Do vậy, chúng tôi nói là chịu khổ, chịu nạn, hoặc là thân tâm hứng chịu đau khổ, ưu sầu phiền năo, đều là do vọng niệm của quư vị. Nếu quư vị có thể tĩnh tọa, khi tĩnh quán, cảm thấy rất khổ. Hăy lôi cái khổ ấy ra [quan sát], ta v́ chuyện chi đó mới khổ, chuyện đó có thật hay chăng? Thật sự có hay chăng? Quư vị vừa quán, nó chẳng c̣n nữa, đều chẳng c̣n! Chẳng hạn như hai vợ chồng căi nhau, muốn ly hôn; lúc đó, cảm thấy rất khổ. Hễ quán, [sẽ nhận biết] người phối ngẫu (vợ hay chồng) chẳng phải là ta, ta chẳng phải là người đó, ngay cả chính ḿnh c̣n chẳng t́m được, c̣n nói ǵ kẻ khác! Người đó với ta có quan hệ ǵ vậy? Đă là không, th́ khổ năo ǵ cũng đều chẳng c̣n. Đó là nhân duyên. Các pháp sanh bởi nhân duyên là giả hợp. Giả hợp th́ chẳng chân thật. Nếu chẳng chân thật, ta sanh khởi phiền năo ǵ? Khổ là phiền năo, như thế th́ phiền năo của quư vị đoạn dứt. Đấy là phương pháp đoạn phiền năo.

          Tâm mất, cảnh lẫn trí hai đằng đều không. Đó là Chuyển. Cái bị chuyển sẽ chuyển như thế đó. Nếu ĺa khỏi cảnh, ĺa khỏi trí, cũng là ĺa khỏi cái tâm tác quán và cảnh được quán. Chẳng có trí và cảnh. Nếu quư vị quán lâu ngày, cảnh cũng chẳng có, trí cũng chẳng có. Chẳng nhờ vào công phu mà tâm huệ mở mang, phát khởi, chính quư vị sanh ra đại trí huệ. Trí huệ ấy là chiếu, điều này cần phải tu Tịnh. Đă tu tịnh, lại phải chứng tịnh. Chứng tịnh là đă thanh tịnh. Khi tu Tịnh, quư vị biết hết thảy các sắc vốn thanh tịnh, thân tâm vốn thanh tịnh. Hết thảy các pháp vốn chẳng ô nhiễm, do tánh vốn thanh tịnh. Đối với hết thảy vọng tưởng, phân biệt, quư vị đừng phân biệt, tịnh chẳng phải là tịnh, nhiễm chẳng phải là nhiễm. Nhiễm và tịnh chẳng tồn tại, đều là cảnh. Ngoại cảnh đều là không, vọng tưởng là cấu. Vọng tưởng đă không có, cấu nhiễm cũng không có. Tức là kể từ lúc dứt phân biệt th́ khi ấy là cấu, cho đến hiện thời, thứ ǵ cũng đều chẳng có, đều là Không. Không là thật sự thanh tịnh, tu như thế đó.

          Đấy chỉ là thứ tự trong Lục Diệu Môn. Đă là theo thứ tự sanh ra th́ có nhân, có duyên, sanh ra lẫn nhau. Nhưng đấy chỉ là nội dung của một phần thuộc Lục Diệu Môn của Tiểu Chỉ Quán. Nếu muốn thật sự tu Quán, nghiên cứu Chỉ Quán, vẫn phải tu Ma Ha Chỉ Quán. Kinh Hoa Nghiêm dạy về Chỉ Quán rất huyền diệu, rất khó tiến nhập. Vừa khởi đầu là tu Chân Không Tuyệt Tướng Quán, tức là hết thảy các tướng đều chẳng tồn tại. Tướng trong tâm, tướng ngoài tâm, sắc tướng của hết thảy chư Phật, hết thảy các pháp, hết thảy pháp bảo, hễ có h́nh tướng th́ đều là hư vọng, chân không tuyệt tướng! Tu thành tựu Chân Không Tuyệt Tướng, lại sanh ra Lư Sự Vô Ngại Quán. Lư trọn khắp nơi Sự, Sự là Lư. Do Lư trọn khắp Sự, Sự chính là Lư, cho nên Lư Sự vô ngại. Lư vô ngại, mà Sự cũng vô ngại. Cho nên có thể “chuyển đại pháp luân trong một vi trần”, có hàm nghĩa ấy. Một vi trần là Lư, hết thảy các sự đều dung nhiếp trong Lư. Lư là Sự, Sự là Lư, Lư Sự vô ngại!

          Tiến hơn bước nữa là Sự Sự Vô Ngại Quán. Chẳng dùng đến Lư trọn khắp nơi Sự, bản thân Sự đă là mọi chuyện đều vô ngại, bèn đạt tới cảnh giới Hoa Tạng. Loại Quán ấy chúng ta tu chẳng thành, v́ tâm lực của chúng ta chẳng đủ. Chúng ta ngay cả khấu đầu quán tưởng cũng quán chẳng thành. Nếu chúng ta khấu đầu, quư vị tưởng “năng lễ, sở lễ tánh không tịch” (tánh của người lễ và đấng được lễ đều không tịch): Ta là người có thể lễ, và Phật là đấng được ta lễ. Tánh và Thể của ta và Phật đều là Không, là tịch tĩnh. Giống như chúng tôi nói “tâm tịch”, ngay cả Tâm Tịch tam-muội mà chúng ta c̣n chẳng chứng đắc, th́ Sắc Tịch tam-muội càng chẳng thể đắc. Sắc Tịch đă đắc th́ sẽ đạt tới Tâm Tịch, sau đó, sẽ đạt tới Nhất Tâm tam-muội. Nói niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn, vẫn chẳng phải là một câu. Niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, trong bảy ngày có thể nhất tâm bất loạn, bảy mươi ngày, một trăm ngày, quư vị cũng có thể đạt tới nhất tâm bất loạn. Nương theo điều này để tu, tức là từ việc quán hơi thở ra vào. Nếu quư vị chẳng quán hơi thở ra vào, hăy quán bốn chữ A Di Đà Phật để chuyển cái tâm của quư vị, cũng tức là quư vị chẳng cầu trở về tịnh chi cả, cầu có thể ngưng lặng là được rồi!

          Trong một ngày, nếu ngay cả trong mộng, quư vị đều là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật không phải là tác ư niệm, mà là tự nhiên vận chuyển niệm, quư vị chết rồi c̣n chẳng sanh về thế giới Cực Lạc ư? Khẳng định sẽ sanh. V́ cái tâm quư vị đă hợp cùng thế giới Cực Lạc, đă cùng A Di Đà Phật “thân và cơi nước chẳng hai”. Thế giới Cực Lạc là A Di Đà Phật, đấy là thân và cơi nước chẳng hai. A Di Đà Phật là thế giới Cực Lạc, quư vị quán tưởng lâu ngày như thế, quư vị ứng hợp với Phật. Mỗi niệm của ta đều là A Di Đà Phật, ta biến thành A Di Đà Phật. Quư vị đă ở trong thế gian Cực Lạc; đấy là thâm nhập hơn chút nữa. Bất quá, mọi người nghe những lời lẽ kiểu này, nghe đă lâu sẽ có thể nhập. Mở miệng chửi người khác, nghe lời dơ bẩn, đă rất quen nết. Đó là v́ căn khí rất sâu từ vô lượng kiếp. Hễ nó hiện tướng là v́ nó đă chín muồi. Nhưng quư vị nghe điều này, chẳng biết bao nhiêu kiếp chẳng được nghe. Quư vị nghe những lời này, vẫn chẳng thể tiến nhập. Quư vị phải nói từ chỗ nông cạn, đừng nói nhiều, phải tiến nhập từng bước một. V́ sao khi tu hành, phải có thiện hữu, hoặc thiện tri thức? Khi quư vị đi sai đường, họ sẽ ngay lập tức lôi quư vị lại. Nếu quư vị chẳng mong quá nhiều, đếm số sẽ rất tốt, đếm mười lượt. Quư vị nghĩ pháp này rất đơn giản, cứ đếm số thử xem, rất chẳng đơn giản! Mười lượt th́ c̣n được, chứ hai mươi, ba mươi lượt, quư vị đă sớm loạn rồi, đă sớm loạn rối tung rối mù rồi! Đếm mười lượt chẳng thành, đợi đến khi quư vị đă tu quán đếm số tốt đẹp rồi, mới tiến thêm bước nữa là Tùy. Đây chẳng phải là chuyện một ngày, hai ngày, chẳng phải là một năm, hai năm.

          Nếu chẳng đếm số thuần thục, hằng ngày hăy tu như thế. Nếu quư vị chẳng thể chuyên tu, hằng ngày hăy dành ra một tiếng đồng hồ, hoặc nửa giờ. Lúc thoạt đầu tu tập, chớ nên ngồi quá lâu, chớ nên tham nhiều. Đó cũng là tham. Quư vị tham nhiều, sẽ chẳng làm được. V́ sao? Quư vị nói: “Ta nhất định phải ngồi ba tiếng!” Quư vị có thời gian hay không? Lúc quư vị khởi đầu tĩnh tọa, trước hết, hăy ngồi mười phút, hay mười lăm phút. Cảm thấy không thoải mái, ư niệm tán loạn th́ phải đứng lên, đừng ngồi nữa! Có thời gian th́ quư vị lại ngồi mười phút nữa. Tăng thêm dần dần, quư vị ngồi lâu hơn. Tăng thêm một khắc, tăng thành hai mươi phút, tăng thành nửa tiếng, dần dần tăng nhiều hơn. Đừng nên ngay lập tức, nhất định phải ngồi một tiếng đồng hồ, lại c̣n phải ngồi kết già, ḥng biểu thị tinh tấn. Chân đau, cũng chẳng thể định nổi. Người khác gọi quư vị, quư vị đứng lên vội vàng mong làm việc ngay, khiến chân bị tổn hại. Có người chân đă tê, có kẻ vào gọi người đó v́ có chuyện khẩn cấp, người đó liền đứng lên. Trong lúc đó không đau, nhưng xong chuyện, chân cũng chẳng linh hoạt, đi không vững. Tôi đă thấy t́nh h́nh này rất nhiều.

          Có một đạo hữu, sắp đến Tết, tính bế quan, tôi nói: “Ông đừng bế quan, ông bận rộn rất nhiều việc, đợi cho có cơ hội rồi mới lại bàn tới”. Ông ta không tin, liền bế quan, chẳng mấy chốc bị ngă găy chân. Đó là v́ vào ban đêm, nhà không bật đèn, ông ta lại tiếc nuối, không dám mở đèn v́ sợ lăng phí tiền nhà nước, không nỡ bật đèn điện. Sàn nhà hết sức trơn trợt, tuổi lại cao, ông ta muốn đi vệ sinh, vừa bước liền vấp ngă, không đứng dậy nổi, chân cũng chẳng thể đi nổi nữa. Lại chẳng có ai đến, nằm c̣ng queo dưới đất. Khoảng trước và sau Tết, Bắc Kinh lạnh mấy chục độ âm, rét cóng như thế. Tới sáng, đệ tử ông ta tới, mới phát hiện lăo sư phụ té lăn quay dưới đất, hỏi chuyện ǵ đă xảy ra? Do bị vấp ngă! Họ bèn đưa vô bệnh viện chữa trị. Có những chuyện chẳng thể miễn cưỡng được.

          Tinh tấn là tốt, hạ quyết tâm là tốt, nhưng quư vị phải cân nhắc hoàn cảnh, lượng sức của chính ḿnh để tiến dần. Đốn nhập th́ chúng ta chẳng thể. Khi tu hành, chớ nên tham nhiều. Có rất nhiều đạo hữu cũng luyện tập ngồi kết già, đó là tự nhiên. Có thể ngồi xếp bằng th́ khá lắm, nhưng đó chẳng phải là công phu một hai ngày. Quư vị ngồi xếp bằng, ngồi chẳng lâu được, chân lại rất đau! Chỉ cần có thể ngồi là được rồi! Phải chú trọng nơi tâm, đừng chú trọng h́nh thức. Có rất nhiều đạo hữu chú trọng h́nh thức, nh́n người khác cũng nh́n vào h́nh thức, coi xem oai nghi của họ có tốt đẹp hay không, có ngồi đoan chánh hay không! Hễ nói đến tĩnh tọa, bèn hỏi trước là người ấy có thể ngồi kết già hay không? [Đúng ra], quư vị phải hỏi người ấy có thể tu tâm tốt đẹp hay không? Chứ ngồi kết già th́ có công dụng ǵ đâu? Ngồi kết già th́ chỉ cần quư vị ngồi vững vàng là được rồi! Chẳng cầu h́nh tướng ngồi, phải cầu thực dụng!

          Học một bộ kinh phải thực dụng, đừng nói theo h́nh tướng. Ta nghe xong kinh ǵ, nghe kinh ǵ đó xong, sẽ có tác dụng ǵ? Bộ kinh ấy nói ǵ? Nói đoạn Thập Ác, hành Thập Thiện, quư vị có đoạn được hay không? Trong suốt một ngày, hăy kiểm điểm, phải cầu thực tế, trước hết, phải suy lường, xét nghĩ. Chúng ta mong cầu đạt được điều ǵ, trước hết, phải suy xét các chướng ngại trung gian, xem sự thật ta có thể làm được hay không? Chẳng thể đạt tới, bèn định tiêu chuẩn thấp hơn một chút, đừng định quá cao. Chẳng phải là quư vị mong tu hành hay sao? [Chẳng phải là] mong sẽ tiến nhập sâu hơn, mong liễu sanh tử hay sao? Quư vị vừa mấp mé [tu tập], c̣n sanh tử đă bắt đầu [từ lâu rồi], chẳng cần gấp gáp, cũng đừng tham nhiều. Tĩnh tọa cũng thế, mà nghe kinh cũng thế, làm ǵ cũng thế, tŕ thánh hiệu là tốt nhất. Trước hết, chúng ta phải miễn trừ tai nạn trong cuộc sống hiện thực; sau đấy mới nói đến chuyện tu hành được!

          Địa Tạng Bồ Tát chỉ dẫn quư vị sanh về thế giới Cực Lạc. Kinh Thập Luân cũng nói quư vị có thể sanh về cơi Phật thanh tịnh. C̣n có kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói về cơi Phật thanh tịnh. Quư vị sanh về cơi Phật nào cũng đều được; nhưng quư vị mong sanh về cơi nước nào, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói quư vị nhất định phải nghĩ tới cơi Phật ấy, xưng danh vị Phật ấy đến mức nhất tâm bất loạn. Nếu xưng danh hiệu của vị Phật ấy mà chẳng có duyên sâu với Ngài, bèn đổi thành niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, hoặc là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, các Ngài cũng đưa quư vị đi. Phổ Hiền Bồ Tát hoàn toàn chẳng nói quư vị phải niệm danh hiệu Ngài, quư vị chỉ cần đọc mười đại nguyện vương, do pháp lực gia tŕ, quí vị có thể văng sanh, lại c̣n là thượng phẩm thượng sanh.

          Hết thảy các kinh luận đều hướng đến thế giới Cực Lạc, hóa sanh trong cơi Phật thanh tịnh. Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán cũng nói như thế. Liên quan đến danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, chỉ có kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán nói là Địa Tạng Vương Bồ Tát, các kinh khác đều nói là Địa Tạng Bồ Tát. Các pháp đều thông với nhau. Địa Tạng Vương Bồ Tát hay Địa Tạng Bồ Tát đều được! Tùy thuộc quư vị ngồi phi cơ, hay ngồi xe lửa? Hay là tự ḿnh lái xe? Phương pháp tuy khác nhau, quư vị ngồi xe khác nhau, tốc độ nhanh hay chậm khác nhau, nhưng mục đích ắt cần phải chuyên nhất, chớ nên quá nhiều. Quá nhiều, quư vị sẽ chẳng thể nhập được!

          Quư vị nghe xong bộ kinh này, nghĩ rằng hay quá, ta phải tu bộ kinh này. Cho đến khi nghe bộ kinh kia, cũng hay quá, lại tu bộ kinh ấy. Thọ mạng của quư vị có hạn, cho đến khi già chết, quư vị chẳng tu thành một pháp ǵ th́ vẫn là như không! Tốt nhất là trước hết đừng đọa vào tam đồ, hăy giữ ǵn Thập Thiện Nghiệp. Chính ḿnh thọ Tam Quy, Ngũ Giới thanh tịnh, đừng hủy phạm. Có thể như vậy, sẽ là rất tốt. Hôm nay, chúng tôi giảng tới đây là viên măn.

Đại Thừa Địa Tạng Kinh Thập Luân Giảng Kư chung

 

Phụ Lục

Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Kư Tuyển

(地藏菩薩靈感記選)

Phật Giáo Điện Năo Tư Tấn Khố Công Đức Hội tuyển chọn

 

          Do v́ các tác phẩm về những chuyện linh ứng của Địa Tạng Bồ Tát quá nhiều chuyện trùng lặp, chúng tôi chọn lựa những bài ghi về sự linh cảm của đức Địa Tạng soạn thành một bản, toàn bộ gồm sáu mươi mốt bài kư, chia thành hai phần lớn.

 

I. Những chuyện cảm ứng thuộc thế kỷ hai mươi

1. Ân trạch Địa Tạng Bồ Tát ban cho tôi

Pháp sư Tâm Nhiên ghi

 

          Mùa Hè năm Dân Quốc 35 (1946), tôi học tại Lăng Nghiêm Phật Học Viện ở Thượng Hải. Một đêm, do ngủ trễ bị cảm nặng. Khi ấy, tuy được bệnh viện chẩn trị, nhưng chẳng lâu sau, biến thành chứng ho gà rất nặng. Gần như mỗi giờ, ho sặc sụa mấy chục lần. Mỗi lần chẳng ho tới mức ngực nhộn nhạo, nghẹn khí, sẽ chẳng thôi! Mỗi lần uống thuốc là mỗi lần nôn mửa. Mỗi lần tiêm thuốc quay về, đều chẳng có hiệu quả. Ba bữa chỉ uống nước cơm lỏng, các thức ăn cứng hay khô khác chẳng thể nuốt nổi! Lại c̣n mỗi đêm trằn trọc khó ngủ, rất là đau khổ! Trong kỳ nghỉ hè, có các học tăng bàn chuyện triều bái thánh tích của Địa Tạng Bồ Tát tại Cửu Hoa Sơn, tôi thầm nghĩ: “Nếu để sắc thân vô dụng này chết v́ bệnh tại Thượng Hải, sao bằng hy sinh trong khi triều bái Bồ Tát sẽ có ư nghĩa phong phú hơn!” V́ thế, tôi quyết định tham gia đội ngũ của họ lên đường, gắng gượng tinh thần, lê tấm thân suy yếu theo họ ra đi. Đương nhiên là trong lúc đi đường, phần nhiều là ngồi xe hay ngồi thuyền; nếu không, tôi cũng chẳng thể đi được!

          Một đoàn học Tăng chúng tôi ngồi xe lửa, xe hơi, đi qua Nam Kinh, Vu Hồ, lại ngồi tàu, hay ngồi thuyền của dân chúng, tiến thẳng đến Đại Đồng, Thanh Thành. Tuy đường dài khấp khểnh và mặt trời chói chang giữa không trung, chúng tôi cũng không v́ vất vả mà nghỉ ngơi. Suốt đường đi, tôi tự ḿnh niệm thầm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, nhất tâm kiên tŕ chẳng dứt. Hành tŕnh tiếp nối, đường càng ngày càng gần với đạo tràng của Bồ Tát, nội tâm tôi càng tăng thêm dũng khí và hỷ duyệt từng chút một. Tuy mỗi ngày tôi chỉ uống mấy chén sữa lỏng, nhưng thân tâm vui sướng, có thể chống chọi mà chẳng ngă xuống. Trên Trường Giang, trong lúc tàu đang bị sóng nhồi, lữ khách phần nhiều mệt mỏi muốn ngủ gục. Tôi trong lúc mông lung, bỗng thấy một vị tăng khổ hạnh tiến đến, bảo: “Ho hen chẳng cần phải sầu lo! Ăn nhiều các thứ lạnh như dưa hấu, nước đá v.v… ắt sẽ tự lành”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa. Chẳng lâu sau, trước mặt bỗng dưng có một miếng dưa hấu thơm ngon, tươi hồng. Tôi bất giác cầm lấy nếm thử, liền cảm thấy toàn thân thoải mái, khoan khoái khác thường! Nhưng lúc ấy, tôi nghe tiếng ngáy của chính ḿnh, bèn tỉnh giấc, đưa mắt nh́n, trùng hợp là các học tăng cũng đang ăn dưa hấu. Tự nhiên tôi cũng như cảnh trong mơ, tiện tay cầm ăn. Không ngờ, do vậy mà đêm ấy nghiễm nhiên ngủ ngon dị thường. Ngày hôm sau, giảm bớt ho hắng rất nhiều, khiến cho tôi sau đấy bạo gan tiếp tục ăn đồ lạnh. Đúng là một kỳ tích.

          Từ Đại Đồng tới Thanh Thành, ắt phải theo đường thủy là một nhánh nội hà ngoằn ngoèo, nhỏ hẹp, không quá ngắn. Đường thủy th́ có thuyền dân, có các bạn đồng học tự làm chèo tre, giúp nhau hợp lực chèo thuyền, cho nên tiến lên như bay. Chỉ có đoạn đường bộ là đường ruộng ẩm ướt, trơn trợt, cho nên đi lại khá gian nan! Nhất là đối với người thân thể mang bệnh như tôi, càng cảm thấy trầm trọng hơn trước, trở thành phiền toái lớn cho các bạn đồng hành! V́ thế, đêm đến, khi tới xin ngủ nhờ tại một chùa nọ ở cửa Nam của Thanh Thành, tôi lại bị ho kịch liệt! Mấy vị đồng học quan tâm đă v́ tôi đến trước tượng Bồ Tát ở tiền điện xin xăm, được quẻ xăm như sau: “Biển rộng ngộ cuồng phong, sóng lớn đánh vào thuyền, thuyền lật bị ngă xuống, không ch́m cũng kinh hồn”. Cầu xong, họ đưa quẻ ấy cho tôi coi. Tôi xem rồi, rất lănh ngộ, do vậy, nói với họ: “Trên đường đi, tôi không ngừng cung kính niệm thánh hiệu Bồ Tát, nẩy sanh ư chí cực kiên cường. Hiện thời, tuy có cảnh tượng rất nguy hiểm, tôi tự tin ắt sẽ giống như tàu bọc sắt của quân đội b́nh yên vượt sông, xin chớ lo rầu!” Quả nhiên, tới nửa đêm, ho hắng lập tức ngưng dứt. Sáng hôm sau, đặc biệt cảm thấy bụng đói như cào, ăn một mạch hai chén cháo mới cảm thấy no, khí lực toàn thân cũng do đó mà gia tăng rất nhiều! Từ Thanh Thành tới Cửu Hoa Sơn, hơn sáu mươi dặm đường núi, tôi đă có thể theo hàng ngũ mà đi, không đến nỗi quá tụt hậu. Đấy là kỳ tích thứ hai.

          Men theo đường núi tiến lên, chúng tôi đă đi qua chùa Long An quy mô to lớn, hai thánh am theo phương thức lều tranh, một túc am, Tiểu Kiều Am và Đại Kiều Am có cảnh trí u tuyệt. Trong ấy, có nhục thân Bồ Tát thuộc niên đại gần nhất. Chùa Cam Lộ phủ kín trúc biếc, trong ấy có toàn bộ Kinh Tạng thuộc hai đời Đường và Tống, có đ́nh Bán Tiêu để đón gió, vị trà thấm đẫm ḷng người. Ở các nơi ấy, chúng tôi đều từng lưu lại và thăm viếng. Tuy cũng có tâm lư thưởng thức phong cảnh, nhưng do thời gian gấp rút, hoàn toàn chẳng có tâm t́nh ngâm vịnh, tán thưởng gió trăng. Cuối cùng, chiêm bái tới chùa Kỳ Viên, nhằm đúng lúc chùa ấy có pháp hội giảng kinh. Chúng tôi đi thăm một ṿng, cả đám liền ngủ lại Bách Tuế Cung. Khi đó, vào ban ngày, mỗi giờ tôi chỉ ho mấy lượt mà thôi!

          Lần đầu tiên, ngủ lại thánh địa, mọi người mang tâm t́nh vui sướng dào dạt chẳng thể nói lên lời. Giám Viện trong chùa tiếp đăi thân thiết và chu đáo, khiến cho nhóm chúng tôi ngủ say đến nỗi chẳng biết trời đă sáng bạch. Cho tới khi tôi rời giường, các bạn học đă chia thành từng nhóm đi triều bái các di tích nơi thánh địa. Tôi đă có thể chịu đựng nỗi mệt nhọc vượt ngàn dặm đến thánh địa, đương nhiên sẽ chẳng lẽ nào cầu dưỡng bệnh một ḿnh nữa! Do vậy, cũng mang theo y cụ (y ca-sa và tấm ngọa cụ), từ chùa Hóa Thành đến tháp thờ nhục thân của Bồ Tát tại rặng Thần Quang để triều lễ, mỗi bước một lạy. Trong khi triều bái, tôi thầm nghĩ đến tinh thần kiền thành mỗi bước mỗi lạy triều bái tứ đại danh sơn của những vị tu tâm đă lâu, bất giác hổ thẹn vạn phần! Hành động nhỏ nhoi như tôi làm sao có thể biểu thị ḷng kính ngưỡng và hồi báo một phần trong vạn phần ân đức của Bồ Tát?

          Mỗi bước, mỗi lạy, vượt qua Nam Thiên Môn, đi qua Thập Vương Điện cây phủ rợp bóng, mới đến được bậc thềm đá dẫn lên tháp Bồ Tát vừa dốc lại vừa cao. Lúc ấy, tôi thở hổn hển như trâu, mồ hôi tuôn như mưa, nhưng tâm lặng như gương, thân nhẹ như gió, có một loại tâm cảnh “trăm mạch đều thông, trăm niệm quét sạch”, quả thật là chẳng có cách nào h́nh dung. Cho nên rất nhanh chóng tới trước tháp của Bồ Tát. Sau khi tiếp tục đảnh lễ bốn mươi tám lần, toàn thân tinh thần phấn khởi. Không chỉ là chẳng có mệt nhọc ǵ, từ đó, căn bệnh ho hắng khổ sở bị tiêu trừ chẳng sót. Đấy là kỳ tích thứ ba!  

          Ở Cửu Hoa Sơn mấy ngày, tôi lễ khắp tất cả các thánh tích đạo tràng, bái kiến chẳng ít tượng nhục thân tổ sư, ngay cả chỗ cao nhất là Địa Tạng Lâm trên ngọn Thiên Đài, một đường thẳng tắp lên trời, cái chuông U Minh nặng tám vạn bốn ngàn cân trên đỉnh núi, các thắng cảnh mỹ lệ hiểm trở, cũng đều lên tới nơi chẳng sót. Khi trở về Thượng Hải, đổi thành một thân thể linh hoạt, mạnh khỏe, khiến người khác chẳng dám tin tưởng tôi là kẻ yếu ớt chẳng chịu nổi gió máy. Ai đă ban thưởng? Do sức của ai khiến thành ra như vậy? Là do ḷng Từ gia hộ của Địa Tạng Bồ Tát, là ân điển của Địa Tạng Bồ Tát. Nếu không, tôi đă sớm chết v́ bệnh tại Thượng Hải rồi! Nam-mô đại nguyện Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

2. Lễ niệm thánh hiệu, chữa khỏi bệnh nặng

Lâm Chấn Hưng ghi

         

          Con gái út của tôi mấy năm trước (kể từ lớp 6 cho đến nay là lớp 12) mắc bệnh thận. V́ trị liệu chẳng lành, tiền bạc trong nhà lại thiếu thốn, phải ngưng chữa trị một dạo. Lần khân cho tới giữa tháng Chín năm Dân Quốc 67 (1978), nhận thấy mặt cháu phù thũng, cảm thấy hết sức không đúng, bèn đem cháu đi khám bệnh. Kết quả khám nghiệm cho thấy bệnh t́nh tệ hơn trước. Tuy chẳng nghiêm trọng cho lắm, nhưng t́nh huống chẳng nhẹ. Lúc ấy, tâm tôi rất phiền muộn. Nếu cứ mỗi ngày (hoặc hai ngày một lần) phải đi bác sĩ, cuộc sống trong gia đ́nh sẽ càng thêm khó khăn. Làm cách nào đây? Chỉ đành xin bác sĩ giúp đỡ; cũng may là vị bác sĩ ấy rất cảm thông t́nh cảnh của tôi, lập tức giới thiệu một loại thuốc bảo tôi mua về trị liệu trong ṿng nửa năm xem sao. Sau đó, tôi nghĩ: Chỉ uống thuốc th́ chẳng có cách nào, v́ trước kia lúc vừa mới phát bệnh nhẹ đă trị chẳng lành, hiện thời chữa trị chẳng phải là càng khó hơn hay sao? Do vậy, ngay khi ấy tôi bèn suy nghĩ: Vẫn cầu Phật, Bồ Tát th́ tốt hơn. Như thế th́ một mặt tự mua thuốc về uống, một mặt dạy cháu nó sáng tối cầu Phật lực gia bị. Không ngờ bệnh thận suốt mấy năm khó thể trị liệu, chỉ trong hơn hai tháng ngắn ngủi đến nay đă khỏi hẳn. Ai có thể tin tưởng loại kỳ tích này? Nói thật ra, ngay cả bác sĩ cũng cảm thấy rất kỳ quái! Tôi nghĩ nếu chẳng do cầu Phật, Bồ Tát cứu trị, chỉ sợ hiện thời vẫn chẳng khá hơn được. Do vậy, tôi hết sức cảm tạ ơn Phật.

          Đứa con gái bé ấy cầu Phật cứu trị như thế nào? Thoạt đầu, tôi sợ trẻ nhỏ chẳng kiên nhẫn, không chịu lễ bái hằng ngày. Cho nên tôi nói trước với nó về Phật lực vô biên. V́ sanh mạng, chỉ có cách cầu Phật, Bồ Tát. Đồng thời cổ vũ, dạy cho nó một phương pháp đơn giản, thuận tiện nhất. Buổi sáng sau khi đánh răng, rửa mặt, tới trước bàn Phật, chí tâm lễ niệm “Nam-mô A Di Đà Phậtsáu lạy, lễ niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” sáu lạy, tất cả là mười hai lạy. Sau đấy, lại quỳ niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” một trăm lần. Buổi tối, trước khi ngủ, lễ niệm Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát ba lạy, lại quỳ niệm Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát một trăm lần. Hằng ngày cứ lễ niệm và cầu như vậy, mới hơn hai tháng, bệnh đă khỏi hẳn. Đúng là chẳng thể nghĩ bàn!

 

3. Sự cảm ứng cứu khổ của Địa Tạng Bồ Tát

Hoàng Trí Đức ghi

 

          Khi bé, người khác gọi tôi là Khoái Lạc Tiên Tử, trong trường th́ có biệt hiệu Tiêu Khí Hoàn (消氣丸, hoàn thuốc tiêu giận). Dù trời sụp xuống, hay núi lở đều chẳng quản. Sống vui sướng, vô ưu, vô lự như một con chim nhỏ tiêu dao, bay lượn trên không, làm ǵ có ưu sầu, khổ năo? Nhưng nay đă già, đă có kinh nghiệm sống, nói chung là khổ nhiều vui ít! Nếu chẳng có khổ, v́ sao lại cất tiếng khóc chào đời chẳng ngừng như thế? Đó là khởi đầu của nỗi khổ. Đức Phật dạy: “Hoặc nghiệp là nhân, kết thành khổ quả trong đời người”. Tôi từng nghe lăo pháp sư Thụy Kim khai thị, Sư nói: “Đời người giống như một tấm vải trắng, bị vẩy mực mà ô nhiễm. Cần phải dùng nước sạch gột rửa dần dần th́ mới thanh tịnh được. Do vậy, ắt cần phải thường niệm Phật. Phật thương xót chúng sanh, khiến cho tâm tánh tội ác trong đời người sẽ dần dần thanh tịnh th́ mới có thể ĺa khổ năo”.

          Tháng Tám năm ngoái, Trí Nhi về nhà, bạn nó là bác sĩ Lư đến thăm. Tôi thừa dịp hỏi anh ta: “Cổ tôi có cảm giác hít thở không thông. Có lúc ngay cả một ngụm nước cũng chẳng thể nuốt xuống được, đó là v́ lẽ nào?” Bác sĩ Lư quan sát kỹ càng rồi bảo: “Tốt nhất là nên tới bệnh viện kiểm tra”. Tôi theo lời khuyên của bác sĩ Lư tới bệnh viện Sùng Hoa, được bác sĩ Dương Mẫn khám bệnh. Ông ta nói các bộ phận thân thể đều b́nh thường, tốt nhất là nên chiếu X-quang cổ họng th́ mới biết. Khi tôi chụp X-quang, ôi! Đáng ngại quá. Kết luận là giữa thực quản và khí quản đă nẩy sanh một khối ǵ đó không biết. Trải qua ba vị bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán, tới cuối cùng, quyết định chẳng thể nào không mổ. Tôi vừa nghe nói phải mổ xẻ, không khỏi kinh hăi! Chính ḿnh suy nghĩ: “Tuổi đă ngoài sáu mươi, mà c̣n phải mổ xẻ, đúng là nguy hiểm quá, vẫn là thuận theo tự nhiên đi!” Về nhà, kể lại t́nh h́nh cho con cái biết. Vĩ Nữ nói: “Bất luận như thế nào, phải nên báo tin cho Học Nhi và chị Ung” (họ đều là con gái của tôi). Nhưng con cái nhất trí chủ trương nghe theo ư kiến mổ xẻ của bác sĩ. Tôi không lay chuyển được họ. Học Nhi quay về ngay hôm đó, quyết định đưa tôi vào bệnh viện. Vào bệnh viện là một phen súc ruột, đo nhiệt độ, đủ loại thủ tục. Chín giờ sáng hôm sau, đưa vào pḥng giải phẫu, trải qua Tử Môn Quan. Năm vị bác sĩ, hai vị y tá, bảo tôi nằm trên chiếc giường lạnh ngắt, tay chân bị cột chặt, muốn động đậy cũng chẳng được. Hai mắt nhắm chặt, niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Tới chín giờ mười lăm, bác sĩ Hermosisima bước vào, chích một mũi thuốc mê, tôi bèn ngủ mê mệt. Sau đấy, bác sĩ Hermosisima mổ xẻ, tỉ mỉ kiểm tra, rốt cuộc cắt bỏ vật chướng ngại. Hơn bốn tiếng đồng hồ mới hoàn tất ca mổ, vật ấy dài hơn bảy tấc. Sau đó, tôi dần dần tỉnh lại, mở mắt ra đă thấy ḿnh nằm trong pḥng bệnh. Vây quanh bốn phía là mấy cô con gái và thân hữu. Tôi tự thở dài một hơi! Thật sự cảm khái là ngàn vạn phần lại sống tiếp một đời. Toan mở miệng nói chuyện, nhưng không thể phát ra âm thanh, lệ già lập tức tràn mi! Học Nhi vội tiến tới an ủi, muốn tôi hăy b́nh tâm tĩnh dưỡng. Khi đó, tôi biết trên cổ, chỗ yết hầu đă khoét một cái lỗ, đặt một dụng cụ h́nh tṛn bằng kim loại tại đó, có thể giúp tôi hô hấp, nhưng cảm thấy hết sức không thoải mái. Theo lời bác sĩ nói: Sau khi mổ, sẽ cảm thấy hết sức bực bội. Cháu Tích Hy rất cẩn thận ở cạnh tôi suốt đêm. Rất may mắn là ngủ yên tới sáng. Trong lúc nằm bệnh viện, ngày đêm đều có y tá và các cô con gái thay phiên chăm sóc.

          Sáng ngày Mười Tám, bác sĩ đi kiểm tra bệnh nhân một ṿng, vào pḥng bệnh của tôi, bảo: “Quá tŕnh mổ của bà khá thuận lợi, rất tốt. Bà cũng rất dũng cảm, tĩnh dưỡng vài bữa sẽ khỏi”. Tôi có ǵ để nói nữa? Chỉ đạm bạc cười khổ mà thôi! Trong thời gian nằm tại bệnh viện, được pháp sư Duy Từ, linh mục Thẩm từ trung học Thánh Tâm, các bạn thân, và các thiện hữu Phật giáo tới thăm, chân thành quan tâm, khiến tôi ghi khắc sâu đậm trong ḷng. C̣n có các bạn bè thuộc nhóm Tự Do Tổ Quốc gởi thư an ủi, hy vọng khi thân thể tôi khỏe trở lại, sẽ sang Đài Loan một chuyến. Tôi rất vui, chấp thuận lời mời của bà ta, v́ tôi đă dự tánh ghé thăm Di Lặc Nội Viện ở Tịch Chỉ để chiêm ngưỡng nghi dung toàn thân của Từ Hàng đại sư[1]. Đấy cũng là một trong các nguyện vọng của tôi.

          Ngày thứ tám, được bác sĩ cho phép xuất viện, tĩnh dưỡng tại nhà, nhưng vẫn cần phải trị liệu bằng phương pháp điện liệu. Bác sĩ điện liệu Canoy quan sát cẩn thận, bảo: “Tốt nhất là phải kiểm tra lần nữa. Chụp X-quang, thử máu, dựa trên tỷ lệ độ tuổi, và kết quả kiểm tra, ắt cần phải điện liệu hai mươi ngày. Mỗi ngày là mười phút, chớ nên gián đoạn”. Tám giờ sáng mỗi ngày, Ung Nữ đưa tôi đi điện liệu. Tôi nhớ là sau khi dùng phương pháp điện liệu mười ngày, thân thể suy nhược, tinh thần bải hoải, tứ chi vô lực, cổ họng bị tổn thương, một hớp nước cũng uống không nổi! Sức cùng lực kiệt, chống đỡ không nổi, mơ màng như người chết rồi, thân thể sút mất ba mươi mấy pounds. Mọi người đều lo cho tôi, tôi cũng chẳng muốn tiếp tục điện liệu, nhưng hai vị bác sĩ chủ trị không chịu. Nếu ngưng, chẳng phải là phí sạch công sức trước kia hay sao? Sau đó, họ lại châm chước nghiên cứu, mới kê toa chích thuốc bổ để giúp tăng thể lực, tiếp tục điện liệu cho đến ngày thứ hai mươi. Nỗi khổ này đúng là chẳng thể nói nổi!

          Một kiếp này qua một kiếp khác, hăy c̣n có kiếp khác chờ sẵn, ngày nào cái dụng cụ giúp hô hấp bằng kim loại gắn ở cổ mới tháo bỏ? Thời gian đă hơn năm tháng rồi, bác sĩ vẫn nói chẳng thể bỏ ra, tôi cả thấy lo sầu rất sâu! Rốt cuộc tới lúc nào mới có thể bỏ? Rất bận ḷng! Trong những ngày lo rầu, chỉ có cách dùng tâm kiền thành cầu khẩn, cầu Phật từ bi thương xót đặc xá tội chướng của tôi. Tôi nhớ sáng sớm ngày Hai Mươi tháng Giêng, tôi ngồi bên ghế, nhắm mắt tụng niệm thần chú Chuẩn Đề, bỗng dưng nghe thấy có người bảo tôi: “Bội Hành ơi! Túc nghiệp của con chưa tiêu trừ!” Tôi kinh hoảng mở mắt ra nh́n. Ôi! Đó là Địa Tạng Vương Bồ Tát, nhưng rất nhanh, h́nh tượng Bồ Tát không thấy nữa. V́ thế, tôi vội đến quỳ gối trước tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, thành tâm cầu sám hối, nguyện Bồ Tát từ bi đặc xá nghiệp chướng của tôi! Lúc ấy, tôi liền lập tức phát nguyện niệm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện mười bộ, cầu nguyện Bồ Tát giải trừ nghiệp chướng của tôi.

          Từ ngày Hai Mươi Sáu tháng Giêng, bắt đầu niệm thầm, thật linh nghiệm, niệm đến bộ thứ năm th́ dụng cụ giúp hô hấp nơi cổ của tôi được gỡ bỏ. Khi bác sĩ ra tay tháo dụng cụ giúp hô hấp, tôi hết sức khẩn trương, tâm t́nh vừa kinh sợ vừa hưng phấn, khó thể diễn tả! Tới ngày mùng Một tháng Hai, tôi đến chùa Định Huệ, được pháp sư Duy Từ từ bi cầu nguyện hồi hướng cho tôi trước Phật điện. Khi đó, miệng vết thương khỏi hẳn. Từ đấy về sau, sáng tối mỗi ngày tôi đều đảnh lễ Địa Tạng Bồ Tát, cảm tạ ân điển cứu khổ cứu nạn của Bồ Tát. Trong tâm vô lượng hoan hỷ, an ủi!

 

4. Mộng thấy bà nội đă qua đời

Năi Viên ghi

 

          Nhớ lại bà nội tôi đă qua đời từ nhiều năm trước, cụ chẳng giống như trong tiểu thuyết mô tả lăo thái phu nhân, “hưởng phước trời, ngậm kẹo chơi đùa với cháu”. Tuổi già, do không cẩn thận, cụ vấp ngă, nhiều năm nằm bệnh trên giường. Ăn, uống, cử động, đều phải do con cháu chúng tôi luân phiên chiếu cố để sống hết kiếp thừa. Khi tôi học lớp Sáu Tiểu Học[2], chị cả đang học tại đại học Trung Nguyên, đem kinh Phật trân quư từ Phật Học Xă về, cũng nói cho chúng tôi biết Phật pháp chưa từng nghe qua. Lúc ấy, tôi hứng thú tột bậc nồng hậu. Mỗi tối, đều ấn định chính ḿnh tụng phẩm Phổ Môn, chú Đại Bi, hay xưng niệm mấy trăm câu Phật hiệu. Lễ Phật xong mới làm bài tập. Trong tâm cảm thấy rất vui sướng, cũng thường hướng đến mấy vị bạn học thân thiết giảng nói sự vĩ đại, sâu mầu của Phật pháp. Lâu ngày, vào lúc tan học hoặc ngày nghỉ, mấy cô đó đôi khi tới nhà của tôi cùng nhau niệm Phật, lễ Phật, tụng kinh.

          Vào một đêm nào đó, khi tôi đang học lớp Bảy, tôi mộng thấy bà nội qua đời đến t́m tôi. Cụ vác một cái bụng to dường như sắp sanh. Tôi lập tức nghĩ tới trong phẩm Phổ Môn có nói: “Nhược hữu nữ nhân, thiết dục cầu nam, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, tiện sanh phước đức, trí huệ chi nam. Thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan chánh hữu tướng chi nữ, túc thực đức bổn, chúng nhân ái kính” (Nếu có nữ nhân, muốn cầu sanh con trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ sanh con trai phước đức và trí huệ. Nếu muốn sanh con gái, sẽ sanh con gái đoan chánh có đức tướng, đă gieo cội đức từ trước, mọi người yêu kính). Tôi tột bậc vui thích, vội nói với bà nội đă ly biệt một năm: “Bà phải mau niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Như thế th́ đứa bé sanh ra mới có bộ dạng trắng mập, đáng yêu”. Bà nội hỏi tôi: “Phải niệm như thế nào, ta không biết!” Tôi chắp hai tay lại, nói: “Phải rất thành khẩn niệm Nam-mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát…” Chẳng ngờ cụ thật sự niệm theo tôi, nhưng niệm chưa được vài câu, cụ không niệm nữa. Đột nhiên, mặt cụ xanh lét, hốc mắt cụ biến thành đen thui, lộ ra vẻ mặt hung tợn, đáng sợ, vươn hai tay bấu chặt cổ tôi chẳng buông. Tôi sợ tới mức ngă quỵ xuống đất, một mực giăy dụa cố thoát khỏi bà. Nay nghĩ lại, cụ là ngạ quỷ họng bé như kim, bụng to như cái chum! Khi tỉnh lại, tâm vẫn hoảng sợ muôn phần. Đợi tới tảng sáng, khẩn cấp đem chuyện gặp bà nội trong mộng đêm qua hỏi chị cả. Chị nói: “Có thể là sau khi bà nội qua đời, c̣n ở trong quỷ đạo hoặc địa ngục chịu khổ, biết em mỗi ngày tụng kinh, cho nên đến báo mộng với em, hy vọng cứu cụ. Em có thể tụng kinh Địa Tạng hồi hướng cho bà nội”.

          Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Nhược vị lai thế, chư chúng sanh đẳng, hoặc mộng, hoặc mị, kiến chư quỷ thần, năi cập chư h́nh, hoặc bi, hoặc đề, hoặc sầu, hoặc thán, hoặc khủng, hoặc bố, thử giai thị nhất sanh, thập sanh, bách sanh, thiên sanh quá khứ phụ mẫu, nam nữ, đệ muội, phu thê, quyến thuộc, tại ư ác thú vị đắc xuất ly, vô xứ hy vọng phước lực cứu bạt, đương cáo túc thế cốt nhục, sử tác phương tiện, nguyện ly ác đạo” (Nếu trong đời vị lai, các chúng sanh hoặc mộng mị, thấy các quỷ thần và các h́nh tướng, hoặc buồn, hoặc khóc, hoặc sầu, hoặc than, hoặc sợ, hoặc hăi, đấy đều là cha mẹ, con cái, em trai, em gái, chồng, vợ, quyến thuộc trong một đời, mười đời, ngàn đời trong quá khứ, không có chỗ mong cầu phước lực cứu vớt, đến báo với người ruột thịt trong đời trước để họ tạo phương tiện, nguyện ĺa ác đạo). Xem hết đoạn này, [nhớ lại] khi bà nội qua đời, nghiến răng, nghiến lợi, bộ dạng đáng thương lại hiện ra trước mắt tôi. Buổi tối, trước hôm bà nội qua đời, cụ mộng thấy ông nội đă qua đời ở bờ sông bên kia gọi bà, hướng về bà ngoắc tay, muốn bà qua đó. Bà nội thật sự xắn ống quần lội qua. Kinh Địa Tạng dạy: “Thị Diêm Phù Đề hành thiện chi nhân, lâm mạng chung thời, diệc hữu bách thiên ác đạo quỷ thần, hoặc biến tác phụ mẫu, năi chí chư quyến thuộc, dẫn tiếp vong nhân, linh lạc ác đạo” (Người làm lành trong cơi Diêm Phù Đề này, khi mạng sắp hết, c̣n có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo, hoặc biến thành cha mẹ, cho đến các quyến thuộc, tiếp dẫn người mất, khiến cho người ấy rơi vào trong ác đạo). Sáng hôm sau, cụ có kể cho chúng tôi t́nh h́nh mộng thấy ông nội đă mất. Lúc đó, chúng tôi chưa học Phật, hoàn toàn chẳng biết đấy là điềm báo bà nội sắp mất.

          Sáng sớm ngày kế đó, trước khi tôi đem bữa sáng đến, phải vén mùng lên trước. Khi tôi vén mùng lên để dọn dẹp, nhận thấy bà nội sắc mặt không đúng: Hai mắt trợn trừng, lộ vẻ phẫn nộ, răng nghiến chặt căm hận, thở dồn dập. Khi đó, tôi mới học lớp Năm hay lớp Sáu Tiểu Học, một luồng cảm giác hoảng sợ bọc lấy trái tim, vội chạy vọt ra cửa, phóng lên lầu nói với cha. Cha xuống nhà, thấy bà nội có thái độ khác hẳn b́nh thường như thế, khẩn trương lo lắng, nhẹ giọng nói chuyện với bà. Dường như bà muốn nói, hiềm rằng hàm răng như bị sức mạnh khớp chặt, không hé ra được. Bà càng lúc càng thống khổ, hô hấp càng khó khăn, vẻ mặt cũng càng khó coi, khiến cho người khác sợ hăi… Do bà nội trước đó đă có ông nội mất nhiều năm vẫy gọi, sau đó lại dùng tướng mạo khi chết để phán đoán, chắc chắn là cụ ở trong ác đạo chịu khổ, chẳng thể ngờ chi!

          Khi bà nội lâm chung, tôi chưa học Phật, chẳng biết phải nhanh chóng trợ niệm văng sanh. Chết rồi, trong ṿng bốn mươi chín ngày, cũng chẳng thỉnh bậc cao tăng hữu đạo siêu độ bạt tiến. Nay đă biết chỗ bà nội sanh về, trong tâm tôi thật khổ sở, đau đớn. V́ thế, phát tâm nhất định phải cứu bà nội khỏi cảnh nước sâu, lửa bỏng, khiến cho thần thức của cụ thoát khỏi đường khổ. Tôi hành theo lời dạy trong kinh Địa Tạng: “Chí tâm tự độc thử kinh, hoặc thỉnh nhân độc, kỳ số tam biến, hoặc thất biến. Như thị ác đạo quyến thuộc, kinh thanh tất thị biến số, đương đắc giải thoát” (Chí tâm tự đọc kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc, đủ số ba lần hoặc bảy lần. Quyến thuộc trong ác đạo như thế, khi tiếng tụng kinh đủ số lần, sẽ đều được giải thoát). Từ hôm đó trở đi, mỗi đêm sau khi ăn xong, tắm rửa xong xuôi, tôi nhất định đánh răng, rửa tay, thắp hương, chí thành cầu nguyện, hằng ngày kiền thành tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Sau khi tụng xong mỗi quyển, nhất định hồi hướng cho bà nội, cầu nguyện Phật quang gia bị, sớm ngày giải thoát, văng sanh đường lành. Tụng như thế khoảng chừng mấy chục lần, trong đêm chẳng c̣n mộng thấy dáng vẻ căm hận của bà nội nữa!

          Cảm ơn sức từ bi cứu bạt của Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng cảm kích giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật tuyên nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để thích ứng với các loại nhu cầu và căn khí khác nhau của chúng sanh, bọn chúng ta trong đời sau mới biết các vị đại Bồ Tát, đấng có tâm đại từ bi Quán Thế Âm Bồ Tát, đấng có sức chí nguyện to lớn là Địa Tạng Vương Bồ Tát, đại trí huệ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại hạnh nguyện Phổ Hiền Bồ Tát v.v… ở trong thế gian khổ sở cùng cực này giáo hóa, cứu độ hết thảy chúng sanh. Rất may mắn đời này chính ḿnh có thể học Phật, nhận biết Phật pháp, mới có thể tụng kinh hồi hướng cho bà nội. Nhưng toàn bộ nhân loại trên địa cầu, cùng với chúng sanh luân hồi trong lục đạo quá nhiều, người có thể nghe nói Phật pháp quá ít! Đức Phật từng nói: “Đắc nhân thân như trảo thượng trần, thất nhân thân như đại địa thổ” (được thân người như đất trên móng tay, mất thân người như đất trên đại địa). Hăy nên biết: Hễ đánh mất thân người, vạn kiếp chẳng có lại được! Ở trong tam ác đạo, muốn học Phật, tinh tấn hành tŕ, khó khăn như thể từ dưới đất mà toan lên trời. Đáng buồn thương cỡ nào! Viết đến đây, tôi nhớ sư phụ Thánh Khai thượng nhân đă phát đại nguyện: “Mong đời đời kiếp kiếp ở trong thế giới Sa Bà hóa độ chúng sanh, làm phu quét đường, quét dọn ô uế của nhân gian, măi cho đến năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, h́nh thành Tịnh Độ trong nhân gian, hoan nghênh Di Lặc Bồ Tát giáng hạ nhân gian thành Phật”. Mỗi khi nghĩ đến điều này, nội tâm tôi khôn ngăn cảm động. Nghĩ đến Bồ Tát đạo khó hành, chúng sanh khó độ (“nội chúng sanh” của chính ḿnh và “ngoại chúng sanh” tức chúng sanh bên ngoài), lúc nội tâm phóng dật, chỉ cần nghĩ tới tinh thần đại Bồ Tát chẳng sợ gian khổ của sư phụ, “có thể nhẫn điều khó nhẫn, có thể hành điều khó hành”, trong tâm thật sự có nỗi hổ thẹn chẳng thốt lên lời và ḷng ngưỡng mộ, bèn nhanh chóng càng thêm dụng công, luôn răn nhắc chính ḿnh. Sanh mạng rỉ mất từng giọt theo mỗi bước chân, ngày lại qua ngày, lại trải qua bao nhiêu năm tháng, bà nội tôi mất đến nay đă chuyện thuộc sáu bảy năm trước rồi. Chỉ nguyện lăo nhân gia sớm được siêu sanh, sanh về chốn lành, đời sau được tinh tấn học Phật. Cũng cầu nguyện trong đời này và đời sau, cho đến trong đời tương lai, có càng nhiều ngàn vạn người phu quét đường, cùng nhau quét dọn dơ bẩn trong nhân gian, xiển dương chân đế Phật pháp, mong cho Phật pháp như mưa ngọt trong lúc hạn hán rưới khắp tam thiên đại thiên thế giới.

 

5. Địa Tạng Bồ Tát báo mộng

Thanh Hà ghi

 

          Mùa Hè năm trước, tôi theo mẹ đến miền Trung thăm d́ họ đă nhiều năm chẳng gặp. Vừa vào cửa, thấy chính giữa phía trên bàn thờ trước sảnh, thờ hai bức thánh tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trước tượng, khói hương vờn tỏa, có không khí rất trang nghiêm. Tôi liền chắp tay cung kính, hướng về Bồ Tát xá, trong tâm cảm thấy vui sướng v́ d́ họ đă biết thờ Bồ Tát. Lễ xong, liền ngồi trên ghế hỏi d́ họ: “D́ họ ơi! D́ quy y Tam Bảo đă lâu chưa?” Bà lộ vẻ vui sướng, cười nói: “Đúng là cảm tạ mười phương Phật, Bồ Tát gia bị. Nếu chẳng có duyên với Phật, cái mạng già của d́ đă sớm vào địa ngục rồi!” Tôi không hiểu ư bà, dùng ánh mắt nghi ngờ nh́n d́ họ, hỏi: “Do nhân duyên ǵ khiến cho d́ quy y Tam Bảo? Chẳng ngờ trong vài năm, d́ họ thay đổi nhiều như vậy!” Bà lặng ngắm thánh tượng Bồ Tát, nhớ lại, kể lể: “Đó là chuyện mấy năm trước. D́ đến nhà bạn thăm viếng, nhận thấy nhà bà ta có thờ một pho thánh tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, trong tâm hết sức hoan hỷ, bất tri bất giác chắp tay lễ bái. Sau đó cũng quên mất chuyện đó!”

          Bà nói: Hàng năm, bất luận nhằm dịp khánh đản vị thần nào, chúng tôi luôn giết rất nhiều súc vật để cúng tế. Ngày Hai Mươi Ba tháng Ba âm lịch hai năm trước chính là sanh nhật của Ma Tổ Thánh Mẫu (Thiên Hậu Nguyên Quân), mỗi nhà đều sát sanh cúng bái. Chúng tôi là nhà giàu có, lại là tín đồ kiền thành của Ma Tổ, đương nhiên là giết gà vịt càng nhiều hơn nhà khác, nấu bàn tiệc tới hai mươi món ăn mặn tuyệt ngon để đăi đằng thân bằng hảo hữu. Tâm d́ tự nhiên là mười phần cao hứng, cứ nghĩ: “Lần này mở tiệc lớn đăi thân hữu, kể như đă trọn hết ḷng thành của kẻ làm tín đồ, Ma Tổ sẽ ngấm ngầm phù hộ, ban phước cho cả nhà d́”. Mọi người tận t́nh hưởng thụ, ăn uống vui quên trời đất. Đại khái tám giờ hơn, khách khứa về nhà cả rồi. D́ v́ tiếp đăi khách khứa, gọi nọ, gọi kia, bận bịu suốt cả ngày, đúng là quá mệt mỏi. Tắm rửa bằng nước ấm xong, liền lên giường nằm, nhưng chẳng biết sao, lăn qua lộn lại, vẫn chẳng ngủ được! Vốn là đêm sâu tĩnh lặng, bỗng dưng mưa to, sấm rền, trong tâm d́ đột ngột hoảng sợ. Trong mơ hồ, cảm thấy trong nhà tràn ngập mùi máu tanh, lại tợ hồ nghe tiếng gà, vịt, ngỗng kêu oan quang quác từng đợt đập vào tai. D́ cảm thấy muốn nôn, hít thở khó khăn, muốn kêu nhưng lại chẳng thể thốt ra tiếng được! Toàn thân cảm thấy tê liệt, trằn trọc khó yên, bất tri bất giác mê lịm đi!

          Sáng sớm hôm sau tỉnh lại, chỉ cảm thấy toàn thân đau đớn, tứ chi vô lực, chẳng thể động đậy, hai mắt đen thui, sắc mặt xanh lè, cứ như vậy ngă bệnh nặng một trận. Mê man, bất tỉnh trên giường bệnh, thở thoi thóp. Trong lúc mê man, d́ tợ hồ rơi vào một cái hố sâu tối đen không đáy. D́ kinh hoàng, sợ hăi, khóc ầm lên, ai oán. Bỗng dưng từ trên đỉnh hố sâu, một đạo quang minh vạn trượng bắn thẳng vào thân d́, khiến cho d́ bớt sợ hăi, được an ổn. Một vị xuất gia, mặt như trăng tṛn, thân đắp y ca-sa từ trong luồng sáng giáng hạ, nắm tay d́, cứu khỏi hố sâu. D́ theo vị sa-môn tới một chỗ trống trải sáng sủa. Ngài nhẹ giọng bảo d́: “Ta là Địa Tạng Vương Bồ Tát mà mấy năm trước bà đă cung kính lễ bái tại nhà người bạn. Bà do tội sát sanh nặng nề, các con vật t́m bà đ̣i mạng, chẳng dung tha cho bà! Sau khi chết, đáng đọa địa ngục, chịu vô lượng khổ. Do bà một niệm chân thành, chiêm lễ thánh tượng Bồ Tát cảm vời, khỏi đọa địa ngục, chịu các khổ báo. Nay bà c̣n có tội thừa nơi thân, từ nay trở đi, hăy nên sắt son sám hối tội nghiệp, chớ tạo sát nghiệp. Hăy nên từ bi đối với sanh linh, rộng làm bố thí, khéo tích tập phước đức!” Nói xong, chẳng thấy đâu nữa.

          Tỉnh lại, d́ liền kể t́nh h́nh trong mộng cho người nhà nghe, mọi người bán tín bán nghi, chẳng biết là thật hay giả. Nhưng thấy hôm sau, t́nh h́nh trọng bệnh của d́ có thể khởi tử hồi sanh, có thể nói là kỳ tích. Từ đấy về sau, d́ vào chùa quy y Tam Bảo, thỉnh thánh tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát về thờ phụng. Hằng ngày, sáng tối lễ bái, xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, tối đến cung kính tụng một quyển kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hồi hướng cho các súc vật bị giết oan sớm ngày siêu sanh đường lành. Từ đấy, chẳng c̣n nuôi súc vật, giết mổ sanh linh, và cũng thường xuyên cúng dường Tam Bảo, nghe Phật pháp, in tặng kinh sách chánh tín của Phật giáo để rộng kết Phật duyên, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, thường khuyên người khác làm lành. Cả nhà lớn nhỏ sống vui sướng, cũng được tiếng khen là gia đ́nh kiểu mẫu, trở thành đối tượng được hâm mộ của hàng xóm chung quanh. D́ quả thật rất cao hứng, mà cũng hết sức hổ thẹn!”

          Nói tới đây, d́ họ cao hứng cười toe toét. Tôi nghe bà kể chuyện đă từng trải, Địa Tạng Vương Bồ Tát báo mộng khuyên người kiêng giết, khiến tôi tự nhiên sanh khởi tâm kính sợ làm theo. Ở đây, tôi kính khuyên các bà chủ gia đ́nh, vẫn là chớ nên sát sanh cúng bái th́ hơn! Nếu không, các sanh linh bị sát hại, nói chung, sẽ có ngày hướng về quư vị đ̣i nợ mạng. Khi đó, quư vị vào trong địa ngục. Nếu chẳng có duyên với Phật, làm sao biết cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát đến cứu vớt quư vị?

 

6. Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát nghe tiếng cứu khổ

Hành Ngọc ghi

 

          Ngày Hai Mươi Mốt tháng Giêng năm Dân Quốc 49 (1960), tuy là mùa Đông, nhưng không có cảm giác rét buốt chút nào. Tôi trên thân chỉ mặc một cái áo khoác lông dê, cảm thấy rất nóng bức, nhưng lại chẳng thể cởi ra, v́ tôi đă có dấu hiệu muốn cảm mạo. Đi làm không lâu, bỗng nhận được tin của vị đại đức nọ ở Đài Bắc nhắn tôi đến ṭa soạn tạp chí Bồ Đề Thụ, thỉnh một quyển Phật Học Vấn Đáp của cụ Lư Bỉnh Nam. Tôi là người tánh t́nh nôn nóng, đối với chuyện cần làm, không thể nào chẳng làm ngay. V́ thế, xin nghỉ một tiếng rưỡi, lê thân h́nh mệt mỏi đến chỗ ṭa soạn tạp chí Bồ Đề Thụ. Ánh nắng gay gắt nung nấu, khiến cho lưng tôi đẫm mồ hôi. Tôi nghĩ thầm: “Toàn thân đẫm mồ hôi, kể ra đối với chứng cảm mạo đâm ra giúp ích cho ḿnh”. V́ thế, tôi vẫn không dám cởi cái áo lông ấy ra, đến chỗ ṭa soạn tạp chí Bồ Đề Thụ, t́m đại đức Châu Phỉ hỏi thỉnh quyển Phật Học Vấn Đáp của cụ Lư Bỉnh Nam, khiến cho tôi rất thất vọng là ở đó đă chẳng c̣n quyển sách ấy.

          Đi ngang Liên Xă, muốn bước vào, th́ thấy lăo cư sĩ Lại Lương Đống dắt xe đạp ra. Cụ thấy tôi đi vào, liền quay xe trở lại, nói: “Tôi đang muốn t́m bà làm công đức”. Đồng thời c̣n lấy ra tờ Dân Thanh Nhật Báo (nhật báo Tiếng Dân) cùng ngày, c̣n chỉ vào trang thứ hai bảo tôi xem. Tôi đáp: “Cụ đúng là khó ḍ thật! Muốn tôi đến th́ tôi đă đến rồi, có chuyện ǵ cụ cứ căn dặn đi!” Nhưng cụ nhất định muốn tôi ngồi xuống xem báo. Do tôi phải gấp rút quay về làm việc, chẳng có ḷng dạ nào xem báo. Rốt cuộc, tôi tưởng người ta muốn tôi đi quyên góp; v́ thế, thiếu kiên nhẫn nói: “Cụ Lại ơi! Nếu cụ muốn tôi viết lách đôi chút th́ chẳng có vấn đề ǵ, chứ muốn tôi ra ngoài hóa duyên th́ tôi không có cách nào đâu!” Cụ Lại bảo: “Xin bà hăy ngồi xuống, bà xem thử (cụ chỉ vào báo nói) rốt cuộc cần làm công đức ǵ?” Tôi nói: “Nếu chẳng phải muốn tôi viết đôi chút, th́ c̣n có công đức ǵ có thể làm được?” Cụ Lại chẳng chờ tôi nói hết, bèn chặn ngang: “Tôi thấy trên Trung Phật Nguyệt San có đăng bài ca tụng sự tích linh cảm về kinh Địa Tạng của bà. Nay có một vị liên hữu cư sĩ tên là Kỷ Tam Toàn, gia cảnh hết sức nghèo túng. Ông ta đạp xe ba bánh và làm công nhân điện khí. Sau trận lụt ngày Bảy tháng Tám (năm 1959), ngay sau đó cha ông ta qua đời. Lúc đó, ông ta thử đủ mọi cách, tận lực giải quyết tang sự ổn thỏa, do vậy mắc nợ chồng chất. Nhất thời, chẳng có cách nào trả sạch nợ được! Chẳng phải là khổ càng thêm khổ ư? Nào ngờ họa vô đơn chí! Gần đây, khi ông ta làm việc trên cái cột điện cao hơn hai trượng, chẳng cẩn thận té xuống. Ôi chao! Người này vướng nghiệp chướng quá nặng, xin bà phát tâm thay ông ta tụng mấy bộ kinh Địa Tạng, để tiêu tai miễn nạn thay cho ông ta, đúng là công đức vô lượng! Ngày hôm qua, tôi đă nói với Kỷ Tam Toàn rồi”. Tôi nghe cụ Lại từ bi nói cặn kẽ như thế, trong tâm không nhịn nổi nỗi niềm khổ sở. V́ thế, nhận lời từ ngày mai sẽ thọ Bát Quan Trai, tụng kinh Địa Tạng cho vị liên hữu cư sĩ Kỷ Tam Toàn xa lạ kia, khiến cho ông ta sớm lành bệnh.

          Khoảng chín giờ sáng ngày Hai Mươi Hai, tôi đến bệnh viện ngoại khoa Trừng Thanh ở phố B́nh Đẳng để thăm Kỷ cư sĩ. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi vào bệnh viện ngoại khoa thăm bệnh nhân, căng thẳng như đích thân vào địa ngục. Trong đó, những t́nh trạng lạ lùng xuất hiện đủ mọi vẻ; nhất là cái mùi khó ngửi xông sực khắp nơi. Tôi đành bất lịch sự dùng khăn tay che mũi. Dưới t́nh huống ấy, đúng là chẳng muốn ở lại lâu, nhưng tôi lại chẳng thể không cố sức chịu đựng. Tôi t́m đến pḥng bệnh số ba mươi, thấy một vài bệnh nhân đang nằm đó, tôi cũng chẳng nhận biết Kỷ cư sĩ. Thấy một bà cụ đi tới, hỏi thăm, mới biết cụ chính là mẹ của Kỷ cư sĩ, cụ bảo cho tôi biết giường bệnh của Kỷ cư sĩ. Thấy ông ta nằm bất động trên giường, tôi thầm niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, đến bên giường Kỷ cư sĩ hỏi: “Ông có ăn chay hay không?” Ông ta đáp: “Tôi chỉ ăn trai ngày mùng Một và Rằm”. Ông ta gầy trơ xương, âm thanh nói chuyện hết sức nhỏ yếu. Nh́n thấy bộ dạng của ông ta, nếu là lúc trước khi tin Phật, tôi sẽ nhất định hoảng hồn, bỏ chạy! Tôi nói: “Nếu ông có thể phát tâm ăn Thập Trai (ăn chay mười ngày), thời khắc niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc lớn tiếng, hoặc niệm thầm đều được; nhưng điều thiết yếu là phải chí thành khẩn thiết. Chỉ có như thế th́ mới có thể cảm ứng đạo giao. Nay tôi sẽ thay ông tụng kinh Địa Tạng, tiếp tục tụng cho đến khi ông khỏi hẳn mới thôi!”

          V́ ḷng thành khẩn của tôi, lúc đó, ông ta hết sức cảm động, lập tức rất kiền thành tiếp nhận ư kiến của tôi, muốn tôi viết ra mười ngày trai cho ông ta. Tôi nói; “Ngày mai là ngày Hai Mươi Bốn tháng Chạp, ông bắt đầu ăn Thập Trai đi!” Tôi lại hướng về cụ Kỷ nói: “Nhà cụ có thờ tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, sau này hăy lễ bái nhiều hơn, niệm nhiều hơn, cầu Bồ Tát đại từ đại bi, phù hộ Kỷ cư sĩ chẳng bị tàn phế”. Tôi nói xen lẫn bập bẹ tiếng Đài Loan, cụ nghiễm nhiên có thể nghe hiểu. “Một nhà tám mạng hoàn toàn dựa vào nó nuôi sống”. Bà cụ Kỷ vừa nói, vừa vạch cánh tay trái bị thương do té của Kỷ cư sĩ cho tôi coi. Tôi giống như bị điện giật, sợ tới mức gần như đứng không nổi! Thấy cánh tay ấy, máu thịt đă trộn lẫn be bét, nghiêm trọng như tương thịt, chất máu đỏ pha sắc xanh không ngừng rỉ ra. Vợ ông ta đứng bên cạnh dùng giấy vệ sinh thấm máu rỉ ra. Tôi nghĩ: “Có thể trị lành nổi không?” Tôi ôm tâm trạng nặng nề, vội vàng trở về đi làm.

          Trong lúc ban đêm khi tôi tụng kinh, bỗng dưng đau bụng như bị cắn. Đấy là hiện tượng trước nay tôi chưa từng gặp kể từ khi tụng kinh đến nay; nhưng tôi vẫn nhịn đau tụng kinh đến hết. Tụng kinh xong, tôi cũng hết đau bụng. Có lúc do công việc bận rộn, cũng như chuyện nhà bận bịu, tôi thường mệt mỏi kiệt sức ră rời, đúng là không xốc tinh thần lên nổi, nhưng khi nghĩ tới cảnh tượng Kỷ cư sĩ đang nằm trên giường bệnh, rên rỉ cầu cứu, rốt cuộc vẫn vực dậy tinh thần, kiền thành cung kính v́ ông ta tụng kinh Địa Tạng.

          Trưa ngày Hai Mươi Lăm âm lịch, tôi thỉnh một bức tranh cuộn thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát tới bệnh viện ngoại khoa Trừng Thanh. Một bệnh nhân khác thấy thánh tượng Bồ Tát trang nghiêm, thật tâm hoan hỷ tán thán. Ông ta đă sanh tâm hoan hỷ, tôi bèn trao thánh tượng cho ông ta, và giảng nói mười thứ lợi ích do thờ phụng thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát: “Một là đất đai màu mỡ; hai là nhà của an b́nh, hưng thịnh; ba là người mất sanh lên trời; bốn là người c̣n sống tăng thọ; năm là ở cầu toại nguyện; sáu là không bị tai họa về lửa và nước; bảy là dứt bặt hư hao; tám là dứt sạch ác mộng; chín là ra vào có thần hộ vệ; mười là thường gặp gỡ cái nhân thuộc về bậc thánh. Đối với lời tôi nói, người ấy không chỉ tin tưởng, mà c̣n không ngừng hướng về tôi cảm tạ: “Thật cám ơn nhiều lắm”.

          Tôi đến chỗ bà cụ Kỷ, hỏi cụ: “Thương tích của Kỷ cư sĩ có khá hơn chút nào không?” Bà cụ Kỷ mặt đầy vẻ vui mừng, đáp: “Vết thương của Tam Toàn khá nhiều lắm”. Vừa nói vừa vạch chỗ vết thương cho tôi xem, tôi nh́n thấy bèn vui sướng, gần như nhảy cỡn lên. Tôi ôm ḷng hoan hỷ, tán thán, buột mồm nói: “Địa Tạng Vương Bồ Tát quá linh nghiệm, thật sự quá linh nghiệm, chẳng phải vậy hay sao! Rơ ràng là té đến nỗi cánh tay thương tổn máu thịt lẫn lộn. Chẳng đầy vài ngày, cánh tay nghiễm nhiên phân định từng phần rơ ràng, đồng thời máu mủ chẳng tuôn ra nữa. Chuyện này thật sự quá chẳng thể nghĩ bàn!” Nói thật, nếu chỉ dựa vào sức thuốc men, sẽ chẳng thể b́nh phục nhanh như thế! Vài vị bệnh nhân cùng pḥng bệnh cũng đồng thanh hoan hỷ tán thán. Kỷ cư sĩ mang vẻ mặt kinh ngạc, cảm kích nói với tôi: “Tôi mỗi ngày niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hơn ba trăm câu”. Tôi nói: “Tốt nhất là thời thời khắc khắc đều niệm”. Cuối cùng, tôi mang tâm t́nh khoan khoái rời khỏi bệnh viện ngoại khoa Trừng Thanh.

          Mỗi dịp Chủ Nhật là cụ Lại cùng đại đức Hác Ân Hồng định kỳ vào nhà tù Đài Trung hoằng pháp. Tôi trông thấy cụ Lại, liền hỏi Kỷ cư sĩ đă khỏe hẳn chưa? Cụ nói: “Đỡ th́ đỡ nhiều rồi. Bất quá, theo bác sĩ nói, vẫn phải chụp X-quang, phải mổ hai lần để nối xương. Có chữa lành hay không th́ vẫn chẳng nắm chắc, nhưng Kỷ cư sĩ lại chẳng có tiền…” Nghe ngụ ư của cụ, tôi khá cảm khái. Bệnh của Kỷ cư sĩ chẳng lành, trong tâm tôi vô hạn áy náy và nỗi khổ sở riêng. V́ xét theo phương diện kinh tế, tôi tâm th́ có dư, nhưng sức chẳng đủ, do t́nh nghĩa nhân đạo thôi thúc, sao không khiến cho tôi “buồn rầu, khổ năo”. Sau khi về tới nhà, chuyện ǵ cũng chẳng muốn làm, cứ trầm ngâm suy nghĩ, có cách ǵ để Kỷ cư sĩ khỏi phải mổ hay không? Tôi tự nói: “Bạch Địa Tạng Vương Bồ Tát! Con cám ơn lăo nhân gia đă gia hộ cư sĩ Kỷ Tam Toàn lành ngoại thương, nhưng hiện thời tay trái vẫn chưa thể hoạt động. Theo bác sĩ th́ c̣n phải mổ hai lần, mà vẫn chẳng dám chắc là sẽ hoàn toàn b́nh phục. Kỷ cư sĩ thật đáng thương, đệ tử cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát lại rủ ḷng từ bi, dùng sức thần thông chẳng thể nghĩ bàn phù hộ cho Kỷ cư sĩ chẳng cần phải mổ”. Tôi mỗi ngày cầu nguyện nhắc đi nhắc lại như thế.

          Một tối thứ Tư, tôi nghe kinh tại Từ Quang Đồ Thư Quán, nghe bạn bè nói cụ Lại kiếm tôi. Tôi nghĩ ngợi, không biết Kỷ cư sĩ đă lành bệnh hay chưa. Tôi t́m cụ Lại, chẳng đợi cụ mở miệng, đă vội vă hỏi: “Kỷ cư sĩ đă xuất viện rồi ạ?” (Tôi thấy cụ cười mới yên tâm). Cụ đáp: “Kỷ cư sĩ đă xuất viện”. Tôi lại hỏi: “Mổ hay chưa?” Cụ đáp: “Nói ra cũng thật lạ lùng! Chẳng có mổ! Đột nhiên gặp một vị lăo tiên sinh nối xương xoa nắn mấy lần bèn lành hẳn, có phải là bà hướng về Địa Tạng Vương Bồ Tát thưa bày hay không? Kỷ Tam Toàn muốn đến cảm tạ bà”. Tôi kể chuyện đối trước Địa Tạng Vương Bồ Tát cầu nguyện cho cụ nghe! Cụ vốn đă đang cười, càng cười vui hơn, tháo hẳn mắt kính xuống, nói thẳng: “Thảo nào! Đúng là chẳng trách được!”

          “Nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dùng sức thần thông hiện h́nh tượng Thanh Văn, là kho tàng các công đức vi diệu, là chỗ xuất sanh các trân bảo giải thoát, là mắt sáng sạch của các Bồ Tát, là mắt hướng dẫn đến Niết Bàn của bậc cao nhân, như châu Như Ư, mà các thứ tài bảo tùy ḷng mong cầu đều được thỏa măn, chiếu người làm lành giống như mặt trời rạng rỡ, soi người lạc đường giống như đuốc sáng, trừ nóng bức phiền năo giống như vầng trăng thanh lương, làm cầu bến để vượt bốn gịng, làm thuyền bè để tiến đến bờ đối diện, hàng phục các ngoại đạo như sư tử chúa, hàng phục các thiên ma như [thanh gươm] đại long tuyền; bảo vệ những kẻ sợ hăi như người thân, như bè bạn, ngăn ngừa các oán địch như hào, như thành, cứu các nguy nạn ví như cha mẹ”. Đúng như trong phẩm mười ba Chúc Lụy Nhân Thiên của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đă chép: “Nhĩ thời, Thế Tôn cử kim sắc tư, hựu ma Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn: - Địa Tạng! Địa Tạng! Nhữ chi thần lực bất khả tư nghị, nhữ chi từ bi bất khả tư nghị, nhữ chi trí huệ bất khả tư nghị, nhữ chi biện tài bất khả tư nghị. Chánh sử thập phương chư Phật, tán thán tuyên thuyết nhữ chi bất tư nghị sự, thiên vạn kiếp trung, bất năng đắc tận” (Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng, lại xoa đầu Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, nói như thế này: - Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông chẳng thể nghĩ bàn, ḷng từ bi của ông chẳng thể nghĩ bàn, trí huệ của ông chẳng thể nghĩ bàn. Biện tài của ông chẳng thể nghĩ bàn. Giả sử mười phương chư Phật tán thán, tuyên nói chuyện chẳng thể nghĩ bàn của ông, ngàn vạn kiếp chẳng thể nói hết được).

          Cười chia tay với cụ Lại, dù đêm đă khuya, tôi cung kính đối trước Phật, hướng về Địa Tạng Bồ Tát đảnh lễ bốn mươi tám lạy. Sau đó tuôn lệ, ân cha mẹ khó báo, nhưng ân rộng lớn của chư Phật, Bồ Tát chẳng thể hạn lượng, chẳng có cách nào báo đền, chỉ có nhất tâm niệm Phật, thề ǵn giữ hai chữ Trai Giới, cung kính hướng về Tây Phương Phật quốc, thành đạo Niết Bàn. V́ thế, tôi nhất định quy mạng đảnh lễ. Nguyện độc giả cùng niệm: “Nam-mô đại nguyện đại từ đại bi thập luân bạt khổ bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát! Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát!

 

7. Nam-mô Minh Dương Cứu Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát

Hành Ngọc ghi

 

          Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quán Thế Âm Bồ Tát đều là từ phụ, từ mẫu của chúng sanh khổ nạn, là chỗ nương tựa cho nhân gian lẫn địa ngục trong lúc này, trong đời này. Mỗi lần nghe tiếng xe cứu hỏa kéo c̣i, trong tâm tôi tức khắc cảm thấy bứt rứt dường như chính ḿnh đang trải qua cảnh ấy. Nhớ lại hồi bảy tuổi, gia đ́nh tôi gặp phải một trận hỏa hoạn rất dữ dội, lại c̣n cháy hai lượt, khiến cho tài sản trong nhà đều mất sạch. Cha tôi do lo âu mà ngă bệnh rồi mất, một gia đ́nh mỹ măn bị hỏa hoạn vô t́nh phá tan. Nguyên nhân gây cháy là hàng xóm ban đêm tụ tập bài bạc, kẻ hút thuốc lá thiếu cái tâm chú ư đạo đức công cộng, quăng tàn thuốc bừa băi, gây nên hỏa hoạn. Bọn người cờ bạc ấy đúng là hại người chẳng cạn! Vào năm Dân Quốc 42 (1953), cuộc sống của chúng tôi khốn cùng, con cái c̣n bé, thân thể suy yếu, tinh thần bị vùi dập, tôi như con sơn dương lạc đường, đi vào nhà thờ Công Giáo để nghe giảng đạo, dự lễ Misa trong nhà thờ Công Giáo, lại gần như gia nhập Nhất Quán Đạo. Lúc đó, họ bảo tôi ắt cần phải “điểm khiếu”, buộc tôi nộp ba chục đồng. Tôi chẳng có ba chục đồng, dẫn phát túc duyên của tôi, khiến tôi may mắn tiến vào Phật môn, chẳng tin Nhất Quán Đạo.

          Thứ nhất là nghe kinh Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn Nguyện, thứ hai là nghe phẩm Quán Âm Bồ Tát Phổ Môn, bất luận gió táp mưa sa, đều có thể buông xuống hết thảy phiền năo, đến cung kính nghe măi cho đến khi viên măn. Nội tâm thanh lương, trong mộng thường nh́n thấy đại bi đại nguyện đại thánh đại từ bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát và đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát ban cấp hỷ lạc khôn sánh. Đại khái là pháp hỷ sung măn vậy!

          1. Ngày mồng Một tháng Giêng năm Dân Quốc 45 (1956), tôi vâng lệnh tiếp nhận cửa hàng bán lẻ của trại giam Đài Trung (cửa hàng ở số 86 đường Tự Do, Đài Trung, đối diện với ṭa án). Phàm là những sản phẩm do tù nhân làm ra như đồ mây, đồ mộc, đồ đan bằng cỏ, đồ dệt v.v… đều đem bán tại đó. Kiến trúc của cửa hàng mười phần đơn giản. Tôi ăn ở tại cửa hàng, gần như là chính ḿnh buôn bán. Pḥng ngủ tuy nhỏ, tôi đặt một cái giường đơn, chỗ c̣n lại để thờ Phật, dùng một chiếc màn vải ngăn lại. Pḥng bếp nhỏ hẹp, trước cửa bếp là một cái bàn lớn để làm việc, bên cạnh có gắn phiếu đề giá là 250 đồng. Khi đó, tôi dùng bếp dầu hôi kiểu cũ. Có một chiều nọ, tôi không cẩn thận đổ đầy dầu vào bếp ḷ. Bếp ḷ đă lâu năm, sắp thành phế thải, nhưng tôi vẫn không nỡ vứt đi. Tôi châm lửa nấu cơm, ra đằng sau rửa rau. Rửa sạch rau xong, thấy lửa bốc hừng hực, tôi gấp đến độ đem bếp đặt cạnh bàn công tác. Đang lúc chỉ mành treo chuông, bỗng đứa con lớn xông tới, tóm cái mền quân đội từ trên giường bọc lấy bếp ḷ, ném ra ngoài cửa. Lửa vẫn cháy hừng hực, người qua đường đều khoanh tay đứng nh́n. Đột nhiên, một thanh niên khoảng hai mươi tuổi chạy tới, lặng lẽ kiệt lực cứu giúp, c̣n dũng mănh hơn đứa con cả của tôi, dập tắt lửa. Người xem đều tấm tắc khen ngợi. Khi tôi muốn cảm ơn người thanh niên ấy, đă chẳng thấy đâu nữa!

          Khi tôi hốt hoảng đem bếp ḷ đang cháy bừng bực đặt cạnh bàn công tác, dầu từ trong bếp ḷ chứa đầy ắp, tràn ra khắp đất, bốn phía đều là các vật phẩm cần bán. Lửa đă đốt xém một góc tờ phiếu ghi giá tại bàn công tác. Cái bàn chẳng bị hư hại chút nào, bất cứ món của công nào cũng đều chẳng bị tổn hại tí nào. Chàng thanh niên ấy chẳng phải là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát th́ lại là ǵ đây? Tôi mỗi tháng lễ bái Địa Tạng Bồ Tát. Phẩm mười hai trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có chép: “Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu hiện tại, vị lai bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự, đản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, như thị sở nguyện sở cầu tất giai thành tựu. Phục nguyện Địa Tạng Bồ Tát cụ đại từ bi, vĩnh ủng hộ ngă. Thị nhân ư thụy mộng trung, tức đắc Bồ Tát ma đảnh thọ kư…” (Nếu trong tương lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân đối với trăm ngàn vạn ức chuyện, chỉ nên quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán h́nh tượng của Địa Tạng Bồ Tát, sở nguyện như thế thảy đều thành tựu. Lại nguyện Địa Tạng Bồ Tát sẵn ḷng đại từ bi, vĩnh viễn ủng hộ tôi. Người ấy trong khi nằm mộng, liền được Bồ Tát xoa đầu thọ kư). Chuyện đă cách đây hai mươi năm rồi, chép lại chuyện linh cảm này, trong tâm vẫn nhớ rơ ràng từng điều như cũ. Nếu lửa to đốt sạch hàng hóa bày bán đến nỗi cháy lan sang pḥng ốc lân cận, tôi nhất định sẽ bị kết tội, trải qua cuộc sống sau song sắt, bỏ lại đứa con thơ đáng thương, quả thật là chẳng thể tưởng nổi! Do sự kiện này, chưa từng bị cấp trên quở trách tiếng nào, viết đến đây, gịng lệ cảm ơn tuôn đẫm!

          2. Ngày mồng Một tháng Năm năm Dân Quốc 57 (1968), tôi xin điều động làm giám thị tại trại giam thuộc ṭa án Đài Bắc. Làm được một tuần, tôi đă phải xin nghỉ phép v́ bệnh t́nh ác liệt, thường xuyên phải đến pḥng khám bệnh thuộc nhà thương công, tức phụ khoa của Đài Đại Y Viện xin trị liệu, cũng như đủ loại thuốc chích, thuốc uống. Không chỉ chẳng có hiệu quả, mà bệnh chuyển biến càng tệ hơn. Tại pḥng khám bệnh cho công chúng, cứ mỗi sáng thứ Tư, sẽ do vị bác sĩ nổi tiếng đầy uy tín về ngành phụ khoa là Từ Thiên Điền tới chẩn trị. Trời c̣n chưa sáng, đă có người trèo cửa sổ vào rút số đợi khám bệnh. Có khá nhiều phụ nữ từ miền Nam đến xin chữa bệnh. Trong ḷng mỗi người, y thuật của ông Từ được coi trọng nhất. Đương nhiên, tôi cũng chẳng phải là ngoại lệ! Ông ta cho tôi kết quả sinh thiết là có bướu ở thành tử cung, nhất định phải mổ, vào nằm tại bệnh viện Đài Bắc do ông ta thành lập. Nằm viện hai mươi ngày, tôi một mực băn khoăn có nên mổ hay không? Các bạn đồng nghiệp tán thành tôi nên mổ để giảm bớt đau khổ: “Nhất lao vĩnh dật” (Mệt nhọc một lúc, an nhàn vĩnh viễn). Con cái thấy tôi bệnh t́nh trầm trọng cũng cực lực tán thành nên mổ. Tôi thà rằng chết, vẫn sợ mổ. Bác sĩ thấy tôi không chịu mổ, bảo tôi về nhà. Tôi chỉ đành về nhà nằm trên giường, toàn thân đau đớn. Tôi lại hối hận v́ sao chẳng mổ, lại muốn đi mổ. Tóm lại là bị mâu thuẫn dây dưa bất an!

          Từ Đài Trung dọn qua Đài Bắc, đồ đạc lộn xộn, pḥng ốc nhỏ hẹp, tượng Bồ Tát tôi sùng bái vẫn chưa được thờ phụng, nỗi đau khổ này lại chẳng biết khi nào mới chấm dứt. Trong lúc thần trí mê muội, tôi thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát ban cho một quyển kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Tôi mới hoảng nhiên đại ngộ: V́ mong điều động về làm giám thị ở nhà tù thuộc ṭa án Đài Bắc, tôi đă hướng về Bồ Tát hứa nguyện sẽ tụng một trăm lẻ tám bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Tôi cầu Bồ Tát: “Xin đừng khảo nghiệm con nữa, dẫu núi đao, vạc dầu, con vẫn kiền thành tin Phật. Lại c̣n tận tâm tận lực khuyên người khác tin Phật, cầu Bồ Tát đại từ đại bi gia hộ cho con chóng lành bệnh”. Tôi suốt ngày nằm trên giường rên xiết, tự nói, bệnh mỗi ngày chuyển biến tốt hơn, thân thể hồi phục. Tụng đủ 108 bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Cho đến hôm nay, mỗi ngày tôi tối thiểu tụng một bộ, linh cảm chẳng thể nghĩ bàn. Trong tâm, thời khắc nào cũng là thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, không niệm mà niệm, thân thể mạnh khỏe, c̣n hơn hết thảy các chất dinh dưỡng trong thế gian. Do nhiều đời nhiều kiếp trước, tôi đă nợ mạng, hoặc nợ nần về tinh thần, đời này được Bồ Tát che chở, trả sạch tất cả hết thảy nợ nần. Tôi nhất tâm kiên định cầu liễu thoát sanh tử, được giải thoát tự tại. Nam-mô Minh Dương Cứu Chủ Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát!

 

8. Kỷ niệm ân đức của Địa Tạng Bồ Tát

Hành Ngọc ghi

 

          Quang âm thật mau, chớp mắt lại sắp đến ngày Ba Mươi tháng Bảy âm lịch là ngày thánh đản của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ai nấy đều biết Địa Tạng Bồ Tát ở trong địa ngục cứu độ, giáo hóa các chúng sanh tội ác sâu nặng. Phàm kẻ nào kính ngưỡng, sùng bái Ngài, đều nên học theo tinh thần độ sanh vĩ đại của Ngài. Tôi phát nguyện tŕ trai suốt tháng Bảy âm lịch, nhằm biểu lộ ḷng sùng kính của tôi đối với Địa Tạng Bồ Tát. Hơn nữa, tôi cũng muốn học tập tinh thần của Ngài ḥng khéo giáo hóa các nữ đồng bào phạm tội, khiến cho họ tiếp nhận Phật pháp, khử ác, hướng thiện. Thông thường, họ thường được các Phật hữu rủ ḷng yêu mến, thường đến trại giam nữ để giảng giải Phật lư. Có một lần, các nữ tù nhân hoan hô: “A Di Đà Phật đến rồi”. Quả nhiên, Lâm cư sĩ (bà Lâm Khán Trị) dẫn hai vị đồng tu cùng đến. Họ thấy ḷng nhiệt thành tín ngưỡng Phật pháp của các tù nhân, bèn tán thán gọi tôi là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi hoảng sợ, hổ thẹn, đem những điều đă từng trải trong công việc là do nhân duyên linh cảm của Địa Tạng Bồ Tát kể cho họ nghe, khiến họ hết sức ngạc nhiên, tán thán! T́nh h́nh tiếp nhận thánh ân của tôi giống như người lạc đường bỗng có được chỗ quang minh để trở về an trụ, như người bệnh lâu ngày bỗng được lành. Nay chỉ kính cẩn thuật lại những điều ghi tâm khắc cốt đă từng trải qua như sau:

          Tôi có thể làm việc tại trại giam, đáng phải nên chân thành cảm kích sự linh cảm của Địa Tạng Bồ Tát. Tôi nhớ mùa Thu năm trước, tôi rên rỉ trên giường bệnh, đă chẳng thể ngồi nổi, mà cũngười chẳng thể đứng. Hoàn cảnh ngang trái, cuộc sống bấp bênh, chẳng thể khiến cho tôi tự tại, an nhàn. Chính v́ tôi là một Phật tử, mỗi khi gặp phải phiền năo chẳng có cách nào giải thoát, sẽ đối trước Phật buồn khóc, đối trước thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát sám hối, tự nhận biết trước kia đă trót tạo đủ mọi cái nhân ác, cho nên đời này mới phải hứng chịu khổ báo như thế! Thời gian trôi qua rất mau, nỗi đau khổ của tôi càng sâu, biện pháp duy nhất của tôi là khẩn cầu đức Phật và Địa Tạng Vương Bồ Tát giải thoát cho tôi. Công việc cậy người khác giới thiệu đôi ba lượt, mỗi lần cảm thấy có hy vọng, đang trong lúc cao hứng, rốt cuộc đều trở thành mộng huyễn, khiến cho tôi chẳng c̣n có dũng khí hướng về Phật, Bồ Tát khẩn cầu, nhưng c̣n có thể nương cậy vào ai đây? Trên thế giới, có ai là người tương trợ trung thực nhất? Nghĩ tới, nghĩ lui, tự ḿnh an ủi chính ḿnh, nghiễm nhiên phát tín niệm thường hằng và kiên định chẳng lười nhác, kiền thành cầu nguyện không ngừng trước thánh tượng đức Phật và Địa Tạng Bồ Tát.

          Vào buổi tối cuối tuần nọ, ngoài cửa có tiếng gơ đùng đùng, sau đó, có người gọi tôi. Mở cửa th́ ra là Vương cư sĩ từ Liên Xă nghe kinh trở về, thái độ rất gấp gáp, đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ xong, chẳng đợi tôi cám ơn đă bỏ đi mất. Trên mảnh giấy có in chữ Triệu Tập Dự Thi Làm Giám Thị Nhà Tù Đài Trung, kỳ hạn ghi danh là đến trưa ngày hôm sau th́ ngưng. Tám giờ sáng ngày kế, sẽ bắt đầu khảo thí các môn Quốc Văn, di giáo của Quốc Phụ (Tôn Dật Tiên), sử địa, công dân và toán. Tôi là người đă rời trường học mười mấy năm, trong đầu học được ǵ đă quên sạch bách rồi! Do vậy, lo nghĩ suốt đêm, chẳng ngủ được. Hôm sau, vào lúc mười giờ đi chợ, đi qua nhà Cam cư sĩ, được bà ta cổ vũ đôi ba lượt, muốn tôi hăy ghi danh. Thịnh t́nh chẳng thể từ chối, đành phải lê tấm thân bệnh tật lâu ngày chưa khỏe hẳn đến đó. Trời ạ! Chỗ báo danh nam nữ xúm đen nghịt, nghe nói phái nữ chỉ tuyển lấy một người. Tôi có bản lănh ǵ để dự thi? Sau đấy, nghĩ lại, vẫn là thử xem! V́ thế, mượn một số sách từ học sinh Trung Học đọc cấp tốc, suốt nửa ngày một đêm khẩn trương dụng công, chẳng ăn chẳng ngủ, tự cho là đă thuộc kỹ các loại đề mục, có vài phần nắm chắc dự thi, mới miễn cưỡng đi thi. Kết quả chẳng phụ người khổ tâm, tôi bị bệnh chẳng uống thuốc mà lành, lại c̣n được phái đến phục vụ trong nhà tù là nơi chúng sanh tội khổ trong nhân gian đang ở, khiến cho tôi giải quyết vấn đề trong cuộc sống. V́ thế, tôi càng kính cẩn phỏng theo nguyện lực của Địa Tạng Bồ Tát, cũng học theo tinh thần rộng độ chúng sanh tội khổ của Ngài.

          Tôi nhớ hôm trước ngày đến làm việc tại nhà tù, có một sáng vào khoảng bảy giờ, trong lúc mơ màng, dường như ngủ mà chẳng phải ngủ, từng mộng thấy được Địa Tạng Bồ Tát chỉ dẫn chẳng khác sự thật trong hiện tại một mảy. Nghĩ lại thần lực chẳng thể nghĩ bàn như thế, khiến tôi là kẻ tham ăn, không có đồ mặn sẽ chẳng nuốt được, khi đó, hừng hực phát tâm mỗi tháng ăn chay hai ngày mồng Một và Rằm. Dần dần tăng lên Quán Âm Trai rồi đến Thập Trai. Tôi tự tin chẳng lâu sau, trong tương lai sẽ bắt đầu ăn chay trường. Rất nhiều bạn bè không tin Phật nói: “Không sợ tin Phật, chỉ sợ ăn chay!” Tôi giải thích với họ: Tin Phật hoàn toàn chẳng ngăn cấm chúng ta ăn mặn. Chúng ta ăn chay là do tự ḿnh khi tin đến mức độ kiền thành (tin vào lục đạo luân hồi, chẳng nỡ ăn thịt chúng sanh), sẽ tự nhiên muốn ăn chay. Nói theo pháp thế gian, khi chính ḿnh gặp khó khăn, bằng hữu giúp đỡ giải quyết, tới khi hoàn cảnh của chính ḿnh tốt đẹp hơn, đương nhiên là nhất định sẽ mua quà tặng trong khả năng của ḿnh để biếu người ta, hoặc tặng họ vật ưa thích. Chúng ta phải nên học theo ḷng từ bi của đức Phật, yêu tiếc sanh mạng của chúng sanh giống như sanh mạng của chính ḿnh.

          Cư sĩ Đường Tương Thanh từng phỏng theo tinh thần vĩ đại của Địa Tạng Bồ Tát, phục vụ trong trại giam Tân Trúc ở Đài Trung nhiều năm, giáo hóa, khuyên nhủ, hướng dẫn chúng sanh do phạm tội mà chịu khổ trong nhà tù, không ít người đều được ông ta cảm hóa mà đau đáu sửa đổi sai trái khi trước, quy y Tam Bảo. Năm trước, Đường cư sĩ được vinh thăng làm quan ṭa bên quân đội; không chỉ là Phật giáo hữu chúng ta cảm thấy tột bc vui mừng, mà có thể nói là ngành quân pháp may mắn biết dùng người. Tôi rất tin Đường cư sĩ ắt sẽ có thể dựa theo tinh thần công chánh, liêm minh, khiến cho tội phạm trót lầm lạc phạm luật sẽ được phán xử công bằng, ôn ḥa, chẳng đến nỗi bị oan khuất. Vợ ông ta cũng là Phật giáo đồ kiền thành, giữ giới, khắc kỷ, đối xử hiền thục với người khác, mang tinh thần đại từ đại bi, xả ḿnh cứu người, thật sự khiến cho người khác cảm phục khôn ngằn! Đấy chẳng phải là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát hay sao? Nay tôi do thánh đản của Địa Tạng Bồ Tát sắp đến, v́ kỷ niệm ân đức của Bồ Tát, đặc biệt kính thuật những điều từng trải để nêu tỏ thánh đức, nhằm biểu lộ niềm cảm kích rất sâu trong nội tâm.

 

9. Chuyện linh cảm gần đây của Địa Tạng Bồ Tát

Hành Ngọc ghi

 

          Ngày mồng Tám tháng Chín là ngày tôi trực ban. Bảy giờ chiều, trời nổi gió, kèm theo mưa nhẹ. Các đồng nghiệp đưa một nữ phạm nhân đến, được đánh số tù là 15, tên là Trương Bích Vân, hai mươi sáu tuổi, c̣n địu theo một bé gái vàng ủng, gầy teo, luôn bị rút gân kêu khóc ai oán. Tôi lại chẳng biết nó bệnh ǵ? Tôi cho rằng nó bị bệnh kinh phong rút gân rất nguy hiểm, lập tức nhấn chuông điện gọi khóa trưởng y tế đến. Khóa trưởng nói: “Đấy là chứng bại liệt trẻ con, không có cách nào khác để chữa trị. Hễ không phát sốt th́ chẳng có vấn đề ǵ!” Tôi hỏi: “Khóa trưởng! Đứa nhỏ này không ngừng rên rỉ, rất đáng thương, có thuốc ǵ để uống, hoặc chích một mũi khiến cho đứa bé chẳng bị rút gân hay không?” Khóa trưởng trả lời: “Chẳng có cách nào trị lành!”

          Tôi hỏi tù nhân số 15: “Cô là người ở đâu? Phạm tội ǵ? Bị xử ở tù bao lâu? Trong nhà có ai hay không?” Cô ta đáp: “Tôi là người làng Vụ Phong huyện Đài Trung. Tôi ở nhà nấu chút rượu gạo cho cha tôi uống, người khác tố cáo tôi, bị tù ba tháng, đứa bé đă ba tuổi rồi. Mới sanh ra mấy ngày đă bị bệnh này, tốn rất nhiều tiền chữa trị mà không khỏi. Chồng tôi đang đi lính”. Tôi cười nói: “Có duyên với Phật, tâm an sẽ lành”. Tôi lập tức viết tên tuổi đứa nhỏ (Cao Tú Nguyệt, ba tuổi) đặt trước tượng Phật. Nửa đêm nghe tiếng khóc, lúc tôi tới nh́n xem, thấy số 15 ôm đứa nhỏ đang khóc, tù nhân cùng pḥng đều ngồi dậy, thấp giọng niệm Phật. Tôi nghĩ đứa nhỏ này bị rút gân, không có cách nào khác chữa khỏi, dặn bảo các cô hăy v́ nó niệm Phật hồi hướng cầu Phật, Bồ Tát! Vài ngày đều trôi qua như vậy. Số 7 và số 11 cùng pḥng với số 15, nói với tôi: “Giám thị à! Đứa bé này quả thật đáng thương, một đêm bị rút gân ba bốn lần. Mỗi lần có khi lâu đến ba mươi phút. Chúng tôi cũng chẳng ngủ nổi, ngồi dậy niệm Phật”. Tôi bảo mọi người: “Các vị nói xem một đứa nhỏ ba tuổi phạm tội ǵ? Sanh ra liền phải mắc chứng bệnh nan y này, đă không thể đi và ngồi tự do, lại c̣n đau khổ v́ bị gân co rút, như bị hành h́nh trong địa ngục, đó chẳng phải là nghiệt chướng đă tạo từ đời trước hay sao? Nhân quả bày ra trước mắt, đừng nên tham hư vinh nhất thời mà tạo nghiệp chướng, rơi vào địa ngục Vô Gián, chẳng cầu có thuở thoát ra được! Tấm gương này đáng cho mọi người cảnh giác. Hăy khéo tin Phật, hăy niệm Phật cầu thoát sanh tử!”

          Có một hôm vào lúc chín giờ tối, đứa bé ấy bị rút gân, khóc không ra tiếng, mắt trợn trắng tới mấy chục phút, coi như sắp mạng chung. Tù nhân số 15 gào khóc, tôi mời y tá trưởng và các y tá đang trực ban gồm ba vị đến xem thử, họ nói: “Chẳng có thuốc nào trị được!” Dặn tôi niệm Phật! Họ đi rồi, tôi dẫn số 15 đối trước Phật, niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hơn mười phút. Đêm ấy, đứa nhỏ rất b́nh yên, ngủ say. Mỗi lần nghe tiếng khóc của đứa bé như thế, trong tâm tôi cảm thấy khổ sở, tính niệm Phật cầu gia hộ thay cho cô ta, nhưng tôi chẳng khỏi hoài nghi, sợ tôi niệm Phật sẽ không khiến cho đứa bé giảm bớt đau ốm, lại tạo phản ứng không tốt cho các cô. Cứ suy nghĩ măi, khổ sở khiến cho tôi chẳng thể chịu đựng, rốt cuộc phát ra dũng khí, đối trước Phật, cung kính chắp tay, lớn tiếng niệm thánh hiệu “Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Ba phút sau, đứa bé thôi khóc. V́ thế, hướng về đức Phật, nguyện tụng ba bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, hồi hướng cho đứa bé ấy tiêu tai. Mỗi lần tụng kinh, tôi đều ứa nước mắt.

          Có một lần, khi rửa tay tại bồn nước, trông thấy số 15 đang giặt áo, tôi hỏi cô ta: “Số 15! Con cô đỡ hơn chút nào hay không?” Cô cười đáp: “Đỡ nhiều lắm!” Tôi vẫn không tin, hỏi lại: “Đỡ nhiều hơn là như thế nào” Cô ta đáp: “Chẳng bị rút gân nhiều lần như trước, có khi một ngày bị một hai lần, ban đêm không bị. Thời gian bị co rút cũng chẳng quá dài như thế! Trước kia, một đêm bị co rút ba bốn lần, ban ngày năm sáu lần. Khi bị co rút th́ nắm chặt tay, chân co về phía đầu, bắp thịt trên toàn thân đều bị gân co rút, lại c̣n dẫu trời lạnh mà đầu tóc vẫn mướt mồ hôi. Suốt ba năm qua đều là như thế”. Tôi nghe xong, cảm thấy lạ lùng, tụng chưa xong ba bộ kinh mà đă linh cảm nhanh như vậy. Cơm trưa chưa ăn, tôi thắp hương đối trước Phật, dùng một tấm ḷng son sắt chân thành, cảm tạ sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, cứu bạt chúng sanh đang ch́m đắm trong biển khổ. Tôi chẳng có ǵ để đền đáp, bèn phát nguyện mỗi dịp Thập Trai tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đều cung kính đứng thẳng (tụng một bộ cần phải mất chín mươi phút). Khi tụng kinh lại nghe tiếng đứa bé khóc, tôi gọi số 15 ôm đứa nhỏ tới trước bàn Phật. Tôi cung kính chắp tay, lớn tiếng xướng niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, đơn giản là muốn kêu gọi Địa Tạng Bồ Tát hăy cảm ứng; chẳng cầm được nỗi thương tâm mà khóc ̣a. Số 15 cũng khóc theo. Nhưng tôi vừa khóc, vừa xót xa cầu khẩn: “Xin Địa Tạng Bồ Tát hăy gia hộ cho đứa bé này ĺa khổ”. Chưa đầy hai phút, đứa bé ngưng khóc. Ngẫu nhiên nghe thấy tiếng nó khóc, tôi liền khởi tâm sám hối, hận chính ḿnh tu tŕ chẳng ra hồn, hổ thẹn ứa lệ, hy vọng vĩnh viễn chẳng c̣n nghe tiếng đứa bé khóc như thế nữa! Có lẽ là tác dụng tâm lư, có khi đứa bé khác khóc, tôi cũng tưởng là nó khóc. Tôi ôm tâm trạng hoảng sợ nh́n nó, mẹ nó đang ôm nó cười. Đứa bé được nuôi mập ra, số 15 khuôn mặt tràn ngập tươi vui.

          Tôi chỉ tụng sáu bộ kinh, suốt cả ngày đêm, chẳng nghe tiếng khóc của đứa bé nữa. Nhưng tôi vẫn lo lắng, mỗi lần vào cửa, liền hỏi mọi người: “Đứa bé con của số 15 có ổn hay không?” Mọi người đồng thanh đáp: “Công đức của giám thị thật lớn! Một đứa bé đau khổ như vậy, được cô tụng kinh Địa Tạng mà khỏe ra. Đứa bé xinh xắn hơn trước nhiều và cũng có thể đi lại. Số 15 vào chỗ này c̣n vui hơn trúng sổ xố giải đặc biệt!” Hằng ngày cô ta đều cười toe toét, hỏi: “Địa Tạng Vương Bồ Tát quản địa ngục, sao c̣n quản chúng ta?” Tôi giải thích: - Nguyện lực của Địa Tạng Bồ Tát là địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật. Ngài không chỉ thường ở trong địa ngục, mà c̣n trang nghiêm địa ngục, cứu độ chúng sanh tội khổ trong địa ngục. Đồng thời, cũng cứu vớt hết thảy chúng sanh trong lục đạo, như phẩm Xưng Phật Danh Hiệu trong kinh Địa Tạng đă dạy: “Phật cáo Địa Tạng Bồ Tát: Nhữ kim dục hưng từ bi, cứu bạt nhất thiết tội khổ lục đạo chúng sanh, diễn bất tư nghị sự” (Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: - Nay ông muốn dấy ḷng từ bi, cứu vớt hết thảy chúng sanh tội khổ trong sáu đường, diễn nói chuyện chẳng thể nghĩ bàn). Từ đó, có thể biết Địa Tạng Bồ Tát được đức Phật phó chúc cứu bạt hết thảy chúng sanh trong lục đạo, hoàn toàn chẳng giới hạn chúng sanh trong địa ngục. Chỉ cần các vị thành tâm niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, không chỗ nào Ngài chẳng hiện thân, chẳng cứu độ. Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện chép: “Nam Diêm Phù Đề chúng sanh, chí tánh vô định, ác tập giả đa, túng phát thiện tâm, tu du tức thoái. Nhược ngộ ác duyên, niệm niệm tăng trưởng. Dĩ thị chi cố, ngô phân thị h́nh bách thiên vạn ức giáo hóa, tùy kỳ căn tánh, nhi độ thoát chi” (Chúng sanh trong Nam Diêm Phù Đề chí tánh vô định, tập khí ác th́ nhiều, dẫu phát thiện tâm trong khoảnh khắc liền thoái chuyển. Nếu gặp ác duyên, niệm niệm tăng trưởng. Do v́ lẽ ấy, ta phân thân h́nh này trăm ngàn vạn ức giáo hóa, tùy theo căn tánh mà độ thoát họ). Điều ấy chứng minh chí nguyện từ bi cứu độ chúng sanh to lớn của Địa Tạng Vương Bồ Tát, có bất khả thuyết bất khả thuyết vô tận thần thông!

          Chư vị nghe xong, có lẽ sẽ nghĩ giống như chuyện thần thoại; nhưng đây là chuyện có thật trong nhà tù của chúng tôi, có thể t́m hỏi. Hoặc lại có người hoài nghi tin Phật th́ có cần mời bác sĩ hay không, tôi cũng có thể phụng cáo với quư vị: Người có công phu tin Phật rất sâu, sẽ chẳng cần mời bác sĩ. Do người ấy tin sâu, cảm ứng đạo giao, có cảm ắt có ứng, khổ hay vui hoàn toàn do nghiệp báo cảm vời. Cho nên có thể nhất tâm nơi đạo, hóa độ chúng sanh. Ví như mặc quần áo, rách một miếng liền vá một miếng, lại rách, lại vá, cho đến khi chẳng thể vá nổi nữa, vứt đi cũng chẳng sao! Tóm lại, chúng ta học Phật, phải thành tâm khẩn thiết, sám hối niệm Phật, th́ mới có thể được Phật, Bồ Tát linh cảm. Nếu chẳng thể đạt được linh cảm, là v́ chẳng khẩn thiết sám hối, hoặc ḷng tham cầu, hoặc do nghiệp chướng đời chướng quá sâu mà ra. Nếu có thể dùng tâm kiền thành lễ kính Bồ Tát, nhất định là có thể chuyện lớn hóa thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành vô sự. Chư vị đă là đệ tử quy y Tam Bảo, phải hiểu rơ nhân quả ba đời, nắm vững thời kỳ chẳng tự do này, đúng là cơ hội tốt để tu tŕ niệm Phật, đúng như pháp sư Phật giáo bế quan, thời khắc chẳng quên niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ mới là chỗ quy túc vĩnh viễn vui sướng!

 

10. Chết rồi sống lại

Thích Vong Ngôn ghi

 

          Hồ Trạch Phạm ở Dư Diêu, c̣n có tên tự là Thắng Nguyệt, từng biên soạn bộ Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải Thích do Phật Học Thư Cục lưu thông đến một vạn mấy ngàn bộ, công đức rất lớn. Chiều ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Nhâm Thân, tức năm Dân Quốc 21 (1932), con gái bé của ông tên là Nguyệt Chiêu, chỉ mới bốn tuổi, bỗng nhiên mắt trợn tṛng, mũi nghẹt, mặt xanh tái, môi đen bầm, thở kḥ khè, ứa rớt dăi rồi chết ngất. Cậy răng đổ thuốc, nó chẳng thể nuốt xuống, cả nhà hoảng loạn. Lúc ấy, Hồ Trạch Phạm bỗng ngộ ra hôm ấy là thánh đản của Địa Tạng Bồ Tát, bèn vội đối trước thánh tượng, xót xa cầu gia bị. Cầu nguyện vừa xong, bỗng nghe cả nhà hoan hô, bé gái đă thở được, mừng nó sống lại. Lại cho uống thuốc, nó cũng nuốt xuống được, chẳng bao lâu liền b́nh phục. Thích Vong Ngôn ghi.

          (Người biên soạn nhận định: Theo Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Thoại của pháp sư Trúc Ma, “xét ra, trong tập Địa Tạng Linh Cảm Cận Văn Lục, chép bốn câu chuyện do Thích Vong Ngôn ghi lại, đây là một chuyện. Vong Ngôn tức là biệt danh của Hoằng Nhất luật sư. Luật sư chẳng nói dối, chuyện này đáng nên tin tưởng”).

 

11. Bệnh trầm kha được lành

Thích Vong Ngôn ghi

 

          Tỳ-kheo-ni Quán Nguyện người xứ Hải Trừng, tỉnh Phước Kiến. Cha bà là bậc tiên liệt thời Dân Quốc, từng hy sinh v́ quốc nạn tại Quảng Châu. Quán Nguyện xuất gia tại núi Cửu Hoa, về sau, sống tại Áo Môn (Macau). Năm Nhâm Thân (1932), ni sư đến Hạ Môn (Amoy) học tập giới luật. Năm sau, liền bị đau bao tử, ăn không nổi một bát cháo. Bệnh tật rề rề cả nửa năm, trải trọn đủ mọi nỗi thống khổ! Thuốc Bắc lẫn thuốc Tây đều vô hiệu. Một hôm do đọc bài Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Đại Quan của sa-môn Hoằng Nhất, thấy đầu cuốn sách ấy vẽ thánh tượng trang nghiêm, sanh tâm hết sức hoan hỷ. Do vậy, tùy sức sắm hương, hoa, trái cây, cúng dường thánh tượng, cung kính chiêm ngưỡng, lễ bái. Suốt bảy ngày không nói, sám hối, lấy một b́nh nước sạch đặt trước thánh tượng, ngày đêm thầm niệm thánh hiệu. Sáng sớm hôm sau bèn uống một chén tịnh thủy ấy. Không lâu sau, đă có thể ăn một bát cơm. Nửa tháng sau, bệnh khỏi hẳn. Thích Vong Ngôn ghi.

 

12. Mắt có tật lại được phục hồi

Huệ Châu ghi

 

          Cư sĩ Đào Hy Tuyền từng làm huyện trưởng huyện Hàng, nay ở đường Cự Lại Đạt (Rue Ratard) tại Thượng Hải, đă tin Phật từ xưa, thờ phụng Địa Tạng Đại Sĩ càng kiền thành. Trong nhà có điện thờ Phật. Mẹ ông họ Đoan Mộc, cũng hằng ngày tŕ thánh hiệu Di Đà. Người đầy tớ là Thạch Văn Khanh bị bệnh mắt đă lâu, một hôm bỗng lành. Ông Đào thấy người ấy khỏi bệnh quá nhanh, lấy làm lạ, gạn hỏi. Họ Thạch đáp: “Con mộng thấy mẹ niệm Phật trong Phật đường. Do con bị bệnh mắt đă lâu chẳng lành, dạy con lấy nước cúng trước tượng Địa Tạng Đại Sĩ rửa mắt, cảm thấy hết sức thanh lương. Tỉnh mộng, con dụi mắt th́ căn bệnh đă hết rồi”. Cư sĩ than rằng: “Bồ Tát thệ nguyện hoằng thâm, bi tâm cứu khổ, làm đấng đại y vương, tin chắc chẳng hư dối!” Đấy là chuyện trong tháng Mười Một năm Dân Quốc 22 (1933), cư sĩ đích thân kể lại với Huệ Châu; do vậy bèn ghi ngay lại.

 

18. Tạo tượng linh cảm

La Viễn Diệu ghi

 

          Tiên mẫu là Lư Thái Phu Nhân, từ sau sáu mươi tuổi, mỗi tiết Đông, hai chân đều tê cứng, đau nhức, chẳng tiện đi lại, qua Xuân tự lành. Năm Dân Quốc 12 (1923), mẹ tôi sáu mươi chín tuổi, bắp chân đau càng nặng, rên rỉ nằm bẹp trên giường hơn một tháng, chữa trị chẳng thấy bớt. Viễn Diệu chỉ biết hằng ngày lễ tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện để xin Ngài rủ ḷng từ gia hộ. Một hôm, tụng đến phẩm Như Lai Tán Thán: “Hoặc thủ bệnh nhân khả ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối, trang viên, xá trạch, đối bệnh nhân tiền, cao thanh xướng ngôn, ngă mỗ giáp đẳng, vị thị bệnh nhân đối kinh tượng tiền, xả chư đẳng vật, hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo Phật, Bồ Tát h́nh tượng” (Hoặc lấy vật mà bệnh nhân yêu thích, hoặc là quần áo, vật báu, trang trại, vườn tược, nhà cửa, đối trước bệnh nhân, lớn tiếng xướng rằng: “Con tên là… v́ bệnh nhân này, đối trước kinh tượng, bỏ các thứ vật để cúng dường kinh, tượng, hoặc tạo h́nh tượng Phật, Bồ Tát”), bèn dường như vỡ lẽ! Tụng xong, đối trước Phật phát nguyện, v́ mẹ tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n chạy đến thưa với mẹ. Mẹ vui mừng nói: “Bệnh không ǵ chẳng phải là nghiệp, cần phải cậy vào Phật từ gia bị. Nay con phát nguyện tạo tượng, thật hợp ư mẹ. Mẹ được bà ngoại con cho một viên châu tinh ṛng, tṛn trịa, tươi sáng. Mẹ v́ nhớ bà ngoại, hết sức quư trọng. Nay đem châu ấy cúng dường Bồ Tát có được hay không?”

          Tôi bèn cậy vị thầy tạc tượng nổi tiếng ở Bắc B́nh (Bắc Kinh) là ông Cảnh Sơn theo đúng pháp tạc tượng bằng cốt đồng, thếp vàng. Viên châu đem khảm vào giữa hai mày để tượng trưng cho bạch hào. Hai mươi ngày sau, tượng tạc thành. Ông Cảnh đưa tới, tướng hảo trang nghiêm, từ bi hoan hỷ. Ông Cảnh nói kể từ khi tạc tượng tới nay, đă có chuyện chưa từng có. Viên Diệu vội vàng thưa với mẹ. Mẹ nghe xong, lập tức hết đau, tự bước xuống giường, vào Phật đường, đảnh lễ, quỳ lạy như kẻ chẳng bị bệnh. Đấy chính là bệnh lâu ngày mà nhanh chóng dứt hẳn. Người thấy, kẻ nghe, đều than Bồ Tát từ bi cảm ứng nhanh chóng chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, tôi trước sau cậy ông Cảnh tạo tượng Bồ Tát hơn mấy chục bức. Mẹ tôi vốn ăn chay trường niệm Phật; từ đấy, càng thêm tinh tấn, đi lại c̣n nhanh nhẹn hơn trước. Cho tới ngày Hai Mươi Mốt tháng Chạp năm Dân Quốc 18 (1929), lúc cụ bảy mươi lăm tuổi, bèn niệm Phật về Tây. La Viễn Diệu ở huyện Bảo Tĩnh, tỉnh Hồ Nam kính ghi.

 

19. Bụng trướng mau hết

Châu văn Hoán ghi

 

          Vào mùa Hạ, Văn Hoán quảy tráp sang Tô Châu, mắc chứng bệnh sốt rét khá nguy kịch. Sau khi lành bệnh, bụng bị căng trướng, thuốc thang vô hiệu. Do một mực tin tưởng Phật pháp, nghĩ Địa Tạng Bồ Tát có đại nguyện lực, có thể cứu bạt tội khổ, bèn chí tâm sám hối, đảnh lễ, và phát nguyện kiền thành tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ba mươi bộ, in tặng một trăm quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục để báo đáp từ ân trong một phần ức. Phát nguyện ấy rồi, do ngày hôm ấy tiết trời nóng bức, bèn mặc quần ngắn nằm ngủ, bỗng thấy khắp thân sảng khoái, bèn ngủ say. Sáng sớm hôm sau, tỉnh giấc, bụng xẹp dần, lại biết đói. Chẳng đầy ba ngày, bệnh trướng hoàn toàn tiêu mất như chưa hề bị bệnh, hoan hỷ tán thán đúng là chưa từng có.

          Do vậy nghĩ tới ḷng từ bi của Đại Sĩ, cảm ân khôn cùng! V́ thế, gởi thư kể khắp, để chứng nghiệm sự linh dị. Chỉ mong chúng sanh trong cơi đại thiên đều được hưởng cam lộ, cùng ngưỡng nhờ sự giáo hóa của Phật, quạt gió Từ để dứt tội nghiệp, hóa lửa bừng thành mát mẻ. Đấy là điều tôi mong mỏi. Những điều được kể trong bài này toàn là những ǵ tôi đích thân từng trải, tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tháng Sáu năm Dân Quốc 22 (1933), Châu Văn Hoán ở nhà số 8, ngơ Đông Ngôn Tử tại Thường Thục kính thuật.

         

15. Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Kư (ghi chép chuyện linh cảm của Địa Tạng Bồ Tát)

Pháp sư Chử Vân soạn

 

          Lần ấy, tôi giảng kinh Địa Tạng tại Đại Nguyện Đài thuộc Địa Tạng Điện ở Gia Nghĩa vào năm Dân Quốc 51 (1962), nghe nói ngôi chùa ấy đă có lịch sử ba trăm lẻ hai năm. Thuở trước, đă có người về Hoa Lục triều bái núi Cửu Hoa ở tỉnh An Huy, cung thỉnh một bức thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát trở về, dựng chùa thờ phụng. Mấy trăm năm qua, hương khói không ngừng, những chuyện cảm ứng linh dị cũng rất nhiều. Trong số đó, có một chuyện rất cảm động, người viết xin ghi lại như sau:

          Chuyện xảy ra cách đây một trăm năm trước. Có một người tên là Lâm Đăng Chương, ở một nơi cách làng Gia Nghĩa mười mấy dặm đường, là người công chánh, nhưng bất hạnh bị kẻ gian vu cáo, hăm hại bị bắt lên quan, tống vào tù. Vợ ông Lâm v́ thấy chồng hàm oan ngồi tù, trong nhà lại thanh bần, nghèo nàn, bôn ba khắp nơi, cậy người cứu giúp, tiêu sạch tất cả tiền bạc trong nhà, vẫn chẳng thể cứu chồng thoát ngục. Về sau, bà biết nhất định phải tốn bốn mươi lượng bạc đút lót cho quan trên th́ mới có thể chuộc tội cho chồng. Trong lúc vạn phần bất đắc dĩ, bà Lâm chỉ đành cắn răng, dứt ruột đem đứa con duy nhất bán lấy bốn mươi lạng bạc để chuộc chồng. c̣ mồi lại lấy hai ba lượng làm lệ phí môi giới, chỉ c̣n lại ba mươi bảy lượng, có thể chuộc chồng ra hay không, vẫn chẳng biết được! Đồng thời, mỗi lần vào trại giam thăm chồng, đều bị bọn coi ngục chửi bới, làm khó dễ, mục đích là muốn chẹt tiền. Bọn chúng nói: “Dựa vào núi th́ ăn sản vật trong núi, dựa vào nước th́ ăn sản vật trong nước”. Đúng vậy! Tới chỗ quan quyền, vào nha môn, có lư mà không có tiền sẽ chẳng thể tiến vào, xưa nay đều như vậy! Bà Lâm mỗi lần đều phải tươi cười, nói ngọt, lại c̣n phải biếu xén đôi chút; nếu không, đừng mơ vào được. “Diêm vương dễ gặp, tiểu quỷ khó chơi”. Lần này, đến nộp bạc chuộc chồng, đương nhiên chẳng phải là ngoại lệ. Khi đó, nhà tù ở ngay đường lớn, cũng là ở ngay nơi đường Ngô Phượng hiện thời. Bà mua một ít cau gần đó, để làm chút quà mọn biếu xén lũ canh tù. Nào ngờ, lúc móc tiền mua cau, khi gói cau lại, đánh rơi ba mươi bảy lạng bạc chuộc chồng mà chính ḿnh chẳng biết. Tới khi nộp bạc cho quan, phát hiện túi bạc đă mất, tḥ tay lục lọi cả buổi chẳng lấy ra được, sợ tới mức mặt không c̣n chút máu, bối rối đến nỗi khóc không ra tiếng! Bán đi đứa con yêu quư độc nhất, những tưởng có thể chuộc chồng về, nay đánh mất bạc, chồng chẳng thể ra khỏi tù được, chính ḿnh cũng chỉ có con đường chết! Bà ta c̣n chưa chết, vẫn chưa nản ḷng, lại men theo đường t́m kiếm, vạn nhất chẳng t́m được bạc, chỉ c̣n con đường tự sát!

          Phố vải trong thành Gia Nghĩa nay là đường Quang Minh, có một cái miếu thờ Thổ Địa Công. Có một người ăn mày tên là Từ Lương Tứ sống nơi đó. Ông ta không chỉ bần hàn, chẳng có nhà cửa, mà c̣n bị tàn phế từ thuở lọt ḷng. Đôi chân tê liệt, chẳng thể đi lại, phải dùng mông lết trên mặt đất để di chuyển. Ban ngày xin ăn sống qua ngày trên đường phố, buổi tối bèn lấy miếu Thổ Địa làm nhà. Hôm đó, khi ông ta đang xin ăn trên đường phố, từ xa thấy một nữ nhân đang mua cau ở sạp trầu cau, vội vă bỏ đi, đánh rơi túi bạc xuống đất. Ông ta lết tới trước, nhặt lấy túi bạc, vốn muốn đuổi theo đưa trả cho người ta. Hiềm rằng chính ḿnh chẳng thể đi được, gọi ầm lên, bà ta cũng chẳng nghe! Ông ta mở túi bạc ra đếm, có ba mươi bảy lượng bạc. Người ăn mày trông thấy bạc trắng xóa như thế, hoảng hồn, mà cũng chẳng nẩy sanh cái tâm thấy tiền bèn nổi máu tham; ngược lại, cảm thấy người nữ ấy dáng vẻ vội vàng, chắc chắn là có chuyện ǵ lớn lao, chẳng thể tùy tiện lấy bạc đi. Vạn nhất bà ta trở về t́m chẳng thấy bạc, có thể sẽ tự sát, ta phải ở đây chờ bà ta trở lại. Cứ một mực đợi, đợi rất lâu, mới thấy một phụ nữ mặt đầy vẻ lo lắng, chạy tới ḍm đông ngó tây trên đường, dường như đang kiếm vật chi đó. Ông ta biết là nguời mất của đang t́m kiếm, bèn sà đến, dùng tay kéo chéo áo bà ta. Bà ta tưởng người ăn mày xin tiền, bực bội, lớn tiếng quát: “Ta đang vội muốn chết, c̣n chỗ nào có tiền cho ngươi! Hăy mau tránh ra để ta c̣n t́m đồ bị mất”.

          Ḷng tốt của Từ Lương Tứ bị coi thường, ông ta vẫn nhẹ giọng hỏi: “Bà ơi! Làm rơi ǵ thế? Hốt hoảng như vậy, hăy nói xem, không chừng tôi biết”. Câu ấy gọi tỉnh bà ta từ tay tử thần quay về. ta kinh hỷ nói: “Thật à?” Ông ta đáp: “Đương nhiên là thật! Tôi nhặt được món đồ. Nếu bà nói đúng, tôi sẽ giao cho bà”. Bà ta vội vàng nói: “Tôi đánh mất một cái bao vải, trong đó có ba mươi bảy lạng bạc. Đó là tiền tôi bán con. Chồng tôi bị người ta vu cáo hăm hại, phải ngồi tù. Cần phải có bốn mươi lượng bạc th́ mới có thể chuộc tội. Bất đắc dĩ bán con chuộc chồng, c̣ mồi lấy ba lượng, tôi c̣n lo lắng chẳng đủ bạc, nào ngờ đánh mất ở đây. Như vậy th́ chồng tôi chẳng thể ra khỏi tù, con tôi cũng bán rồi! Người lẫn của đều chẳng c̣n, tôi chỉ c̣n đường tự sát!” Dứt lời, khóc rống không ngừng.

          Lúc ấy, có mấy người hảo tâm t́m đến hỏi nọ, hỏi kia, Từ Lương Tứ chẳng nghi ngờ mảy may, nói: “Bà đừng nên khổ sở, tôi nhặt được bạc do bà đánh rơi khi mua cau. Do tôi không đi được, đuổi theo không kịp, gọi th́ bà cũng chẳng nghe thấy, cho nên ở đây chờ bà trở lại. Hiện thời, bạc ở trong này, bà đếm thử xem”. Người ăn mày giao bạc ra, lặng lẽ bỏ đi. Ba Lâm t́m lại số bạc đă mất, vui mừng quá đỗi, đâm ra quên khuấy người ăn mày, ngay cả tên họ người ta cũng quên hỏi, vội vàng đến nha môn nộp tiền. Viên quan mới biết là tiền bán con, người ăn mày nghèo khổ lại thấy của mà chẳng mê muội, chúng ta làm sao có thể mê muội lương tâm đ̣i tiền bán con của người ta? V́ thế, thiên lương phát hiện, cảm khái thả chồng bà ta ra, chẳng cần tiền chuộc nữa! Do nghĩa cử của người ăn mày, nên mới khiến cho kẻ làm quan bị cảm động! Sau khi Lâm Đăng Chương ra khỏi tù, biết đứa con đă bị bán đi. Trừ ba lượng bạc cho gă c̣ mồi, c̣n phải mời khách, biếu quà, tiêu tốn không ít, lại c̣n t́m người ăn mày, nhưng cũng chẳng biết ở đâu. Về sau, ông ta bèn mở một tiệm bán ngũ kim[3] ở phố bán vải để kiếm sống.

          Lại nói, Từ Lương Tứ trở về miếu Thổ Địa ngủ một đêm, hôm sau là tiết Thanh Minh, bèn ṃ ra Đông Quách Phiền Gian, tức là chỗ nghĩa địa công cộng ở ngoài thành để xin bánh hồng quy[4] từ những người đến tế mộ tổ tiên. Do đường xa mắc mưa, về trễ, lết theo đường chậm chạp, khi tới cửa thành, cửa thành đă đóng từ lâu (khi đó Gia Nghĩa có bốn cửa thành). Bất đắc dĩ, phải đến miếu Địa Tạng Bồ Tát gần đó ở ngoài thành để tá túc (hiện thời là địa chỉ số 81 đường Dân Quyền), khẩn cầu ông từ giữ miếu từ bi cho nghỉ nhờ một đêm trước đại điện thờ Phật. Ông từ coi miếu nhận biết người ăn mày họ Từ, cũng cho nghỉ nhờ. Nhưng ông từ coi miếu ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe trong đại điện có tiếng kêu gào thảm thiết như quỷ tru, rất giống như có người đang giết ông Từ, kêu khổ không ngớt. Ông từ coi miếu nghĩ họ Từ nổi bệnh thần kinh, quở mắng hai lần, vẫn không im, bị ông ta ồn ào cả đêm không yên giấc, tức giận khôn cùng! Sáng sớm hôm sau thức dậy, ông từ tính đuổi người ăn mày họ Từ đi, thấy hắn đang ngủ say, bèn lôi hắn từ trong mộng tỉnh dậy, chửi: “Ngươi v́ sao đêm không chịu ngủ, mà kêu gào như quỷ tru?” Người ăn mày họ Từ sau khi giật ḿnh tỉnh giấc bèn nhảy dựng lên, đứng phắt dậy, chính ḿnh cũng chẳng biết, bước tới trước mặt ông từ coi miếu. Tới lúc đó, đâm ra ông từ coi miếu hoảng sợ tới mức lùi lại mấy bước, sững sờ: “Sao gă bại liệt này ngủ qua một đêm lại có thể đi đứng tự nhiên?” Hỏi ra, nguyên lai, Từ Lương Tứ ban đêm ngủ trước thánh tượng của Địa Tạng Bồ Tát, trong mộng thấy Bồ Tát sai hai tiểu quỷ, một cao, một lùn. Một quỷ th́ ôm chặt lấy phần thân trên  của ông ta, quỷ kia th́ nắm hai cái chân liệt mà kéo mạnh, đau đến nỗi ông ta kêu thảm thiết không ngừng. Nhưng hai tiểu quỷ ấy mặc kệ ông ta gào thảm thiết cỡ nào, vẫn không ngừng tăng thêm sức mạnh kéo thẳng hai chân tàn phế của ông ta, đau đến nỗi ông ta ngất lịm đi. Sau đấy, chẳng biết sao lại ngủ mất. “Hiện thời, tôi cũng chẳng biết đôi chân tàn tật này nghiễm nhiên giống như chân mọi người b́nh thường”. Do đó, c̣n sung sướng hơn lúc nhặt được bạc hôm qua. Ông từ trông miếu thấy kỳ tích xuất hiện như vậy, đương nhiên chẳng thể mắng hắn nữa, lại c̣n vui sướng theo hắn. Bản thân, hắn cũng biết là Địa Tạng Bồ Tát hiển linh, chữa trị tàn tật cho ḿnh, đảnh lễ trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, cảm kích tuôn lệ, mọp thân lễ bái, lạy côm cốp mấy lần!

          Người ăn mày họ Từ sau khi hết tàn tật, rất nhiều người chúc mừng ông ta. Nhưng ông ta do vậy, dấy lên phiền năo: Lúc tàn tật th́ c̣n có thể ăn xin sống qua ngày. Nay đă hết tàn tật rồi, không thể đi ăn xin trên phố để sống qua ngày, nhất định phải tự lực cánh sanh; nhưng ông ta là một gă ăn mày nghèo túng, ngoài ăn xin ra, làm thế nào để giải quyết vấn đề cơm áo, chỗ ở đây? Buôn bán th́ chẳng có tiền vốn. Rốt cuộc vẫn là từ không có cách nào, nghĩ ra một cách: Dùng mấy đồng bên ḿnh mua hai cái thùng nước, gánh nước thuê để kiếm sống. Thời ấy, chưa có nước máy, các gia đ́nh giàu có đều kêu người đổi nước, [tức là trả công cho người ấy] hằng ngày gánh nước đến. Từ Lương Tứ từ ăn mày biến thành người đổi nước.

          Lâm Đăng Chương sau khi ra khỏi tù, biết chuyện vợ làm rơi bạc, người ăn mày nhặt được chẳng giữ rịt làm của riêng, cũng từng t́m kiếm vị ân nhân cứu mạng ấy, nhưng ngay cả tên họ cũng chẳng biết, chẳng thể t́m kiếm. Lúc đó, họ sống ở vùng quê rất xa, đương nhiên chẳng biết chỗ ở của người ăn mày. V́ thế, đối với chuyện chẳng biết tên họ của ân nhân, chẳng có cách nào báo đáp, cứ canh cánh trong ḷng. Hai ba năm sau, việc buôn bán nơi tiệm ngũ kim của nhà họ Lâm càng làm càng phát đạt, cái tâm tưởng niệm ân nhân cũng càng ngày càng tăng. Có một hôm, nhà họ Lâm kêu Từ Lương Tứ đưa nước đến. Lâm Đăng Chương chưa hề gặp mặt họ Từ Lương Tứ, ân nhân ở ngay trước mắt vẫn không nhận biết. Khi đó, nữ quyến không ra khỏi cửa cho mấy. Hễ có nam nhân đến, nữ nhân lẩn tránh, không ra khỏi cửa pḥng. V́ thế, mấy năm trôi qua, vẫn t́m không thấy vị ân nhân ăn mày đó. Vừa lúc Từ Lương Tứ đưa nước đến nhà bếp, trong lúc vô t́nh, bà Lâm trông thấy, rất đỗi kinh ngạc: “Diện mạo người này giống ân nhân như đúc, có phải là ông ta hay không? Chẳng phải! Tuyệt đối chẳng phải! Ông ta là người bị liệt, chẳng thể đi lại. Nhưng v́ sao người này giống ông ta đến thế?” Bà Lâm tự hỏi, tự đáp, hoài nghi chẳng dám quyết đoán liên tiếp mấy ngày. Bà đem chuyện này kể với chồng: “Cái người gánh nước ấy có diện mạo giống hệt vị ân nhân, cùng một khuôn mặt, chẳng biết v́ sao chẳng phải là người bị liệt, mà đi gánh nước! Sáng mai, ông mời ông ta vào hỏi han cặn kẽ, xem thử là chuyện như thế nào!”

          Ngày hôm sau, Từ Lương Tứ vẫn đưa nước đến. Lâm Đăng Chương đặc biệt mời ông ta ngồi xuống dùng trà. Sau đó, hỏi han tên họ, hỏi trước khi gánh nước th́ làm chuyện ǵ, trong nhà c̣n có ai. Từ Lương Tứ cũng chẳng giấu diếm ǵ, nói thật: “Nói ra rất xấu hổ! Ba năm trước tôi không thể gánh nước, thậm chí c̣n chẳng thể đi lại. Nhiều năm bị tê liệt, lê lết trên mặt đất. Khi đó, chỉ lần theo từng nhà xin ăn. Sau đấy, vào tiết Thanh Minh năm đó, đêm ngủ tại miếu Địa Tạng Bồ Tát, mộng thấy Bồ Tát sai hai tiểu quỷ chữa trị thương tật cho tôi. Từ đấy về sau hết tàn tật, bèn lấy chuyện gánh nước để tự lập kiếm sống”. Lúc đó, bà Lâm từ trong pḥng đi ra, nắm tay chồng, song song quỳ trước mặt họ Từ, thưa: “Ân nhân! Hăy nhận của vợ chồng chúng tôi một lạy”. Trước hết, họ không nói rơ mọi chuyện, cứ song song lạy xuống, khiến Từ Lương Tứ sợ hết hồn, hai tay vẫy liên tục, không ngừng lùi lại. Sau khi vợ chồng ông Lâm nói rơ mọi chuyện, mới biết chuyện xảy ra vào tiết Thanh Minh ba năm trước. Lúc ấy, cũng biết do làm chuyện tốt nên cảm động Địa Tạng Bồ Tát hiển linh trị lành tàn tật. Đúng là vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ. Họ ngồi lại chuyện tṛ một hồi, ông Từ tính cáo lui, nhưng vợ chồng họ Lâm bất luận như thế nào cũng không chịu để cho ông ta đi.

          Vợ chồng họ Lâm rất thành khẩn thưa với Từ Lương Tứ: “Lúc đó, ân công đă cứu vợ chồng chúng tôi. Đương nhiên là Ngài chẳng nghĩ thi ân cầu báo, nhưng chúng tôi là người cảm nhận ân huệ, chẳng thể nghĩ như vậy. Ngài là người chẳng có nhà cửa, chẳng có vợ con, trong tiệm chúng tôi cần người giúp. Ngài hăy ở lại đây, coi như người nhà của chính ḿnh vậy!” Từ đó về sau, Từ Lương Tứ cũng chẳng đổi nước nữa, sống trong tiệm ngũ kim của nhà họ Lâm, giúp họ buôn bán. Chẳng đầy mấy năm, họ Lâm không chỉ buôn bán thịnh vượng, mà c̣n tậu chẳng ít đất đai, ruộng nương, cũng từng mấy lần muốn cưới vợ cho Từ Lương Tứ, nhưng ông ta đều cự tuyệt, chẳng đồng ư. Lâm tiên sinh biết ông ta là người bộc trực, nói một, chẳng nói hai, chỉ đành thuận theo tự nhiên.

          Mấy năm sau, Lâm Đăng Chương nhận được thư của chú, hối ông ta trở về quê nhà ở Quảng Đông để kế thừa tổ nghiệp. Hai vợ chồng quyết định trở về Quảng Đông kế thừa tổ nghiệp, tài sản nơi này do Từ Lương Tứ toàn quyền quản lư, cũng không dám nói rơ là tặng cho ông ta. Chỉ nói là xin ông ta quản lư thay, muốn làm cho ông ta tin tưởng là không lâu sau họ sẽ trở về. Nếu không, ông Từ lại chẳng chịu tiếp quản. Từ Lương Tứ vẫn mong đợi vợ chồng họ Lâm quay lại, nhưng họ vẫn một mực chẳng trở về. Mấy năm sau, họ gởi thơ, tỏ rơ tâm ư: Họ phải kế thừa tổ nghiệp, sẽ chẳng trở lại, dâng tặng cho ông Từ toàn bộ hết thảy tài sản, khuyên ông nên sớm ngày cưới vợ, lập gia đ́nh. Nhưng Từ Lương Tứ vẫn không lấy vợ, lại c̣n suốt đời chẳng cưới hỏi, vẫn tự cho ḿnh là người quản lư tài sản cho Lâm Đăng Chương. Về sau, Từ Lương Tứ di chúc đem toàn bộ pḥng ốc tại phường vải thí cho miếu Thổ Địa để cảm tạ ân huệ nhiều năm nương nhờ khi cùng khổ. Lúc c̣n sống, mỗi dịp mùng Một, ngày Rằm, ông ta đều ra miếu Địa Tạng ngoài thành để lễ kính Địa Tạng Bồ Tát, cảm tạ ân Bồ Tát trị tàn tật. Nghe nói, sau khi ông ta chết đi, c̣n có sáu mươi cuộc đất thuộc hạng nhất do chánh quyền sở tại tiếp nhận.

          Hai họ Từ và Lâm, một đằng là thi ân chẳng cầu báo, một đằng nhất định có ơn phải báo đáp, đều đáng cho người đời sau noi gương và sùng kính. Khó trách những người thuộc thế hệ trước ở Gia Nghĩa hễ nhắc tới chuyện này đều là “bia miệng” bàn luận sôi nổi. Nghe nói các nghị viên cấp tỉnh ở Gia Nghĩa như Hà Mậu Thủ v.v… Xuân Thu hai quư đều đến bái tế trước linh vị của họ Từ và họ Lâm, kính ngưỡng thái độ làm người của họ. Người viết từng v́ chuyện này mà cùng cư sĩ Trần Tư Khánh đích thân đến y viện tư nhân tại đường Quang Minh xem bài vị của hai họ Từ và Lâm, c̣n có tượng của Thổ Địa Công thời đó, lại c̣n viếng địa điểm miếu Thổ Địa nơi người ăn mày họ Từ nương nhờ thuở đó. Hàng xóm hai bên đều biết người viết đặc biệt tới hỏi han chuyện này, đều vui vẻ tự động kể về quá khứ của hai ông Từ và Lâm. Chuyện này cho thấy ngoài sự linh dị của Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n xiển dương sự thiện lương nơi nhân tánh, đều có hữu ích cho ḷng người trong xă hội. V́ thế, tôi vui vẻ ghi lại.

 

16. Phật quang soi đường

Pháp sư Hống Lương ghi

 

          Vạn Thọ Đường pháp vụ thịnh vượng, thường là sau khi pháp hội kết thúc, phải sắp xếp hết thảy lại như cũ. Khi quay về am Đại Từ, sắc trời đă tối đen từ lâu. Vùng núi có khá nhiều rắn, sợ thấy không rơ, sẽ đạp lầm phải rắn. Do vậy, mỗi lần trên đường về am Đại Từ, hai thầy tỳ-kheo Ḥa và Đoan luôn niệm ra tiếng: “Địa Tạng Vương Bồ Tát! Địa Tạng Vương Bồ Tát!” mong cho các “anh rắn” nghe thánh hiệu của Bồ Tát, sẽ biết nhanh chóng lẩn tránh, để khỏi bị đạp trúng, khiến chúng nó bị thương, ta lẫn ngươi đều chẳng thương tổn lẫn nhau. Ngày mồng Sáu tháng Mười, bắt đầu từ hai giờ chiều, làm đàn tràng Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự. Sau khi pháp hội kết thúc viên măn, sau khi đă sắp xếp hết thảy các thứ, đă gần đến bảy giờ tối, bên ngoài đen kịt, giơ bàn tay ra chẳng thấy rơ năm ngón. Đèn đường lại chẳng sáng, bốn phía đều tối hù chẳng có ánh sáng. Hôm nay lại phải ṃ mẫm trở về trong bóng tối. Hai người hiểu rơ nhưng không nói ra, rất cẩn thận đi về, như giẫm trên băng mỏng, chẳng dám tùy ư đặt chân. Hai người dấn ḿnh vào bóng đêm mênh mông, bốn phía lặng như tờ. Gió đêm thổi nhẹ, cành trúc lay động. Tiếng trúc, tiếng bước chân, tiếng niệm Phật, từng tiếng lọt vào tai.

          Vừa đi, thầy Đoan lơ đăng nói: “Địa Tạng Vương Bồ Tát, xin Ngài từ bi cho chúng con một chút quang minh”. Nói xong, lập tức nghe bộp một tiếng, đèn soi cả đường sáng bừng lên! Ôi! Hai người chẳng hẹn mà giống nhau, vừa kinh ngạc, vừa vui mừng reo lên: “Cảm ơn Địa Tạng Vương Bồ Tát! Cám ơn Địa Tạng Vương Bồ Tát!” Chúng tôi nhanh chân bước trên con đường hẹp quanh co, lúc vừa thấp thoáng trông thấy đèn của Triều Sơn Hội Quán th́ ngay lúc đó, toàn thể đèn đường lại “bộp” một tiếng tắt phụt. Tôi kinh ngạc quay đầu ngó lại, thấy con đường ṃn lại ch́m vào bóng tối, mới giật ḿnh, ngộ ra ánh sáng soi đường đúng lúc khi năy nào có phải là đèn đường, mà là Phật quang! Đúng như trong phẩm thứ mười hai, tức phẩm Kiến Văn Lợi Ích trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đă chép: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc nhân trị sanh, hoặc nhân công tư, hoặc nhân sanh tử, hoặc nhân cấp sự, nhập sơn lâm trung, quá độ hà hải, năi cập đại thủy, hoặc kinh hiểm đạo, thị nhân tiên đương niệm Địa Tạng Bồ Tát danh vạn biến, sở quá thổ địa, quỷ thần vệ hộ, hành, trụ, tọa, ngọa, vĩnh bảo an lạc” (Thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc do mưu sinh, hoặc v́ việc công chuyện tư, hoặc do sanh tử, hoặc do chuyện gấp, vào trong rừng núi, vượt qua sông biển, cho đến nước lớn, hoặc đi qua đường hiểm. Người ấy trước hết hăy nên niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến, nơi cuộc đất đi qua, quỷ thần hộ vệ, đi, đứng, nằm, ngồi, vĩnh viễn giữ được an lạc). Quả nhiên chẳng giả, Địa Tạng Bồ Tát từ bi rộng lớn, cứu giúp, che chở hết thảy chúng sanh, Ngài độ sanh mà cũng độ tử, “địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật”, tùy thời hiển hiện bên cạnh chúng sanh. Do vậy, khi các vị nhân giả đọc bài viết về chuyện linh dị của Ngài xong, mong hăy tŕ niệm thánh hiệu “Nam-mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát” nhiều hơn. Khi quư vị gặp nạn, từ quang của Bồ Tát nhất định sẽ chiếu rọi quư vị, ban cho quư vị quang minh, b́nh an!

 

17. Địa Tạng Bồ Tát linh dị kư

Khâu Hoa Sanh ghi

 

          Trong thời đại bánh xe đă chuyển động đến mức thám hiểm không gian, ai nấy đều dùng khoa học để tự huyễn hoặc; nếu c̣n có ai bàn đến tín ngưỡng, hoặc nhắc đến linh cảm chi đó, chắc chắn sẽ có kẻ quở “ngươi lạc hậu, mê tín”, thậm chí bị gán cái mác “thủ cựu tiên sinh”. Nhưng khoa học thật sự có thể giải quyết vấn đề nhân sanh ư? Nhân loại chỉ cậy vào khoa học mà có thể sống ư? Con người chẳng phải là máy móc, không thể nào chỉ ứng dụng nguyên lư khoa học, buộc họ chiếu theo pháp tắc và quy luật chuyển động nhất định! Trải qua cuộc sống này và những tao ngộ trong đời người thật sự quá vi diệu, rất chẳng thể suy lường, cứ dựa cứng ngắc vào định lư khoa học, sẽ khó thể t́m được câu trả lời. Do vậy, bất luận thời đại diễn biến như thế nào, tín ngưỡng tôn giáo vẫn chiếm phần quan trọng trong cuộc sống của nhân loại, mà chúng ta cũng chẳng thể phủ nhận sự tích linh cảm của Bồ Tát được! Nay tôi muốn trần thuật một câu chuyện xảy ra trong mấy năm gần đây, là sự thật do chính tôi trải qua. Chúng ta có thể từ câu chuyện chẳng thể nghĩ bàn này mà đại lược thấy phần nào thần lực vĩ đại của Bồ Tát, cũng như sức tín ngưỡng chẳng thể suy lường để tiến tới phát khởi đại tín nguyện, cung kính lễ bái, tăng phước, khai huệ, sớm chứng Bồ Đề.

          Thôn Tự Do thuộc làng Ḥa B́nh, huyện Đài Trung là một vùng quê ở miền núi. Cư dân đại đa số là đồng bào Cao Sơn[5]. Trong vùng núi thẳm rừng rậm ấy, sừng sững một ngôi miếu thờ Địa Tạng Bồ Tát, tăng thêm đôi chút cảnh sắc cho vùng núi cao đơn điệu, cũng rất hiếm thấy. Nói đến nguồn gốc của ṭa miếu vũ ấy, đúng là chuyện khiến cho mọi người phải thương tâm ứa lệ. Mùa Xuân năm Dân Quốc 16 (1927), đúng lúc trăm hoa đua nở, muôn tía ngh́n hồng, chẳng ngờ trận dịch Cốt Thống Nhiệt (tên y học là Dengue fever, sốt xuất huyết) nổ ra, hoành hành tại vùng núi làng Ḥa B́nh. Ở chỗ hiện thời được gọi là khu bộ lạc Trúc Lâm thuộc thôn Tự Do, gần như diệt vong toàn bộ, nam giới chỉ có một người may mắn thoát nạn là tiên sinh Ngô Thiên Sanh (người vùng núi) nay đă bốn mươi bảy tuổi, đang sống tại thôn Tự Do. Để siêu độ các vong linh chết v́ ôn dịch, lúc ấy, đặc biệt khởi xướng kiến lập một ṭa miếu thờ Địa Tạng, tạc một tôn tượng Địa Tạng Bồ Tát cao ba thước. Vào ngày Mười Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 16, thỉnh một vị Tăng gốc Nhật là Đại Dă Phượng Châu, trụ tŕ chùa Đài Trung thuộc tông Tào Động, long trọng cử hành pháp hội khai quang. Từ đấy, dưới sự che chở của Bồ Tát, vùng hương thôn núi non ấy dần dần khôi phục nguyên khí, dần dần phồn vinh.

          Thời gian trôi qua rất mau, đảo báu trở về ṿng tay của Tổ Quốc, đồng bào vùng núi được chánh phủ đặc biệt ưu đăi, lại c̣n tự cố gắng, cuộc sống càng thêm an định. Nhưng mấy năm trước, tôn giáo của phương Tây bỏ ra vốn liếng vật chất to lớn, dùng bột ḿ, quần áo cũ hướng đến đồng bào miền núi dụ dỗ cải đạo. Đồng bào miền núi chẳng chống nổi chiến thuật dụ dỗ này, kết quả là hoàn toàn phất cờ đầu hàng làm con chiên của Thượng Đế. Ṭa Địa Tạng Miếu theo thời gian cũng kèo mục, cột nghiêng, lung lay sắp đổ. Lúc đó, có những người sống ở b́nh nguyên thuộc vùng đất ấy (dân đồng bằng dời vào vùng núi canh tác) là anh em Ngô Thịnh Kim, Ngô Sĩ Quân, Ngô Sĩ Thành, Ngô Sĩ Quân[6], kiên quyết khởi xướng trùng tu ṭa miếu cũ, gom tiền được gần một vạn đồng, chưa đầy một năm, đă khôi phục lại ngôi miếu như cũ. Điển lễ lạc thành trùng tu ấn định vào ngày mồng Năm tháng Tám năm Dân Quốc 51 (1962), họ đặc biệt đến chùa Thụ Tuyền ở thôn Trúc Sâm, làng Đồng La, thuộc huyện Miêu Lật, thỉnh các cư sĩ có thể làm pháp hội đến đó cử hành pháp hội lạc thành. Các nhân viên Phật sự do lăo tiên sinh Hoàng Đỉnh Hoa đă tám mươi mấy tuổi hướng dẫn, cùng với Trần A Hán, Lại Nhân Phú, Khâu A Khô, Lại Tú Phước, Khâu Thủy Khôn, Lại Thôn Thượng, Lại Điền Phước (những vị trên đây đều đang sống tại làng Đồng La), Lê Mộc Thịnh, Khâu Sanh Sơ, Hồ Diễm Quang (ba vị trên đây hiện sống tại làng Tam Nghĩa). Một đoàn mười mấy người hăm hở tiến đến làng Tự Do, tôi cũng lạm dự vào số đó, gia nhập hàng ngũ của họ.

          Sau khi pháp hội viên măn vào ngày hôm đó, nghỉ trọ một đêm, dự định sáng mai (tức ngày Sáu tháng Tám) sẽ trở về làng. Nào có biết ban đêm cuồng phong gào thét (nổi băo lốc Đài Phong), mưa như trút. Ngày hôm sau thức dậy, thấy khắp nơi nước mênh mông, núi lở, đất sụp, giao thông bị đoạn tuyệt, các nơi trong cả tỉnh [Đài Loan] bị thiệt hại nặng nề. Lúc ấy, mấy bận tính trèo non lội suối lần ḍ quay về, nhưng khắp nơi cầu bè bị cuốn trôi, nửa bước khó dời, đành phải gởi thân trong miếu Địa Tạng, mong ngóng t́nh huống ngày hôm sau có thể chuyển biến tốt đẹp hơn. Sáng hôm mồng Bảy thức dậy, nước lụt vẫn chưa rút, sắc mặt mọi người đều lo rầu, ngó nhau chẳng nói, chẳng biết làm như thế nào cho tốt? Chẳng lâu sau, mọi người đến trước tượng Địa Tạng Bồ Tát (ngày đó tục gọi là “đăng vị ngày thứ ba”) khẩn cầu Bồ Tát từ bi gia hộ, khiến cho chúng tôi có thể b́nh an lên đường về nhà. Sau khi cầu nguyện, đoàn chúng tôi liền bắt đầu cuộc lữ tŕnh gian khổ. Cách miếu Địa Tạng chẳng xa có chiếc cầu Ô Thạch Khanh, một đầu đê chắn đă bị nước lụt xói ṃn hơn mười mấy mét. Trừ phi dùng cách nối tre lồ ồ để tạo thành chiếc cầu tạm thời, đừng ḥng mơ tưởng đi qua được. Trong đám, có người bơi lội giỏi, xuống bơi thử, mới biết nước sâu gần một mét, nước lại chảy xiết. [Muốn qua sông], phải vượt một đoạn sông mười mấy mét, chẳng phải là chuyện dễ. Kết quả là vẫn lui trở lại, nh́n nước than thở. Lúc này, người tiếp đăi chúng tôi là tiên sinh Ngô Thịnh Kim đă chặt tre lồ ồ, chuẩn bị bắc cầu tạm thời cho chúng tôi đi qua. Đúng lúc ấy, chúng tôi chẳng hẹn nhau, cùng ngồi xuống thầm niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát bao nhiêu câu đó. Kể ra cũng rất lạ, chẳng đầy hai mươi phút, nước nhanh chóng rút xuống: Từ một mét nước, rút xuống chỉ c̣n chừng ba mươi cm. Mọi người nh́n t́nh h́nh, thấy chẳng c̣n nguy hiểm nữa, đều lũ lượt xuống nước vượt sông. Tôi d́u Hoàng lăo bá hơn tám mươi tuổi qua sông cuối cùng. Kỳ quái là khi tôi qua được nửa sông, bỗng cảm thấy mực nước bắt đầu dâng lên. Phía sau tôi, từ Thiên Cẩu (địa danh) c̣n có bảy tám người, lại c̣n có vợ chồng họ Vinh cũng theo chúng tôi vượt sông. Sau khi mọi người b́nh an qua sông, cũng chẳng quay lại coi nước có tiếp tục dâng lên hay không. Mặt khác, khi nhóm Ngô tiên sinh chặt tre lồ ồ, chuyển đến bờ sông, đă không thấy chúng tôi nữa. Nước vẫn lớn b́nh thường, v́ sao chúng tôi có thể vượt qua? Sau đấy mới biết khi chúng tôi qua sông chẳng lâu, lúc nhóm Ngô tiên sinh đến bờ sông, nước sông đă dâng lên sâu y hệt như nửa giờ trước. Đấy là chuyện kỳ lạ cỡ nào khiến cho kẻ khác khó thể tin tưởng!

          Kinh Phật nói Bồ Tát dùng đủ loại thần lực cứu chúng sanh khổ nạn. Thủy tai là một trong các thứ đại tai nạn của nhân gian, nếu có thể chí tâm xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát, ắt được giải thoát. Lần này do sự đích thân trải nghiệm của chính ḿnh, chứng minh Phật ngữ chẳng hư vọng. Ngoại trừ tăng cường tín tâm, kiền thành lễ bái để báo đáp hồng ân, kính mong những ai đọc bài văn vụng về này, cũng sanh khởi cái tâm tín nguyện, mọi người đều cùng nghĩ tới thánh hiệu “nam-mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát” có nguyện lực rộng lớn, có cầu ắt ứng.

 

18. Kỳ tích trên đường tới suối vàng

Truyền Nguyệt ghi

 

          Ngày nay, hễ thuận tay mở báo ra, luôn là chẳng tránh khỏi thấy các tin tức tai nạn xe cộ lớn nhỏ. Thậm chí cũng có người thấy thảm trạng máu thịt văng tứ tung, thân và đầu khác chỗ! Hai ngày trước, cũng tức là ngày Hai Mươi Hai tháng Chín, Trung Quốc Thời Báo đăng tải tin một phụ nữ do từng chính mắt thấy thảm trạng tai nạn xe cộ, khiến cho tinh thần phân liệt, bỏ nhà trốn đi. Có thể thấy tai hại to lớn do tai nạn giao thông vậy! Dưới đây, tôi viết lại một sự kiện có thật kỳ lạ: Xe bị hủy hoàn toàn, nhưng người chẳng bị thương vong. Đâm ra lọt lưới tin tức (tối thiểu là tôi không thấy phóng viên tin tức đăng báo chuyện này), quư vị có tin tưởng hay không? Trên thế giới, thật sự có chuyện chẳng nghĩ bàn!

          Trời nắng gắt mấy ngày liền, khiến cho thành phố Đài Bắc bắt buộc phải cúp nước từng khu vực cách ngày. Ban ngày, dưới ánh nắng gay gắt, mọi người mồ hôi đẫm lưng, gần như thở không nổi. Đường nhựa hầu như cũng bị hun nóng đến nỗi nhựa đường nhũn ra. Chiều ngày Mười Tám tháng Tám, đột nhiên trời đổ một trận mưa ngọt, mưa lớn dần, từ thưa thớt đến dày đặc. Tiếp đó, sấm chớp loang loáng, dường như cả vạn con ngựa chạy lồng. Mọi người đối với trận mưa to này đều tỏ vẻ vui mừng, lũ trẻ nhỏ thậm chí hoa chân múa tay trong cơn mưa lớn ấy! Ước chừng hai giờ mười lăm phút vào buổi chiều, bà Châu Vương Thu Cúc cưỡi chiếc xe gắn máy Linh Mộc (Suzuki) 80 phân khối, chở một túi to các sản phẩm tăng lực cho người tập thể h́nh (gymer), chuẩn bị giao tận nhà những người đặt hàng. Trên đường, gặp ngay trận mưa to như trút này. Xe chạy đến chỗ giao nhau giữa đường Trung Hoa và Thành Đô, nhằm lúc đèn xanh, đương nhiên là bà ta có thể chạy thẳng một lèo qua đường Trung Hoa, nhưng một chiếc xe bus thuộc công ty xe bus Chỉ Nam từ sau lưng bà ta phóng vù tới, muốn quẹo phải sang đường Thành Đô, khi xe bus quẹo cua, rầm một tiếng, đụng cả người lẫn xe [của bà Châu] đổ lăn quay. Kế đó, bà ta bị cuốn vào gầm xe bus, các sản phẩm tăng lực rơi tung tóe ra đất. Bà ta tự nghĩ ḿnh chẳng c̣n thể nào sống qua đận này!

          Cũng chẳng biết chuyện ǵ xảy ra, trong sát-na bị cuốn vào gầm xe bus, bà chỉ cảm thấy một luồng hơi nóng bao phủ toàn thân. Sau khi bị xe bus lôi đi vài thước, bà nghe người trên đường gào to, kêu tài xế dừng xe lại, cũng nhận thấy chính ḿnh nằm dưới gầm xe, bánh xe trước ở ngay phía sau ḿnh. Bà nằm trên mặt đất, hơi nghiêng đầu, thấy bánh xe sau c̣n đang lăn trên mặt đường ướt sũng, sẽ hướng đến nghiền nát chính ḿnh, trong ḷng bà ta hết sức sợ hăi! Nói th́ chậm, chứ khi đó rất nhanh, đại khái là tài xế nghe tiếng người đi đường quát tháo, phát hiện t́nh huống không đúng, lập tức khẩn cấp dừng xe. Lúc đó, bà ta nghe tiếng người đi đường kêu lên sợ hăi. Đồng thời, bánh xe sau xe bus vừa cán lên chiếc xe gắn máy của bà, chỉ kém một giây nữa thôi là đầu và thân bà đă khác chỗ rồi! A Di Đà Phật! Tài xế vội vàng xuống xe, tḥ tay vào dưới gầm xe, toan kéo bà ta ra, hiềm rằng thân xe bus cách mặt đường chẳng quá một mét, mà trên người bà Châu c̣n có chiếc xe gắn máy tám mươi phân khối, tốn công sức rất lớn, vẫn không kéo bà ta ra được. Lạ thật, cuốn vào th́ được, cớ sao lôi ra chẳng được! Tài xế gấp gáp đến độ đầu đầy mồ hôi, mạng người to bằng trời! Bà Châu cảm thấy chân đau đớn, nghĩ chân đă bị xe cán đứt rồi, rên hừ hừ, nhưng đầu óc bà vẫn c̣n rất tỉnh táo. Có người hướng vào gầm xe hỏi han, bà cho số điện thoại doanh nghiệp sản phẩm tăng lực ở khu Cổ Đ́nh, nhờ họ báo tin cho người phụ trách đến. Trong chốc lát, hành khách trên xe đều xuống xe, có khoảng chừng mười nam nhân chia nhau vây quanh bốn phía hợp sức nâng thân xe lên, ngoài ra c̣n có bốn nam nhân khác rất cẩn thận khởi động máy xe, rồi lại nâng bà ta lên, đem tài xế cùng đi, ngồi tắc-xi, đưa đến pḥng cấp cứu của Đài Đại Y Viện.

          Sau đó, theo đồng nghiệp của bà ta kể lại: Sau khi bà ta được đưa đến bệnh viện, nhân viên thuộc đội cảnh sát giao thông đến hiện trường, phân cục cảnh sát cũng đến. Khi họ thấy chiếc xe máy bị đâm tan hoang, móp méo, sắt thép rơi rụng lả tả, đă buồn bă lắc đầu nói: “Có thể là mất mạng, mà có khi chỉ c̣n nửa cái mạng”. Nói xong, họ cũng chạy tới bệnh viện. Kế đó, lại có hai vị cảnh sát giao thông đo đạc, vẽ lại hiện trường. Cảnh sát hỏi người soát vé khi xe bus quẹo phải có huưt c̣i hay không. Người soát vé vẻ mặt như đang khóc tang, đáp: “Có thổi”. Cảnh sát lớn tiếng quở trách: “Đă huưt c̣i, sao người và xe máy lại lọt dưới gầm xe cho được?” Tài xế nói tiếng mưa quá lớn, chẳng nghe có thổi c̣i hay không? Tóm lại, ai cũng chẳng dám nhận trách nhiệm về nhân mạng. Cuối cùng người soát vé bị cảnh sát chất vấn nghiêm khắc, trong ḷng lại sợ hăi, bèn ̣a khóc trước mặt mọi người.

          Tại pḥng Cấp Cứu của Đài Đại Y Viện, bà Châu trên người chẳng có một tí vết thương nào. Cảnh sát ghi biên bản hỏi bà: “Bà có biết xe ǵ đụng bà hay không?” Bà ta đáp: “Biết. Xe của hăng Chỉ Nam”. Cảnh sát an tâm cười: “Hoàn hảo, năo không bị chấn động”. Bà Châu hỏi cảnh sát: “Xe của tôi ra sao?” Cảnh sát nói: “Bà c̣n hỏi xe nữa à? Bà đúng là may mắn, mạng lớn lắm!” Sau khi bác sĩ thực hiện các trắc nghiệm, kiểm tra toàn thân, chứng thực không tổn hại ǵ, đưa bà ta về nhà. Trải qua ba ngày quan sát, quả thật không bị phản ứng chấn động năo, bà ta an tâm. Chỉ nghĩ đến chuyện chiếc xe gắn máy bị nghiền biến dạng, nhưng chính ḿnh rốt cuộc lại b́nh an vô sự, ngay cả trầy da cũng chẳng có, thật sự cảm thấy chẳng thể nghĩ bàn! Ngoại trừ cảm tạ toàn bộ các vị hành khách đă dốc hết sức cứu giúp trong cơn mưa to và người qua đường, càng cảm tạ sâu đậm Địa Tạng Bồ Tát đă ngấm ngầm che chở.

          V́ cảm tạ Bồ Tát che chở, bà Châu đến nhà chúng tôi. Sau cơm chiều ngày Hai Mươi Mốt tháng Tám, bố chồng tôi nghe bà Châu gọi điện thoại hỏi Phật đường trong nhà tôi có thờ thánh tượng của Địa Tạng Bồ Tát hay không, nói chốc nữa, bà ta sẽ đến lạy Bồ Tát. Bố chồng tôi hỏi nguyên do, bà chỉ kể sơ lược chuyện gặp tai nạn xe, chẳng bị thương. Trước hết, cám ơn bố chồng tôi đă tặng cho bà ta thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát. Đại khái là tám giờ rưỡi, Châu tiên sinh dùng một cái xe gắn máy khác chở bà ta đến, c̣n cầm theo nho, xoài, giấy vàng bạc. Bố chồng tôi bảo lễ kính Phật, Bồ Tát chẳng cần phải đốt vàng bạc, chỉ cần kiền thành cung kính là được rồi. Sau khi mọi người ngồi xuống, bà Châu kể cho chúng tôi nghe chuyện gặp phải. Nghe kể xong, chúng tôi đều mở to mắt nh́n thân thể của bà ta, quả thật một vết trầy nhỏ cũng chẳng có! Nếu chẳng có bà ta “hiện thân thuyết pháp”, thật đúng là khó khiến cho kẻ khác tin tưởng!

          Bà ta kể bố chồng tôi đă tặng một bức tượng Địa Tạng Bồ Tát nhỏ để đeo trên người, bà cảm thấy Bồ Tát ở bên thân, chuyện xấu ǵ cũng đều chẳng dám làm. Mỗi lần cưỡi xe ra khỏi cửa, lúc nào cũng đều cảm thấy Địa Tạng Bồ Tát ở trong tâm, nội tâm sanh khởi cảm giác an toàn không chi lớn bằng! Tai nạn xe cộ lần này, bà ta thật sự được Bồ Tát che chở. Bố chồng tôi bảo bà ta: Đó là do nguyện lực từ bi của Bồ Tát, khuyên bà ta về sau hăy làm việc thiện nhiều hơn, niệm thánh hiệu Địa Tạng cho nhiều. Nguyện lực của Địa Tạng Bồ Tát thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do bà ta là một người chưa hề tiếp xúc kinh Phật, mà cũng chẳng hiểu biết Phật lư cho lắm (vợ chồng họ là bạn uống trà của bố chồng tôi. Ngẫu nhiên bố chồng tôi cũng kể cho họ nghe các câu chuyện trong kinh Phật, khuyên đừng sát sanh v.v…), cũng được Bồ Tát che chở, cho thấy tinh thần “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi” của Bồ Tát.

          Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Hư Không Tạng Bồ Tát hỏi đức Phật: “Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, năi cập nhất thiết thiên, long văn thử kinh điển, cập Địa Tạng danh tự, hoặc chiêm lễ h́nh tượng, đắc kỷ chủng phước lợi?” (Trong đời vị lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, cùng với hết thảy trời rồng nghe kinh điển này và danh hiệu Địa Tạng, hoặc chiêm lễ h́nh tượng, sẽ được mấy thứ phước lợi?) Đức Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát: “Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân kiến Địa Tạng h́nh tượng, cập văn thử kinh, năi chí độc tụng, hương hoa, ẩm thực, y phục, trân bảo, bố thí, cúng dường, tán thán, chiêm lễ, đắc nhị thập bát chủng lợi ích: Nhất giả, thiên long hộ niệm, nhị giả, thiện quả nhật tăng… Thập giả, thần quỷ trợ tŕ… Thập cửu giả, chư hoạnh tiêu diệt. Nhị thập giả, nghiệp đạo vĩnh trừ” (Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân, thấy h́nh tượng Địa Tạng và nghe kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, thức ăn, y phục, trân bảo để bố thí, cúng dường, tán thán chiêm lễ, sẽ đạt được hai mươi tám thứ lợi ích: Một là trời rồng hộ niệm, hai là thiện quả ngày một tăng… Mười là thần quỷ giúp đỡ… Mười chín là các tai nạn bất ngờ bị tiêu diệt. Hai mươi là nghiệp đạo vĩnh viễn trừ diệt). Bố chồng tôi luôn thích tặng tượng Phật để kết duyên với người khác; chẳng ngờ một bức thánh tượng Địa Tạng bé xíu như thế, lại nghiễm nhiên phát sanh oai lực to dường ấy. Ngoài tán thán thần lực oai đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát ra, xảo hợp như thế nào đi nữa, cũng không thể gặp tai nạn xe cộ mà chẳng bị tổn thương mảy may như thế được?

 

19. Phật, Bồ Tát và tôi

Lương Mỹ Hoa ghi

 

          Kết hôn đă gần tám năm, tôi cùng chồng sanh một trai, một gái, con gái hoạt bát, con trai trầm tĩnh. Mỗi khi tôi nh́n đứa con trắng nơn, sẽ bất giác nhớ lại tai nạn xe cộ phát sanh vào năm trước. Ngày Hai Mươi Chín tháng Bảy Âm Lịch, cũng chính là trước ngày khánh đản Địa Tạng Vương Bồ Tát một hôm, tôi cùng chồng và đứa con gái bốn tuổi, cùng với một người bạn ở Gia Nghĩa, cùng ngồi ở phía trước một chiếc xe vận tải nhỏ do chồng tôi lái từ Đẩu Nam đến trạm xe lửa Đẩu Lục. Nhà tôi lái xe luôn cẩn thận, kỹ lưỡng, nhưng ngày đó do sợ bị kẹt đường v́ chuyến xe lửa bốn giờ chiều; do đó, anh ta đặc biệt nhấn ga vọt nhanh hơn. Chẳng ngờ xe chạy đến cầu Ba Tiêu ở Đẩu Lục, xe đằng trước đột nhiên chạy chậm lại. Chồng tôi nhất thời sơ ư, thắng gấp xe, mũi xe hơi chếch về bên trái, tông vào đuôi chiếc xe truck đối diện, khiến cho đầu xe chúng tôi biến dạng, c̣n bị xe truck lôi đi một đoạn. Trước tiên là đụng ngă các hộp cơm trong xe, đó là cơm hộp do tôi chuẩn bị cho mọi người. Ngay sau đó là chấn động mạnh mẽ sau khi bị tông. Trong khoảnh khắc mắt nh́n rợn người ấy, quả thật rất khó dự đoán người trong xe sẽ như thế nào! Dân cư bên đường đă cho rằng chúng tôi ắt “dữ nhiều, lành ít”, v́ nơi ấy thường xuyên xảy ra chuyện không may, không chết th́ cũng bị thương!

          Xe truck ngừng lại, xe chúng tôi tự nhiên cũng dừng lại theo. Ngừng xe giữa đường, trong xe chúng tôi ngó nhau, chỉ có đầu tôi và chân bị va chạm nhẹ, chứ con gái, chồng tôi, và người bạn toàn thân hoàn hảo. Tôi khi đó đang mang thai đến tháng thứ tám. Trong khi nhà tôi mở cửa xe méo mó, cong quẹo ra, chúng tôi nối đuôi nhau bước xuống. Các cư dân thật sự đổ mồ hôi lạnh thay cho chúng tôi, thấy chúng tôi chẳng bị tổn hại ǵ, rất ngạc nhiên, hỏi: “Đầu xe bị đụng bẹp lép như thế, sao quư vị có thể may mắn thoát nạn?” Lại thấy tôi bụng to phè phè, họ càng thập phần lo lắng cho tôi. Chúng tôi trăm miệng một lời, trả lời họ: “V́ chúng tôi thường niệm Phật” (bạn tôi tŕ chú Đại Bi, tôi và chồng th́ tŕ Tâm Kinh và thánh hiệu A Di Đà Phật, ngay cả con gái tôi cũng niệm theo tôi). Trong khoảnh khắc cấp bách, tâm tôi lập tức hét lớn: “A Di Đà Phật!” Khẩn cầu chư Phật, Bồ Tát bảo vệ, gia hộ, cho nên tôi tin tưởng chắc chắn: Chúng tôi b́nh an, nhất định là do Phật, Bồ Tát gia tŕ. V́ để bảo đảm thai nhi trong bụng b́nh an hay không, tôi đến khoa phụ sản thuộc bệnh viện tỉnh lập Đẩu Lục gần đó để kiểm tra. Bác sĩ phụ khoa sau khi cẩn thận dùng sóng siêu âm kiểm tra, đă bảo tôi: “Chúc mừng chị! Thai nhi rất khỏe (b́nh thường), lại c̣n là một thằng nhóc”. Lúc ấy, tôi mới hết lo. Sau đó, bố chồng tôi biết chúng tôi xảy ra chuyện, vội t́m đến chỗ xảy ra tai nạn, trông thấy cái xe tanh bành, lại chẳng thấy chúng tôi, sợ tới mức mặt lăo nhân gia tái mét, tự nghĩ chẳng phải là tai nạn bi thảm ư? Măi cho đến khi chồng tôi êm đẹp xuất hiện trước mặt cụ, lăo nhân gia mới nhẹ nhơm thở phào!

          Mấy hôm trước khi gặp chuyện không may, mắt trái tôi giật đùng đùng, đă là điềm báo chẳng lành rồi. Nào ngờ, mấy hôm sau đúng là xảy ra chuyện, mà tôi cũng lại gặp chuyện nghiêm trọng nhất trong các chuyện chẳng nghiêm trọng. Ngày hôm đó, cố tránh xe lửa v́ mục đích đến chùa Nông Thiền ở Đài Bắc tham dự lễ khánh đản Địa Tạng Vương Bồ Tát, mà cũng là lễ xuất gia của hai vị sư phụ Quả Huy và Quả Thuần, cũng chắc là do chúng tôi chẳng có phước khí! Nếu không, chắc là tôi làm sai chuyện ǵ ở đó, mới khiến cho tôi không thể tham dự. Khi xảy ra tai nạn xe cộ, cớ sao mấy hộp đựng thức ăn bị đụng nát đầu tiên, văng tung tóe ra đất, mà chúng tôi đều b́nh an vô sự? Nghĩ lại trước sau, vốn có bốn hộp đựng thức ăn, hai hộp chay, hai hộp mặn. Nhà tôi và con gái ăn mặn, cho nên tôi chuẩn bị như thế. Có lẽ đúng là chư thiên và thần hộ pháp cảnh cáo tôi, tôi đă thọ tại gia Bồ Tát Giới, mà chẳng chú trọng các quy củ trong Phật giáo cho lắm, lại càng chẳng câu nệ h́nh thức. Trước khi đến lễ bái chùa, miếu, thân tâm phải thanh tịnh, tốt nhất là có thể ăn chay trước đó ba ngày, khiết tịnh thân thể th́ mới là lễ tắc cung kính đối với Phật, Bồ Tát. Đă được giáo hóa như vậy, khiến tôi chẳng dám hành xử qua loa nữa! Mọi sự đều chiếu theo quy củ.        

          Sau hơn một tháng gặp chuyện không may, tôi quả thật sanh được một bé trai, bộ dạng khá trắng trẻo, thanh tú. Sau khi bé được sanh, cổ rất có sức, tự động xoay chuyển. Ở đây, tôi ắt cần phải đặc biệt cảm tạ thầy Quả Thuần và chị tôi. Nếu không phải do họ từ bi trợ niệm kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện cho tôi, chỉ sợ con tôi đă sớm chẳng c̣n nơi nhân thế. Sau khi kết hôn, tôi sanh được một gái. Sau đó, mỗi năm đều mang thai, nhưng hai lần đều chẳng b́nh an. Do vậy, cũng tạo thành thói quen sanh non, khiến cho tôi gần như chẳng có dũng khí tính sanh con nữa. Măi cho đến năm trước, tôi cùng chị tới tham dự Phật Thất tại chùa Nông Thiền ở Đài Bắc. Ngày Phật Thất viên măn, tôi quỳ trước Phật, khẩn cầu Phật, Bồ Tát ban cho tôi một quư tử, lại c̣n có thể sanh nở thuận lợi, b́nh an. Quả nhiên, Phật, Bồ Tát thật sự thỏa nguyện cho tôi. Trở về không lâu sau, tôi đích xác lại mang thai. Có lẽ nghiệp chướng của tôi quá nặng, khiến cho tôi chẳng được b́nh an. Mang thai đến tháng thứ hai, tôi lại bắt đầu có hiện tượng sản đạo xuất huyết. Càng thêm tai hại là đồ ăn ǵ cũng chẳng thể nuốt nổi, thân thể càng thêm mất sức. Hễ đi lại bèn chóng mặt, hoa mắt, đúng là bấy bớt không chịu nổi một kích! V́ thế, bác sĩ đề nghị lấy đứa nhỏ ra. Nếu không, tôi sẽ suốt đời nằm bẹp trên giường dưỡng sức, bất cứ việc nặng nào cũng đều chẳng thể làm. Con gái cũng chẳng thể ôm nổi. Trời ơi! Ngoài đứa con đầu ra, những lần mang thai khác đều là như vậy. Thật sự khiến cho tôi cảm nhận nghiệp chướng sâu nặng, thường là khi chúng ta yếu ớt nhất, chẳng có sức chống đỡ, nghiệp chướng thường hiển hiện.

          Chị tôi ở Cơ Long biết tôi lại sắp sanh non, rất lo lắng, lại nghĩ không ra nên làm thế nào để giúp tôi. Th́nh ĺnh một ư nghĩ xẹt ra trong đầu, chị bèn gọi điện thoại cho tôi kể về t́nh huống gần đây của Xí Thành (Xí Thành là tục danh của thầy Quả Thuần. Khi bé là hàng xóm, đều cùng họ Lương, cho nên t́nh cảm như anh em). V́ t́nh h́nh của tôi, thầy Quả Thuần đặc biệt đối trước Phật, hết sức kiền thành niệm một quyển kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Sau này, chị tôi kể lại chuyện đó qua điện thoại. Nhớ rơ hôm đó là buổi chiều, tôi vẫn đang suy yếu nằm trên giường, v́ sợ lạnh cho nên hai cánh cửa sổ đều đóng chặt. Điều kỳ diệu là đỉnh đầu của tôi có một luồng gió nhẹ thổi tới, nhất thời làm cho tôi cảm thấy thanh lương. Đấy chẳng phải là sự thanh lương b́nh thường. Tôi nh́n hai cửa sổ đóng chặt, sao lại có luồng gió mát ấy? Vài ngày sau, chị tôi từ Cơ Long gọi điện thoại về, hỏi tôi thân thể có đỡ hơn không? Chị cũng cho tôi biết đă gọi điện thoại cho thầy Quả Thuần, thầy đă niệm cho tôi một bộ kinh Địa Tạng. Nguyên lai luồng gió mát chiều hôm ấy là do họ từ bi cảm ứng Phật, Bồ Tát gia tŕ cho tôi. Tôi rất cảm kích hai vị đă giúp đỡ tôi, tôi càng cảm tạ chư Phật, Bồ Tát bảo vệ và [cảm tạ] Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi gia tŕ. Do vậy, tôi liền bắt đầu mỗi ngày tụng một quyển kinh Địa Tạng. Tới tháng thứ sáu, bèn phát tâm dùng đất sét tạc một bức pháp tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát, đem phun sơn vàng mạ để thờ phụng, nh́n thấy rất trang nghiêm.

          Vẻ trang trọng và tướng mạo của con tôi mười phần giống như tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát tôi đă đắp nặn. Sau khi nó sanh ra, lập tức được người trong nhà và họ hàng yêu thương hết mực. Người không quen biết vừa gặp nó cũng chẳng chống nổi sự hấp dẫn từ khí chất của nó, phải ngắm nghía nó. Trước mắt, chúng tôi đă chuyển nhà từ Đẩu Nam đến gần Đẩu Lục. Chồng tôi đă nghỉ việc trước đây, cùng tôi mở một quán nhỏ bán đồ chay. Tôi phát tâm hễ sư phụ xuất gia nào đến quán, sẽ đều nhất loạt cúng dường. Đấy là một chút t́nh báo đền của chúng tôi đối với Phật pháp. Trong tương lai, nếu có sức lớn hơn, chỉ nguyện cả nhà đều có thể nỗ lực tuyên truyền Phật pháp. Rốt cuộc, trong thời đại hiện tại, c̣n có ǵ đáng quư hơn Phật pháp?

 

20. Sanh nở nguy ngập lại được giữ vẹn tánh mạng

Người đất Tương ghi

 

          Mùa Xuân năm Canh Ngọ (1930), vợ tôi có thai. Ba tháng trước khi sanh, thai bỗng bất động. Cầu thần, xem bói đều vô hiệu, lại chẳng dám uống thuốc; nhưng do bụng to, đi lại khó khăn, tâm thường lo sợ. Lại v́ tôi ăn chay học Phật, nếu có chuyện bất trắc, càng khiến cho người làng biếm nhẽ! Nhớ lại mười năm trước, có một vị Tăng, tiên đoán “vào lúc ba mươi sáu tuổi, phải cẩn thận đề pḥng sản nạn”, vừa khéo đúng hệt như lời thầy chiêm tinh bảo “coi chừng mắc nạn”. Do vậy, nóng ruột muôn phần, kinh hoàng, sợ hăi chẳng biết cách nào! Một đêm nọ, vợ tôi hướng về tôi khóc lóc, kể lể. Nghe lời ấy, tôi càng kinh hăi, chua xót cùng cực! Bỗng nhớ đến kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có thể bảo vệ người gặp tai ách về sanh nở. Nếu có ai hứa nguyện, chí tâm tụng kinh, tŕ tụng thánh hiệu, ắt được sanh nở b́nh an. Vừa mới dấy lên ư niệm ấy, tôi liền cảm thấy tâm thần an vui, khỏe khoắn, như băng tan ră. Sáng sớm hôm sau, đối trước Phật tâu tŕnh cặn kẽ. Chẳng ngờ, ngay đêm ấy, vợ tôi lâm bồn. Thai nhi vẫn thuận chiều sanh ra, nhau thai cũng theo ra. Nh́n xem, thân thai nhi đă hư nát, sao lại có thể xoay đầu xuống để thuận chiều sanh ra? Nếu chẳng phải do sức từ bi cứu khổ của Bồ Tát, làm sao được như vậy? V́ thế, tôi thệ nguyện hành Địa Tạng hạnh để nguyện báo ân Bồ Tát. Những người đồng bệnh tương lân trong nước, hăy chí thành tŕ tụng tôn kinh, phóng sanh, kiêng giết, ắt được sanh nở an khang, lời Phật chẳng hư huyễn. Chính tôi là một minh chứng vậy!

 

21. Tụng kinh cảm ứng

Vương Cẩn ghi

 

          Đối với mọi người mà nói, có thể là chuyện bé tí chẳng đáng nhắc tới, nhưng tâm tôi vẫn không nén được kinh hỷ, hớn hở. V́ hiện thời, gần đây tôi dọn nhà sang Đào Viên, đối trước hoàn cảnh mới mẻ, ôm ấp vô hạn hy vọng và khát khao, mưu tính một cuộc sống mới tươi sáng, đẹp đẽ. Nào ngờ, sự việc thường chẳng phải thuận ư như trong tưởng tượng. Do đổi việc, đúng là hết sức nhọc ḷng, xin gắn điện thoại cũng phải chờ đợi khá lâu. Mọi việc chẳng trôi chảy như thế, khiến cho tôi ngồi mốc meo xó nhà, tâm t́nh buồn bă tới cực điểm. Do vậy, theo thường lệ, tôi đến bàn Phật trong nhà để dâng hương, lễ Phật ba lạy, hướng về đức Phật nêu rơ tâm sự, mong mỏi tâm trạng thoải mái hơn. Bỗng dưng một niệm khởi lên, [nhớ tới] kinh Địa Tạng đă dạy: “Hữu sự tương cầu, cung kính lễ bái, tán thán, cập tụng Địa Tạng Kinh, định hội hữu cảm ứng” (Hễ có chuyện mong cầu, hăy cung kính, lễ bái, tán thán, và tụng kinh Địa Tạng, chắc chắn có cảm ứng). Do vậy, bèn tùy ư thỉnh một bản kinh Địa Tạng, tĩnh tâm đọc tụng. Tụng xong một quyển, bèn đứng dậy chắp tay hồi hướng, nguyện oán thân trái chủ trong bao đời sẽ nhờ vào công đức ấy mà mau được giải thoát, giúp tôi ngày sau mọi chuyện hanh thông! Trong khi tôi xá bái, ngưỡng vọng từ nhan của Bồ Tát, bỗng thấy nén hương trong lư hương sắp cháy hết, cuộn thành h́nh trái xoan, có phải là Địa Tạng Bồ Tát cho tôi cảm ứng đó chăng? Tro hương cuộn thành h́nh trái xoan có phải là biểu thị điều tôi cầu nguyện sẽ được viên măn? Chẳng phải! Chớ nên quá chấp trước, đó là vọng tưởng của chính ḿnh đấy thôi! Bồ Tát ơi! Con chỉ mong cục Điện Tín sớm sai người đến gắn điện thoại cho con là được rồi!

          Sáng hôm kế tiếp, dẫn con gái đến sở y tế chích ngừa, sau khi về nhà, tôi thấy trước cổng dán phiếu thông báo, trên đó viết: “Người từ sở Điện Tín vừa ghé, chủ nhân không có mặt, hôm sau sẽ đến gắn điện thoại”. Vừa nhận thấy như vậy, tôi rất vui sướng. Nhớ ngày hôm qua khấn nguyện, nay chẳng phải là linh nghiệm ư? Buổi chiều, hàng xóm cho biết, chồng tôi từ văn pḥng gọi điện thoại cho tôi biết: “Có nhà trẻ đă chấp nhận thuê tôi, muốn tôi lập tức đến đó thảo luận một số vấn đề. Đối với tin vui đột ngột này, đúng là chẳng dám tưởng tượng. Tôi nộp đơn xin làm việc tại nhà trẻ ấy đă hơn một tháng, chẳng có tin tức ǵ! Chẳng ngờ đến hiện thời, họ lại nghiễm nhiên mướn tôi. Đấy chẳng phải là công đức kỳ diệu do tụng kinh ư? Ḷng chan chứa niềm vui và cảm tạ, tôi đến trước Phật đài, cảm tạ Địa Tạng Vương Bồ Tát và chư Phật gia hộ. Đệ tử nay được hưởng Phật ân, phát nguyện từ nay mỗi tháng quyên tiền cứu tế người nghèo khổ, phóng sanh, giúp in kinh sách nhà Phật, ăn chay ngày Mồng Một và ngày Rằm mỗi tháng.

 

22. Ghi chép về sự linh cảm do đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

Lư văn Khải ghi

 

          Đảnh lễ thập phương tam thế Phật, hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát; đệ tử Huệ Đằng (pháp danh) kể từ khi phát tâm đọc tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và niệm thánh hiệu cho tới nay, đă có sáu chuyện cảm ứng, chưa dám bộc lộ. Gần đây, do lăo cư sĩ Tạ Chú Trần ở Đài Nam phát tâm in lại Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục, lại do cư sĩ Triệu A Nam gởi thư, dặn bảo ghi lại sáu câu chuyện linh cảm ḥng tạo lợi ích cho người đời. Văn Khải tự biết chướng sâu, huệ cạn, học vấn sơ sài, kiến thức thô thiển, chẳng khéo viết lách, không dám nhận lời. Triệu cư sĩ gởi thư thúc giục lần nữa, chẳng thể không nể t́nh, cho nên tôi nay đành dùng lời lẽ quê mùa trần thuật như sau:

          Ngày Ba Mươi tháng Bảy Âm lịch năm Dân Quốc 44 (1955), vào lúc sáng sớm, tôi mộng thấy mẹ tôi dặn tôi siêu độ cho cụ. Sáng hôm đó, tôi liền đến chùa Thiện Đạo ở Đài Bắc để tham dự pháp hội Địa Tạng, theo đại chúng đọc kinh, tụng niệm thánh hiệu. Sau khi viên măn, kể lại giấc mộng với bạn bè, được đạo hữu căn dặn: “Chúng ta muốn cầu siêu cho cha mẹ, phải phát nguyện tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”. Tôi liền đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, đảnh lễ, phát nguyện: “Từ hôm nay trở đi, con phát tâm đọc tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và thánh hiệu, muốn trong ṿng một tháng, tụng hai mươi bốn bộ kinh, niệm mười vạn câu thánh hiệu, đem công đức ấy hồi hướng cho mẹ”. Chớp mắt đă tới kỳ hạn, đọc kinh và niệm thánh hiệu đă đều viên măn, mẹ tôi có đắc độ hay không, chẳng hề cảm ứng! Tôi biết đời trước ác nghiệp sâu nặng, chẳng phát đại nguyện th́ sẽ không được. V́ thế, phát đại nguyện lần thứ hai như sau: “Kể từ mồng Một tháng Chín âm lịch năm Dân Quốc 44 (1955) cho tới Ba Mươi tháng Bảy âm lịch năm Dân Quốc 45 (1956), lại phát tâm tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện năm trăm bộ, mỗi ngày niệm thánh hiệu một ngàn câu, và tận lực hành thiện hạnh hộ sanh (bảo vệ sanh mạng), phóng sanh”. Từ đấy về sau, bèn ghi chép từng chuyện hằng ngày để đôn đốc chính ḿnh đừng giải đăi.

          Như trong phẩm Như Lai Tán Thán của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đă chép: “Phổ Quảng! Nhữ dĩ thần lực, khiển thị quyến thuộc, linh đối chư Phật, Bồ Tát tượng tiền, chí tâm tự độc thử kinh, hoặc thỉnh nhân độc, kỳ số tam biến, hoặc chí thất biến. Như thị ác đạo quyến thuộc, kinh thanh tất thị biến số, đương đắc giải thoát” (Này Phổ Quảng! Ông dùng thần lực khiến cho các quyến thuộc ấy đối trước tượng chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc ba lượt hoặc đến bảy lượt. Quyến thuộc đang ở trong ác đạo như thế khi tiếng tụng kinh đủ số, sẽ được giải thoát). Phẩm thứ mười hai, tức phẩm Kiến Văn Lợi Ích chép: “Phục thứ Quán Thế Âm! Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu vị lai, hiện tại bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự, đản đương quy y, chiêm lễ cúng dường, tán thán Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, như thị sở nguyện, sở cầu, tất đắc thành tựu” (Lại này Quán Thế Âm! Nếu đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn cầu trăm ngàn vạn ức các nguyện, trăm ngàn vạn ức các sự trong vị lai hay hiện tại, chỉ nên quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, sở nguyện, sở cầu như thế đều được thành tựu). Tôi đọc hai phẩm ấy, nước mắt đầm đ́a. Học Phật quá trễ, đọc kinh quá muộn, khiến cho cha mẹ, lục thân quyến thuộc nhiều đời của tôi luân chuyển trong lục đạo, hứng chịu vô lượng vô biên nỗi khổ. V́ thế, lại phát đại nguyện lần thứ ba: “Một, đệ tử Huệ Đằng kiền thành đọc kinh và niệm thánh hiệu, ngưỡng cầu nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát đại từ, đại bi, đại trí, đại huệ, đại nguyện, đại lực cứu độ cha mẹ của con trong nhiều đời sớm thoát ṿng khổ. Cha mẹ hiện tại sớm sanh về Cực Lạc. Hai, cầu Đại Sĩ gia bị phước báo, đệ tử sẽ học theo ngôn hạnh của Bồ Tát, ôm ḷng từ bi, nguyện tiêu hết thảy ác nghiệp trong đời trước và đời này, tăng trưởng trí huệ, gặp chuyện cát tường; cũng cầu cho hai đứa con tiền đồ thuận lợi”. Sau khi tự phát nguyện, trong ṿng ba bốn tháng, Đại Sĩ Tự đă lần lượt ban cho các thứ linh cảm:

          1) Thân thể hèn mọn này từng bị bệnh ngoài da đă nhiều năm chẳng hết, ngứa ngáy khó chịu, thuốc men vô hiệu. Sau khi đọc kinh, dần dần lành bệnh.

          2) Sau khi xí nghiệp kinh doanh của cháu Tường ở Hương Cảng đóng cửa, con dâu lại bị bệnh, cháu nó quyết ư đến Đài Loan để t́m việc khác. Hộ chiếu nhập cảnh đă nhận được rồi, sắp lên đường, bỗng nghe thấy một hăng ngoại thương lớn ở Hương Cảng cần tuyển thêm một nhân viên mới, cháu may mắn được tuyển dụng, con dâu cũng lành bệnh.

          3) Cháu Trạch làm việc tại một hăng ngoại quốc tại Hương Cảng, đồng thời học hàm thụ tại một đại học Mỹ, đă tốt nghiệp với chứng chỉ về ngành điện lạnh. Đúng dịp một xí nghiệp ngoại quốc tại Hương Cảng tuyển mộ một quản lư viên điện lạnh, cháu Trạch bèn gởi đơn xin việc, được giám đốc của hăng gọi đi phỏng vấn, rốt cuộc được tuyển dụng. Viên giám đốc c̣n nói: “Có khoảng hơn hai trăm người có học vấn ưu tú hơn anh, tôi chỉ tuyển ḿnh anh…” Đấy chẳng phải là do Đại Sĩ gia bị th́ là ǵ vậy? Cháu Trạch không biết kế toán, lại do ban quản trị mời kế toán viên cao cấp dạy suốt ba tuần, điều sang làm việc tại chi nhánh ở Lưu Cầu (Ryukyu Islands). Đấy cũng chẳng phải là do sức của Đại Sĩ ư? Cháu Trạch thầm nghĩ đến hồng ân của Đại Sĩ, không ǵ để báo đáp, cho nên thề hằng ngày đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện suốt đời không thiếu sót. Ngày Mười Bảy tháng Mười năm Dân Quốc 45 (1956), đọc năm trăm bộ viên măn, tôi thầm nghĩ cách nhau mười một ngày, hai cháu đều có việc làm ổn định, đấy chẳng phải là do đọc kinh bèn được Đại Sĩ linh cảm hay sao?

          4) Con dâu tôi là Tĩnh, là sinh viên tốt nghiệp từ đại học Phục Đán, chưa có việc làm, muốn t́m việc nhưng chưa được. Kể từ sau khi tôi phát nguyện đọc kinh, có một hăng buôn nọ tại Hương Cảng tuyển mộ một nhân viên văn thư. Lúc đó, [chồng nó là] cháu Tường đă đi làm, cháu Tĩnh cũng chẳng có ư sốt sắng t́m việc, do bệnh mới khỏi, liền đến đó coi người khác tham gia tuyển lựa ra sao cho thỏa ḷng ṭ ṃ. Nào ngờ người trong hăng cũng trao cho cháu nó bài thi. Cháu Tĩnh bèn tùy ư viết lách, trong hơn mười bảy người, cháu được tuyển dụng. Đại Sĩ gia bị, há có thể nghĩ bàn ư?

          5) Chiều ngày Ba Mươi tháng Giêng năm Dân Quốc 45 (1956), khi đọc kinh, tôi bỗng nghĩ mẹ đă được giải thoát hay chưa? Bèn đối trước tượng Đại Sĩ, quỳ gối cầu nguyện rằng: “Đệ tử Huệ Đằng, ngưỡng cầu Bồ Tát chỉ dạy mẹ con có được sanh về Tịnh Độ hay không? Như trong kinh đă dạy: ‘Chí tâm tự độc thử kinh, hoặc thỉnh nhân độc, kỳ số tam biến, hoặc chí thất biến, như thị ác đạo quyến thuộc, kinh văn tất thị biến số, đương đắc giải thoát’ (Chí tâm tự đọc kinh này, hoặc cậy người khác đọc, số đến ba lượt, hoặc bảy lượt, quyến thuộc trong ác đạo như thế, sẽ được giải thoát). Đệ tử đă đọc kinh này một trăm ba mươi mốt bộ, nhưng chưa được Đại Sĩ chỉ bảo, trong tâm hoảng sợ”. Cầu nguyện đến ngày thứ ba (ngày mồng Hai tháng Hai), vào lúc năm giờ sáng, đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần trên giường, bỗng nghe tiếng mẹ như thuở c̣n sống gọi nhũ danh của tôi: “Mau đến đây! mau đến đây”. Tôi nghe tiếng mẹ, ḷng vui sướng như điên, nói: “Mẹ đă trở lại! Mẹ đă trở lại”. Thân tâm cảm nhận vui sướng vô biên, vội xoay người ra ngoài, t́m đến nơi có tiếng của mẹ. Bỗng phát hiện một chỗ rộng lớn, u nhă, tương tự như cảnh tượng của Di Ḥa Viên[7]. Đường xá bằng phẳng như lưu ly, sáng ngời như gương, soi bóng một người nữ ăn vận theo kiểu cung đ́nh, cười với Văn Khải. Tôi chăm chú nh́n xem là ai, tâm nghĩ người này chắc là mẹ ḿnh, vội bước nhanh tới, toan đảnh lễ thỉnh an. Sắp tới gần, cảnh giới đẹp đẽ hoàn toàn tiêu mất. Nghĩ là mẹ đă sanh lên trời, hoan hỷ, hớn hở, bừng tỉnh, vẫn là một giấc mộng. Tuy là cảnh trong mơ, chẳng phải là Đại Sĩ bi tâm chỉ dạy ư? Cảm ân vô tận! Hôm sau, gặp lăo pháp sư X… kể lể giấc mộng, được sư khai thị rằng: “Mẹ ông sanh thiên chẳng ngờ chi nữa! Nếu sanh về thế giới Cực Lạc, sẽ hiện h́nh tượng Bồ Tát”.

          6) Vợ tôi năm nay gần sáu mươi, vẫn chưa có cháu, trong tâm lo buồn. Tôi lại nghĩ Đại Sĩ thường linh cảm ban ân, cho nên lại phát nguyện thứ tư như sau: “Đệ tử Huệ Đằng, ngưỡng cầu Bồ Tát ban thưởng cháu ngoan”. Phát ra cái nguyện ấy vào tháng Ba năm Dân Quốc 45 (1956). Trong tháng Bảy năm ấy, quả nhiên cháu Tường gởi thư báo tin cho em trai là cháu Trạch, bảo: “Chị dâu em đă mang thai, nay đă sanh một cháu trai đặt tên là Bảo Anh”. Tôi nhận được tin vui, khóc lóc hai lượt. Nếu ai hỏi: “Được tin có cháu phải mừng, sao lại khóc lóc?” Thưa rằng: “Tôi nhiều lượt được Đại Sĩ gia bị, ân ấy vô tận, tự hỏi dùng công đức ǵ để báo đền ân ấy? Do vậy, mừng thẹn chen lẫn, khôn ngăn rơi nước mắt”.

          Văn Khải mong báo hồng ân của Đại Sĩ sâu đậm, chỉ có cách đời đời cho đến hết mạng hiến dâng thân mạng, tin nhận, phụng hành, hoằng dương Phật pháp, kiêng giết, phóng sanh, khuyên khắp các vị đồng chí đồng đạo cùng đọc kinh điển, cùng niệm thánh hiệu, cùng cầu cho cha mẹ nhiều đời sớm thoát ṿng khổ, cùng cầu cha mẹ hiện đời cùng tu Tịnh nghiệp, cùng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Phật quả. Văn Khải tường thuật đại lược sáu chuyện linh cảm do đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và niệm thánh hiệu, văn chương quê kệch, thô thiển, nhưng toàn là lời lẽ chân thật, chẳng dám nói dối. Lại thưa: Phát tâm từ ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Dân Quốc 44 (1955) cho đến ngày Hai Mươi Tám tháng Mười năm Dân Quốc 45 (1956), tính ra đă đọc một ngàn năm trăm mười bảy bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, tụng niệm thánh hiệu chưa hề gián đoạn. Sau này, vẫn tiếp tục đọc thánh kinh, tụng thánh hiệu, chẳng có lúc cùng tận. Phàm những ai đồng chí đồng đạo với tôi, thật sự có thể tin nhận lời tôi, hăy sớm phát tâm, đọc thánh kinh, tụng thánh hiệu, ắt sẽ đạt được vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, có thể báo ân cha mẹ trong hiện đời, mà ân cha mẹ trong nhiều đời nhiều kiếp cũng có thể đáp đền!

 

23. Địa Tạng Vương Bồ Tát với Đạo An thượng nhân

Hành Ngọc ghi

 

          Đại khái là từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, tôi đă kết duyên chặt chẽ với Địa Tạng Bồ Tát, cho nên đời này mới có nhân duyên thù thắng như thế. Con trai thứ của tôi luôn mong đi du học tại Mỹ, giống như kiếm một giọt nước trong sa mạc, gian khổ như thế đó! Vào dịp thi tuyển du học hằng năm, tôi chẳng mong con tham dự. Điều thứ nhất là kinh tế của tôi chẳng dư dả để cho con xuất ngoại du học. Thứ hai là khi con tôi đi thi, nó sẽ mang tâm t́nh chẳng ăn, chẳng ngủ, khiến cho tôi bất an. Hơn nữa, nó đang làm việc tại công ty hàng không Trung Hoa, nghe nói mọi người đều khen nó làm việc giỏi giang. Nói thật ra, cũng là do Bồ Tát gia bị: Đứa nhỏ ấy chưa hết hạn nhập ngũ, đă ứng tuyển cho công việc này. Ngày thứ hai sau khi giải ngũ, bèn đi làm ngay. Bồ Tát biết tôi không có tiền dành dụm, đứa con tánh t́nh nóng vội, chẳng có việc làm là không được. Có thể thấu hiểu cảnh khổ của tôi, khiến cho mọi chuyện đều được như nguyện, th́ chỉ có đấng cao thượng Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát!

          Năm nay, đứa con tham dự cuộc thi tuyển chọn du học sinh, tôi trọn chẳng quan tâm chút nào, tôi nghĩ cứ để cho Bồ Tát an bài đi! Đứa con vừa bận bịu với công việc, vừa chuẩn bị dự thi tuyển lựa du học sinh, lại cấp tốc xin chứng thư học bổng từ nước Mỹ. Chuyện xin chứng thư học bổng lại càng mầu nhiệm hơn nữa! Trong lúc đi lính, con tôi quen một người bạn họ Tạ. Do công việc của người ấy chẳng tốt lắm, con tôi giới thiệu anh ta vào công ty hàng không Trung Hoa, cho nên hai người t́nh nghĩa như tay chân, không có chuyện ǵ giấu nhau. Anh chàng họ Tạ đă quen bạn gái nhiều năm, đă bàn tới chuyện kết hôn, không ngờ cô ta lại bay sang Mỹ kết hôn với kẻ khác. Anh chàng họ Tạ buồn bă không vui. Con tôi nhiệt thành đối với người khác, dùng đủ mọi phương pháp an ủi anh chàng họ Tạ. Học một chút Phật pháp từ tôi để khuyên giải, rốt cuộc thuyết phục được anh chàng họ Tạ. Không ngờ chuyện xảy ra chưa đầy hai năm, cô gái ấy trong ḷng áy náy, bỗng xin học bổng ở Mỹ cho anh chàng họ Tạ. Con tôi bèn hỏi anh ta trường nào ở Mỹ, giáo sư nào? Anh chàng họ Tạ nhất nhất nói ra. Con tôi bèn rất mạo muội viết một bức thư bằng tiếng Anh, gởi sang đại học nước Mỹ. Vị giáo sư ấy (người Mỹ) chưa hề gặp mặt, đồng ư một trăm phần trăm. Lại c̣n khích lệ con tôi viết thư bằng tiếng Anh khá lắm, rất nhanh đă gởi chứng thư học bổng đến. Đấy chẳng phải là kỳ tích ư?

          Đêm trước hôm dự thi, tôi dẫn đứa con, mang theo một chén nước, đến gặp Đạo An thượng nhân, thỉnh cầu thầy gia bị. Ngài chấp thuận, lại c̣n hết sức hoan hỷ. Tôi nghĩ nhất định có phần nắm chắc, v́ Ngài rất ít nói chuyện. Có khi hỏi không đúng vấn đề, Ngài sẽ thường chẳng lên tiếng. Tôi thật sự sợ phong cách nghiêm túc ấy, nhưng những ai thân cận với Ngài, chẳng có ai không nói Ngài có ḷng từ bi tràn trề, hào sảng, thẳng thắn, khiến cho người khác có cảm giác thân thiết thích tiếp cận. Sáng sớm bữa đi thi, đứa con đối trước Phật lạy ba lạy, cũng chẳng biết nó niệm ǵ nữa? Nó rất thành tâm uống hết nước do Đạo An thượng nhân gia tŕ. Tôi tươi cười, đặt tượng Địa Tạng Bồ Tát và Quán Âm Bồ Tát vào túi áo của nó, c̣n bảo: “Hôm nay, Bồ Tát đều ra tay theo con đi thi, nhất định sẽ măn nguyện”. Năm giờ chiều, con tôi lê tấm thân mệt mỏi, nhưng vẻ mặt tươi cười, xách hành lư vội vă quay về Cao Hùng đi làm. Hàng xóm đều giơ ngón cái khen ngợi tôi có đứa con ngoan ngoăn. Tôi thật sự chẳng dám nhận danh hiệu này. Tôi rất sợ con tôi thất vọng, một tấm ḷng từ của tôi hoàn toàn gởi gắm vào thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát.

          Ngày Mười Bốn tháng Bảy, con tôi bỗng quay về: “Mẹ ơi! Con đậu rồi”. Nó đưa cho tôi xem chỗ khoanh đỏ trên báo. Đứa con lớn nói giỡn: “Không chừng trùng tên họ”. Tôi nói: “Chẳng khéo trùng hợp như thế đâu!” Con tôi đến Bộ Giáo Dục đối chiếu, quả thật thi đậu. Ngày hôm sau, nó trở về đi làm, hết thảy thủ tục xuất cảnh giao cho anh nó lo giùm: “Con nhất định phải đi, nhân duyên ở bên ngoài của con rất tốt”. Tới bộ Ngoại Giao, phải điền tất cả mă số của các giấy tờ lên một tờ đơn xin [xuất cảnh]. Chỗ chật chội, chữ lại nhiều, đứa con lớn viết sai chữ, một vị tiên sinh đứng cạnh tôi tự động dùng gôm tẩy đi, viết lại. Viết xong, chẳng đợi tôi cám ơn, đă chẳng thấy h́nh bóng đâu nữa. Đứa con lớn và Văn Nhàn (bạn gái của đứa con thứ) rất ngạc nhiên. Hết thảy thủ tục chuẩn bị xong xuôi, chờ tới cái ải cuối cùng là thị thực, khiến cho tôi căng thẳng. Cần gởi vào Ngân Hàng hai chục vạn đồng. Một người bạn chẳng thân lắm của con tôi ở Cao Hùng cho mượn khoản tiền hai chục vạn đồng để gởi vào ngân hàng, cầm sổ trương mục về. Thị thực chưa làm xong, con tôi đă xin nghỉ việc, coi như đă nắm chắc mười phần bay sang Mỹ. Nghe nói đại sứ quán Hoa Kỳ đối với chuyện cấp hộ chiếu đặc biệt khó khăn: Tiền kư quỹ nhiều th́ nói là do tham lam mà đến [Mỹ], không đủ th́ càng chẳng thể xin thị thực được. Họ viện cớ là quá nhiều điểm số khảo thí là do gian lận, chẳng đáng bàn tới! Đúng là “t́m xương trong đậu hủ”, tôi chỉ nhất tâm cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát gia bị.

          Đến ṭa đại sự Mỹ xin thị thực, có những người phải xếp hàng từ lúc ba giờ sáng. Con tôi tám giờ mới đi, ngày hôm đó, tôi tụng hai bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện giống như cầu cứu. Đây là cái ải cuối cùng, măi cho đến khi con tôi trở về, tôi mới an tâm. Con tôi nói: “Lúc con tới, đă quá muộn, người đông như nêm cối. Phía trước có một bạn học gọi con, cho con đứng số chín ở chỗ nó. Nếu không, phải chờ tới mai mới xong! Mẹ à! Có người chưa được chấp thuận, khóc ṛng tại đó!” Tôi nói: “Đương nhiên là sẽ khóc! Mất rất nhiều tâm huyết mới được các bộ môn thông qua, mà không qua được cái ải cuối cùng, chẳng khiến người ta đau ḷng ư?” Con tôi trước khi đi, đến từ biệt Đạo An thượng nhân, Ngài tặng cho nó một tượng Phật và tràng hạt thỉnh từ Nhật Bản về, lại c̣n dặn đi dặn lại: “Học hành xong, nhất định phải trở về tổ quốc, đừng quên mất chúng tôi…” Con tôi cá tánh rất mạnh, lần này tiến bước lớn trong việc tin Phật hoàn toàn là do sức thân giáo của Đạo An thượng nhân, khiến cho con tôi cảm động, sùng bái, bội phục sát đất. Đúng là chẳng đơn giản!

          Trường đại học tại Mỹ khai giảng vào ngày Hai Mươi Sáu tháng Tám, vé máy bay của hăng Trung Hoa cho tháng Tám đă được đặt mua hết rồi, con tôi dùng vé máy bay miễn phí, căn bản là không có cách nào được ưu tiên. Con tôi nhờ cha bạn nó đặt vé, đúng ngày mồng Mười tháng Tám đáp phi cơ sang Mỹ. Tôi chưa báo với bất cứ bạn bè nào, chỉ có vị thầy giáo rất thương nó, con trai lớn, con dâu, và Văn Nhàn v.v… đưa nó ra sân bay. Tôi có cảm giác không thật, chỉ cảm nhận ân đức của Phật, Bồ Tát đối với tôi, chẳng có cách nào h́nh dung được! Sau này, sẽ chẳng có người cứ ở bên cạnh tôi rù ŕ “muốn sang Mỹ du học”, khiến cho tôi có khi khôn ngăn bực bội. Tuy tạm thời thiếu mất một đứa con mua thứ này thứ nọ hiếu kính tôi, thật ra, ḷng tôi như buông xuống một tảng đá lớn. Sau này sẽ càng tinh tấn nơi đạo hơn, chẳng lười nhác, chẳng biếng trễ!

          Con tôi gởi thư cho biết, nó tới Mỹ, do một thân nơi đất khách quê người, nhất thời t́m không ra chỗ ở. Một người Hoa không quen biết cho nó ở nhờ mười ngày, t́m giùm pḥng cho nó gần trường học. Lại gặp bạn học cùng thuê, mỗi tháng chỉ tốn 120 Mỹ kim. Pḥng lại trải thảm, có sẵn các trang bị, hoa lệ tột cùng. Chưa đầy nửa tháng sau, nó lại t́m được việc gần trường. Mỗi tháng, trừ tiền thuê nhà và chi tiêu ra, c̣n có thể dư được mấy chục đồng. Tại Đài Loan chẳng dễ t́m việc, công việc tại Mỹ càng khó hơn, huống hồ lại là hoàn cảnh lạ lẫm ư? Đấy chẳng phải là ân đức của Địa Tạng Vương Bồ Tát ư? Gịng lệ cảm ơn chẳng thể nào ngăn được!

 

24. Chân ngôn chín chữ

Tŕnh Quán Tâm ghi

 

          Một buổi chiều mưa lạnh tầm tă, tâm huyết dâng trào, tôi đặc biệt ṃ đến thăm bạn Huệ Tinh đang sống ở ngoại ô. Cùng sống tại một thành phố, mấy năm nay, nghiễm nhiên chỉ gặp mặt một lần. Điều đáng an ủi là t́nh bạn của chúng tôi kiên cố, bậc quân tử giao du với nhau đạm bạc như nước, quyết chẳng v́ không thường gặp mặt mà xa mặt cách ḷng! Cô ta hay nói, tôi lặng lẽ nghe, một khi nói chuyện hăng say, đă sớm quên bẵng thời gian. Ba con chó nằm bên chân Huệ Tinh có cùng một tư thế, hai vuốt hướng ra trước, đầu đặt sát đất, trong mắt ngời sắc cầu vồng nâu lẫn vàng, nghiễm nhiên cũng là thính giả trung thực của cô ta! Trong tai vang lên chín chữ chân ngôn, trong tâm niệm chân ngôn chín chữ. Cô sốt sắng kể lại kinh nghiệm chân thật của chính ḿnh. Sức hấp dẫn và cảm động của cô ta, khiến cho cơi ḷng tôi một phen chấn động mănh liệt.

          Cô ta kể: - Một hôm, đang đi một ḿnh trên đường, chợt có tiếng vang lên rành mạch bên tai cô ta: “Ngươi vẫn phải nên niệm chân ngôn chín chữ”. Ngơ vắng chỉ vang lên tiếng bước chân của chính ḿnh, đích xác là gần đó chẳng có một bóng người. Cô ta buồn bực suy nghĩ: “Từ đâu phát ra mệnh lệnh vô căn cứ này? Chân ngôn chín chữ là ǵ vậy? Vừa rồi âm thanh đă nói rơ ràng: “Ngươi vẫn phải nên niệm chân ngôn chín chữ”, chứng tỏ chính ḿnh trước đó đă có niệm qua rồi. V́ thế, một bầu nghi t́nh cuồn cuộn trong ḷng. Hỏi rất nhiều người, cũng chẳng ai biết chân ngôn chín chữ rốt cuộc là nói về điều ǵ? Không lâu sau, vào một buổi sáng thanh tĩnh, cô đối trước Phật dâng hương, lễ bái, ngẩng đầu thấy trên tường treo một bức vẽ Địa Tạng Vương Bồ Tát ngự trên sen hồng trong lửa đỏ. Trong lúc vô ư, cô ta niệm chín chữ lớn trên đó: “Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Khi ấy, cô hoát nhiên đại ngộ, vui mừng khôn xiết! Đúng là đi nát giày cỏ chẳng t́m thấy, t́m được rồi hoàn toàn chẳng tốn công! Nguyên lai cô một mực niệm “Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”.

          Nói chung là hễ có thân quyến, bằng hữu qua đời, cô đều niệm thánh hiệu [Đại Sĩ] để hồi hướng siêu độ. Điều chẳng thể nghĩ bàn nhất là mỗi người được hồi hướng, nhất định sẽ xuất hiện một lần trong mộng, cho thấy rơ mặt, sau đó chẳng gặp lại nữa! Lần tạo cho cô ta ấn tượng sâu đậm nhất là một người đầy tớ nam trong nhà khi cô c̣n bé. Người ấy trung thực, lanh lợi, lúc cô ta hai ba tuổi, thường dẫn cô ta đi chơi, hoặc dẫn cô đi dạo phố. Sau đó, ông ta rời nhà cô, vào lính. Thuở đó, nội chiến liên tục, chẳng lâu sau, bèn chết trận ở vùng biên cương. Năm trước, cô ta bỗng nhớ tới người đầy tớ trung thành thuở nhỏ, nghĩ ông ta chết trận nơi đất khách, lưu lạc tha hương, mờ mịt cát vàng, xương trắng, ai sẽ siêu độ, cúng bái cho ông ta? Do vậy, phát nguyện niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát suốt một tháng để hồi hướng cho cô hồn của vị ấy. Một đêm, bỗng mộng thấy một thanh niên quen thuộc, mặc bộ y phục màu lam, đứng trước mặt cô ta, hết sức cung kính, cười tươi hơn hớn, nhẹ nhàng nói với cô ta: “Tôi là X….” Nói xong, gật đầu, đi mất.

          Ngoài ra, có lần cô bị bệnh suyễn tái phát, phát sốt nằm mê man. Thấy một bà cụ nhà quê, tay cầm chiếc giỏ trúc, bồi hồi đi lại trên không trung. Cô ta thấy cụ là người xa lạ, chưa từng gặp gỡ trong cuộc đời, tuy trong ḷng lấy làm lạ, nhưng lười chẳng để ư tới. Sau đấy, chẳng biết như thế nào, bà cụ ngồi cạnh giường cô ta, sờ tay cô. Cô ta cũng tự nhiên nói: “Tôi khó chịu quá, xin bà xem bệnh cho tôi, cho tôi uống chút thuốc!” Bà cụ lật tấm vải che giỏ trúc ra, trong ấy có một khối giống như nhụy hoa màu vàng, lại bảo cô ta: “Cô không cần uống thuốc! Vừa rồi, tôi đă cho cô uống!” Cô uống thuốc lúc nào đâu, cũng chẳng biết nói sao. Sau đó, có người giới thiệu một bác sĩ chữa bệnh cho cô, cho loại thuốc giống hệt như khối nhụy hoa màu vàng ấy. Sau đó, bệnh của cô ta dứt hẳn, chưa hề tái phát.

          Cô ta đĩnh đạc kể, tôi nghe say sưa đến mức quên hết chung quanh. Kế đó, hổ thẹn không chốn dung thân, càng tỉnh ngộ đạo tâm nông cạn, tu tŕ bất lực, chẳng chuyên, chẳng chân thành. Cô ta là một người bẩm tánh dị biệt, thành tín, kiên nghị. Hễ quyết định làm một chuyện ǵ, ắt sẽ làm trọn vẹn từ đầu đến cuối, dẫu khó khăn đến mấy. Đó gọi là “thành ắt linh, chuyên ắt ṛng, dùi mài chẳng bỏ, vàng đá phải nứt”. Do vậy, cô ta gặp những chuyện thần bí như thế, thường xuất hiện những chuyện linh nghiệm chẳng thể nghĩ bàn, trọn chẳng phải là thần thoại vô căn cứ, mà là kết quả tu hành đáp đền tâm lực của cô ta. Tự so với cô ta, tôi đúng là gỗ đá tối tăm trơ trơ, chẳng có linh tánh, tâm địa khô héo cần phải được pháp thủy tưới tắm, t́nh thức yếu ớt, rối ren, cần phải có trí huệ cường hóa, chải gỡ. Cô ta dốc ḷng kể lể, chẳng khuyến thiện, chẳng thuyết giáo câu nào; nhưng sức lay động tâm linh chẳng thể hạn lượng. Kẻ mê nói ngoài miệng, người có trí hành trong tâm. Cô chuyên ṛng thành kính niệm Phật, niệm kinh Kim Cang, niệm Tâm Kinh, niệm thánh hiệu Phật, Bồ Tát hồi hướng cho người khác. Do tâm lực phản xạ, tự nhiên đạt được sự linh cảm. Nghĩ kỹ, sẽ nhận biết là chẳng phải thần bí không thể nghĩ bàn!

 

25. Tai điếc mà nghe tiếng niệm Phật

Nhiếp Vân Đài ghi

 

          Ông Uẩn Thiết Tiều là bậc tiền bối về Trung Y theo trường phái cách tân. Sau khi tốt nghiệp từ Nam Dương Công Học, từng làm giáo sư dạy tiếng Anh ưu tú tại trường Sư Phạm tỉnh Hồ Nam. Sau đấy, ông làm biên tập cho Thương Vụ Ấn Thư Quán, nghiên cứu Y Học, tinh thông bộ Thương Hàn Luận của Đào Trọng Cảnh nhất, chữa trị rất mát tay. Do đọc các bài viết của tôi, bèn gởi thư xin gặp, trở thành bạn bè hợp ư. Nhưng đối với chuyện tôi khuyên ông học Phật, ông trọn chẳng cho là đúng, nhiều lần gởi thư biện luận. Mùa Thu năm Dân Quốc 23 (1934), tôi tặng ông một bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Sau đó, ông lại gởi thư nói: “Mới đọc một lượt, vẫn y như cũ chẳng tin! Kế đó, tự suy nghĩ: Nguyên do chẳng tin là do Ngă Kiến chấp trước! Nào ngại tin là thật, bèn đọc hai lượt nữa, tâm khá vui thích. Sau đó, lại đọc kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do tôi gởi tặng hơn mười ngày, chẳng ôm ḷng nghi ngờ. Bỗng một hôm, vào lúc bốn giờ sáng, nhằm ngày thánh đản Quán Âm vào tháng Chín âm lịch, ông nghe có một tiếng khánh, kế đó là tiếng niệm Phật, từng chữ rơ ràng, nhưng ông Uẩn điếc đặc mười mấy năm rồi. Dẫu hét to bên tai, ông không thể nghe tiếng. Nay nghe tiếng niệm Phật, liên tiếp mấy chục câu. Âm thanh hay đẹp lạ lùng, trước giờ chưa hề nghe. Thoạt đầu, ông ngờ là vợ đang tụng niệm công khóa, nhưng bà ta vẫn c̣n đang ngủ chưa dậy ở giường bên cạnh. Ngoài chuyện kinh ngạc ra, bất giác toàn thân ông ta run rẩy. Bốn giờ sáng hôm sau, nghe tiếng như cũ, bèn niệm Phật theo. Chiều hôm ấy, ông ngồi ở dưới lầu, nghe tiếng như trước, đều là trước hết một tiếng khánh, sau đó niệm Phật hiệu.

          Một hôm, ông ăn cua, sáng hôm sau, chẳng thấy tiếng khánh và tiếng niệm Phật, bèn thầm cầu nguyện: “Nguyện từ nay về sau, suốt đời chẳng ăn cua”, thuận miệng niệm Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát bảy lần, tiếng khánh ngay lập tức vang lên, tiếng niệm Phật cũng nối theo sau. Liên tiếp tới nay đă gần nửa năm, ông vẫn hằng ngày đều nghe chẳng sót. Thoạt đầu, ông tưởng là do bệnh trạng nơi đại tiểu năo, nhưng không nghe thứ tiếng nào khác, bèn biết là do Địa Tạng Bồ Tát linh cảm, hướng dẫn khiến cho ông niệm Phật. Tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), ông sai người đem tới hai trăm đồng, cậy tôi thay ông in kinh Địa Tạng, dặn tôi viết lại chuyện ấy để báo ân Phật. Trong lúc ấy, ông đă nhiều lần gởi thư tự thuật chuyện lạ ấy. Tháng Sáu trong mùa Hè năm ấy, tiên sinh qua đời, Uẩn phu nhân và con trai kể lại t́nh h́nh lúc lâm chung, xin ghi chép theo sự thật như sau: Ba bốn hôm trước khi qua đời, tiên sinh tự nói sẽ ra đi, căn dặn hậu sự rất rành mạch. Lại dặn người nhà đừng khóc lóc, dặn ai nấy đều cùng giúp ông niệm Phật. Buổi sáng hôm ông mất, ông bỗng ngẩng đầu ngó, bảo người nhà rằng: “Các ngươi có thấy quyển sổ to chừng ấy hay chăng?” Người nhà hỏi sổ ghi ǵ vậy? Người nhà hỏi sổ sách viết vật ǵ? Ông lại nghểnh cổ nh́n chăm chú, thật lâu sau mới nói: “Viết rất nhiều, chẳng thấy rơ chữ”. Sau đó lại nói: “Ta sẽ đến chốn lành, các ngươi đừng buồn”. Lại nói: “Ta đă có thể biết chuyện quá khứ, vị lai”. Người nhà xin ông nói đại lược, ông đáp: “Chẳng thể nói! Các ngươi chỉ nên niệm Phật siêng gắng hơn!” Ông cũng tự niệm Phật không ngừng. Khi sắp tắt hơi, chẳng thể niệm ra tiếng, môi ông vẫn mấp máy. Do luôn niệm Phật, chắc chắn văng sanh Tịnh Độ vậy!

          Kính suy xét, trước kia, tiên sinh từng làm biên tập cho Tiểu Thuyết nguyệt báo của Thương Vụ Ấn Thư Quán, trong văn tự thường có lời lẽ châm biếm Phật pháp, cho đến khi tán gẫu, cũng tùy ư chê bai, cười cợt, phỉ báng Phật càng là chuyện thường! Vợ ông niệm Phật đă mười mấy năm, tiên sinh liền chỉ vào bà ta nói với bè bạn: “Bả muốn sanh về phương Tây, tôi sẽ sanh về phương Đông”. Ông ta thường mang thái độ tự cho là ḿnh sáng suốt, cười cợt khinh thường Phật giáo đồ là kẻ mê tín. Nhưng do nhân duyên thiện căn túc thế, do văn tự mà tâm giao với tôi, rốt cuộc được nghe Phật pháp, đạt được lợi ích thật sự, được Bồ Tát rủ ḷng Từ tiếp dẫn. Tai cực điếc mà hằng ngày được nghe Phật hiệu, khiến cho ông là người phản đối pháp môn Niệm Phật văng sanh nhất, chẳng thể không dấy tâm tín ngưỡng. Hơn nữa, suốt mấy tháng tiếng niệm Phật chẳng ngừng, khiến cho ông chẳng thể không cảm nhận quỷ thần, Phật, Bồ Tát thường ở cạnh ta mà sanh ḷng e sợ. Do vậy, chí thành sám hối, túc nghiệp ngầm tiêu. Ông thấy quyển sổ lớn, chính là các nghiệp thiện và ác trong suốt một đời. Quyển sổ ấy không đợi kẻ khác viết, chúng ta vừa dấy động tâm niệm, tức là đă tự viết vào đó. Trên quyển sổ là h́nh bóng của cái tâm ta, cho đến thiên đường, địa ngục, cũng đều chỉ là cái tâm biến hiện. Tội khổ, h́nh phạt, Tịnh Độ, Cực Lạc, mỗi chuyện đều do nghiệp của chính ḿnh cảm vời. Nơi cái ải sanh tử, chính là nghiệp thiện ác trong một đời phát hiện. Trong lúc ấy, kẻ b́nh phàm nói chung là thần chí mê muội, chẳng thể tự chủ, huống hồ đàm phong gây thở kḥ khè, tuy muốn cậy mạnh làm ra vẻ, gắng gượng trấn định, nhưng chẳng thể được! Chỉ có người tu Tịnh nghiệp chuyên ṛng, lúc qua đời, thân tâm thanh thản, dẫu bị bệnh nặng, lúc ấy chẳng cảm thấy đau khổ, cho nên có thể thong dong niệm Phật, chẳng bị nghiệp duyên tục lụy gây chướng ngại. Độc giả chớ nghĩ lâm chung có thể tỉnh táo niệm Phật là chuyện dễ dàng, b́nh phàm rồi coi thường. Kinh Di Đà dạy: “Bất khả thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cơi ấy). Tiên sinh Thiết Tiều làm người trung trực, dũng mănh đối với việc nghĩa, thông thạo y học, luôn nghĩ giúp đỡ người khác. Đấy cũng là chánh nhân thành tựu Tịnh nghiệp vậy. Ngày Hai Mươi Chín tháng Sáu năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp Vân Đài ghi.

          Bài viết trên đây vốn in vào sau kinh Địa Tạng. Khi ấy, tôi đă phúng điếu một câu đối, nhưng bỏ sót chưa ghi vào đó. Nay chép bổ sung như sau: “Thiên tải Thương Hàn phân tụ tụng, Trọng Cảnh đăi sở thống tâm, đại trước kim truyền, quần nghi ưng thích. Thập niên bộc trúc bất văn thanh, Di Đà hốt nhiên nhập nhĩ, nhất mông đắc ngộ, chúng lung giai thông” (Thương Hàn ngàn năm, bao người tranh căi, Trọng Cảnh đành chịu đau ḷng, trước tác nay truyền, bao mối nghi tự giải. Suốt cả mười năm không nghe tiếng pháo, Di Đà bỗng lọt vào tai, vừa được giải ngộ, bao người điếc đều thông). Vế trên nói về tác phẩm Thương Hàn Học do tiên sinh sáng tác [để chú giải bộ Thương Hàn Luận của Đào Trọng Cảnh], vế dưới trần thuật thỏa đáng chuyện này (chuyện ông Uẩn tai điếc mà nghe tiếng niệm Phật). Mùa Hạ năm Dữu Dần (Canh Dần), Nhiếp Vân Đài ghi thêm.

 

26. Bệnh nặng trừ sạch

Viên Truyền Kiệt ghi

 

          Tại trấn Kiều Lâm thuộc huyện Giang Phổ, có ông Ngô Tông Giám làm nghề y, tin Phật. Trong trấn có Cổ Cối Thiền Lâm, ông phát nguyện trùng tu. Do quyên mộ không đủ số, ông lo buồn, lao lực thành bệnh nặng. Con dâu trưởng của ông là Lưu Thị cũng niệm Phật. Do vậy, bèn ước hẹn các bạn đạo cùng đến Thiền Lâm ấy, đối trước Địa Tạng Bồ Tát khấu đầu, cầu đảo, cầu tăng tuổi thọ cho ông, và cầu cho việc trùng tu chùa được hoàn thành. Hai ngày sau, ông đang thiêm thiếp, bỗng tỉnh lại nói: “Trong mộng, cha thấy một ḥa thượng an ủi, hỏi han. Do vậy, bệnh được lành”. Tháng Sáu năm Dân Quốc 22 (1933), Viên Truyền Kiệt ghi.

 

27. Lạy kinh khỏi bệnh

Viên Kính Am ghi

 

          Ḷng Từ của Phật rộng lớn, cảm ứng chẳng sai chạy; những kẻ hơi có chút tri kiến đều công nhận điều này. Gia mẫu là Trương Thị, pháp danh là Năng Tu, bẩm tánh hiền thục, thông thạo văn tự, về làm vợ cha tôi, tận lực trọn đạo làm vợ, xóm giềng đều khâm phục. Đảm đang việc nhà, từng có những điều bị uất ức, bận ḷng, vẫn giấu kín trong tâm, chẳng để lộ ra ngoài, suốt hơn ba mươi năm đều như một ngày. Đối với chú Văng Sanh và kinh Quán Âm, cụ hết sức thuần thục, nhưng thuở ấy chưa thể lập khóa tụng, tu tŕ. Vào độ tuổi năm mươi, cụ bỗng bỏ hẳn ăn thịt. Có kẻ đem các tà thuyết để khuyên lơn chớ nên ăn chay, cụ vẫn chẳng màng. Vài năm sau, bỗng cụ cảm thấy đi lại chẳng thoải mái. Kế đó, hai tay chẳng thể giở lên được, dần dần eo vô lực, lưng c̣ng, hơi giống như bị gập lại, hễ động tới là đau. Do vậy, càng chẳng thể đi lại. Từ sảnh đường cho đến trong pḥng, ắt phải cậy vào xe lăn để ra vào. Nhưng căn bệnh thuộc về xương khớp, sức thuốc chẳng thể thấu tới được. May là cụ được Phật từ gia bị, khiến cho Kính Am tôi gặp nhân duyên quy y Tam Bảo. Năm sau, mẹ cũng quy y; kế đó, lại thờ tượng Phật trong nhà, cũng như tạc thánh tượng hai vị Đại Sĩ Quán Âm và Địa Tạng, sáng tối kính lễ, niệm tụng.

          Gia mẫu tuy bị bệnh khổ quấn thân, cũng niệm tụng suốt ngày. Mỗi ngày, cụ c̣n thắp hương, lễ bái, bảo Kính Am tôi ở bên cạnh nâng đỡ, dẫu kiệt sức cũng chẳng thiếu sót. Hơn một năm như thế, Kính Am tôi chưa từng thấy mẹ đau buồn v́ bệnh tật. Tôi luôn đem công đức do thọ tŕ kinh chú thường ngày và những thiện niệm dẫu bằng mảy lông, sợi tóc hồi hướng cho mẹ tiêu tai, thoát nạn. Kế đó, tôi nghĩ Địa Tạng Đại Sĩ thần lực chẳng thể nghĩ bàn, đời trước, Ngài đă độ mẹ thoát nạn. Chuyện này được nói tường tận trong kinh. Tôi bèn phát tâm cung tụng Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh để cầu nguyện.

          Xét thấy kinh văn quá dài, sanh kế bận bịu, khó thể tụng trọn, bèn thầm tưởng các sự tích trong mười ba phẩm kinh, ghi nhớ nằm ḷng tựa đề của mỗi phẩm, dùng để bái kinh thay thế [cho việc tụng niệm]. Như phẩm thứ nhất là Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông, bèn trước hết quán tưởng tựa đề của phẩm ấy, sau đấy quán tưởng kinh nghĩa rồi lạy xuống. Từ phẩm thứ hai là Phân Thân Tập Hội cho đến phẩm thứ mười ba là Chúc Lụy Nhân Thiên cũng lại như thế. Lạy xong, lại niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mấy trăm câu rồi hồi hướng. Quyền nghi như thế, rất sợ chẳng thể khế hợp Phật tâm.

          Hành như vậy mấy tháng, bỗng có một hôm, gia mẫu đang ngồi ngay ngắn chợt hôn mê, bất tỉnh nhân sự. Kính Am kinh hoảng, sợ hăi muôn phần! Chạy đến bên mẹ, chắp tay xưng niệm thánh hiệu Đại Sĩ gần mấy chục câu, liền thấy mẹ tỉnh lại, ói ra mấy bát nước có cặn màu đen, giống như huyết khí uất ức tích tụ nhiều năm. Tôi vội mời danh y chẩn trị, họ cho là khí huyết thiếu hụt, tổn hại, khó thể có hiệu quả, cứ kê toa uống thử xem. Kính Am lại quỳ trước Đại Sĩ, kiền thành cầu Ngài rủ ḷng Từ gia hộ. Ngày đêm xưng danh, chẳng ĺa trong tâm. Chỉ mới uống vào một thang thuốc, bệnh trạng dần dần thấy khởi sắc. Kính Am dốc ḷng thành khẩn cầu càng thêm khẩn thiết.

          Sau đấy, mẹ dần dần có thể đi lại, ra vào chỉ cần được nâng dắt. Mấy tháng sau, hoàn toàn có thể chống gậy đi một ḿnh. Nay th́ không cần gậy, vẫn đi lại tự nhiên. Hiện thời, cụ đă sáu mươi bốn tuổi, hằng ngày lễ Phật mấy chục lạy, tự đứng lên không cần ai nâng đỡ, cũng chẳng cảm thấy khổ sở. Phàm là người bị bệnh nặng, tuổi tác đă cao, không nhờ vào công năng của thuốc men mà tự nhiên lành bệnh, là chuyện ít gặp trong cơi đời! Ấy là nhờ Địa Tạng Đại Sĩ thệ nguyện hoằng thâm, lợi ích cứu giúp hữu t́nh, không ǵ chẳng trọn. Chỉ cần có thể phát nguyện kiền thành, ai cũng có cảm ứng. Xét trong những sự tích trước đó đă ghi chép rành rành. Nh́n từ chuyện linh cảm tôi đích thân đạt được, càng thêm tin đúng như thế đó! Kính cẩn ghi lại chuyện này, ḥng khuyên người đời. Tháng Sáu năm Ất Hợi (1935), nhằm mùa Hạ, Tam Bảo đệ tử Viên Kính Am ghi chép.

 

28. Tầm thanh cứu khổ

Pháp sư Tâm Nhiên ghi

 

          Cư sĩ Hoàng Trang Huệ Châu là người ở thành phố Phước Châu. Mười chín tuổi xuất giá, hai mươi bốn tuổi liền ăn chay, tin Phật. Năm Dân Quốc 24 (1935), nhà chồng bà thờ cúng tà thần, thường bị chúng tác quái quấy nhiễu. Cư sĩ phẫn uất, đem tượng đất đang thờ vứt vào trong chum sành thường dùng để nuôi cá. Không lâu sau, cư sĩ có mang. Khi sanh nở, mắc chứng bệnh kinh phong, toàn thân nằm tê liệt trên giường, thuốc men đều vô hiệu. Tự nghĩ đấy chắc là tà quái báo thù, thế gian vô thượng chỉ có Phật, Bồ Tát, cùng với Duyên Giác, Thanh Văn là có thể nương tựa. Đại Bi Quán Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát thường cứu độ chúng sanh trong nhân gian và địa ngục. Không ǵ bằng nhất tâm quy mạng, xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát để cầu trừ khổ, lại c̣n nghĩ sẵn ḷng lâm chung. Từ đấy, mỗi ngày tụng tŕ mấy chục vạn câu.

          Chưa được một tuần, mộng thấy đến bên bờ biển, trông thấy sóng cả cuồn cuộn vỗ tung bọt, sắc nước đen x́ như sơn. Có vô số tiếng gào đau khổ, thê thảm, thê lương lan xa chẳng dứt. Đang trong lúc bà kinh ngạc, bỗng thấy một vị tỳ-kheo sa-môn bay lướt trên mặt biển. Ngài đến nơi đâu, tiếng khổ liền im bặt. Cư sĩ mới biết đấy là đức Địa Tạng độ sanh, lập tức hoan hỷ lễ bái. Sau khi tỉnh giấc, thân đau đớn bỗng dưng khỏi hẳn. Ngày hôm sau, có thể dựa vào người khác nâng đỡ mà đi lại. Chẳng đầy nửa tháng liền bước đi như thường. Đấy chính là linh tích từ

bi của Bồ Tát trong thời cận đại. Tâm Nhiên kính ghi.

 

29. Tụng kinh Địa Tạng độ quỷ hồn

Khâu Thiện Siêu ghi

 

          Người vợ câm của một tín đồ Phật giáo sống tại thôn Song Đàm thuộc làng Tam Nghĩa bất hạnh tử vong khi sanh con. Gia đ́nh nghèo khổ, chỉ đơn giản thỉnh ba gă đạo sĩ tới niệm kinh, làm công đức. Nhưng đạo sĩ v́ đă nhận lời đến một nhà giàu có để làm pháp sự trọng thể; do vậy, chuyển lời mời một vị sư huynh và chúng tôi là ba người cùng đến niệm kinh. Do hoàn cảnh đơn sơ, chúng tôi đành phải chấp nhận quyền biến, đơn giản bày tượng Phật. Nghĩ người mất lúc sống gia cảnh nghèo khổ, lại c̣n sức khỏe không khá, đời trước ít tu; do vậy, v́ vong linh niệm Tam Muội Thủy Sám. Mười giờ tối, khi kinh sám tụng xong, sắp hồi hướng, vị đạo sĩ lănh đàn từ nhà đám của người giàu có quay lại, nói: “Mọi người vất vả rồi, niệm kinh sám đă xong, có thể về trước. Lát nữa, tôi sẽ thay mọi người hồi hướng, tuyên sớ”. Ba người chúng tôi nghe hiểu ư đạo sĩ, rơ ràng là hắn chẳng muốn chúng tôi hồi hướng, đọc sớ, có chờ đợi cũng chẳng làm ǵ, bèn cáo từ, ai về nhà nấy. Sau đó, đạo sĩ làm ǵ cũng chẳng biết.

          Sau khi về nhà, tôi một mực lấn cấn, pháp sự lần này dường như chẳng viên măn cho lắm! Bỏ ra tâm huyết suốt một ngày để độ vong hồn, kết quả lại chẳng hồi hướng kinh sám cho người đă mất được. Tuy trong sám văn có phần hồi hướng cho vong linh, nhưng tôi luôn cho rằng chưa tụng đến phần hồi hướng, tức là chưa làm viên măn. Suốt hai ngày tôi nghĩ ngợi, buồn bă, có đôi chút hổ thẹn. Từ ngày niệm kinh quay về, hôm sau tôi bắt đầu bị choáng váng, trong tâm nghĩ chẳng bị cảm mạo, sao lại bị váng đầu? Trải qua hai ngày, vẫn là như thế; càng nghĩ càng cảm thấy không đúng, có thể là chỗ nào đó nẩy sanh vấn đề. Do vậy, nghĩ lại, chắc là do đi niệm kinh cho người câm ấy, công đức bị thiếu sót, người chết chẳng thể thoát khổ! Do vậy, tôi đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, chí tâm tụng kinh Địa Tạng một bộ (hoặc ba bộ, nay đă không nhớ rơ), hồi hướng cho người phụ nữ câm ấy sớm sanh về Tịnh Độ. Làm xong, vẫn chưa an ḷng, liền xin [Bồ Tát] dạy cho biết trong giấc mộng. Tối hôm ấy, tôi liền nằm mộng hết sức rơ ràng. Mộng thấy đến một ngôi tự viện rất to, rất trang nghiêm, có một ni sư đứng ở trên bậc thang. Khi tôi đi lên thang, bà ta liền hướng về tôi đảnh lễ, khiến tôi hoảng sợ, chạy vội tới đỡ bà ta lên, hết sức chẳng nên! Nhưng bà ta bảo tôi: “Nhờ sức niệm kinh Địa Tạng của Ngài, tôi được chuyển thế làm người, c̣n có duyên với Phật, xuất gia thọ giới, ắt chứng Bồ Đề”. Tôi nghe xong rất kinh hỷ, một phụ nữ câm nghèo hèn, nhờ vào sức của một bộ kinh liền chuyển thế làm người, lại c̣n vào Phật môn thọ Cụ Túc Giới, tương lai có thể mong viên thành chánh quả, đúng là Phật pháp vô biên!

          Các vị thiện hữu! Phật pháp trụ thế gian, chẳng ĺa thế gian giác, ĺa thế gian t́m Bồ Đề, như t́m kiếm sừng thỏ. Phật pháp xuất hiện trong thế gian, mục đích là v́ chúng sanh mà kiến lập. Đương nhiên là nếu rời khỏi chúng sanh, sẽ chẳng có Phật pháp để nói nữa! Do vậy, trong cuộc sống, chúng ta đi, đứng, ngồi, nằm, chỗ nào cũng đều chẳng rời Phật pháp, nhưng nếu hành vi bất chánh, ắt sẽ trái nghịch Phật pháp! Muốn độ chúng sinh, ắt phải phát Bồ Đề tâm. Phát Bồ Đề tâm, có đại nguyện lực th́ mới có thể độ người khác. Trong xă hội, mọi người túi bụi v́ ngũ dục, nào có biết quang âm trăm năm ngay chớp mắt đă qua đi, thân này rốt cuộc hóa thành tro bụi, huyễn thân rốt cuộc chẳng thơm sạch! Hăy đập vỡ cái b́nh tô vẽ hoa mỹ để quay về! Kẻ có phước báo, có tài lực, hăy bố thí cho nhiều, ḥng tích lũy ruộng phước, người biết niệm kinh hăy phát tâm v́ người khác tiêu tai, sám nghiệp, độ vong linh nhiều hơn. Người biết niệm Phật, hăy niệm Phật nhiều hơn, cầu nhất tâm bất loạn. Người biết giảng kinh, hăy hoằng pháp lợi sanh nhiều hơn. Người giỏi văn chương, hăy thâm nhập kinh tạng trí huệ như biển nhiều hơn! Phổ nguyện xă hội như thế cùng tiến nhập đại đồng, Phật pháp hưng thịnh, nhân dân an lạc, nước giàu, dân yên. Bọn Phật tử chúng ta hăy cùng nhau nỗ lực!

 

30. Hóa thân của Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát

Châu Dương Huệ Khanh ghi

 

          Nhà tôi ở Nam Kinh tại số mười sáu đường Lan Viên thuộc Lam Gia Trang, chung quanh có rào trúc, có cổng trước và cổng sau. Trong tháng Bảy năm 1935, một sáng nọ, cửa trước lẫn cửa sau đều chưa mở. Bỗng một vị lăo tăng, phiêu dật đi đến, đội măo Tỳ Lô, thân mặc hải thanh, đắp y, đeo mười chuỗi tràng hạt trước ngực, rủ xuống tận đất, xâu chuỗi nơi hai tay áo cũng rủ sát đất. Khí tượng trang nghiêm, từng hạt trong xâu chuỗi tỏa sáng lóng lánh. Tôi hỏi: “Lăo sư phụ từ đâu tới?” “A Di Đà Phật! Tôi đến từ núi Cửu Hoa tỉnh An Huy”. “Cửa vẫn chưa mở, sao thầy có thể vào đây?” “Ta có thần thông, chỗ nào cũng đều có thể tiến vào”. Sư bày ra một quyển sách dầy màu xanh, ghi tám chữ to thếp vàng “Cửu Hoa Sơn Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Ba chữ Cửu Hoa Sơn viết theo hàng ngang, năm chữ c̣n lại viết theo hàng dọc. Bốn phía cũng là kim sắc, hết sức sáng ngời. Lăo nhân gia chắp tay nói: “Ta đến hóa duyên”. Tôi nói: “Tôi tùy tiện ghi một chút được không?” “Ta không cần tiền! Hôm nay, ta đặc biệt đến nói chuyện với bà”. “V́ sao lăo sư phụ biết tôi?” “Ta có thần thông, đă sớm quen biết bà”. Tôi chú ư chiếc măo màu xanh của Ngài rất đặc biệt, lăo nhân gia bèn nói: “Đây là cái măo thời cổ, ta đă hơn một trăm tuổi rồi”. Bắc ghế mời Ngài ngồi, Ngài chẳng chịu ngồi; dâng trà cũng chẳng chịu uống, chỉ nói: “A Di Đà Phật”.

          “Bà là một người có thiện căn, có duyên với Phật. Sau khi đă bốn mươi tuổi, chính bà sẽ mong học Phật. Tới khi đó, bà sẽ hiểu lời ta nói”. “Lăo sư phụ v́ sao biết tôi?” “Hết thảy mọi chuyện trong ḷng người, ta đều biết. Chuyện đời trước của mỗi người ta cũng đều biết. Chuyện một đời, hai đời, ba đời của bà như thế này, như thế nọ, ta sẽ nói cho bà nghe. Nhưng mong rằng trong tương lai, bà hăy khéo tu tập, tu tốt đẹp hơn đời trước! Ta thấy bà trong tâm hoài nghi, khuyên bà chớ hoài nghi, ta có thần thông”. Lúc ấy, tôi thấy lăo nhân gia dáng vẻ nghiễm nhiên đạo mạo dường ấy, đột nhiên tới nói nhiều lời như vậy, lại nhiều lượt nói có thần thông, tôi lại chẳng hiểu rơ thần thông là ǵ, trong ḷng quả thật đang hoài nghi. Ngay trong lúc hoảng hốt, lại bị lăo nhân gia vừa nh́n đă thấy ngay, nói toạc ra!

          “Tôi không biết Phật là ǵ, mẹ tôi và mẹ chồng đều cùng tin Quán Thế Âm Bồ Tát, tôi chỉ biết tin Quán Thế Âm Bồ Tát”. “Phật là ǵ? Bồ Tát là ǵ? Thánh hiệu của Phật, Bồ Tát rất nhiều. Từ bốn mươi tuổi trở về sau, bà sẽ tự nhiên hiểu. Ta thấy bà dường như vẫn hoài nghi, chẳng tin tưởng cho lắm. Ta nói một ít chuyện trong thực tế vậy. Chẳng hạn như chồng bà là Châu Bang Đạo, đang làm Đốc Học tại bộ Giáo Dục. Diện mạo, tánh t́nh của ông ta như thế đó, ta nói cho bà nghe, bà sẽ tin tưởng”. “Lăo nhân gia v́ sao biết ông ta?” “Ta đă sớm biết ông ta, lại c̣n có thể tùy thời thấy ông ta. Đấy là thần thông”. Hai người tớ gái họ Tôn và họ Hứa ở bên cạnh nói xen vào: “Tiên sinh có nhiều bạn bè, mỗi người nói qua nói lại, thầy tự nhiên là biết!” “Được! Trẻ nhỏ nói chung là không được người khác nhắc đến nhiều. Ta sẽ nói về mấy đứa bé vậy. Đứa con thứ tư của bà là Xuân Đề đang ở bên cạnh bà, ta chẳng cần phải nói. Con cả là Xuân Cảnh, con thứ là Xuân Phù, con thứ ba là Xuân Yển, đều đang học tại trường Tiểu Học Liên Hoa Kiều, diện mạo, tánh t́nh của chúng nó như thế này, như thế nọ, chẳng đúng ư? Nay bà phải nên tin tưởng. Bà là một phụ nữ hiền hiếu, có thể hiếu kính bố mẹ ruột lẫn bố mẹ chồng. Đời trước bà có mối nhân duyên đặc biệt với mẹ chồng, cho nên có thể đặc biệt hiếu thuận với bà ta. Chữ Hiếu là điều khẩn yếu nhất trong đời người. Bà có thể trọn hết hiếu đạo, đáng quư lắm!”

          Năm ấy, đứa con thứ năm là Xuân Đường c̣n chưa sanh ra, viện bảo sanh thấy bụng tôi to phè phè, sợ có vấn đề, chẳng chịu phụ trách đỡ đẻ, ḷng tôi có chút sầu lo. Lăo nhân gia c̣n nói thêm: “Bà hiện thời đang mang thai một bé trai. Xương nó to, cho nên bụng lớn, đừng lo lắng! Chẳng có nguy hiểm ǵ, tới giờ… ngày… trong tháng Tám sẽ sanh. Sanh nở rất an ổn, thằng bé chẳng khóc tí nào! Tánh t́nh nó sẽ như thế này, như thế nọ. Bà sanh năm con trai; sau đó, sẽ sanh một gái. Vốn bà có năm trai hai gái, nhưng do đời này chẳng khéo tu, cho nên chỉ có một gái. Khi đứa con gái ấy sanh ra, bà sẽ có một nạn, nhưng ta sẽ thường đến thăm bà, che chở cho bà, bà ngàn vạn phần đừng sợ hăi, chẳng bị nguy hại đến tánh mạng. Bà phải tự phát tâm nguyện, cúng dường dầu thắp đèn trước tượng Phật, Bồ Tát ở Cửu Hoa Sơn, nhiều ít tùy bà nói ra là được rồi… Bà không nói, tôi bảo bà, bà có thể cúng dường một trăm cân dầu thắp đèn, có thể bảo đảm cả nhà b́nh an, khi sanh con gái, chẳng bị nguy hiểm mảy may”. “Hai mươi cân được không?” “Được chứ!” Lăo nhân gia không viết vào quyển sổ dầy Ngài đă lấy ra, mà tiện tay viết một tờ giấy “Châu Dương Huệ Khanh cúng dường hai mươi cân dầu thắp đèn”. Bảo tôi thắp ba nén hương, theo Ngài ra sân hướng về phía Tây Nam hành lễ. Lăo nhân gia đốt tờ giấy, nói: “Cửu Hoa Sơn đă biết rồi”. Tôi thấy lăo nhân gia đi lại, cước bộ nhẹ nhàng như bay, chẳng có tiếng động. Trong tâm rất ngạc nhiên, nhưng chẳng hiểu v́ lẽ nào, chỉ hỏi: “V́ sao lăo sư phụ biết tên họ của tôi?” “Ta đă nói là ta có thần thông”. “Con cúng cho lăo sư phụ một ít tiền”. “Ta chẳng lấy một đồng nào, tay chưa hề cầm đồng nào. Bà gởi dầu tinh sạch đến là được rồi. Nếu bà tự ḿnh đưa đến, ta sẽ đích thân tiếp đăi bà. Nếu sai người đưa đến, bản thân ta sẽ chẳng ra tiếp. Bà có thể bảo cô ta (chỉ vào cô họ Tôn), cô ta là người huyện Sào tỉnh An Huy, sẽ biết! Bảo cô ta đặt ở điện X…. là được rồi” (lúc ấy, có ghi lại tên ṭa điện đó, nhưng trong thời gian kháng chiến, phải tản cư, tiếc là đă đánh mất chi tiết ấy).

          Cô Hứa lại nói chen vào: “Thầy nói chẳng cần tiền, xin dầu th́ có khác ǵ muốn tiền đâu?” “Ngươi biết chuyện ǵ à? Tiền thân của ngươi là ǵ? Đáng thương cho ngươi, ta chẳng muốn nói. Bà chủ của ngươi là một người tốt, ta đặc biệt đến t́m bà ta nói chuyện, ngươi chẳng cần phải rườm lời! Thời gian chẳng c̣n sớm nữa. Chồng bà sắp tan sở, trở về, tánh t́nh ông ta rất nóng nảy, bộp chộp, ắt sẽ cho ta là một ḥa thượng tầm thường hóa duyên đ̣i tiền, nhất định sẽ chửi mắng ta. Bà chớ nên tức giận, ta cũng chẳng giận. Tâm địa ông ta tốt lành, nổi nóng rồi thôi, chẳng có chuyện chi nữa! Năm trước có một gă người Thượng Hải, mạo nhận là bạn của chồng bà, lừa bà một món tiền, ông ta đă mắng bà một trận um sùm, đúng chưa? Món tiền đó là do đời trước bà thiếu gă đó, đưa trả hắn là tốt nhất. Chớ nên khổ sở khóc lóc nữa!” (Tôi v́ chuyện ấy, quả thật là thường rơi lệ, khổ sở!)

          Chồng tôi ở Nam Kinh, tuy thường tới Chi Na Nội Học Viện, thân cận thầy ông ta là lăo cư sĩ Châu Thiếu Do, cũng từng bỏ tiền in kinh, đă từng xin bài minh để khắc ở mộ mẹ từ Nghi Hoàng đại sư Âu Dương Cánh Vô tiên sinh. Trong bài minh có câu: “Xoay vần trong cơi tam thiên, chỉ có sức kinh, Bang Đạo chẳng mê, công đức dũng mănh, ta v́ mẹ làm bài minh, đă sanh cơi Cực Lạc”. Nhưng ông ta chưa từng nghe kinh, chưa nghe Phật pháp, chưa hiểu ư nghĩa của Tăng. Lại do quan niệm “bài trừ mê tín” thuở ấy mê hoặc, tư tưởng mâu thuẫn. Lại do năm trước tôi bị người ta gạt tiền, ông ta luôn nghĩ tôi dễ bị kẻ khác lừa bịp! Sau khi ông ta trở lại, chưa hỏi căn do, quả nhiên đă nổi cáu, bảo tôi chớ nên tùy tiện ghi quyên tặng, các ḥa thượng phần nhiều hóa duyên là v́ danh, mà cũng là để tự no ấm, tự lợi! Lăo nhân gia cười nói: “Ta đă sớm biết ông sẽ tức giận, chẳng cần mắng ta, cũng đừng mắng vợ ông. Trong tương lai, ông c̣n cần bà ta hóa độ, giúp đỡ ông. A Di Đà Phật! A Di Đà Phật!”

          Cô Hứa đưa lăo nhân gia ra cửa, vừa ra khỏi cửa, liền chẳng thấy bóng dáng đâu nữa. Cô ta trở về thưa với tôi: “Lăo sư phụ vừa ra ngoài, liền chẳng thấy đâu nữa, chẳng biết là v́ lẽ nào!” Do chuyện này, tôi bi năo vạn phần, lại thật sự chẳng hiểu là v́ lẽ nào? Những lời lăo sư phụ đă nói, cũng chẳng dám kể cặn kẽ với chồng. Bất quá, lăo nhân gia áo măo châu ngọc, tiếng nói, vẻ tươi cười, từng lời từng chữ đều ghi khắc sâu đậm trong đầu tôi. Quả nhiên vào giờ ấy, ngày ấy trong tháng Tám, cháu thứ năm là Xuân Đường lọt ḷng, sanh ra liền lẳng lặng ngủ, chưa từng nghe tiếng khóc. Mẹ lẫn con đều b́nh an. Tháng Giêng năm Dân Quốc 26 (1937), sanh con gái út Xuân Viên, tôi bị viêm màng bụng, t́nh thế khá nguy kịch. Trị liệu hơn một tháng mới chuyển nguy thành an. Những chuyện này hoàn toàn phù hợp với những điều lăo sư phụ đă nói ngày hôm đó.

          Quân kháng chiến [chống Nhật Bản xâm lăng Trung Hoa] nổi dậy, [gia đ́nh tôi] vội vàng rời Nam Kinh trở về đất Cám (Giang Tây)[8]. Tháng Giêng năm Dân Quốc 27 (1938), nhà tôi theo lệnh của bộ Giáo Dục kiêm nhiệm chức hiệu trưởng trường Trung Học Quốc Lập thứ ba, cả nhà từ Thụy Kim dời về huyện Đồng Nhân thuộc Quư Châu. Mùa Xuân nâm Dân Quốc 30 (1941), nhà tôi được thuyên chuyển làm Tham Sự ở viện Khảo Thí, phải theo Bộ Giáo Dục [của chính quyền Quốc Dân Đảng] sang thủ đô thứ hai là Trùng Khánh[9], mẹ con tôi vẫn sống tại Đồng Nhân. Tôi nghĩ đă không phụng dưỡng mẹ chồng gần mười năm, trong ḷng hết sức khó chịu, hễ nghĩ tới liền khóc. Tháng Chín năm đó, khi tôi bắt đầu bước vào tuổi bốn mươi, càng thêm tưởng nhớ, thường mong muốn báo ân mẹ chồng. Có người nói, muốn báo ân cụ th́ phải lễ Phật, niệm kinh Huyết Bồn. Bà Vạn Phi Vân theo Đạo giáo nói bà sẽ đến dạy tôi niệm, nhưng tôi phải bái bà ta làm thầy. Chẳng biết v́ sao, tôi không muốn cho lắm, hẹn lần hẹn lữa, rốt cuộc chẳng đến nhà bà ta! Trong tháng ba năm Dân Quốc 31 (1942), một đêm mộng thấy hai vị Tăng to lớn, vị thứ nhất khoác ca-sa, để hở vai trái, hai tai to rủ xuống. Vị thứ hai mặc áo hải thanh, cả hai đều đi chân trần. Vị thứ hai vào cửa, gọi tên họ tôi, hỏi tôi có c̣n cất giữ xâu chuỗi La Hán bằng gỗ bách hay không? (Đây là xâu chuỗi thỉnh từ vị lăo tăng ở miếu Trung Nhạc tại Tung Sơn khi nhà tôi làm Đốc Học tỉnh Hà Nam). Vị thứ nhất nói: “Bà đừng nóng ruột, trong tương lai có dịp, tôi sẽ giới thiệu cho bà”. Tôi chẳng biết giới thiệu chuyện ǵ, chỉ thuận miệng thưa: “Xin sư phụ lưu tâm”. Tới ngày Mười Chín tháng Sáu, khi miếu Đông Nhạc ở Đồng Nhân làm pháp hội Quán Âm, bỗng có người lớn tiếng nói: “Quy y Tam Bảo, quy y Tam Bảo”, nói ba bốn lượt! Người này hỏi người kia là ai nói, ai nấy đều nghe tiếng, lại chẳng biết quy y Tam Bảo là ǵ? Sau khi thưa hỏi thầy Khoan Ngạn, mới biết Tam Quy Y có nghĩa là ǵ. Chúng tôi muốn xin quy y, thầy lại chẳng muốn, bảo: “Trong lúc Kháng Chiến, tỵ nạn c̣n chẳng xuể, quy y nỗi ǵ? Trong tương lai, đến núi Phổ Đà quy y tốt hơn”. Thỉnh cầu măi, Sư mới miễn cưỡng đáp ứng, nói: “Tôi chẳng muốn cho các vị quy y, chỉ sợ Phật, Bồ Tát muốn cho quư vị quy y”. V́ thế, tạm thời cử hành nghi thức quy y qua loa. Đấy là lúc tôi bắt đầu quy y Tam Bảo, bốn mươi tuổi về sau sẽ tin Phật, học Phật, điều ấy đă được chứng nghiệm. Nhưng đối với lời lăo sư phụ đă nói trong mấy năm trước, khi đó quên bẵng, chẳng nhớ tới!

          Sau khi quy y, thầy Khoan Ngạn dạy tôi niệm chú Đại Bi. Tôi lại xin thầy dạy niệm kinh Kim Cang, thầy không chịu, bảo: “Bà không hiểu, niệm làm chi?” Một đêm, tôi mộng thấy một vị lăo ḥa thượng dạy tôi niệm kinh Di Đà. Niệm xong, có chiếc thuyền từ trên hư không bay qua, tôi ngạc nhiên hỏi: “V́ sao thuyền bay được?” Lăo ḥa thượng nói: “Đấy là vật chẳng dễ thấy”. Nh́n lại, chẳng thấy chiếc thuyền bay nữa, cũng chẳng thấy lăo ḥa thượng đâu! Trong tay, chỉ có một quyển kinh Di Đà. Tỉnh giấc, kinh Di Đà cũng chẳng có; nghĩ lại, dung mạo và thần thái của lăo ḥa thượng đă gặp tại nhà ở Nam Kinh thập phần tương tự. Từ đó về sau, thường nhớ tới vị lăo ḥa thượng năm đó. Sáng hôm sau, thầy Khoan Ngạn tới, tôi thưa lại chuyện tối hôm qua mộng thấy đọc kinh Di Đà, cũng hỏi han kinh Di Đà nói về điều ǵ, được thầy giảng giải đại lược đôi chút. Chiều hôm đó, đem sách ra phơi, cháu Xuân Yển phát hiện một quyển kinh Phật do tiên sinh Trương Mặc Quân in tặng (các sách vở ở Nam Kinh đều chẳng mang theo, chẳng biết sao lại xen lẫn quyển kinh này, cũng là nhân duyên thù thắng). Kinh Kim Cang, kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, Tâm Kinh, Đại Bi Chú v.v… đều có đủ trong ấy. Tôi hoan hỷ, hớn hở, bèn phát tâm niệm kinh, niệm chú, sáng tối đều có thường khóa, vui thích chẳng chán.

          Nhà tôi trong lúc kháng chiến, phát tâm niệm tụng kinh Ma Lợi Chi Thiên[10]; lăo cư sĩ Châu Thiểu Do gởi thư dặn niệm tụng kinh Di Đà và thánh hiệu Quán Âm. Sau khi tới Trùng Khánh, chồng tôi thân cận tiên sinh Đới Quư Đào, chịu ảnh hưởng của ông ta, ư niệm tin Phật dần dần kiên cố, chọn lựa chừng ấy kinh Phật để khuyên điểm trước, sau đó gởi cho tôi ở Đồng Nhân. Tại nhà ở Nam Xương, lập bàn thờ Phật, thường cùng tôi chiêm lễ. Sau khi đến Đài Loan, do được cụ Long Kiện giới thiệu, cùng quy y với lăo pháp sư Hư Vân thuộc chùa Nam Hoa, cũng trở thành đệ tử thường theo hầu của của lăo cư sĩ Lư Tuyết Lư (Lư Bỉnh Nam), nghe kinh, học Phật, khá có tinh tấn. Đấy là nói đại khái về nhân duyên học Phật của ông ta.

          Vào dịp thánh đản Địa Tạng Vương Bồ Tát trong tháng Bảy năm Dân Quốc 42 (1953), Tuyết sư (cụ Lư Bỉnh Nam) tặng chồng tôi mấy chục bức tranh Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi thấy áo, măo, chuỗi ngọc trong tranh chẳng khác vị lăo tăng trăm tuổi núi Cửu Hoa tôi đă gặp tại nhà ở Nam Kinh năm Dân Quốc 24 (1935) cho mấy, bất quá diện mạo trẻ hơn, trong tay có thêm tích trượng mà thôi! V́ thế, nhớ lại các sự thật do Ngài đă nói, những điều chứng nghiệm từ đầu đến cuối kể lại cho chồng. Nhà tôi kinh hăi, nhảy dựng lên hỏi: “Linh tích hiếm có như thế, chắc phải là hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát, sao bà không nói sớm cho tôi biết, khiến tôi chịu tội đến nay? V́ bà phát Bồ Đề tâm và đại nguyện, tôi cũng chỉ biết có chừng hạn, một đức, một tâm, theo nhau cùng tu tŕ, đấy chẳng phải là do chính bà đă độ tôi, giúp tôi ư?” V́ thế, cung kính lễ bái, sám hối sâu đậm, thiết tha.

          Trong tháng Mười Hai, chùa Bảo Thiện tại Đài Trung thỉnh pháp sư Bạch Thánh giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Pháp sư vốn xuống tóc tại núi Cửu Hoa, khi giảng kinh, thường nhắc đến các chuyện linh ứng thị hiện của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trong kinh, cũng nhiều lượt nói tới đạo lư cúng dường chiêm lễ, hoặc tạo tháp tự, hoặc đắp vẽ h́nh tượng, hoặc thắp đèn dầu. Do vậy, nghĩ đến chuyện trước kia, cũng thưa cặn kẽ đầu mối với pháp sư. Cũng hỏi Cửu Hoa có vị lăo ḥa thượng hơn trăm tuổi có thần thái như thế hay không?” Pháp sư nói: “Tôi ở Cửu Hoa nhiều năm, chưa hề nghe, chưa hề thấy vị lăo ḥa thượng nào ngoài trăm tuổi. Vị ấy chắc là hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài lấy ra một quyển sách dầy, ngoài b́a có mấy chữ to thiếp vàng cho bà xem, chẳng chịu mở ra để viết tiền quyên góp, bước đi lại nhẹ lướt như thế. Đó là một loại thị hiện chẳng thể nghĩ bàn! Địa Tạng Vương Bồ Tát thường có linh tích hóa thân dạo khắp, người ở các nơi phụ cận phần nhiều bàn luận say sưa!”

          Qua lần thưa hỏi này, có thể nói là đă đạt được chứng cứ khá tin cậy, có thể chứng minh cho chuyện vào mười tám năm trước khác hẳn tầm thường, chứng minh hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn. Thuở đó, “nhục nhăn chẳng thấy thánh nhân, nhục nhăn chẳng thấy Phật, Bồ Tát”, đến nỗi bỏ lỡ cơ duyên khó gặp gỡ trong cuộc đời, chưa thể hỏi nhiều về nhân quả, xin được khai thị cho nhiều, lại c̣n mạo phạm, khinh nhờn tôn nghiêm, đến nỗi chuốc lấy tội ác. Đúng là hối hận th́ đă muộn rồi, trăm thân khó chuộc được! V́ thế, nhà tôi và tôi kính cẩn hiến cúng hai mươi cân dầu sạch trước ṭa của Địa Tạng Bồ Tát tại chùa Bảo Thiện, ngơ hầu đền tạ nguyện cũ. Chí thành khẩn thiết, xót xa, dốc một niềm thống thiết, năm vóc gieo sát đất, xót xa lễ sám, mong cho biển lặng sóng trong, sẽ đến được núi Cửu Hoa, “bi luyến chiêm lễ”, những mong ngăn dứt nghiệp chướng, hồi hướng pháp giới. Tháng năm thấm thoát, từ thuở lễ sám năm ấy đến nay đă sắp hết một năm rồi. Kính cẩn ghi đại lược đầu đuôi, thưa bày trung thực để nói với các đồng tu, và cung kính trích dẫn lời kệ của đức Thế Tôn trong phẩm Kiến Văn Lợi Ích của kinh Bổn Nguyện:

          Ngô quán Địa Tạng oai thần lực,

          Hằng hà sa kiếp thuyết nan tận,

          Kiến văn chiêm lễ nhất niệm gian,

          Lợi ích nhân thiên vô lượng sự.

          Dục tu Vô Thượng Bồ Đề giả,

          Năi chí xuất ly tam giới khổ,

          Thị nhân kư phát đại bi tâm,

          Tiên đương chiêm lễ Đại Sĩ tượng,

          Nhất thiết chư nguyện tốc thành tựu,

          Vĩnh vô nghiệp chướng năng giá chỉ.

          (Ta xem Địa Tạng sức oai thần,

          Hằng hà sa kiếp nói khó trọn,

          Thấy nghe, chiêm lễ trong một niệm,

          Lợi ích trời, người vô lượng sự.

          Kẻ muốn tu Vô Thượng Bồ Đề,

          Cho đến thoát ĺa tam giới khổ,

          Kẻ đó đă phát tâm đại bi,

          Trước nên chiêm lễ tượng Đại Sĩ,

          Hết thảy các nguyện mau thành tựu,

          Nghiệp chướng vĩnh viễn chẳng ngăn trở).

 

31. Bàn về cách cứu tế khẩn cấp đối với người sắp lâm chung bằng kinh Địa Tạng

Giới Bảo ghi

 

          Thường nghe nói Phật, Bồ Tát vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, dẫu kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác vẫn chẳng ghét bỏ. Người viết đă được chứng thực tơ hào chẳng sai! Người viết học Phật đă hai năm, trước khi học Phật, đầu óc toàn là tư tưởng cốt sao có lợi cho ḿnh, làm bất cứ chuyện ǵ cũng suy nghĩ v́ tư lợi, v́ đạt được mục đích mà chẳng từ thủ đoạn. Trong xă hội với t́nh trạng đạo đức ngày càng suy đồi, luôn sợ ḿnh chẳng đủ quyền xảo để giành phần thắng. Do vậy, riêng ưa chuộng học vấn theo kiểu binh pháp tung hoành, thường đắc ư chính ḿnh lắm mưu nhiều kế, nhưng nhân duyên lại càng lúc càng kém cỏi, khổ năo ngày càng nhiều. Ngẫu nhiên, hai năm trước thấy nghe Phật pháp, giống như uống một vỉ thuốc thanh lương, thân tâm đột nhiên thanh thản, sảng khoái. Từ đó về sau, tin tưởng, hành theo Phật pháp, đọc kinh, lạy Phật, giữ yên bổn phận, cuộc sống an thuận hơn trước kia rất nhiều, Mỗi lần gặp nạn cấp bách, cầu Phật, Bồ Tát gia bị, vô h́nh trung dường như có sự giúp đỡ thần diệu, khó khăn thường là bất tri bất giác tan mất. Lần này gia mẫu lâm chung, tự cảm thấy sự cảm ứng khá rơ ràng, nguyện đem chuyện từng trải thưa tŕnh để các đồng tu tham khảo.

          Tiên mẫu họ Ngô, đă sớm quy hướng, tin tưởng Nhất Quán Đạo, ăn chay trường, thần Phật đều lạy. Người viết hai mươi năm trước, chẳng hiểu Phật lư, thường khuyên mẹ ăn thịt để tăng thêm chất dinh dưỡng, do v́ một mảnh hiếu tâm. Lâu ngày, quả nhiên nói khiến cho mẹ động ḷng thôi ăn chay. Chẳng lâu sau, do không quen ăn mặn, cụ lại tiếp tục ăn chay. Trong thời gian ấy, Nhất Quán Đạo đường và chùa Chánh Tín là nơi mẹ thường đến lễ bái. Không chỉ cúng dường, bố thí, mà c̣n thường tham gia các pháp hội tiêu tai ở chùa. Ngoài ra, hiểu biết mù mịt, Phật pháp càng khó nghe, mẹ có thể đường xa lễ Phật, đă đáng quư lắm rồi!         Gia mẫu sáu năm trước mắc chứng lăng trí của người già (tế bào năo lăo hóa hoại tử, hiện thời vẫn chưa có thuốc men nào chữa trị được), trí nhớ dần dần mất đi. Khoảng ba năm sau, trí năng hoàn toàn mất đi. Sau đó, ăn uống, đại tiểu tiện đều chẳng thể tự lo liệu! Người viết kiếm sống ở bên ngoài, toàn nhờ vào vợ chăm sóc. Tục ngữ có câu: “Bệnh lâu chẳng có con hiếu”. T́nh cảnh chịu khổ có thể tưởng được! Một năm rưỡi trước đây, người viết được thuyên chuyển về miền Bắc, bèn được hầu hạ mẹ. Lúc ấy, mẹ đă không thể nhận biết con ruột, nhưng thân thể khỏe mạnh như cũ. Do mẹ hành động lệch lạc, để ngăn ngừa mẹ mở gas, điện, nước, tiêu tiểu bừa băi, lạc đường v.v… người viết đă toan tính sắp xếp rất nhiều biện pháp cho cụ, nhưng đều vô hiệu. Cuối cùng, đành phải để cụ ở một gian pḥng duy nhất hơn hai năm.

          Tôi nhớ mẹ đă chịu khổ nhiều năm, suốt sáu mươi năm, ngày đêm vất vả làm lụng không nghỉ nơi ruộng vườn trên núi. Cụ tiết kiệm đến nỗi đậu hủ chẳng nỡ mua nhiều! Nay con cái khôn lớn, là lúc có thể an nhàn đôi chút, liền mắc phải bệnh tật chẳng biết cách nào như thế. Đời người khổ sở, những điều từng trải của mẹ khiến tôi khắc cốt minh tâm trần thuật. Trước khi mẹ tôi lâm chung ba ngày, thần chí mơ hồ cực điểm (khi đó, cụ đă bảy mươi hai tuổi). Trời lạnh buốt, vừa mới giúp mẹ mặc áo dầy, cụ lại cởi ra ngay, thường xuyên v́ thế mà lạnh run lẩy bẩy. Đại tiểu tiện lại càng là nan đề khó thể đề cập. Mắt thấy mẹ tôi bị hành hạ như vậy, khiến tôi nghĩ tới địa ngục, nhớ tam giới như nhà lửa, biển khổ chẳng có ngằn mé, than thở mẹ làm sao kham nổi! Ngày Hai Mươi Tám tháng Chín năm Dân Quốc 72 (1983), bỗng tôi có nỗi xúc động muốn tháo tung các trói buộc bởi truyền thống đạo đức: Mẹ tôi bị bệnh khổ hành hạ như thế, sao bằng v́ mẹ cầu sanh Tịnh Độ? Làm như thế có phạm tội bất hiếu hay không? Trải qua sự giăy giụa không ngừng giữa mâu thuẫn t́nh cảm và lư trí, vẫn khó thể quyết định. Cuối cùng, tôi đến Kim Sơn Thiền Tự, thỉnh giáo vị thầy quy y là lăo pháp sư Tri Giác, mong thầy từ bi chỉ dạy: V́ mẹ cầu sanh Tịnh Độ th́ có trái nghịch hiếu đạo hay không? V́ thế, đối trước Phật, hằng ngày ngoài niệm Phật một ngàn câu, tụng chú Đại Bi hai mươi lượt trở lên, và tùy phần tùy sức tu các công đức, chủ yếu là hồi hướng cho mẹ cầu  sanh về Tịnh Độ, măi cho đến khi mẹ hết báo thân. Và cũng hằng ngày đối trước Phật cầu nguyện:

          1) Khiến cho mẹ giảm bớt khổ sở, sớm sanh về Tịnh Độ. Hết thảy tội nghiệp, khổ báo của mẹ đều do tôi chịu thay.

          2) Khi mẫu thân lâm chung, giảm bớt đau khổ, an tường xá báo.

          3) Khiến cho tôi được hầu bên cạnh, trợ niệm Phật hiệu, giúp mẹ sanh Tây.   Mẹ tôi tuy bệnh năo nhiều năm, thân thể hết sức cường tráng. Đột nhiên, vào chiều ngày Hai Mươi Ba tháng Chạp năm Dân Quốc 72 (1983), mẹ tôi nằm trên giường không dậy nổi, thức ăn không nuốt được. Tôi vốn tính đưa vào bệnh viện, chỉ sợ mẹ tuổi đă cao, nếu có chuyện bất trắc, sẽ đâm ra hại cho chánh niệm, liền để săn sóc tại nhà, ngày đêm niệm Phật, v́ mẹ cầu sanh Tịnh Độ. Trải qua hai ba ngày, mẹ nằm trên giường như cũ, phần lớn là đang ngủ mê mệt. Hoàn toàn chẳng có biểu t́nh thống khổ, nhưng thân thể nhanh chóng gầy yếu. Người viết biết mẹ chẳng lâu nữa sẽ rời cơi đời, nhớ tới mẹ suốt đời chịu khổ, trai giới hơn mười năm, đời này đă măn, há có thể chẳng v́ mẹ tính toán cho đời sau ư? Ngoài việc càng cố gắng niệm Phật ra, bỗng nhớ phẩm thứ mười hai, tức Kiến Văn Lợi Ích trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có dạy: “Lâm mạng chung thời, phụ mẫu, quyến thuộc, tương thị mạng chung nhân xá trạch, tài vật, bảo bối, y phục, tố họa Địa Tạng h́nh tượng, hoặc sử bệnh nhân vị chung chi thời, nhăn nhĩ kiến văn, tri đạo quyến thuộc, tương xá trạch, bảo bối đẳng, vị kỳ tự thân, tố họa Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng. Thị nhân nhược thị nghiệp báo, hợp thọ trọng bệnh giả, thừa tư công đức, tầm tức trừ dũ, thọ mạng tăng ích. Thị nhân nhược thị nghiệp báo mạng tận, ưng hữu nhất thiết tội chướng, nghiệp chướng, hợp đọa ác thú giả, mạng chung chi hậu, tức sanh nhân thiên, thọ thắng diệu lạc, nhất thiết tội chướng, tất giai tiêu diệt” (Khi sắp hết mạng, cha mẹ, quyến thuộc, đem nhà cửa, tài vật, của báu, quần áo của người mạng chung ấy dùng tạc hoặc vẽ h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, hoặc khiến cho bệnh nhân khi chưa chết, mắt thấy, tai nghe, biết quyến thuộc đem nhà cửa, vật báu v.v… v́ chính thân ḿnh mà đắp vẽ h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát. Người ấy nếu do nghiệp báo, đáng bị bệnh nặng, th́ nhờ vào công đức ấy liền được hết bệnh, b́nh phục, thọ mạng tăng thêm! Nếu người ấy do nghiệp báo đă hết mạng, có hết thảy các tội chướng và nghiệp chướng đáng đọa vào đường ác, [nhưng do công đức đắp vẽ h́nh tượng Bồ Tát], sau khi mạng chung, liền sanh trong làm trời hay người, hưởng sự vui thù thắng, nhiệm mầu, hết thảy tội chướng thảy đều tiêu diệt). V́ thế, mau chóng tính dùng hai vạn đồng ấn tống kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (tôi vốn cũng mong tạo thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát, nhưng lâm thời chẳng xếp đặt thích đáng, cho nên chẳng tạo), và kinh Kim Cang, sách Sự Kiện Lớn Nhất Lúc Lâm Chung, ba loại kinh sách để kết duyên cùng đại chúng, cũng quyên tặng một bức kim thân Phật trong số một ngàn vị Phật tại Di Lặc Nội Viện ở Tịch Chỉ. Sau đó, kề sát tai mẹ, thưa rơ từng điều: “Mẹ ơi! Mẹ trước kia ăn chay lễ Phật, tin Phật. Cho nên con nay đem số tiền do mẹ vất vả chắt chiu, lấy ra hai vạn đồng để in tạo kinh, tượng. Trước kia, mẹ thường quyên cúng tiền nhang đèn, lợp chùa. Mùa Hạ thí nước trà, mùa Đông, cúng gạo trắng, quần y phục… làm rất nhiều thiện sự, Phật, Bồ Tát sẽ gia hộ mẹ, A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn mẹ. Người khác đến dẫn mẹ đi, mẹ đừng theo nhé! Chỉ có A Di Đà Phật đến th́ mới có thể theo Ngài ra đi nhé!” Cũng thỉnh tượng Tây Phương Tam Thánh cho mẹ xem. Hằng ngày luôn nhắc nhở mẹ mấy lượt như thế.

          Tới khi mẹ nằm trên giường đă bảy ngày, khi chúng tôi di chuyển thân thể hoặc chân tay của mẹ, mẹ rất đau đớn, phát ra tiếng kêu đau ngăn trở, tôi lại nghĩ đến chuyện có nên đưa mẹ vào bệnh viện hay không. Lúc đó, mẹ đă gầy như que củi, hiển nhiên là không có cách nào chịu đựng được sự đau đớn do di chuyển, hơi động đến đă kêu đau. Nhưng nếu mẹ vẫn có thể sống được một khoảng thời gian khá dài, làm sao tôi có thể không đưa bà đến bệnh viện để t́m cách giảm bớt nỗi đau khổ cho bà? Trong lúc ấy, mời thầy thuốc đến chích, nỗi đau khổ vẫn chưa giảm bớt.

          Trong khi tiến thoái lưỡng nan, do dự như thế, tôi lại nghĩ tới phẩm thứ sáu của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, tức phẩm Như Lai Tán Thán có dạy: “Nhược vị lai thế, hữu nam tử, nữ nhân, cửu xử sàng chẩm, cầu sanh, cầu tử, liễu bất khả đắc. Hoặc dạ mộng ác quỷ, năi cập gia thân, hoặc du hiểm đạo, hoặc đa yểm mị, cộng quỷ thần du, nhật nguyệt tuế thâm, chuyển phục uông sái, miên trung khiếu khổ, thảm thê bất lạc giả. Thử giai thị nghiệp đạo luận đối, vị định khinh trọng, hoặc nan xả thọ, hoặc bất đắc dũ. Nam nữ tục nhăn, bất biện thị sự, đản đương đối chư Phật, Bồ Tát tượng tiền, cao thanh chuyển độc thử kinh nhất biến. Hoặc thủ bệnh nhân khả ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối, trang viên, xá trạch, đối bệnh nhân tiền, cao thanh xướng ngôn, ngă mỗ giáp đẳng, vị thị bệnh nhân, đối kinh tượng tiền, xả chư đẳng vật. Hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo Phật, Bồ Tát h́nh tượng, hoặc tạo tháp tự, hoặc nhiên du đăng, hoặc thí thường trụ. Như thị tam bạch bệnh nhân, khiển linh văn tri. Giả linh chư thức phân tán, chí khí tận giả, năi chí nhất nhật, nhị nhật, tam nhật, tứ nhật, chí thất nhật dĩ lai, đản cao thanh bạch, cao thanh độc kinh, thị nhân mạng chung chi hậu, túc ương trọng tội, chí ư ngũ vô gián tội, vĩnh đắc giải thoát. Sở thọ sanh xứ, thường tri túc mạng” (Nếu trong đời vị lai, có nam tử, nữ nhân, nằm trên giường bệnh lâu ngày, cầu sống hay cầu chết đều trọn chẳng thể được. Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ, cùng với người nhà, hoặc đi trong đường hiểm, hoặc hay bị bóng đè, cùng đi với quỷ thần. Lâu ngày chầy tháng, chuyển thành gầy ṃn, ho lao, kêu rên đau khổ trong giấc ngủ. Đó đều là do c̣n phải đối biện về nghiệp đạo [trong cơi âm], chưa định tội nặng hay nhẹ, nên khó xả thọ, hoặc chẳng được lành. Mắt trần tục của nam nữ chẳng biện định được chuyện này, chỉ nên đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, lớn tiếng chuyển đọc kinh này một lần. Hoặc lấy vật bệnh nhân yêu mến, hoặc y phục, vật báu, trang trại, vườn, nhà cửa, đối trước bệnh nhân, lớn giọng xướng rằng: “Tôi tên là… v́ bệnh nhân này, đối trước kinh, tượng tiền mà xả các vật. Hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo h́nh tượng của Phật, Bồ Tát, hoặc tạo chùa tháp, hoặc thắp đèn dầu, hoặc bố thí cho thường trụ”. Bạch với bệnh nhân ba lượt như thế khiến cho họ nghe biết. Giả sử các thức phân tán, cho đến khi tắt hơi, cho đến một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, cho đến bảy ngày trở lại, chỉ nên lớn tiếng bạch, lớn tiếng đọc kinh. Sau khi người ấy mạng chung, túc ương trọng tội, cho đến tội ngũ vô gián vĩnh viễn được giải thoát. Sanh về bất cứ chỗ nào, thường biết túc mạng).

          Trong mười hôm trước, chúng tôi không ngừng xưng niệm Phật hiệu, chưa xét đến chuyện then chốt là lúc mẹ mạnh khỏe vẫn chưa tu pháp môn Niệm Phật, sợ khó tương ứng. Nay bỗng nhớ tới câu trên, liền lập tức v́ mẹ niệm kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện một lần. Sau đó, lại niệm một ly nước đại bi cho mẹ uống. Tới chiều ngày hôm sau, khi xoay thân mẹ để xoa bóp, bất ngờ nhận thấy mẹ chẳng lộ vẻ thống khổ, tinh thần thoải mái, an tường. Chúng tôi liên tục niệm Phật chẳng bỏ sót, cũng thường hai tay nâng tượng Tây Phương Tam Thánh cho mẹ xem, cũng kể cho cụ nghe rất nhiều việc thiện đă làm trước kia, Phật, Tổ sẽ dẫn cụ sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói ra cũng rất lạ, vốn là từ vài năm trước, mẹ tôi thần chí chẳng rơ, nay dường như nghe hiểu. Mỗi lần đối trước cụ nói như vậy, hốc mắt cụ sẽ đong đầy nước mắt. Mấy chục hôm trước, anh em chúng tôi gom góp bảy vạn đồng cúng dường Tam Bảo, cũng đều thưa rơ với mẹ từng chuyện. Và cũng hằng ngày niệm Phật, lạy Phật, khẩn cầu Phật quang gia bị, khiến cho mẹ thuận lợi sanh Tây. Tới mười một giờ đêm ngày thứ mười ba, dùng bột táo mà mẹ thích ăn bón cho cụ một th́a lớn. Tiếp tục niệm Phật không ngừng, tôi cảm thấy tinh thần tươi tỉnh, chẳng tính đi ngủ, lại thỉnh tượng Tây Phương Tam Thánh cho mẹ xem. Mẹ mở to mắt nh́n, nh́n đến lúc mười hai giờ năm mươi lăm phút, mẹ thở nhanh hơn. Năm phút đồng hồ sau liền tắt hơi, chẳng giăy giụa mà qua đời. Người viết cùng vợ và em trai một mực niệm Phật đến tám giờ sáng, mời pháp sư trợ niệm đến giữa trưa. Những lúc gián cách th́ dùng máy ghi âm phát ra tiếng niệm Phật. Từ đó trở đi, quyến thuộc lục tục kéo tới, quở trách: “V́ sao không sớm giúp tắm rửa, thay quần áo cho cụ? Lúc thân thể cứng ngắc như thế làm sao mặc được?” Người viết chẳng rảnh đâu để giải thích, cứ cười trừ mặc họ chửi mắng. Tới ba giờ rưỡi chiều, tắm rửa, thay quần áo cho mẹ, nào ngờ toàn thân cụ mềm mại như thường, mọi người cũng chẳng c̣n nói ǵ được nữa! Ngày hôm sau, khi nhập quan (đă ba mươi ba tiếng đồng hồ trôi qua), nhận thấy di thể của mẹ vẫn mềm mại như cũ.

          Lo liệu hậu sự cho mẹ, chúng tôi cũng bị một số thân hữu chê trách. Thế tục luôn cầu náo nhiệt, đẹp mặt, chúng tôi coi trọng họa phước của mẹ, tận lực tiết kiệm, chuẩn bị đem số tiền tiết kiệm được để dùng vào việc hữu ích. Tuy tận lực sắp xếp, bàn bạc, vẫn chẳng tránh khỏi làm một số việc vô nghĩa như lẵng hoa, đội âm nhạc, đồ cúng, xây mộ, đồ tang, các vật linh tinh v.v… lăng phí bốn năm vạn đồng. Kế đó, liên quan đến chuyện siêu độ. Trong xă hội hiện thời, phổ biến chuyện làm công đức cho người đă mất: Tang gia thỉnh người xuất gia làm Phật sự, chẳng có chút ư nghĩa bố thí, cúng dường nào, càng chưa nói tới chuyện cung kính, kiền thành. Họ bàn bạc ổn thỏa mỗi ngày [tang chủ] phải trả bao nhiêu tiền th́ mới đến, giống như giao dịch buôn bán, người chết làm sao hưởng lợi ích thực tế cho được? Noi theo huấn thị trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện th́ biết, nói “tu phước siêu tiến người mất” chính là dùng tài vật cung kính cúng dường Tam Bảo (hoặc hiến cho các sự nghiệp từ thiện cũng được). Dùng chuyện ấy để hồi hướng cho người đă mất, khiến cho vong linh gia tăng phước nghiệp, sanh về chốn lành. Nếu dùng tiền thỉnh kẻ khác niệm kinh, sẽ mất đi ư nghĩa bố thí, huống hồ đương thời có các đoàn niệm kinh chuyên nghiệp (phần nhiều đều chẳng phải là đệ tử Phật môn, chẳng hiểu Phật pháp, không tu Phật hạnh, chẳng giữ trai giới, lấy đâu ra sức công đức để siêu độ người khác? Chưa kể là thân cư sĩ, chẳng có tư cách nhận bố thí cúng dường). Thậm chí ni cô chạy bằng điện xuất hiện. Đó là tiêu tiền để làm chuyện ô nhục, miệt thị thánh pháp, tội lỗi vô lượng! Hiềm rằng tập tục xă hội là như thế, người viết cũng chẳng thể tránh khỏi thói tục để khỏi trái ư mọi người. Chỉ đành trong ngày đưa ma, thỉnh pháp sư đến làm một buổi pháp sự, cũng trong bốn mươi chín ngày, tận lực trù tính các khoản cúng dường thường trụ Tam Bảo các nơi, hồi hướng cho mẹ phước lực tăng trưởng, văng sanh Cực Lạc.

          Lại c̣n đến chùa Thừa Thiên ở Thổ Thành lập bài vị văng sanh cho mẹ. Từ đấy về sau, cứ bảy ngày tới chùa tham dự khóa tụng kinh buổi tối hồi hướng. Trong nhà chẳng hề thỉnh người làm Phật sự, nhưng người viết mỗi ngày đều tụng kinh Di Đà, kinh Địa Tạng, niệm Phật v.v… để hồi hướng cho mẹ. Lại trong thời gian cư tang, cả nhà tŕ trai, cũng như cúng dường cơm chay cho đại chúng. Sau đó, lại nghĩ tới Pháp Xứng thượng sư ở Liên Hoa Tinh Xá tại Tân Điếm (thuộc thành phố Tân Bắc) mỗi tháng làm pháp sự từ thiện siêu độ vong linh. V́ thế, đặc biệt đến đó xin ghi danh. Tôi nhớ pháp hội cầu siêu trang nghiêm, nghiêm túc, thượng sư tác pháp chừng một tiếng rưỡi bèn viên măn. Vong linh tŕnh diện thọ giáo, thượng sư tợ hồ thấy rơ ràng, nhưng thượng sư tuổi tác đă cao, sợ thân thể lăo nhân gia mệt mỏi, chẳng dám hỏi nhiều, đành phải vội vàng cáo từ.

          Tử vong là đại sự mà bất cứ ai cũng đều chẳng có cách nào tránh khỏi, họa phước là do một khắc lâm chung, cùng với trong ṿng bốn mươi chín ngày, quyến thuộc có thành kính làm phước siêu tiến hay không. Người đă chết rồi, đă chẳng thể tu công đức để tự cứu, chỉ cậy vào quyến thuộc làm phước hồi hướng. Kinh Địa Tạng dạy: “Tại thất thất nhật nội, niệm niệm chi gian, vọng chư cốt nhục quyến thuộc dữ tạo phước lực cứu bạt. Quá thị nhật hậu, tùy nghiệp thọ báo. Nhược thị tội nhân, động kinh bách thiên tuế trung, vô giải thoát nhật… Nhược hữu vi thực, cập bất tinh cần, thị mạng chung nhân liễu bất đắc lực. Như tinh cần hộ tịnh, phụng hiến Phật, Tăng, thị mạng chung nhân, thất phần hoạch nhất” (Trong bốn mươi chín ngày, trong mỗi niệm, [người đă chết] đều mong ngóng quyến thuộc ruột thịt tạo phước lực cứu bạt. Sau thời gian ấy, sẽ theo nghiệp thọ báo. Nếu là như thế, tội nhân trải qua trăm ngàn năm, chẳng có ngày giải thoát… Nếu ăn sái phép, và chẳng siêng năng chuyên ṛng, người mạng chung ấy trọn chẳng đắc lực. Nếu siêng ṛng, giữ ǵn sạch sẽ, cúng dâng Phật, Pháp, Tăng, người mạng chung ấy được một phần trong bảy phần công đức). Cổ đức có nói: “Muốn được lợi ích thực tế từ Phật pháp th́ phải cầu từ thành kính”. Hiện thời, kẻ v́ người chết tụng kinh, niệm Phật th́ nhiều, nhưng thái độ thành kính chưa chắc mỗi người đều có thể làm được! H́nh thức hóa diễn xuất, mua bán theo kiểu thương nghiệp, hết sức trái nghịch bổn ư của đức Phật.

          Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là hiếu kinh của Phật giáo, là kinh điển trọng yếu phải đọc dành cho kẻ mong báo hiếu cha mẹ, tôn trưởng. Kinh đặc biệt chú trọng cứu bạt chúng sanh tội khổ sắp đọa vào đường ác. Phẩm thứ mười ba là phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên đă dạy: “Vị lai thế trung, nhược thiên, nhược nhân, tùy nghiệp báo ứng, lạc tại ác thú. Lâm đọa thú trung, hoặc chí môn thủ, thị chư chúng sinh, nhược năng niệm đắc nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất cú, nhất kệ Đại Thừa kinh điển. Thị chư chúng sanh, nhữ dĩ thần lực, phương tiện cứu bạt. Ư thị nhân sở, hiện vô biên thân, vị toái địa ngục, khiển linh sanh thiên, thọ thắng diệu lạc” (Trong đời vị lai, dù trời hay người, theo nghiệp mà báo ứng, rơi vào đường ác. Lúc sắp đọa vào đường ác, hoặc đến trước cửa đường ác ấy, các chúng sanh đó nếu có thể niệm danh hiệu một vị Phật, hay danh hiệu một vị Bồ Tát, một câu, một kệ kinh điển Đại Thừa. Đối với các chúng sanh ấy, ông hăy dùng thần lực phương tiện cứu bạt. Ở chỗ người ấy, hiện vô biên thân, nhằm phá tan địa ngục, khiến cho kẻ đó sanh lên trời, hưởng sự vui thù thắng mầu nhiệm). Kinh c̣n dạy: “Nhược hiện tại, vị lai chư thế giới trung, lục đạo chúng sanh lâm mạng chung thời, đắc văn Địa Tạng Bồ Tát danh, nhất thanh lịch Nhĩ Căn giả, thị chư chúng sanh, vĩnh bất lịch tam ác đạo” (Nếu trong các thế giới nơi đời hiện tại hay vị lại, chúng sanh trong sáu đường khi lâm chung, được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, một tiếng thoảng qua tai th́ các chúng sanh ấy, vĩnh viễn chẳng trải qua các ác đạo). Từ các câu trên đây, có thể thấy kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là pháp môn cứu cấp (cứu tai ương cấp bách).

          Nay tôi trích lục phương pháp cứu tế khẩn cấp liên quan đến lúc lâm chung như sau: “Như thị Diêm Phù Đề nam tử, nữ nhân, lâm mạng chung thời, thần thức hôn muội, bất biện thiện ác, năi chí nhăn, nhĩ, cánh vô kiến văn. Thị chư quyến thuộc, đương tu thiết đại cúng dường, chuyển độc tôn kinh, niệm Phật, Bồ Tát danh hiệu. Như thị thiện duyên, năng linh vong giả, ly chư ác đạo, chư ma quỷ thần, tất giai thoái tán. Thế Tôn! Nhất thiết chúng sinh, lâm mạng chung thời. Nhược đắc văn nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, hoặc Đại Thừa kinh điển nhất cú, nhất kệ. Ngă quán như thị bối nhân, trừ ngũ vô gián sát hại chi tội, tiểu tiểu ác nghiệp, tầm tức giải thoát” (Nam tử, nữ nhân trong cơi Diêm Phù Đề như thế, khi lâm chung, thần thức hôn ám, mê muội, chẳng biện định thiện ác, cho đến mắt, tai, trọn chẳng thấy nghe. Các quyến thuộc của họ hăy nên sắp đặt đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát. Thiện duyên như thế có thể khiến cho người mất ĺa các đường ác, các ma, quỷ thần thảy đều lui tan. Bạch Thế Tôn! Hết thảy chúng sanh khi lâm chung, nếu được nghe danh hiệu của một vị Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, hoặc một câu, một kệ kinh điển Đại Thừa, con thấy hạng người như thế, trừ phi phạm tội ngũ vô gián và sát hại, nếu chỉ phạm các ác nghiệp nhỏ nhặt, sẽ liền được giải thoát) (Phẩm thứ tám, Diêm La Vương Chúng Tán Thán).

          “Nhược hữu nam tử, nữ nhân, tại sanh bất tu thiện nhân, đa tạo chúng tội, mạng chung chi hậu, quyến thuộc tiểu đại, vị tạo phước lợi, nhất thiết thánh sự, thất phần chi trung, nhi năi hoạch nhất, lục phần công đức, sinh giả tự lợi” (Nếu có các nam tử, nữ nhân, lúc c̣n sống chẳng tu nhân lành, tạo nhiều các tội, sau khi  mạng chung, quyến thuộc lớn nhỏ v́ người ấy tạo phước lợi, hết thảy các thánh sự th́ trong bảy phần, [người chết] sẽ được một phần, c̣n sáu phần công đức th́ người sống được lợi lạc). Diêm Phù Đề chúng sanh, lâm chung chi nhật, thận vật sát hại, cập tạo ác duyên, bái tế quỷ thần, cầu chư vọng lượng. Hà dĩ cố? Nhĩ sở sát hại, năi chí bái tế, vô tiêm hào chi lực, lợi ích vong nhân, đản kết tội duyên, chuyển tăng thâm trọng” (Chúng sanh trong cơi Diêm Phù Đề trong ngày lâm chung, hăy cẩn thận đừng sát hại, và tạo ác duyên, cúng bái quỷ thần, cầu các quỷ mỵ. V́ cớ sao vậy? Việc giết hại cho đến cúng tế như thế chẳng có mảy may sức lực nào lợi ích vong nhân, chỉ kết thành tội duyên, khiến trở thành sâu nặng hơn). “Lâm mạng chung thời, phụ mẫu, quyến thuộc, nghi vị thiết phước, dĩ tư tiền lộ, hoặc huyền phan cái, cập nhiên du đăng, hoặc chuyển độc tôn kinh, hoặc cúng dường Phật tượng, cập chư thánh tượng. Năi chí niệm Phật, Bồ Tát, cập Bích Chi Phật danh. Nhất danh, nhất hiệu, lịch lâm chung nhân nhĩ căn, hoặc văn tại bổn thức. Thị chư chúng sinh, sở tạo ác nghiệp, kế kỳ cảm quả, tất đọa ác thú, duyên thị quyến thuộc, vị lâm chung nhân, tu thử thánh nhân. Như thị chúng tội, tất giai tiêu diệt. Nhược năng cánh vị thân tử chi hậu, thất thất nhật nội, quảng tạo chúng thiện, năng sử thị chư chúng sanh, vĩnh ly ác thú, đắc sanh nhân thiên, thọ thắng diệu lạc. Hiện tại quyến thuộc, lợi ích vô lượng” (Khi lâm chung, cha mẹ, quyến thuộc hăy nên v́ người ấy làm phước để giúp cho tương lai của người ấy. Hoặc treo phan, lọng, và thắp đèn dầu, hoặc chuyển đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng Phật, và các thánh tượng. Cho đến niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát, và Bích Chi Phật. Mỗi danh hiệu lọt qua tai của người lâm chung, hoặc nghe lọt vào thần thức của người ấy. Các chúng sanh đó trót tạo ác nghiệp, xét theo quả báo cảm vời, ắt đọa vào đường ác. Do v́ quyến thuộc v́ người lâm chung tu thánh nhân ấy, các tội như thế đều tiêu diệt. Nếu lại có thể sau khi người đó đă chết, trong bốn mươi chín ngày, rộng tạo các điều lành, khiến cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn ĺa đường ác, được sanh trong cơi trời, người, hưởng sự vui thù thắng, nhiệm mầu. Quyến thuộc trong hiện tại lợi ích vô lượng) (Phẩm thứ bảy, Lợi Ích Tồn Vong).

          Nói chung, người viết mang tâm t́nh chuộc tội, chỉ hổ thẹn đối với từ thân, chẳng dám sơ sót từng điểm, từng giọt trong thánh huấn của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hết thảy đều cung kính, cẩn thận tuân theo. Hồi tưởng mẹ bệnh tật suốt sáu năm, gần như bị nhốt trong tù ngục, càng cảm thấy vô lượng khổ sở không thể giăi bày! Từ cái quả mà tham chiếu cái nhân, tự biết trên dưới trong hàn gia tội nghiệp sâu nặng, cảm vời khổ báo. Nếu người viết chẳng hoàn toàn hối hận, giác ngộ, quy y, tin tưởng Tam Bảo, nương nhờ từ ân của Phật, sợ rằng khổ quả chưa chắc đă chỉ là như thế. Đặc biệt là thân thể mẹ cường tráng, nằm trên giường mười bốn ngày, hoàn toàn chẳng có dấu hiệu bệnh tật nào khác (chẳng phát sốt, cũng chẳng đau khổ. Sau này, do nằm lâu, khi bị di chuyển thân thể mới đau đớn). Lúc lâm chung, chẳng có mảy may đau khổ, mắt nh́n tượng Tây Phương Tam Thánh, tai nghe tiếng Phật hiệu, an tường ngưng dứt hô hấp, như đi vào cơi mộng. Nếu chẳng được Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ, sao có thể được như vậy? Di thể qua ba mươi ba tiếng đồng hồ vẫn mềm mại như lúc c̣n sống, đủ chứng tỏ Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, cảm ứng hết sức rơ rệt! Chúng tôi rất tin tưởng vận mạng trong tương lai của mẹ chắc sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Giả sử chưa thể sanh Tây, cũng nguyện đời sau mẹ đầu thai vào nhà thiện tri thức, sớm nghe Phật pháp, tinh tấn trên đường Bồ Đề.

 

32. Gương vỡ lại lành

Huệ Từ ghi

 

          Khoảng chừng hai tháng trước, tôi nhận thấy chồng có hành vi lạ lùng, trải qua âm thầm điều tra, nghe ngóng, mới biết anh ta lẹo tẹo bên ngoài. Tôi nghĩ nếu chẳng vạch trần quá mức việc này, sẽ tránh khỏi h́nh thành cục diện bế tắc. Nào ngờ, chuyện chẳng đơn thuần, họ đă có kế hoạch muốn ép tôi ly hôn. Gia đ́nh vốn hạnh phúc hài ḥa, do có kẻ thứ ba chen vào, khiến cho chúng tôi thường xuyên ầm ĩ, chẳng thể tṛ chuyện được. Chồng tôi đầu óc mê muội, choáng váng, nhằm đạt mục đích đă không cách nào khống chế cái tâm rong ruổi bên ngoài! Một ngày, tôi đang ở trong Phật đường lau dọn, anh ta đoạt lấy cây lau nhà, đánh tôi, ép tôi phải chấp thuận ly hôn! V́ đứa con, tôi không đồng ư, anh ta lập tức bóp cổ tôi với ư đồ dùng cái chết để uy hiếp. Trong lúc nỏ mạnh hết đà, tôi buông xuống vạn duyên, xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng, nhất tâm quy hướng Địa Tạng Bồ Tát. Có lẽ do chí tâm chuyên niệm, tôi cũng chẳng cảm thấy đau đớn chút nào, anh ta lại vô cớ ngă ngửa ra đất, càng thêm tức giận. Tôi nhớ sư phụ từng khai thị, căi cọ sẽ dưỡng sân tâm, cho nên tôi không làm ồn lên, mà cũng chẳng mong kể lể với bất cứ ai, càng chẳng muốn dùng nước mắt để tranh thủ sự đồng t́nh của anh ta. Mỗi khi buồn ḷng, muốn khóc, bèn đối trước Phật xót xa cầu xin sám hối.

          Cuối tháng, tôi cùng vài vị cư sĩ đến Địa Tạng Viện, tham dự pháp hội Địa Tạng. Bước vào đại điện, nhớ tới ḷng từ bi của Bồ Tát, bất giác lệ rơi đầy mặt, kiền thành sám hối nghiệp chướng sâu nặng của chính ḿnh. Bỗng nhiên, thấy Địa Tạng Bồ Tát đối diện tôi mỉm cười. Ngỡ ḿnh hoa mắt, tôi cẩn thận tập trung nh́n, thật đấy! Nội tâm chẳng khỏi cảm thấy một gịng nước trong cuồn cuộn. Hai giờ chiều, tiếng phạm âm bắt đầu vang rền, mọi người như cùng được tắm gội trong biển pháp thanh tịnh, một bầu tường ḥa. Tụng kinh văn của kinh Địa Tạng tới đoạn: “Nghiệp lực thậm đa, năng địch Tu Di, năng thâm cự hải, năng chướng thánh đạo. Thị cố chúng sanh mạc khinh tiểu ác, dĩ vi vô tội, tử hậu hữu báo, tiêm hào thọ chi, phụ tử chí thân, kỳ lộ toàn biệt, túng nhiên tương phùng, vô khẳng đại thọ” (Nghiệp lực rất nhiều, có thể to hơn núi Tu Di, có thể sâu biển cả, có thể chướng thánh đạo. V́ thế chúng sanh đừng coi thường điều ác nhỏ, cho là không có tội ǵ. Sau khi chết sẽ có quả báo, mảy may đều phải hứng chịu. Cha con chí thân, mỗi người theo một đường khác. Dẫu có gặp gỡ, chẳng chịu hứng tội thay cho nhau), cảm nhận sâu sắc nhân quả chẳng sai, hăy nên dũng cảm đối diện gánh vác, càng tự khích lệ ḿnh đừng tạo nghiệp mới, kết ác duyên. Nếu quả thật duyên cùng chồng đă hết, chỉ mong Bồ Tát từ bi chỉ điểm phương hướng sanh tồn cho mẹ và con. Cũng v́ thế, nội tâm liền dần dần b́nh tĩnh.

          Cùng hôm pháp hội, anh ta và người đàn bà kia cùng đến pḥng khiêu vũ. Nửa đêm khi trở về, liền bảo tôi là có người thúc giục anh ta về nhà. Thoạt đầu, tôi không quan tâm. Liên tiếp bốn ngày đều là như thế, anh ta thậm chí hướng về tôi giải thích, thỉnh cầu tha thứ. Tôi cảm thấy kinh ngạc, liền mời anh ta đối trước Phật sám hối. Sau này, anh ta kể lại, tại pḥng khiêu vũ, có một người bộ dạng rất cao lớn, đi qua trước mặt anh ta liền biến mất, nhưng bên tai dường như có người thấp giọng khuyên nhủ: “Mau về nhà đi! Đừng nên qua lại với người đàn bà đó nữa! Hăy trở về khéo xin lỗi với mẹ con họ”. Mà đối phương cũng nằm mộng thấy có người bảo: “Phá hại gia đ́nh, khiến cho kẻ khác chia ĺa vợ con, sẽ chịu nhân quả rất nặng. Chớ nên chấp mê chẳng ngộ nữa!” Hai người họ hồi tưởng lại, trong tâm rất sợ hăi. V́ thế, tự động chia tay!

          Trận phong ba này trong gia đ́nh chúng tôi được b́nh ổn, thật sự có thể nói là do Địa Tạng Bồ Tát hiện oai thần và sức từ bi chẳng thể nghĩ bàn cảm vời. Chồng tôi do nhận biết lỗi lầm trước đó, nay yêu thương, quan tâm gia đ́nh gấp đôi, và cũng thường đọc sách Phật, càng cảm nhận Phật lư chính là kim chỉ nam chẳng thể thiếu để xử sự, làm người. Do đức Địa Tạng Bồ Tát, chúng tôi mới kiến lập gia đ́nh Phật hóa như trong hiện thời.

 

II. Những chuyện linh cảm trước thế kỷ mười chín

1. Ghi chép về sự linh cảm phóng quang của bức tranh Địa Tạng từ đời Lương ở chùa Thiện Tịch

 

          Đời Lương, tại chùa Thiện Tịch ở huyện Đức Dương, Hán Châu (nay là huyện Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên), nơi vách của đông lang, có tượng Địa Tạng Bồ Tát và Quán Âm do Trương Tăng Diêu[11] vẽ, h́nh dạng giống như một vị Tăng ngồi nghiêm nghị. Người thời ấy chiêm ngưỡng, lễ bái, tỏa ánh sáng lạ rạng ngời. Tới năm Lân Đức nguyên niên (663), tăng nhân trong chùa chiêm lễ, kính ngưỡng, khen là lạ lùng khác thường. Do vậy, dùng lụa áp lên vách để vẽ phỏng lại, đem đi thờ các nơi, cũng đều phóng quang chẳng khác [tượng gốc]. Người đương thời lần lượt vẽ phỏng lại rất đông. Niên hiệu Lân Đức thứ ba (665), khi Vương Kư đến làm Tư Châu Thứ Sử, thường vẽ phỏng lại, tinh thành cúng dường. Có mười chiếc thuyền cùng đi, giữa đường bỗng gặp gió băo, chín chiếc đều ch́m lỉm. Gặp cơn sóng dữ ấy, chỉ có thuyền của Vương Kư chẳng bị sợ hăi mảy may, liền biết là do ḷng từ bi rộng lớn của Bồ Tát có oai lực như thế đó! Tới năm Thùy Củng thứ ba (687), thiên hậu (Vũ Tắc Thiên) nghe chuyện ấy, liền sắc truyền họa sĩ vẽ phỏng theo, tranh lại tỏa sáng như trước, giống như bức vẽ đang được thờ tại đạo tràng [chùa Thiên Tịch]. Tới năm Đại Lịch nguyên niên (766), có vị đại đức tại chùa Bảo Thọ ở trong đạo tràng, lại thấy tướng lạ phóng quang, liền viết biểu tâu lên. Vua bèn kiền thành đảnh lễ, tán thán quang minh ấy! Khi Bồ Tát hiện quang, đất nước thường an khang, càng thêm cát tường.

          Lại có vợ của một thương nhân, có thai đă hai mươi tám tháng chẳng sanh. Một hôm, bỗng thấy quang minh của Bồ Tát, bà ta liền vẽ mô phỏng h́nh tượng, nhất tâm phát nguyện nơi Bồ Tát. Ngay trong đêm ấy, sanh một trai, tướng hảo đoan nghiêm, ai trông thấy cũng đều hoan hỷ. Do vậy, cả cơi đời gọi [tượng ấy] là Phóng Quang Bồ Tát.

 

2. Ghi chép về bức họa Địa Tạng phóng quang tại chùa Pháp Tụ đời Đường      

 

          Vào đời Đường, chùa Pháp Tụ tại Quách Hạ thuộc Ích Châu có tượng vẽ Địa Tạng Bồ Tát ngồi trên giường dây[12], thơng chân xuống, cao tám tấc sáu phân. Tượng ấy vốn do Trương Tăng Diêu vẽ. Tới tháng Bảy năm Lân Đức thứ hai, Tăng sĩ trong chùa vẽ phỏng theo một bản, tượng liền tỏa sáng giống như ṿng vàng, chợt tỏa ra, chợt ẩn mất. Lần lượt vẽ nhiều bản sao như thế, cũng đều phóng quang y hệt. Tháng Tám năm ấy, được lệnh dâng lên một bản đưa vào cung để cúng dường. Phàm tăng tục trong ngoài kinh thành, vẽ lại để cúng dường, cũng đều thấy phóng quang, tin biết là Phật lực chẳng thể suy lường. Mỗi nhà vẽ phỏng theo một bản riêng, đạt được sự cảm ứng chẳng thể ghi trọn hết!

 

3. Ghi chép về đức Địa Tạng cứu khổ cho nhà họ Lư ở huyện Hộ đời Đường

         

          Đời Đường, tại huyện Hộ ở Ung Châu, có người con gái họ Lư, rất có tín tâm, vâng giữ trai giới. Trong nhà, thờ phụng tượng Địa Tạng Bồ Tát tạc bằng gỗ, cao một thước sáu tấc, tươi sáng, sống động, khá nhiều linh dị. Cô Lư có mụ đầy tớ tuổi ngoài năm mươi, tà kiến, chẳng tin chánh pháp. Một hôm, Lư Thị đi nơi khác, mụ dời tượng vứt ra ngoài đồng hoang sau nhà. Lư Thị trở về nhà, khóc lóc đi t́m. Tượng phóng quang ngoài đồng hoang, Lư Thị hoan hỷ đón về, chẳng biết do mụ đầy tớ đă làm. Hôm sau, mụ đầy tớ bỗng chết ngất đi, bất tỉnh nhân sự. Kế đó, bỗng tỉnh dậy, khóc lóc sám hối, tự kể chuyện trong chốn u đồ như sau:

          - Khi tôi chết, bỗng thấy hai viên quan cưỡi ngựa, tự lấy quan điệp, bảo viên thư lại đọc lên. Sứ giả nói: “Mụ đầy tớ hủy nhục thánh tượng, vứt ra đồng hoang, đă phạm tội lớn, phải bắt đến điện vua”. Đọc quan điệp xong, trói lại, giải đến điện Diêm Vương. Tới trước điện, thấy có vô lượng vô biên kẻ bị gông, cùm, xiềng, xích trói buộc thân h́nh. Vua giận dữ nói: “Ngươi là đứa đầy tớ ngu si, hủy nhục thánh dung, vứt ra đồng hoang sau nhà, phải chịu báo ứng. Ở trong nhà lại chuốc vời, thờ phụng thần, bỏ qua thánh tượng, lại c̣n tà kiến, chẳng tin chánh pháp, đáng giam vào đại địa ngục”. Khi ấy, có một vị sa-môn bỗng đến trước sảnh đường. Vua liền bước xuống bệ, hết sức cung kính. Vua hỏi rằng: “V́ sao thầy đến vậy?” Sa-môn nói: “Đứa đầy tớ này là tớ gái trong nhà thí chủ của ta. Tuy ghét tượng của ta, ta chẳng bỏ nó. Mong nhà vua rủ ḷng thương, ban cho nó thọ mạng”. Vua thưa: “Xin nghe theo lệnh thầy”. Khi ấy, tôi nghe xong, tâm sám hối, bất giác xướng rằng: “Nam-mô Địa Tạng đại Bồ Tát”. Ngay lập tức, nương theo tiếng niệm, các tội nhân đang hiện diện trong sảnh đường, tiếng niệm truyền tới đâu, gông, cùm, xiềng, xích đều tự giải thoát, chẳng thấy thân họ đâu nữa. Khi ấy, Diêm Vương ngồi nh́n sững sờ. Vị sa-môn liền nắm tay tôi, dẫn ra khỏi sảnh đường. Ngay lập tức, tôi sống lại.

          Lư Thị nghe nói, càng thêm kính trọng tượng ấy. Do vậy, trong cả một huyện, không ai chẳng đều sanh ḷng tin tưởng, ngưỡng mộ.

 

4. Ghi chép về tượng kim sắc Địa Tạng cứu cha mẹ nhà họ Tổ ở Phủ Châu đời Đường

 

          Đời Đường, thứ sử[13] Phủ Châu họ Tổ tín tâm chân thật, kiên cố, nhưng cha mẹ ông ta chẳng tin cho lắm. Họ Tổ bèn v́ cha mẹ xuất tiền và lụa, tạo một bức tượng đứng của Địa Tạng Bồ Tát kim sắc, cao ba thước, quanh thân tỏa hào quang, dốc hết ḷng thành, cung kính thờ phụng, suy niệm. Khi ấy, cha ông ta là người Dương Đô, có chuyện phải tạm ra đi, mẹ ở nhà một ḿnh. Ban đêm, có kẻ ác tặc lén ḍm qua khe cửa, toan ăn trộm quần áo, chỉ thấy Địa Tạng Bồ Tát đang ngồi, [nên chẳng dám tiến vào]. Hôm sau, gă giặc thay đổi quần áo, đến nhà ấy, thấy bà cụ quần áo chỉnh tề ngồi đó, trọn chẳng thấy thánh tượng. Tâm gă trộm lấy làm lạ, bèn tự thố lộ tội lỗi, ḥng biểu lộ ḷng hổ thẹn, hối lỗi, kể lại điều đă thấy trong đêm. Cha trở về nhà, mẹ kể lại chuyện trên đây, cùng nhau suy xét nguyên do.

          Về sau, cha sang Phủ Châu, giữa đường gặp oán gia rút đao bén xông đến chém. Bỗng có một sa-môn thân kim sắc, dùng tay ngăn mũi đao, dùng đầu nhận lấy mũi đao, bị hại ngă lăn ra đất. Khi đó, kẻ oán tưởng là ḿnh đă giết hại, bèn bỏ chạy. Cha ông ta tránh khỏi bị giết hại, cảm thấy rất kỳ lạ! Đến nhà ông Tổ, kể cặn kẽ chuyện trên đây, sanh ḷng hy hữu. Cùng nhau đến chỗ thờ tượng để lễ bái, thấy trên đầu tượng có ba vết đao, màu vàng biến đổi chút ít, dường như bị chảy máu. Ông Tổ liền biết là Địa Tạng Bồ Tát đă chịu đao thay, cứu cha ḿnh thoát nạn. Cha ông ta liền sanh chánh tín, họ Tổ lại đón mẹ sang nhà. Ba người ở Phủ Châu, ngày đêm lễ cúng. Cha ông ta đến bảy mươi chín tuổi mới mất.

          Suốt ba mươi lăm ngày, ông Tổ mộng thấy cha ḿnh thân có quang minh, bay trên không trung tự tại, phi hành tới lui. Ông sanh tâm hy hữu, vọng bái hỏi cha sanh về đâu? Đáp: “Ta sanh lên tầng trời thứ tư, do Địa Tạng Bồ Tát chỉ dẫn, cùng phụng sự đấng Bổ Xứ. Người sanh về cơi trời ấy, đa số được Đại Sĩ dẫn dắt. Đức Bổ Xứ (Di Lặc Bồ Tát) khen ngợi: ‘Đại Sĩ chẳng bỏ sót những người đáng được chư Phật sắc truyền cứu độ”. Lại nói: “Mười ba năm sau, mẹ con hết tuổi thọ, sẽ sanh về đó. C̣n chính con th́ hai mươi lăm năm sau mới sanh. Vợ con th́ hai mươi tám năm sau mới sanh”. Nói xong lời ấy bèn ẩn mất chẳng hiện. Về sau, mẹ và vợ chồng họ Tổ đều đúng như lời cha nói. Hăy nên biết, một người tạo tượng, người thân đều được lợi ích trong đời hiện tại. Từ đấy về sau, trong cả một châu, người tạo tượng, vẽ tượng, lễ bái, cúng dường rất đông, rất nhiều người được cảm ứng.

 

5. Ghi chép về chuyện cảm ứng của vị sư ở kinh đô là Tăng Tuấn

 

          Đời Tống, Thích Tăng Tuấn, họ ngoài đời là Vương, là người ở kinh đô. Sau khi xuất gia, lo liệu việc Tăng, tiêu xài phung phí rất nhiều, ba nghiệp buông lung, chưa từng tu nhân lành. Đă chẳng có giới hạnh, mà cũng chưa từng tu điều lành, mắc bệnh nhẹ, chết đi. Hai bên hông c̣n ấm, ba ngày sau mới sống lại, khóc lóc, gieo ḿnh xuống đất, kể cặn kẽ chuyện trong u đồ như sau:

          - Khi sắp chết, có hai viên quan từ cơi âm xua đuổi tới trước cửa một ṭa thành lớn. Bỗng có một vị Tăng nói: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Lúc ngươi ở kinh thành đă từng vẽ phỏng theo một bức họa của ta. Dẫu chưa từng lễ bái, cúng dường, bỏ ở sau một ngôi chùa lớn, ta vẫn báo đáp công đức ngươi vẽ lại tượng. Do ngươi là sư thuộc tông Hoa Nghiêm, lại dạy ngươi một bài kệ như sau: - Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng đương như thị quán, tâm tạo chư Như Lai (nếu ai muốn biết rơ, ba đời hết thảy Phật, hăy nên quán thế này: Tâm tạo các Như Lai)”. Địa Tạng Bồ Tát dạy bài kệ ấy rồi bảo: “Tụng bài kệ ấy, có thể đóng cửa địa ngục, có thể mở đường Tịnh Độ, có thể thông với sanh mạng đạt được do quả báo”.       

          Sau đó, đến trước Diêm Vương, Tăng Tuấn đă tụng thuộc bài kệ ấy, bèn vào trong thành, gặp vua Diêm Ma. Vua hỏi: “Ngươi gặp gỡ pháp trong đời này, có công đức ǵ không?” Đáp: “Chỉ thọ tŕ một bài kệ bốn câu”. Vua nói: “Nay ngươi tụng được không?” Thưa: “Tôi ngu si, phóng dật, chẳng thể tu thiện, chuyên lo việc chùa, chẳng thể giữ giới, chỉ thọ tŕ một bài kệ bốn câu”. Vua hỏi:
“Nay ngươi có thể tụng hay không?” Đáp: “Tôi thuộc nằm ḷng”, bèn tụng trọn bài kệ trên đây. Khi ấy, những chỗ tiếng tụng vang đến, người chịu khổ đều được giải thoát. Vua nói: “Thôi! Thôi! Chẳng cần nói nữa, thả hắn về nhân gian”. Do nhân duyên ấy mới sống lại. Ông ta lại kể với pháp sư trong tông Hoa Nghiêm là sa-môn Nghĩa Học. Sư tra duyệt lời kệ, mới biết trích từ quyển thứ mười hai của kinh Hoa Nghiêm, tức là phẩm kinh ghi lại các bài kệ được nói khi vô lượng chư Bồ Tát vân tập trên cung trời Dạ Ma. Đó chính là bài kệ tán Phật của Giác Lâm Bồ Tát. Tăng Tuấn thường kể với các vị Tăng trong chùa. Người nghe đều phát tâm, tin nhận kinh Hoa Nghiêm.

 

6. Ghi chép về sự linh ứng do vẽ phỏng theo tượng Địa Tạng của vị sư Định Pháp chùa Không Quán

 

          Đời Tống, sư Thích Định Pháp chùa Không Quán có cảm ứng do vẽ phỏng tượng Địa Tạng Bồ Tát giống như Tăng Tuấn. Đối với vị Bồ Tát ấy, Sư chuyên dốc ḷng thành nương cậy. Vào ngày trai mỗi tháng, Sư vẽ mô phỏng tượng Địa Tạng, lễ bái, cúng dường, cầu thỉnh được thấy Bồ Tát ứng hiện trong đời này. Tṛn ba năm, [một hôm] có một tiểu sa-môn xin ngủ trọ nơi hành lang của chùa. Định Pháp nghe chuyện, cung kính ra khỏi pḥng chào hỏi, nói chuyện một đôi câu, bỗng chẳng thấy [tiểu sa-môn] đâu nữa. Mọi người lấy làm lạ, hỏi Định Pháp: “Sa-môn nói ǵ thế?” Đáp: “Sa-môn bảo: Diệu nguyện đă măn, sao ư khí ngắn ngủi như thế?” Người nghe đều nói: “Ông cầu thấy đức Địa Tạng, nhưng chẳng niệm lẽ xuất yếu, cho nên Bồ Tát hiện thân nói sao mà ư khí ngắn ngủi như thế?” Định Pháp nói: ‘Đă được ứng hiện, tôi sẽ phát Bồ Đề tâm, vui sướng cầu đạo quả vô thượng”.

          Quả nhiên, Sư nằm mộng, thấy Bồ Tát nói: “Vị sa-môn đó chính là Địa Tạng Bồ Tát. Ngươi cầu thấy ta hiện thân, nhưng chẳng phát Bồ Đề tâm. V́ thế ta đến giác ngộ ngươi. Ngươi vẽ mô phỏng tượng ta khá nhiều, vĩnh viễn chẳng đọa trong ba ác đạo. Xả thọ, sẽ sanh lên Đâu Suất Thiên, lúc đức Từ Tôn (Di Lặc) hạ sanh, ngươi sẽ được thọ kư thành Phật. Ta tùy thuận ngươi như bóng theo h́nh, như nước thuận theo h́nh dạng của đồ đựng mà có h́nh dáng khác nhau”. Sư tỉnh giấc, cảm kích, tuôn lệ như mưa, liền bỏ y, bát, tiền riêng, tạo tượng Bồ Tát cao bằng thân người, điêu khắc thân tượng đẹp đẽ, lại c̣n thâu thập những tượng ḿnh đă vẽ mô phỏng nhiều năm để lễ bái, cúng dường. Tượng phóng quang minh, linh nghiệm cũng rơ rệt lắm thay!

 

7. Ghi chép về chuyện cư sĩ Lư Tín Tư do thờ đức Địa Tạng mà thoát khỏi quỷ nạn

 

          Đời Đường, cư sĩ Lư Tín Tư người xứ Lô Thủy. Nam nữ trong nhà ông ta đều bị ác quỷ quấy nhiễu, năo hại. Ba mươi mấy người bất giác nằm rũ rượi đau đớn, hoặc hộc ra máu tươi, hoặc phần nhiều chết ngất. Khi ấy, Tín Tư lo lắng, sầu năo, hỏi Tăng cách giải cứu. Sa-môn tư duy hồi lâu rồi bảo: “Xưa kia, thuở đức Như Lai tại thế, dưới chân núi Tỳ Phú La (Vipula) nước Ma Yết Đề (Magadha), trong nhà trưởng giả Kiều Đề cũng bị ác quỷ gây phiền năo, thất thoát tinh khí. Cả năm trăm người trong nhà ấy đều chết ngất, mười ngày chẳng tỉnh. Khi ấy, Địa Tạng Bồ Tát du hóa các nước, tới nhà trưởng giả, sanh tâm đại bi, nói chú để cứu. Trong chốc lát, hết thảy đều được trừ sạch. Ông nên làm theo cách ấy, quy y Địa Tạng Đại Sĩ, nhất tâm xưng danh”. Khi đó, Tín Tư hoan hỷ làm theo, vẽ tượng Bồ Tát. Từ đấy, huyện Lô Thủy suốt năm mươi năm thoát khỏi nỗi sợ bệnh tật. Tượng linh thiêng ấy hăy c̣n.

 

8. Ghi chép về sự cảm ứng cứu chúng sanh trong địa ngục của Địa Tạng Bồ Tát tại chùa Khai Thiện

 

          Đời Đường, chùa Khai Thiện ở Chung Sơn có tượng Địa Tạng Bồ Tát cao ba thước, quang minh quanh thân to bốn thước năm tấc. Do đă nhiều năm, chẳng biết tượng do ai tạo. Về sau, Đô Đốc xứ Dương Châu là Đặng Tông, lúc sáu mươi mốt tuổi, mắc bệnh nhẹ, chết đi. Do nơi tim vẫn c̣n ấm, nên [người nhà] chưa nhập liệm. Sau một ngày đêm, ông sống lại, buồn khóc không nói ǵ, sai con cháu d́u đến chùa Khai Thiện, thưa cùng tăng chúng: “Trong chùa này có tượng Địa Tạng Bồ Tát cao khoảng ba thước, thông quang[14] to bốn thước năm tấc hay không? Tôi muốn lễ bái, cúng dường”. Chư Tăng chẳng biết ở chỗ nào, cứ theo lời Đặng Tông nói, t́m trong các thánh tượng, t́m thấy tượng đúng như lời kể. Đặng Tông lễ kính, lại bạch Tăng muốn thỉnh tượng ấy. Tăng hỏi ông điều ông ấp ủ, ông đáp:

          - Lúc tôi chết, thấy một vị quan tứ phẩm lôi đến trước cửa một ṭa thành lớn. Nhất thời bàng hoàng, viên quan vào thành, chốc lát bước ra bảo: “Ngươi có thể đến trước sảnh đường”. Tôi liền đến trước vua. Vua nói: “Ngươi không thể chết. Lại v́ ngươi lấy việc phụng sự Phật pháp làm gia nghiệp, hăy nên sớm trở về nhân gian, nhưng cơi âm đáng sợ, người ta chẳng hay biết. Ngươi có muốn thấy địa ngục hay không?” Đáp: “Tôi muốn thấy”. Vua liền sai một viên quan mặc áo xanh dẫn đi xem: “Ngươi dẫn Đặng Tông vào địa ngục, chỉ bày cho ông ta thấy h́nh tướng các dụng cụ hành h́nh”. Tôi theo viên quan ra khỏi thành. Đi chừng năm sáu dặm về phía Đông Bắc, có một ṭa thành lớn bằng sắt. [Viên quan] mở tấm cửa sắt đang đóng kín. Dần dần đến gần, tôi thấy trong thành lửa dữ sáng ḷa, ngọn lửa như thiêu đốt. Trăm ngàn tội nhân chịu khổ trong ấy. Khi đó, có một vị sa-môn vào trong ngục, chế ngự lửa dữ, giáo hóa, phủ dụ tội nhân, ngọn lửa bèn tạm tắt.

          Lại tiến lên trước đến một ṭa thành bằng sắt, mười tám địa ngục ở trong đó. Tướng trạng chịu khổ chẳng thể nói trọn. [Lại thấy] vị sa-môn răn dạy tội nhân trong đó giống như trước. Tôi đến xem mỗi nơi xong hết rồi mới trở về. Sa-môn từ địa ngục trở ra, hỏi: “Ông có biết tôi là ai hay không?” Thưa: “Không biết”. Sa-môn nói: “Tôi là Địa Tạng Bồ Tát ở chùa Khai Thiện. Xưa kia có sa-môn Trí Tạng pháp sư. Đệ tử của Sư là pháp sư Trí Măn, v́ muốn cứu chúng sanh thọ khổ trong tam đồ, cho nên chạm khắc tượng của tôi. Tôi thuận theo lời thỉnh của Sư, mỗi ngày một thời, vào mười tám địa ngục và vô lượng tiểu địa ngục, răn dạy, chỉ bảo. Những kẻ do xưa kia đă gieo thiện căn, thiện lực khá mạnh, hễ phát tâm liền được thoát khổ, tiến cao hơn. Kế đó, những kẻ thiện lực yếu hơn, chỉ gieo cái nhân thoát ác. Thấp nhất là kẻ [thiện căn] yếu ớt, cho đến kẻ đoạn thiện căn, tà kiến, chẳng có điều lành, sẽ chẳng hay, chẳng biết, trọn chẳng có tâm thoát khổ. Nếu ở trong nhân gian, kẻ thiện căn mỏng manh c̣n dễ hóa độ. Nếu kẻ nào vào ác đạo, thánh lực chẳng thể cứu bạt, v́ họ trơ ra như gỗ, đá. Những kẻ chẳng giác ngộ ấy, chờ cho đến khi thoát ra [mới có thể cứu bạt]. Nếu là kẻ [có thiện căn] hơi mạnh, lúc vừa mới vào [ác đạo], sẽ có thể phát tâm sám hối. Ông do sức vâng phụng pháp, thoát khỏi nỗi khổ địa ngục, hăy sớm trở về nhân gian, tuyên cáo chuyện này”. Do vậy, tôi ngước mắt chiêm ngưỡng sa-môn, [thấy Ngài] thân cao ba thước, quang minh quanh thân chói lọi. Sa-môn liền trao cho hai bài kệ như sau:

          Nhược tại nhân gian khả tu đạo,

          Xiển Đề hữu tâm thượng khả phát,

          Nhược nhập ác đạo, nghiệp dĩ thục,

          Tâm vô phân biệt, bất khả cứu.

          Như suy lăo nhân dục tiến lộ,

          Nhược động kỳ túc, phù dị tấn,

          Nhược ngọa bất động, lực bất cập,

          Chúng sanh định nghiệp diệc phục nhiên.

          (Nếu trong nhân gian dễ tu đạo,

          Xiển Đề vẫn có thể phát tâm,

          Nếu vào đường ác, nghiệp chín muồi,

          Tâm vô phân biệt chẳng thể cứu.

          Như người già yếu muốn đi đường,

          Nếu chân cử động, d́u đi được,

          Nếu nằm bất động, chẳng giúp nổi,

          Chúng sanh định nghiệp cũng thế đó).

          Nói kệ xong, bỗng chẳng thấy nữa! Tôi trong khi mơ màng, nhớ kỹ chuyện ấy. Sợ chẳng rơ hư hay thật, nên không nói với ai khác. Nay thấy tượng này, hoàn toàn giống như tôi đă thấy. Do nhân duyên ấy, cho nên muốn thỉnh”. Tăng nghe xong, hoan hỷ nói: “Lành thay! Tín tâm cảm bậc thánh thọ kư. Chỉ có thể vẽ phỏng theo, không thể thỉnh được!” Ông bèn cậy thợ khéo tạc phỏng theo, để tượng cũ tại đó.

 

9. Ghi chép về sự cảm ứng của tượng Địa Tạng nơi đầu trượng tại nhà quan thị lang họ Đặng ở Giản Châu đời Đường

 

          Đời Đường, tại huyện Kim Thủy thuộc Giản Châu, có quan thị lang[15] họ Đặng. Ông thấy bên vệ đường có một cây gậy bị găy, khắc h́nh vị Tăng, chẳng biết là tượng ǵ. Thị lang vốn tin Phật, bèn cầm về, cắm vào vách, lễ kính rồi bỏ đi, không nhớ tới nữa. Ba năm sau, bỗng bị bệnh chết, ngực vẫn c̣n hơi ấm, người nhà nghi ngờ, không tẩn liệm. Sau một ngày đêm, ông mới sống lại, ứa nước mắt nói:

          - Lúc mới chết, hai kẻ cưỡi ngựa từ cơi âm, xua tôi chạy đến cửa một ṭa thành lớn. Họ xuống ngựa, lôi tôi vào thành. Tới trước sảnh đường của nhà vua, thấy trong sân có trăm ngàn vạn người bị gông cùm. Vua đang giận dữ, toan quở trách tôi. Khi ấy, có một vị sa-môn, h́nh dạng xấu xí, tựa như quỷ quái, tới trước sảnh đường. Vua từ xa ngó thấy, cung kính, từ ṭa đứng dậy, chắp tay, hồ quỳ, bạch rằng: “Sa-môn đại thánh! V́ sao Ngài bỗng tới đây?” Sa-môn nói: “Thị lang là thí chủ của tôi. Do muốn báo ân, Ngài hăy nên đặc xá”. Vua thưa: “Nghiệp đă quyết định, mạng lẫn lộc đều hết, chuyện này khó được”. Sa-môn nói: “Xưa kia, ở trong Thiện Pháp Đường của Tam Thập Tam Thiên, ta được đức Phật phó chúc, có thể cứu các hữu t́nh ác có định nghiệp, chẳng phải là nay mới làm như vậy. Huống chi thị lang chẳng phạm trọng tội, há chẳng cứu giúp ư?” Vua thưa: “Đại Sĩ đại nguyện, kiên cố bất động, như núi kim cang, phải thả ông ta về nhân gian. Do lộc đă tận, con ban cho ông ta hạt đậu đỏ”.

          Sa-môn hoan hỷ, nắm tay thị lang, dẫn vào đường sống. Lúc sắp từ biệt, thị lang hỏi sa-môn: “Xin hăy chờ giây lát. Ngài là ai mà cứu con?” Sa-môn đáp rằng: “Ông chẳng biết ư? Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Xưa kia, ông ở nhân gian, bên đường thấy tượng của ta mà chưa từng hay biết, cầm về đặt trong vách. Đấy là do trẻ nhỏ giỡn chơi khắc đầu gậy làm tượng, chỉ khắc đầu mặt, không có những tướng khác, cho nên h́nh tướng xấu xí. Ông có thể nhớ lại hay không?” Nói lời ấy xong, bỗng dưng chẳng thấy đâu nữa!

          Sau khi tỉnh lại, thị lang thấy tượng nơi cây gậy ở góc tường trong nhà. Gậy đă găy ở giữa, ông bèn chạm khắc sửa đổi, dùng gỗ đàn hương ghép vào, tạo thành tượng cao năm tấc. Khi ấy, tượng phóng quang minh, chiếu sáng ngời cả nhà. Thị lang lại tạo tượng lớn bằng thân người, đặt tượng nhỏ vào trong ấy, biến nhà thành chùa, đặt tên là Địa Tạng Đài. Mọi người xa gần đến chiêm ngưỡng đông như hội! Đức Địa Tạng dạy bảo, tạo lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!

 

10. Ghi chép về chuyện sư Thích Pháp Thượng ở chùa Huệ Nhật thuộc Hoa Châu đời Đường được đức Địa Tạng cảm thông         

 

          Vị Tăng Thích Pháp Thượng chùa Huệ Nhật, xuất gia lúc ba mươi bảy tuổi. Xưa kia, lúc c̣n tại gia, Sư từng đi săn bắn. Vào rừng chơi, thấy trong lùm cây ngoài rừng hoang có mấy tia sáng tỏa ra, lấy làm lạ, bèn buộc ngựa, đích thân vào lục xem, chỉ thấy có một khối gỗ mục dài hơn một thước, bèn cầm về để trong nhà. Hôm sau, lại thấy từ lùm cây ấy vẫn tỏa sáng giống như cũ, bèn dùng giáo gạt sạch mọi lùm bụi, hoàn toàn chẳng có ǵ, lấy làm lạ, quay về. Đi săn lần sau, cho là cái lùm cây lần trước phóng quang chẳng khác trước đó, tâm lấy làm lạ, đem cái lơi gỗ mục đặt trên gốc cây rồi quay về. Trên đường gặp bầy hổ, ông ta thúc ngựa đuổi theo bắn. Dây cung đứt đoạn, sờ túi đựng dây cung th́ không có dây để thay thế. Mănh hổ quay lại đuổi. Ông ta sợ hăi bỏ chạy, ngựa lồng lên, khiến ông té khỏi ngựa, tự nghĩ chắc sẽ bị hổ nhai, thất thần như đang nằm mộng, thấy một người giống như sa-môn tới đuổi hổ dữ. Ông hỏi: “Ngài là ai?” Đáp: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Ông ở trong lùm cây thấy khối gỗ mục chính là thân ta. Cụ cố của ông đă lập chùa, tạc tượng ta tại đó. Chùa đă hư nát, tượng ta bị hư mục, chỉ c̣n cái lơi gỗ. Ông là cháu chắt của cụ, thấy quang minh của ta, nên nay ta cứu ông”.

          Hồi lâu sau, ông ta choàng tỉnh, thấy ngựa đứng hư [gần đó]. Mănh hổ chẳng thấy tung tích đâu nữa. Ông tự hối trách sâu xa, bèn tạo dựng tinh xá tại chỗ tỏa ánh sáng trước đó. Từ khối gỗ mục dính bùn, ông tạc tượng Địa Tạng, tiếp nối đèn pháp, [xây dựng chùa] tức Huệ Nhật tinh xá. Lúc Pháp Thượng bảy mươi tám tuổi, vào ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai năm ấy, Sư bảo các đồng bạn:

          - Địa Tạng Bồ Tát đến nhà tôi, bảo rằng: “Ông chính là người sẽ đắc đạo trong hội thứ hai thuộc ba hội thuyết pháp của Từ Thị Như Lai. Hôm nay xả thọ, liền sanh lên Đao Lợi”. Tôi bạch cùng Đại Sĩ: “Cảnh giới ngũ dục trên cơi trời vui sướng khôn sánh, mê mất Bồ Đề tâm. Muốn sau này lại gặp Phật, thời gian vẫn lâu lắm, con chỉ nguyện sanh về Tây Phương An Lạc thế giới”. Bồ Tát đáp: “Thuận theo ư nguyện của ông. Nếu muốn văng sanh Tịnh Độ, hăy nên niệm A Di Đà Phật một ngày một đêm, chuyên tâm niệm Phật, liền được văng sanh”. Tôi nghe theo lời dạy ấy, bắt đầu từ ngày hôm qua, chuyên niệm đức Phật ở Tây Phương, nay văng sanh Tịnh Độ.

          Nói xong, Sư chắp tay hướng về Tây, qua đời. Người trông thấy đều nói là điềm lành hy hữu, Địa Tạng Bồ Tát phóng quang [tiếp dẫn ông ta] về Tịnh Độ.

 

11. Chuyện cảm thông tạo tượng Địa Tạng để cứu mẹ của con gái Trần Đô Đốc

 

          Đời Đường, con gái út (đă mất tên) của viên đô đốc họ Trần mất mẹ từ bé, ngày đêm luyến mộ mà chẳng thể thấy. Đô đốc khuyên nhủ: “Cha cũng là người thân của con. Mẹ con tuy mất, cha hăy c̣n, v́ sao không màng ăn uống, muốn tự t́m cái chết? Nếu con tưởng nhớ người mẹ đă khuất, hăy nên tạo thánh tượng Địa Tạng, ḥng cầu nguyện cứu khổ cho mẹ”. Cô ta liền bỏ ra năm trăm đồng, thuê thợ kính cẩn khắc tượng cao ba thước, đón tượng về nhà cha. Cô gái thưa với cha: “Con chỉ muốn đặt tượng ở chỗ mẹ đă nằm trước kia. Nếu muốn thấy mẹ, sẽ liền thấy tượng này”. Cha sanh tâm xót thương, sai dẹp bỏ pḥng ngủ để đặt tôn tượng ấy. Cô gái ngày đêm lễ bái, cúng dường, cầu nguyện cứu khổ cho mẹ. Mộng thấy một vị sa-môn bảo cô Trần rằng: “Mẹ con đang ở trong địa ngục Tiêu Nhiệt. Khi ta mang thân nữ, cha tên là Thi La Thiện Hiện, mẹ tên là Duyệt Đế Lợi. T́m chỗ mẹ sanh về, thấy mẹ đang chịu khổ, bèn phát Bồ Đề tâm giúp chúng sanh. Ta cảm động trước tấm ḷng hiếu thảo của con, đích thân vào địa ngục, phóng quang thuyết pháp, mẹ con đă được thoát khổ, sanh lên trời Đao Lợi”. Cô gái họ Trần thấy sa-môn xiêm y cháy lam nham, bèn hỏi nguyên cớ. Sa-môn đáp: “Khi xuống địa ngục, lửa dữ táp cháy mà ra”. Cô gái họ Trần tỉnh giấc, khôn ngăn buồn vui lẫn lộn! Người trong nhà tụ tập, thấy xiêm y của tượng đổi màu như bị cháy, đều than hy hữu! Người nghe kể lại, phần nhiều sao vẽ tượng ấy để cứu khổ cho cha mẹ.

 

12. Ghi chép về chuyện cô gái họ Trương ở Dương Châu vâng lời mẹ dặn, tạc tượng Địa Tạng Bồ Tát cứu khổ cho mẹ

 

          Cô họ Trương là đích nữ của Thứ Sử Dương Châu Trương Kiện Tín. Sau khi mẹ mất, cô đă được mẹ báo mộng: “V́ nuôi con mà mẹ đă mặc t́nh tham dục, kiêu mạn quá đáng. Do vậy, cảm báo làm ngạ quỷ, khổ sở chẳng thể chịu nổi!” Con gái hỏi tướng trạng khổ sở. Mẹ đáp: “Ta làm con của quỷ, ngày đêm sống chết [nhiều lần]. V́ cớ sao vậy? Quả báo của ngạ quỷ phần nhiều là ăn thịt con ḿnh, hễ sanh ra liền ăn. Trông thấy mẹ đẻ như thấy đại ác quỷ; nhưng trong mỗi tháng của nhân gian, có một ngày chẳng thể ăn ta. Đó là ngày Hai Mươi Bốn trong tháng, sáng sớm có Tăng nhân vào thành, thí thực cho no đủ. Những ngày khác chẳng thể tránh khỏi nỗi khổ này. Ngày hôm ấy, vị sa-môn xướng rằng: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát, nay vào thành ngạ quỷ, có thể thí đại an lạc. Các ngươi hăy nên phát Bồ Đề tâm”. Tuy nghe lời ấy, do nghiệp báo trói buộc, chẳng thể phát tâm. Chỉ có một ngày được ăn no. Con muốn cứu khổ cho mẹ, hăy nên tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát”. Mẹ nói xong lời ấy, cô gái tỉnh giấc mộng, dùng hết tài sản của mẹ để tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát cao bằng thân người. Cô lại mộng thấy mẹ, thân tỏa quang minh, đứng trên hư không, bảo: “Ta do sức công đức tu thiện của con, mau chóng được sanh lên trời. Con hăy dụng tâm cung kính lễ bái, cúng dường, mai sau sẽ cùng [hội ngộ] tại chỗ Từ Thị Bồ Tát, cùng thấy Phật, nghe pháp”. Cô tỉnh giấc, bi cảm tột cùng! Người nghe kể chuyện đều đến cúng, ai nấy đều được lợi ích!

 

13. Chuyện cảm ứng do vẽ tranh Địa Tạng của Thứ Sử Lộ Châu Khang Cư Thông

 

          Thứ sử Lộ Châu là Khang Cư Thông, tín tâm chân thành, phụng sự Địa Tạng Bồ Tát đă nhiều năm. Lại c̣n phát tâm vẽ tôn tượng Bồ Tát, chưa tô màu mà quang minh đă rạng rỡ. Do vậy, tín tâm của Cư Thông càng thêm mạnh mẽ, chuyên dốc. Ông ngẫu nhiên mộng thấy hai quan binh cưỡi ngựa truy đuổi. Khi ấy, Cư Thông chẳng thể trốn được, bèn đứng run sợ. Quan binh xuống ngựa, nói: “Chúng tôi lầm rồi! Ông là đàn-việt của Địa Tạng Bồ Tát. Vua của tôi đối với đàn-việt của Địa Tạng Bồ Tát, dẫu có phạm lỗi nặng cũng không vây hăm!” Nói xong biến mất. Ông tỉnh mộng, thờ phụng càng thêm tin sâu, lễ bái, cúng dường.

          Năm Quảng Minh nguyên niên (880) đời hoàng đế Đường Hy Tông (Lư Huyên), ác quỷ dấy lên làm loạn, trong nước bị bệnh dịch, người chết thây chất như núi. Cư Thông mộng thấy lũ quỷ màu xanh cả trăm ngàn con kết bầy đi qua cửa nhà ông, nói: “Nhà này là thất của Địa Tạng Bồ Tát. Chúng ta là thuộc hạ hăy cẩn thận, đừng bước vào cửa”. Ông tỉnh giấc hết sức hoan hỷ, trai gái cả nhà thoát quỷ nạn.

          Trong niên hiệu Trung Ḥa[16], ông có việc phải đi xa, trên đường gặp tuyết lớn, bị lạc đường. [Do vậy bèn] niệm Địa Tạng Bồ Tát, đột nhiên thấy một con két nhảy nhót trên tuyết. Ông lấy làm lạ, đi theo nó, chẳng lâu sau t́m được đúng đường. Đó là Bồ Tát cảm ứng. Tới niên hiệu Quang Khải, ông đă tám mươi bảy tuổi, bị bệnh nhẹ, chí thành cầu lành bệnh. Trong mộng, cảm một vị tiểu Tăng bảo: “Ông giết một con thanh tước[17], đáng đọa địa ngục, nay để cho ông đền trả nghiệp ấy, chỉ chịu đôi chút đau khổ một hai ngày. Sau ngày mai mới được sanh vào Tịnh Độ”. Ông nghe xong liền tỉnh giấc, hoan hỷ lễ bái, bệnh đă khỏi hẳn. Đến ngày ấy, bệnh đă khỏi hẳn, ông chánh niệm qua đời.

 

14. Ghi chép về sự linh dị do tạo tượng Địa Tạng cao ba tấc bằng gỗ chiên đàn của quan Biệt Giá Kiện Khát tại Ung Châu

 

          Đời Đường, quan biệt giá[18] Kiện Khát tín tâm thanh tịnh, dốc ḷng tin phụng Phật pháp. Một hôm, ông hỏi Tăng: “Tại gia cư sĩ nên thờ phụng vị Phật, Bồ Tát nào?” Chư Tăng mỗi vị nói mỗi khác, [có vị nói]: “Nên thờ đức Quán Âm v́ ngài là đấng Thí Vô Úy trong thế giới Sa Bà”. Hoặc nói: “Thờ Dược Sư Phật v́ Ngài phát nguyện lợi lạc [chúng sanh] trong đời Tượng Pháp”. Hoặc nói: “Thờ Di Lặc chính là thờ phụng đấng Đạo Sư”. Hoặc nói: “Thờ Địa Tạng, v́ Ngài đă vâng nhận sắc lệnh của Phật”. Kiện Khát tự nghĩ: “Nên thờ đức Địa Tạng, v́ Ngài đă nhận sắc lệnh của đức Phật, há bỏ chúng ta ư?” Liền t́m gỗ chiên đàn, tạo tượng cao ba tấc, nhét trong búi tóc, đi, đứng, nằm, ngồi, xưng niệm danh hiệu. Trong niên hiệu Thiên Thành đời Đường Trang Tông (Lư Tồn Húc), thiên hạ chiến tranh, loạn lạc. Kiện Khát bị quân giặc vây hăm, chẳng biết trốn vào đâu, trong khoảnh khắc sẽ nhận lấy cái chết. Ông vừa nghĩ đến tượng Địa Tạng đang mang theo [trên búi tóc], gă đại tướng đang suất lănh kỵ binh bỗng kinh hoảng, tra gươm vào vỏ, bảo đồng bọn: “Chúng ta đang vây hăm Địa Tạng Bồ Tát, há có nên lầm lạc phá hoại hiền thánh”, liền tháo chạy. Kiện Khát cho là chuyện hy hữu. Sau khi dẹp yên loạn lạc, ông hỏi han chư Tăng, kể lại nhân duyên này, người nghe đều than lạ. Trong niên hiệu Trường Hưng[19], khi ông đến nhiệm sở, kẻ oán nghe tin, toan hăm hại, nấp chờ sẵn bên chỗ đường hiểm. Hắn chỉ thấy một vị sa-môn đi qua, trọn chẳng thấy Kiện Khát. Về sau, nghe ông đă đi qua, bèn hối lỗi, tạ từ, cởi bỏ oán thù. Lại có lần trên đường đi, đêm ông ngủ trọ, trời đổ mưa thật to, đèn lửa đều tắt ngúm. Thánh tượng trong búi tóc tỏa sáng chiếu màn đêm rơ như ban ngày. Bỗng có âm thanh khe khẽ như tiếng trẻ nhỏ bảo: “Hăy sớm rời đi, sớm rời đi!” Ông kinh dị, noi theo ánh sáng dẫn đường, đến nghỉ đêm ở chỗ khác. Hôm sau, trận lũ dâng trào, chỗ ông nghỉ trọ trước đó đă ngập nước, chẳng biết ch́m sâu cỡ nào. Ông tự nói: “Địa Tạng Bồ Tát cứu vớt, che chở”. Năm Thanh Thái thứ hai (935), ông tṛn bảy mươi tám tuổi mới mất. Khi lâm chung, tượng trong búi tóc phóng quang. Ông chắp tay niệm Phật qua đời. Quang minh ấy chiếu thẳng lên trời trong chốc lát. Ai nấy đều nói quang minh đưa tiễn Kiện Khát, ông chắc chắn sanh lên trời!

 

15. Ghi chép về chuyện Địa Tạng cảm ứng của Đô Đốc Trường An Thôi Lư Hệ đời Tống         

 

          Thôi Lư Hệ là Đô Đốc Trường An, là em trai của thượng thư Thôi Long. Năm Khai Bảo thứ hai (969), ông ta chết hai ngày rồi sống lại, kể chuyện trong cơi âm như sau:

          - Lúc tôi mới chết, có hai người xách nách đưa đi. Lại thấy có quỷ tốt h́nh ngựa trắng đuổi chạy chẳng biết mấy dặm, đến một ṭa thành lớn ở phía Đông Bắc. Từ cửa đen ở phương Nam vào, sẽ thấy phương Đông, từ cửa đen ở phương Tây vào, sẽ thấy cửa Nam, theo cửa đen ở phương Bắc vào thành, thấy có mười mấy căn nhà ngói. Mỗi căn đều có mười mấy gian. Trong đó, có mấy ngàn kèo cột tô vẽ, các thứ măo đội của các quan đều là màu đen. Hai bên nhà ngói có hơn ba mươi nha lại, đều nói: “Ta là [thuộc hạ của] phủ quân”. Lại về phía Tây Nam, hơn năm mươi bước, có hơn năm mươi nha lại. Lư Hệ đến trước phủ quân, phủ quân hỏi: “Ngươi phụng sự ǵ?” Lư Hệ đáp: “Tôi phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, cúng dường các sa-môn”. Phủ quân lại nói: “Ông đă thờ phụng đức đại thánh, đấy là phước trời”, bèn hỏi các nha lại chức nhỏ: “Người này mạng đă hết hay chưa?” Phủ quân liền lấy một quyển sách tự đọc rồi bảo Lư Hệ: “Khanh mạng chưa tận, nhờ Địa Tạng Bồ Tát cứu vớt, che chở”. Lại gọi các viên nha lại cấp thấp, quát: “Bọn bay cớ ǵ đoạt mạng người của Phật gia?” Liền quở trách ngục tốt có h́nh dạng ngựa trắng, xử phạt hắn bị trói vào cột một ngày. Lại hỏi: “Khanh có muốn về hay chưa?’ Đáp: “Dạ muốn”. Lại hỏi: “Khanh có muốn thấy địa phủ hay chăng?” Thưa: “Muốn thấy”. Phủ quân truyền cho ông một thớt ngựa, và sai hai nha lại dẫn đi. Từ phía Đông Bắc đi ra, khoảng năm sáu dặm, thấy một ṭa thành lớn bằng sắt, vuông vức mấy chục dặm. Có một cái nhà sắt, chứa đầy nước sắt lỏng sôi, bốc lửa hừng hực. Kế đó, đến một căn nhà lợp ngói, dùng sắt làm cánh cửa. Quan cơi âm mở cửa bảo ông nh́n, thấy ông nội, cụ cố v.v… đều ở trong thành ấy, đều bị gông, cùm, xiềng xích trói buộc thân thể. Lửa dữ vờn quanh thân, thiêu đốt, thân thể cháy nứt nẻ. Họ trông thấy Lư Hệ, bèn ứa nước mắt bảo: “Con hăy nên cứu giúp”. Lư Hệ thưa: “Hăy nên niệm Địa Tạng Bồ Tát”.

          Đi tiếp, thấy trong một cái thành, có giường, ṭa, chỗ nằm bằng sắt nóng. Các vị sa-môn ông được gặp gỡ khi trước đang ngồi đó, thân thể như than, lửa dữ chiếu sáng rực. Ông hỏi: “Thầy tu phạm hạnh, nay sao lại như thế này?” Sa-môn đáp: “Bọn ta v́ tiếng tăm, lợi dưỡng mà tu phạm hạnh, do nội tâm và ngoại hạnh chẳng tương ứng, các thứ ngọa cụ, giường, ṭa v.v… đă nhận xưa kia, nay biến thành các thứ khí cụ hành h́nh to lớn. Y phục, thức ăn v.v… biến thành áo sắt, nước đồng sôi. Đàn-việt hăy nên cứu chúng tôi”. Ông đáp: “Thầy hăy nên niệm Địa Tạng Bồ Tát”. Ông thấy mấy chục địa ngục, mỗi ngục đều có tội nhân bị hành hạ đầy ắp trong đó, đều là những người ông đă từng gặp gỡ trong cơi đời. Lại tới ngục cát đỏ, có cây đầy gươm, cột đồng, trăm ngàn tội nhân ở trên đó. Họ trông thấy Lư Hệ, đều chảy nước mắt, bảo: “Ông hăy cứu chúng tôi”. Đáp: “Hăy nên thường niệm Địa Tạng Bồ Tát”. Bảy ngục cát vàng, cát trắng, cát cháy v.v… như thế đều giống như đă thấy. Ông bèn trở về.

          Lại thấy một căn nhà ngói màu lục long lanh, hai bên đường có cây báu, các thứ trái xen kẽ. Liền hỏi hai viên nha lại, họ đáp: “Trong số các đàn-việt đệ tử của Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n vẽ tượng, phần nhiều sanh vào Tịnh Độ, hoặc sanh lên trời Đâu Suất, ai nấy đều thỏa sở nguyện. Kẻ chẳng tin tưởng vẽ tượng, nhưng phụng sự th́ phần nhiều trụ nơi đây”. Do vậy, ông tiến vào, thấy trong ṭa thành lớn, có điện báu lớn. Trăm ngàn vạn ức nam nữ vui đùa trong đó. Lại thấy cha mẹ, lục thân v.v… hoan hỷ chào hỏi. Những người nam, kẻ nữ nói: “Trước kia, chúng tôi ở trong địa ngục, nhờ ông dạy niệm Địa Tạng Bồ Tát, được thoát khổ, sanh vào trong đại điện này!” Cha mẹ, anh em, lục thân hoan hỷ bảo tôi rằng: “Nhờ ân trạch của ông, cảm Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa, ĺa khổ sanh vào nơi đây”. Ông lại hỏi: “Chỗ này là nơi nào?” Đáp: “Nơi đây gọi là phước xá, thọ mạng lâu dài, xa ĺa các thứ khổ. Tuy sanh nơi đây, ắt gặp ba hội của Phật Di Lặc, dứt các nỗi khổ”. Lư Hệ hỏi cơi nào? Họ nói: “Xưa kia, lúc Địa Tạng Bồ Tát tại thế, vâng nhận lời phó chúc của đức Như Lai, bạch với đức Phật: ‘Nhất định chẳng để cho bốn chúng đệ tử đọa vào ác đạo’. Trước khi Phật Di Lặc xuất thế, trong khoảng giữa hai vị Phật là năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, nếu có chúng sanh nguyện sanh về Tịnh Độ và Đệ Tứ Thiên, kẻ ít phước đều đến phước xá này, chẳng trở lại đường ác, cho đến khi thành Phật mới thôi”. Ông trở về chỗ phủ quân, vua liền sai hai người [nha lại] trên kia đưa ông hồi dương.

 

16. Ghi chép về chuyện cảm ứng do phát tâm tạo tượng Địa Tạng của Thứ Sử Ích Châu là Quách Từ An

 

          Nhà Đại Hán, Thứ Sử Ích Châu là Quách Từ An chẳng tin Tam Bảo, đặc biệt coi trọng Lăo Tử. Giữa tháng Năm nhuận của năm Càn Hựu thứ ba (950)[20], ông nhiễm bệnh, chữa trị đủ cách chẳng lành. Vợ ông thờ Phật, t́m hôm ông vui vẻ, nói: “Có thể phát nguyện tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát trong một ngày để khỏi bệnh, chớ nên tŕ hoăn!” Từ An nằm trên giường bệnh, tâm vẫn không tin, nói: “Cần phải phát nguyện ư? Nếu có cảm thông, tôi sẽ tin ngay”. Một hôm, ông bỗng chết ngất. Bà vợ ngửa mặt lên trời, gào khóc, lệ muôn hàng, tâm can tan nát, cầu chư thiên giúp ông sống lại. Sau ba thời (sáu tiếng đồng hồ), Từ An tỉnh lại, gieo ḿnh xuống đất, đ̣i dao bén, toan cắt lưỡi. Người trông thấy đều cho là ông cuồng loạn. Bà vợ an ủi, ông mới yên tĩnh, bảo: “Bà là đại thiện tri thức, có thể kéo dài mạng sống của tôi, có thể trừ khổ địa ngục, có thể trao cho niềm vui cơi trời, có thể dạy đạo giải thoát”. Vợ nói: “Xin ông hăy nói đầu đuôi”. Từ An bật khóc, bảo:

          - Tôi được Diêm Vương sai chừng bảy, tám người, mỗi người đều xưng là thần tư lộc (司祿, cai quản tài lộc), đều cưỡi ngựa xanh, ruổi vó như gió. Hai người cầm cung tên, hai người cầm gươm, hai người cầm gậy, một người cầm thừng, đuổi tôi về hướng Đông Bắc, tới cửa một ṭa thành lớn. Trong thành, có trăm ngàn vạn người, đứng hầu hai bên. Quan tư lộc xuống ngựa, thưa hỏi vị vua. Vua nói: “Sao lại bắt người chưa hoàn tất thiện nguyện?” Vua bèn nổi giận, sai dùng gậy sắt xử phạt. Quan tư lộc gào to, thân thể quần áo đẫm máu. Vua ra cửa, bảo Từ An: “Ông nhờ ơn vợ, phát nguyện tạo tượng Đại Sĩ, ta ở ngôi vua, thật sự v́ khiến cho chúng sanh đền trả tội nghiệp mà hiện thân Diêm Vương, thật ra là pháp vương. Nếu có chúng sanh quy y đức Địa Tạng, sẽ thỏa măn điều mong cầu. Ông hăy sớm trở lại nhân gian để hoàn tất nguyện ấy”. Vua liền sai người đưa về. Nay được tỉnh ngộ. Tâm ta chẳng tin, hủy báng đại thánh, muốn cắt lưỡi để sám hối.

          Vợ bảo: “Cắt lưỡi chẳng phải là sám hối. Nếu ngă xuống đất, vẫn phải do đất đứng lên. Ông hăy nên quy y Địa Tạng Bồ Tát, sám hối”. Ông liền làm theo lời vợ. Tạo tượng trong một ngày, hết sức hối hận lỗi trước. Mỗi ngày trai, đều lễ bái cúng dường, coi đó là nề nếp của gia đ́nh, siêng năng khuyên người sang, kẻ hèn phụng sự Địa Tạng Bồ Tát.

 

17. Ghi chép về chuyện cảm thông do v́ vợ tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát của quan Thượng Thư Bá Duyệt nhà Đại Châu

 

          Nhà Đại Châu[21], Thượng Thư Bá Duyệt là đại thần được vua ban thưởng cho đeo bao thêu cá vàng, rất tin Tam Bảo. Vợ ông do sanh nở mà chết, ông đau xót khóc lóc, tu phước hồi hướng, tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát cao bằng thân người vợ, lập hội trai tăng, dốc cạn ḷng thành lễ bái, cúng dường. Ông mộng thấy vợ mặc xiêm y mới sạch, bảo Bá Duyệt: “Tôi trước kia là vợ người ta, chẳng sanh con. Chồng thường than thở không con. Tôi liền bảo chồng cưới thiếp. Không lâu sau, cô ta có thai. Chồng yêu kính vợ mới, tôi sanh dạ khác, làm ra vẻ thân thiết, dùng thức ăn ngon trộn lẫn thuốc độc giết mẹ con họ. Do v́ lẽ ấy, đọa vào ngục Vô Gián sáu kiếp. Lại sanh trong nhân gian, v́ sanh nở mà chết đă năm mươi bảy lần rồi! Đời đời thường làm vợ ông, chịu nỗi khổ to lớn ấy. Nay ông v́ tôi tạo thánh tượng để giúp phước, nghiệp ấy đă diệt, sanh lên trời Đao Lợi, oai quang hơn hẳn trước kia. Sau khi sanh làm kẻ phối ngẫu của một vị trời, sẽ vĩnh viễn chẳng mang thân nữ. Nơi Thiện Pháp Đường của cơi trời ấy, cứ vào ngày Hai Mươi Bốn mỗi tháng, vô lượng vô biên hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát trong một tam thiên đại thiên thế giới nhóm họp nơi đó, đầy khắp dưới cội Vô Ưu, thuyết pháp lợi sanh. [Các hóa thân ấy] đều có h́nh dáng một vị Tăng kim sắc. Có một lúc, Ngài v́ tôi thuyết pháp bảo: Vợ chồng các ngươi tạo tượng, đúng pháp tu hành, được thoát đường khổ. Do ở trên trời, cho nên sanh thiện tâm, chẳng khởi tà tâm”. Bá Duyệt tỉnh giấc, vui buồn lẫn lộn!

 

18. Ghi chép về chuyện vị sư Huệ Tấn ở kinh đô tụng kinh Pháp Hoa cảm đức Địa Tạng

 

          Thích Huệ Tấn người xứ Lạc Dương, xuất gia từ bé, cầu pháp ở nước khác, truyền đạo Hiển, Mật. Trong ấy có một bộ Pháp Hoa, văn nghĩa mầu nhiệm tột cùng, Sư ngày đêm thầm tụng, chưa từng giải đăi, phế bỏ. Sư được mọi người tôn kính là thầy, cơi đời gọi là pháp sư. Trong niên hiệu Hiển Đức nhà Đại Châu, có một sa-di, tự xưng là người Tây Vực, tôn Huệ Tấn làm thầy, suốt ba năm phụng sự như một người hầu miễn phí. Huệ Tấn lấy làm lạ, hứa sẽ cho Cụ Túc Giới. Sa-di bạch rằng: “Con kính trọng người tụng Pháp Hoa, chẳng thể làm đại tăng”. Sau đấy, Huệ Tấn thôi tụng Pháp Hoa, truyền dạy kinh Thai Tạng Đại Giáo Vương[22]. Sa-di thưa với thầy: “Con trở về nước ḿnh, thầy đă thay đổi đường lối, chẳng phải là điều con ưa thích”. Sau đó liền mất dạng, chẳng biết đi về đâu. Huệ Tấn tự nhủ: “Do bỏ tụng niệm nên thành ra như vậy. Sa Di không biết suy nghĩ sâu xa, tôn sùng việc tụng niệm. Nay ta thay đổi cách hành tŕ, hăm hở tu pháp bí mật th́ có khác ǵ đâu?”

          Sư suy nghĩ chuyện ấy, đêm mộng thấy Sa-di chính là Địa Tạng Bồ Tát phóng quang chiếu Huệ Tấn. Tâm sư kinh hoảng, chắp tay, sám hối tạ lỗi. Bồ Tát bảo Huệ Tấn: “Ta có nguyện đại bi giúp kẻ Xiển Đề. Vâng lời phó chúc của đức Phật duy tŕ di giáo, hướng dẫn, lợi ích quần sanh. Đấng Đại Sư Thích Tôn xưa kia ở non Thứu, tám năm thuyết kinh Pháp Hoa. Ta thủ hộ, hai vạn vị Bồ Tát như Dược Vương v.v… đều vâng theo lời dạy, đích thân được đức Phật khuyên hộ tŕ. Ngài căn dặn chân thành, chắc thật, sắc truyền: Trong đời ô trược, kẻ tạm tŕ kinh Pháp Hoa là khó khăn nhất. Do hạnh nghiệp tụng niệm Pháp Hoa thanh cao của Sư, ta theo làm kẻ đầy tớ miễn phí cho Sư. Sư bỏ đọc tụng, ta liền ĺa bỏ”. Huệ Tấn rơi nước mắt sám hối. Lại hỏi rằng: “Con có ĺa sanh tử được không?” Đáp: “Ở nơi quá khứ Phật, hiện tại Phật, hoặc sau khi Phật diệt độ, nếu nghe kinh Pháp Hoa, đều đă thành Phật đạo. Chỉ có tâm trong sạch hay ô trược th́ [sẽ ĺa sanh tử] nhanh hay chậm khác nhau!” Nói xong, bỗng chẳng thấy đâu nữa. Sư tỉnh giấc, sám hối, tụng tŕ kinh Pháp Hoa như cũ.

 

19. Ghi chép về chuyện cô gái ở Vi Châu ở nhờ nhà bác cảm đức Địa Tạng giáo hóa

 

          Vào thời Đại Châu, tại nhà ông họ Đặng ở Vi Châu, có cô cháu gái (không biết tên) mất mẹ từ bé, được bác nuôi nấng. Cô ngày đêm nhớ mẹ, cầu hỏi sa-môn: “Làm thế nào để lại thấy mặt mẹ?” Sa-môn bảo: “Địa Tạng Bồ Tát có bổn nguyện đại bi. Cô chí tâm xưng niệm, sẽ lại được thấy”. Cô ta bèn ngày đêm xưng danh. Về sau, thưa với sa-môn: “Con nhờ ơn thầy, lại được thấy từ nhan. Kính cẩn dâng cúng một bộ xiêm y”. Sa-môn gạn hỏi cặn kẽ đầu đuôi, cô kể: “Con mộng thấy theo sau một vị sa-môn, bay lên trời. Thấy ṭa điện báu ma-ni bốn mươi chín tầng, chư thiên đầy dẫy trong ấy. Mẹ đang ở trong số những người bên ngoài. Con đến nơi, lễ bái, thưa hỏi. Mẹ nói: Con niệm Địa Tạng Bồ Tát, đưa mẹ đến tầng trời này, lại được gặp con, là do đức Thánh đích thân xếp đặt’. Con liền tỉnh giấc, tâm sanh ư niệm chẳng thể nghĩ bàn. Cảm ứng đạo giao như thế, đều do ơn thầy!” Sa-môn sanh tâm tùy hỷ bảo: “Nếu không do chính con có ḷng tin sâu xa, sẽ chẳng thể có sự cảm hóa ấy được”. Tôi đích thân nghe thấy, bèn ghi chép lại.

 

20. Ghi chép về chuyện gă Nhạn Hùng ở Kinh Châu do công đức quy y đức Địa Tạng mà thoát khổ địa ngục

 

          Vào thời Ngũ Đại, ở Kinh Châu có một người sống bằng nghề săn chim nhạn, nổi tiếng khắp cơi đời, được gọi là Nhạn Hùng. Lúc năm mươi mốt tuổi, mắc chướng khí chết đi, vợ ông ta đem bỏ xác nơi g̣ mả để nuôi cọp, sói. Ba ngày sau, ông ta sống lại, trở về nhà cũ. Vợ con kinh sợ, cho là đă biến thành cuồng quỷ. Nhạn Hùng kể cặn kẽ:

          - Khi ta chết, xe bốc lửa đến đón, bị lửa dữ thiêu đốt. Có một vị sa-môn dùng nước xối lên xe. Lửa tắt, thân được mát mẻ, sanh ư niệm hy hữu! Kế đó, tới chỗ vua (Diêm vương). Lợn, dê, gà, trĩ, ngàn vạn cầm thú tiến đến tâu với vua: “Hắn đoạt mạng con, xin trị tội Nhạn Hùng”. Đại vương trả lời: “Các ngươi đă tố cáo, Nhạn Hùng ắt là kẻ ác. Chỉ có điều tổ tiên của hắn quy y đức Địa Tạng, con cháu của họ được thoát khỏi nỗi khổ nung đốt”. Nhạn Hùng thấy t́nh h́nh đó, bèn nhất tâm xưng danh Địa Tạng Bồ Tát. Chim, thú trong điện đều biến thành h́nh người. Vua liền thả ta. Do vậy, được sống lại.

          Ông ta bèn bỏ nhà, phát tâm, xưng là Phật Nô (đầy tớ của Phật), du hành trong nhân gian, khuyên mọi người quy y Địa Tạng Bồ Tát.

 

21. Ghi chép về chuyện đứa bé dùng móng tay vẽ h́nh đức Địa Tạng được tăng thọ

 

          Đời Tống, sư Thích Huệ Ôn chùa Khai Bảo có nuôi một bé trai, chẳng rơ tên họ, mới vừa mười bốn tuổi. Thầy tướng Kiện Chân nh́n nó bảo: “Đứa trẻ này thọ mạng rất ngắn, chỉ c̣n sống được một tháng nữa mà thôi!” Sư nghe lời Kiện Chân nói, cho nó về nhà. Khi ấy, trời mưa to, đi lại chẳng thông thuận. Nó ngủ nhờ nhà một thợ vẽ, thấy ông ta vẽ tượng Địa Tạng Bồ Tát, bèn dùng móng tay, bắt chước ông ta vẽ vời, vẽ ở trên vách. Khi trời tạnh, bèn về nhà. Hơn một tháng sau, trở lại chùa Khai Bảo. Huệ Ôn hoan hỷ, bảo Kiện Chân nói nhảm. Liền gọi Kiện Chân đến gặp đứa bé. Ông ta kinh ngạc bảo: “Tuổi thọ tăng lên năm mươi năm. Chuyện này hiếm có, chẳng biết do đâu”. Đứa bé tự nói: “Con dùng móng tay vẽ h́nh tượng Địa Tạng. Đêm hôm ấy, có vị tăng bảo con trong giấc ngủ: ‘Ngươi năm mươi, năm mươi’. Xướng đôi ba lượt như thế. Ngoài chuyện ấy ra, chẳng tu thiện sự nào khác”. Huệ Ôn và thầy tướng số đều than: “Thánh lực chẳng thể nghĩ bàn!” Về sau, đứa bé xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, hiệu là pháp sư Huệ Tạng.

 

22. Ghi chép về sự ứng hiện tốt lành của đức Địa Tạng tại Liêu Thành đời Tống

 

          Đời Tống, ở vùng quê của Liêu Thành, xưa có khoảng hơn một ngàn nhà, gần đây đă hơn hai ngàn nhà, đều tín phụng Phật pháp, và tin tưởng Quán Âm, Địa Tạng. Họ coi trọng kinh Quán Âm, kinh Địa Tạng, và kinh Thập Luân. Có một ngôi chùa cổ, ba gian bốn chái, lợp ngói xanh, vách lá. Hai bên là tượng Quán Âm và Địa Tạng, cao bảy thước năm tấc. Chính giữa thờ tượng A Di Đà Phật, cao một trượng sáu thước, thường có điềm lành linh cảm, tượng do Đặng Độ đă tạo vào thuở trước. Trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc đời Tống Thái Tông, bệnh dịch tràn lan, các thôn người chết yểu rất nhiều. Vị thành chủ cầu đảo nơi tượng Địa Tạng Bồ Tát. Tượng phóng quang chiếu vào làng, mọi người đều được b́nh phục, người đă chết yểu được sống lại. Có một bà đồng chẳng tin Phật pháp, đă mắc bệnh chết qua một ngày mới sống lại, đến tinh xá, lễ đức Địa Tạng, khóc lóc, cầu xin xuất gia. Mọi người ngạc nhiên, hỏi nguyên do. Bà đồng thưa:

          - Tôi bị ác quỷ trói, tuy gọi vị thần tôi thờ phụng cứu vớt, thần thấy ác quỷ được sa-môn cảm hóa, bèn bỏ tôi mà đi. Khi ấy, vị sa-môn bảo: “Ngươi là nữ nhân ngu si, uổng công nương cậy thần đạo, chẳng tin Phật pháp. Ta là Địa Tạng Bồ Tát trong ngôi đại tự, do thành chủ thỉnh cầu, bèn cứu nữ nhân ngu si ngươi. Ta trao cho ngươi sanh mạng để kiến tạo chùa trong làng quê ḥng trực tiếp bảo vệ họ”. Tôi dứt tâm ác, trọn chẳng điều khiển quỷ nữa. Quỷ là nghiệp của chính ḿnh, chẳng phải do ai khác làm ra. Đă thấy nghe chuyện này, lại được sống sót, cải tà quy chánh, cho nên xin xuất gia”. Người nghe nói đều tùy hỷ, chấp thuận cho bà ta làm ni.

 

23. Ghi chép về sự cảm thông của tượng Địa Tạng chùa Thiên Phước

 

          Đời Tống, nơi góc Đông Bắc chùa Thiên Phước có thánh tượng Địa Tạng cao một thước sáu tấc, chẳng biết do ai tạo, xuất hiện vào thời đại nào. Tuy nhiên, tương truyền hết sức linh dị. Hễ ai t́m đến xin ngủ lại để lễ sám, ắt sẽ được cảm thông. Khi ấy, có một vị cư sĩ, lúc ba mươi bảy tuổi, không c̣n một cái răng nào. Ông ta t́m đến trước tượng, nhịn ăn, trai giới thanh khiết, cầu thỉnh. Nửa đêm cảm mộng, thấy tượng đến xoa đầu, khắp thân nhẹ nhàng, an vui. Tỉnh giấc, đă mọc ba mươi tám cái răng. Người thấy nghe linh dị, vẽ phỏng theo tượng để lễ bái, đều được cảm thông.

 

23. Ghi chép về sự cảm ứng từ bức họa Địa Tạng của ni sư Trí Tạng ở Thái Nguyên thuộc Tinh Châu

 

          Đời Tống, ni sư Trí Tạng ở Thái Nguyên đặc biệt phụng sự Địa Tạng Bồ Tát, thích cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Bà bỏ ra hai trăm đồng, vẽ tượng A Di Đà Phật, hai bên vẽ hai vị Địa Tạng và Quán Âm làm thị giả, đặt ở trong pḥng xá, tín tâm lễ bái, cúng dường, Năm Canh Th́n (980) trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc thứ năm, gió lốc thổi hư nhà, ni xá đều bị hư hoại. Hôm sau, t́m tượng chẳng biết thất lạc chỗ nào, ḷng sanh ưu năo! Bà cầu khẩn, niệm Địa Tạng Bồ Tát, chiêm ngưỡng hư không, thấy xa xa có một vật bay lơ lửng trên không, tỏa mấy luồng quang minh như ánh chớp. Lúc sau rơi xuống, chính là tượng bà mong cầu. Bà vui mừng, vẫn đặt trong pḥng như cũ. Ngày Hai Mươi Ba tháng Hai năm [Thái B́nh Hưng Quốc] thứ bảy (982), bà bảo bạn bè: “Địa Tạng Bồ Tát hướng dẫn tôi về Tịnh Độ, ngày mai chắc chắn văng sanh”. Bà thắp hương, rải hoa, xướng danh hiệu tam tôn, mỗi danh hiệu một trăm lẻ tám lượt, ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chắp tay, qua đời.

 

24. Ghi chép về sự hóa hiện linh dị của bức họa Địa Tạng trên vách Tây chùa Ngơa Quan ở Kim Thành

 

          Nơi vách Tây chùa Ngơa Quan có vẽ thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát, diện mạo như một vị lăo tỳ-kheo trung niên, áo ca-sa màu sắc tươi tắn. Đầu canh năm mỗi ngày đều phóng quang minh, trong mười người, chỉ một hai người được thấy. Gần đây, vị sa-môn người Thiên Trúc là Hoa Thiên khá thần dị, cầu thỉnh cảm ứng nơi thánh tượng, được thấy quang minh trọn vẹn, nói: “Tượng này chính là do xưa kia, Trí Khải thiền sư nước Tùy v́ cứu chúng sanh đang khổ sở trong tam đồ mà vẽ tượng này. Tượng phóng quang minh, chiếu sáng lục đạo, [người có duyên trông thấy] sẽ thấy thánh tượng và ngài Trí Khải dạo trong ba đường ác, nói kinh Pháp Hoa, cứu khổ ban vui”. Nghe chuyện này xong, người lễ bái, cúng dường càng đông!

 

26. Ghi chép về sự cảm ứng đức Địa Tạng của sa-môn Trí Hựu chùa Thanh Thái

 

          Đời Tống, sa-môn Trí Hựu là người ở Tây Ấn Độ, sang Trung Hoa trong niên hiệu Thiên Phước, trụ tại chùa Thanh Thái. Trong kinh tượng Sư mang theo, có tượng Địa Tạng Bồ Tát, và bản tiếng Phạn kinh Bổn Nguyện Công Đức. Trong bức tượng ấy, nơi ṿng tṛn chính giữa, vẽ tượng Bồ Tát, hai bên có mười thánh tượng đội măo, cầm vật báu. Bên trái là năm vị: Một là Tần Quảng Vương, hai là Sở Giang Vương, ba là Tống Đế Vương, bốn là Ngũ Quan Vương, năm là Diêm La Vương. Bên phải có năm vị: Một là Biện Thành Vương, hai là Thái Sơn Vương, ba là B́nh Đẳng Vương, bốn là Đô Thị Vương, năm là Ngũ Đạo Chuyển Luân Vương. Mỗi vị đều có các [thuộc hạ] như tư mạng, tư lộc, phủ quân, điển quan v.v… Sư tự nói duyên khởi như sau:

          - Xưa kia, ở Tây Ấn Độ, có một Bồ Tát từ bi cứu thế, phát đại thệ nguyện, v́ cứu chúng sanh đang chịu khổ trong tam đồ, cho nên vẽ tượng Địa Tạng, hướng về mười vương thành, truyền dạy: “Nay ta phát nguyện cứu khổ tam đồ, xin hăy tạo lợi ích”. Mười vị vua đều chắp tay, kính cẩn đáp ứng, bạch với tượng vẽ rằng: “Hết thảy chúng sanh đều mong được đại thánh dạy bảo. Chúng con kính cẩn làm bạn lữ phụ trợ”. Khi ấy, tôn tượng mỉm cười bảo: “Lành thay! Tội nghiệp của chúng sanh không lâu sẽ được nhẹ bớt”. Liền phóng đại quang minh, chiếu thấu tam đồ khổ năo. Các chúng sanh được chiếu đều ngưng dứt các khổ. Đấy chính là vị Bồ Tát tại Ấn Độ nhập Lợi Ích Chúng Sanh tam-muội, cầu thỉnh các đại vương ban cho đại lợi. Vị Bồ Tát ấy tự vẽ lại những ǵ đă thấy, nên vẽ thêm mười vị vua bên cạnh tôn tượng Địa Tạng.

          Ngài Trí Hựu lại nói:

          - Ta ở Lưu Sa, gặp phải quỷ yêu mị, bèn cầu khẩn, niệm Bồ Tát, do vậy, được Bồ Tát cầm tích trượng xua đuổi chúng. Lại trong đêm khi mưa to trút xuống, khổ v́ không có đèn lửa, chẳng biết thứ ǵ, mănh thú gầm rống, người lẫn ngựa đều lạc đường. Tượng này phóng quang soi sáng như ban ngày, mănh thú bèn tan chạy, đường lối lại thông suốt. Lại gặp sông lớn, sóng cả cuộn trào, chẳng biết sâu cỡ nào. Nước ấy rất yếu, chẳng đỡ nổi chiếc lá, huống chi thuyền bè? Ta cầu nguyện thánh tượng, liền thấy một vị sa-môn và hai đồng tử, một đồng tử cầm phan, một đồng tử chèo thuyền. Sa-môn tay cầm quyển kinh tiếng Phạn, liền đưa bọn ta vượt sông. Đă đến bờ Đông, lúc sắp từ biệt, Ngài tặng ta cuốn kinh tiếng Phạn, bảo Tăng, tục trong cơi này có thể sao chép lại. Do vậy, mọi người tranh nhau sao chép, cảm được nhiều điều linh dị.

          Ba năm sau, chẳng biết ngài Trí Hựu và tượng ở đâu, mọi người đều ngờ Ngài quay về Ấn Độ. Chắc sa-môn Trí Hựu chính là hóa thân của đức Địa Tạng.

 

27. Ghi chép về chuyện người đánh cá ở Minh Châu cảm vời đức Địa Tạng

 

          Người đánh cá ở Minh Châu, chẳng biết tên họ là ǵ, xuống biển bắt cá. Trong lưới, bắt được một tượng giống như một vị tỳ-kheo, chẳng biết nguyên do, bèn bỏ bên bờ. Đêm đến, mộng thấy một vị Tăng, thân có quang minh, bảo người đánh cá: “Sao ngươi bỏ ta?” Người đánh cá nói: “Thầy là ai vậy?” Đáp: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát ở trong biển cả đă lâu, cứu tế thủy tộc, nửa số ấy được sanh lên trời. Nay v́ các ngươi mà xả thân trong lưới”. Người ấy tỉnh giấc, hối lỗi, kiến tạo một tinh xá, an trí tượng ấy. Ngư dân chỗ ấy đến nay vẫn sùng phụng, được cứu tế chẳng có cùng cực!

 

28. Ghi chép về chuyện cảm thông do Trần Kiện ở Đài Châu v́ cha mẹ tạo tượng Địa Tạng

         

          Trần Kiện ở Đài Châu một mực đoan chánh, chí hiếu vượt hẳn kẻ khác. Ông dựng nhà nuôi dưỡng song thân, phát tâm v́ cha mẹ tạo hai bức tượng Địa Tạng và Quán Âm, mỗi tượng cao ba thước. Năm Càn Đức thứ tư (966), ông mắc bệnh nhẹ, bỗng chết ngất đi. Cha mẹ khóc lóc. Bốn tiếng sau, ông tỉnh lại, lễ bái cha mẹ, bạch rằng:

          - Con chết bỏ lại cha mẹ, chưa trọn ḷng hiếu thảo. Bỗng đến trước điện Diêm Vương, thấy hai bức tượng do con đă lập, đứng sẵn trong điện. Vua hướng về đó xá bái. Thấy con đến, vua bèn dắt tay, tượng hai vị Bồ Tát đến đỡ bên hông con dẫn lên sảnh đường. Tượng phát tiếng ḥa nhă: “Đàn-việt chưa thỏa ḷng hiếu, xin đại vương thả về nhân gian”. Vua bạch cùng tượng: “Mạng nghiệp của ông này đă tận, cha mẹ ông ta mạng dài”. Tượng nói: “Thọ mạng vô định, tùy duyên mà sửa đổi, chuyển biến. Đàn-việt tu phước nghiệp, lẽ đâu chẳng trở về?” Vua kiểm trong một quyển sách rồi thưa: “Nếu ai chí hiếu, tạo tượng hay vẽ tượng, thọ mạng dài lâu. Có thể tăng thêm tuổi thọ cho ông bốn mươi năm nữa, hai mươi năm tận hiếu, hai mươi năm sau sẽ được con hiếu thảo báo đáp”. Có vị quan mặc áo màu lục mở sổ, tâu với vua: “Con của ông Kiện chỉ thọ mười năm, ai sẽ hiếu thảo?” Vua phán: “Pháp vương không hai lời. Hăy nên tăng tuổi thọ cho đứa con”. Con nghe nói lời ấy xong bèn tỉnh lại.

          Người nghe kể đều than là “chưa từng có”!

 

29. Địa Tạng Bồ Tát đội nón rơm (truyền thuyết Nhật Bản)     

Cao Ngọc Mỹ ghi

 

          Rất lâu trước kia, có một cặp vợ chồng già sống tại một nơi nọ. Do hết sức nghèo túng, mỗi ngày đều phải sống rất vất vả. Có một năm, đến ngày Trừ Tịch (ba mươi Tết), ông cụ than thở với bà cụ: “Ôi! Tuy ngày mai là mồng Một Tết, nhưng chúng ta chẳng có cách nào chuẩn bị bánh dầy (mochi)[23] được!” “Đúng thế!” “Nếu có thứ ǵ có thể đổi lấy bánh dầy th́ cũng được”. Ông cụ vừa nói, vừa lục lạo khắp nhà, nhưng cũng chẳng t́m được chi cả! “Thật sự chẳng có ǵ à?” Bà cụ hỏi, bỗng dưng đến pḥng chứa đồ nh́n thử. Trong một góc pḥng chứa đồ, vẫn chất đống cỏ tranh cắt từ mùa Hè. “Ông già ơi! Đem cỏ tranh bện thành nón rơm, cầm vào trong thành có thể đổi thành tiền được chứ!” “Ờ! Ờ! Như vậy th́ cũng được”. Do vậy, hai cụ bèn vào pḥng chứa đồ xếp gọn đống cỏ tranh đang lộn xộn, bắt đầu nghiêm túc bện cỏ tranh thành nón rơm. Sau khi làm xong, ông cụ cầm lấy, nói: “Tôi đổi thành tiền, sẽ mua rất nhiều bánh dầy, cũng mua kèm thêm củ cải, ngưu bàng[24] về”. Nói xong liền ra đi.

          Nơi chợ Tết nhộn nhịp trong thành, khắp nơi đều rộn rịp người mua sắm Tết. Có tiệm bán cối và chày giă [bánh dầy], cũng có người chặt gỗ tùng[25] từ trên núi xuống bán, rao ầm lên: “Nè! Có muốn mua gỗ tùng hay không? Có muốn dùng gỗ tùng trang hoàng hay không?” Ông cụ chẳng chịu thua, cũng lớn tiếng rao: “Nè, nè, nè! Nón rơm đây, có mua nón rơm hay không?” Nhưng chẳng có ai dừng lại mua, hết cách, ông cụ đành phải gom góp quay về, [lẩm bẩm]: “Giao thừa chẳng ai mua nón rơm! Ôi! Không mang bánh dầy về, chẳng biết bà cụ buồn bực cỡ nào đây?” Bất tri bất giác, sắc trời đă tối, ông cụ cúi đầu ủ rũ đi ra khỏi thành, đi măi tới chỗ đồng hoang ngoài thôn. Gió thổi h́nh thành một trận băo tuyết dữ dội. Đột nhiên, ông cụ thấy sáu bức tượng Địa Tạng Bồ Tát dựng bên đường, chẳng có ǵ che ngực, mà cũng chẳng cây cối ngăn che. Trong chốn đồng hoang băo tuyết tơi bời, tượng Địa Tạng Bồ Tát đă bị tuyết lớn vùi lấp một nửa.

          “Ôi! Đáng thương quá, chắc là lạnh lắm đấy!” Ông cụ phủi tuyết bám trên đầu tượng Địa Tạng: “Hai má Địa Tạng Bồ Tát đều bị đóng băng, sao mũi Địa Tạng Bồ Tát lại rủ xuống một thỏi băng thế này?” Ông cụ xoa vuốt tấm lưng vừa lạnh vừa ướt của Địa Tạng Bồ Tát. “Vậy th́ ḿnh lấy nón rơm đội cho các Ngài đi!” Ông cụ lấy nón rơm đội trên đầu mỗi tượng Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n buộc chặt [quai nón] dưới cằm cho gió khỏi thổi bay mất. Nhưng có sáu tượng Địa Tạng Bồ Tát mà chỉ có năm cái nón rơm, cho nên chẳng thể đội cho một tượng được. “Khăn tay của tôi tuy không ra hồn, nhưng vẫn có thể chịu được gió tuyết!” Ông cụ lấy khăn tay đă vá víu của chính ḿnh trùm lên đầu bức tượng Địa Tạng Bồ Tát cuối cùng. “Như vậy th́ cũng được, như thế th́ cũng tạm ổn”. Sau đấy, cụ mới an tâm quay về nhà. “Bà già ơi! Bà già ơi! Tôi đă về rồi đây!” “A! Ông già đó hả! Chắc là lạnh lắm hả? Bán hết nón rơm chưa?” “Có thể nói là bán xong hết rồi!” Cụ kể chuyện trên đường thấy Địa Tạng Bồ Tát bị tuyết vùi lấp. “Cho nên tôi đội nón rơm cho các vị hết rồi!” Bà lăo nghe xong, không chỉ chẳng lộ ra vẻ mặt phiền bực, mà cũng nói: “Đúng đó! Ông làm được chút chuyện tốt. Tôi nghĩ chắc là Địa Tạng Bồ Tát cũng rất lạnh! Nè! Ông già mau đến bên giường ḷ sưởi ấm đi!” Ông già liền ngồi trên giường ḷ sưởi ấm thân thể lạnh như băng!

          “Hừm! Rốt cuộc phải trải qua một đêm Trừ Tịch không có bánh dầy. Đă như vậy th́ ḿnh bắt chước người đang giă bánh dầy vậy”. Ông cụ nói xong, làm bộ như đang giă gạo và nếp để làm bánh dầy, [làm tư thế như] giộng chày vào cối bằng cách gơ vào bên cạnh giường ḷ. Do vậy, cụ bà cũng cười ha hả. Sau đấy, hai người uống chút canh đă nấu rồi mới đi nghỉ. Khoảng nửa đêm, trong đêm tuyết mịt mùng, truyền đến tiếng xe trượt tuyết. Cụ ông hỏi: “Bà già ơi! Là ai vào giờ này vậy? Chắc là người trẻ tuổi ở gần đây đi chở đồ Tết đến giờ này mới kéo về”. “Chắc thế!’ Nhưng tiếng xe trượt tuyết trọn chẳng hướng đến nơi khác, mà dần dần càng đến gần. Dỏng tai nghe kỹ, có người hùa nhau ca xướng: “Đem nón rơm đội cho sáu vị Địa Tạng Bồ Tát, nhà ông cụ ở nơi đâu? Nhà bà cụ ở chốn nào?” Ông cụ nhịn không được kêu lên: “Ở chỗ này, ở đây nè!”

          Thế là tiếng ca im bặt. Sau đó, truyền đến tiếng buông vật ǵ nặng nề xuống. Ông bà cụ chống cửa sổ lên th́ thấy năm vị Địa Tạng Bồ Tát đội nón rơm và một vị buộc khăn mặt kéo xe trượt tuyết quay về. Dưới mái hiên đặt bánh dầy bằng nếp, bánh dầy bằng bắp, bọc bằng rạ. Ngoài các thứ đó ra, c̣n có tương đậu, Ngưu Bàng, củ cải, gỗ tùng để trang hoàng v.v… Rốt cuộc cụ ông và cụ bà có thể đón một năm mới tốt đẹp.

 

Hồi Hướng

 

          Chân thành đê đầu đảnh lễ cảm niệm công đức của ḥa thượng Mộng Tham đă từ bi giảng giải bộ kinh này, và các vị đồng tu người Hoa đă đăng tải bài giảng này trên trang mạng Vô Lượng Quang Minh (www.guang5.com). Chân thành cảm tạ các đạo hữu Đức Phong và Huệ Trang đă giúp giảo chánh và sách tấn. Nếu bản chuyển ngữ này có phần nào lợi ích cho các đồng tu, nguyện đem công đức này hồi hướng cho lịch đại tổ tiên, tông thân quyến thuộc, sư trưởng, phụ mẫu, cừu gia oán đối, lũy thế oán thân trái chủ, và mười phương pháp giới chúng sanh đều được văng sanh Cực Lạc. Người c̣n tại thế thân tâm an lạc, vạn duyên thuận lợi, tinh tấn tu tŕ, đạo nghiệp tăng tấn, nhất tâm nhất ư phát nguyện văng sanh. Đă qua đời, sớm thoát khỏi u đồ, sanh về Cực Lạc.

 



[1]Thích Từ Hàng (1893-1954), tên thật là Ngải Kế Vinh, tự là Ngạn Tài, người huyện Kiến Ninh, tỉnh Phước Kiến. Sư là vị Tăng sau khi mất đă lưu lại nhục thân bất hoại đầu tiên tại Đài Loan. Sư mồ côimẹ năm bảy tuổi, do nhà nghèo, chỉ được học trường tư bảy năm rồi thôi. Từ lúc mười ba tuổi, Sư đă học nghề may để giúp gia đ́nh. Do từng đến các chùa may Tăng phục, Sư đă manh nha ư niệm xuất trần. Năm 17 tuổi, sau khi cha mất, Sư đến đỉnh Nga Mi ở Thái Ninh, xin xuất gia theo Tự Trung thượng nhân. Năm 1911, Sư sang Cửu Hoa Sơn thọ Cụ Túc Giới, rồi xin thầy cho đi tham học các nơi. Sư từng theo pháp sư Đế Nhàn nghe giảng kinh một thời gian, và học Tịnh Độ với trưởng lăo Độ Ách. Năm 1927, Sư vào học tại Mân Nam Phật Học Viện ở Hạ Môn, do tŕnh độ văn hóa quá kém, từng bị pháp sư Đại Tỉnh quở trách nặng nề. Tuy vậy, Sư vẫn mong thân cận Thái Hư đại sư. Năm 1929, lại theo học khóa Huấn Luyện Tăng Già do Thái Hư đại sư tổ chức ở Tỳ Lô Viện Nam Kinh. Khi đó, Thái Hư đại sư sang Tây Âu, chương tŕnh học do cư sĩ Đường Đại Viên là một học giả Duy Thức đảm nhiệm. V́ thế, Sư đă có nhân duyên học Duy Thức. Cùng năm, Sư được mời làm phương trượng chùa Nghênh Giang ở An Khánh, và tiếp tục học Duy Thức với hai vị Pháp Phảng và Đường Đại Viên. Năm 1931, sau khi tham bái Ấn Độ, Sư sang Miến Điện hoằng pháp tại Ngưỡng Quang (Rangoon). Năm 1933, Sư sáng lập Trung Quốc Phật Học Hội tại Ngưỡng Quang. Từ năm 1924, Sư trở về Hương Cảng theo chân Thái Hư đại sư hoằng pháp khắp nơi. Do tinh cần, Sư tiến bộ nhanh chóng và được Thái Hư đại sư tán thưởng. Năm 1948, Sư sang Đài Loan theo lời mời của lăo ḥa thượng Diệu Quả chùa Viên Quang, sáng lập Viên Quang Phật Học Viện. Do số học Tăng từ Đại Lục lánh nạn sang quá đông, và bất đồng ư kiến với ngài Diệu Quả, Sư giao học viện cho pháp sư Viên Minh tiếp quản, dẫn một số học Tăng đến chùa Linh Tuyền ở Cơ Long, tham gia Linh Tuyền Phật Học Viện. Nhưng do khó khăn kinh tế, không lâu sau, Linh Tuyền Phật Học Viện ngưng hoạt động. Năm 1949, Sư dẫn các học Tăng đến chùa Linh Ẩn, lại bị vu cáo là gián điệp của Hoa Lục, cho nên bị bỏ tù. Giới Phật giáo Đài Loan thời ấy lănh đạm không giúp đỡ, may nhờ các cư sĩ Đổng Chánh Chi, Tôn Trương Thanh Dương, Lư Tử Khoan và pháp sư Bân Tông tận lực giúp đỡ, Sư mới được thả. Sau khi ra khỏi tù, cuộc sống Ngài rất khốn khó, ăn nhờ ở đậu, các tín đồ đă thỉnh Ngài về Indonesia, nhưng Ngài không bỏ được các học Tăng. Năm 1950, do lời mời của tỳ-kheo-ni Huyền Quang thuộc Tĩnh Tu Thiền Viện, Ngài đến đó dạy học và sáng lập Di Lặc Nội Viện. Đó là Phật Học Viện quy mô nhất tại Đài Loan thời ấy. Sư cho rằng giáo dục, văn hóa, và từ thiện là ba cột trụ của Phật giáo, nồng nhiệt kế thừa di chí của Thái Hư đại sư. 

[2] Theo quy chế của Đài Loan, lớp Sáu vẫn tính là cấp Tiểu Học.

[3] Tiệm ngũ kim (五金店) là tiệm chuyên bán các thứ vật liệu cần thiết cho sửa chữa nhà cửa như sơn, keo, ốc vít, đinh, kể cả gỗ, gạch, ngói, vôi, vữa, sắt thép, đồ đồng... Thời cổ những tiệm ngũ kim lớn có thể bán cả sản phẩm để bắt cá, vật liệu tu bổ ghe thuyền, bẫy rập, nồi niêu, soong, chảo, dao, búa, lưỡi cày, lưỡi bừa, nông cụ v.v… Nhưng không được phép bán vũ khí.

[4] Hồng quy cao (紅龜糕), người Đài Loan c̣n gọi nó là Hồng Quy Quả (紅龜粿) là một thứ bánh ngọt nhỏ, bằng gạo nếp bọc nhân ngọt, thường là đậu xanh, hay đậu đỏ, hay đậu phộng ngào đường. Do bánh có h́nh dáng khum khum như mai rùa (mang ư nghĩa chúc thọ) và có màu đỏ, nên gọi là Hồng Quy Cao (bánh rùa đỏ). Bánh làm xong, đem hấp, lót bằng lá chuối. Do ư nghĩa chúc thọ và màu đỏ là màu may mắn, nên bánh thường được làm trong dịp Tết, các dịp lễ lạc đặc biệt như đầy tháng, chúc thọ, và dâng cúng tổ tiên, thần thánh. Đặc biệt trong dịp Thanh Minh, họ c̣n làm loại bánh này với màu xanh và trắng để cúng kèm với bánh đỏ, biểu thị con cháu thương tiếc tổ tiên.

[5] Đồng bào Cao Sơn hay “Cao Sơn quần tộc” là từ ngữ phiếm chỉ các sắc dân thiểu số sống tại Đài Loan, tức là các cư dân bản địa tại Đài Loan trước khi người Hán tràn vào Đài Loan. Họ sống trên núi cao, có phong tục, tập quán riêng biệt, đông nhất là các nhóm người A Mỹ (Amis, Pangcah), Bài Loan (Paiwan), Thái Nhă (Tayal), Bố Nông (Bunun), Ty Nam (Pinuyumayan), Lỗ Khải (Drekay), Trại Hạ (Saisiyat), Trại Đức Khắc (Seediq)…  

[6] Hai người này tên đồng âm, nhưng tiếng Hán viết khác nhau, anh là Sĩ Quân (仕君), em là Sĩ Quân (仕均).

[7] Di Ḥa Viên (颐和园) là một hoa viên của hoàng gia Măn Thanh, nay thuộc khu Hải Định thành phố Bắc Kinh, có diện tích lên tới 297 acres, được xây dựng từ thời vua Càn Long với tên gọi ban đầu là Thanh Y Viên. Khu lâm viên này để cho vua đến chơi, ngắm cảnh rồi trở về trong ngày. Đến thời vua Đạo Quang, do tiết kiệm công khố, đă bỏ hoang khu vườn này. Đến đời Hàm Phong, Từ Hy nắm quyền nhiếp chánh đă cho tái tạo và xây nhiều đ́nh đài, kiến trúc nơi đây, lấy hết số bạc dùng cho hải quân để kiến tạo và đổi tên thành Di Ḥa Viên, lại coi đây là Ly Cung (tức là nơi nghỉ hè tránh nắng cho hoàng đế). Sau khi nhà Măn Thanh sụp đổ, hoàng thất Măn Thanh bắt đầu bán vé cho công chúng vào tham quan khu vườn này từ năm 1914.

[8] Cám Thủy là con sông lớn nhất ở tỉnh Giang Tây, nên Giang Tây thường được gọi là đất Cám.

[9] Khi đó, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc là Nam Kinh đă bị quân Nhật chiếm đóng, chính quyền Tưởng Giới Thành phải thiên đô về Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên. Các cơ quan đầu năo đều dời về Trùng Khánh.

[10] Ma Lợi Chi Thiên (Marīci), dịch nghĩa là Dương Viêm, Oai Quang, Dương Quang, Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, Nhật Tiền Bồ Tát, Tích Quang Thiên Bồ Tát, Cụ Quang Phật Mẫu, Tích Quang Phật Mẫu v.v… thuộc về Như Lai B trong Mật Giáo. Ngài được coi là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, có bổn nguyện tiêu tai chướng, tăng phước, măn nguyện cho chúng sanh. Tượng Ngài thường được tạng dưới h́nh dạng thiên nữ, ba mặt, mỗi mặt có ba mắt, tám tay, đứng trên một con lợn, hoặc ngồi trên ba con lợn kim sắc. Có khi là ngồi trên xe báu do bảy con lợn kim sắc kéo. Trong Mật Giáo, Ngài là một trong Đa La Tam Tôn, tức Đa La Bồ Tát (Tara, Độ Mẫu), Ma Lợi Chi Thiên, và Nhất Kế La Sát Vương (Ekajatā-raksha). Ấn Quang đại sư đă dạy: “Ma Lợi Chi Thiên tuy hiện thân trời, thật sự là Bồ Tát. Do tâm độ sanh tha thiết, ḷng cứu khổ ân cần, cho nên nói chú ấy để làm cái gốc cứu độ. Nếu ai mỗi ngày tŕ tụng chú ấy càng nhiều càng hay. Dẫu gặp các tai nạn nước, lửa, đao binh v.v… cũng đều gặp hung hóa cát”. Chú ngữ của Ma Lợi Chi Thiên rất nhiều, nhưng được tŕ tụng nhiều nhất là bài chú: “Namah samanta buddhānām. Om, Marīcī svāhā” (Nam mô tam măn đa bột đà nẫm, án, ma lợi chi sa ha). Tổ Ấn Quang dạy thêm: “Nếu không biết chữ, không có trí nhớ, chỉ chí thành niệm nam-mô Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, th́ lợi ích cũng giống như tŕ chú”.  

[11] Trương Tăng Diêu (479-?) là họa sĩ nổi tiếng đời Lương, từng được phong làm Vũ Lăng Vương Quốc Thị Lang, chuyên quản trị các họa phẩm trong cung đ́nh. Ông sở trường vẽ tranh Phật giáo, nhất là tranh vẽ trên tường. Cách vẽ chân dung Phật, Bồ Tát, thánh chúng của ông đă h́nh thành một trường phái riêng được gọi là Trương Gia Dạng, được coi là khuôn mẫu tiêu chuẩn cho tranh họa Phật giáo. Ông vẽ rồng, chim, hoa cỏ, sơn thủy cũng rất nổi tiếng. Ông vẽ rồng sống động đến nỗi có truyền thuyết: Tăng Diêu vẽ bốn con rồng trên vách chùa An Lạc ở Kim Lăng, khi điểm nhăn (vẽ mắt rồng), hai con bay vụt lên trời. Hai người con ông là Thiện Quả và Nhu Đồng theo học vẽ với ông, cũng là những họa sư lỗi lạc thời ấy.

[12] “Thằng sàng” (繩床) là chơng hay ghế dài, không dùng vải căng trên khung, mà dùng dây thừng, dùng để dựa vào mà ngủ hay ngồi. Loại giường này bắt nguồn từ Ấn Độ, phổ biến trong các tự viện vào đời Đường. Loại giường này có khung gỗ đóng chéo chân, có thể xếp lại được, giống như ghế bố, để tiện mang theo khi cần ngồi hay ngủ nghỉ khi đi du cước. Loại thằng sàng này khác với loại dùng trong dân chúng, tuy cũng gọi là “thằng sàng” nhưng là một thứ ghế có lưng dựa, mặt ghế và lưng ghế dùng dây vải hay dây mây đan thành ô vuông xen kẽ để ngồi cho mát. Có lẽ “thằng sàng” được nói ở đây chính là loại ghế này.

[13] Thoạt đầu, chức Thứ Sử vốn là cấp quan thuộc Ngự Sử Đài. Về sau, đặt ra Thứ Sử tại các châu, tức là chức quan Giám Sát tại các châu, quận. Dần dần, Thứ Sử trở thành quan đứng đầu một châu. Dưới đời Đường, khi các Tiết Độ Sứ trở thành thống lĩnh quân sự địa phương th́ Thứ Sử trở thành thuộc hạ của Tiết Độ Sứ. Từ đời Minh trở đi, Thứ Sử trở thành danh xưng để gọi các vị Tri Châu (quan đứng đầu một châu).

[14] Thông quang: Vầng quang minh bao quanh thân.

[15] Thị Lang (侍郎) là chức quan đặt ra từ đời Hán, tương đương với Thứ Trưởng hiện thời. Thoạt đầu, chức quan này là các quan hầu cận giúp vua xử lư mọi việc. Dần dần, do sự vụ quá nhiều, phải lập ra các Tỉnh (, cơ quan hành chánh) như Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, Trung Thư Tỉnh để đặc trách từng sự vụ. Sau đó, phát triển thành sáu bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, H́nh, Công). Thượng Thư là quan đứng đầu mỗi bộ, viên phó quan gọi là Thị Lang. Đến đời Thanh, với mỗi bộ lại lập ra Tả Hữu Thị Lang. Tả Thị Lang địa vị cao hơn, phải là người Măn Châu.

[16] Trung Ḥa là niên hiệu của Đường Hy Tông từ năm 881 đến 885. Đời vua Đường Hy Tông, Đại Đường loạn lạc rối beng với hai cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân do Hoàng Sào và Vương Tiên Chi lănh đạo, các Tiết Độ Sứ cát cứ, đánh phá lẫn nhau. Nhà vua hoàn toàn bị hoạn quan Điền Lệnh Tư thao túng. Nhà vua đă dùng năm niên hiệu là Càn Phù, Quảng Minh, Trung Ḥa, Quang Khải, và Văn Đức.

[17] Thanh Tước (青雀) là một loài chim thuộc họ Sẻ, thường gọi là Japanese Grosbeak, hoặc Masked Hawfinch, v́ ḿnh nó hơi xám, có ánh xanh, đầu đen, mỏ vàng, trông như người đội mặt nạ trùm đầu. Loài này sống chủ yếu ở vùng sông Amur và Măn Châu, mùa Đông thường bay thiên di xuống Bắc Kinh và Hà Bắc.

[18] Chức quan này có tên gọi đầy đủ là Biệt Giá Tùng Ngự Sử, hoặc c̣n gọi là Biệt Giá Tùng Sự, chính là quan phụ tá cấp cao nhất của Thứ Sử. Do chức quan cao, khi đi ra ngoài, không phải ngồi hầu theo xe của quan Thứ Sử, nên gọi là Biệt Giá. Có thể hiểu chức quan này giữ vai tṛ xử lư thường vụ trong các châu, quận. Đến đời Tùy, do băi bỏ các quận, chỉ giữ lại châu, nên chức vị này đổi thành Trưởng Sử. Đến đời Đường, lại đổi thành Quận Thừa Biệt Giá. Sau đó, chức vụ này bị phế bỏ. Đến đời Tống, lại lập chức Thông Phán có vai tṛ gần giống Biệt Giá. Do vậy, dân gian vẫn quen gọi Thông Phán là Biệt Giá.

[19] Trường Hưng (930-933) là niên hiệu của Lư Tự Nguyên thời Hậu Đường.

[20] Càn Hựu (乾祐) là niên hiệu của Hán Cao Tổ Lưu Tri Viễn, như vậy, nhà Hán nói ở đây là nhà Hậu Hán thuộc thời Ngũ Đại, không phải là nhà Tiền Hán do Lưu Bang sáng lập sau khi diệt nhà Tần của Doanh Chánh (Tần Thủy Hoàng).

[21] Đại Châu ở đây là nhà Hậu Châu, là một triều đại ngắn ngủi nhất trong thời Ngũ Đại, trước sau chỉ tồn tại chín năm! Quách Oai vốn là quyền thần của nhà Hậu Hán, lập nhiều chiến công, quyền cao, chức cả. Khi Hán chúa là Lưu Tri Viễn chết, con là Lưu Thừa Hựu nối ngôi, thấy các đại thần nắm binh quyền quá mạnh, bèn lập mưu giết các đại thần. Quách Oai bèn khởi binh chống lại, tôn Lưu Vân làm vua mới. Sau đó, đem quân lên miền Bắc đánh Khiết Đan, ngầm sai người giết chết Lưu Vân, rồi sai tay chân ủng hộ ḿnh lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Châu, nhưng ông ta chỉ làm vua được ba năm th́ chết. Ngôi vua phải truyền cho con nuôi của Quách Oai là Sài Vinh, tức Châu Thế Tông. Do phải chinh chiến liên miên, tiền bạc thiếu hụt, Châu Thế Tông nghe lời sàm tấu của đạo sĩ, đă phế trừ đạo Phật, phá hủy chùa chiền, hạ lệnh nung chảy tượng Phật, chuông đồng để đúc tiền, tạo thành pháp nạn cho Phật giáo Trung Hoa. Chính ông ta đă hạ lệnh phá hủy 30.336 ngôi chùa và đuổi sáu vạn tăng ni về đời. Tháng Sáu năm 959, Châu Thế Tông chết v́ bệnh tật, thọ 38 tuổi. Con ông ta là Sài Tông Huấn mới bảy tuổi lên nối ngôi, tức Hậu Châu Cung Đế. Chưa đầy một năm, vào tháng Giêng năm 960, Điện Tiền Đô Kiểm Điểm Triệu Khuông Dẫn soán ngôi, lập ra nhà Tống, nhà Hậu Châu diệt vong! Hiển Đức là niên hiệu của Sài Vinh.

[22] Bộ kinh này gồm mười tám hội. Đời Đường, ngài Bất Không Tam Tạng dịch sang tiếng Hán với tên gọi đầy đủ là Kim Cang Đảnh Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương Kinh (Sarvatathāgata Tattvasaṃgraha Tantra). Bản dịch này thật ra chỉ là phẩm thứ nhất trong hội thứ nhất, c̣n hội thứ sáu được Ngài dịch với danh xưng Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Muội Da Kinh. Về sau, ngài Thi Hộ dịch lại hội thứ nhất với tên gọi Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh (30 quyển), ngài Pháp Hiền dịch hội thứ sáu với tên gọi Tối Thượng Căn Bản Đại Lạc Kim Cang Bất Không Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh (bảy quyển), hội thứ chín được ngài Thi Hộ dịch với danh xưng Đại Bi Không Trí Kim Cang Đại Giáo Vương Nghi Quỹ Kinh… Kinh Kim Cang Đảnh trong Hán Tạng hiện thời chỉ là hội thứ nhất. Theo các nhà nghiên cứu, mười tám hội của kinh Kim Cang Đảnh là Nhất Thiết Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng Đại Giáo Vương, Nhất Thiết Như Lai Bí Mật Vương Du Già, Nhất Thiết Giáo Tập Du Già, Hàng Tam Thế Kim Cang Du Già, Thế Gian Xuất Thế Gian Kim Cang Du Già, Đại An Lạc Bất Không Tam Muội Da Chân Thật Du Già, Phổ Hiền Du Già, Thắng Sơ Du Già, Nhất Thiết Phật Tập Hội Noa Cát Ni Giới Vơng Du Già, Đại Tam Muội Da Du Già, Đại Thừa Hiện Chứng Du Già, Tam Muội Da Tối Thắng Du Già, Đại Tam Muội Da Chân Thật Du Già, Như Lai Tam Muội Da Chân Thật Du Già, Bí Mật Tập Hội Du Già, Vô Nhị B́nh Đẳng Du Già, Như Hư Không Du Già, và Kim Cang Bảo Quan Du Già.

[23] Mochi là cách người Nhật đọc chữ Bính (, bánh), từ ngữ này dùng để chỉ loại bánh làm bằng gạo nếp hoặc bằng bột ngô. Gạo nếp nấu thành xôi được giă thành bột dẻo giống như cách làm bánh dầy của người Việt, rồi bắt thành h́nh tṛn, hay dùng khuôn tạo h́nh dáng tùy thích. Tuy có thể làm và ăn quanh năm, trong ngày Tết, Mochi là thứ món ăn bắt buộc phải có. Thông thường, Mochi có nhân bằng đậu đỏ hoặc đậu xanh, có nhiều h́nh dạng khác nhau. Một loại bánh khác có h́nh dạng và chất liệu tương tự là Dangoo (đoàn tử), nhưng Dangoo làm bằng bột gạo, trong khi Mochi chế biến từ xôi nếp giă nát. Loại Mochi thường dùng vào dịp Tết gọi là Kinako Mochi (hoàng phấn bính), sau khi bánh làm xong, được nướng trên lửa, lăn qua một lớp bột vỏ bằng đậu nành. Vào ngày Tết, phẩm vật cúng tổ tiên nhất định phải có hai tảng bánh dầy lớn, xếp chồng lên nhau, phía trên để một lát cam hay quưt. Đôi khi họ c̣n có món canh với súp miso nấu với những lát bánh dầy.

[24] Ngưu Bàng (牛蒡, burdock) c̣n gọi là Đông Dương Sâm, Bạch Cơ Nhân Sâm, Ngô Mạo, Dạ Xoa Đầu, Ngưu Thái, Thử Niêm, Bàng Ông Thái, Tiện Khiên Ngưu, Tiện Nam Ngưu… thuộc họ Cúc. Phần ăn được chính là rễ của nó. Rễ nó dài đến hơn một mét, có bề ngang chừng 2cm. Nó thường được người Nhật, Đại Hàn và Đài Loan dùng để nấu súp nhằm tạo vị. Các loại rễ ngưu bàng tươi có thể tước nhỏ để làm thành gỏi với nước tương, đường, và rượu sake.

[25] Gỗ tùng là một vật liệu cần thiết chủ yếu để trang trí theo truyền thống cho người Nhật, được gọi là Kadomatsu (門松, môn tùng). Vật trang trí này thường được làm thành cặp đặt trước nhà, biểu thị sự nghênh tiếp tổ tiên và các vị thần linh. Môn tùng thường làm bằng cành tùng, tre và nhánh hoa đào hay mận. Phần bắt buộc phải có là ba ống tre vạt xéo có độ cao khác nhau, biểu thị Thiên, Địa, Nhân, hai bên cắm các cành tùng hoặc thông tươi. Ba ống tre buộc bằng thừng có nhiều tua. Buộc bên ngoài là rơm rạ bện thành giỏ, đôi khi cắm thêm hoa lá, kể cả các chiếc quạt sơn vẽ. Sau ngày Rằm tháng Giêng, môn tùng sẽ được đem đốt.