Thập Luân Giảng
Kư, phần 15
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng Tham lăo
ḥa thượng chủ giảng
夢參老和尚主講
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
VIII. Hoạch Ích
Chúc Lụy
phẩm đệ bát (獲益囑累品第八, phẩm thứ
tám, Đạt Được Lợi ích và Chúc Lụy)
(Kinh) Phật
thuyết như thị đại pháp môn thời, ư
chúng hội trung, hữu Căng-già sa đẳng Bồ Tát
Ma Ha Tát, quá khứ cửu tập Niệm Phật tư duy,
kim văn Thế Tôn sở thuyết Niệm Phật Tu Quán
phương tiện, giai đắc Niệm Phật
tam-ma-địa môn. Phục hữu vô lượng vô biên
chúng sanh văn thị pháp dĩ, giai đắc Nhất Thiết
Định Mạng Hoa Man đà-la-ni môn. Phục hữu vô
lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết,
giai đắc nhất thiết Thủ Lăng Già Ma Điện
Quang Y Chỉ đà-la-ni môn. Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc
Nhất Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ
Thuận Nhẫn. Phục hữu vô lượng vô biên chúng
sanh, văn Phật sở thuyết, viễn trần ly cấu,
ư chư pháp trung, sanh tịnh pháp nhăn, đắc Dự
Lưu quả. Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh,
văn Phật sở thuyết, đắc Nhất Lai quả.
Phục hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật
sở thuyết, đắc Bất Hoàn quả. Phục hữu
vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết,
giai đắc tối thượng A La Hán quả. Phục
hữu vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở
thuyết, tâm cầu xuất ly tam giới lao ngục, y Phật
xuất gia, thú nhập chánh pháp. Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tận thọ
an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo, y Thanh
Văn Thừa, phát tâm bất thoái. Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tận thọ
an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo, y Độc
Giác Thừa, phát tâm bất thoái. Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, tận thọ
an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo, y Đại
Thừa trung, phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ
Đề tâm, bất phục thoái chuyển. Phục hữu
vô lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết,
đắc thế chánh kiến. Do thử chánh kiến, trừ
diệt nhất thiết văng ác thú nhân, phiền năo ác nghiệp,
tăng trưởng nhất thiết hướng thiện
thú nhân, chánh nguyện thiện nghiệp. Phục hữu vô
lượng vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết,
giai thọ Tam Quy, an trụ Cận Sự, Cận Trụ tịnh
giới, nhạo cúng dường Phật, nhạo thính
văn pháp, nhạo phụng sự Tăng, trú dạ tinh cần,
tằng vô giải phế. Phục hữu vô lượng vô
biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, viễn ly nhất
thiết tà thú, tà quy, ác ư, ác nghiệp, ư Phật pháp
trung, đắc quyết định tín, khí xả gia pháp,
thanh tịnh xuất gia.
(經)佛說如是大法門時,於眾會中,有殑伽沙等菩薩摩訶薩,過去久習念佛思惟,今聞世尊所說念佛修觀方便,皆得念佛三摩地門。復有無量無邊眾生,聞是法已,皆得一切定命華鬘陀羅尼門。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆得一切首楞伽摩電光依止陀羅尼門。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆得一切法自在轉光明依止順忍。復有無量無邊眾生,聞佛所說,遠塵離垢,於諸法中生淨法眼,得預流果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,得一來果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,得不還果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆得最上阿羅漢果。復有無量無邊眾生,聞佛所說,心求出離三界牢獄,依佛出家,趣入正法。復有無量無邊眾生,聞佛所說,盡壽安住十善業道,依聲聞乘發心不退。復有無量無邊眾生,聞佛所說,盡壽安住十善業道,依獨覺乘發心不退。復有無量無邊眾生,聞佛所說,盡壽安住十善業道,依大乘中,發阿耨多羅三藐三菩提心,不復退轉。復有無量無邊眾生,聞佛所說,得世正見,由此正見,除滅一切往惡趣因、煩惱惡業,增長一切向善趣因、正願善業。復有無量無邊眾生,聞佛所說,皆受三歸,安住近事、近住、淨戒,樂供養佛,樂聽聞法,樂奉事僧,晝夜精勤,曾無懈廢。復有無量無邊眾生,聞佛所說,遠離一切邪趣、邪歸、惡意、惡業,於佛法中得決定信,棄舍家法,清淨出家。
(Kinh: Khi đức Phật nói đại
pháp môn như thế, trong chúng hội có các vị Bồ Tát
Ma Ha Tát nhiều như cát sông Hằng, trong quá khứ đă
tu tập Niệm Phật tư duy từ lâu, nay nghe đức
Thế Tôn nói về phương tiện Niệm Phật Tu
Quán, đều đắc Niệm Phật tam-ma-địa
môn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe pháp ấy rồi,
đều đắc Nhất Thiết Định Mạng
Hoa Man đà-la-ni môn. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh
nghe đức Phật nói, đều đắc hết thảy
Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ đà-la-ni môn.
Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật
nói, đều đắc Nhất Thiết Pháp Tự Tại
Chuyển Quang Minh Y Chỉ Thuận Nhẫn. Lại có vô lượng
vô biên chúng sanh, nghe đức Phật nói, xa ĺa trần cấu,
sanh pháp nhăn thanh tịnh trong các pháp, đắc quả Dự
Lưu. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức
Phật nói, đắc quả Nhất Lai. Lại
có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe đức Phật nói,
đắc quả Bất Hoàn. Lại có
vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói,
đều đắc tối thượng A La Hán quả. Lại
có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói,
tâm cầu thoát ĺa lao ngục tam giới, nương theo
đức Phật xuất gia, tiến nhập chánh pháp. Lại
có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói,
cho đến hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp
Đạo, nương theo Thanh Văn Thừa, phát tâm bất
thoái. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức
Phật nói, cho đến hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp
Đạo, nương theo Độc Giác Thừa, phát tâm bất
thoái. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức
Phật nói, cho đến hết thọ mạng, an trụ trong Thập Thiện Nghiệp
Đạo, nương theo Đại Thừa, phát tâm A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng c̣n thoái
chuyển. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức
Phật nói, đắc chánh kiến thế gian. Do chánh kiến
ấy, diệt trừ hết thảy các cái nhân, phiền
năo, và ác nghiệp tiến đến đường ác,
tăng trưởng hết thảy cái nhân, chánh nguyện, và thiện nghiệp
hướng vào đường lành. Lại có vô lượng
vô biên chúng sanh nghe đức Phật dạy, đều thọ
Tam Quy, an trụ tịnh giới Cận Sự và Cận Trụ,
thích cúng dường Phật, thích nghe pháp, thích phụng sự
Tăng, ngày đêm siêng ṛng, chưa từng lười nhác,
bỏ phế. Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe
đức Phật nói, xa ĺa hết thảy đường
tà, quy y tà, ác ư, ác nghiệp. Trong Phật pháp, đạt
được niềm tin quyết định, vứt bỏ
pháp thế tục, thanh tịnh xuất gia).
Đây là phẩm cuối cùng
của kinh Đại Tập Thập Luân, pháp hội tới
đây đă viên măn. Sau khi nghe pháp, những ai đạt
được lợi ích? Cũng như thâu được
hiệu quả ǵ? Điều thứ nhất, có bao nhiêu vị
Bồ Tát trong đại chúng? Có các vị đại Bồ
Tát nhiều như cát sông Hằng. Trong quá khứ, các Ngài
đă học pháp môn Niệm Phật tư duy, Niệm Phật
ở đây không nhất định là niệm A Di Đà Phật.
Chữ Phật trong Niệm Phật ở đây là nói phổ
quát. Phàm là [nói tới] Niệm Phật tức là nói theo ư
nghĩa “hết thảy chư Phật”. Tu Niệm Phật
Quán, dùng phương tiện tu Quán để xưng danh hiệu
Phật, quán tưởng tượng Phật. Đấy
là điều họ đă học trong quá khứ, ở trong
pháp hội Đại Tập này, nghe giảng cách tư duy
và quán tưởng Niệm Phật, họ đạt
được lợi ích, nhập tam-ma-địa, đắc
Niệm Phật tam-muội. Trong ấy, có khi là niệm Hóa
Thân Phật, có khi là niệm Báo Thân Phật, có khi là niệm
Pháp Thân Phật, tùy thuộc sức quán tưởng của
chính ḿnh mạnh hay yếu mà đạt được pháp
môn cũng khác nhau. Đấy là nói về Bồ Tát Ma Ha Tát,
họ đắc Niệm Phật tam-muội, nhập Niệm
Phật tam-muội.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh, văn thị pháp dĩ, giai đắc Nhất
Thiết Định Mạng Hoa Man Đà-la-ni môn” (lại
có vô lượng vô biên chúng sanh, nghe pháp này rồi, đều
đắc Nhất Thiết Định Mạng Hoa Man
Đà-la-ni môn): Đây là tên của môn Định. Nhất
Thiết Định Mạng Hoa Man Đà-la-ni Môn là tên của
một môn tam-muội khác.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc
nhất thiết Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ
Đà-la-ni Môn” (lại có vô lượng vô biên chúng sanh
nghe đức Phật dạy, đắc hết thảy
Thủ Lăng Già Ma Điện Quang Y Chỉ Đà-la-ni
Môn): Môn Định này có tên là [Thủ] Lăng Già Ma Điện
Quang Y Chỉ Đà-la-ni.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc
Nhất Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ
Thuận Nhẫn” (lại có vô lượng vô biên chúng
sanh nghe đức Phật dạy đều đắc Nhất
Thiết Pháp Tự Tại Chuyển Quang Minh Y Chỉ Thuận
Nhẫn): Y Chỉ Thuận Nhẫn vẫn là Định. “Y
chỉ thuận nhẫn” là y chỉ môn Định ấy,
Chỉ là Định.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn
Phật sở thuyết, viễn trần ly cấu, ư
chư pháp trung, sanh tịnh pháp nhăn” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật
nói, xa ĺa trần cấu, sanh pháp nhăn thanh tịnh đối
với các pháp): “Sanh tịnh pháp nhăn” là mắt
đạt được pháp thanh tịnh, tức là có chánh tri, chánh kiến,
chẳng có tà tri, tà kiến,
cũng là đoạn dứt Kiến Hoặc. Do nghe đức
Phật nói mà đắc quả Dự Lưu. Quả Dự Lưu là quả
Tu Đà Hoàn, tức Sơ Quả.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết” (lại có
vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói): Sau
đó, họ thành tựu quả Nhất Lai. Quả Nhất
Lai là Tư Đà Hàm, tức là c̣n một lần sanh trong tam
giới nhân gian; đó gọi là Nhất Lai Quả. “Phục
hữu vô lượng vô biên chúng sanh văn Phật sở
thuyết, đắc Bất Hoàn quả” (Lại có vô
lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, đắc
quả Bất Hoàn): Quả Bất Hoàn là quả A Na Hàm, là
quả thứ ba. “Phục hữu vô lượng vô biên chúng
sanh văn Phật sở thuyết, giai đắc tối
thượng A La Hán quả” (lại có vô lượng vô
biên chúng sanh nghe đức Phật nói đều đắc
quả A La Hán tối thượng), liền chứng Tứ
Quả A La Hán. Trong pháp hội này, đức Phật thuyết
pháp b́nh đẳng. Điều này cho thấy: Căn cơ bất
đồng [tuy cùng nghe một pháp], vẫn đạt
được hiệu quả bất đồng. Có
người đắc Sơ Quả, có người đắc
Tứ Quả. Có chúng sanh nghe đức Phật nói, bèn có thể
an trụ trong tâm xuất ly. Xuất ly ǵ vậy? Xuất ly
tam giới. Người ấy nghe đức Phật thuyết
pháp, tâm cảm nhận thế giới này hết sức ô
trược, nẩy sanh tâm chán ĺa, thoát ĺa nhà tù tam giới,
cũng có nghĩa là xuất gia. “Xuất gia thú nhập
chánh pháp” [nghĩa là] nương theo đức Phật
xuất gia, tiến nhập chánh pháp.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, tận thọ
an trụ Thập Thiện Nghiệp Đạo” (Lại
có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói,
cho đến hết thọ mạng, bèn an trụ trong Thập
Thiện Nghiệp Đạo): Kể từ sau khi nghe pháp trong hiện thời cho đến hết
thọ mạng, tức là đă chết, trong thời gian ấy,
người đó một mực chẳng trái nghịch Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Có người nương
theo Thanh Văn Thừa, phát Bồ Đề tâm, biết Khổ,
đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Đạo. Có
người nghe Độc Giác Thừa, tu mười hai
nhân duyên, học pháp nhân duyên. Có vô lượng vô biên chúng
sanh “văn Phật sở thuyết, tận thọ an trụ
Thập Thiện Nghiệp Đạo” (nghe đức Phật
nói, trọn hết thọ mạng, an trụ trong Thập
Thiện Nghiệp Đạo): “An trụ Thập Thiện
Nghiệp Đạo” tức là tu pháp Thập Thiện. Tu pháp Thập Thiện có thể sanh trong nhân thiên thừa. C̣n có
người sau khi nghe pháp, nương theo Đại Thừa,
phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, chẳng
c̣n thoái chuyển. Tín tâm kiên định, sau khi nghe pháp, trụ
trong Đại Thừa, phát tâm thành Phật.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, đắc thế
chánh kiến” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe
đức Phật nói, đạt được chánh kiến
thế gian): Chánh kiến ấy chẳng phải là xuất
thế, mà là chánh kiến thế gian. Chánh kiến là phân biệt
tà chánh, phân biệt điều ǵ là thiện, điều ǵ
là ác, điều ǵ là chánh xác, điều ǵ là chánh tri chánh
kiến, điều ǵ là tà tri tà kiến. Nếu người
ấy chứng đắc chánh kiến, sẽ có thể trừ
diệt hết thảy nhân quả, ác nghiệp tiến
hướng đường ác. Trừ diệt cái nhân của
phiền năo và ác nghiệp, sẽ chẳng cảm lấy khổ
quả, sẽ chẳng cảm nhận quả chướng
của phiền năo và ác nghiệp, tăng trưởng hết
thảy các nhân tiến hướng đường lành. “Chánh
nguyện thiện nghiệp”: Nguyện của người
ấy là phát nguyện tu hành thiện nghiệp, chẳng tạo
ác nghiệp.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh văn Phật sở thuyết, giai thọ
Tam Quy” (Lại có vô lượng vô biên chúng sanh nghe đức
Phật nói, đều thọ Tam Quy), tức là quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng. “An trụ ư Cận Sự, Cận
Trụ tịnh giới” (an trụ trong tịnh giới của Cận Sự
và Cận Trụ): [Luật nghi của]
Cận Sự, Cận Trụ là Tam Quy, Ngũ Giới. Cận
Trụ tịnh giới là Bát Quan Trai Giới. “Nhạo
cúng dường Phật, nhạo thính văn pháp” (Thích
cúng dường Phật, thích nghe pháp): Nghe thuyết pháp. “Nhạo
phụng sự Tăng” [phải hiểu theo nghĩa rộng] là ưa thích cúng dường
Tam Bảo, theo Phật nghe pháp, theo Tăng nghe pháp, ngày đêm siêng ṛng, chẳng
giải đăi, “tằng vô giải phế” (chưa từng
giải đăi, phế bỏ): Sau khi nghe pháp, đạt
được hiệu quả tinh tấn.
“Phục hữu vô lượng
vô biên chúng sanh, văn Phật sở thuyết, viễn ly nhất
thiết tà thú, tà quy, ác ư, ác nghiệp” (Lại có vô lượng
vô biên chúng sanh nghe đức Phật nói, xa ĺa hết thảy
đường tà, quy y tà, ác ư, ác nghiệp): Chẳng khởi
ác tâm, chẳng làm ác nghiệp nữa. “Ư Phật pháp
trung, đắc quyết định tín” (Đạt
được tín tâm thanh tịnh đối với Phật
pháp): Tín tâm bất thoái. “Khí xả gia pháp, thanh tịnh xuất
gia” (buông bỏ pháp tại gia, xuất gia thanh tịnh): “Xuất
gia” ở đây chẳng phải là thành đạo, đă xuất gia vẫn
phải tu hành. Trong pháp hội này, tức là pháp hội
Đại Tập Thập Luân, đức Phật nói ra mấy
loại Thập Luân, một là Thập Luân của quốc
vương, nương theo pháp thế gian nhằm biểu thị Thập Luân của Phật.
Và cũng nói tới Hữu Y và Vô Y. Vô Y là không có Tam Bảo
để có thể nương dựa; do vậy, tạo
ác nghiệp, sẽ thọ báo, chẳng biết sẽ theo
đường nào! Hữu Y là nương cậy Tam Bảo,
Vô Y là nói tới Thập Ác Luân. Hữu Y là nói tới
Thập Thiện Luân. Cuối cùng là nói về Thập Luân của
Bồ Tát. Bộ kinh này có tên gọi là Đại Tập Thập
Luân Kinh. Sau khi mọi người
nghe pháp, sẽ đạt được lợi ích bất
đồng. Bất luận nghe pháp cùng một nơi, nhưng
người nghe tiếp nhận khác nhau, mỗi người
có nhân duyên khác nhau. Giống như hiện thời, chúng tôi
giảng hơn hai tháng, do chẳng phải là giảng hằng
ngày, mà là đứt quăng, có thể nghe toàn bộ bản
kinh này, tính ra chẳng
được mấy người, đều là bị
gián đoạn.
Đấy là nguyên nhân ǵ? Nhân
duyên bất đồng. Hoàn toàn chẳng phải là quư vị
muốn gián đoạn.
[Khi nhân duyên đă chín muồi], quư vị
chẳng gián đoạn
cũng bị gián đoạn, quư vị mong gián đoạn
cũng chẳng thể gián đoạn được! Tới lúc [hội đủ
nhân duyên nghe kinh] th́ quư vị lại
đến [nghe giảng kinh], ai có nhân duyên nấy!
Nhưng chúng ta hăy nên hiểu mỗi người có nhân duyên
riêng, đừng hâm mộ kẻ khác rồi chính ḿnh sanh tâm
thoái đọa, cũng chớ nên thấy người khác
có nhân duyên tốt đẹp bèn hâm mộ kẻ đó, chẳng
cần thiết! Mỗi người tạo cái nhân riêng, kết
thành cái quả riêng biệt. Có ư nghĩa như thế
đó. Có người nghe bộ kinh này, có thể đắc vô thượng
tam-muội. Có người nghe kinh xong, thọ Tam Quy, Ngũ
Giới. Thọ Tam Quy, Ngũ Giới chỉ là gieo thiện
căn. Khá nhiều đạo hữu gần đây mới
thọ Tam Quy, chẳng nghe kinh cũng thọ Tam Quy. Đấy
là nhân duyên bất đồng. Phàm là các pháp sanh bởi nhân
duyên th́ chẳng chân thật!
Nói xong bộ kinh này, đức
Phật căn dặn, phó thác cho ai?
Căn dặn, phó thác cho Hư Không Tạng. “Tạng”
(藏) có nghĩa là “chứa đựng”. Chứa đựng
ǵ vậy? Hư không! “Không” th́ c̣n có ǵ nữa? “Không”
là chẳng có. “Không” có nghĩa là mong chúng ta đều
xóa sạch phiền năo, tập khí, nghiệp chướng.
Nhờ vào danh nghĩa ấy, chúng ta có thể lư giải. Nếu
xóa sạch các ô nhiễm, ô uế, bẩn thỉu, sẽ chỉ
c̣n lại thanh tịnh. Thanh tịnh chính là công đức của
Pháp Thân. Nay chúng ta đă nghe, mọi người cùng nhau học
tập, đạt được lợi ích ǵ? Trong tâm mỗi
người đều có điều thâu hoạch. Bộ
kinh này kể từ lúc pháp sư Huyền Trang phiên dịch
sang tiếng Hán, măi cho đến hiện thời, không có ai
giảng giải. Chúng tôi giảng là lần đầu tiên,
có lẽ sẽ có sai lầm. Nếu có sai lầm, xin sám hối.
Chúng ta cùng nhau học tập bộ kinh này, vẫn là rất
khó khăn, mọi người đều phải phát tâm
th́ mới có thể viên măn. Hôm nay kể như là đă hoàn
thành rồi.
Bộ kinh này khơi gợi
chúng ta, bảo cho chúng ta biết, tu hành nhất định
phải đoạn Thập Ác, hành Thập Thiện; tối
thiểu, chúng ta phải nên có tín tâm ấy.
Sau đó, trong cuộc sống thường nhật, đừng
nên bày ra bộ mặt dữ tợn với người
khác, luôn có vẻ mặt tươi cười, hoan hỷ
đối với người khác. Nếu người khác
rất phiền năo, họ thấy thái độ của ta
rất tốt đẹp, ngọn lửa phiền năo của
họ sẽ hạ xuống. Giả sử đối với
người ấy nổi nóng, kể cả đối
đăi với con cái và bạn bè của chính ḿnh. Người
hiện thời, đối với cha mẹ của chính
ḿnh, thường có vẻ mặt đối với cha mẹ
giống như vẻ mặt của tiểu ḥa thượng
đối với lăo ḥa thượng, luôn luôn chẳng vừa
ư như vậy. Vẻ mặt ấy giống như ai
đó có nhiều tiền mà chẳng cho kẻ đó, đôi
bên chẳng thể tṛ chuyện được! Trong Phật
giáo, [nếu hành xử như vậy], quư vị đă phạm
giới. Phạm giới ǵ vậy? Mọi người biết
không? Sân khuể! Trong tâm luôn tạo một ấn tượng
chẳng thanh tịnh cho người khác. Miệng thốt
lời ác, nói thêu dệt, những điều này đều
thuộc về Thập Ác nghiệp. V́ trong ư có sân tâm, khí sắc
bên ngoài tự nhiên sẽ chẳng dễ coi. Đấy là
điều tất nhiên! Khi đó, bàn chuyện với
người khác, ít khi bàn bạc thành công!
Đă học kinh Đại
Tập Thập Luân, nhận biết ác luân là ǵ, thiện
luân là ǵ, trong cuộc sống hằng ngày, [các nghiệp]
nơi thân và miệng chiếm hết bảy điều, ư
thức chỉ chiếm có ba. Đấy là thiện
hay ác ở ngay trong cái tâm của quư vị. Chúng ta nghe xong,
hăy nên đạt được những điều tốt
đẹp như đă nói trong phần trước. Thập
Luân của Phật và Thập Luân của đại Bồ
Tát, chúng ta không đạt được, tối thiểu
là chúng ta thọ Tam Quy. Chúng ta phải có sự nương
tựa, dựa vào sức gia tŕ của Tam Bảo, khiến
cho chúng ta chẳng tạo nghiệp Thập Ác, tận lực
hành nghiệp Thập Thiện, giữ
ǵn chẳng mất thân người, gặp Phật, nghe
pháp, thường gặp gỡ thiện tri thức, nghe
pháp tu đạo.
(經)爾時,世尊告虛空藏菩薩摩訶薩言:善男子,吾今持此地藏十輪大記法門,付囑汝手,汝當受持,廣令流佈。若諸眾生,於此法門,有能讀誦,思惟其義,為他解說,住正行者,汝當為彼守護十法,令於長夜利益安樂。何等為十?一者、為彼守護一切財位,令無損乏;二者、為彼守護一切怨敵,令不侵害;三者、為彼守護,令舍一切邪見、邪歸、十惡業道;四者、為彼守護,令免一切身語謫罰;五者、為彼守護,遮斷一切謗毀輕弄;六者、為彼守護,令於一切軌範、尸羅皆得無犯;七者、為彼守護,令悉除滅一切非人、四大乖反、非時老病;八者、為彼守護,不遭一切非時非理災橫夭歿;九者、為彼守護,命欲終時,得見一切諸佛色像;十者、為彼守護,令其終後,往生善趣,利益安樂。善男子,若諸有情,於此法門,有能讀誦,思惟其義,為他解說,住正行者,汝當為彼勤加守護如是十法,令於長夜,利益安樂。時虛空藏菩薩摩訶薩白佛言:唯然世尊,我當受持如是法門,廣令流佈。若諸有情,於此法門,有能讀誦,思惟其義,為他解說,住正行者,我當為彼守護十法,令於長夜,利益安樂。時薄伽梵說是經已,於眾會中,虛空藏菩薩摩訶薩、地藏菩薩摩訶薩、金剛藏菩薩摩訶薩、好疑問菩薩摩訶薩,天藏大梵等,及諸天、龍、藥叉、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、人非人等,一切大眾,聞佛所說,皆大歡喜,信受奉行。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn bảo Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Này
thiện nam tử! Ta nay đem pháp môn Địa Tạng Thập
Luân Đại Kư này phó chúc vào tay ông. Ông hăy nên
thọ tŕ, lưu truyền rộng răi. Nếu các chúng sanh
đối với pháp môn này mà có thể đọc tụng,
tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ
trong chánh hạnh, ông hăy nên v́ người đó thủ hộ
mười pháp, khiến cho người đó lợi ích,
an lạc trong đêm dài. Những ǵ là mười? Một
là v́ người ấy thủ hộ hết thảy của
cải, địa vị, chẳng để cho hao tổn,
thiếu thốn. Hai là v́ người ấy thủ hộ
chẳng để cho hết thảy oán địch xâm hại.
Ba là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho bỏ
hết thảy tà kiến, tà quy, thập ác nghiệp đạo.
Bốn là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho
tránh khỏi hết thảy sự trừng phạt nơi
thân và lời nói. Năm là v́ người ấy thủ hộ,
ngăn che, đoạn trừ hết thảy báng hủy,
khinh mạn, trào lộng. Sáu là v́ người ấy thủ
hộ, khiến cho hết thảy khuôn phép và Thi La đều
chẳng trái phạm. Bảy là v́ người ấy thủ
hộ, khiến cho các thứ già bệnh trái thời do phi
nhân hay Tứ Đại chẳng điều ḥa gây ra đều
bị trừ diệt. Tám là v́ người ấy thủ hộ,
chẳng gặp hết thảy các tai nạn bất ngờ
trái thời, phi lư, và chết yểu. Chín
là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho khi mạng
sắp hết, được thấy h́nh tướng của
hết thảy chư Phật. Mười là v́ người
ấy thủ hộ, khiến cho sau khi mạng chung,
được sanh về đường lành, lợi ích an
lạc. Này thiện nam tử! Nếu các hữu t́nh đối
với pháp môn này, có thể đọc tụng, tư duy ư
nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh,
ông hăy nên v́ người ấy càng thêm siêng năng thủ hộ
mười pháp như thế, khiến cho được lợi
ích an lạc trong đêm dài”. Khi đó, Hư Không Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát bạch với đức Phật rằng: “Kính
vâng đức Thế Tôn! Con sẽ thọ tŕ pháp môn như
thế này, lưu truyền rộng răi. Nếu các hữu
t́nh đối với pháp môn này, có thể đọc, tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người
khác giải nói, trụ trong chánh hạnh, con sẽ v́ người
ấy thủ hộ mười pháp, khiến cho được
lợi ích và an lạc trong đêm dài”. Khi đó, đức
Bạc Già Phạm nói kinh này xong, trong chúng hội, Hư
Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn
Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm v.v… và các
trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược,
A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc,
Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân v.v… hết thảy đại
chúng nghe lời đức Phật dạy, đều
hoan hỷ to lớn, tin nhận, vâng làm).
“Thiện nam tử! Ngô kim tŕ thử Địa
Tạng Thập Luân Đại Kư pháp môn, phó chúc nhữ thủ”
( Này thiện nam tử! Ta nay đem pháp môn Địa Tạng
Thập Luân Đại Kư phó chúc vào tay ông): Ta nay
dặn ḍ, giao phó ông một chuyện: “Chúc” (囑) là căn dặn,
phó thác; “lụy” (累) làm phiền ông, giao
cho ông gánh vác. Gánh vác điều ǵ? Ông hăy “quảng linh
lưu bố” (lưu truyền rộng răi) bộ kinh
này, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể
đạt được lợi ích nơi pháp môn này. Phải
làm như thế nào th́ mới được lợi lạc?
Đức Phật chẳng yêu cầu rất cao. Nếu
yêu cầu cao, đức Phật biết chúng sanh thời Mạt
Pháp chẳng làm được! Đọc tụng là
được rồi. Có thể đọc, xem, nghe, đồng
thời phải tư duy các đạo lư
được nói trong bộ kinh này. Không chỉ tự ḿnh
hiểu rơ, mà sau đấy c̣n phải giải nói cho người
khác, khiến cho hành vi của họ đoan chánh. Quư vị
đồng thời phải tu Huệ, tu Định, hoàn
toàn chẳng phải tu Thập Thiện Nghiệp là đủ
rồi. Đó là pháp dành cho nhân thiên, c̣n phải tu Định.
Muốn thành thánh nhân th́ phải tu Giới, Định, Huệ.
Giả sử chẳng có ai
có thể đọc tụng, tư duy đạo lư này,
như thế th́ Hư Không Tạng Bồ Tát phải chịu
trách nhiệm thủ hộ họ. Thủ hộ ǵ vậy?
Đức Phật nói mười pháp khiến cho Hư
Không Tạng Bồ Tát thủ hộ người có thể
đọc, tụng, tư duy đạo lư trong bộ kinh
này, khiến cho họ có thể được an lạc,
vui sướng trong đêm dài, có thể đạt
được chỗ tốt đẹp. Lợi ích chính là
chỗ tốt đẹp. Chỗ tốt đẹp ǵ vậy?
Khiến cho người ấy vui sướng trong đêm
dài. Đêm dài tương đương với hắc ám.
Suốt một đời này, quư vị luôn ở
trong hắc ám. Đó là nói thế giới Sa Bà giống
như hắc ám, chẳng có quang minh, dường như
vĩnh viễn ở trong hắc ám. Khiến cho họ
đạt được chỗ tốt đẹp,
được an lạc, được quang minh, đạt
được lợi ích, cũng tức là chẳng có chuyện
phiền năo, nói chung là vui vẻ, sung sướng.
Những ǵ là mười? “Nhất
giả, vị bỉ thủ hộ nhất thiết tài vị,
linh vô tổn phạp” (một là thủ hộ hết thảy
tài vật, địa vị, khiến cho chẳng bị tổn
hại, thiếu thốn): Nếu có người đọc
tụng bộ kinh này, tư duy đạo lư trong bộ kinh này, ông phải nên thủ hộ
người ấy, khiến cho người ấy chẳng
bị tổn thất tài sản. Đức Phật biết
chúng sanh tham tài, coi tiền là bậc nhất. [Do vậy]
điều thứ nhất là bảo vệ tiền tài của
họ, sao cho chẳng bị tổn thất. Mặt khác là
khiến cho người đó khi đă có thâu nhập,
đă đạt được, sẽ chẳng bị tổn
thất. Tiền tài chưa đạt được th́
làm thế nào để đạt được? [Câu kinh
trên đây] chứa đựng ư nghĩa này. Tiền tài bị
tổn thất v́ nó là của chung năm nhà, tức quốc
gia tịch thâu, kẻ trộm ăn cắp mất, bị
lửa đốt. Như thế th́ bị giặc cướp
đoạt, lửa đốt, bị người khác
cướp đoạt, hoặc là quốc vương tịch
thâu, nước nhấn ch́m, các thứ ấy c̣n có thể
ngăn ngừa. V́ trong nhiều đời bao kiếp quá khứ,
quư vị đă mắc nợ kẻ khác, họ đến
đ̣i nợ quư vị, [sanh làm] con cháu bất hiếu phá sạch
gia sản của quư vị. Rất nhiều đế
vương, quan lại cao cấp chẳng quá ba đời
đă tiêu sạch tài sản. Có phước đức th́
thực hiện tốt đẹp, sẽ có thể ǵn giữ
rất lâu!
Mọi người đọc
những câu chuyện trong Địa Tạng Bồ Tát Cảm
Ứng Lục, trong ấy có chép khi con cháu bất hiếu
cướp đoạt tài sản của [cha mẹ, ông bà],
chuyển thành [tài sản] của con cháu. Sau đó, chẳng hiếu kính đối với
họ, vẫn là ngỗ nghịch. Đó là đến
đ̣i nợ, đến báo oán. Một cặp vợ chồng
già, có tám đứa con, chẳng có đứa nào hiếu
thuận. Sau đó, họ thỉnh tượng Địa
Tạng, thờ phụng Địa Tạng Bồ Tát, suốt
ngày từ sáng đến tối thắp
hương, lễ bái. Chẳng lễ bái th́ c̣n đỡ,
vừa lễ bái, cả tám đứa con lần lượt
chết sạch. Đến Tết, cặp vợ chồng
già ấy than oán với Địa Tạng Bồ Tát, càu
nhàu: “Địa Tạng Vương Bồ Tát ơi! Khi
chúng con chưa thờ phụng Ngài, tuy chúng nó ngỗ nghịch
như thế nào đi nữa, vẫn c̣n có đứa
chướng tai gai mắt. Nay chúng nó chết ráo cả rồi,
Tết đến chỉ c̣n hai đứa già chúng con!” Cầu
nguyện xong, chập tối hôm Mười Ba, chư thần
hạ giới. Địa Tạng Vương Bồ Tát
đương nhiên là có thần thông, liền báo mộng
cho cả hai người bọn họ: “Sáng mai các vị
đến bên sông, có thể thấy được tám
đứa con ấy”. Cụ già nằm mộng, buổi
sáng thức dậy. Cụ ông c̣n chưa nói, cụ bà đă
bảo: “Hôm qua tôi nằm mộng, mơ thấy Địa
Tạng Vương Bồ Tát báo mộng, bảo: Sáng nay
chúng ta có thể đến bên sông để trông thấy
tám đứa con”. Cụ ông nói: “Tôi cũng mơ thấy
như vậy. Được rồi, hai đứa ḿnh phải
đi xem thử”. Hai người đến bến sông
nh́n, trông thấy trong nước, tám đứa con lần
lượt hóa hiện, đều là oan gia trong quá khứ.
Hai người bọn họ sở dĩ phát tài là do hại
kẻ khác, hoặc cướp đoạt, hoặc dùng thủ
đoạn bóc lột tài sản của kẻ khác. Họ vừa
nh́n thấy bèn choáng váng. Sau khi trở về, chẳng dám
oán hận, lại đối trước Địa Tạng
Bồ Tát cầu sám hối. Buổi tối, lại
được Địa Tạng Bồ Tát thác mộng dạy
bảo: “Tặng quư vị đứa con. Thọ mạng của
hai người sẽ rất dài, v́ hai vị là hộ pháp của
ta, là thí chủ của ta, ta sẽ gia tŕ quư vị”. Hai
người tỉnh giấc, suy tưởng: “Có thể có
chuyện này hay không? Bà cụ này già quá rồi, c̣n sanh con sao
nổi? Đó là chuyện chẳng thể xảy ra trong
nhân gian!” Nhưng kể từ sau
khi nằm mộng, bà cụ liền mang thai, tuổi đă
già mà sanh một đứa con. Hai người họ sống
đến chín mươi mấy tuổi, gần một
trăm tuổi, c̣n được đứa con lo liệu
cho hai cụ đến chết. Trong Địa Tạng Bồ
Tát Linh Cảm Lục có câu chuyện ấy.
“Nhị giả, vị bỉ
thủ hộ nhất thiết oán địch, linh bất
xâm hại” (hai là v́ người ấy thủ hộ, khiến
cho hết thảy oán địch chẳng xâm hại): Chuyện
này rất khó! Kẻ oán địch chuyển sanh làm con cháu,
chuyển làm con cái của chính quư vị. Quư vị càng yêu thương nó, nó càng hại
quư vị, là như thế đó. Do quư vị chẳng thể
giải quyết được khúc mắc này, giải quyết
như thế nào? Quư vị khuyên nó tin Phật, chính ḿnh hằng
ngày bái sám. Nó càng không nghe lời,
quư vị đối với nó càng tốt. Hơn nữa,
quư vị c̣n phải sám hối, ta rất có lỗi với nó,
nó đến đ̣i nợ, ta không thể chấp nhặt với
nó được. Quư vị hóa giải như thế
đó. Nếu đứa con cũng rất tốt, chẳng
phải là quư vị nợ nó, mà là nó nợ quư vị, vậy
là rất tốt. Nhưng đức Phật căn dặn
Hư Không Tạng Bồ Tát: Nếu có kẻ đọc tụng
kinh Thập Luân, xem kinh Thập Luân, học tập nghĩa
lư của kinh Thập Luân, điều thứ nhất là thủ
hộ tài vật của người
đó. Điều thứ hai là thủ hộ, chẳng cho
oán địch xâm hại kẻ đó. Điều thứ
ba là giữ ǵn, khiến cho
người ấy chẳng có tà kiến, tà quy y, quy y mười
ác đạo. Ông phải thủ hộ, đừng để
người ấy đọa vào mười ác đạo.
Nếu người ấy tà kiến, tà quy, sẽ đọa
vào mười ác đạo, đọa vào địa ngục
Ngũ Vô Gián. Do vậy, trước khi người ấy
phát tác, phải chú trọng thủ hộ trước, khiến
cho người ấy chẳng đọa lạc vào đó.
“Tứ giả, vị bỉ
thủ hộ, linh miễn nhất
thiết thân ngữ trích phạt” (bốn là thủ hộ
khiến cho người ấy
tránh khỏi hết thảy trách phạt nơi thân và ngữ):
Hoặc là thân thể bị trừng phạt, hoặc kẻ
khác dùng lời lẽ trách phạt người ấy, hoặc
dùng đủ loại h́nh cụ để trừng phạt
thân thể người ấy. Ông phải thủ hộ kỹ
càng, đừng để người ấy hứng chịu
các sự trừng phạt ấy.
“Ngũ giả, vị bỉ
thủ hộ, giá đoạn
nhất thiết báng hủy, khinh lộng” (năm là v́ người
ấy thủ hộ ngăn che, dứt trừ hết thảy
hủy báng, khinh miệt, trào lộng): Đấy là hai phương
diện. Một mặt là kẻ khác chẳng hủy báng, chẳng
khinh miệt, trào lộng người đó, đem người
đó ra đùa bỡn. Hai là chính người đó chẳng
phạm sai lầm ấy, chẳng hủy báng kẻ khác, chẳng
hủy báng Tam Bảo, chẳng hủy báng danh dự của
kẻ khác. Đó là hai phương diện. Đức Phật
căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát, ông phải thủ
hộ, khiến cho chính người ấy cũng chẳng
phạm lỗi, mà cũng chẳng bị hứng chịu
quả báo loại này.
“Lục giả, vị bỉ
thủ hộ, linh ư nhất thiết quỹ phạm,
Thi La, giai đắc vô phạm” (sáu là thủ hộ
người ấy khiến cho hết thảy khuôn phép và
Thi La đều chẳng phạm): Nếu người ấy
là hàng xuất gia, hoặc là tứ chúng đệ tử,
Tam Quy, Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, Sa Di, Sa Di Ni giới,
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni giới, hết thảy luật
nghi, Thi La là giới, “quỹ phạm” (軌範) là quy củ. Bất
luận là quy củ hay giới luật đều chẳng
trái phạm.
“Thất giả, vị bỉ
thủ hộ, linh tất trừ diệt nhất thiết
phi nhân, Tứ Đại quai phản, phi thời lăo bệnh”
(Bảy là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho
hết thảy các thứ già bệnh trái thời do phi nhân
và Tứ Đại chẳng điều ḥa gây ra): Thủ hộ
khiến cho người ấy chẳng bị phi nhân năo hại,
cũng tức là quỷ thần [năo hại]. Quỷ thần
năo hại khiến cho Tứ Đại của người
ấy chẳng điều ḥa. “Phản” (反) là chẳng b́nh thường,
không đáng già mà già khọm. Không nên bệnh mà bị bệnh.
“Phi thời” (非時) là c̣n chưa tới
lúc thọ mạng chấm dứt, đó gọi là “hoạnh
tử” (橫死, chết đột ngột).
Vốn có thể sanh trưởng b́nh thường,
nhưng do mắc bệnh, tức là bị phi nhân nhiễu
hại. Đặc biệt là trẻ nhỏ, rất dễ
bị bệnh kinh phong. Đó là quỷ thần năo hại,
tổn giảm thọ mạng của nó. Già bệnh “phi
thời” là chưa đến lúc già đă già khọm,
chưa đến lúc bệnh mà đă bệnh tật.
Người đó mới bốn mươi tuổi, mà
lưng đă c̣ng, chân cũng lết đi chẳng nổi,
đều liên quan đến phi thời năo hại. Đức
Phật căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát phải
thủ hộ họ, khiến cho họ b́nh an, khỏe mạnh,
cát tường.
“Bát giả, vị bỉ
thủ hộ bất tao nhất thiết phi thời, phi lư
tai hoạnh, yểu một” (Tám là thủ hộ để
người ấy chẳng gặp hết thảy tai
ương ngang trái và chết yểu chẳng đúng lúc, vô
lư): Chuyện này nói rất rơ ràng. Chuyện chẳng hợp
đạo lư, tức là tai họa tự nhiên, đơn giản
nhất là tai nạn xe cộ. Khi chúng tôi ngừng chân ở
Hương Cảng, chỉ trong ṿng hai ngày, đă trông thấy
một tai nạn. Họ thi công ở phía trên, phía dưới
có đường đi, c̣n bắc ván [cho thợ nề
đứng]. Phía trên rơi xuống vật ǵ đó, khiến
cho tấm ván sút ra, đập trúng sọ người
[đi bộ] dưới đó. Nếu người ấy
đi chậm một chút, sẽ chẳng bị rơi
trúng, đi nhanh một chút cũng vượt qua. Người
ấy chẳng nhanh, chẳng chậm, vừa khéo! Mỗi tai nạn xe cộ đều là như vậy.
Đấy đều
là các tai nạn ngang xương, chết yểu phi lư. Kinh
Dược Sư nói chín loại hoạnh tử (chết
ngang trái) là do ư nghĩa này. Đức Phật căn dặn
Hư Không Tạng Bồ Tát: Phàm là ai đọc kinh Thập
Luân, ông đều phải thủ hộ người ấy,
khiến cho người ấy chẳng gặp phải tai
nạn kiểu này!
“Cửu giả, vị bỉ
thủ hộ, mạng dục chung thời, đắc kiến
nhất thiết chư Phật sắc tượng”
(Chín là v́ người ấy thủ hộ, khiến cho khi mạng
chung, được thấy h́nh tướng của hết
thảy chư Phật): Điều này rất khó, hoàn toàn
chẳng phải là ai khi chết cũng đều có thể
thấy h́nh tượng Phật. [Khi lâm chung], nghe có người
khuyên quư vị niệm Phật, chuyện này rất khó xảy
ra. Đặc biệt là trong hiện tại càng không thể.
Hễ có bệnh, sẽ đưa vào bệnh viện.
Đặc biệt là kiều dân sống tại Mỹ.
Đưa vào bệnh viện, bệnh viện không cho phép
tiến hành các nghi thức tôn giáo, quư vị có thể khuyên
người ấy niệm Phật hay không? Đưa cho
người ấy một máy niệm Phật, bệnh viện
sẽ nói quư vị quấy rầy người khác, lấy
đi, căn bản là chẳng cho phép quư vị [sử dụng].
Quư vị đem bệnh nhân về, không được.
Đưa vô đó, chẳng thể đưa ra. Làm thế
nào đây? Quư vị phải dặn rơ mọi chuyện
trước: Chỉ cần khi quư vị có bệnh, đừng
đưa vô bệnh viện! Gặp phải t́nh huống ấy,
quư vị mong thấy tượng Phật, cũng chẳng
trông thấy. Chúng ta có thể đọc kinh Đại Tập
Thập Luân, Hư Không Tạng Bồ Tát sẽ thủ hộ.
Không chỉ trông thấy tượng Phật, mà c̣n có
người đến trợ niệm, đến trước
mặt quư vị niệm Phật, thấy h́nh tượng
đức Địa Tạng, thấy h́nh tượng Phật,
thấy h́nh tượng Quán Âm Bồ Tát. Hễ trông thấy,
quư vị bèn sanh khởi cái tâm hướng về,
nghiệp chướng sẽ tiêu mất. Do vậy, đức
Phật dặn ḍ Hư Không Tạng Bồ Tát thủ hộ
người đọc tụng kinh Thập Luân, khiến
cho người ấy vào lúc lâm chung có thể trông thấy
h́nh tượng của chư Phật.
“Thập giả, vị bỉ
thủ hộ, linh kỳ chung
hậu, văng sanh thiện thú, lợi ích an lạc” (mười là v́
người ấy thủ hộ, khiến cho sau khi mạng
chung, sẽ sanh vào đường lành, lợi ích, an lạc):
Điều này rất khó! Do vậy, đức Phật
căn dặn Hư Không Tạng Bồ Tát. Phàm là người
đọc kinh Thập Luân, giống như mọi người
[đang hiện diện trong hội giảng
kinh, hay đọc bài giảng này, hoặc chỉ đọc
kinh này] đều có
tư cách này. Phàm là đă nghe kinh Thập Luân, dẫu chẳng
nghe toàn bộ, chỉ nghe một câu, vẫn tính. Một
câu, một kệ được nói trong kinh này, “nhất
cú” là một câu, câu khẩn yếu nhất là Địa
Tạng Vương Bồ Tát. Nếu được nghe bốn
câu, nghe nhiều hơn càng tốt, quư vị nhất định
được sanh vào đường lành, chẳng đọa
vào trong tam đồ, khiến cho quư vị được
lợi ích, an lạc.
“Thiện nam tử, nhược
chư hữu t́nh ư thử pháp môn, hữu năng độc
tụng, tư duy kỳ nghĩa, vị tha giải thuyết,
trụ chánh hạnh giả” (Này thiện nam tử! Nếu
có các hữu t́nh đối với pháp môn này mà có thể
đọc, tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người khác
giải nói, trụ trong chánh hạnh): “Chánh hạnh”
chính là Thập Thiện Nghiệp Đạo đă
được nói trong phần trước. Có thể trụ
trong Thập Thiện nghiệp. “Nhữ đương vị
bỉ cần gia thủ hộ như thị thập pháp”
(ông hăy nên v́ người ấy càng siêng năng thủ hộ
mười pháp như thế): Đức Phật dặn
ḍ mười pháp ấy lần nữa; ông phải chú ư, nhất
định phải thủ hộ, chớ nên thiếu sót. “Linh
ư trường dạ, lợi ích an lạc” (khiến
cho họ được lợi ích, yên vui trong đêm dài):
Vĩnh viễn đạt được lợi ích. “Thời
Hư Không Tạng Bồ Tát bạch Phật ngôn: - Dụy nhiên, Thế
Tôn” [nghĩa là]
đúng như thế, bạch đức Thế Tôn, con nghe
lời Ngài căn dặn. “Ngă đương thọ tŕ
như thị pháp môn, quảng linh lưu bố” (con sẽ
thọ tŕ pháp môn như thế, lưu truyền rộng
răi): Chúng sanh phải được nghe
pháp môn này th́ mới có thể hữu duyên với Ngài. Nếu
ai chẳng nghe pháp môn này,
mà cũng chẳng đọc, chẳng tụng, Ngài sẽ
chẳng thể bảo vệ người ấy được. Làm thế
nào đây? Chính ḿnh phải nên thọ tŕ pháp
môn này, truyền bá rộng răi pháp môn này, khiến cho hết
thảy hữu t́nh đều có thể biết pháp môn này.
Giả sử các hữu t́nh
đối với pháp môn này có thể “độc tụng,
tư duy kỳ nghĩa” (đọc, tụng, tư duy ư
nghĩa), “vị tha giải thuyết, trụ chánh hạnh
giả” (v́ người khác giải nói, trụ trong chánh
hạnh), con sẽ nhất định v́ người ấy
thủ hộ mười pháp ấy, “linh ư trường
dạ lợi ích, an lạc” (khiến cho được
lợi ích, an lạc trong đêm dài).
“Thời Bạc Già Phạm
thuyết thị kinh dĩ, ư chúng hội trung, Hư
Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn
Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm đẳng”
(Lúc đức Bạc Già Phạm nói kinh này xong, trong chúng hội,
Hư Không Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Hảo Nghi Vấn
Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Tạng Đại Phạm v.v…) Đấy
là các vị đương cơ thỉnh pháp trong kinh Thập
Luân, cho đến “thiên, long, Dược Xoa, Kiện
Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ
Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân
phi nhân đẳng, nhất thiết đại chúng văn
Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ,
phụng hành” (trời, rồng, Dược Xoa, Càn Thát
Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân
v.v… hết thảy đại chúng nghe đức Phật
nói đều hoan hỷ to lớn, tin nhận, làm theo): Kinh
Đại Tập Thập Luân đến đây là viên măn.
Nay chúng tôi lại nói lần
nữa về một phương tiện gọi là Xuất
Nhập Tức Quán. Đức Phật khai thị cho chúng
ta một phương tiện gọi là Xuất Nhập Tức
Quán. Xuất Nhập Tức Quán (出入息觀) là quán hơi thở
ra vào, chú ư sự hô hấp của quư vị, thở ra và hít
vào. Quán (觀) là chú ư, [Sổ Tức Quán là] chú ư hơi thở ra vào. “Xuất nhập tức”
có nghĩa là ǵ? Chính là tu tập “tŕ lai khứ niệm”
(持來去念, nắm giữ
ư niệm đến đi). “Ư niệm đến” là nhập (hít vào), “ư niệm đi” là thở ra. Hít vào là
Nhập, thở ra là Xuất. Tu tŕ lai khứ niệm có thể
đạt tới Tùy Thuận Không Nhẫn, Tùy Thuận Vô
Tướng Nhẫn, Tùy Thuận Vô Nguyện Nhẫn, có thể
chứng đắc ba môn giải thoát. Nói cách khác, có thể
giải thoát! Niệm như thế nào? Quan sát hơi thở
ra vào như thế nào? Có sáu loại tŕnh tự, thở ra một
hơi, hít vào một hơi th́ gọi là “hô hấp”. Giữa
hai hơi hít vào thở ra ấy, đếm là một.
Nếu quư vị đếm như thế, từ một
đến mười; cứ một lần
thở ra hít vào, lại đếm
[một số]. Sau đó lại thở ra hít vào, lại
đếm là một lần thở ra hít vào, đếm cho
đến mười. Sau đó, lại đếm từ
đầu, lại là một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy,
tám, chín, mười. Đếm xong, lại đếm từ
đầu, đếm xong [mười lần thứ hai],
lại đếm [từ đầu từ một đến
mười lần thứ ba, cứ như
thế].
Đấy là tu Định,
quư vị cứ thử xem. Quư vị hễ đếm liền
lộn số. Vốn là đếm hơi hít vào, hoặc vốn
đếm hơi thở ra, quư vị lại đếm
đảo ngược, [tức là] vốn đếm hơi hít vào, quư vị lại
đếm hơi thở ra. Quư vị chọn lựa
như thế nào cũng được, đếm hơi
thở ra cũng được [nhưng phải thống
nhất]. Miễn sao cứ một hơi thở ra hít vào
th́ đếm là một, mười lượt thở ra
hít vào đếm tới mười. Đếm đủ
mười lượt như vậy, quư vị phải lắng
ḷng để đếm, phải chuyên chú. Hăy thử xem, ắt
cần phải đắc Định, dốc hết sức
chuyên chú. Chúng ta đều nói “niệm Phật chuyên chú một
cảnh”, thế mà niệm nào vọng tưởng
cũng dấy lên. Quư vị đếm hơi thở ra vào,
tức là quư vị hít vào nơi tâm. Hễ sơ ư th́ lại đếm sai. Đối với con số mười ấy, hiện thời, quư vị luôn đếm
số chẳng thành, hăy thuận theo sự hít thở, thuận
theo sự thở ra hít vào để đếm. Khi thâm nhập
tới mức nhất định, sẽ có thể chẳng
cần đếm số, sẽ cảm thấy đếm
số quá thô. Thoạt đầu dụng công, đếm số
cảm thấy tự nhiên, không cần phải tác ư, tự
nhiên nương theo hơi thở ra vào, ư niệm chẳng
chạy loạn, chuyên chú nơi một cảnh. Ư niệm
chẳng chạy loạn, ngay ư niệm “tùy thuận theo ư
niệm” cũng chẳng có. Đă chẳng có niệm th́
là Chỉ, Chỉ là Định. Khi đă định,
hơi thở ra vào cực vi tế, quư vị chẳng thể
cảm thấy. Phép Quán này bất
đồng, phép Quán này là tư duy, giác chiếu.
Khi đă chiếu, sẽ chuyển ư niệm theo hơi thở,
chuyển thành thanh tịnh, chẳng c̣n nữa. Trong khi
đang tu Định, có các loại hiện tượng.
Định có thể sanh ra Huệ, sẽ phát quang minh. Hễ
Định phát ra quang minh, quư vị đối với thân
thể của chính ḿnh, ngũ tạng, lục phủ, hết
thảy mạch chuyển, kinh lạc xoay quanh, tóc mọc,
quư vị đều có thể biết. Ngay cả tóc mọc
dài ra, quư vị cũng đều nhận biết, thấy
rất rơ ràng. Quán là quán như thế. Quư vị chẳng cần
tác ư quán mà tự nhiên bèn quán.
Quán năm thứ nghiệp bất
tịnh, quư vị sẽ sanh khởi tâm chán ĺa, quán thấy
thân thể của chính ḿnh bất tịnh, quán cảnh giới
bên ngoài cũng sanh bất tịnh. “Chuyển” là trở về
với tịnh. “Tịnh” là ǵ? “Không” nghĩa. Đă
thanh tịnh, quán thanh tịnh. Trước hết, chúng tôi
nói đại khái về điều này; sau đó, lại
nói theo Lục Diệu Môn của Trí Giả đại
sư. Trí Giả đại sư không nói là Chuyển, Ngài
nói là Hoàn, cũng là quán hơi thở ra vào. Lục Diệu
Môn là căn cứ theo các kinh luận mà soạn, các kinh
đều có phương pháp này. Bất quá trong các kinh khác,
không rơ ràng như vậy. Kinh Đại Tập Thập Luân
đă nói hết sức rơ ràng!
Trước tiên là nói về
Sổ (數). Đối với Sổ, mọi người xem kinh
văn, có hai loại Tác Ư. Khi đếm số trong phép Sổ,
có thể dấy lên hai loại ư ấy. “Năng y phục
chư tầm tứ” (có thể nương cậy [vào
tướng hơi thở ra vào] để chế phục
các tầm, tứ): Các ư niệm chúng ta suy nghĩ thường
là tầm tứ. [Tầm (尋) là t́m cầu sự
vật nơi tướng thô], “Tứ” (伺) là ḍ xét [nơi tướng tế], tức là dấy vọng
niệm. Chúng ta dùng điều ǵ để có thể ngưng dứt vọng niệm?
Dựa theo tướng hơi thở ra vào. Thở ra là Hô (呼), Hô là thoát ra. Hấp (吸) là hít vào. Khi hít vào, xem
tướng trạng của nó, chú ư nó. Khi quư vị chú ư, [sẽ
nhận thấy] hơi thở rất thô. Khi quư vị mới
ngồi xuống, hơi thở ra vào rất thô, quư vị
có thể cảm nhận được, cũng có thể
thấy hơi thở ra như thế. Cứ tiếp tục
quán tướng hơi thở ra vào ấy, nó sẽ vi tế
dần, có thể xả tướng hơi thở ra vào ấy.
Thuận theo tướng hơi thở ấy, sẽ dần
dần có thể xả. Xả ǵ vậy? Xả các tầm
tứ ấy, chẳng c̣n tầm tứ (t́m cầu, suy xét
thô tướng lẫn tế tướng của các sự
vật). “Phục” (伏) là “ĺa”, có thể rời ĺa vọng niệm.
“Thiện thủ nhập xuất
tức tướng” (khéo giữ lấy tướng
hơi thở ra vào): Được gọi là “thiện
thủ” (善取, khéo giữ lấy) nghĩa là “không giữ lấy”. “Thiện thủ”
là chẳng lấy hay bỏ. Khi đó, hơi thở ra vào rất
tự nhiên, hơi thở ra vào rất vi tế. Nếu
đă đạt tới mức vi tế, thứ nhất là
có thể xả, thứ hai là khéo giữ lấy tướng
hơi thở ra vào. “Nhập tướng hơi thở ra vào” tức là thuận
theo hơi thở ra vào, tự ḿnh vận động, tức
là thuận theo ư niệm của quư vị, cũng là chuyên chú
một cảnh, tâm tuyệt đối chẳng tán loạn.
Đối với Sổ Tức Quán, tứ giáo hay ngũ
giáo đều dạy về Sổ Tức Quán.
Đối với Sổ Tức Quán th́ tứ
giáo hay ngũ giáo đều nói đến Sổ Tức
Quán. Đếm hơi thở ra vào th́ gọi là Sổ Tức,
Tức (息) là “xuất
nhập tức” (hơi thở ra vào). Nói chung, sáu môn ấy
đều gọi là Sổ Tức Quán. Chỉ (止) là diệt tướng
“xuất nhập tức”, chẳng c̣n nữa. Người
ấy có thể diệt trừ tướng thị hiện
xuất nhập tức. Đă diệt xong th́ là Định,
có thể trụ trong thắng tam-ma-địa,
[tức
tam-ma-địa] rất thù thắng.
Người ấy hễ trụ trong Định, sẽ hết
sức vui sướng, ĺa khỏi tướng sanh diệt.
Định có tên gọi là Ly Sanh Hỷ Lạc Địa,
[hàm ư] “ĺa khỏi sanh diệt,
trong tâm cảm thấy hết sức hoan hỷ”. Khi quư vị quan sát sẽ
biết, có thể cảm nhận hơi thở ra vào đă
diệt, chẳng có hơi thở ra vào. Loại công phu này
chẳng phải một hai ngày mà có thể đạt
được. Trong khi quư vị tu tập, căn cơ
b́nh thường, người có thiện căn tốt, hầu
như là khoảng một trăm ngày có thể dần dần
nhập Định. Nhập Định th́ Sổ Tức
Diệt. Khi đó, chính ḿnh có thể quán cảnh. Cái tâm quán
chiếu và cảnh được quán, tâm và cảnh chỉ
là một. Đă quán chiếu điều này, quán chiếu
điều kia, xem kinh văn, khi ấy mới có thể an
trụ cái tâm, tâm và cảnh chẳng có sai khác. Chuyển là
tiến cao hơn bước nữa. Chuyển có nghĩa
là Hoàn.
“Năng phương tiện
xả chư Thủ Uẩn” (có thể phương tiện
xả các Thủ Uẩn): Ngũ Thủ Uẩn: Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp là sáu trần. Mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư là sáu căn. [Căn và Trần] giữ lấy Ngũ Thủ
Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thức ấy
phân biệt hết thảy các sắc tướng bên ngoài,
đó gọi là Ngũ Thủ Uẩn. Trong khi ấy, người
đó có thể phương tiện thiện xảo xả
Ngũ Uẩn. “Xả” chẳng phải là rốt ráo xả!
Rốt ráo xả là như Quán Tự Tại Bồ Tát chiếu
kiến Ngũ Uẩn đều Không, người ấy
đă dần dần đạt tới nghĩa Không. Lúc ấy
có thể thành thánh, tiến nhập thánh địa, đạt
được thành tựu. Sự thành tựu ấy c̣n
chưa đoạn phiền năo, chỉ là hàng phục. Đợi
cho tới khi đă tịnh rồi th́ mới có thể
đoạn phiền năo, đoạn hết Kết Sử.
Cho tới khi đoạn Kiến Hoặc, người
ấy sẽ chứng Sơ Quả, dần dần mới
đoạn Tư Hoặc. Đoạn mấy phẩm liền
chứng Sơ Quả, dần dần mới đoạn
Tư Hoặc. Đoạn mấy phẩm, bèn chứng mấy
phẩm. Tư Hoặc đều đoạn hết, sẽ là quả A La
Hán. Lại đoạn tập khí phiền năo, tùy theo sự
dụng công tu tập của quư vị. Đó gọi là tu tập
Nhập Xuất Tức Quán, sẽ có thể tùy thuận
quán Ngũ Thủ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức.
Kế đó, nói về cách
quán Ngũ Thủ Uẩn. Hơi thở ra vào nương
vào đâu? Nương vào Sắc Thủ Uẩn. Sắc thân là sắc
tướng, đó là Sắc Thủ Uẩn. Đối với
hơi thở ra vào như thế, người ấy “tạo tác” hơi thở
ra vào, hơi thở ra vào chính là tạo tác. Tạo tác ǵ vậy?
Quư vị có thở ra hít vào th́ mới có thể hô hấp, có hô hấp th́ mới duy
tŕ cái thân của quư vị được! Hơi thở ra
vào ấy, hít vào, thở ra, rồi lại hít vào thở ra, quư vị sẽ
cảm nhận, lănh thọ. Nếu chỉ thở ra, chẳng
hít vào, quư vị sẽ chẳng thoải mái. Quư vị sẽ
cảm nhận được sự lănh nạp ấy, “thọ”
(受) có nghĩa là “lănh nạp”, tức thuộc về
Thọ Uẩn. Đối với hơi thở ra vào, qua lại,
quư vị giữ lấy tướng của nó, tướng
thở ra, tướng hít vào, quán chiếu tướng thở
ra hít vào, điều này thuộc về Tưởng. Tưởng
Thủ Uẩn có thể liễu đạt nhận biết
các h́nh tướng tạo tác bởi hơi thở ra hít
vào. Liễu đạt,
nhận biết chính là Thức Thủ Uẩn.
Do năm Thủ Uẩn tức Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, bèn tu hành Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh,
khiến cho quư vị nhập Định, có thể ngưng
dứt ba nghiệp thân, miệng, ư, nương theo quán lực
mà có thể đạt tới mục đích. Đạt tới
mục đích ǵ vậy? Nhập Định, từng
bước thâm nhập Vô Minh, Ái, Thủ, tu hành từng
bước một, dần dần có thể viên măn.
Trong kinh này, Sổ Tức
Quán được nói rất đơn giản. Trong Lục
Diệu Môn thuộc bộ Tiểu Chỉ Quán của Trí Giả
đại sư, đă chia ra rất nhiều khoa. Lục
Diệu Môn gồm sáu loại; ở đây, chúng tôi chỉ
nói một loại trong ấy, v́ Lục Diệu Môn là
căn bản để tu Định. Bất luận Thanh
Văn, Độc Giác, hay Bồ Tát, Lục Diệu Môn đều là con
đường ắt phải trải
qua. Khi tu đạo, nhất định phải trải
qua, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng như thế. Thoạt
đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật thực hành Bát Nhă Quán,
nương theo sáu loại Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh
này, hết thảy các hạnh môn đều do đây mà khai
phát. Hàng ma, thành đạo, đức Phật thị hiện
cho chúng ta một quy củ để tu tập tốt đẹp,
đó là ǵ? Sắc Tịch tam-muội, Tâm Tịch tam-muội,
[nghĩa là] hết thảy các sắc đều tịch
tĩnh, đă đắc định, tâm cũng ngưng dứt.
Khi ấy, sẽ đạt tới Nhất Tâm tam-muội,
cũng là Niệm Phật tam-muội. Trong phần trước,
tôi đă thuận theo kinh văn để giảng. Cách niệm
của tôi là dùng phương pháp niệm Phật để
tu Sổ Tức Quán, hoàn toàn chẳng cần Sổ (đếm
số). Hàm nghĩa của Sổ là “một hơi thở
ra, hít vào”. Tôi chia hơi
thở ra thành hai phần, thở ra là chữ A, hít vào là Di,
lại thở ra là Đà, hít vào là Phật. Chuyển như
vậy, lần lượt chuyền vần, “A Di Đà
Phật, A Di Đà Phật”, thuận theo hơi thở
ra vào mà chuyển như vậy.
Tôi dùng cách này để tu
Định. Sau đó, tôi lại đổi thành niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát, cũng là như vậy.
Tôi không dùng đến con số, cũng chẳng
phải đếm số từ một đến mười.
Phương pháp tu hành của mọi người khác, tùy
thuộc sự lựa chọn của quư vị. Sổ,
Tùy, Chỉ đều có hàm nghĩa như vậy, cũng
là sáu loại ấy. Sáu loại Sổ Pháp, tức là
phương pháp đếm số. Lục Diệu Môn có tổng
cộng mười pháp. Sổ Tức Quán là pháp thứ hai
trong Lục Diệu Môn, được gọi là Thứ
Đệ Tương Sanh Lục Diệu Môn (次第相生六妙門, sáu môn mầu nhiệm
lần lượt sanh ra nhau). Tôi đọc các danh từ ấy cho quư vị nghe
đôi chút.
Thứ nhất là Lịch Biệt
Đối Trụ Chư Thiền Lục Diệu Môn (歷別對住諸禪六妙門, sáu môn mầu nhiệm lần
lượt trụ vào các loại Thiền Định), hết thảy Thiền
Định đều chẳng rời khỏi Lục Diệu
Môn.
Loại thứ hai là Thứ
Đệ Tương Sanh Lục Diệu Môn, [nghĩa là]
theo thứ tự, sanh ra Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh.
Hoàn trong Lục Diệu Môn có ư nghĩa giống như Chuyển,
theo thứ tự mà sanh. Như vậy sau khi đă Sổ, sẽ
sanh ra Tùy. Đă có Tùy, lại có thể sanh ra Chỉ. Đă
Chỉ rồi bèn có thể sanh ra Quán. Từ Chỉ mà sanh
Quán, từ Quán mà sanh ra Hoàn. Từ Hoàn mà có Tịnh. Điều
thứ sáu là Tịnh, đấy là Lục Diệu Môn sanh khởi
theo thứ tự. Quư vị tu môn Thiền Định nào
cũng đều có Lục Diệu Môn.
Thứ ba, Tùy Tiện Nghi Lục
Diệu Môn (隨便宜六妙門); thứ tư, Tùy
Đối Trị Lục Diệu Môn (隨對治六妙門); thứ năm,
Tương Nhiếp Lục Diệu Môn (相攝六妙門); thứ sáu, Thông Biệt
Lục Diệu Môn (通別六妙門); thứ bảy, Toàn Chuyển Lục Diệu
Môn (旋轉六妙門); thứ tám, Quán Tâm Lục
Diệu Môn (觀心六妙門); thứ chín, Viên Quán Lục
Diệu Môn (圓觀六妙門), các môn này sâu lắm.
Thứ mười là chứng đắc Phật quả, tức
Chứng Tướng Lục Diệu Môn (證相六妙門). Khi chứng cũng có
Lục Diệu Môn. Hiện thời, tôi dựa theo kinh Đại
Thừa Đại Tập Thập Luân để dẫn chứng
Thứ Đệ Tương Sanh Lục Diệu Môn. Thứ
Đệ Tương Sanh là chiếc cầu thang để
quư vị mong nhập Phật đạo sẽ từng
bước tiến lên. Nếu quư vị đang ở trong
Dục Giới mà muốn tu Định th́ sẽ rất
khó khăn, làm như thế nào? Hăy dựa theo sáu loại ấy
để có thể thành tựu Định lực cho quư vị.
Môn thứ nhất là tu Sổ,
tức là đếm số, đếm mười số.
Một lượt thở ra hít vào tính đếm một,
thở ra hít vào đếm hai, thở ra hít vào đếm ba, [cho đến mười]
rồi quay trở lại [đếm từ một] như
thế.
Điều thứ hai là Chứng
Số, tức là quư vị chứng con số vừa đếm
ấy. Số có hai loại: Một là tu, hai là chứng. Sau
khi đă chứng bèn chuyển nhập, chuyển nhập
vào Tùy. Sau khi đă chứng, cách đếm số ấy bèn
ngưng dứt, chẳng c̣n đếm nữa, đó là Tùy.
Tu Sổ nhằm điều ḥa hơi thở của quư vị,
điều ḥa rất thô thành rất
vi tế. Chúng ta dần dần điều ḥa như thế,
nhưng quư vị chớ nên gấp gáp. Khi đếm số,
phải thong thả, thuận theo hơi thở ra vào tự
nhiên, không cần Tác Ư. Hễ Tác Ư, Định sẽ rất
khó sanh khởi, đó chẳng phải là tự nhiên. Điều
ḥa hơi thở phải như thế nào? Chẳng nhanh, chẳng
chậm, chẳng rít, chẳng trơn, nhất định
phải tu đến mức độ an tường, chậm
răi như vậy, từ một đến mười,
đếm như thế đó.
Sở dĩ chúng ta có thể
nhiếp tâm là dựa vào đếm số. Nếu quư vị
có thể nhiếp tâm, tức là dùng niệm
A Di Đà Phật để nhiếp tâm, quư vị niệm
Phật, niệm đến mức thuận theo hơi thở
ra vào mà chuyển, cứ chuyển măi, hơi thở
chẳng c̣n, quư vị vẫn cảm nhận Phật hiệu
thuận theo quư vị mà chuyển (đó là Tùy). Như thế
là quư vị đă Định. Nhưng pháp Tùy lại tùy thuộc cách tu của mỗi
người. Trước hết, quư vị phải biết
con số, từ một đến mười, nhiếp
cái tâm, chẳng để cho nó rong ruổi nhanh hay chậm,
khiến cho cái tâm được nhiếp trụ, chẳng
chạy tán loạn, chẳng có lúc nào nghĩ ngợi chi
khác. Nếu cái tâm nghĩ đến chuyện ǵ đó,
[đừng quan tâm tới nó], cứ để cho nó qua
đi. Nếu muốn suy tưởng chuyện ǵ, sẽ chẳng
có thời gian, nó vĩnh viễn chẳng có kẽ hở
để xen vào được, khiến cho ư tưởng,
tạp niệm rối bời sẽ chẳng thể dấy lên được!
Đối với Chứng Số
th́ như thế nào mới coi là “chứng đắc”? Quư vị
nhận biết cái tâm tự nhiên thuận theo cách đếm
mười lượt ấy, chẳng c̣n lầm loạn
nữa, tự nhiên theo đúng thứ tự th́ là chứng
đắc. Từ một tới mười, quư vị
không cần phải suy nghĩ, chẳng cần phải vận
tâm để đếm, chẳng dùng bất cứ công sức
nào để đôn đốc. Thoạt đầu,
nếu quư vị chẳng chú ư đôi chút, sẽ loạn
ngay, đếm sai ngay. Cho tới khi đếm thành thục,
từ một đến mười không lầm loạn,
tùy ư có thể đếm như vậy, chẳng cần mất
công tốn sức, dần dần ngoại duyên đều
rơi rụng. Tâm trụ, dứt bặt duyên niệm,
nghĩa là “duyên theo hơi thở [để đếm số]”
[đă dứt], tức là chuyện nương theo hơi thở
để niệm chẳng c̣n nữa. Sau khi cái “duyên niệm”
(nương tựa vào hơi thở để niệm) ấy
chẳng c̣n, quư vị sẽ cảm thấy hơi thở như có như không. Nói là “chẳng
có hơi thở”, th́ dường như vẫn có hơi
thở vi tế. Nói “có”, đă chẳng c̣n hơi thở nữa.
Không có hơi thở, tức là xét theo phương diện
dụng công, đă chẳng c̣n hơi thở nữa. Tới
khi đó, tư tưởng đă chẳng c̣n suy nghĩ
đếm số nữa, đă vứt bỏ con số.
Đó gọi là Tùy.
Loại thứ hai là Tu Tùy th́ phải Chứng Tùy. Tu
Tùy là phải vứt bỏ phương pháp đếm số
ấy. Tâm quư vị tự nhiên chuyển theo hơi thở
ra vào, tâm chẳng chạy lung tung, chẳng cần phải
đếm số nữa. Đếm số nhằm ngăn
giữ cái tâm [khỏi tán loạn]. Cái tâm tán loạn đă
chẳng c̣n rong ruổi tán loạn nữa, chẳng cần
phải pḥng bị, thuận theo tâm niệm để thuận
theo hơi thở ra vào. Nhưng hơi thở ra vào ấy rất
bé nhỏ, hơi thở như sợi tơ, giống
như hơi thở của người sắp đoạn
khí vậy. Nhưng cái tâm của quư vị đă hoàn toàn chẳng
có ngoại vật, thuận theo hơi thở. Hơi thở
vi tế thuận theo cái duyên của nó mà vận dụng,
đó gọi là Tùy (隨). “Tùy” là thuận theo hơi thở làm duyên.
Hơi thở cực vi tế, khiến cho hành
giả trụ trong niệm, cho đến cuối cùng là Chứng
Tùy, tâm đă tịnh, chẳng loạn nữa. Đó là Tùy Trụ, cái tâm đă
định, chẳng c̣n rối loạn nữa. Khi đó,
quư vị cảm nhận hơi thở hoặc dài hay ngắn,
rơ ràng, phân minh, cho đến nhận biết hơi thở
ấy không chỉ từ mũi thoát ra, không chỉ ở
chót mũi, mà mỗi lỗ chân lông trên cơ thể đều
dường như toát ra hơi thở vi tế, chúng cũng hít vào, cũng
đang thở ra, đó gọi là Biến. Biến (遍) là trọn khắp
toàn thân đều đang thở ra, hít vào. Do vậy, cái tâm
vi tế của quư vị tùy ư
nương nhau, liên đới lẫn nhau. Người ấy
thở ra, không nhất định phải là hơi thở
từ mũi thở ra, hơi thở nơi mũi đă chẳng
nhận biết nữa, khắp nơi đều có thể
thở ra. Khi đó,
người tu hành bèn bỏ Tùy, chẳng c̣n chú ư đến
hơi thở nữa, đă nhập Định, hơi thở
chẳng c̣n nữa, đó là Chỉ.
Cách tu Chỉ là như thế
nào? Một là Tu Chỉ, hai là Chứng Chỉ. Khi Tu Chỉ,
tư tưởng duyên lự đều trở thành Định.
Định là Tức Định (息定, Định do
ngưng dứt). Quư vị đă ngưng dứt [vọng niệm],
cảm nhận được hơi thở [rất vi tế].
Ở trong Định, hơi thở ra vào đều hiện
hữu. Nơi mỗi lỗ chân lông, thuận theo mỗi
hơi thở ra vào, tất cả [lỗ chân lông] đều
có thở ra hít vào. Lỗ chân lông thông thoáng; nếu không, làm
sao có thể toát mồ hôi cho được? Lỗ chân lông
toát mồ hôi tức là thông. Có lúc quư vị chẳng thở
ra, mà các lỗ chân lông thở. [Khi đă Định] th́ sẽ
ngưng dứt, tức là hết thảy duyên lự đều
dứt, đă định, [thô tướng của] hít thở
[nơi mũi] đă ngừng. Đă ngừng rồi, chẳng
nghĩ tới Sổ (đếm số), chẳng nghĩ tới
Tùy, tịnh cái tâm để tu hành.
Chứng Chỉ th́ sao? Khi ấy,
cũng chẳng biết đến thân, mà cũng chẳng
biết đến tâm. Tâm và thân như một, chẳng có
ǵ nữa, đă nhập Định. Nhưng loại Định
này vẫn chưa nhập Không, vẫn thuộc vào hữu
tướng. Phải chuyển cái Định này thành vô
tướng. Khi chứng, chẳng thấy tướng
trong ngoài, phương pháp Định là giữ cho cái tâm tùy
ư bất động. Người tu hành như thế
đă nhập tam-muội, tâm nẩy sanh cảm giác vui
sướng tịch tĩnh, nhưng chẳng có Huệ,
chỉ là Định. Chúng ta nói “Chỉ Quán song vận,
Định Huệ song tu”. Nếu chỉ có Định
th́ chẳng được. Người ấy (người
tu pháp môn Sổ Tức Quán này) khởi lên huệ chiếu
để quán. Quán chính là huệ chiếu. Chẳng có
phương tiện là Huệ, sẽ chẳng thể phá
sanh tử. Tuy đă đắc Định, Định vẫn chẳng thể
phá nổi sanh tử, vẫn phải lưu chuyển, tức
là chẳng tu thành công, làm như thế nào đây? Vẫn phải
nhờ vào Giả, vẫn phải phá hoại sanh tử.
“Phục tác thị niệm,
kim tập Định giả giai thuộc nhân duyên” (lại
nghĩ như thế này: Môn Định nay đang tu tập
đều thuộc về nhân duyên). Môn Định ấy
do tu Sổ và Tùy như thế mà ra. Tu đến mức
ấy chính là pháp nhân duyên, thuộc về pháp Ngũ Uẩn,
thuộc về pháp mười tám giới, do ḥa hợp mà
có. Quán chiếu là khởi niệm. Đă khởi niệm, tức
là khởi lên quán chiếu để niệm. Chuyện này hư
dối chẳng thật, nay ta định để làm ǵ? Nay
ta chẳng thấy, chẳng nhận biết, mà cũng chẳng
niệm, cũng chẳng khởi giác chiếu. Ta phải
nên quán chiếu, phải chiếu. Hễ khởi niệm
th́ dấy niệm như thế xong, chẳng chấp
trước cái tâm ấy, chẳng chấp trước môn
Định ấy, chẳng hưởng thụ sự vui
sướng ấy để rồi khởi quán phân biệt.
Đó là Quán.
Chỉ Quán là dấy lên Quán
Chiếu. Tu Quán th́ sao? Từ trong môn Định ấy, bèn dùng Huệ tâm sở
phân biệt, quan sát hơi thở ra vào vi tế, quan sát nó giống
như gió trong không trung. Như đức Phật đă nói,
trên thân thể chúng ta có ba mươi sáu món vật, đều là chẳng
thật sự tồn tại, hư huyễn chẳng thật.
Đấy là tu tập Tích Không Quán, chẳng phải là Thể
Không Quán. Thể Không Quán th́ [liễu giải]
ngay bản thể
chính là Không, c̣n ở đây [là Tích Không Quán], tức là phải phân tích cái Không, chia chẻ
cái Không. Tâm là vô thường, chẳng trụ trong mỗi
sát-na, cũng chẳng có Ngă, cho đến thân, thọ, tâm pháp, đều chẳng có
tự tánh. Như vậy th́ môn Định của ta
nương tựa vào đâu? Ta định như thế
nào? Định nương vào đâu? Tu Quán tức là tùy thời
mà quan sát. Quan sát trong
Định như thế đó th́ gọi là Tư Duy Tu.
Quán và Huệ cân bằng, chúng ta thường nói là “Chỉ
Quán song vận”, có hàm nghĩa này. Dùng điều này
để quán hơi thở, nhận biết hơi thở
ra vào, mỗi lỗ chân lông nơi toàn thể thân tâm, hết thảy các lỗ chân lông đều đang thở
ra hít vào. Chuyện này đ̣i hỏi quư vị phải khai
trí huệ, tâm nhăn khai minh, tự ḿnh quán chiếu ba
mươi sáu món vật rành rẽ. Khi đó, quư vị sanh khởi tâm chán ĺa đối
với thân thể này. Quán mỗi lỗ chân lông đang hít thở
đó là lỗ huyệt của loài trùng, là lỗ thở của
chúng. Quán đó là chỗ chúng ẩn nấp,
trong lẫn ngoài đều bất tịnh, từ bên trong
ra ngoài, chẳng có chút ǵ sạch sẽ. Khi đó, trong tâm
sanh khởi bi lẫn hỷ. Bi (Buồn) v́ cái xác thân của
chính ḿnh [bất tịnh dường ấy], vui v́ chính ḿnh
cũng có thể tiến bộ, phá Tứ Điên Đảo.
Đối với thân thể bất tịnh, triệt
để nhận biết thật sự là bất tịnh,
cái tâm yêu mến luyến tiếc thân thể mới đoạn
dứt. Đó gọi là Chứng.
Rốt ráo chứng đắc
quán chiếu, trong tâm duyên theo cảnh giới được
quán, buông bỏ cảnh giới Định. Sự duyên quán
ấy vẫn thuộc trong Định. Đấy vẫn
chưa phải là sự quán chiếu trong khi đi lại,
mà là trong khi đang tĩnh tọa, định cảnh chuyển
thành quán chiếu. Đó là Định Huệ song vận.
Khi ấy, quán chiếu dùng cách phân biệt, dùng phương
pháp phân tích, nhận biết cái niệm ấy đang
lưu động. Niệm c̣n đang lưu động th́
chẳng chân thật, hăy nên xả Quán tu Hoàn.
Nói đến Hoàn tức là xả
Quán tu Chuyển. Một là Tu Chuyển, hai là Chứng Chuyển.
Tu Chuyển là quan sát: Trong tâm ta dấy khởi một niệm, bèn quán chiếu
niệm ấy từ tâm sanh khởi. Tâm sanh th́ pháp mới
sanh. Đấy là điều ta phân tích, vẫn chẳng phải là bổn duyên căn bản,
chẳng phải là bản thể của Pháp Thân, phải
dùng Phản Quán
để quán cái tâm. Quán cái tâm hiện tại, cái tâm ấy
sanh khởi từ chỗ nào? Dần dần nhận biết
cái tâm ấy sanh từ Quán,
hay chẳng phải sanh từ Quán? Nếu chẳng phải
cái tâm sanh từ Quán th́ ai đang quán? Cái tâm ấy rốt cuộc
sanh khởi từ nơi đâu? Tâm sanh một niệm, tâm ấy
lại diệt. Niệm này khởi, niệm kia diệt,
đó là quán sự sanh diệt của cái tâm.
Quán cái tâm này sanh khởi do cái tâm kia diệt mất. Quán như thế, nếu
là từ tâm cũng sanh ra tâm, từ diệt cũng sanh tâm,
cũng tức là sanh khởi hai cái tâm, đó là tâm sanh diệt.
Chỉ quán một điều đă rất tốn công sức,
thế mà tổng cộng lại có bốn câu, tức là “sanh,
diệt, chẳng sanh, chẳng diệt”. Sau khi quán
xong, khi đó, biết cái tâm của ta vốn bất sanh.
Đă là bất sanh th́ chẳng có. Bất sanh là chẳng có,
chẳng có th́ là Không. Đă là Không th́ ta c̣n có
ǵ để quán tâm nữa? Đă là không th́ ngay cả cái
tâm năng quán (cái tâm quán chiếu) cũng không có.
Cái tâm năng quán chẳng có, sao ta lại có thể quán cái cảnh cho được?
Tâm ta đối cảnh, tâm đă là chẳng có, vậy th́
cảnh c̣n có hay không? Cảnh lẫn trí đều cùng mất.
Tôi thường xuyên nói với
các đạo hữu, sám hối th́ phải niệm như
vậy, tưởng như vậy. Sám hối như thế
là thanh tịnh nhất. “Tâm vong, cảnh tịch, lưỡng
câu không, thị tắc danh vi chân sám hối” (tâm mất,
cảnh lặng, hai đằng đều không. Đó gọi
là chân sám hối). Tâm cũng chẳng có, cảnh cũng chẳng
có, quư vị có tội ǵ để có thể sám hối nữa
hay chăng? Tội chẳng có, quán tưởng như thế
đó. Tu Không Quán thành công th́ mới không có. Do vậy, chúng
tôi nói là chịu khổ, chịu nạn, hoặc là thân tâm hứng
chịu đau khổ, ưu sầu phiền năo, đều là do vọng niệm
của quư vị. Nếu quư vị có thể tĩnh tọa,
khi tĩnh quán, cảm thấy rất khổ. Hăy lôi cái khổ ấy
ra [quan sát], ta v́ chuyện chi đó mới khổ, chuyện
đó có thật hay chăng? Thật sự có hay chăng?
Quư vị vừa quán, nó chẳng c̣n nữa, đều chẳng
c̣n! Chẳng hạn như hai vợ chồng căi nhau, muốn
ly hôn; lúc đó, cảm thấy rất khổ. Hễ quán, [sẽ nhận biết]
người phối ngẫu (vợ hay chồng) chẳng
phải là ta, ta chẳng phải là người đó, ngay cả
chính ḿnh c̣n chẳng t́m được, c̣n nói ǵ kẻ khác!
Người đó với ta có quan hệ ǵ vậy? Đă là
không, th́ khổ năo ǵ cũng đều chẳng c̣n. Đó
là nhân duyên. Các pháp sanh bởi nhân duyên là giả hợp. Giả
hợp th́ chẳng chân thật. Nếu chẳng chân thật,
ta sanh khởi phiền năo ǵ? Khổ là phiền năo, như
thế th́ phiền năo của quư vị đoạn dứt.
Đấy là phương pháp đoạn phiền năo.
Tâm mất, cảnh lẫn
trí hai đằng đều không. Đó là Chuyển. Cái bị
chuyển sẽ chuyển như thế đó. Nếu ĺa khỏi
cảnh, ĺa khỏi trí, cũng là ĺa khỏi cái tâm tác quán và
cảnh được quán. Chẳng có trí và cảnh. Nếu
quư vị quán lâu ngày, cảnh cũng chẳng có, trí cũng
chẳng có. Chẳng nhờ vào công phu mà tâm huệ mở
mang, phát khởi, chính quư vị
sanh ra đại trí huệ. Trí huệ ấy là chiếu,
điều này cần phải tu Tịnh. Đă tu tịnh, lại phải chứng
tịnh. Chứng tịnh là đă thanh tịnh. Khi tu Tịnh,
quư vị biết hết thảy các sắc vốn thanh tịnh,
thân tâm vốn thanh tịnh. Hết thảy các pháp vốn chẳng
ô nhiễm, do tánh vốn thanh tịnh. Đối với hết
thảy vọng tưởng, phân biệt, quư
vị đừng phân biệt, tịnh chẳng phải là
tịnh, nhiễm chẳng phải là nhiễm. Nhiễm và tịnh
chẳng tồn tại, đều là cảnh. Ngoại cảnh
đều là không, vọng tưởng là cấu. Vọng
tưởng đă không có, cấu nhiễm cũng không có. Tức
là kể từ lúc dứt phân biệt th́ khi ấy là cấu,
cho đến hiện thời,
thứ ǵ cũng đều chẳng có, đều là Không. Không là thật
sự thanh tịnh, tu như thế đó.
Đấy chỉ là thứ tự
trong Lục Diệu Môn. Đă là theo thứ tự sanh ra th́
có nhân, có duyên, sanh ra lẫn nhau. Nhưng đấy chỉ
là nội dung của một phần thuộc Lục Diệu
Môn của Tiểu Chỉ Quán. Nếu muốn thật sự
tu Quán, nghiên cứu Chỉ Quán, vẫn phải tu Ma Ha Chỉ
Quán. Kinh Hoa Nghiêm dạy về Chỉ Quán rất huyền
diệu, rất khó tiến nhập. Vừa khởi đầu
là tu Chân Không Tuyệt Tướng Quán, tức là hết thảy
các tướng đều chẳng tồn tại. Tướng
trong tâm, tướng ngoài tâm, sắc tướng của hết
thảy chư Phật, hết thảy các pháp, hết thảy
pháp bảo, hễ có h́nh tướng th́ đều là hư
vọng, chân không tuyệt tướng! Tu thành tựu Chân
Không Tuyệt Tướng, lại sanh ra Lư Sự Vô Ngại
Quán. Lư trọn khắp nơi Sự, Sự là Lư. Do Lư trọn
khắp Sự, Sự chính là Lư, cho nên Lư Sự vô ngại. Lư
vô ngại, mà Sự cũng vô ngại. Cho nên có thể “chuyển
đại pháp luân trong một
vi trần”, có hàm nghĩa ấy.
Một vi trần là Lư, hết thảy các sự đều
dung nhiếp trong Lư. Lư là Sự, Sự là Lư, Lư Sự vô ngại!
Tiến hơn bước nữa
là Sự Sự Vô Ngại Quán. Chẳng dùng đến Lư trọn
khắp nơi Sự, bản thân Sự đă là mọi chuyện
đều vô ngại, bèn đạt tới cảnh giới
Hoa Tạng. Loại Quán ấy chúng ta tu chẳng thành, v́ tâm
lực của chúng ta chẳng đủ. Chúng ta ngay cả
khấu đầu quán tưởng cũng quán chẳng
thành. Nếu chúng ta khấu đầu, quư vị tưởng
“năng lễ, sở lễ tánh không tịch” (tánh của
người lễ và đấng được lễ
đều không tịch): Ta là người có thể lễ,
và Phật là đấng được ta lễ. Tánh và Thể của ta và Phật
đều là Không, là tịch tĩnh. Giống như chúng
tôi nói “tâm tịch”, ngay cả Tâm Tịch tam-muội mà
chúng ta c̣n chẳng chứng đắc, th́ Sắc Tịch tam-muội càng
chẳng thể đắc. Sắc Tịch đă đắc th́ sẽ đạt
tới Tâm Tịch, sau đó, sẽ đạt tới Nhất Tâm tam-muội. Nói niệm
Phật đạt đến nhất tâm bất loạn, vẫn
chẳng phải là một câu. Niệm Phật, niệm
đến nhất tâm bất loạn, trong bảy ngày có thể
nhất tâm bất loạn, bảy mươi ngày, một
trăm ngày, quư vị
cũng có thể đạt tới nhất tâm bất loạn.
Nương theo điều này để tu, tức là từ việc quán hơi thở ra vào. Nếu
quư vị chẳng quán hơi thở ra vào, hăy quán bốn chữ
A Di Đà Phật để chuyển cái tâm của quư vị,
cũng tức là quư vị chẳng cầu trở về tịnh
chi cả, cầu có thể ngưng lặng là được
rồi!
Trong một ngày, nếu ngay cả
trong mộng, quư vị đều là A Di Đà Phật. A Di
Đà Phật không phải là tác ư niệm, mà là tự nhiên vận
chuyển niệm, quư vị chết rồi c̣n chẳng sanh
về thế giới Cực Lạc ư? Khẳng định
sẽ sanh. V́ cái tâm quư vị đă hợp cùng thế giới
Cực Lạc, đă cùng A Di Đà Phật “thân và cơi
nước chẳng hai”. Thế giới Cực Lạc
là A Di Đà Phật, đấy là thân và cơi nước chẳng
hai. A Di Đà Phật là thế giới Cực Lạc, quư vị
quán tưởng lâu ngày như thế, quư vị ứng hợp
với Phật. Mỗi niệm của ta đều là A Di
Đà Phật, ta biến thành A Di Đà Phật. Quư vị
đă ở trong thế gian Cực Lạc; đấy là thâm nhập
hơn chút nữa. Bất quá, mọi người nghe những
lời lẽ kiểu này, nghe đă
lâu sẽ có thể nhập. Mở miệng chửi người
khác, nghe lời dơ bẩn, đă rất quen nết.
Đó là v́ căn khí rất sâu từ vô lượng kiếp.
Hễ nó hiện tướng là v́ nó đă chín muồi.
Nhưng quư vị nghe điều này, chẳng biết bao
nhiêu kiếp chẳng được nghe. Quư vị nghe những
lời này, vẫn chẳng thể tiến nhập. Quư vị
phải nói từ chỗ nông cạn, đừng nói nhiều,
phải tiến nhập từng bước một. V́ sao
khi tu hành, phải có thiện hữu, hoặc thiện
tri thức? Khi quư vị
đi sai đường, họ sẽ ngay lập tức
lôi quư vị lại. Nếu quư vị chẳng mong quá nhiều,
đếm số sẽ rất tốt, đếm mười
lượt. Quư vị nghĩ pháp này rất đơn giản,
cứ đếm số thử xem, rất chẳng
đơn giản! Mười lượt th́ c̣n được,
chứ hai mươi, ba mươi lượt, quư vị đă sớm
loạn rồi, đă sớm loạn rối tung rối mù
rồi! Đếm mười lượt chẳng thành, đợi đến
khi quư vị đă tu quán đếm số tốt đẹp
rồi, mới tiến thêm bước nữa là Tùy. Đây
chẳng phải là chuyện một ngày, hai ngày, chẳng phải
là một năm, hai năm.
Nếu chẳng đếm số
thuần thục, hằng ngày hăy tu như thế. Nếu
quư vị chẳng thể chuyên tu, hằng ngày hăy dành ra một
tiếng đồng hồ, hoặc nửa giờ. Lúc thoạt đầu tu tập, chớ nên ngồi quá lâu, chớ
nên tham nhiều. Đó cũng là tham. Quư vị tham nhiều,
sẽ chẳng làm được. V́ sao? Quư vị nói: “Ta nhất
định phải ngồi ba tiếng!” Quư vị có thời
gian hay không? Lúc quư vị khởi đầu tĩnh tọa,
trước hết, hăy ngồi mười phút, hay mười
lăm phút. Cảm thấy không thoải mái, ư niệm tán loạn
th́ phải đứng lên, đừng ngồi nữa! Có thời gian
th́ quư vị lại ngồi mười phút nữa. Tăng
thêm dần dần, quư vị ngồi lâu hơn. Tăng thêm một khắc,
tăng thành hai mươi phút, tăng thành nửa tiếng,
dần dần tăng nhiều hơn. Đừng nên ngay lập
tức, nhất định phải ngồi một tiếng đồng hồ, lại
c̣n phải ngồi kết già, ḥng biểu thị tinh tấn.
Chân đau, cũng chẳng thể
định nổi. Người khác gọi quư vị, quư vị
đứng lên vội vàng mong làm việc
ngay, khiến chân bị tổn hại. Có người chân
đă tê, có kẻ vào gọi người đó v́ có chuyện
khẩn cấp, người đó liền đứng lên.
Trong lúc đó không đau, nhưng xong chuyện, chân cũng
chẳng linh hoạt, đi không vững. Tôi đă thấy t́nh
h́nh này rất nhiều.
Có một đạo hữu,
sắp đến Tết, tính bế quan, tôi nói: “Ông đừng
bế quan, ông bận rộn rất nhiều việc, đợi
cho có cơ hội rồi mới lại bàn tới”. Ông ta không tin,
liền bế quan, chẳng mấy chốc bị ngă găy chân. Đó là v́ vào
ban đêm, nhà không bật đèn, ông ta lại tiếc nuối, không dám mở đèn
v́ sợ lăng phí tiền nhà nước, không nỡ bật đèn
điện. Sàn nhà hết sức trơn trợt, tuổi lại
cao, ông ta muốn đi vệ sinh, vừa bước liền
vấp ngă, không đứng
dậy nổi, chân cũng chẳng thể đi nổi nữa. Lại chẳng có ai
đến, nằm c̣ng queo dưới đất. Khoảng
trước và sau Tết, Bắc Kinh lạnh mấy chục
độ âm, rét cóng như thế. Tới
sáng, đệ tử ông ta tới, mới phát hiện lăo
sư phụ té lăn quay dưới đất, hỏi
chuyện ǵ đă xảy ra? Do bị vấp ngă! Họ bèn đưa vô
bệnh viện chữa trị. Có những chuyện chẳng
thể miễn cưỡng được.
Tinh tấn là tốt, hạ
quyết tâm là tốt, nhưng quư vị phải cân nhắc
hoàn cảnh, lượng sức của chính ḿnh để
tiến dần. Đốn nhập th́ chúng ta chẳng thể.
Khi tu hành, chớ nên tham nhiều. Có rất nhiều đạo
hữu cũng luyện tập ngồi kết già, đó là tự nhiên. Có thể
ngồi xếp bằng th́ khá lắm, nhưng đó chẳng
phải là công phu một hai ngày. Quư vị ngồi xếp bằng,
ngồi chẳng lâu được, chân lại rất đau! Chỉ cần
có thể ngồi là được rồi! Phải chú trọng
nơi tâm, đừng chú trọng h́nh thức. Có rất nhiều
đạo hữu chú trọng h́nh thức, nh́n người
khác cũng
nh́n vào h́nh thức, coi xem oai nghi của họ có tốt đẹp
hay không, có ngồi đoan
chánh hay không! Hễ nói đến
tĩnh tọa, bèn hỏi trước là người ấy có thể ngồi kết
già hay không? [Đúng ra], quư vị phải hỏi người
ấy có thể tu tâm tốt
đẹp hay không? Chứ ngồi kết già th́ có công dụng
ǵ đâu? Ngồi kết già th́ chỉ cần quư vị ngồi
vững vàng là được rồi! Chẳng cầu h́nh
tướng ngồi, phải cầu thực
dụng!
Học một bộ kinh phải
thực dụng, đừng nói theo h́nh tướng. Ta nghe
xong kinh ǵ, nghe kinh ǵ đó xong, sẽ có tác dụng ǵ? Bộ
kinh ấy nói ǵ? Nói đoạn Thập Ác, hành Thập Thiện,
quư vị có đoạn được hay không? Trong suốt một
ngày, hăy kiểm điểm, phải cầu thực tế,
trước hết, phải suy lường, xét nghĩ. Chúng
ta mong cầu đạt được điều ǵ,
trước hết, phải suy xét các chướng ngại trung gian, xem sự
thật ta có thể làm được
hay không? Chẳng thể đạt tới, bèn định
tiêu chuẩn thấp hơn một chút, đừng định
quá cao. Chẳng phải
là quư vị mong tu hành hay sao? [Chẳng phải là] mong sẽ
tiến nhập sâu hơn, mong liễu sanh tử hay sao? Quư
vị vừa mấp mé [tu tập], c̣n sanh tử đă bắt
đầu [từ lâu rồi], chẳng cần gấp gáp,
cũng đừng tham nhiều. Tĩnh tọa cũng thế,
mà nghe kinh cũng thế, làm ǵ cũng thế, tŕ thánh hiệu
là tốt nhất. Trước hết, chúng ta phải miễn
trừ tai nạn trong cuộc sống hiện thực; sau đấy mới
nói đến chuyện tu hành được!
Địa Tạng Bồ Tát
chỉ dẫn quư vị sanh về thế giới Cực Lạc.
Kinh Thập Luân cũng nói quư vị có thể sanh về cơi
Phật thanh tịnh. C̣n có kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo nói về cơi Phật thanh tịnh. Quư vị sanh về
cơi Phật nào cũng đều được; nhưng
quư vị mong sanh về cơi nước nào, Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói quư vị nhất định phải
nghĩ tới cơi Phật ấy, xưng danh vị Phật
ấy đến mức nhất tâm bất loạn. Nếu
xưng danh hiệu của vị Phật ấy
mà chẳng có duyên sâu với Ngài, bèn đổi thành niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát, hoặc là niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, các Ngài cũng đưa quư vị
đi. Phổ Hiền Bồ Tát hoàn toàn chẳng nói quư vị
phải niệm danh hiệu Ngài, quư vị chỉ cần đọc
mười đại nguyện vương, do pháp lực
gia tŕ, quí vị có thể văng sanh, lại c̣n là thượng
phẩm thượng sanh.
Hết thảy các kinh luận
đều hướng đến thế giới Cực Lạc,
hóa sanh trong cơi Phật thanh tịnh. Kinh Đại Thừa
Bổn Sanh Tâm Địa Quán cũng nói như thế. Liên
quan đến danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, chỉ
có kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán nói là
Địa Tạng Vương Bồ Tát, các kinh khác đều
nói là Địa Tạng Bồ Tát. Các pháp đều thông với
nhau. Địa Tạng Vương Bồ Tát hay Địa
Tạng Bồ Tát đều được! Tùy thuộc
quư vị ngồi phi cơ, hay ngồi xe lửa? Hay là tự
ḿnh lái xe? Phương pháp tuy khác nhau, quư vị ngồi xe
khác nhau, tốc độ nhanh hay chậm khác nhau, nhưng mục
đích ắt cần phải chuyên nhất, chớ nên quá
nhiều. Quá nhiều, quư vị sẽ chẳng thể nhập
được!
Quư vị nghe xong bộ kinh này,
nghĩ rằng hay quá, ta phải tu bộ kinh này. Cho đến
khi nghe bộ kinh kia, cũng hay quá, lại tu bộ kinh ấy.
Thọ mạng của quư vị có hạn, cho đến
khi già chết, quư vị chẳng tu thành một pháp ǵ th́ vẫn
là như không! Tốt nhất là trước hết đừng
đọa vào tam đồ, hăy giữ ǵn Thập Thiện
Nghiệp. Chính ḿnh thọ Tam Quy, Ngũ Giới thanh tịnh,
đừng hủy phạm. Có thể như vậy, sẽ
là rất tốt. Hôm nay, chúng tôi giảng tới đây là
viên măn.
Đại
Thừa Địa Tạng Kinh Thập Luân Giảng Kư chung
Phụ Lục
Địa Tạng
Bồ Tát Linh Cảm Kư Tuyển
(地藏菩薩靈感記選)
Phật Giáo
Điện Năo Tư Tấn Khố Công Đức Hội
tuyển chọn
Do v́ các tác phẩm về những chuyện linh ứng
của Địa Tạng Bồ Tát quá nhiều chuyện
trùng lặp, chúng tôi chọn lựa những bài ghi về sự
linh cảm của đức Địa Tạng soạn
thành một bản, toàn bộ gồm sáu mươi mốt
bài kư, chia thành hai phần lớn.
I. Những chuyện cảm
ứng thuộc thế kỷ hai mươi
1. Ân trạch Địa
Tạng Bồ Tát ban cho tôi
Pháp sư Tâm Nhiên ghi
Mùa Hè năm Dân Quốc 35 (1946), tôi học tại
Lăng Nghiêm Phật Học Viện ở Thượng Hải.
Một đêm, do ngủ trễ bị cảm nặng. Khi ấy,
tuy được bệnh viện chẩn trị, nhưng
chẳng lâu sau, biến thành chứng ho gà rất nặng. Gần
như mỗi giờ, ho sặc sụa mấy chục lần.
Mỗi lần chẳng ho tới mức ngực nhộn nhạo,
nghẹn khí, sẽ chẳng thôi! Mỗi lần uống thuốc
là mỗi lần nôn mửa. Mỗi lần tiêm thuốc quay
về, đều chẳng có hiệu quả. Ba bữa chỉ
uống nước cơm lỏng, các thức ăn cứng hay khô khác chẳng
thể nuốt nổi! Lại c̣n mỗi đêm trằn trọc
khó ngủ, rất là đau khổ! Trong kỳ nghỉ hè,
có các học tăng bàn chuyện triều bái thánh tích của
Địa Tạng Bồ Tát tại Cửu Hoa Sơn, tôi thầm
nghĩ: “Nếu để sắc thân vô dụng này chết
v́ bệnh tại Thượng Hải, sao bằng hy sinh
trong khi triều bái Bồ Tát sẽ có ư nghĩa phong phú
hơn!” V́ thế, tôi quyết định tham gia đội
ngũ của họ lên đường, gắng gượng
tinh thần, lê tấm thân suy yếu theo họ ra đi.
Đương nhiên là trong lúc đi đường, phần
nhiều là ngồi xe hay ngồi thuyền; nếu không, tôi
cũng chẳng thể đi được!
Một đoàn học Tăng chúng tôi ngồi
xe lửa, xe hơi, đi qua Nam Kinh, Vu Hồ, lại ngồi
tàu, hay ngồi thuyền của dân chúng, tiến thẳng
đến Đại Đồng, Thanh Thành. Tuy đường
dài khấp khểnh và mặt trời chói chang giữa không
trung, chúng tôi cũng không v́ vất vả mà nghỉ ngơi.
Suốt đường đi, tôi tự ḿnh niệm thầm
thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, nhất tâm kiên
tŕ chẳng dứt. Hành tŕnh tiếp nối, đường
càng ngày càng gần với đạo tràng của Bồ Tát,
nội tâm tôi càng tăng thêm dũng khí và hỷ duyệt từng
chút một. Tuy mỗi ngày tôi chỉ uống mấy chén sữa
lỏng, nhưng thân tâm vui sướng, có thể chống
chọi mà chẳng ngă xuống. Trên Trường Giang, trong
lúc tàu đang bị sóng nhồi, lữ khách phần nhiều
mệt mỏi muốn ngủ gục. Tôi trong lúc mông lung, bỗng
thấy một vị tăng khổ hạnh tiến đến,
bảo: “Ho hen chẳng cần phải sầu lo! Ăn nhiều
các thứ lạnh như dưa hấu, nước đá
v.v… ắt sẽ tự lành”. Nói xong, chẳng thấy đâu nữa. Chẳng lâu sau, trước mặt bỗng
dưng có một miếng dưa hấu thơm ngon, tươi hồng. Tôi bất giác cầm lấy nếm
thử, liền cảm thấy toàn thân thoải mái, khoan
khoái khác thường! Nhưng lúc ấy, tôi nghe tiếng
ngáy của chính ḿnh, bèn tỉnh giấc, đưa mắt
nh́n, trùng hợp là các học tăng cũng đang ăn
dưa hấu. Tự nhiên tôi cũng như cảnh trong
mơ, tiện tay cầm ăn. Không ngờ, do vậy mà
đêm ấy nghiễm nhiên ngủ ngon dị thường.
Ngày hôm sau, giảm bớt ho hắng rất nhiều, khiến
cho tôi sau đấy bạo gan tiếp tục ăn đồ
lạnh. Đúng là một kỳ tích.
Từ
Đại Đồng tới Thanh Thành, ắt phải theo
đường thủy là một nhánh nội hà ngoằn
ngoèo, nhỏ hẹp, không quá ngắn. Đường thủy
th́ có thuyền dân, có các bạn đồng học tự
làm chèo tre, giúp nhau hợp lực chèo thuyền, cho
nên tiến lên như bay. Chỉ có đoạn đường
bộ là đường ruộng ẩm ướt,
trơn trợt, cho nên đi lại khá gian nan! Nhất là
đối với người thân thể mang bệnh
như tôi, càng cảm thấy trầm trọng hơn
trước, trở thành phiền toái lớn cho các bạn
đồng hành! V́ thế, đêm đến, khi tới xin
ngủ nhờ tại một chùa nọ ở cửa Nam của
Thanh Thành, tôi lại bị ho kịch liệt! Mấy vị
đồng học quan tâm đă v́ tôi đến trước
tượng Bồ Tát ở tiền điện xin xăm, được quẻ xăm như sau:
“Biển rộng ngộ cuồng phong, sóng lớn đánh
vào thuyền, thuyền lật bị ngă xuống, không ch́m
cũng kinh hồn”. Cầu xong, họ đưa quẻ
ấy cho tôi coi. Tôi xem rồi, rất lănh ngộ, do vậy,
nói với họ: “Trên đường đi, tôi không ngừng
cung kính niệm thánh hiệu Bồ Tát, nẩy sanh ư chí cực
kiên cường. Hiện thời, tuy có cảnh tượng
rất nguy hiểm, tôi tự tin ắt sẽ giống
như tàu bọc sắt của quân đội b́nh yên vượt
sông, xin chớ lo rầu!” Quả nhiên, tới nửa
đêm, ho hắng lập tức ngưng dứt. Sáng hôm sau,
đặc biệt cảm thấy bụng đói như
cào, ăn một mạch hai chén cháo mới cảm thấy
no, khí lực toàn thân cũng do đó mà gia tăng rất nhiều!
Từ Thanh Thành tới Cửu Hoa Sơn, hơn sáu
mươi dặm đường núi, tôi đă có thể
theo hàng ngũ mà đi, không đến nỗi quá tụt hậu.
Đấy là kỳ tích thứ hai.
Men
theo đường núi tiến lên, chúng tôi đă đi qua
chùa Long An quy mô to lớn, hai thánh am theo phương thức
lều tranh, một túc am, Tiểu Kiều Am và Đại
Kiều Am có cảnh trí u tuyệt. Trong ấy, có nhục
thân Bồ Tát thuộc niên đại gần nhất. Chùa
Cam Lộ phủ kín trúc biếc, trong ấy có toàn bộ
Kinh Tạng thuộc hai đời Đường và Tống,
có đ́nh Bán Tiêu để đón gió, vị trà thấm
đẫm ḷng người. Ở các nơi ấy, chúng tôi
đều từng lưu lại và thăm viếng. Tuy
cũng có tâm lư thưởng thức phong cảnh, nhưng
do thời gian gấp rút, hoàn toàn chẳng có tâm t́nh ngâm vịnh,
tán thưởng gió trăng. Cuối
cùng, chiêm bái tới chùa Kỳ Viên, nhằm đúng lúc chùa ấy
có pháp hội giảng kinh. Chúng tôi đi thăm một ṿng,
cả đám liền ngủ lại Bách Tuế Cung. Khi
đó, vào ban ngày, mỗi giờ
tôi chỉ ho mấy lượt mà thôi!
Lần
đầu tiên, ngủ lại thánh địa, mọi
người mang tâm t́nh vui sướng dào dạt chẳng
thể nói lên lời. Giám Viện trong chùa
tiếp đăi thân thiết và chu đáo, khiến cho nhóm
chúng tôi ngủ say đến nỗi chẳng biết trời
đă sáng bạch. Cho tới khi tôi rời giường, các
bạn học đă chia thành từng nhóm đi triều bái
các di tích nơi thánh địa. Tôi đă có thể chịu
đựng nỗi mệt nhọc vượt ngàn dặm
đến thánh địa, đương nhiên sẽ chẳng
lẽ nào cầu dưỡng bệnh một ḿnh nữa! Do
vậy, cũng mang theo y cụ (y ca-sa và tấm ngọa cụ),
từ chùa Hóa Thành đến tháp thờ nhục thân của
Bồ Tát tại rặng Thần Quang để triều lễ, mỗi bước một lạy. Trong khi triều
bái, tôi thầm nghĩ đến tinh thần kiền thành mỗi
bước mỗi lạy triều bái tứ đại
danh sơn của những vị tu tâm đă lâu, bất giác hổ
thẹn vạn phần! Hành động nhỏ nhoi như
tôi làm sao có thể biểu thị ḷng kính ngưỡng và hồi
báo một phần trong vạn phần ân đức của
Bồ Tát?
Mỗi
bước, mỗi lạy, vượt qua Nam Thiên Môn,
đi qua Thập Vương Điện cây phủ rợp
bóng, mới đến được bậc thềm
đá dẫn lên tháp Bồ Tát vừa dốc lại vừa
cao. Lúc ấy, tôi thở hổn hển như trâu, mồ
hôi tuôn như mưa, nhưng tâm lặng như gương,
thân nhẹ như gió, có một loại tâm cảnh
“trăm mạch đều thông, trăm niệm quét sạch”,
quả thật là chẳng có cách nào h́nh dung. Cho nên rất
nhanh chóng tới trước tháp của Bồ Tát. Sau khi tiếp
tục đảnh lễ bốn mươi tám lần, toàn
thân tinh thần phấn khởi. Không chỉ là chẳng có mệt
nhọc ǵ, từ đó, căn bệnh
ho hắng khổ sở bị tiêu trừ chẳng
sót. Đấy là kỳ tích thứ ba!
Ở
Cửu Hoa Sơn mấy ngày, tôi lễ khắp tất cả
các thánh tích đạo tràng, bái kiến chẳng ít tượng
nhục thân tổ sư, ngay cả chỗ cao nhất là
Địa Tạng Lâm trên ngọn Thiên Đài, một
đường thẳng tắp lên trời, cái chuông U Minh nặng
tám vạn bốn ngàn cân trên đỉnh núi, các thắng cảnh
mỹ lệ hiểm trở, cũng đều lên tới
nơi chẳng sót. Khi trở về Thượng Hải,
đổi thành một thân thể linh hoạt, mạnh khỏe,
khiến người khác chẳng dám tin tưởng tôi là kẻ
yếu ớt chẳng chịu nổi gió máy. Ai đă ban
thưởng? Do sức của ai khiến thành ra như vậy?
Là do ḷng Từ gia hộ của Địa Tạng Bồ Tát,
là ân điển của Địa Tạng Bồ Tát. Nếu
không, tôi đă sớm chết v́ bệnh tại Thượng
Hải rồi! Nam-mô đại nguyện Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát.
2. Lễ niệm thánh
hiệu, chữa khỏi bệnh nặng
Lâm Chấn Hưng ghi
Con
gái út của tôi mấy
năm trước (kể từ lớp 6 cho đến nay
là lớp 12) mắc bệnh thận. V́ trị liệu chẳng
lành, tiền bạc trong nhà lại thiếu thốn, phải
ngưng chữa trị một dạo. Lần khân cho tới giữa
tháng Chín năm Dân Quốc 67 (1978), nhận thấy mặt
cháu phù thũng, cảm thấy hết sức không đúng,
bèn đem cháu đi khám bệnh. Kết quả khám nghiệm cho thấy bệnh
t́nh tệ hơn trước. Tuy chẳng nghiêm trọng cho
lắm, nhưng t́nh huống chẳng nhẹ. Lúc ấy, tâm
tôi rất phiền muộn. Nếu cứ mỗi ngày (hoặc
hai ngày một lần) phải đi bác sĩ, cuộc sống
trong gia đ́nh sẽ càng thêm khó khăn. Làm cách nào đây? Chỉ
đành xin bác sĩ giúp đỡ; cũng may là vị bác
sĩ ấy rất cảm thông t́nh cảnh của tôi, lập
tức giới thiệu một loại thuốc bảo tôi
mua về trị liệu trong ṿng nửa năm xem sao. Sau
đó, tôi nghĩ: “Chỉ uống
thuốc th́ chẳng có cách nào, v́ trước kia lúc vừa
mới phát bệnh nhẹ đă trị chẳng lành, hiện
thời chữa trị chẳng phải là càng khó hơn hay
sao?” Do vậy, ngay
khi ấy tôi bèn suy nghĩ: “Vẫn là cầu Phật, Bồ
Tát th́ tốt hơn”. Như thế th́ một
mặt tự mua thuốc về uống, một mặt dạy
cháu nó sáng tối cầu Phật lực gia bị. Không ngờ
bệnh thận suốt mấy năm khó thể trị liệu,
chỉ trong hơn hai tháng ngắn ngủi đến nay
đă khỏi hẳn. Ai có thể tin tưởng loại kỳ
tích này? Nói thật ra, ngay cả bác sĩ cũng cảm thấy
rất kỳ quái! Tôi nghĩ nếu chẳng do cầu Phật,
Bồ Tát cứu trị, chỉ sợ hiện thời vẫn
chẳng khá hơn được. Do vậy, tôi hết sức
cảm tạ ơn Phật.
Đứa
con gái bé ấy cầu Phật cứu trị như thế
nào? Thoạt đầu, tôi sợ trẻ nhỏ chẳng
kiên nhẫn, không chịu lễ bái hằng ngày. Cho nên tôi nói
trước với nó về Phật lực vô biên. V́ sanh mạng,
chỉ có cách cầu Phật, Bồ Tát. Đồng thời
cổ vũ, dạy cho nó một phương pháp
đơn giản, thuận tiện nhất. Buổi sáng
sau khi đánh răng, rửa mặt, tới trước
bàn Phật, chí tâm lễ niệm “Nam-mô A Di Đà Phật” sáu lạy, lễ niệm “Nam-mô Quán Thế
Âm Bồ Tát” sáu lạy, tất cả
là mười hai lạy. Sau đấy, lại quỳ niệm
“Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” một trăm lần.
Buổi tối, trước khi ngủ, lễ niệm “Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát” ba lạy, lại quỳ niệm “Nam-mô Địa
Tạng Vương Bồ Tát” một trăm
lần. Hằng ngày cứ lễ niệm và cầu như vậy,
mới hơn hai tháng, bệnh đă khỏi hẳn. Đúng là chẳng thể nghĩ
bàn!
3. Sự cảm ứng
cứu khổ của Địa Tạng Bồ Tát
Hoàng Trí Đức ghi
Khi
bé, người khác gọi tôi là Khoái Lạc Tiên Tử, trong
trường th́ có biệt hiệu là Tiêu Khí Hoàn (消氣丸, hoàn thuốc tiêu
giận). Dù trời sụp xuống, hay núi lở đều
chẳng quản. Sống vui sướng, vô ưu, vô lự
như một con chim nhỏ tiêu dao, bay lượn trên không,
làm ǵ có ưu sầu, khổ năo? Nhưng nay đă già, đă
có kinh nghiệm sống, nói chung là khổ nhiều vui ít! Nếu
chẳng có khổ, v́ sao lại cất tiếng khóc chào
đời chẳng ngừng như thế? Đó là khởi đầu của nỗi khổ. Đức Phật
dạy: “Hoặc nghiệp là nhân, kết thành khổ quả
trong đời người”. Tôi từng nghe lăo pháp
sư Thụy Kim khai thị, Sư nói: “Đời người
giống như một tấm vải trắng, bị vẩy
mực mà ô nhiễm. Cần phải dùng nước sạch
gột rửa dần dần th́ mới thanh tịnh
được. Do vậy, ắt cần phải thường
niệm Phật. Phật thương xót chúng sanh, khiến
cho tâm tánh tội ác trong đời người sẽ dần
dần thanh tịnh th́ mới có thể ĺa khổ năo”.
Tháng
Tám năm ngoái, Trí Nhi về nhà, bạn nó là bác sĩ Lư đến
thăm. Tôi thừa dịp hỏi anh ta: “Cổ tôi có cảm
giác hít thở không thông. Có lúc ngay cả một ngụm
nước cũng chẳng thể nuốt xuống
được, đó là v́ lẽ nào?” Bác sĩ Lư quan sát kỹ
càng rồi bảo: “Tốt nhất là nên tới bệnh viện
kiểm tra”. Tôi theo lời khuyên của bác sĩ Lư tới bệnh
viện Sùng Hoa, được bác sĩ Dương Mẫn
khám bệnh. Ông ta nói các bộ phận thân thể đều
b́nh thường, tốt nhất là nên chiếu X-quang cổ họng th́ mới biết. Khi tôi chụp X-quang, ôi! Đáng ngại quá. Kết luận là giữa
thực quản và khí quản đă nẩy sanh một khối
ǵ đó không biết. Trải qua ba vị bác sĩ chuyên khoa
chẩn đoán, tới cuối cùng, quyết định chẳng
thể nào không mổ. Tôi vừa nghe nói phải mổ xẻ,
không khỏi kinh hăi! Chính ḿnh suy nghĩ: “Tuổi đă ngoài
sáu mươi, mà c̣n phải mổ xẻ, đúng là nguy hiểm
quá, vẫn là thuận theo tự nhiên đi!” Về nhà, kể
lại t́nh h́nh cho con cái biết. Vĩ Nữ nói: “Bất luận
như thế nào, phải nên báo tin cho Học Nhi và chị
Ung” (họ đều là con gái của tôi). Nhưng con cái nhất
trí chủ trương nghe theo ư kiến mổ xẻ của
bác sĩ. Tôi không lay chuyển được họ. Học
Nhi quay về ngay hôm đó, quyết định đưa
tôi vào bệnh viện. Vào bệnh viện là một phen súc
ruột, đo nhiệt độ, đủ loại thủ
tục. Chín giờ sáng hôm sau, đưa vào pḥng giải phẫu,
trải qua Tử Môn Quan. Năm vị bác sĩ, hai vị y
tá, bảo tôi nằm trên chiếc giường lạnh ngắt,
tay chân bị cột chặt, muốn động đậy
cũng chẳng được. Hai mắt nhắm chặt,
niệm Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Tới chín giờ
mười lăm, bác sĩ Hermosisima bước vào, chích một
mũi thuốc mê, tôi bèn ngủ mê mệt. Sau đấy,
bác sĩ Hermosisima mổ xẻ, tỉ
mỉ kiểm tra, rốt cuộc cắt bỏ vật
chướng ngại. Hơn bốn tiếng đồng hồ
mới hoàn tất ca mổ, vật ấy dài hơn bảy
tấc. Sau đó, tôi dần dần tỉnh lại, mở
mắt ra đă thấy ḿnh nằm trong pḥng bệnh. Vây
quanh bốn phía là mấy cô con gái và thân hữu. Tôi tự thở
dài một hơi! Thật sự cảm khái là ngàn vạn phần
lại sống tiếp một đời. Toan mở miệng
nói chuyện, nhưng không thể phát ra âm thanh, lệ già lập
tức tràn mi! Học Nhi vội tiến tới an ủi, muốn
tôi hăy b́nh tâm tĩnh dưỡng. Khi đó, tôi biết trên cổ,
chỗ yết hầu đă khoét một cái lỗ, đặt
một dụng cụ h́nh tṛn bằng kim loại tại
đó, có thể giúp tôi hô hấp, nhưng cảm thấy hết
sức không thoải mái. Theo lời bác sĩ nói: Sau khi mổ,
sẽ cảm thấy hết sức bực bội. Cháu Tích Hy rất cẩn
thận ở cạnh tôi suốt đêm. Rất may mắn
là ngủ yên tới sáng. Trong lúc nằm bệnh viện,
ngày đêm đều có y tá và các cô con gái thay phiên chăm
sóc.
Sáng
ngày Mười Tám, bác sĩ đi kiểm tra bệnh nhân một
ṿng, vào pḥng bệnh của tôi, bảo: “Quá tŕnh mổ của
bà khá thuận lợi, rất tốt. Bà cũng rất
dũng cảm, tĩnh dưỡng vài bữa sẽ khỏi”.
Tôi có ǵ để nói nữa? Chỉ đạm bạc
cười khổ mà thôi! Trong thời gian nằm tại bệnh
viện, được pháp sư Duy Từ, linh mục Thẩm
từ trung học Thánh Tâm, các bạn thân, và các thiện hữu
Phật giáo tới thăm, chân thành quan tâm, khiến tôi ghi
khắc sâu đậm trong ḷng. C̣n có các bạn bè thuộc
nhóm Tự Do Tổ Quốc gởi thư an ủi, hy vọng
khi thân thể tôi khỏe trở lại, sẽ sang Đài
Loan một chuyến. Tôi rất vui, chấp thuận lời
mời của bà ta, v́ tôi đă dự tánh ghé thăm Di Lặc
Nội Viện ở Tịch Chỉ để chiêm ngưỡng
nghi dung toàn thân của Từ Hàng đại sư[1].
Đấy cũng là một trong các nguyện vọng của
tôi.
Ngày
thứ tám, được bác sĩ
cho phép xuất viện, tĩnh dưỡng tại nhà,
nhưng vẫn cần phải trị liệu bằng
phương pháp điện liệu. Bác sĩ điện
liệu Canoy quan sát cẩn thận, bảo: “Tốt nhất
là phải kiểm tra lần nữa. Chụp X-quang, thử máu, dựa trên tỷ lệ độ tuổi,
và kết quả kiểm tra, ắt cần phải điện
liệu hai mươi ngày. Mỗi ngày là mười phút, chớ
nên gián đoạn”. Tám giờ sáng mỗi ngày, Ung Nữ
đưa tôi đi điện liệu. Tôi nhớ là sau khi
dùng phương pháp điện liệu mười ngày,
thân thể suy nhược, tinh thần bải hoải, tứ
chi vô lực, cổ họng bị tổn thương, một
hớp nước cũng uống không nổi! Sức cùng
lực kiệt, chống đỡ không nổi, mơ màng
như người chết rồi, thân thể sút mất ba
mươi mấy pounds. Mọi người đều lo
cho tôi, tôi cũng chẳng muốn tiếp tục điện
liệu, nhưng hai vị bác sĩ chủ trị không chịu.
Nếu ngưng, chẳng phải là phí sạch công sức
trước kia hay sao? Sau đó, họ lại châm chước
nghiên cứu, mới kê toa chích thuốc bổ để
giúp tăng thể lực, tiếp tục điện liệu
cho đến ngày thứ hai mươi. Nỗi khổ này
đúng là chẳng thể nói nổi!
Một
kiếp này qua một kiếp khác, hăy c̣n có kiếp khác chờ
sẵn, ngày nào cái dụng cụ giúp hô hấp bằng kim loại
gắn ở cổ mới tháo bỏ? Thời gian đă hơn năm tháng rồi, bác sĩ vẫn nói chẳng thể
bỏ ra, tôi cả thấy lo sầu rất sâu! Rốt cuộc
tới lúc nào mới có thể bỏ? Rất bận ḷng! Trong
những ngày lo rầu, chỉ có cách dùng tâm kiền thành cầu
khẩn, cầu Phật từ bi thương xót đặc
xá tội chướng của tôi. Tôi nhớ sáng sớm ngày
Hai Mươi tháng Giêng, tôi ngồi bên ghế, nhắm mắt tụng niệm thần chú Chuẩn
Đề, bỗng dưng nghe thấy có người bảo
tôi: “Bội Hành ơi! Túc nghiệp của con chưa tiêu trừ!”
Tôi kinh hoảng mở mắt ra nh́n. Ôi! Đó là Địa
Tạng Vương Bồ Tát, nhưng rất nhanh, h́nh
tượng Bồ Tát không thấy nữa. V́ thế, tôi vội
đến quỳ gối trước tượng Địa
Tạng Vương Bồ Tát, thành tâm cầu sám hối,
nguyện Bồ Tát từ bi đặc xá nghiệp chướng
của tôi! Lúc ấy, tôi liền lập tức phát nguyện
niệm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện mười
bộ, cầu nguyện Bồ Tát giải trừ nghiệp
chướng của tôi.
Từ
ngày Hai Mươi Sáu tháng Giêng, bắt đầu niệm thầm,
thật linh nghiệm, niệm đến bộ thứ
năm th́ dụng cụ giúp hô hấp nơi cổ của
tôi được gỡ bỏ. Khi bác sĩ ra tay tháo dụng
cụ giúp hô hấp, tôi hết sức khẩn
trương, tâm t́nh vừa kinh sợ vừa hưng phấn,
khó thể diễn tả! Tới ngày mùng Một tháng Hai, tôi
đến chùa Định Huệ, được pháp
sư Duy Từ từ bi cầu nguyện hồi hướng
cho tôi trước Phật điện. Khi đó, miệng vết
thương khỏi hẳn. Từ đấy về sau,
sáng tối mỗi ngày tôi đều đảnh lễ
Địa Tạng Bồ Tát, cảm tạ ân điển cứu
khổ cứu nạn của Bồ Tát. Trong tâm vô lượng
hoan hỷ, an ủi!
4. Mộng thấy bà nội
đă qua đời
Năi Viên ghi
Nhớ lại bà nội tôi đă qua đời
từ nhiều năm trước, cụ chẳng giống
như trong tiểu thuyết mô tả lăo thái phu nhân, “hưởng
phước trời, ngậm kẹo chơi đùa với
cháu”. Tuổi già, do không cẩn thận, cụ vấp
ngă, nhiều năm nằm bệnh trên giường. Ăn,
uống, cử động, đều phải do con cháu
chúng tôi luân phiên chiếu cố để sống hết kiếp
thừa. Khi tôi học lớp Sáu Tiểu Học[2], chị cả
đang học tại đại học Trung Nguyên, đem
kinh Phật trân quư từ Phật Học Xă về, cũng
nói cho chúng tôi biết Phật pháp chưa từng nghe qua. Lúc
ấy, tôi hứng thú tột bậc nồng hậu. Mỗi
tối, đều ấn định chính ḿnh tụng phẩm
Phổ Môn, chú Đại Bi, hay xưng niệm mấy
trăm câu Phật hiệu. Lễ Phật xong mới làm bài
tập. Trong tâm cảm thấy rất vui sướng,
cũng thường hướng đến mấy vị
bạn học thân thiết giảng nói sự vĩ
đại, sâu mầu của Phật pháp. Lâu ngày, vào lúc tan
học hoặc ngày nghỉ, mấy cô đó đôi khi tới
nhà của tôi cùng nhau niệm Phật, lễ Phật, tụng
kinh.
Vào
một đêm nào đó, khi tôi đang học lớp Bảy,
tôi mộng thấy bà nội qua đời đến t́m
tôi. Cụ vác một cái bụng to dường như sắp
sanh. Tôi lập tức nghĩ tới trong phẩm Phổ
Môn có nói: “Nhược hữu nữ nhân, thiết dục
cầu nam, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ
Tát, tiện sanh phước đức, trí huệ chi nam.
Thiết dục cầu nữ, tiện sanh đoan chánh hữu
tướng chi nữ, túc thực đức bổn, chúng
nhân ái kính” (Nếu có nữ nhân, muốn cầu sanh con
trai, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ
sanh con trai phước đức và trí huệ. Nếu muốn
sanh con gái, sẽ sanh con gái đoan chánh có đức tướng,
đă gieo cội đức từ trước, mọi
người yêu kính). Tôi tột bậc vui thích, vội nói với
bà nội đă ly biệt một năm: “Bà phải mau niệm
thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. Như thế th́ đứa
bé sanh ra mới có bộ dạng trắng mập, đáng yêu”.
Bà nội hỏi tôi: “Phải niệm như thế nào, ta
không biết!” Tôi chắp hai tay lại, nói:
“Phải rất thành khẩn niệm Nam-mô đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn quảng đại
linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát…” Chẳng ngờ cụ
thật sự niệm theo tôi, nhưng niệm chưa
được vài câu, cụ không niệm nữa. Đột
nhiên, mặt cụ xanh lét, hốc
mắt cụ biến thành đen thui, lộ ra vẻ mặt
hung tợn, đáng sợ, vươn hai tay bấu chặt
cổ tôi chẳng buông. Tôi sợ tới mức ngă quỵ
xuống đất, một mực giăy dụa cố thoát
khỏi bà. Nay nghĩ lại, cụ là ngạ
quỷ họng bé như kim, bụng to như cái chum! Khi tỉnh
lại, tâm vẫn hoảng sợ muôn phần. Đợi tới
tảng sáng, khẩn cấp đem chuyện gặp bà nội
trong mộng đêm qua hỏi chị cả. Chị nói: “Có
thể là sau khi bà nội qua đời, c̣n ở trong quỷ
đạo hoặc địa ngục chịu khổ, biết
em mỗi ngày tụng kinh, cho nên đến báo mộng với
em, hy vọng cứu cụ. Em có thể tụng kinh Địa
Tạng hồi hướng cho bà nội”.
Trong
kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Nhược
vị lai thế, chư chúng sanh đẳng, hoặc mộng, hoặc mị, kiến chư quỷ
thần, năi cập chư
h́nh, hoặc bi, hoặc đề, hoặc sầu, hoặc
thán, hoặc khủng, hoặc bố, thử giai thị nhất
sanh, thập sanh, bách sanh, thiên sanh quá khứ phụ mẫu,
nam nữ, đệ muội, phu thê, quyến thuộc, tại
ư ác thú vị đắc xuất ly, vô xứ hy vọng
phước lực cứu bạt, đương cáo túc thế
cốt nhục, sử tác phương tiện, nguyện ly
ác đạo” (Nếu trong đời vị lai,
các chúng sanh hoặc mộng mị, thấy các quỷ thần
và các h́nh tướng, hoặc buồn, hoặc khóc, hoặc
sầu, hoặc than, hoặc sợ, hoặc hăi, đấy
đều là cha mẹ, con cái, em trai, em gái, chồng, vợ, quyến thuộc trong một đời, mười
đời, ngàn đời trong quá khứ, không có chỗ
mong cầu phước lực cứu vớt, đến
báo với người ruột thịt trong đời
trước để họ tạo phương tiện,
nguyện ĺa ác đạo). Xem hết đoạn này, [nhớ
lại] khi bà nội qua đời, nghiến răng, nghiến
lợi, bộ dạng đáng thương lại hiện
ra trước mắt tôi. Buổi tối, trước hôm
bà nội qua đời, cụ mộng thấy ông nội
đă qua đời ở bờ sông bên kia gọi bà, hướng
về bà ngoắc tay, muốn bà qua đó. Bà nội thật
sự xắn ống quần lội qua. Kinh Địa Tạng
dạy: “Thị Diêm Phù Đề hành thiện chi nhân, lâm
mạng chung thời, diệc hữu bách thiên ác đạo
quỷ thần, hoặc biến tác phụ mẫu, năi chí
chư quyến thuộc, dẫn tiếp vong nhân, linh lạc
ác đạo” (Người làm lành trong cơi Diêm Phù Đề
này, khi mạng sắp hết, c̣n có trăm ngàn quỷ thần
trong ác đạo, hoặc biến
thành cha mẹ, cho đến các quyến
thuộc, tiếp dẫn người mất, khiến cho
người ấy rơi vào trong ác đạo). Sáng hôm sau,
cụ có kể cho chúng tôi t́nh h́nh mộng thấy ông nội
đă mất. Lúc đó, chúng tôi chưa học Phật, hoàn
toàn chẳng biết đấy là điềm báo bà nội
sắp mất.
Sáng
sớm ngày kế đó, trước khi tôi đem bữa
sáng đến, phải vén mùng lên trước. Khi tôi vén mùng
lên để dọn dẹp, nhận thấy bà nội sắc
mặt không đúng: Hai mắt trợn trừng, lộ vẻ
phẫn nộ, răng nghiến chặt căm hận, thở
dồn dập. Khi đó, tôi mới học lớp Năm hay lớp Sáu Tiểu Học, một
luồng cảm giác hoảng sợ bọc lấy trái tim, vội
chạy vọt ra cửa, phóng lên lầu nói với cha. Cha
xuống nhà, thấy bà nội có thái độ khác hẳn
b́nh thường như thế, khẩn trương lo lắng,
nhẹ giọng nói chuyện với bà. Dường như
bà muốn nói, hiềm rằng hàm răng như bị sức
mạnh khớp chặt, không hé ra được. Bà càng lúc
càng thống khổ, hô hấp càng khó khăn, vẻ mặt
cũng càng khó coi, khiến cho người khác sợ hăi… Do bà
nội trước đó đă có ông nội mất nhiều
năm vẫy gọi, sau đó lại dùng tướng mạo
khi chết để phán đoán, chắc chắn là cụ ở
trong ác đạo chịu khổ, chẳng thể ngờ
chi!
Khi
bà nội lâm chung, tôi chưa học Phật, chẳng biết
phải nhanh chóng trợ niệm văng sanh. Chết rồi, trong
ṿng bốn mươi chín ngày, cũng chẳng thỉnh bậc
cao tăng hữu đạo siêu độ bạt tiến.
Nay đă biết chỗ bà nội sanh về, trong tâm tôi thật khổ sở,
đau đớn. V́ thế, phát tâm nhất định phải
cứu bà nội khỏi cảnh nước sâu, lửa bỏng,
khiến cho thần thức của cụ thoát khỏi đường
khổ. Tôi hành theo lời dạy trong kinh Địa Tạng:
“Chí tâm tự độc thử kinh, hoặc thỉnh nhân
độc, kỳ số tam biến, hoặc thất biến.
Như thị ác đạo quyến thuộc, kinh thanh tất
thị biến số, đương đắc giải
thoát” (Chí tâm tự đọc kinh này, hoặc thỉnh người
khác đọc, đủ số ba lần hoặc bảy lần.
Quyến thuộc trong ác đạo như thế, khi tiếng
tụng kinh đủ số lần, sẽ đều
được giải thoát). Từ hôm đó trở đi,
mỗi đêm sau khi ăn xong, tắm rửa xong xuôi, tôi nhất
định đánh răng, rửa tay, thắp hương,
chí thành cầu nguyện, hằng ngày kiền thành tụng kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện. Sau khi tụng
xong mỗi quyển, nhất định hồi hướng
cho bà nội, cầu nguyện Phật quang gia bị, sớm
ngày giải thoát, văng sanh đường lành. Tụng
như thế khoảng chừng mấy chục lần,
trong đêm chẳng c̣n mộng thấy dáng vẻ căm hận
của bà nội nữa!
Cảm
ơn sức từ bi cứu bạt của Địa Tạng
Vương Bồ Tát, cũng cảm kích giáo chủ Thích Ca
Mâu Ni Phật tuyên nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để
thích ứng với các loại nhu cầu và căn khí khác
nhau của chúng sanh, bọn chúng ta trong đời sau mới
biết các vị đại Bồ Tát, đấng có tâm đại từ
bi là Quán Thế Âm Bồ
Tát, đấng có sức chí nguyện to lớn là Địa
Tạng Vương Bồ Tát, đại trí huệ Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại hạnh nguyện Phổ
Hiền Bồ Tát v.v… ở trong thế gian khổ sở
cùng cực này mà giáo hóa, cứu độ
hết thảy chúng sanh. Rất may mắn đời này
chính ḿnh có thể học Phật, nhận biết Phật
pháp, mới có thể tụng kinh hồi hướng cho bà
nội. Nhưng toàn bộ nhân loại trên địa cầu,
cùng với chúng sanh luân hồi trong lục đạo quá nhiều,
người có thể nghe nói Phật pháp quá ít! Đức
Phật từng nói: “Đắc nhân thân như trảo
thượng trần, thất nhân thân như đại
địa thổ” (được thân người
như đất trên móng tay, mất thân người như
đất trên đại địa). Hăy nên biết: Hễ đánh mất
thân người, vạn kiếp chẳng có lại được!
Ở trong tam ác đạo, muốn học Phật, tinh tấn
hành tŕ, khó khăn như thể từ dưới đất
mà toan lên trời. Đáng buồn thương cỡ nào! Viết
đến đây, tôi nhớ sư phụ Thánh Khai thượng
nhân đă phát đại nguyện: “Mong đời đời
kiếp kiếp ở trong thế giới Sa Bà hóa độ
chúng sanh, làm phu quét đường, quét dọn ô uế của
nhân gian, măi cho đến năm mươi sáu ức bảy
ngàn vạn năm sau, h́nh thành Tịnh Độ
trong nhân gian, hoan nghênh Di Lặc Bồ Tát giáng hạ nhân gian
thành Phật”. Mỗi khi nghĩ đến điều
này, nội tâm tôi khôn ngăn cảm động. Nghĩ
đến Bồ Tát đạo khó hành, chúng sanh khó độ
(“nội chúng sanh” của chính ḿnh và “ngoại chúng sanh” tức
chúng sanh bên ngoài), lúc nội tâm phóng dật, chỉ cần
nghĩ tới tinh thần đại Bồ Tát chẳng sợ
gian khổ của sư phụ, “có thể nhẫn
điều khó nhẫn, có thể hành điều khó hành”,
trong tâm thật sự có nỗi hổ thẹn chẳng
thốt lên lời và ḷng ngưỡng mộ, bèn nhanh chóng càng
thêm dụng công, luôn răn nhắc chính ḿnh. Sanh mạng rỉ
mất từng giọt theo mỗi bước chân, ngày lại
qua ngày, lại trải qua bao nhiêu năm tháng, bà nội tôi mất
đến nay đă chuyện thuộc sáu bảy năm
trước rồi. Chỉ nguyện lăo nhân gia sớm
được siêu sanh, sanh về chốn lành, đời
sau được tinh tấn học Phật. Cũng cầu
nguyện trong đời này và đời sau, cho đến
trong đời tương lai, có càng nhiều ngàn vạn
người phu quét đường, cùng nhau quét dọn
dơ bẩn trong nhân gian, xiển
dương chân đế Phật pháp, mong cho Phật pháp như
mưa ngọt trong lúc hạn hán rưới khắp tam
thiên đại thiên thế giới.
5. Địa Tạng Bồ
Tát báo mộng
Thanh Hà ghi
Mùa
Hè năm trước, tôi theo mẹ đến miền Trung
thăm d́ họ đă nhiều năm chẳng gặp. Vừa
vào cửa, thấy chính giữa phía trên bàn thờ trước
sảnh, thờ hai bức thánh tượng Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Trước tượng, khói
hương vờn tỏa, có không khí rất trang nghiêm. Tôi
liền chắp tay cung kính, hướng về Bồ Tát xá,
trong tâm cảm thấy vui sướng v́ d́ họ đă biết
thờ Bồ Tát. Lễ xong, liền ngồi trên ghế hỏi
d́ họ: “D́ họ ơi! D́ quy y Tam Bảo đă lâu
chưa?” Bà lộ vẻ vui sướng, cười nói:
“Đúng là cảm tạ mười phương Phật, Bồ
Tát gia bị. Nếu chẳng có duyên với Phật, cái mạng
già của d́ đă sớm vào địa ngục rồi!”
Tôi không hiểu ư bà, dùng ánh mắt nghi ngờ nh́n d́ họ,
hỏi: “Do nhân duyên ǵ khiến cho d́ quy y Tam Bảo? Chẳng
ngờ trong vài năm, d́ họ thay đổi nhiều
như vậy!” Bà lặng ngắm thánh tượng Bồ
Tát, nhớ lại, kể lể: “Đó là chuyện mấy
năm trước. D́ đến nhà bạn thăm viếng,
nhận thấy nhà bà ta có thờ một pho thánh tượng
Địa Tạng Vương Bồ Tát, trong tâm hết sức
hoan hỷ, bất tri bất giác chắp tay lễ bái. Sau
đó cũng quên mất chuyện đó!”
Bà
nói: “Hàng năm, bất luận nhằm dịp khánh đản
vị thần nào, chúng tôi luôn giết rất nhiều súc vật
để cúng tế. Ngày Hai Mươi Ba tháng Ba âm lịch
hai năm trước chính là sanh nhật
của Ma Tổ Thánh Mẫu (Thiên Hậu Nguyên Quân), mỗi
nhà đều sát sanh cúng bái. Chúng tôi là nhà giàu có, lại là
tín đồ kiền thành của Ma Tổ, đương
nhiên là giết gà vịt càng nhiều hơn nhà khác, nấu bàn tiệc tới hai
mươi món ăn mặn tuyệt ngon để
đăi đằng thân bằng hảo hữu. Tâm d́ tự
nhiên là mười phần cao hứng, cứ nghĩ: “Lần
này mở tiệc lớn đăi thân hữu, kể như
đă trọn hết ḷng thành của kẻ làm tín đồ,
Ma Tổ sẽ ngấm ngầm phù hộ, ban phước
cho cả nhà d́”. Mọi người tận t́nh hưởng
thụ, ăn uống vui quên trời đất. Đại
khái tám giờ hơn, khách khứa về nhà cả rồi.
D́ v́ tiếp đăi khách khứa, gọi nọ, gọi kia,
bận bịu suốt cả ngày, đúng là quá mệt mỏi.
Tắm rửa bằng nước ấm xong, liền lên
giường nằm, nhưng chẳng biết sao, lăn
qua lộn lại, vẫn chẳng ngủ được!
Vốn là đêm sâu tĩnh lặng, bỗng dưng mưa
to, sấm rền, trong tâm d́ đột ngột hoảng sợ.
Trong mơ hồ, cảm thấy trong nhà tràn ngập mùi máu tanh, lại tợ hồ nghe tiếng gà, vịt, ngỗng
kêu oan quang quác từng đợt đập vào tai. D́ cảm
thấy muốn nôn, hít thở khó khăn, muốn kêu nhưng lại chẳng thể
thốt ra tiếng được! Toàn thân cảm thấy
tê liệt, trằn trọc khó yên, bất tri bất giác mê lịm
đi!
Sáng
sớm hôm sau tỉnh lại, chỉ cảm thấy toàn
thân đau đớn, tứ chi vô lực, chẳng thể
động đậy, hai mắt đen thui, sắc mặt
xanh lè, cứ như vậy ngă bệnh nặng một trận.
Mê man, bất tỉnh trên giường bệnh, thở thoi thóp. Trong lúc mê man, d́ tợ
hồ rơi vào một cái hố sâu tối
đen không đáy. D́ kinh hoàng, sợ hăi, khóc ầm lên, ai oán.
Bỗng dưng từ trên đỉnh hố sâu, một
đạo quang minh vạn trượng bắn thẳng vào
thân d́, khiến cho d́ bớt sợ hăi, được an ổn.
Một vị xuất gia, mặt như trăng tṛn, thân
đắp y ca-sa từ trong luồng
sáng giáng hạ, nắm tay d́, cứu khỏi hố
sâu. D́ theo vị sa-môn tới một chỗ trống
trải sáng sủa. Ngài nhẹ giọng bảo d́: “Ta là
Địa Tạng Vương Bồ Tát mà mấy năm
trước bà đă cung kính lễ bái tại nhà người
bạn. Bà do tội sát sanh nặng nề, các con vật t́m
bà đ̣i mạng, chẳng dung tha cho bà! Sau khi chết,
đáng đọa địa ngục, chịu vô lượng
khổ. Do bà một niệm chân
thành, chiêm lễ thánh tượng Bồ Tát cảm vời,
khỏi đọa địa ngục, chịu các khổ
báo. Nay bà c̣n có tội thừa nơi thân, từ nay trở
đi, hăy nên sắt son sám hối tội nghiệp, chớ
tạo sát nghiệp. Hăy nên từ bi đối với sanh
linh, rộng làm bố thí, khéo tích tập phước đức!”
Nói xong, chẳng thấy đâu nữa.
Tỉnh
lại, d́ liền kể t́nh h́nh
trong mộng cho người nhà nghe, mọi người
bán tín bán nghi, chẳng biết là thật hay giả.
Nhưng thấy hôm sau, t́nh h́nh trọng bệnh của d́ có
thể khởi tử hồi sanh, có thể nói là kỳ tích.
Từ đấy về sau, d́ vào chùa quy y Tam Bảo, thỉnh
thánh tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát về
thờ phụng. Hằng ngày, sáng tối lễ bái, xưng
niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ
Tát, tối đến cung kính tụng một quyển kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hồi
hướng cho các súc vật bị
giết oan sớm ngày siêu sanh đường lành. Từ
đấy, chẳng c̣n nuôi súc vật, giết mổ sanh linh, và cũng thường xuyên cúng dường
Tam Bảo, nghe Phật pháp, in tặng kinh sách chánh
tín của Phật giáo để rộng kết Phật
duyên, chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều
lành, thường khuyên người khác làm lành. Cả nhà lớn
nhỏ sống vui sướng, cũng được tiếng
khen là gia đ́nh kiểu mẫu, trở thành đối
tượng được hâm mộ của hàng xóm chung
quanh. D́ quả thật rất cao hứng, mà cũng hết
sức hổ thẹn!”
Nói tới đây, d́ họ
cao hứng cười toe toét. Tôi nghe bà kể chuyện
đă từng trải, Địa Tạng Vương Bồ
Tát báo mộng khuyên người kiêng giết, khiến tôi tự
nhiên sanh khởi tâm kính sợ
làm theo. Ở đây, tôi kính khuyên các bà chủ gia đ́nh, vẫn
là chớ nên sát sanh cúng bái th́ hơn! Nếu không, các sanh linh
bị sát hại, nói chung, sẽ có ngày hướng về
quư vị đ̣i nợ mạng. Khi đó, quư vị vào trong
địa ngục. Nếu chẳng có duyên với Phật,
làm sao biết cầu Địa Tạng Vương Bồ
Tát đến cứu vớt quư vị?
6. Đại Nguyện
Địa Tạng Vương Bồ Tát nghe tiếng cứu
khổ
Hành Ngọc ghi
Ngày
Hai Mươi Mốt tháng Giêng năm Dân Quốc 49 (1960), tuy
là mùa Đông, nhưng không có cảm giác rét buốt chút nào.
Tôi trên thân chỉ mặc một cái áo khoác lông dê, cảm thấy
rất nóng bức, nhưng lại chẳng thể cởi
ra, v́ tôi đă có dấu hiệu muốn cảm mạo.
Đi làm không lâu, bỗng nhận được tin của
vị đại đức nọ ở Đài Bắc
nhắn tôi đến ṭa soạn tạp chí Bồ
Đề Thụ, thỉnh một quyển Phật Học
Vấn Đáp của cụ Lư Bỉnh Nam. Tôi là người
tánh t́nh nôn nóng, đối với chuyện cần làm, không
thể nào chẳng làm ngay. V́ thế, xin nghỉ một tiếng
rưỡi, lê thân h́nh mệt mỏi đến chỗ ṭa soạn tạp chí Bồ
Đề Thụ. Ánh nắng gay gắt nung nấu, khiến
cho lưng tôi đẫm
mồ hôi. Tôi nghĩ thầm: “Toàn thân đẫm mồ hôi,
kể ra đối với chứng cảm mạo đâm
ra giúp ích cho ḿnh”. V́ thế, tôi vẫn không dám cởi cái áo
lông ấy ra, đến chỗ ṭa soạn tạp chí Bồ Đề
Thụ, t́m đại đức Châu Phỉ hỏi thỉnh
quyển Phật Học Vấn Đáp của cụ Lư Bỉnh
Nam, khiến cho
tôi rất thất vọng là ở đó đă chẳng
c̣n quyển sách ấy.
Đi
ngang Liên Xă, muốn bước vào, th́ thấy
lăo cư sĩ Lại Lương Đống dắt xe
đạp ra. Cụ thấy tôi đi vào, liền quay xe trở lại, nói: “Tôi đang muốn
t́m bà làm công đức”. Đồng thời c̣n lấy ra tờ
Dân Thanh Nhật Báo (nhật báo Tiếng
Dân) cùng ngày, c̣n chỉ vào trang thứ
hai bảo tôi xem. Tôi đáp: “Cụ đúng là khó ḍ thật!
Muốn tôi đến th́ tôi đă đến rồi, có chuyện
ǵ cụ cứ căn dặn đi!” Nhưng cụ nhất
định muốn tôi ngồi xuống xem báo. Do tôi phải
gấp rút quay về làm việc, chẳng có ḷng dạ nào
xem báo. Rốt cuộc, tôi tưởng người ta muốn
tôi đi quyên góp; v́ thế, thiếu kiên nhẫn nói: “Cụ
Lại ơi! Nếu cụ muốn tôi viết lách đôi
chút th́ chẳng có vấn đề ǵ, chứ muốn tôi ra
ngoài hóa duyên th́ tôi không có cách nào đâu!” Cụ Lại bảo:
“Xin bà hăy ngồi xuống, bà xem thử (cụ chỉ vào
báo nói) rốt cuộc cần làm công đức ǵ?” Tôi nói:
“Nếu chẳng phải muốn tôi viết đôi chút, th́
c̣n có công đức ǵ có thể làm được?” Cụ
Lại chẳng chờ tôi nói hết, bèn chặn ngang: “Tôi
thấy trên Trung Phật Nguyệt San có đăng bài ca tụng
sự tích linh cảm về kinh Địa Tạng của
bà. Nay có một vị liên hữu cư sĩ tên là Kỷ
Tam Toàn, gia cảnh hết sức nghèo túng. Ông ta đạp
xe ba bánh và làm công nhân điện khí. Sau trận lụt ngày
Bảy tháng Tám (năm 1959), ngay sau đó cha ông ta qua đời.
Lúc đó, ông ta thử đủ mọi cách, tận lực
giải quyết tang sự ổn thỏa, do vậy mắc
nợ chồng chất. Nhất thời, chẳng có cách nào trả sạch
nợ được! Chẳng phải là khổ càng thêm khổ
ư? Nào ngờ họa vô đơn chí! Gần đây, khi ông
ta làm việc trên cái cột điện cao hơn hai trượng,
chẳng cẩn thận té xuống. Ôi chao! Người này
vướng nghiệp chướng quá nặng, xin bà phát tâm
thay ông ta tụng mấy bộ kinh Địa Tạng,
để tiêu tai miễn nạn thay cho ông ta, đúng là công
đức vô lượng! Ngày hôm qua, tôi đă nói với Kỷ
Tam Toàn rồi”. Tôi nghe cụ Lại từ bi nói cặn kẽ
như thế, trong tâm không nhịn nổi nỗi niềm khổ sở. V́ thế, nhận lời
từ ngày mai sẽ thọ Bát Quan Trai, tụng kinh Địa Tạng cho vị
liên hữu cư sĩ Kỷ Tam Toàn xa lạ kia, khiến
cho ông ta sớm lành bệnh.
Khoảng chín giờ sáng
ngày Hai Mươi Hai, tôi đến bệnh viện ngoại
khoa Trừng Thanh ở phố B́nh Đẳng để
thăm Kỷ cư sĩ. Đây là lần đầu tiên
trong đời tôi vào bệnh viện ngoại khoa thăm bệnh
nhân, căng thẳng như đích thân vào địa ngục.
Trong đó, những t́nh trạng lạ lùng xuất hiện
đủ mọi vẻ; nhất là cái mùi khó ngửi xông sực
khắp nơi. Tôi đành bất lịch sự
dùng khăn tay che mũi. Dưới t́nh huống ấy,
đúng là chẳng muốn ở lại lâu, nhưng tôi lại
chẳng thể không cố sức chịu đựng. Tôi
t́m đến pḥng bệnh số ba mươi, thấy một
vài bệnh nhân đang nằm đó, tôi cũng chẳng nhận
biết Kỷ cư sĩ. Thấy một bà cụ đi tới,
hỏi thăm, mới biết cụ chính là mẹ của
Kỷ cư sĩ, cụ bảo cho tôi biết giường
bệnh của Kỷ cư sĩ. Thấy ông ta nằm bất
động trên giường, tôi thầm niệm thánh hiệu
Địa Tạng Vương Bồ Tát, đến bên
giường Kỷ cư sĩ hỏi: “Ông có ăn chay hay
không?” Ông ta đáp: “Tôi chỉ ăn trai ngày mùng Một và Rằm”.
Ông ta gầy trơ xương, âm thanh nói chuyện hết
sức nhỏ yếu. Nh́n thấy bộ dạng của
ông ta, nếu là lúc trước khi tin Phật, tôi sẽ nhất
định hoảng hồn, bỏ chạy! Tôi nói: “Nếu
ông có thể phát tâm ăn Thập Trai (ăn chay mười
ngày), thời khắc niệm thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát, hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc lớn
tiếng, hoặc niệm thầm đều được;
nhưng điều thiết yếu
là phải chí thành khẩn thiết. Chỉ có như thế
th́ mới có thể cảm ứng đạo giao. Nay tôi sẽ
thay ông tụng kinh Địa Tạng, tiếp tục tụng
cho đến khi ông khỏi hẳn mới thôi!”
V́
ḷng thành khẩn của tôi, lúc đó, ông ta hết sức cảm
động, lập tức rất kiền thành tiếp nhận
ư kiến của tôi, muốn tôi viết ra mười ngày
trai cho ông ta. Tôi nói; “Ngày mai là ngày Hai Mươi Bốn tháng
Chạp, ông bắt đầu ăn Thập Trai đi!” Tôi
lại hướng về bà cụ Kỷ nói: “Nhà cụ
có thờ tượng Địa Tạng Vương Bồ
Tát, sau này hăy lễ bái nhiều hơn, niệm nhiều
hơn, cầu Bồ Tát đại từ đại bi, phù
hộ Kỷ cư sĩ chẳng bị tàn phế”. Tôi nói
xen lẫn bập bẹ tiếng Đài Loan, cụ nghiễm
nhiên có thể nghe hiểu. “Một nhà tám mạng hoàn toàn dựa
vào nó nuôi sống”. Bà cụ Kỷ vừa nói, vừa vạch
cánh tay trái bị thương do té của Kỷ cư
sĩ cho tôi coi. Tôi giống như bị điện giật,
sợ tới mức gần như đứng không nổi!
Thấy cánh tay ấy, máu thịt đă trộn
lẫn be bét, nghiêm trọng như tương thịt, chất
máu đỏ pha sắc xanh không ngừng rỉ ra. Vợ
ông ta đứng bên cạnh dùng giấy vệ sinh thấm
máu rỉ ra. Tôi nghĩ: “Có thể trị lành nổi không?”
Tôi ôm tâm trạng nặng nề, vội vàng trở về
đi làm.
Trong
lúc ban đêm khi tôi tụng kinh, bỗng dưng đau bụng
như bị cắn. Đấy là hiện tượng
trước nay tôi chưa từng gặp kể từ khi tụng
kinh đến nay; nhưng tôi vẫn nhịn đau tụng
kinh đến hết. Tụng kinh xong, tôi cũng hết
đau bụng. Có lúc do công việc bận rộn, cũng
như chuyện nhà bận bịu, tôi thường mệt
mỏi kiệt sức ră rời, đúng là không xốc tinh
thần lên nổi, nhưng khi nghĩ tới cảnh tượng
Kỷ cư sĩ đang nằm trên giường bệnh,
rên rỉ cầu cứu, rốt cuộc vẫn vực dậy
tinh thần, kiền thành cung kính v́ ông ta tụng kinh Địa
Tạng.
Trưa
ngày Hai Mươi Lăm âm lịch, tôi thỉnh một bức
tranh cuộn thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát
tới bệnh viện ngoại khoa Trừng Thanh. Một bệnh
nhân khác thấy thánh tượng Bồ Tát trang nghiêm, thật
tâm hoan hỷ tán thán. Ông ta đă sanh tâm hoan hỷ, tôi bèn trao
thánh tượng cho ông ta, và giảng nói mười thứ
lợi ích do thờ phụng thánh tượng Địa Tạng
Bồ Tát: “Một là đất đai màu mỡ; hai là nhà của an b́nh, hưng thịnh; ba là người
mất sanh lên trời; bốn là người c̣n sống
tăng thọ; năm là ở cầu toại nguyện; sáu là không bị tai họa về lửa và nước;
bảy là dứt bặt hư hao; tám là dứt sạch ác mộng; chín là ra vào có thần hộ vệ; mười là
thường gặp gỡ cái nhân thuộc
về bậc thánh”. Đối với
lời tôi nói, người ấy không chỉ tin tưởng,
mà c̣n không ngừng hướng về tôi cảm tạ: “Thật
cám ơn nhiều lắm”.
Tôi
đến chỗ bà cụ Kỷ, hỏi cụ:
“Thương tích của Kỷ cư sĩ có khá hơn chút
nào không?” Bà cụ Kỷ mặt đầy vẻ vui mừng, đáp: “Vết thương của
Tam Toàn khá nhiều lắm”. Vừa nói vừa vạch chỗ
vết thương cho tôi xem, tôi nh́n thấy bèn vui sướng,
gần như nhảy cỡn lên. Tôi ôm ḷng hoan hỷ, tán
thán, buột mồm nói: “Địa Tạng Vương Bồ
Tát quá linh nghiệm, thật sự quá linh nghiệm, chẳng
phải vậy hay sao! Rơ ràng là té đến nỗi cánh tay thương tổn
máu thịt lẫn lộn. Chẳng đầy vài
ngày, cánh tay nghiễm nhiên phân định từng phần rơ
ràng, đồng thời máu mủ chẳng tuôn ra nữa.
Chuyện này thật sự quá chẳng thể nghĩ bàn!”
Nói thật, nếu chỉ dựa vào sức thuốc men, sẽ
chẳng thể b́nh phục nhanh như thế! Vài vị bệnh
nhân cùng pḥng bệnh cũng đồng thanh hoan hỷ tán
thán. Kỷ cư sĩ mang vẻ mặt kinh ngạc, cảm
kích nói với tôi: “Tôi mỗi ngày niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát hơn ba trăm câu”. Tôi nói: “Tốt nhất
là thời thời khắc khắc đều niệm”. Cuối
cùng, tôi mang tâm t́nh khoan khoái rời khỏi bệnh viện
ngoại khoa Trừng Thanh.
Mỗi
dịp Chủ Nhật là cụ Lại cùng đại đức
Hác Ân Hồng định kỳ vào nhà tù Đài
Trung hoằng pháp. Tôi trông thấy cụ Lại, liền hỏi
Kỷ cư sĩ đă khỏe hẳn chưa? Cụ nói:
“Đỡ th́ đỡ nhiều rồi. Bất quá, theo bác
sĩ nói, vẫn phải chụp X-quang, phải mổ
hai lần để nối xương. Có chữa lành hay
không th́ vẫn chẳng nắm chắc, nhưng Kỷ
cư sĩ lại chẳng có tiền…” Nghe ngụ ư của
cụ, tôi khá cảm khái. Bệnh của Kỷ cư sĩ
chẳng lành, trong tâm tôi có vô hạn áy náy
và nỗi khổ sở riêng. V́ xét theo phương diện kinh tế,
tôi tâm th́ có dư, nhưng sức chẳng đủ, do t́nh
nghĩa nhân đạo thôi thúc, sao không khiến cho tôi “buồn
rầu, khổ năo”. Sau khi về tới nhà, chuyện ǵ cũng
chẳng muốn làm, cứ trầm ngâm suy nghĩ, có cách ǵ
để Kỷ cư sĩ khỏi phải mổ hay không?
Tôi tự nói: “Bạch Địa Tạng Vương Bồ
Tát! Con cám ơn lăo nhân gia đă gia hộ cư sĩ Kỷ
Tam Toàn lành ngoại thương, nhưng hiện thời
tay trái vẫn chưa thể hoạt động. Theo bác sĩ
th́ c̣n phải mổ hai lần, mà vẫn chẳng dám chắc
là sẽ hoàn toàn b́nh phục. Kỷ cư sĩ thật
đáng thương, đệ tử cầu Địa Tạng
Vương Bồ Tát lại rủ ḷng từ bi, dùng sức
thần thông chẳng thể nghĩ bàn phù hộ cho Kỷ
cư sĩ chẳng cần phải mổ”. Tôi mỗi ngày
cầu nguyện nhắc đi nhắc lại như thế.
Một
tối thứ Tư, tôi nghe kinh tại Từ Quang Đồ
Thư Quán, nghe bạn bè nói cụ Lại kiếm tôi. Tôi
nghĩ ngợi, không biết Kỷ cư sĩ đă lành bệnh
hay chưa. Tôi t́m cụ Lại, chẳng đợi cụ
mở miệng, đă vội vă hỏi: “Kỷ cư sĩ đă xuất
viện rồi ạ?” (Tôi thấy cụ cười mới
yên tâm). Cụ đáp: “Kỷ cư sĩ đă xuất viện”.
Tôi lại hỏi: “Mổ hay chưa?” Cụ đáp: “Nói ra
cũng thật lạ lùng! Chẳng
có mổ! Đột nhiên gặp một vị lăo tiên sinh nối
xương xoa nắn mấy lần
bèn lành hẳn, có phải là bà hướng về Địa
Tạng Vương Bồ Tát thưa bày hay không? Kỷ Tam
Toàn muốn đến cảm tạ bà”. Tôi kể chuyện
đối trước Địa Tạng Vương Bồ
Tát cầu nguyện cho cụ nghe! Cụ vốn đă
đang cười, càng cười vui hơn, tháo hẳn mắt
kính xuống, nói thẳng: “Thảo nào! Đúng là chẳng
trách được!”
“Nam-mô
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dùng sức thần
thông hiện h́nh tượng Thanh Văn, là kho tàng các công
đức vi diệu, là chỗ xuất sanh các trân bảo
giải thoát, là mắt sáng sạch của các Bồ Tát, là mắt
hướng dẫn đến Niết Bàn của bậc
cao nhân, như châu Như Ư, mà các thứ tài bảo tùy ḷng
mong cầu đều được thỏa măn, chiếu
người làm lành giống như mặt trời rạng
rỡ, soi người lạc đường giống
như đuốc sáng, trừ nóng bức phiền năo giống
như vầng trăng thanh lương, làm cầu bến
để vượt bốn gịng, làm thuyền bè để
tiến đến bờ đối diện, hàng phục
các ngoại đạo như sư tử chúa, hàng phục
các thiên ma như [thanh gươm] đại long
tuyền; bảo vệ những kẻ sợ hăi như
người thân, như bè bạn, ngăn ngừa các oán
địch như hào, như thành, cứu các nguy nạn ví
như cha mẹ”. Đúng như trong phẩm mười ba
Chúc Lụy Nhân Thiên của kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đă chép: “Nhĩ thời,
Thế Tôn cử kim sắc tư, hựu ma Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn: - Địa
Tạng! Địa Tạng! Nhữ chi thần lực bất
khả tư nghị, nhữ chi từ bi bất khả
tư nghị, nhữ chi trí huệ bất khả tư nghị,
nhữ chi biện tài bất khả tư nghị. Chánh sử
thập phương chư Phật, tán thán tuyên thuyết nhữ
chi bất tư nghị sự, thiên vạn kiếp trung, bất
năng đắc tận” (Lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng, lại xoa đầu
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, nói như thế này: -
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực
của ông chẳng thể nghĩ bàn, ḷng từ bi của
ông chẳng thể nghĩ bàn, trí huệ của ông chẳng
thể nghĩ bàn. Biện tài của ông chẳng thể
nghĩ bàn. Giả sử mười phương chư Phật
tán thán, tuyên nói chuyện chẳng thể nghĩ bàn của
ông, ngàn vạn kiếp chẳng thể nói hết được).
Cười
chia tay với cụ Lại, dù đêm đă khuya, tôi cung kính
đối trước Phật, hướng về Địa Tạng
Bồ Tát đảnh lễ bốn
mươi tám lạy. Sau đó tuôn lệ, ân cha mẹ khó
báo, nhưng ân rộng lớn của chư Phật, Bồ
Tát chẳng thể hạn lượng, chẳng có cách nào báo đền, chỉ có nhất tâm
niệm Phật, thề ǵn giữ hai chữ Trai Giới,
cung kính hướng về Tây Phương Phật quốc,
thành đạo Niết Bàn. V́ thế, tôi nhất định
quy mạng đảnh lễ. Nguyện độc giả
cùng niệm: “Nam-mô đại
nguyện đại từ đại bi thập luân bạt
khổ bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát!
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát!”
7. Nam-mô Minh Dương
Cứu Chủ Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
Hành Ngọc ghi
Đại
nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát và Quán Thế
Âm Bồ Tát đều là từ phụ, từ mẫu của
chúng sanh khổ nạn, là chỗ nương tựa cho nhân
gian lẫn địa ngục trong lúc này, trong đời
này. Mỗi lần nghe tiếng xe cứu hỏa kéo c̣i, trong
tâm tôi tức khắc cảm thấy bứt rứt dường
như chính ḿnh đang trải qua cảnh ấy. Nhớ lại
hồi bảy tuổi, gia đ́nh tôi gặp phải một
trận hỏa hoạn rất dữ dội, lại c̣n
cháy hai lượt, khiến cho tài sản trong nhà đều
mất sạch. Cha tôi do lo âu mà ngă bệnh rồi mất, một
gia đ́nh mỹ măn bị hỏa hoạn vô t́nh phá tan.
Nguyên nhân gây cháy là v́ hàng xóm ban đêm
tụ tập bài bạc, kẻ hút thuốc lá thiếu cái
tâm chú ư đạo đức công cộng, quăng tàn thuốc
bừa băi, gây nên hỏa hoạn. Bọn người cờ
bạc ấy đúng là hại người chẳng cạn!
Vào năm Dân Quốc 42 (1953), cuộc sống của chúng
tôi khốn cùng, con cái c̣n bé, thân thể suy yếu, tinh thần
bị vùi dập, tôi như con sơn dương lạc
đường, đi vào nhà thờ Công Giáo để nghe
giảng đạo, dự lễ Misa trong nhà thờ Công
Giáo, lại gần như gia nhập Nhất Quán Đạo.
Lúc đó, họ bảo tôi ắt cần phải “điểm
khiếu”, buộc tôi nộp ba chục đồng. Tôi
chẳng có ba chục đồng, dẫn phát túc duyên của
tôi, khiến tôi may mắn tiến vào Phật môn, chẳng
tin Nhất Quán Đạo.
Thứ
nhất là nghe kinh Địa Tạng Vương Bồ Tát
Bổn Nguyện, thứ hai là nghe phẩm Quán Âm Bồ Tát
Phổ Môn, bất luận gió táp mưa sa, đều có thể
buông xuống hết thảy phiền năo, đến cung
kính nghe măi cho đến khi viên măn. Nội tâm thanh
lương, trong mộng thường nh́n thấy đại
bi đại nguyện đại thánh đại từ bổn
tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát và đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ
Tát ban cấp hỷ lạc khôn sánh. Đại khái là pháp hỷ
sung măn vậy!
1.
Ngày mồng Một tháng Giêng năm Dân Quốc 45 (1956), tôi
vâng lệnh tiếp nhận cửa hàng bán lẻ của trại
giam Đài Trung (cửa hàng ở số 86 đường Tự
Do, Đài Trung, đối diện với ṭa án). Phàm là những
sản phẩm do tù nhân làm ra như đồ mây, đồ
mộc, đồ đan bằng cỏ, đồ dệt v.v…
đều đem bán tại đó. Kiến trúc của cửa
hàng mười phần đơn giản. Tôi ăn ở tại
cửa hàng, gần như là chính ḿnh buôn bán. Pḥng ngủ tuy
nhỏ, tôi đặt một cái giường đơn, chỗ
c̣n lại để thờ Phật, dùng một chiếc
màn vải ngăn lại. Pḥng bếp nhỏ hẹp,
trước cửa bếp là một cái bàn lớn để
làm việc, bên cạnh có gắn phiếu đề giá là
250 đồng. Khi đó, tôi dùng bếp dầu hôi kiểu
cũ. Có một chiều nọ, tôi không cẩn thận
đổ đầy dầu vào bếp ḷ. Bếp ḷ đă
lâu năm, sắp thành phế thải, nhưng tôi vẫn
không nỡ vứt đi. Tôi châm lửa nấu cơm, ra
đằng sau rửa rau. Rửa sạch rau xong, thấy lửa
bốc hừng hực, tôi gấp đến độ
đem bếp đặt cạnh bàn công tác. Đang lúc chỉ
mành treo chuông, bỗng đứa con lớn xông tới, tóm
cái mền quân đội từ trên giường bọc lấy
bếp ḷ, ném ra ngoài cửa. Lửa vẫn cháy hừng hực,
người qua đường đều khoanh tay đứng
nh́n. Đột nhiên, một thanh niên khoảng hai
mươi tuổi chạy tới, lặng lẽ kiệt lực cứu giúp, c̣n dũng
mănh hơn đứa con cả của tôi, dập tắt lửa.
Người xem đều tấm tắc khen ngợi. Khi
tôi muốn cảm ơn người thanh niên ấy, đă
chẳng thấy đâu nữa!
Khi
tôi hốt hoảng đem bếp ḷ đang cháy bừng bực
đặt cạnh bàn công tác, dầu từ trong bếp ḷ
chứa đầy ắp, tràn ra khắp đất, bốn
phía đều là các vật phẩm cần bán. Lửa
đă đốt xém một góc tờ phiếu ghi giá tại
bàn công tác. Cái bàn chẳng bị hư hại chút nào, bất
cứ món của công nào cũng đều chẳng bị tổn
hại tí nào. Chàng thanh niên ấy chẳng phải là hóa thân
của Địa Tạng Bồ Tát th́ lại là ǵ đây?
Tôi mỗi tháng lễ bái Địa Tạng Bồ Tát. Phẩm
mười hai trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện có chép: “Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục
cầu hiện tại, vị lai bách thiên vạn ức
đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự,
đản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường,
tán thán Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, như
thị sở nguyện sở cầu tất giai thành tựu.
Phục nguyện Địa Tạng Bồ Tát cụ đại
từ bi, vĩnh ủng hộ ngă. Thị nhân ư thụy
mộng trung, tức đắc Bồ Tát ma đảnh thọ
kư…” (Nếu trong tương lai, có thiện nam tử, thiện
nữ nhân đối với trăm ngàn vạn ức chuyện,
chỉ nên quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán h́nh
tượng của Địa Tạng Bồ Tát, sở
nguyện như thế thảy đều thành tựu. Lại
nguyện Địa Tạng Bồ Tát sẵn ḷng đại
từ bi, vĩnh viễn ủng hộ tôi. Người ấy
trong khi nằm mộng, liền được Bồ Tát
xoa đầu thọ kư). Chuyện đă cách đây hai
mươi năm rồi, chép lại chuyện linh cảm
này, trong tâm vẫn nhớ rơ ràng từng điều như
cũ. Nếu lửa to đốt sạch hàng hóa bày bán
đến nỗi cháy lan sang pḥng ốc lân cận, tôi nhất
định sẽ bị kết tội, trải qua cuộc
sống sau song sắt, bỏ lại đứa con thơ
đáng thương, quả thật là chẳng thể
tưởng nổi! Do sự kiện này, chưa từng bị
cấp trên quở trách tiếng nào, viết đến
đây, gịng lệ cảm ơn tuôn đẫm!
2. Ngày mồng Một tháng
Năm năm Dân Quốc 57 (1968), tôi xin điều động
làm giám thị tại trại giam thuộc ṭa án Đài Bắc.
Làm được một tuần, tôi đă phải xin nghỉ
phép v́ bệnh t́nh ác liệt, thường xuyên phải
đến pḥng khám bệnh thuộc nhà thương công, tức
phụ khoa của Đài Đại Y Viện xin trị liệu,
cũng như đủ loại thuốc chích, thuốc uống.
Không chỉ chẳng có hiệu quả, mà bệnh chuyển
biến càng tệ hơn. Tại pḥng khám bệnh cho công
chúng, cứ mỗi sáng thứ Tư, sẽ do vị bác
sĩ nổi tiếng đầy uy tín về ngành phụ
khoa là Từ Thiên Điền tới chẩn trị.
Trời c̣n chưa sáng, đă có người trèo cửa sổ
vào rút số đợi khám bệnh. Có khá nhiều phụ nữ từ miền
Nam đến xin chữa bệnh. Trong ḷng mỗi người,
y thuật của ông Từ được coi trọng nhất.
Đương nhiên, tôi cũng chẳng phải là ngoại
lệ! Ông ta cho tôi kết quả sinh thiết là có bướu
ở thành tử cung, nhất định phải mổ,
vào nằm tại bệnh viện Đài Bắc do ông ta
thành lập. Nằm viện hai mươi ngày, tôi một mực
băn khoăn có nên mổ hay không? Các bạn đồng
nghiệp tán thành tôi nên mổ để giảm bớt
đau khổ: “Nhất lao vĩnh dật” (Mệt nhọc
một lúc, an nhàn vĩnh viễn). Con cái thấy tôi bệnh
t́nh trầm trọng cũng cực lực tán thành nên mổ.
Tôi thà rằng chết, vẫn sợ mổ. Bác sĩ thấy
tôi không chịu mổ, bảo tôi về nhà. Tôi chỉ
đành về nhà nằm trên giường, toàn thân đau
đớn. Tôi lại hối hận v́ sao chẳng mổ,
lại muốn đi mổ. Tóm lại là bị mâu thuẫn
dây dưa bất an!
Từ Đài Trung dọn qua
Đài Bắc, đồ đạc lộn xộn, pḥng ốc
nhỏ hẹp, tượng Bồ Tát tôi sùng bái vẫn
chưa được thờ phụng, nỗi đau khổ
này lại chẳng biết khi nào mới chấm dứt.
Trong lúc thần trí mê muội, tôi thấy Địa Tạng
Vương Bồ Tát ban cho một quyển kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện. Tôi mới hoảng nhiên đại ngộ:
V́ mong điều động về làm giám thị ở nhà
tù thuộc ṭa án Đài Bắc, tôi đă hướng về
Bồ Tát hứa nguyện sẽ tụng một trăm lẻ
tám bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Tôi cầu
Bồ Tát: “Xin đừng khảo nghiệm con nữa, dẫu núi
đao, vạc dầu, con vẫn kiền thành tin Phật. Lại
c̣n tận tâm tận lực khuyên người khác tin Phật,
cầu Bồ Tát đại từ đại bi gia hộ
cho con chóng lành bệnh”. Tôi suốt ngày nằm trên giường
rên xiết, tự nói, bệnh mỗi ngày chuyển biến
tốt hơn, thân thể hồi phục. Tụng đủ
108 bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Cho đến
hôm nay, mỗi ngày tôi tối thiểu tụng một bộ,
linh cảm chẳng thể nghĩ bàn. Trong tâm, thời khắc
nào cũng là thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, không
niệm mà niệm, thân thể mạnh khỏe, c̣n hơn hết
thảy các chất dinh dưỡng trong thế gian. Do nhiều
đời nhiều kiếp trước, tôi đă nợ mạng, hoặc nợ nần về tinh thần, đời
này được Bồ Tát che chở, trả sạch tất
cả hết thảy nợ nần. Tôi nhất tâm kiên
định cầu liễu thoát sanh tử, được
giải thoát tự tại. “Nam-mô Minh
Dương Cứu Chủ Đại Nguyện Địa
Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát!”
8. Kỷ niệm ân
đức của Địa Tạng Bồ Tát
Hành Ngọc ghi
Quang
âm thật mau, chớp mắt lại sắp đến ngày
Ba Mươi tháng Bảy âm lịch là ngày thánh đản của
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ai nấy đều
biết Địa Tạng Bồ Tát ở trong địa
ngục cứu độ, giáo hóa các chúng sanh tội ác sâu nặng.
Phàm kẻ nào kính ngưỡng, sùng bái Ngài, đều nên học
theo tinh thần độ sanh vĩ đại của Ngài.
Tôi phát nguyện tŕ trai suốt tháng Bảy âm lịch, nhằm
biểu lộ ḷng sùng kính của tôi đối với
Địa Tạng Bồ Tát. Hơn nữa, tôi cũng muốn
học tập tinh thần của Ngài ḥng khéo giáo hóa các nữ đồng bào phạm tội, khiến
cho họ tiếp nhận Phật pháp, khử
ác, hướng thiện. Thông thường, họ thường được các Phật
hữu rủ ḷng yêu mến, thường đến
trại giam nữ để giảng giải Phật lư. Có
một lần, các nữ tù nhân hoan hô: “A Di Đà Phật
đến rồi”. Quả nhiên, Lâm cư sĩ (bà Lâm Khán Trị)
dẫn hai vị đồng tu cùng đến. Họ thấy
ḷng nhiệt thành tín ngưỡng Phật pháp của các tù
nhân, bèn tán thán gọi tôi là Địa Tạng Vương Bồ
Tát. Tôi hoảng sợ, hổ thẹn, đem những
điều đă từng trải
trong công việc là do nhân duyên linh cảm của
Địa Tạng Bồ Tát kể cho họ nghe, khiến
họ hết sức ngạc nhiên, tán thán! T́nh h́nh tiếp
nhận thánh ân của tôi giống như người lạc
đường bỗng có được chỗ quang minh
để trở về an trụ, như người bệnh
lâu ngày bỗng được lành. Nay chỉ kính cẩn thuật
lại những điều ghi tâm khắc cốt đă từng
trải qua như sau:
Tôi
có thể làm việc tại trại giam, đáng phải nên
chân thành cảm kích sự linh cảm của Địa Tạng
Bồ Tát. Tôi nhớ mùa Thu năm trước, tôi rên rỉ
trên giường bệnh, đă chẳng thể ngồi nổi, mà cũngười chẳng thể
đứng. Hoàn cảnh ngang trái, cuộc sống bấp bênh, chẳng
thể khiến cho tôi tự tại, an nhàn. Chính v́ tôi là một
Phật tử, mỗi khi gặp phải phiền năo chẳng
có cách nào giải thoát, sẽ đối trước Phật
buồn khóc, đối trước thánh tượng Địa
Tạng Bồ Tát sám hối, tự nhận biết trước
kia đă trót tạo đủ mọi cái nhân ác, cho nên đời này mới phải hứng chịu khổ
báo như thế! Thời gian trôi qua rất mau, nỗi
đau khổ của tôi càng sâu, biện pháp duy nhất của
tôi là khẩn cầu đức Phật và Địa Tạng
Vương Bồ Tát giải thoát cho tôi. Công việc cậy người
khác giới thiệu đôi ba lượt, mỗi lần cảm
thấy có hy vọng, đang trong lúc cao hứng, rốt cuộc
đều trở thành mộng huyễn,
khiến cho tôi chẳng c̣n có dũng khí hướng
về Phật, Bồ Tát khẩn cầu, nhưng c̣n có thể
nương cậy vào ai đây? Trên thế giới, có ai là
người tương trợ trung thực nhất?
Nghĩ tới, nghĩ lui, tự ḿnh an ủi chính ḿnh, nghiễm
nhiên phát tín niệm thường hằng và kiên định
chẳng lười nhác, kiền thành cầu nguyện không
ngừng trước thánh tượng đức Phật
và Địa Tạng Bồ Tát.
Vào
buổi tối cuối tuần nọ, ngoài cửa có tiếng
gơ đùng đùng, sau đó, có
người gọi tôi. Mở cửa th́ ra là Vương
cư sĩ từ Liên Xă nghe kinh
trở về, thái độ
rất gấp gáp, đưa cho tôi một mảnh giấy
nhỏ xong, chẳng đợi tôi cám ơn đă bỏ đi
mất. Trên mảnh giấy có in chữ Triệu Tập Dự
Thi Làm Giám Thị Nhà Tù Đài Trung, kỳ hạn ghi danh là đến
trưa ngày hôm sau th́ ngưng. Tám giờ sáng ngày kế, sẽ
bắt đầu khảo thí các môn Quốc Văn, di giáo của
Quốc Phụ (Tôn Dật Tiên), sử địa, công dân và
toán. Tôi là người đă rời trường học
mười mấy năm, trong đầu học được
ǵ đă quên sạch bách rồi! Do vậy, lo nghĩ suốt
đêm, chẳng ngủ được. Hôm sau, vào lúc mười
giờ đi chợ, đi qua nhà Cam cư sĩ, được
bà ta cổ vũ đôi ba lượt, muốn tôi hăy ghi
danh. Thịnh t́nh chẳng thể từ chối, đành phải
lê tấm thân bệnh tật lâu ngày chưa khỏe hẳn
đến đó. Trời ạ! Chỗ báo danh nam nữ xúm
đen nghịt, nghe nói phái nữ chỉ tuyển lấy một
người. Tôi có bản lănh ǵ để dự thi? Sau đấy, nghĩ lại, vẫn là thử xem! V́
thế, mượn một số sách từ học sinh Trung
Học đọc cấp tốc, suốt nửa ngày một
đêm khẩn trương dụng công, chẳng ăn
chẳng ngủ, tự cho là đă thuộc kỹ các loại đề mục, có vài phần nắm chắc
dự thi, mới miễn cưỡng đi thi. Kết quả
chẳng phụ người khổ tâm, tôi bị bệnh chẳng
uống thuốc mà lành, lại c̣n được phái đến
phục vụ trong nhà tù là nơi chúng sanh tội khổ trong
nhân gian đang ở, khiến cho tôi giải quyết vấn
đề trong cuộc sống. V́ thế, tôi càng kính cẩn
phỏng theo nguyện lực của Địa Tạng Bồ
Tát, cũng học theo tinh thần rộng độ chúng
sanh tội khổ của Ngài.
Tôi
nhớ hôm trước ngày đến làm việc tại nhà
tù, có một sáng vào khoảng bảy giờ, trong lúc mơ
màng, dường như ngủ mà chẳng phải ngủ,
từng mộng thấy được Địa Tạng
Bồ Tát chỉ dẫn chẳng khác sự thật trong hiện
tại một mảy. Nghĩ lại thần lực chẳng
thể nghĩ bàn như thế, khiến tôi là kẻ tham
ăn, không có đồ mặn sẽ chẳng nuốt
được, khi đó, hừng hực phát tâm mỗi
tháng ăn chay hai ngày mồng Một và Rằm. Dần dần
tăng lên Quán Âm Trai rồi đến Thập Trai. Tôi tự
tin chẳng lâu sau, trong tương lai sẽ bắt đầu
ăn chay trường. Rất nhiều bạn bè không tin Phật
nói: “Không sợ tin Phật, chỉ sợ ăn chay!” Tôi giải
thích với họ: Tin Phật hoàn toàn chẳng ngăn cấm
chúng ta ăn mặn. Chúng ta ăn chay là do tự ḿnh khi tin
đến mức độ kiền thành (tin vào lục
đạo luân hồi, chẳng nỡ ăn thịt chúng
sanh), sẽ tự nhiên muốn ăn chay. Nói theo pháp thế
gian, khi chính ḿnh gặp khó khăn, bằng hữu giúp đỡ
giải quyết, tới khi hoàn cảnh của chính ḿnh tốt
đẹp hơn, đương nhiên là nhất định
sẽ mua quà tặng trong khả năng của ḿnh để
biếu người ta, hoặc tặng họ vật
ưa thích. Chúng ta phải nên học theo ḷng từ bi của
đức Phật, yêu tiếc sanh mạng của chúng sanh
giống như sanh mạng của chính ḿnh.
Cư
sĩ Đường Tương Thanh từng phỏng theo
tinh thần vĩ đại của Địa Tạng Bồ
Tát, phục vụ trong trại giam Tân Trúc ở Đài Trung
nhiều năm, giáo hóa, khuyên nhủ, hướng dẫn
chúng sanh do phạm tội mà chịu khổ trong nhà tù, không
ít người đều được ông ta cảm hóa mà
đau đáu sửa đổi sai trái khi trước, quy y
Tam Bảo. Năm trước, Đường cư sĩ
được vinh thăng làm quan ṭa bên quân đội;
không chỉ là Phật giáo hữu chúng ta cảm thấy tột
bậc vui mừng, mà có thể nói là ngành quân pháp may mắn
biết dùng người. Tôi rất tin Đường
cư sĩ ắt sẽ có thể dựa theo tinh thần
công chánh, liêm minh, khiến cho tội phạm trót lầm lạc
phạm luật sẽ được phán xử công bằng,
ôn ḥa, chẳng đến nỗi bị oan khuất. Vợ
ông ta cũng là Phật giáo đồ kiền thành, giữ
giới, khắc kỷ, đối xử hiền thục
với người khác, mang tinh thần
đại từ đại bi, xả ḿnh cứu người,
thật sự khiến cho người khác cảm phục
khôn ngằn! Đấy chẳng phải là hóa thân của
Địa Tạng Bồ Tát hay sao? Nay tôi do thánh
đản của Địa Tạng Bồ
Tát sắp đến, v́ kỷ niệm ân đức của
Bồ Tát, đặc biệt kính thuật những điều
từng trải để nêu
tỏ thánh đức, nhằm biểu lộ niềm cảm
kích rất sâu trong nội tâm.
9. Chuyện linh cảm
gần đây của Địa Tạng Bồ Tát
Hành Ngọc ghi
Ngày
mồng Tám tháng Chín là ngày tôi trực ban. Bảy giờ chiều,
trời nổi gió, kèm theo mưa nhẹ. Các đồng nghiệp
đưa một nữ phạm nhân đến, được
đánh số tù là 15, tên là Trương Bích Vân, hai
mươi sáu tuổi, c̣n địu theo một bé gái vàng ủng,
gầy teo, luôn bị rút gân kêu khóc ai oán. Tôi lại chẳng
biết nó bệnh ǵ? Tôi cho rằng nó bị bệnh kinh
phong rút gân rất nguy hiểm, lập tức nhấn chuông
điện gọi khóa trưởng y tế đến. Khóa
trưởng nói: “Đấy là chứng bại liệt trẻ
con, không có cách nào khác để chữa trị. Hễ không
phát sốt th́ chẳng có vấn đề ǵ!” Tôi hỏi:
“Khóa trưởng! Đứa nhỏ này không ngừng rên rỉ,
rất đáng thương, có thuốc ǵ để uống,
hoặc chích một mũi khiến cho đứa bé chẳng
bị rút gân hay không?” Khóa trưởng trả lời: “Chẳng
có cách nào trị lành!”
Tôi
hỏi tù nhân số 15: “Cô là người ở đâu? Phạm
tội ǵ? Bị xử ở tù bao lâu? Trong nhà có ai hay không?”
Cô ta đáp: “Tôi là người làng Vụ Phong huyện
Đài Trung. Tôi ở nhà nấu chút rượu gạo cho
cha tôi uống, người khác tố cáo tôi, bị tù ba
tháng, đứa bé đă ba tuổi rồi. Mới sanh ra mấy
ngày đă bị bệnh này, tốn rất nhiều tiền
chữa trị mà không khỏi. Chồng tôi đang đi
lính”. Tôi cười nói: “Có duyên với Phật, tâm an sẽ
lành”. Tôi lập tức viết tên tuổi đứa nhỏ
(Cao Tú Nguyệt, ba tuổi) đặt trước tượng
Phật. Nửa đêm nghe tiếng khóc, lúc tôi tới nh́n xem, thấy
số 15 ôm đứa nhỏ đang khóc, tù nhân cùng pḥng
đều ngồi dậy, thấp giọng niệm Phật.
Tôi nghĩ đứa nhỏ này bị rút gân, không có cách nào
khác chữa khỏi, dặn bảo các cô hăy v́ nó niệm Phật
hồi hướng cầu Phật, Bồ Tát! Vài ngày đều
trôi qua như vậy. Số 7 và số 11 cùng pḥng với số
15, nói với tôi: “Giám thị à! Đứa bé này quả
thật đáng thương, một đêm bị rút gân ba bốn
lần. Mỗi lần có khi lâu đến ba mươi
phút. Chúng tôi cũng chẳng ngủ nổi, ngồi dậy
niệm Phật”. Tôi bảo mọi người: “Các vị
nói xem một đứa nhỏ ba tuổi phạm tội
ǵ? Sanh ra liền phải mắc chứng bệnh nan y này,
đă không thể đi và ngồi tự do, lại c̣n
đau khổ v́ bị gân co rút, như bị hành h́nh trong
địa ngục, đó chẳng phải là nghiệt
chướng đă tạo từ đời trước
hay sao? Nhân quả bày ra trước mắt, đừng nên
tham hư vinh nhất thời mà tạo nghiệp chướng,
rơi vào địa ngục Vô Gián, chẳng cầu có thuở
thoát ra được! Tấm gương này đáng cho mọi
người cảnh giác. Hăy khéo tin Phật, hăy niệm Phật cầu thoát sanh tử!”
Có
một hôm vào lúc chín giờ tối, đứa bé ấy bị
rút gân, khóc không ra tiếng, mắt trợn trắng tới
mấy chục phút, coi như sắp mạng chung. Tù nhân số
15 gào khóc, tôi mời y tá trưởng và các y tá đang trực
ban gồm ba vị đến xem thử, họ nói: “Chẳng
có thuốc nào trị được!” Dặn tôi niệm Phật!
Họ đi rồi, tôi dẫn số 15 đối trước
Phật, niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát
hơn mười phút. Đêm ấy, đứa nhỏ rất
b́nh yên, ngủ say. Mỗi lần nghe tiếng khóc của
đứa bé như thế, trong tâm tôi cảm thấy khổ
sở, tính niệm Phật cầu gia hộ thay cho cô ta,
nhưng tôi chẳng khỏi hoài nghi, sợ tôi niệm Phật
sẽ không khiến cho đứa bé giảm bớt đau ốm,
lại tạo phản ứng không tốt cho các cô. Cứ
suy nghĩ măi, khổ sở khiến cho tôi chẳng thể
chịu đựng, rốt cuộc phát ra dũng khí, đối
trước Phật, cung kính chắp tay, lớn tiếng niệm
thánh hiệu “Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ
Tát”. Ba phút sau, đứa bé thôi khóc. V́ thế, hướng
về đức Phật, nguyện tụng ba bộ kinh
Địa Tạng Bổn Nguyện, hồi hướng cho
đứa bé ấy tiêu tai. Mỗi lần tụng kinh, tôi
đều ứa nước mắt.
Có
một lần, khi rửa tay tại bồn nước,
trông thấy số 15 đang giặt áo, tôi hỏi cô ta: “Số
15! Con cô đỡ hơn chút nào hay không?” Cô cười
đáp: “Đỡ nhiều lắm!” Tôi vẫn không tin, hỏi
lại: “Đỡ nhiều hơn là như thế nào” Cô ta
đáp: “Chẳng bị rút gân nhiều lần như trước,
có khi một ngày bị một hai lần, ban đêm không bị.
Thời gian bị co rút cũng chẳng quá dài như thế!
Trước kia, một đêm bị co rút ba bốn lần,
ban ngày năm sáu lần. Khi bị co rút th́ nắm chặt
tay, chân co về phía đầu, bắp thịt trên toàn thân
đều bị gân co rút, lại c̣n dẫu trời lạnh
mà đầu tóc vẫn mướt mồ hôi. Suốt ba
năm qua đều là như thế”. Tôi nghe xong, cảm thấy
lạ lùng, tụng chưa xong ba bộ kinh mà đă linh cảm
nhanh như vậy. Cơm trưa chưa ăn, tôi thắp
hương đối trước Phật, dùng một tấm
ḷng son sắt chân thành, cảm tạ sức oai thần chẳng
thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, cứu
bạt chúng sanh đang ch́m đắm trong biển khổ.
Tôi chẳng có ǵ để đền đáp, bèn phát nguyện
mỗi dịp Thập Trai tụng kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện đều cung kính đứng thẳng (tụng một
bộ cần phải mất chín mươi phút). Khi tụng
kinh lại nghe tiếng đứa bé khóc, tôi gọi số
15 ôm đứa nhỏ tới trước bàn Phật. Tôi
cung kính chắp tay, lớn tiếng xướng niệm
thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, đơn giản
là muốn kêu gọi Địa Tạng Bồ Tát hăy cảm
ứng; chẳng cầm được nỗi thương
tâm mà khóc ̣a. Số 15 cũng khóc theo. Nhưng tôi vừa khóc,
vừa xót xa cầu khẩn: “Xin Địa Tạng Bồ
Tát hăy gia hộ cho đứa bé này ĺa khổ”. Chưa đầy
hai phút, đứa bé ngưng khóc. Ngẫu nhiên nghe thấy
tiếng nó khóc, tôi liền khởi tâm sám hối, hận
chính ḿnh tu tŕ chẳng ra hồn, hổ thẹn ứa lệ,
hy vọng vĩnh viễn chẳng c̣n nghe tiếng đứa
bé khóc như thế nữa! Có lẽ là tác dụng tâm lư, có
khi đứa bé khác khóc, tôi cũng tưởng là nó khóc. Tôi
ôm tâm trạng hoảng sợ nh́n nó, mẹ nó đang ôm nó
cười. Đứa bé được nuôi mập ra, số
15 khuôn mặt tràn ngập tươi vui.
Tôi
chỉ tụng sáu bộ kinh, suốt cả ngày đêm, chẳng
nghe tiếng khóc của đứa bé nữa. Nhưng tôi vẫn
lo lắng, mỗi lần vào cửa, liền hỏi mọi
người: “Đứa bé con của số 15 có ổn hay
không?” Mọi người đồng thanh đáp: “Công đức
của giám thị thật lớn! Một đứa bé
đau khổ như vậy, được cô tụng kinh
Địa Tạng mà khỏe ra. Đứa bé xinh xắn
hơn trước nhiều và cũng có thể đi lại.
Số 15 vào chỗ này c̣n vui hơn trúng sổ xố giải
đặc biệt!” Hằng ngày cô ta đều cười
toe toét, hỏi: “Địa Tạng Vương Bồ Tát quản
địa ngục, sao c̣n quản chúng ta?” Tôi giải thích:
- Nguyện lực của Địa Tạng Bồ Tát là
địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành
Phật. Ngài không chỉ thường ở trong địa
ngục, mà c̣n trang nghiêm địa ngục, cứu độ
chúng sanh tội khổ trong địa ngục. Đồng
thời, cũng cứu vớt hết thảy chúng sanh trong
lục đạo, như phẩm Xưng Phật Danh Hiệu
trong kinh Địa Tạng đă dạy: “Phật cáo
Địa Tạng Bồ Tát: Nhữ kim dục hưng từ
bi, cứu bạt nhất thiết tội khổ lục
đạo chúng sanh, diễn bất tư nghị sự”
(Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: -
Nay ông muốn dấy ḷng từ bi, cứu vớt hết thảy
chúng sanh tội khổ trong sáu đường, diễn nói
chuyện chẳng thể nghĩ bàn). Từ đó, có thể
biết Địa Tạng Bồ Tát được đức
Phật phó chúc cứu bạt hết thảy chúng sanh trong lục
đạo, hoàn toàn chẳng giới hạn chúng sanh trong
địa ngục. Chỉ cần các vị thành tâm niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát, không chỗ nào
Ngài chẳng hiện thân, chẳng cứu
độ. Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên của kinh Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện chép: “Nam Diêm Phù Đề chúng
sanh, chí tánh vô định, ác tập giả đa, túng phát
thiện tâm, tu du tức thoái. Nhược ngộ ác duyên, niệm
niệm tăng trưởng. Dĩ thị chi cố, ngô
phân thị h́nh bách thiên vạn ức giáo hóa, tùy kỳ
căn tánh, nhi độ thoát chi” (Chúng sanh trong Nam Diêm Phù
Đề chí tánh vô định, tập khí ác th́ nhiều, dẫu
phát thiện tâm trong khoảnh khắc liền thoái chuyển.
Nếu gặp ác duyên, niệm niệm tăng trưởng.
Do v́ lẽ ấy, ta phân thân h́nh này trăm ngàn vạn ức
giáo hóa, tùy theo căn tánh mà độ thoát họ). Điều
ấy chứng minh chí nguyện từ bi cứu độ
chúng sanh to lớn của Địa Tạng Vương Bồ
Tát, có bất khả thuyết bất khả thuyết vô tận
thần thông!
Chư
vị nghe xong, có lẽ sẽ nghĩ giống như chuyện
thần thoại; nhưng đây là chuyện có thật trong
nhà tù của chúng tôi, có thể t́m hỏi. Hoặc lại có
người hoài nghi tin Phật th́ có cần mời bác
sĩ hay không, tôi cũng có thể phụng cáo với quư vị:
Người có công phu tin Phật rất sâu, sẽ chẳng
cần mời bác sĩ. Do người ấy tin sâu, cảm
ứng đạo giao, có cảm ắt có ứng, khổ
hay vui hoàn toàn do nghiệp báo cảm vời. Cho nên có thể
nhất tâm nơi đạo, hóa độ chúng sanh. Ví như
mặc quần áo, rách một miếng liền vá một miếng,
lại rách, lại vá, cho đến khi chẳng thể vá nổi
nữa, vứt đi cũng chẳng sao! Tóm lại, chúng ta
học Phật, phải thành tâm khẩn thiết,
sám hối niệm Phật, th́ mới có thể được
Phật, Bồ Tát linh cảm. Nếu chẳng thể đạt
được linh cảm, là v́ chẳng khẩn thiết
sám hối, hoặc ḷng tham cầu, hoặc do nghiệp
chướng đời chướng quá sâu mà ra. Nếu có
thể dùng tâm kiền thành lễ kính Bồ Tát, nhất
định là có thể chuyện lớn hóa thành chuyện
nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành vô sự. Chư vị
đă là đệ tử quy y Tam Bảo, phải hiểu rơ
nhân quả ba đời, nắm vững thời kỳ chẳng
tự do này, đúng là cơ hội tốt để tu tŕ
niệm Phật, đúng như pháp sư Phật giáo bế
quan, thời khắc chẳng quên niệm Phật, cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới th́ mới
là chỗ quy túc vĩnh viễn vui sướng!
10. Chết rồi sống
lại
Thích Vong Ngôn ghi
Hồ
Trạch Phạm ở Dư Diêu, c̣n có tên tự là Thắng
Nguyệt, từng biên soạn bộ Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải Thích do Phật
Học Thư Cục lưu thông đến một vạn
mấy ngàn bộ, công đức rất lớn. Chiều
ngày Ba Mươi tháng Bảy năm Nhâm Thân, tức năm
Dân Quốc 21 (1932), con gái bé của ông tên là Nguyệt Chiêu,
chỉ mới bốn tuổi, bỗng nhiên mắt trợn
tṛng, mũi nghẹt, mặt xanh tái, môi đen bầm, thở
kḥ khè, ứa rớt dăi rồi chết ngất. Cậy
răng đổ thuốc, nó chẳng thể nuốt xuống,
cả nhà hoảng loạn. Lúc ấy, Hồ Trạch Phạm
bỗng ngộ ra hôm ấy là thánh đản của Địa
Tạng Bồ Tát, bèn vội đối trước thánh tượng,
xót xa cầu gia bị. Cầu nguyện vừa xong, bỗng
nghe cả nhà hoan hô, bé gái đă thở được, mừng
nó sống lại. Lại cho uống thuốc, nó cũng nuốt
xuống được, chẳng bao lâu liền b́nh phục.
Thích Vong Ngôn ghi.
(Người
biên soạn nhận định: Theo Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Thoại của pháp sư
Trúc Ma, “xét ra, trong tập Địa Tạng Linh Cảm Cận
Văn Lục, chép bốn câu chuyện do Thích Vong Ngôn ghi lại,
đây là một chuyện. Vong Ngôn tức là biệt danh của
Hoằng Nhất luật sư. Luật sư chẳng nói dối,
chuyện này đáng nên tin tưởng”).
11. Bệnh trầm kha
được lành
Thích Vong Ngôn ghi
Tỳ-kheo-ni
Quán Nguyện người xứ Hải Trừng, tỉnh
Phước Kiến. Cha bà là bậc tiên liệt thời Dân
Quốc, từng hy sinh v́ quốc nạn tại Quảng
Châu. Quán Nguyện xuất gia tại núi Cửu Hoa, về
sau, sống tại Áo Môn (Macau). Năm Nhâm Thân (1932), ni sư
đến Hạ Môn (Amoy) học tập giới luật.
Năm sau, liền bị đau bao tử, ăn không nổi
một bát cháo. Bệnh tật rề rề cả nửa
năm, trải trọn đủ mọi nỗi thống
khổ! Thuốc Bắc lẫn thuốc Tây đều vô hiệu.
Một hôm do đọc bài Địa Tạng Bồ Tát
Thánh Đức Đại Quan của sa-môn Hoằng Nhất,
thấy đầu cuốn sách ấy vẽ thánh tượng
trang nghiêm, sanh tâm hết sức hoan hỷ. Do vậy, tùy sức
sắm hương, hoa, trái cây, cúng dường thánh tượng,
cung kính chiêm ngưỡng, lễ bái. Suốt bảy ngày không
nói, sám hối, lấy một b́nh nước sạch đặt
trước thánh tượng, ngày đêm thầm niệm
thánh hiệu. Sáng sớm hôm sau bèn uống một chén tịnh
thủy ấy. Không lâu sau, đă có thể ăn một bát
cơm. Nửa tháng sau, bệnh khỏi hẳn. Thích Vong Ngôn
ghi.
12. Mắt có tật lại
được phục hồi
Huệ Châu ghi
Cư
sĩ Đào Hy Tuyền từng làm huyện trưởng huyện
Hàng, nay ở đường Cự Lại Đạt (Rue
Ratard) tại Thượng Hải, đă tin Phật từ
xưa, thờ phụng Địa Tạng Đại
Sĩ càng kiền thành. Trong nhà có điện thờ Phật.
Mẹ ông họ Đoan Mộc, cũng hằng ngày tŕ thánh
hiệu Di Đà. Người đầy tớ là Thạch
Văn Khanh bị bệnh mắt đă lâu, một hôm bỗng
lành. Ông Đào thấy người ấy khỏi bệnh
quá nhanh, lấy làm lạ, gạn hỏi. Họ Thạch
đáp: “Con mộng thấy mẹ niệm Phật trong
Phật đường. Do con bị bệnh mắt đă
lâu chẳng lành, dạy con lấy nước cúng trước
tượng Địa Tạng Đại Sĩ rửa mắt,
cảm thấy hết sức thanh lương. Tỉnh mộng,
con dụi mắt th́ căn bệnh đă hết rồi”.
Cư sĩ than rằng: “Bồ Tát thệ nguyện hoằng
thâm, bi tâm cứu khổ, làm đấng đại y
vương, tin chắc chẳng hư dối!” Đấy
là chuyện trong tháng Mười Một năm Dân Quốc
22 (1933), cư sĩ đích thân kể lại với Huệ
Châu; do vậy bèn ghi ngay lại.
18. Tạo tượng
linh cảm
La Viễn Diệu ghi
Tiên
mẫu là Lư Thái Phu Nhân, từ sau sáu mươi tuổi, mỗi
tiết Đông, hai chân đều tê cứng, đau nhức,
chẳng tiện đi lại, qua Xuân tự lành. Năm Dân
Quốc 12 (1923), mẹ tôi sáu mươi chín tuổi, bắp
chân đau càng nặng, rên rỉ nằm bẹp trên giường
hơn một tháng, chữa trị chẳng thấy bớt.
Viễn Diệu chỉ biết hằng ngày lễ tụng
kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện để
xin Ngài rủ ḷng từ gia hộ. Một hôm, tụng đến
phẩm Như Lai Tán Thán: “Hoặc thủ bệnh nhân khả
ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối, trang viên, xá
trạch, đối bệnh nhân tiền, cao thanh xướng
ngôn, ngă mỗ giáp đẳng, vị thị bệnh
nhân đối kinh tượng tiền, xả chư đẳng
vật, hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo
Phật, Bồ Tát h́nh tượng” (Hoặc lấy
vật mà bệnh nhân yêu thích, hoặc là quần áo, vật
báu, trang trại, vườn tược, nhà cửa, đối
trước bệnh nhân, lớn tiếng xướng rằng:
“Con tên là… v́ bệnh nhân này, đối trước kinh tượng,
bỏ các thứ vật để cúng dường kinh,
tượng, hoặc tạo h́nh tượng Phật, Bồ
Tát”), bèn dường như vỡ lẽ! Tụng xong, đối
trước Phật phát nguyện, v́ mẹ tạo tượng
Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n chạy đến
thưa với mẹ. Mẹ vui mừng nói: “Bệnh không ǵ
chẳng phải là nghiệp, cần phải cậy vào Phật
từ gia bị. Nay con phát nguyện tạo tượng, thật
hợp ư mẹ. Mẹ được bà ngoại con cho một
viên châu tinh ṛng, tṛn trịa, tươi sáng. Mẹ v́ nhớ
bà ngoại, hết sức quư trọng. Nay đem châu ấy
cúng dường Bồ Tát có được hay không?”
Tôi
bèn cậy vị thầy tạc tượng nổi tiếng
ở Bắc B́nh (Bắc Kinh) là ông Cảnh Sơn
theo đúng pháp tạc tượng bằng cốt đồng,
thếp vàng. Viên châu đem khảm vào giữa hai mày để
tượng trưng cho bạch hào. Hai mươi ngày sau,
tượng tạc thành. Ông Cảnh đưa tới,
tướng hảo trang nghiêm, từ bi hoan hỷ. Ông Cảnh
nói kể từ khi tạc tượng tới nay, đă có
chuyện chưa từng có. Viên Diệu vội vàng thưa
với mẹ. Mẹ nghe xong, lập tức hết đau,
tự bước xuống giường, vào Phật
đường, đảnh lễ, quỳ lạy như kẻ
chẳng bị bệnh. Đấy chính là bệnh lâu ngày mà
nhanh chóng dứt hẳn. Người thấy, kẻ nghe,
đều than Bồ Tát từ bi cảm ứng nhanh chóng chẳng
thể nghĩ bàn! Do vậy, tôi trước sau cậy ông Cảnh
tạo tượng Bồ Tát hơn mấy chục bức.
Mẹ tôi vốn ăn chay trường niệm Phật; từ
đấy, càng thêm tinh tấn, đi lại c̣n nhanh nhẹn
hơn trước. Cho tới ngày Hai Mươi Mốt
tháng Chạp năm Dân Quốc 18 (1929), lúc cụ bảy
mươi lăm tuổi, bèn niệm Phật về Tây. La
Viễn Diệu ở huyện Bảo Tĩnh, tỉnh Hồ
Nam kính ghi.
19. Bụng trướng
mau hết
Châu văn Hoán ghi
Vào
mùa Hạ, Văn Hoán quảy tráp sang Tô Châu, mắc chứng
bệnh sốt rét khá nguy kịch. Sau khi lành bệnh, bụng
bị căng trướng, thuốc thang vô hiệu. Do một
mực tin tưởng Phật pháp, nghĩ Địa Tạng
Bồ Tát có đại nguyện lực, có thể cứu bạt
tội khổ, bèn chí tâm sám hối, đảnh lễ, và
phát nguyện kiền thành tụng kinh Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện ba mươi bộ, in tặng một
trăm quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích
Linh Cảm Lục để báo đáp từ ân trong một
phần ức. Phát nguyện ấy rồi, do ngày hôm ấy
tiết trời nóng bức, bèn mặc quần ngắn nằm
ngủ, bỗng thấy khắp thân sảng khoái, bèn ngủ
say. Sáng sớm hôm sau, tỉnh giấc, bụng xẹp dần,
lại biết đói. Chẳng đầy ba ngày, bệnh
trướng hoàn toàn tiêu mất như chưa hề bị
bệnh, hoan hỷ tán thán đúng là chưa từng có.
Do
vậy nghĩ tới ḷng từ bi của Đại
Sĩ, cảm ân khôn cùng! V́ thế, gởi thư kể khắp,
để chứng nghiệm sự linh dị. Chỉ mong
chúng sanh trong cơi đại thiên đều được
hưởng cam lộ, cùng ngưỡng nhờ sự giáo
hóa của Phật, quạt gió Từ để dứt tội
nghiệp, hóa lửa bừng thành mát mẻ. Đấy là
điều tôi mong mỏi. Những điều được
kể trong bài này toàn là những ǵ tôi đích thân từng trải,
tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tháng Sáu năm Dân Quốc
22 (1933), Châu Văn Hoán ở nhà số 8, ngơ Đông Ngôn Tử
tại Thường Thục kính thuật.
15. Địa Tạng
Bồ Tát Linh Cảm Kư (ghi chép chuyện linh
cảm của Địa Tạng Bồ Tát)
Pháp sư Chử Vân soạn
Lần
ấy, tôi giảng kinh Địa Tạng tại Đại
Nguyện Đài thuộc Địa Tạng Điện ở
Gia Nghĩa vào năm Dân Quốc 51 (1962), nghe nói ngôi chùa ấy
đă có lịch sử ba trăm lẻ hai năm. Thuở
trước, đă có người về Hoa Lục triều
bái núi Cửu Hoa ở tỉnh An Huy, cung thỉnh một bức
thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát trở về,
dựng chùa thờ phụng. Mấy trăm năm qua,
hương khói không ngừng, những chuyện cảm ứng
linh dị cũng rất nhiều. Trong số đó, có một
chuyện rất cảm động, người viết
xin ghi lại như sau:
Chuyện
xảy ra cách đây một trăm năm trước. Có một
người tên là Lâm Đăng Chương, ở một
nơi cách làng Gia Nghĩa mười mấy dặm
đường, là người công chánh, nhưng bất hạnh
bị kẻ gian vu cáo, hăm hại bị bắt
lên quan, tống vào tù. Vợ ông Lâm v́ thấy chồng hàm oan
ngồi tù, trong nhà lại thanh bần, nghèo nàn, bôn ba khắp
nơi, cậy người cứu giúp, tiêu sạch tất cả tiền bạc
trong nhà, vẫn chẳng thể cứu chồng thoát ngục.
Về sau, bà biết nhất định phải tốn bốn
mươi lượng bạc đút lót cho quan trên th́ mới có thể chuộc tội cho chồng. Trong
lúc vạn phần bất đắc dĩ, bà Lâm chỉ
đành cắn răng, dứt ruột đem đứa con
duy nhất bán lấy bốn mươi lạng bạc
để chuộc chồng. Gă c̣ mồi lại lấy
hai ba lượng làm lệ phí môi giới, chỉ c̣n lại
ba mươi bảy lượng, có thể chuộc chồng
ra hay không, vẫn chẳng biết được! Đồng
thời, mỗi lần vào trại giam thăm chồng,
đều bị bọn coi ngục chửi bới, làm khó
dễ, mục đích là muốn chẹt tiền. Bọn
chúng nói: “Dựa vào núi th́ ăn sản vật trong núi, dựa
vào nước th́ ăn sản vật trong nước”.
Đúng vậy! Tới chỗ
quan quyền, vào nha môn, có lư mà không có tiền sẽ chẳng thể
tiến vào, xưa nay đều như vậy! Bà Lâm mỗi
lần đều phải tươi cười, nói ngọt,
lại c̣n phải biếu xén đôi chút; nếu không, đừng
mơ vào được. “Diêm vương dễ gặp,
tiểu quỷ khó chơi”. Lần này, đến nộp
bạc chuộc chồng, đương nhiên chẳng phải
là ngoại lệ. Khi đó, nhà tù ở ngay đường
lớn, cũng là ở ngay nơi đường Ngô
Phượng hiện thời. Bà mua một ít cau gần
đó, để làm chút quà mọn biếu xén lũ canh tù.
Nào ngờ, lúc móc tiền mua cau, khi gói cau lại,
đánh rơi ba mươi bảy lạng bạc chuộc
chồng mà chính ḿnh chẳng biết. Tới khi nộp bạc
cho quan, phát hiện túi bạc đă mất, tḥ tay lục lọi
cả buổi chẳng lấy ra được, sợ tới
mức mặt không c̣n chút máu, bối rối đến
nỗi khóc không ra tiếng! Bán đi đứa con yêu quư
độc nhất, những tưởng có thể chuộc
chồng về, nay đánh mất bạc, chồng chẳng
thể ra khỏi tù được, chính ḿnh cũng chỉ
có con đường chết! Bà ta c̣n chưa chết, vẫn
chưa nản ḷng, lại men theo đường t́m kiếm,
vạn nhất chẳng t́m được bạc, chỉ
c̣n con đường tự sát!
Phố
vải trong thành Gia Nghĩa nay là đường Quang Minh, có
một cái miếu thờ Thổ Địa Công. Có một
người ăn mày tên là Từ Lương
Tứ sống nơi đó. Ông ta không chỉ bần hàn, chẳng có nhà cửa, mà c̣n bị
tàn phế từ thuở lọt ḷng. Đôi chân tê liệt,
chẳng thể đi lại, phải dùng mông lết trên mặt đất để di chuyển.
Ban ngày xin ăn sống qua ngày trên đường phố,
buổi tối bèn lấy miếu Thổ Địa làm nhà.
Hôm đó, khi ông ta đang xin ăn trên đường phố,
từ xa thấy một nữ nhân đang mua cau ở sạp
trầu cau, vội vă bỏ đi, đánh rơi túi bạc
xuống đất. Ông ta lết tới
trước, nhặt lấy túi bạc, vốn muốn
đuổi theo đưa trả cho người ta. Hiềm
rằng chính ḿnh chẳng thể đi được, gọi
ầm lên, bà ta cũng chẳng nghe! Ông ta mở túi bạc ra
đếm, có ba mươi bảy lượng bạc.
Người ăn mày trông thấy bạc trắng xóa
như thế, hoảng hồn, mà cũng chẳng nẩy
sanh cái tâm thấy tiền bèn nổi máu tham; ngược lại, cảm
thấy người nữ ấy dáng vẻ vội vàng, chắc
chắn là có chuyện ǵ lớn lao, chẳng thể tùy tiện
lấy bạc đi. Vạn nhất bà ta trở về t́m
chẳng thấy bạc, có thể sẽ tự sát, ta phải
ở đây chờ bà ta trở lại. Cứ một mực
đợi, đợi rất lâu, mới thấy một phụ nữ mặt đầy
vẻ lo lắng, chạy tới ḍm đông ngó tây trên
đường, dường như đang kiếm vật
chi đó. Ông ta biết là nguời mất của đang t́m
kiếm, bèn sà đến, dùng tay kéo chéo áo bà ta. Bà ta tưởng
người ăn mày xin tiền, bực bội, lớn tiếng
quát: “Ta đang vội muốn chết, c̣n chỗ nào có tiền
cho ngươi! Hăy mau tránh ra để ta c̣n t́m đồ bị
mất”.
Ḷng
tốt của Từ Lương Tứ bị coi thường,
ông ta vẫn nhẹ giọng hỏi: “Bà ơi! Làm rơi ǵ
thế? Hốt hoảng như vậy, hăy nói xem, không
chừng tôi biết”. Câu ấy gọi tỉnh bà ta từ
tay tử thần quay về. Bà ta kinh hỷ nói:
“Thật à?” Ông ta đáp: “Đương nhiên là thật! Tôi
nhặt được món đồ. Nếu bà nói đúng,
tôi sẽ giao cho bà”. Bà ta vội vàng nói: “Tôi đánh mất một
cái bao vải, trong đó có ba mươi bảy lạng bạc.
Đó là tiền tôi bán con. Chồng tôi bị người ta
vu cáo hăm hại, phải ngồi tù. Cần phải có bốn
mươi lượng bạc th́ mới có thể chuộc
tội. Bất đắc dĩ bán con chuộc chồng, gă c̣ mồi lấy ba
lượng, tôi c̣n lo lắng chẳng đủ bạc,
nào ngờ đánh mất ở đây. Như vậy th́ chồng
tôi chẳng thể ra khỏi tù, con tôi cũng bán rồi!
Người lẫn của đều chẳng c̣n, tôi chỉ
c̣n đường tự sát!” Dứt lời, khóc rống
không ngừng.
Lúc
ấy, có mấy người hảo tâm t́m đến hỏi
nọ, hỏi kia, Từ Lương Tứ chẳng nghi ngờ
mảy may, nói: “Bà đừng nên khổ sở, tôi nhặt
được bạc do bà đánh rơi khi mua cau. Do tôi
không đi được, đuổi theo không kịp, gọi
th́ bà cũng chẳng nghe thấy, cho nên ở đây chờ
bà trở lại. Hiện thời, bạc ở
trong này, bà đếm thử xem”. Người ăn mày giao
bạc ra, lặng lẽ bỏ đi. Ba Lâm t́m
lại số bạc đă mất, vui mừng quá đỗi,
đâm ra quên khuấy người ăn mày, ngay cả tên họ
người ta cũng quên hỏi, vội
vàng đến nha môn nộp tiền. Viên quan mới biết
là tiền bán con, người ăn mày nghèo khổ lại
thấy của mà chẳng mê muội, chúng ta làm sao có thể
mê muội lương tâm đ̣i tiền bán con của
người ta? V́ thế, thiên lương
phát hiện, cảm khái thả chồng bà ta ra, chẳng cần
tiền chuộc nữa! Do nghĩa cử của người
ăn mày, nên mới khiến cho kẻ làm quan bị cảm
động! Sau khi Lâm Đăng Chương ra khỏi
tù, biết đứa con đă bị bán đi. Trừ ba
lượng bạc cho gă c̣ mồi, c̣n phải mời khách,
biếu quà, tiêu tốn không ít, lại c̣n t́m người
ăn mày, nhưng cũng
chẳng biết ở đâu. Về sau, ông ta bèn mở một
tiệm bán ngũ kim[3]
ở phố bán vải để kiếm sống.
Lại
nói, Từ Lương Tứ trở về miếu Thổ
Địa ngủ một đêm, hôm sau là tiết Thanh Minh,
bèn ṃ ra Đông Quách Phiền Gian, tức là chỗ nghĩa
địa công cộng ở ngoài thành để xin bánh hồng
quy[4]
từ những người đến tế mộ tổ
tiên. Do đường xa mắc mưa, về trễ, lết
theo đường chậm chạp, khi tới cửa
thành, cửa thành đă đóng từ lâu (khi đó Gia
Nghĩa có bốn cửa thành). Bất đắc dĩ, phải
đến miếu Địa Tạng Bồ Tát gần
đó ở ngoài thành để tá túc (hiện thời là
địa chỉ số 81 đường Dân Quyền), khẩn
cầu ông từ giữ miếu từ bi cho nghỉ nhờ một đêm trước
đại điện thờ Phật. Ông từ coi miếu
nhận biết người ăn mày họ Từ, cũng
cho nghỉ nhờ. Nhưng ông từ coi miếu ngủ
đến nửa đêm, bỗng nghe trong đại điện
có tiếng kêu gào thảm thiết như quỷ tru, rất
giống như có người đang giết ông Từ, kêu
khổ không ngớt. Ông từ coi miếu nghĩ họ Từ
nổi bệnh thần kinh, quở mắng hai lần, vẫn
không im, bị ông ta ồn ào cả đêm không yên giấc, tức
giận khôn cùng! Sáng sớm hôm sau thức dậy, ông từ tính đuổi
người ăn mày họ Từ đi, thấy hắn
đang ngủ say, bèn lôi hắn từ trong mộng tỉnh
dậy, chửi: “Ngươi v́ sao đêm không chịu ngủ,
mà kêu gào như quỷ tru?” Người ăn mày họ Từ
sau khi giật ḿnh tỉnh giấc bèn nhảy dựng lên, đứng phắt dậy,
chính ḿnh cũng chẳng biết, bước tới trước
mặt ông từ coi miếu. Tới lúc đó, đâm ra ông từ
coi miếu hoảng sợ tới mức lùi lại mấy
bước, sững sờ: “Sao gă bại liệt này ngủ
qua một đêm lại có thể đi đứng tự
nhiên?” Hỏi ra, nguyên lai, Từ Lương Tứ ban đêm ngủ trước thánh tượng của
Địa Tạng Bồ Tát, trong mộng thấy Bồ
Tát sai hai tiểu quỷ, một cao, một lùn. Một quỷ
th́ ôm chặt lấy phần thân trên của ông ta, quỷ
kia th́ nắm hai cái chân liệt mà kéo mạnh, đau đến
nỗi ông ta kêu thảm thiết không ngừng. Nhưng hai
tiểu quỷ ấy mặc kệ ông ta gào thảm thiết
cỡ nào, vẫn không ngừng tăng thêm sức mạnh
kéo thẳng hai chân tàn phế của ông ta, đau đến
nỗi ông ta ngất lịm đi. Sau đấy, chẳng
biết sao lại ngủ mất. “Hiện thời, tôi
cũng chẳng biết đôi chân tàn tật này nghiễm
nhiên giống như chân mọi người b́nh thường”.
Do đó, c̣n sung sướng hơn lúc nhặt được
bạc hôm qua. Ông từ trông miếu thấy kỳ tích xuất
hiện như vậy, đương nhiên chẳng thể
mắng hắn nữa, lại c̣n vui sướng theo hắn.
Bản thân, hắn cũng biết là Địa Tạng Bồ
Tát hiển linh, chữa trị tàn tật cho ḿnh, đảnh
lễ trước tượng Địa Tạng Bồ
Tát, cảm kích tuôn lệ, mọp thân lễ bái, lạy
côm cốp mấy lần!
Người
ăn mày họ Từ sau khi hết tàn tật, rất nhiều
người chúc mừng ông ta. Nhưng ông ta do vậy, dấy
lên phiền năo: Lúc tàn tật th́ c̣n
có thể ăn xin sống qua ngày. Nay đă hết tàn tật
rồi, không thể đi ăn xin trên phố để sống
qua ngày, nhất định phải tự lực cánh sanh; nhưng
ông ta là một gă ăn mày nghèo túng, ngoài ăn xin ra, làm thế
nào để giải quyết vấn đề cơm áo, chỗ ở đây? Buôn bán th́
chẳng có tiền vốn. Rốt cuộc vẫn là từ
không có cách nào, nghĩ ra một cách: Dùng mấy đồng
bên ḿnh mua hai cái thùng nước, gánh nước thuê để kiếm sống.
Thời ấy, chưa có nước
máy, các gia đ́nh giàu có đều kêu người đổi
nước, [tức là trả công cho người ấy] hằng
ngày gánh nước đến. Từ Lương Tứ từ
ăn mày biến thành người đổi nước.
Lâm
Đăng Chương sau khi ra khỏi tù, biết chuyện
vợ làm rơi bạc, người ăn mày nhặt
được chẳng giữ rịt làm của riêng, cũng từng t́m kiếm vị ân nhân cứu mạng
ấy, nhưng ngay cả tên họ cũng chẳng biết,
chẳng thể t́m kiếm. Lúc đó, họ sống ở
vùng quê rất xa, đương nhiên chẳng biết chỗ
ở của người ăn mày. V́ thế, đối với
chuyện chẳng biết tên họ của ân nhân, chẳng
có cách nào báo đáp, cứ canh cánh trong ḷng. Hai ba năm sau,
việc buôn bán nơi tiệm ngũ kim của nhà họ Lâm
càng làm càng phát đạt, cái tâm tưởng niệm ân nhân
cũng càng ngày càng tăng. Có một hôm, nhà họ Lâm kêu Từ
Lương Tứ đưa nước đến. Lâm
Đăng Chương chưa hề gặp mặt họ
Từ Lương Tứ, ân nhân ở ngay trước mắt
vẫn không nhận biết. Khi đó, nữ quyến không
ra khỏi cửa cho mấy. Hễ có nam nhân đến, nữ
nhân lẩn tránh, không ra khỏi cửa
pḥng. V́ thế, mấy năm trôi qua, vẫn t́m không thấy
vị ân nhân ăn mày đó. Vừa lúc Từ Lương Tứ
đưa nước đến nhà bếp, trong lúc vô t́nh,
bà Lâm trông thấy, rất đỗi kinh ngạc: “Diện
mạo người này giống ân nhân như đúc, có phải
là ông ta hay không? Chẳng phải! Tuyệt đối chẳng
phải! Ông ta là người bị liệt, chẳng thể
đi lại. Nhưng v́ sao người này giống ông ta
đến thế?” Bà Lâm tự hỏi, tự đáp, hoài
nghi chẳng dám quyết đoán liên tiếp mấy ngày. Bà
đem chuyện này kể với chồng: “Cái người
gánh nước ấy có diện mạo giống hệt vị
ân nhân, cùng một khuôn mặt, chẳng biết v́ sao chẳng
phải là người bị liệt, mà đi gánh nước!
Sáng mai, ông mời ông ta vào hỏi han cặn kẽ, xem thử
là chuyện như thế nào!”
Ngày
hôm sau, Từ Lương Tứ vẫn đưa nước
đến. Lâm Đăng Chương đặc biệt mời
ông ta ngồi xuống dùng trà. Sau đó, hỏi
han tên họ, hỏi trước khi gánh nước th́ làm
chuyện ǵ, trong nhà c̣n có ai. Từ Lương Tứ
cũng chẳng giấu diếm ǵ, nói thật: “Nói ra rất
xấu hổ! Ba năm trước tôi không thể gánh
nước, thậm chí c̣n chẳng thể đi lại.
Nhiều năm bị tê liệt, lê lết trên mặt đất.
Khi đó, chỉ lần theo từng nhà xin ăn. Sau đấy,
vào tiết Thanh Minh năm đó, đêm ngủ tại miếu
Địa Tạng Bồ Tát, mộng thấy Bồ Tát sai
hai tiểu quỷ chữa trị thương tật cho
tôi. Từ đấy về sau hết tàn tật, bèn lấy
chuyện gánh nước để tự lập kiếm sống”.
Lúc đó, bà Lâm từ trong pḥng đi ra, nắm tay chồng,
song song quỳ trước mặt họ Từ, thưa:
“Ân nhân! Hăy nhận của vợ chồng chúng tôi một lạy”.
Trước hết, họ không nói rơ mọi chuyện, cứ
song song lạy xuống, khiến Từ Lương Tứ
sợ hết hồn, hai tay vẫy liên tục, không ngừng
lùi lại. Sau khi vợ chồng ông Lâm nói rơ mọi chuyện,
mới biết chuyện xảy ra vào tiết Thanh Minh ba
năm trước. Lúc ấy, cũng biết do làm chuyện
tốt nên cảm động Địa Tạng Bồ Tát
hiển linh trị lành tàn tật. Đúng là vừa kinh ngạc,
vừa mừng rỡ. Họ ngồi lại chuyện tṛ một
hồi, ông Từ tính cáo lui, nhưng vợ chồng họ
Lâm bất luận như thế nào cũng không chịu
để cho ông ta đi.
Vợ
chồng họ Lâm rất thành khẩn thưa với Từ
Lương Tứ: “Lúc đó, ân công đă cứu vợ chồng
chúng tôi. Đương nhiên là Ngài chẳng nghĩ thi ân cầu
báo, nhưng chúng tôi là người cảm nhận ân huệ,
chẳng thể nghĩ như vậy. Ngài là người chẳng
có nhà cửa, chẳng có vợ con, trong tiệm chúng tôi cần
người giúp. Ngài hăy ở lại đây, coi như
người nhà của chính ḿnh vậy!” Từ đó về
sau, Từ Lương Tứ cũng chẳng đổi
nước nữa, sống trong tiệm ngũ kim của
nhà họ Lâm, giúp họ buôn bán. Chẳng đầy mấy
năm, họ Lâm không chỉ buôn bán thịnh vượng,
mà c̣n tậu chẳng ít đất đai, ruộng
nương, cũng từng mấy lần muốn cưới
vợ cho Từ Lương Tứ, nhưng ông ta đều
cự tuyệt, chẳng đồng ư. Lâm tiên sinh biết
ông ta là người bộc trực, nói một, chẳng nói
hai, chỉ đành thuận theo tự nhiên.
Mấy
năm sau, Lâm Đăng Chương nhận được
thư của chú, hối ông ta trở về quê nhà ở Quảng
Đông để kế thừa tổ nghiệp. Hai
vợ chồng quyết định trở về Quảng
Đông kế thừa tổ nghiệp, tài sản nơi này
do Từ Lương Tứ toàn quyền quản lư, cũng
không dám nói rơ là tặng cho ông ta. Chỉ nói là xin ông ta quản
lư thay, muốn làm cho ông ta tin tưởng là không lâu sau họ
sẽ trở về. Nếu không, ông Từ lại chẳng
chịu tiếp quản. Từ Lương Tứ vẫn mong đợi vợ chồng họ Lâm quay lại, nhưng họ vẫn một mực chẳng trở về.
Mấy năm sau, họ gởi thơ, tỏ rơ tâm ư: Họ
phải kế thừa tổ nghiệp, sẽ chẳng trở
lại, dâng tặng cho ông Từ toàn bộ hết thảy
tài sản, khuyên ông nên sớm có ngày cưới vợ, lập gia
đ́nh. Nhưng Từ Lương Tứ vẫn không lấy
vợ, lại c̣n suốt đời chẳng cưới hỏi,
vẫn tự cho ḿnh là người quản lư tài sản cho
Lâm Đăng Chương. Về sau, Từ Lương Tứ
di chúc đem toàn bộ pḥng ốc tại phường vải
thí cho miếu Thổ Địa để cảm tạ ân
huệ nhiều năm nương nhờ khi cùng khổ.
Lúc c̣n sống, mỗi dịp mùng Một, ngày Rằm, ông ta
đều ra miếu Địa Tạng ngoài thành để
lễ kính Địa Tạng Bồ Tát, cảm tạ ân Bồ
Tát trị tàn tật. Nghe nói, sau khi ông ta chết đi, c̣n
có sáu mươi cuộc đất thuộc hạng nhất
do chánh quyền sở tại tiếp nhận.
Hai
họ Từ và Lâm, một đằng là thi ân chẳng cầu
báo, một đằng nhất định có ơn phải
báo đáp, đều đáng cho người đời sau
noi gương và sùng kính. Khó trách những người thuộc
thế hệ trước ở Gia Nghĩa hễ nhắc
tới chuyện này đều là “bia miệng” bàn luận
sôi nổi. Nghe nói các nghị viên cấp tỉnh ở Gia
Nghĩa như Hà Mậu Thủ v.v… Xuân Thu hai quư đều
đến bái tế trước linh vị của họ Từ
và họ Lâm, kính ngưỡng thái độ làm người
của họ. Người viết từng v́ chuyện này
mà cùng cư sĩ Trần Tư Khánh đích thân đến
y viện tư nhân tại đường Quang Minh xem bài vị
của hai họ Từ và Lâm, c̣n có tượng của Thổ
Địa Công thời đó, lại c̣n viếng địa
điểm miếu Thổ Địa nơi người
ăn mày họ Từ nương nhờ thuở đó. Hàng
xóm hai bên đều biết người viết đặc
biệt tới hỏi han chuyện này, đều vui vẻ
tự động kể về quá khứ của hai ông Từ
và Lâm. Chuyện này cho thấy ngoài sự linh dị của
Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n xiển
dương sự thiện lương nơi nhân tánh, đều
có hữu ích cho ḷng người trong xă hội. V́ thế,
tôi vui vẻ ghi lại.
16. Phật quang soi
đường
Pháp sư Hống Lương ghi
Vạn
Thọ Đường pháp vụ thịnh vượng,
thường là sau khi pháp hội kết thúc, phải sắp
xếp hết thảy lại như cũ. Khi quay về am
Đại Từ, sắc trời đă tối đen từ
lâu. Vùng núi có khá nhiều rắn, sợ thấy không rơ, sẽ
đạp lầm phải rắn. Do vậy, mỗi lần
trên đường về am Đại Từ, hai thầy
tỳ-kheo Ḥa và Đoan luôn niệm ra tiếng: “Địa
Tạng Vương Bồ Tát! Địa Tạng
Vương Bồ Tát!” mong cho các “anh rắn” nghe thánh hiệu
của Bồ Tát, sẽ biết nhanh chóng lẩn tránh, để
khỏi bị đạp trúng, khiến chúng nó bị
thương, ta lẫn ngươi đều chẳng
thương tổn lẫn nhau. Ngày mồng Sáu tháng Mười,
bắt đầu từ hai giờ chiều, làm đàn tràng
Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự. Sau khi pháp hội
kết thúc viên măn, sau khi đă sắp xếp hết thảy
các thứ, đă gần đến bảy giờ tối,
bên ngoài đen kịt, giơ bàn tay ra
chẳng thấy rơ năm ngón. Đèn đường lại
chẳng sáng, bốn phía đều tối hù chẳng có ánh
sáng. Hôm nay lại phải ṃ mẫm trở về trong bóng tối.
Hai người hiểu rơ nhưng không nói ra, rất cẩn
thận đi về, như giẫm trên băng mỏng, chẳng
dám tùy ư đặt chân. Hai người dấn ḿnh vào bóng
đêm mênh mông, bốn phía lặng như tờ. Gió đêm
thổi nhẹ, cành trúc lay động. Tiếng trúc, tiếng
bước chân, tiếng niệm Phật, từng tiếng
lọt vào tai.
Vừa
đi, thầy Đoan lơ đăng nói: “Địa Tạng
Vương Bồ Tát, xin Ngài từ bi cho chúng con một chút
quang minh”. Nói xong, lập tức nghe “bộp” một tiếng,
đèn soi cả đường sáng bừng lên! Ôi! Hai
người chẳng hẹn mà giống nhau, vừa kinh ngạc,
vừa vui mừng reo lên: “Cảm ơn Địa Tạng
Vương Bồ Tát! Cám ơn Địa Tạng
Vương Bồ Tát!” Chúng tôi nhanh chân bước trên con
đường hẹp quanh co, lúc vừa thấp thoáng trông thấy đèn của Triều
Sơn Hội Quán th́ ngay lúc đó, toàn thể đèn
đường lại “bộp” một tiếng tắt phụt.
Tôi kinh ngạc quay đầu ngó lại, thấy con
đường ṃn lại ch́m vào
bóng tối, mới giật ḿnh, ngộ ra ánh sáng soi
đường đúng lúc khi năy nào có phải là đèn
đường, mà là Phật quang! Đúng như trong phẩm
thứ mười hai, tức phẩm Kiến Văn Lợi
Ích trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
đă chép: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, hoặc
nhân trị sanh, hoặc nhân công tư, hoặc nhân sanh tử,
hoặc nhân cấp sự, nhập sơn lâm trung, quá độ
hà hải, năi cập đại thủy, hoặc kinh hiểm
đạo, thị nhân tiên đương niệm Địa
Tạng Bồ Tát danh vạn biến, sở quá thổ
địa, quỷ thần vệ hộ, hành, trụ, tọa,
ngọa, vĩnh bảo an lạc” (Thiện nam tử,
thiện nữ nhân, hoặc do mưu sinh, hoặc v́ việc
công chuyện tư, hoặc do sanh tử, hoặc do chuyện
gấp, vào trong rừng núi, vượt qua sông biển, cho
đến nước lớn, hoặc đi qua đường
hiểm. Người ấy trước hết hăy nên niệm
danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát một vạn biến,
nơi cuộc đất đi qua, quỷ thần hộ vệ,
đi, đứng, nằm, ngồi, vĩnh viễn giữ
được an lạc). Quả nhiên chẳng giả,
Địa Tạng Bồ Tát từ bi rộng lớn, cứu
giúp, che chở hết thảy chúng sanh, Ngài độ
sanh mà cũng độ tử, “địa ngục chẳng
trống, thề chẳng thành Phật”, tùy thời hiển
hiện bên cạnh chúng sanh. Do vậy, khi các vị nhân giả
đọc bài viết về chuyện linh dị của
Ngài xong, mong hăy tŕ niệm thánh hiệu “Nam-mô đại
nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát” nhiều
hơn. Khi quư vị gặp nạn, từ quang của Bồ
Tát nhất định sẽ chiếu rọi quư vị, ban
cho quư vị quang minh, b́nh an!
17. Địa Tạng
Bồ Tát linh dị kư
Khâu Hoa Sanh ghi
Trong
thời đại bánh xe đă chuyển động đến
mức thám hiểm không gian, ai nấy đều dùng khoa học
để tự huyễn hoặc; nếu c̣n có ai bàn đến
tín ngưỡng, hoặc nhắc đến linh cảm chi
đó, chắc chắn sẽ có kẻ quở “ngươi
lạc hậu, mê tín”, thậm chí bị gán cái mác “thủ cựu
tiên sinh”. Nhưng khoa học thật sự có thể giải
quyết vấn đề nhân sanh ư? Nhân loại chỉ
cậy vào khoa học mà có thể sống ư? Con người
chẳng phải là máy móc, không thể nào chỉ ứng dụng
nguyên lư khoa học, buộc họ chiếu theo pháp tắc
và quy luật chuyển động nhất định! Trải
qua cuộc sống này và những tao ngộ trong đời
người thật sự quá vi diệu, rất chẳng
thể suy lường, cứ dựa cứng ngắc vào
định lư khoa học, sẽ khó thể t́m được
câu trả lời. Do vậy, bất luận thời đại
diễn biến như thế nào, tín ngưỡng tôn giáo vẫn
chiếm phần quan trọng trong cuộc sống của
nhân loại, mà chúng ta cũng chẳng thể phủ nhận
sự tích linh cảm của Bồ Tát được! Nay
tôi muốn trần thuật một câu chuyện xảy ra
trong mấy năm gần đây, là sự thật do chính
tôi trải qua. Chúng ta có thể từ câu chuyện chẳng
thể nghĩ bàn này mà đại lược thấy phần
nào thần lực vĩ đại của Bồ Tát,
cũng như sức tín ngưỡng chẳng thể suy
lường để tiến tới phát khởi đại
tín nguyện, cung kính lễ bái, tăng phước, khai huệ,
sớm chứng Bồ Đề.
Thôn
Tự Do thuộc làng Ḥa B́nh, huyện Đài Trung là một
vùng quê ở miền núi. Cư dân đại đa số là
đồng bào Cao Sơn[5].
Trong vùng núi thẳm rừng rậm ấy, sừng sững một
ngôi miếu thờ Địa Tạng Bồ Tát, tăng
thêm đôi chút cảnh sắc cho vùng núi cao đơn điệu,
cũng rất hiếm thấy. Nói đến nguồn gốc
của ṭa miếu vũ ấy, đúng là chuyện
khiến cho mọi người phải thương tâm ứa
lệ. Mùa Xuân năm Dân Quốc 16 (1927), đúng lúc trăm
hoa đua nở, muôn tía ngh́n hồng, chẳng ngờ trận
dịch Cốt Thống Nhiệt (tên y học là Dengue fever,
sốt xuất huyết) nổ ra, hoành hành tại vùng núi
làng Ḥa B́nh. Ở chỗ hiện thời được gọi
là khu bộ lạc Trúc Lâm thuộc thôn Tự
Do, gần như diệt vong toàn bộ, nam giới chỉ
có một người may mắn thoát nạn là tiên sinh Ngô
Thiên Sanh (người vùng núi) nay đă bốn mươi bảy
tuổi, đang sống tại thôn Tự Do. Để siêu
độ các vong linh chết v́ ôn dịch, lúc ấy, đặc
biệt khởi xướng kiến lập một ṭa miếu
thờ Địa Tạng, tạc một tôn tượng
Địa Tạng Bồ Tát cao ba thước. Vào ngày
Mười Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 16, thỉnh một
vị Tăng gốc Nhật là Đại Dă Phượng
Châu, trụ tŕ chùa Đài Trung thuộc tông Tào Động,
long trọng cử hành pháp hội khai quang. Từ đấy, dưới sự che chở
của Bồ Tát, vùng hương thôn núi non ấy dần dần
khôi phục nguyên khí, dần dần phồn vinh.
Thời
gian trôi qua rất mau, đảo báu trở về ṿng tay của
Tổ Quốc, đồng bào vùng núi được chánh phủ
đặc biệt ưu đăi, lại c̣n tự cố gắng,
cuộc sống càng thêm an định. Nhưng mấy
năm trước, tôn giáo của phương Tây bỏ ra
vốn liếng vật chất to lớn, dùng bột ḿ, quần
áo cũ hướng đến đồng bào miền núi dụ
dỗ cải đạo. Đồng bào miền núi chẳng
chống nổi chiến thuật dụ dỗ này, kết
quả là hoàn toàn phất cờ đầu hàng làm con chiên của
Thượng Đế. Ṭa Địa Tạng Miếu theo
thời gian cũng kèo mục, cột nghiêng, lung lay sắp
đổ. Lúc đó, có những người sống ở
b́nh nguyên thuộc vùng đất ấy (dân đồng
bằng dời vào vùng núi canh tác) là anh em Ngô Thịnh
Kim, Ngô Sĩ Quân, Ngô Sĩ Thành, Ngô Sĩ Quân[6], kiên quyết khởi
xướng trùng tu ṭa miếu cũ, gom tiền được
gần một vạn đồng, chưa đầy một
năm, đă khôi phục lại ngôi miếu như cũ.
Điển lễ lạc thành trùng tu ấn định vào
ngày mồng Năm tháng Tám năm Dân Quốc 51 (1962), họ
đặc biệt đến chùa Thụ Tuyền ở
thôn Trúc Sâm, làng Đồng La, thuộc huyện Miêu Lật,
thỉnh các cư sĩ có thể làm pháp hội đến
đó cử hành pháp hội lạc thành. Các nhân viên Phật
sự do lăo tiên sinh Hoàng Đỉnh Hoa đă tám mươi
mấy tuổi hướng dẫn, cùng với Trần A
Hán, Lại Nhân Phú, Khâu A Khô, Lại Tú Phước, Khâu Thủy
Khôn, Lại Thôn Thượng, Lại Điền Phước
(những vị trên đây đều đang sống tại
làng Đồng La), Lê Mộc Thịnh, Khâu Sanh Sơ, Hồ
Diễm Quang (ba vị trên đây hiện sống tại
làng Tam Nghĩa). Một đoàn
mười mấy người hăm hở tiến đến
làng Tự Do, tôi cũng lạm dự vào số đó, gia
nhập hàng ngũ của họ.
Sau
khi pháp hội viên măn vào ngày hôm đó, nghỉ trọ một
đêm, dự định sáng mai (tức ngày Sáu tháng Tám) sẽ
trở về làng. Nào có biết ban đêm cuồng phong gào
thét (nổi băo lốc Đài Phong), mưa như trút. Ngày hôm
sau thức dậy, thấy khắp
nơi nước mênh mông, núi lở, đất sụp,
giao thông bị đoạn tuyệt, các nơi trong cả tỉnh
[Đài Loan] bị thiệt hại nặng nề. Lúc ấy,
mấy bận tính trèo non lội suối lần ḍ quay về,
nhưng khắp nơi cầu bè bị cuốn trôi, nửa
bước khó dời, đành phải gởi thân trong miếu
Địa Tạng, mong ngóng t́nh huống ngày hôm sau có thể
chuyển biến tốt đẹp hơn. Sáng hôm mồng
Bảy thức dậy, nước lụt vẫn chưa rút,
sắc mặt mọi người đều lo rầu, ngó
nhau chẳng nói, chẳng biết làm như thế nào cho tốt?
Chẳng lâu sau, mọi người đến trước
tượng Địa Tạng Bồ Tát (ngày đó tục
gọi là “đăng vị ngày thứ ba”) khẩn cầu Bồ Tát từ bi gia hộ, khiến cho chúng tôi có thể
b́nh an lên đường về nhà. Sau khi cầu nguyện,
đoàn chúng tôi liền bắt đầu cuộc lữ
tŕnh gian khổ. Cách miếu Địa Tạng chẳng xa
có chiếc cầu Ô Thạch Khanh, một đầu đê
chắn đă bị nước lụt xói ṃn hơn mười
mấy mét. Trừ phi dùng cách nối tre lồ ồ để
tạo thành chiếc cầu tạm thời, đừng
ḥng mơ tưởng đi qua được. Trong đám,
có người bơi lội giỏi, xuống bơi thử,
mới biết nước sâu gần một mét, nước
lại chảy xiết. [Muốn qua sông], phải vượt
một đoạn sông mười mấy mét, chẳng phải
là chuyện dễ. Kết quả là vẫn lui trở lại,
nh́n nước than thở. Lúc này, người tiếp
đăi chúng tôi là tiên sinh Ngô Thịnh Kim đă chặt tre lồ
ồ, chuẩn bị bắc cầu tạm thời
cho chúng tôi đi qua. Đúng lúc ấy, chúng tôi chẳng hẹn
nhau, cùng ngồi xuống thầm niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát bao nhiêu câu đó. Kể ra cũng rất
lạ, chẳng đầy hai mươi phút, nước
nhanh chóng rút xuống: Từ một mét nước, rút xuống chỉ
c̣n chừng ba mươi cm. Mọi người nh́n t́nh
h́nh, thấy chẳng c̣n nguy hiểm nữa, đều lũ lượt xuống nước
vượt sông. Tôi d́u Hoàng lăo bá hơn tám mươi tuổi
qua sông cuối cùng. Kỳ quái là khi tôi qua được nửa
sông, bỗng cảm thấy mực nước bắt
đầu dâng lên. Phía sau tôi, từ Thiên Cẩu (địa
danh) c̣n có bảy tám người, lại c̣n có vợ chồng
họ Vinh cũng theo chúng tôi vượt sông. Sau khi mọi
người b́nh an qua sông, cũng chẳng quay lại coi
nước có tiếp tục dâng lên hay không. Mặt khác, khi
nhóm Ngô tiên sinh chặt tre lồ ồ, chuyển đến
bờ sông, đă không thấy chúng tôi nữa. Nước vẫn
lớn b́nh thường, v́ sao chúng tôi có thể vượt
qua? Sau đấy mới biết khi chúng tôi qua sông chẳng
lâu, lúc nhóm Ngô tiên sinh đến bờ sông, nước sông đă dâng lên sâu y hệt như nửa giờ trước.
Đấy là chuyện kỳ lạ cỡ nào khiến cho kẻ
khác khó thể tin tưởng!
Kinh
Phật nói Bồ Tát dùng đủ loại thần lực
cứu chúng sanh khổ nạn. Thủy tai là một trong các
thứ đại tai nạn của nhân gian, nếu có thể
chí tâm xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát, ắt
được giải thoát. Lần này do sự đích thân
trải nghiệm của chính ḿnh, chứng minh Phật ngữ
chẳng hư vọng. Ngoại trừ tăng cường
tín tâm, kiền thành lễ bái để báo đáp hồng
ân, kính mong những ai đọc bài văn vụng về này,
cũng sanh khởi cái tâm tín nguyện, mọi người
đều cùng nghĩ tới thánh hiệu “nam-mô đại
nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát” có
nguyện lực rộng lớn, có cầu ắt ứng.
18. Kỳ tích trên
đường tới suối vàng
Truyền Nguyệt ghi
Ngày
nay, hễ thuận tay mở báo ra, luôn là chẳng tránh khỏi
thấy các tin tức tai nạn xe cộ lớn nhỏ. Thậm
chí cũng có người thấy thảm trạng máu thịt
văng tứ tung, thân và đầu khác chỗ! Hai ngày
trước, cũng tức là ngày Hai Mươi Hai tháng
Chín, Trung Quốc Thời Báo đăng tải tin một phụ
nữ do từng chính mắt thấy thảm trạng
tai nạn xe cộ, khiến cho tinh thần phân liệt, bỏ
nhà trốn đi. Có thể thấy tai hại to lớn do
tai nạn giao thông vậy! Dưới đây, tôi viết lại một sự kiện có thật kỳ
lạ: Xe bị hủy hoàn toàn, nhưng người chẳng
bị thương vong. Đâm ra lọt lưới tin tức
(tối thiểu là tôi không thấy phóng viên tin tức
đăng báo chuyện này), quư vị có tin tưởng hay
không? Trên thế giới, thật sự
có chuyện chẳng nghĩ bàn!
Trời
nắng gắt mấy ngày liền, khiến cho thành phố
Đài Bắc bắt buộc phải cúp nước từng
khu vực cách ngày. Ban ngày, dưới ánh nắng gay gắt, mọi
người mồ hôi đẫm lưng, gần như thở
không nổi. Đường nhựa hầu như cũng
bị hun nóng đến nỗi nhựa đường
nhũn ra. Chiều ngày Mười Tám tháng Tám, đột
nhiên trời đổ một trận mưa ngọt,
mưa lớn dần, từ thưa thớt đến dày
đặc. Tiếp đó, sấm chớp loang loáng, dường
như cả vạn con ngựa chạy lồng. Mọi
người đối với trận mưa to này đều
tỏ vẻ vui mừng, lũ trẻ nhỏ thậm chí
hoa chân múa tay trong cơn mưa lớn ấy! Ước chừng
hai giờ mười lăm phút vào buổi chiều, bà Châu
Vương Thu Cúc cưỡi chiếc xe gắn máy Linh Mộc (Suzuki) 80 phân khối,
chở một túi to các sản phẩm tăng lực cho
người tập thể h́nh (gymer), chuẩn bị giao tận
nhà những người đặt hàng. Trên đường,
gặp ngay trận mưa to như trút này. Xe chạy đến
chỗ giao nhau giữa đường Trung Hoa và Thành
Đô, nhằm lúc đèn xanh, đương nhiên là bà ta có
thể chạy thẳng một lèo qua đường Trung
Hoa, nhưng một chiếc xe bus thuộc công ty xe bus Chỉ
Nam từ sau lưng bà ta phóng vù tới, muốn quẹo phải
sang đường Thành Đô, khi xe bus quẹo cua, “rầm” một tiếng, đụng cả người lẫn xe [của bà
Châu] đổ lăn quay. Kế đó, bà ta bị cuốn vào gầm xe bus, các sản phẩm
tăng lực rơi tung tóe ra đất. Bà ta tự
nghĩ ḿnh chẳng c̣n thể nào sống qua đận này!
Cũng
chẳng biết chuyện ǵ xảy ra, trong sát-na bị cuốn
vào gầm xe bus, bà chỉ cảm thấy một luồng
hơi nóng bao phủ toàn thân. Sau khi bị xe bus lôi đi vài thước,
bà nghe người trên đường gào to, kêu tài xế dừng
xe lại, cũng nhận thấy chính ḿnh nằm dưới
gầm xe, bánh xe trước ở ngay phía sau ḿnh. Bà nằm trên mặt đất, hơi nghiêng đầu,
thấy bánh xe sau c̣n đang lăn trên mặt đường
ướt sũng, sẽ hướng đến nghiền
nát chính ḿnh, trong ḷng bà ta hết sức sợ hăi! Nói th́ chậm,
chứ khi đó rất nhanh, đại khái là tài xế nghe
tiếng người đi đường quát tháo, phát hiện
t́nh huống không đúng, lập tức khẩn cấp dừng
xe. Lúc đó, bà ta nghe tiếng người đi đường
kêu lên sợ hăi. Đồng thời, bánh xe sau xe bus vừa
cán lên chiếc xe gắn máy của bà, chỉ kém một giây
nữa thôi là đầu và thân bà đă khác chỗ rồi!
A Di Đà Phật! Tài xế vội vàng xuống xe, tḥ tay vào
dưới gầm xe, toan kéo bà ta ra, hiềm rằng thân xe bus cách mặt đường chẳng quá một mét, mà
trên người bà Châu c̣n có chiếc xe gắn máy tám
mươi phân khối, tốn công sức rất lớn, vẫn
không kéo bà ta ra được. Lạ thật, cuốn vào th́
được, cớ sao lôi ra chẳng được! Tài
xế gấp gáp đến độ đầu đầy
mồ hôi, mạng người to bằng trời! Bà Châu cảm
thấy chân đau đớn, nghĩ chân đă bị xe cán
đứt rồi, rên hừ
hừ, nhưng đầu óc bà vẫn c̣n rất tỉnh
táo. Có người hướng vào gầm xe hỏi han, bà
cho số điện thoại doanh nghiệp sản phẩm
tăng lực ở khu Cổ Đ́nh, nhờ họ báo tin
cho người phụ trách đến. Trong chốc lát, hành
khách trên xe đều xuống xe, có khoảng chừng
mười nam nhân chia nhau vây quanh bốn phía hợp sức
nâng thân xe lên, ngoài ra c̣n có bốn nam nhân khác rất cẩn
thận khởi động máy xe, rồi lại nâng bà ta
lên, đem tài xế cùng đi, ngồi tắc-xi, đưa
đến pḥng cấp cứu của Đài Đại Y Viện.
Sau
đó, theo đồng nghiệp của bà ta kể lại:
Sau khi bà ta được đưa đến bệnh viện,
nhân viên thuộc đội cảnh sát giao thông đến
hiện trường, phân cục cảnh sát cũng đến.
Khi họ thấy chiếc xe máy bị đâm tan hoang, móp
méo, sắt thép rơi rụng lả tả, đă buồn
bă lắc đầu nói: “Có thể là mất mạng, mà có
khi chỉ c̣n nửa cái mạng”. Nói xong, họ cũng chạy
tới bệnh viện. Kế đó, lại có hai vị cảnh
sát giao thông đo đạc, vẽ lại hiện trường.
Cảnh sát hỏi người soát vé khi xe bus quẹo phải
có huưt c̣i hay không. Người soát vé vẻ mặt như
đang khóc tang, đáp: “Có thổi”. Cảnh sát lớn tiếng
quở trách: “Đă huưt c̣i, sao người và xe máy lại lọt
dưới gầm xe cho được?” Tài xế nói tiếng
mưa quá lớn, chẳng nghe có thổi c̣i hay không? Tóm lại,
ai cũng chẳng dám nhận trách nhiệm về nhân mạng.
Cuối cùng người soát vé bị cảnh sát chất vấn
nghiêm khắc, trong ḷng lại sợ hăi, bèn ̣a khóc trước
mặt mọi người.
Tại
pḥng Cấp Cứu của Đài Đại Y Viện, bà
Châu trên người chẳng có một tí vết thương
nào. Cảnh sát ghi biên bản hỏi bà: “Bà có biết xe ǵ
đụng bà hay không?” Bà ta đáp: “Biết. Xe của hăng
Chỉ Nam”. Cảnh sát an tâm cười: “Hoàn hảo, năo
không bị chấn động”. Bà Châu hỏi cảnh sát:
“Xe của tôi ra sao?” Cảnh sát nói: “Bà c̣n hỏi xe nữa
à? Bà đúng là may mắn, mạng lớn lắm!” Sau khi bác sĩ thực hiện các trắc nghiệm, kiểm
tra toàn thân, chứng thực không tổn hại ǵ, đưa bà
ta về nhà. Trải qua ba ngày quan sát, quả thật không bị
phản ứng chấn động năo, bà ta an tâm. Chỉ
nghĩ đến chuyện chiếc xe gắn máy bị
nghiền biến dạng, nhưng chính ḿnh rốt cuộc lại b́nh an vô sự,
ngay cả trầy da cũng chẳng có, thật sự cảm
thấy chẳng thể nghĩ bàn! Ngoại trừ cảm
tạ toàn bộ các vị hành khách đă dốc hết sức
cứu giúp trong cơn mưa to và người qua đường,
càng cảm tạ sâu đậm Địa Tạng Bồ
Tát đă ngấm ngầm che chở.
V́
cảm tạ Bồ Tát che chở, bà Châu đến nhà chúng
tôi. Sau cơm chiều ngày Hai Mươi Mốt tháng Tám, bố
chồng tôi nghe bà Châu gọi điện thoại hỏi Phật
đường trong nhà tôi có thờ thánh tượng của
Địa Tạng Bồ Tát hay không, nói chốc nữa, bà
ta sẽ đến lạy Bồ Tát. Bố chồng tôi hỏi
nguyên do, bà chỉ kể sơ lược chuyện gặp
tai nạn xe, chẳng bị thương. Trước hết,
cám ơn bố chồng tôi đă tặng cho bà ta thánh tượng
Địa Tạng Bồ Tát. Đại khái là tám giờ
rưỡi, Châu tiên sinh dùng một cái xe gắn máy khác chở
bà ta đến, c̣n cầm theo nho, xoài, giấy vàng bạc.
Bố chồng tôi bảo lễ kính Phật, Bồ Tát chẳng
cần phải đốt vàng bạc, chỉ cần kiền
thành cung kính là được rồi. Sau khi mọi người
ngồi xuống, bà Châu kể cho chúng tôi nghe chuyện gặp
phải. Nghe kể xong, chúng tôi đều mở to mắt
nh́n thân thể của bà ta, quả thật một vết
trầy nhỏ cũng chẳng có! Nếu chẳng có bà ta “hiện
thân thuyết pháp”, thật đúng là khó khiến cho kẻ
khác tin tưởng!
Bà
ta kể bố chồng tôi đă tặng một bức
tượng Địa Tạng Bồ Tát nhỏ để
đeo trên người, bà cảm thấy Bồ Tát ở
bên thân, chuyện xấu ǵ cũng đều chẳng dám
làm. Mỗi lần cưỡi xe ra khỏi cửa, lúc nào
cũng đều cảm thấy Địa Tạng Bồ
Tát ở trong tâm, nội tâm sanh khởi cảm giác an toàn
không chi lớn bằng! Tai nạn xe cộ lần này, bà ta
thật sự được Bồ Tát che chở. Bố
chồng tôi bảo bà ta: Đó là do nguyện lực từ
bi của Bồ Tát, khuyên bà ta về sau hăy làm việc thiện
nhiều hơn, niệm thánh hiệu Địa Tạng cho
nhiều. Nguyện lực của Địa Tạng Bồ
Tát thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do bà ta là một
người chưa hề tiếp xúc kinh Phật, mà
cũng chẳng hiểu biết Phật lư cho lắm (vợ
chồng họ là bạn uống trà của bố chồng
tôi. Ngẫu nhiên bố chồng tôi cũng kể cho họ
nghe các câu chuyện trong kinh Phật, khuyên đừng sát
sanh v.v…), cũng được Bồ Tát che chở, cho thấy
tinh thần “vô duyên đại từ, đồng thể
đại bi” của Bồ Tát.
Trong
kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Hư
Không Tạng Bồ Tát hỏi đức Phật: “Vị
lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện
nữ nhân, năi cập nhất thiết thiên, long văn thử
kinh điển, cập Địa Tạng danh tự, hoặc
chiêm lễ h́nh tượng, đắc kỷ chủng
phước lợi?” (Trong đời vị lai, nếu
có thiện nam tử, thiện nữ nhân, cùng với hết
thảy trời rồng nghe kinh điển này và danh hiệu
Địa Tạng, hoặc chiêm lễ h́nh tượng, sẽ
được mấy thứ phước lợi?) Đức
Phật bảo Hư Không Tạng Bồ Tát: “Nhược
vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ
nhân kiến Địa Tạng h́nh tượng, cập
văn thử kinh, năi chí độc tụng, hương hoa,
ẩm thực, y phục, trân bảo, bố thí, cúng dường,
tán thán, chiêm lễ, đắc nhị thập bát chủng lợi
ích: Nhất giả, thiên long hộ niệm, nhị giả,
thiện quả nhật tăng… Thập giả, thần quỷ
trợ tŕ… Thập cửu giả, chư hoạnh tiêu diệt.
Nhị thập giả, nghiệp đạo vĩnh trừ”
(Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện
nữ nhân, thấy h́nh tượng Địa Tạng và
nghe kinh này, cho đến đọc tụng, dùng
hương hoa, thức ăn, y phục, trân bảo để
bố thí, cúng dường, tán thán chiêm lễ, sẽ đạt
được hai mươi tám thứ lợi ích: Một
là trời rồng hộ niệm, hai là thiện quả ngày
một tăng… Mười là thần quỷ giúp đỡ…
Mười chín là các tai nạn bất ngờ bị tiêu diệt.
Hai mươi là nghiệp đạo vĩnh viễn trừ
diệt). Bố chồng tôi luôn thích tặng tượng Phật
để kết duyên với người khác; chẳng ngờ
một bức thánh tượng Địa Tạng bé xíu như
thế, lại nghiễm nhiên phát sanh oai lực to dường
ấy. Ngoài tán thán thần lực oai đức chẳng thể
nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát ra, xảo hợp
như thế nào đi nữa, cũng không thể gặp
tai nạn xe cộ mà chẳng bị tổn thương mảy
may như thế được?
19. Phật, Bồ Tát
và tôi
Lương Mỹ Hoa ghi
Kết
hôn đă gần tám năm, tôi cùng chồng sanh một trai, một
gái, con gái hoạt bát, con trai trầm tĩnh. Mỗi khi tôi
nh́n đứa con trắng nơn, sẽ bất giác nhớ lại
tai nạn xe cộ phát sanh vào năm trước. Ngày Hai
Mươi Chín tháng Bảy Âm Lịch, cũng chính là trước
ngày khánh đản Địa Tạng Vương Bồ
Tát một hôm, tôi cùng chồng và đứa con gái bốn tuổi,
cùng với một người bạn ở Gia Nghĩa,
cùng ngồi ở phía trước một chiếc xe vận
tải nhỏ do chồng tôi
lái từ Đẩu Nam đến trạm xe lửa Đẩu
Lục. Nhà tôi lái xe luôn cẩn thận, kỹ lưỡng, nhưng ngày
đó do sợ bị kẹt đường v́ chuyến xe lửa
bốn giờ chiều; do đó, anh ta đặc biệt nhấn
ga vọt nhanh hơn. Chẳng ngờ xe chạy đến
cầu Ba Tiêu ở Đẩu Lục, xe đằng trước
đột nhiên chạy chậm lại. Chồng tôi nhất
thời sơ ư, thắng gấp xe, mũi xe hơi chếch
về bên trái, tông vào đuôi chiếc xe truck đối diện,
khiến cho đầu xe chúng tôi biến dạng, c̣n bị
xe truck lôi đi một đoạn. Trước tiên là đụng
ngă các hộp cơm trong xe, đó là cơm hộp do tôi chuẩn
bị cho mọi người. Ngay sau đó là chấn động
mạnh mẽ sau khi bị tông. Trong khoảnh khắc mắt
nh́n rợn người ấy, quả thật rất khó dự
đoán người trong xe sẽ như thế nào! Dân cư bên
đường đă cho rằng chúng tôi ắt “dữ
nhiều, lành ít”, v́ nơi ấy thường xuyên xảy
ra chuyện không may, không chết th́ cũng bị
thương!
Xe
truck ngừng lại, xe chúng tôi tự nhiên cũng dừng lại
theo. Ngừng xe giữa đường, trong xe chúng tôi ngó
nhau, chỉ có đầu tôi và chân bị va chạm nhẹ,
chứ con gái, chồng tôi, và người bạn toàn thân
hoàn hảo. Tôi khi đó đang mang thai đến tháng thứ
tám. Trong khi nhà tôi mở cửa xe méo mó, cong quẹo ra, chúng
tôi nối đuôi nhau bước xuống. Các cư dân thật
sự đổ mồ hôi lạnh thay cho chúng tôi, thấy
chúng tôi chẳng bị tổn hại ǵ, rất ngạc
nhiên, hỏi: “Đầu xe bị đụng bẹp lép
như thế, sao quư vị có thể may mắn thoát nạn?”
Lại thấy tôi bụng to phè phè, họ càng thập phần
lo lắng cho tôi. Chúng tôi trăm miệng một lời, trả
lời họ: “V́ chúng tôi thường niệm Phật” (bạn
tôi tŕ chú Đại Bi, tôi và chồng th́ tŕ Tâm Kinh và thánh hiệu
A Di Đà Phật, ngay cả con gái tôi cũng niệm theo
tôi). Trong khoảnh khắc cấp bách, tâm tôi lập tức
hét lớn: “A Di Đà Phật!” Khẩn cầu chư Phật,
Bồ Tát bảo vệ, gia hộ, cho nên tôi tin tưởng chắc chắn: Chúng tôi b́nh an, nhất
định là do Phật, Bồ Tát gia tŕ. V́ để bảo
đảm thai nhi trong bụng b́nh an hay không, tôi đến
khoa phụ sản thuộc bệnh viện tỉnh lập
Đẩu Lục gần đó để kiểm tra. Bác
sĩ phụ khoa sau khi cẩn thận dùng sóng siêu âm kiểm
tra, đă bảo tôi: “Chúc mừng chị! Thai nhi rất khỏe
(b́nh thường), lại c̣n là một thằng nhóc”. Lúc ấy,
tôi mới hết lo. Sau đó, bố chồng tôi biết
chúng tôi xảy ra chuyện, vội t́m đến chỗ xảy
ra tai nạn, trông thấy cái xe tanh bành, lại chẳng thấy
chúng tôi, sợ tới mức mặt lăo nhân gia tái mét, tự
nghĩ chẳng phải là tai nạn bi thảm ư? Măi cho
đến khi chồng tôi êm đẹp xuất hiện
trước mặt cụ, lăo nhân gia mới nhẹ nhơm thở
phào!
Mấy
hôm trước khi gặp chuyện không may, mắt trái tôi
giật đùng đùng, đă là điềm báo chẳng lành
rồi. Nào ngờ, mấy hôm sau đúng là xảy ra chuyện,
mà tôi cũng lại gặp chuyện nghiêm trọng nhất
trong các chuyện chẳng nghiêm trọng. Ngày hôm đó, cố
tránh xe lửa v́ mục đích đến chùa Nông Thiền ở
Đài Bắc tham dự lễ khánh đản Địa Tạng
Vương Bồ Tát, mà cũng là lễ xuất gia của
hai vị sư phụ Quả Huy và Quả
Thuần, cũng chắc
là do chúng tôi chẳng có phước khí! Nếu không, chắc
là tôi làm sai chuyện ǵ ở đó, mới khiến cho tôi
không thể tham dự. Khi xảy ra tai nạn xe cộ, cớ
sao mấy hộp đựng thức ăn bị đụng nát đầu tiên,
văng tung tóe ra đất, mà chúng tôi đều b́nh an vô sự?
Nghĩ lại trước sau, vốn có bốn hộp đựng
thức ăn, hai hộp chay, hai hộp mặn. Nhà tôi
và con gái ăn mặn, cho nên tôi chuẩn bị như thế.
Có lẽ đúng là chư thiên và thần
hộ pháp cảnh cáo tôi, tôi đă thọ tại gia Bồ
Tát Giới, mà chẳng chú trọng các quy củ trong Phật
giáo cho lắm, lại càng chẳng câu nệ h́nh thức.
Trước khi đến lễ bái chùa, miếu, thân tâm phải
thanh tịnh, tốt nhất là có thể ăn chay trước
đó ba ngày, khiết tịnh thân thể th́ mới là lễ
tắc cung kính đối với Phật, Bồ Tát. Đă
được giáo hóa như vậy, khiến tôi chẳng
dám hành xử qua loa nữa! Mọi sự đều chiếu
theo quy củ.
Sau
hơn một tháng gặp chuyện không may, tôi quả thật
sanh được một bé trai, bộ dạng khá trắng
trẻo, thanh tú. Sau khi bé được sanh, cổ rất
có sức, tự động xoay chuyển. Ở đây, tôi
ắt cần phải đặc biệt cảm tạ thầy
Quả Thuần và chị tôi. Nếu không phải do họ
từ bi trợ niệm kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện cho tôi, chỉ sợ con tôi đă sớm chẳng
c̣n nơi nhân thế. Sau khi kết hôn, tôi sanh được một gái. Sau đó, mỗi năm
đều mang thai, nhưng hai lần đều chẳng
b́nh an. Do vậy,
cũng
tạo thành thói quen sanh non, khiến cho tôi gần
như chẳng có dũng khí tính sanh con
nữa. Măi cho đến năm trước, tôi cùng chị
tới
tham dự Phật
Thất tại chùa Nông Thiền ở Đài Bắc.
Ngày Phật Thất viên măn, tôi quỳ trước Phật,
khẩn cầu Phật, Bồ Tát ban cho tôi một quư tử,
lại c̣n có thể sanh nở thuận lợi, b́nh an. Quả
nhiên, Phật, Bồ Tát thật sự thỏa nguyện cho
tôi. Trở về không lâu sau, tôi đích xác lại mang thai.
Có lẽ nghiệp chướng của tôi quá nặng, khiến
cho tôi chẳng được b́nh an. Mang thai đến
tháng thứ hai, tôi lại bắt đầu
có hiện tượng sản đạo xuất huyết.
Càng thêm tai hại là đồ ăn ǵ cũng chẳng thể nuốt nổi,
thân thể càng thêm mất sức. Hễ đi lại bèn
chóng mặt, hoa mắt,
đúng là bấy bớt không chịu nổi một kích! V́
thế, bác sĩ đề nghị lấy đứa nhỏ
ra. Nếu không, tôi sẽ suốt đời nằm bẹp
trên giường dưỡng sức, bất cứ
việc nặng nào cũng đều chẳng thể làm.
Con gái cũng chẳng thể ôm nổi. Trời ơi! Ngoài
đứa con đầu ra, những lần mang thai khác
đều là như vậy. Thật sự khiến cho tôi cảm
nhận nghiệp chướng sâu nặng, thường là
khi chúng ta yếu ớt nhất, chẳng có sức chống
đỡ, nghiệp chướng thường hiển hiện.
Chị
tôi ở Cơ Long biết tôi lại sắp sanh non, rất
lo lắng, lại nghĩ không ra nên làm thế nào để
giúp tôi. Th́nh ĺnh một ư nghĩ xẹt ra trong đầu,
chị bèn gọi điện thoại cho tôi kể về
t́nh huống gần đây của Xí Thành (Xí Thành là tục
danh của thầy Quả Thuần. Khi bé là hàng xóm, đều
cùng họ Lương, cho nên t́nh cảm như anh em). V́ t́nh
h́nh của tôi, thầy Quả Thuần đặc biệt
đối trước Phật, hết sức kiền
thành niệm một quyển kinh Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện. Sau này, chị tôi kể lại chuyện
đó qua điện thoại. Nhớ rơ hôm đó là buổi
chiều, tôi vẫn đang suy yếu nằm trên giường,
v́ sợ lạnh cho nên hai cánh cửa sổ đều
đóng chặt. Điều kỳ diệu là đỉnh
đầu của tôi có một luồng gió nhẹ thổi
tới, nhất thời làm cho tôi cảm thấy
thanh lương. Đấy chẳng phải là sự thanh lương
b́nh thường. Tôi nh́n hai cửa sổ đóng chặt,
sao lại có luồng gió mát ấy? Vài ngày sau, chị tôi từ
Cơ Long gọi điện thoại về, hỏi tôi thân
thể có đỡ hơn không? Chị cũng cho tôi biết
đă gọi điện thoại cho thầy Quả Thuần,
thầy đă niệm cho tôi một bộ kinh Địa Tạng.
Nguyên lai luồng gió mát chiều hôm ấy là do họ từ
bi cảm ứng Phật, Bồ Tát gia tŕ cho tôi. Tôi rất
cảm kích hai vị đă giúp đỡ tôi, tôi càng cảm
tạ chư Phật, Bồ Tát bảo vệ và [cảm tạ]
Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi gia tŕ. Do
vậy, tôi liền bắt đầu mỗi ngày tụng một
quyển kinh Địa Tạng. Tới tháng thứ sáu, bèn
phát tâm dùng đất sét tạc một bức pháp tượng
Địa Tạng Vương Bồ Tát, đem phun sơn
vàng mạ để thờ phụng, nh́n thấy rất
trang nghiêm.
Vẻ
trang trọng và tướng mạo của con tôi mười
phần giống như tượng Địa Tạng
Vương Bồ Tát tôi đă đắp nặn. Sau khi nó
sanh ra, lập tức được người trong nhà và
họ hàng yêu thương hết mực. Người không
quen biết vừa gặp nó cũng chẳng chống nổi
sự hấp dẫn từ khí chất của nó, phải
ngắm nghía nó. Trước mắt, chúng tôi đă chuyển
nhà từ Đẩu Nam đến gần Đẩu Lục.
Chồng tôi đă nghỉ việc trước đây, cùng
tôi mở một quán nhỏ bán đồ chay. Tôi phát tâm hễ
sư phụ xuất gia nào đến quán, sẽ đều
nhất loạt cúng dường. Đấy là một chút
t́nh báo đền của chúng tôi đối với Phật
pháp. Trong tương lai, nếu có sức lớn hơn, chỉ
nguyện cả nhà đều có thể nỗ lực tuyên
truyền Phật pháp. Rốt cuộc, trong thời đại
hiện tại, c̣n có ǵ đáng quư hơn Phật pháp?
20. Sanh nở nguy ngập
lại được giữ vẹn tánh mạng
Người đất Tương
ghi
Mùa
Xuân năm Canh Ngọ (1930), vợ tôi có thai. Ba tháng trước
khi sanh, thai bỗng bất động. Cầu thần, xem
bói đều vô hiệu, lại chẳng dám uống thuốc;
nhưng do bụng to, đi lại khó khăn, tâm thường
lo sợ. Lại v́ tôi ăn chay học Phật, nếu có
chuyện bất trắc, càng khiến cho người làng
biếm nhẽ! Nhớ lại mười năm trước,
có một vị Tăng, tiên đoán “vào lúc ba mươi sáu
tuổi, phải cẩn thận đề pḥng sản nạn”,
vừa khéo đúng hệt như lời thầy chiêm tinh bảo
“coi chừng mắc nạn”. Do vậy, nóng ruột muôn phần,
kinh hoàng, sợ hăi chẳng biết cách nào! Một đêm nọ,
vợ tôi hướng về tôi khóc lóc, kể lể. Nghe lời
ấy, tôi càng kinh hăi, chua xót cùng cực! Bỗng nhớ
đến kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
có thể bảo vệ người gặp tai ách về
sanh nở. Nếu có ai hứa nguyện, chí tâm tụng kinh,
tŕ tụng thánh hiệu, ắt được sanh nở
b́nh an. Vừa mới dấy lên ư niệm ấy, tôi liền
cảm thấy tâm thần an vui, khỏe khoắn, như
băng tan ră. Sáng sớm hôm sau, đối trước Phật
tâu tŕnh cặn kẽ. Chẳng ngờ, ngay đêm ấy, vợ
tôi lâm bồn. Thai nhi vẫn thuận chiều sanh ra, nhau
thai cũng theo ra. Nh́n xem, thân thai nhi đă hư nát, sao lại
có thể xoay đầu xuống để thuận chiều
sanh ra? Nếu chẳng phải do sức từ bi cứu khổ
của Bồ Tát, làm sao được như vậy? V́ thế,
tôi thệ nguyện hành Địa Tạng hạnh để
nguyện báo ân Bồ Tát. Những người đồng
bệnh tương lân trong nước, hăy chí thành tŕ tụng
tôn kinh, phóng sanh, kiêng giết, ắt được sanh nở
an khang, lời Phật chẳng hư huyễn. Chính tôi là một
minh chứng vậy!
21. Tụng kinh cảm ứng
Vương
Cẩn ghi
Đối với mọi
người mà nói, có thể là chuyện bé tí chẳng
đáng nhắc tới, nhưng tâm tôi vẫn không nén
được kinh hỷ, hớn hở. V́ hiện thời,
gần đây tôi dọn nhà sang Đào Viên, đối
trước hoàn cảnh mới mẻ, ôm ấp vô hạn
hy vọng và khát khao, mưu tính một cuộc sống mới
tươi sáng, đẹp đẽ. Nào ngờ, sự việc
thường chẳng phải thuận ư như trong tưởng
tượng. Do đổi việc, đúng là hết sức
nhọc ḷng, xin gắn điện thoại cũng phải
chờ đợi khá lâu. Mọi việc chẳng trôi chảy
như thế, khiến cho tôi ngồi mốc meo xó nhà, tâm
t́nh buồn bă tới cực điểm. Do vậy, theo
thường lệ, tôi đến bàn Phật trong nhà để
dâng hương, lễ Phật ba lạy, hướng về
đức Phật nêu rơ tâm sự, mong mỏi tâm trạng
thoải mái hơn. Bỗng dưng một niệm khởi
lên, [nhớ tới] kinh Địa Tạng đă dạy:
“Hữu sự tương cầu, cung kính lễ bái,
tán thán, cập tụng Địa Tạng Kinh, định
hội hữu cảm ứng” (Hễ có chuyện
mong cầu, hăy cung kính, lễ bái, tán thán, và tụng kinh
Địa Tạng, chắc chắn có cảm ứng). Do vậy,
bèn tùy ư thỉnh một bản kinh Địa Tạng,
tĩnh tâm đọc tụng. Tụng xong một quyển,
bèn đứng dậy chắp tay hồi hướng, nguyện
oán thân trái chủ trong bao đời sẽ nhờ vào công
đức ấy mà mau được giải thoát, giúp tôi
ngày sau mọi chuyện hanh thông! Trong khi tôi xá bái, ngưỡng
vọng từ nhan của Bồ Tát, bỗng thấy nén
hương trong lư hương sắp cháy hết,
cuộn thành h́nh trái xoan, có phải là Địa Tạng Bồ
Tát cho tôi cảm ứng đó chăng? Tro hương cuộn thành h́nh trái xoan có phải là biểu
thị điều tôi cầu nguyện sẽ được
viên măn? Chẳng phải! Chớ nên quá chấp trước,
đó là vọng tưởng của chính ḿnh đấy
thôi! Bồ Tát ơi! Con chỉ mong cục Điện Tín sớm
sai người đến gắn điện thoại cho
con là được rồi!
Sáng
hôm kế tiếp, dẫn con gái đến sở y tế
chích ngừa, sau khi về nhà, tôi thấy trước cổng
dán phiếu thông báo, trên đó viết: “Người từ
sở Điện Tín vừa ghé, chủ nhân không có mặt,
hôm sau sẽ đến gắn điện thoại”. Vừa
nhận thấy như vậy, tôi rất vui sướng.
Nhớ ngày hôm qua khấn nguyện, nay chẳng phải là
linh nghiệm ư? Buổi chiều, hàng xóm cho biết, chồng
tôi từ văn pḥng gọi điện thoại cho tôi biết: “Có
nhà trẻ đă chấp nhận thuê tôi, muốn tôi lập
tức đến đó thảo luận một số vấn
đề”.
Đối với tin vui đột ngột này, đúng là chẳng
dám tưởng tượng. Tôi nộp đơn xin làm việc
tại nhà trẻ ấy đă hơn một tháng, chẳng
có tin tức ǵ! Chẳng ngờ đến hiện thời,
họ lại nghiễm nhiên mướn tôi. Đấy chẳng
phải là công đức kỳ diệu do tụng kinh
ư? Ḷng chan chứa niềm vui và cảm tạ, tôi đến
trước Phật đài, cảm tạ Địa Tạng
Vương Bồ Tát và chư Phật gia hộ. Đệ
tử nay được hưởng Phật ân, phát nguyện
từ nay mỗi tháng quyên tiền cứu tế người
nghèo khổ, phóng sanh, giúp in kinh sách nhà Phật, ăn chay
ngày Mồng Một và ngày Rằm mỗi tháng.
22. Ghi chép về sự linh cảm do
đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Lư văn Khải ghi
Đảnh
lễ thập phương tam thế Phật, hết thảy
Bồ Tát Ma Ha Tát; đệ tử Huệ Đằng (pháp
danh) kể từ khi phát tâm đọc tụng kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và niệm thánh hiệu
cho tới nay, đă có sáu chuyện cảm ứng, chưa
dám bộc lộ. Gần đây, do lăo cư sĩ Tạ Chú
Trần ở Đài Nam phát tâm in lại Địa Tạng
Bồ Tát Linh Cảm Lục, lại do cư sĩ Triệu
A Nam gởi thư, dặn bảo ghi lại sáu câu chuyện
linh cảm ḥng tạo lợi ích cho người đời.
Văn Khải tự biết chướng sâu, huệ cạn,
học vấn sơ sài, kiến thức thô thiển, chẳng
khéo viết lách, không dám nhận lời. Triệu cư
sĩ gởi thư thúc giục lần nữa, chẳng thể
không nể t́nh, cho nên tôi nay đành dùng lời
lẽ quê mùa trần thuật như sau:
Ngày
Ba Mươi tháng Bảy Âm lịch năm Dân Quốc 44
(1955), vào lúc sáng sớm, tôi mộng thấy mẹ tôi dặn
tôi siêu độ cho cụ. Sáng hôm đó, tôi liền đến
chùa Thiện Đạo ở Đài Bắc để tham dự
pháp hội Địa Tạng, theo đại chúng đọc
kinh, tụng niệm thánh hiệu. Sau khi viên măn, kể lại
giấc mộng với bạn bè, được đạo
hữu căn dặn: “Chúng ta muốn cầu siêu cho cha mẹ,
phải phát nguyện tụng kinh Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện”. Tôi liền đối trước
tượng Địa Tạng Bồ Tát, đảnh lễ,
phát nguyện: “Từ hôm nay trở đi, con phát tâm đọc
tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
và thánh hiệu, muốn trong ṿng một tháng, tụng hai
mươi bốn bộ kinh, niệm mười vạn
câu thánh hiệu, đem công đức ấy hồi hướng
cho mẹ”. Chớp mắt đă tới kỳ hạn,
đọc kinh và niệm thánh hiệu đă đều viên
măn, mẹ tôi có đắc độ hay không, chẳng hề
cảm ứng! Tôi biết đời trước ác nghiệp
sâu nặng, chẳng phát đại nguyện th́ sẽ không
được. V́ thế, phát đại nguyện lần
thứ hai như sau: “Kể từ mồng Một tháng Chín
âm lịch năm Dân Quốc 44 (1955) cho tới Ba Mươi
tháng Bảy âm lịch năm Dân Quốc 45 (1956), lại phát
tâm tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
năm trăm bộ, mỗi ngày niệm thánh hiệu một
ngàn câu, và tận lực hành thiện hạnh hộ sanh (bảo
vệ sanh mạng), phóng sanh”. Từ đấy về sau,
bèn ghi chép từng chuyện hằng ngày để đôn
đốc chính ḿnh đừng giải đăi.
Như
trong phẩm Như Lai Tán Thán của kinh Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện đă chép: “Phổ Quảng! Nhữ
dĩ thần lực, khiển thị quyến thuộc,
linh đối chư Phật, Bồ Tát tượng tiền,
chí tâm tự độc thử kinh, hoặc thỉnh nhân
độc, kỳ số tam biến, hoặc chí thất biến.
Như thị ác đạo quyến thuộc, kinh thanh tất
thị biến số, đương đắc giải
thoát” (Này Phổ Quảng! Ông dùng thần lực khiến
cho các quyến thuộc ấy đối trước
tượng chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc
kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc ba
lượt hoặc đến bảy lượt. Quyến
thuộc đang ở trong ác đạo như thế khi tiếng
tụng kinh đủ số, sẽ được
giải thoát). Phẩm thứ mười hai, tức phẩm
Kiến Văn Lợi Ích chép: “Phục thứ Quán Thế
Âm! Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử,
thiện nữ nhân, dục cầu vị lai, hiện tại
bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách thiên vạn
ức đẳng sự, đản đương quy y,
chiêm lễ cúng dường, tán thán Địa Tạng Bồ
Tát h́nh tượng, như thị sở nguyện,
sở cầu, tất đắc thành tựu” (Lại này Quán Thế
Âm! Nếu đời vị lai, có thiện nam tử, thiện
nữ nhân, muốn cầu trăm ngàn vạn ức các nguyện,
trăm ngàn vạn ức các sự trong vị lai hay hiện
tại, chỉ nên quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán
h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, sở nguyện,
sở cầu như thế đều được thành
tựu). Tôi đọc hai phẩm ấy, nước mắt
đầm đ́a. Học Phật quá trễ, đọc
kinh quá muộn, khiến cho cha mẹ, lục thân quyến
thuộc nhiều đời của tôi luân chuyển trong lục
đạo, hứng chịu vô lượng
vô biên nỗi khổ. V́ thế, lại phát đại nguyện
lần thứ ba: “Một, đệ tử Huệ Đằng
kiền thành đọc kinh và niệm thánh hiệu, ngưỡng
cầu nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha
Tát đại từ, đại bi, đại trí, đại
huệ, đại nguyện, đại lực cứu
độ cha mẹ của con trong nhiều đời sớm
thoát ṿng khổ. Cha mẹ hiện tại sớm sanh về
Cực Lạc. Hai, cầu Đại Sĩ gia bị
phước báo, đệ tử sẽ học theo ngôn hạnh
của Bồ Tát, ôm ḷng từ bi, nguyện tiêu hết thảy
ác nghiệp trong đời trước và đời này,
tăng trưởng trí huệ, gặp chuyện cát tường;
cũng cầu cho hai đứa con tiền đồ
thuận lợi”. Sau khi tự phát nguyện, trong ṿng ba bốn
tháng, Đại Sĩ Tự đă lần lượt ban
cho các thứ linh cảm:
1)
Thân thể hèn mọn này từng bị bệnh ngoài da
đă nhiều năm chẳng hết, ngứa ngáy khó chịu,
thuốc men vô hiệu. Sau khi đọc kinh, dần dần
lành bệnh.
2)
Sau khi xí nghiệp kinh doanh của cháu Tường ở
Hương Cảng đóng cửa, con dâu lại bị bệnh,
cháu nó quyết ư đến Đài Loan để t́m việc
khác. Hộ chiếu nhập cảnh đă nhận
được rồi, sắp lên đường, bỗng
nghe thấy một hăng ngoại thương lớn ở
Hương Cảng cần tuyển thêm một nhân viên mới,
cháu may mắn được tuyển dụng, con dâu
cũng lành bệnh.
3)
Cháu Trạch làm việc tại một hăng ngoại quốc
tại Hương Cảng, đồng thời học hàm
thụ tại một đại học Mỹ, đă tốt
nghiệp với chứng chỉ về ngành điện lạnh.
Đúng dịp một xí nghiệp ngoại quốc tại
Hương Cảng tuyển mộ một quản lư viên
điện lạnh, cháu Trạch bèn gởi đơn xin việc,
được giám đốc của hăng gọi đi phỏng
vấn, rốt cuộc được tuyển dụng.
Viên giám đốc c̣n nói: “Có khoảng hơn hai trăm
người có học vấn ưu tú hơn anh, tôi chỉ
tuyển ḿnh anh…” Đấy chẳng phải là do Đại
Sĩ gia bị th́ là ǵ vậy? Cháu Trạch không biết kế
toán, lại do ban quản trị mời kế toán viên cao cấp
dạy suốt ba tuần, điều sang làm việc tại
chi nhánh ở Lưu Cầu (Ryukyu Islands).
Đấy cũng chẳng phải là do sức của
Đại Sĩ ư? Cháu Trạch thầm nghĩ đến
hồng ân của Đại Sĩ, không có ǵ để báo
đáp, cho nên thề hằng ngày đọc kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện suốt đời không
thiếu sót. Ngày Mười Bảy tháng Mười năm
Dân Quốc 45 (1956), đọc năm trăm bộ viên măn,
tôi thầm nghĩ cách nhau mười một ngày, hai cháu
đều có việc làm ổn định, đấy chẳng
phải là do đọc kinh bèn được Đại
Sĩ linh cảm hay sao?
4)
Con dâu tôi là Tĩnh, là sinh viên tốt nghiệp từ đại
học Phục Đán, chưa có việc làm, muốn t́m việc
nhưng chưa được. Kể từ sau khi tôi phát
nguyện đọc kinh, có một hăng buôn nọ tại
Hương Cảng tuyển mộ một nhân viên văn
thư. Lúc đó, [chồng nó là] cháu Tường đă
đi làm, cháu Tĩnh cũng chẳng có ư sốt sắng t́m
việc, do bệnh mới khỏi, liền đến
đó coi người khác tham gia tuyển lựa ra sao cho thỏa
ḷng ṭ ṃ. Nào ngờ người trong hăng cũng trao cho cháu
nó bài thi. Cháu Tĩnh bèn tùy ư viết lách, trong hơn mười
bảy người, cháu được tuyển dụng.
Đại Sĩ gia bị, há có thể nghĩ bàn ư?
5)
Chiều ngày Ba Mươi tháng Giêng năm Dân Quốc 45
(1956), khi đọc kinh, tôi bỗng nghĩ mẹ đă
được giải thoát hay chưa? Bèn đối
trước tượng Đại Sĩ, quỳ gối cầu
nguyện rằng: “Đệ tử Huệ Đằng,
ngưỡng cầu Bồ Tát chỉ dạy mẹ con có
được sanh về Tịnh Độ hay không? Như
trong kinh đă dạy: ‘Chí tâm tự độc thử
kinh, hoặc thỉnh nhân độc, kỳ số tam biến,
hoặc chí thất biến, như thị ác đạo quyến
thuộc, kinh văn tất thị biến số,
đương đắc giải thoát’ (Chí tâm tự
đọc kinh này, hoặc cậy người khác đọc,
số đến ba lượt, hoặc bảy lượt,
quyến thuộc trong ác đạo như thế, sẽ
được giải thoát). Đệ tử đă đọc
kinh này một trăm ba mươi mốt bộ, nhưng
chưa được Đại Sĩ chỉ bảo,
trong tâm hoảng sợ”. Cầu nguyện đến ngày thứ
ba (ngày mồng Hai tháng Hai), vào lúc năm giờ sáng, đang
ngồi nhắm mắt dưỡng thần trên giường,
bỗng nghe tiếng mẹ như thuở c̣n sống gọi
nhũ danh của tôi: “Mau đến đây! mau đến
đây”. Tôi nghe tiếng mẹ, ḷng vui sướng như
điên, nói: “Mẹ đă trở lại! Mẹ đă trở
lại”. Thân tâm cảm nhận vui sướng vô biên, vội
xoay người ra ngoài, t́m đến nơi có tiếng của
mẹ. Bỗng phát hiện một chỗ rộng lớn,
u nhă, tương tự như cảnh tượng của
Di Ḥa Viên[7].
Đường xá bằng phẳng như lưu ly, sáng ngời
như gương, soi bóng một người nữ ăn
vận theo kiểu cung đ́nh, cười với Văn Khải.
Tôi chăm chú nh́n xem là ai, tâm nghĩ người này chắc
là mẹ ḿnh, vội bước nhanh tới, toan đảnh
lễ thỉnh an. Sắp tới gần, cảnh giới
đẹp đẽ hoàn toàn tiêu mất. Nghĩ là mẹ
đă sanh lên trời, hoan hỷ, hớn hở, bừng tỉnh,
vẫn là một giấc mộng. Tuy là cảnh trong mơ,
chẳng phải là Đại Sĩ bi tâm chỉ dạy
ư? Cảm ân vô tận! Hôm sau, gặp lăo pháp sư X… kể
lể giấc mộng, được sư khai thị rằng:
“Mẹ ông sanh thiên chẳng ngờ chi nữa! Nếu sanh về
thế giới Cực Lạc, sẽ hiện h́nh tượng
Bồ Tát”.
6) Vợ
tôi năm nay gần sáu mươi, vẫn chưa có cháu,
trong tâm lo buồn. Tôi lại nghĩ Đại Sĩ
thường linh cảm ban ân, cho nên lại phát nguyện thứ
tư như sau: “Đệ tử Huệ Đằng,
ngưỡng cầu Bồ Tát ban thưởng cháu ngoan”.
Phát ra cái nguyện
ấy vào tháng Ba năm Dân Quốc 45 (1956). Trong tháng Bảy
năm ấy, quả nhiên cháu Tường gởi thư báo
tin cho em trai là cháu Trạch, bảo: “Chị dâu em đă mang
thai, nay đă sanh một cháu trai đặt tên là Bảo
Anh”. Tôi nhận được tin vui, khóc lóc hai lượt.
Nếu ai hỏi: “Được tin có cháu phải mừng,
sao lại khóc lóc?” Thưa rằng: “Tôi nhiều lượt
được Đại Sĩ gia bị, ân ấy vô tận,
tự hỏi dùng công đức ǵ để báo đền
ân ấy? Do vậy, mừng thẹn chen lẫn, khôn ngăn
rơi nước mắt”.
Văn
Khải mong báo hồng ân của Đại Sĩ sâu đậm,
chỉ có cách đời đời cho đến hết mạng
hiến dâng thân mạng, tin nhận, phụng hành, hoằng
dương Phật pháp, kiêng giết, phóng sanh, khuyên khắp
các vị đồng chí đồng đạo cùng đọc
kinh điển, cùng niệm thánh hiệu, cùng cầu cho cha
mẹ nhiều đời sớm thoát ṿng khổ, cùng cầu
cha mẹ hiện đời cùng tu Tịnh nghiệp, cùng
sanh Tịnh Độ, cùng chứng Phật quả. Văn
Khải tường thuật đại lược sáu chuyện
linh cảm do đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn
Nguyện và niệm thánh hiệu, văn chương quê kệch,
thô thiển, nhưng toàn là lời lẽ chân thật, chẳng
dám nói dối. Lại thưa: Phát tâm từ ngày Ba
Mươi tháng Bảy năm Dân Quốc 44 (1955) cho đến
ngày Hai Mươi Tám tháng Mười năm Dân Quốc 45
(1956), tính ra đă đọc một ngàn năm trăm
mười bảy bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát
Bổn Nguyện, tụng niệm thánh hiệu chưa hề
gián đoạn. Sau này, vẫn tiếp tục đọc
thánh kinh, tụng thánh hiệu, chẳng có lúc cùng tận.
Phàm những ai đồng chí đồng đạo với
tôi, thật sự có thể tin nhận lời tôi, hăy sớm
phát tâm, đọc thánh kinh, tụng thánh hiệu, ắt sẽ
đạt được vô lượng vô biên công đức
chẳng thể nghĩ bàn, có thể báo ân cha mẹ trong hiện
đời, mà ân cha mẹ trong nhiều đời nhiều
kiếp cũng có thể đáp đền!
23. Địa Tạng Vương Bồ
Tát với Đạo An thượng nhân
Hành Ngọc ghi
Đại
khái là từ nhiều đời nhiều kiếp đến
nay, tôi đă kết duyên chặt chẽ với Địa
Tạng Bồ Tát, cho nên đời này mới có nhân duyên thù
thắng như thế. Con trai thứ của tôi luôn mong
đi du học tại Mỹ, giống như kiếm một
giọt nước trong sa mạc, gian khổ như thế
đó! Vào dịp thi tuyển du học hằng năm, tôi chẳng
mong con tham dự. Điều thứ nhất là kinh tế của
tôi chẳng dư dả để cho con xuất ngoại
du học. Thứ hai là khi con tôi đi thi, nó sẽ mang tâm
t́nh chẳng ăn, chẳng ngủ, khiến cho tôi bất
an. Hơn nữa, nó đang làm việc tại công ty hàng
không Trung Hoa, nghe nói mọi người đều khen nó làm
việc giỏi giang. Nói thật ra, cũng là do Bồ Tát
gia bị: Đứa nhỏ ấy chưa hết hạn
nhập ngũ, đă ứng tuyển cho công việc này.
Ngày thứ hai sau khi giải ngũ, bèn đi làm ngay. Bồ
Tát biết tôi không có tiền dành dụm, đứa con tánh
t́nh nóng vội, chẳng có việc làm là không được.
Có thể thấu hiểu cảnh khổ của tôi, khiến
cho mọi chuyện đều được như nguyện,
th́ chỉ có đấng cao thượng Địa Tạng
Vương Bồ Tát Ma Ha Tát!
Năm
nay, đứa con tham dự cuộc thi tuyển chọn du
học sinh, tôi trọn chẳng quan tâm chút nào, tôi nghĩ cứ
để cho Bồ Tát an bài đi! Đứa con vừa bận
bịu với công việc, vừa chuẩn bị dự
thi tuyển lựa du học sinh, lại cấp tốc xin
chứng thư học bổng từ nước Mỹ.
Chuyện xin chứng thư học bổng lại càng mầu
nhiệm hơn nữa! Trong lúc đi lính, con tôi quen một
người bạn họ Tạ. Do công việc của
người ấy chẳng tốt lắm, con tôi giới
thiệu anh ta vào công ty hàng không Trung Hoa, cho nên hai người
t́nh nghĩa như tay chân, không có chuyện ǵ giấu nhau.
Anh chàng họ Tạ đă quen bạn gái nhiều năm,
đă bàn tới chuyện kết hôn, không ngờ cô ta lại
bay sang Mỹ kết hôn với kẻ khác. Anh chàng họ Tạ
buồn bă không vui. Con tôi nhiệt thành đối với
người khác, dùng đủ mọi phương pháp an ủi
anh chàng họ Tạ. Học một chút Phật pháp từ
tôi để khuyên giải, rốt cuộc thuyết phục
được anh chàng họ Tạ. Không ngờ chuyện
xảy ra chưa đầy hai năm, cô gái ấy trong ḷng
áy náy, bỗng xin học bổng ở Mỹ cho anh chàng họ
Tạ. Con tôi bèn hỏi anh ta trường nào ở Mỹ,
giáo sư nào? Anh chàng họ Tạ nhất nhất nói ra. Con
tôi bèn rất mạo muội viết một bức thư
bằng tiếng Anh, gởi sang đại học nước
Mỹ. Vị giáo sư ấy (người Mỹ) chưa
hề gặp mặt, đồng ư một trăm phần
trăm. Lại c̣n khích lệ con tôi viết thư bằng
tiếng Anh khá lắm, rất nhanh đă gởi chứng
thư học bổng đến. Đấy chẳng phải
là kỳ tích ư?
Đêm
trước hôm dự thi, tôi dẫn đứa con, mang theo
một chén nước, đến gặp Đạo An
thượng nhân, thỉnh cầu thầy gia bị. Ngài chấp
thuận, lại c̣n hết sức hoan hỷ. Tôi nghĩ nhất
định có phần nắm chắc, v́ Ngài rất ít nói
chuyện. Có khi hỏi không đúng vấn đề, Ngài sẽ
thường chẳng lên tiếng. Tôi thật sự sợ
phong cách nghiêm túc ấy, nhưng những ai thân cận với
Ngài, chẳng có ai không nói Ngài có ḷng từ bi tràn trề, hào
sảng, thẳng thắn, khiến cho người khác có cảm
giác thân thiết thích tiếp cận. Sáng sớm bữa
đi thi, đứa con đối trước Phật lạy
ba lạy, cũng chẳng biết nó niệm ǵ nữa? Nó rất
thành tâm uống hết nước do Đạo An thượng
nhân gia tŕ. Tôi tươi cười, đặt tượng
Địa Tạng Bồ Tát và Quán Âm Bồ Tát vào túi áo của
nó, c̣n bảo: “Hôm nay, Bồ Tát đều ra tay theo con
đi thi, nhất định sẽ măn nguyện”. Năm giờ
chiều, con tôi lê tấm thân mệt mỏi, nhưng vẻ
mặt tươi cười, xách hành lư vội vă quay về
Cao Hùng đi làm. Hàng xóm đều giơ ngón cái khen ngợi
tôi có đứa con ngoan ngoăn. Tôi thật sự chẳng dám
nhận danh hiệu này. Tôi rất sợ con tôi thất vọng,
một tấm ḷng từ của tôi hoàn toàn gởi gắm
vào thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Ngày
Mười Bốn tháng Bảy, con tôi bỗng quay về: “Mẹ
ơi! Con đậu rồi”. Nó đưa cho tôi xem chỗ
khoanh đỏ trên báo. Đứa con lớn nói giỡn:
“Không chừng trùng tên họ”. Tôi nói: “Chẳng khéo trùng hợp
như thế đâu!” Con tôi đến Bộ Giáo Dục
đối chiếu, quả thật thi đậu. Ngày hôm
sau, nó trở về đi làm, hết thảy thủ tục
xuất cảnh giao cho anh nó lo giùm: “Con nhất định
phải đi, nhân duyên ở bên ngoài của con rất tốt”.
Tới bộ Ngoại Giao, phải điền tất cả
mă số của các giấy tờ lên một tờ
đơn xin [xuất cảnh]. Chỗ chật chội, chữ
lại nhiều, đứa con lớn viết sai chữ, một
vị tiên sinh đứng cạnh tôi tự động dùng gôm
tẩy đi,
viết lại. Viết xong, chẳng đợi tôi cám
ơn, đă chẳng thấy h́nh bóng đâu nữa. Đứa
con lớn và Văn Nhàn (bạn gái của đứa con thứ)
rất ngạc nhiên. Hết thảy thủ tục chuẩn
bị xong xuôi, chờ tới cái ải cuối cùng là thị
thực, khiến cho tôi căng thẳng. Cần gởi vào
Ngân Hàng hai chục vạn đồng. Một người
bạn chẳng thân lắm của con tôi ở Cao Hùng cho
mượn khoản tiền hai chục vạn đồng
để gởi vào ngân hàng, cầm sổ trương mục
về. Thị thực chưa làm xong, con tôi đă xin nghỉ
việc, coi như đă nắm chắc mười phần
bay sang Mỹ. Nghe nói đại sứ quán Hoa Kỳ đối
với chuyện cấp hộ chiếu đặc biệt
khó khăn: Tiền kư quỹ nhiều th́ nói là do tham lam mà
đến [Mỹ], không đủ th́ càng chẳng thể
xin thị thực được. Họ viện cớ là
quá nhiều điểm số khảo thí là do gian lận,
chẳng đáng bàn tới! Đúng là “t́m xương trong
đậu hủ”, tôi chỉ nhất tâm cầu Địa
Tạng Vương Bồ Tát gia bị.
Đến
ṭa đại sự Mỹ xin thị thực, có những
người phải xếp hàng từ lúc ba giờ sáng. Con
tôi tám giờ mới đi, ngày hôm đó, tôi tụng hai bộ
kinh Địa Tạng Bổn Nguyện giống như cầu
cứu. Đây là cái ải cuối cùng, măi cho đến khi
con tôi trở về, tôi mới an tâm. Con tôi nói: “Lúc con tới,
đă quá muộn, người đông như nêm cối. Phía
trước có một bạn học gọi con, cho con đứng
số chín ở chỗ nó. Nếu không, phải chờ tới
mai mới xong! Mẹ à! Có người chưa được
chấp thuận, khóc ṛng tại đó!” Tôi nói:
“Đương nhiên là sẽ khóc! Mất rất nhiều
tâm huyết mới được các bộ môn thông qua, mà
không qua được cái ải cuối cùng, chẳng khiến
người ta đau ḷng ư?” Con tôi trước khi
đi, đến từ biệt Đạo An thượng
nhân, Ngài tặng cho nó một tượng Phật và tràng hạt
thỉnh từ Nhật Bản về, lại c̣n dặn
đi dặn lại: “Học hành xong, nhất định
phải trở về tổ quốc, đừng quên mất
chúng tôi…” Con tôi cá tánh rất mạnh, lần này tiến
bước lớn trong việc tin Phật hoàn toàn là do sức
thân giáo của Đạo An thượng nhân, khiến cho
con tôi cảm động, sùng bái, bội phục sát đất.
Đúng là chẳng đơn giản!
Trường
đại học tại Mỹ khai giảng vào ngày Hai
Mươi Sáu tháng Tám, vé máy bay của hăng Trung Hoa cho tháng Tám
đă được đặt mua hết rồi, con tôi
dùng vé máy bay miễn phí, căn bản là không có cách nào
được ưu tiên. Con tôi nhờ cha bạn nó đặt
vé, đúng ngày mồng Mười tháng Tám đáp phi cơ
sang Mỹ. Tôi chưa báo với bất cứ bạn bè nào,
chỉ có vị thầy giáo rất thương nó, con trai lớn,
con dâu, và Văn Nhàn v.v… đưa nó ra sân bay. Tôi có cảm
giác không thật, chỉ cảm nhận ân đức của
Phật, Bồ Tát đối với tôi, chẳng có cách nào
h́nh dung được! Sau này, sẽ chẳng có người
cứ ở bên cạnh tôi rù ŕ “muốn sang Mỹ du học”,
khiến cho tôi có khi khôn ngăn bực bội. Tuy tạm thời
thiếu mất một đứa con mua thứ này thứ
nọ hiếu kính tôi, thật ra, ḷng tôi như buông xuống
một tảng đá lớn. Sau này sẽ càng tinh tấn
nơi đạo hơn, chẳng lười nhác, chẳng
biếng trễ!
Con
tôi gởi thư cho biết, nó tới Mỹ, do một thân
nơi đất khách quê người, nhất thời t́m
không ra chỗ ở. Một người Hoa không quen biết
cho nó ở nhờ mười ngày, t́m giùm pḥng cho nó gần
trường học. Lại gặp bạn học cùng thuê,
mỗi tháng chỉ tốn 120 Mỹ kim. Pḥng lại trải
thảm, có sẵn các trang bị, hoa lệ tột cùng.
Chưa đầy nửa tháng sau, nó lại t́m được
việc gần trường. Mỗi tháng, trừ tiền
thuê nhà và chi tiêu ra, c̣n có thể dư được mấy
chục đồng. Tại Đài Loan chẳng dễ t́m việc,
công việc tại Mỹ càng khó hơn, huống hồ lại
là hoàn cảnh lạ lẫm ư? Đấy chẳng phải
là ân đức của Địa Tạng Vương Bồ
Tát ư? Gịng lệ cảm ơn chẳng thể nào
ngăn được!
24. Chân ngôn chín chữ
Tŕnh Quán Tâm ghi
Một
buổi chiều mưa lạnh tầm tă, tâm huyết dâng
trào, tôi đặc biệt ṃ đến thăm bạn Huệ
Tinh đang sống ở ngoại ô. Cùng sống tại một
thành phố, mấy năm nay, nghiễm nhiên chỉ gặp
mặt một lần. Điều đáng an ủi là t́nh bạn
của chúng tôi kiên cố, bậc quân tử giao du với
nhau đạm bạc như nước, quyết chẳng
v́ không thường gặp mặt mà xa mặt cách ḷng! Cô ta
hay nói, tôi lặng lẽ nghe, một khi nói chuyện hăng
say, đă sớm quên bẵng thời gian. Ba con chó nằm
bên chân Huệ Tinh có cùng một tư thế, hai vuốt
hướng ra trước, đầu đặt sát đất,
trong mắt ngời sắc cầu vồng nâu lẫn vàng,
nghiễm nhiên cũng là thính giả trung thực của cô
ta! Trong tai vang lên chín chữ chân ngôn, trong tâm niệm chân ngôn
chín chữ. Cô sốt sắng kể lại kinh nghiệm
chân thật của chính ḿnh. Sức hấp dẫn và cảm
động của cô ta, khiến cho cơi ḷng tôi một phen chấn
động mănh liệt.
Cô
ta kể: - Một hôm, đang đi một ḿnh trên
đường, chợt có tiếng vang lên rành mạch bên
tai cô ta: “Ngươi vẫn phải nên niệm chân ngôn
chín chữ”. Ngơ vắng chỉ vang lên tiếng bước
chân của chính ḿnh, đích xác là gần đó chẳng có một
bóng người. Cô ta buồn bực suy nghĩ: “Từ
đâu phát ra mệnh lệnh vô căn cứ này? Chân ngôn chín
chữ là ǵ vậy? Vừa rồi âm thanh đă nói rơ ràng: “Ngươi
vẫn phải nên niệm chân ngôn chín chữ”, chứng
tỏ chính ḿnh trước đó đă có niệm qua rồi.
V́ thế, một bầu nghi t́nh cuồn cuộn trong ḷng. Hỏi
rất nhiều người, cũng chẳng ai biết
chân ngôn chín chữ rốt cuộc là nói về điều
ǵ? Không lâu sau, vào một buổi sáng thanh tĩnh, cô đối
trước Phật dâng hương, lễ bái, ngẩng
đầu thấy trên tường treo một bức vẽ
Địa Tạng Vương Bồ Tát ngự trên sen hồng
trong lửa đỏ. Trong lúc vô ư, cô ta niệm chín chữ
lớn trên đó: “Nam mô đại nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát”. Khi ấy, cô hoát nhiên đại
ngộ, vui mừng khôn xiết! Đúng là đi nát giày cỏ
chẳng t́m thấy, t́m được rồi hoàn toàn chẳng
tốn công! Nguyên lai cô một mực niệm “Nam mô đại
nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”.
Nói chung là hễ có thân quyến, bằng hữu
qua đời, cô đều niệm thánh hiệu [Đại
Sĩ] để hồi hướng siêu độ. Điều
chẳng thể nghĩ bàn nhất là mỗi người
được hồi hướng, nhất định sẽ
xuất hiện một lần trong mộng, cho thấy rơ mặt,
sau đó chẳng gặp lại nữa! Lần tạo cho
cô ta ấn tượng sâu đậm nhất là một
người đầy tớ nam trong nhà khi cô c̣n bé. Người
ấy trung thực, lanh lợi, lúc cô ta hai ba tuổi,
thường dẫn cô ta đi chơi, hoặc dẫn cô
đi dạo phố. Sau đó, ông ta rời nhà cô, vào lính.
Thuở đó, nội chiến liên tục, chẳng lâu sau,
bèn chết trận ở vùng biên cương. Năm trước,
cô ta bỗng nhớ tới người đầy tớ
trung thành thuở nhỏ, nghĩ ông ta chết trận
nơi đất khách, lưu lạc tha hương, mờ
mịt cát vàng, xương trắng, ai sẽ siêu độ,
cúng bái cho ông ta? Do vậy, phát nguyện niệm thánh hiệu
Địa Tạng Vương Bồ Tát suốt một
tháng để hồi hướng cho cô hồn của vị
ấy. Một đêm, bỗng mộng thấy một thanh
niên quen thuộc, mặc bộ y phục màu lam, đứng
trước mặt cô ta, hết sức cung kính, cười
tươi hơn hớn, nhẹ nhàng nói với cô ta: “Tôi là
X….” Nói xong, gật đầu, đi mất.
Ngoài
ra, có lần cô bị bệnh suyễn tái phát, phát sốt nằm
mê man. Thấy một bà cụ nhà quê, tay cầm chiếc giỏ
trúc, bồi hồi đi lại trên không trung. Cô ta thấy
cụ là người xa lạ, chưa từng gặp gỡ
trong cuộc đời, tuy trong ḷng lấy làm lạ,
nhưng lười chẳng để ư tới. Sau đấy,
chẳng biết như thế nào, bà cụ ngồi cạnh
giường cô ta, sờ tay cô. Cô ta cũng tự nhiên nói:
“Tôi khó chịu quá, xin bà xem bệnh cho tôi, cho tôi uống chút
thuốc!” Bà cụ lật tấm vải che giỏ trúc ra,
trong ấy có một khối giống như nhụy hoa màu
vàng, lại bảo cô ta: “Cô không cần uống thuốc! Vừa
rồi, tôi đă cho cô uống!” Cô uống thuốc lúc nào
đâu, cũng chẳng biết nói sao. Sau đó, có người
giới thiệu một bác sĩ chữa bệnh cho cô, cho
loại thuốc giống hệt như khối nhụy hoa
màu vàng ấy. Sau đó, bệnh của cô ta dứt hẳn,
chưa hề tái phát.
Cô
ta đĩnh đạc kể, tôi nghe say sưa đến
mức quên hết chung quanh. Kế đó, hổ thẹn
không chốn dung thân, càng tỉnh ngộ đạo tâm nông cạn,
tu tŕ bất lực, chẳng chuyên, chẳng chân thành. Cô ta
là một người bẩm tánh dị biệt, thành tín,
kiên nghị. Hễ quyết định làm một chuyện
ǵ, ắt sẽ làm trọn vẹn từ đầu đến
cuối, dẫu khó khăn đến mấy. Đó gọi
là “thành ắt linh, chuyên ắt ṛng, dùi mài chẳng bỏ,
vàng đá phải nứt”. Do vậy, cô ta gặp những
chuyện thần bí như thế, thường xuất hiện
những chuyện linh nghiệm chẳng thể nghĩ bàn,
trọn chẳng phải là thần thoại vô căn cứ,
mà là kết quả tu hành đáp đền tâm lực của
cô ta. Tự so với cô ta, tôi đúng là gỗ đá tối
tăm trơ trơ, chẳng có linh tánh, tâm địa khô
héo cần phải được pháp thủy tưới tắm,
t́nh thức yếu ớt, rối ren, cần phải có trí
huệ cường hóa, chải gỡ. Cô ta dốc ḷng kể
lể, chẳng khuyến thiện, chẳng thuyết giáo
câu nào; nhưng
sức lay động tâm linh chẳng thể hạn lượng.
Kẻ mê nói ngoài miệng, người có trí hành trong tâm. Cô
chuyên ṛng thành kính niệm Phật, niệm kinh Kim Cang, niệm
Tâm Kinh, niệm thánh hiệu Phật, Bồ Tát hồi
hướng cho người khác. Do tâm lực phản xạ,
tự nhiên đạt được sự linh cảm. Nghĩ
kỹ, sẽ nhận biết là chẳng phải thần
bí không thể nghĩ bàn!
25. Tai điếc mà
nghe tiếng niệm Phật
Nhiếp Vân Đài ghi
Ông
Uẩn Thiết Tiều là bậc tiền bối về Trung
Y theo trường phái cách tân. Sau khi tốt nghiệp từ
Nam Dương Công Học, từng làm giáo sư dạy tiếng
Anh ưu tú tại trường Sư Phạm tỉnh Hồ
Nam. Sau đấy, ông làm biên tập cho Thương Vụ Ấn
Thư Quán, nghiên cứu Y Học, tinh thông bộ
Thương Hàn Luận của Đào Trọng Cảnh nhất,
chữa trị rất mát tay. Do đọc các bài viết của
tôi, bèn gởi thư xin gặp, trở thành bạn bè hợp
ư. Nhưng đối với chuyện tôi khuyên ông học Phật,
ông trọn chẳng cho là đúng, nhiều lần gởi
thư biện luận. Mùa Thu năm Dân Quốc 23 (1934), tôi
tặng ông một bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục.
Sau đó, ông lại gởi thư nói: “Mới đọc một
lượt, vẫn y như cũ chẳng tin! Kế
đó, tự suy nghĩ: Nguyên do chẳng tin là do Ngă Kiến
chấp trước! Nào ngại tin là thật, bèn đọc
hai lượt nữa, tâm khá vui thích. Sau đó, lại đọc
kinh Địa Tạng Bổn Nguyện do tôi gởi tặng
hơn mười ngày, chẳng ôm ḷng nghi ngờ. Bỗng
một hôm, vào lúc bốn giờ sáng, nhằm ngày thánh đản
Quán Âm vào tháng Chín âm lịch, ông nghe có một tiếng khánh,
kế đó là tiếng niệm Phật, từng chữ rơ
ràng, nhưng ông Uẩn điếc đặc mười mấy
năm rồi. Dẫu hét to bên tai, ông không thể nghe tiếng.
Nay nghe tiếng niệm Phật, liên tiếp mấy chục
câu. Âm thanh hay đẹp lạ lùng, trước giờ
chưa hề nghe. Thoạt đầu, ông ngờ là vợ
đang tụng niệm công khóa, nhưng bà ta vẫn c̣n
đang ngủ chưa dậy ở giường bên cạnh.
Ngoài chuyện kinh ngạc ra, bất giác toàn thân ông ta run rẩy.
Bốn giờ sáng hôm sau, nghe tiếng như cũ, bèn niệm
Phật theo. Chiều hôm ấy, ông ngồi ở dưới
lầu, nghe tiếng như trước, đều là
trước hết một tiếng khánh, sau đó niệm
Phật hiệu.
Một
hôm, ông ăn cua, sáng hôm sau, chẳng thấy tiếng khánh và
tiếng niệm Phật, bèn thầm cầu nguyện: “Nguyện
từ nay về sau, suốt đời chẳng ăn cua”,
thuận miệng niệm Nam-mô Địa Tạng
Vương Bồ Tát bảy lần, tiếng khánh ngay lập
tức vang lên, tiếng niệm Phật cũng nối theo
sau. Liên tiếp tới nay đă gần nửa năm, ông vẫn
hằng ngày đều nghe chẳng sót. Thoạt đầu,
ông tưởng là do bệnh trạng nơi đại tiểu
năo, nhưng không nghe thứ tiếng nào khác, bèn biết là do
Địa Tạng Bồ Tát linh cảm, hướng dẫn
khiến cho ông niệm Phật. Tháng Ba năm Dân Quốc 24 (1935), ông sai người đem tới hai trăm đồng,
cậy tôi thay ông in kinh Địa Tạng, dặn tôi viết
lại chuyện ấy để báo ân Phật. Trong lúc ấy,
ông đă nhiều lần gởi thư tự thuật chuyện
lạ ấy. Tháng Sáu trong mùa Hè năm ấy, tiên sinh qua đời,
Uẩn phu nhân và con trai kể lại t́nh h́nh lúc lâm chung, xin
ghi chép theo sự thật như sau: Ba bốn hôm trước
khi qua đời, tiên sinh tự nói sẽ ra đi, căn dặn
hậu sự rất rành mạch. Lại dặn người
nhà đừng khóc lóc, dặn ai nấy đều cùng giúp ông niệm
Phật. Buổi sáng hôm ông mất, ông bỗng ngẩng
đầu ngó, bảo người nhà rằng: “Các
ngươi có thấy quyển sổ to chừng ấy hay
chăng?” Người nhà hỏi sổ ghi ǵ vậy? Người nhà hỏi sổ sách viết vật
ǵ? Ông lại nghểnh cổ nh́n chăm chú, thật lâu sau
mới nói: “Viết
rất nhiều, chẳng thấy rơ chữ”. Sau đó lại
nói: “Ta sẽ đến chốn lành, các ngươi đừng
buồn”. Lại nói: “Ta đă có thể biết chuyện
quá khứ, vị lai”. Người nhà xin ông nói đại
lược, ông đáp: “Chẳng thể nói! Các ngươi
chỉ nên niệm Phật siêng gắng hơn!” Ông cũng tự
niệm Phật không ngừng. Khi sắp tắt hơi, chẳng
thể niệm ra tiếng, môi ông vẫn mấp máy. Do luôn niệm Phật, chắc chắn
văng sanh Tịnh Độ vậy!
Kính
suy xét, trước kia, tiên sinh từng làm biên tập cho Tiểu
Thuyết nguyệt báo của Thương Vụ Ấn
Thư Quán, trong văn tự thường có lời lẽ châm biếm Phật
pháp, cho đến khi tán gẫu, cũng tùy ư chê bai, cười
cợt, phỉ báng Phật càng là chuyện thường! Vợ
ông niệm Phật đă mười mấy năm, tiên sinh
liền chỉ vào bà ta nói với bè bạn: “Bả muốn
sanh về phương Tây, tôi sẽ sanh về phương
Đông”. Ông ta thường mang thái độ tự cho là
ḿnh sáng suốt, cười cợt khinh thường Phật
giáo đồ là kẻ mê tín. Nhưng do nhân duyên thiện
căn túc thế, do văn tự mà tâm giao với tôi, rốt
cuộc được nghe Phật pháp, đạt
được lợi ích thật sự, được Bồ
Tát rủ ḷng Từ tiếp dẫn. Tai cực điếc
mà hằng ngày được nghe Phật hiệu, khiến
cho ông là người phản đối pháp môn Niệm
Phật văng sanh nhất, chẳng thể không dấy tâm tín
ngưỡng. Hơn nữa, suốt mấy tháng tiếng
niệm Phật chẳng ngừng, khiến cho ông chẳng
thể không cảm nhận quỷ thần, Phật, Bồ
Tát thường ở cạnh ta mà sanh ḷng e sợ. Do vậy,
chí thành sám hối, túc nghiệp ngầm tiêu. Ông thấy quyển
sổ lớn, chính là các nghiệp thiện và ác trong suốt
một đời. Quyển sổ ấy không đợi kẻ
khác viết, chúng ta vừa dấy động tâm niệm, tức
là đă tự viết vào đó. Trên quyển sổ là h́nh
bóng của cái tâm ta, cho đến thiên đường,
địa ngục, cũng đều chỉ là cái tâm biến
hiện. Tội khổ, h́nh phạt, Tịnh Độ, Cực
Lạc, mỗi chuyện đều do nghiệp của
chính ḿnh cảm vời. Nơi cái ải sanh tử, chính là
nghiệp thiện ác trong một đời phát hiện.
Trong lúc ấy, kẻ b́nh phàm nói chung là thần chí mê muội, chẳng
thể tự chủ, huống hồ đàm phong gây thở
kḥ khè, tuy muốn cậy mạnh làm ra vẻ, gắng
gượng trấn định, nhưng chẳng thể
được! Chỉ có người tu Tịnh nghiệp
chuyên ṛng, lúc qua đời, thân tâm thanh thản, dẫu bị
bệnh nặng, lúc ấy chẳng cảm thấy đau
khổ, cho nên có thể thong dong niệm Phật, chẳng bị
nghiệp duyên tục lụy gây chướng ngại. Độc
giả chớ nghĩ lâm chung có thể tỉnh táo niệm
Phật là chuyện dễ dàng, b́nh phàm rồi coi thường.
Kinh Di Đà dạy: “Bất khả thiểu thiện
căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ
quốc” (chẳng thể do ít thiện căn, phước
đức, nhân duyên mà được sanh về cơi ấy).
Tiên sinh Thiết Tiều làm người trung trực,
dũng mănh đối với việc nghĩa, thông thạo
y học, luôn nghĩ giúp đỡ người khác. Đấy
cũng là chánh nhân thành tựu Tịnh nghiệp vậy. Ngày
Hai Mươi Chín tháng Sáu năm Dân Quốc 24 (1935), Nhiếp
Vân Đài ghi.
Bài
viết trên đây vốn in vào sau kinh Địa Tạng.
Khi ấy, tôi đă phúng điếu một câu đối,
nhưng bỏ sót chưa ghi vào đó. Nay chép bổ sung
như sau: “Thiên tải Thương Hàn phân tụ tụng,
Trọng Cảnh đăi sở thống tâm, đại
trước kim truyền, quần nghi ưng thích. Thập
niên bộc trúc bất văn thanh, Di Đà hốt nhiên nhập
nhĩ, nhất mông đắc ngộ, chúng lung giai thông” (Thương
Hàn ngàn năm, bao người tranh căi, Trọng Cảnh
đành chịu đau ḷng, trước tác nay truyền, bao
mối nghi tự giải. Suốt cả mười
năm không nghe tiếng pháo, Di Đà bỗng lọt vào tai,
vừa được giải ngộ, bao người
điếc đều thông). Vế trên nói về tác phẩm
Thương Hàn Học do tiên sinh sáng tác [để chú giải
bộ Thương Hàn Luận của Đào Trọng Cảnh],
vế dưới trần thuật thỏa đáng chuyện
này (chuyện ông Uẩn tai điếc mà nghe tiếng niệm
Phật). Mùa Hạ năm Dữu Dần (Canh Dần), Nhiếp
Vân Đài ghi thêm.
26. Bệnh nặng
trừ sạch
Viên Truyền Kiệt ghi
Tại
trấn Kiều Lâm thuộc huyện Giang Phổ, có ông Ngô
Tông Giám làm nghề y, tin Phật. Trong trấn có Cổ Cối
Thiền Lâm, ông phát nguyện trùng tu. Do quyên mộ không đủ
số, ông lo buồn, lao lực thành bệnh nặng. Con dâu
trưởng của ông là Lưu Thị cũng niệm Phật.
Do vậy, bèn ước hẹn các bạn đạo cùng
đến Thiền Lâm ấy, đối trước Địa
Tạng Bồ Tát khấu đầu, cầu đảo, cầu
tăng tuổi thọ cho ông, và cầu cho việc trùng tu
chùa được hoàn thành. Hai ngày sau, ông đang thiêm thiếp,
bỗng tỉnh lại nói: “Trong mộng, cha thấy một
ḥa thượng an ủi, hỏi han. Do vậy, bệnh
được lành”. Tháng Sáu năm Dân Quốc 22 (1933), Viên
Truyền Kiệt ghi.
27. Lạy kinh khỏi
bệnh
Viên Kính Am ghi
Ḷng
Từ của Phật rộng lớn, cảm ứng chẳng
sai chạy; những kẻ hơi có chút tri kiến đều
công nhận điều này. Gia mẫu là Trương Thị,
pháp danh là Năng Tu, bẩm tánh hiền thục, thông thạo
văn tự, về làm vợ cha tôi, tận lực trọn
đạo làm vợ, xóm giềng đều khâm phục.
Đảm đang việc nhà, từng có những điều
bị uất ức, bận ḷng, vẫn giấu kín trong
tâm, chẳng để lộ ra ngoài, suốt hơn ba
mươi năm đều như một ngày. Đối
với chú Văng Sanh và kinh Quán Âm, cụ hết sức thuần
thục, nhưng thuở ấy chưa thể lập khóa tụng,
tu tŕ. Vào độ tuổi năm mươi, cụ bỗng
bỏ hẳn ăn thịt. Có kẻ đem các tà thuyết
để khuyên lơn chớ nên ăn chay, cụ vẫn chẳng
màng. Vài năm sau, bỗng cụ cảm thấy đi lại
chẳng thoải mái. Kế đó, hai tay chẳng thể giở
lên được, dần dần eo vô lực, lưng c̣ng,
hơi giống như bị gập lại, hễ động
tới là đau. Do vậy, càng chẳng thể đi lại.
Từ sảnh đường cho đến trong pḥng, ắt
phải cậy vào xe lăn để ra vào. Nhưng căn
bệnh thuộc về xương khớp, sức thuốc
chẳng thể thấu tới được. May là cụ
được Phật từ gia bị, khiến cho Kính Am
tôi gặp nhân duyên quy y Tam Bảo. Năm sau, mẹ cũng
quy y; kế đó, lại thờ tượng Phật trong
nhà, cũng như tạc thánh tượng hai vị Đại
Sĩ Quán Âm và Địa Tạng, sáng tối kính lễ, niệm
tụng.
Gia
mẫu tuy bị bệnh khổ quấn thân, cũng niệm
tụng suốt ngày. Mỗi ngày, cụ c̣n thắp
hương, lễ bái, bảo Kính Am tôi ở bên cạnh
nâng đỡ, dẫu kiệt sức cũng chẳng thiếu
sót. Hơn một năm như thế, Kính Am tôi chưa từng
thấy mẹ đau buồn v́ bệnh tật. Tôi luôn
đem công đức do thọ tŕ kinh chú thường ngày
và những thiện niệm dẫu bằng mảy lông, sợi
tóc hồi hướng cho mẹ tiêu tai, thoát nạn. Kế
đó, tôi nghĩ Địa Tạng Đại Sĩ thần
lực chẳng thể nghĩ bàn, đời trước,
Ngài đă độ mẹ thoát nạn. Chuyện này
được nói tường tận trong kinh. Tôi bèn phát
tâm cung tụng Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh
để cầu nguyện.
Xét
thấy kinh văn quá dài, sanh kế bận bịu, khó thể
tụng trọn, bèn thầm tưởng các sự tích trong
mười ba phẩm kinh, ghi nhớ nằm ḷng tựa
đề của mỗi phẩm, dùng để bái kinh thay
thế [cho việc tụng niệm]. Như phẩm thứ
nhất là Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông, bèn trước
hết quán tưởng tựa đề của phẩm ấy,
sau đấy quán tưởng kinh nghĩa rồi lạy xuống.
Từ phẩm thứ hai là Phân Thân Tập Hội cho đến
phẩm thứ mười ba là Chúc Lụy Nhân Thiên cũng
lại như thế. Lạy xong, lại niệm thánh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát mấy trăm câu rồi hồi
hướng. Quyền nghi như thế, rất sợ chẳng
thể khế hợp Phật tâm.
Hành
như vậy mấy tháng, bỗng có một hôm, gia mẫu
đang ngồi ngay ngắn chợt hôn mê, bất tỉnh
nhân sự. Kính Am kinh hoảng, sợ hăi muôn phần! Chạy
đến bên mẹ, chắp tay xưng niệm thánh hiệu
Đại Sĩ gần mấy chục câu, liền thấy
mẹ tỉnh lại, ói ra mấy bát nước có cặn
màu đen, giống như huyết khí uất ức tích tụ
nhiều năm. Tôi vội mời danh y chẩn trị, họ
cho là khí huyết thiếu hụt, tổn hại, khó thể
có hiệu quả, cứ kê toa uống thử xem. Kính Am lại
quỳ trước Đại Sĩ, kiền thành cầu
Ngài rủ ḷng Từ gia hộ. Ngày đêm xưng danh, chẳng
ĺa trong tâm. Chỉ mới uống vào một thang thuốc,
bệnh trạng dần dần thấy khởi sắc.
Kính Am dốc ḷng thành khẩn cầu càng thêm khẩn thiết.
Sau
đấy, mẹ dần dần có thể đi lại, ra
vào chỉ cần được nâng dắt. Mấy tháng
sau, hoàn toàn có thể chống gậy đi một ḿnh. Nay
th́ không cần gậy, vẫn đi lại tự nhiên. Hiện
thời, cụ đă sáu mươi bốn tuổi, hằng
ngày lễ Phật mấy chục lạy, tự đứng
lên không cần ai nâng đỡ, cũng chẳng cảm thấy
khổ sở. Phàm là người bị bệnh nặng, tuổi
tác đă cao, không nhờ vào công năng của thuốc men
mà tự nhiên lành bệnh, là chuyện ít gặp trong cơi
đời! Ấy là nhờ Địa Tạng Đại
Sĩ thệ nguyện hoằng thâm, lợi ích cứu giúp hữu
t́nh, không ǵ chẳng trọn. Chỉ cần có thể phát
nguyện kiền thành, ai cũng có cảm ứng. Xét trong
những sự tích trước đó đă ghi chép rành rành.
Nh́n từ chuyện linh cảm tôi đích thân đạt
được, càng thêm tin đúng như thế đó! Kính
cẩn ghi lại chuyện này, ḥng khuyên người đời.
Tháng Sáu năm Ất Hợi (1935), nhằm mùa Hạ, Tam Bảo
đệ tử Viên Kính Am ghi chép.
28. Tầm
thanh cứu khổ
Pháp sư Tâm Nhiên ghi
Cư sĩ Hoàng Trang Huệ Châu là người
ở thành phố Phước Châu. Mười chín tuổi
xuất giá, hai mươi bốn tuổi liền ăn
chay, tin Phật. Năm Dân Quốc 24 (1935), nhà chồng bà thờ
cúng tà thần, thường bị chúng tác quái quấy nhiễu.
Cư sĩ phẫn uất, đem tượng đất đang
thờ vứt vào trong chum sành thường dùng để
nuôi cá. Không lâu sau, cư sĩ có mang. Khi sanh nở, mắc
chứng bệnh kinh phong, toàn thân nằm tê liệt trên
giường, thuốc men đều vô hiệu. Tự
nghĩ đấy chắc là tà quái báo thù, thế gian vô
thượng chỉ có Phật, Bồ Tát, cùng với Duyên
Giác, Thanh Văn là có thể nương tựa. Đại
Bi Quán Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Bồ Tát thường cứu độ chúng sanh trong nhân
gian và địa ngục. Không ǵ bằng nhất tâm quy mạng,
xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát
để cầu trừ khổ, lại c̣n nghĩ sẵn
ḷng lâm chung. Từ đấy, mỗi ngày tụng tŕ mấy
chục vạn câu.
Chưa được một tuần, mộng
thấy đến bên bờ biển, trông thấy sóng cả
cuồn cuộn vỗ tung bọt, sắc nước
đen x́ như sơn. Có vô số tiếng gào đau khổ,
thê thảm, thê lương lan xa chẳng dứt. Đang trong
lúc bà kinh ngạc, bỗng thấy một vị tỳ-kheo
sa-môn bay lướt trên mặt biển. Ngài đến
nơi đâu, tiếng khổ liền im bặt. Cư
sĩ mới biết đấy là đức Địa Tạng
độ sanh, lập tức hoan hỷ lễ bái. Sau khi tỉnh
giấc, thân đau đớn bỗng dưng khỏi hẳn.
Ngày hôm sau, có thể dựa vào người khác nâng đỡ
mà đi lại. Chẳng đầy nửa tháng liền
bước đi như thường. Đấy chính là
linh tích từ
bi của Bồ Tát trong thời cận
đại. Tâm Nhiên kính ghi.
29. Tụng kinh Địa Tạng
độ quỷ hồn
Khâu Thiện Siêu ghi
Người
vợ câm của một tín đồ Phật giáo sống tại
thôn Song Đàm thuộc làng Tam Nghĩa bất hạnh tử
vong khi sanh con. Gia đ́nh nghèo khổ, chỉ đơn giản
thỉnh ba gă đạo sĩ tới niệm kinh, làm
công đức. Nhưng đạo sĩ v́ đă nhận lời
đến một nhà giàu có để làm pháp sự trọng
thể; do vậy, chuyển lời mời một vị
sư huynh và chúng tôi là ba người cùng đến niệm
kinh. Do hoàn cảnh đơn sơ, chúng tôi đành phải
chấp nhận quyền biến, đơn giản bày
tượng Phật. Nghĩ người mất lúc sống
gia cảnh nghèo khổ, lại c̣n sức khỏe không khá,
đời trước ít tu; do vậy, v́ vong linh niệm
Tam Muội Thủy Sám. Mười giờ tối, khi kinh
sám tụng xong, sắp hồi hướng, vị đạo
sĩ lănh đàn từ nhà đám của người giàu có
quay lại, nói: “Mọi người vất vả rồi, niệm kinh sám đă xong, có thể về
trước. Lát nữa, tôi sẽ thay mọi người hồi
hướng, tuyên sớ”. Ba người chúng tôi nghe hiểu
ư đạo sĩ, rơ ràng là hắn chẳng muốn chúng tôi
hồi hướng, đọc sớ, có chờ đợi
cũng chẳng làm ǵ, bèn cáo từ, ai về nhà nấy. Sau
đó, đạo sĩ làm ǵ cũng chẳng biết.
Sau
khi về nhà, tôi một mực lấn cấn, pháp sự lần
này dường như chẳng viên măn cho lắm! Bỏ ra
tâm huyết suốt một ngày để độ vong hồn,
kết quả lại chẳng hồi hướng kinh sám
cho người đă mất được. Tuy trong sám
văn có phần hồi hướng cho vong linh, nhưng tôi
luôn cho rằng chưa tụng đến phần hồi
hướng, tức là chưa làm viên măn. Suốt hai ngày tôi
nghĩ ngợi, buồn bă, có đôi chút hổ thẹn. Từ
ngày niệm kinh quay về, hôm sau tôi bắt đầu bị
choáng váng, trong tâm nghĩ chẳng bị cảm mạo, sao
lại bị váng đầu? Trải qua hai ngày, vẫn là
như thế; càng nghĩ càng cảm thấy không đúng,
có thể là chỗ nào đó nẩy sanh vấn đề.
Do vậy, nghĩ lại, chắc là do đi niệm kinh cho
người câm ấy, công đức bị thiếu sót,
người chết chẳng thể thoát khổ! Do vậy,
tôi đối trước tượng Địa Tạng
Bồ Tát, chí tâm tụng kinh Địa Tạng một bộ
(hoặc ba bộ, nay đă không nhớ rơ), hồi hướng
cho người phụ nữ câm ấy sớm sanh về Tịnh
Độ. Làm xong, vẫn chưa an ḷng, liền xin [Bồ
Tát] dạy cho biết trong giấc mộng. Tối hôm ấy,
tôi liền nằm mộng hết sức rơ ràng. Mộng thấy
đến một ngôi tự viện rất to, rất trang
nghiêm, có một ni sư đứng ở trên bậc thang.
Khi tôi đi lên thang, bà ta liền hướng về tôi
đảnh lễ, khiến tôi hoảng sợ, chạy vội
tới đỡ bà ta lên, hết sức chẳng nên!
Nhưng bà ta bảo tôi: “Nhờ sức niệm kinh Địa
Tạng của Ngài, tôi được chuyển thế làm
người, c̣n có duyên với Phật, xuất gia thọ
giới, ắt chứng Bồ Đề”. Tôi nghe xong rất
kinh hỷ, một phụ nữ câm nghèo hèn, nhờ vào sức
của một bộ kinh liền chuyển thế làm
người, lại c̣n vào Phật môn thọ Cụ Túc Giới,
tương lai có thể mong viên thành chánh quả, đúng là
Phật pháp vô biên!
Các
vị thiện hữu! Phật pháp trụ thế gian, chẳng
ĺa thế gian giác, ĺa thế gian t́m Bồ Đề,
như t́m kiếm sừng thỏ. Phật pháp xuất hiện
trong thế gian, mục đích là v́ chúng sanh mà kiến lập.
Đương nhiên là nếu rời khỏi chúng sanh, sẽ
chẳng có Phật pháp để nói nữa! Do vậy, trong
cuộc sống, chúng ta đi, đứng, ngồi, nằm,
chỗ nào cũng đều chẳng rời Phật pháp,
nhưng nếu hành vi bất chánh, ắt sẽ trái nghịch
Phật pháp! Muốn độ chúng sinh, ắt phải phát
Bồ Đề tâm. Phát Bồ Đề tâm, có đại
nguyện lực th́ mới có thể độ người
khác. Trong xă hội, mọi người túi bụi v́ ngũ
dục, nào có biết quang âm trăm năm ngay chớp mắt
đă qua đi, thân này rốt cuộc hóa thành tro bụi, huyễn
thân rốt cuộc chẳng thơm sạch! Hăy đập
vỡ cái b́nh tô vẽ hoa mỹ để quay về! Kẻ
có phước báo, có tài lực, hăy bố thí cho nhiều,
ḥng tích lũy ruộng phước, người biết niệm
kinh hăy phát tâm v́ người khác tiêu tai, sám nghiệp, độ
vong linh nhiều hơn. Người biết niệm Phật,
hăy niệm Phật nhiều hơn, cầu nhất tâm bất
loạn. Người biết giảng kinh, hăy hoằng pháp
lợi sanh nhiều hơn. Người giỏi văn
chương, hăy thâm nhập kinh tạng trí huệ như biển
nhiều hơn! Phổ nguyện xă hội như thế
cùng tiến nhập đại đồng, Phật pháp
hưng thịnh, nhân dân an lạc, nước giàu, dân yên. Bọn
Phật tử chúng ta hăy cùng nhau nỗ lực!
30. Hóa thân của Đại Nguyện
Địa Tạng Bồ Tát
Châu Dương Huệ Khanh ghi
Nhà
tôi ở Nam Kinh tại số mười sáu đường
Lan Viên thuộc Lam Gia Trang, chung quanh có rào trúc, có cổng
trước và cổng sau. Trong tháng Bảy năm 1935, một
sáng nọ, cửa trước lẫn cửa sau đều
chưa mở. Bỗng một vị lăo tăng, phiêu dật
đi đến, đội măo Tỳ Lô, thân mặc hải
thanh, đắp y, đeo mười chuỗi tràng hạt
trước ngực, rủ xuống tận đất, xâu
chuỗi nơi hai tay áo cũng rủ sát đất. Khí
tượng trang nghiêm, từng hạt trong xâu chuỗi tỏa
sáng lóng lánh. Tôi hỏi: “Lăo sư phụ từ đâu tới?”
“A Di Đà Phật! Tôi đến từ núi Cửu Hoa tỉnh
An Huy”. “Cửa vẫn chưa mở, sao thầy có thể
vào đây?” “Ta có thần thông, chỗ nào cũng đều
có thể tiến vào”. Sư bày ra một quyển sách dầy
màu xanh, ghi tám chữ to thếp vàng “Cửu Hoa Sơn
Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Ba chữ Cửu
Hoa Sơn viết theo hàng ngang, năm chữ c̣n lại viết
theo hàng dọc. Bốn phía cũng là kim sắc, hết sức
sáng ngời. Lăo nhân gia chắp tay nói: “Ta đến hóa
duyên”. Tôi nói: “Tôi tùy tiện ghi một chút được
không?” “Ta không cần tiền! Hôm nay, ta đặc biệt
đến nói chuyện với bà”. “V́ sao lăo sư phụ biết
tôi?” “Ta có thần thông, đă sớm quen biết bà”. Tôi chú ư
chiếc măo màu xanh của Ngài rất đặc biệt,
lăo nhân gia bèn nói: “Đây là cái măo thời cổ, ta đă
hơn một trăm tuổi rồi”. Bắc ghế mời
Ngài ngồi, Ngài chẳng chịu ngồi; dâng trà cũng chẳng
chịu uống, chỉ nói: “A Di Đà Phật”.
“Bà
là một người có thiện căn, có duyên với Phật.
Sau khi đă bốn mươi tuổi, chính bà sẽ mong học
Phật. Tới khi đó, bà sẽ hiểu lời ta nói”.
“Lăo sư phụ v́ sao biết tôi?” “Hết thảy mọi
chuyện trong ḷng người, ta đều biết. Chuyện
đời trước của mỗi người ta
cũng đều biết. Chuyện một đời, hai
đời, ba đời của bà như thế này, như
thế nọ, ta sẽ nói cho bà nghe. Nhưng mong rằng trong tương lai, bà hăy khéo tu tập,
tu tốt đẹp hơn đời trước! Ta thấy
bà trong tâm hoài nghi, khuyên bà chớ hoài nghi, ta có thần thông”.
Lúc ấy, tôi thấy lăo nhân gia dáng vẻ nghiễm nhiên
đạo mạo dường ấy, đột nhiên tới
nói nhiều lời như vậy, lại nhiều lượt nói có thần thông, tôi lại chẳng
hiểu rơ thần thông là ǵ, trong ḷng quả thật đang
hoài nghi. Ngay trong lúc hoảng hốt, lại bị lăo nhân
gia vừa nh́n đă thấy ngay, nói toạc ra!
“Tôi
không biết Phật là ǵ, mẹ tôi và mẹ chồng đều
cùng tin Quán Thế Âm Bồ Tát, tôi chỉ biết tin Quán Thế
Âm Bồ Tát”. “Phật là ǵ? Bồ Tát là ǵ? Thánh hiệu của
Phật, Bồ Tát rất nhiều. Từ bốn
mươi tuổi trở về sau, bà
sẽ tự nhiên hiểu. Ta thấy bà dường như
vẫn hoài nghi, chẳng tin tưởng cho lắm. Ta nói một
ít chuyện trong thực tế vậy. Chẳng hạn
như chồng bà là Châu Bang Đạo, đang làm Đốc Học
tại bộ Giáo Dục. Diện mạo, tánh t́nh của
ông ta như thế đó, ta nói cho bà nghe, bà sẽ tin tưởng”.
“Lăo nhân gia v́ sao biết ông ta?” “Ta đă sớm biết ông
ta, lại c̣n có thể tùy thời thấy ông ta. Đấy
là thần thông”. Hai người tớ gái họ Tôn và họ
Hứa ở bên cạnh nói xen vào: “Tiên sinh có nhiều bạn
bè, mỗi người nói qua nói lại, thầy tự nhiên
là biết!” “Được! Trẻ nhỏ nói chung là không
được người khác nhắc đến nhiều.
Ta sẽ nói về mấy đứa bé vậy. Đứa
con thứ tư của bà là Xuân Đề đang ở bên
cạnh bà, ta chẳng cần phải nói. Con cả là Xuân Cảnh,
con thứ là Xuân Phù, con thứ ba là Xuân Yển, đều
đang học tại trường Tiểu Học Liên Hoa
Kiều, diện mạo, tánh t́nh của chúng nó như thế
này, như thế nọ, chẳng đúng ư? Nay bà phải
nên tin tưởng. Bà là một phụ nữ hiền hiếu,
có thể hiếu kính bố mẹ ruột lẫn bố mẹ
chồng. Đời trước bà có mối nhân duyên đặc
biệt với mẹ chồng, cho nên có thể đặc
biệt hiếu thuận với bà ta. Chữ Hiếu là
điều khẩn yếu nhất trong đời người.
Bà có thể trọn hết hiếu đạo, đáng quư lắm!”
Năm
ấy, đứa con thứ năm là Xuân Đường
c̣n chưa sanh ra, viện bảo sanh thấy bụng tôi to
phè phè, sợ có vấn đề, chẳng chịu phụ
trách đỡ đẻ, ḷng tôi có chút sầu lo. Lăo nhân gia
c̣n nói thêm: “Bà hiện thời đang mang thai một bé trai.
Xương nó to, cho nên bụng lớn, đừng lo lắng!
Chẳng có nguy hiểm ǵ, tới giờ… ngày… trong tháng Tám sẽ
sanh. Sanh nở rất an ổn, thằng bé chẳng khóc tí
nào! Tánh t́nh nó sẽ như thế này, như thế nọ.
Bà sanh năm con trai; sau đó, sẽ sanh một gái. Vốn
bà có năm trai hai gái, nhưng do đời này chẳng khéo
tu, cho nên chỉ có một gái. Khi đứa con gái ấy
sanh ra, bà sẽ có một nạn, nhưng ta sẽ thường
đến thăm bà, che chở cho bà, bà ngàn vạn phần
đừng sợ hăi, chẳng bị nguy hại đến
tánh mạng. Bà phải tự phát tâm nguyện, cúng dường
dầu thắp đèn trước tượng Phật, Bồ
Tát ở Cửu Hoa Sơn, nhiều ít tùy bà nói ra là
được rồi… Bà không nói, tôi bảo bà, bà có thể
cúng dường một trăm cân dầu thắp đèn, có
thể bảo đảm cả nhà b́nh an, khi sanh con gái,
chẳng bị nguy hiểm mảy may”. “Hai mươi cân
được không?” “Được chứ!” Lăo nhân gia
không viết vào quyển sổ dầy Ngài đă lấy ra,
mà tiện tay viết một tờ giấy “Châu
Dương Huệ Khanh cúng dường hai mươi cân dầu
thắp đèn”. Bảo tôi thắp ba nén hương, theo
Ngài ra sân hướng về phía Tây Nam hành lễ. Lăo nhân gia
đốt tờ giấy, nói: “Cửu Hoa Sơn đă biết
rồi”. Tôi thấy lăo nhân gia đi lại, cước bộ
nhẹ nhàng như bay, chẳng có tiếng động. Trong
tâm rất ngạc nhiên, nhưng chẳng hiểu v́ lẽ
nào, chỉ hỏi: “V́ sao lăo sư phụ biết tên họ
của tôi?” “Ta đă nói là ta có thần thông”. “Con cúng cho lăo
sư phụ một ít tiền”. “Ta chẳng lấy một
đồng nào, tay chưa hề cầm đồng nào. Bà gởi
dầu tinh sạch đến là được rồi. Nếu
bà tự ḿnh đưa đến, ta sẽ đích thân tiếp
đăi bà. Nếu sai người đưa đến, bản
thân ta sẽ chẳng ra tiếp. Bà có thể bảo cô ta (chỉ
vào cô họ Tôn), cô ta là người huyện Sào tỉnh An
Huy, sẽ biết! Bảo cô ta đặt ở điện
X…. là được rồi” (lúc ấy, có ghi lại tên ṭa
điện đó, nhưng trong thời gian kháng chiến, phải
tản cư, tiếc là đă đánh mất chi tiết ấy).
Cô Hứa
lại nói chen vào: “Thầy nói chẳng cần tiền, xin dầu
th́ có khác ǵ muốn tiền đâu?” “Ngươi biết
chuyện ǵ à? Tiền thân của ngươi là ǵ? Đáng
thương cho ngươi, ta chẳng muốn nói. Bà chủ
của ngươi là một người tốt, ta đặc
biệt đến t́m bà ta nói chuyện, ngươi chẳng
cần phải rườm lời! Thời gian chẳng c̣n
sớm nữa. Chồng bà sắp tan sở, trở về,
tánh t́nh ông ta rất nóng nảy, bộp chộp,
ắt sẽ cho ta là một ḥa thượng tầm thường
hóa duyên đ̣i tiền, nhất định sẽ chửi mắng
ta. Bà chớ nên tức giận, ta cũng chẳng giận.
Tâm địa ông ta tốt lành, nổi nóng rồi thôi, chẳng
có chuyện chi nữa! Năm trước có một gă
người Thượng Hải, mạo nhận là bạn
của chồng bà, lừa bà một món tiền, ông ta đă
mắng bà một trận um sùm, đúng chưa?
Món tiền đó là do đời trước bà thiếu gă
đó, đưa trả hắn là tốt nhất. Chớ nên
khổ sở khóc lóc nữa!” (Tôi v́ chuyện ấy, quả
thật là thường rơi lệ, khổ sở!)
Chồng
tôi ở Nam Kinh, tuy thường tới Chi Na Nội Học
Viện, thân cận thầy ông ta là lăo cư sĩ Châu Thiếu
Do, cũng từng bỏ tiền in kinh, đă từng xin
bài minh để khắc ở mộ mẹ từ Nghi Hoàng
đại sư Âu Dương Cánh Vô tiên sinh. Trong bài minh có
câu: “Xoay vần trong cơi tam thiên, chỉ có sức kinh, Bang
Đạo chẳng mê, công đức dũng mănh, ta v́ mẹ
làm bài minh, đă sanh cơi Cực Lạc”. Nhưng ông ta
chưa từng nghe kinh, chưa nghe Phật pháp, chưa hiểu
ư nghĩa của Tăng. Lại do quan niệm “bài trừ
mê tín” thuở ấy mê hoặc, tư tưởng mâu thuẫn.
Lại do năm trước tôi bị người ta gạt
tiền, ông ta luôn nghĩ tôi dễ bị kẻ khác lừa
bịp! Sau khi ông ta trở lại, chưa hỏi căn do,
quả nhiên đă nổi cáu, bảo tôi chớ nên tùy tiện
ghi quyên tặng, các ḥa thượng phần nhiều hóa
duyên là v́ danh, mà cũng là để tự no ấm, tự
lợi! Lăo nhân gia cười nói: “Ta đă sớm biết
ông sẽ tức giận, chẳng cần mắng ta,
cũng đừng mắng vợ ông. Trong tương lai,
ông c̣n cần bà ta hóa độ, giúp đỡ ông. A Di Đà
Phật! A Di Đà Phật!”
Cô Hứa
đưa lăo nhân gia ra cửa, vừa ra khỏi cửa, liền chẳng thấy bóng dáng đâu nữa.
Cô ta trở về thưa với tôi: “Lăo sư phụ vừa
ra ngoài,
liền chẳng thấy đâu nữa, chẳng biết là
v́ lẽ nào!” Do chuyện này, tôi bi năo vạn phần, lại
thật sự chẳng hiểu là v́ lẽ nào? Những lời
lăo sư phụ đă nói, cũng chẳng dám kể cặn
kẽ với chồng. Bất quá, lăo nhân gia áo măo châu ngọc,
tiếng nói, vẻ tươi cười, từng lời
từng chữ đều ghi khắc sâu đậm trong
đầu tôi. Quả nhiên vào giờ ấy, ngày ấy trong
tháng Tám, cháu thứ năm là Xuân Đường lọt
ḷng, sanh ra liền lẳng lặng ngủ, chưa từng
nghe tiếng khóc. Mẹ lẫn con đều b́nh an. Tháng
Giêng năm Dân Quốc 26 (1937), sanh con gái út Xuân Viên, tôi bị
viêm màng bụng, t́nh thế khá nguy kịch. Trị liệu
hơn một tháng mới chuyển nguy thành an. Những chuyện
này hoàn toàn phù hợp với những điều lăo sư
phụ đă nói ngày hôm đó.
Quân
kháng chiến [chống Nhật Bản xâm lăng Trung
Hoa] nổi dậy, [gia đ́nh tôi] vội vàng rời
Nam Kinh trở về đất Cám (Giang Tây)[8].
Tháng Giêng năm Dân Quốc 27 (1938), nhà tôi theo lệnh của
bộ Giáo Dục kiêm nhiệm chức hiệu trưởng
trường Trung Học Quốc Lập thứ ba, cả
nhà từ Thụy Kim dời về huyện Đồng Nhân
thuộc Quư Châu. Mùa Xuân nâm Dân Quốc 30 (1941), nhà tôi
được thuyên chuyển làm Tham Sự ở viện
Khảo Thí, phải theo Bộ Giáo Dục [của chính quyền Quốc
Dân Đảng] sang thủ đô thứ hai là Trùng Khánh[9],
mẹ con tôi vẫn sống tại Đồng Nhân. Tôi
nghĩ đă không phụng dưỡng mẹ chồng gần
mười năm, trong ḷng hết sức khó chịu, hễ
nghĩ tới liền khóc. Tháng Chín năm đó, khi tôi bắt
đầu bước vào tuổi bốn mươi, càng
thêm tưởng nhớ, thường mong muốn báo ân
mẹ chồng. Có người nói, muốn báo ân cụ th́
phải lễ Phật, niệm kinh Huyết Bồn. Bà Vạn
Phi Vân theo Đạo giáo nói bà sẽ đến dạy tôi
niệm, nhưng tôi phải bái bà ta làm thầy. Chẳng biết
v́ sao, tôi không muốn cho lắm, hẹn lần hẹn lữa,
rốt cuộc chẳng đến nhà bà ta! Trong tháng ba
năm Dân Quốc 31 (1942), một đêm mộng thấy hai
vị Tăng to lớn, vị thứ nhất khoác ca-sa,
để hở vai trái, hai tai to rủ xuống. Vị thứ
hai mặc áo hải thanh, cả hai đều đi chân trần.
Vị thứ hai vào cửa, gọi tên họ tôi, hỏi tôi
có c̣n cất giữ xâu chuỗi La Hán bằng gỗ
bách hay không? (Đây là xâu chuỗi thỉnh từ vị lăo
tăng ở miếu Trung Nhạc tại Tung Sơn khi nhà
tôi làm Đốc Học tỉnh Hà Nam). Vị thứ nhất
nói: “Bà đừng nóng ruột, trong tương lai có dịp,
tôi sẽ giới thiệu cho bà”. Tôi chẳng biết giới
thiệu chuyện ǵ, chỉ thuận miệng thưa: “Xin
sư phụ lưu tâm”. Tới ngày Mười Chín tháng Sáu,
khi miếu Đông Nhạc ở Đồng Nhân làm pháp hội
Quán Âm, bỗng có người lớn tiếng nói: “Quy y
Tam Bảo, quy y Tam Bảo”, nói ba bốn lượt!
Người này hỏi người kia là ai nói, ai nấy
đều nghe tiếng, lại chẳng biết quy y Tam Bảo
là ǵ? Sau khi thưa hỏi thầy Khoan Ngạn, mới biết
Tam Quy Y có nghĩa là ǵ. Chúng tôi muốn xin quy y, thầy lại
chẳng muốn, bảo: “Trong lúc Kháng Chiến, tỵ nạn
c̣n chẳng xuể, quy y nỗi ǵ? Trong tương lai,
đến núi Phổ Đà quy y tốt hơn”. Thỉnh cầu
măi, Sư mới miễn cưỡng đáp ứng, nói:
“Tôi chẳng muốn cho các vị quy y, chỉ sợ Phật,
Bồ Tát muốn cho quư vị quy y”. V́ thế, tạm thời
cử hành nghi thức quy y qua loa. Đấy là lúc tôi bắt
đầu quy y Tam Bảo, bốn mươi tuổi về
sau sẽ tin Phật, học Phật, điều ấy
đă được chứng nghiệm. Nhưng đối
với lời lăo sư phụ đă nói trong mấy năm
trước, khi đó quên bẵng, chẳng nhớ tới!
Sau
khi quy y, thầy Khoan Ngạn dạy tôi niệm chú Đại
Bi. Tôi lại xin thầy dạy niệm kinh Kim Cang, thầy
không chịu, bảo: “Bà không hiểu, niệm làm chi?” Một
đêm, tôi mộng thấy một vị lăo ḥa thượng
dạy tôi niệm kinh Di Đà. Niệm xong, có chiếc thuyền
từ trên hư không bay qua, tôi ngạc nhiên hỏi: “V́ sao
thuyền bay được?” Lăo ḥa thượng nói: “Đấy
là vật chẳng dễ thấy”. Nh́n lại, chẳng thấy
chiếc thuyền bay nữa, cũng chẳng thấy lăo
ḥa thượng đâu! Trong tay, chỉ có một quyển
kinh Di Đà. Tỉnh giấc, kinh Di Đà cũng chẳng
có; nghĩ lại, dung mạo và thần thái của lăo ḥa
thượng đă gặp tại nhà ở Nam Kinh thập phần
tương tự. Từ đó về sau, thường nhớ
tới vị lăo ḥa thượng năm đó. Sáng hôm sau, thầy
Khoan Ngạn tới, tôi thưa lại chuyện tối hôm
qua mộng thấy đọc kinh Di Đà, cũng hỏi
han kinh Di Đà nói về điều ǵ, được thầy
giảng giải đại lược đôi chút. Chiều
hôm đó, đem sách ra phơi, cháu Xuân Yển phát hiện một
quyển kinh Phật do tiên sinh Trương Mặc Quân in tặng
(các sách vở ở Nam Kinh đều chẳng mang theo, chẳng
biết sao lại xen lẫn quyển kinh này, cũng là nhân
duyên thù thắng). Kinh Kim Cang, kinh Di Đà, kinh Vô Lượng
Thọ, Tâm Kinh, Đại Bi Chú v.v… đều có đủ
trong ấy. Tôi hoan hỷ, hớn hở, bèn phát tâm niệm
kinh, niệm chú, sáng tối đều có thường khóa,
vui thích chẳng chán.
Nhà
tôi trong lúc kháng chiến, phát tâm niệm tụng kinh Ma Lợi
Chi Thiên[10]; lăo
cư sĩ Châu Thiểu Do gởi thư dặn niệm tụng
kinh Di Đà và thánh hiệu Quán Âm. Sau khi tới Trùng Khánh, chồng
tôi thân cận tiên sinh Đới Quư Đào, chịu ảnh
hưởng của ông ta, ư niệm tin Phật dần dần
kiên cố, chọn lựa chừng ấy kinh Phật để
khuyên điểm trước, sau đó gởi cho tôi ở
Đồng Nhân. Tại nhà ở Nam Xương, lập bàn
thờ Phật, thường cùng tôi chiêm lễ. Sau khi đến
Đài Loan, do được cụ Long Kiện giới thiệu,
cùng quy y với lăo pháp sư Hư Vân thuộc chùa Nam Hoa,
cũng trở thành đệ tử thường theo hầu
của của lăo cư sĩ Lư Tuyết Lư (Lư Bỉnh
Nam), nghe kinh, học Phật, khá có tinh tấn. Đấy là
nói đại khái về nhân duyên học Phật của ông
ta.
Vào
dịp thánh đản Địa Tạng Vương Bồ
Tát trong tháng Bảy năm Dân Quốc 42 (1953), Tuyết
sư (cụ Lư Bỉnh Nam) tặng chồng tôi mấy chục
bức tranh Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi thấy
áo, măo, chuỗi ngọc trong tranh chẳng khác vị lăo
tăng trăm tuổi núi Cửu Hoa tôi đă gặp
tại nhà ở Nam Kinh năm Dân Quốc 24 (1935) cho mấy,
bất quá diện mạo trẻ hơn, trong tay có thêm tích
trượng mà thôi! V́ thế, nhớ lại các sự thật
do Ngài đă nói, những điều chứng nghiệm từ
đầu đến cuối kể lại cho chồng.
Nhà tôi kinh hăi, nhảy dựng lên hỏi: “Linh tích hiếm có
như thế, chắc phải là hóa thân của Địa
Tạng Vương Bồ Tát, sao bà không nói sớm cho tôi biết,
khiến tôi chịu tội đến nay? V́ bà phát Bồ
Đề tâm và đại nguyện, tôi cũng chỉ biết
có chừng hạn, một đức, một tâm, theo nhau
cùng tu tŕ, đấy chẳng phải là do chính bà đă
độ tôi, giúp tôi ư?” V́ thế, cung
kính lễ bái, sám hối sâu đậm, thiết tha.
Trong
tháng Mười Hai, chùa Bảo Thiện tại Đài Trung
thỉnh pháp sư Bạch Thánh giảng kinh Địa Tạng
Bồ Tát Bổn Nguyện. Pháp sư vốn xuống tóc tại núi Cửu Hoa, khi giảng kinh,
thường nhắc đến các chuyện linh ứng thị
hiện của Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Trong kinh, cũng nhiều lượt nói tới đạo
lư cúng dường chiêm lễ, hoặc tạo tháp tự, hoặc
đắp vẽ h́nh tượng, hoặc thắp đèn dầu.
Do vậy, nghĩ đến chuyện trước kia,
cũng thưa cặn kẽ đầu mối với pháp
sư. Cũng hỏi Cửu Hoa có vị lăo ḥa thượng
hơn trăm tuổi có thần thái như thế hay không?”
Pháp sư nói: “Tôi ở Cửu Hoa nhiều năm, chưa hề
nghe, chưa hề thấy vị lăo ḥa thượng nào
ngoài trăm tuổi. Vị ấy chắc là hóa thân của
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài lấy ra một
quyển sách dầy, ngoài b́a có mấy chữ to thiếp
vàng cho bà xem, chẳng chịu mở ra để viết tiền
quyên góp, bước đi lại nhẹ lướt như
thế. Đó là một loại thị hiện chẳng thể
nghĩ bàn! Địa Tạng Vương Bồ Tát thường
có linh tích hóa thân dạo khắp, người
ở
các nơi phụ cận phần nhiều bàn luận say
sưa!”
Qua
lần thưa hỏi này, có thể nói là đă đạt
được chứng cứ khá tin cậy, có thể chứng
minh cho chuyện vào mười tám năm trước khác hẳn
tầm thường, chứng minh hóa thân của Địa
Tạng Vương Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Thuở đó, “nhục nhăn chẳng thấy thánh nhân, nhục
nhăn chẳng thấy Phật, Bồ Tát”, đến nỗi
bỏ lỡ cơ duyên khó gặp gỡ trong cuộc đời,
chưa thể hỏi nhiều về nhân quả, xin
được khai thị cho nhiều, lại c̣n mạo phạm,
khinh nhờn tôn nghiêm, đến nỗi chuốc lấy tội
ác. Đúng là hối hận th́ đă muộn rồi,
trăm thân khó chuộc được! V́ thế, nhà tôi và
tôi kính cẩn hiến cúng hai mươi cân dầu sạch
trước ṭa của Địa Tạng Bồ Tát tại
chùa Bảo Thiện, ngơ hầu đền tạ nguyện
cũ. Chí thành khẩn thiết, xót xa, dốc một niềm
thống thiết, năm vóc gieo sát đất, xót xa lễ
sám, mong cho biển lặng sóng trong, sẽ đến
được núi Cửu Hoa, “bi luyến
chiêm lễ”, những mong ngăn dứt nghiệp chướng,
hồi hướng pháp giới. Tháng năm thấm thoát, từ
thuở lễ sám năm ấy đến nay đă sắp
hết một năm rồi. Kính cẩn ghi đại
lược đầu đuôi, thưa bày trung thực để
nói với các đồng tu, và cung kính trích dẫn lời kệ
của đức Thế Tôn trong phẩm Kiến Văn Lợi
Ích của kinh Bổn Nguyện:
Ngô
quán Địa Tạng oai thần lực,
Hằng
hà sa kiếp thuyết nan tận,
Kiến
văn chiêm lễ nhất niệm gian,
Lợi
ích nhân thiên vô lượng sự.
Dục
tu Vô Thượng Bồ Đề giả,
Năi
chí xuất ly tam giới khổ,
Thị
nhân kư phát đại bi tâm,
Tiên
đương chiêm lễ Đại Sĩ tượng,
Nhất
thiết chư nguyện tốc thành tựu,
Vĩnh
vô nghiệp chướng năng giá chỉ.
(Ta
xem Địa Tạng sức oai thần,
Hằng
hà sa kiếp nói khó trọn,
Thấy
nghe, chiêm lễ trong một niệm,
Lợi
ích trời, người vô lượng sự.
Kẻ
muốn tu Vô Thượng Bồ Đề,
Cho
đến thoát ĺa tam giới khổ,
Kẻ
đó đă phát tâm đại bi,
Trước
nên chiêm lễ tượng Đại Sĩ,
Hết
thảy các nguyện mau thành tựu,
Nghiệp
chướng vĩnh viễn chẳng ngăn trở).
31. Bàn về cách cứu tế khẩn
cấp đối với người sắp lâm chung bằng
kinh Địa Tạng
Giới Bảo ghi
Thường
nghe nói Phật, Bồ Tát vô duyên đại từ, đồng
thể đại bi, dẫu kẻ Ngũ Nghịch, Thập
Ác vẫn chẳng ghét bỏ. Người viết đă
được chứng thực tơ hào chẳng sai!
Người viết học Phật đă hai năm, trước
khi học Phật, đầu óc toàn là tư tưởng cốt
sao có lợi cho ḿnh, làm bất cứ chuyện ǵ
cũng suy nghĩ v́ tư lợi, v́ đạt được
mục đích mà chẳng từ thủ đoạn. Trong xă
hội với t́nh trạng đạo đức ngày càng
suy đồi, luôn sợ ḿnh chẳng đủ quyền xảo
để giành phần thắng. Do vậy, riêng ưa chuộng
học vấn theo kiểu binh pháp tung hoành, thường
đắc ư chính ḿnh lắm mưu nhiều kế, nhưng
nhân duyên lại càng lúc càng kém cỏi, khổ năo ngày càng nhiều.
Ngẫu nhiên, hai năm trước thấy nghe Phật
pháp, giống như uống một vỉ thuốc thanh
lương, thân tâm đột nhiên thanh thản, sảng
khoái. Từ đó về sau, tin tưởng, hành theo Phật
pháp, đọc kinh, lạy Phật, giữ yên bổn phận,
cuộc sống an thuận hơn trước kia rất
nhiều, Mỗi lần gặp nạn cấp bách, cầu
Phật, Bồ Tát gia bị, vô h́nh trung dường như
có sự giúp đỡ thần diệu, khó khăn thường
là bất tri bất giác tan mất. Lần này gia mẫu lâm
chung, tự cảm thấy sự cảm ứng khá rơ ràng,
nguyện đem chuyện từng trải thưa tŕnh để
các đồng tu tham khảo.
Tiên
mẫu họ Ngô, đă sớm quy hướng, tin tưởng
Nhất Quán Đạo, ăn chay trường, thần Phật
đều lạy. Người viết hai mươi
năm trước, chẳng hiểu Phật lư, thường
khuyên mẹ ăn thịt để tăng thêm chất dinh
dưỡng, do v́ một mảnh hiếu tâm. Lâu ngày, quả
nhiên nói khiến cho mẹ động ḷng thôi ăn chay. Chẳng
lâu sau, do không quen ăn mặn, cụ lại tiếp tục
ăn chay. Trong thời gian ấy, Nhất Quán Đạo
đường và chùa Chánh Tín là nơi mẹ thường
đến lễ bái. Không chỉ cúng dường, bố
thí, mà c̣n thường tham gia các pháp hội tiêu tai ở
chùa. Ngoài ra, hiểu biết mù mịt, Phật pháp càng khó
nghe, mẹ có thể đường xa lễ Phật,
đă đáng quư lắm rồi! Gia
mẫu sáu năm trước mắc chứng lăng trí của
người già (tế bào năo lăo hóa hoại tử, hiện
thời vẫn chưa có thuốc men nào chữa trị
được), trí nhớ dần dần mất đi. Khoảng
ba năm sau, trí năng hoàn toàn mất đi. Sau đó,
ăn uống, đại tiểu tiện đều chẳng
thể tự lo liệu! Người viết kiếm sống
ở bên ngoài, toàn nhờ vào vợ chăm sóc. Tục ngữ
có câu: “Bệnh lâu chẳng có con hiếu”. T́nh cảnh
chịu khổ có thể tưởng được! Một
năm rưỡi trước đây, người viết
được thuyên chuyển về miền Bắc, bèn
được hầu hạ mẹ. Lúc ấy, mẹ
đă không thể nhận biết con ruột, nhưng thân
thể khỏe mạnh như cũ. Do mẹ hành động
lệch lạc, để ngăn ngừa mẹ mở gas,
điện, nước, tiêu tiểu bừa băi, lạc
đường v.v… người viết đă toan tính sắp
xếp rất nhiều biện pháp cho cụ, nhưng đều
vô hiệu. Cuối cùng, đành phải để cụ ở
một gian pḥng duy nhất hơn hai năm.
Tôi
nhớ mẹ đă chịu khổ nhiều năm, suốt
sáu mươi năm, ngày đêm vất vả làm lụng
không nghỉ nơi ruộng vườn trên núi. Cụ tiết
kiệm đến nỗi đậu hủ chẳng nỡ
mua nhiều! Nay con cái khôn lớn, là lúc có thể an
nhàn đôi chút, liền mắc phải bệnh tật chẳng
biết cách nào như thế. Đời người khổ
sở, những điều từng trải của mẹ
khiến tôi khắc cốt minh tâm trần thuật. Trước
khi mẹ tôi lâm chung ba ngày, thần chí mơ hồ cực
điểm (khi đó, cụ đă bảy mươi hai tuổi).
Trời lạnh buốt, vừa mới giúp mẹ mặc
áo dầy, cụ lại cởi ra ngay, thường xuyên v́
thế mà lạnh run lẩy bẩy. Đại tiểu tiện
lại càng là nan đề khó thể đề cập. Mắt
thấy mẹ tôi bị hành hạ như vậy, khiến
tôi nghĩ tới địa ngục, nhớ tam giới
như nhà lửa, biển khổ chẳng có ngằn mé, than
thở mẹ làm sao kham nổi! Ngày Hai Mươi Tám tháng
Chín năm Dân Quốc 72 (1983), bỗng tôi có nỗi xúc động
muốn tháo tung các trói buộc bởi truyền thống
đạo đức: “Mẹ tôi bị bệnh
khổ hành hạ như thế, sao bằng v́ mẹ cầu
sanh Tịnh Độ? Làm như thế có phạm tội bất
hiếu hay không?” Trải qua sự
giăy giụa không ngừng giữa mâu thuẫn t́nh cảm và
lư trí, vẫn khó thể quyết định. Cuối cùng,
tôi đến Kim Sơn Thiền Tự, thỉnh giáo vị
thầy quy y là lăo pháp sư Tri Giác, mong thầy từ bi chỉ
dạy: “V́ mẹ cầu
sanh Tịnh Độ th́ có trái nghịch hiếu đạo
hay không?” V́ thế, đối
trước Phật, hằng ngày ngoài niệm Phật một
ngàn câu, tụng chú Đại Bi hai mươi lượt
trở lên, và tùy phần tùy sức tu các công đức, chủ
yếu là hồi hướng cho mẹ cầu sanh về Tịnh Độ, măi
cho đến khi mẹ hết báo thân. Và cũng hằng
ngày đối trước Phật cầu nguyện:
1)
Khiến cho mẹ giảm bớt khổ sở, sớm
sanh về Tịnh Độ. Hết thảy tội nghiệp,
khổ báo của mẹ đều do tôi chịu thay.
2)
Khi mẫu thân lâm chung, giảm bớt đau khổ, an
tường xá báo.
3)
Khiến cho tôi được hầu bên cạnh, trợ niệm
Phật hiệu, giúp mẹ sanh Tây. Mẹ
tôi tuy bệnh năo nhiều năm, thân thể hết sức
cường tráng. Đột nhiên, vào chiều ngày Hai
Mươi Ba tháng Chạp năm Dân Quốc 72 (1983), mẹ
tôi nằm trên giường không dậy nổi, thức
ăn không nuốt được. Tôi vốn tính đưa
vào bệnh viện, chỉ sợ mẹ tuổi đă cao,
nếu có chuyện bất trắc, sẽ đâm ra hại
cho chánh niệm, liền để săn sóc tại nhà, ngày
đêm niệm Phật, v́ mẹ cầu sanh Tịnh Độ.
Trải qua hai ba ngày, mẹ nằm trên giường như
cũ, phần lớn là đang ngủ mê mệt. Hoàn toàn chẳng
có biểu t́nh thống khổ, nhưng thân thể nhanh chóng
gầy yếu. Người viết biết mẹ chẳng
lâu nữa sẽ rời cơi đời, nhớ tới mẹ
suốt đời chịu khổ, trai giới hơn
mười năm, đời này đă măn, há có thể chẳng
v́ mẹ tính toán cho đời sau ư? Ngoài việc càng cố
gắng niệm Phật ra, bỗng nhớ phẩm thứ
mười hai, tức Kiến Văn Lợi Ích trong kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có dạy: “Lâm
mạng chung thời, phụ mẫu, quyến thuộc,
tương thị mạng chung nhân xá trạch, tài vật,
bảo bối, y phục, tố họa Địa Tạng
h́nh tượng, hoặc sử bệnh nhân vị chung chi
thời, nhăn nhĩ kiến văn, tri đạo quyến
thuộc, tương xá trạch, bảo bối đẳng,
vị kỳ tự thân, tố họa Địa Tạng Bồ
Tát h́nh tượng. Thị nhân nhược thị nghiệp
báo, hợp thọ trọng bệnh giả, thừa tư
công đức, tầm tức trừ dũ, thọ mạng
tăng ích. Thị nhân nhược thị nghiệp báo mạng
tận, ưng hữu nhất thiết tội chướng,
nghiệp chướng, hợp đọa ác thú giả, mạng
chung chi hậu, tức sanh nhân thiên, thọ thắng diệu
lạc, nhất thiết tội chướng, tất giai
tiêu diệt” (Khi sắp hết mạng, cha mẹ, quyến
thuộc, đem nhà cửa, tài vật, của báu, quần
áo của người mạng chung ấy dùng tạc hoặc
vẽ h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, hoặc
khiến cho bệnh nhân khi chưa chết, mắt thấy,
tai nghe, biết quyến thuộc đem nhà cửa, vật
báu v.v… v́ chính thân ḿnh mà đắp vẽ h́nh tượng
Địa Tạng Bồ Tát. Người ấy nếu do
nghiệp báo, đáng bị bệnh nặng,
th́ nhờ vào công đức ấy liền được
hết bệnh, b́nh phục, thọ mạng tăng thêm! Nếu
người ấy do nghiệp báo đă hết mạng, có
hết thảy các tội chướng và nghiệp chướng
đáng đọa vào đường ác, [nhưng do công
đức đắp vẽ h́nh tượng Bồ Tát], sau
khi mạng chung, liền sanh trong làm trời hay người,
hưởng sự vui thù thắng, nhiệm mầu, hết
thảy tội chướng thảy đều tiêu diệt).
V́ thế, mau chóng tính dùng hai vạn đồng ấn tống
kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (tôi vốn
cũng mong tạo thánh tượng Địa Tạng Bồ
Tát, nhưng lâm thời chẳng xếp đặt thích
đáng, cho nên chẳng tạo), và kinh Kim Cang, sách Sự Kiện
Lớn Nhất Lúc Lâm Chung, ba loại kinh sách để kết
duyên cùng đại chúng, cũng quyên tặng một bức
kim thân Phật trong số một ngàn vị Phật tại
Di Lặc Nội Viện ở Tịch Chỉ. Sau đó, kề
sát tai mẹ, thưa rơ từng điều: “Mẹ ơi! Mẹ
trước kia ăn chay lễ Phật, tin Phật.
Cho nên con nay đem số tiền do mẹ vất vả chắt
chiu, lấy ra hai vạn đồng để in tạo
kinh, tượng. Trước kia, mẹ thường quyên
cúng tiền nhang đèn, lợp chùa. Mùa Hạ thí nước
trà, mùa Đông, cúng gạo trắng, quần y phục… làm rất nhiều
thiện sự, Phật, Bồ Tát sẽ gia hộ mẹ,
A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn mẹ.
Người khác đến dẫn mẹ đi, mẹ
đừng theo nhé! Chỉ có A Di Đà Phật đến
th́ mới có thể theo Ngài ra đi nhé!” Cũng thỉnh
tượng Tây Phương Tam Thánh cho mẹ xem. Hằng
ngày luôn nhắc nhở mẹ mấy lượt như thế.
Tới
khi mẹ nằm trên giường đă bảy ngày, khi chúng
tôi di chuyển thân thể hoặc chân tay của mẹ, mẹ
rất đau đớn, phát ra tiếng kêu đau ngăn
trở, tôi lại nghĩ đến chuyện có nên
đưa mẹ vào bệnh viện hay không. Lúc đó, mẹ
đă gầy như que củi, hiển nhiên là không có cách nào
chịu đựng được sự đau đớn
do di chuyển, hơi động đến đă kêu
đau. Nhưng nếu mẹ vẫn có thể sống
được một khoảng thời gian khá dài, làm sao
tôi có thể không đưa bà đến bệnh viện
để t́m cách giảm bớt nỗi đau khổ cho
bà? Trong lúc ấy, mời thầy thuốc đến chích,
nỗi đau khổ vẫn chưa giảm bớt.
Trong
khi tiến thoái lưỡng nan, do dự như thế, tôi
lại nghĩ tới phẩm thứ sáu của kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, tức phẩm Như
Lai Tán Thán có dạy: “Nhược vị lai thế, hữu
nam tử, nữ nhân, cửu xử sàng chẩm, cầu sanh,
cầu tử, liễu bất khả đắc. Hoặc dạ
mộng ác quỷ, năi cập gia thân, hoặc du hiểm
đạo, hoặc đa yểm mị, cộng quỷ thần
du, nhật nguyệt tuế thâm, chuyển phục uông sái,
miên trung khiếu khổ, thảm thê bất lạc giả.
Thử giai thị nghiệp đạo luận đối,
vị định khinh trọng, hoặc nan xả thọ,
hoặc bất đắc dũ. Nam nữ tục nhăn, bất
biện thị sự, đản đương đối
chư Phật, Bồ Tát tượng tiền, cao thanh chuyển
độc thử kinh nhất biến. Hoặc thủ bệnh
nhân khả ái chi vật, hoặc y phục, bảo bối,
trang viên, xá trạch, đối bệnh nhân tiền, cao
thanh xướng ngôn, ngă mỗ giáp đẳng, vị thị
bệnh nhân, đối kinh tượng tiền, xả
chư đẳng vật. Hoặc cúng dường kinh
tượng, hoặc tạo Phật, Bồ Tát h́nh tượng,
hoặc tạo tháp tự, hoặc nhiên du đăng, hoặc
thí thường trụ. Như thị tam bạch bệnh
nhân, khiển linh văn tri. Giả linh chư thức phân
tán, chí khí tận giả, năi chí nhất nhật, nhị nhật,
tam nhật, tứ nhật, chí thất nhật dĩ lai,
đản cao thanh bạch, cao thanh độc kinh, thị
nhân mạng chung chi hậu, túc ương trọng tội,
chí ư ngũ vô gián tội, vĩnh đắc giải thoát.
Sở thọ sanh xứ, thường tri túc mạng” (Nếu
trong đời vị lai, có nam tử, nữ nhân, nằm
trên giường bệnh lâu ngày, cầu sống hay cầu
chết đều trọn chẳng thể được.
Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ, cùng với người
nhà, hoặc đi trong đường hiểm, hoặc hay bị bóng đè, cùng đi với quỷ
thần. Lâu ngày chầy tháng, chuyển thành gầy ṃn, ho
lao, kêu rên đau khổ trong giấc ngủ. Đó đều
là do c̣n phải đối biện về nghiệp đạo
[trong cơi âm], chưa định tội nặng hay nhẹ,
nên khó xả thọ, hoặc chẳng được lành. Mắt
trần tục của nam nữ chẳng biện định
được chuyện này, chỉ nên đối trước
tượng của chư Phật, Bồ Tát, lớn tiếng
chuyển đọc kinh này một lần. Hoặc lấy
vật bệnh nhân yêu mến, hoặc y phục, vật
báu, trang trại, vườn, nhà cửa, đối trước
bệnh nhân, lớn giọng xướng rằng: “Tôi tên
là… v́ bệnh nhân này, đối trước kinh, tượng
tiền mà xả các vật. Hoặc cúng dường kinh
tượng, hoặc tạo h́nh tượng của Phật,
Bồ Tát, hoặc tạo chùa tháp, hoặc thắp đèn dầu,
hoặc bố thí cho thường trụ”. Bạch với
bệnh nhân ba lượt như thế khiến cho họ
nghe biết. Giả sử các thức phân tán, cho đến
khi tắt hơi, cho đến một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn
ngày, cho đến bảy ngày trở lại, chỉ nên lớn
tiếng bạch, lớn tiếng đọc kinh. Sau khi
người ấy mạng chung, túc ương trọng tội,
cho đến tội ngũ vô gián vĩnh viễn được
giải thoát. Sanh về bất cứ chỗ nào, thường
biết túc mạng).
Trong
mười hôm trước, chúng tôi không ngừng xưng niệm
Phật hiệu, chưa xét đến chuyện then chốt
là lúc mẹ mạnh khỏe vẫn chưa tu pháp môn Niệm
Phật, sợ khó tương ứng. Nay bỗng nhớ tới
câu trên, liền lập tức v́ mẹ niệm kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện một lần. Sau
đó, lại niệm một ly nước đại bi
cho mẹ uống. Tới chiều ngày hôm sau, khi xoay thân mẹ
để xoa bóp, bất ngờ nhận thấy mẹ chẳng
lộ vẻ thống khổ, tinh thần thoải mái, an
tường. Chúng tôi liên tục niệm Phật chẳng bỏ
sót, cũng thường hai tay nâng tượng Tây
Phương Tam Thánh cho mẹ xem, cũng kể cho cụ nghe
rất nhiều việc thiện đă làm trước kia,
Phật, Tổ sẽ dẫn cụ sang Tây Phương Cực
Lạc thế giới. Nói ra cũng rất lạ, vốn
là từ vài năm trước, mẹ tôi thần chí chẳng
rơ, nay dường như nghe hiểu. Mỗi lần đối
trước cụ nói như vậy, hốc mắt cụ
sẽ đong đầy nước mắt. Mấy chục
hôm trước, anh em chúng tôi gom góp bảy vạn đồng
cúng dường Tam Bảo, cũng đều thưa rơ với
mẹ từng chuyện. Và cũng hằng ngày niệm Phật,
lạy Phật, khẩn cầu Phật quang gia bị, khiến
cho mẹ thuận lợi sanh Tây. Tới mười một
giờ đêm ngày thứ mười ba, dùng bột táo mà mẹ
thích ăn bón cho cụ một th́a lớn. Tiếp tục
niệm Phật không ngừng, tôi cảm thấy tinh thần
tươi tỉnh, chẳng tính đi ngủ, lại thỉnh
tượng Tây Phương Tam Thánh cho mẹ xem. Mẹ mở
to mắt nh́n, nh́n đến lúc mười hai giờ
năm mươi lăm phút, mẹ thở nhanh hơn.
Năm phút đồng hồ sau liền tắt hơi, chẳng
giăy giụa mà qua đời. Người viết cùng vợ
và em trai một mực niệm Phật đến tám giờ
sáng, mời pháp sư trợ niệm đến giữa
trưa. Những lúc gián cách th́ dùng máy ghi âm phát ra tiếng niệm
Phật. Từ đó trở đi, quyến thuộc lục
tục kéo tới, quở trách: “V́ sao không sớm giúp tắm rửa,
thay quần áo cho cụ? Lúc thân thể cứng ngắc
như thế làm sao mặc được?” Người viết
chẳng rảnh đâu để giải thích, cứ
cười trừ mặc họ chửi mắng. Tới
ba giờ rưỡi chiều, tắm rửa, thay quần
áo cho mẹ, nào ngờ toàn thân cụ mềm mại như
thường, mọi người cũng chẳng c̣n nói ǵ
được nữa! Ngày hôm sau, khi nhập quan (đă ba
mươi ba tiếng đồng hồ trôi qua), nhận thấy
di thể của mẹ vẫn mềm mại như cũ.
Lo
liệu hậu sự cho mẹ, chúng tôi cũng bị một
số thân hữu chê trách. Thế tục luôn cầu náo nhiệt,
đẹp mặt, chúng tôi coi trọng họa phước
của mẹ, tận lực tiết kiệm, chuẩn bị
đem số tiền tiết kiệm được để
dùng vào việc hữu ích. Tuy tận lực sắp xếp,
bàn bạc, vẫn chẳng tránh khỏi làm một số việc
vô nghĩa như lẵng hoa, đội âm nhạc, đồ
cúng, xây mộ, đồ tang, các vật linh tinh v.v… lăng phí bốn
năm vạn đồng. Kế đó, liên quan đến
chuyện siêu độ. Trong xă hội hiện thời, phổ
biến chuyện làm công đức cho người đă mất:
Tang gia thỉnh người xuất gia làm Phật sự,
chẳng có chút ư nghĩa bố thí, cúng dường nào, càng
chưa nói tới chuyện cung kính, kiền thành. Họ bàn
bạc ổn thỏa mỗi ngày [tang chủ] phải trả
bao nhiêu tiền th́ mới đến, giống như giao dịch
buôn bán, người chết làm sao hưởng lợi ích thực
tế cho được? Noi theo huấn thị trong kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện th́ biết,
nói “tu phước siêu tiến người mất”
chính là dùng tài vật cung kính cúng dường Tam Bảo (hoặc
hiến cho các sự nghiệp từ thiện cũng
được). Dùng chuyện ấy để hồi
hướng cho người đă mất, khiến cho vong
linh gia tăng phước nghiệp, sanh về chốn
lành. Nếu dùng tiền thỉnh kẻ khác niệm kinh, sẽ
mất đi ư nghĩa bố thí, huống hồ
đương thời có các đoàn niệm kinh chuyên nghiệp
(phần nhiều đều chẳng phải là đệ
tử Phật môn, chẳng hiểu Phật pháp, không tu Phật
hạnh, chẳng giữ trai giới, lấy đâu ra sức
công đức để siêu độ người khác?
Chưa kể là thân cư sĩ, chẳng có tư cách
nhận bố thí cúng dường). Thậm chí ni cô chạy
bằng điện xuất hiện. Đó là tiêu tiền
để làm chuyện ô nhục, miệt thị thánh pháp, tội
lỗi vô lượng! Hiềm rằng tập tục xă hội
là như thế, người viết cũng chẳng thể
tránh khỏi thói tục để khỏi trái ư mọi
người. Chỉ đành trong ngày đưa ma, thỉnh
pháp sư đến làm một buổi pháp sự, cũng
trong bốn mươi chín ngày, tận lực trù tính các khoản
cúng dường thường trụ Tam Bảo các nơi, hồi
hướng cho mẹ phước lực tăng trưởng,
văng sanh Cực Lạc.
Lại
c̣n đến chùa Thừa Thiên ở Thổ Thành lập bài
vị văng sanh cho mẹ. Từ đấy về sau, cứ
bảy ngày tới chùa tham dự khóa tụng kinh buổi tối
hồi hướng. Trong nhà chẳng hề thỉnh người
làm Phật sự, nhưng người viết mỗi ngày
đều tụng kinh Di Đà, kinh Địa Tạng, niệm
Phật v.v… để hồi hướng cho mẹ. Lại
trong thời gian cư tang, cả nhà tŕ trai, cũng như
cúng dường cơm chay cho đại chúng. Sau đó, lại
nghĩ tới Pháp Xứng thượng sư ở Liên Hoa
Tinh Xá tại Tân Điếm (thuộc thành phố Tân Bắc)
mỗi tháng làm pháp sự từ thiện siêu độ vong
linh. V́ thế, đặc biệt đến đó xin ghi
danh. Tôi nhớ pháp hội cầu siêu trang nghiêm, nghiêm túc,
thượng sư tác pháp chừng một tiếng rưỡi
bèn viên măn. Vong linh tŕnh diện thọ giáo, thượng
sư tợ hồ thấy rơ ràng, nhưng thượng
sư tuổi tác đă cao, sợ thân thể lăo nhân gia mệt
mỏi, chẳng dám hỏi nhiều, đành phải vội
vàng cáo từ.
Tử
vong là đại sự mà bất cứ ai cũng đều
chẳng có cách nào tránh khỏi, họa phước là do một
khắc lâm chung, cùng với trong ṿng bốn mươi chín
ngày, quyến thuộc có thành kính làm phước siêu tiến
hay không. Người đă chết rồi, đă chẳng
thể tu công đức để tự cứu, chỉ cậy
vào quyến thuộc làm phước hồi hướng.
Kinh Địa Tạng dạy: “Tại thất thất
nhật nội, niệm niệm chi gian, vọng chư cốt
nhục quyến thuộc dữ tạo phước lực
cứu bạt. Quá thị nhật hậu, tùy nghiệp thọ
báo. Nhược thị tội nhân, động kinh bách thiên
tuế trung, vô giải thoát nhật… Nhược hữu vi
thực, cập bất tinh cần, thị mạng chung nhân
liễu bất đắc lực. Như tinh cần hộ
tịnh, phụng hiến Phật, Tăng, thị mạng
chung nhân, thất phần hoạch nhất” (Trong bốn
mươi chín ngày, trong mỗi niệm, [người đă
chết] đều mong ngóng quyến thuộc ruột thịt tạo phước lực cứu
bạt. Sau thời gian ấy, sẽ theo nghiệp thọ
báo. Nếu là như thế, tội nhân trải qua trăm
ngàn năm, chẳng có ngày giải thoát… Nếu ăn sái
phép, và chẳng siêng năng chuyên ṛng, người mạng
chung ấy trọn chẳng đắc lực. Nếu siêng
ṛng, giữ ǵn sạch sẽ, cúng dâng Phật, Pháp, Tăng,
người mạng chung ấy được một phần
trong bảy phần công đức). Cổ đức có
nói: “Muốn được lợi ích thực tế từ
Phật pháp th́ phải cầu từ thành kính”. Hiện
thời, kẻ v́ người chết tụng kinh, niệm
Phật th́ nhiều, nhưng thái độ thành kính chưa
chắc mỗi người đều có thể làm
được! H́nh thức hóa diễn xuất, mua bán theo
kiểu thương nghiệp, hết sức trái nghịch
bổn ư của đức Phật.
Kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là hiếu
kinh của Phật giáo, là kinh điển trọng yếu
phải đọc dành cho kẻ mong báo hiếu cha mẹ,
tôn trưởng. Kinh đặc biệt chú trọng cứu
bạt chúng sanh tội khổ sắp đọa vào
đường ác. Phẩm thứ mười ba là phẩm
Chúc Lụy Nhân Thiên đă dạy: “Vị lai thế trung,
nhược thiên, nhược nhân, tùy nghiệp báo ứng,
lạc tại ác thú. Lâm đọa thú trung, hoặc chí môn thủ,
thị chư chúng sinh, nhược năng niệm đắc
nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất cú, nhất
kệ Đại Thừa kinh điển. Thị chư
chúng sanh, nhữ dĩ thần lực, phương tiện
cứu bạt. Ư thị nhân sở, hiện vô biên thân, vị
toái địa ngục, khiển linh sanh thiên, thọ thắng
diệu lạc” (Trong đời vị lai, dù trời hay
người, theo nghiệp mà báo ứng, rơi vào đường
ác. Lúc sắp đọa vào đường ác, hoặc
đến trước cửa đường ác ấy,
các chúng sanh đó nếu có thể niệm danh hiệu một
vị Phật, hay danh hiệu một vị Bồ Tát, một
câu, một kệ kinh điển Đại Thừa. Đối
với các chúng sanh ấy, ông hăy dùng thần lực phương
tiện cứu bạt. Ở chỗ người ấy, hiện
vô biên thân, nhằm phá tan địa ngục, khiến cho kẻ
đó sanh lên trời, hưởng sự vui thù thắng mầu
nhiệm). Kinh c̣n dạy: “Nhược hiện tại, vị
lai chư thế giới trung, lục đạo chúng sanh
lâm mạng chung thời, đắc văn Địa Tạng
Bồ Tát danh, nhất thanh lịch Nhĩ Căn giả, thị
chư chúng sanh, vĩnh bất lịch tam ác đạo”
(Nếu trong các thế giới nơi đời hiện tại
hay vị lại, chúng sanh trong sáu đường khi lâm
chung, được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, một tiếng thoảng qua tai th́ các chúng sanh ấy,
vĩnh viễn chẳng trải qua các ác đạo). Từ
các câu trên đây, có thể thấy kinh Địa Tạng Bồ
Tát Bổn Nguyện là pháp môn cứu cấp (cứu tai
ương cấp bách).
Nay tôi trích lục phương pháp cứu tế
khẩn cấp liên quan đến lúc lâm chung như sau: “Như
thị Diêm Phù Đề nam tử, nữ nhân, lâm mạng
chung thời, thần thức hôn muội, bất biện
thiện ác, năi chí nhăn, nhĩ, cánh vô kiến văn. Thị
chư quyến thuộc, đương tu thiết đại
cúng dường, chuyển độc tôn kinh, niệm Phật,
Bồ Tát danh hiệu. Như thị
thiện duyên, năng linh vong giả, ly chư ác đạo,
chư ma quỷ thần, tất giai thoái tán. Thế Tôn! Nhất
thiết chúng sinh, lâm mạng chung thời. Nhược
đắc văn nhất Phật danh, nhất Bồ Tát
danh, hoặc Đại Thừa kinh điển nhất cú,
nhất kệ. Ngă quán như thị bối nhân, trừ
ngũ vô gián sát hại chi tội, tiểu tiểu ác nghiệp,
tầm tức giải thoát” (Nam tử, nữ
nhân trong cơi Diêm Phù Đề như thế, khi lâm chung, thần
thức hôn ám, mê muội, chẳng biện định thiện
ác, cho đến mắt, tai, trọn chẳng thấy nghe.
Các quyến thuộc của họ hăy nên sắp đặt
đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm
danh hiệu Phật, Bồ Tát. Thiện duyên như thế có thể khiến cho người mất ĺa các đường
ác, các ma, quỷ thần thảy đều lui tan. Bạch
Thế Tôn! Hết thảy chúng sanh khi lâm chung, nếu
được nghe danh hiệu của một vị Phật,
danh hiệu của một vị Bồ Tát, hoặc một
câu, một kệ kinh điển Đại Thừa, con thấy hạng
người như thế, trừ phi phạm tội
ngũ vô gián và sát hại, nếu chỉ phạm các ác nghiệp
nhỏ nhặt, sẽ liền được giải
thoát) (Phẩm thứ tám, Diêm La Vương Chúng Tán Thán).
“Nhược
hữu nam tử, nữ nhân, tại sanh bất tu thiện
nhân, đa tạo chúng tội, mạng chung chi hậu, quyến
thuộc tiểu đại, vị tạo phước lợi,
nhất thiết thánh sự, thất phần chi trung, nhi năi
hoạch nhất, lục phần công đức, sinh giả
tự lợi” (Nếu có các nam tử,
nữ nhân, lúc c̣n sống chẳng tu nhân lành, tạo nhiều
các tội, sau khi mạng chung,
quyến thuộc lớn nhỏ v́ người ấy tạo
phước lợi, hết thảy các thánh sự th́ trong bảy phần,
[người chết] sẽ được một phần,
c̣n sáu phần công đức th́ người sống
được lợi lạc). “Diêm Phù Đề
chúng sanh, lâm chung chi nhật, thận vật sát hại, cập
tạo ác duyên, bái tế quỷ thần, cầu chư vọng
lượng. Hà dĩ cố? Nhĩ sở sát hại, năi chí
bái tế, vô tiêm hào chi lực, lợi ích vong nhân, đản
kết tội duyên, chuyển tăng thâm trọng” (Chúng sanh trong cơi
Diêm Phù Đề trong ngày lâm chung, hăy cẩn thận đừng
sát hại, và tạo ác duyên, cúng bái quỷ thần, cầu
các quỷ mỵ. V́ cớ sao
vậy? Việc giết hại cho đến cúng tế
như thế chẳng có mảy may sức lực nào lợi
ích vong nhân, chỉ kết thành tội duyên, khiến trở
thành sâu nặng hơn). “Lâm mạng chung thời, phụ
mẫu, quyến thuộc, nghi vị thiết phước,
dĩ tư tiền lộ, hoặc huyền
phan cái, cập nhiên du đăng, hoặc chuyển độc
tôn kinh, hoặc cúng dường Phật tượng, cập
chư thánh tượng. Năi chí niệm Phật, Bồ Tát, cập
Bích Chi Phật danh. Nhất danh, nhất hiệu, lịch
lâm chung nhân nhĩ căn, hoặc văn tại bổn thức.
Thị chư chúng sinh, sở tạo ác nghiệp, kế kỳ
cảm quả, tất đọa ác thú, duyên thị quyến
thuộc, vị lâm chung nhân, tu thử thánh nhân. Như thị
chúng tội, tất giai tiêu diệt. Nhược năng
cánh vị thân tử chi hậu, thất thất nhật nội,
quảng tạo chúng thiện, năng sử thị chư
chúng sanh, vĩnh ly ác thú, đắc sanh nhân thiên, thọ thắng
diệu lạc. Hiện tại quyến thuộc, lợi
ích vô lượng” (Khi lâm chung, cha mẹ, quyến thuộc
hăy nên v́ người ấy làm phước để giúp
cho tương lai của người ấy. Hoặc treo
phan, lọng, và thắp đèn dầu, hoặc chuyển
đọc tôn kinh, hoặc cúng dường tượng Phật,
và các thánh tượng. Cho đến niệm danh hiệu Phật,
Bồ Tát, và Bích Chi Phật. Mỗi danh hiệu lọt qua
tai của người lâm chung, hoặc nghe lọt vào thần
thức của người ấy. Các chúng sanh đó trót tạo
ác nghiệp, xét theo quả báo cảm vời, ắt đọa
vào đường ác. Do v́ quyến thuộc v́ người
lâm chung tu thánh nhân ấy, các tội như thế đều
tiêu diệt. Nếu lại có thể sau khi người
đó đă chết, trong bốn mươi chín ngày, rộng
tạo các điều lành, khiến cho các chúng sanh ấy
vĩnh viễn ĺa đường ác, được sanh
trong cơi trời, người, hưởng sự vui thù thắng,
nhiệm mầu. Quyến thuộc trong hiện tại lợi
ích vô lượng) (Phẩm thứ bảy, Lợi Ích Tồn
Vong).
Nói
chung, người viết mang tâm t́nh chuộc tội, chỉ
hổ thẹn đối với từ thân, chẳng dám
sơ sót từng điểm, từng giọt trong thánh huấn
của kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hết
thảy đều cung kính, cẩn thận tuân theo. Hồi
tưởng mẹ bệnh tật suốt sáu năm, gần
như bị nhốt trong tù ngục, càng cảm thấy vô
lượng khổ sở không thể giăi bày! Từ cái quả
mà tham chiếu cái nhân, tự biết trên dưới trong
hàn gia tội nghiệp sâu nặng, cảm vời khổ báo.
Nếu người viết chẳng hoàn toàn hối hận,
giác ngộ, quy y, tin tưởng Tam Bảo, nương nhờ
từ ân của Phật, sợ rằng khổ quả
chưa chắc đă chỉ là như thế. Đặc biệt
là thân thể mẹ cường tráng, nằm trên giường
mười bốn ngày, hoàn toàn chẳng có dấu hiệu bệnh
tật nào khác (chẳng phát sốt, cũng chẳng đau
khổ. Sau này, do nằm lâu, khi bị di chuyển thân thể
mới đau đớn). Lúc lâm chung, chẳng có mảy may
đau khổ, mắt nh́n tượng Tây Phương Tam
Thánh, tai nghe tiếng Phật hiệu, an tường
ngưng dứt hô hấp, như đi vào cơi mộng. Nếu
chẳng được Phật, Bồ Tát từ bi gia hộ,
sao có thể được như vậy? Di thể qua ba
mươi ba tiếng đồng hồ vẫn mềm mại
như lúc c̣n sống, đủ chứng tỏ Phật pháp
chẳng thể nghĩ bàn, cảm ứng hết sức rơ
rệt! Chúng tôi rất tin tưởng vận mạng trong
tương lai của mẹ chắc sẽ tốt đẹp
hơn nhiều. Giả sử chưa thể sanh Tây,
cũng nguyện đời sau mẹ đầu thai vào nhà
thiện tri thức, sớm nghe Phật pháp, tinh tấn trên
đường Bồ Đề.
32. Gương vỡ lại lành
Huệ
Từ ghi
Khoảng chừng hai tháng
trước, tôi nhận thấy chồng có hành vi lạ
lùng, trải qua âm thầm điều tra, nghe ngóng, mới
biết anh ta lẹo tẹo bên ngoài. Tôi nghĩ nếu chẳng
vạch trần quá mức việc này, sẽ tránh khỏi
h́nh thành cục diện bế tắc. Nào ngờ, chuyện
chẳng đơn thuần, họ đă có kế hoạch
muốn ép tôi ly hôn. Gia đ́nh vốn hạnh phúc hài ḥa, do
có kẻ thứ ba chen vào, khiến cho chúng tôi thường
xuyên ầm ĩ, chẳng thể tṛ chuyện
được. Chồng tôi đầu óc mê muội, choáng
váng, nhằm đạt mục đích đă không có cách nào khống chế cái tâm rong ruổi
bên ngoài! Một ngày, tôi đang ở trong Phật đường
lau dọn, anh ta đoạt lấy cây lau nhà, đánh tôi, ép
tôi phải chấp thuận ly hôn! V́ đứa con, tôi không
đồng ư, anh ta lập tức bóp cổ tôi với ư
đồ dùng cái chết để uy hiếp. Trong lúc nỏ
mạnh hết đà, tôi buông xuống vạn duyên, xưng
niệm thánh hiệu Địa Tạng, nhất tâm quy
hướng Địa Tạng Bồ Tát. Có lẽ do chí tâm
chuyên niệm, tôi cũng chẳng cảm thấy đau
đớn chút nào, anh ta lại vô cớ ngă ngửa ra đất,
càng thêm tức giận. Tôi nhớ sư phụ từng khai
thị, căi cọ sẽ dưỡng sân tâm, cho nên tôi không
làm ồn lên, mà cũng chẳng mong kể lể với bất
cứ ai, càng chẳng muốn dùng nước mắt để
tranh thủ sự đồng t́nh của anh ta. Mỗi khi
buồn ḷng, muốn khóc, bèn đối trước Phật
xót xa cầu xin sám hối.
Cuối
tháng, tôi cùng vài vị cư sĩ đến Địa Tạng
Viện, tham dự pháp hội Địa Tạng. Bước
vào đại điện, nhớ tới ḷng từ bi của
Bồ Tát, bất giác lệ rơi đầy mặt, kiền
thành sám hối nghiệp chướng sâu nặng của
chính ḿnh. Bỗng nhiên, thấy Địa Tạng Bồ Tát
đối diện tôi mỉm cười. Ngỡ ḿnh hoa mắt,
tôi cẩn thận tập trung nh́n, thật đấy! Nội
tâm chẳng khỏi cảm thấy một gịng nước
trong cuồn cuộn. Hai giờ chiều, tiếng phạm
âm bắt đầu vang rền, mọi người như
cùng được tắm gội trong biển pháp thanh tịnh,
một bầu tường ḥa. Tụng kinh văn của
kinh Địa Tạng tới đoạn: “Nghiệp lực
thậm đa, năng địch Tu Di, năng thâm cự hải,
năng chướng thánh đạo. Thị cố chúng sanh
mạc khinh tiểu ác, dĩ vi vô tội, tử hậu hữu
báo, tiêm hào thọ chi, phụ tử chí thân, kỳ lộ
toàn biệt, túng nhiên tương phùng, vô khẳng đại
thọ” (Nghiệp lực rất nhiều, có thể to
hơn núi Tu Di, có thể sâu biển cả, có thể chướng
thánh đạo. V́ thế chúng sanh đừng coi thường
điều ác nhỏ, cho là không có tội ǵ. Sau khi chết
sẽ có quả báo, mảy may đều phải hứng
chịu. Cha con chí thân, mỗi người theo một
đường khác. Dẫu có gặp gỡ, chẳng chịu
hứng tội thay cho nhau), cảm nhận sâu sắc nhân quả
chẳng sai, hăy nên dũng cảm đối diện gánh
vác, càng tự khích lệ ḿnh đừng tạo nghiệp mới,
kết ác duyên. Nếu quả thật duyên cùng chồng
đă hết, chỉ mong Bồ Tát từ bi chỉ điểm
phương hướng sanh tồn cho mẹ và con. Cũng
v́ thế, nội tâm liền dần dần b́nh tĩnh.
Cùng
hôm pháp hội, anh ta và người đàn bà kia cùng đến
pḥng khiêu vũ. Nửa đêm khi trở về, liền bảo
tôi là có người thúc giục anh ta về nhà. Thoạt
đầu, tôi không quan tâm. Liên tiếp bốn ngày đều
là như thế, anh ta thậm chí hướng về tôi giải
thích, thỉnh cầu tha thứ. Tôi cảm thấy kinh ngạc,
liền mời anh ta đối trước Phật sám hối.
Sau này, anh ta kể lại, tại pḥng khiêu vũ, có một
người bộ dạng rất cao lớn, đi qua
trước mặt anh ta liền biến mất, nhưng
bên tai dường như có người thấp giọng
khuyên nhủ: “Mau về nhà đi! Đừng nên qua lại với người đàn bà đó nữa!
Hăy trở về khéo xin lỗi với mẹ con họ”. Mà
đối phương cũng nằm mộng thấy có
người bảo: “Phá hại gia đ́nh, khiến cho kẻ
khác chia ĺa vợ con, sẽ chịu nhân quả rất nặng.
Chớ nên chấp mê chẳng ngộ nữa!” Hai người
họ hồi tưởng lại, trong tâm rất sợ
hăi. V́ thế, tự động chia tay!
Trận
phong ba này trong gia đ́nh chúng tôi được b́nh ổn,
thật sự có thể nói là do Địa Tạng Bồ
Tát hiện oai thần và sức từ bi chẳng thể
nghĩ bàn cảm vời. Chồng tôi do nhận biết
lỗi lầm trước đó, nay yêu
thương, quan tâm gia đ́nh gấp đôi, và cũng
thường đọc sách Phật, càng cảm nhận Phật
lư chính là kim chỉ nam chẳng thể thiếu để xử
sự, làm người. Do đức Địa Tạng Bồ
Tát, chúng tôi mới kiến lập gia đ́nh Phật hóa
như trong hiện thời.
II. Những chuyện linh cảm
trước thế kỷ mười chín
1. Ghi chép về sự linh cảm
phóng quang của bức tranh Địa Tạng từ đời
Lương ở chùa Thiện Tịch
Đời
Lương, tại chùa Thiện Tịch ở huyện
Đức Dương, Hán Châu (nay là huyện
Quảng Hán, tỉnh Tứ Xuyên), nơi vách của
đông lang, có tượng Địa Tạng Bồ Tát và
Quán Âm do Trương Tăng Diêu[11]
vẽ, h́nh dạng giống như một vị Tăng ngồi
nghiêm nghị. Người thời ấy chiêm ngưỡng,
lễ bái, tỏa ánh sáng lạ rạng ngời.
Tới năm Lân Đức nguyên niên (663), tăng nhân trong
chùa chiêm lễ, kính ngưỡng, khen là lạ lùng khác
thường. Do vậy, dùng lụa áp lên vách để vẽ
phỏng lại, đem đi thờ các nơi, cũng
đều phóng quang chẳng khác [tượng gốc].
Người đương thời lần lượt vẽ
phỏng lại rất đông. Niên hiệu Lân Đức
thứ ba (665), khi Vương Kư đến làm Tư Châu Thứ
Sử, thường vẽ phỏng lại, tinh thành cúng
dường. Có mười chiếc thuyền cùng đi, giữa
đường bỗng gặp gió băo, chín chiếc đều
ch́m lỉm. Gặp cơn sóng dữ ấy, chỉ có thuyền
của Vương Kư chẳng bị sợ hăi mảy may,
liền biết là do ḷng từ bi rộng lớn của Bồ
Tát có oai lực như thế đó! Tới năm Thùy Củng
thứ ba (687), thiên hậu (Vũ Tắc Thiên) nghe chuyện
ấy, liền sắc truyền họa sĩ vẽ phỏng
theo, tranh lại tỏa sáng như trước, giống
như bức vẽ đang được thờ tại
đạo tràng [chùa Thiên Tịch]. Tới năm Đại
Lịch nguyên niên (766), có vị đại đức tại
chùa Bảo Thọ ở trong đạo tràng, lại thấy
tướng lạ phóng quang, liền viết biểu tâu
lên. Vua bèn kiền thành đảnh lễ, tán thán quang minh ấy!
Khi Bồ Tát hiện quang, đất nước thường
an khang, càng thêm cát tường.
Lại
có vợ của một thương nhân, có thai đă hai
mươi tám tháng chẳng sanh. Một hôm, bỗng thấy
quang minh của Bồ Tát, bà ta liền vẽ mô phỏng
h́nh tượng, nhất tâm phát nguyện nơi Bồ Tát. Ngay trong đêm ấy, sanh một trai,
tướng hảo đoan nghiêm, ai trông thấy cũng
đều hoan hỷ. Do vậy, cả cơi đời gọi
[tượng ấy] là Phóng Quang Bồ Tát.
2. Ghi chép về bức họa Địa
Tạng phóng quang tại chùa Pháp Tụ đời Đường
Vào đời
Đường, chùa Pháp Tụ tại Quách Hạ thuộc
Ích Châu có tượng vẽ Địa Tạng Bồ Tát ngồi
trên giường dây[12], thơng chân xuống,
cao tám tấc sáu phân. Tượng ấy vốn do
Trương Tăng Diêu vẽ. Tới tháng Bảy năm
Lân Đức thứ hai, Tăng sĩ trong chùa vẽ phỏng
theo một bản, tượng liền tỏa sáng giống
như ṿng vàng, chợt tỏa ra, chợt ẩn mất. Lần lượt vẽ nhiều bản sao như
thế, cũng đều phóng quang y hệt. Tháng Tám năm
ấy, được lệnh dâng lên một bản
đưa vào cung để cúng dường. Phàm tăng tục
trong ngoài kinh thành, vẽ lại để cúng dường,
cũng đều thấy phóng quang, tin biết là Phật lực
chẳng thể suy lường. Mỗi nhà vẽ phỏng
theo một bản riêng, đạt được sự cảm
ứng chẳng thể ghi trọn hết!
3. Ghi chép về đức Địa
Tạng cứu khổ cho nhà họ Lư ở huyện Hộ
đời Đường
Đời
Đường, tại huyện Hộ ở Ung Châu, có
người con gái họ Lư, rất có tín tâm, vâng
giữ trai giới. Trong nhà, thờ phụng
tượng Địa Tạng Bồ Tát tạc bằng gỗ,
cao một thước sáu tấc, tươi sáng, sống
động, khá nhiều linh dị. Cô Lư có mụ đầy
tớ tuổi ngoài năm mươi, tà kiến, chẳng
tin chánh pháp. Một hôm, Lư Thị đi nơi khác, mụ dời
tượng vứt ra ngoài đồng hoang sau nhà. Lư Thị
trở về nhà, khóc lóc đi t́m. Tượng phóng quang
ngoài đồng hoang, Lư Thị hoan hỷ đón về, chẳng
biết do mụ đầy tớ đă làm. Hôm sau, mụ
đầy tớ bỗng chết ngất đi, bất tỉnh
nhân sự. Kế đó, bỗng tỉnh dậy, khóc lóc sám
hối, tự kể chuyện trong chốn u đồ
như sau:
-
Khi tôi chết, bỗng thấy hai viên quan cưỡi ngựa,
tự lấy quan điệp, bảo viên thư lại
đọc lên. Sứ giả nói: “Mụ đầy tớ hủy
nhục thánh tượng, vứt ra đồng hoang, đă
phạm tội lớn, phải bắt đến điện
vua”. Đọc quan điệp xong, trói lại, giải
đến điện Diêm Vương. Tới trước điện, thấy có vô lượng vô biên kẻ bị
gông, cùm, xiềng, xích trói buộc thân h́nh. Vua giận dữ
nói: “Ngươi là đứa đầy tớ ngu si, hủy
nhục thánh dung, vứt ra đồng hoang sau nhà, phải chịu báo ứng. Ở trong nhà lại chuốc
vời, thờ phụng thần, bỏ qua thánh tượng, lại c̣n tà kiến, chẳng tin chánh pháp,
đáng giam vào đại địa ngục”. Khi ấy, có
một vị sa-môn bỗng đến trước sảnh
đường. Vua liền bước xuống bệ,
hết sức cung kính. Vua hỏi rằng: “V́ sao thầy
đến vậy?” Sa-môn nói: “Đứa đầy tớ
này là tớ gái trong nhà thí chủ của ta. Tuy ghét tượng
của ta, ta chẳng bỏ nó. Mong nhà vua rủ ḷng
thương, ban cho nó thọ mạng”. Vua thưa: “Xin nghe
theo lệnh thầy”. Khi ấy, tôi nghe xong, tâm sám hối, bất
giác xướng rằng: “Nam-mô Địa Tạng đại
Bồ Tát”. Ngay lập tức, nương theo tiếng
niệm, các tội nhân đang hiện diện trong sảnh
đường, tiếng niệm truyền tới đâu, gông,
cùm, xiềng, xích đều tự giải thoát, chẳng thấy
thân họ đâu nữa. Khi ấy, Diêm Vương ngồi
nh́n sững sờ. Vị sa-môn liền nắm tay tôi, dẫn
ra khỏi sảnh đường. Ngay lập tức, tôi sống
lại.
Lư
Thị nghe nói, càng thêm kính trọng tượng ấy. Do vậy,
trong cả một huyện, không ai chẳng đều sanh
ḷng tin tưởng, ngưỡng mộ.
4. Ghi chép về tượng kim sắc
Địa Tạng cứu cha mẹ nhà họ Tổ ở
Phủ Châu đời Đường
Đời
Đường, thứ sử[13]
Phủ Châu họ Tổ tín tâm chân thật, kiên cố,
nhưng cha mẹ ông ta chẳng tin cho lắm. Họ Tổ
bèn v́ cha mẹ xuất tiền và lụa, tạo một bức
tượng đứng của Địa Tạng Bồ
Tát kim sắc, cao ba thước, quanh thân tỏa hào quang, dốc
hết ḷng thành, cung kính thờ phụng, suy niệm. Khi ấy,
cha ông ta là người Dương Đô, có chuyện phải tạm ra đi, mẹ ở nhà một ḿnh. Ban đêm, có kẻ
ác tặc lén ḍm qua khe cửa, toan ăn trộm quần áo,
chỉ thấy Địa Tạng Bồ Tát đang ngồi,
[nên chẳng dám tiến vào]. Hôm sau, gă giặc thay đổi
quần áo, đến nhà ấy, thấy bà cụ quần
áo chỉnh tề ngồi đó, trọn chẳng thấy
thánh tượng. Tâm gă trộm lấy làm lạ, bèn tự
thố lộ tội lỗi, ḥng biểu lộ ḷng hổ
thẹn, hối lỗi, kể lại điều đă thấy
trong đêm. Cha trở về nhà, mẹ kể lại chuyện
trên đây, cùng nhau suy xét nguyên do.
Về
sau, cha sang Phủ Châu, giữa đường gặp oán
gia rút đao bén xông đến chém. Bỗng có một sa-môn
thân kim sắc, dùng tay ngăn mũi
đao, dùng đầu nhận lấy mũi đao, bị
hại ngă lăn ra đất. Khi đó, kẻ oán tưởng
là ḿnh đă giết hại, bèn bỏ chạy. Cha ông ta tránh
khỏi bị giết hại, cảm thấy rất kỳ
lạ! Đến nhà ông Tổ, kể cặn kẽ chuyện
trên đây, sanh ḷng hy hữu. Cùng nhau đến chỗ thờ
tượng để lễ bái, thấy
trên đầu tượng có ba vết đao, màu vàng biến
đổi chút ít, dường như bị chảy máu. Ông
Tổ liền biết là Địa Tạng Bồ Tát
đă chịu đao thay, cứu cha ḿnh thoát nạn. Cha ông
ta liền sanh chánh tín, họ Tổ lại đón mẹ
sang nhà. Ba người ở Phủ Châu, ngày đêm lễ
cúng. Cha ông ta đến bảy mươi chín tuổi mới
mất.
Suốt
ba mươi lăm ngày, ông Tổ mộng thấy cha ḿnh
thân có quang minh, bay trên không trung tự tại, phi hành tới
lui. Ông sanh tâm hy hữu, vọng bái hỏi cha sanh về
đâu? Đáp: “Ta sanh lên tầng trời thứ tư, do
Địa Tạng Bồ Tát chỉ dẫn, cùng phụng sự
đấng Bổ Xứ. Người sanh về cơi trời
ấy, đa số được Đại Sĩ dẫn
dắt. Đức Bổ Xứ (Di Lặc Bồ Tát) khen ngợi:
‘Đại Sĩ chẳng bỏ sót những người
đáng được chư Phật sắc truyền cứu
độ”. Lại nói: “Mười ba năm sau,
mẹ con hết tuổi thọ, sẽ sanh về đó.
C̣n chính con th́ hai mươi lăm năm sau mới sanh. Vợ
con th́ hai mươi tám năm sau mới sanh”. Nói xong lời ấy bèn ẩn mất chẳng hiện. Về sau, mẹ và vợ
chồng họ Tổ đều đúng như lời cha
nói. Hăy nên biết, một người tạo tượng,
người thân đều được lợi ích trong
đời hiện tại. Từ đấy về sau,
trong cả một châu, người tạo tượng, vẽ
tượng, lễ bái, cúng dường rất đông, rất
nhiều người được cảm ứng.
5. Ghi chép về chuyện cảm ứng
của vị sư ở kinh đô là Tăng Tuấn
Đời
Tống, Thích Tăng Tuấn, họ ngoài đời là
Vương, là người ở kinh đô. Sau khi xuất
gia, lo liệu việc Tăng, tiêu xài phung phí rất nhiều,
ba nghiệp buông lung, chưa từng tu nhân lành. Đă chẳng
có giới hạnh, mà cũng chưa từng tu điều
lành, mắc bệnh nhẹ, chết đi. Hai bên hông c̣n ấm,
ba ngày sau mới sống lại, khóc lóc, gieo ḿnh xuống
đất, kể cặn kẽ chuyện trong u đồ
như sau:
- Khi sắp chết, có hai viên quan từ cơi
âm xua đuổi tới trước cửa một ṭa thành
lớn. Bỗng có một vị Tăng nói: “Ta là Địa
Tạng Bồ Tát. Lúc ngươi ở kinh thành đă từng
vẽ phỏng theo một bức họa của ta. Dẫu
chưa từng lễ bái, cúng dường, bỏ ở sau một ngôi chùa lớn, ta vẫn
báo đáp công đức ngươi vẽ lại tượng.
Do ngươi là sư thuộc tông Hoa Nghiêm, lại dạy
ngươi một bài kệ như sau: - Nhược nhân dục
liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng
đương như
thị quán, tâm tạo chư Như Lai (nếu ai muốn biết
rơ, ba đời hết thảy Phật, hăy nên quán thế
này: Tâm tạo các Như Lai)”. Địa
Tạng Bồ Tát dạy bài kệ ấy rồi bảo:
“Tụng bài kệ ấy, có thể đóng cửa địa
ngục, có thể mở đường Tịnh Độ,
có thể thông với sanh mạng đạt được
do quả báo”.
Sau
đó, đến trước Diêm Vương, Tăng Tuấn
đă tụng thuộc bài kệ ấy, bèn vào trong thành, gặp
vua Diêm Ma. Vua hỏi: “Ngươi gặp gỡ pháp trong
đời này, có công đức ǵ không?” Đáp: “Chỉ thọ
tŕ một bài kệ bốn câu”. Vua nói: “Nay ngươi tụng
được không?” Thưa: “Tôi ngu si, phóng dật, chẳng
thể tu thiện, chuyên lo việc chùa, chẳng thể giữ
giới, chỉ thọ tŕ một bài kệ bốn câu”. Vua
hỏi:
“Nay ngươi có thể tụng hay không?” Đáp: “Tôi thuộc
nằm ḷng”, bèn tụng trọn bài kệ trên đây. Khi ấy,
những chỗ tiếng tụng vang đến, người
chịu khổ đều được giải thoát. Vua
nói: “Thôi! Thôi! Chẳng cần nói nữa, thả hắn về
nhân gian”. Do nhân duyên ấy mới sống lại. Ông ta lại
kể với pháp sư trong tông Hoa Nghiêm là sa-môn Nghĩa Học.
Sư tra duyệt lời kệ, mới biết trích từ
quyển thứ mười hai của kinh Hoa Nghiêm, tức
là phẩm kinh ghi lại các bài kệ được nói khi
vô lượng chư Bồ Tát vân tập trên cung trời Dạ
Ma. Đó chính là bài kệ tán Phật của Giác Lâm Bồ
Tát. Tăng Tuấn thường kể với các vị
Tăng trong chùa. Người nghe đều phát tâm, tin nhận
kinh Hoa Nghiêm.
6. Ghi chép về sự linh ứng do
vẽ phỏng theo tượng Địa Tạng của
vị sư Định Pháp chùa Không Quán
Đời Tống,
sư Thích Định Pháp chùa Không Quán có cảm ứng do vẽ
phỏng tượng Địa Tạng Bồ Tát giống
như Tăng Tuấn. Đối với vị Bồ Tát ấy,
Sư chuyên dốc ḷng thành nương cậy. Vào ngày trai mỗi
tháng, Sư vẽ mô phỏng tượng Địa Tạng,
lễ bái, cúng dường, cầu thỉnh được
thấy Bồ Tát ứng hiện trong đời này. Tṛn ba
năm, [một hôm] có một tiểu sa-môn xin ngủ trọ
nơi hành lang của chùa. Định Pháp nghe chuyện, cung
kính ra khỏi pḥng chào hỏi, nói chuyện một đôi
câu, bỗng chẳng thấy [tiểu sa-môn] đâu nữa.
Mọi người lấy làm lạ, hỏi Định
Pháp: “Sa-môn nói ǵ thế?” Đáp: “Sa-môn bảo: Diệu nguyện
đă măn, sao ư khí ngắn ngủi như thế?” Người
nghe đều nói: “Ông cầu thấy đức Địa
Tạng, nhưng chẳng niệm lẽ xuất yếu,
cho nên Bồ Tát hiện thân nói sao mà ư khí ngắn ngủi
như thế?” Định Pháp nói: ‘Đă được ứng
hiện, tôi sẽ phát Bồ Đề tâm, vui sướng
cầu đạo quả vô thượng”.
Quả
nhiên, Sư nằm mộng, thấy Bồ Tát nói: “Vị
sa-môn đó chính là Địa Tạng Bồ Tát. Ngươi
cầu thấy ta hiện thân, nhưng chẳng phát Bồ
Đề tâm. V́ thế ta đến giác ngộ
ngươi. Ngươi vẽ mô phỏng tượng ta
khá nhiều, vĩnh viễn chẳng đọa trong ba ác
đạo. Xả thọ, sẽ sanh lên Đâu Suất
Thiên, lúc đức Từ Tôn (Di Lặc) hạ sanh,
ngươi sẽ được thọ kư thành Phật. Ta
tùy thuận ngươi như bóng theo h́nh, như nước
thuận theo h́nh dạng của đồ đựng mà có
h́nh dáng khác nhau”. Sư tỉnh giấc, cảm kích, tuôn lệ
như mưa, liền bỏ y, bát, tiền riêng, tạo
tượng Bồ Tát cao bằng thân người, điêu
khắc thân tượng đẹp đẽ, lại c̣n
thâu thập những tượng ḿnh đă vẽ mô phỏng
nhiều năm để lễ bái, cúng dường. Tượng
phóng quang minh, linh nghiệm cũng rơ rệt lắm thay!
7. Ghi chép về chuyện cư
sĩ Lư Tín Tư do thờ đức Địa Tạng mà
thoát khỏi quỷ nạn
Đời
Đường, cư sĩ Lư Tín Tư người xứ
Lô Thủy. Nam nữ trong nhà ông ta đều bị ác quỷ
quấy nhiễu, năo hại. Ba mươi mấy người
bất giác nằm rũ rượi đau đớn, hoặc
hộc ra máu tươi, hoặc phần nhiều chết
ngất. Khi ấy, Tín Tư lo lắng, sầu năo, hỏi
Tăng cách giải cứu. Sa-môn tư duy hồi lâu rồi
bảo: “Xưa kia, thuở đức Như Lai tại
thế, dưới chân núi Tỳ Phú La (Vipula) nước Ma
Yết Đề (Magadha), trong nhà trưởng giả Kiều
Đề cũng bị ác quỷ gây phiền năo, thất
thoát tinh khí. Cả năm trăm người trong nhà ấy
đều chết ngất, mười ngày chẳng tỉnh.
Khi ấy, Địa Tạng Bồ Tát du hóa các nước,
tới nhà trưởng giả, sanh tâm đại bi, nói chú
để cứu. Trong chốc lát, hết thảy đều
được trừ sạch. Ông nên làm theo cách ấy, quy
y Địa Tạng Đại Sĩ, nhất tâm xưng
danh”. Khi đó, Tín Tư hoan hỷ làm theo, vẽ tượng
Bồ Tát. Từ đấy, huyện Lô Thủy suốt
năm mươi năm thoát khỏi nỗi sợ bệnh
tật. Tượng linh thiêng ấy hăy c̣n.
8. Ghi chép về sự cảm ứng
cứu chúng sanh trong địa ngục của Địa Tạng
Bồ Tát tại chùa Khai Thiện
Đời
Đường, chùa Khai Thiện ở Chung Sơn có tượng
Địa Tạng Bồ Tát cao ba thước, quang minh
quanh thân to bốn thước năm tấc. Do đă nhiều
năm, chẳng biết tượng do ai tạo. Về
sau, Đô Đốc xứ Dương Châu là Đặng
Tông, lúc sáu mươi mốt tuổi, mắc bệnh nhẹ,
chết đi. Do nơi tim vẫn c̣n ấm, nên [người
nhà] chưa nhập liệm. Sau một ngày đêm, ông sống
lại, buồn khóc không nói ǵ, sai con cháu d́u đến chùa
Khai Thiện, thưa cùng tăng chúng: “Trong chùa này có tượng
Địa Tạng Bồ Tát cao khoảng ba thước,
thông quang[14] to
bốn thước năm tấc hay không? Tôi muốn lễ
bái, cúng dường”. Chư Tăng chẳng biết ở
chỗ nào, cứ theo lời Đặng Tông nói, t́m trong các
thánh tượng, t́m thấy tượng đúng như lời
kể. Đặng Tông lễ kính, lại bạch Tăng muốn
thỉnh tượng ấy. Tăng hỏi ông điều
ông ấp ủ, ông đáp:
-
Lúc tôi chết, thấy một vị quan tứ phẩm lôi
đến trước cửa một ṭa thành lớn. Nhất
thời bàng hoàng, viên quan vào thành, chốc lát bước ra bảo:
“Ngươi có thể đến trước sảnh
đường”. Tôi liền đến trước vua. Vua
nói: “Ngươi không thể chết. Lại v́ ngươi
lấy việc phụng sự Phật pháp làm gia nghiệp,
hăy nên sớm trở về nhân gian, nhưng cơi âm đáng sợ,
người ta chẳng hay biết. Ngươi có muốn
thấy địa ngục hay không?” Đáp: “Tôi muốn thấy”.
Vua liền sai một viên quan mặc áo xanh dẫn đi xem:
“Ngươi dẫn Đặng Tông vào địa ngục,
chỉ bày cho ông ta thấy h́nh tướng các dụng cụ
hành h́nh”. Tôi theo viên quan ra khỏi thành. Đi chừng
năm sáu dặm về phía Đông Bắc, có một ṭa
thành lớn bằng sắt. [Viên quan] mở tấm cửa
sắt đang đóng kín. Dần dần đến gần,
tôi thấy trong thành lửa dữ sáng ḷa, ngọn lửa
như thiêu đốt. Trăm ngàn tội nhân chịu khổ
trong ấy. Khi đó, có một vị sa-môn vào trong ngục,
chế ngự lửa dữ, giáo hóa, phủ dụ tội
nhân, ngọn lửa bèn tạm tắt.
Lại
tiến lên trước đến một ṭa thành bằng sắt,
mười tám địa ngục ở trong đó. Tướng
trạng chịu khổ chẳng thể nói trọn. [Lại
thấy] vị sa-môn răn dạy tội nhân trong đó giống
như trước. Tôi đến xem mỗi nơi xong hết
rồi mới trở về. Sa-môn từ địa ngục
trở ra, hỏi: “Ông có biết tôi là ai hay không?” Thưa:
“Không biết”. Sa-môn nói: “Tôi là Địa Tạng Bồ Tát ở
chùa Khai Thiện. Xưa kia có sa-môn Trí Tạng pháp sư.
Đệ tử của Sư là pháp sư Trí Măn, v́ muốn
cứu chúng sanh thọ khổ trong tam đồ, cho nên chạm
khắc tượng của tôi. Tôi thuận theo lời thỉnh
của Sư, mỗi ngày một thời, vào mười tám
địa ngục và vô lượng tiểu địa ngục,
răn dạy, chỉ bảo. Những kẻ do xưa kia
đă gieo thiện căn, thiện lực khá mạnh, hễ
phát tâm liền được thoát khổ, tiến cao
hơn. Kế đó, những kẻ thiện lực yếu
hơn, chỉ gieo cái nhân thoát ác. Thấp nhất
là kẻ [thiện căn] yếu ớt, cho đến kẻ
đoạn thiện căn, tà kiến, chẳng có điều
lành, sẽ chẳng hay, chẳng biết, trọn chẳng
có tâm thoát khổ. Nếu ở trong nhân gian, kẻ thiện
căn mỏng manh c̣n dễ hóa độ. Nếu kẻ nào
vào ác đạo, thánh lực chẳng thể cứu bạt,
v́ họ trơ ra như gỗ, đá. Những kẻ chẳng
giác ngộ ấy, chờ cho đến khi thoát ra [mới
có thể cứu bạt]. Nếu là kẻ [có thiện
căn] hơi mạnh, lúc vừa mới vào [ác đạo],
sẽ có thể phát tâm sám hối. Ông do sức vâng phụng
pháp, thoát khỏi nỗi khổ địa ngục, hăy sớm
trở về nhân gian, tuyên cáo chuyện này”. Do vậy, tôi
ngước mắt chiêm ngưỡng sa-môn, [thấy Ngài]
thân cao ba thước, quang minh quanh thân chói lọi. Sa-môn liền
trao cho hai bài kệ như sau:
Nhược
tại nhân gian khả tu đạo,
Xiển
Đề hữu tâm thượng khả phát,
Nhược
nhập ác đạo, nghiệp dĩ thục,
Tâm
vô phân biệt, bất khả cứu.
Như
suy lăo nhân dục tiến lộ,
Nhược
động kỳ túc, phù dị tấn,
Nhược ngọa bất động,
lực bất cập,
Chúng
sanh định nghiệp diệc phục nhiên.
(Nếu
trong nhân gian dễ tu đạo,
Xiển
Đề vẫn có thể phát tâm,
Nếu
vào đường ác, nghiệp chín muồi,
Tâm
vô phân biệt chẳng thể cứu.
Như
người già yếu muốn đi đường,
Nếu
chân cử động, d́u đi được,
Nếu
nằm bất động, chẳng giúp nổi,
Chúng
sanh định nghiệp cũng thế đó).
Nói
kệ xong, bỗng chẳng thấy nữa! Tôi trong khi
mơ màng, nhớ kỹ chuyện ấy. Sợ chẳng rơ
hư hay thật, nên không nói với ai khác. Nay thấy tượng
này, hoàn toàn giống như tôi đă thấy. Do nhân duyên ấy, cho nên muốn thỉnh”. Tăng nghe xong, hoan hỷ
nói: “Lành thay! Tín tâm cảm bậc thánh thọ kư. Chỉ có
thể vẽ phỏng theo, không thể thỉnh được!”
Ông bèn cậy thợ khéo tạc phỏng theo, để
tượng cũ tại đó.
9. Ghi chép về sự cảm ứng
của tượng Địa Tạng nơi đầu
trượng tại nhà quan thị lang họ Đặng ở
Giản Châu đời Đường
Đời
Đường, tại huyện Kim Thủy thuộc Giản
Châu, có quan thị lang[15] họ Đặng.
Ông thấy bên vệ đường có một cây gậy bị
găy, khắc h́nh vị Tăng, chẳng biết là tượng
ǵ. Thị lang vốn tin Phật, bèn cầm về, cắm
vào vách, lễ kính rồi bỏ đi, không nhớ tới nữa.
Ba năm sau, bỗng bị bệnh chết, ngực vẫn
c̣n hơi ấm, người nhà nghi ngờ, không tẩn liệm.
Sau một ngày đêm, ông mới sống lại, ứa
nước mắt nói:
-
Lúc mới chết, hai kẻ cưỡi ngựa từ cơi
âm, xua tôi chạy đến cửa một ṭa thành lớn.
Họ xuống ngựa, lôi tôi vào thành. Tới trước
sảnh đường của nhà vua, thấy trong sân có
trăm ngàn vạn người bị gông cùm. Vua đang giận
dữ, toan quở trách tôi. Khi ấy, có một vị sa-môn,
h́nh dạng xấu xí, tựa như quỷ quái, tới
trước sảnh đường. Vua từ xa ngó thấy, cung
kính, từ ṭa đứng dậy, chắp tay, hồ quỳ,
bạch rằng: “Sa-môn đại thánh! V́ sao Ngài bỗng tới
đây?” Sa-môn nói: “Thị lang là thí chủ của tôi. Do muốn
báo ân, Ngài hăy nên đặc xá”. Vua thưa: “Nghiệp đă
quyết định, mạng lẫn lộc đều hết,
chuyện này khó được”. Sa-môn nói: “Xưa kia, ở
trong Thiện Pháp Đường của Tam Thập Tam
Thiên, ta được đức Phật phó chúc, có thể
cứu các hữu t́nh ác có định nghiệp, chẳng phải
là nay mới làm như vậy. Huống chi thị lang chẳng
phạm trọng tội, há chẳng cứu giúp ư?” Vua
thưa: “Đại Sĩ đại nguyện, kiên cố bất
động, như núi kim cang, phải thả ông ta về
nhân gian. Do lộc đă tận, con ban cho ông ta hạt đậu
đỏ”.
Sa-môn
hoan hỷ, nắm tay thị lang, dẫn vào đường
sống. Lúc sắp từ biệt, thị lang hỏi sa-môn: “Xin hăy chờ giây lát. Ngài là ai mà cứu
con?” Sa-môn đáp rằng: “Ông chẳng biết ư? Ta là
Địa Tạng Bồ Tát. Xưa kia, ông ở nhân gian,
bên đường thấy tượng của ta mà chưa
từng hay biết, cầm về đặt trong vách. Đấy
là do trẻ nhỏ giỡn chơi khắc đầu gậy
làm tượng, chỉ khắc đầu mặt, không có
những tướng khác, cho nên h́nh tướng xấu xí.
Ông có thể nhớ lại hay không?” Nói lời ấy xong, bỗng
dưng chẳng thấy đâu nữa!
Sau
khi tỉnh lại, thị lang thấy tượng nơi
cây gậy ở góc tường trong nhà. Gậy đă găy ở
giữa, ông bèn chạm khắc sửa đổi, dùng gỗ
đàn hương ghép vào, tạo thành tượng cao năm
tấc. Khi ấy, tượng phóng quang minh, chiếu sáng ngời
cả nhà. Thị lang lại tạo tượng lớn bằng
thân người, đặt tượng nhỏ vào trong ấy,
biến nhà thành chùa, đặt tên là Địa Tạng
Đài. Mọi người xa gần đến chiêm ngưỡng
đông như hội! Đức Địa Tạng dạy
bảo, tạo lợi ích chẳng thể
nghĩ bàn!
10. Ghi chép về chuyện sư Thích
Pháp Thượng ở chùa Huệ Nhật thuộc Hoa Châu
đời Đường được đức Địa
Tạng cảm thông
Vị Tăng
Thích Pháp Thượng chùa Huệ Nhật, xuất gia lúc ba
mươi bảy tuổi. Xưa kia, lúc c̣n tại gia,
Sư từng đi săn bắn. Vào rừng chơi, thấy
trong lùm cây ngoài rừng hoang có mấy tia sáng tỏa ra, lấy
làm lạ, bèn buộc ngựa, đích thân vào lục xem, chỉ
thấy có một khối gỗ mục dài hơn một
thước, bèn cầm về để trong nhà. Hôm sau, lại
thấy từ lùm cây ấy vẫn tỏa sáng giống
như cũ, bèn dùng giáo gạt sạch mọi lùm bụi,
hoàn toàn chẳng có ǵ, lấy làm lạ, quay về. Đi
săn lần sau, cho là cái lùm cây lần trước phóng
quang chẳng khác trước đó, tâm lấy làm lạ,
đem cái lơi gỗ mục đặt trên gốc cây rồi
quay về. Trên đường gặp bầy hổ, ông ta
thúc ngựa đuổi theo bắn. Dây cung đứt đoạn,
sờ túi đựng dây cung th́ không có dây để thay thế.
Mănh hổ quay lại đuổi. Ông ta sợ hăi bỏ chạy,
ngựa lồng lên, khiến ông té khỏi ngựa, tự
nghĩ chắc sẽ bị hổ nhai, thất thần
như đang nằm mộng, thấy một người
giống như sa-môn tới đuổi hổ dữ. Ông hỏi:
“Ngài là ai?” Đáp: “Ta là Địa Tạng Bồ Tát. Ông ở
trong lùm cây thấy khối gỗ mục chính là thân ta. Cụ
cố của ông đă lập chùa, tạc tượng ta tại
đó. Chùa đă hư nát, tượng ta bị hư mục,
chỉ c̣n cái lơi gỗ. Ông là cháu chắt của cụ, thấy
quang minh của ta, nên nay ta cứu ông”.
Hồi
lâu sau, ông ta choàng tỉnh, thấy ngựa đứng hư [gần
đó]. Mănh hổ chẳng thấy tung tích đâu nữa.
Ông tự hối trách sâu xa, bèn tạo dựng tinh xá tại
chỗ tỏa ánh sáng trước đó. Từ khối gỗ
mục dính bùn, ông tạc tượng Địa Tạng,
tiếp nối đèn pháp, [xây dựng chùa] tức Huệ
Nhật tinh xá. Lúc Pháp Thượng bảy mươi tám tuổi,
vào ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai năm ấy, Sư bảo
các đồng bạn:
-
Địa Tạng Bồ Tát đến nhà tôi, bảo rằng:
“Ông chính là người sẽ đắc đạo trong
hội thứ hai thuộc ba hội thuyết pháp của Từ
Thị Như Lai. Hôm nay xả thọ, liền sanh lên
Đao Lợi”. Tôi bạch cùng Đại Sĩ: “Cảnh
giới ngũ dục trên cơi trời vui sướng khôn
sánh, mê mất Bồ Đề tâm. Muốn sau này lại gặp
Phật, thời gian vẫn lâu lắm, con chỉ nguyện
sanh về Tây Phương An Lạc thế giới”. Bồ
Tát đáp: “Thuận theo ư nguyện của ông. Nếu muốn
văng sanh Tịnh Độ, hăy nên niệm A Di Đà Phật
một ngày một đêm, chuyên tâm niệm Phật, liền
được văng sanh”. Tôi nghe theo lời dạy
ấy, bắt đầu từ ngày hôm qua, chuyên niệm
đức Phật ở Tây Phương, nay văng sanh Tịnh
Độ.
Nói
xong, Sư chắp tay hướng về Tây, qua đời.
Người trông thấy đều nói là điềm lành hy
hữu, Địa Tạng Bồ Tát phóng quang [tiếp dẫn
ông ta] về Tịnh Độ.
11. Chuyện cảm thông tạo
tượng Địa Tạng để cứu mẹ của
con gái Trần Đô Đốc
Đời
Đường, con gái út (đă mất tên) của viên
đô đốc họ Trần mất mẹ từ bé, ngày
đêm luyến mộ mà chẳng thể thấy. Đô
đốc khuyên nhủ: “Cha cũng là người thân của
con. Mẹ con tuy mất, cha hăy c̣n, v́ sao không màng ăn uống,
muốn tự t́m cái chết? Nếu con tưởng nhớ
người mẹ đă khuất, hăy nên tạo thánh tượng
Địa Tạng, ḥng cầu nguyện cứu
khổ cho mẹ”. Cô ta liền bỏ ra năm trăm đồng,
thuê thợ kính cẩn khắc tượng cao ba thước, đón
tượng về nhà cha. Cô gái thưa với cha: “Con chỉ
muốn đặt tượng ở chỗ mẹ đă nằm
trước kia. Nếu muốn thấy mẹ, sẽ liền
thấy tượng này”. Cha sanh tâm xót thương, sai dẹp bỏ pḥng ngủ
để đặt tôn tượng ấy. Cô gái ngày
đêm lễ bái, cúng dường, cầu nguyện cứu
khổ cho mẹ. Mộng thấy một vị sa-môn bảo
cô Trần rằng: “Mẹ con đang ở trong địa
ngục Tiêu Nhiệt. Khi ta mang thân nữ, cha tên là Thi La Thiện
Hiện, mẹ tên là Duyệt Đế Lợi. T́m chỗ
mẹ sanh về, thấy mẹ đang chịu khổ, bèn
phát Bồ Đề tâm giúp chúng sanh. Ta cảm động
trước tấm ḷng hiếu thảo của con, đích
thân vào địa ngục, phóng quang thuyết pháp, mẹ con
đă được thoát khổ, sanh lên trời Đao Lợi”.
Cô gái họ Trần thấy sa-môn xiêm y cháy lam nham, bèn hỏi
nguyên cớ. Sa-môn đáp: “Khi xuống địa ngục, lửa
dữ táp cháy mà ra”. Cô gái họ Trần tỉnh giấc,
khôn ngăn buồn vui lẫn lộn! Người
trong nhà tụ tập, thấy xiêm y của
tượng đổi màu như bị cháy, đều than
hy hữu! Người nghe kể lại, phần nhiều
sao vẽ tượng ấy để cứu khổ cho
cha mẹ.
12. Ghi chép về chuyện cô gái họ
Trương ở Dương Châu vâng lời mẹ dặn,
tạc tượng Địa Tạng Bồ Tát cứu khổ
cho mẹ
Cô họ
Trương là đích nữ của Thứ Sử
Dương Châu Trương Kiện Tín. Sau khi mẹ mất,
cô đă được mẹ báo mộng: “V́ nuôi con mà mẹ
đă mặc t́nh tham dục, kiêu mạn quá đáng. Do vậy,
cảm báo làm ngạ quỷ, khổ sở chẳng thể
chịu nổi!” Con gái hỏi tướng trạng khổ
sở. Mẹ đáp: “Ta làm con của quỷ, ngày đêm sống
chết [nhiều lần]. V́ cớ sao vậy? Quả báo của
ngạ quỷ phần nhiều là ăn thịt con ḿnh, hễ
sanh ra liền ăn. Trông thấy mẹ đẻ như thấy
đại ác quỷ; nhưng trong mỗi
tháng của nhân gian, có một ngày chẳng thể ăn ta.
Đó là ngày Hai Mươi Bốn trong tháng, sáng sớm có
Tăng nhân vào thành, thí thực cho no đủ. Những ngày
khác chẳng thể tránh khỏi nỗi khổ này. Ngày hôm ấy,
vị sa-môn xướng rằng: “Ta là Địa Tạng
Bồ Tát, nay vào thành ngạ quỷ, có thể thí đại
an lạc. Các ngươi hăy nên phát Bồ Đề tâm”.
Tuy nghe lời ấy, do nghiệp báo trói buộc, chẳng
thể phát tâm. Chỉ có một ngày được
ăn no. Con muốn cứu khổ cho mẹ, hăy nên tạo
tượng Địa Tạng Bồ Tát”. Mẹ nói xong lời ấy, cô gái tỉnh giấc
mộng, dùng hết tài sản của mẹ để tạo
tượng Địa Tạng Bồ Tát cao bằng thân
người. Cô lại mộng thấy mẹ, thân tỏa
quang minh, đứng trên hư không, bảo: “Ta do sức
công đức tu thiện của con, mau chóng được
sanh lên trời. Con hăy dụng tâm cung kính lễ bái, cúng
dường, mai sau sẽ cùng [hội ngộ] tại chỗ
Từ Thị Bồ Tát, cùng thấy Phật, nghe pháp”. Cô tỉnh
giấc, bi cảm tột cùng! Người nghe kể chuyện
đều đến cúng, ai nấy đều được
lợi ích!
13. Chuyện cảm ứng do vẽ
tranh Địa Tạng của Thứ Sử Lộ Châu
Khang Cư Thông
Thứ sử Lộ
Châu là Khang Cư Thông, tín tâm chân thành, phụng sự Địa
Tạng Bồ Tát đă nhiều năm. Lại c̣n phát tâm vẽ
tôn tượng Bồ Tát, chưa tô màu mà quang minh đă rạng
rỡ. Do vậy, tín tâm của Cư Thông càng thêm mạnh mẽ,
chuyên dốc. Ông ngẫu nhiên mộng thấy hai quan binh
cưỡi ngựa truy đuổi. Khi ấy, Cư Thông chẳng
thể trốn được, bèn đứng run sợ.
Quan binh xuống ngựa, nói: “Chúng tôi lầm rồi! Ông là
đàn-việt của Địa Tạng Bồ Tát. Vua của
tôi đối với đàn-việt của Địa Tạng
Bồ Tát, dẫu có phạm lỗi nặng cũng không vây
hăm!” Nói xong biến mất. Ông tỉnh mộng, thờ phụng
càng thêm tin sâu, lễ bái, cúng dường.
Năm
Quảng Minh nguyên niên (880) đời hoàng đế
Đường Hy Tông (Lư Huyên), ác quỷ dấy lên làm loạn,
trong nước bị bệnh dịch, người chết
thây chất như núi. Cư Thông mộng thấy lũ quỷ
màu xanh cả trăm ngàn con kết bầy đi qua cửa
nhà ông, nói: “Nhà này là thất của Địa Tạng Bồ
Tát. Chúng ta là thuộc hạ hăy cẩn thận, đừng
bước vào cửa”. Ông tỉnh giấc hết sức
hoan hỷ, trai gái cả nhà thoát quỷ nạn.
Trong
niên hiệu Trung Ḥa[16], ông có việc phải đi xa, trên đường
gặp tuyết lớn, bị lạc đường. [Do
vậy bèn] niệm Địa Tạng Bồ Tát, đột
nhiên thấy một con két nhảy nhót trên tuyết. Ông lấy
làm lạ, đi theo nó, chẳng lâu sau t́m được
đúng đường. Đó là Bồ Tát cảm ứng. Tới
niên hiệu Quang Khải, ông đă tám mươi bảy tuổi,
bị bệnh nhẹ, chí thành cầu lành bệnh. Trong mộng,
cảm một vị tiểu Tăng bảo: “Ông giết một
con thanh tước[17], đáng đọa
địa ngục, nay để cho ông đền trả
nghiệp ấy, chỉ chịu đôi chút đau khổ một
hai ngày. Sau ngày mai mới được sanh vào Tịnh
Độ”. Ông nghe xong liền tỉnh giấc, hoan hỷ lễ
bái, bệnh đă khỏi hẳn. Đến ngày ấy, bệnh
đă khỏi hẳn, ông chánh niệm qua đời.
14. Ghi chép về sự linh dị do
tạo tượng Địa Tạng cao ba tấc bằng
gỗ chiên đàn của quan Biệt Giá Kiện Khát tại
Ung Châu
Đời
Đường, quan biệt giá[18]
Kiện Khát tín tâm thanh tịnh, dốc ḷng tin phụng Phật
pháp. Một hôm, ông hỏi Tăng: “Tại gia cư sĩ
nên thờ phụng vị Phật, Bồ Tát nào?” Chư
Tăng mỗi vị nói mỗi khác, [có vị nói]: “Nên thờ
đức Quán Âm v́ ngài là đấng Thí Vô Úy trong thế giới
Sa Bà”. Hoặc nói: “Thờ Dược Sư Phật v́ Ngài
phát nguyện lợi lạc [chúng sanh] trong đời Tượng
Pháp”. Hoặc nói: “Thờ Di Lặc chính là thờ phụng
đấng Đạo Sư”. Hoặc nói: “Thờ Địa
Tạng, v́ Ngài đă vâng nhận sắc lệnh của Phật”.
Kiện Khát tự nghĩ: “Nên thờ đức Địa
Tạng, v́ Ngài đă nhận sắc lệnh của đức
Phật, há bỏ chúng ta ư?” Liền t́m gỗ chiên
đàn, tạo tượng cao ba tấc, nhét trong búi tóc,
đi, đứng, nằm, ngồi, xưng niệm danh hiệu.
Trong niên hiệu Thiên Thành đời Đường Trang
Tông (Lư Tồn Húc), thiên hạ chiến tranh, loạn lạc.
Kiện Khát bị quân giặc vây hăm, chẳng biết trốn
vào đâu, trong khoảnh khắc sẽ nhận lấy cái
chết. Ông vừa nghĩ đến tượng Địa Tạng
đang mang theo [trên búi tóc], gă đại
tướng đang suất lănh kỵ binh bỗng kinh hoảng,
tra gươm vào vỏ, bảo đồng bọn: “Chúng ta
đang vây hăm Địa Tạng Bồ Tát, há có nên lầm lạc
phá hoại hiền thánh”, liền tháo chạy. Kiện Khát
cho là chuyện hy hữu. Sau khi dẹp yên loạn lạc,
ông hỏi han chư Tăng, kể lại nhân duyên này,
người nghe đều than lạ. Trong niên hiệu
Trường Hưng[19],
khi ông đến nhiệm sở, kẻ oán nghe tin, toan hăm hại,
nấp chờ sẵn bên chỗ đường
hiểm. Hắn chỉ thấy một vị sa-môn đi qua,
trọn chẳng thấy Kiện Khát. Về sau, nghe ông
đă đi qua, bèn hối lỗi, tạ từ, cởi bỏ
oán thù. Lại có lần trên đường đi, đêm
ông ngủ trọ, trời đổ mưa thật to,
đèn lửa đều tắt ngúm. Thánh tượng trong
búi tóc tỏa sáng chiếu màn đêm rơ như ban ngày. Bỗng
có âm thanh khe khẽ như tiếng trẻ nhỏ bảo:
“Hăy sớm rời đi, sớm rời đi!” Ông kinh dị,
noi theo ánh sáng dẫn đường, đến nghỉ
đêm ở chỗ khác. Hôm sau, trận lũ dâng trào, chỗ
ông nghỉ trọ trước đó đă ngập nước,
chẳng biết ch́m sâu cỡ nào. Ông tự nói: “Địa
Tạng Bồ Tát cứu vớt, che chở”. Năm Thanh
Thái thứ hai (935), ông tṛn bảy mươi tám tuổi mới
mất. Khi lâm chung, tượng trong búi tóc phóng quang. Ông chắp
tay niệm Phật qua đời. Quang minh ấy chiếu
thẳng lên trời trong chốc lát. Ai nấy đều
nói quang minh đưa tiễn Kiện Khát, ông chắc chắn
sanh lên trời!
15. Ghi chép về chuyện Địa
Tạng cảm ứng của Đô Đốc Trường
An Thôi Lư Hệ đời Tống
Thôi
Lư Hệ là Đô Đốc Trường An,
là em trai của thượng thư Thôi Long. Năm Khai Bảo
thứ hai (969), ông ta chết hai ngày rồi sống lại,
kể chuyện trong cơi âm như sau:
-
Lúc tôi mới chết, có hai người xách nách đưa
đi. Lại thấy có quỷ tốt h́nh ngựa trắng
đuổi chạy chẳng biết mấy dặm, đến
một ṭa thành lớn ở phía Đông Bắc. Từ cửa
đen ở phương Nam vào, sẽ thấy phương
Đông, từ cửa đen ở phương Tây vào, sẽ
thấy cửa Nam, theo cửa đen ở phương Bắc
vào thành, thấy có mười mấy căn nhà ngói. Mỗi
căn đều có mười mấy gian. Trong đó, có mấy
ngàn kèo cột tô vẽ, các thứ măo đội của các
quan đều là màu đen. Hai bên nhà ngói có hơn ba
mươi nha lại, đều nói: “Ta là [thuộc hạ
của] phủ quân”. Lại về phía Tây Nam, hơn năm
mươi bước, có hơn năm mươi nha lại.
Lư Hệ đến trước phủ quân, phủ quân hỏi:
“Ngươi phụng sự ǵ?” Lư Hệ đáp: “Tôi phụng
sự Địa Tạng Bồ Tát, cúng dường các
sa-môn”. Phủ quân lại nói: “Ông đă thờ phụng
đức đại thánh, đấy là phước trời”,
bèn hỏi các nha lại chức nhỏ: “Người này mạng
đă hết hay chưa?” Phủ quân liền lấy một
quyển sách tự đọc rồi bảo Lư Hệ:
“Khanh mạng chưa tận, nhờ Địa Tạng Bồ
Tát cứu vớt, che chở”. Lại gọi các viên nha lại
cấp thấp, quát: “Bọn bay cớ ǵ đoạt mạng
người của Phật gia?” Liền quở trách ngục
tốt có h́nh dạng ngựa trắng, xử phạt hắn
bị trói vào cột một ngày. Lại hỏi: “Khanh có muốn
về hay chưa?’ Đáp: “Dạ muốn”. Lại hỏi:
“Khanh có muốn thấy địa phủ hay chăng?”
Thưa: “Muốn thấy”. Phủ quân truyền cho ông một
thớt ngựa, và sai hai nha lại dẫn đi. Từ phía
Đông Bắc đi ra, khoảng năm sáu dặm, thấy
một ṭa thành lớn bằng sắt, vuông vức mấy
chục dặm. Có một cái nhà sắt, chứa đầy
nước sắt lỏng sôi, bốc lửa hừng hực.
Kế đó, đến một căn nhà lợp ngói, dùng sắt
làm cánh cửa. Quan cơi âm mở cửa bảo ông nh́n, thấy
ông nội, cụ cố v.v… đều ở trong thành ấy,
đều bị gông, cùm, xiềng xích trói buộc thân thể.
Lửa dữ vờn quanh thân, thiêu đốt, thân thể
cháy nứt nẻ. Họ trông thấy Lư Hệ, bèn ứa
nước mắt bảo: “Con hăy nên cứu
giúp”. Lư Hệ thưa: “Hăy nên niệm Địa Tạng Bồ
Tát”.
Đi tiếp, thấy trong một cái thành,
có giường, ṭa, chỗ nằm bằng
sắt nóng. Các vị sa-môn
ông được gặp
gỡ khi trước đang ngồi
đó, thân thể như than, lửa dữ chiếu sáng rực.
Ông hỏi: “Thầy tu phạm hạnh, nay sao lại như
thế này?” Sa-môn đáp: “Bọn ta v́ tiếng tăm, lợi
dưỡng mà tu phạm hạnh, do nội tâm và ngoại hạnh
chẳng tương ứng, các thứ ngọa cụ,
giường, ṭa v.v… đă nhận xưa kia, nay biến
thành các thứ khí cụ hành h́nh to lớn. Y phục, thức
ăn v.v… biến thành áo sắt, nước đồng
sôi. Đàn-việt hăy nên cứu chúng tôi”. Ông đáp: “Thầy
hăy nên niệm Địa Tạng Bồ Tát”. Ông thấy mấy
chục địa ngục, mỗi ngục đều có tội
nhân bị hành hạ đầy ắp trong đó, đều
là những người ông đă từng gặp gỡ trong
cơi đời. Lại tới ngục cát đỏ, có cây
đầy gươm, cột đồng, trăm ngàn tội
nhân ở trên đó. Họ trông thấy Lư Hệ, đều
chảy nước mắt, bảo: “Ông hăy cứu chúng tôi”.
Đáp: “Hăy nên thường niệm Địa Tạng Bồ
Tát”. Bảy ngục cát vàng, cát trắng, cát cháy v.v… như thế
đều giống như đă thấy. Ông bèn trở về.
Lại
thấy một căn nhà ngói màu lục long lanh, hai bên
đường có cây báu, các thứ trái xen kẽ. Liền hỏi
hai viên nha lại, họ đáp: “Trong số các đàn-việt
đệ tử của Địa Tạng Bồ Tát, lại
c̣n vẽ tượng, phần nhiều sanh vào Tịnh
Độ, hoặc sanh lên trời Đâu Suất, ai nấy
đều thỏa sở nguyện. Kẻ chẳng tin
tưởng vẽ tượng, nhưng phụng sự th́
phần nhiều trụ nơi đây”. Do vậy, ông tiến
vào, thấy trong ṭa thành lớn, có điện báu lớn.
Trăm ngàn vạn ức nam nữ vui đùa trong đó. Lại
thấy cha mẹ, lục thân v.v… hoan hỷ chào hỏi. Những
người nam, kẻ nữ nói: “Trước kia, chúng tôi ở
trong địa ngục, nhờ ông dạy niệm Địa
Tạng Bồ Tát, được thoát khổ, sanh vào trong
đại điện này!” Cha mẹ, anh em, lục thân hoan
hỷ bảo tôi rằng: “Nhờ ân trạch của ông, cảm
Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa, ĺa khổ sanh vào
nơi đây”. Ông lại hỏi: “Chỗ này là nơi nào?”
Đáp: “Nơi đây gọi là phước xá, thọ mạng
lâu dài, xa ĺa các thứ khổ. Tuy sanh nơi đây, ắt gặp
ba hội của Phật Di Lặc, dứt các nỗi khổ”.
Lư Hệ hỏi cơi nào? Họ nói: “Xưa kia, lúc Địa
Tạng Bồ Tát tại thế, vâng nhận lời phó chúc
của đức Như Lai, bạch với đức Phật:
‘Nhất định chẳng để cho bốn chúng
đệ tử đọa vào ác đạo’. Trước
khi Phật Di Lặc xuất thế, trong khoảng giữa
hai vị Phật là năm mươi sáu ức bảy ngàn
vạn năm, nếu có chúng sanh nguyện sanh về Tịnh
Độ và Đệ Tứ Thiên, kẻ ít phước
đều đến phước xá này, chẳng trở lại
đường ác, cho đến khi thành Phật mới
thôi”. Ông trở về chỗ phủ quân, vua liền sai hai
người [nha lại] trên kia đưa ông hồi
dương.
16. Ghi chép về chuyện cảm ứng
do phát tâm tạo tượng Địa Tạng của Thứ
Sử Ích Châu là Quách Từ An
Nhà
Đại Hán, Thứ Sử Ích Châu là Quách Từ An chẳng
tin Tam Bảo, đặc biệt coi trọng Lăo Tử.
Giữa tháng Năm nhuận của năm Càn Hựu thứ
ba (950)[20], ông nhiễm bệnh,
chữa trị đủ cách chẳng lành. Vợ ông thờ
Phật, t́m hôm ông vui vẻ, nói: “Có thể phát nguyện tạo
tượng Địa Tạng Bồ Tát trong một ngày
để khỏi bệnh, chớ nên tŕ hoăn!” Từ An nằm
trên giường bệnh, tâm vẫn không tin, nói: “Cần phải
phát nguyện ư? Nếu có cảm thông, tôi sẽ tin ngay”.
Một hôm, ông bỗng chết ngất. Bà vợ ngửa mặt
lên trời, gào khóc, lệ muôn hàng, tâm can tan nát, cầu
chư thiên giúp ông sống lại. Sau ba thời (sáu tiếng
đồng hồ), Từ An tỉnh lại, gieo ḿnh xuống
đất, đ̣i dao bén, toan cắt lưỡi. Người
trông thấy đều cho là ông cuồng loạn. Bà vợ
an ủi, ông mới yên tĩnh, bảo: “Bà là đại thiện
tri thức, có thể kéo dài mạng sống của tôi, có thể
trừ khổ địa ngục, có thể trao cho niềm
vui cơi trời, có thể dạy đạo giải thoát”. Vợ
nói: “Xin ông hăy nói đầu đuôi”. Từ An bật khóc, bảo:
-
Tôi được Diêm Vương sai chừng bảy, tám
người, mỗi người đều xưng là thần
tư lộc (司祿, cai quản tài
lộc), đều cưỡi ngựa xanh, ruổi vó như
gió. Hai người cầm cung tên, hai người cầm
gươm, hai người cầm gậy, một người
cầm thừng, đuổi tôi về hướng Đông
Bắc, tới cửa một ṭa thành lớn. Trong thành, có
trăm ngàn vạn người, đứng hầu hai bên.
Quan tư lộc xuống ngựa, thưa hỏi vị
vua. Vua nói: “Sao lại bắt người chưa hoàn tất
thiện nguyện?” Vua bèn nổi giận, sai dùng gậy sắt
xử phạt. Quan tư lộc gào to, thân thể quần
áo đẫm máu. Vua ra cửa, bảo Từ
An: “Ông nhờ ơn vợ, phát nguyện tạo tượng
Đại Sĩ, ta ở ngôi vua, thật sự v́ khiến
cho chúng sanh đền trả tội nghiệp mà hiện
thân Diêm Vương, thật ra là pháp vương. Nếu có
chúng sanh quy y đức Địa Tạng, sẽ thỏa
măn điều mong cầu. Ông hăy sớm trở lại nhân
gian để hoàn tất nguyện ấy”. Vua liền sai
người đưa về. Nay được tỉnh ngộ.
Tâm ta chẳng tin, hủy báng đại thánh, muốn cắt
lưỡi để sám hối.
Vợ
bảo: “Cắt lưỡi chẳng phải là sám hối.
Nếu ngă xuống đất, vẫn phải do đất
đứng lên. Ông hăy nên quy y Địa Tạng Bồ Tát,
sám hối”. Ông liền làm theo lời vợ. Tạo tượng
trong một ngày, hết sức hối hận lỗi
trước. Mỗi ngày trai, đều lễ bái cúng dường,
coi đó là nề nếp của gia đ́nh, siêng năng
khuyên người sang, kẻ hèn phụng sự Địa
Tạng Bồ Tát.
17. Ghi chép về chuyện cảm
thông do v́ vợ tạo tượng Địa Tạng Bồ
Tát của quan Thượng Thư Bá Duyệt nhà Đại
Châu
Nhà Đại
Châu[21], Thượng
Thư Bá Duyệt là đại thần được vua
ban thưởng cho đeo bao thêu cá vàng, rất tin Tam Bảo.
Vợ ông do sanh nở mà chết, ông đau xót khóc lóc, tu
phước hồi hướng, tạo tượng Địa
Tạng Bồ Tát cao bằng thân người vợ, lập
hội trai tăng, dốc cạn ḷng thành lễ bái, cúng
dường. Ông mộng thấy vợ mặc xiêm y mới
sạch, bảo Bá Duyệt: “Tôi trước kia là vợ
người ta, chẳng sanh con. Chồng thường than
thở không con. Tôi liền bảo chồng cưới thiếp.
Không lâu sau, cô ta có thai. Chồng yêu kính vợ mới, tôi sanh
dạ khác, làm ra vẻ thân thiết, dùng thức ăn ngon
trộn lẫn thuốc độc giết mẹ con họ.
Do v́ lẽ ấy, đọa vào ngục Vô Gián sáu kiếp.
Lại sanh trong nhân gian, v́ sanh nở mà chết đă năm
mươi bảy lần rồi! Đời đời
thường làm vợ ông, chịu nỗi khổ to lớn
ấy. Nay ông v́ tôi tạo thánh tượng để giúp
phước, nghiệp ấy đă diệt, sanh lên trời
Đao Lợi, oai quang hơn hẳn trước kia. Sau khi
sanh làm kẻ phối ngẫu của một vị trời,
sẽ vĩnh viễn chẳng mang thân nữ. Nơi Thiện
Pháp Đường của cơi trời ấy, cứ vào ngày
Hai Mươi Bốn mỗi tháng, vô lượng vô biên hóa
thân của Địa Tạng Bồ Tát trong một tam thiên
đại thiên thế giới nhóm họp nơi đó,
đầy khắp dưới cội Vô Ưu, thuyết
pháp lợi sanh. [Các hóa thân ấy] đều có h́nh dáng một
vị Tăng kim sắc. Có một lúc, Ngài v́ tôi thuyết
pháp bảo: ‘Vợ chồng các
ngươi tạo tượng, đúng pháp tu hành,
được thoát đường khổ’. Do ở trên trời, cho nên sanh thiện tâm, chẳng
khởi tà tâm”. Bá Duyệt tỉnh giấc, vui buồn lẫn
lộn!
18. Ghi chép về chuyện vị
sư Huệ Tấn ở kinh đô tụng kinh Pháp Hoa cảm
đức Địa Tạng
Thích
Huệ Tấn người xứ Lạc Dương, xuất
gia từ bé, cầu pháp ở nước khác, truyền
đạo Hiển, Mật. Trong ấy có một bộ Pháp
Hoa, văn nghĩa mầu nhiệm tột cùng, Sư ngày
đêm thầm tụng, chưa từng giải đăi, phế
bỏ. Sư được mọi người tôn kính là
thầy, cơi đời gọi là pháp sư. Trong niên hiệu
Hiển Đức nhà Đại Châu, có một sa-di, tự
xưng là người Tây Vực, tôn Huệ Tấn làm thầy,
suốt ba năm phụng sự như một người
hầu miễn phí. Huệ Tấn lấy làm lạ, hứa
sẽ cho Cụ Túc Giới. Sa-di bạch rằng: “Con kính trọng
người tụng Pháp Hoa, chẳng thể làm đại
tăng”. Sau đấy, Huệ Tấn thôi tụng Pháp Hoa,
truyền dạy kinh Thai Tạng Đại Giáo Vương[22].
Sa-di thưa với thầy: “Con trở về nước
ḿnh, thầy đă thay đổi đường lối,
chẳng phải là điều con ưa thích”. Sau đó liền
mất dạng, chẳng biết đi về đâu. Huệ
Tấn tự nhủ: “Do bỏ tụng niệm nên thành ra
như vậy. Sa Di không biết suy nghĩ sâu xa, tôn sùng việc
tụng niệm. Nay ta thay đổi cách hành tŕ, hăm hở
tu pháp bí mật th́ có khác ǵ đâu?”
Sư
suy nghĩ chuyện ấy, đêm mộng thấy Sa-di chính
là Địa Tạng Bồ Tát phóng quang chiếu Huệ Tấn.
Tâm sư kinh hoảng, chắp tay, sám hối tạ lỗi.
Bồ Tát bảo Huệ Tấn: “Ta có nguyện đại
bi giúp kẻ Xiển Đề. Vâng lời phó chúc của
đức Phật duy tŕ di giáo, hướng dẫn, lợi
ích quần sanh. Đấng Đại Sư Thích Tôn xưa
kia ở non Thứu, tám năm thuyết kinh Pháp Hoa. Ta thủ
hộ, hai vạn vị Bồ Tát như Dược
Vương v.v… đều vâng theo lời dạy, đích
thân được đức Phật khuyên hộ tŕ. Ngài
căn dặn chân thành, chắc thật, sắc truyền: Trong đời
ô trược, kẻ tạm tŕ kinh Pháp Hoa là khó khăn nhất.
Do hạnh nghiệp tụng niệm Pháp Hoa thanh cao của
Sư, ta theo làm kẻ đầy tớ miễn phí cho
Sư. Sư bỏ đọc tụng, ta liền ĺa bỏ”.
Huệ Tấn rơi nước mắt sám hối. Lại
hỏi rằng: “Con có ĺa sanh tử được không?”
Đáp: “Ở nơi quá khứ Phật, hiện tại Phật,
hoặc sau khi Phật diệt độ, nếu nghe kinh
Pháp Hoa, đều đă thành Phật đạo. Chỉ có
tâm trong sạch hay ô trược th́ [sẽ ĺa sanh tử]
nhanh hay chậm khác nhau!” Nói xong, bỗng chẳng thấy
đâu nữa. Sư tỉnh giấc, sám hối, tụng
tŕ kinh Pháp Hoa như cũ.
19. Ghi chép về chuyện cô gái ở
Vi Châu ở nhờ nhà bác cảm đức Địa Tạng
giáo hóa
Vào thời Đại
Châu, tại nhà ông họ Đặng ở Vi Châu, có cô cháu
gái (không biết tên) mất mẹ từ bé, được
bác nuôi nấng. Cô ngày đêm nhớ mẹ, cầu hỏi
sa-môn: “Làm thế nào để lại thấy mặt mẹ?”
Sa-môn bảo: “Địa Tạng Bồ Tát có bổn nguyện
đại bi. Cô chí tâm xưng niệm, sẽ lại
được thấy”. Cô ta bèn ngày đêm xưng danh. Về
sau, thưa với sa-môn: “Con nhờ ơn thầy, lại
được thấy từ nhan. Kính cẩn dâng cúng một
bộ xiêm y”. Sa-môn gạn hỏi cặn kẽ đầu
đuôi, cô kể: “Con mộng thấy theo sau một vị
sa-môn, bay lên trời. Thấy ṭa điện báu ma-ni bốn
mươi chín tầng, chư thiên đầy dẫy trong ấy.
Mẹ đang ở trong số những người bên
ngoài. Con đến nơi, lễ bái, thưa hỏi. Mẹ
nói: ‘Con niệm Địa Tạng Bồ Tát, đưa mẹ
đến tầng trời này, lại được gặp
con, là do đức Thánh đích thân xếp đặt’. Con
liền tỉnh giấc, tâm sanh ư niệm chẳng thể
nghĩ bàn. Cảm ứng đạo giao như thế,
đều do ơn thầy!” Sa-môn sanh tâm tùy hỷ bảo:
“Nếu không do chính con có ḷng tin sâu xa, sẽ chẳng thể
có sự cảm hóa ấy được”. Tôi đích thân
nghe thấy, bèn ghi chép lại.
20. Ghi chép về chuyện gă Nhạn
Hùng ở Kinh Châu do công đức quy y đức Địa
Tạng mà thoát khổ địa ngục
Vào thời
Ngũ Đại, ở Kinh Châu có một người sống
bằng nghề săn chim nhạn, nổi tiếng khắp
cơi đời, được gọi là Nhạn Hùng. Lúc
năm mươi mốt tuổi, mắc chướng khí
chết đi, vợ ông ta đem bỏ xác nơi g̣ mả
để nuôi cọp, sói. Ba ngày sau, ông ta sống lại, trở
về nhà cũ. Vợ con kinh sợ, cho là đă biến
thành cuồng quỷ. Nhạn Hùng kể cặn kẽ:
-
Khi ta chết, xe bốc lửa đến đón, bị lửa
dữ thiêu đốt. Có một vị sa-môn dùng nước
xối lên xe. Lửa tắt, thân được mát mẻ,
sanh ư niệm hy hữu! Kế đó, tới chỗ vua (Diêm
vương). Lợn, dê, gà, trĩ, ngàn vạn cầm thú tiến
đến tâu với vua: “Hắn đoạt mạng con, xin
trị tội Nhạn Hùng”. Đại vương trả
lời: “Các ngươi đă tố cáo, Nhạn Hùng ắt
là kẻ ác. Chỉ có điều tổ tiên của hắn
quy y đức Địa Tạng, con cháu của họ
được thoát khỏi nỗi khổ nung đốt”.
Nhạn Hùng thấy t́nh h́nh đó, bèn nhất tâm xưng danh
Địa Tạng Bồ Tát. Chim, thú trong điện đều
biến thành h́nh người. Vua liền thả ta. Do vậy,
được sống lại.
Ông
ta bèn bỏ nhà, phát tâm, xưng là Phật Nô (đầy tớ
của Phật), du hành trong nhân gian, khuyên mọi người
quy y Địa Tạng Bồ Tát.
21. Ghi chép về chuyện đứa
bé dùng móng tay vẽ h́nh đức Địa Tạng
được tăng thọ
Đời Tống,
sư Thích Huệ Ôn chùa Khai Bảo có nuôi một bé trai, chẳng
rơ tên họ, mới vừa mười bốn tuổi. Thầy
tướng Kiện Chân nh́n nó bảo: “Đứa trẻ
này thọ mạng rất ngắn, chỉ c̣n sống
được một tháng nữa mà thôi!” Sư nghe lời
Kiện Chân nói, cho nó về nhà. Khi ấy, trời mưa to,
đi lại chẳng thông thuận. Nó ngủ nhờ nhà một
thợ vẽ, thấy ông ta vẽ tượng Địa
Tạng Bồ Tát, bèn dùng móng tay, bắt chước ông ta vẽ
vời, vẽ ở trên vách. Khi trời tạnh, bèn về
nhà. Hơn một tháng sau, trở lại
chùa Khai Bảo. Huệ Ôn hoan hỷ, bảo Kiện
Chân nói nhảm. Liền gọi Kiện Chân đến gặp
đứa bé. Ông ta kinh ngạc bảo: “Tuổi thọ
tăng lên năm mươi năm. Chuyện này hiếm có,
chẳng biết do đâu”. Đứa bé tự nói: “Con dùng
móng tay vẽ h́nh tượng Địa Tạng. Đêm hôm
ấy, có vị tăng bảo con trong giấc ngủ:
‘Ngươi năm mươi, năm mươi’. Xướng
đôi ba lượt như thế. Ngoài chuyện ấy ra,
chẳng tu thiện sự nào khác”. Huệ Ôn và thầy
tướng số đều than: “Thánh lực chẳng thể
nghĩ bàn!” Về sau, đứa bé xuất gia, thọ Cụ
Túc Giới, hiệu là pháp sư Huệ Tạng.
22. Ghi chép về sự ứng hiện
tốt lành của đức Địa Tạng tại
Liêu Thành đời Tống
Đời Tống,
ở vùng quê của Liêu Thành, xưa có khoảng hơn một
ngàn nhà, gần đây đă có hơn hai ngàn nhà, đều
tín phụng Phật pháp, và tin tưởng Quán Âm, Địa
Tạng. Họ coi trọng kinh Quán Âm, kinh Địa Tạng,
và kinh Thập Luân. Có một ngôi chùa cổ, ba gian bốn
chái, lợp ngói xanh, vách lá. Hai bên là tượng Quán Âm và
Địa Tạng, cao bảy thước năm tấc.
Chính giữa thờ tượng A Di Đà Phật, cao một
trượng sáu thước, thường có điềm
lành linh cảm, tượng do Đặng Độ đă
tạo vào thuở trước. Trong niên hiệu Thái B́nh
Hưng Quốc đời Tống Thái Tông, bệnh dịch
tràn lan, các thôn người chết yểu rất nhiều. Vị
thành chủ cầu đảo nơi tượng Địa
Tạng Bồ Tát. Tượng phóng quang chiếu vào làng, mọi
người đều được b́nh phục, người
đă chết yểu được sống lại.
Có một bà đồng chẳng tin Phật pháp, đă mắc
bệnh chết qua một ngày mới sống lại, đến
tinh xá, lễ đức Địa Tạng, khóc lóc, cầu
xin xuất gia. Mọi người ngạc nhiên, hỏi
nguyên do. Bà đồng thưa:
-
Tôi bị ác quỷ trói, tuy gọi vị thần tôi thờ
phụng cứu vớt, thần thấy ác quỷ
được sa-môn cảm hóa, bèn bỏ tôi mà đi. Khi ấy,
vị sa-môn bảo: “Ngươi là nữ nhân ngu si, uổng
công nương cậy thần đạo, chẳng tin Phật
pháp. Ta là Địa Tạng Bồ Tát trong ngôi đại tự,
do thành chủ thỉnh cầu, bèn cứu nữ nhân ngu si
ngươi. Ta trao cho ngươi sanh mạng để kiến
tạo chùa trong làng quê ḥng trực tiếp bảo vệ họ”.
Tôi dứt tâm ác, trọn chẳng điều khiển quỷ
nữa. Quỷ là nghiệp của chính ḿnh, chẳng phải
do ai khác làm ra. Đă thấy nghe chuyện này, lại
được sống sót, cải tà quy chánh, cho nên xin xuất
gia”. Người nghe nói đều tùy hỷ, chấp thuận
cho bà ta làm ni.
23. Ghi chép về sự cảm thông của
tượng Địa Tạng chùa Thiên Phước
Đời Tống,
nơi góc Đông Bắc chùa Thiên Phước có thánh tượng
Địa Tạng cao một thước sáu tấc, chẳng
biết do ai tạo, xuất hiện vào thời đại
nào. Tuy nhiên, tương truyền hết sức linh dị.
Hễ ai t́m đến xin ngủ lại để lễ
sám, ắt sẽ được cảm thông. Khi ấy, có một
vị cư sĩ, lúc ba mươi bảy tuổi, không c̣n
một cái răng nào. Ông ta t́m đến trước tượng,
nhịn ăn, trai giới thanh khiết, cầu thỉnh. Nửa
đêm cảm mộng, thấy tượng đến xoa
đầu, khắp thân nhẹ nhàng, an vui. Tỉnh giấc,
đă mọc ba mươi tám cái răng. Người thấy
nghe linh dị, vẽ phỏng theo tượng để lễ
bái, đều được cảm thông.
23. Ghi chép về sự cảm ứng
từ bức họa Địa Tạng của ni sư Trí
Tạng ở Thái Nguyên thuộc Tinh
Châu
Đời Tống,
ni sư Trí Tạng ở Thái Nguyên đặc biệt phụng
sự Địa Tạng Bồ Tát, thích cầu sanh Tây
Phương Tịnh Độ. Bà bỏ ra hai trăm đồng,
vẽ tượng A Di Đà Phật, hai bên vẽ hai vị
Địa Tạng và Quán Âm làm thị giả, đặt ở
trong pḥng xá, tín tâm lễ bái, cúng dường, Năm Canh Th́n
(980) trong niên hiệu Thái B́nh Hưng Quốc thứ năm,
gió lốc thổi hư nhà, ni xá đều bị hư hoại.
Hôm sau, t́m tượng chẳng biết thất lạc chỗ
nào, ḷng sanh ưu năo! Bà cầu khẩn, niệm Địa
Tạng Bồ Tát, chiêm ngưỡng hư không, thấy xa
xa có một vật bay lơ lửng trên không, tỏa mấy
luồng quang minh như ánh chớp. Lúc sau rơi xuống,
chính là tượng bà mong cầu. Bà vui mừng, vẫn
đặt trong pḥng như cũ. Ngày Hai Mươi Ba tháng
Hai năm [Thái B́nh Hưng Quốc] thứ bảy (982), bà bảo
bạn bè: “Địa Tạng Bồ Tát hướng dẫn
tôi về Tịnh Độ, ngày mai chắc chắn văng
sanh”. Bà thắp hương, rải hoa, xướng danh hiệu
tam tôn, mỗi danh hiệu một trăm lẻ tám lượt,
ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chắp tay, qua
đời.
24. Ghi chép về sự hóa hiện
linh dị của bức họa Địa Tạng trên vách
Tây chùa Ngơa Quan ở Kim Thành
Nơi
vách Tây chùa Ngơa Quan có vẽ thánh tượng Địa Tạng
Bồ Tát, diện mạo như một vị lăo tỳ-kheo
trung niên, áo ca-sa màu sắc tươi tắn. Đầu
canh năm mỗi ngày đều phóng quang minh, trong mười
người, chỉ một hai người được
thấy. Gần đây, vị sa-môn người Thiên Trúc là
Hoa Thiên khá thần dị, cầu thỉnh cảm ứng
nơi thánh tượng, được thấy quang minh trọn
vẹn, nói: “Tượng này chính là do xưa kia, Trí Khải
thiền sư nước Tùy v́ cứu chúng sanh đang khổ
sở trong tam đồ mà vẽ tượng này. Tượng
phóng quang minh, chiếu sáng lục đạo, [người
có duyên trông thấy] sẽ thấy thánh tượng và ngài
Trí Khải dạo trong ba đường ác, nói kinh Pháp Hoa,
cứu khổ ban vui”. Nghe chuyện này xong, người lễ
bái, cúng dường càng đông!
26. Ghi chép về sự cảm ứng
đức Địa Tạng của sa-môn Trí Hựu chùa
Thanh Thái
Đời Tống,
sa-môn Trí Hựu là người ở Tây Ấn Độ,
sang Trung Hoa trong niên hiệu Thiên Phước, trụ tại
chùa Thanh Thái. Trong kinh tượng Sư mang theo, có tượng
Địa Tạng Bồ Tát, và bản tiếng Phạn
kinh Bổn Nguyện Công Đức. Trong bức tượng
ấy, nơi ṿng tṛn chính giữa, vẽ tượng Bồ
Tát, hai bên có mười thánh tượng đội măo, cầm
vật báu. Bên trái là năm vị: Một là Tần Quảng
Vương, hai là Sở Giang Vương, ba là Tống Đế
Vương, bốn là Ngũ Quan Vương, năm là Diêm
La Vương. Bên phải có năm vị: Một là Biện
Thành Vương, hai là Thái Sơn Vương, ba là B́nh Đẳng
Vương, bốn là Đô Thị Vương, năm là
Ngũ Đạo Chuyển Luân Vương. Mỗi vị
đều có các [thuộc hạ] như tư mạng,
tư lộc, phủ quân, điển quan v.v… Sư tự
nói duyên khởi như sau:
-
Xưa kia, ở Tây Ấn Độ, có một Bồ Tát từ
bi cứu thế, phát đại thệ nguyện, v́ cứu
chúng sanh đang chịu khổ trong tam đồ, cho nên vẽ
tượng Địa Tạng, hướng về mười
vương thành, truyền dạy: “Nay ta phát nguyện cứu
khổ tam đồ, xin hăy tạo lợi ích”. Mười
vị vua đều chắp tay, kính cẩn đáp ứng,
bạch với tượng vẽ rằng: “Hết thảy
chúng sanh đều mong được đại thánh dạy
bảo. Chúng con kính cẩn làm bạn lữ phụ trợ”.
Khi ấy, tôn tượng mỉm cười bảo: “Lành
thay! Tội nghiệp của chúng sanh không lâu sẽ
được nhẹ bớt”. Liền phóng đại
quang minh, chiếu thấu tam đồ khổ năo. Các chúng
sanh được chiếu đều ngưng dứt các
khổ. Đấy chính là vị Bồ Tát tại Ấn
Độ nhập Lợi Ích Chúng Sanh tam-muội, cầu thỉnh
các đại vương ban cho đại lợi. Vị Bồ
Tát ấy tự vẽ lại những ǵ đă thấy, nên
vẽ thêm mười vị vua bên cạnh tôn tượng
Địa Tạng.
Ngài
Trí Hựu lại nói:
-
Ta ở Lưu Sa, gặp phải quỷ yêu mị, bèn cầu
khẩn, niệm Bồ Tát, do vậy, được Bồ
Tát cầm tích trượng xua đuổi chúng. Lại trong
đêm khi mưa to trút xuống, khổ v́ không có đèn lửa,
chẳng biết thứ ǵ, mănh thú gầm rống, người
lẫn ngựa đều lạc đường. Tượng
này phóng quang soi sáng như ban ngày, mănh thú bèn tan chạy,
đường lối lại thông suốt. Lại gặp
sông lớn, sóng cả cuộn trào, chẳng biết sâu cỡ
nào. Nước ấy rất yếu, chẳng đỡ nổi
chiếc lá, huống chi thuyền bè? Ta cầu nguyện
thánh tượng, liền thấy một vị sa-môn và hai
đồng tử, một đồng tử cầm phan, một
đồng tử chèo thuyền. Sa-môn tay cầm quyển
kinh tiếng Phạn, liền đưa bọn ta vượt
sông. Đă đến bờ Đông, lúc sắp từ biệt,
Ngài tặng ta cuốn kinh tiếng Phạn, bảo Tăng, tục trong cơi này có thể sao chép lại. Do vậy,
mọi người tranh nhau sao chép, cảm được
nhiều điều linh dị.
Ba
năm sau, chẳng biết ngài Trí Hựu
và tượng ở đâu, mọi người đều
ngờ Ngài quay về Ấn Độ. Chắc sa-môn Trí Hựu
chính là hóa thân của đức Địa Tạng.
27. Ghi chép về chuyện
người đánh cá ở Minh Châu cảm vời đức
Địa Tạng
Người
đánh cá ở Minh Châu, chẳng biết tên họ là ǵ, xuống
biển bắt cá. Trong lưới, bắt được
một tượng giống như một vị tỳ-kheo,
chẳng biết nguyên do, bèn bỏ bên bờ. Đêm đến,
mộng thấy một vị Tăng, thân có quang minh, bảo
người đánh cá: “Sao ngươi bỏ ta?” Người
đánh cá nói: “Thầy là ai vậy?” Đáp: “Ta là Địa
Tạng Bồ Tát ở trong biển cả đă lâu, cứu
tế thủy tộc, nửa số ấy được
sanh lên trời. Nay v́ các ngươi mà xả thân trong lưới”.
Người ấy tỉnh giấc, hối lỗi, kiến
tạo một tinh xá, an trí tượng ấy. Ngư dân chỗ
ấy đến nay vẫn sùng phụng, được cứu
tế chẳng có cùng cực!
28. Ghi chép về chuyện cảm
thông do Trần Kiện ở Đài Châu v́ cha mẹ tạo
tượng Địa Tạng
Trần Kiện
ở Đài Châu một mực đoan chánh, chí hiếu
vượt hẳn kẻ khác. Ông dựng nhà nuôi dưỡng
song thân, phát tâm v́ cha mẹ tạo hai bức tượng
Địa Tạng và Quán Âm, mỗi tượng cao ba
thước. Năm Càn Đức thứ tư (966), ông mắc
bệnh nhẹ, bỗng chết ngất đi. Cha mẹ
khóc lóc. Bốn tiếng sau, ông tỉnh lại, lễ bái cha
mẹ, bạch rằng:
-
Con chết bỏ lại cha mẹ, chưa trọn ḷng hiếu
thảo. Bỗng đến trước điện Diêm
Vương, thấy hai bức tượng do con đă lập,
đứng sẵn trong điện. Vua hướng về
đó xá bái. Thấy con đến, vua bèn dắt tay, tượng
hai vị Bồ Tát đến đỡ bên hông con dẫn
lên sảnh đường. Tượng phát tiếng ḥa
nhă: “Đàn-việt chưa thỏa ḷng hiếu, xin đại
vương thả về nhân gian”. Vua bạch cùng tượng:
“Mạng nghiệp của ông này đă tận, cha mẹ ông
ta mạng dài”. Tượng nói: “Thọ mạng vô định,
tùy duyên mà sửa đổi, chuyển biến. Đàn-việt
tu phước nghiệp, lẽ đâu chẳng trở về?”
Vua kiểm trong một quyển sách rồi thưa: “Nếu
ai chí hiếu, tạo tượng hay vẽ tượng, thọ
mạng dài lâu. Có thể tăng thêm tuổi thọ cho ông bốn
mươi năm nữa, hai mươi năm tận hiếu,
hai mươi năm sau sẽ được con hiếu thảo
báo đáp”. Có vị quan mặc áo màu lục mở sổ,
tâu với vua: “Con của ông Kiện chỉ thọ mười
năm, ai sẽ hiếu thảo?” Vua phán: “Pháp vương
không hai lời. Hăy nên tăng tuổi thọ cho đứa
con”. Con nghe nói lời ấy xong bèn tỉnh lại.
Người
nghe kể đều than là “chưa từng có”!
29. Địa Tạng Bồ Tát
đội nón rơm (truyền thuyết Nhật
Bản)
Cao Ngọc Mỹ ghi
Rất
lâu trước kia, có một cặp vợ chồng già sống
tại một nơi nọ. Do hết sức nghèo túng, mỗi
ngày đều phải sống rất vất vả. Có một
năm, đến ngày Trừ Tịch (ba mươi Tết),
ông cụ than thở với bà cụ: “Ôi! Tuy ngày mai là mồng
Một Tết, nhưng chúng ta chẳng có cách nào chuẩn bị
bánh dầy (mochi)[23]
được!” “Đúng thế!” “Nếu có thứ ǵ có thể
đổi lấy bánh dầy th́ cũng được”.
Ông cụ vừa nói, vừa lục lạo khắp nhà,
nhưng cũng chẳng
t́m được chi cả! “Thật sự chẳng có ǵ
à?” Bà cụ hỏi, bỗng dưng đến pḥng chứa
đồ nh́n thử. Trong một góc pḥng chứa đồ,
vẫn chất đống cỏ tranh cắt từ mùa Hè.
“Ông già ơi! Đem cỏ tranh bện thành nón rơm, cầm
vào trong thành có thể đổi thành tiền được
chứ!” “Ờ! Ờ! Như vậy th́ cũng được”.
Do vậy, hai cụ bèn vào pḥng chứa đồ xếp gọn
đống cỏ tranh đang lộn xộn, bắt đầu
nghiêm túc bện cỏ tranh thành nón rơm. Sau khi làm xong, ông cụ
cầm lấy, nói: “Tôi đổi thành tiền, sẽ mua rất
nhiều bánh dầy, cũng mua kèm thêm củ cải,
ngưu bàng[24] về”.
Nói xong liền ra đi.
Nơi
chợ Tết nhộn nhịp trong thành, khắp nơi
đều rộn rịp người mua sắm Tết. Có
tiệm bán cối và chày giă [bánh dầy],
cũng có người chặt gỗ tùng[25] từ trên núi xuống
bán, rao ầm lên: “Nè! Có muốn mua gỗ tùng hay không? Có muốn
dùng gỗ tùng trang hoàng hay không?” Ông cụ chẳng chịu
thua, cũng lớn tiếng rao: “Nè, nè, nè! Nón rơm đây,
có mua nón rơm hay không?” Nhưng chẳng có ai dừng lại
mua, hết cách, ông cụ đành phải gom góp quay về, [lẩm bẩm]: “Giao thừa
chẳng ai mua nón rơm! Ôi! Không mang bánh dầy về, chẳng
biết bà cụ buồn bực cỡ nào đây?” Bất
tri bất giác, sắc trời đă tối, ông cụ cúi
đầu ủ rũ đi ra khỏi thành, đi măi tới
chỗ đồng hoang ngoài thôn. Gió thổi h́nh thành một
trận băo tuyết dữ dội. Đột nhiên, ông cụ
thấy sáu bức tượng Địa Tạng Bồ
Tát dựng bên đường, chẳng có ǵ che ngực, mà
cũng chẳng cây cối ngăn che. Trong chốn đồng
hoang băo tuyết tơi bời, tượng Địa Tạng
Bồ Tát đă bị tuyết lớn vùi lấp một nửa.
“Ôi!
Đáng thương quá, chắc là lạnh lắm đấy!”
Ông cụ phủi tuyết bám trên đầu tượng
Địa Tạng: “Hai má Địa Tạng Bồ Tát
đều bị đóng băng, sao mũi Địa Tạng
Bồ Tát lại rủ xuống một thỏi băng thế
này?” Ông cụ xoa vuốt tấm lưng vừa lạnh vừa
ướt của Địa Tạng Bồ Tát. “Vậy th́
ḿnh lấy nón rơm đội cho các Ngài đi!” Ông cụ
lấy nón rơm đội trên đầu mỗi tượng
Địa Tạng Bồ Tát, lại c̣n buộc chặt
[quai nón] dưới cằm cho gió khỏi thổi bay mất.
Nhưng có sáu tượng Địa Tạng Bồ Tát mà chỉ
có năm cái nón rơm, cho nên chẳng thể đội cho
một tượng được. “Khăn tay của tôi
tuy không ra hồn, nhưng vẫn có thể chịu
được gió tuyết!” Ông cụ lấy khăn tay
đă vá víu của chính ḿnh trùm lên đầu bức tượng
Địa Tạng Bồ Tát cuối cùng. “Như vậy th́
cũng được, như thế th́ cũng tạm ổn”.
Sau đấy, cụ mới an tâm quay về nhà. “Bà già
ơi! Bà già ơi! Tôi đă về rồi đây!” “A! Ông già
đó hả! Chắc là lạnh lắm hả? Bán hết
nón rơm chưa?” “Có thể nói là bán xong hết rồi!” Cụ
kể chuyện trên đường thấy Địa Tạng
Bồ Tát bị tuyết vùi lấp. “Cho nên tôi đội nón
rơm cho các vị hết rồi!” Bà lăo nghe xong, không chỉ
chẳng lộ ra vẻ mặt phiền bực, mà cũng
nói: “Đúng đó! Ông làm được chút chuyện tốt.
Tôi nghĩ chắc là Địa Tạng Bồ Tát
cũng rất lạnh! Nè! Ông già mau đến bên giường
ḷ sưởi ấm đi!” Ông già liền ngồi trên
giường ḷ sưởi ấm thân thể lạnh
như băng!
“Hừm!
Rốt cuộc phải trải qua một đêm Trừ Tịch
không có bánh dầy. Đă như vậy th́ ḿnh bắt chước
người đang giă bánh dầy vậy”. Ông cụ nói
xong, làm bộ như đang giă gạo và nếp để
làm bánh dầy, [làm tư thế như] giộng chày vào cối
bằng cách gơ vào bên cạnh giường ḷ. Do vậy, cụ
bà cũng cười ha hả. Sau đấy, hai người
uống chút canh đă nấu rồi mới đi nghỉ.
Khoảng nửa đêm, trong đêm tuyết mịt mùng, truyền
đến tiếng xe trượt tuyết. Cụ ông hỏi:
“Bà già ơi! Là ai vào giờ này vậy? Chắc là người
trẻ tuổi ở gần đây đi chở đồ
Tết đến giờ này mới kéo về”. “Chắc thế!’
Nhưng tiếng xe trượt tuyết trọn chẳng
hướng đến nơi khác, mà dần dần càng
đến gần. Dỏng tai nghe kỹ, có người hùa
nhau ca xướng: “Đem nón rơm đội cho sáu vị
Địa Tạng Bồ Tát, nhà ông cụ ở nơi
đâu? Nhà bà cụ ở chốn nào?” Ông cụ nhịn
không được kêu lên: “Ở chỗ này, ở đây
nè!”
Thế
là tiếng ca im bặt. Sau đó, truyền đến tiếng
buông vật ǵ nặng nề xuống. Ông bà cụ chống
cửa sổ lên th́ thấy năm vị Địa Tạng
Bồ Tát đội nón rơm và một vị buộc
khăn mặt kéo xe trượt tuyết quay về. Dưới
mái hiên đặt bánh dầy bằng nếp, bánh dầy bằng
bắp, bọc bằng rạ. Ngoài các thứ đó ra, c̣n
có tương đậu, Ngưu Bàng, củ cải, gỗ
tùng để trang hoàng v.v… Rốt cuộc cụ ông và cụ
bà có thể đón một năm mới tốt đẹp.
Hồi Hướng
Chân
thành đê đầu đảnh lễ cảm niệm công
đức của ḥa thượng Mộng Tham đă từ
bi giảng giải bộ kinh này, và các vị đồng tu
người Hoa đă đăng tải bài giảng này trên trang
mạng Vô Lượng Quang Minh (www.guang5.com).
Chân thành cảm tạ các đạo hữu Đức Phong
và Huệ Trang đă giúp giảo chánh và sách tấn. Nếu bản
chuyển ngữ này có phần nào lợi ích cho các đồng
tu, nguyện đem công đức này hồi hướng
cho lịch đại tổ tiên, tông thân quyến thuộc,
sư trưởng, phụ mẫu, cừu gia oán đối,
lũy thế oán thân trái chủ, và mười
phương pháp giới chúng sanh đều được
văng sanh Cực Lạc. Người c̣n tại thế
thân tâm an lạc, vạn duyên thuận lợi, tinh tấn tu
tŕ, đạo nghiệp tăng tấn, nhất tâm nhất
ư phát nguyện văng sanh. Đă qua đời, sớm thoát khỏi
u đồ, sanh về Cực Lạc.
[1]Thích Từ Hàng (1893-1954), tên thật là Ngải Kế Vinh, tự
là Ngạn Tài, người huyện Kiến Ninh, tỉnh
Phước Kiến. Sư là vị Tăng sau khi mất
đă lưu lại nhục thân bất hoại đầu
tiên tại Đài Loan. Sư mồ côimẹ năm bảy tuổi, do nhà
nghèo, chỉ được học trường tư bảy
năm rồi thôi. Từ lúc mười ba tuổi, Sư
đă học nghề may để giúp gia đ́nh. Do từng
đến các chùa may Tăng phục, Sư đă manh nha ư niệm
xuất trần. Năm 17 tuổi, sau khi cha mất, Sư
đến đỉnh Nga Mi ở Thái Ninh, xin xuất gia
theo Tự Trung thượng nhân. Năm 1911, Sư sang Cửu
Hoa Sơn thọ Cụ Túc Giới, rồi xin thầy cho
đi tham học các nơi. Sư từng theo pháp sư
Đế Nhàn nghe giảng kinh một thời gian, và học
Tịnh Độ với trưởng lăo Độ Ách.
Năm 1927, Sư vào học tại Mân Nam Phật Học Viện
ở Hạ Môn, do tŕnh độ văn hóa quá kém, từng bị
pháp sư Đại Tỉnh quở trách nặng nề. Tuy
vậy, Sư vẫn mong thân cận Thái Hư đại
sư. Năm 1929, lại theo học khóa Huấn Luyện
Tăng Già do Thái Hư đại sư tổ chức ở
Tỳ Lô Viện Nam Kinh. Khi đó, Thái Hư đại
sư sang Tây Âu, chương tŕnh học do cư sĩ
Đường Đại Viên là một học giả Duy
Thức đảm nhiệm. V́ thế, Sư đă có nhân
duyên học Duy Thức. Cùng năm, Sư được mời
làm phương trượng chùa Nghênh Giang ở An Khánh, và
tiếp tục học Duy Thức với hai vị Pháp Phảng
và Đường Đại Viên. Năm 1931, sau khi tham bái Ấn Độ, Sư sang Miến
Điện hoằng pháp tại Ngưỡng Quang (Rangoon).
Năm 1933, Sư sáng lập Trung Quốc Phật Học Hội
tại Ngưỡng Quang. Từ năm 1924, Sư trở về
Hương Cảng theo chân Thái Hư đại sư hoằng
pháp khắp nơi. Do tinh cần, Sư tiến bộ nhanh
chóng và được Thái Hư đại sư tán thưởng.
Năm 1948, Sư sang Đài Loan theo lời mời của
lăo ḥa thượng Diệu Quả chùa Viên Quang, sáng lập Viên Quang Phật Học
Viện. Do số học Tăng từ Đại Lục
lánh nạn sang quá đông, và bất đồng ư kiến với
ngài Diệu Quả, Sư giao học viện cho pháp sư
Viên Minh tiếp quản, dẫn một số học
Tăng đến chùa Linh Tuyền ở Cơ Long, tham gia Linh Tuyền Phật Học
Viện. Nhưng do khó khăn kinh tế, không lâu sau, Linh Tuyền Phật Học Viện ngưng hoạt
động. Năm 1949, Sư dẫn các học Tăng đến
chùa Linh Ẩn, lại bị vu cáo là gián điệp của
Hoa Lục, cho nên bị bỏ tù. Giới Phật giáo Đài Loan thời ấy lănh đạm không giúp đỡ, may nhờ các cư
sĩ Đổng Chánh Chi, Tôn Trương Thanh Dương,
Lư Tử Khoan và pháp sư Bân Tông tận lực giúp đỡ, Sư mới được thả. Sau
khi ra khỏi tù, cuộc sống Ngài rất khốn khó,
ăn nhờ ở đậu, các tín đồ đă thỉnh
Ngài về Indonesia, nhưng Ngài không bỏ được
các học Tăng. Năm 1950, do lời mời của tỳ-kheo-ni
Huyền Quang thuộc Tĩnh Tu Thiền Viện, Ngài đến
đó dạy học và sáng lập Di Lặc Nội Viện. Đó là Phật Học Viện quy mô nhất
tại Đài Loan thời ấy. Sư cho rằng giáo dục,
văn hóa, và từ thiện là ba cột trụ của Phật
giáo, nồng nhiệt kế thừa di chí của Thái Hư
đại sư.
[2] Theo
quy chế của Đài Loan, lớp Sáu vẫn tính là cấp
Tiểu Học.
[3] Tiệm ngũ kim (五金店) là tiệm chuyên bán các thứ vật liệu cần
thiết cho sửa chữa nhà cửa như sơn, keo, ốc vít, đinh, kể cả
gỗ, gạch, ngói, vôi, vữa, sắt thép, đồ
đồng... Thời cổ những tiệm
ngũ kim lớn có thể bán cả sản phẩm để
bắt cá, vật liệu tu bổ ghe thuyền, bẫy rập,
nồi niêu, soong, chảo, dao, búa, lưỡi cày,
lưỡi bừa, nông cụ v.v… Nhưng không được
phép bán vũ khí.
[4] Hồng quy cao (紅龜糕), người Đài
Loan c̣n gọi nó là Hồng Quy Quả (紅龜粿) là một thứ bánh
ngọt nhỏ, bằng gạo nếp bọc nhân ngọt,
thường là đậu xanh, hay đậu đỏ,
hay đậu phộng ngào đường. Do bánh có h́nh dáng
khum khum như mai rùa (mang ư nghĩa chúc thọ) và có màu đỏ, nên gọi là Hồng
Quy Cao (bánh rùa đỏ). Bánh làm xong, đem hấp, lót bằng
lá chuối. Do ư nghĩa chúc thọ và màu đỏ là màu may
mắn, nên bánh thường được làm trong dịp Tết,
các
dịp lễ lạc đặc biệt như đầy
tháng, chúc thọ, và dâng cúng tổ tiên, thần thánh. Đặc
biệt trong dịp Thanh Minh, họ c̣n làm loại bánh này với
màu xanh và trắng để cúng kèm với bánh đỏ, biểu thị con cháu
thương tiếc tổ tiên.
[5] Đồng
bào Cao Sơn hay “Cao Sơn quần tộc” là từ ngữ
phiếm chỉ các sắc dân thiểu số sống tại
Đài Loan, tức là các cư dân bản địa tại
Đài Loan trước khi người Hán tràn vào Đài Loan.
Họ sống trên núi cao, có phong tục, tập quán riêng biệt,
đông nhất là các nhóm người A Mỹ (Amis, Pangcah),
Bài Loan (Paiwan), Thái Nhă (Tayal), Bố Nông (Bunun), Ty Nam (Pinuyumayan),
Lỗ Khải (Drekay), Trại Hạ (Saisiyat), Trại Đức
Khắc (Seediq)…
[6]
Hai người này tên đồng âm, nhưng tiếng Hán viết
khác nhau, anh là Sĩ Quân (仕君),
em là Sĩ Quân (仕均).
[7]
Di Ḥa Viên (颐和园) là một hoa viên của hoàng gia Măn Thanh,
nay thuộc khu Hải Định thành phố Bắc Kinh,
có diện tích lên tới 297 acres, được xây dựng
từ thời vua Càn Long với tên gọi ban đầu là
Thanh Y Viên. Khu lâm viên này để cho vua đến chơi,
ngắm cảnh rồi trở về trong ngày. Đến
thời vua Đạo Quang, do tiết kiệm công khố,
đă bỏ hoang khu vườn này. Đến đời
Hàm Phong, Từ Hy nắm quyền nhiếp chánh đă cho tái
tạo và xây nhiều đ́nh đài, kiến trúc nơi
đây, lấy hết số bạc dùng cho hải quân để
kiến tạo và đổi tên thành Di Ḥa Viên, lại coi
đây là Ly Cung (tức là nơi nghỉ hè tránh nắng cho
hoàng đế). Sau khi nhà Măn Thanh sụp đổ, hoàng thất
Măn Thanh bắt đầu bán vé cho công chúng vào tham quan khu vườn
này từ năm 1914.
[8] Cám Thủy là con sông lớn
nhất ở tỉnh Giang Tây, nên Giang Tây thường
được gọi là đất Cám.
[9] Khi đó, thủ
đô của Trung Hoa Dân Quốc là Nam Kinh đă bị quân Nhật
chiếm đóng, chính quyền Tưởng Giới Thành phải
thiên đô về Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên. Các cơ quan
đầu năo đều dời về Trùng Khánh.
[10] Ma Lợi Chi Thiên (Marīci), dịch nghĩa là Dương
Viêm, Oai Quang, Dương Quang, Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, Nhật
Tiền Bồ Tát, Tích Quang Thiên Bồ Tát, Cụ Quang Phật
Mẫu, Tích Quang Phật Mẫu v.v… thuộc về Như
Lai Bộ trong Mật Giáo. Ngài được
coi là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, có bổn nguyện
tiêu tai chướng, tăng phước, măn nguyện cho chúng
sanh. Tượng Ngài thường được tạng dưới
h́nh dạng thiên nữ, ba mặt, mỗi mặt có ba mắt,
tám tay, đứng trên một con lợn, hoặc ngồi trên
ba con lợn kim sắc. Có khi là ngồi trên xe báu do bảy
con lợn kim sắc kéo. Trong Mật Giáo, Ngài là một trong Đa
La Tam Tôn, tức Đa La Bồ Tát (Tara, Độ Mẫu),
Ma Lợi Chi Thiên, và Nhất Kế La Sát Vương (Ekajatā-raksha).
Ấn Quang đại sư đă dạy: “Ma Lợi Chi
Thiên tuy hiện thân trời, thật sự là Bồ Tát. Do tâm
độ sanh tha thiết, ḷng cứu khổ ân cần, cho nên nói chú ấy để
làm cái gốc cứu độ. Nếu ai mỗi ngày tŕ tụng
chú ấy càng nhiều càng hay. Dẫu gặp các tai nạn nước,
lửa, đao binh v.v… cũng đều gặp hung hóa cát”.
Chú ngữ của Ma Lợi Chi Thiên rất nhiều, nhưng
được tŕ tụng nhiều nhất là bài chú: “Namah
samanta buddhānām. Om, Marīcī svāhā” (Nam mô
tam măn đa bột đà nẫm, án, ma lợi chi sa ha). Tổ
Ấn Quang dạy thêm: “Nếu không biết chữ, không có
trí nhớ, chỉ chí thành niệm nam-mô Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, th́ lợi
ích cũng giống như tŕ chú”.
[11] Trương Tăng Diêu (479-?) là họa
sĩ nổi tiếng đời Lương, từng
được phong làm Vũ Lăng Vương Quốc Thị
Lang, chuyên quản trị các họa phẩm trong cung
đ́nh. Ông sở trường vẽ tranh Phật giáo, nhất
là tranh vẽ trên tường. Cách vẽ chân dung Phật, Bồ
Tát, thánh chúng của ông đă h́nh thành một trường
phái riêng được gọi là Trương Gia Dạng,
được coi là khuôn mẫu tiêu chuẩn cho tranh họa
Phật giáo. Ông vẽ rồng, chim, hoa cỏ, sơn thủy
cũng rất nổi tiếng. Ông vẽ rồng sống
động đến nỗi có truyền thuyết: Tăng Diêu vẽ
bốn con rồng trên vách chùa An Lạc ở Kim Lăng, khi
điểm nhăn (vẽ mắt rồng), hai con bay vụt lên
trời. Hai người con ông là Thiện Quả và Nhu Đồng
theo học vẽ với ông, cũng là những họa
sư lỗi lạc thời ấy.
[12] “Thằng sàng” (繩床) là chơng hay ghế dài, không dùng vải căng trên khung,
mà dùng dây thừng, dùng để dựa vào mà ngủ hay ngồi.
Loại giường này bắt nguồn từ Ấn Độ,
phổ biến trong các tự viện vào đời Đường.
Loại giường này có khung gỗ đóng chéo chân, có thể
xếp lại được, giống như ghế bố,
để tiện mang theo khi cần ngồi hay ngủ nghỉ
khi đi du cước. Loại thằng sàng này khác với
loại dùng trong dân chúng, tuy cũng gọi là “thằng sàng” nhưng là một
thứ ghế có lưng dựa, mặt ghế và lưng ghế
dùng dây vải hay dây mây đan thành ô vuông xen kẽ để
ngồi cho mát. Có lẽ “thằng sàng” được nói
ở đây chính là loại ghế này.
[13] Thoạt đầu, chức Thứ Sử vốn là cấp
quan thuộc Ngự Sử Đài. Về sau, đặt ra
Thứ Sử tại các châu, tức là chức quan Giám Sát tại
các châu, quận. Dần dần, Thứ Sử trở thành
quan đứng đầu một châu. Dưới đời
Đường, khi các Tiết Độ Sứ trở
thành thống lĩnh quân sự địa phương th́
Thứ Sử trở thành thuộc hạ của Tiết
Độ Sứ. Từ đời Minh trở đi, Thứ
Sử trở thành danh xưng để gọi các vị
Tri Châu (quan đứng đầu một châu).
[14] Thông quang: Vầng
quang minh bao quanh thân.
[15] Thị Lang (侍郎) là chức quan đặt ra từ
đời Hán, tương đương với Thứ
Trưởng hiện thời. Thoạt đầu, chức
quan này là các quan hầu cận giúp vua xử lư mọi việc.
Dần dần, do sự vụ quá nhiều, phải lập
ra các Tỉnh (省, cơ quan hành chánh) như Thượng
Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, Trung Thư Tỉnh để
đặc trách từng sự vụ. Sau đó, phát triển
thành sáu bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, H́nh, Công). Thượng
Thư là quan đứng đầu mỗi bộ, viên phó
quan gọi là Thị Lang. Đến đời Thanh, với
mỗi bộ lại lập ra Tả Hữu Thị Lang. Tả
Thị Lang địa vị cao hơn, phải là người
Măn Châu.
[16] Trung Ḥa là niên hiệu của
Đường Hy Tông từ năm 881 đến 885. Đời
vua Đường Hy Tông, Đại Đường loạn
lạc rối beng với hai cuộc khởi nghĩa lớn
của nông dân do Hoàng Sào và Vương Tiên Chi lănh đạo,
các Tiết Độ Sứ cát cứ, đánh phá lẫn
nhau. Nhà vua hoàn toàn bị hoạn quan Điền Lệnh
Tư thao túng. Nhà vua đă dùng năm niên hiệu là Càn Phù, Quảng
Minh, Trung Ḥa, Quang Khải, và Văn Đức.
[17] Thanh Tước (青雀) là một loài chim thuộc
họ Sẻ, thường gọi là Japanese Grosbeak, hoặc
Masked Hawfinch, v́ ḿnh nó hơi xám, có ánh xanh, đầu đen,
mỏ vàng, trông như người đội mặt nạ
trùm đầu. Loài này sống chủ yếu ở vùng sông
Amur và Măn Châu, mùa Đông thường bay thiên di xuống Bắc
Kinh và Hà Bắc.
[18] Chức quan này có tên gọi đầy đủ là Biệt
Giá Tùng Ngự Sử, hoặc c̣n gọi là Biệt Giá Tùng Sự,
chính là quan phụ tá cấp cao nhất của Thứ Sử.
Do chức quan cao, khi đi ra ngoài, không phải ngồi hầu
theo xe của quan Thứ Sử, nên gọi là Biệt Giá. Có
thể hiểu chức quan này giữ vai tṛ xử lư thường
vụ trong các châu, quận. Đến đời Tùy, do băi
bỏ các quận, chỉ giữ lại châu, nên chức vị
này đổi thành Trưởng Sử. Đến đời
Đường, lại đổi thành Quận Thừa Biệt
Giá. Sau đó, chức vụ này bị phế bỏ. Đến
đời Tống, lại lập chức Thông Phán có vai tṛ
gần giống Biệt Giá. Do vậy, dân gian vẫn quen gọi
Thông Phán là Biệt Giá.
[19] Trường Hưng
(930-933) là niên hiệu của Lư Tự Nguyên thời Hậu
Đường.
[20] Càn Hựu (乾祐) là niên hiệu của Hán Cao Tổ Lưu
Tri Viễn, như vậy, nhà Hán nói ở đây là nhà Hậu
Hán thuộc thời Ngũ Đại, không phải là nhà Tiền
Hán do Lưu Bang sáng lập sau khi diệt nhà Tần của Doanh Chánh (Tần Thủy Hoàng).
[21] Đại Châu ở đây là nhà Hậu Châu, là một
triều đại ngắn ngủi nhất trong thời
Ngũ Đại, trước sau chỉ tồn tại
chín năm! Quách Oai vốn là quyền thần của nhà Hậu
Hán, lập nhiều chiến công, quyền cao, chức cả.
Khi Hán chúa là Lưu Tri Viễn chết, con là Lưu Thừa
Hựu nối ngôi, thấy các đại thần nắm
binh quyền quá mạnh, bèn lập mưu giết các đại
thần. Quách Oai bèn khởi binh chống lại, tôn Lưu
Vân làm vua mới. Sau đó, đem quân lên miền Bắc
đánh Khiết Đan, ngầm sai người giết chết
Lưu Vân, rồi sai tay chân ủng hộ ḿnh lên ngôi hoàng
đế, lập ra nhà Châu, nhưng ông ta chỉ làm vua
được ba năm th́ chết. Ngôi vua phải truyền
cho con nuôi của Quách Oai là Sài Vinh, tức Châu Thế Tông. Do
phải chinh chiến liên miên, tiền bạc thiếu hụt,
Châu Thế Tông nghe lời sàm tấu của đạo
sĩ, đă phế trừ đạo Phật, phá hủy
chùa chiền, hạ lệnh nung chảy tượng Phật,
chuông đồng để đúc tiền, tạo thành pháp
nạn cho Phật giáo Trung Hoa. Chính ông ta đă hạ lệnh
phá hủy 30.336 ngôi chùa và đuổi sáu vạn tăng ni về
đời. Tháng Sáu năm 959, Châu Thế Tông chết v́ bệnh
tật, thọ 38 tuổi. Con ông ta là Sài Tông Huấn mới
bảy tuổi lên nối ngôi, tức Hậu Châu Cung Đế.
Chưa đầy một
năm, vào tháng Giêng năm 960, Điện Tiền Đô Kiểm
Điểm Triệu Khuông Dẫn
soán ngôi, lập ra nhà Tống, nhà Hậu Châu diệt vong! Hiển Đức
là niên hiệu của Sài Vinh.
[22] Bộ kinh này gồm
mười tám hội. Đời Đường, ngài Bất
Không Tam Tạng dịch sang tiếng Hán với tên gọi đầy
đủ là Kim Cang Đảnh Nhất Thiết Như Lai
Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng
Đại Giáo Vương Kinh (Sarvatathāgata Tattvasaṃgraha Tantra). Bản dịch này thật ra chỉ
là phẩm thứ nhất trong hội thứ nhất, c̣n hội
thứ sáu được Ngài dịch
với danh xưng Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân
Thật Tam Muội Da Kinh. Về sau, ngài Thi Hộ dịch lại
hội thứ nhất với tên gọi Nhất Thiết Như
Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện Chứng
Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh (30 quyển), ngài
Pháp Hiền dịch hội thứ sáu với tên gọi Tối
Thượng Căn Bản Đại Lạc Kim Cang Bất
Không Tam Muội Đại Giáo Vương Kinh (bảy quyển),
hội thứ chín được ngài Thi Hộ dịch với
danh xưng Đại Bi Không Trí Kim Cang Đại Giáo Vương
Nghi Quỹ Kinh… Kinh Kim Cang Đảnh trong Hán Tạng hiện
thời chỉ là hội thứ nhất. Theo các nhà nghiên cứu,
mười tám hội của kinh Kim Cang Đảnh là Nhất Thiết
Như Lai Chân Thật Nhiếp Đại Thừa Hiện
Chứng Đại Giáo Vương, Nhất Thiết
Như Lai Bí Mật Vương Du Già, Nhất Thiết Giáo Tập
Du Già, Hàng Tam Thế Kim Cang Du Già, Thế Gian Xuất Thế
Gian Kim Cang Du Già, Đại An Lạc Bất Không Tam Muội
Da Chân Thật Du Già, Phổ Hiền Du Già, Thắng Sơ Du
Già, Nhất Thiết Phật Tập Hội Noa Cát Ni Giới
Vơng Du Già, Đại Tam Muội Da Du Già, Đại Thừa
Hiện Chứng Du Già, Tam Muội Da Tối Thắng Du Già,
Đại Tam Muội Da Chân Thật Du Già, Như Lai Tam Muội
Da Chân Thật Du Già, Bí Mật Tập Hội Du Già, Vô Nhị
B́nh Đẳng Du Già, Như Hư Không Du Già, và Kim Cang Bảo
Quan Du Già.
[23] Mochi là cách người
Nhật đọc chữ Bính (餅, bánh),
từ ngữ này dùng để chỉ loại bánh làm bằng
gạo nếp hoặc bằng bột ngô. Gạo nếp nấu
thành xôi được giă thành bột dẻo giống như
cách làm bánh dầy của người Việt, rồi bắt
thành h́nh tṛn, hay dùng khuôn tạo h́nh dáng tùy thích. Tuy có thể
làm và ăn quanh năm, trong ngày Tết, Mochi là thứ món ăn bắt buộc phải có. Thông thường,
Mochi có nhân bằng đậu đỏ hoặc đậu
xanh, có nhiều h́nh dạng khác nhau. Một loại bánh khác
có h́nh dạng và chất liệu tương tự là Dangoo (đoàn tử), nhưng Dangoo
làm bằng bột gạo, trong khi Mochi chế biến từ xôi nếp giă nát. Loại
Mochi thường dùng vào dịp Tết gọi là Kinako Mochi (hoàng phấn bính), sau khi bánh làm xong, được
nướng trên lửa, lăn qua một lớp bột vỏ
bằng đậu nành. Vào ngày Tết, phẩm vật cúng tổ
tiên nhất định phải có hai tảng bánh dầy lớn,
xếp chồng lên nhau, phía trên để một lát cam hay
quưt. Đôi khi họ c̣n có món canh với súp miso nấu với những
lát bánh dầy.
[24]
Ngưu Bàng (牛蒡, burdock)
c̣n gọi là Đông Dương Sâm, Bạch Cơ Nhân Sâm,
Ngô Mạo, Dạ Xoa Đầu, Ngưu Thái, Thử Niêm,
Bàng Ông Thái, Tiện Khiên Ngưu, Tiện Nam Ngưu… thuộc
họ Cúc. Phần ăn được chính là rễ của
nó. Rễ nó dài đến hơn một mét, có bề ngang chừng
2cm. Nó thường được người Nhật,
Đại Hàn và Đài Loan dùng để nấu súp nhằm
tạo vị. Các loại rễ ngưu bàng tươi có thể
tước nhỏ để làm thành gỏi với nước
tương, đường, và rượu sake.
[25] Gỗ tùng là một vật
liệu cần thiết chủ yếu để trang trí
theo truyền thống cho người Nhật, được
gọi là Kadomatsu (門松, môn tùng). Vật trang trí này thường được
làm thành cặp đặt trước nhà, biểu thị sự
nghênh tiếp tổ tiên và các vị thần linh. Môn tùng
thường làm bằng cành tùng, tre và nhánh hoa đào hay mận.
Phần bắt buộc phải có là ba ống tre vạt xéo
có độ cao khác nhau, biểu thị Thiên, Địa,
Nhân, hai bên cắm các cành tùng hoặc thông tươi. Ba ống
tre buộc bằng thừng có nhiều tua. Buộc bên ngoài
là rơm rạ bện thành giỏ, đôi khi cắm thêm hoa
lá, kể cả các chiếc quạt sơn vẽ. Sau ngày Rằm
tháng Giêng, môn tùng sẽ được đem đốt.