Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
4
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng Tham lăo
ḥa thượng chủ giảng
梦参老和尚主講
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh)
Thí như đại địa, nhất thiết chủng
tử, thụ sơn, giá sắc, địa thân chúng sanh chi
sở y chỉ, thử thiện nam tử diệc phục
như thị, nhất thiết thù diệu Bồ Đề
phần pháp chi sở y chỉ.
(經)譬如大地,一切種子、樹山、稼穡、地身、眾生之所依止;此善男子,亦復如是,一切殊妙菩提分法之所依止。
(Kinh:
Ví như đại địa là chỗ nương tựa
cho hết thảy các hạt giống, cây cối, núi non, hoa
mầu, chúng sanh có thân thể cấu tạo từ Địa
Đại, vị thiện nam tử này cũng giống
như thế, là chỗ y chỉ của hết thảy các
pháp Bồ Đề phần thù thắng, nhiệm mầu).
Ví
như đại địa, hết thảy các hạt giống,
cây cối, núi rừng, hoa mầu, các thứ ấy đều
phải nương cậy đại địa để
sanh trưởng. Nếu chúng sanh muốn thoát ĺa các khổ
nạn, phải nương cậy Địa Tạng Bồ
Tát th́ mới có thể đạt được Pháp Thân. Vị
thiện nam tử này cũng có công đức như thế,
làm chỗ nương cậy cho hết thảy các pháp Bồ
Đề Phần thù thắng, nhiệm mầu. Bồ
Đề Phần là đạo giác ngộ. Đạo giác
ngộ rất nhiều. Pháp Tướng thường nói là
ba mươi bảy đạo phẩm, mà cũng là Bát
Chánh Đạo, Thất Giác Chi, Ngũ Căn, Ngũ Lực,
[Tứ Niệm Xứ], Tứ Chánh Cần, và Tứ Như Ư Túc. Ở
đây, nói tổng quát để h́nh dung các công đức của
Địa Tạng Bồ Tát được đức Phật
tán thán. Ngài có các công đức ấy, không chỉ là ban bảy
báu thế gian cho chúng sanh, mà c̣n ban bố pháp tài.
(Kinh)
Thí như đại bảo Diệu Cao sơn vương,
thiện trụ kiên cố, vô khuyết, vô khích, thử thiện
nam tử diệc phục như thị, thiện trụ nhất
thiết bất cộng Phật pháp, do bất khí xả
chư chúng sanh cố, danh vi vô khuyết, nhất thiết
thiện căn giai thiện thí dữ chư chúng sanh cố,
danh vi vô khích. Thí như hư không, nhất thiết chúng sanh
giai sở thọ dụng, thử thiện nam tử diệc
phục như thị, nhất thiết chúng sanh giai sở
thọ dụng. Thử thiện nam tử thành tựu
như thị đẳng vô lượng vô biên chư công
đức pháp.
(經)譬如大寶妙高山王,善住堅固,無缺無隙;此善男子,亦復如是,善住一切不共佛法,由不棄舍諸眾生故,名為無缺,一切善根皆善施與諸眾生故,名為無隙。譬如虛空,一切眾生皆所受用;此善男子,亦復如是,一切眾生皆所受用。此善男子,成就如是等無量無邊諸功德法。
(Kinh:
Ví như núi chúa đại bảo Diệu Cao, khéo trụ
kiên cố, chẳng thiếu khuyết, chẳng có kẽ hở.
Vị thiện nam tử này cũng giống như thế,
khéo trụ trong hết thảy Phật pháp bất cộng.
Do chẳng vứt bỏ các chúng sanh, nên gọi là
“chẳng thiếu khuyết”. Hết thảy các thiện căn
đều khéo thí cho các chúng sanh, nên gọi là “chẳng có kẽ
hở”. Ví như hư không, hết thảy chúng sanh đều
thọ dụng. Vị thiện nam tử này cũng giống
như thế, hết thảy chúng sanh đều được
thọ dụng. Vị thiện nam tử này đều
thành tựu vô lượng vô biên pháp công đức như
thế đó).
Đức
Phật trọn đủ “bất cộng Phật pháp”.
Tứ Vô Úy là bất cộng. Có tất cả mười
tám pháp Bất Cộng. [Đức Phật] có đủ
mười tám pháp Bất Cộng, [tức là các pháp] chẳng
cùng chung phàm phu, Nhị Thừa cũng chẳng có [các pháp ấy].
Thật ra, hàng đại Bồ Tát đều trọn
đủ. Địa Tạng Bồ Tát chẳng vứt bỏ
hết thảy chúng sanh, c̣n chúng ta th́ không được.
Ngay cả đối với con cái của chính ḿnh, nếu
chúng nó chẳng hiếu thuận, hoặc chẳng nghe lời
bèn bỏ mặc. Trong ṿng bạn bè, hơi có tí ǵ chẳng
vừa ư, sẽ vứt bỏ, hoặc là đối với
một loài chúng sanh ác nào đó, chúng ta sẽ cảm thấy
chán ghét.
Khi
ở nơi đâu, cũng phải chọn lựa chỗ
tốt đẹp nhất. Điều ấy cũng mang ư nghĩa “vứt
bỏ”. Đối với lục thân quyến
thuộc, chúng ta đều muốn thân cận hơn với
những kẻ được coi là tốt đẹp
hơn một chút, chẳng xấu
xa, chẳng quấy nhiễu. Nếu nh́n theo quan điểm của Bồ Tát, càng
là hạng chúng sanh [xấu xa như vậy], các Ngài càng [dốc
ḷng] hóa độ. Chúng sanh tệ hại nhất là chúng sanh
trong địa ngục, Địa Tạng Bồ Tát vào
địa ngục để độ các chúng sanh ấy.
V́ thế, Ngài hóa độ chúng sanh chẳng có lúc nào ghét bỏ,
thậm chí những chúng sanh tạo tội Ngũ Nghịch,
Thập Ác, Ngài luôn nghĩ trọn hết mọi
phương pháp để hóa độ, khiến cho họ
có thể gieo thiện căn bậc thượng, có thể học tập
Phật pháp, có thể xuất ly. Chỉ
cần có chút kẽ hở nào, Ngài đều có thể thâm
nhập dạy bảo, chẳng để chúng sanh bị
đọa lạc. Giống như ǵ? Giống như hư
không. Hư không b́nh đẳng lợi ích chúng sanh, ai
cũng đều có thể qua lại, nó trọn chẳng
tiếc rẻ. Chúng ta sống trong hư không. Địa Tạng
Bồ Tát đối đăi hết thảy chúng sanh như
hư không, thỏa măn hết thảy mong cầu của
chúng sanh, hết thảy chúng sanh đều có thể thọ
dụng.
Địa
Tạng Bồ Tát thành tựu vô lượng vô biên pháp công
đức như đức Phật đă tán thán. V́ sao
đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát
như vậy? V́ Ngài muốn nói Đại Tập Thập
Luân của Phật. V́ tán thán Địa Tạng Bồ Tát,
sẽ khiến cho cái tâm tín ngưỡng của mọi
người đối với Địa Tạng Bồ
Tát tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ cần nghe
danh hiệu Địa Tạng, sẽ nẩy sanh một loại cảm giác thù thắng,
cảm giác thân thiết, cảm giác mong cầu, tức là
mong cầu Địa Tạng Bồ Tát, v́ Địa Tạng
Bồ Tát có thể khiến cho ta ĺa khổ, được
vui. Do vậy, đối với hết thảy nguy nan,
đều có thể cầu Địa Tạng Bồ Tát.
Có
các đạo hữu cảm thấy chính ḿnh nguyện nhiều
quá, hoặc quá dông dài, hoặc là cầu
thứ này, lại cầu thứ kia, [thắc mắc]: “Chẳng
biết Địa Tạng Bồ Tát có phiền chán hay
không?” Có người đă hỏi tôi như vậy. Tôi
đáp: “Kinh Địa Tạng đă chỉ ra, dẫu quư vị
có trăm ngàn vạn ức mong cầu nhiều ngần ấy,
Địa Tạng Bồ Tát cũng chẳng phiền chán.
Nhưng có điều, quư vị phải chí tâm. Hễ chí
tâm th́ sẽ có thể tương ứng.
Nếu quư vị chẳng chí tâm, sẽ chẳng đạt
được chi hết!” Đó gọi là “pháp nhân duyên”;
hễ gặp nhân duyên, nó sẽ sanh khởi. Địa Tạng
Bồ Tát muốn ban bố trợ duyên cho chúng sanh, thành tựu chúng ta, khiến
cho chúng ta ĺa khổ, được vui, nhưng chúng ta chẳng
có cái nhân ấy.
Địa
Tạng Bồ Tát gia tŕ trọn khắp, nhưng trong số
hơn sáu mươi ức người trên quả địa cầu này, chỉ sợ có quá nhiều
người chưa hề nghe danh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát. Dẫu được nghe danh hiệu, cũng chẳng
sanh khởi cái tâm tin ưa, chẳng cầu Ngài, mà cũng
chẳng có nguyện vọng ấy. Chẳng có nhân
duyên ấy, làm sao có thể đạt được? Ngay
cả danh hiệu c̣n chẳng được nghe mà! Do vậy,
trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Địa Tạng
Bồ Tát đă dạy: “Nếu chẳng chí tâm, dẫu niệm
danh hiệu của ta, cũng như chẳng niệm. Dẫu
nghe danh hiệu của ta, chẳng được gọi
là ‘được nghe’, cũng giống như chẳng
được nghe”. Hàm ư: Quư vị chẳng kiến lập
nhân duyên với Địa Tạng Bồ Tát. Tuy nghe danh hiệu
Ngài, quư vị chẳng có tâm tin ưa chi hết, chẳng cảm
thấy Ngài sanh ra lợi ích ǵ cho quư vị. Do vậy nói là “chẳng
được gọi là nghe thấy”. Dẫu được
nghe mà giống như chẳng nghe! Bất luận Ngài có công đức nhiều dường
ấy, lợi ích trọn khắp hết thảy, nếu như [người nghe] chẳng sanh khởi tâm
tin ưa, cho đến chẳng thể chí tâm, vậy th́
hoàn toàn chẳng có công đức hay sao? Chẳng phải vậy!
Tuy được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, hoặc là bái sám mà chẳng chí tâm, ngay cả chí tâm bậc
hạ hạ cũng chẳng có, quư vị chỉ gieo viễn
nhân. Công đức đă gieo xuống, chủng tử
đă gieo xuống, [mai sau] quư vị sẽ lại gặp gỡ,
sẽ sanh khởi cái tâm tin ưa, lại sanh khởi tâm
tinh tấn, dần dần cũng sẽ thành thục!
Như
mọi người sở dĩ có thể bái sám như vậy,
đều chẳng phải là một đời, hai đời,
mà là do nhân duyên đă kết trong nhiều đời. Từ
nay về sau, càng có thể tăng trưởng, đời
này quư vị có thể ĺa khổ, được vui, chính
ḿnh đối với Phật pháp có chỗ liễu ngộ,
phải thường nên chú ư vấn đề như vậy.
Đă gặp nhân duyên, quư vị nhất định phải
gánh vác. Bất luận khổ hay vui, nhân duyên đă chín muồi,
nay quư vị tiếp nhận, phải gánh vác. Cái ǵ đă qua, chẳng
có nhân duyên, hăy buông xuống, đó gọi là “giải
thoát”. Khi gặp nhân duyên, hăy nên tự ḿnh nhận lănh quả
báo. Quư vị chẳng mong nhận lănh, có đùn đẩy
cho kẻ khác cũng chẳng
được, sẽ càng tăng thêm phiền năo, càng
tăng thêm tai nạn. Quư vị gánh vác, [quả báo] sẽ
giảm thiểu. Chuyện
ǵ đă qua đi, hăy buông xuống, đừng nên luôn
lưu luyến, tưởng nhớ, Cũng tức là trong
ḷng mỗi người, chuyện ǵ đă là quá khứ, hăy
để nó qua đi, vẫn cứ lưu luyến th́
đối với chính ḿnh, sẽ có tai hại
hết sức to lớn. Do vậy, phải biết “các
pháp sanh bởi nhân duyên”, hết thảy đều là giả.
Địa Tạng Bồ Tát đă khải thị
chúng ta một phương hướng chung. Nếu có tâm
t́nh như thế, hiểu đạo lư này để học
pháp, quư vị sẽ dễ ngộ, dễ dàng tiến nhập.
Nếu không, rất khó tiến nhập!
Giảng
quyển hạ của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
chính là giảng về ư nghĩa “các pháp sanh bởi nhân
duyên chính là Không”, giảng về
cảnh giới Nhất Thật. Ở đây, [chánh kinh] tán thán Địa
Tạng Bồ Tát, tôi nói đại lược vài câu
như thế, v́ Địa Tạng Bồ Tát thành tựu
công đức, chẳng phải là hạng Bồ Tát b́nh
phàm mà mong thành tựu được! Đó là do nguyện lực
của Ngài, lại c̣n do Ngài đă thực hiện cái nguyện
ấy trong thời gian chẳng thể tính đếm
được. Địa Tạng Bồ Tát đă sớm
thành tựu! Trong phần trước, đức Phật
đă tán thán Địa Tạng Bồ Tát, nói Bồ Tát thành
tựu, phát nguyện lâu xa, dùng Di Lặc, Văn Thù, Quán Âm,
Phổ Hiền để so sánh. Đấy là bốn vị
đại Bồ Tát mọi người quen thuộc, ḥng
khiến cho chúng ta sanh khởi cảm giác thù thắng đối với Địa Tạng Bồ
Tát.
(Kinh)
Thời, chư đại chúng văn thuyết Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu vô lượng xưng
tán công đức, giai hoạch hy kỳ, đắc vị
tằng hữu, tôn trọng, cung kính, giai đại hoan hỷ,
chí tâm đế quán Địa Tạng Bồ Tát, mục bất
tạm xả. Nhĩ thời, Thế Tôn trùng hiển thử
nghĩa, nhi thuyết tụng viết.
(經)時諸大眾,聞說地藏菩薩摩訶薩成就無量稱讚功德,皆獲希奇,得未曾有,尊重恭敬,皆大歡喜,至心諦觀地藏菩薩,目不暫舍。爾時,世尊重顯此義,而說頌曰。
(Kinh:
Lúc bấy giờ các đại chúng nghe nói Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu vô lượng công đức
đáng xưng dương, tán thán, đều cảm thấy
hiếm lạ, đạt được chưa từng
có, tôn trọng, cung kính, đều hoan hỷ to lớn, chí
tâm quán kỹ Địa Tạng Bồ Tát, mắt chẳng
tạm rời. Khi ấy, để tỏ rơ nghĩa ấy
lần nữa, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng).
Mọi
người đều cảm thấy mong cầu thật sự, “giai hoạch
hy kỳ” (đều cảm thấy hiếm lạ) tức
là cảm thấy thù thắng. “Đắc vị tằng
hữu” là trong quá khứ chưa từng nghe nói. Đối
với Địa Tạng Bồ Tát, sanh ḷng tôn trọng,
cung kính, sanh khởi tâm hoan hỷ to lớn. “Chí tâm đế
quán Địa Tạng Bồ Tát, mục bất tạm xả”
(chí tâm quán kỹ càng Địa Tạng Bồ Tát, mắt
chẳng tạm rời): Quan sát đức tướng của
Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát
vào trong hội ấy, mọi người bèn quan sát Ngài
như thế, quan sát kỹ càng đức tướng, bất
luận là người tu pháp Quán Âm, hay tu pháp Văn Thù, tu Phổ
Hiền Quán Pháp. Phẩm cuối cùng của kinh Pháp Hoa chính
là quán Phổ Hiền Bồ Tát. Chúng ta tu mỗi pháp đều
là như thế. Ở đây, quư vị ắt cần phải
quán tướng trạng của Địa Tạng Bồ
Tát. Bất luận quư vị thỉnh tượng vẽ
trên giấy hay tượng sứ cũng thế, cho đến
tượng đúc bằng đồng, đối với
bất cứ bức tượng nào,
chỉ cần cảm thấy rất
trang nghiêm, sanh khởi cảm giác thù thắng, quư vị hăy
nên quán tưởng. Quán khởi đầu từ bảo
ṭa của Ngài, hoặc là từ ṭa hoa sen, hoặc chỉ
quán từ con chó mang tên Thiện Thính ở trước ṭa của
Cửu Hoa Sơn Địa Tạng Bồ Tát, quán khởi
đầu từ thân của con chó ấy cũng được.
Tốt nhất là quán từ ṭa hoa sen, Địa Tạng Bồ
Tát ngồi trên hoa sen, quán quang minh của ṭa hoa sen ấy,
cho đến quang minh từ nơi Địa Tạng Bồ
Tát ngồi xếp bằng. Lại quan sát quang minh tỏa ra
từ thân Ngài, quan sát quang minh từ nơi đầu Ngài.
Quán từ dưới lên trên, thường xuyên quán tưởng
như thế, sao cho vầng quang
minh của Địa Tạng Bồ Tát chiếu đến
đỉnh đầu quư vị, vẻ mặt của
Địa Tạng Bồ Tát nhập vào quả tim của
quư vị. Nơi tim quư vị có cánh hoa sen, chính ḿnh quán
tưởng, quán tưởng cho thành thục. Trước
hết là độ quư vị, sau đấy, hợp
thành một với quư vị.
Quư vị quán tưởng như vậy, lại
c̣n tụng kinh Địa Tạng, lâu ngày chầy tháng, chỉ cần
quư vị tác ư, Địa Tạng Bồ Tát ở ngay trong
tâm quư vị, người khác trông thấy quư vị, hoặc
là quư vị đang nói năng, giúp đỡ người
khác, hồi hướng cho người khác, Địa Tạng
Bồ Tát sẽ gia tŕ quư vị. Chính ḿnh không có sức mạnh
ǵ, nhưng do quư vị quán tưởng Địa Tạng
Bồ Tát như vậy, Địa Tạng Bồ Tát sẽ
vào trong thân tâm của quư vị, sức mạnh của
Địa Tạng Bồ Tát sẽ hợp với quư vị
làm một. Do vậy, người khác có thể đạt
được lợi ích. Đại chúng tham dự pháp hội
này đều là đại Bồ Tát, các Ngài thấy đức
Phật tán thán Địa Tạng Bồ Tát như vậy,
cảm thấy rất hiếm lạ, chưa hề nghe, cảm
nhận chưa từng có. Do vậy, tôn trọng, cung kính,
đều đại hoan hỷ.
Quán
kỹ Địa Tạng Bồ Tát, “mục bất tạm
xả” (mắt chẳng tạm rời), tức là mắt
chẳng chớp, chuyên chú nơi một cảnh, tư
tưởng đă chuyên chú. “Mục bất tạm xả”
và “mắt chẳng chớp” có cùng ư nghĩa. Đức
Phật sợ đại chúng dự hội chưa hoàn toàn
chú ư, cho nên nhắc lại một lần nữa. Dưới
đây, có tất cả hai mươi bốn bài tụng. Mỗi
bài tụng là bốn câu, nhằm tán thán Địa Tạng Bồ Tát lần nữa.
Nay chúng tôi đang giải thích phẩm Tự là phần phát
khởi, vẫn chưa nói vào chánh văn của kinh Thập
Luân. Chỉ là trước khi bắt đầu giảng bộ
kinh này, Địa Tạng Bồ Tát trước hết
đă tán thán công đức của đức Phật,
đôi bên xướng họa, khiến cho đại chúng
tham dự pháp hội sanh khởi tín tâm thanh tịnh. Đức
Phật sợ đại chúng vẫn chưa nghe rơ, lại
dùng thể tài Kệ Tụng để trùng
tụng một lần nữa.
(Kinh)
Địa Tạng chân đại sĩ, cụ đỗ
đa công đức, hiện Thanh Văn sắc tướng,
lai khể thủ đại sư.
(經)地藏真大士,具杜多功德,現聲聞色相,來稽首大師。
(Kinh: Địa Tạng
chân đại sĩ, trọn công đức trừ cấu, hiện sắc
tướng Thanh Văn, đến đảnh lễ Đại
Sư).
Đây
là bài tụng thứ nhất. “Địa Tạng chân
đại sĩ”: Bậc chân đại sĩ chẳng
phải là mạo nhận, cũng chẳng phải là giả.
“Chân” có nghĩa là Ngài đă chứng đắc cảnh
giới Nhất Thật, đă chứng đắc tâm Chân
Như, đă chứng đắc pháp giới tánh. Chữ
Chân có nghĩa như vậy đó. “Đại sĩ”
là tôn xưng. “Đỗ đa”[1]
có nghĩa là có thể “trừ khử hết
thảy trần cấu, có thể trừ khử hết thảy
phiền năo, biến hết thảy phiền năo thành công
đức”. Nơi chúng ta là
phiền năo, nơi chư Phật, Bồ Tát là công đức.
Ngài dùng điều này để độ chúng sanh.
Nhưng Địa Tạng Bồ Tát thị hiện tướng
Thanh Văn, v́ sao Ngài thị hiện tướng Thanh
Văn? Thanh Văn phải tŕ giới tỳ-kheo, giới
tướng thanh tịnh, nhưng Ngài cũng thị
hiện rất nhiều tướng, trong phần trước
đă nói rất nhiều. Bất quá, trong pháp hội này,
Địa Tạng Bồ Tát thị hiện tướng
Thanh Văn. “Lai khể thủ đại sư” (đến
đảnh lễ đấng đại sư), tức là
hướng về đức Phật đảnh lễ.
Đại Sư là đức Phật tự xưng.
(Kinh)
Thí chư chúng sanh lạc, cứu thoát tam hữu khổ,
vũ vô lượng chủng vũ, vị cúng dường
đại sư.
(經)施諸眾生樂,救脫三有苦,雨無量種雨,為供養大師。
(Kinh:
Ban vui cho chúng sanh, cứu khổ khắp ba cơi, tuôn vô lượng
các mưa, để cúng dường đại sư).
Thí
hết thảy vui sướng cho chúng sanh. Điều này
được gọi là “dữ lạc” (與樂, ban vui), tức
là tâm đại từ bi. “Từ” có thể ban vui, thí cho chúng sanh hết thảy sự
vui sướng. Chúng sanh đều đang ở
trong khổ năo, làm sao họ có thể vui sướng cho
được? Chúng sanh tiêu mất khổ năo th́ sẽ vui
sướng. Khi chúng ta đi đường vào ban đêm, chẳng
có đèn chiếu sáng, nghe tiếng lạ, hơi lạ, vừa
sợ quỷ, vừa sợ dă thú. Trong phần trước,
[kinh văn] đă có nói: Địa Tạng Bồ Tát thị
hiện quang minh giống như vầng trăng, [người
đi đường] sẽ không sợ hăi, chẳng bước
lầm vào ngơ rẽ. Đấy chẳng phải là rất vui
sướng hay sao? Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc
Giới là tam hữu chúng sanh, đều đang trong khổ
nạn. “Vũ vô lượng vũ” chẳng phải
là đổ mưa to, mà là tuôn xuống vô lượng châu
báu, y phục nhiều như trời đổ mưa vậy.
V́ sao? “Vị cúng dường đại sư” tức
là để cúng dường đức Phật.
(Kinh)
Thiên đế Vô Cấu Sanh, quán sát tứ phương
dĩ, hiệp chưởng cung kính trụ, tán thỉnh
ư đại sư.
(經)天帝無垢生,觀察四方已,合掌恭敬住,讚請於大師。
(Kinh:
Thiên đế Vô Cấu Sanh, quán sát bốn phương rồi,
chắp tay, đứng cung kính, tán thán, thỉnh đại
sư).
Đây
là đức Phật nói trong đại hội có Vô Cấu
Sanh Thiên Đế Thích. Ông ta thấy tất cả đại
chúng từ bốn phương đến tham dự đại
hội, có chút hoài nghi đối với chuyện này, mà
cũng chẳng hiểu rơ ư nghĩa. Do vậy, Vô Cấu
Sanh Thiên Đế Thích thấy mọi người trong bốn
phương đều mong liễu giải, bèn chắp tay,
cung kính, đứng trước đứng Phật, tán
thán, xin Phật dạy cho v́ sao từ trên trời tuôn xuống
[các thứ cúng
dường] chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Trên tay mỗi người lại có châu Như Ư. V́ sao có các
tướng lạ lùng đặc biệt như vậy?
Kính xin đức Phật hăy thuyết pháp.
(Kinh)
Ngă kiến Thế Tôn chúng, mạt-ni bảo quang minh, biến
chiếu chư Phật quốc, vô bất giai minh liễu.
(經)我見世尊眾,末尼寶光明,徧照諸佛國,無不皆明瞭。
(Kinh:
Con thấy đại chúng này, báu mạt-ni tỏa sáng, chiếu
khắp các cơi Phật, không cơi nào chẳng rơ).
Đây
là lời Vô Cấu Sanh Thiên Đế Thích hướng về
đức Phật thưa thỉnh: “Con thấy [trên tay] mỗi
chúng sanh đều có Mạt-ni bảo châu (như ư bảo
châu). Mạt-ni bảo châu phóng quang minh, cho đến các
quang minh ấy chiếu sáng các cơi nước trong mười
phương. Hết thảy quốc độ đều
hiển hiện như ở ngay trước mắt”,
cũng có nghĩa là quang minh ấy đă chiếu rơ tướng
thế gian trong các cơi Phật ấy.
(Kinh)
Lục Thông chiếu thế gian, kim đương lai chí thử,
dũng mănh danh Địa Tạng, hiện xuất gia oai
nghi.
(經)六通照世間,今當來至此,勇猛名地藏,現出家威儀。
(Kinh:
Lục Thông soi thế gian, nay vị sắp đến
đây, dũng mănh tên Địa Tạng, hiện oai nghi xuất
gia).
Thông
thường là năm món thần thông, tức Thiên Nhĩ
Thông, Thiên Nhăn Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, và Như Ư Thông; tuy vậy,
ở đây c̣n có Lậu Tận Thông, hợp thành
Lục Thông. Nay Địa Tạng Bồ Tát đến
đây. “Dũng mănh danh Địa Tạng” (đấng dũng mănh tên là Địa
Tạng), ư nói: Sự nghiệp tu hành lợi ích chúng sanh của
Ngài hết sức dũng mănh, tinh tấn.
Nhưng Ngài chẳng hiện thân Bồ Tát, mà hiện oai
nghi xuất gia. Đấy là ư nghĩa “hồi Tiểu
hướng Đại”. V́ trong hội Đại Tập
này, có chẳng thể tính đếm đại chúng Thanh
Văn, Địa Tạng Bồ Tát hiện h́nh tướng
Thanh Văn chủ yếu nhằm độ chúng sanh khổ
năo trong tam hữu, và hàng Nhị Thừa Thanh Văn c̣n chưa
hồi Tiểu hướng Đại. Do vậy, Ngài thị
hiện đồng loại với họ.
(Kinh)
Thất Thánh Tài phục tạng, vô úy Phật âm thanh, chư
Bồ Tát thắng tràng, chúng sanh chi đạo thủ.
(經)七聖財伏藏,無畏佛音聲,諸菩薩勝幢,眾生之導首。
(Kinh:
Kho báu bảy thánh tài, tiếng Phật trọn vô úy, thắng
tràng của Bồ Tát, đấng hướng dẫn
chúng sanh).
Thất
Thánh Tài có khi c̣n gọi là Thất Tài, tức là “bảy món của báu”. Có khi gọi là
Thất Đức Tài, hay Thất Pháp Tài. Nói chung là bảy
thứ thánh pháp. “Thánh pháp” là pháp thù thắng,
bảy thứ nào vậy? Tức là Tín, Giới, Tàm, Quư,
Văn, Bố Thí, Định Huệ. Nhiếp tâm chẳng
tán loạn là Định. Nhiếp tâm chẳng tán loạn,
chẳng hôn trầm, bản thân điều này là một thứ của cải chẳng thể mua được,
nên gọi là Tài. Món của cải này được gọi
là Pháp Tài. Nhiếp tâm chẳng tán loạn, lại c̣n chẳng
phải là không sáng suốt, lại c̣n có thể chiếu hết
thảy các pháp, [tức là] dùng trí Bát Nhă để chiếu hết
thảy các pháp. Món tài thứ bảy là Định Huệ
Tài, không chỉ là chẳng tán loạn, mà c̣n có thể chiếu
rơ hết thảy, chiếu tỏ các pháp. Những
điều này được gọi là Thất Thánh Tài. Kho
tàng chứa đựng Thất Thánh Tài chôn giấu kín
đáo, chôn giấu ở nơi đâu? Chôn giấu trong tâm
chúng sanh. Địa Tạng Bồ Tát có thể giúp chúng ta
khai quật. Hoặc có thể hiểu là Địa Tạng
Bồ Tát chứa đựng bảy món Tài này. Chúng sanh chỉ
cần cung kính cúng dường, chí thành, khẩn thiết lễ
bái, sẽ có thể đạt được.
Món
thứ nhất là Tín. “Phật pháp chỉ có Tín là có thể nhập”. Chẳng có Tín,
sẽ không thể nhập
được. Tín ắt phải hữu lực. Chẳng
có sức, phước báo mà quư vị đạt
được sẽ là phước báo thế gian. Nếu
Tín sanh ra sức mạnh, sẽ có thể sanh khởi tác dụng.
Tôi đă nói với mọi người rất nhiều lần,
tối thiểu là quư vị có thể hiểu biết chính
ḿnh. Nếu sanh khởi phiền năo, ngay lập tức có thể
nhận biết và khống chế, khiến cho phiền năo
ấy tiêu mất, chẳng bị phiền năo xoay chuyển,
tức là Tín có sức mạnh. Nhận biết ư niệm ấy
không đúng, ngay lập tức liền ngưng dứt ư niệm
ấy, chẳng để cho nó nối tiếp. Nhận biết
tiền niệm khởi ác, bèn có thể khiến cho hậu
niệm chẳng khởi lên nữa. Như thế
là có sức mạnh. Bất quá, đấy mới chỉ
là trọn đủ tín tâm ban sơ. Nếu quư vị là
người có thiện căn từ nhiều đời
trong quá khứ, dẫu đời này chưa hề nghe Phật
pháp, bỗng nghe người khác giảng, hoặc có ai nói với
quư vị, các lỗ chân lông trên thân mở toang, cho thấy
quư vị có túc thế thiện căn trong quá khứ
sâu dầy, vừa nghe liền có thể tiến nhập.
Đó gọi là “có Tín”. Thuở đức Phật tại
thế, các vị đại A La Hán nghe pháp âm của đức
Phật, ngay lập tức râu tóc tự rụng, xuất
gia, tâm khai, ư giải, chứng quả A La Hán, Kiến Tư phiền
năo thảy đều đoạn trừ. Đấy mới
là thật sự trọn đủ Tín lực. Nếu chẳng
có tướng cảnh giới ấy, chúng ta phải tu
hành.
Muốn chứng đắc tín tâm ấy, phải tu một kiếp,
cần tốn thời gian một kiếp. Chẳng hạn, dùng tiểu kiếp
để tính, con người thọ tám vạn bốn ngàn
năm, cứ qua một trăm năm bèn giảm một
chút, lại qua một trăm năm kế, giảm thêm chút
nữa. Giảm cho đến khi con người chỉ thọ
mười năm. Lại qua khỏi một trăm
năm, tuổi thọ tăng thêm một ít. Cứ mỗi
một trăm năm, lại tăng thêm [từng tuổi một. Lần lượt cho đến khi thọ tám vạn
bốn ngàn năm. Chu kỳ] “một tăng, một giảm”
được tính là một kiếp. Nói theo tiểu kiếp,
nếu muốn đạt
được tín tâm, quư vị phải tu trong một thời
gian dài ngần ấy. Quư vị cũng đừng cho là quá
dài! So sánh với thọ mạng của con người, một
ngày trên Tứ Thiên Vương Thiên là năm mươi
năm trong nhân gian. Thọ mạng của Tứ Thiên
Vương là năm trăm năm. Tầng trời thứ
hai là Đao Lợi Thiên. Một ngày của Đao Lợi
Thiên bằng một trăm năm trong nhân gian. Thọ mạng
của Đao Lợi Thiên là một ngàn năm. Tầng trời
thứ ba là Dạ Ma Thiên. Một ngày đêm trên Dạ Ma
Thiên bằng hai trăm năm trong nhân gian. Thọ mạng của
Dạ Ma Thiên là hai ngàn năm. Tầng trời thứ tư
là Đâu Suất Thiên. Bốn trăm năm trong nhân gian là một
ngày đêm của họ. Thọ mạng của họ là bốn
ngàn năm.
Hiện
thời, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập diệt ba ngàn
năm, chỉ mới được tám ngày trên Đao Lợi
Thiên! Do vậy, khi Đạo Tuyên luật sư được
một vị
trời dâng cúng, đă hỏi: “Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập diệt,
nay Ngài ở chỗ nào?” Vị trời hỏi: “Thầy nói vị
Thích Ca Mâu Ni Phật nào?” Mọi người hăy nghe ra hàm
nghĩa trong câu hỏi đó: Có trăm ngàn ức vị
Thích Ca Mâu Ni Phật, quư vị đang nói đến vị Thích Ca Mâu Ni Phật
nào vậy? Tổ nói: “Vị Phật trong Nam Thiệm Bộ
Châu này, trong thế giới Sa Bà này”. Vị trời
đáp: “Con thấy Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n chưa nhập
diệt, Ngài đang giảng kinh”.
Chư
thiên thấy khác chúng ta; do vậy, chúng
ta cảm thấy rất dài, giống như sống một
trăm tuổi rất lâu, nhưng so với Tứ Thiên
Vương th́ mới hai ngày. Một
trăm năm trong nhân gian chỉ được hai ngày, tức
hai ngày đêm của họ. Đối với vấn đề
thời gian, mọi người hăy nên nhận thức
như thế. Trong khi tu hành, dẫu ta tu hai mươi bốn
tiếng đồng hồ, họ thấy chỉ là chốc
lát, thời gian rất ngắn ngủi. Do vậy, chư
thiên thấy chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối
luôn giải đăi, suốt cả trăm năm lêu lổng,
chẳng thấy quư vị tu hành. Chư thiên chẳng tiếp
xúc với quư vị, họ
thấy nhân gian bẩn thỉu. Vị trời ấy xuống
dâng cơm cho Đạo Tuyên luật sư, v́ thấy
nơi ấy là thanh tịnh. Nơi chốn người có
đạo ở th́ là thanh tịnh. Dùng mắt thấy rất
khó, chúng ta thấy Phật đường rất thanh tịnh,
rất thù thắng. Kẻ chẳng tin Phật đến
nơi này, sẽ thấy rất thê lương, rất chán chường. Như các ngôi chùa lớn
đều xây trong núi sâu, trọn chẳng có khói bếp của nhân gian, phải
leo trèo mới lên đến nơi. Chúng ta triều bái
Ngũ Đài Sơn, cảm thấy rất thù thắng. Kẻ
chẳng tin, sẽ cảm thấy
quá rách nát. Chúng ta thấy thần hộ pháp đương
nhiên là rất trang nghiêm. Chúng ta thấy tượng đắp,
đắp tạc rất trang nghiêm, bèn rất cảm động.
Họ nh́n thấy, bèn thốt lên: “Ồ, cái tượng
này được tạc có giá trị nghệ thuật rất
cao”. Họ nh́n bằng một nhăn quan khác! Hết thảy sự
vật mỗi người thấy mỗi khác.
Kho
tàng chứa đựng của báu Thất Thánh Tài gồm
Tín Tâm, Tŕ Giới, cho đến Tàm Quư, Định Huệ;
đấy đều là thánh tài, đáng gọi là Pháp Bảo.
“Vô úy Phật âm thanh” (âm thanh vô úy của Phật): Âm
thanh của Phật là Tứ Vô Sở Úy, là vô lượng,
là vô tận. Đấy là các pháp tán thán Địa Tạng
Bồ Tát, v́ Địa Tạng Bồ Tát cũng trọn
đủ các âm thanh của Phật. “Chư Bồ Tát thắng
tràng” (tràng thù thắng của các Bồ Tát): Lọng báu,
tràng phan tương tự như quốc kỳ tượng
trưng cho một quốc gia. Bồ Tát là pháp tràng thù thắng, Ngài kiến lập pháp tràng, là người hướng dẫn
của hết thảy chúng sanh, có ư nghĩa này. “Chúng sanh chi đạo thủ” nghĩa là bậc
được hết thảy chúng sanh tôn kính.
(Kinh)
Giải thoát bảo sở y, phước hải cụ tinh
tấn, bi ư nhạo thông mẫn, cứu khổ chư hữu
t́nh.
(經)解脫寶所依,福海具精進,悲意樂聰敏,救苦諸有情。
(Kinh:
Chỗ nương báu giải thoát, biển phước trọn
tinh tấn, bi, ư nhạo, thông mẫn, cứu khổ các hữu
t́nh).
H́nh
dung giải thoát như một thứ báu. Địa Tạng
Bồ Tát là chỗ nương cậy cho hết thảy
các của báu giải thoát. Địa Tạng Bồ Tát là
đấng chúng ta có thể nương cậy để cầu
giải thoát. Chúng ta là những kẻ mong cầu của báu
giải thoát, phải nương cậy Địa Tạng
Bồ Tát. Sức mạnh tinh tấn, dũng mănh tinh tấn,
phước đức trí huệ đáng mong cầu của
Ngài sâu rộng như biển. “Bi ư nhạo, thông mẫn”:
Bi Ư là tâm đại bi của Ngài. Bi Ư là đại thông mẫn,
đại trí huệ. Chúng ta luôn nghĩ Bi có thể dẹp
khổ, chúng ta hy vọng Địa Tạng Bồ Tát sẽ
dẹp trừ nỗi thống khổ
của hữu t́nh, hy vọng chính ḿnh có thể nghe pháp, có
thể đắc trí huệ. “Thông mẫn” (聰敏) có nghĩa là trí huệ, nhưng chúng ta phải kết
hợp với Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng
Bồ Tát đại bi, ban trí huệ cho hết thảy
chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có
trí huệ. Có trí huệ th́ mới có thể ĺa khổ,
được vui, Ngài mới đến cứu độ.
Khi các hữu t́nh gặp khổ nạn, chúng sanh mới tin
tưởng, ngưỡng mộ, mới có thể thọ
tŕ.
Chúng
ta tận lực học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, cũng có người học rất lâu, nhưng có thể
là ngay cả Chiêm Sát Luân vẫn chẳng thể sử dụng
được. Dẫu có thể sử dụng, cũng chẳng
thể tương ứng.
V́ họ chẳng sanh khởi cái tâm chí thành. Tôi đă từng
thưa với mọi người: Học nửa quyển
đầu kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, phải xem
kinh văn nhiều lượt, sau đấy
mới gieo Chiêm Sát Luân. Chẳng xem kinh văn mà cứ gieo,
sẽ giống như gieo tiền đồng, hoặc gieo
quẻ Lục Hào, chẳng thể tương ứng. Phải
lễ bái, phải xưng tụng danh hiệu. Nếu chẳng
tương ứng, lại lễ bái. Đấy là tiêu nghiệp
chướng. Bất luận tương ứng hay không
tương ứng, quư vị cứ lễ bái. Khi xưng tụng
thánh hiệu Địa Tạng, tội nghiệp sẽ
tiêu mất.
Hết
thảy Phật pháp đều dạy chúng ta một
phương pháp làm thế nào để ĺa khổ,
được vui. Tôi rất thiếu tiền, Địa
Tạng Bồ Tát có thể thỏa măn ước nguyện
của quư vị. Đối với các thứ vật dụng
cần thiết cho cuộc sống, quư vị mong có một
biệt thự kiểu Tây, hăy lạy Địa Tạng Bồ
Tát nhiều hơn. Quư vị mong có được xe hơi
Bảo Mă (BMW), hoặc xe Bôn Tŕ (Mercedes-Benz), chỉ cần
quư vị ưa thích, hoặc mong đạt đến mục
đích, hăy lễ bái, cầu Địa Tạng Bồ Tát,
Địa Tạng Bồ Tát sẽ có thể ban cho quư vị.
Ngài không nhất định thông qua một phương cách
nào nhất định để ban cho quư vị. Tại
Đại Lục, có rất nhiều người hy vọng
sẽ có một vị thân thích bên Mỹ từ trên trời
rơi xuống để cứu họ, cho họ khá nhiều
tiền, lại giúp họ mở tiệm. Có chuyện này
hay không? Không chỉ là có, mà c̣n xác thực chẳng ít.
Nhưng đấy chỉ là chuyện vui sướng
trước mắt, hễ đă qua rồi, sẽ chẳng
c̣n nữa.
Cầu
Địa Tạng Bồ Tát ban sự vui sướng cho
quư vị hoàn toàn chẳng phải là như vậy, mà là
[mong cầu] liễu sanh tử, khiến cho quư vị khai ngộ.
Nếu đă thông suốt, do lạy Địa
Tạng Bồ Tát, ở trong mộng, quư vị sẽ cảm
nhận chuyện ấy trong tương lai có kết quả
như thế nào, nhưng quư vị chẳng thể nói ra. Nếu
nói ra, có thể sẽ bị thần hộ pháp trách phạt.
V́ chẳng phải là quư vị chứng đắc, mà là do
Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Do xưng thánh hiệu,
bèn được gia tŕ. Trong tâm quư vị nẩy sanh sự
sáng suốt trong một niệm, chính ḿnh lại che lấp
sự sáng suốt ấy. Do vậy, hễ đạt
được, thường là chẳng nói ra, như thế
th́ cái tâm của quư vị mới đạt được.
Tiếp tục cầu, Ngài sẽ có thể cứu bạt
nỗi khổ của quư vị, ban cho quư vị trí huệ,
khiến cho quư vị hiểu rơ hết thảy.
(Kinh)
Dữ bố giả vi thành, như minh nguyệt thị
đạo, sanh thiện căn như địa, phá Hoặc
như kim cang.
(經)與怖者為城,如明月示道,生善根如地,破惑如金剛。
(Kinh:
Thành tŕ cho kẻ sợ, như trăng sáng soi đường,
sanh căn lành như đất, phá Hoặc như kim cang).
“Dữ
bố giả vi thành” (làm thành tŕ cho kẻ kinh sợ): “Khủng
bố” là từ ngữ h́nh dung. Hiện thời không có
thành tŕ, thành tŕ đều bị hủy hoại. Chiến
tranh hiện thời không có tiền phương và hậu
phương khác biệt. Dẫu đắp tường thành cao
đến mấy đi nữa, cũng chẳng ngăn
được bom đạn từ không trung trút xuống,
quư vị có biết hay không? Phi cơ từ trên trời giội
bom xuống. “Thành” nói ở đây có ư nghĩa bất
đồng. Trong tâm chúng ta có ṭa thành, tâm
thành có h́nh dáng như thế nào? Giả sử niệm thánh
hiệu Địa Tạng, Địa Tạng Bồ Tát tạo ra một ṭa
thành, khiến cho quư vị chẳng hoảng sợ, chẳng
có cảm giác kinh hoàng, giống như được tường
thành bảo vệ.
Địa Tạng Bồ Tát giống như
vầng trăng sáng soi đường cho quư vị. Đấy
là trùng tụng phần Trường Hàng. Trong phần
trước đă nói: Khiến cho quư vị sanh khởi thiện
căn chẳng dao động, giống như đại
địa, v́ chúng ta làm thiện sự nhưng không có cội
rễ. Lúc này th́ làm, có
thể là lúc sau chẳng làm. Có thể làm rồi sau đó lại
hối hận. Có chuyện như vậy hay không? Có chứ!
Lại c̣n rất nhiều! Có đạo hữu phát khởi
thiện tâm dũng mănh, “xả trạch
vi tự” tức là buông xả cái nhà của ḿnh, hoàn toàn biến thành tự viện. Về sau, ngay
cả chính ḿnh chẳng có chỗ ở, ngay cả cơm
ăn cũng chẳng có, người ấy liền hối
hận, nghĩ lúc ấy nên giữ lại đôi chút.
Như vậy là công lao trước đó đă mất sạch!
Có công đức hay không? Có th́ có, nhưng vẫn
chẳng thể giải thoát được! Có hối hận
hay không? Có hối hận. Kinh Thập Luân chuyên giảng về
vấn đề này!
Nếu chúng ta bố thí cho Tam Bảo; sau đó,
đích thân thấy vị ḥa thượng ấy xấu xa,
quư vị bèn rất áo năo, nghĩ ngợi: “Sao thuở ấy
lại bố thí cho một gă ḥa
thượng như vậy chớ?” Nghĩ như thế,
công đức chẳng c̣n! Bất luận ông ta như thế
nào, quư vị đă cúng dường Tam Bảo, ông ta đại
diện cho Tam Bảo. Thích Ca Mâu Ni Phật và Địa Tạng
Bồ Tát chuyên bàn về vấn đề này. Quư vị
đă cúng dường,
nhân duyên chín muồi, hết thảy các chuyện quư vị
đă làm đều đă xong rồi, cứ để cho
nó qua đi, đừng níu kéo. Cái ǵ đă qua th́ đă qua rồi,
công đức đă thành tựu. Giống như quư vị
tu hành, đạt đến
bước thứ nhất, bước thứ
nhất đă thành tựu, quư vị phải buông bỏ nó, ắt
cần phải thực hiện bước thứ hai. Nếu
quư vị cứ nắm khư
khư bước thứ nhất chẳng buông xuống, sẽ
chẳng thể tiến sang bước thứ hai
được! Ắt cần phải buông xả th́ mới
có thể tiến vào bước thứ hai. Bước thứ
hai đă thành tựu, cũng phải buông xả bước
thứ hai, để tiến sang bước thứ ba, măi
cho đến khi rốt ráo thành tựu, hết thảy
đều trọn đủ. Ngàn vạn phần đừng
đă làm rồi lại hối hận.
Hễ quư vị tiến nhập thứ chi
đó, đừng nên sau đó hối hận,
công đức đă thành tựu. Đối phương
như thế nào, chẳng ảnh hưởng ǵ đến
quư vị. Quư vị thực hiện chuyện cúng dường
Tam Bảo, cúng dường ngôi chùa ấy. Ta vừa mới
cúng dường, chiến tranh bỗng nổ ra, bom phá tan
tành. Trong tâm quư vị áo năo, nhủ thầm: “Tôi vừa mới
cúng dường, sao lại bị phá hủy?”
[Hăy biết] nhân duyên mới vừa cúng dường đă
chín muồi, công đức đă trọn đủ. Khi quư
vị cúng dường, vừa cúng dường xong là đă
thành tựu, cung điện trên cơi trời dành cho quư vị
cũng đă xây xong, đạn bom chẳng thể phá hủy
được, chỉ là quư vị không thấy mà thôi! Do vậy,
đừng nên xét lại, v́ quư vị đă tiến về
trước rồi, đă trọn đủ rồi!
Nếu quư vị sanh về Dạ Ma Thiên, trọn
chớ nên lưu luyến Tứ Thiên Vương và Đao Lợi
Thiên, v́ Dạ Ma Thiên thoáng đăng hơn Tứ Thiên Vương và
Đao Lợi Thiên. Công đức và trang nghiêm khác hẳn. Nếu
quư vị sanh vào thế giới Cực Lạc, vẫn
nghĩ tưởng thế giới Sa Bà th́ lại là chuyện
khác hẳn, v́ quư vị mong trở về hóa độ chúng
sanh. V́ trong cơi này, hăy c̣n rất nhiều người hữu
duyên với quư vị, họ c̣n chưa hiểu rơ. Cho đến
khi quư vị đă hiểu rơ, quay trở về, thế giới
Sa Bà đă chẳng phải là thế giới Sa Bà nữa,
mà giống hệt như thế giới Cực Lạc, tùy
thuộc đó là cách nh́n của ai. Địa Tạng Bồ
Tát thấy địa ngục có phải là cảnh tượng
địa ngục hay không? Chẳng phải! Ngài độ
địa ngục. V́ thế nói: “Sanh thiện căn
như đất, phá Hoặc như kim cang”. Hết thảy mê hoặc do trí huệ kim
cang mà có[2]; hễ phá, hễ
chiếu, sẽ chẳng c̣n [mê hoặc] nữa, đă hóa giải.
Có quang minh trí huệ vừa chiếu đến, tối
tăm c̣n có thể tồn tại hay không? Nếu chúng ta tắt
đèn điện, nhà cửa sẽ tối tăm. Bật
đèn điện lên, tối tăm bị phá trừ, bao
hàm ư nghĩa như thế đó.
(Kinh)
Năng thí giải thoát bảo, như thủy phiêu chúng Hoặc,
phiền năo nhiệt vi cái, dũ tật như lương
y.
(經)能施解脫寶,如水漂眾惑,煩惱熱為蓋,愈疾如良醫。
(Kinh:
Thí của báu giải thoát, như nước trôi các Hoặc,
ngăn che nóng phiền năo, trị bệnh như
lương y).
“Năng
thí” là có thể bố thí. Người có thể bố
thí hết sức giải thoát, có nghĩa là “thấy thấu
suốt, buông xuống”. Giải thoát rất khó, v́ tiền
tài là thứ cần thiết cho cuộc sống. Người
có trí thấy biết, dùng nó để lợi ích chúng sanh. Ắt
phải là bậc giải thoát th́ mới chịu bố thí.
Trong Lục Độ, vạn hạnh, bố thí đứng
đầu. Bố thí là xả. Phải xả từ trong
tâm, đừng nên chỉ chú trọng vật
chất. Có thể bố thí th́ mới có thể giải
thoát. Khó xả nhất là thân thể của chính ḿnh. Quư giá
nhất cũng là thân thể của chính ḿnh. Hiện thời,
nếu có ba người hướng về
ta yêu cầu bố thí, hoặc là xin mắt, hoặc là
xin tim. Hiện thời, ta chẳng thể cho họ, v́ chẳng
trọn đủ cái tâm xả ấy, mà cũng chưa
đạt tới đạo lực ấy. Cho nên chẳng
giải thoát được. Nếu là đại Bồ
Tát, quư vị cầu điều ǵ, các Ngài đều xả
cho quư vị. Ngay cả thân thể của chính các Ngài
cũng đều xả, huống hồ quốc thành, vợ
con? Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm đă nói: Những thứ như báu vật, các Ngài đều
có thể thí xả cho hết thảy chúng sanh. Đấy là giải thoát.
Hoặc nghiệp của chúng ta giống
như nước cuốn trôi, đừng ngỡ nó là chân
thật. Rất nhiều người chấp trước:
“Nghiệp chướng của tôi nặng quá!” Thường
nói ra rả như vậy th́ sẽ
tu chẳng thành! Hoặc là có chuyện
ǵ chẳng đạt được, hoặc gặp phải
tai nạn ǵ, điều đầu tiên cứ
nghĩ là nghiệp chướng của chính ḿnh rất
nặng! Nghiệp chướng là Hoặc nghiệp của
quư vị, khởi Hoặc, tạo
nghiệp, giống như nước cuốn trôi, chẳng
phải là chân thật, đừng tưởng nó là chân thật.
Nếu quư vị sám hối, nghiệp chướng sẽ
tiêu mất.
Đừng nghĩ nghiệp chướng của
chính ḿnh vẫn rất nặng.
Nếu tận lực nghĩ Hoặc nghiệp của chính
ḿnh vẫn c̣n rất nặng,
nếu nghĩ như vậy, nó sẽ một mực rất
nặng nề, đè ép quư vị, vĩnh viễn chẳng
thể giải thoát nổi! Bố thí cũng thế, tŕ giới
cũng thế, luôn nghĩ nghiệp chướng của
chính ḿnh nặng nề: “Ôi trời ơi! Chuyện này làm sao tôi
làm nổi! Nghiệp chướng của tôi rất nặng!”
Một câu “nghiệp chướng rất nặng” trở
thành lư do để thoái thác, chớ nên! Nghiệp chướng
vốn chẳng có cội rễ. Hễ Hoặc nghiệp
sanh khởi, quư vị phải niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát. Niệm đến mức chân thành. Những
pháp môn khác đều chẳng tu, th́ hăy lo tŕ danh. Quư vị
cũng chẳng niệm kinh Thập Luân, cũng chẳng niệm
kinh Chiêm Sát, mà niệm thánh hiệu th́ vẫn được,
nhưng ắt cần phải niệm đến mức
chí tâm.
Phiền
năo là nhiệt năo. Có mấy loại nhiệt năo? Do phiền
năo sanh ra tâm oán hận, hoặc là do suy nghĩ không thông bèn
ngủ chẳng được. Càng nằm, càng mất ngủ. Càng mất ngủ, càng trằn trọc,
trong ḷng bứt rứt khôn kham, toàn là nhiệt năo. Phàm là phiền
năo, sẽ luôn gây bức
bối, giống như đắp một cái mền bông vậy.
“Cái” (盖) bao gồm
Ngũ Cái và Thập Triền. Có Phiền Năo Cái ngăn che quư
vị. Nếu là tràng phan, bảo cái (lọng báu), tức lọng
báu của Phật, đấy là thánh cảnh. C̣n Cái ở
đây chính là phiền năo. Phiền năo gây bứt rứt,
váng vất cả đầu óc, khiến cho quư vị thở chẳng nổi, chẳng thông qua nổi,
chẳng giải thoát nổi! Địa Tạng Bồ Tát
phá trừ phiền năo, giống như trừ khử nhiệt
năo, [giống như] giở bỏ lớp che đậy.
Quư vị có bệnh, Địa Tạng Bồ Tát tựa
như một vị lương y rất giỏi, uống
một thang thuốc vào, quư vị chẳng c̣n bệnh tật
chi nữa!
(Kinh)
Nhất nhật xưng Địa Tạng, công đức
đại danh văn, thắng câu-chi kiếp trung, xưng
dư trí giả đức. Năng giải chư chúng sanh,
nhất thiết phiền năo phược, chí Kiện Hành
Định đẳng, chư Định chi bỉ ngạn.
Thập nhị duyên thanh tịnh, chư trí như hư
không, phá vô biên Phật độ, chư hữu t́nh ám tụ.
(經)一日稱地藏,功德大名聞,勝俱胝劫中,稱餘智者德。能解諸眾生,一切煩惱縛,至健行定等,諸定之彼岸。十二緣清靜,諸智如虛空,破無邊佛土,諸有情暗聚。
(Kinh:
Một ngày xưng Địa Tạng, công đức, danh
to lớn, hơn trong câu-chi kiếp, xưng danh bậc trí
khác. Tháo hết thảy phiền năo, đang trói buộc
chúng sanh. Đạt tới Kiện Hành Định, các
Định nơi bờ kia. Mười hai duyên thanh tịnh,
các trí như hư không, phá tối cho hữu t́nh, trong vô biên
cơi Phật).
Quư
vị một ngày xưng danh hiệu Địa Tạng bèn
trọn đủ. Khi quư niệm một tiếng, một
tiếng trọn đủ thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Niệm mười
tiếng, cũng trọn đủ công đức của
mười tiếng Địa Tạng. Nếu thành tâm niệm
như thế, chỉ niệm danh hiệu Địa Tạng
trong một ngày, sẽ hơn hẳn cả kiếp xưng
niệm danh hiệu của các bậc có đức khác, bao gồm cả việc xưng niệm
danh hiệu của các vị đại Bồ Tát khác.
“Thập
nhị duyên thanh tịnh”: Mười hai nhân duyên thuộc
vào pháp Nhân Duyên: Vô Minh duyên Hành, Hành duyên
Danh Sắc, Danh Sắc lại duyên Lục Nhập, Lục
Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu.
Đấy là Thập Nhị Nhân Duyên, luân chuyển như
thế đó. Chỉ cần niệm thánh hiệu Địa
Tạng, học theo Địa Tạng Bồ Tát, mười
hai nhân duyên sẽ thanh tịnh. Các nghiệp hoặc của
chúng ta, do khởi Hoặc mà tạo nghiệp, nghiệp sẽ
trói buộc quư vị. Hễ bị trói buộc bèn chịu
khổ. Nay chẳng tạo nghiệp, chẳng khởi Hoặc,
nghiệp chẳng trói buộc quư vị được,
chính ḿnh có thể làm chủ. Không chỉ tự ḿnh giải
thoát, mà c̣n có thể giác ngộ hết thảy chúng sanh
đang bị phiền năo che phủ. Tự ḿnh nghe pháp, c̣n
muốn nói cho người khác. Như các đạo hữu
giới thiệu rất nhiều thân hữu khiến cho họ
tin Phật, nghe pháp. Đấy là giúp đỡ chúng sanh giải
thoát.
“Kiện
Hành Định” là tên gọi của một môn Định
trong một trăm lẻ tám loại Định, có Kiện
Hành Định, Kiện Đức Định… Đấy
đều là tên gọi của các môn Định. Hễ có
một môn Định th́ sẽ có thể đạt đến
bờ kia, nhưng Cửu Thứ Đệ Định, Lục
Dục Thiên Định th́ không được. Loại
Định này (Kiện Hành Định) là thánh định.
Thánh Định th́ như trong phần sau, chúng ta sẽ nói
sáu pháp là Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Chuyển, Tịnh; c̣n trong tông Thiên Thai th́ là Sổ, Tùy, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh,
mang ư nghĩa “hoàn nguyên phản tịnh”. Lục Diệu
Môn giảng giải ở mức độ cạn, c̣n kinh
Thập Luân giảng ở mức độ sâu. Dù cạn
hay sâu, chúng tôi cũng đều sẽ nói.
Sở
dĩ bộ kinh này dài v́ có rất nhiều phương pháp
tu hành. V́ là phương pháp tu hành, chúng ta ắt cần phải
làm đúng như thế. Học hiểu, sẽ có thể
giải quyết vấn đề. Giải quyết vấn
đề ǵ vậy? Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi
ngày chúng ta đều gặp rất nhiều vấn đề,
trong tâm quán chiếu bất đồng, nhận thức và
cảm quan của quư vị bất đồng. Quư vị ắt
cần phải biết làm, ắt cần phải quán
như vậy, giải quyết vấn đề ấy
như thế nào? Giống như Địa Tạng Bồ
Tát có trí huệ như thế, chúng ta vẫn chẳng đạt
được.
Câu
“chư trí như hư không” (các trí như hư không)
có thể hiểu là “hư không tức chư trí”, mà
cũng có thể nói ngược lại. Chúng ta có thể
sánh ví Không với Bát Nhă. Trong kinh Phật, chỉ cần nói đến
nghĩa Không, bèn dùng hư không để tỷ dụ. Thật
ra, đấy chẳng phải là hư không. Hư không có thể
dung nạp hết thảy. Quư vị có trí huệ, đă phá
trừ các Hoặc, trọn chẳng phải là tiêu diệt
các Hoặc đó và vật chất. Nếu b́nh hoa là Không, trọn
chẳng phải là đập nát nó vứt đi th́ mới
là Không, trọn chẳng phải là như vậy, mà là biết
bản thể của nó Không, do nhân duyên ḥa hợp. Những
đóa hoa [cắm trong b́nh đó] thoạt đầu chẳng
phải là sanh trưởng từ một
cây hoa, mà là do người cắm hoa muốn dâng cúng hoa, bèn
cắm chung một chỗ. Đối với mỗi
đóa hoa, nó chứa đựng nước, có vật chất,
đều là nhân duyên ḥa hợp, chẳng có pháp nào là thật.
Nhân duyên ḥa hợp bèn sanh, nhân duyên tách rời bèn diệt.
Khi duyên sanh, hăy tiếp nhận. Khi duyên diệt, hoa ấy
diệt, tàn hết rồi, vậy th́ hăy buông xả, chẳng
c̣n nữa, vứt hoa đi! Đừng
nên quyến luyến, nuối tiếc nữa, như thế
đó!
Gia
đ́nh cũng như thế, cha mẹ, vợ con, có nhân
duyên mới tụ hội cùng nhau, mọi người đều
như vậy. Tôi nói thời gian dài một chút th́ là một
trăm năm, cho đến khi đó,
cũng phải ly tán. Đă ly tán, hăy buông xuống, đừng
nên khăng khăng chấp trước. Đời này chẳng
buông xả được, lại chấp vào đời
sau. Đời sau lại không buông xả được,
cho nên chẳng thể giải thoát. Do v́ lẽ này mới chẳng
thể giải thoát. Chẳng biết các trí như hư
không!
“Phá
vô biên Phật độ, chư hữu t́nh ám tụ” (Phá
trừ sự tối tăm của các hữu t́nh trong vô
biên cơi Phật): Chủ yếu là hết thảy chúng sanh
trong vô biên cơi Phật, hắc ám tụ tập cùng một
nơi. “Ám tụ” chính là nghiệp. Nghiệp quá nhiều, phiền năo, tham, sân, si, mạn, nghi, Thân Kiến,
Biên Kiến, Tà Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Giới
Cấm Thủ Kiến, mười kết sử ấy kết
tụ lại, khiến quư vị chẳng thoát ra được!
Mười kết sử ấy sanh ra khá nhiều nghiệp,
vô cùng, vô tận. Tham th́ tham thứ ǵ, cũng đều là
tham. Đối với Phật pháp, nếu quư vị thật
sự có thể tiến nhập, trí Bát Nhă vừa chiếu,
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hết thảy
đều là Không. Phàm là có h́nh, có tướng, ngôn ngữ,
văn tự, đều là Giả, đều là Không.
Nhưng khi chúng ta chưa đạt tới mức độ
ấy, vẫn cần đến ngôn ngữ. Sau khi đă hiểu
rơ văn tự th́ mới phá trừ được. Trong
khi chúng ta c̣n chưa chứng đắc cảnh giới ấy,
chẳng thể ĺa khỏi gia đ́nh. Nếu chẳng cần
đến gia đ́nh, mặc kệ con thơ để
đi nghe kinh th́ không được rồi! Quư vị đến
nghe kinh kiểu đó, sẽ chẳng đạt được
lợi ích. Người ở nơi đây, tâm băn
khoăn nơi khác, chẳng chú tâm
được! Quư vị phải nên làm ǵ th́ hăy nên
làm điều đó.
Nhưng
“thế pháp chư pháp vị, thế gian thường
tương trụ” (các pháp vị của pháp thế gian
thường trụ trong thế gian). Nhất định
phải hiểu đạo lư này! Do vậy, quư vị hiểu
“các trí như hư không” th́ mới có thể
phá trừ hắc ám tụ (“tụ” có nghĩa là tụ
tập) của hữu t́nh trong vô biên cơi Phật, mới có
thể tiêu trừ hết thảy các nghiệp sanh bởi
nhân duyên. Địa Tạng Bồ Tát chẳng trụ trong
một cơi Phật nào [nhất định], mà là trụ
trong vô cùng vô tận [cơi Phật].
(Kinh)
Tùy chư độ nhập Định, tứ Tĩnh Lự đẳng
lưu, phổ linh chư hữu t́nh, nhập định trừ
Hoặc nhiệt.
(經)隨諸土入定,四靜慮等流,普令諸有情,入定除惑熱。
(Kinh:
Nhập Định trong các cơi, bốn Tĩnh Lự cùng nhập,
khiến khắp các hữu t́nh, nhập Định, trừ
nhiệt năo).
“Tùy
chư độ nhập Định, tứ Tĩnh Lự đẳng
lưu” (thuận theo các cơi mà nhập Định, b́nh đẳng
nhập vào Tứ Tĩnh Lự): Tĩnh Lự có nghĩa
là tư lự, hoặc Định. “Đẳng lưu”
(等流) có nghĩa là “b́nh
đẳng đồng thời tiến nhập”. Pháp Tứ
Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, bản
thân của bốn pháp ấy đều là Định. “Đế”
là như lư. Có thể khiến cho hết thảy hữu t́nh
nhập Định, diệt trừ Hoặc, nhiệt năo, tức
phiền năo, không chỉ trong đời này [mà c̣n…]
(Kinh)
Chúng sanh túc ác nghiệp, đao binh, bệnh, cơ cẩn,
tùy sở tại năo hại, giai năng linh giải thoát.
(經)眾生宿惡業,刀兵病饑饉,隨所在惱害,皆能令解脫。
(Kinh:
Chúng sanh túc ác nghiệp, chiến tranh, bệnh, đói kém, hễ
ai bị năo hại, đều khiến được giải
thoát).
Do
nghiệp cảm của chúng sanh mà cảm vời băo tố,
lũ lụt, hỏa tai, đó là ba đại tam tai. Hiện
thời, chiến tranh, nước lửa, đói kém là tiểu
tam tai. Do nghiệp cảm của chúng sanh, những thứ
tai nạn ấy hiện thời đặc biệt nhiều.
Càng về sau càng nhiều hơn, đấy mới chỉ
là khởi đầu! Tôi sống hơn tám mươi
năm, kể từ lúc hiểu chuyện, cảm thấy
thế giới này chẳng có ngày nào tốt đẹp. Thuở
ấy, miền Đông Bắc bọn thổ phỉ và quân phiệt
đánh nhau, đánh xong th́ Nam Bắc gây chiến. Sau đó,
lại là người Nhật gây hấn. Mọi người
hồi tưởng xem, có ngày nào an định hay không?
Đấy chỉ là đao binh kiếp.
Có
ai không bị bệnh? Có rất nhiều bệnh chẳng
trị được. Đói kém, ôn dịch, có chỗ bị
hại người ta biết, có chỗ chẳng bị hại,
người khác không biết. Các thứ bệnh tật,
binh đao, đói kém, mỗi thứ đều bao gồm
vô lượng năo hại. Quư vị vừa niệm thánh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát, vừa cầu Địa Tạng
Bồ Tát, sẽ đều được giải thoát.
Đây là đức Phật tán thán Địa Tạng Bồ
Tát có công đức rốt ráo rộng lớn. Quư vị có
tai nạn ǵ, hễ cầu Ngài, sẽ đều
tốt đẹp.
(Kinh)
Chúng sanh ngũ thú thân, chư khổ sở bức thiết,
quy kính Địa Tạng giả, hữu khổ tất
giai trừ.
(經)眾生五趣身,諸苦所逼切,歸敬地藏者,有苦悉皆除。
(Kinh:
Chúng sanh trong năm đường, bị các khổ bức
bách, hễ quy kính Địa Tạng, các khổ thảy
đều trừ).
“Chúng
sanh ngũ thú thân, chư khổ sở bức thiết”
(chúng sanh thọ thân trong năm đường, bị các nỗi
khổ bức bách): Vốn là “lục thú”, tức lục
đạo, ở đây nói là “ngũ thú”, [dường
như] nói thiếu một
đường. Bản thân chúng ta khi sanh mạng đă tận,
quư vị sẽ tiến vào địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, trời, hay người. A Tu La được gộp
vào trong năm đường, có nhân Tu La, có thiên Tu La, có quỷ
Tu La. Lục đạo có lúc nói thành năm đường,
tức là đem Tu La đạo gộp vào trong năm
đường kia. Họ chẳng phải là trời, chẳng
phải là người. Hễ là chúng sanh trong năm
đường, sẽ đều bị khổ nạn bức
bách. Nếu quy kính Địa Tạng Bồ Tát, “hữu khổ tất
giai trừ” nghĩa là tất cả các khổ nạn
đều bị diệt trừ.
(Kinh)
Chúng sanh thừa khổ luân, triển chuyển tương
vi hại, quy kính Địa Tạng giả, giai trụ nhẫn
từ tâm.
(經)眾生乘苦輪,展轉相違害,歸敬地藏者,皆住忍慈心。
(Kinh:
Chúng sanh nương khổ luân, lần lượt nghịch
hại nhau, hễ quy kính Địa Tạng, tâm đều
trụ từ nhẫn).
Chúng
ta nương theo các luân chẳng tốt đẹp, chúng là
khổ luân, lần lượt chống trái, làm hại lẫn
nhau. Nếu quy y Địa Tạng Bồ Tát, sẽ chẳng
thương tổn lẫn nhau. Tôi chẳng thương tổn
quư vị, quư vị cũng chẳng thương tổn
tôi, đều có thể khởi tâm đại từ bi,
giúp đỡ lẫn nhau. Bậc hiền nhân trước
kia suy nghĩ rất hay, họ nói: “Dân
có dân trị, dân hưởng”, nhưng ai thực hiện?
Như vậy
th́ chẳng làm hại, chẳng trái nghịch
nhau hay không? Giàu nghèo đều như nhau, mọi người
cùng hưởng vui sướng. Kết quả là quư vị
khổ một chút, tôi sướng một chút, đa số
là t́nh h́nh như thế đó! Có ai biết nghĩ đến
người khác? Toàn là nghĩ cho ḿnh, toàn là trái nghịch, tổn
hại lẫn nhau! Càng ngày càng trái nghịch, tổn hại
nhau, khổ càng sâu nặng hơn, vĩnh viễn chẳng
chấm dứt. Sau khi đă quy kính Địa Tạng Bồ
Tát, nhiệt năo trong tâm họ sẽ b́nh ổn, sanh khởi
từ tâm.
(Kinh)
Thập nhị duyên sở bố, truy cầu khổ sở
y, quy kính Địa Tạng giả, giai an trụ vô úy.
(經)十二緣所怖,追求苦所依,歸敬地藏者,皆安住無畏。
(Kinh:
Mười hai duyên đáng sợ, truy cầu càng khổ sở,
hễ quy kính Địa Tạng, đều an trụ vô úy).
Trong
phần trước, chúng tôi đă nói về pháp thập nhị
nhân duyên. Bất luận là đời quá khứ hay đời
vị lai, nói chung, hễ tâm quư vị động niệm,
khởi nghiệp; đấy gọi là Nghiệp Tướng. Nghiệp Tướng ấy
chẳng ngưng dứt, nó sẽ chuyển biến. Sự
chuyển biến ấy gọi là Chuyển Tướng. Nó
là tướng cảnh giới trong tự tâm. Nghiệp
Tướng, Chuyển Tướng, và Tướng Tướng
(cảnh giới tướng) đă hoàn thành, bèn chấp thủ
(chấp trước,
nắm giữ) liên tục. Chấp trước danh
tự rồi bèn khởi Hoặc, tạo nghiệp. Do vậy,
khổ luân sẽ [tạo thành] bức hại lẫn nhau.
Đấy là chuyện đáng sợ hăi (bố úy). Do
đó, chớ nên khởi nghiệp. Chẳng tạo nghiệp,
sẽ chẳng dấy Hoặc, mà cũng chẳng có kinh sợ.
Sở dĩ chúng ta tạo nghiệp là do có thân thể. Thân
thể cần phải ăn, cần phải mặc, đồng
thời, cũng mong cầu thoải mái. Ai nấy đều
mong chính ḿnh được thoải mái. Làm thế nào để
được thoải mái th́ cứ làm như thế ấy,
mặc kệ người khác có thoải
mái hay không! “Mày cứ giúp tao thoải mái là được rồi!”
Ai nấy đều tính toán như thế, tranh đoạt
lẫn nhau. Càng truy cầu, cái khổ càng gần sát quư vị.
Quư vị vốn theo đuổi sung sướng, nhưng
càng truy cầu, càng khổ sở nhiều
hơn. Mong ĺa khổ, phải tu pháp. Thích Ca Mâu Ni Phật
đă dạy chúng ta pháp môn này, tức là niệm Địa
Tạng Bồ Tát sẽ ổn thỏa, quư vị chẳng bị
sợ hăi nữa!
(Kinh)
Nhược nhạo tu chư phước, chánh niệm, giới,
văn huệ, quy kính Địa Tạng giả, sở cầu
giai măn túc.
(經)若樂修諸福,正念戒聞慧,歸敬地藏者,所求皆滿足。
(Kinh:
Nếu thích tu các phước, chánh niệm, giới, văn
huệ, hễ quy kính Địa Tạng, sở cầu
đều thỏa măn).
Quư
vị cầu phước đức, cầu trí huệ, phải
sanh khởi chánh niệm. Niệm ǵ vậy? Niệm giới,
niệm pháp. Niệm pháp là nghe pháp. Nghe pháp sẽ có thể sanh trí
huệ, đấy cũng là niệm huệ. Hễ quy kính
Địa Tạng Bồ Tát, Giới, Định, Huệ
mà quư vị mong cầu sẽ đều được thỏa
măn, sẽ ĺa khổ, được
vui.
(Kinh)
Nhạo nhất nhất công đức, công xảo, dược,
chủng tử, quy kính Địa Tạng giả, sở cầu
giai măn túc.
(經)樂一一功德,工巧藥種子,歸敬地藏者,所求皆滿足。
(Kinh:
Ưa thích mỗi công đức, nghề khéo, thuốc, hạt
giống, hễ quy kính Địa Tạng, sở cầu
đều thỏa măn).
Quư
vị thích làm công đức, hoặc muốn làm thầy
thuốc, làm khoa học gia, hoặc mong làm người dạy
các kỹ thuật hay khéo, nhưng chẳng có trí huệ, th́ sẽ chẳng làm
được! Bèn cầu Địa Tạng Bồ Tát gia
tŕ quư vị, ban cho quư vị trí huệ để có thể
phát minh, sáng tạo. Lúc Bồ Tát mong lợi ích chúng sanh, ắt
cần phải thấu hiểu Công Xảo Minh, Y
Phương Minh, Nội Minh, Ngoại Minh, và Nhân Minh. Đó
gọi là Ngũ Minh Bồ Tát. Bậc Bồ Tát tu Ngũ
Minh th́ nghệ thuật thế gian sẽ đều hiểu,
lại c̣n dùng tâm đại từ đại bi của Phật
giáo để học tập. Quy kính Địa Tạng Bồ
Tát sẽ có trí huệ, vừa học liền hiểu.
(Kinh)
Cầu chư cốc, dược điền, nam, nữ,
y, bộc sử, quy kính Địa Tạng giả, sở cầu
giai măn túc.
(經)求諸谷藥田,男女衣僕使,歸敬地藏者,所求皆滿足。
(Kinh:
Cầu thóc lúa, ruộng, thuốc, con cái, áo, tôi tớ, hễ
quy kính Địa Tạng, sở cầu đều thỏa
măn).
Hết
thảy đều là những điều chúng ta mong cầu
trong hiện tại, chẳng hạn như làm ruộng bèn
mong ngũ cốc sanh trưởng tươi tốt, trồng
thuốc bèn mong dược thảo sanh trưởng rất
tốt. Vào núi hái thuốc th́ linh chi, nhân sâm, những thứ
dược liệu tôn quư, hiếm có
như vậy đều đạt được. Mong mỏi
có người giúp đỡ quư vị, hoặc là mong cầu
y phục, t́m kẻ hầu tận tụy. “Bộc sử”
(僕使) là kẻ hầu.
Quư vị mở một công ty, t́m mấy trợ thủ,
công nhân, hay viên chức giỏi giang đều là rất khó! Công
nhân, viên chức nào
chẳng nghĩ trộm cắp, chẳng mong chỉnh quư vị,
chẳng nghĩ làm hại quư vị? Chỉ cần quy kính
Địa Tạng Bồ Tát, sở cầu sẽ đều
có thể thỏa măn.
(Kinh)
Chúng đức cụ tương ứng, năng nhậm
tŕ đại địa, nhân tư chư cốc dược,
nhuận trạch nhi tế nhuyễn.
(經)眾德具相應,能任持大地,因茲諸谷藥,潤澤而細軟。
(Kinh:
Đủ các đức tương ứng, hay duy tŕ đại
địa, do vậy, ngũ cốc, thuốc, tươi
nhuận và mềm mịn).
V́
sao? V́ Địa Tạng Bồ Tát trọn đủ hết
thảy các đức, Ngài duy tŕ đại địa, các
thứ ấy đều sanh trưởng từ đại
địa. Do vậy, các thứ ngũ cốc, dược
liệu đó được vun quén, sanh trưởng hết
sức tươi tốt.
(Kinh)
Chư phiền năo sở phú, nhạo hành Thập Ác nghiệp,
quy kính Địa Tạng giả, phiền năo ác giai trừ.
(經)諸煩惱所覆,樂行十惡業,歸敬地藏者,煩惱惡皆除。
(Kinh:
Các phiền năo che lấp, thích hành nghiệp Thập Ác, hễ
quy kính Địa Tạng, phiền năo ác đều trừ).
Quư
vị bị những phiền năo che lấp. “Phú” (覆) là che lấp,
quư vị chẳng nghĩ làm chuyện tốt, trong tâm tận
lực tính làm chuyện ác. Mười ác nghiệp chính là
“giết, trộm, dâm” nơi thân, “nói dối, nói thêu dệt,
nói lời thô ác, nói đôi chiều” nơi miệng. Không chửi
người khác, sẽ không thể
nói năng được! Ắt cần phải chửi
người khác th́ kẻ đó mới nói được.
Khi tôi ở Tứ Xuyên, cảm thấy họ không chửi
mắng người khác sẽ không nói năng được!
Trọn chẳng phải là chửi bới thật sự,
trẻ con lẫn người già cứ mở miệng ra
là “đồ con rùa nhà ngươi”, đă thành câu cửa
miệng của họ rồi! Tôi nghe nói rất khó chịu,
họ bảo: “Đấy là thói quen của bọn tôi, không
có ư ǵ đâu!” Họ chẳng nói “đồ con rùa nhà
ngươi” sẽ chẳng nói được! Cứ mở
miệng ra là “đồ con rùa”, dường như
đă thành tật, nhưng chúng ta nghe rất chói tai, bất
luận trai gái ǵ cũng đều nói như thế cả!
C̣n
có vùng Đông Bắc, thoạt đầu, khi tôi c̣n bé, có một
khu gọi là Lạp Cáp tộc, có thể là mọi người
chưa từng nghe nói tới. Ngôn ngữ của họ
đơn giản tới cực điểm, người
trẻ tuổi gọi người lớn tuổi là “lăo
hỏa kế”, người lớn tuổi gọi kẻ
trẻ tuổi là “tiểu hỏa kế”. Hai chữ
“hỏa kế” (伙计) chẳng phải là
phát âm như chữ “hỏa kế”[3]
trong tiếng Hán. Tôi hỏi ư nghĩa của hai chữ
đó, họ chẳng có cách nào giải thích. Con gọi cha lẫn
mẹ đều là “lăo hỏa kế”. Cha mẹ
cũng gọi con cái là “tiểu hỏa kế”. Ngôn ngữ
nghèo nàn như thế đó, mong nói nhiều hơn mấy
câu cũng chẳng được! Nếu quư vị biến
thành tộc người đó, nói năng có khổ hay không?
Có khác ǵ trâu, ngựa hay không? Do vậy, kinh nói “chẳng
khác súc sanh, chẳng khác gỗ, đá”; kẻ chẳng hiểu
Phật pháp chẳng khác ǵ gỗ, đá, và súc sanh, chẳng
khác ǵ trâu, ngựa cho mấy!
(Kinh)
Hiện tác chủng chủng thân, vị chúng sanh thuyết pháp,
cụ túc thí công đức, bi mẫn chư chúng sanh.
(經)現作種種身,為眾生說法,具足施功德,悲愍諸眾生。
(Kinh:
Hiện làm đủ mọi thân, v́ chúng sanh thuyết pháp,
trọn vẹn công đức Thí, thương xót các chúng
sanh).
Trong
phần trước đă nói Địa Tạng Bồ Tát
hiện đủ loại thân, mọi người đều
đă thấy. Tổng cộng, Ngài hóa hiện bốn mươi hai loại hóa thân.
(Kinh)
Giả sử bách kiếp trung, tán thuyết kỳ công đức,
do thượng bất năng tận, cố giai
đương cúng dường.
(經)假使百劫中,讚說其功德,猶尚不能盡,故皆當供養。
(Kinh:
Giả sử trong trăm kiếp, tán nói công đức Ngài,
vẫn chẳng thể trọn hết, hăy đều nên
cúng dường).
Cuối
cùng, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo đại chúng tham dự
pháp hội: Nói công đức của Địa Tạng Bồ
Tát th́ dẫu nói cả trăm kiếp vẫn tán thán chẳng
trọn. “Do thượng bất năng tận, cố
giai đương cúng dường” [nghĩa là]: Mọi
người đều nên cúng dường Địa Tạng
Bồ Tát, xưng tụng thánh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát.
Tôi
nói khá nhiều buổi mới hết Tự Phần, vẫn
chưa nói đến phần Chánh Tông. Ư nghĩa được
bao hàm trong Tự Phần chủ yếu là khiến cho mọi
người tin tưởng Địa Tạng Bồ Tát có
thể dẹp trừ khổ nạn, ban vui sướng cho
chúng ta, khiến cho mọi người tin tưởng.
Địa Tạng Bồ Tát cũng hỏi đức Phật
rất nhiều vấn đề, xin đức Phật giải
đáp. Lần tới, tôi sẽ nói về phẩm Thập
Luân, tức là phần Chánh Tông. Kinh có tám phẩm, phẩm
đầu tiên là trần thuật. Phẩm cuối cùng là phần
Lưu Thông, dặn ḍ Hư Không Tạng Bồ Tát phải
lưu thông kinh này để rất nhiều người
hưởng lợi ích, khiến cho rất nhiều hữu
t́nh chúng sanh đắc độ. Bất quá, Hư Không Tạng
Bồ Tát trụ trong hư không, vẫn chưa lưu thông,
nay lại gặp nhân duyên, mọi người có thể
cùng nhau học tập. Phẩm Tự đă xong!
II. Phẩm thứ
hai, Thập Luân (十輪品第二)
(Kinh)
Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát tùng ṭa
nhi khởi, chỉnh lư y phục, đảnh lễ Phật
túc, thiên đản nhất kiên, hữu tất
trước địa, hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch
Phật ngôn: “Ngă kim vấn Thế Tôn, vô lượng công
đức hải, duy nguyện tứ khai hứa, vị giải
thích trừ nghi”.
(經)爾時,地藏菩薩摩訶薩從座而起,整理衣服,頂禮佛足,偏袒一肩,右膝著地,合掌恭敬,而白佛言:「我今問世尊無量功德海,唯願賜開許,為解釋除疑。」
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát từ
chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục,
đảnh lễ dưới chân Phật, trật áo một bên vai, gối phải đặt
sát đất, chắp tay, cung kính, mà bạch với đức
Phật: “Con nay hỏi Thế Tôn, biển vô lượng
công đức, kính mong chấp thuận cho, nhằm giải
thích trừ nghi”).
Nay
chúng tôi bắt đầu giảng Chánh Tông Phần của
kinh Thập Luân. Trong kinh văn của phẩm này, Địa
Tạng Bồ Tát muốn nói về Thập Luân. Ngài lại
c̣n xin đức Phật chỉ dạy Thập Luân là ǵ? Có
Thập Luân của chúng sanh và Thập
Luân của Phật. Pháp do đức Phật thuyết
đối ứng với các loại nghiệp do chúng sanh
đă tạo. Nay chúng ta đang ở trong khổ nạn,
mong cầu giải thoát. Như thế nào th́ mới có thể
giải thoát? Đức Phật dạy chúng ta các
phương pháp, mỗi bộ kinh đều là như thế.
Trước hết, Bồ Tát thỉnh cầu, đức
Phật khải thị. Bồ Tát lại thỉnh vấn,
đức Phật lại nói. Hễ nói đến Phật
trong pháp hội, sẽ đều là Thích Ca Mâu Ni Phật.
Trong
phần Tự, Địa Tạng Bồ Tát đă tán thán
đức Phật, đức Phật cũng tán thán Bồ
Tát. Sau đấy, Địa Tạng Bồ Tát từ chỗ
ngồi đứng dậy. Khi thỉnh pháp, trước
đó phải có nghi thức khải thỉnh. Hiện thời,
bậc thánh chẳng c̣n, hiền nhân đă qua, chỉ c̣n sót
lại các phàm phu hời hợt thỉnh pháp, ngay cả ư
nghĩa cũng đều chẳng biểu thị, chỉ
nói: “Pháp sư à! Chuyện đó giải thích như thế
nào?” Trong quá khứ, [hỏi kiểu đó] sẽ không
được! Quư vị muốn thưa hỏi, từ chỗ
ngồi của quư vị đứng lên, chỉnh đốn
quần áo đàng hoàng, “thiên đản hữu kiên, hữu
tất trước địa” (trật vai áo phải, gối
phải đặt sát đất). Nay cái y của chúng ta
luôn để lộ vai phải, v́ sao mỗi khi đảnh
lễ, đều phải trật vai áo phải? V́ trước
khi đảnh lễ, có lúc tiết trời lạnh lẽo,
đắp y che cả hai vai. Khi một người sắp
xin chỉ dạy, nhất định phải lật y ra,
để lộ vai phải, đó gọi là “thiên đản
hữu kiên” (trật vai áo phải). Cách quỳ của Ấn
Độ là gối phải đặt sát đất, chỉ
quỳ một đùi phải xuống: Khi quỳ, một
đùi áp sát đất, đùi kia dựng lên. Sau đó, hai
tay chắp lại. Đấy là nghi thức thỉnh pháp.
Muốn thỉnh pháp, ắt phải thực hiện nghi thức
này.
Nhưng
khi Phật pháp truyền sang Trung Hoa, đặc biệt là
sau khi Tam Vũ Diệt Phật[4],
Thiền Tông đă hủy bỏ toàn bộ quy củ xưa kia trong Phật pháp, hủy bỏ [những lễ
tiết] đức Phật đă chỉ
dạy. Tuy nói là “hủy bỏ”, nhưng cũng có thể
nói là v́ để khai ngộ kẻ đương cơ,
cho nên chẳng chú trọng h́nh thức, vừa quát, vừa
đánh, thậm chí c̣n chửi bới nữa! Đơn Hà[5]
chẻ tượng Phật, đốt tượng Phật.
Những t́nh h́nh ấy đều chẳng thể coi là lệ
thường được! Chuyện đó chẳng phù hợp
với khuôn phép do đức Phật chỉ dạy. Hét to
hai tiếng, hoặc bạt tai quư vị, hoặc đá quư
vị một cái, h́nh thức nào cũng đều có, chỉ
cần quư vị khai ngộ là được rồi. Mục
đích của họ là như vậy đó, nhưng trong
nghi tiết của Phật pháp, làm như vậy không
được! Bất luận đại Bồ Tát xin
đức Phật chỉ dạy, hoặc quư vị muốn
thỉnh pháp, phải có nghi thức này. Tôi vừa mới
nêu đại lược nghi thức thỉnh pháp ấy.
Tiếp
đó là thưa bày, khi thỉnh pháp c̣n phải tán thán. “Ngă
kim vấn Thế Tôn” (con nay hỏi đức Thế
Tôn) mang ư nghĩa thỉnh vấn. “Vô lượng công
đức hải” (biển vô lượng công đức):
Công đức của Phật chẳng thể hạn
lượng. Vậy th́ dùng điều ǵ để sánh ví?
Giống như biển cả. Biển sâu và rộng, trí huệ
của Ngài cũng sâu và rộng như biển, mà cũng chẳng
có ǵ không biết, không ǵ chẳng hiểu. Do vậy, con thỉnh
Phật hăy chấp thuận, kính mong ban ân, cho phép con nói, khéo giải
thích nghi vấn cho chúng con. [Đó là ư nghĩa của câu] “vị
giải thích trừ nghi”. Phương thức của
chúng ta là trước hết nêu ra chuyện [thắc mắc]
ấy, sau đó xin giải thích; c̣n phương
thức tại Ấn Độ là tán thán trước, sau
đấy, xin quư vị khai thị, giúp tôi giải trừ
nghi vấn. Sau đó mới nói [thắc mắc] chuyện
ǵ. Bồ Tát vừa mới xin phép, c̣n chưa đợi
Địa Tạng Bồ Tát hỏi, đức Phật lại
tán thán.
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: “Nhữ chân thiện sĩ, ư nhất
thiết pháp, trí kiến vô ngại, vị dục nhiêu ích
tha hữu t́nh cố, thỉnh vấn Như Lai. Tùy nhữ
ư vấn, ngô đương vị nhữ phân biệt, giải thích, linh nhữ tâm hỷ”.
Ư thị, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dĩ tụng
vấn viết: “Ngă tằng thập tam kiếp, dĩ cần
tu khổ hạnh, vị nhất thiết hữu t́nh, trừ
tam tai, ngũ trược, đa câu-chi Phật sở,
dĩ thiết vô biên cúng, tằng kiến Đại Tập
hội, thanh tín chúng ḥa hợp, thông triết, cần tinh tấn,
giai lai đồng hội tập, vị tằng kiến
như thị, vô chư tạp uế chúng”.
(經)世尊告曰:「汝真善士!於一切法智見無礙,為欲饒益他有情故,請問如來。隨汝意問,吾當為汝分別解說,令汝心喜。」於是地藏菩薩摩訶薩,以頌問曰:我曾十三劫,已勤修苦行,為一切有情,除三災五濁。多俱胝佛所,已設無邊供,曾見大集會,清信眾和合。聰哲勤精進,皆來同會集,未曾見如是,無諸雜穢眾。
(Kinh:
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Ông là bậc chân thiện
sĩ, trong hết thảy các pháp trí thấy vô ngại, v́
muốn tạo lợi ích cho các hữu t́nh khác mà thưa hỏi
Như Lai. Ông cứ tùy ư hỏi, ta sẽ v́ ông phân biệt,
giải thích, khiến cho ông hoan hỷ”. Ngay khi đó, Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát dùng kệ hỏi rằng: - Con
trong mười ba kiếp, đă siêng tu khổ hạnh, v́
hết thảy hữu t́nh, trừ tam tai, ngũ trược,
đối trước câu-chi Phật, dâng cúng dường
vô biên, từng thấy hội Đại Tập, chúng thanh
tín ḥa hợp, thông duệ, siêng tinh tấn, đều cùng
đến nhóm họp, chưa từng thấy thế này,
không có chúng tạp uế).
“Thế
Tôn cáo viết: Nhữ chân thiện sĩ” (đức Thế
Tôn bảo: - Ông là bậc thiện sĩ thật sự), ư
nói: Ông là một vị thiện nhân thật
sự. “Thiện” ở đây không phải là thiện
b́nh phàm, mà là chân thiện sĩ rốt ráo. Đức Phật
đều gọi các đệ tử là “thiện sĩ”,
hoặc “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, đều
thêm một chữ Thiện. “Thiện” là ông có duyên thân
cận ta, thiện duyên ấy chẳng dễ dàng. Ông là
người hướng thiện, trừ khử hết thảy
cấu nhiễm, rốt ráo thanh tịnh. Đây là đức
Phật xưng tán, hứa khả Địa Tạng Bồ
Tát, bảo: “Trí huệ của ông đối với hết
thảy các pháp đă chẳng có chướng ngại, tự
ḿnh đều có thể thông đạt. Ông vốn chẳng
cần phải hỏi, nhưng v́ sao muốn hỏi?” “Vị
dục nhiêu ích tha hữu t́nh cố” (v́ muốn tạo lợi
ích cho các hữu t́nh khác): Nếu chẳng có Địa Tạng
Bồ Tát xin chỉ dạy, bộ kinh Đại Tập Thập
Luân cũng sẽ chẳng thể nói. Đức Phật rất
ít khi tự ḿnh thuyết pháp, ắt cần phải có bậc
đương cơ thỉnh vấn, đức Phật mới
thuyết pháp. Không có căn cơ thích ứng, [hạng
người] giống như chúng ta th́ sẽ không có cách nào
thưa thỉnh được.
Ông muốn “nhiêu ích”, tức là tạo lợi ích cho hết
thảy các hữu t́nh khác, cho nên mới thưa hỏi
Như Lai. Ta sẽ “tùy ư nhữ vấn” (cho phép ông tùy
ư hỏi), ông muốn hỏi ǵ cứ hỏi đi, ta sẽ
phân biệt, giải thích cho ông, khiến
cho ông hoan hỷ. Khiến cho Địa Tạng Bồ Tát
hoan hỷ chính là khiến cho hết thảy chúng sanh hoan hỷ;
do vậy, Địa Tạng Bồ Tát bèn thưa hỏi.
Kế
đó là những hạng mục thưa hỏi chủ yếu
của Địa Tạng Bồ Tát, mà cũng là trọng
điểm trong kinh này. Ngài muốn hỏi điều ǵ?
Ngài nói Ngài đă từng tu hành mười ba kiếp, dùng thời
gian mười ba kiếp để tu hành khổ hạnh.
Thời gian một kiếp dài cỡ nào? Có thể chia thành
bốn kiếp Thành, Trụ, Hoại, Không. Bốn trung kiếp
được coi là một đại kiếp. Kiếp
trong hiện thời là Trụ Kiếp. Trong Trụ Kiếp,
thọ mạng của loài người từ tám vạn bốn
ngàn năm, nói tṛn là tám vạn tuổi, cứ qua một
trăm năm giảm bớt đôi chút, giảm đến khi con người
thọ mười năm. Lại từ mười tuổi,
cứ qua một trăm năm tăng lên một tuổi,
tăng đến tám vạn bốn ngàn năm. [Chu kỳ]
một tăng một giảm như thế tính là một
kiếp. Địa Tạng Bồ Tát nói: Con dùng thời
gian mười ba kiếp, tức là mười ba lần
chu kỳ một tăng một giảm tám vạn bốn
ngàn năm ấy để làm ǵ? Tu khổ hạnh. Ngài tu khổ
hạnh chẳng phải là thứ khổ hạnh cực
nhọc như chúng ta.
Chúng
ta biết Địa Tạng Bồ Tát luôn ở trong địa
ngục, trong đời ác ngũ trược, vào lúc không có
Phật pháp, lúc chúng sanh khổ nạn, Ngài đến độ
chúng sanh, dùng thời gian dài như vậy, chẳng thể
tính số năm, nếu tính theo số ngày, sẽ càng nhiều
hơn nữa! V́ độ hết thảy chúng sanh, v́ hết
thảy hữu t́nh mà trừ tam tai, bát nạn. “Tam tai”:
Đại tam tai là hỏa, thủy, phong, tiểu tam tai là
đao binh, đói kém, ôn dịch. Hai loại tam tai này đều
phải trừ bỏ v́
mong chuyển biến h́nh thái xă hội, biến đổi
sao cho tốt đẹp hơn đôi chút. Tam tai chẳng phổ
biến như trong hiện thời.
Ngũ
Trược (Pañca-kasāyāh): Kiếp Trược
(Kalpa-kasāya) là thời đại
chẳng tốt đẹp. Kiến Trược (Drsti-kasāya): Chúng sanh nh́n vấn
đề khác nhau, rất loạn, thường xuyên v́ tri
kiến bất đồng mà tranh căi. V́ sao Kiếp Trược,
Kiến Trược, hoặc Phiền Năo Trược (Kleśa-kasāya) lại như
thế? Nẩy sanh phiền năo quá nặng. Chúng sanh trong thời
đại này, xét từ thọ mạng, xét theo h́nh thể,
xét theo các thứ tướng trạng, đều là vẩn
đục, chẳng trong sạch, [đó là
Chúng Sanh Trược (Sattva-kasāya)]. Cuối cùng là Mạng Trược (Āyu-kasāya). Đấy gọi
là “ngũ trược ác thế”.
Con
đă từng tu khổ hạnh, tu trong một thời gian
dài như vậy, để làm cho hết thảy chúng sanh
thoát khỏi nỗi thống khổ do tam tai, ngũ trược.
Con đă từng ở trước nhiều câu-chi đức Phật (một câu-chi (koṭi) là một
ức), tức là ở trước nhiều ức đức
Phật như thế, cúng dường rất nhiều, dâng
cúng vô biên. Con cũng từng thấy tất cả cuộc
tụ hội rất lớn của mỗi đức Phật.
Các đệ tử nghe pháp trong các cuộc
tụ hội ấy, các vị
đệ tử thân cận đức Phật, mọi người
đều rất ḥa hợp,
tín tâm rất thanh tịnh, đều là những vị rất
thông minh, có trí huệ. Sau khi nghe pháp, lại c̣n có thể
tinh tấn, dũng mănh tu hành, đều cùng nhóm đến
để nghe Phật pháp. “Vị tằng kiến như
thị, vô chư tạp uế chúng” (chưa từng thấy
pháp hội nào được như thế này, không có đại
chúng tạp uế): Khi có hội Đại Tập ấy,
dường như chẳng có tam tai, chẳng có ngũ trược.
Chưa từng gặp [một pháp hội] như vậy,
chẳng có tạp uế, chẳng có chúng sanh như vậy.
Con dùng thời gian mười ba kiếp để tu hành,
tham gia rất nhiều cuộc tụ hội của chư
Phật. Nơi chốn nhóm họp của các đức Phật
rất tốt đẹp, đại chúng đến dự
đều rất thanh tịnh. Thế gian trong các xă hội ấy cũng rất tốt
đẹp, chúng sanh cũng rất thanh tịnh. Nhưng nay
con thấy khác hẳn, ư nghĩa chủ yếu Bồ Tát muốn
hỏi ở đây là hỏi về thế giới này.
(Kinh)
Vân hà thử Phật quốc, uế ác, tổn tịnh thiện,
trí giả giai viễn ly, ác hạnh giả đồng
cư, đa tạo Vô Gián tội, phỉ báng ư chánh pháp,
hủy thánh, khởi ác kiến, vọng thuyết đoạn
thường luận, cụ tạo Thập Ác nghiệp, bất
úy hậu thế khổ, đa viễn ly tam thừa, xú uế
hướng ác thú. Vô minh tế kỳ mục, tham tật
đa gian kiểu, vân hà chuyển Phật Luân, độ thử
chúng sanh loại? Vân hà phá tương tục, như kim cang
phiền năo? Vân hà đắc tổng tŕ, quả năng
như thị nhẫn? Kim ngă kiến đạo sư,
Đại Tập thậm hy hữu, vị tằng kiến
dư xứ, cụ như thị chúng đức, cụ
đỗ đa công đức, cần tu Bồ Đề
đạo, vân hà xử ngu chúng, năng khai thị Phật
Luân?
(經)云何此佛國,穢惡損淨善;智者皆遠離,惡行者同居;多造無間罪,誹謗於正法;毀聖起惡見,妄說斷常論;具造十惡業,不畏後世苦;多遠離三乘,臭穢向惡趣;無明蔽其目,貪嫉多奸矯,云何轉佛輪,度此眾生類?云何破相續,如金剛煩惱?云何得總持,果能如是忍?今我見導師,大集甚希有,未曾見餘處,具如是眾德,具杜多功德,勤修菩提道。云何處愚眾,能開示佛輪?
(Kinh:
Cớ sao cơi Phật này, nhơ ác, tổn tịnh thiện,
người trí đều xa ĺa, kẻ ác hạnh cùng ở,
tạo nhiều tội Vô Gián, và phỉ báng chánh pháp, hủy
thánh, dấy ác kiến, nói bừa lư đoạn, thường,
tạo đủ mười ác nghiệp, chẳng sợ
khổ đời sau. Hay xa ĺa tam thừa, hôi bẩn, hướng
đường ác. Vô minh che lấp mắt. Tham, ganh, lắm
gian trá. Làm sao chuyển Phật Luân, độ loại chúng sanh này? Phiền năo như kim cang, phá
tương tục ra sao? Làm sao đắc Tổng Tŕ? Đắc
Pháp Nhẫn như thế? Con nay thấy đạo
sư, Đại Tập rất hiếm có, chưa từng
thấy nơi khác, đủ các đức đầu đà. Siêng tu Bồ
Đề đạo, làm sao giữa kẻ ngu, hay khai thị
Phật Luân?)
“Vân
hà thử Phật quốc, uế ác tổn tịnh thiện”
(V́ sao cơi Phật này nhơ uế, xấu ác, tổn hại
điều thiện thanh tịnh): V́ sao quốc độ
này, cũng chính là thế giới Sa Bà bẩn thỉu, rối
loạn khôn sánh, toàn là chúng sanh tánh ác, chẳng có thiện
tín thanh tịnh? “Tổn tịnh thiện”: Trong phần
trước đă nói về Thanh, ở đây nói đến
Tịnh. Đây là tác dụng của việc phiên dịch
văn tự. Đại chúng thanh tịnh như thế, chẳng
có người nào “thông minh, sáng suốt,
siêng năng, thanh tịnh, có trí huệ” mà đến thế giới này, họ đều xa
ĺa. Chúng sanh làm ác đều tụ tập lại, thế
giới này là các điều ác đục ngầu. “Đa
tạo Vô Gián tội” (tạo nhiều tội Vô Gián):
Toàn là tạo nghiệp thuộc
tội Vô Gián: Giết mẹ, giết cha, giết A La Hán,
làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp Tăng. Đó gọi
là năm tội Vô Gián. Thậm chí “phỉ báng ư chánh
pháp” (phỉ báng chánh pháp).
“Chánh
pháp” ở đây tức là pháp
thanh tịnh do đức Phật nói. Nói theo phía chúng ta, tin
tưởng chính ḿnh là Phật th́ càng thâm áo hơn. Ở
đây, chánh pháp chính là hành Thập Thiện nghiệp,
cũng là mười nghiệp nơi thân, miệng, ư. “Nương theo lời đức Phật chỉ dạy,
chẳng làm các điều ác”, [như thế th́] đều được
coi là chánh pháp. [Không chỉ hủy báng chánh pháp,
mà họ] thậm chí báng hủy bậc “thánh giả”.
“Thánh giả” là nói đến đức Phật hay các vị
đại Bồ Tát. [Báng hủy thánh giả] là hủy báng Tam Bảo. Họ
nh́n vấn đề khác chúng ta, thậm chí đốt
tượng Phật, giết ḥa thượng, bắt giam
ḥa thượng, thậm chí thiêu hủy
Đại Tạng Kinh, cho đấy là mê tín.
“Hủy
thánh, khởi ác kiến, vọng thuyết đoạn
thường luận” (hủy báng bậc thánh, dấy
lên ác kiến, nói xằng bậy các luận thuyết
thường kiến và đoạn kiến): Họ đàm
luận với nhau toàn là những lời lẽ hư vọng,
chẳng phải là Đoạn th́ sẽ là Thường.
Nói chung là [thiên chấp] hai bên, chẳng khế hợp Trung
Đạo. Hoặc là nói “đời người chết rồi
là hết chuyện”, đó là Đoạn Kiến. Mong tưởng ǵn giữ tấm thân
cho mai sau, ǵn giữ thân thể của chính ḿnh, muốn
sống lâu hơn, đó là Thường Kiến. Nếu
đó là sự thật, trong thế gian thật sự có
chuyện ấy, ai nấy đều vĩnh viễn chẳng
muốn chết, chẳng thể được! Chẳng
rơi vào Đoạn, bèn rơi vào Thường. Nói hư vọng,
nói điên đảo, [đó là] “vọng thuyết
đoạn thường luận”.
Những
ǵ họ đă gây tạo đều là Thập Ác. Thân có ba
điều, “giết, trộm, dâm”. Miệng có bốn
điều “nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều,
nói thô ác”. Ư có ba điều, “tham, sân, si”. Mười điều
ấy được gọi là Thập Ác nghiệp. Thêm vào
chữ Chẳng, sẽ là Thập Thiện. Chẳng dấy lên tham, sân, si. Chẳng dấy lên giết, trộm, dâm, chẳng tạo
giết, trộm, dâm. Khi tạo nghiệp Thập Ác, họ
(chúng sanh trong thế giới Sa Bà) chưa hề sợ hăi
tương lai phải hứng chịu khổ báo. V́ họ
dấy lên Đoạn Kiến, [cho rằng] chẳng có
đời sau. Họ chẳng sợ
đời sau khổ sở chi cả, c̣n nói ǵ đến [mong cầu chứng đắc các quả vị thuộc]
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thừa.
“Đa
viễn ly tam thừa” (hay xa ĺa tam thừa): Càng chẳng
thể thân cận thiện pháp, tu đạo chánh pháp họ
c̣n xa ĺa. Đă ĺa tam thừa, sẽ hướng về chỗ
nào? Đọa vào tam ác đạo. “Xú uế hướng
ác thú” (hôi nhơ vào đường ác): Chịu khổ
trong ba đường ác. Khổ nhất là địa ngục,
ngạ quỷ, và súc sanh, c̣n nhân gian th́ cũng chẳng thấy
tốt đẹp ra sao cả! Hưởng hết
phước trời, chắc chắn sẽ đọa
lạc. Nói năm đường ác cũng được,
mà nói sáu đường [đều ác] cũng
được. Nói theo lẽ
thông thường, “xu hướng ác thú” (tiến
hướng đường ác) chính là nói về ba ác đạo.
V́
sao họ làm như vậy? V́ họ bị vô minh che lấp
pháp nhăn thanh tịnh. [Đó là ư
nghĩa của câu] “vô minh tế kỳ mục”. Họ
chẳng thấy. Chẳng phải
là tâm tham, th́ là ghen tỵ. “Tham, tật, đa gian kiểu”
(tham lam, ganh ghét, nhiều gian trá): [Chẳng phải là tham
lam, ghen tỵ] th́ cũng là gian trá khôn cùng. Đối với
chúng sanh như thế đó, xă hội như thế đó,
Phật sẽ độ chúng sanh như thế nào? “Vân hà
chuyển Phật Luân” có nghĩa là Ngài sẽ thuyết
pháp như thế nào? Chuyển Phật Luân để đối
trị ác luân của chúng sanh như thế nào? Đấy
là các ư nghĩa được bao hàm trong bộ kinh Thập
Luân này.
V́
sao nói là Luân? Luân (bánh xe) có công năng nghiền nát. Như ở
đây, chúng ta có động lực thúc đẩy [bánh xe] tiến lên
trước, bánh xe có thể nghiền nát, Phật Luân sẽ
nghiền nát, chuyển hóa ác nghiệp của chúng sanh. Đức
Phật chuyển Phật Luân như thế nào để
độ hạng chúng sanh ấy? “Vân hà phá tương tục,
như kim cang phiền năo” (làm thế nào để phá phiền
năo cứng chắc như kim cang luôn liên tục): Phiền năo của chúng sanh cứng bén, rắn
chắc như kim cang, tồn tại liên tục chẳng ngừng,
Ngài chuyển Phật Luân bằng cách nào để cắt
đứt gịng nghiệp liên tục của chúng sanh,
cũng là cắt đứt gịng phiền năo, sanh khởi gịng
thanh tịnh, khiến cho họ giải thoát. Hoặc là dùng
trí huệ Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật để phá trừ phiền
năo, khiến cho họ chứng đắc tam-muội.
“Vân hà đắc Tổng
Tŕ” (Làm thế
nào để đắc Tổng
Tŕ), tức là
đạt được tam-muội, đắc đại
định. [Tổng Tŕ] là “tổng
nhất thiết pháp, tŕ vô lượng nghĩa” (gồm
chung hết thảy các pháp, nắm giữ vô lượng
nghĩa). Như thế th́ có thể chứng đắc Vô
Sanh Pháp Nhẫn hay không? “Nhẫn” ở đây là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nếu
đúng là như thế, có thể đạt được
như vậy hay không?
“Kim ngă kiến đạo
sư, Đại Tập thậm hy hữu, vị tằng
kiến dư xứ, cụ như thị chúng đức,
cụ đỗ-đa công đức, cần tu Bồ Đề đạo.
Vân hà xử ngu chúng, năng khai thị Phật Luân” (con nay thấy
hội Đại Tập của đấng đạo
sư rất hy hữu. Chưa từng thấy ở các
nơi khác có đầy đủ các đức như thế,
trọn đủ công đức Đầu Đà, siêng tu đạo Bồ Đề. Làm thế nào ở
trong đại chúng ngu muội mà có thể chỉ dạy
Phật Luân): Bồ Tát tán thán Phật. Con nay thấy hội
Đại Tập của đấng đạo sư,
dường như biến đổi, Ngài độ thoát
như thế nào để chuyển biến đời ác
ngũ trược thành [tốt đẹp] như thế
này? Con chưa từng thấy ở các nơi khác có hội
Đại Tập giống như hiện thời. “Đỗ-đa” (杜多, Dhuta) là phiền năo. Đoạn trừ hết thảy phiền
năo, các trần cấu phiền năo ấy đều bị
đoạn trừ. Đoạn trừ phiền năo chính là
công đức. Làm thế nào để đạt
được công đức như thế? Đoạn trừ
các phiền năo ấy bằng cách nào? Siêng tu đạo Bồ
Đề th́ sẽ đạt được. Thứ tự
trong đạo Bồ Đề là tu từng bước một.
Từ sám hối tội nghiệp, sau đấy, tu Định,
tu Huệ, chuyện này rất khó khăn!
“Vân
hà xử ngu chúng, năng khai thị Phật Luân” (làm thế
nào để ở trong đại chúng ngu muội như vậy
mà có thể khai thị Phật Luân): Ở giữa đại
chúng ngu si như thế ấy, đức Phật có thể thanh tịnh bằng cách nào? Vẫn có thể thuyết pháp độ chúng sanh như thế nào? “Khai thị Phật Luân”
là thuyết pháp. Từ đây trở đi, đức Phật
dùng tỷ dụ để thuyết minh Thập Luân, và
cũng dùng Thập Luân của Phật để chuyển
hóa Thập Ác Luân của chúng sanh. Ở đây, mười
ác nghiệp là Thập Luân. Chuyển động Phật
Luân như thế nào? Đức Phật dùng tỷ dụ,
lại c̣n thị hiện xoay chuyển Phật Luân. Những
điều đức Phật sắp nói chính là Thập
Luân [của Phật].
(Kinh)
Thế Tôn cáo viết: - Thiện tai! Thiện
tai! Thiện nam tử, nhữ ư quá khứ Căng-già sa đẳng
chư Phật thế giới, ngũ trược ác thời,
dĩ tằng thỉnh vấn Căng-già sa đẳng
chư Phật Thế Tôn như thị pháp nghĩa. Nhữ
ư như thị sở vấn pháp nghĩa, dĩ tác cù
lao, dĩ thiện thông đạt, dĩ đáo viên măn chúng
hạnh bỉ ngạn, dĩ đắc thiện xảo
phương tiện diệu trí. Kim vị thành thục nhất
thiết hữu t́nh, linh đắc lợi ích an lạc sự
cố, vị linh nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát, thiện
xảo phương tiện thánh hạnh phục tạng
Thí đẳng lục chủng Ba La Mật Đa, thành thục
nhất thiết hữu t́nh thắng hạnh, Nhất Thiết
Trí trí công đức đại hải tốc viên măn cố.
Vị chuyển nhất thiết Sát-đế-lợi
vương chư bạo ác hạnh, sử bất đọa
lạc tam ác thú cố. Vị linh thử độ Tam Bảo
chủng tánh oai đức xí thịnh cửu trụ thế
cố. Phục vấn Như Lai như thị pháp nghĩa.
Đế thính! Đế thính! Thiện tư niệm
chi! Ngô
đương vị nhữ phân biệt, giải thuyết”.
“Dụy nhiên Thế Tôn, nguyện nhạo dục văn”.
(經)世尊告曰:善哉!善哉!善男子,汝於過去殑伽沙等諸佛世界,五濁惡時,已曾請問殑伽沙等諸佛世尊如是法義。汝於如是所問法義,已作劬勞,已善通達,已到圓滿眾行彼岸,已得善巧方便妙智。今為成熟一切有情,令得利益安樂事故;為令一切菩薩摩訶薩善巧方便,聖行伏藏,施等六種波羅蜜多,成熟一切有情勝行,一切智智功德大海速圓滿故;為轉一切剎帝利王諸暴惡行,使不墮落三惡趣故;為令此土三寶種姓威德熾盛,久住世故,復問如來如是法義。諦聽!諦聽!善思念之!吾當為汝分別解說。唯然,世尊,願樂欲聞。
(Kinh:
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Trong quá khứ,
vào thời ác ngũ trược, ông đă từng ở
trong các thế giới của chư Phật nhiều
như cát sông Hằng, thưa hỏi các đức Phật
Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng về pháp nghĩa
như thế. Đối với pháp nghĩa đă hỏi như thế,
ông đă từng nhọc nhằn, đă khéo thông đạt,
đă viên măn các hạnh, đạt đến bờ kia,
đă đạt được diệu trí phương tiện
thiện xảo. Nay v́ thành thục hết thảy hữu
t́nh, khiến cho họ đạt được các sự
lợi ích an lạc, v́ khiến cho hết thảy Bồ
Tát Ma Ha Tát dùng kho tàng thánh hạnh phương tiện thiện
xảo như Thí v.v… sáu Ba La Mật Đa để thành thục
hạnh thù thắng cho hết thảy hữu t́nh, v́ mau
chóng viên măn biển cả công đức của trí Nhất
Thiết Trí. V́ chuyển biến các hạnh bạo ác của
hết thảy vua Sát-đế-lợi, để họ
chẳng đọa lạc trong ba đường ác. V́ khiến
cho chủng tánh Tam Bảo trong cơi này oai đức lừng
lẫy tồn tại lâu dài trong thế gian, cho nên lại hỏi Như Lai pháp
nghĩa như thế. Lắng nghe! Lắng nghe! Hăy khéo suy
niệm, ta sẽ v́ ông phân biệt, giải nói”. “Thưa
vâng đức Thế Tôn! Con mong ưa thích nghe”).
Khi nói về Thập Luân, trước hết, [đức
Phật] dùng chuyện quốc vương trong thế gian
thuở đầu tiếp nhận ngôi vua cho đến quá
tŕnh làm thế nào để đạt
được vương vị nhằm thuyết minh
đức Phật tu thành Phật đạo như thế
nào? Sau khi Bồ Tát đă xin chỉ dạy như vậy,
trước khi đức Phật thuyết pháp, bèn bảo: “Ông thưa hỏi điều này, không chỉ
hướng về ta thưa hỏi, mà ông đă thưa hỏi
quá nhiều lần. Không chỉ hỏi ta, mà ông c̣n hỏi
chư Phật nhiều như cát sông Hằng”. Đức
Phật bèn khen ngợi: “Thiện tai! Thiện tai!”, tức
là tán thán lời thưa hỏi của Bồ Tát, ông hỏi
hay lắm! “Thiện nam tử” là từ ngữ đức
Phật dùng để gọi Địa Tạng Bồ Tát.
“Nhữ ư quá khứ Căng-già sa đẳng
chư Phật thế giới ngũ trược ác thời” (trong quá khứ,
vào thời ác ngũ trược, ông đă ở trong các thế
giới Phật nhiều như cát sông Hằng): Địa
Tạng Bồ Tát luôn ra đời trong thời đại
không có Phật tại thế, nhằm lúc đời ác
ngũ trược để giáo hóa chúng sanh. Hiện thời
cũng có thể coi như là lúc không có Phật xuất thế.
Đức Phật đă nhập Niết Bàn, chỉ c̣n
lưu lại Phật pháp, nhưng chúng ta chẳng hiểu
rơ nghĩa chân thật của các pháp ấy. Đấy là loại
thứ nhất.
Tiếp
đó, chẳng liễu giải pháp ấy là thật hay giả,
là hư hay thật. Tôi thấy như thế này: Đối với các loại pháp nghĩa như Hiển giáo, Mật
giáo, tứ giáo, ngũ giáo, Tịnh Độ, Hiền Thủ,
chúng ta do thiếu trí huệ nên chẳng thể hiểu rơ
được! Điều này cho thấy: Hiện thời, xác thực là đời
ác ngũ trược. Thuở đức Phật tại thế,
có rất nhiều pháp nghĩa, nếu chúng ta vừa nghe
pháp liền có thể khai ngộ, liền có thể chứng
Chân, có thể
tiêu trừ phiền năo! C̣n [như trong hiện thời],
chúng ta tuy nghe rất nhiều bộ kinh, học rất nhiều
bộ kinh; tuy vậy, chẳng thể đoạn Hoặc,
chẳng thể chứng đắc Pháp Nhăn Tịnh.
Đa
số mọi người nh́n nhận vấn đề,
nếu chẳng rơi vào Đoạn, th́ sẽ rơi vào
Thường. Cái tâm suy nghĩ, không nghĩ về Thường,
sẽ nghĩ đến Đoạn, rất ít khi khế hợp
nghĩa Trung Đạo. Điều này chứng tỏ thiện
căn của chúng ta nông cạn, mỏng tanh. Đă học
bộ kinh này xong th́ phải hành.
Phương pháp Phật Luân dạy chúng ta cách tu. Tu như
thế nào? Phải thật sự thực hiện. Tuy vậy,
hiện thời chúng ta tuy học, nhưng chẳng học
được cái tâm nhẫn nại. Tôi nói điều này,
mọi người đừng nổi cáu! Các đạo hữu
xếp chuyện học pháp vào bậc thứ hai th́ cũng
rất tốt, hoặc xếp vào bậc thứ ba th́
cũng khá lắm rồi. Tôi nói chuyện này bao gồm cả
tỳ-kheo lẫn tỳ-kheo-ni trong ấy. Người thật
sự có tâm thiết tha liễu sanh tử, biết thế
giới này vô thường, nhận biết thế giới
này là khổ, họ sẽ chẳng đối đăi với
pháp như vậy. Nay chúng ta đối đăi với pháp
như thế nào th́ trong ḷng ḿnh đều tự biết.
V́ sao như vậy? Đấy là do túc nghiệp trong quá khứ
của chúng ta, con mắt trí huệ bị vô minh che lấp.
Đấy là t́nh cảnh của chúng ta trong hiện tại.
V́ sao chẳng có trí huệ như thế? V́ sao trong cuộc
sống hiện thực, lại buông lung như thế?
Chúng ta vẫn tham luyến; thật ra, chúng ta đều biết
đức Phật đă dạy chúng ta rất nhiều
phương pháp đối trị tốt đẹp, v́ sao
chúng ta chẳng thực hiện? Đấy là nguyên nhân khiến
cho Địa Tạng Bồ Tát vất vả, mệt nhọc
trong thế giới này.
Do
vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Địa Tạng Bồ
Tát: “Những vấn đề như ông đă hỏi,
ông đă từng hỏi quá nhiều đức Phật. Ở nơi chư Phật nhiều như
cát sông Hằng, ông đă đều từng hỏi các đạo
lư ấy. Ông đă v́ đạo lư đă hỏi ấy mà bỏ
rất nhiều công sức, đă trả giá rất lớn.
Nói theo phía cá nhân ông, ông đă thông đạt, các hạnh
đă viên măn, đă đạt tới bờ kia, đă đắc
diệu trí phương tiện thiện xảo, có thể
thị hiện cho chúng sanh đủ loại phương
tiện, nghĩ ra hết thảy các pháp để dẫn dụ chúng sanh tin tưởng,
dẫn dụ chúng sanh tiến nhập. Sau đấy, sẽ
làm cho họ thành thục, chẳng c̣n tạo tội nữa!
Nay ông hướng về ta thưa hỏi, cũng nhằm mục
đích này: Khiến cho hết thảy chúng sanh đạt
được lợi ích, được an lạc,
cũng như khiến cho hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát
trọn đủ phương tiện thiện xảo
để độ chúng sanh, v́ chẳng phải vị Bồ
Tát nào cũng đều trọn đủ phương tiện
thiện xảo. Khi các vị đại Bồ Tát Ma Ha Tát học
pháp, đă khai ngộ, đă chứng đạo, nhưng phương pháp
lợi lạc chúng sanh hoàn toàn chẳng
đơn giản. V́ chúng sanh có quá nhiều chủng loại,
đối với nghiệp chướng của chúng sanh, ắt
cần phải vận dụng phương tiện cực
thiện xảo, chiếu theo việc làm của bậc
thánh. Thế nhưng, Địa Tạng Bồ Tát đă
đều trọn đủ. Tất cả những ǵ cất
giấu trong kho báu ấy, chính là Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn
Nhục, Thiền Định, Trí Huệ, lục Ba La Mật,
từ bi, hỷ, xả, tứ vô lượng tâm. Dùng các thứ
ấy để thành thục hết thảy hữu t́nh.
“Nhất
Thiết Trí trí công đức đại hải tốc viên
măn cố” (v́ mau chóng viên măn biển cả công đức
của trí Nhất Thiết Trí ): Trí Nhất Thiết Trí là
đại trí huệ trong hết thảy các thứ trí huệ, ở đây là
nói về đức Phật. “Vị chuyển nhất
thiết Sát-đế-lợi vương chư bạo ác hạnh”
(v́ chuyển biến các hạnh bạo ác của hết thảy
các vua Sát-đế-lợi): Hiện thời, các hạnh tàn
bạo, độc ác của các vua Sát-đế-lợi
trong thời Mạt Pháp đều trọn đủ. Phàm
những ai làm thủ lănh, chúng ta đều coi họ là vua
Sát-đế-lợi. Các chánh sách do họ chấp hành, đại
đa số là tạo nghiệp. Đối với lời
hỏi của Địa Tạng Bồ Tát, đức Phật
bảo: “Ông hăy nên chuyển biến ác vương ấy,
đừng để cho ông ta làm điều bạo ác ḥng khỏi đọa lạc trong ba ác đạo”.
Đồng
thời, c̣n v́ có thể nhiếp
nhập chủng tánh Tam Bảo, [khiến cho] oai đức của
Phật Pháp Tăng Tam Bảo hưng thịnh lâu dài, trụ
lâu dài trong thế gian. Do vậy, ông hỏi Như Lai các pháp nghĩa ấy rất hay, rất quan trọng. Phải
như thế nào th́ mới có thể khiến cho chúng sanh
thoát ly đau khổ, khiến cho chúng sanh trong thời
đại Mạt Pháp ngũ trược ác thế chẳng
đọa lạc vào tam đồ? Ông hỏi rất hay,
hăy nên chăm chú lắng nghe! Hăy lắng nghe! Ta sẽ nói cho
ông. Ông phải như lư mà nghe, hăy nghe như thật.
Đối
với mỗi vị thỉnh pháp, đức Phật đều
sử dụng câu “đế thính, đế thính”. Chẳng
lẽ Địa Tạng Bồ Tát không nghe đúng lư ư? Đức Phật dạy chúng ta
phương thức: Khi nghe pháp, nhất định phải
lắng nghe, nghe chăm chú. [Chúng ta] chưa thể nghe như lư, [đành phải chấp nhận yêu cầu] tối thiểu
là đừng tam tâm, nhị ư. Nay đang trong lúc nghe, hăy tập trung tâm lực
mà nghe th́ mới có thể tiến nhập. Nếu chẳng
tập trung tâm lực, quư vị sẽ chẳng thể nhập,
có ư nghĩa ấy! Đây là bậc đại Bồ Tát thỉnh
pháp, đức Phật thuyết pháp, đều nhằm
nêu gương cho chúng ta. Nghe xong, quư vị c̣n phải khéo
suy niệm, c̣n phải khéo quán tưởng. “Ngô
đương vị nhữ phân biệt, giải thuyết” [nghĩa là] nay ta sẽ
phân biệt nói rơ ràng từng điều cho ông. Địa
Tạng Bồ Tát ngay lập tức đáp: “Dụy nhiên
Thế Tôn!” [nghĩa là] “vâng ạ! Bạch Phật”. Con
ưa thích nghe, con rất hoan hỷ nghe đức Phật
thuyết pháp. Đây là nghi thức, một đằng hỏi,
một đằng đáp. Tuy vậy, vẫn chưa vào phần
chánh yếu. Ở đây là phương thức thỉnh
pháp và phương thức hứa khả sẽ nói.
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo Địa Tạng Bồ Tát Ma
Ha Tát ngôn: - Thiện nam tử!
Như Lai do bổn nguyện lực, thành tựu thập chủng
Phật Luân, cư thử Phật độ, ngũ trược
ác thế, nhất thiết hữu t́nh thoái một nhất
thiết bạch tịnh thiện pháp, quỹ phạp sở
hữu Thất Thánh Tài bảo, viễn ly nhất thiết
thông mẫn trí giả, đoạn thường la vơng chi sở
phú tế, thường háo thừa ngự chư ác thú xa,
ư hậu thế khổ bất kiến bố úy, thường
xử biến trọng vô minh hắc ám, cụ túc thập
chủng bất thiện nghiệp đạo, tạo
ngũ Vô Gián, phỉ báng chánh pháp, hủy tư hiền
thánh, ly chư thiện pháp, cụ chư ác pháp. Ngă trụ
như thị tạp ác độ trung, đắc an ổn
trụ, đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, tự
xưng ngă xử đại tiên tôn vị, chuyển ư Phật
Luân, hàng chư thiên ma, ngoại đạo
tà luận, tồi diệt nhất thiết chư chúng sanh
loại, do như kim cang kiên cố phiền năo, tùy kỳ sở
nhạo, an trí nhất thiết hữu lực chúng sanh, linh
trụ tam thừa bất thoái chuyển vị.
(經)爾時,佛告地藏菩薩摩訶薩言:「善男子,如來由本願力,成就十種佛輪,居此佛土五濁惡世。一切有情,退沒一切白淨善法,匱乏所有七聖財寶,遠離一切聰敏智者,斷常羅網之所覆蔽,常好乘馭諸惡趣車,於後世苦不見怖畏,常處遍重無明黑闇,具足十種不善業道,造五無間,誹謗正法,毀呰賢聖,離諸善法,具諸惡法。我住如是雜惡土中,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,自稱我處大仙尊位,轉於佛輪,降諸天魔外道邪論,摧滅一切諸眾生類,猶如金剛堅固煩惱,隨其所樂,安置一切有力眾生,令住三乘不退轉位。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát:
-
Này thiện nam tử! Như Lai do sức bổn nguyện,
thành tựu mười thứ Phật Luân, ở trong cơi Phật
này, nhằm đời ác ngũ trược, hết thảy
hữu t́nh lui sụt, đánh mất hết thảy thiện
pháp trắng sạch, thiếu hụt tất cả của báu Thất Thánh Tài, xa
ĺa hết thảy bậc thông minh, trí huệ, bị lưới
rập Đoạn Kiến và Thường Kiến che
ngăn, thường chuộng ngồi xe vào đường
ác, chẳng thấy sợ hăi nỗi khổ trong đời
sau, thường ở trong vô minh tối tăm nặng nề
trọn khắp, trọn đủ mười thứ nghiệp
đạo bất thiện, tạo năm tội Vô Gián, phỉ
báng chánh pháp, hủy báng, chê bai hiền thánh, ĺa các thiện pháp, trọn
đủ các ác pháp. Ta trụ trong cơi nước tạp ác
như thế, được an ổn trụ, chẳng bị
kinh hoảng, được không sợ hăi, tự
xưng là ta ở nơi địa vị tôn quư của bậc
đại tiên, xoay chuyển Phật Luân, hàng phục tà luận
của các thiên ma và ngoại
đạo, dẹp tan hết thảy phiền năo kiên cố
ví như kim cang của hết thảy các loài chúng sanh, tùy
ḷng họ ưa thích mà đặt yên hết thảy chúng
sanh có sức nơi địa vị Bất Thoái Chuyển
trong tam thừa).
Đức
Phật liền bảo Bồ Tát: Do quá khứ ta đă phát
nguyện, mỗi vị Phật phát nguyện khác nhau, cho
nên mỗi vị Phật thị hiện phương tiện
thiện xảo, nhiếp thọ chúng sanh cũng khác nhau. A
Di Đà Phật phát ra bốn mươi tám nguyện, muốn
kiến lập thế giới Cực Lạc, dùng thế
giới Cực Lạc để nhiếp thọ chúng sanh.
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai kiến lập thế
giới Lưu Ly Quang để trị liệu bệnh tật
của chúng sanh, nhiếp thọ chúng sanh. Trong số một ngàn vị Phật thuộc Nhân Hiền
Kiếp, Thích Ca Mâu Ni Phật phát nguyện chuyên ở trong đời
ác ngũ trược, lại c̣n vào lúc thọ mạng con
người chỉ có một trăm
năm. Mọi người thấy đó, thọ mạng
của Thích Ca Mâu Ni Phật ngắn nhất, chỉ một
trăm năm. Vị Phật trước Ngài là Ca Diếp
Phật, thọ mạng là một vạn năm. Nay chúng ta nói
Thất Phật, tức là nói [ba vị Phật quá khứ
trong Trang Nghiêm Kiếp và] bốn vị Phật trong Hiền
Kiếp [lần lượt] có tuổi thọ là bốn vạn
năm, ba vạn năm, hai vạn năm, và một vạn
năm, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ thọ một trăm năm. Vào lúc một ngàn vị
Phật trụ thế, thọ mạng của Thích Ca Mâu Ni
Phật ngắn nhất. Ngài cũng chẳng sống đến
một trăm năm, tám mươi tuổi đă ra đi,
duyên đă hết rồi. Đấy là v́ sức bổn nguyện.
Nhưng
do có mười loại Phật Luân, cho nên ở trong cơi Phật
này, tức là trong đời ác ngũ trược của
thế giới Sa Bà, tuy ta thấy chúng sanh đă lui sụt,
đánh mất hết thảy các thiện pháp trắng sạch.
Đă chẳng có pháp trắng sạch, sao họ có thể
tŕ giới và tin tưởng cho được? Chẳng
tin th́ làm sao có thể tŕ giới? Lẽ nào có định huệ
cho nổi? Chẳng thể nào! Họ có thể hành bố
thí hay không? Phàm là người có thể hành, sẽ là chúng
sanh trọn đủ Thất Thánh Tài. Chẳng hạn
như các vị đạo hữu đang hiện diện
tại đây, có rất nhiều người đă thọ
Tam Quy, đă thọ Ngũ Giới. Quư vị trọn đủ Giới
Tài, trọn đủ quy y Tam Bảo. Rất nhiều
người cúng dường, hành bố thí, quư vị đă
thực hiện Tài Thí. Vậy là đă trọn đủ, vẫn
được coi là người thông minh, trí huệ, có thể
nghe kinh thính pháp.
Ở
đây nói đến các chúng sanh thiếu khuyết của báu Thất Thánh Tài. Trong cùng một thời
gian, rất nhiều người đều làm ǵ? Chúng ta có
thể nghĩ ra hay không? Lục thân quyến thuộc đang
làm ǵ? Quư vị đến đây nghe kinh, [c̣n họ th́
đang làm ǵ], cứ so sánh, sẽ thấy rất rơ ràng, chẳng
cần phải nói nữa. Người thông minh, có trí, thế
nào là người trí? Quư vị biết chọn lựa.
Người có trí huệ biết chọn lựa nên đi
theo con đường nào, mỗi ngày nên làm chuyện ǵ.
Người ấy biết chọn lựa. Kẻ chẳng
có trí huệ sẽ chọn lựa khác hẳn. Kẻ ấy
chọn ngồi “ác thú xa”, tức là tiến hướng
tới nẻo ác. Chúng ta ngồi xe Nhị Thừa, tiến
hướng tam thừa đạo. Hoàn toàn bất đồng!
Chúng ta chẳng có nỗi khổ trong đời sau. V́ sao?
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tŕ giới thanh tịnh,
bố thí, nhẫn nhục. Như vậy th́ sẽ giảm
bớt rất nhiều họa hại.
Chúng
ta sợ nỗi khổ trong đời sau. V́ thế, đời
này phải tu, phải nghe pháp. Chúng ta chú trọng quang minh,
phải phá trừ tối tăm, đừng làm mười
thứ nghiệp đạo bất thiện, hăy hành thập
thiện nghiệp đạo. Chúng ta là đệ tử tin
Phật, thành tựu nghiệp đạo. Tôi rất ít nghe thấy đệ tử Phật ngoác miệng chửi
bới kẻ khác ầm ĩ. Có người nói: “Lăo ḥa
thượng ơi! Thầy chẳng
nghe thấy đó thôi!” Tôi nghe thấy chẳng ít, đó là sự
thật, bất quá, [những Phật tử chửi bới
người khác như thế] vẫn là thiểu số.
Khi đệ tử Phật chửi người khác, họ
có sự băn khoăn, trong tâm họ sẽ nghĩ chính
ḿnh đang ác khẩu. Đệ tử Phật cũng có kẻ lường gạt, họ cũng muốn sám hối
một phen: “Khi ấy, tôi làm như vậy chẳng
đúng”. Nếu chẳng phải là đệ tử Phật,
ngay cả ư nghĩ không đúng cũng chẳng có. Khi trả
thù, “tao mong cho mày chịu khổ trước đôi chút rồi
mới nói”. Họ có tâm lư ấy, có tâm thái ấy. Cho nên xe
chở vào đường ác trong đời sau, họ
đă ngồi sẵn trên đó rồi!
Phàm
là kẻ chẳng sợ nỗi khổ trong đời sau,
sẽ ngồi trên xe vào ác thú, đọa lạc trong
đường ác. Chúng sanh sợ nỗi khổ trong đời
sau sẽ chẳng vậy. Tuy chúng ta cũng sống trong hắc
ám, nhưng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
cho đến niệm một câu thánh hiệu Quán Thế Âm
Bồ Tát, niệm một câu thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát. Một niệm ấy chính là
quang minh. Quư vị niệm một câu, câu ấy chính là quang
minh. Quư vị niệm từng câu, mỗi câu đều là
quang minh. Quư vị sẽ có thể dần dần đột
phá tầng tầng chướng ngại và tối tăm. Đấy
là người có trí huệ, có thể xa ĺa thập bất
thiện nghiệp đạo, sẽ hành thập thiện
nghiệp đạo. Nói đến tội Ngũ Vô Gián, phỉ
báng chánh pháp, hủy gièm bậc hiền thánh, mọi người
phải chú ư. Là người tin Phật, quư vị chớ
nên hủy báng. Nếu đối với các pháp do đức
Phật đă nói, quư
vị tin tưởng pháp này, hủy báng pháp kia, đó là diệt
pháp. Nếu tôi giảng kinh, tụng kinh, nói niệm Phật
không tốt, tức là đă báng bổ niệm Phật,
đấy là báng pháp. Tôi niệm Phật bèn nói tụng kinh
và giảng kinh chẳng tốt, đấy cũng là báng
pháp. Tôi giảng bộ kinh này, nói bộ kinh kia không đúng,
đấy đều là báng Pháp. Tôi chẳng có duyên với
bộ kinh kia, càng phải nên cúng dường, lễ bái, mong mỏi kết
duyên! Hăy nên trọn đủ hết thảy các pháp
nghĩa, đều phải nên hiểu, chớ nên hủy
báng chánh pháp, phải đặc biệt chú ư điều
này!
Hiện
thời, trong các đạo hữu chúng ta, đúng là có những
kẻ chẳng biết hậu quả do báng pháp, cứ nói
luông tuồng! Thậm chí tôi là đệ tử của chùa
này, người khác là đệ tử của chùa kia, rất
có thể đôi bên c̣n đánh nhau, xác thực là có chuyện
ấy. Chùa miếu c̣n đánh lẫn nhau, huống hồ các
đạo hữu tại gia! Nhưng quư vị phải biết:
Đấy chính là phỉ báng chánh pháp. Phỉ báng cháng pháp, tội
nghiệp rất to. Chọc ngoáy ly gián
giữa Tăng
chúng, hoặc là đối với chùa này bêu riếu chùa nọ,
đối với chùa nọ kể tội chùa này, nguy hiểm
lắm đấy! Đó là tội Ngũ Nghịch, Ngũ
Vô Gián, phá ḥa hợp Tăng chúng. Do vậy, đối với
hết thảy các thánh nhân và hiền nhân, hết thảy các vị Trụ Tŕ,
chúng ta đừng nên tùy tiện phê b́nh. V́ chúng ta chưa
đạt tới cảnh giới ấy. Nếu chúng ta làm
như vậy, sẽ là đi theo hướng ác pháp, chẳng
phải là đi theo thiện
pháp.
Đối trước các tội lỗi,
tuy tôi đă sám hối rất nhiều năm, vẫn là sám
hối chẳng sạch! Khi tuổi trẻ, tôi cũng là
như vậy. Tôi học ngũ giáo, đă nói tứ
giáo chẳng hay bằng ngũ giáo, điều ǵ tiếp
xúc trước sẽ là chánh yếu. Sau đấy, tôi học
tứ giáo, cảm thấy tứ giáo và ngũ giáo đều
chẳng sai biệt cho mấy, tôi cũng chẳng tiến
nhập. Vậy là trong quá khứ đă tạo tội nghiệp
rất nhiều, cá nhân tôi biết sám hối. Đó là kinh
nghiệm của tôi giới thiệu cùng mọi người.
Do vậy, thoạt nh́n th́ phỉ báng chánh pháp rất cạn,
“tôi chẳng báng pháp”, thật ra, quư vị đă báng chẳng
ít lần! Vị sư phụ này tốt lắm, vị
sư phụ kia không tốt. Vị
sư phụ nào cũng đều tốt! Chỉ cần vị
ấy đắp y ca-sa, vẫn là đệ tử Phật,
ta đều nên tán thán, coi vị ấy như hiền nhân,
hoặc coi như thánh nhân. C̣n nhân quả cá nhân của vị
ấy, chính vị ấy sẽ phải gánh vác, chẳng
ăn nhập ǵ đến ta! Ta sẽ chẳng thay vị
đó trái nghịch nhân quả!
Bộ
kinh Thập Luân này chuyên giảng về t́nh h́nh ấy, “đệ
tử của ta bất luận phá giới hay phạm giới
đến mức độ nào, cũng chẳng chấp
thuận sự chế tài của quốc vương”,
đức Phật nói như vậy. Nếu họ chế
tài, vua Sát-đế-lợi ấy là ác vương, v́ sẽ
hủy diệt Tam Bảo. Kẻ đó dẫu bại hoại,
hễ c̣n một mảnh ca-sa, chưa phải là toàn bộ
một tấm ca-sa, quỷ thần trông thấy cũng đạt
được lợi ích. Người không tin, nhưng quỷ
thần tin. V́ họ chịu khổ, quỷ thần có thần
thông, cũng biết quan hệ lợi hại. Con người
hồ đồ, chẳng biết quan hệ lợi hại,
ăn nói luông tuồng, mọi người
phải đặc biệt chú ư, đặc biệt là đối
với chùa miếu, Tăng chúng,
đệ tử Tam Bảo. Thậm chí giữa các đạo
hữu với nhau, Tăng tán thán Tăng th́ Phật pháp
hưng thịnh, có ư nghĩa như thế đó.
Đệ
tử Phật luôn ủng hộ Thích Ca Mâu Ni Phật,
duy tŕ hết thảy chúng sanh, khiến cho chúng sanh trong vị
lai chẳng chịu đau khổ, nhất định phải
làm như thế. Trong quá khứ ta chẳng biết, trót làm rất nhiều chuyện sai trái; nay đă biết,
từ nay về sau chẳng làm nữa. Nhưng trước
kia đă làm sai th́ như thế nào? Đối trước
Phật, Bồ Tát sám hối, đối trước Địa
Tạng Bồ Tát sám hối là được rồi. V́ bộ
kinh Thập Luân này chuyên giảng về sám hối. Hàm
nghĩa của bái sám là mong gột sạch tội lỗi trong quá khứ
của chúng ta. Chúng ta mặc quần áo bẩn thỉu th́
phải giặt giũ. Đă giặt rồi th́ phải giữ cho sạch, sám
hối có ư nghĩa như thế đó. Trong quá khứ, ta đă làm chuyện
sai lầm, ta sửa đổi rồi, chẳng làm nữa.
Quư vị sám hối, tội nghiệp trong quá khứ đă
nhẹ bớt. Biết cách sám hối, quư vị sẽ có biện
pháp. Quư vị có tâm hổ thẹn, đó chính là của cải
quư báu của quư vị.
Tôi
vừa mới nói đến hổ thẹn. Hổ thẹn
là của báu, luôn so sánh với người khác, thấy ḿnh
chẳng bằng người ta. Người ta có công đức,
ta chẳng có công đức. Người khác có của cải,
ta chẳng có của cải. V́ sao người khác có của
cải? Đời trước họ đă tu phước
đức, ta chẳng ganh tỵ, luôn tùy hỷ. Chỉ cần
người khác có công đức, ta đều tùy hỷ, tội
ác của quư vị đă sám hối xong. Hổ thẹn
là gieo của báu. Sở dĩ hết thảy chư Phật
có thể thành đạo, [là v́] khi các Ngài sơ phát tâm trong
quá khứ, đă có tâm hổ thẹn. Thích Ca Mâu Ni Phật nói:
Ta ở trong quốc độ tạp ác này, an trụ rất
ổn định, chẳng sợ hăi. Ta tự cho rằng
ta là Thế Tôn, ta là bậc đại tiên, v́ ta đang chuyển Phật Luân. Chuyển Phật Luân nhằm
đối trị ác luân, nhằm hàng phục các tà luận
của thiên ma và ngoại đạo, dẹp tan phiền năo
của hết thảy chúng sanh. Phiền năo của chúng sanh
kiên cường, khó điều phục. Các phiền năo ấy
cứng chắc như kim cang, ta có thể đập tan. Ta
cũng có thể khiến cho loại chúng sanh ấy
được an lạc.
Đối
với các thiện chúng sanh trong số ấy, ta làm cho họ
trụ trong địa vị bất thoái chuyển nơi
tam thừa, tức Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát thừa.
Vẫn chưa nói về Phật Luân, chỉ nói tổng quát
như vậy. Ta trụ ở nơi đây, độ chúng
sanh chẳng sợ hăi là do nguyện lực của chính ḿnh
trong quá khứ. Ta phát nguyện độ chúng sanh ở
nơi đây, thọ mạng hết sức ngắn ngủi,
nhanh chóng, thân thể hết sức thấp bé. Thời
đại chẳng tốt đẹp như vậy, chúng
sanh trong thời đại này đang ở trong đời
ác ngũ trược. Thuở đức Phật tại thế
là chánh pháp, chánh pháp cũng chẳng tốt đẹp
hơn cho mấy. V́ sao? Ngài trụ trong đời ác ngũ
trược! Bất quá, vẫn tốt đẹp hơn
chúng ta hiện thời đôi chút. Nay chúng ta là lúc không có Phật
tại thế, đương nhiên lại càng tệ
hơn. Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật sanh vào đời ác
ngũ trược. Ngài trụ trong đời ác ngũ
trược độ chúng sanh. Đó là Báo Thân của Thích
Ca Mâu Ni Phật. Pháp Thân thanh tịnh của Thích Ca Mâu Ni Phật
sẽ chẳng phải là như vậy. [Thân thị hiện
trong thế giới Sa Bà] là huyễn hóa, chẳng thật. Hết
thảy các pháp, như mộng, huyễn, bọt, bóng, hăy nên
thấy như thế. Đó gọi là chánh tri, chánh kiến.
Dưới đây, đức Phật bèn nêu thí dụ để
thuyết minh. Trước là nói về quốc độ,
sau là nói về Phật Luân.
(Kinh)
Thiện nam tử! Thí như hữu quốc, thời hư
quân vị, kỳ trung sở hữu nhất thiết nhân
dân, tự quân, tha quân, cánh tương xâm hại, ưu sầu
nhiễu loạn, nhân chúng bất an, hữu vô lượng
chủng đấu tụng vi tránh, hỗ tương khi
lăng, siểm ngôn, vọng ngữ, thô ác quai ly, vu vọng
kiểu loạn, chủng chủng tật bệnh, manh ế
hôn ám, hàn, nhiệt, ngược tật, ôn khí dịch lệ,
điên giản, càn khô, ẩm thực bất tiêu, kỳ tâm
cuồng loạn, chư căn bất cụ, chi thể
khuyết giảm, phạp thiểu chủng chủng y thực,
tư cụ, nhất thiết sở hữu giai bất khả
lạc. Chư hữu t́nh loại quy y chủng chủng ngoại
đạo, tà thần, ác kiến, ác tâm, cập ác ư nhạo,
giai tất xí thịnh, mê thất chánh đạo, lâm đọa
ác thú.
(經)善男子,譬如有國,時虛君位,其中所有一切人民,自軍他軍更相侵害,憂愁擾亂,人眾不安,有無量種斗訟違諍,互相欺凌,諂言妄語,粗惡乖離,誣罔矯亂,種種疾病,盲翳昏闇,寒熱瘧疾,溫氣疫癘,癲癇乾枯,飲食不消,其心狂亂,諸根不具,肢體缺減,乏少種種衣食資具,一切所有皆不可樂。諸有情類,歸依種種外道邪神,惡見、噁心及惡意樂,皆悉熾盛,迷失正道,臨墮惡趣。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Ví như có quốc gia, khi ấy ngai
vàng bỏ trống, tất cả hết thảy nhân dân
trong nước, quân đội của chính ḿnh và quân đội
của kẻ khác xâm hại lẫn nhau, ưu sầu, nhiễu
loạn, dân chúng chẳng yên. Có
vô lượng thứ kiện tụng, tranh chấp, trái nghịch, lừa dối, lấn hiếp lẫn nhau,
nói năng siểm nịnh, dối trá, thô ác mâu thuẫn, vu
cáo, gạt gẫm, quấy rối,
đủ mọi bệnh tật, mù quáng, tối tăm, bệnh
hàn, bệnh nhiệt, sốt rét, ôn dịch, điên cuồng,
khô héo, ăn uống chẳng tiêu, tâm tánh cuồng loạn,
các căn chẳng đủ, chân tay thiếu sứt, thiếu
thốn các thứ cơm áo, vật dụng, hết thảy
tất cả đều chẳng thể vui sướng
được. Các loài hữu t́nh quy y đủ thứ ngoại
đạo, tà thần, ác kiến, ác tâm, và ưa thích xấu
ác, thảy đều lừng lẫy, mê mất chánh đạo,
sẽ đọa vào đường ác).
Ở
đây toàn là nói h́nh dung. Chúng ta đều hiểu những
điều ấy, đích thân trải qua t́nh cảnh ấy.
Hiện thời, chúng ta đang ở trong t́nh huống ấy.
Thế giới này đang nhằm thời kỳ Mạt Pháp.
Nam Thiệm Bộ Châu cũng chính là ngay trên quả
địa cầu này, có hơn một trăm tám
mươi quốc gia, có quốc gia nào tốt đẹp
hơn đôi chút? [Có tốt đẹp hơn] th́ cũng là
nói tương đối! “Thời hư quân vị”
(khi ấy, ngai vàng bỏ trống) là nói theo tập quán tại
Ấn Độ. Hiện thời, đất nước ấy
rất loạn, hoàng đế của quốc gia ấy không có cách nào cầm
quyền, [khác nào] ngôi vua bị bỏ trống. Càng rối
loạn hơn nữa là tất cả nhân dân trong quốc
gia ấy tranh đoạt lẫn nhau.
“Tự
quân, tha quân” (quân của chính ḿnh, quân của người
khác), đức Phật vẫn nói theo biên giới [của
từng quốc gia], chứ theo kinh nghiệm của tôi, chẳng
phải chỉ là như thế. Tôi sanh ở vùng Đông Bắc,
thuở ấy, thổ phỉ rất dữ dội. Khi tôi
c̣n bé, tại Đông Tam Tỉnh[6],
mỗi tỉnh đều có một Đốc
Quân. Thuở đó gọi là Đốc Quân, sau đấy mới
đổi thành Chủ Tịch tỉnh. Tỉnh này
đánh tỉnh kia, tỉnh kia đánh tỉnh này. Thuở ấy, mọi người giành nhau làm Tổng
Thống. Khi tôi ở Bắc Kinh, đă xuất gia, sau đấy,
tôi thấy một đôi câu đối, nhằm thời
quân phiệt Bắc Dương. Ở Bắc Kinh th́ gọi
là Bắc Tổng Thống, c̣n tiên sinh Tôn Trung Sơn ở
Nam Kinh th́ gọi là Nam Tổng Thống. [Chánh quyền tại]
Nam Kinh gọi là Nam Kinh Chánh Phủ, c̣n tại Bắc Kinh
th́ gọi là Bắc Kinh Chánh Phủ. Đôi câu đối ấy
là: “Nam chánh phủ, Bắc chánh phủ, chánh phủ hà phân
Nam Bắc” (Nam chánh phủ, Bắc chánh phủ, chánh phủ
sao đành phân Nam Bắc). Nam hay Bắc chi nữa, nói là Tổng, hay nói là Thống,
Tổng Thống chẳng phải là một món đồ.
Đây là một quốc gia, chẳng phải là rất nhiều
quốc gia. Về sau, tôi sang Tứ Xuyên, giúp chỉnh lư tài
liệu, mới biết mức độ hỗn loạn tại
Tứ Xuyên.
Nếu
ai sanh vào thời đại ấy, bất luận là
người thuộc quốc gia nào, chẳng ưu sầu
hay sao? Quốc gia như vậy chẳng phải là nhiễu
loạn ư? Mỹ Quốc rất cường đại, đúng chăng? Mấy hôm trước, phi trường
Khẳng Ni Địch (Kennedy, tức phi trường
JFK) bị ném bom. Khi bị ném bom, khá nhiều ṭa cao ốc mậu
dịch cũng bị ném bom. C̣n có băo tố, lũ lụt,
hỏa tai. Quư vị nói xem: Chỗ nào là cuộc đất
sạch sẽ, không ưu sầu, không nhiễu loạn
đây? Có một cuộc đất sạch sẽ, không biết
quư vị có t́m được hay không? Chính là cái tâm của
quư vị. Quư vị thanh tịnh nó, sẽ là sạch sẽ
nhất! Có tin được không? Hăy xét kỹ xem! Quư vị
lắng ḷng xem xét, hăy tĩnh tọa nửa tiếng đồng
hồ. Đừng nên không tin tưởng, phải tin
tưởng: Quư vị thanh tịnh được chốc
lát, sẽ có thể an tịnh trong chốc lát ấy. Mọi
người nói chung là chẳng an!
Hiện
thời, đại khái là mỗi ngày tôi đều nhận
được điện thoại từ các đạo hữu
ở Đài Loan, tối thiểu là một cú, có lúc hai cú
điện thoại. Tôi chẳng nói cặn kẽ nội
dung. Thông thường là bất an, ai nấy đều bất
an, có chỗ nào an ổn hay không? Chẳng có! Quư vị hăy buông
xuống! Hễ buông xuống, sẽ an ổn.
Quư vị chẳng buông xuống, lúc nào cũng đều chẳng
an. Hiện thời, chúng ta có thời
gian cố định như vậy, tức là trong một
tiếng rưỡi [nghe kinh], chúng ta rất an ổn. Có
được một tiếng rưỡi này, chúng ta rất
hạnh phúc. An định được một tiếng
rưỡi th́ hăy an định một tiếng rưỡi;
an định được hai tiếng hai tiếng th́ hăy
an định hai tiếng. Muốn cầu an định
vĩnh cửu th́ quư vị ắt phải thành đạo.
Nếu chẳng thành đạo, sẽ chẳng có cách nào an
định! Dẫu sanh thiên, cơi trời vẫn chẳng
an định. Thường
là Tu La đánh nhau với trời Đao Lợi, nhân gian mới
động loạn. Cơi trời loạn trước, nhân
gian loạn sau. Phạm Thiên th́ đỡ hơn một
chút, càng lên cao, càng tốt hơn đôi chút, bất quá
phước báo đă hết, vẫn phải đọa xuống,
chẳng có chỗ nào tốt lành!
Chỉ
cần quư vị đă an tâm, chiếu theo Thập Luân của
Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật ở nơi đây hết sức
an định, chúng ta hăy học theo Ngài. Thích Ca Mâu Ni Phật
nói: Có vô lượng
thứ kiện tụng, chống trái, tranh chấp,
đúng là vô lượng! Pháp luật của mỗi quốc
gia khác nhau. Cho tới hiện thời, công ước về
hải dương đă hầu
như vô tác dụng. Pháp luật của mỗi quốc gia
khác nhau, trong mỗi quốc gia, hồ sơ kiện cáo
nơi pháp viện (ṭa án) đều hết
sức nhiều. Thứ ǵ cũng đấu tranh, kiện
cáo kiểu nào cũng có. Chuyện chống trái quá nhiều.
Hằng ngày đều luôn đấu tranh! “Hỗ
tương khi lăng” (lừa gạt, lấn hiếp lẫn
nhau): Hiện thời, lường gạt, lấn hiếp
đến mức độ nào? Ngay cả trong gia đ́nh của
mỗi cá nhân, vợ chồng, cha con, mẹ con đều lừa
gạt, lấn hiếp nhau. Tôi đă đích thân trải
nghiệm, chẳng phải là nói bừa!
Trong
đại cách mạng Văn Hóa tại Đại Lục,
không biết đă chia cắt một căn nhà to ngần ấy thành bao nhiêu mảnh nhỏ,
mỗi người nấu một bếp riêng. Quư vị
gia nhập phái này, người khác gia nhập phái kia, t́nh
h́nh như thế đó. Bây giờ nghĩ lại, chỗ
nào có thể thanh tịnh cho nổi? Người với
người là như thế đó. Nếu quư vị có quyền, có thế, có tiền, [kẻ
khác] sẽ tận lực nịnh bợ, tung hô những điều quư vị nói, nghe nghẹt
cả tai luôn! Có phải như thế hay chăng? Hiện
thời biến thành kẻ nào cũng chẳng dám tin tưởng, hắn nói có thật
hay không? Ai nói ǵ cũng phải phết một dấu hỏi!
Khi con cái của quư vị nói với quư vị, quư vị
nghĩ ngợi: “Chẳng biết
thằng nhăi này nói thật hay giả! Chắc đứa nhỏ
này lại gạt ta rồi!” Luôn phết dấu
hỏi. Quư vị là ai? Đôi khi đối với chính
ḿnh, quư vị cũng phết dấu hỏi, có ǵ là chân thật?
Hiện thời, trật tự trên toàn thế giới
đều nháo nhào, chẳng có ǵ là trật tự. Vợ chồng,
cha con, toàn thể quốc gia là như vậy đó. Nếu
muốn chẳng loạn, sẽ chẳng thể nào
được! Trong t́nh huống
đó, làm thế nào để chẳng loạn? Phải
nương theo lời đức Phật dạy mà thọ
Tam Quy Y, nghe kinh Phật.
Ngoài
chuyện đó ra, c̣n có bệnh tật. Hiện thời, có
những căn bệnh hoàn toàn chẳng t́m thấy trong kinh
Phật. Thuở đó, vẫn chưa có những căn bệnh
ấy. Trong kinh Phật không có bệnh ung thư, chỉ có
gầy ṃn, héo hon, ăn uống chẳng tiêu hóa được,
hoặc là mắt kém, tứ chi tàn khuyết, nóng sốt, sốt
rét, bệnh hàn, bệnh nhiệt, ôn dịch, là các bệnh nặng
nhất. Có bệnh AIDS hay không? Chẳng có. Có các loại bệnh
ung thư hay không? Chẳng có! Sau này mới nghe nói tới những
thứ bệnh ấy, trước kia chẳng biết. Các
loại bệnh hoạn quá nhiều! Nếu bản
thân chẳng trải nghiệm cảnh ấy, nghe người
khác nói, tôi cũng chẳng tin cho lắm. Nhưng tôi đích
thân trông thấy, chẳng thể không tin tưởng, mắt
thấy sự thật mà!
Tôi
đến bệnh viện Vinh Tổng[7]
và Trường Canh, trông thấy người sống đời
thực vật, tôi mới tin tưởng. Tôi thấy c̣n
ít, số lượng người thực vật sợ
c̣n nhiều hơn những người tôi trông thấy. Tôi
chỉ thấy hai bệnh viện như vậy. Đài
Loan có, Đại Lục có hay không? Mỹ có hay không? Chỉ
sợ là rất nhiều! Hạng người thực vật
ấy, như kinh Địa Tạng đă nói, sống không
được, mà chết cũng chẳng
xong. Sự nỗi thống khổ
ấy không có cách nào diễn tả được. Theo kinh
Địa Tạng, người ấy đang ở trong
cơi Âm, đang bị ra ṭa thẩm vấn, vụ án chưa ngă ngũ, cho nên chết
cũng không được, mà sống cũng chẳng xong.
Nói cách khác, để cho kẻ ấy chịu tội. Sống
để chịu tội! Người khác chịu tội
th́ cũng c̣n được đi; nếu người nhà của
quư vị sống đời thực vật, thân nhân của
chính ḿnh c̣n chưa chết, làm sao nhẫn tâm mặc kệ
người ấy cho được? Có rất nhiều
người thực vật khiến cho người nhà suy
sụp theo. V́ có một người như vậy, [người
nhà] sẽ phải chăm nom người ấy, chẳng
thể đi làm. Nói chung là phải
để lại một người chăm sóc, đấy
chẳng phải là nghiệp ư?
Lại
c̣n “kỳ tâm cuồng loạn” (tâm tánh cuồng loạn).
Hiện thời, có nhiều người điên lắm! Nếu
chẳng nghe thấy, sẽ chẳng thể liễu giải.
Nhà thương điên, người điên cả đống.
Em gái tôi làm bác sĩ ở bệnh viện tâm thần, nay
đă về hưu. Cô ta kể kẻ bị điên thật
đông. Trong quá khứ, chữa trị bằng
phương pháp xung điện. Chữa xong, kể như
người ấy đă lành bệnh, không điên nữa
th́ cũng biến thành kẻ ngốc. Chuyện ǵ cũng
đều chẳng hiểu, thần kinh cũng hỏng luôn.
Sau đấy, mới đổi
thành trị liệu bằng châm cứu. Khi nổi điên,
bèn châm cứu. Châm rồi, họ dứt cơn, không
điên nữa. Trong tương lai, khi bệnh điên khá
hơn, c̣n có thể có trí nhớ, c̣n có thể nhận biết
lục thân quyến thuộc. Nếu đă bị điên, kể như đă trị lành mà ngay cả lục
thân quyến thuộc và cha mẹ của chính ḿnh đều
chẳng nhận biết, quư vị nói như vậy th́ sống
c̣n có ư nghĩa ǵ nữa?
Lại
c̣n các căn chẳng đầy đủ, thiếu tay, thiếu
chân. C̣n nữa, thế giới hiện thời tiến bộ
như vậy, vẫn c̣n rất nhiều nơi không có y phục
để mặc, không có lương thực. Từ TV,
chúng ta đều thấy, có những nơi cứ chiến
tranh măi, lương thực đều chẳng sản
xuất được, lương thực rất thiếu
thốn. Chúng sanh tại những nơi đó, kiến giải
hết sức xấu ác, trong tâm cũng ác nghiệt. Do vậy,
nếu quư vị đến huyện đó, người ở
vùng núi nơi ấy trông thấy người khác, bất luận
thấy như thế nào, ngay lập tức rút dao ra, chuẩn bị
chiến đấu với quư vị. Nếu quư vị chẳng
tổn thương họ, sẽ cho đi qua luôn. Nếu
không, họ sẽ chuẩn bị đấu với quư vị.
Tôi dùng chuyện này để chứng minh “ác tâm”. Họ
cũng vui sướng, thế nhưng là “ác ư nhạo” (ưa thích xấu ác). Tâm họ đầy ắp
sân hận, đố kỵ, chướng ngại, hoài nghi,
đă sớm mê mất chánh đạo. Tà kiến, ác kiến,
ác tâm hừng hực khôn cùng. Do vậy, họ mê mất
chánh đạo. Như vậy th́ có cách nào được nữa?
Khi c̣n sống đă là như thế, chết đi chỉ
đọa vào đường ác. Lại trôi lăn trong ba
ác đạo. Đến khi thoát khỏi ba ác đạo, lại
sanh vào nơi biên cương. Luân hồi kiểu ấy khi
nào mới có thể chấm dứt?
Đấy
là những chỗ Địa Tạng Bồ Tát và Quán Thế
Âm Bồ Tát từ bi quan tâm nhất. Các Ngài thấy chúng sanh
như thế đó. Chúng ta chẳng có trí huệ của Bồ
Tát, tuy tâm chúng ta cũng từ bi, cũng thương xót,
nhưng c̣n có t́nh ái, thuộc về ái kiến đại từ.
Họ có đôi chút nhân duyên với ta, ta mới thực hiện
(giúp đỡ, hóa độ). Như tôi đến một
số nơi, tôi nói những người ấy c̣n thua trâu
ngựa. Trâu, ngựa quư vị có thể thuần phục
được, chúng nó có chút tâm lành. Quư vị nuôi chó
đàng hoàng, nó sẽ vẫy đuôi mừng, chứ những
kẻ đó th́ đừng ḥng. Quư vị nẩy sanh cảm
giác chán ĺa họ, chẳng thể sanh khởi tâm đại
từ đại bi đến cứu độ họ. Lúc
ấy, tôi cũng chẳng có [tâm từ bi mong cứu độ],
chỉ có cảm giác chán ĺa. Quư vị mong họ
khi nào chuyển biến, thiện nghiệp phát hiện, c̣n
có thể gặp gỡ Phật pháp, sẽ khó khăn lắm,
chẳng biết phải trải qua bao
nhiêu thế hệ. Đấy là hiện tượng không tốt,
tương phản với nó th́ là hiện tượng tốt.
Mỗi sự vật đều có hai mặt, đều là
pháp tương đối. Đă nói điều xấu xong
rồi, bèn nói điều tốt. Tốt th́ mới tiếp
cận Phật Luân. Phật độ chúng sanh cũng thế,
v́ phải kiến lập Phật Luân trên ác luân, rất khó khăn!
(Kinh)
Thời bỉ quốc trung, hữu chư kỳ cựu,
thông minh, đa trí, bác học, b́nh thứ, oai nghiêm chỉnh
túc, tương dữ mưu nghị, vận chư trù sách,
tức tiện triệu tập quốc ấp nhân dân, cộng
sở tiến thôi, thủ nhất vương tử, tiên cụ
đa chủng bố thí, điều phục, tịch
tĩnh Thi La, tinh tấn, dũng mănh, nan hành khổ hạnh,
nhất thiết bị măn, cụ chư thù thắng phước
đức chi tướng, chư căn viên măn, chi thể
vô khuyết, thân h́nh trường đại, tướng hảo
đoan nghiêm, thành tựu tối thắng mỹ diệu
dung sắc, thường vị nhất thiết tôn trọng,
cung kính, suất độ nhân dân vô bất thân ái, bẩm
tánh thuần chất, thường hoài từ bi, bác học,
đa tài, bị chư kỹ nghệ, nhu ḥa, nhẫn nhục,
trang nghiêm kỳ tâm, thị đại hậu phi sở sanh
đích tử. Dĩ chư diệu hương, huân thanh tịnh
thủy, điều ḥa lănh noăn, mộc dục kỳ thân,
trước ư chủng chủng thượng diệu
hương huân, chúng bảo trang nghiêm, tiễn tịnh y phục,
mạt-ni châu bảo, trí tại kế trung, kim bảo, hoa
man, quan sức kỳ thủ, tố luyện khinh tằng
thúc ư phát tế.
(經)時彼國中,有諸耆舊,聰明多智,博學平恕,威嚴整肅,相與謀議,運諸籌策。即便召集國邑人民,共所薦推取一王子,先具多種佈施、調伏、寂靜、尸羅,精進勇猛,難行苦行一切備滿,具諸殊勝福德之相,諸根圓滿,支體無缺,身形長大,相好端嚴,成就最勝美妙容色,常為一切尊重恭敬,率土人民無不親愛;稟性淳質常懷慈悲,博學多才備諸技藝,柔和忍辱莊嚴其心。是大后妃所生嫡子,以諸妙香,熏清淨水,調和冷暖,沐浴其身,著於種種上妙香熏,眾寶莊嚴鮮淨衣服,末尼珠寶置在髻中,金寶華鬘冠飾其首,素練輕繒束於髮際。
(Kinh:
Khi ấy, trong nước có những bậc kỳ cựu,
thông minh, đa trí, học rộng, b́nh đạm, khoan dung,
oai nghiêm, đáng kính, cùng nhau mưu tính, bàn bạc, tính toán
các mưu kế, liền triệu tập nhân dân trong đất
nước, cùng nhau đề cử một vị vương
tử. Trước hết, vị ấy phải trọn đủ các loại [phẩm
đức]: Bố thí, điều phục, có giới hạnh
tịch tĩnh, tinh tấn, dũng mănh, làm được
các khổ hạnh khó làm, hết thảy đều trọn
đủ. Có đủ các tướng phước đức
thù thắng, các căn viên măn, tứ chi và các phần nơi
thân thể chẳng thiếu sót, thân h́nh cao lớn, tướng
hảo đoan nghiêm, thành tựu dáng vẻ và diện mạo
đẹp đẽ thù thắng nhất, thường
được hết thảy tôn trọng, cung kính, nhân dân
cả nước không ai chẳng thân cận, yêu mến, bẩm
tánh thuần ḥa, chân chất, thường ôm ḷng từ bi, học
rộng, lắm tài, trọn đủ các nghề khéo, nhu
ḥa, nhẫn nhục để trang nghiêm cái
tâm, là con ḍng đích do hoàng hậu sanh ra. Dùng các loại
hương quư để xông thơm nước thanh tịnh,
điều ḥa lạnh ấm thích đáng, tắm gội
thân thể vị ấy, cho mặc y phục mới sạch
được xông ướp bằng đủ loại
hương thượng diệu và trang nghiêm bằng các thứ
báu, châu báu mạt-ni đặt nơi búi tóc. Đầu
được trang hoàng bởi các thứ báu bằng vàng và
tràng hoa, dùng giải lụa nhẹ trắng tinh làm dây buộc
quanh mí tóc).
Nói
đối ứng với phần trước. Quốc gia ấy
chẳng có quốc vương, rất hỗn loạn. Kẻ
có chánh kiến rất ít, tà kiến rất đông. Vào lúc ấy, trong nước đó có những bậc
hiền đạt. “Kỳ” (耆) là những bậc trưởng lăo trong quá khứ. Họ
là những người có trí huệ, học vấn rất
giỏi, rất b́nh ḥa, đối đăi kẻ khác bằng
ḷng khoan dung. Trông thấy quốc gia lâm vào t́nh huống ấy,
liền cùng nhau bàn bạc, mưu tính, nghĩ đủ mọi
biện pháp. “Trù” (籌) là vạch ra kế hoạch, “sách” (策) là thúc đẩy. Hiện
thời, cục diện quốc gia như thế đó, mọi
người cùng nhau thương nghị, phải có biện
pháp. Các vị kỳ cựu ấy cùng nhau triệu tập
nhân dân cả nước, tức “quốc ấp nhân dân”.
Mọi người đề cử, chọn ra một
vương tử trong số các con của tiên vương,
cũng là cùng nhau chọn lựa một phen. Vị
vương tử ấy phải có thể điều phục
chính ḿnh, có thể bố thí, có thể tŕ giới, tuân thủ
pháp tắc thế gian. Thi La (Śīla) là giới luật,
bao gồm [các phẩm đức] “tịch tĩnh,
từ bi, ngăn ngừa, dứt ác”. “Tịch
tĩnh Thi La” có ư nghĩa như vậy
đó.
Phải
t́m được một vị vương tử như vậy,
[vị ấy] lại phải có thể từ tâm bố
thí, điều phục tánh t́nh của chính ḿnh, có thể
tuân thủ chế độ pháp luật, lại c̣n phải
tinh tấn, dũng mănh. Tinh tấn, dũng mănh là nói theo thiện
nghiệp, có thể thực hiện những khổ hạnh
người khác chẳng làm được. Những điều
ấy đều phải trọn đủ. Lại c̣n phải
có tướng phước đức thù thắng, tướng mạo không quá xấu xí. Kẻ làm quốc
vương mà quá xấu th́ cũng không được. Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư, các căn đều viên măn.
Tứ chi nơi thân thể không chỗ nào bị thiếu hụt.
Thân h́nh chẳng thể quá thấp bé, phải cao lớn, lại c̣n phải trọn đủ tướng hảo
đoan nghiêm. Thành tựu dung sắc đẹp đẽ mầu
nhiệm như thế ấy, thường được
hết thảy mọi người tôn trọng, cung kính. Mọi
người dân trong nước ấy đều biểu
thị ḷng thân ái đối với vị vương tử
ấy.
“Bẩm
tánh thuần chất, thường hoài từ bi, bác học,
đa tài, bị chư kỹ nghệ” nghĩa là: Tánh
t́nh của vương tử ấy thuần hậu, chất
phác, thường ôm ḷng làm lợi, giúp đỡ người
khác, chẳng tổn hại, năo hại bất cứ một
ai. Học vấn rất giỏi, c̣n có các thứ nghề khéo. “Nhu ḥa, nhẫn nhục, trang nghiêm kỳ
tâm” (cái tâm được trang nghiêm bằng nhu ḥa, nhẫn
nhục): Nhu ḥa có nghĩa là chẳng thô bạo. Nhẫn nhục
là bị đối xử phi lư, người ấy cũng
chẳng so đo với kẻ khác. “Thị đại hậu
phi sở sanh đích tử” (là con ḍng đích do hoàng hậu
sanh ra), ư nói: Nếu do phi tần sanh ra th́ chẳng phải
là đích tử (嫡子, con ḍng đích), sẽ
thua kém đôi chút. Do vậy, phải chọn Thái Tử do hoàng hậu sanh ra, cũng tức là con của
vị nguyên phối phu nhân.
Có
được một Thái Tử như vậy, sau khi đă tuyển chọn, bèn
dùng nước được ướp hương thanh
tịnh, chẳng lạnh, chẳng nóng, điều ḥa ấm
lạnh, tắm gội thân thể của vương tử.
Y phục của anh ta mặc đều dùng hương mầu
nhiệm xông ướp. [Y phục] mới, sạch,
trang nghiêm bằng châu báu. “Mạt-ni châu bảo, trí tại
kế trung” (châu báu ma-ni cài trên búi tóc): Kiểu này tôi
đă từng thấy, người
Tây Tạng là như thế đó. Quan lại từ tứ
phẩm trở lên không cắt tóc, trên tóc đội một
cái khám thờ Phật[8]
bé. Bất quá, chẳng có bảo châu mạt-ni, họ đội
một tượng Phật trang hoàng trên tóc. Vị quốc vương kia cài bảo châu mạt-ni trên búi
tóc. Trong quá khứ, đều là quấn
tóc [thành búi], đây là cách nói h́nh dung. Dùng chất báu bằng
vàng trang hoàng cái măo che tóc đẹp nhất. Mấy thứ
ấy dùng “tố luyện khinh tằng thúc ư tế
phát” (giải lụa trắng nhẹ buộc ngang mí tóc):
Tóc phải cuộn lại, bó thành cái khám thờ Phật.
Tôi thấy người Tây Tạng tóc cuộn thành hai búi, giống
như trẻ nhỏ của ta để tóc thành hai trái
đào, chính giữa cài một cái khám thờ Phật. Trong
khám thờ có một bức tượng Phật, cũng cẩn
bảo thạch, tức là dùng bảo thạch khảm bên
ngoài khám thờ Phật. Thông thường,
người ta đội tượng Quán Thế Âm khá nhiều.
(Kinh)
Hựu dĩ chủng chủng mạt-ni chân châu, kim, ngân
đẳng bảo, cộng sở hợp thành nhĩ
đang, anh lạc, hoàn, xuyến, ấn đẳng, Chúng diệu
bảo sức trang nghiêm kỳ thân, chức thành bảo lư, hạ thừa kỳ túc. Chúng bảo
tán cái thượng phú kỳ đảnh, an trí cổ tích nhất
thiết thiên tiên sở hộ tŕ ṭa, thú nhập nhất thiết
thiên đế đồng hứa cộng sở hộ tŕ
thiện xảo doanh cấu thù diệu đại điện,
đăng tự tiên vương sở thăng tôn ṭa.
(經)又以種種末尼真珠,金銀等寶共所合成,珥璫瓔珞環玔印等,眾妙寶飾莊嚴其身,織成寶履下承其足,眾寶傘蓋上覆其頂,安置古昔一切天仙所護持座,趣入一切天帝同許共所護持,善巧營構殊妙大殿,登自先王所升尊座。
(Kinh:
Lại dùng các thứ báu như mạt-ni (ma-ni), chân châu, vàng, bạc… cùng kết hợp
thành ṿng đeo tai, chuỗi anh lạc, ṿng, xuyến, ấn
v.v… Các thứ trang sức báu mầu nhiệm trang nghiêm thân
h́nh, kết thành dép báu đỡ dưới chân. Tàn, lọng
bằng các thứ báu che đỉnh đầu, xếp
đặt ṭa được hết thảy thiên tiên hộ
tŕ từ thuở xa xưa, tiến vào đại điện
đẹp đẽ thù thắng, xây dựng khéo
léo, được hết thảy thiên đế cùng chấp
thuận hộ tŕ, lên ṭa tôn quư của tiên vương).
Chúng
ta biết nam giới Tây Tạng đều đeo bông tai,
nhưng không phải là xỏ lỗ để đeo ở
trái tai, mà là [buộc chỉ] đeo lên vành
tai. Họ đeo ṿng tai rất lớn. Người có phẩm
vị, vừa nh́n đă biết họ là quan thuộc phẩm
thứ mấy. Quan từ tứ phẩm trở lên mới
được phép đeo, dưới tứ phẩm sẽ
không được phép. Ṿng tai cũng chia thành cấp bậc,
dùng lục bảo thạch (turquoise), hay hồng bảo thạch
(ruby). Những thứ trang trí trên đầu cũng liên quan
đến cấp bậc. Ngoài ra, ngựa họ cưỡi,
trên đầu ngựa có gắn chóp vàng, quư vị nhất
định phải nhường đường. Đấy
là quan to từ tam phẩm trở lên, hoặc là Đại Hoạt Phật[9].
Tôi dùng những thí dụ ấy để h́nh dung oai nghi của
quốc vương thời cổ. Ngoài ra, phía
dưới con ngựa, tức là phía dưới đầu
ngựa, ở phần cổ, buộc tua đỏ, tức
là phía trước ức con ngựa buộc tua đỏ.
Buộc hai tua là quan tứ phẩm, buộc ba tua là từ
tam phẩm trở lên. Ngoài ra, yên ngựa cũng chia theo
đẳng cấp. Do vậy, anh lạc, ṿng tai đều
do châu báu xen kẽ cẩn thành. Sự trang
nghiêm của quốc vương càng khác biệt. Ông ta ngồi
kiệu, toàn thân là châu báu, yên ngựa đều do châu báu cẩn
chạm mà hợp thành. Đấy là h́nh dung
t́nh h́nh các quốc vương thuở xưa lên ngôi hoặc
tuần du. Do kinh điển đều căn cứ theo
t́nh huống đương thời tại Ấn Độ
để miêu tả, chẳng giống t́nh huống trong hiện
tại. Hiện thời, đă chẳng c̣n. Nói những
điều này đều là tỷ dụ khi [quốc vương] mới lên ngôi.
Khi
vương tử chưa lên ngôi vua, anh ta
được chọn ra, bèn được trang hoàng như
vậy. Cho anh ta ngồi vào ṭa báu đă được cổ
hiền tiên nhân trong quá khứ
bảo vệ, mọi người lễ bái cung thỉnh.
“Thú nhập nhất thiết thiên đế đồng hứa
cộng sở hộ tŕ thiện xảo doanh cấu thù diệu
đại điện” (tiến nhập đại
điện thù thắng, nhiệm mầu, kiến trúc hay khéo,
được hết thảy thiên đế cùng chấp
thuận duy tŕ): Đây là nói h́nh dung, nói điện
đường ấy đă tu bổ
rất đẹp đẽ. Quư vị đến Đài
Loan cũng thế, tới Đại Lục cũng thế,
ngay ở Ôn Ca Hoa (Vancouver), các điện đường cũng khá lắm. Phàm là đắp tạc tượng
Phật, cho đến ṭa ngồi của đức Phật,
đều là bảo tọa. Vị đại vương
tương lai này, trước khi lên ngôi, ngồi nơi cái
ṭa báu được hết thảy tiên nhân hộ tŕ. Những
điều ấy đều là truyền thuyết.
(Kinh)
Thiệu vương vị dĩ, khấu kích nhất thiết
thiên đế, long đế, Dược Xoa thần đế,
A Tố Lạc đế, Cưu Bạn Đồ đế,
các sở hộ tŕ quảng đại chung cổ. Kỳ
thanh chấn hưởng, châu biến quốc giới,
Sát-đế-lợi đẳng tứ đại chủng
tánh, vô lượng nhân chúng, mộc dục kỳ thân,
trước tịnh y phục, chấp tŕ chủng chủng
diệu bảo tằng thái, tán, cái, tràng, phan, mạt-ni, chân
châu, kim, ngân, loa bối, bích ngọc, san hô, phệ lưu ly
đẳng, sanh sắc khả nhiễm, vô lượng trân
kỳ, phụng hiến tân vương, dĩ tŕnh gia thụy.
Quư tộc tịnh hạnh, bác học, đa tài chư
Bà-la-môn, dĩ vô lượng chủng vi diệu tán tụng,
ca vịnh đế đức, chủng chủng thiện
sự chú nguyện ư vương, dĩ chư cát tường
tán sái vương đảnh.
(經)紹王位已,扣擊一切天帝、龍帝、藥叉神帝、阿素洛帝、鳩畔荼帝,各所護持廣大鐘鼓,其聲振響週徧國界。剎帝利等四大種姓,無量人眾,沐浴其身,著淨衣服,執持種種妙寶繒彩、傘蓋、幢幡、末尼真珠、金、銀、螺貝,璧玉、珊瑚、茷琉璃等,生色可染無量珍奇,奉獻新王,以呈嘉瑞。貴族淨行,博學多才諸婆羅門,以無量種微妙讚頌歌詠帝德,種種善事咒願於王,以諸吉祥散灑王頂。
(Kinh:
Đă nối ngôi vua rồi, đánh gơ hết thảy các chuông trống rộng lớn đă được
hết thảy vua trời, vua rồng, vua thần Dược
Xoa, vua A Tố Lạc, vua Cưu Bạn Đồ bảo vệ.
Tiếng ấy vang rền trọn khắp trong nước,
vô lượng dân chúng thuộc bốn đại
chủng tánh như Sát-đế-lợi v.v… tắm gội
thân thể, mặc y phục sạch sẽ, cầm nắm
dây lụa màu, lọng, tràng, phan, kết bằng các thứ
báu, mạt-ni, chân châu, vàng, bạc, vỏ ốc to, bích ngọc, san hô, phệ lưu ly
v.v… màu sắc đáng yêu, vô lượng quư lạ, dâng lên
tân vương, để tạo điềm tốt lành.
Quư tộc tịnh hạnh, các Bà-la-môn học rộng, lắm
tài, dùng vô lượng thứ tán tụng vi diệu, ca xướng, ngâm vịnh
đức hạnh và các thứ thiện sự của vua,
chú nguyện nhà vua, dùng các thứ cát tường rưới
rảy lên đỉnh đầu nhà vua).
Lại
c̣n có đại điện được xây dựng, thiết
kế các thứ trang hoàng khéo đẹp như thế. [Tân
vương] lên ṭa tôn quư của tiên vương, kế thừa
ngôi vua. Sau khi anh ta đă kế tục
ngôi vua, bèn “khấu kích nhất thiết thiên đế,
long đế, Dược Xoa thần đế, A Tố Lạc
đế, Cưu Bạn Đồ đế, các sở hộ
tŕ quảng đại chung cổ” (đánh gơ các chuông trống rộng lớn được hết
thảy vua trời, vua rồng, vua thần Dược Xoa,
vua A Tu La, vua Cưu Bạn Đồ đều hộ tŕ):
Đây là nói h́nh dung, ư nói “chuông trống được thiên
long bát bộ bảo vệ”. Trong quá khứ, hoàng đế
Măn Thanh vào tảo triều mỗi ngày đều là chuông trống
cùng gióng. Trong chùa của ḥa thượng, khóa tụng sáng tối
cũng đều phải là chuông trống cùng gióng. Nghênh
đón một vị đại đức, đều phải
gióng trống, thỉnh chuông cùng lúc. Toàn thể Tăng chúng
trong tự viện đều phải đắp y mặc hậu [xếp hàng] nghênh tiếp.
Đấy là h́nh dung ư nghĩa tôn quư. Thật ra, do đại
chúng thuộc tám bộ quỷ thần như trời, rồng…
hộ pháp, nên chúng ta thường h́nh dung hoàng đế
được “bách linh tương hộ” (trăm
loài linh thiêng gia hộ). Đó là do phước báo của
ông ta cảm vời.
Đến
khi ấy, chuông trống cùng gióng, khiến cho cả cơi
nước đều hay biết. Kế đó, Bà-la-môn,
Sát-đế-lợi, Phệ-xá, Thú-đà-la, là bốn đại
chủng tánh từ xưa của Ấn
Độ. Bốn đại chủng tánh có vô lượng
người, ai nấy đều tắm rửa, thay áo, mặc quần áo sạch sẽ, cũng
dùng đủ loại chất báu hợp thành tàn, lọng,
tràng, phan. Những điều này đều là nói h́nh dung, vàng,
bạc, tù và, bích ngọc, san hô, phệ-lưu-ly (Vidurya, tức
lưu ly). “Sanh sắc khả nhiễm” là người
vàng, “sanh sắc” là màu sắc
trời sanh (màu sắc tự nhiên), màu sắc của họ
tự sanh ra mà có, là vàng, hay trắng. Vô lượng các vật
báu quư hiếm, đều kính dâng vị vua vừa
mới lên ngôi. “Dĩ tŕnh gia thụy” (để dâng
bày điều tốt lành): Khi đó, quư tộc, Sát-đế-lợi,
và Bà-la-môn học rộng, nhiều tài, dùng vô lượng
các loại tán tụng vi diệu để ca vịnh đức hạnh và các thứ thiện sự của
nhà vua. “Chú nguyện ư vương”: Trong phần
trước, chúng ta đă thấy Địa Tạng Bồ
Tát tán thán công đức của Phật, đức Phật
lại thán công đức của Địa Tạng Bồ
Tát. Đấy là ư nghĩa của các thứ tán tụng. “Dĩ
chư cát tường, tán sái vương đảnh” (dùng các thứ cát
tường rưới rảy lên đỉnh
đầu tân vương), [nghĩa là] dùng các thứ châu
báu ấy để chú nguyện, “chú chúc” tức là
dùng ngôn từ cát tường để chúc tụng nhà vua
cát tường, hạnh phúc.
(Kinh)
Tiên vương sở trọng túc vọng quư tộc, bác học,
đa nghệ, tánh trực, hiền minh, tùy kỳ sở
ưng, thọ dĩ chủng chủng chức vị quan
liêu, lư chư vương sự. Tiên ư quốc cảnh tự
quân, tha quân cánh tương xâm hại, kim giai linh tức, diệc
linh nhất thiết oán địch, ác hữu, năng vi hại
giả, giai tất điễn diệt, tổn trừ tự
quốc nhất thiết hắc phẩm, tăng ích tự
quốc nhất thiết bạch phẩm. Thiện nam tử!
Sát-đế-lợi chủng quán đảnh đại
vương thành tựu như thị đệ nhất
vương luân. Do thử luân cố, ư tự quốc
độ, đắc an lạc trụ, năng phục nhất
thiết oán địch, ác hữu, thiện thủ hộ
thân, linh tăng thọ mạng.
(經)先王所重宿望貴族,博學多藝,性直賢明,隨其所應,授以種種職位官僚,理諸王事。先於國境,自軍他軍更相侵害,今皆令息;亦令一切怨敵惡友,能為害者皆悉殄滅。損除自國一切黑品,增益自國一切白品。善男子,剎帝利種灌頂大王,成就如是第一王輪。由此輪故,於自國土得安樂住,能伏一切怨敵惡友,善守護身,令增壽命。
(Kinh:
Đối với hàng quư tộc có danh vọng được
tiên vương coi trọng, học rộng, nhiều tài,
tánh thẳng thắn, hiền minh, sẽ tùy theo khả
năng của họ mà trao cho các chức vị quan liêu
để trông coi việc nước. Trước hết,
trong nước th́ đối với quân nước nhà và
quân nước khác xâm hại lẫn nhau trước kia,
nay đều dứt diệt. Cũng làm cho hết thảy
oán địch, bạn ác, những kẻ làm hại, thảy đều
diệt mất, tiêu trừ hết thảy các điều xấu xa trong nước
ḿnh, tăng thêm hết thảy những điều tốt
đẹp trong nước nhà. Này thiện nam tử! Vị
đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được
quán đảnh thành tựu vương luân thứ nhất
như thế đó. Do bởi luân ấy, được trụ
an lạc trong cơi nước của chính ḿnh, có thể hàng
phục hết thảy oán địch và bạn ác, khéo
thủ hộ cái thân, khiến cho thọ mạng tăng
thêm).
“Tiên
vương sở trọng túc vọng quư tộc, bác học
đa nghệ, tánh trực hiền minh, tùy kỳ sở
ưng, thọ dĩ chủng chủng chức vị quan
liêu” (Đối với hàng quư tộc có danh vọng
được tiên vương coi trọng, học rộng,
nhiều tài, tánh thẳng thắn, hiền minh, tùy theo khả
năng của họ mà trao cho các chức vị quan liêu):
Tân vương lên ngôi, phải phong các chức quan. Trong quá
khứ, những quư tộc, quan lại ấy là những
người tài năng, học
vấn xuất chúng, hoặc là xử lư công việc công chánh,
hiền minh, đáng giữ các chức vụ. “Tùy kỳ
sở ưng, thọ dĩ chủng chủng chức vị,
quan liêu” [nghĩa là] trao chức quan cho họ [tùy theo khả
năng thích đáng], để họ
giúp đỡ nhà vua xử lư việc nước. Tân
vương đăng cơ, phải có khí tượng mới
mẻ, đảo ngược tai họa của nước
nhà. “Tiên ư quốc cảnh tự quân, tha quân cánh
tương xâm hại, kim giai linh tức” (trước hết,
trong nước, quân của nước ḿnh và quân nước
khác xâm hại lẫn nhau, nay đều làm cho chấm dứt):
Trong quá khứ, cục diện quốc gia hỗn loạn,
đánh đấm lẫn nhau, hoặc là quân đội của
nước ḿnh, hoặc là quân đội nước khác
xâm lăng gây hại, hoặc các vương hầu xưng
bá một phương, nay đều chấm dứt. V́ tân
vương đăng cơ, có khí tượng mới. “Diệc
linh nhất thiết oán địch, ác hữu, năng vi hại
giả, giai tất điễn diệt” (cũng khiến
cho hết thảy oán địch, bạn ác, kẻ có thể
gây hại, thảy đều diệt mất): Đều bị tiêu diệt. Tiêu trừ hết thảy
những điều xấu ác trong nước ḿnh, trừ khử nghiệp bất thiện, tăng thêm hết
thảy các điều tốt đẹp trong nước
ḿnh, tăng thêm thiện nghiệp. Tiêu diệt Thập Ác, rộng hành Thập Thiện.
“Thiện
nam tử! Sát-đế-lợi
chủng quán đảnh đại vương thành tựu
như thị đệ nhất vương luân” (Thiện nam tử!
Vị đại vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
đă được
quán đảnh thành tựu vương luân thứ nhất
như thế đó): Đây là vương luân thứ nhất
của quốc vương. Điều này hoàn toàn là nói tỷ
dụ, nhằm hiển thị điều thứ nhất
trong Phật Luân. Tiếp đó, sẽ nói đến Phật
Luân. “Do thử luân cố, ư tự quốc độ,
đắc an lạc trụ” (Do luân này, trong quốc
độ ấy, được trụ trong an lạc):
Nhân dân trong quốc gia ấy đều b́nh an, hạnh phúc,
tiêu trừ oán địch, bạn ác. Nhân dân của quốc
vương ấy thọ mạng cũng được
tăng thêm nhiều, được quốc vương hộ
tŕ. Đấy là vương luân thứ nhất.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như thị tạp nhiễm ngũ
trược ác thế, Sách Ha Phật độ, không vô Phật
thời, kỳ trung sở hữu nhất thiết chúng sanh,
vi tự tâm trung tùy miên triền cấu, tự quân, tha quân
năo hại, xâm bức, sầu ưu, nhiễu loạn, ngu
minh, bất an, khởi vô lượng chủng chấp
trước đoạn thường, đấu tụng
vi tránh, hỗ tương khinh miệt, khởi tham, sân, si,
siểm, cuống ngôn
đẳng, cụ túc thập chủng bất thiện nghiệp
đạo. Chấp trước hữu t́nh phân nhiễu thế
giới, thành tựu chủng chủng phiền năo tật bệnh,
khuyết chánh pháp nhăn, phẫn hận thiêu năo, thường
bất tư duy chân thật chánh pháp, khí chánh pháp vị,
cơ hủy thiện hạnh, thiểu phạp sở thọ
hỷ lạc tư vị, thường vị chủng chủng
phiền năo la vơng chi sở phú tế, quy y lục chủng
ngoại đạo tà sư, mê thất thánh đạo,
hướng tam ác thú.
(經)善男子,如是雜染五濁惡世,索訶佛土空無佛時,其中所有一切眾生,為自心中隨眠纏垢,自軍他軍惱害侵逼,愁憂擾亂愚冥不安,起無量種執著斷常,斗訟違諍,互相輕蔑,起貪、瞋、癡、諂、誑言等,具足十種不善業道,執著有情紛擾世界,成就種種煩惱疾病,闕正法眼,忿恨燒惱,常不思惟真實正法,棄正法味,譏毀善行,乏少所受喜樂滋味,常為種種煩惱羅網之所覆蔽,歸依六種外道邪師,迷失聖道,向三惡趣。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Đời ác ngũ trược tạp
nhiễm như thế, trong cơi Phật Sách Ha, vào lúc trống
rỗng, chẳng có Phật, tất cả hết thảy
chúng sanh trong ấy, do v́ cấu nhiễm tùy miên trong tự
tâm trói buộc, quân ḿnh và quân người khác năo hại, xâm
lấn, bức bách, sầu ưu, nhiễu loạn, ngu si,
tăm tối, bất an, dấy lên vô lượng thứ
chấp trước đoạn kiến hay thường kiến,
tranh chấp, kiện cáo, khinh miệt lẫn nhau, dấy
lên tham, sân, si, nói năng siểm nịnh, lừa dối
v.v… trọn đủ mười thứ nghiệp đạo
bất thiện. Hữu t́nh chấp trước lăng
xăng gây rối thế giới, thành tựu đủ thứ
phiền năo và bệnh tật, thiếu con mắt chánh pháp,
bị phẫn hận thiêu đốt, năo hại, thường
chẳng tư duy chánh pháp chân thật, bỏ chánh pháp vị,
chê gièm, hủy báng hạnh lành, thiếu khuyết thọ
hưởng ư vị hỷ lạc, thường bị các
thứ lưới rập phiền năo che lấp, quy y thầy
tà thuộc sáu loại ngoại đạo, mê mất thánh
đạo, hướng vào ba đường ác).
Đây
là h́nh dung đức Phật lợi ích chúng sanh. Do vậy,
trước tiên nói về tướng chúng sanh. Quốc
độ này có tướng trạng như thế nào? Giống
như đời ác ngũ trược! Sách Ha (Sahā-loka-dhātu) chính là quốc
độ Sa Bà. Quốc độ này khi chẳng có Phật
[tại thế], đức Phật trước đă nhập
diệt, đức Phật sau c̣n chưa giáng sanh. Hiện
thời, Thích Ca Mâu Ni Phật đă nhập diệt, Phật
Di Lặc c̣n chưa hạ sanh, chính là lúc không có Phật. Thế
giới Sa Bà này bao gồm rất nhiều quốc độ.
“Tự tâm tùy miên”: Tùy Miên[10]
chính là căn bản phiền năo, thuận theo cái tâm của
chúng sanh mà dấy lên. “Triền cấu” (纏垢) trói buộc, che phủ, chẳng trong sạch, “cấu”
(垢) là bất tịnh. “Tự quân” (quân của chính
ḿnh) tức là phiền năo trong nội tâm, “tha quân” (quân
của người khác) là phiền năo gây nên bởi tướng
cảnh giới bên ngoài. Trong ngoài cùng tấn công, năo hại,
xâm lấn, bức bách, chúng sanh sống trong cảnh ưu sầu
phiền năo. Xă hội xáo động bất an, nội tâm của
chúng sanh cũng bất an theo. Lại thêm ngu si, tối
tăm, ương bướng, chẳng lanh lợi. Đầu
óc cũng chẳng tỉnh táo, lại c̣n chẳng thể có
trí năng. “Minh” (冥) là tối
tăm, thường ở trong hắc ám th́ là “bất
minh” (不明, chẳng sáng suốt). Trong tâm bất an, chẳng thể
thanh tịnh.
Đồng
thời, họ sanh khởi vô lượng chấp trước
về Đoạn Kiến và Thường Kiến. Đối
với tri kiến Đoạn và Thường, luôn cho là
chính ḿnh hữu lư, thích dấy lên đấu tranh, thích dấy
lên kiện cáo. “Tụng” (訟) là thưa ra ṭa. Tranh
đấu mà chẳng giải quyết được vấn
đề, bèn đưa nhau ra ṭa. Hoặc
oán cừu giết hại lẫn nhau. Ai cũng chẳng
thấy kẻ khác vừa mắt, tự cao, tự đại, tâm
kiêu mạn đặc biệt mạnh mẽ. Chuyện này
chúng ta vừa nghĩ sẽ biết ngay, chẳng cần phải
nói nữa. Luôn cảm giác chính ḿnh ghê gớm lắm, khinh miệt
lẫn nhau, coi rẻ người
khác. Toàn dấy lên tham, sân, si, lừa dối, gạt gẫm,
nịnh hót! Những lời lẽ nói ra toàn là ngôn từ bợ
đỡ, súc xiểm, kiêu mạn đối với người
dưới, chẳng t́m được lời nào chân thật,
chẳng hề nói thật. Nói chung, trọn đủ
mười thứ nghiệp đạo bất thiện!
Nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu, nói đôi chiều là
khẩu nghiệp, “giết, trộm,
dâm” là thân nghiệp, “tham, sân, si” là ư nghiệp.
Do
vậy, trong thế giới Sa Bà này, các chúng sanh chấp
trước ấy ở trong thế giới này thành tựu
đủ loại bệnh tật phiền năo. Bệnh do
tâm sanh, chúng ta bệnh khổ rất nhiều, bệnh ǵ vậy?
Bệnh phiền năo. Bệnh thế gian thông thường
th́ có thể t́m thầy thuốc chữa trị, chứ bệnh
phiền năo th́ phải do chính ḿnh chữa. Nh́n vấn đề
mà chẳng có mắt chánh pháp, sẽ chẳng thấy rơ
ràng. Những ǵ đă làm toàn là tà, “tà” (邪) nghĩa là bất
chánh. “Phẫn hận thiêu năo” (phẫn hận
thiêu đốt, năo hại) có nghĩa là nhiễu loạn bất
an, chưa hề nghĩ đến chánh pháp. Thường
chẳng tư duy chánh pháp chân thật. Chánh pháp là ǵ? Như
chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, chẳng nói dối,
chẳng nói thêu dệt, chẳng ác khẩu, chẳng nói
đôi chiều, chẳng “giết, trộm,
dâm” th́ là chánh ngữ, chánh kiến, chánh mạng, chánh
tư duy. Đấy là chánh pháp.
V́
họ chẳng tư duy chánh pháp, đối với những
điều hay đẹp của chánh pháp, chẳng thể sanh khởi pháp hỷ. Dùng
khẩu vị để tỷ dụ th́ [pháp hỷ] giống
như hương vị. Do chẳng đạt được
pháp vị, nên họ chẳng sanh khởi pháp hỷ. Làm
thế nào để đạt được cái tượng trưng cho pháp hỷ? Nếu
lúc quư vị tĩnh tọa, có thể đạt được
khinh an; lúc xuất Định, sẽ cảm thấy hết
thảy những thứ quấy nhiễu rộn ràng hoàn
toàn chấm dứt. Những nỗi ưu sầu và tư lự
trong tâm, hết thảy tạp niệm toàn bộ chẳng
sanh khởi, sẽ đạt được khinh an, quư vị
sẽ đạt được sự hoan hỷ ấy.
Khi quư vị đọc tụng kinh điển Đại
Thừa, cảm thấy trong tâm hết sức hoan hỷ, hết
sức sung sướng. Đấy chính là đạt
được pháp hỷ.
C̣n
nữa, khi xem kinh, đọc đoạn kinh
văn này, cảm thấy rất hữu dụng đối với
chính ḿnh, trong tâm sanh khởi pháp hỷ, cảm nhận chính
ḿnh có rất nhiều tật xấu, bèn sửa đổi.
Những điều này đều coi như là “cảm nhận
ư vị của pháp hỷ”. Nếu tương phản, chẳng
phải là như vậy, chẳng tư duy chánh pháp chân thật,
mà tư duy toàn là tà đạo, sao có thể gọi là “tư
duy chánh pháp” cho được? Chúng tôi dùng tỷ dụ
để nói. Như Tứ Niệm Xứ, [quán tưởng] thân, thọ, tâm, pháp, bốn
loại ấy th́ được gọi
là Tứ Niệm Xứ. Quán thân bất tịnh, chín lỗ
thường tuôn ra [bất tịnh]. Quán cái thân xác thịt của chúng ta
chẳng có tí ǵ sạch sẽ! Hai con mắt, hai lỗ
mũi, hai tai, một cái miệng, đó là thất đại,
cộng với đại tiểu tiện thành chín lỗ.
Chín lỗ thường tuôn ra bất tịnh, chẳng sạch
sẽ. Cho đến trên thân chúng ta toát mồ hôi, nếu cả
ngày không tắm, người khác sẽ ngửi thấy hôi
ŕnh. Lỗ chân lông bài tiết mồ hôi, chẳng phải là
thanh tịnh, chính quư vị cũng cảm thấy phiền
năo.
Nếu
quư vị thường ngửi thấy mùi thơm lạ, sẽ
cảm thấy vượt thoát khỏi phiền năo. Nếu
có những cảnh giới ấy, sẽ đoạn trừ
các thứ phiền năo. Giống như chiếc lưới
đánh cá, chân tâm của quư vị bị cái lưới [phiền
năo] ấy bao trùm. Tin tưởng tà môn, ngoại đạo,
hiện thời cũng rất nhiều. Học thần
thông, học Khí Công, bảo dưỡng thân thể là chuyện
tốt, nhưng thân thể này quư vị chẳng thể bảo dưỡng
được! Bất luận quư vị bảo dưỡng
thế nào đi nữa, gặp phải tai nạn xe cộ,
thứ ǵ cũng đều chẳng c̣n nữa! Ngồi phi
cơ cũng thường có chuyện rủi ro, quư vị
có bảo dưỡng được không? Thường xảy
ra những chuyện ngoài dự liệu
của quư vị. Đó là thứ quư vị chẳng thể
bảo dưỡng được, cho nên nhất định
phải sanh khởi chánh kiến.
Chánh
kiến là quan sát thân thể này bất tịnh, tức “quán
thân bất tịnh”. Quán thọ, Thọ (受) là Khổ Thọ, có
nghĩa là “lănh nạp”. Lạnh, ấm, xa hoa, quư vị vừa tiếp xúc,
như vừa rồi có nói đến nghi thức quán đảnh,
phải căn cho nhiệt độ nước thích hợp.
Lạnh quá chẳng được, người ấy sẽ
rùng ḿnh. Nóng th́ người ấy sẽ giăy nảy. Phải
là nhiệt độ lạnh nóng vừa phải, sẽ rất
thích hợp. Nếu quư vị nghe pháp, pháp hỷ sung măn,
tương ứng với cái tâm của quư vị, hết sức
tương ứng, quư vị sẽ sanh tâm hoan hỷ, sẽ
lănh nạp. Thọ (受, tiếp nhận):
Nếu quá nóng, quư vị sẽ chẳng thoải mái. Nếu
bị đánh đập, chịu h́nh phạt, lại càng
chẳng dễ chịu. Nếu ngă bệnh, loại bệnh
khổ ấy, đừng nói chi khác, đầu nhức râm
ran, quư vị sẽ toát mồ hôi.
Đau bụng th́ đau như đ̣i mạng. Bất kể
bác sĩ giỏi đến đâu đi nữa, có khi
cũng phải bó tay. Nghiệp chướng đă phát hiện,
dẫu giỏi mấy cũng đành chịu. Như vậy
th́ đối với Thọ, bất luận là sung sướng
đến mấy đi nữa, quư vị biết nó đều là khổ. Lạc Thọ là cái nhân của
khổ; cuối cùng vẫn là khổ. Quán tâm vô thường,
mỗi ngày đều vọng tưởng tơi bời.
Quán pháp vô ngă, đó gọi là chánh đạo.
Chẳng
quán như thế, mê mất chánh đạo. Chúng ta mỗi
ngày v́ thân thể này, chẳng biết đă tốn bao nhiêu
tế bào năo: Phải mặc quần áo kiểu nào, phải
ăn thứ ǵ, phải sống như thế nào
cho thoải mái. Khi thân thể tiếp xúc Thọ, phải
hưởng thụ như thế nào. Dốc tâm tận lực
chú ư, bao lượt vọng tưởng, chẳng có lúc nào
an định được, hệt như con khỉ, mà
tâm cũng như con vượn. Đó gọi là Tứ Niệm
Xứ. Đấy là chánh kiến căn bản của
người học Phật, phải thường tư niệm
như thế. Đó gọi là chánh đạo. Nếu chẳng suy nghĩ như vậy, đă mê mất
chánh đạo, gọi là “thất niệm”.
C̣n
có những người đă thọ Tam Quy Y, sư phụ
bảo quư vị: “Phải trong hai
mươi bốn tiếng đồng hồ niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng”. Nếu quư vị
đă thất niệm, tức là mê mất chánh đạo,
đi theo tà đạo, tà đạo sẽ hướng
đến nơi đâu? Ngạ quỷ, súc sanh, hướng
về ba ác đạo. [Những điều
vừa nói trên đây] chính là để h́nh dung thế giới Sa Bà này, Thích
Ca Mâu Ni Phật ở trong thế giới Sa Bà này. Vào thời
đại không có Phật xuất thế, sẽ là cảnh
giới như thế nào? Chính là cảnh giới như thế
đó! Chánh đạo, chánh niệm rất ít, tà tri, tà kiến
quá nhiều. Đặc biệt là vào thời không có Phật,
[các tà tri, tà kiến ấy] đặc biệt hưng thịnh. Chuyện này tôi không cần phải nói nhiều, mọi
người đều có thể thấu hiểu. Hiện
thời lại c̣n rất nhiều! Họ chẳng tin
tưởng chánh đạo cho mấy, hết sức tin
tưởng tà đạo, tin rất thành khẩn, v́ sao? Do
nghiệp quá khứ và hoàn cảnh gặp gỡ trong hiện
tại, nghiệp và cảnh hai đằng kết hợp,
thánh đạo và nghiệp trong quá khứ của họ chẳng
tương hợp cho mấy! V́ thế, kinh Kim Cang dạy:
Người có thể nghe danh tự Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật
(Vajracchedikā
Prajñāpāramitā), chẳng phải là
đă gieo thiện căn nơi một, hai, ba, bốn,
năm đức Phật, mà là đă gieo thiện căn
nơi các đức Phật nhiều đời, nhiều
kiếp trong quá khứ, th́ mới có thể
nghe Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, cho đến nghe rồi có thể
tin sâu chẳng nghi. Điều này cũng đúng với
kinh Thập Luân.
Pháp
môn Địa Tạng, ngoại trừ kinh Địa Tạng
được mọi người biết đến rất
nhiều, chứ Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và kinh Thập
Luân th́ cũng rất ít người nghe đến, ngay cả
tên kinh c̣n chưa hề nghe qua! V́ sao? V́ họ chẳng có
nhân duyên ấy với Địa Tạng Bồ Tát, ngay cả
nhân duyên nghe danh tự cũng chẳng có! Huống hồ
nghe toàn bộ đạo lư trong bộ kinh này. Có ư nghĩa
như thế đó! “Mê mất thánh đạo” tức
là mê mất chánh đạo, sẽ tiến hướng ba
đường ác. Đấy chính là h́nh dung cơi nước
này, vào lúc chẳng có quốc vương, quốc gia sẽ
có t́nh trạng ra sao. Sau đấy, có một vị quốc
vương anh minh, quốc gia ngay lập tức thay đổi.
Đấy là nói đến Phật Luân của Phật. Nếu
nhằm lúc chẳng có Phật xuất thế, chúng sanh khổ
sở, đă mê mất chánh đạo, tiến hướng
tam ác đạo.
(Kinh)
Ư thử độ trung, hữu chư Bồ Tát Ma Ha
Tát, dĩ ư quá khứ thân cận, cúng dường vô
lượng chư Phật, dĩ nhập chư Phật
công đức đại hải, dĩ trụ chư Phật
bổn sở hành đạo, giai cộng tập hội, lai chí
ngă sở, đồng vị ngă ngôn: “Nhữ ư quá khứ
dĩ tu vô lượng bố thí, điều phục, tịch
tĩnh Thi La, tinh tấn, dũng mănh, nan hành khổ hạnh
nhất thiết bị măn, thị chư vi diệu phước
huệ phương tiện, đại từ
bi đẳng cộng sở trang nghiêm đại công đức
tạng, thị nhất thiết Định tổng tŕ an
nhẫn chư địa công đức viên măn đại
hải, vô siểm, vô cuống, thân h́nh trường đại,
tướng hảo viên măn, nhẫn nhục, nhu ḥa, đoan
chánh thù diệu”.
(經)於此土中,有諸菩薩摩訶薩,已於過去親近供養無量諸佛,已入諸佛功德大海,已住諸佛本所行道,皆共集會,來至我所,同謂我言:「汝於過去,已修無量佈施、調伏、寂靜、尸羅,精進勇猛,難行苦行一切備滿。是諸微妙福慧方便大慈悲等共所莊嚴大功德藏,是一切定總持安忍諸地功德圓滿大海,無諂無誑,身形長大,相好圓滿,忍辱柔和,端正殊妙」。
(Kinh:
Trong cơi này có các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, trong quá khứ
đă thân cận, cúng dường vô lượng chư Phật,
đă vào biển cả công đức của chư Phật,
đă trụ trong đạo của chư Phật đă
hành, đều cùng nhóm đến, cùng bảo ta rằng: “Ông trong quá khứ đă tu vô lượng bố
thí, điều phục, tịch tĩnh Thi La, tinh tấn,
dũng mănh, hết thảy khổ hạnh khó hành đă trọn
vẹn, là kho đại công đức được trang
nghiêm bởi các phương tiện phước huệ vi
diệu, đại từ bi v.v… là biển cả công đức
viên măn của hết thảy Định tổng tŕ an nhẫn
nơi các địa vị, chẳng siểm nịnh, chẳng
lừa dối, thân h́nh cao lớn, tướng hảo viên
măn, nhẫn nhục, nhu ḥa, đoan chánh mầu nhiệm thù
thắng”).
Ma
Ha dịch là Đại. Có các vị đại Bồ
Tát trong quá khứ đă từng thân cận, cúng dường
vô lượng chư Phật, đă vào biển cả công
đức của chư Phật, đă trụ nơi đạo
mà chư Phật vốn đă hành. Tức là nói các
vị đại Bồ Tát đó giống như bậc kỳ
cựu trong cơi nước, có cùng một ư nghĩa. Đức
Phật dùng tỷ dụ để nói: Đức Phật
sở dĩ thành đạo là do các vị đại Bồ
Tát khuyến thỉnh. “Giai cộng tập hội, lai chí
ngă sở” (đều cùng nhóm họp, đến chỗ
của ta): “Ngă” là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng
đối với Địa Tạng Bồ Tát. Họ
đều tới chỗ của ta. Đồng thời, mọi
người đều bảo ta: “Trong quá khứ, ông
đă tu vô lượng bố thí, điều phục, tịch
tĩnh Thi La, tinh tấn, dũng mănh, Lục Độ, vạn
hạnh, ông đều tu rất khá, đă thành tựu”. “Nan hành khổ hạnh,
nhất thiết bị măn” (Hết thảy các khổ hạnh
khó hành đều trọn vẹn): Có thể hành khổ hạnh,
là kho đại công đức được trang nghiêm bởi
các phương tiện phước huệ vi diệu,
đại từ bi v.v… đă trọn đủ
phước đức, có ư nghĩa như thế đó! “Thị nhất thiết Định
tổng tŕ an nhẫn chư địa công đức viên
măn đại hải” (là biển cả công đức
viên măn của hết thảy các định, tổng tŕ an
nhẫn nơi các địa vị): “Chư địa”
chính là Thập Địa, Đẳng Giác và Diệu Giác. “Tổng
tŕ” là như Xa Ma Tha (Śamatha), diệu Lăng
Già định đă nói trong phần trước. Tổng
Tŕ c̣n gọi là tam-muội. Do vậy, công đức nơi
các địa đều trọn đủ viên măn, thành tựu
viên măn.
“Vô siểm, vô cuống,
thân h́nh trường đại” (không siểm nịnh,
không dối trá, thân h́nh cao lớn): Ba mươi hai tướng
và tám mươi loại hảo. “Tướng hảo viên
măn”, “nhẫn nhục nhu ḥa, đoan chánh thù diệu”
(nhẫn nhục, nhu ḥa, đoan chánh thù thắng mầu nhiệm).
(Kinh)
Bất phục y tha tu Bồ Đề đạo, nhất
thiết trí hải dĩ đắc viên măn, thành tựu tối
thắng mỹ diệu dung sắc, năng vị nhất
thiết Thanh Văn, Độc Giác tác đại đạo
sư, diệc năng an ủy nhất thiết sanh tử
bố úy chúng sanh, dữ tác thân hữu, đại từ bi
đẳng vô lượng công đức cộng sở
trang nghiêm, thị Yết Lạc Ca, Tôn Đà Yết Nặc
Ca, Mâu Ni Ca Diếp Ba Như Lai đẳng phụ chi chân tử.
(經)不復依他修菩提道,一切智海已得圓滿,成就最勝美妙容色,能為一切聲聞、獨覺作大導師,亦能安慰一切生死怖畏眾生與作親友,大慈悲等無量功德共所莊嚴。是羯洛迦、孫馱羯諾迦、牟尼迦葉波如來等父之真子。
(Kinh:
Chẳng c̣n nương vào ai khác để tu đạo Bồ
Đề, đă được viên măn biển Nhất Thiết
Trí, thành tựu dung sắc đẹp đẽ tối thắng,
có thể làm bậc đại đạo sư cho hết
thảy Thanh Văn và Độc Giác, cũng có thể an ủi
hết thảy chúng sanh đang sợ hăi sanh tử, làm bạn
thân cho họ, vô lượng công đức như đại
từ bi v.v… cùng trang nghiêm,
là con thật sự của các vị cha như Yết
Lạc Ca, Tôn Đà Yết Nặc Ca Mâu Ni, Ca Diếp Ba
Như Lai v.v…)
“Bất
phục y tha tu Bồ Đề đạo” (chẳng c̣n
nương tựa vào ai khác để tu đạo Bồ
Đề): Đă thành tựu rốt ráo Bồ Đề,
chứng quả Bồ Đề, chẳng c̣n nương
vào Phật hoặc thầy để tu đạo Bồ
Đề nữa. V́ sao? V́ đă viên măn thành tựu biển
Nhất Thiết Trí, thành tựu dung sắc đẹp
đẽ tuyệt diệu tối thắng, cũng tức
là dung sắc trang nghiêm mỹ diệu của Phật. Bất
cứ kẻ ác nào, hễ trông thấy đức Phật,
sẽ vẫn cung kính, vẫn hành lễ. “Năng vị
nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác tác đại
đạo sư” (có thể làm bậc đại đạo
sư cho hết thảy Thanh Văn và Độc Giác): Dẫn
dắt hàng Nhị Thừa tiến nhập Đại Thừa,
cho đến làm đạo sư cho hết thảy chúng
sanh. “Diệc năng an ủy nhất thiết sanh tử
bố úy chúng sanh, dữ tác thân hữu” (Cũng có thể
an ủi hết thảy chúng sanh sợ hăi sanh tử, làm bạn
thân cho họ): Nghĩa là trong sanh tử có kinh hăi, có sợ
sệt, quư vị có thể làm bạn thân thiết, có thể
chỉ dạy cho các chúng sanh ấy. Đấy là đức
Phật có thể thị hiện thân của hết thảy
các loài, trong Tứ Nhiếp Pháp, tức Đồng Sự,
Lợi Hành, Bố Thí, có thể thị hiện, hành từ
bi đồng loại. “Đại từ bi đẳng
vô lượng công đức cộng sở trang nghiêm”
(cùng được trang nghiêm bởi vô lượng công
đức như đại từ bi v.v…), đều có thể
thành tựu.
“Thị
Yết Lạc Ca, Tôn Đà Yết Nặc Ca, Mâu Ni Ca Diếp
Ba Như Lai đẳng phụ chi chân tử” (là con thật
sự của các vị cha như Yết Lạc Ca, Tôn
Đà Yết Nặc Ca Mâu Ni, Ca Diếp Ba Như Lai v.v…):
Đây là ba vị Phật trong Nhân Hiền Kiếp, kiếp
ấy có tất cả một ngàn vị Phật. Ba vị
Phật đă thành tựu trong quá khứ. Thích Ca Mâu Ni Phật
là vị Phật thứ tư. Trong Nhân Hiền Kiếp, c̣n
có chín trăm chín mươi sáu vị, Di Lặc Phật là
vị Phật thứ năm. Nhân Hiền Kiếp là Trụ kiếp. Trong hai
mươi tiểu kiếp thuộc Trụ kiếp, có một
ngàn vị Phật xuất thế.
Hiện
thời, Địa Tạng Bồ Tát đă phát nguyện
này. Trong kinh Địa Tạng cũng như thế, mà kinh
Chiêm Sát cũng như thế, kinh Thập Luân cũng thế.
Chỉ cần [quư vị] trong đời
Mạt Pháp, đối với Phật pháp có công đức
bằng một hạt bụi, một hạt
cát, một giọt nước, Địa Tạng Bồ
Tát đều độ quư vị. Di Lặc Bồ Tát
cũng phát nguyện này. Khi Di Lặc Bồ
Tát thành Phật, trong Long Hoa Tam Hội,
Ngài sẽ độ thoát toàn bộ những đệ tử
c̣n sót lại trong thời Mạt Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật,
khiến cho họ vượt thoát biển khổ. Nhưng
chúng ta phải tự gieo cái nhân ấy sâu hơn nữa,
để tới khi đức Di Lặc trụ thế, sẽ
có thể đắc độ, cho đến Địa Tạng
Bồ Tát cũng sẽ đưa chúng ta về hết thảy
các Tịnh Độ ở mười phương. Tùy
thuộc quư vị mong cầu cơi Tịnh Độ nào,
cũng đều có thể [sanh về đó].
Ở
đây nói tới ba vị Phật. Yết Lạc Ca (Kanakamuni) chính là Câu Na Hàm
Mâu Ni Phật, Tôn Đà Yết Nặc Ca (Krakucchanda) là Câu Lưu Tôn
Phật, Mâu Ni Ca Diếp Ba (Kāśyapa) là Ca Diếp Phật,
cũng thuộc vào trong năm mươi ba vị Phật
mà chúng ta hay lễ. Các Ngài cũng là ba vị Phật trong
quá khứ thất Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật
thứ tư trong Nhân Hiền Kiếp. Ở đây nói Thích
Ca Mâu Ni Phật là con thật sự của ba vị Như
Lai, tức là giống như vương tử, cũng là
đích tử, tức là đích tử của chư Phật,
mà cũng là Phật tử.
(Kinh)
Ư thử Hiền Kiếp, đương đắc tác
Phật, nhất thiết Bồ Tát Ma Ha Tát trung tối vi thượng thủ, dĩ chư công đức
chủng chủng diệu hương, huân Xa Ma Tha, Tỳ Bát
Xá Na thanh tịnh chi thủy,
nhi tự mộc dục, trước tàm quư y, thanh tịnh pháp
giới vi kế trung châu, quan sức chư Phật sở
hành cảnh giới quảng đại
hoa man, thúc dĩ giải thoát thù diệu tố luyện.
(經)於此賢劫當得作佛,一切菩薩摩訶薩中最為上首。以諸功德種種妙香,熏奢摩他、毘缽舍那、清淨之水,而自沐浴著慚愧衣,清淨法界為髻中珠,冠飾諸佛所行境界廣大華鬘,束以解脫殊妙素練。
(Kinh:
Ở trong Hiền Kiếp này, sẽ được làm Phật,
là thượng thủ bậc nhất trong hết thảy
Bồ Tát Ma Ha Tát. Dùng các thứ hương công đức
mầu nhiệm xông nước thanh tịnh Xa Ma Tha và Tỳ
Bát Xá Na để tự tắm gội, mặc áo hổ thẹn,
dùng pháp giới thanh tịnh làm viên châu trong búi tóc, dùng tràng
hoa rộng lớn “cảnh giới sở
hành của chư Phật” để làm măo đội, dùng
lụa trắng giải thoát thù thắng nhiệm mầu
để buộc).
“Ư
thử Hiền Kiếp, đương đắc tác Phật”
[nghĩa là] trong kiếp Nhân Hiền, sẽ thành Phật trong
lúc ấy. Ngài là vị Phật thứ tư. “Nhất thiết
Bồ Tát Ma Ha Tát trung tối vi thượng thủ” (là
thượng thủ bậc nhất trong các vị Bồ
Tát Ma Ha Tát): Thượng thủ là ḥa thượng thủ
tọa của chùa miếu, ḥa thượng là Phật.
Đấy là ḥa thượng trừ bị. Khi nào ḥa thượng
[viện chủ] chẳng có mặt, vị thủ tọa
ḥa thượng sẽ thay mặt ḥa thượng. Nếu
[ḥa thượng viện chủ] có chuyện ǵ cần phải
ra ngoài, thủ tọa ḥa thượng sẽ thay mặt lo
liệu công việc. Giống như Tổng Thống có Phó
Tổng Thống. Nếu Tổng Thống tạm thời
có việc, Phó Tổng Thống bèn thay thế xử lư.
Đó gọi là Thượng Thủ, là thượng thủ
bậc nhất trong các đệ tử của chư Phật.
“Dĩ chư công đức chủng chủng diệu
hương, huân Xa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na thanh tịnh chi thủy”
(dùng thứ hương công đức mầu nhiệm để
xông nước thanh tịnh Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na): Nước
ấy chẳng phải là nước trong thế gian, mà là
Định Huệ, cũng tức
là Chỉ Quán. Xa Ma Tha (Śamatha) dịch là Chỉ,
Tỳ Bát Xá Na (Vipaśyanā) dịch là Quán.
Nước Chỉ Quán chính là nước Định Huệ,
dùng nước ấy để tắm gội.
“Trước
tàm quư y” (mặc áo hổ thẹn): Y phục hổ thẹn
chính là ca-sa. Chữ Ca-sa (Kāṣāya) bao hàm nhiều ư
nghĩa. Ở đây nói là “tàm quư phục”, v́ khoác tấm
áo ấy, sẽ luôn hổ thẹn. Tàm (慚, thẹn) v́ trên th́ so sánh với bậc
hữu đức, chính ḿnh bèn thẹn thùng v́ bản thân thiếu khuyết công đức. Quư (愧, xấu hổ) là xấu hổ với người dưới, tôi
chẳng thể đại từ đại bi cứu
độ họ. Thường có cái tâm ấy, coi
đó là quần áo, dùng hổ thẹn làm y phục. Trong búi
tóc báu của Ngài, tức là giữa măo che tóc, chính là pháp giới
thanh tịnh. Pháp giới thanh tịnh là vô nhiễm, vô cấu,
vô tướng, dùng những điều
ấy để làm bảo châu trong búi tóc. “Quan sức
chư Phật sở hành cảnh giới quảng đại
hoa man” (dùng tràng hoa to lớn “cảnh giới
sở hành của chư Phật” để làm măo đội):
Đừng coi chuyện này như h́nh tướng cụ thể,
mà dùng nó để h́nh dung công đức của Phật.
Đấy đều là pháp vô tướng. “Thúc dĩ giải
thoát thù diệu tố luyện” (buộc bằng giải
lụa trắng giải thoát thù thắng nhiệm mầu): “Giải
thoát” là chứng đắc ba môn giải thoát, Không, Vô Tướng, giải
thoát rốt ráo, mười tám pháp Bất Cộng, Tứ Vô
Sở Úy. Đó đều là tướng giải thoát, giống
như trâm cài đầu của quốc vương, có ư
nghĩa như vậy đó.
(Kinh)
Hựu dĩ chủng chủng Nhất Thiết Trí trí, Vô
Sanh Nhẫn đẳng công đức trân bảo nhi tự
trang nghiêm, từ, bi, hỷ, xả, dĩ vi bảo lư,
năng phú tam giới tam chủng diệu hạnh viên măn
thánh nhân dĩ vi tán, cái, an trí cổ tích chư Phật thiên
tiên cộng sở hộ tŕ Kim Cang Định ṭa, thú nhập
nhất thiết Thanh Văn, Độc Giác cung kính hộ
tŕ tứ chủng niệm trụ, tọa tiên chư Phật
sở phu chi ṭa, chứng đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ Đề Nhất Thiết Trí vị.
(經)又以種種一切智智、無生忍等功德珍寶而自莊嚴,慈悲喜舍以為寶履,能覆三界三種妙行圓滿聖因以為傘蓋,安置古昔諸佛天仙共所護持金剛定座,趣入一切聲聞、獨覺恭敬護持四種念住,坐先諸佛所敷之座,證得無上正等菩提一切智位。
(Kinh:
Lại dùng các món trân bảo công đức như trí Nhất
Thiết Trí, Vô Sanh Nhẫn v.v… để tự trang nghiêm,
dùng từ, bi, hỷ, xả làm dép
báu, dùng ba thứ diệu hạnh viên măn là cái nhân của bậc thánh có thể che phủ tam giới làm tàn, lọng, xếp
đặt ṭa Kim Cang Định được thiên tiên là
chư Phật cùng hộ tŕ từ thuở xa xưa, tiến
nhập bốn thứ niệm trụ được hết
thảy Thanh Văn và Độc Giác cung kính hộ tŕ, ngồi
trên ṭa của chư Phật đă từng trải từ
trước, chứng đắc địa vị Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề Nhất Thiết
Trí).
Lại
dùng các thứ công đức như trí Nhất Thiết Trí,
Vô Sanh Nhẫn v.v… Hết thảy Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát thành tựu Nhất Thiết Trí. Đức Phật là bậc
trí huệ trong hết thảy các trí, nên gọi là “Nhất
Thiết Trí trí”. Vô Sanh Pháp Nhẫn là “nhẫn” hết
thảy các pháp vô sanh. Đem chữ Nhẫn đặt ra
trước, th́ là “chấp nhận
các pháp là vô sanh”. Vô sanh sẽ vô diệt, là tịch tĩnh Niết Bàn,
bao hàm ư nghĩa này. Trong Phật giáo, hễ nói đến
công đức, sẽ thường nói như thế, chúng
ta phải nên thấu hiểu một phen. Công đức là ǵ? Chính là cái mà bản
thân chúng ta vốn sẵn có, tự tin chính ḿnh là Phật.
Nói theo phía chúng ta, tự tin chính ḿnh là Phật, công đức
ấy vốn sẵn có. Nhưng một đằng phải
trải qua tu tập để sửa đổi thành chánh
đáng, một đằng là vốn sẵn có, bị chôn vùi trong cấu
nhiễm, trong các triền phược,
bị vô minh che lấp. Phật đă rốt ráo chứng
đắc, thấu tỏ. Nay chúng ta đối với hết
thảy các pháp, chẳng có sự nhận thức ấy,
cũng không cho là vô sanh. Nếu chúng ta nhận thức hết
thảy các pháp là Không, chúng sẽ trọn đủ công
đức vô lậu tánh. Vô lậu là tánh chất ǵ? Chẳng
c̣n ṛ rỉ, rơi rớt vào sáu đường, chẳng
c̣n đọa vào Thanh Văn và Duyên Giác nữa!
Trong
quá tŕnh tu hành của Phật giáo, phán định theo tông Hoa
Nghiêm, sẽ là năm mươi hai địa vị. Đầu
tiên là Thập Tín, [tức là nói đến chuyện vun bồi]
tín tâm của chúng ta. Thập Tín đă măn, vẫn chưa dự
vào địa vị [Tam Hiền, Thập Thánh], chỉ là
địa vị Thập Tín. Thập Tín vẫn chưa dự
vào địa vị [hiền nhân], v́ c̣n bị thoái chuyển.
Đời này đă sanh ḷng tin, đời sau lại thoái
chuyển. Cứ tiến tiến lùi lùi như vậy, chẳng
nhất định. Trừ phi trụ trong địa vị
Thất Trụ th́ mới chẳng lui sụt xuống địa
vị Thanh Văn và Duyên Giác. Sơ Trụ chẳng lui sụt
vào sáu đường, Sơ Trụ bằng với A La Hán.
Trong Viên Giáo, địa vị này được gọi là
Vị Bất Thoái. Nếu là Hạnh Bất Thoái lại
càng khó, Hạnh Bất Thoái tức là đă đạt
đến địa vị Thất Địa Bồ Tát.
Đạt tới Bát Địa là vô công dụng hạnh,
chẳng cần phải tinh tấn tu hành chi nữa, vị
Bồ Tát ấy vĩnh viễn là như thế, đó gọi
là Bất Thoái.
Nếu
chúng ta chưa đạt đến những địa vị
ấy, Tín vị c̣n chưa măn, Thập Tín vị đă là rất
khó. Hiện thời, chúng ta cảm thấy niệm trước
chẳng đúng, vẫn cứ để cho nó tiếp tục,
biết rơ là chẳng đúng mà vẫn cứ làm, vậy là
ngay cả tín cũng chưa có! Địa vị Sơ Tín vừa
nghe Phật pháp liền rởn da gà, liền tiến nhập,
biết những thứ nào là ác, sẽ chẳng làm nữa.
Biết chính ḿnh suy nghĩ chẳng đúng, sẽ có thể
ngay lập tức
ngưng dứt. Nhận biết tiền
niệm khởi ác, sẽ ngăn cho hậu niệm khởi
lên. Đă nhập
Tín vị, sẽ có
tướng cảnh giới ǵ? Công đức của
người đó chỉ có tăng trưởng cao thêm, chẳng
bị
thoái đọa. Tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tuyệt
đối chẳng thể dao động. Thà xả thân mạng,
trọn chẳng trái bỏ tín ngưỡng, đấy là
đă nhập Tín vị. Hiện thời, hăy dùng Tín ấy
để kiểm tra cá nhân chính ḿnh. Nay ta có sức tín
ngưỡng như vậy hay không? Chỉ cần có thể
chẳng xả niệm. Tín tâm thứ hai là Niệm Bất
Thoái, niệm nào cũng niệm Tam Bảo, duyên niệm Tam
Bảo, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
[đó là] Niệm Bất Thoái. Nếu là Bồ Tát thuộc
địa vị có tín tâm, tức Tam Tín, Tứ Tín, cho đến
Đệ Thập Tín, sẽ là Nguyện Bất Thoái, chúng
ta c̣n chưa làm được! Bất quá, những điều
này nói về Phật, cho nên tôi nói kèm thêm đó thôi!
Vô
Sanh Pháp Nhẫn là “nhẫn” hết thảy các pháp vô
sanh. Đối với ư nghĩa Vô Sanh, tuy đă nghe nói, vẫn
chẳng thấu hiểu được, Giải
vẫn chưa đủ! Đă giải
th́ vẫn chưa hành được, chẳng làm được!
Nếu có thể biết hết thảy các pháp vô sanh; vô
sanh bèn vô diệt, là tịch tĩnh, quư vị sẽ chẳng
tạo bất cứ nghiệp nào nữa. Đạt tới
địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn, sẽ đoạn dứt
vô minh. Địa vị Tam Hiền Bồ Tát vẫn
chưa đủ. Phải là Đăng Địa Bồ
Tát, chứng Lư Thể pháp tánh. Chứng một phần,
sẽ tiến thêm một địa. Chứng mười
phần, sẽ gọi là Đẳng Giác. Chứng rốt
ráo, tức Diệu Giác th́ thành Phật. Do v́ chúng ta đoạn
hiện hành Hoặc rất dễ, nhưng đoạn tập
khí sẽ hết sức khó khăn. Quư vị muốn biết
đời trước là như thế nào ư? Chính quư vị
có thể tự biết. Hiện thời, tập khí nào của quư vị
nặng nề nhất th́ chính là nó đấy. Đời
trước đă làm ǵ, quư vị biết ngay, chính ḿnh hiểu
rất rơ ràng.
Nếu
quư vị vẫn chẳng biết đời trước
đă làm ǵ, từ đường nào mà sanh vào đời
này, hăy dùng Chiêm Sát Luân như kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo đă dạy để chiêm sát, từ một tới
mười con số đầu tiên sẽ là đời quá
khứ của quư vị, từ đường nào mà nay biến
thành người. Muốn biết sau khi chết sẽ
đến nơi đâu, hăy dùng thời điểm hiện
tại để chiêm sát, sẽ biết ḿnh đi vào
đường nào. Trong tương lai, quư vị c̣n có thể
nghe Phật pháp hay không? Chính ḿnh biết rất rơ. Nếu
quư vị chẳng hiểu rơ, Địa Tạng Bồ Tát
sẽ bảo cho quư vị biết. Nếu
gieo Chiêm Sát Luân mà chẳng ứng nghiệm, hăy niệm thánh
hiệu Địa Tạng Bồ Tát cho nhiều. Mỗi
ngày niệm một vạn tiếng, niệm rồi lại
gieo. Gieo lần nữa, [biết kết quả rồi] hăy
chuyển hóa. [Nếu do gieo Chiêm Sát Luân, biết] chính ḿnh
đáng đọa vào tam ác đạo, không được
rồi! Đáng nên thăng thiên mà chẳng thăng thiên,
thăng về thế giới Cực Lạc. Quư vị có
thể chuyển hóa chính ḿnh.
Quư vị ắt cần phải chứng
đắc Vô Sanh. Tuy chẳng thâm nhập chứng đắc
Vô Sanh, chính ḿnh đă lư giải, đă tin tưởng. Quư vị
cũng trọn đủ công đức này, dùng trân bảo
Vô Sanh Pháp Nhẫn để trang nghiêm chính ḿnh. Tứ vô
lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả, từ vô lượng,
bi vô lượng, hỷ vô lượng, xả vô lượng.
Từ, bi, hỷ, xả là dẹp trừ đau khổ của
hết thảy chúng sanh, ban vui sướng cho hết thảy
chúng sanh. Nghe pháp, gặp Tam Bảo, luôn sanh tâm hoan hỷ. Pháp
hỷ sung măn, chuyện ǵ cũng đều có thể xả,
ngay cả thân
thể của chính ḿnh cũng đều có thể xả, huống hồ vật
ngoài thân thể của chính ḿnh! Đều có thể
xả, khiến cho thân, miệng, và ư của chính
ḿnh trở thành cái nhân thù thắng viên măn.
Dùng
những thứ ấy làm “bảo lư” (寶履, dép báu). Dùng bảo
lư để mang vào chân, ở trong tam giới, tức Dục
Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới, thân, miệng,
ư của người ấy vi diệu, trọn chẳng làm
ác. Làm thiện sự, viên măn hết thảy các cái nhân thù thắng
để làm tàn, lọng. “An trí cổ tích chư Phật
thiên tiên cộng sở hộ tŕ Kim Cang Định ṭa” (xếp
bày ṭa Kim Cang Định được chư Phật thiên
tiên cùng hộ tŕ từ xưa): Kim Cang Bồ Đề ṭa,
ngồi nơi ấy, sẽ thành Phật.
Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi Bồ Đề ṭa trong đạo
tràng Già Da Bồ Đề (Bodh Gaya) tại Ấn
Độ. Nay ai đến đó, đều có thể
trông thấy. Từ hơn hai ngàn
năm trước đă là như thế, hiện thời vẫn
như thế. Một khối đất vuông vức
như thế, trải qua nhiều đợt gió táp mưa
sa ngần ấy, có thể sẽ bị giảm thiểu
đôi chút. Tôi thấy như vậy đó, tôi cho rằng
cũng có thể chưa hề bị lay động. Đó
là Kim Cang ṭa.
Thích
Ca Mâu Ni Phật ngồi yên nơi ṭa ấy. Ngồi nơi
đó, Ngài chứng đắc quả vị Vô Thượng
Bồ Đề, chứng đắc ṭa Tứ Niệm Trụ
được hết thảy Thanh Văn và Độc Giác
cung kính hộ tŕ, cho đến thành tựu ở nơi Kim
Cang Bồ Đề ṭa mà chư Phật đă từng ngồi.
Tứ Niệm Trụ là ǵ? Trong phần trước đă
nhắc tới rồi, [chính là] thân, thọ, tâm, pháp, tức
Tứ Niệm Xứ. Đấy là cái luân thứ nhất của
đức Phật. Ngồi trên ṭa ấy, chứng đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, là địa
vị Nhất Thiết Trí, là quả vị của trí Nhất
Thiết Trí.
(Kinh)
Vị linh nhất thiết Tam Bảo chủng tánh bất
đoạn tuyệt cố, chuyển ư pháp luân, kích pháp
chung cổ, diệu pháp âm thanh, biến măn tam giới, linh
chư thiên, long, Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc, Yết
Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc
Già, Cưu Bạn Đồ, Bệ Lệ Đa, Tất Xá
Giá, Bố Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na, nhân phi nhân
đẳng, ư Tứ Thánh Đế giai đắc minh
giải, tam chuyển thập nhị hành tướng pháp
luân, nhất thiết thế gian sở hữu sa-môn, nhược
Bà-la-môn, chư thiên, ma, Phạm, nhân phi nhân đẳng, sở
bất năng chuyển, vị dục lợi ích an lạc
thế gian vô lượng thiên nhân, linh đắc thù thắng
quảng đại nghĩa lợi, tích sở vị chuyển,
nhi kim chuyển chi. Thiện nam tử! Ngă thành như thị
đệ nhất Phật Luân.
(經)為令一切三寶種姓不斷絕故,轉於法輪,擊法鐘鼓,妙法音聲,徧滿三界,令諸天、龍、藥叉、羅剎、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、鳩畔荼、薜荔多、畢舍遮、布怛那、羯吒布怛那、人非人等,於四聖諦皆得明解,三轉十二行相法輪,一切世間所有沙門、若婆羅門、諸天魔梵、人非人等所不能轉,為欲利益安樂世間無量天人,令得殊勝廣大義利,昔所未轉,而今轉之。善男子,我成如是第一佛輪。
(Kinh:
V́ khiến cho hết thảy chủng tánh Tam Bảo chẳng
đoạn tuyệt, bèn chuyển pháp luân, đánh chuông trống
pháp. Âm thanh diệu pháp trọn khắp ba cơi, khiến cho
các trời, rồng, Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc,
Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô
Lạc Già, Cưu Bạn Đồ, Bệ Lệ Đa, Tỳ
Xá Giá, Bố Đát Na, Yết Trá Bố Đát Na, nhân phi nhân
v.v… đều được hiểu rơ Tứ Thánh Đế,
ba lượt chuyển pháp luân mười hai hành tướng
mà hết thảy sa-môn, hay Bà-la-môn, chư thiên, ma, Phạm
Thiên, nhân phi nhân v.v… trong thế gian đều chẳng thể
chuyển được, v́ muốn lợi ích, an vui vô
lượng trời, người trong thế
gian, khiến cho họ đạt được nghĩa lợi
thù thắng rộng lớn. Trước kia chưa chuyển,
mà nay chuyển. Này thiện nam tử! Ta thành tựu Phật
Luân thứ nhất như thế).
Như
vậy th́ sẽ khiến cho Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo
vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt. Đấy là
thời đại chẳng có Phật, các vị Bồ Tát
sẽ đến đâu để thỉnh? Khi Phật
chưa đến nhân gian để thành Phật, Ngài đến
nội viện của Đâu Suất Thiên trước. Hiện
thời, người sẽ kế vị đức Phật là Di Lặc Bồ
Tát cũng đă ở nơi đó. Các vị Bồ Tát ấy
đến Đâu Suất nội viện, thỉnh Ngài hạ
sanh nhân gian để thành Phật. Như vậy th́ sẽ
khiến cho chủng tánh Tam Bảo chẳng bị đoạn
tuyệt. Chuyển đại pháp luân th́ sơ chuyển
pháp luân sẽ nói pháp Tứ Đế, ba lượt chuyển
pháp luân trong đại thiên. Khi ấy, sẽ đánh chuông
trống pháp. Chuông trống pháp do ai đánh? Đức Phật
thuyết pháp lần đầu tiên, lúc đức Phật
mới thành đạo, chẳng muốn thuyết pháp, do
Đại Phạm Thiên khải thỉnh, [đức
Phật mới thuyết pháp]. Do vậy, chuông trống
là do Đế Thích Thiên và Đại Phạm Thiên gơ.
Chuông
trống ấy vang ra âm thanh diệu pháp, trọn khắp Dục
Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới, khiến cho
các quỷ thần thuộc thiên long bát bộ như chư
thiên, rồng, Dược Xoa (Yakṣa), La Sát (Rākṣasa),
A Tố Lạc (Asura, A Tu La), Yết Lộ Đồ (Garuḍa,
tức Ca Lâu La), Khẩn Nại Lạc (Kiṁnara, Khẩn
Na La), Mạc Hô Lạc Già (Mahoraga, Ma Hầu La Già), Cưu Bạn
Đồ (Kumbhāṇḍa, Cưu Bàn Trà), đấy là
tám bộ quỷ thần chúng. Bệ Lệ Đa (Preta), Tất
Xá Giá(Piśāca), Bố Đát Na (Pūtanā), Yết
Trá Bố Đát Na (Kaṭapūtanā), nhân phi nhân v.v… Từ Bệ Lệ Đa trở xuống
là quỷ, có xú quỷ, có quỷ ăn thịt người,
có ngạ quỷ. “Quỷ” nói ở đây hàm ư quỷ vương.
“Nhân
phi nhân đẳng”: La Sát, Dạ Xoa có khi giống người,
nhưng lại chẳng phải là người, nói là trời
th́ họ lại chẳng phải là trời, nhưng lại có thần thông. Giống
người ư? Trên đỉnh đầu lại mọc
ra chân gà, cho nên lại chẳng phải là người. Giống
người mà chẳng phải là người, cho nên gọi là “nhân phi nhân”.
Tứ
Thánh Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Pháp Tứ
Thánh Đế, tam chuyển pháp luân “thập nhị hành
tướng”, hết thảy sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên,
ma, Phạm, nhân phi nhân v.v… trong thế gian đều chẳng
thể chuyển! Trừ đức Phật ra, hết thảy
các loài chúng sanh khác đều chẳng thể chuyển, chẳng
thể nói. Chẳng phải là họ không thể nói, [thật
ra] là v́ họ chẳng biết nói như thế nào. Họ
cũng chẳng niệm, mà cũng chẳng hiểu. Sau khi
đức Phật thành đạo, “vị dục lợi
ích an lạc thế gian vô lượng thiên nhân, linh đắc
thù thắng quảng đại nghĩa lợi” (v́ muốn
lợi ích an lạc vô lượng trời người
trong thế gian, khiến cho họ đạt được
nghĩa lợi rộng lớn thù thắng), trong quá khứ
chẳng thuyết pháp, nay thuyết pháp. “Nhi kim chuyển
chi. Thiện nam tử! Ngă thành như thị đệ nhất
Phật Luân” (mà nay chuyển. Này thiện nam tử! Ta
thành tựu Phật Luân thứ nhất như thế): Phật
Luân là ǵ? Chính là ư nghĩa ấy. Trước hết, dùng
vương luân của quốc vương để h́nh
dung Phật Luân. Trước hết, dùng thế gian để
h́nh dung xuất thế gian.
(Kinh)
Do thử luân cố, như thật liễu tri thử thế,
tha thế, thị xứ, phi xứ, đắc an ổn trụ,
đắc vô kinh khủng, đắc vô sở úy, hàng chư
thiên ma, ngoại đạo
tà luận, chuyển đại phạm luân, thành đại
phạm hạnh. Ngă ưng trụ thử tạp nhiễm
thế giới, ngũ trược ác thời, xử đại
chúng trung, chánh sư tử hống, diệt chư hữu
t́nh Ngũ Vô Gián nghiệp, quảng thuyết năi chí chư bất
thiện căn, tồi diệt nhất thiết chư
chúng sanh loại, kiên như kim cang tương tục phiền
năo, kiến lập nhất thiết, vĩnh tận chư
lậu, giải thoát diệu quả. Tùy kỳ sở nhạo,
an trí nhất thiết hữu lực chúng sanh, linh trụ
tam thừa bất thoái chuyển vị.
(經)由此輪故,如實了知此世他世、是處非處,得安隱住,得無驚恐,得無所畏,降諸天魔外道邪論,轉大梵輪,成大梵行。我應住此雜染世界五濁惡時,處大眾中正師子吼,滅諸有情五無間業,廣說乃至諸不善根,摧滅一切諸眾生類,堅如金剛相續煩惱,建立一切永盡諸漏,解脫妙果隨其所樂,安置一切有力眾生,令住三乘不退轉位。
(Kinh:
Do luân này, biết rơ đúng thật đời này, đời
khác, chỗ đúng, chỗ sai, được trụ an ổn,
chẳng bị kinh hoàng, chẳng bị sợ hăi, hàng phục
tà luận của chư thiên ma và ngoại đạo,
chuyển đại phạm luân, thành đại phạm hạnh. Ta trụ trong thế giới tạp
nhiễm này, vào thời ác ngũ trược, ở trong
đại chúng, thực hiện sư tử hống, diệt
nghiệp Ngũ Vô Gián của các hữu t́nh, nói rộng cho
đến đối với các bất thiện căn, dẹp
tan phiền năo liên tục cứng chắc như kim cang của
hết thảy các loài chúng sanh, kiến lập hết thảy,
vĩnh viễn hết sạch các lậu, đạt diệu
quả giải thoát. Tùy theo ư họ ưa thích mà đặt
yên hết thảy chúng sanh có sức, khiến cho họ trụ
trong địa vị bất thoái chuyển của tam thừa).
Do
vậy, đức Phật chứng đắc Thập Lực.
Ở đây, chỉ nêu ra một loại là Thị Xứ
Phi Xứ Lực. “Như thật liễu tri thử thế,
tha thế” (biết rơ đúng thật đời này,
đời khác): “Thị xứ, phi
xứ” là ǵ? Nếu quư vị sanh trong thế giới
nào, nơi ấy có tương ứng với nhân quả của
quư vị hay không, có đầu thai lộn chỗ hay không?
Cũng có trường hợp đầu thai sai, có khi là Bồ
Tát thị hiện, chẳng phải là sanh không đúng chỗ!
“Như thật liễu tri” (biết rơ đúng như
thật) là Thật Tế Lư Thể, cũng là cảnh giới Nhất Thật. Do dựa
theo Nhất Thật giới, do [nương cậy] pháp tánh, biết
tương xứng với pháp tánh, cho nên an ổn
trụ trong thế giới này, chẳng kinh sợ, chẳng
hoảng hốt, đắc vô sở úy. Không chỉ là chính
ḿnh chẳng sợ hăi, mà c̣n khiến cho hết thảy chúng sanh đều chẳng sợ hăi. “Hàng
chư thiên ma ngoại đạo tà luận” (hàng phục
tà luận của các thiên ma và ngoại đạo): Phật
giáo là chánh luận, phá trừ tà luận của ngoại
đạo. Trong thời Mạt Pháp, tà có thể thắng
chánh; hiện thời, tà thắng chánh. V́ sao? Do nghiệp chiêu
cảm. Nghiệp của ai chiêu cảm? Do nghiệp của
hết thảy chúng sanh chiêu cảm.
Những
thứ chẳng phù hợp lời Phật dạy quá nhiều,
tôi không nói nhiều về điểm này. Tôi nói nhiều, sẽ
không hay lắm! Tự quư vị hăy phân biệt biện
định ǵ là tà, ǵ là chánh? Ắt cần phải có trí huệ
phân biệt, biện định tà chánh. Phàm là đối với lời Phật dạy, tôi chỉ nêu ra một điều
là Tứ Niệm Xứ. Phàm là quán thân bất tịnh, nếu
nói thân thể này thanh tịnh, ta là Phật, thế mà chín lỗ
nơi sắc thân thường tuôn ra các thứ bất tịnh,
quư vị là Phật ǵ vậy? Chẳng có Phật như vậy!
Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải là như vậy. Thích
Ca Mâu Ni Phật hóa hiện [sắc thân] thanh tịnh. Cho
đến hóa hiện sắc thân luôn là ba mươi
hai tướng, tám mươi thứ hảo. Quư vị chẳng
thể trụ trong Chánh Định, tâm của quư vị nhiều
lượt sanh khởi, nhiều lượt vô thường.
Chuyện ǵ cũng đặt chính ḿnh vào bậc nhất,
chẳng thể quán hết thảy các pháp vô ngă; ngay cả
điều tối thiểu như vậy mà c̣n làm không nổi!
Đó gọi là “tà luân” (邪轮), chẳng phải
là thanh tịnh luân.
“Chuyển
đại phạm luân, thành đại phạm hạnh”:
Dùng “đại phạm” để h́nh dung thanh tịnh
luân và phạm hạnh thanh tịnh. Do vậy, Địa Tạng
Bồ Tát hỏi: “Bạch Phật! V́ sao thế giới này
tạp nhiễm, ô trược như vậy mà Ngài có thể
trụ an ổn trong đời ác ngũ trược?” Đức Phật liền
dạy: “Rất an ổn! Do vậy, ta ở trong thế
giới tạp nhiễm này, nhằm đời ác ngũ
trược, ta phát ra sư tử hống, nói ra chánh pháp,
tiêu diệt hết thảy nghiệp Ngũ Vô Gián của hết
thảy hữu t́nh, tiêu diệt sạch các nghiệp giết
cha, giết mẹ, giết La Hán, làm
thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp Tăng. Đồng thời,
rộng nói các chuyện bất thiện, khiến cho họ
đạt được thiện căn, dẹp tan bất
thiện căn, dẹp tan hết thảy phiền năo vốn
có, liên tục không ngừng, kiên cố như kim cang của
hết thảy chúng sanh, ta đều phá tan.
“Kiến
lập nhất thiết, vĩnh tận chư lậu”
(kiến lập hết thảy, vĩnh viễn chấm dứt
các lậu): Khiến cho hết thảy chúng sanh đều
thành Phật, đều chứng đắc giải thoát,
chứng đắc quả vị rốt ráo chẳng thể
nghĩ bàn; đấy là Phật quả. Thuận theo sự
vui thích của họ, mà an trí họ nơi đâu? “Linh trụ
tam thừa bất thoái chuyển vị” (khiến cho họ
trụ địa vị bất thoái chuyển của tam thừa):
Trụ trong Thanh Văn, sẽ chẳng thoái chuyển vào lục
đạo. Sau khi đă liễu sanh tử, đều có thể
dần dần thành Phật. Hàng Nhị Thừa có thể thành
Phật hay không? Đến một lúc nhất định,
họ sẽ chuyển Tiểu hướng Đại. Chẳng
có chúng sanh nào không thành Phật, mà cũng chẳng có người
Nhị Thừa nào không thành Phật! Khi đức Phật
quở trách A La Hán, quở họ chẳng phát đại
tâm, chẳng phát Bồ Đề tâm; đó là v́ c̣n
chưa tới lúc. Mọi người nếu niệm kinh
Địa Tạng, niệm phẩm Phổ Môn, sẽ biết
ngay. Trong phẩm Phổ Môn, người phát khởi là Vô Tận Ư Bồ
Tát. Trong kinh Địa Tạng, khi Địa Tạng Bồ
Tát hóa thân làm cô Quang Mục, là một tín nữ tại gia,
người độ cô ta chính là [một vị
A La Hán, tức tiền thân của] Vô Tận Ư Bồ
Tát. Vị A La Hán ấy chính là Vô Tận Ư Bồ Tát. Trong vô
lượng kiếp trước, Vô Tận Ư Bồ Tát
đă chứng quả A La Hán. A La Hán chẳng phát tâm là v́ c̣n
chưa tới lúc.
Nay
tôi nói cùng mọi người về “tam chuyển pháp luân
ư đại thiên” (ba lượt chuyển pháp luân
trong đại thiên). Mọi người
thường nghe thấy danh từ này, nhưng rất ít
khi được giải thích cặn kẽ. Nay có nhân duyên
này, chúng tôi lợi dụng dịp này để giảng. Một
ngàn vị Phật trong Trang Nghiêm Kiếp, một ngàn vị
Phật trong Hiền Kiếp, một ngàn vị Phật
trong Tinh Tú Kiếp. Một ngàn vị Phật trong Trang Nghiêm
Kiếp đă qua, từ Hoa Quang Phật đến Tỳ
Xá Phù Phật. Khi chúng ta bái sám, [kinh văn] chỉ liệt
kê Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật,
chúng ta nói các Ngài là ba vị Phật trong quá khứ. Bốn
vị Phật Thế Tôn trong Hiền Kiếp hiện thời
[cùng với ba vị Phật quá khứ], hợp thành Thất
Phật Thế Tôn. Một ngàn vị Phật trong Hiền
Kiếp có Câu Lưu Tôn Phật mà chúng ta vừa đọc
thấy [trong kinh văn], Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp
Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ tư, Di Lặc
Phật là vị thứ năm. Vị cuối cùng chính là Vi
Đà Bồ Tát [trong hiện thời]. Vị Phật thứ
nhất trong một ngàn vị Phật thuộc Tinh Tú Kiếp
là Nhật Quang Phật, vị Phật cuối cùng là Tu Di
Tướng Phật. Cuối phẩm thứ tám của kinh
Địa Tạng, quỷ vương Chủ Mạng thành
tựu Tu Di Tướng Phật. Đấy là vị Phật cuối cùng trong Tinh Tú Kiếp.
Nay
dựa theo kinh văn này để nói “tam chuyển pháp
luân”. Sơ chuyển pháp luân là giảng về Khổ Đế.
Đă mê Đế này liền khổ. Nếu chẳng mê
Đế này, tốt lắm. Đức Phật giảng
Khổ Đế cho chúng ta. Sơ chuyển pháp luân là nói cho
chúng ta biết h́nh tướng của khổ, Ngài nói: “Đây là khổ, có tánh chất bức bách”.
Khổ chuyển là Thị Tướng Chuyển, nói “đây
là khổ, có tánh chất bức bách”. Chúng sanh lợi
căn vừa nghe, họ sẽ tự nhủ “khổ có
tánh bức bách”, ta phải đoạn Khổ. Khổ do
đâu mà có? Bèn t́m nguyên nhân. Nguyên nhân là do Tập mà có. Đấy
là Khổ, là bức bách, là Sơ Chuyển, là Thị
Tướng Chuyển.
Thứ
Chuyển là khuyên tu, nói “đây là Khổ, các ngươi nên
biết”. Các vị hăy nên biết đấy là Khổ.
Đệ Tam Chuyển là Tác Chuyển, “đấy là Khổ,
ta đă biết”. Vừa chuyển, người lợi
căn bèn khai ngộ. Có các chúng sanh căn cơ không nhạy
bén như vậy, nhất định phải thêm vào “nhữ
ưng tri” (các ngươi hăy nên biết). V́ sao nói Khổ?
Đây là Thứ Chuyển, dành cho hạng trung căn. Vậy
mà quư vị c̣n chưa lănh ngộ, Phật liền làm chứng
(Tác Chứng), tức là Thị Chứng Chuyển, nói: “Đấy
là Khổ, ta đă biết, các ngươi phải nên tin”.
Đó là Khổ Tam Chuyển. “Tam chuyển pháp luân ư
đại thiên”, [nghĩa là] nói Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, đối với mỗi Đế, đều trải qua ba lượt chuyển,
có ư nghĩa như thế đó.
Đây là Tập Đế, [nhằm trả lời
câu hỏi] “Khổ quả do đâu mà có?” Nói đến
cái quả thế gian, khổ quả do chính quư vị chiêu cảm,
cùng lúc tụ tập. Khổ quả do khổ nhân thành tựu.
Đấy cũng là Sơ Chuyển, là Thị Tướng, [tức là nói]: “Đây là Tập, có tánh chiêu cảm”. Cái nhân của sự
khổ tích tập quá nhiều, tự nhiên quư vị phải
chịu khổ quả. Cái nhân ấy có thể cảm quả,
mang tánh chất chiêu cảm. Người lợi căn nghe
nói như vậy, họ biết ngay, hiểu ngay. Thứ
Chuyển là dành cho người trung căn, tức là khuyên
tu. “Đây là Tập, các ngươi nên đoạn”.
Quư vị chẳng muốn chịu khổ, phải đoạn
cái nhân khổ ấy. Đó gọi là Thứ Chuyển. Thứ
Chuyển mà vẫn chưa khai ngộ, vẫn chưa hiểu
rơ th́ phải Tam Chuyển. Tam Chuyển vẫn là Tác
Chứng Chuyển.
Bốn
Đế ấy đều là Thị Tướng, Khuyến
Tu, và Tác Chứng. Một đằng là nhân quả thế
gian, đằng kia là nhân quả xuất thế gian. Nói “đây
là Tập, ta đă đoạn”, quư vị cũng phải
nên đoạn, [đó là Tác Chứng Chuyển]. Giải thích
như vậy, đó gọi là nhân quả thế gian. Nếu
thật sự đă đoạn Tập nhân, tự nhiên là
chẳng có khổ quả. Không có khổ quả, quư vị
sẽ vượt thoát tam giới. Vượt thoát tam giới,
đoạn Khổ, bèn chứng. Tiếp đó, muốn
đoạn Khổ th́ phải tu Đạo. Tu Đạo sẽ
có thể chứng đắc quả. Nhân quả thế
gian là Khổ Tập, Khổ là quả, tức cái quả
trong thế gian. Tập là cái nhân chiêu cảm khổ quả trong thế gian.
Như
thế th́ phải lật ngược lại! Từ thế
gian đạt đến xuất thế gian, phải tu cái nhân xuất thế gian ḥng chứng cái quả
xuất thế gian. Khổ và lạc tương đối.
Nói theo nhân quả xuất thế gian th́ lạc quả gọi
là Diệt, cũng là Sơ Chuyển, Thứ Chuyển, Tam Chuyển, tức Thị
Tướng, Khuyến Tu, và Tác Chứng. “Đây là Diệt,
có tánh chất có thể chứng”, [hàm nghĩa] “diệt khổ, ắt quư vị có thể chứng”. Đă chứng
đắc, sẽ chẳng có Khổ. Đấy là tánh chất
có thể chứng. Thứ Chuyển là khuyên tu, khuyên họ
hăy tu đạo. “Đây là Diệt, các ngươi hăy nên
chứng”. Quư vị hăy nên chứng đắc. Diệt
là chứng Sanh, quư vị bất sanh sẽ bất diệt,
bất diệt cũng là bất sanh. Sanh tử luân chuyển,
đă diệt th́ sẽ chẳng luân chuyển
nữa. Nói như thế đó: Quư vị hăy nên chứng.
Khuyên họ hăy tu, tức là nói với người trung
căn. “Đấy là Diệt, các ngươi hăy nên chứng”,
quư vị hăy nên chứng đắc. Tam chuyển, tức là
“đây là Diệt, ta đă chứng đắc”, ngụ ư: “Ta có thể chứng
minh. Các ngươi cũng có thể làm như thế,
cũng có thể chứng đắc”. Đấy
chính là cái quả của ngộ. Nhân của ngộ quả
là Đạo Đế. Trong Khổ, Tập,
Diệt, Đạo th́ Đạo là nhân [của Diệt],
là cái nhân của ngộ. Khổ quả là mê quả, lạc
quả là ngộ quả. Khổ nhân là mê nhân, lạc nhân là
ngộ nhân. Đấy là tương đối.
Đạo
Đế sơ chuyển là Thị Hiện Chuyển: “Đây
là Đạo, có tánh chất có thể tu”, hăy nên tu.
Người thượng căn vừa nghe bèn có thể ngộ
được. Đă ngộ sẽ có thể tu, hễ tu
bèn chứng đắc. Nếu là kẻ trung căn, c̣n phải
khuyên, đức Phật liền dùng chính ḿnh để chứng minh, để khuyên tu, dạy:
“Đây là Đạo, các ngươi hăy nên tu”. Quư vị
hăy nên tu Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chúng tôi nêu một
thí dụ, nói đến Tứ Niệm Xứ, đấy
là tu Đạo. Quư vị quán thân bất tịnh, quán thọ
là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă; đấy
là tu Đạo. “Các ngươi hăy nên tu” có rất nhiều
pháp, tôi chỉ nêu thí dụ này. Tam Chuyển là Tác Chứng. “Đây
là Đạo, ta đă tu”, ta tu rồi, đă chứng
đắc. Hễ tu rồi th́ sẽ chứng đắc.
“Tam
chuyển Tứ Đế” trong kinh nói theo ư nghĩa
như vậy đó. Tập là nghiệp chiêu cảm tụ
tập, hăy suy xét cặn kẽ chuyện này một phen. Phiền
năo, Hoặc, Nghiệp của chúng ta sẽ chiêu cảm, tụ tập khổ quả sanh tử
trong tam giới. Tập Đế liên quan đến thế
gian này. V́ sao sẽ sanh khởi khổ quả? Những ǵ quư
vị đă làm chính là cái nhân để
sanh khởi, chính là căn nguyên tích tập.
Căn nguyên là chân lư. Chân lư vốn chẳng có. Do quư vị tạo
tác mà sanh khởi khổ nhân. Diệt có nghĩa là “tịch
diệt”, quư vị hăy suy xét cặn kẽ một phen:
Căn bản của khổ là ǵ? Là dục và ái. Nếu
đoạn trừ dục và ái, khổ sẽ diệt. Khổ
đă diệt, sẽ chẳng c̣n tái sanh, quư vị sẽ nhập
cảnh giới Niết Bàn. Niết Bàn là ǵ? Là bất sanh,
bất diệt. Cái nhân là Khổ Tập đă diệt hết,
tự nhiên khổ quả cũng tiêu diệt. Đấy là
chân lư, nhưng Đạo Đế và Diệt Đế là
xuất thế gian, Diệt có nghĩa là tịch diệt.
Do dục và ái làm nhân, cho nên quư vị chẳng chứng
đắc Diệt quả. Quư vị đoạn dục và
ái, sẽ chứng đắc Diệt quả. Đoạn bằng cách nào? Phải tu, phải quán hết
thảy các pháp vô ngă. Hăy nên tu như vậy.
Ba
mươi bảy đạo phẩm và Bát Chánh Đạo
đều là Chân Đế để chúng ta tu hành. Do vậy,
sau khi đức Phật thành Phật, Ngài đă quan sát, ứng
theo căn cơ, đi tới Lộc Dă Uyển, đối
trước nhóm năm vị tỳ-kheo Kiều Trần
Như nói pháp Tứ Đế. Đấy là pháp cơ bản
nhất trong Phật giáo, là giáo nghĩa tối sơ. Ngoài việc nói về giải thoát sanh tử ra,
c̣n phải nói sâu hơn về Tứ Đế, đó là
cách giải thích trong Đại Thừa. Kinh điển
Đại Thừa cũng có Khổ, Tập, Diệt, Đạo
Tứ Đế, nhưng nói c̣n sâu hơn Tiểu Thừa,
phát huy đạo lư càng sâu hơn nữa. Hiểu các đạo lư ấy, th́ gọi là Tam Chuyển Tứ
Đế.
Nếu
đối với các danh từ giống như thế này
đều giải thích [cặn kẽ] như vậy, thời
gian của chúng ta chẳng cho phép. Tôi chỉ
giải thích một trường hợp này. C̣n như Tứ
Niệm Xứ, Tứ Như Ư Túc, Tứ Chánh Cần,
Ngũ Căn, Ngũ Lực, Bát Chánh Đạo, Thất
Giác Chi đều thuộc vào ba mươi bảy đạo
phẩm.
Đại Thừa
Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 4 hết
[1]
Đỗ Đa (Dhuta) chính là cách phiên âm khác của chữ
Đầu Đà. Do hạnh Đầu Đà nhằm trừ
khử trần cấu phiền năo, nên lăo pháp sư nói Đỗ
Đa có nghĩa là có thể
trừ khử hết thảy trần cấu, có thể trừ
khử hết thảy phiền năo, biến hết thảy
phiền năo thành công đức.
[2]
Mê hoặc là do phiền năo che lấp chân tánh. Mê và ngộ
xét theo lư chỉ là một. Do vậy, mê hoặc có thể
nói là trí huệ bị che lấp. Do bị che lấp nên trí
huệ kim cang chẳng hiển lộ, biểu hiện thành
mê hoặc. Do mê hay ngộ cùng một nguồn, nên nói mê hoặc
sanh từ trí huệ kim cang.
[3] Hỏa Kế có nghĩa gốc là
những người làm công trong tiệm hoặc xưởng.
Đặc biệt là bồi bàn thường được
gọi là “hỏa kế”, tức “phổ ky” trong tiếng
Quảng Đông.
[4] Tam Vũ Diệt Phật là ba lần
pháp nạn của Phật Trung Hoa: Triều đ́nh cấm đoán Phật
giáo, giam cầm tăng sĩ, phá hủy chùa chiền,
hủy tượng Phật và kinh sách nhà Phật, đuổi
Tăng sĩ về đời, tịch thâu tự sản.
Gọi là Tam Vũ v́ ba vua thực hiện chánh sách đàn áp
này đều có chữ Vũ trong miếu hiệu, tức
Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế,
và Đường Vũ Tông. Ngụy Thái Vũ Đế
(Thác Bạt Đào) diệt Phật do say mê Đạo Giáo,
nghe lời xúc xiểm của bọn Thôi Hạo và đạo
sĩ Khấu Khiêm Chi, muốn biến Đạo Giáo thành quốc giáo độc tôn,
cũng như muốn chiếm đoạt tài sản của
tự viện. Châu Vũ Đế (Vũ Văn Ung) muốn
tôn sùng Nho học, lại do thấy quốc khố thâm thủng,
tự viện Phật giáo có nhiều ruộng
đất, tăng sĩ không phải nộp thuế, bèn nẩy
ḷng tham. Lại do gă tăng phá giới hoàn tục trở
thành đạo sĩ là Vệ Nguyên Tung xúc xiểm, Châu
Vũ Đế bèn nhất quyết hủy diệt Phật
giáo. Đường Vũ Tông (Lư Viêm) do muốn chiếm
đoạt tài sản của tự viện, nghe theo lời
sàm tấu của bè lũ đạo sĩ Triệu Quy Chân
bèn hạ lệnh diệt Phật pháp.
[5] Đơn Hà Thiên Nhiên (739-824) là môn
đệ của thiền sư Thạch Đầu Hy Thiên
và Mă Tổ Đạo Nhất. Trên đường vân du,
Sư đến chùa Huệ Lâm, gặp lúc trời lạnh,
Sư bèn chẻ tượng Phật làm củi đốt.
Viện chủ trông thấy quở trách, Sư đáp: “Tôi
đốt t́m xá-lợi”. Viện chủ
bảo: “Phật gỗ làm ǵ có xá-lợi?” Sư nói: “Đă
không có xá-lợi th́ thỉnh thêm hai vị nữa
để đốt”. Viện chủ liền khai ngộ.
[6] Đông Tam Tỉnh là ba tỉnh ở
miền Đông Bắc Trung Hoa gồm Liêu Ninh, Cát Lâm, và Hắc
Long Giang.
[7] Bệnh
viện này có tên gọi đầy đủ là Vinh Dân Tổng
Y Viện (Veterans General Hospital). Hầu như mỗi thành phố
lớn như Đài Bắc, Đài Trung, Cao Hùng… Bệnh viện
Trường Canh là một hệ thống bệnh viện ở
Đài Loan do Vương Vĩnh Khánh sáng lập nhằm tôn
vinh thân phụ là Vương Trường Canh, có chi nhánh tại
các thành phố Đài Bắc, Lâm Khẩu (thuộc thành phố
Đào Viên), Cao Hùng, Cơ Long, Gia Nghĩa, Vân Lâm v.v…
[8] Đây là một loại hộp nhỏ
bằng kim loại (thường là bằng bạc, bằng
vàng, hay bằng đồng), hay bằng
gỗ quư, gọi là Gau, thường
được chạm trổ đẹp đẽ, có thể
cẩn các loại bảo thạch. Phía trước có một ô cửa sổ nhỏ để
đặt tượng Phật. Tượng Phật
thường được chèn quanh bằng lụa, đôi
khi có các giải giấy mỏng viết các bài thần chú
bao quanh. Gau cũng có thể xỏ dây để đeo trước ngực.
[9]
Do các đại lạt-ma Tây Tạng thường tự
xưng là Phật này, Bồ Tát nọ chuyển thế, chẳng
hạn Đại Lai Lạt Ma là hóa thân của Quán Thế
Âm, Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama) là hóa thân của A Di
Đà Phật, Karmapa là hóa thân của Quán Thế Âm, Trizin
Sakyapa là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát v.v… cho nên người
Hoa thường gọi các đại Lạt-ma là Hoạt
Phật (Phật sống). Hầu như viện trưởng
các tu viện lớn của Tây Tạng đều
được coi là hóa thân (Tulku) của các vị Phật,
Bồ Tát, hoặc tối thiểu các vị đại
sư, các vị đại hành giả Mật Tông trong quá khứ.
[10] Tùy
Miên (Anuśaya) c̣n dịch
là Sử, hay Sử Phiền Năo, chính là tên gọi khác của
Phiền Năo, nhưng Phiền Năo bao hàm ư nghĩa khá rộng,
c̣n Tùy Miên chỉ hạn định trong hiện hành phiền
năo. Do nó ngấm ngần ẩn tàng trong nội tâm (Miên, sánh
ví như đang say ngủ), luôn chờ dịp để khởi
tác dụng như bóng theo h́nh (Tùy); v́ thế gọi là Tùy
Miên. Nếu nói gọn th́ Tùy Miên gồm tham, sân, si, nói rộng
hơn th́ sẽ thành mười kết sử. Hiển
Dương Thánh Giáo Luận c̣n phân tích có hai mươi loại
Tùy Miên.