Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh

Giảng Kư, phần 7

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

梦参老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

III. Vô Y Hạnh phẩm đệ tam (無依行品第三, Phẩm thứ ba Vô Y Hạnh)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung hữu Đại Phạm Thiên, danh viết Thiên Tạng, cửu thực thiện căn, trụ Đệ Thập Địa, cụ chư Bồ Tát Ma Ha Tát đức, tức tùng ṭa khởi, hiệp chưởng lễ Phật, nhi thuyết tụng ngôn: “Công đức tạng huệ hải, ngă kim vấn sở nghi, nguyện huệ hải thùy thính, vị ngă trừ nghi trệ. Ngă đẳng kim khát ngưỡng, đức tạng thắng pháp vị, cập tối thượng nghĩa vị, cử chúng hàm dục văn”.

          ()爾時,會中有大梵天,名曰天藏,久植善根,住第十地,具諸菩薩摩訶薩德,即從座起,合掌禮佛,而說頌言:功德藏慧海,我今問所疑,願慧海垂聽,為我除疑滯。我等今渴仰,德藏勝法味,及最上義味,舉眾咸欲聞。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội có Đại Phạm Thiên, tên là Thiên Tạng, gieo thiện căn đă lâu, trụ Đệ Thập Địa, trọn đủ các đức của Bồ Tát Ma Ha Tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, lễ Phật, bèn nói kệ tụng rằng: “Biển huệ, kho công đức. Con nay hỏi điều nghi. Nguyện biển huệ lắng nghe. V́ con trừ nghi trệ. Chúng con nay khát ngưỡng, thắng pháp vị đức tạng, và nghĩa vị tối thượng. Đại chúng đều muốn nghe”).

 

          Bài kệ tụng này tán thán công đức của Phật, “tạng huệ hải” (藏慧海) là nói đến những lời đức Phật dạy. Phật chứa đựng hết thảy công đức, hàm tàng hết thảy trí huệ, sâu như biển, rộng như biển. Phạm Thiên nói “ngă kim vấn sở nghi”, [nghĩa là] nay con có đôi chút nghi hoặc, có thể thưa hỏi hay chăng? Có thể thỉnh cầu hay chăng? “Nguyện huệ hải thùy thính” (xin biển huệ rủ ḷng nghe): Kính xin đức Phật thương xót, cho phép con nói, như vậy th́ sẽ có thể trừ nỗi nghi hoặc ấy cho con. “Nghi hoặc” là vướng mắc, ngăn ngại. Hễ có nghi hoặc, ngăn ngại, sẽ chẳng thể tiến thêm được. Khử trừ nghi hoặc th́ con mới có thể tu.

          Chúng con và đại chúng tham dự pháp hội đều khát ngưỡng, khát ngưỡng ǵ vậy? “Đức tạng thắng pháp vị” (pháp vị thù thắng nơi kho công đức). “Đức tạng” () là [từ ngữ] ca ngợi Phật, ca tụng đức Thế Tôn chứa đựng hết thảy công đức, có pháp vị thù thắng. “Pháp vị” (法味) là khi đức Phật thuyết pháp, sẽ có một loại hương vị, giống như khi chúng ta ăn uống, cảm nhận diệu vị sanh khởi. Ở đây là diệu vị của các pháp, như khi quư vị sanh khởi tâm hoan hỷ, sanh khởi tâm hớn hở, sanh khởi tâm tinh tấn, sanh khởi tâm sám hối. Chuyện này bao hàm rất nhiều [ư nghĩa], tùy thuộc huệ lực khi nghe pháp của mỗi người, cũng như do sức thiện căn của chính ḿnh. “Tối thượng nghĩa vị” là pháp vị do nghe pháp, nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế tối thượng. Nghĩa ấy là Đệ Nhất Nghĩa, ai nấy đều mong đạt được loại Đệ Nhất Nghĩa thù thắng ấy, có trí vị, lại c̣n có thể no đủ. Nghe pháp vị mà như thọ dụng thức ăn, chính ḿnh hăy tự tu, hăy tu đi! Do vậy, hiện thời mọi người đều mong được nghe.

          Trước hết, chúng ta phải biết hàm nghĩa của phẩm Vô Y Hạnh th́ mới biết được ư nghĩa pháp vị ấy. Vô Y Hạnh là làm những điều chẳng đáng nương cậy. Điều đó có nghĩa là khi quư vị thực hiện một pháp nào đó, lẽ ra pháp đó phải là cơ sở để thiện căn và công đức nương vào đó mà sanh khởi, nhưng cái pháp mà quư vị đang hành đó lại chẳng thể làm cơ sở [cho thiện căn và công đức] nương cậy [ḥng sanh khởi] được! Vô Y (無依) là “không nương cậy được”. Hành pháp (pháp được thực hiện) vốn là chỗ nương tựa để sanh khởi công đức và thiện căn; [thế mà các hành pháp được nói trong phẩm này] là Vô Y, tức là chúng chẳng thể dùng làm cơ sở để sanh khởi [thiện căn, công đức] được! V́ sao chẳng thể? Hoặc là do quư vị duyên niệm tà tri, tà kiến, tạo tác đủ loại nghiệp. Hoặc do ác duyên, chẳng gặp gỡ minh sư, mà gặp bạn ác dẫn dụ, vậy th́ khi quư vị hành pháp, các pháp ấy chẳng thể làm chỗ nương cậy cho công đức và thiện căn, tức là những ǵ quư vị đă làm chẳng thể sanh ra thiện căn, chẳng thể sanh ra công đức. Vậy th́ sẽ sanh ra ǵ? Sanh ra các tội lỗi. Dưới đây, [đức Phật sẽ kể ra] có tất cả mười loại.

 

          (Kinh) Phật cáo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên ngôn: “Như Lai kim giả tứ nhữ ư vấn, đương tùy vấn đáp, linh nhữ tâm hỷ”. Đại Phạm Thiên ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn!” Dĩ tụng vấn viết: “Lợi huệ tu Định giả, an trụ bất phóng dật, vị trụ Thắng Nghĩa Đế? Vị y chỉ sanh tử? Trú dạ ư pháp nghĩa, tinh cần nhi tụng tập, vị độ phiền năo hải? Vị thoái đọa ác thú? Dũng mănh cần doanh phước, vị định thú Niết Bàn? Vị xử sanh tử trung, thoái đọa ư ác thú? Thông huệ Sát-đế-lợi, thành tựu thập chủng luân, vị trầm sanh tử trung? Vị đương thăng Phật quả? Tạp nhiễm tâm nan phục, chư phiền năo sở loạn, dĩ hà tịnh kỳ tâm, tu Định, phước, tụng nghiệp?”

          ()佛告天藏大梵天言:如來今者恣汝意問,當隨問答,令汝心喜。大梵天言:唯然,世尊。以頌問曰:利慧修定者,安住不放逸,為住勝義諦?為依止生死?晝夜於法義,精勤而習誦,為渡煩惱海?為退墮惡趣?勇猛勤營福,為定趣涅槃?為處生死中,退墮於惡趣?聰慧剎帝利,成就十種輪,為沉生死中?為當升佛果?雜染心難伏,諸煩惱所亂,以何淨其心,修定福誦業?

          (Kinh: Đức Phật bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng: “Như Lai nay cho phép ông tùy ư hỏi, sẽ theo lời ông hỏi mà đáp, khiến cho tâm ông vui mừng”. Đại Phạm Thiên nói: “Thưa vâng, đức Thế Tôn!” Dùng kệ hỏi rằng: “Kẻ huệ bén tu Định, an trụ chẳng buông lung, sẽ trụ Thắng Nghĩa Đế, hay nương cậy sanh tử? Ngày đêm đều siêng ṛng, tụng tập các pháp nghĩa, sẽ vượt biển phiền năo, hay thoái đọa đường ác? Dũng mănh siêng tu phước, chắc chắn đạt Niết Bàn, hay ở trong sanh tử, lui sụt vào nẻo ác? Sát-đế-lợi thông huệ, thành tựu mười thứ luân, sẽ ch́m trong sanh tử, hay ngự lên Phật quả? Tâm tạp nhiễm khó phục, các phiền năo nhiễu loạn, dùng ǵ để tịnh tâm, tu Định, phước, tụng nghiệp?”)

         

          Đức Phật liền khen ngợi các vấn đề do Thiên Tạng Đại Phạm Thiên đă hỏi. Đức Phật bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên: “Như Lai nay cho phép ông tùy ư hỏi, sẽ tùy theo lời hỏi mà đáp, khiến cho tâm ông hoan hỷ”. Đại Phạm Thiên thưa: “Kính vâng đức Thế Tôn”, rồi dùng kệ tụng để hỏi. Trước hết, ông ta thưa thỉnh. Kệ tụng trong phần trước là để thỉnh ư Phật: Con có nghi vấn, Ngài có thể giải đáp cho con hay không? Sau khi đă giải đáp, sẽ khiến cho chúng con đều do nghe pháp mà hưởng pháp vị thù thắng, nhiệm mầu, nghe nghĩa vị thù thắng nhất. “Pháp vị, nghĩa vị”: Trong pháp vị có chứa đựng nghĩa vị, trong pháp có chứa đựng nghĩa lư. Đức Phật lại trả lời: “Tùy nhữ ư vấn”, nghĩa là: Ông muốn hỏi ta, ta sẽ giải thích, trả lời cho ông.

          Đại Phạm Thiên dùng bài kệ tụng này để hỏi. Ông ta nói tất cả năm bài tụng, mỗi bài tụng là bốn câu. Ông ta nói: Người có trí huệ thông lợi mà tu Định, tức tu tam-muội, có thể chẳng buông lung. “Chẳng buông lung” (bất phóng dật) tức là chẳng điệu cử (掉舉, lao chao, xáo động), mà cũng chẳng hôn trầm. Hạng chúng sanh như vậy sẽ trụ nơi Thắng Nghĩa Đế ư? Hay là vẫn phải lưu chuyển trong sanh tử? Vẫn y chỉ sanh tử để lưu chuyển, hay sẽ y chỉ Thắng Nghĩa? Tức là nói giả sử có một người trí huệ nhạy bén tu Định, an trụ trong tinh tấn, bất phóng dật để tu hành, người ấy sẽ trụ trong Thắng Nghĩa Đế, hay là vẫn nương tựa sanh tử? Đó là một vấn đề.

          “Trú dạ ư pháp nghĩa, tinh cần nhi tụng tập, v độ phiền năo hải? V thoái đọa ác thú?” (Ngày đêm đều siêng ṛng, tụng tập các pháp nghĩa, sẽ vượt biển phiền năo? Hay thoái đọa đường ác?): “Pháp” chính là nghĩa lư được chứa đựng trong các bài kinh do đức Phật đă nói. Mỗi bộ kinh đều có nghĩa lư, đều là vô thượng nghĩa, là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do vậy, mỗi pháp đều gọi là “Đế pháp” (諦法, pháp chân thật). Đối với nghĩa lư của Phật pháp, ngày đêm tu tập, đọc tụng Đại Thừa, lại c̣n tinh tấn, dũng mănh, siêng năng chuyên ṛng, chẳng giải đăi; như thế th́ có thể vượt biển phiền năo hay chăng? Người ấy làm như vậy có thể vượt biển phiền năo hay không? Hay sẽ thoái đọa vào đường ác? Bài kệ này có ư nghĩa giống bài tụng trên: [Chỗ khác biệt là] một đằng tu Định, một đằng đọc tụng Đại Thừa để tu Huệ và tu phước.

          Kế đó là chăm lo tu phước. “Dũng mănh cần doanh phước” (dũng mănh, siêng tu phước): Làm hết thảy các Phật sự, luôn luôn dũng mănh, chuyên ṛng, siêng năng thực hiện. “Vị định thú Niết Bàn? Vị sử sanh tử trung, thoái đọa ư ác thú?”, ư nói: Loại chúng sanh chuyên tu tạo phước nghiệp ấy có thể dùng sức phước đức để tiến hướng Niết Bàn hay không? Hay là vẫn ở trong sanh tử, lui đọa vào nẻo ác? Đây lại là một điều nữa!

          Vấn đề thứ hai, Sát-đế-lợi thông minh, có trí huệ, thành tựu mười loại luân, “vị trầm sanh tử trung? Vị đương thăng Phật quả?” (sẽ ch́m trong sanh tử? Hay ngự lên Phật quả): Đối với các vua thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi như đă nói trong phần trước, tức Sát-đế-lợi được quán đảnh làm vua, đă thành tựu mười loại vương luân, lên ngôi Kim Luân Vương, hoặc ngôi vua Đồng Luân. Sát-đế-lợi [làm Luân Vương] có bốn loại, chúng ta luôn nói đến Kim Luân Vương làm vua trọn khắp bốn bộ châu. Ông ta đă thành tựu mười loại vương luân, sẽ vẫn ch́m đắm trong sanh tử, hay là sẽ thăng lên Phật quả? Tức là có thể thành Phật quả hay không?

          “Tạp nhiễm tâm nan phục, chư phiền năo sở loạn, dĩ hà tịnh kỳ tâm, tu Định, phước, tụng nghiệp” (tâm tạp nhiễm khó hàng phục, bị các phiền năo làm loạn, làm thế nào để tịnh cái tâm, tu Định, tu phước, hay đọc tụng): Đây là phần kệ tụng nhằm nêu chung những điều ấy. Chúng sanh trong hiện thời, bất luận tu Định cũng thế, mà tu tụng nghiệp (đọc tụng Đại Thừa) cũng thế, chúng sanh lo tu phước cũng thế, tâm họ toàn là tâm tạp nhiễm. Đối với vị Sát-đế-lợi được quán đảnh làm vua, v́ sao ông ta (Thiên Tạng Đại Phạm Thiên) hỏi như thế? Lo tu tạo phước th́ có thể tiến hướng Niết Bàn hay không? Do nghiệp tŕ tụng có thể đạt đến Phật quả hay không? Tu Định có thể thành tựu tam-ma-địa hay không? Nêu ra một đằng là chánh diện, một đằng là tương phản, v́ sao ông ta hỏi như vậy? “Tạp nhiễm tâm nan phục” (tâm tạp nhiễm khó hàng phục). Cái tâm phiền năo, cái tâm tạp nhiễm của chúng sanh rất khó điều phục. Thường là trong khi hành đạo, cái tâm của họ chẳng thể chuyên chú một cảnh, sẽ bị phiền năo nhiễu loạn, dùng phương pháp ǵ th́ mới có thể giữ cho cái tâm thanh tịnh để tu Định, hay tu phước, để thực hiện sự nghiệp thù thắng như thế?

          Trong thời đại hiện tại, nhằm lúc Mạt Pháp, có rất nhiều đạo hữu tu Định, cho đến đọc tụng Đại Thừa, ấn định công khóa thường nhật, cũng như công khóa sáng tối trong các chùa miếu đều là đọc tụng Đại Thừa, c̣n có một số mật chú, làm Phật sự, hoặc là tụng kinh, lễ bái. Hoặc là có các đạo hữu, do trai chủ tới thỉnh cầu, sắp đặt cúng chay để tạo phước. Vậy th́ làm những phước nghiệp ấy có thể thành đạo hay không? Có thể thành tựu Phật quả, thành tựu đạo nghiệp hay không? V́ sao hỏi như vậy? V́ khi họ thực hiện [những điều đó], cái tâm họ là tâm tạp nhiễm. Tâm tạp nhiễm chính là hai thứ tâm thiện và ác đều có, tâm họ chẳng thể chuyên chú một cảnh.

          Khi tụng kinh, mọi người đều biết, chẳng dễ chuyên chú nơi nghĩa chặng đầu, nghĩa chặng giữa, và nghĩa chặng cuối trong kinh văn. Bắt đầu từ câu thứ nhất là đọc tựa đề kinh, cho đến cuối cùng là hồi hướng, sau khi đă đọc xong, trong khoảng ấy, có tạp loạn vọng tưởng hay không? Tâm có thanh tịnh hay không? Bản thân chúng ta đều có thể phán đoán. Có khi tâm thanh tịnh, có lúc niệm th́ cứ niệm vậy, chẳng biết niệm đến chỗ nào rồi! Có lúc niệm mà ngủ gà ngủ gật cũng có! Có lúc do chẳng dụng công, c̣n chẳng nhận biết nữa kia. Hễ dụng công th́ [sẽ nhận biết] hôn trầm lẫn điệu cử đều xuất hiện đủ mặt! Trong chốc lát này nghĩ đến chuyện khác, chốc lát sau lại nghĩ đến chuyện khác nữa! Hai đằng đều dễ bị quấy nhiễu nhất. Trong khi niệm kinh th́ miệng vẫn niệm, dường như niệm làu làu. Niệm phẩm Phổ Môn đă nhiều năm rồi, đă niệm mười mấy năm trở lên, thuộc nằm ḷng rồi. Hoặc như chúng ta bái sám, bái chẳng bao lâu, mọi người đều thuộc ḷng. Đă thuộc rồi, càng dễ tán loạn. Miệng th́ niệm đấy, tâm chạy đến chỗ khác mất tiêu rồi! Như vậy th́ có phước báo hay không? Tôi cho rằng vẫn có. Tối thiểu là khẩu nghiệp và thân nghiệp đă định, chỉ là chưa thể thanh tịnh vọng tưởng! Phạm Thiên nêu câu hỏi: Làm thế nào để có thể thanh tịnh cái tâm? Muốn tịnh tâm th́ phải tu Định, tu phước, cho đến đọc tụng như thế nào th́ hiệu quả mới to lớn. Nếu dùng cái tâm tạp nhiễm th́ do phiền năo tạp loạn quư vị, có công đức hay không? Đức Phật có phương pháp thiện xảo phương tiện nào, khiến cho các chúng sanh ấy trừ bỏ cái tâm tạp nhiễm để tu Định, tu phước, hoặc tập tụng hay không? Câu hỏi của Phạm Thiên chứa đựng ư nghĩa như thế đó.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo bỉ Thiên Tạng Đại Phạm Thiên viết: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ thiện biện tài, năng vấn tư nghĩa. Nhữ ư thử pháp, dĩ tác cù lao. Nhữ ư chư hạnh, dĩ đắc viên măn. Nhữ ư quá khứ Căng-già sa đẳng Phật Thế Tôn sở, dĩ cần tam nghiệp, hưng long chánh pháp, thiệu Tam Bảo chủng, kim vị nhiêu ích vô lượng chúng sanh, phục vấn Như Lai như thị thâm nghĩa. Thiện nam tử! Hữu đại kư biệt pháp, danh Vô Y Hạnh, quá khứ nhất thiết chư Phật Thế Tôn, vị dục thành thục chư hữu t́nh cố, vị linh yếm ly sanh tử pháp cố, vị linh trừ đoạn nghiệp phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố, tuyên thuyết, trụ tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp”.               ()爾時,世尊告彼天藏大梵天曰:善哉!善哉!汝善辯才,能問斯義。汝於此法,已作劬勞。汝於諸行,已得圓滿。汝於過去殑伽沙等佛世尊所,已勤三業,興隆正法,紹三寶種,今為饒益無量眾生,復問如來如是深義。善男子,有大記別法,名無依行。過去一切諸佛世尊,為欲成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông biện tài hay khéo, có thể hỏi nghĩa ấy. Đối với pháp ấy, ông đă nhọc nhằn tu tập. Đối với các hạnh, ông đă viên măn. Trong quá khứ, ông đă ở nơi các vị Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, dùng ba nghiệp siêng năng để chánh pháp hưng thịnh, tiếp nối chủng tánh Tam Bảo, nay v́ muốn lợi ích vô lượng chúng sanh, lại hỏi Như Lai nghĩa sâu như thế. Này thiện nam tử! Có pháp đại kư biệt tên là Vô Y Hạnh, hết thảy chư Phật Thế Tôn trong quá khứ v́ muốn thành thục các hữu t́nh, v́ muốn khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử, v́ muốn đoạn trừ nghiệp phiền năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này”).

 

          Đức Phật trả lời Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng: “Ông hỏi rất hay! Ông biện tài vô ngại, biện tài khéo léo, cho nên có thể hỏi đạo lư này”. Chữ “Tư” () chỉ những vấn đề đă được nêu ra trước đó. “Tư nghĩa” (斯義) tức là “nghĩa lư ấy”. “Nhữ ư thử pháp dĩ tác cù lao” nghĩa là: Đối với pháp này, ông đă tu tập rất lâu. “Cù lao” (劬勞) là tán thán ông ta rất vất vả, rất tinh tấn. Do vậy, đối với các pháp mà ông đă hỏi, ông đă hành viên măn. Do các hạnh đă viên măn, ông đă đạt đến Thập Địa, trụ trong địa vị Thập Địa Bồ Tát, tức là đạt tới Pháp Vân Địa, đă sắp viên măn. Ông không chỉ hỏi ta trong hiện tại, mà c̣n ở nơi chư Phật Thế Tôn trong quá khứ nhiều như cát sông Hằng, ông cũng hỏi như thế.

          Ông đă từng tu tŕ loại nghĩa sâu này, đă tự ḿnh tu tập, đă có kinh nghiệm, Phạm Thiên đă biết. Khi tu Định, tu đọc tụng Đại Thừa nhằm tu huệ nghiệp, do cái tâm tạp nhiễm, bị phiền năo năo loạn, có thể liễu sanh tử hay không? Có thể chứng đắc Phật quả hay không? Ông ta đă từng kinh nghiệm: Dùng cái tâm tạp nhiễm, sẽ chẳng thể chứng đắc, ắt phải đạt được cái tâm thanh tịnh. Có phương pháp nào có thể khiến cho cái tâm của người ấy chẳng vọng động hay không, có thể chứng đắc cái tâm thanh tịnh hay không?

          Do vậy, đức Phật tán thán: Trong vô lượng kiếp quá khứ, đối trước chư Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, ông đă dùng ba nghiệp thân, miệng, ư để siêng năng chuyên ṛng tu hành, hộ tŕ chánh pháp, hưng thịnh chánh pháp, tiếp nối chủng tánh Tam Bảo, cũng đă từng hỏi chư Phật Thế Tôn [những ư nghĩa] như thế. V́ lợi ích vô lượng chúng sanh, nay ông ta lại hỏi ta nghĩa sâu như thế. Đạo lư này rất sâu! Ông nói cái tâm tạp nhiễm, chẳng có phước báo, lại do đâu mà đạt được tịnh tâm ư? Thiện căn phải do gieo bồi dần dần, Hoặc nghiệp dần dần tiêu. Chư Phật, Bồ Tát đều tu hành trải qua vô lượng kiếp. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện hóa thân, tu suốt ba đại A-tăng-kỳ kiếp, [thật ra], nào phải chỉ có ba đại A-tăng-kỳ kiếp? Địa Tạng Bồ Tát tu hành vô lượng, vô lượng kiếp, rất nhiều ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Do vậy, Phật đạo khó thành!

          Này thiện nam tử! Có pháp đại kư biệt tên là Vô Y Hạnh, chư Phật đều như thế. “Đại kư biệt” (大記別) là thọ kư, tức đức Phật dự đoán trong tương lai sẽ như thế này, như thế nọ; đó gọi là Kư Biệt (記別). Cho đến đức Phật chứng thực cho một vị đệ tử nào đó, nói: “Cho đến khi nào đó, đă trải qua bao nhiêu kiếp, ông sẽ thành Phật. Khi thành Phật, ông sẽ có danh hiệu là ǵ, quốc độ ấy tên là ǵ, thế giới ấy tên là ǵ”. Đó gọi là Thọ Kư (授記). [Đại Kư Biệt] ở đây là nói về thuyết pháp. “Đại kư” (大記) là nói về pháp, chẳng nói về người. Nói trong tương lai, hết thảy chúng sanh sẽ như thế này, như thế nọ, đấy cũng là Kư Biệt. [Tiên đoán về t́nh h́nh trong các giai đoạn] Chánh Pháp, Tượng Pháp, và Mạt Pháp, th́ cũng là ư nghĩa Kư Biệt. Trong thời đại Mạt Pháp, chúng sanh sẽ như thế này, như thế nọ, thậm chí Phật pháp thưa thớt, tạo nghiệp nhiều, Đoạn Kiến, Thường Kiến, ác kiến rất nhiều.

 

          (Kinh) Hiện tại, thập phương chư Phật Thế Tôn, diệc vị thành thục chư hữu t́nh cố, vị linh yếm ly sanh tử pháp cố, vị linh trừ đoạn nghiệp phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố, tuyên thuyết, trụ tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Vị lai nhất thiết chư Phật Thế Tôn, diệc vị thành thục chư hữu t́nh cố, vị linh yếm ly sanh tử pháp cố, vị linh trừ đoạn nghiệp phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố, tuyên thuyết, trụ tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Nhữ ư quá khứ chư Như Lai sở, dĩ cụ đắc văn thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Ngă ư kim giả, diệc vị thành thục chư hữu t́nh cố, vị linh yếm ly sanh tử pháp cố, vị linh trừ đoạn nghiệp phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố, tuyên thuyết, trụ tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Nhữ ưng đế thính, thiện tư niệm chi, ngô đương vị nhữ phân biệt, giải thuyết.

          ()現在十方諸佛世尊,亦為成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。未來一切諸佛世尊,亦為成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。汝於過去諸如來所,已具得聞此無依行大記別法。我於今者,亦為成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。汝應諦聽!善思念之!吾當為汝分別解說。

        (Kinh: Hiện tại, mười phương chư Phật Thế Tôn cũng v́ thành thục các hữu t́nh, v́ khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử, v́ khiến cho họ đoạn trừ nghiệp phiền năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Vị lai hết thảy chư Phật Thế Tôn cũng v́ thành thục các hữu t́nh, v́ khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử, v́ khiến cho họ đoạn trừ nghiệp phiền năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Trong quá khứ, ông đă ở chỗ các đức Như Lai, được nghe trọn vẹn pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Ta nay cũng v́ thành thục các hữu t́nh, v́ khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử, v́ khiến cho họ đoạn trừ nghiệp phiền năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Ông hăy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ, ta sẽ v́ ông phân biệt, giải nói”).

 

          Bất luận quá khứ, hiện tại, hay vị lai chư Phật, tam thế chư Phật v́ muốn khiến cho hết thảy chúng sanh đoạn nghiệp, đoạn Kiến Hoặc, và đoạn phiền năo của họ, khiến cho họ thành thục, ĺa khỏi sanh tử, chứng đắc Niết Bàn, thành tựu quả vị tam thừa, chẳng c̣n luân hồi trong sáu đường nữa, cũng tuyên nói pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Tam thế chư Phật đều nói như thế. “Nhữ” (ông) là nói với Thiên Tạng Đại Phạm Thiên: Ông đă ở nơi quá khứ chư Phật, đă được nghe pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Ông đă được nghe rồi, nhưng v́ duyên cớ lợi ích chúng sanh, lại xin ta nói. Nay ta cũng v́ thành thục hết thảy các hữu t́nh, khiến cho hết thảy hữu t́nh đoạn phiền năo, chứng Bồ Đề, v́ làm cho họ chán ĺa sanh tử, v́ làm cho họ chứng đắc Niết Bàn, v́ làm cho họ chứng các quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chóng thành tựu viên măn, cho nên cũng sẽ tuyên nói pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này!

          “Nhữ ưng đế thính” nghĩa là: Ông hăy nghe cho kỹ, nghe đúng như lư. Đối với mọi người thỉnh pháp, đức Phật đều bảo “hăy nghe như lư”, “đế thính”. Từ Bồ Tát thuộc quả vị Thập Địa cho đến Văn Thù Bồ Tát thưa hỏi, Địa Tạng Bồ Tát thưa hỏi, đức Phật đều dạy hăy “đế thính, như lư thính” (hăy lắng, nghe đúng lư), [nói như vậy] nhằm dạy chúng ta [hăy nghe như lư, lắng nghe chân thật]. Chúng ta nhất định phải như lư mà suy xét. Nói là Văn () tức là nghe, nghe chính là Văn Huệ. Văn, Tư, Tu, chẳng nghe th́ làm sao có thể tư duy cho được? Chẳng tư duy, quư vị làm sao có thể tu? Nếu không, sẽ là tu mù! Quư vị phải biết tu như thế nào, hành tŕ như thế nào? Hành tŕ sẽ có phương pháp để hành tŕ. Do vậy, dạy quư vị phải “đế thính”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại Phạm Thiên ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: - Đại Phạm! Hữu thập chủng Vô Y Hạnh pháp, nhược tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, thượng bất năng thành Dục Giới thiện căn. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất, huống đương năng thành Sắc, Vô Sắc Định, năi chí tam thừa, tùy thành nhất thừa!

          ()爾時,天藏大梵天言:唯然,世尊,願樂欲聞。佛言:大梵,有十種無依行法,若修定者隨有一行,尚不能成欲界善根;設使先成,尋還退失;況當能成色、無色定,乃至三乘隨成一乘。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại Phạm Thiên thưa: “Kính vâng đức Thế Tôn! Con xin ưa thích nghe”. Đức Phật dạy: - Này Đại Phạm! Có mười pháp Vô Y Hạnh, nếu người tu Định mà có bất cứ một hạnh nào, sẽ c̣n chẳng thể thành tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử [thiện căn ấy] đă thành tựu trước đó, sẽ lập tức lui sụt, mất đi. Huống hồ sẽ có thể thành tựu Sắc Giới Định và Vô Sắc Giới Định, cho đến thành tựu một thừa nào trong tam thừa ư?)

 

          “Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại Phạm Thiên ngôn: - Dụy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn” (Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại Phạm Thiên thưa: - Kính vâng đức Thế Tôn! Con xin ưa thích nghe): Con nhất định sẽ vâng theo lời đức Phật căn dặn, chăm chú nghe, rất mong được nghe lời Phật dạy. “Phật ngôn: - Đại Phạm! Hữu thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, thượng bất năng thành Dục Giới thiện căn. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất, huống đương năng thành Sắc, Vô Sắc Định, năi chí tam thừa tùy thành nhất thừa?” (Đức Phật dạy: - Này Đại Phạm! Có mười pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định mà có bất cứ một hạnh nào, c̣n chẳng thể thành tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử [thiện căn ấy] đă thành tựu trước đó, vẫn bị lập tức lui sụt, mất đi. Huống hồ sẽ có thể thành tựu Sắc Giới Định và Vô Sắc Giới Định, cho đến thành tựu một thừa trong ba thừa ư?) Đấy là nói có mười loại pháp Vô Y Hạnh. Khi người ấy hành theo pháp Vô Y, chẳng nương tựa Tam Bảo, chẳng nương tựa giáo pháp của đức Phật, như thế th́ tu Định sẽ chẳng thể thành công!

          Mười loại pháp Vô Y Hạnh ấy, hễ có một loại, đều chẳng thể thành tựu. Ngay cả thiện căn trong Dục Giới c̣n chẳng thể thành tựu được. Nếu người ấy đă thành tựu trước đó, khi người ấy hành theo các pháp ấy, tức là trong mười loại Vô Y mà có một loại Vô Y, những ǵ người ấy đă đạt được trước kia đều bị thoái thất. Thiện căn và phước báo của chúng ta chẳng phải là vô hạn lượng. Nếu đời này chẳng tu, phước báo trước kia sẽ bị lui sụt, mất đi trong đời này. Đời này hưởng thụ hết rồi, sẽ chẳng c̣n nữa! Người học đạo nếu chẳng tinh tấn, hễ giải đăi th́ “học đạo như thuyền bơi ngược nước, chẳng tiến, ắt lùi”. Quư vị chẳng dũng mănh tinh tấn, khi chưa đạt tới địa vị Bất Thoái, sẽ vẫn bị lui sụt, trừ phi đă thành Phật! Đă thành Phật th́ thân, miệng, ư của vị đó chẳng cần phải pḥng hộ hoặc nghĩ tới nữa! Chẳng cần phải tác ư, mà là tự nhiên, chẳng có một tí bất thiện nào! Các vị Đại Bồ Tát Ma Ha Tát trước khi đạt tới Bát Địa, đều phải pḥng hộ, nghĩ tưởng [ǵn giữ tam nghiệp thanh tịnh]. Bậc A La Hán tuy đă chứng đắc, cho rằng Niết Bàn bất động, nhưng các Ngài vẫn phải bảo vệ thân, miệng, ư. Đó gọi là “hữu hộ” (有護, phải bảo vệ). Phật đă đạt tới địa vị “bất hộ” (, chẳng cần phải ǵn giữ, bảo vệ ba nghiệp).

          Nếu trong mười loại Vô Y Hạnh, quư vị có một loại, mà mong thành tựu thiện căn trong Dục Giới, sẽ chẳng thể được! Trước kia đă thành tựu, mà nay có Vô Y Hạnh, hễ có một pháp như vậy, quư vị sẽ thoái thất. Nếu quư vị muốn tu Thiền Định, sẽ chẳng thể đắc Thiền Định. Các môn Thiền Định đều chẳng thể đạt được! Sắc Giới Thiền Định và Vô Sắc Giới Thiền Định đều không đạt được. Cũng tức là Tứ Thiền và Tứ Không Định trong Bát Định chẳng đạt được môn nào, huống hồ là nói đến quả vị trong tam thừa, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, một thừa cũng chẳng thành! Có ư nghĩa như thế đó. Dưới đây, nêu ra mười Vô Y Hạnh.

 

          (Kinh) Hà đẳng vi thập? Nhất giả, thế hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi phạp tư duyên, kinh cầu nhiễu loạn. Nhị giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi phạm Thi La, hành chư ác hạnh. Tam giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi điên đảo kiến, vọng chấp cát hung, thân tâm cang cường. Tứ giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi tâm điệu động, bất thuận hiền thánh, chư căn khinh táo. Ngũ giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi ly gián ngữ, phá loạn bỉ thử. Lục giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi thô ác ngữ, hủy mạ hiền thánh. Thất giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi tạp uế ngữ, cập hư cuống ngữ. Bát giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài tham tật, ư tha sở đắc lợi dưỡng, cung kính, tâm bất hoan duyệt. Cửu giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài sân phẫn, ư chư hữu t́nh, tâm thường phẫn khuể. Thập giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài tà kiến, bát vô nhân quả. Đại Phạm đương tri, thị danh thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, thượng bất năng thành Dục Giới thiện căn. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất, huống đương năng thành Sắc, Vô Sắc Định, năi chí tam thừa, tùy thành nhất thừa?

          ()何等為十?一者、世有一類,雖欲修定,而乏資緣,經求擾亂;二者、復有一類,雖欲修定,而犯尸羅,行諸惡行;三者、復有一類,雖欲修定,而顛倒見,妄執吉凶,身心剛強;四者、復有一類,雖欲修定,而心掉動,不順賢聖,諸根輕躁;五者、復有一類,雖欲修定,而離間語,破亂彼此;六者、復有一類,雖欲修定,而粗惡語,毀罵賢聖;七者、復有一類,雖欲修定,而雜穢語,及虛誑語;八者、復有一類,雖欲修定,而懷貪嫉,於他所得利養恭敬,心不歡悅;九者、復有一類,雖欲修定,而懷瞋忿,於諸有情,心常憤恚;十者、復有一類,雖欲修定,而懷邪見,撥無因果。大梵當知,是名十種無依行法。若修定者隨有一行,尚不能成欲界善根;設使先成,尋還退失;況當能成色、無色定,乃至三乘隨成一乘?

          (Kinh: Những ǵ là mười? Một là cơi đời có một loại người, tuy muốn tu Định mà thiếu các duyên phụ trợ, sẽ bị các điều mong cầu nhiễu loạn. Hai là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà phạm Thi La, làm các hạnh ác. Ba là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà tri kiến điên đảo, xằng bậy chấp trước cát, hung, thân tâm ương ngạnh. Bốn là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà tâm xáo động, chẳng thuận theo hiền thánh, các căn bộp chộp. Năm là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà nói lời ly gián, phá hoại, nhiễu loạn đôi bên. Sáu là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà nói lời thô ác, hủy báng, chửi rủa hiền thánh. Bảy là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà nói lời tạp uế và lời hư dối. Tám là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà ôm ḷng tham lam, ganh ghét, đối với chuyện người khác được lợi dưỡng, cung kính, tâm chẳng vui thích. Chín là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà ôm ḷng sân hận, phẫn nộ, đối với các hữu t́nh, tâm thường phẫn nộ, giận dữ. Mười là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà thường ôm giữ tà kiến, bài bác chẳng có nhân quả. Đại Phạm hăy nên biết, đấy gọi là mười pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định, hễ có một hạnh nào, c̣n chẳng thể thành tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử đă thành tựu trước đó, sẽ liền lui sụt, mất đi, huống hồ sẽ có thể thành tựu Sắc Giới Định và Vô Sắc Định ư? Cho đến chẳng thành tựu bất cứ thừa nào trong tam thừa).

 

          “Hà đẳng vi thập?” (những ǵ là mười): Gạn hỏi ư nghĩa, mười loại nào vậy? “Nhất giả, thế hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi phạp tư duyên, kinh cầu nhiễu loạn” (Một là trong cơi đời có một loại người, tuy muốn tu Định mà thiếu các duyên giúp đỡ, bị các điều mong cầu nhiễu loạn): Quư vị mong tu Định th́ phải có tư lương; trước hết, phải chuẩn bị tư lương. Tư lương để tu Định có hai loại:

          1) Quư vị phải có nơi chốn thanh vắng.

          2) Có người hộ tŕ quư vị. Ăn mặc, sinh sống, thứ ǵ cũng đều có, chẳng phải bận ḷng, chẳng phải khởi tâm động niệm.

          Đấy đều là tư lương để hành đạo. Càng trọng yếu hơn nữa là tư lương về pháp. Quư vị muốn tu Định, trước hết phải tu gia hạnh. Trước hết, quư vị sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng. Chúng ta đă thọ Tam Quy, đă thọ Ngũ Giới, trước hết, đều phải sám hối, đó là do ư nghĩa này. Quư vị chẳng có tư lương mà mong tu Định, tĩnh tu, sẽ chẳng thể làm được. Chẳng thể làm được th́ vọng tưởng trong tâm quư vị nhất định sẽ sanh khởi: Ăn bữa này, chẳng có bữa sau, làm thế nào đây? Khi tĩnh tọa nơi đó, sẽ nghĩ ngợi: “Ngày mai c̣n có gạo để bỏ vào nồi hay không?” Hoặc là quần áo để mặc không đủ, chẳng thể chống lạnh. Hoặc là chỗ quư vị tu đạo lắm muỗi quá. Muỗi đốt quư vị, khi Định lực c̣n chưa đủ, quư vị sẽ chẳng thể định được. Mong ở trong núi, t́m một chỗ thanh vắng, núi rừng chẳng phải là chỗ dễ ở. Nói theo Trung Hoa, khi quư vị tham cứu chưa thấu suốt, chẳng thể sống trong núi, cũng là v́ quư vị chưa thể định được, chẳng có Định lực ấy. Loại Vô Y thứ nhất chính là chẳng có tư lương để nương cậy. Tu hành như vậy, sẽ chẳng thành tựu. Đó là điều thứ nhất.

          “Nhị giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi phạm Thi La, hành chư ác hạnh” (Hai là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà phạm Giới Luật, làm các hạnh ác): Đă phạm giới, đă phá giới. Thi La bảo vệ quư vị. Thi La là căn bản để sanh thiện, ngăn ngừa sai trái, dứt điều ác. Nếu quư vị phạm giới, phá luật nghi, mà mong tu Định, sẽ chẳng thể được! Chẳng giữ giới th́ là phạm giới. Phạm giới là hành ác hạnh. Hành ác hạnh mà muốn tu Định, sẽ chẳng thể được. Đây là Vô Y Hạnh thứ hai.

          “Tam giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi điên đảo kiến, vọng chấp cát, hung, thân tâm cang cường” (Ba là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà tri kiến điên đảo, xằng bậy chấp trước cát, hung, thân tâm ương ngạnh): Muốn tu Định mà dùng tri kiến điên đảo, [chấp trước] cát, hung, họa, phước. Cát, hung, họa, phước bao gồm rất nhiều điều! “Điên đảo kiến” là ǵ? Trông thấy căn nhà này, hoặc ngôi nhà này, vừa bước vào, lướt nh́n, bèn nói: “Chỗ này không tốt! Cửa sổ kia chẳng trổ đúng chỗ. Mở cái cửa nọ không tốt. Trổ cửa kiểu đó sẽ chuốc lấy hung hiểm, quư vị phải sửa đổi đôi chút. Phải làm như thế nào th́ mới là tốt”. Đó gọi là “điên đảo kiến”. Cát, hung, họa, phước do nghiệp từ quá khứ của quư vị, được định đoạt bởi cái nhân trong quá khứ. Hơn nữa, người tốt lành ở chỗ ác, chỗ ác cũng biến thành tốt lành. Kẻ ác ở chỗ tốt, cát địa cũng biến thành hung địa! Hết thảy do con người, chẳng do nơi chốn, cũng chẳng do cái nhà nào!

          Khi quư vị có điên đảo kiến, xằng bậy chấp trước cát, hung, họa, phước, thân tâm rất ương ngạnh, sẽ chẳng tiếp nhận chánh tri, chánh kiến. Đức Phật chẳng nói [cát, hung, họa, phước] như vậy. Cho đến những kẻ khoe khoang thần thông, thốt lời nói dối to lớn đều thuộc loại này. Cho đến coi cát, hung, họa, phước, chiêm tinh, sửa đổi tướng mạng cho người khác, đều là “điên đảo kiến”. Điên đảo kiến là v́ điên đảo ở chỗ nào? Điên đảo nhân quả, chẳng tin tưởng thiện, ác, nhân, quả.

          “Tứ giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi tâm điệu động” (bốn là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà tâm xáo động): Tâm chẳng định được! Điệu cử (掉舉, trạo cử) là vọng niệm rất nhiều, hết sức tạp loạn, cũng chính là các căn phập phều, bộp chộp. Người tu Định tối thiểu là phải thâu nhiếp sáu căn đôi chút. V́ sao khi chúng ta tu Định phải mở mắt ba phần, nhắm mắt bảy phần? Để nhăn căn chẳng hướng ra ngoài t́m ṭi, ḍ xét, nh́n ngó khắp nơi! Phải lắng ḷng! Khi mắt tiếp xúc cảnh, phải tịch tĩnh. Khi tai nghe thấy âm thanh, phải tịch tĩnh. V́ sao phải t́m chốn tịch tĩnh? Chẳng bị khuấy nhiễu! Quư vị đứng nơi đường lớn, toàn là tiếng xe hơi qua lại, làm sao quư vị tu Định cho nổi? Tu không nổi. Các điều ấy đều thuộc loại Điệu Cử. Tâm điệu cử là do chẳng hành theo lời dạy bảo của thánh hiền, các căn rất phiền rối, bộp chộp, thân thể chẳng thể ngồi yên được! Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư đều phập phều, náo động!

          “Ngũ giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi ly gián ngữ” (Năm là có một loại người, tuy muốn tu Định mà thốt lời ly gián): Đấy là hiện tượng phá giới. Đoạn trên nói về phá giới, [đoạn này nói về chuyện] châm ng̣i ly gián. Nếu không nói lời khuấy động ly gián, kẻ đó sẽ chẳng thể chịu được. Cũng chính là trông thấy kẻ khác tốt đẹp, tâm hắn ganh ghét, sẽ chen vào bịa đặt, dựng chuyện, chơ mồm phá hoại đôi bên. Chuyện này chúng tôi chẳng cần nêu thí dụ, ai cũng đều hiểu đạo lư này!

          “Lục giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi thô ác ngữ” (Sáu là lại có một loại người, tuy muốn tu Định nhưng nói lời thô ác): Miệng toàn phun ra những lời lẽ không sạch sẽ, luôn kèm theo những ngôn từ rất bẩn thỉu. Đó là “thô ác ngữ”. Hoặc là “hủy mạ thánh hiền” (hủy báng, chửi bới thánh hiền), trong ấy bao gồm báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, cho đến hiền nhân. Trong ṿng các đạo hữu, người khác tu đạo, hắn bèn sanh khởi chướng ngại. Trong ấy, luôn chứa đựng chuyện tranh lợi. Tranh danh cũng được gộp trong ấy. Bất quá nói lời thô ác th́ chẳng phải là vô duyên vô cớ mắng chửi người khác, luôn bao hàm ư nghĩa ấy. Thốt ra loại lời lẽ này, sẽ là Vô Y. Nếu quư vị tu hành vô y, th́ sẽ là ác y (惡依, nương tựa vào điều ác), chẳng phải là thiện y.

          “Thất giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi tạp uế ngữ” (Bảy là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà thốt lời tạp uế): Tuy mong tu Định, nhưng tạp uế ngữ (雜穢語) chính là ỷ ngữ (nói thêu dệt). “Ỷ ngữ” (綺語) là nói năng chẳng có ư nghĩa ǵ, cũng là tán phét, hoặc là chuyện gẫu. Trong khi tán gẫu, ở đây được gọi “xung xác tử” (衝殼子), [có nghĩa là] giống như một loại ngũ cốc, nếu tuốt vỏ trấu đi, sẽ hiện ra lớp vỏ cám chân thật. Chữ Xung () rất có ư nghĩa. Nhưng nói những lời chẳng có ư nghĩa, đă tạp uế, lại c̣n chen vào những ngôn từ chẳng sạch sẽ, lời tạp uế, tiếng hư dối, thốt lời giả dối gạt người. Đó là vọng ngữ!

          “Bát giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài tham tật” (Tám là lại có một loại người, tuy muốn tu Định mà ôm ḷng tham lam, ghen ghét): Keo kiệt, tham lam, ghen tỵ. Từ đây trở đi là ba món tham, sân, si. Bản thân kẻ ấy tham lam, chính ḿnh chẳng đạt được, thấy người khác có được, bèn sanh ḷng ghen tỵ. Thấy người khác được cung kính, được cúng dường, hoặc là kinh doanh, buôn bán, hoặc bất luận làm chuyện ǵ, hễ đạt được lợi ích, kẻ ấy không chỉ chẳng tùy hỷ, chẳng sanh vui mừng, mà c̣n đâm ra ghen tỵ. Do ghen tỵ, kẻ ấy liền phá hoại. Đối với sự lợi dưỡng do kẻ khác đạt được, hắn chẳng sanh tâm cung kính, chẳng sanh tâm vui mừng, mà nẩy sanh ḷng ghen ghét, chướng ngại!  

          “Cửu giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài sân phẫn” (Chín là lại có loại người, tuy muốn tu Định, nhưng ôm ḷng sân hận, phẫn nộ): Tâm sân hận đối với hữu t́nh khác. Kẻ đó luôn thấy người khác chẳng vừa mắt. Hoặc là thấy hành động của người khác, người ấy cũng ngứa mắt. Thấy người khác nói năng, kẻ ấy cũng chẳng bằng ḷng. Trong tâm họ có một niềm sân hận. Có tâm sân hận th́ sẽ có phẫn nộ. Phẫn nộ: Sân ở trong tâm, phẫn ở nơi tướng. Tướng ấy rơ rệt. Đối với hết thảy hữu t́nh, họ thường sanh khởi cái tâm phẫn hận. Chuyện này chẳng dính dáng ǵ đến quan hệ lợi hại. Đối với hết thảy chúng sanh, kẻ ấy như chúng ta thường nói là kẻ “phẫn thế, tật tục” (憤世嫉俗, hận đời, căm ghét thế gian). Đối với thế giới này, kẻ ấy hết sức ghen tỵ, hết sức tham lam! Do kẻ ấy chẳng đạt được ǵ, bèn ganh ghét những ǵ kẻ khác có được. V́ thế, kẻ đó thường sanh sân hận!

          “Thập giả, phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài tà kiến” (Mười là có một loại người, tuy muốn tu Định mà thường ôm ḷng tà kiến): Tà kiến là ngu si, tức là si trong “tham, sân, si”. Ngu si, tà kiến, chẳng tin nhân quả. Chẳng tin nhân quả, liền bài bác “chẳng có nhân quả”. Chẳng tin làm lành được thiện báo, làm ác chịu ác báo. Chẳng tin nhân quả, bèn gọi là “bát vô nhân quả” (撥無因果, bài bác chẳng có nhân quả).

          “Đại Phạm đương tri! Thị danh thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, thượng bất năng thành Dục Giới thiện căn. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất, huống đương năng thành Sắc, Vô Sắc Định, năi chí tam thừa, tùy thành nhất thừa” (Đại Phạm nên biết: Đó gọi là mười loại pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định mà có bất cứ một hạnh nào, sẽ c̣n chẳng thể thành tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử đă thành từ trước, liền bị lui sụt, mất đi. Huống hồ có thể thành tựu Sắc Giới Định và Vô Sắc Giới Định, cho đến có thể thành tựu một thừa trong ba thừa ư?): Đức Phật lại bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên: - Ông phải nên biết: Những điều ta vừa nói trên đây được gọi là “mười loại Vô Y Hạnh pháp”. Khi hành pháp, chẳng thuận theo thiện pháp, mà tạo tác đủ các loại ác hạnh nghiệp, làm toàn ác nghiệp, “vô y” là chẳng có thiện pháp để nương tựa. Nếu là người tu hành tu Định, trong mười loại ấy, hễ có bất cứ một loại nào, mà mong thành tựu thiện căn trong Dục Giới, được sanh làm trời hay người, đạt được phước báo, chuyển thành giàu to, khi chuyển sanh sang đời sau, sẽ sống cuộc đời rất an lạc, rất vui sướng. Đó là chuyện chẳng thể đạt được!

          Do vậy, chúng ta sống cuộc đời rất vui sướng, phải nên cảm tạ quá khứ của chính ḿnh! Cầu người khác, chẳng bằng cầu chính ḿnh. Trong quá khứ, quư vị đă tạo thiện căn, đời này tự nhiên hưởng thụ. Trong quá khứ, quư vị đă thương tổn kẻ khác rất nhiều, đời này cũng bị người khác thương tổn rất nhiều. Trong quá khứ, quư vị vô t́nh thương tổn kẻ khác, chính ḿnh vẫn không biết. Đời này, quư vị cũng sẽ bị kẻ khác vô t́nh tổn thương. Giống như băng đảng đua xe ở Đài Loan, cảnh sát truy bắt chúng nó, hỏi v́ sao chúng nó làm như vậy? V́ sao chúng nó muốn giết người? Có thù oán với kẻ bị giết hay không? Có quen biết hay không? Không quen biết! Bản thân chúng nó cũng chẳng biết v́ sao phải làm như thế! Đấy là do cộng nghiệp cảm vời. Đấy chẳng phải là nghiệp của một cá nhân!

          Chúng ta muốn tu thiện căn để chuyển biến cái nghiệp trong quá khứ, như thế nào th́ có thể? [Thế nhưng] đời này những ǵ đă tu toàn là Vô Y Hạnh! Như thế nào là Hữu Y Hạnh? Trong phần sau sẽ nói. Tôi có thể nói trước đôi chút, như chúng ta quy y Tam Bảo, đă thọ Tam Quy Ngũ Giới. Thọ Tam Quy Ngũ Giới là nương theo thiện hạnh, là hữu y, y (nương tựa) ǵ vậy? Nương tựa Tam Bảo, nương theo sự chỉ dạy trong pháp do đức Phật đă nói, tin tưởng nhân quả, đương nhiên là “hữu y”. Hữu Y th́ không chỉ là quư vị có thể thành tựu thiện căn, mà quả vị trong tam thừa cũng có thể đạt được, nhất định có thể thành Phật!

          Nhưng trong một ngày, có rất nhiều tâm tạp nhiễm, chúng ta phải là “hễ làm bèn sám”. Trong khi sám hối, trong khi bái sám, quư vị hồi hướng. Hồi hướng các chuyện sai lầm đă trót làm trong đời này, [đă trót] dấy lên các tạp niệm, dấy lên những ư niệm chẳng chánh xác, thân thể thực hiện các hành vi không đoan chánh, cho đến phá giới. Hễ phá giới, sẽ tùy thời sám hối. Sám hối th́ sẽ lại thanh tịnh. Đấy là có cái để nương cậy, nương cậy vào pháp sám hối do đức Phật đă dạy, nương theo Tam Bảo mà tu hành. Đức Phật đă có lời chỉ dạy nhất định, chẳng hạn như bộ kinh này, chính là tu “tŕ lai khứ niệm” (giữ vững ư niệm đến đi). Đấy là Hữu Y, tức là nương theo chánh pháp để tu Định, tu hành Thập Thiện Nghiệp. Đó gọi là Hữu Sở Y, có thể thành tựu đạo quả tam thừa. Không chỉ là mười loại Vô Y này; dưới đây, c̣n có [những loại khác].

 

          (Kinh) Phục thứ Đại Phạm! Hựu hữu thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, chung bất năng thành chư tam-ma-địa. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, nhạo trước sự nghiệp. Nhị giả, nhạo trước đàm luận. Tam giả, nhạo trước thùy miên. Tứ giả, nhạo trước doanh cầu. Ngũ giả, nhạo trước diễm sắc. Lục giả, nhạo trước diệu thanh. Thất giả, nhạo trước phân hương. Bát giả, nhạo trước mỹ vị. Cửu giả, nhạo trước tế xúc. Thập giả, nhạo trước Tầm Tứ.

          ()復次大梵,又有十種無依行法,若修定者隨有一行,終不能成諸三摩地;設使先成,尋還退失。何等為十?一者、樂著事業;二者、樂著談論;三者、樂著睡眠;四者、樂著營求;五者、樂著艷色;六者、樂著妙聲;七者、樂著芬香;八者、樂著美味;九者、樂著細觸;十者、樂著尋伺。

          (Kinh: Lại này Đại Phạm! Lại có mười loại pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định mà hễ có một hạnh, sẽ trọn chẳng thể thành các tam-ma-địa. Giả sử đă thành tựu từ trước, sẽ liền lui sụt, mất đi. Những ǵ là mười? Một là ưa đắm sự nghiệp. Hai là ưa đắm đàm luận. Ba là ưa đắm ngủ nghê. Bốn là ưa đắm lo toan, mong cầu. Năm là ưa đắm sắc đẹp. Sáu là ưa đắm tiếng mầu nhiệm. Bảy là ưa đắm mùi thơm. Tám là ưa đắm mỹ vị. Chín là ưa đắm sự đụng chạm vi tế. Mười là ưa đắm Tầm Tứ).

 

          Mười pháp trong phần trước là Sơ Hạnh. C̣n có mười pháp, nếu trọn đủ mười pháp ấy, quư vị mong tu đắc các môn Định, những môn Định cao sâu hơn đôi chút. Tam-ma-địa là tam-muội, đă thành tựu trong quá khứ, thế mà đời này có bất cứ một loại pháp nào trong mười loại pháp Vô Y Hạnh ấy, cũng sẽ buông xả, cũng sẽ thoái đọa, lui sụt, mất đi, chẳng c̣n nữa. Mười thứ danh từ ấy, sẽ được giải thích từng điều một trong phần sau.

 

          (Kinh) Đại Phạm đương tri, thị danh thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, chung bất năng thành chư tam-ma-địa. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất. Nhược bất năng thành chư tam-ma-địa, tuy tập sở dư chư thiện pháp tụ, nhi hữu thị sự truy cầu thọ dụng tín thí nhân duyên, phát khởi ác tâm, tâm sở hữu pháp, ư chư quốc vương, đại thần đẳng sở, phạm chư quá tội, hoặc bị ha mạ, hoặc bị chủy đả, hoặc bị đoạn tiệt chi tiết, thủ túc. Do thị nhân duyên, hoặc thành trọng bệnh, trường thời thọ khổ, hoặc tật mạng chung, ư tam ác thú, tùy sanh nhất sở, năi chí hoặc sanh Vô Gián địa ngục, như Ốt Đạt Lạc Ca, A La Đồ Để Sa, Cù Ba Lư Ca, Đề Bà Đạt Đa, như thị đẳng loại, thoái thất Tĩnh Lự, năi chí đọa ư Vô Gián địa ngục, thọ vô lượng chủng nan nhẫn đại khổ.

          ()大梵當知,是名十種無依行法。若修定者隨有一行,終不能成諸三摩地;設使先成,尋還退失。若不能成諸三摩地,雖集所餘諸善法聚而有是事,追求受用信施因緣,發起噁心心所有法,於諸國王、大臣等所犯諸過罪,或被呵罵,或被捶打,或被斷截肢節手足;由是因緣,或成重病,長時受苦,或疾命終,於三惡趣隨生一所,乃至或生無間地獄,如嗢達洛迦、阿邏荼底沙、瞿波理迦、提婆達多。如是等類退失靜慮,乃至墮於無間地獄,受無量種難忍大苦

          (Kinh: Đại Phạm nên biết: Đó là mười loại pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định mà có bất cứ một hạnh nào, sẽ trọn chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa. Giả sử đă thành từ trước, sẽ liền thoái thất. Nếu chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa, tuy tu tập các khối thiện pháp khác, mà có chuyện này, [tức là] truy cầu hưởng dụng [sự cúng dường] nơi nhân duyên tín thí, phát khởi ác tâm và tâm sở hữu pháp, ở chỗ các quốc vương, đại thần v.v… phạm các tội lỗi, hoặc bị quở trách, chửi mắng, hoặc bị đánh đập, hoặc bị cắt chặt chi tiết, chân tay. Do nhân duyên ấy, hoặc thành trọng bệnh, chịu khổ lâu dài, hoặc nhanh chóng mạng chung. Trong ba đường ác, sẽ sanh về một đường nào đó, thậm chí có thể sanh vào địa ngục Vô Gián, như Ốt Đạt Lạc Ca, A La Đồ Để Sa, Cù Ba Lư Ca, Đề Bà Đạt Đa, những kẻ như thế thoái thất Tĩnh Lự, cho đến đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu vô lượng nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng nổi).

 

          “Đại Phạm đương tri” (Đại Phạm nên biết): Đức Phật lại bảo vị Đại Phạm Thiên ấy, nói với ông ta, v́ ông ta là bậc đương cơ. Nếu tu Định mà có bất cứ một hạnh nào trong mười loại pháp Vô Y Hạnh ấy, cũng chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa, mong cầu đạt được Định sâu nơi tam-ma-địa sẽ chẳng thể được. Không chỉ là chẳng thể trong đời hiện tại, mà [những ǵ đạt được] trong đời quá khứ “tầm hoàn thoái thất” (sẽ liền bị lui sụt, mất đi). “Nhược bất năng thành chư tam-ma-địa, tuy tập sở dư chư thiện pháp tụ, nhi hữu thị sự, truy cầu thọ dụng tín thí nhân duyên, phát khởi ác tâm, tâm sở hữu pháp, ư chư quốc vương, đại thần đẳng sở, phạm chư quá tội” (nếu chẳng thể thành các tam-ma-địa, tuy tu tập các khối thiện pháp khác, mà có chuyện này, [tức là] truy cầu hưởng thụ [các thứ cúng dường] nơi nhân duyên tín thí, phát khởi tâm ác, tâm sở hữu pháp, ở nơi các quốc vương và đại thần, phạm các tội lỗi). “Phạm chư quá tội” có nghĩa là đă không tu Định được, c̣n các thiện pháp th́ sao? Tức là nói về các khối thiện pháp khác. “Sở dư chư thiện pháp” (các thiện pháp khác) là nói về điều ǵ? Chẳng đắc Định, như vậy th́ chúng ta tụng kinh, làm Phật sự, đó cũng là thiện sự, đó cũng là “thiện pháp tụ”. Có các sự ấy, nhờ vào các thiện sự ấy để truy cầu sự hưởng thụ. “Truy cầu thọ dụng” là hưởng thụ. Tiếp nhận nhân duyên tín thí của người khác là v́ có người tin tưởng Tam Bảo bèn bố thí, cúng dường.

          V́ có nhân duyên ấy, kẻ đó bèn truy cầu. Truy cầu là đến khuyến hóa [tín chủ cúng dường], đó là ư nghĩa của “hóa duyên” (化緣). Khi hóa duyên, có khi đạt được, có khi chẳng được! Trong tâm kẻ ấy bèn sanh khởi ác niệm. Ác niệm, tâm, tâm sở hữu pháp: Tâm sở hữu pháp [là các tác dụng tâm lư] tương ứng với tâm, lại c̣n đồng thời phát khởi. “Tâm” là tám thức tâm (nhăn thức, nhĩ thức…), tâm sở hữu pháp gồm năm mươi mốt món (như dục, tàm, quư, tham, sân, si, mạn…) Nhưng tâm sanh khởi ác niệm và tùy phiền năo tương ứng của cái tâm là Phẫn sẽ đều hiện diện, phiền năo ấy tương ứng với cái tâm và đồng thời phát khởi.

          Trong quốc độ này, ở nơi quốc vương, đại thần v.v… kẻ ấy sẽ phạm rất nhiều lỗi lầm v́ theo đuổi sự hưởng thụ, do tâm thức duyên theo sự truy cầu. Hễ truy cầu, sẽ phạm rất nhiều sai lầm. Do phạm các sai lầm, sẽ bị quốc vương, đại thần quở trách, hoặc bị đánh đập, hoặc bị chặt đứt tay chân, cánh tay. “Chi tiết” (肢節) cũng chính là tứ chi. Hoặc là do bị đánh đập mà sau đó trở thành trọng bệnh, hoặc bị chịu khổ trong một thời gian dài, hoặc v́ lẽ ấy mà mạng chung. Sau khi mạng chung, sẽ đọa vào ba đường ác, tùy thuộc những ǵ kẻ ấy đă làm trong suốt một đời mà thậm chí đọa vào địa ngục Vô Gián.

          Ở đây, đức Phật nêu lên một số trường hợp. Như Ốt Đạt Lạc Ca (Udraka Rāmaputra, Uất Đầu Lam Phất), A La Đồ Để Sa (Ārāḍakālāma, A Lam tiên nhân), Cù Ba Lư Ca (Gopālika), đó là ba ngoại đạo. Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là em họ của đức Phật, là anh của ngài A Nan. Ông ta phạm tội Ngũ Nghịch, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp Tăng, muốn làm Phật[1]. Những hạng người giống như thế, đều thoái thất Tĩnh Lự, cũng là đă đánh mất Định. Quá khứ đă có [Định], cho đến khi tu tập Tĩnh Lự, khi tu Định, không chỉ là thoái thất, mà c̣n đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu vô lượng các nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng nổi. Khổ nạn rất nhiều, nên nói là “nan nhẫn đại khổ” (nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng).

          Các vị thấy các sự khổ được chép trong kinh Địa Tạng, nếu chúng ta dùng nhục thể để chịu đựng, sẽ không có cách nào chịu nổi. Nếu quư vị nghĩ đến nỗi khổ ấy, sẽ chẳng thể chịu nổi. Nhưng đă bị đọa th́ quư vị chẳng có sức đâu mà kháng cự, vẫn phải chấp nhận. Thân tâm bị giày ṿ, những ǵ chúng ta đă hứng chịu trong quá khứ đều quên hết rồi. Từ vô lượng kiếp đến nay, ai trong chúng ta cũng đều từng hứng chịu, nhưng đều mê mất, đều quên sạch cả rồi! Nếu cảnh giới ấy lại hiện tiền, chắc là cái tâm tu đạo sẽ có thể thành tựu mau hơn một chút. Đă biết khổ, sẽ chẳng dám tạo nghiệp nữa! Các ngoại đạo ấy đều tu ngoại đạo Định. Đề Bà Đạt Đa tu đạo mười hai năm, lúc mới xuất gia rất tốt. Về sau, ông ta chẳng thành đạo, bèn oán hận, t́m đến ngoại đạo học thần thông. Đă học được thần thông, bèn làm chuyện ác. Đó là thoái thất.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo A Nhă Đa Kiều Trần Na ngôn: “Ngô thính nhữ đẳng cấp A Luyện Nhă tu Định bật-sô tối thượng pḥng xá, tối thượng ngọa cụ, tối thượng ẩm thực, nhất thiết Tăng sự giai ưng phóng miễn. Sở dĩ giả hà? Chư tu Định giả nhược phạp tư duyên, tức tiện phát khởi nhất thiết ác tâm, tâm sở hữu pháp, bất năng thành tựu chư tam-ma-địa, năi chí đọa ư Vô Gián địa ngục, thọ vô lượng chủng nan nhẫn đại khổ”.

          ()爾時,世尊告阿若多憍陳那言:吾聽汝等,給阿練若修定苾芻最上房舍、最上臥具、最上飲食,一切僧事皆應放免。所以者何?諸修定者,若乏資緣,即便發起一切噁心心所有法,不能成就諸三摩地,乃至墮於無間地獄,受無量種難忍大苦。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo A Nhă Đa Kiều Trần Na (Kiều Trần Như) rằng: “Ta cho phép ông dành cho các bật-sô tu Định trong A Luyện Nhă pḥng ốc tốt nhất, đồ trải nằm tốt nhất, thức ăn ngon nhất, hết thảy Tăng sự đều nên được miễn. V́ cớ sao vậy? Những người tu Định nếu thiếu các duyên phụ trợ, sẽ liền phát khởi hết thảy ác tâm và ác tâm sở hữu pháp, chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa, cho đến đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu vô lượng nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng”).

 

          Do tu Định ắt cần phải có đủ nhân duyên, phải trọn đủ các tư lương, cho nên đức Phật bèn nhắc lại. Lúc đức Phật mới thành đạo, Ngài đến Lộc Dă Uyển độ năm vị tỳ-kheo. Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya, A Nhă Đa Kiều Trần Na) Thượng Thủ, là vị Thượng Thủ xuất gia đầu tiên, đây là vị đại đệ tử Thượng Thủ của đức Phật. Trong các vị tỳ-kheo thọ giới, Ngài là người đầu tiên. Nhóm các Ngài gồm có năm vị. Năm vị ấy là năm vị Thượng Thủ, cũng gọi là “ngũ tỳ-kheo”. Các Ngài trước kia từ hoàng cung theo đức Phật cùng xuất gia. Các Ngài thấy đức Phật đang tu khổ hạnh, bèn cùng tu với đức Phật. Về sau, do thấy đức Phật tiếp nhận bơ sữa do cô gái chăn dê [dâng cúng], bèn cho là đức Phật đă thoái thất đạo tâm, chẳng tu khổ hạnh nữa, liền ĺa bỏ đức Phật, đến tu nơi Lộc Dă Uyển (Mrigadava, Isipatana). Lộc Dă Uyển cách Bồ Đề Già Da (Buddha-gayā, Bodh Gaya) chẳng xa cho mấy. Sau khi đức Phật thành đạo ở đạo tràng Bồ Đề Già Da, Ngài đến Lộc Dă Uyển, độ cho năm vị ấy trước tiên, thuyết pháp cho họ. Năm vị ấy đắc độ trước hết.

          V́ thế nói A Nhă Đa Kiều Trần Như là đệ tử tối thượng thủ, Ngài quản lư hết thảy phân phối. V́ sao đức Phật phải nói với ngài Kiều Trần Như? V́ pḥng ốc, chăn đệm, thức ăn, đồ uống đều do ngài Kiều Trần Như sắp xếp. Đức Phật liền bảo ngài Kiều Trần Như: “Ta cho phép ông cấp cho vị tỳ-kheo tu Định ấy pḥng ốc tốt nhất, chăn đệm tốt nhất, thức ăn tốt nhất. Hết thảy những chuyện lao động thuộc về Tăng sự người ấy đều nên được miễn, để người ấy an tâm tu Định”. V́ sao phải làm như vậy? “Sở dĩ giả hà?” (V́ lẽ nào vậy?) Đấy là gạn hỏi ư nghĩa. V́ sao ta phải cho phép ông đối xử với người tu Định như vậy, chăm sóc họ tốt đẹp như vậy? Đức Phật bảo ngài Kiều Trần Như: Nếu người tu Định chẳng có tư lương, chẳng có hoàn cảnh rất tốt đẹp, họ sẽ sanh khởi ác tâm. Tuy ác tâm chẳng phải là rất nghiêm trọng, nhưng họ có thể ôm ḷng oán trách, khi tu Định sẽ chẳng thể an tâm. Có ư nghĩa như vậy đó! T́nh h́nh kiểu này có thể là mọi người đă đều từng trải rồi.

          Khi tôi ở Pḥng Sơn, các đạo hữu sống trong lều tranh. Có lúc mọi người gặp mặt nhau, đến chỗ thường trụ lănh đồ xong, cầm một bao giấy nhỏ đựng muối, [cằn nhằn]: “Thường trụ bủn xỉn quá, cho chúng tôi có một tí muối! Ba mươi ngày phải làm thế nào đây? Một tháng mới phát tí xíu muối như vậy!” Họ nói thường trụ khổ sở, chẳng có cúng dường. Khi đó, chúng tôi ở phương Bắc mà phát kê, nếu phát bắp th́ c̣n đỡ một chút, lâu đói, chứ kê th́ chẳng thể đỡ đói cho lắm. Cháo như thế nào? Ba mươi cân hạt kê, thường trụ giữ lại ba cân, ba mươi cân bớt lại ba cân, tổng cộng phát cho quư vị hai mươi bảy cân. Với chút muối đó, quư vị cầm về lều tranh, chỉ có thể nấu cháo loăng, người tu Định chẳng cần lương thực nhiều lắm! Tôi muốn nói là họ oán hận. Khi họ chẳng đủ tư lương, làm sao có thể tu hành cho nổi? Do vậy, sẽ phan duyên. Thuở đó, chúng tôi xuất gia chưa bao lâu, hoàn toàn chẳng phải là người tu hành lâu năm, cũng chẳng có duyên phận. Người tu hành đă lâu suy nghĩ: “Vị thí chủ nào đó phải nên chăm sóc tôi một phen, phải nên biếu tặng tôi”. Nếu tâm người ấy nghĩ đến chuyện đó, làm sao tu Định cho nổi? Đức Phật liễu giải tâm chúng sanh, liễu giải hết thảy sự vật. Do vậy, miễn cho họ hết thảy những việc lao động, chăm sóc đặc biệt tốt đẹp. Đặc biệt tốt đẹp th́ người ấy có thể tu hay không? Hai đằng đều chẳng thể, tăng trưởng cái tâm tham cũng không được!

          Ở tỉnh Hà Bắc, có một vị đại đức phát tâm mong cúng dường người tu Thiền Định. Người trụ tĩnh muốn ǵ, ông ta đều cho thứ đó. Có những người đến chỗ thường trụ, đ̣i tấm mền nỉ tốt nhất, ông ta cũng mua cho. Đ̣i đồng hồ sang nhất, ông ta cũng mua cho. Đă thế, trong mỗi gian nhà đều có phích nước nóng, thuở đó là rất cao cấp! Ông ta mong những người ở đó sẽ tu Định, mỗi căn nhà đều đặt phích nước nóng, mua cho mỗi người một cái. [Người tu Định] cảm thấy thân thể không khỏe, đ̣i ăn bánh chẻo. Ở phương Bắc, ăn bánh chẻo[2] là sang lắm. Ông ta bèn theo đúng ư nấu bánh chẻo. Sau đó, những người tu Thiền Định có tu hành tốt đẹp hay không? Chẳng hề! Đến cuối cùng, phước đức của ông ta chẳng đủ, những người tu Thiền Định dần dần bỏ đi hết sạch, chẳng c̣n sót lại một người nào! Ông ta cũng đóng cửa đạo tràng đó luôn! Khi ấy là năm một ngàn chín trăm ba mươi mấy, khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu, ba mươi bảy chi đó. Đại khái chưa đầy ba năm đă kết thúc!

          Khổ quá mức cũng không được, sướng quá mức cũng chẳng thể. Sướng quá, họ lại phóng dật. Khổ sở, họ sẽ oán hận. Thế nhưng, tư duyên (資緣, các duyên giúp cho việc tu Định) chẳng thể thiếu khuyết. Nếu không, sẽ dẫn đến ác tâm sở phát khởi. Tuy vậy, tư duyên đặc biệt tốt đẹp, đặc biệt thuận tiện, ác tâm sở của kẻ đó cũng thành lập! Phan duyên, tham lam, kẻ đó chẳng thể định nổi, mà cũng tu chẳng nổi! Do vậy, chẳng thể thành tựu tam-ma-địa, thậm chí đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu vô lượng nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng được!

 

          (Kinh) Tu Định hành giả nhược cụ tư duyên, chư tam-ma-địa vị thành năng thành. Nhược tiên dĩ thành, chung bất thoái thất. Do thử bất khởi nhất thiết ác pháp, quảng thuyết năi chí bất thiện tầm tứ, văng sanh thiên thượng, chứng đắc Niết Bàn. Tu Định hành giả, nhược vị thành tựu chư tam-ma-địa, sơ dạ, hậu dạ, đương xả thùy miên, tinh tấn tu học, viễn ly hội náo, thiểu dục tri túc, vô sở cố luyến. Nhất thiết tham, sân, phẫn, phú, năo, hại, kiêu, mạn, cống cao, xan lận, tật đố, ly gián, thô ác, hư cuống, tạp uế, nhất thiết nhân gian hy hư phóng dật, giai tất viễn ly. Như thị hành giả, ưng thọ Thích, Phạm, hộ thế tứ vương, Chuyển Luân Vương đẳng tán thán, lễ bái, cung kính, thừa sự, phụng thí bách thiên na-dữu-đa cúng, huống Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phiệt-xá, Thú-đạt-la đẳng. Vị đắc Định giả, thượng ưng thọ thử tán thán, lễ bái, cung kính thừa sự, phụng thí, cúng dường, huống hồ dĩ đắc tam-ma-địa giả?” Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: “Tu Định năng đoạn Hoặc, dư nghiệp sở bất năng, cố tu Định vi tôn, trí giả ưng cúng dường”.

          ()修定行者,若具資緣,諸三摩地未成能成;若先已成,終不退失,由此不起一切惡法,廣說乃至不善尋伺,往生天上證得涅槃。修定行者,若未成就諸三摩地,初夜、後夜當舍睡眠,精進修學,遠離憒鬧,少欲知足,無所顧戀,一切貪瞋、忿覆、惱害、憍慢、貢高、慳吝、嫉妒、離間粗惡、虛誑雜穢,一切人間嬉戲放逸,皆悉遠離。如是行者,應受釋、梵、護世四王、轉輪王等,讚歎、禮拜、恭敬承事,奉施百千那庾多供,況剎帝利、婆羅門、筏舍、戍達羅等!未得定者,尚應受此讚歎、禮拜、恭敬承事,奉施供養,何況已得三摩地者!爾時,世尊而說頌曰修定能斷惑,餘業所不能,故修定為尊,智者應供養。

          (Kinh: “Hành giả tu Định nếu có đủ các duyên phụ trợ th́ các môn tam-ma địa chưa thành sẽ có thể thành. Nếu các môn Định đă thành từ trước, trọn chẳng bị thoái thất. Do vậy, chẳng dấy lên hết thảy ác pháp, Nói rộng th́ cho đến chẳng có Tầm, Tứ bất thiện, sẽ sanh lên cơi trời, chứng đắc Niết Bàn. Hành giả tu Định nếu chưa thành tựu các tam-ma-địa, đầu đêm, cuối đêm, hăy nên bỏ ngủ nghỉ, tinh tấn tu học, xa ĺa ồn ào, náo nhiệt, ít tham muốn, biết đủ, chẳng nuối tiếc ǵ. Hết thảy tham, sân, phẫn, giấu giếm, năo hại, kiêu căng, ngạo mạn, ngạo nghễ, keo kiệt, ghen ghét, ly gián, nói thô ác, dối trá, tạp uế, hết thảy vui đùa phóng dật của nhân gian thảy đều xa ĺa. Hành giả như thế đáng nên được Đế Thích, Phạm Vương, bốn thiên vương hộ thế, Chuyển Luân Vương v.v… tán thán, lễ bái, cung kính, phụng sự, dâng thí trăm ngàn na-dữu-đa vật cúng, huống hồ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phiệt-xá, Thú-đạt-la v.v… Người chưa đắc Định c̣n đáng nên được họ tán thán, lễ bái, cung kính, phụng sự, huống hồ người đă đắc các tam-ma-địa!” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng: “Tu Định đoạn trừ Hoặc, các nghiệp khác chẳng thể. Nên tu Định tôn quư. Bậc trí nên cúng dường”).

 

          Hành giả tu Định nhất định phải trọn đủ các duyên phụ trợ. Khi đó, có thể thành tựu các tam-ma-địa chưa thành tựu. Nếu [các tam-ma-địa] đă thành từ trước, tức là đă thành tựu th́ sẽ càng tăng trưởng, chẳng bị thoái thất. Vậy th́ do có Định lực, tâm có thể hàng phục, hết thảy ác pháp đều chẳng dấy lên. “Quảng thuyết năi chí bất thiện Tầm, Tứ” (nói rộng th́ cho đến các món Tầm, Tứ bất thiện): Tầm Tứ có nghĩa là “truy cầu”, [ở đây, kinh văn có ư nói] “chẳng truy cầu nữa”. Như thế th́ có thể sanh lên trời, chứng đắc Niết Bàn càng có thể tu thành công. Hoặc là tu Tứ Thiền Tứ Định, hoặc là Tứ Không Tứ Định, sẽ có thể sanh lên trời, thậm chí thâm nhập, tu các tam-ma-địa, cho đến rốt ráo chứng đắc Niết Bàn, cho đến chứng đắc, thành tựu các quả vị thuộc tam thừa.

          Đây là đức Phật tán thán tu Định. Trong thế gian, vào lúc tu hành, có ba loại: Loại thứ nhất là tu Định tâm, loại thứ hai là tu đọc tụng, loại thứ ba là chăm lo tu phước. Hành giả tu Định là người tu hành, là người hành đạo. Định là “Tĩnh Lự, tịch tĩnh”. Khi tu nhân, chính là tu tịch tĩnh, tu Tĩnh Lự, tu Quán. Về sau, khi thành tựu, đạt tới tam-ma-địa. Tam-ma-địa trong phần trước đă nói rất nhiều. Đẳng Tŕ dịch là Tịch Tĩnh. Người tu Định hạnh phải nên làm công tác chuẩn bị tư lương th́ khi tu tập, quư vị mới dễ chứng đắc. Có những chuyện quư vị cần phải chú ư, cũng tức là đối với hoàn cảnh và t́nh h́nh khách quan bên ngoài, quư vị đều phải nên lưu ư.

          Nếu quư vị c̣n chưa thành tựu tam-ma-địa, tức là trước khi chưa đắc Định, sẽ phải nhọc nhằn đôi chút. Đầu đêm, cuối đêm, khi quư vị c̣n chưa thành công, phải nên chịu cực đôi chút. Nếu tính vào lúc đầu đêm, dùng mười hai giờ trong hiện thời để tính toán, quư vị có thể nghỉ ngơi bốn tiếng đồng hồ vào lúc giữa đêm, Trong tám tiếng đồng hồ thuộc đầu đêm và cuối đêm, quư vị phải luôn tinh tấn tu hành, chớ nên quá ham ngủ. “Đương xả thùy miên” (hăy nên bỏ ngủ nghỉ), bốn tiếng đồng hồ chẳng đủ. Ở đây nói tới người thật sự phát tâm muốn liễu sanh tử, mong đoạn phiền năo. Hạng người tu hành như vậy sẽ thật sự tin tưởng, ngưỡng mộ lời chỉ dạy của đức Phật. Tôi phải nhấn mạnh: Tín tâm ấy hoàn toàn chẳng phải là ḷng tin b́nh phàm của chúng ta, mà là thật sự tin sâu, chẳng dời đổi. Quư vị tin tưởng lời răn dạy của đức Phật, đức Phật dạy chúng ta làm như thế nào, chúng ta sẽ làm đúng như thế ấy. Như thế th́ mới có thể nhập đạo. Hiện thời, chúng ta đều tự nhận là rất tin Phật, cá nhân tôi cảm thấy vẫn chẳng đủ! Chúng ta hoàn toàn chẳng thể mỗi ngày suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, chỉ ngủ bốn giờ, trong hai mươi giờ c̣n lại đều có thể hành đạo, đúng không? Như bọn xuất gia chúng tôi, tức các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni là “chuyên nghiệp”, chuyên nghiệp mà đều làm không được, c̣n như đối với mọi người học Phật, tu hành là nghề phụ, hoàn toàn chẳng phải là chuyên nghiệp [th́ c̣n nói ǵ được nữa]!

          Mọi người biết: Sau khi chúng tôi xuất gia, có công khóa sáng tối. Chúng tôi hai giờ rưỡi sáng đă phải thức dậy. Mỗi ngôi chùa đều là hai giờ rưỡi thức dậy. Quy định này, quư vị đến xin quải đơn (挂单, gia nhập chúng thường trụ) tại chùa miếu nào cũng đều là hai giờ rưỡi sáng thức dậy. Trong ấy, bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Xưa kia, tại Đại Lục, trong chùa miếu không có bữa tối, họ gọi [ăn lót dạ cho đỡ đói vào buổi tối] là “dược thạch” (藥石), cũng có nghĩa là “uống thuốc”. Hiện thời, thân thể trong đời Mạt chẳng khỏe mạnh như cổ nhân trong quá khứ, bèn phải uống thuốc. Coi cơm chiều như thuốc, nhưng quy củ thông thường trong các chùa miếu [thuở trước], thuốc ấy là cháo ăn với dưa khú. Quư vị muốn ăn th́ ăn, chẳng muốn ăn th́ thôi!

          Hiện thời, đương nhiên chẳng phải là như vậy. Nếu mọi người đến chùa miếu dùng cơm chiều, vẫn ăn rất ngon. Có các nhà sư trẻ tuổi c̣n đi ra các quán bán thức ăn vặt bên ngoài, giống như ở ngoài cửa chùa chúng ta, toàn là những cái quán nhỏ! Như vậy th́ tu đạo làm sao nổi? Gieo thiện căn mà thôi! Nếu thật sự tu hành, quư vị đừng nên quá tham ngủ, ngủ nghê là một món Cái. Chúng ta tính thử xem, trong suốt một đời của chúng ta, thời gian ngủ nghê đă chiếm hết bao nhiêu? Chiếm rất nhiều thời gian! Nhưng có những người v́ kinh doanh sự nghiệp, hoặc là làm công nhân, vẫn phải làm thêm giờ, có khi v́ kiếm tiền, cũng ngủ rất ít. Vậy th́ chẳng liên quan, ở đây, chuyên nói về người tu hành. Nếu lúc quư vị muốn tu Định, hăy nên tinh tấn, đừng nên giải đăi! Ngủ nghê chính là giải đăi. Quư vị đừng luống uổng thời gian tốt đẹp!

          Có các đạo hữu đă phát tâm, mong ở trong núi, hoặc có rất nhiều đạo hữu hay cư sĩ muốn học theo cổ đức, chẳng ngủ nghê, người như vậy cũng rất nhiều. Thậm chí cũng có người chẳng ăn cơm, đả một thất, hai thất, tập trung thời gian muốn tu đạo, mục đích là mong đắc Định. Đắc Định th́ có lợi ích ǵ? Mọi người đều biết: Hễ đắc Định, sẽ có thể khai trí huệ. Khi ở trong Định, điều ǵ quư vị cũng đều thông tỏ. Như các vị A La Hán, nếu quư vị thỉnh các Ngài hồi hướng, khi các Ngài chưa nhập Định, sẽ chẳng khác chúng ta cho mấy. Hễ các Ngài nhập Định, khởi quán chiếu, trí huệ hiện tiền, các Ngài mới có thể biết. Các Ngài xả báo, bèn nhập tam-ma-địa, chứng Không lư.

          Do vậy, khi chưa tu Định thành công, phải bỏ bớt ngủ nghỉ, phải tinh tấn tu học. Học ǵ vậy? Học Thiền Định, phải tu tập Định, nhưng quư vị sống trong thành thị sẽ tu chẳng thành! Xe cộ quấy nhiễu, khiến cho quư vị chẳng dễ nhập Định. Tiếng người ồn ào, cũng chẳng thể nhập Định. Chỗ huyên náo sẽ chẳng thể được! “Thiểu dục tri túc” (ít ham muốn, biết đủ): Người tri túc thường vui sướng, đừng nên tham cầu quá nhiều! Chúng ta v́ cái tâm tham cầu quá to, chẳng giác ngộ xác thân của chúng ta là huyễn hóa, chẳng nhận định nhục thể là vô thường, luôn để cho thân thể thoải mái, [chỉ suy tính] sao cho thân thể điều ḥa, làm thế nào để thong dong, thỏa thích. Đa dục chẳng biết đủ, rất nhiều kẻ chẳng thể thỏa ḷng được! Có lúc kẻ bần cùng thấy kẻ giàu có bèn cảm thấy rất kỳ quái: “Họ có nhiều tiền ngần ấy, suốt đời có ăn hết nổi hay không?” Kẻ giàu thấy người nghèo nói: “Ngươi chẳng tu phước, đáng phải chịu tội. Ngươi nghèo mạt là chuyện đáng phải như vậy!”

          Đây là dạy chúng ta phải thiểu dục, tri túc, như những vị đại đức sống trong núi có phước báo rất lớn, nhưng họ đều buông xả, như thế th́ mới vui sướng được. Biết đủ sẽ thường vui. Người thiểu dục tự an. Thiểu dục th́ quư vị mới có thể b́nh an. Vô cầu, quư vị cũng chẳng thương tổn ai. V́ thế, ắt cần phải thiểu dục tri túc, đừng nên lưu luyến. Lưu luyến có nghĩa là tham luyến. Đối với hết thảy sự vật trong thế gian, nói theo phía chúng ta, ăn, mặc, ở, đi lại, hễ “ăn, mặc, ở” c̣n đắp đổi được th́ chớ nên tham luyến. Đối với tham, sân, phẫn, phú, năo hại, kiêu, mạn, ngạo nghễ, bủn xỉn, ghen tỵ, ly gián, thô ác, hư dối, tạp uế, quư vị phải trọn đủ từ, bi, hỷ, xả để đối trị tham, sân, si, ái. Lưu luyến có nghĩa là tham, sân, là lúc chẳng vửa ư sẽ sanh khởi phiền năo. Sân là cái tâm sân hận.

          Đấy là ba căn bản tội nghiệp, tức tham, sân, si. Si là chẳng có trí huệ. Kiêu mạn: Ai nấy đều nghĩ như thế này: “Ta là kẻ b́nh phàm, có ǵ đáng để kiêu mạn?” Nhưng thật ra, chẳng phải là như thế. Mỗi người khi nghĩ đến những kẻ cùng lứa, hoặc đồng nghiệp, luôn cảm thấy ta ngon lành hơn họ. Kiêu, nói đơn giản là kiêu ngạo tự măn, nói rộng th́ là kiêu căng, phách lối. Chuyện đáng kiêu căng phô phang quá nhiều: Chẳng hiểu mà cứ ra vẻ thông hiểu, chẳng biết cứ giả vờ biết tuốt. Rơ ràng là chẳng ra hồn mà chính ḿnh vẫn cảm thấy bản thân ta ghê gớm lắm! V́ sao nói gộp chung kiêu và mạn? “Mạn” () ở đây có nghĩa là ngạo mạn.

          Người nghèo có ngạo mạn hay không? Kẻ nghèo càng ngạo mạn! Họ cảm thấy chính ḿnh rất thanh cao, đặc biệt là những kẻ có học. Xưa kia là “cùng tú tài” (窮秀才, chàng tú tài nghèo kiết xác), nay là những kẻ đă tốt nghiệp đại học. Hiện thời, tốt nghiệp đại học vẫn c̣n thua kém, phải là người có học vị Tiến Sĩ hay Thạc Sĩ! Tôi nhớ hai mươi mấy năm trước, khi ở Thượng Hải, Tiến Sĩ chẳng ít. Ở Bắc Kinh, Tiến Sĩ cũng chẳng ít. Tôi đă gặp hai vị Tiến Sĩ học từ Mỹ về. Một người học ngành Nông Nghiệp từ trường Khang Năi Nhĩ (Cornell), ông ta làm giáo sư đại học, đáng kiêu ngạo mà! Ông ta bị bắt vô tù, luôn nghĩ ḿnh cao hơn kẻ khác: “Tôi là Tiến Sĩ ngồi tù”. Tôi nói: “Tôi là ḥa thượng ở trong ngục!” Ông ta kêu tôi bầu bạn với ông ta, luôn cảm thấy kiêu ngạo. Bất luận đến chỗ nào, ông ta đều biểu lộ ra ngoài vẻ kiêu mạn. Bất cứ lúc nào, ông ta luôn [tự nghĩ chính ḿnh] ngon lành hơn người khác. Sợ rằng đọa địa ngục, ông ta vẫn cảm thấy chỉ có ông ta mới đủ tư cách đọa địa ngục! Quư vị chẳng có cái nghiệp ấy, sẽ chẳng đến nơi ấy được đâu nhé! Như tôi ở trong tù, thời gian bị tù quá lâu, tiếp xúc cả đống phạm nhân. Ở đó, giữa các phạm nhân với nhau, họ cũng cho rằng ta mạnh hơn lũ phạm nhân các ngươi! Ai nấy đều có biểu hiện ấy. Đó chính là Câu Sanh Ngă Chấp (俱生我執, ngă chấp bẩm sanh). Điều này rất dữ dội, v́ luôn nghĩ ta ngon lành hơn kẻ khác. Nữ đạo hữu bất luận xấu cỡ nào, đều cho rằng chính ḿnh rất đẹp, suốt ngày luôn soi gương, luôn tô trát. V́ sao? Kiêu mạn, ngạo nghễ!

          “Xan” () có nghĩa là tham, rất keo tiếc, cái tâm buông xả chẳng nặng! Chúng ta nói Xả là ǵ? Là bố thí, xả trong “từ, bi, hỷ, xả”. Xả th́ phải xả từ trong chính cái tâm của quư vị, không chỉ là vật chất. Ngoại trừ vật chất bên ngoài, trước hết, phải xả cái tâm. Nếu tâm quư vị đă xả thanh tịnh, sẽ thành công. Chẳng có keo tham, sẽ đổi thành bố thí, là từ bi, là xả. Ghen tỵ th́ sao? Điều này càng bao hàm nhiều ư nghĩa hơn nữa. Ghen ghét chuyện tốt đẹp của người khác! Nếu dính líu đến lợi hại th́ ghen tỵ c̣n có thể lư giải, đằng này chẳng mảy may liên quan đến kẻ đó! Chỉ cần có vài người, hễ nói đến chuyện tốt của người khác, người ta thán thán người ấy, kẻ đó bèn phun lời phá hoại ngay: “Hắn là cái thá ǵ chớ? Có ǵ là ghê gớm đâu?” Đó là ghen tỵ. Chuyện kiểu này rất nhiều, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, quư vị đều có thể gặp phải!

          Trong mười đại nguyện vương của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đại nguyện thứ năm là tùy hỷ công đức: Thấy người khác làm chuyện tốt, quư vị phải tán thán. Tán thán, tùy hỷ th́ chuyện tốt của người ấy sẽ chia cho quư vị phân nửa! Chúng ta phải thường tùy hỷ công đức của chư Phật, Bồ Tát. Như Địa Tạng Bồ Tát mọi người đều biết, nguyện lực to lớn, xuống địa ngục độ chúng sanh. Nguyện lực của Quán Thế Âm Bồ Tát cũng rất lớn, Ngài có mười hai đại nguyện. Phổ Hiền Bồ Tát có mười đại nguyện, Văn Thù Bồ Tát có mười đại nguyện, chúng ta đều tùy hỷ. Tùy hỷ sẽ được hưởng một phần. Thấy kẻ khác làm chuyện tốt, chúng ta chẳng có sức lực làm như vậy, chúng ta bèn tùy hỷ. Tùy hỷ người đó, gặp mặt được chia một nửa. Người Hoa [hay nói] “gặp mặt, tôi chia một nửa”, nhưng Phật giáo chẳng chú trọng vật chất, tôi tùy hỷ, cũng chẳng tổn hại đến cái sẵn có của người khác, đấy là tùy hỷ công đức. Như thế th́ sẽ có thể tiêu trừ ghen tỵ.

          “Ly gián, thô ác”, “ly gián” (離間) là châm ng̣i ly gián. Nếu thấy người khác thành công, kẻ [ly gián] sẽ phá hoại. C̣n có lưỡng thiệt (兩舌, nói đôi chiều), xúc xiểm thị phi. Như trong phần trên đă nói, tham, sân, phẫn, phú, năo hại, kiêu mạn, ngạo nghễ, đủ loại thô ác đều là hư dối, nhơ uế, cũng là cấu uế. Không chỉ vứt bỏ những thứ đó, mà ngay cả những thứ vui chơi, buông lung trong nhân gian thảy đều xa ĺa. Như ở nhà xem TV, có tính là vui chơi hay không? Tùy thuộc quư vị xem như thế nào. Nếu là người phát tâm, người tu đạo, khi ở trong t́nh cảnh ấy, tùy thuộc quư vị dụng tâm như thế nào? Quư vị có giữ được định hay không? Nếu định được, dẫu quư vị vui chơi, cũng biến thành tinh tấn; vui chơi, buông lung đều biến thành tinh tấn. “Na Già thường tại Định” (đức Thế Tôn thường ở trong Định). Phật, đại Bồ Tát làm hết thảy các chuyện tùy thuận chúng sanh, các Ngài thường ở trong Định. Những chuyện ấy đều biến thành tinh tấn. Nếu chúng ta chẳng làm được, chẳng có định lực ấy, tốt nhất là hăy xa ĺa, tự ḿnh kiểm điểm. Có những kẻ thường xuyên viện cớ: “Đâu có phóng dật! Tôi đang tu đạo mà!” Đó là tự ḿnh lừa ḿnh! Nếu chúng ta trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuy chẳng thể tu tập suốt hai mươi tiếng đồng hồ, vậy th́ mười tiếng đồng hồ có thể hay không? Làm chẳng nổi! Năm giờ có thể hay không? Làm chẳng nổi luôn! Hai giờ có nổi hay không? Vẫn chẳng làm nổi! Một giờ có được hay không? Vẫn chẳng làm nổi! Vậy th́ vào lúc sáng tối, khi sắp ngủ, khi sắp thức dậy, niệm mười lượt “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, chỉ sợ chuyện này vẫn chẳng làm được! Hoặc là lại nhiều hơn một chút, niệm “nhất giả, lễ kính chư Phật. Nhị giả, xưng tán Như Lai” cho đến “thập giả, phổ giai hồi hướng”, đọc thuộc mười đại nguyện vương của đức Phổ Hiền Đại Nguyện Vương th́ cũng được chứ? Nếu những nguyện ấy cũng chẳng nhớ được, hăy niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm Phổ Hiền Bồ Tát, hoặc niệm Địa Tạng Bồ Tát, nhưng chúng ta vẫn có thói quen là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát nhiều hơn. Niệm mấy chục câu chắc sẽ làm được chứ! Làm chuyện ǵ, quư vị hăy niệm mười mấy câu, sẽ đều có thể được!

          Làm như thế sẽ có thể đối trị rất nhiều phiền năo, từng chút một như vậy, tuy thời gian rất ít, nhưng lợi ích hết sức to lớn. Thông thường, thiện căn cạn mỏng, như chư vị đạo hữu thường tới nghe kinh, nghe một, hai tiếng đồng hồ, quư vị nghe văn tự, hoặc nghe ngôn ngữ của một vị pháp sư nào đó, có thể lọt vào tâm quư vị hay không? Dùng NCăn để nghe, nghe rồi bèn xoay lại cái Nghe để nghe tự tánh, kết hợp với tâm tánh của quư vị. Dường như những chuyện đức Phật đă nói, ta đều vi phạm, cho nên ta chẳng đắc Định. Làm như thế nào đây? Sau khi ta đă biết, hăy nên dần dần xa ĺa!

          Một phương diện khác, nếu là tham, sân, phẫn, phú, cho đến hư dối, tạp uế, hết thảy chơi đùa, buông lung, đều là không tốt. Không tốt th́ phải rời ĺa. Tốt th́ phải tinh tấn, phải thực hiện. “Như thị hành giả” (hành giả như thế), cũng chính là người hành đạo, người tu Định, đương nhiên không nhất định là người xuất gia, [mà có thể là] các vị đạo hữu, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hết thảy cư sĩ, hễ tu Định quư vị phải làm như thế này: Ở nơi thanh vắng để tu đạo, tinh tấn, giảm bớt ngủ nghỉ, quư vị chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, không bủn xỉn, tham lam, chẳng ghen tỵ, chẳng buông lung, quư vị đáng nên đạt được ǵ? Được Đại Phạm thiên vương hộ tŕ quư vị. C̣n có Tứ Thiên Vương, hoặc là Chuyển Luân Vương trong nhân gian, cũng như quốc vương sẽ đều tán thán, cung kính, lễ bái, thừa sự quư vị. Thậm chí đối với người tu Định ấy, tức người hành đạo ấy, sẽ bố thí trăm ngàn na-dữu-đa vật cúng nhiều ngần ấy, cũng có nghĩa là cúng dường rất nhiều.

          Một người thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi, hay chủng tánh Bà-la-môn, cho đến Phiệt-xá, Thú-đạt-la, tức người thuộc bốn loại chủng tánh ấy, khi họ đang tu tập Định, tuy c̣n chưa đắc Định, họ cũng là người tu hành, đều có thể kham tiếp nhận Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương tán thán, lễ bái, cung kính, thừa sự, cúng dường. Nếu đă đắc tam-ma-địa, tu Định đă thành tựu, đă đắc Định, đă đắc tam-ma-địa, sẽ được cúng dường càng chẳng thể nghĩ bàn. Ắt cần phải nói theo hai phương diện, liên quan đến thiện căn trong nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ của người ấy.

          Như tại Ấn Độ, có các vị A La Hán đă chứng TQuả A La Hán, không chỉ tu Định, mà c̣n đắc tam-ma-địa, đắc Không Định, đạt đến tự tại. V́ sao các vị ấy ôm bát khất thực, vẫn chẳng xin được? Lúc đó, có người đă hỏi đức Thế Tôn như thế, đức Phật bảo là do trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, vị đó rất ít bố thí. Tuy đă thành tựu nơi phương diện Huệ, nhưng rất ít ỏi nơi phương diện Phước. Ấn Độ có câu: “Tu huệ, bất tu phước, La Hán thác không bát” (Tu huệ, chẳng tu phước, La Hán ôm bát rỗng), chẳng khất thực được. “Tu phước, bất tu huệ, hương tượng quải anh lạc” (tu phước, chẳng tu huệ, voi thơm đeo anh lạc). Quốc vương cưỡi con voi to ấy, [người hầu] khoác châu báu, anh lạc để trang nghiêm [thân voi]. Nó là tu phước, chẳng tu huệ, đọa vào súc sanh đạo. La Hán tu huệ, chẳng tu phước, ôm bát rỗng, cũng chẳng phải là vĩnh viễn ôm bát rỗng không. Đôi khi cũng có lúc không khất thực được ǵ. Do vậy biết trong hết thảy sự vật, bất luận trong nội giáo, hay nơi tướng cảnh giới bên ngoài, đừng nên bận ḷng những chuyện vụn vặt. Có những người thích hỏi những chuyện ấy, thích vần ṿ những từ ngữ rỗng tuếch: “Tôi không tu Định, tôi vẫn được cúng dường”. Hoặc là nói như vậy đó! [Chẳng hề biết] được cúng dường là do phước báo của quư vị, chẳng phải do huệ sanh trưởng. Ở đây, đức Phật cổ vũ, khích lệ người tu Định.

          Đức Phật thuyết pháp, đều là ban cho chúng sanh đôi chút ngọt ngào, cho nên nói Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ chúng ta, [khiến cho chúng ta] có thể đạt được rất nhiều lợi ích, th́ họ mới chịu niệm. Phẩm Phổ Môn nói: Niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được gia tŕ rất nhiều. Miễn trừ rất nhiều tai nạn th́ giống như được gia tŕ! Hiện thời, nếu quư vị nói Không với chúng sanh, [họ sẽ kinh ngạc]: “Không ư? Thế th́ tôi tin để làm ǵ?” Họ chẳng tin, v́ họ đă lư giải sai lầm. Quư vị ắt phải đạt đến mức độ nào th́ mới nói chuyện tương ứng với mức độ đó, có nghĩa như vậy đấy! Do vậy, đức Thế Tôn đă dùng kệ tụng để biểu đạt các ư nghĩa trên đây. V́ sao nói như vậy? V́ người tu Định có thể đoạn Hoặc. Hoặc () có nghĩa là “mê hoặc”, là chẳng hiểu rơ, chẳng có chánh tri, chánh kiến. Dấy lên tham, sân, si, dấy lên phẫn, phú, năo, hại, chẳng có Định lực. Hễ dấy tham dục, kẻ đó sẽ chẳng thể định được, sẽ bị cảnh xoay chuyển. Do tâm bị cảnh chuyển, cho nên đọa lạc. Nếu có định lực, tâm có thể chuyển cảnh. Tâm có thể chuyển cảnh, tức giống với Như Lai.

          Tuy đức Phật nói ra ba phương pháp, tức tu Định, đọc tụng Đại Thừa, cho đến tu phước, nhưng trong ba phương pháp ấy, chỉ có tu Định là tốt nhất. “Tu Định có thể đoạn Hoặc, các nghiệp khác chẳng thể”. Nếu quư vị tu hành các pháp khác, chẳng tu Định, mà mong đoạn Hoặc, sẽ rất khó. V́ thế, “cố tu Định vi tôn” (cho nên tu Định là tôn quư), đáng tôn trọng nhất, đáng tôn kính nhất. Do vậy, tu Định là tốt nhất. “Trí giả ưng đương cúng dường” [nghĩa là] người có trí huệ hăy nên làm như thế ấy, cúng dường, thừa sự!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại Phạm Thiên ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Ư Phật pháp trung nhi xuất gia giả, nhược Sát-đế-lợi, đại thần, tể tướng, dĩ tiên, trượng đẳng chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng, vi đáng hợp nhĩ? Vi bất hợp da?

          ()爾時,天藏大梵天言:大德世尊,於佛法中而出家者,若剎帝利,大臣、宰相,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,為當合爾?為不合耶?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại Phạm Thiên nói: - Bạch đại đức Thế Tôn! Đối với người xuất gia trong Phật pháp, nếu Sát-đế-lợi, đại thần, tể tướng, dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi bới, hoặc cắt chân tay, hoặc dứt mạng họ, có thích đáng hay không? Hay chẳng thích đáng?)

 

          Đây là chuyên nói về người xuất gia. Đại Phạm thiên vương ca ngợi đức Phật là “đại đức Thế Tôn”. Đối với những người xuất gia trong Phật pháp, “xuất gia” là nói đến các vị tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Xuất gia là ĺa nhà thế tục, vào nhà Phật. Đối với vị xuất gia tỳ-kheo mà nếu quốc vương Sát-đế-lợi, hoặc đại thần, hay tể tướng của quốc vương là những kẻ có thế lực, có quyền thế, dùng roi hoặc gậy gộc đánh đập thân thể tỳ-kheo, trừng phạt người xuất gia. Hoặc là đem vị đó nhốt vào tù, hoặc chửi mắng, quở trách vị đó. Hoặc là chặt đứt tứ chi, “giải chi tiết” là chặt đứt chi thể, tức chặt tay, chặt chân, chặt cánh tay, chặt bắp chân, hoặc đoạn mạng vị đó, cho đến giết chết. Nói theo kiểu hiện thời sẽ là bắn chết!

          Như vậy th́ có đúng hay không? Có thích hợp hay không? Hay là chẳng đúng? Có một câu hỏi như thế đó. Trong câu hỏi này, bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Tỳ-kheo thời Mạt Pháp xuất gia hết sức khó khăn, tu đạo càng khó hơn. Trong thời Mạt Pháp, người tin Phật rất khó, lại c̣n chẳng sanh khởi tín tâm. Kẻ không tin th́ nhiều, hoặc là đă tin, sau đó lại tiến tiến, lùi lùi. Có lần, tôi trở về chùa Nam Phổ Đà. Mọi người biết ở Đài Loan có một vị tỳ-kheo-ni, đầu tiên là mang danh nghĩa tỳ-kheo-ni, sau đó hoàn tục. Bà ta qua Đại Lục, rêu rao, chèo kéo khắp nơi. Người xuất gia trong chùa miếu c̣n nghiễm nhiên theo học với bà ta, c̣n cho rằng bà ta rất lỗi lạc. Sau đó, cục tôn giáo đuổi bà ta đi, hành động ấy khiến cho những kẻ xuất gia theo học với bà ta đều bị dọa sợ, trốn về quê nhà ẩn náu. Hiện tại chẳng c̣n chuyện ǵ nữa. [Những kẻ xuất gia ấy] đă sắp tốt nghiệp tại Phật Học Viện, đă học Phật mấy năm, sao c̣n bị mê hoặc kiểu đó? Nếu là những kẻ ít nghe Phật pháp, gặp phải loại ngoại đạo này, gặp phải cái gọi là “thần thông”, thường phô phang là “khai thiên nhăn”, hoặc “mở con mắt thứ ba”, thấy cái này, thấy cái nọ, liền cho là đáng tin. Hiện thời, t́nh h́nh này ở Đài Loan rất nhiều.

          Đối với Tam Bảo, tức Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, quư vị ắt phải thà xả thân mạng, chẳng hủy báng Tam Bảo. Có sức tín ngưỡng kiểu đó, mới thể giữ vững tín căn của quư vị. Ḷng tin của quư vị ắt phải “mọc rễ”, ắt phải có sức mạnh. Khi tin, phải tin đến mức Niệm bất thoái, cho đến phải tu Định sao cho Định bất thoái, phải tu Huệ sao cho Huệ bất thoái. Đấy là nói tới bước đầu, tín tâm ấy chẳng phải là do quư vị tu thành, mà là cái có thể [giúp cho hành nhân] đạt đến mục đích chính là tín tâm ấy. Có tín tâm như vậy. Có huệ, sẽ có thể phân biệt rơ đúng sai. Có Định lực, sẽ không bị cảnh chuyển. Kẻ khác nói ǵ, quư vị sẽ dựa theo giáo nghĩa để suy xét. [So sánh giữa] Định của kẻ đó và Định do đức Phật dạy, tức Tứ Thiền Bát Định, thậm chí như “tŕ niệm lai khứ” (giữ vững ư niệm đến đi) được nói trong bộ kinh này, có loại công lực ấy hay không? C̣n như thấy quỷ thần, kinh Địa Tạng đă nói rất rơ ràng!

          Nếu quư vị thắc mắc, hăy dùng Chiêm Sát Luân Tướng của đức Địa Tạng để hỏi về nghiệp báo của chính ḿnh, để chiêm sát nghiệp báo của chính ḿnh. Kẻ đó hoặc là cáo tinh chuyển thế, hoặc là chồn hay cầy thành tiên chuyển thế, hoặc là [những kẻ] do quả báo mà có thần thông. Tại mỗi quốc gia, đều có hạng người như thế khống chế. Mắt họ có thể thấy sâu dưới đất mấy ngàn thước, có thể thấy cát, hung trong vị lai, có thể nói ra đủ loại tiên đoán. Bọn họ vẫn thuộc vào sanh tử, chẳng có ǵ lỗi lạc! Quư vị chớ nên tin họ, phải trọn đủ chánh tri, chánh kiến. Nói đến “chánh tri, chánh kiến” th́ quư vị có thể khảo nghiệm một phen: Kẻ đó có nói “hết thảy các pháp đều là vô ngă” hay không? Có thể quán “hết thảy các pháp vô thường”, quán “hết thảy các pháp là khổ”, quán “hết thảy các pháp đều là không” hay chăng? Có thể quán như vậy hay không? Có thể quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă hay không? Quư vị dùng pháp ấn, dùng các pháp do đức Phật đă dạy để ấn chứng một phen, sẽ phân biệt rơ ràng! Quư vị liễu giải kẻ đó rốt cuộc là đúng hay không đúng, phải trọn đủ loại trí huệ ấy. Nếu không, trong đời Mạt tu đạo khó khăn, xuất gia càng khó hơn.

          Thời Mạt Pháp, nhằm lúc ngũ dục hừng hực, nhân dục sôi sục. Mọi người thấy trong thế giới này, xă hội trong hiện tiền có h́nh thái ǵ vậy? Nếu trong lúc này, quư vị có thể tu một năm, tôi thấy sẽ c̣n hơn tu một kiếp trong thế giới Cực Lạc rất nhiều. Thế giới Cực Lạc chẳng có ai chọc khuấy quư vị, quư vị chẳng đến nỗi sai lầm. Bố thí th́ quư vị bố thí cho ai? Vàng ṛng ư? Khắp nơi đều là các thứ trân kỳ, mă năo, châu báu đầy đất. Cây cối cũng bằng chất báu, thứ ǵ cũng đều là chất báu. Chẳng có ai dấy ḷng tham, nhiều quá, chẳng tham nữa! Khi tôi chuyện gẫu với kẻ khác, người đó nói: “Trên thế giới này, hoàng kim quư nhất” Tôi nói: “Chưa chắc!” Người đó hỏi: “Thầy nói thứ ǵ quư nhất?” Tôi đáp: “Vẫn là gạo tẻ hoặc mạn đầu[3] quư nhất”. Kẻ đó bật cười, bảo: “Gạo th́ một hai đồng đă mua được bao nhiêu là gạo!” Tôi nói: “Vào lúc b́nh thường, nếu sẵn gạo th́ gạo không đáng tiền. Nếu nhằm lúc lũ lụt, một cái mạn đầu ông đưa cho họ mười lạng vàng, họ cũng chẳng bán cho ông”. Khi quốc gia đang rối loạn, không có ăn th́ mới loạn, không có mặc th́ mới loạn. Có vàng hay không, đều chẳng đáng kể chi hết.

          Có một câu chuyện như thế này: Khi Hoàng Hà gây lụt lớn, hai người đi tỵ nạn. Một người tỵ nạn mang theo một túi vàng. Có một người ôm theo một mớ mạn đầu. Người mang mạn đầu do mang nhẹ, nên trèo lên cây. Kẻ vác theo vàng, cũng trèo lên cây. Họ ở trên cái cây đó. Lúc sau, hai người đều đói. Kẻ mang vàng nói: “Ta cho ngươi một miếng vàng đổi lấy một cái mạn đầu, có được hay không?” Người có mạn đầu suy nghĩ: “Mua bán kiểu này thật sự rất có lời, được rồi, bán cho ngươi một cái”. Đưa cho anh ta một cái mạn đầu, anh ta liền đưa một miếng vàng. Nước chẳng rút, anh ta tùy thời dùng vàng mua mạn đầu. Nước vẫn chẳng rút. Người mang mạn đầu kia bán sạch mạn đầu cho kẻ mang theo vàng. Hắn cứ nghĩ nước sẽ rút rất nhanh, nhưng nước vẫn không rút. Kẻ đem mạn đầu thầm nghĩ: “Hễ nước rút th́ ta sẽ phát tài”. Kẻ đem mạn đầu nói với người mang theo vàng: “Vàng này ngươi lấy lại đi để ta đổi lấy mạn đầu”. Người mang vàng trả lời: “Mạn đầu ta ăn hết sạch rồi, không c̣n nữa!” Thật ra, ông ta c̣n tám chín cái mạn đầu, tự ḿnh giữ lại. Kẻ đem mạn đầu bị chết đói. Kẻ mang vàng v́ có mạn đầu mà sống sót. Kẻ mang mạn đầu đă chết đói rồi, kẻ mang vàng lại đổi lấy hoàng kim như vậy để cầm về! Câu chuyện này thoạt nghe rất giống chuyện đùa. Quư vị nói xem: Thứ ǵ đáng quư trọng nhất? Tôi nói, cái đáng quư trọng nhất chính là trí huệ. Vốn khi đó đào thoát, ông ta mang theo mạn đầu là đúng, v́ trong nhà chẳng có chi khác, mà cũng chẳng có vàng. Nhưng khi đó, ông ta chẳng nghĩ lúc ấy cần tiền để làm ǵ? Tiền có dùng được đâu? Cái tâm tham sẽ chẳng nẩy sanh!

          Lúc đó, quốc vương và đại thần chẳng tin tưởng Tam Bảo. Chắc các vị nghĩ quốc vương Sát-đế-lợi và đại thần, tể tướng đều có phước báo, sao họ lại chẳng cung kính Tam Bảo, chẳng có tín tâm vậy? Sao lại c̣n đối xử với tỳ-kheo kiểu đó? Chửi bới, đánh đập, chặt chém chân tay? Chẳng tin th́ mọi người hăy mở to mắt mà trông, bất luận tại Đài Loan, hay tại Đại Lục, ngay cả ở Mỹ, người ta căn bản không hiểu quư vị là người xuất gia, căn bản chẳng đếm xỉa tới! Họ có hiểu những chuyện đó hay không? Đến Ấn Độ th́ hiện thời đă gần như chẳng có người xuất gia Phật giáo! Tuy nói Ấn Độ vẫn có người xuất gia, nhưng tới chùa Đại Bồ Đề, những người xuất gia đó có lẽ là người Tư Lư Lam Kha (Tích Lan, Sri Lanka), chứ bản thân người Ấn Độ th́ không có. C̣n có những ngôi chùa, hiện thời có những vị lạt-ma Tây Tạng đến tu tại đó, chứ chùa Phật giáo của người Ấn đă đều bị phá tan. Loại t́nh huống này phổ biến trong thời Mạt Pháp. V́ thế, tôi thường nói: Kinh Đại Tập Thập Luân đúng là h́nh chụp của thời đại Mạt Pháp, đă chụp ảnh cho chúng ta. Mọi người hăy xem thử, t́nh huống hiện thời có phải là như vậy hay không? Vẫn c̣n có tín đồ tôn giáo, tuy chẳng phải là tỳ-kheo, nhưng họ tin tưởng giáo nghĩa, luôn làm các thiện sự, làm chuyện tốt cho người khác. Như vậy th́ có thể hay không, đúng hay không?

 

          (Kinh) Phật cáo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên ngôn: - Thiện nam tử! Nhược chư hữu t́nh, ư ngă pháp trung xuất gia, năi chí thế trừ tu phát, bị phiến ca-sa, nhược tŕ giới, nhược phá giới, hạ chí vô giới, nhất thiết thiên, nhân, A Tố Lạc đẳng, y tục chánh pháp, do thượng bất hợp dĩ tiên, trượng đẳng chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng, huống y phi pháp! Hà dĩ cố? Trừ kỳ nhất thiết tŕ giới, đa văn, ư ngă pháp trung nhi xuất gia giả, nhược hữu phá giới, hành chư ác pháp, nội hoài hủ bại, như uế oa loa, thật phi sa-môn, tự xưng sa-môn, thật phi phạm hạnh, tự xưng phạm hạnh, hằng vị chủng chủng phiền năo sở thắng, bại hoại khuynh phúc. Như thị phá giới chư ác bật-sô, do năng thị đạo nhất thiết thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân đẳng, vô lượng công đức trân bảo phục tạng.

          ()佛告天藏大梵天言:善男子,若諸有情,於我法中出家,乃至剃除鬚髮,被片袈裟,若持戒,若破戒,下至無戒;一切天、人、阿素洛等,依俗正法,猶尚不合以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,況依非法何以故?除其一切持戒多聞,於我法中而出家者;若有破戒行諸惡法,內懷腐敗如穢蝸螺,實非沙門自稱沙門,實非梵行自稱梵行,恆為種種煩惱所勝敗壞傾覆。如是破戒諸惡苾芻,猶能示導一切天、龍、藥叉、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、人非人等,無量功德珍寶伏藏。

          (Kinh: Đức Phật bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng: - Này thiện nam tử! Nếu các hữu t́nh xuất gia trong pháp của ta, cho đến cạo bỏ râu tóc, khoác một mảnh ca-sa, hoặc tŕ giới, hoặc phá giới, thậm chí không có giới, hết thảy trời, người, A Tố Lạc v.v… nương theo chánh pháp của thế tục, c̣n chẳng nên dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc giam vào lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi bới, hoặc chặt tứ chi, hoặc đoạn mạng họ, huống hồ những kẻ tuân theo phi pháp! V́ sao vậy? Trừ hết thảy những vị tŕ giới, đa văn, xuất gia trong pháp của ta, nếu có những kẻ phá giới, làm các pháp ác, trong tâm thối nát, như con ốc sên bẩn thỉu, thật sự chẳng phải là sa-môn mà tự xưng là sa-môn, thật sự chẳng phải là phạm hạnh, tự xưng là phạm hạnh, luôn bị các thứ phiền năo khống chế, bại hoại, khuynh đảo. Các ác bật-sô phá giới như thế vẫn có thể chỉ dạy vô lượng kho báu công đức trân bảo cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân v.v…)

 

          Vị Thiên Tạng Đại Phạm Thiên này có trí huệ, cho nên hỏi đạo lư như thế. Do vậy, đức Phật bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng: “Thiện nam tử! Nhược chư hữu t́nh ư ngă pháp trung xuất gia, năi chí thế trừ tu phát, bị phiến ca-sa” (Này thiện nam tử! Nếu có các hữu t́nh xuất gia trong pháp của ta, cho đến cạo bỏ râu tóc, khoác một mảnh ca-sa): Rất ít! Chỉ có một mảnh be bé mà thôi, cũng tức là gắn một mảnh ca-sa trên y phục. “Nhược tŕ giới, nhược phá giới” [nghĩa là] sau khi đă xuất gia, giữ giới luật rất tinh nghiêm, tŕ giới cũng chẳng trái phạm, giữ giới thanh tịnh; hoặc là sau khi đă xuất gia bèn phạm giới. “Hạ chí vô giới”: Có kẻ hủy hoại toàn bộ các giới đă thọ.

          “Nhất thiết thiên, nhân, A Tố Lạc đẳng, y tục chánh pháp, do thượng bất hợp dĩ tiên, trượng đẳng chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng. Huống y phi pháp! (Hết thảy trời, người, A Tố Lạc v.v… vâng theo chánh pháp của thế tục c̣n chẳng nên dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc giam vào lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi bới, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng họ, huống hồ những kẻ hành theo phi pháp!): Đây là vâng theo chánh pháp của thế tục, tức là giết người th́ phải đền mạng, thiếu nợ th́ phải trả tiền, trộm cắp người khác sẽ bị tai họa lao ngục. Nếu giam cầm, hoặc trừng phạt th́ cũng là chiếu theo pháp luật của thế gian, nhất định phải bị trách phạt. Trước pháp luật, ai nấy đều b́nh đẳng, người xuất gia cũng chẳng có ngoại lệ!

          Từ đời Đường - Tống đến nay, mỗi triều đại đều có. Thậm chí bậc đại đức như Tử Bách lăo nhân[4] chết trong ngục giam, Hám Sơn đại sư th́ bị sung quân (đày làm lính), cũng từng ngồi tù. Vào đời Minh, Hoàng Thái Hậu rất tin Phật [nhưng vua Minh Thần Tông tin theo Đạo giáo, nghe lời sàm báng, hăm hại Tăng sĩ], hiện tượng kiểu này thường có. Đường Thái Tông là hoàng đế thời thịnh trị mà cũng giết rất nhiều ḥa thượng. Do vậy, đế vương cũng chẳng tránh khỏi tạo nghiệp này. Nếu ông ta vâng theo chánh pháp của thế tục, sẽ phạm vào sai lầm, đều chẳng nên dùng roi, gậy đánh đập thân thể tỳ-kheo, hoặc giam họ trong lao ngục, hoặc chửi mắng họ, hoặc chặt chân tay họ, hoặc đoạn mạng họ. “Hà dĩ cố?”: V́ sao nói như vậy? “Trừ kỳ nhất thiết tŕ giới, đa văn, ư ngă pháp trung nhi xuất gia giả” (trừ hết thảy những người tŕ giới, đa văn, xuất gia trong pháp của ta): Những vị tŕ giới, đa văn, có đạo đức th́ chẳng cần phải nói. Nếu có những kẻ phá giới, hành ác pháp, trong tâm thối nát, tuy bề ngoài là xuất gia, nhưng trọn chẳng thật sự tu hành, chẳng tu tập, mà cũng chẳng hành tŕ. Phá giới là hành ác pháp, tham, sân, si như đă nói trên đây đều trọn đủ.

          “Nội hoài hủ bại” (trong tâm thối nát): Bẩn thỉu, giống như con oa loa (蝸螺), tức là ốc sên. Loài này có khi được gọi là “oa ngưu” (). Ốc sên rút ḿnh trong vỏ. “Loa tư” (螺蟖, ốc nhồi) có vỏ bảo vệ thân nó, nhưng trong ấy rất bẩn, nó ăn và bài tiết ngay trong ấy, rất uế tạp. Kẻ tạo nghiệp đọa vào loài đó. V́ thế, kẻ phá giới, hành ác pháp giống như con ốc nhồi (ốc bươu), hoặc ốc sên. Họ tuy khoác ca-sa, đă xuất gia, nhưng chẳng phải là sa-môn. Họ tự nói ḿnh là sa-môn, tự xưng là sa-môn, tự xưng là người xuất gia. “Thật phi phạm hạnh” (thật sự chẳng phải là phạm hạnh), những ǵ họ đă làm đều là hạnh chẳng thanh tịnh. Tự kẻ đó nói là hạnh thanh tịnh, nhưng luôn bị khuất phục bởi đủ loại phiền năo. Phiền năo thắng thế thiện nghiệp, ác nghiệp hơn hẳn thiện nghiệp của kẻ đó. “Bại hoại khuynh phúc” (bại hoại, khuynh đảo): Phạm hạnh lẫn thanh tịnh hạnh của kẻ đó đều bị bại hoại. Phật môn đều bị kẻ đó bại hoại. Hạng ác tỳ-kheo phá giới như vậy vẫn có thể tạo phước đức cho trời người.

          “Do năng thị đạo nhất thiết thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân đẳng, vô lượng công đức trân bảo phục tạng” (vẫn có thể chỉ dạy vô lượng kho tàng công đức quư báu cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân v.v…): Chỉ cần kẻ ấy là đệ tử Phật, chỉ cần kẻ đó c̣n khoác một mảnh ca-sa, sẽ có thể chỉ dạy tám bộ quỷ thần. Tại Ấn Độ, có một người sống nơi mồ mả. Ông ta thấy một con rồng ác. Ông ta vốn là kẻ ăn mày đi xin dọc đường. Trong g̣ mả ấy, có [thi thể] của một vị tỳ-kheo đă viên tịch. Sau đó, ca-sa bị rách nát, rơi ra một miếng. Người ăn mày ấy vội vă trùm mảnh áo đó lên đầu, ác long chẳng ăn ông ta, lướt qua. Chuyện này cho thấy, tuy là ác tỳ-kheo nhưng khoác ca-sa th́ cũng có thể chỉ dạy tám bộ quỷ thần, v́ mảnh áo ca-sa hàm chứa vô lượng kho báu công đức trân bảo. Hoàn toàn chẳng phải v́ người ấy, mà là do mảnh áo của người ấy. Đó gọi là Tam Bảo chủng tánh.

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Ư ngă pháp trung, nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi chư hữu t́nh đổ kỳ h́nh tướng, ưng sanh thập chủng thù thắng tư duy, đương hoạch vô lượng công đức bảo tụ. Hà đẳng vi thập? Vị ngă pháp trung nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi chư hữu t́nh, hoặc hữu kiến dĩ, sanh ư niệm Phật ân trọng, tín kính thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, chung bất quy tín chư ngoại đạo sư, thư luận, đồ chúng, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành.

          ()又善男子,於我法中而出家者,雖破戒行,而諸有情睹其形相,應生十種殊勝思惟,當獲無量功德寶聚。何等為十?謂我法中而出家者,雖破戒行,而諸有情,或有見已,生於念佛殷重信敬殊勝思惟;由是因緣,終不歸信諸外道師、書論徒眾,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Người xuất gia trong pháp của ta tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu t́nh thấy h́nh tướng của họ, sẽ sanh khởi mười loại tư duy thù thắng, sẽ đạt được vô lượng khối báu công đức. Những ǵ là mười? Tức là người xuất gia trong pháp của ta tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu t́nh, nếu đă trông thấy, sẽ sanh tư duy thù thắng nghĩ tới Phật, trân trọng tin kính. Do nhân duyên ấy, họ trọn chẳng quy hướng, kính tin các thầy ngoại đạo, sách vở, luận thuyết, và đồ chúng của chúng nó, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi).

 

          Trông thấy chiếc ca-sa ấy, sẽ sanh khởi ư tưởng thù thắng. Tuy kẻ đó phá giới, nhưng hắn là Phật tử, biểu hiện vẫn là Phật tử. Mười loại công đức nào vậy? “Vị ngă pháp trung nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi chư hữu t́nh, hoặc hữu kiến dĩ, sanh ư niệm Phật ân trọng tín kính thù thắng tư duy” (Chính là kẻ xuất gia trong pháp của ta, tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu t́nh mà được trông thấy, sẽ sanh khởi tư duy thù thắng nghĩ đến Phật, trân trọng kính tin): Tuy kẻ đó phá giới, nhưng chúng sanh trông thấy hắn, hoàn toàn chẳng nghĩ hắn là kẻ phá giới. Hữu t́nh chỉ thấy từ nơi thân hắn là một vị tỳ-kheo, chỉ thấy một tướng. V́ chúng sanh chỉ thấy quư vị là một tỳ-kheo, liền sanh khởi ư tưởng thù thắng. Do thấy vị tỳ-kheo ấy mà họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Do niệm Phật mà sanh khởi tư tưởng tin kính thù thắng. Họ sẽ nghĩ như thế này: “Vị tỳ-kheo này là đệ tử Phật”. Do đó, sẽ nghĩ tới công đức của Phật.

          “Do thị nhân duyên, chung bất quy tín chư ngoại đạo sư, thư luận, đồ chúng” (Do nhân duyên ấy, họ trọn chẳng quy ngưỡng, tin tưởng các thầy ngoại đạo, sách vở, luận thuyết và đồ chúng của chúng nó): Người ấy do thấy ḥa thượng phá giới, sẽ nghĩ đến Phật, nghĩ đến Pháp. Do v́ nhân duyên này, người ấy quy y Phật, Pháp, Tăng, chẳng quy kính, tin tưởng bọn tà sư ngoại đạo. “Ngoại đạo luận” là sách vở, mà cũng là pháp của ngoại đạo. “Đồ chúng” là tăng chúng ngoại đạo. “Bất quy y ngoại đạo sư, thư luận, đồ chúng, năi chí ư năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành” (chẳng quy các thầy ngoại đạo, sách vở, kinh luận, đồ chúng của họ, cho đến có thể vào ṭa thành đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi), ư nói: Thấy vị tỳ-kheo phá giới ấy, người đó sanh khởi nhân duyên thù thắng, nghĩ đến Phật, nghĩ đến Pháp, thậm chí cung kính vị Tăng ấy. Do nhân duyên ấy, người đó có thể ĺa hết thảy sợ hăi, chứng đắc Niết Bàn, có thể nhập Định, có thể chứng đắc “chẳng sanh diệt”.

 

          (Kinh) Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm thánh giới thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, năng ly sát sanh, ly bất dữ thủ, ly dục tà hạnh, ly hư cuống ngữ, ly ẩm chư tửu, sanh phóng dật xứ, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm bố thí thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, đắc đại tài vị, thân cận, cúng dường chánh chí, chánh hạnh, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành.

          ()或有見已,生念聖戒殊勝思惟;由是因緣,能離殺生,離不與取,離欲邪行,離虛誑語,離飲諸酒生放逸處,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念佈施殊勝思惟;由是因緣,得大財位,親近供養,正至正行,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。

          (Kinh: Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ tới thánh giới. Do nhân duyên ấy, có thể ĺa sát sanh, ĺa chẳng cho mà lấy, ĺa dục tà hạnh, ĺa lời hư dối, chẳng uống các thứ rượu, ĺa khỏi các chỗ sanh khởi phóng dật, cho đến có thể vào trong thành Đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi. Hoặc là có người thấy rồi, sanh tư duy thù thắng nghĩ tới bố thí. Do nhân duyên ấy, đạt được địa vị và của cải to lớn, thân cận, cúng dường bậc chánh chí, chánh hạnh, cho đến có thể vào trong thành Đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi).

 

          Có người trông thấy vị tỳ-kheo ấy, thấy oai nghi của ông ta, nghĩ là ông ta tŕ giới, là người xuất gia, bèn cho rằng “ư niệm xuất gia” rất khó có. Do bởi nhân duyên ấy, v́ cho rằng vị tỳ-kheo đoạn tham, sân, si, chẳng giết, chẳng trộm, chẳng tà dâm, ĺa lời nói hư vọng, ĺa uống rượu, ĺa các thứ rượu v́ chúng là chỗ sanh khởi phóng dật, [cho nên] chẳng uống rượu. Cũng là do thấy một vị tỳ-kheo phá giới mà sanh khởi nhiều cảm giác thù thắng dường ấy! Người ấy có thể v́ trông thấy vị tỳ-kheo phá giới ấy mà gieo thiện căn, cuối cùng thành đạo, chứng nhập Niết Bàn thành. Người ấy thấy một vị tỳ-kheo, liền sanh khởi cảm giác thù thắng, bèn cúng dường vị ấy, sanh ư tưởng bố thí. Do nhân duyên ấy, đạt được của cải và địa vị to tát. Thấy một vị tỳ-kheo mà coi vị ấy như một vị thánh tăng, sẽ sanh khởi ư tưởng thù thắng. Do h́nh tướng của vị ấy, [người đó sẽ] “thân cận cúng dường, chánh chí, chánh hạnh, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành” (thân cận, cúng dường bậc chánh chí, chánh hạnh, cho đến có thể vào trong thành Đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi).

 

          (Kinh) Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, tiện năng viễn ly ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm xuất gia, tinh cần tu hành thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, năng xả gia pháp, thú ư phi gia, dũng mănh, tinh tấn, tu chư thắng hạnh, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm viễn ly chư tán loạn tâm, Tĩnh Lự, đẳng chí thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, tâm nhạo sơn lâm, A Luyện Nhă xứ, trú dạ tinh cần, tu chư Định hạnh, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm trí huệ thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, hân nhạo thính văn, độc, tụng chánh pháp, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm túc thực, xuất ly thiện căn thù thắng tư duy, nhuyễn ngữ úy vấn, năi chí lễ túc. Do thị nhân duyên, đương sanh tôn quư, đại thế lực gia, vô lượng hữu t́nh hàm cộng chiêm ngưỡng, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Thiện nam tử! Ư ngă pháp trung nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi chư hữu t́nh đổ kỳ h́nh tướng, sanh thử thập chủng thù thắng tư duy, đương hoạch vô lượng công đức bảo tụ. Thị cố, nhất thiết Sát-đế-lợi vương, đại thần, tể tướng, quyết định bất hợp dĩ tiên, trượng đẳng, chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng.

          ()或有見已,生念忍辱柔和質直殊勝思惟;由是因緣,便能遠離離間粗惡、雜穢瞋忿,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念出家精勤修行殊勝思惟;由是因緣,能舍家法,趣於非家,勇猛精進,修諸勝行,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念遠離諸散亂心,靜慮等至殊勝思惟;由是因緣,心樂山林阿練若處,晝夜精勤,修諸定行,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念智慧殊勝思惟;由是因緣,欣樂聽聞,讀誦正法,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念宿植出離善根殊勝思惟,軟語慰問,乃至禮足;由是因緣,當生尊貴大勢力家,無量有情咸共瞻仰,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。善男子,於我法中而出家者,雖破戒行,而諸有情睹其形相,生此十種殊勝思惟,當獲無量功德寶聚。是故一切剎帝利王、大臣宰相,決定不合以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命。

          (Kinh: Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ tới nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực. Do nhân duyên ấy, sẽ có thể xa ĺa ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ đến xuất gia, siêng ṛng tu hành. Do nhân duyên ấy, có thể bỏ pháp tại gia, hướng đến không nhà, dũng mănh, tinh tấn, tu các hạnh thù thắng, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ đến xa ĺa các tâm tán loạn, [hướng đến] Tĩnh Lự, đẳng chí. Do nhân duyên ấy, tâm ưa thích núi, rừng, chốn A Luyện Nhă (A Lan Nhă), ngày đêm siêng ṛng tu các Định hạnh, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng nghĩ đến trí huệ. Do nhân duyên ấy, ưa thích lắng nghe, đọc, tụng chánh pháp, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ đến thiện căn xuất ly đă gieo từ trước, dùng lời lẽ mềm mỏng để an ủi, hỏi han, cho đến lễ dưới chân. Do nhân duyên ấy, sẽ sanh trong gia tộc tôn quư, có thế lực lớn, vô lượng hữu t́nh đều cùng chiêm ngưỡng, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Này thiện nam tử! Kẻ xuất gia trong pháp của ta, tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu t́nh trông thấy h́nh tướng người ấy, sẽ sanh khởi mười loại tư duy thù thắng ấy, sẽ đạt được vô lượng khối công đức báu. V́ thế, hết thảy các vua Sát-đế-lợi, đại thần, tể tướng, quyết định chẳng nên dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân kẻ ấy, hoặc giam vào lao ngục, hoặc lại quở mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng kẻ đó).

 

          “Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực thù thắng tư duy” (Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ tới nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực): Đây là Nhẫn Nhục Ba La Mật. “Do thị nhân duyên, tiện năng viễn ly ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn” (Do nhân duyên ấy, liền có thể xa ĺa lời ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn): Ĺa tâm sân hận, ĺa tạp uế. “Tạp uế” (雜穢) là lời thô ác, nhưng chẳng phải là ác khẩu. Do trông thấy h́nh tướng của vị tỳ-kheo phá giới ấy, khiến cho họ có thể tư duy như vậy, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. “Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm xuất gia, tinh cần tu hành thù thắng tư duy” (Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng nghĩ đến xuất gia, siêng ṛng tu hành): Người xuất gia vô dục, vô trước (無着, không vướng mắc), thanh tịnh, tiêu sái[5]. Tỳ-kheo phá giới [bề ngoài] cũng rất tiêu sái. Mọi người thấy thiền sư Đạo Tế thị hiện nghịch hạnh. Tuy là nghịch hạnh, thật ra, Ngài hành Bồ Tát đạo, ai biết Ngài là thánh tăng? Chẳng biết! Thấy Sư uống rượu, vào quán ăn, thậm chí vào nhà thổ để độ người khác. Nghe tôi nói Ngài đến nhà thổ như vậy, chắc là mọi người hoài nghi, [cho rằng] chẳng phải vậy! Tôi nhớ khi tôi xem Tế Công Truyện, lúc ấy tôi cũng sanh khởi ư tưởng thù thắng, Ngài độ người như thế nào?

          Có một hôm, Ngài đến nhà một đệ tử. Ở cửa Tây thành Tô Châu có một vị viên ngoại, tên là Tô Bắc Sơn. Sư đến đó t́m Tô Bắc Sơn, hỏi: “Hôm nay ông bận việc ǵ hay không?” Đệ tử thưa: “Không ạ!” Thiền sư Đạo Tế (道濟) nói: “Không bận ǵ th́ đi với ta đến chỗ này”. Đệ tử hỏi: “Sư phụ đến chỗ nào vậy? Con đi với thầy”. Thiền sư Đạo Tế nói: “Ông mang tiền nhiều một chút!” [Tṛ thưa]: “Sư phụ uống rượu, con cúng dường cho thầy, không sao hết”. Thiền sư Đạo Tế nói: “Hôm nay ta không uống rượu, ta muốn đến chỗ này”. Tṛ hỏi: “Đến chỗ nào ạ?” Thiền sư Đạo Tế nói: “Ta đến phố bán hoa”. “Sư phụ ơi! Thầy đến chỗ đó làm chi?” “Ông đừng lo, cứ đi với ta”. Người đồ đệ ấy lắc đầu, được rồi, đến kỹ viện vậy! Tới nơi, ở đó có một kỹ nữ mới tới, là danh kỹ (名妓, kỹ nữ nổi tiếng). Thiền sư Đạo Tế nói: “Ta muốn kỹ nữ ấy, cô Đổng Xuân Hương”. Đổng Xuân Hương thấy một vị ḥa thượng vừa bẩn thỉu vừa nhếch nhác, bộ dáng rất khó coi! Nhưng viên ngoại th́ nh́n khác hẳn, vừa có chức tước, vừa giàu có. Cô ta đối với viên ngoại hết sức xun xoe. Thiền sư Đạo Tế nói: “Cô đến đây, hắn chẳng thể cứu cô, cứu cô vẫn phải cậy vào ta”. Cô ta hỏi: “Đại sư muốn làm ǵ?” Thiền sư Đạo Tế nói: “Cô lại đây ta nói cho cô nghe. Nhàn rỗi vô sự lại thoải mái, ḥa thượng cũng muốn vui thú một chút. Kêu Xuân Hương một tiếng th́ cô qua đây, qua chỗ ta nè, đừng có tới chỗ hắn”. Đổng Xuân Hương liền hỏi: “Sư phụ! Thầy muốn làm ǵ?” Thiền sư Đạo Tế nói: “Mau mau cởi giải thắt lưng ra!” Xuân Hương sững sờ! Thiền sư Đạo Tế lại nói: “Tặng cho bần tăng cột giày rách. Giày cỏ của ta đă hỏng rồi, cô cho ta chiếc đai để cột giày, chứ chẳng có ư chi khác!” Thiền sư Đạo Tế muốn làm ǵ? Cô Đổng Xuân Hương bị kẻ khác hăm hại, bán vào kỹ viện. Thiền sư Đạo Tế v́ độ cô ta mới đến đó, bảo Tô Bắc Sơn đem tiền chuộc cô ta ra, đưa cô về nhà. Cô gái ấy không biết, mẹ cô ta và nàng ta đă không c̣n liên lạc với nhau. Thiền sư Đạo Tế có thần thông, bèn bảo nàng t́m quản gia của Tô Bắc Sơn đưa cho mẹ cô ta một ít tiền. Thiền sư Đạo Tế đến cứu người!

          Lại c̣n có một vị lăo ḥa thượng cũng giống như thế. Sư thâu nhận một đứa trẻ bốn, năm tuổi, dẫn nó vào sống trong núi. Ở trong núi, đứa bé ấy ngoại trừ trông thấy cây cối, núi non, suối, khe, lại thấy dă thú hay cọp, thứ ǵ khác cũng chẳng thấy. Chờ đến khi đứa trẻ ấy mười tám tuổi trưởng thành, sư phụ dẫn nó xuống dạo phố phường. Úi chao! Đứa nhỏ thấy chói ḷa cả mắt, tiếp nhận không xuể! Cuối cùng, tới một kỹ viện, các cô nương tô son trát phấn, sư phụ dẫn nó đi xem các kỹ nữ ấy một phen. Đồ đệ hỏi: “Sư phụ! Đó là ǵ vậy?” Sư phụ đáp: “Cọp!” Trên núi, cọp toàn ăn thịt người! Sau khi trở về núi, sư phụ hỏi nó: “Hôm nay con thấy thứ ǵ hay nhất?” Nó thưa: “Thứ ǵ cũng chẳng hay, cọp là hay nhất”.

          Đó gọi là Hoặc. “Hoặc” () là mê hoặc, cũng là cái nghiệp mang đến từ thuở lọt ḷng. Tham dục khó đoạn, mỗi người chúng ta hăy tự chứng nghiệm chính ḿnh! Tỳ-kheo phá giới cũng có thể khiến cho quư vị đoạn tham dục, v́ quư vị chỉ nh́n từ hiện tượng. Các vị thánh nhân, các vị A La Hán thị hiện nghịch hạnh, như thiền sư Đạo Tế ra vào tửu quán, trà đ́nh. Mỗi ngày, Sư làm như vậy, quư vị thấy Sư cũng chẳng tu hành, cũng chẳng làm chi hết, cầm bầu uống rượu, trong bọc c̣n giắt thịt chó. Thiền sư Đạo Tế có thể kéo các súc gỗ từ cái giếng trong chùa Tịnh Từ lên, quư vị có thể kéo nổi hay không? [Ngài làm như thế] để sửa chùa Tịnh Từ. Hiện thời, nếu quư vị đến Hàng Châu ở Đại Lục, đến chùa Tịnh Từ[6] nh́n xem, trong giếng c̣n có một súc gỗ gác trong đó. Cuối cùng [nhà chùa nói] “đủ rồi”, Ngài không kéo nữa, bỏ luôn súc gỗ ấy tại đó!

          Quư vị có tin hay không? Có thật đấy! Thiền sư Đạo Tế xác thực là sự thật. Nhưng có những chuyện chẳng phải là sự thật, mà do tiểu thuyết đặt ra. Ngài xuất gia, khùng khùng điên điên, quư vị nghĩ Ngài là ḥa thượng phá giới. Thật ra, Ngài ngầm hành Bồ Tát hạnh, quư vị hoàn toàn chẳng biết. Do vậy, quư vị chỉ nên cung kính Tam Bảo, đừng nên so đo vị ấy phạm giới chi đó, [chuyện đó] đối với quư vị chẳng liên quan chi hết, người thọ báo là vị ấy. Hăy coi vị ấy là thánh tăng, coi hết thảy chúng sanh đều là Phật, coi như Bồ Tát. Câu chuyện về Tô Đông Pha và thiền sư Phật Ấn[7] cũng là như vậy. Quư vị dùng Phật Tánh, sẽ thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật. Nhưng người nh́n được như thế rất ít, khi quán tưởng, vẫn chẳng thể quán được như vậy.

 

          (Kinh) Phục thứ Đại Phạm! Nhược hữu y ngă nhi xuất gia giả, phạm giới, ác hạnh, nội hoài hủ bại, như uế oa loa, thật phi sa-môn, tự xưng sa-môn, thật phi phạm hạnh, tự xưng phạm hạnh, hằng vị chủng chủng phiền năo sở thắng, bại hoại khuynh phúc. Như thị bật-sô, tuy phá cấm giới, hành chư ác hạnh, nhi vị nhất thiết thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân đẳng tác thiện tri thức, thị đạo vô lượng công đức phục tạng. Như thị bật-sô, tuy phi pháp khí, nhi thế tu phát, bị phục ca-sa, tấn chỉ oai nghi, đồng chư hiền thánh. Nhân kiến bỉ cố, vô lượng hữu t́nh chủng chủng thiện căn, giai đắc sanh trưởng, hựu năng khai thị vô lượng hữu t́nh thiện thú, sanh thiên, Niết Bàn chánh lộ.

          ()復次大梵,若有依我而出家者,犯戒惡行,內懷腐敗如穢蝸螺,實非沙門自稱沙門,實非梵行自稱梵行,恆為種種煩惱所勝敗壞傾覆。如是苾芻,雖破禁戒行諸惡行,而為一切天、龍、藥叉、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽,人非人等,作善知識,示導無量功德伏藏。如是苾芻,雖非法器,而剃鬚發,被服袈裟,進止威儀同諸賢聖;因見彼故,無量有情種種善根皆得生長,又能開示無量有情善趣、生天、涅槃正路。

          (Kinh: Lại này Đại Phạm! Nếu có kẻ nương theo ta xuất gia mà phạm giới, ác hạnh, trong tâm thối nát, như con ốc sên bẩn thỉu, thật chẳng phải là sa-môn, tự xưng là sa-môn, thật chẳng phải là phạm hạnh, tự xưng là phạm hạnh, luôn bị các thứ phiền năo khống chế, bại hoại, khuynh đảo. Bật-sô như thế tuy phá giới cấm, làm các hạnh ác, nhưng là thiện tri thức cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược (Càm Thát Bà), A Tố Lạc (A Tu La), Yết Lộ Đồ (Ca Lâu La), Khẩn Nại Lạc (Khẩn Na La), Mạc Hô Lạc Già (Ma Hầu La Già), nhân phi nhân v.v… chỉ dạy vô lượng kho tàng công đức. Bật-sô như thế tuy chẳng phải là pháp khí, nhưng cạo râu tóc, khoác đắp ca-sa, oai nghi lui tới giống như bậc hiền thánh. Do v́ thấy người đó, các thứ thiện căn của vô lượng hữu t́nh đều được sanh trưởng, lại c̣n có thể khai thị cho vô lượng hữu t́nh con đường chánh đáng để tiến đến đường lành, sanh lên trời, chứng đắc Niết Bàn).

 

          Nếu có những kẻ nương theo ta xuất gia, phạm giới, ác hạnh, phạm ǵ vậy? Giống như con ốc sên, tuy họ tạo những nghiệp như vậy, quư vị cũng chớ nên coi thường họ. Họ có thể chỉ dạy kho báu vô lượng công đức. Những vị tỳ-kheo ấy tuy không phải là pháp khí, chẳng phải là một dụng cụ rất tốt để chứa đựng pháp. Một cái bát tốt đẹp sẽ chứa đựng thức ăn, đựng thức ăn tốt nhất. Hết thảy người xuất gia hoặc tứ chúng đệ tử, đều là dụng cụ chứa đựng pháp, đều chứa đựng hết thảy các pháp do đức Phật đă dạy. Tuy những kẻ [được nói trong đoạn chánh kinh trên đây] chẳng phải là pháp khí rất tốt, nhưng họ cạo bỏ râu tóc, khoác ca-sa, cử chỉ oai nghi vẫn giống như bậc hiền thánh, “đồng chư hiền thánh”. V́ hết thảy vô lượng hữu t́nh trông thấy họ, sẽ có thể sanh trưởng thiện nghiệp. Huống hồ những kẻ xuất gia được mấy bữa, tệ lắm th́ cũng biết nói mấy câu Phật pháp. Lại c̣n có thể khai thị vô lượng hữu t́nh, “thiện thú, sanh thiên, Niết Bàn chánh lộ” (con đường chánh đáng để hướng đến đường lành, sanh lên trời, chứng đắc Niết Bàn). Tuy bản thân họ chẳng tu hành, nhưng họ nói với quư vị làm thế nào để tín ngưỡng Tam Bảo, tu hành như thế nào, cung kính như thế nào, bố thí như thế nào? Do vậy, mọi người đối với ngoại đạo, đối với tà sư, chẳng sanh ra cảm giác sợ hăi. Nếu quư vị sợ hăi, hăy đối trước Phật, Bồ Tát, đối trước kinh sách lễ bái là được rồi, sẽ có thể tránh khỏi tà vạy. Chỉ cần quư vị tâm chánh, có chánh tri, chánh kiến, tà kiến sẽ chẳng thể xâm nhập!

 

          (Kinh) Thị cố y ngă nhi xuất gia giả, nhược tŕ giới, nhược phá giới, hạ chí vô giới, ngă thượng bất hứa Chuyển Luân thánh vương, cập dư quốc vương, chư đại thần đẳng, y tục chánh pháp, dĩ tiên, trượng đẳng, chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng, huống y phi pháp! Đại Phạm! Như thị phá giới ác hạnh bật-sô, tuy ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, danh vi tử thi, nhi hữu xuất gia giới đức dư thế, thí như ngưu, xạ, thân mạng chung hậu, tuy thị vô thức bàng sanh tử thi, nhi ngưu hữu hoàng, nhi xạ hữu hương, năng vi vô lượng vô biên hữu t́nh tác đại nhiêu ích. Phá giới bật-sô diệc phục như thị, tuy ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung danh vi tử thi, nhi hữu xuất gia giới đức dư thế, năng vị vô lượng vô biên hữu t́nh tác đại nhiêu ích.

          ()是故依我而出家者,若持戒,若破戒,下至無戒,我尚不許轉輪聖王,及餘國王、諸大臣等,依俗正法,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,況依非法大梵,如是破戒惡行苾芻,雖於我法毗奈耶中名為死尸,而有出家戒德餘勢。譬如牛麝身命終後,雖是無識傍生死尸,而牛有黃,而麝有香,能為無量無邊有情作大饒益;破戒苾芻亦復如是,雖於我法毗奈耶中名為死尸,而有出家戒德餘勢,能為無量無邊有情作大饒益。

          (Kinh: V́ thế, kẻ nương theo ta xuất gia, dù tŕ giới, hay phá giới, thậm chí chẳng có giới, ta c̣n chẳng chấp thuận Chuyển Luân thánh vương và các quốc vương khác, các đại thần v.v… nương theo chánh pháp của thế tục, dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng họ, huống hồ là kẻ vâng theo phi pháp! Này Đại Phạm! Bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, tuy gọi là “xác chết” trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta, nhưng c̣n sót lại thế lực giới đức của hàng xuất gia, ví như ḅ và hươu xạ, sau khi thân mạng chết đi, tuy là xác chết của loài bàng sanh không c̣n hay biết ǵ, nhưng ḅ th́ có ngưu hoàng, hươu xạ th́ có xạ hương, có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu t́nh. Bật-sô phá giới cũng giống như thế, tuy được gọi là “xác chết” trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta, do có thế lực giới đức c̣n sót lại của bậc xuất gia, bèn có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu t́nh).

 

          Do duyên cớ này, phàm là kẻ nương theo ta xuất gia, bất luận là tŕ giới hay phá giới, thậm chí kẻ chẳng có giới ǵ, ta đều chẳng chấp thuận Chuyển Luân thánh vương và các hàng quốc vương khác, các đại thần v.v… “y tục chánh pháp” tức là dùng pháp luật thế gian để đánh đập, tra khảo, cho đến dùng roi, gậy quất họ. “Hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng, huống y phi pháp” (Hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng họ, huống hồ nương theo phi pháp): Phi pháp lại càng chẳng được, càng phạm tội! “Đại Phạm! Như thị phá giới ác hạnh bật-sô, tuy ư ngă pháp Tỳ Nại Da, danh vi tử thi” (Này Đại Phạm! Bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, tuy trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta, được gọi là “xác chết”): Trong Phật giáo chúng ta, nếu phá bốn căn bản giới, “giết, trộm, dâm, dối” là bốn căn bản giới, phá bốn căn bản giới th́ gọi là “tử thi” (xác chết). Giới tỳ-kheo có bảy tụ pháp. Trong tự điển, danh xưng của bảy tụ không phiên dịch, nhưng từ nội dung có thể biết được đôi chút. Bảy tụ pháp gọi bốn giới căn bản là Tứ Ba La Di Pháp, tức là Khí Tội (棄罪, tội khiến cho người phạm phải, sẽ đáng bị vứt bỏ ra ngoài Tăng đoàn), đáng bị đuổi ra ngoài biển cả của Phật, trục xuất khỏi Phật giáo, th́ gọi là Ba La Di pháp (Pārājikuddeso). Trong giới tỳ-kheo. Tội này chẳng cho phép sám hối.

          Tuân theo pháp Đại Thừa, như chúng ta lạy Địa Tạng Sám, hoặc lạy Đại Bi Sám, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Sám, vẫn có thể sám hối, nhưng sau khi sám hối, ắt cần phải thấy hảo tướng. Quư vị bái sám thấy Địa Tạng Bồ Tát, bái Quán Âm Sám, hay bái Đại Bi Sám mà thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, tội của quư vị sẽ thanh tịnh. Nhưng trong giới luật, giới tỳ-kheo chẳng thể sám hối [bằng cách tự lạy sám pháp, cầu hảo tướng]. Khi muốn sám hối, vẫn phải đối trước đại chúng tăng, [phải được] hai mươi vị Tăng thanh tịnh bảo quư vị: “Ông đă sám hối xong”. [Sau đó], tự ḿnh ở một ḿnh, một ḿnh khấu đầu đảnh lễ, vâng theo lời đức Phật dạy. Đây cũng là nói theo giới pháp, chuyên nói về tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Loại thứ hai là pháp Tăng Tàn. Tăng Tàn (僧殘, Saṃghāvaśeṣa) có nghĩa là hăy c̣n một hơi thở, vẫn chưa chết. Đối với vấn đề xử lư, tôi chỉ nói danh từ mà thôi, mọi người biết là được rồi!

          Thất Tụ Tịnh Giới chuyên nói về tỳ-kheo. Người ấy chẳng hoàn toàn phạm toàn bộ các giới đó, chỉ cần phạm vào bốn căn bản th́ Luật Tông đă gọi kẻ đó là “tử thi”. “Tử thi” nghĩa là giống như xác chết vậy, cũng có nghĩa là đă phạm Khí Tội. “Hữu xuất gia giới đức dư thế” (Có thế lực sót lại của giới đức xuất gia): Tuy phá giới, nhưng thuở đầu khi kẻ đó xuất gia, vẫn giữ giới thanh tịnh. Thế lực của việc tŕ giới thanh tịnh ấy vẫn chưa hoàn toàn mất sạch. Thế lực ấy giống như ḅ có Ngưu Hoàng. Nếu ḅ ăn cỏ linh chi, dạ dày của nó tiêu hóa chẳng được, giống như bị ung thư, mọc lên một cái bướu. Trong cái bướu ấy chứa đựng ǵ vậy? Đó gọi là Ngưu Hoàng (牛黃). Nếu ngựa ăn cỏ linh chi, sẽ gọi là Mă Bảo (馬寶). Nếu chó ăn cỏ linh chi th́ gọi là Cẩu Bảo (狗寶), những thứ ấy đều gọi là Bảo.

          Cái được gọi là Bảo () ấy có công năng ǵ? Giải trừ bệnh khổ. Ngưu Hoàng chữa các chứng bệnh bất trị. Cắt một chút Ngưu Hoàng làm thuốc, cho quư vị uống để trừ bệnh. Xạ () là xạ hương (麝香), sau khi con hươu xạ (musk deer) chết đi, tuy đă xả mạng rồi, đă chết, xạ hương vẫn có giá, vẫn là của báu. Tuy ḅ đă chết, Ngưu Hoàng vẫn là của báu, trọn chẳng phải là con ḅ nào cũng đều có. Nhưng loại hươu có xạ hương khi sắp chết, liền ph́nh to bụng, cọ sát trên mặt đất cho vỡ ra, khiến cho xạ hương chảy mất, khiến cho thợ săn có muốn lấy, cũng chẳng lấy được!

          Nai có lộc nhung (鹿茸). Nếu quư vị săn nó, làm nó bị thương, hoặc giết chết nó, thợ săn phải ôm lấy đầu nó trước. Nếu không, nó sẽ húc đầu vào cây cối. Lộc nhung là máu, nếu máu chảy mất, sẽ chẳng c̣n có tác dụng nữa. Người ta săn nai là v́ nó có nhung. Săn hươu là v́ nó có xạ hương. Ngưu Hoàng th́ không nhất định, có đôi khi con ḅ bị bệnh chết, thầy thuốc phán đoán, nói con ḅ đă chết rồi. Tuy nó có Ngưu Hoàng, nhưng chủ nhân hoàn toàn không biết, đem chôn nó, hoặc xẻ thịt để ăn, sai mất rồi! Chuyện này cần phải có bác sĩ thú y kết luận.

          Sau khi thân mạng kết thúc, tuy là xác chết của loài bàng sanh chẳng có tri giác ǵ, tuy nó là súc sanh, chẳng có tri giác, chẳng có tri thức, nhưng xác chết của con thú ấy như ḅ có Ngưu Hoàng, hươu xạ có xạ hương, có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu t́nh, dùng để làm thuốc, có thể chữa trị rất nhiều bệnh tật cho con người. Bật-sô phá giới cũng giống như thế, tuy trong Tỳ Nại Da của Phật pháp được gọi là “tử thi”, nhưng do thế lực của giới đức c̣n sót lại, có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng vô biên hữu t́nh.

 

          (Kinh) Đại Phạm! Thí như cổ khách, nhập ư đại hải, sát bỉ nhất loại vô lượng chúng sanh, khiêu thủ kỳ mục, dữ Mạt Đạt Na quả, ḥa hợp đảo sai, thành nhăn bảo dược. Nhược chư hữu t́nh manh minh, vô mục, năi chí bào thai nhi sanh manh giả, tŕ thử bảo dược, đồ bỉ nhăn trung, sở hoạn giai trừ, đắc minh tịnh mục. Phá giới bật-sô diệc phục như thị, tuy ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, danh vi tử thi, nhi hữu xuất gia oai nghi h́nh tướng, năng linh vô lượng, vô biên hữu t́nh tạm đắc kiến giả, thượng hoạch thanh tịnh trí huệ pháp nhăn, huống năng vị tha tuyên thuyết chánh pháp!

          ()大梵,譬如賈客入於大海,殺彼一類無量眾生,挑取其目,與末達那果和合搗簁,成眼寶藥,若諸有情盲冥無目,乃至胞胎而生盲者,持此寶藥塗彼眼中,所患皆除,得明淨目;破戒苾芻亦復如是,雖於我法毗奈耶中名為死尸,而有出家威儀形相,能令無量無邊有情暫得見者,尚獲清淨智慧法眼,況能為他宣說正法!

          (Kinh: Này Đại Phạm! Ví như khách buôn vào trong biển cả, giết vô lượng chúng sanh thuộc một loại, khoét lấy mắt chúng, ḥa hợp với quả Mạt Đạt Na[8], nghiền trộn, tạo thành loại thuốc báu cho mắt. Nếu các hữu t́nh đui mù, không mắt, cho đến kẻ mù từ lúc c̣n trong bào thai, đem loại thuốc báu này bôi vào mắt, các bệnh tật đều trừ, được mắt sáng sạch. Bật-sô phá giới cũng giống như thế, tuy bị gọi là “xác chết” nơi Tỳ Nại Da trong pháp của ta, nhưng có h́nh tướng và oai nghi của bậc xuất gia, có thể khiến cho vô lượng, vô biên hữu t́nh tạm được trông thấy, c̣n có thể đạt được pháp nhăn trí huệ thanh tịnh, huống hồ có thể v́ họ tuyên nói chánh pháp).

 

          Trong biển có một loại chúng sanh là loài cá, gă lái buôn ấy đă giết loài chúng sanh ấy để lấy mắt của chúng. Mạt Đạt Na quả, c̣n gọi là Túy Nhân Quả, nhưng có chất độc. Dùng mắt loại cá ấy, tức là dùng tṛng mắt, nghiền chung với loại quả ấy, chế thành thuốc trị bệnh mắt. Có các chúng sanh mù đui, hoặc không có mắt, bị mù từ bé, đều dùng [loại thuốc ấy] được. Thậm chí kẻ sanh manh, tức là từ lúc lọt ḷng đă là người mù, đem thuốc báu ấy bôi cho, kẻ đó sẽ thấy được, tṛng mắt liền khôi phục.

          Tỳ-kheo phá giới cũng giống như vậy. Tuy rằng ở trong pháp Tỳ Nại Da của ta bị gọi là “tử thi”, nhưng kẻ đó có oai nghi và h́nh tướng xuất gia, có thể khiến cho vô lượng, vô biên hữu t́nh, dẫu chỉ tạm thời thấy kẻ đó trong chốc lát, sẽ đều có thể đạt được pháp nhăn trí huệ thanh tịnh! Đấy là quư vị gieo thiện căn. Nếu chẳng có nhân duyên ấy, ngay cả h́nh tướng của tỳ-kheo phá giới cũng chẳng trông thấy, mà cũng chẳng trông thấy người khoác áo ca-sa. Thậm chí công đức do trông thấy như vậy đều là chẳng thể nghĩ bàn. Thật đấy! Tại Đại Lục, trong khoảng thời gian từ 1950 cho đến 1980, quư vị muốn thấy một vị tăng sĩ mặc quần áo xuất gia, sẽ hoàn toàn chẳng thấy!

          Tôi nhớ pháp sư Đại Quang là người viết bộ Ảnh Trần Hồi Ức Lục, có kể với tôi: “Tôi đến Thượng Hải liền tác quái”. Tôi hỏi: “Thầy tác quái ǵ vậy?” Thầy ấy kể: “Tôi mặc áo hậu (áo hải thanh) màu vàng, đắp y ca-sa đỏ, trong tay cầm tích trượng, cũng là tích trượng của Địa Tạng Bồ Tát, đi đến đường Nam Kinh ở bến ngoài của Thượng Hải. Tới đó bèn đi ḷng ṿng. Người ở đó xúm đen xúm đỏ vây quanh. Ai nấy đều nói đây là quái vật, chẳng biết là thứ ǵ?” Thế là cảnh sát ùa tới, lôi thầy ấy đi. Vừa thấy thầy ấy là Hoa Kiều từ Hương Cảng sang, họ liền lập tức trục xuất. Khi đó, nếu có ai mặc y phục ḥa thượng th́ là phạm pháp. Như vậy mà đă là phạm pháp, huống hồ c̣n v́ người khác tuyên nói chánh pháp ư? Vị tỳ-kheo phá giới này c̣n có thể thuyết pháp th́ càng tuyệt diệu thay!

 

          (Kinh) Đại Phạm! Thí như thiêu hương, kỳ chất tuy hoại, nhi khí phân phức, huân tha linh hương. Phá giới bật-sô diệc phục như thị. Do phá giới cố, phi lương phước điền, tuy hằng trú dạ tín thí sở thiêu, thân hoại, mạng chung, đọa tam ác thú, nhi vị vô lượng vô biên hữu t́nh tác đại nhiêu ích, vị giai linh đắc văn ư sanh thiên, Niết Bàn hương khí.

          ()大梵,譬如燒香,其質雖壞,而氣芬馥,熏他令香;破戒苾芻亦復如是,由破戒故非良福田,雖恆晝夜信施所燒,身壞命終墮三惡趣,而為無量無邊有情作大饒益,謂皆令得聞於生天涅槃香氣。

          (Kinh: Này Đại Phạm! Ví như đốt hương, chất liệu tuy xấu, nhưng mùi thơm ngát, xông những thứ khác khiến cho chúng cũng thơm tho. Bật-sô phá giới cũng giống như thế, do v́ phá giới, chẳng phải là ruộng phước tốt lành, tuy ngày đêm luôn bị tín thí thiêu đốt, thân hoại, mạng chung, sẽ đọa vào ba đường ác, nhưng tạo lợi ích to lớn cho vô lượng vô biên hữu t́nh, tức là đều khiến cho họ được ngửi mùi thơm sanh thiên và Niết Bàn).

 

          Hương đốt tuy chất liệu xấu, nhưng mùi hương vẫn thơm tho, người bị nhuốm mùi hương cũng có mùi thơm. Tỳ-kheo phá giới cũng giống như vậy. Do v́ ông ta phá giới, chẳng phải là ruộng phước tốt lành, nhưng ngày đêm luôn bị thiêu đốt bởi sự cúng dường của tín thí, khi thân hoại, mạng chung, sẽ đọa vào ba ác đạo. Bản thân ông ta do tiếp nhận sự cúng dường của tín thí, sau khi chết, sẽ đọa vào ba ác đạo, đọa vào địa ngục, rơi xuống ba ác đạo, nhưng [lúc c̣n sống] vẫn có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu t́nh. Nói cách khác, bản thân ông ta phá giới, [do quả báo phá giới] vẫn phải thọ báo, nhưng ông ta có thể làm chuyện tốt cho hết thảy hữu t́nh. Về phần hết thảy hữu t́nh, vẫn có thể được nghe mùi hương sanh thiên và Niết Bàn. Trên thân ông ta có mùi hương, tức là hăy c̣n mùi hương do trước kia ông ta đă từng thọ giới, giữ giới thanh tịnh.

 

          (Kinh) “Thị cố Đại Phạm! Như thị phá giới, ác hạnh bật-sô, nhất thiết bạch y giai ưng thủ hộ, cung kính cúng dường. Ngă chung bất hứa chư tại gia giả, dĩ tiên, trượng đẳng chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng. Ngă duy hứa bỉ thanh tịnh Tăng chúng, ư bố-tát thời, hoặc tự tứ thời, khu tẫn linh xuất, nhất thiết cấp thí tứ phương Tăng vật, ẩm thực, tư cụ, bất thính thọ dụng, nhất thiết sa-môn Tỳ Nại Da sự, giai linh khu xuất, bất đắc tại chúng, nhi ngă bất hứa gia kỳ tiên, trượng, hệ phược, đoạn mạng”. Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: “Chiêm Bác Ca hoa tuy ủy tụy, nhi thượng thắng bỉ chư dư hoa. Phá giới ác hạnh chư bật-sô, do thắng nhất thiết ngoại đạo chúng”.

          ()是故大梵,如是破戒惡行苾芻,一切白衣皆應守護、恭敬、供養。我終不許諸在家者,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命!我唯許彼清淨僧眾,於布薩時或自恣時,驅擯令出;一切給施四方僧物、飲食、資具,不聽受用;一切沙門毗奈耶事,皆令驅出,不得在眾,而我不許加其鞭杖、繫縛斷命。爾時,世尊而說頌曰:瞻博迦華雖萎悴,而尚勝彼諸餘華;破戒惡行諸苾芻,猶勝一切外道眾。

          (Kinh: “V́ thế, Đại Phạm! Bật-sô phá giới, ác hạnh như thế, hết thảy kẻ bạch y đều nên thủ hộ, cung kính, cúng dường. Ta trọn chẳng chấp thuận các kẻ tại gia dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân thể ông ta, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc giết chết. Ta chỉ cho phép Tăng chúng thanh tịnh vào lúc bố-tát, hoặc lúc tự tứ, xua đuổi [ông ta] ra khỏi Tăng đoàn, chẳng cho phép ông ta thọ dụng hết thảy những vật dụng, thức ăn, đồ dùng cúng thí cho tứ phương Tăng. Đối với hết thảy những chuyện thuộc về Tỳ Nại Da của sa-môn, [ông ta] đều bị đuổi ra [không cho tham dự], chẳng được ở trong chúng, nhưng ta chẳng chấp thuận đối xử với ông ta bằng roi, gậy, trói buộc, hay hại mạng”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng: “Hoa Chiêm Bác Ca tuy tàn héo, vẫn c̣n hơn các loài hoa khác. Các bật-sô phá giới ác hạnh, vẫn hơn hết thảy kẻ ngoại đạo”).

         

          Cứ để ông ta hoành hành như vậy th́ không được. Tăng chúng sẽ cử hành bố-tát để xử phạt ông ta. Cái được gọi là “bố-tát” (Upoṣadha, Upavasatha) chính là người xuất gia vào ngày mùng Một và Rằm, tức mỗi nửa tháng phải thuyết giới một lần. Bố tát chính là thuyết giới. Quư vị treo biển thông báo ở chùa miếu, có khi đề là “bố-tát”, có khi viết là “tụng giới”, tức là lấy giới bổn ra đọc một lượt. Sau đó, gọi ông ta ra, đuổi ông ta ra ngoài Tăng đoàn. Phàm có ai cúng dường Tăng chúng, ḥa hợp Tăng được hưởng dụng thức ăn, những vật dụng cần dùng cho cuộc sống, y, đơn[9], ông ta sẽ vĩnh viễn chẳng có phần. Nếu mọi người vào lúc tụng giới mỗi nửa tháng, cũng chẳng cho phép ông ta đến đó. Phàm là khi tác pháp Yết Ma, chỉ cần là làm những chuyện thuộc về Luật, sẽ đuổi ông ta ra, chẳng được phép ở trong đại chúng, nhưng đức Phật không cho phép dùng roi, gậy, trói buộc, hoặc đoạn mạng ông ta.

          Tuy là phá giới, giống như hoa Chiêm Bác Ca (Campaka, hoa Chiêm Bặc, Kim Sắc Hoa) ở Ấn Độ bị héo úa, mùi thơm phai nhạt, vẫn hơn hẳn các loại hoa khác. Tuy là tỳ-kheo phá giới, ác tánh, so ra vẫn tốt hơn hết thảy bè lũ ngoại đạo, hết thảy kẻ ác. Điều này có nghĩa là chẳng cho phép người tại gia hủy báng tỳ-kheo. Trước kia, tôi đă thưa với các đạo hữu: “Dẫu tỳ-kheo tồi tệ đến mấy, quư vị cũng đừng nên nói lỗi của tứ chúng!” Có các vị đại đức, các vị ḥa thượng, cá nhân họ như thế nào, quư vị chẳng cần quản! Đặc biệt là kẻ bạch y (hàng tại gia), quư vị đừng nên b́nh luận. Người xuất gia có thể nói lỗi của người xuất gia hay không? Một người cũng chẳng thể nói, phải thỉnh đại chúng trục xuất kẻ ấy, cho đến chế định hắn, tùy thuộc kẻ ấy phạm pháp nào trong Thất Pháp Tụ, đáng là tội ǵ, đáng xử phạt như thế nào, bèn xử phạt như thế ấy! Nhưng chuyện của Tăng chúng, quư vị là đạo hữu tại gia, hăy coi họ như đệ tử Phật, coi như Tăng Bảo, coi hết thảy các tỳ-kheo đều là thánh tăng. Trong tâm quư vị, họ là thánh tăng, công đức của quư vị chẳng bị mất đi tí nào! Chẳng v́ kẻ đó phá giới mà ảnh hưởng tới quư vị! Đức Phật đă dạy rất rơ ràng. Do vậy, mọi người ngàn vạn lần đừng nói lỗi của Tam Bảo. Nếu quư vị khinh rẻ Tăng nhân, hủy báng, đánh chửi, chặt chân tay, quư vị đáng bị quả báo ǵ, trong phần sau sẽ nói.

          Xin các đạo hữu chú ư điểm này: Chuyện này chỉ có thể nói với đệ tử Phật. Kẻ chẳng tin Phật, đương nhiên là họ chẳng tin! Ngay cả vị tỳ-kheo tốt lành, họ c̣n chẳng thể tin, đâu cần biết quư vị là tỳ-kheo loại nào! Dẫu sao họ chẳng tin quư vị. Giống như xưa kia ở Hương Cảng, nếu sáng sớm mà trông thấy một vị xuất gia cạo đầu, người Quảng Đông sẽ chửi bới, nói họ sẽ bị xui xẻo, hôm nay khỏi cần buôn bán nữa! “Ḥa thượng! Mới sáng sớm ngươi đừng ṃ ra đường!” Hiện thời đă tốt hơn, v́ ḥa thượng nhiều. Hiện thời làm Phật sự cũng rất nhiều, dần dần họ đă biết. Nếu họ không biết, quư vị cũng chẳng có cách nào hết!

          Phần kinh văn kế tiếp rất dài, đều dạy phải tôn kính tỳ-kheo. Đây hoàn toàn chẳng phải là đức Phật bao che khuyết điểm. Hoàn toàn chẳng có nghĩa là đệ tử Phật tệ bại như thế nào đi nữa, quư vị đều phải cung kính, dẫu hư hỏng cỡ nào vẫn phải cung kính! Chẳng phải là ư nghĩa ấy. V́ đức Phật thấy rất xa, Ngài có thể thấy vô lượng kiếp trong quá khứ của chúng ta, và cũng thấy vô lượng kiếp trong tương lai. Ngài thấy rất nhiều kẻ v́ hủy báng Tam Bảo mà đọa lạc trong tam đồ, do cung kính Tam Bảo mà được vô biên hạnh phúc. Những vị tỳ-kheo chúng ta coi là tốt đẹp, đương nhiên là cung kính. Đối với các vị tỳ-kheo phá giới hư hỏng, chớ nên hủy báng họ, chớ nên tiến hành xử lư họ.

          Trong phần trước đă có nói, nếu thấy có các tỳ-kheo, trong tâm liền ưa thích thoát khỏi trần thế, muốn tu tập thanh tĩnh trong chốn núi rừng. Vị tỳ-kheo trụ nơi thanh tịnh, tu Định hạnh, nếu gặp gỡ, quư vị có thể sanh trưởng trí huệ. Quư vị giải thích ư nghĩa ấy như thế nào? V́ sao thấy họ sẽ có thể sanh trưởng trí huệ? Thấy họ sẽ có thể đắc Định? Mọi người mỗi ngày gặp tôi, có sanh Định hay không? Có sanh trí huệ hay không? Đấy chẳng phải là chuyện trong chốc lát. Quư vị thấy người đó, nếu sanh khởi tâm cung kính đối với Tam Bảo, sẽ có thể dần dần tăng trưởng thiện căn đă gieo trước kia trong đời quá khứ. V́ chúng ta gieo trồng thóc lúa, hoa mầu trên đất, được đất và nước vun tưới, giống như chúng ta thấy Tăng Bảo, thấy Pháp Bảo, thấy Phật Bảo, sẽ vun quén [thiện căn] của quư vị một lượt, lại phát triển một lần. Gieo trồng như vậy, lâu ngày, thiện căn tăng trưởng; lâu ngày, quư vị sẽ tự nhiên thành tựu. Từ học Phật cho đến thành đạo, chẳng phải vừa tiếp xúc liền thành, mà là do từ vô lượng kiếp tới nay. Làm ác, tạo tội, chẳng phải là lập tức tạo thành, mà là tích lũy từ nhiều đời, vô lượng kiếp. Nay quư vị muốn tiêu trừ cái tội trong vô lượng kiếp, phải trải qua thời gian tôi luyện rất lâu!

          Do vậy, đọc đoạn kinh văn này, sẽ thấu hiểu v́ sao đối với tỳ-kheo phá giới, cho đến tỳ-kheo chẳng có phạm hạnh, chúng ta vẫn phải cung kính họ? Đấy là như chúng ta thường nói: “Chẳng nh́n mặt Tăng, cũng phải nh́n mặt Phật”, có ư nghĩa như vậy đó. Chúng ta thấy họ là đệ tử Phật, [tôn kính họ là] v́ chúng ta tôn kính Tam Bảo, tôn kính Phật, có hàm nghĩa như vậy. Nếu quư vị cho rằng: “Rơ ràng biết gă đó rất xấu. Chúng ta thấy hắn khoác một mảnh ca-sa vẫn rất cung kính hắn, chẳng hợp lư cho lắm!” Chẳng phải là ư nghĩa ấy, hoàn toàn chẳng phải là coi trọng cá nhân ấy! Kẻ đó đă là đệ tử Phật, trong khi hắn chưa có pháp phục, chưa xuống tóc, nếu hắn phạm giới, Tăng đoàn sẽ khai trừ hắn. Kẻ đó chẳng có pháp phục; khi ấy, hắn chẳng phải là đệ tử Phật. Chỉ cần kẻ đó vẫn c̣n khoác ca-sa, sẽ c̣n thuộc trong Tăng Bảo. Dẫu phạm rất nhiều giới, hay phá giới, gă tỳ-kheo phá giới ấy sẽ chẳng nói cho quư vị biết “ta là tỳ-kheo phá giới”. Hắn sẽ gióng trống, khua chiêng, tuyên truyền [“ta là tỳ-kheo phá giới”] ư? Quư vị căn bản là chẳng biết hắn phá giới hay không! Do vậy, chỉ cần hắn hiện Tăng tướng, cứ cung kính hắn là được rồi!

          V́ sao Luật Tạng dạy phải phát lộ sám hối? Đă có tội th́ phải sám hối; nếu giấu diếm, sẽ là lường gạt. Trừ các tội do chính bản thân kẻ đó trót phạm ra, kẻ đó c̣n phạm thêm tội giấu diếm, lường gạt. Đấy là tội càng thêm tội, rất nhiều. Khi sám hối, rất khó sám hối cho thanh tịnh. Quá khứ chúng ta đă có các sai lầm, phạm rất nhiều, nhưng chúng ta chẳng khai ngộ, thậm chí, trong cuộc đời bị bệnh tật, gặp rất nhiều chuyện chẳng vừa ư, người ta xuôi chèo mát mái, c̣n quư vị trầy trật, trắc trở là do nguyên nhân nào? Từ vô lượng kiếp đến nay, đă làm quá nhiều chuyện. Nhất thời sám hối, vẫn chẳng dễ ǵ sám hối thanh tịnh. Quư vị ắt cần phải sám hối trong một thời gian rất dài!

 

          (Kinh) Phục thứ Đại Phạm! Hữu ngũ Vô Gián đại tội ác nghiệp. Hà đẳng vi ngũ? Nhất giả, cố tư sát phụ. Nhị giả, cố tư sát mẫu. Tam giả, cố tư sát A La Hán. Tứ giả, đảo kiến phá Thanh Văn Tăng. Ngũ giả, ác tâm xuất Phật thân huyết. Như thị ngũ chủng, danh vi Vô Gián đại tội ác nghiệp. Nhược nhân ư thử ngũ Vô Gián trung, tùy tạo nhất chủng, bất hợp xuất gia, cập thọ Cụ giới. Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện phạm tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh xuất ngă pháp. Như thị chi nhân, dĩ hữu xuất gia oai nghi h́nh tướng, ngă diệc bất hứa gia kỳ tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng!

          ()復次大梵,有五無間大罪惡業。何等為五?一者、故思殺父;二者、故思殺母,三者、故思殺阿羅漢;四者、倒見破聲聞僧;五者、噁心出佛身血。如是五種,名為無間大罪惡業。若人於此五無間中,隨造一種,不合出家,及受具戒。若令出家,或受具戒,師便犯罪,彼應驅擯令出我法。如是之人,以有出家威儀形相,我亦不許加其鞭杖,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命。

          (Kinh: Lại này Đại Phạm! Có năm ác nghiệp đại tội Vô Gián. Những ǵ là năm? Một là cố ư giết cha, hai là cố ư giết mẹ, ba là cố ư giết A La Hán, bốn là do tri kiến điên đảo mà phá Thanh Văn Tăng, năm là do ác tâm làm thân Phật chảy máu. Năm loại như thế gọi là “ác nghiệp đại tội Vô Gián”. Nếu ai tạo bất cứ loại nào trong năm loại Vô Gián ấy, chẳng thích hợp xuất gia và thọ Cụ Túc Giới. Nếu cho phép kẻ đó xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới, vị thầy sẽ phạm tội. Kẻ đó đáng nên bị xua đuổi ra ngoài pháp của ta. Người như thế đă có oai nghi và h́nh tướng xuất gia, ta cũng chẳng cho phép dùng roi, gậy đánh đập, hoặc nhốt vào lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi bới, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng kẻ đó).

 

          Được gọi là Ngũ Vô Gián là năm loại như thế, được gọi chung là “Vô Gián đại tội ác nghiệp”. Nếu trong năm loại tội ấy, kẻ phạm bất cứ một loại nào, chẳng thích hợp để xuất gia, tức là chẳng thâu nhận cho hắn xuất gia, càng chẳng thể cho hắn thọ Cụ Túc Giới. Khi quư vị sắp xuất gia, vị thầy sẽ hỏi: “Trước khi ngươi xuất gia, đă làm những chuyện ǵ, có phạm phải những chuyện ấy hay chăng?” Nếu có phạm chuyện này, thầy sẽ chẳng dám thâu nhận quư vị. C̣n có kẻ sáu căn chẳng đầy đủ. Hiện thời, trong Phật môn cũng có người mù, người què, người thọt, người bị bệnh thần kinh, những trường hợp ấy đều chẳng thể. C̣n có năm loại Bất Nam, cũng là bất nam bất nữ. Hạng người này không được phép xuất gia, quư vị ắt phải thưa thật. Quư vị chẳng nói ra, vị sư phụ cũng chẳng thể kiểm tra, quư vị phải thẳng thắn khai ra. Nếu lường gạt, chẳng nói, sẽ phạm tội lừa dối. Quư vị trà trộn vào đây, hộ pháp long thiên sẽ gây ra đủ loại chướng ngại nhiễu hại quư vị. Chuyện này chẳng thể lừa gạt được!

          Tới khi quư vị thọ giới, lúc vào giới đàn, [các vị thầy truyền giới] sẽ hỏi các điều “giá nạn” (遮難, ngăn chướng), chẳng hạn như Ngũ Vô Gián là “nạn”. C̣n có rất nhiều điều ngăn trở khiến cho quư vị chẳng thể thọ giới. Như năm loại Bất Nam, bất nam bất nữ, khi ở chung với nam chúng, kẻ đó là nữ, khi ở chung với nữ, kẻ đó là nam. Hoặc nửa nam, nửa nữ, phía trên là dương, phía dưới là âm. Những kẻ giống như vậy đều thuộc vào năm loại Bất Nam. Như thái giám sẽ chẳng thể xuất gia, chẳng thể thâu nhận. V́ thế, làm tỳ-kheo rất khó.

          Thoạt đầu, nếu trong quá khứ quư vị có tội Ngũ Vô Gián, phải chú ư đến chữ Cố (). “Cố tư sát phụ” (cố ư giết cha): “Tư” () là chuẩn bị, trong ấy bao gồm sát nhân, sát pháp, sát nhân, sát nghiệp (cái nhân (nguyên do) giết, cách giết, người thực hiện hành động giết, và nghiệp giết), ắt phải đoạn mạng căn. Hễ chết rồi th́ mới tính, tội ấy đă thành lập. Nếu chẳng phải là cố ư, vô tâm, th́ là chẳng phạm căn bản giới, là tương tự tội (tội ngộ sát), đó là tương tự tội. Do vậy, phía trước các tội giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, đều có chữ Cố. Ba loại tội ấy đều có chữ Cố, tức là cố ư. Hữu tâm, thậm chí bày mưu tính kế, ba loại ấy [kết tội] như thế đó. “Đảo kiến phá Thanh Văn Tăng” (Tri kiến điên đảo phá Thanh Văn Tăng): Tri kiến điên đảo, chẳng phải là chánh tri, chánh kiến, tà tri, tà kiến điên đảo, phá ḥa hợp Tăng, chia rẽ Tăng chúng vốn là một thành hai nhóm. Chẳng hạn như trong chùa chúng ta có ba mươi người xuất gia, quư vị chọc ngoáy ly gián, xé vụn thành từng nhóm từ ba người trở lên, đấy chính là phá ḥa hợp chúng. Châm ng̣i ly gián một người th́ không tính. Nếu châm ng̣i cho bảy tám người tách rời, sẽ là phá ḥa hợp tăng. Khi mọi người cùng nhau ḥa hợp tu đạo, quư vị phá hoại, th́ gọi là “phá ḥa hợp Tăng”. Chuyện này chỉ giới hạn trong chúng Thanh Văn. Ác tâm làm thân Phật chảy máu, ác tâm là có tâm hủy báng, thậm chí có phẫn, có sân. Những tâm ấy đều coi như là ác tâm. Làm thân Phật chảy máu chỉ là khi đức Phật c̣n tại thế.

          Có đạo hữu hỏi tôi: Tượng Phật vẽ trên giấy, do chúng ta chẳng chú ư, khiến cho bị xé rách, hủy hoại, hoặc được treo ở đó, khi quư vị lấy xuống, đă làm rách, như vậy th́ có tính là “làm thân Phật chảy máu” hay không? Như thế th́ chẳng tính, chỉ có thể tính là lỗi lầm nhẹ ít. Chỉ có thể tính là không tôn trọng cho lắm, chỉ có thể tính như vậy. Chẳng thể tính là làm thân Phật chảy máu, v́ tượng giấy chẳng thể chảy máu. Tượng bằng đất nặn hay gỗ khắc có chảy máu hay không? Chẳng có máu, đó là nói về cảnh hiện tiền, là cảnh chân thật. Như thế th́ mới tính là tội Ngũ Nghịch. Đó gọi là Ngũ Vô Gián đại tội. Vô Gián (無間) là chịu khổ chẳng gián đoạn, chịu khổ chưa hề ngưng dứt. Khi quư vị sắp mạng chung, lúc vào địa ngục chẳng gián đoạn tí nào, rất ư là nhanh.

          Đối với năm loại ấy, hễ phạm một loại nào, cũng đều chẳng được phép xuất gia. Ngay cả xuất thế tục gia cũng chẳng thể, càng chẳng được phép thọ giới. Thọ Cụ Túc Giới, cũng tức là hai trăm năm mươi giới của tỳ-kheo. Giả sử vị sư phụ nào cho kẻ đó xuất gia, hoặc là cho kẻ đó thọ Cụ Túc Giới, vị sư phụ ấy đă phạm tội. Nếu thâu nhận kẻ đó, bản thân vị sư phụ ấy phạm tội, vậy th́ các đồ chúng do ông ta đă thâu nhận th́ sao? Phải đuổi những kẻ có đủ các thứ giá nạn ra ngoài Tăng đoàn, chẳng thể giữ họ lại trong Tăng đoàn, phải xua đuổi họ ra khỏi Phật giáo, chẳng thâu nhận vào Phật pháp. Nói tỷ dụ th́ giống như tử thi chết ch́m trong biển, sóng biển nhất định sẽ đẩy nó lên bờ. Biển chẳng dung nạp tử thi, biển Phật pháp chẳng dung kẻ phá giới.

          C̣n như những kẻ phạm tội Ngũ Vô Gián, sư phụ vẫn thâu nhận kẻ đó, vẫn cho hắn thọ Cụ Túc Giới. Hắn vẫn chưa bị khai trừ, vẫn trà trộn trong số các vị xuất gia. Kẻ đó có oai nghi và h́nh tướng xuất gia, đă thọ Cụ Túc Giới, vẫn c̣n đắp y, chứ áo hậu (áo hải thanh) không tính là ǵ cả. Áo hậu là trang phục của người Hán. [Trải các đời] Hán, Đường, Tống, Minh đều là như vậy. Bất quá túi áo chẳng may to như vậy, tay áo cũng chẳng rộng như vậy, [khi may thành lễ phục cho tăng sĩ và cư sĩ đă] hơi tăng thêm đôi chút. Vào thời ấy (khi đức Phật giảng kinh Đại Tập Thập Luân), Ngài nói đến cái y (ca-sa); hiện thời, y cũng bị sửa đổi rồi! Có những người nói: “Xă hội đă biến hóa, phải nên thay đổi”. Hiện thời, [y ca-sa] có khoen và móc là từ Trung Hoa mà ra. Kiểu cách đó vốn từ Ấn Độ cũng là như vậy. Hiện thời, người Ấn Độ mặc y phục vẫn là như vậy. Ở đây, chúng ta có rất nhiều người Ấn Độ, quư vị thấy nam nữ hễ [mặc y phục truyền thống] sẽ vắt vạt áo chồng lên như thế đó.

          Kẻ đó trọn đủ oai nghi của người xuất gia. Oai nghi của người xuất gia có bao nhiêu? Ba ngàn! Từ xưa đă h́nh dung oai nghi xuất gia: Nếu quư vị lên chánh điện, hoặc lúc đi đường, mắt chẳng nh́n về phía trước quá năm thước[10]. Nếu xoay đầu nh́n Đông ngó Tây, giống như lắc trống bỏi[11] th́ không được rồi, đă phạm vào oai nghi! Đi đường có hạn chế nhất định, những điều này đều phải học. Thậm chí trong lúc dùng cơm, chẳng giống như chúng ta. Bới bát cơm như thế nào, cầm đũa ra sao, khi ăn phải ăn như thế nào, đặc biệt là trong khi ăn, nếu nhai chóp chép là không được!

          Khi tôi ở Cổ Sơn, lúc quá đường (過堂, dùng bữa trưa) có hơn một ngàn người. Từ cửa trai đường bước vào, quư vị chẳng nghe thấy trong ấy có chút âm thanh nào. Trong ấy c̣n chẳng có tiếng đũa, bát, ngay cả tiếng nhai cơm cũng chẳng có, đâu có giống như một ngàn tám trăm người đang ăn cơm tại đó. Quư vị c̣n chẳng biết trong ấy có nhiều người đến thế! Khi đó, tôi vừa mới đến Cổ Sơn, tôi nói ngôi chùa này to ngần ấy, sao lại vắng tanh thế này, vừa bước vào, c̣n có đôi chút cảm giác hoảng sợ. Đi trên hành lang cũng chẳng thấy một ai. Đến khi nghe tiếng bang[12], khi lên đại điện, từ mỗi gian nhà nhỏ, thoạt nh́n rất hẹp, đều có người xuất gia ở. Lúc đó, cùng ở đấy có hơn tám trăm bảy mươi vị xuất gia, c̣n có hơn một ngàn vị tịnh nhân. Tịnh nhân (淨人) là người phục vụ trong chùa miếu, lo làm vườn, chăm nom vườn trái cây, dường như là ai nấy đều trọn đủ oai nghi của người xuất gia.

          Quư vị làm tịnh nhân trong chùa, sẽ trọn đủ oai nghi. Chỉ cần vào chùa, sẽ chẳng giống với thế tục. Bất quá, hiện thời cũng tiến bộ rồi! [Người hiện thời cho rằng] những thứ đó đều chẳng cần nữa, cảm thấy quá rườm rà. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh ràng buộc mỗi cá nhân trở thành h́nh dạng như thế đó. Vào thời ấy, Tăng chúng sống trong chùa cũng chẳng cảm thấy [trói buộc ǵ], đă thành thói quen rồi. Từ khi thọ giới, một mực ở trong tùng lâm cho đến chùa lớn. Quư vị xuất gia, nhất định phải sống trong tùng lâm mới biết h́nh tướng oai nghi. Chỉ cần kẻ đó có h́nh tướng oai nghi, bất luận trong quá khứ hắn đă phạm tội Ngũ Nghịch, thậm chí hắn trà trộn trong Tăng chúng, hễ c̣n chưa bị trục xuất, đều chẳng nên trách phạt, quất đánh, hoặc giam cầm trong lao ngục, hoặc là chửi mắng, hoặc là cắt chặt tứ chi, hoặc là giết chết, những điều ấy đều chẳng thể! Dẫu chúng sanh trong quá khứ mắc tội Ngũ Vô Gián trà trộn vào Phật môn th́ cũng đều chẳng thể!

          Hôm nay, có đạo hữu hỏi tôi: “Giả sử biết người đó là kẻ phạm tội Ngũ Nghịch, tôi chẳng sanh tâm cung kính đối với hắn được!” Quư vị chớ nên sanh [cái tâm ấy], hăy nên sám hối. V́ tâm quư vị chẳng phải là Phật tâm, chẳng phải là Tam Bảo tâm. Quư vị gặp Tam Bảo, lẽ đâu chẳng thể sanh khởi tín tâm? Quư vị nghĩ kẻ đó phá giới, chỉ cần kẻ đó có Tăng tướng, chúng ta thấy vị sư phụ này tốt lắm, bản thân vị sư phụ ấy cũng cảm thấy tốt lắm. Nhưng kẻ đó phạm các giới thuộc vi tế hạnh, long, thiên, quỷ thần đều biết cả, thậm chí [kẻ đó] c̣n chưa biết chính ḿnh phạm giới! Trước nay chưa hề học giới, làm sao biết là phạm giới cho nổi? Tuy là như vậy, long, thiên, quỷ thần vẫn cung kính kẻ đó.

 

          (Kinh) Phục hữu tứ chủng, cận Ngũ Vô Gián đại tội ác nghiệp căn bản chi tội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, khởi bất thiện tâm, sát hại Độc Giác, thị sát sanh mạng đại tội ác nghiệp căn bản chi tội. Nhị giả, dâm A La Hán bật-sô-ni tăng, thị dục tà hạnh đại tội ác nghiệp căn bản chi tội. Tam giả, xâm tổn sở thí Tam Bảo tài vật, thị bất dữ thủ đại tội ác nghiệp căn bản chi tội. Tứ giả, đảo kiến phá hoại ḥa hợp Tăng chúng, thị hư cuống ngữ đại tội ác nghiệp căn bản chi tội.

          ()復有四種,近五無間大罪惡業根本之罪。何等為四?一者、起不善心,殺害獨覺,是殺生命,大罪惡業,根本之罪;二者、婬阿羅漢、苾芻尼僧,是欲邪行,大罪惡業,根本之罪;三者、侵損所施三寶財物,是不與取,大罪惡業,根本之罪;四者、倒見破壞和合僧眾,是虛誑語,大罪惡業,根本之罪。

          (Kinh: Lại có bốn thứ là tội căn bản thuộc về đại tội ác nghiệp, gần với Ngũ Vô Gián. Những ǵ là bốn? Một là dấy tâm bất thiện, sát hại Độc Giác; đó là tội căn bản thuộc về đại tội ác nghiệp “sát sanh”. Hai là dâm uế A La Hán bật-sô-ni Tăng, đó là tội căn bản thuộc về đại tội ác nghiệp “tà hạnh dâm dục”. Ba là xâm phạm, tổn hại tài vật cúng thí cho Tam Bảo, đấy là tội căn thuộc về đại tội ác nghiệp “chẳng cho mà lấy”. Bốn là tri kiến điên đảo phá hoại Tăng chúng ḥa hợp. Đó là tội căn bản thuộc về đại tội ác nghiệp “nói lời hư dối”).

 

          Đây là nói về Cận Ngũ Vô Gián Tội, hoàn toàn chẳng phạm tội nặng như tội Vô Gián. Cận Ngũ Vô Gián Tội có bốn thứ:

          1) Loại thứ nhất, khởi tâm bất thiện, sát hại Độc Giác. Tâm bất thiện dấy lên ác tâm. Dấy lên ác tâm sát hại Độc Giác. Độc Giác là khi chẳng có Phật xuất thế, Ngài ở trong rừng núi vắng lặng tu hành, chứng đắc quả Độc Giác, tức là chứng đắc quả vị Độc Giác trong Nhị Thừa. V́ không có Phật xuất thế, Ngài tự khai ngộ chứng đạo, cho nên gọi là Độc Giác. Có Phật xuất thế th́ gọi là Duyên Giác, do nương vào mười hai pháp nhân duyên mà giác ngộ. Sát hại [Độc Giác] th́ là Cận Ngũ Vô Gián, chưa tính là năm tội Vô Gián! Thế nhưng, đây là tội sát sanh, là tội căn bản đại ác nghiệp, chẳng tính là tội Vô Gián.

          2) Hai là dâm uế A La Hán bật-sô-ni Tăng, bất luận vị ấy có biết hay không. Đây là tội Cận Vô Gián, cũng là tội đại ác.

          3) Ba là xâm phạm, tổn hại vật dụng thuộc thường trụ Tam Bảo, hoặc vật được thí cho thường trụ Tam Bảo. Đây là tội đại ác “chẳng cho mà lấy”.

          4) Bốn là tri kiến điên đảo phá ḥa hợp Tăng. Điên đảo tri kiến phá ḥa hợp Tăng chỉ là tạo tội từ nơi ngôn ngữ của kẻ ấy. Đối với cả hai đằng, đều khuấy động thị phi, chỉ tính gộp trong ác ngữ và hư cuống ngữ (nói lời lừa gạt), dính líu đến giới vọng ngữ.

          Đây là bốn giới căn bản “giết, trộm, dâm, dối”.

 

          (Kinh) Nhược nhân ư thử tứ Cận Vô Gián đại tội ác nghiệp căn bản tội trung, tùy phạm nhất chủng, bất hợp xuất gia, cập thọ Cụ giới. Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện đắc tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh xuất ngă pháp. Như thị chi nhân, dĩ hữu xuất gia, cập thọ Cụ giới oai nghi h́nh tướng, ngă diệc bất hứa gia kỳ tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng.

          ()若人於此四近無間大罪惡業根本罪中,隨犯一種,不合出家,及受具戒。若令出家,或受具戒,師便得罪,彼應驅擯令出我法。如是之人,以有出家及受具戒威儀形相,我亦不許加其鞭杖,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命。

          (Kinh: Nếu ai phạm bất cứ loại nào trong bốn tội căn bản thuộc về đại tội ác nghiệp Cận Vô Gián này, chẳng thích hợp xuất gia và thọ Cụ Túc Giới. Nếu cho kẻ ấy xuất gia hoặc thọ Cụ Túc Giới, vị thầy sẽ mắc tội. Kẻ đó đáng nên bị trục xuất, đuổi ra khỏi pháp của ta. Người như thế, nếu đă có oai nghi h́nh tướng xuất gia và thọ giới Cụ Túc, ta cũng chẳng cho dùng roi, gậy đánh đập, hoặc giam vào tù ngục, hoặc lại quở trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc giết chết).

 

          Kẻ phá bốn loại giới căn bản, cũng là kẻ phạm tội căn bản, tội to tầy trời, bất quá chẳng phải là Ngũ Vô Gián, mà là Cận Vô Gián. Bốn loại ấy, hễ phạm bất cứ loại nào, sư phụ chẳng thể thâu nhận kẻ đó. Nếu lúc gạn hỏi giá nạn, “ngươi có giết thánh nhân hay không?” Điều này bao gồm các vị thuộc Nhị Thừa, tức Thanh Văn và Duyên Giác, kẻ đó thưa “chẳng có”. Chính hắn cũng chẳng biết người bị hắn giết chết có phải là thánh nhân hay không? Làm sao hắn biết nổi! La Hán và Độc Giác sẽ chẳng nói: “Ta đă chứng Độc Giác”. Mọi người đọc kinh Kim Cang sẽ biết ngay. Ngài Tu Bồ Đề nói: “Chứng vô sở chứng” (chứng cái chẳng có ǵ để chứng). Hiểu đạo lư này là được rồi! Tuy các tội đó là tội căn bản, vẫn chẳng thể xuất gia. Đó là tội căn bản, chẳng phải là tội Vô Gián.

          Kẻ phạm bốn đại tội ác, cũng chẳng thể xuất gia. Đó gọi là “phạm tứ căn bản”. Giết, trộm, dâm, dối là phạm vào tánh tội, người ấy chưa xuất gia, c̣n chưa thọ giới, chẳng phạm giá tội (遮罪)[13]. Nếu đă xuất gia, lại thọ giới tỳ-kheo, hai đằng trên đều phạm, [tức là] tánh tội lẫn giá tội đều phạm. Rơ ràng biết là đă phạm tội, quư vị c̣n mong thọ giới, tội thêm một bậc nữa, tự chuốc lấy khổ. Quư vị đọa địa ngục, hoặc là chịu cả hai tầng xử phạt, thời gian càng dài hơn! Giả sử vị sư phụ thâu nhận kẻ đó xuất gia, ngay từ đầu kẻ đó đă lường gạt sư phụ, căn bản là sư phụ của hắn không biết. Về sau, điều tra ra, vị sư phụ ấy phạm tội Đột Cát La (突吉羅, Duṣkṛta, Ác Tác), hướng về mọi người sám hối. Vị thầy ấy được chấp thuận sám hối. Sau đó, đuổi đồ đệ đi, chẳng thể dung nạp trong Phật pháp được. Tội nhân trọn đủ bốn món đại ác ấy đă trà trộn vào hàng ngũ xuất gia, đức Phật cũng chẳng chấp thuận đánh đập hắn, cho đến chửi mắng, chặt chân tay, đoạn mạng của hắn.

 

          (Kinh) Như thị hoặc hữu thị căn bản tội phi Vô Gián tội, hữu Vô Gián tội phi căn bản tội, hữu căn bản tội diệc Vô Gián tội, hữu phi căn bản tội diệc phi Vô Gián tội. Hà đẳng danh vi thị căn bản tội diệc Vô Gián tội? Vị ngă pháp trung, tiên dĩ xuất gia, thọ Cụ Giới giả, cố tư sát tha, dĩ đáo cứu cánh kiến Đế nhân đẳng. Như thị danh vi thị căn bản tội, diệc Vô Gián tội, thử ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, ưng tốc khu tẫn.

          ()如是或有是根本罪,非無間罪;有無間罪,非根本罪;有根本罪,亦無間罪;有非根本罪,亦非無間罪。何等名為是根本罪,亦無間罪?謂我法中,先已出家受具戒者,故思殺他,已到究竟見諦人等,如是名為是根本罪,亦無間罪。此於我法毗奈耶中,應速驅擯。

          (Kinh: Như thế bèn có [các trường hợp]: Hoặc là có người phạm tội căn bản, nhưng chẳng phải là tội Vô Gián. Có người phạm tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản. Có người phạm tội căn bản mà cũng là tội Vô Gián. Có người chẳng phải là tội căn bản mà cũng chẳng phải là tội Vô Gián. Những ǵ gọi là tội căn bản lẫn tội Vô Gián? Tức là kẻ ở trong pháp của ta đă xuất gia và thọ giới Cụ Túc từ trước, mà cố ư giết người khác, mà người bị giết ấy đă đạt đến mức kiến Đế rốt ráo. Như thế th́ gọi là phạm tội căn bản mà cũng phạm tội Vô Gián. Trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta, hăy nên nhanh chóng trục xuất kẻ ấy).

 

          Dùng bốn loại này để phân biệt. Có khi là tội căn bản, nhưng chẳng phải là tội Vô Gián, tức là kẻ đó giết Thanh Văn, giết A La Hán, cho đến dâm La Hán tỳ-kheo-ni. Đấy là tội căn bản, chẳng phải là tội Vô Gián. Có khi là tội Vô Gián chẳng phải là tội căn bản. Tội này nhất định phải biện định rơ ràng: Tội ấy là tội Ngũ Vô Gián, chẳng thể xem như thuộc phạm vi của tội căn bản. Dẫu sao, tội căn bản cũng thế, mà tội Vô Gián cũng thế, hai hạng người ấy đều chẳng thể thâu nhận cho phép xuất gia. Thậm chí hắn trà trộn vào, đă thọ giới, chúng ta biết hắn là kẻ như vậy, chớ nên coi rẻ hắn, phải nên theo đúng Tăng pháp mà đuổi hắn ra.

          Có kẻ tội căn bản cũng có mà tội Ngũ Vô Gián cũng có luôn! Sát nghiệp, tâm sân hận, cho đến đối với “giết, trộm, dâm, dối” đều phạm rất nặng, hai đằng đều trọn đủ, vậy là tội càng nặng! Có kẻ chẳng thuộc hai loại này, chẳng phải là tội căn bản, mà cũng chẳng phải là tội Vô Gián. Hai đằng đều chẳng phải, sẽ là tội nhẹ. “Tội nhẹ” là tội Tăng Tàn thuộc Thất Tụ Pháp được nói trong kinh Phật, cũng rất nặng: Kẻ ấy phải đối trước hai mươi vị tỳ-kheo thanh tịnh [mà phát lộ sám hối] th́ mới có thể sám trừ. Theo giáo nghĩa Tiểu Thừa, các tội ấy chẳng chấp thuận sám hối.

          “Hà đẳng danh vi thị căn bản tội diệc Vô Gián tội?” (Những ǵ gọi là tội căn bản mà cũng là tội Vô Gián): Tiếp đó giải thích từng điều. “Vị ngă pháp trung tiên dĩ xuất gia thọ Cụ Giới giả, cố tư sát tha, dĩ đáo cứu cánh kiến Đế nhân đẳng, như thị danh vi thị Căn Bản Tội diệc Vô Gián Tội (Tức là ở trong pháp của ta, trước đă xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, mà cố ư giết người khác, người đó là bậc đă kiến Đế rốt ráo. Như thế th́ gọi là Căn Bản Tội mà cũng là Vô Gián Tội): Hai đằng đều trọn đủ. Nếu sau khi kẻ ấy xuất gia, đă thọ Cụ Túc Giới, mà cố ư. Chữ Cố () nghĩa là hữu ư. “Tư” () là suy nghĩ phương pháp, tức là sát duyên và sát nhân (nhân và duyên của việc giết chóc). Đă có sát nhân và sát duyên như thế, bèn giết bậc đă kiến Đế rốt ráo. Bậc kiến Đế rốt ráo chính là A La Hán, hoặc là Sơ Quả, thuộc địa vị Kiến Đạo. Kiến Đế lư Bồ Tát là nói đến bậc đại Bồ Tát, Kiến Đạo Đế Lư. “Kiến” () có nghĩa là địa vị Kiến Đạo, Đế () là Lư, đă chứng đắc. Nếu kẻ đă thọ giới sát hại bậc như thế, như vậy th́ tội Căn Bản cũng đă phạm. Tội Vô Gián cũng phạm luôn, hai đằng đều trọn đủ!

 

          (Kinh) Hà đẳng danh vi thị căn bản tội, phi Vô Gián tội? Vị ngă pháp trung, tiên dĩ xuất gia thọ Cụ giới giả, cố tư sát hại tha dị sanh nhân, năi chí phương tiện dữ nhân độc dược, đọa kỳ thai tạng, như thị danh vi thị căn bản tội, phi Vô Gián tội. Thử nhân bất ưng dữ Tăng cộng trụ, chư hữu cấp thí tứ phương Tăng vật, diệc bất ưng linh ư trung thọ dụng.

          ()何等名為是根本罪,非無間罪?謂我法中,先已出家受具戒者,故思殺害他異生人,下至方便與人毒藥,墮其胎藏,如是名為是根本罪,非無間罪。此人不應與僧共住,諸有給施四方僧物,亦不應令於中受用

          (Kinh: Những ǵ gọi là tội Căn Bản chẳng phải là tội Vô Gián? Tức là ở trong pháp của ta, trước đó đă xuất gia và thọ Cụ Túc Giới, cố ư sát hại người khác thuộc loài dị sanh, cho đến dùng phương tiện đưa thuốc độc cho người ta, khiến họ bị đọa thai. Như thế th́ gọi là tội Căn Bản, chẳng phải là tội Vô Gián. Người ấy chẳng nên cho ở chung với Tăng. Nếu có các Tăng vật được bốn phương cúng thí th́ cũng chẳng cho kẻ đó thọ dụng).

 

          Trong Luật Tạng, phạm loại tội này, một khắc cũng chẳng thể lưu lại; hễ biết đến, sẽ ngay lập tức trục xuất, tốc độ rất nhanh chóng. “Hà đẳng danh vi thị căn bàn tội phi Vô Gián tội? Vị ư ngă pháp trung, tiên dĩ xuất gia thọ liễu Cụ Túc Giới, cố tư sát hại tha dị sanh nhân” (những ǵ gọi là tội căn bản, chẳng phải là tội Vô Gián? Tức là ở trong pháp của ta, trước hết đă xuất gia, đă thọ Cụ Túc Giới, cố ư sát hại kẻ khác thuộc loài dị sanh): Đây chỉ là tội giết người. “Dị” () là khác, h́nh tướng bất đồng, ngôn ngữ bất đồng, sắc thân bất đồng, đều gọi là “dị sanh”. Đủ mọi tướng khác biệt, bèn gọi là “dị sanh”. “Dị sanh” là chúng sanh, tức loài chúng sanh. “Cố tư” (故思) là cố ư sát hại những người ấy, thậm chí sử dụng đủ loại phương tiện, chuốc thuốc độc cho người ta sẩy thai. Mọi người biết đấy là sát hại kẻ dị sanh, sát hại người khác. Đó gọi là “căn bản tội”.

          Mọi người biết phá thai là tội giết người, là tội căn bản, luận tội giống như giết người. Bất quá, theo pháp luật thế tục, hoàn toàn chẳng nghiêm trọng như vậy. Tuy là phạm tội, nhưng có những quốc gia, pháp luật của họ không coi đó là phạm tội, có quốc gia c̣n đề xướng phá thai. Tuy nói là tội căn bản, chẳng phải là tội Vô Gián, nhưng kẻ ấy chẳng nên ở chung với đại chúng Tăng, cũng chẳng nên được thọ dụng những vật thuộc về tứ phương Tăng dành cho đại chúng Tăng hưởng dụng. [Những vật] cúng dường đại chúng Tăng th́ chẳng thể chia cho kẻ đó một phần, chẳng thể thọ dụng trong đó!

 

          (Kinh) Hà đẳng danh vi thị Vô Gián tội, phi căn bản tội? Vị nhược hữu nhân, hoặc thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, hoặc thọ thập giới, ư Ngũ Vô Gián, tùy tạo nhất chủng, như thị danh vi thị Vô Gián tội, phi căn bản tội. Như thị chi nhân, bất hợp xuất gia, cập thọ Cụ giới. Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện đắc tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh xuất ngă pháp. Hà đẳng danh vi phi căn bản tội, diệc phi Vô Gián tội? Vị nhược hữu nhân, hoặc thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, ư Phật, Pháp, Tăng, nhi sanh nghi tâm, hoặc quy ngoại đạo, dĩ vi sư đạo, hoặc chấp chủng chủng, nhược thiểu, nhược đa, cát hung chi tướng, từ tế quỷ thần. Nhược phục hữu nhân, ư chư Như Lai sở thuyết chánh pháp, hoặc Thanh Văn Thừa tương ứng chánh pháp, hoặc Độc Giác Thừa tương ứng chánh pháp, hoặc thị Đại Thừa tương ứng chánh pháp, phỉ báng, giá chỉ, tự bất tín thọ, linh tha yếm bội, chướng ngại tha nhân độc, tụng, thư tả, hạ chí lưu nạn nhất tụng chánh pháp. Như thị danh vi phi căn bản tội, diệc phi Vô Gián, nhi sanh cực trọng đại tội ác nghiệp, Cận Vô Gián tội. Như thị chi nhân, nhược vị sám hối, trừ diệt như thị đại tội ác nghiệp, bất hợp xuất gia, cập thọ Cụ giới. Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện đắc tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh xuất ngă pháp. Nhược dĩ xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, phạm như thị tội, nhược bất sám hối, thử ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, ưng tốc khu tẫn. Sở dĩ giả hà? Thử nhị chủng nhân tập hành phá hủy chánh pháp nhăn hạnh, tập hành ẩn diệt chánh pháp đăng hạnh, tập hành đoạn tuyệt Tam Bảo chủng hạnh, linh chư thiên nhân tập hành vô nghĩa, vô lợi khổ hạnh, đọa chư ác thú. Thử nhị chủng nhân, tự báng chánh pháp, hủy tử hiền thánh, diệc linh tha nhân phỉ báng chánh pháp, hủy tử hiền thánh, mạng chung đương đọa Vô Gián địa ngục, kinh kiếp thọ khổ, bất khả liệu trị.

          ()何等名為是無間罪,非根本罪?謂若有人,或受三歸,或受五戒,或受十戒,於五無間隨造一種,如是名為是無間罪,非根本罪。如是之人,不合出家,及受具戒;若令出家,或受具戒,師便得罪,彼應驅擯令出我法。何等名為非根本罪,亦非無間罪?謂若有人,或受三歸,或受五戒,於佛法僧而生疑心,或歸外道以為師導,或執種種若少若多吉凶之相祠祭鬼神;若復有人,於諸如來所說正法,或聲聞乘相應正法,或獨覺乘相應正法,或是大乘相應正法,誹謗遮止,自不信受,令他厭背,障礙他人讀誦書寫,下至留難一頌正法,如是名為非根本罪,亦非無間,而生極重大罪惡業,近無間罪。如是之人,若未懺悔,除滅如是大罪惡業,不合出家,及受具戒;若令出家,或受具戒,師便得罪,彼應驅擯令出我法。若已出家,或受具戒,犯如是罪,若不懺悔,此於我法毗奈耶中,應速驅擯。所以者何?此二種人,習行破毀正法眼行,習行隱滅正法燈行,習行斷絕三寶種行,令諸天人習行無義、無利、苦行,墮諸惡趣。此二種人,自謗正法,毀呰賢聖,亦令他人誹謗正法,毀呰賢聖,命終當墮無間地獄,經劫受苦,不可療治。

          (Kinh: Những ǵ gọi là tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản? Tức là nếu có người thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, hoặc thọ mười giới, mà tạo bất cứ một loại nào trong Ngũ Vô Gián, như thế sẽ gọi là tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản. Người như thế chẳng thích hợp xuất gia, và thọ Cụ Túc Giới. Nếu cho kẻ đó xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới, thầy sẽ mắc tội. Kẻ ấy đáng nên bị xua đuổi ra khỏi pháp của ta. Những ǵ gọi là chẳng phải tội căn bản mà cũng chẳng phải tội Vô Gián? Tức là nếu có người hoặc thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, mà sanh ḷng nghi đối với Phật, Pháp, Tăng, hoặc quy hướng ngoại đạo, coi họ là thầy hướng dẫn. Hoặc chấp trước các thứ tướng cát, hung, dù ít hay nhiều, cúng tế quỷ thần. Nếu lại có người đối với chánh pháp do đức Như Lai đă nói, hoặc chánh pháp tương ứng với Thanh Văn Thừa, hoặc chánh pháp tương ứng với Độc Giác Thừa, hoặc chánh pháp tương ứng với Đại Thừa mà phỉ báng, ngăn trở, tự ḿnh chẳng tin nhận, [lại c̣n] khiến cho kẻ khác chán ngán, chống trái, chướng ngại người khác đọc, tụng, biên chép, tối thiểu là gây trở ngại cho một bài kệ chánh pháp. Như thế th́ gọi là “chẳng phải tội căn bản, mà cũng chẳng phải tội Vô Gián”, nhưng sanh ra đại tội ác nghiệp cực nặng, là tội gần với Vô Gián. Người như thế, nếu chưa sám hối trừ diệt các ác nghiệp đại tội như thế, chẳng thích hợp xuất gia và thọ Cụ Túc Giới. Nếu cho kẻ đó xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới, thầy sẽ mắc tội. Kẻ đó đáng nên bị xua đuổi ra khỏi pháp của ta. Nếu đă xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới mà phạm tội như thế, nếu chẳng sám hối, th́ trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta đáng nên mau chóng trục xuất. V́ cớ sao vậy? Hai loại người ấy đă thực hành hạnh phá hủy con mắt chánh pháp, đă thực hành cái hạnh ẩn diệt ngọn đèn chánh pháp, đă thực hành cái hạnh đoạn tuyệt chủng tánh Tam Bảo, khiến cho các trời và người thực hành khổ hạnh vô nghĩa, chẳng có lợi ích, đọa vào các đường ác. Hai loại người ấy tự báng chánh pháp, hủy báng, chê bai hiền thánh, cũng khiến cho kẻ khác phỉ báng chánh pháp, hủy báng, chê bai hiền thánh, mạng chung sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, trải nhiều kiếp chịu khổ, chẳng thể chữa trị).

 

          “Hà đẳng danh vi thị Vô Gián tội phi căn bản tội?” (những ǵ gọi là tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản?): Nếu nói có kẻ đă thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, thọ mười giới, đối với năm tội Vô Gián mà tạo bất cứ tội nào, như thế sẽ gọi là “tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản”. Chỉ là đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, thọ mười giới, đối với năm tội Vô Gián, hễ tạo một tội nào, [chẳng hạn như] cố ư giết cha, cố ư giết mẹ, đều tính là tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản. Trọn đủ tội Vô Gián, nhưng chẳng trọn đủ cả hai đằng (Vô Gián và căn bản). Kẻ đó chỉ trọn đủ một đằng, chẳng phải là tội căn bản. Tội căn bản nhẹ hơn một chút, tội Vô Gián nặng hơn. Hạng người như thế cũng chẳng thể thâu nhận cho họ xuất gia, chẳng thích hợp xuất gia và thọ Cụ Túc Giới. “Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện đắc tội” (Nếu cho xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới, thầy sẽ mắc tội): Kẻ đó vừa mới xuất gia th́ phải trục xuất, chẳng cho phép ở trong Tăng chúng.

          Nếu có kẻ thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, sanh ḷng hoài nghi đối với Phật, Pháp, Tăng, lại đến quy y ngoại đạo. Quy y ngoại đạo rồi tôn ngoại đạo làm thầy hướng dẫn. Bọn chúng nói rất nhiều tướng cát, hung. Đă thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, mà quư vị lại sanh khởi tâm hoài nghi đối với Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, lại đi nghiên cứu cát, hung, họa, phước, quy y ngoại đạo. Hiện thời, chúng ta lại c̣n thêm một món nữa là học Khí Công. Học Khí Công đúng hay sai? Nếu quư vị rèn luyện thân thể, đánh quyền, luyện Khí Công, mong sẽ đạt được lợi ích chi đó, sai lầm mất rồi! Chuyện này tùy thuộc quư vị dụng tâm như thế nào? Nhưng trong Phật giáo, quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, th́ chớ nên làm, v́ đó là ngoại đạo, chẳng phải là Phật giáo, cũng là ở ngoài Phật đạo. Muốn họ đến làm thầy cho quư vị, dẫn dắt quư vị, hoặc là chấp trước nhiều hay ít đều chẳng quản. Cho đến đối với tướng cát, hung, họa, phước vặt vănh, thậm chí c̣n giống như [lập] từ đường, miếu tế tự, miếu thờ thần. Chuyện cúng bái này bao gồm rất nhiều thứ, trong từ đường tế quỷ, tế thần. Để tế quỷ thần, phải dùng rượu, thịt. Dùng đồ chay đến miếu quỷ thần cúng bái, chẳng bằng không cúng. Quư vị cúng họ, họ c̣n có thể sanh tâm sân hận.

          “Nhược phục hữu nhân ư Như Lai sở thuyết chánh pháp, hoặc Thanh Văn Thừa tương ứng chánh pháp, hoặc Độc Giác Thừa tương ứng chánh pháp, hoặc thị Đại Thừa tương ứng chánh pháp” (Nếu lại có người đối với chánh pháp do đức Như Lai đă nói, hoặc chánh pháp tương ứng Thanh Văn Thừa, hoặc chánh pháp tương ứng Độc Giác Thừa, hoặc là chánh pháp tương ứng với Đại Thừa): “Tương ứng” (相應) có nghĩa là phù hợp. Tâm quư vị tương ứng với pháp Đại Thừa, hay tương ứng với pháp Nhị Thừa. “Phỉ báng, giá chỉ” (phỉ báng, ngăn cấm): Hoặc là người khác đến hoằng dương, khiến cho chúng sanh đắc độ, quư vị ở nơi đó hủy báng, khuyên người ta chớ nên tin, bảo “chẳng có lợi ích ǵ!” Thậm chí c̣n nói rất nhiều lời phá hoại, ngăn trở người khác, không cho họ đến nghe. Hoặc là không cho họ đến nhận, đến nghe, hoặc không cho họ thân cận, bao gồm những điều ấy. Chính ḿnh chẳng tin, c̣n khiến cho kẻ khác phản bội, cho đến khiến cho họ sanh khởi tâm phiền chán đối với Tam Bảo. Hoặc là chướng ngại kẻ khác đọc tụng kinh điển, biên chép kinh điển, dẫu chỉ một bài kệ bốn câu. Đấy chẳng phải là tội căn bản, cũng chẳng phải là tội Vô Gián, nhưng tội ác cực đại. Do vậy nói tội báng pháp gần với tội Vô Gián, rất gần giống tội Vô Gián!

          Nếu kẻ ấy c̣n chẳng sám trừ những tội ấy, chẳng sám hối, chẳng diệt trừ tội ấy, kẻ có tội ác to lớn như thế sẽ chẳng thể xuất gia, cũng chẳng thể cho kẻ đó thọ Cụ Túc Giới. Đấy đều là tội chẳng cho phép sám hối. Giả sử vị sư phụ thâu nhận kẻ đó làm đồ đệ rồi lại cho hắn thọ Cụ Túc Giới, vị thầy ấy sẽ mắc tội. Kẻ đó phạm pháp, chính là trái phạm Phật pháp, hoàn toàn chẳng vi phạm chánh pháp của thế tục (tức chẳng làm chuyện vi phạm pháp luật), kẻ đệ tử như thế sẽ bị trục xuất. Do vậy, nếu đă xuất gia, hoặc đă thọ Cụ Túc Giới mà phạm những tội ấy, hăy nên làm như thế nào? Phải sám hối! Có rất nhiều phương thức sám hối. Hai mươi vị Tăng cho phép kẻ đó sám hối, hoặc Tăng chúng cho phép kẻ đó làm Yết Ma, cho kẻ đó vĩnh viễn làm tịnh nhân, ở trong chùa miếu vĩnh viễn hành khổ hạnh. Nếu kẻ đó sám hối, có thể xử lư như vậy. Nếu chẳng sám hối, hăy nhanh chóng đuổi hắn ra. V́ sao như vậy? V́ hai hạng này đă thực hiện hạnh phá hủy con mắt chánh pháp, những ǵ kẻ đó đă làm khiến cho chánh pháp nhăn tạng chẳng thể trụ lâu dài trong thế gian, sẽ làm mù mắt của trời, người, làm mù mắt của hết thảy chúng sanh.

          Chẳng có Phật pháp, chúng ta sẽ chẳng sáng suốt. Có Phật pháp th́ có nghĩa là “chiếu sáng”. Đồng thời, những ǵ kẻ đó làm chính là đă ẩn diệt chánh pháp soi sáng như đèn, khiến cho chánh pháp chẳng hiện, thậm chí bị diệt trừ. Hành vi kiểu ấy chính là ǵ? Hạnh đoạn tuyệt chủng tánh Tam Bảo, khiến cho hết thảy trời, người tu tập khổ hạnh vô nghĩa, chẳng có lợi ích, đọa vào các đường ác, khiến cho người khác đều đọa trong ác đạo. Do vậy, hai loại người ấy chính họ đă hủy báng chánh pháp, hủy báng chê gièm hiền thánh, lại c̣n khiến cho người khác hủy báng cháng pháp, gièm chê hiền thánh. Mạng chung, sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, trải bao kiếp chịu khổ, chẳng thể chữa trị. Thời gian đọa lạc v́ tội Ngũ Vô Gián hết sức lâu. Do vậy, nếu đọa vào ngục Vô Gián, một ngàn vị Phật xuất thế trong Hiền Kiếp, quư vị chẳng gặp được một vị, vẫn chẳng ĺa khỏi địa ngục. Một ngàn vị Phật xuất thế, quư vị cũng chẳng gặp được vị nào, cho đến trải qua vô lượng đại kiếp, chẳng phải là tiểu kiếp, mà là vô lượng đại kiếp.

          Đoạn này chuyên nói về tỳ-kheo phá giới, tỳ-kheo tạo đại ác nghiệp, quư vị đừng nên hủy báng họ, phải nên cung kính, mà cũng chớ nên đánh đập, cho đến năo hại họ. Nếu như khiến cho những vật dụng cần thiết cho cuộc sống của kẻ đó bị thiếu hụt, hễ có một thí chủ muốn cúng dường kẻ đó, quư vị bảo: “Đó là tỳ-kheo phá giới, là kẻ xấu”. Hỏng bét rồi! Họ sẽ lập tức chẳng cúng dường nữa, như vậy là quư vị phạm tội. Tội ấy giống như tội của tỳ-kheo phá giới!

 

          (Kinh) Phục thứ Đại Phạm! Hoặc hữu giá tội Vô Y Hạnh pháp, hoặc hữu tánh tội Vô Y Hạnh pháp. Ư tánh tội trung, hoặc hữu căn bản Vô Y Hạnh pháp. Vân hà căn bản Vô Y Hạnh pháp? Vị nhược bật-sô hành phi phạm hạnh, phạm căn bản tội, hoặc dĩ cố tư sát dị sanh nhân, phạm căn bản tội, hoặc phục thâu đạo phi Tam Bảo vật, phạm căn bản tội, hoặc đại vọng ngữ, phạm căn bản tội. Nhược hữu bật-sô ư thử tứ chủng căn bản tội trung, tùy phạm nhất chủng, ư chư bật-sô sở tác sự nghiệp, linh thọ chiết phục, nhất thiết cấp thí tứ phương Tăng vật, giai tất bất thính ư trung thọ dụng, nhi diệc bất hợp gia kỳ tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng. Như thị danh vi ư tánh tội trung căn bản trọng tội Vô Y Hạnh pháp. Hà cố thuyết danh vi căn bản tội? Vị nhược hữu nhân phạm thử tứ pháp, thân hoại, mạng chung, đọa chư ác thú, thị chư ác thú căn bản tội cố. Thị cố thuyết danh vi căn bản tội, hà cố Vô Gián cập cận Vô Gián căn bản tội đẳng, thuyết danh cực trọng đại tội ác nghiệp Vô Y Hạnh pháp?

          ()復次大梵,或有遮罪無依行法,或有性罪無依行法,於性罪中或有根本無依行法。云何根本無依行法?謂若苾芻,行非梵行,犯根本罪;或以故思殺異生人,犯根本罪;或復偷盜非三寶物,犯根本罪;或大妄語,犯根本罪。若有苾芻,於此四種根本罪中,隨犯一種,於諸苾芻所作事業,令受折伏,一切給施四方僧物,皆悉不聽於中受用;而亦不合加其鞭杖,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命;如是名為於性罪中根本重罪無依行法。何故說名為根本罪?謂若有人犯此四法,身壞命終,墮諸惡趣;是諸惡趣,根本罪故,是故說名為根本罪。何故無間及近無間根本罪等,說名極重大罪惡業無依行法?

          (Kinh: Lại này Đại Phạm! Hoặc là có Vô Y Hạnh pháp thuộc về giá tội, hoặc có Vô Y Hạnh pháp thuộc về tánh tội. Trong tánh tội, hoặc là có pháp căn bản Vô Y Hạnh. Thế nào là pháp căn bản Vô Y Hạnh? Tức là nếu bật-sô làm chuyện chẳng phải là phạm hạnh, phạm căn bản tội, hoặc do cố ư giết người khác chủng loại, phạm căn bản tội. Hoặc trộm cắp vật chẳng thuộc về Tam Bảo, phạm căn bản tội. Hoặc đại vọng ngữ, phạm căn bản tội. Nếu có bật-sô đối với bốn loại tội căn bản ấy, hễ phạm một loại nào, th́ đối với các sự nghiệp thực hiện bởi các bật-sô, hăy nên khiến cho kẻ đó bị chiết phục, hết thảy các vật bố thí cho tứ phương Tăng đều chẳng cho phép kẻ đó được thọ dụng, nhưng cũng chớ nên dùng roi, gậy đánh đập, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc giết chết. Như thế th́ gọi là Vô Y Hạnh pháp thuộc trọng tội căn bản trong tánh tội. V́ sao nói là tội căn bản? Tức là nếu có kẻ nào phạm phải bốn pháp ấy, thân hoại, mạng chung, sẽ đọa trong các đường ác, do v́ đó là tội căn bản, khiến cho [kẻ phạm tội] đọa vào trong các đường ác, cho nên gọi là tội căn bản. V́ sao nói các tội Vô Gián và cận Vô Gián được gọi là Vô Y Hạnh pháp ác nghiệp đại tội cực nặng?)

 

          Chúng ta nói tới tánh tội; trong tánh tội, có căn bản và phi căn bản. Vô Y Hạnh pháp căn bản là ǵ? “Nhược bật-sô hành phi phạm hạnh” (Nếu bật-sô làm chuyện chẳng phải là phạm hạnh): “Hành phi phạm hạnh” tức là phạm dâm giới, phạm căn bản tội. Hoặc do “cố tư sát dị sanh nhân” (cố ư giết người khác chủng loại): Nếu phạm sát giới th́ là phạm căn bản tội. Hoặc là trộm cắp vật chẳng phải của Tam Bảo, đă phạm căn bản tội, tức là ăn trộm đồ vật của người khác. Nhưng tại Ấn Độ, khi đức Phật chế giới, đă có một tiêu chuẩn: “Ở Ấn Độ, nếu thứ ǵ đáng giá năm đồng tiền Ấn Độ th́ cũng kể như đă phạm tội căn bản”, cũng tức là tội căn bản thuộc về giới trộm cắp.

          Hoặc là đại vọng ngữ. Trong Phật giáo, đại vọng ngữ là “chính ḿnh chưa chứng mà nói là đă chứng, chưa đắc mà nói là đă đắc”, đó gọi là đại vọng ngữ. Chưa đắc thánh quả, tự nói đă chứng thánh quả, lường gạt kẻ khác tín ngưỡng. Chính ḿnh v́ danh lợi mà lường gạt tín ngưỡng, chủ yếu là v́ lợi. Bốn loại ấy được gọi là “dâm, giết, trộm, dối”. V́ trong pháp Thanh Văn, đặt giới dâm ra trước. Quư vị thọ Bồ Tát giới, [thứ tự] sẽ là “giết, trộm, dâm, dối”, xếp dâm vào vị trí thứ ba. Điều đó có mối liên quan: Nơi Bồ Tát, đại từ đại bi là chánh yếu, dùng tâm Bồ Đề cứu độ hết thảy chúng sanh, lẽ đâu c̣n có thể sát hại chúng sanh? Do vậy, tội này nặng nhất. Theo thứ tự, sát giới nặng nhất. Đối với trộm cắp, hành Bồ Tát đạo th́ phải bố thí, điều đầu tiên là phải bố thí chúng sanh, dẹp khổ cho chúng sanh, lẽ nào c̣n có chuyện trộm cắp món ǵ của chúng sanh để nuôi béo chính ḿnh? V́ thế, kẻ ấy phạm tội rất nặng. Đó gọi là bốn căn bản.

          Dâm, giết, trộm, dối, trong bốn tội căn bản ấy, hễ phạm một loại, sẽ đáng bị chiết phục trong các sự nghiệp (các pháp Yết Ma) được thực hiện bởi các bật-sô. Quư vị làm chuyện ấy, đă bôi đen các vị tỳ-kheo thanh tịnh. “Chiết phục” (折伏) có nghĩa là bị kẻ khác khuất phục, hoặc là tự ḿnh chịu chiết phục, cho đến nói kẻ phạm loại tội căn bản ấy th́ trong các sự nghiệp do hàng tỳ-kheo thực hiện, kẻ ấy sẽ bị quở phạt. Đối với hết thảy các vật do thí chủ cúng dường cho tứ phương tăng, đều chẳng cho phép kẻ đó hưởng dụng. Hết thảy pḥng ốc, y phục, thậm chí những vật dụng của Tăng chúng đều chẳng thể chia cho kẻ đó, cũng có nghĩa là hủy bỏ các phước lợi mà Tăng nhân đáng được hưởng thụ. Tuy vậy, hạng người như thế “nhi diệc bất hợp gia kỳ tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng. Như thị danh vi ư tánh tội trung, căn bản trọng tội Vô Y Hạnh pháp” (cũng chẳng nên dùng roi, gậy đánh đập, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi bới, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng họ. Như thế gọi là Vô Y Hạnh Pháp thuộc trọng tội căn bản trong tánh tội). V́ các pháp ấy đều là pháp Vô Y Hạnh, chẳng sanh điều thiện, chẳng sanh công đức. Như trong phần trước chúng tôi đă nói: Thực hiện những hạnh chẳng thể sanh ra công đức th́ hạnh ấy được gọi là pháp Vô Y Hạnh.

          V́ sao lại nói là phạm tội căn bản? Tiếp đó, [đức Phật] giải thích tội căn bản là ǵ? Giả sử có kẻ phạm bốn pháp ấy, thân hoại, mạng chung, đọa vào các đường ác, tùy thuộc các t́nh tiết khi kẻ đó phạm tội [mà sẽ đọa vào đường nào]. Nói theo giới luật, sẽ là phải nghiên cứu khi quư vị phạm giới, cái tâm có mạnh mẽ hay không. Mạnh mẽ sẽ đóng vai tṛ chủ chốt, mà cố ư hay vô t́nh cũng đóng vai tṛ chủ chốt [để quyết định quả báo]. Hoặc là trong khi quư vị giết người thuộc chủng loại khác, cái tâm sân hận của quư vị hết sức nặng nề, đấy là [tâm phạm tội] “mạnh mẽ”. Nếu quư vị sắp giết, lại chẳng muốn giết, tâm t́nh ấy chính là chẳng mạnh mẽ. Cũng có nghĩa là khi quư vị giết, cảm thấy chính ḿnh đang phạm tội, trong tâm chính ḿnh cũng rất khó chịu, nhưng lại không thể chẳng giết kẻ đó. Chẳng giết kẻ đó, chỉ sợ sẽ gặp nguy hại, tội ấy sẽ nhẹ hơn một chút.

          Do vậy, v́ sao phải học Giới? Do học mấy loại này, một đằng là nhân, cái nhân là mạnh mẽ, hay không mạnh mẽ. Một đằng khác là duyên, duyên thúc đẩy thành tựu. T́nh huống của duyên rất phức tạp, đều phải phân biệt trong ấy. Khi kẻ đó phạm tội, nếu đă học pháp luật, sẽ hiểu điều này. Pháp thế gian cũng giống như thế. Đó gọi là tội căn bản, được gọi là “căn bản tội”. Nếu có kẻ phạm bốn pháp ấy, thân hoại, mạng chung, đọa vào đường ác. Có kẻ phạm phải hạnh dâm tà, sẽ đọa làm chim uyên ương, đọa vào súc sanh đạo, sẽ đọa vào bàng sanh đạo. Bàng sanh cũng là súc sanh, nhưng chẳng phải là loài phi cầm (飛禽, chim bay). Súc sanh bao gồm rất nhiều loại, có loài ở trong biển, hoặc sống trên mặt đất, đều có những điểm khác biệt. V́ sao gọi Vô Gián, Cận Vô Gián, và tội căn bản là đại tội ác cực nặng? Đấy là những thứ tạo nên tội nghiệp, là pháp Vô Y Hạnh.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Thí như thiết đoàn, diên tích đoàn đẳng, trịch trí không trung, chung vô tạm trụ, tất tốc đọa địa, tạo Ngũ Vô Gián, cập Cận Vô Gián tứ căn bản tội, tịnh báng chánh pháp, nghi Tam Bảo đẳng. Nhị chủng tội nhân diệc phục như thị. Nhược nhân ư thử thập nhất tội trung, tùy tạo nhất chủng, thân hoại, mạng chung, vô dư gián cách, định sanh Vô Gián đại địa ngục trung, thọ chư kịch khổ. Cố danh cực trọng đại tội ác nghiệp Vô Y Hạnh pháp. Phạm thử cực trọng đại tội ác nghiệp Vô Y Hạnh pháp Bổ Đặc Già La, ư hiện thân trung, quyết định bất năng tận chư phiền năo, thượng bất năng thành chư tam-ma-địa, huống năng thú nhập chánh tánh ly sanh? Bỉ nhân mạng chung, định sanh địa ngục, thọ chư trọng khổ.

          ()善男子,譬如鐵摶、鉛錫摶等,擲置空中,終無暫住,必速墮地;造五無間,及近無間四根本罪、並謗正法、疑三寶等,二種罪人亦復如是。若人於此十一罪中,隨造一種,身壞命終,無餘間隔,定生無間大地獄中受諸劇苦,故名極重大罪惡業無依行法。犯此極重大罪惡業無依行法補特伽羅,於現身中,決定不能盡諸煩惱,尚不能成諸三摩地,況能趣入正性離生?彼人命終,定生地獄,受諸重苦。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ví như ḥn sắt, hoặc ḥn ch́ pha thiếc v.v… quăng lên không trung, trọn chẳng thể tạm thời dừng lại, ắt nhanh chóng rơi xuống đất. Tạo tội Ngũ Vô Gián và bốn tội căn bản Cận Vô Gián, cũng như báng chánh pháp, nghi ngờ Tam Bảo v.v… Hai loại tội nhân ấy cũng giống như thế. Nếu ai trong mười một tội ấy, hễ tạo một thứ, thân hoại, mạng chung, chẳng hề xen hở, chắc chắn sanh trong đại địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ cùng cực. V́ thế gọi là pháp Vô Y Hạnh ác nghiệp đại tội cực nặng. Bổ Đặc Già La (hữu t́nh) phạm pháp Vô Y Hạnh ác nghiệp đại tội cực nặng ấy th́ trong đời hiện tại, chắc chắn chẳng thể dứt hết các phiền năo, c̣n chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa, huống hồ có thể tiến nhập chánh tánh ly sanh. Kẻ ấy mạng chung, chắc chắn sanh vào địa ngục, chịu các nỗi khổ nặng nề).

         

          Cầm ḥn sắt hoặc ḥn ch́, phàm là thứ ǵ nặng nề, quư vị ném lên không trung , nó sẽ rơi xuống hết sức nhanh chóng, chẳng ngừng chút nào. Vật nặng, ném lên không trung, chẳng thể tạm ngừng trên không trung. Đấy là nói: Kẻ phạm vào loại tội này, hễ mạng chung, trong ṿng một niệm, ngay lập tức đọa địa ngục. Người ấy chết đi, quư vị quàn lại bảy ngày cũng thế, hay ngay lập tức đem thiêu cũng thế, trọn chẳng có giá trị mảy may, chẳng ăn nhằm chi hết. Trong Phật giáo, sau khi một người đă chết, phải quàn thi thể tối thiểu ba ngày, cho đến bảy ngày. V́ sao? Thần thức của kẻ đó chưa rời thân thể, nghiệp thiện ác cũng chẳng mạnh mẽ. Nếu nghiệp thiện mạnh mẽ, trong thời gian một niệm, có thể sanh về thế giới Cực Lạc; hễ mạng chung, sẽ ra đi ngay trong một niệm. Hoặc là sanh lên trời, đi ngay trong một niệm. Nếu chẳng vậy, [tức là] thiện nghiệp cũng chẳng mạnh mẽ, ác nghiệp cũng chẳng mạnh mẽ, khi kẻ đó hướng đến chỗ thọ báo trong tương lai, cũng chẳng mạnh mẽ [sanh ngay vào đó]. Chẳng mạnh mẽ, sẽ rất chậm răi, thần thức của kẻ đó chẳng ĺa thân xác, vẫn đắm luyến thể xác, chẳng nỡ bỏ. Do thần thức chưa rời thân thể, đành phải quàn lại mấy ngày như vậy. Đợi đến khi xác định người ấy đă chết hẳn, thân đă lạnh rồi mới rời đi.

          Trong kinh đă nói chuyện này rất cặn kẽ. Có những kẻ lúc ra đi, phần dưới thân thể lạnh trước, hoặc lạnh trước từ đầu. Lạnh trước từ phần đầu, phần nhiều đọa tam đồ. Từ phần dưới lạnh lên, có cơ hội sanh thiên nhiều hơn. Kiểu trắc nghiệm này dành cho kẻ bất định đối với hai loại nghiệp (thiện nghiệp lẫn ác nghiệp đều chẳng mạnh mẽ). Nhưng đối với kẻ tạo nghiệp mạnh mẽ, sẽ đọa địa ngục nhanh như tên bắn, giống như ḥn sắt, ḥn ch́, do chúng nặng nề, ném lên không trung, sẽ rơi phịch xuống rất nhanh, trọn chẳng thể tạm dừng, ắt nhanh chóng rơi xuống đất. Nhất định sẽ rơi phịch xuống, lại c̣n rơi rất nhanh! Hai loại tội nhân tạo Ngũ vô Gián và Cận Ngũ Vô Gián, cho đến bốn tội căn bản, cũng như báng chánh pháp, hoài nghi Tam Bảo, và hai loại tội nhân Cận Tứ Vô Gián, Cận Tứ Căn Bản Tội cũng sẽ giống như vậy, đọa địa ngục rất nhanh chóng!

          “Ư thử thập nhất tội trung, tùy tạo nhất chủng, thân hoại, mạng chung, vô dư gián cách” (Trong mười một tội ấy, hễ tạo một loại, khi thân mạng, mạng chung, sẽ không xen hở): Năm tội Vô Gián trên đây là năm loại, được gọi là Ngũ Vô Gián. [Cộng thêm] bốn tội căn bản là bốn loại nữa, hợp thành chín loại. C̣n có hai loại nữa là cận Căn Bản và cận Vô Gián; do vậy, thành mười một loại. Hễ phạm một loại nào, thân hoại, mạng chung, sẽ chẳng có xen hở! Trong khoảng mạng chung, một tí kẽ hở cũng chẳng có. “Định sanh Vô Gián đại địa ngục trung, thọ chư kịch khổ” (chắc chắn sanh trong đại địa ngục Vô Gián, chịu các nỗi khổ cùng cực): Loại khổ nạn này hết sức dữ dội, cho nên gọi là “cực trọng đại tội ác nghiệp”. Bổ Đặc Già La phạm phải Vô Y Hạnh pháp, phạm cực trọng đại tội ác nghiệp, trong hiện đời, loại chúng sanh ấy chắc chắn chẳng thể chấm dứt các phiền năo được!

          Đời này, quư vị mong trừ sạch các phiền năo, chứng đắc Phật quả, sẽ chẳng thể được! Thậm chí cũng chẳng thể đắc Định. C̣n chẳng thể thành tựu tam-ma-địa, huống hồ có thể tiến nhập chánh tánh ly sanh ư? “Ly sanh chánh tánh” là nói đến Niết Bàn. Chánh tánh ly sanh của bậc kiến đạo đă rời ĺa sanh tử phiền năo, đó gọi là “tiến nhập chánh tánh ly sanh, tiến nhập Niết Bàn, ĺa khỏi sanh tử”. Người đó mạng chung, chắc chắn sanh vào địa ngục, không chỉ chẳng thể chứng quả, mà sanh thiên cũng chẳng thể, mà cũng chẳng thể tái sanh trong loài người. “Thọ chư chúng khổ” (chịu các thứ khổ): Từ địa ngục Vô Gián thoát ra, thời gian hết sức lâu dài. Dẫu lại có thể thác sanh trong nhân gian, nhưng do nghiệp lực trong quá khứ, kẻ đó sẽ trở nên mù, điếc, câm, ngọng, tứ chi tàn khuyết. Người như thế từ trong ba ác đạo thoát ra, hoặc từ địa ngục thoát ra, đại khái là hạng người từ Ngũ Vô Gián thoát ra rất đông. Họ đầu thai vào các gia đ́nh vẫn là kẻ ác hạnh. “Phương dĩ tụ loại, vật dĩ quần phân” (Các phương thức tụ tập thành loại, mọi vật chia thành từng nhóm). Chớ nên tạo loại tội này! Thông qua bái sám, xưng danh hiệu, Đại Bi Sám cũng được, Địa Tạng Sám cũng được. Chúng ta bái Chiêm Sát Sám, bái Thiên Phật Danh Sám đều có thể tiêu trừ loại nghiệp này. Đó gọi là pháp Đại Thừa. Quư vị niệm thánh hiệu Địa Tạng, niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm mấy vị đại Bồ Tát, cho đến niệm Phật hiệu, đều có thể tiêu diệt trọng tội của quư vị. Bất quá, chẳng thể nào mong thành tựu ngay trong đời này được!

          Chúng tôi lại nói ngược lại, người thành tựu trong đời hiện tại tức là trong quá khứ đă tích tập các nghiệp rất tốt lành, rất to lớn, tu đạo sắp thành, mà chưa thành tựu, cho nên trong đời này bèn hoàn thành. Ư nghĩa là như thế đó. Quư vị thấy người khác được cúng dường, quư vị phải tùy hỷ, tán thán, v́ người ấy có công đức và phước báo. Tuy quư vị chẳng đạt được, nhưng do tùy hỷ, tán thán, quư vị sẽ có được một nửa, nhất định phải tùy hỷ công đức. Đại nguyện thứ năm trong mười đại nguyện vương là “tùy hỷ công đức”, tức là chúng ta gieo thiện căn, cho đến vun bồi phước. Đấy là phương pháp tốt nhất. Quư vị thấy trên đường phố, bất luận là đệ tử Tam Bảo, hay người b́nh phàm, tùy tiện làm chuyện tốt lành ǵ, thấy người ta phóng sanh, tuy quư vị chẳng bỏ tiền, nhưng tán thán, tùy hỷ đôi chút, quư vị sẽ có công đức giống như người đó. Thấy chuyện thiện, quư vị đều nên tùy hỷ. Thấy chuyện ác, nhất định phải sám hối, giúp kẻ đó hồi hướng, như thế th́ chính quư vị đang hành Bồ Tát đạo. Đại nguyện thứ tư là “sám hối”, đă sám hối rồi bèn tùy hỷ. Chuyện này phải thực hiện bất cứ lúc nào. Đấy là tư lương. Chuẩn bị loại tư lương này sẽ có mối quan hệ rất lớn đối với chuyện thành đạo trong tương lai!

 

          (Kinh) Phục thứ Đại Phạm! Nhược thiện nam tử, nhược thiện nữ nhân, dĩ tịnh tín tâm, quy y ngă pháp, hoặc thú Thanh Văn Thừa, hoặc thú Độc Giác Thừa, hoặc thú Đại Thừa, ư ngă pháp trung, tịnh tín xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, ư chư học xứ, thâm tâm kính trọng, ư tứ căn bản tánh tội giới trung, kiên cố dũng mănh, tinh cần thủ hộ. Như thị chi nhân, thường vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng, tùy trục ủng vệ, danh bất hư thọ nhân thiên cúng dường.

          ()復次大梵,若善男子,若善女人,以淨信心歸依我法,或趣聲聞乘,或趣獨覺乘,或趣大乘,於我法中淨信出家,受具足戒;於諸學處,深心敬重;於四根本性罪戒中,堅固勇猛,精勤守護。如是之人,常為一切人非人等,隨逐擁衛,名不虛受人天供養。

          (Kinh: Lại này Đại Phạm! Nếu thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân dùng tâm tịnh tín, quy y pháp của ta, hoặc tiến hướng Thanh Văn Thừa, hoặc tiến hướng Độc Giác Thừa, hoặc tiến hướng Đại Thừa, ở trong pháp của ta, tịnh tín, xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, đối với các học xứ, thâm tâm kính trọng, đối với giới về bốn căn bản tánh tội, kiên cố, dũng mănh, siêng ṛng ǵn giữ, người như thế thường được hết thảy nhân phi nhân v.v… theo sát ủng hộ, bảo vệ, được gọi là “chẳng luống uổng tiếp nhận sự cúng dường của trời, người”).

 

          Trong phần trước nói về kẻ làm ác, phá giới; ở đây, nói về tŕ giới, so sánh giữa hai đằng. Nếu có kẻ nam, người nữ, tức là những nam tử rất thiện lương, rất tốt, những nữ nhân rất tốt, có tâm tịnh tín. Chúng ta đều có tín tâm, nhưng “tịnh” th́ rất khó. Nói chung là chẳng v́ danh, chẳng v́ lợi, mong cầu thánh đạo, chẳng phải mong sống ăn bám an nhàn, thấy ḥa thượng bèn nghĩ làm ḥa thượng rất dễ sống. Trong quá khứ, đă có câu thơ hâm mộ cuộc sống của ḥa thượng: “Thiết giáp tướng quân dạ độ quan, triều thần thị lậu ngũ canh hàn, nhật xuất tam can tăng vị khởi, khán lai danh lợi bất như nhàn” (Tướng quân giáp sắt đêm vượt ải, quan đi chầu sớm rét buốt xương, trời đă gần trưa, Tăng chửa dậy, xem ra danh lợi chẳng bằng nhàn). Sau khi tôi xuất gia, cảm thấy bài thơ ấy không đúng. V́ sao? “Nhật xuất tam can tăng vị khởi” (Mặt trời mọc cao ba sào, tăng vẫn chưa dậy). Họ thấy ḥa thượng đang ngủ, trọn chẳng biết hai giờ rưỡi sáng ḥa thượng đă phải thức dậy, lên chánh điện tụng niệm, uống cháo xong, quá đường xong, trở về nghỉ ngơi đôi chút. Họ trông thấy, tưởng ḥa thượng vẫn chưa thức dậy. Có người ngủ một chút, có người tĩnh tọa, họ chỉ thấy khi đó. Ḥa thượng hai rưỡi sáng đă thức dậy, quư vị vào chùa miếu mà xem. Chuông, trống vừa gióng, mọi người trong chùa đều thức dậy, quư vị chẳng thể trốn tránh phận sự. Dùng tâm thái như vậy để xuất gia, hâm mộ cuộc sống ḥa thượng an nhàn, hoặc là trốn nợ, hoặc là lánh nạn, trà trộn làm ḥa thượng. Kẻ như thế chẳng thể làm một vị ḥa thượng tốt, nhưng quư vị cũng chớ nên khinh rẻ hắn, có ư nghĩa này. Đấy là có tâm tịnh tín.

          Sau khi đă quy y Phật pháp, người ấy cầu tu đạo, hoặc là tu Tứ Đế, tức Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tu mười hai nhân duyên, hoặc là tu Lục Độ vạn hạnh. Chúng ta nói tổng quát, lấy những pháp ấy làm đại diện, đó là “tam thừa nhân”. Người ấy dùng tín tâm thanh tịnh xuất gia như vậy, thọ Cụ Túc Giới. “Ư chư học xứ” (nơi các học xứ): “Học xứ” là giới. Đă thọ giới th́ phải học, ắt cần phải thọ tỳ-kheo giới rồi mới có thể học. Bồ Tát giới th́ ngược lại, trước đó, phải học cho kỹ rồi mới thọ giới. Tam Quy, Ngũ Giới dễ dàng. Quư vị có thể học trước rồi mới thọ, cũng có thể là thọ rồi mới học. Đó là phương tiện thiện xảo để nhiếp dẫn (nhiếp thọ, tiếp dẫn), nhưng giới của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni th́ khác hẳn. Sau khi đă thọ giới, năm năm đầu của vị tỳ-kheo xuất gia nhất định phải học giới luật. Học giới tinh thông rồi mới có thể học kinh, học luận. Giới luật là trước hết. Đồng thời, khi học phải trọn đủ thâm tâm, thiện tâm, và tịnh tâm. Thâm tâm bao gồm rất nhiều; ở đây nói là thâm tâm, tức là phải có cái tâm chí thành, khẩn thiết. Đại Thừa Khởi Tín Luận giảng thâm tâm phải trọn đủ hết thảy các thiện pháp, những ǵ đại Bồ Tát đă làm chỉ là thâm tâm, mà cũng là chí thành khẩn thiết. Như vậy th́ mới có thể kiên cố, dũng mănh, siêng ṛng ǵn giữ bốn giới căn bản về “giết, trộm, dâm, dối”. Thọ giới dễ dàng, giữ bốn giới căn bản rất khó. Do vậy, ắt cần phải kiên cố. “Kiên cố” có nghĩa là hết sức kiên cường, bị bất cứ thử thách nào cũng đều chẳng ngă ḷng, quư vị mới có thể giữ được bốn giới căn bản. Nếu không, chẳng dễ ǵ giữ được! V́ có tập khí trong vô lượng kiếp quá khứ, nhưng chỉ hạn định trong giới tướng tỳ-kheo, quư vị giữ vững là được rồi.

          Trong giới Bồ Tát, cũng là nói đến cái tâm. Như bốn căn bản giới, tâm sân hận chẳng dấy lên, chẳng có cái tâm giết người, sẽ chẳng thể giết người được. Khi quư vị hận thù kẻ khác, cái tâm ǵ cũng đều nẩy sanh. Trước hết, không nói đến chuyện giết người. Quư vị thấy con gián hoặc con chuột, cắn hư thứ ǵ đó, hay phá hủy thức ăn của quư vị, tâm sân hận lập tức bốc lên. Quư vị muốn bắt nó chỉnh cho nó chết đứ đừ, đấy là sát tâm. Do vậy, quư vị ắt cần phải có tín ngưỡng sâu sắc; đó là ư nghĩa “kiên cố, dũng mănh”. Bốn giới căn bản ấy, quư vị chớ nên lui sụt. Hễ lui sụt đôi chút, xong mất rồi! Tuy chẳng phạm căn bản, chẳng phạm rốt ráo, nhưng xét theo một phương diện, quư vị lại phạm mất rồi. Phải tinh tấn ǵn giữ, một tí buông lung cũng không được!

          “Pḥng ư như thành” (ngăn ngừa tâm ư như ǵn giữ thành tŕ): Giữ giới như ngọc như ư trắng sạch, không tỳ vết, chẳng thể có một tí sứt mẻ, làm như thế nào? Hễ phạm sai lầm, bèn lập tức sám hối. Mỗi nửa tháng bố-tát chính là nêu ra những sai lầm chính ḿnh đă phạm, khiến cho đại chúng Tăng hay biết. Quư vị đă thanh tịnh, lại hoàn nguyện. Điều này giống như y phục đă bẩn, hăy giặt giũ. Giặt xong, vẫn chẳng hoàn toàn sạch sẽ như cũ. Y phục đă rách, đem vá, vá so với giặt c̣n khó khăn hơn. Tuy nói là đă vá, vẫn có vết vá. Đă phá giới, tuy quư vị đă sám hối, nhưng nói chung vẫn có khuyết điểm. Do vậy, quư vị siêng ṛng ǵn giữ. Nếu giữ chẳng phạm như thế th́ mới có thể được trời, người cúng dường. “Nhân phi nhân đẳng”, “phi nhân” là nói đến quỷ thần. Họ sẽ ủng hộ quư vị, được trời, người cúng dường.

 

          (Kinh) Ư tam thừa trung, tùy sở hân nhạo, tốc năng thú nhập, thành biện cứu cánh. Thị cố, chân thật cầu Niết Bàn giả, ninh xả thân mạng, chung bất hủy phạm như thị tứ pháp. Sở dĩ giả hà? Chư hữu t́nh loại yếu do tam nhân đắc Niết Bàn lạc, nhất giả, y chỉ Như Lai vi nhân; nhị giả, y ngă thánh giáo vi nhân; tam giả, y ngă đệ tử vi nhân. Chư hữu t́nh loại y thử tam nhân, tinh cần tu hành, đắc Niết Bàn lạc. Nhược nhân hủy phạm như thị tứ pháp, ngă phi bỉ sư, bỉ phi đệ tử.

          ()於三乘中隨所欣樂,速能趣入成辦究竟。是故真實求涅槃者,寧舍身命,終不毀犯如是四法。所以者何?諸有情類,要由三因得涅槃樂:一者、依止如來為因,二者、依我聖教為因,三者、依我弟子為因。諸有情類依此三因,精勤修行,得涅槃樂。若人毀犯如是四法,我非彼師,彼非弟子。

          (Kinh: Trong tam thừa, tùy ḷng ưa thích mà mau chóng tiến nhập, tu tập hoàn măn, thành tựu rốt ráo. Do vậy, người chân thật cầu Niết Bàn, thà xả thân mạng, trọn chẳng hủy phạm bốn pháp như thế. V́ cớ sao vậy? Các loại hữu t́nh cần phải do ba cái nhân mà đạt được niềm vui Niết Bàn: Một là y chỉ Như Lai làm nhân. Hai là nương theo thánh giáo của ta làm nhân. Ba là nương cậy đệ tử của ta làm nhân. Các loài hữu t́nh nương theo ba cái nhân ấy, siêng ṛng tu hành, đạt được niềm vui Niết Bàn. Nếu có kẻ hủy phạm bốn pháp như thế, ta chẳng phải là thầy kẻ đó, kẻ đó chẳng phải là đệ tử [của ta]).

 

          Trong pháp tam thừa Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, tùy ḷng quư vị ưa thích, do cái nhân trong đời trước và trợ duyên bên ngoài trong hiện thời, nhân duyên đă chín muồi [bèn học theo một pháp]. Như thế th́ quư vị học pháp Tứ Đế, hoặc học pháp nhân duyên, pháp Lục Độ, chẳng phạm bốn căn bản giới. Các oai nghi tế hạnh khác nếu quư vị trót phạm, hễ sám hối liền thanh tịnh, chẳng chướng ngại quư vị tu đạo, chẳng chướng ngại quư vị thành tựu. Phạm bốn căn bản giới sẽ chướng ngại quư vị tu đạo thành tựu, khi quư vị tu đạo, sẽ chẳng có cách nào tiến nhập! V́ sao nói như vậy? Nếu tu tập đến rốt ráo, như thế th́ mới cầu Niết Bàn, cầu đạo lư “bất sanh, bất tử, bất sanh, bất diệt”. Do vậy, quư vị giữ giới này, phải giữ kiên cố đến mức độ như thế nào? “Ninh xả thân mạng” (thà xả thân mạng)! Trong giới luật nơi kinh Phật, chẳng sát sanh tới mức độ nào? Bị trói bằng sợi cỏ. Khi gă đạo tặc bắt người ấy, chẳng có ǵ để trói được, bèn đem sợi thừng cột người ấy xuống cỏ. Hắn biết tỳ-kheo chẳng dám động. Hễ động, cỏ sẽ bị nhổ bật lên; như thế là phá giới. Các đạo tặc Ấn Độ đối với người xuất gia tin tưởng như thế đó. Đó gọi là “thảo hệ tỳ-kheo” (比丘, tỳ-kheo bị buộc vào cỏ). Nếu như vậy, vị ấy sẽ thành đạo. Đó gọi là “dũng mănh tinh tấn”.

          Chúng ta đều có phương tiện thiện xảo. V́ sao phải cột vị ấy vào cỏ? Quư vị cột vị ấy vào cây, vị ấy sẽ nghĩ cách tháo gỡ, tự bỏ chạy, có phải là như vậy hay không? Đây là nói tới chuyện tŕ giới kiên cố, vị ấy thà xả thân mạng, trọn chẳng phạm bốn pháp như thế, chẳng phạm bốn giới dâm, giết, trộm, dối. V́ sao phải nói như vậy? “Sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy): Nhằm nói hết thảy các loài hữu t́nh phải do ba cái nhân mà đạt được niềm vui Niết Bàn. Ba cái nhân ấy, đầu tiên là y chỉ Như Lai. “Y chỉ Như Lai vi nhân” (nương cậy Như Lai làm cái nhân). Mở rộng hơn một chút, sẽ là y chỉ thiện tri thức, nương cậy Phật, phải nương vào thánh giáo, phải nương vào pháp. Như Lai là nhân, thánh giáo là nhân, tức là dùng pháp làm nhân. Lại c̣n phải nương cậy đệ tử của ta, cũng tức là y chỉ Tăng. Đó gọi là y chỉ Tam Bảo làm nhân. Sau đó, sẽ tiếp nhận lời chỉ dạy, đấy là nói Tam Tạng kinh, luật, luận đều được bao gồm trong ấy, hoàn toàn chẳng phải chỉ chuyên nói về giới luật, mà Kinh và Luận cũng đều được gộp vào trong đó. Hết thảy loài hữu t́nh, hết thảy chúng sanh nương vào ba cái nhân ấy, tức là nương theo Phật, Pháp, Tăng siêng năng tu hành, sẽ có thể chứng đắc niềm vui Niết Bàn.        

          Những điều này tôi đă giảng ở hội quán Thanh Tuyền tại Đài Bắc bốn lần, giảng về quy y Tam Bảo, cũng là nói nương theo Tam Bảo để tu hành là đủ rồi, Nương theo quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, ngày đêm tŕ tụng “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, công đức vô lượng. V́ thế, coi điều này là cái nhân. Lại c̣n có trợ duyên. Đă có ba cái nhân ấy, siêng ṛng tu hành, tinh tấn dũng mănh tu hành, chẳng giải đăi. Kinh Đại Tập Thập Luân dạy cách tu bằng “tŕ lai khứ niệm”, tức là quán hơi thở ra vào. Đấy đều là phương pháp tu hành. V́ thế, Tam Bảo làm nhân, tức là quư vị chẳng phân biệt người nào phạm giới hay chẳng phạm giới, không quan tâm, chỉ quan tâm giữ sao cho cái tâm của chính ḿnh tốt đẹp. Cái nhân ấy gieo trong tâm quư vị. Đức Phật dạy: Đối với hết thảy các đệ tử của ta, quư vị chẳng cần phân biệt họ. Quư vị đối xử b́nh đẳng với hết thảy tăng chúng, đối với thánh tăng ta cũng thế, mà đối với phàm phu tăng, ta cũng coi như thánh tăng. Đối với thánh tăng và phàm phu tăng, chẳng khởi phân biệt. Chẳng nói “vị Tăng này tu đạo, tu hành tốt lắm. Nếu ta cúng dường vị ấy, phước báo sẽ to hơn một chút. Ông tăng kia là ḥa thượng phá giới, ta cúng dường hắn, chỉ sợ phước báo của ta bị giảm bớt”. Quư vị đừng phân biệt như thế! Nếu quư vị chẳng có cái tâm phân biệt, sẽ đều trở thành cúng dường thánh tăng. Như thế th́ quư vị sẽ gieo phước báo, sẽ đạt được phước báo, đạo tu hành là như thế đó.

          Nếu quư vị thấy đây là tượng đất nặn, tượng gỗ khắc, nói đó là tượng giấy, [phân biệt] tượng vẽ trên giấy, tượng bằng đất đắp, tượng bằng gỗ khắc, đương nhiên là sẽ chẳng linh. Giấy th́ linh nỗi ǵ? Quư vị coi đó là Phật thật sự, th́ sẽ linh. Đó là cái tâm của quư vị linh. Đấy chính là Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo ở ngay trong tâm quư vị, làm cái nhân tu đạo cho quư vị. Quư vị có tịnh tín, tức là có tín tâm thanh tịnh th́ mới có thể tiến nhập, mới có thể đạt tới vô phân biệt. Nếu chẳng có tín tâm thanh tịnh, làm sao có thể vô phân biệt cho được? Hai con mắt của chúng ta dùng ư thức và nhăn thức sẽ có phân biệt. Theo thói quen, c̣n chẳng đợi thiệt căn nếm thử, quư vị đă biết đắng, cay, chua, ngọt. Khổ qua nhất định là đắng! Phải luôn canh giữ loại đạo lư này. Đó là nói hết thảy các hữu t́nh phải y chỉ ba cái nhân ấy, siêng ṛng tu hành, th́ mới có thể đạt được niềm vui Niết Bàn. Nếu hủy phạm bốn pháp như thế, phạm phải “dâm, giết, trộm, dối”, ta chẳng thừa nhận kẻ đó là đệ tử của ta. “Ngă phi bỉ sư, bỉ phi đệ tử” (ta chẳng phải là thầy của kẻ đó, kẻ đó chẳng phải là đệ tử), phải trục xuất ra khỏi Phật pháp!

 

          (Kinh) Nhược nhân hủy phạm như thị tứ pháp, tắc vi vi việt ngă sở tuyên thuyết thậm thâm quảng đại vô thường, khổ, không, vô ngă, tương ứng lợi ích, an lạc nhất thiết hữu t́nh biệt giải thoát giáo. Nhược việt như thị biệt giải thoát giáo, tắc ư nhất thiết Tĩnh Lự, đẳng tŕ, giai thành manh minh, bất năng thú nhập, vị chư phiền năo ác nghiệp triền phược. Ư tam thừa pháp, diệc vi phi khí, đương đọa ác thú, thọ chư trọng khổ. Nhược thiện nam tử, nhược thiện nữ nhân, ư ngă sở thuyết biệt giải thoát giáo sở chế tứ chủng căn bản trọng tội, thanh tịnh vô phạm, ngă thị bỉ sư, bỉ thị đệ tử, tùy thuận ngă ngữ, thiện trụ ngă pháp, nhất thiết sở tác, giai đương thành măn. Thử nhân thiện trụ Thi La Uẩn cố, danh vị thiện trụ nhất thiết thiện pháp. Hoặc danh cụ túc trụ Thanh Văn Thừa, hoặc danh cụ túc trụ Độc Giác Thừa, hoặc danh cụ túc trụ ư Đại Thừa. Sở dĩ giả hà? Nhược năng hộ tŕ như thị tánh tội tứ căn bản pháp, đương tri tắc vi kiến lập nhất thiết hữu lậu, vô lậu thiện pháp thắng nhân. Thị cố, hộ tŕ như thị tứ pháp, danh vi nhất thiết thiện pháp căn bản.

          ()若人毀犯如是四法,則為違越我所宣說,甚深廣大、無常苦空無我相應利益、安樂一切有情別解脫教。若越如是別解脫教,則於一切靜慮、等持皆成盲冥,不能趣入,為諸煩惱惡業纏縛,於三乘法亦為非器,當墮惡趣,受諸重苦。若善男子,若善女人,於我所說別解脫教,所制四種根本重罪,清淨無犯,我是彼師,彼是弟子。隨順我語,善住我法,一切所作皆當成滿。此人善住尸羅蘊故,名為善住一切善法,或名具足住聲聞乘,或名具足住獨覺乘,或名具足住於大乘。所以者何?若能護持如是性罪四根本法,當知則為建立一切有漏、無漏、善法勝因,是故護持如是四法,名為一切善法根本。

          (Kinh: Nếu kẻ nào hủy phạm bốn pháp như thế, tức là đă trái vượt giáo pháp biệt giải thoát vô thường, khổ, không, vô ngă, tương ứng lợi ích, an lạc hết thảy hữu t́nh rất sâu rộng lớn do ta đă tuyên nói. Nếu vượt giáo pháp biệt giải thoát như thế th́ đối với hết thảy Tĩnh Lự, đẳng tŕ, đều trở thành mù tối, chẳng thể tiến nhập, bị các ác nghiệp phiền năo trói buộc, mà cũng chẳng phải là căn khí thích hợp để tu pháp tam thừa, sẽ đọa trong đường ác, chịu các sự khổ nặng nề. Nếu thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân, đối với bốn loại căn bản trọng tội do ta chế định trong giáo pháp biệt giải thoát mà giữ thanh tịnh, chẳng trái phạm, ta là thầy người đó, người đó là đệ tử của ta, tùy thuận lời ta, khéo trụ trong pháp của ta, hết thảy việc làm sẽ đều thành tựu viên măn. Người đó do khéo trụ trong Thi La Uẩn, cho nên gọi là khéo trụ trong hết thảy các pháp lành. Hoặc gọi là trụ trọn đủ trong Thanh Văn Thừa, trụ trọn đủ nơi Độc Giác Thừa, hoặc gọi là trụ trọn đủ trong Đại Thừa. V́ cớ sao vậy? Nếu có thể hộ tŕ bốn pháp căn bản thuộc về tánh tội như thế, hăy nên biết đó chính là kiến lập cái nhân thù thắng cho hết thảy thiện pháp hữu lậu và vô lậu. V́ thế, hộ tŕ bốn pháp như thế th́ gọi là căn bản của hết thảy các thiện pháp).

 

          Nếu kẻ nào hủy phạm bốn pháp như thế chính là trái nghịch pháp biệt giải thoát “vô thường, khổ, không, vô ngă” rộng lớn rất sâu tương ứng lợi ích, an lạc cho hết thảy hữu t́nh do ta đă nói. V́ đă trái nghịch, vượt qua, cho nên cũng là đă phạm. Trái vượt điều ǵ vậy? Chính là hết thảy các pháp do ta đă nói, nói chung là vô thường, khổ, không, vô ngă, bốn pháp ấy tương ứng với Niết Bàn. Các pháp ấy tương ứng với bất sanh, bất tử, cho đến tương ứng thành tựu đạo nghiệp. Nếu chẳng trái phạm bốn pháp ấy, tương ứng Tứ Thánh Đế Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh đạt được lợi ích, cho đến khiến cho hết thảy chúng sanh có thể giải thoát.

          “Biệt giải thoát”: Quư vị tŕ một giới, sẽ giải thoát trói buộc. Tŕ một giới, sẽ giải thoát các trói buộc, đấy chính là giải thoát. Hai trăm năm mươi giới thanh tịnh chẳng phạm, chứng quả A La Hán, phân biệt giới giải thoát như thế. Nếu trái vượt, sẽ là vi phạm. “Tắc ư nhất thiết Tĩnh Lự, đẳng tŕ, giai thành manh minh” (Tức là đối với hết thảy Tĩnh Lự, đẳng tŕ, đều trở thành tối tăm): Đẳng Tŕ (等持) là tŕ hết thảy các pháp, b́nh đẳng tŕ “pháp nghĩa” của hết thảy các pháp. “Manh minh” (盲冥) là kẻ mù, “minh” () là tối tăm. Trong khi quư vị tu Định, tu pháp, cho đến học giáo nghĩa, quư vị đều chẳng thể tiến nhập, là một bầu tối tăm. “Manh” () là thứ ǵ cũng chẳng trông thấy. Chúng ta có mắt, chẳng phải là mù, nhưng trong chỗ tối tăm mà chẳng có ánh đèn, chẳng có ánh sáng mặt trời, chẳng có ánh sáng mặt trăng, khi chẳng có tam quang (ánh sáng đèn, ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng), quư vị cũng là mù, cũng chẳng thấy chi hết. Do vậy, chẳng thể tiến nhập. Quư vị tiến nhập Niết Bàn bằng cách nào? Bị các ác nghiệp phiền năo trói buộc. “Ư tam thừa pháp, diệc phi pháp khí” (Đối với các pháp tam thừa, cũng chẳng phải là pháp khí): Các ác nghiệp phiền năo như thế đó, các ác nghiệp đă tạo đều chẳng thuận pháp tánh, chẳng tương ứng với giải thoát. Đấy là ác nghiệp.

          Hoặc là nói chúng ta có rất nhiều phiền năo; đấy là v́ những chuyện chúng ta đă làm toàn là sanh ra phiền năo, chẳng nẩy sanh công đức. Công đức không có chỗ để nương tựa, những ǵ quư vị đă làm chẳng đáng trông cậy, là sanh phiền năo, chẳng thể sanh ra công đức, chẳng thể sanh thiện pháp. V́ ác pháp quấn trói quư vị, suốt ngày ở trong phiền năo, quư vị c̣n có thể tu đạo nổi ư? Cho đến quư vị tu đạo tốt hay xấu, sau khi đă tin Phật, bất luận quư vị niệm kinh hay tu Định; đây là cách tốt nhất để kiểm tra, cảm nhận phiền năo của chính ḿnh như thế nào. Quư vị thấy ǵ, trong tâm đều chẳng vui sướng. Sau khi quư vị đă tin Phật, quy y Tam Bảo, thọ Tam Quy, cho đến Ngũ Giới, sở dĩ quư vị chẳng đạt được lợi ích, là v́ quư vị vẫn đang ở trong phiền năo. Phiền năo tương ứng với đường ác, tương ứng với nghiệp bất thiện, tương ứng với ác nghiệp. Chẳng phiền năo là tương ứng với thiện pháp, tương ứng với thiện nghiệp.

          Nếu có thể thủ hộ tốt đẹp bốn giới căn bản, đức Phật nói như thế nào, ta bèn làm như thế đó. “Tùy thuận ngă ngữ, thiện trụ ngă pháp” (tùy thuận lời ta, khéo trụ trong pháp của ta): Y giáo phụng hành. Đức Phật nói như thế nào, người đó liền làm như thế ấy, thường trụ trong Phật pháp. Pháp ấy là pháp ǵ? Phật pháp là tâm pháp của quư vị. Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta “thiện dụng kỳ tâm”. “Thiện dụng kỳ tâm” (Khéo dùng cái tâm) là đoạn phiền năo. Bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, cũng đều vận dụng cái tâm của quư vị rất khá, dùng đến mức tuyệt diệu. Chúng ta thấy rất nhiều người khéo dùng cái ác, tự cho là chính ḿnh có rất nhiều ưu điểm, có rất nhiều chủ ư, dường như là rất có biện pháp, nhưng ư niệm của họ là ác niệm, chẳng hữu dụng đối với điều thiện cho lắm! Những sự nghiệp kẻ ấy đă thực hiện, làm sao có thể thành tựu cho nổi?  

          Nếu “tùy thuận ngă ngữ, thiện trụ ngă pháp” (tùy thuận lời ta, trụ trong pháp của ta), vậy th́ hết thảy những ǵ kẻ ấy đă làm sẽ đều thành măn, tức là thành tựu viên măn, chẳng thiếu khuyết. “Thử nhân thiện trụ Thi La Uẩn” (người ấy khéo trụ trong Thi La Uẩn): Thi La (Śīla) là Luật. Thi La có nghĩa là quư vị khéo ngừa sai, dứt ác. Dứt ác sẽ sanh ra thiện pháp. Đó là hàm nghĩa của Thi La. “Uẩn” () là ẩn tàng. Trong Thi La, ẩn tàng vô lượng thiện pháp, vô lượng công đức. Đó mới gọi là “hân thiện trụ nhất thiết thiện pháp” (vui thích khéo trụ trong hết thảy các pháp lành), “hoặc danh cụ túc trụ Thanh Văn Thừa” (hoặc gọi là trụ trọn đủ trong Thanh Văn thừa), “hoặc danh cụ túc trụ Độc Giác Thừa” (hoặc gọi là trụ trọn đủ trong Độc Giác thừa), “hoặc danh cụ túc trụ Đại Thừa” (hoặc gọi là trụ trọn đủ trong Đại Thừa). Như thế bèn trụ trong tam thừa!

          Mọi người hăy ngẫm xem, bốn giới “dâm, giết, trộm, dối” này, trong quá khứ, tuy chẳng phạm nghiêm trọng như vậy, nhưng trong tâm ta không khống chế, không ngưng dứt được. Ta thấy món đồ tốt của người khác, trong tâm mong có được, mong chiếm làm của riêng, đó là phạm giới trộm cắp. Sanh khởi mong tưởng quá phận, giống như hoa có chủ, không có chủ th́ không tính, trên núi không tính. Hoa “có chủ” [ở đây nói theo ư nghĩa] hoa để cúng Phật, quư vị tới đó ngửi một chút, đó là “trộm hương”. Hương dành để cúng Phật, khi mua hương, hoặc mua hoa, quư vị đừng ngửi trước. Nếu quư vị chẳng mua nó, chẳng dành để cúng Phật, quư vị chẳng có ư niệm dùng để cúng Phật th́ có thể ngửi một chút.

          Nếu quư vị đă xác định, ta mua hoa này để cúng Phật, hễ ngửi một chút th́ là “trộm hương”. Quư vị chẳng được Phật cho phép, đă cầm lên ngửi, tức là “trộm hương”, không được rồi! Giới trộm cắp hết sức khó giữ. Ta chẳng trộm cắp thứ ǵ của ai đó, c̣n phạm giới trộm cắp ư? Rất nhiều người khi tôi bảo họ phạm giới trộm cắp, họ chẳng thừa nhận: “Tôi ăn trộm đồ của người ta ư?” Suốt một ngày, quư vị đều có cái tâm trộm cắp, nghiệp ăn trộm, cách ăn trộm, duyên ăn trộm, rất nhiều! Do vậy, pháp sư Hoằng Nhất soạn riêng một quyển sách nói về giới tướng của giới trộm cắp. Giới tướng của giới trộm cắp rất khó giữ. Nhưng đối với chúng ta mà nói, hễ dời [một vật ǵ đó] khỏi chỗ vốn có của nó là đă vi phạm. Giống như đóa hoa này, quư vị cầm nó ra khỏi chỗ vốn có của nó. Sau đó, ta lại hối hận, đặt nó lại chỗ cũ, đă phạm giới rồi! Vẫn phải sám hối. Chỉ cần dời khỏi chỗ vốn có của nó là đă phạm rồi! Hễ đă xong một niệm thứ nhất th́ đă trở thành sự thật. Sau đó hối hận, niệm thứ hai ta là tŕ giới, cớ sao ta có thể phạm tội ấy? Đấy là phạm Ngũ Giới. Dâm, giết, trộm, dối, bốn căn bản đều trọn đủ. Chạy vội vàng đặt lại chỗ cũ, đă phạm rồi, đặt trở lại th́ cũng được sám hối. Bất quá đấy là lỗi rất nhỏ yếu.

          Nói thật ra, nếu chẳng phạm bốn pháp căn bản, tức là đă kiến lập cái nhân thù thắng của hết thảy thiện pháp hữu lậu và vô lậu. Trong pháp hữu lậu, đó cũng là cái nhân thù thắng. Quư vị mong đạt được phước báo nhân thiên, mong đạt được vinh hoa, phú quư, th́ cũng phải nương theo bốn loại pháp này, đó cũng chính là pháp thế gian và xuất thế gian. Hữu lậu là nói đến pháp thế gian, vô lậu là chứng quả vị trong Phật pháp. Phật pháp là vô lậu, chứng đắc quả vị ấy. Đấy là cái nhân thù thắng của hết thảy thiện pháp, thù thắng nhất. Nhân là cái nhân có thể sanh khởi, tức là có thể sanh khởi hết thảy thiện pháp, là cái nhân thù thắng nhất. V́ thế, hộ tŕ bốn pháp như thế, được gọi là căn bản của hết thảy các thiện pháp. Do vậy, quư vị phải hộ tŕ bốn pháp ấy. Bốn pháp ấy là căn bản của hết thảy các thiện pháp, v́ thiện pháp sẽ do bốn pháp ấy mà sanh, từ đấy mà sanh.

          Chúng ta hăy xem lại, ở đây, nói đến tánh tội. Trong cuộc sống thường nhật, trong mối giao tiếp giữa người với người, mọi người hăy nghĩ xem, người chẳng phạm bốn loại tội ấy có được bao nhiêu? Mọi người đến từ Đài Bắc, hăy nh́n lại xem ở Đài Bắc có bao nhiêu người chẳng phạm bốn loại tội ấy? Rất nhiều. Giết chết oan uổng, hăm hại người khác, bịa chuyện hăm hại người khác, sợ rằng rất phổ biến. Người thật sự muốn hộ tŕ bốn pháp chẳng phạm, đâm ra là thiểu số, kẻ vi phạm trở thành đa số! Do vậy, kinh Đại Tập Thập Luân rất liên quan đến cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta phải nên tùy thời, tùy lúc quán tưởng, bốn loại này rất dễ nhớ. Khi khởi tâm động niệm, quán tưởng cũng rất dễ dàng. Giả sử chẳng thanh tịnh, chẳng có tín tâm kiên cố; trong ấy, nẩy sanh quá nhiều phiền năo, ngàn đầu vạn mối, có đủ loại phương thức, đủ thứ khác nhau. Mọi người biết học giới rất khó! Lăo pháp sư Hoằng Nhất sau khi đă xuất gia, bèn khuyên điểm Nam Sơn tam đại bộ[14], tam đại bộ là ba bộ luận. Ngài hoàn toàn chẳng phê b́nh, chú giải, chỉ khuyên điểm đôi chút, chấm câu, ngắt câu thôi mà đă tốn công sức khá nhiều năm. Nếu chúng ta mở ra xem, dẫu có kiến thức văn học, cũng chẳng dễ đọc hiểu. Khi Ngài (tổ Đạo Tuyên) viết th́ [nguyên bản] c̣n chưa có chấm câu! Giới luật rất khó học, cho nên chúng ta thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất định phải tuân thủ Tam Quy, Ngũ Giới. Ngũ Giới chính là bốn căn bản. Có thể giữ kỹ Ngũ Giới th́ căn bản của hết thảy thiện pháp đều trọn đủ, thậm chí có thể dần dần thành Phật.

 

          (Kinh) Như y đại địa, nhất thiết dược, cốc, hủy, mộc, tùng lâm, giai đắc sanh trưởng. Như thị y chỉ, cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới, nhất thiết thiện pháp giai đắc sanh trưởng. Như y đại địa, nhất thiết chư sơn, Tiểu Luân Vi sơn, Đại Luân Vi sơn, Diệu Cao sơn vương, giai đắc an trụ. Như thị y chỉ cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới, chư Thanh Văn Thừa, cập Độc Giác Thừa, vô thượng Đại Thừa, giai đắc an trụ. Như y đại địa, cầu đắc nhất thiết thế gian mỹ vị. Như thị y chỉ, cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới, cầu đắc nhất thiết Niệm, Định, Tổng Tŕ, an nhẫn thánh đạo, năi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          ()如依大地,一切藥谷卉木叢林皆得生長;如是依止,極善護持四根本戒,一切善法皆得生長。如依大地,一切諸山、小輪圍山、大輪圍山、妙高山王,皆得安住;如是依止,極善護持四根本戒,諸聲聞乘及獨覺乘、無上大乘,皆得安住。如依大地,求得一切世間美味;如是依止,極善護持四根本戒,求得一切念定總持、安忍聖道,乃至無上正等菩提。

          (Kinh: Như nương vào đại địa, hết thảy dược thảo, ngũ cốc, cây cối, rừng rậm đều được sanh trưởng. Y chỉ hộ tŕ bốn giới căn bản cực thiện như thế, hết thảy thiện pháp đều được sanh trưởng. Như nương vào đại địa, hết thảy các núi, núi Tiểu Luân Vi, núi Đại Luân Vi, núi chúa Diệu Cao, đều được an trụ. Y chỉ hộ tŕ bốn giới căn bản cực thiện như thế, các Thanh Văn Thừa, và Độc Giác Thừa, vô thượng Đại Thừa đều được an trụ. Như nương vào đại địa, cầu đạt được hết thảy vị ngon trong thế gian. Y chỉ hộ tŕ bốn giới căn bản cực thiện như thế, cầu đạt được hết thảy Niệm, Định, Tổng Tŕ, an nhẫn thánh đạo, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề).

 

          Bốn giới căn bản là “dâm, giết, trộm, dối”. Giới cấm uống rượu trong Ngũ Giới không kể vào đó. Giới không uống rượu được coi như rất nhỏ. Bốn giới căn bản ấy, bất luận là người quy y Tam bảo, hay đệ tử thọ Tam Quy Ngũ Giới, hoặc đệ tử Bát Quan Trai Giới, cho đến sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na nữ, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, bảy chúng đệ tử đều cùng tuân thủ. V́ sao gọi là căn bản giới? V́ giới căn bản có thể sanh ra trí huệ căn bản. Nếu phạm vào các giới ấy, chẳng thể sanh trí huệ, mà phước đức cũng đều mất đi. Nếu phá bốn căn bản giới, tất cả hết thảy các thiện pháp của quư vị đều chẳng thể an trụ.

          Đức Phật nói tỷ dụ, v́ có đại địa th́ mới có thể sanh trưởng hết thảy các loại lương thực, các loại dược vật, các loại hoa cỏ, cho đến cây cối. Chúng ta biết: Chẳng có cây cối, chúng ta chẳng thể sanh tồn, cây cối chế tạo dưỡng khí (Oxygen, oxygène). Nếu thành thị thiếu cây cối, sẽ chẳng thể điều ḥa dưỡng khí. Nếu chẳng có đại địa, hết thảy sự vật đều chẳng thể tồn tại, có ư nghĩa này. Cũng như vậy, mượn đại địa để tỷ dụ, chúng ta phải hộ tŕ bốn giới căn bản nhằm mục đích sanh trưởng hết thảy thiện pháp của chúng ta. Giống như đại địa, hết thảy núi non phải dựa vào đại địa để an trụ. Hết thảy các thiện pháp đều phải cậy vào hộ tŕ bốn giới căn bản. Nếu sau khi đă thọ Tam Quy, mà chẳng thọ Ngũ Giới, căn bản là người ấy chẳng phạm. Nếu kẻ đó phạm bốn giới căn bản này, sẽ bị quốc pháp chế tài. Phạm bốn giới căn bản này, từ cổ đến nay, pháp luật quốc gia sẽ đều chế tài. Như vậy th́ kẻ đó chẳng phạm giá tội, nhưng công đức và thiện pháp mà người ấy đă đạt được sẽ chẳng thể sanh trưởng, sanh trưởng hết sức chậm chạp!

          Nếu sau khi quư vị đă vào Phật môn, mong đắc Thiền Định, đắc tam-muội. “Tổng tŕ” là tam-muội, đắc đà-la-ni, cho đến đắc Lục Độ vạn hạnh, thậm chí thành Phật, mà nếu chẳng hộ tŕ bốn giới căn bản này, quư vị mong đạt được niệm thanh tịnh, đắc định thanh tịnh, đắc tam-muội, sẽ đều chẳng thể được, càng chẳng mong chi thành Phật được! Giống như đại địa chẳng chọn lựa, nó là b́nh đẳng. Do vậy, bất luận quư vị có ǵ sạch sẽ, hay chẳng sạch sẽ, nó chẳng phân biệt, đều b́nh đẳng ǵn giữ, chẳng lựa chọn, chẳng thể nói “thanh tịnh th́ ta mới duy tŕ, không thanh tịnh ta sẽ không duy tŕ”. Đức Phật dùng điều này để sánh ví tỳ-kheo phá giới. Nếu đă phạm bốn giới căn bản, sẽ lại như thế nào? Như trong phần trước chúng tôi đă nói, đế vương Sát-đế-lợi, hoặc Bà-la-môn, cho đến hai chúng đệ tử tại gia, hết thảy mọi người đều phải tôn kính người xuất gia, chớ nên phá hoại, chớ nên rêu rao lỗi kẻ đó!

 

          (Kinh) Hựu như đại địa, ư tịnh, bất tịnh, giai đẳng nhậm tŕ. Cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới, chư thiện nam tử, cập thiện nữ nhân, diệc phục như thị. Ư thử pháp khí, cập phi pháp khí, kỳ tâm b́nh đẳng, bất cơ, bất lộng, bất tự cống cao, bất suất ha cử, năng vi nhất thiết thiện pháp sanh xứ. Hựu như đại địa, nhất thiết hữu t́nh giai cộng thọ dụng, nhi đắc tồn hoạt. Cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới chư thiện nam tử cập thiện nữ nhân diệc phục như thị, ư chư Như Lai sở thuyết chánh pháp, sanh trưởng đệ nhất hoan hỷ tịnh tín. Ư chư hữu t́nh, vô sai biệt tưởng, dĩ Tứ Nhiếp Pháp b́nh đẳng nhiếp thọ, nhất thiết hữu t́nh giai cộng y chỉ, thọ dụng pháp lạc, nhi tự tồn hoạt.

          ()又如大地,於淨不淨皆等任持;極善護持四根本戒諸善男子及善女人亦復如是,於其法器及非法器,其心平等,不譏不弄,不自貢高,不率呵舉,能為一切善法生處。又如大地,一切有情,皆共受用而得存活;極善護持四根本戒諸善男子,及善女人亦復如是,於諸如來所說正法,生長第一歡喜淨信,於諸有情無差別想,以四攝法平等攝受,一切有情皆共依止,受用法樂而自存活。

          (Kinh: Lại như đại địa, đối với tịnh và bất tịnh đều b́nh đẳng duy tŕ. Các thiện nam tử và thiện nữ nhân hộ tŕ cực tốt đẹp bốn giới căn bản, cũng giống như vậy: Đối với pháp khí và chẳng phải pháp khí, tâm họ b́nh đẳng, chẳng chê bai, chẳng trào lộng, chẳng tự kiêu căng, chẳng khinh suất quở trách, cử tội, có thể làm chỗ sanh ra hết thảy các thiện pháp. Lại như đại địa, hết thảy hữu t́nh đều cùng thọ dụng để được sống c̣n. Các thiện nam tử và thiện nữ nhân hộ tŕ cực tốt đẹp bốn giới căn bản cũng giống như thế, đối với chánh pháp do Như Lai đă nói, sanh trưởng niềm tin thanh tịnh hoan hỷ bậc nhất, đối với các hữu t́nh, chẳng có ư tưởng sai khác, dùng Tứ Nhiếp Pháp để b́nh đẳng nhiếp thọ, hết thảy hữu t́nh đều cùng y chỉ, thọ dụng pháp lạc để tự sống c̣n).

 

          Tiếp đó, nói đến [mối quan hệ giữa] người xuất gia đối với người xuất gia, ḥa thượng đối với ḥa thượng. Đối với tỳ-kheo phá giới, phải nên làm như thế nào? Tăng đoàn này giống như đại địa, đối với tịnh và bất tịnh, tŕ giới thanh tịnh, hay chẳng tŕ giới thanh tịnh, vẫn đối đăi b́nh đẳng. Thế nhưng, hộ tŕ giới thanh tịnh, sẽ dễ thành thánh đạo, dễ thoát ly phiền năo, dễ rời ĺa khổ nạn. Trong quá khứ, quư vị đă phá bốn giới căn bản, tuy trải qua vô lượng ức đời đều hứng chịu khổ năo. Dẫu được lại làm người th́ hoặc là tứ chi tàn khuyết, hoặc tinh thần bất b́nh thường, hoặc chẳng có phước đức, trí huệ. Vậy th́ [những người ấy] đối với chuyện tu Định, tŕ tụng, cho đến chăm lo làm phước như đă nói trong phần trước, sẽ đều chẳng có! Nếu trong quá khứ đă phá căn bản giới, hiện thời, sẽ rất khó lại được nghe pháp, chẳng biết phải trải qua vô lượng ức kiếp, rất khó gặp gỡ Tam Bảo. V́ thế, nói là hết thảy thiện nam tử, thiện nữ nhân hộ tŕ giới, hăy nên giống như đại địa. Có khi là pháp khí, nghe pháp bèn có thể thọ tŕ, cũng là vật dụng chứa đựng pháp. Có khi họ tuy nghe pháp, nhưng chẳng phải là vật dụng chứa đựng pháp, sẽ bị ṛ rỉ mất. Giống như cái chén hoặc cái bát đựng nước, chẳng thể có một lỗ hổng to bằng lỗ kim được. Nếu có chỗ ṛ rỉ, sẽ chẳng thể đựng nước được, sẽ luôn bị chảy mất. Nhưng chúng ta có thể vá đôi chút, t́m đồ để vá bát. Hiện thời, c̣n có một cách, dùng băng dính dán ở dưới, dán lỗ hổng lại, nó sẽ chẳng rỉ mất; nhưng vẫn là tàn khuyết! Đại địa đối với hết thảy nhiễm hay tịnh đều có thể đối đăi b́nh đẳng.

          Do vậy, Tăng Bảo trong Tăng chúng, đối đăi những vị xuất gia, hoặc là đối với những vị tại gia thọ Ngũ Giới, cũng là thọ bốn giới căn bản, dẫu họ đă phá giới, tâm quư vị vẫn đối xử với họ b́nh đẳng. Chớ nên châm chọc, chớ nên cười nhạo, chớ nên đối với họ ra vẻ: “Ta tŕ giới thanh tịnh, ngươi là đồ phá giới”. Trong các đạo hữu chúng ta, có rất nhiều vấn đề như thế ấy. Đức Phật chuyên thẳng thừng vạch ra các vấn đề ấy, mọi người phải đặc biệt chú ư. Phải dùng cái tâm b́nh đẳng để đối đăi, chớ nên khinh suất trách móc họ, thậm chí tố giác họ, rêu rao lỗi lầm của họ. Như trong các đạo hữu chúng ta, tuy cùng thọ Tam Quy Ngũ Giới nơi một vị sư phụ mà vẫn chỉ trích lẫn nhau. Nếu chẳng cùng một vị sư phụ, th́ càng chẳng cần phải nói nữa! Đấy đều là sai lầm.

          Nếu hộ tŕ như thế, sẽ khiến cho hết thảy các thiện pháp có thể sanh trưởng, những người đă làm chuyện sai lầm phạm giới sẽ cầu mong sám hối. Sau khi sám hối, sẽ thanh tịnh; nhưng kẻ chẳng thể sám hối, chỉ cần kẻ đó có tâm hổ thẹn, có tâm hối lỗi, chẳng tiếp tục làm nữa, đối với hết thảy những ǵ đă phạm, kẻ đó biết là sai lầm. Dẫu chưa sám hối thanh tịnh, kẻ đó chẳng hề tiếp tục làm nữa. Tạo tội ác cũng như thế, mà làm lành cũng là như thế, giống như đă quen nết, đă làm quen tay, không làm, trong tâm họ rất bứt rứt! Khi tôi ở trong tù, đă hỏi một gă trộm vặt: “V́ sao ăn trộm đồ vật của người ta? Trộm xong, anh lại chẳng hưởng thụ”. Kẻ đó thưa: “Con thấy món đồ ǵ của người ta mà không lấy trộm, trong tâm ngứa ngáy, cũng chẳng có cách nào ngủ được, cơm cũng chẳng có cách nào nuốt nổi!” Tới khi anh ta đă lấy trộm xong, chính ḿnh cũng chẳng dùng, lấy rồi lại quăng đi, hoặc đem cho người khác, anh ta sẽ an tâm. C̣n nữa, quư vị hỏi kẻ làm nghề đồ tể, [sẽ biết] kẻ đó chẳng làm (chẳng mổ giết súc vật), sẽ không yên bụng. Kẻ làm một loại nghiệp nào đó, loại nghiệp lực ấy khiến cho kẻ đó tiếp tục làm ác, kẻ đó chẳng thể sám hối. Biển Tăng chúng trong Phật giáo cũng giống như thế, giống như đại địa, hết thảy hữu t́nh trên đại địa đều cùng nhau hưởng thụ, có thể cùng chung sống. Bốn giới căn bản này khiến cho Tăng đoàn tốt đẹp, khiến cho Phật pháp hưng thịnh, có thể tồn tại lâu dài trong thế gian. Vậy th́ quư vị hộ tŕ bốn giới căn bản, Phật pháp có thể tồn tại lâu dài trong cơi đời.

          Hoan hỷ tịnh tín bậc nhất là ǵ? Đối với hết thảy chúng sanh, hết thảy hữu t́nh chẳng khởi tâm phân biệt, chẳng nghĩ là sai khác. Nhưng trong ấy lại có một vấn đề, đă là chẳng nghĩ sai biệt, [vậy th́] v́ sao tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni xuất gia như nhau, mà giới luật của nữ chúng nghiêm ngặt như vậy? Có đến ba trăm bốn mươi tám giới; v́ sao nam chúng chỉ có hai trăm năm mươi giới? Đấy chẳng phải là khác biệt! V́ sao người xuất gia thọ giới Bồ Tát nhất định phải thọ mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, hàng tại gia có thể thọ sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh? Đấy chẳng phải là pháp khác biệt, mà là do căn cơ, có kẻ tiếp nhận được, có kẻ chẳng thể tiếp nhận! Nhưng [dù số lượng giới điều chênh lệch], đều yêu cầu quư vị phải có tín tâm thanh tịnh, đừng nên sanh ư tưởng khác biệt, pháp trong ba thừa đều b́nh đẳng!

          Đối với căn cơ này, người ấy có thể tiếp nhận đến mức độ này, liền nói với họ Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đối với người thuộc căn cơ khác, do tŕnh độ bất đồng, liền nói cho kẻ ấy về bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, Thiền Định, trí huệ, nói cho kẻ ấy biết pháp Lục Độ. Đấy chẳng phải là khác biệt, mà là thật sự b́nh đẳng. Người ấy có thể tiếp nhận bao nhiêu, liền nói cho người ấy bấy nhiêu! Đức Phật có Tứ Nhiếp Pháp để b́nh đẳng nhiếp thọ, bố thí chẳng chọn lựa đối tượng. Nói kẻ đó là Phật, Bồ Tát, chúng ta sẽ cúng dường. Kẻ đó là chúng sanh khổ sở, chúng ta sẽ thí cho kẻ đó. Bố thí không nhất định là cho chút tiền, mà c̣n bao gồm Pháp Thí: Quư vị thuyết pháp cho kẻ đó, điều thứ nhất là bố thí. Như Ái Ngữ tức là nói với người khác những lời họ thích nghe, chẳng thốt lời hung ác, chẳng tùy tiện quở mắng người khác. Đối với bất cứ ai, cũng đều là như thế. Ngay cả đứa trẻ mới mấy tuổi, nó cũng có ḷng tự trọng, quư vị cứ quen thói trách mắng. Nếu kẻ làm cha mẹ có chuyện ǵ chẳng như ư, thuận tay liền giáng cho con một cái tát nổ đom đóm, hoặc đánh nó mấy cái. Nó có đôi chút sai lầm liền chửi bới, quát tháo, chớ nên!

          Lại c̣n đối với người khác bèn làm chuyện lợi ích, đó là Lợi Hành. Bất luận nơi ngôn ngữ hay hành động, hoặc nơi phương diện tài lợi, bất cứ chuyện ǵ có lợi cho người khác th́ làm nhiều chuyện lợi tha. Đồng Sự là quư vị muốn độ kẻ khác, họ làm ǵ, quư vị bèn làm giống như thế, th́ mới dễ dàng tiếp cận họ, khiến cho tâm họ cảm thấy thân thiết, tiếp nhận. Đức Phật chỉ dạy chúng ta dùng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp thọ hết thảy hữu t́nh. Như thế th́ họ sẽ dễ dàng tiếp nhận. V́ lúc Phật pháp tồn tại trên thế gian, hết thảy hữu t́nh đều cùng y chỉ. Y chỉ th́ họ sẽ có thể đạt được pháp hỷ, có thể đạt được sự vui sướng nơi pháp. Vậy th́ “sống c̣n” bao gồm hai loại: Một loại là sống c̣n theo pháp thế gian, chẳng tranh đua với đời, cuộc sống rất ít phiền năo. Một loại sống c̣n khác là ở trong giáo, tức là trong Phật pháp, thường xuyên hành đạo như thế, trưởng dưỡng Pháp Thân của chính ḿnh.

          Đức Phật nói đoạn này xong, tôn giả Ưu Ba Ly cảm thấy thắc mắc, hỏi đức Phật: “Đối với các ác hạnh tỳ-kheo, con nên xử trí như thế nào?” Đoạn kế tiếp sẽ nói về chuyện đó.

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 7 hết

 

         



[1] Đề Bà Đạt Đa từng ước hẹn với thái tử A Xà Thế: A Xà Thế giết cha (vua Tần Bà Sa La), cướp ngôi, c̣n Đề Bà Đạt Đa sẽ cướp đoạt Tăng đoàn, hại chết Phật, để ông ta đứng đầu Tăng đoàn, trở thành Phật mới! Ông ta sẽ nhờ thế lực của A Xà Thế trấn áp chư Tăng nếu âm mưu thành công.

[2] Bánh chẻo (餃子, giảo tử, Dumpling) loại bánh gói bằng vỏ bột ḿ, thường có h́nh bán nguyệt. Vỏ bánh là miếng bột được cán tṛn, gói nhân xong, sẽ vặn mép bột thành các nếp nhún, trông giống như bánh quai vạc của Việt Nam. Bánh chẻo làm xong sẽ hấp, hay thả vào nồi nước luộc rồi ăn với súp (kiểu này sẽ được gọi là Thủy Giảo, hay Sủi Cảo theo cách phát âm của người Quảng Đông), hay đem nướng hoặc chiên. Đây là thứ bánh bắt buộc phải có trong Tết Nguyên Đán, thậm chí người Hoa thường hay tụ họp gói bánh chẻo với nhau trước đêm giao thừa. Nhân bánh thường là rau củ cắt vụn, thêm gia vị, có thể trộn với thịt băm hay tôm. Tuy Giảo Tử là tên gọi phổ biến, tùy vùng mà lại có tên gọi khác nhau, như vùng Sơn Đông gọi là Cốt Tạc, Hà Nam lại gọi là Chử Giác v.v… Tên gọi loại bánh Gyōza của Nhật chính là cách phát âm chữ Giảo Tử theo kiểu người Nhật. Tương truyền, loại bánh này do Trương Trọng Cảnh chế ra từ thời Nam Bắc Triều, có nhân bằng thịt dê để chữa bệnh.

[3] Mạn đầu (mằn thầu, 饅頭): Bánh bao không nhân.

[4] Tử Bách lăo nhân (1543-1603), Sư là cao tăng Thiền Tông, tổ quán ở Cú Dung huyện Tô Châu, đến đời cha Ngài dời sang Thái Hồ thuộc Ngô Huyện, Tô Châu. Sư họ Trầm, pháp danh Đạt Quán, về sau đổi thành Chân Khả, người đời sau xưng tụng Ngài bằng mỹ hiệu Tử Bách Tôn Giả. Ngài cùng với các vị Liên Tŕ, Ngẫu Ích, và Hám Sơn được gọi chung là Minh Mạt Tứ Đại Cao Tăng. Khi sanh ra, đến năm tuổi Ngài vẫn chưa biết nói. Về sau, gặp một vị dị Tăng, bảo: “Mai sau, đứa trẻ này sẽ xuất gia”, Ngài mới bắt đầu biết nói. Thuở bé, Ngài ngang tàng, hào hiệp, thích uống rượu, hễ nói một lời không hợp là đánh nhau ngay. Năm mười bảy tuổi, đeo kiếm làm hiệp khách lăng du. Đến Xương Môn, do gặp trận mưa lớn, đụt mưa tại chùa Hổ Khâu. Đến đêm, nghe sư Minh Giác tụng Bát Thập Bát Phật Sám, bỗng ngộ đạo. Sáng sớm hôm sau, xin xuất gia với ngài Minh Giác. Sau khi đă xuất gia, Ngài tĩnh tọa suốt đêm đến sáng, suốt đời không nằm xuống giường. Ngài tánh rất cương liệt, sau khi đă xuất gia, hễ thấy Tăng nhân uống rượu, ăn thịt, sẽ quở mắng thậm tệ. Do Ngài tŕ giới rất nghiêm, tánh t́nh lại cương liệt, ai nấy đều sợ Ngài. Năm hai mươi tuổi, thọ Cụ Túc giới, để đọc kinh Hoa Nghiêm bèn bế quan suốt ba năm tại chùa Cảnh Đức. Sau đó, Sư từ biệt thầy, hành Đầu Đà hành cước suốt cả đời. Ngài một ngày đi hai mươi dặm đường, chân nứt nẻ, bèn dùng đá lót chân đi tiếp. Trên đường hành cước, do nghe bài kệ Kiến Đạo bèn ngộ đạo. Ngài đến làm môn hạ của tổ Biến Dung suốt chín năm. Năm Vạn Lịch thứ chín (1581), Sư phát nguyện cùng với các thiện tín như tri phủ Gia Hưng in khắc Đại Tạng Kinh. Quyên mộ măi đến năm Vạn Lịch 17 (1589) mới bắt đầu khắc ván in tại Ngũ Đài. Bản in này thường được gọi là Gia Hưng Tạng. Năm Vạn Lịch 14 (1586), do được thư mời của ngài Hám Sơn, đôi bên gặp gỡ tại thành Tức Mặc ở Lao Sơn, trở thành bạn thâm giao. Năm Vạn Lịch 23 (1595), ngài Đức Thanh Hám Sơn bị vu hăm tội lén xây chùa, bị hạ ngục, rồi đày đi Lôi Dương làm lính. V́ t́m cách cứu Hám Sơn, Ngài viết biểu xin triều đ́nh ngưng thâu thuế các mỏ quặng, lặn lội các nơi. Năm Vạn Lịch 31 (1603), v́ vua Vạn Lịch (Minh Thần Tông) tính phế trưởng lập ấu, dẫn phát đến vụ án yêu thư, yêu ngôn, ngài Tử Bách vốn là bạn thân của Trầm Lư thuộc Đông Lâm đảng (các Nho chủ trương chống lại chính sách quan liêu và đề xướng cải tiến đất nước. Tư tưởng này bị bọn triều thần hủ bại cho là “yêu ngôn hoặc chúng”), nên bị vu cáo, tống giam vào ngục. Ngài bị bọn nha lại Đông Xưởng và vệ binh Cẩm Y Vệ tra khảo thân thể rách mướp, chỉ c̣n thoi thóp. Đến ngày Mười Bảy tháng Chạp, Ngài cố sức tắm gội, ngồi ngay ngắn, niệm Tỳ Lô Giá Na Phật mấy câu rồi viên tịch. Sau khi mất, đệ tử đưa thi thể về chôn ở chùa Từ Huệ (phía Tây Bắc Kinh). Khi nạn lụt xảy ra, đệ tử đưa di thể về am Tịch Chiếu ở Kính Sơn để chôn. Về sau, tháp bị ngập nước, lại dời về Khai Sơn, đă mười ba năm trôi qua, toàn thân xá lợi vẫn bất hoại! Măi cho đến năm Vạn Lịch 44 (1616), khi ngài Hám Sơn Đức Thanh được tha, trở về Bắc Kinh cử hành lễ trà tỳ, đưa tro cốt về thờ tại Văn Thù Đài ở Kính Sơn thuộc huyện Dư Hàng, tỉnh Chiết Giang.

[5] Tiêu sái” () là từ ngữ h́nh dung tinh thần lẫn cử chỉ phóng khoáng, ung dung, lưu loát, tự nhiên, thanh nhă, thoát tục, nhàn nhă tự tại, chẳng cứng ngắc, câu nệ. Tuy phóng khoáng nhưng không xuồng să, vẫn giữ được chừng mực lễ nghi, khiến người khác kính trọng, ngưỡng mộ. Chữ này cũng thường được dùng để mô tả nét thư pháp nhẹ nhàng, bay bướm, tài hoa, nhưng không phóng túng, thô cuồng.

 

[6] Chùa Tịnh Từ ở phía Nam của Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, đối diện tháp Lôi Phong, được xếp vào trong Tây Hồ Tứ Đại Cổ Sát (bốn ngôi chùa cổ lớn ở Tây Hồ), và Tây Hồ Thập Cảnh. Chùa do Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục xây vào năm 954 để làm chỗ trụ tích cho tổ Vĩnh Minh Diên Thọ. Khi chùa bị hỏa hoạn, nhà chùa vận động quyên mộ. Ngài Đạo Tế (do h́nh dung cử chỉ điên khùng, nên thường bị gọi là Tế Điên) cũng đi ra ngoài, ăn uống no say, khật khưỡng về chùa. Tăng chúng hỏi: “Có quyên mộ được đồng nào hay không?” Sư đáp: “Nằm hết trong bụng tôi rồi”. Mọi người lắc đầu, Sư lăn ra ngủ mê mệt suốt ba ngày mới tỉnh. Sau đó, Sư đến bên cái giếng ở nhà bếp, kéo từng súc gỗ lên để làm cột kèo, cho đến khi thợ mộc nói đủ rồi mới thôi. C̣n một súc gỗ chưa dùng tới, bị bỏ lại trong giếng. Từ đó, giếng này đổi tên thành giếng Thần Vận. Thường mọi người chỉ biết đến Ngài qua các câu chuyện thần dị, chữa bệnh, thậm chí tôn xưng Ngài là Tế Công Hoạt Phật, chứ ít ai biết Ngài học vấn uyên bác, được tôn là tổ thứ sáu của phái Dương Kỳ trong tông Lâm Tế của Thiền Tông. Ngài c̣n để lại bộ Tuyên Phong Ngữ Lục (鐫峯語錄) gồm mười quyển, và rất nhiều các bài thi kệ được chép trong các bộ Tịnh Từ Tự Chí, Đài Sơn Phạm Hưởng v.v…

[7] Ngài Phật Ấn (1032-1098) là một vị cao tăng thuộc tông Vân Môn nhà Thiền, pháp hiệu Liễu Nguyên, pháp tự Giác Lăo. Ngài cũng có công chấn hưng Tịnh Độ, từng làm xă chủ của Thanh Tùng Xă, chuyên hướng dẫn các xă viên tu Tịnh Độ. Tống Thần Tông đă ban kim bát để tuyên dương phẩm đức của Ngài. Khi Ngài ở chùa Kim Sơn, từng làm bạn thân của Tô Đông Pha. Theo Kim Sơn Tự Chí, khi Tô Đông Pha đấu đá với Tư Mă Quang trong triều đ́nh bị thất thế, bị biếm về Qua Châu. Họ Tô nghe nói ở Qua Châu có một vị ḥa thượng rất nổi tiếng là Phật Ấn, bèn đến gặp. Ông ta khoe tài kinh luân, nói thao thao bất tuyệt cả buổi, bàn luận quốc sách, đông tây kim cổ, Phật Ấn chỉ lẳng lặng chăm chú nghe. Tô Đông Pha trong tâm khinh thường Phật Ấn chỉ mang cái danh hăo, chẳng hiểu biết ǵ. Phật Ấn hỏi Tô Đông Pha: “Ngài thấy lăo nạp là người như thế nào?” Tô Đông Pha khinh bỉ đáp: “Ngươi chỉ có tiếng hăo, vờ vĩnh cao sâu, chẳng có bản lănh thật học, chỉ lừa gạt người khác mà thôi”. Phật Ấn mỉm cười, chẳng nói ǵ. Tô Đông Pha càng thêm vênh váo, hỏi ngược: “Nhà sư thấy ta ra sao?” Sư đáp: “Ngài là bậc đại học sĩ, rất có học vấn, có tu dưỡng, lăo nạp tự thẹn chẳng bằng”. Khi về nhà, Tô Đông Pha càng thêm đắc ư, khoe khoang với cô em gái là Tô Tiểu Muội. Cô em nghe xong, cười sặc cả cơm: “Anh gièm chê ḥa thượng hết lời, Ngài chẳng giận mà c̣n tán dương anh, anh nói xem ai là người tu dưỡng? Ai có học vấn thật sự? Thật xấu hổ là anh chẳng hiểu biết ǵ hết mà vẫn cứ nhơn nhơn đắc ư”.

[8] Mạt Đạt Na (Madana), sách Huệ Lâm Âm Nghĩa giảng: “Mạt Đạt Na quả, c̣n gọi là Ma Đà Na, hoặc Ma Đà La, dịch là Túy Quả, chỉ có ở Tây Vực, cơi này không có. Quả ấy to như quả cau, ăn vào sẽ bị say, có thể dùng làm thuốc”. Tự điển Phật Quang nói đây là loại quả có tên khoa học là Datura Metel, tức họ Cà Độc Dược. Loại này rất độc, có thể gây ảo giác, co giật, thậm chí gây chết người, nên dường như Datura Metel chẳng phải là loại quả làm thuốc đang nói ở đây.

[9] Trong tùng lâm theo quy củ xưa, trừ các vị chức sự, hay trưởng lăo đă cao tuổi có liêu pḥng riêng để tiện nghỉ ngơi, dưỡng bệnh, c̣n chư Tăng thanh chúng sẽ chia thành từng chúng, ngủ trong các gian nhà lớn, hoàn toàn không có pḥng riêng. Mỗi vị chỉ được kê một tấm ván làm giường vừa đủ để một người nằm. Nếu trở ḿnh không cẩn thận, sẽ rơi ngay xuống đất. Tấm ván ấy được gọi là Đơn. Do vậy, nếu gia nhập Tăng đoàn của một ngôi chùa sẽ gọi là “quải đơn”, khi xin cáo từ ra đi th́ gọi là “trừu đơn” (rút đơn).

[10] Thước ở đây là thước Tàu (xích, ), độ dài thay đổi xê xích tùy theo triều đại, nhưng không quá 33 cm.

[11] Trống bỏi (波浪鼓, ba lăng cổ) vốn là một loại trống nhỏ có thể cầm trên tay, tang trống rất nhỏ. Trống có hai mặt, có cán, hai bên tang trống buộc hai sợi dây buộc một ḥn gỗ hoặc sỏi để khi lắc, ḥn gỗ/sỏi đập vào mặt trống, sẽ phát ra tiếng. Loại trống này thường dùng cho trẻ con chơi hay dành cho thợ nhuộm dùng để rao hàng. Mật Tông Tây Tạng cũng dùng một loại trống bỏi không có cán, eo thắt, thường gắn thêm đuôi bằng các giải vải thêu thùa nhiều màu sặc sỡ, gọi là Damaru để lắc chung với Kim Cang linh (Dril-bu) trong khi tụng niệm, hoặc khi tăng sĩ múa các điệu vũ Dakini hay các bài Kim Cang Vũ khác. Loại trống lớn hơn gọi là Chod drum cũng là h́nh thức trống bỏi.

[12] Bang (), c̣n gọi là Ngư Bang, là một dụng cụ báo hiệu trong trai đường của các đại tùng lâm, thường là gỗ đẽo thành h́nh một con cá lớn (hàm ư luôn tỉnh thức v́ cá ngủ vẫn mở mắt). Khi cơm nước đă chuẩn bị ổn thỏa, vị Tăng trực nhật sẽ đánh ba hồi bang để Tăng chúng xếp hàng vào trai đường thọ trai. Có nơi c̣n dùng kèm thêm mộc bản và báo chung.

[13] Tánh tội là những tội có bản chất đă ác. Hễ vi phạm sẽ mắc tội báo, như giết, trộm, dâm, dối v.v… Giá tội là những tội chế định để ngăn ngừa nhân duyên khiến cho người ấy phạm tánh tội (như giới uống rượu v́ người uống rượu sẽ loạn tâm. Tuy vậy, Câu Xá Luận coi uống rượu là tánh tội), hoặc những giới chế định ngăn ngừa sự gièm chê hoặc hiềm nghi của thế gian.

[14] Do đời Đường, ngài Đạo Tuyên hoằng dương Tứ Luật Tông tại đạo tràng Chung Nam Sơn, nên Luật Tông truyền thừa theo giáo nghĩa của Ngài được gọi là Nam Sơn Luật Tông. Ngài Đạo Tuyên trước tác rất nhiều bản chú giải. Trong đó, có năm tác phẩm được gọi là Nam Sơn Ngũ Đại Bộ được coi là trọng yếu nhất. Về sau, các môn nhân tinh giản thành ba bộ, gọi là Nam Sơn Tam Đại Bộ, tức Tứ Phần Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao, Tứ Phần Luật Tỳ Kheo Hàm Chú Giới Bổn, và Tứ Phần Luật Tùy Cơ Yết Ma Sớ. Trải qua chiến loạn liên miên vào cuối đời Minh, các tác phẩm ấy bị thất lạc. Cho đến thời Dân Quốc, cư sĩ Từ Úy Như thỉnh các tác phẩm từ Nhật Bản trở về, đem khắc in tại Thượng Hải, nhưng bị sai sót rất nhiều. Ngài Hoằng Nhất phải đối chiếu với nhiều tạng kinh tại Nhật Bản và Cao Ly, giảo chánh suốt hai mươi năm mới có được bản hoàn thiện. Do cách hành văn theo lối cổ không chấm câu, cho nên nếu không có học vấn rộng răi, sẽ dễ ngắt câu sai, trở thành hiểu lầm hoàn toàn ư nghĩa.