Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh
Giảng
Kư, phần 7
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng
Tham lăo ḥa thượng chủ giảng
梦参老和尚主講
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
III. Vô Y
Hạnh phẩm đệ tam (無依行品第三, Phẩm thứ
ba Vô Y Hạnh)
(Kinh) Nhĩ thời, hội trung hữu
Đại Phạm Thiên, danh viết Thiên Tạng, cửu thực
thiện căn, trụ Đệ Thập Địa, cụ
chư Bồ Tát Ma Ha Tát đức, tức tùng ṭa khởi, hiệp
chưởng lễ Phật, nhi thuyết tụng ngôn: “Công đức
tạng huệ hải, ngă kim vấn sở nghi, nguyện huệ
hải thùy thính, vị ngă trừ nghi trệ. Ngă đẳng
kim khát ngưỡng, đức tạng thắng pháp vị,
cập tối thượng nghĩa vị, cử chúng hàm dục
văn”.
(經)爾時,會中有大梵天,名曰天藏,久植善根,住第十地,具諸菩薩摩訶薩德,即從座起,合掌禮佛,而說頌言:功德藏慧海,我今問所疑,願慧海垂聽,為我除疑滯。我等今渴仰,德藏勝法味,及最上義味,舉眾咸欲聞。
(Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội có Đại
Phạm Thiên, tên là Thiên Tạng, gieo thiện căn đă lâu,
trụ Đệ Thập Địa, trọn đủ các
đức của Bồ Tát Ma Ha Tát, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, chắp tay, lễ Phật, bèn
nói kệ tụng rằng: “Biển huệ, kho công đức.
Con nay hỏi điều nghi. Nguyện biển huệ lắng
nghe. V́ con trừ nghi trệ. Chúng con nay khát ngưỡng, thắng
pháp vị đức tạng, và nghĩa vị tối thượng.
Đại chúng đều muốn nghe”).
Bài kệ tụng này tán thán công đức của
Phật, “tạng huệ hải” (藏慧海) là nói đến
những lời đức Phật dạy. Phật chứa đựng hết thảy công đức, hàm tàng hết thảy
trí huệ, sâu như biển, rộng như biển. Phạm
Thiên nói “ngă kim vấn sở nghi”, [nghĩa là] nay con có đôi
chút nghi hoặc, có thể thưa hỏi hay chăng? Có thể
thỉnh cầu hay chăng? “Nguyện huệ hải thùy
thính” (xin biển huệ rủ ḷng nghe): Kính xin đức
Phật thương xót, cho phép con nói, như vậy th́ sẽ
có thể trừ nỗi nghi hoặc ấy cho con. “Nghi hoặc”
là vướng mắc, ngăn ngại. Hễ có nghi hoặc,
ngăn ngại, sẽ chẳng thể tiến thêm được.
Khử trừ nghi hoặc th́ con mới có thể tu.
Chúng con và đại
chúng tham dự pháp hội đều
khát ngưỡng, khát ngưỡng ǵ vậy? “Đức
tạng thắng pháp vị” (pháp vị thù thắng nơi
kho công đức). “Đức tạng” (德藏) là [từ ngữ] ca ngợi
Phật, ca tụng đức Thế Tôn chứa đựng hết thảy
công đức, có pháp vị thù thắng. “Pháp vị” (法味) là khi đức
Phật thuyết pháp, sẽ có một loại hương
vị, giống như khi chúng ta ăn uống, cảm nhận diệu vị sanh khởi. Ở đây là diệu
vị của các pháp, như khi quư vị sanh khởi tâm hoan
hỷ, sanh khởi tâm hớn hở, sanh khởi tâm tinh tấn,
sanh khởi tâm sám hối. Chuyện này bao hàm rất nhiều
[ư nghĩa], tùy thuộc huệ lực khi nghe pháp của mỗi
người, cũng như do sức thiện căn của
chính ḿnh. “Tối thượng nghĩa vị” là pháp vị
do nghe pháp, nghe Đệ Nhất Nghĩa Đế tối
thượng. Nghĩa ấy là Đệ Nhất Nghĩa, ai nấy
đều mong đạt được loại Đệ
Nhất Nghĩa thù thắng ấy, có trí vị, lại c̣n có
thể no đủ. Nghe pháp vị mà như thọ dụng
thức ăn, chính ḿnh hăy tự tu, hăy tu đi! Do vậy,
hiện thời mọi người đều mong được
nghe.
Trước hết, chúng ta phải biết
hàm nghĩa của phẩm Vô Y Hạnh th́ mới biết được
ư nghĩa pháp vị ấy. Vô Y Hạnh là làm những điều
chẳng đáng nương cậy. Điều đó có nghĩa
là khi quư vị thực hiện một pháp nào đó, lẽ
ra pháp đó phải là cơ sở để thiện
căn và công đức nương vào đó mà sanh khởi,
nhưng cái pháp mà quư vị đang hành đó
lại chẳng thể làm cơ sở [cho thiện căn và
công đức] nương cậy [ḥng sanh khởi] được!
Vô Y (無依) là “không
nương cậy được”. Hành pháp (pháp được
thực hiện) vốn là chỗ nương tựa để
sanh khởi công đức và thiện căn; [thế mà các hành
pháp được nói trong phẩm này] là Vô Y, tức là chúng
chẳng thể dùng làm cơ sở để sanh khởi [thiện
căn, công đức] được! V́ sao chẳng thể?
Hoặc là do quư vị duyên niệm tà tri, tà kiến, tạo
tác đủ loại nghiệp. Hoặc do ác duyên, chẳng
gặp gỡ minh sư, mà gặp bạn
ác dẫn dụ, vậy th́ khi quư vị hành pháp, các pháp ấy
chẳng thể làm chỗ nương cậy cho công đức
và thiện căn, tức là những ǵ quư vị đă làm
chẳng thể sanh ra thiện căn, chẳng thể sanh
ra công đức. Vậy th́ sẽ sanh ra ǵ? Sanh ra các tội
lỗi. Dưới đây, [đức Phật sẽ kể
ra] có tất
cả mười loại.
(Kinh) Phật cáo Thiên Tạng Đại
Phạm Thiên ngôn: “Như Lai kim giả tứ nhữ ư vấn,
đương tùy vấn đáp, linh nhữ tâm hỷ”. Đại
Phạm Thiên ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn!” Dĩ tụng
vấn viết: “Lợi huệ tu Định giả, an trụ
bất phóng dật, vị trụ Thắng Nghĩa Đế?
Vị y chỉ sanh tử? Trú dạ ư pháp nghĩa, tinh cần
nhi tụng tập, vị độ phiền năo hải? Vị
thoái đọa ác thú? Dũng mănh cần doanh phước, vị
định thú Niết Bàn? Vị xử sanh tử trung, thoái
đọa ư ác thú? Thông huệ Sát-đế-lợi, thành
tựu thập chủng luân, vị trầm sanh tử trung?
Vị đương thăng Phật quả? Tạp nhiễm
tâm nan phục, chư phiền năo sở loạn, dĩ hà tịnh
kỳ tâm, tu Định, phước, tụng nghiệp?”
(經)佛告天藏大梵天言:如來今者恣汝意問,當隨問答,令汝心喜。大梵天言:唯然,世尊。以頌問曰:利慧修定者,安住不放逸,為住勝義諦?為依止生死?晝夜於法義,精勤而習誦,為渡煩惱海?為退墮惡趣?勇猛勤營福,為定趣涅槃?為處生死中,退墮於惡趣?聰慧剎帝利,成就十種輪,為沉生死中?為當升佛果?雜染心難伏,諸煩惱所亂,以何淨其心,修定福誦業?
(Kinh: Đức Phật bảo Thiên Tạng
Đại Phạm Thiên rằng: “Như Lai nay cho phép ông tùy ư hỏi, sẽ
theo lời ông hỏi mà đáp, khiến cho tâm ông vui mừng”.
Đại Phạm Thiên nói: “Thưa vâng, đức Thế
Tôn!” Dùng kệ hỏi rằng: “Kẻ huệ bén tu Định,
an trụ chẳng buông lung, sẽ trụ Thắng Nghĩa Đế,
hay nương cậy sanh tử? Ngày đêm đều siêng
ṛng, tụng tập các pháp nghĩa, sẽ vượt biển
phiền năo, hay thoái đọa đường ác? Dũng mănh
siêng tu phước, chắc chắn đạt Niết Bàn,
hay ở trong sanh tử, lui sụt vào nẻo ác? Sát-đế-lợi
thông huệ, thành tựu mười thứ luân, sẽ ch́m
trong sanh tử, hay ngự lên Phật quả? Tâm tạp nhiễm
khó phục, các phiền năo nhiễu loạn, dùng ǵ để
tịnh tâm, tu Định, phước, tụng nghiệp?”)
Đức Phật liền khen ngợi các vấn đề do
Thiên Tạng Đại Phạm Thiên đă hỏi. Đức
Phật bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên: “Như
Lai nay cho phép ông tùy ư hỏi, sẽ tùy theo lời hỏi mà đáp,
khiến cho tâm ông hoan hỷ”. Đại Phạm Thiên thưa: “Kính
vâng đức Thế Tôn”, rồi dùng kệ tụng để
hỏi. Trước hết, ông ta thưa thỉnh. Kệ tụng
trong phần
trước là để thỉnh ư Phật: Con có nghi vấn, Ngài
có thể giải đáp cho con hay không? Sau
khi đă giải đáp, sẽ khiến
cho chúng con đều
do nghe pháp mà hưởng pháp vị thù thắng, nhiệm mầu,
nghe nghĩa vị thù thắng nhất. “Pháp vị, nghĩa
vị”: Trong pháp vị có chứa
đựng nghĩa vị, trong pháp có chứa đựng nghĩa
lư. Đức Phật lại trả lời: “Tùy nhữ ư vấn”, nghĩa
là: Ông muốn hỏi ta, ta sẽ giải thích, trả lời
cho ông.
Đại Phạm Thiên dùng bài kệ tụng
này để hỏi. Ông ta nói tất cả năm bài tụng,
mỗi bài tụng là bốn câu. Ông ta nói: Người có trí
huệ thông lợi mà tu Định, tức tu tam-muội, có
thể chẳng buông lung. “Chẳng buông lung” (bất phóng
dật) tức là chẳng điệu cử (掉舉, lao
chao, xáo động), mà cũng chẳng hôn trầm. Hạng
chúng sanh như vậy sẽ trụ nơi Thắng
Nghĩa Đế ư? Hay là vẫn phải lưu chuyển
trong sanh tử? Vẫn y chỉ sanh tử để lưu
chuyển, hay sẽ y chỉ Thắng Nghĩa? Tức là nói
giả
sử có một người trí huệ nhạy bén tu Định,
an trụ trong tinh tấn, bất
phóng dật để tu hành, người ấy sẽ trụ
trong Thắng Nghĩa Đế, hay là vẫn nương tựa
sanh tử? Đó là một vấn đề.
“Trú dạ ư pháp nghĩa, tinh cần nhi
tụng tập, vị độ
phiền năo hải? Vị thoái đọa ác thú?” (Ngày đêm đều
siêng ṛng, tụng tập các pháp nghĩa, sẽ vượt
biển phiền năo? Hay thoái đọa
đường ác?): “Pháp” chính là nghĩa lư được
chứa đựng trong các bài kinh do đức Phật
đă nói. Mỗi bộ kinh đều có nghĩa lư, đều là vô thượng nghĩa,
là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Do vậy, mỗi
pháp đều gọi là “Đế pháp” (諦法, pháp chân thật).
Đối với nghĩa lư của Phật pháp, ngày đêm
tu tập, đọc tụng Đại Thừa, lại
c̣n tinh tấn, dũng mănh, siêng năng chuyên ṛng, chẳng giải
đăi; như thế th́ có thể vượt biển phiền
năo hay chăng? Người ấy làm như vậy có thể
vượt biển phiền năo hay không? Hay sẽ thoái đọa vào
đường ác? Bài kệ này có ư nghĩa giống bài tụng
trên: [Chỗ khác biệt là] một đằng tu Định,
một đằng đọc tụng Đại Thừa để
tu Huệ và tu phước.
Kế đó là chăm lo tu phước. “Dũng
mănh cần doanh phước” (dũng mănh, siêng tu
phước): Làm hết thảy các Phật
sự, luôn luôn dũng mănh, chuyên ṛng, siêng năng thực hiện.
“Vị định thú Niết Bàn? Vị sử sanh tử
trung, thoái đọa ư ác thú?”, ư nói: Loại chúng sanh
chuyên tu tạo phước nghiệp ấy có thể dùng sức
phước đức để tiến hướng Niết
Bàn hay không? Hay là vẫn ở trong sanh tử, lui đọa vào nẻo
ác? Đây lại là một điều nữa!
Vấn đề thứ hai, Sát-đế-lợi
thông
minh, có trí huệ, thành tựu mười loại luân, “vị trầm
sanh tử trung? Vị đương thăng Phật quả?”
(sẽ ch́m trong sanh tử? Hay ngự lên Phật quả):
Đối với các vua thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
như đă nói trong phần trước, tức Sát-đế-lợi
được quán đảnh làm vua, đă thành tựu mười
loại vương luân, lên ngôi Kim Luân Vương, hoặc ngôi
vua Đồng Luân. Sát-đế-lợi [làm Luân Vương]
có bốn loại, chúng ta luôn nói đến Kim Luân
Vương làm vua trọn khắp bốn bộ châu. Ông ta đă
thành tựu mười loại vương luân, sẽ vẫn
ch́m đắm trong sanh tử, hay là sẽ thăng lên Phật
quả? Tức là có thể thành Phật
quả hay không?
“Tạp nhiễm tâm nan phục, chư phiền
năo sở loạn, dĩ hà tịnh kỳ tâm, tu Định, phước, tụng nghiệp” (tâm tạp
nhiễm khó hàng phục, bị các phiền năo làm loạn, làm
thế nào để tịnh cái tâm, tu Định, tu phước,
hay đọc tụng): Đây là phần kệ tụng nhằm
nêu
chung những điều ấy. Chúng sanh trong hiện thời,
bất luận tu Định cũng thế, mà tu tụng
nghiệp (đọc tụng Đại Thừa) cũng thế,
chúng sanh lo tu phước cũng thế, tâm họ toàn là tâm
tạp nhiễm. Đối với vị Sát-đế-lợi
được quán đảnh làm vua, v́ sao ông ta (Thiên Tạng
Đại Phạm Thiên) hỏi như thế? Lo tu tạo
phước th́ có thể
tiến hướng Niết Bàn hay không? Do nghiệp
tŕ tụng có thể đạt đến Phật quả
hay không? Tu Định có thể thành tựu tam-ma-địa
hay không? Nêu ra một đằng là chánh diện, một đằng
là tương phản, v́ sao ông ta hỏi như vậy? “Tạp
nhiễm tâm nan phục” (tâm tạp nhiễm khó hàng phục).
Cái tâm phiền năo, cái tâm tạp nhiễm của chúng sanh rất
khó điều phục. Thường là trong khi hành đạo,
cái tâm của họ chẳng thể chuyên chú một cảnh,
sẽ bị phiền năo nhiễu loạn, dùng phương
pháp ǵ th́ mới có thể giữ cho cái tâm thanh tịnh để
tu Định, hay tu
phước, để thực hiện sự
nghiệp thù thắng như thế?
Trong thời đại hiện tại, nhằm
lúc Mạt Pháp, có rất nhiều đạo hữu tu Định,
cho đến đọc tụng Đại Thừa, ấn
định công khóa thường nhật, cũng như công
khóa sáng tối trong các chùa miếu đều là đọc tụng
Đại Thừa, c̣n có một số mật chú, làm Phật
sự, hoặc là tụng kinh, lễ bái. Hoặc là có các đạo
hữu, do trai chủ tới thỉnh cầu,
sắp đặt cúng chay để tạo phước. Vậy
th́ làm những phước nghiệp ấy có thể thành đạo
hay không? Có thể thành tựu Phật quả, thành tựu đạo
nghiệp hay không? V́ sao hỏi như vậy? V́ khi họ thực
hiện [những điều đó], cái tâm họ là tâm tạp
nhiễm. Tâm tạp nhiễm chính là hai thứ tâm thiện và
ác đều có, tâm họ chẳng thể chuyên chú một cảnh.
Khi tụng kinh, mọi người đều
biết, chẳng dễ chuyên chú nơi nghĩa chặng đầu,
nghĩa chặng giữa, và nghĩa chặng cuối trong
kinh văn. Bắt đầu từ câu thứ nhất là đọc
tựa đề kinh, cho đến cuối cùng là hồi
hướng, sau khi đă đọc xong, trong khoảng ấy,
có tạp loạn vọng tưởng hay không? Tâm có thanh tịnh
hay không? Bản thân chúng ta đều có thể phán đoán. Có
khi tâm thanh tịnh, có lúc niệm th́ cứ niệm vậy, chẳng
biết niệm đến chỗ nào rồi! Có lúc niệm
mà ngủ gà ngủ gật cũng có! Có lúc do chẳng dụng
công, c̣n chẳng nhận biết nữa kia. Hễ dụng
công th́ [sẽ nhận biết] hôn trầm lẫn điệu
cử đều xuất hiện đủ mặt! Trong chốc lát này nghĩ
đến chuyện khác, chốc lát sau lại
nghĩ đến chuyện khác nữa! Hai đằng đều
dễ bị quấy nhiễu nhất. Trong khi niệm kinh th́
miệng vẫn niệm, dường như niệm làu làu.
Niệm phẩm Phổ Môn đă nhiều năm rồi,
đă niệm mười mấy năm trở lên, thuộc
nằm ḷng rồi. Hoặc như chúng ta bái sám, bái chẳng
bao lâu, mọi người đều thuộc ḷng. Đă
thuộc rồi, càng dễ tán loạn. Miệng th́ niệm
đấy, tâm chạy đến chỗ khác mất tiêu rồi!
Như vậy th́ có phước báo hay không? Tôi cho rằng vẫn
có. Tối thiểu là khẩu nghiệp và thân nghiệp đă
định, chỉ là chưa thể thanh tịnh vọng tưởng!
Phạm Thiên nêu câu hỏi: Làm thế nào để có thể
thanh tịnh cái tâm? Muốn tịnh tâm th́ phải tu Định,
tu phước, cho đến đọc tụng như thế
nào th́ hiệu
quả mới to lớn. Nếu dùng cái tâm tạp nhiễm th́ do phiền
năo tạp loạn quư vị, có công đức hay không? Đức
Phật có phương pháp thiện xảo phương tiện
nào, khiến cho các chúng sanh ấy trừ bỏ cái tâm tạp
nhiễm để tu Định, tu phước, hoặc tập tụng
hay không? Câu hỏi của Phạm Thiên chứa đựng ư
nghĩa như thế đó.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo bỉ
Thiên Tạng Đại Phạm Thiên viết: “Thiện tai!
Thiện tai! Nhữ thiện biện tài, năng vấn tư
nghĩa. Nhữ ư
thử pháp, dĩ tác
cù lao. Nhữ ư
chư hạnh, dĩ đắc
viên măn. Nhữ ư
quá khứ Căng-già sa đẳng Phật Thế Tôn sở,
dĩ cần tam nghiệp, hưng long chánh pháp, thiệu Tam
Bảo chủng, kim vị nhiêu ích vô lượng chúng sanh,
phục vấn Như Lai như thị thâm nghĩa. Thiện
nam tử! Hữu đại kư biệt pháp, danh Vô Y Hạnh,
quá khứ nhất thiết chư Phật Thế Tôn, vị
dục thành thục chư hữu t́nh cố, vị linh yếm
ly sanh tử pháp cố, vị linh trừ đoạn nghiệp
phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố,
tuyên thuyết, trụ
tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp”. (經)爾時,世尊告彼天藏大梵天曰:善哉!善哉!汝善辯才,能問斯義。汝於此法,已作劬勞。汝於諸行,已得圓滿。汝於過去殑伽沙等佛世尊所,已勤三業,興隆正法,紹三寶種,今為饒益無量眾生,復問如來如是深義。善男子,有大記別法,名無依行。過去一切諸佛世尊,為欲成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng: “Lành
thay! Lành thay! Ông biện tài hay khéo, có thể hỏi nghĩa
ấy. Đối với pháp ấy, ông đă nhọc nhằn
tu tập. Đối với
các hạnh, ông đă viên măn. Trong quá khứ, ông đă ở
nơi các vị Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng,
dùng ba nghiệp siêng năng để chánh pháp hưng thịnh,
tiếp nối chủng tánh Tam Bảo, nay v́ muốn lợi
ích vô lượng chúng sanh, lại hỏi Như Lai nghĩa
sâu như thế. Này thiện nam tử! Có pháp đại kư
biệt tên là Vô Y Hạnh, hết thảy chư Phật Thế
Tôn trong quá khứ v́ muốn thành thục các hữu t́nh, v́
muốn khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử, v́ muốn đoạn
trừ nghiệp phiền năo, v́ khiến cho tam thừa mau
viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh
này”).
Đức Phật trả lời Thiên Tạng
Đại Phạm Thiên rằng: “Ông hỏi rất hay! Ông biện
tài vô ngại, biện tài khéo léo, cho nên có thể hỏi đạo
lư này”. Chữ “Tư” (斯) chỉ những
vấn đề đă được nêu ra trước đó.
“Tư nghĩa” (斯義) tức
là “nghĩa lư ấy”. “Nhữ ư thử pháp dĩ
tác cù lao” nghĩa là: Đối với pháp này, ông đă
tu tập rất lâu. “Cù lao” (劬勞) là tán thán ông ta rất
vất vả, rất tinh tấn. Do vậy, đối với
các pháp mà ông đă hỏi, ông đă hành viên măn. Do các hạnh
đă viên măn, ông đă đạt đến Thập Địa,
trụ trong địa vị Thập Địa Bồ Tát,
tức là đạt tới Pháp Vân Địa,
đă sắp viên măn. Ông không chỉ hỏi ta trong hiện tại,
mà c̣n ở nơi chư Phật Thế Tôn trong quá khứ nhiều
như cát sông Hằng, ông cũng hỏi như thế.
Ông đă từng tu tŕ loại nghĩa sâu này,
đă tự ḿnh tu tập, đă có kinh nghiệm, Phạm
Thiên đă biết. Khi tu Định, tu đọc tụng Đại
Thừa nhằm tu huệ nghiệp, do cái tâm tạp nhiễm,
bị phiền năo năo loạn, có thể liễu sanh tử
hay không? Có thể chứng đắc Phật quả hay không?
Ông ta đă từng kinh nghiệm: Dùng cái tâm tạp nhiễm,
sẽ chẳng thể chứng đắc, ắt phải đạt
được cái tâm thanh tịnh. Có phương pháp nào có
thể khiến cho cái tâm của người ấy chẳng
vọng động hay không, có thể chứng đắc cái
tâm thanh tịnh hay không?
Do vậy, đức Phật tán thán: Trong vô
lượng kiếp quá khứ, đối trước chư
Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, ông đă
dùng ba nghiệp thân, miệng, ư để siêng
năng chuyên ṛng tu hành, hộ tŕ chánh pháp, hưng thịnh chánh
pháp, tiếp nối chủng tánh Tam Bảo, cũng đă từng
hỏi chư Phật Thế Tôn [những ư nghĩa] như
thế. V́ lợi ích vô lượng chúng sanh, nay ông ta lại
hỏi ta nghĩa sâu như thế. Đạo lư này rất
sâu! Ông nói cái tâm tạp nhiễm, chẳng có phước
báo, lại do đâu mà đạt được tịnh tâm
ư? Thiện căn phải do gieo bồi dần dần,
Hoặc nghiệp dần dần tiêu. Chư Phật, Bồ
Tát đều tu hành trải qua vô lượng kiếp. Thích
Ca Mâu Ni Phật thị hiện hóa thân, tu suốt ba đại
A-tăng-kỳ kiếp, [thật
ra], há nào phải chỉ
có ba đại A-tăng-kỳ kiếp? Địa Tạng
Bồ Tát tu hành vô lượng, vô lượng kiếp, rất
nhiều ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Do vậy, Phật
đạo khó thành!
Này thiện nam tử! Có pháp đại kư biệt
tên là Vô Y Hạnh, chư Phật đều như thế. “Đại
kư biệt” (大記別) là thọ
kư, tức đức Phật dự đoán trong tương
lai sẽ như thế này, như thế nọ; đó gọi
là Kư Biệt (記別). Cho đến
đức Phật chứng thực cho một vị đệ
tử nào đó, nói: “Cho đến khi nào đó, đă trải
qua bao nhiêu kiếp, ông sẽ thành Phật. Khi thành Phật, ông
sẽ có danh hiệu là ǵ, quốc độ ấy tên là ǵ,
thế giới ấy tên là ǵ”. Đó gọi là Thọ Kư (授記). [Đại
Kư Biệt] ở đây là nói về thuyết pháp. “Đại
kư” (大記) là nói
về pháp, chẳng nói về người. Nói trong tương
lai, hết thảy chúng sanh sẽ như thế này, như
thế nọ, đấy cũng là Kư Biệt. [Tiên đoán
về t́nh h́nh trong các giai đoạn] Chánh Pháp, Tượng
Pháp, và Mạt Pháp,
th́ cũng là ư nghĩa Kư Biệt. Trong thời đại Mạt
Pháp, chúng sanh sẽ như thế này, như thế nọ, thậm
chí Phật pháp thưa thớt, tạo nghiệp nhiều, Đoạn
Kiến, Thường
Kiến, ác kiến rất nhiều.
(Kinh) Hiện tại, thập
phương chư Phật Thế Tôn, diệc vị thành thục
chư hữu t́nh cố, vị linh yếm ly sanh tử pháp
cố, vị linh trừ đoạn nghiệp phiền năo
cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố, tuyên thuyết,
trụ tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Vị
lai nhất thiết chư Phật Thế Tôn, diệc vị
thành thục chư hữu t́nh cố, vị linh yếm ly sanh
tử pháp cố, vị linh trừ đoạn nghiệp
phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc viên măn cố,
tuyên thuyết, trụ
tŕ thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Nhữ ư
quá khứ chư Như Lai sở, dĩ cụ đắc văn
thử Vô Y Hạnh đại kư biệt pháp. Ngă ư kim giả,
diệc vị thành thục chư hữu t́nh cố, vị
linh yếm ly sanh tử pháp cố, vị linh trừ đoạn
nghiệp phiền năo cố, vị linh tam thừa tốc
viên măn cố, tuyên thuyết, trụ tŕ thử Vô Y Hạnh đại
kư biệt pháp. Nhữ ưng đế thính, thiện tư
niệm chi, ngô đương vị nhữ phân biệt, giải
thuyết.
(經)現在十方諸佛世尊,亦為成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。未來一切諸佛世尊,亦為成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。汝於過去諸如來所,已具得聞此無依行大記別法。我於今者,亦為成熟諸有情故,為令厭離生死法故,為令除斷業煩惱故,為令三乘速圓滿故,宣說住持此無依行大記別法。汝應諦聽!善思念之!吾當為汝分別解說。
(Kinh:
Hiện tại, mười phương chư Phật Thế
Tôn cũng v́ thành thục các hữu t́nh, v́ khiến cho họ
chán ĺa pháp sanh tử, v́ khiến cho họ đoạn trừ
nghiệp phiền năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà
tuyên nói, duy tŕ pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Vị
lai hết thảy chư Phật Thế Tôn cũng v́ thành
thục các hữu t́nh, v́ khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử,
v́ khiến cho họ đoạn trừ nghiệp phiền
năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại
kư biệt Vô Y Hạnh này. Trong quá khứ, ông đă ở chỗ
các đức Như Lai, được nghe trọn vẹn
pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Ta nay cũng v́ thành
thục các hữu t́nh, v́ khiến cho họ chán ĺa pháp sanh tử,
v́ khiến cho họ đoạn trừ nghiệp phiền
năo, v́ khiến cho tam thừa mau viên măn mà tuyên nói, duy tŕ pháp đại
kư biệt Vô Y Hạnh này. Ông hăy nên lắng nghe, khéo suy nghĩ,
ta sẽ v́ ông phân biệt, giải nói”).
Bất luận quá khứ, hiện tại,
hay vị lai chư Phật, tam thế chư Phật v́ muốn
khiến cho hết thảy chúng sanh đoạn nghiệp, đoạn
Kiến Hoặc, và đoạn phiền năo của họ,
khiến cho họ thành thục, ĺa khỏi sanh tử, chứng
đắc Niết Bàn, thành tựu quả vị tam thừa,
chẳng c̣n luân hồi trong sáu đường nữa, cũng
tuyên nói pháp đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Tam thế
chư Phật đều nói như thế. “Nhữ” (ông)
là nói với Thiên Tạng Đại Phạm Thiên: Ông đă ở
nơi quá khứ chư Phật, đă được nghe pháp
đại kư biệt Vô Y Hạnh này. Ông đă được
nghe rồi, nhưng v́ duyên cớ lợi ích chúng sanh, lại
xin ta nói. Nay ta cũng v́ thành thục hết thảy các hữu
t́nh, khiến cho hết thảy hữu t́nh đoạn phiền
năo, chứng Bồ Đề, v́ làm cho họ chán ĺa sanh tử,
v́ làm cho họ chứng đắc Niết Bàn, v́ làm cho họ
chứng các quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chóng
thành tựu viên măn, cho nên cũng sẽ tuyên nói pháp đại
kư biệt Vô Y Hạnh này!
“Nhữ ưng đế thính” nghĩa
là: Ông hăy nghe cho kỹ, nghe đúng như lư. Đối với
mọi người thỉnh pháp, đức Phật đều
bảo “hăy nghe như lư”, “đế thính”. Từ Bồ Tát thuộc
quả vị Thập Địa cho đến Văn Thù Bồ
Tát thưa hỏi, Địa Tạng Bồ Tát thưa hỏi,
đức Phật đều dạy hăy “đế thính,
như lư thính” (hăy lắng, nghe đúng lư), [nói như vậy]
nhằm dạy chúng ta [hăy nghe như lư, lắng nghe chân thật].
Chúng ta nhất định phải như lư mà suy xét. Nói là Văn (聞) tức
là nghe, nghe chính là Văn Huệ. Văn, Tư, Tu, chẳng nghe
th́ làm sao có thể tư duy cho được? Chẳng tư
duy, quư vị làm sao có thể tu? Nếu không, sẽ là tu mù!
Quư vị phải biết tu như thế nào, hành tŕ như
thế nào? Hành tŕ sẽ có phương pháp để hành tŕ.
Do vậy, dạy quư vị phải “đế thính”.
(Kinh) Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại
Phạm Thiên ngôn: “Dụy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo
dục văn”. Phật ngôn: - Đại Phạm! Hữu thập
chủng Vô Y Hạnh pháp, nhược tu Định giả,
tùy hữu nhất hạnh, thượng bất năng thành
Dục Giới thiện căn. Thiết sử tiên thành, tầm
hoàn thoái thất, huống đương năng thành Sắc,
Vô Sắc Định, năi chí tam thừa, tùy thành nhất thừa!
(經)爾時,天藏大梵天言:唯然,世尊,願樂欲聞。佛言:大梵,有十種無依行法,若修定者隨有一行,尚不能成欲界善根;設使先成,尋還退失;況當能成色、無色定,乃至三乘隨成一乘。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại
Phạm Thiên thưa: “Kính vâng đức Thế Tôn! Con xin ưa
thích nghe”. Đức Phật dạy: - Này Đại Phạm!
Có mười pháp Vô Y Hạnh, nếu người tu Định
mà có bất cứ một hạnh nào, sẽ c̣n chẳng thể
thành tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử
[thiện căn ấy] đă thành tựu trước đó,
sẽ lập tức lui sụt, mất đi. Huống hồ
sẽ có thể thành tựu Sắc Giới Định và Vô
Sắc Giới Định, cho đến thành tựu một
thừa nào trong tam thừa ư?)
“Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại Phạm
Thiên ngôn: - Dụy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục
văn” (Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại Phạm
Thiên thưa: - Kính vâng đức Thế Tôn! Con xin ưa thích
nghe): Con nhất định sẽ vâng theo lời đức
Phật căn dặn, chăm chú nghe, rất mong được
nghe lời Phật dạy. “Phật ngôn: - Đại Phạm!
Hữu thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu
Định giả, tùy hữu nhất hạnh, thượng
bất năng thành Dục Giới thiện căn. Thiết
sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất, huống
đương năng thành Sắc, Vô Sắc Định, năi
chí tam thừa tùy thành nhất thừa?”
(Đức Phật dạy: - Này Đại Phạm! Có
mười pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định
mà có bất cứ một hạnh nào, c̣n chẳng thể thành
tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử [thiện
căn ấy] đă thành tựu trước đó, vẫn
bị lập tức lui sụt, mất đi. Huống hồ
sẽ có thể thành tựu Sắc Giới Định và Vô
Sắc Giới Định, cho đến thành tựu một
thừa trong ba thừa ư?) Đấy là nói có mười
loại pháp Vô Y Hạnh. Khi người ấy hành theo pháp Vô
Y, chẳng nương tựa Tam Bảo, chẳng nương
tựa giáo pháp của đức Phật, như thế th́
tu Định sẽ chẳng thể thành công!
Mười loại pháp Vô Y Hạnh ấy, hễ
có một loại, đều chẳng
thể thành tựu. Ngay cả thiện căn trong Dục
Giới c̣n chẳng thể thành tựu được. Nếu
người ấy đă thành tựu trước đó, khi
người ấy hành theo các pháp ấy, tức là trong mười
loại Vô Y mà có một loại Vô Y, những ǵ người
ấy đă đạt
được trước kia đều bị thoái thất.
Thiện căn và phước báo của chúng ta chẳng phải
là vô hạn lượng. Nếu đời này chẳng tu, phước
báo trước kia sẽ bị lui sụt, mất đi
trong đời này. Đời này hưởng thụ hết
rồi, sẽ chẳng c̣n nữa! Người học đạo
nếu chẳng tinh tấn, hễ giải đăi th́ “học
đạo như thuyền bơi
ngược nước, chẳng
tiến, ắt lùi”. Quư vị chẳng
dũng mănh tinh tấn, khi chưa đạt tới địa
vị Bất Thoái, sẽ vẫn bị lui sụt, trừ
phi đă thành Phật! Đă thành Phật th́ thân, miệng, ư của vị
đó chẳng cần phải pḥng hộ hoặc nghĩ tới
nữa! Chẳng cần phải tác ư, mà là tự nhiên, chẳng
có một tí bất thiện nào! Các vị Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát trước khi đạt tới Bát Địa, đều phải pḥng hộ, nghĩ tưởng [ǵn
giữ tam nghiệp thanh tịnh]. Bậc
A La Hán tuy đă chứng
đắc, cho rằng Niết Bàn bất động, nhưng các
Ngài vẫn phải bảo vệ thân, miệng,
ư. Đó gọi là “hữu hộ” (有護, phải
bảo vệ). Phật đă đạt tới địa
vị “bất hộ” (不護, chẳng cần
phải ǵn giữ, bảo vệ ba nghiệp).
Nếu trong mười loại Vô Y Hạnh,
quư vị có một loại, mà mong thành tựu thiện
căn trong Dục Giới, sẽ chẳng thể được!
Trước kia đă thành tựu, mà nay có Vô Y Hạnh, hễ
có một pháp như vậy, quư vị sẽ thoái thất. Nếu
quư vị muốn tu Thiền Định, sẽ chẳng thể
đắc Thiền Định. Các môn Thiền
Định đều chẳng thể đạt được!
Sắc Giới Thiền Định và Vô Sắc Giới Thiền
Định đều không đạt được. Cũng
tức là Tứ Thiền và Tứ Không Định trong Bát Định
chẳng đạt được môn nào, huống hồ là
nói đến quả vị trong tam thừa, tức Thanh
Văn, Duyên Giác, và Bồ
Tát, một thừa cũng chẳng thành! Có ư nghĩa như
thế đó. Dưới đây, nêu ra mười Vô Y Hạnh.
(Kinh) Hà đẳng vi thập? Nhất
giả, thế hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi phạp tư duyên, kinh cầu nhiễu loạn. Nhị
giả, phục hữu nhất loại, tuy dục
tu Định, nhi phạm Thi La, hành chư ác hạnh. Tam giả,
phục hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi
điên đảo kiến, vọng chấp cát hung, thân tâm cang
cường. Tứ giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi tâm điệu động, bất
thuận hiền thánh, chư căn khinh táo. Ngũ giả, phục
hữu nhất loại, tuy dục tu Định, nhi ly gián ngữ,
phá loạn bỉ thử. Lục giả, phục hữu nhất
loại, tuy dục tu Định, nhi thô ác ngữ, hủy mạ
hiền thánh. Thất giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi tạp uế ngữ, cập hư
cuống ngữ. Bát giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định,
nhi hoài tham tật, ư tha sở đắc lợi dưỡng,
cung kính, tâm bất hoan duyệt. Cửu giả, phục hữu
nhất loại, tuy dục tu Định, nhi hoài sân phẫn,
ư chư hữu t́nh, tâm thường phẫn khuể. Thập
giả, phục hữu nhất loại, tuy dục
tu Định, nhi hoài tà kiến, bát vô nhân quả. Đại
Phạm đương tri, thị danh thập chủng Vô Y
Hạnh pháp. Nhược tu Định giả, tùy hữu nhất
hạnh, thượng bất năng thành Dục Giới
thiện căn. Thiết sử tiên thành, tầm hoàn thoái thất,
huống đương năng thành Sắc, Vô Sắc Định,
năi chí tam thừa, tùy thành nhất thừa?
(經)何等為十?一者、世有一類,雖欲修定,而乏資緣,經求擾亂;二者、復有一類,雖欲修定,而犯尸羅,行諸惡行;三者、復有一類,雖欲修定,而顛倒見,妄執吉凶,身心剛強;四者、復有一類,雖欲修定,而心掉動,不順賢聖,諸根輕躁;五者、復有一類,雖欲修定,而離間語,破亂彼此;六者、復有一類,雖欲修定,而粗惡語,毀罵賢聖;七者、復有一類,雖欲修定,而雜穢語,及虛誑語;八者、復有一類,雖欲修定,而懷貪嫉,於他所得利養恭敬,心不歡悅;九者、復有一類,雖欲修定,而懷瞋忿,於諸有情,心常憤恚;十者、復有一類,雖欲修定,而懷邪見,撥無因果。大梵當知,是名十種無依行法。若修定者隨有一行,尚不能成欲界善根;設使先成,尋還退失;況當能成色、無色定,乃至三乘隨成一乘?
(Kinh: Những ǵ là mười? Một
là cơi đời có một loại người, tuy muốn
tu Định mà thiếu các duyên phụ trợ, sẽ bị
các điều mong cầu nhiễu loạn. Hai là lại có
một loại người, tuy muốn tu Định mà phạm
Thi La, làm các hạnh ác. Ba là lại có một loại người,
tuy muốn tu Định mà tri kiến điên đảo, xằng
bậy chấp trước cát, hung, thân tâm ương ngạnh.
Bốn là lại có một loại người, tuy muốn
tu Định mà tâm xáo động, chẳng thuận theo hiền
thánh, các căn bộp chộp. Năm là lại có một loại
người, tuy muốn tu Định mà nói lời ly gián,
phá hoại, nhiễu loạn đôi bên. Sáu là lại có một
loại người, tuy muốn tu Định mà nói lời
thô ác, hủy báng, chửi rủa
hiền thánh. Bảy là lại có một loại người,
tuy muốn tu Định mà nói lời tạp uế và lời
hư dối. Tám là lại có một loại người, tuy
muốn tu Định mà ôm ḷng tham lam, ganh ghét, đối với
chuyện người khác được lợi dưỡng,
cung kính, tâm chẳng vui thích. Chín là lại có một loại
người, tuy muốn tu Định mà ôm ḷng sân hận,
phẫn nộ, đối với các hữu t́nh, tâm
thường phẫn nộ, giận dữ. Mười là lại
có một loại người, tuy muốn tu Định mà
thường ôm giữ tà kiến, bài bác chẳng có nhân quả.
Đại Phạm hăy nên biết, đấy gọi là mười
pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định, hễ có
một hạnh nào, c̣n chẳng thể thành tựu thiện
căn trong Dục Giới. Giả sử đă thành tựu
trước đó, sẽ liền lui sụt, mất đi,
huống hồ sẽ có thể thành tựu
Sắc Giới Định và Vô Sắc Định ư? Cho đến
chẳng thành tựu bất cứ thừa nào trong tam thừa).
“Hà đẳng vi thập?” (những ǵ là
mười): Gạn hỏi ư nghĩa, mười loại
nào vậy? “Nhất giả, thế hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi phạp tư duyên, kinh cầu
nhiễu loạn” (Một là trong cơi đời có một
loại người, tuy muốn tu Định mà thiếu các
duyên giúp đỡ, bị các điều mong cầu nhiễu
loạn): Quư vị mong tu Định th́ phải có tư lương;
trước hết, phải chuẩn bị tư
lương. Tư lương để tu Định có
hai loại:
1) Quư vị phải có nơi chốn thanh vắng.
2) Có người hộ tŕ quư vị. Ăn mặc,
sinh sống, thứ ǵ cũng đều có, chẳng phải
bận ḷng, chẳng phải khởi tâm động niệm.
Đấy đều là tư lương
để hành đạo. Càng trọng yếu hơn nữa
là tư lương về pháp. Quư vị muốn tu Định,
trước hết phải tu gia hạnh. Trước hết,
quư vị sám hối để tiêu trừ nghiệp chướng.
Chúng ta đă thọ Tam Quy, đă thọ Ngũ Giới, trước
hết, đều phải sám hối, đó là do ư nghĩa
này. Quư vị chẳng có tư lương mà mong tu Định,
tĩnh tu, sẽ chẳng thể làm được.
Chẳng
thể làm được th́ vọng tưởng
trong tâm quư vị nhất định sẽ sanh khởi: Ăn
bữa này, chẳng có bữa sau, làm thế nào đây? Khi tĩnh
tọa nơi đó, sẽ nghĩ ngợi: “Ngày mai c̣n có gạo
để bỏ vào nồi hay không?” Hoặc là quần áo để
mặc không đủ, chẳng thể chống lạnh. Hoặc
là chỗ quư vị tu đạo lắm muỗi quá. Muỗi
đốt quư vị, khi Định lực c̣n chưa đủ,
quư vị sẽ chẳng thể định được.
Mong ở trong núi, t́m một chỗ thanh vắng, núi rừng
chẳng phải là chỗ dễ ở. Nói theo Trung Hoa, khi quư
vị tham cứu chưa thấu suốt, chẳng thể
sống trong núi, cũng là v́ quư vị chưa thể định
được, chẳng có Định lực ấy. Loại
Vô Y thứ nhất chính là chẳng có tư lương để
nương cậy. Tu hành như vậy, sẽ chẳng thành
tựu. Đó là điều thứ nhất.
“Nhị giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi phạm Thi La, hành chư ác hạnh”
(Hai là lại có một loại người, tuy muốn tu Định
mà phạm Giới Luật, làm các hạnh ác): Đă phạm
giới, đă phá giới. Thi La bảo vệ quư vị. Thi
La là căn bản để sanh thiện, ngăn ngừa
sai trái, dứt điều ác. Nếu quư vị phạm giới,
phá luật nghi, mà mong tu Định, sẽ chẳng thể được!
Chẳng giữ giới th́ là phạm giới. Phạm giới
là hành ác hạnh. Hành ác hạnh mà muốn tu Định, sẽ
chẳng thể được. Đây là Vô Y Hạnh thứ
hai.
“Tam giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi điên đảo kiến, vọng
chấp cát, hung, thân tâm cang cường” (Ba là lại có một
loại người, tuy muốn tu Định mà tri kiến
điên đảo, xằng bậy chấp trước cát,
hung, thân tâm ương ngạnh): Muốn tu Định mà dùng
tri kiến điên đảo, [chấp trước] cát,
hung, họa, phước. Cát, hung, họa, phước
bao gồm rất nhiều điều! “Điên đảo kiến” là ǵ?
Trông thấy căn nhà này, hoặc ngôi nhà này, vừa bước
vào, lướt nh́n, bèn nói: “Chỗ này không
tốt! Cửa sổ
kia chẳng trổ đúng chỗ. Mở
cái cửa nọ không tốt. Trổ cửa kiểu đó
sẽ chuốc lấy hung hiểm, quư vị phải sửa
đổi đôi chút. Phải làm như thế nào th́ mới
là tốt”. Đó gọi là “điên
đảo kiến”. Cát, hung, họa, phước do nghiệp
từ quá khứ của quư vị, được định
đoạt bởi cái nhân trong quá khứ. Hơn nữa,
người tốt lành ở chỗ ác, chỗ ác cũng biến
thành tốt lành. Kẻ ác ở chỗ tốt, cát địa
cũng biến thành hung địa! Hết thảy do con
người, chẳng do nơi chốn, cũng chẳng do
cái nhà nào!
Khi quư vị có điên đảo kiến, xằng
bậy chấp trước cát, hung, họa, phước, thân
tâm rất ương ngạnh, sẽ chẳng tiếp nhận
chánh tri, chánh kiến. Đức Phật chẳng nói [cát,
hung, họa, phước] như vậy. Cho đến những
kẻ khoe khoang thần thông, thốt lời nói dối to lớn đều thuộc loại
này. Cho đến coi cát, hung, họa,
phước, chiêm tinh, sửa đổi tướng mạng
cho người khác, đều là “điên đảo kiến”.
Điên đảo kiến là v́ điên đảo ở
chỗ nào? Điên đảo nhân quả, chẳng tin tưởng
thiện, ác, nhân, quả.
“Tứ giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi tâm điệu
động” (bốn là lại có một
loại người, tuy muốn tu Định mà tâm xáo động):
Tâm chẳng định được! Điệu cử (掉舉, trạo cử) là vọng
niệm rất nhiều, hết sức tạp loạn, cũng
chính là các căn phập phều, bộp chộp. Người
tu Định tối thiểu là phải thâu nhiếp sáu căn
đôi chút. V́ sao khi chúng ta tu Định phải mở mắt
ba phần, nhắm mắt bảy phần? Để nhăn căn
chẳng hướng ra ngoài t́m ṭi, ḍ xét, nh́n ngó khắp nơi!
Phải lắng ḷng! Khi mắt tiếp xúc cảnh, phải
tịch tĩnh. Khi tai nghe thấy âm
thanh, phải tịch tĩnh. V́ sao phải t́m chốn tịch
tĩnh? Chẳng bị khuấy nhiễu! Quư vị đứng
nơi đường lớn, toàn là tiếng xe hơi qua lại,
làm sao quư vị tu Định cho nổi? Tu không nổi. Các điều
ấy đều thuộc loại Điệu Cử. Tâm điệu
cử là do chẳng hành theo lời dạy bảo của thánh
hiền, các căn rất phiền rối, bộp chộp,
thân thể chẳng thể ngồi yên được!
Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư đều
phập phều, náo động!
“Ngũ giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi ly gián ngữ” (Năm là có một
loại người, tuy muốn tu Định mà thốt lời
ly gián): Đấy là hiện tượng phá giới. Đoạn
trên nói về phá giới, [đoạn này nói về chuyện]
châm ng̣i ly gián. Nếu không nói lời khuấy động ly
gián, kẻ đó sẽ chẳng thể chịu được.
Cũng chính là trông thấy
kẻ khác tốt đẹp, tâm hắn ganh ghét, sẽ chen vào bịa đặt,
dựng chuyện, chơ mồm phá hoại đôi bên. Chuyện
này chúng tôi chẳng cần nêu thí dụ, ai cũng đều
hiểu đạo lư này!
“Lục giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi thô ác ngữ” (Sáu là lại có
một loại người, tuy muốn tu Định nhưng
nói lời thô ác): Miệng toàn phun ra những lời lẽ
không sạch sẽ, luôn kèm theo những ngôn từ rất bẩn
thỉu. Đó là “thô ác ngữ”. Hoặc là “hủy mạ
thánh hiền” (hủy báng, chửi bới thánh hiền),
trong ấy bao gồm báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, cho đến
hiền nhân. Trong ṿng các đạo hữu, người khác
tu đạo, hắn bèn sanh khởi chướng ngại.
Trong ấy, luôn chứa đựng chuyện tranh lợi.
Tranh danh cũng được gộp trong ấy. Bất
quá nói lời thô ác th́ chẳng phải là vô duyên vô cớ mắng
chửi người khác, luôn bao hàm ư nghĩa ấy. Thốt
ra loại lời lẽ này, sẽ là Vô Y. Nếu quư vị tu
hành vô y, th́ sẽ là ác y (惡依, nương
tựa vào điều ác), chẳng phải là thiện y.
“Thất giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi tạp
uế ngữ” (Bảy là lại có một
loại người, tuy muốn tu Định mà thốt lời
tạp uế): Tuy mong tu Định, nhưng tạp uế
ngữ (雜穢語) chính là ỷ
ngữ (nói thêu dệt). “Ỷ ngữ” (綺語) là nói
năng chẳng có ư nghĩa ǵ, cũng là tán phét, hoặc là
chuyện gẫu. Trong khi tán gẫu, ở đây được
gọi “xung xác tử” (衝殼子), [có
nghĩa là] giống như một loại ngũ cốc, nếu
tuốt vỏ trấu đi, sẽ hiện ra lớp vỏ
cám chân thật. Chữ Xung (衝) rất
có ư nghĩa. Nhưng nói những lời chẳng có ư nghĩa,
đă tạp uế, lại c̣n chen
vào những ngôn từ chẳng sạch sẽ, lời tạp
uế, tiếng hư dối, thốt lời giả dối
gạt người. Đó là vọng ngữ!
“Bát giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi hoài tham tật” (Tám là lại
có một loại người, tuy muốn tu Định mà ôm
ḷng tham lam, ghen ghét): Keo kiệt, tham lam, ghen tỵ. Từ
đây trở đi là ba món tham, sân, si. Bản thân kẻ ấy
tham lam, chính ḿnh chẳng đạt được, thấy
người khác có được, bèn sanh ḷng ghen tỵ. Thấy
người khác được cung kính, được cúng
dường, hoặc là kinh doanh, buôn bán, hoặc bất luận
làm chuyện ǵ, hễ đạt được lợi ích,
kẻ ấy không chỉ chẳng tùy hỷ, chẳng sanh vui
mừng, mà c̣n đâm ra ghen tỵ. Do
ghen tỵ, kẻ ấy liền phá hoại. Đối
với sự lợi dưỡng do kẻ khác đạt được,
hắn chẳng sanh tâm cung kính, chẳng sanh tâm vui mừng,
mà nẩy sanh ḷng ghen
ghét, chướng ngại!
“Cửu giả, phục hữu nhất loại,
tuy dục tu Định, nhi hoài sân phẫn” (Chín là lại
có loại người, tuy muốn tu Định, nhưng ôm
ḷng sân hận, phẫn nộ): Tâm sân hận đối với
hữu t́nh khác. Kẻ đó luôn thấy người khác chẳng
vừa mắt. Hoặc là thấy hành động của người
khác, người ấy cũng ngứa mắt. Thấy người
khác nói năng, kẻ ấy cũng chẳng bằng ḷng. Trong
tâm họ có một niềm sân hận. Có
tâm sân hận th́ sẽ có phẫn nộ. Phẫn nộ: Sân
ở trong tâm, phẫn ở nơi tướng. Tướng
ấy rơ rệt. Đối với hết thảy hữu
t́nh, họ thường sanh khởi cái tâm phẫn hận. Chuyện
này chẳng dính dáng ǵ đến quan hệ lợi hại. Đối
với hết thảy chúng sanh, kẻ ấy như chúng ta
thường nói là kẻ “phẫn thế, tật tục” (憤世嫉俗, hận
đời, căm ghét thế
gian). Đối với thế giới này, kẻ ấy hết
sức ghen tỵ, hết sức tham lam! Do kẻ ấy chẳng
đạt được ǵ, bèn ganh ghét những ǵ kẻ
khác có được. V́ thế, kẻ đó thường sanh
sân hận!
“Thập giả, phục hữu nhất
loại, tuy dục tu Định, nhi hoài tà kiến” (Mười
là có một loại người, tuy muốn tu Định
mà thường ôm ḷng tà kiến): Tà kiến là ngu si, tức
là si trong “tham, sân, si”. Ngu si, tà kiến, chẳng tin nhân quả.
Chẳng tin nhân quả, liền bài bác “chẳng có nhân quả”.
Chẳng tin “làm lành được
thiện báo, làm ác chịu ác báo”. Chẳng tin
nhân quả, bèn gọi là “bát vô nhân quả” (撥無因果, bài bác
chẳng có nhân quả).
“Đại Phạm đương tri! Thị
danh thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược tu Định
giả, tùy hữu nhất hạnh, thượng bất năng
thành Dục Giới thiện căn. Thiết sử tiên thành,
tầm hoàn thoái thất, huống đương năng thành
Sắc, Vô Sắc Định, năi chí tam thừa, tùy thành nhất
thừa” (Đại Phạm nên biết: Đó gọi là
mười loại pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định
mà có bất cứ một hạnh nào, sẽ c̣n chẳng thể
thành tựu thiện căn trong Dục Giới. Giả sử
đă thành từ trước, liền bị lui sụt, mất
đi. Huống hồ có thể thành tựu Sắc Giới
Định và Vô Sắc Giới Định, cho đến có
thể thành tựu một thừa trong ba thừa ư?): Đức
Phật lại bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên:
- Ông phải nên biết: Những điều ta vừa nói
trên đây được gọi là “mười loại Vô
Y Hạnh pháp”. Khi hành pháp, chẳng thuận theo thiện pháp,
mà tạo tác đủ các loại ác hạnh nghiệp, làm
toàn ác nghiệp, “vô y” là chẳng có thiện pháp để
nương tựa. Nếu là người tu hành tu Định,
trong mười loại ấy, hễ có bất cứ một
loại nào, mà mong thành tựu thiện căn trong Dục Giới,
được sanh làm trời hay người, đạt được
phước báo, chuyển thành giàu to, khi chuyển
sanh sang đời sau, sẽ
sống cuộc đời rất an lạc, rất vui sướng. Đó là chuyện
chẳng thể đạt được!
Do vậy, chúng ta sống cuộc đời
rất vui sướng, phải nên cảm tạ quá khứ
của chính ḿnh! Cầu người khác, chẳng bằng cầu
chính ḿnh. Trong quá khứ, quư vị đă tạo thiện căn,
đời này tự nhiên hưởng thụ. Trong quá khứ,
quư vị đă thương tổn kẻ khác rất nhiều,
đời này cũng bị người khác thương tổn
rất nhiều. Trong quá khứ, quư vị vô t́nh thương
tổn kẻ khác, chính ḿnh vẫn không biết. Đời
này, quư vị cũng sẽ bị kẻ khác vô t́nh tổn
thương. Giống như băng đảng đua xe ở
Đài Loan, cảnh sát truy bắt chúng nó, hỏi v́ sao chúng nó
làm như vậy? V́ sao chúng nó muốn giết người?
Có thù oán với kẻ bị giết hay không? Có quen biết
hay không? Không quen biết!
Bản thân chúng nó cũng chẳng biết v́ sao phải làm
như thế! Đấy là do cộng nghiệp cảm vời.
Đấy chẳng phải là nghiệp của một cá nhân!
Chúng ta muốn tu thiện căn để
chuyển biến cái nghiệp trong quá khứ, như thế
nào th́ có thể? [Thế nhưng] đời này những ǵ đă
tu toàn là Vô Y Hạnh! Như thế nào là Hữu Y Hạnh?
Trong phần sau sẽ nói. Tôi có thể nói trước đôi
chút, như chúng ta quy y Tam Bảo, đă thọ
Tam Quy Ngũ Giới. Thọ Tam Quy Ngũ Giới là nương
theo thiện hạnh, là hữu y, y (nương tựa) ǵ vậy?
Nương tựa Tam Bảo, nương theo sự chỉ
dạy trong pháp do đức Phật đă nói, tin tưởng
nhân quả, đương nhiên là “hữu y”. Hữu Y
th́ không chỉ là quư vị có thể thành tựu thiện căn,
mà quả vị trong tam thừa cũng có thể đạt
được, nhất định có thể thành Phật!
Nhưng trong một ngày, có rất nhiều tâm
tạp nhiễm, chúng ta phải là “hễ làm bèn sám”. Trong
khi sám hối, trong khi bái sám, quư vị hồi hướng. Hồi
hướng các chuyện sai lầm đă trót làm trong đời
này, [đă
trót] dấy lên các tạp niệm, dấy lên những ư niệm
chẳng chánh xác, thân thể thực hiện các hành vi không đoan chánh, cho đến phá giới. Hễ
phá giới, sẽ tùy thời sám hối. Sám hối th́ sẽ
lại thanh tịnh. Đấy
là có cái để nương cậy, nương cậy vào
pháp sám hối do đức Phật đă dạy, nương
theo Tam Bảo mà tu hành. Đức Phật đă có lời
chỉ dạy nhất định, chẳng
hạn như bộ kinh này, chính là tu “tŕ lai khứ niệm”
(giữ vững ư niệm đến đi). Đấy là Hữu
Y, tức là nương theo chánh pháp để tu Định,
tu hành Thập Thiện Nghiệp. Đó gọi là Hữu Sở
Y, có thể thành tựu đạo quả tam thừa. Không
chỉ là mười loại Vô Y này; dưới đây,
c̣n có [những loại khác].
(Kinh) Phục thứ Đại Phạm!
Hựu hữu thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược
tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, chung bất
năng thành chư tam-ma-địa. Thiết sử tiên thành,
tầm hoàn thoái thất. Hà đẳng vi thập? Nhất
giả, nhạo trước sự nghiệp. Nhị giả,
nhạo trước đàm luận. Tam giả, nhạo trước
thùy miên. Tứ giả, nhạo trước doanh cầu. Ngũ
giả, nhạo trước diễm sắc. Lục giả,
nhạo trước diệu thanh. Thất giả, nhạo
trước phân hương. Bát giả, nhạo trước
mỹ vị. Cửu giả, nhạo trước tế
xúc. Thập giả, nhạo trước Tầm Tứ.
(經)復次大梵,又有十種無依行法,若修定者隨有一行,終不能成諸三摩地;設使先成,尋還退失。何等為十?一者、樂著事業;二者、樂著談論;三者、樂著睡眠;四者、樂著營求;五者、樂著艷色;六者、樂著妙聲;七者、樂著芬香;八者、樂著美味;九者、樂著細觸;十者、樂著尋伺。
(Kinh: Lại này Đại Phạm! Lại
có mười loại pháp Vô Y Hạnh. Nếu người
tu Định mà hễ có một hạnh, sẽ trọn chẳng
thể thành các tam-ma-địa. Giả sử đă thành tựu
từ trước, sẽ liền lui sụt, mất đi.
Những ǵ là mười? Một là ưa đắm sự
nghiệp. Hai là ưa đắm đàm luận. Ba là ưa đắm
ngủ nghê. Bốn là ưa đắm lo toan, mong cầu. Năm
là ưa đắm sắc đẹp. Sáu là ưa đắm
tiếng mầu nhiệm. Bảy là ưa đắm mùi thơm.
Tám là ưa đắm mỹ vị. Chín là ưa đắm
sự đụng chạm vi tế. Mười là ưa đắm
Tầm Tứ).
Mười pháp trong phần trước là Sơ
Hạnh. C̣n có mười pháp, nếu trọn đủ mười
pháp ấy, quư vị mong tu đắc các môn Định, những
môn Định cao sâu hơn đôi chút. Tam-ma-địa là tam-muội,
đă thành tựu trong quá khứ, thế mà đời này có
bất cứ một loại pháp nào trong mười loại
pháp Vô Y Hạnh ấy, cũng sẽ buông xả, cũng sẽ
thoái đọa, lui sụt, mất đi, chẳng c̣n nữa.
Mười thứ danh từ ấy, sẽ được
giải thích từng điều một trong phần sau.
(Kinh) Đại Phạm đương
tri, thị danh thập chủng Vô Y Hạnh pháp. Nhược
tu Định giả, tùy hữu nhất hạnh, chung bất
năng thành chư tam-ma-địa. Thiết sử tiên thành,
tầm hoàn thoái thất. Nhược bất năng thành chư
tam-ma-địa, tuy tập sở dư chư thiện pháp
tụ, nhi hữu thị sự truy cầu thọ dụng tín
thí nhân duyên, phát khởi ác tâm, tâm sở hữu pháp, ư chư
quốc vương, đại thần đẳng sở,
phạm chư quá tội, hoặc bị ha mạ, hoặc
bị chủy đả, hoặc bị đoạn tiệt
chi tiết, thủ
túc. Do thị nhân duyên, hoặc thành trọng bệnh, trường
thời thọ khổ, hoặc tật mạng chung, ư
tam ác thú, tùy sanh nhất sở, năi chí hoặc sanh Vô Gián
địa ngục, như Ốt Đạt Lạc Ca, A La Đồ
Để Sa, Cù Ba Lư Ca, Đề Bà Đạt Đa,
như thị đẳng loại, thoái thất Tĩnh Lự,
năi chí đọa ư Vô Gián địa ngục, thọ vô
lượng chủng nan nhẫn đại khổ.
(經)大梵當知,是名十種無依行法。若修定者隨有一行,終不能成諸三摩地;設使先成,尋還退失。若不能成諸三摩地,雖集所餘諸善法聚而有是事,追求受用信施因緣,發起噁心心所有法,於諸國王、大臣等所犯諸過罪,或被呵罵,或被捶打,或被斷截肢節手足;由是因緣,或成重病,長時受苦,或疾命終,於三惡趣隨生一所,乃至或生無間地獄,如嗢達洛迦、阿邏荼底沙、瞿波理迦、提婆達多。如是等類退失靜慮,乃至墮於無間地獄,受無量種難忍大苦。
(Kinh:
Đại Phạm nên biết: Đó là mười loại
pháp Vô Y Hạnh. Nếu người tu Định mà có bất
cứ một hạnh nào, sẽ trọn chẳng thể thành tựu
các tam-ma-địa. Giả sử đă thành từ trước,
sẽ liền thoái thất. Nếu chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa,
tuy tu tập các khối thiện pháp khác, mà có chuyện này, [tức là] truy cầu hưởng dụng [sự cúng dường]
nơi nhân duyên tín thí, phát
khởi ác tâm và tâm sở hữu pháp, ở chỗ các quốc
vương, đại thần v.v… phạm các tội lỗi,
hoặc bị quở trách,
chửi mắng, hoặc bị đánh đập, hoặc
bị cắt chặt chi tiết,
chân tay. Do nhân duyên ấy, hoặc thành trọng bệnh,
chịu khổ lâu dài, hoặc nhanh chóng mạng chung. Trong ba đường
ác, sẽ sanh về một đường nào đó, thậm
chí có thể sanh vào địa ngục Vô Gián, như Ốt Đạt
Lạc Ca, A La Đồ Để Sa, Cù Ba Lư Ca, Đề
Bà Đạt Đa, những kẻ như thế thoái thất
Tĩnh Lự, cho đến đọa vào địa ngục
Vô Gián, chịu vô lượng nỗi
khổ to lớn khó thể chịu đựng nổi).
“Đại Phạm
đương tri” (Đại Phạm nên biết): Đức
Phật lại bảo vị Đại Phạm Thiên ấy,
nói với ông ta, v́ ông ta là bậc đương cơ. Nếu
tu Định mà có bất cứ một hạnh nào trong mười
loại pháp Vô Y Hạnh ấy, cũng chẳng thể thành
tựu các tam-ma-địa, mong cầu đạt được
Định sâu nơi tam-ma-địa sẽ chẳng thể
được. Không chỉ là chẳng thể trong đời
hiện tại, mà [những ǵ đạt được]
trong đời quá khứ “tầm hoàn thoái thất” (sẽ
liền bị lui sụt, mất đi). “Nhược bất
năng thành chư tam-ma-địa, tuy tập sở dư
chư thiện pháp tụ, nhi hữu thị sự, truy cầu
thọ dụng tín thí nhân duyên, phát khởi ác tâm, tâm sở hữu
pháp, ư chư quốc vương, đại thần đẳng
sở, phạm chư quá tội” (nếu chẳng thể thành các
tam-ma-địa, tuy tu tập các khối thiện pháp khác, mà
có chuyện này, [tức là] truy cầu
hưởng thụ [các thứ cúng dường] nơi nhân
duyên tín thí, phát khởi tâm ác, tâm sở hữu pháp, ở nơi
các quốc vương và đại thần, phạm các tội
lỗi). “Phạm chư quá tội” có nghĩa là đă
không tu Định được, c̣n các thiện pháp th́
sao? Tức là nói về các khối thiện pháp khác. “Sở
dư chư thiện pháp” (các thiện pháp khác) là nói về
điều ǵ? Chẳng đắc Định, như vậy
th́ chúng ta tụng kinh, làm Phật sự, đó cũng là thiện
sự, đó cũng là “thiện pháp tụ”. Có các sự
ấy, nhờ vào các thiện sự ấy để truy cầu
sự hưởng thụ. “Truy cầu thọ dụng”
là hưởng thụ. Tiếp nhận nhân duyên tín thí của
người khác là v́ có người tin tưởng Tam Bảo
bèn bố thí, cúng dường.
V́ có nhân duyên ấy, kẻ đó bèn truy cầu.
“Truy cầu” là đến
khuyến hóa [tín chủ cúng dường], đó là ư nghĩa
của “hóa duyên” (化緣).
Khi hóa duyên, có khi đạt được, có khi chẳng được!
Trong tâm kẻ ấy bèn sanh khởi ác niệm. “Ác niệm, tâm,
tâm sở hữu pháp”: Tâm sở hữu
pháp [là các tác dụng tâm lư] tương ứng với tâm, lại
c̣n đồng thời phát khởi. “Tâm” là tám thức
tâm (nhăn thức, nhĩ thức…), tâm sở hữu pháp gồm
năm mươi mốt món (như dục,
tàm, quư, tham, sân, si, mạn…) Nhưng tâm sanh
khởi ác niệm và tùy phiền năo tương ứng của
cái tâm là Phẫn sẽ đều hiện diện, phiền
năo ấy tương ứng với cái tâm và đồng thời
phát khởi.
Trong quốc độ này, ở nơi quốc
vương, đại thần v.v… kẻ ấy sẽ phạm
rất nhiều lỗi lầm v́ theo đuổi sự hưởng
thụ, do tâm thức duyên theo sự truy cầu. Hễ truy
cầu, sẽ phạm rất nhiều sai lầm. Do phạm
các sai lầm, sẽ bị quốc vương, đại
thần quở trách, hoặc bị đánh đập, hoặc
bị chặt đứt tay chân, cánh tay. “Chi tiết” (肢節) cũng
chính là tứ chi. Hoặc là do bị đánh đập mà
sau đó trở thành trọng bệnh, hoặc bị chịu
khổ trong một thời gian dài, hoặc v́ lẽ ấy
mà mạng chung. Sau khi mạng chung, sẽ đọa vào ba đường
ác, tùy thuộc những ǵ kẻ ấy đă làm trong suốt
một đời mà thậm chí đọa vào địa ngục
Vô Gián.
Ở đây, đức Phật nêu lên một
số trường hợp. Như Ốt Đạt Lạc
Ca (Udraka Rāmaputra, Uất Đầu
Lam Phất), A La Đồ Để Sa (Ārāḍakālāma, A Lam tiên nhân), Cù Ba Lư
Ca (Gopālika), đó là ba ngoại
đạo. Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là em họ
của đức Phật, là anh của ngài A Nan. Ông ta phạm
tội Ngũ Nghịch, làm thân Phật chảy máu, phá ḥa hợp
Tăng, muốn làm Phật[1]. Những hạng người
giống như thế, đều thoái thất Tĩnh Lự,
cũng là đă đánh mất Định. Quá khứ đă
có [Định], cho đến khi tu tập Tĩnh Lự, khi
tu Định, không chỉ là thoái thất, mà c̣n đọa
vào địa ngục Vô Gián, chịu vô lượng các nỗi khổ to lớn
khó thể chịu đựng nổi. Khổ nạn rất
nhiều, nên nói là “nan nhẫn đại khổ” (nỗi
khổ to lớn khó thể chịu đựng).
Các vị thấy các sự khổ được
chép trong kinh Địa Tạng, nếu chúng ta dùng nhục
thể để chịu đựng, sẽ không có cách nào
chịu nổi. Nếu quư vị nghĩ đến nỗi
khổ ấy, sẽ chẳng thể chịu nổi. Nhưng
đă bị đọa th́ quư vị chẳng có sức đâu
mà kháng cự, vẫn phải chấp nhận. Thân tâm bị
giày ṿ, những ǵ chúng ta đă hứng chịu trong quá khứ
đều quên hết rồi. Từ vô lượng kiếp
đến nay, ai trong
chúng ta cũng đều từng hứng chịu, nhưng đều
mê mất, đều quên sạch cả rồi! Nếu cảnh
giới ấy lại hiện tiền, chắc là cái tâm tu đạo
sẽ có thể thành tựu mau hơn một chút. Đă biết
khổ, sẽ chẳng dám tạo nghiệp nữa! Các ngoại
đạo ấy đều tu ngoại đạo Định.
Đề Bà Đạt Đa tu đạo mười hai năm,
lúc mới xuất gia rất tốt. Về sau, ông ta chẳng
thành đạo, bèn oán hận, t́m đến ngoại đạo
học thần thông. Đă học được thần
thông, bèn làm chuyện ác. Đó là thoái thất.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo A Nhă Đa
Kiều Trần Na ngôn: “Ngô thính nhữ đẳng cấp A
Luyện Nhă tu Định bật-sô tối thượng pḥng
xá, tối thượng ngọa cụ, tối thượng
ẩm thực, nhất thiết Tăng sự giai ưng phóng
miễn. Sở dĩ giả hà? Chư tu Định giả
nhược phạp tư duyên, tức tiện phát khởi
nhất thiết ác tâm, tâm sở hữu pháp, bất năng
thành tựu chư tam-ma-địa, năi chí đọa ư Vô
Gián địa ngục, thọ vô lượng chủng nan nhẫn
đại khổ”.
(經)爾時,世尊告阿若多憍陳那言:吾聽汝等,給阿練若修定苾芻最上房舍、最上臥具、最上飲食,一切僧事皆應放免。所以者何?諸修定者,若乏資緣,即便發起一切噁心心所有法,不能成就諸三摩地,乃至墮於無間地獄,受無量種難忍大苦。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn bảo A Nhă Đa Kiều Trần Na (Kiều Trần Như)
rằng: “Ta cho phép ông dành cho các bật-sô tu Định
trong A Luyện Nhă pḥng ốc tốt nhất, đồ trải
nằm tốt nhất, thức ăn ngon nhất, hết
thảy Tăng sự đều nên được miễn.
V́ cớ sao vậy? Những người tu Định nếu
thiếu các duyên phụ trợ, sẽ liền phát khởi hết
thảy ác tâm và ác tâm sở
hữu pháp, chẳng thể thành tựu các tam-ma-địa,
cho đến đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu
vô lượng nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng”).
Do tu Định ắt cần phải có đủ
nhân duyên, phải trọn đủ các tư lương, cho
nên đức Phật bèn nhắc lại. Lúc đức Phật
mới thành đạo, Ngài đến Lộc Dă Uyển
độ năm vị tỳ-kheo. Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya,
A Nhă Đa Kiều Trần Na) là Thượng Thủ, là vị
Thượng Thủ xuất
gia đầu tiên, đây là vị đại đệ tử
Thượng Thủ của
đức Phật. Trong các vị tỳ-kheo thọ giới,
Ngài là người đầu tiên. Nhóm các Ngài gồm
có năm vị. Năm vị ấy là năm vị Thượng Thủ, cũng
gọi là “ngũ tỳ-kheo”. Các Ngài trước kia từ
hoàng cung theo đức Phật cùng xuất gia. Các Ngài thấy
đức Phật đang tu khổ hạnh, bèn cùng tu với
đức Phật. Về sau, do thấy đức Phật
tiếp nhận bơ sữa do cô gái chăn dê [dâng cúng], bèn
cho là đức Phật đă thoái thất đạo tâm,
chẳng tu khổ hạnh nữa, liền ĺa bỏ đức
Phật, đến tu nơi Lộc Dă Uyển (Mrigadava, Isipatana). Lộc
Dă Uyển cách Bồ Đề Già Da (Buddha-gayā, Bodh Gaya) chẳng xa cho mấy. Sau khi đức Phật thành đạo
ở đạo tràng Bồ
Đề Già Da, Ngài đến Lộc Dă Uyển, độ
cho năm vị ấy trước tiên, thuyết pháp cho họ.
Năm vị ấy đắc
độ trước hết.
V́ thế nói A Nhă Đa Kiều Trần Như
là đệ tử tối thượng thủ, Ngài quản
lư hết thảy phân phối. V́ sao đức Phật phải
nói với ngài Kiều Trần Như? V́ pḥng ốc, chăn
đệm, thức ăn, đồ uống đều do
ngài Kiều Trần Như sắp xếp. Đức Phật
liền bảo ngài Kiều Trần Như: “Ta cho phép ông cấp
cho vị tỳ-kheo tu Định ấy pḥng ốc tốt
nhất, chăn đệm tốt nhất, thức ăn tốt
nhất. Hết thảy
những chuyện lao động thuộc về Tăng sự
người ấy đều nên được miễn, để người ấy an tâm tu Định”. V́ sao
phải làm như vậy? “Sở dĩ giả hà?” (V́ lẽ
nào vậy?) Đấy là gạn hỏi ư nghĩa. V́ sao ta
phải cho phép ông đối xử với người tu Định
như vậy, chăm sóc họ tốt đẹp như vậy?
Đức Phật bảo ngài Kiều Trần Như: Nếu
người tu Định chẳng có tư lương, chẳng
có hoàn cảnh rất tốt đẹp, họ sẽ sanh khởi
ác tâm. Tuy ác tâm chẳng phải là rất nghiêm trọng, nhưng
họ có thể ôm ḷng oán trách, khi tu Định sẽ chẳng
thể an tâm. Có ư nghĩa như vậy đó! T́nh h́nh kiểu
này có thể là mọi người đă đều từng
trải rồi.
Khi tôi ở Pḥng Sơn, các đạo hữu
sống trong lều tranh. Có lúc mọi người gặp mặt
nhau, đến chỗ thường
trụ lănh đồ xong, cầm một bao giấy nhỏ
đựng muối, [cằn nhằn]: “Thường trụ
bủn xỉn quá, cho chúng tôi có một tí muối! Ba mươi
ngày phải làm thế nào đây? Một tháng mới phát tí xíu
muối như vậy!” Họ nói thường trụ khổ
sở, chẳng có cúng dường. Khi đó, chúng tôi ở
phương Bắc mà phát kê, nếu phát bắp th́ c̣n đỡ
một chút, lâu đói, chứ kê th́ chẳng thể đỡ
đói cho lắm. Cháo kê như thế nào? Ba mươi
cân hạt kê, thường trụ giữ lại ba cân, ba mươi
cân bớt lại ba cân, tổng cộng phát cho quư vị hai
mươi bảy cân. Với chút muối đó, quư vị cầm
về lều tranh, chỉ có thể nấu cháo loăng, người
tu Định chẳng cần lương thực nhiều
lắm! Tôi muốn nói là họ oán hận. Khi họ chẳng
đủ tư lương, làm sao có thể tu hành cho nổi?
Do vậy, sẽ phan duyên. Thuở đó, chúng tôi xuất gia
chưa bao lâu, hoàn toàn chẳng phải là người tu hành
lâu năm, cũng chẳng có duyên phận. Người tu hành
đă lâu suy nghĩ: “Vị thí chủ nào đó phải nên
chăm sóc tôi một phen, phải nên biếu tặng tôi”. Nếu
tâm người ấy nghĩ đến chuyện đó, làm
sao tu Định cho nổi? Đức Phật liễu giải
tâm chúng sanh, liễu giải hết thảy sự vật.
Do vậy, miễn cho họ hết thảy những việc
lao động, chăm sóc đặc biệt tốt đẹp.
Đặc biệt tốt đẹp th́ người ấy
có thể tu hay không? Hai đằng đều chẳng thể,
tăng trưởng cái tâm tham cũng không được!
Ở tỉnh Hà Bắc, có một vị
đại đức phát tâm mong cúng dường người
tu Thiền Định. Người trụ tĩnh muốn
ǵ, ông ta đều cho thứ đó. Có những người
đến chỗ thường trụ, đ̣i tấm mền nỉ tốt nhất,
ông ta cũng mua cho. Đ̣i đồng hồ sang nhất, ông
ta cũng mua cho. Đă thế, trong mỗi gian nhà đều
có phích nước nóng, thuở đó là rất cao cấp! Ông
ta mong những người ở đó sẽ tu Định,
mỗi căn nhà đều đặt phích nước nóng,
mua cho mỗi người một cái. [Người tu Định]
cảm thấy thân thể không khỏe, đ̣i ăn bánh chẻo.
Ở phương Bắc, ăn bánh chẻo[2] là sang lắm. Ông ta
bèn theo đúng ư nấu bánh chẻo. Sau đó, những người
tu Thiền Định có tu hành tốt đẹp hay không?
Chẳng hề! Đến cuối cùng, phước đức
của ông ta chẳng đủ, những người tu Thiền
Định dần dần bỏ đi hết sạch, chẳng
c̣n sót lại một người nào! Ông ta cũng đóng cửa
đạo tràng đó luôn! Khi ấy là năm một ngàn chín
trăm ba mươi mấy, khoảng ba mươi lăm,
ba mươi sáu, ba mươi bảy chi đó. Đại khái
chưa đầy ba năm đă kết thúc!
Khổ quá mức cũng không được,
sướng quá mức cũng chẳng thể. Sướng
quá, họ lại phóng dật. Khổ sở, họ sẽ
oán hận. Thế nhưng, tư duyên (資緣, các duyên
giúp cho việc tu Định) chẳng thể thiếu khuyết.
Nếu không, sẽ dẫn đến ác tâm sở phát khởi.
Tuy vậy, tư duyên đặc biệt tốt đẹp,
đặc biệt thuận tiện, ác tâm sở của kẻ
đó cũng thành lập! Phan duyên, tham lam, kẻ đó chẳng
thể định nổi, mà cũng tu chẳng nổi! Do
vậy, chẳng thể thành tựu tam-ma-địa, thậm
chí đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu vô lượng
nỗi khổ to lớn khó thể chịu đựng được!
(Kinh) Tu Định hành giả nhược
cụ tư duyên, chư tam-ma-địa vị thành năng
thành. Nhược tiên dĩ thành, chung bất thoái thất.
Do thử bất khởi nhất thiết ác pháp, quảng
thuyết năi chí bất thiện tầm tứ, văng sanh thiên
thượng, chứng đắc Niết Bàn. Tu Định
hành giả, nhược vị thành tựu chư tam-ma-địa,
sơ dạ, hậu dạ, đương xả thùy miên,
tinh tấn tu học, viễn ly hội náo, thiểu dục
tri túc, vô sở cố luyến. Nhất thiết tham, sân, phẫn,
phú, năo, hại, kiêu, mạn, cống cao, xan lận, tật đố,
ly gián, thô ác, hư cuống, tạp uế, nhất thiết
nhân gian hy hư phóng dật, giai tất viễn ly. Như thị
hành giả, ưng thọ Thích, Phạm, hộ thế tứ
vương, Chuyển Luân Vương đẳng tán thán, lễ
bái, cung kính, thừa sự, phụng thí bách thiên na-dữu-đa
cúng, huống Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phiệt-xá, Thú-đạt-la
đẳng. Vị đắc
Định giả, thượng ưng thọ thử tán thán,
lễ bái, cung kính thừa sự, phụng thí, cúng dường,
huống hồ dĩ đắc tam-ma-địa giả?”
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: “Tu Định
năng đoạn Hoặc, dư nghiệp sở bất năng,
cố tu Định vi tôn, trí giả ưng cúng dường”.
(經)修定行者,若具資緣,諸三摩地未成能成;若先已成,終不退失,由此不起一切惡法,廣說乃至不善尋伺,往生天上證得涅槃。修定行者,若未成就諸三摩地,初夜、後夜當舍睡眠,精進修學,遠離憒鬧,少欲知足,無所顧戀,一切貪瞋、忿覆、惱害、憍慢、貢高、慳吝、嫉妒、離間粗惡、虛誑雜穢,一切人間嬉戲放逸,皆悉遠離。如是行者,應受釋、梵、護世四王、轉輪王等,讚歎、禮拜、恭敬承事,奉施百千那庾多供,況剎帝利、婆羅門、筏舍、戍達羅等!未得定者,尚應受此讚歎、禮拜、恭敬承事,奉施供養,何況已得三摩地者!爾時,世尊而說頌曰:修定能斷惑,餘業所不能,故修定為尊,智者應供養。
(Kinh: “Hành giả tu Định nếu có
đủ các duyên phụ trợ th́ các môn tam-ma địa
chưa thành sẽ có thể thành. Nếu các môn Định đă
thành từ trước, trọn chẳng bị thoái thất.
Do vậy, chẳng dấy lên hết thảy ác pháp, Nói rộng
th́ cho đến chẳng có Tầm, Tứ bất thiện,
sẽ sanh lên cơi trời, chứng đắc Niết Bàn. Hành
giả tu Định nếu chưa thành tựu các tam-ma-địa,
đầu đêm, cuối đêm, hăy nên bỏ ngủ nghỉ,
tinh tấn tu học, xa ĺa ồn ào, náo nhiệt, ít tham muốn,
biết đủ, chẳng nuối tiếc ǵ. Hết thảy
tham, sân, phẫn, giấu giếm, năo hại, kiêu căng, ngạo
mạn, ngạo nghễ, keo kiệt, ghen ghét, ly gián, nói thô ác,
dối trá, tạp uế, hết thảy vui đùa phóng dật
của nhân gian thảy
đều xa ĺa. Hành giả như thế đáng nên được
Đế Thích, Phạm Vương, bốn thiên vương
hộ thế, Chuyển Luân Vương v.v… tán thán, lễ bái,
cung kính, phụng sự, dâng thí trăm ngàn na-dữu-đa vật
cúng, huống hồ Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phiệt-xá,
Thú-đạt-la v.v… Người chưa đắc Định
c̣n đáng nên được họ
tán thán, lễ bái, cung kính, phụng sự, huống hồ người
đă đắc các tam-ma-địa!” Lúc bấy
giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng:
“Tu Định đoạn trừ Hoặc, các nghiệp khác
chẳng thể. Nên tu Định tôn quư. Bậc trí nên cúng
dường”).
Hành giả tu Định nhất định
phải trọn đủ các duyên phụ trợ. Khi đó,
có thể thành tựu các tam-ma-địa chưa thành tựu.
Nếu [các tam-ma-địa] đă
thành từ trước, tức là đă thành tựu th́ sẽ
càng tăng trưởng, chẳng bị thoái thất. Vậy
th́ do có Định lực, tâm có thể hàng phục, hết
thảy ác pháp đều chẳng dấy lên. “Quảng
thuyết năi chí bất thiện Tầm, Tứ” (nói rộng
th́ là cho đến
các món Tầm, Tứ
bất thiện): Tầm Tứ có nghĩa là “truy cầu”,
[ở đây, kinh văn có ư nói]
“chẳng truy cầu nữa”. Như thế th́ có thể
sanh lên trời, chứng đắc Niết Bàn càng có thể
tu thành công. Hoặc là tu Tứ Thiền Tứ Định, hoặc
là Tứ Không Tứ Định, sẽ có thể sanh lên trời,
thậm chí thâm nhập, tu các tam-ma-địa,
cho đến rốt ráo chứng đắc Niết Bàn, cho
đến chứng đắc, thành tựu các quả vị
thuộc tam thừa.
Đây là đức Phật tán thán tu Định.
Trong thế gian, vào lúc tu hành, có ba loại: Loại thứ nhất
là tu Định tâm, loại thứ hai là tu đọc tụng,
loại thứ ba là chăm lo tu phước. Hành giả tu
Định là người tu hành, là người hành đạo.
Định là “Tĩnh Lự, tịch tĩnh”. Khi tu nhân,
chính là tu tịch tĩnh, tu Tĩnh Lự, tu Quán. Về sau,
khi thành tựu, đạt tới tam-ma-địa. Tam-ma-địa
trong phần trước đă nói rất nhiều. Đẳng
Tŕ dịch là Tịch Tĩnh. Người tu Định hạnh
phải nên làm công tác chuẩn bị tư lương th́
khi tu tập, quư vị mới
dễ chứng đắc. Có những chuyện quư vị cần
phải chú ư, cũng tức là đối với hoàn cảnh
và t́nh h́nh khách quan bên ngoài, quư vị đều phải nên lưu ư.
Nếu quư vị c̣n chưa thành tựu tam-ma-địa,
tức là trước khi chưa đắc Định, sẽ
phải nhọc nhằn đôi chút. Đầu đêm, cuối
đêm, khi quư vị c̣n chưa thành công, phải nên chịu
cực đôi chút. Nếu tính vào lúc đầu đêm, dùng mười
hai giờ trong hiện thời để tính toán, quư vị
có thể nghỉ ngơi bốn tiếng đồng hồ
vào lúc giữa đêm, Trong tám tiếng đồng hồ thuộc
đầu đêm và cuối đêm, quư vị phải luôn
tinh tấn tu hành, chớ nên quá ham ngủ. “Đương
xả thùy miên” (hăy nên bỏ ngủ nghỉ), bốn tiếng
đồng hồ chẳng đủ. Ở đây nói tới
người thật sự phát tâm muốn liễu sanh tử,
mong đoạn phiền năo. Hạng người tu hành như
vậy sẽ thật sự tin tưởng, ngưỡng mộ
lời chỉ dạy của đức Phật. Tôi phải
nhấn mạnh: Tín tâm ấy hoàn toàn chẳng phải là ḷng
tin b́nh phàm của chúng ta, mà là thật sự tin sâu, chẳng
dời đổi. Quư vị tin tưởng lời răn
dạy của đức Phật, đức Phật dạy
chúng ta làm như thế nào, chúng ta sẽ làm đúng như
thế ấy. Như thế th́ mới có thể nhập đạo.
Hiện thời, chúng ta đều tự nhận là rất
tin Phật, cá nhân tôi cảm thấy vẫn chẳng đủ!
Chúng ta hoàn toàn chẳng thể mỗi ngày suốt hai mươi
bốn tiếng đồng hồ, chỉ ngủ bốn
giờ, trong
hai mươi giờ c̣n lại đều
có thể hành đạo, đúng không? Như bọn xuất gia chúng tôi, tức các tỳ-kheo
và tỳ-kheo-ni là “chuyên nghiệp”, chuyên nghiệp mà đều
làm không được, c̣n như đối với mọi
người học Phật, tu hành là nghề phụ, hoàn toàn
chẳng phải là chuyên nghiệp [th́
c̣n nói ǵ được nữa]!
Mọi người biết: Sau khi chúng tôi xuất
gia, có công khóa sáng tối. Chúng tôi hai giờ rưỡi sáng đă
phải thức dậy.
Mỗi ngôi chùa đều là hai giờ rưỡi thức
dậy. Quy định này, quư vị đến xin quải đơn (挂单, gia nhập chúng thường trụ) tại
chùa miếu nào cũng đều là hai giờ rưỡi sáng
thức dậy. Trong ấy, bao hàm rất nhiều ư nghĩa.
Xưa kia, tại Đại Lục, trong chùa miếu không có
bữa tối, họ gọi [ăn lót dạ cho đỡ
đói vào buổi tối] là “dược thạch” (藥石), cũng có nghĩa là “uống thuốc”. Hiện
thời, thân thể trong đời Mạt chẳng khỏe
mạnh như cổ nhân trong quá khứ, bèn phải uống
thuốc. Coi cơm chiều như thuốc, nhưng quy củ
thông
thường trong các chùa miếu [thuở
trước], thuốc ấy là cháo ăn với dưa khú.
Quư vị muốn ăn th́ ăn, chẳng muốn ăn th́
thôi!
Hiện thời, đương nhiên chẳng
phải là như vậy. Nếu mọi người đến
chùa miếu dùng cơm chiều, vẫn ăn rất ngon. Có
các nhà sư
trẻ tuổi c̣n đi ra các quán bán thức ăn vặt bên
ngoài, giống như ở ngoài cửa
chùa chúng ta, toàn là những cái quán nhỏ! Như vậy
th́ tu đạo làm sao nổi? Gieo thiện căn mà thôi! Nếu
thật sự tu hành, quư vị đừng nên quá tham ngủ,
ngủ nghê là một món Cái. Chúng ta tính thử xem, trong suốt
một đời của chúng ta, thời gian ngủ nghê đă
chiếm hết bao nhiêu? Chiếm rất nhiều thời
gian! Nhưng có những người v́ kinh doanh sự nghiệp,
hoặc là làm công nhân, vẫn phải làm thêm giờ, có khi v́
kiếm tiền, cũng ngủ rất ít. Vậy th́ chẳng
liên quan, ở đây, chuyên nói về người tu hành. Nếu
lúc quư vị muốn tu Định, hăy nên tinh tấn, đừng
nên giải đăi! Ngủ
nghê chính là giải đăi. Quư vị đừng luống uổng
thời gian tốt đẹp!
Có các đạo hữu đă phát tâm, mong ở
trong núi, hoặc có rất nhiều đạo hữu hay cư
sĩ muốn học theo cổ đức, chẳng ngủ
nghê, người như vậy cũng rất nhiều. Thậm
chí cũng có người chẳng ăn cơm, đả một
thất, hai thất, tập trung thời gian muốn tu đạo,
mục đích là mong đắc Định. Đắc Định
th́ có lợi ích ǵ? Mọi người đều biết:
Hễ đắc Định, sẽ có thể khai trí huệ.
Khi ở trong Định, điều ǵ quư vị cũng đều
thông tỏ. Như các vị A La Hán, nếu quư vị thỉnh
các Ngài hồi hướng, khi các Ngài chưa nhập Định,
sẽ chẳng khác chúng ta cho mấy. Hễ các Ngài nhập
Định, khởi quán chiếu, trí huệ hiện tiền,
các Ngài mới có thể biết. Các Ngài xả báo, bèn nhập
tam-ma-địa, chứng Không lư.
Do vậy, khi chưa tu Định thành công,
phải bỏ bớt ngủ nghỉ, phải tinh tấn
tu học. Học ǵ vậy? Học Thiền Định, phải
tu tập Định, nhưng quư vị sống trong thành thị
sẽ tu chẳng thành! Xe cộ quấy nhiễu, khiến cho
quư vị chẳng dễ nhập Định. Tiếng
người ồn ào, cũng chẳng thể nhập Định.
Chỗ huyên náo sẽ chẳng thể được! “Thiểu
dục tri túc” (ít ham muốn,
biết đủ): Người
tri túc thường vui sướng, đừng nên tham cầu
quá nhiều! Chúng ta v́ cái tâm tham cầu quá to, chẳng
giác ngộ xác thân của chúng ta là huyễn hóa, chẳng nhận
định nhục thể là vô thường, luôn để
cho thân thể thoải mái, [chỉ suy tính] sao cho thân thể
điều ḥa, làm thế nào để thong dong, thỏa thích.
Đa dục chẳng biết đủ, rất nhiều kẻ
chẳng thể thỏa ḷng được! Có lúc kẻ bần
cùng thấy kẻ giàu có bèn cảm thấy rất kỳ quái:
“Họ có nhiều tiền ngần ấy, suốt đời
có ăn hết nổi hay không?” Kẻ giàu thấy người
nghèo nói: “Ngươi chẳng tu phước, đáng phải
chịu tội. Ngươi nghèo mạt là chuyện đáng
phải như vậy!”
Đây là dạy chúng ta phải thiểu dục,
tri túc, như những vị đại đức sống
trong núi có phước báo rất lớn, nhưng họ đều
buông xả, như thế th́ mới vui sướng được.
Biết đủ sẽ thường vui. Người thiểu
dục tự an. Thiểu dục th́ quư vị mới có thể
b́nh an. Vô cầu, quư vị cũng chẳng
thương tổn ai. V́ thế, ắt cần phải
thiểu dục tri túc, đừng nên lưu luyến. Lưu
luyến có nghĩa là tham luyến. Đối với hết
thảy sự vật trong thế gian, nói theo phía chúng ta, ăn,
mặc, ở, đi lại, hễ “ăn, mặc, ở” c̣n
đắp đổi được th́ chớ nên tham luyến.
Đối với tham, sân, phẫn, phú, năo hại, kiêu, mạn,
ngạo nghễ, bủn xỉn, ghen tỵ, ly gián, thô ác, hư
dối, tạp uế, quư vị phải trọn đủ
từ, bi, hỷ, xả để đối trị tham, sân,
si, ái. Lưu luyến có nghĩa là tham, sân, là lúc chẳng vửa
ư sẽ sanh khởi phiền năo. Sân là cái tâm sân hận.
Đấy là ba căn bản tội nghiệp,
tức tham, sân, si. Si là chẳng có trí huệ. Kiêu mạn: Ai
nấy đều nghĩ như thế này: “Ta là kẻ b́nh
phàm, có ǵ đáng để kiêu mạn?” Nhưng thật ra, chẳng
phải là như thế. Mỗi người khi nghĩ đến
những kẻ cùng lứa, hoặc đồng nghiệp,
luôn cảm thấy ta ngon lành hơn họ. Kiêu, nói đơn
giản là kiêu ngạo tự măn, nói rộng th́ là kiêu căng,
phách lối. Chuyện đáng kiêu căng phô phang quá nhiều:
Chẳng hiểu mà cứ ra vẻ thông hiểu, chẳng biết
mà cứ giả
vờ biết tuốt. Rơ ràng là chẳng ra hồn mà chính
ḿnh vẫn cảm thấy bản thân ta ghê gớm lắm!
V́ sao nói gộp chung kiêu và mạn? “Mạn” (慢) ở đây
có nghĩa là ngạo mạn.
Người nghèo có ngạo mạn hay không? Kẻ
nghèo càng ngạo mạn! Họ cảm thấy chính ḿnh rất
thanh cao, đặc biệt là những kẻ có học. Xưa
kia là “cùng tú tài” (窮秀才, chàng tú
tài nghèo kiết xác), nay là những kẻ đă tốt nghiệp
đại học. Hiện thời, tốt nghiệp đại
học vẫn c̣n thua kém, phải là người có học vị
Tiến Sĩ hay Thạc Sĩ! Tôi nhớ hai mươi mấy
năm trước, khi ở Thượng Hải, Tiến Sĩ chẳng
ít. Ở Bắc Kinh, Tiến
Sĩ cũng
chẳng ít. Tôi đă gặp hai vị Tiến
Sĩ học
từ Mỹ về. Một người học ngành Nông Nghiệp từ
trường Khang Năi Nhĩ (Cornell), ông ta làm giáo sư đại
học, đáng kiêu ngạo mà! Ông ta bị bắt vô tù, luôn
nghĩ ḿnh cao hơn kẻ khác: “Tôi là Tiến
Sĩ ngồi
tù”. Tôi nói: “Tôi là ḥa thượng ở trong ngục!” Ông ta kêu
tôi bầu bạn với ông ta, luôn cảm thấy kiêu ngạo.
Bất luận đến chỗ nào, ông ta đều biểu
lộ ra ngoài vẻ kiêu mạn. Bất cứ lúc nào, ông ta luôn
[tự nghĩ chính ḿnh] ngon lành hơn người khác. Sợ
rằng đọa địa ngục, ông ta vẫn cảm
thấy chỉ có ông ta mới đủ tư cách đọa
địa ngục! Quư vị chẳng có cái nghiệp ấy,
sẽ chẳng đến nơi ấy được đâu
nhé! Như tôi ở trong tù, thời gian bị tù quá lâu, tiếp
xúc cả đống phạm nhân. Ở đó, giữa các
phạm nhân với nhau, họ cũng cho rằng ta mạnh
hơn lũ phạm nhân các ngươi! Ai nấy đều
có biểu hiện ấy. Đó chính là Câu Sanh Ngă Chấp (俱生我執, ngă chấp bẩm
sanh). Điều này rất
dữ dội, v́ luôn nghĩ ta ngon lành hơn kẻ khác. Nữ
đạo hữu bất luận xấu cỡ nào, đều
cho rằng chính ḿnh rất đẹp, suốt ngày luôn soi gương,
luôn tô trát.
V́ sao? Kiêu mạn, ngạo nghễ!
“Xan” (慳) có nghĩa
là tham, rất keo tiếc, cái tâm buông xả chẳng nặng!
Chúng ta nói Xả là ǵ? Là bố thí, xả trong “từ, bi,
hỷ, xả”. Xả th́ phải xả từ trong chính
cái tâm của quư vị, không chỉ là vật chất. Ngoại
trừ vật chất bên ngoài, trước hết, phải
xả cái tâm. Nếu tâm quư vị đă xả thanh tịnh,
sẽ thành công. Chẳng có keo tham, sẽ đổi thành bố thí, là từ bi, là xả. Ghen tỵ th́ sao?
Điều này càng bao hàm nhiều ư nghĩa hơn nữa.
Ghen ghét chuyện tốt đẹp của người khác!
Nếu dính líu đến lợi hại th́ ghen tỵ c̣n có
thể lư giải, đằng
này chẳng mảy may liên quan đến kẻ đó! Chỉ
cần có vài người, hễ
nói đến chuyện tốt của người khác, người
ta thán thán người ấy, kẻ đó bèn phun lời phá
hoại ngay: “Hắn là cái thá ǵ chớ? Có ǵ là ghê gớm đâu?”
Đó là ghen tỵ. Chuyện kiểu này rất nhiều, bất
cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, quư vị đều
có thể gặp phải!
Trong mười đại nguyện vương
của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, đại
nguyện thứ năm là “tùy hỷ
công đức”: Thấy
người khác làm chuyện tốt, quư vị phải tán
thán. Tán thán, tùy hỷ th́ chuyện tốt của người
ấy sẽ chia cho quư vị phân nửa! Chúng ta phải thường
tùy hỷ công đức của chư Phật, Bồ Tát.
Như Địa Tạng Bồ Tát mọi người
đều biết, nguyện lực to lớn, xuống địa
ngục độ chúng sanh. Nguyện lực của Quán Thế
Âm Bồ Tát cũng rất lớn, Ngài có mười hai
đại nguyện. Phổ Hiền Bồ Tát có mười
đại nguyện, Văn Thù Bồ Tát có mười
đại nguyện, chúng ta đều tùy hỷ. Tùy hỷ
sẽ được hưởng một phần. Thấy
kẻ khác làm chuyện tốt, chúng ta chẳng có sức lực
làm như vậy, chúng ta bèn tùy hỷ. Tùy hỷ người
đó, gặp mặt được chia một nửa. Người
Hoa [hay nói] “gặp mặt, tôi chia một nửa”, nhưng
Phật giáo chẳng chú trọng vật chất, tôi tùy hỷ,
cũng chẳng tổn hại đến cái sẵn có của
người khác, đấy là tùy hỷ công đức. Như
thế th́ sẽ có thể tiêu trừ ghen tỵ.
“Ly gián, thô ác”, “ly gián” (離間) là châm
ng̣i ly gián. Nếu thấy người khác thành công, kẻ
[ly gián] sẽ phá hoại. C̣n có lưỡng thiệt (兩舌, nói đôi chiều),
xúc xiểm thị phi. Như trong phần trên đă nói, tham,
sân, phẫn, phú, năo hại, kiêu mạn, ngạo nghễ, đủ
loại thô ác đều là hư dối, nhơ uế, cũng
là cấu uế. Không chỉ vứt bỏ những thứ
đó, mà ngay cả những thứ vui chơi, buông lung trong
nhân gian thảy đều xa ĺa. Như ở nhà xem TV, có tính
là vui chơi hay không? Tùy thuộc quư vị xem như thế
nào. Nếu là người phát tâm, người tu đạo,
khi ở trong t́nh cảnh ấy, tùy thuộc quư vị dụng
tâm như thế nào? Quư vị có giữ được định
hay không? Nếu định được, dẫu quư vị
vui chơi, cũng biến thành tinh tấn; vui chơi, buông
lung đều biến thành tinh tấn. “Na Già thường
tại Định” (đức Thế Tôn thường ở
trong Định). Phật, đại Bồ Tát làm hết
thảy các chuyện tùy thuận chúng sanh, các Ngài thường
ở trong Định. Những chuyện ấy đều
biến thành tinh tấn. Nếu chúng ta chẳng làm được,
chẳng có định lực ấy, tốt nhất là hăy
xa ĺa, tự ḿnh kiểm điểm. Có những kẻ thường
xuyên viện cớ: “Đâu có phóng dật! Tôi đang tu đạo
mà!” Đó là tự ḿnh lừa ḿnh! Nếu chúng ta trong hai mươi
bốn tiếng đồng hồ, tuy chẳng thể tu tập
suốt hai mươi tiếng đồng hồ, vậy th́ mười
tiếng đồng hồ có thể hay không? Làm chẳng nổi!
Năm giờ có thể hay không? Làm chẳng nổi luôn! Hai
giờ có nổi hay không? Vẫn chẳng làm nổi! Một giờ có được hay không?
Vẫn chẳng làm nổi! Vậy th́ vào lúc sáng tối,
khi sắp ngủ, khi sắp thức dậy, niệm mười
lượt “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, chỉ
sợ chuyện này vẫn chẳng làm được!
Hoặc là lại nhiều hơn một chút, niệm “nhất
giả, lễ kính chư Phật. Nhị giả, xưng tán
Như Lai” cho đến “thập giả, phổ giai hồi
hướng”, đọc thuộc mười đại
nguyện vương của đức Phổ Hiền Đại
Nguyện Vương th́ cũng được chứ? Nếu
những nguyện ấy cũng chẳng nhớ được, hăy niệm
thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm Phổ Hiền
Bồ Tát, hoặc niệm Địa Tạng Bồ Tát, nhưng chúng ta
vẫn có thói quen là niệm Quán Thế Âm Bồ Tát và Địa
Tạng Bồ Tát nhiều hơn. Niệm mấy chục câu
chắc sẽ làm được chứ! Làm
chuyện ǵ, quư vị hăy niệm mười mấy câu, sẽ
đều có thể được!
Làm như thế sẽ có thể đối
trị rất nhiều phiền năo, từng chút một như
vậy, tuy thời gian rất ít, nhưng lợi ích hết
sức to lớn. Thông thường, thiện căn cạn
mỏng, như chư vị đạo hữu thường
tới nghe kinh, nghe một, hai tiếng
đồng hồ, quư vị nghe văn tự, hoặc nghe
ngôn ngữ của một vị pháp sư nào đó, có thể
lọt vào tâm quư vị hay không? Dùng Nhĩ Căn để
nghe, nghe rồi bèn xoay lại cái Nghe để nghe tự tánh,
kết hợp với tâm tánh của quư vị. Dường
như những chuyện đức Phật đă nói, ta đều
vi phạm, cho nên ta chẳng đắc Định. Làm như
thế nào đây? Sau khi ta đă biết, hăy nên dần dần
xa ĺa!
Một phương diện khác, nếu là tham,
sân, phẫn, phú, cho đến hư dối, tạp uế,
hết thảy chơi đùa, buông lung, đều là không tốt.
Không tốt th́ phải rời ĺa. Tốt th́ phải tinh tấn,
phải thực hiện. “Như thị hành giả” (hành
giả như thế), cũng chính là người hành đạo,
người tu Định, đương nhiên không nhất
định là người xuất gia, [mà có thể là] các vị
đạo hữu, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hết thảy
cư sĩ, hễ tu Định quư vị phải làm như
thế này: Ở
nơi thanh vắng để tu đạo, tinh tấn, giảm
bớt ngủ nghỉ, quư vị chẳng tham, chẳng sân,
chẳng si, không bủn xỉn, tham lam, chẳng ghen tỵ,
chẳng buông lung, quư vị đáng nên đạt được
ǵ? Được Đại Phạm thiên vương hộ tŕ quư vị. C̣n
có Tứ Thiên Vương, hoặc là Chuyển Luân Vương
trong nhân gian, cũng như quốc vương sẽ đều
tán thán, cung kính, lễ bái, thừa sự quư vị. Thậm
chí đối với người tu Định ấy, tức
người hành đạo ấy, sẽ bố thí trăm
ngàn na-dữu-đa vật cúng
nhiều ngần ấy, cũng có nghĩa là cúng dường
rất nhiều.
Một người thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi,
hay chủng tánh Bà-la-môn, cho đến Phiệt-xá, Thú-đạt-la,
tức người thuộc bốn loại chủng tánh ấy,
khi họ đang tu tập Định, tuy c̣n chưa đắc
Định, họ cũng là người tu hành, đều
có thể kham tiếp nhận Phạm Vương, Đế
Thích, Tứ Thiên Vương tán thán, lễ bái, cung kính, thừa
sự, cúng dường. Nếu đă đắc tam-ma-địa,
tu Định đă thành tựu, đă đắc Định,
đă đắc tam-ma-địa, sẽ được cúng
dường càng chẳng thể nghĩ bàn. Ắt cần phải
nói theo hai phương diện, liên quan đến thiện
căn trong nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ
của người ấy.
Như tại Ấn Độ, có các vị
A La Hán đă chứng Tứ Quả A La Hán,
không chỉ tu Định, mà c̣n đắc tam-ma-địa,
đắc Không Định, đạt đến tự tại.
V́ sao các vị ấy ôm bát khất thực, vẫn chẳng
xin được? Lúc đó, có người đă hỏi đức
Thế Tôn như thế, đức Phật bảo là do trong
nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, vị đó
rất ít bố thí. Tuy đă thành tựu nơi phương
diện Huệ, nhưng rất ít ỏi nơi phương
diện Phước. Ấn Độ có câu: “Tu huệ, bất tu phước,
La Hán thác không bát” (Tu huệ, chẳng tu phước,
La Hán ôm bát rỗng), chẳng khất thực được.
“Tu phước, bất
tu huệ, hương tượng quải anh lạc” (tu phước, chẳng tu huệ,
voi thơm đeo anh lạc). Quốc vương cưỡi
con voi to ấy, [người
hầu] khoác châu báu, anh lạc để trang nghiêm [thân voi].
Nó là tu phước, chẳng tu huệ, đọa vào súc
sanh đạo. La Hán tu huệ,
chẳng tu phước, ôm bát rỗng, cũng chẳng phải
là vĩnh viễn ôm bát rỗng không. Đôi khi cũng có lúc
không khất thực được ǵ. Do vậy biết
trong hết thảy sự vật, bất luận trong nội
giáo, hay nơi tướng cảnh giới bên ngoài, đừng
nên bận ḷng những chuyện vụn vặt. Có những
người thích hỏi những chuyện ấy, thích vần
ṿ những từ ngữ rỗng tuếch: “Tôi không tu Định,
tôi vẫn được cúng dường”. Hoặc là nói như
vậy đó! [Chẳng hề biết] được cúng
dường là do phước báo của quư vị, chẳng
phải do huệ sanh trưởng. Ở đây, đức
Phật cổ vũ, khích lệ người tu Định.
Đức Phật thuyết pháp, đều
là ban cho chúng sanh đôi chút ngọt ngào, cho nên nói Địa
Tạng Bồ Tát gia tŕ chúng ta, [khiến cho chúng ta] có thể
đạt được rất nhiều lợi ích, th́ họ
mới chịu niệm. Phẩm Phổ Môn nói: Niệm thánh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được gia tŕ
rất nhiều. Miễn trừ rất nhiều tai nạn
th́ giống
như được gia tŕ! Hiện thời, nếu quư vị
nói Không với chúng sanh, [họ sẽ kinh ngạc]: “Không ư?
Thế th́ tôi tin để
làm ǵ?” Họ chẳng tin, v́ họ đă lư giải sai lầm.
Quư vị ắt phải đạt đến mức độ
nào th́ mới nói chuyện tương
ứng với mức độ đó, có nghĩa như vậy
đấy! Do vậy, đức Thế Tôn đă dùng kệ
tụng để biểu đạt các ư nghĩa trên đây.
V́ sao nói như vậy? V́ người tu Định có thể
đoạn Hoặc. Hoặc (惑) có nghĩa
là “mê hoặc”, là chẳng hiểu rơ, chẳng có chánh
tri, chánh kiến. Dấy lên tham, sân, si, dấy lên phẫn,
phú, năo, hại, chẳng có Định lực. Hễ dấy
tham dục, kẻ đó sẽ chẳng thể định
được, sẽ bị cảnh xoay chuyển. Do tâm bị
cảnh chuyển, cho nên đọa lạc. Nếu có định
lực, tâm có thể chuyển cảnh. Tâm có thể chuyển
cảnh, tức giống với Như Lai.
Tuy đức Phật nói ra ba phương pháp,
tức tu Định, đọc tụng Đại Thừa,
cho đến tu phước, nhưng trong ba phương
pháp ấy, chỉ có tu Định là tốt nhất. “Tu Định
có thể đoạn Hoặc, các nghiệp khác chẳng thể”.
Nếu quư vị tu hành các pháp khác, chẳng tu Định, mà
mong đoạn Hoặc, sẽ rất
khó. V́ thế, “cố tu Định vi tôn” (cho nên tu Định
là tôn quư), đáng tôn trọng nhất, đáng tôn kính nhất.
Do vậy, tu Định là tốt nhất. “Trí giả ưng
đương cúng dường” [nghĩa là] người
có trí huệ hăy nên làm như thế ấy, cúng dường,
thừa sự!
(Kinh) Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại
Phạm Thiên ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Ư Phật
pháp trung nhi xuất gia giả, nhược Sát-đế-lợi,
đại thần, tể tướng, dĩ tiên, trượng
đẳng chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục,
hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc
đoạn kỳ mạng, vi đáng hợp nhĩ? Vi bất
hợp da?
(經)爾時,天藏大梵天言:大德世尊,於佛法中而出家者,若剎帝利,大臣、宰相,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,為當合爾?為不合耶?
(Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại
Phạm Thiên nói: - Bạch đại đức Thế Tôn!
Đối với người xuất gia trong Phật pháp,
nếu Sát-đế-lợi, đại thần, tể
tướng, dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo
thân họ, hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi
bới, hoặc cắt chân tay, hoặc dứt mạng họ,
có thích đáng hay không? Hay chẳng thích đáng?)
Đây là chuyên nói về người xuất
gia. Đại Phạm thiên vương ca ngợi đức
Phật là “đại đức Thế Tôn”. Đối
với những người xuất gia trong Phật pháp, “xuất
gia” là nói đến các vị tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Xuất
gia là ĺa nhà thế tục, vào nhà Phật. Đối với
vị xuất gia tỳ-kheo mà nếu quốc vương Sát-đế-lợi,
hoặc đại thần, hay tể tướng
của quốc vương là những kẻ có thế lực,
có quyền thế, dùng roi hoặc gậy gộc đánh đập
thân thể tỳ-kheo, trừng phạt người xuất
gia. Hoặc là đem vị đó nhốt vào tù, hoặc chửi
mắng, quở trách vị đó. Hoặc là chặt đứt
tứ chi, “giải chi tiết” là chặt đứt chi
thể, tức chặt tay, chặt chân, chặt cánh tay, chặt
bắp chân, hoặc đoạn mạng vị đó, cho đến
giết chết. Nói theo kiểu hiện thời sẽ là bắn
chết!
Như vậy th́ có đúng hay không? Có thích hợp
hay không? Hay là chẳng đúng? Có một câu hỏi như thế đó. Trong câu
hỏi này, bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Tỳ-kheo thời
Mạt Pháp xuất gia hết sức khó khăn, tu đạo
càng khó hơn. Trong thời Mạt Pháp, người tin Phật
rất khó, lại c̣n chẳng sanh khởi tín tâm. Kẻ không
tin th́ nhiều, hoặc là đă tin, sau đó lại tiến
tiến, lùi lùi. Có lần, tôi trở về chùa Nam Phổ Đà.
Mọi người biết ở Đài Loan có một vị
tỳ-kheo-ni, đầu tiên là mang danh nghĩa tỳ-kheo-ni,
sau đó hoàn tục. Bà ta qua Đại Lục, rêu rao, chèo kéo
khắp nơi. Người xuất gia trong chùa miếu c̣n nghiễm
nhiên theo học với bà ta, c̣n cho rằng bà ta rất lỗi
lạc. Sau đó, cục tôn giáo đuổi bà ta đi, hành động
ấy khiến cho những kẻ xuất gia theo học với
bà ta đều bị dọa sợ, trốn về quê nhà ẩn
náu. Hiện tại chẳng c̣n chuyện ǵ nữa. [Những
kẻ xuất gia ấy] đă sắp tốt nghiệp tại
Phật Học Viện, đă học Phật mấy năm,
sao c̣n bị
mê hoặc kiểu đó? Nếu là những kẻ ít nghe Phật
pháp, gặp phải loại ngoại đạo này, gặp
phải cái gọi là “thần thông”, thường phô phang
là “khai thiên nhăn”, hoặc “mở con mắt thứ ba”,
thấy cái này, thấy cái nọ, liền cho là đáng tin.
Hiện thời, t́nh h́nh này ở Đài Loan rất nhiều.
Đối với Tam Bảo, tức Phật,
Pháp, Tăng Tam Bảo, quư vị ắt phải thà xả thân
mạng, chẳng hủy báng Tam Bảo. Có sức
tín ngưỡng kiểu đó, mới thể giữ vững
tín căn của quư vị. Ḷng tin của
quư vị ắt phải “mọc rễ”, ắt phải có sức
mạnh. Khi tin, phải tin đến mức Niệm bất
thoái, cho đến phải tu Định sao cho Định
bất thoái, phải tu Huệ sao cho Huệ bất thoái. Đấy
là nói tới bước đầu, tín tâm ấy chẳng
phải là do quư vị tu thành, mà là cái có thể [giúp cho hành
nhân] đạt đến mục đích chính là tín tâm ấy.
Có tín tâm như vậy. Có huệ, sẽ có thể phân biệt
rơ đúng sai. Có Định lực, sẽ không bị cảnh
chuyển. Kẻ khác nói ǵ, quư vị sẽ dựa theo giáo nghĩa
để suy xét. [So sánh giữa]
Định của kẻ đó và Định do đức
Phật dạy, tức Tứ Thiền Bát Định, thậm
chí như “tŕ niệm lai khứ” (giữ vững ư niệm
đến đi) được nói trong bộ kinh này, có loại
công lực ấy hay không? C̣n như thấy quỷ thần,
kinh Địa Tạng đă nói rất rơ ràng!
Nếu quư vị thắc mắc, hăy dùng Chiêm
Sát Luân Tướng của
đức Địa Tạng để hỏi về nghiệp
báo của chính ḿnh, để chiêm sát nghiệp báo của chính
ḿnh. Kẻ đó hoặc là cáo tinh chuyển thế, hoặc
là chồn hay cầy thành tiên
chuyển thế, hoặc là [những kẻ] do quả báo mà
có thần thông. Tại mỗi quốc gia, đều có hạng
người như thế khống chế. Mắt họ có
thể thấy sâu dưới đất mấy ngàn thước,
có thể thấy cát, hung
trong vị lai, có thể nói ra đủ loại tiên đoán.
Bọn họ vẫn thuộc vào sanh tử, chẳng có ǵ lỗi
lạc! Quư vị chớ nên tin họ, phải trọn
đủ chánh tri, chánh kiến. Nói đến “chánh tri, chánh kiến”
th́ quư vị có thể khảo nghiệm một phen: Kẻ đó
có nói “hết thảy các pháp đều là vô ngă” hay không?
Có thể quán “hết thảy các pháp vô thường”,
quán “hết thảy các pháp là khổ”, quán “hết thảy
các pháp đều là không” hay chăng? Có thể quán như
vậy hay không? Có thể quán thân bất tịnh, quán thọ
là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă hay không? Quư vị
dùng pháp ấn, dùng các pháp do đức Phật đă dạy
để ấn chứng một phen, sẽ phân biệt rơ
ràng! Quư vị liễu giải kẻ đó rốt cuộc là
đúng hay không đúng, phải
trọn đủ loại trí huệ ấy. Nếu không,
trong đời Mạt
tu đạo khó khăn, xuất gia càng khó hơn.
Thời Mạt Pháp, nhằm lúc ngũ dục
hừng hực, nhân dục sôi sục. Mọi người thấy
trong thế giới
này, xă hội trong hiện tiền có h́nh thái ǵ vậy? Nếu
trong lúc này, quư vị có thể tu một năm, tôi thấy sẽ
c̣n hơn tu một kiếp trong thế giới Cực Lạc
rất nhiều. Thế giới Cực Lạc chẳng có
ai chọc khuấy quư vị, quư vị chẳng đến
nỗi sai lầm. Bố thí th́ quư vị bố thí cho ai? Vàng
ṛng ư? Khắp nơi đều là các thứ trân kỳ,
mă năo, châu báu đầy đất. Cây cối cũng bằng
chất báu, thứ ǵ cũng đều là chất báu. Chẳng
có ai dấy ḷng tham, nhiều quá, chẳng tham nữa! Khi tôi
chuyện gẫu với kẻ khác, người đó nói: “Trên
thế giới này, hoàng kim quư nhất” Tôi nói: “Chưa chắc!”
Người đó hỏi: “Thầy nói thứ ǵ quư nhất?”
Tôi đáp: “Vẫn là gạo tẻ hoặc mạn đầu[3] quư nhất”. Kẻ đó
bật cười, bảo: “Gạo th́ một hai đồng
đă mua được bao nhiêu là gạo!” Tôi nói: “Vào lúc b́nh
thường, nếu sẵn gạo th́ gạo không đáng
tiền. Nếu nhằm lúc lũ lụt, một cái mạn
đầu ông đưa cho họ mười lạng vàng,
họ cũng chẳng bán cho ông”. Khi quốc gia đang rối
loạn, không có ăn th́ mới loạn, không có mặc th́ mới
loạn. Có vàng hay không, đều chẳng đáng kể chi
hết.
Có một câu chuyện như thế này: Khi
Hoàng Hà gây lụt lớn, hai người
đi tỵ nạn. Một người tỵ nạn mang
theo một túi vàng. Có một người ôm theo một mớ
mạn đầu. Người mang mạn đầu do
mang nhẹ, nên trèo lên cây. Kẻ vác theo vàng, cũng trèo lên cây.
Họ ở trên cái cây đó. Lúc sau, hai người đều
đói. Kẻ mang vàng nói: “Ta cho ngươi một miếng
vàng đổi lấy một cái mạn đầu, có được
hay không?” Người có mạn đầu suy nghĩ: “Mua bán
kiểu này thật sự rất có lời, được
rồi, bán cho ngươi một cái”. Đưa cho anh ta một
cái mạn đầu, anh ta liền
đưa một miếng vàng. Nước chẳng rút, anh ta
tùy thời dùng vàng mua mạn đầu. Nước vẫn
chẳng rút. Người mang mạn đầu kia bán sạch
mạn đầu cho kẻ mang theo vàng. Hắn cứ nghĩ
nước sẽ rút rất nhanh, nhưng nước vẫn
không rút. Kẻ đem mạn đầu thầm nghĩ: “Hễ
nước rút th́ ta sẽ phát tài”. Kẻ đem mạn đầu
nói với người mang theo vàng: “Vàng này ngươi lấy
lại đi để ta đổi lấy mạn đầu”.
Người mang vàng trả lời: “Mạn đầu ta ăn
hết sạch rồi, không c̣n nữa!” Thật ra, ông ta c̣n
tám chín cái mạn đầu, tự ḿnh giữ lại. Kẻ
đem mạn đầu bị chết đói. Kẻ mang vàng
v́ có mạn đầu mà sống sót. Kẻ mang mạn đầu
đă chết đói rồi, kẻ mang vàng lại đổi
lấy hoàng kim như vậy để cầm về! Câu chuyện
này thoạt nghe rất giống chuyện đùa. Quư vị
nói xem: Thứ ǵ đáng quư trọng nhất? Tôi nói, cái đáng
quư trọng nhất chính là
trí huệ. Vốn khi đó đào thoát, ông ta mang theo mạn
đầu là đúng, v́ trong nhà chẳng có chi khác, mà cũng
chẳng có vàng. Nhưng khi đó, ông ta chẳng nghĩ lúc ấy
cần tiền để làm ǵ? Tiền có dùng được
đâu? Cái tâm tham sẽ chẳng nẩy sanh!
Lúc đó, quốc vương và đại
thần chẳng tin tưởng Tam Bảo. Chắc các vị
nghĩ quốc vương Sát-đế-lợi và đại
thần, tể tướng đều có phước báo,
sao họ lại chẳng cung kính Tam Bảo, chẳng có tín
tâm vậy? Sao lại c̣n đối xử với tỳ-kheo
kiểu đó? Chửi bới, đánh đập, chặt
chém chân tay? Chẳng tin th́ mọi người hăy mở to mắt
mà trông, bất luận tại Đài Loan, hay tại
Đại Lục, ngay cả ở Mỹ, người ta căn
bản không hiểu quư vị là người xuất gia, căn
bản chẳng đếm xỉa tới! Họ có hiểu
những chuyện đó hay không? Đến Ấn Độ
th́ hiện thời đă gần như chẳng có người
xuất gia Phật giáo! Tuy nói Ấn Độ vẫn có người
xuất gia, nhưng tới chùa Đại Bồ Đề,
những người xuất gia đó có lẽ là người
Tư Lư Lam Kha (Tích Lan, Sri Lanka), chứ bản thân người
Ấn Độ
th́ không có. C̣n có những ngôi chùa, hiện thời có những
vị lạt-ma Tây Tạng đến tu tại
đó, chứ chùa Phật giáo của người Ấn đă
đều bị phá tan. Loại t́nh huống này phổ biến
trong thời Mạt Pháp. V́ thế, tôi thường nói: Kinh Đại
Tập Thập Luân đúng là h́nh chụp của thời đại
Mạt Pháp, đă chụp ảnh cho chúng ta.
Mọi người hăy xem thử, t́nh huống hiện thời
có phải là như vậy hay không? Vẫn c̣n có tín đồ
tôn giáo, tuy chẳng phải là tỳ-kheo, nhưng họ tin tưởng
giáo nghĩa, luôn làm các thiện sự, làm chuyện tốt
cho người khác. Như vậy th́ có thể hay không, đúng
hay không?
(Kinh) Phật cáo Thiên Tạng Đại
Phạm Thiên ngôn: - Thiện nam tử! Nhược chư hữu
t́nh, ư ngă pháp trung xuất gia, năi chí thế trừ tu phát,
bị phiến ca-sa, nhược tŕ giới, nhược phá
giới, hạ chí vô giới, nhất thiết thiên, nhân, A Tố
Lạc đẳng, y tục chánh pháp, do thượng bất
hợp dĩ tiên, trượng đẳng chủy khảo
kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ,
hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng,
huống y phi pháp! Hà dĩ
cố? Trừ kỳ nhất thiết tŕ giới, đa văn,
ư ngă pháp trung nhi xuất gia giả, nhược hữu
phá giới, hành chư ác pháp, nội hoài hủ bại,
như uế oa loa, thật phi sa-môn, tự xưng sa-môn, thật
phi phạm hạnh, tự xưng phạm hạnh, hằng
vị chủng chủng phiền năo sở thắng, bại
hoại khuynh phúc. Như thị phá giới chư ác bật-sô,
do năng thị đạo nhất thiết thiên, long, Dược
Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết
Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc
Già, nhân phi nhân đẳng, vô lượng công đức
trân bảo phục tạng.
(經)佛告天藏大梵天言:善男子,若諸有情,於我法中出家,乃至剃除鬚髮,被片袈裟,若持戒,若破戒,下至無戒;一切天、人、阿素洛等,依俗正法,猶尚不合以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,況依非法!何以故?除其一切持戒多聞,於我法中而出家者;若有破戒行諸惡法,內懷腐敗如穢蝸螺,實非沙門自稱沙門,實非梵行自稱梵行,恆為種種煩惱所勝敗壞傾覆。如是破戒諸惡苾芻,猶能示導一切天、龍、藥叉、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽、人非人等,無量功德珍寶伏藏。
(Kinh: Đức Phật bảo Thiên Tạng
Đại Phạm Thiên rằng: - Này thiện nam tử! Nếu
các hữu t́nh xuất gia trong pháp của ta, cho đến cạo
bỏ râu tóc, khoác một mảnh ca-sa, hoặc tŕ giới, hoặc
phá giới, thậm chí không có giới, hết thảy trời,
người, A Tố Lạc v.v… nương theo chánh pháp của
thế tục, c̣n chẳng nên dùng roi, gậy v.v… đánh đập,
tra khảo thân họ, hoặc giam vào lao ngục, hoặc lại
quở
trách, chửi bới, hoặc chặt
tứ chi, hoặc đoạn mạng họ, huống hồ
những kẻ tuân theo phi pháp! V́ sao vậy? Trừ hết
thảy những vị tŕ giới, đa văn, xuất
gia trong pháp của ta, nếu có những kẻ phá giới,
làm các pháp ác, trong tâm thối nát, như con ốc sên bẩn
thỉu, thật sự chẳng phải là sa-môn mà tự xưng
là sa-môn, thật sự chẳng phải là phạm hạnh,
tự xưng là phạm hạnh, luôn bị các thứ phiền
năo khống chế, bại hoại, khuynh đảo. Các ác
bật-sô phá giới như thế vẫn có thể chỉ
dạy vô lượng kho báu công đức trân bảo cho hết
thảy trời, rồng, Dược Xoa, Kiện Đạt
Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn
Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân v.v…)
Vị Thiên Tạng Đại Phạm Thiên này có trí huệ, cho
nên hỏi đạo lư như thế. Do vậy, đức
Phật bảo Thiên Tạng Đại Phạm Thiên rằng:
“Thiện nam tử! Nhược chư hữu t́nh ư
ngă pháp trung xuất gia, năi chí thế trừ tu phát, bị
phiến ca-sa” (Này thiện nam tử! Nếu có các hữu
t́nh xuất gia trong pháp của ta, cho đến cạo bỏ
râu tóc, khoác một mảnh ca-sa): Rất ít! Chỉ có một
mảnh be bé mà thôi, cũng tức là gắn một mảnh
ca-sa trên y phục. “Nhược tŕ giới, nhược phá
giới” [nghĩa là] sau khi đă xuất gia, giữ giới
luật rất tinh nghiêm, tŕ giới cũng chẳng trái phạm,
giữ giới thanh tịnh; hoặc là sau khi đă xuất
gia bèn phạm giới. “Hạ chí vô giới”: Có kẻ
hủy hoại toàn bộ các giới đă thọ.
“Nhất thiết thiên, nhân, A Tố Lạc
đẳng, y tục chánh pháp, do thượng bất hợp
dĩ tiên, trượng đẳng chủy khảo kỳ thân, hoặc
bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải
chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng. Huống y
phi pháp!” (Hết
thảy trời, người, A Tố Lạc v.v… vâng theo chánh
pháp của thế tục c̣n chẳng nên dùng roi, gậy v.v…
đánh đập, tra khảo thân họ, hoặc giam vào lao
ngục, hoặc lại quở trách,
chửi bới, hoặc chặt chân tay,
hoặc đoạn mạng họ, huống hồ những
kẻ hành theo phi pháp!): Đây
là vâng theo chánh pháp của thế tục, tức là giết người
th́ phải đền mạng, thiếu nợ th́ phải
trả tiền, trộm
cắp người khác sẽ bị tai họa lao ngục.
Nếu giam cầm, hoặc trừng phạt th́ cũng là
chiếu theo pháp luật của thế gian, nhất định
phải bị trách phạt. Trước pháp luật, ai nấy
đều b́nh đẳng, người xuất gia cũng chẳng
có ngoại lệ!
Từ đời Đường - Tống đến
nay, mỗi triều đại đều có. Thậm chí bậc
đại đức như Tử Bách lăo nhân[4] chết trong ngục
giam, Hám Sơn đại sư th́ bị sung quân (đày làm
lính), cũng từng ngồi tù. Vào đời Minh, Hoàng Thái
Hậu rất tin Phật [nhưng vua Minh Thần Tông tin
theo Đạo giáo, nghe lời sàm báng, hăm hại Tăng sĩ],
hiện tượng kiểu này thường có. Đường
Thái Tông là hoàng đế thời thịnh
trị mà cũng giết rất nhiều ḥa thượng. Do
vậy, đế vương cũng chẳng tránh khỏi
tạo nghiệp này. Nếu ông ta vâng theo chánh pháp của thế
tục, sẽ phạm vào sai lầm, đều chẳng nên
dùng roi, gậy đánh đập thân thể tỳ-kheo, hoặc
giam họ trong lao ngục, hoặc chửi mắng họ,
hoặc chặt chân tay họ, hoặc đoạn mạng
họ. “Hà dĩ cố?”: V́ sao nói như vậy? “Trừ
kỳ nhất thiết tŕ giới, đa văn, ư ngă pháp
trung nhi xuất gia giả” (trừ hết thảy những
người tŕ giới, đa văn, xuất gia trong pháp của
ta): Những vị tŕ giới, đa văn, có đạo đức
th́ chẳng cần phải nói. Nếu có những kẻ phá
giới, hành ác pháp, trong tâm thối nát, tuy bề ngoài là xuất
gia, nhưng trọn chẳng thật sự tu hành, chẳng
tu tập, mà cũng chẳng hành tŕ. Phá giới là hành ác
pháp, tham, sân, si như đă nói trên đây đều trọn
đủ.
“Nội hoài hủ bại” (trong tâm thối
nát): Bẩn thỉu, giống như con oa loa (蝸螺), tức
là ốc sên. Loài này có khi được gọi là “oa ngưu”
(蝸牛). Ốc
sên rút ḿnh trong vỏ. “Loa tư” (螺蟖, ốc
nhồi) có vỏ bảo vệ thân nó, nhưng trong ấy rất
bẩn, nó ăn và bài tiết ngay trong ấy, rất uế
tạp. Kẻ tạo nghiệp đọa vào loài đó. V́ thế,
kẻ phá giới, hành ác pháp giống như con ốc nhồi
(ốc bươu), hoặc ốc sên. Họ tuy khoác ca-sa, đă
xuất gia, nhưng chẳng phải là sa-môn. Họ tự nói
ḿnh là sa-môn, tự xưng là sa-môn, tự xưng là người
xuất gia. “Thật phi phạm hạnh” (thật sự
chẳng phải là phạm hạnh), những ǵ họ đă làm đều là hạnh chẳng
thanh tịnh. Tự kẻ đó nói là hạnh thanh tịnh,
nhưng luôn bị khuất phục bởi đủ loại
phiền năo. Phiền năo thắng thế thiện nghiệp,
ác nghiệp hơn hẳn thiện nghiệp của kẻ đó.
“Bại hoại khuynh phúc” (bại hoại, khuynh đảo):
Phạm hạnh lẫn thanh tịnh hạnh của kẻ đó
đều bị bại hoại. Phật môn đều bị
kẻ đó bại hoại. Hạng ác tỳ-kheo phá giới
như vậy vẫn có thể tạo phước đức
cho trời người.
“Do năng thị đạo nhất thiết
thiên, long, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược, A
Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc,
Mạc Hô Lạc Già, nhân phi nhân đẳng, vô lượng công
đức trân bảo phục tạng” (vẫn có thể
chỉ dạy vô lượng kho tàng công đức quư báu
cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, Kiện
Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ
Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Già, nhân
phi nhân v.v…): Chỉ cần kẻ ấy là đệ tử
Phật, chỉ cần kẻ đó c̣n khoác một mảnh
ca-sa, sẽ có thể chỉ dạy tám bộ quỷ thần.
Tại Ấn Độ, có một người sống nơi
mồ mả. Ông ta thấy một con rồng ác. Ông ta vốn
là kẻ ăn mày đi xin dọc đường. Trong g̣ mả
ấy, có [thi thể] của một vị tỳ-kheo đă
viên tịch. Sau đó, ca-sa bị rách nát, rơi ra một miếng.
Người ăn mày ấy vội vă trùm mảnh áo đó lên
đầu, ác long chẳng ăn ông ta, lướt qua. Chuyện
này cho thấy, tuy là ác tỳ-kheo nhưng khoác ca-sa th́ cũng
có thể chỉ dạy tám bộ quỷ thần, v́ mảnh
áo ca-sa hàm chứa vô lượng kho báu công đức trân bảo.
Hoàn toàn chẳng phải v́ người ấy, mà là do mảnh
áo của người ấy. Đó gọi là Tam Bảo chủng
tánh.
(Kinh) Hựu thiện nam tử! Ư ngă
pháp trung, nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi chư
hữu t́nh đổ kỳ h́nh tướng, ưng sanh thập
chủng thù thắng tư duy, đương hoạch vô
lượng công đức bảo tụ. Hà đẳng vi
thập? Vị ngă pháp trung nhi xuất gia giả, tuy phá giới
hạnh, nhi chư hữu t́nh, hoặc hữu kiến dĩ,
sanh ư niệm Phật ân trọng, tín kính
thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, chung bất quy tín
chư ngoại đạo sư, thư luận, đồ
chúng, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại Niết
Bàn thành.
(經)又善男子,於我法中而出家者,雖破戒行,而諸有情睹其形相,應生十種殊勝思惟,當獲無量功德寶聚。何等為十?謂我法中而出家者,雖破戒行,而諸有情,或有見已,生於念佛殷重信敬殊勝思惟;由是因緣,終不歸信諸外道師、書論徒眾,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Người
xuất gia trong pháp của ta tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu
t́nh thấy h́nh tướng của họ, sẽ sanh khởi
mười loại tư duy thù thắng, sẽ đạt
được vô lượng khối báu công đức. Những
ǵ là mười? Tức là người xuất gia trong pháp
của ta tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu t́nh, nếu
đă trông thấy, sẽ sanh tư duy thù thắng nghĩ tới
Phật, trân trọng tin kính. Do nhân duyên ấy, họ trọn
chẳng quy hướng, kính tin các thầy ngoại đạo,
sách vở, luận thuyết, và đồ chúng của chúng
nó, cho đến có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi).
Trông thấy chiếc ca-sa ấy, sẽ sanh khởi
ư tưởng thù thắng. Tuy kẻ đó phá giới, nhưng
hắn là Phật tử, biểu hiện vẫn là Phật
tử. Mười loại công đức nào vậy? “Vị
ngă pháp trung nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi
chư hữu t́nh, hoặc hữu kiến dĩ, sanh ư
niệm Phật ân trọng tín kính thù thắng tư duy”
(Chính là kẻ xuất gia trong pháp của ta, tuy phá giới hạnh,
nhưng các hữu t́nh mà được trông thấy, sẽ
sanh khởi tư duy thù thắng nghĩ đến Phật,
trân trọng kính tin): Tuy kẻ đó phá giới, nhưng chúng
sanh trông thấy hắn, hoàn toàn chẳng nghĩ hắn là kẻ
phá giới. Hữu t́nh chỉ thấy từ nơi thân hắn
là một
vị tỳ-kheo, chỉ thấy một tướng.
V́ chúng sanh chỉ thấy quư vị là một tỳ-kheo, liền
sanh khởi ư tưởng thù thắng. Do thấy vị tỳ-kheo
ấy mà họ niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Do niệm Phật mà sanh khởi tư tưởng tin kính thù
thắng. Họ sẽ nghĩ như thế này: “Vị tỳ-kheo
này là đệ tử Phật”. Do đó, sẽ nghĩ tới
công đức của Phật.
“Do thị nhân duyên, chung bất quy tín
chư ngoại đạo sư, thư luận, đồ
chúng” (Do nhân duyên ấy, họ trọn chẳng quy ngưỡng,
tin tưởng các thầy ngoại đạo, sách vở,
luận thuyết và đồ chúng của chúng nó): Người
ấy do thấy ḥa thượng phá giới, sẽ nghĩ
đến Phật, nghĩ đến Pháp. Do v́ nhân duyên này,
người ấy quy y Phật, Pháp, Tăng, chẳng quy kính,
tin tưởng bọn tà sư ngoại đạo. “Ngoại
đạo luận” là sách vở, mà cũng là pháp của
ngoại đạo. “Đồ chúng” là tăng chúng ngoại
đạo. “Bất quy y ngoại đạo sư, thư luận, đồ
chúng, năi chí ư năng nhập ly chư bố úy đại
Niết Bàn thành” (chẳng
quy các thầy ngoại đạo, sách vở, kinh luận, đồ
chúng của họ, cho đến có thể vào ṭa thành đại
Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi), ư nói: Thấy
vị tỳ-kheo phá giới ấy, người đó sanh
khởi nhân duyên thù thắng, nghĩ đến Phật, nghĩ
đến Pháp, thậm chí cung kính vị Tăng ấy. Do nhân
duyên ấy, người đó có thể ĺa hết thảy sợ
hăi, chứng đắc Niết Bàn, có thể nhập Định,
có thể chứng đắc “chẳng sanh diệt”.
(Kinh) Hoặc hữu kiến dĩ, sanh
niệm thánh giới thù thắng tư duy. Do thị nhân
duyên, năng ly sát sanh, ly bất dữ thủ, ly dục tà
hạnh, ly hư cuống ngữ, ly ẩm chư tửu,
sanh phóng dật xứ, năi chí năng nhập ly chư bố
úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ,
sanh niệm bố thí thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên,
đắc đại tài vị, thân cận, cúng dường
chánh chí, chánh hạnh, năi chí năng nhập ly chư bố
úy đại Niết Bàn thành.
(經)或有見已,生念聖戒殊勝思惟;由是因緣,能離殺生,離不與取,離欲邪行,離虛誑語,離飲諸酒生放逸處,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念佈施殊勝思惟;由是因緣,得大財位,親近供養,正至正行,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。
(Kinh: Hoặc là có người đă thấy,
bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ tới thánh giới. Do nhân duyên ấy, có thể
ĺa sát sanh, ĺa chẳng cho mà lấy, ĺa dục tà hạnh, ĺa
lời hư dối, chẳng uống các thứ rượu, ĺa khỏi các chỗ
sanh khởi phóng dật, cho đến có thể vào trong thành
Đại Niết Bàn, ĺa khỏi các sợ hăi. Hoặc là có người thấy
rồi, sanh tư duy thù thắng nghĩ tới bố thí.
Do nhân duyên ấy, đạt được
địa vị và của cải to lớn, thân cận, cúng
dường bậc chánh chí, chánh hạnh, cho đến có
thể vào trong thành Đại Niết Bàn, ĺa khỏi
các sợ hăi).
Có người trông thấy vị tỳ-kheo
ấy, thấy oai nghi của ông ta, nghĩ là ông ta tŕ giới,
là người xuất gia, bèn cho rằng “ư niệm xuất
gia” rất khó có. Do bởi nhân duyên ấy, v́ cho rằng vị
tỳ-kheo đoạn tham, sân, si, chẳng giết, chẳng
trộm, chẳng tà dâm, ĺa lời nói hư vọng, ĺa uống rượu, ĺa các thứ rượu v́ chúng
là chỗ sanh khởi phóng dật, [cho nên] chẳng uống
rượu. Cũng là do thấy một vị tỳ-kheo phá
giới mà sanh khởi nhiều cảm giác thù thắng dường
ấy! Người ấy có thể v́ trông thấy vị tỳ-kheo
phá giới ấy mà gieo thiện căn, cuối cùng thành đạo,
chứng nhập Niết Bàn thành. Người ấy thấy
một vị tỳ-kheo, liền sanh khởi cảm giác thù
thắng, bèn cúng dường vị ấy, sanh ư tưởng
bố thí. Do nhân duyên ấy, đạt được của
cải và địa vị to tát. Thấy một vị tỳ-kheo
mà coi vị ấy như một vị thánh tăng, sẽ
sanh khởi ư tưởng thù thắng. Do h́nh tướng của
vị ấy, [người đó sẽ] “thân cận
cúng dường, chánh chí, chánh hạnh, năi chí năng nhập
ly chư bố úy đại Niết Bàn thành” (thân cận,
cúng dường bậc chánh chí, chánh hạnh, cho đến
có thể vào trong thành Đại Niết Bàn, ĺa khỏi
các sợ hăi).
(Kinh) Hoặc hữu kiến
dĩ, sanh niệm nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực
thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, tiện năng viễn
ly ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn, năi chí năng nhập
ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu
kiến dĩ, sanh niệm xuất gia, tinh cần tu hành thù
thắng tư duy. Do thị nhân duyên, năng xả gia pháp, thú
ư phi gia, dũng mănh, tinh tấn,
tu chư thắng hạnh, năi chí năng nhập ly chư bố
úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ,
sanh niệm viễn ly chư tán loạn tâm, Tĩnh Lự, đẳng
chí thù thắng tư duy. Do thị nhân duyên, tâm nhạo sơn
lâm, A Luyện Nhă xứ, trú dạ tinh
cần, tu chư Định hạnh, năi chí năng nhập
ly chư bố úy đại Niết Bàn thành. Hoặc hữu
kiến dĩ, sanh niệm trí huệ thù thắng tư duy. Do
thị nhân duyên, hân nhạo thính văn, độc, tụng
chánh pháp, năi chí năng nhập ly chư bố úy đại
Niết Bàn thành. Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm
túc thực, xuất
ly thiện căn thù thắng tư duy, nhuyễn ngữ úy
vấn, năi chí lễ túc. Do thị nhân duyên, đương sanh
tôn quư, đại
thế lực gia, vô lượng hữu t́nh hàm cộng
chiêm ngưỡng, năi chí năng nhập ly chư bố úy
đại Niết Bàn thành. Thiện nam tử! Ư ngă pháp
trung nhi xuất gia giả, tuy phá giới hạnh, nhi chư
hữu t́nh đổ kỳ h́nh tướng, sanh thử thập
chủng thù thắng tư duy, đương hoạch vô
lượng công đức bảo tụ. Thị cố, nhất
thiết Sát-đế-lợi vương, đại thần,
tể tướng, quyết định bất hợp dĩ
tiên, trượng đẳng, chủy khảo kỳ thân,
hoặc bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc
giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng.
(經)或有見已,生念忍辱柔和質直殊勝思惟;由是因緣,便能遠離離間粗惡、雜穢瞋忿,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念出家精勤修行殊勝思惟;由是因緣,能舍家法,趣於非家,勇猛精進,修諸勝行,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念遠離諸散亂心,靜慮等至殊勝思惟;由是因緣,心樂山林阿練若處,晝夜精勤,修諸定行,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念智慧殊勝思惟;由是因緣,欣樂聽聞,讀誦正法,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。或有見已,生念宿植出離善根殊勝思惟,軟語慰問,乃至禮足;由是因緣,當生尊貴大勢力家,無量有情咸共瞻仰,乃至能入離諸怖畏大涅槃城。善男子,於我法中而出家者,雖破戒行,而諸有情睹其形相,生此十種殊勝思惟,當獲無量功德寶聚。是故一切剎帝利王、大臣宰相,決定不合以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命。
(Kinh: Hoặc là có người
đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ tới
nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực. Do nhân duyên ấy, sẽ
có thể xa ĺa ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn, cho đến
có thể vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi.
Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù
thắng, nghĩ đến xuất gia, siêng ṛng tu hành. Do
nhân duyên ấy, có thể bỏ pháp tại
gia, hướng
đến không nhà, dũng mănh, tinh tấn, tu các hạnh thù
thắng, cho đến có thể vào trong thành đại Niết
Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc là có người đă thấy,
bèn sanh tư duy thù thắng, nghĩ
đến xa ĺa các tâm tán loạn, [hướng đến]
Tĩnh Lự, đẳng chí. Do nhân duyên ấy, tâm ưa thích
núi, rừng, chốn A Luyện Nhă (A Lan Nhă), ngày đêm siêng
ṛng tu các Định hạnh, cho đến có thể vào trong
thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc là có
người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng nghĩ
đến trí huệ. Do nhân duyên ấy, ưa thích lắng
nghe, đọc, tụng chánh pháp, cho đến có thể
vào trong thành đại Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Hoặc
là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng,
nghĩ đến thiện căn xuất ly đă gieo từ
trước, dùng lời lẽ mềm mỏng để an
ủi, hỏi han, cho đến lễ dưới chân. Do
nhân duyên ấy, sẽ sanh trong gia tộc tôn quư, có thế lực
lớn, vô lượng hữu t́nh đều cùng chiêm
ngưỡng, cho đến có thể vào trong thành đại
Niết Bàn, ĺa các sợ hăi. Này thiện nam tử! Kẻ xuất
gia trong pháp của ta, tuy phá giới hạnh, nhưng các hữu
t́nh trông thấy h́nh tướng người ấy, sẽ
sanh khởi mười loại tư duy thù thắng ấy,
sẽ đạt được vô lượng khối công
đức báu. V́ thế, hết thảy các vua Sát-đế-lợi,
đại thần, tể tướng, quyết định
chẳng nên dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo
thân kẻ ấy,
hoặc giam vào lao ngục, hoặc lại quở mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng
kẻ đó).
“Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm
nhẫn nhục, nhu ḥa, chất trực thù thắng tư
duy” (Hoặc là có người đă thấy, bèn sanh tư
duy thù thắng, nghĩ tới nhẫn nhục, nhu ḥa, chất
trực): Đây là Nhẫn Nhục Ba La Mật. “Do thị
nhân duyên, tiện năng viễn ly ly gián, thô ác, tạp uế,
sân, phẫn” (Do nhân duyên ấy, liền có thể xa ĺa lời
ly gián, thô ác, tạp uế, sân, phẫn): Ĺa tâm sân hận, ĺa
tạp uế. “Tạp uế” (雜穢) là lời thô ác,
nhưng chẳng phải là ác khẩu.
Do trông thấy h́nh tướng của vị tỳ-kheo phá
giới ấy, khiến cho họ có thể tư duy như
vậy, cho đến có thể vào trong thành đại Niết
Bàn, ĺa các sợ hăi. “Hoặc hữu kiến dĩ, sanh niệm
xuất gia, tinh cần tu hành thù thắng tư duy” (Hoặc
là có người đă thấy, bèn sanh tư duy thù thắng
nghĩ đến xuất gia, siêng ṛng tu hành): Người xuất
gia vô dục, vô trước
(無着, không vướng
mắc), thanh tịnh, tiêu sái[5]. Tỳ-kheo
phá giới [bề ngoài] cũng
rất tiêu sái. Mọi người thấy thiền sư Đạo
Tế thị hiện nghịch hạnh. Tuy là nghịch hạnh,
thật ra, Ngài hành Bồ Tát đạo, ai biết Ngài là thánh
tăng? Chẳng biết! Thấy Sư uống rượu,
vào quán ăn, thậm chí vào nhà thổ để độ người
khác. Nghe tôi nói Ngài đến nhà thổ như vậy, chắc
là mọi người hoài nghi, [cho rằng] chẳng
phải vậy! Tôi nhớ
khi tôi xem Tế Công Truyện, lúc ấy tôi cũng sanh khởi
ư tưởng thù thắng, Ngài độ người như
thế nào?
Có một hôm, Ngài đến nhà một đệ tử. Ở cửa
Tây thành Tô Châu có một vị viên ngoại, tên là Tô Bắc Sơn.
Sư
đến đó t́m Tô Bắc Sơn, hỏi:
“Hôm nay ông bận việc ǵ hay không?” Đệ tử thưa:
“Không ạ!” Thiền sư Đạo Tế (道濟) nói: “Không
bận ǵ th́ đi với ta đến chỗ này”. Đệ
tử hỏi: “Sư phụ đến chỗ nào vậy?
Con đi với thầy”. Thiền sư Đạo Tế
nói: “Ông mang tiền nhiều một chút!” [Tṛ thưa]: “Sư
phụ uống rượu, con cúng dường cho thầy,
không sao hết”. Thiền sư Đạo Tế nói: “Hôm nay
ta không uống rượu, ta muốn đến chỗ này”.
Tṛ hỏi: “Đến chỗ nào ạ?” Thiền sư Đạo
Tế nói: “Ta đến phố bán hoa”. “Sư phụ ơi!
Thầy đến chỗ đó làm chi?” “Ông đừng lo,
cứ đi với ta”. Người đồ đệ ấy
lắc đầu, được rồi, đến kỹ
viện vậy! Tới nơi, ở đó có một kỹ
nữ mới tới, là danh kỹ (名妓, kỹ
nữ nổi tiếng). Thiền sư Đạo Tế nói:
“Ta muốn kỹ nữ ấy, cô Đổng Xuân Hương”.
Đổng Xuân Hương thấy một vị ḥa thượng
vừa bẩn thỉu vừa nhếch nhác, bộ dáng rất
khó coi! Nhưng viên ngoại th́ nh́n khác hẳn, vừa có chức
tước, vừa giàu có. Cô ta đối với viên ngoại
hết sức xun xoe. Thiền sư Đạo Tế nói: “Cô
đến đây, hắn chẳng thể cứu cô, cứu
cô vẫn phải cậy vào ta”. Cô ta hỏi: “Đại sư
muốn làm ǵ?” Thiền sư Đạo Tế nói: “Cô lại
đây ta nói cho cô nghe. Nhàn rỗi vô sự lại thoải mái,
ḥa thượng cũng muốn vui thú một chút. Kêu Xuân Hương
một tiếng th́ cô qua đây, qua chỗ ta nè, đừng
có tới chỗ hắn”. Đổng Xuân Hương liền
hỏi: “Sư phụ! Thầy muốn làm ǵ?” Thiền sư
Đạo Tế nói: “Mau mau cởi giải thắt lưng
ra!” Xuân Hương sững sờ! Thiền sư Đạo
Tế lại
nói: “Tặng cho bần tăng cột giày rách. Giày cỏ
của ta đă hỏng rồi, cô cho ta chiếc đai để
cột giày, chứ chẳng có ư chi khác!” Thiền sư Đạo
Tế muốn làm ǵ? Cô Đổng Xuân Hương bị kẻ
khác hăm hại, bán vào
kỹ viện. Thiền sư Đạo Tế v́ độ
cô ta mới đến đó, bảo Tô Bắc Sơn đem
tiền chuộc cô ta ra, đưa cô về nhà. Cô gái ấy
không biết, mẹ cô ta và nàng ta đă không c̣n liên lạc với
nhau. Thiền sư Đạo Tế có thần thông, bèn bảo
nàng t́m quản gia của Tô Bắc Sơn đưa cho mẹ
cô ta một ít tiền. Thiền sư Đạo Tế đến
cứu người!
Lại c̣n có một vị lăo ḥa thượng
cũng giống như thế. Sư thâu nhận một đứa
trẻ bốn, năm tuổi,
dẫn nó vào sống trong núi. Ở trong núi, đứa bé ấy
ngoại trừ trông thấy cây cối, núi non, suối, khe, lại thấy dă thú hay cọp, thứ ǵ
khác cũng chẳng thấy. Chờ đến khi đứa
trẻ ấy mười tám tuổi trưởng thành, sư phụ dẫn
nó xuống dạo phố phường. Úi chao! Đứa nhỏ
thấy chói ḷa cả mắt, tiếp nhận không xuể!
Cuối cùng, tới một kỹ viện, các cô nương
tô son trát phấn, sư phụ dẫn nó đi xem các kỹ nữ ấy
một phen. Đồ đệ hỏi: “Sư phụ! Đó
là ǵ vậy?” Sư phụ đáp: “Cọp!” Trên núi, cọp
toàn ăn thịt người! Sau khi trở về núi, sư phụ hỏi
nó: “Hôm nay con thấy thứ ǵ hay nhất?” Nó thưa: “Thứ
ǵ cũng chẳng hay, cọp là hay nhất”.
Đó gọi là Hoặc. “Hoặc” (惑) là mê
hoặc, cũng là cái nghiệp mang đến từ thuở
lọt ḷng. Tham dục khó đoạn, mỗi người
chúng ta hăy tự chứng
nghiệm chính ḿnh! Tỳ-kheo phá giới cũng có thể
khiến cho quư vị đoạn tham dục, v́ quư vị chỉ nh́n từ hiện
tượng. Các vị thánh nhân, các vị A La Hán thị hiện
nghịch hạnh, như thiền sư Đạo Tế ra
vào tửu quán, trà đ́nh. Mỗi ngày, Sư làm như vậy,
quư vị thấy Sư cũng chẳng tu hành, cũng chẳng
làm chi hết, cầm bầu uống rượu, trong bọc
c̣n giắt thịt chó. Thiền sư Đạo Tế có
thể kéo các súc gỗ từ cái giếng trong chùa Tịnh Từ
lên, quư vị có thể kéo nổi hay không? [Ngài làm như thế]
để sửa chùa Tịnh Từ. Hiện
thời, nếu quư vị đến Hàng Châu ở Đại
Lục, đến chùa Tịnh Từ[6] nh́n xem, trong giếng
c̣n có một súc gỗ gác trong đó. Cuối cùng [nhà chùa nói]
“đủ rồi”, Ngài không kéo nữa, bỏ luôn súc gỗ
ấy tại đó!
Quư vị có tin hay không? Có thật đấy!
Thiền sư Đạo Tế xác thực là sự thật.
Nhưng có những chuyện chẳng phải là sự thật,
mà do tiểu thuyết đặt ra. Ngài xuất gia, khùng khùng
điên điên, quư vị nghĩ Ngài là ḥa thượng phá giới.
Thật ra, Ngài ngầm hành Bồ Tát hạnh, quư vị hoàn toàn chẳng biết. Do vậy,
quư vị chỉ nên cung kính Tam Bảo, đừng nên so đo
vị ấy phạm giới chi đó, [chuyện đó] đối với quư vị chẳng liên quan chi hết, người
thọ báo là vị ấy. Hăy coi vị ấy là thánh tăng,
coi hết thảy chúng sanh đều là Phật, coi như Bồ
Tát. Câu chuyện về Tô Đông Pha và thiền sư Phật
Ấn[7] cũng là như vậy.
Quư vị dùng Phật Tánh, sẽ thấy
hết thảy chúng sanh đều là Phật. Nhưng người
nh́n được như thế rất ít, khi quán tưởng, vẫn
chẳng thể quán được như vậy.
(Kinh) Phục thứ Đại Phạm!
Nhược hữu y ngă nhi xuất gia giả, phạm giới,
ác hạnh, nội hoài hủ bại, như uế oa loa, thật
phi sa-môn, tự xưng sa-môn, thật phi phạm hạnh, tự
xưng phạm hạnh, hằng vị chủng chủng
phiền năo sở thắng, bại hoại khuynh phúc.
Như thị bật-sô, tuy phá cấm giới, hành chư ác
hạnh, nhi vị nhất thiết thiên, long, Dược
Xoa, Kiện Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết
Lộ Đồ, Khẩn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc
Già, nhân phi nhân đẳng tác thiện tri thức, thị
đạo vô lượng công đức phục tạng.
Như thị bật-sô, tuy phi pháp khí, nhi thế tu phát, bị
phục ca-sa, tấn chỉ oai nghi, đồng chư hiền
thánh. Nhân kiến bỉ cố, vô lượng hữu t́nh chủng
chủng thiện căn, giai đắc sanh trưởng, hựu
năng khai thị vô lượng hữu t́nh thiện thú, sanh
thiên, Niết Bàn chánh lộ.
(經)復次大梵,若有依我而出家者,犯戒惡行,內懷腐敗如穢蝸螺,實非沙門自稱沙門,實非梵行自稱梵行,恆為種種煩惱所勝敗壞傾覆。如是苾芻,雖破禁戒行諸惡行,而為一切天、龍、藥叉、健達縛、阿素洛、揭路荼、緊捺洛、莫呼洛伽,人非人等,作善知識,示導無量功德伏藏。如是苾芻,雖非法器,而剃鬚發,被服袈裟,進止威儀同諸賢聖;因見彼故,無量有情種種善根皆得生長,又能開示無量有情善趣、生天、涅槃正路。
(Kinh: Lại này Đại Phạm! Nếu
có kẻ nương theo ta xuất gia mà phạm giới, ác
hạnh, trong tâm thối nát, như con ốc sên bẩn thỉu,
thật chẳng phải là sa-môn, tự xưng là sa-môn, thật
chẳng phải là phạm hạnh, tự xưng là phạm
hạnh, luôn bị các thứ phiền năo khống chế,
bại hoại, khuynh đảo. Bật-sô như thế
tuy phá giới cấm, làm các hạnh ác, nhưng là thiện
tri thức cho hết thảy trời, rồng, Dược
Xoa, Kiện Đạt Phược (Càm
Thát Bà), A Tố Lạc (A Tu La), Yết
Lộ Đồ (Ca Lâu La), Khẩn
Nại Lạc (Khẩn Na
La), Mạc Hô Lạc Già (Ma Hầu
La Già), nhân phi nhân v.v… chỉ dạy vô lượng kho tàng công
đức. Bật-sô như thế tuy chẳng phải là
pháp khí, nhưng cạo râu tóc, khoác đắp ca-sa, oai nghi lui
tới giống như bậc hiền thánh. Do v́ thấy người
đó, các thứ thiện căn của vô lượng hữu
t́nh đều được sanh trưởng, lại c̣n
có thể khai thị cho vô lượng hữu t́nh con đường
chánh đáng để tiến đến đường lành,
sanh lên trời, chứng đắc Niết Bàn).
Nếu có những kẻ nương theo ta xuất
gia, phạm giới, ác hạnh, phạm ǵ vậy? Giống
như con ốc sên, tuy họ tạo những nghiệp như
vậy, quư vị cũng chớ
nên coi thường họ. Họ có thể chỉ dạy kho
báu vô lượng công đức. Những vị tỳ-kheo
ấy tuy không phải là pháp khí, chẳng phải là một
dụng cụ rất tốt để chứa đựng
pháp. Một cái bát tốt đẹp sẽ chứa đựng
thức ăn, đựng thức ăn tốt nhất. Hết
thảy người xuất gia hoặc tứ chúng đệ
tử, đều là dụng cụ chứa đựng pháp,
đều chứa đựng hết thảy các pháp do đức
Phật đă dạy. Tuy những kẻ [được nói
trong đoạn chánh kinh trên đây] chẳng phải là pháp
khí rất tốt, nhưng họ cạo bỏ râu tóc, khoác
ca-sa, cử chỉ oai nghi vẫn giống như bậc hiền
thánh, “đồng chư hiền thánh”. V́ hết thảy
vô lượng hữu t́nh trông thấy họ, sẽ có thể
sanh trưởng thiện nghiệp. Huống hồ những
kẻ xuất gia được mấy bữa, tệ lắm
th́ cũng biết nói mấy câu Phật pháp. Lại c̣n có thể
khai thị vô lượng hữu t́nh, “thiện thú, sanh thiên, Niết Bàn chánh lộ” (con đường
chánh đáng để hướng đến đường
lành, sanh lên trời, chứng đắc Niết Bàn). Tuy bản thân họ
chẳng tu hành, nhưng họ nói với quư vị làm thế
nào để tín ngưỡng Tam Bảo, tu hành như thế
nào, cung kính như thế nào, bố thí như thế nào? Do
vậy, mọi người đối với ngoại
đạo, đối với tà sư, chẳng sanh ra cảm
giác sợ hăi. Nếu quư vị sợ hăi, hăy đối trước
Phật, Bồ Tát, đối trước kinh sách lễ bái
là được rồi, sẽ có thể tránh khỏi tà vạy. Chỉ cần
quư vị tâm chánh, có chánh tri, chánh kiến, tà kiến sẽ
chẳng thể xâm nhập!
(Kinh) Thị cố y ngă nhi xuất gia giả,
nhược tŕ giới, nhược phá giới, hạ chí
vô giới, ngă thượng bất hứa Chuyển Luân thánh
vương, cập dư quốc vương, chư đại
thần đẳng, y tục chánh pháp, dĩ tiên, trượng
đẳng, chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao
ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải chi tiết,
hoặc đoạn kỳ mạng, huống y phi pháp! Đại
Phạm! Như thị phá giới ác hạnh bật-sô, tuy ư
ngă pháp Tỳ Nại Da trung, danh vi tử thi, nhi hữu xuất
gia giới đức dư thế, thí như ngưu, xạ,
thân mạng chung hậu, tuy thị vô thức bàng sanh tử
thi, nhi ngưu hữu hoàng, nhi xạ hữu hương, năng
vi vô lượng vô biên hữu t́nh tác đại nhiêu ích. Phá
giới bật-sô diệc phục như thị, tuy ư ngă
pháp Tỳ Nại Da trung danh vi tử thi, nhi hữu xuất
gia giới đức dư thế, năng vị vô lượng
vô biên hữu t́nh tác đại nhiêu ích.
(經)是故依我而出家者,若持戒,若破戒,下至無戒,我尚不許轉輪聖王,及餘國王、諸大臣等,依俗正法,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命,況依非法!大梵,如是破戒惡行苾芻,雖於我法毗奈耶中名為死尸,而有出家戒德餘勢。譬如牛麝身命終後,雖是無識傍生死尸,而牛有黃,而麝有香,能為無量無邊有情作大饒益;破戒苾芻亦復如是,雖於我法毗奈耶中名為死尸,而有出家戒德餘勢,能為無量無邊有情作大饒益。
(Kinh: V́ thế, kẻ nương theo
ta xuất gia, dù tŕ giới, hay phá giới, thậm chí chẳng
có giới, ta c̣n chẳng chấp thuận Chuyển Luân
thánh vương và các quốc vương khác, các đại
thần v.v… nương theo chánh pháp của thế tục,
dùng roi, gậy v.v… đánh đập, tra khảo thân họ,
hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi
mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn mạng
họ, huống hồ là kẻ vâng theo phi pháp! Này Đại
Phạm! Bật-sô phá giới, ác
hạnh như thế, tuy gọi là “xác chết” trong Tỳ
Nại Da nơi pháp của ta, nhưng c̣n sót lại thế
lực giới đức của hàng xuất gia, ví như
ḅ và hươu xạ, sau khi thân mạng chết đi, tuy
là xác chết của loài bàng sanh không c̣n hay biết ǵ, nhưng
ḅ th́ có ngưu hoàng, hươu xạ th́ có xạ hương,
có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu t́nh. Bật-sô phá giới cũng giống
như thế, tuy được gọi là “xác chết”
trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta, do có thế lực
giới đức c̣n sót lại của bậc xuất gia,
bèn có thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu
t́nh).
Do duyên cớ này, phàm là kẻ
nương theo ta xuất gia, bất luận là tŕ giới
hay phá giới, thậm chí kẻ chẳng có giới ǵ, ta đều
chẳng chấp thuận Chuyển Luân thánh vương và các
hàng quốc vương khác, các đại thần v.v… “y
tục chánh pháp” tức là dùng pháp luật thế gian để
đánh đập, tra khảo, cho đến dùng roi, gậy
quất họ. “Hoặc bế lao ngục, hoặc phục
ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ
mạng, huống y phi pháp” (Hoặc giam trong lao ngục,
hoặc lại quở trách,
chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn
mạng họ, huống hồ nương theo phi pháp): Phi pháp
lại càng chẳng được, càng phạm tội! “Đại
Phạm! Như thị phá giới ác hạnh bật-sô, tuy ư
ngă pháp Tỳ Nại Da, danh
vi tử thi” (Này Đại
Phạm! Bật-sô phá giới, ác hạnh như
thế, tuy trong Tỳ Nại Da nơi pháp của ta, được gọi là “xác
chết”): Trong Phật giáo chúng ta, nếu phá bốn căn
bản giới, “giết, trộm, dâm, dối” là bốn
căn bản giới, phá bốn căn bản giới th́
gọi là “tử thi” (xác chết). Giới tỳ-kheo có
bảy tụ pháp. Trong tự điển, danh xưng của
bảy tụ không phiên dịch, nhưng từ nội dung có
thể biết được đôi chút. Bảy tụ pháp
gọi bốn giới căn bản là Tứ Ba La Di Pháp, tức
là Khí Tội (棄罪, tội
khiến cho người phạm phải, sẽ đáng bị
vứt bỏ ra ngoài Tăng đoàn), đáng bị đuổi
ra ngoài biển cả của Phật, trục xuất khỏi
Phật giáo, th́ gọi là Ba La Di pháp (Pārājikuddeso). Trong giới
tỳ-kheo. Tội này chẳng
cho phép sám hối.
Tuân theo pháp Đại Thừa, như chúng ta
lạy Địa Tạng Sám, hoặc lạy Đại Bi
Sám, Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Sám, vẫn có thể sám
hối, nhưng sau khi sám hối, ắt cần phải thấy hảo tướng. Quư
vị bái sám thấy Địa Tạng Bồ Tát, bái Quán Âm
Sám, hay bái Đại Bi Sám mà thấy Quán Thế Âm Bồ
Tát, tội của quư vị sẽ thanh tịnh. Nhưng trong
giới luật, giới tỳ-kheo chẳng thể sám hối
[bằng cách tự lạy sám pháp, cầu hảo tướng].
Khi muốn sám hối, vẫn phải đối trước
đại chúng tăng, [phải được] hai mươi
vị Tăng
thanh tịnh bảo quư vị: “Ông đă sám hối xong”. [Sau
đó], tự ḿnh ở
một ḿnh, một ḿnh khấu đầu
đảnh lễ, vâng theo lời đức Phật dạy.
Đây cũng là nói theo giới pháp, chuyên nói về tỳ-kheo
và tỳ-kheo-ni. Loại thứ hai là pháp Tăng Tàn. Tăng
Tàn (僧殘, Saṃghāvaśeṣa) có nghĩa
là hăy c̣n một hơi thở, vẫn chưa chết. Đối
với vấn đề xử lư, tôi chỉ nói danh từ mà
thôi, mọi người biết là được rồi!
Thất Tụ Tịnh Giới chuyên nói về
tỳ-kheo. Người ấy chẳng hoàn toàn phạm toàn bộ các giới đó,
chỉ cần phạm vào bốn căn bản th́ Luật
Tông đă gọi kẻ đó là “tử thi”. “Tử thi” nghĩa
là giống như xác chết vậy, cũng có nghĩa là
đă phạm Khí Tội. “Hữu xuất gia giới
đức dư thế” (Có thế lực sót lại của
giới đức xuất gia): Tuy phá giới, nhưng thuở
đầu khi kẻ đó xuất gia, vẫn giữ giới
thanh tịnh. Thế lực của việc
tŕ giới thanh tịnh ấy vẫn chưa hoàn toàn mất
sạch. Thế lực ấy giống như ḅ có Ngưu
Hoàng. Nếu ḅ ăn cỏ linh chi, dạ dày của nó tiêu hóa
chẳng được, giống như bị ung thư, mọc
lên một cái bướu. Trong cái bướu ấy chứa
đựng ǵ vậy? Đó gọi là Ngưu Hoàng (牛黃). Nếu
ngựa ăn cỏ linh chi, sẽ gọi là Mă Bảo (馬寶). Nếu
chó ăn cỏ linh chi th́ gọi là Cẩu Bảo (狗寶), những
thứ ấy đều gọi là Bảo.
Cái được gọi là Bảo (寶) ấy
có công năng ǵ? Giải trừ bệnh khổ. Ngưu Hoàng
chữa các chứng bệnh bất trị. Cắt một
chút Ngưu Hoàng làm thuốc, cho quư vị uống để
trừ bệnh. Xạ (麝) là xạ
hương (麝香), sau
khi con hươu xạ (musk deer) chết
đi, tuy đă xả mạng rồi, đă chết, xạ
hương vẫn có giá, vẫn là của báu. Tuy ḅ đă chết,
Ngưu Hoàng vẫn là của báu, trọn
chẳng phải là con ḅ nào cũng đều có. Nhưng
loại hươu có xạ hương khi sắp chết,
liền ph́nh to bụng, cọ sát trên mặt đất cho
vỡ ra, khiến cho xạ hương chảy mất, khiến
cho thợ săn có muốn lấy, cũng chẳng lấy
được!
Nai có lộc nhung (鹿茸). Nếu quư
vị săn nó, làm nó bị thương, hoặc giết
chết nó, thợ săn phải ôm lấy đầu nó trước.
Nếu không, nó sẽ húc đầu vào cây cối. Lộc nhung
là máu, nếu máu chảy mất, sẽ chẳng c̣n có tác dụng
nữa. Người ta săn nai là v́ nó có nhung. Săn hươu
là v́ nó có xạ hương. Ngưu Hoàng th́ không nhất định,
có đôi khi con ḅ bị bệnh chết, thầy thuốc phán
đoán, nói con ḅ đă chết rồi. Tuy nó có Ngưu Hoàng,
nhưng chủ nhân hoàn toàn không biết,
đem chôn nó, hoặc xẻ thịt để ăn, sai mất
rồi! Chuyện này cần phải có bác sĩ thú y kết
luận.
Sau khi thân mạng kết thúc, tuy là xác chết
của loài bàng sanh chẳng có tri giác ǵ, tuy nó là súc sanh, chẳng
có tri giác, chẳng có tri thức, nhưng xác chết của
con thú ấy như ḅ có Ngưu Hoàng, hươu xạ có xạ
hương, có thể tạo lợi ích to lớn cho vô
lượng, vô biên hữu
t́nh, dùng để làm thuốc, có thể chữa trị rất
nhiều bệnh tật cho con người. Bật-sô phá giới
cũng giống như thế, tuy trong Tỳ Nại Da của
Phật pháp được gọi là “tử thi”, nhưng
do thế lực của giới đức c̣n sót lại, có
thể tạo lợi ích to lớn cho vô lượng vô biên hữu
t́nh.
(Kinh) Đại Phạm! Thí như cổ
khách, nhập ư đại hải, sát bỉ nhất loại
vô lượng chúng sanh, khiêu thủ kỳ mục, dữ Mạt
Đạt Na quả, ḥa hợp đảo sai, thành nhăn bảo
dược. Nhược chư hữu t́nh manh minh, vô mục,
năi chí bào thai nhi sanh manh giả, tŕ thử bảo dược,
đồ bỉ nhăn trung, sở hoạn giai trừ, đắc
minh tịnh mục. Phá giới bật-sô diệc phục như
thị, tuy ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, danh vi “tử
thi”, nhi hữu
xuất gia oai nghi h́nh tướng, năng linh vô lượng, vô biên hữu t́nh tạm đắc kiến
giả, thượng hoạch thanh tịnh trí huệ pháp
nhăn, huống năng vị tha tuyên thuyết chánh pháp!
(經)大梵,譬如賈客入於大海,殺彼一類無量眾生,挑取其目,與末達那果和合搗簁,成眼寶藥,若諸有情盲冥無目,乃至胞胎而生盲者,持此寶藥塗彼眼中,所患皆除,得明淨目;破戒苾芻亦復如是,雖於我法毗奈耶中名為死尸,而有出家威儀形相,能令無量無邊有情暫得見者,尚獲清淨智慧法眼,況能為他宣說正法!
(Kinh: Này Đại Phạm! Ví như khách
buôn vào trong biển cả, giết vô lượng chúng sanh thuộc
một loại, khoét lấy mắt chúng, ḥa hợp với quả
Mạt Đạt Na[8],
nghiền trộn, tạo thành loại thuốc báu cho mắt.
Nếu các hữu t́nh đui mù, không mắt, cho đến kẻ
mù từ lúc c̣n trong bào thai, đem loại thuốc báu này bôi
vào mắt, các bệnh tật đều trừ, được
mắt sáng sạch. Bật-sô phá giới cũng giống như
thế, tuy bị gọi là “xác chết” nơi Tỳ Nại
Da trong pháp của ta, nhưng có h́nh tướng và oai nghi của
bậc xuất gia, có thể khiến cho vô lượng, vô biên hữu
t́nh tạm được trông thấy, c̣n có thể đạt
được pháp nhăn trí huệ thanh tịnh, huống hồ
có thể v́ họ tuyên nói chánh pháp).
Trong biển có một loại chúng sanh là loài
cá, gă lái buôn ấy đă giết loài chúng sanh ấy để
lấy mắt của chúng. Mạt Đạt Na quả, c̣n
gọi là Túy Nhân Quả, nhưng có chất độc. Dùng
mắt loại cá ấy, tức là dùng tṛng mắt, nghiền
chung với loại quả ấy, chế thành thuốc trị
bệnh mắt. Có các chúng sanh mù đui, hoặc không có mắt,
bị mù từ bé, đều dùng [loại thuốc ấy] được.
Thậm chí kẻ sanh manh, tức là từ lúc lọt ḷng đă
là người mù, đem thuốc báu ấy bôi cho, kẻ đó
sẽ thấy được, tṛng mắt liền khôi phục.
Tỳ-kheo phá giới cũng giống như
vậy. Tuy rằng ở trong pháp Tỳ Nại Da của ta
bị gọi là “tử thi”, nhưng kẻ đó có oai
nghi và h́nh tướng xuất gia, có thể khiến cho vô
lượng, vô biên hữu t́nh, dẫu chỉ tạm thời thấy
kẻ đó trong chốc lát, sẽ đều có thể đạt
được pháp nhăn trí huệ thanh tịnh! Đấy là
quư vị gieo thiện căn. Nếu chẳng có nhân duyên ấy,
ngay cả h́nh tướng của tỳ-kheo phá giới cũng
chẳng trông thấy, mà cũng chẳng trông thấy người
khoác áo ca-sa. Thậm chí công đức do trông thấy như
vậy đều là chẳng thể nghĩ bàn. Thật đấy!
Tại Đại Lục, trong khoảng thời gian từ
1950 cho đến 1980, quư vị muốn thấy một vị
tăng sĩ mặc quần áo xuất gia, sẽ hoàn toàn chẳng
thấy!
Tôi nhớ pháp sư Đại Quang là người
viết bộ Ảnh Trần Hồi Ức Lục, có kể
với tôi: “Tôi đến Thượng Hải liền tác
quái”. Tôi hỏi: “Thầy tác quái ǵ vậy?” Thầy ấy kể:
“Tôi mặc áo hậu (áo hải thanh) màu vàng, đắp y
ca-sa đỏ, trong tay cầm tích trượng, cũng là tích
trượng của Địa Tạng Bồ Tát, đi đến
đường Nam Kinh ở bến ngoài của Thượng
Hải. Tới đó bèn đi ḷng ṿng. Người ở đó
xúm đen xúm đỏ vây quanh. Ai nấy đều nói đây
là quái vật, chẳng biết là thứ ǵ?” Thế là cảnh
sát ùa tới, lôi thầy ấy đi. Vừa thấy thầy
ấy là Hoa Kiều từ Hương Cảng sang, họ liền
lập tức trục xuất. Khi đó, nếu có ai mặc
y phục
ḥa thượng th́ là phạm pháp. Như vậy mà đă là
phạm pháp, huống hồ c̣n v́ người khác tuyên nói chánh
pháp ư? Vị
tỳ-kheo phá giới này c̣n có thể thuyết pháp th́ càng tuyệt
diệu thay!
(Kinh) Đại Phạm! Thí như thiêu
hương, kỳ chất tuy hoại, nhi khí phân phức,
huân tha linh hương. Phá giới bật-sô diệc phục
như thị. Do phá giới
cố, phi lương phước điền, tuy hằng
trú dạ tín thí sở thiêu, thân hoại, mạng
chung, đọa tam ác thú, nhi vị vô lượng vô biên hữu
t́nh tác đại nhiêu ích, vị giai linh đắc văn ư
sanh thiên, Niết Bàn hương khí.
(經)大梵,譬如燒香,其質雖壞,而氣芬馥,熏他令香;破戒苾芻亦復如是,由破戒故非良福田,雖恆晝夜信施所燒,身壞命終墮三惡趣,而為無量無邊有情作大饒益,謂皆令得聞於生天涅槃香氣。
(Kinh: Này Đại Phạm! Ví như đốt
hương, chất liệu tuy xấu, nhưng mùi thơm ngát,
xông những thứ khác khiến cho chúng cũng thơm tho. Bật-sô
phá giới cũng giống như thế, do v́ phá giới,
chẳng phải là ruộng phước tốt lành, tuy ngày
đêm luôn bị tín thí thiêu đốt, thân hoại, mạng
chung, sẽ đọa vào ba đường ác, nhưng tạo
lợi ích to lớn cho vô lượng vô biên hữu t́nh, tức
là đều khiến cho họ được ngửi mùi
thơm sanh thiên và Niết Bàn).
Hương đốt tuy chất liệu xấu,
nhưng mùi hương vẫn thơm tho, người bị
nhuốm mùi hương cũng có mùi thơm. Tỳ-kheo phá
giới cũng giống như vậy. Do v́ ông ta phá giới,
chẳng phải là ruộng phước tốt lành, nhưng
ngày đêm luôn bị thiêu đốt bởi sự cúng
dường của tín thí, khi thân hoại, mạng chung, sẽ
đọa vào ba ác đạo. Bản thân ông ta do tiếp nhận
sự cúng dường của tín thí, sau khi chết, sẽ đọa
vào ba ác đạo, đọa vào địa ngục, rơi
xuống ba ác đạo, nhưng [lúc c̣n sống] vẫn có thể
tạo lợi ích to lớn cho vô lượng, vô biên hữu
t́nh. Nói cách khác, bản thân ông ta phá giới, [do quả báo phá
giới] vẫn phải thọ báo, nhưng ông ta có thể làm
chuyện tốt cho hết thảy hữu t́nh. Về phần
hết thảy hữu t́nh, vẫn có thể được
nghe mùi hương sanh thiên và Niết Bàn. Trên thân ông ta có mùi
hương, tức là hăy c̣n mùi hương do trước
kia ông ta đă từng thọ giới, giữ giới thanh
tịnh.
(Kinh) “Thị cố Đại Phạm!
Như thị phá giới, ác hạnh bật-sô, nhất thiết bạch y giai ưng
thủ hộ, cung kính cúng dường. Ngă chung bất hứa
chư tại gia giả, dĩ tiên, trượng đẳng
chủy khảo kỳ thân, hoặc bế lao ngục, hoặc
phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn
kỳ mạng. Ngă duy hứa bỉ thanh tịnh Tăng
chúng, ư bố-tát thời,
hoặc tự tứ thời, khu tẫn linh xuất, nhất
thiết cấp thí tứ phương Tăng
vật, ẩm thực, tư cụ, bất thính thọ dụng,
nhất thiết sa-môn Tỳ Nại Da sự, giai linh khu xuất,
bất đắc tại chúng, nhi ngă bất hứa gia kỳ
tiên, trượng, hệ phược, đoạn mạng”.
Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: “Chiêm
Bác Ca hoa tuy ủy tụy, nhi thượng thắng bỉ chư
dư hoa. Phá giới ác hạnh chư bật-sô, do thắng
nhất thiết ngoại đạo chúng”.
(經)是故大梵,如是破戒惡行苾芻,一切白衣皆應守護、恭敬、供養。我終不許諸在家者,以鞭杖等捶拷其身,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命!我唯許彼清淨僧眾,於布薩時或自恣時,驅擯令出;一切給施四方僧物、飲食、資具,不聽受用;一切沙門毗奈耶事,皆令驅出,不得在眾,而我不許加其鞭杖、繫縛斷命。爾時,世尊而說頌曰:瞻博迦華雖萎悴,而尚勝彼諸餘華;破戒惡行諸苾芻,猶勝一切外道眾。
(Kinh: “V́ thế, Đại Phạm! Bật-sô
phá giới, ác hạnh như thế, hết thảy kẻ bạch
y đều nên thủ hộ, cung kính, cúng dường. Ta trọn chẳng
chấp thuận các kẻ tại gia dùng roi, gậy v.v… đánh
đập, tra khảo thân thể ông ta, hoặc giam trong lao
ngục, hoặc lại quở
trách, chửi mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc giết
chết. Ta chỉ cho phép Tăng
chúng thanh tịnh vào lúc bố-tát, hoặc lúc tự tứ, xua
đuổi [ông ta] ra khỏi Tăng đoàn, chẳng cho phép
ông ta thọ dụng
hết thảy những vật dụng, thức ăn, đồ
dùng cúng thí cho tứ phương Tăng. Đối với
hết thảy những chuyện thuộc về Tỳ Nại
Da của sa-môn, [ông ta] đều bị đuổi ra [không
cho tham dự], chẳng được ở trong chúng, nhưng
ta chẳng chấp thuận đối xử với ông ta
bằng roi, gậy, trói buộc, hay hại
mạng”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ
tụng: “Hoa Chiêm Bác Ca tuy tàn héo, vẫn c̣n hơn các loài hoa khác.
Các bật-sô phá giới ác hạnh, vẫn hơn hết thảy
kẻ ngoại đạo”).
Cứ để ông ta hoành hành như vậy
th́ không được. Tăng chúng sẽ cử hành bố-tát để
xử phạt ông ta. Cái được gọi là “bố-tát”
(Upoṣadha,
Upavasatha) chính là
người xuất gia vào ngày mùng Một và Rằm, tức
mỗi nửa tháng phải thuyết giới một lần.
Bố tát chính là thuyết giới. Quư vị treo biển thông
báo ở chùa miếu, có khi đề là “bố-tát”, có khi
viết là “tụng giới”, tức là lấy giới
bổn ra đọc một lượt. Sau đó, gọi ông
ta ra, đuổi ông ta ra ngoài Tăng đoàn. Phàm có ai cúng dường
Tăng
chúng, ḥa hợp Tăng được
hưởng dụng thức ăn, những vật dụng
cần dùng cho cuộc sống, y, đơn[9], ông ta sẽ vĩnh
viễn chẳng có phần. Nếu mọi người vào lúc
tụng giới mỗi nửa tháng, cũng chẳng cho phép
ông ta đến đó. Phàm là khi tác pháp Yết Ma, chỉ cần
là làm những chuyện thuộc về Luật, sẽ đuổi
ông ta ra, chẳng được phép ở trong đại
chúng, nhưng đức Phật không cho phép dùng roi, gậy,
trói buộc, hoặc đoạn mạng ông ta.
Tuy là phá giới, giống như hoa Chiêm Bác Ca
(Campaka,
hoa Chiêm Bặc, Kim Sắc Hoa) ở Ấn Độ
bị héo úa, mùi thơm phai nhạt, vẫn hơn hẳn các
loại hoa khác. Tuy là tỳ-kheo phá giới, ác tánh, so ra vẫn
tốt hơn hết thảy bè lũ ngoại đạo, hết
thảy kẻ ác. Điều này có nghĩa là chẳng cho phép
người tại gia hủy báng tỳ-kheo. Trước
kia, tôi đă thưa với các đạo hữu: “Dẫu tỳ-kheo
tồi tệ đến mấy, quư vị cũng đừng nên nói lỗi của tứ chúng!” Có các vị
đại đức, các vị ḥa thượng, cá nhân họ
như thế nào, quư vị chẳng cần quản! Đặc
biệt là kẻ bạch y (hàng tại gia), quư vị đừng
nên b́nh luận. Người xuất gia có thể nói lỗi
của người xuất gia hay không? Một người
cũng chẳng thể nói, phải thỉnh đại
chúng trục xuất kẻ ấy, cho đến chế định
hắn, tùy thuộc kẻ ấy phạm pháp nào trong Thất
Pháp Tụ, đáng là tội ǵ, đáng xử phạt như
thế nào, bèn xử phạt như thế ấy! Nhưng
chuyện của Tăng chúng, quư vị là đạo hữu
tại gia, hăy coi họ như đệ tử Phật, coi
như Tăng Bảo, coi hết thảy các tỳ-kheo đều
là thánh tăng. Trong tâm quư vị, họ là thánh tăng, công đức
của quư vị chẳng bị mất đi tí nào! Chẳng
v́ kẻ đó phá giới mà ảnh hưởng tới quư
vị! Đức Phật đă dạy rất rơ ràng. Do vậy,
mọi người ngàn vạn lần đừng nói lỗi
của Tam Bảo. Nếu quư vị khinh rẻ Tăng nhân, hủy
báng, đánh chửi, chặt chân tay, quư vị đáng bị
quả báo ǵ, trong phần sau sẽ nói.
Xin các đạo hữu chú ư điểm này:
Chuyện này chỉ có thể nói với đệ tử Phật.
Kẻ chẳng tin Phật, đương nhiên là họ chẳng
tin! Ngay cả vị tỳ-kheo tốt lành, họ c̣n chẳng
thể tin, đâu cần biết quư vị là tỳ-kheo loại
nào! Dẫu sao họ chẳng tin quư vị. Giống như xưa
kia ở Hương Cảng, nếu sáng sớm mà trông thấy
một vị xuất gia cạo đầu, người Quảng
Đông sẽ chửi bới, nói họ sẽ bị xui xẻo,
hôm nay khỏi cần buôn bán nữa! “Ḥa thượng! Mới
sáng sớm ngươi đừng ṃ ra đường!” Hiện
thời đă tốt hơn, v́ ḥa thượng nhiều. Hiện
thời làm Phật sự cũng rất nhiều, dần dần
họ đă biết. Nếu họ không biết, quư vị cũng
chẳng có cách nào hết!
Phần kinh văn kế tiếp rất dài,
đều dạy phải tôn kính tỳ-kheo. Đây hoàn toàn
chẳng phải là đức Phật bao che khuyết điểm.
Hoàn toàn chẳng có nghĩa là đệ tử Phật tệ
bại như thế nào đi nữa, quư vị đều
phải cung kính, dẫu hư hỏng cỡ nào vẫn phải
cung kính! Chẳng phải là ư nghĩa ấy. V́ đức Phật
thấy rất xa, Ngài có thể
thấy vô lượng kiếp trong quá khứ của chúng
ta, và cũng thấy vô lượng kiếp trong tương
lai. Ngài thấy rất nhiều kẻ v́ hủy báng Tam Bảo
mà đọa lạc trong tam đồ,
do cung kính Tam Bảo mà được vô biên hạnh phúc. Những
vị tỳ-kheo chúng ta coi là tốt đẹp, đương
nhiên là cung kính. Đối với các vị tỳ-kheo phá giới
hư hỏng, chớ nên hủy báng họ, chớ nên tiến
hành xử lư họ.
Trong phần trước đă có nói, nếu
thấy có các tỳ-kheo, trong tâm liền ưa thích thoát khỏi
trần thế, muốn tu tập thanh tĩnh trong chốn núi rừng. Vị tỳ-kheo
trụ nơi thanh tịnh, tu Định hạnh, nếu gặp
gỡ, quư vị có thể sanh trưởng trí huệ. Quư vị
giải thích ư nghĩa ấy như thế nào? V́ sao thấy
họ sẽ có thể sanh trưởng trí huệ? Thấy
họ sẽ có thể đắc Định? Mọi người
mỗi ngày gặp tôi, có sanh Định hay không? Có sanh trí huệ
hay không? Đấy chẳng phải là chuyện trong chốc
lát. Quư vị thấy người đó, nếu sanh khởi
tâm cung kính đối với Tam Bảo, sẽ có thể dần
dần tăng trưởng thiện căn đă gieo trước
kia trong đời quá khứ. V́ chúng ta gieo trồng thóc lúa,
hoa mầu trên đất, được đất và nước
vun tưới, giống như chúng ta thấy Tăng Bảo,
thấy Pháp Bảo, thấy Phật Bảo, sẽ vun quén [thiện
căn] của quư vị một lượt, lại phát triển
một lần. Gieo trồng như vậy, lâu ngày, thiện
căn tăng trưởng; lâu ngày, quư vị sẽ tự
nhiên thành tựu. Từ học Phật cho đến thành đạo,
chẳng phải vừa tiếp xúc liền thành, mà là do từ
vô lượng kiếp tới nay. Làm ác, tạo
tội, chẳng phải là lập tức tạo thành, mà là
tích lũy từ nhiều đời, vô lượng kiếp.
Nay quư vị muốn tiêu trừ cái tội trong vô lượng
kiếp, phải trải qua thời gian tôi luyện rất
lâu!
Do vậy, đọc đoạn kinh văn
này, sẽ thấu hiểu v́ sao đối với tỳ-kheo
phá giới, cho đến tỳ-kheo chẳng có phạm hạnh,
chúng ta vẫn phải cung kính họ? Đấy
là như chúng ta thường nói: “Chẳng nh́n mặt Tăng,
cũng phải nh́n mặt Phật”, có ư nghĩa như vậy
đó. Chúng ta thấy họ là đệ tử Phật, [tôn
kính họ là] v́ chúng ta tôn kính Tam Bảo, tôn kính Phật, có hàm
nghĩa như vậy. Nếu quư vị cho rằng: “Rơ ràng
biết gă đó rất xấu. Chúng ta thấy hắn khoác
một mảnh ca-sa vẫn rất cung kính hắn, chẳng
hợp lư cho lắm!” Chẳng phải là ư nghĩa ấy, hoàn
toàn chẳng phải là coi trọng cá nhân ấy! Kẻ đó
đă là đệ tử Phật, trong khi hắn chưa có
pháp phục, chưa xuống tóc, nếu hắn phạm giới,
Tăng đoàn sẽ khai trừ hắn. Kẻ đó chẳng
có pháp phục; khi ấy, hắn chẳng phải là đệ
tử Phật. Chỉ cần kẻ đó vẫn c̣n khoác ca-sa,
sẽ c̣n thuộc trong Tăng Bảo. Dẫu phạm rất
nhiều giới, hay phá giới, gă tỳ-kheo phá giới ấy
sẽ chẳng nói cho quư vị biết “ta là tỳ-kheo phá
giới”. Hắn sẽ gióng trống, khua chiêng, tuyên truyền
[“ta là tỳ-kheo phá giới”] ư? Quư vị căn bản là
chẳng biết hắn phá giới hay không! Do vậy, chỉ
cần hắn hiện Tăng tướng,
cứ cung kính hắn là được rồi!
V́ sao Luật Tạng dạy phải phát lộ
sám hối? Đă có tội
th́ phải
sám hối; nếu giấu diếm, sẽ là lường gạt.
Trừ các tội do chính bản thân kẻ
đó trót phạm ra, kẻ đó c̣n phạm thêm tội giấu
diếm, lường gạt. Đấy là tội càng thêm tội,
rất nhiều. Khi sám hối, rất khó sám hối cho thanh
tịnh. Quá khứ chúng ta đă có các sai lầm, phạm rất
nhiều, nhưng chúng ta chẳng khai ngộ, thậm chí, trong
cuộc đời bị bệnh tật, gặp rất
nhiều chuyện chẳng vừa ư, người ta xuôi chèo
mát mái, c̣n quư vị trầy trật, trắc trở là do nguyên
nhân nào? Từ vô lượng kiếp đến nay, đă làm
quá nhiều chuyện. Nhất thời sám hối, vẫn chẳng
dễ ǵ sám hối thanh tịnh. Quư vị ắt cần phải
sám hối trong một thời gian rất dài!
(Kinh) Phục thứ Đại Phạm!
Hữu ngũ Vô Gián đại tội ác nghiệp. Hà đẳng
vi ngũ? Nhất giả, cố tư sát phụ. Nhị giả,
cố tư sát mẫu. Tam giả, cố tư sát A La Hán. Tứ
giả, đảo kiến phá Thanh Văn Tăng. Ngũ giả,
ác tâm xuất Phật thân huyết. Như thị ngũ chủng,
danh vi Vô Gián đại tội ác nghiệp. Nhược nhân
ư thử ngũ Vô Gián trung, tùy tạo nhất chủng,
bất hợp xuất gia, cập thọ Cụ giới.
Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới,
sư tiện phạm tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh
xuất ngă pháp. Như thị chi nhân, dĩ hữu xuất
gia oai nghi h́nh tướng, ngă diệc bất hứa gia kỳ
tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc phục
ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ
mạng!
(經)復次大梵,有五無間大罪惡業。何等為五?一者、故思殺父;二者、故思殺母,三者、故思殺阿羅漢;四者、倒見破聲聞僧;五者、噁心出佛身血。如是五種,名為無間大罪惡業。若人於此五無間中,隨造一種,不合出家,及受具戒。若令出家,或受具戒,師便犯罪,彼應驅擯令出我法。如是之人,以有出家威儀形相,我亦不許加其鞭杖,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命。
(Kinh: Lại này Đại Phạm! Có năm
ác nghiệp đại tội Vô Gián. Những ǵ là năm? Một
là cố ư giết cha, hai là cố ư giết mẹ, ba là cố
ư giết A La Hán, bốn là do tri kiến điên đảo mà
phá Thanh Văn Tăng, năm là do ác tâm làm thân Phật chảy
máu. Năm loại như thế gọi là “ác nghiệp đại
tội Vô Gián”. Nếu ai tạo bất cứ loại nào
trong năm loại Vô Gián ấy, chẳng thích hợp xuất
gia và thọ Cụ Túc Giới. Nếu cho phép kẻ đó
xuất gia, hoặc
thọ Cụ Túc Giới, vị thầy
sẽ phạm tội. Kẻ đó đáng nên bị xua đuổi
ra ngoài pháp của ta. Người như thế đă có oai
nghi và h́nh tướng xuất gia, ta cũng chẳng cho phép
dùng roi, gậy đánh đập, hoặc nhốt vào lao ngục,
hoặc lại quở trách,
chửi bới, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn
mạng kẻ đó).
Được gọi là Ngũ Vô Gián là năm
loại như thế, được gọi chung là “Vô
Gián đại tội ác nghiệp”. Nếu trong năm loại
tội ấy, kẻ
phạm bất cứ một loại nào, chẳng thích
hợp để xuất gia, tức là chẳng thâu nhận
cho hắn xuất gia, càng chẳng thể cho hắn thọ
Cụ Túc Giới. Khi quư vị sắp xuất gia, vị thầy
sẽ hỏi: “Trước khi ngươi xuất gia, đă
làm những chuyện ǵ, có phạm phải những chuyện
ấy hay chăng?” Nếu có phạm chuyện này, thầy sẽ
chẳng dám thâu nhận quư vị. C̣n có kẻ sáu căn chẳng
đầy đủ. Hiện thời, trong Phật môn cũng
có người mù, người què, người thọt, người
bị bệnh thần kinh, những trường hợp ấy
đều chẳng thể. C̣n có năm loại Bất Nam,
cũng là bất nam bất nữ. Hạng người này
không được phép xuất gia, quư vị
ắt phải thưa thật. Quư vị chẳng nói ra, vị
sư phụ cũng chẳng thể kiểm tra, quư vị phải
thẳng thắn khai ra. Nếu lường gạt, chẳng
nói, sẽ phạm tội lừa dối. Quư vị trà trộn
vào đây, hộ pháp long thiên sẽ gây ra đủ loại
chướng ngại nhiễu hại quư vị. Chuyện này
chẳng thể lừa gạt được!
Tới khi quư vị thọ giới, lúc vào giới
đàn, [các vị thầy truyền giới] sẽ hỏi
các điều “giá nạn” (遮難, ngăn
chướng), chẳng hạn như Ngũ Vô Gián là “nạn”.
C̣n có rất nhiều điều ngăn trở khiến cho
quư vị chẳng thể thọ giới. Như năm loại
Bất Nam, bất nam bất nữ, khi ở chung với nam
chúng, kẻ đó là nữ, khi ở chung với nữ, kẻ
đó là nam. Hoặc nửa nam, nửa nữ, phía trên là dương,
phía dưới là âm. Những kẻ giống như vậy
đều thuộc vào năm loại Bất Nam. Như thái
giám sẽ chẳng thể xuất gia, chẳng thể thâu
nhận. V́ thế, làm tỳ-kheo rất khó.
Thoạt đầu, nếu trong quá khứ quư
vị có tội Ngũ Vô Gián, phải chú ư đến chữ
Cố (故). “Cố tư sát phụ” (cố ư giết cha): “Tư”
(思) là chuẩn bị, trong ấy bao gồm sát nhân, sát pháp,
sát nhân, sát nghiệp (cái nhân (nguyên do) giết, cách giết, người
thực hiện hành động giết, và nghiệp giết),
ắt phải đoạn mạng căn. Hễ chết rồi
th́ mới tính, tội ấy đă thành lập. Nếu chẳng
phải là cố ư, vô tâm, th́ là chẳng phạm căn bản
giới, là tương tự tội (tội ngộ sát), đó
là tương tự tội. Do vậy, phía trước các
tội giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, đều
có chữ Cố. Ba loại tội ấy đều có chữ
Cố, tức là cố ư. Hữu tâm, thậm chí bày mưu tính
kế, ba loại ấy [kết tội] như thế đó.
“Đảo kiến phá Thanh Văn Tăng” (Tri kiến
điên đảo phá Thanh Văn Tăng): Tri kiến điên
đảo, chẳng phải là chánh tri, chánh kiến, tà tri, tà
kiến điên đảo, phá ḥa hợp Tăng,
chia rẽ Tăng
chúng vốn là một thành hai nhóm. Chẳng hạn như
trong chùa chúng ta có ba mươi người xuất gia, quư vị
chọc ngoáy ly gián, xé vụn thành từng nhóm từ ba người
trở lên, đấy chính là phá ḥa hợp chúng. Châm ng̣i ly gián
một người th́ không tính. Nếu châm ng̣i cho bảy tám
người tách rời, sẽ là phá ḥa hợp tăng. Khi mọi
người cùng nhau ḥa hợp tu đạo, quư vị phá hoại,
th́ gọi là “phá ḥa hợp Tăng”. Chuyện này chỉ
giới hạn trong chúng Thanh Văn. Ác tâm làm thân Phật chảy
máu, ác tâm là có tâm hủy báng, thậm chí có phẫn, có sân. Những
tâm ấy đều coi như là ác tâm. Làm thân Phật chảy
máu chỉ là khi đức Phật c̣n tại thế.
Có đạo hữu hỏi tôi: Tượng
Phật vẽ trên giấy, do chúng ta chẳng chú ư, khiến
cho bị xé rách, hủy hoại, hoặc được
treo ở đó, khi quư vị lấy xuống, đă làm rách,
như vậy th́ có tính là “làm thân Phật chảy máu” hay không? Như
thế th́ chẳng tính, chỉ có thể tính là lỗi lầm
nhẹ ít. Chỉ có thể tính là không tôn trọng cho lắm,
chỉ có thể tính như vậy. Chẳng thể tính là
làm thân Phật chảy máu, v́ tượng giấy chẳng
thể chảy máu. Tượng bằng đất nặn
hay gỗ khắc có chảy máu hay không?
Chẳng có máu, đó là nói về cảnh hiện tiền,
là cảnh chân thật. Như thế th́ mới tính là tội
Ngũ Nghịch. Đó gọi là Ngũ Vô Gián đại tội.
Vô Gián (無間) là chịu khổ
chẳng gián đoạn, chịu khổ
chưa hề ngưng dứt. Khi quư vị sắp mạng
chung, lúc vào địa ngục chẳng gián đoạn tí nào,
rất ư là nhanh.
Đối với năm loại ấy, hễ
phạm một loại nào, cũng
đều chẳng được phép xuất gia. Ngay cả
xuất thế tục gia cũng chẳng thể, càng chẳng
được phép thọ
giới. Thọ Cụ Túc Giới, cũng tức là hai trăm
năm mươi giới của tỳ-kheo. Giả sử vị
sư phụ nào cho kẻ đó xuất gia, hoặc là cho kẻ
đó thọ Cụ Túc Giới, vị sư phụ ấy đă
phạm tội. Nếu thâu nhận kẻ đó, bản thân vị
sư phụ ấy phạm tội, vậy th́ các đồ
chúng do ông ta đă thâu nhận th́ sao? Phải đuổi những
kẻ có đủ các thứ giá nạn ra ngoài Tăng đoàn,
chẳng thể giữ họ lại trong Tăng đoàn,
phải xua đuổi họ ra khỏi Phật giáo, chẳng
thâu nhận vào Phật pháp. Nói tỷ dụ th́ giống như tử
thi chết
ch́m trong biển, sóng biển nhất định sẽ
đẩy nó lên bờ. Biển chẳng dung nạp tử thi,
biển Phật pháp chẳng dung kẻ phá giới.
C̣n như những kẻ phạm tội Ngũ
Vô Gián, sư phụ vẫn thâu nhận kẻ đó, vẫn
cho hắn thọ Cụ Túc Giới. Hắn vẫn chưa bị
khai trừ, vẫn trà trộn trong số các vị xuất
gia. Kẻ đó có oai nghi và h́nh tướng xuất gia, đă thọ Cụ
Túc Giới, vẫn c̣n đắp y, chứ áo hậu (áo hải
thanh) không tính là ǵ cả. Áo hậu là trang phục của người
Hán. [Trải các đời] Hán, Đường, Tống,
Minh đều là như vậy. Bất quá túi áo chẳng may
to như vậy, tay áo cũng chẳng rộng như vậy,
[khi may thành lễ phục cho tăng
sĩ và cư sĩ đă] hơi tăng thêm đôi chút. Vào
thời ấy (khi đức Phật giảng kinh Đại
Tập Thập Luân), Ngài nói đến cái y (ca-sa); hiện thời,
y cũng bị sửa đổi rồi! Có những người
nói: “Xă hội đă biến hóa, phải nên thay đổi”.
Hiện thời, [y ca-sa] có khoen và móc là từ Trung Hoa mà ra.
Kiểu cách đó vốn từ Ấn Độ cũng là
như vậy. Hiện thời, người Ấn Độ
mặc y phục vẫn là như vậy. Ở đây, chúng
ta có rất nhiều người Ấn Độ, quư vị
thấy nam nữ hễ [mặc y phục truyền thống]
sẽ vắt vạt áo chồng lên như thế đó.
Kẻ đó trọn đủ oai nghi của
người xuất gia. Oai nghi của người xuất
gia có bao nhiêu? Ba ngàn! Từ xưa đă h́nh dung oai nghi xuất
gia: Nếu quư vị lên chánh điện, hoặc lúc đi đường,
mắt chẳng nh́n về phía trước quá năm thước[10]. Nếu xoay đầu
nh́n Đông ngó Tây, giống như lắc trống bỏi[11] th́ không được
rồi, đă phạm vào oai nghi! Đi đường có hạn
chế nhất định, những điều này đều
phải học. Thậm chí trong lúc dùng cơm, chẳng giống
như chúng ta. Bới bát cơm như thế nào, cầm đũa
ra sao, khi ăn phải ăn như thế nào, đặc
biệt là trong khi ăn, nếu nhai chóp chép là không được!
Khi tôi ở Cổ Sơn, lúc quá đường
(過堂, dùng bữa
trưa) có hơn một ngàn người. Từ cửa trai
đường bước vào, quư vị chẳng nghe thấy
trong ấy có chút âm thanh nào. Trong ấy c̣n chẳng có tiếng
đũa, bát, ngay cả tiếng nhai cơm cũng chẳng
có, đâu có giống như một ngàn tám trăm người
đang ăn cơm tại đó. Quư vị c̣n chẳng biết
trong ấy có nhiều người đến thế! Khi
đó, tôi vừa mới đến Cổ Sơn, tôi nói ngôi
chùa này to ngần ấy, sao lại vắng tanh thế này, vừa
bước vào, c̣n có đôi chút cảm giác hoảng sợ. Đi
trên hành lang cũng chẳng thấy một ai. Đến
khi nghe tiếng bang[12], khi lên đại điện,
từ mỗi gian nhà nhỏ, thoạt nh́n rất hẹp, đều
có người xuất gia ở. Lúc đó, cùng ở đấy có
hơn tám trăm bảy mươi vị xuất
gia, c̣n có hơn một ngàn vị tịnh nhân. Tịnh nhân (淨人) là người
phục vụ trong chùa miếu, lo làm vườn, chăm nom
vườn trái cây, dường như là ai nấy đều
trọn đủ oai nghi của người xuất gia.
Quư vị làm tịnh nhân trong chùa, sẽ trọn
đủ oai nghi. Chỉ cần vào chùa, sẽ chẳng giống
với thế tục. Bất quá, hiện thời cũng tiến
bộ rồi! [Người hiện thời cho rằng] những
thứ đó đều chẳng cần nữa, cảm thấy
quá rườm rà. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh ràng
buộc mỗi cá nhân trở thành h́nh dạng như thế
đó. Vào thời ấy, Tăng chúng sống trong chùa cũng chẳng cảm thấy [trói buộc ǵ], đă
thành thói quen rồi. Từ khi thọ
giới, một mực ở trong tùng lâm cho đến chùa
lớn. Quư vị xuất gia, nhất định phải sống
trong tùng lâm mới biết h́nh tướng oai nghi. Chỉ cần
kẻ đó có h́nh tướng oai nghi, bất luận trong quá
khứ hắn đă phạm tội Ngũ Nghịch, thậm
chí hắn trà trộn trong Tăng chúng, hễ c̣n chưa bị
trục xuất, đều chẳng nên trách phạt, quất
đánh, hoặc giam cầm trong lao ngục, hoặc là chửi
mắng, hoặc là cắt chặt tứ chi, hoặc là giết
chết, những điều ấy đều chẳng thể!
Dẫu là chúng sanh trong quá khứ mắc tội Ngũ Vô Gián trà
trộn vào Phật môn th́ cũng đều chẳng thể!
Hôm nay, có đạo hữu hỏi tôi: “Giả
sử biết người đó là kẻ phạm tội Ngũ
Nghịch, tôi chẳng sanh tâm cung kính đối với hắn
được!” Quư vị chớ nên sanh [cái tâm ấy], hăy
nên sám hối. V́ tâm quư vị chẳng phải là Phật tâm,
chẳng phải là Tam Bảo tâm. Quư vị gặp Tam Bảo,
lẽ đâu chẳng thể sanh khởi tín tâm? Quư vị
nghĩ kẻ đó phá giới, chỉ cần kẻ đó
có Tăng tướng, chúng ta thấy vị sư phụ này
tốt lắm, bản thân vị sư phụ ấy cũng
cảm thấy tốt lắm. Nhưng kẻ đó phạm
các giới thuộc vi tế hạnh, long, thiên, quỷ thần
đều biết cả, thậm chí [kẻ đó] c̣n chưa
biết chính ḿnh phạm giới! Trước nay chưa hề
học giới, làm sao biết là phạm giới cho nổi?
Tuy là như vậy, long, thiên, quỷ thần vẫn cung
kính kẻ đó.
(Kinh) Phục hữu tứ chủng, cận
Ngũ Vô Gián đại tội ác nghiệp căn bản chi
tội. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả, khởi bất
thiện tâm, sát hại Độc Giác, thị sát sanh mạng
đại tội ác nghiệp căn bản chi tội. Nhị
giả, dâm A La Hán bật-sô-ni tăng, thị dục tà hạnh
đại tội ác nghiệp căn bản chi tội. Tam
giả, xâm tổn sở thí Tam Bảo tài vật, thị bất
dữ thủ đại tội ác nghiệp căn bản
chi tội. Tứ giả, đảo kiến phá hoại ḥa
hợp Tăng chúng, thị hư cuống ngữ đại
tội ác nghiệp căn bản chi tội.
(經)復有四種,近五無間大罪惡業根本之罪。何等為四?一者、起不善心,殺害獨覺,是殺生命,大罪惡業,根本之罪;二者、婬阿羅漢、苾芻尼僧,是欲邪行,大罪惡業,根本之罪;三者、侵損所施三寶財物,是不與取,大罪惡業,根本之罪;四者、倒見破壞和合僧眾,是虛誑語,大罪惡業,根本之罪。
(Kinh: Lại có bốn thứ là tội
căn bản thuộc về đại tội ác nghiệp,
gần với Ngũ Vô Gián. Những ǵ là bốn? Một là
dấy tâm bất thiện, sát hại Độc Giác; đó
là tội căn bản thuộc về đại tội ác
nghiệp “sát sanh”. Hai là dâm uế A La Hán bật-sô-ni Tăng,
đó là tội căn bản thuộc về đại tội
ác nghiệp “tà hạnh dâm dục”. Ba là xâm phạm, tổn
hại tài vật cúng thí cho Tam Bảo, đấy là tội
căn thuộc về đại tội ác nghiệp “chẳng
cho mà lấy”. Bốn là tri kiến điên đảo phá hoại
Tăng
chúng ḥa hợp. Đó là tội căn bản thuộc về
đại tội ác nghiệp “nói lời hư dối”).
Đây là nói về Cận Ngũ Vô Gián Tội,
hoàn toàn chẳng phạm tội nặng như tội Vô Gián.
Cận Ngũ Vô Gián Tội có bốn thứ:
1) Loại thứ nhất, khởi tâm bất
thiện, sát hại Độc Giác. Tâm bất thiện dấy
lên ác tâm. Dấy lên ác tâm sát hại Độc Giác. Độc
Giác là khi chẳng có Phật xuất thế, Ngài ở trong
rừng núi vắng lặng tu hành, chứng đắc quả
Độc Giác, tức là chứng đắc quả vị
Độc Giác trong Nhị Thừa. V́ không
có Phật xuất thế, Ngài tự khai ngộ chứng đạo,
cho nên gọi là Độc Giác. Có Phật xuất thế th́
gọi là Duyên Giác, do nương
vào mười hai pháp nhân duyên mà giác ngộ. Sát hại [Độc
Giác] th́ là Cận Ngũ Vô Gián, chưa tính là năm tội Vô
Gián! Thế nhưng, đây là tội sát sanh, là tội căn
bản đại ác nghiệp, chẳng tính là tội Vô Gián.
2) Hai là dâm uế A La Hán bật-sô-ni Tăng,
bất luận vị ấy có biết hay không. Đây là tội
Cận Vô Gián, cũng là tội đại ác.
3) Ba là xâm phạm, tổn hại vật dụng
thuộc thường trụ Tam Bảo, hoặc vật được thí cho
thường trụ Tam Bảo. Đây là tội đại
ác “chẳng cho mà lấy”.
4) Bốn là tri kiến điên đảo phá
ḥa hợp Tăng. Điên đảo tri kiến phá ḥa hợp
Tăng chỉ là tạo tội từ nơi ngôn ngữ của
kẻ ấy. Đối với cả hai đằng, đều khuấy động thị phi, chỉ tính
gộp trong ác ngữ và hư cuống ngữ (nói lời lừa gạt), dính líu
đến giới vọng ngữ.
Đây là bốn giới căn bản “giết,
trộm, dâm, dối”.
(Kinh) Nhược nhân ư thử tứ
Cận Vô Gián đại tội ác nghiệp căn bản tội
trung, tùy phạm nhất chủng, bất hợp xuất
gia, cập thọ Cụ giới. Nhược linh xuất
gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện đắc
tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh xuất ngă pháp. Như thị
chi nhân, dĩ hữu xuất gia, cập thọ Cụ giới
oai nghi h́nh tướng, ngă diệc bất hứa gia kỳ
tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc phục
ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn kỳ
mạng.
(經)若人於此四近無間大罪惡業根本罪中,隨犯一種,不合出家,及受具戒。若令出家,或受具戒,師便得罪,彼應驅擯令出我法。如是之人,以有出家及受具戒威儀形相,我亦不許加其鞭杖,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命。
(Kinh: Nếu ai phạm bất cứ loại
nào trong bốn tội căn bản thuộc về đại
tội ác nghiệp Cận Vô Gián này, chẳng thích hợp xuất
gia và thọ Cụ Túc Giới. Nếu cho kẻ ấy xuất
gia hoặc thọ Cụ Túc Giới, vị thầy sẽ
mắc tội. Kẻ đó đáng nên bị trục xuất,
đuổi ra khỏi pháp của ta. Người như thế,
nếu đă có oai nghi h́nh tướng xuất gia và thọ
giới Cụ Túc, ta cũng chẳng cho dùng roi, gậy đánh
đập, hoặc giam vào tù ngục, hoặc lại quở trách, chửi
mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc giết chết).
Kẻ phá bốn loại giới căn bản,
cũng là kẻ
phạm tội căn bản, tội to tầy trời, bất
quá chẳng phải là Ngũ Vô Gián, mà là Cận Vô Gián. Bốn loại ấy, hễ phạm bất cứ
loại nào, sư phụ chẳng thể thâu nhận kẻ
đó. Nếu lúc gạn hỏi giá nạn, “ngươi có
giết thánh nhân hay không?” Điều
này bao gồm các vị thuộc Nhị
Thừa, tức
Thanh Văn và Duyên Giác, kẻ đó thưa “chẳng có”.
Chính hắn cũng chẳng biết người bị hắn
giết chết có phải là thánh nhân hay không? Làm sao hắn
biết nổi! La Hán và Độc Giác sẽ chẳng nói: “Ta
đă chứng Độc Giác”. Mọi người đọc
kinh Kim Cang sẽ biết ngay. Ngài Tu Bồ Đề nói: “Chứng
vô sở chứng” (chứng cái chẳng có ǵ để
chứng). Hiểu đạo lư này là được rồi!
Tuy các tội
đó là tội căn bản, vẫn chẳng thể xuất
gia. Đó là tội căn bản, chẳng phải là tội
Vô Gián.
Kẻ phạm bốn đại tội ác,
cũng chẳng thể xuất gia. Đó gọi là “phạm
tứ căn bản”. Giết, trộm, dâm, dối là phạm
vào tánh tội, người ấy chưa xuất gia, c̣n chưa
thọ giới, chẳng phạm giá tội (遮罪)[13]. Nếu đă xuất
gia, lại thọ giới tỳ-kheo, hai đằng trên đều
phạm, [tức là] tánh tội
lẫn giá tội đều phạm. Rơ ràng biết là đă
phạm tội, quư vị c̣n mong thọ giới, tội thêm
một bậc nữa, tự chuốc lấy khổ. Quư vị
đọa địa ngục, hoặc là chịu cả hai
tầng xử phạt, thời gian càng dài hơn! Giả sử
vị sư phụ thâu nhận kẻ đó xuất
gia, ngay từ đầu kẻ đó đă lường gạt sư phụ, căn bản
là sư phụ của hắn không biết. Về sau, điều
tra ra, vị sư phụ ấy phạm tội Đột
Cát La (突吉羅, Duṣkṛta,
Ác Tác), hướng về mọi người sám hối. Vị
thầy ấy được chấp thuận sám hối.
Sau đó, đuổi đồ đệ đi, chẳng
thể dung nạp trong Phật pháp được. Tội nhân
trọn có đủ
bốn
món đại ác ấy đă trà trộn vào hàng ngũ xuất
gia, đức Phật cũng chẳng chấp thuận đánh
đập hắn, cho đến
chửi mắng, chặt chân tay, đoạn mạng của
hắn.
(Kinh) Như thị hoặc hữu thị
căn bản tội phi Vô Gián tội, hữu Vô Gián tội
phi căn bản tội, hữu căn bản tội diệc
Vô Gián tội, hữu phi căn bản tội diệc phi Vô
Gián tội. Hà đẳng danh vi thị căn bản tội
diệc Vô Gián tội? Vị ngă pháp trung, tiên dĩ xuất
gia, thọ Cụ Giới giả, cố tư sát tha, dĩ
đáo cứu cánh kiến Đế nhân đẳng. Như
thị danh vi thị căn bản tội, diệc Vô Gián tội,
thử ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, ưng tốc khu tẫn.
(經)如是或有是根本罪,非無間罪;有無間罪,非根本罪;有根本罪,亦無間罪;有非根本罪,亦非無間罪。何等名為是根本罪,亦無間罪?謂我法中,先已出家受具戒者,故思殺他,已到究竟見諦人等,如是名為是根本罪,亦無間罪。此於我法毗奈耶中,應速驅擯。
(Kinh: Như thế bèn có [các trường
hợp]: Hoặc là có người phạm tội căn bản,
nhưng chẳng phải là tội Vô Gián. Có người phạm
tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản. Có người
phạm tội căn bản mà cũng là tội Vô Gián. Có người
chẳng phải là tội căn bản mà cũng chẳng
phải là tội Vô Gián. Những ǵ gọi là tội căn
bản lẫn tội Vô Gián? Tức là kẻ ở trong pháp
của ta đă xuất gia và thọ giới Cụ Túc từ
trước, mà cố ư giết người khác, mà người
bị giết ấy đă đạt đến mức kiến
Đế rốt ráo. Như thế th́ gọi là phạm tội
căn bản mà cũng phạm tội Vô Gián. Trong Tỳ Nại
Da nơi pháp của ta, hăy nên nhanh chóng trục xuất kẻ
ấy).
Dùng bốn loại này để phân biệt.
Có khi là tội căn bản, nhưng chẳng phải là tội
Vô Gián, tức là kẻ đó giết Thanh Văn, giết A La
Hán, cho đến dâm La Hán tỳ-kheo-ni. Đấy là tội
căn bản, chẳng phải là tội Vô Gián. Có khi là tội
Vô Gián chẳng phải là tội căn bản. Tội này nhất
định phải biện định rơ ràng: Tội ấy
là tội Ngũ Vô Gián, chẳng thể xem như thuộc
phạm vi của tội căn bản. Dẫu sao, tội căn
bản cũng thế, mà tội Vô Gián cũng thế, hai hạng
người ấy đều chẳng thể thâu nhận
cho phép xuất
gia. Thậm chí hắn trà trộn vào, đă thọ giới,
chúng ta biết hắn là kẻ như vậy, chớ nên coi
rẻ hắn, phải nên theo đúng Tăng pháp mà đuổi
hắn ra.
Có kẻ tội căn bản cũng có mà tội
Ngũ Vô Gián cũng có luôn! Sát nghiệp, tâm sân hận, cho đến
đối với “giết, trộm, dâm, dối” đều
phạm rất nặng, hai đằng đều trọn
đủ, vậy
là tội càng nặng! Có kẻ chẳng thuộc hai loại này,
chẳng phải là tội căn bản, mà cũng chẳng
phải là tội Vô Gián. Hai đằng đều chẳng
phải, sẽ là tội nhẹ. “Tội nhẹ” là tội
Tăng Tàn thuộc Thất Tụ Pháp được nói
trong kinh Phật, cũng rất nặng: Kẻ ấy phải
đối trước hai mươi vị tỳ-kheo thanh
tịnh [mà phát lộ sám hối] th́ mới có thể sám trừ.
Theo giáo nghĩa Tiểu Thừa, các tội ấy chẳng
chấp thuận sám hối.
“Hà đẳng danh vi thị căn bản
tội diệc Vô Gián tội?” (Những ǵ gọi là tội
căn bản mà cũng là tội Vô Gián): Tiếp đó là giải
thích từng
điều. “Vị ngă pháp trung tiên dĩ xuất gia thọ
Cụ Giới giả, cố tư sát tha, dĩ đáo cứu
cánh kiến Đế nhân đẳng, như thị danh vi
thị Căn Bản Tội diệc Vô Gián Tội” (Tức
là ở trong pháp của ta, trước đă xuất gia, thọ
Cụ Túc Giới, mà cố ư giết người khác, người
đó là bậc đă kiến Đế rốt ráo. Như thế th́ gọi
là Căn Bản Tội mà cũng là Vô Gián Tội): Hai đằng
đều trọn đủ. Nếu sau khi kẻ ấy xuất
gia, đă thọ Cụ Túc Giới, mà cố ư. Chữ Cố
(故) nghĩa
là hữu ư. “Tư” (思) là suy nghĩ
phương pháp, tức là sát
duyên và sát nhân (nhân và duyên của việc giết chóc). Đă
có sát nhân và sát duyên như thế, bèn giết bậc đă
kiến Đế rốt ráo. Bậc kiến Đế rốt
ráo chính là A La Hán, hoặc là Sơ Quả, thuộc địa
vị Kiến Đạo. Kiến Đế lư Bồ Tát là
nói đến bậc đại Bồ Tát, Kiến Đạo
Đế Lư. “Kiến” (見) có nghĩa là
địa vị Kiến Đạo, Đế (諦) là Lư, đă
chứng đắc. Nếu kẻ đă thọ giới sát
hại bậc như thế, như vậy th́ tội Căn Bản
cũng đă phạm. Tội Vô Gián cũng phạm luôn, hai đằng
đều trọn đủ!
(Kinh) Hà đẳng danh vi thị căn
bản tội, phi Vô Gián tội? Vị ngă pháp trung, tiên dĩ
xuất gia thọ Cụ giới giả, cố tư sát hại
tha dị sanh nhân, năi chí phương tiện dữ nhân độc
dược, đọa kỳ thai tạng, như thị danh
vi thị căn
bản tội, phi Vô Gián tội. Thử
nhân bất ưng dữ Tăng cộng trụ, chư hữu
cấp thí tứ phương Tăng vật, diệc bất
ưng linh ư trung thọ dụng.
(經)何等名為是根本罪,非無間罪?謂我法中,先已出家受具戒者,故思殺害他異生人,下至方便與人毒藥,墮其胎藏,如是名為是根本罪,非無間罪。此人不應與僧共住,諸有給施四方僧物,亦不應令於中受用。
(Kinh: Những ǵ gọi là tội Căn Bản chẳng
phải là tội Vô Gián? Tức là ở trong pháp của ta,
trước đó đă xuất gia và thọ Cụ Túc Giới,
cố ư sát hại người khác thuộc loài dị sanh,
cho đến dùng phương tiện đưa thuốc độc
cho người ta, khiến họ bị đọa thai. Như
thế th́ gọi là tội Căn Bản,
chẳng phải là tội Vô Gián. Người ấy chẳng
nên cho ở chung với Tăng. Nếu có các Tăng vật
được bốn phương cúng thí th́ cũng chẳng
cho kẻ đó thọ dụng).
Trong Luật Tạng, phạm loại tội
này, một khắc cũng chẳng thể lưu lại; hễ
biết đến,
sẽ ngay lập tức trục xuất, tốc độ
rất nhanh chóng. “Hà đẳng danh vi thị căn bàn tội
phi Vô Gián tội? Vị ư ngă pháp trung, tiên dĩ xuất
gia thọ liễu Cụ Túc Giới, cố tư sát hại
tha dị sanh nhân” (những ǵ gọi là tội căn bản,
chẳng phải là tội Vô Gián? Tức là ở trong pháp của
ta, trước hết đă xuất gia, đă thọ
Cụ Túc Giới, cố ư sát hại kẻ khác thuộc loài
dị sanh): Đây chỉ là tội giết người. “Dị”
(異) là khác,
h́nh tướng bất đồng, ngôn ngữ bất đồng,
sắc thân bất đồng, đều gọi là “dị
sanh”. Đủ mọi tướng khác biệt, bèn gọi
là “dị sanh”. “Dị sanh” là chúng sanh, tức loài
chúng sanh. “Cố tư” (故思) là cố ư sát hại
những người ấy, thậm chí sử dụng đủ
loại phương tiện, chuốc thuốc
độc cho người ta sẩy thai. Mọi người
biết đấy là sát hại kẻ dị sanh, sát hại
người khác. Đó gọi là “căn bản tội”.
Mọi người biết phá thai là tội
giết người, là tội căn bản, luận tội
giống như giết người. Bất quá, theo pháp luật
thế tục, hoàn toàn chẳng nghiêm trọng như vậy.
Tuy là phạm tội, nhưng có những quốc gia, pháp luật
của họ không coi đó là phạm tội, có quốc gia
c̣n đề xướng phá thai. Tuy nói là tội căn bản,
chẳng phải là tội Vô Gián, nhưng kẻ ấy chẳng
nên ở chung với đại chúng Tăng, cũng chẳng
nên được thọ dụng những vật thuộc
về tứ phương Tăng dành cho đại chúng Tăng hưởng
dụng. [Những vật] cúng dường đại chúng Tăng th́ chẳng
thể chia cho kẻ đó một phần, chẳng thể
thọ dụng trong đó!
(Kinh) Hà đẳng danh vi thị Vô Gián tội,
phi căn bản tội? Vị nhược hữu nhân, hoặc
thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, hoặc thọ
thập giới, ư Ngũ Vô Gián, tùy tạo nhất chủng,
như thị danh vi thị Vô Gián tội, phi căn bản tội.
Như thị chi nhân, bất hợp xuất gia, cập thọ
Cụ giới. Nhược linh xuất gia, hoặc thọ
Cụ giới, sư tiện đắc tội. Bỉ
ưng khu tẫn, linh xuất ngă pháp. Hà đẳng danh vi
phi căn bản tội, diệc phi Vô Gián tội? Vị nhược
hữu nhân, hoặc thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới,
ư Phật, Pháp, Tăng, nhi sanh nghi tâm, hoặc
quy ngoại đạo, dĩ vi sư đạo, hoặc chấp chủng chủng,
nhược thiểu, nhược đa, cát hung chi tướng, từ tế quỷ thần.
Nhược phục hữu nhân, ư chư Như Lai sở
thuyết chánh pháp, hoặc Thanh Văn Thừa
tương ứng chánh pháp, hoặc Độc Giác Thừa
tương ứng chánh pháp, hoặc thị Đại Thừa
tương ứng chánh pháp, phỉ báng, giá chỉ, tự bất
tín thọ, linh tha yếm bội, chướng ngại tha
nhân độc, tụng, thư tả, hạ chí lưu nạn
nhất tụng chánh pháp. Như thị danh vi phi căn bản
tội, diệc phi Vô Gián, nhi sanh cực trọng đại
tội ác nghiệp, Cận Vô
Gián tội. Như thị chi nhân, nhược vị sám hối, trừ
diệt như thị đại tội ác nghiệp, bất
hợp xuất gia, cập thọ Cụ giới. Nhược
linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới, sư tiện
đắc tội. Bỉ ưng khu tẫn, linh xuất ngă
pháp. Nhược dĩ xuất gia, hoặc thọ Cụ giới,
phạm như thị tội, nhược bất sám hối,
thử ư ngă pháp Tỳ Nại Da trung, ưng tốc khu tẫn.
Sở dĩ giả hà? Thử nhị chủng nhân tập hành
phá hủy chánh pháp nhăn hạnh, tập hành ẩn diệt chánh
pháp đăng hạnh, tập hành đoạn tuyệt Tam
Bảo chủng hạnh, linh chư thiên nhân tập hành vô
nghĩa, vô lợi khổ hạnh, đọa chư ác thú.
Thử nhị chủng nhân, tự báng chánh pháp, hủy tử
hiền thánh, diệc linh tha nhân phỉ báng chánh pháp, hủy
tử hiền thánh, mạng chung đương đọa
Vô Gián địa ngục, kinh kiếp thọ khổ, bất
khả liệu trị.
(經)何等名為是無間罪,非根本罪?謂若有人,或受三歸,或受五戒,或受十戒,於五無間隨造一種,如是名為是無間罪,非根本罪。如是之人,不合出家,及受具戒;若令出家,或受具戒,師便得罪,彼應驅擯令出我法。何等名為非根本罪,亦非無間罪?謂若有人,或受三歸,或受五戒,於佛法僧而生疑心,或歸外道以為師導,或執種種若少若多吉凶之相祠祭鬼神;若復有人,於諸如來所說正法,或聲聞乘相應正法,或獨覺乘相應正法,或是大乘相應正法,誹謗遮止,自不信受,令他厭背,障礙他人讀誦書寫,下至留難一頌正法,如是名為非根本罪,亦非無間,而生極重大罪惡業,近無間罪。如是之人,若未懺悔,除滅如是大罪惡業,不合出家,及受具戒;若令出家,或受具戒,師便得罪,彼應驅擯令出我法。若已出家,或受具戒,犯如是罪,若不懺悔,此於我法毗奈耶中,應速驅擯。所以者何?此二種人,習行破毀正法眼行,習行隱滅正法燈行,習行斷絕三寶種行,令諸天人習行無義、無利、苦行,墮諸惡趣。此二種人,自謗正法,毀呰賢聖,亦令他人誹謗正法,毀呰賢聖,命終當墮無間地獄,經劫受苦,不可療治。
(Kinh: Những ǵ gọi là tội Vô Gián,
chẳng phải là tội căn bản? Tức là nếu
có người thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới,
hoặc thọ mười giới, mà tạo bất cứ
một loại nào trong Ngũ Vô Gián, như thế sẽ gọi
là tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản.
Người như thế chẳng thích hợp xuất gia,
và thọ Cụ Túc Giới. Nếu
cho kẻ đó xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới,
thầy sẽ mắc tội. Kẻ ấy đáng nên bị
xua đuổi ra khỏi pháp của ta. Những ǵ gọi là
chẳng phải tội căn bản mà cũng chẳng phải
tội Vô Gián? Tức là nếu có người hoặc thọ
Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, mà sanh ḷng nghi đối
với Phật, Pháp, Tăng, hoặc quy hướng ngoại
đạo, coi họ là thầy hướng dẫn. Hoặc
chấp trước các thứ tướng cát, hung, dù ít hay nhiều, cúng tế quỷ
thần. Nếu lại có người đối với chánh
pháp do đức Như Lai đă nói, hoặc chánh pháp tương
ứng với Thanh Văn Thừa,
hoặc chánh pháp tương ứng với Độc Giác Thừa, hoặc
chánh pháp tương ứng với Đại Thừa mà phỉ
báng, ngăn trở, tự ḿnh chẳng tin nhận, [lại
c̣n] khiến cho kẻ khác chán ngán, chống trái, chướng
ngại người khác đọc, tụng, biên chép, tối
thiểu là gây trở ngại cho một bài kệ chánh pháp.
Như thế th́ gọi là “chẳng phải tội căn
bản, mà cũng chẳng phải tội Vô Gián”, nhưng sanh
ra đại tội ác nghiệp cực nặng, là tội
gần với Vô Gián. Người như thế, nếu chưa
sám hối trừ diệt các ác nghiệp đại tội
như thế, chẳng thích hợp xuất gia và thọ Cụ
Túc Giới. Nếu cho kẻ đó xuất gia, hoặc thọ
Cụ Túc Giới, thầy sẽ mắc tội. Kẻ đó
đáng nên bị xua đuổi ra khỏi pháp của ta. Nếu
đă xuất gia, hoặc thọ Cụ Túc Giới mà phạm
tội như thế, nếu chẳng sám hối, th́ trong Tỳ
Nại Da nơi pháp của ta đáng nên mau chóng trục xuất.
V́ cớ sao vậy? Hai loại người ấy đă thực
hành hạnh phá hủy con mắt chánh pháp, đă thực hành
cái hạnh ẩn diệt ngọn đèn chánh pháp, đă thực
hành cái hạnh đoạn tuyệt chủng tánh Tam Bảo,
khiến cho các trời và người thực hành khổ hạnh
vô nghĩa, chẳng có lợi ích, đọa vào các đường
ác. Hai loại người ấy tự báng chánh pháp, hủy
báng, chê bai hiền thánh, cũng khiến cho kẻ khác phỉ
báng chánh pháp, hủy báng, chê bai hiền thánh, mạng chung sẽ
đọa vào địa ngục Vô Gián, trải nhiều kiếp
chịu khổ, chẳng thể chữa trị).
“Hà đẳng danh vi thị Vô Gián tội
phi căn bản tội?” (những ǵ gọi là tội Vô
Gián, chẳng phải là tội căn bản?): Nếu nói có
kẻ đă thọ Tam Quy, hoặc thọ Ngũ Giới, thọ
mười giới, đối với năm tội Vô Gián
mà tạo bất cứ tội nào, như thế sẽ gọi
là “tội Vô Gián, chẳng phải là tội căn bản”.
Chỉ là đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, thọ mười
giới, đối với năm tội Vô Gián, hễ tạo
một tội nào, [chẳng hạn như] cố ư giết
cha, cố ư giết mẹ, đều tính là tội Vô Gián, chẳng
phải là tội căn bản. Trọn đủ tội
Vô Gián, nhưng chẳng trọn đủ cả hai đằng
(Vô Gián và căn bản). Kẻ đó chỉ
trọn đủ một đằng, chẳng phải
là tội căn bản. Tội căn bản nhẹ hơn
một chút, tội Vô Gián nặng hơn. Hạng người
như thế cũng chẳng thể thâu nhận cho họ
xuất gia, chẳng thích hợp xuất gia và thọ Cụ Túc Giới.
“Nhược linh xuất gia, hoặc thọ Cụ giới,
sư tiện đắc tội” (Nếu cho xuất gia, hoặc thọ
Cụ Túc Giới, thầy sẽ mắc tội): Kẻ đó
vừa mới xuất gia th́ phải trục xuất, chẳng
cho phép ở trong Tăng chúng.
Nếu có kẻ thọ Tam Quy, thọ Ngũ
Giới, sanh ḷng hoài nghi đối với Phật, Pháp, Tăng,
lại đến quy y ngoại đạo. Quy y ngoại
đạo rồi tôn ngoại
đạo làm thầy hướng dẫn. Bọn chúng nói rất
nhiều tướng cát, hung. Đă thọ Tam Quy, thọ Ngũ
Giới, mà quư vị lại sanh khởi tâm hoài nghi đối
với Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, lại đi nghiên cứu
cát, hung, họa, phước, quy y ngoại đạo. Hiện
thời, chúng ta lại c̣n thêm một món nữa là học Khí
Công. Học Khí Công đúng hay sai? Nếu quư vị rèn luyện
thân thể, đánh quyền, luyện Khí Công, mong sẽ đạt
được lợi ích chi đó, sai lầm mất rồi!
Chuyện này tùy thuộc quư vị dụng tâm như thế
nào? Nhưng trong Phật giáo, quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ
Giới, th́ chớ nên
làm, v́ đó là ngoại đạo, chẳng phải là Phật
giáo, cũng là ở ngoài Phật đạo. Muốn họ
đến làm thầy cho quư vị, dẫn dắt quư vị,
hoặc là chấp trước nhiều hay ít đều chẳng
quản. Cho đến đối với tướng cát,
hung, họa, phước vặt vănh, thậm chí c̣n giống
như [lập] từ đường,
miếu tế tự, miếu
thờ thần. Chuyện cúng bái này bao gồm rất nhiều
thứ, trong từ đường tế quỷ, tế thần.
Để tế quỷ thần, phải dùng rượu,
thịt. Dùng đồ chay đến miếu quỷ thần
cúng bái, chẳng bằng không cúng. Quư vị cúng họ, họ
c̣n có thể sanh tâm sân hận.
“Nhược phục hữu nhân ư Như
Lai sở thuyết chánh pháp, hoặc Thanh Văn Thừa
tương ứng chánh pháp, hoặc Độc Giác Thừa tương
ứng chánh pháp, hoặc thị Đại Thừa tương
ứng chánh pháp” (Nếu lại
có người đối với chánh pháp do đức Như
Lai đă nói, hoặc chánh pháp tương ứng Thanh Văn
Thừa, hoặc chánh pháp tương ứng Độc Giác
Thừa, hoặc là chánh pháp tương ứng với Đại
Thừa): “Tương ứng” (相應) có nghĩa
là “phù hợp”. Tâm quư
vị tương ứng với pháp Đại Thừa, hay tương ứng với pháp Nhị Thừa. “Phỉ
báng, giá chỉ” (phỉ báng, ngăn cấm): Hoặc
là người khác đến hoằng dương, khiến
cho chúng sanh đắc độ, quư vị ở nơi đó
hủy báng, khuyên người ta chớ nên tin, bảo “chẳng
có lợi ích ǵ!” Thậm chí c̣n nói rất nhiều lời phá
hoại, ngăn trở người khác, không cho họ đến
nghe. Hoặc là không cho họ đến nhận, đến
nghe, hoặc không cho họ thân cận, bao gồm những điều
ấy. Chính ḿnh chẳng tin, c̣n khiến cho kẻ khác phản
bội, cho đến khiến cho họ sanh khởi tâm phiền
chán đối với Tam Bảo. Hoặc là chướng ngại
kẻ khác đọc tụng kinh điển, biên chép kinh
điển, dẫu chỉ một bài kệ bốn câu. Đấy
chẳng phải là tội căn bản, cũng chẳng
phải là tội Vô Gián, nhưng tội ác cực đại.
Do vậy nói tội báng pháp gần với tội Vô Gián, rất
gần giống tội Vô Gián!
Nếu kẻ ấy c̣n chẳng sám trừ
những tội ấy, chẳng sám hối, chẳng diệt
trừ tội ấy, kẻ có tội ác to lớn như thế
sẽ chẳng thể xuất gia, cũng chẳng thể cho
kẻ đó thọ Cụ Túc Giới. Đấy đều
là tội chẳng cho phép sám hối. Giả sử vị sư
phụ thâu nhận kẻ đó làm đồ đệ rồi
lại cho hắn thọ Cụ Túc Giới, vị thầy ấy
sẽ mắc tội.
Kẻ đó phạm pháp, chính
là trái phạm Phật pháp, hoàn toàn chẳng vi phạm chánh
pháp của thế tục (tức chẳng làm chuyện
vi phạm pháp luật), kẻ đệ
tử như thế sẽ bị trục xuất. Do vậy,
nếu đă xuất gia, hoặc đă thọ Cụ Túc Giới
mà phạm những tội ấy, hăy nên làm như thế nào?
Phải sám hối! Có rất nhiều phương thức sám
hối. Hai mươi vị Tăng cho phép kẻ đó sám hối,
hoặc Tăng chúng cho phép kẻ đó làm Yết Ma, cho kẻ
đó vĩnh viễn làm tịnh nhân, ở trong chùa miếu
vĩnh viễn hành khổ hạnh. Nếu kẻ đó sám
hối, có thể xử lư như vậy. Nếu chẳng sám
hối, hăy nhanh chóng đuổi hắn ra. V́ sao như vậy?
V́ hai hạng này đă thực hiện hạnh phá hủy con
mắt chánh pháp, những ǵ kẻ đó đă làm khiến
cho chánh pháp nhăn tạng chẳng thể trụ lâu dài trong thế
gian, sẽ làm mù mắt của trời, người, làm mù
mắt của hết thảy chúng sanh.
Chẳng có Phật pháp, chúng ta sẽ chẳng
sáng suốt. Có Phật pháp th́ có nghĩa là “chiếu sáng”.
Đồng thời, những ǵ kẻ đó làm chính là đă
ẩn diệt chánh pháp soi sáng như đèn, khiến cho chánh
pháp chẳng hiện, thậm chí bị diệt trừ. Hành
vi kiểu ấy chính là ǵ? Hạnh đoạn tuyệt chủng
tánh Tam Bảo, khiến cho hết thảy trời, người
tu tập khổ hạnh vô nghĩa, chẳng có lợi ích, đọa
vào các đường ác, khiến cho người khác đều
đọa trong ác đạo. Do vậy, hai loại người
ấy chính họ đă hủy báng chánh pháp, hủy báng và chê gièm
hiền thánh, lại c̣n khiến cho người khác hủy
báng cháng pháp, gièm chê hiền thánh. Mạng chung, sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián, trải
bao kiếp chịu khổ, chẳng thể chữa trị.
Thời gian đọa lạc v́ tội Ngũ Vô Gián hết
sức lâu. Do vậy, nếu đọa vào ngục Vô Gián, một
ngàn vị Phật xuất thế trong Hiền Kiếp, quư
vị chẳng gặp được một vị, vẫn
chẳng ĺa khỏi địa ngục. Một ngàn vị Phật
xuất thế, quư vị cũng
chẳng gặp được vị nào, cho đến
trải qua vô lượng đại kiếp, chẳng phải
là tiểu kiếp, mà là vô lượng đại kiếp.
Đoạn này chuyên nói về tỳ-kheo phá
giới, tỳ-kheo tạo đại ác nghiệp, quư vị
đừng nên hủy báng họ, phải nên cung kính, mà cũng
chớ nên đánh đập, cho đến
năo hại họ. Nếu như khiến cho những vật
dụng cần thiết cho cuộc sống của kẻ đó
bị thiếu hụt, hễ có một thí chủ muốn cúng
dường kẻ đó, quư vị bảo: “Đó là tỳ-kheo
phá giới, là kẻ xấu”. Hỏng bét rồi! Họ sẽ
lập tức chẳng cúng dường nữa, như vậy
là quư vị phạm tội. Tội ấy giống như tội
của tỳ-kheo phá giới!
(Kinh) Phục thứ Đại Phạm!
Hoặc hữu giá tội Vô Y Hạnh pháp, hoặc hữu tánh
tội Vô Y Hạnh pháp. Ư tánh tội trung, hoặc hữu
căn bản Vô Y Hạnh pháp. Vân hà căn bản Vô Y Hạnh
pháp? Vị nhược bật-sô hành phi phạm hạnh, phạm
căn bản tội, hoặc dĩ cố tư sát dị sanh
nhân, phạm căn bản tội, hoặc phục thâu đạo
phi Tam Bảo vật, phạm căn bản tội, hoặc
đại vọng ngữ, phạm căn bản tội. Nhược
hữu bật-sô ư thử tứ chủng căn bản
tội trung, tùy phạm nhất chủng, ư chư bật-sô
sở tác sự nghiệp, linh thọ chiết phục, nhất
thiết cấp thí tứ phương Tăng
vật, giai tất bất thính ư trung thọ dụng,
nhi diệc bất hợp gia kỳ tiên, trượng, hoặc
bế lao ngục, hoặc phục ha mạ, hoặc giải
chi tiết, hoặc đoạn kỳ mạng. Như thị
danh vi ư tánh tội trung căn bản trọng tội Vô
Y Hạnh pháp. Hà cố thuyết danh vi căn bản tội?
Vị nhược hữu nhân phạm thử tứ pháp, thân
hoại, mạng chung, đọa chư ác thú, thị chư
ác thú căn bản tội cố. Thị cố thuyết danh
vi căn bản tội, hà cố Vô Gián cập cận Vô
Gián căn bản tội đẳng, thuyết danh cực
trọng đại tội ác nghiệp Vô Y Hạnh pháp?
(經)復次大梵,或有遮罪無依行法,或有性罪無依行法,於性罪中或有根本無依行法。云何根本無依行法?謂若苾芻,行非梵行,犯根本罪;或以故思殺異生人,犯根本罪;或復偷盜非三寶物,犯根本罪;或大妄語,犯根本罪。若有苾芻,於此四種根本罪中,隨犯一種,於諸苾芻所作事業,令受折伏,一切給施四方僧物,皆悉不聽於中受用;而亦不合加其鞭杖,或閉牢獄,或復呵罵,或解肢節,或斷其命;如是名為於性罪中根本重罪無依行法。何故說名為根本罪?謂若有人犯此四法,身壞命終,墮諸惡趣;是諸惡趣,根本罪故,是故說名為根本罪。何故無間及近無間根本罪等,說名極重大罪惡業無依行法?
(Kinh: Lại này Đại Phạm! Hoặc
là có Vô Y Hạnh pháp thuộc về giá tội, hoặc có Vô
Y Hạnh pháp thuộc về tánh tội. Trong tánh tội, hoặc
là có pháp căn bản Vô Y Hạnh. Thế nào là pháp căn bản
Vô Y Hạnh? Tức là nếu bật-sô làm chuyện chẳng
phải là phạm hạnh, phạm căn bản tội,
hoặc do cố ư giết người khác chủng loại,
phạm căn bản tội. Hoặc trộm cắp vật
chẳng thuộc về Tam Bảo, phạm căn bản tội.
Hoặc đại vọng ngữ, phạm căn bản tội.
Nếu có bật-sô đối với bốn loại tội
căn bản ấy, hễ phạm một loại nào, th́ đối
với các sự nghiệp thực hiện bởi các bật-sô,
hăy nên khiến cho kẻ đó bị chiết phục, hết
thảy các vật bố thí cho tứ phương Tăng đều
chẳng cho phép kẻ đó được thọ dụng,
nhưng cũng chớ nên dùng roi, gậy đánh đập,
hoặc giam trong lao ngục, hoặc lại quở trách, chửi
mắng, hoặc chặt chân tay, hoặc giết chết.
Như thế th́ gọi là Vô Y Hạnh pháp thuộc trọng
tội căn bản trong tánh tội. V́ sao nói là tội căn
bản? Tức là nếu có kẻ nào phạm phải bốn
pháp ấy, thân hoại, mạng chung, sẽ đọa trong
các đường ác, do v́ đó là tội căn bản, khiến
cho [kẻ
phạm tội] đọa vào
trong các đường ác, cho nên gọi là tội căn bản.
V́ sao nói các tội Vô Gián và cận Vô Gián được gọi
là Vô Y Hạnh pháp ác nghiệp đại tội cực nặng?)
Chúng ta nói tới tánh tội; trong tánh
tội, có căn bản
và phi căn bản. Vô Y Hạnh pháp căn bản là ǵ? “Nhược
bật-sô hành phi phạm hạnh” (Nếu bật-sô làm chuyện
chẳng phải là phạm hạnh): “Hành phi phạm hạnh”
tức là phạm dâm giới, phạm căn bản tội.
Hoặc do “cố tư sát dị sanh nhân” (cố ư giết
người khác chủng loại): Nếu phạm sát giới th́ là phạm
căn bản tội. Hoặc là trộm cắp vật chẳng
phải của Tam Bảo, đă phạm
căn bản tội, tức là ăn trộm đồ vật
của người khác. Nhưng tại Ấn Độ,
khi đức Phật chế giới, đă có một tiêu chuẩn:
“Ở Ấn Độ, nếu thứ ǵ đáng giá năm đồng
tiền Ấn Độ th́ cũng kể như đă phạm
tội căn bản”, cũng tức
là tội căn bản thuộc về giới trộm cắp.
Hoặc là đại vọng ngữ. Trong Phật
giáo, đại vọng ngữ là “chính ḿnh chưa chứng
mà nói là đă chứng, chưa đắc mà nói là đă đắc”,
đó gọi là đại vọng ngữ. Chưa đắc
thánh quả, tự nói đă chứng thánh quả, lường
gạt kẻ khác tín ngưỡng. Chính ḿnh v́ danh lợi mà lường
gạt tín ngưỡng, chủ yếu là v́ lợi. Bốn
loại ấy được gọi là “dâm, giết, trộm,
dối”. V́ trong pháp Thanh Văn, đặt giới dâm ra
trước. Quư vị thọ Bồ Tát giới, [thứ tự]
sẽ là “giết, trộm, dâm, dối”, xếp dâm vào vị
trí thứ ba. Điều đó có mối liên quan: Nơi Bồ
Tát, đại từ đại bi là chánh yếu, dùng tâm Bồ
Đề cứu độ hết thảy chúng sanh, lẽ
đâu c̣n có thể sát hại chúng sanh? Do vậy, tội này
nặng nhất. Theo thứ
tự, sát giới nặng nhất. Đối với trộm
cắp, hành Bồ Tát đạo th́ phải bố thí, điều
đầu tiên là phải bố thí chúng sanh, dẹp khổ
cho chúng sanh, lẽ nào c̣n có chuyện trộm cắp món ǵ của chúng sanh để nuôi béo chính
ḿnh? V́ thế, kẻ ấy phạm tội rất nặng.
Đó gọi là bốn căn bản.
Dâm, giết, trộm, dối, trong bốn tội
căn bản ấy, hễ phạm một loại, sẽ
đáng bị chiết phục trong các sự nghiệp (các pháp Yết Ma) được thực hiện bởi các bật-sô.
Quư vị làm chuyện ấy, đă bôi đen các vị tỳ-kheo
thanh tịnh. “Chiết phục” (折伏) có nghĩa
là bị kẻ khác khuất phục, hoặc là tự ḿnh chịu
chiết phục, cho đến nói kẻ phạm loại tội
căn bản ấy th́ trong các sự nghiệp do hàng tỳ-kheo
thực hiện, kẻ ấy sẽ bị quở phạt.
Đối với hết thảy các vật do thí chủ cúng
dường cho tứ phương tăng, đều chẳng
cho phép kẻ đó hưởng dụng. Hết thảy pḥng
ốc, y phục, thậm chí những vật dụng của
Tăng chúng đều chẳng thể chia cho kẻ đó,
cũng có nghĩa là hủy bỏ các phước lợi mà
Tăng nhân đáng được hưởng thụ. Tuy vậy,
hạng người như thế “nhi diệc bất hợp
gia kỳ tiên, trượng, hoặc bế lao ngục, hoặc
phục ha mạ, hoặc giải chi tiết, hoặc đoạn
kỳ mạng. Như thị danh vi ư tánh tội trung, căn
bản trọng tội Vô Y Hạnh pháp” (cũng chẳng
nên dùng roi, gậy đánh đập, hoặc giam trong lao ngục,
hoặc lại quở trách,
chửi bới, hoặc chặt chân tay, hoặc đoạn
mạng họ. Như thế gọi là Vô Y Hạnh Pháp thuộc
trọng tội căn bản trong tánh tội). V́ các pháp ấy
đều là pháp Vô Y Hạnh, chẳng
sanh điều thiện, chẳng sanh công đức. Như
trong phần trước chúng tôi đă nói: Thực hiện
những hạnh chẳng thể sanh ra công đức th́ hạnh
ấy được gọi là pháp Vô Y Hạnh.
V́ sao lại nói là phạm tội căn bản?
Tiếp đó, [đức Phật] giải thích tội căn
bản là ǵ? Giả sử có kẻ phạm bốn pháp ấy,
thân hoại, mạng chung, đọa vào các đường
ác, tùy thuộc các t́nh tiết khi kẻ đó phạm tội
[mà sẽ đọa vào đường nào]. Nói theo giới
luật, sẽ là phải nghiên cứu khi quư vị phạm
giới, cái tâm có mạnh mẽ hay không. Mạnh mẽ sẽ
đóng vai tṛ chủ chốt, mà cố ư hay vô t́nh cũng
đóng vai tṛ chủ chốt [để quyết định
quả báo]. Hoặc là trong khi quư vị giết người
thuộc chủng loại khác, cái tâm
sân hận của quư vị hết sức nặng nề, đấy
là [tâm phạm tội] “mạnh mẽ”. Nếu quư vị sắp
giết, lại chẳng muốn giết, tâm t́nh ấy chính
là chẳng mạnh mẽ. Cũng có nghĩa
là khi quư vị giết, cảm thấy chính ḿnh đang
phạm tội, trong tâm chính ḿnh cũng rất khó chịu, nhưng
lại không thể chẳng giết kẻ đó. Chẳng
giết kẻ đó, chỉ sợ sẽ gặp
nguy hại, tội ấy sẽ nhẹ hơn một chút.
Do vậy, v́ sao phải học Giới? Do học
mấy loại này, một đằng là nhân, cái nhân là mạnh
mẽ, hay không
mạnh mẽ. Một đằng khác là duyên, duyên thúc đẩy
thành tựu. T́nh huống của duyên rất phức tạp,
đều phải phân biệt trong ấy. Khi kẻ đó
phạm tội, nếu đă học pháp luật, sẽ hiểu
điều này. Pháp thế gian cũng giống như thế.
Đó gọi là tội căn bản, được gọi
là “căn bản tội”. Nếu có kẻ phạm bốn
pháp ấy, thân hoại, mạng chung, đọa vào đường
ác. Có kẻ phạm phải hạnh dâm tà, sẽ đọa
làm chim uyên ương, đọa vào súc sanh đạo, sẽ
đọa vào bàng sanh đạo. Bàng sanh cũng là súc sanh, nhưng
chẳng phải là loài phi cầm (飛禽, chim
bay). Súc sanh bao gồm rất nhiều loại, có loài ở
trong biển, hoặc sống trên mặt đất, đều
có những điểm khác biệt. V́ sao gọi Vô Gián, Cận
Vô Gián, và tội căn
bản là đại tội ác cực nặng? Đấy là
những thứ tạo nên tội nghiệp,
là pháp Vô Y Hạnh.
(Kinh) Thiện nam tử! Thí như thiết
đoàn, diên tích đoàn đẳng, trịch trí không trung, chung
vô tạm trụ, tất tốc đọa địa, tạo
Ngũ Vô Gián, cập Cận Vô Gián tứ căn bản tội,
tịnh báng chánh pháp, nghi Tam Bảo đẳng. Nhị chủng
tội nhân diệc phục như thị. Nhược nhân ư
thử thập nhất tội trung, tùy tạo nhất chủng,
thân hoại, mạng chung, vô dư gián cách, định sanh Vô
Gián đại địa ngục trung, thọ chư kịch
khổ. Cố danh cực trọng đại tội ác nghiệp
Vô Y Hạnh pháp. Phạm thử cực trọng đại
tội ác nghiệp Vô Y Hạnh pháp Bổ Đặc Già La, ư
hiện thân trung, quyết định bất năng tận
chư phiền năo, thượng bất năng thành chư tam-ma-địa,
huống năng thú nhập chánh tánh ly sanh? Bỉ nhân mạng
chung, định sanh địa ngục, thọ chư trọng
khổ.
(經)善男子,譬如鐵摶、鉛錫摶等,擲置空中,終無暫住,必速墮地;造五無間,及近無間四根本罪、並謗正法、疑三寶等,二種罪人亦復如是。若人於此十一罪中,隨造一種,身壞命終,無餘間隔,定生無間大地獄中受諸劇苦,故名極重大罪惡業無依行法。犯此極重大罪惡業無依行法補特伽羅,於現身中,決定不能盡諸煩惱,尚不能成諸三摩地,況能趣入正性離生?彼人命終,定生地獄,受諸重苦。
(Kinh: Này thiện nam tử! Ví như ḥn
sắt, hoặc ḥn ch́ pha thiếc v.v… quăng
lên không trung, trọn chẳng thể tạm thời dừng
lại, ắt nhanh chóng rơi xuống đất. Tạo
tội Ngũ Vô Gián và bốn tội căn bản Cận Vô
Gián, cũng như báng chánh pháp, nghi ngờ Tam Bảo v.v… Hai
loại tội nhân ấy cũng giống như thế. Nếu
ai trong mười một tội ấy, hễ tạo một
thứ, thân hoại, mạng chung, chẳng hề xen hở,
chắc chắn sanh trong đại địa ngục Vô Gián,
chịu các nỗi
khổ cùng cực. V́ thế gọi là pháp Vô Y Hạnh ác nghiệp
đại tội cực nặng. Bổ Đặc Già La (hữu
t́nh) phạm pháp Vô Y Hạnh ác nghiệp đại tội
cực nặng ấy th́ trong
đời hiện tại, chắc chắn chẳng thể
dứt hết các phiền năo, c̣n chẳng thể thành tựu
các tam-ma-địa, huống hồ có thể tiến nhập
chánh tánh ly sanh. Kẻ ấy mạng chung, chắc chắn
sanh vào địa ngục, chịu các nỗi khổ nặng
nề).
Cầm ḥn sắt hoặc ḥn ch́, phàm là thứ
ǵ nặng nề, quư vị ném lên không
trung , nó sẽ rơi xuống hết sức nhanh chóng, chẳng
ngừng chút nào. Vật nặng, ném lên không trung, chẳng thể
tạm ngừng trên không trung. Đấy là nói: Kẻ phạm
vào loại tội này, hễ mạng chung, trong ṿng một niệm,
ngay lập tức đọa địa ngục. Người
ấy chết đi, quư vị quàn lại bảy ngày cũng
thế, hay ngay lập tức đem thiêu cũng thế, trọn
chẳng có giá trị mảy may, chẳng ăn nhằm chi
hết. Trong Phật giáo, sau khi một người đă chết,
phải quàn thi thể tối thiểu ba ngày, cho đến
bảy ngày. V́ sao? Thần thức của kẻ đó chưa
rời thân thể, nghiệp thiện ác cũng chẳng mạnh
mẽ. Nếu nghiệp thiện mạnh mẽ, trong thời
gian một niệm, có thể sanh về thế giới Cực
Lạc; hễ mạng chung, sẽ ra đi ngay trong một niệm.
Hoặc là sanh lên trời, đi
ngay trong một niệm. Nếu chẳng vậy, [tức là] thiện
nghiệp cũng chẳng mạnh mẽ, ác nghiệp cũng
chẳng mạnh mẽ, khi kẻ đó hướng đến
chỗ thọ báo trong tương lai, cũng chẳng mạnh
mẽ [sanh ngay vào đó]. Chẳng mạnh mẽ, sẽ rất
chậm răi, thần thức của kẻ đó chẳng ĺa
thân xác, vẫn đắm luyến thể xác, chẳng nỡ
bỏ. Do thần thức chưa rời thân thể, đành
phải quàn lại mấy ngày như vậy. Đợi đến
khi xác định người ấy đă chết hẳn,
thân đă lạnh rồi mới rời đi.
Trong kinh đă nói chuyện này rất cặn
kẽ. Có những kẻ lúc ra đi, phần dưới thân
thể lạnh trước, hoặc lạnh trước từ
đầu. Lạnh trước từ phần đầu,
phần nhiều đọa tam đồ. Từ phần dưới
lạnh lên, có cơ hội sanh thiên nhiều hơn. Kiểu
trắc nghiệm này dành cho kẻ bất định đối
với hai loại nghiệp (thiện nghiệp lẫn ác
nghiệp đều chẳng mạnh mẽ). Nhưng đối
với kẻ tạo nghiệp mạnh mẽ, sẽ đọa
địa ngục nhanh như tên bắn, giống như ḥn
sắt, ḥn ch́, do chúng nặng nề, ném lên không trung, sẽ
rơi phịch xuống rất nhanh, trọn chẳng thể
tạm dừng, ắt nhanh chóng rơi xuống đất.
Nhất định sẽ rơi phịch xuống, lại
c̣n rơi rất nhanh! Hai loại tội nhân tạo Ngũ
vô Gián và Cận Ngũ Vô Gián, cho đến bốn tội căn
bản, cũng như báng chánh pháp, hoài nghi Tam Bảo, và hai
loại tội nhân Cận Tứ Vô Gián, Cận Tứ Căn
Bản Tội cũng sẽ giống như vậy, đọa
địa ngục rất nhanh chóng!
“Ư thử thập nhất tội trung,
tùy tạo nhất chủng, thân hoại, mạng chung, vô dư
gián cách” (Trong mười một tội ấy, hễ tạo
một loại, khi thân mạng, mạng chung, sẽ không xen
hở): Năm tội Vô Gián trên đây là năm loại, được
gọi là Ngũ Vô Gián. [Cộng thêm] bốn tội căn bản
là bốn loại nữa, hợp thành chín loại. C̣n có hai
loại nữa là cận Căn Bản và cận Vô Gián; do vậy,
thành mười một loại. Hễ phạm một loại
nào, thân hoại, mạng chung, sẽ chẳng có xen hở! Trong
khoảng mạng chung, một tí kẽ
hở cũng chẳng có. “Định sanh Vô Gián đại
địa ngục trung, thọ chư kịch khổ”
(chắc chắn sanh trong đại địa ngục Vô
Gián, chịu các nỗi khổ cùng cực): Loại khổ nạn
này hết sức dữ dội, cho nên gọi là “cực
trọng đại tội ác nghiệp”. Bổ Đặc
Già La phạm phải Vô Y Hạnh pháp, phạm cực trọng
đại tội ác nghiệp, trong hiện đời, loại
chúng sanh ấy chắc chắn chẳng thể chấm dứt
các phiền năo được!
Đời này, quư vị mong trừ sạch
các phiền năo, chứng đắc Phật quả, sẽ
chẳng thể được! Thậm chí cũng
chẳng thể đắc Định. C̣n chẳng thể
thành tựu tam-ma-địa, huống hồ có thể tiến
nhập chánh tánh ly sanh ư? “Ly sanh chánh tánh” là nói đến
Niết Bàn. Chánh tánh ly sanh của bậc kiến đạo
đă rời ĺa sanh tử phiền năo, đó gọi là “tiến
nhập chánh tánh ly sanh, tiến nhập Niết Bàn, ĺa khỏi
sanh tử”. Người đó mạng chung, chắc chắn
sanh vào địa ngục, không chỉ chẳng thể chứng
quả, mà sanh thiên cũng chẳng thể, mà cũng chẳng
thể tái sanh trong loài người. “Thọ chư chúng khổ”
(chịu các thứ khổ): Từ địa ngục Vô Gián
thoát ra, thời gian hết sức lâu dài. Dẫu lại có
thể thác sanh trong nhân gian, nhưng do nghiệp lực trong
quá khứ, kẻ đó sẽ trở nên mù, điếc, câm,
ngọng, tứ chi tàn khuyết. Người như thế
từ trong ba ác đạo thoát ra, hoặc từ địa
ngục thoát ra, đại khái là hạng người từ
Ngũ Vô Gián thoát ra rất đông. Họ đầu thai vào
các gia đ́nh vẫn là kẻ ác hạnh. “Phương dĩ
tụ loại, vật dĩ quần phân” (Các phương
thức tụ tập thành loại, mọi vật chia thành
từng nhóm). Chớ nên tạo loại tội này! Thông qua bái
sám, xưng danh hiệu, Đại Bi Sám cũng được,
Địa Tạng Sám cũng được. Chúng ta bái Chiêm
Sát Sám, bái Thiên Phật Danh Sám đều có thể tiêu trừ
loại nghiệp này. Đó gọi là pháp Đại Thừa.
Quư vị niệm thánh hiệu Địa Tạng, niệm
thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm mấy vị đại
Bồ Tát, cho đến niệm Phật hiệu, đều
có thể tiêu diệt trọng tội của quư vị. Bất
quá, chẳng thể nào mong thành tựu ngay trong đời này
được!
Chúng tôi lại nói ngược lại, người
thành tựu trong đời hiện tại tức là trong quá khứ đă
tích tập các nghiệp rất tốt lành, rất to lớn,
tu đạo sắp thành, mà chưa thành tựu, cho nên trong đời
này bèn hoàn thành. Ư nghĩa là như thế đó. Quư vị thấy
người khác được cúng dường, quư vị
phải tùy hỷ, tán thán, v́ người ấy có công đức
và phước báo. Tuy quư vị chẳng đạt
được, nhưng do tùy hỷ, tán thán, quư vị sẽ
có được một nửa, nhất định phải
tùy hỷ công đức. Đại nguyện thứ
năm trong mười đại nguyện vương là “tùy
hỷ công đức”, tức là chúng ta gieo thiện
căn, cho đến vun bồi phước. Đấy là
phương pháp tốt nhất. Quư vị thấy trên
đường phố, bất luận là đệ tử
Tam Bảo, hay người b́nh phàm, tùy tiện làm chuyện
tốt lành ǵ, thấy người ta phóng sanh, tuy quư vị
chẳng bỏ tiền, nhưng tán thán, tùy hỷ đôi
chút, quư vị sẽ có công đức giống như
người đó. Thấy chuyện thiện, quư vị
đều nên tùy hỷ. Thấy chuyện ác, nhất định
phải sám hối, giúp kẻ đó hồi hướng,
như thế th́ chính quư vị đang hành Bồ Tát đạo.
Đại nguyện thứ tư là “sám hối”,
đă sám hối rồi bèn tùy hỷ. Chuyện này phải
thực hiện bất cứ lúc nào. Đấy là tư lương.
Chuẩn bị loại tư lương này sẽ có mối
quan hệ rất lớn đối với chuyện thành
đạo trong tương lai!
(Kinh) Phục thứ Đại Phạm!
Nhược thiện nam tử, nhược thiện nữ
nhân, dĩ tịnh tín tâm, quy y ngă pháp, hoặc thú Thanh Văn
Thừa,
hoặc thú Độc Giác Thừa,
hoặc thú Đại Thừa, ư ngă pháp trung, tịnh tín
xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, ư chư học xứ,
thâm tâm kính trọng, ư tứ căn bản tánh tội giới
trung, kiên cố dũng mănh, tinh cần thủ hộ. Như
thị chi nhân, thường vị nhất thiết nhân phi nhân
đẳng, tùy trục ủng vệ,
danh bất hư thọ nhân thiên cúng dường.
(經)復次大梵,若善男子,若善女人,以淨信心歸依我法,或趣聲聞乘,或趣獨覺乘,或趣大乘,於我法中淨信出家,受具足戒;於諸學處,深心敬重;於四根本性罪戒中,堅固勇猛,精勤守護。如是之人,常為一切人非人等,隨逐擁衛,名不虛受人天供養。
(Kinh: Lại này Đại Phạm! Nếu
thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân dùng tâm tịnh
tín, quy y pháp của ta, hoặc tiến hướng Thanh
Văn Thừa,
hoặc tiến hướng Độc Giác Thừa, hoặc
tiến hướng Đại Thừa, ở trong pháp của
ta, tịnh tín, xuất gia, thọ Cụ Túc Giới, đối
với các học xứ, thâm tâm kính trọng, đối với
giới về bốn căn bản tánh tội, kiên cố,
dũng mănh, siêng ṛng ǵn giữ, người như thế thường
được hết thảy nhân phi nhân v.v… theo sát ủng
hộ, bảo vệ, được gọi là “chẳng luống
uổng tiếp nhận sự cúng dường của trời,
người”).
Trong phần trước nói về kẻ làm
ác, phá giới; ở đây, nói về tŕ giới, so sánh giữa hai đằng.
Nếu có kẻ nam, người nữ, tức là những
nam tử rất thiện lương, rất tốt, những
nữ nhân rất tốt, có tâm tịnh tín. Chúng ta đều
có tín tâm, nhưng “tịnh” th́ rất
khó. Nói chung là chẳng v́ danh, chẳng v́ lợi, mong cầu
thánh đạo, chẳng phải mong sống ăn bám an nhàn, thấy
ḥa thượng bèn nghĩ làm ḥa thượng rất dễ
sống. Trong
quá khứ, đă có câu thơ hâm mộ cuộc sống của ḥa
thượng: “Thiết giáp tướng quân dạ độ
quan, triều thần thị lậu ngũ canh hàn, nhật xuất
tam can tăng vị khởi, khán lai danh lợi bất như
nhàn” (Tướng quân giáp sắt đêm vượt ải,
quan đi chầu sớm rét buốt xương, trời đă
gần trưa, Tăng chửa dậy, xem ra danh lợi chẳng
bằng nhàn). Sau khi tôi xuất gia, cảm thấy bài thơ
ấy không đúng. V́ sao? “Nhật xuất tam can tăng vị
khởi” (Mặt trời mọc cao ba sào, tăng vẫn
chưa dậy). Họ thấy ḥa thượng đang ngủ,
trọn chẳng biết hai giờ rưỡi sáng ḥa thượng
đă phải thức dậy, lên chánh điện tụng niệm, uống cháo xong,
quá đường xong, trở về nghỉ ngơi đôi
chút. Họ trông thấy, tưởng ḥa
thượng vẫn chưa thức dậy. Có người
ngủ một chút, có người tĩnh tọa, họ chỉ
thấy khi đó. Ḥa thượng hai rưỡi sáng đă
thức dậy, quư vị vào chùa miếu mà xem. Chuông, trống
vừa gióng, mọi người trong chùa đều thức
dậy, quư vị chẳng thể trốn tránh phận sự.
Dùng tâm thái như vậy để xuất gia, hâm mộ cuộc
sống ḥa thượng an nhàn, hoặc là trốn nợ, hoặc
là lánh nạn, trà trộn làm ḥa thượng. Kẻ như
thế chẳng thể làm một vị ḥa thượng tốt,
nhưng quư vị cũng chớ nên khinh rẻ hắn, có ư
nghĩa này. Đấy là có tâm tịnh tín.
Sau khi đă quy y Phật pháp, người ấy
cầu tu đạo, hoặc là tu Tứ Đế, tức
Khổ, Tập, Diệt, Đạo, tu mười hai nhân
duyên, hoặc là tu Lục Độ vạn hạnh. Chúng ta
nói tổng
quát, lấy những pháp ấy làm đại diện, đó
là “tam thừa nhân”. Người ấy dùng tín tâm thanh tịnh
xuất gia như vậy, thọ Cụ Túc Giới. “Ư
chư học xứ” (nơi các học xứ): “Học
xứ” là giới. Đă thọ giới th́ phải học,
ắt cần phải thọ tỳ-kheo giới rồi mới
có thể học. Bồ Tát giới th́ ngược lại,
trước đó, phải học cho kỹ rồi mới
thọ giới. Tam Quy, Ngũ Giới dễ dàng. Quư vị có
thể học trước rồi mới thọ, cũng có
thể là thọ rồi mới học. Đó là phương
tiện thiện xảo để nhiếp dẫn (nhiếp thọ, tiếp
dẫn), nhưng giới của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni th́
khác hẳn. Sau khi đă thọ giới, năm năm đầu
của vị tỳ-kheo xuất gia nhất định phải
học giới luật. Học giới tinh thông rồi mới
có thể học kinh, học luận. Giới luật là trước
hết. Đồng thời, khi học phải trọn đủ
thâm tâm, thiện tâm, và tịnh tâm. Thâm tâm bao gồm rất nhiều;
ở đây nói là thâm tâm, tức là phải có cái tâm chí thành,
khẩn thiết. Đại Thừa Khởi Tín Luận giảng
thâm tâm phải trọn đủ hết thảy các thiện
pháp, những ǵ đại Bồ Tát đă làm chỉ là thâm
tâm, mà cũng là chí thành khẩn thiết. Như vậy th́ mới
có thể kiên cố, dũng mănh, siêng ṛng ǵn giữ bốn
giới căn bản về “giết, trộm, dâm, dối”.
Thọ giới dễ dàng, giữ bốn giới căn bản
rất khó. Do vậy, ắt cần phải kiên cố. “Kiên
cố” có nghĩa là hết sức kiên cường, bị
bất cứ thử thách nào cũng đều chẳng ngă
ḷng, quư vị mới có thể giữ được bốn
giới căn bản. Nếu không, chẳng dễ ǵ giữ
được! V́ có tập khí trong vô lượng kiếp quá
khứ, nhưng chỉ hạn định trong giới tướng
tỳ-kheo, quư vị giữ vững là được rồi.
Trong giới Bồ Tát, cũng là nói đến
cái tâm. Như bốn căn bản giới, tâm sân hận chẳng
dấy lên, chẳng có cái tâm giết người, sẽ chẳng
thể giết người được. Khi quư vị hận
thù kẻ khác, cái tâm ǵ cũng đều nẩy sanh. Trước
hết, không nói đến chuyện giết người.
Quư vị thấy con gián hoặc con chuột, cắn hư
thứ ǵ đó, hay phá hủy thức ăn của quư vị,
tâm sân hận lập tức bốc lên. Quư vị muốn bắt
nó chỉnh cho nó chết đứ đừ, đấy là
sát tâm. Do vậy, quư vị ắt cần phải có tín ngưỡng
sâu sắc; đó là ư nghĩa “kiên cố, dũng mănh”. Bốn
giới căn bản ấy, quư vị chớ nên lui sụt.
Hễ lui sụt đôi chút, xong mất rồi! Tuy chẳng
phạm căn bản, chẳng phạm rốt ráo, nhưng
xét theo một phương diện, quư vị lại phạm
mất rồi. Phải tinh tấn ǵn giữ, một tí buông
lung cũng không được!
“Pḥng ư như thành” (ngăn ngừa tâm ư
như ǵn giữ thành tŕ): Giữ giới như ngọc như
ư trắng sạch, không tỳ vết, chẳng thể có một
tí sứt mẻ, làm như thế nào? Hễ phạm sai lầm, bèn lập tức
sám hối. Mỗi nửa tháng bố-tát chính
là nêu ra những sai lầm chính ḿnh đă phạm, khiến cho
đại chúng Tăng
hay biết. Quư vị đă thanh tịnh, lại hoàn nguyện.
Điều này giống như y phục đă bẩn, hăy giặt
giũ. Giặt xong, vẫn chẳng hoàn toàn sạch sẽ
như cũ. Y phục đă rách, đem vá, vá so với giặt
c̣n khó khăn hơn. Tuy nói là đă vá, vẫn có vết vá. Đă
phá giới, tuy quư vị đă sám hối, nhưng nói chung vẫn
có khuyết điểm. Do vậy, quư vị siêng ṛng ǵn giữ.
Nếu giữ chẳng phạm như thế th́ mới có
thể được trời, người cúng dường.
“Nhân phi nhân đẳng”, “phi nhân” là nói đến
quỷ thần. Họ sẽ ủng hộ quư vị, được
trời, người cúng dường.
(Kinh) Ư tam thừa trung, tùy sở hân
nhạo, tốc năng thú nhập, thành biện cứu cánh.
Thị cố, chân thật cầu Niết Bàn giả, ninh xả
thân mạng, chung bất hủy phạm như thị tứ
pháp. Sở dĩ giả hà? Chư hữu t́nh loại yếu
do tam nhân đắc Niết Bàn lạc, nhất giả, y chỉ
Như Lai vi nhân; nhị giả, y ngă thánh giáo vi nhân; tam giả,
y ngă đệ tử vi nhân. Chư hữu t́nh loại y thử
tam nhân, tinh cần tu hành, đắc Niết Bàn lạc. Nhược
nhân hủy phạm như thị tứ pháp, ngă phi bỉ sư,
bỉ phi đệ tử.
(經)於三乘中隨所欣樂,速能趣入成辦究竟。是故真實求涅槃者,寧舍身命,終不毀犯如是四法。所以者何?諸有情類,要由三因得涅槃樂:一者、依止如來為因,二者、依我聖教為因,三者、依我弟子為因。諸有情類依此三因,精勤修行,得涅槃樂。若人毀犯如是四法,我非彼師,彼非弟子。
(Kinh: Trong tam thừa, tùy ḷng ưa thích
mà mau chóng tiến nhập, tu tập hoàn măn, thành tựu rốt
ráo. Do vậy, người chân thật cầu Niết Bàn, thà xả thân mạng, trọn chẳng hủy phạm
bốn pháp như thế. V́ cớ sao vậy? Các loại hữu
t́nh cần phải do ba cái nhân mà đạt được
niềm vui Niết Bàn: Một là y chỉ Như Lai làm nhân.
Hai là nương theo thánh giáo của ta làm nhân. Ba là nương
cậy đệ tử của ta làm nhân. Các loài hữu t́nh
nương theo ba cái nhân ấy, siêng ṛng tu hành, đạt được
niềm vui Niết Bàn. Nếu có kẻ hủy phạm bốn
pháp như thế, ta chẳng phải là thầy kẻ đó,
kẻ đó chẳng phải là đệ tử [của
ta]).
Trong pháp tam thừa Thanh
Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, tùy ḷng quư vị ưa thích, do
cái nhân trong đời trước và trợ duyên bên ngoài
trong hiện thời, nhân duyên đă chín muồi [bèn học theo một
pháp]. Như thế th́ quư vị học pháp Tứ Đế,
hoặc học pháp nhân duyên, pháp Lục Độ, chẳng
phạm bốn căn bản giới. Các oai nghi tế hạnh
khác nếu quư vị trót phạm, hễ sám hối liền thanh
tịnh, chẳng chướng ngại quư vị tu đạo,
chẳng chướng ngại quư vị thành tựu. Phạm
bốn căn bản giới sẽ chướng ngại quư
vị tu đạo thành tựu, khi quư vị tu đạo,
sẽ chẳng có cách nào tiến
nhập! V́ sao nói như vậy? Nếu tu tập đến
rốt ráo, như thế th́ mới cầu Niết Bàn, cầu
đạo lư “bất sanh, bất tử, bất sanh, bất
diệt”. Do vậy, quư vị giữ giới này, phải giữ
kiên cố đến mức độ như thế nào? “Ninh
xả thân mạng” (thà xả thân mạng)! Trong giới
luật nơi kinh Phật, chẳng sát sanh tới mức độ
nào? Bị trói bằng sợi cỏ. Khi gă đạo tặc
bắt người ấy, chẳng có ǵ để trói được,
bèn đem sợi thừng cột người ấy xuống
cỏ. Hắn biết tỳ-kheo chẳng dám động. Hễ
động, cỏ sẽ bị nhổ bật lên; như
thế là phá giới. Các đạo tặc Ấn Độ
đối với người xuất gia tin tưởng
như thế đó. Đó gọi là “thảo hệ tỳ-kheo”
(草繋比丘,
tỳ-kheo bị buộc vào cỏ). Nếu như vậy,
vị ấy sẽ thành đạo. Đó gọi là “dũng
mănh tinh tấn”.
Chúng ta đều có phương
tiện thiện xảo. V́ sao phải cột vị ấy
vào cỏ? Quư vị cột vị ấy vào cây, vị ấy sẽ nghĩ cách tháo gỡ, tự bỏ chạy,
có phải là như vậy hay không? Đây là nói tới chuyện
tŕ giới kiên cố, vị ấy thà xả
thân mạng, trọn chẳng phạm bốn pháp như thế,
chẳng phạm bốn giới dâm, giết, trộm, dối. V́ sao phải nói
như vậy? “Sở dĩ giả hà” (v́ cớ sao vậy):
Nhằm nói hết thảy các loài hữu t́nh phải do ba cái
nhân mà đạt được niềm vui Niết Bàn. Ba cái
nhân ấy, đầu tiên là y chỉ Như Lai. “Y chỉ
Như Lai vi nhân” (nương cậy Như Lai làm cái nhân).
Mở rộng hơn
một chút, sẽ là y chỉ thiện tri thức, nương
cậy Phật, phải nương vào thánh giáo, phải nương
vào pháp. Như Lai là nhân, thánh giáo là nhân, tức là dùng pháp làm nhân. Lại
c̣n phải nương cậy đệ tử của ta, cũng
tức là y chỉ Tăng. Đó gọi là y chỉ Tam Bảo
làm nhân. Sau đó,
sẽ tiếp nhận lời chỉ dạy, đấy
là nói Tam Tạng kinh, luật, luận đều được
bao gồm trong ấy, hoàn toàn chẳng phải chỉ chuyên
nói về giới luật, mà Kinh và Luận cũng đều
được gộp vào trong đó. Hết thảy loài hữu
t́nh, hết thảy chúng sanh nương
vào ba cái nhân ấy, tức là nương theo Phật, Pháp, Tăng
siêng năng tu hành, sẽ
có thể chứng đắc niềm vui Niết Bàn.
Những điều này tôi đă giảng ở
hội quán Thanh Tuyền tại Đài
Bắc bốn lần, giảng về quy y Tam Bảo, cũng
là nói nương theo Tam Bảo để tu hành là đủ
rồi, Nương theo “quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng”, ngày
đêm tŕ tụng “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”,
công đức vô lượng. V́ thế, coi điều này
là cái nhân. Lại c̣n có trợ duyên. Đă có ba cái nhân ấy,
siêng ṛng tu hành, tinh tấn dũng mănh tu hành, chẳng giải
đăi. Kinh Đại Tập Thập Luân dạy cách tu bằng
“tŕ lai khứ niệm”, tức là quán hơi thở ra
vào. Đấy đều là phương pháp tu hành. V́ thế,
Tam Bảo làm nhân, tức là quư vị chẳng phân biệt
người nào phạm giới hay chẳng phạm giới,
không quan tâm, chỉ quan tâm giữ sao cho cái tâm của chính
ḿnh tốt đẹp. Cái nhân ấy gieo trong tâm quư vị. Đức
Phật dạy: Đối với hết thảy các đệ
tử của ta, quư vị chẳng cần phân biệt họ.
Quư vị đối xử b́nh đẳng với hết
thảy tăng chúng, đối với thánh tăng ta cũng
thế, mà đối với phàm phu tăng, ta cũng coi như
thánh tăng. Đối với thánh tăng và phàm phu tăng,
chẳng khởi phân biệt. Chẳng nói “vị Tăng này
tu đạo, tu hành tốt lắm. Nếu ta cúng dường
vị ấy, phước báo sẽ to hơn một chút. Ông
tăng kia là ḥa thượng
phá giới, ta cúng dường hắn, chỉ sợ phước
báo của ta bị giảm bớt”. Quư vị đừng phân
biệt như thế! Nếu quư vị chẳng có cái tâm phân
biệt, sẽ đều trở thành cúng dường thánh
tăng. Như thế th́ quư vị sẽ gieo phước
báo, sẽ đạt được phước báo, đạo
tu hành là như thế đó.
Nếu quư vị thấy đây là tượng
đất nặn, tượng gỗ khắc, nói đó
là tượng giấy, [phân biệt] tượng vẽ trên
giấy, tượng bằng đất đắp, tượng
bằng gỗ khắc, đương nhiên là sẽ chẳng
linh. Giấy th́ linh nỗi ǵ? Quư vị coi đó là Phật
thật sự, th́ sẽ linh. Đó là cái tâm của quư vị
linh. Đấy chính là Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo ở
ngay trong tâm quư vị, làm cái nhân tu đạo cho quư vị. Quư
vị có tịnh tín, tức là có tín tâm thanh tịnh th́ mới
có thể tiến nhập, mới có thể đạt tới
vô phân biệt. Nếu chẳng có tín tâm thanh tịnh, làm sao có thể vô
phân biệt cho được? Hai con mắt của chúng ta dùng
ư thức và nhăn thức sẽ có phân biệt. Theo thói quen, c̣n
chẳng đợi thiệt căn nếm thử, quư vị
đă biết đắng, cay, chua, ngọt. Khổ qua nhất
định là đắng! Phải luôn canh giữ loại đạo
lư này. Đó là nói hết thảy các hữu t́nh phải y chỉ
ba cái nhân ấy, siêng ṛng tu hành, th́ mới có thể đạt
được niềm vui Niết Bàn. Nếu hủy phạm
bốn pháp như thế, phạm phải “dâm, giết,
trộm, dối”, ta chẳng thừa nhận kẻ đó
là đệ tử của ta. “Ngă phi bỉ sư, bỉ
phi đệ tử” (ta chẳng phải là thầy của
kẻ đó, kẻ đó chẳng phải là đệ tử),
phải trục xuất ra khỏi Phật pháp!
(Kinh) Nhược nhân hủy phạm
như thị tứ pháp, tắc vi vi việt ngă sở tuyên
thuyết thậm thâm quảng đại vô thường, khổ,
không, vô ngă, tương ứng lợi ích, an lạc nhất
thiết hữu t́nh biệt giải thoát giáo. Nhược
việt như thị biệt giải thoát giáo, tắc ư
nhất thiết Tĩnh Lự, đẳng tŕ, giai thành manh
minh, bất năng thú nhập, vị chư phiền năo ác
nghiệp triền phược. Ư tam thừa pháp, diệc
vi phi khí, đương đọa ác thú, thọ chư trọng
khổ. Nhược thiện nam tử, nhược thiện
nữ nhân, ư ngă sở thuyết biệt giải thoát
giáo sở chế tứ chủng căn bản trọng tội,
thanh tịnh vô phạm, ngă thị bỉ sư, bỉ thị
đệ tử, tùy thuận ngă ngữ, thiện trụ ngă
pháp, nhất thiết sở tác, giai đương
thành măn. Thử nhân thiện trụ Thi La Uẩn cố, danh
vị thiện trụ nhất thiết thiện pháp. Hoặc
danh cụ túc trụ Thanh Văn Thừa,
hoặc danh cụ túc trụ Độc Giác Thừa,
hoặc danh cụ túc trụ ư Đại Thừa. Sở
dĩ giả hà? Nhược năng hộ tŕ như thị
tánh tội tứ căn bản pháp, đương tri tắc
vi kiến lập nhất thiết hữu lậu, vô lậu
thiện pháp thắng nhân. Thị cố, hộ tŕ như
thị tứ pháp, danh vi nhất thiết thiện pháp căn
bản.
(經)若人毀犯如是四法,則為違越我所宣說,甚深廣大、無常苦空無我相應利益、安樂一切有情別解脫教。若越如是別解脫教,則於一切靜慮、等持皆成盲冥,不能趣入,為諸煩惱惡業纏縛,於三乘法亦為非器,當墮惡趣,受諸重苦。若善男子,若善女人,於我所說別解脫教,所制四種根本重罪,清淨無犯,我是彼師,彼是弟子。隨順我語,善住我法,一切所作皆當成滿。此人善住尸羅蘊故,名為善住一切善法,或名具足住聲聞乘,或名具足住獨覺乘,或名具足住於大乘。所以者何?若能護持如是性罪四根本法,當知則為建立一切有漏、無漏、善法勝因,是故護持如是四法,名為一切善法根本。
(Kinh: Nếu kẻ nào hủy phạm bốn
pháp như thế, tức là đă trái vượt giáo pháp biệt
giải thoát “vô thường,
khổ, không, vô ngă”, tương ứng
lợi ích, an lạc hết thảy hữu t́nh rất sâu rộng
lớn do ta đă tuyên nói. Nếu vượt giáo pháp biệt
giải thoát như thế th́ đối với hết thảy
Tĩnh Lự, đẳng tŕ, đều trở thành mù tối,
chẳng thể tiến nhập, bị các ác nghiệp phiền
năo trói buộc, mà cũng chẳng phải là căn khí thích hợp
để tu pháp tam thừa,
sẽ đọa trong đường ác, chịu các sự
khổ nặng nề. Nếu thiện nam tử, hoặc thiện
nữ nhân, đối với bốn loại căn bản
trọng tội do ta chế định trong giáo pháp biệt
giải thoát mà giữ thanh tịnh, chẳng trái phạm, ta
là thầy người đó, người đó là đệ
tử của ta, tùy thuận lời ta, khéo trụ trong pháp
của ta, hết thảy việc làm sẽ đều thành
tựu viên măn. Người đó do khéo trụ trong Thi La Uẩn,
cho nên gọi là khéo trụ trong hết thảy các pháp lành.
Hoặc gọi là trụ trọn đủ trong Thanh Văn
Thừa, trụ
trọn đủ nơi Độc Giác Thừa, hoặc
gọi là trụ trọn đủ trong Đại Thừa.
V́ cớ sao vậy? Nếu có thể hộ tŕ bốn pháp căn
bản thuộc về tánh tội như thế, hăy nên biết
đó chính là kiến lập cái nhân thù thắng cho hết thảy
thiện pháp hữu lậu và vô lậu. V́ thế, hộ tŕ bốn
pháp như thế th́ gọi là căn bản của hết
thảy các thiện pháp).
Nếu kẻ nào hủy phạm bốn pháp như
thế chính là trái nghịch pháp biệt giải thoát “vô thường,
khổ, không, vô ngă” rộng lớn rất sâu tương
ứng lợi ích, an lạc cho hết thảy hữu t́nh
do ta đă nói. V́ đă trái nghịch, vượt qua, cho nên cũng
là đă phạm. Trái vượt điều ǵ vậy? Chính
là hết thảy các pháp do ta đă nói, nói chung là vô thường,
khổ, không, vô ngă, bốn pháp ấy tương ứng với
Niết Bàn. Các pháp ấy tương ứng với bất
sanh, bất tử, cho
đến tương ứng thành tựu đạo nghiệp.
Nếu chẳng trái phạm bốn pháp ấy, tương ứng
Tứ Thánh Đế Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă, có
thể khiến cho hết thảy chúng sanh đạt được
lợi ích, cho đến khiến cho hết thảy chúng
sanh có thể giải
thoát.
“Biệt giải thoát”: Quư vị tŕ một
giới, sẽ giải thoát trói buộc. “Tŕ một
giới, sẽ
giải thoát các trói buộc”, đấy
chính là giải thoát. Hai trăm năm mươi giới thanh
tịnh chẳng phạm, chứng quả A La Hán, phân biệt giới giải thoát như
thế. Nếu trái vượt, sẽ là vi phạm. “Tắc
ư nhất thiết Tĩnh Lự, đẳng tŕ, giai
thành manh minh” (Tức là đối với hết thảy
Tĩnh Lự, đẳng tŕ, đều trở thành tối
tăm): Đẳng Tŕ (等持) là tŕ hết thảy
các pháp, b́nh đẳng tŕ “pháp nghĩa” của hết thảy
các pháp. “Manh minh” (盲冥) là kẻ
mù, “minh” (冥) là tối
tăm. Trong khi quư vị tu Định, tu pháp, cho đến
học giáo nghĩa, quư vị đều chẳng
thể tiến nhập, là một bầu tối tăm. “Manh”
(盲) là thứ
ǵ cũng chẳng trông thấy. Chúng ta có mắt, chẳng
phải là mù, nhưng trong chỗ tối tăm mà chẳng
có ánh đèn, chẳng
có ánh sáng mặt trời, chẳng có ánh sáng mặt trăng,
khi chẳng có tam quang (ánh sáng đèn,
ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng), quư vị
cũng là mù, cũng chẳng thấy chi hết. Do vậy,
chẳng thể tiến nhập. Quư vị tiến nhập
Niết Bàn bằng cách nào? Bị các ác nghiệp phiền
năo trói buộc. “Ư tam thừa pháp, diệc phi pháp
khí” (Đối với các pháp tam thừa, cũng chẳng
phải là pháp khí): Các ác nghiệp phiền năo như thế
đó, các ác nghiệp đă tạo đều chẳng thuận
pháp tánh, chẳng tương ứng với giải thoát. Đấy
là ác nghiệp.
Hoặc là nói chúng ta có rất nhiều phiền
năo; đấy là v́ những chuyện chúng ta đă làm toàn là
sanh ra phiền năo, chẳng nẩy sanh công đức. Công đức
không có chỗ để nương tựa, những ǵ quư
vị đă làm chẳng đáng trông cậy, là sanh phiền
năo, chẳng thể sanh ra công đức, chẳng thể
sanh thiện pháp. V́ ác pháp quấn trói quư vị, suốt ngày ở trong phiền năo, quư vị
c̣n có thể tu đạo nổi ư? Cho đến quư vị
tu đạo tốt hay xấu, sau khi đă tin Phật, bất
luận quư vị niệm kinh hay tu Định; đây là cách
tốt nhất để kiểm tra, cảm nhận phiền
năo của chính ḿnh như thế nào. Quư vị thấy ǵ, trong
tâm đều chẳng vui sướng. Sau khi quư vị
đă tin Phật, quy y Tam Bảo, thọ Tam Quy, cho đến
Ngũ Giới, sở dĩ
quư vị chẳng đạt được lợi ích, là
v́ quư vị vẫn đang ở trong phiền năo. Phiền
năo tương ứng với đường ác, tương
ứng với nghiệp bất thiện, tương ứng
với ác nghiệp. Chẳng phiền năo là tương ứng
với thiện pháp, tương ứng với thiện nghiệp.
Nếu có thể thủ hộ tốt đẹp
bốn giới căn bản, đức Phật nói như
thế nào, ta bèn làm như thế đó. “Tùy thuận ngă
ngữ, thiện trụ ngă pháp” (tùy thuận lời ta,
khéo trụ trong pháp của ta): Y giáo phụng hành. Đức
Phật nói như thế nào, người đó liền làm
như thế ấy, thường trụ trong Phật pháp.
Pháp ấy là pháp ǵ? Phật pháp là tâm pháp của quư vị. Văn
Thù Bồ Tát dạy chúng ta “thiện dụng kỳ tâm”.
“Thiện dụng kỳ tâm” (Khéo dùng cái tâm) là đoạn
phiền năo. Bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào,
cũng đều vận dụng
cái tâm của quư vị rất khá, dùng
đến mức tuyệt diệu. Chúng ta thấy rất
nhiều người khéo dùng cái ác, tự cho là chính ḿnh có rất
nhiều ưu điểm, có rất nhiều chủ ư, dường
như là rất có biện pháp, nhưng ư niệm của họ
là ác niệm, chẳng hữu dụng đối với
điều thiện cho lắm! Những sự nghiệp kẻ
ấy đă thực hiện, làm sao có thể thành tựu cho
nổi?
Nếu “tùy thuận ngă ngữ, thiện trụ
ngă pháp” (tùy thuận lời ta, trụ trong pháp của ta), vậy th́ hết thảy
những ǵ kẻ ấy đă làm sẽ đều “thành măn”, tức
là thành tựu viên măn, chẳng thiếu khuyết. “Thử
nhân thiện trụ Thi La Uẩn” (người ấy khéo
trụ trong Thi La Uẩn): Thi La (Śīla) là Luật. Thi La có nghĩa là quư vị khéo ngừa sai,
dứt ác. Dứt
ác sẽ sanh ra thiện pháp. Đó là hàm nghĩa của Thi La. “Uẩn”
(蘊) là ẩn
tàng. Trong Thi La, ẩn tàng vô lượng thiện pháp, vô
lượng công đức. Đó mới gọi là “hân
thiện trụ nhất thiết thiện pháp” (vui thích khéo
trụ trong hết thảy các pháp lành), “hoặc danh cụ
túc trụ Thanh Văn Thừa” (hoặc
gọi là trụ trọn đủ trong Thanh Văn thừa),
“hoặc danh cụ túc trụ Độc Giác Thừa” (hoặc
gọi là trụ trọn đủ trong Độc Giác thừa),
“hoặc danh cụ túc trụ Đại Thừa” (hoặc
gọi là trụ trọn đủ trong Đại Thừa).
Như thế bèn trụ trong tam thừa!
Mọi người hăy ngẫm xem, bốn giới
“dâm, giết, trộm, dối” này, trong quá khứ, tuy chẳng
phạm nghiêm trọng như vậy, nhưng trong tâm ta không
khống chế, không ngưng
dứt được. Ta thấy món đồ tốt của
người khác, trong tâm mong có được, mong chiếm
làm của riêng, đó
là phạm giới trộm cắp. Sanh khởi mong tưởng
quá phận, giống như hoa có chủ, không có chủ th́
không tính, trên núi không tính. Hoa “có chủ” [ở đây nói theo ư
nghĩa] hoa để cúng Phật, quư vị tới đó
ngửi một chút, đó là “trộm hương”. Hương
dành để cúng Phật, khi mua hương, hoặc mua
hoa, quư vị đừng ngửi trước. Nếu quư vị
chẳng mua nó, chẳng dành để cúng Phật, quư vị
chẳng có ư niệm dùng để cúng Phật th́ có thể
ngửi một chút.
Nếu quư vị đă xác định, ta mua hoa
này để cúng Phật, hễ ngửi một chút th́ là “trộm
hương”. Quư vị chẳng được Phật cho
phép, đă cầm lên ngửi, tức là “trộm hương”,
không được
rồi! Giới trộm cắp hết sức khó giữ. Ta chẳng
trộm cắp thứ ǵ của
ai đó, c̣n phạm giới trộm cắp ư? Rất
nhiều người khi tôi bảo họ phạm giới trộm
cắp, họ chẳng thừa nhận: “Tôi ăn trộm đồ
của người ta ư?” Suốt một ngày, quư vị đều
có cái tâm trộm cắp, nghiệp ăn trộm, cách ăn
trộm, duyên ăn trộm, rất nhiều! Do vậy, pháp
sư Hoằng Nhất soạn riêng một quyển sách nói về
giới tướng của giới trộm cắp. Giới
tướng của giới trộm cắp rất khó giữ.
Nhưng đối với chúng ta mà nói, hễ dời [một
vật ǵ đó] khỏi chỗ vốn có của nó là đă
vi phạm. Giống như đóa hoa này, quư vị cầm nó
ra khỏi chỗ vốn có của nó. Sau đó, ta lại hối
hận, đặt nó lại chỗ cũ, đă phạm giới
rồi! Vẫn phải sám hối. Chỉ cần dời khỏi
chỗ vốn có của nó là đă phạm rồi! Hễ đă
xong một niệm thứ nhất th́ đă trở thành sự thật. Sau đó hối hận,
niệm thứ hai ta là tŕ giới, cớ sao ta có thể phạm
tội ấy? Đấy là phạm Ngũ Giới. Dâm, giết,
trộm, dối, bốn căn bản đều trọn đủ.
Chạy vội vàng đặt lại chỗ cũ, đă
phạm rồi, đặt trở lại th́ cũng được
sám hối. Bất quá đấy là lỗi
rất nhỏ yếu.
Nói thật ra, nếu chẳng phạm bốn
pháp căn bản, tức là đă kiến lập cái nhân thù
thắng của hết thảy thiện pháp hữu lậu
và vô lậu. Trong pháp hữu lậu, đó cũng là cái nhân thù
thắng. Quư vị mong đạt được phước
báo nhân thiên, mong đạt được vinh hoa, phú quư, th́
cũng phải nương theo bốn loại pháp này, đó
cũng chính là pháp thế gian và xuất thế gian. Hữu lậu
là nói đến pháp thế gian, vô lậu là chứng quả
vị trong Phật pháp. Phật pháp là vô lậu, chứng
đắc quả vị ấy. Đấy là cái nhân thù thắng
của hết thảy thiện pháp, thù thắng nhất. Nhân
là cái nhân có thể sanh khởi, tức là có thể sanh khởi
hết thảy thiện pháp, là cái nhân thù thắng nhất.
V́ thế, hộ tŕ bốn pháp như thế, được
gọi là căn bản của hết thảy các thiện
pháp. Do vậy, quư vị phải hộ tŕ bốn pháp ấy.
Bốn pháp ấy là căn bản của hết thảy các
thiện pháp, v́ thiện pháp sẽ do bốn pháp ấy mà
sanh, từ đấy mà sanh.
Chúng ta hăy xem lại, ở đây, nói đến
tánh tội. Trong cuộc sống thường nhật, trong
mối giao tiếp giữa người với người,
mọi người hăy nghĩ xem, người chẳng phạm
bốn loại tội ấy có được bao nhiêu? Mọi
người đến từ Đài Bắc, hăy nh́n lại
xem ở Đài Bắc có bao nhiêu người chẳng phạm
bốn loại tội ấy? Rất nhiều. Giết chết
oan uổng, hăm hại người khác, bịa chuyện hăm
hại người khác, sợ rằng rất phổ biến.
Người thật sự muốn hộ tŕ bốn pháp chẳng
phạm, đâm ra là thiểu số, kẻ vi phạm trở
thành đa số! Do vậy, kinh Đại Tập Thập
Luân rất liên quan đến cuộc sống hằng ngày của
chúng ta. Chúng ta phải nên tùy thời, tùy lúc quán tưởng,
bốn loại này rất dễ nhớ. Khi khởi tâm động
niệm, quán tưởng cũng rất dễ dàng. Giả
sử chẳng thanh tịnh, chẳng có tín tâm kiên cố; trong ấy, nẩy
sanh quá nhiều phiền năo, ngàn đầu vạn mối, có đủ loại phương thức,
đủ thứ khác nhau. Mọi người biết học
giới rất khó! Lăo pháp sư Hoằng Nhất sau khi đă
xuất gia, bèn khuyên điểm Nam Sơn tam đại bộ[14], tam đại bộ
là ba bộ luận. Ngài hoàn toàn chẳng phê b́nh, chú giải,
chỉ khuyên điểm đôi chút, chấm câu, ngắt câu
thôi mà đă tốn công sức khá nhiều năm. Nếu chúng
ta mở ra xem, dẫu có kiến thức văn học, cũng
chẳng dễ đọc hiểu. Khi Ngài (tổ Đạo Tuyên)
viết th́ [nguyên bản] c̣n chưa có chấm câu! Giới
luật rất khó học, cho nên chúng ta thọ Tam Quy, Ngũ
Giới, nhất định phải tuân thủ Tam Quy, Ngũ
Giới. Ngũ Giới chính là bốn căn bản. Có thể
giữ kỹ Ngũ Giới th́ căn bản của hết
thảy thiện pháp đều trọn đủ, thậm
chí có thể dần dần thành Phật.
(Kinh) Như y đại địa, nhất
thiết dược, cốc, hủy, mộc, tùng lâm, giai đắc
sanh trưởng. Như thị y chỉ, cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới,
nhất thiết thiện pháp giai đắc sanh trưởng.
Như y đại địa, nhất thiết chư sơn,
Tiểu Luân Vi sơn, Đại Luân Vi sơn, Diệu Cao sơn
vương, giai đắc an trụ. Như thị y chỉ
cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới,
chư Thanh Văn Thừa,
cập Độc Giác Thừa,
vô thượng Đại Thừa, giai đắc an trụ.
Như y đại địa, cầu đắc nhất
thiết thế gian mỹ vị. Như thị y chỉ, cực thiện hộ tŕ tứ căn bản giới,
cầu đắc nhất thiết Niệm, Định, Tổng
Tŕ, an nhẫn
thánh đạo, năi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề.
(經)如依大地,一切藥谷卉木叢林皆得生長;如是依止,極善護持四根本戒,一切善法皆得生長。如依大地,一切諸山、小輪圍山、大輪圍山、妙高山王,皆得安住;如是依止,極善護持四根本戒,諸聲聞乘及獨覺乘、無上大乘,皆得安住。如依大地,求得一切世間美味;如是依止,極善護持四根本戒,求得一切念定總持、安忍聖道,乃至無上正等菩提。
(Kinh: Như nương vào đại địa,
hết thảy dược thảo, ngũ cốc, cây cối,
rừng rậm đều được sanh trưởng.
Y chỉ hộ tŕ bốn giới căn bản cực thiện
như thế, hết thảy thiện pháp đều được
sanh trưởng. Như nương vào đại địa,
hết thảy các núi, núi Tiểu Luân Vi, núi Đại Luân
Vi, núi chúa Diệu Cao, đều được an trụ. Y
chỉ hộ tŕ bốn giới căn bản cực thiện
như thế, các Thanh Văn Thừa,
và Độc Giác Thừa,
vô thượng Đại Thừa đều được
an trụ. Như nương vào đại địa, cầu
đạt được hết thảy vị ngon trong thế
gian. Y chỉ hộ tŕ bốn giới căn bản cực
thiện như thế, cầu đạt được hết
thảy Niệm, Định, Tổng Tŕ, an nhẫn thánh đạo,
cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề).
Bốn giới căn bản là “dâm, giết,
trộm, dối”. Giới “cấm
uống rượu” trong Ngũ
Giới không kể vào đó. Giới “không uống
rượu” được
coi như rất nhỏ. Bốn giới căn bản ấy,
bất luận là người quy y Tam bảo, hay đệ
tử thọ Tam Quy Ngũ Giới, hoặc đệ tử
Bát Quan Trai Giới, cho đến sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na
nữ, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, bảy chúng đệ tử
đều cùng tuân thủ. V́ sao gọi là căn bản giới?
V́ giới căn bản có thể sanh ra trí huệ căn bản.
Nếu phạm vào các giới ấy, chẳng thể sanh trí
huệ, mà phước đức cũng đều mất
đi. Nếu phá bốn căn
bản giới, tất cả hết thảy các thiện
pháp của quư vị đều chẳng
thể an trụ.
Đức Phật nói tỷ dụ, v́ có đại
địa th́ mới có thể sanh trưởng hết thảy
các loại lương thực, các loại dược vật,
các loại hoa cỏ, cho đến cây cối. Chúng ta biết:
Chẳng có cây cối, chúng ta chẳng thể sanh tồn, cây
cối chế tạo dưỡng khí (Oxygen, oxygène). Nếu
thành thị thiếu cây cối, sẽ chẳng thể điều
ḥa dưỡng khí. Nếu chẳng có đại địa,
hết thảy sự vật đều chẳng thể tồn
tại, có ư nghĩa này. Cũng như vậy, mượn đại
địa để tỷ dụ, chúng ta phải hộ tŕ
bốn giới căn bản nhằm mục đích sanh trưởng
hết thảy thiện pháp của chúng ta. Giống như đại
địa, hết thảy núi non phải dựa vào đại
địa để an trụ. Hết thảy các thiện
pháp đều phải cậy vào hộ tŕ bốn giới
căn bản. Nếu sau khi đă thọ Tam Quy, mà chẳng
thọ Ngũ Giới, căn bản là người ấy
chẳng phạm. Nếu kẻ đó phạm bốn giới
căn bản này, sẽ bị quốc pháp chế tài. Phạm
bốn giới căn bản này, từ cổ đến nay,
pháp luật quốc gia sẽ đều chế tài. Như
vậy th́ kẻ đó chẳng phạm giá tội, nhưng
công đức và thiện pháp mà người ấy đă đạt
được sẽ chẳng thể sanh trưởng, sanh
trưởng hết sức chậm chạp!
Nếu sau khi quư vị đă vào Phật môn, mong đắc Thiền Định, đắc tam-muội.
“Tổng tŕ” là tam-muội, đắc đà-la-ni, cho đến
đắc Lục Độ vạn hạnh, thậm chí thành
Phật, mà nếu chẳng hộ tŕ bốn giới căn
bản này, quư vị mong đạt được niệm
thanh tịnh, đắc định thanh tịnh, đắc
tam-muội, sẽ đều chẳng thể được,
càng chẳng
mong chi thành Phật được! Giống như đại
địa chẳng chọn lựa, nó là b́nh đẳng. Do
vậy, bất luận quư vị có ǵ sạch sẽ, hay chẳng
sạch sẽ, nó chẳng phân biệt, đều b́nh đẳng
ǵn giữ, chẳng lựa chọn, chẳng thể nói “thanh
tịnh th́ ta mới duy tŕ, không thanh tịnh ta sẽ không
duy tŕ”. Đức Phật dùng điều này để sánh
ví tỳ-kheo phá giới. Nếu đă phạm bốn giới
căn bản, sẽ lại như thế nào? Như trong
phần trước chúng tôi đă nói, đế vương
Sát-đế-lợi, hoặc Bà-la-môn, cho đến hai chúng
đệ tử tại gia, hết thảy mọi người
đều phải tôn kính người xuất gia, chớ nên
phá hoại, chớ nên rêu rao lỗi kẻ đó!
(Kinh) Hựu như đại địa,
ư tịnh, bất tịnh, giai đẳng nhậm tŕ. Cực
thiện hộ tŕ tứ căn bản giới, chư thiện
nam tử, cập
thiện nữ nhân, diệc phục như thị. Ư thử pháp khí, cập
phi pháp khí, kỳ tâm b́nh đẳng, bất cơ, bất lộng,
bất tự cống cao, bất suất ha cử, năng
vi nhất thiết thiện pháp sanh xứ. Hựu như đại
địa, nhất thiết hữu t́nh giai cộng thọ
dụng, nhi đắc tồn hoạt. Cực thiện hộ
tŕ tứ căn bản giới chư thiện nam tử cập
thiện nữ nhân diệc phục như thị, ư chư
Như Lai sở thuyết chánh pháp, sanh trưởng đệ
nhất hoan hỷ tịnh tín. Ư chư hữu t́nh, vô sai
biệt tưởng, dĩ Tứ Nhiếp Pháp b́nh đẳng
nhiếp thọ, nhất thiết hữu t́nh giai cộng y
chỉ, thọ dụng pháp lạc, nhi tự
tồn hoạt.
(經)又如大地,於淨不淨皆等任持;極善護持四根本戒諸善男子及善女人亦復如是,於其法器及非法器,其心平等,不譏不弄,不自貢高,不率呵舉,能為一切善法生處。又如大地,一切有情,皆共受用而得存活;極善護持四根本戒諸善男子,及善女人亦復如是,於諸如來所說正法,生長第一歡喜淨信,於諸有情無差別想,以四攝法平等攝受,一切有情皆共依止,受用法樂而自存活。
(Kinh: Lại như đại địa,
đối với tịnh và bất tịnh đều b́nh
đẳng duy tŕ. Các thiện nam tử và thiện nữ
nhân hộ tŕ cực tốt đẹp bốn giới căn
bản, cũng giống như vậy: Đối với
pháp khí và chẳng phải pháp khí, tâm họ b́nh đẳng,
chẳng chê bai, chẳng trào lộng, chẳng tự kiêu căng,
chẳng khinh suất quở trách, cử tội, có thể
làm chỗ sanh ra hết thảy các thiện pháp. Lại như
đại địa, hết thảy hữu t́nh đều
cùng thọ dụng để được sống c̣n. Các thiện nam
tử và thiện nữ nhân hộ tŕ cực tốt đẹp
bốn giới căn bản cũng giống như thế,
đối với chánh pháp do Như Lai đă nói, sanh trưởng
niềm tin thanh tịnh hoan hỷ bậc nhất, đối
với các hữu t́nh, chẳng có ư tưởng sai khác, dùng Tứ Nhiếp Pháp
để b́nh đẳng nhiếp thọ, hết thảy hữu
t́nh đều cùng y chỉ, thọ dụng pháp lạc để
tự sống c̣n).
Tiếp đó, nói đến [mối quan hệ
giữa] người xuất gia đối với người
xuất gia, ḥa thượng đối với ḥa thượng.
Đối với tỳ-kheo phá giới, phải nên làm như
thế nào? Tăng đoàn này giống như đại
địa, đối với tịnh và bất tịnh, tŕ
giới thanh tịnh, hay chẳng tŕ giới thanh tịnh, vẫn
đối đăi b́nh đẳng. Thế nhưng, hộ tŕ
giới thanh tịnh, sẽ dễ thành thánh đạo,
dễ thoát ly phiền năo, dễ rời ĺa khổ nạn.
Trong quá khứ, quư vị đă phá bốn giới căn bản,
tuy trải qua vô lượng ức đời đều hứng
chịu khổ năo. Dẫu được lại làm người th́ hoặc
là tứ chi tàn khuyết, hoặc tinh thần bất b́nh thường,
hoặc chẳng có phước đức, trí huệ. Vậy
th́ [những người ấy] đối với chuyện
tu Định, tŕ tụng, cho đến chăm lo làm phước
như đă nói trong phần trước, sẽ đều
chẳng có! Nếu trong quá khứ đă phá căn bản giới,
hiện thời, sẽ rất khó lại được
nghe pháp, chẳng biết phải trải qua vô lượng
ức kiếp, rất khó gặp gỡ Tam Bảo. V́ thế,
nói là hết thảy thiện nam tử, thiện nữ nhân
hộ tŕ giới, hăy nên giống như đại địa.
Có khi là pháp khí, nghe pháp bèn có thể thọ tŕ, cũng là vật
dụng chứa đựng pháp. Có khi họ tuy nghe pháp, nhưng
chẳng phải là vật dụng chứa đựng pháp,
sẽ bị ṛ rỉ mất. Giống như cái chén hoặc
cái bát đựng nước, chẳng thể có một lỗ
hổng to bằng lỗ kim được. Nếu có chỗ
ṛ rỉ, sẽ chẳng thể đựng nước được,
sẽ luôn bị chảy mất. Nhưng chúng ta có thể vá
đôi chút, t́m đồ để vá bát. Hiện thời, c̣n
có một cách, dùng băng dính dán ở dưới, dán lỗ
hổng lại, nó sẽ chẳng rỉ mất; nhưng vẫn
là tàn
khuyết! Đại địa đối với hết thảy
nhiễm hay tịnh đều có thể đối đăi b́nh
đẳng.
Do vậy, Tăng Bảo trong Tăng chúng, đối
đăi những vị xuất gia, hoặc là đối với
những vị tại gia thọ Ngũ Giới, cũng là
thọ bốn giới căn bản, dẫu họ đă
phá giới, tâm quư vị vẫn đối xử với họ
b́nh đẳng. Chớ nên châm chọc, chớ nên cười
nhạo, chớ nên đối với họ ra vẻ: “Ta tŕ
giới thanh tịnh, ngươi là đồ phá giới”. Trong
các đạo hữu chúng ta, có rất nhiều vấn
đề như thế ấy. Đức Phật chuyên thẳng
thừng vạch ra các vấn đề ấy, mọi người
phải đặc biệt chú ư. Phải dùng cái tâm b́nh đẳng
để đối đăi, chớ nên khinh suất trách móc
họ, thậm chí tố giác họ, rêu rao lỗi lầm của
họ. Như trong các đạo hữu chúng ta, tuy cùng thọ
Tam Quy Ngũ Giới nơi một vị sư phụ mà vẫn
chỉ trích lẫn nhau. Nếu chẳng cùng một vị sư
phụ, th́ càng chẳng cần phải nói nữa! Đấy
đều là sai lầm.
Nếu hộ tŕ như thế, sẽ khiến
cho hết thảy các thiện pháp có thể sanh trưởng,
những người đă làm chuyện sai lầm phạm
giới sẽ cầu mong sám hối. Sau khi sám hối, sẽ
thanh tịnh; nhưng
kẻ chẳng thể sám hối, chỉ cần kẻ đó
có tâm hổ thẹn, có tâm hối lỗi, chẳng tiếp
tục làm nữa, đối với hết thảy những
ǵ đă phạm, kẻ đó biết là sai lầm. Dẫu chưa
sám hối thanh tịnh, kẻ đó chẳng hề tiếp
tục làm nữa. Tạo tội ác cũng như thế, mà
làm lành cũng là như thế, giống như đă quen nết,
đă làm quen tay, không làm, trong tâm
họ rất bứt rứt! Khi tôi ở trong tù, đă hỏi
một gă trộm vặt: “V́ sao ăn trộm đồ vật
của người ta? Trộm xong, anh lại chẳng hưởng
thụ”. Kẻ đó thưa: “Con thấy món đồ ǵ của
người ta mà không lấy trộm, trong tâm ngứa ngáy, cũng
chẳng có cách nào ngủ được, cơm cũng chẳng
có cách nào nuốt nổi!” Tới khi anh ta đă lấy trộm
xong, chính ḿnh cũng chẳng dùng, lấy rồi lại quăng
đi, hoặc đem cho người khác, anh ta sẽ an tâm.
C̣n nữa, quư vị hỏi kẻ làm nghề đồ tể,
[sẽ biết] kẻ đó chẳng làm (chẳng mổ giết
súc vật), sẽ không yên bụng. Kẻ làm một loại
nghiệp nào đó, loại nghiệp lực ấy khiến
cho kẻ đó tiếp tục làm ác, kẻ đó chẳng
thể sám hối. Biển Tăng chúng trong Phật giáo cũng
giống như thế, giống như đại địa,
hết thảy hữu t́nh trên đại địa đều
cùng nhau hưởng thụ, có thể cùng chung sống. Bốn
giới căn bản này khiến cho Tăng đoàn tốt
đẹp, khiến cho Phật pháp hưng thịnh, có thể
tồn tại lâu dài trong thế gian. Vậy th́ quư vị hộ
tŕ bốn giới căn bản, Phật pháp có thể tồn
tại lâu dài trong cơi đời.
Hoan hỷ tịnh tín bậc nhất là ǵ? Đối
với hết thảy chúng sanh, hết thảy hữu t́nh
chẳng khởi tâm phân biệt, chẳng nghĩ là sai khác.
Nhưng trong ấy lại có một vấn đề, đă
là chẳng nghĩ sai biệt, [vậy th́] v́ sao tỳ-kheo và
tỳ-kheo-ni xuất gia như nhau, mà giới luật của
nữ chúng nghiêm ngặt như vậy? Có đến ba trăm
bốn mươi tám giới; v́ sao nam
chúng chỉ có hai trăm năm mươi giới? Đấy
chẳng phải là khác biệt! V́ sao người xuất
gia thọ giới Bồ Tát nhất định phải thọ
mười giới trọng, bốn mươi tám giới
khinh, hàng tại gia có thể thọ sáu giới trọng, hai
mươi tám giới khinh? Đấy chẳng phải là
pháp khác biệt, mà là do căn cơ, có kẻ tiếp nhận
được, có kẻ chẳng thể tiếp nhận!
Nhưng [dù số lượng giới điều chênh lệch],
đều yêu cầu quư vị phải có tín tâm thanh tịnh,
đừng nên sanh ư tưởng khác biệt, pháp trong ba thừa
đều b́nh đẳng!
Đối
với căn cơ này, người ấy có thể tiếp
nhận đến mức độ này, liền nói với
họ Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đối với
người thuộc căn cơ khác, do tŕnh
độ bất đồng, liền nói cho kẻ ấy về
bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, Thiền Định,
trí huệ, nói cho kẻ ấy biết pháp Lục Độ.
Đấy chẳng phải là khác biệt, mà là thật sự
b́nh đẳng. Người ấy có thể tiếp nhận
bao nhiêu, liền nói cho người ấy bấy nhiêu! Đức
Phật có Tứ Nhiếp Pháp để b́nh đẳng nhiếp
thọ, bố thí chẳng chọn lựa đối tượng.
Nói kẻ đó là Phật, Bồ Tát, chúng ta sẽ cúng dường.
Kẻ đó là chúng sanh khổ sở, chúng
ta sẽ thí cho kẻ đó. Bố thí không nhất định
là cho chút tiền, mà c̣n bao gồm Pháp Thí: Quư vị thuyết
pháp cho kẻ đó, điều thứ nhất là bố thí.
Như Ái Ngữ tức là nói với người khác những lời họ thích
nghe, chẳng thốt lời hung ác, chẳng tùy tiện quở
mắng người khác. Đối với bất cứ
ai, cũng
đều là như thế. Ngay cả đứa trẻ mới
mấy tuổi, nó cũng có ḷng tự trọng, quư vị cứ
quen thói trách mắng. Nếu kẻ làm cha mẹ có chuyện
ǵ chẳng như ư, thuận tay liền giáng cho con một
cái tát nổ đom đóm, hoặc đánh nó mấy cái. Nó có
đôi chút sai lầm liền chửi bới, quát tháo, chớ
nên!
Lại c̣n đối với người khác
bèn làm chuyện lợi ích, đó là Lợi Hành. Bất luận
nơi ngôn ngữ hay hành động, hoặc nơi phương
diện tài lợi, bất cứ chuyện ǵ có lợi cho người
khác th́ làm nhiều chuyện lợi tha. Đồng Sự là
quư vị muốn độ kẻ khác, họ làm ǵ, quư vị
bèn làm giống như thế, th́ mới dễ dàng tiếp
cận họ, khiến cho tâm họ cảm thấy thân thiết, tiếp nhận. Đức
Phật chỉ dạy chúng ta dùng Tứ Nhiếp Pháp để
nhiếp thọ hết thảy hữu t́nh. Như thế
th́ họ sẽ dễ dàng tiếp nhận. V́ lúc Phật pháp
tồn tại trên thế gian, hết thảy hữu t́nh đều
cùng y chỉ. Y chỉ th́ họ sẽ có thể đạt
được pháp hỷ, có thể đạt được
sự vui sướng nơi pháp. Vậy th́ “sống c̣n”
bao gồm hai loại: Một loại là sống c̣n theo pháp thế
gian, chẳng tranh đua với đời,
cuộc sống rất ít phiền năo. Một loại sống
c̣n khác là ở trong giáo, tức là trong Phật pháp, thường
xuyên hành đạo như thế, trưởng dưỡng
Pháp Thân của chính ḿnh.
Đức Phật nói đoạn này xong, tôn
giả Ưu Ba Ly cảm thấy thắc mắc, hỏi đức
Phật: “Đối với các ác hạnh tỳ-kheo, con nên
xử trí như thế nào?” Đoạn kế tiếp sẽ
nói về chuyện đó.
Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
7 hết
[1]
Đề Bà Đạt Đa từng ước hẹn với
thái tử A Xà Thế: A Xà Thế giết
cha (vua Tần Bà Sa La), cướp ngôi, c̣n Đề Bà Đạt
Đa sẽ cướp đoạt Tăng đoàn, hại
chết Phật, để ông ta đứng đầu
Tăng đoàn, trở thành Phật mới! Ông ta sẽ nhờ
thế lực của A Xà Thế trấn áp chư Tăng nếu
âm mưu thành công.
[2] Bánh chẻo (餃子, giảo tử, Dumpling) loại bánh gói bằng vỏ bột ḿ, thường có h́nh bán nguyệt. Vỏ bánh là miếng bột được cán
tṛn, gói nhân xong, sẽ vặn mép bột thành các nếp nhún,
trông giống như bánh quai vạc của Việt Nam. Bánh
chẻo làm xong sẽ hấp, hay thả vào nồi nước
luộc rồi ăn với súp (kiểu này sẽ được
gọi là Thủy Giảo, hay Sủi Cảo theo cách phát âm của
người Quảng Đông), hay đem nướng hoặc
chiên. Đây là thứ bánh bắt buộc phải có trong Tết
Nguyên Đán, thậm chí người Hoa thường hay tụ
họp gói bánh chẻo với nhau trước đêm giao thừa.
Nhân bánh thường là rau củ cắt vụn, thêm gia vị,
có thể trộn với thịt băm hay tôm. Tuy Giảo Tử
là tên gọi phổ biến, tùy vùng mà lại có tên gọi
khác nhau, như vùng Sơn Đông gọi là Cốt Tạc,
Hà Nam lại gọi là Chử Giác v.v… Tên gọi loại bánh
Gyōza của
Nhật chính là cách phát âm chữ Giảo Tử theo kiểu người
Nhật. Tương truyền, loại bánh này do Trương
Trọng Cảnh chế ra từ thời Nam Bắc Triều, có nhân bằng thịt dê để chữa bệnh.
[3] Mạn đầu (mằn thầu,
饅頭): Bánh bao không nhân.
[4] Tử Bách lăo nhân (1543-1603), Sư là
cao tăng Thiền Tông, tổ quán ở
Cú Dung huyện Tô Châu, đến đời cha Ngài dời
sang Thái Hồ thuộc Ngô Huyện, Tô Châu. Sư họ
Trầm, pháp
danh Đạt Quán, về sau đổi thành Chân Khả,
người đời sau xưng tụng Ngài bằng mỹ
hiệu Tử Bách Tôn Giả. Ngài cùng với các vị Liên
Tŕ, Ngẫu Ích, và Hám Sơn được gọi chung là Minh Mạt Tứ Đại Cao
Tăng. Khi sanh ra, đến năm tuổi Ngài vẫn
chưa biết nói. Về sau, gặp một vị dị Tăng, bảo: “Mai sau, đứa
trẻ này sẽ xuất gia”, Ngài mới bắt đầu
biết nói. Thuở bé, Ngài ngang tàng, hào hiệp, thích uống rượu,
hễ nói một lời không hợp là đánh nhau ngay.
Năm mười bảy tuổi, đeo kiếm làm hiệp
khách lăng du. Đến Xương Môn, do gặp trận
mưa lớn, đụt mưa tại chùa Hổ Khâu.
Đến đêm, nghe sư Minh Giác tụng Bát Thập Bát
Phật Sám, bỗng ngộ đạo. Sáng sớm hôm sau, xin
xuất gia với ngài Minh Giác. Sau khi đă xuất gia, Ngài
tĩnh tọa suốt đêm đến sáng, suốt đời
không nằm xuống giường. Ngài tánh rất
cương liệt, sau khi đă xuất gia, hễ thấy
Tăng nhân uống rượu, ăn thịt, sẽ quở
mắng thậm tệ. Do Ngài tŕ giới rất nghiêm, tánh t́nh
lại cương liệt, ai nấy đều sợ
Ngài. Năm hai mươi tuổi, thọ Cụ Túc giới,
để đọc kinh Hoa Nghiêm bèn bế quan suốt ba
năm tại chùa Cảnh Đức. Sau đó, Sư từ biệt thầy, hành
Đầu Đà hành cước suốt cả đời.
Ngài một ngày đi hai mươi dặm đường,
chân nứt nẻ, bèn dùng đá lót chân đi tiếp. Trên
đường hành cước, do nghe bài kệ Kiến
Đạo bèn ngộ đạo. Ngài đến làm môn hạ
của tổ Biến Dung suốt chín năm. Năm Vạn
Lịch thứ chín (1581), Sư phát nguyện
cùng với các thiện tín như tri phủ Gia Hưng in khắc
Đại Tạng Kinh. Quyên mộ măi đến năm Vạn
Lịch 17 (1589) mới bắt đầu khắc
ván in tại Ngũ Đài. Bản in này thường
được gọi là Gia Hưng Tạng. Năm Vạn
Lịch 14 (1586), do được thư mời của
ngài Hám Sơn, đôi bên gặp gỡ tại thành Tức Mặc ở Lao Sơn, trở
thành bạn thâm giao. Năm Vạn Lịch 23 (1595), ngài Đức Thanh Hám Sơn bị vu hăm tội lén xây chùa, bị hạ ngục, rồi
đày đi Lôi Dương làm lính. V́ t́m cách cứu Hám Sơn, Ngài viết biểu
xin triều đ́nh ngưng thâu thuế các mỏ quặng,
lặn lội các nơi. Năm Vạn Lịch 31 (1603), v́ vua Vạn Lịch (Minh Thần
Tông) tính phế trưởng lập ấu, dẫn phát
đến vụ án yêu thư, yêu ngôn, ngài Tử Bách vốn
là bạn thân của Trầm Lư thuộc Đông Lâm đảng (các
Nho sĩ chủ trương chống lại chính sách quan liêu và
đề xướng cải tiến đất nước.
Tư tưởng này bị bọn triều thần hủ
bại cho là “yêu ngôn hoặc chúng”), nên bị vu cáo, tống
giam vào ngục. Ngài bị bọn nha lại Đông Xưởng
và vệ binh Cẩm Y Vệ tra khảo thân thể rách mướp,
chỉ c̣n thoi thóp. Đến ngày Mười Bảy tháng Chạp,
Ngài cố sức tắm gội, ngồi ngay ngắn, niệm Tỳ Lô Giá Na Phật mấy câu rồi
viên tịch. Sau khi mất, đệ tử đưa thi thể về chôn ở chùa Từ
Huệ (phía Tây Bắc Kinh). Khi nạn lụt xảy ra,
đệ tử đưa di thể về am Tịch Chiếu
ở Kính Sơn để chôn. Về sau, tháp bị ngập
nước, lại dời về Khai Sơn, đă mười
ba năm trôi qua, toàn thân xá lợi vẫn bất hoại!
Măi cho đến năm Vạn Lịch 44 (1616), khi ngài Hám Sơn Đức
Thanh được tha, trở về Bắc Kinh cử hành
lễ trà tỳ, đưa tro cốt về thờ tại
Văn Thù Đài ở Kính Sơn thuộc huyện Dư
Hàng, tỉnh Chiết Giang.
[5] “Tiêu
sái”
(瀟洒)
là từ ngữ h́nh dung tinh thần lẫn cử chỉ phóng
khoáng, ung dung, lưu loát, tự nhiên, thanh nhă, thoát tục,
nhàn nhă tự tại, chẳng cứng ngắc, câu nệ.
Tuy phóng khoáng nhưng không xuồng să, vẫn giữ
được chừng mực lễ nghi, khiến người
khác kính trọng, ngưỡng mộ. Chữ này cũng thường
được dùng để mô tả nét thư pháp nhẹ
nhàng, bay bướm, tài hoa, nhưng không phóng túng, thô cuồng.
[6] Chùa Tịnh Từ ở
phía Nam của Tây Hồ, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang,
đối diện tháp Lôi Phong, được xếp vào
trong Tây Hồ Tứ Đại Cổ Sát (bốn ngôi
chùa cổ lớn ở Tây Hồ), và Tây Hồ Thập
Cảnh. Chùa do Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục
xây vào năm 954 để làm chỗ trụ tích cho tổ
Vĩnh Minh Diên Thọ. Khi chùa bị hỏa hoạn, nhà chùa
vận động quyên mộ. Ngài Đạo Tế (do h́nh
dung cử chỉ điên khùng, nên thường bị gọi là Tế Điên)
cũng đi ra ngoài, ăn uống no say, khật khưỡng
về chùa. Tăng chúng hỏi: “Có quyên mộ được
đồng nào hay không?” Sư đáp: “Nằm hết trong bụng
tôi rồi”. Mọi người lắc đầu, Sư
lăn ra ngủ mê mệt suốt ba ngày mới tỉnh. Sau đó, Sư
đến bên cái giếng ở nhà bếp, kéo từng súc gỗ
lên để làm cột kèo, cho đến khi thợ mộc
nói đủ rồi mới thôi. C̣n một súc gỗ
chưa dùng tới, bị Sư bỏ lại
trong giếng. Từ đó, giếng này đổi tên thành
giếng Thần Vận. Thường mọi người
chỉ biết đến Ngài qua các câu chuyện thần dị,
chữa bệnh, thậm chí tôn xưng Ngài là Tế Công Hoạt
Phật, chứ ít ai biết Ngài học vấn uyên bác,
được tôn là tổ thứ sáu của phái
Dương Kỳ trong tông Lâm Tế của Thiền Tông.
Ngài c̣n để lại bộ Tuyên Phong Ngữ Lục (鐫峯語錄) gồm mười quyển, và rất nhiều các bài thi kệ
được chép trong các bộ Tịnh Từ Tự Chí,
Đài Sơn Phạm Hưởng v.v…
[7] Ngài Phật Ấn (1032-1098) là một
vị cao tăng thuộc tông Vân Môn nhà Thiền, pháp hiệu
Liễu Nguyên, pháp tự Giác Lăo. Ngài cũng có công chấn
hưng Tịnh Độ, từng làm xă chủ của Thanh
Tùng Xă, chuyên hướng dẫn các xă viên
tu Tịnh Độ. Tống Thần Tông đă ban kim bát
để tuyên dương phẩm đức của Ngài.
Khi Ngài ở chùa Kim Sơn, từng làm bạn thân của Tô
Đông Pha. Theo Kim Sơn Tự Chí, khi Tô Đông Pha đấu
đá với Tư Mă Quang trong triều đ́nh bị thất
thế, bị biếm về Qua Châu. Họ Tô nghe nói ở
Qua Châu có một vị ḥa thượng rất nổi tiếng
là Phật Ấn, bèn đến gặp.
Ông ta khoe tài kinh luân, nói thao thao bất tuyệt cả buổi,
bàn luận quốc sách, đông tây kim cổ, Phật Ấn
chỉ lẳng lặng chăm chú nghe. Tô Đông Pha trong tâm
khinh thường Phật Ấn chỉ mang cái danh hăo, chẳng
hiểu biết ǵ. Phật Ấn hỏi Tô Đông Pha: “Ngài
thấy lăo nạp là người như thế nào?” Tô
Đông Pha khinh bỉ đáp: “Ngươi chỉ có tiếng hăo, vờ
vĩnh cao sâu, chẳng có bản lănh thật học, chỉ
lừa gạt người khác mà thôi”. Phật Ấn mỉm
cười, chẳng nói ǵ. Tô Đông Pha càng thêm vênh váo, hỏi
ngược: “Nhà sư thấy ta ra sao?” Sư đáp: “Ngài
là bậc đại học sĩ, rất có học vấn,
có tu dưỡng, lăo nạp tự thẹn chẳng bằng”.
Khi về nhà, Tô Đông Pha càng thêm đắc ư, khoe khoang với
cô em gái là Tô Tiểu Muội. Cô em nghe xong, cười sặc
cả cơm: “Anh gièm chê ḥa thượng hết lời,
Ngài chẳng giận mà c̣n tán dương anh, anh nói xem ai là
người tu dưỡng? Ai có học vấn thật sự?
Thật xấu hổ là anh chẳng hiểu biết ǵ hết
mà vẫn cứ nhơn nhơn đắc ư”.
[8] Mạt Đạt Na (Madana), sách Huệ
Lâm Âm Nghĩa giảng: “Mạt Đạt Na quả, c̣n gọi
là Ma Đà Na, hoặc Ma Đà La, dịch là Túy Quả, chỉ
có ở Tây Vực, cơi này không có. Quả ấy to như quả
cau, ăn vào sẽ bị say, có thể dùng làm thuốc”.
Tự điển Phật Quang nói đây là loại quả
có tên khoa học là Datura Metel, tức họ Cà Độc
Dược. Loại này rất độc, có thể gây ảo
giác, co giật, thậm chí gây chết người, nên
dường như Datura Metel chẳng phải là loại quả
làm thuốc đang nói ở đây.
[9] Trong tùng lâm theo quy củ xưa, trừ
các vị chức sự, hay trưởng lăo đă cao tuổi
có liêu pḥng riêng để tiện nghỉ ngơi, dưỡng
bệnh, c̣n chư Tăng thanh chúng sẽ chia thành từng chúng, ngủ trong các
gian nhà lớn, hoàn toàn không có pḥng riêng. Mỗi vị chỉ
được kê một tấm ván làm giường vừa
đủ để một người nằm. Nếu trở
ḿnh không cẩn thận, sẽ rơi ngay xuống đất.
Tấm ván ấy được gọi là Đơn. Do vậy,
nếu gia nhập Tăng đoàn của một ngôi chùa sẽ
gọi là “quải đơn”, khi xin cáo từ ra đi
th́ gọi là “trừu đơn” (rút đơn).
[10] Thước ở đây là thước
Tàu (xích, 呎), độ dài thay đổi xê xích
tùy theo triều đại, nhưng không quá 33 cm.
[11] Trống bỏi (波浪鼓, ba lăng cổ) vốn là một loại
trống nhỏ có thể cầm trên tay, tang trống rất
nhỏ. Trống có hai mặt, có cán, hai bên tang trống
buộc hai sợi dây buộc một ḥn gỗ hoặc sỏi
để khi lắc, ḥn gỗ/sỏi đập vào mặt trống, sẽ phát ra tiếng. Loại
trống này thường dùng cho trẻ con chơi hay dành cho
thợ nhuộm dùng để rao hàng. Mật Tông Tây Tạng
cũng dùng một loại trống bỏi không có cán, eo thắt,
thường gắn thêm đuôi bằng các giải vải thêu thùa nhiều
màu sặc sỡ, gọi là Damaru để lắc chung với
Kim Cang linh (Dril-bu) trong khi tụng niệm, hoặc khi tăng
sĩ múa các điệu vũ Dakini hay các bài Kim Cang Vũ
khác. Loại trống lớn
hơn gọi là Chod drum cũng là h́nh thức trống bỏi.
[12] Bang (梆), c̣n gọi là Ngư Bang, là một dụng
cụ báo hiệu trong trai đường của các đại
tùng lâm, thường là gỗ đẽo thành h́nh một con
cá lớn (hàm ư luôn tỉnh thức v́ cá ngủ vẫn mở
mắt). Khi cơm nước đă chuẩn bị ổn
thỏa, vị Tăng trực nhật sẽ đánh ba hồi
bang để Tăng chúng xếp hàng vào trai đường
thọ trai. Có nơi c̣n dùng kèm thêm mộc bản và báo chung.
[13] “Tánh tội” là những tội có bản chất
đă ác. Hễ vi phạm sẽ mắc tội báo, như
giết, trộm, dâm, dối v.v… “Giá tội” là những tội chế
định để ngăn ngừa nhân duyên khiến cho
người ấy phạm tánh tội (như giới uống
rượu v́ người uống rượu sẽ loạn
tâm. Tuy vậy, Câu Xá Luận coi uống rượu là tánh tội), hoặc những giới chế
định ngăn ngừa sự gièm chê hoặc hiềm nghi của thế gian.
[14] Do đời Đường, ngài
Đạo Tuyên hoằng dương Tứ Luật Tông tại
đạo tràng Chung Nam Sơn, nên Luật Tông truyền thừa
theo giáo nghĩa của Ngài được gọi là Nam
Sơn Luật Tông. Ngài Đạo Tuyên trước tác rất nhiều
bản chú giải. Trong đó, có năm tác phẩm
được gọi là Nam Sơn Ngũ Đại Bộ
được coi là trọng yếu nhất. Về sau, các
môn nhân tinh giản thành ba bộ, gọi là Nam Sơn Tam
Đại Bộ, tức Tứ Phần
Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao, Tứ Phần
Luật Tỳ Kheo Hàm Chú Giới Bổn, và Tứ Phần
Luật Tùy Cơ Yết Ma Sớ. Trải qua chiến loạn
liên miên vào cuối đời Minh, các tác phẩm ấy bị
thất lạc. Cho đến thời Dân Quốc, cư
sĩ Từ Úy Như thỉnh các tác phẩm từ Nhật
Bản trở về, đem khắc in tại Thượng
Hải, nhưng bị sai sót rất nhiều. Ngài Hoằng
Nhất phải đối chiếu với nhiều tạng
kinh tại Nhật Bản và Cao Ly, giảo chánh suốt hai
mươi năm mới có được bản hoàn thiện.
Do cách hành văn theo lối cổ không chấm câu, cho nên nếu
không có học vấn rộng răi, sẽ dễ ngắt câu
sai, trở thành hiểu lầm hoàn toàn ư nghĩa.