Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
9
大乘大集地藏十輪經講記
Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng
夢參老和尚主講
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
(Kinh) Hựu thiện nam tử! Tích hữu
quốc vương, danh Siêu Phước Đức. Hữu
nhân phạm quá, tội ưng hợp tử, vương tánh
nhân từ, bất dục đoạn mạng. Hữu nhất
đại thần, đa chư trí sách, tiền bạch
vương viết: “Nguyện vật vi ưu, chung bất
linh vương đắc sát sanh tội, bất phó khôi khoái
linh sát thử nhân”. Thời bỉ đại thần, dĩ
kỷ trí lực, tương phạm tội nhân, phó ác túy
tượng. Thời ác túy tượng, dĩ tỵ quyển
thủ tội nhân lưỡng hĩnh, cử thượng
không trung, tận kỳ thế lực, dục phác ư
địa. Hốt kiến thử nhân thường hữu
xích sắc, vị thị ca-sa, tâm sanh tịnh tín, tiện từ
trí địa, sám tạ bi hào, quỵ phục ư tiền,
dĩ tỵ vấn túc, thâm tâm kính trọng, chiêm ngưỡng
bỉ nhân. Đại thần kiến dĩ, tŕ hoàn bạch
vương. Vương văn hỷ ngạc, thán vị tằng
hữu, tiện sắc quốc nhân gia kính Tam Bảo. Nhân tư
đoạn sát, vương Thiệm Bộ Châu. Thiện nam
tử! Đương quán như thị quá khứ túy
tượng, tuy thọ vô hạ bàng sanh thú thân, nhi kính ca-sa,
bất tạo ác nghiệp.
(經)又善男子,昔有國王,名超福德。有人犯過,罪應合死,王性仁慈,不欲斷命。有一大臣多諸智策,前白王曰:‘願勿為憂,終不令王得殺生罪,不付魁膾令殺此人。’時彼大臣以己智力,將犯罪人付惡醉象。時惡醉象,以鼻卷取罪人兩脛,舉上空中,盡其勢力欲撲於地,忽見此人裳有赤色,謂是袈裟,心生淨信,便徐置地,懺謝悲號,跪伏於前,以鼻抆足,深心敬重瞻仰彼人。大臣見已,馳還白王,王聞喜愕,嘆未曾有。便敕國人,加敬三寶,因斯斷殺,王贍部洲。善男子,當觀如是過去醉象,雖受無暇傍生趣身,而敬袈裟,不造惡業。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Xưa
kia có quốc vương, tên là Siêu Phước Đức.
Có kẻ phạm lỗi, tội đáng phải chết. Tánh
vua nhân từ, chẳng muốn đoạn mạng kẻ đó.
Có một đại thần có nhiều kế sách trí huệ,
đối trước vua, tâu rằng: “Xin bệ hạ đừng
lo, thần trọn chẳng khiến cho bệ hạ mắc
tội sát sanh, chẳng giao cho đao phủ giết người
này”. Khi đó, đại thần dùng trí lực của chính
ḿnh, đem kẻ phạm tội giao cho con voi say hung ác. Lúc đó, con voi
say hung ác dùng ṿi cuốn lấy hai bắp chân tội nhân, giơ
lên trên không, tận hết sức lực, toan quăng kẻ
đó xuống đất, bỗng thấy cái xiêm người
ấy mặc có màu đỏ, cho là ca-sa, tâm sanh tịnh tín,
liền thong thả đặt xuống đất, sám hối,
tạ lỗi, gào lên buồn bă, quỳ phục trước
mặt, dùng ṿi vuốt ve chân [kẻ
đó], thâm tâm kính trọng, chiêm ngưỡng kẻ ấy. Đại
thần đă thấy, bèn vội quay về, tâu với vua.
Vua nghe chuyện hoan hỷ, kinh ngạc, than là chưa từng
có, liền sắc truyền người trong nước càng
thêm tôn kính Tam Bảo. Do vậy, thôi giết hại, vua thống
lănh trọn Thiệm Bộ Châu. Này thiện nam tử! Hăy nên
quán voi say trong quá khứ như thế, tuy thọ thân chẳng
nhàn hạ trong đường bàng sanh, mà kính trọng
ca-sa, chẳng tạo ác nghiệp).
Đây là kể chuyện cũ. Những câu
chuyện cũ sẽ khơi gợi chúng ta sanh khởi tín
tâm. Trong quá khứ có vị quốc vương, tên là Siêu Phước
Đức, có người phạm tội. “Tội ưng
hợp tử, vương tánh nhân từ, bất dục đoạn
mạng” (tội đáng phải chết, vua tánh nhân từ,
chẳng muốn đoạn mạng): Vua không muốn giết
gă tội nhân đó, không muốn đoạn mạng hắn,
có nghĩa là muốn miễn trừ tội tử h́nh. Tuy hắn
phạm tội ác rất lớn, đáng bị tử h́nh, bèn
toan lưu đày hắn. “Hữu nhất đại thần,
đa chư trí sách” nghĩa là có một vị đại
thần rất có trí huệ, có sách lược. Ông ta bèn tâu
với vua Siêu Phước Đức: “Nguyện bất
vi ưu!” (xin đừng lo buồn). Tâu quốc vương!
Ngài đừng v́ chuyện này mà rầu rĩ, thần sẽ
làm cho bệ hạ chẳng mắc tội sát sanh, cũng có
nghĩa là: Tuy chẳng giết, vẫn có thể xử phạt
hắn. “Bất linh khôi khoái, linh sát thử nhân” (Cũng
chẳng giao cho đao phủ giết chết kẻ này): “Khôi
khoái” (魁膾) là đao
phủ. Vị đại thần này, dùng sức trí huệ
của ḿnh, đem phạm nhân “phó ác túy tượng” (giao
cho voi say hung ác), tức
là dùng một con súc sanh để chấp pháp. Con voi ấy
rất hung ác, đổ rượu cho voi uống say. Người
say sẽ mất tánh người, voi say cũng đánh mất
bản tánh của nó. Con voi ấy dùng ṿi “quyển thủ
lưỡng hĩnh” (cuốn lấy hai bắp chân) của
tội nhân, “lưỡng hĩnh” (兩脛) là hai
bắp chân. Nó cuốn lấy kẻ đó “quyển cử
không trung” (co ṿi,
giơ lên trên không), dùng ṿi nhấc người ấy
lên cao. “Tận kỳ thế lực” (tận hết sức
nó): Con voi ấy dùng hết khí lực, muốn quăng kẻ
đó xuống đất, từ trên cao quật xuống;
nhưng con voi ấy bỗng dưng phát hiện y phục khoác trên thân
kẻ đó có màu đỏ, “hốt kiến thử nhân
thường hữu xích sắc” (bỗng thấy cái xiêm
của kẻ đó có màu đỏ). “Thường” (裳) là xiêm
y; trang phục của kẻ đó có màu đỏ, nó ngỡ
đó là ca-sa. Con voi say hung ác liền sanh khởi tín tâm thanh
tịnh. “Tiện từ trí địa” (bèn thong thả
đặt xuống đất), bèn chầm chậm, nhẹ
nhàng đặt người ấy xuống đất.
“Sám tạ bi hào” (sám hối, tạ lỗi,
kêu lên buồn bă): Con voi ấy bèn hướng về kẻ
đó sám hối, tạ lỗi, buồn bă khóc lóc. “Hào”
(號) là lớn
tiếng kêu khóc. “Quỵ phục ư tiền” (quỳ
phủ phục trước mặt): Quỳ gối trước
kẻ đó. “Dĩ tỵ vấn túc” tức là dùng ṿi
cọ chân kẻ đó, vuốt ve chân tội nhân. “Thâm tâm
kính trọng, chiêm ngưỡng bỉ nhân. Đại thần
kiến dĩ, tŕ hoàn bạch vương” (tâm kính trọng
sâu xa, chiêm ngưỡng kẻ đó. Đại thần thấy
vậy, vội trở về tâu với vua): Vị đại
thần rất ngạc nhiên, liền tâu với vua. “Vương
văn hỷ ngạc” (vua nghe tâu, hoan hỷ, kinh ngạc):
Nhà vua cũng rất kinh ngạc, có chuyện như vậy!
“Thán vị tằng hữu” nghĩa là tán thán hiếm có,
bèn “sắc quốc nhân gia kính Tam Bảo, nhân tư đoạn
sát” (sắc truyền người dân trong nước, càng
thêm tôn kính Tam Bảo. Do vậy, chấm dứt sát hại):
Quốc gia ấy từ đó trở đi, chẳng c̣n sát
sanh, đều tŕ giới “bất sát sanh”. Thiện nam
tử hăy nên quán voi say trong quá khứ như thế, tuy thọ
thân chẳng nhàn hạ trong đường bàng sanh; trong phần
trên là ngạ quỷ, ở đây là súc sanh, chúng sanh trong ba ác
đạo đối với tội nhân mặc ca-sa đỏ đều
sanh khởi tâm cung
kính to lớn dường ấy. “Nhi kính ca-sa, bất tạo
ác nghiệp” (kính trọng ca-sa, chẳng tạo ác nghiệp),
nhưng con người chẳng phải là như vậy.
(Kinh) Nhiên vị lai thế, hữu Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ,
trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, tâm hoài độc ác, vô hữu từ mẫn, tạo chư
tội nghiệp, quá ác túy tượng, ngu si, ngạo mạn,
đoạn diệt thiện căn. Ư quy ngă pháp nhi xuất
gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp
khí, thế trừ tu phát, bị phục ca-sa chư đệ
tử sở, bất sanh cung kính, năo loạn, ha mạ, hoặc
dĩ tiên trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế
lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất
thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật,
phạm chư đại tội, đoạn diệt thiện
căn, phần thiêu tương tục, nhất thiết trí
giả chi sở viễn ly, quyết định
đương sanh Vô Gián địa ngục.
(經)然未來世,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,心懷毒惡,無有慈愍,造諸罪業,過惡醉象,愚癡傲慢,斷滅善根。於歸我法而出家者,若是法器,若非法器,剃除鬚髮,被服袈裟,諸弟子所,不生恭敬,惱亂呵罵,或以鞭杖楚撻其身,或閉牢獄,乃至斷命。此於一切過去、未來、現在諸佛,犯諸大罪,斷滅善根,焚燒相續,一切智者之所遠離,決定當生無間地獄。
(Kinh: Nhưng trong đời vị lai
có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư
sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những kẻ
Chiên-đồ-la, ôm
ḷng ác độc, chẳng từ mẫn, tạo các tội
nghiệp c̣n hơn voi say hung ác, ngu si,
ngạo mạn, đoạn diệt căn lành. Đối
với các đệ tử quy y pháp của
ta mà xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng
phải pháp khí, cạo bỏ râu tóc, khoác mặc ca-sa, bèn chẳng
sanh tâm cung kính, năo loạn, quở trách, chửi bới, hoặc
dùng roi, gậy đánh đập thân họ, hoặc nhốt
vào lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó
phạm tội lớn đối với hết thảy chư
Phật trong quá khứ, vị lai, và hiện tại, đoạn
diệt căn lành, thiêu đốt liên tục, hết thảy
người trí xa ĺa, quyết định sẽ sanh vào địa
ngục Vô Gián).
“Vị
lai” là khi nào?
Có thể là thời hiện tại của chúng ta! Hiện
thời được gọi là Mạt Pháp. Xă hội hiện
tại có phải là thật sự như vậy hay không? Như
chúng ta là nơi có Phật pháp, c̣n biết Tam Bảo là ǵ, chứ
nơi chẳng có Phật pháp th́ căn bản chẳng hiểu
Tam Bảo là ǵ! Tượng đắp ở chùa Nam Phổ
Đà tại Hạ Môn, chính giữa là Thích Ca Mâu Ni Phật,
Dược Sư Phật, và A Di Đà Phật, ba thánh tượng.
Hai bên các Ngài đắp tượng hộ pháp. Một là Đế
Thích Thiên, tượng kia là Đại Phạm Thiên, cũng
là Đại Phạm Thiên Chúa, cũng
là chúa cơi trời. Chúng ta thấy các tượng ấy, chứ
những nơi khác chẳng rơ rệt như ở chùa Nam Phổ
Đà. Đại Phạm thiên vương cũng hộ tŕ
Phật pháp, thỉnh pháp, chuyên môn hộ tŕ Phật pháp.
Tôi đă thấy vài người xuất gia ở
Mỹ. Họ tự đi làm, kiếm tiền, kiếm tiền
đến một mức nhất định, bèn đến
trung tâm bế quan để bế quan: Giao một vạn đồng
để bế quan ba năm, ba tháng, hoặc ba ngày. Có một
vị đi làm nửa ngày, nửa ngày học pháp. Hiện
thời, các quốc gia chẳng có Tam Bảo vẫn nhiều
hơn. Chẳng hạn như Đại
Lục và Đài Loan có Tam Bảo, [đại chúng] có cung
kính đối với tỳ-kheo hay không? Đa số mọi
người cung kính, nhưng vẫn có một số người
chẳng cung kính. Đối với tỳ-kheo phá giới,
hoặc tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni chẳng tu hành, họ sẽ
hủy báng. Nếu đọc kinh Đại Tập Thập
Luân mà tin tưởng, sẽ có thể [có thái độ] tốt
đẹp hơn đôi chút. Nếu chẳng tin th́ vẫn
cứ như vậy. Đức Phật nói như thế đó.
Những kẻ đó cho đến vua, quan, dân
chúng “tâm hoài
độc ác” (ôm ḷng độc ác), chẳng
từ mẫn, cứ làm đúng như vậy, c̣n dữ dội
hơn con voi ác bị say, đoạn mất thiện
căn.
Đối với các đệ tử nương
theo pháp của đức Phật để xuất gia, dù
là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, cạo
bỏ râu tóc, mặc pháp phục, họ chẳng
cung kính, chẳng sanh tâm cung
kính, cứ năo loạn, quở trách, chửi bới, thậm
chí dùng roi, gậy đánh
đập, nhốt vào lao ngục. Chuyện này vào lúc mới
thành lập Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa [đă xảy ra] khá
nhiều. Vào thuở đó, người xuất gia trong chùa
miếu nhất loạt bị bắt bỏ
đạo, hoàn tục, măi cho đến năm 1980, theo chánh sách tôn
giáo, mới lại khôi phục, trả lại chùa miếu
cho ḥa thượng. Khi chánh sách được thực hiện,
muốn t́m ḥa thượng, t́m không ra, phải t́m các ḥa thượng
đă hoàn tục lập gia đ́nh trở về. Thuở đầu,
từ năm 1980 cho đến 1983, t́nh huống là như thế
đó, [các vị sư đă hoàn tục ấy] mặc y phục
tại gia đi làm, đến chùa miếu làm việc, bèn khoác
áo tràng vào. Có chuyện th́ mặc vào, xong việc th́ tan sở,
treo áo tràng lên, trở về nhà. Hiện thời th́ không như
vậy nữa. Kể từ sau năm 1983, chánh sách được
thực hiện tiến bộ hơn nữa. Tăng ra Tăng,
chùa ra chùa, từ lúc đó mới được khôi phục
nguyên trạng!
(Kinh) Nhược Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, thành tựu như thị đệ tam ác luân. Do thử
nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên,
long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo, vô động
hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng
giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất
cửu tiện đương chi thể phế khuyết,
ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ
chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng
chung định sanh Vô Gián địa ngục.
(經)若剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,成就如是第三惡輪,由此因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。
(Kinh: Nếu vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn
v.v… thành tựu ác luân thứ ba như thế; do nhân duyên ấy,
khiến cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa
thần v.v… hộ
tŕ quốc độ là những
vị tin kính Tam Bảo chẳng lay động, chẳng hư hoại, bèn sanh tâm
sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn
v.v… Nói rộng là cho đến các vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la,
tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn…
những gă Chiên-đồ-la ấy chẳng bao lâu sẽ liền
tứ chi tàn phế, thiếu khuyết. Trong nhiều
ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói được,
chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực
khó thể chịu đựng. Mạng
chung, nhất
định sanh vào địa ngục Vô Gián).
Trên đây là nói
tổng quát, đều là ác luân!
(Kinh) Phục thứ thiện nam tử!
Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu,
quảng thuyết năi chí bất kiến, bất úy hậu
thế khổ quả, kiến hữu sở thí tứ
phương Tăng
vật, vị chư tự xá, hoặc tự xá vật, hoặc
chư viên lâm, hoặc viên lâm vật, hoặc chư trang điền,
hoặc trang điền vật, hoặc sở nhiếp thọ
tịnh nhân nam nữ, hoặc sở nhiếp thọ súc sanh
chủng loại, hoặc sở nhiếp thọ y phục,
ẩm thực, hoặc sở nhiếp thọ sàng, ṭa, phu cụ,
hoặc sở nhiếp thọ bệnh duyên y dược,
hoặc sở nhiếp thọ chủng chủng tư thân ưng
thọ dụng vật. Như thị sở thí tứ
phương Tăng
vật, cụ giới, phú đức, tinh tấn tu hành Học,
Vô Học hạnh, năi chí chứng đắc tối hậu
cực quả thanh tịnh bật-sô sở ưng thọ dụng.
(經)復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,廣說乃至不見不畏後世苦果。見有所施四方僧物,謂諸寺舍,或寺舍物,或諸園林,或園林物,或諸莊田,或莊田物,或所攝受淨人男女,或所攝受畜生種類,或所攝受衣服飲食,或所攝受床座敷具,或所攝受病緣醫藥,或所攝受種種資身應受用物,如是所施四方僧物,具戒富德,精進修行,學無學行乃至證得最後極果,清淨苾芻所應受用。
(Kinh: Lại này thiện nam tử!
Trong đời vị lai, trong cơi Phật này, có vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn v.v… là bọn Chiên-đồ-la làm theo bạn ác,
căn lành kém ít, nói rộng là cho đến chẳng thấy,
chẳng sợ khổ quả trong đời sau, thấy các
vật cúng thí cho tứ phương Tăng, tức là chùa
chiền, hoặc vật dụng trong chùa, hoặc các vườn
rừng, hoặc các vật trong vườn rừng, hoặc
các trang trại, ruộng đất, hoặc vật thuộc
các trang trại, ruộng đất, hoặc các tịnh nhân
nam nữ thuộc quyền sở hữu của nhà chùa, hoặc
các loài súc sanh của chùa, các y phục, thức ăn của
chùa, hoặc giường, ṭa, đồ trải của chùa,
hoặc thuốc men chữa trị bệnh tật của
chùa, hoặc các vật cần dùng cho cuộc sống đáng
nên thọ dụng của nhà chùa. Các vật thí cho tứ phương
Tăng như
thế đáng nên dành cho các bậc đủ giới, giàu đức,
tinh tấn tu hành thuộc các địa vị Học và
Vô Học, cho đến bậc tỳ-kheo thanh tịnh chứng
đắc cực quả tối hậu thọ dụng).
Nói chung là chẳng tin tưởng nhân quả
báo ứng. Bất quá, những quốc gia nói đến dân
chủ th́ c̣n tin theo nhân quả, chỉ là chẳng tin tưởng
khẩn thiết như Phật giáo, nhưng họ vẫn mong
làm chuyện tốt. Các quốc gia phương Tây bảo vệ
động vật; bất quá, họ chẳng bảo vệ
triệt để, cũng chẳng tŕ giới kiêng giết
để bảo vệ. Tuy vậy, có cái hay là họ bảo
vệ cầm thú, yêu thương,
bảo vệ súc sanh, tức là cũng có ḷng nhân từ,
vẫn sợ hăi khổ quả trong vị lai. Đấy là
nói đến điều ǵ vậy? Trong phần trên là nói về
người, ở đây nói về vật. Những kẻ
ác, vua ác đó, họ tước đoạt các vật phẩm
dành để cúng dường tứ phương Tăng nhân, hoặc
là pḥng ốc trong chùa, hoặc vật dụng trong chùa chiền,
vườn rừng, hoặc vật trong vườn rừng,
hoặc là điền trang, hoặc các vật thuộc điền
trang, hoặc các tịnh nhân nam nữ thuộc về nhà chùa.
Bọn quốc vương cho đến đại thần
như thế đă tước đoạt vật dụng
của Tăng Già khá nhiều. Nếu mọi người
đến Bắc Kinh, tại Bắc Kinh có chùa Đàm Chá (潭柘), tọa
lạc tại ngoại thành Bắc Kinh. Gần như một
nửa đất đai nơi đó thuộc về chùa Đàm
Chá. Thuở ấy, các vị Tăng ăn cơm trong chùa có
khoảng hơn ba ngàn người, chia thành bảy chỗ ăn
cơm, tức bảy chỗ
đánh bang[1],
chín chỗ để tụng niệm công khóa. Hiện thời
có những chỗ bị hủy hoại, vừa trùng tu!
Đoạt ruộng vườn của nhà
chùa, đoạt pḥng ốc của chùa, đă tạo
tội ấy th́ phải
thọ báo. “Tịnh nhân nam nữ” là như thế này:
Trong chùa miếu [nếu là chùa ni, các tịnh nhân] đều
là nữ nhân. Những người sống trong ngôi chùa lớn
đều là nam nhân, [tịnh
nhân cũng toàn là nam giới]. V́ sao gọi là “tịnh nhân”?
Họ phát tâm, chẳng hạn như làm công quả, ở
trong chùa, ăn cơm nhà chùa, làm lụng trong trang viên của
chùa miếu, hoặc chăm sóc chùa miếu. Chuyện quét dọn,
làm vệ sinh sạch sẽ, hoặc phóng sanh do họ chăm
lo. Như vườn rừng của Cổ Sơn nhiều ngần
ấy, cây ăn quả trên núi có đến mấy vạn
gốc quít, phải có người hái, có người lo
toan, những người đó đều gọi là “tịnh
nhân”. Nấu cơm trong chùa, làm hết thảy mọi công
việc khác nhau, đều là tịnh nhân. Tỳ-kheo chẳng
thể làm! Hễ tỳ-kheo làm, sẽ là phạm giới. Đó
là trong thuở ấy, nay th́ đều phải tự làm. Khi
Phật giáo truyền sang Trung Hoa, đều là tự gieo trồng,
tự ăn. Ḥa thượng tự ḿnh trồng trọt, tự
ḿnh nấu cơm, tự lo liệu cuộc sống. Đấy
là tùy thuận chế độ pháp luật của quốc
gia. Phàm là kẻ cướp đoạt vật dụng của
Tăng, sẽ phải thọ báo, nhất định sẽ
thọ báo!
Trong chùa miếu, c̣n có rất
nhiều thứ, hoặc các loài chúng sanh thuộc quyền sở
hữu của nhà chùa. Hoặc y phục, thức ăn của
nhà chùa, hoặc giường, ṭa, đồ trải nằm,
hoặc các thứ thuốc men chữa bệnh, các loại vật dụng cần dùng
cho cuộc sống thuộc sở hữu nhà chùa, các vật
thí cho tứ phương Tăng như thế, là những
vật đáng nên dành cho những vị trọn đủ
giới đức, tinh tấn tu hành, học theo hạnh Học
và Vô Học, cho đến các vị bật-sô thanh tịnh
chứng đắc cực quả tối hậu hưởng
dụng. Các vật phẩm trên đây, cho đến động vật và thực
vật: Thực vật ở trong vườn,
rừng, động vật trong chùa miếu; có chùa miếu c̣n có
lừa, ngựa, v́ họ có trang viên. Trong trang viên, nhất
định có lừa, ngựa, có ḅ, những thứ ấy
đều thuộc về chùa miếu.
C̣n có những con vật được người
ta phóng sanh. Trong vùng núi, đại đa số là núi non, họ
thả chúng trên núi. Vùng núi ấy thuộc về nhà chùa, cũng
là hết thảy các thứ thuộc về ḥa thượng.
Dẫu cho người hay vật, đều thuộc về
quyền sở hữu và hưởng dụng của bậc
có đạo đức, tinh tấn tu hành, thuộc địa
vị Hữu Học và Vô Học. Hữu Học là chưa chứng
đắc Tứ Quả, Vô Học là địa vị đă
chứng Tứ Quả. Đạt tới địa vị
Vô Học th́ chứng đắc cực quả. Đó là sự
hưởng dụng đúng lư của tỳ-kheo thanh tịnh.
(Kinh) Bỉ Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn,Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, dĩ cường thế lực, xâm đoạt cụ
giới thanh tịnh bật-sô, bất thính thọ dụng,
hồi dữ phá giới ác hạnh bật-sô, kinh doanh tại
gia chư tục nghiệp giả, linh cộng thọ dụng,
hoặc độc thọ dụng. Phá giới bật-sô kư thọ
đắc dĩ, hoặc cộng thọ dụng, hoặc
độc thọ dụng, hoặc dữ tục nhân, đồng
cộng thọ dụng. Do thị nhân duyên, linh hộ quốc
độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần
đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả,
ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi
chí sa-môn,Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn,Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế
khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất
ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn,
mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.
(經)彼剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,以強勢力侵奪具戒清淨苾芻,不聽受用;回與破戒惡行苾芻,經營在家諸俗業者,令共受用,或獨受用。破戒苾芻既受得已,或共受用,或獨受用,或與俗人,同共受用。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。
(Kinh: Gă vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
ấy cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới
sa-môn, Bà-la-môn v.v… do thế lực mạnh mẽ, xâm phạm,
cướp đoạt bật-sô trọn đủ giới
hạnh thanh tịnh, không cho họ hưởng dụng,
trao cho bọn bật-sô phá giới là những kẻ kinh
doanh các sự nghiệp thế tục của người tại
gia để cùng nhau hưởng thụ, hoặc hưởng
thụ một ḿnh, hoặc cùng kẻ thế tục hưởng
thụ. Do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời,
rồng, Dược Xoa thần v.v… hộ tŕ quốc độ, là những
vị tín kính Tam Bảo chẳng hư hoại, chẳng lay
động, sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la cho đến bọn Chiên-đồ-la trong
giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… Nói rộng th́ cho đến vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la, và tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn… thuộc loại Chiên-đồ-la ấy, chẳng
lâu sau, sẽ
bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều
ngày đêm, bị đớ lưỡi chẳng nói được,
chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực
khó thể chịu đựng. Chết đi, nhất định
sanh vào địa ngục Vô Gián).
Chiên-đồ-la sa-môn là tỳ-kheo
phá giới. Nếu mọi người đă xem Ảnh Trần
Hồi Ức Lục, sẽ biết: Lăo pháp sư Đàm Hư
tiếp nhận chùa Pháp Nguyên, bị bọn ác tỳ-kheo
thưa kiện. Bọn chúng muốn chiếm đoạt những
bảo vật của chùa Pháp Nguyên. Do vậy, thanh tịnh tỳ-kheo
và ác tỳ-kheo phải ra ṭa. Khi đó, quân phiệt Đông
Bắc vẫn đang chiếm đóng miền Đông Bắc,
Dương Lăng Các[2] quy y lăo pháp sư Đàm
Hư. Tuy có thế lực, lăo pháp sư Đàm Hư chẳng
làm như vậy. Sau đó, Ngài vẫn giao ngôi chùa đó cho các gă tỳ-kheo
ấy. Các gă ác tỳ-kheo
ấy sẽ như thế nào? Bọn chúng có được
các thứ ấy, sẽ cùng với các ác tỳ-kheo khác cùng
hưởng thụ, hoặc riêng ḿnh hưởng thụ,
hoặc là cùng kẻ thế tục, cùng các tịnh nhân, và kẻ
tại gia cùng nhau hưởng thụ, hoặc là cùng với
những kẻ ác Chiên-đồ-la hưởng thụ. Do nhân
duyên ấy, chọc giận thần hộ pháp. Các vị trời,
rồng, thần Dược Xoa v.v… hộ tŕ quốc độ
ấy, là những vị tín kính Tam Bảo chẳng hoại
động, liền sanh khởi tâm sân khuể.
C̣n như “ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, tâm sanh
sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ,
trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế
khuyết” (sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la cho đến những gă sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la
ấy. Nói rộng th́ cho đến vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la ấy và những gă tể quan, cư
sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la đó, chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu
khuyết), chẳng phải là đức Phật nguyền
rủa họ. Ngài thấy nhân quả báo ứng, thấy họ nhất định
phải hứng chịu nỗi khổ cùng cực ấy. Nếu
không, quư vị sẽ nói “đức
Phật cũng nguyền rủa người khác”. Chuyện này
giống như khi đọc phẩm Phổ Môn, [thấy kinh
dạy] có kẻ dùng thuốc độc hại người
khác, [do người bị hại chí tâm xưng niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát], đâm ra [kẻ hại người] sẽ
phải tự hứng chịu, chính ḿnh phải nhận lấy
[hậu quả ấy], đă có người hỏi tôi: “Đại
Bi Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng từ bi”. Tôi hỏi: “V́
sao?” Người đó đáp: “Phẩm Phổ Môn nói khi dùng
thuốc độc hại kẻ khác, Quán Thế Âm Bồ
Tát sẽ khiến cho kẻ ấy tự uống thuốc độc,
khiến
cho chính kẻ ấy mắc hại”. Tôi nói: “Đó chẳng
phải là ư của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông đă hiểu
sai ư nghĩa của kinh. Đó là kẻ ấy tự thọ
báo”. Giống như ở đây đức Phật nói “chẳng
lâu sau, tứ chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết”;
đấy là đức Phật thấy kẻ đó phải
thọ quả báo ấy. Cho đến “ư đa nhật
dạ, kết
thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống
thiết nan nhẫn. Mạng
chung định sanh Vô Gián địa ngục” (trong
nhiều ngày đêm bị đớ lưỡi, chẳng thể
nói được, chịu các khổ độc, đau đớn
cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng
chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián):
C̣n sống th́ chịu khổ đôi chút, vẫn c̣n dễ
chịu, vẫn tốt hơn nhiều so với địa
ngục Vô Gián. Chết đi, nhất định đọa
vào địa ngục Vô Gián. Phải liễu giải chánh xác
đạo lư này! Nếu không, sẽ nói “đức
Phật nguyền rủa những kẻ ấy đều đọa
địa ngục Vô Gián”, hoàn toàn
chẳng phải là ư nghĩa như vậy! Đức Phật
thấy quả báo của họ, mà cũng chẳng thể
cứu họ. Họ đă phạm tội ấy, đức
Phật chẳng thể cứu nổi!
Do vậy, cuối cùng Địa Tạng Bồ
Tát phát nguyện sẽ cứu họ. Nói nhiều như vậy,
nhằm hiển thị ḷng đại từ đại bi
của Địa Tạng Bồ Tát. Đây là kinh Thập
Luân chuyên hiển thị đại nguyện của Địa
Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát đến nơi
đó chuyên cứu vớt những kẻ ấy.
(Kinh) Phục thứ thiện nam tử!
Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu,
quảng thuyết năi chí bất kiến, bất úy hậu
thế khổ quả, kiến y ngă pháp nhi xuất gia giả,
thông duệ, đa văn, ngữ thậm viên măn, hoặc năng
truyền thông Thanh Văn Thừa pháp, hoặc năng truyền
thông Độc Giác Thừa pháp, hoặc năng truyền
thông Vô
Thượng Thừa pháp, linh
quảng lưu bố, lợi lạc hữu t́nh. Bỉ ư
như thị thuyết pháp sư sở, ha mạ, hủy
nhục, phỉ báng, khinh lộng, khi cuống, bức bách,
năo loạn pháp sư, chướng ngại chánh pháp.
(經)復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,廣說乃至不見不畏後世苦果。見依我法而出家者,聰睿多聞,語甚圓滿,或能傳通聲聞乘法,或能傳通獨覺乘法,或能傳通無上乘法,令廣流佈,利樂有情;彼於如是說法師所,呵罵毀辱,誹謗輕弄,欺誑逼迫,惱亂法師,障礙正法。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong
đời vị lai, nơi cơi Phật này, có vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la làm theo bạn
ác, thiện căn ít ỏi, nói rộng là cho đến chẳng
thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau,
thấy người nương theo pháp của ta xuất
gia, thông duệ, đa văn, nói năng hết sức viên măn, hoặc có
thể truyền dạy, thông đạt pháp Thanh
Văn Thừa, hoặc có thể truyền dạy, thông đạt pháp Độc Giác Thừa, hoặc có thể truyền
dạy, thông
đạt pháp Vô Thượng Thừa, khiến
cho [các pháp ấy] được truyền bá rộng răi, lợi
lạc hữu t́nh. Bọn họ đối với vị
thầy thuyết pháp như thế bèn quở trách, chửi
bới, hủy nhục, phỉ báng, khinh mạn, trào lộng,
lừa dối, áp bức, năo loạn pháp sư, chướng
ngại chánh pháp).
Ác luân trong phần trước là tước
đoạt vật dụng của Tăng-già, c̣n ác luân trong phần này là
gă ác nhân này câu kết với gă ác nhân khác, tức là câu kết
với kẻ ác, chẳng sợ khổ quả đời
sau. Thấy người nương theo Phật pháp xuất
gia, “thông duệ, đa văn”, “duệ” (睿) có nghĩa
là “hiểu rơ, có trí huệ”. “Đa văn” là nghe nhiều
Phật pháp, mở mang trí huệ. “Ngữ thậm viên măn”,
“viên măn” là người ấy thuyết pháp, giải thích
pháp do đức Phật đă nói, khiến cho pháp tồn tại
trong cơi đời, khiến cho loài người được
lợi ích, hoặc là có thể truyền đạt, thông đạt
pháp Thanh Văn Thừa. Kế đó là [giải thích cặn
kẽ thêm] ư nghĩa của từ ngữ “ngữ thậm
viên măn”: Hoặc là có thể truyền đạt pháp Độc
Giác Thừa, hoặc là có thể truyền đạt pháp Vô
Thượng Thừa, tức là pháp Đại Thừa, khiến
cho pháp tam thừa được truyền bá rộng răi, lợi
lạc hữu t́nh. “Bỉ ư như thị thuyết
pháp sư sở, ha mạ, hủy nhục, phỉ báng, khinh
lộng, khi cuống, bức bách, năo loạn pháp sư, chướng
ngại chánh pháp” (Bọn họ đối với vị
thầy thuyết pháp như thế bèn quở trách, chửi
bới, hủy nhục, phỉ báng, khinh mạn, trào lộng,
lừa dối, áp bức, năo loạn pháp sư, chướng
ngại chánh pháp): Không cho phép vị ấy thuyết pháp, năo
loạn vị ấy.
(Kinh) Do thị nhân duyên, linh hộ quốc
độ, nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần
đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả,
ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí
sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn,
quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu
tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa
nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư
khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng
chung định sanh Vô Gián địa ngục.
(經)由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。
(Kinh: Do nhân duyên ấy, khiến cho hết
thảy trời, rồng, thần Dược Xoa v.v… hộ
tŕ quốc độ là các vị tín kính Tam Bảo chẳng
động hoại, sanh tâm sân phẫn đối với vua
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến lũ Chiên-đồ-la
trong giới Sa-môn, Bà-la-môn v.v… Nói rộng là cho đến vua
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và bọn tể quan,
cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… là những
gă Chiên-đồ-la chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn
phế, khuyết thiếu, trong nhiều ngày đêm đớ
lưỡi chẳng thể nói được, chịu các
khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể
chịu đựng. Mạng chung, nhất định sanh vào
địa ngục Vô Gián).
Do nhân duyên này, khiến cho hết thảy trời,
rồng, Dược Xoa thần v.v… là các vị hộ tŕ quốc
độ này, hộ tŕ nhân dân trong quốc gia, họ là những
vị tín kính Tam Bảo, [tín tâm] chẳng thể động
hoại, sẽ sanh tâm
sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la,
cho đến những gă Chiên-đồ-la trong giới sa-môn,
Bà-la-môn v.v… Nói rộng sẽ là sanh tâm phẫn hận đối
với Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan,
cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những
gă Chiên-đồ-la. Do sanh phẫn hận, bọn vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la [cũng như lũ Chiên-đồ-la tể
quan, trưởng giả v.v… của chúng] chẳng lâu sau, tứ
chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết. “Chi tiết
phế khuyết” là tứ chi tàn khuyết, chẳng vẹn
toàn, hoặc là bị tai nạn xe cộ, hoặc từ trên
núi ngă xuống, hoặc đi du lịch bị rơi xuống
nước, đều là các biểu hiện của tứ
chi chẳng toàn vẹn. Hiện thời, chuyện này cũng
biến hóa! Có một lần, tôi triều bái núi Ngũ Đài.
Nơi con đường chạy từ ven sông cho đến
chùa dài ngần ấy, hai bên đường toàn là ăn mày,
đủ mọi h́nh tướng. Quư vị trông thấy, sẽ
sanh ḷng sợ hăi. Hoặc chỉ c̣n nửa mặt, hoặc
một mắt. Tàn phế cũng khác nhau, tay bên trái là móc, đùi
bên phải cụt lủng lẳng, đủ mọi thứ
h́nh trạng lạ lùng, quư vị chẳng thể tưởng
tượng nổi. Hiện thời, chẳng c̣n nữa, có
phải là chẳng có kẻ làm ác nữa hay không? Chẳng
phải! Trước kia, có thể nói là Bồ Tát thị hiện
để quư vị đến nơi ấy sẽ biết
sám hối do trông thấy h́nh tướng ấy. Hiện thời,
v́ chỗ ấy đă trở thành nơi buôn bán, những kẻ
đó chẳng c̣n nữa, chẳng trông thấy nữa!
Do nhân duyên ấy, khiến cho quốc gia đó
chẳng được an ninh, các vị thần hộ pháp
chẳng c̣n hộ tŕ nữa. Các chuyện quái dị trong quốc
gia ấy nẩy sanh tràn lan, quân nước ḿnh và quân nước
khác gây chiến với nhau, tai ương, bệnh dịch
hoành hành, ḷng dân chẳng an định, cho đến chẳng
bao lâu, tứ chi của bọn chúng bị tàn khuyết. “Ư
đa nhật dạ, kết
thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc” (trong nhiều
ngày đêm bị đớ lưỡi, chẳng nói được,
hứng chịu các khổ độc): Có thể nói là chẳng
khác người sống đời thực vật trong hiện
thời cho mấy, đau xót cùng cực, khó thể chịu
đựng! Khi mạng chung, chắc chắn sanh vào địa
ngục Vô Gián.
(Kinh) Phục thứ thiện nam tử!
Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu,
quảng thuyết năi chí bất kiến, bất úy hậu
thế khổ quả, kiến hữu sở thí tứ
phương Tăng vật,
tự xá, trang điền, nhân, súc, tài bảo, hoa thụ, quả
thụ, nhiễm thụ, ấm thụ, hương dược
thụ đẳng, cập dư tư thân chủng chủng
tạp vật. Ngă chư đệ tử, cụ giới,
phú đức, tinh tấn tu hành Học, Vô Học hạnh,
năi chí chứng đắc tối hậu cực quả thanh
tịnh bật-sô sở ưng thọ dụng, bỉ Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, dĩ cường thế lực, hoặc
tự bức đoạt, hoặc giáo nhân đoạt,
hoặc vị tự dụng, hoặc vị tha dụng. Do
thị nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất
thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín
kính Tam Bảo vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn. Quảng thuyết
năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu
tiện đương chi thể phế khuyết, ư
đa nhật dạ, kết
thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống
thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián
địa ngục. (經)復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,廣說乃至不見不畏後世苦果。見有所施四方僧物,寺舍、莊田、人畜、財寶、華樹、果樹、染樹、蔭樹、香藥樹等,及餘資身種種雜物,我諸弟子具戒富德,精進修行學無學行,乃至證得最後極果,清淨苾芻所應受用;彼剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,以強勢力,或自逼奪,或教人奪,或為自用,或為他用。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong
đời vị lai, trong cơi Phật ấy, có vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la và tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la làm theo bạn
ác, thiện căn ít ỏi, nói rộng là cho đến
chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời
sau, thấy có những vật thí cho tứ phương Tăng,
như pḥng ốc trong chùa chiền, trang trại, ruộng nương,
người, súc vật, của cải, cây có hoa, cây ăn quả,
cây có chất nhựa làm thuốc nhuộm, cây rợp bóng mát,
cây để chế hương liệu v.v… và các thứ vật
dụng khác cần dùng cho cuộc sống. Các đệ tử
của ta là những vị bật-sô thanh tịnh trọn giới,
đủ đức, tinh tấn tu hành các hạnh Học và
Vô Học, cho đến chứng đắc cực quả
tối hậu đáng nên hưởng dụng [những thứ
ấy]. Gă vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy
cho đến sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la, cậy vào thế
lực mạnh mẽ, hoặc tự bức bách, chiếm đoạt,
hoặc dạy kẻ khác chiếm đoạt để chính
ḿnh dùng, hoặc cho người khác dùng. Do nhân duyên ấy,
khiến cho hết thảy trời, rồng, thần Dược
Xoa v.v… là những vị hộ tŕ quốc độ, tín kính
Tam Bảo chẳng động hoại, sanh tâm sân phẫn đối
với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến
những gă sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la. Nói rộng là cho đến
vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… những
gă Chiên-đồ-la ấy chẳng lâu sau sẽ bị tứ
chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm bị
đớ lưỡi chẳng nói được, chịu
các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể
chịu đựng. Mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).
Đây là làm theo bạn ác, bị kẻ ác xúi
giục, dạy bảo, cho đến chẳng sợ khổ
quả trong đời sau. Thấy vật được bố
thí cho tứ phương Tăng, như pḥng ốc trong nhà
chùa, trang trại, ruộng nương, của cải của
người và súc vật, cây có hoa, cây ăn quả, cây làm
thuốc nhuộm, cây rợp bóng mát, cây làm hương liệu
v.v… “Nhiễm thụ” (染樹, cây thuốc
nhuộm) kết trái có chứa
chất nhuộm. Loại cây này có hai tác dụng: Quả do
cây ấy sanh ra có thể nhuộm quần áo, hoặc dùng để
nhuộm màu [các vật liệu khác]. Những điều này
đều là nhắc lại, phần giữa có thay đổi
đôi chút, [tức là] nơi sự, nơi cảnh, thay đổi
đôi chút. Kinh văn trước và sau đó đều giống
hệt nhau. Đây là những kẻ ác cùng nhau tước đoạt
vật dụng của Tăng chúng.
(Kinh) Phục thứ thiện nam tử!
Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu
Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, thiện căn vi thiểu, vô hữu
tín tâm, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn, ngôn vô chân thật,
viễn ly thiện hữu, tùy ác hữu hành. Ư chư
thánh pháp, tâm hoài do dự, bất kiến, bất úy hậu
thế khổ quả, thường nhạo tập cận
chư ác luật nghi, háo hành sát sanh, năi chí tà kiến, nhi hoài
ngạo mạn, cuống hoặc thế gian, tự xưng
ngă thị trụ luật nghi giả. Bỉ Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, chủng chủng phương tiện,
hủy diệt ngă pháp, vu quy ngă pháp
nhi xuất gia giả, sổ sổ sân phẫn, ha mạ, hủy
nhục, khảo sở, cấm bế, cát tiệt chi tiết,
năi chí đoạn mạng. Ngă sở thuyết pháp, bất
khẳng tín thọ, hoại tốt-đổ-ba, cập
chư tự xá, khu bức bật-sô, thoái linh hoàn tục, chướng
ngại thế phát, bị
phục ca-sa, chủng chủng khu sử, đồng chư
bộc thứ. Do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ
nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng,
tín kính Tam Bảo, vô
động hoại giả.
(經)復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,善根微少,無有信心,諂曲愚癡,懷聰明慢,言無真實,遠離善友,隨惡友行,於諸聖法,心懷猶豫,不見不畏後世苦果,常樂習近諸惡律儀,好行殺生,乃至邪見,而懷傲慢,誑惑世間,自稱我是住律儀者。彼剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,種種方便,毀滅我法,于歸我法而出家者,數數瞋忿,呵罵毀辱,拷楚禁閉,割截肢節,乃至斷命,我所說法不肯信受,壞窣堵波及諸寺舍,驅逼苾芻退令還俗,障礙剃髮被服袈裟,種種驅使同諸僕庶。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong
đời vị lai, nơi cơi Phật này, có vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la thiện
căn ít ỏi, chẳng có tín tâm, siểm khúc, ngu si, tự
phụ thông minh, lời nói chẳng chân thật, xa ĺa bạn
lành, làm theo bạn ác. Đối với các chánh pháp, ôm ḷng
do dự, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả đời
sau, thường thích thân cận, thực hiện các ác luật
nghi, ưa thích sát sanh, cho đến tà kiến, ôm ḷng lừa
dối, mê hoặc thế gian, tự xưng “ta là kẻ trụ
trong luật nghi”. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho
đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn
ấy dùng đủ
mọi phương tiện hủy diệt pháp của ta. Đối
với những người quy hướng pháp của ta
xuất gia, bèn nhiều lượt sân phẫn, quở trách,
chửi bới, đánh đập, giam cầm, chặt cắt
chân tay, cho đến giết chết. Đối với pháp
do ta nói, họ chẳng
chịu tin nhận, phá hoại tháp, và các pḥng xá trong chùa, xua
đuổi, áp bức bật-sô phải lui về hoàn tục,
chướng ngại người cạo đầu, khoác mặc
ca-sa, đủ cách xua đuổi, sai khiến họ giống
như tôi tớ. Do nhân duyên này, khiến cho hết thảy trời,
rồng, thần Dược Xoa v.v… là những vị hộ
tŕ quốc độ, tín kính Tam Bảo chẳng hoại động).
Tự nhận là rất thông minh, nói năng chẳng
chân thật. “Ngôn vô chân thật”: Chẳng nói lời thành
thật. Có một số đạo hữu đệ tử
Phật hỏi: “Thưa sư phụ! Chúng con buôn bán, chẳng
nói lời giả dối, chẳng nói xạo đôi chút, sẽ
chẳng có cách nào buôn bán được!” Tôi nói: “Khi tôi chưa
đến Mỹ, tôi chẳng có cách nào trả lời quư vị.
Sau khi đă đến Mỹ, tôi thấy người buôn bán
tại Mỹ, trong siêu thị, chẳng có ai nói chuyện với
quư vị. Quư vị chẳng cần hỏi giá tiền, họ
đều ghi rơ. Quư vị muốn mua th́ lấy. Chẳng có
chuyện trả giá, quư vị muốn mua th́ mua”. Họ nói:
“Nếu bán sỉ th́ phải trả giá”. Tôi nói: “Người
bán món đồ ấy là bán sỉ, người ấy đến
đó ước định một lô hàng, họ cũng c̣
kè, mặc cả”. Tôi bảo: “Đấy cũng chẳng
phải là không nói dối th́ không được! Quư vị
cứ nói đúng sự thật, chẳng nhất định
là phải nói dối mới kiếm tiền nổi!” Đó
là tạo tín tâm cho họ, chẳng chiết khấu. C̣n như
trong hiện thời, những ǵ chúng ta nghe được,
bất luận từ kẻ buôn bán
cho đến kẻ chẳng buôn bán, họ
có thể nói bao nhiêu câu chân thật?
Sư
phụ chẳng nên nói dối, đúng không? Ở đây
có ác hạnh sa-môn, c̣n có Chiên-đồ-la sa-môn, chẳng nói lời
chân thật, nói dối, nói thêu dệt, rất khó đoạn! V́ sao? V́ họ “viễn ly thiện hữu, tùy ác hữu
hành, ư chư thánh pháp, tâm hoài do dự” (xa ĺa bạn lành,
hành theo bạn ác, ôm ḷng do dự đối với các thánh
pháp). Họ hoài nghi Phật pháp, hỏi: “Những lời đức
Phật nói có thật hay không?” C̣n có kiểu nói khác nữa: “Đức
Phật đă nói từ hơn hai ngàn năm trước,
nay chẳng c̣n hữu dụng nữa! Hiện nay là thời
đại nào? Vẫn cứ nhắc tới những lời
lẽ từ hơn hai ngàn năm trước ư?” Tôi nói:
“Đức Phật nói tham, sân, si, Ngài dạy nói dối là dối
gạt. Vậy th́ trong thời đại này, bất luận
người thuộc quốc gia nào, nếu quư vị lừa
tiền, lường
gạt th́ có phạm tội hay không? Lừa dối th́ có phạm
tội hay không? Vẫn là chẳng thể! Có thể nói lời
hư giả hay không? Chớ nên lừa gạt! Vẫn nên đề cao sự thành thật.
Giết, trộm, dâm càng chẳng cần phải nói nữa!
Giết, trộm, dâm th́ trong bất cứ thời đại
nào, triều đại nào, quốc gia nào, dẫu sửa đổi
thế nào đi nữa, giết, trộm, dâm vẫn đều
là phạm tội!”
“Tùy ác hữu hạnh” (làm theo bạn ác):
Kẻ đó chẳng có thiện tâm, tâm kẻ đó biến
thành ác tâm, chẳng tin tưởng lời dạy của đức
Phật. “Tâm hoài do dự” (ôm ḷng do dự): Chẳng
tin tưởng cho lắm! Có rất nhiều
đạo hữu ôm ḷng lo ngờ đối với vấn
đề này. Hễ có ư niệm ấy th́ trong khi tu hành, kẻ
đó thường hoài nghi, chẳng thể tin tưởng
thành khẩn. Vậy th́ quư vị tu hành, mong chứng thánh quả,
đoạn phiền năo đều rất khó khăn. Tuy đă
gieo thiện căn, vẫn chẳng biết phải mất
bao nhiêu năm,
bao
nhiêu đời, rèn giũa dần dần! Nếu tâm quư vị
thành khẩn, quư vị sẽ chiếm tiện nghi, sẽ có thể đắc
độ rất nhanh chóng. Chẳng thể nói nhất định
là “lập tức chứng quả”, nhưng qua hai ba đời,
quư vị sẽ dần dần có thể tiến nhập, có
thể nhập môn.
Hiện thời, chúng ta đều ở ngoài
Phật môn, dường như là tin Phật, trên thực tế,
chẳng nhập môn! Nguyên nhân là ǵ? “Tâm hoài do dự” (ôm ḷng do dự). Chuyện
này giống như người uống nước, nước
nóng hay lạnh, chính quư vị tự biết. Bất quá, đức
Phật nói như vậy, chúng ta bèn tin tưởng lời Phật,
nhưng vẫn chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả
trong đời sau, v́ chẳng nh́n thấy, sẽ chẳng
sợ hăi. Khá nhiều người thấy rồi mới sợ
hăi. Khi thấy rồi mới sợ hăi th́ đă muộn mất
rồi, chẳng c̣n kịp nữa. Có hối hận th́
đă muộn màng! Chớ nên lo ngại,
nghi ngờ. Quư vị có thể phân biệt được ai là bạn
ác, ai là bạn lành hay không? Ngay cả điều này c̣n chẳng
biết nữa mà! Nói chung, cần phải biết thiện
và ác, cần phải biết người thiện và kẻ
ác. Nhưng có những kẻ bề ngoài làm ra vẻ thiện
tướng, trong ḷng rất ác, quư vị chẳng dễ biết
được! Nếu quư vị niệm nhiều, cầu Phật,
Bồ Tát cho nhiều, dùng Chiêm Sát Luân để hỏi: “Tôi
thân cận vị sư phụ này, trong tâm vị ấy có thánh
hạnh hay không? Ông ta có phải thật sự là một vị
sư phụ tốt hay không?” Quư vị sẽ có thể biết.
Kinh Chiêm Sát dạy như thế, quư vị đừng nói là
pháp sư Mộng Tham nói. Nếu nói như thế, mọi người
lại chửi tôi! Trong quyển Thượng của
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có nói rất rơ ràng: Nếu
quư vị muốn thân cận người ấy, hoặc làm
bạn với người ấy, coi là thiện tri thức,
phải xét xem người ấy có phải là thiện tri
thức hay không? Yêu cầu của thiện tri thức rất
cao!
Phải trọn đủ điều kiện
như thế nào th́ mới có thể coi là thiện tri thức?
Chúng ta chẳng đ̣i hỏi rất nghiêm ngặt. Nay là thời
Mạt Pháp, chẳng có cách nào, chỉ cần tốt đẹp
một chút thôi! Trước tiên, quư vị hăy gieo Chiêm Sát Luân,
nếu [Chiêm Sát Luân] dạy: “Quư vị chớ nên thân cận
kẻ đó. Kẻ đó nội tại chẳng có thật
đức. [Những ǵ] kẻ đó thị hiện trong hiện
thời đều là giả tướng”. Hoặc là “quư vị
có thể thân cận người ấy, sẽ có thể đạt
được lợi ích”. Kinh Chiêm Sát nói rất rơ ràng; hễ
quư vị chiêm sát một phen, sẽ biết ngay!
“Thường nhạo tập cận chư
ác luật nghi” (thường thích tu tập, thân cận các
ác luật nghi): Ác luật nghi là luật nghi chẳng do đức
Phật chế định. Đối với ác luật
nghi, chúng tôi nêu thí dụ như sau: Để tế trời,
tế thần, phải giết lợn, mổ dê, cho đến
giết gà. Đấy gọi là tà tri, tà kiến. Ưa chuộng
sát sanh là tà tri, tà kiến, “Nhi hoài ngạo mạn, cuống
hoặc thế gian, tự xưng ngă thị trụ luật
nghi giả” (mà ôm ḷng ngạo mạn, dối gạt, mê
hoặc thế gian, tự xưng “ta là bậc trụ trong
luật nghi”): C̣n tự nói chính ḿnh là bậc tŕ giới!
“Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, chủng chủng phương tiện, hủy diệt
ngă pháp” (Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến
những gă Chiên-đồ-la sa-môn, Bà-la-môn v.v… dùng đủ
mọi phương tiện để hủy
diệt pháp của ta): Họ nghĩ đủ mọi loại
phương tiện, luôn mong hủy diệt Phật pháp. Thậm
chí c̣n nói họ cũng học pháp Dược Sư, cũng
giảng kinh Dược Sư, cũng lạy Dược
Sư Sám. Nói chung là luôn pha tạp tà tri, tà kiến
vào đó. Họ đem Đạo Giáo, thậm chí tà đạo,
vu giáo (巫教, đồng
bóng, ma thuật) đều xen lẫn vào. Dần dần như
thế khiến cho chúng sanh chẳng phân biệt được,
cái nào là thật, cái nào là giả, cái nào là Phật giáo, cái nào là Đạo
Giáo, phân biệt không nổi. Đó gọi là “hủy diệt”.
“Ư quy ngă pháp nhi xuất gia giả, sổ
sổ sân phẫn, ha mạ hủy nhục, khảo sở,
cấm bế, cát tiệt chi tiết, năi chí đoạn mạng”
(đối với người quy y pháp của ta mà xuất
gia, bèn nhiều lượt sân phẫn, quở trách, chửi
bới, hủy nhục, đánh đập, giam cầm, cắt
chặt tứ chi, cho đến đoạn mạng): Đối
với pháp do ta đă nói, họ chẳng chịu tin nhận.
“Hoại tốt-đổ-ba” (phá hoại tháp) cũng là
phá hoại chùa miếu. “Cập chư tự xá” (và pḥng
ốc trong chùa): “Tự miếu” ở đây chuyên nói
về tháp, c̣n “tự xá" trong phần sau
là nói về tinh xá trong chùa miếu. Đây
là phiên dịch. Tiếng Phạn trong kinh Phật trọn chẳng
gọi [chùa miếu] là Tự, mà là do chúng ta phiên dịch. A Lan
Nhă hoặc Tăng-già-lam, sở dĩ phiên dịch thành Tự
là v́ Trung Hoa dùng chữ Tự để h́nh dung. “Khu bức
bật-sô, thoái linh hoàn tục” (xua đuổi, áp bức
bật sô, buộc họ hoàn tục): Không chỉ trong hiện
tại, mà vào đời Đường, Đường Vũ
Tông đă khởi sự trục xuất, cưỡng bức
tỳ-kheo hoàn tục.
“Chướng ngại thế phát, bị
phục ca-sa” (chướng ngại người cạo
tóc khoác mặc ca-sa): Không cho phép quư vị xuất gia, dùng đủ
mọi cách xua đuổi, sai khiến, “đồng chư
bộc thứ” (giống như tôi tớ): Sai khiến người
xuất gia, sử dụng kẻ xuất gia, coi họ như nô
bộc. Đấy đều là sự thật.
(Kinh) Ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ,
trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế
khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất
ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan
nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.
(經)於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。
(Kinh: Sanh tâm sân phẫn đối với
vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, cho đến bọn
sa-môn, Bà-la-môn v.v… Chiên-đồ-la. Nói rộng là cho đến
bọn vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan,
cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… thuộc
loại Chiên-đồ-la ấy chẳng lâu sau tứ chi tàn
phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm bị đớ
lưỡi chẳng thể nói được, chịu các khổ
độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu
đựng, mạng chung nhất định sanh vào địa
ngục Vô Gián).
Những kẻ đó vĩnh viễn chẳng
được nghe những lời này. Dẫu nghe, vẫn
chẳng tin. Họ có thể được nghe kinh Đại
Tập Thập Luân hay không? Họ chẳng được nghe! Trong
quá khứ giảng pháp Đại Thừa, nói những lời
này, dường như cũng sợ đắc tội với
kẻ khác. Thuở ấy, nếu đắc tội với
các quốc vương, đắc tội với các đại
thần, trong ấy bao gồm sa-môn, Bà-la-môn, cho đến
những kẻ tín phụng Phật pháp, đều bao gồm
trong ấy, hăy đều nên tự kiểm điểm, có
phải là chuyện như thế hay không? Bộ kinh này được
khai diễn rất ít, chúng tôi cứ đúng theo kinh mà nói.
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ,
trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la
nhân, ư thượng sở thuyết thập chủng ác
luân, hoặc tùy thành nhất, hoặc cụ thành tựu, tiên
sở tu tập
nhất thiết thiện căn, tồi hoại thiêu diệt,
giai vi hôi tẫn, bất cửu tiện đương chi
thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết
thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống
thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián
địa ngục. Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn,
Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư
đương lai thế, hạ tiện nhân thân, thượng
nan khả đắc, huống đương năng chứng
Nhị Thừa Bồ Đề! Vô Thượng
Đại Thừa, ư kỳ tuyệt phần. Như thị
ác nhân, Đại Thừa danh tự thượng nan đắc
văn, huống đương năng chứng Vô Thượng
Phật Quả! Thị nhân cứu cánh tự tổn, tổn
tha, nhất thiết chư Phật sở bất năng cứu.
(經)善男子,若剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,於上所說十種惡輪,或隨成一,或具成就,先所修集一切善根,摧壞燒滅,皆為灰燼,不久便當支體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。此剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,於當來世,下賤人身尚難可得,況當能證二乘菩提!無上大乘,於其絕分。如是惡人,大乘名字尚難得聞,況當能證無上佛果!是人究竟自損損他,一切諸佛所不能救!
(Kinh: Này thiện nam tử! Nếu vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la, và bọn Chiên-đồ-la trong giới tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… đối
với mười ác luân vừa nói trên đây, hễ thành tựu
bất cứ một luân nào, hoặc thành tựu trọn đủ,
th́ hết thảy thiện căn đă tu tập trước
kia sẽ bị phá nát, thiêu rụi, đều thành tro tàn. Chẳng
lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, khiếm khuyết, trong
nhiều ngày đêm đớ lưỡi chẳng thể nói,
chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực
khó thể chịu đựng, mạng chung chắc chắn
sanh vào địa ngục Vô Gián. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la
và bọn Chiên-đồ-la trong giới tể quan, cư
sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… ấy trong đời
tương lai, c̣n khó thể làm thân người hạ tiện,
huống hồ sẽ có thể chứng Nhị Thừa Bồ
Đề! Trọn chẳng có phần nơi Vô Thượng
Đại Thừa. Kẻ ác như thế, danh tự Đại
Thừa c̣n khó được nghe, huống hồ sẽ có
thể chứng Vô Thượng Phật Quả! Người
ấy rốt ráo tổn ḿnh, tổn người, hết thảy
chư Phật chẳng thể cứu nổi!)
Mười loại ác luân đă nói xong. Ở
đây, chẳng nói riêng [khổ quả của từng điều]
mà nói tổng quát. “Hoặc tùy thành nhất, hoặc cụ
thành tựu” (hoặc thành tựu bất cứ một luân
nào, hoặc thành tựu trọn đủ): Mười luân
đều có, hoặc chỉ có một luân, vậy th́ những
ǵ quư vị đă tu tập “nhất thiết thiện
căn, tồi hoại, thiêu diệt” (hết
thảy thiện căn bị phá nát, thiêu rụi), thiện
căn trước kia của quư vị đều bị ác
luân ấy hủy diệt. “Giai vi hôi tẫn, bất cửu
tiện đương chi thể phế
khuyết, ư đa nhật dạ kết thiệt bất
ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan
nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.
Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, ư đương lai thế, hạ
tiện nhân thân thượng nan khả đắc” (đều
thành tro tàn. Chẳng lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, khiếm
khuyết. Trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng
thể nói. Chịu các khổ độc, đau đớn
cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, chắc
chắn sanh vào địa ngục Vô Gián. Vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la và bọn Chiên-đồ-la trong giới tể
quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… ấy
trong đời tương lai, c̣n khó thể làm thân người
hạ tiện): Chẳng thể mong chuyển sanh lại được làm thân người!
Dẫu muốn làm kẻ hạ tiện vẫn không được!
Huống hồ có thể chứng “Nhị Thừa Bồ
Đề, Vô Thượng Đại Thừa dữ kỳ
tuyệt phần” (Nhị Thừa Bồ Đề, trọn
chẳng có phần với Vô Thượng Đại Thừa).
Kẻ đó chẳng thể bén mảng được, trọn
chẳng dính líu đến Phật pháp nổi!
“Như thị ác nhân, Đại Thừa danh
tự thượng nan đắc văn” (kẻ ác như
thế, danh tự Đại Thừa c̣n khó thể nghe nổi):
Ngay cả danh hiệu Đại Thừa, như kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, cho đến kinh Kim Cang, kinh Địa Tạng,
kinh Đại Tập Thập Luân, danh tự của hết
thảy các kinh đều chẳng nghe thấy. Ngay cả tên
kinh mà c̣n khó thể nghe thấy, vậy th́ c̣n có thể chứng
Phật quả nữa chăng? “Thị nhân cứu cánh tự
tổn, tổn tha” (người ấy rốt ráo tự
tổn, tổn người): Tự tổn hại ḿnh mà cũng
tổn hại người khác!
“Nhất thiết chư Phật sở bất
năng cứu” (hết thảy chư Phật chẳng
thể cứu nổi): Nếu trọn đủ mười
ác luân ấy, hễ có một luân nào, chư Phật đều
chẳng có cách nào cứu quư vị. Bất quá, Địa Tạng
Bồ Tát sẽ đến nơi đó, cứu vớt quư
vị. Quư vị đọa vào địa ngục Vô Gián, Địa
Tạng Bồ Tát ở ngay trong địa ngục chờ đợi quư vị, Ngài đến đó cứu vớt. Có phải
là chúng sanh trong địa ngục Vô Gián, hễ Địa
Tạng Bồ Tát thuyết pháp th́ họ sẽ nghe thấy
hay không? Cũng chưa chắc! Vẫn phải kết cái
duyên. Vô lượng đời trong quá khứ đều chẳng
có nhân duyên ấy, chẳng có nhân, mà cũng chẳng có duyên.
Tỳ-kheo phá giới có lợi thế là họ đă kết
duyên với Tam Bảo, thật sự tin nhận, c̣n có oai lực
sót lại, c̣n có đức sót thừa, c̣n có chủng tử
ấy. Do vậy, đức Phật nói “c̣n có thể cứu
họ”. Quư vị chớ
nên xem thường họ, hàm nghĩa như thế đó.
(Kinh) “Thiện nam tử! Thí như hữu
nhân, áp du vi nghiệp. Nhất nhất ma lạp, giai hữu
trùng sanh. Dĩ luân áp chi, du tiện lưu xuất. Nhữ đương
quán thử áp ma du nhân, ư nhật dạ trung, sát kỷ
sanh mạng? Giả sử như thị áp ma du nhân, dĩ thập
cụ luân, tương tục hằng áp. Ư nhất nhật
dạ, nhất nhất luân trung, sở áp ma du, số măn thiên
hộc. Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Nhữ
quán thử nhân, sát kỷ sanh mạng? Sở hoạch tội
nghiệp, ninh vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm đa! Thế Tôn! Thậm đa,
đại đức! Thử nhân sở sát vô lượng,
vô biên. Sở hoạch tội nghiệp bất khả xưng
kế, toán, số, thí dụ, sở bất năng cập,
duy Phật năng tri, dư vô tri giả”.
(經)善男子,譬如有人壓油為業,一一麻粒皆有蟲生,以輪壓之油便流出。汝當觀此壓麻油人,於日夜中殺幾生命!假使如是壓麻油人,以十具輪相續恆壓,於一日夜一一輪中,所壓麻油數滿千斛,如是相續至滿千年,汝觀此人殺幾生命,所獲罪業寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人所殺無量無邊,所獲罪業不可稱計,算數譬喻所不能及,唯佛能知,餘無知者。
(Kinh: Này thiện nam tử! Ví như có người
làm nghề ép dầu. Trong một hạt mè, đều có trùng
sống. Dùng thớt nghiền để ép, dầu liền
chảy ra. Ông hăy nên quán kẻ ép dầu ấy trong một
ngày đêm, đă giết bao nhiêu sanh mạng? Giả sử
người ép dầu như thế dùng mười cái máy ép,
luôn ép liên tục. Trong một ngày đêm, mỗi cái máy ép, ép
dầu mè số tṛn ngàn hộc[3].
Liên tục như thế, đến trọn ngàn năm. Ông
hăy quán xem người ấy đă giết bao nhiêu sanh mạng,
chuốc lấy tội nghiệp
có nhiều hay không?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thưa:
“Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại
đức, rất nhiều! Kẻ đó đă giết vô
lượng, vô biên, chuốc lấy tội nghiệp chẳng
thể nói kể. Toán, số, thí dụ đều chẳng
thể sánh được, chỉ đức Phật có thể
biết, người khác chẳng biết”).
Mọi người có thể thấy cái thớt
ép trong máy ép dầu. Có hai loạt hạt thường dùng,
tức là hạt mè, hoặc là hạt cải. Trên mỗi loại hạt để
ép dầu, đều có trùng sống. Chúng rất nhỏ bé,
nhục nhăn của quư vị rất khó trông thấy, lại
c̣n rất nhiều. Kẻ đó dùng thớt nghiền để
ép, hoặc là ép hạt cải, hoặc hạt mè, dầu liền
chảy ra. “Nhữ đương quán thử áp ma du nhân,
ư nhật dạ trung, sát kỷ
sanh mạng?” (Ông hăy xem người
ép dầu ấy, trong một ngày đêm, đă giết bao nhiêu
sanh mạng): Quư vị nói xem kẻ đó trong một ngày đêm
đă giết bao nhiêu? Trong xưởng của kẻ đó,
có mười cái máy ép dầu. Ngày đêm ép như vậy chẳng
ngừng, vậy th́ số dầu mè do hai thớt nghiền
[của mỗi máy] ép ra, sẽ là ngàn cân. “Như thị tương
tục, chí măn thiên niên” (Liên tục như thế cho đến
trọn một ngàn năm),
lại c̣n ép suốt một ngàn năm, kẻ đó đă
giết bao nhiêu sanh mạng? “Sở hoạch tội nghiệp
ninh vi đa phủ?” (chuốc lấy tội nghiệp có
nhiều hay không?)
Trong đoạn này, Địa Tạng Bồ
Tát thỉnh pháp, đức Phật bảo Địa Tạng
Bồ Tát đừng quên những vị đương cơ.
Đức Phật hỏi Địa Tạng Bồ Tát: “Ông
nói xem có nhiều hay không?” Địa Tạng Bồ Tát thưa:
“Bạch đức Thế Tôn rất nhiều! Bạch đại
đức rất nhiều”. Kẻ đó sát hại chúng
sanh vô lượng, vô biên, chuốc lấy tội nghiệp
chẳng có cách nào tính kể, [dẫu sử dụng] toán, số,
thí dụ [để sánh ví] đều chẳng thể sánh nổi!
Đó là sánh ví tội ác của kẻ đó. “Duy Phật năng
tri, dư vô tri giả” nghĩa là: Chỉ có đức Phật
mới có thể biết, những người khác chẳng
thể biết nổi!
(Kinh) Phật ngôn: - Thiện nam tử!
Giả sử hữu nhân, vị tài lợi cố, trí thập
dâm phường. Nhất nhất phường trung, trí thiên
dâm nữ. Nhất nhất dâm nữ, chủng chủng trang
nghiêm, cuống hoặc đa nhân, hằng vi dục sự.
Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Thử
nhân hoạch tội bất khả xưng kế, toán, số,
thí dụ, sở bất năng cập. Như tiền thập
luân áp du nhân tội, đẳng nhất dâm phường sở
hoạch tội nghiệp. Hựu thiện nam tử! Giả
sử hữu nhân, vị tài lợi cố, trí thập tửu
phường. Nhất nhất phường trung, chủng
chủng nghiêm sức, phương tiện chiêu dụ thiên
đam tửu nhân, ẩm hứng hoan ngu, trú dạ
vô phế. Như thị tương tục, chí măn thiên niên.
Thử nhân hoạch tội bất khả xưng kế,
toán, số, thí dụ sở bất năng cập. Như
tiền sở thuyết thập dâm phường tội,
đẳng nhất tửu phường sở hoạch tội
nghiệp. Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu
nhân, vị tài lợi cố, trí thập đồ phường.
Nhất nhất phường trung, ư nhất nhật dạ,
sát hại thiên sanh, ngưu, dương, đà, lộc, kê,
trư đẳng mạng. Như thị tương tục,
chí măn thiên niên. Thử nhân hoạch tội bất khả xưng
kế, toán, số, thí dụ sở bất năng cập.
Như tiền sở thuyết thập tửu phường
tội, đẳng nhất đồ phường sở
hoạch tội nghiệp. Như tiền sở thuyết
thập đồ phường tội, đẳng Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng
Chiên-đồ-la nhân, ư tiền thập ác, tùy thành nhất
luân, nhất nhật nhất dạ sở hoạch tội
nghiệp!
(經)佛言:善男子,假使有人為財利故,置十婬坊,一一坊中置千婬女,一一婬女種種莊嚴,誑惑多人,恆為欲事,如是相續至滿千年,此人獲罪不可稱計,算數譬喻所不能及;如前十輪壓油人罪,等一婬坊所獲罪業。又善男子,假使有人為財利故,置十酒坊,一一坊中種種嚴飾,方便招誘千耽酒人,飲興歡娛,晝夜無廢,如是相續至滿千年,此人獲罪不可稱計,算數譬喻所不能及;如前所說十婬坊罪,等一酒坊所獲罪業。又善男子,假使有人為財利故,置十屠坊,一一坊中於一日夜,殺害千生,牛、羊、駝、鹿、雞、豬等命,如是相續至滿千年,此人獲罪不可稱計,算數譬喻所不能及;如前所說十酒坊罪,等一屠坊所獲罪業。如前所說十屠坊罪,等剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,於前十惡隨成一輪,一日一夜所獲罪業。
(Kinh: Đức Phật bảo: - Này
thiện nam tử! Giả sử có người v́ tài lợi
mà lập mười nhà thổ. Trong mỗi nhà thổ, đặt
một ngàn dâm nữ. Mỗi dâm nữ đủ loại trang
sức, dối gạt, mê hoặc nhiều người luôn
làm dục sự. Liên tục như thế, cho đến
trọn một ngàn năm. Người ấy mắc tội
chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều
chẳng sánh bằng. Như tội của kẻ có mười
máy ép dầu trên đây, bằng với tội nghiệp do
một nhà thổ gây ra. Lại này thiện nam tử! Giả
sử có người v́ tài lợi mà lập mười tiệm
rượu. Trong mỗi tiệm, trang hoàng đủ mọi
cách, dùng phương tiện chiêu dụ một ngàn người
ham uống rượu, say sưa vui sướng, ngày đêm
chẳng bỏ lỡ. Liên tục như thế, cho đến
tṛn một ngàn năm. Người ấy mắc tội chẳng
thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng
sánh bằng. Tội của mười nhà thổ như đă
nói trên đây, bằng với tội nghiệp do một tiệm
rượu gây ra. Lại này thiện nam tử! Giả sử
có người v́ tài lợi mà lập ra mười ḷ sát
sanh. Trong mỗi ḷ, trong một ngày đêm, giết hại một
ngàn sanh mạng của trâu, dê, lạc đà, nai, gà, lợn
v.v… Liên tục như thế, cho đến một năm. Người
ấy mắc tội chẳng thể tính kể, toán, số,
thí dụ đều chẳng sánh bằng. Tội của mười
tiệm rượu như đă nói trên đây bằng với
tội nghiệp do một ḷ sát sanh gây tạo. Tội của
mười ḷ sát sanh như đă nói trên đây bằng với
tội nghiệp đă gây tạo của vua Sát-đế-lợi
Chiên-đồ-la vương cho đến những gă sa-môn,
Bà-la-môn Chiên-đồ-la do trong một ngày một đêm thành
tựu bất cứ một luân nào trong mười ác luân
như đă nói trên).
Mở kỹ viện, mở mười nhà
thổ. Trong mỗi kỹ viện, đặt một ngàn dâm
nữ. Mỗi nàng c̣n mê hoặc rất nhiều người.
“Hằng vi dục sự” (luôn làm dục sự): Làm hạnh
bất tịnh ấy. “Như thị tương tục,
chí măn thiên niên. Thử nhân hoạch tội bất khả xưng
kế, toán, số, thí dụ bất năng cập. Như
tiền thập luân áp du nhân tội, đẳng nhất dâm
phường” (Liên tục như thế, cho đến trọn
một ngàn năm. Người ấy mắc tội chẳng
thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng
sánh bằng. Như tội của người có mười
máy ép dầu trong phần trước sẽ bằng với
tội của một nhà thổ). Tội ác của kẻ có
mười máy ép dầu, mười tội ác ấy chỉ
bằng tội gây tạo do lập một nhà thổ! [Tội
do lập] một nhà thổ nặng gấp mười lần
tội của người trước (người ép dầu).
Kẻ sau so với người trước đều [phạm
tội] nặng hơn gấp mười lần.
“Giả sử hữu nhân, vị tài lợi
cố, trí thập tửu phường” (giả sử có
người v́ tài lợi mà lập ra mười tiệm rượu):
Trong Bồ Tát Giới, bán rượu là giới căn bản,
c̣n tội uống rượu nhỏ và nhẹ hơn! Bán rượu
tức là quư vị đă mê hoặc kẻ khác. “Nhất
nhất phường trung, chủng chủng nghiêm sức,
phương tiện chiêu dụ thiên đam tửu nhân”
(trong mỗi tiệm, trang hoàng đủ thứ, dùng các phương
tiện chiêu dụ một ngàn kẻ ham rượu): Một
ngàn kẻ mê rượu, trầm mê trong rượu, uống
rượu làm vui. “Ẩm hứng hoan ngu, nhật dạ
vô phế” (Say sưa vui vẻ, ngày đêm chẳng bỏ
lỡ): Chỗ bán rượu ngày đêm đều bán! “Như
thị tương tục, chí măn thiên niên” (liên tục như
thế, cho đến tṛn một ngàn năm): Kẻ đó mắc
tội chẳng thể tính kể. Toán, số, thí dụ đều
chẳng thể sánh bằng. Tội do lập mười
nhà thổ như vừa nói trên đây bằng với tội
nghiệp gây tạo do lập một tiệm rượu. Tội
mở mười nhà thổ bằng với tội mở
một tiệm bán rượu.
Tội của ḷ mổ c̣n lớn hơn nữa.
Tội ác của mười ḷ mổ tương đương
với tội gây tạo bởi vua Chiên-đồ-la cho đến
bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la thành tựu một luân
trong mười ác luân, chẳng phải là cả mười
luân đều thành tựu! [Nếu thành tựu cả mười
luân], lại càng khôn ngằn! Trong mười ác luân, thành tựu
một luân trong ṿng một ngày một đêm, sẽ tương
đương với tội của một ḷ mổ. Mười
tiệm rượu với bằng một ḷ mổ!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết
tụng viết: - Thập áp du luân tội, đẳng bỉ
nhất dâm phường. Trí bỉ thập dâm phường,
đẳng nhất tửu phường tội. Trí thập
tửu phường tội, đẳng bỉ nhất đồ
phường. Trí bỉ thập đồ phường, tội
đẳng vương đẳng nhất.
(經)爾時,世尊而說頌曰:十壓油輪罪,等彼一婬坊,置彼十婬坊,等一酒坊罪;置十酒坊罪;等彼一屠坊,置彼十屠坊,罪等王等一。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn bèn nói kệ tụng rằng: - Tội mười máy ép
dầu, bằng tội một nhà thổ. Mở ra mười
nhà thổ, tội bằng một tiệm rượu. Tội
mở mười tiệm rượu, tội bằng một
ḷ mổ. Tội mở mười ḷ mổ, bằng tội
của vua, quan, thực hiện một ác luân).
Đoạn này
giống như tổng kết. Do tội của mười
ḷ mổ bằng với tội của vua Sát-đế-lợi,
cho đến những gă Chiên-đồ-la trong giới sa-môn,
Bà-la-môn v.v… thực hiện một ác luân. Thậm chí họ
chẳng tạo ác luân ấy lâu dài, chỉ một ngày một
đêm! Đấy là ác luân như đă nói trong phần trước,
do tội nghiệp của một ác luân là vô lượng,
vô biên. Nếu tội nghiệp đó lớn dường ấy,
khi nào sẽ thoát khỏi địa ngục Vô Gián? V́ sao kẻ
làm ác nhiều dường ấy? Người trên thế
giới vẫn rất nhiều, thay phiên luân chuyển, từ
súc sanh đạo thoát ra. Súc sanh c̣n nhiều hơn loài người,
đúng không? Mọi người hăy ngẫm xem! Lấy một
loại súc sanh, chẳng hạn như kiến, quư vị nói
xem: “Nam Thiệm Bộ Châu có bao nhiêu kiến?” Chẳng nói chi
khác, kiến rất đông, vượt hơn sáu mươi
ức nhân
khẩu bao nhiêu lần? C̣n có những loài khác, họ dần dần thọ
báo đă xong, lại chuyển thành người. Địa
ngục, quỷ đạo, tất cả các đường
khác đều sẽ chuyển thành người. C̣n thiên đạo
th́ có lúc thiện nghiệp trong cơi trời chưa hết, họ
lại chuyển sanh trong nhân gian. Có người nói: “Chư
thiên chuyển thế, từ ngạ quỷ đến, từ
địa ngục đến, cùng với chư thiên chuyển
thành người, tuyệt đối bất đồng”.
Các ác nghiệp như [ác nghiệp của]
vua Chiên-đồ-la vương, Chiên-đồ-la sa-môn, Chiên-đồ-la
Bà-la-môn, hết thảy Chiên-đồ-la chúng sanh mang ư nghĩa
ác, họ là chúng sanh làm ác, tạo
một ác nghiệp sẽ thọ khổ vô lượng. Nếu
chúng ta nghĩ đến điều này, quư vị c̣n dám làm
ác hay không? Trong khi quư vị khởi tâm động niệm,
niệm trước vừa dấy lên, niệm sau hăy ngay lập tức ngăn dứt. Quư vị nghĩ xem, kinh
Đại Tập Thập Luân dạy chẳng giống các
kinh khác, [các kinh khác] chẳng nói rơ rệt như kinh Đại
Tập Thập Luân. Thoạt đầu, tôi chẳng mong giảng
kinh Đại Tập Thập Luân, suy nghĩ suốt một
hai năm, vẫn không dám giảng. Ngay cả tôi c̣n sợ hăi,
lo ngại [giảng ra] sẽ khiến cho người khác sanh
khởi cảm giác kinh sợ, hoặc c̣n dễ dàng chuốc
lấy sự phỉ báng. Họ sẽ cho rằng đức
Phật chẳng từ bi dường ấy, hung tợn dường
ấy, Phật chẳng phải là đại từ bi ư?
Chính v́ Ngài đại từ đại bi, cho nên mới dạy
quư vị đừng làm chuyện ấy. “Nếu quư vị
cứ làm, ta chẳng có cách nào cứu quư vị”. Dạy bảo
quư vị như thế này: [“Quư vị phạm mười ác
luân], Phật, Bồ Tát chẳng có cách nào cứu”. Bất quá, sau
đó, Địa Tạng Bồ Tát vẫn phát nguyện cứu
họ, nhưng cứu chẳng xuể, vẫn
c̣n rất nhiều. Những kẻ Ngài có thể cứu vẫn
là thiểu số.
(Kinh) Nhĩ thời, Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát phục bạch Phật ngôn: - Đại
đức Thế Tôn! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi,
chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện
trưởng giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Bà-la-môn,
như thị đẳng nhân, năng tự thiện hộ,
diệc thiện hộ tha, thiện hộ hậu thế,
thiện hộ Phật pháp xuất gia chi nhân, nhược thị
pháp khí, nhược phi pháp khí, hạ chí vô giới, thế
trừ tu phát, bị ca-sa giả, phổ thiện thủ hộ,
cung kính cúng dường. Hựu năng thiện hộ Thanh
Văn Thừa pháp, Duyên Giác Thừa pháp, cập Đại
Thừa pháp, cung kính thính văn, tín thọ, cúng
dường. Ư trụ Đại Thừa, cụ giới,
phú đức, tinh cần tu hành, năi chí trụ quả Bổ
Đặc Già La, năng thiện thủ hộ, trợ kỳ
thế lực, tứ vấn thính thọ, hoan hỷ đàm
luận, viễn ly phá giới, ác hạnh bật-sô. Ư
chư sở thí tứ phương Tăng
vật, chung bất linh nhân phi pháp phí dụng, cần gia thủ
hộ, cúng tứ phương Tăng.
Ư Tốt-đổ-ba, cập Tăng Kỳ vật,
chung bất tự đoạt, bất giáo tha đoạt, diệc
bất tự dụng, bất giáo tha dụng. Ư năng
biện thuyết tam thừa pháp nhân, cung
kính cúng dường, gia hộ dữ lực, bất linh tha
nhân phỉ báng, hủy nhục, tôn trọng, an ủy chư
xuất gia nhân, tín thọ, hộ tŕ Phật sở thuyết
pháp, chung bất phá hoại chư Tốt-đổ-ba, diệc
thường hộ tŕ Tăng Già Lam xá. Ư thế tu phát,
bị phục ca-sa xuất gia nhân sở, chung bất hủy
phế. Ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập,
diệc thường khuyến tha ly thập ác luân, cụ học
tiên vương trị quốc chánh pháp, thiệu Tam Bảo
chủng, thường linh xí thịnh, hằng
nhạo thân cận chư thiện tri thức, từ tâm phủ
dục nhất thiết quốc nhân, tùy kỳ sở nghi, phương
tiện hóa đạo, linh xả tà pháp, tu hành chánh pháp.
Như thị chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, đắc
kỷ sở phước? Diệt kỷ sở tội?
(經)爾時,地藏菩薩摩訶薩復白佛言:大德世尊,若有真善剎帝利、真善宰官、真善居士、真善長者、真善沙門、真善婆羅門,如是等人,能自善護,亦善護他,善護後世,善護佛法出家之人。若是法器,若非法器,下至無戒,剃除鬚髮被袈裟者,普善守護,恭敬供養。又能善護聲聞乘法、緣覺乘法及大乘法,恭敬聽聞,信受供養。於住大乘,具戒富德,精勤修行,乃至住果補特伽羅,能善守護助其勢力,諮問聽受,歡喜談論,遠離破戒惡行苾芻。於諸所施四方僧物,終不令人非法費用,勤加守護,供四方僧。於窣堵波,及僧祇物,終不自奪,不教他奪,亦不自用,不教他用。於能辯說三乘法人,恭敬供養,加護與力,不令他人誹謗毀辱;尊重安慰諸出家人,信受護持佛所說法,終不破壞諸窣堵波,亦常護持僧伽藍舍。於剃鬚發、被服袈裟、出家人所,終不毀廢。於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪。具學先王治國正法,紹三寶種,常令熾盛,恆樂親近諸善知識,慈心撫育一切國人,隨其所宜方便化導,令舍邪法,修行正法。如是真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,得幾所福?滅幾所罪?
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch với
đức Phật rằng: - Bạch đại đức
Thế Tôn! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện
tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện trưởng
giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Bà-la-môn, những người
như thế có thể khéo ǵn giữ chính ḿnh, cũng khéo ǵn
giữ người khác, khéo thủ hộ đời sau, khéo
thủ hộ người xuất gia trong Phật
pháp, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, thậm chí kẻ
chẳng có giới, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa,
khéo thủ hộ trọn khắp, cung kính cúng dường.
Lại có thể khéo thủ hộ pháp Thanh Văn Thừa,
pháp Duyên Giác Thừa, và pháp Đại Thừa, cung kính lắng
nghe, tin nhận, cúng dường. Đối với bậc
trụ trong Đại Thừa, đủ giới, giàu đức,
siêng ṛng tu hành, cho đến trụ quả Bổ Đặc
Già La, có thể khéo thủ hộ, giúp thế lực cho họ,
thưa hỏi, nghe nhận, hoan hỷ đàm luận, xa ĺa
bật-sô phá giới, ác hạnh. Đối với các vật thí cho tứ
phương Tăng, trọn chẳng để kẻ khác
tiêu xài phung phí phi pháp, càng thêm siêng năng thủ hộ, cúng
tứ phương Tăng.
Đối với Tốt-đổ-ba (Stupa, tháp) và vật
dụng thuộc về Tăng chúng, trọn chẳng tự
đoạt, chẳng dạy kẻ khác đoạt, cũng
chẳng tự dùng, chẳng dạy kẻ khác dùng. Đối
với người có thể biện luận, diễn thuyết
pháp tam thừa, bèn cung kính cúng dường, gia hộ, tăng
thêm sức, chẳng
để cho kẻ khác phỉ báng, hủy nhục [người
ấy]. Tôn trọng, an ủi các vị xuất gia. Tin nhận
và hộ tŕ pháp do đức Phật đă nói. Trọn chẳng
phá hoại các tốt-đổ-ba, cũng thường hộ
tŕ pḥng ốc thuộc Tăng già lam. Đối với các
vị xuất gia cạo bỏ râu tóc, đắp ca-sa, trọn
chẳng hủy phế. Tự chẳng nhuốm bẩn do hành
mười ác luân, cũng thường khuyên người khác
ĺa mười ác luân. Học trọn đủ chánh pháp trị
quốc của tiên vương, nối tiếp chủng tánh
Tam Bảo, khiến cho thường hưng thịnh, luôn thích
thân cận các vị thiện tri thức, từ tâm vỗ về,
dưỡng dục hết thảy người trong nước,
tùy theo lẽ thích ứng mà phương tiện giáo hóa, hướng
dẫn, khiến họ bỏ tà pháp, tu hành chánh pháp. Vua Sát-đế-lợi
chân thiện cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… như thế,
sẽ được bao nhiêu phước? Diệt bao nhiêu
tội?)
Đoạn kinh văn dài này tương phản
với đoạn kinh văn trước đó. Trong phần
trước là làm ác phải đọa địa ngục,
đọa vào Vô Gián. Ở đây, nói ngược lại: Nếu
các Sát-đế-lợi, cho đến
Bà-la-môn v.v… cúng dường thủ hộ Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo,
phước đức của họ sẽ to cỡ nào? Đoạn
kinh văn này và đoạn kinh trước đó tương
đồng, một đằng thiện, một đằng
ác. Trong kinh Đại Tập Thập Luân, do Địa Tạng
Bồ Tát thỉnh pháp, thuyết pháp, lấy Ngài làm chánh yếu,
cho nên gọi là kinh Địa Tạng Thập Luân. Từ đây
trở đi, trong phần trước đă nói mười
ác luân nhiều như thế, nếu nói ngược lại,
[tức là] chẳng làm các điều ác ấy, cho đến
xa ĺa điều ác ấy, họ sẽ có phước
đức nhiều cỡ nào? Địa Tạng Bồ Tát
hỏi như thế. Đối chiếu văn tự
trong phần này với phần trước, ắt cần
phải giảng giải đôi chút.
“Chân thiện” là ǵ? Chân thiện là giải
thoát, thật sự đạt được giải
thoát, cho đến tu tập, sẽ có thể chứng
đắc Niết Bàn, đấy là ư nghĩa “chân thiện”.
Thật sự tu hành, thật sự giải thoát, cho đến
tín tâm kiên định, các vị Sát-đế-lợi, tể
quan, Bà-la-môn, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, những
người ấy tự ḿnh hộ niệm chính ḿnh, khéo léo
hộ niệm. Chúng ta đọc phẩm Tịnh Hạnh, [ư nghĩa chủ
đạo trong phẩm kinh ấy] chẳng phải là “thiện
dụng kỳ tâm” (khéo dùng cái tâm) ư? Hàm nghĩa là “chính
ḿnh có thể khéo dụng tâm, không chỉ hộ tŕ đời
hiện tại, mà c̣n hộ tŕ cả đời sau!”
Kế tiếp là Tam Bảo, hộ tŕ Phật,
hộ tŕ Pháp, hộ tŕ Tăng chúng. Trong việc
hộ tŕ Tăng nhân, có những vị tốt lành, tŕ giới
thanh tịnh, có vị chẳng phải là pháp khí, mà cũng là
phá giới. Trong phần trước đă nói tỳ-kheo phá
giới, thậm chí kẻ chẳng có giới nào, chỉ cần
kẻ đó cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, từ Sát-đế-lợi
cho đến Bà-la-môn đều cung kính thủ hộ, hướng
về họ nghe pháp, [tức] pháp Thanh Văn Thừa, pháp Duyên
Giác Thừa, và pháp Đại Thừa, tức là pháp tam thừa,
cung kính nghe nhận. Đă tin rồi bèn có thể tiếp nhận,
tiếp nhận rồi bèn có thể tu hành. Không chỉ tin
nhận mà thôi, lại c̣n thực hiện. Cúng dường
là bố thí. Đối với các bậc trọn đủ
giới thanh tịnh, có đức, siêng ṛng tu hành, cho đến
Bổ Đặc Già La đă chứng quả, cũng là Sơ
Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả; đấy
là hoàn toàn nói theo pháp Tiểu Thừa, người ấy có
thể khéo thủ hộ, giúp họ tu hành, mang ư nghĩa “làm
hộ pháp” cho họ. Lại c̣n hướng về họ
thưa hỏi Phật pháp, hoan hỷ đàm luận, xa ĺa tỳ-kheo
phá giới, ác hạnh.
Đấy là xét theo phương diện tốt đẹp.
Đối với kẻ phá giới, chẳng bị tỳ-kheo
phá giới tiêm nhiễm. Đối với những vật
được bốn phương cúng dường trong Tăng
Già Lam, cũng là các vật của Tăng chúng, người
ấy chẳng phi pháp chiếm dụng, cũng chẳng phi
pháp chiếm đoạt, lại c̣n giúp sức thủ hộ.
Vậy th́ cúng dường tứ phương
Tăng cho đến đối với tháp, cũng như
vật dụng của Tăng Già, là những
vật phẩm cúng dường đại chúng trong Tăng
Già Lam, “chung bất tự đoạt” (trọn chẳng
tự chiếm đoạt), tức là các vua Sát-đế-lợi,
đại thần có quyền thế chẳng tự cướp
đoạt, chẳng đoạt để chính ḿnh sở
hữu, cũng chẳng để tự dùng, mà cũng chẳng
cho phép kẻ khác tước đoạt, cũng chẳng
cho phép kẻ khác dùng. Chỉ cần là người có thể
nói pháp tam thừa, họ sẽ đều hộ tŕ, cung
kính cúng dường, giúp sức cho người ấy càng
thêm siêng ṛng tu hành. Trong đoạn trước đă nói, nếu
tu hành tại đó, có các ác tỳ-kheo phá hoại các tỳ-kheo
tịch tĩnh, cũng như ác Bà-la-môn phá hoại các vị
tỳ-kheo tịch tĩnh, họ (quốc vương, đại
thần) sẽ liền bảo vệ, an ủi
các vị xuất gia ấy. Tin nhận, hộ tŕ pháp do đức
Phật đă nói. “Chung bất phá hoại chư tốt-đổ-ba”
(trọn chẳng phá hoại các tháp), tức là [trọn
chẳng phá hoại] chùa miếu hay tháp.
Đối với mười ác luân đă nói
trong phần trước, bản thân họ chẳng bị
tiêm nhiễm, chẳng hành ác pháp. Họ c̣n khuyên những kẻ
đó rời bỏ mười ác luân. Đối với các
chúng sanh Bổ Đặc Già La đă tiêm nhiễm, huân tập
mười ác luân, các vua quán đảnh Sát-đế-lợi
cho đến Bà-la-môn đều khuyên những kẻ đó
phải xa ĺa mười ác luân. “Cụ học tiên
vương trị quốc chánh pháp” (học trọn đủ
chánh pháp trị quốc của tiên vương): Đây là nói
tỷ dụ, [hàm ư] học Pháp Bảo do quá khứ chư Phật
đă dạy. Như vậy th́ mới có thể khiến
cho Tam Bảo chẳng đoạn diệt. “Thiệu” (紹) có nghĩa
là “kế thừa”. “Thiệu Tam Bảo chủng”
(nối tiếp chủng tánh Tam Bảo), thường khiến
cho Phật Pháp Tăng Tam Bảo hưng thịnh, cũng thường
xuyên mong muốn thân cận thiện tri thức, từ tâm vỗ
về, dưỡng dục hết thảy người dân
trong nước. Như thế bèn “tùy kỳ sở nghi”
(theo lẽ thích ứng), tức
là thuận theo [căn tánh của] người tu hành ấy
cho đến những tỳ-kheo ác hạnh mà uốn nắn
họ. Uốn nắn th́ cũng cần phải hộ tŕ, giáo
hóa, hướng dẫn, phải chọn lựa phương
tiện giáo hóa, hướng dẫn, khiến cho họ ĺa bỏ
tà pháp, tu hành chánh pháp.
“Như thị chân thiện Sát-đế-lợi,
năi chí ư chân thiện Bà-la-môn đẳng, đắc kỷ
sở phước? Diệt kỷ sở tội?” (Chân thiện
Sát-đế-lợi cho đến chân thiện Bà-la-môn như
thế sẽ được bao nhiêu phước? Diệt bao
nhiêu tội?): Tăng phước, diệt tội, bất
luận là người ấy từ tu đạo cho đến có thể sống hạnh phúc trên thế gian, luôn có thể tu pháp
xuất thế. Trong phần trước đă nói các vua Chiên-đồ-la
Sát-đế-lợi, Chiên-đồ-la Bà-la-môn v.v… làm chuyện
ác, cùng với ác tỳ-kheo phá hoại tỳ-kheo tịnh hạnh,
cho đến khiến cho các vị ấy chẳng thể
tu đạo, những kẻ tạo tội nhiều như
vậy, đều đọa vào địa ngục Vô Gián.
[Ở đây], nói ngược lại, những người
hộ tŕ Phật Pháp Tăng Tam Bảo th́ sẽ có thể đạt
được bao nhiêu điều lợi ích?
(Kinh) Phật ngôn: “Thiện nam tử! Giả
sử hữu nhân, xuất hiện thế gian, cụ đại
oai lực, ư nhật sơ phần, tích tập thất bảo,
măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí chư Phật, cập
đệ tử chúng. Ư nhật trung phần, diệc tập
thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí chư Phật, cập
đệ tử chúng. Ư nhật hậu phần, diệc
tập thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí
chư Phật, cập
đệ tử chúng. Như thị nhật nhật tương
tục, bố thí măn bách thiên niên, thử nhân phước tụ,
ninh vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại
đức! Thử nhân phước tụ vô lượng vô
biên, bất khả xưng kế. Toán, số, thí dụ, sở
bất năng cập, duy Phật năng tri, dư vô tri giả”.
Phật ngôn: “Thiện nam tử! Như thị, như thị.
Như nhữ sở thuyết. Nhược hữu chân thiện
Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn
đẳng, ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập,
diệc thường khuyến tha ly thập ác luân, sở
hoạch phước tụ, quá tiền phước tụ,
vô lượng, vô biên, bất khả xưng kế”.
(經)佛言:善男子,假使有人,出現世間具大威力,於日初分,積集七寶滿贍部洲,奉施諸佛及弟子眾;於日中分,亦集七寶滿贍部洲,奉施諸佛及弟子眾;於日後分,亦集七寶滿贍部洲,奉施諸佛及弟子眾;如是日日相續佈施,滿百千年。此人福聚,寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人福聚無量無邊,不可稱計,算數譬喻所不能及。唯佛能知,餘無知者。佛言:善男子,如是,如是,如汝所說。若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪,所獲福聚,過前福聚,無量無邊,不可稱計。
(Kinh: Đức Phật nói: “Này thiện
nam tử! Giả sử có người xuất hiện
trong thế gian, có oai lực lớn, vào buổi sáng tích tập
bảy báu đầy khắp Thiệm Bộ Châu, dâng cúng chư
Phật và các vị đệ tử. Vào buổi trưa, cũng
tụ tập bảy báu đầy khắp Thiệm Bộ
Châu, dâng cúng chư Phật và các vị đệ tử. Vào
buổi tối, cũng tụ tập bảy báu đầy
khắp Thiệm Bộ Châu, dâng cúng chư Phật và các vị
đệ tử. Hằng ngày liên tục như thế, bố
thí trọn trăm ngàn năm, người ấy tích tụ
phước há có nhiều chăng?” Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều!
Bạch đại đức, rất nhiều! Người
ấy tích tụ phước vô lượng, vô biên, chẳng
thể tính kể. Toán, số, thí dụ đều chẳng
sánh bằng, chỉ riêng Phật có thể biết, những
người khác không biết”. Đức Phật bảo: “Này
thiện nam tử! Đúng như vậy, đúng như thế.
Đúng như lời ông nói. Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi
vương, cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… đối
với mười ác luân chẳng tự huân tập, cũng
thường khuyến hóa người khác rời ĺa hành mười
ác luân, th́ khối phước đạt được sẽ
vượt hơn phước tích tụ bởi người
trước vô lượng vô biên, chẳng thể tính kể”).
“Thiện nam tử” ở đây là danh
xưng [đức Phật dùng để gọi] Địa
Tạng Bồ Tát. Giả sử có người xuất hiện
trong thế gian, trọn đủ oai lực rất lớn,
tức là nói đến phước nghiệp của người
ấy, so với vua quán đảnh Sát-đế-lợi hộ
tŕ các thiện tín, hàng phục những kẻ có tánh ác th́ công
đức của người ấy lớn cỡ nào? Cũng
tức là để luận định công đức của
người ấy, đức Phật bèn dùng cách tỷ dụ,
tỷ dụ theo từng tầng một. [Trong tầng tỷ
dụ đầu tiên, đức Phật nói]: Giả sử
có một người như thế xuất hiện trên thế
gian, người ấy có rất nhiều oai lực.
“Ư nhật sơ phần”, [tức là] lúc mặt
trời mới mọc, “tích tập thất bảo, măn Thiệm
Bộ Châu”: Vào buổi sáng, người ấy có thể
do oai lực của chính ḿnh mà tập trung bảy báu, mă năo,
san hô, hổ phách, tổng cộng nhiều cỡ nào? Nhiều
như Nam Thiệm Bộ Châu! Vào sáng sớm, dùng bảy báu
nhiều ngần ấy để cúng dường chư Phật
và các vị đệ tử. “Ư nhật trung phần” tức
là buổi trưa cũng tụ tập bảy báu đầy
ắp Thiệm Bộ Châu. [Buổi sáng] đă bố thí
xong, buổi trưa lại tụ tập bảy báu đầy
ắp Nam Thiệm Bộ Châu nhiều ngần ấy, “phụng
thí chư Phật cập đệ tử chúng. Ư nhật
hậu phần, diệc tập thất bảo, măn Thiệm
Bộ Châu, phụng thí chư Phật cập đệ tử
chúng” [nghĩa là] ngay trong ngày hôm đó, buổi trưa, buổi
tối, kể cả buổi sáng, trong ba thời thần, đều
tập trung bảy báu đầy ắp Nam Thiệm Bộ
Châu, ba lượt đều tụ
tập bảy báu trọn khắp Nam Thiệm Bộ Châu như
thế để bố thí, cúng dường chư Phật
và các đệ tử, lại c̣n chẳng phải chỉ [làm
như vậy] một ngày!
“Như thị nhật nhật tương
tục” [tức là] hằng ngày đều [tiếp tục]
cúng dường như thế. Cúng dường trong thời
gian nhiều cỡ nào? “Măn bách thiên niên” (trọn trăm
ngàn năm): Hoặc là cúng dường một trăm năm,
hoặc cúng dường một ngàn năm. Hăy nói xem, người
ấy có phước đức nhiều hay không? Dùng các thứ
thất bảo ấy để cúng dường chư Phật,
mỗi ngày ba lượt cúng dường, cúng dường trong
trăm ngàn năm, phước đức ấy có nhiều
hay không? Địa Tạng Bồ Tát thưa: “Bạch Thế
Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất
nhiều”. Sự cúng dường ấy chẳng thể
nghĩ bàn, phước do người ấy tích tụ “vô
lượng vô biên, chẳng thể tính kể”. Dùng con số
để tính toán, mỗi ngày đều như thế ba lượt
cúng dường bảy báu nhiều ngần ấy, phước
đức của người ấy dẫu dùng toán, số,
thí dụ [để tính toán hay so sánh] đều tính chẳng ra! Phước
đức cúng dường ấy chỉ có đức Phật
mới biết, người khác không biết: Trừ đức
Phật ra, các vị
đại Bồ Tát khác cũng không có cách nào biết được.
Đức Phật dạy: “Thiện nam tử! Như thị,
như thị”, [nghĩa là] ông nói rất là đúng. “Như
nhữ sở thuyết” hàm nghĩa: Như ông vừa mới
hỏi ta “nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương
cho đến các chân thiện Bà-la-môn v.v…” tự
ḿnh chẳng huân tập mười ác luân, lại c̣n khuyên kẻ
khác rời ĺa mười ác luân, sẽ đạt được
phước đức to lớn cỡ nào? Phước đức
của người ấy so với phước đức
vừa nói trên đây “quá tiền phước tụ” (hơn
hẳn phước tích tụ trước đó), “tụ” (聚) có nghĩa
là “tụ
tập”. Nói đến
phước đức của người ấy, th́ phước
đức đă tụ tập [của người ấy]
vô lượng, vô biên,
chẳng thể tính kể. Thiện nam tử ấy đă tự
ḿnh chẳng huân nhiễm mười ác luân, lại c̣n khuyên
kẻ khác cũng đừng huân nhiễm mười ác
luân, rời ĺa mười ác luân, phước đức của
người ấy vượt xa phước của người
cúng dường trên đây. Đây là bước đầu.
Nay lại nói cao hơn một bậc nữa!
(Kinh) “Hựu thiện nam tử! Giả
sử hữu nhân xuất hiện thế gian, cụ đại
oai lực, vị tứ phương Tăng doanh
kiến tự vũ, kỳ lượng khoan quảng đẳng
tứ đại châu, thượng diệu pḥng xá, sàng, phu,
y phục, ẩm thực, y dược, tư duyên sung bị,
linh chư Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát, đại đệ
tử chúng chỉ trụ kỳ trung, tinh tấn tu hành chủng
chủng thiện phẩm. Nhược trú, nhược dạ,
vô hữu giải tức, kinh bách thiên câu-chi na-dữu-đa
tuế, cung cấp cúng dường, tương tục bất
tuyệt. Thử nhân phước tụ, ninh vi đa phủ?”
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm đa, Thế
Tôn! Thậm đa, đại đức! Thử nhân phước
tụ vô lượng vô biên, bất khả xưng kế, toán,
số, thí dụ sở bất năng cập, duy Phật năng tri, dư
vô tri giả”. Phật ngôn: “Thiện nam tử! Như thị,
như thị, như nhữ sở thuyết”.
(經)又善男子,假使有人,出現世間具大威力,為四方僧營建寺宇,其量寬廣等四大洲,上妙房舍、床敷、衣服、飲食、醫藥,資緣充備,令諸如來、聲聞、菩薩、大弟子眾,止住其中,精進修行種種善品,若晝若夜無有懈息,經百千俱胝那庾多歲,供給供養相續不絕。此人福聚,寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人福聚無量無邊,不可稱計,算數譬喻所不能及。唯佛能知,餘無知者。佛言:「善男子,如是,如是,如汝所說。
(Kinh: “Lại này thiện nam tử! Giả
sử có người xuất hiện trong thế gian, có oai
lực lớn, v́ tứ phương Tăng tạo dựng
chùa chiền, kích thước rộng lớn bằng bốn
đại châu, pḥng ốc tốt đẹp nhất, giường,
mền, y phục, thức ăn, thuốc men, các vật cần
thiết trọn đủ, để các vị Như Lai,
Thanh Văn, Bồ Tát, các vị đại đệ tử
ở trong ấy, tinh tấn tu hành các loại thiện phẩm.
Dù đêm hay ngày, chẳng hề lười nhác, ngưng nghỉ.
Trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm cung cấp,
cúng dường liên tục chẳng dứt, phước do
người ấy tích tụ há có nhiều chăng?” Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thưa: “Bạch Thế Tôn, rất
nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều! Người
ấy tích tụ
phước đức vô lượng, vô biên, chẳng
thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng
sánh bằng, chỉ riêng đức Phật có thể biết,
kẻ khác chẳng biết”. Đức Phật bảo: “Này
thiện nam tử! Đúng như thế đấy, đúng
như vậy đấy, đúng như lời ông đă nói”).
Xây dựng trụ xứ trong Tăng Già Lam, tức
là chỗ ở dành cho Tăng
nhân. Ngôi chùa ấy to cỡ nào? Xây dựng ngôi chùa “khoan quảng
đẳng tứ đại bộ châu” (rộng lớn
bằng bốn bộ châu): Tứ đại bộ châu đều
thành một ngôi chùa! Người ấy có đại oai lực,
c̣n có pḥng ốc tốt đẹp nhất. Trong mỗi pḥng,
c̣n có những vật dụng sinh hoạt như y phục,
giường, mền đệm, y phục, thức ăn, “tư
duyên sung bị” (các thứ cần thiết cho cuộc sống
đều trọn đủ). Các vật
cần dùng cho cuộc sống đều rất đầy
đủ, để các vị Như Lai, chẳng phải là
một, hai vị Phật [mà là chư Phật], khiến cho
các vị Thanh Văn và Bồ Tát là đệ tử của
chư Như Lai cùng ở trong ngôi chùa do kẻ ấy đă
tạo. “Tinh tấn tu hành chủng chủng thiện phẩm”
(tinh tấn tu hành các loại thiện phẩm),
đương nhiên là chư Phật, Bồ Tát sẽ chỉ
dạy, dẫn dắt, sẽ thuyết pháp. Thuyết pháp
th́ c̣n có rất nhiều chúng sanh đều có thể siêng ṛng
tu hành. Thiện phẩm là do đức Phật chỉ dạy,
như trong kinh đă nói, hoặc là tu tập Thiền Định,
hoặc đọc tụng, hoặc lễ bái. “Nhược
trú, nhược dạ, vô hữu giải tức, kinh bách
thiên câu-chi na-dữu-đa tuế” (dù ngày hay đêm chẳng
hề biếng nhác, ngưng nghỉ, trải qua trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa năm), na-dữu-đa là ức, trăm
ngàn câu-chi ức, nhiều
dường ấy, “cung cấp cúng dường, tương
tục bất tuyệt, thử nhân phước tụ ninh
vi đa phủ?” (cung cấp,
công đức, liên tục chẳng dứt, phước đức
của người ấy há có nhiều chăng?)
“Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: -
Thậm đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại đức”
(Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: - Bạch Thế Tôn,
rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều).
Đức Thế Tôn nói phước do người đó tích
tụ vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể. Chúng
ta có thể tưởng tượng điều này. Chúng ta
dựng một ngôi chùa b́nh thường, như trưởng
giả Cấp Cô Độc tạo dựng tinh xá Kỳ Viên
cho đức Phật. Khi trưởng giả tạo tinh xá,
trên tầng trời thứ ba là Dạ Ma Thiên cũng tạo
cung điện cho ông ta. Tinh xá của ông ta trong nhân gian c̣n
chưa hoàn thành, mà cung điện phước đức [trên
cơi trời] đă kiến tạo xong xuôi! Đấy chỉ
là tinh xá Kỳ Viên. Tinh xá Kỳ Viên là một viên lâm tại
nước Xá Vệ mà thôi, c̣n tinh xá [được nói ở
đây] to cỡ nào? Lượng bằng tứ đại bộ
châu! Công đức này đương nhiên to hơn công
đức kia, phước đức [sẽ được
hưởng] sau khi chết đương nhiên cũng rất
lớn. Nhưng phước đức xuất thế gian
và phước đức thế gian khác nhau. Phước đức
nhân thiên dẫu to cách mấy, vẫn là hư vọng. Đức
Phật dùng tỷ dụ này nhằm nói người ấy đă
tích tụ phước vô lượng, vô biên, chẳng thể
tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng,
chỉ đức Phật có thể biết,
người khác chẳng biết. Giống như trong phần
trước, đức Phật dạy: “Thiện nam tử!
Như thị, như thị”. Đức Phật bảo
Địa Tạng Bồ Tát: Ông nói đúng lắm, đúng
như lời ông nói, phước đức như vậy vô
lượng, vô biên.
(Kinh) “Hựu thiện nam tử! Giả
sử hữu nhân, xuất hiện thế gian, cụ đại
oai lực, vị tứ phương Tăng doanh
kiến tự vũ, khoan quảng lượng đẳng
thập tứ đại châu, thượng diệu pḥng xá,
sàng, phu, y phục, ẩm thực, y dược, tư duyên
sung bị, linh chư Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát đại
đệ tử chúng chỉ trụ kỳ trung, tinh tấn
tu hành chủng chủng thiện phẩm. Nhược trú,
nhược dạ, vô hữu giải tức. Kinh bách thiên câu-chi
na-dữu-đa tuế, cung cấp, cúng dường, tương
tục bất tuyệt, thử nhân phước tụ, ninh
vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm
đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại đức! Thử
nhân phước tụ vô lượng, vô biên, bất khả
xưng kế, toán, số, thí dụ sở bất năng cập,
duy Phật năng tri, dư
vô tri giả”. Phật ngôn: “Thiện nam tử! Như thị,
như thị, như nhữ sở thuyết”.
(經)又善男子,假使有人,出現世間具大威力,為四方僧營建寺宇,寬廣量等十四大洲,上妙房舍、床敷、衣服、飲食、醫藥,資緣充備,令諸如來、聲聞、菩薩、大弟子眾,止住其中,精進修行種種善品,若晝若夜無有懈息,經百千俱胝那庾多歲,供給供養相續不絕。此人福聚,寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人福聚無量無邊,不可稱計,算數譬喻所不能及。唯佛能知,餘無知者。佛言:善男子,如是,如是,如汝所說。
(Kinh: “Lại này thiện
nam tử! Giả sử có người xuất hiện
trong thế gian, có oai lực lớn, v́ tứ phương
Tăng tạo dựng chùa miếu, kích thước rộng
lớn bằng mười bốn đại châu, pḥng ốc
tốt đẹp nhất, giường, mền đệm,
y phục, thức ăn, thuốc men, các vật cần thiết
trọn đủ, để các vị Như Lai, Thanh
Văn, Bồ Tát, các vị đại đệ tử ở
trong ấy, tinh tấn tu hành các loại thiện phẩm. Dù
đêm hay ngày, chẳng hề lười nhác, ngưng nghỉ.
Trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm, cung cấp,
cúng dường liên tục chẳng dứt, phước do
người ấy tích tụ há có nhiều chăng?” Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thưa: “Bạch Thế Tôn, rất
nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều! Người
ấy tích tụ
phước đức vô lượng, vô biên, chẳng
thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng
sánh bằng, chỉ Phật có thể
biết, kẻ khác chẳng biết”. Đức Phật bảo:
“Này thiện nam tử! Đúng như thế đấy, đúng
như vậy đấy, đúng như lời ông đă nói”).
Trong phần trước nói tứ đại
châu, ở đây nói gấp đôi, cũng kiến tạo
pḥng ốc thượng diệu, giường, mền đệm,
y phục, thức ăn, thuốc men, các duyên trọn đủ,
để chư Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát, các vị
đại đệ tử v.v… ở trong ấy tu hành, cho đến
thuyết pháp độ chúng sanh, ngày đêm đều chẳng
giải đăi. Trải qua trăm ngàn câu chi na-dữu-đa
năm, cung cấp, cúng dường, liên tục chẳng dứt.
Chẳng phải là một, hai ngày, mà là trong thời gian vô cùng,
vô tận, người ấy tích tập phước đức
có nhiều hay không? Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói:
“Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức
rất nhiều”. Người ấy tích tụ phước
đức vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể,
toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng, chỉ
đức Phật có thể biết, người khác chẳng biết. Đức
Phật dạy: “Thiện nam tử! Như thị,
như thị, như nhữ sở thuyết”, [nghĩa là] ông nói rất
đúng, phước đức ấy vô lượng, vô biên.
(Kinh) Hựu thiện nam tử! Giả
sử hữu nhân, xuất hiện thế gian, cụ đại
oai lực, vị Phật xá-lợi, khởi tốt-đổ-ba,
nghiêm lệ, cao quảng,
lượng đẳng tam thiên đại thiên thế giới,
như tiền sở thuyết vị tứ phương Tăng
tạo tự phước tụ, loại thử sở
thuyết vị Phật xá-lợi khởi tốt-đổ-ba
sở hoạch phước tụ, ư bách phần trung, bất
cập kỳ nhất, ư thiên phần trung, diệc
bất cập nhất, ư bách thiên phần, diệc
bất cập nhất, ư câu-chi phần, diệc
bất cập nhất, na-dữu-đa phần, số phần,
toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm
phần, diệc bất cập nhất.
(經)又善男子,假使有人,出現世間具大威力,為佛舍利起窣堵波,嚴麗高廣量等三千大千世界如前所說,為四方僧造寺福聚類此所說,為佛舍利起窣堵波,所獲福聚,於百分中不及其一,於千分中亦不及一,於百千分亦不及一,於俱胝分亦不及一,那庾多分、數分算分、計分喻分,乃至鄔波尼殺曇分亦不及一。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Giả
sử có người xuất hiện trong thế gian, có oai
lực lớn, v́ xá-lợi của Phật mà dựng tốt-đổ-ba,
trang nghiêm, tráng lệ, cao rộng, lượng bằng tam
thiên đại thiên thế giới. Phước tích tụ
v́ tạo chùa cho tứ phương Tăng như đă nói
trong phần trước so với phước đang nói ở
đây, tức là so với khối phước
đạt được do dựng tháp thờ xá-lợi của
Phật th́ sẽ
chẳng bằng một phần trăm, cũng chẳng bằng
một phần ngàn, cũng chẳng bằng một phần
trăm ngàn, cũng chẳng bằng một phần câu-chi,
một phần na-dữu-đa, một phần toán, một
phần số, một phần kế, một phần dụ, cho đến
cũng chẳng bằng một phần ổ-ba-ni-sát-đàm).
V́ sao lại thêm câu “cụ đại oai lực”
(có oai lực to lớn)? Nếu chẳng có loại sức
mạnh như thế, sao có thể tạo dựng thành tựu
được? Phước đức của người
này cũng chẳng thể nghĩ bàn! Lại v́ xá-lợi của
Phật mà tạo Tốt-đổ-ba
(Stupa), tức
là kiến tạo tháp thờ xá-lợi. Tháp ấy được
kiến tạo có kích thước bằng tam thiên đại
thiên thế giới, cao rộng như vậy. Phước
tích tụ do tạo chùa cho tứ phương Tăng đă nói
trong phần trước nếu đem so với chuyện này,
tức là so với phước tích tụ do v́ xá-lợi của
Phật mà dựng tốt-đổ-ba, “ư bách phần
trung bất cập kỳ nhất, ư thiên phần trung diệc
bất cập nhất, ư bách thiên phần diệc bất
cập nhất, ư câu-chi phần diệc bất cập
nhất, na-dữu-đa phần, số phần, toán phần,
kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm phần”
(chẳng bằng một phần trăm, cũng chẳng bằng
một phần ngàn, cũng chẳng bằng một phần
trăm ngàn, cũng chẳng bằng một phần câu-chi,
một phần na-dữu-đa, một phần toán, một
phần số, một phần kế, một phần dụ
cho đến một phần ổ-ba-ni-sát-đàm): Ổ-ba-ni-sát-đàm
(Upanisadam-api)[4] là một phần cực
nhỏ, là con số nhỏ nhất, “diệc bất cập
nhất” (cũng chẳng bằng một phần).
Đây là nói đảo lại. Nói đảo
lại như thế nào? Trong phần trước đă nói
những con số. Sau đó lại đem công đức của
vị Sát-đế-lợi, tức Sát-đế-lợi thiện
vương, chân thiện Sát-đế-lợi, [tức công
đức do] bản thân nhà vua chẳng dính mắc mười
ác luân, khuyên người khác đừng dính mắc mười
ác luân, xa ĺa mười ác luân để so sánh từng bước.
Hiện thời, nói đảo lại, chẳng
nhắc lại công đức của vị
chân thiện Sát-đế-lợi vương, vẫn nhằm chỉ rơ: Công đức
ấy, hoặc phước đức
của người đă làm những
việc như tạo tháp thờ xá-lợi
của Phật dẫu nhiều ngần ấy, vẫn chẳng
thể sánh bằng một phần công đức của vị
chân thiện vương xa ĺa mười ác luân và khuyên người
khác xa ĺa mười ác luân. Không chỉ là chẳng bằng
một phần mười, chẳng bằng một phần
trăm, mà cho đến một phần của câu-chi
phần cũng chẳng bằng!
“Na-dữu-đa phần, số phần,
toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm
phần diệc bất cập nhất”: Mọi người
hăy biết đoạn kinh văn này mang ư nghĩa hiển
thị công đức và phước đức do xa ĺa mười
ác luân. Đức Phật càng nói càng sâu, càng sâu càng nhiều,
càng nói càng nhiều. Phước đức xa ĺa mười
ác luân, cho đến dạy người khác xa ĺa mười
ác luân, quả thật chẳng thể tính kể, to hơn
bất cứ phước đức nảo, v́ đây là pháp
xuất thế gian, liễu sanh tử. Từ nay về sau,
vĩnh viễn liễu thoát, chẳng c̣n làm ác nữa. Có hàm
nghĩa như thế đó!
(Kinh) Hựu thiện nam tử! Giả
sử hữu đắc Ba La Mật Đa, cụ bát giải
thoát, Tĩnh Lự, Đẳng Chí đại
A La Hán, biến măn tam thiên đại thiên thế giới,
như đạo, ma, trúc, vi, cam giá, tùng lâm, nhất thiết
giai bị kiên phược ngũ xứ, kinh bách thiên niên. Thời
hữu nhất nhân, xuất hiện ư thế, cụ
đại oai lực, nhạo phước đức cố,
tất giải bị phược chư A La Hán,
hương thang tháo dục, phụng thí y bát, kinh bách thiên niên,
cấp thượng pḥng xá, sàng, phu, y phục, ẩm thực,
y dược, chủng chủng sở tu như pháp tư cụ.
Chư A La Hán bát Niết Bàn dĩ, cúng dường phần
thiêu, thâu thủ xá-lợi, dĩ diệu thất bảo, khởi
tốt-đổ-ba, an trí kỳ trung. Phục dĩ chủng
chủng bảo tràng, phan, cái, hương, hoa, kỹ nhạc,
nhi cúng dường chi. Như tiền sở thuyết vị
Phật xá-lợi khởi tốt-đổ-ba sở hoạch
phước tụ, loại thử sở thuyết giải
A La Hán cúng
dường phước tụ, ư bách phần trung, bất
cập kỳ nhất, ư thiên phần trung, diệc
bất cập nhất, ư bách thiên phần, diệc
bất cập nhất, ư câu-chi phần, diệc
bất cập nhất, na-dữu-đa phần, số phần,
toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm
phần, diệc bất cập nhất. (經)又善男子,假使有得波羅密多,具八解脫靜慮等至大阿羅漢,徧滿三千大千世界,如稻、麻、竹葦、甘蔗、叢林,一切皆被堅縛五處,經百千年,時有一人出現於世,具大威力,樂福德故,悉解被縛諸阿羅漢,香湯澡浴,奉施衣缽,經百千年,給上房舍、床敷、衣服、飲食、醫藥,種種所須如法資具,諸阿羅漢般涅槃已,供養焚燒收取舍利,以妙七寶起窣堵波安置其中,復以種種寶幢、幡蓋、香華、伎樂而供養之,如前所說,為佛舍利起窣堵波,所獲福聚,類此所說,解阿羅漢供養福聚,於百分中不及其一,於千分中亦不及一,於百千分亦不及一,於俱胝分亦不及一,那庾多分、數分算分、計分喻分乃至鄔波尼殺曇分,亦不及一。
(Kinh: Lại này thiện nam tử! Giả
sử có các vị đại A La Hán đắc Ba La Mật
Đa, đủ tám giải thoát, Tĩnh Lự, Đẳng
Chí, trọn khắp
tam thiên đại thiên thế giới như lúa, mè, tre, lau,
mía, rừng cây, hết thảy đều bị trói chặt
năm chỗ, trải qua trăm ngàn năm. Khi đó, có người
xuất hiện trong cơi đời, có oai lực lớn, do ưa
thích phước đức, đều cởi trói cho các vị
A La Hán, dùng nước thơm tắm gội, dâng thí y, bát.
Trải qua trăm ngàn năm, dâng hiến pḥng ốc bậc
thượng, giường, mền, y phục, thức ăn,
thuốc men, các thứ vật dụng cần thiết dụng
đúng pháp. Các vị A La Hán đă nhập Niết Bàn rồi,
người ấy bèn cúng dường, hỏa thiêu, thâu nhặt
xá-lợi, dùng bảy báu mầu nhiệm để dựng
tháp, đặt ở trong ấy. Lại dùng các thứ tràng
báu, phan, lọng, hương, hoa, kỹ nhạc để cúng
dường. Phước tích tụ do dựng tháp thờ xá-lợi
của Phật như trong phần trước đă nói, đem
so với với phước tích tụ do cởi trói và cúng
dường các A La Hán này th́ chẳng bằng một phần
trăm, cũng chẳng bằng một phần ngàn, cũng
chẳng bằng một phần trăm ngàn, cũng chẳng
bằng phần một phần câu-chi, một phần na-dữu-đa,
một phần số, một phần toán, một phần
kế, một phần dụ, cho đến một phần
ổ-ba-ni-sát-đàm, cũng đều chẳng bằng).
Đây là nói một chút phần công đức,
[tức là] vẫn chẳng sánh bằng một phần cực
nhỏ công đức của vua Sát-đế-lợi [chẳng hành thập ác
luân].
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu
chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện
Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự bất nhiễm
tập, diệc thường khuyến tha ly thập ác luân,
sở hoạch phước đức, quá tiền phước
tụ vô lượng, vô biên, bất
khả xưng kế, như sanh phước số, diệt
tội diệc nhĩ.
(經)善男子,若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪,所獲福德,過前福聚無量無邊,不可稱計。如生福數,滅罪亦爾。
(Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có chân
thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân
thiện Bà-la-môn v.v… đối với mười ác luân tự
ḿnh chẳng tiêm nhiễm, cũng thường khuyên người
khác ĺa mười ác luân, sẽ đạt được phước
đức vượt quá phước tích tụ trên đây
vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể. [Do công
đức ấy cũng có thể] diệt tội giống
như số lượng phước đă sanh khởi).
Các chân thiện Bà-la-môn ấy tự ḿnh chẳng
tiêm nhiễm mười ác luân, cũng khuyên người khác
chẳng tiêm nhiễm, sẽ đạt được phước
đức vượt quá lượng phước tích tập
như đă nói trên đây vô lượng, vô biên, chẳng thể
tính kể lần. Trong phần trước [đă nói các thiện
sự từ dùng bảy báu đầy ắp tứ đại
bộ châu để cúng dường hằng ngày ba lượt
suốt trăm ngàn năm] cho đến tạo tháp, miếu,
cứ từng bước, từng tầng một so sánh, [dẫu
cho] càng lúc càng to lớn, càng nhiều hơn, vẫn đều
chẳng bằng phước đức do các vị chân thiện
Bà-la-môn đạt được v́ tự ḿnh chẳng tiêm
nhiễm mười ác luân này, và cũng khuyên người khác
ĺa mười ác luân. [Đó là ư nghĩa của câu] “quá tiền
phước tụ vô lượng, vô biên, bất khả xưng
kế, như sanh phước số, diệt tội diệc
nhĩ”.
Khi người ấy c̣n sống, phước
đức chẳng thể nghĩ bàn, tiêu diệt tội ác
cũng thế, cũng giống hệt như phước
đức. Cũng có nghĩa là: Người ấy có thể
dần dần thành Phật. Ĺa thập Ác là Thập Thiện.
Thập Ác và Thập Thiện có điểm khác biệt là ǵ?
Người ấy khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa mười
ác, cũng là cung kính cúng dường Tam Bảo, trụ thế
Tam Bảo, khiến cho Phật pháp vĩnh viễn tồn tại
trên thế gian, khiến cho pháp nhăn của chúng sanh chẳng
bị đoạn tuyệt, chúng sanh trong vị lai đắc
độ càng nhiều hơn. Điều này chẳng thể
đo lường được. Dựa theo điều này
để suy đoán, phước đức ấy chẳng
thể suy lường được! Thị hiện [bố
thí] của cải, cho đến dựng tháp, cho đến
tất cả các thứ cúng dường, đều là hữu
hạn. V́ sao? Những thứ ấy vẫn thuộc về
tướng thế gian. Khiến cho con người ĺa thập
ác th́ thuộc về xuất thế gian.
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu
chân thiện Sát-đế-lợi vương, cập
chư chân thiện tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn đẳng, ư vị lai thế, hậu ngũ
bách tuế, pháp dục diệt thời, năng thiện hộ
tŕ ngă chi pháp nhăn, năng tự thiện hộ, diệc thiện
hộ tha, thiện hộ hậu thế, thiện hộ ngă
pháp xuất gia đệ tử, nhược thị pháp khí,
nhược phi pháp khí, hạ chí vô
giới, thế trừ tu phát, bị ca-sa giả, phổ thiện
thủ hộ, cung kính cúng dường, linh vô tổn năo. Hựu
năng thiện hộ tam thừa chánh pháp. Thính thọ
cúng dường Thanh Văn pháp thời, ư Độc Giác
Thừa, cập Đại Thừa pháp, bất sanh phỉ
báng. Ư Độc Giác Thừa, cập
Đại Thừa nhân, diệc bất tăng
tật. Thính thọ cúng dường Độc Giác pháp thời,
ư Thanh Văn Thừa, cập Đại Thừa pháp, bất
sanh phỉ báng. Ư Thanh Văn Thừa, cập
Đại Thừa nhân, diệc bất tăng tật. Thính
thọ cúng dường Đại Thừa pháp thời, ư
Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, bất sanh
phỉ báng. Ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa
nhân, diệc bất tăng tật. Ư Thanh Văn Thừa,
Độc Giác Thừa pháp, bất cầu thú chứng, duy cầu
thú chứng Đại Thừa chánh pháp. Ư trụ Đại
Thừa, cụ giới, phú đức, tinh cần tu hành, năi
chí trụ quả Bổ Đặc Già La, đa số thân cận,
thừa sự, cúng dường, thâm tâm
kính trọng, thỉnh vấn, thính thọ.
(經)善男子,若有真善剎帝利王,及諸真善宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等,於未來世後五百歲法欲滅時,能善護持我之法眼,能自善護,亦善護他,善護後世,善護我法出家弟子,若是法器,若非法器,下至無戒剃除鬚髮被袈裟者,普善守護,恭敬供養,令無損惱。又能善護三乘正法,聽受供養聲聞法時,於獨覺乘及大乘法不生誹謗,於獨覺乘及大乘人亦不憎嫉;聽受供養獨覺法時,於聲聞乘及大乘法不生誹謗,於聲聞乘及大乘人亦不憎嫉;聽受供養大乘法時,於聲聞乘、獨覺乘法不生誹謗,於聲聞乘、獨覺乘人亦不憎嫉;於聲聞乘、獨覺乘法,不求趣證,唯求趣證大乘正法。於住大乘具戒富德,精勤修行,乃至住果補特伽羅,多數親近,承事供養,深心敬重,請問聽受。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi
vương và các chân thiện tể quan, cư sĩ,
trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… trong đời vị
lai, năm trăm năm cuối, khi pháp sắp diệt, có
thể khéo hộ tŕ pháp nhăn của ta, có thể khéo tự hộ
tŕ, mà cũng khéo hộ tŕ người khác, khéo hộ tŕ đệ
tử xuất gia trong pháp của ta, dù là pháp khí, hay chẳng
phải pháp khí, thậm chí kẻ chẳng có giới, cạo
bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, đều
khéo thủ hộ trọn khắp, cung kính cúng dường,
khiến cho họ chẳng bị tổn hại, năo loạn.
Lại có thể khéo hộ tŕ chánh pháp tam thừa. Khi nghe nhận,
cúng dường pháp Thanh Văn, đối với pháp Độc
Giác Thừa và pháp Đại Thừa, chẳng sanh phỉ báng.
Đối với người [tu tập] pháp Độc Giác
Thừa và pháp Đại Thừa, cũng chẳng ghen ghét.
Khi nghe nhận, cúng dường pháp Độc Giác, đối
với pháp Thanh Văn Thừa và pháp Đại Thừa, chẳng
sanh phỉ báng. Đối với người [tu tập] pháp
Thanh Văn Thừa và pháp Đại Thừa, cũng chẳng
ghen ghét. Khi nghe nhận, cúng dường pháp Đại Thừa,
đối với pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc
Giác Thừa, chẳng sanh phỉ báng. Đối với
người [tu tập] Thanh Văn Thừa và Độc
Giác Thừa, cũng chẳng ghen ghét. Đối với pháp
Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa chẳng cầu
chứng nhập, chỉ cầu chứng nhập chánh pháp Đại
Thừa. Đối với Bổ Đặc Già La trụ Đại Thừa,
đủ giới, giàu đức, siêng ṛng tu hành, cho đến
trụ quả vị, nhiều lượt thân cận, thừa
sự, cúng dường, thâm tâm kính trọng, thưa hỏi,
nghe nhận).
Trong đoạn kinh văn này, Phật lại
nêu thí dụ để nói. Nếu ĺa mười ác luân, “nhược
hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, cập chư
chân thiện tể quan, cư sĩ, trưởng giả,
sa-môn, Bà-la-môn đẳng” (nếu có chân
thiện Sát-đế-lợi vương và các chân thiện
tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn
v.v…), năm trăm năm sau trong đời vị lai, “hậu
ngũ bách tuế” là nói về năm trăm năm cuối
cùng [trong thời Mạt Pháp]. Ở đây, có hai cách nói:
1) Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng
Pháp năm trăm năm, Mạt Pháp năm trăm năm. Đấy
là một cách nói bao gồm một ngàn năm trăm năm.
[Thuyết này] có khi nói là Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng
Pháp năm trăm năm, Mạt Pháp một ngàn năm.
2) Thuyết khác là Chánh Pháp và Tượng Pháp
đều một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm.
Mấy cách nói ấy hoàn toàn chẳng tương
đồng, ở đây chỉ nói tới năm trăm năm
cuối cùng. [Nếu hiểu] Mạt Pháp một vạn năm
th́ khi chín ngàn năm trăm năm đă qua, chỉ c̣n lại
năm trăm năm, lúc đó, pháp sắp diệt.
Khi Phật pháp hăy c̣n, tức là nói thời Mạt
Pháp hăy c̣n tồn tại rất dài. [Ở đây] nói khi pháp
sắp diệt, trong năm trăm năm cuối cùng, vào lúc
đó, dẫu trong lúc Tam Vũ diệt Phật cũng thế,
chúng ta cho rằng vẫn chưa đến lúc pháp diệt,
pháp ấy có thể tồn tại trong thế gian. Người
ấy không chỉ hộ tŕ chính ḿnh, mà c̣n khéo hộ tŕ người
khác, cũng khéo hộ tŕ các đệ tử xuất gia theo
pháp của đức Phật trong đời sau. Bất luận
[người xuất gia ấy] tŕ giới hay chẳng tŕ giới,
là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, cho đến chẳng
thọ giới, hễ vừa cạo bỏ râu tóc, “bị
thượng ca-sa” (khoác áo ca-sa), thậm chí ca-sa ấy là
ca-sa của sa-di, giống như mạn y[5] của chúng ta, chẳng
phải là phước điền y.
“Phổ thiện thủ hộ, cung kính cúng
dường” (khéo có thể thủ hộ trọn khắp,
cung kính cúng dường): Xa ĺa mười ác luân, vua Sát-đế-lợi
ấy “năi chí Bà-la-môn đẳng” (cho đến hàng Bà-la-môn)
có thể khéo hộ tŕ Phật pháp, có thể khiến cho Phật
pháp trụ thế, khiến cho những người học
pháp ấy chẳng bị tổn hại, năo loạn, b́nh
đẳng hộ tŕ chánh pháp tam thừa. Đối với
những phần kinh văn sau đó, quư vị hiểu ư nghĩa
như vậy là được rồi. Hộ tŕ pháp Thanh
Văn, chẳng hủy báng pháp Độc Giác, chẳng hủy
báng pháp Đại Thừa. Hộ tŕ pháp Độc Giác, chẳng
hủy báng pháp Thanh Văn, chẳng hủy báng pháp Đại
Thừa. Vậy th́ khi cúng dường pháp Đại Thừa,
người ấy cũng chẳng hủy báng pháp Thanh Văn,
cũng chẳng hủy báng pháp Độc Giác. Trong tam thừa,
người ấy tin theo thừa nào, sẽ chẳng hủy
báng hai thừa kia, phải cùng hộ tŕ tam thừa. Cũng
chẳng ghét bỏ, cũng chẳng hủy báng, mà phải b́nh
đẳng cúng dường. Nếu như Bổ Đặc
Già La là bậc trụ quả, tức là trụ trong Sơ
Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả. “Trụ
quả” là nói đến toàn bộ La Hán Thừa Thanh
Văn Thừa. Người ấy đều phải “thân
cận cúng dường, thâm tâm kính trọng, thỉnh vấn,
thính thọ” (thân cận cúng dường, thâm tâm kính trọng,
thưa hỏi, nghe nhận).
(Kinh) Viễn ly phá giới, ác hạnh bật-sô. Ư chư sở thí tứ phương
Tăng vật, chung bất linh nhân phi pháp phí dụng, cần
gia thủ hộ, cúng tứ phương Tăng.
Ư tốt-đổ-ba, cập Tăng Kỳ vật,
chung bất tự đoạt, bất giáo tha đoạt,
diệc bất tự dụng, bất giáo tha dụng. Ư
năng biện thuyết tam thừa pháp nhân, cung kính cúng
dường, gia hộ dữ lực, bất linh tha nhân phỉ
báng, hủy nhục. Tôn trọng, an ủy chư xuất
gia nhân. Tín thọ, hộ tŕ Như Lai thánh giáo. Chung bất
phá hoại chư tốt-đổ-ba. Diệc thường
hộ tŕ tứ phương Tăng
tự. Ư ngă xuất gia chư đệ tử sở, chung
bất hủy phế, hoàn tục sách sử. Ư thập
ác luân, tự bất nhiễm tập, diệc thường
khuyến tha ly thập ác luân. Cụ học tiên vương
trị quốc chánh pháp. Thập Thiện nghiệp đạo,
nhiếp hóa thế gian. Thường đương thân cận
chư thiện tri thức, thiệu Tam Bảo chủng,
thường linh xí thịnh, thiện hộ pháp nhăn, linh bất
diệt một. Như thị chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, do cụ
như thị chư công đức cố, danh bất hư
thọ quốc nhân bổng lộc. Nhất thiết thiên, long,
Dược Xoa quỷ thần, năi chí Yết Trá Bố Đát
Na đẳng, giai sanh hoan hỷ, từ bi ủng hộ nhất
thiết pháp khí, chân thật phước điền, diệc
sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm.
(經)遠離破戒惡行苾芻。於諸所施四方僧物,終不令人非法費用,勤加守護,供四方僧。於窣堵波及僧祇物,終不自奪,不教他奪,亦不自用,不教他用。於能辯說三乘法人,恭敬供養,加護與力,不令他人誹謗毀辱。尊重安慰諸出家人,信受護持如來聖教,終不破壞諸窣堵波,亦常護持四方僧寺。於我出家諸弟子所,終不毀廢還俗策使。於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪,具學先王治國正法,十善業道攝化世間。常當親近諸善知識,紹三寶種,常令熾盛,善護法眼,令不滅沒。如是真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,由具如是諸功德故,名不虛受國人俸祿,一切天、龍、藥叉鬼神,乃至羯吒布怛那等,皆生歡喜,慈悲擁護一切法器真實福田,亦生歡喜慈悲護念。
(Kinh: Xa ĺa bật-sô phá giới, ác hạnh.
Đối với những vật cúng thí cho tứ phương
Tăng, trọn chẳng để cho người khác sử
dụng phung phí phi pháp, càng thêm siêng năng thủ hộ, cúng
dường tứ phương Tăng.
Đối với vật dụng trong tháp và vật
dụng của Tăng chúng, trọn chẳng tự chiếm
đoạt, hay dạy người khác chiếm đoạt,
cũng chẳng tự dùng, dạy người khác dùng. Đối
với bậc có thể biện thuyết pháp tam thừa, bèn cung kính
cúng dường, gia tăng, hộ tŕ thế lực, chẳng
để cho kẻ khác phỉ báng, hủy nhục [vị ấy].
Tôn trọng, an ủi các vị xuất gia, tin nhận, hộ
tŕ thánh giáo của Như Lai. Trọn chẳng phá hoại các
ṭa tháp, cũng thường
hộ tŕ chùa của tứ phương Tăng. Đối
với các đệ tử xuất gia của ta, trọn chẳng
hủy phế, ép buộc họ hoàn tục. Đối với
mười ác luân, trọn chẳng tiêm nhiễm, cũng thường
khuyên kẻ khác ĺa mười ác luân. Học đầy đủ
chánh pháp trị quốc của tiên vương. Dùng Thập
Thiện Nghiệp Đạo nhiếp hóa thế gian. Thường
xuyên thân cận các vị thiện tri thức, nối tiếp
chủng tánh Tam Bảo, khiến cho thường hưng thịnh, khéo hộ
tŕ pháp nhăn, chẳng để diệt mất. Các chân thiện
Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện
Bà-la-môn như vậy do trọn đủ các công đức
như thế, gọi là chẳng luống nhận bổng
lộc của nhân dân. Hết thảy trời, rồng, Dược
Xoa, quỷ thần, cho đến
Yết Trá Bố Đát Na v.v… đều sanh hoan hỷ, từ
bi ủng hộ hết thảy pháp khí, phước điền
chân thật cũng sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm).
Xa ĺa bật-sô phá giới, ác hạnh. Ác hạnh
tỳ-kheo có thể chuyển hóa; ở đây là nói [xa ĺa]
những tỳ-kheo ác hạnh chẳng thể chuyển hóa.
Họ chẳng nghe nhận, chẳng thể hưởng dụng
vật cúng thí cho tứ phương Tăng. Hễ họ hưởng
dụng, sẽ là phi pháp. “Cần gia thủ hộ” (càng
thêm siêng năng thủ hộ): Hộ tŕ các vật thuộc
về Tăng chúng
thanh tịnh, không cho các tỳ-kheo ác hạnh hưởng dụng.
“Ư năng biện thuyết tam thừa pháp nhân, cung kính
cúng dường” (đối với người có thể
biện luận, giảng nói pháp tam thừa, đều
cung kính cúng dường): Cúng dường ǵ vậy? Đối
với người có thể thuyết pháp tam thừa, bèn cung
kính cúng dường, tăng thêm sức hộ tŕ.
Tuy đă phá giới, người ấy vẫn
có thể giải thích các pháp, th́ cũng phải cung kính cúng
dường người ấy, thỉnh người ấy
thuyết pháp, mà cũng chẳng để cho kẻ khác hủy
báng người ấy. Tôn trọng, an ủi hết thảy
người xuất gia. Tin nhận, hộ tŕ thánh giáo của
Như Lai như vậy. Phàm là pháp do đức Phật
đă nói, cũng chính là lời dạy của đức Phật,
đều là thánh giáo. Bậc đại thánh nhân chẳng
phá hoại pháp, chẳng phá hoại người học pháp,
cũng chẳng phá hoại tốt-đổ-ba, chẳng phá
hoại chùa, tháp. Có những kẻ phá hoại tháp, miếu. Hiện thời, ở đây
chúng ta chẳng thấy; nhưng nếu quư vị sang Đại
Lục du lịch, bất luận đến một đạo
tràng nào, quư vị sẽ thấy tháp, miếu bị phá hoại,
chùa chiền bị thiêu hủy. Tạo những tội ấy
chẳng thể nghĩ bàn. Nay ở đây đang nói đến
những vị hảo nhân, hảo nhân là ai? Thiện tín thật
sự, cho đến các vua Sát-đế-lợi
vương, Bà-la-môn v.v… Họ không chỉ hộ tŕ người
xuất gia chân
chánh, mà c̣n hộ tŕ pháp, hộ tŕ chùa, hộ tŕ chùa của
tứ phương Tăng
và chùa miếu nơi Tăng
nhân cư trụ.
“Ư ngă xuất gia chư đệ tử
sở, chung bất hủy phế, hoàn tục sách sử”
(đối với các đệ tử xuất gia của
ta, trọn chẳng hủy phế, áp bức họ hoàn tục):
Người ấy chẳng cưỡng ép người xuất
gia. Hủy hoại chùa miếu, không cho phép xuất gia, buộc
họ phải hoàn tục, th́ gọi là “sách sử” (策使). Tăng
nhân ở Đại Lục từng bị như thế. Dẫu
sao, nhất định là có tiền nhân (前因, cái nhân
từ trước) gây nên sự
hủy diệt, chẳng phải là vô duyên cớ mà sanh. Thiện
thần hộ pháp sẽ chẳng hộ tŕ các ác quốc vương
La Sát cho đến bọn ác Bà-la-môn v.v… như thế. “Ư
thập ác luân, tự
bất nhiễm tập” (tự chẳng
tiêm nhiễm mười ác luân), cũng thường khuyên kẻ
khác ĺa mười ác luân, học trọn đủ chánh pháp
trị quốc của tiên vương, học trọn đủ
những điều chư Phật chỉ dạy. Nói theo Phật
pháp, Thập Thiện Nghiệp Đạo nhiếp hóa thế
gian. Thập Thiện Nghiệp Đạo có cạn và sâu. Nếu
bản
thân chúng ta có thể chẳng giết, chẳng trộm,
chẳng tà dâm, chẳng vọng ngữ, chẳng nói đôi
chiều, chẳng ác khẩu, cho đến chẳng dấy
lên tham, sân, si, tự thân thanh tịnh, cũng khuyên hết
thảy chúng sanh đều như thế, chẳng tạo
mười ác nghiệp, hành Thập Thiện Nghiệp,
dùng Thập Thiện Nghiệp để
“nhiếp hóa thế gian, thường thời thân cận
thiện tri thức” (nhiếp hóa thế gian, thường
luôn thân cận thiện tri thức). Liên quan đến thiện
tri thức th́ Bồ Đề Đạo Thứ Đệ
Luận[6] đă giảng rất
cặn kẽ.
“Thiệu Tam Bảo chủng” (nối
tiếp chủng tánh Tam Bảo): Khiến cho chủng tánh Tam
Bảo chẳng đoạn tuyệt. Chủng tánh Phật Bảo
chẳng đoạn tuyệt, tức là hễ có [tượng
Phật, Bồ Tát] bằng đất nặn, gỗ khắc,
cho đến h́nh in hoặc vẽ
trên giấy, đều coi là Phật Bảo. Đó là hóa thân
của Phật Bảo. Chúng ta thấy tượng giấy,
tượng đất, tượng gỗ khắc, bèn coi đó là hóa thân
của chư Phật. Khi đức Phật ở trên cung
trời Đao Lợi nói kinh Địa Tạng đă quá lâu,
quốc vương, đại thần, và các đại đệ
tử tưởng nhớ Phật, thỉnh họa sĩ vẽ
tượng, vẽ h́nh tượng Phật. Khi Thích Ca Mâu
Ni Phật từ trên trời trở lại nhân gian, bức
tượng vẽ ấy tự ḿnh đến nghênh tiếp
đức Phật. Do tượng ấy có sự thù thắng
riêng, mọi người mới tôn kính. Quư vị đừng
thấy đó là giấy, đừng coi đó là tượng
đất, gỗ khắc. Nếu quư vị nghĩ đó là
Phật thật th́ sẽ thật sự là Phật. Nếu
trong tâm cho rằng đó là bùn, cho rằng đó là giấy, th́
nó chỉ là h́nh vẽ trên giấy!
Tổ sư Đơn Hà chẻ tượng
Phật, muốn t́m xá-lợi trong tượng Phật. Vị
ḥa thượng kia bảo Ngài: “Đó tượng tạc bằng
gỗ, làm sao có xá-lợi cho được?” Lời ấy
chẳng hoàn toàn đúng; đó là v́ công lực tu hành của
quư vị chẳng đủ. Có khi h́nh tượng trên giấy
có thể sanh ra xá-lợi. Công lực trọn đủ, giấy
có thể sanh ra xá-lợi. Quư vị thấy trong Cảm Ứng
Lục có chép [những câu chuyện như thế]: Từ
kinh sách xuất hiện xá-lợi. Quốc sư Thanh Lương
đọc kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm xuất hiện xá-lợi.
Xá-lợi từ trong kinh sách rớt ra. Trong quá khứ, chuyện
như vậy rất nhiều. Đấy đều là v́ đạo
đức cảm ứng gia tŕ, hoàn toàn chẳng có ǵ đáng
ngạc nhiên! Nếu quư vị tu, cũng có thể đạt
được!
Có khi trong Đại Tạng Kinh, mở Tạng
Kinh ra tụng, sẽ sanh ra xá-lợi. Xá-lợi từ chỗ
nào trong Tạng Kinh xuất hiện? Đó là do thiện thần
hộ pháp cúng dường. Do vậy, tùy thuộc người
tu đạo dùng tâm t́nh như thế nào để làm chuyện
ấy. Công đức ấy là do tâm quư vị mà quyết
định, chẳng
phải là do hành vi đă làm mà quyết định. Quư vị
phải hiểu đạo lư này. Sau khi đă biết, lúc quư
vị tụng kinh, học pháp, nghe pháp, tâm quư vị sẽ có
một loại cảm ứng, hoàn toàn chẳng phải là bên
ngoài hiện tướng chi đó! Dẫu
phóng quang, cũng đừng coi đó là thật. Chỉ cần
trong tâm quư vị đoạn phiền năo th́ mới là thật.
Tâm chẳng phiền năo, thường ǵn giữ sự vui sướng
thanh tịnh. Đó là thật, đấy là Pháp Thân của chính quư vị
hiển hiện. Các hiện
tượng được thấy từ bên ngoài đều
là của người khác, chẳng phải là của quư vị.
Cái thật sự của quư vị là trong tâm thanh lương,
vĩnh viễn chẳng có nhiệt năo. Người ta đánh,
chửi, vũ nhục quư vị, quư vị đều [cảm
thấy] tốt lắm, tiêu nghiệp chướng của
ta. Giống như kinh Kim Cang đă dạy: Bị kẻ khác
khinh mạn, vũ nhục, tức là trong đời trước
quư vị đă tạo tội nghiệp đáng đọa địa
ngục thọ báo, nay [do bị khinh mạn, vũ nhục,
cho nên] vẫn chưa phải hứng chịu, tội nặng
mà chịu báo nhẹ, quư vị đă chiếm tiện nghi to
lớn!
Nếu ai chửi bới, quư vị nói “A Di
Đà Phật”; khi ấy,
quư vị niệm như vậy là thích đáng. Hoàn toàn chẳng
phải là như khi gọi điện thoại, người
ta hỏi quư vị: “Ai đó?”, bèn đáp: “A Di Đà Phật!”
Vậy là không được rồi, quư vị đâu có phải
là A Di Đà Phật! Người ta hỏi quư vị là ai cơ
mà! Hiện thời, khi gọi điện thoại thường
xuyên có [t́nh huống] như khi được hỏi: “Vị
nào vậy?” [Người gọi trả lời]: “A Di Đà
Phật!” Tôi nói: “Quư vị là A Di Đà Phật à?” Chúng tôi có
nhiều đệ tử, hễ gọi điện thoại
muốn nói chuyện với tôi, tôi vừa hỏi: “Vị nào
vậy?” [Nghe đáp] “A Di Đà Phật”, tôi tưởng A
Di Đà Phật gọi điện thoại cho tôi chứ! Có
người cho rằng: “Nói năng trả lời đều
niệm A Di Đà Phật th́ dường như ta rất dụng
công, chỗ nào cũng đều chẳng ĺa khỏi A Di
Đà Phật”. Thật ra, chẳng biết cái tâm đă chạy
đến đâu mất rồi!
V́ thế, pháp này phải khéo dùng, phải khéo dụng tâm!
Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta: Người
có trí huệ khéo dùng cái tâm, đừng dùng sai chỗ! Dùng sai
chỗ, không chỉ chẳng có lợi, mà c̣n hỏng bét! Người
khác nghe thấy, sẽ rất khinh miệt, phải hiểu
đạo lư này! Nói chúng ta không cần niệm kinh, lạy Phật,
mà cứ mong cầu cảm ứng chi đó, [chẳng hạn như]
hiện quang minh, bấc đèn hiện hoa, các chuyện
ấy chẳng thấy đem lại cho quư vị lợi lạc
chi cả! Chỉ là khiến cho quư vị tăng thêm tín tâm,
khiến cho tín tâm của quư vị tốt hơn một chút,
chứ quư vị chẳng đạt được lợi
ích thật sự chi hết! Lợi ích thực tế là ǵ?
Vào lúc đáng nẩy sanh phiền năo, sẽ chẳng có phiền
năo! Đối với người khác, đấy là phiền
năo không ngằn, c̣n nơi quư vị sẽ là hoan hỷ, chẳng
sầu năo, sống lâu hơn một chút, bệnh tật cũng
ít hơn!
Do vậy, hễ có bệnh th́ vẫn phải
trị. Đức Phật cũng nói đến chuyện
chữa bệnh, nhưng quư vị phải biết nguyên nhân
gây ra bệnh. Cái nhân quư vị đă tạo trong quá khứ,
chỉ trông cậy vào y dược của thế gian sẽ
chẳng đủ, quư vị phải trả nợ mà! Y dược
thế gian chẳng thể bệnh ǵ cũng đều chữa
được! Quư vị muốn uống thứ ǵ tốt một
chút để kéo dài mạng sống ư? Tôi
thấy trong quá khứ, đế vương, quan lại, người
nào chẳng có tiền? Có hoàng đế nào chẳng ăn
ngon? Họ có thể kéo dài thọ mạng hay không? Chẳng
thể! Quư vị tích phước, hành nhiều thiện sự
hơn, phóng sanh nhiều hơn, đừng giết kẻ
khác, tự nhiên là người khác chẳng giết hại quư vị.
Quư vị chẳng thương tổn người khác, người
khác sẽ chẳng thương tổn quư vị. Nhưng
quư vị chỗ nào cũng thương tổn kẻ khác, tự
nhiên phải mắc báo ứng. Người lành và kẻ ác phân
biệt ở chỗ này. Phải thật sự hộ tŕ Phật
pháp, thường khiến cho Tam Bảo hưng thịnh, giống
như hộ tŕ con mắt của chúng sanh vậy. Đó gọi
là “pháp nhăn”, khiến cho nó chẳng bị diệt mất.
Sau khi chẳng bị diệt mất, hết thảy chúng
sanh c̣n có pháp để học. Sau khi đă học, họ sẽ
có thể ngộ đạo.
“Như thị chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, do cụ
như thị công đức cố, danh bất hư thọ
quốc nhân bổng lộc” (Chân thiện Sát-đế-lợi
vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn như thế,
do trọn đủ công đức như thế, được
gọi là “chẳng luống
hưởng bổng
lộc của dân chúng”): Sát-đế-lợi vương
chính là [tượng trưng cho toàn thể] quốc gia, nhân dân
cả nước cung kính ông ta. Các vị đại thần
ấy “nhất thiết thiên, long, Dược Xoa quỷ
thần” (hết thảy trời, rồng, Dược
Xoa, quỷ thần), “năi chí Yết Trá Bố Đát Na”
(cho đến Yết Trá Bố Đát Na), “thần” là
thần vương. Các vị thần vương ấy đều
sanh ḷng hoan hỷ, ngay cả các ác quỷ vương đều
sanh hoan hỷ. “Từ bi ủng hộ nhất thiết pháp
khí, chân thật phước điền diệc sanh hoan hỷ,
từ bi hộ niệm” (Từ bi ủng hộ hết
thảy pháp khí, ruộng phước chân thật, cũng
sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm).
(Kinh) Do thị nhân duyên, sở cư quốc
độ, cập chư hữu t́nh, triển chuyển xí
thịnh, an ổn phong lạc, lân quốc binh qua bất
năng xâm hại, giai kính mộ đức, tự lai quy phụ.
Do thử triển chuyển khuyến tu thiện nghiệp,
khô kiệt ác thú, tăng trưởng thiên nhân, thủ hộ
thân mạng, linh đắc trường viễn, tự diệt
phiền năo, diệc linh tha diệt, trụ tŕ Bồ Đề
đạo, Lục
Ba La Mật Đa, phá hoại nhất thiết chúng tà ác đạo,
ư sanh tử hải, bất cửu trầm luân, thường
ly ác hữu, thường cận thiện hữu, sanh sanh thường
ngộ chư Phật, Bồ Tát, cung kính thừa sự, tằng
vô tạm phế, bất cửu giai đương tùy tâm sở
nhạo, các các an trụ ư Phật quốc độ, chứng
đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
(經)由是因緣,所居國土及諸有情,展轉熾盛安隱豐樂;鄰國兵戈不能侵害,皆敬慕德,自來歸附。由此展轉勸修善業,枯竭惡趣,增長天人,守護身命,令得長遠,自滅煩惱,亦令他滅,住持菩提道、六波羅蜜多,破壞一切眾邪惡道。於生死海,不久沉淪,常離惡友,常近善友,生生常遇諸佛菩薩,恭敬承事,曾無暫廢。不久皆當隨心所樂,各各安住於佛國土,證得無上正等菩提。
(Kinh: Do nhân duyên ấy, quốc
độ đang ở và các hữu t́nh lần lượt
hưng thịnh, an ổn, giàu vui. Các nước lân cận
chẳng dấy binh xâm lấn, đều kính yêu, hâm mộ
đức, tự đến quy phục, xin phụ thuộc.
Do vậy, lần
lượt khuyên tu thiện nghiệp, khô cạn đường
ác, tăng trưởng trời, người, thủ hộ
thân mạng khiến cho dài lâu, tự diệt phiền năo, cũng
diệt [phiền năo] cho người khác, trụ tŕ Bồ
Đề đạo, Lục Ba La Mật Đa, phá hoại
hết thảy các tà ác đạo, chẳng c̣n trầm luân lâu
dài trong biển sanh tử, thường ĺa bạn ác, thường
gần bạn lành, đời đời thường gặp
chư Phật, Bồ Tát, cung kính thừa sự, chưa từng
tạm bỏ. Chẳng lâu sau, sẽ
đều thuận
theo ḷng muốn, ai nấy đều an trụ trong Phật
quốc độ, chứng đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Bồ Đề).
Quốc gia ấy hết sức an định,
cuộc sống hết sức vui sướng. “An ổn
phong lạc” (an ổn,
giàu có, vui sướng): Thậm chí các nước
láng giềng đều chẳng thể xâm lấn. Binh lực
[của họ] “bất năng xâm hại, giai kính mộ đức”
(chẳng thể xâm lăng, gây hại, đều kính mộ
đức), cung kính quốc gia ấy, tán thán đức hạnh
của quốc gia ấy. Họ tự nhiên quy thuận quư
vị. Quư vị chẳng cần phải tranh đoạt,
chẳng cần phải thảo phạt. Chỉ cần là
bậc có đức, người khác đều cung kính quư
vị. Quư vị dùng bạo lực mong hàng phục người
khác. Hôm nay họ khuất phục, ngày mai họ lại chẳng
phục, lại làm phản!
Đời Đường, thực lực
quốc gia cường thịnh, đối đăi các nước
chung quanh, chẳng hạn như đối với dân tộc
Thổ Phồn[7]. Dân Thổ Phồn
cũng là người Tây Tạng, từ Thanh Hải cho đến
Tây Tạng, chinh chiến nhiều năm, từ đời
Đường măi cho đến đời Thanh. Thời
thịnh trị dưới đời hoàng đế Càn
Long nhà Thanh, chiến tranh lớn nhỏ đă chết rất
nhiều người. Từ nội địa [Trung Hoa], phát
binh đánh sang Tây Khang, cho đến chỗ giáp ranh với
Tây Tạng, tức vùng Đại Kim Xuyên và Tiểu Kim Xuyên,
những nơi ấy gặp tai họa chiến tranh từ
năm này qua tháng khác. Đấy là thời thịnh trị
Càn Long đấy nhé. Nếu chẳng phải là đời
thịnh trị, chiến tranh lại càng chẳng cần
phải nói nữa, xâm hại lẫn nhau. Hễ nơi nào có
chiến tranh, nơi đó sẽ có tai dịch lưu hành, tức là chỗ ôn dịch
lây lan, gió trái mùa, thủy tai v́ nước dâng không đúng
thời, hỏa tai do lửa cháy đột ngột, chẳng
nên cháy mà cứ cháy. Đấy là Tứ Đại Chủng
tứ giới xâm hại, do chẳng làm chuyện lành. Đó
là quả báo.
Nhưng trong thời Mạt Pháp, các hiện
tượng [thịnh trị] ấy chẳng thể nào có!
V́ sao chẳng thể có? Do ḷng người chẳng có khả
năng [tạo nên những hiện tượng thịnh trị
được]. Nếu ḷng người có khả năng th́
sẽ là Chánh Pháp, chẳng gọi là Mạt Pháp. Nhưng chúng
ta chẳng thể đ̣i hỏi toàn thể đều như
vậy, cốt sao mỗi cá nhân chúng ta đều nên tạo
khả năng. Nếu tâm quư vị thuần hành Thập Thiện
Nghiệp, Chánh Pháp sẽ trụ
thế, ta duy tŕ Phật pháp trong cơi đời, tuyên
dương Phật pháp, hành Thập Thiện Nghiệp, chẳng
năo hại bất cứ ai, mà bất cứ ai cũng chẳng
năo hại ta. Ta không báo thù, chỉ đ̣i hỏi chính ḿnh, như
vậy th́ sẽ là hành Bồ Đề đạo, Phật
pháp sẽ trụ thế lâu dài, Bồ Đề đạo
cũng trụ thế. Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục,
Thiền Định, Bát Nhă, Lục Ba La Mật đều
trụ thế lâu dài. “Phá
hoại nhất thiết chúng tà ác đạo, ư sanh tử
hải bất cửu trầm luân” (phá hoại hết thảy
các tà ác đạo, chẳng c̣n trầm luân dài lâu trong biển
sanh tử): Sẽ chẳng có biển sanh tử, nó chẳng
tồn tại, mà trầm luân cũng chẳng có!
“Thường ly ác hữu, thường cận
thiện hữu, sanh sanh thường ngộ chư Phật,
Bồ Tát” (thường ĺa bạn ác, thường gần
bạn lành. Đời đời thường gặp chư
Phật, Bồ Tát): Mọi người
đừng cho rằng triều bái Ngũ Đài Sơn là
gieo đại thiện căn chẳng thể nghĩ bàn, [cho nên người sống tại Ngũ Đài
Sơn đều là thiện nhân]! Quư vị triều bái Ngũ
Đài Sơn là đă gieo đại thiện căn, nhưng
người sanh trưởng tại Ngũ Đài Sơn chẳng
gieo thiện căn. “Danh sơn để hạ vô thiện
nhân”, [nghĩa là] “kẻ sống nơi ngọn núi nổi
tiếng chẳng có người lành”! Sau khi [Đại Lục]
thực hiện chánh sánh khoan dung tôn giáo, tôi dẫn các học
tăng từ Trung Quốc Phật Học Viện, hơn
hai mươi học tăng triều bái Ngũ Đài
Sơn, đúng vào lúc tiết trời rất nóng. Ngũ Đài
Sơn thuộc Đài Hoài Trấn, [trấn ấy] cũng
là trung tâm của vùng Ngũ Đài. Mỗi năm đến
tháng Bảy, nơi ấy có đại hội lừa ngựa.
Lừa ngựa trong phạm vi từ mười đến
hai mươi huyện chung quanh đều đưa tới bán tại
Đài Hoài Trấn. Lúc đó, chúng tôi muốn đến đó
để quét dọn tháp của Năng Hải Thượng
Sư[8], muốn trèo lên Đại
Loa Đảnh th́ chỗ ấy toàn là lừa với ngựa,
chẳng có lợn! Các học tăng hỏi tôi: “Thưa lăo
pháp sư! V́ sao Ngũ Đài Sơn có lắm lừa và ngựa
như vậy?” Tôi nói: “Quư vị phải chú ư. Nếu tu hành
không tốt, quư vị thác sanh, có thể chẳng thành người,
mà sẽ thành lừa, ngựa”. Tôi nói: “Những con lừa,
ngựa ở Ngũ Đài Sơn chính là người dân sống
quanh Ngũ Đài Sơn. Những người dân ấy
chuyên môn ăn cắp đồ của ḥa thượng, trộm
cắp những vật trong chùa miếu. Thậm chí đá
trong chùa cũng bị họ khiêng đi. Quư vị nói xem, có
phải là ác hay không?” Có phải là người ở núi Phổ
Đà, người ở tại núi Nga Mi đều hành thiện
sự hay không? Chẳng thể nào! V́ sao? Các vị tự ḿnh
đoán thử xem, hoặc tự tham cứu, suy ngẫm, sẽ
biết ngay!
Nếu có thể thường xuyên “ngộ
đáo chư Phật Bồ Tát cung kính, thừa sự, tằng
vô tạm phế” (gặp chư Phật, Bồ Tát bèn cung
kính, thừa sự, chưa từng tạm lơi là): Dẫu
trong một khoảng thời gian ngắn ngủi cũng chẳng
phế xả, sẽ là “tùy tâm sở nhạo” (tùy ḷng ưa
thích), quư vị muốn sanh về thế giới Cực Lạc
cũng thế, mà sanh lên trời cũng thế, vĩnh viễn
sanh trong thiện đạo, hoặc là [sanh về] thế
giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy
tiện mong đến nơi nào, “các các an trụ ư Phật
quốc độ” (ai nấy đều an trụ trong quốc
độ của Phật), là Phật quốc độ thanh
tịnh. Phật quốc độ thanh tịnh của mười
phương vô lượng chư Phật quư vị đều
đến được. Đă tới Phật quốc
độ thanh tịnh, c̣n chẳng thành Phật ư? Thành
tựu ngay trong một đời! Trong thế giới Cực
Lạc, chẳng c̣n thọ sanh luân chuyển nữa. Dẫu
thời gian dài đến mấy đi nữa, vẫn đạt
được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề
rốt ráo!
(Kinh) Nhĩ thời, chúng trung nhất
thiết thiên đế, cập chư quyến thuộc,
năi chí nhất thiết Tất Xá Giá đế, cập
chư quyến thuộc, tùng ṭa nhi khởi, đảnh lễ
Phật túc, hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch Phật
ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ư vị lai thế,
hậu ngũ bách tuế, ư thử Phật độ,
pháp dục diệt thời, nhược hữu chân thiện
Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn
đẳng, ư thập ác luân, tự
năng viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn
ly, thiện hộ tự tha, thiện hộ hậu thế,
hộ tŕ chánh pháp, thiệu Tam Bảo chủng, giai linh xí thịnh,
vô hữu đoạn tuyệt. Dĩ yếu ngôn chi, như
Phật sở thuyết, như thị đẳng nhân,
ư tam thừa pháp, cung kính thính thọ, chung bất ẩn
tàng. Ư tam thừa nhân, hộ tŕ, cúng dường, bất
linh nhiễu năo. Ư Tam Bảo vật, cần gia thủ hộ,
bất linh xâm tổn. Ngă đẳng quyến thuộc, ư
thử chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí
chân thiện Bà-la-môn đẳng, cần gia ủng hộ, linh
kỳ thập
pháp giai đắc tăng trưởng”.
(經)爾時,眾中一切天帝及諸眷屬,乃至一切畢舍遮帝及諸眷屬,從座而起,頂禮佛足,合掌恭敬,而白佛言:「大德世尊,於未來世後五百歲,於此佛土法欲滅時,若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自能遠離,亦能勸他令其遠離,善護自他,善護後世,護持正法,紹三寶種,皆令熾盛,無有斷絕,以要言之,如佛所說。如是等人,於三乘法,恭敬聽受,終不隱藏;於三乘人,護持供養,不令擾惱;於三寶物,勤加守護,不令侵損;我等眷屬,於此真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,勤加擁護,令其十法,皆得增長。
(Kinh: Lúc bấy giờ, trong đại
chúng, hết thảy thiên đế và các quyến thuộc,
cho đến hết thảy Tất Xá Giá đế và các quyến
thuộc, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh
lễ dưới chân Phật, chắp tay, cung kính, bạch
cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức
Thế Tôn! Trong đời mai sau, vào năm trăm năm cuối,
trong cơi Phật này, khi pháp sắp diệt, nếu có chân thiện
Sát-đế-lợi vương, cho đến chân thiện
Bà-la-môn v.v… có thể tự xa ĺa mười ác luân ấy, cũng
có thể
khuyên người khác khiến họ xa ĺa, khéo hộ
tŕ cả ḿnh lẫn người, khéo hộ tŕ đời
sau, hộ tŕ chánh pháp, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo
đều khiến cho hưng thịnh, chẳng bị đoạn
tuyệt. Nói tóm gọn là như lời đức Phật
dạy, những người như thế đối với
pháp tam thừa, cung kính nghe nhận, trọn chẳng ẩn
giấu. Đối với người thuộc tam thừa,
hộ tŕ, cúng dường, chẳng khiến cho họ bị quấy nhiễu, năo loạn. Đối
với vật thuộc về Tam Bảo, càng thêm siêng năng
thủ hộ, chẳng để bị xâm phạm, tổn
hại. Chúng con và quyến thuộc đối với chân
thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân
thiện Bà-la-môn ấy, đều thêm siêng năng ủng hộ, khiến cho
mười pháp ấy đều được tăng
trưởng”).
“Tất Xá Giá đế” là vua quỷ hút
máu, Tất Xá Giá (Piśāca) là một
loài quỷ. “Cập chư quyến thuộc” (và các quyến
thuộc): Đây là Bồ Tát hóa hiện, đừng coi họ
là quỷ. Nếu họ [thật sự] là quỷ, sẽ chẳng thể đến pháp hội
này. Đó là Bồ Tát hóa hiện, thị hiện. Giống
như chúng ta xem kinh Địa Tạng,
thấy có rất nhiều quỷ vương. Những quỷ
ấy cũng chẳng phải là b́nh phàm. Chẳng phải
là quỷ vương Chủ Mạng sẽ thành Phật trong
vị lai hay sao? Đức Phật thọ kư cho vị ấy,
bảy mươi kiếp sau sẽ thành Phật. Đấy
là bậc
đại Bồ Tát thị hiện. “Tùng ṭa nhi khởi” (từ
chỗ ngồi đứng dậy), chẳng phải là một
người, hay hai người. Chư thiên Đế Thích,
thiên đế bao gồm rất nhiều, c̣n có nhiều quyến
thuộc của họ, chữ “năi chí” (cho đến)
trong đoạn này diễn tả ư giản lược, [hàm
nghĩa] c̣n có các quỷ vương thuộc tám bộ quỷ
thần, c̣n có rất nhiều vị “đảnh lễ Phật
túc, hiệp chưởng, cung kính” (đảnh
lễ dưới chân Phật, chắp tay, cung kính); đó là
nghi thức lễ kính đức Phật.
“Nhi bạch Phật ngôn: - Đại đức
Thế Tôn! Ư vị lai thế, hậu ngũ bách tuế,
ư thử Phật độ, pháp dục diệt thời,
nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương,
năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự
năng viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn
ly, thiện hộ tự tha, thiện hộ hậu thế,
hộ tŕ chánh pháp, thiệu Tam Bảo chủng, giai linh xí thịnh, vô hữu đoạn
tuyệt” (bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại
đức Thế Tôn! Trong đời mai sau, vào năm trăm
năm cuối, trong cơi Phật này, khi pháp sắp diệt, nếu
có chân thiện Sát-đế-lợi vương, cho đến
chân thiện Bà-la-môn v.v… có thể tự xa ĺa mười ác
luân ấy, cũng có thể
khuyên người khác khiến họ xa ĺa, khéo hộ
tŕ cả ḿnh lẫn người, khéo hộ tŕ đời
sau, hộ tŕ chánh pháp, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo
đều khiến cho hưng thịnh, chẳng bị đoạn
tuyệt”). Đoạn kinh văn này do mọi người
cùng xưng nói, hướng về đức Phật bày tỏ.
Họ nói trong thời Mạt Pháp, vào năm trăm năm
cuối, Phật pháp sắp tiêu diệt, các quốc vương,
Bà-la-môn ấy rời ĺa mười ác luân, lại c̣n có thể
khuyên người khác rời xa, khéo thủ hộ chính ḿnh, khéo thủ hộ đời sau, hộ
tŕ chánh pháp, có thể tiếp nối hưng thịnh chủng
tánh Tam Bảo, đều khiến cho hưng thịnh, chẳng
bị đoạn tuyệt. “Dĩ yếu ngôn chi, như Phật
sở thuyết” (nói tóm lại, đúng như lời Phật
dạy): Đoạn kinh văn này chẳng phải là hoàn toàn
lập lại lời đức Phật đă dạy, “như
thị đẳng nhân, ư tam thừa pháp, cung kính thính thọ, chung bất
ẩn tàng, ư tam thừa nhân, hộ
tŕ cung kính, bất linh nhiễu năo” (những
người như thế đối với pháp tam thừa,
cung kính nghe nhận, trọn chẳng ẩn giấu. Đối
với người tam thừa, hộ tŕ cúng dường,
chẳng khiến cho họ bị quấy nhiễu, năo loạn), “nhiễu”
(擾) là quấy
rối, làm hại.
“Ư Tam Bảo
vật, cần gia thủ hộ, bất linh xâm tổn. Ngă
đẳng quyến thuộc, ư thử chân thiện
Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn
đẳng, cần gia ủng hộ, linh kỳ thập
pháp giai đắc tăng trưởng” (đối
với vật dụng của Tam Bảo, càng thêm siêng thủ
hộ, chẳng để bị xâm phạm, tổn hại.
Chúng con và quyến thuộc đối với chân thiện
Sát-đế-lợi vương ấy cho đến chân
thiện Bà-la-môn v.v… càng
thêm siêng năng ủng hộ, khiến cho mười pháp ấy
đều được tăng trưởng). Đó là
thiện thần hộ pháp. Chúng ta thường nói đến
thiện thần hộ pháp, có bao nhiêu thiện thần hộ
pháp? Cũng là số lượng chẳng thể nghĩ
bàn. Quư vị có điều thiện th́ hai bên thân sẽ có
thiện thần hộ pháp. Quư vị đă thọ Tam Quy,
Ngũ Giới, mỗi giới có năm vị thiện thần
hộ pháp. Quư vị phá một giới, sẽ mất
đi năm vị. Năm giới đều phá, hai
mươi lăm vị thiện thần hộ pháp ấy
đều chẳng c̣n nữa. Do vậy, phải tŕ giới,
tŕ giới thanh tịnh. Mỗi giới đều có
năm vị thiện thần hộ pháp, chỉ cần quư
vị phá một giới, sẽ chẳng c̣n nữa. Quư vị
cũng chẳng thể trông thấy. Nếu quư vị
đă phá một giới, sẽ cảm thấy áo năo, cảm
thấy rất không thoải mái, đó là v́ thiện thần
đă rời đi, ác thần bèn t́m đến!
Trong kinh Phật, Giới kinh có nói: Thuở đó,
tại Ấn Độ, đức Phật cho phép tỳ-kheo
ăn thịt, nhưng tỏi, hẹ, hành, kiệu, hưng
cừ, tức ngũ huân (五葷, năm thứ
rau có mùi hôi nồng) đều chẳng
thể ăn. V́ sau khi ăn, ban đêm khi ngủ, quỷ
vương, ác thần sẽ tới ăn, chẳng phải
là ăn thịt quư vị, mà là hít lấy hơi quư vị
thở ra. Họ hút lấy hơi thở ấy, bèn no đủ,
[khí phận của] quư vị sẽ ứng hợp với
họ. Do vậy, đức Phật chẳng cho phép đệ
tử ăn ngũ huân; những
thứ đó mới gọi là ngũ huân. Chúng ta thường
gọi ăn thịt là ngũ huân, chẳng phải vậy,
đó gọi là Tinh (腥, tanh
tưởi). Tinh chẳng phải là Huân, tỏi, hành… mới
là Huân. Kế đó, nói tới mười pháp, khiến cho
mười pháp đều được tăng trưởng.
Mười pháp nào vậy?
(Kinh) Hà đẳng vi thập? Nhất
giả, tăng trưởng thọ mạng. Nhị giả,
tăng trưởng vô nạn. Tam giả, tăng trưởng
vô bệnh. Tứ giả, tăng trưởng quyến thuộc.
Ngũ giả, tăng trưởng tài bảo. Lục giả,
tăng trưởng tư cụ. Thất giả, tăng
trưởng tự tại. Bát giả, tăng trưởng
danh xưng. Cửu giả, tăng trưởng thiện hữu.
Thập giả, tăng trưởng trí huệ. Đại
đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện Sát-đế-lợi
vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập
ác luân, tự năng viễn ly, diệc năng khuyến
tha linh kỳ viễn ly, cụ tiền sở thuyết
chư công đức giả, ngă đẳng ủng hộ,
định đương đắc thử thập pháp
tăng trưởng.
(經)何等為十?一者、增長壽命,二者、增長無難,三者、增長無病,四者、增長眷屬,五者、增長財寶,六者、增長資具,七者、增長自在,八者、增長名稱,九者、增長善友,十者、增長智慧。大德世尊,若彼真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自能遠離,亦能勸他令其遠離,具前所說諸功德者,我等擁護,定當得此十法增長。
(Kinh: Những ǵ mười? Một là
tăng trưởng thọ mạng. Hai là tăng trưởng
không nạn. Ba là tăng
trưởng không bệnh. Bốn là tăng trưởng
quyến thuộc. Năm là tăng trưởng của cải.
Sáu là tăng trưởng vật dụng cần dùng. Bảy
là tăng trưởng tự tại. Tám là tăng trưởng
tiếng tăm. Chín là tăng trưởng bạn lành. Mười
là tăng trưởng trí huệ. Đại đức Thế
Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho
đến các chân thiện Bà-la-môn ấy, đối với
mười ác có thể tự xa ĺa, cũng có thể khuyên người
khác khiến cho xa ĺa, sẽ trọn đủ các công đức
như đă nói trên đây. Chúng con sẽ ủng hộ khiến
cho người ấy nhất định đạt được
mười pháp tăng trưởng ấy).
Những ǵ là mười? Một là tăng
trưởng thọ mạng, tức trường thọ.
Hai là tăng trưởng vô nạn, tai nạn ǵ cũng đều
chẳng có. Tai nạn ǵ đến chỗ quư vị cũng
đều hóa hiểm thành lành. Có khi ở Đài Loan, tôi gặp
tai nạn xe cộ ở ngay trước mặt; ở trên
đường, bất cứ lúc nào cũng đều có
thể thấy. Đụng xe, tôi nghĩ chỉ sai lệch
một vài giây. Người đó lái mau hơn một chút sẽ
vượt qua, hoặc chậm một chút, cũng chẳng
va chạm. Họ chẳng mau, chẳng chậm, vừa đúng
lúc đụng phải. Đó gọi là nghiệp. Đấy
là sự thật. Quư vị chẳng có cái nghiệp ấy,
thọ mạng của quư vị dài lâu, tăng trưởng
vô nạn, tăng trưởng vô bệnh. Chúng ta phát Bồ
Đề tâm, c̣n có cái tâm tăng trưởng, thiện
căn lúc nào cũng đều
tăng trưởng, nghiệp chướng sẽ tùy thời mà biến
mất. Thọ mạng của quư vị có phải là cố
định hay không? Vẫn chẳng phải là cố định!
Nếu quư vị làm như thế (tức là không hành mười
ác luân), sẽ tăng trưởng thọ mạng. Thọ
mạng của một người vốn là sáu mươi
tuổi, nay chúng ta có thể tăng trưởng đến
một trăm tuổi. Như vậy là “tăng trưởng
thọ mạng, tăng trưởng vô nạn, tăng trưởng
vô bệnh, tăng trưởng quyến thuộc”. Không chỉ
bản thân quư vị cát tường, mà người cùng ở với quư vị
sẽ đều cát tường. Họ mong thân cận quư
vị, mong theo quư vị. C̣n “tăng trưởng tài bảo, tăng trưởng
tư cụ, tăng
trưởng tự tại” (tăng trưởng của cải,
tăng trưởng các vật dụng
cần dùng, tăng trưởng tự tại), các điều
này chẳng dễ dàng. Tăng trưởng tự tại là
cuộc sống rất thoải mái, không phiền, không năo,
thong dong, nhàn hạ, chẳng có ǵ nhiễu loạn quư vị.
Làm chuyện ǵ cũng đều có cảm giác tự tại.
“Tăng trưởng danh xưng” (tăng trưởng tiếng tăm), thanh danh chính là “danh” trong câu này. Người hiện
thời chẳng phải là háo danh hay sao? Cái danh ấy chẳng
phải do quư vị cầu được. Nếu quư vị
làm chuyện tốt, tiếng lành sẽ lan xa. Giống như
danh xưng của Thích Ca Mâu Ni Phật, mười phương
pháp giới chư Phật đều biết. A Di Đà Phật,
các cơi Phật đều biết. Không chỉ riêng thế
giới này của chúng ta muốn niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, trong mười
phương thế giới, người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ rất
nhiều, đến đó để tham học. Hăy nên biết,
họ đến thế giới Cực Lạc để
tham học. Chúng sanh trong thế giới Cực Lạc muốn
đến chỗ Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai, Bất Động Như Lai, hoặc tới các nơi để
tham học [rất dễ dàng]. Bởi lẽ, các vị
Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc và đại
chúng trong Liên Tŕ Hải Hội mỗi sáng sớm thức dậy,
vào lúc ăn sáng, họ đến mười ức cơi Phật
trong mười phương để cúng dường,
xong xuôi quay về, vẫn chưa ăn sáng. Quư vị có thể
tham cứu điều đó có nghĩa là ǵ?
“Tăng trưởng thiện hữu” (tăng trưởng bạn lành): Người tốt muốn thân cận quư vị, người
xấu đều ĺa khỏi. Đó là “phương dĩ
loại tụ, vật dĩ quần phân” (các phương
pháp tương tự được gom thành nhóm, mọi sự
vật tùy theo đặc tánh mà chia thành từng loại riêng),
bao hàm ư nghĩa ấy. Cuối cùng là “tăng trưởng
trí huệ”, sẽ tăng trưởng trí huệ Bát Nhă.
“Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân
thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện
Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự năng
viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn
ly, cụ tiền sở thuyết chư công đức giả,
ngă đẳng ủng hộ” (Bạch
Đại đức Thế Tôn! Nếu các chân thiện Sát-đế-lợi
vương, cho đến các chân thiện Bà-la-môn ấy có
thể tự xa ĺa mười ác luân, mà cũng có thể
khuyên người khác xa ĺa, sẽ trọn đủ các công
đức như đă nói trên đây, chúng con sẽ ủng
hộ). Đối với mười loại vừa
nói trên đây, chúng con đều ủng hộ, khiến cho
họ trường thọ, cho đến tăng trưởng
trí huệ, khiến cho họ có trí huệ. “Định đương
đắc thử thập pháp tăng trưởng” (Nhất
định sẽ đều đắc mười pháp tăng
trưởng ấy): Chúng con hộ tŕ người ấy,
khiến cho mười pháp ấy tăng trưởng nơi
người ấy!
(經)復次,世尊,若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,成就如前所說功德,我等眷屬,勤加擁護,令於十法,皆得遠離。何等為十?一者、遠離一切怨家寇敵,二者、遠離一切非愛色聲香味觸境,三者、遠離一切障癘疾病,四者、遠離一切邪執惡見,五者、遠離一切邪妄歸依,六者、遠離一切邪惡災怪,七者、遠離一切邪惡事業,八者、遠離一切邪惡知識,九者、遠離一切居家淤泥,十者、遠離一切非時夭喪。大德世尊,若彼真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,成前所說諸功德者,我等擁護,定當得此十法遠離。
(Kinh: Lại nữa, bạch đức
Thế Tôn! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi
vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn thành tựu
các công đức như đă nói trên đây, quyến thuộc
chúng con sẽ càng siêng năng ủng hộ, khiến cho họ
đều được xa ĺa mười pháp. Những ǵ
là mười? Một là xa ĺa hết thảy oán gia, giặc
cướp, đối địch. Hai là xa ĺa hết thảy
cảnh “sắc, thanh, hương, vị, xúc” chẳng đáng
yêu mến. Ba là xa ĺa hết thảy tai chướng, dịch
lệ, bệnh tật. Bốn là xa ĺa hết thảy tà chấp,
ác kiến. Năm là xa ĺa hết thảy quy y tà vạy, hư
vọng. Sáu là xa ĺa hết thảy tà ác tai quái. Bảy là xa
ĺa hết thảy sự nghiệp tà ác. Tám là xa ĺa hết
thảy tri thức tà ác. Chín là xa ĺa hết thảy bùn lầy
tại gia. Mười là xa ĺa hết thảy chết yểu
chẳng đúng thời. Bạch đại đức Thế
Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho
đến các chân thiện Bà-la-môn ấy thành tựu các công
đức như đă nói trên đây, chúng con sẽ ủng
hộ, nhất định khiến cho họ sẽ được
xa ĺa mười pháp ấy).
Ngoài tăng trưởng mười pháp ra,
c̣n có mười pháp sẽ xa ĺa. “Viễn ly nhất thiết
oán gia khấu địch” (xa ĺa
hết thảy oán gia, giặc cướp, địch nhân): Địch nhân và những kẻ phản đối
quư vị sẽ đều xa ĺa, cho đến cường
đạo như tôi vừa mới nói cũng sẽ xa ĺa. “Viễn
ly nhất thiết phi ái sắc thanh hương vị xúc cảnh”
(xa ĺa hết thảy những cảnh “sắc,
thanh, hương, vị, xúc” chẳng đáng
yêu mến): Các thứ cảnh “sắc, thanh,
hương, vị, xúc” quư vị không
ưa thích đều chẳng hiện tiền, những ǵ quư
vị yêu thích mới hiện tiền. “Phi ái” nghĩa
là quư vị chẳng ưa thích. Cảnh sắc, thanh, hương,
vị, xúc không ưa thích đều chẳng thể hiện
tiền. Mắt quư vị cũng chẳng trông thấy, tai cũng
chẳng nghe thấy, chẳng dính dáng lục căn của
quư vị. Đấy là thần hộ pháp tránh cho quư vị.
“Tam giả, viễn ly nhất thiết chướng
lệ tật bệnh” (ba là xa ĺa hết thảy tai chướng,
dịch lệ, bệnh tật): Bệnh truyền nhiễm
vô hiệu đối với quư vị. Dẫu bệnh ǵ được
coi là rất nguy hại, quư vị cũng chẳng cần sợ
hăi. Chẳng phải là tôi đă từng nói với mọi người
hay sao: Bệnh phong cùi [khiến cho bệnh nhân] rụng sạch
lông mày, cái tâm sẽ dần dần phát điên. Sau đó, c̣n
cắn ngón tay của chính ḿnh, cứ một mực cắn
măi. Tại Tây Tạng, nếu gặp phải bệnh nhân thuộc
loại này, bèn đưa họ lên đỉnh núi cao, dùng đá
làm nhà cho họ ở, người trong nhà khi đưa cơm
cho họ, đều cách rất xa, kêu họ tự tới lấy,
măi cho đến khi họ chết mới thôi!
Tại Đại Lục, cũng có người
mắc bệnh phong cùi ấy, bị cách ly khỏi mọi người.
Căn bệnh này rất nguy hại. Nhà thờ nước
Pháp chuyên thu thập bệnh nhân phong cùi, tinh thần của
đạo Thiên Chúa chẳng thể nghĩ bàn! Tôi rất tán
thán họ. Mấy cô y tá và bác sĩ, chẳng có ai sống sót
trở về. Họ vào trong đó, tối đa là năm năm,
tối thiểu là ba năm, hoặc trễ hơn một chút,
nhất định sẽ bị lây bệnh. Bọn họ
sống ở đó để trị liệu bệnh nhân,
trừ bớt nỗi khổ nạn của họ. Khi tôi ở
trong tù, họ
bắt một người như thế, sáu mươi mấy
tuổi rồi. Khi đưa đến mới biết người
ấy mắc bệnh phong cùi, liền giam riêng một pḥng,
cách ly với chúng tôi. Cần có người đưa cơm
cho kẻ ấy, ai cũng chẳng muốn đi. Tôi nói: “Tôi
đi là được rồi!” Làm chuyện ấy rất
tốt, tôi cũng chẳng cần phải lao động,
chuyện ǵ cũng không làm. Hằng ngày đưa cơm cho
người ấy, khi đó, c̣n đút cơm cho người
ấy. Về sau, người ấy toàn thân rữa nát, hỏi
người ấy có đau khổ hay không? Người ấy
cũng chẳng biết, lắc đầu tỏ vẻ không
biết, toàn thân đă hư nát rồi. Tôi từ căn pḥng
ấy đi ra, người khác cũng chẳng
ở chung với tôi, tôi ở riêng một buồng giam.
Sau đó, có rất nhiều bác sĩ khám nghiệm,
nói tôi chẳng bị lây bệnh. Sau đấy, họ lại
ở chung với tôi. Quả thật, sau này tôi không bị bệnh.
Căn bệnh ấy chẳng lây cho tôi, chính ḿnh có tín tâm. Nhưng khi đó v́ sao
tôi làm như vậy? Tôi cũng mong chết. Chết kiểu
đó cũng rất tốt, thối rữa mà chết, tiêu
tai miễn nạn! Nhưng tôi không chết được,
đại khái là để đợi cho đến hiện
thời, tôi và mọi
người cùng nhau học
tập. Có rất nhiều chuyện chẳng thể
nghĩ bàn, v́ lúc ấy bệnh truyền nhiễm hết sức
dữ dội. Nhưng c̣n có nghiệp ǵ? Tà tri, ác kiến,
chúng ta vẫn c̣n có, cũng chớ nên cho rằng chúng ta đă
tin Phật th́ một chút tà kiến cũng chẳng c̣n! Tôi
thấy mỗi người [đều có tà kiến] hoặc
nhiều, hoặc ít. Chánh kiến nhiều hơn, tà kiến
sẽ ít đi, v́ chánh kiến khắc phục tà kiến. Chúng
ta nh́n vấn đề, suy nghĩ sự việc, có rất
nhiều chỗ chẳng đúng, chẳng chánh xác; ngàn vạn
lần chớ nên kiêu ngạo, tự măn. Chúng ta học quá ít,
biết quá ít, lại c̣n dẫu biết mà chẳng thể làm,
chẳng thể chuyển biến cái tâm của chính ḿnh.
Tham, sân, si, chúng ta đều biết là độc,
có ai chẳng nổi giận? Chúng ta là đệ tử đức
Phật, kẻ chẳng tin Phật th́ không nói, có ai chẳng
dấy lên ḷng tham? Ḷng tham bao gồm rất nhiều thứ, kể cả
khi chúng học thiện pháp. Chẳng hạn như chúng ta
tŕ bảy biến chú Đại Bi, bảy biến chẳng
thành, bèn niệm một trăm lẻ tám biến. Đấy
chẳng phải là tham ư? Nhưng do nó thuận theo thiện
tâm sở, chẳng thể xếp vào tham, nhưng trong hàm
nghĩa th́ có. Nếu quư vị niệm một lượt,
chân thành, cũng là công đức vô lượng. Một trăm
lẻ tám biến diệt sạch vọng tưởng, vẫn
chẳng tốt bằng một biến, có hàm nghĩa này, tức
là nói quư vị phải thành tâm một lần, có tín tâm thật
sự.
“Đệ tứ, viễn ly nhất thiết
tà chấp ác kiến” (Thứ tư là xa ĺa hết thảy
chấp trước tà vạy và ác kiến): Có lúc nào chẳng
thiện thuận, chẳng điều nhu như thế. Nghe
kẻ khác nói bèn chẳng tiếp nhận: “Tao học điều
này rất khá, bọn mày học chẳng ra cái quái ǵ!” Những
điều đó đều thuộc về tà kiến! Kinh
văn trong bộ kinh này đă dạy: Quư vị nghe pháp Thanh
Văn Thừa, nếu báng pháp Độc Giác Thừa, nếu
báng pháp Đại Thừa, sẽ là tà kiến. Học pháp Đại
Thừa, nếu bài xích pháp Thanh Văn, bài xích pháp Độc
Giác, sẽ là tà kiến. Chánh và tà chỉ trong ṿng một niệm!
Cho nên chúng ta hễ có dịp bèn sám hối cho nhiều, chớ
nên cố chấp ư kiến của chính ḿnh, chớ nên cho rằng
những ǵ ta trông thấy đều đúng, chưa chắc
đâu nhé! Quư vị thấy là vàng, người khác thấy
là trắng. V́ quư vị đeo cặp kiếng màu, v́ quư vị
có rất nhiều vọng niệm, rất nhiều tạp
niệm, rất nhiều kiến giải chẳng chánh xác,
làm sao thấy chánh xác cho nổi? Chỉ có chiếu theo lời
Phật dạy để chứng minh là chánh xác hay chẳng
chánh xác! Quư vị đừng nên cố chấp ư ḿnh. Nói điều
này là tà tri, tà kiến cũng đừng sợ. V́ chúng ta niệm
A Di Đà Phật chính là chánh kiến. Quư vị niệm A Di
Đà Phật cũng đừng bài xích Dược Sư Phật,
v́ quư vị niệm A Di Đà Phật, [trông thấy] kẻ
khác niệm kinh Dược Sư, [bèn phản đối]: “Chẳng
thể được! Sao ngươi không niệm A Di
Đà Phật? Ta đi về phương Tây, ngươi đi
sang phương Đông, không được rồi. Như
thế là trật lất rồi!” Đó là tà tri, tà kiến!
Quư vị nói: “Chỗ nào tôi cũng chẳng đi, tôi là người
thuộc thế giới Sa Bà, tôi cần đến thế
giới Cực Lạc làm chi, quá khó!” Như vậy th́ cũng
chẳng đúng, đấy cũng là tà tri tà kiến. Khi chưa
nhập Tín vị, rất khó nói quư vị là chánh tri, chánh kiến.
Sau khi đă tin, có hoàn toàn đúng hay không? Vẫn chưa được!
Ắt cần phải
đạt đến Sơ Trụ th́ mới bất thoái; đó
gọi là Phát Tâm Trụ. Lại phát Bồ Đề tâm, phát
Bồ Đề tâm trước kia không tính, đấy chẳng
phải là thật sự phát!
“Viễn ly nhất thiết tà vọng quy y”
(xa ĺa hết thảy quy y tà vọng): Chuyện này càng nhiều
hơn! Sau khi đă quy y Tam Bảo, vẫn muốn xủ quẻ,
vẫn muốn tin thần. Sau khi đă quy y Tam Bảo, vẫn
mong sống trên đời cả trăm năm, hoặc một
ngàn năm, học tập Khí Công để cho thân thể ḿnh
tốt đẹp hơn đôi chút, có thể chữa bệnh.
Chẳng phải là muốn bảo dưỡng thân thể
trường thọ, chỉ muốn cho thân thể ḿnh khỏe
mạnh. Nếu nói thật sự nghiêm ngặt, đệ
tử Phật đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, yêu cầu
rất nhiều. Hơn nữa, có rất nhiều đệ
tử muốn thọ Bồ Tát Giới, quư vị phải
học trước, quư vị có lá gan to ngần ấy hay
không? Phát Bồ Đề tâm. Ta vừa
thoát ly Bồ Đề tâm, sẽ đọa địa
ngục. Đă phạm, ta sám hối th́ được! Quư
vị muốn thành Phật, một niệm tâm ấy đă
vượt xa rất nhiều kiếp! Do vậy, trước
khi thọ Bồ Tát Giới, phải học trước.
Quư vị nhận biết rơ ràng rồi mới có thể thật
sự gánh vác. Như vậy rồi mới đi thọ giới.
Tam Quy, Ngũ Giới, và Bồ Tát Giới ắt cần phải
thọ, có thể gánh vác th́ cũng nên thọ. Chẳng thể
gánh vác th́ cũng phải thọ. V́ sao? Có thể gieo chủng
tử thành Phật, hễ phạm liền sám hối. Sám hối
như thế nào? Lạy Phật, niệm Phật đều
có thể sám hối. Thậm chí niệm Địa Tạng
Bồ Tát đều có thể sám hối. Kinh Chiêm
Sát cũng dạy như thế, dạy tu hai loại Quán. “Nếu
chẳng tu thành Nhất Thật cảnh giới th́ có thể
niệm tên ta cũng được!” Tức là xưng niệm
danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát th́ cũng có thể
tiến nhập tu Quán.
Cho đến “viễn ly nhất thiết
tà ác tri thức” (xa ĺa hết thảy tri thức tà ác). Tri
kiến tà ác của quư vị do đâu mà có? Do tri thức tà
ác dạy bảo! Xa ĺa họ th́ sẽ chẳng c̣n. “Viễn
ly nhất thiết tại gia ứ nê” (xa ĺa hết thảy
bùn lầy tại gia): Coi tại gia như hố bùn. Thật
ra, những vị thần ấy cũng đang ở trong
bùn lầy. Thiên, nhân, A Tu La, lục đạo đều ở
trong bùn lầy. Nếu đă rời ĺa th́ Phạm Thiên chẳng
có bùn lầy. Sau đó, ông ta cũng sẽ đọa trong bùn
lầy, chẳng rốt ráo, do chưa thành Phật.
“Viễn ly nhất thiết phi thời yểu
táng” (xa ĺa hết thảy chết yểu không đúng thời):
Tử vong chết yểu, thọ mạng chưa hết. Mọi
người đọc kinh Dược Sư, chẳng phải
là thấy có chín loại chết đột ngột (“hoạnh tử”, 橫死) ư? Không
đáng chết, gặp phải cái chết không đúng thời,
giống như tôi vừa mới nói: Đi sớm hơn một
bước sẽ chẳng mắc phải nghiệp ấy,
chậm một bước cũng chẳng mắc phải
nghiệp ấy. Quư vị đi nhanh một chút sẽ vượt
qua, hoặc chậm một chút sẽ chẳng đụng
phải. Chẳng nhanh, chẳng chậm, vừa khớp bị
xe tông phải, xảy ra chuyện! “Yểu táng” (夭喪, chết yểu)
rất khó nói. Trẻ thơ trong bụng mẹ c̣n chưa
sanh ra đă chết. Chết trong thai cũng có. Cho đến
xét theo thọ mạng, độ tuổi nào chết cũng
đều có. Chết ngang xương (“hoạnh
tử”) kiểu nào cũng có. Tại Hương Cảng cũng
rất nhiều [trường
hợp chết ngang xương như vậy]. Người
đi bên dưới, bên trên sửa chữa, rơi một
cục gạch xuống, hoặc là rơi thứ ǵ đó, đúng
ngay vào đầu, người đó chết ngay, làm sao chẳng
gọi là “không đáng chết” cho được? Biết
làm sao đây? Chuyện như vậy rất nhiều, đó
gọi là “yểu táng”.
Bạch đại đức Thế Tôn! Nếu
chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến
các chân thiện Bà-la-môn ấy thành tựu các công đức
như đă nói trên đây, tức là công đức như
trong phần trước đă nói “chính ḿnh xa ĺa mười
ác luân, lại khuyên người khác cũng rời xa mười
ác luân”, do thành tựu công đức ấy, người
đó nhất định sẽ đạt được
mười pháp viễn ly này, tức là xa rời mười
loại tai nạn đó.
(Kinh) Phục thứ Thế Tôn! Nhược
hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, cụ
tu như tiền sở thuyết công đức, linh viên
măn giả, ngă đẳng quyến thuộc cần gia ủng
hộ, linh thử đế vương, tịnh
chư quyến thuộc, cập kỳ quốc độ
nhất thiết nhân dân, linh ư thập pháp, giai
đắc viễn ly. Hà đẳng vi thập? Nhất giả,
viễn ly nhất thiết tha quốc oán địch. Nhị
giả, viễn ly nhất thiết tự quốc oán địch.
Tam giả, viễn ly nhất thiết hung ác quỷ thần.
Tứ giả, viễn ly nhất thiết khiên dương
kháng hạn. Ngũ giả, viễn ly nhất thiết phục
âm, trệ
vũ. Lục giả, viễn ly nhất thiết phi thời
hàn nhiệt, liệt phong, bạo vũ, sương bạc
tai hại. Thất giả, viễn ly nhất thiết ác
tinh biến quái. Bát giả, viễn ly nhất thiết
cơ cẩn hoang kiệm. Cửu giả, viễn ly nhất
thiết phi thời bệnh tử. Thập giả, viễn
ly nhất thiết tà chấp, ác kiến.
Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện
Sát-đế-lợi vương, cụ tu như tiền sở
thuyết công đức linh viên măn giả, ngă đẳng
quyến thuộc cần gia ủng hộ, linh thử đế
vương, tịnh chư quyến thuộc, cập kỳ
quốc độ nhất thiết nhân dân, định
đương đắc thử thập pháp viễn ly”.
Nhĩ thời, Thế Tôn tán chư thiên đế, cập
kỳ quyến thuộc, năi chí nhất thiết Tất Xá
Giá đế, cập quyến thuộc ngôn: “Thiện tai!
Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng phát thử thệ
nguyện. Thử sự giai thị nhữ đẳng ưng
tác. Do thị nhân duyên, đương linh nhữ đẳng
trường dạ an lạc”.
(經)復次,世尊,若有真善剎帝利王,具修如前所說功德令圓滿者,我等眷屬,勤加擁護,令此帝王並諸眷屬及其國土一切人民,令於十法,皆得遠離。何等為十?一者、遠離一切他國怨敵,二者、遠離一切自國怨敵,三者、遠離一切兇惡鬼神,四者、遠離一切愆陽亢旱,五者、遠離一切伏陰滯雨,六者、遠離一切非時寒熱、烈風、暴雨、霜雹災害,七者、遠離一切惡星變怪,八者、遠離一切饑饉荒儉,九者、遠離一切非時病死,十者、遠離一切邪執惡見。大德世尊,若彼真善剎帝利王,具修如前所說功德令圓滿者,我等眷屬,勤加擁護,令此帝王並諸眷屬及其國土一切人民,定當得此十法遠離。爾時,世尊讚諸天帝及其眷屬,及至一切畢舍遮帝及眷屬,言:善哉!善哉!汝等乃能發此誓願,此事皆是汝等應作。由是因緣,當令汝等長夜安樂。
(Kinh: “Lại nữa, bạch đức
Thế Tôn! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi
vương, tu trọn đủ viên măn các công đức như
đă nói trên đây, quyến
thuộc chúng con càng thêm siêng năng ủng hộ, khiến
cho đế vương và các quyến thuộc, cùng với
hết thảy nhân dân trong quốc độ đều được
xa ĺa mười pháp. Những ǵ là mười? Một là xa
ĺa hết thảy oán địch từ nước
khác. Hai là xa ĺa hết thảy oán địch trong nước
ḿnh. Ba là xa ĺa hết thảy quỷ thần hung ác. Bốn
là xa ĺa hết thảy chuyện dương khí quá thịnh
gây ra hạn hán dữ dội. Năm là xa ĺa hết thảy
tối tăm lâu ngày, mưa dầm. Sáu là xa ĺa hết thảy
nóng lạnh trái thời, gió loạn, mưa cuồng, sương,
mưa đá tai hại. Bảy là xa ĺa hết thảy sao xấu
biến hiện quái lạ. Tám là xa ĺa hết thảy đói
kém, mất mùa. Chín là xa ĺa hết thảy chết chóc v́ bệnh
tật trái thời. Mười là xa ĺa hết thảy tà chấp, ác kiến.
Bạch đại
đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi
vương ấy tu trọn đủ viên măn các công đức
như đă nói trên đây, quyến thuộc chúng con càng thêm
siêng năng ủng hộ, khiến cho đế
vương ấy và các quyến
thuộc, cùng với hết thảy nhân dân trong nước, nhất
định sẽ được xa ĺa mười pháp ấy”.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi các thiên
đế cùng với quyến thuộc, cho đến hết
thảy Tất Xá Giá đế và các quyến thuộc rằng:
“Lành thay! Lành thay! Các ông có thể phát ra thệ nguyện này.
Chuyện này là chuyện các ông nên làm. Do nhân duyên này, sẽ
khiến cho các ông yên vui trong đêm dài”).
C̣n có những pháp xa ĺa, “hà đẳng vi
thập?” (những ǵ là mười?) “Viễn ly nhất
thiết tha quốc oán địch” (xa ĺa hết thảy
oán địch từ nước khác) là nói theo phía quốc
vương. “Viễn ly nhất thiết tự quốc oán
địch” nghĩa là quốc gia của chính ḿnh chẳng
có oán địch, sẽ không có chuyện phản loạn, quân
ḿnh chẳng
tàn sát lẫn nhau. Quân nước khác cũng chẳng
kéo đến. “Tam giả, viễn ly nhất thiết hung
ác quỷ thần” (Ba là xa ĺa hết thảy quỷ thần
hung ác), quỷ thần hung ác chẳng thể xâm phạm, quấy
nhiễu. “Tứ giả, viễn ly nhất thiết khiên
dương kháng hạn” (bốn là xa ĺa hết thảy
chuyện dương khí quá thịnh gây ra hạn hán dữ
dội): Tức là nạn hạn hán, nói đơn giản [“khiên dương kháng
hạn”] là nạn hạn hán. “Ngũ giả, viễn ly nhất
thiết phục âm trệ vũ”: (năm là xa ĺa hết
thảy âm u nhiều ngày, mưa dầm): Âm u lâu ngày chẳng quang đăng,
sau đó, lại c̣n phát sanh lũ lụt. “Lục giả,
viễn ly nhất thiết phi thời hàn nhiệt” (sáu là
xa ĺa hết thảy lạnh, nóng trái
thời): Nên lạnh mà chẳng lạnh, nên nóng mà chẳng
nóng. Hiện thời, khí hậu điên đảo như thế
đó. Khi tôi c̣n bé, miền Đông Bắc là mấy chục
độ âm, gần đây đă thay đổi, tối đa
là mười độ âm đă hiếm hoi lắm rồi.
Mùa Hè lại c̣n đặc biệt nóng. Đấy là mưa
gió chẳng đúng thời, tai họa nẩy sanh liên tiếp.
“Liệt phong, bạo vũ, sương bạc tai hại”
(Gió loạn, mưa cuồng, sương, mưa đá gây tai
hại): Sương tuôn, mưa đá rất nhiều! “Thất
giả viễn ly nhất thiết ác tinh biến quái, bát giả
viễn ly nhất thiết cơ cẩn hoang kiệm, cửu
giả viễn ly nhất thiết phi thời bệnh tử,
thập giả, viễn ly nhất thiết tà chấp ác kiến”
(Bảy là xa ĺa hết thảy sao xấu biến hiện
quái dị. Tám là xa ĺa hết thảy đói kém, mất mùa. Chín
là xa ĺa hết thảy cái chết
chẳng đúng thời. Mười là xa ĺa hết thảy
tà chấp, ác kiến):
Hơi giống phần trước.
“Đại đức Thế Tôn! Nhược
bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, cụ
tu như tiền sở thuyết công đức, linh viên măn
giả, ngă đẳng quyến thuộc cần gia ủng
hộ” (Bạch đại
đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi
vương ấy tu trọn đủ viên măn các công đức
như đă nói trên đây, quyến thuộc chúng con càng thêm
siêng năng ủng hộ). Như thế sẽ “linh thử
đế vương, tịnh chư quyến thuộc, cập
kỳ quốc độ nhất thiết nhân dân, định
đương đắc thử thập pháp viễn ly” (khiến
cho đế vương và các quyến thuộc cùng với
hết thảy nhân dân trong nước, nhất định sẽ được xa ĺa mười
pháp ấy). Mười pháp ấy chính là pháp xa ĺa sẽ được
nói trong phần kế tiếp.
(Kinh) Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại
Phạm phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện
thính ngă vị vị lai thế, thử Phật độ
trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi
vương, thuyết Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân
Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do thử Hộ
Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương
Cú oai thần lực cố, linh vị lai thế, thử Phật
độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi
vương, bất vị nhất thiết oán địch,
ác hữu chi sở tồi phục, năng linh nhất thiết
oán địch, ác hữu tự nhiên thoái tán, năng thiện
hộ tŕ thân, ngữ, ư, nghiệp, vị chư trí giả
thường sở xưng tán, ly chư ác pháp, thường
hành thiện pháp, thường ly nhất thiết tà kiến,
tà quy, thường ư Đại Thừa tinh tấn tu
hành, dũng mănh, kiên cố, thường
năng thành tựu vô
lượng, vô số sở hóa hữu t́nh, trí bất y tha,
tự nhiên thiện xảo, cụ năng tu hành Lục Đáo
Bỉ Ngạn trân bảo phục tạng, viễn ly nhất
thiết phẫn, xan, tật đẳng phiền năo triền
cấu, thường vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng
cung kính hộ niệm, chư hữu sở vi, tâm vô vong thất,
bất xả hữu t́nh, nhạo Tứ Nhiếp sự, thường
bất viễn ly pháp khí phước điền”.
(經)爾時,天藏大梵復白佛言:「世尊,唯願聽我為未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,說能護國不退輪心大陀羅尼明咒章句。由此護國不退輪心大陀羅尼明咒章句威神力故,令未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,不為一切怨敵惡友之所摧伏;能令一切怨敵惡友,自然退散;能善護持身語意業,為諸智者常所稱讚,離諸惡法;常行善法,常離一切邪見邪歸;常於大乘,精進修行勇猛堅固;常能成就無量無數所化有情,智不依他自然善巧,具能修行六到彼岸珍寶伏藏,遠離一切忿慳嫉等煩惱纏垢;常為一切人非人等,恭敬護念;諸有所為,心無忘失,不舍有情,樂四攝事,常不遠離法器福田。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại
Phạm lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch
đức Thế Tôn! Kính mong cho phép con v́ hết thảy chân
thiện Sát-đế-lợi vương trong cơi Phật này
nơi đời vị lai, nói Năng Hộ Quốc Bất
Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do sức
oai thần của Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại
Đà La Ni Minh Chú Chương Cú này, khiến cho hết thảy
chân thiện Sát-đế-lợi vương trong cơi Phật
này nơi đời vị lai chẳng bị hết thảy
oán địch và bạn ác dẹp tan, hàng phục, có thể
khiến cho hết thảy oán địch và bạn ác tự
nhiên lui tan, có thể khéo hộ tŕ thân, ngữ, ư nghiệp, được
những người có trí thường ca ngợi, ĺa các ác
pháp, thường hành thiện pháp, thường ĺa hết
thảy tà kiến, tà quy, thường dũng mănh, kiên cố,
tinh tấn tu hành Đại Thừa, thường có thể
thành tựu
vô lượng vô số hữu t́nh được hóa độ,
trí chẳng phải cậy vào người khác, tự nhiên
thiện xảo, có thể trọn đủ kho tàng trân quư Lục
Đáo Bỉ Ngạn, xa ĺa hết thảy các phiền năo
triền cấu như phẫn, keo kiệt, ganh ghét v.v… thường
được hết thảy nhân phi nhân v.v… cung kính hộ
niệm, những ǵ đă làm tâm chẳng quên mất, chẳng
bỏ hữu t́nh, thích hành Tứ Nhiếp, thường chẳng
xa ĺa ruộng phước pháp khí”).
Thiên Tạng Đại Phạm bắt đầu
thỉnh vấn: “Thế Tôn! Duy nguyện thính ngă vị vị
lai thế, thử Phật độ trung, nhất thiết
chân thiện Sát-đế-lợi vương, thuyết Năng
Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh
Chú Chương Cú” (Bạch đức Thế Tôn! Kính
mong cho phép con v́ hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi
vương trong cơi Phật này nơi đời vị lai,
nói Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà
La Ni Minh Chú Chương Cú): Bất thoái luân, bất thoái ǵ vậy?
Phải tŕ chú này. Do oai lực của Hộ Quốc Bất
Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú, có thể khiến
cho trong Phật quốc độ vào thời Mạt Pháp, tất
cả quốc vương thật sự tốt đẹp
“bất vị nhất thiết oán địch ác hữu chi
sở tồi phục, năng linh nhất thiết oán địch
ác hữu tự nhiên thoái tán” (chẳng bị hết thảy
oán địch và bạn ác dẹp tan, hàng phục, có thể
khiến cho oán địch và bạn ác tự nhiên lui tan): Họ
mong chinh phạt quư vị, trong nước họ sẽ dấy
lên nội loạn, dấy lên biến hóa, họ sẽ phải
lui tan. “Năng thiện hộ tŕ thân, ngữ, ư nghiệp”
(có thể khéo hộ tŕ thân, ngữ, ư nghiệp): Chuyện
này chẳng dễ dàng, có thể khiến cho thân, ngữ, ư
nghiệp của Sát-đế-lợi chẳng phạm sai
trái, chẳng làm các điều ác. Đó là [tác dụng của]
bài chú này.
“Vị chư trí giả thường sở
xưng tán, ly chư ác pháp” (được những người
có trí thường ca ngợi, ĺa các pháp ác): Xa ĺa hết thảy
các ác pháp, thường hành thiện pháp, thường ĺa hết
thảy tà kiến, tà quy, [tà quy] là quy hướng những
thứ không chánh đáng! “Thường ư Đại Thừa
tinh tấn tu hành,
dũng mănh, kiên cố,
thường thành tựu vô lượng
vô số sở hóa hữu t́nh, trí bất y tha, tự nhiên
thiện xảo” (Thường
đối với Đại Thừa, tinh tấn tu hành,
dũng mănh, kiên cố, thường
thành tựu vô lượng, vô số hữu t́nh được hóa độ trí chẳng
cậy vào ai khác, tự nhiên hay khéo): Đấy là thành tựu
trí huệ, [trí huệ ấy] chẳng phải do những điều
khác khởi lên, mà là do tự tâm biến hóa. Tôi thường
nói với các đạo hữu: Khi quư vị đọc tụng
Đại Thừa, hăy đọc tụng nhiều lần.
Bộ kinh này quư vị vốn không hiểu, sau khi đă đọc,
sẽ hiểu toàn bộ, thông suốt trước sau, cũng chẳng cần
phải hỏi ai khác. Đó gọi là “bất do tha đắc”
(chẳng do ai khác mà đạt được). Loại trí
huệ này do quư vị tinh tấn tu tập mà đạt được,
tự nhiên có trí huệ thiện xảo!
“Cụ năng tu hành Lục Đáo Bỉ
Ngạn trân bảo phục tạng” (có thể tu hành trọn
đủ kho tàng trân bảo Lục Đáo Bỉ Ngạn):
Lục Ba La Mật giống như kho tàng trân bảo, thoát
ly biển sanh tử tới bờ kia Niết Bàn. “Viễn
ly nhất thiết phẫn, xan, tật đẳng phiền
năo triền cấu” (Xa ĺa hết thảy các phiền năo
triền cấu như phẫn, keo kiệt, ghen ghét v.v…): Phẫn
hận, keo tham, ghen tỵ, chướng ngại, những món phiền năo ấy ràng
buộc, quấy nhiễu quư vị, đều là cấu
nhiễm. “Thường vị nhất thiết nhân phi nhân
đẳng cung kính hộ niệm, chư hữu sở vi,
tâm vô vong thất” (thường được hết
thảy nhân phi nhân v.v… cung kính hộ niệm. Những việc
đă làm, tâm đều chẳng quên mất): Đạt được
trí chẳng thể nghĩ bàn, cũng tức là trí nhớ mạnh
mẽ, chẳng bỏ hữu t́nh, thích hành Tứ Nhiếp,
tức bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự,
[đó là] Tứ Nhiếp
Pháp. Dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự,
bốn loại ấy để nhiếp thọ hết thảy
hữu t́nh. “Thường bất viễn ly pháp khí phước
điền” (thường chẳng xa ĺa pháp khí phước
điền): Thường chẳng ĺa pháp, thường chẳng
ĺa Pháp Bảo. Phước ấy vô lượng.
(Kinh) Phật ngôn: “Thiên
Tạng! Ngô kim tứ nhữ vị vị lai thế, thử
Phật độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi
vương, thuyết Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân
Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do thử Hộ
Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương
Cú oai thần lực cố, linh vị lai thế, thử Phật
độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi
vương, bất vị nhất thiết oán địch,
ác hữu chi sở tồi phục, quảng thuyết năi chí
thường bất viễn ly nhất thiết chư Phật, cập
Phật đệ tử”. Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại
Phạm tức thuyết Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại
Đà La Ni Minh Chú Chương Cú: “Đát điệt tha. Mâu
ni mạo lệ. Mâu na yết lạp phiệt. Mâu ni hột
lê đạt duệ. Mâu ni rô ha tỳ chiết lệ. Mâu na
hạt lật chế. Mâu ni cấp mê. Thúc ngật la bác sai.
Bát la xa bác sai. Mật ra bác sai.
Tao lạt bà hột lật đế. Đố lạt noa
ngật lật chiết lệ. Bát đát la xoa hột lật
đế. Cụ cụ noa mật lệ. Ấp phiệt
xoa tát lệ. Át nộ ha kỳ lư phiệt. Mâu ni bát tháp phiệt.
Sa ha”.
(經)佛言:天藏,吾今恣汝,為未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,說能護國不退輪心大陀羅尼明咒章句。由此護國不退輪心大陀羅尼明咒章句威神力故,令未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,不為一切怨敵惡友之所摧伏,廣說乃至常不遠離一切諸佛及佛弟子。爾時,天藏大梵即說護國不退輪心大陀羅尼明咒章句:怛絰他牟尼冒隸。牟那揭臘筏。牟尼紇梨達曳。牟尼嚧訶毗折隸。牟那曷栗制。牟尼笈謎。束訖羅博差。缽邏奢博差。蜜囉博差。騷剌婆紇栗帝。妬剌拏訖栗折隸。缽怛邏叉紇栗帝。具具拏蜜隸。唈茷叉薩隸。遏怒訶祇履筏。牟尼缽塔筏。莎訶。
(Kinh: Đức Phật
nói: “Này Thiên Tạng! Ta nay cho phép ông v́ hết thảy các vị
vua Sát-đế-lợi vương chân thiện trong cơi Phật
này vào thuở vị lai, nói Năng Hộ Quốc Bất
Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do sức
oai thần của Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại
Đà La Ni Minh Chú Chương Cú này, khiến cho
trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, hết thảy
chân thiện Sát-đế-lợi vương chẳng bị
hết thảy oán địch và bạn ác dẹp tan, hàng phục,
nói rộng cho đến thường chẳng xa ĺa Phật
và các đệ tử Phật”. Lúc bấy giờ, Thiên Tạng
Đại Phạm liền nói Hộ Quốc Bất Thoái
Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú: “Đát điệt tha. Mâu ni mạo lệ. Mâu
na yết lạp phiệt. Mâu ni hột lê đạt duệ.
Mâu ni rô ha tỳ chiết lệ. Mâu na hạt lật chế.
Mâu ni cấp mê. Thúc ngật la bác sai. Bát la xa bác sai. Mật ra
bác sai. Tao lạt bà hột lật đế. Đố lạt
noa ngật lật chiết lệ. Bát đát la xoa hột lật
đế. Cụ cụ noa mật lệ. Ấp phiệt
xoa tát lệ. Át nộ ha kỳ lư phiệt. Mâu ni bát tháp phiệt.
Sa ha”).
Thiên Tạng Đại Phạm v́ hộ tŕ
vị chân thiện Sát-đế-lợi vương, khiến
cho quốc gia của ông ta chẳng c̣n bị tai họa nữa,
bèn nói bài chú như vậy, nhưng ắt cần
phải thỉnh đức Phật cho phép. Đức
Phật liền cho phép ông ta nói. Lại c̣n bảo bài chú ấy
rất
hay, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh, khiến
cho hết thảy Sát-đế-lợi vương có thể
đạt được rất nhiều lợi ích to lớn,
cho phép ông ta nói.
“Đát điệt tha”: Đát điệt
tha (Tadyathā) là ǵ?
Chính là “tức thuyết chú viết” (liền nói chú rằng),
các bài chú trong các kinh đều có [câu này]. Chẳng phải
là các bài chú đều rất dài, nhưng Đát-điệt-tha
chính là “tức thuyết chú viết”, cũng là khởi
sự nói chú. Mỗi bài chú đều có câu này. Sau câu đó (câu “tức thuyết chú viết”) mới
là chú thật sự, những câu trước đó chẳng
phải là chú. Như trong chú Lăng Nghiêm, có rất nhiều
câu chẳng phải chú thật sự. Đại Bi Chú
cũng thế, quư vị
phải biết từ chữ “đát điệt tha”
trở đi mới là chú ngữ. Những câu trước đó
là ǵ? Những câu trước đó là tiền phương
tiện, cũng thuộc về nghi thức, nghi quỹ giảng
kinh thuyết pháp. Do vậy, chú Lăng Nghiêm nhiều cỡ
nào? “Tất đát đa bát đát ra” (Sitātapatrā)[9] chính là
chú Lăng Nghiêm. Đó gọi là “chú tâm”[10]. C̣n có những bài
chú ngắn hơn Lăng Nghiêm, cũng có bài rất dài. So với
phần Đát-điệt-tha ở đây c̣n dài hơn. Từng
bài chú đều là như vậy.
“Đát điệt tha mâu ni mạo lệ”:
Chữ Mâu Ni trong “mâu ni mạo lệ” chính ra phải nói
là Ma Ni. Khi phiên dịch đă tùy thuận cách phát âm [thuở
đó] mà phiên dịch thành “mâu ni mạo lệ”. Đối
với âm thanh khi niệm chú, quư vị đừng nuốt
chữ, phải phát âm cho chuẩn. Nếu dựa theo mặt
chữ để niệm, quư vị sẽ niệm sai. Nếu
quư vị niệm Mâu Ni Mạo Lệ là được, đọc
thành Mâu Ni Mạo Đăi[11] là đă khác rồi.
“Mâu na yết lạp phiệt, mâu ni hột lê đạt duệ.
Mâu ni rô ha tỳ chiết lệ. Mâu na hạt lật chế.
Mâu ni cấp mê. Thúc ngật la bác sai. Bát la xa bác sai. Mật ra
bác sai” Chữ La (囉) này khi
phát âm luôn đọc thành Ra. Đối với câu “mật
ra bác sai”, quư vị đừng đọc theo nguyên âm (tức
La), đọc chữ [“囉” trong] Mật La phải kèm thêm bộ Khẩu.
Phàm là chữ nào có thêm bộ Khẩu, sẽ đọc thành
Ra. “Tao lạt bà hột lật đế. Đố lạt
noa hột lật chiết lệ. Bát đát la xoa hột lật
đế. Cụ cụ noa mật lệ. Ấp phiệt
xoa tát lệ. Át nộ ha kỳ lư phiệt. Mâu ni bát tháp phiệt.
“Sa ha” (Svāha) là thành
tựu, hết thảy đều đă thành tựu.
(Kinh) Thiên Tạng Đại Phạm
thuyết thị chú dĩ, phục bạch Phật ngôn: “Duy
nguyện Thế Tôn, cập chư đại chúng, ư ngă
sở thuyết đại đà la ni, giai sanh tùy hỷ”. Thế
Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai!” Nhất thiết đại
chúng diệc tác thị ngôn: “Thiện tai! Thiện tai!”
(經)天藏大梵說是咒已,復白佛言:唯願世尊及諸大眾,於我所說大陀羅尼,皆生隨喜。世尊告曰:善哉!善哉!一切大眾亦作是言:善哉!善哉!
(Kinh: Thiên Tạng Đại Phạm nói
chú ấy xong, lại bạch cùng đức Phật: “Kính
mong đức Thế Tôn và các đại chúng đối với
đại đà la ni do con đă nói đều sanh ḷng tùy hỷ”.
Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay!” Hết
thảy đại chúng cũng nói như thế này: “Lành
thay! Lành thay!”).
Thiên Tạng nói xong bài chú ấy, thưa: “Con
hy vọng đức Thế Tôn và hết thảy đại
chúng có thể sanh tâm hoan hỷ, có thể sanh tâm tùy hỷ
đối với bài chú con vừa nói”. Đức Thế
Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Được lắm,
Ta tùy hỷ, tùy hỷ”. Đại chúng cũng đều
nói: “Lành thay! Lành thay! Ta tùy hỷ”.
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục
cáo tôn giả Đại Mục Càn Liên, cập cáo Di Lặc
Bồ Tát Ma Ha Tát viết: - Thiện nam tử! Nhữ đẳng
giai ưng thọ tŕ như thị Thiên Tạng Đại
Phạm sở thuyết Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại
Đà La Mi Minh Chú Chương Cú, truyền thọ vị lai
thử Phật độ trung nhất thiết chân thiện
Sát-đế-lợi vương, linh tự thọ tŕ, cập
linh lưu bố. Do thị nhân duyên, bỉ chư chân thiện
Sát-đế-lợi vương, tịnh chư quyến
thuộc, cập quốc nhân dân, nhất thiết giai đắc
lợi ích an lạc, thường chuyển pháp luân, danh xưng
cao viễn, oai đức xí thịnh, tồi diệt tà kiến,
kiến lập chánh kiến, thủ hộ pháp nhăn, thiệu
Tam Bảo chủng, giai linh xí thịnh, vô hữu đoạn
tuyệt, thành thục vô lượng, vô biên hữu t́nh, ư
Đại Thừa trung, kiên cố tịnh tín, cửu trụ
viên măn, năng cụ tu Lục Ba La Mật Đa, đoạn
nhất thiết chướng, tốc đáo cứu cánh.
(經)爾時,世尊復告尊者大目乾連,及告彌勒菩薩摩訶薩曰:善男子,汝等皆應受持如是天藏大梵所說,護國不退輪心大陀羅尼明咒章句,傳授未來此佛土中,一切真善剎帝利王,令自受持,及令流佈。由是因緣,彼諸真善剎帝利王,並諸眷屬,及國人民,一切皆得利益安樂,常轉法輪;名稱高遠,威德熾盛,摧滅邪見,建立正見,守護法眼,紹三寶種,皆令熾盛,無有斷絕;成熟無量無邊有情,於大乘中堅固淨信,久住圓滿,能具修六波羅蜜多,斷一切障,速到究竟。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn lại bảo tôn giả Đại Mục Càn Liên (Đại
Mục Kiền Liên), và Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Này thiện
nam tử! Các ông đều nên thọ tŕ Hộ Quốc Bất
Thoái Luân Tâm Đại Đà La Mi Minh Chú Chương Cú do Thiên
Tạng Đại Phạm đă nói như thế, truyền
dạy cho hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi
vương trong cơi Phật này vào thuở vị lai, khiến
cho họ tự thọ tŕ và lưu truyền. Do nhân duyên ấy,
các vị chân thiện Sát-đế-lợi vương và các
quyến thuộc, cùng với nhân dân trong nước, hết
thảy đều được lợi ích, yên vui, thường
chuyển pháp luân, tiếng tăm cao xa, oai đức lừng
lẫy, phá diệt tà kiến, kiến lập chánh kiến,
thủ hộ pháp nhăn, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo,
khiến cho đều hưng thịnh, chẳng bị đoạn
tuyệt, thành thục vô lượng, vô biên hữu
t́nh, ḷng tin trong sạch kiên cố đối với Đại
Thừa, tồn tại lâu dài viên măn, có thể tu trọn Lục
Ba La Mật Đa, đoạn hết thảy các chướng,
nhanh chóng đạt đến rốt ráo).
Sau khi Thiên Tạng Đại Phạm nói xong
bài chú ấy, đă mong cầu đức Thế Tôn và đại
chúng tùy hỷ. Đức Phật bèn bảo đại đệ
tử Mục Kiền Liên và Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ
Tát là đại đệ tử trong các vị Bồ Tát, Mục
Kiền Liên là đại đệ tử trong chúng Thanh Văn.
Di Lặc Bồ Tát giáng sanh tại Ấn Độ, thị
hiện nhục thân, chẳng giống như Quán Thế Âm Bồ
Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng ở trong thế gian này,
Ngài hóa hiện. Đức Phật bảo ngài Mục
Kiền Liên và Di Lặc Bồ Tát: “Các ông đều phải
nên thọ tŕ Hộ Quốc Bất Thoái Tâm Đà La Ni Minh Chú
do Thiên Tạng Đại Phạm vừa nói, khiến cho trong
đời vị lai, nơi cơi Phật này, người có tâm
thật sự cầu giải thoát, làm bậc chân thiện,
khiến cho quốc vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi
như thế tự ḿnh tiếp nhận. Đồng thời,
do ông ta lănh đạo nhân dân trong nước, sẽ khiến
cho mọi người đều tiếp nhận. Như vậy
th́ sẽ khiến cho quốc gia ấy được lợi
ích, an vui. Do chú ấy, có thể khiến cho chánh pháp thường
tồn tại, pháp luân thường chuyển.
Đồng thời, tiếng tăm của
quốc vương cũng sẽ cao xa, oai đức lừng
lẫy. Trong quốc độ như thế, tà tri, tà kiến
sẽ bớt đi, kiến lập một loại chánh tri
chánh kiến. Đấy là do sức gia tŕ của chú này. Do
sức gia tŕ của chú này mà thủ hộ pháp nhăn. Pháp nhăn
là Phật pháp trụ thế, giống hệt như tṛng mắt.
Người có mắt th́ mới có thể thấy. Chẳng
có nhăn căn, thứ ǵ cũng chẳng thấy được.
Có như vậy th́ mới khiến cho Tam Bảo vĩnh viễn
tồn tại lâu dài trong thế gian, lại c̣n có thể tỏa
sáng rạng ngời, vĩnh viễn chẳng bị đoạn
tuyệt. Đă có pháp, sẽ có thể thành thục vô lượng,
vô biên hữu t́nh, hết thảy chúng sanh nghe pháp sẽ có
thể đạt được giải thoát, có thể đắc
độ.
Khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo chính là khiến cho quư vị thành tựu tín tâm. Vị Bồ
Tát phát khởi trong kinh ấy tên là Kiên Tịnh Tín, nay tín tâm
của chúng ta giống như sợi lông trong không trung, vật
vờ theo gió thổi, gặp cảnh giới nào bèn bị
thổi đến chỗ đó, đă chẳng kiên định, mà cũng chẳng
thanh tịnh. Tín tâm kiên định dường như rất
dễ dàng! Nếu có thể có tín tâm, sẽ có thể thành Phật. Đấy là nhân, thành Phật
là quả. Tu thanh tịnh tín th́ phải
mất một vạn đại kiếp, rất khó khăn!
Những ǵ chúng ta đang tu tập trong hiện tại là để
khiến cho tín tâm thanh tịnh, luôn kiên cố, chẳng lay động!
Chúng ta gặp cảnh giới liền bị dao động.
Nếu vậy, quư vị mong viên măn Phật quả, sẽ chẳng
thể được! Nếu muốn tu Lục Ba La Mật
th́ cũng chẳng thể! Ắt cần
phải có tín tâm thanh tịnh, Lục Ba La Mật sẽ đều có
thể trọn đủ. Chẳng có tín tâm thanh tịnh, quư
vị làm chuyện ǵ cũng đều xen tạp ô nhiễm,
chẳng thuần! Chẳng hạn như nay chúng ta cũng
hành bố thí, cũng hành xả, nhưng sự hành xả của
quư vị chẳng thanh tịnh! Ví như hiện thời đến
mùa Đông, chúng ta có quần áo dư bèn xả đôi chút. Quư
vị xả những thứ quần áo dư bằng cái tâm
ǵ? Điều này có mối quan hệ rất lớn. Tín tâm
thanh tịnh, tôn kính người khác, đừng coi kẻ
khác là ăn mày!
Chúng tôi đang giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo một lần nữa. Trong kinh Địa Tạng,
Địa Tạng Bồ Tát đă thưa hỏi đức
Phật, v́ sao sau khi bố thí, có người hưởng
phước một đời, có người hưởng
phước mười đời, có người hưởng
phước trăm đời, ngàn đời, cho đến
có người hưởng phước vô lượng? V́
sao cùng tu bố thí như nhau, cùng là bố thí các vật như
nhau [mà lại hưởng phước sai khác đến thế?]
Đó là do cái tâm phân biệt. Nếu tôn kính người khác,
sẽ là cái tâm cúng dường. Nếu hành bố thí [bằng
cái tâm cúng dường], sẽ giống như cúng dường
Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng.
Trong hết thảy các kinh, gần như [đều
dạy phải bố thí giống như] cúng dường
Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Tôn trọng
hết thảy chúng sanh, người ấy cúng dường
hết thảy chúng sanh. Cúng dường Phật, cúng dường
Pháp, cúng dường Tăng, lại c̣n cúng dường hết
thảy chúng sanh, tức là đối với quỷ thần,
đối đăi với họ như chúng sanh, đều
là Bổ Đặc Già La. Dùng cái tâm ấy để cúng
dường hết thảy, tận hư không, trọn pháp
giới, vô cùng, vô tận, như thế th́ công đức của
quư vị sẽ to lớn. Tuy thí vật chất chẳng
nhiều lắm, nhưng tâm lượng to lớn. Khi chúng
ta sám hối, cũng giống như vậy. Tuy nói “làm điều
ác chẳng lớn”, nhưng ngày đêm liên tục, cái tâm mạnh
mẽ, điều ác ấy sẽ to lớn, điều ác
đó sẽ trọn khắp pháp giới. V́ sao chúng ta vẫn
một mực chẳng
xuất ly, chẳng thể viên măn thành Phật được?
Do nguyên nhân như thế đó. Phải dụng tâm sám hối.
Như thế th́ mới có thể đạt đến rốt
ráo!
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn trùng hiển
thử nghĩa, nhi thuyết tụng viết: - Thời Thiên
Tạng Đại Phạm, thỉnh vấn Lưỡng Túc
Tôn, lợi căn đẳng hữu t́nh, nhạo tu Định,
tụng, phước, thông huệ vương thành pháp, vị
thăng tấn, trầm
luân? Sở
tu tam sự trung, thùy trừ Hoặc bất thoái? Thế Tôn
cáo bỉ ngôn, nhược phạm Vô Y Hạnh, tuy giác huệ
mănh lợi, nhi thú Vô Gián ngục. Phi chân thông huệ cố,
nhạo hành Thập Ác Luân, đoạn diệt chư thiện
căn, tốc thú ư địa ngục. Định năng
đoạn phiền năo, phi thính tụng phước nghiệp.
Cố dục cầu Niết Bàn, thường đương
tu Tĩnh Lự. Hữu huệ, cần tinh tấn, hộ
tŕ ngă chánh pháp, do kính tín ca-sa, năng độ phiền năo hải,
nhạo xử không nhàn lâm, viễn tạo vô đồng loại,
kính tŕ giới tu định, năng độ chư hữu
hải. Phổ tín kính tam thừa, hưng long ngă chánh pháp, cung
kính nhiễm y giả, đương thành công đức hải.
(經)爾時,世尊重顯此義,而說頌曰:時天藏大梵,請問兩足尊,利根等有情,樂修定誦福,聰慧王成法,為升進沉淪,所修三事中,誰除惑不退?世尊告彼言,若犯無依行,雖覺慧猛利,而趣無間獄。非真聰慧故,樂行十惡輪,斷滅諸善根,速趣於地獄。定能斷煩惱,非聽誦福業,故欲求涅槃,常當修靜慮。有慧勤精進,護持我正法,由敬信袈裟,能渡煩惱海。樂處空閑林,遠造無同類,敬持戒修定,能渡諸有海。普信敬三乘,興隆我正法,供養染衣者,當成功德海。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế
Tôn muốn hiển lộ lại ư nghĩa này, bèn nói kệ
tụng rằng: “Khi Thiên Tạng Đại Phạm, thưa
hỏi Lưỡng Túc Tôn, các hữu t́nh lợi căn, thích
tu Định, tụng, phước, vua thông huệ thành pháp,
thăng tấn hay trầm
luân? Trong ba sự
đă tu, pháp nào sẽ trừ Hoặc, khiến đạt được
bất thoái? Thế Tôn bảo ông ta: Nếu phạm Vô Y Hạnh,
dẫu giác huệ mạnh bén, vẫn vào ngục Vô Gián. Chẳng
thật sự thông huệ, ưa làm mười ác luân, đoạn
diệt các thiện căn, mau chóng vào địa ngục. Định
đoạn trừ phiền năo, chẳng do tụng phước
nghiệp. Do vậy, cầu Niết Bàn, thường nên tu
Tĩnh Lự. Có huệ, siêng tinh tấn, hộ tŕ Phật
chánh pháp, do kính tín ca-sa, sẽ vượt biển phiền
năo, thích ở chốn thanh vắng, xa ĺa kẻ khác hạnh,
kính tŕ giới, tu Định,
sẽ vượt biển tam giới. Tin kính khắp ba thừa,
hưng thịnh Phật chánh pháp. Cung kính người xuất
gia, sẽ thành biển công đức).
Đoạn kinh văn thuộc phẩm Vô Y Hạnh
này trên cơ bản đă sắp viên măn, đức Phật
bèn nhắc lại các ư nghĩa bao hàm trong ấy một lượt.
Trong đoạn kệ tụng này, [đức Phật nhắc
lại chuyện] Thiên Tạng Đại Phạm thưa hỏi,
nhắc lại lời hỏi của ông ta. Thiên Tạng
Đại Phạm đến “thỉnh vấn Lưỡng
Túc Tôn” (thưa hỏi đấng
Lưỡng Túc Tôn). Đây là đức
Thế Tôn nói kệ tụng, chẳng phải là Thiên Tạng
Đại Phạm nói. Bởi lẽ, sau khi đă nói xong ư
nghĩa này, đức Phật nhắc lại đôi chút. V́
sao? Trong hội trường thuyết pháp của đức
Phật, hoàn toàn chẳng phải toàn là thính chúng đều
hiện diện từ đầu, cũng có người nửa
chừng mới đến. Họ chẳng được
nghe đoạn kinh văn ấy, đức Phật bèn nhắc
lại, bổ sung đôi chút, bất quá chẳng nói cặn
kẽ như vậy. Thuở đức Phật tại thế,
những vị như tôn giả Ca Diếp, hoặc Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát, trong những vị Bồ Tát và Thanh
Văn thường có vị do sự nghiệp hóa độ,
phải đi rất xa. Trong pháp môn Đại Tập này,
chẳng đợi các vị ấy trở lại, gần
như đă nói xong, đức Phật lại dùng kệ tụng
để nhắc lại một lượt. Các vị ấy
đều có trí huệ, [chỉ cần] nói sơ lược
đôi chút, các vị liền hiểu
rơ, chẳng cần phải nhắc lại cặn kẽ. Kệ
tụng có khi rất dài, có lúc rất giản lược. Trong
phần Trường Hàng trước đó, các bài kệ tụng
chỉ nhằm nói lên một chuyện, c̣n kệ tụng ở
đây đă khái quát các ư nghĩa [trong phẩm kinh này].
Thiên Tạng Đại Phạm hỏi: “Tu định,
tu phước, tụng kinh, pháp nào tốt đẹp? Trong
ba pháp ấy, pháp nào là tối thượng? Có thứ tự
hay không?” V́ khi ông ta thỉnh vấn, đức Phật
đă dạy ba loại nghiệp, tức tu Định nghiệp,
tŕ tụng nghiệp, và doanh tạo phước nghiệp. Đức
Thế Tôn bảo ông ta, tức “cáo bỉ ngôn”, cả ba
môn ấy đều tốt. Nếu phạm Vô Sở Y, tức là Vô Y Hạnh, th́ các hành vi tu tập
của quư vị sẽ chẳng thể sanh ra công đức,
chẳng thể sanh ra phước đức. Do tu Vô Y Hạnh,
những sự nghiệp họ đă làm sẽ là Vô Y Hạnh.
Chẳng nương cậy Tam Bảo, cho đến làm
chuyện phản đạo, cũng tức là chẳng nghe
lời dạy bảo của đức Như Lai. Tuy kẻ
đó rất thông minh, có giác huệ cũng rất mạnh
mẽ, nhạy bén, nhưng kẻ đó đă phạm
Vô Y Hạnh, hoặc mười ác luân đă nói trong phần
trước, hễ có một ác luân, những ǵ kẻ đó
tu tập sẽ chẳng thành tựu. Dẫu thông minh đến
mấy, dẫu có trí huệ như thế nào đi nữa,
vẫn đọa vào địa ngục Vô Gián. V́ sao? V́ trí
huệ và thông
minh của kẻ đó chẳng chân thật, [đó là ư
nghĩa của câu] “phi chân thông huệ cố”. Trí huệ
và thông
minh chân thật sẽ như thế nào? Chẳng làm thập
ác! Giống như đối với thập ác luân trong phần
trước, nếu người ấy chẳng có một điều
nào, th́ sẽ là thông huệ
chân chánh. Nay chúng ta đă học thập ác luân, chính ḿnh có thể
đối chiếu đôi chút, chúng ta có hành vi thập ác luân
hay không?
Nêu thí dụ, vấn đề ăn mặn
và ăn chay khiến cho nhiều người rất lúng túng.
Có kẻ mong xuất ly, cũng chán ghét sanh tử, chán ĺa khổ
năo trong thế gian, cũng muốn niệm Phật sanh về
thế giới Cực Lạc, nhưng ở phương Đông
(Sa Bà) ăn thịt uống rượu, kẻ đó chẳng
buông xuống được! Có người cho rằng nếu
phải ăn chay sẽ rất khó khăn, xác thực là rất
khó khăn, v́ tập quán từ vô thỉ đến nay, sẽ
gặp khó khăn. Kẻ đó nếu thấy các vị xuất
gia, có các vị xuất gia vẫn ăn mặn, kẻ đó
bèn chọn lựa ăn mặn. Ăn mặn mà cũng muốn
thành Phật tại Tây Phương, vẫn ăn thịt tại
Đông phương, quư vị nói như vậy th́ xét theo tâm
lư, chuyện này chẳng có vấn đề ǵ, tùy thuộc
quư vị có giải thoát hay không? Nhưng do nơi tâm lư đă
trái phạm, đó chẳng phải là thật sự có trí
huệ!
C̣n nữa, đối với y phục, chúng
ta mặc quần áo, có mặc đúng cách hay không? Tôi cho rằng
phải nên chú trọng
đối với y phục. Mùa hè phải mặc mỏng một
chút, mát mẻ một chút, mùa Đông phải giữ ấm
hơn. Quần áo nhằm bảo vệ thân thể của chúng
ta. Hiện thời đă sai mất rồi, mặc quần
áo là để cho người khác xem! Trong thời đại
hiện tại, chú trọng thời trang, mặc y phục
cho người khác ngắm, chính ḿnh phải chịu tội.
Bó thân thể chật cứng, rất khó chịu. Như ở
Mỹ có các công ty quy định, [nữ giới] đi làm nhất
định phải mặc váy. Mùa Đông rét buốt như
thế, bao nhiêu độ âm, cô ta mặc váy trông rất đẹp
đẽ, để hai đùi phô ra. Đùi của phụ
nữ [do không được giữ ấm] sanh ra rất
nhiều bệnh tật. Đặc biệt là đối với
phụ nữ, sẽ dẫn đến chuyện kinh nguyệt
chẳng điều ḥa, đủ loại bệnh tật ở
phần thân dưới. Cô ta cũng thà hy sinh cái mạng, vẫn
phải ăn mặc xinh đẹp đôi chút, sợ không
xinh đẹp, sẽ chẳng khiến cho người khác
thích. Quư vị thấy đó, bất luận là tô son hay
trang điểm, cốt là để người khác trông
thấy sẽ ưa thích, chẳng phải v́ chính ḿnh, mà là
v́ người khác. Điều ấy chẳng cần thiết!
Xưa kia, có một vị lăo ḥa thượng
được một nhà thí chủ cúng dường. Cả
nhà ấy từ khi Sư bắt đầu tu đạo đều
là toàn gia sốt sắng cúng dường. Đă trải qua hai,
ba thế hệ, đều cúng dường Sư. Lăo ḥa
thượng sống rất lâu, tu hành trong núi. Có một lần,
nhà ấy đang có hỷ sự, vị lăo ḥa thượng
ấy lại đến đó để hóa duyên, đến
nhận gạo. Sư đứng ngoài cửa thấy nhà ấy
đang lo tổ chức tiệc vui, bèn khóc ầm lên. Người
khác hỏi Sư: “Lăo ḥa thượng! Hôm nay chúng tôi có đại
hỷ sự, sư đến nơi đây, cớ sao sư
đến báo tang, khóc lóc chuyện ǵ vậy?” Sư nói: “Đáng
thương cho lăo thí chủ của tôi, đáng thương
cho chúng sanh khổ sở, cháu nội cưới bà nội!”
Sư nói: “Đây là tôi tự trông thấy. Bà ta lại tái
sanh làm người, làm cô dâu cho cháu nội”. “Trư dương
tịch thượng tọa, lục thân oa lư chử” (Lợn,
dê ngồi trên tiệc, lục thân nấu trong nồi).
Khi bà nội kết hôn, lục thân đều
biến thành lợn, dê. Nay đứa cháu kết hôn, các con lợn,
dê ấy đang ngồi ăn tiệc, c̣n lục thân thuở
đó bị nấu trong nồi. Sư có thần thông, thấy
rơ như vậy. Điều này mang ư nghĩa cảnh sách. V́
sao chúng ta phải phóng sanh? Phải cứu độ chúng
sanh, sám hối tội lỗi. Phóng sanh tiêu nghiệp nhanh nhất.
Quư vị chẳng muốn nhiễm bệnh, phóng sanh là được
rồi. Khiến cho người khác sống vui sướng,
cuộc sống của quư vị cũng vui sướng. Kẻ
đoạn dứt thiện căn, hành mười ác luân,
chẳng đọa địa ngục ư?
Đương nhiên là đọa địa ngục! Đức
Phật nói: “Định có thể đoạn phiền
năo, chẳng phải do tập tụng và tạo phước”.
Vậy th́ Định
chẳng phải là phước nghiệp do nghe và học tập
kinh điển, bởi phước ấy có thể thuộc
vào phước thế gian, có ư nghĩa như thế đó.
Quư vị mong cầu Niết Bàn, phải thường tu Định,
tu Tĩnh Lự. Tĩnh Lự không nhất định là tọa
Thiền, Tĩnh Lự tức là tâm quư vị phải
thường luôn quan sát. Hoặc là quan sát bằng Chỉ.
Chỉ quan sát là Định, hoặc là huệ quan sát. Huệ
quan sát là tu Huệ, cũng chính là vận dụng cả Chỉ
lẫn Quán, có hàm nghĩa như vậy! Nếu có trí huệ,
lại c̣n dũng mănh tinh tấn tu hành, tu hành như thế
nào? Hộ tŕ chánh pháp của Phật, hộ pháp là tu hành.
“Do kính tín ca-sa”: Tin vào tấm y ấy.
V́ trong phần trước, đă nêu ra rất nhiều thí
dụ, chẳng hạn như quỷ La Sát trông thấy một
mảnh ca-sa đỏ, chẳng ăn thịt kẻ đó
cũng là v́ phải kính tín. Cung kính sanh khởi thanh tịnh
tín, đừng nên chiết khấu. “Năng độ
phiền năo hải” (có thể vượt biển phiền
năo): Do tín tâm như vậy, có thể vượt qua biển
khổ sanh tử. Kế đó, đừng t́m chỗ náo
nhiệt, hăy t́m chỗ rừng sâu thanh vắng, chẳng qua
lại với những kẻ ác, cho đến xa ĺa chỗ
ồn náo trong xă hội. Quư vị tu Định như vậy
th́ mới có thể tu thành công, tŕ giới mới có thể
tŕ kiên cố. Cho đến “kính tŕ giới, tu Định” (kính cẩn giữ giới, tu Định)
ở nơi ấy, hoàn cảnh khách quan bên ngoài chẳng
khiến cho quư vị phạm tội, cơ hội phạm
tội ít ỏi. Ở trong Định cảnh, tâm tham
cũng chẳng sanh khởi, đặc biệt là ngồi
trong thi lâm[12],
quư vị thấy cứ chốc lát lại đưa một
xác chết đến, chết rồi sẽ rữa nát, vừa
trông thấy sẽ khởi lên cái tâm chán ĺa. Quư vị
cũng như thế, thân thể của chính ḿnh rồi cũng
sẽ như vậy.
Do vậy, ở trong nhân gian huyễn hóa này độ
chúng sanh, người ấy chẳng thấy chúng sanh là chân
thật, chỉ thấy như mộng, huyễn,
bọt, bóng. Nếu chúng sanh đều là chân thật, Bồ Tát suốt
ngày v́ tâm đại bi, chỉ sợ chính ḿnh cũng sẽ khổ năo chết
mất. Các Ngài chẳng bị cảnh chuyển, nhận biết
đó là huyễn hóa. Nếu chúng ta chẳng có định lực như thế,
cũng chẳng có rất nhiều thiện căn, chỉ
có thể xa ĺa, chớ nên đến chốn ồn náo, như
vậy th́ mới có thể vượt biển “chư Hữu” (hai mươi lăm Hữu, tức
tam giới).
“Phổ kính tín tam thừa” (tin kính trọn
khắp tam thừa): Đối với tam thừa chẳng
dấy lên phân biệt. Thanh Văn Thừa cũng thế, Duyên
Giác Thừa cũng thế, Bồ Tát Thừa cũng thế,
như vậy th́ mới có thể “hưng long ngă chánh pháp”
(hưng thịnh chánh pháp của ta). “Cung kính nhiễm y giả,
đương thành công đức hải” (cung kính bậc
mặc áo nhuộm, sẽ thành tựu biển công đức):
Quư vị mong cầu công đức, hăy cúng dường bậc
xuất gia cho nhiều, ly dục thanh tịnh. Quư vị đừng
phân biệt vị này có phải là thánh tăng hay không, vị
kia có phải là phá giới
hay không. Trong tâm quư vị căn bản là chẳng dấy lên
ư niệm ấy, hết thảy đều là Phật tử.
(Kinh) Năng phục nan điều tâm, bất
cử bật-sô tội. Tu tri túc thánh chủng, đương
thành Lưỡng Túc Tôn. Viễn ly ác bật-sô, thân cận
thánh hạnh xứ. Bất thực dụng Tăng vật,
tốc chứng đại Bồ Đề. Tam giới
trung an lạc, giai do Tam Bảo sanh. Cố cầu an lạc
nhân, thường cúng dường Tam Bảo. Chiên-đồ-la
vương đẳng, bằng đảng ác bật-sô. Ư
Tam Bảo khởi quá, tốc đọa Vô Gián ngục. Thập
áp du luân tội, đẳng bỉ nhất dâm phường.
Trí bỉ thập dâm phường, đẳng nhất tửu
phường tội. Trí thập tửu phường tội,
đẳng bỉ nhất đồ phường. Trí bỉ
thập đồ phường, tội đẳng vương
đẳng nhất. Chân thiện quốc vương đẳng,
hưng long ngă chánh pháp, phổ cúng dường tam thừa, đương
thành công đức hải. Thất bảo măn Thiệm Bộ,
phụng thí Phật cập Tăng, bỉ sở hoạch phước
tụ, bất như hộ Phật pháp. Vị Phật, Tăng
tạo tự, lượng đẳng thập tứ châu, bỉ
sở hoạch phước tụ, bất như hộ Phật
pháp. Tạo Phật tốt-đổ-ba, lượng đẳng
tam thiên giới, bỉ sở hoạch phước tụ,
bất như hộ Phật pháp. Giải A La Hán phược,
chủng chủng tu cúng dường, bất chướng
ngă chánh pháp, kỳ phước thắng ư bỉ. Thiên câu-chi
kiếp trung, trí giả cần tu Định, sở sanh thắng
giác huệ, bất như hộ ngă pháp. Chân thiện quốc
vương đẳng, viễn ly thập ác luân, hộ tŕ
ngă chánh pháp, cập trước ca-sa giả. Bất hủy
báng ngă thuyết, tam thừa pháp cập nhân, phổ thính văn
cúng dường, hộ tŕ thuyết pháp giả, bất tổn
Tam Bảo vật, bất chướng trước ca-sa,
thường kính khí, phi khí, phước thắng vô luân thất.
(經)能伏難調心,不舉苾芻罪,修知足聖種,當成兩足尊。遠離惡苾芻,親近聖行處,不食用僧物,速證大菩提。三界中安樂,皆由三寶生,故求安樂人,常供養三寶,旃荼羅王等,朋黨惡苾芻,於三寶起過,速墮無間獄。十壓油輪罪,等彼一婬坊;置彼十婬坊,等一酒坊罪;置十酒坊罪,等彼一屠坊;置彼十屠坊,罪等王等一。真善國王等,興隆我正法,普供養三乘,當成功德海。七寶滿贍部,奉施佛及僧,彼所獲福聚,不如護佛法。為佛僧造寺,量等十四洲,彼所獲福聚,不如護佛法。造佛窣堵波,量等三千界,彼所獲福聚,不如護佛法。解阿羅漢縛,種種修供養,不障我正法,其福勝於彼。千俱胝劫中,智者勤修定,所生勝覺慧,不如護我法。真善國王等,遠離十惡輪,護持我正法,及著袈裟者。不譭謗我說,三乘法及人,普聽聞供養,護持說法者。不損三寶物,不障著袈裟,當敬器非器,福勝無倫匹。
(Kinh:
Hàng phục tâm khó điều, chẳng cử tội bật-sô.
Cần biết đủ thánh chủng, sẽ thành Lưỡng
Túc Tôn. Xa ĺa bật-sô ác, thân
cận chỗ thánh hạnh. Chẳng ăn, dùng Tăng vật,
mau chứng đại Bồ Đề. An lạc trong tam
giới, đều do Tam Bảo sanh. Nên người cầu
an lạc, thường cúng dường Tam Bảo. Bọn
vua Chiên-đồ-la, cùng ác tăng kết
đảng. Phạm lỗi với Tam Bảo, mau đọa
ngục Vô Gián. Tội mười máy ép dầu, bằng tội
một nhà thổ. Lập ra mười nhà thổ, bằng
tội một tiệm rượu. Tội mở mười
tiệm rượu, bằng mở một ḷ mổ. Lập
ra mười ḷ mổ, tội bằng với vua quan, chuyên
hành một ác luân.
Bậc quốc vương chân thiện, hưng thịnh Phật
chánh pháp, cúng dường khắp ba thừa, sẽ thành biển
công đức. Bảy báu khắp Thiệm Bộ, dâng thí Phật
và Tăng, người ấy đạt khối phước,
chẳng bằng hộ Phật pháp. V́ Phật, Tăng dựng
chùa, to bằng mười bốn châu, người ấy đạt
khối phước, chẳng bằng hộ Phật pháp. Dựng
tháp thờ phụng Phật, to bằng cơi tam thiên, người
ấy đạt khối phước, chẳng bằng hộ
Phật pháp. Cởi trói A La Hán, đủ mọi cách cúng
dường, chẳng chướng Phật chánh pháp, phước
ấy vượt hơn hẳn. Trong ngàn câu-chi kiếp, người
trí siêng tu Định, sanh giác huệ thù thắng, chẳng
bằng hộ pháp ta. Bậc quốc vương chân thiện,
xa ĺa mười ác luân, hộ tŕ Phật chánh pháp, và người
mặc ca-sa, chẳng báng pháp tam thừa, do ta đă nói ra, chẳng
báng người hành tŕ. Nghe trọn khắp, cúng dường,
hộ tŕ người thuyết pháp, chẳng tổn vật
Tam Bảo, chẳng chướng người xuất gia,
thường kính khí, phi khí, phước thù thắng khôn sánh).
“Năng phục nan điều tâm” (Có
thể hàng phục cái tâm khó điều phục): Điều
phục cái tâm của quư vị cho tốt. Cái tâm ấy khó điều
phục. Quư vị đă tin Phật, nghe hai bộ kinh, nghe rồi
lập tức chuyển biến. Bất quá, tâm tham rất
khó khống chế, khó chế ngự hơn bất cứ
sự vật nào! Có đạo hữu nói: “Hễ tôi tĩnh
tọa, vọng niệm [dấy lên] nhiều ngần ấy”.
Đó là do tĩnh tọa, quư vị mới nhận biết
vọng niệm. Chẳng tĩnh tọa, làm sao nhận biết
vọng niệm cho được, v́ quư vị đang ở
trong vọng niệm! Tô Đông
Pha có bài thơ: “Hoành khán thành lănh, trắc thành phong. Viễn
cận, cao đê các bất đồng. Bất thức Lô Sơn
chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn
trung” (Nh́n ngang thành rặng, dọc thành đỉnh. Cao,
thấp, gần xa, khác hẳn nhau. Chẳng biết Lô Sơn
chân diện mục, v́ thân vẫn ở tại non này). Quư vị
ở trong phiền năo, sẽ chẳng trông thấy phiền
năo. V́ quư vị tu Định, hoặc nghe kinh rồi đối
chiếu, như thế này là phiền năo, như thế kia
là phiền năo. Nếu không, quư vị làm sao biết nổi?
V́ quư vị nghe kinh xong, tĩnh tọa
ở nơi đây, lại dấy lên vọng niệm.
Vọng niệm ấy sau nửa tiếng đồng hồ
lại mất đi, quư vị chuyển theo vọng niệm.
Giả sử quư vị
chẳng học Phật, chẳng làm ǵ, th́ trong nửa tiếng
đồng hồ, trong hai mươi bốn tiếng đồng
hồ, quư vị đều bị vọng niệm xoay chuyển,
làm sao nhận biết cho nổi? Lúc tỉnh đă bị vọng
niệm chuyển, mà đêm ngủ nằm mộng vẫn bị
vọng niệm chuyển, hoàn toàn chẳng có lúc nào làm chủ!
Bậc đại đức cũng có lúc chẳng thể
làm chủ, chưa phải là Bồ Tát đăng địa
(tối thiểu đă chứng Sơ Địa), hoặc địa
vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng), cũng sẽ có lúc chẳng
thể làm chủ!
A La Hán cũng đă đoạn Kiến Tư
Hoặc, khi chẳng nhập Định, Ngài cũng chẳng
thể làm chủ. V́ sao Ngài “hôi thân mẫn trí” (灰身泯智) tức
là phải đốt cháy thân thể này? Bất luận Ngài
có thần thông, phần trên thân thể bốc lửa, phần
dưới thân thể tuôn ra nước, mười tám pháp
thần thông biến hóa, tự ḿnh thiêu hóa chính ḿnh, chẳng
c̣n nhục thể này nữa, đă đoạn dứt, thật
sự nhập Niết Bàn. Khi đạt tới tŕnh độ
nhất định, vị ấy sẽ dấy lên biến
hóa, chẳng đơn giản như vậy. Nếu nghiên
cứu A La Hán, [sẽ thấy] có rất nhiều loại A
La Hán, cũng có thoái địa (thoái chuyển) A La Hán. Vị
ấy chẳng tiến lên, chẳng độ chúng sanh, chẳng
lợi lạc thế gian. Trước khi thành Phật, khi
chưa đạt tới Bát Địa Bồ Tát, tức Bất
Động Địa, sẽ chưa phải là bất thoái.
Bất thoái lại có Vị Bất Thoái và Niệm Bất Thoái.
Niệm Bất Thoái rất khó, hiểu đạo lư này là được
rồi!
Đối với hết thảy các pháp, phải
biết đủ. “Tu tri túc thánh chủng, đương
thành Lưỡng Túc Tôn” (cần phải biết đủ,
đó là chủng tử của bậc thánh, sẽ trở
thành Lưỡng Túc Tôn): Chủ yếu là đối với
tham, đặc biệt là chúng ta lưu chuyển trong sanh tử
v́ dục, tức ái dục. Đấy là căn bản sanh
tử của chúng ta. “Viễn ly ác bật-sô, thân cận
thánh hạnh xứ” (xa ĺa bật-sô ác, thân cận bậc
thánh hạnh): Thân cận tỳ-kheo tốt, đừng thân
cận ác tỳ-kheo. Trong phần trước, đă bảo
quư vị đừng phân biệt. Đó là nói khi quư vị cúng
dường, đừng dấy ḷng phân biệt. C̣n khi quư vị
tu hành, phải chọn lựa ai là thiện hữu, ai là ác hữu?
Nếu quư vị có sức có thể chuyển kẻ ác như
các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa
Tạng, các Ngài chẳng phân biệt thiện hay ác, càng ác, càng
độ kẻ đó. Chúng ta chẳng có sức mạnh ấy,
kẻ b́nh phàm chẳng có sức mạnh ấy, đức
Phật liền dạy cho chúng ta biết: Hăy bớt thân cận
các ác tỳ-kheo ấy, hăy thân cận những vị Tăng có thánh hạnh, đáng cung kính.
Hơn nữa, ngàn vạn phần đừng
dùng vật của Tăng, Tăng [được
nói ở đây là Tăng chúng] trong chùa miếu.
Hễ nhắc đến Tăng là nói tới Tăng Già, Tăng
Già chẳng phải là một vị. Một vị sẽ
không thể gọi là Tăng. Chỉ có xuất gia th́ gọi
là tỳ-kheo. [Nói đến Tăng] th́ ắt cần phải là từ ba vị
trở lên. “Tăng vật” là vật dụng của đại
chúng Tăng từ ba vị trở lên, quư vị đừng
dùng! Nếu là như thế, quư vị thân cận thiện
hữu, đừng lạm dụng vật thuộc về thường
trụ, sẽ rất dễ thành tựu quả Bồ
Đề. V́ điều này tương đương với
chẳng trộm cắp, thân cận thiện hữu sẽ
giống như tôn kính Tăng. Quư vị gặp gỡ ác tỳ-kheo,
sẽ bị mắc hại, nhưng khi quư vị cúng dường
họ, chẳng v́ họ là kẻ ác mà quư vị phê b́nh. Do vậy,
trong phần trước, đă nói rất nhiều lượt,
cung kính v́ áo ca-sa đỏ, do người ấy khoác ca-sa, [cho
nên] quư vị cung kính Tăng
tướng của người ấy. Như thế th́
trong tam giới, quư vị có thể đạt được an lạc,
khiến cho Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo sanh khởi, “thường
cúng dường Tam Bảo”. Đó là Hữu Y. Sở dĩ
Vô Y là v́ người ấy chẳng thân cận Tam Bảo,
cho nên Vô Y. Trong phẩm sau là Hữu Y, những ǵ người
ấy đă làm đều là thân cận Tam Bảo; đấy
gọi là Hữu Y.
“Chiên-đồ-la vương đẳng,
bằng đảng ác bật-sô, ư Tam Bảo khởi quá,
tốc đọa Vô Gián ngục” (bọn vua Chiên-đồ-la,
kết đảng với sư ác, phạm lỗi với Tam
Bảo, mau đọa ngục Vô Gián): Trong phần trước
đă nói rất nhiều. Tỳ-kheo hiện thời c̣n kết
bái huynh đệ; tôi đă thấy rất nhiều. Ở Ấn Ni (Indonesia)
và Tân Gia Ba có mấy người, đều thuộc lứa
tuổi trung niên, năm sáu chục tuổi. Tỳ-kheo hiện
thời c̣n kết bái huynh đệ với nhau, quư vị nói
việc này đúng hay sai? Tôi nghĩ ai nghe xong cũng cảm
thấy chẳng đúng, đó gọi là “kéo bè kết đảng”.
Đó là ác tỳ-kheo, họ thường đối trước
Phật, Pháp, Tăng tạo tội, sẽ đọa địa
ngục rất nhanh!
Trong phần trước, đă nói “thập
áp du luân tội, đẳng bỉ nhất dâm phường,
trí bỉ thập dâm phường, đẳng nhất tửu
phường tội, trí thập tửu phường tội,
đẳng bỉ nhất đồ phường, trí bỉ
thập đồ phường, tội đẳng
vương đẳng nhất” (tội mười máy ép
dầu, bằng tội một nhà thổ. Mở ra mười
nhà thổ, tội bằng một quán rượu. Lập
ra mười quán rượu, tội bằng một ḷ mổ.
Lập ra mười ḷ mổ, tội bằng với vua quan,
thành tựu một luân ác): Tội của ác tánh
vương bằng tội của mười tiệm rượu[13]. Quư vị làm quốc
vương, hễ tạo một tội, sẽ bằng tội
của mười tiệm rượu. V́ quốc vương
có sức lớn, tạo tội cũng lớn. Tu thiện
lớn, tạo tội cũng lớn, “Chân thiện quốc
vương đẳng, hưng long ngă chánh pháp, phổ cúng
dường tam thừa” (bậc quốc vương chân
thiện, hưng thịnh Phật chánh pháp, cúng dường
khắp tam thừa), chẳng dấy lên sự chọn lựa đối với tam thừa, “đương thành công đức hải” (sẽ
thành tựu biển công đức), nếu cúng dường
như vậy, công đức sẽ thành tựu rất
nhanh chóng.
“Thất bảo măn Thiệm Bộ” (bảy
báu đầy khắp Nam Thiệm Bộ Châu): Bảy báu đầy
ắp Thiệm Bộ Châu, điều này đă được
nhắc tới trong phần trước. “Phụng thí Phật
cập Tăng, bỉ sở hoạch phước tụ, bất
như hộ Phật pháp” (dâng thí Phật và Tăng, đạt
được khối phước đức, chẳng bằng
hộ Phật pháp): Cung ứng vật chất là hữu hạn,
cũng có lúc chấm
dứt. Nếu hộ tŕ Phật pháp, khiến cho trong vị
lai có rất nhiều người đắc độ, công
đức ấy vô lượng. “Vị Phật tăng
tạo tự, lượng đẳng thập tứ châu”
(v́ Phật, Tăng dựng chùa, lượng bằng mười
bốn châu): Ư nghĩa này trong phần trước đă đều
nói rồi. Ở đây là trùng tụng. “Bỉ sở hoạch
phước tụ, bất như hộ Phật pháp” (họ
đạt được khối phước, chẳng bằng
hộ tŕ Phật pháp), công đức chẳng lớn bằng
hộ tŕ Phật pháp. “Tạo Phật tốt-đổ-ba,
lượng đẳng tam thiên giới” (tạo tháp thờ
phụng Phật, lượng bằng cơi đại thiên):
Tạo ngôi chùa rất lớn, chùa to bằng tam thiên đại
thiên thế giới, phước đạt được
cũng “bất như hộ Phật pháp” (chẳng bằng
hộ tŕ pháp của Phật). “Giải A La Hán phược,
chủng chủng tu cúng dường, bất chướng
ngă chánh pháp, kỳ phước thắng ư bỉ” (cởi
trói A La Hán, cúng dường đủ các thứ, chẳng
chướng Phật chánh pháp, phước ấy vượt
hơn hẳn): Đây cũng là hộ pháp. Trong phần trước
đă nói, có kẻ trói A La Hán, hay muốn bức hại họ,
bèn cứu giúp họ, giải
thoát họ. Sau đó,
lại c̣n cúng dường các Ngài đủ mọi cách. Công
đức ấy vẫn chẳng bằng công đức hộ
tŕ chánh pháp, công đức chẳng chướng ngại chánh
pháp. Phước đức của người sau vượt
hẳn công đức trước.
“Thiên câu-chi kiếp trung, trí giả cần
tu Định, sở sanh thắng giác huệ, bất như
hộ ngă pháp” (trong ngàn câu-chi kiếp, người trí siêng
tu Định, sanh giác huệ thù thắng, chẳng bằng
hộ Phật pháp): Cá nhân quư vị tu một ngàn kiếp, thậm
chí có trí huệ, tu Định như vậy sanh ra giác huệ
thù thắng, nhưng vẫn chẳng lớn bằng công
đức hộ tŕ chánh pháp của ta. Đó là chỉ v́ chính
ḿnh, chẳng lợi ích chúng sanh. Chỉ cần có Phật pháp
nhăn tồn tại, hết thảy vị lai vô cùng, vô tận
chúng sanh đều đắc độ, cho nên mọi người
phải hoằng dương Phật pháp, chớ nên viện
cớ: “Tôi chẳng có học vấn, tôi chẳng biết
hoằng dương như thế nào”. Quư vị khuyên
người khác niệm câu A Di Đà Phật, đó chính là
hoằng dương Phật pháp. Quư vị nói cho người
khác một bộ kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, cho đến
một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, hoặc nói một bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Họ
được nghe những danh xưng ấy, đều là
hoằng dương Phật pháp, gieo thiện căn. [Do vậy],
ai nấy đều có thể hoằng pháp.
V́ thế, đệ tử Tam Bảo, tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều phải
nên hoằng pháp. Thậm chí chúng ta thường xuyên đối
trước súc sanh thuyết Tam Quy cho chúng. Quư vị nói: “Nó
nghe có hiểu hay không?” Đừng cho rằng nó không hiểu! Nếu quư vị
thật sự nói với nó, nó sẽ đắc độ.
Chúng sanh càng nhỏ, như kiến rất nhiều. Chẳng
phải là nhà quư vị có gián hay sao? Chẳng phải là có
chuột hay sao? Quư vị đừng thương tổn chúng
nó, hăy nói Tam Quy cho chúng nó. Quư vị nói: “Các ngươi ở
nơi đây chẳng thích hợp, ta dời chỗ các ngươi.
Các ngươi hăy rời đi. V́ ta rất dễ tổn
thương ngươi, người khác thấy các ngươi
cũng chẳng thanh tịnh, sẽ đánh chết các ngươi.
Các ngươi hăy rời đi”. Quư vị nói Tam Quy, thuyết
pháp cho chúng nó, hăy thử xem! Đừng nẩy sanh tâm phiền
năo, đừng thương tổn chúng nó.
“Chân thiện quốc vương đẳng,
viễn ly thập ác luân, hộ tŕ ngă chánh pháp, cập trước
ca-sa giả” (Bậc quốc vương chân thiện, xa
ĺa mười ác luân, hộ tŕ pháp của ta, và người
mặc ca sa): Không chỉ hộ pháp, mà c̣n phải hộ Tăng,
đừng hủy báng pháp
tam thừa do ta đă nói và người hành tŕ pháp tam thừa.
“Phổ thính văn cúng dường, hộ tŕ thuyết
pháp giả” (nghe trọn khắp, cúng dường, hộ
tŕ người thuyết pháp): Khiến cho quư vị hộ
tŕ người thuyết pháp. Đừng nói chi khác, niệm
câu A Di Đà Phật là được rồi, khéo khuyên hết
thảy mọi người. Nhưng quư vị ngàn vạn lần
chớ nên hủy báng. Phàm là các pháp do đức Phật
đă nói, đối với những lời đức Phật
đă dạy, đều chẳng hủy báng. Pháp Thanh Văn,
pháp Duyên Giác, pháp Bồ Tát, chỉ cần là bất cứ pháp do đức
Phật đă nói, quư vị đều chẳng hủy báng.
Cho đến người hộ tŕ, tức là nói tới người
thuyết pháp, quư vị phải nghe trọn khắp. Chỉ
cần là người ấy nói Phật pháp, sẽ thường
lắng nghe, lại c̣n phải cúng dường. Hộ tŕ người
thuyết pháp, hoặc là hễ có ai thuyết pháp, đều
phải hộ tŕ người đó.
Tiếp đó, chẳng tổn hại vật
thuộc về Tam Bảo. Đối với vật thuộc Phật,
Pháp, Tăng, quư vị chớ nên hủy hoại. “Thường
kính khí, phi khí” (thường kính trọng pháp khí và phi pháp
khí): Là pháp khí cũng thế, mà chẳng phải là pháp khí cũng
thế. Pháp khí là tỳ-kheo thanh tịnh, phi khí (chẳng phải
pháp khí) là tỳ-kheo phá giới, hoặc là thanh tịnh cận
sự nam, thanh tịnh cận sự nữ, hễ ai thọ
Tam Quy Ngũ Giới, người ấy là thanh tịnh. Sau
khi đă thọ Tam Quy, [vị thầy truyền giới] sẽ
bảo quư vị: “Quy y Phật, trọn chẳng quy y ngoại
đạo, thiên ma v.v…”, quư vị chẳng lạy quỷ
thần, cầu cạnh quỷ thần gia tŕ. Trong bất
cứ t́nh huống nào, cũng đều chẳng làm, dẫu
cho mất mạng [cũng chẳng làm]. Sau khi đă quy y Phật,
chẳng quy y quỷ thần. Thọ Tam Quy, quy y Pháp, chẳng
quy y sách vở của ngoại đạo. Quy y Tăng, chẳng
quy y tà chúng của ngoại đạo. Đó
gọi là Tam Quy thanh tịnh. Có rất nhiều người
Tam Quy chẳng thanh tịnh, lại càng chẳng nói tới Ngũ
Giới, Bồ Tát Giới! Tam Quy trọn chẳng thanh tịnh,
phải nên chú ư điều này. Đấy là chuyện rất
quan trọng.
“Phước thắng vô luân thất” (phước
thù thắng, khôn sánh bằng): Nếu có thể làm như vậy,
bất luận thanh tịnh hay không, ta đều đối
đăi b́nh đẳng. Lại c̣n chẳng bươi móc lỗi
của họ. Làm sao ta biết họ thanh tịnh hay không? V́ quư vị
nghe người khác nghị luận, hoặc quư vị tham
dự bàn luận, quư vị sẽ biết họ thanh tịnh
hay không. Dùng thánh giáo lượng để lượng định
họ. Chẳng cần làm như vậy, họ có quả
báo của họ!
(Kinh) Như ngũ nhật
tịnh hiện, đại hải giai khô kiệt, như
thị hộ ngă pháp, năng khô kiệt phiền năo. Như
phong tai khởi thời, chư sơn giai tán diệt, như
thị hộ ngă pháp, năng trừ diệt phiền năo. Như
thủy tai khởi thời, đại địa giai phiêu hoại.
Như thị hộ ngă pháp, năng hoại phi ái quả. Như
như ư bảo châu, tùy sở nguyện giai măn, như thị
tam thừa pháp, năng măn chúng sanh nguyện. Như ngộ
đắc hiền b́nh, trừ bần,
hoạch phú lạc, như thị ngộ Phật pháp, diệt
Hoặc, chứng Bồ Đề. Như thập ngũ dạ
nguyệt, minh chiếu măn hư không. Như thị hộ
pháp nhân, trí huệ châu pháp giới. Như hư không b́nh
đẳng, vô vật, diệc vô tướng. Như thị hộ pháp nhân,
tri chư pháp nhất vị. Như nhật phóng quang minh, hằng
trừ thế gian ám. Như thị hộ pháp giả, thường
phổ chiếu thế gian.
(經)如五日並現,大海皆枯竭,如是護我法,能枯竭煩惱。如風災起時,諸山皆散滅,如是護我法,能除滅煩惱。如水災起時,大地皆漂壞,如是護我法,能壞非愛果。如如意寶珠,隨所願皆滿,如是三乘法,能滿眾生願。如遇得賢瓶,除貧獲富樂,如是遇佛法,滅惑證菩提。如十五夜月,明照滿虛空,如是護法人,智慧周法界。如虛空平等,無物亦無相,如是護法人,知諸法一味。如日放光明,恆除世間闇,如是護法者,常普照世間。
(Kinh: Năm
mặt trời cùng hiện, biển
cả đều khô cạn. Hộ pháp ta như thế, khô
cạn các phiền năo. Như lúc phong tai dấy, các núi đều
tan diệt. Hộ pháp ta như thế, hay trừ diệt
phiền năo. Như lúc thủy tai dấy, đại địa
đều ngập, hư. Hộ pháp ta như thế, hoại
quả chẳng mến yêu. Như bảo châu như ư, nguyện
ǵ cũng đều thỏa. Pháp tam thừa như thế,
thỏa măn chúng sanh nguyện. Như gặp được
hiền b́nh, trừ
nghèo, được giàu vui. Gặp Phật pháp cũng thế,
diệt Hoặc, chứng Bồ Đề. Như trăng đêm
hôm Rằm, chiếu sáng khắp hư không. Người hộ
pháp cũng thế, trí huệ trọn pháp giới. Như
hư không b́nh đẳng, không vật, chẳng có tướng.
Người hộ pháp cũng thế, biết các pháp một
vị. Như mặt trời tỏa sáng, luôn trừ tối
thế gian. Người hộ pháp cũng thế, thường
chiếu khắp thế gian).
“Như ngũ nhật tịnh hiện, đại
hải giai khô kiệt. Như thị hộ ngă pháp, năng khô
kiệt phiền năo” (như năm
mặt trời cùng hiện ra, biển cả đều khô
cạn. Hộ tŕ pháp ta cũng như thế, có thể khô
cạn biển phiền năo): Khi thế giới này đến
lúc tận thế, hỏa tai sẽ sanh khởi như thế
này: Năm vầng thái dương là đă quá sức rồi,
đến cuối cùng, xuất hiện bảy mặt trời.
Bảy vầng thái dương nung đốt, tất cả
đều bốc lửa. Thứ ǵ cũng đều cháy
rụi. Núi cũng cháy, đá cũng bốc cháy. Quư vị
thấy bom nguyên tử, lửa từ bom nguyên tử là như
thế đó. Sự vật
ǵ cũng đều có thể cháy! Năm vầng thái dương
xuất hiện như thế, tất cả nước biển
đều khô cạn. Nếu quư vị hộ tŕ Phật pháp,
phiền năo của quư vị đều khô cạn, năm vầng
thái dương biến thành trí huệ.
“Như phong tai khởi thời, chư sơn
giai tán diệt, như thị hộ ngă pháp, năng trừ
diệt phiền năo” (như lúc phong tai dấy, các núi đều
tan diệt. Hộ pháp ta cũng thế, hay trừ diệt
phiền năo): Khi phong tai phát sanh, phá tan các núi, thổi tung lên
không trung, biến thành vi trần. Chuyện này mọi người
đều có thể nh́n thấy như khi có gió lốc. “Như
thủy tai khởi thời, đại địa giai phiêu hoại”
(Như lúc thủy tai dấy, đại địa đều
ngập, hư): Toàn thể đại địa đều
ngập nước. “Như thị hộ ngă pháp, năng
hoại phi ái quả” (Hộ pháp ta cũng thế, hay hoại
quả chẳng thích): Sẽ chứng thánh quả. “Ái”
không tốt, “phi ái” là tốt[14], có nghĩa là hư
hoại. Hư hoại những điều xấu xa chẳng
đáng mến thích, khiến cho sự mến thích [không đúng
lư ấy] ấy chẳng thể sanh ra cái quả.
“Như như ư bảo châu, tùy sở nguyện
giai măn, như thị tam thừa pháp, năng măn chúng sanh nguyện.
Như ngộ đắc hiền b́nh, trừ bần hoạch phú lạc” (Như
bảo châu như ư, nguyện nào cũng đều thỏa.
Pháp tam thừa cũng thế, hay măn nguyện chúng sanh. Như
gặp được hiền b́nh, trừ
nghèo, được giàu vui): Đó là thần thoại. Nếu
vào trong biển cả thâu nhặt báu vật, t́m được
cái hiền b́nh ấy,
quư vị mong ǵ, trong b́nh báu bèn sanh ra thứ ấy. Mọi người
đă từng xem chuyện Ngàn Lẻ Một Đêm hay chưa?
Hễ đă xem Ngàn Lẻ Một Đêm, sẽ biết đến
ông thần đèn. Ở đây chẳng phải là b́nh báu kiểu
đó, mà là do đức Phật nói, hăy nghĩ nó giống
như trong chiếc bảo b́nh của Quán Thế Âm Bồ
Tát, thứ ǵ cũng đều có. Hoặc như viên bảo
châu của Địa Tạng Bồ Tát, thứ ǵ cũng đều
có. Đấy là trừ nghèo khó. Do vậy, đạt được
sự giàu vui!
“Như thị ngộ Phật pháp, diệt
Hoặc, chứng
Bồ Đề. Như thập ngũ dạ nguyệt” (gặp
Phật pháp như thế, diệt Hoặc, chứng Bồ
Đề, như trăng đêm hôm Rằm): Như
vầng trăng đêm Rằm mỗi
tháng, quang minh chiếu trọn khắp, “minh chiếu măn
hư không, như thị hộ pháp nhân, trí huệ châu pháp
giới” (chiếu sáng ngời hư không, người hộ
pháp như thế, trí huệ trọn pháp giới): Trí huệ
ấy trọn khắp các pháp. “Như hư không b́nh đẳng,
vô vật, diệc vô tướng. Như thị hộ pháp nhân,
tri chư pháp nhất vị. Như nhật phóng quang minh, hằng
trừ thế gian ám, như thị hộ pháp giả, thường
phổ chiếu thế gian” (Như hư không b́nh đẳng,
không vật, cũng không tướng. Người hộ pháp
cũng thế, biết các pháp một vị. Như mặt
trời phóng quang, luôn trừ tối thế gian. Người
hộ pháp cũng thế, thường chiếu khắp thế
gian): Mặt trời vừa mọc, tối tăm trong thế
gian đều tiêu mất. Do vậy, ai hộ tŕ Phật pháp,
sẽ giống như vầng mặt trời, chiếu trọn
khắp thế gian. Hộ pháp có sâu, có cạn, tùy thuộc quư
vị hộ tŕ như thế nào. Nhưng có một điều
kiện: Chúng ta chớ nên hủy báng. Bất luận ai thuyết
pháp, quư vị đều tán thán, tùy hỷ, không nói đến
cái xấu, chỉ nói về điều tốt, như thế
là hộ pháp. Phàm chỗ nào có pháp bảo, quư vị bèn cung kính,
coi giống như Phật đang ngự tại đó. Pháp
bảo là Pháp Thân của Phật, mà cũng là Pháp Thân của
quư vị. Quư vị cung kính và tôn kính như thế, dẫu
chúng ta có những chỗ chưa thấu hiểu, các bậc
đại đức trong quá khứ rất chú ư chuyện
này.
Hiện thời, bất luận là đạo
hữu tại gia cư sĩ, ngay cả các ḥa thượng,
rất nhiều vị ḥa thượng trong chùa miếu cũng đều
chẳng chú ư cho lắm, các tiểu ḥa thượng thông thường
lại càng chẳng cần phải nói nữa. Cầm kinh Phật
mà không đủ quư trọng, cứ giống như cầm
một quyển sách b́nh thường, quăng,
ném, cuộn ṿ! Đạo hữu tại
gia càng chẳng cần phải nói nữa! Họ phải nên
trân trọng, nâng niu kinh, luôn tôn kính như vậy; đấy
là Pháp Thân của Phật, phải cung kính như thế. Phẩm
Vô Y Hạnh nói đến đây đă xong.
Đại
Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần
9
[1] Bang (梆) là một dụng cụ báo hiệu
có h́nh con cá dài bằng gỗ, thường treo trước
nhà trù, hoặc Tăng xá, có nhiệm vụ báo hiệu
giờ thọ trai.
[2] Dương
Lăng Các (1866-1929) tên thật là Dương Vũ Đ́nh,
tự là Lăng Các, c̣n có các tên hiệu khác là Lân Các, Lân Cát.
Quê ở huyện Pháp Khố, tỉnh Phụng Thiên (nay là
huyện Pháp Khố, tỉnh Liêu Ninh). Ông ta là một tướng
lănh quân phiệt hùng mạnh trong chánh quyền quân phiệt
Bắc Dương thuộc Phụng Hệ (quân phiệt
vùng Phụng Thiên). Do tranh quyền cai trị, ông ta
bị lănh tụ Phụng Hệ là Trương Học
Lương sai người bí mật ám sát vào năm 1929.
[3]
Một Hộc là mười đấu, mỗi đấu
là mười thăng. Một thăng dao dao động từ
một lít cho đến 1,8 lít. Như vậy một hộc
khoảng từ 100 đến 180 lít.
[4] Sách Hy Lân Âm Nghĩa (希麟音義) quyển một giảng: “Ổ-ba-ni-sát-đàm
là tiếng Phạn, là phần cực nhỏ trong cách tính
toán. C̣n gọi là Ưu-ba-ni-sái-tha. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa
dẫn Du Già Đại Luận dịch thành Vi Tế Phần.
Như chẻ một sợi lông thành một trăm phần,
lại chẻ một phần ấy thành trăm ngàn vạn
phần, lại chẻ mỗi phần ấy sau khi đă
chia chẻ ấy giống như trước, cho đến
khi mỗi phần chia chẻ ấy gần với hư
không, chẳng thể chia nhỏ hơn được nữa,
th́ gọi là Ổ-ba-ni-sát-đàm phần”.
[5] Mạn y (縵衣) là y không có điều (thường
là màu nâu) dùng cho cư sĩ đă thọ Bồ Tát Giới
(đối với phần lớn các tông phái thuộc Thiền
Tông Trung Hoa, người đă thọ Ngũ Giới đều
đắp mạn y khi làm lễ sám hối). Do rất nhiều
tông phái của Phật giáo Trung Hoa, tăng sĩ không đắp
y vàng (kể cả thiền phái Tào Động), cho nên y sa-di không có điều sẽ giống y hệt mạn
y của cư sĩ.
[6] Tác
phẩm này có tên gọi đầy đủ là Bồ Đề
Đạo Thứ Đệ Quảng Luận (Lamrim Chenmo)
do sáng tổ của Cách Lỗ Phái (Gelugpa) của Tây Tạng
là Tông Khách Ba (Tsongkhapa) biên soạn vào
năm 1405, dựa theo phần biện định về thứ
tự của các quả vị chứng đạo trong bộ
Bồ Đề Đạo Đăng Luận của tôn
giả A Để Hạp (Atisha) người Ấn biên soạn.
Ngài Tông Khách Ba đă phân định các kinh luận dựa
trên các căn cơ (hạ sĩ, trung sĩ, thượng
sĩ) và Chỉ Quán Luận để phân định
các địa vị. Tác phẩm này đă được
trưởng lăo Pháp Tôn dịch sang tiếng Hán vào năm
1931.
[7] Thổ Phồn (吐蕃, Bod chenpo, c̣n đọc
là Thổ Phiên) là
danh xưng người Hán gọi một vương quốc
cổ trên đất Tây Tạng tồn tại từ thế
kỷ thứ 7 cho đến thứ 9, có địa bàn bao
gồm vùng đất trũng Tháp Lư Mộc (Tarim), cao nguyên
Tây Tạng, và một phần Bengal, kể cả tỉnh Cam Túc, tỉnh
Thanh Hải, vùng Khang Ba (tỉnh Tứ Xuyên) và một phần tỉnh Vân Nam của
Trung Hoa. Vương triều này được thành lập
bởi Namri Songtsen từ đời Tùy, nhưng người đưa
vương triều này đến mức cường thịnh
nhất là Songtsen Gampo (con trai của Namri
Songtsen, sử Trung Hoa gọi
ông là Tùng Tán Can Bố). Thổ Phồn trở thành một mối
đe đọa nơi biên giới phía Tây cho nhà Đường, nhất là sau khi Songtsen Gamp đánh bại và sát nhập
vương quốc Thổ Dục Hồn (Tuyhuhun) vào Thổ
Phồn. Đường Thái
Tông đă gả công chúa Văn Thành cho Songtsen Gampo. Theo truyền
thuyết, công chúa đă đem Phật giáo vào Tây Tạng.
Người Tây Tạng coi nhà vua là hóa thân của Quán Thế
Âm Bồ Tát, công chúa Văn Thành (Mungchang
Kungco trong tiếng Tây Tạng) được coi là hóa thân của Tara Bồ Tát
(Độ Mẫu). Vương triều suy vong khi vua Tritsu Detsen (Ralpacan) bị ám sát bởi hai viên quan theo
đạo Bön (tôn giáo bản địa của Tây Tạng, người Hoa gọi là Bổng giáo, hoặc Bần
giáo), và anh của nhà vua là
Langdarma (một người chống đạo Phật)
lên ngôi. Langdarma bách hại đạo Phật, tàn phá chùa chiền,
cuối cùng bị một tu sĩ Phật giáo ám sát. Các thủ
lănh địa phương nổi lên tranh giành quyền lực,
khiến vương triều suy vong và sụp đổ,
Tây Tạng rơi vào cảnh nội chiến triền miên
cho đến khi nhà Nguyên xâm lược, biến Tây Tạng
thành phiên quốc của Trung Hoa, măi cho đến khi Tai Situ Changchub Gyatsen đánh bại
quân Mông Cổ, lập ra vương triều Phagmodrupa.
[8] Năng Hải thượng sư (1886-1967)
là một vị danh Tăng ở Trung Hoa chủ
trương phục hồi Mật Tông theo truyền thống Hán truyền Phật giáo. Sư xuất
thân trong một gia đ́nh nghèo tại Miên Trúc (tỉnh Tứ
Xuyên), cha mẹ mất sớm. Sư vào học
viện quân sự và trở thành sĩ quan huấn luyện
tại trường vơ bị Vân Nam. Măi cho đến
năm 1924, Sư mới thỏa nguyện xuất gia thuộc thế
hệ 44 ḍng Lâm Tế. Do tinh tấn tu hành, Sư được
đặc cách thọ Cụ Túc Giới vào năm 1925 do lăo
ḥa thượng Thích Quán Nhất chùa Bảo Quang (thành phố
Thành Đô) làm đàn đầu. Cùng năm ấy, Sư
theo pháp sư Đại Dũng từ Tứ Xuyên sang Tây Tạng
học Phật. Suốt từ năm 1928 đến năm 1940, Sư nhiều
lần sang Tây Tạng học Mật pháp, y chỉ Khang Tát
thượng sư (Khangsar Rinpoche), được truyền pháp trở thành đích tử
đời thứ 28 của Cách Lỗ phái (Gelugpa). Sau khi học
thành tài, Sư trở về Thành Đô, lập chùa Cận Từ
chuyên môn phiên dịch và xuất bản kinh Phật, bồi
dưỡng nhiều đệ tử, được tôn
xưng mỹ hiệu là “Tông Khách Ba tái sanh”. Sau khi Trung
Cộng thành lập, Sư bị ép buộc phải đảm
nhiệm chức vụ phó hội trưởng hội Phật
Giáo Trung Quốc, đại biểu Quốc Hội, và ủy viên ủy ban hành
chánh tỉnh Sơn Tây. Năm 1966, Mao Trạch Đông triển
khai Cách Mạng Văn Hóa. Khi ấy, Sư đang ở
động Thiện Tài thuộc Ngũ Đài Sơn. Sư
bị Hồng Vệ Binh quy kết tội danh gieo rắc
tư tưởng phản động và chủ nghĩa xét
lại, mê hoặc quần chúng, cũng như một loạt
tội danh chống phá chính quyền. Sư bị Hồng Vệ
Binh lăng nhục, tra tấn tàn bạo, nhưng vẫn
kiên cường chịu đựng, chủ trương họ
đang tiêu trừ nghiệp chướng cho Ngài. Toàn thể
Tăng chúng trong chùa bị bắt
hoàn tục, hoặc tập trung cải tạo
tại chùa, nếu không chịu rời đi. Hằng ngày Tăng chúng bị cấm
tụng niệm, phải học chính trị liên tục, khẩu
phần ăn bị cắt giảm tàn nhẫn. Tối hôm
31 tháng Mười Hai năm 1966, Sư bảo các học tṛ
đă đến lúc Ngài phải ra đi v́ duyên hóa độ
đă hết. Tối hôm đó, Sư bảo pháp sư Thành
Tông xin cho Sư nghỉ học tập chính
trị ngày mai v́ thân thể không khỏe. Đến rạng
sáng ngày 01 tháng Giêng năm 1967, pháp sư Thâm Đức vào liêu
pḥng của Ngài gọi Ngài dùng cháo sáng, thấy pháp sư
đắp y, ngồi kiết già, đă viên tịch từ
lúc nào, thọ 81
tuổi. Di thể của
Sư được an táng tại Thanh Lương Kiều
ở Ngũ Đài Sơn. Măi đến năm 1973, di thể của Ngài mới được đưa về
chôn tại núi Bảo Tháp và lập tháp thờ.
[9] Trong chú Lăng Nghiêm, cuối hội
thứ năm, sau chữ Tadyathā là “án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ
ra bạt xà ra đà rị, bàn đà, bàn đà nhĩ, bạt
xà ra báng ni phấn, hổ hồng đô rô ung phấn, sa bà
ha” (Auṃ, anale,
viśade, vīra vajra-dhare, bandha,
bandhane vajra-paṇe,
phaṭ phaṭ
hūṃ trūṃ phaṭ svāha). Nhưng nói chú Lăng Nghiêm là Tất
Đát Đa Bát Đát Ra v́ khi nói chú này, đức Phật
đă phóng quang từ nhục kế trên đỉnh đầu
nói ra, và chú này có tên gọi đầy đủ là Đại
Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Tất Đát
Đa Bát Đát Ra dịch nghĩa là Đại Bạch Tán
Cái (tàn lọng trắng) do hai chữ Sita (màu trắng) và Atapatrā (dù, lọng) ghép lại.
Trong Mật Tông, đây là một vị Phật Đảnh,
tức thân cụ thể của trí huệ Phật, với
danh xưng là Đại Bạch Tán Cái Phật Đảnh
Phật Mẫu (Uṣṇīṣasitātapatrā). Vị này được đặc
biệt tôn sùng trong Tạng Truyền Phật Giáo. Vị Phật
Đảnh này thường được tạo h́nh dạng
nữ Bồ Tát, có ba mặt, sáu tay, hoặc ba mặt tám
tay, đôi khi lên đến một ngàn tay, một ngàn mặt,
một ngàn chân, một triệu mắt, nhằm biểu thị
mạnh mẽ phá tan các phiền năo trong tam thiên đại
thiên thế giới. Pháp khí tiêu biểu là bánh xe pháp luân và
chiếc lọng trắng. Các nhà chú giải cho rằng năm
hội của chú Lăng Nghiêm, tương ứng với
ngũ trí Như Lai, và toàn thể các câu chú trước chữ
Đát-điệt-dạ-tha chính là lời quy kính xưng tụng
danh hiệu của các vị Phật, Bồ Tát, kim cang, minh
vương, hộ pháp, yết ma quỷ thần chúng trong mỗi
bộ thuộc Ngũ Bộ.
[10] Chú tâm (咒心) có nghĩa là Chú tâm là câu chú chánh yếu,
cốt lơi của cả bài chú. Những câu trước chữ
Tadyathā thường
là những danh hiệu, những lời tán dương
chư Phật, hoặc vị bộ chủ (chân ngôn chủ)
của bài chú ấy.
[11] Chữ Lệ (隸) khi viết theo lối
giản thể sẽ thành “隶” trùng với lối viết
cổ của chữ Đăi (逮), nên nếu không chú ư sẽ
đọc sai Lệ thành Đăi khi niệm
chú.
[12] Thi lâm (屍林): Tại
Ấn Độ có những vùng không chôn hay thiêu, họ có những khu rừng
chuyên dành để bỏ xác người chết vào đó
để xác tự rữa nát.
[13] Ở đây có lẽ là người chép lại lời giảng ghi lầm. Đúng ra phải là mười ḷ mổ.
[14] Câu này hơi khó hiểu. Theo ngu ư,
lăo pháp sư muốn nói Ái (yêu mến chấp trước)
là không tốt. “Phi ái” (không yêu mến chấp
trước) là tốt.