Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 9

大乘大集地藏十輪經講記

Mộng Tham lăo ḥa thượng chủ giảng

夢參老和尚主講

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Tích hữu quốc vương, danh Siêu Phước Đức. Hữu nhân phạm quá, tội ưng hợp tử, vương tánh nhân từ, bất dục đoạn mạng. Hữu nhất đại thần, đa chư trí sách, tiền bạch vương viết: “Nguyện vật vi ưu, chung bất linh vương đắc sát sanh tội, bất phó khôi khoái linh sát thử nhân”. Thời bỉ đại thần, dĩ kỷ trí lực, tương phạm tội nhân, phó ác túy tượng. Thời ác túy tượng, dĩ tỵ quyển thủ tội nhân lưỡng hĩnh, cử thượng không trung, tận kỳ thế lực, dục phác ư địa. Hốt kiến thử nhân thường hữu xích sắc, vị thị ca-sa, tâm sanh tịnh tín, tiện từ trí địa, sám tạ bi hào, quỵ phục ư tiền, dĩ tỵ vấn túc, thâm tâm kính trọng, chiêm ngưỡng bỉ nhân. Đại thần kiến dĩ, tŕ hoàn bạch vương. Vương văn hỷ ngạc, thán vị tằng hữu, tiện sắc quốc nhân gia kính Tam Bảo. Nhân tư đoạn sát, vương Thiệm Bộ Châu. Thiện nam tử! Đương quán như thị quá khứ túy tượng, tuy thọ vô hạ bàng sanh thú thân, nhi kính ca-sa, bất tạo ác nghiệp.

            ()又善男子,昔有國王,名超福德。有人犯過,罪應合死,王性仁慈,不欲斷命。有一大臣多諸智策,前白王曰:願勿為憂,終不令王得殺生罪,不付魁膾令殺此人。時彼大臣以己智力,將犯罪人付惡醉象。時惡醉象,以鼻卷取罪人兩脛,舉上空中,盡其勢力欲撲於地,忽見此人裳有赤色,謂是袈裟,心生淨信,便徐置地,懺謝悲號,跪伏於前,以鼻抆足,深心敬重瞻仰彼人。大臣見已,馳還白王,王聞喜愕,嘆未曾有。便敕國人,加敬三寶,因斯斷殺,王贍部洲。善男子,當觀如是過去醉象,雖受無暇傍生趣身,而敬袈裟,不造惡業。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Xưa kia có quốc vương, tên là Siêu Phước Đức. Có kẻ phạm lỗi, tội đáng phải chết. Tánh vua nhân từ, chẳng muốn đoạn mạng kẻ đó. Có một đại thần có nhiều kế sách trí huệ, đối trước vua, tâu rằng: “Xin bệ hạ đừng lo, thần trọn chẳng khiến cho bệ hạ mắc tội sát sanh, chẳng giao cho đao phủ giết người này”. Khi đó, đại thần dùng trí lực của chính ḿnh, đem kẻ phạm tội giao cho con voi say hung ác. Lúc đó, con voi say hung ác dùng ṿi cuốn lấy hai bắp chân tội nhân, giơ lên trên không, tận hết sức lực, toan quăng kẻ đó xuống đất, bỗng thấy cái xiêm người ấy mặc có màu đỏ, cho là ca-sa, tâm sanh tịnh tín, liền thong thả đặt xuống đất, sám hối, tạ lỗi, gào lên buồn bă, quỳ phục trước mặt, dùng ṿi vuốt ve chân [kẻ đó], thâm tâm kính trọng, chiêm ngưỡng kẻ ấy. Đại thần đă thấy, bèn vội quay về, tâu với vua. Vua nghe chuyện hoan hỷ, kinh ngạc, than là chưa từng có, liền sắc truyền người trong nước càng thêm tôn kính Tam Bảo. Do vậy, thôi giết hại, vua thống lănh trọn Thiệm Bộ Châu. Này thiện nam tử! Hăy nên quán voi say trong quá khứ như thế, tuy thọ thân chẳng nhàn hạ trong đường bàng sanh, mà kính trọng ca-sa, chẳng tạo ác nghiệp).

 

          Đây là kể chuyện cũ. Những câu chuyện cũ sẽ khơi gợi chúng ta sanh khởi tín tâm. Trong quá khứ có vị quốc vương, tên là Siêu Phước Đức, có người phạm tội. “Tội ưng hợp tử, vương tánh nhân từ, bất dục đoạn mạng” (tội đáng phải chết, vua tánh nhân từ, chẳng muốn đoạn mạng): Vua không muốn giết gă tội nhân đó, không muốn đoạn mạng hắn, có nghĩa là muốn miễn trừ tội tử h́nh. Tuy hắn phạm tội ác rất lớn, đáng bị tử h́nh, bèn toan lưu đày hắn. “Hữu nhất đại thần, đa chư trí sách” nghĩa là có một vị đại thần rất có trí huệ, có sách lược. Ông ta bèn tâu với vua Siêu Phước Đức: “Nguyện bất vi ưu!” (xin đừng lo buồn). Tâu quốc vương! Ngài đừng v́ chuyện này mà rầu rĩ, thần sẽ làm cho bệ hạ chẳng mắc tội sát sanh, cũng có nghĩa là: Tuy chẳng giết, vẫn có thể xử phạt hắn. “Bất linh khôi khoái, linh sát thử nhân” (Cũng chẳng giao cho đao phủ giết chết kẻ này): “Khôi khoái” (魁膾) là đao phủ. Vị đại thần này, dùng sức trí huệ của ḿnh, đem phạm nhân “phó ác túy tượng” (giao cho voi say hung ác), tức là dùng một con súc sanh để chấp pháp. Con voi ấy rất hung ác, đổ rượu cho voi uống say. Người say sẽ mất tánh người, voi say cũng đánh mất bản tánh của nó. Con voi ấy dùng ṿi “quyển thủ lưỡng hĩnh” (cuốn lấy hai bắp chân) của tội nhân, “lưỡng hĩnh” (兩脛) là hai bắp chân. Nó cuốn lấy kẻ đó “quyển cử không trung” (co ṿi, giơ lên trên không), dùng ṿi nhấc người ấy lên cao. “Tận kỳ thế lực” (tận hết sức nó): Con voi ấy dùng hết khí lực, muốn quăng kẻ đó xuống đất, từ trên cao quật xuống; nhưng con voi ấy bỗng dưng phát hiện y phục khoác trên thân kẻ đó có màu đỏ, “hốt kiến thử nhân thường hữu xích sắc” (bỗng thấy cái xiêm của kẻ đó có màu đỏ). “Thường” () là xiêm y; trang phục của kẻ đó có màu đỏ, nó ngỡ đó là ca-sa. Con voi say hung ác liền sanh khởi tín tâm thanh tịnh. “Tiện từ trí địa” (bèn thong thả đặt xuống đất), bèn chầm chậm, nhẹ nhàng đặt người ấy xuống đất.

          “Sám tạ bi hào” (sám hối, tạ lỗi, kêu lên buồn bă): Con voi ấy bèn hướng về kẻ đó sám hối, tạ lỗi, buồn bă khóc lóc. “Hào” () là lớn tiếng kêu khóc. “Quỵ phục ư tiền” (quỳ phủ phục trước mặt): Quỳ gối trước kẻ đó. “Dĩ tỵ vấn túc” tức là dùng ṿi cọ chân kẻ đó, vuốt ve chân tội nhân. “Thâm tâm kính trọng, chiêm ngưỡng bỉ nhân. Đại thần kiến dĩ, tŕ hoàn bạch vương” (tâm kính trọng sâu xa, chiêm ngưỡng kẻ đó. Đại thần thấy vậy, vội trở về tâu với vua): Vị đại thần rất ngạc nhiên, liền tâu với vua. “Vương văn hỷ ngạc” (vua nghe tâu, hoan hỷ, kinh ngạc): Nhà vua cũng rất kinh ngạc, có chuyện như vậy! “Thán vị tằng hữu” nghĩa là tán thán hiếm có, bèn “sắc quốc nhân gia kính Tam Bảo, nhân tư đoạn sát” (sắc truyền người dân trong nước, càng thêm tôn kính Tam Bảo. Do vậy, chấm dứt sát hại): Quốc gia ấy từ đó trở đi, chẳng c̣n sát sanh, đều tŕ giới “bất sát sanh”. Thiện nam tử hăy nên quán voi say trong quá khứ như thế, tuy thọ thân chẳng nhàn hạ trong đường bàng sanh; trong phần trên là ngạ quỷ, ở đây là súc sanh, chúng sanh trong ba ác đạo đối với tội nhân mặc ca-sa đỏ đều sanh khởi tâm cung kính to lớn dường ấy. “Nhi kính ca-sa, bất tạo ác nghiệp” (kính trọng ca-sa, chẳng tạo ác nghiệp), nhưng con người chẳng phải là như vậy.

 

          (Kinh) Nhiên vị lai thế, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm hoài độc ác, vô hữu từ mẫn, tạo chư tội nghiệp, quá ác túy tượng, ngu si, ngạo mạn, đoạn diệt thiện căn. Ư quy ngă pháp nhi xuất gia giả, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí, thế trừ tu phát, bị phục ca-sa chư đệ tử sở, bất sanh cung kính, năo loạn, ha mạ, hoặc dĩ tiên trượng sở thát kỳ thân, hoặc bế lao ngục, năi chí đoạn mạng. Thử ư nhất thiết quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, phạm chư đại tội, đoạn diệt thiện căn, phần thiêu tương tục, nhất thiết trí giả chi sở viễn ly, quyết định đương sanh Vô Gián địa ngục.

          ()然未來世,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,心懷毒惡,無有慈愍,造諸罪業,過惡醉象,愚癡傲慢,斷滅善根。於歸我法而出家者,若是法器,若非法器,剃除鬚髮,被服袈裟,諸弟子所,不生恭敬,惱亂呵罵,或以鞭杖楚撻其身,或閉牢獄,乃至斷命。此於一切過去、未來、現在諸佛,犯諸大罪,斷滅善根,焚燒相續,一切智者之所遠離,決定當生無間地獄。

          (Kinh: Nhưng trong đời vị lai có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những kẻ Chiên-đồ-la, ôm ḷng ác độc, chẳng từ mẫn, tạo các tội nghiệp c̣n hơn voi say hung ác, ngu si, ngạo mạn, đoạn diệt căn lành. Đối với các đệ tử quy y pháp của ta mà xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, cạo bỏ râu tóc, khoác mặc ca-sa, bèn chẳng sanh tâm cung kính, năo loạn, quở trách, chửi bới, hoặc dùng roi, gậy đánh đập thân họ, hoặc nhốt vào lao ngục, cho đến đoạn mạng. Kẻ đó phạm tội lớn đối với hết thảy chư Phật trong quá khứ, vị lai, và hiện tại, đoạn diệt căn lành, thiêu đốt liên tục, hết thảy người trí xa ĺa, quyết định sẽ sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Vị lai là khi nào? Có thể là thời hiện tại của chúng ta! Hiện thời được gọi là Mạt Pháp. Xă hội hiện tại có phải là thật sự như vậy hay không? Như chúng ta là nơi có Phật pháp, c̣n biết Tam Bảo là ǵ, chứ nơi chẳng có Phật pháp th́ căn bản chẳng hiểu Tam Bảo là ǵ! Tượng đắp ở chùa Nam Phổ Đà tại Hạ Môn, chính giữa là Thích Ca Mâu Ni Phật, Dược Sư Phật, và A Di Đà Phật, ba thánh tượng. Hai bên các Ngài đắp tượng hộ pháp. Một là Đế Thích Thiên, tượng kia là Đại Phạm Thiên, cũng là Đại Phạm Thiên Chúa, cũng là chúa cơi trời. Chúng ta thấy các tượng ấy, chứ những nơi khác chẳng rơ rệt như ở chùa Nam Phổ Đà. Đại Phạm thiên vương cũng hộ tŕ Phật pháp, thỉnh pháp, chuyên môn hộ tŕ Phật pháp.

          Tôi đă thấy vài người xuất gia ở Mỹ. Họ tự đi làm, kiếm tiền, kiếm tiền đến một mức nhất định, bèn đến trung tâm bế quan để bế quan: Giao một vạn đồng để bế quan ba năm, ba tháng, hoặc ba ngày. Có một vị đi làm nửa ngày, nửa ngày học pháp. Hiện thời, các quốc gia chẳng có Tam Bảo vẫn nhiều hơn. Chẳng hạn như Đại Lục và Đài Loan có Tam Bảo, [đại chúng] có cung kính đối với tỳ-kheo hay không? Đa số mọi người cung kính, nhưng vẫn có một số người chẳng cung kính. Đối với tỳ-kheo phá giới, hoặc tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni chẳng tu hành, họ sẽ hủy báng. Nếu đọc kinh Đại Tập Thập Luân mà tin tưởng, sẽ có thể [có thái độ] tốt đẹp hơn đôi chút. Nếu chẳng tin th́ vẫn cứ như vậy. Đức Phật nói như thế đó. Những kẻ đó cho đến vua, quan, dân chúng “tâm hoài độc ác” (ôm ḷng độc ác), chẳng từ mẫn, cứ làm đúng như vậy, c̣n dữ dội hơn con voi ác bị say, đoạn mất thiện căn.

          Đối với các đệ tử nương theo pháp của đức Phật để xuất gia, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, họ chẳng cung kính, chẳng sanh tâm cung kính, cứ năo loạn, quở trách, chửi bới, thậm chí dùng roi, gậy đánh đập, nhốt vào lao ngục. Chuyện này vào lúc mới thành lập Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa [đă xảy ra] khá nhiều. Vào thuở đó, người xuất gia trong chùa miếu nhất loạt bị bắt bỏ đạo, hoàn tục, măi cho đến năm 1980, theo chánh sách tôn giáo, mới lại khôi phục, trả lại chùa miếu cho ḥa thượng. Khi chánh sách được thực hiện, muốn t́m ḥa thượng, t́m không ra, phải t́m các ḥa thượng đă hoàn tục lập gia đ́nh trở về. Thuở đầu, từ năm 1980 cho đến 1983, t́nh huống là như thế đó, [các vị sư đă hoàn tục ấy] mặc y phục tại gia đi làm, đến chùa miếu làm việc, bèn khoác áo tràng vào. Có chuyện th́ mặc vào, xong việc th́ tan sở, treo áo tràng lên, trở về nhà. Hiện thời th́ không như vậy nữa. Kể từ sau năm 1983, chánh sách được thực hiện tiến bộ hơn nữa. Tăng ra Tăng, chùa ra chùa, từ lúc đó mới được khôi phục nguyên trạng!

 

          (Kinh) Nhược Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, thành tựu như thị đệ tam ác luân. Do thử nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo, vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.

          ()若剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,成就如是第三惡輪,由此因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Nếu vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… thành tựu ác luân thứ ba như thế; do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… hộ tŕ quốc độ là những vị tin kính Tam Bảo chẳng lay động, chẳng hư hoại, bèn sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… Nói rộng là cho đến các vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… những gă Chiên-đồ-la ấy chẳng bao lâu sẽ liền tứ chi tàn phế, thiếu khuyết. Trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Trên đây là nói tổng quát, đều là ác luân!

 

          (Kinh) Phục thứ thiện nam tử! Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu, quảng thuyết năi chí bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả, kiến hữu sở thí tứ phương Tăng vật, vị chư tự xá, hoặc tự xá vật, hoặc chư viên lâm, hoặc viên lâm vật, hoặc chư trang điền, hoặc trang điền vật, hoặc sở nhiếp thọ tịnh nhân nam nữ, hoặc sở nhiếp thọ súc sanh chủng loại, hoặc sở nhiếp thọ y phục, ẩm thực, hoặc sở nhiếp thọ sàng, ṭa, phu cụ, hoặc sở nhiếp thọ bệnh duyên y dược, hoặc sở nhiếp thọ chủng chủng tư thân ưng thọ dụng vật. Như thị sở thí tứ phương Tăng vật, cụ giới, phú đức, tinh tấn tu hành Học, Vô Học hạnh, năi chí chứng đắc tối hậu cực quả thanh tịnh bật-sô sở ưng thọ dụng.

          ()復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,廣說乃至不見不畏後世苦果。見有所施四方僧物,謂諸寺舍,或寺舍物,或諸園林,或園林物,或諸莊田,或莊田物,或所攝受淨人男女,或所攝受畜生種類,或所攝受衣服飲食,或所攝受床座敷具,或所攝受病緣醫藥,或所攝受種種資身應受用物,如是所施四方僧物,具戒富德,精進修行,學無學行乃至證得最後極果,清淨苾芻所應受用。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong đời vị lai, trong cơi Phật này, có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là bọn Chiên-đồ-la làm theo bạn ác, căn lành kém ít, nói rộng là cho đến chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, thấy các vật cúng thí cho tứ phương Tăng, tức là chùa chiền, hoặc vật dụng trong chùa, hoặc các vườn rừng, hoặc các vật trong vườn rừng, hoặc các trang trại, ruộng đất, hoặc vật thuộc các trang trại, ruộng đất, hoặc các tịnh nhân nam nữ thuộc quyền sở hữu của nhà chùa, hoặc các loài súc sanh của chùa, các y phục, thức ăn của chùa, hoặc giường, ṭa, đồ trải của chùa, hoặc thuốc men chữa trị bệnh tật của chùa, hoặc các vật cần dùng cho cuộc sống đáng nên thọ dụng của nhà chùa. Các vật thí cho tứ phương Tăng như thế đáng nên dành cho các bậc đủ giới, giàu đức, tinh tấn tu hành thuộc các địa vị Học và Vô Học, cho đến bậc tỳ-kheo thanh tịnh chứng đắc cực quả tối hậu thọ dụng).

 

          Nói chung là chẳng tin tưởng nhân quả báo ứng. Bất quá, những quốc gia nói đến dân chủ th́ c̣n tin theo nhân quả, chỉ là chẳng tin tưởng khẩn thiết như Phật giáo, nhưng họ vẫn mong làm chuyện tốt. Các quốc gia phương Tây bảo vệ động vật; bất quá, họ chẳng bảo vệ triệt để, cũng chẳng tŕ giới kiêng giết để bảo vệ. Tuy vậy, có cái hay là họ bảo vệ cầm thú, yêu thương, bảo vệ súc sanh, tức là cũng có ḷng nhân từ, vẫn sợ hăi khổ quả trong vị lai. Đấy là nói đến điều ǵ vậy? Trong phần trên là nói về người, ở đây nói về vật. Những kẻ ác, vua ác đó, họ tước đoạt các vật phẩm dành để cúng dường tứ phương Tăng nhân, hoặc là pḥng ốc trong chùa, hoặc vật dụng trong chùa chiền, vườn rừng, hoặc vật trong vườn rừng, hoặc là điền trang, hoặc các vật thuộc điền trang, hoặc các tịnh nhân nam nữ thuộc về nhà chùa. Bọn quốc vương cho đến đại thần như thế đă tước đoạt vật dụng của Tăng Già khá nhiều. Nếu mọi người đến Bắc Kinh, tại Bắc Kinh có chùa Đàm Chá (潭柘), tọa lạc tại ngoại thành Bắc Kinh. Gần như một nửa đất đai nơi đó thuộc về chùa Đàm Chá. Thuở ấy, các vị Tăng ăn cơm trong chùa có khoảng hơn ba ngàn người, chia thành bảy chỗ ăn cơm, tức bảy chỗ đánh bang[1], chín chỗ để tụng niệm công khóa. Hiện thời có những chỗ bị hủy hoại, vừa trùng tu!

          Đoạt ruộng vườn của nhà chùa, đoạt pḥng ốc của chùa, đă tạo tội ấy th́ phải thọ báo. “Tịnh nhân nam nữ” là như thế này: Trong chùa miếu [nếu là chùa ni, các tịnh nhân] đều là nữ nhân. Những người sống trong ngôi chùa lớn đều là nam nhân, [tịnh nhân cũng toàn là nam giới]. V́ sao gọi là “tịnh nhân”? Họ phát tâm, chẳng hạn như làm công quả, ở trong chùa, ăn cơm nhà chùa, làm lụng trong trang viên của chùa miếu, hoặc chăm sóc chùa miếu. Chuyện quét dọn, làm vệ sinh sạch sẽ, hoặc phóng sanh do họ chăm lo. Như vườn rừng của Cổ Sơn nhiều ngần ấy, cây ăn quả trên núi có đến mấy vạn gốc quít, phải có người hái, có người lo toan, những người đó đều gọi là “tịnh nhân”. Nấu cơm trong chùa, làm hết thảy mọi công việc khác nhau, đều là tịnh nhân. Tỳ-kheo chẳng thể làm! Hễ tỳ-kheo làm, sẽ là phạm giới. Đó là trong thuở ấy, nay th́ đều phải tự làm. Khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, đều là tự gieo trồng, tự ăn. Ḥa thượng tự ḿnh trồng trọt, tự ḿnh nấu cơm, tự lo liệu cuộc sống. Đấy là tùy thuận chế độ pháp luật của quốc gia. Phàm là kẻ cướp đoạt vật dụng của Tăng, sẽ phải thọ báo, nhất định sẽ thọ báo!  

          Trong chùa miếu, c̣n có rất nhiều thứ, hoặc các loài chúng sanh thuộc quyền sở hữu của nhà chùa. Hoặc y phục, thức ăn của nhà chùa, hoặc giường, ṭa, đồ trải nằm, hoặc các thứ thuốc men chữa bệnh, các loại vật dụng cần dùng cho cuộc sống thuộc sở hữu nhà chùa, các vật thí cho tứ phương Tăng như thế, là những vật đáng nên dành cho những vị trọn đủ giới đức, tinh tấn tu hành, học theo hạnh Học và Vô Học, cho đến các vị bật-sô thanh tịnh chứng đắc cực quả tối hậu hưởng dụng. Các vật phẩm trên đây, cho đến động vật và thực vật: Thực vật ở trong vườn, rừng, động vật trong chùa miếu; có chùa miếu c̣n có lừa, ngựa, v́ họ có trang viên. Trong trang viên, nhất định có lừa, ngựa, có ḅ, những thứ ấy đều thuộc về chùa miếu.

          C̣n có những con vật được người ta phóng sanh. Trong vùng núi, đại đa số là núi non, họ thả chúng trên núi. Vùng núi ấy thuộc về nhà chùa, cũng là hết thảy các thứ thuộc về ḥa thượng. Dẫu cho người hay vật, đều thuộc về quyền sở hữu và hưởng dụng của bậc có đạo đức, tinh tấn tu hành, thuộc địa vị Hữu Học và Vô Học. Hữu Học là chưa chứng đắc Tứ Quả, Vô Học là địa vị đă chứng Tứ Quả. Đạt tới địa vị Vô Học th́ chứng đắc cực quả. Đó là sự hưởng dụng đúng lư của tỳ-kheo thanh tịnh.

 

          (Kinh) Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn,Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, dĩ cường thế lực, xâm đoạt cụ giới thanh tịnh bật-sô, bất thính thọ dụng, hồi dữ phá giới ác hạnh bật-sô, kinh doanh tại gia chư tục nghiệp giả, linh cộng thọ dụng, hoặc độc thọ dụng. Phá giới bật-sô kư thọ đắc dĩ, hoặc cộng thọ dụng, hoặc độc thọ dụng, hoặc dữ tục nhân, đồng cộng thọ dụng. Do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn,Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn,Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.

      ()剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,以強勢力侵奪具戒清淨苾芻,不聽受用;回與破戒惡行苾芻,經營在家諸俗業者,令共受用,或獨受用。破戒苾芻既受得已,或共受用,或獨受用,或與俗人,同共受用。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Gă vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… do thế lực mạnh mẽ, xâm phạm, cướp đoạt bật-sô trọn đủ giới hạnh thanh tịnh, không cho họ hưởng dụng, trao cho bọn bật-sô phá giới là những kẻ kinh doanh các sự nghiệp thế tục của người tại gia để cùng nhau hưởng thụ, hoặc hưởng thụ một ḿnh, hoặc cùng kẻ thế tục hưởng thụ. Do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… hộ tŕ quốc độ, là những vị tín kính Tam Bảo chẳng hư hoại, chẳng lay động, sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… Nói rộng th́ cho đến vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, và tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… thuộc loại Chiên-đồ-la ấy, chẳng lâu sau, sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm, bị đớ lưỡi chẳng nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Chết đi, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Chiên-đồ-la sa-môn là tỳ-kheo phá giới. Nếu mọi người đă xem Ảnh Trần Hồi Ức Lục, sẽ biết: Lăo pháp sư Đàm Hư tiếp nhận chùa Pháp Nguyên, bị bọn ác tỳ-kheo thưa kiện. Bọn chúng muốn chiếm đoạt những bảo vật của chùa Pháp Nguyên. Do vậy, thanh tịnh tỳ-kheo và ác tỳ-kheo phải ra ṭa. Khi đó, quân phiệt Đông Bắc vẫn đang chiếm đóng miền Đông Bắc, Dương Lăng Các[2] quy y lăo pháp sư Đàm Hư. Tuy có thế lực, lăo pháp sư Đàm Hư chẳng làm như vậy. Sau đó, Ngài vẫn giao ngôi chùa đó cho các gă tỳ-kheo ấy. Các gă ác tỳ-kheo ấy sẽ như thế nào? Bọn chúng có được các thứ ấy, sẽ cùng với các ác tỳ-kheo khác cùng hưởng thụ, hoặc riêng ḿnh hưởng thụ, hoặc là cùng kẻ thế tục, cùng các tịnh nhân, và kẻ tại gia cùng nhau hưởng thụ, hoặc là cùng với những kẻ ác Chiên-đồ-la hưởng thụ. Do nhân duyên ấy, chọc giận thần hộ pháp. Các vị trời, rồng, thần Dược Xoa v.v… hộ tŕ quốc độ ấy, là những vị tín kính Tam Bảo chẳng hoại động, liền sanh khởi tâm sân khuể.

          C̣n như “ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết” (sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến những gă sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la ấy. Nói rộng th́ cho đến vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy và những gă tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la đó, chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết), chẳng phải là đức Phật nguyền rủa họ. Ngài thấy nhân quả báo ứng, thấy họ nhất định phải hứng chịu nỗi khổ cùng cực ấy. Nếu không, quư vị sẽ nói đức Phật cũng nguyền rủa người khác. Chuyện này giống như khi đọc phẩm Phổ Môn, [thấy kinh dạy] có kẻ dùng thuốc độc hại người khác, [do người bị hại chí tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát], đâm ra [kẻ hại người] sẽ phải tự hứng chịu, chính ḿnh phải nhận lấy [hậu quả ấy], đă có người hỏi tôi: “Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng từ bi”. Tôi hỏi: “V́ sao?” Người đó đáp: “Phẩm Phổ Môn nói khi dùng thuốc độc hại kẻ khác, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ khiến cho kẻ ấy tự uống thuốc độc, khiến cho chính kẻ ấy mắc hại”. Tôi nói: “Đó chẳng phải là ư của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ông đă hiểu sai ư nghĩa của kinh. Đó là kẻ ấy tự thọ báo”. Giống như ở đây đức Phật nói “chẳng lâu sau, tứ chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết”; đấy là đức Phật thấy kẻ đó phải thọ quả báo ấy. Cho đến “ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn. Mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục” (trong nhiều ngày đêm bị đớ lưỡi, chẳng thể nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián): C̣n sống th́ chịu khổ đôi chút, vẫn c̣n dễ chịu, vẫn tốt hơn nhiều so với địa ngục Vô Gián. Chết đi, nhất định đọa vào địa ngục Vô Gián. Phải liễu giải chánh xác đạo lư này! Nếu không, sẽ nói đức Phật nguyền rủa những kẻ ấy đều đọa địa ngục Vô Gián, hoàn toàn chẳng phải là ư nghĩa như vậy! Đức Phật thấy quả báo của họ, mà cũng chẳng thể cứu họ. Họ đă phạm tội ấy, đức Phật chẳng thể cứu nổi!

          Do vậy, cuối cùng Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện sẽ cứu họ. Nói nhiều như vậy, nhằm hiển thị ḷng đại từ đại bi của Địa Tạng Bồ Tát. Đây là kinh Thập Luân chuyên hiển thị đại nguyện của Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát đến nơi đó chuyên cứu vớt những kẻ ấy.

 

          (Kinh) Phục thứ thiện nam tử! Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu, quảng thuyết năi chí bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả, kiến y ngă pháp nhi xuất gia giả, thông duệ, đa văn, ngữ thậm viên măn, hoặc năng truyền thông Thanh Văn Thừa pháp, hoặc năng truyền thông Độc Giác Thừa pháp, hoặc năng truyền thông Vô Thượng Thừa pháp, linh quảng lưu bố, lợi lạc hữu t́nh. Bỉ ư như thị thuyết pháp sư sở, ha mạ, hủy nhục, phỉ báng, khinh lộng, khi cuống, bức bách, năo loạn pháp sư, chướng ngại chánh pháp.

          ()復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,廣說乃至不見不畏後世苦果。見依我法而出家者,聰睿多聞,語甚圓滿,或能傳通聲聞乘法,或能傳通獨覺乘法,或能傳通無上乘法,令廣流佈,利樂有情;彼於如是說法師所,呵罵毀辱,誹謗輕弄,欺誑逼迫,惱亂法師,障礙正法。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la làm theo bạn ác, thiện căn ít ỏi, nói rộng là cho đến chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, thấy người nương theo pháp của ta xuất gia, thông duệ, đa văn, nói năng hết sức viên măn, hoặc có thể truyền dạy, thông đạt pháp Thanh Văn Thừa, hoặc có thể truyền dạy, thông đạt pháp Độc Giác Thừa, hoặc có thể truyền dạy, thông đạt pháp Vô Thượng Thừa, khiến cho [các pháp ấy] được truyền bá rộng răi, lợi lạc hữu t́nh. Bọn họ đối với vị thầy thuyết pháp như thế bèn quở trách, chửi bới, hủy nhục, phỉ báng, khinh mạn, trào lộng, lừa dối, áp bức, năo loạn pháp sư, chướng ngại chánh pháp).

 

          Ác luân trong phần trước là tước đoạt vật dụng của Tăng-già, c̣n ác luân trong phần này là gă ác nhân này câu kết với gă ác nhân khác, tức là câu kết với kẻ ác, chẳng sợ khổ quả đời sau. Thấy người nương theo Phật pháp xuất gia, “thông duệ, đa văn”, “duệ” () có nghĩa là “hiểu rơ, có trí huệ”. “Đa văn” là nghe nhiều Phật pháp, mở mang trí huệ. “Ngữ thậm viên măn”, “viên măn” là người ấy thuyết pháp, giải thích pháp do đức Phật đă nói, khiến cho pháp tồn tại trong cơi đời, khiến cho loài người được lợi ích, hoặc là có thể truyền đạt, thông đạt pháp Thanh Văn Thừa. Kế đó là [giải thích cặn kẽ thêm] ư nghĩa của từ ngữ “ngữ thậm viên măn”: Hoặc là có thể truyền đạt pháp Độc Giác Thừa, hoặc là có thể truyền đạt pháp Vô Thượng Thừa, tức là pháp Đại Thừa, khiến cho pháp tam thừa được truyền bá rộng răi, lợi lạc hữu t́nh. “Bỉ ư như thị thuyết pháp sư sở, ha mạ, hủy nhục, phỉ báng, khinh lộng, khi cuống, bức bách, năo loạn pháp sư, chướng ngại chánh pháp” (Bọn họ đối với vị thầy thuyết pháp như thế bèn quở trách, chửi bới, hủy nhục, phỉ báng, khinh mạn, trào lộng, lừa dối, áp bức, năo loạn pháp sư, chướng ngại chánh pháp): Không cho phép vị ấy thuyết pháp, năo loạn vị ấy.

 

          (Kinh) Do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ, nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.

          ()由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời, rồng, thần Dược Xoa v.v… hộ tŕ quốc độ là các vị tín kính Tam Bảo chẳng động hoại, sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến lũ Chiên-đồ-la trong giới Sa-môn, Bà-la-môn v.v… Nói rộng là cho đến vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và bọn tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… là những gă Chiên-đồ-la chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, khuyết thiếu, trong nhiều ngày đêm đớ lưỡi chẳng thể nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Do nhân duyên này, khiến cho hết thảy trời, rồng, Dược Xoa thần v.v… là các vị hộ tŕ quốc độ này, hộ tŕ nhân dân trong quốc gia, họ là những vị tín kính Tam Bảo, [tín tâm] chẳng thể động hoại, sẽ sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, cho đến những gă Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… Nói rộng sẽ là sanh tâm phẫn hận đối với Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la. Do sanh phẫn hận, bọn vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la [cũng như lũ Chiên-đồ-la tể quan, trưởng giả v.v… của chúng] chẳng lâu sau, tứ chi sẽ bị tàn phế, thiếu khuyết. “Chi tiết phế khuyết” là tứ chi tàn khuyết, chẳng vẹn toàn, hoặc là bị tai nạn xe cộ, hoặc từ trên núi ngă xuống, hoặc đi du lịch bị rơi xuống nước, đều là các biểu hiện của tứ chi chẳng toàn vẹn. Hiện thời, chuyện này cũng biến hóa! Có một lần, tôi triều bái núi Ngũ Đài. Nơi con đường chạy từ ven sông cho đến chùa dài ngần ấy, hai bên đường toàn là ăn mày, đủ mọi h́nh tướng. Quư vị trông thấy, sẽ sanh ḷng sợ hăi. Hoặc chỉ c̣n nửa mặt, hoặc một mắt. Tàn phế cũng khác nhau, tay bên trái là móc, đùi bên phải cụt lủng lẳng, đủ mọi thứ h́nh trạng lạ lùng, quư vị chẳng thể tưởng tượng nổi. Hiện thời, chẳng c̣n nữa, có phải là chẳng có kẻ làm ác nữa hay không? Chẳng phải! Trước kia, có thể nói là Bồ Tát thị hiện để quư vị đến nơi ấy sẽ biết sám hối do trông thấy h́nh tướng ấy. Hiện thời, v́ chỗ ấy đă trở thành nơi buôn bán, những kẻ đó chẳng c̣n nữa, chẳng trông thấy nữa!

          Do nhân duyên ấy, khiến cho quốc gia đó chẳng được an ninh, các vị thần hộ pháp chẳng c̣n hộ tŕ nữa. Các chuyện quái dị trong quốc gia ấy nẩy sanh tràn lan, quân nước ḿnh và quân nước khác gây chiến với nhau, tai ương, bệnh dịch hoành hành, ḷng dân chẳng an định, cho đến chẳng bao lâu, tứ chi của bọn chúng bị tàn khuyết. “Ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc” (trong nhiều ngày đêm bị đớ lưỡi, chẳng nói được, hứng chịu các khổ độc): Có thể nói là chẳng khác người sống đời thực vật trong hiện thời cho mấy, đau xót cùng cực, khó thể chịu đựng! Khi mạng chung, chắc chắn sanh vào địa ngục Vô Gián.

 

          (Kinh) Phục thứ thiện nam tử! Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tùy ác hữu hành, thiện căn vi thiểu, quảng thuyết năi chí bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả, kiến hữu sở thí tứ phương Tăng vật, tự xá, trang điền, nhân, súc, tài bảo, hoa thụ, quả thụ, nhiễm thụ, ấm thụ, hương dược thụ đẳng, cập dư tư thân chủng chủng tạp vật. Ngă chư đệ tử, cụ giới, phú đức, tinh tấn tu hành Học, Vô Học hạnh, năi chí chứng đắc tối hậu cực quả thanh tịnh bật-sô sở ưng thọ dụng, bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, dĩ cường thế lực, hoặc tự bức đoạt, hoặc giáo nhân đoạt, hoặc vị tự dụng, hoặc vị tha dụng. Do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo vô động hoại giả, ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn. Quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.        ()復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,隨惡友行,善根微少,廣說乃至不見不畏後世苦果。見有所施四方僧物,寺舍、莊田、人畜、財寶、華樹、果樹、染樹、蔭樹、香藥樹等,及餘資身種種雜物,我諸弟子具戒富德,精進修行學無學行,乃至證得最後極果,清淨苾芻所應受用;彼剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,以強勢力,或自逼奪,或教人奪,或為自用,或為他用。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者,於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong đời vị lai, trong cơi Phật ấy, có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la làm theo bạn ác, thiện căn ít ỏi, nói rộng cho đến chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, thấy có những vật thí cho tứ phương Tăng, như pḥng ốc trong chùa chiền, trang trại, ruộng nương, người, súc vật, của cải, cây có hoa, cây ăn quả, cây có chất nhựa làm thuốc nhuộm, cây rợp bóng mát, cây để chế hương liệu v.v… và các thứ vật dụng khác cần dùng cho cuộc sống. Các đệ tử của ta là những vị bật-sô thanh tịnh trọn giới, đủ đức, tinh tấn tu hành các hạnh Học và Vô Học, cho đến chứng đắc cực quả tối hậu đáng nên hưởng dụng [những thứ ấy]. Gă vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la ấy cho đến sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la, cậy vào thế lực mạnh mẽ, hoặc tự bức bách, chiếm đoạt, hoặc dạy kẻ khác chiếm đoạt để chính ḿnh dùng, hoặc cho người khác dùng. Do nhân duyên ấy, khiến cho hết thảy trời, rồng, thần Dược Xoa v.v… là những vị hộ tŕ quốc độ, tín kính Tam Bảo chẳng động hoại, sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến những gă sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la. Nói rộng là cho đến vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… những gă Chiên-đồ-la ấy chẳng lâu sau sẽ bị tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm bị đớ lưỡi chẳng nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Đây là làm theo bạn ác, bị kẻ ác xúi giục, dạy bảo, cho đến chẳng sợ khổ quả trong đời sau. Thấy vật được bố thí cho tứ phương Tăng, như pḥng ốc trong nhà chùa, trang trại, ruộng nương, của cải của người và súc vật, cây có hoa, cây ăn quả, cây làm thuốc nhuộm, cây rợp bóng mát, cây làm hương liệu v.v… “Nhiễm thụ” (染樹, cây thuốc nhuộm) kết trái có chứa chất nhuộm. Loại cây này có hai tác dụng: Quả do cây ấy sanh ra có thể nhuộm quần áo, hoặc dùng để nhuộm màu [các vật liệu khác]. Những điều này đều là nhắc lại, phần giữa có thay đổi đôi chút, [tức là] nơi sự, nơi cảnh, thay đổi đôi chút. Kinh văn trước và sau đó đều giống hệt nhau. Đây là những kẻ ác cùng nhau tước đoạt vật dụng của Tăng chúng.

 

          (Kinh) Phục thứ thiện nam tử! Ư vị lai thế, thử Phật độ trung, hữu Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, thiện căn vi thiểu, vô hữu tín tâm, siểm khúc, ngu si, hoài thông minh mạn, ngôn vô chân thật, viễn ly thiện hữu, tùy ác hữu hành. Ư chư thánh pháp, tâm hoài do dự, bất kiến, bất úy hậu thế khổ quả, thường nhạo tập cận chư ác luật nghi, háo hành sát sanh, năi chí tà kiến, nhi hoài ngạo mạn, cuống hoặc thế gian, tự xưng ngă thị trụ luật nghi giả. Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, chủng chủng phương tiện, hủy diệt ngă pháp, vu quy ngă pháp nhi xuất gia giả, sổ sổ sân phẫn, ha mạ, hủy nhục, khảo sở, cấm bế, cát tiệt chi tiết, năi chí đoạn mạng. Ngă sở thuyết pháp, bất khẳng tín thọ, hoại tốt-đổ-ba, cập chư tự xá, khu bức bật-sô, thoái linh hoàn tục, chướng ngại thế phát, bị phục ca-sa, chủng chủng khu sử, đồng chư bộc thứ. Do thị nhân duyên, linh hộ quốc độ nhất thiết thiên, long, Dược Xoa thần đẳng, tín kính Tam Bảo, vô động hoại giả.

          ()復次,善男子,於未來世此佛土中,有剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,善根微少,無有信心,諂曲愚癡,懷聰明慢,言無真實,遠離善友,隨惡友行,於諸聖法,心懷猶豫,不見不畏後世苦果,常樂習近諸惡律儀,好行殺生,乃至邪見,而懷傲慢,誑惑世間,自稱我是住律儀者。彼剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,種種方便,毀滅我法,于歸我法而出家者,數數瞋忿,呵罵毀辱,拷楚禁閉,割截肢節,乃至斷命,我所說法不肯信受,壞窣堵波及諸寺舍,驅逼苾芻退令還俗,障礙剃髮被服袈裟,種種驅使同諸僕庶。由是因緣,令護國土一切天、龍、藥叉神等,信敬三寶無動壞者。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, có vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… là những gă Chiên-đồ-la thiện căn ít ỏi, chẳng có tín tâm, siểm khúc, ngu si, tự phụ thông minh, lời nói chẳng chân thật, xa ĺa bạn lành, làm theo bạn ác. Đối với các chánh pháp, ôm ḷng do dự, chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả đời sau, thường thích thân cận, thực hiện các ác luật nghi, ưa thích sát sanh, cho đến tà kiến, ôm ḷng lừa dối, mê hoặc thế gian, tự xưng “ta là kẻ trụ trong luật nghi”. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến bọn Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn ấy dùng đủ mọi phương tiện hủy diệt pháp của ta. Đối với những người quy hướng pháp của ta xuất gia, bèn nhiều lượt sân phẫn, quở trách, chửi bới, đánh đập, giam cầm, chặt cắt chân tay, cho đến giết chết. Đối với pháp do ta nói, họ chẳng chịu tin nhận, phá hoại tháp, và các pḥng xá trong chùa, xua đuổi, áp bức bật-sô phải lui về hoàn tục, chướng ngại người cạo đầu, khoác mặc ca-sa, đủ cách xua đuổi, sai khiến họ giống như tôi tớ. Do nhân duyên này, khiến cho hết thảy trời, rồng, thần Dược Xoa v.v… là những vị hộ tŕ quốc độ, tín kính Tam Bảo chẳng hoại động).

 

          Tự nhận là rất thông minh, nói năng chẳng chân thật. “Ngôn vô chân thật”: Chẳng nói lời thành thật. Có một số đạo hữu đệ tử Phật hỏi: “Thưa sư phụ! Chúng con buôn bán, chẳng nói lời giả dối, chẳng nói xạo đôi chút, sẽ chẳng có cách nào buôn bán được!” Tôi nói: “Khi tôi chưa đến Mỹ, tôi chẳng có cách nào trả lời quư vị. Sau khi đă đến Mỹ, tôi thấy người buôn bán tại Mỹ, trong siêu thị, chẳng có ai nói chuyện với quư vị. Quư vị chẳng cần hỏi giá tiền, họ đều ghi rơ. Quư vị muốn mua th́ lấy. Chẳng có chuyện trả giá, quư vị muốn mua th́ mua”. Họ nói: “Nếu bán sỉ th́ phải trả giá”. Tôi nói: “Người bán món đồ ấy là bán sỉ, người ấy đến đó ước định một lô hàng, họ cũng c̣ kè, mặc cả”. Tôi bảo: “Đấy cũng chẳng phải là không nói dối th́ không được! Quư vị cứ nói đúng sự thật, chẳng nhất định là phải nói dối mới kiếm tiền nổi!” Đó là tạo tín tâm cho họ, chẳng chiết khấu. C̣n như trong hiện thời, những ǵ chúng ta nghe được, bất luận từ kẻ buôn bán cho đến kẻ chẳng buôn bán, họ có thể nói bao nhiêu câu chân thật?

          Sư phụ chẳng nên nói dối, đúng không? Ở đây có ác hạnh sa-môn, c̣n có Chiên-đồ-la sa-môn, chẳng nói lời chân thật, nói dối, nói thêu dệt, rất khó đoạn! V́ sao? V́ họ “viễn ly thiện hữu, tùy ác hữu hành, ư chư thánh pháp, tâm hoài do dự” (xa ĺa bạn lành, hành theo bạn ác, ôm ḷng do dự đối với các thánh pháp). Họ hoài nghi Phật pháp, hỏi: “Những lời đức Phật nói có thật hay không?” C̣n có kiểu nói khác nữa: “Đức Phật đă nói từ hơn hai ngàn năm trước, nay chẳng c̣n hữu dụng nữa! Hiện nay là thời đại nào? Vẫn cứ nhắc tới những lời lẽ từ hơn hai ngàn năm trước ư?” Tôi nói: “Đức Phật nói tham, sân, si, Ngài dạy nói dối là dối gạt. Vậy th́ trong thời đại này, bất luận người thuộc quốc gia nào, nếu quư vị lừa tiền, lường gạt th́ có phạm tội hay không? Lừa dối th́ có phạm tội hay không? Vẫn là chẳng thể! Có thể nói lời hư giả hay không? Chớ nên lừa gạt! Vẫn nên đề cao sự thành thật. Giết, trộm, dâm càng chẳng cần phải nói nữa! Giết, trộm, dâm th́ trong bất cứ thời đại nào, triều đại nào, quốc gia nào, dẫu sửa đổi thế nào đi nữa, giết, trộm, dâm vẫn đều là phạm tội!”

          “Tùy ác hữu hạnh” (làm theo bạn ác): Kẻ đó chẳng có thiện tâm, tâm kẻ đó biến thành ác tâm, chẳng tin tưởng lời dạy của đức Phật. “Tâm hoài do dự” (ôm ḷng do dự): Chẳng tin tưởng cho lắm! Có rất nhiều đạo hữu ôm ḷng lo ngờ đối với vấn đề này. Hễ có ư niệm ấy th́ trong khi tu hành, kẻ đó thường hoài nghi, chẳng thể tin tưởng thành khẩn. Vậy th́ quư vị tu hành, mong chứng thánh quả, đoạn phiền năo đều rất khó khăn. Tuy đă gieo thiện căn, vẫn chẳng biết phải mất bao nhiêu năm, bao nhiêu đời, rèn giũa dần dần! Nếu tâm quư vị thành khẩn, quư vị sẽ chiếm tiện nghi, sẽ có thể đắc độ rất nhanh chóng. Chẳng thể nói nhất định là “lập tức chứng quả”, nhưng qua hai ba đời, quư vị sẽ dần dần có thể tiến nhập, có thể nhập môn.

          Hiện thời, chúng ta đều ở ngoài Phật môn, dường như là tin Phật, trên thực tế, chẳng nhập môn! Nguyên nhân là ǵ? “Tâm hoài do dự” (ôm ḷng do dự). Chuyện này giống như người uống nước, nước nóng hay lạnh, chính quư vị tự biết. Bất quá, đức Phật nói như vậy, chúng ta bèn tin tưởng lời Phật, nhưng vẫn chẳng thấy, chẳng sợ khổ quả trong đời sau, v́ chẳng nh́n thấy, sẽ chẳng sợ hăi. Khá nhiều người thấy rồi mới sợ hăi. Khi thấy rồi mới sợ hăi th́ đă muộn mất rồi, chẳng c̣n kịp nữa. Có hối hận th́ đă muộn màng! Chớ nên lo ngại, nghi ngờ. Quư vị có thể phân biệt được ai là bạn ác, ai là bạn lành hay không? Ngay cả điều này c̣n chẳng biết nữa mà! Nói chung, cần phải biết thiện và ác, cần phải biết người thiện và kẻ ác. Nhưng có những kẻ bề ngoài làm ra vẻ thiện tướng, trong ḷng rất ác, quư vị chẳng dễ biết được! Nếu quư vị niệm nhiều, cầu Phật, Bồ Tát cho nhiều, dùng Chiêm Sát Luân để hỏi: “Tôi thân cận vị sư phụ này, trong tâm vị ấy có thánh hạnh hay không? Ông ta có phải thật sự là một vị sư phụ tốt hay không?” Quư vị sẽ có thể biết. Kinh Chiêm Sát dạy như thế, quư vị đừng nói là pháp sư Mộng Tham nói. Nếu nói như thế, mọi người lại chửi tôi! Trong quyển Thượng của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có nói rất rơ ràng: Nếu quư vị muốn thân cận người ấy, hoặc làm bạn với người ấy, coi là thiện tri thức, phải xét xem người ấy có phải là thiện tri thức hay không? Yêu cầu của thiện tri thức rất cao!

          Phải trọn đủ điều kiện như thế nào th́ mới có thể coi là thiện tri thức? Chúng ta chẳng đ̣i hỏi rất nghiêm ngặt. Nay là thời Mạt Pháp, chẳng có cách nào, chỉ cần tốt đẹp một chút thôi! Trước tiên, quư vị hăy gieo Chiêm Sát Luân, nếu [Chiêm Sát Luân] dạy: “Quư vị chớ nên thân cận kẻ đó. Kẻ đó nội tại chẳng có thật đức. [Những ǵ] kẻ đó thị hiện trong hiện thời đều là giả tướng”. Hoặc là “quư vị có thể thân cận người ấy, sẽ có thể đạt được lợi ích”. Kinh Chiêm Sát nói rất rơ ràng; hễ quư vị chiêm sát một phen, sẽ biết ngay!

          “Thường nhạo tập cận chư ác luật nghi” (thường thích tu tập, thân cận các ác luật nghi): Ác luật nghi là luật nghi chẳng do đức Phật chế định. Đối với ác luật nghi, chúng tôi nêu thí dụ như sau: Để tế trời, tế thần, phải giết lợn, mổ dê, cho đến giết gà. Đấy gọi là tà tri, tà kiến. Ưa chuộng sát sanh là tà tri, tà kiến, “Nhi hoài ngạo mạn, cuống hoặc thế gian, tự xưng ngă thị trụ luật nghi giả” (mà ôm ḷng ngạo mạn, dối gạt, mê hoặc thế gian, tự xưng “ta là bậc trụ trong luật nghi”): C̣n tự nói chính ḿnh là bậc tŕ giới!

          “Bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, chủng chủng phương tiện, hủy diệt ngă pháp” (Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la cho đến những gă Chiên-đồ-la sa-môn, Bà-la-môn v.v… dùng đủ mọi phương tiện để hủy diệt pháp của ta): Họ nghĩ đủ mọi loại phương tiện, luôn mong hủy diệt Phật pháp. Thậm chí c̣n nói họ cũng học pháp Dược Sư, cũng giảng kinh Dược Sư, cũng lạy Dược Sư Sám. Nói chung là luôn pha tạp tà tri, tà kiến vào đó. Họ đem Đạo Giáo, thậm chí tà đạo, vu giáo (巫教, đồng bóng, ma thuật) đều xen lẫn vào. Dần dần như thế khiến cho chúng sanh chẳng phân biệt được, cái nào là thật, cái nào là giả, cái nào là Phật giáo, cái nào là Đạo Giáo, phân biệt không nổi. Đó gọi là “hủy diệt”.

          “Ư quy ngă pháp nhi xuất gia giả, sổ sổ sân phẫn, ha mạ hủy nhục, khảo sở, cấm bế, cát tiệt chi tiết, năi chí đoạn mạng” (đối với người quy y pháp của ta mà xuất gia, bèn nhiều lượt sân phẫn, quở trách, chửi bới, hủy nhục, đánh đập, giam cầm, cắt chặt tứ chi, cho đến đoạn mạng): Đối với pháp do ta đă nói, họ chẳng chịu tin nhận. “Hoại tốt-đổ-ba” (phá hoại tháp) cũng là phá hoại chùa miếu. “Cập chư tự xá” (và pḥng ốc trong chùa): “Tự miếu” ở đây chuyên nói về tháp, c̣n “tự xá" trong phần sau là nói về tinh xá trong chùa miếu. Đây là phiên dịch. Tiếng Phạn trong kinh Phật trọn chẳng gọi [chùa miếu] là Tự, mà là do chúng ta phiên dịch. A Lan Nhă hoặc Tăng-già-lam, sở dĩ phiên dịch thành Tự là v́ Trung Hoa dùng chữ Tự để h́nh dung. “Khu bức bật-sô, thoái linh hoàn tục” (xua đuổi, áp bức bật sô, buộc họ hoàn tục): Không chỉ trong hiện tại, mà vào đời Đường, Đường Vũ Tông đă khởi sự trục xuất, cưỡng bức tỳ-kheo hoàn tục.

          “Chướng ngại thế phát, bị phục ca-sa” (chướng ngại người cạo tóc khoác mặc ca-sa): Không cho phép quư vị xuất gia, dùng đủ mọi cách xua đuổi, sai khiến, “đồng chư bộc thứ” (giống như tôi tớ): Sai khiến người xuất gia, sử dụng kẻ xuất gia, coi họ như nô bộc. Đấy đều là sự thật.

 

          (Kinh) Ư Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, tâm sanh sân phẫn, quảng thuyết năi chí bỉ Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục.

          ()於剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,心生瞋忿;廣說乃至彼剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,不久便當肢體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。

          (Kinh: Sanh tâm sân phẫn đối với vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn v.v… Chiên-đồ-la. Nói rộng là cho đến bọn vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… thuộc loại Chiên-đồ-la ấy chẳng lâu sau tứ chi tàn phế, thiếu khuyết, trong nhiều ngày đêm bị đớ lưỡi chẳng thể nói được, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng, mạng chung nhất định sanh vào địa ngục Vô Gián).

 

          Những kẻ đó vĩnh viễn chẳng được nghe những lời này. Dẫu nghe, vẫn chẳng tin. Họ có thể được nghe kinh Đại Tập Thập Luân hay không? Họ chẳng được nghe! Trong quá khứ giảng pháp Đại Thừa, nói những lời này, dường như cũng sợ đắc tội với kẻ khác. Thuở ấy, nếu đắc tội với các quốc vương, đắc tội với các đại thần, trong ấy bao gồm sa-môn, Bà-la-môn, cho đến những kẻ tín phụng Phật pháp, đều bao gồm trong ấy, hăy đều nên tự kiểm điểm, có phải là chuyện như thế hay không? Bộ kinh này được khai diễn rất ít, chúng tôi cứ đúng theo kinh mà nói.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư thượng sở thuyết thập chủng ác luân, hoặc tùy thành nhất, hoặc cụ thành tựu, tiên sở tu tập nhất thiết thiện căn, tồi hoại thiêu diệt, giai vi hôi tẫn, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ, kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục. Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư đương lai thế, hạ tiện nhân thân, thượng nan khả đắc, huống đương năng chứng Nhị Thừa Bồ Đề! Vô Thượng Đại Thừa, ư kỳ tuyệt phần. Như thị ác nhân, Đại Thừa danh tự thượng nan đắc văn, huống đương năng chứng Vô Thượng Phật Quả! Thị nhân cứu cánh tự tổn, tổn tha, nhất thiết chư Phật sở bất năng cứu.

          ()善男子,若剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,於上所說十種惡輪,或隨成一,或具成就,先所修集一切善根,摧壞燒滅,皆為灰燼,不久便當支體廢缺,於多日夜,結舌不言,受諸苦毒,痛切難忍,命終定生無間地獄。此剎帝利旃荼羅王,宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等旃荼羅人,於當來世,下賤人身尚難可得,況當能證二乘菩提!無上大乘,於其絕分。如是惡人,大乘名字尚難得聞,況當能證無上佛果!是人究竟自損損他,一切諸佛所不能救!

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la, và bọn Chiên-đồ-la trong giới tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn… đối với mười ác luân vừa nói trên đây, hễ thành tựu bất cứ một luân nào, hoặc thành tựu trọn đủ, th́ hết thảy thiện căn đă tu tập trước kia sẽ bị phá nát, thiêu rụi, đều thành tro tàn. Chẳng lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, khiếm khuyết, trong nhiều ngày đêm đớ lưỡi chẳng thể nói, chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng, mạng chung chắc chắn sanh vào địa ngục Vô Gián. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và bọn Chiên-đồ-la trong giới tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… ấy trong đời tương lai, c̣n khó thể làm thân người hạ tiện, huống hồ sẽ có thể chứng Nhị Thừa Bồ Đề! Trọn chẳng có phần nơi Vô Thượng Đại Thừa. Kẻ ác như thế, danh tự Đại Thừa c̣n khó được nghe, huống hồ sẽ có thể chứng Vô Thượng Phật Quả! Người ấy rốt ráo tổn ḿnh, tổn người, hết thảy chư Phật chẳng thể cứu nổi!)

 

          Mười loại ác luân đă nói xong. Ở đây, chẳng nói riêng [khổ quả của từng điều] mà nói tổng quát. “Hoặc tùy thành nhất, hoặc cụ thành tựu” (hoặc thành tựu bất cứ một luân nào, hoặc thành tựu trọn đủ): Mười luân đều có, hoặc chỉ có một luân, vậy th́ những ǵ quư vị đă tu tập “nhất thiết thiện căn, tồi hoại, thiêu diệt” (hết thảy thiện căn bị phá nát, thiêu rụi), thiện căn trước kia của quư vị đều bị ác luân ấy hủy diệt. “Giai vi hôi tẫn, bất cửu tiện đương chi thể phế khuyết, ư đa nhật dạ kết thiệt bất ngôn, thọ chư khổ độc, thống thiết nan nhẫn, mạng chung định sanh Vô Gián địa ngục. Thử Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư đương lai thế, hạ tiện nhân thân thượng nan khả đắc” (đều thành tro tàn. Chẳng lâu sau, tứ chi sẽ tàn phế, khiếm khuyết. Trong nhiều ngày đêm, đớ lưỡi chẳng thể nói. Chịu các khổ độc, đau đớn cùng cực khó thể chịu đựng. Mạng chung, chắc chắn sanh vào địa ngục Vô Gián. Vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la và bọn Chiên-đồ-la trong giới tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… ấy trong đời tương lai, c̣n khó thể làm thân người hạ tiện): Chẳng thể mong chuyển sanh lại được làm thân người! Dẫu muốn làm kẻ hạ tiện vẫn không được! Huống hồ có thể chứng “Nhị Thừa Bồ Đề, Vô Thượng Đại Thừa dữ kỳ tuyệt phần” (Nhị Thừa Bồ Đề, trọn chẳng có phần với Vô Thượng Đại Thừa). Kẻ đó chẳng thể bén mảng được, trọn chẳng dính líu đến Phật pháp nổi!

          “Như thị ác nhân, Đại Thừa danh tự thượng nan đắc văn” (kẻ ác như thế, danh tự Đại Thừa c̣n khó thể nghe nổi): Ngay cả danh hiệu Đại Thừa, như kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, cho đến kinh Kim Cang, kinh Địa Tạng, kinh Đại Tập Thập Luân, danh tự của hết thảy các kinh đều chẳng nghe thấy. Ngay cả tên kinh mà c̣n khó thể nghe thấy, vậy th́ c̣n có thể chứng Phật quả nữa chăng? “Thị nhân cứu cánh tự tổn, tổn tha” (người ấy rốt ráo tự tổn, tổn người): Tự tổn hại ḿnh mà cũng tổn hại người khác!

          “Nhất thiết chư Phật sở bất năng cứu” (hết thảy chư Phật chẳng thể cứu nổi): Nếu trọn đủ mười ác luân ấy, hễ có một luân nào, chư Phật đều chẳng có cách nào cứu quư vị. Bất quá, Địa Tạng Bồ Tát sẽ đến nơi đó, cứu vớt quư vị. Quư vị đọa vào địa ngục Vô Gián, Địa Tạng Bồ Tát ở ngay trong địa ngục chờ đợi quư vị, Ngài đến đó cứu vớt. Có phải là chúng sanh trong địa ngục Vô Gián, hễ Địa Tạng Bồ Tát thuyết pháp th́ họ sẽ nghe thấy hay không? Cũng chưa chắc! Vẫn phải kết cái duyên. Vô lượng đời trong quá khứ đều chẳng có nhân duyên ấy, chẳng có nhân, mà cũng chẳng có duyên. Tỳ-kheo phá giới có lợi thế là họ đă kết duyên với Tam Bảo, thật sự tin nhận, c̣n có oai lực sót lại, c̣n có đức sót thừa, c̣n có chủng tử ấy. Do vậy, đức Phật nói c̣n có thể cứu họ. Quư vị chớ nên xem thường họ, hàm nghĩa như thế đó.

 

          (Kinh) “Thiện nam tử! Thí như hữu nhân, áp du vi nghiệp. Nhất nhất ma lạp, giai hữu trùng sanh. Dĩ luân áp chi, du tiện lưu xuất. Nhữ đương quán thử áp ma du nhân, ư nhật dạ trung, sát kỷ sanh mạng? Giả sử như thị áp ma du nhân, dĩ thập cụ luân, tương tục hằng áp. Ư nhất nhật dạ, nhất nhất luân trung, sở áp ma du, số măn thiên hộc. Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Nhữ quán thử nhân, sát kỷ sanh mạng? Sở hoạch tội nghiệp, ninh vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm đa! Thế Tôn! Thậm đa, đại đức! Thử nhân sở sát vô lượng, vô biên. Sở hoạch tội nghiệp bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ, sở bất năng cập, duy Phật năng tri, dư vô tri giả”.

          ()善男子,譬如有人壓油為業,一一麻粒皆有蟲生,以輪壓之油便流出。汝當觀此壓麻油人,於日夜中殺幾生命!假使如是壓麻油人,以十具輪相續恆壓,於一日夜一一輪中,所壓麻油數滿千斛,如是相續至滿千年,汝觀此人殺幾生命,所獲罪業寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人所殺無量無邊,所獲罪業不可稱計,算數譬喻所不能及,唯佛能知,餘無知者。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Ví như có người làm nghề ép dầu. Trong một hạt mè, đều có trùng sống. Dùng thớt nghiền để ép, dầu liền chảy ra. Ông hăy nên quán kẻ ép dầu ấy trong một ngày đêm, đă giết bao nhiêu sanh mạng? Giả sử người ép dầu như thế dùng mười cái máy ép, luôn ép liên tục. Trong một ngày đêm, mỗi cái máy ép, ép dầu mè số tṛn ngàn hộc[3]. Liên tục như thế, đến trọn ngàn năm. Ông hăy quán xem người ấy đă giết bao nhiêu sanh mạng, chuốc lấy tội nghiệp có nhiều hay không?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thưa: “Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều! Kẻ đó đă giết vô lượng, vô biên, chuốc lấy tội nghiệp chẳng thể nói kể. Toán, số, thí dụ đều chẳng thể sánh được, chỉ đức Phật có thể biết, người khác chẳng biết”).

 

          Mọi người có thể thấy cái thớt ép trong máy ép dầu. Có hai loạt hạt thường dùng, tức là hạt mè, hoặc là hạt cải. Trên mỗi loại hạt để ép dầu, đều có trùng sống. Chúng rất nhỏ bé, nhục nhăn của quư vị rất khó trông thấy, lại c̣n rất nhiều. Kẻ đó dùng thớt nghiền để ép, hoặc là ép hạt cải, hoặc hạt mè, dầu liền chảy ra. “Nhữ đương quán thử áp ma du nhân, ư nhật dạ trung, sát kỷ sanh mạng?” (Ông hăy xem người ép dầu ấy, trong một ngày đêm, đă giết bao nhiêu sanh mạng): Quư vị nói xem kẻ đó trong một ngày đêm đă giết bao nhiêu? Trong xưởng của kẻ đó, có mười cái máy ép dầu. Ngày đêm ép như vậy chẳng ngừng, vậy th́ số dầu mè do hai thớt nghiền [của mỗi máy] ép ra, sẽ là ngàn cân. “Như thị tương tục, chí măn thiên niên” (Liên tục như thế cho đến trọn một ngàn năm), lại c̣n ép suốt một ngàn năm, kẻ đó đă giết bao nhiêu sanh mạng? “Sở hoạch tội nghiệp ninh vi đa phủ?” (chuốc lấy tội nghiệp có nhiều hay không?)

          Trong đoạn này, Địa Tạng Bồ Tát thỉnh pháp, đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát đừng quên những vị đương cơ. Đức Phật hỏi Địa Tạng Bồ Tát: “Ông nói xem có nhiều hay không?” Địa Tạng Bồ Tát thưa: “Bạch đức Thế Tôn rất nhiều! Bạch đại đức rất nhiều”. Kẻ đó sát hại chúng sanh vô lượng, vô biên, chuốc lấy tội nghiệp chẳng có cách nào tính kể, [dẫu sử dụng] toán, số, thí dụ [để sánh ví] đều chẳng thể sánh nổi! Đó là sánh ví tội ác của kẻ đó. “Duy Phật năng tri, dư vô tri giả” nghĩa là: Chỉ có đức Phật mới có thể biết, những người khác chẳng thể biết nổi!

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, vị tài lợi cố, trí thập dâm phường. Nhất nhất phường trung, trí thiên dâm nữ. Nhất nhất dâm nữ, chủng chủng trang nghiêm, cuống hoặc đa nhân, hằng vi dục sự. Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Thử nhân hoạch tội bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ, sở bất năng cập. Như tiền thập luân áp du nhân tội, đẳng nhất dâm phường sở hoạch tội nghiệp. Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, vị tài lợi cố, trí thập tửu phường. Nhất nhất phường trung, chủng chủng nghiêm sức, phương tiện chiêu dụ thiên đam tửu nhân, ẩm hứng hoan ngu, trú dạ vô phế. Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Thử nhân hoạch tội bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ sở bất năng cập. Như tiền sở thuyết thập dâm phường tội, đẳng nhất tửu phường sở hoạch tội nghiệp. Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, vị tài lợi cố, trí thập đồ phường. Nhất nhất phường trung, ư nhất nhật dạ, sát hại thiên sanh, ngưu, dương, đà, lộc, kê, trư đẳng mạng. Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Thử nhân hoạch tội bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ sở bất năng cập. Như tiền sở thuyết thập tửu phường tội, đẳng nhất đồ phường sở hoạch tội nghiệp. Như tiền sở thuyết thập đồ phường tội, đẳng Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương, năi chí sa-môn, Bà-la-môn đẳng Chiên-đồ-la nhân, ư tiền thập ác, tùy thành nhất luân, nhất nhật nhất dạ sở hoạch tội nghiệp!

          ()佛言:善男子,假使有人為財利故,置十婬坊,一一坊中置千婬女,一一婬女種種莊嚴,誑惑多人,恆為欲事,如是相續至滿千年,此人獲罪不可稱計,算數譬喻所不能及;如前十輪壓油人罪,等一婬坊所獲罪業。又善男子,假使有人為財利故,置十酒坊,一一坊中種種嚴飾,方便招誘千耽酒人,飲興歡娛,晝夜無廢,如是相續至滿千年,此人獲罪不可稱計,算數譬喻所不能及;如前所說十婬坊罪,等一酒坊所獲罪業。又善男子,假使有人為財利故,置十屠坊,一一坊中於一日夜,殺害千生,牛、羊、駝、鹿、雞、豬等命,如是相續至滿千年,此人獲罪不可稱計,算數譬喻所不能及;如前所說十酒坊罪,等一屠坊所獲罪業。如前所說十屠坊罪,等剎帝利旃荼羅王,乃至沙門、婆羅門等旃荼羅人,於前十惡隨成一輪,一日一夜所獲罪業。

          (Kinh: Đức Phật bảo: - Này thiện nam tử! Giả sử có người v́ tài lợi mà lập mười nhà thổ. Trong mỗi nhà thổ, đặt một ngàn dâm nữ. Mỗi dâm nữ đủ loại trang sức, dối gạt, mê hoặc nhiều người luôn làm dục sự. Liên tục như thế, cho đến trọn một ngàn năm. Người ấy mắc tội chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng. Như tội của kẻ có mười máy ép dầu trên đây, bằng với tội nghiệp do một nhà thổ gây ra. Lại này thiện nam tử! Giả sử có người v́ tài lợi mà lập mười tiệm rượu. Trong mỗi tiệm, trang hoàng đủ mọi cách, dùng phương tiện chiêu dụ một ngàn người ham uống rượu, say sưa vui sướng, ngày đêm chẳng bỏ lỡ. Liên tục như thế, cho đến tṛn một ngàn năm. Người ấy mắc tội chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng. Tội của mười nhà thổ như đă nói trên đây, bằng với tội nghiệp do một tiệm rượu gây ra. Lại này thiện nam tử! Giả sử có người v́ tài lợi mà lập ra mười ḷ sát sanh. Trong mỗi ḷ, trong một ngày đêm, giết hại một ngàn sanh mạng của trâu, dê, lạc đà, nai, gà, lợn v.v… Liên tục như thế, cho đến một năm. Người ấy mắc tội chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng. Tội của mười tiệm rượu như đă nói trên đây bằng với tội nghiệp do một ḷ sát sanh gây tạo. Tội của mười ḷ sát sanh như đă nói trên đây bằng với tội nghiệp đă gây tạo của vua Sát-đế-lợi Chiên-đồ-la vương cho đến những gă sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la do trong một ngày một đêm thành tựu bất cứ một luân nào trong mười ác luân như đă nói trên).

 

          Mở kỹ viện, mở mười nhà thổ. Trong mỗi kỹ viện, đặt một ngàn dâm nữ. Mỗi nàng c̣n mê hoặc rất nhiều người. “Hằng vi dục sự” (luôn làm dục sự): Làm hạnh bất tịnh ấy. “Như thị tương tục, chí măn thiên niên. Thử nhân hoạch tội bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ bất năng cập. Như tiền thập luân áp du nhân tội, đẳng nhất dâm phường” (Liên tục như thế, cho đến trọn một ngàn năm. Người ấy mắc tội chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng. Như tội của người có mười máy ép dầu trong phần trước sẽ bằng với tội của một nhà thổ). Tội ác của kẻ có mười máy ép dầu, mười tội ác ấy chỉ bằng tội gây tạo do lập một nhà thổ! [Tội do lập] một nhà thổ nặng gấp mười lần tội của người trước (người ép dầu). Kẻ sau so với người trước đều [phạm tội] nặng hơn gấp mười lần.

          “Giả sử hữu nhân, vị tài lợi cố, trí thập tửu phường” (giả sử có người v́ tài lợi mà lập ra mười tiệm rượu): Trong Bồ Tát Giới, bán rượu là giới căn bản, c̣n tội uống rượu nhỏ và nhẹ hơn! Bán rượu tức là quư vị đă mê hoặc kẻ khác. “Nhất nhất phường trung, chủng chủng nghiêm sức, phương tiện chiêu dụ thiên đam tửu nhân” (trong mỗi tiệm, trang hoàng đủ thứ, dùng các phương tiện chiêu dụ một ngàn kẻ ham rượu): Một ngàn kẻ mê rượu, trầm mê trong rượu, uống rượu làm vui. “Ẩm hứng hoan ngu, nhật dạ vô phế” (Say sưa vui vẻ, ngày đêm chẳng bỏ lỡ): Chỗ bán rượu ngày đêm đều bán! “Như thị tương tục, chí măn thiên niên” (liên tục như thế, cho đến tṛn một ngàn năm): Kẻ đó mắc tội chẳng thể tính kể. Toán, số, thí dụ đều chẳng thể sánh bằng. Tội do lập mười nhà thổ như vừa nói trên đây bằng với tội nghiệp gây tạo do lập một tiệm rượu. Tội mở mười nhà thổ bằng với tội mở một tiệm bán rượu.

          Tội của ḷ mổ c̣n lớn hơn nữa. Tội ác của mười ḷ mổ tương đương với tội gây tạo bởi vua Chiên-đồ-la cho đến bọn sa-môn, Bà-la-môn Chiên-đồ-la thành tựu một luân trong mười ác luân, chẳng phải là cả mười luân đều thành tựu! [Nếu thành tựu cả mười luân], lại càng khôn ngằn! Trong mười ác luân, thành tựu một luân trong ṿng một ngày một đêm, sẽ tương đương với tội của một ḷ mổ. Mười tiệm rượu với bằng một ḷ mổ!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết: - Thập áp du luân tội, đẳng bỉ nhất dâm phường. Trí bỉ thập dâm phường, đẳng nhất tửu phường tội. Trí thập tửu phường tội, đẳng bỉ nhất đồ phường. Trí bỉ thập đồ phường, tội đẳng vương đẳng nhất.

          ()爾時,世尊而說頌曰:十壓油輪罪,等彼一婬坊,置彼十婬坊,等一酒坊罪;置十酒坊罪;等彼一屠坊,置彼十屠坊,罪等王等一。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng rằng: - Tội mười máy ép dầu, bằng tội một nhà thổ. Mở ra mười nhà thổ, tội bằng một tiệm rượu. Tội mở mười tiệm rượu, tội bằng một ḷ mổ. Tội mở mười ḷ mổ, bằng tội của vua, quan, thực hiện một ác luân).

 

          Đoạn này giống như tổng kết. Do tội của mười ḷ mổ bằng với tội của vua Sát-đế-lợi, cho đến những gă Chiên-đồ-la trong giới sa-môn, Bà-la-môn v.v… thực hiện một ác luân. Thậm chí họ chẳng tạo ác luân ấy lâu dài, chỉ một ngày một đêm! Đấy là ác luân như đă nói trong phần trước, do tội nghiệp của một ác luân là vô lượng, vô biên. Nếu tội nghiệp đó lớn dường ấy, khi nào sẽ thoát khỏi địa ngục Vô Gián? V́ sao kẻ làm ác nhiều dường ấy? Người trên thế giới vẫn rất nhiều, thay phiên luân chuyển, từ súc sanh đạo thoát ra. Súc sanh c̣n nhiều hơn loài người, đúng không? Mọi người hăy ngẫm xem! Lấy một loại súc sanh, chẳng hạn như kiến, quư vị nói xem: “Nam Thiệm Bộ Châu có bao nhiêu kiến?” Chẳng nói chi khác, kiến rất đông, vượt hơn sáu mươi ức nhân khẩu bao nhiêu lần? C̣n có những loài khác, họ dần dần thọ báo đă xong, lại chuyển thành người. Địa ngục, quỷ đạo, tất cả các đường khác đều sẽ chuyển thành người. C̣n thiên đạo th́ có lúc thiện nghiệp trong cơi trời chưa hết, họ lại chuyển sanh trong nhân gian. Có người nói: “Chư thiên chuyển thế, từ ngạ quỷ đến, từ địa ngục đến, cùng với chư thiên chuyển thành người, tuyệt đối bất đồng”.

          Các ác nghiệp như [ác nghiệp của] vua Chiên-đồ-la vương, Chiên-đồ-la sa-môn, Chiên-đồ-la Bà-la-môn, hết thảy Chiên-đồ-la chúng sanh mang ư nghĩa ác, họ là chúng sanh làm ác, tạo một ác nghiệp sẽ thọ khổ vô lượng. Nếu chúng ta nghĩ đến điều này, quư vị c̣n dám làm ác hay không? Trong khi quư vị khởi tâm động niệm, niệm trước vừa dấy lên, niệm sau hăy ngay lập tức ngăn dứt. Quư vị nghĩ xem, kinh Đại Tập Thập Luân dạy chẳng giống các kinh khác, [các kinh khác] chẳng nói rơ rệt như kinh Đại Tập Thập Luân. Thoạt đầu, tôi chẳng mong giảng kinh Đại Tập Thập Luân, suy nghĩ suốt một hai năm, vẫn không dám giảng. Ngay cả tôi c̣n sợ hăi, lo ngại [giảng ra] sẽ khiến cho người khác sanh khởi cảm giác kinh sợ, hoặc c̣n dễ dàng chuốc lấy sự phỉ báng. Họ sẽ cho rằng đức Phật chẳng từ bi dường ấy, hung tợn dường ấy, Phật chẳng phải là đại từ bi ư? Chính v́ Ngài đại từ đại bi, cho nên mới dạy quư vị đừng làm chuyện ấy. “Nếu quư vị cứ làm, ta chẳng có cách nào cứu quư vị”. Dạy bảo quư vị như thế này: [“Quư vị phạm mười ác luân], Phật, Bồ Tát chẳng có cách nào cứu. Bất quá, sau đó, Địa Tạng Bồ Tát vẫn phát nguyện cứu họ, nhưng cứu chẳng xuể, vẫn c̣n rất nhiều. Những kẻ Ngài có thể cứu vẫn là thiểu số.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát phục bạch Phật ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện trưởng giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Bà-la-môn, như thị đẳng nhân, năng tự thiện hộ, diệc thiện hộ tha, thiện hộ hậu thế, thiện hộ Phật pháp xuất gia chi nhân, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí, hạ chí vô giới, thế trừ tu phát, bị ca-sa giả, phổ thiện thủ hộ, cung kính cúng dường. Hựu năng thiện hộ Thanh Văn Thừa pháp, Duyên Giác Thừa pháp, cập Đại Thừa pháp, cung kính thính văn, tín thọ, cúng dường. Ư trụ Đại Thừa, cụ giới, phú đức, tinh cần tu hành, năi chí trụ quả Bổ Đặc Già La, năng thiện thủ hộ, trợ kỳ thế lực, tứ vấn thính thọ, hoan hỷ đàm luận, viễn ly phá giới, ác hạnh bật-sô. Ư chư sở thí tứ phương Tăng vật, chung bất linh nhân phi pháp phí dụng, cần gia thủ hộ, cúng tứ phương Tăng. Ư Tốt-đổ-ba, cập Tăng Kỳ vật, chung bất tự đoạt, bất giáo tha đoạt, diệc bất tự dụng, bất giáo tha dụng. Ư năng biện thuyết tam thừa pháp nhân, cung kính cúng dường, gia hộ dữ lực, bất linh tha nhân phỉ báng, hủy nhục, tôn trọng, an ủy chư xuất gia nhân, tín thọ, hộ tŕ Phật sở thuyết pháp, chung bất phá hoại chư Tốt-đổ-ba, diệc thường hộ tŕ Tăng Già Lam xá. Ư thế tu phát, bị phục ca-sa xuất gia nhân sở, chung bất hủy phế. Ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập, diệc thường khuyến tha ly thập ác luân, cụ học tiên vương trị quốc chánh pháp, thiệu Tam Bảo chủng, thường linh xí thịnh, hằng nhạo thân cận chư thiện tri thức, từ tâm phủ dục nhất thiết quốc nhân, tùy kỳ sở nghi, phương tiện hóa đạo, linh xả tà pháp, tu hành chánh pháp. Như thị chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, đắc kỷ sở phước? Diệt kỷ sở tội?

          ()爾時,地藏菩薩摩訶薩復白佛言:大德世尊,若有真善剎帝利、真善宰官、真善居士、真善長者、真善沙門、真善婆羅門,如是等人,能自善護,亦善護他,善護後世,善護佛法出家之人。若是法器,若非法器,下至無戒,剃除鬚髮被袈裟者,普善守護,恭敬供養。又能善護聲聞乘法、緣覺乘法及大乘法,恭敬聽聞,信受供養。於住大乘,具戒富德,精勤修行,乃至住果補特伽羅,能善守護助其勢力,諮問聽受,歡喜談論,遠離破戒惡行苾芻。於諸所施四方僧物,終不令人非法費用,勤加守護,供四方僧。於窣堵波,及僧祇物,終不自奪,不教他奪,亦不自用,不教他用。於能辯說三乘法人,恭敬供養,加護與力,不令他人誹謗毀辱;尊重安慰諸出家人,信受護持佛所說法,終不破壞諸窣堵波,亦常護持僧伽藍舍。於剃鬚發、被服袈裟、出家人所,終不毀廢。於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪。具學先王治國正法,紹三寶種,常令熾盛,恆樂親近諸善知識,慈心撫育一切國人,隨其所宜方便化導,令舍邪法,修行正法。如是真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,得幾所福?滅幾所罪?

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch với đức Phật rằng: - Bạch đại đức Thế Tôn! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi, chân thiện tể quan, chân thiện cư sĩ, chân thiện trưởng giả, chân thiện sa-môn, chân thiện Bà-la-môn, những người như thế có thể khéo ǵn giữ chính ḿnh, cũng khéo ǵn giữ người khác, khéo thủ hộ đời sau, khéo thủ hộ người xuất gia trong Phật pháp, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, thậm chí kẻ chẳng có giới, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, khéo thủ hộ trọn khắp, cung kính cúng dường. Lại có thể khéo thủ hộ pháp Thanh Văn Thừa, pháp Duyên Giác Thừa, và pháp Đại Thừa, cung kính lắng nghe, tin nhận, cúng dường. Đối với bậc trụ trong Đại Thừa, đủ giới, giàu đức, siêng ṛng tu hành, cho đến trụ quả Bổ Đặc Già La, có thể khéo thủ hộ, giúp thế lực cho họ, thưa hỏi, nghe nhận, hoan hỷ đàm luận, xa ĺa bật-sô phá giới, ác hạnh. Đối với các vật thí cho tứ phương Tăng, trọn chẳng để kẻ khác tiêu xài phung phí phi pháp, càng thêm siêng năng thủ hộ, cúng tứ phương Tăng. Đối với Tốt-đổ-ba (Stupa, tháp) và vật dụng thuộc về Tăng chúng, trọn chẳng tự đoạt, chẳng dạy kẻ khác đoạt, cũng chẳng tự dùng, chẳng dạy kẻ khác dùng. Đối với người có thể biện luận, diễn thuyết pháp tam thừa, bèn cung kính cúng dường, gia hộ, tăng thêm sức, chẳng để cho kẻ khác phỉ báng, hủy nhục [người ấy]. Tôn trọng, an ủi các vị xuất gia. Tin nhận và hộ tŕ pháp do đức Phật đă nói. Trọn chẳng phá hoại các tốt-đổ-ba, cũng thường hộ tŕ pḥng ốc thuộc Tăng già lam. Đối với các vị xuất gia cạo bỏ râu tóc, đắp ca-sa, trọn chẳng hủy phế. Tự chẳng nhuốm bẩn do hành mười ác luân, cũng thường khuyên người khác ĺa mười ác luân. Học trọn đủ chánh pháp trị quốc của tiên vương, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo, khiến cho thường hưng thịnh, luôn thích thân cận các vị thiện tri thức, từ tâm vỗ về, dưỡng dục hết thảy người trong nước, tùy theo lẽ thích ứng mà phương tiện giáo hóa, hướng dẫn, khiến họ bỏ tà pháp, tu hành chánh pháp. Vua Sát-đế-lợi chân thiện cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… như thế, sẽ được bao nhiêu phước? Diệt bao nhiêu tội?)

 

          Đoạn kinh văn dài này tương phản với đoạn kinh văn trước đó. Trong phần trước là làm ác phải đọa địa ngục, đọa vào Vô Gián. Ở đây, nói ngược lại: Nếu các Sát-đế-lợi, cho đến Bà-la-môn v.v… cúng dường thủ hộ Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, phước đức của họ sẽ to cỡ nào? Đoạn kinh văn này và đoạn kinh trước đó tương đồng, một đằng thiện, một đằng ác. Trong kinh Đại Tập Thập Luân, do Địa Tạng Bồ Tát thỉnh pháp, thuyết pháp, lấy Ngài làm chánh yếu, cho nên gọi là kinh Địa Tạng Thập Luân. Từ đây trở đi, trong phần trước đă nói mười ác luân nhiều như thế, nếu nói ngược lại, [tức là] chẳng làm các điều ác ấy, cho đến xa ĺa điều ác ấy, họ sẽ có phước đức nhiều cỡ nào? Địa Tạng Bồ Tát hỏi như thế. Đối chiếu văn tự trong phần này với phần trước, ắt cần phải giảng giải đôi chút.

          “Chân thiện” là ǵ? Chân thiện là giải thoát, thật sự đạt được giải thoát, cho đến tu tập, sẽ có thể chứng đắc Niết Bàn, đấy là ư nghĩa “chân thiện”. Thật sự tu hành, thật sự giải thoát, cho đến tín tâm kiên định, các vị Sát-đế-lợi, tể quan, Bà-la-môn, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, những người ấy tự ḿnh hộ niệm chính ḿnh, khéo léo hộ niệm. Chúng ta đọc phẩm Tịnh Hạnh, [ư nghĩa chủ đạo trong phẩm kinh ấy] chẳng phải là “thiện dụng kỳ tâm” (khéo dùng cái tâm) ư? Hàm nghĩa là “chính ḿnh có thể khéo dụng tâm, không chỉ hộ tŕ đời hiện tại, mà c̣n hộ tŕ cả đời sau!”

          Kế tiếp là Tam Bảo, hộ tŕ Phật, hộ tŕ Pháp, hộ tŕ Tăng chúng. Trong việc hộ tŕ Tăng nhân, có những vị tốt lành, tŕ giới thanh tịnh, có vị chẳng phải là pháp khí, mà cũng là phá giới. Trong phần trước đă nói tỳ-kheo phá giới, thậm chí kẻ chẳng có giới nào, chỉ cần kẻ đó cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, từ Sát-đế-lợi cho đến Bà-la-môn đều cung kính thủ hộ, hướng về họ nghe pháp, [tức] pháp Thanh Văn Thừa, pháp Duyên Giác Thừa, và pháp Đại Thừa, tức là pháp tam thừa, cung kính nghe nhận. Đă tin rồi bèn có thể tiếp nhận, tiếp nhận rồi bèn có thể tu hành. Không chỉ tin nhận mà thôi, lại c̣n thực hiện. Cúng dường là bố thí. Đối với các bậc trọn đủ giới thanh tịnh, có đức, siêng ṛng tu hành, cho đến Bổ Đặc Già La đă chứng quả, cũng là Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả; đấy là hoàn toàn nói theo pháp Tiểu Thừa, người ấy có thể khéo thủ hộ, giúp họ tu hành, mang ư nghĩa “làm hộ pháp” cho họ. Lại c̣n hướng về họ thưa hỏi Phật pháp, hoan hỷ đàm luận, xa ĺa tỳ-kheo phá giới, ác hạnh. Đấy là xét theo phương diện tốt đẹp. Đối với kẻ phá giới, chẳng bị tỳ-kheo phá giới tiêm nhiễm. Đối với những vật được bốn phương cúng dường trong Tăng Già Lam, cũng là các vật của Tăng chúng, người ấy chẳng phi pháp chiếm dụng, cũng chẳng phi pháp chiếm đoạt, lại c̣n giúp sức thủ hộ.

          Vậy th́ cúng dường tứ phương Tăng cho đến đối với tháp, cũng như vật dụng của Tăng Già, là những vật phẩm cúng dường đại chúng trong Tăng Già Lam, “chung bất tự đoạt” (trọn chẳng tự chiếm đoạt), tức là các vua Sát-đế-lợi, đại thần có quyền thế chẳng tự cướp đoạt, chẳng đoạt để chính ḿnh sở hữu, cũng chẳng để tự dùng, mà cũng chẳng cho phép kẻ khác tước đoạt, cũng chẳng cho phép kẻ khác dùng. Chỉ cần là người có thể nói pháp tam thừa, họ sẽ đều hộ tŕ, cung kính cúng dường, giúp sức cho người ấy càng thêm siêng ṛng tu hành. Trong đoạn trước đă nói, nếu tu hành tại đó, có các ác tỳ-kheo phá hoại các tỳ-kheo tịch tĩnh, cũng như ác Bà-la-môn phá hoại các vị tỳ-kheo tịch tĩnh, họ (quốc vương, đại thần) sẽ liền bảo vệ, an ủi các vị xuất gia ấy. Tin nhận, hộ tŕ pháp do đức Phật đă nói. “Chung bất phá hoại chư tốt-đổ-ba” (trọn chẳng phá hoại các tháp), tức là [trọn chẳng phá hoại] chùa miếu hay tháp.

          Đối với mười ác luân đă nói trong phần trước, bản thân họ chẳng bị tiêm nhiễm, chẳng hành ác pháp. Họ c̣n khuyên những kẻ đó rời bỏ mười ác luân. Đối với các chúng sanh Bổ Đặc Già La đă tiêm nhiễm, huân tập mười ác luân, các vua quán đảnh Sát-đế-lợi cho đến Bà-la-môn đều khuyên những kẻ đó phải xa ĺa mười ác luân. “Cụ học tiên vương trị quốc chánh pháp” (học trọn đủ chánh pháp trị quốc của tiên vương): Đây là nói tỷ dụ, [hàm ư] học Pháp Bảo do quá khứ chư Phật đă dạy. Như vậy th́ mới có thể khiến cho Tam Bảo chẳng đoạn diệt. “Thiệu” () có nghĩa là “kế thừa”. “Thiệu Tam Bảo chủng” (nối tiếp chủng tánh Tam Bảo), thường khiến cho Phật Pháp Tăng Tam Bảo hưng thịnh, cũng thường xuyên mong muốn thân cận thiện tri thức, từ tâm vỗ về, dưỡng dục hết thảy người dân trong nước. Như thế bèn “tùy kỳ sở nghi” (theo lẽ thích ứng), tức là thuận theo [căn tánh của] người tu hành ấy cho đến những tỳ-kheo ác hạnh mà uốn nắn họ. Uốn nắn th́ cũng cần phải hộ tŕ, giáo hóa, hướng dẫn, phải chọn lựa phương tiện giáo hóa, hướng dẫn, khiến cho họ ĺa bỏ tà pháp, tu hành chánh pháp.

          “Như thị chân thiện Sát-đế-lợi, năi chí ư chân thiện Bà-la-môn đẳng, đắc kỷ sở phước? Diệt kỷ sở tội?” (Chân thiện Sát-đế-lợi cho đến chân thiện Bà-la-môn như thế sẽ được bao nhiêu phước? Diệt bao nhiêu tội?): Tăng phước, diệt tội, bất luận là người ấy từ tu đạo cho đến có thể sống hạnh phúc trên thế gian, luôn có thể tu pháp xuất thế. Trong phần trước đă nói các vua Chiên-đồ-la Sát-đế-lợi, Chiên-đồ-la Bà-la-môn v.v… làm chuyện ác, cùng với ác tỳ-kheo phá hoại tỳ-kheo tịnh hạnh, cho đến khiến cho các vị ấy chẳng thể tu đạo, những kẻ tạo tội nhiều như vậy, đều đọa vào địa ngục Vô Gián. [Ở đây], nói ngược lại, những người hộ tŕ Phật Pháp Tăng Tam Bảo th́ sẽ có thể đạt được bao nhiêu điều lợi ích?

 

          (Kinh) Phật ngôn: “Thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, xuất hiện thế gian, cụ đại oai lực, ư nhật sơ phần, tích tập thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí chư Phật, cập đệ tử chúng. Ư nhật trung phần, diệc tập thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí chư Phật, cập đệ tử chúng. Ư nhật hậu phần, diệc tập thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí chư Phật, cập đệ tử chúng. Như thị nhật nhật tương tục, bố thí măn bách thiên niên, thử nhân phước tụ, ninh vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại đức! Thử nhân phước tụ vô lượng vô biên, bất khả xưng kế. Toán, số, thí dụ, sở bất năng cập, duy Phật năng tri, dư vô tri giả”. Phật ngôn: “Thiện nam tử! Như thị, như thị. Như nhữ sở thuyết. Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập, diệc thường khuyến tha ly thập ác luân, sở hoạch phước tụ, quá tiền phước tụ, vô lượng, vô biên, bất khả xưng kế”.

          ()佛言:善男子,假使有人,出現世間具大威力,於日初分,積集七寶滿贍部洲,奉施諸佛及弟子眾;於日中分,亦集七寶滿贍部洲,奉施諸佛及弟子眾;於日後分,亦集七寶滿贍部洲,奉施諸佛及弟子眾;如是日日相續佈施,滿百千年。此人福聚,寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人福聚無量無邊,不可稱計,算數譬喻所不能及。唯佛能知,餘無知者。佛言:善男子,如是,如是,如汝所說。若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪,所獲福聚,過前福聚,無量無邊,不可稱計。

          (Kinh: Đức Phật nói: “Này thiện nam tử! Giả sử có người xuất hiện trong thế gian, có oai lực lớn, vào buổi sáng tích tập bảy báu đầy khắp Thiệm Bộ Châu, dâng cúng chư Phật và các vị đệ tử. Vào buổi trưa, cũng tụ tập bảy báu đầy khắp Thiệm Bộ Châu, dâng cúng chư Phật và các vị đệ tử. Vào buổi tối, cũng tụ tập bảy báu đầy khắp Thiệm Bộ Châu, dâng cúng chư Phật và các vị đệ tử. Hằng ngày liên tục như thế, bố thí trọn trăm ngàn năm, người ấy tích tụ phước há có nhiều chăng?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: “Bạch đức Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều! Người ấy tích tụ phước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể. Toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng, chỉ riêng Phật có thể biết, những người khác không biết”. Đức Phật bảo: “Này thiện nam tử! Đúng như vậy, đúng như thế. Đúng như lời ông nói. Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương, cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… đối với mười ác luân chẳng tự huân tập, cũng thường khuyến hóa người khác rời ĺa hành mười ác luân, th́ khối phước đạt được sẽ vượt hơn phước tích tụ bởi người trước vô lượng vô biên, chẳng thể tính kể).

 

          “Thiện nam tử” ở đây là danh xưng [đức Phật dùng để gọi] Địa Tạng Bồ Tát. Giả sử có người xuất hiện trong thế gian, trọn đủ oai lực rất lớn, tức là nói đến phước nghiệp của người ấy, so với vua quán đảnh Sát-đế-lợi hộ tŕ các thiện tín, hàng phục những kẻ có tánh ác th́ công đức của người ấy lớn cỡ nào? Cũng tức là để luận định công đức của người ấy, đức Phật bèn dùng cách tỷ dụ, tỷ dụ theo từng tầng một. [Trong tầng tỷ dụ đầu tiên, đức Phật nói]: Giả sử có một người như thế xuất hiện trên thế gian, người ấy có rất nhiều oai lực.

          “Ư nhật sơ phần”, [tức là] lúc mặt trời mới mọc, “tích tập thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu”: Vào buổi sáng, người ấy có thể do oai lực của chính ḿnh mà tập trung bảy báu, mă năo, san hô, hổ phách, tổng cộng nhiều cỡ nào? Nhiều như Nam Thiệm Bộ Châu! Vào sáng sớm, dùng bảy báu nhiều ngần ấy để cúng dường chư Phật và các vị đệ tử. “Ư nhật trung phần” tức là buổi trưa cũng tụ tập bảy báu đầy ắp Thiệm Bộ Châu. [Buổi sáng] đă bố thí xong, buổi trưa lại tụ tập bảy báu đầy ắp Nam Thiệm Bộ Châu nhiều ngần ấy, “phụng thí chư Phật cập đệ tử chúng. Ư nhật hậu phần, diệc tập thất bảo, măn Thiệm Bộ Châu, phụng thí chư Phật cập đệ tử chúng” [nghĩa là] ngay trong ngày hôm đó, buổi trưa, buổi tối, kể cả buổi sáng, trong ba thời thần, đều tập trung bảy báu đầy ắp Nam Thiệm Bộ Châu, ba lượt đều tụ tập bảy báu trọn khắp Nam Thiệm Bộ Châu như thế để bố thí, cúng dường chư Phật và các đệ tử, lại c̣n chẳng phải chỉ [làm như vậy] một ngày!

          “Như thị nhật nhật tương tục” [tức là] hằng ngày đều [tiếp tục] cúng dường như thế. Cúng dường trong thời gian nhiều cỡ nào? “Măn bách thiên niên” (trọn trăm ngàn năm): Hoặc là cúng dường một trăm năm, hoặc cúng dường một ngàn năm. Hăy nói xem, người ấy có phước đức nhiều hay không? Dùng các thứ thất bảo ấy để cúng dường chư Phật, mỗi ngày ba lượt cúng dường, cúng dường trong trăm ngàn năm, phước đức ấy có nhiều hay không? Địa Tạng Bồ Tát thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều”. Sự cúng dường ấy chẳng thể nghĩ bàn, phước do người ấy tích tụ “vô lượng vô biên, chẳng thể tính kể”. Dùng con số để tính toán, mỗi ngày đều như thế ba lượt cúng dường bảy báu nhiều ngần ấy, phước đức của người ấy dẫu dùng toán, số, thí dụ [để tính toán hay so sánh] đều tính chẳng ra! Phước đức cúng dường ấy chỉ có đức Phật mới biết, người khác không biết: Trừ đức Phật ra, các vị đại Bồ Tát khác cũng không có cách nào biết được. Đức Phật dạy: “Thiện nam tử! Như thị, như thị”, [nghĩa là] ông nói rất là đúng. “Như nhữ sở thuyết” hàm nghĩa: Như ông vừa mới hỏi ta “nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn v.v… tự ḿnh chẳng huân tập mười ác luân, lại c̣n khuyên kẻ khác rời ĺa mười ác luân, sẽ đạt được phước đức to lớn cỡ nào? Phước đức của người ấy so với phước đức vừa nói trên đây “quá tiền phước tụ” (hơn hẳn phước tích tụ trước đó), “tụ” () có nghĩa là tụ tập. Nói đến phước đức của người ấy, th́ phước đức đă tụ tập [của người ấy] vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể. Thiện nam tử ấy đă tự ḿnh chẳng huân nhiễm mười ác luân, lại c̣n khuyên kẻ khác cũng đừng huân nhiễm mười ác luân, rời ĺa mười ác luân, phước đức của người ấy vượt xa phước của người cúng dường trên đây. Đây là bước đầu. Nay lại nói cao hơn một bậc nữa!

 

          (Kinh) “Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu nhân xuất hiện thế gian, cụ đại oai lực, vị tứ phương Tăng doanh kiến tự vũ, kỳ lượng khoan quảng đẳng tứ đại châu, thượng diệu pḥng xá, sàng, phu, y phục, ẩm thực, y dược, tư duyên sung bị, linh chư Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát, đại đệ tử chúng chỉ trụ kỳ trung, tinh tấn tu hành chủng chủng thiện phẩm. Nhược trú, nhược dạ, vô hữu giải tức, kinh bách thiên câu-chi na-dữu-đa tuế, cung cấp cúng dường, tương tục bất tuyệt. Thử nhân phước tụ, ninh vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại đức! Thử nhân phước tụ vô lượng vô biên, bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ sở bất năng cập, duy Phật năng tri, dư vô tri giả”. Phật ngôn: “Thiện nam tử! Như thị, như thị, như nhữ sở thuyết”.

          ()又善男子,假使有人,出現世間具大威力,為四方僧營建寺宇,其量寬廣等四大洲,上妙房舍、床敷、衣服、飲食、醫藥,資緣充備,令諸如來、聲聞、菩薩、大弟子眾,止住其中,精進修行種種善品,若晝若夜無有懈息,經百千俱胝那庾多歲,供給供養相續不絕。此人福聚,寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人福聚無量無邊,不可稱計,算數譬喻所不能及。唯佛能知,餘無知者。佛言:「善男子,如是,如是,如汝所說

          (Kinh: “Lại này thiện nam tử! Giả sử có người xuất hiện trong thế gian, có oai lực lớn, v́ tứ phương Tăng tạo dựng chùa chiền, kích thước rộng lớn bằng bốn đại châu, pḥng ốc tốt đẹp nhất, giường, mền, y phục, thức ăn, thuốc men, các vật cần thiết trọn đủ, để các vị Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát, các vị đại đệ tử ở trong ấy, tinh tấn tu hành các loại thiện phẩm. Dù đêm hay ngày, chẳng hề lười nhác, ngưng nghỉ. Trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm cung cấp, cúng dường liên tục chẳng dứt, phước do người ấy tích tụ há có nhiều chăng?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều! Người ấy tích tụ phước đức vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng, chỉ riêng đức Phật có thể biết, kẻ khác chẳng biết”. Đức Phật bảo: “Này thiện nam tử! Đúng như thế đấy, đúng như vậy đấy, đúng như lời ông đă nói”).

 

          Xây dựng trụ xứ trong Tăng Già Lam, tức là chỗ ở dành cho Tăng nhân. Ngôi chùa ấy to cỡ nào? Xây dựng ngôi chùa “khoan quảng đẳng tứ đại bộ châu” (rộng lớn bằng bốn bộ châu): Tứ đại bộ châu đều thành một ngôi chùa! Người ấy có đại oai lực, c̣n có pḥng ốc tốt đẹp nhất. Trong mỗi pḥng, c̣n có những vật dụng sinh hoạt như y phục, giường, mền đệm, y phục, thức ăn, “tư duyên sung bị” (các thứ cần thiết cho cuộc sống đều trọn đủ). Các vật cần dùng cho cuộc sống đều rất đầy đủ, để các vị Như Lai, chẳng phải là một, hai vị Phật [mà là chư Phật], khiến cho các vị Thanh Văn và Bồ Tát là đệ tử của chư Như Lai cùng ở trong ngôi chùa do kẻ ấy đă tạo. “Tinh tấn tu hành chủng chủng thiện phẩm” (tinh tấn tu hành các loại thiện phẩm), đương nhiên là chư Phật, Bồ Tát sẽ chỉ dạy, dẫn dắt, sẽ thuyết pháp. Thuyết pháp th́ c̣n có rất nhiều chúng sanh đều có thể siêng ṛng tu hành. Thiện phẩm là do đức Phật chỉ dạy, như trong kinh đă nói, hoặc là tu tập Thiền Định, hoặc đọc tụng, hoặc lễ bái. “Nhược trú, nhược dạ, vô hữu giải tức, kinh bách thiên câu-chi na-dữu-đa tuế” (dù ngày hay đêm chẳng hề biếng nhác, ngưng nghỉ, trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm), na-dữu-đa là ức, trăm ngàn câu-chi ức, nhiều dường ấy, “cung cấp cúng dường, tương tục bất tuyệt, thử nhân phước tụ ninh vi đa phủ?” (cung cấp, công đức, liên tục chẳng dứt, phước đức của người ấy há có nhiều chăng?)

          “Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Thậm đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại đức” (Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: - Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều). Đức Thế Tôn nói phước do người đó tích tụ vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể. Chúng ta có thể tưởng tượng điều này. Chúng ta dựng một ngôi chùa b́nh thường, như trưởng giả Cấp Cô Độc tạo dựng tinh xá Kỳ Viên cho đức Phật. Khi trưởng giả tạo tinh xá, trên tầng trời thứ ba là Dạ Ma Thiên cũng tạo cung điện cho ông ta. Tinh xá của ông ta trong nhân gian c̣n chưa hoàn thành, mà cung điện phước đức [trên cơi trời] đă kiến tạo xong xuôi! Đấy chỉ là tinh xá Kỳ Viên. Tinh xá Kỳ Viên là một viên lâm tại nước Xá Vệ mà thôi, c̣n tinh xá [được nói ở đây] to cỡ nào? Lượng bằng tứ đại bộ châu! Công đức này đương nhiên to hơn công đức kia, phước đức [sẽ được hưởng] sau khi chết đương nhiên cũng rất lớn. Nhưng phước đức xuất thế gian và phước đức thế gian khác nhau. Phước đức nhân thiên dẫu to cách mấy, vẫn là hư vọng. Đức Phật dùng tỷ dụ này nhằm nói người ấy đă tích tụ phước vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng, chỉ đức Phật có thể biết, người khác chẳng biết. Giống như trong phần trước, đức Phật dạy: “Thiện nam tử! Như thị, như thị”. Đức Phật bảo Địa Tạng Bồ Tát: Ông nói đúng lắm, đúng như lời ông nói, phước đức như vậy vô lượng, vô biên.

 

          (Kinh) “Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, xuất hiện thế gian, cụ đại oai lực, vị tứ phương Tăng doanh kiến tự vũ, khoan quảng lượng đẳng thập tứ đại châu, thượng diệu pḥng xá, sàng, phu, y phục, ẩm thực, y dược, tư duyên sung bị, linh chư Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát đại đệ tử chúng chỉ trụ kỳ trung, tinh tấn tu hành chủng chủng thiện phẩm. Nhược trú, nhược dạ, vô hữu giải tức. Kinh bách thiên câu-chi na-dữu-đa tuế, cung cấp, cúng dường, tương tục bất tuyệt, thử nhân phước tụ, ninh vi đa phủ?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thậm đa, Thế Tôn! Thậm đa, đại đức! Thử nhân phước tụ vô lượng, vô biên, bất khả xưng kế, toán, số, thí dụ sở bất năng cập, duy Phật năng tri, dư vô tri giả”. Phật ngôn: “Thiện nam tử! Như thị, như thị, như nhữ sở thuyết”.

          ()又善男子,假使有人,出現世間具大威力,為四方僧營建寺宇,寬廣量等十四大洲,上妙房舍、床敷、衣服、飲食、醫藥,資緣充備,令諸如來、聲聞、菩薩、大弟子眾,止住其中,精進修行種種善品,若晝若夜無有懈息,經百千俱胝那庾多歲,供給供養相續不絕。此人福聚,寧為多不?地藏菩薩摩訶薩言:甚多,世尊!甚多,大德!此人福聚無量無邊,不可稱計,算數譬喻所不能及。唯佛能知,餘無知者。佛言:善男子,如是,如是,如汝所說。

          (Kinh: “Lại này thiện nam tử! Giả sử có người xuất hiện trong thế gian, có oai lực lớn, v́ tứ phương Tăng tạo dựng chùa miếu, kích thước rộng lớn bằng mười bốn đại châu, pḥng ốc tốt đẹp nhất, giường, mền đệm, y phục, thức ăn, thuốc men, các vật cần thiết trọn đủ, để các vị Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát, các vị đại đệ tử ở trong ấy, tinh tấn tu hành các loại thiện phẩm. Dù đêm hay ngày, chẳng hề lười nhác, ngưng nghỉ. Trải qua trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa năm, cung cấp, cúng dường liên tục chẳng dứt, phước do người ấy tích tụ há có nhiều chăng?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức, rất nhiều! Người ấy tích tụ phước đức vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng, chỉ Phật có thể biết, kẻ khác chẳng biết”. Đức Phật bảo: “Này thiện nam tử! Đúng như thế đấy, đúng như vậy đấy, đúng như lời ông đă nói”).

 

          Trong phần trước nói tứ đại châu, ở đây nói gấp đôi, cũng kiến tạo pḥng ốc thượng diệu, giường, mền đệm, y phục, thức ăn, thuốc men, các duyên trọn đủ, để chư Như Lai, Thanh Văn, Bồ Tát, các vị đại đệ tử v.v… ở trong ấy tu hành, cho đến thuyết pháp độ chúng sanh, ngày đêm đều chẳng giải đăi. Trải qua trăm ngàn câu chi na-dữu-đa năm, cung cấp, cúng dường, liên tục chẳng dứt. Chẳng phải là một, hai ngày, mà là trong thời gian vô cùng, vô tận, người ấy tích tập phước đức có nhiều hay không? Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Bạch đại đức rất nhiều”. Người ấy tích tụ phước đức vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể, toán, số, thí dụ đều chẳng sánh bằng, chỉ đức Phật có thể biết, người khác chẳng biết. Đức Phật dạy: “Thiện nam tử! Như thị, như thị, như nhữ sở thuyết”, [nghĩa là] ông nói rất đúng, phước đức ấy vô lượng, vô biên.

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu nhân, xuất hiện thế gian, cụ đại oai lực, vị Phật xá-lợi, khởi tốt-đổ-ba, nghiêm lệ, cao quảng, lượng đẳng tam thiên đại thiên thế giới, như tiền sở thuyết vị tứ phương Tăng tạo tự phước tụ, loại thử sở thuyết vị Phật xá-lợi khởi tốt-đổ-ba sở hoạch phước tụ, ư bách phần trung, bất cập kỳ nhất, ư thiên phần trung, diệc bất cập nhất, ư bách thiên phần, diệc bất cập nhất, ư câu-chi phần, diệc bất cập nhất, na-dữu-đa phần, số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm phần, diệc bất cập nhất.

          ()又善男子,假使有人,出現世間具大威力,為佛舍利起窣堵波,嚴麗高廣量等三千大千世界如前所說,為四方僧造寺福聚類此所說,為佛舍利起窣堵波,所獲福聚,於百分中不及其一,於千分中亦不及一,於百千分亦不及一,於俱胝分亦不及一,那庾多分、數分算分、計分喻分,乃至鄔波尼殺曇分亦不及一。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Giả sử có người xuất hiện trong thế gian, có oai lực lớn, v́ xá-lợi của Phật mà dựng tốt-đổ-ba, trang nghiêm, tráng lệ, cao rộng, lượng bằng tam thiên đại thiên thế giới. Phước tích tụ v́ tạo chùa cho tứ phương Tăng như đă nói trong phần trước so với phước đang nói ở đây, tức là so với khối phước đạt được do dựng tháp thờ xá-lợi của Phật th́ sẽ chẳng bằng một phần trăm, cũng chẳng bằng một phần ngàn, cũng chẳng bằng một phần trăm ngàn, cũng chẳng bằng một phần câu-chi, một phần na-dữu-đa, một phần toán, một phần số, một phần kế, một phần dụ, cho đến cũng chẳng bằng một phần ổ-ba-ni-sát-đàm).

 

          V́ sao lại thêm câu “cụ đại oai lực” (có oai lực to lớn)? Nếu chẳng có loại sức mạnh như thế, sao có thể tạo dựng thành tựu được? Phước đức của người này cũng chẳng thể nghĩ bàn! Lại v́ xá-lợi của Phật mà tạo Tốt-đổ-ba (Stupa), tức là kiến tạo tháp thờ xá-lợi. Tháp ấy được kiến tạo có kích thước bằng tam thiên đại thiên thế giới, cao rộng như vậy. Phước tích tụ do tạo chùa cho tứ phương Tăng đă nói trong phần trước nếu đem so với chuyện này, tức là so với phước tích tụ do v́ xá-lợi của Phật mà dựng tốt-đổ-ba, “ư bách phần trung bất cập kỳ nhất, ư thiên phần trung diệc bất cập nhất, ư bách thiên phần diệc bất cập nhất, ư câu-chi phần diệc bất cập nhất, na-dữu-đa phần, số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm phần” (chẳng bằng một phần trăm, cũng chẳng bằng một phần ngàn, cũng chẳng bằng một phần trăm ngàn, cũng chẳng bằng một phần câu-chi, một phần na-dữu-đa, một phần toán, một phần số, một phần kế, một phần dụ cho đến một phần ổ-ba-ni-sát-đàm): Ổ-ba-ni-sát-đàm (Upanisadam-api)[4] là một phần cực nhỏ, là con số nhỏ nhất, “diệc bất cập nhất” (cũng chẳng bằng một phần).

          Đây là nói đảo lại. Nói đảo lại như thế nào? Trong phần trước đă nói những con số. Sau đó lại đem công đức của vị Sát-đế-lợi, tức Sát-đế-lợi thiện vương, chân thiện Sát-đế-lợi, [tức công đức do] bản thân nhà vua chẳng dính mắc mười ác luân, khuyên người khác đừng dính mắc mười ác luân, xa ĺa mười ác luân để so sánh từng bước. Hiện thời, nói đảo lại, chẳng nhắc lại công đức của vị chân thiện Sát-đế-lợi vương, vẫn nhằm chỉ rơ: Công đức ấy, hoặc phước đức của người đă làm những việc như tạo tháp thờ xá-lợi của Phật dẫu nhiều ngần ấy, vẫn chẳng thể sánh bằng một phần công đức của vị chân thiện vương xa ĺa mười ác luân và khuyên người khác xa ĺa mười ác luân. Không chỉ là chẳng bằng một phần mười, chẳng bằng một phần trăm, mà cho đến một phần của câu-chi phần cũng chẳng bằng!

          “Na-dữu-đa phần, số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm phần diệc bất cập nhất”: Mọi người hăy biết đoạn kinh văn này mang ư nghĩa hiển thị công đức và phước đức do xa ĺa mười ác luân. Đức Phật càng nói càng sâu, càng sâu càng nhiều, càng nói càng nhiều. Phước đức xa ĺa mười ác luân, cho đến dạy người khác xa ĺa mười ác luân, quả thật chẳng thể tính kể, to hơn bất cứ phước đức nảo, v́ đây là pháp xuất thế gian, liễu sanh tử. Từ nay về sau, vĩnh viễn liễu thoát, chẳng c̣n làm ác nữa. Có hàm nghĩa như thế đó!

 

          (Kinh) Hựu thiện nam tử! Giả sử hữu đắc Ba La Mật Đa, cụ bát giải thoát, Tĩnh Lự, Đẳng Chí đại A La Hán, biến măn tam thiên đại thiên thế giới, như đạo, ma, trúc, vi, cam giá, tùng lâm, nhất thiết giai bị kiên phược ngũ xứ, kinh bách thiên niên. Thời hữu nhất nhân, xuất hiện ư thế, cụ đại oai lực, nhạo phước đức cố, tất giải bị phược chư A La Hán, hương thang tháo dục, phụng thí y bát, kinh bách thiên niên, cấp thượng pḥng xá, sàng, phu, y phục, ẩm thực, y dược, chủng chủng sở tu như pháp tư cụ. Chư A La Hán bát Niết Bàn dĩ, cúng dường phần thiêu, thâu thủ xá-lợi, dĩ diệu thất bảo, khởi tốt-đổ-ba, an trí kỳ trung. Phục dĩ chủng chủng bảo tràng, phan, cái, hương, hoa, kỹ nhạc, nhi cúng dường chi. Như tiền sở thuyết vị Phật xá-lợi khởi tốt-đổ-ba sở hoạch phước tụ, loại thử sở thuyết giải A La Hán cúng dường phước tụ, ư bách phần trung, bất cập kỳ nhất, ư thiên phần trung, diệc bất cập nhất, ư bách thiên phần, diệc bất cập nhất, ư câu-chi phần, diệc bất cập nhất, na-dữu-đa phần, số phần, toán phần, kế phần, dụ phần, năi chí ổ-ba-ni-sát-đàm phần, diệc bất cập nhất.     ()又善男子,假使有得波羅密多,具八解脫靜慮等至大阿羅漢,徧滿三千大千世界,如稻、麻、竹葦、甘蔗、叢林,一切皆被堅縛五處,經百千年,時有一人出現於世,具大威力,樂福德故,悉解被縛諸阿羅漢,香湯澡浴,奉施衣缽,經百千年,給上房舍、床敷、衣服、飲食、醫藥,種種所須如法資具,諸阿羅漢般涅槃已,供養焚燒收取舍利,以妙七寶起窣堵波安置其中,復以種種寶幢、幡蓋、香華、伎樂而供養之,如前所說,為佛舍利起窣堵波,所獲福聚,類此所說,解阿羅漢供養福聚,於百分中不及其一,於千分中亦不及一,於百千分亦不及一,於俱胝分亦不及一,那庾多分、數分算分、計分喻分乃至鄔波尼殺曇分,亦不及一。

          (Kinh: Lại này thiện nam tử! Giả sử có các vị đại A La Hán đắc Ba La Mật Đa, đủ tám giải thoát, Tĩnh Lự, Đẳng Chí, trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới như lúa, mè, tre, lau, mía, rừng cây, hết thảy đều bị trói chặt năm chỗ, trải qua trăm ngàn năm. Khi đó, có người xuất hiện trong cơi đời, có oai lực lớn, do ưa thích phước đức, đều cởi trói cho các vị A La Hán, dùng nước thơm tắm gội, dâng thí y, bát. Trải qua trăm ngàn năm, dâng hiến pḥng ốc bậc thượng, giường, mền, y phục, thức ăn, thuốc men, các thứ vật dụng cần thiết dụng đúng pháp. Các vị A La Hán đă nhập Niết Bàn rồi, người ấy bèn cúng dường, hỏa thiêu, thâu nhặt xá-lợi, dùng bảy báu mầu nhiệm để dựng tháp, đặt ở trong ấy. Lại dùng các thứ tràng báu, phan, lọng, hương, hoa, kỹ nhạc để cúng dường. Phước tích tụ do dựng tháp thờ xá-lợi của Phật như trong phần trước đă nói, đem so với với phước tích tụ do cởi trói và cúng dường các A La Hán này th́ chẳng bằng một phần trăm, cũng chẳng bằng một phần ngàn, cũng chẳng bằng một phần trăm ngàn, cũng chẳng bằng phần một phần câu-chi, một phần na-dữu-đa, một phần số, một phần toán, một phần kế, một phần dụ, cho đến một phần ổ-ba-ni-sát-đàm, cũng đều chẳng bằng).

 

          Đây là nói một chút phần công đức, [tức là] vẫn chẳng sánh bằng một phần cực nhỏ công đức của vua Sát-đế-lợi [chẳng hành thập ác luân].

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập, diệc thường khuyến tha ly thập ác luân, sở hoạch phước đức, quá tiền phước tụ vô lượng, vô biên, bất khả xưng kế, như sanh phước số, diệt tội diệc nhĩ.

          ()善男子,若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪,所獲福德,過前福聚無量無邊,不可稱計。如生福數,滅罪亦爾。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… đối với mười ác luân tự ḿnh chẳng tiêm nhiễm, cũng thường khuyên người khác ĺa mười ác luân, sẽ đạt được phước đức vượt quá phước tích tụ trên đây vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể. [Do công đức ấy cũng có thể] diệt tội giống như số lượng phước đă sanh khởi).

 

          Các chân thiện Bà-la-môn ấy tự ḿnh chẳng tiêm nhiễm mười ác luân, cũng khuyên người khác chẳng tiêm nhiễm, sẽ đạt được phước đức vượt quá lượng phước tích tập như đă nói trên đây vô lượng, vô biên, chẳng thể tính kể lần. Trong phần trước [đă nói các thiện sự từ dùng bảy báu đầy ắp tứ đại bộ châu để cúng dường hằng ngày ba lượt suốt trăm ngàn năm] cho đến tạo tháp, miếu, cứ từng bước, từng tầng một so sánh, [dẫu cho] càng lúc càng to lớn, càng nhiều hơn, vẫn đều chẳng bằng phước đức do các vị chân thiện Bà-la-môn đạt được v́ tự ḿnh chẳng tiêm nhiễm mười ác luân này, và cũng khuyên người khác ĺa mười ác luân. [Đó là ư nghĩa của câu] “quá tiền phước tụ vô lượng, vô biên, bất khả xưng kế, như sanh phước số, diệt tội diệc nhĩ”.

          Khi người ấy c̣n sống, phước đức chẳng thể nghĩ bàn, tiêu diệt tội ác cũng thế, cũng giống hệt như phước đức. Cũng có nghĩa là: Người ấy có thể dần dần thành Phật. Ĺa thập Ác là Thập Thiện. Thập Ác và Thập Thiện có điểm khác biệt là ǵ? Người ấy khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa mười ác, cũng là cung kính cúng dường Tam Bảo, trụ thế Tam Bảo, khiến cho Phật pháp vĩnh viễn tồn tại trên thế gian, khiến cho pháp nhăn của chúng sanh chẳng bị đoạn tuyệt, chúng sanh trong vị lai đắc độ càng nhiều hơn. Điều này chẳng thể đo lường được. Dựa theo điều này để suy đoán, phước đức ấy chẳng thể suy lường được! Thị hiện [bố thí] của cải, cho đến dựng tháp, cho đến tất cả các thứ cúng dường, đều là hữu hạn. V́ sao? Những thứ ấy vẫn thuộc về tướng thế gian. Khiến cho con người ĺa thập ác th́ thuộc về xuất thế gian.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, cập chư chân thiện tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng, ư vị lai thế, hậu ngũ bách tuế, pháp dục diệt thời, năng thiện hộ tŕ ngă chi pháp nhăn, năng tự thiện hộ, diệc thiện hộ tha, thiện hộ hậu thế, thiện hộ ngă pháp xuất gia đệ tử, nhược thị pháp khí, nhược phi pháp khí, hạ chí vô giới, thế trừ tu phát, bị ca-sa giả, phổ thiện thủ hộ, cung kính cúng dường, linh vô tổn năo. Hựu năng thiện hộ tam thừa chánh pháp. Thính thọ cúng dường Thanh Văn pháp thời, ư Độc Giác Thừa, cập Đại Thừa pháp, bất sanh phỉ báng. Ư Độc Giác Thừa, cập Đại Thừa nhân, diệc bất tăng tật. Thính thọ cúng dường Độc Giác pháp thời, ư Thanh Văn Thừa, cập Đại Thừa pháp, bất sanh phỉ báng. Ư Thanh Văn Thừa, cập Đại Thừa nhân, diệc bất tăng tật. Thính thọ cúng dường Đại Thừa pháp thời, ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, bất sanh phỉ báng. Ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa nhân, diệc bất tăng tật. Ư Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa pháp, bất cầu thú chứng, duy cầu thú chứng Đại Thừa chánh pháp. Ư trụ Đại Thừa, cụ giới, phú đức, tinh cần tu hành, năi chí trụ quả Bổ Đặc Già La, đa số thân cận, thừa sự, cúng dường, thâm tâm kính trọng, thỉnh vấn, thính thọ.

          ()善男子,若有真善剎帝利王,及諸真善宰官、居士、長者、沙門、婆羅門等,於未來世後五百歲法欲滅時,能善護持我之法眼,能自善護,亦善護他,善護後世,善護我法出家弟子,若是法器,若非法器,下至無戒剃除鬚髮被袈裟者,普善守護,恭敬供養,令無損惱。又能善護三乘正法,聽受供養聲聞法時,於獨覺乘及大乘法不生誹謗,於獨覺乘及大乘人亦不憎嫉;聽受供養獨覺法時,於聲聞乘及大乘法不生誹謗,於聲聞乘及大乘人亦不憎嫉;聽受供養大乘法時,於聲聞乘、獨覺乘法不生誹謗,於聲聞乘、獨覺乘人亦不憎嫉;於聲聞乘、獨覺乘法,不求趣證,唯求趣證大乘正法。於住大乘具戒富德,精勤修行,乃至住果補特伽羅,多數親近,承事供養,深心敬重,請問聽受。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương và các chân thiện tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v… trong đời vị lai, năm trăm năm cuối, khi pháp sắp diệt, có thể khéo hộ tŕ pháp nhăn của ta, có thể khéo tự hộ tŕ, mà cũng khéo hộ tŕ người khác, khéo hộ tŕ đệ tử xuất gia trong pháp của ta, dù là pháp khí, hay chẳng phải pháp khí, thậm chí kẻ chẳng có giới, cạo bỏ râu tóc, đắp y ca-sa, đều khéo thủ hộ trọn khắp, cung kính cúng dường, khiến cho họ chẳng bị tổn hại, năo loạn. Lại có thể khéo hộ tŕ chánh pháp tam thừa. Khi nghe nhận, cúng dường pháp Thanh Văn, đối với pháp Độc Giác Thừa và pháp Đại Thừa, chẳng sanh phỉ báng. Đối với người [tu tập] pháp Độc Giác Thừa và pháp Đại Thừa, cũng chẳng ghen ghét. Khi nghe nhận, cúng dường pháp Độc Giác, đối với pháp Thanh Văn Thừa và pháp Đại Thừa, chẳng sanh phỉ báng. Đối với người [tu tập] pháp Thanh Văn Thừa và pháp Đại Thừa, cũng chẳng ghen ghét. Khi nghe nhận, cúng dường pháp Đại Thừa, đối với pháp Thanh Văn Thừa và pháp Độc Giác Thừa, chẳng sanh phỉ báng. Đối với người [tu tập] Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa, cũng chẳng ghen ghét. Đối với pháp Thanh Văn Thừa và Độc Giác Thừa chẳng cầu chứng nhập, chỉ cầu chứng nhập chánh pháp Đại Thừa. Đối với Bổ Đặc Già La trụ Đại Thừa, đủ giới, giàu đức, siêng ṛng tu hành, cho đến trụ quả vị, nhiều lượt thân cận, thừa sự, cúng dường, thâm tâm kính trọng, thưa hỏi, nghe nhận).

 

          Trong đoạn kinh văn này, Phật lại nêu thí dụ để nói. Nếu ĺa mười ác luân, “nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, cập chư chân thiện tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn đẳng” (nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương và các chân thiện tể quan, cư sĩ, trưởng giả, sa-môn, Bà-la-môn v.v…), năm trăm năm sau trong đời vị lai, “hậu ngũ bách tuế” là nói về năm trăm năm cuối cùng [trong thời Mạt Pháp]. Ở đây, có hai cách nói:

          1) Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng Pháp năm trăm năm, Mạt Pháp năm trăm năm. Đấy là một cách nói bao gồm một ngàn năm trăm năm. [Thuyết này] có khi nói là Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng Pháp năm trăm năm, Mạt Pháp một ngàn năm.

          2) Thuyết khác là Chánh Pháp và Tượng Pháp đều một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm.

          Mấy cách nói ấy hoàn toàn chẳng tương đồng, ở đây chỉ nói tới năm trăm năm cuối cùng. [Nếu hiểu] Mạt Pháp một vạn năm th́ khi chín ngàn năm trăm năm đă qua, chỉ c̣n lại năm trăm năm, lúc đó, pháp sắp diệt.

          Khi Phật pháp hăy c̣n, tức là nói thời Mạt Pháp hăy c̣n tồn tại rất dài. [Ở đây] nói khi pháp sắp diệt, trong năm trăm năm cuối cùng, vào lúc đó, dẫu trong lúc Tam Vũ diệt Phật cũng thế, chúng ta cho rằng vẫn chưa đến lúc pháp diệt, pháp ấy có thể tồn tại trong thế gian. Người ấy không chỉ hộ tŕ chính ḿnh, mà c̣n khéo hộ tŕ người khác, cũng khéo hộ tŕ các đệ tử xuất gia theo pháp của đức Phật trong đời sau. Bất luận [người xuất gia ấy] tŕ giới hay chẳng tŕ giới, là pháp khí hay chẳng phải pháp khí, cho đến chẳng thọ giới, hễ vừa cạo bỏ râu tóc, “bị thượng ca-sa” (khoác áo ca-sa), thậm chí ca-sa ấy là ca-sa của sa-di, giống như mạn y[5] của chúng ta, chẳng phải là phước điền y.

          “Phổ thiện thủ hộ, cung kính cúng dường” (khéo có thể thủ hộ trọn khắp, cung kính cúng dường): Xa ĺa mười ác luân, vua Sát-đế-lợi ấy “năi chí Bà-la-môn đẳng” (cho đến hàng Bà-la-môn) có thể khéo hộ tŕ Phật pháp, có thể khiến cho Phật pháp trụ thế, khiến cho những người học pháp ấy chẳng bị tổn hại, năo loạn, b́nh đẳng hộ tŕ chánh pháp tam thừa. Đối với những phần kinh văn sau đó, quư vị hiểu ư nghĩa như vậy là được rồi. Hộ tŕ pháp Thanh Văn, chẳng hủy báng pháp Độc Giác, chẳng hủy báng pháp Đại Thừa. Hộ tŕ pháp Độc Giác, chẳng hủy báng pháp Thanh Văn, chẳng hủy báng pháp Đại Thừa. Vậy th́ khi cúng dường pháp Đại Thừa, người ấy cũng chẳng hủy báng pháp Thanh Văn, cũng chẳng hủy báng pháp Độc Giác. Trong tam thừa, người ấy tin theo thừa nào, sẽ chẳng hủy báng hai thừa kia, phải cùng hộ tŕ tam thừa. Cũng chẳng ghét bỏ, cũng chẳng hủy báng, mà phải b́nh đẳng cúng dường. Nếu như Bổ Đặc Già La là bậc trụ quả, tức là trụ trong Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả. “Trụ quả” là nói đến toàn bộ La Hán Thừa Thanh Văn Thừa. Người ấy đều phải “thân cận cúng dường, thâm tâm kính trọng, thỉnh vấn, thính thọ” (thân cận cúng dường, thâm tâm kính trọng, thưa hỏi, nghe nhận).

 

          (Kinh) Viễn ly phá giới, ác hạnh bật-sô. Ư chư sở thí tứ phương Tăng vật, chung bất linh nhân phi pháp phí dụng, cần gia thủ hộ, cúng tứ phương Tăng. Ư tốt-đổ-ba, cập Tăng Kỳ vật, chung bất tự đoạt, bất giáo tha đoạt, diệc bất tự dụng, bất giáo tha dụng. Ư năng biện thuyết tam thừa pháp nhân, cung kính cúng dường, gia hộ dữ lực, bất linh tha nhân phỉ báng, hủy nhục. Tôn trọng, an ủy chư xuất gia nhân. Tín thọ, hộ tŕ Như Lai thánh giáo. Chung bất phá hoại chư tốt-đổ-ba. Diệc thường hộ tŕ tứ phương Tăng tự. Ư ngă xuất gia chư đệ tử sở, chung bất hủy phế, hoàn tục sách sử. Ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập, diệc thường khuyến tha ly thập ác luân. Cụ học tiên vương trị quốc chánh pháp. Thập Thiện nghiệp đạo, nhiếp hóa thế gian. Thường đương thân cận chư thiện tri thức, thiệu Tam Bảo chủng, thường linh xí thịnh, thiện hộ pháp nhăn, linh bất diệt một. Như thị chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, do cụ như thị chư công đức cố, danh bất hư thọ quốc nhân bổng lộc. Nhất thiết thiên, long, Dược Xoa quỷ thần, năi chí Yết Trá Bố Đát Na đẳng, giai sanh hoan hỷ, từ bi ủng hộ nhất thiết pháp khí, chân thật phước điền, diệc sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm.

          ()遠離破戒惡行苾芻。於諸所施四方僧物,終不令人非法費用,勤加守護,供四方僧。於窣堵波及僧祇物,終不自奪,不教他奪,亦不自用,不教他用。於能辯說三乘法人,恭敬供養,加護與力,不令他人誹謗毀辱。尊重安慰諸出家人,信受護持如來聖教,終不破壞諸窣堵波,亦常護持四方僧寺。於我出家諸弟子所,終不毀廢還俗策使。於十惡輪自不染習,亦常勸他離十惡輪,具學先王治國正法,十善業道攝化世間。常當親近諸善知識,紹三寶種,常令熾盛,善護法眼,令不滅沒。如是真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,由具如是諸功德故,名不虛受國人俸祿,一切天、龍、藥叉鬼神,乃至羯吒布怛那等,皆生歡喜,慈悲擁護一切法器真實福田,亦生歡喜慈悲護念。

          (Kinh: Xa ĺa bật-sô phá giới, ác hạnh. Đối với những vật cúng thí cho tứ phương Tăng, trọn chẳng để cho người khác sử dụng phung phí phi pháp, càng thêm siêng năng thủ hộ, cúng dường tứ phương Tăng. Đối với vật dụng trong tháp và vật dụng của Tăng chúng, trọn chẳng tự chiếm đoạt, hay dạy người khác chiếm đoạt, cũng chẳng tự dùng, dạy người khác dùng. Đối với bậc có thể biện thuyết pháp tam thừa, bèn cung kính cúng dường, gia tăng, hộ tŕ thế lực, chẳng để cho kẻ khác phỉ báng, hủy nhục [vị ấy]. Tôn trọng, an ủi các vị xuất gia, tin nhận, hộ tŕ thánh giáo của Như Lai. Trọn chẳng phá hoại các ṭa tháp, cũng thường hộ tŕ chùa của tứ phương Tăng. Đối với các đệ tử xuất gia của ta, trọn chẳng hủy phế, ép buộc họ hoàn tục. Đối với mười ác luân, trọn chẳng tiêm nhiễm, cũng thường khuyên kẻ khác ĺa mười ác luân. Học đầy đủ chánh pháp trị quốc của tiên vương. Dùng Thập Thiện Nghiệp Đạo nhiếp hóa thế gian. Thường xuyên thân cận các vị thiện tri thức, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo, khiến cho thường hưng thịnh, khéo hộ tŕ pháp nhăn, chẳng để diệt mất. Các chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến chân thiện Bà-la-môn như vậy do trọn đủ các công đức như thế, gọi là chẳng luống nhận bổng lộc của nhân dân. Hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, quỷ thần, cho đến Yết Trá Bố Đát Na v.v… đều sanh hoan hỷ, từ bi ủng hộ hết thảy pháp khí, phước điền chân thật cũng sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm).

 

          Xa ĺa bật-sô phá giới, ác hạnh. Ác hạnh tỳ-kheo có thể chuyển hóa; ở đây là nói [xa ĺa] những tỳ-kheo ác hạnh chẳng thể chuyển hóa. Họ chẳng nghe nhận, chẳng thể hưởng dụng vật cúng thí cho tứ phương Tăng. Hễ họ hưởng dụng, sẽ là phi pháp. “Cần gia thủ hộ” (càng thêm siêng năng thủ hộ): Hộ tŕ các vật thuộc về Tăng chúng thanh tịnh, không cho các tỳ-kheo ác hạnh hưởng dụng. “Ư năng biện thuyết tam thừa pháp nhân, cung kính cúng dường” (đối với người có thể biện luận, giảng nói pháp tam thừa, đều cung kính cúng dường): Cúng dường ǵ vậy? Đối với người có thể thuyết pháp tam thừa, bèn cung kính cúng dường, tăng thêm sức hộ tŕ.

          Tuy đă phá giới, người ấy vẫn có thể giải thích các pháp, th́ cũng phải cung kính cúng dường người ấy, thỉnh người ấy thuyết pháp, mà cũng chẳng để cho kẻ khác hủy báng người ấy. Tôn trọng, an ủi hết thảy người xuất gia. Tin nhận, hộ tŕ thánh giáo của Như Lai như vậy. Phàm là pháp do đức Phật đă nói, cũng chính là lời dạy của đức Phật, đều là thánh giáo. Bậc đại thánh nhân chẳng phá hoại pháp, chẳng phá hoại người học pháp, cũng chẳng phá hoại tốt-đổ-ba, chẳng phá hoại chùa, tháp. Có những kẻ phá hoại tháp, miếu. Hiện thời, ở đây chúng ta chẳng thấy; nhưng nếu quư vị sang Đại Lục du lịch, bất luận đến một đạo tràng nào, quư vị sẽ thấy tháp, miếu bị phá hoại, chùa chiền bị thiêu hủy. Tạo những tội ấy chẳng thể nghĩ bàn. Nay ở đây đang nói đến những vị hảo nhân, hảo nhân là ai? Thiện tín thật sự, cho đến các vua Sát-đế-lợi vương, Bà-la-môn v.v… Họ không chỉ hộ tŕ người xuất gia chân chánh, mà c̣n hộ tŕ pháp, hộ tŕ chùa, hộ tŕ chùa của tứ phương Tăng và chùa miếu nơi Tăng nhân cư trụ.

          “Ư ngă xuất gia chư đệ tử sở, chung bất hủy phế, hoàn tục sách sử” (đối với các đệ tử xuất gia của ta, trọn chẳng hủy phế, áp bức họ hoàn tục): Người ấy chẳng cưỡng ép người xuất gia. Hủy hoại chùa miếu, không cho phép xuất gia, buộc họ phải hoàn tục, th́ gọi là “sách sử” (策使). Tăng nhân ở Đại Lục từng bị như thế. Dẫu sao, nhất định là có tiền nhân (前因, cái nhân từ trước) gây nên sự hủy diệt, chẳng phải là vô duyên cớ mà sanh. Thiện thần hộ pháp sẽ chẳng hộ tŕ các ác quốc vương La Sát cho đến bọn ác Bà-la-môn v.v… như thế. “Ư thập ác luân, tự bất nhiễm tập” (tự chẳng tiêm nhiễm mười ác luân), cũng thường khuyên kẻ khác ĺa mười ác luân, học trọn đủ chánh pháp trị quốc của tiên vương, học trọn đủ những điều chư Phật chỉ dạy. Nói theo Phật pháp, Thập Thiện Nghiệp Đạo nhiếp hóa thế gian. Thập Thiện Nghiệp Đạo có cạn và sâu. Nếu bản thân chúng ta có thể chẳng giết, chẳng trộm, chẳng tà dâm, chẳng vọng ngữ, chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu, cho đến chẳng dấy lên tham, sân, si, tự thân thanh tịnh, cũng khuyên hết thảy chúng sanh đều như thế, chẳng tạo mười ác nghiệp, hành Thập Thiện Nghiệp, dùng Thập Thiện Nghiệp để “nhiếp hóa thế gian, thường thời thân cận thiện tri thức” (nhiếp hóa thế gian, thường luôn thân cận thiện tri thức). Liên quan đến thiện tri thức th́ Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận[6] đă giảng rất cặn kẽ.

          “Thiệu Tam Bảo chủng” (nối tiếp chủng tánh Tam Bảo): Khiến cho chủng tánh Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt. Chủng tánh Phật Bảo chẳng đoạn tuyệt, tức là hễ có [tượng Phật, Bồ Tát] bằng đất nặn, gỗ khắc, cho đến h́nh in hoặc vẽ trên giấy, đều coi là Phật Bảo. Đó là hóa thân của Phật Bảo. Chúng ta thấy tượng giấy, tượng đất, tượng gỗ khắc, bèn coi đó là hóa thân của chư Phật. Khi đức Phật ở trên cung trời Đao Lợi nói kinh Địa Tạng đă quá lâu, quốc vương, đại thần, và các đại đệ tử tưởng nhớ Phật, thỉnh họa sĩ vẽ tượng, vẽ h́nh tượng Phật. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật từ trên trời trở lại nhân gian, bức tượng vẽ ấy tự ḿnh đến nghênh tiếp đức Phật. Do tượng ấy có sự thù thắng riêng, mọi người mới tôn kính. Quư vị đừng thấy đó là giấy, đừng coi đó là tượng đất, gỗ khắc. Nếu quư vị nghĩ đó là Phật thật th́ sẽ thật sự là Phật. Nếu trong tâm cho rằng đó là bùn, cho rằng đó là giấy, th́ nó chỉ là h́nh vẽ trên giấy!

          Tổ sư Đơn Hà chẻ tượng Phật, muốn t́m xá-lợi trong tượng Phật. Vị ḥa thượng kia bảo Ngài: “Đó tượng tạc bằng gỗ, làm sao có xá-lợi cho được?” Lời ấy chẳng hoàn toàn đúng; đó là v́ công lực tu hành của quư vị chẳng đủ. Có khi h́nh tượng trên giấy có thể sanh ra xá-lợi. Công lực trọn đủ, giấy có thể sanh ra xá-lợi. Quư vị thấy trong Cảm Ứng Lục có chép [những câu chuyện như thế]: Từ kinh sách xuất hiện xá-lợi. Quốc sư Thanh Lương đọc kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm xuất hiện xá-lợi. Xá-lợi từ trong kinh sách rớt ra. Trong quá khứ, chuyện như vậy rất nhiều. Đấy đều là v́ đạo đức cảm ứng gia tŕ, hoàn toàn chẳng có ǵ đáng ngạc nhiên! Nếu quư vị tu, cũng có thể đạt được!

          Có khi trong Đại Tạng Kinh, mở Tạng Kinh ra tụng, sẽ sanh ra xá-lợi. Xá-lợi từ chỗ nào trong Tạng Kinh xuất hiện? Đó là do thiện thần hộ pháp cúng dường. Do vậy, tùy thuộc người tu đạo dùng tâm t́nh như thế nào để làm chuyện ấy. Công đức ấy là do tâm quư vị mà quyết định, chẳng phải là do hành vi đă làm mà quyết định. Quư vị phải hiểu đạo lư này. Sau khi đă biết, lúc quư vị tụng kinh, học pháp, nghe pháp, tâm quư vị sẽ có một loại cảm ứng, hoàn toàn chẳng phải là bên ngoài hiện tướng chi đó! Dẫu phóng quang, cũng đừng coi đó là thật. Chỉ cần trong tâm quư vị đoạn phiền năo th́ mới là thật. Tâm chẳng phiền năo, thường ǵn giữ sự vui sướng thanh tịnh. Đó là thật, đấy là Pháp Thân của chính quư vị hiển hiện. Các hiện tượng được thấy từ bên ngoài đều là của người khác, chẳng phải là của quư vị. Cái thật sự của quư vị là trong tâm thanh lương, vĩnh viễn chẳng có nhiệt năo. Người ta đánh, chửi, vũ nhục quư vị, quư vị đều [cảm thấy] tốt lắm, tiêu nghiệp chướng của ta. Giống như kinh Kim Cang đă dạy: Bị kẻ khác khinh mạn, vũ nhục, tức là trong đời trước quư vị đă tạo tội nghiệp đáng đọa địa ngục thọ báo, nay [do bị khinh mạn, vũ nhục, cho nên] vẫn chưa phải hứng chịu, tội nặng mà chịu báo nhẹ, quư vị đă chiếm tiện nghi to lớn!

          Nếu ai chửi bới, quư vị nói A Di Đà Phật; khi ấy, quư vị niệm như vậy là thích đáng. Hoàn toàn chẳng phải là như khi gọi điện thoại, người ta hỏi quư vị: “Ai đó?”, bèn đáp: “A Di Đà Phật!” Vậy là không được rồi, quư vị đâu có phải là A Di Đà Phật! Người ta hỏi quư vị là ai cơ mà! Hiện thời, khi gọi điện thoại thường xuyên có [t́nh huống] như khi được hỏi: “Vị nào vậy?” [Người gọi trả lời]: “A Di Đà Phật!” Tôi nói: “Quư vị là A Di Đà Phật à?” Chúng tôi có nhiều đệ tử, hễ gọi điện thoại muốn nói chuyện với tôi, tôi vừa hỏi: “Vị nào vậy?” [Nghe đáp] “A Di Đà Phật”, tôi tưởng A Di Đà Phật gọi điện thoại cho tôi chứ! Có người cho rằng: “Nói năng trả lời đều niệm A Di Đà Phật th́ dường như ta rất dụng công, chỗ nào cũng đều chẳng ĺa khỏi A Di Đà Phật”. Thật ra, chẳng biết cái tâm đă chạy đến đâu mất rồi! V́ thế, pháp này phải khéo dùng, phải khéo dụng tâm!

          Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta: Người có trí huệ khéo dùng cái tâm, đừng dùng sai chỗ! Dùng sai chỗ, không chỉ chẳng có lợi, mà c̣n hỏng bét! Người khác nghe thấy, sẽ rất khinh miệt, phải hiểu đạo lư này! Nói chúng ta không cần niệm kinh, lạy Phật, mà cứ mong cầu cảm ứng chi đó, [chẳng hạn như] hiện quang minh, bấc đèn hiện hoa, các chuyện ấy chẳng thấy đem lại cho quư vị lợi lạc chi cả! Chỉ là khiến cho quư vị tăng thêm tín tâm, khiến cho tín tâm của quư vị tốt hơn một chút, chứ quư vị chẳng đạt được lợi ích thật sự chi hết! Lợi ích thực tế là ǵ? Vào lúc đáng nẩy sanh phiền năo, sẽ chẳng có phiền năo! Đối với người khác, đấy là phiền năo không ngằn, c̣n nơi quư vị sẽ là hoan hỷ, chẳng sầu năo, sống lâu hơn một chút, bệnh tật cũng ít hơn!

          Do vậy, hễ có bệnh th́ vẫn phải trị. Đức Phật cũng nói đến chuyện chữa bệnh, nhưng quư vị phải biết nguyên nhân gây ra bệnh. Cái nhân quư vị đă tạo trong quá khứ, chỉ trông cậy vào y dược của thế gian sẽ chẳng đủ, quư vị phải trả nợ mà! Y dược thế gian chẳng thể bệnh ǵ cũng đều chữa được! Quư vị muốn uống thứ ǵ tốt một chút để kéo dài mạng sống ư? Tôi thấy trong quá khứ, đế vương, quan lại, người nào chẳng có tiền? Có hoàng đế nào chẳng ăn ngon? Họ có thể kéo dài thọ mạng hay không? Chẳng thể! Quư vị tích phước, hành nhiều thiện sự hơn, phóng sanh nhiều hơn, đừng giết kẻ khác, tự nhiên là người khác chẳng giết hại quư vị. Quư vị chẳng thương tổn người khác, người khác sẽ chẳng thương tổn quư vị. Nhưng quư vị chỗ nào cũng thương tổn kẻ khác, tự nhiên phải mắc báo ứng. Người lành và kẻ ác phân biệt ở chỗ này. Phải thật sự hộ tŕ Phật pháp, thường khiến cho Tam Bảo hưng thịnh, giống như hộ tŕ con mắt của chúng sanh vậy. Đó gọi là “pháp nhăn”, khiến cho nó chẳng bị diệt mất. Sau khi chẳng bị diệt mất, hết thảy chúng sanh c̣n có pháp để học. Sau khi đă học, họ sẽ có thể ngộ đạo.

          “Như thị chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, do cụ như thị công đức cố, danh bất hư thọ quốc nhân bổng lộc” (Chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn như thế, do trọn đủ công đức như thế, được gọi là chẳng luống hưởng bổng lộc của dân chúng): Sát-đế-lợi vương chính là [tượng trưng cho toàn thể] quốc gia, nhân dân cả nước cung kính ông ta. Các vị đại thần ấy “nhất thiết thiên, long, Dược Xoa quỷ thần” (hết thảy trời, rồng, Dược Xoa, quỷ thần), “năi chí Yết Trá Bố Đát Na” (cho đến Yết Trá Bố Đát Na), “thần” là thần vương. Các vị thần vương ấy đều sanh ḷng hoan hỷ, ngay cả các ác quỷ vương đều sanh hoan hỷ. “Từ bi ủng hộ nhất thiết pháp khí, chân thật phước điền diệc sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm” (Từ bi ủng hộ hết thảy pháp khí, ruộng phước chân thật, cũng sanh hoan hỷ, từ bi hộ niệm).

 

          (Kinh) Do thị nhân duyên, sở cư quốc độ, cập chư hữu t́nh, triển chuyển xí thịnh, an ổn phong lạc, lân quốc binh qua bất năng xâm hại, giai kính mộ đức, tự lai quy phụ. Do thử triển chuyển khuyến tu thiện nghiệp, khô kiệt ác thú, tăng trưởng thiên nhân, thủ hộ thân mạng, linh đắc trường viễn, tự diệt phiền năo, diệc linh tha diệt, trụ tŕ Bồ Đề đạo, Lục Ba La Mật Đa, phá hoại nhất thiết chúng tà ác đạo, ư sanh tử hải, bất cửu trầm luân, thường ly ác hữu, thường cận thiện hữu, sanh sanh thường ngộ chư Phật, Bồ Tát, cung kính thừa sự, tằng vô tạm phế, bất cửu giai đương tùy tâm sở nhạo, các các an trụ ư Phật quốc độ, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

          ()由是因緣,所居國土及諸有情,展轉熾盛安隱豐樂;鄰國兵戈不能侵害,皆敬慕德,自來歸附。由此展轉勸修善業,枯竭惡趣,增長天人,守護身命,令得長遠,自滅煩惱,亦令他滅,住持菩提道、六波羅蜜多,破壞一切眾邪惡道。於生死海,不久沉淪,常離惡友,常近善友,生生常遇諸佛菩薩,恭敬承事,曾無暫廢。不久皆當隨心所樂,各各安住於佛國土,證得無上正等菩提。

          (Kinh: Do nhân duyên ấy, quốc độ đang ở và các hữu t́nh lần lượt hưng thịnh, an ổn, giàu vui. Các nước lân cận chẳng dấy binh xâm lấn, đều kính yêu, hâm mộ đức, tự đến quy phục, xin phụ thuộc. Do vậy, lần lượt khuyên tu thiện nghiệp, khô cạn đường ác, tăng trưởng trời, người, thủ hộ thân mạng khiến cho dài lâu, tự diệt phiền năo, cũng diệt [phiền năo] cho người khác, trụ tŕ Bồ Đề đạo, Lục Ba La Mật Đa, phá hoại hết thảy các tà ác đạo, chẳng c̣n trầm luân lâu dài trong biển sanh tử, thường ĺa bạn ác, thường gần bạn lành, đời đời thường gặp chư Phật, Bồ Tát, cung kính thừa sự, chưa từng tạm bỏ. Chẳng lâu sau, sẽ đều thuận theo ḷng muốn, ai nấy đều an trụ trong Phật quốc độ, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề).

 

          Quốc gia ấy hết sức an định, cuộc sống hết sức vui sướng. “An ổn phong lạc” (an ổn, giàu có, vui sướng): Thậm chí các nước láng giềng đều chẳng thể xâm lấn. Binh lực [của họ] “bất năng xâm hại, giai kính mộ đức” (chẳng thể xâm lăng, gây hại, đều kính mộ đức), cung kính quốc gia ấy, tán thán đức hạnh của quốc gia ấy. Họ tự nhiên quy thuận quư vị. Quư vị chẳng cần phải tranh đoạt, chẳng cần phải thảo phạt. Chỉ cần là bậc có đức, người khác đều cung kính quư vị. Quư vị dùng bạo lực mong hàng phục người khác. Hôm nay họ khuất phục, ngày mai họ lại chẳng phục, lại làm phản!

          Đời Đường, thực lực quốc gia cường thịnh, đối đăi các nước chung quanh, chẳng hạn như đối với dân tộc Thổ Phồn[7]. Dân Thổ Phồn cũng là người Tây Tạng, từ Thanh Hải cho đến Tây Tạng, chinh chiến nhiều năm, từ đời Đường măi cho đến đời Thanh. Thời thịnh trị dưới đời hoàng đế Càn Long nhà Thanh, chiến tranh lớn nhỏ đă chết rất nhiều người. Từ nội địa [Trung Hoa], phát binh đánh sang Tây Khang, cho đến chỗ giáp ranh với Tây Tạng, tức vùng Đại Kim Xuyên và Tiểu Kim Xuyên, những nơi ấy gặp tai họa chiến tranh từ năm này qua tháng khác. Đấy là thời thịnh trị Càn Long đấy nhé. Nếu chẳng phải là đời thịnh trị, chiến tranh lại càng chẳng cần phải nói nữa, xâm hại lẫn nhau. Hễ nơi nào có chiến tranh, nơi đó sẽ có tai dịch lưu hành, tức là chỗ ôn dịch lây lan, gió trái mùa, thủy tai v́ nước dâng không đúng thời, hỏa tai do lửa cháy đột ngột, chẳng nên cháy mà cứ cháy. Đấy là Tứ Đại Chủng tứ giới xâm hại, do chẳng làm chuyện lành. Đó là quả báo.

          Nhưng trong thời Mạt Pháp, các hiện tượng [thịnh trị] ấy chẳng thể nào có! V́ sao chẳng thể có? Do ḷng người chẳng có khả năng [tạo nên những hiện tượng thịnh trị được]. Nếu ḷng người có khả năng th́ sẽ là Chánh Pháp, chẳng gọi là Mạt Pháp. Nhưng chúng ta chẳng thể đ̣i hỏi toàn thể đều như vậy, cốt sao mỗi cá nhân chúng ta đều nên tạo khả năng. Nếu tâm quư vị thuần hành Thập Thiện Nghiệp, Chánh Pháp sẽ trụ thế, ta duy tŕ Phật pháp trong cơi đời, tuyên dương Phật pháp, hành Thập Thiện Nghiệp, chẳng năo hại bất cứ ai, mà bất cứ ai cũng chẳng năo hại ta. Ta không báo thù, chỉ đ̣i hỏi chính ḿnh, như vậy th́ sẽ là hành Bồ Đề đạo, Phật pháp sẽ trụ thế lâu dài, Bồ Đề đạo cũng trụ thế. Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, Thiền Định, Bát Nhă, Lục Ba La Mật đều trụ thế lâu dài. “Phá hoại nhất thiết chúng tà ác đạo, ư sanh tử hải bất cửu trầm luân” (phá hoại hết thảy các tà ác đạo, chẳng c̣n trầm luân dài lâu trong biển sanh tử): Sẽ chẳng có biển sanh tử, nó chẳng tồn tại, mà trầm luân cũng chẳng có!

          “Thường ly ác hữu, thường cận thiện hữu, sanh sanh thường ngộ chư Phật, Bồ Tát” (thường ĺa bạn ác, thường gần bạn lành. Đời đời thường gặp chư Phật, Bồ Tát): Mọi người đừng cho rằng triều bái Ngũ Đài Sơn là gieo đại thiện căn chẳng thể nghĩ bàn, [cho nên người sống tại Ngũ Đài Sơn đều là thiện nhân]! Quư vị triều bái Ngũ Đài Sơn là đă gieo đại thiện căn, nhưng người sanh trưởng tại Ngũ Đài Sơn chẳng gieo thiện căn. “Danh sơn để hạ vô thiện nhân”, [nghĩa là] “kẻ sống nơi ngọn núi nổi tiếng chẳng có người lành”! Sau khi [Đại Lục] thực hiện chánh sánh khoan dung tôn giáo, tôi dẫn các học tăng từ Trung Quốc Phật Học Viện, hơn hai mươi học tăng triều bái Ngũ Đài Sơn, đúng vào lúc tiết trời rất nóng. Ngũ Đài Sơn thuộc Đài Hoài Trấn, [trấn ấy] cũng là trung tâm của vùng Ngũ Đài. Mỗi năm đến tháng Bảy, nơi ấy có đại hội lừa ngựa. Lừa ngựa trong phạm vi từ mười đến hai mươi huyện chung quanh đều đưa tới bán tại Đài Hoài Trấn. Lúc đó, chúng tôi muốn đến đó để quét dọn tháp của Năng Hải Thượng Sư[8], muốn trèo lên Đại Loa Đảnh th́ chỗ ấy toàn là lừa với ngựa, chẳng có lợn! Các học tăng hỏi tôi: “Thưa lăo pháp sư! V́ sao Ngũ Đài Sơn có lắm lừa và ngựa như vậy?” Tôi nói: “Quư vị phải chú ư. Nếu tu hành không tốt, quư vị thác sanh, có thể chẳng thành người, mà sẽ thành lừa, ngựa”. Tôi nói: “Những con lừa, ngựa ở Ngũ Đài Sơn chính là người dân sống quanh Ngũ Đài Sơn. Những người dân ấy chuyên môn ăn cắp đồ của ḥa thượng, trộm cắp những vật trong chùa miếu. Thậm chí đá trong chùa cũng bị họ khiêng đi. Quư vị nói xem, có phải là ác hay không?” Có phải là người ở núi Phổ Đà, người ở tại núi Nga Mi đều hành thiện sự hay không? Chẳng thể nào! V́ sao? Các vị tự ḿnh đoán thử xem, hoặc tự tham cứu, suy ngẫm, sẽ biết ngay!

          Nếu có thể thường xuyên “ngộ đáo chư Phật Bồ Tát cung kính, thừa sự, tằng vô tạm phế” (gặp chư Phật, Bồ Tát bèn cung kính, thừa sự, chưa từng tạm lơi là): Dẫu trong một khoảng thời gian ngắn ngủi cũng chẳng phế xả, sẽ là “tùy tâm sở nhạo” (tùy ḷng ưa thích), quư vị muốn sanh về thế giới Cực Lạc cũng thế, mà sanh lên trời cũng thế, vĩnh viễn sanh trong thiện đạo, hoặc là [sanh về] thế giới của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, tùy tiện mong đến nơi nào, “các các an trụ ư Phật quốc độ” (ai nấy đều an trụ trong quốc độ của Phật), là Phật quốc độ thanh tịnh. Phật quốc độ thanh tịnh của mười phương vô lượng chư Phật quư vị đều đến được. Đă tới Phật quốc độ thanh tịnh, c̣n chẳng thành Phật ư? Thành tựu ngay trong một đời! Trong thế giới Cực Lạc, chẳng c̣n thọ sanh luân chuyển nữa. Dẫu thời gian dài đến mấy đi nữa, vẫn đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề rốt ráo!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, chúng trung nhất thiết thiên đế, cập chư quyến thuộc, năi chí nhất thiết Tất Xá Giá đế, cập chư quyến thuộc, tùng ṭa nhi khởi, đảnh lễ Phật túc, hiệp chưởng, cung kính, nhi bạch Phật ngôn: “Đại đức Thế Tôn! Ư vị lai thế, hậu ngũ bách tuế, ư thử Phật độ, pháp dục diệt thời, nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự năng viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn ly, thiện hộ tự tha, thiện hộ hậu thế, hộ tŕ chánh pháp, thiệu Tam Bảo chủng, giai linh xí thịnh, vô hữu đoạn tuyệt. Dĩ yếu ngôn chi, như Phật sở thuyết, như thị đẳng nhân, ư tam thừa pháp, cung kính thính thọ, chung bất ẩn tàng. Ư tam thừa nhân, hộ tŕ, cúng dường, bất linh nhiễu năo. Ư Tam Bảo vật, cần gia thủ hộ, bất linh xâm tổn. Ngă đẳng quyến thuộc, ư thử chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, cần gia ủng hộ, linh kỳ thập pháp giai đắc tăng trưởng”.

          ()爾時,眾中一切天帝及諸眷屬,乃至一切畢舍遮帝及諸眷屬,從座而起,頂禮佛足,合掌恭敬,而白佛言:「大德世尊,於未來世後五百歲,於此佛土法欲滅時,若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自能遠離,亦能勸他令其遠離,善護自他,善護後世,護持正法,紹三寶種,皆令熾盛,無有斷絕,以要言之,如佛所說。如是等人,於三乘法,恭敬聽受,終不隱藏;於三乘人,護持供養,不令擾惱;於三寶物,勤加守護,不令侵損;我等眷屬,於此真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,勤加擁護,令其十法,皆得增長。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong đại chúng, hết thảy thiên đế và các quyến thuộc, cho đến hết thảy Tất Xá Giá đế và các quyến thuộc, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay, cung kính, bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Trong đời mai sau, vào năm trăm năm cuối, trong cơi Phật này, khi pháp sắp diệt, nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương, cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… có thể tự xa ĺa mười ác luân ấy, cũng có thể khuyên người khác khiến họ xa ĺa, khéo hộ tŕ cả ḿnh lẫn người, khéo hộ tŕ đời sau, hộ tŕ chánh pháp, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo đều khiến cho hưng thịnh, chẳng bị đoạn tuyệt. Nói tóm gọn là như lời đức Phật dạy, những người như thế đối với pháp tam thừa, cung kính nghe nhận, trọn chẳng ẩn giấu. Đối với người thuộc tam thừa, hộ tŕ, cúng dường, chẳng khiến cho họ bị quấy nhiễu, năo loạn. Đối với vật thuộc về Tam Bảo, càng thêm siêng năng thủ hộ, chẳng để bị xâm phạm, tổn hại. Chúng con và quyến thuộc đối với chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn ấy, đều thêm siêng năng ủng hộ, khiến cho mười pháp ấy đều được tăng trưởng”).

 

          “Tất Xá Giá đế” là vua quỷ hút máu, Tất Xá Giá (Piśāca) là một loài quỷ. “Cập chư quyến thuộc” (và các quyến thuộc): Đây là Bồ Tát hóa hiện, đừng coi họ là quỷ. Nếu họ [thật sự] là quỷ, sẽ chẳng thể đến pháp hội này. Đó là Bồ Tát hóa hiện, thị hiện. Giống như chúng ta xem kinh Địa Tạng, thấy có rất nhiều quỷ vương. Những quỷ ấy cũng chẳng phải là b́nh phàm. Chẳng phải là quỷ vương Chủ Mạng sẽ thành Phật trong vị lai hay sao? Đức Phật thọ kư cho vị ấy, bảy mươi kiếp sau sẽ thành Phật. Đấy là bậc đại Bồ Tát thị hiện. “Tùng ṭa nhi khởi” (từ chỗ ngồi đứng dậy), chẳng phải là một người, hay hai người. Chư thiên Đế Thích, thiên đế bao gồm rất nhiều, c̣n có nhiều quyến thuộc của họ, chữ “năi chí” (cho đến) trong đoạn này diễn tả ư giản lược, [hàm nghĩa] c̣n có các quỷ vương thuộc tám bộ quỷ thần, c̣n có rất nhiều vị “đảnh lễ Phật túc, hiệp chưởng, cung kính” (đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay, cung kính); đó là nghi thức lễ kính đức Phật.

          “Nhi bạch Phật ngôn: - Đại đức Thế Tôn! Ư vị lai thế, hậu ngũ bách tuế, ư thử Phật độ, pháp dục diệt thời, nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự năng viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn ly, thiện hộ tự tha, thiện hộ hậu thế, hộ tŕ chánh pháp, thiệu Tam Bảo chủng, giai linh xí thịnh, vô hữu đoạn tuyệt” (bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đại đức Thế Tôn! Trong đời mai sau, vào năm trăm năm cuối, trong cơi Phật này, khi pháp sắp diệt, nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương, cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… có thể tự xa ĺa mười ác luân ấy, cũng có thể khuyên người khác khiến họ xa ĺa, khéo hộ tŕ cả ḿnh lẫn người, khéo hộ tŕ đời sau, hộ tŕ chánh pháp, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo đều khiến cho hưng thịnh, chẳng bị đoạn tuyệt”). Đoạn kinh văn này do mọi người cùng xưng nói, hướng về đức Phật bày tỏ. Họ nói trong thời Mạt Pháp, vào năm trăm năm cuối, Phật pháp sắp tiêu diệt, các quốc vương, Bà-la-môn ấy rời ĺa mười ác luân, lại c̣n có thể khuyên người khác rời xa, khéo thủ hộ chính ḿnh, khéo thủ hộ đời sau, hộ tŕ chánh pháp, có thể tiếp nối hưng thịnh chủng tánh Tam Bảo, đều khiến cho hưng thịnh, chẳng bị đoạn tuyệt. “Dĩ yếu ngôn chi, như Phật sở thuyết” (nói tóm lại, đúng như lời Phật dạy): Đoạn kinh văn này chẳng phải là hoàn toàn lập lại lời đức Phật đă dạy, “như thị đẳng nhân, ư tam thừa pháp, cung kính thính thọ, chung bất ẩn tàng, ư tam thừa nhân, hộ tŕ cung kính, bất linh nhiễu năo” (những người như thế đối với pháp tam thừa, cung kính nghe nhận, trọn chẳng ẩn giấu. Đối với người tam thừa, hộ tŕ cúng dường, chẳng khiến cho họ bị quấy nhiễu, năo loạn), “nhiễu” () là quấy rối, làm hại.

          “Ư Tam Bảo vật, cần gia thủ hộ, bất linh xâm tổn. Ngă đẳng quyến thuộc, ư thử chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, cần gia ủng hộ, linh kỳ thập pháp giai đắc tăng trưởng” (đối với vật dụng của Tam Bảo, càng thêm siêng thủ hộ, chẳng để bị xâm phạm, tổn hại. Chúng con và quyến thuộc đối với chân thiện Sát-đế-lợi vương ấy cho đến chân thiện Bà-la-môn v.v… càng thêm siêng năng ủng hộ, khiến cho mười pháp ấy đều được tăng trưởng). Đó là thiện thần hộ pháp. Chúng ta thường nói đến thiện thần hộ pháp, có bao nhiêu thiện thần hộ pháp? Cũng là số lượng chẳng thể nghĩ bàn. Quư vị có điều thiện th́ hai bên thân sẽ có thiện thần hộ pháp. Quư vị đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, mỗi giới có năm vị thiện thần hộ pháp. Quư vị phá một giới, sẽ mất đi năm vị. Năm giới đều phá, hai mươi lăm vị thiện thần hộ pháp ấy đều chẳng c̣n nữa. Do vậy, phải tŕ giới, tŕ giới thanh tịnh. Mỗi giới đều có năm vị thiện thần hộ pháp, chỉ cần quư vị phá một giới, sẽ chẳng c̣n nữa. Quư vị cũng chẳng thể trông thấy. Nếu quư vị đă phá một giới, sẽ cảm thấy áo năo, cảm thấy rất không thoải mái, đó là v́ thiện thần đă rời đi, ác thần bèn t́m đến!

          Trong kinh Phật, Giới kinh có nói: Thuở đó, tại Ấn Độ, đức Phật cho phép tỳ-kheo ăn thịt, nhưng tỏi, hẹ, hành, kiệu, hưng cừ, tức ngũ huân (五葷, năm thứ rau có mùi hôi nồng) đều chẳng thể ăn. V́ sau khi ăn, ban đêm khi ngủ, quỷ vương, ác thần sẽ tới ăn, chẳng phải là ăn thịt quư vị, mà là hít lấy hơi quư vị thở ra. Họ hút lấy hơi thở ấy, bèn no đủ, [khí phận của] quư vị sẽ ứng hợp với họ. Do vậy, đức Phật chẳng cho phép đệ tử ăn ngũ huân; những thứ đó mới gọi là ngũ huân. Chúng ta thường gọi ăn thịt là ngũ huân, chẳng phải vậy, đó gọi là Tinh (, tanh tưởi). Tinh chẳng phải là Huân, tỏi, hành… mới là Huân. Kế đó, nói tới mười pháp, khiến cho mười pháp đều được tăng trưởng. Mười pháp nào vậy?

 

          (Kinh) Hà đẳng vi thập? Nhất giả, tăng trưởng thọ mạng. Nhị giả, tăng trưởng vô nạn. Tam giả, tăng trưởng vô bệnh. Tứ giả, tăng trưởng quyến thuộc. Ngũ giả, tăng trưởng tài bảo. Lục giả, tăng trưởng tư cụ. Thất giả, tăng trưởng tự tại. Bát giả, tăng trưởng danh xưng. Cửu giả, tăng trưởng thiện hữu. Thập giả, tăng trưởng trí huệ. Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự năng viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn ly, cụ tiền sở thuyết chư công đức giả, ngă đẳng ủng hộ, định đương đắc thử thập pháp tăng trưởng.

          ()何等為十?一者、增長壽命,二者、增長無難,三者、增長無病,四者、增長眷屬,五者、增長財寶,六者、增長資具,七者、增長自在,八者、增長名稱,九者、增長善友,十者、增長智慧。大德世尊,若彼真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,於十惡輪自能遠離,亦能勸他令其遠離,具前所說諸功德者,我等擁護,定當得此十法增長。

          (Kinh: Những ǵ mười? Một là tăng trưởng thọ mạng. Hai là tăng trưởng không nạn. Ba là tăng trưởng không bệnh. Bốn là tăng trưởng quyến thuộc. Năm là tăng trưởng của cải. Sáu là tăng trưởng vật dụng cần dùng. Bảy là tăng trưởng tự tại. Tám là tăng trưởng tiếng tăm. Chín là tăng trưởng bạn lành. Mười là tăng trưởng trí huệ. Đại đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn ấy, đối với mười ác có thể tự xa ĺa, cũng có thể khuyên người khác khiến cho xa ĺa, sẽ trọn đủ các công đức như đă nói trên đây. Chúng con sẽ ủng hộ khiến cho người ấy nhất định đạt được mười pháp tăng trưởng ấy).

 

          Những ǵ là mười? Một là tăng trưởng thọ mạng, tức trường thọ. Hai là tăng trưởng vô nạn, tai nạn ǵ cũng đều chẳng có. Tai nạn ǵ đến chỗ quư vị cũng đều hóa hiểm thành lành. Có khi ở Đài Loan, tôi gặp tai nạn xe cộ ở ngay trước mặt; ở trên đường, bất cứ lúc nào cũng đều có thể thấy. Đụng xe, tôi nghĩ chỉ sai lệch một vài giây. Người đó lái mau hơn một chút sẽ vượt qua, hoặc chậm một chút, cũng chẳng va chạm. Họ chẳng mau, chẳng chậm, vừa đúng lúc đụng phải. Đó gọi là nghiệp. Đấy là sự thật. Quư vị chẳng có cái nghiệp ấy, thọ mạng của quư vị dài lâu, tăng trưởng vô nạn, tăng trưởng vô bệnh. Chúng ta phát Bồ Đề tâm, c̣n có cái tâm tăng trưởng, thiện căn lúc nào cũng đều tăng trưởng, nghiệp chướng sẽ tùy thời mà biến mất. Thọ mạng của quư vị có phải là cố định hay không? Vẫn chẳng phải là cố định! Nếu quư vị làm như thế (tức là không hành mười ác luân), sẽ tăng trưởng thọ mạng. Thọ mạng của một người vốn là sáu mươi tuổi, nay chúng ta có thể tăng trưởng đến một trăm tuổi. Như vậy là “tăng trưởng thọ mạng, tăng trưởng vô nạn, tăng trưởng vô bệnh, tăng trưởng quyến thuộc”. Không chỉ bản thân quư vị cát tường, mà người cùng ở với quư vị sẽ đều cát tường. Họ mong thân cận quư vị, mong theo quư vị. C̣n “tăng trưởng tài bảo, tăng trưởng tư cụ, tăng trưởng tự tại” (tăng trưởng của cải, tăng trưởng các vật dụng cần dùng, tăng trưởng tự tại), các điều này chẳng dễ dàng. Tăng trưởng tự tại là cuộc sống rất thoải mái, không phiền, không năo, thong dong, nhàn hạ, chẳng có ǵ nhiễu loạn quư vị. Làm chuyện ǵ cũng đều có cảm giác tự tại.

          “Tăng trưởng danh xưng” (tăng trưởng tiếng tăm), thanh danh chính là “danh” trong câu này. Người hiện thời chẳng phải là háo danh hay sao? Cái danh ấy chẳng phải do quư vị cầu được. Nếu quư vị làm chuyện tốt, tiếng lành sẽ lan xa. Giống như danh xưng của Thích Ca Mâu Ni Phật, mười phương pháp giới chư Phật đều biết. A Di Đà Phật, các cơi Phật đều biết. Không chỉ riêng thế giới này của chúng ta muốn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, trong mười phương thế giới, người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ rất nhiều, đến đó để tham học. Hăy nên biết, họ đến thế giới Cực Lạc để tham học. Chúng sanh trong thế giới Cực Lạc muốn đến chỗ Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Bất Động Như Lai, hoặc tới các nơi để tham học [rất dễ dàng]. Bởi lẽ, các vị Bồ Tát trong thế giới Cực Lạcđại chúng trong Liên Tŕ Hải Hội mỗi sáng sớm thức dậy, vào lúc ăn sáng, họ đến mười ức cơi Phật trong mười phương để cúng dường, xong xuôi quay về, vẫn chưa ăn sáng. Quư vị có thể tham cứu điều đó có nghĩa là ǵ?

          “Tăng trưởng thiện hữu” (tăng trưởng bạn lành): Người tốt muốn thân cận quư vị, người xấu đều ĺa khỏi. Đó là “phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân” (các phương pháp tương tự được gom thành nhóm, mọi sự vật tùy theo đặc tánh mà chia thành từng loại riêng), bao hàm ư nghĩa ấy. Cuối cùng là “tăng trưởng trí huệ”, sẽ tăng trưởng trí huệ Bát Nhă. “Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, ư thập ác luân, tự năng viễn ly, diệc năng khuyến tha linh kỳ viễn ly, cụ tiền sở thuyết chư công đức giả, ngă đẳng ủng hộ” (Bạch Đại đức Thế Tôn! Nếu các chân thiện Sát-đế-lợi vương, cho đến các chân thiện Bà-la-môn ấy có thể tự xa ĺa mười ác luân, mà cũng có thể khuyên người khác xa ĺa, sẽ trọn đủ các công đức như đă nói trên đây, chúng con sẽ ủng hộ). Đối với mười loại vừa nói trên đây, chúng con đều ủng hộ, khiến cho họ trường thọ, cho đến tăng trưởng trí huệ, khiến cho họ có trí huệ. “Định đương đắc thử thập pháp tăng trưởng” (Nhất định sẽ đều đắc mười pháp tăng trưởng ấy): Chúng con hộ tŕ người ấy, khiến cho mười pháp ấy tăng trưởng nơi người ấy!

 

          (Kinh) Phục thứ Thế Tôn! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, thành tựu như tiền sở thuyết công đức, ngă đẳng quyến thuộc cần gia ủng hộ, linh ư thập pháp giai đắc viễn ly. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, viễn ly nhất thiết oán gia khấu địch. Nhị giả, viễn ly nhất thiết phi ái sắc, thanh, hương, vị, xúc cảnh. Tam giả, viễn ly nhất thiết chướng lệ tật bệnh. Tứ giả, viễn ly nhất thiết tà chấp ác kiến. Ngũ giả, viễn ly nhất thiết tà vọng quy y. Lục giả, viễn ly nhất thiết tà ác tai quái. Thất giả, viễn ly nhất thiết tà ác sự nghiệp. Bát giả, viễn ly nhất thiết tà ác tri thức. Cửu giả, viễn ly nhất thiết tại gia ứ nê. Thập giả, viễn ly nhất thiết phi thời yểu táng. Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, năi chí chân thiện Bà-la-môn đẳng, thành tiền sở thuyết chư công đức giả, ngă đẳng ủng hộ, định đương đắc thử thập pháp viễn ly!

          ()復次,世尊,若有真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,成就如前所說功德,我等眷屬,勤加擁護,令於十法,皆得遠離。何等為十?一者、遠離一切怨家寇敵,二者、遠離一切非愛色聲香味觸境,三者、遠離一切障癘疾病,四者、遠離一切邪執惡見,五者、遠離一切邪妄歸依,六者、遠離一切邪惡災怪,七者、遠離一切邪惡事業,八者、遠離一切邪惡知識,九者、遠離一切居家淤泥,十者、遠離一切非時夭喪。大德世尊,若彼真善剎帝利王,乃至真善婆羅門等,成前所說諸功德者,我等擁護,定當得此十法遠離。

          (Kinh: Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn thành tựu các công đức như đă nói trên đây, quyến thuộc chúng con sẽ càng siêng năng ủng hộ, khiến cho họ đều được xa ĺa mười pháp. Những ǵ là mười? Một là xa ĺa hết thảy oán gia, giặc cướp, đối địch. Hai là xa ĺa hết thảy cảnh “sắc, thanh, hương, vị, xúc” chẳng đáng yêu mến. Ba là xa ĺa hết thảy tai chướng, dịch lệ, bệnh tật. Bốn là xa ĺa hết thảy tà chấp, ác kiến. Năm là xa ĺa hết thảy quy y tà vạy, hư vọng. Sáu là xa ĺa hết thảy tà ác tai quái. Bảy là xa ĺa hết thảy sự nghiệp tà ác. Tám là xa ĺa hết thảy tri thức tà ác. Chín là xa ĺa hết thảy bùn lầy tại gia. Mười là xa ĺa hết thảy chết yểu chẳng đúng thời. Bạch đại đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn ấy thành tựu các công đức như đă nói trên đây, chúng con sẽ ủng hộ, nhất định khiến cho họ sẽ được xa ĺa mười pháp ấy).

 

          Ngoài tăng trưởng mười pháp ra, c̣n có mười pháp sẽ xa ĺa. “Viễn ly nhất thiết oán gia khấu địch” (xa ĺa hết thảy oán gia, giặc cướp, địch nhân): Địch nhân và những kẻ phản đối quư vị sẽ đều xa ĺa, cho đến cường đạo như tôi vừa mới nói cũng sẽ xa ĺa. “Viễn ly nhất thiết phi ái sắc thanh hương vị xúc cảnh” (xa ĺa hết thảy những cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc chẳng đáng yêu mến): Các thứ cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc quư vị không ưa thích đều chẳng hiện tiền, những ǵ quư vị yêu thích mới hiện tiền. “Phi ái” nghĩa là quư vị chẳng ưa thích. Cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc không ưa thích đều chẳng thể hiện tiền. Mắt quư vị cũng chẳng trông thấy, tai cũng chẳng nghe thấy, chẳng dính dáng lục căn của quư vị. Đấy là thần hộ pháp tránh cho quư vị.

          “Tam giả, viễn ly nhất thiết chướng lệ tật bệnh” (ba là xa ĺa hết thảy tai chướng, dịch lệ, bệnh tật): Bệnh truyền nhiễm vô hiệu đối với quư vị. Dẫu bệnh ǵ được coi là rất nguy hại, quư vị cũng chẳng cần sợ hăi. Chẳng phải là tôi đă từng nói với mọi người hay sao: Bệnh phong cùi [khiến cho bệnh nhân] rụng sạch lông mày, cái tâm sẽ dần dần phát điên. Sau đó, c̣n cắn ngón tay của chính ḿnh, cứ một mực cắn măi. Tại Tây Tạng, nếu gặp phải bệnh nhân thuộc loại này, bèn đưa họ lên đỉnh núi cao, dùng đá làm nhà cho họ ở, người trong nhà khi đưa cơm cho họ, đều cách rất xa, kêu họ tự tới lấy, măi cho đến khi họ chết mới thôi!

          Tại Đại Lục, cũng có người mắc bệnh phong cùi ấy, bị cách ly khỏi mọi người. Căn bệnh này rất nguy hại. Nhà thờ nước Pháp chuyên thu thập bệnh nhân phong cùi, tinh thần của đạo Thiên Chúa chẳng thể nghĩ bàn! Tôi rất tán thán họ. Mấy cô y tá và bác sĩ, chẳng có ai sống sót trở về. Họ vào trong đó, tối đa là năm năm, tối thiểu là ba năm, hoặc trễ hơn một chút, nhất định sẽ bị lây bệnh. Bọn họ sống ở đó để trị liệu bệnh nhân, trừ bớt nỗi khổ nạn của họ. Khi tôi ở trong tù, họ bắt một người như thế, sáu mươi mấy tuổi rồi. Khi đưa đến mới biết người ấy mắc bệnh phong cùi, liền giam riêng một pḥng, cách ly với chúng tôi. Cần có người đưa cơm cho kẻ ấy, ai cũng chẳng muốn đi. Tôi nói: “Tôi đi là được rồi!” Làm chuyện ấy rất tốt, tôi cũng chẳng cần phải lao động, chuyện ǵ cũng không làm. Hằng ngày đưa cơm cho người ấy, khi đó, c̣n đút cơm cho người ấy. Về sau, người ấy toàn thân rữa nát, hỏi người ấy có đau khổ hay không? Người ấy cũng chẳng biết, lắc đầu tỏ vẻ không biết, toàn thân đă hư nát rồi. Tôi từ căn pḥng ấy đi ra, người khác cũng chẳng ở chung với tôi, tôi ở riêng một buồng giam.

          Sau đó, có rất nhiều bác sĩ khám nghiệm, nói tôi chẳng bị lây bệnh. Sau đấy, họ lại ở chung với tôi. Quả thật, sau này tôi không bị bệnh. Căn bệnh ấy chẳng lây cho tôi, chính ḿnh có tín tâm. Nhưng khi đó v́ sao tôi làm như vậy? Tôi cũng mong chết. Chết kiểu đó cũng rất tốt, thối rữa mà chết, tiêu tai miễn nạn! Nhưng tôi không chết được, đại khái là để đợi cho đến hiện thời, tôi mọi người cùng nhau học tập. Có rất nhiều chuyện chẳng thể nghĩ bàn, v́ lúc ấy bệnh truyền nhiễm hết sức dữ dội. Nhưng c̣n có nghiệp ǵ? Tà tri, ác kiến, chúng ta vẫn c̣n có, cũng chớ nên cho rằng chúng ta đă tin Phật th́ một chút tà kiến cũng chẳng c̣n! Tôi thấy mỗi người [đều có tà kiến] hoặc nhiều, hoặc ít. Chánh kiến nhiều hơn, tà kiến sẽ ít đi, v́ chánh kiến khắc phục tà kiến. Chúng ta nh́n vấn đề, suy nghĩ sự việc, có rất nhiều chỗ chẳng đúng, chẳng chánh xác; ngàn vạn lần chớ nên kiêu ngạo, tự măn. Chúng ta học quá ít, biết quá ít, lại c̣n dẫu biết mà chẳng thể làm, chẳng thể chuyển biến cái tâm của chính ḿnh.

          Tham, sân, si, chúng ta đều biết là độc, có ai chẳng nổi giận? Chúng ta là đệ tử đức Phật, kẻ chẳng tin Phật th́ không nói, có ai chẳng dấy lên ḷng tham? Ḷng tham bao gồm rất nhiều thứ, kể cả khi chúng học thiện pháp. Chẳng hạn như chúng ta tŕ bảy biến chú Đại Bi, bảy biến chẳng thành, bèn niệm một trăm lẻ tám biến. Đấy chẳng phải là tham ư? Nhưng do nó thuận theo thiện tâm sở, chẳng thể xếp vào tham, nhưng trong hàm nghĩa th́ có. Nếu quư vị niệm một lượt, chân thành, cũng là công đức vô lượng. Một trăm lẻ tám biến diệt sạch vọng tưởng, vẫn chẳng tốt bằng một biến, có hàm nghĩa này, tức là nói quư vị phải thành tâm một lần, có tín tâm thật sự.

          “Đệ tứ, viễn ly nhất thiết tà chấp ác kiến” (Thứ tư là xa ĺa hết thảy chấp trước tà vạy và ác kiến): Có lúc nào chẳng thiện thuận, chẳng điều nhu như thế. Nghe kẻ khác nói bèn chẳng tiếp nhận: Tao học điều này rất khá, bọn mày học chẳng ra cái quái ǵ!” Những điều đó đều thuộc về tà kiến! Kinh văn trong bộ kinh này đă dạy: Quư vị nghe pháp Thanh Văn Thừa, nếu báng pháp Độc Giác Thừa, nếu báng pháp Đại Thừa, sẽ là tà kiến. Học pháp Đại Thừa, nếu bài xích pháp Thanh Văn, bài xích pháp Độc Giác, sẽ là tà kiến. Chánh và tà chỉ trong ṿng một niệm! Cho nên chúng ta hễ có dịp bèn sám hối cho nhiều, chớ nên cố chấp ư kiến của chính ḿnh, chớ nên cho rằng những ǵ ta trông thấy đều đúng, chưa chắc đâu nhé! Quư vị thấy là vàng, người khác thấy là trắng. V́ quư vị đeo cặp kiếng màu, v́ quư vị có rất nhiều vọng niệm, rất nhiều tạp niệm, rất nhiều kiến giải chẳng chánh xác, làm sao thấy chánh xác cho nổi? Chỉ có chiếu theo lời Phật dạy để chứng minh là chánh xác hay chẳng chánh xác! Quư vị đừng nên cố chấp ư ḿnh. Nói điều này là tà tri, tà kiến cũng đừng sợ. V́ chúng ta niệm A Di Đà Phật chính là chánh kiến. Quư vị niệm A Di Đà Phật cũng đừng bài xích Dược Sư Phật, v́ quư vị niệm A Di Đà Phật, [trông thấy] kẻ khác niệm kinh Dược Sư, [bèn phản đối]: “Chẳng thể được! Sao ngươi không niệm A Di Đà Phật? Ta đi về phương Tây, ngươi đi sang phương Đông, không được rồi. Như thế là trật lất rồi!” Đó là tà tri, tà kiến! Quư vị nói: “Chỗ nào tôi cũng chẳng đi, tôi là người thuộc thế giới Sa Bà, tôi cần đến thế giới Cực Lạc làm chi, quá khó!” Như vậy th́ cũng chẳng đúng, đấy cũng là tà tri tà kiến. Khi chưa nhập Tín vị, rất khó nói quư vị là chánh tri, chánh kiến. Sau khi đă tin, có hoàn toàn đúng hay không? Vẫn chưa được! Ắt cần phải đạt đến Sơ Trụ th́ mới bất thoái; đó gọi là Phát Tâm Trụ. Lại phát Bồ Đề tâm, phát Bồ Đề tâm trước kia không tính, đấy chẳng phải là thật sự phát!

          “Viễn ly nhất thiết tà vọng quy y” (xa ĺa hết thảy quy y tà vọng): Chuyện này càng nhiều hơn! Sau khi đă quy y Tam Bảo, vẫn muốn xủ quẻ, vẫn muốn tin thần. Sau khi đă quy y Tam Bảo, vẫn mong sống trên đời cả trăm năm, hoặc một ngàn năm, học tập Khí Công để cho thân thể ḿnh tốt đẹp hơn đôi chút, có thể chữa bệnh. Chẳng phải là muốn bảo dưỡng thân thể trường thọ, chỉ muốn cho thân thể ḿnh khỏe mạnh. Nếu nói thật sự nghiêm ngặt, đệ tử Phật đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, yêu cầu rất nhiều. Hơn nữa, có rất nhiều đệ tử muốn thọ Bồ Tát Giới, quư vị phải học trước, quư vị có lá gan to ngần ấy hay không? Phát Bồ Đề tâm. Ta vừa thoát ly Bồ Đề tâm, sẽ đọa địa ngục. Đă phạm, ta sám hối th́ được! Quư vị muốn thành Phật, một niệm tâm ấy đă vượt xa rất nhiều kiếp! Do vậy, trước khi thọ Bồ Tát Giới, phải học trước. Quư vị nhận biết rơ ràng rồi mới có thể thật sự gánh vác. Như vậy rồi mới đi thọ giới. Tam Quy, Ngũ Giới, và Bồ Tát Giới ắt cần phải thọ, có thể gánh vác th́ cũng nên thọ. Chẳng thể gánh vác th́ cũng phải thọ. V́ sao? Có thể gieo chủng tử thành Phật, hễ phạm liền sám hối. Sám hối như thế nào? Lạy Phật, niệm Phật đều có thể sám hối. Thậm chí niệm Địa Tạng Bồ Tát đều có thể sám hối. Kinh Chiêm Sát cũng dạy như thế, dạy tu hai loại Quán. “Nếu chẳng tu thành Nhất Thật cảnh giới th́ có thể niệm tên ta cũng được!” Tức là xưng niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát th́ cũng có thể tiến nhập tu Quán.

          Cho đến “viễn ly nhất thiết tà ác tri thức” (xa ĺa hết thảy tri thức tà ác). Tri kiến tà ác của quư vị do đâu mà có? Do tri thức tà ác dạy bảo! Xa ĺa họ th́ sẽ chẳng c̣n. “Viễn ly nhất thiết tại gia ứ nê” (xa ĺa hết thảy bùn lầy tại gia): Coi tại gia như hố bùn. Thật ra, những vị thần ấy cũng đang ở trong bùn lầy. Thiên, nhân, A Tu La, lục đạo đều ở trong bùn lầy. Nếu đă rời ĺa th́ Phạm Thiên chẳng có bùn lầy. Sau đó, ông ta cũng sẽ đọa trong bùn lầy, chẳng rốt ráo, do chưa thành Phật.

          “Viễn ly nhất thiết phi thời yểu táng” (xa ĺa hết thảy chết yểu không đúng thời): Tử vong chết yểu, thọ mạng chưa hết. Mọi người đọc kinh Dược Sư, chẳng phải là thấy có chín loại chết đột ngột (“hoạnh tử”, 橫死) ư? Không đáng chết, gặp phải cái chết không đúng thời, giống như tôi vừa mới nói: Đi sớm hơn một bước sẽ chẳng mắc phải nghiệp ấy, chậm một bước cũng chẳng mắc phải nghiệp ấy. Quư vị đi nhanh một chút sẽ vượt qua, hoặc chậm một chút sẽ chẳng đụng phải. Chẳng nhanh, chẳng chậm, vừa khớp bị xe tông phải, xảy ra chuyện! “Yểu táng” (夭喪, chết yểu) rất khó nói. Trẻ thơ trong bụng mẹ c̣n chưa sanh ra đă chết. Chết trong thai cũng có. Cho đến xét theo thọ mạng, độ tuổi nào chết cũng đều có. Chết ngang xương (“hoạnh tử”) kiểu nào cũng có. Tại Hương Cảng cũng rất nhiều [trường hợp chết ngang xương như vậy]. Người đi bên dưới, bên trên sửa chữa, rơi một cục gạch xuống, hoặc là rơi thứ ǵ đó, đúng ngay vào đầu, người đó chết ngay, làm sao chẳng gọi là “không đáng chết” cho được? Biết làm sao đây? Chuyện như vậy rất nhiều, đó gọi là “yểu táng”.

          Bạch đại đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương cho đến các chân thiện Bà-la-môn ấy thành tựu các công đức như đă nói trên đây, tức là công đức như trong phần trước đă nói “chính ḿnh xa ĺa mười ác luân, lại khuyên người khác cũng rời xa mười ác luân”, do thành tựu công đức ấy, người đó nhất định sẽ đạt được mười pháp viễn ly này, tức là xa rời mười loại tai nạn đó.

 

          (Kinh) Phục thứ Thế Tôn! Nhược hữu chân thiện Sát-đế-lợi vương, cụ tu như tiền sở thuyết công đức, linh viên măn giả, ngă đẳng quyến thuộc cần gia ủng hộ, linh thử đế vương, tịnh chư quyến thuộc, cập kỳ quốc độ nhất thiết nhân dân, linh ư thập pháp, giai đắc viễn ly. Hà đẳng vi thập? Nhất giả, viễn ly nhất thiết tha quốc oán địch. Nhị giả, viễn ly nhất thiết tự quốc oán địch. Tam giả, viễn ly nhất thiết hung ác quỷ thần. Tứ giả, viễn ly nhất thiết khiên dương kháng hạn. Ngũ giả, viễn ly nhất thiết phục âm, trệ vũ. Lục giả, viễn ly nhất thiết phi thời hàn nhiệt, liệt phong, bạo vũ, sương bạc tai hại. Thất giả, viễn ly nhất thiết ác tinh biến quái. Bát giả, viễn ly nhất thiết cơ cẩn hoang kiệm. Cửu giả, viễn ly nhất thiết phi thời bệnh tử. Thập giả, viễn ly nhất thiết tà chấp, ác kiến. Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, cụ tu như tiền sở thuyết công đức linh viên măn giả, ngă đẳng quyến thuộc cần gia ủng hộ, linh thử đế vương, tịnh chư quyến thuộc, cập kỳ quốc độ nhất thiết nhân dân, định đương đắc thử thập pháp viễn ly”. Nhĩ thời, Thế Tôn tán chư thiên đế, cập kỳ quyến thuộc, năi chí nhất thiết Tất Xá Giá đế, cập quyến thuộc ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Nhữ đẳng năi năng phát thử thệ nguyện. Thử sự giai thị nhữ đẳng ưng tác. Do thị nhân duyên, đương linh nhữ đẳng trường dạ an lạc”.

          ()復次,世尊,若有真善剎帝利王,具修如前所說功德令圓滿者,我等眷屬,勤加擁護,令此帝王並諸眷屬及其國土一切人民,令於十法,皆得遠離。何等為十?一者、遠離一切他國怨敵,二者、遠離一切自國怨敵,三者、遠離一切兇惡鬼神,四者、遠離一切愆陽亢旱,五者、遠離一切伏陰滯雨,六者、遠離一切非時寒熱、烈風、暴雨、霜雹災害,七者、遠離一切惡星變怪,八者、遠離一切饑饉荒儉,九者、遠離一切非時病死,十者、遠離一切邪執惡見。大德世尊,若彼真善剎帝利王,具修如前所說功德令圓滿者,我等眷屬,勤加擁護,令此帝王並諸眷屬及其國土一切人民,定當得此十法遠離。爾時,世尊讚諸天帝及其眷屬,及至一切畢舍遮帝及眷屬,言:善哉!善哉!汝等乃能發此誓願,此事皆是汝等應作。由是因緣,當令汝等長夜安樂。

          (Kinh: “Lại nữa, bạch đức Thế Tôn! Nếu có chân thiện Sát-đế-lợi vương, tu trọn đủ viên măn các công đức như đă nói trên đây, quyến thuộc chúng con càng thêm siêng năng ủng hộ, khiến cho đế vương và các quyến thuộc, cùng với hết thảy nhân dân trong quốc độ đều được xa ĺa mười pháp. Những ǵ là mười? Một là xa ĺa hết thảy oán địch từ nước khác. Hai là xa ĺa hết thảy oán địch trong nước ḿnh. Ba là xa ĺa hết thảy quỷ thần hung ác. Bốn là xa ĺa hết thảy chuyện dương khí quá thịnh gây ra hạn hán dữ dội. Năm là xa ĺa hết thảy tối tăm lâu ngày, mưa dầm. Sáu là xa ĺa hết thảy nóng lạnh trái thời, gió loạn, mưa cuồng, sương, mưa đá tai hại. Bảy là xa ĺa hết thảy sao xấu biến hiện quái lạ. Tám là xa ĺa hết thảy đói kém, mất mùa. Chín là xa ĺa hết thảy chết chóc v́ bệnh tật trái thời. Mười là xa ĺa hết thảy tà chấp, ác kiến. Bạch đại đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương ấy tu trọn đủ viên măn các công đức như đă nói trên đây, quyến thuộc chúng con càng thêm siêng năng ủng hộ, khiến cho đế vương ấy và các quyến thuộc, cùng với hết thảy nhân dân trong nước, nhất định sẽ được xa ĺa mười pháp ấy”. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngợi các thiên đế cùng với quyến thuộc, cho đến hết thảy Tất Xá Giá đế và các quyến thuộc rằng: “Lành thay! Lành thay! Các ông có thể phát ra thệ nguyện này. Chuyện này là chuyện các ông nên làm. Do nhân duyên này, sẽ khiến cho các ông yên vui trong đêm dài”).

 

          C̣n có những pháp xa ĺa, “hà đẳng vi thập?” (những ǵ là mười?) “Viễn ly nhất thiết tha quốc oán địch” (xa ĺa hết thảy oán địch từ nước khác) là nói theo phía quốc vương. “Viễn ly nhất thiết tự quốc oán địch” nghĩa là quốc gia của chính ḿnh chẳng có oán địch, sẽ không có chuyện phản loạn, quân ḿnh chẳng tàn sát lẫn nhau. Quân nước khác cũng chẳng kéo đến. “Tam giả, viễn ly nhất thiết hung ác quỷ thần” (Ba là xa ĺa hết thảy quỷ thần hung ác), quỷ thần hung ác chẳng thể xâm phạm, quấy nhiễu. “Tứ giả, viễn ly nhất thiết khiên dương kháng hạn” (bốn là xa ĺa hết thảy chuyện dương khí quá thịnh gây ra hạn hán dữ dội): Tức là nạn hạn hán, nói đơn giản [“khiên dương kháng hạn”] là nạn hạn hán. “Ngũ giả, viễn ly nhất thiết phục âm trệ vũ”: (năm là xa ĺa hết thảy âm u nhiều ngày, mưa dầm): Âm u lâu ngày chẳng quang đăng, sau đó, lại c̣n phát sanh lũ lụt. “Lục giả, viễn ly nhất thiết phi thời hàn nhiệt” (sáu là xa ĺa hết thảy lạnh, nóng trái thời): Nên lạnh mà chẳng lạnh, nên nóng mà chẳng nóng. Hiện thời, khí hậu điên đảo như thế đó. Khi tôi c̣n bé, miền Đông Bắc là mấy chục độ âm, gần đây đă thay đổi, tối đa là mười độ âm đă hiếm hoi lắm rồi. Mùa Hè lại c̣n đặc biệt nóng. Đấy là mưa gió chẳng đúng thời, tai họa nẩy sanh liên tiếp. “Liệt phong, bạo vũ, sương bạc tai hại” (Gió loạn, mưa cuồng, sương, mưa đá gây tai hại): Sương tuôn, mưa đá rất nhiều! “Thất giả viễn ly nhất thiết ác tinh biến quái, bát giả viễn ly nhất thiết cơ cẩn hoang kiệm, cửu giả viễn ly nhất thiết phi thời bệnh tử, thập giả, viễn ly nhất thiết tà chấp ác kiến” (Bảy là xa ĺa hết thảy sao xấu biến hiện quái dị. Tám là xa ĺa hết thảy đói kém, mất mùa. Chín là xa ĺa hết thảy cái chết chẳng đúng thời. Mười là xa ĺa hết thảy tà chấp, ác kiến): Hơi giống phần trước.

          “Đại đức Thế Tôn! Nhược bỉ chân thiện Sát-đế-lợi vương, cụ tu như tiền sở thuyết công đức, linh viên măn giả, ngă đẳng quyến thuộc cần gia ủng hộ” (Bạch đại đức Thế Tôn! Nếu chân thiện Sát-đế-lợi vương ấy tu trọn đủ viên măn các công đức như đă nói trên đây, quyến thuộc chúng con càng thêm siêng năng ủng hộ). Như thế sẽ “linh thử đế vương, tịnh chư quyến thuộc, cập kỳ quốc độ nhất thiết nhân dân, định đương đắc thử thập pháp viễn ly” (khiến cho đế vương và các quyến thuộc cùng với hết thảy nhân dân trong nước, nhất định sẽ được xa ĺa mười pháp ấy). Mười pháp ấy chính là pháp xa ĺa sẽ được nói trong phần kế tiếp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại Phạm phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Duy nguyện thính ngă vị vị lai thế, thử Phật độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi vương, thuyết Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do thử Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú oai thần lực cố, linh vị lai thế, thử Phật độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi vương, bất vị nhất thiết oán địch, ác hữu chi sở tồi phục, năng linh nhất thiết oán địch, ác hữu tự nhiên thoái tán, năng thiện hộ tŕ thân, ngữ, ư, nghiệp, vị chư trí giả thường sở xưng tán, ly chư ác pháp, thường hành thiện pháp, thường ly nhất thiết tà kiến, tà quy, thường ư Đại Thừa tinh tấn tu hành, dũng mănh, kiên cố, thường năng thành tựu vô lượng, vô số sở hóa hữu t́nh, trí bất y tha, tự nhiên thiện xảo, cụ năng tu hành Lục Đáo Bỉ Ngạn trân bảo phục tạng, viễn ly nhất thiết phẫn, xan, tật đẳng phiền năo triền cấu, thường vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng cung kính hộ niệm, chư hữu sở vi, tâm vô vong thất, bất xả hữu t́nh, nhạo Tứ Nhiếp sự, thường bất viễn ly pháp khí phước điền”.

          ()爾時,天藏大梵復白佛言:「世尊,唯願聽我為未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,說能護國不退輪心大陀羅尼明咒章句。由此護國不退輪心大陀羅尼明咒章句威神力故,令未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,不為一切怨敵惡友之所摧伏;能令一切怨敵惡友,自然退散;能善護持身語意業,為諸智者常所稱讚,離諸惡法;常行善法,常離一切邪見邪歸;常於大乘,精進修行勇猛堅固;常能成就無量無數所化有情,智不依他自然善巧,具能修行六到彼岸珍寶伏藏,遠離一切忿慳嫉等煩惱纏垢;常為一切人非人等,恭敬護念;諸有所為,心無忘失,不舍有情,樂四攝事,常不遠離法器福田。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại Phạm lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Kính mong cho phép con v́ hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi vương trong cơi Phật này nơi đời vị lai, nói Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do sức oai thần của Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú này, khiến cho hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi vương trong cơi Phật này nơi đời vị lai chẳng bị hết thảy oán địch và bạn ác dẹp tan, hàng phục, có thể khiến cho hết thảy oán địch và bạn ác tự nhiên lui tan, có thể khéo hộ tŕ thân, ngữ, ư nghiệp, được những người có trí thường ca ngợi, ĺa các ác pháp, thường hành thiện pháp, thường ĺa hết thảy tà kiến, tà quy, thường dũng mănh, kiên cố, tinh tấn tu hành Đại Thừa, thường có thể thành tựu vô lượng vô số hữu t́nh được hóa độ, trí chẳng phải cậy vào người khác, tự nhiên thiện xảo, có thể trọn đủ kho tàng trân quư Lục Đáo Bỉ Ngạn, xa ĺa hết thảy các phiền năo triền cấu như phẫn, keo kiệt, ganh ghét v.v… thường được hết thảy nhân phi nhân v.v… cung kính hộ niệm, những ǵ đă làm tâm chẳng quên mất, chẳng bỏ hữu t́nh, thích hành Tứ Nhiếp, thường chẳng xa ĺa ruộng phước pháp khí”).

 

          Thiên Tạng Đại Phạm bắt đầu thỉnh vấn: “Thế Tôn! Duy nguyện thính ngă vị vị lai thế, thử Phật độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi vương, thuyết Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú” (Bạch đức Thế Tôn! Kính mong cho phép con v́ hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi vương trong cơi Phật này nơi đời vị lai, nói Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú): Bất thoái luân, bất thoái ǵ vậy? Phải tŕ chú này. Do oai lực của Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú, có thể khiến cho trong Phật quốc độ vào thời Mạt Pháp, tất cả quốc vương thật sự tốt đẹp “bất vị nhất thiết oán địch ác hữu chi sở tồi phục, năng linh nhất thiết oán địch ác hữu tự nhiên thoái tán” (chẳng bị hết thảy oán địch và bạn ác dẹp tan, hàng phục, có thể khiến cho oán địch và bạn ác tự nhiên lui tan): Họ mong chinh phạt quư vị, trong nước họ sẽ dấy lên nội loạn, dấy lên biến hóa, họ sẽ phải lui tan. “Năng thiện hộ tŕ thân, ngữ, ư nghiệp” (có thể khéo hộ tŕ thân, ngữ, ư nghiệp): Chuyện này chẳng dễ dàng, có thể khiến cho thân, ngữ, ư nghiệp của Sát-đế-lợi chẳng phạm sai trái, chẳng làm các điều ác. Đó là [tác dụng của] bài chú này.

          “Vị chư trí giả thường sở xưng tán, ly chư ác pháp” (được những người có trí thường ca ngợi, ĺa các pháp ác): Xa ĺa hết thảy các ác pháp, thường hành thiện pháp, thường ĺa hết thảy tà kiến, tà quy, [tà quy] là quy hướng những thứ không chánh đáng! “Thường ư Đại Thừa tinh tấn tu hành, dũng mănh, kiên cố, thường thành tựu vô lượng vô số sở hóa hữu t́nh, trí bất y tha, tự nhiên thiện xảo” (Thường đối với Đại Thừa, tinh tấn tu hành, dũng mănh, kiên cố, thường thành tựu vô lượng, vô số hữu t́nh được hóa độ trí chẳng cậy vào ai khác, tự nhiên hay khéo): Đấy là thành tựu trí huệ, [trí huệ ấy] chẳng phải do những điều khác khởi lên, mà là do tự tâm biến hóa. Tôi thường nói với các đạo hữu: Khi quư vị đọc tụng Đại Thừa, hăy đọc tụng nhiều lần. Bộ kinh này quư vị vốn không hiểu, sau khi đă đọc, sẽ hiểu toàn bộ, thông suốt trước sau, cũng chẳng cần phải hỏi ai khác. Đó gọi là “bất do tha đắc” (chẳng do ai khác mà đạt được). Loại trí huệ này do quư vị tinh tấn tu tập mà đạt được, tự nhiên có trí huệ thiện xảo!

          “Cụ năng tu hành Lục Đáo Bỉ Ngạn trân bảo phục tạng” (có thể tu hành trọn đủ kho tàng trân bảo Lục Đáo Bỉ Ngạn): Lục Ba La Mật giống như kho tàng trân bảo, thoát ly biển sanh tử tới bờ kia Niết Bàn. “Viễn ly nhất thiết phẫn, xan, tật đẳng phiền năo triền cấu” (Xa ĺa hết thảy các phiền năo triền cấu như phẫn, keo kiệt, ghen ghét v.v…): Phẫn hận, keo tham, ghen tỵ, chướng ngại, những món phiền năo ấy ràng buộc, quấy nhiễu quư vị, đều là cấu nhiễm. “Thường vị nhất thiết nhân phi nhân đẳng cung kính hộ niệm, chư hữu sở vi, tâm vô vong thất” (thường được hết thảy nhân phi nhân v.v… cung kính hộ niệm. Những việc đă làm, tâm đều chẳng quên mất): Đạt được trí chẳng thể nghĩ bàn, cũng tức là trí nhớ mạnh mẽ, chẳng bỏ hữu t́nh, thích hành Tứ Nhiếp, tức bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, [đó là] Tứ Nhiếp Pháp. Dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn loại ấy để nhiếp thọ hết thảy hữu t́nh. “Thường bất viễn ly pháp khí phước điền” (thường chẳng xa ĺa pháp khí phước điền): Thường chẳng ĺa pháp, thường chẳng ĺa Pháp Bảo. Phước ấy vô lượng.


          (Kinh) Phật ngôn: “Thiên Tạng! Ngô kim tứ nhữ vị vị lai thế, thử Phật độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi vương, thuyết Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do thử Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú oai thần lực cố, linh vị lai thế, thử Phật độ trung, nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi vương, bất vị nhất thiết oán địch, ác hữu chi sở tồi phục, quảng thuyết năi chí thường bất viễn ly nhất thiết chư Phật
, cập Phật đệ tử”. Nhĩ thời, Thiên Tạng Đại Phạm tức thuyết Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú: “Đát điệt tha. Mâu ni mạo lệ. Mâu na yết lạp phiệt. Mâu ni hột lê đạt duệ. Mâu ni rô ha tỳ chiết lệ. Mâu na hạt lật chế. Mâu ni cấp mê. Thúc ngật la bác sai. Bát la xa bác sai. Mật ra bác sai. Tao lạt bà hột lật đế. Đố lạt noa ngật lật chiết lệ. Bát đát la xoa hột lật đế. Cụ cụ noa mật lệ. Ấp phiệt xoa tát lệ. Át nộ ha kỳ lư phiệt. Mâu ni bát tháp phiệt. Sa ha”.

          ()佛言:天藏,吾今恣汝,為未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,說能護國不退輪心大陀羅尼明咒章句。由此護國不退輪心大陀羅尼明咒章句威神力故,令未來世此佛土中,一切真善剎帝利王,不為一切怨敵惡友之所摧伏,廣說乃至常不遠離一切諸佛及佛弟子。爾時,天藏大梵即說護國不退輪心大陀羅尼明咒章句怛絰他牟尼冒隸。牟那揭臘筏。牟尼紇梨達曳。牟尼嚧訶毗折隸。牟曷栗制。牟尼笈謎。束訖羅博差。缽邏奢博差。蜜囉博差。騷栗帝。妬拏訖栗折隸。缽怛邏叉栗帝。具具拏蜜隸。唈茷叉薩隸。遏怒訶祇履筏。牟尼缽塔筏。莎訶。

          (Kinh: Đức Phật nói: “Này Thiên Tạng! Ta nay cho phép ông v́ hết thảy các vị vua Sát-đế-lợi vương chân thiện trong cơi Phật này vào thuở vị lai, nói Năng Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú. Do sức oai thần của Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú này, khiến cho trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi vương chẳng bị hết thảy oán địch và bạn ác dẹp tan, hàng phục, nói rộng cho đến thường chẳng xa ĺa Phật và các đệ tử Phật”. Lúc bấy giờ, Thiên Tạng Đại Phạm liền nói Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Ni Minh Chú Chương Cú: “Đát điệt tha. Mâu ni mạo lệ. Mâu na yết lạp phiệt. Mâu ni hột lê đạt duệ. Mâu ni rô ha tỳ chiết lệ. Mâu na hạt lật chế. Mâu ni cấp mê. Thúc ngật la bác sai. Bát la xa bác sai. Mật ra bác sai. Tao lạt bà hột lật đế. Đố lạt noa ngật lật chiết lệ. Bát đát la xoa hột lật đế. Cụ cụ noa mật lệ. Ấp phiệt xoa tát lệ. Át nộ ha kỳ lư phiệt. Mâu ni bát tháp phiệt. Sa ha”).

 

          Thiên Tạng Đại Phạm v́ hộ tŕ vị chân thiện Sát-đế-lợi vương, khiến cho quốc gia của ông ta chẳng c̣n bị tai họa nữa, bèn nói bài chú như vậy, nhưng ắt cần phải thỉnh đức Phật cho phép. Đức Phật liền cho phép ông ta nói. Lại c̣n bảo bài chú ấy rất hay, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy Sát-đế-lợi vương có thể đạt được rất nhiều lợi ích to lớn, cho phép ông ta nói.

          “Đát điệt tha”: Đát điệt tha (Tadyathā) là ǵ? Chính là “tức thuyết chú viết” (liền nói chú rằng), các bài chú trong các kinh đều có [câu này]. Chẳng phải là các bài chú đều rất dài, nhưng Đát-điệt-tha chính là “tức thuyết chú viết”, cũng là khởi sự nói chú. Mỗi bài chú đều có câu này. Sau câu đó (câu “tức thuyết chú viết”) mới là chú thật sự, những câu trước đó chẳng phải là chú. Như trong chú Lăng Nghiêm, có rất nhiều câu chẳng phải chú thật sự. Đại Bi Chú cũng thế, quư vị phải biết từ chữ “đát điệt tha” trở đi mới là chú ngữ. Những câu trước đó là ǵ? Những câu trước đó là tiền phương tiện, cũng thuộc về nghi thức, nghi quỹ giảng kinh thuyết pháp. Do vậy, chú Lăng Nghiêm nhiều cỡ nào? “Tất đát đa bát đát ra” (Sitātapatrā)[9] chính là chú Lăng Nghiêm. Đó gọi là “chú tâm”[10]. C̣n có những bài chú ngắn hơn Lăng Nghiêm, cũng có bài rất dài. So với phần Đát-điệt-tha ở đây c̣n dài hơn. Từng bài chú đều là như vậy.

          “Đát điệt tha mâu ni mạo lệ”: Chữ Mâu Ni trong “mâu ni mạo lệ” chính ra phải nói là Ma Ni. Khi phiên dịch đă tùy thuận cách phát âm [thuở đó] mà phiên dịch thành “mâu ni mạo lệ”. Đối với âm thanh khi niệm chú, quư vị đừng nuốt chữ, phải phát âm cho chuẩn. Nếu dựa theo mặt chữ để niệm, quư vị sẽ niệm sai. Nếu quư vị niệm Mâu Ni Mạo Lệ là được, đọc thành Mâu Ni Mạo Đăi[11] là đă khác rồi. “Mâu na yết lạp phiệt, mâu ni hột lê đạt duệ. Mâu ni rô ha tỳ chiết lệ. Mâu na hạt lật chế. Mâu ni cấp mê. Thúc ngật la bác sai. Bát la xa bác sai. Mật ra bác sai” Chữ La () này khi phát âm luôn đọc thành Ra. Đối với câu “mật ra bác sai”, quư vị đừng đọc theo nguyên âm (tức La), đọc chữ [“ trong] Mật La phải kèm thêm bộ Khẩu. Phàm là chữ nào có thêm bộ Khẩu, sẽ đọc thành Ra. “Tao lạt bà hột lật đế. Đố lạt noa hột lật chiết lệ. Bát đát la xoa hột lật đế. Cụ cụ noa mật lệ. Ấp phiệt xoa tát lệ. Át nộ ha kỳ lư phiệt. Mâu ni bát tháp phiệt. “Sa ha” (Svāha) là thành tựu, hết thảy đều đă thành tựu.

 

          (Kinh) Thiên Tạng Đại Phạm thuyết thị chú dĩ, phục bạch Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn, cập chư đại chúng, ư ngă sở thuyết đại đà la ni, giai sanh tùy hỷ”. Thế Tôn cáo viết: “Thiện tai! Thiện tai!” Nhất thiết đại chúng diệc tác thị ngôn: “Thiện tai! Thiện tai!”

          ()天藏大梵說是咒已,復白佛言:唯願世尊及諸大眾,於我所說大陀羅尼,皆生隨喜。世尊告曰:善哉!善哉!一切大眾亦作是言:善哉!善哉!

          (Kinh: Thiên Tạng Đại Phạm nói chú ấy xong, lại bạch cùng đức Phật: “Kính mong đức Thế Tôn và các đại chúng đối với đại đà la ni do con đă nói đều sanh ḷng tùy hỷ”. Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay!” Hết thảy đại chúng cũng nói như thế này: “Lành thay! Lành thay!”).

 

          Thiên Tạng nói xong bài chú ấy, thưa: “Con hy vọng đức Thế Tôn và hết thảy đại chúng có thể sanh tâm hoan hỷ, có thể sanh tâm tùy hỷ đối với bài chú con vừa nói”. Đức Thế Tôn bảo rằng: “Lành thay! Lành thay! Được lắm, Ta tùy hỷ, tùy hỷ”. Đại chúng cũng đều nói: “Lành thay! Lành thay! Ta tùy hỷ”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục cáo tôn giả Đại Mục Càn Liên, cập cáo Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát viết: - Thiện nam tử! Nhữ đẳng giai ưng thọ tŕ như thị Thiên Tạng Đại Phạm sở thuyết Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Mi Minh Chú Chương Cú, truyền thọ vị lai thử Phật độ trung nhất thiết chân thiện Sát-đế-lợi vương, linh tự thọ tŕ, cập linh lưu bố. Do thị nhân duyên, bỉ chư chân thiện Sát-đế-lợi vương, tịnh chư quyến thuộc, cập quốc nhân dân, nhất thiết giai đắc lợi ích an lạc, thường chuyển pháp luân, danh xưng cao viễn, oai đức xí thịnh, tồi diệt tà kiến, kiến lập chánh kiến, thủ hộ pháp nhăn, thiệu Tam Bảo chủng, giai linh xí thịnh, vô hữu đoạn tuyệt, thành thục vô lượng, vô biên hữu t́nh, ư Đại Thừa trung, kiên cố tịnh tín, cửu trụ viên măn, năng cụ tu Lục Ba La Mật Đa, đoạn nhất thiết chướng, tốc đáo cứu cánh.

          ()爾時,世尊復告尊者大目乾連,及告彌勒菩薩摩訶薩曰:善男子,汝等皆應受持如是天藏大梵所說,護國不退輪心大陀羅尼明咒章句,傳授未來此佛土中,一切真善剎帝利王,令自受持,及令流佈。由是因緣,彼諸真善剎帝利王,並諸眷屬,及國人民,一切皆得利益安樂,常轉法輪;名稱高遠,威德熾盛,摧滅邪見,建立正見,守護法眼,紹三寶種,皆令熾盛,無有斷絕;成熟無量無邊有情,於大乘中堅固淨信,久住圓滿,能具修六波羅蜜多,斷一切障,速到究竟。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo tôn giả Đại Mục Càn Liên (Đại Mục Kiền Liên), và Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: - Này thiện nam tử! Các ông đều nên thọ tŕ Hộ Quốc Bất Thoái Luân Tâm Đại Đà La Mi Minh Chú Chương Cú do Thiên Tạng Đại Phạm đă nói như thế, truyền dạy cho hết thảy chân thiện Sát-đế-lợi vương trong cơi Phật này vào thuở vị lai, khiến cho họ tự thọ tŕ và lưu truyền. Do nhân duyên ấy, các vị chân thiện Sát-đế-lợi vương và các quyến thuộc, cùng với nhân dân trong nước, hết thảy đều được lợi ích, yên vui, thường chuyển pháp luân, tiếng tăm cao xa, oai đức lừng lẫy, phá diệt tà kiến, kiến lập chánh kiến, thủ hộ pháp nhăn, nối tiếp chủng tánh Tam Bảo, khiến cho đều hưng thịnh, chẳng bị đoạn tuyệt, thành thục vô lượng, vô biên hữu t́nh, ḷng tin trong sạch kiên cố đối với Đại Thừa, tồn tại lâu dài viên măn, có thể tu trọn Lục Ba La Mật Đa, đoạn hết thảy các chướng, nhanh chóng đạt đến rốt ráo).

 

          Sau khi Thiên Tạng Đại Phạm nói xong bài chú ấy, đă mong cầu đức Thế Tôn và đại chúng tùy hỷ. Đức Phật bèn bảo đại đệ tử Mục Kiền Liên và Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát là đại đệ tử trong các vị Bồ Tát, Mục Kiền Liên là đại đệ tử trong chúng Thanh Văn. Di Lặc Bồ Tát giáng sanh tại Ấn Độ, thị hiện nhục thân, chẳng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng ở trong thế gian này, Ngài hóa hiện. Đức Phật bảo ngài Mục Kiền Liên và Di Lặc Bồ Tát: “Các ông đều phải nên thọ tŕ Hộ Quốc Bất Thoái Tâm Đà La Ni Minh Chú do Thiên Tạng Đại Phạm vừa nói, khiến cho trong đời vị lai, nơi cơi Phật này, người có tâm thật sự cầu giải thoát, làm bậc chân thiện, khiến cho quốc vương thuộc chủng tánh Sát-đế-lợi như thế tự ḿnh tiếp nhận. Đồng thời, do ông ta lănh đạo nhân dân trong nước, sẽ khiến cho mọi người đều tiếp nhận. Như vậy th́ sẽ khiến cho quốc gia ấy được lợi ích, an vui. Do chú ấy, có thể khiến cho chánh pháp thường tồn tại, pháp luân thường chuyển.

          Đồng thời, tiếng tăm của quốc vương cũng sẽ cao xa, oai đức lừng lẫy. Trong quốc độ như thế, tà tri, tà kiến sẽ bớt đi, kiến lập một loại chánh tri chánh kiến. Đấy là do sức gia tŕ của chú này. Do sức gia tŕ của chú này mà thủ hộ pháp nhăn. Pháp nhăn là Phật pháp trụ thế, giống hệt như tṛng mắt. Người có mắt th́ mới có thể thấy. Chẳng có nhăn căn, thứ ǵ cũng chẳng thấy được. Có như vậy th́ mới khiến cho Tam Bảo vĩnh viễn tồn tại lâu dài trong thế gian, lại c̣n có thể tỏa sáng rạng ngời, vĩnh viễn chẳng bị đoạn tuyệt. Đă có pháp, sẽ có thể thành thục vô lượng, vô biên hữu t́nh, hết thảy chúng sanh nghe pháp sẽ có thể đạt được giải thoát, có thể đắc độ.

          Khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chính là khiến cho quư vị thành tựu tín tâm. Vị Bồ Tát phát khởi trong kinh ấy tên là Kiên Tịnh Tín, nay tín tâm của chúng ta giống như sợi lông trong không trung, vật vờ theo gió thổi, gặp cảnh giới nào bèn bị thổi đến chỗ đó, đă chẳng kiên định, mà cũng chẳng thanh tịnh. Tín tâm kiên định dường như rất dễ dàng! Nếu có thể có tín tâm, sẽ có thể thành Phật. Đấy là nhân, thành Phật là quả. Tu thanh tịnh tín th́ phải mất một vạn đại kiếp, rất khó khăn! Những ǵ chúng ta đang tu tập trong hiện tại là để khiến cho tín tâm thanh tịnh, luôn kiên cố, chẳng lay động! Chúng ta gặp cảnh giới liền bị dao động. Nếu vậy, quư vị mong viên măn Phật quả, sẽ chẳng thể được! Nếu muốn tu Lục Ba La Mật th́ cũng chẳng thể! Ắt cần phải có tín tâm thanh tịnh, Lục Ba La Mật sẽ đều có thể trọn đủ. Chẳng có tín tâm thanh tịnh, quư vị làm chuyện ǵ cũng đều xen tạp ô nhiễm, chẳng thuần! Chẳng hạn như nay chúng ta cũng hành bố thí, cũng hành xả, nhưng sự hành xả của quư vị chẳng thanh tịnh! Ví như hiện thời đến mùa Đông, chúng ta có quần áo dư bèn xả đôi chút. Quư vị xả những thứ quần áo dư bằng cái tâm ǵ? Điều này có mối quan hệ rất lớn. Tín tâm thanh tịnh, tôn kính người khác, đừng coi kẻ khác là ăn mày!

          Chúng tôi đang giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo một lần nữa. Trong kinh Địa Tạng, Địa Tạng Bồ Tát đă thưa hỏi đức Phật, v́ sao sau khi bố thí, có người hưởng phước một đời, có người hưởng phước mười đời, có người hưởng phước trăm đời, ngàn đời, cho đến có người hưởng phước vô lượng? V́ sao cùng tu bố thí như nhau, cùng là bố thí các vật như nhau [mà lại hưởng phước sai khác đến thế?] Đó là do cái tâm phân biệt. Nếu tôn kính người khác, sẽ là cái tâm cúng dường. Nếu hành bố thí [bằng cái tâm cúng dường], sẽ giống như cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng.

          Trong hết thảy các kinh, gần như [đều dạy phải bố thí giống như] cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Tôn trọng hết thảy chúng sanh, người ấy cúng dường hết thảy chúng sanh. Cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng, lại c̣n cúng dường hết thảy chúng sanh, tức là đối với quỷ thần, đối đăi với họ như chúng sanh, đều là Bổ Đặc Già La. Dùng cái tâm ấy để cúng dường hết thảy, tận hư không, trọn pháp giới, vô cùng, vô tận, như thế th́ công đức của quư vị sẽ to lớn. Tuy thí vật chất chẳng nhiều lắm, nhưng tâm lượng to lớn. Khi chúng ta sám hối, cũng giống như vậy. Tuy nói “làm điều ác chẳng lớn”, nhưng ngày đêm liên tục, cái tâm mạnh mẽ, điều ác ấy sẽ to lớn, điều ác đó sẽ trọn khắp pháp giới. V́ sao chúng ta vẫn một mực chẳng xuất ly, chẳng thể viên măn thành Phật được? Do nguyên nhân như thế đó. Phải dụng tâm sám hối. Như thế th́ mới có thể đạt đến rốt ráo!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn trùng hiển thử nghĩa, nhi thuyết tụng viết: - Thời Thiên Tạng Đại Phạm, thỉnh vấn Lưỡng Túc Tôn, lợi căn đẳng hữu t́nh, nhạo tu Định, tụng, phước, thông huệ vương thành pháp, vị thăng tấn, trầm luân? Sở tu tam sự trung, thùy trừ Hoặc bất thoái? Thế Tôn cáo bỉ ngôn, nhược phạm Vô Y Hạnh, tuy giác huệ mănh lợi, nhi thú Vô Gián ngục. Phi chân thông huệ cố, nhạo hành Thập Ác Luân, đoạn diệt chư thiện căn, tốc thú ư địa ngục. Định năng đoạn phiền năo, phi thính tụng phước nghiệp. Cố dục cầu Niết Bàn, thường đương tu Tĩnh Lự. Hữu huệ, cần tinh tấn, hộ tŕ ngă chánh pháp, do kính tín ca-sa, năng độ phiền năo hải, nhạo xử không nhàn lâm, viễn tạo vô đồng loại, kính tŕ giới tu định, năng độ chư hữu hải. Phổ tín kính tam thừa, hưng long ngă chánh pháp, cung kính nhiễm y giả, đương thành công đức hải.

          ()爾時,世尊重顯此義,而說頌曰:時天藏大梵,請問兩足尊,利根等有情,樂修定誦福,聰慧王成法,為升進沉淪,所修三事中,誰除惑不退?世尊告彼言,若犯無依行,雖覺慧猛利,而趣無間獄。非真聰慧故,樂行十惡輪,斷滅諸善根,速趣於地獄。定能斷煩惱,非聽誦福業,故欲求涅槃,常當修靜慮。有慧勤精進,護持我正法,由敬信袈裟,能渡煩惱海。樂處空閑林,遠造無同類,敬持戒修定,能渡諸有海。普信敬三乘,興隆我正法,供養染衣者,當成功德海。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn hiển lộ lại ư nghĩa này, bèn nói kệ tụng rằng: “Khi Thiên Tạng Đại Phạm, thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn, các hữu t́nh lợi căn, thích tu Định, tụng, phước, vua thông huệ thành pháp, thăng tấn hay trầm luân? Trong ba sự đă tu, pháp nào sẽ trừ Hoặc, khiến đạt được bất thoái? Thế Tôn bảo ông ta: Nếu phạm Vô Y Hạnh, dẫu giác huệ mạnh bén, vẫn vào ngục Vô Gián. Chẳng thật sự thông huệ, ưa làm mười ác luân, đoạn diệt các thiện căn, mau chóng vào địa ngục. Định đoạn trừ phiền năo, chẳng do tụng phước nghiệp. Do vậy, cầu Niết Bàn, thường nên tu Tĩnh Lự. Có huệ, siêng tinh tấn, hộ tŕ Phật chánh pháp, do kính tín ca-sa, sẽ vượt biển phiền năo, thích ở chốn thanh vắng, xa ĺa kẻ khác hạnh, kính tŕ giới, tu Định, sẽ vượt biển tam giới. Tin kính khắp ba thừa, hưng thịnh Phật chánh pháp. Cung kính người xuất gia, sẽ thành biển công đức).

 

          Đoạn kinh văn thuộc phẩm Vô Y Hạnh này trên cơ bản đă sắp viên măn, đức Phật bèn nhắc lại các ư nghĩa bao hàm trong ấy một lượt. Trong đoạn kệ tụng này, [đức Phật nhắc lại chuyện] Thiên Tạng Đại Phạm thưa hỏi, nhắc lại lời hỏi của ông ta. Thiên Tạng Đại Phạm đến “thỉnh vấn Lưỡng Túc Tôn” (thưa hỏi đấng Lưỡng Túc Tôn). Đây là đức Thế Tôn nói kệ tụng, chẳng phải là Thiên Tạng Đại Phạm nói. Bởi lẽ, sau khi đă nói xong ư nghĩa này, đức Phật nhắc lại đôi chút. V́ sao? Trong hội trường thuyết pháp của đức Phật, hoàn toàn chẳng phải toàn là thính chúng đều hiện diện từ đầu, cũng có người nửa chừng mới đến. Họ chẳng được nghe đoạn kinh văn ấy, đức Phật bèn nhắc lại, bổ sung đôi chút, bất quá chẳng nói cặn kẽ như vậy. Thuở đức Phật tại thế, những vị như tôn giả Ca Diếp, hoặc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, trong những vị Bồ Tát và Thanh Văn thường có vị do sự nghiệp hóa độ, phải đi rất xa. Trong pháp môn Đại Tập này, chẳng đợi các vị ấy trở lại, gần như đă nói xong, đức Phật lại dùng kệ tụng để nhắc lại một lượt. Các vị ấy đều có trí huệ, [chỉ cần] nói sơ lược đôi chút, các vị liền hiểu rơ, chẳng cần phải nhắc lại cặn kẽ. Kệ tụng có khi rất dài, có lúc rất giản lược. Trong phần Trường Hàng trước đó, các bài kệ tụng chỉ nhằm nói lên một chuyện, c̣n kệ tụng ở đây đă khái quát các ư nghĩa [trong phẩm kinh này].

          Thiên Tạng Đại Phạm hỏi: “Tu định, tu phước, tụng kinh, pháp nào tốt đẹp? Trong ba pháp ấy, pháp nào là tối thượng? Có thứ tự hay không?” V́ khi ông ta thỉnh vấn, đức Phật đă dạy ba loại nghiệp, tức tu Định nghiệp, tŕ tụng nghiệp, và doanh tạo phước nghiệp. Đức Thế Tôn bảo ông ta, tức “cáo bỉ ngôn”, cả ba môn ấy đều tốt. Nếu phạm Vô Sở Y, tức là Vô Y Hạnh, th́ các hành vi tu tập của quư vị sẽ chẳng thể sanh ra công đức, chẳng thể sanh ra phước đức. Do tu Vô Y Hạnh, những sự nghiệp họ đă làm sẽ là Vô Y Hạnh. Chẳng nương cậy Tam Bảo, cho đến làm chuyện phản đạo, cũng tức là chẳng nghe lời dạy bảo của đức Như Lai. Tuy kẻ đó rất thông minh, có giác huệ cũng rất mạnh mẽ, nhạy bén, nhưng kẻ đó đă phạm Vô Y Hạnh, hoặc mười ác luân đă nói trong phần trước, hễ có một ác luân, những ǵ kẻ đó tu tập sẽ chẳng thành tựu. Dẫu thông minh đến mấy, dẫu có trí huệ như thế nào đi nữa, vẫn đọa vào địa ngục Vô Gián. V́ sao? V́ trí huệ và thông minh của kẻ đó chẳng chân thật, [đó là ư nghĩa của câu] “phi chân thông huệ cố”. Trí huệ và thông minh chân thật sẽ như thế nào? Chẳng làm thập ác! Giống như đối với thập ác luân trong phần trước, nếu người ấy chẳng có một điều nào, th́ sẽ là thông huệ chân chánh. Nay chúng ta đă học thập ác luân, chính ḿnh có thể đối chiếu đôi chút, chúng ta có hành vi thập ác luân hay không?

          Nêu thí dụ, vấn đề ăn mặn và ăn chay khiến cho nhiều người rất lúng túng. Có kẻ mong xuất ly, cũng chán ghét sanh tử, chán ĺa khổ năo trong thế gian, cũng muốn niệm Phật sanh về thế giới Cực Lạc, nhưng ở phương Đông (Sa Bà) ăn thịt uống rượu, kẻ đó chẳng buông xuống được! Có người cho rằng nếu phải ăn chay sẽ rất khó khăn, xác thực là rất khó khăn, v́ tập quán từ vô thỉ đến nay, sẽ gặp khó khăn. Kẻ đó nếu thấy các vị xuất gia, có các vị xuất gia vẫn ăn mặn, kẻ đó bèn chọn lựa ăn mặn. Ăn mặn mà cũng muốn thành Phật tại Tây Phương, vẫn ăn thịt tại Đông phương, quư vị nói như vậy th́ xét theo tâm lư, chuyện này chẳng có vấn đề ǵ, tùy thuộc quư vị có giải thoát hay không? Nhưng do nơi tâm lư đă trái phạm, đó chẳng phải là thật sự có trí huệ!  

          C̣n nữa, đối với y phục, chúng ta mặc quần áo, có mặc đúng cách hay không? Tôi cho rằng phải nên chú trọng đối với y phục. Mùa hè phải mặc mỏng một chút, mát mẻ một chút, mùa Đông phải giữ ấm hơn. Quần áo nhằm bảo vệ thân thể của chúng ta. Hiện thời đă sai mất rồi, mặc quần áo là để cho người khác xem! Trong thời đại hiện tại, chú trọng thời trang, mặc y phục cho người khác ngắm, chính ḿnh phải chịu tội. Bó thân thể chật cứng, rất khó chịu. Như ở Mỹ có các công ty quy định, [nữ giới] đi làm nhất định phải mặc váy. Mùa Đông rét buốt như thế, bao nhiêu độ âm, cô ta mặc váy trông rất đẹp đẽ, để hai đùi phô ra. Đùi của phụ nữ [do không được giữ ấm] sanh ra rất nhiều bệnh tật. Đặc biệt là đối với phụ nữ, sẽ dẫn đến chuyện kinh nguyệt chẳng điều ḥa, đủ loại bệnh tật ở phần thân dưới. Cô ta cũng thà hy sinh cái mạng, vẫn phải ăn mặc xinh đẹp đôi chút, sợ không xinh đẹp, sẽ chẳng khiến cho người khác thích. Quư vị thấy đó, bất luận là tô son hay trang điểm, cốt là để người khác trông thấy sẽ ưa thích, chẳng phải v́ chính ḿnh, mà là v́ người khác. Điều ấy chẳng cần thiết!

          Xưa kia, có một vị lăo ḥa thượng được một nhà thí chủ cúng dường. Cả nhà ấy từ khi Sư bắt đầu tu đạo đều là toàn gia sốt sắng cúng dường. Đă trải qua hai, ba thế hệ, đều cúng dường Sư. Lăo ḥa thượng sống rất lâu, tu hành trong núi. Có một lần, nhà ấy đang có hỷ sự, vị lăo ḥa thượng ấy lại đến đó để hóa duyên, đến nhận gạo. Sư đứng ngoài cửa thấy nhà ấy đang lo tổ chức tiệc vui, bèn khóc ầm lên. Người khác hỏi Sư: “Lăo ḥa thượng! Hôm nay chúng tôi có đại hỷ sự, sư đến nơi đây, cớ sao sư đến báo tang, khóc lóc chuyện ǵ vậy?” Sư nói: “Đáng thương cho lăo thí chủ của tôi, đáng thương cho chúng sanh khổ sở, cháu nội cưới bà nội!” Sư nói: “Đây là tôi tự trông thấy. Bà ta lại tái sanh làm người, làm cô dâu cho cháu nội”. “Trư dương tịch thượng tọa, lục thân oa lư chử” (Lợn, dê ngồi trên tiệc, lục thân nấu trong nồi).

          Khi bà nội kết hôn, lục thân đều biến thành lợn, dê. Nay đứa cháu kết hôn, các con lợn, dê ấy đang ngồi ăn tiệc, c̣n lục thân thuở đó bị nấu trong nồi. Sư có thần thông, thấy rơ như vậy. Điều này mang ư nghĩa cảnh sách. V́ sao chúng ta phải phóng sanh? Phải cứu độ chúng sanh, sám hối tội lỗi. Phóng sanh tiêu nghiệp nhanh nhất. Quư vị chẳng muốn nhiễm bệnh, phóng sanh là được rồi. Khiến cho người khác sống vui sướng, cuộc sống của quư vị cũng vui sướng. Kẻ đoạn dứt thiện căn, hành mười ác luân, chẳng đọa địa ngục ư? Đương nhiên là đọa địa ngục! Đức Phật nói: “Định có thể đoạn phiền năo, chẳng phải do tập tụng và tạo phước”. Vậy th́ Định chẳng phải là phước nghiệp do nghe và học tập kinh điển, bởi phước ấy có thể thuộc vào phước thế gian, có ư nghĩa như thế đó. Quư vị mong cầu Niết Bàn, phải thường tu Định, tu Tĩnh Lự. Tĩnh Lự không nhất định là tọa Thiền, Tĩnh Lự tức là tâm quư vị phải thường luôn quan sát. Hoặc là quan sát bằng Chỉ. Chỉ quan sát là Định, hoặc là huệ quan sát. Huệ quan sát là tu Huệ, cũng chính là vận dụng cả Chỉ lẫn Quán, có hàm nghĩa như vậy! Nếu có trí huệ, lại c̣n dũng mănh tinh tấn tu hành, tu hành như thế nào? Hộ tŕ chánh pháp của Phật, hộ pháp là tu hành.

          “Do kính tín ca-sa”: Tin vào tấm y ấy. V́ trong phần trước, đă nêu ra rất nhiều thí dụ, chẳng hạn như quỷ La Sát trông thấy một mảnh ca-sa đỏ, chẳng ăn thịt kẻ đó cũng là v́ phải kính tín. Cung kính sanh khởi thanh tịnh tín, đừng nên chiết khấu. “Năng độ phiền năo hải” (có thể vượt biển phiền năo): Do tín tâm như vậy, có thể vượt qua biển khổ sanh tử. Kế đó, đừng t́m chỗ náo nhiệt, hăy t́m chỗ rừng sâu thanh vắng, chẳng qua lại với những kẻ ác, cho đến xa ĺa chỗ ồn náo trong xă hội. Quư vị tu Định như vậy th́ mới có thể tu thành công, tŕ giới mới có thể tŕ kiên cố. Cho đến “kính tŕ giới, tu Định” (kính cẩn giữ giới, tu Định) ở nơi ấy, hoàn cảnh khách quan bên ngoài chẳng khiến cho quư vị phạm tội, cơ hội phạm tội ít ỏi. Ở trong Định cảnh, tâm tham cũng chẳng sanh khởi, đặc biệt là ngồi trong thi lâm[12], quư vị thấy cứ chốc lát lại đưa một xác chết đến, chết rồi sẽ rữa nát, vừa trông thấy sẽ khởi lên cái tâm chán ĺa. Quư vị cũng như thế, thân thể của chính ḿnh rồi cũng sẽ như vậy.

          Do vậy, ở trong nhân gian huyễn hóa này độ chúng sanh, người ấy chẳng thấy chúng sanh là chân thật, chỉ thấy như mộng, huyễn, bọt, bóng. Nếu chúng sanh đều là chân thật, Bồ Tát suốt ngày v́ tâm đại bi, chỉ sợ chính ḿnh cũng sẽ khổ năo chết mất. Các Ngài chẳng bị cảnh chuyển, nhận biết đó là huyễn hóa. Nếu chúng ta chẳng có định lực như thế, cũng chẳng có rất nhiều thiện căn, chỉ có thể xa ĺa, chớ nên đến chốn ồn náo, như vậy th́ mới có thể vượt biển “chư Hữu” (hai mươi lăm Hữu, tức tam giới).

          “Phổ kính tín tam thừa” (tin kính trọn khắp tam thừa): Đối với tam thừa chẳng dấy lên phân biệt. Thanh Văn Thừa cũng thế, Duyên Giác Thừa cũng thế, Bồ Tát Thừa cũng thế, như vậy th́ mới có thể “hưng long ngă chánh pháp” (hưng thịnh chánh pháp của ta). “Cung kính nhiễm y giả, đương thành công đức hải” (cung kính bậc mặc áo nhuộm, sẽ thành tựu biển công đức): Quư vị mong cầu công đức, hăy cúng dường bậc xuất gia cho nhiều, ly dục thanh tịnh. Quư vị đừng phân biệt vị này có phải là thánh tăng hay không, vị kia có phải là phá giới hay không. Trong tâm quư vị căn bản là chẳng dấy lên ư niệm ấy, hết thảy đều là Phật tử.

 

          (Kinh) Năng phục nan điều tâm, bất cử bật-sô tội. Tu tri túc thánh chủng, đương thành Lưỡng Túc Tôn. Viễn ly ác bật-sô, thân cận thánh hạnh xứ. Bất thực dụng Tăng vật, tốc chứng đại Bồ Đề. Tam giới trung an lạc, giai do Tam Bảo sanh. Cố cầu an lạc nhân, thường cúng dường Tam Bảo. Chiên-đồ-la vương đẳng, bằng đảng ác bật-sô. Ư Tam Bảo khởi quá, tốc đọa Vô Gián ngục. Thập áp du luân tội, đẳng bỉ nhất dâm phường. Trí bỉ thập dâm phường, đẳng nhất tửu phường tội. Trí thập tửu phường tội, đẳng bỉ nhất đồ phường. Trí bỉ thập đồ phường, tội đẳng vương đẳng nhất. Chân thiện quốc vương đẳng, hưng long ngă chánh pháp, phổ cúng dường tam thừa, đương thành công đức hải. Thất bảo măn Thiệm Bộ, phụng thí Phật cập Tăng, bỉ sở hoạch phước tụ, bất như hộ Phật pháp. Vị Phật, Tăng tạo tự, lượng đẳng thập tứ châu, bỉ sở hoạch phước tụ, bất như hộ Phật pháp. Tạo Phật tốt-đổ-ba, lượng đẳng tam thiên giới, bỉ sở hoạch phước tụ, bất như hộ Phật pháp. Giải A La Hán phược, chủng chủng tu cúng dường, bất chướng ngă chánh pháp, kỳ phước thắng ư bỉ. Thiên câu-chi kiếp trung, trí giả cần tu Định, sở sanh thắng giác huệ, bất như hộ ngă pháp. Chân thiện quốc vương đẳng, viễn ly thập ác luân, hộ tŕ ngă chánh pháp, cập trước ca-sa giả. Bất hủy báng ngă thuyết, tam thừa pháp cập nhân, phổ thính văn cúng dường, hộ tŕ thuyết pháp giả, bất tổn Tam Bảo vật, bất chướng trước ca-sa, thường kính khí, phi khí, phước thắng vô luân thất.

          ()能伏難調心,不舉苾芻罪,修知足聖種,當成兩足尊。遠離惡苾芻,親近聖行處,不食用僧物,速證大菩提。三界中安樂,皆由三寶生,故求安樂人,常供養三寶,旃荼羅王等,朋黨惡苾芻,於三寶起過,速墮無間獄。十壓油輪罪,等彼一婬坊;置彼十婬坊,等一酒坊罪;置十酒坊罪,等彼一屠坊;置彼十屠坊,罪等王等一。真善國王等,興隆我正法,普供養三乘,當成功德海。七寶滿贍部,奉施佛及僧,彼所獲福聚,不如護佛法。為佛僧造寺,量等十四洲,彼所獲福聚,不如護佛法。造佛窣堵波,量等三千界,彼所獲福聚,不如護佛法。解阿羅漢縛,種種修供養,不障我正法,其福勝於彼。千俱胝劫中,智者勤修定,所生勝覺慧,不如護我法。真善國王等,遠離十惡輪,護持我正法,及著袈裟者。不譭謗我說,三乘法及人,普聽聞供養,護持說法者。不損三寶物,不障著袈裟,當敬器非器,福勝無倫匹。

          (Kinh: Hàng phục tâm khó điều, chẳng cử tội bật-sô. Cần biết đủ thánh chủng, sẽ thành Lưỡng Túc Tôn. Xa ĺa bật-sô ác, thân cận chỗ thánh hạnh. Chẳng ăn, dùng Tăng vật, mau chứng đại Bồ Đề. An lạc trong tam giới, đều do Tam Bảo sanh. Nên người cầu an lạc, thường cúng dường Tam Bảo. Bọn vua Chiên-đồ-la, cùng ác tăng kết đảng. Phạm lỗi với Tam Bảo, mau đọa ngục Vô Gián. Tội mười máy ép dầu, bằng tội một nhà thổ. Lập ra mười nhà thổ, bằng tội một tiệm rượu. Tội mở mười tiệm rượu, bằng mở một ḷ mổ. Lập ra mười ḷ mổ, tội bằng với vua quan, chuyên hành một ác luân. Bậc quốc vương chân thiện, hưng thịnh Phật chánh pháp, cúng dường khắp ba thừa, sẽ thành biển công đức. Bảy báu khắp Thiệm Bộ, dâng thí Phật và Tăng, người ấy đạt khối phước, chẳng bằng hộ Phật pháp. V́ Phật, Tăng dựng chùa, to bằng mười bốn châu, người ấy đạt khối phước, chẳng bằng hộ Phật pháp. Dựng tháp thờ phụng Phật, to bằng cơi tam thiên, người ấy đạt khối phước, chẳng bằng hộ Phật pháp. Cởi trói A La Hán, đủ mọi cách cúng dường, chẳng chướng Phật chánh pháp, phước ấy vượt hơn hẳn. Trong ngàn câu-chi kiếp, người trí siêng tu Định, sanh giác huệ thù thắng, chẳng bằng hộ pháp ta. Bậc quốc vương chân thiện, xa ĺa mười ác luân, hộ tŕ Phật chánh pháp, và người mặc ca-sa, chẳng báng pháp tam thừa, do ta đă nói ra, chẳng báng người hành tŕ. Nghe trọn khắp, cúng dường, hộ tŕ người thuyết pháp, chẳng tổn vật Tam Bảo, chẳng chướng người xuất gia, thường kính khí, phi khí, phước thù thắng khôn sánh).

 

          “Năng phục nan điều tâm” (Có thể hàng phục cái tâm khó điều phục): Điều phục cái tâm của quư vị cho tốt. Cái tâm ấy khó điều phục. Quư vị đă tin Phật, nghe hai bộ kinh, nghe rồi lập tức chuyển biến. Bất quá, tâm tham rất khó khống chế, khó chế ngự hơn bất cứ sự vật nào! Có đạo hữu nói: “Hễ tôi tĩnh tọa, vọng niệm [dấy lên] nhiều ngần ấy”. Đó là do tĩnh tọa, quư vị mới nhận biết vọng niệm. Chẳng tĩnh tọa, làm sao nhận biết vọng niệm cho được, v́ quư vị đang ở trong vọng niệm! Tô Đông Pha có bài thơ: “Hoành khán thành lănh, trắc thành phong. Viễn cận, cao đê các bất đồng. Bất thức Lô Sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung” (Nh́n ngang thành rặng, dọc thành đỉnh. Cao, thấp, gần xa, khác hẳn nhau. Chẳng biết Lô Sơn chân diện mục, v́ thân vẫn ở tại non này). Quư vị ở trong phiền năo, sẽ chẳng trông thấy phiền năo. V́ quư vị tu Định, hoặc nghe kinh rồi đối chiếu, như thế này là phiền năo, như thế kia là phiền năo. Nếu không, quư vị làm sao biết nổi? V́ quư vị nghe kinh xong, tĩnh tọa ở nơi đây, lại dấy lên vọng niệm. Vọng niệm ấy sau nửa tiếng đồng hồ lại mất đi, quư vị chuyển theo vọng niệm. Giả sử quư vị chẳng học Phật, chẳng làm ǵ, th́ trong nửa tiếng đồng hồ, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quư vị đều bị vọng niệm xoay chuyển, làm sao nhận biết cho nổi? Lúc tỉnh đă bị vọng niệm chuyển, mà đêm ngủ nằm mộng vẫn bị vọng niệm chuyển, hoàn toàn chẳng có lúc nào làm chủ! Bậc đại đức cũng có lúc chẳng thể làm chủ, chưa phải là Bồ Tát đăng địa (tối thiểu đă chứng Sơ Địa), hoặc địa vị Tam Hiền (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng), cũng sẽ có lúc chẳng thể làm chủ!

          A La Hán cũng đă đoạn Kiến Tư Hoặc, khi chẳng nhập Định, Ngài cũng chẳng thể làm chủ. V́ sao Ngài “hôi thân mẫn trí” (灰身泯智) tức là phải đốt cháy thân thể này? Bất luận Ngài có thần thông, phần trên thân thể bốc lửa, phần dưới thân thể tuôn ra nước, mười tám pháp thần thông biến hóa, tự ḿnh thiêu hóa chính ḿnh, chẳng c̣n nhục thể này nữa, đă đoạn dứt, thật sự nhập Niết Bàn. Khi đạt tới tŕnh độ nhất định, vị ấy sẽ dấy lên biến hóa, chẳng đơn giản như vậy. Nếu nghiên cứu A La Hán, [sẽ thấy] có rất nhiều loại A La Hán, cũng có thoái địa (thoái chuyển) A La Hán. Vị ấy chẳng tiến lên, chẳng độ chúng sanh, chẳng lợi lạc thế gian. Trước khi thành Phật, khi chưa đạt tới Bát Địa Bồ Tát, tức Bất Động Địa, sẽ chưa phải là bất thoái. Bất thoái lại có Vị Bất Thoái và Niệm Bất Thoái. Niệm Bất Thoái rất khó, hiểu đạo lư này là được rồi!

          Đối với hết thảy các pháp, phải biết đủ. “Tu tri túc thánh chủng, đương thành Lưỡng Túc Tôn” (cần phải biết đủ, đó là chủng tử của bậc thánh, sẽ trở thành Lưỡng Túc Tôn): Chủ yếu là đối với tham, đặc biệt là chúng ta lưu chuyển trong sanh tử v́ dục, tức ái dục. Đấy là căn bản sanh tử của chúng ta. “Viễn ly ác bật-sô, thân cận thánh hạnh xứ” (xa ĺa bật-sô ác, thân cận bậc thánh hạnh): Thân cận tỳ-kheo tốt, đừng thân cận ác tỳ-kheo. Trong phần trước, đă bảo quư vị đừng phân biệt. Đó là nói khi quư vị cúng dường, đừng dấy ḷng phân biệt. C̣n khi quư vị tu hành, phải chọn lựa ai là thiện hữu, ai là ác hữu? Nếu quư vị có sức có thể chuyển kẻ ác như các vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng, các Ngài chẳng phân biệt thiện hay ác, càng ác, càng độ kẻ đó. Chúng ta chẳng có sức mạnh ấy, kẻ b́nh phàm chẳng có sức mạnh ấy, đức Phật liền dạy cho chúng ta biết: Hăy bớt thân cận các ác tỳ-kheo ấy, hăy thân cận những vị Tăng có thánh hạnh, đáng cung kính.

          Hơn nữa, ngàn vạn phần đừng dùng vật của Tăng, Tăng [được nói ở đây là Tăng chúng] trong chùa miếu. Hễ nhắc đến Tăng là nói tới Tăng Già, Tăng Già chẳng phải là một vị. Một vị sẽ không thể gọi là Tăng. Chỉ có xuất gia th́ gọi là tỳ-kheo. [Nói đến Tăng] th́ ắt cần phải từ ba vị trở lên. “Tăng vật” là vật dụng của đại chúng Tăng từ ba vị trở lên, quư vị đừng dùng! Nếu là như thế, quư vị thân cận thiện hữu, đừng lạm dụng vật thuộc về thường trụ, sẽ rất dễ thành tựu quả Bồ Đề. V́ điều này tương đương với chẳng trộm cắp, thân cận thiện hữu sẽ giống như tôn kính Tăng. Quư vị gặp gỡ ác tỳ-kheo, sẽ bị mắc hại, nhưng khi quư vị cúng dường họ, chẳng v́ họ là kẻ ác mà quư vị phê b́nh. Do vậy, trong phần trước, đă nói rất nhiều lượt, cung kính v́ áo ca-sa đỏ, do người ấy khoác ca-sa, [cho nên] quư vị cung kính Tăng tướng của người ấy. Như thế th́ trong tam giới, quư vị có thể đạt được an lạc, khiến cho Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo sanh khởi, “thường cúng dường Tam Bảo”. Đó là Hữu Y. Sở dĩ Vô Y là v́ người ấy chẳng thân cận Tam Bảo, cho nên Vô Y. Trong phẩm sau là Hữu Y, những ǵ người ấy đă làm đều là thân cận Tam Bảo; đấy gọi là Hữu Y.

          “Chiên-đồ-la vương đẳng, bằng đảng ác bật-sô, ư Tam Bảo khởi quá, tốc đọa Vô Gián ngục” (bọn vua Chiên-đồ-la, kết đảng với sư ác, phạm lỗi với Tam Bảo, mau đọa ngục Vô Gián): Trong phần trước đă nói rất nhiều. Tỳ-kheo hiện thời c̣n kết bái huynh đệ; tôi đă thấy rất nhiều. Ở Ấn Ni (Indonesia) và Tân Gia Ba có mấy người, đều thuộc lứa tuổi trung niên, năm sáu chục tuổi. Tỳ-kheo hiện thời c̣n kết bái huynh đệ với nhau, quư vị nói việc này đúng hay sai? Tôi nghĩ ai nghe xong cũng cảm thấy chẳng đúng, đó gọi là “kéo bè kết đảng”. Đó là ác tỳ-kheo, họ thường đối trước Phật, Pháp, Tăng tạo tội, sẽ đọa địa ngục rất nhanh!

          Trong phần trước, đă nói “thập áp du luân tội, đẳng bỉ nhất dâm phường, trí bỉ thập dâm phường, đẳng nhất tửu phường tội, trí thập tửu phường tội, đẳng bỉ nhất đồ phường, trí bỉ thập đồ phường, tội đẳng vương đẳng nhất” (tội mười máy ép dầu, bằng tội một nhà thổ. Mở ra mười nhà thổ, tội bằng một quán rượu. Lập ra mười quán rượu, tội bằng một ḷ mổ. Lập ra mười ḷ mổ, tội bằng với vua quan, thành tựu một luân ác): Tội của ác tánh vương bằng tội của mười tiệm rượu[13]. Quư vị làm quốc vương, hễ tạo một tội, sẽ bằng tội của mười tiệm rượu. V́ quốc vương có sức lớn, tạo tội cũng lớn. Tu thiện lớn, tạo tội cũng lớn, “Chân thiện quốc vương đẳng, hưng long ngă chánh pháp, phổ cúng dường tam thừa” (bậc quốc vương chân thiện, hưng thịnh Phật chánh pháp, cúng dường khắp tam thừa), chẳng dấy lên sự chọn lựa đối với tam thừa, “đương thành công đức hải” (sẽ thành tựu biển công đức), nếu cúng dường như vậy, công đức sẽ thành tựu rất nhanh chóng.

          “Thất bảo măn Thiệm Bộ” (bảy báu đầy khắp Nam Thiệm Bộ Châu): Bảy báu đầy ắp Thiệm Bộ Châu, điều này đă được nhắc tới trong phần trước. “Phụng thí Phật cập Tăng, bỉ sở hoạch phước tụ, bất như hộ Phật pháp” (dâng thí Phật và Tăng, đạt được khối phước đức, chẳng bằng hộ Phật pháp): Cung ứng vật chất là hữu hạn, cũng có lúc chấm dứt. Nếu hộ tŕ Phật pháp, khiến cho trong vị lai có rất nhiều người đắc độ, công đức ấy vô lượng. “Vị Phật tăng tạo tự, lượng đẳng thập tứ châu” (v́ Phật, Tăng dựng chùa, lượng bằng mười bốn châu): Ư nghĩa này trong phần trước đă đều nói rồi. Ở đây là trùng tụng. “Bỉ sở hoạch phước tụ, bất như hộ Phật pháp” (họ đạt được khối phước, chẳng bằng hộ tŕ Phật pháp), công đức chẳng lớn bằng hộ tŕ Phật pháp. “Tạo Phật tốt-đổ-ba, lượng đẳng tam thiên giới” (tạo tháp thờ phụng Phật, lượng bằng cơi đại thiên): Tạo ngôi chùa rất lớn, chùa to bằng tam thiên đại thiên thế giới, phước đạt được cũng “bất như hộ Phật pháp” (chẳng bằng hộ tŕ pháp của Phật). “Giải A La Hán phược, chủng chủng tu cúng dường, bất chướng ngă chánh pháp, kỳ phước thắng ư bỉ” (cởi trói A La Hán, cúng dường đủ các thứ, chẳng chướng Phật chánh pháp, phước ấy vượt hơn hẳn): Đây cũng là hộ pháp. Trong phần trước đă nói, có kẻ trói A La Hán, hay muốn bức hại họ, bèn cứu giúp họ, giải thoát họ. Sau đó, lại c̣n cúng dường các Ngài đủ mọi cách. Công đức ấy vẫn chẳng bằng công đức hộ tŕ chánh pháp, công đức chẳng chướng ngại chánh pháp. Phước đức của người sau vượt hẳn công đức trước.

          “Thiên câu-chi kiếp trung, trí giả cần tu Định, sở sanh thắng giác huệ, bất như hộ ngă pháp” (trong ngàn câu-chi kiếp, người trí siêng tu Định, sanh giác huệ thù thắng, chẳng bằng hộ Phật pháp): Cá nhân quư vị tu một ngàn kiếp, thậm chí có trí huệ, tu Định như vậy sanh ra giác huệ thù thắng, nhưng vẫn chẳng lớn bằng công đức hộ tŕ chánh pháp của ta. Đó là chỉ v́ chính ḿnh, chẳng lợi ích chúng sanh. Chỉ cần có Phật pháp nhăn tồn tại, hết thảy vị lai vô cùng, vô tận chúng sanh đều đắc độ, cho nên mọi người phải hoằng dương Phật pháp, chớ nên viện cớ: “Tôi chẳng có học vấn, tôi chẳng biết hoằng dương như thế nào”. Quư vị khuyên người khác niệm câu A Di Đà Phật, đó chính là hoằng dương Phật pháp. Quư vị nói cho người khác một bộ kinh Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, cho đến một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, hoặc nói một bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Họ được nghe những danh xưng ấy, đều là hoằng dương Phật pháp, gieo thiện căn. [Do vậy], ai nấy đều có thể hoằng pháp.

          V́ thế, đệ tử Tam Bảo, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều phải nên hoằng pháp. Thậm chí chúng ta thường xuyên đối trước súc sanh thuyết Tam Quy cho chúng. Quư vị nói: “Nó nghe có hiểu hay không?” Đừng cho rằng nó không hiểu! Nếu quư vị thật sự nói với nó, nó sẽ đắc độ. Chúng sanh càng nhỏ, như kiến rất nhiều. Chẳng phải là nhà quư vị có gián hay sao? Chẳng phải là có chuột hay sao? Quư vị đừng thương tổn chúng nó, hăy nói Tam Quy cho chúng nó. Quư vị nói: “Các ngươi ở nơi đây chẳng thích hợp, ta dời chỗ các ngươi. Các ngươi hăy rời đi. V́ ta rất dễ tổn thương ngươi, người khác thấy các ngươi cũng chẳng thanh tịnh, sẽ đánh chết các ngươi. Các ngươi hăy rời đi”. Quư vị nói Tam Quy, thuyết pháp cho chúng nó, hăy thử xem! Đừng nẩy sanh tâm phiền năo, đừng thương tổn chúng nó.

          “Chân thiện quốc vương đẳng, viễn ly thập ác luân, hộ tŕ ngă chánh pháp, cập trước ca-sa giả” (Bậc quốc vương chân thiện, xa ĺa mười ác luân, hộ tŕ pháp của ta, và người mặc ca sa): Không chỉ hộ pháp, mà c̣n phải hộ Tăng, đừng hủy báng pháp tam thừa do ta đă nói và người hành tŕ pháp tam thừa. “Phổ thính văn cúng dường, hộ tŕ thuyết pháp giả” (nghe trọn khắp, cúng dường, hộ tŕ người thuyết pháp): Khiến cho quư vị hộ tŕ người thuyết pháp. Đừng nói chi khác, niệm câu A Di Đà Phật là được rồi, khéo khuyên hết thảy mọi người. Nhưng quư vị ngàn vạn lần chớ nên hủy báng. Phàm là các pháp do đức Phật đă nói, đối với những lời đức Phật đă dạy, đều chẳng hủy báng. Pháp Thanh Văn, pháp Duyên Giác, pháp Bồ Tát, chỉ cần là bất cứ pháp do đức Phật đă nói, quư vị đều chẳng hủy báng. Cho đến người hộ tŕ, tức là nói tới người thuyết pháp, quư vị phải nghe trọn khắp. Chỉ cần là người ấy nói Phật pháp, sẽ thường lắng nghe, lại c̣n phải cúng dường. Hộ tŕ người thuyết pháp, hoặc là hễ có ai thuyết pháp, đều phải hộ tŕ người đó.

          Tiếp đó, chẳng tổn hại vật thuộc về Tam Bảo. Đối với vật thuộc Phật, Pháp, Tăng, quư vị chớ nên hủy hoại. “Thường kính khí, phi khí” (thường kính trọng pháp khí và phi pháp khí): Là pháp khí cũng thế, mà chẳng phải là pháp khí cũng thế. Pháp khí là tỳ-kheo thanh tịnh, phi khí (chẳng phải pháp khí) là tỳ-kheo phá giới, hoặc là thanh tịnh cận sự nam, thanh tịnh cận sự nữ, hễ ai thọ Tam Quy Ngũ Giới, người ấy là thanh tịnh. Sau khi đă thọ Tam Quy, [vị thầy truyền giới] sẽ bảo quư vị: “Quy y Phật, trọn chẳng quy y ngoại đạo, thiên ma v.v…”, quư vị chẳng lạy quỷ thần, cầu cạnh quỷ thần gia tŕ. Trong bất cứ t́nh huống nào, cũng đều chẳng làm, dẫu cho mất mạng [cũng chẳng làm]. Sau khi đă quy y Phật, chẳng quy y quỷ thần. Thọ Tam Quy, quy y Pháp, chẳng quy y sách vở của ngoại đạo. Quy y Tăng, chẳng quy y tà chúng của ngoại đạo. Đó gọi là Tam Quy thanh tịnh. Có rất nhiều người Tam Quy chẳng thanh tịnh, lại càng chẳng nói tới Ngũ Giới, Bồ Tát Giới! Tam Quy trọn chẳng thanh tịnh, phải nên chú ư điều này. Đấy là chuyện rất quan trọng.

          “Phước thắng vô luân thất” (phước thù thắng, khôn sánh bằng): Nếu có thể làm như vậy, bất luận thanh tịnh hay không, ta đều đối đăi b́nh đẳng. Lại c̣n chẳng bươi móc lỗi của họ. Làm sao ta biết họ thanh tịnh hay không? V́ quư vị nghe người khác nghị luận, hoặc quư vị tham dự bàn luận, quư vị sẽ biết họ thanh tịnh hay không. Dùng thánh giáo lượng để lượng định họ. Chẳng cần làm như vậy, họ có quả báo của họ!

 

          (Kinh) Như ngũ nhật tịnh hiện, đại hải giai khô kiệt, như thị hộ ngă pháp, năng khô kiệt phiền năo. Như phong tai khởi thời, chư sơn giai tán diệt, như thị hộ ngă pháp, năng trừ diệt phiền năo. Như thủy tai khởi thời, đại địa giai phiêu hoại. Như thị hộ ngă pháp, năng hoại phi ái quả. Như như ư bảo châu, tùy sở nguyện giai măn, như thị tam thừa pháp, năng măn chúng sanh nguyện. Như ngộ đắc hiền b́nh, trừ bần, hoạch phú lạc, như thị ngộ Phật pháp, diệt Hoặc, chứng Bồ Đề. Như thập ngũ dạ nguyệt, minh chiếu măn hư không. Như thị hộ pháp nhân, trí huệ châu pháp giới. Như hư không b́nh đẳng, vô vật, diệc vô tướng. Như thị hộ pháp nhân, tri chư pháp nhất vị. Như nhật phóng quang minh, hằng trừ thế gian ám. Như thị hộ pháp giả, thường phổ chiếu thế gian.

          ()如五日並現,大海皆枯竭,如是護我法,能枯竭煩惱。如風災起時,諸山皆散滅,如是護我法,能除滅煩惱。如水災起時,大地皆漂壞,如是護我法,能壞非愛果。如如意寶珠,隨所願皆滿,如是三乘法,能滿眾生願。如遇得賢瓶,除貧獲富樂,如是遇佛法,滅惑證菩提。如十五夜月,明照滿虛空,如是護法人,智慧周法界。如虛空平等,無物亦無相,如是護法人,知諸法一味。如日放光明,恆除世間闇,如是護法者,常普照世間。

          (Kinh: Năm mặt trời cùng hiện, biển cả đều khô cạn. Hộ pháp ta như thế, khô cạn các phiền năo. Như lúc phong tai dấy, các núi đều tan diệt. Hộ pháp ta như thế, hay trừ diệt phiền năo. Như lúc thủy tai dấy, đại địa đều ngập, hư. Hộ pháp ta như thế, hoại quả chẳng mến yêu. Như bảo châu như ư, nguyện ǵ cũng đều thỏa. Pháp tam thừa như thế, thỏa măn chúng sanh nguyện. Như gặp được hiền b́nh, trừ nghèo, được giàu vui. Gặp Phật pháp cũng thế, diệt Hoặc, chứng Bồ Đề. Như trăng đêm hôm Rằm, chiếu sáng khắp hư không. Người hộ pháp cũng thế, trí huệ trọn pháp giới. Như hư không b́nh đẳng, không vật, chẳng có tướng. Người hộ pháp cũng thế, biết các pháp một vị. Như mặt trời tỏa sáng, luôn trừ tối thế gian. Người hộ pháp cũng thế, thường chiếu khắp thế gian).

 

          “Như ngũ nhật tịnh hiện, đại hải giai khô kiệt. Như thị hộ ngă pháp, năng khô kiệt phiền năo” (như năm mặt trời cùng hiện ra, biển cả đều khô cạn. Hộ tŕ pháp ta cũng như thế, có thể khô cạn biển phiền năo): Khi thế giới này đến lúc tận thế, hỏa tai sẽ sanh khởi như thế này: Năm vầng thái dương là đă quá sức rồi, đến cuối cùng, xuất hiện bảy mặt trời. Bảy vầng thái dương nung đốt, tất cả đều bốc lửa. Thứ ǵ cũng đều cháy rụi. Núi cũng cháy, đá cũng bốc cháy. Quư vị thấy bom nguyên tử, lửa từ bom nguyên tử là như thế đó. Sự vật ǵ cũng đều có thể cháy! Năm vầng thái dương xuất hiện như thế, tất cả nước biển đều khô cạn. Nếu quư vị hộ tŕ Phật pháp, phiền năo của quư vị đều khô cạn, năm vầng thái dương biến thành trí huệ.

          “Như phong tai khởi thời, chư sơn giai tán diệt, như thị hộ ngă pháp, năng trừ diệt phiền năo” (như lúc phong tai dấy, các núi đều tan diệt. Hộ pháp ta cũng thế, hay trừ diệt phiền năo): Khi phong tai phát sanh, phá tan các núi, thổi tung lên không trung, biến thành vi trần. Chuyện này mọi người đều có thể nh́n thấy như khi có gió lốc. “Như thủy tai khởi thời, đại địa giai phiêu hoại” (Như lúc thủy tai dấy, đại địa đều ngập, hư): Toàn thể đại địa đều ngập nước. “Như thị hộ ngă pháp, năng hoại phi ái quả” (Hộ pháp ta cũng thế, hay hoại quả chẳng thích): Sẽ chứng thánh quả. “Ái” không tốt, “phi ái” là tốt[14], có nghĩa là hư hoại. Hư hoại những điều xấu xa chẳng đáng mến thích, khiến cho sự mến thích [không đúng lư ấy] ấy chẳng thể sanh ra cái quả.

          “Như như ư bảo châu, tùy sở nguyện giai măn, như thị tam thừa pháp, năng măn chúng sanh nguyện. Như ngộ đắc hiền b́nh, trừ bần hoạch phú lạc” (Như bảo châu như ư, nguyện nào cũng đều thỏa. Pháp tam thừa cũng thế, hay măn nguyện chúng sanh. Như gặp được hiền b́nh, trừ nghèo, được giàu vui): Đó là thần thoại. Nếu vào trong biển cả thâu nhặt báu vật, t́m được cái hiền b́nh ấy, quư vị mong ǵ, trong b́nh báu bèn sanh ra thứ ấy. Mọi người đă từng xem chuyện Ngàn Lẻ Một Đêm hay chưa? Hễ đă xem Ngàn Lẻ Một Đêm, sẽ biết đến ông thần đèn. Ở đây chẳng phải là b́nh báu kiểu đó, mà là do đức Phật nói, hăy nghĩ nó giống như trong chiếc bảo b́nh của Quán Thế Âm Bồ Tát, thứ ǵ cũng đều có. Hoặc như viên bảo châu của Địa Tạng Bồ Tát, thứ ǵ cũng đều có. Đấy là trừ nghèo khó. Do vậy, đạt được sự giàu vui!

          “Như thị ngộ Phật pháp, diệt Hoặc, chứng Bồ Đề. Như thập ngũ dạ nguyệt” (gặp Phật pháp như thế, diệt Hoặc, chứng Bồ Đề, như trăng đêm hôm Rằm): Như vầng trăng đêm Rằm mỗi tháng, quang minh chiếu trọn khắp, “minh chiếu măn hư không, như thị hộ pháp nhân, trí huệ châu pháp giới” (chiếu sáng ngời hư không, người hộ pháp như thế, trí huệ trọn pháp giới): Trí huệ ấy trọn khắp các pháp. “Như hư không b́nh đẳng, vô vật, diệc vô tướng. Như thị hộ pháp nhân, tri chư pháp nhất vị. Như nhật phóng quang minh, hằng trừ thế gian ám, như thị hộ pháp giả, thường phổ chiếu thế gian” (Như hư không b́nh đẳng, không vật, cũng không tướng. Người hộ pháp cũng thế, biết các pháp một vị. Như mặt trời phóng quang, luôn trừ tối thế gian. Người hộ pháp cũng thế, thường chiếu khắp thế gian): Mặt trời vừa mọc, tối tăm trong thế gian đều tiêu mất. Do vậy, ai hộ tŕ Phật pháp, sẽ giống như vầng mặt trời, chiếu trọn khắp thế gian. Hộ pháp có sâu, có cạn, tùy thuộc quư vị hộ tŕ như thế nào. Nhưng có một điều kiện: Chúng ta chớ nên hủy báng. Bất luận ai thuyết pháp, quư vị đều tán thán, tùy hỷ, không nói đến cái xấu, chỉ nói về điều tốt, như thế là hộ pháp. Phàm chỗ nào có pháp bảo, quư vị bèn cung kính, coi giống như Phật đang ngự tại đó. Pháp bảo là Pháp Thân của Phật, mà cũng là Pháp Thân của quư vị. Quư vị cung kính và tôn kính như thế, dẫu chúng ta có những chỗ chưa thấu hiểu, các bậc đại đức trong quá khứ rất chú ư chuyện này.

          Hiện thời, bất luận là đạo hữu tại gia cư sĩ, ngay cả các ḥa thượng, rất nhiều vị ḥa thượng trong chùa miếu cũng đều chẳng chú ư cho lắm, các tiểu ḥa thượng thông thường lại càng chẳng cần phải nói nữa. Cầm kinh Phật mà không đủ quư trọng, cứ giống như cầm một quyển sách b́nh thường, quăng, ném, cuộn ṿ! Đạo hữu tại gia càng chẳng cần phải nói nữa! Họ phải nên trân trọng, nâng niu kinh, luôn tôn kính như vậy; đấy là Pháp Thân của Phật, phải cung kính như thế. Phẩm Vô Y Hạnh nói đến đây đă xong.

Đại Thừa Địa Tạng Thập Luân Kinh Giảng Kư, phần 9



[1] Bang () là một dụng cụ báo hiệu có h́nh con dài bằng gỗ, thường treo trước nhà trù, hoặc Tăng xá, có nhiệm vụ báo hiệu giờ thọ trai.

[2] Dương Lăng Các (1866-1929) tên thật là Dương Vũ Đ́nh, tự là Lăng Các, c̣n có các tên hiệu khác là Lân Các, Lân Cát. Quê ở huyện Pháp Khố, tỉnh Phụng Thiên (nay là huyện Pháp Khố, tỉnh Liêu Ninh). Ông ta là một tướng lănh quân phiệt hùng mạnh trong chánh quyền quân phiệt Bắc Dương thuộc Phụng Hệ (quân phiệt vùng Phụng Thiên). Do tranh quyền cai trị, ông ta bị lănh tụ Phụng Hệ là Trương Học Lương sai người bí mật ám sát vào năm 1929.

[3] Một Hộc là mười đấu, mỗi đấu là mười thăng. Một thăng dao dao động từ một lít cho đến 1,8 lít. Như vậy một hộc khoảng từ 100 đến 180 lít.

[4] Sách Hy Lân Âm Nghĩa (希麟音) quyển một giảng: “Ổ-ba-ni-sát-đàm là tiếng Phạn, là phần cực nhỏ trong cách tính toán. C̣n gọi là Ưu-ba-ni-sái-tha. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa dẫn Du Già Đại Luận dịch thành Vi Tế Phần. Như chẻ một sợi lông thành một trăm phần, lại chẻ một phần ấy thành trăm ngàn vạn phần, lại chẻ mỗi phần ấy sau khi đă chia chẻ ấy giống như trước, cho đến khi mỗi phần chia chẻ ấy gần với hư không, chẳng thể chia nhỏ hơn được nữa, th́ gọi là Ổ-ba-ni-sát-đàm phần”.

[5] Mạn y (縵衣) là y không có điều (thường là màu nâu) dùng cho cư sĩ đă thọ Bồ Tát Giới (đối với phần lớn các tông phái thuộc Thiền Tông Trung Hoa, người đă thọ Ngũ Giới đều đắp mạn y khi làm lễ sám hối). Do rất nhiều tông phái của Phật giáo Trung Hoa, tăng sĩ không đắp y vàng (kể cả thiền phái Tào Động), cho nên y sa-di không có điều sẽ giống y hệt mạn y của cư sĩ.

[6] Tác phẩm này có tên gọi đầy đủ là Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận (Lamrim Chenmo) do sáng tổ của Cách Lỗ Phái (Gelugpa) của Tây Tạng là Tông Khách Ba (Tsongkhapa) biên soạn vào năm 1405, dựa theo phần biện định về thứ tự của các quả vị chứng đạo trong bộ Bồ Đề Đạo Đăng Luận của tôn giả A Để Hạp (Atisha) người Ấn biên soạn. Ngài Tông Khách Ba đă phân định các kinh luận dựa trên các căn cơ (hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ) và Chỉ Quán Luận để phân định các địa vị. Tác phẩm này đă được trưởng lăo Pháp Tôn dịch sang tiếng Hán vào năm 1931.

 

[7] Thổ Phồn (吐蕃, Bod chenpo, c̣n đọc là Thổ Phiên) là danh xưng người Hán gọi một vương quốc cổ trên đất Tây Tạng tồn tại từ thế kỷ thứ 7 cho đến thứ 9, có địa bàn bao gồm vùng đất trũng Tháp Lư Mộc (Tarim), cao nguyên Tây Tạng, và một phần Bengal, kể cả tỉnh Cam Túc, tỉnh Thanh Hải, vùng Khang Ba (tỉnh Tứ Xuyên) và một phần tỉnh Vân Nam của Trung Hoa. Vương triều này được thành lập bởi Namri Songtsen từ đời Tùy, nhưng người đưa vương triều này đến mức cường thịnh nhất là Songtsen Gampo (con trai của Namri Songtsen, sử Trung Hoa gọi ông là Tùng Tán Can Bố). Thổ Phồn trở thành một mối đe đọa nơi biên giới phía Tây cho nhà Đường, nhất là sau khi Songtsen Gamp đánh bại và sát nhập vương quốc Thổ Dục Hồn (Tuyhuhun) vào Thổ Phồn. Đường Thái Tông đă gả công chúa Văn Thành cho Songtsen Gampo. Theo truyền thuyết, công chúa đă đem Phật giáo vào Tây Tạng. Người Tây Tạng coi nhà vua là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, công chúa Văn Thành (Mungchang Kungco trong tiếng Tây Tạng) được coi là hóa thân của Tara Bồ Tát (Độ Mẫu). Vương triều suy vong khi vua Tritsu Detsen (Ralpacan) bị ám sát bởi hai viên quan theo đạo Bön (tôn giáo bản địa của Tây Tạng, người Hoa gọi là Bổng giáo, hoặc Bần giáo), và anh của nhà vua là Langdarma (một người chống đạo Phật) lên ngôi. Langdarma bách hại đạo Phật, tàn phá chùa chiền, cuối cùng bị một tu sĩ Phật giáo ám sát. Các thủ lănh địa phương nổi lên tranh giành quyền lực, khiến vương triều suy vong và sụp đổ, Tây Tạng rơi vào cảnh nội chiến triền miên cho đến khi nhà Nguyên xâm lược, biến Tây Tạng thành phiên quốc của Trung Hoa, măi cho đến khi Tai Situ Changchub Gyatsen đánh bại quân Mông Cổ, lập ra vương triều Phagmodrupa.

[8] Năng Hải thượng sư (1886-1967) là một vị danh Tăng ở Trung Hoa chủ trương phục hồi Mật Tông theo truyền thống Hán truyền Phật giáo. Sư xuất thân trong một gia đ́nh nghèo tại Miên Trúc (tỉnh Tứ Xuyên), cha mẹ mất sớm. Sư vào học viện quân sự và trở thành sĩ quan huấn luyện tại trường vơ bị Vân Nam. Măi cho đến năm 1924, Sư mới thỏa nguyện xuất gia thuộc thế hệ 44 ḍng Lâm Tế. Do tinh tấn tu hành, Sư được đặc cách thọ Cụ Túc Giới vào năm 1925 do lăo ḥa thượng Thích Quán Nhất chùa Bảo Quang (thành phố Thành Đô) làm đàn đầu. Cùng năm ấy, Sư theo pháp sư Đại Dũng từ Tứ Xuyên sang Tây Tạng học Phật. Suốt từ năm 1928 đến năm 1940, Sư nhiều lần sang Tây Tạng học Mật pháp, y chỉ Khang Tát thượng sư (Khangsar Rinpoche), được truyền pháp trở thành đích tử đời thứ 28 của Cách Lỗ phái (Gelugpa). Sau khi học thành tài, Sư trở về Thành Đô, lập chùa Cận Từ chuyên môn phiên dịch và xuất bản kinh Phật, bồi dưỡng nhiều đệ tử, được tôn xưng mỹ hiệu là “Tông Khách Ba tái sanh”. Sau khi Trung Cộng thành lập, Sư bị ép buộc phải đảm nhiệm chức vụ phó hội trưởng hội Phật Giáo Trung Quốc, đại biểu Quốc Hội, và ủy viên ủy ban hành chánh tỉnh Sơn Tây. Năm 1966, Mao Trạch Đông triển khai Cách Mạng Văn Hóa. Khi ấy, Sư đang ở động Thiện Tài thuộc Ngũ Đài Sơn. Sư bị Hồng Vệ Binh quy kết tội danh gieo rắc tư tưởng phản động và chủ nghĩa xét lại, mê hoặc quần chúng, cũng như một loạt tội danh chống phá chính quyền. Sư bị Hồng Vệ Binh lăng nhục, tra tấn tàn bạo, nhưng vẫn kiên cường chịu đựng, chủ trương họ đang tiêu trừ nghiệp chướng cho Ngài. Toàn thể Tăng chúng trong chùa bị bắt hoàn tục, hoặc tập trung cải tạo tại chùa, nếu không chịu rời đi. Hằng ngày Tăng chúng bị cấm tụng niệm, phải học chính trị liên tục, khẩu phần ăn bị cắt giảm tàn nhẫn. Tối hôm 31 tháng Mười Hai năm 1966, Sư bảo các học tṛ đă đến lúc Ngài phải ra đi v́ duyên hóa độ đă hết. Tối hôm đó, Sư bảo pháp sư Thành Tông xin cho Sư nghỉ học tập chính trị ngày mai v́ thân thể không khỏe. Đến rạng sáng ngày 01 tháng Giêng năm 1967, pháp sư Thâm Đức vào liêu pḥng của Ngài gọi Ngài dùng cháo sáng, thấy pháp sư đắp y, ngồi kiết già, đă viên tịch từ lúc nào, thọ 81 tuổi. Di thể của Sư được an táng tại Thanh Lương Kiều ở Ngũ Đài Sơn. Măi đến năm 1973, di thể của Ngài mới được đưa về chôn tại núi Bảo Tháp và lập tháp thờ.

[9] Trong chú Lăng Nghiêm, cuối hội thứ năm, sau chữ Tadyathā“án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà, bàn đà nhĩ, bạt xà ra báng ni phấn, hổ hồng đô rô ung phấn, sa bà ha” (Auṃ, anale, viśade, vīra vajra-dhare, bandha, bandhane vajra-pae, pha pha hūṃ trūṃ pha svāha). Nhưng nói chú Lăng Nghiêm là Tất Đát Đa Bát Đát Ra v́ khi nói chú này, đức Phật đă phóng quang từ nhục kế trên đỉnh đầu nói ra, và chú này có tên gọi đầy đủ là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Tất Đát Đa Bát Đát Ra dịch nghĩa là Đại Bạch Tán Cái (tàn lọng trắng) do hai chữ Sita (màu trắng) và Atapatrā (dù, lọng) ghép lại. Trong Mật Tông, đây là một vị Phật Đảnh, tức thân cụ thể của trí huệ Phật, với danh xưng là Đại Bạch Tán Cái Phật Đảnh Phật Mẫu (Uṣṇīṣasitātapatrā). Vị này được đặc biệt tôn sùng trong Tạng Truyền Phật Giáo. Vị Phật Đảnh này thường được tạo h́nh dạng nữ Bồ Tát, có ba mặt, sáu tay, hoặc ba mặt tám tay, đôi khi lên đến một ngàn tay, một ngàn mặt, một ngàn chân, một triệu mắt, nhằm biểu thị mạnh mẽ phá tan các phiền năo trong tam thiên đại thiên thế giới. Pháp khí tiêu biểu là bánh xe pháp luân và chiếc lọng trắng. Các nhà chú giải cho rằng năm hội của chú Lăng Nghiêm, tương ứng với ngũ trí Như Lai, và toàn thể các câu chú trước chữ Đát-điệt-dạ-tha chính là lời quy kính xưng tụng danh hiệu của các vị Phật, Bồ Tát, kim cang, minh vương, hộ pháp, yết ma quỷ thần chúng trong mỗi bộ thuộc Ngũ Bộ.

[10] Chú tâm (咒心) có nghĩa là Chú tâm là câu chú chánh yếu, cốt lơi của cả bài chú. Những câu trước chữ Tadyathā thường là những danh hiệu, những lời tán dương chư Phật, hoặc vị bộ chủ (chân ngôn chủ) của bài chú ấy.

[11] Chữ Lệ () khi viết theo lối giản thể sẽ thành “” trùng với lối viết cổ của chữ Đăi (), nên nếu không chú ư sẽ đọc sai Lệ thành Đăi khi niệm chú.

[12] Thi lâm (屍林): Tại Ấn Độ có những vùng không chôn hay thiêu, họ có những khu rừng chuyên dành để bỏ xác người chết vào đó để xác tự rữa nát.

[13] Ở đây có lẽ là người chép lại lời giảng ghi lầm. Đúng ra phải là mười ḷ mổ.

[14] Câu này hơi khó hiểu. Theo ngu ư, lăo pháp sư muốn nói Ái (yêu mến chấp trước) là không tốt. “Phi ái” (không yêu mến chấp trước) là tốt.