Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 1

Phần 2

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Toán giảm tắc bần hao, đa phùng ưu hoạn.

          (正文)算減則貧耗。多逢憂患。

          (Chánh văn: Do tuổi thọ bị giảm, sẽ nghèo cùng, hao tổn, gặp nhiều nỗi ưu tư, hoạn nạn).

 

          Từ chỗ này cho tới câu “toán tận tắc tử” (tuổi thọ đă hết sẽ chết) đều là những lời thành thật nói về chuyện tuổi thọ bị giảm bớt. “Bần” () là không có tiền của. “Hao” () là nhà cửa phá tán. “Đa phùng” (多逢) là nói kẻ bất thiện cứ thường gặp phải [chuyện chẳng lành]. “Ưu” (, ưu tư) xuất phát từ chính ḿnh, “hoạn” (, hoạn nạn) sanh từ bên ngoài. Ấy là v́ thần trông thấy những điều dối trá, giấu diếm của kẻ bất thiện; do vậy, giảm bớt tuổi thọ [của kẻ đó]. V́ thế, nghèo túng, hao tổn, ưu tư, hoạn nạn nối gót nhau xảy tới.

          “Do làm lành mà được phước, do dâm dật mà mắc họa”, đó là đạo lư đă định của tạo hóa. Ai muốn tránh né điều hung, hướng về điều cát, ắt phải nên hướng lành, sửa lỗi. Trước hết, phải nên đối trị cái tâm, kiểm điểm tam nghiệp của chính ḿnh, đừng để chúng buông lung, đọa trong lưới tà. Hăy nên khuyên răn lẫn nhau, [sao cho] tâm và miệng [của chính ḿnh] khuyên răn lẫn nhau, tâm nhắc nhở miệng rằng: “Ngươi hăy nên nói điều lành, đừng nói lời phi pháp”. Tâm lại nhắc nhở thân: “Ngươi hăy tinh tấn, đừng nên giải đăi”. Mỗi ngày, mỗi thời, mỗi khắc, mỗi niệm, cho đến trong mỗi sát-na, giản dị, trầm mặc như thế, tự chế ngự cái tâm ta, tự thận trọng miệng ta, tự đối trị cái thân ta, lâu ngày chầy tháng chẳng gián đoạn, tự nhiên sẽ chẳng bị động tâm bởi ngoại cảnh. Trầm tĩnh, chẳng ham muốn th́ toàn thể sẽ là lành, há đến nỗi giảm thọ, bần cùng, hao tổn, ưu tư, hoạn nạn ư?

          Huyện lệnh huyện Phụng Phù là Tiền Nhược Ngu, gian hiểm, ngoan cố, được bổ làm quan từ lúc c̣n trẻ. Dù đă được phái đi làm quan ở nhiều nơi, phần nhiều chẳng trọn hết nhiệm kỳ. Tuổi già càng thêm khốn khó, con cái chết lần, chết ṃn, áo cơm chật vật. Do vậy, cầu nguyện với thần, [ông ta] mộng thấy thần bảo: “Ngươi do tội ác mà bị giảm thọ đến mức ấy. [Hễ c̣n sống] th́ hăy c̣n bị khổ sở, bần cùng, hao tổn!”

          Từ Hạnh ở Ngô Trung, tánh t́nh tham lam, ác độc. Thoạt đầu làm kẻ buôn dược liệu, chèn ép, lừa gạt để làm giàu. Hắn ôm tiền của sang Liêu Đông để buôn nhân sâm, gặp giặc kéo tới, chịu đủ mọi nỗi kinh khủng. Trong muôn phần chắc chắn là chết, lại được sống. Về sau, lại qua huyện Đăng Lai tỉnh Sơn Đông, lại gặp phải cừu gia tố cáo hắn ta là dư đảng của Bạch Liên Giáo, bắt giữ, toan giải lên quan, phải tốn sạch tiền của mới được thoát. Cuối cùng, hắn ta lại sang Xuyên Trung buôn bán dược liệu, đến khi quay về, thuyền đi được nửa đường, bỗng có thủy tặc kéo tới, phải bỏ của chạy lấy người. Từ đấy trở đi, gia cảnh suy sụp, buồn lo, uất ức, ngă bệnh mà chết.

 

          (Chánh văn) Nhân giai ố chi.

          (正文)人皆惡之。

          (Chánh văn: Mọi người đều ghét).

                   

          “Ố” () là ghét bỏ. Ngọc Xu Kinh[1] nói: “Nhược nhân bất tu thiện nghiệp, thiên tất vi chi trảm thần nhiếp phách, sử chi điên đảo, nhân sở yếm ố, nhân sở hiềm hại” (Nếu kẻ nào chẳng tu nghiệp lành, trời ắt sẽ cắt xén tinh thần, thâu bớt phách, khiến cho kẻ ấy điên đảo, bị người khác chán ghét, bị kẻ khác hiềm nghi, làm hại). Nay ta căm hận kẻ khác lừa dối ta, há có biết là tự đă đánh mất cơ hội phản tỉnh[2], khiến cho ta luôn chẳng gặp thời ư? Từ nay, ta được may mắn [v́ được nghe giáo huấn từ trong Cảm Ứng Thiên], xin hăy nên đổi chí, gột ḷng, theo lành, bỏ ác, ắt ḷng trời sẽ nhân từ, khoan dung, chẳng tru diệt kẻ biết hối cải tội lỗi. Lỗi cũ có thể chuộc, hạnh sau có thể mong, dẫu là kẻ bẩm sanh biết lỗi, hay là kẻ do gặp cảnh khốn cùng mới biết[3], hễ thành công th́ đều như nhau. Muôn phần chớ nên tự ruồng rẫy chính ḿnh!

          Kẻ làm ác, ai nấy đều chán ghét. Ấy là v́ lẽ công bằng ở ngay trong ḷng người, mà cũng chính là chỗ lương tâm vốn tốt lành vậy! Chỉ mong hăy dấy lên ư niệm [vốn tốt lành] ấy, thấy điều thiện của kẻ khác mà chính ḿnh chẳng bằng, thấy điều bất thiện sẽ như chạm phải nước sôi, bèn tự gắng sức ḥng đạt đến chỗ “có thiện, không ác”. Nếu chỉ ghét suông điều ác của kẻ khác, chẳng trừ khử điều ác của chính ḿnh, lẽ nào sẽ tránh khỏi [chính ḿnh] chẳng bị kẻ khác ghét bỏ ư?

          Đời Đường, Lai Tuấn Thần làm Thị Ngự Sử, do ăn hối lộ mà của cải [tích tập] như núi, oan hồn nghẽn đường! Rốt cuộc, do mưu phản mà bị chặt đầu ngoài chợ, người ta tranh nhau ăn thịt hắn, khoét mắt, giành tim, trong chốc lát đă hết sạch!

          Lại nữa, đời Tống, Đinh Vị và Khấu Lai Công (Khấu Chuẩn)[4] làm quan đồng triều. Người trong thiên hạ hễ nhắc tới ông Khấu bèn bảo là bậc tận trung. Nhắc tới họ Đinh, ắt kêu là gă gian nịnh. Hễ nghe có điều tốt lành nào, họ ắt quy về ông Khấu, [dẫu điều thiện ấy] chưa chắc đă là do ông Khấu làm. Hễ nghe một điều ác, ắt quy tội cho gă họ Đinh, dẫu chưa chắc là do gă họ Đinh gây nên!

          Lại nữa, đời Tống, Tần Cối khi quân, làm hại nước nhà, hăm hại bậc trung lương. Cả trăm đời sau, chẳng có ai không ghét sự gian trá của hắn! C̣n Nhạc Vương (Nhạc Phi) tinh trung báo quốc, đời sau cũng chẳng có ai không ngưỡng mộ phong thái của Ngài. Đền thờ Ngài có đúc tượng Tần Cối và vợ là Vương Thị bằng sắt, quỳ trước án, [bên cạnh] treo một bàn tay bằng gỗ. Người từ nơi xa chốn gần đến bái yết, đều kính cẩn lạy Nhạc Vương, lại cầm bàn tay gỗ vả tượng [vợ chồng Tần Cối]. Gộp chung lại để xét, dân vốn chẳng có tâm yêu ghét riêng tư, [mỗi người được yêu hay ghét] khác nhau là do tương ứng với thiện hay ác vậy!

 

          (Chánh văn) H́nh họa tùy chi.

          (正文)刑禍隨之

          (Chánh văn: H́nh phạt, tai họa theo nhau [xảy tới]).

 

          “H́nh” () là h́nh phạt nơi cửa quan. “Họa” () là tai ương từ trời. “Tùy” () nghĩa là đeo cứng theo, chẳng ĺa khỏi. Thái Hư chân nhân[5] nói: “Nếu người khác gieo họa cho ta, ta dùng phước đáp trả. Như vậy th́ khí phước đức thường sanh nơi ta. Khí tai hại, ương họa nặng nề t sanh nơi kẻ ấy”. Ở đây nóih́nh họa” (h́nh phạt và tai họa) thường theo sát kẻ ác, tức là khí tai hại, tai ương nặng nề luôn ở nơi thân kẻ ấy!

          Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Diêm Phù Đề nội, ngũ trược chúng sanh, bất tu Thập Thiện, chuyên tạo ác nghiệp, sát, đạo, tà dâm, vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, tham, sân, tà kiến, bất hiếu phụ mẫu, bất kính Tam Bảo, cánh tương phẫn tranh, hỗ kiến hủy nhục, nhậm t́nh khởi kiến, phi pháp mưu cầu. Dĩ thị nhân duyên, đao binh, cơ cẩn, tật bệnh, tử, tang, nhân họa, thiên h́nh, chủng chủng thọ báo” (Trong cơi Diêm Phù Đề, chúng sanh ngũ trược chẳng tu mười điều thiện, chuyên tạo nghiệp ác, giết, trộm, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, ác khẩu, nói đôi chiều, tham, sân, tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính trọng Tam Bảo, do giận dữ mà tranh chấp với nhau, hủy báng, nhục mạ lẫn nhau, mặc t́nh dấy lên kiến giải [tự cậy là đúng], mong cầu phi pháp. Do nhân duyên ấy, chiến tranh, đói kém, tật bệnh, chết chóc, tai họa do người, tai vạ từ trời, thọ báo đủ mọi lẽ). Do vậy, bèn nói: Có thể thấy [tai họa] luôn luôn là do nghiệp của chính ḿnh chiêu cảm, chẳng phải do ai khác tạo ra! Nhưng xu cát, tỵ hung (hướng lành, tránh dữ) chỉ trong một niệm, thiên đường hay địa ngục chỉ ở trước mắt. Nếu có kẻ nào thật sự tu các điều thiện mà vướng phải ác báo, ắt chẳng có lẽ ấy!

          Đời Hán, Lương Thống xin tăng cường pháp luật nặng nề hơn, triều đ́nh chẳng thuận theo. Sau đó, Lương Thống mộng thấy thần bảo: “Tuy may mắn là triều đ́nh không nghe theo lời ngươi, nhưng âm phủ đă ghi lỗi của ngươi rồi. Nay ngươi toan dùng h́nh pháp để đối xử tàn độc với kẻ khác, con cháu sẽ bị báo ứng, há có thể tránh khỏi bị h́nh phạt ư? Mắc tội với trời, không thể cầu xin được!” Con cái của Lương Thống đều chết ngang trái. Cho tới khi tội ác càng sâu, rốt cuộc bị diệt tộc.

          Lưu Giáp hễ giao du với ai, [kẻ ấy] ắt mắc họa. Vương Kiến chẳng tin, vừa mới nói ra, chưa hết ngày, Vương Kiến đă bị hỏa hoạn. Do vậy, [Lưu Giáp] bị coi là kẻ mang lại điềm gở[6], hễ trông thấy, [ai nấy] đều nhanh chân tránh né. Mai Thừa nói: “Có nền tảng để sanh ra phước, có căn nguyên để sanh ra họa. Hăy tiếp nhận nền tảng phước, đoạn tuyệt căn nguyên họa, họa sẽ do đâu mà có?” Chí lư thay!

 

          (Chánh văn) Cát khánh tỵ chi.

          (正文)吉慶避之。

          (Chánh văn: Điều tốt lành, vui mừng tránh né).

 

          “Tỵ” () có nghĩa là cầu mà chẳng được! Đạo trời chẳng thiên vị, chỉ ưa thích người lành. Người có thể bỏ ác, làm lành, giữ ḷng khiêm cung, thuận theo thiên lư, tự nhiên tĩnh th́ sẽ hợp với đạo, động th́ đều có phước. Nếu như trái nghịch, [xét theo phương diện] rơ ràng th́ sẽ bị pháp luật trừng phạt, [xét theo phương diện] ngấm ngầm th́ bị thần tru lục, giảm thọ, yểu thọ, điều lành sẽ tránh né, sự hung hiểm đưa tới. Tất nhiên là chẳng thể tránh khỏi!

          Xưa có chàng học tṛ họ Vương, bẩm tánh gian ác, toàn làm những chuyện trái lư nghịch trời. Anh ta dự khóa thi mùa Thu[7], văn chương rất hay, viên quan chấm bài muốn xếp anh ta vào loại đỗ đầu. Tới khi lên danh sách [những người thi đậu], bỗng để thất lạc quyển bài thi ấy. Ghi danh sách xong, hóa ra quyển bài thi ấy bỏ trong tay áo. Viên quan giám khảo hết sức hối hận, ngầm gặp mặt chàng, hứa hẹn sẽ dùng chuyện khác để bổ cứu. Không lâu sau, viên giám khảo được chuyển sang Thuyên Bộ (bộ Lại), chàng Vương bèn nộp thóc để được vào trường Thái Học[8] và dự khảo tuyển. Viên quan giám khảo đang coi sóc việc tuyển chọn, thấy chàng Vương bèn rất mừng, ngấm ngầm chuẩn bị để bù đắp êm đẹp thiếu sót [trong lần trước, dự tính] nhờ vào “ân lệ”[9] để tuyển [chàng Vương làm quan]. Tới kỳ hạn, viên quan giám khảo v́ tang cha phải xin nghỉ [cư tang] tới ba năm sau mới lại ra làm việc, vẫn được bổ nhiệm trông coi việc tuyển khảo. Chàng Vương cũng dùng lư do thâm niên để xin dự tuyển, ḥng được bổ làm một chức quan, coi như [nắm chắc] có thể đạt được [lương bổng] vạn lượng rồi. Chưa được mấy hôm, chàng Vương gặp phải tang mẹ, phải cư tang [không thể làm quan]. Viên giám khảo thương chàng Vương số mạng bần cùng, bèn tiến cử chàng dạy học ở nhà quan Tuần Phủ, [cứ ngỡ] trong ba năm chắc cũng có được ngàn lượng [do hưởng lương bổng]. Chưa tṛn một tháng, quan Tuần Phủ v́ chuyện [sai phạm] cũ mà mất chức quan. Mấy lượt gặp kỳ ngộ, đều trở thành bánh vẽ! Chàng Vương phẫn hận thành bệnh, nằm bẹp trên giường suốt ba năm. Một hôm, bỗng ngộ ra, nói: “Đều là do những điều ác của ta tích tập vậy”. Sau đấy, bệnh dần dần khỏi, c̣n được chết an lành.

          Ông Tiết Tây Nguyên thường nói: “Đối với phước lộc trong ṿng trời đất, nếu chẳng giữ tấm ḷng lo lắng, siêng năng, dè dặt, gắng công, sẽ chẳng đạt được. Nếu chẳng làm những chuyện giúp người, lợi vật, sẽ chẳng hưởng [phước lộc] được”. Lời ấy đúng thay!

 

          (Chánh văn) Ác tinh tai chi.

          (正文)惡星災之。

          (Chánh văn: Sao ác giáng tai họa).

 

          “Ác tinh” (惡星) là thần chưởng quản hết thảy tai họa, ách nạn trong nhân gian. Người sống trên đời, mỗi ngày, mỗi tiết khí[10] đều do tinh quang ()[11] chủ quản. Tâm kẻ ác thường tối tăm, khí đen xông lên cao. Do điều ác chuốc vời sự ác; v́ thế, có sao ác. Do đó, có những ngôi sao ác chiếu tới, giáng tai họa. Nếu là thiện nhân, do tánh thể quang minh, khí phận ác sẽ lui tan. [Các ác tinh] tránh né [người ấy] sợ c̣n chẳng đủ nhanh, huống hồ gieo tai họa cho người ấy ư? Ôi! Ác do con người tự tạo ra, tinh tú mới có thể gieo tai họa được. Chẳng phải là do tinh tú gieo họa, mà là do người ta tự gây nên tai họa. Chẳng phải tinh tú là ác, mà là do con người tự làm ác vậy! Vậy th́ người ta há chẳng nên kiêng sợ, tu tỉnh để văn hồi ḷng trời ư?

          Mă trưởng sử[12] ở Cử Thành, tỉnh Sơn Đông, cậy tài mặc sức hoành hành, không điều ác nào chẳng làm. Một hôm, có một vẫn thạch rớt xuống nhà hắn, biến thành đá. Từ đấy, những chuyện kiện thưa, tù ngục, khẩu thiệt, tật bệnh v.v… chẳng dứt! Hơn một năm sau, trưởng sử chết, người nhà ly tán, pḥng ốc rỗng tuếch! Viên đá ấy mỗi bề to mấy thước, màu hơi tím, có những đường vằn giống như chữ viết, đến nay vẫn c̣n.

 

          (Chánh văn) Toán tận tắc tử.

          (正文)算盡則死。

          (Chánh văn: Hết tuổi thọ sẽ chết).

 

          Câu này chính là Thái Thượng rát miệng buông lời răn dạy. Tập khí ác của chúng sanh khó thể dẹp trừ. Làm các điều bất thiện, nghiệp thức mờ mịt, [giống như] lửa cháy hao dầu. Mỗi ngày qua đi là [thọ mạng] mất đi một ngày, tuổi thọ bị giảm dần tới hết[13]. Chết rồi hăy c̣n nợ, ch́m đắm trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tức ba đường ác hiểm, nghiệp báo chẳng cùng tận, khổ sở không ngớt! Ai nói “chết rồi là hết, chẳng c̣n có chuyện ǵ khác nữa”. Nói đến đây, khôn ngăn lớn tiếng kêu gào, đau đớn khóc lóc, nước mắt đầm đ́a! Ôi chao! Thân người dễ mất, định nghiệp trốn được sao? Chỉ mong bậc thông triết, người có chí, hăy tin sâu chẳng nghi. Thừa dịp hăy c̣n một hơi thở, hăy nên sám hối tội ác ngập trời. Nếu như vẫn chần chừ, do dự, trăm năm như mũi tên bay, một khi đến lúc Tứ Đại chia ĺa, dẫu hối hận há có thể cứu văn được ư?

          Xưa có một cụ già, chết rồi gặp Diêm Vương, trách móc nhà vua chẳng sớm gửi thư nhắc nhở. Vua nói: “Mắt ông mờ là thư thứ nhất. Tai ông điếc là thư thứ hai. Răng ông rụng là thư thứ ba. Thân thể ngày càng suy, chẳng biết là thư thứ mấy?” Lại có một thiếu niên đến đó, cũng trách nhà vua: “Tôi mắt sáng, tai tỏ, răng sắc, thân thể khỏe mạnh, sao vua không gởi thư cho tôi?” Vua bảo: “Ta cũng có gởi thư cho ngươi. Ngươi không thấy hàng xóm bên Đông có kẻ mới ba, bốn mươi tuổi mà đă chết đó thôi! Hàng xóm bên Tây có kẻ mới mười hoặc hai mươi tuổi mà chết đấy thôi! Cũng có đứa trẻ vừa đầy năm, hoặc có trẻ thơ mà chết đấy thôi! Đều là thư tín cả!”

          Do vậy nói: “Mạng người vô thường, ví như sương buổi sớm. Một hơi thở ra chẳng hít vào được nữa, thân này là cái vỏ”. Kinh Tứ Thập Nhị Chương có chép: “Đức Phật hỏi sa-môn: ‘Mạng người trong khoảng nào?’ Thưa: ‘Mấy ngày’. Đức Phật bảo: ‘Ông chẳng biết đạo’. Lại hỏi một vị sa-môn khác, vị ấy đáp: ‘Trong khoảng bữa ăn’. Đức Phật bảo: ‘Ông chẳng biết đạo’. Lại hỏi một sa-môn khác, vị ấy thưa: ‘Trong một hơi thở ra, hít vào’. Đức Phật bảo: - Lành thay! Ông biết đạo”.

          Đời Nguyên, thiền sư Thiên Như chùa Sư Tử Lâm ở Cô Tô nói:

          - Phật, Tổ xuất thế, chỉ riêng v́ những kẻ như các ông! Ai nấy dưới gót chân của chính ḿnh đều có một đoạn sanh tử đại sự. Đó gọi là ‘sanh chẳng biết từ đâu đến, chết không biết đi về đâu’. Sanh tử như thế trọn hết đại địa, bị nó giam nhốt trong lồng. Từ xưa tới nay, chẳng có một ai không bị sanh tử nuốt chửng. Đừng nói chi thời cổ, chỉ nói từ lúc ông chào đời đến nay, hăy hồi tưởng mười năm hay hai mươi năm trước, thân thích, bằng hữu đă chết bao nhiêu? Đừng nói tới người khác, chỉ nói về chính ông. Đối với sắc thân Tứ Đại hiện tiền, lầm nhận là ta, từ sáng đến tối, đủ mọi thứ yêu thương, bảo vệ nó, đủ mọi thứ chăm chút cho nó. Nó vẫn đổi thay trong mỗi niệm, dần dần tiêu mất. Bất tri, bất giác, ngày Ba Mươi tháng Chạp xảy đến, chỉ cảm thấy chân cuống, tay loạn, giống như con cua rớt vào nước sôi. B́nh thường là anh hùng hào kiệt, [trong lúc ấy] có c̣n thật sự giữ được nữa chăng?

          Lại nữa, sau khi đă chết, dáng vẻ biến hoại, xú uế khiến người khác kinh hăi. Tuy là cốt nhục chí thân, cũng chẳng chịu nh́n thẳng vào. T́nh nghĩa ân ái thường ngày, há c̣n đâu nữa? V́ thế, tổ sư nói: “Hễ một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ giống như bụi đất. Lối trước mờ mịt, chẳng biết đi về đâu!” Chỉ đành mặc cho chết rồi bèn thiêu, đúng là đáng thương!

          Huống hồ c̣n phải theo nghiệp thọ báo, đúng là chuyện khẩn yếu. Theo nghiệp thọ báo là ǵ? Những ǵ các ông đă làm, đă tạo trong thường ngày, chẳng có ǵ không phải là nghiệp! Hễ có nghiệp bèn có báo. Báo thuận theo nghiệp như bóng theo h́nh. Thân này đă chết, thần thức hoặc đọa địa ngục, hoặc đọa ngạ quỷ, súc sanh. Xoay vần luân hồi, chịu vô lượng khổ. Ở nơi đây là cảnh giới thọ báo, ở nơi kia là sanh tử nghiệp căn. Nghiệp căn ở ngay trong một niệm hiện thời của ông. Từ vô thỉ đến nay, ông do tham, sân, si, vô minh phiền năo, vọng tưởng cuồng tâm, chạm cảnh gặp duyên, theo đuổi thanh sắc, khiến cho [cái tâm] điên đảo nháo nhào, không nghiệp nào chẳng tạo! Đấy chính là cội rễ sanh tử vậy!

          Suy lường chuyện sanh tử, dẫu là kẻ sắt đá cũng nguội lạnh tấm ḷng! Do vậy, Phật, Tổ vận dụng ḷng từ bi rộng lớn, phát khởi ḷng xót thương to tát, dạy các ông tham Thiền, học đạo, khiến cho ông quét sạch vọng tưởng, cuồng tâm, nhận biết chủ nhân ông, nhận biết diện mạo sẵn có. Hăy tranh thủ lúc mắt c̣n sáng, chân c̣n mạnh, để làm một người giải thoát thanh tịnh! Tới khi lâm chung, sẽ được thọ dụng to lớn, sanh tử vô ngại, đi ở tự do. Đấy gọi là “liễu sanh thoát tử”, thật sự là bậc đại trượng phu!

          Đời Minh, trong một khúc ca của Liên Tŕ đại sư ở chùa Vân Thê, Hàng Châu có đoạn: “Quân bất kiến Đông gia phụ, kiện như hổ. Phúc dựng thường tương niên nguyệt sổ. Tạc tiêu do tự ỷ môn lư. Kim triêu mạng dĩ quy hoàng thổ. Hựu bất kiến Tây gia tử, mănh như long. Hoàng hôn băo phạn, thụy chánh nùng. Du hồn nhất khứ bất phục phản. Ngũ canh mạng dĩ thuộc Diêm ông. Mục tiền nhân, thượng như thử. Viễn địa tha phương na khả sổ? Tế tương thân hữu tế thôi tầm. Niên khứ nguyệt lai đa thiểu tử. Phương tín đắc, Tử Dương thi. Ngữ đích ngôn chân quả bất khi. Tạc nhật nhai đầu do tẩu mă, kim triêu quan nội dĩ miên thi. Linh lợi nhân, hưu kháp thụy. Biệt nhân dữ ngă đồng nhất loại. Hồ thố tương khan bất giảo đa. Nhăn tiền phóng trước đa thiểu lệ. Toản mă phúc, nhập ngưu thai. Địa ngục tâm toan cánh khả ai. Nhược hoàn yếu đắc nhân thân phục. Đông hải lao châm mạn đả nhai. Ngă tác ca, chân khổ thiết. Nhăn trung trích trích lưu tiên huyết. Khổ khuyến thế nhân tác cấp tu. Hồi đầu mănh tỉnh tu tự quyết” (Tạm dịch: Anh có thấy thiếu phụ nhà bên Đông khỏe như cọp, quanh năm mấy tháng ôm bụng bầu, tối qua vẫn c̣n đang tựa cửa, sáng nay đă xuống chốn hoàng tuyền. Lại chẳng thấy gă trai nhà bên Tây mạnh như rồng. Chập tối ăn no, ngủ thật say. Hồn đă ĺa thân chẳng trở lại, canh năm mạng đă thuộc Diêm quân. Người trước mắt đă là như thế. Chỗ xa phương khác biết bao nhiêu? Xét kỹ người thân cùng bằng hữu, năm qua tháng lại chết bao người? Mới tin lời thơ của Tử Dương. Lời lẽ đích xác, thật chẳng lừa. Hôm qua c̣n cưỡi ngựa ngoài phố, hôm nay xác lạnh trong quan tài. Kẻ lanh lợi thôi đừng ngủ gật, người khác và ta giống hệt nhau. Cáo thỏ nh́n nhau[14] có khác ǵ, bao nhiêu gương đă bày trước mắt, lọt vào bụng ngựa, nhập thai lừa, địa ngục xót ḷng buồn bă nhỉ, mong được làm người lần nữa ư? Đông hải ṃ kim vẫn chóng hơn! Tôi soạn bài ca, đau đớn bấy! Mắt tuôn từng giọt máu tươi hồng. Khổ sở khuyên người hăy gấp tu, quyết nên tỉnh ngộ gấp quay đầu!)

          Trong bài văn Phổ Khuyến Tu Hành của Nhan Bính đời Tống có đoạn:

          - Chỉ nói đến sắc thân này, ai tin cái thân là gốc khổ, cứ tận hết sức tham hưởng niềm vui trong cơi đời. Chẳng biết lạc là cái nhân của khổ. Kiếp phù sinh dễ qua, há tồn tại lâu dài! Huyễn chất chẳng chắc chắn, rốt cuộc đều ṃn diệt. Trước ngày vào trong bào thai, há có h́nh thể nam nữ này? Chỉ nhờ vào Địa, Thủy, Hỏa, Phong giả hợp mà thành, chẳng tránh khỏi nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử điêu tàn. Trên là chẳng có tơ tóc để vướng mắc, dưới là chẳng có căn cội để sanh. Hư huyễn, phập phều như bọt nước, chỉ tồn tại trong thoáng chốc, chẳng lâu dài, mỏng manh như hạt sương treo ngọn cỏ, bỗng dưng chẳng c̣n! Người sống lâu, bất quá sáu, bảy mươi năm đều chết ngóp. Đứa đoản mạng, phần lớn là hai, ba chục tuổi đă chết yểu! Lại c̣n ngày nay chẳng biết chuyện ngày mai, lại c̣n có chuyện lên giường chẳng có lúc xuống giường! Gần như là một hơi không hít vào được nữa, sẽ là ngàn thu vĩnh biệt.

          Than ôi! Thân này chẳng thật, hiềm rằng có ai mà chẳng bị nó lừa? Gân chằng bộ xương bảy thước, da bọc một túi thịt. Chín lỗ thường tuôn những thứ bất tịnh. Sáu căn mặc t́nh phô bày vô minh. Tóc, lông, răng, móng, tụ tập như đống bụi. Nước miếng, đàm, dăi, các chất dịch, bẩn như cầu tiêu di động. Bên trong toàn là gịi, trùng tụ hội; bên ngoài rủ rê muỗi, rận vầy đoàn. Hễ vướng phải tai ương, bệnh tật, đều có thể chết người. Nóng bức, lạnh căm, thúc giục con người chóng già. Mắt bị sắc dắt về ngạ quỷ. Tai theo tiếng đọa trong A Tỳ. Miệng nếm trọn hết ngàn thứ vị, chết rồi chỉ thêm mấy giọt dầu[15].

          Tấm thân này chớ nên yêu tiếc! Mọi người hăy nguyện xuất ly, cớ sao mê muội vậy? Vẫn c̣n tỏ lộ vẻ phong lưu, tức là gă hồ đồ, vẫn c̣n sanh khởi điên đảo. Hoặc có kẻ trên chiếc đầu lâu, cài hoa, giắt cỏ; hoặc có kẻ bên cái đăy da thối, đeo xạ, ướp hương. Áo lượt là phủ trùm túi máu mủ. Mền gấm che đắp thùng cứt đái. Dùng trọn trăm kế gian ngoan, cho là sẽ sống vạn năm trên cơi đời. Chẳng biết đầu nhức, mắt hoa, vua Diêm La [sắp sửa] đón tiếp người trở về. Lại c̣n bạc tóc, rụng răng, quỷ vô thường gởi thư t́m kiếm.

          Ai nấy luyến sắc tham tài, đều là con đường tắt để đánh mất thân người. Ngày ngày nốc rượu, xơi thịt, không ǵ chẳng phải là gieo sâu cội rễ địa ngục. Mong cầu vui sướng chốc lát trước mắt, thân sau chịu đắng cay muôn kiếp! Một mai mạng căn đă tuyệt, lúc phong đao Tứ Đại cắt xẻ, ngoài th́ chân tay co quắp, trong th́ gan ruột nứt toác đau nhói. Dẫu vợ con thương tiếc, chẳng có cách nào giữ ông lại. Ví như cốt nhục đầy nghẹt trước mặt, có ai chết thay cho ông? Lúc sanh ra chỉ gào khóc thống thiết, chết th́ chẳng khỏi thần thức bươn bả! Tiền đồ chẳng thấy quang minh, nh́n khắp trọn không bầu bạn. Qua khỏi bờ Nại Hà, những ǵ trông thấy không ǵ chẳng bi thương! Vào quỷ môn quan, khắp chốn thảy đều thê thảm. Trên dương thế mới qua bảy ngày, trong cơi âm đă bị áp tải qua chỗ thập vương. Tào quan ôm hồ sơ chẳng nể t́nh, ngục tốt cầm chĩa chẳng thèm cười! Kẻ b́nh sanh làm lành, được đưa về thiên đạo, tiên đạo, nhân đạo. Kẻ thường ngày tạo ác, bị ép vào thang đồ, hỏa đồ, đao đồ[16]. Vạc sôi sùng sục như núi lở, rừng gươm như thế núi chót vót. Rót nước đồng sôi, khắp thân nát thịt. Nuốt viên sắt khắp miệng bốc khói. Bị xay, giă, máu thịt đầm đ́a. Vào hàn băng, da dẻ đông cứng, nứt toạc. Thân đă nát, gió nghiệp thổi qua bèn sống lại. Mạng đă hết, la-sát hét bèn hồi sanh.

          Nhân gian đă qua trăm lần xuân thu, trong địa ngục mới là một ngày một đêm. Hồn phách tuy đă về quỷ giới, xác thân vẫn nằm trong quan tài. Hoặc cách dăm ba bữa, hoặc trong ṿng sáu, bảy tháng, sẽ hư nát xuất huyết, sanh trùng. Thối um xông sực trời đất, trương phềnh chẳng nỡ nh́n! Xấu ác thật đáng sợ! Thôi thúc [người c̣n sống] phải cho một mồi lửa, chôn hẳn trong núi hoang vạn dặm. Thuở trước là hồng nhan nũng nịu, bỗng trở thành tro tàn. Nay th́ xương trắng chốn hoang vu, biến thành khối bùn! Xưa kia ân ái, đến nay rỗng không! Xưa làm anh hùng, nay c̣n chi nữa! Khi lệ tuôn đầm đ́a, vắng tanh vắng ngắt. Gió buồn thổi lạnh ù ù! Đêm sâu quỷ khóc thần gào. Lâu năm ắt quạ mổ, chim rỉa. Cỏ hoang phủ trùm bia đá. Cành dương xanh vướng tiền giấy phất phơ[17]. Rốt cuộc đều khó tránh như thế, đă đến chỗ này rồi sao chẳng tỉnh ngộ?

          Mọi người đều có mắt, hăy thôi hồ đồ. Xoay người nhảy khỏi bến mê, trong một khảy ngón tay, xé toang lưới ái. Hăy thôi t́m cách sống trong hang quỷ, phải biết trong khối thịt có chân nhân. Là nam hay nữ đều có thể tu. Dẫu trí hay ngu thảy đều có phần. Chỉ xin hồi quang phản chiếu, sẽ biết bản thể vốn là Không. Nếu chưa thể học đạo, tham Thiền, vẫn nên siêng tŕ trai, niệm Phật. Xả ác theo lành, sửa lỗi cũ, từ nay tu tập. Chuyển lục tặc thành lục thần thông. Ĺa bát khổ, đắc bát tự tại, sẽ khéo thay trời hành hóa, chẳng ngại thay Phật tiếp dẫn người khác. Đối trước mọi người, v́ đại chúng tuyên dương. Trở về nhà, v́ cả nhà giải nói, khiến cho nơi nơi đều biết giác ngộ. Dạy trọn hết mọi người đều tránh khỏi trầm luân. Trên là giúp chư Phật chuyển pháp luân. Dưới là cứu bạt chúng sanh ĺa biển khổ. Chẳng tin lời Phật, lời nào đáng tin? Chẳng tu đạo làm người, đường khác sẽ khó tu. Đừng để có ngày thay lớp da[18], dẫu có ngàn vị Phật cũng khó cứu được ngươi! Hăy khẩn cấp tiến lên, thời gian chẳng đợi ai. Xin mỗi vị hăy ngay lập tức gánh vác, đừng để luống uổng đời này!

 

          (Chánh văn) Hựu hữu Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân, tại nhân đầu thượng, lục nhân tội ác, đoạt kỳ kỷ toán.

          (正文)又有三台北斗神君。在人頭上。錄人罪惡。奪其紀算。

          (Chánh văn: Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân, ở trên đầu con người, chép tội ác của họ, giảm bớt tuổi thọ).

 

          Đoạn này nhằm nói đến cái thân của mỗi người, đi, đứng, nằm, ngồi, đều có quỷ thần giám sát. Tam Thai[19] gồm có sáu ngôi sao, Thượng Thai coi về mạng, Trung Thai coi về phước, Hạ Thai coi về lộc, chủ tŕ sanh, tử, thọ, yểu của con người. Bắc Đẩu chính là Tử Cực Đô Tào[20], là cội nguồn của mặt trời, mặt trăng, sông, rạch, biển, cả, kết hợp các đức của Âm, Dương, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy, tuyên dương oai quyền trong tam giới, ngự trị trọn khắp vạn linh, xoay chuyển khí vận [của trời đất], châm chước lẽ tử sanh. Hễ ai phạm tội lỗi, sẽ ghi vào sổ ác, đo lường nặng nhẹ.

          “Đoạt kỳ kỷ toán” (Giảm bớt tuổi thọ của họ): “Kỷ” () là mười hai năm, [Toán là một trăm ngày]. Quản Lộ[21] lại nói: “Nam Đẩu ghi chép về sanh, Bắc Đẩu ghi chép về tử. Hễ con người thọ thai, đều từ Nam Đẩu đến Bắc Đẩu. Nếu có điều cầu nguyện, hăy nên hướng về Bắc Đẩu”. Thất Chân ()[22] lại nói: “Ta mỗi tháng vào ngày mồng Ba và ngày Hai Mươi Bảy, ắt sẽ giáng hạ một lần, nhận sự cúng tế của con người, xem xét sự thiện ác của con người”.

          Kinh Nghiệp Báo Nhân Duyên lại nói: “Khí của bảy ngôi sao thường kết thành một v́ sao ở trên đầu con người, cách đỉnh đầu ba tấc. Nếu người ấy làm lành, [ngôi sao ấy] sẽ sáng ngời; hễ làm ác, ánh sáng sẽ lu mờ. Đại thiện th́ quang minh càng sáng ngời. Đại ác th́ ánh sáng tắt mất. Con người không thấy, nhưng quỷ thần trông thấy”. Nay nói ở trên đỉnh đầu người ta, chép tội để trừ bớt tuổi thọ, xác thực chẳng phải là hư vọng vậy!

          Đời Đường, Lâu Sư Đức, vào thời Cao Tông, có công huân to lớn, được vua yêu chuộng. Một sáng thức dậy, chợt thấy tinh quan[23] bảo: “Ông từng giết lầm hai mạng người. Do tội ấy sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Ánh sáng của ngôi sao [trên đỉnh đầu] sắp tắt”. Ngày hôm ấy, ông Lâu lập tức thần trí lờ đờ; do vậy, bảo mọi người: “Ta suốt đời cẩn thận, chỉ v́ ngộ sát hai mạng, nay đă bị chết sớm hơn [tuổi thọ vốn có] mười hai năm”. Không lâu, quả nhiên qua đời. Trương Củng Thần[24] nói: “Ông Lâu thuở trước được khen là sáng suốt, khoan dung, là bậc trọng thần đời Đường, c̣n chẳng tránh khỏi bị giảm thọ mười hai năm, huống chi thường nhân tạo ác lắm nỗi ư? Há chẳng thận trọng hay sao?”

 

          (Chánh văn) Hựu hữu Tam Thi thần, tại nhân thân trung, mỗi đáo Canh Thân nhật, triếp thượng nghệ thiên tào, ngôn nhân tội quá.

          (正文)又有三尸神。在人身中。每到庚申日。輒上詣天曹。言人罪過。

          (Chánh văn: Lại có thần Tam Thi ở trong thân con người, mỗi khi đến ngày Canh Thân, bèn lên thiên tào, tâu tội lỗi của người ta).

 

          Đoạn này nói về cái tâm của mỗi người. Ư niệm vi tế vừa dấy động, đều có quỷ thần giám sát.

          Thượng Thi Thanh Cô tên là Bành Cứ (彭踞), ở trong đầu người, khiến cho người ta suy nghĩ nhiều, ham muốn nhiều, mắt mờ, tóc rụng. Trung Thi Bạch Cô tên là Bành Chí (彭躓), ở trong ruột người, khiến cho con người ham ăn, hay quên, thích làm chuyện ác. Hạ Thi Huyết Cô tên là Bành Kiểu (彭蹻) ở trong chân người, khiến cho con người háo sắc, thích giết chóc, tứ chi, nội tạng bị nhiễu động. Tam Thi mong cho con người mau chết, để họ thoát ra khỏi [thân người] trở thành quỷ, hưởng thụ huyết thực[25]. V́ thế, vào ngày Canh Thân, thừa dịp người ta ngủ say, [Tam Thi] cùng với bảy phách trong thân lên chốn thiên tào, tâu bày tội lỗi của người đó. Đó gọi là “trong các loài quỷ nghe tiếng từ nơi tâm, khẩu, ư, ngữ của con người, Tam Thi nghe nhạy bén nhất”.

          Người hiện thời chẳng biết kiểm điểm, khắc chế bản thân, thanh tâm, ít ham muốn, chỉ cậy suông vào phương pháp “thủ Canh khử Thân”[26] của Đạo gia, nhằm đoạn tuyệt con đường đi tố cáo của Tam Thi. Đúng là tự dối ḿnh đó thôi! Phải biết nếu ư niệm, suy nghĩ đoan chánh, quỷ thần sẽ tự lui tránh, Tam Thi cũng có ǵ đáng lo ư? Bài Tiêu Thi của Tŕnh Tử (Tŕnh Di) có câu: “Bất thủ Canh Thân cánh bất nghi. Thử tâm thường dữ đạo tương y. Đế thiên dĩ tự tri hành chỉ, nhậm nhĩ Tam Bành thuyết thị phi” (Chẳng cần không ngủ trong ngày Canh Thân cũng chẳng có chi ngờ vực, tâm này thường phù hợp với đạo, Thượng Đế tự biết hành vi của ta, mặc kệ Tam Bành tố cáo đúng sai ǵ đi nữa).

          Tam Thi chính là hồn phách trong thân người. Con người có ba hồn, một là Sảng Linh (爽靈), hai là Thai Quang (胎光), ba là U Tinh (幽精). Thường nhân kêu gọi tên của chúng, hồn sẽ yên, thân an định[27].

          Lại nữa, tác phẩm chú giải Đạo Đức Kinh có nói:

          - Hồn là Thần của Khí, có thanh, có trược. Sở dĩ miệng và mũi [có thể] hít vào, thở ra; thở ra là Dương rộng mở, hít vào là Âm bị thu lại. Phách là Thần của Tinh, có hư và thật. Sở dĩ tai và mắt có thể nghe, nh́n; nh́n là Dương thông sáng, nghe là sự nhạy bén của Âm vậy. Dương thần là Nhật Hồn, Âm thần là Nguyệt Phách. V́ thế, bậc chí nhân (thánh nhân) dùng hồn để chuyển phách, c̣n mọi người (phàm nhân) dùng phách để nhiếp hồn. Ban ngày, hồn ở tại mắt; ban đêm, phách chứa trong gan. Mắt chẳng nh́n th́ hồn ở gan, tai không nghe th́ Tinh ở thận. Lưỡi chẳng động th́ Thần ở nơi tâm. Mũi vừa ngửi th́ phách ở phổi. Bốn là vô lậu, Tinh là Thủy, Thần là Hỏa, Hồn là Mộc, Phách là Kim, đều tụ hợp trong Ư là Thổ, gọi là “ḥa hợp bốn nhà”. Thâu hẹp ánh mắt, ngưng sự nghe ngóng nơi tai, điều ḥa hơi thở nơi mũi, thâu giữ khí nơi lưỡi, Tứ Đại[28] bất động, khiến cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều hội tụ nơi Trung Cung[29]. Đó gọi là “ḥa hợp Ngũ Hành”.

          Bởi lẽ, do phách mà có Tinh, do Tinh mà có hồn, do hồn mà có Thần. Do Thần mà có Ư, do Ư mà có phách. Năm là vận hành chẳng ngơi; v́ thế, cái tâm hư ngụy của ta lưu chuyển tạo hóa mấy ức vạn năm, chẳng có cùng cực. Do vậy, bậc thánh nhân đối với sự diễn tiến của vạn vật trước mắt, chẳng dùng tâm (vọng tâm) để đối ứng, mà dùng tánh để đối ứng. Tánh là tâm chưa nẩy sanh [vọng niệm]. Chẳng có tâm (chẳng có vọng tâm sanh khởi), sẽ chẳng có ư. Hễ chẳng có ư, sẽ chẳng có hồn, cho nên chẳng bị sanh tử, luân hồi bèn dứt.

          Thê Nham Hứa chân nhân[30] nói:

          - Thường hành nội quán để trừ khử Tam Thi, trừ diệt sáu tặc, dồn khí vào Đơn Điền, định tâm nơi biển giác. Tâm định ắt thần yên, khí trụ. Tinh, Khí, Thần hợp lại, ba nhà (Tinh, Khí, Thần) tương ứng với nhau, kết thành thánh thai.

          Thanh Tịnh Kinh[31] có nói:

          - Nguyên thần của con người chuộng sự thanh tịnh, nhưng cái tâm quấy nhiễu. Ḷng người chuộng tĩnh, nhưng bị dục lôi kéo. Hễ thường có thể trừ khử ḷng dục ấy, cái tâm sẽ tự tĩnh. Lắng trong cái tâm, nguyên thần tự thanh tịnh, tự nhiên lục dục chẳng sanh, tam độc tiêu diệt.

          C̣n như kinh Phật th́ dạy: “Dùng gươm trí huệ phá giặc phiền năo. Dùng đao trí huệ xé toạc lưới phiền năo. Dùng lửa trí huệ đốt củi phiền năo. Quán kỹ Tứ Đại vốn là Không, phiền năo c̣n có chỗ nào để đặt chân nữa! Chuyển tam độc thành tam giải thoát, xoay phiền năo thành Bồ Đề. Như thế th́ tam nghiệp thanh tịnh, muôn đức vẹn toàn, há c̣n có lỗi ác ǵ để nói nữa ư?”

 

          (Chánh văn) Nguyệt hối chi nhật, Táo thần diệc nhiên.

          (正文)月晦之日。竈神亦然。

          (Chánh văn: Vào ngày cuối tháng, Táo Quân cũng thế).

 

          Đoạn này nói đến trong nhà của mỗi người, động, tĩnh, cư xử đều có quỷ thần giám sát. “Nguyệt hối” (月晦) là ngày cuối tháng. “Táo thần” (Táo Quân, ông Táo) có danh hiệu là Tư Mạng (), do cai quản vận mạng tốt xấu trong mỗi gia đ́nh. Đối với tội ác trong sáng tối của con người, không chuyện ǵ nhỏ nhặt mà Ngài chẳng thấy. Đến cuối tháng, sẽ tấu tŕnh lên hai cơi âm và dương để chép vào sổ đen. Than ôi! Táo thần xem xét rơ ràng như thế, lại có chức trách tấu tŕnh như thế. Người đời hành xử chỉ biết cốt sao sướng khoái một chốc, há có quan tâm trong nhà có Táo thần sẽ ghi sự sai phạm ấy, [để rồi] đến mỗi tháng, việc lớn chuyện nhỏ đều tấu tŕnh thiên tào hay chăng? [Nếu biết, ắt sẽ] kinh sợ, tu tỉnh, chẳng dám giải đăi trong một khắc!

          Một nho sĩ ở Hoài Quận, do say rượu, bỡn cợt đứa tớ gái. Đứa tớ gái cũng biết hổ thẹn, cố gắng chống cự, thoát khỏi. Khi ấy nhằm đúng ngày cuối tháng Giêng, [nho sĩ ấy] ngủ tới canh tư, vợ bỗng đánh thức, kể: “Thiếp vừa [nằm mộng] thấy một vị tinh quân, đội măo, mặc y phục màu đen, cỡi ngựa ruổi gấp, cầm theo sổ sách. Ngài hướng về phía thiếp chỉ trỏ rồi đi mất, chẳng biết Ngài muốn nói ǵ? Oai thế của thần hừng hực, thiếp bất giác kinh hăi, tỉnh giấc”. Chàng nho sĩ rởn da gà, chẳng dám nói rơ, chỉ nói: “Chắc chắn là Táo Thần, chẳng ngờ chi nữa”. Về sau, chàng gả đứa tớ gái ấy cho người khác; nhân đó bảo vợ: “Khi trước, nàng mộng thấy Táo thần, hướng về nàng chỉ dạy là do ta trước đó đă từng đùa bỡn [phi lễ] với đứa tớ ấy. Nó tận lực chống cự, thoát khỏi. Chẳng ngờ ban đêm liền có sự cảnh cáo ấy. Ta cho rằng sự tuy chưa làm, nhưng do đă có cái tâm lừa dối ấy, cho nên thần Tư Mạng đă ghi chép. Trước kia, ta chẳng nói ra, v́ sợ nàng ngờ vực, sẽ làm khó dễ đứa tớ gái ấy. Nay nói rơ, một mặt nhằm biểu thị tiết tháo của đứa tớ gái ấy, mặt khác nhằm phô rơ tội lỗi của ta”.

          Trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, ông Du ở Giang Tây, húy là Đô, tên tự là Lương Thần, lắm tài, học rộng. Mười tám tuổi đă đậu Cống Sanh, mỗi lần thi cử ắt đều đậu cao. Đến tuổi tráng niên, nhà nghèo, phải dạy học tṛ [kiếm sống qua ngày]. Ông với mười mấy người cùng là tường sanh[32] lập Văn Xương Xă, [thực hiện chuyện] tiếc chữ, phóng sanh, răn dè dâm, giết, tội lỗi nơi miệng. Đă hành nhiều năm; trước sau, ông đi thi bảy khoa, đều chẳng đỗ. Sanh năm đứa con, bốn đứa chết yểu v́ bệnh. Đứa con thứ ba, hết sức thông minh, tuấn tú, dưới ḷng bàn chân trái có hai nốt ruồi, vợ chồng yêu quư như của báu. Lên tám, nó đi chơi trong làng, bị lạc mất, chẳng biết nơi nào. Sanh bốn đứa con gái, chỉ c̣n được một đứa. Vợ v́ con cái mà khóc lóc, hai mắt đều mù!

          Ông suốt đời lao đao, nghèo khổ, túng quẫn càng ngặt. Tự xét ḿnh chẳng phạm lỗi to lớn, cớ sao bị trời phạt thê thảm? Lúc đă ngoài bốn mươi, mỗi năm vào cuối tháng Chạp, tự dùng giấy vàng để viết sớ, cầu xin Táo thần hăy tấu tŕnh lên trên. Vài năm như vậy, cũng chẳng có báo ứng ǵ! Tới lúc bốn mươi bảy tuổi, đêm trừ tịch[33], ông ngồi với người vợ mù và đứa con gái, cả nhà lặng ngắt, thê lương, an ủi lẫn nhau. Bỗng nghe có tiếng gơ cửa, ông cầm đuốc ra xem, thấy một nho sĩ đội khăn xéo[34], mặc áo đen, râu tóc đă bạc một nửa. Chắp tay vái chào, mời ngồi. Ông ta nói ḿnh họ Trương, “do từ nơi xa trở về, nghe trong nhà Ngài than thở sầu thảm, đặc biệt đến an ủi”. Ông Du trong ḷng cảm thấy người ấy kỳ lạ, giữ lễ hết sức cung kính. Nhân đó, kể lể ḿnh suốt đời đọc sách, tích tập công hạnh, đến nay công danh chẳng toại, vợ con chẳng được vẹn toàn, cơm áo thiếu hụt. Lại c̣n đem những bài sớ đă đốt dâng lên ông Táo đọc cho ông Trương nghe. Ông Trương nói:

          - Tôi biết chuyện nhà ông đă lâu rồi! Do ư ông phạm lỗi ác quá nặng, chuyên chú trọng hư danh. Khắp trang giấy đều là ḷng oán hờn, lời lẽ trần thuật xúc phạm Thượng Đế, sợ rằng không chỉ là bị phạt như vậy đâu nhé!

          Ông Du nghe nói hết sức kinh hăi, nói:

          - Tôi nghe nói trong chốn âm thầm, điều lành nhỏ nhặt nhất đều được ghi chép. Tôi thề làm việc lành, dốc ḷng phụng hành quy củ đă lâu, sao lại toàn là hư danh cho được?

          Ông Trương bảo:

          - Ngay như trong các quy củ [của Văn Xương Xă], đối với điều khoản tiếc chữ, học tṛ ông và những bạn tri giao thường dùng giấy đă viết văn, hoặc sách cũ để dán cửa sổ, gói đồ, thậm chí dùng để lau bàn. [Sau đấy], viện cớ “đừng ô uế chúng” liền đem đốt đi. Hằng ngày ông chính mắt trông thấy, cứ mặc kệ, chẳng răn nhắc một tiếng nào! Chỉ là trên đường thấy giấy có chữ viết, bèn nhặt về đem đốt, có ích ǵ chăng?

          Trong Văn Xương Xă, mỗi tháng phóng sanh, ông theo đuôi người khác, do người khác mà thực hiện. Nếu mọi người chẳng tiến hành, ông cũng lờ vờ mà thôi. Thật ra, ư niệm từ bi trọn chẳng dấy động trong tâm! Lại c̣n trong nhà ông, những thứ tôm, cua v.v… cũng bị đun nấu. Riêng chúng chẳng phải là sanh mạng ư?

          Nếu xét đến chuyện tội lỗi nơi miệng, ông ăn nói nhanh nhạy, khéo léo. Hễ bàn luận thường khiến cho người khác đuối lư trước ông. Khi ấy, ông thốt lời, trong ḷng cũng tự biết đă gây thương tổn sâu đậm, nhưng trong khi tṛ chuyện cùng bạn bè, đă quen thói mất rồi, cứ thừa cơ chê bai, cười cợt, chẳng thể ngăn dứt được! Miệng lưỡi sắc nhọn châm chọc khiến cho quỷ thần tức giận, cơi âm đă ghi chép điều ác chẳng biết cỡ nào! Thế mà vẫn tự cho ḿnh là người giản dị, trung hậu, ta lừa dối ai đâu? Lừa dối trời đấy chứ!

          Tuy chẳng có chuyện tà dâm thật sự, nhưng ông thấy con gái nhà người khác xinh đẹp, ắt phải nh́n kỹ, ḷng rung động, chẳng dứt bỏ được. Chỉ là không có tà duyên tụ hội [để được thỏa chí] đó thôi! Ông hăy tự xét chính ḿnh khi gặp cảnh ấy, có thể được như người đàn ông nước Lỗ[35] hay không? Vậy mà nói là “suốt đời, chẳng phạm tà sắc”, tức đối trước trời, đất, quỷ, thần, ông là kẻ thật sự hư vọng vậy!

          Đối với những điều quy củ do ông đă thề thực hiện mà c̣n như thế, huống hồ những chuyện khác? Những lá sớ do ông đốt nhiều năm liên tiếp, đều được tŕnh lên cơi trời. Thượng Đế hằng ngày sai sứ giả đến xem xét điều thiện lẽ ác của ông, đă mấy năm mà chẳng thấy có một điều thiện thật sự nào đáng ghi chép. Nhưng lúc ông ở một ḿnh, thấy tham niệm, dâm niệm, ư niệm ganh ghét, ư niệm sân hận, ư niệm đề cao ḿnh, hạ thấp kẻ khác, ư niệm nhớ nhung chuyện cũ, mong mỏi cho tương lai, ư niệm đền ân trả oán của ông loang loáng trong bụng, chẳng thể cùng tận! Các thứ ư ác ấy đă kết chặt trong ḷng, thần ghi chép đă nhiều, cơi trời trừng phạt ngày càng nặng nề. Ông trốn họa c̣n chẳng kịp, lấy đâu để cầu phước nữa đây!

           Ông Du kinh ngạc, run sợ, phủ phục xuống đất, ứa nước mắt thưa:

          - Ngài đă thấu hiểu chuyện trong chốn u minh, chắc là một vị tôn thần, xin hăy cứu vớt.

          Ông Trương nói:

          - Ông đọc sách, hiểu lễ, cũng biết vui thích, hâm mộ điều thiện. Khi nghe được một lời tốt lành, [cảm thấy như được] khích lệ, khuyên lơn chẳng xiết. Lúc thấy một chuyện lành, cổ vũ khôn xiết, nhưng thấy đó, nghe đó, bèn quên ngay, tín căn vốn chẳng sâu. Do vậy, cái tánh thường hằng chẳng kiên cố. V́ thế, thiện ngôn, thiện hạnh trong cả đời toàn là phô trương, hời hợt, há có chuyện ǵ là thật sự! Lại c̣n ư ác ngập dạ, [ư niệm làm lành] thường dấy lên rồi tan mất triền miên. Vẫn muốn đ̣i trời ban cho quả báo tốt đẹp, sẽ như gieo trồng gai góc khắp đất, thế mà vẫn cứ si dại mong cầu thu thập thóc lúa phong phú, há chẳng lầm lạc ư?

          Ông từ nay trở đi, hễ có các tạp niệm tham, dâm, khách sáo, vọng tưởng, trước hết, hăy có sức lực mạnh mẽ để gạt bỏ hết thảy, thâu hồi sạch sành sanh. Mỗi ư niệm đều chỉ quan tâm tới điều lành. Nếu có sức thực hiện các thiện sự, hăy đừng mong cầu thiện báo, chẳng chú trọng tiếng tăm. Bất luận chuyện lớn, nhỏ, khó, dễ, đều thực hiện chân thật, giữ ḷng nhẫn nại mà làm. Nếu chẳng đủ sức để làm, cũng phải siêng năng, khẩn thiết, khiến cho thiện ư ấy được viên măn. Thứ nhất là phải có ḷng nhẫn nại, thứ hai là phải có cái tâm vĩnh hằng. Quan trọng nhất là chớ nên tự lười biếng, chớ nên tự dối gạt ḿnh. Hành lâu ngày chầy tháng, sẽ tự đạt được hiệu nghiệm chẳng thể ngờ được! Gia đ́nh ông thờ phụng ta hết sức kiền thành, thanh tịnh, cho nên đặc biệt dùng ư này để báo đáp ông. Hăy nhanh chóng gắng vâng giữ, sẽ có thể xoay chuyển ư trời đất.

          Nói xong, liền bước vào nhà trong của ông Du. Ông Du liền đứng dậy đi theo, tới chỗ bếp, bỗng chẳng thấy đâu nữa, mới biết [ông Trương] chính là thần Tư Mạng. Do vậy, thắp hương lạy tạ. Lập tức trong ngày hôm sau, tức là ngày Nguyên Đán, bèn lễ bái, cầu nguyện cùng trời đất, thề sửa lỗi trước, thật sự làm việc lành. Tự đặt biệt hiệu cho ḿnh là Tịnh Ư Đạo Nhân, quyết thề trừ khử các thứ hư vọng. Lúc mới hành, tạp niệm tơi bời, nếu chẳng nghi ngờ th́ sẽ là lười nhác. Thời gian thấm thoát mà vẫn bộp chộp, hời hợt y như cũ. Do vậy, bèn đối trước tượng Quan Âm Đại Sĩ được thờ trong nhà, dập đầu, tuôn máu, kính cẩn phát thệ nguyện: “Thiện niệm chân thuần, thiện lực tinh tấn. Nếu có lúc lơi lỏng mảy may, sẽ vĩnh viễn đọa trong địa ngục”. Hằng ngày vào sáng sớm, ông kiền thành niệm thánh hiệu đại từ đại bi một trăm câu, để mong [Bồ Tát] ngấm ngầm che chở. Từ đấy trở đi, mỗi lời nói, mỗi hành động, mỗi niệm, mỗi lúc, đều như có quỷ thần ở sát bên cạnh [giám sát], chẳng dám dối trá, phóng túng.

          Phàm hết thảy những chuyện hữu ích cho người khác, có lợi cho muôn vật, bất luận chuyện lớn hay nhỏ, bản thân bận bịu hay rảnh rang, người khác có biết hay là không, có đủ sức hay không, đều hoan hỷ hành tŕ, khéo léo thành tựu mới thôi! Tùy duyên phương tiện, gieo trồng âm đức rộng răi. Lại c̣n giữ vẹn luân thường, siêng học, giữ tánh khiêm tốn, nhẫn nhục. Lại c̣n hễ gặp người khác đều dùng những lời lẽ nhân quả báo ứng để cảm hóa, hướng dẫn, chỉ sợ chẳng kịp thời gian. Mỗi bữa cuối tháng, liền tính toán việc làm, lời lẽ trong cả tháng rồi đến chỗ Táo thần dâng sớ tâu bày. Hành tŕ đă thuần thục, hễ động th́ muôn điều thiện đều thuận theo; hễ tĩnh bèn chẳng dấy một niệm.

          Suốt ba năm như thế, vào lúc năm mươi tuổi, nhằm năm Vạn Lịch thứ hai (1574), đi thi Hội trong năm Giáp Tuất, [nhằm lúc] Trương Giang Lăng[36] giữ chức Thủ Phụ. Xong khoa thi, ông Trương hỏi thăm các đồng hương để chọn thầy dạy học cho con trai ḿnh. Mọi người đều tranh nhau tiến cử ông Du. Do vậy, ông Trương bèn mời ông Du lên kinh đô. Ông Du dẫn gia quyến đi theo. Ông Trương kính trọng phẩm đức của ông Du, theo quy chế từ trước, mời ông Du vào trường Quốc Học. Năm Bính Tư, tức năm Vạn Lịch thứ tư (1576), đến kinh đô, dự kỳ thi Hương, bèn đỗ đạt. Năm sau, đỗ Tiến Sĩ. Một hôm, yết kiến nội giám[37] là ông Dương. Ông Dương bảo năm đứa con ra chào, những đứa con ấy đều do ông Dương t́m được ở bốn phương để nối dơi ḥng vui hưởng tuổi già. Trong ấy, có một đứa tuổi mười sáu, khuôn mặt dường như rất thân thuộc đối với ông Du. Hỏi quê quán, nó thưa là người Giang Hữu[38]. Thuở bé, lên nhầm thuyền chở gạo, nhưng vẫn c̣n nhớ lờ mờ tên họ và quê nhà. Ông Du hết sức kinh ngạc, bảo nó cởi giày bên chân trái ra, [quả nhiên] có hai nốt ruồi giống hệt [như đứa con thứ ba đă bị thất lạc từ lâu của ông]. Ông kêu ầm lên: “Ngươi là con ta”. Ông Dương cũng kinh ngạc, liền tặng đứa con ấy cho ông Du. Nó theo ông Du trở về chỗ cư ngụ.

          Ông chạy đến nói với vợ. Phu nhân ôm con, hết sức đau ḷng, huyết lệ ràn rụa. Đứa con cũng khóc, ôm mặt mẹ, liếm mắt mẹ. Hai mắt mẹ sáng trở lại. Ông buồn vui chen lẫn, chẳng mong làm quan, từ tạ Trương Giang Lăng quay về quê. Ông Trương đánh giá cao đạo nghĩa của ông Du, biếu tặng hậu hĩnh để ông Du trở về. Ông Du ở quê nhà, càng dốc sức làm lành. Đứa con ấy cưới vợ, sanh liên tiếp bảy đứa con đều nuôi được, đều nối ḍng thư hương. Ông chính tay viết lại chuyện gặp Táo thần, và chuyện thật sự làm những việc sửa lỗi để giáo huấn con cháu. Bản thân ông khỏe mạnh, hưởng thọ tám mươi tám tuổi. Ai nấy đều nói do ông thật sự làm thiện sự, mà xoay chuyển được sự báo ứng của trời. Hậu học cùng làng là La Trinh ghi lại.

 

          (Chánh văn) Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ, tiểu tắc đoạt toán.

          (正文)凡人有過。大則奪紀。小則奪算。

          (Chánh văn: Hễ ai có lỗi, lớn th́ bị giảm thọ mười hai năm, nhỏ th́ giảm thọ một trăm ngày).

 

          Đoạn này nhằm tổng kết ư của các câu trước đó, nêu rơ trong đời, trong thân, trong tâm, trong nhà mỗi người, chỗ nào cũng đều có quỷ thần đông đảo vây quanh. V́ thế, lỗi lớn, lỗi nhỏ, chẳng có lúc nào ḥng trốn khỏi sự giám sát được, tước bớt tuổi thọ đích xác là [chuyện] chẳng sai chạy! Phàm mỗi người được sanh ra, tuổi thọ đều được ghi chép nơi chư thiên. Thái Thượng sắc truyền chư thần tra xét, đối chiếu. Cứ ba ngày bèn thưa một lần, cứ mười ngày bèn tâu lên, cứ một trăm ngày bèn tổng kết. Nếu [người ấy] tu thiện, lập công, sẽ có thể tăng thọ; lỡ vạn nhất tạo tội, lập tức bị giảm bớt. Lỗi có lớn hay nhỏ, cho nên giảm bớt tuổi thọ cũng sai khác. Thái Thượng chẳng ngại rát miệng, rườm lời, nhằm nêu rơ những nghĩa lư [mà con người] chưa thấy, chưa hiểu rơ ràng, không ǵ chẳng nhằm dạy mỗi người phải thận trọng ngay cả trong lúc chỉ ở một ḿnh đó thôi!

          Đời Minh, đại sư Vương Bích Như[39] ở núi Thiên Thai, húy là Lập Cốc. Sư đậu Hương Tiến[40] vào năm Bính Ngọ (1605), nhằm thời Vạn Lịch, được bổ làm huyện lệnh huyện Tân Cam. Từ bé, Sư đă thọ bốn giới giết, trộm, dâm, dối. Về sau, do làm quan bèn phế bốn giới ấy. Năm Mậu Ngọ (1618), vào kinh chầu vua, thuyền đậu ở Vu Hồ, Sư bị bắt tới cơi âm. Thấy trên điện có một vị vua ngồi, hai vị quan ngồi hai bên. Vua gọi tên, quát mắng: “Mạng ngươi đáng lẽ đă hết vào tháng Tám năm Bính Th́n (1616), sở dĩ kéo dài đến nay là do sức trai giới. Cớ sao ngươi lại buông bỏ?” Nói xong, sai lấy sổ sách cho xem. Thấy phía dưới tên có ghi rơ năm tháng, đến tháng Tám năm Bính Th́n sẽ chết. Ông Vương xem xong, khấu đầu, thưa tŕnh: “Con làm quan, do t́nh thế, chẳng thể nào không như vậy được!” Vua dạy: “Cố nhiên là thế! Hiềm rằng tuổi thọ đă hết th́ sao?” Vua hạ lệnh đuổi ông ta vào ngục, liền có con quỷ dáng điệu hung tợn chạy tới, làm ra vẻ như sắp bắt trói.

          Vị quan bên trái tâu: “Xin hăy thử xem xét những chuyện sau khi hắn đă phá giới”. Trong khoảnh khắc, [người hầu] khênh tới hai cái rương to, [những thứ chứa trong ấy] đều là những quyển hồ sơ khi [ông Vương] làm huyện lệnh Tân Cam. Phàm là một phong thư, một bản yết thị, những câu viết chơi trên những mảnh giấy nhỏ cũng đều có. [Những thứ ấy] đều có khí bốc lên cao, xanh, đen, đỏ, trắng khác nhau. Vua sai kiểm xem [để xếp những thứ cùng loại] vào một chỗ; trước hết, kiểm đống hồ sơ màu đen và xanh, kế đến kiểm đống màu đỏ. Đống [hồ sơ] có khí màu xanh bốc lên bị ẩn đi, đống có khí màu đen th́ rút nhỏ như chiếc đũa, c̣n riêng đống màu đỏ là to lớn. Ông Vương liếc nh́n trong đống hồ sơ ấy, thấy có bộ kinh Kim Cang và Hiếu Sanh Thiên do chính ḿnh đă khắc đều có. [Quỷ sứ] xếp thành đống xong, giọng điệu của người đứng đầu ḥa hoăn hơn, ngó vị quan bên trái bảo: “Do vậy biết là hắn gieo đức, hăy c̣n có đường sống. [Phạt hắn] ngũ quan bị hao tổn, bảo toàn thân mạng hắn, được chớ?” Vua sai ngục tốt móc mắt ông Vương, đặt lên cột trong điện, tỏa ánh sáng chiếu ngời bốn phía. Ông Vương nghĩ: Mắt đă bị khoét, làm sao có thể trông thấy cho được?” Trong nháy mắt, bỗng tối sầm, cung điện lẫn ngục tốt đều chẳng thấy nữa. Kế đó, cảm thấy có người vỗ lưng bảo: “Hăy đi cho nhanh, đi nhanh lên”. Trong chốc lát, bị vấp ngă bèn tỉnh giấc. Hôm sau, hai mắt đều mù, bèn bỏ nhà, tu đạo. Về sau, do ngộ đạo Thiền, hai mắt sáng lại. Sư từng đến tham học dưới ṭa Vân Thê, Bác Sơn[41], chân tham thật chứng, kiêm hành Đại Bi Sám Pháp, sống thêm mười hai năm nữa.

          Ôi! Con người ngoại trừ các vị thánh hiền, chẳng có ngày nào không phạm lỗi, cái có thể trông cậy để văn hồi tạo hóa chỉ là “có thể sửa đổi” mà thôi! Nếu không, nhân trước đă kém cỏi, nghiệp sau lại tăng, dẫu nhiều phước, lắm con trai, đến lúc một hơi thở ra chẳng hít vào được nữa, sẽ chỉ có nghiệp theo thân, chỉ thấy nỗi khổ v́ bị Diêm Vương tra xét, tính toán, [lúc ấy] có thể mang theo gia sản hay chăng? Có thể dẫn theo con cái hay chăng? Hăy suy nghĩ đi!

          Đời Tống, Phù Trọng Tín giàu có, thích bố thí. Lúc ba mươi lăm tuổi, bỗng mắc bệnh nguy ngập. Tự nói ḿnh đă đến cơi âm, gặp mấy người quen biết cũ, họ gọi: “Ân công v́ sao đến đây?” Họ dắt ông Phù đến lạy chào, cầu xin một viên nha lại. Viên nha lại nói: “Người này vốn đáng lẽ bị đói rét, do có hảo tâm bố thí, giúp đỡ; do vậy, có thể tay trắng làm nên. Vốn thọ đến năm mươi chín tuổi, nhưng v́ chẳng thắp nhang, ngủ dậy trễ, nay đều bị tước sạch”. Mấy người hỏi: “Hai chuyện ấy là lỗi nhỏ, sao lại đến nỗi như thế?” Viên nha lại đáp: “Chẳng thắp hương tức là chẳng có ḷng tôn kính trời đất. Ngủ dậy trễ, tức là có nhiều dâm ư, sao lại bảo là lỗi nhỏ?” Mọi người kinh sợ, nh́n nhau, nói: “Đức dầy như ông Phù c̣n v́ chuyện này mà [tuổi thọ bị] tước giảm, người ta há nên buông lung ư?” Không lâu sau, ông Phù chết.

          Trong đời người, cái khó có nhất là tuổi thọ, thế mà cái bị cơi âm tước đoạt cũng là tuổi thọ. Do vậy, Thái Thượng ra rả nói chuyện này, ngơ hầu răn nhắc con người thận trọng đối với chuyện phạm lỗi trong một niệm, cốt sao hưởng phước đầu tiên trong năm phước. Đấy là ḷng từ bi to lớn của Thái Thượng vậy!

 

          (Chánh văn) Kỳ quá đại tiểu hữu sổ bách sự, dục cầu trường sanh giả, tiên tu tỵ chi.

          (正文)其過大小有數百事。欲求長生者。先須避之。

          (Chánh văn: Tội lỗi lớn nhỏ của con người có đến mấy trăm chuyện. Kẻ mong sống lâu, trước hết hăy nên tránh né).

 

          “Mấy trăm chuyện” là những chuyện từ câu “phi nghĩa nhi động” (làm những điều phi nghĩa) cho đến câu “tử diệc cập chi” (mà c̣n phải chết). Phần trước nói đến chuyện “giảm đoạt” [tuổi thọ] nhằm dạy người ta biết kiêng tránh. Nay nói đến chuyện trường sanh, nhằm dạy người ta biết điều đáng hâm mộ. Nói “tiên tu tỵ chi” (trước hết hăy nên tránh né), chẳng phải là người khác chẳng cần tránh né, mà có ư nói: Những người mong được sống lâu, càng phải nên cẩn thận kiêng dè. Dẫu là những lỗi lầm nhỏ nhặt, cũng chớ nên phạm!

          Kẻ học đạo hăy lấy chuyện gieo bồi đức hạnh làm gốc. Nơi Nho là tứ đoan, bách hạnh[42], nơi Thích là Lục Độ vạn hạnh, nơi Đạo là “ba ngàn công, tám trăm hạnh”, đều là nói tới chuyện tích thiện, tránh ác; nhưng muốn tích thiện ḥng sửa lỗi, không chi bằng trước hết là thấu hiểu chí đạo (, đạo tột cùng). Muốn thấu hiểu chí đạo, không ǵ bằng hiểu rơ bổn tâm. Tâm là cái Thể của đạo, đạo là Dụng của tâm. Người có thể quan sát tâm tánh, ắt cái Thể viên minh sẽ tự hiện, tác dụng (Dụng) vô vi sẽ tự thành; chẳng cần phải tốn công mà nhanh chóng vượt lên bờ kia! Chuyện này nếu chẳng do tâm kính (, gương ḷng) rạng ngời, thần châu ()[43] trong suốt, sẽ do đâu mà có thể nhanh chóng ĺa khỏi các tướng, chẳng nhuốm bẩn mảy may, nguồn tâm tự tại, quyết định vô sanh vậy thay? Do vậy, bậc minh tâm thấu hiểu đạo, chẳng để cho tấm thân liên lụy tánh ấy, [chẳng để] cảnh giới làm loạn chân tâm này. Trong sự tùy cơ mà tương ứng với muôn vật, sẽ tự trụ nơi ư chỉ vô sanh. Điều ấy được gọi là vô thượng chí chân diệu đạo.

          Nữ tiên Dương Chánh Kiến sắp có ngày thành tiên, nhưng Thượng Đế khiển trách: Cô ta thuở bé, khi cha mẹ xâu tiền lại thành chuỗi để nộp thuế, Chánh Kiến đă làm chuyện không đúng là chọn lựa hai đồng tiền tṛn trịa, đẹp đẽ lén giấu đi. Đó gọi là “lén giấu diếm vật dụng thuộc về chánh quyền”. Lại phạt cô ta bị đày ở lại trong nhân gian thêm một năm nữa.

          Tử Hư Nguyên Quân[44] và Mao Quân[45] cùng ở trong cung Thanh Hư[46], cân nhắc, xem xét những chuyện được mất của [những người sẽ được thành] chân tiên trong thiên hạ, đă đánh rớt ngay bốn mươi bảy người, tâu tŕnh lên trên chỉ được hai người. Ấy là v́ [những kẻ bị đánh rớt đă] ôm tấm ḷng dâm dục để tu tŕ mong thành tiên, chẳng thể nào không phạm lỗi được! Giấu tiền là phạm lỗi nhỏ, [sau khi] chư tiên cân nhắc công và tội, [Dương Chánh Kiến] c̣n bị phạt như thế, huống hồ những kẻ mặc t́nh tùy tiện mà chẳng tránh né [tội lỗi] ư? Nay kẻ cầu trường sanh, chỉ cậy vào tàng tinh[47], hít thở, luyện thuốc, thiêu đan[48], cho là có thể ngộ đạo, trở thành chân tiên, chẳng biết những chuyện ấy đều là ngoại đạo. Chỉ có tu chân luyện tánh, hết thảy vọng niệm vừa mới chớm nẩy liền nhận biết, hễ vừa nhận biết liền diệt trừ, cốt sao trong mười hai thời, thanh tịnh như minh châu. Cái tâm an định, rỗng rang, sẽ tự an trụ trong đạo. Sống lâu tăng thọ, sẽ là lẽ đương nhiên!

          Trong Cải Quá Thiên[49] của Viên Liễu Phàm đời Minh có viết:

          - Các vị đại phu thời Xuân Thu nh́n vào lời nói và hành động của người khác mà suy đoán điều họa, lẽ phước của kẻ đó, không ǵ chẳng ứng nghiệm. Từ những ghi chép trong sách Tả Truyện và Quốc Ngữ[50] mà có thể thấy [rơ chuyện này]. Phần lớn những điềm cát hung đều nẩy mầm từ cái tâm rồi thể hiện ra hành động. Kẻ rất nhân hậu sẽ thường được phước, kẻ rất khắc bạc sẽ thường gặp tai họa. Mắt tục bị lắm thứ che lấp, thường bảo là “[họa phước] chẳng nhất định, chẳng thể dự đoán được!” Chí thành sẽ hợp với ḷng trời, phước sẽ đưa đến, cứ nh́n vào những điều lành của đương sự, ắt sẽ biết trước. Đối với kẻ sắp gặp họa, cứ nh́n vào những chuyện bất thiện của họ, ắt sẽ biết trước. Nay muốn được phước, xa lánh họa, chưa bàn đến chuyện làm lành, cần phải sửa lỗi trước đă!

           Nhưng để sửa lỗi, thứ nhất là phải sanh tâm hổ thẹn. Nghĩ thánh hiền thời cổ cũng là trượng phu như ta, do v́ lẽ nào mà họ có thể làm thầy trăm đời, ta v́ lẽ nào mà tấm thân [hèn tệ] như viên ngói nát? Nhiễm đắm thói t́nh trần tục, lén lút làm chuyện bất nghĩa, cứ nói là kẻ khác không biết, cứ ngạo ngễ, chẳng thẹn thùng! Ngày càng ch́m đắm trong loài cầm thú mà chẳng tự biết! Chuyện đáng nhục, đáng thẹn trong cơi đời không ǵ lớn bằng chuyện này! Mạnh Tử nói: “Sỉ chi ư nhân đại hỹ” (Đối với con người, ḷng hổ thẹn rất quan trọng); do có ḷng hổ thẹn, sẽ là thánh hiền. Bởi lẽ, đánh mất ḷng hổ thẹn, sẽ là cầm thú. Đấy là chỗ then chốt trọng yếu để sửa lỗi vậy.

          Thứ hai là phải sanh ḷng kiêng sợ. Trời đất ở trên, khó thể lừa dối quỷ thần. Tuy tội lỗi của ta giấu kín, nhỏ nhiệm, nhưng thiên địa quỷ thần thật sự soi thấy. Nặng th́ sẽ giáng xuống trăm điều tai ương, nhẹ th́ tổn giảm phước trong hiện tiền. Há lẽ nào ta có thể chẳng kinh sợ? Không chỉ là như vậy, dẫu ở nơi thanh vắng, [trời đất, quỷ thần] vẫn xét soi rất rơ ràng[51]. Tuy ta giấu diếm rất kín, che đậy rất khéo[52], nhưng gan phổi đă sớm bộc lộ, rốt cuộc khó thể dối gạt chính ḿnh. Bị người khác nh́n ra, [tư cách của chính ḿnh] sẽ chẳng đáng giá một đồng! Há có nên chẳng kiêng dè? Không chỉ là như thế, hễ c̣n một hơi thở, dẫu tội ác ngập trời, vẫn có thể hối cải! Cổ nhân có kẻ suốt đời làm ác, đến khi sắp chết hối cải, tỉnh ngộ, dấy lên một thiện niệm, bèn được chết an lành; có nghĩa là một niệm dũng mănh, kiên định, đủ để gột rửa tội ác trăm năm! Ví như hang tối ngàn năm, một ngọn đèn vừa chiếu, ắt bóng tối ngàn năm đều bị trừ sạch. V́ thế, bất luận tội lỗi lâu hay mau, chỉ quư ở chỗ sửa đổi! Nhưng trần thế vô thường, nhục thân dễ chết, hễ một hơi thở chẳng c̣n, dẫu muốn sửa đổi cũng chẳng có cách nào! [Tội lỗi] hiển nhiên th́ trăm ngàn năm, phải gánh vác tiếng xấu, dẫu con hiếu, cháu hiền cũng chẳng thể gột rửa. [Tội lỗi] ngấm ngầm th́ trăm ngàn kiếp phải chịu báo ứng trầm luân trong địa ngục. Dẫu thánh hiền, Phật, Bồ Tát, chẳng thể dẫn dắt thoát ra! Há lẽ nào chẳng sợ?

          Thứ ba là cần phát khởi cái tâm dũng mănh. Kẻ chẳng sửa lỗi, phần nhiều là v́ chần chừ, do dự. Ta cần phải sốt sắng, hăng hái, chớ nên lần khân, đừng phiền chờ đợi! [Tội lỗi] nhỏ th́ [cảm thấy] như mũi nhọn găm vào thịt, hăy nhanh chóng khoét bỏ. [Tội lỗi] lớn th́ như rắn độc cắn ngón tay, hăy nhanh chóng chặt đứt, chẳng có mảy may ngưng trệ nào! Đấy chính là lư do v́ sao Phong Lôi được gọi là Ích vậy![53]

          Có đủ ba tâm ấy, ắt có lỗi bèn sửa. Như băng mùa Xuân gặp phải mặt trời, lo ǵ chẳng tiêu tan! Nhưng đối với tội lỗi của con người, có trường hợp sửa từ nơi sự tướng, có khi sửa từ lư, có khi sửa từ nơi tâm, công phu bất đồng, hiệu nghiệm cũng khác. Như thuở trước đă sát sanh, nay kiêng chẳng giết. Thuở trước nóng giận, chửi rủa, nay kiêng chẳng giận. Đấy là sửa đổi nơi sự vậy. Cưỡng chế từ bên ngoài, khó gấp trăm lần! Đă thế, rốt cuộc gốc bệnh vẫn c̣n, Đông diệt Tây sanh, chẳng phải là đường lối diệt trừ rỗng rang rốt ráo vậy! Kẻ khéo sửa lỗi chưa ngăn dứt nơi sự, mà đă hiểu rơ lư trước, như trong quá khứ đă sát sanh, bèn nghĩ: “Thượng Đế hiếu sanh, muôn loài đều yêu mến tánh mạng, giết chúng để nuôi ta, há có thể an ḷng ư? Hơn nữa, chúng bị giết chóc, đă bị mổ, cắt, lại c̣n vào chảo, vào vạc, đủ mọi nỗi thống khổ thấu tận xương tủy. Để nuôi thân ta, những món ngon quư bày ra la liệt, nuốt vào sẽ như là chẳng có ǵ [ngon quư nữa]. Món chay, canh rau, đủ để no ḷng; há cần giết chết mạng chúng, tổn phước của chính ḿnh ư? Lại nghĩ chúng thuộc loại huyết khí, đều có linh tri. Đă có linh tri th́ đều có cùng một Thể với ta. Dẫu chẳng thể cung kính tu tập đức hạnh tột bậc, khiến [cho muôn loài] tôn trọng ta, thân cận ta, há nên hằng ngày giết hại sanh mạng loài vật, khiến cho chúng nó cừu hận ta, căm ghét ta vô cùng? Hễ nghĩ tới chuyện này, sẽ đối với chuyện ăn chúng nó mà cảm thấy đau ḷng, chẳng thể nuốt xuống được!

          Nếu trước kia hay giận, ắt sẽ nghĩ: “Người ta có những chuyện sai sót, xét theo t́nh người, hăy nên thương xót, họ làm chuyện trái nghịch đạo lư, chứ liên can ǵ đến ta? Vốn chẳng thể giận được! Lại nghĩ trong thiên hạ, chẳng có ai tự cho ḿnh là bậc hào kiệt, cũng chẳng có ai học vấn hơn người! Hễ có ǵ chẳng làm được, đều là do chính ḿnh chưa tu đức, chưa cảm thông đến tột bậc vậy! Ta đều nên tự xét lại, ắt những sự hủy báng xảy đến đều là chỗ để ta rèn luyện ḥng thành tựu tốt đẹp. Ta hăy nên hoan hỷ tiếp nhận sự ban thưởng ấy, làm sao có ḷng giận dữ cho được? Lại c̣n nghe hủy báng chẳng giận. Tuy ngọn lửa sàm báng xông rực trời, giống như nổi lửa đốt không trung, rốt cuộc sẽ tự tắt. Nghe hủy báng bèn giận, dẫu tâm nghĩ đủ cách hay khéo để tận lực biện giải, vẫn như con tằm kéo kén, tự chuốc lấy sự quấn trói. Giận dữ không chỉ là vô ích, mà c̣n có tai hại. Đối với các thứ lỗi ác khác, đều nên dựa theo lư để suy nghĩ. Đă hiểu rơ lư ấy, lỗi sẽ tự dứt.

          Thế nào là sửa đổi từ nơi tâm? Lỗi có ngàn mối, đều chỉ do tâm tạo. Tâm ta bất động, lỗi sanh từ đâu cho được? Người học đối với các thứ tội lỗi như hiếu sắc, hiếu danh, ham mê của cải, ưa giận dữ, chẳng cần phải truy cầu [cách đối trị] theo từng loại, chỉ nên nhất tâm làm lành. Chánh niệm luôn hiện tiền, tà niệm tự nhiên chẳng thể ô nhiễm được. Như vầng mặt trời [sáng rực] giữa không trung, các loài quỷ mị ẩn nấp, tiêu mất. Đấy chính là lẽ chân truyền về sự chuyên nhất, ṛng rặt[54] vậy! Lỗi do tâm tạo th́ cũng do tâm sửa. Như chặt cây độc, cứ chặt thẳng nơi gốc, cần ǵ phải đẵn từng cành, vặt từng chiếc lá ư?

          Nói chung, cách [để sửa lỗi] tối thượng là đối trị từ cái tâm, lập tức thanh tịnh, [vọng tâm] vừa động bèn giác. Hễ giác, [những phiền năo] ấy sẽ chẳng c̣n nữa. Nếu chưa thể như vậy, cần phải dùng hiểu rơ lư để trừ khử. Nếu vẫn chưa thể như thế, ắt phải thuận theo từng sự mà khắc chế. Dùng những sự thuộc về bậc thượng để kiêm hành những công phu bậc hạ, chưa hề là chuyện thất sách. Nếu chấp vào bậc hạ, chẳng hiểu những chuyện thuộc bậc thượng, sẽ là cách thức vụng về[55]. Xét theo phương diện “phát nguyện, sửa lỗi, [nh́n theo phương diện] rơ ràng th́ cần phải có bạn lành nhắc nhở. [Xét theo phương diện] ngấm ngầm, th́ cần phải có quỷ thần chứng minh, nhất tâm sám hối, ngày đêm chẳng lười nhác, qua bảy ngày, hoặc mười bốn ngày, cho đến một tháng, hai tháng, ba tháng, ắt có hiệu nghiệm. Hoặc là cảm thấy tâm thần thoáng đăng, hoặc cảm thấy trí huệ nhanh chóng mở mang. Hoặc là đối với những chỗ trầm trệ chẳng thông hiểu [khi trước, nay] vừa nghĩ tới thảy đều thông suốt. Hoặc gặp oán cừu mà có thể chuyển sân thành hỷ. Hoặc mộng thấy nhả ra vật có màu đen. Hoặc mộng thấy các bậc văng thánh tiên hiền đề huề tiếp dẫn. Hoặc mộng thấy bay lên thái hư, hoặc mộng thấy tràng, phan, lọng báu, các thứ sự việc thù thắng. Đấy đều là các dấu hiệu cho thấy lỗi tiêu, tội diệt vậy; nhưng chớ nên chấp trước chuyện này để rồi tự cao, tự vạch giới hạn, chẳng thể tiến được!

          Xưa kia, ông Cừ Bá Ngọc lúc hai mươi tuổi đă cảm thấy thuở trước sai trái, tận lực sửa đổi. Tới lúc hai mươi mốt tuổi, bèn biết những lỗi đă sửa đổi khi trước vẫn chưa hết. Tới lúc hai mươi hai tuổi, nh́n lại khi hai mươi mốt tuổi, [thấy chính ḿnh trong thuở trước] giống như vẫn đang ở trong mộng. [Do vậy], cứ mỗi năm thêm một tuổi, lần lượt sửa đổi. Lúc năm mươi tuổi, vẫn biết bốn mươi chín năm trước sai lầm. Đạo học vấn về sửa lỗi của cổ nhân là như thế đó. Bọn chúng ta là lũ phàm phu, lỗi ác chi chít như lông nhím. Kẻ nghĩ lại những chuyện cũ, mà thường thấy dường như chẳng có lỗi ǵ, tức là kẻ tâm thô tháp, mắt bị màng mộng vậy!

          Thế mà kẻ lỗi ác sâu nặng, cũng có những điều ứng nghiệm như tâm thần tối tăm, bế tắc, [chuyện mới đó mà vừa] quay đầu đă quên, hoặc là chẳng có chuyện ǵ mà thường phiền năo, hoặc thấy bậc quân tử mà hổ thẹn, ủ rũ, hoặc nghe chánh luận bèn chẳng vui, hoặc bố thí ân huệ đâm ra bị người khác oán trách, hoặc đêm nằm mộng điên đảo. Đến mức quá đáng, sẽ là ăn nói hư vọng, thần trí chẳng ổn định. Đấy đều là những tướng cho thấy kẻ đó đă tạo nên mầm mống nghiệp chướng. Nếu thuộc về loại này, hăy nên dũng mănh, hăng hái, bỏ cũ theo mới, mong hăy chớ nên tự lầm lạc!

 

          (Chánh văn) Thị đạo tắc tấn, phi đạo tắc thoái.

          (正文)是道則進。非道則退。

          (Chánh văn: Chuyện hợp đạo th́ hành theo, chuyện chẳng hợp đạo th́ hăy nên tránh né).

 

          Từ chỗ này cho tới câu “tam bách thiện” (ba trăm điều thiện) chính là lời chân thật dạy về chuyện làm lành. Ai có thể dốc hết sức thực hiện, sẽ lập tức có phước báo. Đạo ví như đường lớn. Thuận lẽ trời, hợp ḷng người, sẽ phẳng phiu, ngay thẳng, đấy chính là đạo. Nghịch lẽ trời, trái ḷng người, sẽ là gai góc, hiểm trở, tức là “phi đạo”. Hai câu này, một đằng là chuyên hướng theo điều lành, câu kia thuộc về sửa lỗi, nhưng chỉ là một ư: Tránh [những ǵ thuộc về] phi đạo, thực hiện [những chuyện] hợp đạo, đều quy vào một điều thiện mà thôi! Hai chữ “tắc” () [trong hai câu trên đây] có nghĩa là phải khẩn thiết dốc sức. Biện định đúng sai ngay trong một niệm, tiến hay thoái (thực hiện hay tránh né) cần phải quyết định ngay lập tức. Ở chỗ này, cần phải là thủ đoạn chém đinh chặt sắt, chẳng thể có mảy may do dự! Nếu ư niệm vừa chuyển, sẽ lại đọa vào trong sự nắm giữ của ma. Hăy nên luôn luôn tự kiểm điểm bản thân, chuyện ǵ cũng phải thận trọng tu tập th́ mới là hiểu được ư này.

          Đạo ở đây chính là đạo “thiên mạng vị tánh, suất tánh vị đạo” (cái được trời ban cho th́ gọi là Tánh, hành xử theo Tánh th́ gọi là đạo)[56]. Trong cuộc sống thường nhật, nói năng hay im lặng, động hay tĩnh, không ǵ chẳng phải là đạo, chỉ cần biết lẽ chân (đạo) bèn dũng mănh thực hiện. Cổ đức nói: “Đại đạo chẳng ĺa trước mắt”, thế nhưng trước mắt lại khó thấy! Phải biết chân thể của đại đạo, chẳng ĺa thanh, sắc, ngôn ngữ. Đạo Đức Kinh nói: “Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi” (Người căn cơ bậc thượng nghe đạo, sẽ siêng năng hành theo). Nội Quán Kinh[57] nói: “Tri đạo dị, tín đạo nan. Tín đạo dị, hành đạo nan” (Biết đạo dễ, tin đạo khó. Tin đạo dễ, hành đạo khó). Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn, đoạn trừ nghi vơng, xuất ái hà. Khai thị Niết Bàn vô thượng đạo” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức. Nuôi lớn hết thảy các căn lành, đoạn trừ lưới nghi, thoát sông ái. Khai thị đạo vô thượng Niết Bàn). Ấy là v́ ai nấy đều có sẵn đạo thể, tuy ch́m đắm trong muôn điều dục, nếu chịu nhất niệm hồi quang, điều nào là chân hay chẳng chân sẽ chẳng thể lừa dối dẫu bằng mảy may được! Đó gọi là “thiên lư bất tức chi Thể” (cái thể của thiên lư[58] chẳng hề bị gián đoạn). Mở rộng ra, muôn kiếp ngàn đời, chẳng hề bị đọa lạc. Tri hành hợp nhất, sẽ trở thành thánh nhân chẳng khó! Hăy nên tin tưởng!

          Xưa kia, có một người nông dân từng bị thương bởi hổ. Có người nói đến chuyện hổ tấn công người, ai nấy đều kinh hăi, chỉ riêng người nông dân ấy vẻ mặt biến đổi dị thường! Ôi! Hổ tấn công người, không ai chẳng biết, nhưng bản thân chưa từng trải qua, v́ thế chỉ giật ḿnh. Riêng người nông dân đă chịu nỗi khổ ấy; v́ thế, mặt tái mét. Người ta vẫn làm những chuyện trái đạo, cũng là do chưa từng thật sự biết. Nếu thật sự biết, quyết sẽ chẳng làm! Người hiện thời ngày đêm mơ màng, chỉ như nằm mộng nói mớ! Trong mỗi khoảnh khắc, hay trong khi nghỉ ngơi đều duy tŕ, bảo dưỡng cái tâm tỉnh giác ấy. Một điểm linh quang thường tịch, thường chiếu, tuy có trần duyên dấy lên hay diệt mất, bản thể vẫn bất biến. Đấy mới là suốt ngày thâu đêm đều biết đạo, sẽ chẳng có chuyện phi đạo nào khiến cho người ấy bị mê hoặc hay rối loạn được!

          Đời Tống, Triệu Thanh Hiến Công[59] mỗi đêm thắp hương tâu tŕnh với trời. Có người hỏi [nguyên do], ông bảo: “Tôi từ thuở bé tới nay, ngày làm điều ǵ, đêm ắt tâu tŕnh Thượng Đế. Chuyện ǵ chẳng dám bẩm báo, sẽ chẳng dám làm”.

          Trương Kỳ Uẩn dốc ḷng nơi Lư Học, chú trọng hiếu thảo cha mẹ, ḥa hợp với anh em. Mỗi lời lẽ, hành vi, đều tuân theo lễ pháp. Hễ hơi phạm sai sót liền thống trách hối cải, suốt đêm chẳng ngủ. Cha mẹ qua đời, mỗi lúc gặp những món cha mẹ lúc c̣n sống thích ăn, ông luôn đối trước chúng che mặt khóc. Vợ chồng kính trọng nhau như khách, suốt đời chẳng lấy thêm vợ lẽ. Cư xử trong gia đ́nh nghiêm túc. Dẫu ở một ḿnh, vẫn chẳng có dáng vẻ lười nhác. Hễ gặp con em, ắt sốt sắng khuyên dạy, khiến cho chúng có thành tựu. Người thân, xóm giềng có chuyện nạn gấp, nếu sức ḿnh chẳng thể [giúp đỡ] toàn vẹn, ắt sẽ t́m nhiều cách cầu cạnh người khác lo toan cứu giúp. Hễ chuyện được thành tựu, sẽ vui vẻ. Nếu không, ắt sẽ sầu muộn, than thở chẳng ngơi! Lúc về già, càng thêm tinh tấn. Ông thường nói: “Nhà ta từ ông cao tổ là Quán Tâm Công dùng hiếu thảo, ḥa thuận để mở mang nền tảng, đời nào cũng giữ ḷng trung hậu. Tánh ta vụng về, chẳng thể làm ăn ḥng để lại của cải cho con cháu, chỉ mong chẳng khiến cho thanh danh của gia tộc bị đọa lạc, giữ vẹn một mảnh ruộng tâm cho kẻ đời sau gieo cấy mà thôi!”          

          Đời Hậu Hán, Quản Ninh đă từng cùng với Hoa Hâm cuốc đất, t́m được vàng. Quản Ninh chẳng nh́n tới, Hoa Hâm móc lên, quăng đi. Gặp thời loạn lạc, Quản Ninh lánh nạn sang Liêu Đông. Công Tôn Độ[60] dùng lễ mời mọc, Quản Ninh không màng. Do vậy, vào núi ở, có nhiều người theo ông. Trâu nhà hàng xóm phá ruộng, Quản Ninh bèn dắt trâu tới chốn núi hoang chăn dắt. Chủ trâu hổ thẹn, cảm tạ. Dần dần, chỗ ông ở trở nên đông đúc. Do vậy, Quản Ninh bèn dạy thi thư, chỉ bày lễ nghi, giảng rơ phép lễ nghĩa, khiêm tốn. Nếu chẳng phải là người cầu học, ông sẽ không tiếp. Phong thái của ông vang dội khắp Liêu Đông, dân chúng được cảm hóa bởi đức hạnh của ông. Mỗi lần gặp Công Tôn Độ, chỉ nói về đạo đức, chẳng dính dáng chuyện đời. Công Tôn Độ ca ngợi sự hiền đức của Quản Ninh. Ông ở đất Liêu ba mươi bảy năm, do tuân mạng lệnh của triều đ́nh mà vượt biển trở về. Biển nổi sóng to gió cả, những phu chèo thuyền kêu trời, sám hối tội lỗi. Quản Ninh nói: “Tôi đă từng có một buổi sáng [thức dậy] không đội mũ, ba buổi sáng dậy quá trễ, một lần đi nhà xí chẳng đội mũ. Tội lỗi ắt là những điều ấy” Các thuyền cùng đi đều ch́m hết, thuyền ông Ninh được thoát. Ông trở về, được phong làm Đại Trung Đại Phu, chẳng nhận. Hoa Hâm nhường chức Thái Úy, ông cũng từ chối. Ông mất lúc tám mươi bốn tuổi. Nơi cái giường gỗ ông thường ngồi, hai chỗ ông đặt đầu gối đều bị lơm xuống, [chứng tỏ] suốt năm mươi năm chưa từng co gối ngồi xổm. Thân thích, hàng xóm có người nghèo túng, dẫu nhà thiếu gạo ăn, ông ắt sẽ chia sẻ cứu giúp. Với con bèn nói đến hiếu, với em bèn nói nhường, với bầy tôi bèn nói trung. Dáng vẻ cung kính, ngôn từ nhu thuận, có thể nhờ vào sự việc để hướng dẫn người khác về điều lành. Những kẻ biết thẹn chẳng ai không được cảm hóa.

          Người hiện thời hăy thử nghĩ trong mười hai thời, đối với những chuyện trái ư trong gia đ́nh, có nên sanh phiền năo hay không? Ở yên, no ấm, có nên sanh ḷng dâm dục hay không? Sanh kế rất đạm bạc, có nên tranh đoạt danh lợi hay không? Ĺa khỏi sự đốc thúc của những người bạn đạo, chính ḿnh có sanh hôn trầm, lười nhác hay không? Sống yên ổn, có đừng nghĩ tới ruộng đất, nhà cửa hay không? Thấy kẻ khác phú quư, có đừng nghĩ tới chuyện vinh hoa hay không? Chính ḿnh nghèo hèn, có đừng nghĩ chuyện bươn chải, tranh giành hay không? Hễ có một điều trong những điều ấy, sẽ đều đủ để thoái thất đạo tâm, trở thành trái lư, chớ nên lơi là! V́ thế, kẻ phản tỉnh, học đạo chân thật, hiểu biết những điều sai trái, sẽ tiến bộ nơi đạo.

 

          (Chánh văn) Bất lư tà kính, bất khi ám thất.

          (正文)不履邪徑。不欺暗室。

          (Chánh văn: Chẳng đi theo nẻo tà, chẳng lừa dối khi ở trong buồng tối).

         

          “Lư” () là chỗ đích thân thực hiện, cũng như những chỗ nghĩ đến, sẽ đều gọi là “lư”. Chữ “tà kính” (邪徑) chỉ những chỗ hết sức nhỏ nhiệm, dễ bị sơ sót, ư nói là những chuyện hoặc những niệm tà vạy. “Khi” (, lừa dối) có nghĩa là biết rơ mà cố ư vi phạm. “Ám thất” (暗室, pḥng tối) là chỗ người khác chẳng thấy, chẳng nghe; đấy chính là ranh giới phân chia ban đầu giữa thiện và ác vậy. “Bất lư tà kính”: Từ nơi nguồn tâm, luôn chú trọng giữ cho nó đàng hoàng, chánh đáng từng ly, từng tư. Tuy là đường tà nhỏ nhặt, nó có mối quan hệ rất vi tế. Cho đến khi ấy, sẽ quyết đoán chẳng làm theo. [Như thế th́] đối với những điều to tát, sẽ biết [phải nên làm như thế nào]. “Bất khi ám thất”: Quét dọn nguồn tâm cho sáng ngời, rạng rỡ. Tuy là chỗ buồng kín chỉ riêng ta biết, tức là chỗ kín đáo nhất, ngay trong khi ấy, cương quyết chẳng cẩu thả. [Như vậy th́] đối với những chỗ tỏ lộ (ai cũng trông thấy), sẽ biết [phải nên hành xử như thế nào]. Có thể làm như thế, sau đấy, tích lũy công đức, hành các điều lành, do một điều sẽ quán thông hết thảy.

          Phước do đức mà có. Hễ có đôi chút cái tâm mong cầu [được phước khi tích lũy công đức], sẽ là “tà kính” (nẻo tà). V́ thế, phải nên v́ con cháu tạo phước, chớ nên v́ con cháu cầu phước. Giữ gia quy nghiêm cẩn, chuộng tiết kiệm, chất phác, dạy bảo con cháu cày cấy, đọc sách, tích lũy âm đức. Đó là tạo phước. Tạo tác ruộng đất, nhà cửa cho nhiều, dùng các mối quan hệ hôn nhân để tạo vây cánh, t́m cách bớt tiền đóng thuế, mua bán công danh. Đấy là cầu phước. Tạo phước, [phước ấy] thanh đạm nhưng lâu dài; cầu phước th́ phước ấy nồng đượm nhưng ngắn ngủi. Danh phải tương ứng với thực chất; hễ hơi có cái tâm cầu danh, sẽ là nẻo tà! V́ thế, hăy nên tiếc danh trong đời này, chớ nên cầu danh trong đời này! Siêng học thi thư, đề cao khí tiết, thận trọng trong việc cho và nhận, cẩn trọng oai nghi, đó là tiếc danh. Cạnh tranh để được nổi tiếng, ve văn bậc quyền quư, truy cầu những kiểu thói quái lạ, quen thói hành xử hàm hồ; đó là cầu danh. Kẻ tiếc danh sẽ an tĩnh, thanh tịnh. Kẻ mua danh sẽ xáo động, trật vuột.

          Tiền tài là để nuôi dưỡng sanh mạng; hễ hơi có cái tâm phô trương tiền tài, sẽ là nẻo tà! V́ thế, hăy nên v́ cả nhà dụng tài, chớ nên v́ cả nhà phô trương tiền tài. Giúp đỡ họ hàng, xóm giềng, trả tiền lương rộng răi cho thầy dạy học, cứu giúp kẻ đói kém, đóng góp cho các việc nghĩa, đấy là “dụng tài”. Nhà cửa vườn tược xa hoa, [bỏ tiền ra thuê] người dạy ca múa[61], tiệc tùng xa xỉ, chất chứa những đồ vật quư báu, đẹp đẽ. Đó là phô trương tiền tài. “Dụng tài” th́ tuy tiền tài hao tổn [nhưng rồi] sẽ lại tràn đầy; phô trương tiền tài, [thoạt đầu] th́ choáng lộn, [cuối cùng] thiếu hụt. Bản thân là người làm chủ gia đ́nh, hễ có cái tâm riêng tư, sẽ là nẻo tà! V́ thế, hăy v́ đại chúng mà tu thân, đừng nên ích kỷ chỉ lo riêng cho gia đ́nh ḿnh. Giảm bớt ham muốn, giảm bớt lo nghĩ, tránh phẫn hận, bớt ăn uống. Đó là tu thân. Chuyện ǵ cũng tính lợi hại, tránh né những chuyện nhọc nhằn, hoặc [những chuyện mà khi ta lo liệu sẽ dễ] bị oán trách, chăm bẵm nhà cửa, chấp trước vợ con. Đó là “tư thân” (, lo riêng cho bản thân). Tu thân th́ [thoạt nh́n dường như] là tiết chế, an phận, nhưng sẽ có tiếng tăm to lớn. Tư thân th́ tuy có vẻ giàu có, nhưng hẹp ḥi, kém cỏi.

          Dực Thánh Chân Quân[62] dạy ông Trương Thủ Chân như sau: - Nếu có thể thanh sạch cái thân, giữ lẽ chánh, tấc ḷng chẳng lừa dối, tự nhiên sẽ ngầm hợp thiên lư.

          Quan Thánh Đế Quân nói: - Người có tâm như trên bầu trời có mặt trời. Quang minh soi thấu suốt, từng ly từng tí chẳng riêng tư.

          Lục Tượng Sơn[63] nói: - Con người chỉ có một tâm, dấy lên ư niệm, ư niệm có chánh đáng hay không chỉ trong khoảnh khắc! Nếu một niệm bất chánh mà trong khoảnh khắc sẽ biết ngay, sẽ liền có thể đoan chánh ư niệm. Ư niệm đoan chánh mà trong khoảnh khắc bị mất đi, tức là bất chánh. Những điều này đều ở ngay trong một cái tâm của con người.

          Kinh Thư nói: “Duy thánh vơng niệm tác cuồng, duy cuồng khắc niệm tác thánh” (Thánh mà chẳng chế ngự được ư niệm sẽ thành cuồng, kẻ cuồng mà có thể khắc chế ư niệm sẽ là thánh). Thánh hiền ngàn đời [sở dĩ thành thánh hiền] bất quá là có thể soi xét chỗ vi tế ngay trong một niệm. Trời, đất, quỷ thần phần nhiều giám sát điều thiện lẽ ác ở chỗ này. Người nào có thể từ nơi đây mà cúi đầu, ngẩng đầu chẳng thẹn, chẳng xấu hổ với bóng áo, lẽ nào có thể làm chuyện sái quấy ở nơi riêng tư ư?

          Bài thơ Không Lừa Dối của ông Vương Mai Khê[64] có đoạn: “Thất minh, thất ám lưỡng hề nghi, phương tốn thường tồn bất khả khi, mạc vấn thiên cao quỷ thần ố, yếu tu tiên úy tự gia tri” (Thường giữ tấc ḷng không dối trá, dẫu nhà sáng tối há ngờ chi. Khoan sợ đất, trời, thần quỷ ghét, hăy sợ nhà ḿnh biết trước đi).

          Trong bài Úy Thuyết (nói về Sợ) của Trúc Căn lăo nhân có đoạn: - Nói chung, ḷng người chẳng thể không biết sợ; c̣n có ḷng kiêng sợ hay không chính là căn cứ để phán định thiện hay ác vậy. Do vậy, quân tử trong là sợ cha mẹ, ngoài th́ sợ thầy bạn, ngẩng lên bèn sợ trời, cúi xuống bèn sợ người. Chỉ v́ có ḷng sợ, cho nên chuyện phi lễ chẳng dám làm, chuyện phi nghĩa không dám rớ. Hễ một niệm hổ thẹn, ắt tâm sẽ bị chấn động, áy náy. Hễ có chuyện đáng xấu hổ, dáng vẻ sẽ hổ thẹn. Dè dặt, kiêng sợ, tự ǵn giữ, hằng ngày sẽ giảm bớt lỗi mà chẳng tự biết, sẽ dự vào hàng quân tử vậy.

          Đời Tống, Lưu An Thế[65], tuổi đă già, danh càng trọng. Lương Sư Thành[66] nắm quyền, có thể quyết định sự sống chết của kẻ khác, trong tâm khâm phục sự hiền năng của ông Lưu, sai người đến khuyên dụ để trọng dụng ông. Do đó, [người ấy] khuyên ông hăy tính toán cho con cháu. An Thế cười bảo: “Nếu ta v́ con cháu, sẽ chẳng [chờ đợi] cho đến hiện thời. Bị băi truất ba mươi năm, ta chưa hề viết một chữ nào gởi cho bậc quyền quư trong triều [để nhờ vả]. Ta mong ǵn giữ nhân cách hoàn mỹ thời Nguyên Hựu[67] để gặp ngài Tư Mă Quang dưới suối vàng, chẳng thể phá giới được!” Ông trả lại thư ấy, chẳng đáp!

          Đời Minh, Đổng Phác từ quan về nhà. Đúng dịp sứ giả[68] đến đất Sở (Hồ Bắc) là học tṛ của ông. Trước đó, người ấy đă gởi đề thi [do các quan chủ khảo] định sẵn [trong khoa thi ấy] cho ông. Ông đốt đi, không cho con xem. Về sau, con ông thi đỗ.

          Đời Minh, có quan Thượng Thư tên Dương Chử, là người huyện Ngô. Mộng thấy đến chơi một khu vườn, ăn hai quả mận. Tỉnh giấc bèn tự trách: “Do ta thường ngày đối với nghĩa và lợi chẳng hiểu rơ, cho nên đến nông nỗi này”. Ông bèn nhịn ăn nhiều ngày!

          Xưa kia, có một sa-di tám tuổi tên là Diệu Nhan, đă trọn đủ thần thông của bậc La Hán, bay vào vương cung. Hoàng hậu muốn ôm lấy, Diệu Nhan nói: “Hăy ngừng lại, đừng làm vậy! Chớ nên thân cận sa-môn”. Hoàng hậu nói: “Khanh c̣n nhỏ, giống như con của ta, tuy ôm khanh cũng có sao đâu!” Diệu Nhan đáp: “Nếu nói theo t́nh cảm thế gian, đúng như phu nhân đă dạy; nhưng t́nh chấp đều từ điều nhỏ nhặt mà dấy lên, ví như một đốm lửa, có thể đốt cháy vạn dặm đồng hoang! Ví như từng giọt nước có thể xuyên thủng đá Thái Sơn! Mọi chuyện đều do dần dà mà thành, do ít mà thành nhiều, do nhỏ mà thành lớn. V́ thế, người trí tránh xa chuyện hiềm nghi, dập tắt những ǵ vừa mới manh nha!”

          Đời Hán, Dương Chấn làm Thái Thú quận Đông Lai, trên đường đi qua Xương Ấp. Viên quan đứng đầu huyện ấy là Vương Mật, vốn là một Tú Tài[69] được ông Dương đề cử. Đêm khuya, Vương Mật đem vàng đến yết kiến, dâng lên. Dương Chấn khước từ. Vương Mật nói: “Đêm sâu chẳng có ai biết”. Dương Chấn nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết. Sao lại nói là không ai biết?” Vương Mật hổ thẹn lui ra. Dương Chấn làm quan tới địa vị Tam Công[70].

          Hà Trừng giỏi nghề thuốc. Có người họ Tôn, bệnh đă lâu không lành, mời Hà Trừng đến chữa mấy lần. Vợ người ấy ngầm nói với Hà Trừng: “Chồng tôi bệnh lâu ngày, [tài sản trong nhà] đă cầm bán gần hết rồi, xin dùng tấm thân này để trả tiền thuốc”. Hà Trừng nghiêm mặt nói: “Cớ sao bà nói vậy? Bà hăy yên ḷng, đừng lo. Tôi sẽ chữa trị. Nếu làm chuyện ô nhục ấy, không chỉ là khiến cho tôi vĩnh viễn là đứa tiểu nhân, mà bà cũng bị mất danh tiết. Dẫu chẳng bị người trách, khó tránh trời phạt!” Về sau, Hà Trừng mộng thấy ḿnh đến một dinh thự, thần bảo: “Ngươi làm nghề y có công, lại chẳng v́ người ta gặp lúc khó khăn, ngặt nghèo mà dâm loạn phụ nữ của họ, Thượng Đế ban cho ngươi một chức quan, năm vạn quan tiền”. Không lâu sau, Hoàng Thái Tử mắc bệnh, t́m thầy thuốc chữa trị [đều không lành, đến cuối cùng] kiếm được Hà Trừng, chẳng cần thuốc thang mà lành bệnh. Vua ban chức quan và tiền bạc đều đúng như con số [thần đă dạy].

 

          (Chánh văn) Tích đức lũy công.

          (正文)積德累功

          (Chánh văn: Tích lũy công đức).

 

          Ǵn giữ chân tâm là Đức, thể hiện qua các sự gọi là Công. Do ít thành nhiều, từ thấp lên cao, đó là Lũy. Đức chẳng tích sẽ không cao. Công chẳng “lũy” (, chất chứa) sẽ chẳng to. Nếu có thể chú trọng tỉ mỉ như nông dân mong được mùa; nóng ḷng mong mỏi [phát tài] như con buôn đang kinh doanh, hôm nay tích một đức, ngày mai lại tích một đức, hôm nay chứa một công, ngày mai chứa một công khác nữa. Nói “[để trở thành] thiên tiên, hăy thực hành một ngàn ba trăm điều thiện chỉ trong bốn năm. [Để thành] địa tiên th́ hành ba trăm điều thiện chỉ trong một năm”, vậy th́ phàm nhân sẽ chẳng thể, sợ rằng sẽ đến nỗi bỏ dở giữa chừng. Ấy là v́ chấp trước đă sâu, tập nhiễm (những thứ đắm nhiễm do tập khí) khó trừ. Lư chẳng thắng nổi dục[71], lương tâm vừa dấy lên lại bị ngưng lặng. V́ thế, rốt cuộc chẳng có dịp để làm lành!

          Chỉ mong những người đă phát khởi thiện nguyện trong cơi đời hăy có tấm ḷng chân tín, tâm dũng mănh, tâm tinh tấn, tâm kiên tŕ, vĩnh hằng. Chớ nên v́ keo tiếc tiền của mà bỏ dở giữa chừng. Chớ sợ những lời lẽ chê bai mà tự ngờ vực. Chớ quen thói an nhàn, thuận tiện để rồi chẳng mạnh mẽ, hăng hái. Chớ bị ham muốn riêng tư lôi kéo để rồi chẳng cương quyết, đoạn tuyệt [những thói hư tật xấu]. Chớ qua loa tắc trách để rồi bỏ dở nửa chừng. Chớ chấp vào sự thành tựu nhỏ nhặt mà vui sướng, tự măn. Chớ mong mỏi những điều hiếm hoi, cao xa, để rồi chẳng chú trọng thật sự tu tập. Chớ v́ thấy sự việc to tát mà ngại khó. Chớ v́ điều lành nhỏ nhoi mà xem nhẹ. Chớ v́ sự việc phiền toái mà đùn đẩy [cho người khác]. Chớ tiếc nuối danh tiết để rồi chẳng cứu người hoạn nạn. Chớ gắng sức nơi chỗ dễ thấy lơ là chỗ ẩn kín. Chớ gắng sức nơi hành vi, mà xem nhẹ lời ăn tiếng nói. Chớ nói ngọt ngào sáo rỗng, để rồi hành vi chẳng phù hợp sự thật. Chớ giữ cái thường hằng, xem nhẹ cái tạm bợ. Chớ siêng lúc đầu, biếng nhác lúc sau. Chớ tỵ hiềm. Chớ ngại kẻ khác oán hận [để rồi không tích lũy công đức]. Chớ chần chừ, chớ gián đoạn, chớ lỗ măng, chớ mong được báo đáp, chớ ham danh. Hễ gặp hết thảy các việc thiện, hăy đều hoan hỷ hành tŕ, hành xử khéo léo cốt sao thành tựu mới thôi. Như vậy mới là chủng tử tốt đẹp trong việc phụng tŕ, [tích lũy công đức] vậy!

          Tử Hư Nguyên Quân nói: - Xưa kia có Phó tiên sinh, từ bé đă ham thích đạo. Vào ở nơi thạch thất trong núi Tiêu, tu tập ba năm, bỗng gặp Thái Cực Chân Nhân[72] trao cho cái dùi gỗ bảo hăy đục thủng một tảng đá, căn dặn: “Đá thủng th́ ta sẽ độ ngươi”. Đá dầy hơn năm thước, ông Phó cứ dùi măi không ngừng. Trải qua bốn mươi bảy năm, đá bỗng bị xuyên thủng. Thái Cực Chân Nhân quả nhiên đến độ ông ta. Phàm tích lũy công đức, tuy chẳng phải là dùi đá, nhưng cứ từ chuyện này mà suy, chỉ sợ người ta không làm, hoặc bỏ cuộc giữa chừng vậy. Kẻ có chí, sự rốt cuộc sẽ thành, chuyện này chẳng phải là được chứng nghiệm rơ ràng đó sao?

          Đời Tống, Thái Thú xứ Trấn Giang là Cát Phồn, mỗi ngày hành mấy điều thiện, suốt bốn mươi năm chẳng bỏ. Người khác thưa hỏi, ông nói: “Ta chẳng có ǵ khác, chỉ là mỗi ngày làm một, hai chuyện có lợi cho người khác”. Nhân đó, ông chỉ cái bục lót chân nơi chỗ ngồi, bảo: “Vật như thế nếu kê chẳng ngay, ắt sẽ làm dập chân người khác. Ta kê lại cho ngay ngắn. Người ta khát bèn cho một chén nước, đều là những chuyện lợi lạc. Từ bậc khanh tướng cho đến người ăn mày đều có thể làm được. Chỉ là làm lâu ngày th́ sẽ có lợi ích đó thôi!”

          Dương Tuần làm Thôi Tư[73] xứ Quỳ Châu, tích lũy công đức, bắt chước ông Châu Tŕ hành mười điều lợi ích trong Thái Thượng Cảm Ứng Thiên. Một là thu nhặt những trẻ nhỏ bị bỏ rơi trên đường phố, cậy người chăm sóc. Chờ cho nó đến tuổi mười lăm, nếu nó muốn nhận lại [cha mẹ ruột], sẽ trao lại cho đoàn tụ với cha mẹ. Thứ hai, mỗi mùa Đông, bắt đầu từ ngày mồng Ba tháng Mười Một, sẽ thâu nhận người từ sáu mươi tuổi trở lên, trẻ nhỏ dưới mười lăm, và kẻ ăn mày, người nghèo hèn vào Dưỡng Tế Viện của chính ông. Mỗi ngày cho một thưng gạo, mười lăm đồng. Ba tháng sau sẽ để họ tự tiện t́m cách sống. Thứ ba, thí rộng răi những loại thuốc thang có hiệu nghiệm để giúp đỡ người bệnh khổ. Thứ tư, thí quan tài, châu cấp những gia đ́nh không có sức mai táng. Thứ năm, tớ gái trưởng thành, chẳng đ̣i tiền chuộc thân, mà ban cho quần áo, tư trang đúng mức, giúp nó lấy người thích đáng. Thứ sáu, chuyên nhất kiêng giết, cứu vớt, bảo vệ chúng sanh. Hễ gặp loài vật dù là phi cầm hay tẩu thú, lớn hay nhỏ, đều mua hay chuộc lấy để phóng sanh. Thứ bảy, mỗi khi gặp nạn mất mùa, lương thực đắt đỏ, thiếu thốn, ông bèn chẩn tế dân nghèo. Thứ tám, hễ thánh tượng trong chùa hoặc đạo quán bị tổn hoại, tróc lở, sẽ sửa chữa, tô điểm. Cầu, bến, đường sá, ng̣i, rạch chẳng thông, sẽ đều sửa chữa. Thứ chín, đối với hàng sĩ phu lưu lạc xa quê, bèn giúp tiền cho họ về quê. Thứ mười, làm quan bèn giúp người khác giăi bày nỗi oan uổng, luôn biết nghĩ tới người khác, giúp đỡ người gặp cảnh nguy khốn, đè nén kẻ cậy quyền hiếp đáp, giúp người yếu được sống yên. Về sau, con ông là Dương Xuân đỗ đầu thiên hạ (đỗ Trạng Nguyên). Phàm những kẻ chẳng biết [do trồng tỉa] sẽ có lợi ích được mùa vào tiết Thu, thấy người khác gieo hạt, bèn chê trách: “Sao lại lấy thứ để ăn đem vứt xuống bùn lầy?” Kẻ chẳng biết phước điền cũng giống như thế. Ngạn ngữ có câu: “Trồng tre được măng, gieo sen được ngó”. Phàm những ai cùng hàng với tôi, đă biết nghiệp rồi, hăy thận trọng, đừng tiếc sức gieo trồng [phước điền]!

          Đời Hậu Châu, ông Yên Sơn Đậu Vũ Quân, làm quan Gián Nghị thời Ngũ Đại[74], đă ba mươi tuổi mà chẳng có con. Mộng thấy ông nội bảo: “Ngươi không có con, lại chẳng thọ. Hăy nên sớm làm lành”. Vũ Quân vâng dạ. Ông Đậu làm người có phong thái của bậc trưởng giả. Trước kia, có đầy tớ ăn cắp hai trăm ngàn đồng, lo chuyện bị phát giác, do hắn có đứa con gái c̣n thơ ấu, bèn tự viết bằng khoán, buộc vào tay con gái, ghi rằng: “Bán đứa bé gái này vĩnh viễn cho nhà ông để đền tiền thiếu nợ”, rồi trốn xa. Ông Quân thương xót, đốt tờ bằng khoán ấy, dặn vợ hăy nuôi nấng cẩn thận. [Khi đứa con gái ấy] đến tuổi cài trâm, ông bèn dùng món tiền hai trăm ngàn [làm của hồi môn], chọn người đàng hoàng để gả. đầy tớ nghe chuyện, cảm động, khóc lóc, trở về đợi ông trị tội. Ông bỏ lửng, không hỏi tới. Lại vào hôm Nguyên Đán ở chùa Diên Khánh, ông nhặt được hai đĩnh vàng và mười lượng bạc, bèn cầm về. Hôm sau đến chùa, đợi người mất của để trả lại, người ấy bèn dùng [món tiền đó] để chuộc tội cho cha. Lại nữa, những người cùng họ hoặc thông gia hễ có tang mà chẳng thể làm đám ma được, ông bèn bỏ tiền an táng. Có đến hai mươi bảy [trường hợp như thế]. Có cô gái nào chẳng thể gả chồng, ông bèn bỏ tiền lo cưới gả, có đến hai mươi tám trường hợp như vậy. Những thân thích bằng hữu nghèo túng, cần tiền nhiều hay ít, ông đều cho vay để họ buôn bán. Nhờ ông mà mấy chục nhà được sống sót. Hiền sĩ bốn phương nhờ ông đề cử chẳng thể kể xiết!

          Ông lại c̣n ở phía Nam nhà ḿnh, lập thư viện rộng bốn mươi gian, chứa đến ngàn quyển sách, lễ thỉnh bậc nho sĩ có tài văn chương và đức hạnh đến làm thầy. Những kẻ mồ côi, nghèo túng nhưng có chí học hành từ bốn phương nghe chuyện ấy tự đến, được ông cấp lương thực và tiền chi dụng hậu hĩnh. V́ thế, những sĩ tử ấy văn chương, kiến thức ngày càng rộng răi. Mỗi năm, ông tính toán thu nhập, trừ món tiền dùng để cúng giỗ ra, [khoản c̣n lại] đều dùng giúp đỡ kẻ khác. Trong nhà hết sức tiết kiệm, giản dị, chẳng có đồ trang sức bằng vàng, ngọc. Vợ không chưng diện lụa là. Về sau, ông lại mộng thấy ông nội bảo: “Ngươi không có con, tuổi thọ lại ngắn ngủi. Do mấy năm tích lũy âm đức, đă được ghi danh nơi thiên tào. Thượng Đế đặc biệt tăng cho ngươi thọ thêm ba mươi sáu năm, có năm con trai quư hiển, phước thọ. Sau khi mất, c̣n được bổ làm Động Thiên Chân Nhân”. Lại nói: “Lư âm dương nói chung là chẳng khác! Thiện báo, ác báo, hoặc phát sanh trong đời này, hoặc báo ứng trong đời sau. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt. Chớ nên nghi ngờ!” Ông càng tích lũy âm công, năm con trai, tám cháu nội đều quư hiển[75]. Ông hưởng thọ tám mươi hai tuổi. Một tối, ông cùng với thân hữu cười nói rồi qua đời.

          Đời Tống, Ngụy công Hàn Kỳ[76], đỗ Tiến Sĩ từ lúc c̣n ít tuổi. Điều đáng nói nhất là ông có thể hiếu thảo với tổ tiên, cha mẹ, nuôi dưỡng các cháu giống hệt như con ruột của chính ḿnh. Ông châu cấp cơm áo cho một trăm người họ hàng. Hễ được [vua] ban thưởng, sẽ luôn chia sẻ cho thân tộc trước. Ông làm Tể Tướng của ba triều vua. Nếu là chuyện có lợi cho xă tắc, hễ biết đến, không ǵ chẳng làm! Dốc trọn ḷng trung dũng ḥng làm cho thiên hạ thái b́nh. Ông dạy con noi theo điều nghĩa, nghiêm ngặt, chẳng thể vi phạm! Ngôn ngữ và cách hành xử của ông đều tỏ lộ sự chí thành. Giúp đỡ người khác đang gặp cảnh cấp bách, nếu chẳng đủ sức, bèn quyên tặng quần áo, những món đồ dùng, vật ưa thích của chính ḿnh; lại c̣n gỡ trâm và bông tai của vợ đem cho. Con cháu của người quen biết nghèo túng, nương nhờ ông mà sống, thường có đến mấy chục gia đ́nh.

          Ông làm An Phủ Sứ tại Ích Châu, gặp năm đói to, bèn giảm tiền thuế, quyên mộ người khác (những kẻ giàu có) đóng góp gạo. Lại tuyển mộ những kẻ mạnh khỏe làm lính; một người đi lính, mấy người [trong nhà người ấy] được sống sót. Trong niên hiệu Minh Đạo (niên hiệu đời Tống Nhân Tông), do thấy có nạn đói, bèn khuyên dụ [những kẻ giàu có] đóng góp gạo thóc, chứa trong kho Thường B́nh, để phát cho những hộ nghèo đói nấu cháo. Dân nhờ đó sống sót qua nạn đói hơn một trăm chín mươi vạn người.

          Ông làm tri huyện ở Tinh Châu. Phong tục xứ Hà Đông là hỏa táng, ông bèn mua chỗ đất bỏ không để họ chôn vào đó. Khi ông làm tri phủ Đại Danh, bất luận chuyện lớn hay nhỏ, ông đều đích thân coi sóc. Tuy bị bệnh, ông vẫn phê duyệt công văn trên giường. Có người khuyên ông hăy giao cho thuộc hạ làm, ông nói: “Thưa kiện, hạ ngục là chuyện to lớn của người ta. Sanh, tử, được, mất sẽ được quyết định trong một lời, há chẳng nên thận trọng ư? Tôi thường sợ có chỗ chẳng sai sót, c̣n dám giao cho người khác ư?”

          Có người dâng hai cái chén ngọc, ông dùng một trăm lạng biếu lại. Mỗi lần mời khách ăn tiệc, đặc biệt bày ra một bàn, đặt cái chén lên đó, phủ gấm lên. Một hôm, đăi tiệc Tào Sứ[77], viên tiểu lại[78] vô ư đụng đổ bàn, chén vỡ nát, mọi người đều kinh ngạc. Ông thần sắc bất động, cười bảo khách: “Phàm mọi vật đều có thành, có hủy, đều có vận số”. Lại nh́n viên nha lại, bảo: “Ngươi vô ư, chẳng phải là cố t́nh, đừng kinh hăi”. Khách đều thán phục.

          Ông chưởng quản binh quyền tại Vũ Định, ban đêm viết thư, một tên lính hầu cầm đuốc soi bên cạnh. Tên lính ngẫu nhiên nh́n sang chỗ khác, để lửa cháy bén râu ông. Ông chỉ dùng tay áo phẩy râu, viết thư như cũ. Trong chốc lát, nh́n lại, đă đổi thành một người lính khác. Ông sợ người đứng đầu đám lính hầu sẽ đánh đ̣n [tên lính hầu ấy], bèn vội gọi đem tên lính ấy trở lại: “Đừng đổi! Gă ấy nay đă có thể cầm đuốc”. Mọi người nghe chuyện, không ai chẳng cảm phục. Ông chết già. Lúc mất, có một vẫn thạch lớn [giáng xuống], tiếng vang như sấm. Ông [được triều đ́nh đặt] thụy hiệu là Trung Hiến. Năm người con đều quư hiển, con cháu hưng thịnh khôn sánh!

          Đời Minh, cách phủ thành Thiệu Hưng ba mươi dặm về phía Bắc là biển cả, thường có thủy triều ồ ạt tràn vào, ngập hết ruộng lúa. Trong niên hiệu Gia Tĩnh, người xứ Miên Trúc đất Thục (Tứ Xuyên) là Thang Đốc Trai làm tri phủ [Thiệu Hưng]. Ông đă dốc hết tâm tư sức lực, đắp đê ngăn biển hơn trăm dặm, xây hai mươi tám cửa cống [xả lũ], cắt người đúng lúc đóng hay mở. Từ đấy, mỗi năm đều được mùa, muôn dân vĩnh viễn được nhờ. Về sau, ông được thiên chuyển sang trấn nhậm nơi khác. Dân chúng gào khóc rền trời, lập đền thờ ở Tam Giang, đến nay vẫn được cúng tế không dứt!

          Ông Tiêu là người xứ Đông Kinh, ba đời đều chẳng có đích tự (嫡嗣)[79], bèn làm thương nhân buôn bán khắp nơi. Ông đến yết kiến bậc cao nhân khắp chốn, hỏi về nhân quả ấy. Ông gặp một vị lăo tăng bảo: “Không con th́ có ba nguyên do. Một là tổ tiên chẳng có đức, bản thân vô hạnh. Hai là tuổi tác, vận mạng của vợ chồng sợ phạm phải cấm kỵ. Ba là chẳng giữ Tinh và Thần, thê thiếp máu lạnh”. Ông Tiêu đáp: “Đối với đức hạnh và vận mạng th́ đều có thể thọ tŕ, máu lạnh th́ có cách nào trị?” Vị tăng bảo: “Chẳng khó, nhưng trước hết phải tích lũy công đức, sau là điều dưỡng thân thể. Ba năm sau, ông tới núi Ngũ Đài, ta sẽ truyền cho một phương thuốc lạ”. Từ đấy trở đi, ông Tiêu luôn luôn hành phương tiện, làm các việc âm đức, thi ân bố đức suốt ba năm. Sau đấy, đến Ngũ Đài, t́m vị lăo tăng nhưng chẳng gặp, bỗng thấy một hành đồng (, sa-di), tay cầm một quyển sách, bảo: “Thầy tôi dặn tôi thưa lại với ông: Ông công thành hạnh măn, hăy về nhà ḥa thuốc [ghi trong quyển sách này], chí thành uống, ắt sẽ có con cháu phú quư thuận theo ḷng mong mà giáng sanh”. Về sau, quả nhiên ông sanh được Tiêu viên ngoại.

          Viên ngoại sanh đứa con lại chẳng ra ǵ, tự hận v́ sao lại tổn đức như thế này, cũng t́m đến Ngũ Đài, thấy hành đồng bảo: “Thầy dặn tôi chuyển lời, cần ǵ phải tới hỏi nữa. Chỉ hành đúng như cha ông đă làm th́ kẻ ngu sẽ thành hiền, kẻ nghèo sẽ tự giàu vậy!” Viên ngoại hỏi: “Kẻ nghèo được trở thành giàu là do mạng. C̣n kẻ ngu là do tánh vốn như thế, há có thể đâm ra trở thành người hiền được ư?” Hành đồng nói: “Xưa kia, năm đứa con của ông Đậu lúc mới sanh ra, thân thể đều chẳng vẹn toàn. Về sau, do ông ta thi ân bố đức, chúng đều được an lành, lại c̣n đều đỗ đạt hết, rành rành chẳng sai vậy”. Viên ngoại cảm tạ, trở về, tin tưởng, hành theo lời ấy. Hai mươi năm sau, đă có nhiều con nối ḍng, lại c̣n sang cả.

          Người thời nay đều biết năm đứa con ông Đậu nối tiếp nhau hiển vinh, nào có biết lúc mới sanh ra, chúng đều bị bệnh tật, tàn phế. Do [ông Đậu] thoạt đầu tích lũy [công đức] mà [năm người con] đều được an toàn; về sau, do công đức mà có những sự gặp gỡ [tốt lành]. Sự cảm thông giữa trời và người dễ dàng như thế đó. V́ thế, đặc biệt ghi tường tận chuyện này để làm bằng chứng cho chuyện tích lũy công đức. Nguyện những người có chí, hăy vững ḷng, đừng giải đăi!

          Trong thiên sách Tích Thiện, ông Viên Liễu Phàm đời Minh đă viết:

          - Kinh Dịch chép: “Nhà tích thiện, ắt mừng vui có thừa”. Xưa kia, họ Nhan gả con gái cho Thúc Lương Hột[80] là do xét thấy tổ tông ông ta tích đức sâu dầy, suy ra ắt biết con cháu ắt được hưng vượng. Khổng Tử ca ngợi ḷng đại hiếu của vua Thuấn như sau: “Tông miếu hưởng chi, tử tôn bảo chi” (Tổ tông được thờ phụng, con cháu giữ ǵn [phước báo])[81], đều là những lời luận định chí lư vậy.

          Thử dùng chuyện cũ để chứng minh. Thiếu Sư[82] Dương Vinh, người xứ Kiến Ninh, [tổ tiên] nhiều đời sống bằng nghề chèo đ̣. [Có lần] mưa lâu ngày, nước khe ng̣i dâng tràn, nước lũ cuồn cuộn thúc vỡ chỗ cư ngụ của dân chúng, những người chết đuối trôi theo gịng nước. Những thuyền khác lo vớt đồ vật, chỉ riêng ông cố và ông nội của Thiếu Sư lo cứu người, chẳng lấy một món đồ nào. Người làng chê cười là ngu đần. Đến khi sanh ra cha của Thiếu Sư, gia cảnh dần dần khá lên. Có vị thần hóa thành đạo nhân nói: “Tổ phụ của ngươi có âm đức, con cháu sẽ quư hiển. Hăy nên chôn ở cuộc đất nọ”. Bèn vâng theo lời dạy ấy mà chôn cất, tức là khu mộ Bạch Thố hiện thời. Về sau, sanh ra Thiếu Sư, hai mươi tuổi đỗ đạt, [quan chức] đạt tới địa vị Tam Công. Vua gia phong ông cố và ông nội chức quan giống như Dương Vinh vậy. Con cháu sang cả, hưng thịnh. Đến nay vẫn c̣n nhiều người hiền đức.

          Người xứ Ngân là Dương Tự Trừng, thoạt đầu làm nha lại ở huyện, có ḷng nhân hậu, vâng giữ pháp tắc công bằng. Huyện tể (quan huyện) thuở ấy nghiêm khắc, có lần đánh một tù nhân máu văng tung tóe trước [công đường], vẫn chưa nguôi cơn giận. Ông Dương bèn quỳ lạy, mềm mỏng khuyên giải. Quan huyện nói: “Hiềm rằng tên này vượt pháp, trái lư, chẳng khỏi khiến cho người khác không giận được”. Tự Trừng dập đầu thưa: “Bề trên chẳng vẹn đạo, ḷng dân rời ră đă lâu. Nếu thấu hiểu t́nh cảnh này, hăy nên xót thương, chẳng thể cảm thấy vui nổi. Vui c̣n chẳng nổi, huống là giận dữ ư?” Quan huyện dịu nét mặt. Nhà ông Dương rất nghèo, trọn chẳng nhận quà biếu, của đút lót. Hễ thấy tù nhân thiếu ăn, thường dùng nhiều cách giúp đỡ. Một lần, có mấy người tù mới chuyển tới, không có cái ăn, nhà lại thiếu gạo, ông bèn cho tù ăn, để người nhà nhịn đói. Ông thấy tù nhân đáng thương, bèn bàn bạc với vợ. Vợ hỏi: “Tù nhân từ đâu đến?” Đáp: “Từ Hàng Châu đến, đi đường đă phải chịu đói, xanh xao đáng thương”. Do vậy bèn bớt phần gạo của chính ḿnh để nấu cháo cho tù nhân ăn. Về sau, ông sanh hai con trai, con trưởng là Thủ Trần, con thứ là Thủ Chỉ làm Nam Bắc Lại Bộ Thị Lang. Cháu đích tôn làm H́nh Bộ Thị Lang, cháu nội kế làm Liêm Hiến ở Tứ Xuyên, họ đều là những vị quan nổi tiếng. Ông Sở Đ́nh Dương Đức Chánh hiện thời cũng là hậu duệ của họ.

          Xưa kia, trong niên hiệu Chánh Thống, Đặng Mậu Thất khởi xướng làm loạn tại Phước Kiến. Dân chúng theo gă giặc ấy rất đông, triều đ́nh sai Đô Hiến huyện Ngân là Trương Giai cầm quân nam chinh. Ông Trương dùng kế bắt giặc, sau đó giao cho Bố Chánh Ty Tạ Đô Sự bắt giết lũ giặc ở Đông lộ. Ông Tạ t́m kiếm sổ sách của bọn giặc ghi chép những người theo giặc. Đối với những người không theo giặc [mà bị ép buộc phải gia nhập, ông Tạ] ngầm bảo họ dùng vải trắng làm chiếc cờ nhỏ, ước định vào ngày quân binh kéo tới, sẽ cắm [lá cờ ấy] ở cổng, răn quân sĩ chẳng được giết chóc bừa băi. [Do vậy], giữ tṛn tánh mạng của một vạn người. Về sau, con của ông Tạ đỗ Trạng Nguyên, làm Tể Tướng. Cháu là Phi, lại đỗ Thám Hoa.

          Tổ tiên của họ Lâm ở Phủ Điền có một bà cụ già thích làm lành, thường làm bánh bao chỉ[83] thí cho người khác. Hễ xin, cụ cho ngay, chẳng lộ vẻ mỏi mệt. Một vị tiên hóa thành đạo sĩ, mỗi sáng đến xin sáu bảy viên bánh. Bà cụ hằng ngày đều cho. Suốt ba năm đều như một ngày. [Vị tiên ấy] biết ḷng thành của cụ, do vậy, bảo: “Ta ăn bánh bao chỉ của bà suốt ba năm, dùng ǵ để báo đáp bà? Sau nhà bà có một khu đất, [sau khi bà mất] hăy chôn vào đó, con cháu sẽ có quan tước nhiều như một thưng mè vậy”. Con bà vâng theo lời chỉ dạy mà chôn cất. Đời thứ nhất có chín người đỗ đạt, trải các đời trâm anh[84] rất đông. Đất Phước Kiến có lời đồn “nếu không có họ Lâm [thi đỗ], sẽ không yết bảng!”

          Cha của Thái Sử[85] Phùng Trác Am là tường sanh của huyện. Một ngày mùa Đông rét căm căm, ông dậy sớm đi học. Trên đường, gặp một người bị ngă nằm trong đống tuyết. Ông sờ thấy đă đông cứng một nửa rồi, bèn cởi áo bông của chính ḿnh để bọc lấy, lại c̣n ôm về nhà, cứu cho tỉnh lại. Ông mộng thấy thần bảo: “Ngươi cứu một mạng người, tỏ lộ ḷng chí thành, ta sai Hàn Kỳ làm con ngươi”. Đến khi sanh ra Trác Am, bèn đặt tên là Kỳ[86].

          Ứng Thượng Thư ở Thai Châu, thuở tráng niên học hành trong núi. Ban đêm, có quỷ tụ lại kêu gào, thường khiến cho mọi người kinh hăi. Ông chẳng sợ hăi. Một đêm, nghe quỷ nói: “Người đàn bà nọ do chồng bỏ sang đất khách đă lâu ngày không về, bố mẹ chồng ép gả cho người khác. Đêm mai, [cô ta] sẽ thắt cổ chết ở chỗ này, ta có người thế mạng rồi”. Ông ngầm bán ruộng, được bốn lượng bạc, liền giả vờ dùng tên chồng cô ta viết thư gởi bạc về nhà. Cha mẹ anh ta xem thư, thấy nét chữ không giống bèn nghi ngờ. Hồi lâu nói: “Thư có thể giả, bạc chẳng thể giả”, nghĩ con không có chuyện ǵ. [Do vậy], đứa con dâu chẳng bị gả đi. Về sau, người con trở về, vợ chồng chung sống êm ấm như thuở đầu. Ông lại nghe quỷ nói: “Ta sắp được người khác thay thế, hiềm rằng gă Tú Tài này làm hư chuyện của ta”. Một con quỷ ở bên cạnh nói: “Sao mày không giáng họa cho nó?” Đáp: “Do Thượng Đế thấy người này có ḷng tốt, hạ lệnh: ‘Anh ta v́ có âm đức, sẽ làm Thượng Thư’, tao làm sao dám gây họa?” Ông Ứng càng thêm nỗ lực, gắng sức, ngày càng thêm điều lành nhiều hơn, đức ngày càng thêm dầy. Gặp năm đói kém, bèn quyên tặng gạo để cứu giúp. Gặp thân thích có chuyện cấp bách, bèn t́m đủ mọi cách giúp đỡ. Hễ gặp chuyện ngang trái, bèn tự vấn, tự trách, vui vẻ thuận theo. Con cháu đỗ đạt, tới nay vẫn đông đảo!

          Ở Thường Thục, Từ Thức tên tự là Phượng Trúc, cha khá giàu có. Gặp năm đói kém, [cha của Từ Thức] là người trước hết đă đề xướng giảm tiền thu tô trong huyện, lại c̣n chia gạo để cứu giúp kẻ nghèo túng, thiếu hụt. Ban đêm, nghe quỷ hô to ngoài cửa: “Ngàn phần chẳng dối, muôn phần chẳng bịa, chàng Tú Tài nhà họ Từ sẽ đỗ Cử Nhân”, hô liên tục suốt đêm chẳng ngừng. Năm ấy, quả nhiên Phượng Trúc đỗ Cử Nhân trong khoa thi Hương. Do vậy, cha ông ta càng thêm tích đức, cần mẫn chẳng biếng nhác, tạo cầu, sửa đường, trai tăng, tiếp dẫn người khác. Hễ là chuyện có lợi ích, không ǵ chẳng tận tâm. Về sau, lại nghe quỷ hô to ngoài cửa: “Ngàn phần chẳng dối, muôn phần chẳng bịa, chàng Cử Nhân nhà họ Từ sẽ làm đến chức Đô Đường”[87]. Rốt cuộc, Phượng Trúc làm quan tới chức Lưỡng Chiết Tuần Phủ.

          Đồ Khang Hy Công[88] ở Gia Hưng, thoạt đầu làm Chủ Sự ở bộ H́nh, ngủ đêm trong ngục để thăm ḍ cặn kẽ t́nh huống của tù nhân, t́m ra bao nhiêu người vô tội. Ông chẳng tự cho đó là công lao, ngầm ghi chép chuyện ấy để bẩm lên đường quan[89]. Sau đó, khi triều thẩm[90], đường quan thường trích dẫn lời ông Đồ để bênh vực các tù nhân, không ai chẳng phục. Ông đă gỡ oan cho mười mấy người. Nhất thời, tại kinh thành, [dân chúng] đều ca tụng Thượng Thư [bộ H́nh] sáng suốt. Ông lại bẩm báo: “Tại kinh thành mà hăy c̣n nhiều dân oan, trong bốn biển rộng khắp, dân đông cả triệu, há chẳng có người oan uổng ư? Hăy nên cứ năm năm sai một vị giảm h́nh quan (vị quan đặc trách tái thẩm các bản án) xem xét kỹ càng sự thật để sửa sai. Thượng Thư tâu lên, triều đ́nh chấp thuận kiến nghị ấy. Lúc đó, ông cũng được cử làm một trong những vị giảm h́nh quan. Ông mộng thấy một vị thần bảo: “Mạng ông không có con, nay do đề nghị giảm thiểu h́nh phạt, rất hợp ḷng trời, Thượng Đế ban cho ông ba đứa con, đều là áo tía, eo vàng[91]. Đêm hôm ấy, vợ ông có mang, về sau sanh ra Ứng Huân, Ứng Khôn, và Ứng Tuấn, đều làm quan to.

          Bao Bằng ở Gia Hưng, tên tự là Tín Chi. Cha làm Thái Thú xứ Tŕ Dương, sanh ra bảy con trai. Ông Bằng là con út, ở rể nhà họ Viên tại B́nh Hồ, giao du rất thân với cha tôi. Ông Bằng học rộng, tài cao, thi nhiều lần chẳng đậu, lưu tâm học tập Phật giáo lẫn Đạo giáo. Một hôm, sang phía Đông, đến chơi Măo Hồ, ngẫu nhiên đến một ngôi chùa trong thôn, thấy tượng Quán Âm bị dầm mưa dăi nắng. Ông liền dốc túi, t́m được mười lạng trao cho vị Tăng trụ tŕ, bảo sửa chữa điện thờ. Vị Tăng nói công tŕnh xây dựng to tát mà tiền th́ ít, chẳng thể hoàn thành được. Ông lại lấy bốn xấp vải Tùng Giang, kiểm trong tráp thấy có bảy tấm áo đều trao cho. [Những tấm áo ấy] đều là áo kép bên trong lót vải lanh, toàn là mới sắm. Người đầy tớ can ngăn, ông Bằng nói: “Chỉ cần thánh tượng không bị sao, dẫu ta lơa lồ có sao đâu?” Vị Tăng rơi nước mắt, nói: “Xả tiền, y phục và vải, vẫn chưa phải là chuyện khó, chỉ với tấm ḷng này, há dễ có ư?” Về sau, công tŕnh hoàn thành, ông kéo cha tôi đến đó chơi. Đêm ngủ lại chùa, ông mộng thấy thần Già Lam đến cảm tạ: “Con ông sẽ hưởng lộc trong đời”. Về sau, con ông là Biện, cháu là Sanh Phương đều đỗ đạt, làm quan to.

          Cha ông Chi Lập ở Gia Thiện làm nha lại tại h́nh pḥng[92]. Có người tù vô tội bị phán tử h́nh, ông thương xót muốn cứu sống người ấy. Người tù bảo vợ: “Ư tốt lành của ông Chi, thẹn không có ǵ để đền đáp. Ngày mai, nàng hăy mời ông ta xuống làng, dùng thân báo đáp. Nếu ông ta chịu dốc sức, ta cũng có thể sống sót”. Người vợ khóc, nghe theo lời dặn. Ông Chi đến, người vợ tự ra mời rượu, thưa rơ ư chồng. Ông Chi không nghe, rốt cuộc tận lực xóa án. Người tù ra khỏi ngục, vợ chồng đến thăm ông, lạy tạ thưa: “Ngài có đức dầy như thế, rất hiếm có trong đời mạt này. Nay Ngài không có con trai, tôi có một đứa con gái nhỏ, tặng cho Ngài làm thiếp để lo việc quét dọn”. Chuyện này xét theo lễ có thể chấp nhận được, ông Chi bèn sắm sửa đủ lễ cưới thiếp, sanh ra Chi Lập. Hai mươi tuổi, Chi Lập đỗ Trạng Nguyên, làm quan tới chức Hàn Lâm Khổng Mục[93]. Chi Lập sanh ra Chi Cao, Chi Cao sanh ra Chi Lộc, đều là bậc học rộng. Chi Lộc sanh ra Đại Luân cũng đỗ đạt.

          Trong mười điều trên, [những người ấy] tuy làm những việc khác nhau, nhưng đều quy vào điều thiện mà thôi! Nếu nói cặn kẽ hơn, ắt thiện có chân và giả, có đoan chánh, có cong quẹo, có âm và dương (ngấm ngầm và công khai), có đúng và sai, có thiên lệch hay chánh đáng, có chưa trọn vẹn và trọn vẹn, có lớn và nhỏ, có khó và dễ, đều đáng nên biện định sâu xa. Làm lành mà chẳng cùng tận lư, tuy tự nói là hành tŕ, nào có biết là tạo nghiệp, sẽ phí công khổ tâm mà vô ích!

          Chân và giả là ǵ? Xưa kia có mấy nho sĩ yết kiến ḥa thượng Trung Phong (tức quốc sư Phổ Ứng núi Thiên Mục đời Nguyên), thưa hỏi: “Nhà Phật luận định báo ứng thiện ác như bóng theo h́nh. Nay có người nọ là thiện nhân, nhưng con cháu chẳng khá, kẻ nọ là người ác, thế mà gia môn hưng thịnh. [Dường như là] thuyết của nhà Phật không có căn cứ vậy”. Ngài Trung Phong dạy: “Phàm t́nh chưa gột sạch, chánh nhăn chưa mở, ngỡ thiện là ác, đó là chuyện thường có, chẳng hối tiếc chính ḿnh thị phi điên đảo, cứ ngược ngạo oán trời báo ứng phân biệt ư?” Mọi người thưa: “V́ sao thiện hay ác sẽ dẫn đến báo ứng khác biệt?” Ngài Trung Phong bảo họ nêu ra những trường hợp để thử phán đoán. Một người nói “chửi người, rủa người là ác; kính trọng, lễ độ đối với người khác là thiện”. Ngài Trung Phong nói: “Chưa chắc đă là như vậy!” Một người khác nói: “Tham tài lấy xằng là ác, liêm khiết tuân thủ quy củ là thiện”. Ngài Trung Phong nói: “Chưa chắc đă là như vậy!” Ai nấy đều nêu ra sự phán đoán, ngài Trung Phong đều bảo là “chưa phải là như vậy”. Mọi người thưa hỏi, ngài Trung Phong bảo:

          - Có ích cho người khác là thiện, có ích cho chính ḿnh là ác. Hễ có ích cho người ta th́ đánh người, rủa người, cũng đều là thiện. Có ích cho chính ḿnh th́ kính trọng, lễ độ với người khác cũng đều là ác. V́ thế, người làm lành, hễ có lợi cho người khác th́ là công, công th́ là thật. Lợi lộc cho riêng ḿnh th́ là tư, tư th́ là giả. Lại nữa, [chuyện làm lành] có căn cội từ cái tâm th́ là chân, [nếu chỉ là] biểu hiện bề ngoài th́ là giả. Lại nữa, vô vi mà làm th́ là chân, hữu vi mà làm th́ là giả. Hăy đều nên tự suy xét!

          Đoan chánh và cong quẹo là ǵ? Người hiện thời thấy kẻ thật thà, ba phải, bèn cho là thiện để chọn lấy; thánh nhân thà chọn những kẻ có chí nguyện mạnh mẽ, phẩm chất thanh liêm, đều coi họ là thiện để chọn lấy. C̣n như kẻ thật thà, ba phải, tuy cả làng đều nói người ấy là tốt, nhưng [trong cái nh́n của thánh nhân], ắt là kẻ giặc đối với đạo đức[94]. Đấy là điều thiện lẽ ác của người đời rơ ràng là tương phản với thánh nhân. Từ chuyện này mà suy ra, các thứ lấy hay bỏ [của người đời], chẳng có ǵ không sai lầm! Trời, đất, quỷ thần ban phước cho người lành, giáng họa cho kẻ dâm dật, đều do xét đoán lẽ đúng sai giống như [quan niệm của] thánh nhân vậy, chẳng giống như sự lấy bỏ của thế tục. Hễ muốn tích chứa điều lành, quyết chẳng thể thuận theo tai mắt (chẳng thể thuận theo sự thấy biết b́nh phàm), chỉ nên thuận theo chỗ ẩn kín, vi tế trong nguồn tâm (tức là xét theo khởi tâm động niệm), lặng lẽ gột rửa, sao cho [khởi tâm động niệm] thuần là cái tâm giúp đời, đó là đoan chánh. Nếu tâm có mảy may dối đời, tức là cong quẹo. Thuần là cái tâm yêu thương con người th́ là đoan chánh. Hễ tâm có mảy hận đời sẽ là cong quẹo. Thuần là cái tâm kính trọng người khác th́ sẽ là đoan chánh, hễ cái tâm có mảy may ngạo đời, sẽ là cong quẹo. Hăy đều nên biện định tỉ mỉ.

          Âm dương là ǵ? Phàm làm lành mà người khác biết th́ là “dương thiện” (điều lành công khai). Làm lành mà chẳng ai biết, tức là âm đức. Âm đức sẽ được trời báo đáp, dương thiện sẽ được nổi danh trong cơi đời. Danh tiếng cũng là phước. Danh là điều tạo vật chẳng ưa. Được nổi tiếng trong cơi đời mà thực chất chẳng tương ứng, sẽ bị nhiều tai họa lạ lùng! Con người chẳng thể nào không có lầm lỗi. Kẻ bị gán cho tiếng ác mà con cháu thường đột nhiên hưng thịnh là [cái quả của điều thiện] xét theo lẽ âm dương vậy, nhỏ nhiệm thay!

          Đúng sai là ǵ? Pháp luật nước Lỗ quy định người nước Lỗ nếu có thể chuộc kẻ làm nô tỳ từ các chư hầu, sẽ được chánh quyền trả tiền[95]. Tử Cống chuộc người, nhưng chẳng nhận tiền. Khổng Tử nghe chuyện, chê trách: “Tứ[96] đă sai mất rồi”. Thánh nhân hành xử có thể thay đổi phong tục, nhưng lời dạy bảo của các Ngài có thể áp dụng cho dân chúng, chẳng phải chỉ riêng thích hợp cho một ḿnh ta làm. Nay nước Lỗ người giàu th́ ít, kẻ nghèo th́ đông. [Nếu chê] người nhận tiền thưởng là chẳng liêm khiết, sẽ dựa vào đâu để có thể chuộc người? Từ nay trở đi, chẳng c̣n có ai chuộc người từ các chư hầu nữa! Tử Lộ cứu người chết đuối, người ấy tạ ơn bằng một con trâu, Tử Lộ nhận lấy. Khổng Tử vui mừng bảo: “Từ nay nước Lỗ sẽ có nhiều kẻ cứu người chết đuối”. Trong cái nh́n của thế tục, Tử Cống chẳng nhận tiền là cao thượng, Tử Lộ nhận trâu là kém cỏi. Khổng Tử tán đồng cách làm của ông Do[97] mà chê trách ông Tứ.

          Do vậy biết: Người ta làm lành, chớ luận theo hiện hành, mà phải luận định xem việc ấy có gây nên thói tệ hay không? Đừng luận định theo một thời, phải luận định lâu xa. Đừng luận theo một thân, mà phải luận theo thiên hạ. Hiện hành tuy là lành, nhưng gây nên những hệ lụy đủ để hại người th́ chuyện ấy giống như thiện mà thật sự chẳng phải là thiện. Hiện hành tuy bất thiện, nhưng hậu quả hữu ích cho mọi người th́ sẽ là chẳng phải thiện mà thật sự là thiện. Tôi chỉ luận định một điều này mà thôi, đối với điều nghĩa mà chẳng phải là nghĩa, lễ mà chẳng phải là lễ, tín mà chẳng phải là tín, ḷng từ mà chẳng phải là từ, hăy đều nên quyết định rơ ràng để quyết định chọn lựa.

          Thiên lệch và chánh trực là ǵ? Xưa kia, Lữ Văn Ư Công[98], lúc mới xin nghỉ làm Tể Tướng, trở về quê nhà, cả nước ngưỡng mộ như Thái Sơn, Bắc Đẩu. Có một gă người làng say rượu chửi bới ông, ông Lữ bất động, bảo đầy tớ: “Chớ nên so đo với kẻ say!” Đóng cửa tạ tuyệt. Hơn một năm, kẻ ấy phạm tội tử h́nh bị giam. Ông Lữ mới hối hận nói: “Nếu khi ấy, ta so đo đôi chút, giao hắn cho quan lại trách phạt, sẽ có thể là do bị phạt nhẹ mà hắn sẽ hết sức kiêng dè. Khi ấy, ta chỉ muốn giữ ḷng trung hậu, không ngờ dưỡng thành chuyện ác đến nông nỗi như thế này!” Đấy là dùng thiện tâm mà làm chuyện ác vậy.

          Lại có khi do ác tâm mà làm thiện sự. Như ông X… giàu to, gặp năm đói kém, dân nghèo cướp gạo ở chợ giữa ban ngày. Thưa lên huyện, huyện mặc kệ, dân nghèo càng làm càn. Ông ta bèn tự bắt giữ, làm khó họ, mọi người mới yên. Nếu không, sẽ gần như là loạn lạc. V́ thế, thiện th́ là chánh đáng, ác th́ là thiên lệch, mọi người đều biết. Kẻ do thiện tâm mà làm chuyện ác th́ là thiên lệch trong chánh đáng. Kẻ do ác tâm mà làm thiện sự th́ là chánh đáng trong thiên lệch vậy. Chớ nên không biết!

          Chẳng trọn vẹn và trọn vẹn là ǵ? Kinh Dịch nói: “Thiện bất tích, bất túc dĩ thành danh. Ác bất tích, bất túc dĩ diệt thân” (Thiện chẳng chất chứa, chẳng đủ để thành danh. Ác chẳng chất chứa, chẳng đủ để diệt thân). Kinh Thư nói: “Thương tội quán doanh, như trữ vật ư khí, cần nhi tích chi tắc măn. Giải nhi bất tích tắc bất măn” (Tội của nhà Thương (vua Trụ) đầy ắp, giống như chứa vật trong đồ đựng, siêng năng tích lũy sẽ đầy. Lười nhác chẳng tích lũy, sẽ không đầy). Đấy là một thuyết vậy.

          Xưa có cô gái nọ vào chùa, muốn cúng thí mà chẳng có tiền, chỉ có hai đồng, bèn quyên cúng. Vị sư Trụ Tŕ đích thân v́ cô ta sám hối. Về sau, cô ta vào cung, trở thành phú quư, đem mấy ngàn lạng cúng vào chùa. Vị tăng Trụ Tŕ chỉ sai đồ đệ hồi hướng cho cô ta; do vậy, [cô ta] bèn hỏi: “Xưa kia, tôi cúng hai đồng tiền, thầy v́ tôi đích thân sám hối. Nay thí đến mấy ngàn lạng, sao thầy chẳng hồi hướng là v́ lẽ nào?” Sư đáp: “Lần trước, vật tuy đơn bạc, nhưng cái tâm bố thí rất chân thành, nếu lăo tăng chẳng đích thân sám hối, sẽ chẳng đủ báo đức. Nay vật tuy hậu hĩnh, cái tâm bố thí chẳng thiết tha bằng khi trước, kẻ khác thay tôi sám hối là đủ rồi”. Ngàn lạng là chẳng trọn vẹn, mà hai đồng là viên măn vậy.

          Chung Ly truyền dạy cách luyện đan cho Lữ Tổ (Chung Ly Quyền và Lữ Động Tân đều là người đời Đường), điểm sắt thành vàng, có thể cứu đời. Họ Lữ hỏi: “Có thể biến [thành vàng] vĩnh viễn ư?” Đáp: “Sau năm trăm năm, vàng sẽ trở lại bản chất”. Ông Lữ nói: “Như thế th́ sẽ làm hại người năm trăm năm sau, con chẳng muốn làm”. Ông Chung đáp: “Tu tiên phải tích lũy ba ngàn công hạnh. Do một lời này của ngươi, ba ngàn công hạnh đă măn!” Đấy là một chuyện nữa. Ví như dùng tài vật để giúp người khác, trong chẳng thấy ḿnh, ngoài chẳng thấy người, trung gian chẳng thấy vật được thí, đó gọi là “tam luân thể không”, là “nhất tâm thanh tịnh”. [Như thế th́] một đấu gạo đủ để gieo phước không bờ bến, một đồng có thể tiêu tội ngàn kiếp. Nếu cái tâm [chấp trước bố thí] ấy chẳng quên, dẫu vàng ṛng vạn dật[99], phước chẳng viên măn! Đấy là một điều nữa.

          Lớn nhỏ là ǵ? Đời Tống, Vệ Trọng Đạt giữ quán chức[100], bị bắt tới âm ty. Vị chủ quản (Diêm Vương) sai nha lại tŕnh lên hai loại sổ ghi thiện và ác. Khi đem tới, sổ ghi điều ác chật sân, sổ ghi điều thiện [chỉ nhỏ bé] như chiếc đũa. Sai đem cân, hóa ra những sổ chứa đầy sân lại nhẹ hơn, mà quyển sổ như chiếc đũa đâm ra nặng hơn. Trọng Đạt hỏi: “Tôi chưa đến bốn mươi, lẽ nào lỗi ác nhiều ngần ấy?” Đáp: “Một niệm bất chánh chính là ác, chẳng đợi phạm lỗi!” Do vậy, [Vệ Trọng Đạt] bèn hỏi trong quyển trục ấy chép chuyện ǵ. Đáp: “Triều đ́nh từng đề ra một công tŕnh xây dựng lớn là sửa chữa ba chiếc cầu đá trong núi. Ông đă dâng sớ can gián, chuyện này đă được ghi lại”. Trọng Đạt thưa: “Tôi tuy nói, triều đ́nh chẳng nghe theo, chẳng có lợi ích ǵ cho chuyện ấy, làm sao có thể tạo ra sức mạnh như vậy?” Đáp: “Tuy triều đ́nh chẳng nghe theo, nhưng ông trong một niệm đă nghĩ tới muôn dân. Giả sử họ nghe theo, thiện lực càng lớn hơn nữa”. V́ thế, có chí v́ thiên hạ, nước nhà, ắt điều thiện tuy ít mà to tát. Nếu chỉ v́ một thân, dẫu nhiều vẫn là ít.

          Khó dễ là ǵ? Bậc tiên nho bảo: “Khắc kỷ, tu tùng nan khắc xứ khắc tương khứ” (Khắc chế những điều sai trái của chính ḿnh, phải thực hiện từ chỗ khó khắc chế). Phu Tử luận định chuyện thực hiện ḷng nhân, cũng bảo phải làm chuyện khó trước. Ắt như ông Thư ở Giang Tây, bỏ ra toàn bộ món tiền lương ít ỏi do ông dạy học suốt hai năm để đền tiền công khố thất thoát giùm người khác, khiến cho vợ chồng họ được toàn vẹn. Cũng như ông Trương ở Hàm Đan bỏ ra món tiền đă nhọc nhằn chắt chiu suốt mười năm để làm tiền chuộc thân cho người khác ḥng cứu sống vợ người ta. Đấy đều gọi là “có thể bỏ ở chỗ khó bỏ”. Như ông Cận ở Trấn Giang, tuy tuổi già, không con, chẳng nỡ ḷng lấy cô gái trẻ làm thiếp, giao trả lại cho hàng xóm[101]. Đấy là đối với chỗ khó nhẫn mà có thể chịu đựng. V́ thế, trời giáng phước đặc biệt dầy. Phàm là kẻ có tiền tài, có thế lực, lập đức đều dễ. Dễ mà chẳng làm, tức là đă tự ruồng rẫy chính ḿnh! Nghèo hèn th́ làm phước luôn khó khăn, khó mà có thể làm, đấy là điều đáng quư! Tùy duyên giúp đỡ người khác, thể loại hết sức nhiều. Nói đại cương, đại lược th́ có mười loại:

          Thứ nhất là v́ người khác mà làm lành. Thứ hai là giữ ḷng kính yêu. Thứ ba là giúp cho người khác thành tựu. Thứ tư là khuyên kẻ khác làm lành. Thứ năm là giúp người khác trong cơn nguy cấp. Thứ sáu là hưng kiến đại lợi. Thứ bảy là bỏ tiền của làm phước. Thứ tám là hộ tŕ chánh pháp. Thứ chín là kính trọng tôn trưởng. Thứ mười là yêu tiếc sanh mạng của chúng sanh.

          1) Thế nào “v́ người khác làm lành”? Xưa kia, vua Thuấn ở Hà Tân, thấy người đánh cá giành nhau chỗ đầm sâu, hồ sâu, c̣n người già yếu th́ đánh cá ở chỗ nước chảy xiết, băi cạn. Vua xót thương, bèn đi đánh cá. Thấy kẻ nào tranh giành bèn nín lặng chẳng nói. Thấy người nhường nhịn bèn ca ngợi, bắt chước theo. Sau một năm, [mọi người] đều nhường chỗ hồ đầm sâu. Ôi! Vua Thuấn là bậc minh triết, há chẳng thể thốt ra một lời giáo huấn mọi người ư? Nhưng vua chẳng dùng ngôn giáo, mà dùng bản thân để chuyển biến họ. Đấy là dụng tâm khổ s để làm chuyện tốt lành vậy! Bọn chúng ta sống trong đời Mạt, chớ dùng sở trường của ḿnh để lấn lướt người khác, chớ v́ ḿnh có điều thiện mà phô trương bản thân, chớ v́ ḿnh lắm tài mà làm khó dễ người khác. Hăy thâu liễm tài trí dường như chẳng có, dường như rỗng tuếch. Thấy lỗi lầm của người khác, hăy bao dung, che giấu. Một là khiến cho người ấy có thể sửa đổi, đằng khác là khiến cho kẻ ấy do có điều cố kỵ, sẽ chẳng dám cẩu thả. Thấy người khác có chút ưu điểm đáng tuân thủ, hoặc có điều thiện nhỏ đáng ghi chép, bèn lập tức xả ḿnh để làm theo, lại c̣n nồng nhiệt ca ngợi, kể nói rộng răi. Phàm là trong thường nhật, thốt một lời, làm một chuyện, hoàn toàn chẳng v́ chính ḿnh mà dấy niệm, toàn là v́ nêu gương cho chúng sanh. Đấy chính là độ lượng của bậc đại nhân chuyên v́ thiên hạ.

          2) Thế nào là “giữ ḷng yêu kính”? Đối với bậc quân tử và kẻ tiểu nhân, nếu nh́n từ hành vi, sẽ thường dễ bị lẫn lộn, chỉ có một điểm duy nhất để phân định là cái tâm, ắt thiện và ác sẽ khác biệt vời vợi, rành rành như trắng tương phản với đen! V́ thế nói: “Quân tử sở dĩ khác với phàm nhân là do tấm ḷng mà thôi!” Quân tử chỉ giữ tấm ḷng yêu kính người khác. Ấy là v́ con người có thân, sơ, sang, hèn, có trí, ngu, hiền, bất tiếu (, không ra ǵ), muôn phẩm khác nhau, nhưng đều là đồng bào của ta, đều có cùng một Thể với ta, có ai mà chẳng đáng nên kính yêu? Yêu kính mọi người, tức là yêu kính thánh hiền. Có thể cảm thông chí hướng của mọi người, tức là có thể cảm thông chí hướng của thánh hiền. V́ sao? Chí thánh hiền vốn mong cho cơi đời này và người đời này ai nấy đều được sống yên vui. Ta hăy nên yêu, hăy nên kính, khiến cho mọi người trong một đời được b́nh an, đấy chính là giống như thánh hiền đă khiến cho họ sống an vui vậy.

          3) Thế nào là “giúp cho người khác thành tựu”? Ngọc ẩn trong đá, hễ quăng ném bèn là ngói, sỏi; nếu được tạc, mài sẽ thành ngọc khuê, ngọc chương! V́ thế, hễ thấy người khác làm một việc lành, hoặc người khác có chí hướng đáng tán đồng, hăy nên giúp họ tăng tấn, đều nên khuyên nhủ, giúp sức cho thành tựu, hoặc là cổ vũ, giúp đỡ, hoặc ủng hộ họ, hoặc hóa giải những lời lẽ vu cáo họ, hoặc làm tan những lời phỉ báng, cốt sao họ được thành tựu mới thôi! Nói chung, ai nấy đều ghét những kẻ chẳng giống ḿnh. Kẻ trong làng người lành th́ ít, kẻ bất thiện đông đảo. Thiện nhân sống trong cơi tục, cũng khó tự lập. Hơn nữa, bậc hào kiệt kiên cường đều chẳng thể hiện nơi h́nh tích cho mấy, [do vậy], phần nhiều bị chỉ trích. V́ lẽ đó, thiện sự thường dễ bị thất bại, thiện nhân thường bị hủy báng. Chỉ có bậc trưởng giả là người có ḷng nhân, sẽ thẳng thắn khuông pḥ, giúp đỡ. Công đức ấy rộng nhất.

          4) Thế nào là “khuyên người khác làm lành”? Đă sanh làm người, có ai không có lương tâm? Đường đời gập ghềnh, dễ bị ch́m đắm nhất. Hễ cư xử với người khác, hăy nên phương tiện nhắc nhở, phá trừ sự mê hoặc của họ. Ví như đêm dài mộng sâu, hăy đánh thức họ. Ví như bị hăm trong phiền năo đă lâu, bèn dẹp tan cho họ được thanh lương, đó là ban ân huệ to lớn nhất. Hàn Dũ nói: “Khuyên người khác trong một thời th́ dùng miệng, khuyên người trăm đời th́ dùng sách”. So với chuyện v́ người khác mà làm lành, tuy có h́nh tích, nhưng là đối ứng với căn bệnh mà cho thuốc, luôn có hiệu quả lạ lùng, chớ nên phế bỏ. [Nếu khuyên bảo người khác làm lành] mà khiến người ta bực bội, hoặc nói lỡ lời, hăy nên xét lại trí huệ của ḿnh.

          5) Thế nào là “cứu người trong cơn nguy cấp”? Ai cũng gặp phải lúc hoạn nạn, thắt ngặt. Hễ có lúc gặp phải [người lâm vào cảnh ngộ ấy], hăy nên như thân chính ḿnh bị ung nhọt mà nhanh chóng giải cứu. Hoặc do một lời để phơi bày nỗi oan khuất, niềm uất ức của người ấy, hoặc dùng nhiều cách để cứu vớt họ khỏi cảnh khốn đốn, bất an. Thôi Tử nói: “Huệ bất tại đại, phó nhân chi cấp khả dă” (Ân huệ chẳng cần phải to lớn, giúp người trong cơn nguy cấp là được rồi), đấy là lời lẽ của người có ḷng nhân vậy thay!

          6) Thế nào là “hưng kiến đại lợi”? Nhỏ th́ trong ṿng một làng; lớn th́ là trong một huyện. Hễ có lợi ích, đáng nên khởi sự thực hiện nhất. Phàm có lợi ích, hoặc là khơi ng̣i dẫn nước, hoặc đắp đê ngăn ngừa họa hoạn, hoặc sửa cầu đường cho người đi đường xa thuận tiện, hoặc thí trà, thí cơm để giúp đỡ kẻ đói khát. Tùy duyên khuyên nhủ, hướng dẫn, góp sức thực hiện, chớ nề hà hiềm nghi, chớ ngại nhọc nhằn, oán thán.

          7) Thế nào “bỏ tiền tài để làm phước”? Muôn hạnh trong cửa Thích lấy bố thí làm đầu. Nói “bố thí” chỉ là một chữ Xả mà thôi. Bậc thông đạt trong là bỏ lục căn, ngoài bỏ sáu trần. Hết thảy sở hữu, không ǵ chẳng xả! Nếu chưa thể như vậy, trước hết, hăy bố thí nơi tài vật. Người đời coi áo cơm là tánh mạng; v́ thế, tài được coi trọng nhất. Do đó, bọn ta xả tài, trong là phá ḷng keo kiết của ta, ngoài là để giúp người khác trong cơn túng ngặt. Thoạt đầu th́ miễn cưỡng, rốt cuộc sẽ là vui vẻ. Cách này có thể gột sạch t́nh chấp riêng tư, loại trừ sự chấp trước, keo tham dễ nhất.

          8) Thế nào là “hộ tŕ chánh pháp”? Pháp chính là con mắt của sanh linh trong muôn đời. Chẳng có chánh pháp, sẽ dùng cái ǵ để tham dự, giúp đỡ quyền sanh thành dưỡng dục của trời đất? Dùng ǵ để vun bồi, thành tựu muôn vật? Dùng ǵ để thoát khỏi trần lao, ĺa trói buộc? Dùng ǵ để nhập thế, xuất thế? V́ thế, hễ thấy miếu mạo của thánh hiền, kinh thư, sách vở, đều nên kính trọng tu bổ. C̣n như tuyên dương chánh pháp, trên là báo ân Phật, càng phải nên gắng sức.

          9) Thế nào “kính trọng bậc tôn trưởng”? Cha anh trong gia đ́nh, quân vương, trưởng quan trong quốc gia. Đối với những người tuổi cao, đức cả, địa vị cao, chức quyền cao, đều nên đặc biệt chú ư hầu hạ. Ở nhà th́ phụng dưỡng cha mẹ, cốt sao đối xử với cha mẹ bằng ḷng yêu thương sâu xa, vẻ mặt mềm mỏng, ăn nói ôn ḥa, nhẹ nhàng, tập quen thành tánh. Đó là cội rễ của sự ḥa khí cảm thông cơi trời. Ra ngoài bèn thờ vua, hễ làm chuyện ǵ, đừng bảo là “vua không biết” để rồi mặc sức làm càn. Xử phạt một kẻ nào đó, đừng bảo “vua chẳng thấy” để rồi ra oai! Thờ vua như thờ trời, đó chính là lời luận định chí lư của cổ nhân. Những chỗ này liên quan đến âm đức nhiều nhất. Hăy thử xem nhà trung hiếu, chẳng có ai không có con cháu hưng thịnh liên tục lâu dài, hăy nên hết sức thận trọng!

          10) Thế nào là “yêu tiếc sanh mạng của chúng sanh”? Con người sở dĩ là người, chỉ là v́ có ḷng trắc ẩn đó thôi. Người mong cầu ḷng nhân bèn mong cầu ở chỗ này. Người tích đức bèn tích đức ở chỗ này! Theo Châu Lễ, “Mạnh Xuân chi nguyệt, hy sanh bất dụng tẫn” (Tháng đầu Xuân giết sanh vật [để tế lễ], chẳng dùng những con vật cái). Mạnh Tử bảo: “Quân tử viễn bào trù” (Bậc quân tử xa lánh bếp núc). Nguyên do toàn là v́ ḷng trắc ẩn của ta. V́ thế, người đời trước có lời răn “chẳng ăn bốn thứ”, tức là nghe giết [con vật ấy] bèn không ăn [thịt của nó], thấy nó bị giết bèn không ăn, tự ḿnh nuôi sẽ không ăn, chuyên v́ ta mà giết bèn không ăn. Người học chưa thể thôi ăn thịt, hăy nên kiêng tránh từ những điều này, tăng tấn dần dần. Từ tâm càng tăng trưởng, sẽ không chỉ kiêng sát sanh. Các loài hàm linh ngọ ngoạy đều là những sanh vật có mạng sống. Do muốn có tơ mà luộc kén, cuốc đất giết trùng. Nghĩ đến nguồn cội của áo cơm đều là do giết chúng sanh để mong chính ḿnh được sống! V́ thế, tội nghiệt phung phí phá hoại [tài vật] sẽ giống như sát sanh. C̣n như [những chúng sanh] do tay ta vô t́nh làm tổn thương, chân vô ư giẫm đạp, chẳng biết là bao nhiêu! Hăy đều nên khéo léo ngăn ngừa. Cổ thi có câu: “Ái thử thường lưu phạn, liên nga bất điểm đăng” (Do thương chuột mà thường chừa cơm, do thương thiêu thân nên chẳng thắp đèn), nhân ái thay! Thiện hạnh vô cùng, chẳng thể thuật trọn. V́ thế, từ mười sự này mà có thể suy rộng ra, ắt sẽ có thể trọn vẹn muôn đức vậy!

Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 1

Phần 2 hết

 

 



[1] Ngọc Xu Kinh (玉樞經) là một quyển kinh văn của Đạo giáo, có tựa đề đầy đủ là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn Ngọc Xu Bảo Kinh, xuất hiện từ thời Bắc Tống, có quan hệ mật thiết với cách tu lôi pháp của hai phái Bạch Ngọc Thiềm và Thần Tiêu. Trong Đạo giáo, Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn là một trong chín vị thượng đẳng thần, gọi chung là Thần Tiêu Cửu Thần Đại Đế. Phổ Hóa Thiên Tôn chưởng quản ngũ lôi, có chức trách chưởng thiện phạt ác.

[2] Nguyên văn là “thiên đoạt kỳ giám” (天奪其鑒, trời đoạt mất tấm gương soi), có nghĩa bóng là “đánh mất cơ hội tự xét ḿnh”. Thành ngữ này xuất phát từ một câu nói của Bốc Yển nước Tấn phê phán vua Quắc sau khi đánh bại rợ Nhung tại Tang Điền: “Quắc tất vong hỹ! Vong Hạ Dương bất cụ, nhi hựu hữu công, thị thiên đoạt chi giám, nhi ích kỳ tật dă” (Nước Quắc chắc chắn sẽ mất! Đă thua trận Hạ Dương mà chẳng sợ, lại cứ dẫn quân đánh nhau. Đấy là trời đoạt mất khả năng suy xét của ông ta (vua nước Quắc), khiến cho thói xấu của ông ta càng tăng thêm).

[3] Nguyên văn “sanh tri, khốn tri”. Đây là một câu nói phát xuất từ sách Trung Dung: “Hoặc sanh nhi tri chi, hoặc học chi nhi tri chi, hoặc khốn nhi tri chi, hoặc an nhi hành chi, hoặc lợi nhi hành chi, hoặc miễn cưỡng nhi hành chi, cập kỳ thành công nhất dă ” (Hoặc là sanh ra đă biết, hoặc là do học mà biết, hoặc là do gặp cảnh ngộ khốn đốn mới biết, hoặc do an vui mà làm, hoặc v́ lợi lộc mà làm, hoặc v́ gắng gượng mà làm, đến khi thành công th́ đều như nhau).

[4] Khấu Chuẩn (961-1023) là bậc danh thần đời Bắc Tống, tên tự là B́nh Trọng, người xứ Hạ Bang thuộc Hoa Châu (nay là Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây). Ông từng làm Tể Tướng đời Tống Chân Tông, từng được phong làm Lai Quốc Công. Khi Tống Chân Tông bệnh nặng, quyền hành rơi vào tay Lưu Hậu, ông chủ trương phế bỏ Lưu Hậu v́ sợ nạn ngoại thích cướp quyền. Quyền thần Đinh Vị đă chèn ép, khiến cho ông bị mất chức, bị đày đi trông coi Thiểm Châu cho đến khi mất. Măi cho đến đời Tống Nhân Tông, triều đ́nh mới khôi phục danh dự cho ông.

[5] Theo Đạo giáo, vị này chính là Xích Tùng Tử, có hiệu đầy đủ là Tả Thánh Nam Cực Nam Nhạc Chân Nhân hoặc Tả Tiên Thái Hư Chân Nhân. Theo truyền thuyết, ông từng là thầy dạy của Đế Khốc (một trong năm vị Ngũ Đế thời huyền sử Trung Hoa).

[6] Nguyên văn là “hưu phục” (鵂鵩) là một loại cú mèo, được coi là loại chim chuyên đem lại những điều bất hạnh.

[7] Khóa thi mùa Thu để tuyển Cử Nhân.

[8] Nguyên văn “thành quân” (成均) chính là tên gọi cũ của trường Thái Học. Theo Đổng Trọng Thư, vào thời Ngũ Đế, triều đ́nh mở trường Thái Học để dạy vương tôn và con cái chư hầu, đặt tên là Thành Quân.

[9] “Ân lệ” (恩例) là những điều lệ do đế vương ban hành nhằm tuyên bày ân đức, theo đó, những sĩ tử nào phù hợp điều kiện, có thể được đặc cách chọn lựa làm quan. Chẳng hạn vào thời vua Ung Chánh nhà Thanh, vua có đặt ra ân lệ để chọn những người đă đỗ Tú Tài làm huyện lệnh.

[10] Tiết khí (節氣, Solar term) theo nghĩa gốc chính là hai mươi bốn điểm đặc biệt trên đường hoàng đạo (Ecliptic, quỹ đạo giả định của mặt trời khi nó di chuyển trên bầu trời nếu nh́n từ trái đất). Thời gian giữa hai điểm tiết khí thường được gọi là một tiết khí tức là một khoảng thời gian có thời tiết đặc thù. Thông thường, mỗi tiết khí kéo dài từ mười bốn đến mười sáu ngày. Có hai mươi bốn tiết khí, tức là Lập Xuân, Vũ Thủy, Kinh Trập, Xuân Phân, Thanh Minh, Cốc Vũ, Lập Hạ v.v…

[11] Pháp sư Định Hoằng giảng: “Theo Đạo giáo, mỗi người đều có các loại tinh tú chủ quản, cũng như nói ‘trên đầu ba thước có thần minh’, chữ ‘tinh’ là nói đến các vị thần minh. Tinh quang là ánh sáng của vị thần minh ấy”.

[12] Trưởng Sử tương đương với chức Bí Thư Trưởng hiện thời, mang tính chất là người đứng đầu công việc hành cho các quan, đôi khi c̣n gọi là Biệt Hạ.

[13] Theo pháp sư Định Hoằng, thắp đèn th́ phải tốn dầu, giống như phước báo tiêu dần, nghiệp báo hiện tiền. Mỗi ngày phước báo một giảm dần, thọ mạng bị giảm trừ, cuối cùng bị trừ đến hết sạch. Hễ hết sạch sẽ chết.

[14] Câu này dựa theo thành ngữ “thố tử hồ bi” (thỏ chết, cáo buồn).

[15] Theo pháp sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là chết đi, con cháu nếu hiếu thuận, lập bàn thờ, thắp một ngọn đèn đốt bằng dầu, tức là người chết coi như chỉ nhấm nháp mấy giọt dầu.

[16] Thang đồ (湯塗, là đường nung nấu trong vạc sôi) tức địa ngục, hỏa đồ (火塗, đường lửa) chính là ngạ quỷ, v́ luôn bị cái đói như lửa nung đốt ruột gan. Đao đồ (刀塗) chính là đường súc sanh v́ luôn bị mổ xẻ, cắt chặt.

[17] Theo pháp sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là người đến viếng mộ, đốt giấy tiền vàng bạc, những mảnh tiền chưa cháy hết, bị gió thổi tung lên, bám vào những cành dương liễu quanh đó.

[18] Theo pháp sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là “đọa làm ngạ quỷ, súc sanh”, tức thay đổi thân người thành thân trong tam ác đạo.

[19] Tam Thai gồm ba cặp sao, mỗi cặp gồm hai ngôi sao, nằm trong chùm sao Đại Hùng Tinh (Ursa Major). Tống Sử mô tả như sau: “Tam Thai, gồm có Thượng Thai là hai ngôi sao gần sao Văn Xương, chủ về thọ mạng, hai ngôi sao kế đó là Trung Thai chủ tŕ tông tộc, hai ngôi sao ở phía Đông gọi là Hạ Thai, chủ về tài lộc và binh quyền. Tam Thai lại như bậc cấp trên bầu trời, trong Thượng Thai, sao trên là thiên tử, sao dưới là nữ chúa (hoàng hậu), Trung Thai th́ sao trên là tam công, sao dưới là các vị khanh đại phu, Hạ Thai th́ sao trên là nho sĩ, sao dưới là dân thường”.

[20] Tử Cực (紫極) là tên của một ngôi sao, Đạo giáo thường dùng danh xưng này để chỉ chỗ thần tiên cư ngụ. Tử Cực Đô Tào chính là danh xưng chỉ thiên đ́nh.

[21] Quản Lộ (209-256) là một chiêm tinh, bói toán lừng danh thời Tam Quốc, quê ở quận B́nh Nguyên, được coi là tổ sư của những thầy bói. Ông cùng với Châu Kiến B́nh và Quỷ Cốc Tử là những nhà tướng số lừng danh thời cổ. Quản Lộ thông thạo Phong Thủy, thiên văn (chiêm nghiệm tinh tú), coi tướng.

[22] Theo pháp sư Định Hoằng, Thất Chân ở đây chính là bảy vị Tinh Quân thuộc cḥm sao Bắc Đẩu.

[23] Tinh quan (星官, không phải là tinh quân) ở đây chính là khí của bảy ngôi sao thuộc chùm sao Bắc Đẩu kết thành một ngôi sao, tức vị thần ở trên đầu mỗi người như đă nói trong đoạn trên. Tinh quân (星君) là vị thần bản thể của một vị sao, chẳng hạn vị thần cai quản mặt trời gọi là Thái Dương Tinh Quân.

[24] Trương Củng Thần, tên tự là Ngưỡng Đức, là người xứ Long Sơn, huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông, là một vị quan nổi tiếng đời Minh. Ông từng đảm nhiệm chức coi kho Thái Thương, làm Tham Nghị tại Bố Chánh Ty tỉnh Phước Kiến, khâm mạng tào vận Nam Kinh rồi làm chức Quản Lư Diêm Vận. Ông có tiếng là người thanh liêm.

[25] Huyết thực (血食) là hưởng sự cúng tế. Do người Hoa thường giết súc vật, nhất là ba con vật gọi là “tam sinh” để cúng quỷ thần, nên quỷ thần được thờ phụng sẽ gọi là “hưởng huyết thực”.

[26] Do Đạo gia có thuyết Tam Thi đi tố cáo tội lỗi của con người trong khi ngủ, các đạo sĩ bèn cho rằng chỉ cần trong ngày Canh Thân, hoàn toàn không ngủ, Tam Thi sẽ không có cách nào mượn bảy phách nơi thân người để lên thiên đ́nh được!

[27] Điều này là chủ trương của Đạo giáo.

[28] Trong các kinh văn Đạo gia, Tứ Đại là mắt, tai, mũi, lưỡi.

[29] Theo pháp sư Định Hoằng, Trung Cung ở đây không phải là một bộ vị nhất định trên thân thể, mà có nghĩa là Ngũ Hành hết sức cân bằng.

[30] Hứa Chân Nhân chính là Hứa Do (239-374), tự là Kính Chi, là một đạo sĩ nổi danh thời Tấn. Ông quê ở huyện Nam Xương (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây), được tôn là tổ sư của hai phái Tịnh Minh Đạo và Lư Sơn của Đạo giáo. Ông từng làm huyện lệnh Thắng Dương. Do vậy, c̣n được gọi là Thắng Dương Tổ Sư. Ông thuở trẻ thích săn bắn, có lần toan bắn một con nai con, nai mẹ đă tung ḿnh đón mũi tên chịu chết để cứu con. Ông cảm động, thôi săn bắn, theo học đạo với Ngô Mănh. Khi loạn Bát Vương nổ ra, ông từ quan, đi tu, truyền bá Đạo giáo tại Dự Chương. Ông lại c̣n bỏ công sức lo thủy lợi ngăn ngừa nạn lụt tại Hồ Quảng, Dự Chương, Phước Kiến…

[31] Thanh Tịnh Kinh ở đây không phải là bộ kinh Pasadika Sutta trong tạng Nikaya của Phật giáo Nam Truyền, mà là Thái Thượng Lăo Quân Thuyết Thường Thanh Tịnh Kinh của Đạo giáo. Kinh này rất ngắn chưa đến bốn trăm chữ, dạy người ta trừ dục nhập tịnh, tĩnh tâm, giữ cho tâm thần trong sáng v.v…

[32] Tường sanh là những người đă đậu Tú Tài, được vào học trường huyện, nhưng chưa đậu Cử Nhân. Tường () là trường học được mở ở huyện, do chánh quyền tài trợ.

[33] Trừ Tịch (除夕) là đêm Ba Mươi tháng Chạp. Gọi là Trừ Tịch v́ theo lệ cổ từ thời Tần, người ta đốt pháo xua đuổi tà quỷ. Có thuyết lại nói, Trừ Tịch tức là đêm chia đôi giữa năm cũ và năm mới, nên gọi là Trừ Tịch.

[34] Nguyên văn “giác cân” (角巾), ta thường dịch là “khăn xéo”, nhưng thật ra chẳng phải là khăn, mà là một loại mũ, không có cánh chuồn, thường làm bằng vải, màu đen, do nh́n từ phía trước có hai mặt châu vào nhau, phía dưới có hai cánh mũ bẻ ngược lên trông như mũ có hai lớp, nên gọi là “giác cân”. Các vị ẩn sĩ thường đội loại mũ này. Người Hoa có thói quen gọi tất cả các loại mũ là “đầu cân” (khăn đội đầu), tuy nó chẳng phải là khăn quấn trên đầu như các dân tộc khác. Các loại mũ mang tính chất nghi lễ sẽ gọi là Mạo hoặc Quan. Điểm khác biệt là Mạo thường che hết đầu, trong khi Quan chỉ che búi tóc.

[35] Người đàn ông nước Lỗ ở đây chính là Liễu Hạ Huệ, có thể cho mỹ nữ ngồi trong ḷng mà không nẩy sanh dục niệm nào.

[36] Trương Giang Lăng tức là ông Trương Cư Chánh, do ông là người huyện Giang Lăng tỉnh Hồ Bắc, nên thường gọi là Trương Giang Lăng. Thủ Phụ (首輔) là người đứng đầu trong các vị đại học sĩ. Theo quy chế nhà Minh, kể từ đời Minh Thái Tổ, do thừa tướng Hồ Duy Dung bị tội xử trảm, vua phế hẳn chức Thừa Tướng, lập ra các cơ cấu Ngũ Phủ, Lục Bộ, Đô Sát Viện, Đại Lư Tự để lo việc nước. Do việc nước quá nhiều, lại không có cố vấn trực tiếp để giúp vua lo liệu, bất đắc dĩ, phải phong cho các vị đại thần thành Đại Học Sĩ, chia thành Hoa Cái Điện, Vũ Anh Điện, Văn Uyên Các, Đông Các Điện chư đại học sĩ. Trên thực tế, Thủ Phụ chính là Tể Tướng.

[37] Nội giám chính là thái giám.

[38] Giang Hữu là tên gọi khác của tỉnh Giang Tây. Do thời cổ, phía Tây nơi hạ lưu của Trường Giang sẽ gọi là Giang Hữu, phía Đông gọi là Giang Tả. V́ thế, tỉnh Giang Tây thường được gọi là Giang Hữu.

[39] Vị này pháp hiệu là Bích Như, có họ ngoài đời là Vương nên gọi ghép như vậy. Ngài có tục danh là Lập Cốc, tức Vương Lập Cốc.

[40] Nguyên văn “lănh hương tiến”, tức là dự khoa thi Hương do các châu huyện tiến cử, nếu đỗ kỳ thi ấy th́ gọi là “lănh hương tiến”.

[41] Vân Thê ở đây là ngài Liên Tŕ Châu Hoằng đại sư. Bác Sơn tức là thiền sư Nguyên Lai. Sư Bác Sơn xuất gia lúc mười sáu tuổi tại chùa Tĩnh Am ở núi Ngũ Đài; về sau, do đọc Cảnh Đức Truyền Đăng Lục mà khai ngộ. Sau đấy, Sư theo học với thiền sư Huệ Kinh được ấn khả. Sư về núi Bác Sơn ở Tín Châu (nay là huyện Quảng Phong, tỉnh Giang Tây), dựng chùa Năng Nhân, tu hành tại đó, đề xướng “Thiền Tịnh bất nhị”. Giáo thuyết này được viết thành sách, người đời sau gọi tác phẩm ấy là Bác Sơn Vô Dị Thiền Sư Quảng Lục.

[42] Tứ đoan (四端) là nhân, nghĩa, lễ, trí. Sách Mạnh Tử có đoạn nói: “Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dă. Tu ố chi tâm, nghĩa chi đoan dă. Từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dă. Thị phi chi tâm, trí chi đoan dă” (Cái tâm trắc ẩn là đầu mối của Nhân. Cái tâm hổ thẹn chính là đầu mối của Nghĩa. Cái tâm từ ái, nhường nhịn là đầu mối của Lễ. Cái tâm phân định đúng sai chính là đầu mối của Trí). “Bách hạnh” là từ ngữ phiếm chỉ các đức hạnh.

[43] Theo giảng sư Hoàng Bách Lâm, “thần châu” chính là Ma Ni Bảo Châu, tỷ dụ chân tâm, như nhà Thiền hay nói: “Ta có một viên thần châu”.

[44] Tử Hư Nguyên Quân chính là Ngụy Hoa Tồn (251-334), c̣n gọi là Ngụy Phu Nhân, là nữ đạo sĩ thời Tấn, người huyện Phàn Ấp, tỉnh Sơn Đông. Bà được coi là người truyền bá Thượng Thanh Kinh, là thái sư đời thứ nhất của Mao Sơn Tông. Năm hai mươi bốn tuổi, bà được gả cho Lưu Ấu Ngạn là quan huyện Tu Vũ. Bà tinh thông Lăo Trang, ngũ kinh của Nho gia, tin thờ Thiên Sư Đạo, giữ chức Tế Tửu. Tương truyền bà được Thanh Hư Chân Nhân truyền đạo Thần Chân, sau đó được Cảnh Lâm Chân Nhân truyền dạy kinh Hoàng Đ́nh. Trong cơn chiến loạn Vĩnh Gia, bà mang hai con lánh về vùng Giang Nam, truyền Thiên Sư Đạo xuống phương Nam. Sau khi bà mất, đạo sĩ Dương Hy tôn bà là Tử Hư Nguyên Quân Nam Nhạc Ngụy Phu Nhân.

[45] Mao Quân tên thật là Mao Doanh, tự Thúc Thân, người Hàm Dương. Cha ông là Mao Mông theo tương truyền học đạo ở Mao Sơn, thành tiên, bay đi mất dưới thời Tần Thủy Hoàng. Lúc mười tám tuổi, Mao Doanh cũng vào núi Cú Dung học đạo, thành tiên sau hai mươi năm tu tập. Hai em ông là Mao Cố và Mao Trung cũng đều theo anh tu đạo, đều thành tiên. Do vậy, kinh sách Đạo Giáo thường gọi ba vị này là Tam Mao Quân.

[46] Theo Đạo giáo, Đông Thiên tức tầng trời phía Đông có cung điện của Tam Quan Đại Đế, gồm Tử Vi Cung, Thanh Hư Cung và Thanh Hoa Cung. Thanh Hư Cung là chỗ ở của Địa Quan Đại Đế.

[47] “Tàng tinh” là giữ cho tinh khí không bị thất thoát. Do có những phái trong Đạo gia quan niệm Tinh là cội gốc của Khí và Thần, nên họ đề ra những cách luyện khí bế tinh trong khi hành pḥng (ân ái). Họ tin là có thể sử dụng các cách hít thở theo các ṿng Châu Thiên trong thân thể để nung tinh thành nguyên thần bồi bổ năo v.v… Từ đó, họ đề ra những cách hít thở đặc biệt, các tư thế đặc biệt khi giao hoan, với hy vọng sẽ chuyển tinh từ thận tạng lên Nê Hoàn Cung trên đỉnh đầu. Tức là chỉ chú trọng nơi rèn luyện sắc thân, chẳng thanh tâm, quả dục để đạt tới diệu đạo. Do vậy, trong đoạn trước có nói bốn mươi bảy người bị đánh rớt v́ ôm ḷng dâm dục mà tu chân.

[48] Tức là những phương cách luyện kim đan, dùng các kim loại quư để nấu thành thuốc tiên. Họ tin tưởng: Uống những thứ “tiên đan” ấy sẽ hoán thai hóa cốt, chuyển thành thân tiên, có thể bay lên trời, ngao du các cơi tiên. Đa số các loại kim đan (tiên đan) có chứa nhiều chất độc như thủy ngân, ch́, thạch tín, sulfur v.v… uống vào sẽ bị trúng độc lâu dài, hay mất trí. Do đan sa (tức sulfur thủy ngân) có màu đỏ được coi là màu đẹp nhất, nên được các nhà luyện đan sử dụng rất nhiều. Trong lịch sử, các vua Tấn Ai Đế, Ngụy Đạo Vũ Đế, Đường Hiến Tông, Đường Mục Tông, Đường Kính Tông, Minh Thế Tông… đều bị trúng độc do uống kim đan, trở thành điên cuồng, chết sớm, hoặc thân thể lở loét, đau đớn mà chết.

[49] Cải Quá Thiên là một chương sách trong bộ Liễu Phàm Tứ Huấn nhằm dạy cách sửa đổi lỗi lầm.

[50] Quốc Ngữ là một bộ sử cổ của Trung Hoa, chép các sự kiện lịch sử của nhà Châu và các nước chư hầu Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở, Ngô, Việt từ năm 974 trước Công Nguyên cho đến năm 453 trước Công Nguyên. Đây là một trong những bộ sử đầu tiên của Trung Hoa, là nguồn tham khảo cho tất cả những bộ sử Trung Hoa về sau. Không rơ tác giả là ai, đa số đều cho là do Tả Khâu Minh biên soạn. Bộ sử này c̣n được gọi là Xuân Thu Ngoại Truyện.

[51] Nguyên văn “chỉ thị chiếu nhiên” (指視昭然, chỉ ra, nh́n thấy rành rành). “Chỉ thị” là từ ngữ phát xuất từ một câu nói trong Kinh Thư “thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ” (mười mắt nh́n vào, mười tay chỉ vào).

[52] Nguyên văn “văn chi thậm xảo” (文之甚巧). Theo ông Hoàng Bách Lâm, chữ Văn phải hiểu là “che đậy” do dựa theo câu nói trong Luận Ngữ: “Tiểu nhân chi quá dă tất văn”, Khổng Dĩnh Đạt chú giải câu này phải hiểu là “kẻ tiểu nhân nhất định giấu diếm lỗi lầm”.

[53] Đây là nói đến quẻ Phong Lôi Ích (風雷益) trong kinh Dịch. Quẻ này do quẻ Tốn ở trên và quẻ Chấn ở dưới gộp lại. Tốn biểu thị gió, Chấn là sấm, nên gọi là Phong Lôi. Gió thổi nhanh chóng xua tan khí u ám, sấm chấn động đột ngột, cả hai thứ đều tạo lợi lạc, nên là Ích. Xét theo Tượng Truyện của kinh Dịch th́ quẻ này được giải thích là “Lôi Phong Ích: Quân tử dĩ kiến thiện tắc thiên, hữu quá tắc cải” (Lôi và Phong là Ích. Bậc quân tử thấy điều thiện bèn hướng theo, hễ có lỗi bèn sửa đổi).

[54] Nguyên văn “tinh nhất chi chân truyền”. Chữ “tinh nhất” xuất phát từ một câu trong thiên Đại Vũ Mô của sách Thượng Thư: “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doăn chấp quyết trung”. Tiên sinh Nam Hoài Cẩn coi câu này là cốt lơi của truyền thống văn hóa Trung Hoa. Các nhà chú giải giải thích câu nói này có nghĩa là: Ḷng người dễ bị xáo động, đạo tâm kín nhiệm, chỉ cốt sao giữ cho tâm luôn chuyên ṛng, ư niệm thuần nhất, luôn hành xử theo Trung Đạo.

[55] Câu này hơi khó hiểu, chúng tôi xin mạn phép rườm lời dẫn lời giảng giải của ông Hoàng Bách Lâm: Sửa đổi lỗi từ nơi cái tâm là bậc thượng, c̣n sửa đổi lỗi bằng cách đối với từng sự việc bèn tận lực khắc chế dục vọng để khỏi phạm lỗi th́ là bậc hạ. Nói dùng những sự thuộc về bậc thượng để kiêm hành những công phu bậc hạ” tức là sửa đổi từ cái tâm, nhưng không bỏ những chuyện hành tŕ nơi sự tướng. Tu tập như vậy th́ chưa hề bị thất bại, hoặc lạc lối. “Nếu chấp vào bậc hạ, chẳng hiểu rơ những sự nơi bậc thượng” tức là chỉ biết giữ giới nghiêm ngặt nơi h́nh tướng, không biết chuyển đổi cái tâm, như vậy sẽ là như trừ khử lỗi lầm nơi cành nhánh, không diệt từ căn bản, cho nên sẽ rất tốn công, không phải là phương tiện khéo léo của hàng Bồ Tát!

[56] Đây là cách nói gọn của câu “thiên đạo chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo” trong sách Trung Dung. Chúng tôi dịch câu này dựa theo cách diễn giải của tiên sinh Nam Hoài Cẩn.

[57] Bản kinh Đạo gia này có tên gọi đầy đủ là Thái Thượng Lăo Quân Nội Quán Kinh, không biết do ai viết, xuất hiện từ đời Tùy, được xếp vào bộ loại Động Thần trong Đạo Tạng. Nội dung kinh dạy về cách quán tâm. Cách quán tâm của họ là tĩnh tọa cho quên hết ư niệm, khá tương đồng với các bộ Linh Bảo Định Quán Kinh và Thường Thanh Tịnh Kinh của Đạo gia.

[58] “Thiên lư” ở đây nếu hiểu theo nghĩa hẹp của Nho gia sẽ là thiên mạng, tức quy luật vận hành của vũ trụ, chân lư trong vũ trụ. Nếu hiểu theo Phật giáo, sẽ là chân tâm.

[59] Vị này tên thật là Triệu Biện (1008-1084), tên tự là Duyệt Đạo, hiệu là Tri Phi Tử, người xứ Tây An, Cù Châu (nay là Cù huyện, tỉnh Chiết Giang). Ông làm quan thanh liêm, làm quan tới chức Tham Tri Chánh Sự. Do phản đối chánh sách Thanh Miêu (cho nông dân vay nợ trước, đến mùa gặt sẽ trả nợ), bị Vương An Thạch đổi ra làm tri huyện Hàng Châu, rồi bị thuyên chuyển đi nhiều nơi từ Thành Đô cho đến Sơn Đông, măi về sau mới được đưa về làm tri huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Khi vùng Ngô Việt bị mất mùa to, ông đă tận lực cứu đói. Khi ông mất, vua ban tặng thụy hiệu là Thanh Hiến, nên sách này gọi ông là Triệu Thanh Hiến Công.

[60] Công Tôn Độ, tự Thăng Tế, là tướng lănh quân phiệt cuối thời Hán khi Đổng Trác khuynh loát nhà Hán. Xuất thân là nha lại dưới quyền thái thú Công Tôn Vực, được Công Tôn Vực quư mến, nâng đỡ, Công Tôn Độ tiến cử làm Hữu Đạo của quận Huyền Thố, rồi đến Lạc Dương làm quan, nhận chức Thượng Thư Lang, sau đó được bổ làm quan ở Kư Lang. Khi Đổng Trác làm Thừa Tướng, do mối thân t́nh với bộ tướng Từ Vinh của Đổng Trác, Công Tôn Độ được bổ làm Thái Thú Liêu Đông. Công Tôn Độ hiếu sát, giết gần hết những gia đ́nh vọng tộc ở Liêu Đông, dần dần toan tính độc lập xưng bá, tự xưng là Châu Mục xứ B́nh Châu, tước Liêu Đông Hầu, không thèm nghe theo lệnh triều đ́nh.

[61] Khi xưa, những nhà quư tộc giàu có thường nuôi con hát trong nhà. Nhiều nhà c̣n có riêng rạp hát, đoàn hát với toàn bộ ca nhi, nhạc công. Theo ông Hoàng Bách Lâm, nếu hiểu theo nghĩa hiện thời, điều này sẽ có nghĩa là mua sắm những thiết bị âm nhạc, phương tiện giải trí đắt tiền như máy karaoke, home theater, mượn thầy dạy khiêu vũ riêng v.v…

[62] Dực Thánh Chân Quân, c̣n gọi là Hắc Sát Nguyên Soái, là một vị thần bảo hộ trong Bắc Cực Tứ Thánh của Đạo giáo. Tứ Thánh là Thiên Bồng, Thiên Do, Chân Vũ và Dực Thánh. Vị này được biết tới do đạo sĩ Trương Thủ Chân đề xướng. Theo họ Trương, vào thời Bắc Tống, ông ta đi vào núi Chung Nam Sơn gặp một vị thần tiên hiển linh, tự xưng là Cao Thiên Đại Thánh Ngọc Đế Phụ Thần có sứ mạng phù tá nhà Tống, dạy Trương Thủ Chân làm đàn cầu Hắc Sát Thần bảo hộ hoàng triều. Tống Thái Tổ phong cho Hắc Sát Thần làm Dực Thánh Tướng Quân. Về sau Tống Chân Tông lại gia phong là Dực Thánh Bảo Đức Chân Quân.

[63] Lục Tượng Sơn tên thật là Lục Cửu Uyên (1139-1193), tự Tử Tĩnh, người xứ Kim Khê, Phủ Châu (nay là huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây). Ông là một nhà triết gia theo trường phái Lư Học, và cũng là một văn gia lừng danh thời Bắc Tống. Do ông sáng lập Tượng Sơn Thư Viện nên thường được gọi là Lục Tượng Sơn, hoặc Tượng Sơn Tiên Sinh.

[64] Vương Thập Linh (1124-1171), tự là Quy Linh, hiệu là Mai Khê, người xứ Lạc Thanh, Ôn Châu (nay là huyện Lạc Thanh, tỉnh Chiết Giang). Ông là một văn nhân nổi tiếng của nhà Tống. Khi ông c̣n trẻ, do Khâm Tông bị người Kim bắt, Cao Tông chạy về Nam lập ra Nam Tống, trọng dụng Tần Cối. V́ Tần Cối lũng đoạn quy chế thi cử, ông không đi thi. Cho đến khi Tần Cối chết, ông mới đi thi và đỗ Tiến Sĩ khi đă bốn mươi mốt tuổi. Do tán đồng quan điểm đánh lên phía Bắc để chiếm lại đất đai của nhà Tống từ tay quân Kim, ông bị phe chủ ḥa vùi dập. Khi làm Thị Ngự Sử dưới thời Tống Hiếu Tông, trong ṿng một tuần lễ, ông đă dâng mười sáu tờ sớ hạch tội quyền thần Sử Hạo. Do thấy Hiếu Tông chủ ḥa, ưa nịnh, thiếu sáng suốt, ông chán nản, từ quan. Nhưng năm sau triều đ́nh gọi ông đi coi Nhiêu Châu, rồi Quỳ Châu, Tuyền Châu. Ông luôn chú trọng việc nông, thủy lợi, yêu dân như con, được dân Tuyền Châu lập đền thờ sống. Năm 1171, triều đ́nh lại gọi ông về giữ chức Chiêm Sử trong cung Thái Tử, nhưng ông bệnh nặng, mất vào tháng Bảy năm ấy, thụy hiệu là Trung Văn.

[65] Lưu An Thế (1048-1125), tên tự là Khí Chi, người huyện Đại Danh, tỉnh Hà Bắc. Ông vốn là học tṛ của Tư Mă Quang. Khi Tư Mă Quang làm Tể Tướng, đă đề cử ông làm việc ở Quốc Sử Quán, tiến dần lên chức Gián Nghị Đại Phu. Ông nổi tiếng cương trực, bàn luận không kiêng nể, vị t́nh, thẳng thừng vạch trần những lập luận quanh co, lừa gạt của các kẻ quyền thần hay những gă xu phụ trong triều, khiến họ rất e ngại. V́ thế, các đồng liêu thường gọi ông là Điện Thượng Hổ (cọp trên triều đ́nh). Khi Tống Huy Tông lên ngôi, do sợ bị ông chỉ trích, đă đưa ông đi làm tri phủ Chân Định. Khi gian thần Thái Kinh làm Tể Tướng, hắn đă đày ông đến Hiệp Châu.

[66] Lương Sư Thành, tên tự là Thủ Đạo, là hoạn quan thời Bắc Tống, kết bè kéo cánh với Thái Kinh, Đồng Quán, Vương Phủ, Lư Ngạn, và Châu Dận thao túng triều chánh thời Tống Huy Tông, Sử thường gọi bọn họ là Lục Tặc (sáu thằng giặc). Sư Thành chỉ biết đọc biết viết, thoạt đầu là thái giám chuyên truyền chỉ dụ của nhà vua, trông coi tạp vụ tại Nghệ Thư Cục. Do khéo nịnh hót, miệng lưỡi trơn tru, hắn được vua đặc cách ghi tên vào sổ Tiến Sĩ, lại được cử làm Quan Sát Sứ Duyện Châu rồi Tiết Độ Sứ, Kiểm Hiệu Thái Phó. Sau đó Thái Úy, Khai Phong Nghị Đồng Tam Tư oai quyền lấn át hoàng đế. Người đương thời gọi hắn là Ẩn Tướng (vị tể tướng ẩn mặt).

[67] Nguyên Hựu là niên hiệu của Tống Triết Tông.

[68] Sứ giả ở đây có nghĩa là quan do triều đ́nh phái xuống làm chủ khảo khoa thi tại tỉnh Hồ Bắc.

[69] Nguyên văn là Mậu Tài. Ông Hoàng Bách Lâm nói Mậu Tài chính là Tú Tài. Do Hán Quang Vũ Đế tên là Lưu Tú, nên sách vở thời Hán kỵ húy, viết Tú thành Mậu.

[70] Đến cuối đời, Dương Chấn được bổ làm Thái Úy. Theo quy chế đời Hán, đây là chức quan chỉ huy cao nhất trong quân đội. Thời Tây Hán, Thái Úy, Thừa Tướng và Ngự Sử Đại Phu được gọi là Tam Công. Thời Đông Hán, Thái Úy đổi thành Đại Thái Úy, cùng với Tư Đồ và Tư Không được gọi là Tam Công. Dương Chấn sống vào thời Đông Hán. Ḍng họ ông có đến bốn đời lần lượt làm Thái Úy, tức là bản thân ông, con trai là Dương Bỉnh, cháu là Dương Tứ, chắt là Dương Tổ đều làm Thái Úy. Cụ tằng tổ của ông là Dương Sưởng làm Thừa Tướng thời Hán Cao Tổ.

[71] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là tuy hiểu đạo lư, nhưng không thực hiện được, tức là lư trí không thắng nổi dục vọng tầm thường.

[72] Theo sách Vân Cấp Thất Thiên, Thái Cực Chân Nhân tên là Đỗ Xung, tự Viễn Dật, sống vào thời Châu Chiêu Vương, thành tiên vào thuở ấy.

[73] Theo quy chế đời Tống, cơ cấu tư pháp được chia thành hai hệ thống Sự Thật Thẩm và Pháp Luật Thẩm. Sự Thật Thẩm nhằm thẩm vấn, phá án, phán tội, c̣n Pháp Luật Thẩm là cơ quan giám sát, nhằm đảm bảo việc xử án đúng luật, không oan khuất. Những quan lại trực thuộc hệ thống Sự Thật Thẩm sẽ được gọi là Thôi Tư, Ngục Tư và Thôi Khám Quan. Những vị quan thuộc về Pháp Luật Thẩm sẽ được gọi là Pháp Quan hoặc Kiểm Pháp Quan. Quy chế song hành này được áp dụng từ trung ương cho đến địa phương, thường gọi là Tả Đoán H́nh, Hữu Trị Ngục, tức là các vị thuộc cơ cấu bên tả sẽ lo việc thi hành luật, các vị thuộc cơ cấu bên hữu sẽ phụ trách giám sát.

[74] Ngũ Đại là thời phong kiến quân phiệt cát cứ sau khi nhà Đường diệt vong kéo dài từ năm 907 cho đến 979. Sử thường gọi thời này là Ngũ Đại Thập Quốc v́ có năm triều đại chính nối tiếp nhau, đồng thời có đến mười tiểu quốc xen kẽ. Thời kỳ này chấm dứt khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất Trung Hoa.

Năm triều đại là:

1. Hậu Lương (907-923), do Châu Ôn sáng lập, kéo dài được ba đời vua, kinh đô là Khai Phong.

2. Hậu Đường (923-937), do Lư Tồn Úc sáng lập, kéo dài bốn đời vua, kinh đô là Lạc Dương.

3. Hậu Tấn (936-947), do Thạch Kính Đường sáng lập, được hai đời vua, kinh đô là Khai Phong.

4. Hậu Hán (947-951), do Lưu Trí Viễn sáng lập, hai đời vua, kinh đô là Khai Phong. Đây là triều đại ngắn nhất trong lịch sử Trung Hoa.

5. Hậu Châu (951-960), do Quách Oai sáng lập, ba đời vua, kinh đô là Khai Phong.

Thập Quốc là mười quốc gia trong giai đoạn ấy, tức Ngô (902-937, do Dương Hành Mật sáng lập), Nam Đường (937-975, do Lư Biện sáng lập), Ngô Việt (907-978, do Tiền Liêu sáng lập), Mân (909-945, do Vương Thẩm Tri sáng lập), Bắc Hán (951-979, do Lưu Mân sáng lập), Tiền Thục (903-925, do Vương Kiến sáng lập), Hậu Thục (934-965, do Mạnh Tri Tường sáng lập), Kinh Nam (924-963, do Cao Quư Hưng sáng lập), Sở (927-951, do Mă Ân sáng lập), Nam Hán (917-971, do Lưu Cung sáng lập). Dưới thời Nam Hán, ngay trong thời Lưu Cung (Nam Hán Cao Tổ), tại Giao Châu, Ngô Quyền đă dấy binh từ Ái Châu (vùng Thanh Nghệ) khởi nghĩa tấn công tiết độ sứ Giao Châu là Kiều Công Tiễn (gă này đă giết Dương Diên Nghệ để tiếm quyền). Kiều Công Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán, Lưu Cung sai đứa con thứ chín là Lưu Hoằng Thao dẫn quân đánh Giao Châu (thời ấy được gọi là Tĩnh Hải). Ngô Quyền đă tốc chiến tốc thắng, giết chết Kiều Công Tiễn, hạ thành Đại La trước khi quân Nam Hán kéo sang. Do kiêu căng, vô mưu, Hoằng Thao bị rơi vào bẫy phục binh của quân Việt và bị giết chết. Thế là nước Việt được độc lập, chấm dứt thời kỳ Bắc Thuộc.

[75] Chánh sử không chép hết về quan chức con cháu của ông, chỉ biết là năm người con trai lần lượt đỗ Tiến Sĩ, đều ra làm quan. Sử gọi là Đậu Thị Ngũ Long (năm con rồng họ Đậu). Con trai trưởng của ông là Đậu Nghi làm Lễ Bộ Thị Lang đời Châu Thế Tông, về sau làm Công Bộ Thượng Thư, kiêm nhiệm Đại Lư Tự. Người em kế là Đậu Nghiễm làm sử quan suốt bốn triều đại (Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Châu và Tống), được thăng Lễ Bộ Thị Lang nhà Tống. Hầu hết các miếu hiệu của vua chúa, thân thuộc nhà Tống thuở đầu đều do Đậu Nghiễm đặt. Người con thứ ba là Đậu Khảng, làm quan Khởi Cư Lang thời Hậu Châu. Người con thứ tư là Đậu Chương làm Xu Mật Viện Trực Học Sĩ rồi Gián Nghị Đại Phu thời Bắc Tống. Người con thứ năm là Đậu Hy, làm Tả Bộc Khuyết đời Bắc Tống.

[76] Do Hàn Kỳ được phong làm Ngụy Quốc Công và người Hán có thói quen gọi tên tự hay chức tước lồng vào giữa tên để tỏ ḷng kính trọng, không gọi thẳng tên tục, sách Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Vựng Biên ghi là “Hàn Ngụy Công Kỳ”.

[77] Tào Sứ là gọi tắt của Tào Vận Sứ, một chức quan trông nom việc chuyển vận bằng đường thủy. Chức vụ này c̣n được gọi Chư Châu Thủy Lộ Chuyển Vận Sứ, hoặc Tào Ty.

[78] “Tiểu lại” (小吏) có nghĩa là một viên nha lại cấp thấp.

[79] Đích tự là con trai do vợ cả sanh ra.

[80] Thúc Lương Hột (叔梁紇) chính là cha của Khổng Tử. Ông này tên là Khổng Ngột (Hột), tên tự là Thúc Lương, nên thường gọi là Thúc Lương Hột, là đại phu nước Lỗ. Vợ cả của Thúc Lương Hột là Thí Thị sanh chín con gái, không có con trai. Người thiếp sanh ra Mạnh B́, chân lại bị tật. Theo quy chế thời ấy, Mạnh B́ không thể kế nghiệp, tập ấm cha. Thúc Lương Hột bèn xin cưới con gái của họ Nhan, chỉ có cô Nhan Trưng Tại chịu lấy ông, đẻ ra Khổng Tử. Mạnh B́ thật ra chỉ tên là B́, do là con trai cả nên gọi là Mạnh B́. Mạnh B́ sanh được một trai và một gái. Con trai Mạnh B́ là Khổng Trung là một trong bảy mươi hai môn đệ nổi tiếng (thất thập nhị hiền) của Khổng Tử, con gái Mạnh B́ lấy Nam Cung Quát (tự là Tử Dung). Nam Cung Quát cũng là một môn đệ khác của Khổng Tử thuộc vào thất thập nhị hiền.

[81] Tông miếu (宗廟) tức là miếu thờ tổ tông. Câu này có ư nói vua Thuấn do ḷng đại hiếu, mà tổ tông được kính cẩn phụng thờ, con cháu nối tiếp giữ ǵn đức hạnh của cha ông.

[82] Thiếu Sư (少師) một trong vị Tam Thiếu, thầy dạy của Thái Tử, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ đứng đầu, quản trị mọi việc trong cung của Thái Tử. Vị này mang tính chất là vị thầy hướng dẫn về cách cai trị của nhà vua tập sự (Thái Tử), vạch ra kế sách hành xử, trong khi Thiếu Phó mới là người thật sự dạy chữ (có thuyết nói Thiếu Phó là thầy dạy vơ, nhưng trong lịch sử, Thiếu Phó phần nhiều do các quan văn đảm nhiệm). Thiếu Bảo lo mọi việc an ninh, đối ngoại.

[83] Nguyên văn là phấn đoàn (粉團). Đây là một loại bánh ở miền Nam Trung Hoa, làm bằng bột nếp ḥa lẫn bột gạo, trộn đậu xanh lẫn với bột (có khi là đậu xanh bọc bột), nặn thành viên, lăn qua mè hay sợi dừa, hấp chín. Chúng tôi thấy h́nh chụp giống như loại bánh thường gọi là “bánh bao chỉ” nên tạm mượn danh xưng này!

[84] Do khi xưa để tóc dài, đội măo phải búi tóc lên, dùng trâm () đâm qua búi tóc để giữ cho măo khỏi tuột. Măo đội thường có hai dải dài hai bên để buộc cho khỏi tuột hoặc chỉ nhằm mục đích trang trí, gọi là Anh (). V́ thế, những người làm quan thường được gọi là “trâm anh”.

[85] Thái Sử là một chức quan rất cổ đă có từ thời Châu, đảm nhiệm việc biên soạn văn thư, chỉ dụ, ghi chép quốc sử, chưởng quản tài liệu, trông coi thiên văn, lịch pháp, tế tự… Đến đời Đường, việc soạn văn thư giao cho Hàn Lâm Viện, Thái Sử chỉ chú trọng tính toán lịch pháp và quản trị sử sách. Đến đời Minh Thanh, do Hàn Lâm Viện phụ trách việc biên soạn sử, nên quan đứng đầu Hàn Lâm Viện được gọi là Thái Sử.

[86] Ông này tên thật là Phùng Kỳ, tên tự là Trác Am.

[87] Đô Đường (都堂) có nghĩa gốc là tổng dinh thự hành chánh của Thượng Thư Tỉnh theo quy chế đời Đường. Thượng Thư Tỉnh cai quản lục bộ. Đứng đầu Thượng Thư Tỉnh là Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ, đều gọi là Đô Tỉnh. Đến thời Minh, Thanh, do các quan Tổng Đốc hoặc Tuần Phủ trông coi các tỉnh đều kiêm thêm hàm Đô Ngự Sử, Phó Đô Ngự Sử, hoặc Kiểm Đô Ngự Sử, nên dân gian thường gọi các quan đầu tỉnh là Đô Đường.

[88] Ông này tên thật là Đồ Huân. Do sau khi mất, được đặt thụy hiệu là Khang Hy, nên người chép truyện ghi là Đồ Khang Hy Công.

[89] Đường quan: Vị quan chủ tŕ công đường xét án được gọi là đường quan”, tức là vị quan đứng đầu một cơ cấu lănh đạo như tri phủ, tri huyện v.v…

[90] Đây là quy chế thời Minh - Thanh nhằm giảm bớt những vụ án xử oan. Vào tiết Sương Giáng mỗi năm, ba cơ cấu tư pháp là bộ H́nh, Đô Sát Viện và Đại Lư Tự sẽ tái thẩm những vụ trọng án, nhất là các án tử h́nh, lập hồ sơ cặn kẽ, tấu tŕnh lên cho cửu khanh, tức chín vị đại thần thẩm duyệt trước khi phán án chung cục.

[91] Ư nói sẽ làm quan to.

[92] H́nh pḥng là cơ quan quản trị hồ sơ các vụ án trong các công đường thuở trước.

[93] Khổng Mục là chức quan được thành lập từ đời Đường, chuyên quản trị hồ sơ. Đời Minh, Hàn Lâm Khổng Mục là chức quan trông coi việc ban hành chiếu chỉ, sắc lệnh của nhà vua, cũng như lập hồ sơ, thu lưu, tường tŕnh tấu sớ của các quan. Chức quan này không cao, nhưng hoàng đế và các đại thần rất coi trọng. Người giữ chức này phải là người cẩn thận, nghiêm túc, tự trọng, cương trực. Đến đời Thanh lập ra Điển Bạ Sảnh, ủy cho Khổng Mục chưởng quản.

[94] Ở đây, do biện định về thiện ác với các Nho sĩ, ngài Trung Phong đă dẫn Luận Ngữ để nói: “Hương nguyện, đức chi tặc dă” (Kẻ thật thà, ba phải sẽ là kẻ giặc đối với đạo đức), các nhà chú giải giảng “hương nguyện” hoặc “cẩn nguyện” (謹愿) là nói những kẻ thật thà, an phận, mang tính cách ba phải, không kèn cựa với ai, nhưng không có lập trường, ai nói sao cũng xuôi theo, người như vậy không bị ai ghét, nên rất dễ được coi là người hiền lành, nhưng thật ra, người ấy đă gây hại cho đạo đức v́ thiện ác chẳng phân định được, vô t́nh giúp sức cho kẻ ác.

[95] Nguyên văn “Lỗ nhân hữu thục nhân thần thiếp ư chư hầu”. Thời Chiến Quốc, các nước chư hầu đánh nhau liên miên, dân chúng bị bắt làm tù binh trong các cuộc chiến sẽ biến thành nô tỳ, nam th́ gọi là Thần (), nữ gọi là Thiếp ().

[96] Tử Cống tên thật là Đoan Mộc Tứ, Tử Cống là tên tự.

[97] Tử Lộ tên thật là Trọng Do, tên tự là Tử Lộ. Vị này được xếp vào hàng Thập Triết, tức mười vị đại đệ tử của Khổng Tử.

[98] Lữ Văn Ư Công ở đây là ông Lữ Nguyên, người huyện Tú Thủy, tỉnh Chiết Giang, tự là Phùng Nguyên, thụy hiệu là Văn Ư. Vị này là Tể Tướng dưới thời Tống Anh Tông.

[99] Dật () là đơn vị đo lường thời cổ, sử dụng cho đến hết đời Tần. Một Dật bằng hai mươi bốn Lạng.

[100] Quán chức là chức quan thuộc các Quán dưới đời Đường, Tống, như Tập Hiền Quán, Quốc Sử Quán v.v…

[101] Câu chuyện này được nói chi tiết hơn trong Thọ Khang Bảo Giám như sau: Ông Cận ở Trấn Giang đă năm mươi tuổi mà không con. Dạy trẻ vỡ ḷng tại huyện Kim Đàn. Thấy con gái nhà hàng xóm khá xinh xắn, vợ ông liền bán thoa, xuyến, mua về làm thiếp. Ông trở về nhà, bà vợ bày rượu trong pḥng, bảo ông: “Tôi đă già chẳng thể sanh nở. Nàng này khá hiền lành, chắc có thể sanh con nối ḍng cho nhà họ Cận”. Ông cúi đầu, đỏ mặt tía tai. Bà vợ cho rằng ḿnh có mặt th́ chồng sẽ ngần ngại, bèn đi ra, đóng chặt cửa lại. Ông bèn leo qua cửa sổ thoát ra, bảo vợ: “Ư bà tốt lành, nhưng tôi thường bồng bế cô ta thuở bé, luôn mong cô ta sẽ được gả vào chỗ đàng hoàng. Tôi đă già rồi, lại c̣n lắm bệnh, chẳng thể làm nhục cô ta được”, bèn trả cô ấy về. Năm sau, bà vợ sanh ra Văn Hy Công, mười bảy tuổi đă đậu Giải Nguyên, năm sau đỗ nghè. Về sau, [Văn Hy Công] là một vị Tể Tướng hiền đức.