Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
感應篇彙編
Quyển 1
Phần 2
(theo bản
in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm
2000)
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
(Chánh
văn) Toán giảm tắc bần hao, đa phùng ưu hoạn.
(正文)算減則貧耗。多逢憂患。
(Chánh văn: Do tuổi thọ bị giảm,
sẽ nghèo cùng, hao tổn, gặp nhiều nỗi ưu
tư, hoạn nạn).
Từ chỗ
này cho tới câu “toán tận tắc
tử” (tuổi thọ đă hết sẽ chết)
đều là những lời thành thật nói về chuyện
tuổi thọ bị giảm bớt. “Bần” (貧) là
không có tiền của. “Hao”
(耗) là nhà cửa phá tán. “Đa phùng” (多逢) là nói kẻ bất thiện cứ thường
gặp phải [chuyện chẳng lành]. “Ưu” (憂, ưu
tư) xuất phát từ chính ḿnh, “hoạn” (患, hoạn
nạn) sanh từ bên ngoài. Ấy là v́ thần trông thấy
những điều dối trá, giấu diếm của kẻ
bất thiện; do vậy, giảm bớt tuổi thọ
[của kẻ đó]. V́ thế, nghèo túng, hao tổn, ưu
tư, hoạn nạn nối gót nhau xảy tới.
“Do làm lành mà được
phước, do dâm dật mà mắc họa”, đó là
đạo lư đă định của tạo hóa. Ai muốn
tránh né điều hung, hướng về điều cát, ắt
phải nên hướng lành, sửa lỗi. Trước
hết, phải nên đối trị cái tâm, kiểm điểm
tam nghiệp của chính ḿnh, đừng để chúng
buông lung, đọa trong lưới tà. Hăy nên khuyên răn lẫn
nhau, [sao cho] tâm và miệng [của chính ḿnh] khuyên răn lẫn
nhau, tâm nhắc nhở miệng rằng: “Ngươi hăy nên
nói điều lành, đừng nói lời phi pháp”. Tâm lại nhắc nhở thân:
“Ngươi hăy tinh tấn, đừng nên giải đăi”.
Mỗi ngày, mỗi thời, mỗi khắc, mỗi niệm,
cho đến trong mỗi sát-na, giản dị, trầm mặc
như thế, tự chế ngự cái tâm ta, tự thận
trọng miệng ta, tự đối trị cái thân ta, lâu
ngày chầy tháng chẳng gián đoạn, tự nhiên sẽ
chẳng bị động tâm bởi ngoại cảnh. Trầm
tĩnh, chẳng ham muốn th́ toàn thể sẽ là lành, há
đến nỗi giảm thọ, bần cùng, hao tổn,
ưu tư, hoạn nạn ư?
Huyện lệnh
huyện Phụng Phù là Tiền Nhược Ngu, gian hiểm,
ngoan cố, được bổ làm quan từ lúc c̣n trẻ.
Dù đă được phái đi làm quan ở nhiều
nơi, phần nhiều chẳng trọn hết nhiệm kỳ.
Tuổi già càng thêm khốn khó, con cái chết lần, chết
ṃn, áo cơm chật vật. Do vậy, cầu nguyện với
thần, [ông ta] mộng thấy thần bảo:
“Ngươi do tội ác mà bị giảm thọ đến
mức ấy. [Hễ c̣n sống] th́ hăy c̣n bị khổ sở,
bần cùng, hao tổn!”
Từ Hạnh
ở Ngô Trung, tánh t́nh tham lam, ác độc. Thoạt đầu
làm kẻ buôn dược liệu, chèn ép, lừa gạt
để làm giàu. Hắn ôm tiền của sang Liêu Đông
để buôn nhân sâm, gặp giặc kéo tới, chịu
đủ mọi nỗi kinh khủng. Trong muôn phần chắc
chắn là chết, lại được sống. Về
sau, lại qua huyện Đăng Lai tỉnh Sơn
Đông, lại gặp phải cừu gia tố cáo hắn
ta là dư đảng của Bạch Liên Giáo, bắt giữ, toan giải lên quan, phải tốn sạch tiền
của mới được thoát. Cuối cùng, hắn ta lại
sang Xuyên Trung buôn bán dược liệu, đến khi quay về,
thuyền đi được nửa đường, bỗng
có thủy tặc kéo tới, phải bỏ của chạy
lấy người. Từ đấy trở đi, gia cảnh
suy sụp, buồn lo, uất ức, ngă bệnh mà chết.
(Chánh
văn) Nhân giai ố chi.
(正文)人皆惡之。
(Chánh văn: Mọi người
đều ghét).
“Ố” (惡) là ghét bỏ. Ngọc Xu Kinh[1] nói: “Nhược nhân bất tu thiện
nghiệp, thiên tất vi chi trảm thần nhiếp phách, sử
chi điên đảo, nhân sở yếm ố, nhân sở hiềm
hại” (Nếu kẻ nào chẳng tu nghiệp lành, trời
ắt sẽ cắt xén tinh thần, thâu bớt phách, khiến
cho kẻ ấy điên đảo, bị người khác
chán ghét, bị kẻ khác hiềm nghi, làm hại). Nay ta căm
hận kẻ khác lừa dối ta, há có biết là tự
đă đánh mất cơ hội phản tỉnh[2], khiến
cho ta luôn chẳng gặp thời ư? Từ nay, ta
được may mắn [v́ được nghe giáo huấn
từ trong Cảm Ứng Thiên], xin hăy nên đổi chí, gột
ḷng, theo lành, bỏ ác, ắt ḷng trời sẽ nhân từ,
khoan dung, chẳng tru diệt kẻ biết hối cải
tội lỗi. Lỗi cũ có thể chuộc, hạnh sau
có thể mong, dẫu là kẻ bẩm sanh biết lỗi,
hay là kẻ do gặp cảnh khốn cùng mới biết[3], hễ thành
công th́ đều như nhau. Muôn phần chớ nên tự
ruồng rẫy chính ḿnh!
Kẻ làm ác, ai
nấy đều chán ghét. Ấy là v́ lẽ công bằng ở
ngay trong ḷng người, mà cũng chính là chỗ lương
tâm vốn tốt lành vậy! Chỉ mong hăy dấy lên ư niệm
[vốn tốt lành] ấy, thấy điều thiện của
kẻ khác mà chính ḿnh chẳng bằng, thấy điều
bất thiện sẽ như chạm phải nước
sôi, bèn tự gắng sức ḥng đạt đến chỗ
“có thiện, không ác”. Nếu chỉ ghét suông điều ác của
kẻ khác, chẳng trừ khử điều ác của
chính ḿnh, lẽ nào sẽ tránh khỏi [chính ḿnh] chẳng bị
kẻ khác ghét bỏ ư?
Đời
Đường, Lai Tuấn Thần làm Thị Ngự Sử,
do ăn hối lộ mà của cải [tích tập] như
núi, oan hồn nghẽn đường! Rốt cuộc, do mưu phản mà bị chặt đầu ngoài chợ,
người ta tranh nhau ăn thịt hắn, khoét mắt,
giành tim, trong chốc lát đă hết sạch!
Lại nữa,
đời Tống, Đinh Vị và Khấu Lai Công (Khấu
Chuẩn)[4]
làm quan đồng triều. Người trong thiên hạ hễ
nhắc tới ông Khấu bèn bảo là bậc tận trung.
Nhắc tới họ Đinh, ắt kêu là gă gian nịnh. Hễ
nghe có điều tốt lành nào, họ ắt quy về ông
Khấu, [dẫu điều thiện ấy] chưa chắc
đă là do ông Khấu làm. Hễ nghe một điều ác, ắt
quy tội cho gă họ Đinh, dẫu chưa chắc là do gă
họ Đinh gây nên!
Lại nữa,
đời Tống, Tần Cối khi quân, làm hại nước
nhà, hăm hại bậc trung lương. Cả trăm đời
sau, chẳng có ai không ghét sự gian trá của hắn! C̣n Nhạc
Vương (Nhạc Phi) tinh trung báo quốc, đời sau
cũng chẳng có ai không ngưỡng mộ phong thái của
Ngài. Đền thờ Ngài có đúc tượng Tần Cối
và vợ là Vương Thị bằng sắt, quỳ
trước án, [bên cạnh] treo một bàn tay bằng gỗ.
Người từ nơi xa chốn gần đến bái yết,
đều kính cẩn lạy Nhạc Vương, lại cầm
bàn tay gỗ vả tượng [vợ chồng Tần Cối].
Gộp chung lại để xét, dân vốn chẳng có tâm
yêu ghét riêng tư, [mỗi người được yêu
hay ghét] khác nhau là do tương ứng với thiện hay
ác vậy!
(Chánh
văn) H́nh họa tùy chi.
(正文)刑禍隨之 。
(Chánh văn: H́nh phạt, tai họa
theo nhau [xảy tới]).
“H́nh” (刑) là h́nh phạt nơi cửa quan. “Họa” (禍) là tai ương từ trời. “Tùy”
(隨) nghĩa là đeo cứng theo, chẳng ĺa
khỏi. Thái Hư chân nhân[5] nói: “Nếu người khác gieo họa
cho ta, ta dùng phước đáp trả. Như vậy th́ khí
phước đức thường sanh nơi ta. Khí tai hại,
ương họa nặng nề tự sanh nơi kẻ ấy”. Ở đây nói“h́nh họa” (h́nh phạt và tai họa) thường theo sát kẻ ác, tức là khí tai hại, tai
ương nặng nề luôn ở nơi thân kẻ ấy!
Kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Diêm Phù Đề nội,
ngũ trược chúng sanh, bất tu Thập Thiện, chuyên
tạo ác nghiệp, sát, đạo, tà dâm, vọng ngôn, ỷ
ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, tham, sân, tà kiến,
bất hiếu phụ mẫu, bất kính Tam Bảo, cánh
tương phẫn tranh, hỗ kiến hủy nhục, nhậm
t́nh khởi kiến, phi pháp mưu cầu. Dĩ thị nhân
duyên, đao binh, cơ cẩn, tật bệnh, tử, tang, nhân họa, thiên h́nh, chủng chủng thọ báo” (Trong cơi Diêm Phù Đề, chúng sanh ngũ
trược chẳng tu mười điều thiện,
chuyên tạo nghiệp ác, giết, trộm, tà dâm, nói dối,
nói thêu dệt, ác khẩu, nói đôi chiều, tham, sân, tà kiến,
bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính trọng Tam Bảo,
do giận dữ mà tranh chấp với nhau, hủy báng, nhục
mạ lẫn nhau, mặc t́nh dấy lên kiến giải [tự
cậy là đúng], mong cầu phi pháp. Do nhân duyên ấy, chiến
tranh, đói kém, tật bệnh, chết chóc, tai họa do
người, tai vạ từ trời, thọ báo đủ
mọi lẽ). Do vậy, bèn nói: Có thể thấy [tai họa]
luôn luôn là do nghiệp của chính ḿnh chiêu cảm, chẳng
phải do ai khác tạo ra! Nhưng xu cát, tỵ hung (hướng
lành, tránh dữ) chỉ trong một niệm, thiên đường
hay địa ngục chỉ ở trước mắt. Nếu
có kẻ nào thật sự tu các điều thiện mà
vướng phải ác báo, ắt chẳng có lẽ ấy!
Đời Hán,
Lương Thống xin tăng cường pháp luật nặng nề
hơn, triều đ́nh chẳng thuận theo. Sau đó,
Lương Thống mộng thấy thần bảo: “Tuy
may mắn là triều đ́nh không nghe theo lời
ngươi, nhưng âm phủ đă ghi lỗi của ngươi rồi. Nay ngươi toan dùng
h́nh pháp để đối xử tàn độc với kẻ
khác, con cháu sẽ bị báo ứng, há có thể tránh khỏi
bị h́nh phạt ư? Mắc tội với trời,
không thể cầu xin được!” Con cái của
Lương Thống đều chết ngang trái. Cho tới
khi tội ác càng sâu, rốt cuộc bị diệt tộc.
Lưu Giáp hễ
giao du với ai, [kẻ ấy] ắt mắc họa.
Vương Kiến chẳng tin, vừa mới nói ra,
chưa hết ngày, Vương Kiến đă bị hỏa
hoạn. Do vậy, [Lưu Giáp] bị coi là kẻ mang lại
điềm gở[6], hễ trông
thấy, [ai nấy] đều nhanh chân tránh né. Mai Thừa
nói: “Có nền tảng để
sanh ra phước, có căn nguyên để sanh ra họa.
Hăy tiếp nhận nền tảng phước, đoạn
tuyệt căn nguyên họa, họa sẽ do đâu mà có?”
Chí lư thay!
(Chánh
văn) Cát khánh tỵ chi.
(正文)吉慶避之。
(Chánh
văn: Điều tốt lành, vui mừng tránh né).
“Tỵ” (避) có nghĩa là cầu mà chẳng được!
Đạo trời chẳng thiên vị, chỉ ưa thích
người lành. Người có thể bỏ ác, làm lành, giữ ḷng khiêm cung, thuận
theo thiên lư, tự nhiên tĩnh th́ sẽ hợp với đạo,
động th́ đều có phước. Nếu như trái
nghịch, [xét theo phương diện] rơ ràng th́ sẽ bị
pháp luật trừng phạt, [xét theo phương diện]
ngấm ngầm th́ bị thần tru lục, giảm thọ,
yểu thọ, điều lành sẽ tránh né, sự hung hiểm
đưa tới. Tất nhiên là chẳng thể tránh khỏi!
Xưa có chàng học
tṛ họ Vương, bẩm tánh gian ác, toàn làm những chuyện
trái lư nghịch trời. Anh ta dự khóa thi mùa Thu[7], văn
chương rất hay, viên quan chấm bài muốn xếp
anh ta vào loại đỗ đầu. Tới khi lên danh sách
[những người thi đậu], bỗng để thất
lạc quyển bài thi ấy. Ghi danh sách xong, hóa ra quyển
bài thi ấy bỏ trong tay áo. Viên quan giám khảo hết sức
hối hận, ngầm gặp mặt chàng, hứa hẹn
sẽ dùng chuyện khác để bổ cứu. Không lâu
sau, viên giám khảo được chuyển sang Thuyên Bộ
(bộ Lại), chàng Vương bèn nộp thóc để
được vào trường Thái Học[8] và dự khảo
tuyển. Viên quan giám khảo đang coi sóc việc tuyển
chọn, thấy chàng Vương bèn rất mừng, ngấm
ngầm chuẩn bị để bù đắp êm đẹp
thiếu sót [trong lần trước, dự tính] nhờ vào
“ân lệ”[9] để
tuyển [chàng Vương làm quan]. Tới kỳ hạn,
viên quan giám khảo v́ tang cha phải xin nghỉ [cư tang]
tới ba năm sau mới lại ra làm việc, vẫn
được bổ nhiệm trông coi việc tuyển khảo.
Chàng Vương cũng dùng lư do thâm niên để xin dự
tuyển, ḥng được bổ làm một chức quan,
coi như [nắm chắc] có thể đạt được
[lương bổng] vạn lượng rồi. Chưa
được mấy hôm, chàng Vương gặp phải
tang mẹ, phải
cư tang [không thể làm quan]. Viên
giám khảo thương chàng Vương số mạng bần
cùng, bèn tiến cử chàng dạy học ở nhà quan Tuần
Phủ, [cứ ngỡ] trong ba năm chắc cũng có
được ngàn lượng [do hưởng lương
bổng]. Chưa tṛn một tháng, quan Tuần Phủ v́ chuyện
[sai phạm] cũ mà mất chức quan. Mấy lượt
gặp kỳ ngộ, đều trở thành bánh vẽ!
Chàng Vương phẫn hận thành bệnh, nằm bẹp trên giường suốt ba năm. Một
hôm, bỗng ngộ ra, nói: “Đều là do những điều ác của
ta tích tập vậy”. Sau đấy, bệnh dần dần
khỏi, c̣n được chết an lành.
Ông Tiết Tây Nguyên
thường nói: “Đối với
phước lộc trong ṿng trời đất, nếu chẳng
giữ tấm ḷng lo lắng, siêng năng, dè dặt, gắng
công, sẽ chẳng đạt được. Nếu chẳng
làm những chuyện giúp người, lợi vật, sẽ
chẳng hưởng [phước lộc] được”.
Lời ấy đúng thay!
(Chánh
văn) Ác tinh tai chi.
(正文)惡星災之。
(Chánh
văn: Sao ác giáng tai họa).
“Ác tinh” (惡星) là thần chưởng quản hết thảy
tai họa, ách nạn trong nhân gian. Người sống trên
đời, mỗi ngày, mỗi tiết khí[10] đều
do tinh quang (星光)[11] chủ quản.
Tâm kẻ ác thường tối tăm, khí đen xông lên cao.
Do điều ác chuốc vời sự ác; v́ thế, có sao
ác. Do đó, có những ngôi sao ác chiếu tới, giáng tai họa.
Nếu là thiện nhân, do tánh thể quang minh, khí phận ác sẽ
lui tan. [Các ác tinh] tránh né [người ấy] sợ c̣n chẳng
đủ nhanh, huống hồ gieo tai họa cho người
ấy ư? Ôi! Ác do con người tự tạo ra, tinh tú
mới có thể gieo tai họa được. Chẳng phải
là do tinh tú gieo họa, mà là do người ta tự gây nên tai
họa. Chẳng phải tinh tú là ác, mà là do con người
tự làm ác vậy! Vậy th́ người ta há chẳng nên
kiêng sợ, tu tỉnh để văn hồi ḷng trời
ư?
Mă trưởng
sử[12]
ở Cử Thành, tỉnh Sơn Đông, cậy tài mặc
sức hoành hành, không điều ác nào chẳng làm. Một
hôm, có một vẫn thạch rớt xuống nhà hắn, biến
thành đá. Từ đấy, những chuyện kiện
thưa, tù ngục, khẩu thiệt, tật bệnh v.v… chẳng
dứt! Hơn một năm sau, trưởng sử chết,
người nhà ly tán, pḥng ốc rỗng tuếch! Viên
đá ấy mỗi
bề to mấy thước,
màu hơi tím, có những đường vằn giống
như chữ viết, đến nay vẫn c̣n.
(Chánh
văn) Toán tận tắc tử.
(正文)算盡則死。
(Chánh
văn: Hết tuổi thọ sẽ chết).
Câu này chính là Thái Thượng rát miệng
buông lời răn dạy. Tập khí ác của chúng sanh khó
thể dẹp trừ. Làm các điều bất thiện,
nghiệp thức mờ mịt, [giống như] lửa
cháy hao dầu. Mỗi ngày qua đi là [thọ mạng] mất
đi một ngày, tuổi thọ bị giảm dần tới
hết[13].
Chết rồi hăy c̣n nợ, ch́m đắm trong địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tức ba đường ác
hiểm, nghiệp báo chẳng cùng tận, khổ sở
không ngớt! Ai nói “chết rồi là hết, chẳng c̣n có
chuyện ǵ khác nữa”. Nói đến đây, khôn ngăn lớn
tiếng kêu gào, đau đớn khóc lóc, nước mắt
đầm đ́a! Ôi
chao! Thân người dễ mất, định nghiệp trốn
được sao? Chỉ mong bậc thông triết, người
có chí, hăy tin sâu chẳng nghi. Thừa dịp hăy c̣n một hơi thở, hăy nên sám hối tội ác ngập trời. Nếu
như vẫn chần chừ, do dự, trăm năm như
mũi tên bay, một khi đến lúc Tứ Đại chia
ĺa, dẫu hối hận há có thể cứu văn được
ư?
Xưa có một
cụ già, chết rồi gặp Diêm Vương, trách móc nhà
vua chẳng sớm gửi thư nhắc nhở. Vua nói: “Mắt
ông mờ là thư thứ nhất. Tai ông điếc là
thư thứ hai. Răng ông rụng là thư thứ ba. Thân
thể ngày càng suy, chẳng biết là thư thứ mấy?”
Lại có một thiếu niên đến đó, cũng trách
nhà vua: “Tôi mắt sáng, tai tỏ, răng sắc, thân thể
khỏe mạnh, sao vua không gởi thư cho tôi?” Vua bảo:
“Ta cũng có gởi thư cho ngươi. Ngươi không thấy hàng xóm bên Đông có kẻ mới ba, bốn mươi tuổi mà đă chết
đó thôi! Hàng xóm bên Tây có kẻ mới mười hoặc
hai mươi tuổi mà chết đấy thôi! Cũng có đứa
trẻ vừa đầy năm, hoặc có trẻ thơ
mà chết đấy thôi! Đều là thư tín cả!”
Do vậy nói: “Mạng người vô thường,
ví như sương buổi sớm. Một hơi thở
ra chẳng hít vào được nữa, thân này là cái vỏ”.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương có chép: “Đức Phật hỏi sa-môn:
‘Mạng người trong khoảng nào?’ Thưa: ‘Mấy
ngày’. Đức Phật bảo: ‘Ông chẳng biết đạo’.
Lại hỏi một vị sa-môn khác, vị ấy đáp:
‘Trong khoảng bữa ăn’. Đức Phật bảo: ‘Ông
chẳng biết đạo’. Lại hỏi một sa-môn
khác, vị ấy thưa: ‘Trong một hơi thở ra, hít
vào’. Đức Phật bảo: - Lành thay! Ông biết đạo”.
Đời Nguyên,
thiền sư Thiên Như chùa Sư Tử Lâm ở Cô Tô nói:
- Phật, Tổ
xuất thế, chỉ riêng v́ những kẻ như các ông!
Ai nấy dưới gót chân của chính ḿnh đều có một
đoạn sanh tử đại sự. Đó gọi là ‘sanh chẳng biết từ
đâu đến, chết không biết đi về đâu’.
Sanh tử như thế trọn hết đại địa,
bị nó giam nhốt trong lồng. Từ xưa tới nay,
chẳng có một ai không bị sanh tử nuốt chửng.
Đừng nói chi thời cổ, chỉ nói từ lúc ông
chào đời đến nay, hăy hồi tưởng mười
năm hay hai mươi năm trước, thân thích, bằng
hữu đă chết bao nhiêu? Đừng nói tới người
khác, chỉ nói về chính ông. Đối với sắc thân
Tứ Đại hiện tiền, lầm nhận là ta, từ
sáng đến tối, đủ mọi thứ yêu
thương, bảo vệ nó, đủ mọi thứ
chăm chút cho nó. Nó vẫn đổi thay trong mỗi niệm,
dần dần tiêu mất. Bất tri, bất giác, ngày Ba
Mươi tháng Chạp xảy đến, chỉ cảm
thấy chân cuống, tay loạn, giống như con cua rớt
vào nước sôi. B́nh thường là anh hùng hào kiệt,
[trong lúc ấy] có c̣n thật sự giữ được
nữa chăng?
Lại nữa,
sau khi đă chết, dáng vẻ biến hoại, xú uế
khiến người khác kinh hăi. Tuy là cốt nhục chí
thân, cũng chẳng chịu nh́n thẳng vào. T́nh nghĩa ân ái thường ngày, há c̣n
đâu nữa? V́ thế, tổ sư nói: “Hễ một hơi thở ra không hít vào được
nữa, sẽ giống như bụi đất. Lối
trước mờ mịt, chẳng biết đi về
đâu!” Chỉ đành mặc cho chết rồi bèn thiêu,
đúng là đáng thương!
Huống hồ
c̣n phải theo nghiệp thọ báo, đúng là chuyện khẩn
yếu. “Theo nghiệp thọ báo” là ǵ? Những ǵ các ông đă làm, đă tạo
trong thường ngày, chẳng có ǵ không phải là nghiệp!
Hễ có nghiệp bèn có báo. Báo thuận theo nghiệp như
bóng theo h́nh. Thân này đă chết, thần thức hoặc đọa
địa ngục, hoặc đọa ngạ quỷ, súc
sanh. Xoay vần luân hồi, chịu vô lượng khổ. Ở
nơi đây là cảnh giới thọ báo, ở nơi kia
là sanh tử nghiệp căn. Nghiệp căn ở ngay
trong một niệm hiện thời của ông. Từ vô thỉ
đến nay, ông do tham, sân, si, vô minh phiền năo, vọng
tưởng cuồng tâm, chạm cảnh gặp duyên, theo
đuổi thanh sắc, khiến cho [cái tâm] điên đảo
nháo nhào, không nghiệp nào chẳng tạo! Đấy chính
là cội rễ sanh tử vậy!
Suy lường
chuyện sanh tử, dẫu là kẻ sắt đá cũng
nguội lạnh tấm ḷng! Do vậy, Phật, Tổ vận
dụng ḷng từ bi rộng lớn, phát khởi ḷng xót
thương to tát, dạy các ông tham Thiền, học đạo,
khiến cho ông quét sạch vọng tưởng, cuồng tâm, nhận
biết chủ nhân ông, nhận biết diện mạo sẵn
có. Hăy tranh thủ lúc mắt c̣n sáng, chân c̣n mạnh, để
làm một người giải thoát thanh tịnh! Tới khi
lâm chung, sẽ được thọ dụng to lớn,
sanh tử vô ngại, đi ở tự do. Đấy gọi là “liễu sanh thoát tử”, thật sự là bậc
đại trượng phu!
Đời
Minh, trong một khúc ca của Liên Tŕ đại sư ở
chùa Vân Thê, Hàng Châu có đoạn: “Quân
bất kiến Đông gia phụ, kiện như hổ. Phúc
dựng thường tương niên nguyệt sổ. Tạc
tiêu do tự ỷ môn lư. Kim triêu mạng dĩ quy hoàng thổ.
Hựu bất kiến Tây gia tử, mănh như long. Hoàng hôn
băo phạn, thụy chánh
nùng. Du hồn nhất khứ bất phục phản. Ngũ
canh mạng dĩ thuộc Diêm ông. Mục tiền nhân, thượng
như thử. Viễn địa tha phương na khả
sổ? Tế tương thân hữu tế thôi tầm. Niên
khứ nguyệt lai đa thiểu tử. Phương tín
đắc, Tử Dương thi. Ngữ đích ngôn chân quả bất khi. Tạc nhật nhai
đầu do tẩu mă, kim triêu quan nội dĩ miên thi. Linh
lợi nhân, hưu kháp thụy. Biệt nhân dữ ngă đồng
nhất loại. Hồ thố tương khan bất giảo
đa. Nhăn tiền phóng trước đa thiểu lệ.
Toản mă phúc, nhập ngưu thai. Địa ngục tâm
toan cánh khả ai. Nhược hoàn yếu đắc nhân
thân phục. Đông hải lao châm mạn đả nhai. Ngă
tác ca, chân khổ thiết. Nhăn trung trích trích lưu tiên huyết.
Khổ khuyến thế nhân tác cấp tu. Hồi đầu
mănh tỉnh tu tự quyết” (Tạm dịch: Anh có thấy thiếu phụ nhà
bên Đông khỏe như cọp, quanh năm mấy tháng ôm
bụng bầu, tối qua vẫn c̣n đang tựa cửa,
sáng nay đă xuống chốn hoàng tuyền. Lại chẳng
thấy gă trai nhà bên Tây mạnh như rồng. Chập tối
ăn no, ngủ thật say. Hồn đă ĺa thân chẳng trở
lại, canh năm mạng đă thuộc Diêm quân. Người
trước mắt đă là như thế. Chỗ xa
phương khác biết bao nhiêu? Xét kỹ người thân
cùng bằng hữu, năm qua tháng lại chết bao người?
Mới tin lời thơ của Tử Dương. Lời
lẽ đích xác, thật chẳng lừa. Hôm qua c̣n cưỡi
ngựa ngoài phố, hôm nay xác lạnh trong quan tài. Kẻ
lanh lợi thôi đừng ngủ gật, người khác
và ta giống hệt nhau. Cáo thỏ nh́n nhau[14] có khác ǵ,
bao nhiêu gương đă bày trước mắt, lọt vào
bụng ngựa, nhập thai lừa, địa ngục xót
ḷng buồn bă nhỉ, mong được làm người lần
nữa ư? Đông hải ṃ kim vẫn chóng hơn! Tôi soạn
bài ca, đau đớn bấy! Mắt tuôn từng giọt
máu tươi hồng. Khổ sở khuyên người hăy gấp
tu, quyết nên tỉnh ngộ gấp quay đầu!)
Trong bài văn
Phổ Khuyến Tu Hành của Nhan Bính đời Tống có
đoạn:
- Chỉ nói
đến sắc thân này, ai tin “cái thân là gốc khổ”, cứ tận hết sức tham hưởng niềm
vui trong cơi đời. Chẳng biết lạc là cái nhân của
khổ. Kiếp phù sinh dễ qua, há tồn tại lâu dài!
Huyễn chất chẳng chắc chắn, rốt cuộc
đều ṃn diệt. Trước ngày vào trong bào thai, há có
h́nh thể nam nữ này? Chỉ nhờ vào Địa, Thủy,
Hỏa, Phong giả hợp mà thành, chẳng tránh khỏi nỗi
khổ sanh, lăo, bệnh, tử điêu tàn. Trên là chẳng có
tơ tóc để vướng mắc, dưới là chẳng
có căn cội để sanh. Hư huyễn, phập phều
như bọt nước, chỉ tồn tại trong thoáng
chốc, chẳng
lâu dài, mỏng manh như hạt
sương treo ngọn cỏ, bỗng dưng chẳng c̣n!
Người sống lâu, bất quá sáu, bảy mươi năm đều chết
ngóp. Đứa đoản mạng, phần lớn là hai, ba chục tuổi đă chết yểu! Lại
c̣n ngày nay chẳng biết chuyện ngày mai, lại c̣n có
chuyện lên giường chẳng có lúc xuống giường!
Gần như là một hơi không hít vào được nữa,
sẽ là ngàn thu vĩnh biệt.
Than ôi! Thân này
chẳng thật, hiềm rằng có ai mà chẳng bị nó
lừa? Gân chằng bộ xương bảy thước,
da bọc một túi thịt. Chín lỗ thường tuôn những
thứ bất tịnh. Sáu căn mặc t́nh phô bày vô minh. Tóc, lông, răng,
móng, tụ tập như đống bụi. Nước miếng,
đàm, dăi, các chất dịch, bẩn như cầu
tiêu di động. Bên trong toàn là gịi, trùng tụ hội; bên
ngoài rủ rê muỗi, rận vầy đoàn. Hễ vướng
phải tai ương, bệnh tật, đều có thể
chết người. Nóng bức, lạnh căm, thúc giục
con người chóng già. Mắt bị sắc dắt về ngạ
quỷ. Tai theo tiếng đọa trong A Tỳ. Miệng nếm
trọn hết ngàn thứ vị, chết rồi chỉ
thêm mấy giọt dầu[15].
Tấm thân này
chớ nên yêu tiếc! Mọi người hăy nguyện xuất
ly, cớ sao mê muội vậy? Vẫn c̣n tỏ lộ vẻ
phong lưu, tức là gă hồ đồ, vẫn c̣n sanh khởi
điên đảo. Hoặc có kẻ trên chiếc đầu
lâu, cài hoa, giắt cỏ; hoặc có kẻ bên cái đăy da
thối, đeo xạ, ướp hương. Áo lượt
là phủ trùm túi máu mủ. Mền gấm che đắp
thùng cứt đái. Dùng trọn trăm kế gian ngoan, cho là
sẽ sống vạn năm trên cơi đời. Chẳng biết
đầu nhức, mắt hoa, vua Diêm La [sắp sửa] đón tiếp
người trở về. Lại c̣n bạc tóc, rụng răng, quỷ vô
thường gởi thư t́m kiếm.
Ai nấy luyến
sắc tham tài, đều là con đường tắt
để đánh mất thân người. Ngày ngày nốc
rượu, xơi thịt, không ǵ chẳng phải là gieo
sâu cội rễ địa ngục. Mong cầu vui sướng
chốc lát trước mắt, thân sau chịu đắng
cay muôn kiếp! Một mai mạng căn đă tuyệt, lúc
phong đao Tứ Đại cắt xẻ, ngoài th́ chân tay
co quắp, trong th́ gan ruột nứt toác đau nhói. Dẫu
vợ con thương tiếc, chẳng có cách nào giữ ông
lại. Ví như cốt nhục đầy nghẹt trước
mặt, có ai chết thay cho ông? Lúc sanh ra chỉ gào khóc thống
thiết, chết th́ chẳng khỏi thần thức
bươn bả! Tiền đồ chẳng thấy quang
minh, nh́n khắp trọn không bầu bạn. Qua khỏi bờ
Nại Hà, những ǵ trông thấy không ǵ chẳng bi
thương! Vào quỷ môn quan, khắp chốn thảy
đều thê thảm. Trên dương thế mới qua bảy
ngày, trong cơi âm đă bị áp tải qua chỗ thập
vương. Tào quan ôm hồ sơ chẳng nể t́nh, ngục
tốt cầm chĩa chẳng thèm cười! Kẻ b́nh
sanh làm lành, được đưa về thiên đạo,
tiên đạo, nhân đạo. Kẻ thường ngày tạo
ác, bị ép vào thang đồ, hỏa đồ, đao
đồ[16].
Vạc sôi sùng sục như núi lở, rừng gươm
như thế núi chót vót. Rót nước đồng sôi, khắp
thân nát thịt. Nuốt viên sắt khắp miệng bốc
khói. Bị xay, giă, máu thịt đầm đ́a. Vào hàn
băng, da dẻ đông cứng, nứt toạc. Thân đă
nát, gió nghiệp thổi qua bèn sống lại. Mạng
đă hết, la-sát hét bèn hồi sanh.
Nhân gian đă
qua trăm lần xuân thu, trong địa ngục mới là
một ngày một đêm. Hồn phách tuy đă về quỷ
giới, xác thân vẫn nằm trong quan tài. Hoặc cách
dăm ba bữa, hoặc trong ṿng sáu, bảy tháng, sẽ hư nát xuất huyết,
sanh trùng. Thối um xông sực trời đất,
trương phềnh chẳng nỡ nh́n! Xấu ác thật
đáng sợ! Thôi thúc [người c̣n sống] phải cho
một mồi lửa, chôn hẳn trong núi hoang vạn dặm.
Thuở trước là hồng nhan nũng nịu, bỗng trở thành tro tàn. Nay th́
xương trắng chốn hoang vu, biến thành khối
bùn! Xưa kia ân ái, đến nay rỗng không! Xưa làm anh
hùng, nay c̣n chi nữa! Khi lệ tuôn đầm đ́a, vắng
tanh vắng ngắt. Gió buồn thổi lạnh ù ù! Đêm
sâu quỷ khóc thần gào. Lâu năm ắt quạ mổ,
chim rỉa. Cỏ hoang phủ trùm bia đá. Cành dương
xanh vướng
tiền giấy phất
phơ[17].
Rốt cuộc đều khó tránh như thế, đă đến
chỗ này rồi sao chẳng tỉnh ngộ?
Mọi người
đều có mắt, hăy thôi hồ đồ. Xoay người
nhảy khỏi bến mê, trong một khảy ngón tay, xé
toang lưới ái. Hăy thôi t́m cách sống trong hang quỷ, phải
biết trong khối thịt có chân nhân. Là nam hay nữ đều
có thể tu. Dẫu trí hay ngu thảy đều có phần.
Chỉ xin hồi quang phản chiếu, sẽ biết bản
thể vốn là Không. Nếu chưa thể học đạo,
tham Thiền, vẫn nên siêng tŕ trai, niệm Phật. Xả
ác theo lành, sửa lỗi cũ, từ nay tu tập. Chuyển
lục tặc thành lục thần thông. Ĺa bát khổ, đắc
bát tự tại, sẽ khéo thay trời hành hóa, chẳng ngại
thay Phật tiếp dẫn người khác. Đối
trước mọi người, v́ đại chúng tuyên
dương. Trở về nhà, v́ cả nhà giải nói, khiến
cho nơi nơi đều biết giác ngộ. Dạy trọn
hết mọi người đều tránh khỏi trầm
luân. Trên là giúp chư Phật chuyển pháp luân. Dưới
là cứu bạt chúng sanh ĺa biển khổ. Chẳng tin lời
Phật, lời nào đáng tin? Chẳng tu đạo làm
người, đường khác sẽ khó tu. Đừng
để có ngày thay lớp da[18], dẫu có
ngàn vị Phật cũng khó cứu được
ngươi! Hăy khẩn cấp tiến lên, thời gian chẳng
đợi ai. Xin mỗi vị hăy ngay lập tức gánh
vác, đừng để luống uổng đời này!
(Chánh
văn) Hựu hữu Tam Thai, Bắc Đẩu thần
quân, tại nhân đầu thượng, lục nhân tội
ác, đoạt kỳ kỷ toán.
(正文)又有三台北斗神君。在人頭上。錄人罪惡。奪其紀算。
(Chánh
văn: Lại có Tam Thai, Bắc Đẩu thần quân, ở
trên đầu con người, chép tội ác của họ,
giảm bớt tuổi thọ).
Đoạn này
nhằm nói đến cái thân của mỗi người,
đi, đứng, nằm, ngồi, đều có quỷ thần
giám sát. Tam Thai[19] gồm có
sáu ngôi sao, Thượng Thai coi về mạng, Trung Thai coi về
phước, Hạ Thai coi về lộc, chủ tŕ sanh, tử,
thọ, yểu của con người. Bắc Đẩu
chính là Tử Cực Đô Tào[20], là cội
nguồn của mặt trời, mặt trăng, sông, rạch,
biển, cả, kết hợp các đức của Âm, Dương, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy,
tuyên dương oai quyền trong tam giới, ngự trị
trọn khắp vạn linh, xoay chuyển khí vận [của trời đất],
châm chước lẽ tử sanh. Hễ ai phạm tội
lỗi, sẽ ghi vào sổ ác, đo lường nặng nhẹ.
“Đoạt kỳ kỷ toán”
(Giảm bớt tuổi thọ của họ):
“Kỷ” (紀) là mười hai năm, [Toán là một trăm
ngày]. Quản Lộ[21] lại nói:
“Nam Đẩu ghi chép về
sanh, Bắc Đẩu ghi chép về tử. Hễ con
người thọ thai, đều từ Nam Đẩu đến
Bắc Đẩu. Nếu có điều cầu nguyện,
hăy nên hướng về Bắc Đẩu”. Thất
Chân (七真)[22] lại nói: “Ta
mỗi tháng vào ngày mồng Ba và ngày Hai Mươi Bảy, ắt
sẽ giáng hạ một lần, nhận sự cúng tế
của con người, xem xét sự thiện ác của con
người”.
Kinh Nghiệp
Báo Nhân Duyên lại nói: “Khí của
bảy ngôi sao thường kết thành một v́ sao ở
trên đầu con người, cách đỉnh đầu
ba tấc. Nếu người ấy làm lành, [ngôi sao ấy]
sẽ sáng ngời; hễ làm ác, ánh sáng sẽ lu mờ. Đại
thiện th́ quang minh càng sáng ngời.
Đại ác th́ ánh sáng tắt mất. Con người không
thấy, nhưng quỷ thần
trông thấy”. Nay nói
ở trên đỉnh đầu người ta, chép tội
để trừ bớt tuổi thọ, xác thực chẳng
phải là hư vọng vậy!
Đời Đường,
Lâu Sư Đức, vào thời Cao Tông, có công huân to lớn,
được vua yêu chuộng. Một sáng thức dậy,
chợt thấy tinh quan[23] bảo: “Ông
từng giết lầm hai mạng người. Do tội ấy
sẽ bị giảm thọ mười hai năm. Ánh sáng của
ngôi sao [trên đỉnh đầu] sắp tắt”. Ngày hôm ấy,
ông Lâu lập tức thần trí lờ đờ; do vậy, bảo mọi người: “Ta
suốt đời cẩn thận, chỉ v́ ngộ sát hai
mạng, nay đă bị chết sớm hơn [tuổi thọ
vốn có] mười hai năm”. Không lâu, quả nhiên qua
đời. Trương Củng Thần[24] nói: “Ông Lâu thuở trước
được khen là sáng suốt, khoan dung, là bậc trọng
thần đời Đường, c̣n chẳng tránh khỏi
bị giảm thọ mười hai năm, huống chi
thường nhân tạo ác lắm nỗi ư? Há chẳng
thận trọng hay sao?”
(Chánh
văn) Hựu hữu Tam Thi thần, tại nhân thân trung, mỗi
đáo Canh Thân nhật, triếp thượng nghệ thiên
tào, ngôn nhân tội quá.
(正文)又有三尸神。在人身中。每到庚申日。輒上詣天曹。言人罪過。
(Chánh văn: Lại có thần
Tam Thi ở trong thân con người, mỗi khi đến
ngày Canh Thân, bèn lên thiên tào, tâu tội lỗi của người
ta).
Đoạn này
nói về cái tâm của mỗi người. Ư niệm vi tế
vừa dấy động, đều có quỷ thần giám
sát.
Thượng Thi
Thanh Cô tên là Bành Cứ (彭踞), ở trong đầu người, khiến cho
người ta suy nghĩ nhiều, ham muốn nhiều, mắt
mờ, tóc rụng. Trung Thi Bạch Cô tên là Bành Chí (彭躓), ở trong ruột người, khiến
cho con người ham ăn, hay quên, thích làm chuyện ác. Hạ
Thi Huyết Cô tên là Bành Kiểu (彭蹻) ở trong chân người, khiến cho
con người háo sắc, thích giết chóc, tứ chi, nội
tạng bị nhiễu động. Tam Thi mong cho con người
mau chết, để họ thoát ra khỏi [thân người]
trở thành quỷ, hưởng thụ huyết thực[25]. V́ thế,
vào ngày Canh Thân, thừa dịp người ta ngủ say, [Tam
Thi] cùng với bảy phách trong thân lên chốn thiên tào, tâu
bày tội lỗi của người đó. Đó gọi
là “trong các loài quỷ nghe tiếng
từ nơi tâm, khẩu, ư, ngữ của con người,
Tam Thi nghe nhạy bén nhất”.
Người hiện
thời chẳng biết kiểm điểm, khắc chế
bản thân, thanh tâm, ít ham muốn, chỉ cậy suông vào phương
pháp “thủ Canh khử Thân”[26] của
Đạo gia, nhằm đoạn tuyệt con đường
đi tố cáo của Tam Thi. Đúng là tự dối ḿnh
đó thôi! Phải biết nếu ư niệm, suy nghĩ
đoan chánh, quỷ thần sẽ tự lui tránh, Tam Thi
cũng có ǵ đáng lo ư? Bài Tiêu Thi của Tŕnh Tử
(Tŕnh Di) có câu: “Bất thủ
Canh Thân cánh bất nghi. Thử tâm thường dữ đạo
tương y. Đế thiên dĩ tự tri hành chỉ, nhậm
nhĩ Tam Bành thuyết thị phi” (Chẳng cần không
ngủ trong ngày Canh Thân cũng chẳng có chi ngờ vực,
tâm này thường phù hợp với đạo, Thượng
Đế tự biết hành vi của ta, mặc kệ Tam
Bành tố cáo đúng sai ǵ đi nữa).
Tam Thi chính là hồn
phách trong thân người. Con người có ba hồn, một
là Sảng Linh (爽靈), hai là Thai Quang (胎光), ba là U Tinh (幽精). Thường nhân kêu gọi tên của
chúng, hồn sẽ yên, thân an định[27].
Lại nữa, tác phẩm chú giải Đạo Đức
Kinh có nói:
- Hồn là Thần
của Khí, có thanh, có trược. Sở dĩ miệng và
mũi [có thể] hít vào, thở ra; thở ra là Dương
rộng mở, hít vào là Âm bị thu lại. Phách là Thần
của Tinh, có hư và thật. Sở dĩ tai và mắt có
thể nghe, nh́n; nh́n là Dương thông sáng, nghe là sự nhạy
bén của Âm vậy. Dương thần là Nhật Hồn,
Âm thần là Nguyệt Phách. V́ thế, bậc chí nhân (thánh
nhân) dùng hồn để chuyển phách, c̣n mọi người
(phàm nhân) dùng phách để nhiếp hồn. Ban ngày, hồn
ở tại mắt; ban đêm, phách chứa trong gan. Mắt chẳng nh́n th́ hồn
ở gan, tai không nghe th́ Tinh ở thận. Lưỡi chẳng
động th́ Thần ở nơi tâm. Mũi vừa ngửi
th́ phách ở phổi. Bốn là vô lậu, Tinh là Thủy, Thần
là Hỏa, Hồn là Mộc, Phách là Kim, đều tụ hợp
trong Ư là Thổ, gọi là “ḥa hợp
bốn nhà”. Thâu hẹp ánh mắt, ngưng sự nghe
ngóng nơi tai, điều ḥa hơi thở nơi mũi,
thâu giữ khí nơi lưỡi, Tứ Đại[28] bất động,
khiến cho Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ đều
hội tụ nơi Trung Cung[29]. Đó gọi
là “ḥa hợp Ngũ Hành”.
Bởi lẽ,
do phách mà có Tinh, do Tinh mà có hồn, do hồn mà có Thần. Do
Thần mà có Ư, do Ư mà có phách. Năm là vận hành chẳng
ngơi; v́ thế, cái tâm hư ngụy của ta lưu chuyển
tạo hóa mấy ức vạn năm, chẳng có cùng cực.
Do vậy, bậc thánh nhân đối với sự diễn
tiến của vạn vật trước mắt, chẳng
dùng tâm (vọng tâm) để đối ứng, mà dùng tánh
để đối ứng. Tánh là tâm chưa nẩy sanh [vọng
niệm]. Chẳng có tâm (chẳng có vọng tâm sanh khởi),
sẽ chẳng có ư. Hễ chẳng có ư, sẽ chẳng có hồn,
cho nên chẳng bị sanh tử, luân hồi bèn dứt.
Thê Nham Hứa
chân nhân[30]
nói:
- Thường hành nội quán để trừ khử
Tam Thi, trừ diệt sáu tặc, dồn khí vào Đơn
Điền, định tâm nơi biển giác. Tâm định
ắt thần yên, khí trụ. Tinh, Khí, Thần hợp lại,
ba nhà (Tinh, Khí, Thần) tương ứng với nhau, kết
thành thánh thai.
Thanh Tịnh Kinh[31]
có nói:
- Nguyên thần của con
người chuộng sự thanh tịnh, nhưng cái tâm quấy
nhiễu. Ḷng người chuộng tĩnh, nhưng bị
dục lôi kéo. Hễ thường có thể trừ khử
ḷng dục ấy, cái tâm sẽ tự tĩnh. Lắng trong
cái tâm, nguyên thần tự thanh tịnh, tự nhiên lục
dục chẳng sanh, tam độc tiêu diệt.
C̣n như kinh Phật th́ dạy:
“Dùng gươm trí huệ phá giặc
phiền năo. Dùng đao trí huệ xé toạc lưới phiền
năo. Dùng lửa trí huệ đốt củi phiền năo.
Quán kỹ Tứ Đại vốn là Không, phiền năo c̣n
có chỗ nào để đặt chân nữa! Chuyển tam độc
thành tam giải thoát, xoay phiền năo thành Bồ Đề.
Như thế th́ tam nghiệp thanh tịnh, muôn đức vẹn
toàn, há c̣n có lỗi ác ǵ để nói nữa ư?”
(Chánh
văn) Nguyệt hối chi nhật, Táo thần diệc
nhiên.
(正文)月晦之日。竈神亦然。
(Chánh văn: Vào ngày cuối tháng,
Táo Quân cũng thế).
Đoạn này
nói đến trong nhà của mỗi người, động,
tĩnh, cư xử đều có quỷ thần giám sát. “Nguyệt hối” (月晦) là ngày cuối tháng. “Táo thần” (Táo Quân, ông Táo) có danh hiệu là Tư
Mạng (司命), do cai quản vận mạng tốt xấu
trong mỗi gia đ́nh. Đối với tội ác trong sáng
tối của con người, không chuyện ǵ nhỏ nhặt
mà Ngài chẳng thấy. Đến cuối tháng, sẽ tấu
tŕnh lên hai cơi âm và dương để chép vào sổ
đen. Than ôi! Táo thần xem xét rơ ràng như thế, lại có chức trách tấu tŕnh như
thế. Người đời hành xử chỉ biết cốt
sao sướng khoái một chốc, há có quan tâm trong nhà có Táo
thần sẽ ghi sự sai phạm ấy, [để rồi]
đến mỗi tháng, việc lớn chuyện nhỏ
đều tấu tŕnh thiên tào hay chăng? [Nếu biết,
ắt sẽ] kinh sợ, tu tỉnh, chẳng dám giải
đăi trong một khắc!
Một nho
sĩ ở Hoài Quận, do say rượu, bỡn cợt
đứa tớ gái. Đứa tớ gái cũng biết hổ
thẹn, cố gắng chống cự, thoát khỏi. Khi ấy
nhằm đúng ngày cuối tháng Giêng, [nho sĩ ấy] ngủ
tới canh tư, vợ bỗng đánh thức, kể:
“Thiếp vừa [nằm mộng] thấy một vị
tinh quân, đội măo, mặc y phục màu đen, cỡi
ngựa ruổi gấp, cầm theo sổ sách. Ngài hướng
về phía thiếp chỉ trỏ rồi đi mất, chẳng
biết Ngài muốn nói ǵ? Oai thế của thần hừng
hực, thiếp bất giác kinh hăi, tỉnh giấc”. Chàng
nho sĩ rởn da gà, chẳng dám nói rơ, chỉ nói: “Chắc
chắn là Táo Thần, chẳng ngờ chi nữa”. Về
sau, chàng gả đứa tớ gái ấy cho người
khác; nhân đó bảo vợ: “Khi trước, nàng mộng
thấy Táo thần, hướng về nàng chỉ dạy
là do ta trước đó đă từng đùa bỡn [phi lễ]
với đứa tớ ấy. Nó tận lực chống
cự, thoát khỏi. Chẳng ngờ ban đêm liền có sự
cảnh cáo ấy. Ta cho rằng sự tuy chưa làm, nhưng
do đă có cái tâm lừa dối ấy, cho nên thần Tư
Mạng đă ghi chép. Trước kia, ta chẳng nói ra, v́ sợ nàng ngờ vực,
sẽ làm khó dễ đứa tớ gái ấy. Nay nói rơ, một
mặt nhằm biểu thị tiết tháo của đứa
tớ gái ấy, mặt khác nhằm phô rơ tội lỗi của
ta”.
Trong niên hiệu
Gia Tĩnh đời Minh, ông Du ở Giang Tây, húy là Đô,
tên tự là Lương Thần, lắm tài, học rộng.
Mười tám tuổi đă đậu Cống Sanh, mỗi
lần thi cử ắt đều đậu cao. Đến tuổi tráng
niên, nhà nghèo, phải dạy học tṛ [kiếm sống qua
ngày]. Ông với mười mấy người cùng là tường
sanh[32] lập
Văn Xương Xă, [thực hiện chuyện] tiếc chữ,
phóng sanh, răn dè dâm, giết, tội lỗi nơi miệng.
Đă hành nhiều năm; trước sau, ông đi thi bảy
khoa, đều chẳng đỗ. Sanh năm
đứa con, bốn đứa chết yểu v́ bệnh.
Đứa con thứ ba, hết sức thông minh, tuấn tú,
dưới ḷng bàn chân trái có hai nốt ruồi, vợ chồng
yêu quư như của báu. Lên tám, nó đi chơi trong làng, bị
lạc mất, chẳng biết nơi nào. Sanh bốn đứa
con gái, chỉ c̣n được một đứa. Vợ
v́ con cái mà khóc lóc, hai mắt đều mù!
Ông suốt
đời lao đao, nghèo khổ, túng quẫn càng ngặt. Tự
xét ḿnh chẳng phạm lỗi to lớn, cớ sao bị
trời phạt thê thảm? Lúc đă ngoài bốn
mươi, mỗi năm vào cuối tháng Chạp, tự dùng
giấy vàng để viết sớ, cầu xin Táo thần
hăy tấu tŕnh lên trên. Vài năm như vậy, cũng chẳng
có báo ứng ǵ! Tới lúc bốn mươi bảy tuổi,
đêm trừ tịch[33], ông ngồi
với người vợ mù và đứa con gái, cả nhà
lặng ngắt, thê lương, an ủi lẫn nhau. Bỗng
nghe có tiếng gơ cửa, ông cầm đuốc ra xem, thấy
một nho sĩ đội khăn xéo[34], mặc áo
đen, râu tóc đă bạc một nửa. Chắp tay vái
chào, mời ngồi. Ông ta nói ḿnh họ Trương, “do từ
nơi xa trở về, nghe trong nhà Ngài than thở sầu thảm,
đặc biệt đến an ủi”. Ông Du trong ḷng cảm
thấy người ấy kỳ lạ, giữ lễ hết
sức cung kính. Nhân đó, kể lể ḿnh suốt đời
đọc sách, tích tập công hạnh, đến nay công
danh chẳng toại, vợ con chẳng được vẹn
toàn, cơm áo thiếu hụt. Lại c̣n đem những bài
sớ đă đốt dâng lên ông Táo đọc cho ông
Trương nghe. Ông Trương nói:
- Tôi biết
chuyện nhà ông đă lâu rồi! Do ư ông phạm lỗi ác
quá nặng, chuyên chú trọng hư danh. Khắp trang giấy
đều là ḷng oán hờn, lời lẽ trần thuật
xúc phạm Thượng Đế, sợ rằng không chỉ
là bị phạt như vậy đâu nhé!
Ông Du nghe nói hết
sức kinh hăi, nói:
- Tôi nghe nói
trong chốn âm thầm, điều lành nhỏ nhặt nhất
đều được ghi chép. Tôi thề làm việc
lành, dốc ḷng phụng hành quy củ đă lâu, sao lại toàn
là hư danh cho được?
Ông
Trương bảo:
- Ngay như trong các quy củ [của Văn Xương
Xă], đối với điều khoản tiếc chữ,
học tṛ ông và những bạn tri giao thường dùng giấy
đă viết văn, hoặc sách cũ để dán cửa
sổ, gói đồ, thậm chí dùng để lau bàn. [Sau
đấy], viện cớ “đừng ô uế chúng” liền đem đốt đi. Hằng ngày ông
chính mắt trông thấy, cứ mặc kệ, chẳng
răn nhắc một tiếng nào! Chỉ là trên đường
thấy giấy có chữ viết, bèn nhặt về đem
đốt, có ích ǵ chăng?
Trong Văn
Xương Xă, mỗi tháng phóng sanh, ông theo đuôi người
khác, do người khác mà thực hiện. Nếu mọi
người chẳng tiến hành, ông cũng lờ vờ mà thôi. Thật ra, ư niệm
từ bi trọn chẳng dấy động trong tâm! Lại c̣n trong nhà ông, những thứ tôm,
cua v.v… cũng bị đun nấu. Riêng chúng chẳng phải
là sanh mạng ư?
Nếu xét
đến chuyện tội lỗi nơi miệng, ông ăn
nói nhanh nhạy, khéo léo. Hễ bàn luận thường khiến
cho người khác đuối lư trước ông. Khi ấy,
ông thốt lời, trong ḷng cũng tự biết đă gây
thương tổn sâu đậm, nhưng trong khi tṛ chuyện
cùng bạn bè, đă quen thói mất rồi, cứ thừa
cơ chê bai, cười cợt, chẳng thể ngăn dứt
được! Miệng lưỡi sắc nhọn châm chọc
khiến cho quỷ thần tức giận, cơi âm đă ghi chép
điều ác chẳng biết cỡ nào! Thế mà vẫn
tự cho ḿnh là người giản dị, trung hậu, ta
lừa dối ai đâu? Lừa dối trời đấy
chứ!
Tuy chẳng có
chuyện tà dâm thật sự, nhưng ông thấy con gái nhà người
khác xinh đẹp, ắt phải nh́n kỹ, ḷng rung động,
chẳng dứt bỏ được. Chỉ là không có tà
duyên tụ
hội [để được
thỏa chí] đó thôi! Ông hăy tự xét chính ḿnh khi gặp cảnh
ấy, có thể được như người đàn
ông nước Lỗ[35] hay không? Vậy
mà nói là “suốt đời, chẳng
phạm tà sắc”, tức đối trước trời,
đất, quỷ, thần, ông là kẻ thật sự
hư vọng vậy!
Đối với
những điều quy củ do ông đă thề thực hiện
mà c̣n như thế, huống hồ những chuyện khác? Những lá sớ do ông
đốt nhiều năm liên tiếp, đều được tŕnh lên cơi trời.
Thượng Đế hằng ngày sai sứ giả đến
xem xét điều thiện lẽ ác của ông, đă mấy
năm mà chẳng thấy có một điều thiện thật
sự nào đáng ghi chép. Nhưng lúc ông ở một ḿnh, thấy tham niệm,
dâm niệm, ư niệm ganh ghét, ư niệm sân hận, ư niệm
đề cao ḿnh, hạ thấp kẻ khác, ư niệm nhớ
nhung chuyện cũ, mong mỏi cho tương lai, ư niệm
đền ân trả oán của ông loang loáng trong bụng, chẳng thể cùng tận! Các thứ ư ác ấy
đă kết chặt trong ḷng, thần ghi chép đă nhiều,
cơi trời trừng phạt ngày càng nặng nề. Ông trốn
họa c̣n chẳng kịp, lấy đâu để cầu
phước nữa đây!
Ông Du kinh ngạc, run sợ, phủ
phục xuống đất, ứa nước mắt
thưa:
- Ngài đă thấu
hiểu chuyện trong chốn u minh, chắc là một vị
tôn thần, xin hăy cứu vớt.
Ông
Trương nói:
- Ông đọc
sách, hiểu lễ, cũng biết vui thích, hâm mộ điều
thiện. Khi nghe được một lời tốt lành, [cảm
thấy như được] khích lệ, khuyên lơn chẳng
xiết. Lúc thấy một chuyện lành, cổ vũ khôn
xiết, nhưng thấy đó, nghe đó, bèn quên ngay, tín
căn vốn chẳng sâu. Do vậy, cái tánh thường hằng
chẳng kiên cố. V́ thế, thiện ngôn, thiện hạnh
trong cả đời toàn là phô trương, hời hợt,
há có chuyện ǵ là thật sự! Lại c̣n ư ác ngập dạ,
[ư niệm làm lành] thường dấy lên rồi tan mất
triền miên. Vẫn muốn đ̣i trời ban cho quả báo tốt đẹp, sẽ
như gieo trồng gai góc khắp đất, thế mà vẫn
cứ si dại mong cầu thu thập thóc lúa phong phú, há chẳng lầm lạc ư?
Ông từ nay trở
đi, hễ có các tạp niệm tham, dâm, khách sáo, vọng
tưởng, trước hết, hăy có sức lực mạnh mẽ để gạt
bỏ hết thảy, thâu hồi sạch sành sanh. Mỗi ư
niệm đều chỉ quan tâm tới điều lành. Nếu
có sức thực hiện các thiện sự, hăy đừng
mong cầu thiện báo, chẳng chú trọng tiếng
tăm. Bất luận chuyện lớn, nhỏ, khó, dễ,
đều thực hiện chân thật, giữ ḷng nhẫn nại mà làm. Nếu chẳng đủ
sức để
làm, cũng phải siêng
năng, khẩn thiết, khiến cho thiện ư ấy
được viên măn. Thứ nhất là phải có ḷng nhẫn
nại, thứ hai là phải có cái tâm vĩnh hằng. Quan trọng
nhất là chớ nên tự lười biếng, chớ nên
tự dối gạt ḿnh. Hành lâu ngày chầy tháng, sẽ tự
đạt được hiệu nghiệm chẳng
thể ngờ được! Gia đ́nh ông thờ phụng
ta hết sức kiền thành, thanh tịnh, cho nên đặc
biệt dùng ư này để báo đáp ông. Hăy nhanh chóng gắng
vâng giữ, sẽ có thể xoay chuyển ư trời đất.
Nói xong, liền
bước vào nhà trong của ông Du. Ông Du liền đứng dậy đi theo, tới chỗ
bếp, bỗng chẳng thấy đâu nữa, mới biết
[ông Trương] chính là thần Tư Mạng. Do vậy, thắp
hương lạy tạ. Lập tức trong ngày hôm sau, tức
là ngày Nguyên Đán, bèn lễ bái, cầu nguyện cùng trời
đất, thề sửa lỗi trước, thật sự
làm việc lành. Tự đặt biệt hiệu cho ḿnh là
Tịnh Ư Đạo Nhân, quyết thề trừ khử các
thứ hư vọng. Lúc mới hành, tạp niệm tơi
bời, nếu chẳng nghi ngờ th́ sẽ là lười
nhác. Thời gian thấm thoát mà vẫn bộp chộp, hời
hợt y như cũ. Do vậy, bèn đối trước
tượng Quan Âm Đại Sĩ được thờ
trong nhà, dập đầu, tuôn máu, kính cẩn phát thệ
nguyện: “Thiện niệm
chân thuần, thiện lực tinh tấn. Nếu có lúc
lơi lỏng mảy may, sẽ vĩnh viễn đọa
trong địa ngục”. Hằng ngày vào sáng sớm, ông kiền
thành niệm thánh hiệu đại từ đại bi một
trăm câu, để mong [Bồ Tát] ngấm ngầm che chở.
Từ đấy trở đi, mỗi lời nói, mỗi
hành động, mỗi niệm, mỗi lúc, đều
như có quỷ thần ở sát bên cạnh [giám sát], chẳng
dám dối trá, phóng túng.
Phàm hết thảy
những chuyện hữu ích cho người khác, có lợi
cho muôn vật, bất luận chuyện lớn hay nhỏ,
bản thân bận bịu hay rảnh rang, người khác
có biết hay là không, có đủ sức hay không, đều
hoan hỷ hành tŕ, khéo léo thành tựu mới thôi! Tùy duyên
phương tiện, gieo trồng âm đức rộng răi.
Lại c̣n giữ vẹn luân thường, siêng học, giữ
tánh khiêm tốn, nhẫn nhục. Lại c̣n hễ gặp
người khác đều dùng những lời lẽ nhân
quả báo ứng để cảm hóa, hướng dẫn,
chỉ sợ chẳng kịp thời gian. Mỗi bữa cuối tháng, liền tính toán việc làm, lời
lẽ trong cả tháng rồi đến chỗ Táo thần
dâng sớ tâu bày. Hành tŕ đă thuần thục, hễ động
th́ muôn điều thiện đều thuận theo; hễ tĩnh bèn chẳng dấy một niệm.
Suốt ba
năm như thế, vào lúc năm mươi tuổi, nhằm
năm Vạn Lịch thứ hai (1574), đi thi Hội trong
năm Giáp Tuất, [nhằm lúc] Trương Giang Lăng[36] giữ chức
Thủ Phụ. Xong khoa thi, ông Trương hỏi thăm
các đồng hương để chọn thầy dạy
học cho con trai ḿnh. Mọi người đều tranh
nhau tiến cử ông Du. Do vậy, ông Trương bèn mời
ông Du lên kinh đô. Ông Du dẫn gia quyến đi theo. Ông
Trương kính trọng phẩm đức của ông Du,
theo quy chế từ trước, mời ông Du vào trường
Quốc Học. Năm Bính Tư, tức năm Vạn Lịch
thứ tư (1576), đến kinh đô, dự kỳ thi
Hương, bèn đỗ đạt. Năm sau, đỗ
Tiến Sĩ. Một hôm, yết kiến nội giám[37] là ông
Dương. Ông Dương bảo năm đứa con ra
chào, những đứa con ấy đều do ông
Dương t́m được ở bốn phương
để nối dơi ḥng vui hưởng tuổi già. Trong ấy,
có một đứa tuổi mười sáu, khuôn mặt
dường như rất thân thuộc đối với ông Du. Hỏi quê quán, nó thưa là người
Giang Hữu[38].
Thuở bé, lên nhầm thuyền chở gạo, nhưng vẫn
c̣n nhớ lờ mờ tên họ và quê nhà. Ông Du hết sức
kinh ngạc, bảo nó cởi giày bên chân trái ra, [quả nhiên]
có hai nốt ruồi giống hệt [như đứa con
thứ ba đă bị thất lạc từ lâu của ông].
Ông kêu ầm lên: “Ngươi là con ta”. Ông Dương
cũng kinh ngạc, liền tặng đứa con ấy
cho ông Du. Nó theo ông Du trở về chỗ cư ngụ.
Ông chạy
đến nói với vợ. Phu nhân ôm con, hết sức
đau ḷng, huyết lệ ràn rụa. Đứa con cũng khóc, ôm mặt mẹ,
liếm mắt mẹ. Hai mắt mẹ sáng trở lại.
Ông buồn vui chen lẫn, chẳng mong làm quan, từ tạ
Trương Giang Lăng quay về quê. Ông Trương
đánh giá cao đạo nghĩa của ông Du, biếu tặng
hậu hĩnh để ông Du trở về. Ông Du ở quê
nhà, càng dốc sức làm lành. Đứa con ấy cưới
vợ, sanh liên tiếp bảy đứa con đều nuôi
được, đều nối ḍng thư hương.
Ông chính tay viết lại chuyện gặp Táo thần, và
chuyện thật sự làm những việc sửa lỗi để giáo huấn
con cháu. Bản thân ông khỏe mạnh, hưởng thọ
tám mươi tám tuổi. Ai nấy đều nói do ông thật
sự làm thiện sự, mà xoay chuyển được sự
báo ứng của trời. Hậu học cùng làng là La Trinh
ghi lại.
(Chánh
văn) Phàm nhân hữu quá, đại tắc đoạt kỷ,
tiểu tắc đoạt toán.
(正文)凡人有過。大則奪紀。小則奪算。
(Chánh văn: Hễ
ai có lỗi, lớn th́ bị giảm thọ mười
hai năm, nhỏ th́ giảm thọ một trăm ngày).
Đoạn này
nhằm tổng kết ư của các câu trước đó, nêu rơ trong đời, trong thân, trong tâm, trong nhà mỗi người, chỗ
nào cũng đều có quỷ thần đông đảo
vây quanh. V́ thế, lỗi lớn, lỗi nhỏ, chẳng
có lúc nào ḥng trốn khỏi sự giám sát được,
tước bớt tuổi thọ đích xác là [chuyện] chẳng sai chạy! Phàm mỗi người được sanh ra, tuổi thọ
đều được ghi chép nơi chư thiên. Thái
Thượng sắc truyền chư thần tra xét, đối
chiếu. Cứ ba ngày bèn thưa một lần, cứ mười
ngày bèn tâu lên, cứ một trăm ngày bèn tổng kết. Nếu
[người ấy] tu thiện, lập công, sẽ có thể tăng thọ; lỡ vạn nhất tạo tội, lập
tức bị giảm bớt. Lỗi có lớn hay nhỏ, cho
nên giảm bớt tuổi thọ cũng sai khác. Thái Thượng
chẳng ngại rát miệng, rườm lời, nhằm
nêu rơ những nghĩa lư [mà con người] chưa thấy, chưa hiểu rơ ràng, không ǵ chẳng nhằm dạy mỗi
người phải thận trọng ngay cả trong lúc chỉ
ở một ḿnh đó thôi!
Đời
Minh, đại sư Vương Bích Như[39] ở núi
Thiên Thai, húy là Lập Cốc. Sư đậu Hương
Tiến[40]
vào năm Bính Ngọ (1605), nhằm thời Vạn Lịch,
được bổ làm huyện lệnh huyện Tân Cam. Từ
bé, Sư đă thọ bốn giới giết, trộm, dâm,
dối. Về sau, do làm quan bèn phế bốn giới ấy.
Năm Mậu Ngọ (1618), vào kinh chầu vua, thuyền đậu ở Vu Hồ, Sư bị
bắt tới cơi âm. Thấy trên điện có một vị
vua ngồi, hai vị quan ngồi hai bên. Vua gọi tên, quát mắng:
“Mạng ngươi đáng lẽ đă hết vào tháng Tám
năm Bính Th́n (1616), sở dĩ kéo dài đến nay là do sức
trai giới. Cớ sao ngươi lại buông bỏ?” Nói
xong, sai lấy sổ sách cho xem. Thấy phía dưới tên
có ghi rơ năm tháng, đến tháng Tám năm Bính Th́n sẽ
chết. Ông Vương xem xong, khấu đầu, thưa
tŕnh: “Con làm quan, do t́nh thế, chẳng thể nào không
như vậy được!” Vua dạy: “Cố nhiên là thế!
Hiềm rằng tuổi thọ đă hết th́ sao?” Vua hạ
lệnh đuổi ông ta vào ngục, liền có con quỷ
dáng điệu hung tợn chạy tới, làm ra vẻ
như sắp bắt trói.
Vị quan bên
trái tâu: “Xin hăy thử xem xét những chuyện sau
khi hắn đă phá giới”. Trong khoảnh khắc, [người
hầu] khênh tới hai cái rương to, [những thứ chứa
trong ấy] đều là những quyển hồ sơ khi [ông
Vương] làm huyện lệnh Tân Cam. Phàm là một phong thư, một bản yết
thị, và những câu viết chơi trên những mảnh
giấy nhỏ cũng đều có. [Những thứ ấy]
đều có khí bốc lên cao, xanh, đen, đỏ, trắng
khác nhau. Vua sai kiểm xem [để xếp những thứ cùng loại] vào một chỗ;
trước hết, kiểm đống hồ sơ màu
đen và xanh, kế đến kiểm đống màu đỏ.
Đống [hồ sơ] có khí màu xanh bốc lên bị ẩn
đi, đống có khí màu đen th́ rút nhỏ như chiếc
đũa, c̣n riêng đống màu đỏ là to lớn. Ông
Vương liếc nh́n trong đống hồ sơ ấy,
thấy có bộ kinh Kim Cang và Hiếu Sanh Thiên do chính ḿnh
đă khắc đều có. [Quỷ sứ] xếp thành
đống xong, giọng điệu của người
đứng đầu ḥa hoăn hơn, ngó vị quan bên trái bảo:
“Do vậy biết là hắn gieo đức, hăy c̣n có
đường sống. [Phạt hắn] ngũ quan bị
hao tổn, bảo toàn thân mạng hắn, được
chớ?” Vua sai ngục tốt móc mắt ông Vương,
đặt lên cột trong điện, tỏa ánh sáng chiếu
ngời bốn phía. Ông Vương nghĩ: “Mắt đă bị khoét, làm sao có thể trông thấy
cho được?” Trong nháy mắt, bỗng tối sầm,
cung điện lẫn ngục tốt đều chẳng
thấy nữa. Kế đó, cảm thấy có người
vỗ lưng bảo: “Hăy đi cho nhanh, đi nhanh lên”. Trong
chốc lát, bị vấp ngă bèn tỉnh giấc. Hôm sau, hai
mắt đều mù, bèn bỏ nhà, tu đạo. Về sau,
do ngộ đạo Thiền, hai mắt sáng lại. Sư
từng đến tham học dưới ṭa Vân Thê, Bác
Sơn[41],
chân tham thật chứng, kiêm hành Đại Bi Sám Pháp, sống
thêm mười hai năm nữa.
Ôi! Con người
ngoại trừ các vị thánh hiền, chẳng có ngày nào
không phạm lỗi, cái có thể trông cậy để văn
hồi tạo hóa chỉ là “có thể sửa đổi” mà
thôi! Nếu không, nhân trước đă kém cỏi, nghiệp
sau lại tăng, dẫu nhiều phước, lắm con
trai, đến lúc một hơi thở ra chẳng hít vào
được nữa, sẽ chỉ có nghiệp theo thân, chỉ thấy
nỗi khổ v́ bị Diêm Vương tra xét, tính toán, [lúc ấy] có thể mang theo gia sản hay chăng? Có
thể dẫn theo con cái hay chăng? Hăy suy nghĩ đi!
Đời Tống,
Phù Trọng Tín giàu có, thích bố thí. Lúc ba mươi lăm
tuổi, bỗng mắc bệnh nguy ngập. Tự nói ḿnh
đă đến cơi âm, gặp mấy người quen biết
cũ, họ gọi: “Ân công v́ sao đến đây?” Họ
dắt ông Phù đến lạy chào, cầu xin một viên
nha lại. Viên nha lại nói: “Người này vốn
đáng lẽ bị đói rét, do có hảo tâm bố thí,
giúp đỡ; do vậy, có thể tay trắng làm nên. Vốn
thọ đến năm mươi chín tuổi, nhưng v́
chẳng thắp nhang, ngủ dậy trễ, nay đều
bị tước sạch”. Mấy người hỏi:
“Hai chuyện ấy là lỗi nhỏ, sao lại đến
nỗi như thế?” Viên nha lại đáp: “Chẳng thắp
hương tức là chẳng có ḷng tôn kính trời đất.
Ngủ dậy trễ, tức là có nhiều dâm ư, sao lại
bảo là lỗi nhỏ?” Mọi người kinh sợ,
nh́n nhau, nói: “Đức dầy như ông Phù c̣n v́ chuyện
này mà [tuổi thọ bị] tước giảm, người
ta há nên buông lung ư?” Không lâu sau, ông Phù chết.
Trong đời
người, cái khó có nhất là tuổi thọ, thế mà
cái bị cơi âm tước đoạt cũng là tuổi thọ.
Do vậy, Thái Thượng ra rả nói chuyện này, ngơ hầu
răn nhắc con người thận trọng đối
với chuyện phạm lỗi trong một niệm, cốt sao hưởng phước đầu tiên
trong năm phước. Đấy là ḷng từ bi to lớn
của Thái Thượng vậy!
(Chánh
văn) Kỳ quá đại tiểu hữu sổ bách sự,
dục cầu trường sanh giả, tiên tu tỵ chi.
(正文)其過大小有數百事。欲求長生者。先須避之。
(Chánh văn: Tội
lỗi lớn nhỏ của con người có đến
mấy trăm chuyện. Kẻ mong sống lâu, trước
hết hăy nên tránh né).
“Mấy trăm chuyện” là những
chuyện từ câu “phi nghĩa
nhi động” (làm những
điều phi nghĩa) cho đến
câu “tử diệc cập chi”
(mà c̣n phải chết). Phần trước nói đến
chuyện “giảm đoạt”
[tuổi thọ] nhằm dạy người ta biết
kiêng tránh. Nay nói đến chuyện trường sanh, nhằm
dạy người ta biết điều đáng hâm mộ.
Nói “tiên tu tỵ chi” (trước
hết hăy nên tránh né), chẳng phải là người khác chẳng
cần tránh né, mà có ư nói: Những người mong được
sống lâu, càng phải nên cẩn thận kiêng dè. Dẫu là
những lỗi lầm nhỏ nhặt, cũng chớ nên
phạm!
Kẻ học
đạo hăy lấy chuyện gieo bồi đức hạnh
làm gốc. Nơi Nho là tứ đoan, bách hạnh[42], nơi
Thích là Lục Độ vạn hạnh, nơi Đạo
là “ba ngàn công, tám trăm hạnh”, đều là nói tới chuyện tích thiện, tránh ác; nhưng muốn tích thiện ḥng sửa lỗi,
không chi bằng trước hết là thấu hiểu chí
đạo (至道, đạo tột cùng). Muốn thấu hiểu
chí đạo, không ǵ bằng hiểu rơ bổn tâm. Tâm là cái
Thể của đạo, đạo là Dụng của tâm. Người có
thể quan sát tâm tánh, ắt cái Thể viên minh sẽ tự
hiện, tác dụng (Dụng) vô vi sẽ tự thành; chẳng cần phải tốn công mà nhanh
chóng vượt lên bờ kia! Chuyện này nếu chẳng
do tâm kính (心鏡, gương ḷng) rạng ngời, thần
châu (神珠)[43] trong suốt, sẽ do đâu mà có thể
nhanh chóng ĺa khỏi các tướng, chẳng nhuốm bẩn
mảy may, nguồn tâm tự tại, quyết định
vô sanh vậy thay? Do vậy, bậc minh tâm thấu hiểu
đạo, chẳng để cho tấm thân liên lụy
tánh ấy, [chẳng để] cảnh giới làm loạn
chân tâm này. Trong sự tùy cơ mà tương ứng với
muôn vật, sẽ tự trụ nơi ư chỉ vô sanh.
Điều ấy được gọi là “vô thượng chí chân diệu đạo”.
Nữ tiên Dương Chánh Kiến sắp
có ngày thành tiên, nhưng Thượng Đế khiển trách:
Cô ta thuở bé, khi cha mẹ xâu tiền lại thành chuỗi
để nộp thuế, Chánh Kiến đă làm chuyện
không đúng là chọn lựa hai đồng tiền tṛn trịa,
đẹp đẽ lén giấu đi. Đó gọi là “lén giấu diếm vật dụng
thuộc về chánh quyền”. Lại phạt cô ta bị
đày ở lại trong nhân gian thêm một năm nữa.
Tử Hư
Nguyên Quân[44]
và Mao Quân[45]
cùng ở trong cung Thanh Hư[46], cân nhắc,
xem xét những chuyện được mất của [những
người sẽ được thành] chân tiên trong thiên hạ,
đă đánh rớt ngay bốn mươi bảy người,
tâu tŕnh lên trên chỉ được hai người. Ấy
là v́ [những kẻ bị đánh rớt đă] ôm tấm
ḷng dâm dục để tu tŕ mong thành tiên, chẳng thể
nào không phạm lỗi được! Giấu tiền là
phạm lỗi nhỏ, [sau khi] chư tiên cân nhắc công và
tội, [Dương Chánh Kiến] c̣n bị phạt như
thế, huống hồ những kẻ mặc t́nh tùy tiện
mà chẳng tránh né [tội lỗi] ư? Nay kẻ cầu
trường sanh, chỉ cậy vào tàng tinh[47], hít thở,
luyện thuốc, thiêu đan[48], cho là có thể
ngộ đạo, trở thành chân tiên, chẳng biết những
chuyện ấy đều là ngoại đạo. Chỉ
có tu chân luyện tánh, hết thảy vọng niệm vừa
mới
chớm nẩy liền
nhận biết, hễ vừa nhận biết liền diệt
trừ, cốt sao trong mười hai thời, thanh tịnh
như minh châu. Cái tâm an định, rỗng rang, sẽ tự
an trụ trong đạo. Sống lâu tăng thọ, sẽ
là lẽ đương nhiên!
Trong Cải Quá Thiên[49]
của Viên Liễu Phàm đời Minh có viết:
- Các vị đại phu thời
Xuân Thu nh́n vào lời nói và hành động của người
khác mà suy đoán điều họa, lẽ phước của
kẻ đó, không ǵ chẳng ứng nghiệm. Từ những
ghi chép trong sách Tả Truyện và Quốc Ngữ[50]
mà có thể thấy [rơ chuyện này]. Phần
lớn những điềm cát hung đều nẩy mầm
từ cái tâm rồi thể hiện ra hành động. Kẻ
rất nhân hậu sẽ thường được phước,
kẻ rất khắc bạc sẽ thường gặp
tai họa. Mắt tục bị lắm thứ che lấp,
thường bảo là “[họa phước] chẳng nhất
định, chẳng thể dự đoán được!” Chí thành sẽ hợp với
ḷng trời, phước sẽ đưa đến, cứ nh́n vào những điều lành của đương
sự, ắt sẽ biết
trước. Đối với kẻ sắp gặp họa,
cứ nh́n vào những chuyện bất thiện của họ,
ắt sẽ biết trước. Nay muốn được
phước, xa lánh họa, chưa bàn đến chuyện
làm lành, cần phải sửa lỗi trước đă!
Nhưng để sửa lỗi,
thứ nhất là phải sanh tâm hổ thẹn. Nghĩ
thánh hiền thời cổ cũng là trượng phu
như ta, do v́ lẽ nào mà họ có thể làm thầy
trăm đời, ta v́ lẽ nào mà tấm thân [hèn tệ]
như viên ngói nát? Nhiễm đắm thói t́nh trần tục,
lén lút làm chuyện bất nghĩa, cứ nói là “kẻ khác không biết”, cứ ngạo ngễ, chẳng thẹn
thùng! Ngày càng ch́m đắm trong loài cầm thú mà chẳng tự
biết! Chuyện đáng nhục, đáng thẹn trong cơi
đời không ǵ lớn bằng chuyện này! Mạnh Tử
nói: “Sỉ chi ư nhân đại
hỹ” (Đối với con người, ḷng hổ thẹn
rất quan trọng); do có ḷng hổ thẹn, sẽ là thánh hiền. Bởi
lẽ, đánh mất ḷng hổ thẹn, sẽ là cầm
thú. Đấy là chỗ then chốt trọng yếu để
sửa lỗi vậy.
Thứ hai là phải
sanh ḷng kiêng sợ. Trời đất ở trên, khó thể
lừa dối quỷ thần. Tuy tội lỗi của ta
giấu kín, nhỏ nhiệm, nhưng thiên địa quỷ
thần thật sự soi thấy. Nặng th́ sẽ giáng xuống
trăm điều tai ương, nhẹ th́ tổn giảm
phước trong hiện tiền. Há lẽ nào ta có thể chẳng
kinh sợ? Không chỉ là như vậy, dẫu ở
nơi thanh vắng, [trời đất, quỷ thần] vẫn
xét soi rất rơ ràng[51]. Tuy ta giấu
diếm rất kín, che đậy rất khéo[52], nhưng
gan phổi đă sớm bộc lộ, rốt cuộc khó
thể dối gạt chính ḿnh. Bị người khác nh́n
ra, [tư cách của chính ḿnh] sẽ chẳng đáng giá một
đồng! Há có nên chẳng kiêng dè? Không chỉ là như thế,
hễ c̣n một hơi thở, dẫu tội ác ngập trời,
vẫn có thể hối cải! Cổ nhân có kẻ suốt
đời làm ác, đến khi sắp chết hối cải,
tỉnh ngộ, dấy lên một thiện niệm, bèn
được chết an lành; có nghĩa là một niệm
dũng mănh, kiên định, đủ để gột rửa
tội ác trăm năm! Ví như hang tối ngàn năm, một
ngọn đèn vừa chiếu, ắt bóng tối ngàn
năm đều bị trừ sạch. V́ thế, bất
luận tội lỗi lâu hay mau, chỉ quư ở chỗ sửa
đổi! Nhưng trần thế vô thường, nhục
thân dễ chết, hễ một hơi thở chẳng
c̣n, dẫu muốn sửa đổi cũng chẳng có
cách nào! [Tội lỗi] hiển nhiên th́ trăm ngàn năm,
phải gánh vác tiếng xấu, dẫu con hiếu, cháu hiền
cũng chẳng thể gột rửa. [Tội lỗi] ngấm
ngầm th́ trăm ngàn kiếp phải chịu báo ứng trầm
luân trong địa ngục. Dẫu thánh hiền, Phật, Bồ
Tát, chẳng thể dẫn dắt thoát ra! Há lẽ nào chẳng
sợ?
Thứ ba là cần
phát khởi cái tâm dũng mănh. Kẻ chẳng sửa lỗi,
phần nhiều là v́ chần chừ, do dự. Ta cần phải
sốt sắng, hăng
hái, chớ nên lần khân,
đừng phiền chờ đợi! [Tội lỗi] nhỏ
th́ [cảm thấy] như mũi nhọn găm vào thịt,
hăy nhanh chóng khoét bỏ. [Tội lỗi] lớn th́ như rắn
độc cắn ngón tay, hăy nhanh chóng chặt đứt,
chẳng có mảy may ngưng trệ nào! Đấy chính là
lư do v́ sao Phong Lôi được gọi là Ích vậy![53]
Có đủ ba tâm ấy, ắt có lỗi bèn sửa.
Như băng mùa Xuân gặp phải mặt trời, lo ǵ chẳng
tiêu tan! Nhưng đối với tội lỗi của con
người, có trường hợp sửa từ nơi sự
tướng, có khi sửa từ lư, có khi sửa từ
nơi tâm, công phu bất đồng, hiệu nghiệm
cũng khác. Như thuở trước đă sát sanh, nay
kiêng chẳng giết. Thuở trước nóng giận, chửi rủa, nay kiêng chẳng giận.
Đấy là sửa đổi nơi sự vậy. Cưỡng
chế từ bên ngoài, khó gấp trăm lần! Đă thế,
rốt cuộc gốc bệnh vẫn c̣n, Đông diệt Tây
sanh, chẳng phải là đường lối diệt trừ
rỗng rang rốt ráo vậy! Kẻ khéo sửa lỗi
chưa ngăn dứt nơi sự, mà đă hiểu rơ lư
trước, như trong quá khứ đă sát sanh, bèn nghĩ:
“Thượng Đế hiếu sanh, muôn loài đều yêu
mến tánh mạng, giết chúng để nuôi ta, há có thể
an ḷng ư? Hơn nữa, chúng bị giết chóc, đă bị
mổ, cắt, lại c̣n vào chảo, vào vạc, đủ
mọi nỗi thống khổ thấu tận xương
tủy. Để nuôi thân ta, những món ngon quư bày ra la liệt,
nuốt vào sẽ như là chẳng có ǵ [ngon quư nữa]. Món chay, canh rau, đủ để no ḷng; há cần giết chết mạng chúng, tổn
phước của chính ḿnh ư? Lại nghĩ chúng thuộc
loại huyết khí, đều có linh tri. Đă có linh tri th́
đều có cùng một Thể với ta. Dẫu chẳng
thể cung kính tu tập đức hạnh tột bậc,
khiến [cho muôn loài] tôn trọng ta, thân cận ta, há nên hằng
ngày giết hại sanh mạng loài vật, khiến cho chúng
nó cừu hận ta, căm ghét ta vô cùng? Hễ nghĩ tới
chuyện này, sẽ đối với chuyện ăn chúng
nó mà cảm thấy đau ḷng, chẳng thể nuốt xuống
được!
Nếu trước
kia hay giận, ắt sẽ nghĩ: “Người ta có những
chuyện sai sót, xét theo t́nh người, hăy nên thương
xót, họ làm chuyện trái nghịch đạo lư, chứ
liên can ǵ đến ta? Vốn chẳng thể giận
được! Lại nghĩ trong thiên hạ, chẳng có
ai tự cho ḿnh là bậc hào kiệt, cũng chẳng có ai học
vấn hơn người! Hễ có ǵ chẳng làm
được, đều là do chính ḿnh chưa tu đức,
chưa cảm thông đến tột bậc vậy! Ta
đều nên tự xét lại, ắt những sự hủy
báng xảy đến đều là chỗ để ta rèn
luyện ḥng thành tựu tốt đẹp. Ta hăy nên hoan hỷ
tiếp nhận sự ban thưởng ấy, làm sao có ḷng
giận dữ cho được? Lại c̣n nghe hủy báng
chẳng giận. Tuy ngọn lửa sàm báng xông rực trời,
giống như nổi lửa đốt không trung, rốt
cuộc sẽ tự tắt. Nghe hủy báng bèn giận, dẫu
tâm nghĩ đủ cách hay khéo để tận lực biện
giải, vẫn như con tằm kéo kén, tự chuốc lấy
sự quấn trói. Giận dữ không chỉ là vô ích, mà c̣n
có tai hại. Đối với các thứ lỗi ác khác,
đều nên dựa theo lư để suy nghĩ. Đă hiểu
rơ lư ấy, lỗi sẽ tự dứt.
Thế nào là “sửa đổi từ nơi tâm”? Lỗi có ngàn mối, đều chỉ
do tâm tạo. Tâm ta bất động, lỗi sanh từ đâu
cho được? Người học đối với
các thứ tội lỗi như hiếu sắc, hiếu
danh, ham mê của cải, ưa giận dữ, chẳng cần
phải truy cầu [cách đối trị] theo từng loại,
chỉ nên nhất tâm làm lành. Chánh niệm luôn hiện tiền,
tà niệm tự nhiên chẳng thể ô nhiễm được.
Như vầng mặt trời [sáng rực] giữa không trung, các loài quỷ mị ẩn
nấp, tiêu mất. Đấy chính là lẽ chân truyền về
sự chuyên nhất, ṛng rặt[54] vậy! Lỗi
do tâm tạo th́ cũng do tâm sửa. Như chặt cây độc,
cứ chặt thẳng nơi gốc, cần ǵ phải
đẵn từng cành, vặt từng chiếc lá ư?
Nói chung, cách
[để sửa lỗi] tối thượng là đối
trị từ cái tâm, lập tức thanh tịnh, [vọng
tâm] vừa động bèn giác. Hễ giác, [những phiền
năo] ấy sẽ chẳng c̣n nữa. Nếu chưa thể
như vậy, cần phải dùng hiểu rơ lư để trừ
khử. Nếu vẫn chưa thể như thế, ắt
phải thuận theo từng sự mà khắc chế. Dùng
những sự thuộc về bậc thượng để
kiêm hành những công phu bậc hạ, chưa hề là chuyện
thất sách. Nếu chấp vào bậc hạ, chẳng hiểu
những chuyện thuộc bậc thượng, sẽ là
cách thức vụng về[55]. Xét theo
phương diện “phát nguyện, sửa lỗi”, [nh́n theo phương diện] rơ ràng th́ cần
phải có bạn lành nhắc nhở. [Xét theo phương
diện] ngấm ngầm, th́ cần phải có quỷ thần
chứng minh, nhất tâm sám hối, ngày đêm chẳng lười
nhác, qua bảy ngày, hoặc mười bốn ngày, cho đến
một tháng, hai tháng, ba tháng, ắt có hiệu nghiệm. Hoặc
là cảm thấy tâm thần thoáng đăng, hoặc cảm thấy trí huệ
nhanh chóng mở mang. Hoặc là đối với những chỗ trầm trệ chẳng thông hiểu [khi
trước, nay] vừa nghĩ tới thảy đều
thông suốt. Hoặc gặp oán cừu mà có thể chuyển
sân thành hỷ. Hoặc mộng thấy nhả ra vật có
màu đen. Hoặc mộng thấy các bậc văng thánh tiên hiền
đề huề tiếp dẫn. Hoặc mộng thấy
bay lên thái hư, hoặc mộng thấy tràng, phan, lọng
báu, các thứ sự việc thù thắng. Đấy đều
là các dấu hiệu cho thấy lỗi tiêu, tội diệt
vậy; nhưng chớ nên chấp trước chuyện
này để rồi tự cao, tự vạch giới hạn,
chẳng thể tiến được!
Xưa kia, ông Cừ
Bá Ngọc lúc hai mươi tuổi đă cảm thấy
thuở trước sai trái, tận lực sửa đổi.
Tới lúc hai mươi mốt tuổi, bèn biết những
lỗi đă sửa đổi khi trước vẫn
chưa hết. Tới lúc hai mươi hai tuổi, nh́n lại
khi hai mươi mốt tuổi, [thấy chính ḿnh trong thuở
trước] giống
như vẫn đang ở trong mộng. [Do vậy], cứ
mỗi năm thêm một tuổi, lần lượt sửa
đổi. Lúc năm mươi tuổi, vẫn biết bốn
mươi chín năm trước sai lầm. Đạo học
vấn về sửa lỗi của cổ nhân là như thế
đó. Bọn chúng ta là lũ phàm phu, lỗi ác chi chít như
lông nhím. Kẻ nghĩ lại những chuyện cũ, mà
thường thấy dường như chẳng có lỗi
ǵ, tức là kẻ tâm thô tháp, mắt bị màng mộng vậy!
Thế mà kẻ lỗi ác sâu nặng, cũng có những
điều ứng nghiệm như tâm thần tối
tăm, bế tắc, [chuyện mới đó mà vừa] quay
đầu đă quên, hoặc là chẳng có chuyện ǵ mà
thường phiền năo, hoặc thấy bậc quân tử mà hổ thẹn,
ủ rũ, hoặc nghe chánh luận bèn chẳng vui, hoặc
bố thí ân huệ đâm ra bị người khác oán trách, hoặc đêm nằm mộng điên đảo.
Đến mức quá đáng, sẽ là ăn nói hư vọng,
thần trí chẳng ổn định. Đấy đều
là những tướng cho thấy kẻ đó đă tạo
nên mầm mống nghiệp chướng. Nếu thuộc
về loại này, hăy nên dũng mănh, hăng hái, bỏ
cũ theo mới, mong hăy chớ nên tự lầm lạc!
(Chánh
văn) Thị đạo tắc tấn, phi đạo tắc
thoái.
(正文)是道則進。非道則退。
(Chánh
văn: Chuyện hợp đạo th́ hành theo, chuyện
chẳng hợp đạo th́ hăy nên tránh né).
Từ chỗ
này cho tới câu “tam bách thiện”
(ba trăm điều thiện) chính là lời chân thật dạy
về chuyện làm lành. Ai có thể dốc hết sức
thực hiện, sẽ lập tức có phước báo.
Đạo ví như đường lớn. Thuận lẽ
trời, hợp ḷng người, sẽ phẳng phiu, ngay thẳng,
đấy chính là đạo. Nghịch lẽ trời, trái
ḷng người, sẽ là gai góc, hiểm trở, tức là “phi đạo”. Hai câu này, một
đằng là chuyên hướng theo điều lành, câu kia
thuộc về sửa lỗi, nhưng chỉ là một ư:
Tránh [những ǵ thuộc về] phi đạo, thực hiện
[những chuyện] hợp đạo, đều quy vào một
điều thiện mà thôi! Hai chữ “tắc” (則) [trong hai câu trên đây] có nghĩa là phải
khẩn thiết dốc sức. Biện định
đúng sai ngay trong một niệm, tiến hay thoái (thực
hiện hay tránh né) cần phải quyết định ngay
lập tức. Ở chỗ này, cần phải là thủ
đoạn chém đinh chặt sắt, chẳng thể có mảy
may do dự! Nếu ư niệm vừa chuyển, sẽ lại
đọa vào trong sự nắm giữ của ma. Hăy nên
luôn luôn tự kiểm điểm bản thân, chuyện ǵ
cũng phải thận trọng tu tập th́ mới là hiểu được ư này.
Đạo ở
đây chính là đạo “thiên mạng
vị tánh, suất tánh vị đạo” (cái được
trời ban cho th́ gọi là Tánh, hành xử theo Tánh th́ gọi
là đạo)[56]. Trong cuộc
sống thường nhật, nói năng hay im lặng,
động hay tĩnh, không ǵ chẳng phải là đạo,
chỉ cần biết là lẽ chân (đạo) bèn dũng mănh thực hiện. Cổ đức
nói: “Đại đạo chẳng
ĺa trước mắt”, thế nhưng trước mắt lại
khó thấy! Phải biết chân thể của đại
đạo, chẳng ĺa thanh, sắc, ngôn ngữ. Đạo
Đức Kinh nói: “Thượng
sĩ văn đạo, cần nhi hành chi” (Người căn cơ bậc thượng
nghe đạo, sẽ siêng năng hành theo). Nội Quán Kinh[57] nói: “Tri đạo dị, tín đạo
nan. Tín đạo dị, hành đạo nan” (Biết đạo dễ, tin đạo
khó. Tin đạo dễ, hành đạo khó). Kinh Hoa Nghiêm nói:
“Tín vi đạo nguyên, công
đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết
chư thiện căn, đoạn trừ nghi vơng, xuất
ái hà. Khai thị Niết Bàn vô thượng đạo”
(Tín là nguồn đạo, mẹ công đức. Nuôi lớn
hết thảy các căn lành, đoạn trừ lưới
nghi, thoát sông ái. Khai thị đạo vô thượng Niết
Bàn). Ấy là v́ ai nấy đều có sẵn đạo thể,
tuy ch́m đắm trong muôn điều dục, nếu chịu
nhất niệm hồi quang, điều nào là chân hay chẳng
chân sẽ chẳng thể lừa dối dẫu bằng mảy may được!
Đó gọi là “thiên lư bất
tức chi Thể” (cái thể của thiên lư[58] chẳng hề
bị gián đoạn). Mở rộng ra, muôn kiếp ngàn
đời, chẳng hề bị đọa lạc. “Tri hành hợp nhất”, sẽ trở thành thánh nhân chẳng khó! Hăy nên tin
tưởng!
Xưa kia, có một
người nông dân từng bị thương bởi hổ.
Có người nói đến chuyện hổ tấn công
người, ai nấy đều kinh hăi, chỉ riêng người nông dân ấy vẻ
mặt biến đổi dị thường! Ôi! Hổ tấn
công người, không ai chẳng biết, nhưng bản
thân chưa từng trải qua, v́ thế chỉ giật
ḿnh. Riêng người nông dân đă chịu nỗi khổ ấy;
v́ thế, mặt tái mét. Người ta vẫn làm những
chuyện trái đạo, cũng là do chưa từng thật
sự biết. Nếu thật sự biết, quyết sẽ
chẳng làm! Người hiện thời ngày đêm mơ
màng, chỉ như nằm mộng nói mớ! Trong mỗi khoảnh
khắc, hay trong khi nghỉ ngơi đều duy tŕ, bảo
dưỡng cái tâm tỉnh giác ấy. Một điểm linh quang thường
tịch, thường chiếu, tuy có trần duyên dấy
lên hay diệt mất, bản thể vẫn bất biến.
Đấy mới là suốt ngày thâu đêm đều biết
đạo, sẽ chẳng có chuyện phi đạo nào khiến
cho người ấy bị mê hoặc hay rối loạn
được!
Đời Tống,
Triệu Thanh Hiến Công[59] mỗi
đêm thắp hương tâu tŕnh với trời. Có người
hỏi [nguyên do], ông bảo: “Tôi từ thuở bé tới nay, ngày làm điều ǵ, đêm ắt tâu
tŕnh Thượng Đế. Chuyện ǵ chẳng dám bẩm
báo, sẽ chẳng dám làm”.
Trương Kỳ
Uẩn dốc ḷng nơi Lư Học, chú trọng hiếu thảo
cha mẹ, ḥa hợp với anh em. Mỗi lời lẽ, hành
vi, đều tuân theo lễ pháp. Hễ hơi phạm sai
sót liền thống trách hối cải, suốt đêm chẳng
ngủ. Cha mẹ qua đời, mỗi lúc gặp những
món cha mẹ lúc c̣n sống thích ăn, ông luôn đối
trước chúng che mặt khóc. Vợ chồng kính trọng
nhau như khách, suốt đời chẳng lấy thêm vợ
lẽ. Cư xử trong gia đ́nh nghiêm túc. Dẫu
ở một ḿnh, vẫn chẳng có dáng vẻ lười
nhác. Hễ gặp con em, ắt sốt sắng khuyên dạy,
khiến cho chúng có thành tựu. Người thân, xóm giềng
có chuyện nạn
gấp, nếu sức ḿnh chẳng
thể [giúp đỡ] toàn vẹn, ắt sẽ t́m nhiều
cách cầu cạnh người khác lo toan cứu giúp. Hễ
chuyện được thành tựu, sẽ vui vẻ. Nếu
không, ắt sẽ sầu muộn, than thở chẳng
ngơi! Lúc về già, càng thêm tinh tấn. Ông thường
nói: “Nhà ta từ ông cao tổ là Quán Tâm Công dùng hiếu thảo,
ḥa thuận để mở mang nền tảng, đời
nào cũng giữ ḷng trung hậu. Tánh ta vụng về, chẳng
thể làm ăn ḥng để lại của cải cho con
cháu, chỉ mong chẳng khiến cho thanh danh của gia tộc
bị đọa lạc, giữ vẹn một mảnh ruộng
tâm cho kẻ đời sau gieo cấy mà thôi!”
Đời Hậu
Hán, Quản Ninh đă từng cùng với Hoa Hâm cuốc
đất, t́m được vàng. Quản Ninh chẳng nh́n
tới, Hoa Hâm móc lên, quăng đi. Gặp thời loạn
lạc, Quản Ninh lánh nạn sang Liêu Đông. Công Tôn Độ[60] dùng lễ
mời mọc, Quản Ninh không màng. Do vậy, vào núi ở,
có nhiều người theo ông. Trâu nhà hàng xóm phá ruộng, Quản
Ninh bèn dắt trâu tới chốn núi hoang chăn dắt. Chủ
trâu hổ thẹn, cảm tạ. Dần dần, chỗ
ông ở trở nên đông đúc. Do vậy, Quản Ninh bèn
dạy thi thư, chỉ bày lễ nghi, giảng rơ phép lễ
nghĩa, khiêm tốn. Nếu chẳng phải là người
cầu học, ông sẽ không tiếp. Phong thái của ông
vang dội khắp Liêu Đông, dân chúng được cảm hóa bởi đức
hạnh của ông. Mỗi lần gặp Công Tôn Độ,
chỉ nói về đạo đức, chẳng dính dáng
chuyện đời. Công Tôn Độ ca ngợi sự hiền
đức của Quản Ninh. Ông ở đất Liêu ba mươi
bảy năm, do tuân mạng lệnh của triều
đ́nh mà vượt biển trở về. Biển nổi
sóng to gió cả, những phu chèo thuyền kêu trời, sám hối
tội lỗi. Quản Ninh nói: “Tôi đă từng có một
buổi sáng [thức dậy] không đội mũ, ba buổi
sáng dậy quá trễ, một lần đi nhà xí chẳng
đội mũ. Tội lỗi ắt là những điều
ấy” Các thuyền cùng đi đều ch́m hết, thuyền
ông Ninh được thoát. Ông trở về, được
phong làm Đại Trung Đại Phu, chẳng nhận. Hoa
Hâm nhường chức Thái Úy, ông cũng từ chối.
Ông mất lúc tám mươi bốn tuổi. Nơi cái
giường gỗ ông thường ngồi, hai chỗ ông
đặt đầu gối đều bị lơm xuống, [chứng tỏ] suốt
năm mươi năm chưa từng co gối ngồi xổm.
Thân thích, hàng xóm có người nghèo túng, dẫu nhà thiếu
gạo ăn, ông ắt sẽ chia sẻ cứu giúp. Với
con bèn nói đến hiếu, với em bèn nói nhường,
với bầy tôi bèn nói trung. Dáng vẻ cung kính, ngôn từ
nhu thuận, có thể nhờ vào sự việc để
hướng dẫn người khác về điều lành.
Những kẻ biết thẹn chẳng ai không được
cảm hóa.
Người hiện
thời hăy thử nghĩ trong mười hai thời, đối
với những chuyện trái ư trong gia đ́nh, có nên sanh phiền
năo hay không? Ở yên, no ấm, có nên sanh ḷng dâm dục hay
không? Sanh kế rất đạm bạc, có nên tranh đoạt
danh lợi hay không? Ĺa khỏi sự đốc thúc của
những người bạn đạo, chính ḿnh có sanh hôn
trầm, lười nhác hay không? Sống yên ổn, có đừng
nghĩ tới ruộng đất, nhà cửa hay không? Thấy
kẻ khác phú quư, có đừng nghĩ tới chuyện vinh
hoa hay không? Chính ḿnh nghèo hèn, có đừng
nghĩ chuyện bươn chải, tranh giành hay không? Hễ
có một điều trong những điều ấy, sẽ
đều đủ để thoái thất đạo tâm,
trở thành trái lư, chớ nên lơi là! V́ thế, kẻ phản
tỉnh, học đạo chân thật, hiểu biết những
điều sai trái, sẽ tiến bộ nơi đạo.
(Chánh
văn) Bất lư tà kính, bất khi ám thất.
(正文)不履邪徑。不欺暗室。 |
(Chánh văn: Chẳng đi
theo nẻo tà, chẳng lừa dối khi ở trong buồng
tối).
“Lư”
(履) là chỗ đích thân thực hiện, cũng như
những chỗ nghĩ đến, sẽ đều gọi
là “lư”. Chữ “tà kính” (邪徑) chỉ những chỗ hết sức nhỏ
nhiệm, dễ bị sơ sót, ư nói là những chuyện
hoặc những niệm tà vạy. “Khi” (欺, lừa dối) có nghĩa là biết rơ mà
cố ư vi phạm. “Ám thất”
(暗室, pḥng tối) là chỗ người khác chẳng
thấy, chẳng nghe; đấy chính là ranh giới phân chia ban đầu
giữa thiện và ác vậy. “Bất
lư tà kính”: Từ nơi nguồn tâm, luôn chú trọng giữ cho nó đàng hoàng, chánh đáng từng ly, từng
tư. Tuy là đường tà nhỏ nhặt, nó có mối quan
hệ rất vi tế. Cho đến khi ấy, sẽ quyết
đoán chẳng làm theo. [Như thế th́] đối với
những điều to tát, sẽ biết [phải nên làm như
thế nào]. “Bất khi ám thất”:
Quét dọn nguồn tâm cho sáng ngời, rạng rỡ. Tuy là
chỗ buồng kín chỉ riêng ta biết, tức là chỗ
kín đáo nhất, ngay trong khi ấy, cương quyết
chẳng cẩu thả. [Như vậy th́] đối với
những chỗ tỏ lộ (ai cũng trông thấy), sẽ
biết [phải nên hành xử như thế nào]. Có thể
làm như thế, sau đấy, tích lũy công đức,
hành các điều lành, do một điều sẽ quán thông
hết thảy.
Phước do
đức mà có. Hễ có đôi chút cái tâm mong cầu
[được phước khi tích lũy công đức],
sẽ là “tà kính” (nẻo tà).
V́ thế, phải nên v́ con cháu tạo phước, chớ
nên v́ con cháu cầu phước. Giữ gia quy nghiêm cẩn,
chuộng tiết kiệm, chất phác, dạy bảo con cháu
cày cấy, đọc sách, tích lũy âm đức. Đó là
tạo phước. Tạo tác ruộng đất, nhà cửa
cho nhiều, dùng các mối quan hệ hôn nhân để tạo
vây cánh, t́m cách bớt tiền đóng thuế, mua bán công
danh. Đấy là cầu phước. Tạo phước,
[phước ấy] thanh đạm nhưng lâu dài; cầu
phước th́ phước ấy nồng đượm nhưng ngắn ngủi. Danh phải tương
ứng với thực chất; hễ hơi có cái tâm cầu
danh, sẽ là nẻo tà! V́ thế, hăy nên tiếc danh trong
đời này, chớ nên cầu danh trong đời này! Siêng
học thi thư, đề cao khí tiết, thận trọng
trong việc cho và nhận, cẩn trọng oai nghi, đó là
tiếc danh. Cạnh tranh để được nổi
tiếng, ve văn bậc quyền quư, truy cầu những kiểu
thói quái lạ, quen thói hành xử hàm hồ; đó là cầu
danh. Kẻ tiếc danh sẽ an tĩnh, thanh tịnh. Kẻ
mua danh sẽ xáo động, trật vuột.
Tiền tài là
để nuôi dưỡng sanh mạng; hễ hơi có cái tâm phô trương tiền
tài, sẽ là nẻo tà! V́ thế, hăy nên v́ cả nhà dụng
tài, chớ nên v́ cả nhà phô trương tiền tài. Giúp
đỡ họ hàng, xóm giềng, trả tiền lương
rộng răi cho thầy dạy học, cứu giúp kẻ đói
kém, đóng góp cho các việc nghĩa, đấy là “dụng
tài”. Nhà cửa vườn tược xa hoa, [bỏ tiền
ra thuê] người dạy ca múa[61], tiệc tùng
xa xỉ, chất chứa những đồ vật quư báu,
đẹp đẽ. Đó là phô trương tiền tài. “Dụng tài” th́ tuy tiền tài
hao tổn [nhưng rồi] sẽ lại tràn đầy; phô
trương tiền tài, [thoạt đầu] th́ choáng lộn,
[cuối cùng] thiếu hụt. Bản thân là người làm
chủ gia đ́nh, hễ có cái tâm riêng tư, sẽ là nẻo
tà! V́ thế, hăy v́ đại chúng mà tu thân, đừng nên ích
kỷ chỉ lo riêng cho gia đ́nh ḿnh. Giảm bớt ham muốn,
giảm bớt lo nghĩ, tránh phẫn hận, bớt ăn
uống. Đó là tu thân. Chuyện ǵ cũng tính lợi hại,
tránh né những chuyện nhọc nhằn, hoặc [những
chuyện mà khi ta lo liệu sẽ dễ] bị oán trách, chăm
bẵm nhà cửa, chấp trước vợ con. Đó là “tư thân” (私身, lo riêng cho bản thân). Tu thân th́ [thoạt nh́n
dường như] là tiết chế, an phận, nhưng sẽ
có tiếng tăm to lớn. Tư thân th́ tuy có vẻ giàu có,
nhưng hẹp ḥi, kém cỏi.
Dực Thánh Chân
Quân[62] dạy ông
Trương Thủ Chân như sau: - Nếu có thể thanh sạch cái thân, giữ lẽ chánh, tấc ḷng chẳng
lừa dối, tự nhiên sẽ ngầm hợp thiên lư.
Quan Thánh Đế
Quân nói: - Người có tâm như trên bầu trời có mặt
trời. Quang minh soi thấu suốt, từng ly từng tí
chẳng riêng tư.
Lục Tượng
Sơn[63]
nói: - Con người chỉ có một tâm, dấy lên ư niệm,
ư niệm có chánh đáng hay không chỉ trong khoảnh khắc!
Nếu một niệm bất chánh mà trong khoảnh khắc
sẽ biết ngay, sẽ liền có thể đoan chánh ư niệm.
Ư niệm đoan chánh mà trong khoảnh khắc bị mất
đi, tức là bất chánh. Những điều này đều
ở ngay trong một cái tâm của con người.
Kinh Thư nói: “Duy thánh vơng niệm tác cuồng,
duy cuồng khắc niệm tác thánh” (Thánh mà chẳng chế ngự được
ư niệm sẽ thành cuồng, kẻ cuồng mà có thể
khắc chế ư niệm sẽ là thánh). Thánh hiền ngàn
đời [sở dĩ thành thánh hiền] bất quá là có thể
soi xét chỗ vi tế ngay trong một niệm. Trời,
đất, quỷ thần phần nhiều giám sát điều
thiện lẽ ác ở chỗ này. Người nào có thể từ nơi đây mà cúi đầu, ngẩng đầu chẳng
thẹn, chẳng xấu hổ với bóng áo, lẽ nào có
thể làm chuyện sái quấy ở nơi riêng tư ư?
Bài thơ Không
Lừa Dối của ông Vương Mai Khê[64] có đoạn:
“Thất minh, thất ám lưỡng
hề nghi, phương tốn thường tồn bất
khả khi, mạc vấn thiên cao quỷ thần ố, yếu
tu tiên úy tự gia tri” (Thường giữ tấc ḷng không
dối trá, dẫu nhà sáng tối há ngờ chi. Khoan sợ
đất, trời, thần quỷ ghét, hăy sợ nhà ḿnh biết
trước đi).
Trong bài Úy Thuyết
(nói về Sợ) của Trúc Căn lăo nhân có đoạn: -
Nói chung, ḷng người chẳng thể không biết sợ; c̣n có ḷng kiêng sợ hay không chính là căn cứ
để phán định thiện hay ác vậy. Do vậy,
quân tử trong là sợ cha mẹ, ngoài th́ sợ thầy bạn,
ngẩng lên bèn sợ trời, cúi xuống bèn sợ người.
Chỉ v́ có ḷng sợ, cho nên chuyện phi lễ chẳng dám
làm, chuyện phi nghĩa không dám rớ. Hễ một niệm
hổ thẹn, ắt tâm sẽ bị chấn động,
áy náy. Hễ có chuyện đáng xấu hổ, dáng vẻ sẽ
hổ thẹn. Dè dặt, kiêng sợ, tự ǵn giữ, hằng
ngày sẽ giảm bớt lỗi mà chẳng tự biết,
sẽ dự vào hàng quân tử vậy.
Đời Tống,
Lưu An Thế[65], tuổi đă
già, danh càng trọng. Lương Sư Thành[66] nắm quyền,
có thể quyết định sự sống chết của
kẻ khác, trong tâm khâm phục sự hiền năng của
ông Lưu, sai người đến khuyên dụ để
trọng dụng ông. Do đó, [người ấy] khuyên ông
hăy tính toán cho con cháu. An Thế cười bảo: “Nếu
ta v́ con cháu, sẽ chẳng [chờ đợi] cho đến
hiện thời. Bị băi truất ba mươi năm, ta
chưa hề viết một chữ nào gởi cho bậc
quyền quư trong triều [để nhờ vả]. Ta mong ǵn
giữ nhân cách hoàn mỹ thời Nguyên Hựu[67] để
gặp ngài Tư Mă Quang dưới suối vàng, chẳng thể
phá giới được!” Ông trả lại thư ấy, chẳng đáp!
Đời
Minh, Đổng Phác từ quan về nhà. Đúng dịp sứ
giả[68]
đến đất Sở (Hồ Bắc) là học tṛ của
ông. Trước đó, người ấy đă gởi
đề thi [do các quan chủ khảo] định sẵn [trong
khoa thi ấy] cho ông. Ông đốt đi, không cho con xem. Về
sau, con ông thi đỗ.
Đời
Minh, có quan Thượng Thư tên Dương Chử, là người
huyện Ngô. Mộng thấy đến chơi một khu
vườn, ăn hai quả mận. Tỉnh giấc bèn tự
trách: “Do ta thường ngày đối với nghĩa và lợi
chẳng hiểu rơ, cho nên đến nông nỗi này”. Ông bèn
nhịn ăn nhiều ngày!
Xưa kia, có một
sa-di tám tuổi tên là Diệu Nhan, đă trọn đủ
thần thông của bậc La Hán, bay vào vương cung. Hoàng
hậu muốn ôm lấy, Diệu Nhan nói: “Hăy ngừng lại,
đừng làm vậy! Chớ nên thân cận sa-môn”. Hoàng hậu
nói: “Khanh c̣n nhỏ, giống như con của ta, tuy ôm khanh cũng có sao đâu!” Diệu Nhan đáp: “Nếu nói
theo t́nh cảm thế gian, đúng như phu nhân đă dạy; nhưng t́nh chấp đều từ điều
nhỏ nhặt mà dấy lên, ví như một đốm lửa,
có thể đốt cháy vạn dặm đồng hoang! Ví
như từng giọt nước có thể xuyên thủng đá
Thái Sơn! Mọi chuyện đều do dần dà mà thành,
do ít mà thành nhiều, do nhỏ mà thành lớn. V́ thế,
người trí tránh xa chuyện hiềm nghi, dập tắt
những ǵ vừa mới manh nha!”
Đời Hán,
Dương Chấn làm Thái Thú quận Đông Lai, trên đường
đi qua Xương Ấp. Viên quan đứng đầu huyện
ấy là Vương Mật, vốn là một Tú Tài[69] được
ông Dương đề cử. Đêm khuya, Vương Mật
đem vàng đến yết kiến, dâng lên. Dương Chấn
khước từ. Vương Mật nói: “Đêm sâu chẳng
có ai biết”. Dương Chấn nói: “Trời biết,
đất biết, ông biết, tôi biết. Sao lại nói là
không ai biết?” Vương Mật hổ thẹn lui ra. Dương
Chấn làm quan tới địa vị Tam Công[70].
Hà Trừng giỏi nghề thuốc. Có người họ Tôn, bệnh đă lâu
không lành, mời Hà Trừng đến chữa mấy lần.
Vợ người ấy ngầm nói với Hà Trừng: “Chồng
tôi bệnh lâu ngày, [tài sản trong nhà] đă cầm bán gần hết rồi, xin dùng tấm thân này
để trả tiền thuốc”. Hà Trừng nghiêm mặt
nói: “Cớ sao bà nói vậy? Bà hăy yên ḷng, đừng lo. Tôi sẽ
chữa trị. Nếu làm chuyện ô nhục ấy, không
chỉ là khiến cho tôi vĩnh viễn là đứa tiểu
nhân, mà bà cũng bị mất danh tiết. Dẫu chẳng
bị người trách, khó tránh trời phạt!” Về
sau, Hà Trừng mộng thấy ḿnh đến một dinh thự,
thần bảo: “Ngươi làm nghề y có công, lại chẳng
v́ người ta gặp lúc khó khăn, ngặt nghèo mà dâm loạn
phụ nữ của họ, Thượng Đế ban cho
ngươi một chức quan, năm vạn quan tiền”.
Không lâu sau, Hoàng Thái Tử mắc bệnh, t́m thầy thuốc
chữa trị [đều không lành, đến cuối cùng] kiếm được Hà Trừng, chẳng
cần thuốc thang mà lành bệnh. Vua ban chức quan và tiền
bạc đều đúng như con số [thần đă dạy].
(Chánh
văn) Tích đức lũy công.
(正文)積德累功。
(Chánh văn: Tích lũy công
đức).
Ǵn giữ chân
tâm là Đức, thể hiện qua các sự gọi là Công.
Do ít thành nhiều, từ thấp lên cao, đó là Lũy.
Đức chẳng tích sẽ không cao. Công chẳng “lũy” (累, chất
chứa) sẽ chẳng to. Nếu có thể chú trọng tỉ
mỉ như nông dân mong được mùa; nóng ḷng mong mỏi
[phát tài] như con buôn đang kinh doanh, hôm nay tích một
đức, ngày mai lại tích một đức, hôm nay chứa một công, ngày mai chứa một
công khác nữa. Nói “[để
trở thành] thiên tiên, hăy thực hành một ngàn ba trăm điều
thiện chỉ trong bốn năm. [Để thành] địa tiên th́ hành ba trăm
điều thiện chỉ trong một năm”, vậy th́ phàm nhân sẽ chẳng thể,
sợ rằng sẽ đến nỗi bỏ dở giữa
chừng. Ấy là v́ chấp trước đă sâu, tập
nhiễm (những thứ đắm nhiễm do tập khí)
khó trừ. Lư chẳng thắng nổi dục[71], lương
tâm vừa dấy lên lại bị ngưng lặng. V́ thế,
rốt cuộc chẳng có dịp để làm lành!
Chỉ mong những
người đă phát khởi thiện nguyện trong cơi
đời hăy có tấm
ḷng chân tín, tâm dũng mănh,
tâm tinh tấn, tâm kiên tŕ, vĩnh hằng. Chớ nên v́ keo tiếc tiền của mà bỏ dở giữa chừng. Chớ sợ những lời lẽ chê bai
mà tự ngờ vực. Chớ quen thói an nhàn, thuận tiện để
rồi chẳng mạnh mẽ, hăng hái. Chớ bị ham muốn riêng tư lôi kéo
để rồi chẳng cương quyết, đoạn
tuyệt [những thói hư tật xấu]. Chớ qua loa tắc
trách để rồi bỏ dở nửa chừng. Chớ
chấp vào sự thành tựu nhỏ nhặt mà vui sướng,
tự măn. Chớ mong mỏi những điều hiếm
hoi, cao xa, để rồi chẳng chú trọng thật sự
tu tập. Chớ v́ thấy sự việc to tát mà ngại
khó. Chớ v́ điều lành nhỏ nhoi mà xem nhẹ.
Chớ v́ sự việc phiền toái mà đùn đẩy
[cho người khác]. Chớ tiếc nuối danh tiết
để rồi chẳng cứu người hoạn nạn.
Chớ gắng sức nơi chỗ dễ thấy mà lơ là chỗ ẩn kín. Chớ gắng
sức nơi hành vi, mà xem nhẹ lời ăn tiếng nói.
Chớ nói ngọt ngào sáo rỗng, để rồi hành vi
chẳng phù hợp sự thật. Chớ giữ cái thường
hằng, xem nhẹ cái tạm bợ. Chớ siêng lúc đầu,
biếng nhác lúc sau. Chớ tỵ hiềm. Chớ ngại kẻ
khác oán hận [để rồi không tích lũy công đức].
Chớ chần chừ, chớ gián đoạn, chớ lỗ
măng, chớ mong được báo đáp, chớ ham danh. Hễ
gặp hết thảy các việc thiện, hăy đều hoan
hỷ hành tŕ, hành xử
khéo léo cốt sao thành tựu mới
thôi. Như vậy mới là chủng tử tốt đẹp
trong việc phụng tŕ, [tích lũy công đức] vậy!
Tử Hư Nguyên
Quân nói: - Xưa kia có Phó tiên sinh, từ bé đă ham thích đạo.
Vào ở nơi thạch thất trong núi Tiêu, tu tập ba năm,
bỗng gặp Thái Cực Chân Nhân[72] trao cho cái dùi gỗ bảo hăy đục thủng một
tảng đá, căn dặn: “Đá thủng th́ ta sẽ độ
ngươi”. Đá dầy hơn năm thước, ông Phó
cứ dùi măi không ngừng. Trải qua bốn mươi bảy
năm, đá bỗng bị xuyên thủng. Thái Cực Chân Nhân
quả nhiên đến độ ông ta. Phàm tích lũy công
đức, tuy chẳng phải là dùi đá, nhưng cứ
từ chuyện này mà suy, chỉ sợ người ta không
làm, hoặc bỏ cuộc giữa chừng vậy.
Kẻ
có chí, sự rốt cuộc sẽ thành, chuyện này chẳng phải là
được chứng nghiệm rơ ràng đó sao?
Đời Tống,
Thái Thú xứ Trấn Giang là Cát Phồn, mỗi ngày hành mấy
điều thiện, suốt bốn mươi năm chẳng
bỏ. Người khác thưa hỏi, ông nói: “Ta chẳng
có ǵ khác, chỉ là mỗi ngày làm một, hai chuyện có lợi
cho người khác”. Nhân đó, ông chỉ cái bục lót chân
nơi chỗ ngồi, bảo: “Vật như thế nếu
kê chẳng ngay, ắt sẽ làm dập chân người khác.
Ta kê lại cho ngay ngắn. Người ta khát bèn cho một
chén nước, đều là những chuyện lợi lạc.
Từ bậc khanh tướng cho đến người
ăn mày đều có thể làm được. Chỉ là
làm lâu ngày th́ sẽ có lợi ích đó thôi!”
Dương Tuần
làm Thôi Tư[73]
xứ Quỳ Châu, tích lũy công đức, bắt chước
ông Châu Tŕ hành mười điều lợi ích trong Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên. Một là thu nhặt những trẻ nhỏ
bị bỏ rơi trên đường phố, cậy người
chăm sóc. Chờ cho nó đến tuổi mười lăm,
nếu nó muốn nhận lại [cha mẹ ruột], sẽ
trao lại cho đoàn tụ với cha mẹ. Thứ hai, mỗi
mùa Đông, bắt đầu từ ngày mồng Ba tháng
Mười Một, sẽ thâu nhận người từ sáu
mươi tuổi trở lên, trẻ nhỏ dưới
mười lăm, và kẻ ăn mày, người nghèo hèn vào Dưỡng Tế Viện của chính
ông. Mỗi ngày cho một thưng gạo, mười lăm
đồng. Ba tháng sau sẽ để họ tự tiện
t́m cách sống. Thứ ba, thí rộng răi những loại thuốc
thang có hiệu nghiệm để giúp đỡ người
bệnh khổ. Thứ tư, thí quan tài, châu cấp những
gia đ́nh không có sức mai táng. Thứ năm, tớ gái
trưởng thành, chẳng đ̣i tiền chuộc thân, mà ban
cho quần áo, tư trang đúng mức, giúp nó lấy người
thích đáng. Thứ sáu, chuyên nhất kiêng giết, cứu
vớt, bảo vệ chúng sanh. Hễ gặp loài vật dù
là phi cầm hay tẩu thú, lớn hay nhỏ, đều mua
hay chuộc lấy để phóng sanh. Thứ bảy, mỗi
khi gặp nạn mất mùa, lương thực đắt
đỏ, thiếu thốn, ông bèn chẩn tế dân nghèo.
Thứ tám, hễ thánh tượng trong chùa hoặc đạo
quán bị tổn hoại, tróc lở, sẽ sửa chữa,
tô điểm. Cầu, bến, đường sá, ng̣i, rạch
chẳng thông, sẽ đều sửa chữa. Thứ chín,
đối với hàng sĩ phu lưu lạc xa quê, bèn giúp
tiền cho họ về quê. Thứ mười, làm quan bèn
giúp người khác giăi bày nỗi oan uổng, luôn biết nghĩ tới người khác,
giúp đỡ người gặp cảnh nguy khốn, đè
nén kẻ cậy quyền hiếp đáp, giúp người yếu
được sống yên. Về sau, con ông là Dương
Xuân đỗ đầu thiên hạ (đỗ Trạng
Nguyên). Phàm những kẻ chẳng biết [do trồng tỉa]
sẽ có lợi ích được mùa vào tiết Thu, thấy
người khác gieo hạt, bèn chê trách: “Sao lại lấy
thứ để ăn đem vứt xuống bùn lầy?”
Kẻ chẳng biết phước điền cũng giống
như thế. Ngạn ngữ có câu: “Trồng tre được măng, gieo sen được
ngó”. Phàm những ai cùng hàng với tôi, đă biết nghiệp
rồi, hăy thận trọng, đừng tiếc sức
gieo trồng [phước điền]!
Đời Hậu
Châu, ông Yên Sơn Đậu Vũ Quân, làm quan Gián Nghị thời
Ngũ Đại[74], đă ba mươi
tuổi mà chẳng có con. Mộng thấy ông nội bảo:
“Ngươi không có con, lại chẳng thọ. Hăy nên sớm
làm lành”. Vũ Quân vâng dạ. Ông Đậu làm người có
phong thái của bậc trưởng giả. Trước
kia, có gă đầy tớ ăn cắp hai trăm
ngàn đồng, lo chuyện bị phát giác, do hắn có đứa con gái c̣n thơ ấu,
bèn tự viết bằng khoán, buộc vào tay con gái, ghi rằng:
“Bán đứa bé gái này vĩnh viễn cho nhà ông để
đền tiền thiếu nợ”, rồi trốn xa. Ông
Quân thương xót, đốt tờ bằng
khoán ấy, dặn vợ hăy nuôi nấng cẩn thận. [Khi
đứa con gái ấy] đến tuổi cài trâm, ông bèn dùng món tiền hai trăm ngàn [làm của
hồi môn], chọn người đàng hoàng để gả.
Gă đầy tớ nghe chuyện, cảm động,
khóc lóc, trở về đợi ông trị tội. Ông bỏ
lửng, không hỏi tới. Lại vào hôm Nguyên Đán ở
chùa Diên Khánh, ông nhặt được hai đĩnh vàng và
mười lượng bạc, bèn cầm về. Hôm sau
đến chùa, đợi người mất của để
trả lại, người ấy bèn dùng [món tiền đó]
để chuộc tội cho cha. Lại nữa, những người
cùng họ hoặc thông gia hễ có tang mà chẳng thể làm
đám ma được, ông bèn bỏ tiền an táng. Có
đến hai mươi bảy [trường hợp như
thế]. Có cô gái nào chẳng thể gả chồng, ông bèn bỏ
tiền lo cưới gả, có đến hai mươi tám
trường hợp như vậy. Những thân thích bằng
hữu nghèo túng, cần tiền nhiều hay ít, ông đều cho vay để họ
buôn bán. Nhờ ông mà mấy chục nhà được sống
sót. Hiền sĩ bốn phương nhờ ông đề
cử chẳng thể kể xiết!
Ông lại c̣n ở
phía Nam nhà ḿnh, lập thư viện rộng bốn mươi
gian, chứa đến ngàn quyển sách, lễ thỉnh bậc
nho sĩ có tài văn chương và đức hạnh
đến làm thầy. Những kẻ mồ côi, nghèo túng nhưng
có chí học hành từ bốn phương nghe chuyện ấy tự
đến, được ông cấp
lương thực và tiền chi dụng hậu hĩnh. V́
thế, những
sĩ tử ấy văn chương, kiến thức ngày càng rộng
răi. Mỗi năm, ông tính toán thu nhập, trừ món tiền
dùng để cúng giỗ ra, [khoản c̣n lại] đều
dùng giúp đỡ kẻ khác. Trong nhà hết sức tiết
kiệm, giản dị, chẳng có đồ trang sức bằng
vàng, ngọc. Vợ không chưng diện lụa là. Về
sau, ông lại mộng thấy ông nội bảo: “Ngươi
không có con, tuổi thọ lại ngắn ngủi. Do mấy
năm tích lũy âm đức, đă được ghi danh
nơi thiên tào. Thượng Đế đặc biệt tăng
cho ngươi thọ thêm ba mươi sáu năm, có năm
con trai quư hiển, phước thọ. Sau khi mất, c̣n
được bổ làm Động Thiên Chân Nhân”. Lại nói:
“Lư âm dương nói chung là chẳng khác! Thiện báo, ác báo,
hoặc phát sanh trong đời này, hoặc báo ứng trong
đời sau. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt.
Chớ nên nghi ngờ!” Ông càng tích lũy âm công, năm con
trai, tám cháu nội đều quư hiển[75]. Ông hưởng
thọ tám mươi hai tuổi. Một tối, ông cùng với thân hữu cười nói rồi
qua đời.
Đời Tống,
Ngụy công Hàn Kỳ[76], đỗ
Tiến Sĩ từ lúc c̣n ít tuổi. Điều đáng
nói nhất là ông có thể hiếu thảo với tổ tiên,
cha mẹ, nuôi dưỡng các cháu giống hệt như con
ruột của chính ḿnh. Ông châu cấp cơm áo cho một
trăm người họ hàng. Hễ được [vua]
ban thưởng, sẽ luôn chia sẻ cho thân tộc trước.
Ông làm Tể Tướng của ba triều vua. Nếu là
chuyện có lợi cho xă tắc, hễ biết đến,
không ǵ chẳng làm! Dốc trọn ḷng trung dũng ḥng làm
cho thiên hạ thái b́nh. Ông dạy con noi theo điều nghĩa,
nghiêm ngặt, chẳng thể vi phạm! Ngôn ngữ và cách
hành xử của ông đều tỏ lộ sự chí thành.
Giúp đỡ người khác đang gặp cảnh cấp bách, nếu chẳng đủ sức,
bèn quyên tặng quần áo, những món đồ dùng, vật
ưa thích của chính ḿnh; lại c̣n gỡ trâm và bông tai của
vợ đem cho. Con cháu của người quen biết nghèo túng, nương nhờ ông mà sống,
thường có đến mấy chục gia đ́nh.
Ông làm An Phủ
Sứ tại Ích Châu, gặp năm đói to, bèn giảm tiền
thuế, quyên mộ người khác (những kẻ giàu có)
đóng góp gạo. Lại tuyển mộ những kẻ mạnh
khỏe làm lính; một người đi lính, mấy người
[trong nhà người ấy] được sống sót.
Trong niên hiệu Minh Đạo (niên hiệu đời Tống
Nhân Tông), do thấy có nạn đói, bèn khuyên dụ [những
kẻ giàu có] đóng góp gạo thóc, chứa trong kho Thường
B́nh, để phát cho những hộ nghèo đói nấu cháo.
Dân nhờ đó sống sót qua nạn đói hơn một
trăm chín mươi vạn người.
Ông làm tri huyện
ở Tinh Châu. Phong tục xứ Hà Đông là hỏa táng, ông
bèn mua chỗ đất bỏ không để họ chôn vào
đó. Khi ông làm tri phủ Đại Danh, bất luận chuyện
lớn hay nhỏ, ông đều đích thân coi sóc. Tuy bị
bệnh, ông vẫn phê duyệt công văn trên giường.
Có người khuyên ông hăy giao cho thuộc hạ làm, ông nói:
“Thưa kiện, hạ ngục là chuyện to lớn của
người ta. Sanh, tử, được, mất sẽ được
quyết định trong một lời, há chẳng nên thận
trọng ư? Tôi thường sợ có chỗ chẳng sai
sót, c̣n dám giao cho người khác ư?”
Có người
dâng hai cái chén ngọc, ông dùng một trăm lạng biếu lại. Mỗi lần mời khách ăn tiệc,
đặc biệt bày ra một bàn, đặt cái chén lên đó,
phủ gấm lên. Một hôm, đăi tiệc Tào Sứ[77], viên tiểu
lại[78]
vô ư đụng đổ bàn, chén vỡ nát, mọi người
đều kinh ngạc. Ông thần sắc bất động,
cười bảo khách: “Phàm mọi vật đều có thành,
có hủy, đều có vận số”. Lại nh́n viên nha lại,
bảo: “Ngươi vô ư, chẳng phải là cố t́nh,
đừng kinh hăi”. Khách đều thán phục.
Ông chưởng
quản binh quyền tại Vũ Định, ban đêm viết
thư, một tên lính hầu cầm đuốc soi bên cạnh.
Tên lính ngẫu nhiên nh́n sang chỗ khác, để lửa cháy
bén râu ông. Ông chỉ dùng tay áo phẩy râu, viết thư như
cũ. Trong chốc lát, nh́n lại,
đă đổi thành một người lính khác. Ông sợ
người đứng đầu đám lính hầu sẽ
đánh đ̣n [tên lính hầu ấy], bèn vội gọi đem
tên lính ấy trở lại: “Đừng đổi! Gă ấy nay đă có thể cầm đuốc”. Mọi
người nghe chuyện, không ai chẳng cảm phục. Ông
chết già. Lúc mất, có một vẫn thạch lớn [giáng
xuống], tiếng vang như sấm. Ông [được
triều đ́nh đặt] thụy hiệu là Trung Hiến.
Năm người con đều quư hiển, con cháu hưng
thịnh khôn sánh!
Đời Minh, cách phủ
thành Thiệu Hưng ba mươi dặm về phía Bắc
là biển cả, thường có thủy triều ồ ạt
tràn vào, ngập hết ruộng lúa. Trong niên hiệu Gia
Tĩnh, người xứ Miên Trúc đất Thục (Tứ
Xuyên) là Thang Đốc Trai làm tri phủ [Thiệu Hưng].
Ông đă dốc hết tâm tư sức lực, đắp
đê ngăn biển hơn trăm dặm, xây hai
mươi tám cửa cống [xả lũ], cắt người
đúng lúc đóng hay mở. Từ đấy, mỗi
năm đều được mùa, muôn dân vĩnh viễn
được nhờ. Về sau, ông được thiên
chuyển sang trấn nhậm nơi khác. Dân chúng gào khóc rền
trời, lập đền thờ ở Tam Giang, đến
nay vẫn được cúng tế không dứt!
Ông Tiêu là người xứ
Đông Kinh, ba đời đều chẳng có đích tự (嫡嗣)[79], bèn làm thương nhân buôn bán khắp nơi.
Ông đến yết kiến bậc cao nhân khắp chốn,
hỏi về nhân quả ấy. Ông gặp một vị lăo
tăng bảo: “Không con th́ có ba nguyên do. Một là tổ tiên
chẳng có đức, bản thân vô hạnh. Hai là tuổi
tác, vận mạng của vợ chồng sợ phạm phải
cấm kỵ. Ba là chẳng giữ Tinh và Thần, thê thiếp
máu lạnh”. Ông Tiêu đáp: “Đối với đức hạnh
và vận mạng th́
đều có thể thọ tŕ, máu lạnh
th́ có cách nào trị?” Vị tăng bảo: “Chẳng khó, nhưng
trước hết phải tích lũy công đức, sau là điều dưỡng thân thể. Ba năm
sau, ông tới núi Ngũ Đài, ta sẽ truyền cho một
phương thuốc lạ”. Từ đấy trở đi,
ông Tiêu luôn luôn hành phương tiện, làm các việc âm
đức, thi ân bố đức suốt ba năm. Sau
đấy, đến Ngũ Đài, t́m vị lăo tăng nhưng
chẳng gặp, bỗng thấy một hành đồng (行童, sa-di), tay cầm một quyển sách, bảo:
“Thầy tôi dặn tôi thưa lại với ông: Ông công thành
hạnh măn, hăy về nhà ḥa thuốc [ghi trong quyển sách này],
chí thành uống, ắt sẽ có con cháu phú quư thuận theo ḷng
mong mà giáng sanh”. Về sau, quả nhiên ông sanh được
Tiêu viên ngoại.
Viên ngoại
sanh đứa con lại
chẳng ra ǵ, tự hận
v́ sao lại tổn đức như thế này, cũng t́m
đến Ngũ Đài, thấy hành đồng bảo:
“Thầy dặn tôi chuyển lời, cần ǵ phải tới
hỏi nữa. Chỉ hành đúng như cha ông đă làm th́
kẻ ngu sẽ thành hiền, kẻ nghèo sẽ tự giàu vậy!”
Viên ngoại hỏi: “Kẻ nghèo được trở thành
giàu là do mạng. C̣n kẻ ngu là do tánh vốn như thế,
há có thể đâm ra trở thành người hiền
được ư?” Hành đồng nói: “Xưa kia, năm
đứa con của ông Đậu lúc mới sanh ra, thân thể
đều
chẳng vẹn toàn. Về sau, do ông
ta thi ân bố đức, chúng đều được an
lành, lại c̣n đều đỗ đạt hết, rành rành chẳng sai vậy”. Viên ngoại
cảm tạ, trở về, tin tưởng, hành theo lời
ấy. Hai mươi năm sau, đă có nhiều con nối
ḍng, lại c̣n sang cả.
Người thời
nay đều biết năm đứa con ông Đậu nối
tiếp nhau hiển vinh, nào có biết lúc mới sanh ra, chúng đều bị bệnh tật, tàn phế.
Do [ông Đậu] thoạt đầu tích lũy [công đức]
mà [năm người con] đều được an toàn;
về sau, do công đức mà có những sự gặp gỡ
[tốt lành]. Sự cảm thông giữa trời và người
dễ dàng như thế đó. V́ thế, đặc biệt
ghi tường tận chuyện này để làm bằng chứng
cho chuyện tích lũy công đức. Nguyện những người
có chí, hăy vững ḷng, đừng giải đăi!
Trong thiên sách Tích
Thiện, ông Viên Liễu Phàm đời Minh đă viết:
- Kinh Dịch
chép: “Nhà tích thiện, ắt mừng
vui có thừa”. Xưa kia, họ Nhan gả con gái cho Thúc Lương Hột[80] là do xét thấy tổ tông ông ta tích đức sâu dầy,
suy ra ắt biết con cháu ắt được hưng
vượng. Khổng Tử ca ngợi ḷng đại hiếu
của vua Thuấn như sau: “Tông
miếu hưởng chi, tử tôn bảo chi” (Tổ tông
được thờ phụng, con cháu giữ ǵn [phước
báo])[81], đều
là những lời luận định chí lư vậy.
Thử dùng chuyện
cũ để chứng minh. Thiếu Sư[82] Dương
Vinh, người xứ Kiến Ninh, [tổ tiên] nhiều
đời sống bằng nghề chèo đ̣. [Có lần] mưa
lâu ngày, nước khe ng̣i dâng tràn, nước lũ cuồn
cuộn thúc vỡ chỗ cư ngụ của dân chúng, những
người chết đuối trôi theo gịng nước. Những
thuyền khác lo vớt đồ vật, chỉ riêng ông cố
và ông nội của Thiếu Sư lo cứu người,
chẳng lấy một món đồ nào. Người làng chê
cười là ngu đần. Đến khi sanh ra cha của
Thiếu Sư, gia cảnh dần dần khá lên. Có vị thần
hóa thành đạo nhân nói: “Tổ phụ của ngươi
có âm đức, con cháu sẽ quư hiển. Hăy nên chôn ở cuộc
đất nọ”. Bèn vâng theo lời dạy ấy mà chôn cất, tức là khu mộ Bạch
Thố hiện thời. Về sau, sanh ra Thiếu Sư, hai
mươi tuổi đỗ đạt, [quan chức] đạt
tới địa vị Tam Công. Vua gia phong ông cố và ông nội
chức quan giống như Dương Vinh vậy. Con cháu
sang cả, hưng thịnh. Đến nay vẫn c̣n nhiều
người hiền đức.
Người xứ
Ngân là Dương Tự Trừng, thoạt đầu làm nha lại ở huyện, có ḷng nhân hậu,
vâng giữ pháp tắc công bằng. Huyện tể (quan huyện)
thuở ấy nghiêm khắc, có lần đánh một tù nhân
máu văng tung tóe trước [công đường], vẫn
chưa nguôi cơn giận. Ông Dương bèn quỳ lạy,
mềm mỏng khuyên giải. Quan huyện nói: “Hiềm rằng
tên này vượt pháp, trái lư, chẳng khỏi khiến cho người khác
không giận được”. Tự Trừng dập đầu
thưa: “Bề trên chẳng vẹn đạo, ḷng dân rời
ră đă lâu. Nếu thấu hiểu t́nh cảnh này, hăy nên xót
thương, chẳng thể cảm thấy vui nổi. Vui
c̣n chẳng nổi, huống là giận dữ ư?” Quan huyện
dịu nét mặt. Nhà ông Dương rất nghèo, trọn chẳng
nhận quà biếu, của đút lót. Hễ thấy tù nhân
thiếu ăn, thường dùng nhiều cách giúp đỡ.
Một lần, có mấy người tù mới
chuyển tới, không có cái ăn, nhà lại thiếu gạo,
ông bèn cho tù ăn, để người nhà nhịn đói.
Ông thấy tù nhân đáng thương, bèn bàn bạc với
vợ. Vợ hỏi: “Tù nhân từ đâu đến?”
Đáp: “Từ Hàng Châu đến, đi đường
đă phải chịu đói, xanh xao đáng thương”.
Do vậy bèn bớt phần gạo của chính ḿnh để
nấu cháo cho tù nhân ăn. Về sau, ông sanh hai con trai, con trưởng là Thủ
Trần, con thứ là Thủ Chỉ làm Nam Bắc Lại Bộ
Thị Lang. Cháu đích tôn làm H́nh Bộ Thị Lang, cháu nội
kế làm Liêm Hiến ở Tứ Xuyên, họ đều là
những vị quan nổi tiếng. Ông Sở Đ́nh Dương
Đức Chánh hiện thời cũng là hậu duệ của
họ.
Xưa kia, trong
niên hiệu Chánh Thống, Đặng Mậu Thất khởi
xướng làm loạn tại Phước Kiến. Dân chúng
theo gă giặc ấy rất đông, triều đ́nh sai Đô
Hiến huyện Ngân là Trương Giai cầm quân nam chinh. Ông
Trương dùng kế bắt giặc, sau đó giao cho Bố
Chánh Ty Tạ Đô Sự bắt giết lũ giặc ở
Đông lộ. Ông Tạ t́m kiếm sổ sách của bọn
giặc ghi chép những người theo giặc. Đối
với những người không theo giặc [mà bị ép buộc
phải gia nhập, ông Tạ] ngầm bảo họ dùng vải
trắng làm chiếc cờ nhỏ, ước định
vào ngày quân binh kéo tới, sẽ cắm [lá cờ ấy] ở
cổng, răn quân sĩ chẳng được giết chóc
bừa băi. [Do vậy], giữ tṛn tánh mạng của một vạn người. Về sau, con của
ông Tạ đỗ Trạng Nguyên, làm Tể Tướng.
Cháu là Phi, lại đỗ Thám Hoa.
Tổ tiên của
họ Lâm ở Phủ Điền có một bà cụ già thích
làm lành, thường làm bánh bao chỉ[83] thí cho người
khác. Hễ xin, cụ cho ngay, chẳng lộ vẻ mỏi
mệt. Một vị tiên hóa thành đạo sĩ, mỗi
sáng đến xin sáu bảy viên bánh. Bà cụ hằng ngày
đều cho. Suốt ba năm đều như một ngày.
[Vị tiên ấy] biết ḷng thành của cụ, do vậy,
bảo: “Ta ăn bánh bao chỉ của bà suốt ba năm,
dùng ǵ để báo đáp bà? Sau nhà bà có một khu đất,
[sau khi bà mất] hăy chôn vào đó, con cháu sẽ có quan tước
nhiều như một thưng mè vậy”. Con bà vâng theo lời
chỉ dạy mà chôn cất. Đời thứ nhất có
chín người đỗ đạt, trải các đời
trâm anh[84]
rất đông. Đất Phước Kiến có lời
đồn “nếu không có họ Lâm [thi đỗ], sẽ không yết bảng!”
Cha của Thái
Sử[85]
Phùng Trác Am là tường sanh của huyện. Một ngày mùa
Đông rét căm căm, ông dậy sớm đi học. Trên
đường, gặp một người bị ngă nằm
trong đống tuyết. Ông sờ thấy đă đông cứng
một nửa rồi, bèn cởi áo bông của chính ḿnh
để bọc lấy, lại c̣n ôm về nhà, cứu cho
tỉnh lại. Ông mộng thấy thần bảo: “Ngươi
cứu một mạng người, tỏ lộ ḷng chí thành,
ta sai Hàn Kỳ làm con ngươi”. Đến khi sanh ra Trác
Am, bèn đặt tên là Kỳ[86].
Ứng Thượng
Thư ở Thai Châu, thuở tráng niên học hành trong núi. Ban
đêm, có quỷ tụ lại kêu gào, thường khiến
cho mọi người kinh hăi. Ông chẳng sợ hăi. Một
đêm, nghe quỷ nói: “Người đàn bà nọ do chồng
bỏ sang đất khách đă lâu ngày không về, bố mẹ
chồng ép gả cho người khác. Đêm mai, [cô ta] sẽ thắt cổ chết ở
chỗ này, ta có người thế mạng rồi”. Ông ngầm
bán ruộng, được bốn lượng bạc, liền
giả vờ dùng tên chồng cô ta viết thư gởi bạc
về nhà. Cha mẹ anh ta xem thư, thấy nét chữ không
giống bèn nghi ngờ. Hồi lâu nói: “Thư có thể giả,
bạc chẳng thể giả”, nghĩ con không có chuyện
ǵ. [Do vậy], đứa con dâu chẳng bị gả đi. Về sau,
người con trở về, vợ chồng chung sống êm
ấm như thuở đầu. Ông lại nghe quỷ nói:
“Ta sắp được người khác thay thế, hiềm
rằng gă Tú Tài này làm hư chuyện của ta”. Một con
quỷ ở bên cạnh nói: “Sao mày không giáng họa cho nó?” Đáp:
“Do Thượng Đế thấy người này có ḷng tốt,
hạ lệnh: ‘Anh ta v́ có âm đức, sẽ làm Thượng
Thư’, tao làm sao dám gây họa?”
Ông Ứng càng thêm nỗ lực, gắng sức, ngày càng
thêm điều lành nhiều hơn, đức ngày càng thêm dầy. Gặp năm
đói kém, bèn quyên tặng gạo để cứu giúp. Gặp
thân thích có chuyện cấp bách, bèn t́m đủ
mọi cách giúp đỡ. Hễ gặp chuyện ngang trái,
bèn tự vấn, tự trách, vui vẻ thuận theo. Con cháu
đỗ đạt, tới nay vẫn đông đảo!
Ở Thường
Thục, Từ Thức tên tự là Phượng Trúc, cha khá
giàu có. Gặp năm đói kém, [cha của Từ Thức] là
người trước hết đă đề xướng
giảm tiền thu tô trong huyện, lại c̣n chia gạo
để cứu giúp kẻ nghèo túng, thiếu hụt. Ban đêm,
nghe quỷ hô to ngoài cửa: “Ngàn phần chẳng dối, muôn
phần chẳng bịa, chàng Tú Tài nhà họ Từ sẽ
đỗ Cử Nhân”, hô liên tục suốt đêm chẳng
ngừng. Năm ấy, quả nhiên Phượng Trúc đỗ
Cử Nhân trong khoa thi Hương. Do vậy, cha ông ta càng thêm
tích đức, cần mẫn chẳng biếng nhác, tạo
cầu, sửa đường, trai tăng, tiếp dẫn
người khác. Hễ là chuyện có lợi ích, không ǵ chẳng
tận tâm. Về sau, lại nghe quỷ hô to ngoài cửa:
“Ngàn phần chẳng dối, muôn phần chẳng bịa,
chàng Cử Nhân nhà họ Từ sẽ làm đến chức
Đô Đường”[87]. Rốt cuộc,
Phượng Trúc làm quan tới chức Lưỡng Chiết
Tuần Phủ.
Đồ Khang
Hy Công[88] ở Gia Hưng,
thoạt đầu làm Chủ Sự ở bộ H́nh, ngủ
đêm trong ngục để thăm ḍ cặn kẽ t́nh huống
của tù nhân, t́m ra bao nhiêu người vô tội. Ông chẳng
tự cho đó là công lao, ngầm ghi chép chuyện ấy
để bẩm lên đường quan[89]. Sau đó,
khi triều thẩm[90], đường
quan thường trích dẫn lời ông Đồ để
bênh vực các tù nhân, không ai chẳng phục. Ông đă gỡ
oan cho mười mấy người. Nhất thời, tại
kinh thành, [dân chúng] đều ca tụng Thượng Thư
[bộ H́nh] sáng suốt. Ông lại bẩm báo: “Tại kinh
thành mà hăy c̣n nhiều dân oan, trong bốn biển rộng khắp,
dân đông cả triệu, há chẳng có người oan uổng
ư? Hăy nên cứ năm năm sai một vị giảm h́nh
quan (vị quan đặc trách tái thẩm các bản án) xem xét
kỹ càng sự thật để sửa sai”. Thượng Thư tâu lên, triều đ́nh
chấp thuận kiến nghị ấy. Lúc đó, ông cũng được cử làm một
trong những vị giảm h́nh quan. Ông mộng thấy một
vị thần bảo: “Mạng ông không có con, nay do đề
nghị giảm thiểu h́nh phạt, rất hợp ḷng trời,
Thượng Đế ban cho ông ba đứa con, đều
là áo tía, eo vàng”[91]. Đêm hôm ấy, vợ ông có mang, về
sau sanh ra Ứng Huân, Ứng Khôn, và Ứng Tuấn, đều
làm quan to.
Bao Bằng ở
Gia Hưng, tên tự là Tín Chi. Cha làm Thái Thú xứ Tŕ Dương,
sanh ra bảy con trai. Ông Bằng là con út, ở rể nhà họ
Viên tại B́nh Hồ, giao du rất thân với cha tôi. Ông Bằng
học rộng, tài cao, thi nhiều lần chẳng đậu,
lưu tâm học tập Phật giáo lẫn Đạo giáo.
Một hôm, sang phía Đông, đến chơi Măo Hồ, ngẫu
nhiên đến một ngôi chùa trong thôn, thấy tượng
Quán Âm bị dầm mưa dăi nắng. Ông liền dốc túi,
t́m được mười lạng trao cho vị Tăng trụ tŕ, bảo sửa chữa điện
thờ. Vị Tăng nói công tŕnh xây dựng to tát mà tiền
th́ ít, chẳng thể hoàn thành được. Ông lại lấy
bốn xấp vải Tùng Giang, kiểm trong tráp thấy có bảy
tấm áo đều trao cho. [Những tấm
áo ấy] đều là áo kép bên trong lót vải lanh, toàn là mới
sắm. Người đầy tớ can ngăn, ông Bằng
nói: “Chỉ cần thánh tượng không bị sao, dẫu
ta lơa lồ có sao đâu?” Vị Tăng rơi nước mắt, nói: “Xả tiền, y
phục và vải, vẫn chưa phải là chuyện khó, chỉ
với tấm ḷng này, há dễ có ư?” Về sau, công tŕnh
hoàn thành, ông kéo cha tôi đến đó chơi. Đêm ngủ
lại chùa, ông mộng thấy thần Già Lam đến cảm
tạ: “Con ông sẽ hưởng lộc trong đời”. Về
sau, con ông là Biện, cháu là Sanh Phương đều đỗ
đạt, làm quan to.
Cha ông Chi Lập
ở Gia Thiện làm nha lại tại h́nh pḥng[92]. Có người
tù vô tội bị phán tử h́nh, ông thương xót muốn
cứu sống người ấy. Người tù bảo vợ:
“Ư tốt lành của ông Chi, thẹn không có ǵ để
đền đáp. Ngày mai, nàng hăy mời ông ta xuống làng,
dùng thân báo đáp. Nếu ông ta chịu dốc sức, ta cũng
có thể sống sót”. Người vợ khóc, nghe theo lời
dặn. Ông Chi đến, người vợ tự ra mời
rượu, thưa rơ ư chồng. Ông Chi không nghe, rốt cuộc
tận lực xóa án. Người tù ra khỏi ngục, vợ
chồng đến thăm ông, lạy tạ thưa: “Ngài có
đức dầy như thế, rất hiếm có trong
đời mạt này. Nay Ngài không có con trai, tôi có một
đứa con gái nhỏ, tặng cho Ngài làm thiếp để lo việc quét dọn”. Chuyện này xét theo
lễ có thể chấp nhận được, ông Chi bèn sắm
sửa đủ lễ cưới thiếp, sanh ra Chi Lập.
Hai mươi tuổi, Chi Lập đỗ Trạng Nguyên,
làm quan tới chức Hàn Lâm Khổng Mục[93]. Chi Lập
sanh ra Chi Cao, Chi Cao sanh ra Chi Lộc, đều là bậc học
rộng. Chi Lộc sanh ra Đại Luân cũng đỗ đạt.
Trong mười
điều trên, [những người ấy] tuy làm những
việc khác nhau, nhưng đều quy vào điều thiện
mà thôi! Nếu nói cặn kẽ hơn, ắt thiện có chân
và giả, có đoan chánh, có cong quẹo, có âm và dương
(ngấm ngầm và công khai), có đúng và sai, có thiên lệch
hay chánh đáng, có chưa trọn vẹn và trọn vẹn,
có lớn và nhỏ, có khó và dễ, đều đáng nên biện
định sâu xa. Làm lành mà chẳng cùng tận lư, tuy tự
nói là hành tŕ, nào có biết là tạo nghiệp, sẽ phí công khổ tâm mà vô ích!
Chân và giả là
ǵ? Xưa kia có mấy nho sĩ yết kiến ḥa thượng
Trung Phong (tức quốc sư Phổ Ứng núi Thiên Mục
đời Nguyên), thưa hỏi: “Nhà Phật luận định
báo ứng thiện ác như bóng theo h́nh. Nay có người nọ là thiện nhân, nhưng
con cháu chẳng khá, kẻ nọ là người ác, thế mà
gia môn hưng thịnh. [Dường như là] thuyết của
nhà Phật không có căn cứ vậy”. Ngài Trung Phong dạy:
“Phàm t́nh chưa gột sạch, chánh nhăn chưa mở, ngỡ
thiện là ác, đó là chuyện thường có, chẳng hối
tiếc chính ḿnh thị phi điên đảo, cứ ngược
ngạo oán trời báo ứng phân biệt ư?” Mọi người
thưa: “V́ sao thiện hay ác sẽ dẫn đến báo ứng khác biệt?” Ngài Trung Phong bảo họ nêu
ra những trường hợp để thử phán đoán.
Một người nói “chửi người, rủa người là ác; kính trọng, lễ độ đối
với người khác là thiện”. Ngài Trung Phong nói: “Chưa
chắc đă là như vậy!” Một người khác nói:
“Tham tài lấy xằng là ác, liêm khiết tuân thủ quy củ
là thiện”. Ngài Trung Phong nói: “Chưa chắc đă là như
vậy!” Ai nấy đều nêu ra sự phán đoán, ngài Trung
Phong đều bảo là “chưa phải là như vậy”.
Mọi người thưa hỏi, ngài Trung Phong bảo:
- Có ích cho người
khác là thiện, có ích cho chính ḿnh là ác. Hễ có ích cho người
ta th́ đánh người, rủa người, cũng đều
là thiện. Có ích cho chính ḿnh th́ kính trọng, lễ độ
với người khác cũng đều là ác. V́ thế, người
làm lành, hễ có lợi cho người khác th́ là công, công th́
là thật. Lợi lộc cho riêng ḿnh th́ là tư, tư th́ là
giả. Lại nữa, [chuyện làm lành] có căn cội từ
cái tâm th́ là chân, [nếu chỉ là] biểu hiện bề
ngoài th́ là giả. Lại nữa, vô vi mà làm th́ là chân, hữu
vi mà làm th́ là giả. Hăy đều nên tự suy xét!
Đoan chánh và
cong quẹo là ǵ? Người hiện thời thấy kẻ
thật thà, ba phải, bèn cho là thiện để chọn
lấy; thánh nhân thà chọn những kẻ có chí
nguyện mạnh mẽ, phẩm chất thanh liêm, đều
coi họ là thiện để chọn lấy. C̣n như kẻ
thật thà, ba phải, tuy cả làng đều nói người
ấy là tốt, nhưng [trong cái nh́n của thánh nhân], ắt
là kẻ giặc đối với đạo đức[94]. Đấy
là điều thiện lẽ ác của người đời
rơ ràng là tương phản với thánh nhân. Từ chuyện
này mà suy ra, các thứ lấy hay bỏ [của người
đời], chẳng có ǵ không sai lầm! Trời, đất,
quỷ thần ban phước cho người lành, giáng họa
cho kẻ dâm dật, đều do xét đoán lẽ đúng sai giống
như [quan niệm của] thánh nhân vậy, chẳng giống
như sự lấy bỏ của thế tục. Hễ muốn
tích chứa điều lành, quyết chẳng thể thuận
theo tai mắt (chẳng thể thuận theo sự thấy
biết b́nh phàm), chỉ nên thuận theo chỗ ẩn kín,
vi tế trong nguồn tâm (tức là xét theo khởi tâm động
niệm), lặng lẽ gột rửa, sao cho [khởi tâm
động niệm] thuần là cái tâm giúp đời, đó là đoan chánh. Nếu
tâm có mảy may dối đời, tức là cong quẹo.
Thuần là cái tâm yêu thương con người th́ là đoan
chánh. Hễ tâm có mảy hận đời sẽ là cong quẹo.
Thuần là cái tâm kính trọng người khác th́ sẽ là đoan chánh, hễ cái tâm có mảy may
ngạo đời, sẽ là cong quẹo. Hăy đều nên biện
định tỉ mỉ.
Âm dương
là ǵ? Phàm làm lành mà người khác biết th́ là “dương thiện” (điều
lành công khai). Làm lành mà chẳng ai biết, tức là âm đức.
Âm đức sẽ được trời báo đáp, dương
thiện sẽ được nổi danh trong cơi đời.
Danh tiếng cũng là phước. Danh là điều tạo
vật chẳng ưa. Được nổi tiếng trong
cơi đời mà thực chất chẳng tương ứng,
sẽ bị nhiều tai họa lạ lùng! Con người
chẳng thể nào không có lầm lỗi. Kẻ bị gán cho
tiếng ác mà con cháu thường đột nhiên hưng thịnh
là [cái quả của điều thiện] xét theo lẽ âm dương
vậy, nhỏ nhiệm thay!
Đúng sai là ǵ?
Pháp luật nước Lỗ quy định người
nước Lỗ nếu có thể chuộc kẻ làm nô tỳ
từ các chư hầu, sẽ được chánh quyền
trả tiền[95]. Tử Cống
chuộc người, nhưng chẳng nhận tiền. Khổng
Tử nghe chuyện, chê trách: “Tứ[96] đă sai mất
rồi”. Thánh nhân hành xử có thể thay đổi phong tục,
nhưng lời dạy bảo của các Ngài có thể áp dụng
cho dân chúng, chẳng phải chỉ riêng thích hợp cho một
ḿnh ta làm. Nay nước Lỗ người giàu th́ ít, kẻ
nghèo th́ đông. [Nếu chê] người nhận tiền
thưởng là chẳng liêm khiết, sẽ dựa vào đâu để có thể
chuộc người? Từ nay trở đi, chẳng c̣n có
ai chuộc người từ các chư hầu nữa! Tử
Lộ cứu người chết đuối, người
ấy tạ ơn bằng một con trâu, Tử Lộ nhận
lấy. Khổng Tử vui mừng bảo: “Từ nay nước
Lỗ sẽ có nhiều kẻ cứu người chết đuối”. Trong cái nh́n của thế tục,
Tử Cống chẳng nhận tiền là cao thượng,
Tử Lộ nhận trâu là kém cỏi. Khổng Tử tán
đồng cách làm của ông Do[97]
mà chê trách ông Tứ.
Do vậy biết:
Người ta làm lành, chớ luận theo hiện hành, mà phải
luận định xem việc ấy có gây nên thói tệ hay
không? Đừng luận định theo một thời, phải
luận định lâu xa. Đừng luận theo một thân,
mà phải luận theo thiên hạ. Hiện hành tuy là lành, nhưng
gây nên những hệ lụy đủ để hại người
th́ chuyện ấy giống như thiện mà thật sự chẳng phải là thiện. Hiện hành
tuy bất thiện, nhưng hậu quả hữu ích cho mọi
người th́ sẽ là chẳng phải thiện mà thật
sự là thiện. Tôi chỉ luận định một điều
này mà thôi, đối với điều nghĩa mà chẳng
phải là nghĩa, lễ mà chẳng phải là lễ, tín mà
chẳng phải là tín, ḷng từ mà chẳng phải là từ,
hăy đều nên quyết định rơ ràng để quyết
định chọn
lựa.
Thiên lệch và
chánh trực là ǵ? Xưa kia, Lữ Văn Ư Công[98], lúc mới
xin nghỉ làm Tể Tướng, trở về quê nhà, cả
nước ngưỡng mộ như Thái Sơn, Bắc Đẩu.
Có một gă người làng say rượu chửi bới ông,
ông Lữ bất động, bảo đầy tớ: “Chớ
nên so đo với kẻ say!” Đóng cửa tạ tuyệt.
Hơn một năm, kẻ ấy phạm tội tử h́nh
bị giam. Ông Lữ mới hối hận nói: “Nếu khi ấy,
ta so đo đôi chút, giao hắn cho quan lại trách phạt,
sẽ có thể là do bị phạt nhẹ mà hắn sẽ
hết sức kiêng dè. Khi ấy, ta chỉ muốn giữ ḷng
trung hậu, không ngờ dưỡng thành chuyện ác đến
nông nỗi như thế này!” Đấy là dùng thiện tâm
mà làm chuyện ác vậy.
Lại có khi do
ác tâm mà làm thiện sự. Như ông X… giàu to, gặp năm
đói kém, dân nghèo cướp gạo ở chợ giữa
ban ngày. Thưa lên huyện, huyện mặc kệ, dân nghèo
càng làm càn. Ông ta bèn tự bắt giữ, làm khó họ, mọi
người mới yên. Nếu không, sẽ gần như là
loạn lạc. V́ thế, thiện th́ là chánh đáng, ác th́
là thiên lệch, mọi người đều biết. Kẻ
do thiện tâm mà làm chuyện ác th́ là thiên lệch trong chánh đáng.
Kẻ do ác tâm mà làm thiện sự th́ là chánh đáng trong thiên
lệch vậy. Chớ nên không biết!
Chẳng trọn
vẹn và trọn vẹn là ǵ? Kinh Dịch nói: “Thiện bất tích, bất túc
dĩ thành danh. Ác bất tích, bất túc dĩ diệt thân”
(Thiện chẳng chất chứa, chẳng đủ
để thành danh. Ác chẳng chất chứa, chẳng đủ
để diệt thân). Kinh Thư nói: “Thương tội quán doanh, như trữ vật
ư khí, cần nhi tích chi tắc măn. Giải nhi bất tích
tắc bất măn” (Tội của nhà Thương (vua Trụ)
đầy ắp, giống như chứa vật trong đồ
đựng, siêng năng tích lũy sẽ đầy. Lười
nhác chẳng tích lũy, sẽ không đầy). Đấy là một thuyết
vậy.
Xưa có cô gái
nọ vào chùa, muốn cúng thí mà chẳng có tiền, chỉ
có hai đồng, bèn quyên cúng. Vị sư Trụ Tŕ đích
thân v́ cô ta sám hối. Về sau, cô ta vào cung, trở thành phú
quư, đem mấy ngàn lạng cúng vào chùa. Vị tăng
Trụ Tŕ chỉ sai đồ đệ hồi hướng
cho cô ta; do vậy, [cô ta] bèn hỏi: “Xưa kia, tôi cúng hai đồng
tiền, thầy v́ tôi đích thân sám hối. Nay thí đến
mấy ngàn lạng, sao thầy chẳng hồi hướng
là v́ lẽ nào?” Sư đáp: “Lần trước, vật
tuy đơn bạc, nhưng cái tâm bố thí rất chân thành,
nếu lăo tăng chẳng đích thân sám hối, sẽ chẳng
đủ báo đức. Nay vật tuy hậu hĩnh, cái tâm
bố thí chẳng thiết tha bằng khi trước, kẻ
khác thay tôi sám hối là đủ rồi”. Ngàn lạng là chẳng
trọn vẹn, mà hai đồng là viên măn vậy.
Chung Ly truyền
dạy cách luyện đan cho Lữ Tổ (Chung Ly Quyền
và Lữ Động Tân đều là người đời
Đường), điểm sắt thành vàng, có thể cứu
đời. Họ Lữ hỏi: “Có thể biến [thành vàng]
vĩnh viễn ư?” Đáp: “Sau năm trăm năm, vàng
sẽ trở lại bản chất”. Ông Lữ nói: “Như
thế th́ sẽ làm hại người năm trăm năm
sau, con chẳng muốn làm”. Ông Chung đáp: “Tu tiên phải tích
lũy ba ngàn công hạnh. Do một lời này của ngươi,
ba ngàn công hạnh đă măn!” Đấy là một chuyện
nữa. Ví như dùng tài vật để giúp người khác,
trong chẳng thấy ḿnh, ngoài chẳng thấy người,
trung gian chẳng thấy vật được thí, đó gọi
là “tam luân thể không”, là “nhất tâm thanh tịnh”. [Như
thế th́] một đấu gạo đủ để
gieo phước không bờ bến, một đồng có thể
tiêu tội ngàn kiếp. Nếu cái tâm [chấp trước bố thí]
ấy chẳng quên, dẫu vàng
ṛng vạn dật[99], phước
chẳng viên măn! Đấy là một điều nữa.
Lớn nhỏ
là ǵ? Đời Tống, Vệ Trọng Đạt giữ
quán chức[100], bị bắt
tới âm ty. Vị chủ quản (Diêm Vương) sai nha lại
tŕnh lên hai loại sổ ghi thiện và ác. Khi đem tới,
sổ ghi điều ác chật sân, sổ ghi điều
thiện [chỉ nhỏ bé] như chiếc đũa. Sai đem
cân, hóa ra những sổ chứa đầy sân lại nhẹ
hơn, mà quyển sổ như chiếc đũa đâm
ra nặng hơn. Trọng Đạt hỏi: “Tôi chưa
đến bốn mươi, lẽ nào lỗi ác nhiều
ngần ấy?” Đáp: “Một niệm bất chánh chính là ác,
chẳng đợi phạm lỗi!” Do vậy, [Vệ Trọng
Đạt] bèn hỏi trong quyển trục ấy chép chuyện
ǵ. Đáp: “Triều đ́nh từng đề ra một công
tŕnh xây dựng lớn là sửa chữa ba chiếc cầu
đá trong núi. Ông đă dâng sớ can gián, chuyện này đă được
ghi lại”. Trọng Đạt thưa: “Tôi tuy nói, triều
đ́nh chẳng nghe theo, chẳng có lợi ích ǵ cho chuyện
ấy, làm sao có thể tạo ra sức mạnh như vậy?”
Đáp: “Tuy triều đ́nh chẳng nghe theo, nhưng ông
trong một niệm đă nghĩ tới muôn dân. Giả sử
họ nghe theo, thiện lực càng lớn hơn nữa”. V́
thế, có chí v́ thiên hạ, v́ nước nhà, ắt điều thiện tuy ít mà
to tát. Nếu chỉ v́ một thân, dẫu nhiều vẫn là
ít.
Khó dễ là ǵ?
Bậc tiên nho bảo: “Khắc
kỷ, tu tùng nan khắc xứ khắc tương khứ”
(Khắc chế những điều sai trái
của chính ḿnh, phải thực hiện từ chỗ khó
khắc chế). Phu Tử luận định chuyện thực
hiện ḷng nhân, cũng bảo phải làm chuyện khó
trước. Ắt như ông Thư ở Giang Tây, bỏ ra
toàn bộ món tiền lương ít ỏi do ông dạy học
suốt hai năm để đền tiền công khố
thất thoát giùm người khác, khiến cho vợ chồng
họ được toàn vẹn. Cũng như ông Trương
ở Hàm Đan bỏ ra món tiền đă nhọc nhằn chắt
chiu suốt mười năm để làm tiền chuộc
thân cho người khác ḥng cứu sống vợ người
ta. Đấy đều gọi là “có thể bỏ ở chỗ khó bỏ”. Như ông
Cận ở Trấn Giang, tuy tuổi già, không con, chẳng nỡ ḷng lấy cô gái trẻ
làm thiếp, giao trả lại cho hàng xóm[101]. Đấy
là đối với chỗ khó nhẫn mà có thể chịu
đựng. V́ thế, trời giáng phước đặc
biệt dầy. Phàm là kẻ có tiền tài, có thế lực,
lập đức đều dễ. Dễ mà chẳng làm,
tức là đă tự ruồng rẫy chính ḿnh! Nghèo hèn th́ làm phước luôn khó khăn, khó mà có thể
làm, đấy là điều đáng quư! Tùy duyên giúp đỡ
người khác, thể loại hết sức nhiều. Nói
đại cương, đại lược th́ có mười loại:
Thứ nhất
là v́ người khác mà làm lành. Thứ hai là giữ ḷng kính yêu. Thứ ba là giúp cho người khác thành tựu.
Thứ tư là khuyên kẻ khác làm lành. Thứ năm là giúp
người khác trong cơn nguy cấp. Thứ sáu là hưng
kiến đại lợi. Thứ
bảy là bỏ tiền của làm
phước. Thứ tám là hộ tŕ chánh pháp. Thứ chín là kính trọng tôn trưởng. Thứ mười là yêu tiếc sanh mạng
của chúng sanh.
1) Thế nào là “v́ người khác làm
lành”? Xưa kia, vua Thuấn ở
Hà Tân, thấy người đánh cá giành nhau chỗ đầm
sâu, hồ sâu, c̣n người già yếu th́ đánh cá ở
chỗ nước chảy xiết, băi cạn. Vua xót thương,
bèn đi đánh cá. Thấy kẻ nào tranh giành bèn nín lặng
chẳng nói. Thấy người nhường nhịn bèn
ca ngợi, bắt chước theo. Sau một năm, [mọi
người] đều nhường chỗ hồ đầm
sâu. Ôi! Vua Thuấn là bậc minh triết, há chẳng thể
thốt ra một
lời giáo huấn mọi
người ư? Nhưng vua chẳng dùng ngôn giáo, mà dùng bản thân để chuyển biến
họ. Đấy là dụng tâm khổ sở để làm chuyện tốt lành vậy! Bọn chúng ta sống trong đời
Mạt, chớ dùng sở trường của ḿnh để
lấn lướt người khác, chớ v́ ḿnh có điều
thiện mà phô trương bản thân, chớ v́ ḿnh lắm
tài mà làm khó dễ người khác. Hăy thâu liễm tài trí
dường như chẳng có, dường như rỗng
tuếch. Thấy lỗi lầm của người khác, hăy
bao dung, che giấu. Một là khiến cho người ấy
có thể sửa đổi, đằng khác là khiến cho
kẻ ấy do có điều cố kỵ, sẽ chẳng
dám cẩu thả. Thấy người khác có chút ưu điểm
đáng tuân thủ, hoặc có điều thiện nhỏ đáng ghi chép, bèn lập tức xả ḿnh để làm
theo, lại c̣n nồng nhiệt ca ngợi, kể nói rộng
răi. Phàm là trong thường nhật, thốt một lời,
làm một chuyện, hoàn toàn chẳng v́ chính ḿnh mà dấy niệm,
toàn là v́ nêu gương cho chúng sanh. Đấy chính là độ
lượng của bậc đại nhân chuyên v́ thiên hạ.
2) Thế nào là “giữ
ḷng yêu kính”? Đối với bậc quân tử và kẻ
tiểu nhân, nếu nh́n từ hành vi, sẽ thường dễ
bị lẫn lộn, chỉ có một điểm duy nhất
để phân định là cái tâm, ắt thiện và ác sẽ
khác biệt vời vợi, rành rành như trắng tương
phản với đen! V́ thế nói: “Quân tử sở dĩ khác với phàm nhân là do tấm
ḷng mà thôi!” Quân tử chỉ giữ tấm ḷng yêu kính người
khác. Ấy là v́ con người có thân, sơ, sang, hèn, có trí,
ngu, hiền,
bất tiếu (不肖, không ra ǵ), muôn phẩm khác nhau, nhưng
đều là đồng bào của ta, đều có cùng một
Thể với ta, có ai mà chẳng đáng nên kính yêu? Yêu kính mọi
người, tức là yêu kính thánh hiền. Có thể cảm
thông chí hướng của mọi người, tức là có
thể cảm thông chí hướng của thánh hiền. V́
sao? Chí thánh hiền vốn mong cho cơi đời này và người
đời này ai nấy đều được sống
yên vui. Ta hăy nên yêu, hăy nên kính, khiến cho mọi người trong một đời
được b́nh an, đấy chính là giống như thánh hiền
đă khiến cho họ sống an vui vậy.
3) Thế nào là “giúp
cho người khác thành tựu”? Ngọc ẩn trong đá,
hễ quăng ném bèn là ngói, sỏi; nếu được
tạc, mài sẽ thành ngọc khuê, ngọc chương! V́
thế, hễ thấy người khác làm một việc lành,
hoặc người khác có chí hướng đáng tán đồng,
hăy nên giúp họ tăng tấn, đều nên khuyên nhủ,
giúp sức cho thành tựu, hoặc là cổ vũ, giúp đỡ,
hoặc ủng hộ họ, hoặc hóa giải những lời
lẽ vu cáo họ, hoặc làm tan những lời phỉ báng,
cốt sao họ được thành tựu mới thôi! Nói
chung, ai nấy đều ghét những kẻ chẳng giống
ḿnh. Kẻ trong làng người lành th́ ít, kẻ bất thiện
đông đảo. Thiện nhân sống trong cơi tục, cũng
khó tự lập. Hơn nữa, bậc hào kiệt kiên
cường đều chẳng thể hiện nơi h́nh
tích cho mấy, [do vậy], phần nhiều bị chỉ
trích. V́ lẽ đó, thiện sự thường dễ bị
thất bại, thiện nhân thường bị hủy
báng. Chỉ có bậc trưởng giả là người có
ḷng nhân, sẽ thẳng thắn khuông pḥ, giúp đỡ. Công
đức ấy rộng nhất.
4) Thế nào là “khuyên
người khác làm lành”? Đă sanh làm người, có ai
không có lương tâm? Đường đời gập ghềnh,
dễ bị ch́m đắm nhất. Hễ cư xử với
người khác, hăy nên phương tiện nhắc nhở,
phá trừ sự mê hoặc của họ. Ví như đêm dài
mộng sâu, hăy đánh thức họ. Ví như bị hăm
trong phiền năo đă lâu, bèn dẹp tan cho họ được
thanh lương, đó là ban ân huệ to lớn nhất. Hàn
Dũ nói: “Khuyên người
khác trong một thời th́ dùng miệng, khuyên người trăm
đời th́ dùng sách”. So với chuyện v́ người
khác mà làm lành, tuy có h́nh tích, nhưng là đối ứng với
căn bệnh mà cho thuốc, luôn có hiệu quả lạ lùng,
chớ nên phế bỏ. [Nếu khuyên bảo người khác
làm lành] mà khiến người ta bực bội, hoặc nói
lỡ lời, hăy nên xét lại trí huệ của ḿnh.
5) Thế nào là “cứu
người trong cơn nguy cấp”? Ai cũng gặp phải
lúc hoạn nạn, thắt ngặt. Hễ có lúc gặp phải [người lâm vào cảnh ngộ ấy], hăy nên như thân chính ḿnh bị ung nhọt
mà nhanh chóng giải cứu. Hoặc do một lời để
phơi bày nỗi oan khuất, niềm uất ức của
người ấy, hoặc dùng nhiều cách để cứu
vớt họ khỏi cảnh khốn đốn, bất
an. Thôi Tử nói: “Huệ bất
tại đại, phó nhân chi cấp khả dă” (Ân huệ
chẳng cần phải to lớn, giúp người trong cơn
nguy cấp là được rồi), đấy là lời
lẽ của người có ḷng nhân vậy thay!
6) Thế nào là “hưng
kiến đại lợi”? Nhỏ th́ trong ṿng một làng;
lớn th́ là trong một huyện. Hễ có lợi ích, đáng
nên khởi sự thực hiện nhất. Phàm có lợi ích,
hoặc là khơi ng̣i dẫn nước, hoặc đắp
đê ngăn ngừa họa hoạn, hoặc sửa cầu
đường cho người đi đường xa thuận tiện, hoặc thí trà, thí cơm để giúp
đỡ kẻ đói khát. Tùy duyên khuyên nhủ, hướng
dẫn, góp sức thực hiện, chớ nề hà hiềm
nghi, chớ ngại nhọc nhằn, oán thán.
7) Thế nào là “bỏ tiền
tài để làm phước”? Muôn hạnh
trong cửa Thích lấy bố thí làm đầu. Nói “bố thí” chỉ là một chữ Xả mà thôi. Bậc thông đạt
trong là bỏ lục căn, ngoài bỏ sáu trần. Hết
thảy sở hữu, không ǵ chẳng xả! Nếu chưa
thể như vậy, trước hết, hăy bố thí nơi
tài vật. Người đời coi áo cơm là tánh mạng;
v́ thế, tài được coi trọng nhất. Do đó, bọn
ta xả tài, trong là phá ḷng keo kiết của ta, ngoài là để
giúp người khác trong cơn túng ngặt. Thoạt đầu
th́ miễn cưỡng, rốt cuộc sẽ là vui vẻ.
Cách này có thể gột sạch t́nh chấp riêng tư, loại
trừ sự chấp trước, keo tham dễ nhất.
8) Thế nào là “hộ
tŕ chánh pháp”? Pháp chính là con mắt của sanh linh trong muôn
đời. Chẳng có chánh pháp, sẽ dùng cái ǵ để
tham dự, giúp đỡ quyền sanh thành dưỡng dục
của trời đất? Dùng ǵ để vun bồi, thành
tựu muôn vật? Dùng ǵ để thoát khỏi trần
lao, ĺa trói buộc? Dùng ǵ để nhập thế, xuất
thế? V́ thế, hễ thấy miếu mạo của thánh
hiền, kinh thư, sách vở, đều nên kính trọng
tu bổ. C̣n như tuyên dương chánh pháp, trên là báo ân Phật,
càng phải nên gắng sức.
9) Thế nào là “kính trọng
bậc tôn trưởng”? Cha anh trong gia đ́nh,
quân vương, trưởng quan trong quốc gia. Đối
với những người tuổi cao, đức cả,
địa vị cao, chức quyền cao, đều nên đặc
biệt chú ư hầu hạ. Ở nhà th́ phụng dưỡng
cha mẹ, cốt sao đối xử với cha mẹ bằng
ḷng yêu thương sâu xa, vẻ mặt mềm mỏng, ăn
nói ôn ḥa, nhẹ nhàng, tập quen thành tánh. Đó là cội rễ
của sự ḥa khí cảm thông cơi trời. Ra ngoài bèn thờ
vua, hễ làm chuyện ǵ, đừng bảo là “vua không biết”
để rồi mặc sức làm càn. Xử phạt một
kẻ nào đó, đừng bảo “vua chẳng thấy”
để rồi ra oai! Thờ vua như thờ trời, đó
chính là lời luận định chí lư của cổ nhân.
Những chỗ này liên quan đến âm đức nhiều
nhất. Hăy thử xem nhà trung hiếu, chẳng có ai không có con
cháu hưng thịnh liên tục lâu dài, hăy nên hết sức thận
trọng!
10) Thế nào là “yêu
tiếc sanh mạng của chúng sanh”? Con người sở
dĩ là người, chỉ là v́ có ḷng trắc ẩn đó
thôi. Người mong cầu ḷng nhân bèn mong cầu ở chỗ
này. Người tích đức bèn tích đức ở chỗ
này! Theo Châu Lễ, “Mạnh Xuân
chi nguyệt, hy sanh bất dụng tẫn” (Tháng đầu Xuân giết sanh vật [để tế lễ], chẳng
dùng những con vật cái). Mạnh Tử bảo: “Quân tử viễn bào trù” (Bậc quân tử xa lánh bếp núc). Nguyên do
toàn là v́ ḷng trắc ẩn của ta. V́ thế, người
đời trước có lời răn “chẳng ăn bốn thứ”, tức là nghe giết
[con vật ấy] bèn không ăn [thịt của nó], thấy
nó bị giết bèn không ăn, tự ḿnh nuôi sẽ không ăn,
chuyên v́ ta mà giết bèn không ăn. Người học chưa
thể thôi ăn thịt, hăy nên kiêng tránh từ những điều
này, tăng tấn dần dần. Từ tâm càng tăng trưởng,
sẽ không chỉ kiêng sát sanh. Các loài hàm linh ngọ ngoạy
đều là những sanh vật có mạng sống. Do muốn
có tơ mà luộc kén, cuốc đất giết trùng. Nghĩ
đến nguồn cội của áo cơm đều là do
giết chúng sanh để mong chính ḿnh được sống!
V́ thế, tội nghiệt phung phí phá hoại [tài vật] sẽ
giống như sát sanh. C̣n như [những chúng sanh] do tay ta
vô t́nh làm tổn thương, chân vô ư giẫm đạp, chẳng
biết là bao nhiêu! Hăy đều nên khéo léo ngăn ngừa. Cổ thi có câu: “Ái thử thường lưu phạn,
liên nga bất điểm đăng” (Do thương chuột mà thường chừa
cơm, do thương thiêu thân nên chẳng thắp đèn),
nhân ái thay! Thiện hạnh vô cùng, chẳng thể thuật
trọn. V́ thế, từ mười sự này mà có thể suy rộng ra, ắt sẽ có
thể trọn vẹn muôn đức vậy!
Cảm Ứng Thiên Vựng Biên
Quyển 1
Phần 2 hết
[1] Ngọc
Xu Kinh (玉樞經) là
một quyển kinh văn của Đạo giáo, có tựa
đề đầy đủ là Cửu Thiên Ứng Nguyên
Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn Ngọc Xu Bảo Kinh, xuất hiện
từ thời Bắc Tống, có quan hệ mật thiết
với cách tu lôi pháp của hai phái Bạch Ngọc Thiềm
và Thần Tiêu. Trong Đạo giáo, Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên
Tôn là một trong chín vị thượng
đẳng thần, gọi chung là Thần Tiêu Cửu
Thần Đại Đế. Phổ Hóa Thiên Tôn chưởng quản ngũ lôi, có chức
trách chưởng thiện phạt ác.
[2] Nguyên
văn là “thiên đoạt kỳ
giám” (天奪其鑒, trời đoạt mất tấm
gương soi), có nghĩa bóng là “đánh mất cơ hội
tự xét ḿnh”. Thành ngữ này xuất phát từ một câu
nói của Bốc Yển nước Tấn phê phán vua Quắc
sau khi đánh bại rợ Nhung tại Tang Điền: “Quắc tất vong hỹ! Vong Hạ
Dương bất cụ, nhi hựu hữu công, thị
thiên đoạt chi giám, nhi ích kỳ tật dă” (Nước
Quắc chắc chắn sẽ mất! Đă thua trận Hạ
Dương mà chẳng sợ, lại cứ dẫn quân đánh nhau. Đấy là trời đoạt
mất khả năng suy xét của ông ta (vua nước Quắc),
khiến cho thói xấu của ông ta càng tăng thêm).
[3] Nguyên
văn “sanh tri, khốn tri”.
Đây là một câu nói phát xuất từ sách Trung Dung: “Hoặc sanh nhi tri chi, hoặc học
chi nhi tri chi, hoặc khốn nhi tri chi, hoặc an nhi hành chi,
hoặc lợi nhi hành chi, hoặc miễn cưỡng nhi
hành chi, cập kỳ thành công nhất dă ” (Hoặc là sanh
ra đă biết, hoặc là do học mà biết, hoặc là
do gặp cảnh ngộ khốn đốn mới biết,
hoặc do an vui mà làm, hoặc v́ lợi lộc mà làm, hoặc
v́ gắng gượng mà làm, đến khi thành công th́ đều
như nhau).
[4] Khấu
Chuẩn (961-1023) là bậc danh thần đời Bắc Tống,
tên tự là B́nh Trọng, người
xứ Hạ Bang thuộc Hoa Châu (nay là Vị Nam,
tỉnh Thiểm Tây). Ông từng làm Tể Tướng
đời Tống Chân Tông, từng được phong làm
Lai Quốc Công. Khi Tống Chân Tông bệnh nặng, quyền
hành rơi vào tay Lưu Hậu, ông chủ trương phế
bỏ Lưu Hậu v́ sợ nạn ngoại thích cướp
quyền. Quyền thần Đinh Vị đă chèn ép, khiến
cho ông bị mất chức, bị đày
đi trông coi Thiểm Châu cho đến khi mất. Măi cho
đến đời Tống Nhân Tông, triều đ́nh mới
khôi phục danh dự cho ông.
[5] Theo
Đạo giáo, vị này chính là Xích Tùng Tử, có hiệu
đầy đủ là Tả Thánh Nam Cực Nam Nhạc
Chân Nhân hoặc Tả Tiên Thái Hư Chân Nhân.
Theo truyền thuyết, ông từng là thầy dạy của
Đế Khốc (một trong năm vị Ngũ Đế
thời huyền sử Trung Hoa).
[6] Nguyên
văn là “hưu phục” (鵂鵩) là một loại cú mèo, được coi là loại
chim chuyên đem lại những điều bất hạnh.
[7] Khóa thi
mùa Thu để tuyển Cử Nhân.
[8] Nguyên
văn “thành quân” (成均) chính là tên gọi
cũ của trường Thái Học. Theo Đổng Trọng
Thư, vào thời Ngũ Đế, triều đ́nh mở
trường Thái Học để dạy vương tôn và
con cái chư hầu, đặt tên là
Thành Quân.
[9] “Ân lệ” (恩例) là những
điều lệ do đế vương ban hành nhằm
tuyên bày ân đức, theo đó, những sĩ tử nào phù
hợp điều kiện, có thể được đặc
cách chọn lựa làm quan. Chẳng hạn vào thời vua
Ung Chánh nhà Thanh, vua có đặt ra ân lệ để chọn
những người đă đỗ Tú Tài làm huyện lệnh.
[10] Tiết
khí (節氣, Solar term) theo nghĩa gốc chính là hai
mươi bốn điểm đặc biệt trên
đường hoàng đạo (Ecliptic, quỹ đạo
giả định của mặt trời khi nó di chuyển
trên bầu trời nếu nh́n từ trái
đất). Thời gian giữa hai điểm tiết khí
thường được gọi là một tiết khí tức
là một khoảng thời gian có thời tiết
đặc thù. Thông thường, mỗi
tiết khí kéo dài từ mười bốn đến
mười sáu ngày. Có hai mươi bốn tiết khí, tức
là Lập Xuân, Vũ Thủy, Kinh Trập, Xuân Phân, Thanh Minh, Cốc Vũ, Lập Hạ v.v…
[11] Pháp
sư Định Hoằng giảng: “Theo Đạo giáo, mỗi người đều có
các loại tinh tú chủ quản, cũng như nói ‘trên
đầu ba thước có thần minh’, chữ ‘tinh’ là nói
đến các vị thần minh. Tinh quang là ánh sáng của vị
thần minh ấy”.
[12] Trưởng
Sử tương
đương với chức Bí Thư Trưởng hiện
thời, mang tính chất là người đứng đầu
công việc hành cho các quan, đôi khi c̣n gọi là Biệt Hạ.
[13] Theo pháp
sư Định Hoằng, thắp đèn th́ phải tốn
dầu, giống như phước báo tiêu dần, nghiệp
báo hiện tiền. Mỗi ngày phước báo một giảm
dần, thọ mạng bị giảm trừ, cuối cùng
bị trừ đến hết sạch. Hễ hết sạch
sẽ chết.
[14] Câu này dựa
theo thành ngữ “thố tử
hồ bi” (thỏ chết, cáo buồn).
[15] Theo pháp
sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là chết
đi, con cháu nếu hiếu thuận, lập bàn thờ, thắp
một ngọn đèn đốt bằng dầu, tức là
người chết coi như chỉ nhấm nháp mấy giọt
dầu.
[16] Thang
đồ (湯塗, là
đường nung nấu trong vạc sôi)
tức địa ngục, hỏa đồ (火塗, đường
lửa) chính là ngạ quỷ, v́ luôn bị cái đói như
lửa nung đốt ruột gan. Đao đồ (刀塗) chính
là đường súc sanh v́ luôn bị mổ xẻ, cắt
chặt.
[17] Theo pháp
sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là người
đến viếng mộ, đốt giấy tiền vàng
bạc, những mảnh tiền chưa cháy hết, bị
gió thổi tung lên, bám vào những cành dương liễu
quanh đó.
[18] Theo pháp
sư Định Hoằng, câu này có nghĩa là “đọa làm ngạ quỷ, súc
sanh”, tức là thay đổi thân người
thành thân trong tam ác đạo.
[19] Tam Thai
gồm ba cặp sao, mỗi cặp gồm hai ngôi sao, nằm
trong chùm sao Đại Hùng Tinh (Ursa Major). Tống Sử mô tả
như sau: “Tam Thai, gồm có
Thượng Thai là hai ngôi sao gần sao Văn Xương,
chủ về thọ mạng, hai ngôi sao kế đó là Trung
Thai chủ tŕ tông tộc, hai ngôi sao ở phía Đông gọi
là Hạ Thai, chủ về tài lộc và binh quyền. Tam
Thai lại như bậc cấp trên bầu trời, trong
Thượng Thai, sao trên là thiên tử, sao dưới là nữ
chúa (hoàng hậu), Trung Thai th́ sao trên là tam công, sao dưới
là các vị khanh đại phu, Hạ Thai th́ sao trên là nho
sĩ, sao dưới là dân thường”.
[20] Tử
Cực (紫極) là tên của
một ngôi sao, Đạo giáo thường dùng danh xưng
này để chỉ chỗ thần tiên cư ngụ. Tử
Cực Đô Tào chính là danh
xưng chỉ thiên đ́nh.
[21] Quản
Lộ (209-256) là một chiêm tinh, bói toán lừng danh thời
Tam Quốc, quê ở quận B́nh Nguyên, được coi là
tổ sư của những thầy bói. Ông cùng với Châu
Kiến B́nh và Quỷ Cốc Tử là những nhà tướng
số lừng danh thời cổ. Quản Lộ thông thạo
Phong Thủy, thiên văn (chiêm nghiệm tinh tú), coi tướng.
[22] Theo pháp sư Định Hoằng, Thất Chân ở
đây chính là bảy vị Tinh Quân thuộc cḥm sao Bắc
Đẩu.
[23] Tinh quan
(星官, không phải
là “tinh quân”) ở
đây chính là khí của bảy ngôi sao thuộc chùm sao Bắc
Đẩu kết thành một ngôi sao, tức “vị
thần ở trên đầu mỗi người”
như đă nói trong đoạn trên. Tinh quân (星君) là vị thần
bản thể của một vị sao, chẳng hạn vị
thần cai quản mặt trời gọi là Thái
Dương Tinh Quân.
[24]
Trương Củng Thần, tên tự là Ngưỡng
Đức, là người xứ Long Sơn, huyện Thuận
Đức, tỉnh Quảng Đông, là một vị quan nổi
tiếng đời Minh. Ông từng đảm nhiệm chức
coi kho Thái Thương, làm Tham Nghị tại Bố Chánh Ty
tỉnh Phước Kiến, khâm mạng tào vận Nam Kinh
rồi làm chức Quản Lư Diêm Vận. Ông có tiếng là
người thanh liêm.
[25] Huyết
thực (血食) là
hưởng sự cúng tế. Do người Hoa thường
giết súc vật, nhất là ba con vật gọi là “tam
sinh” để cúng quỷ thần, nên quỷ thần
được thờ phụng sẽ gọi là “hưởng
huyết thực”.
[26] Do Đạo
gia có thuyết Tam Thi đi tố cáo tội lỗi của
con người trong khi ngủ, các đạo sĩ bèn cho rằng
chỉ cần trong ngày Canh Thân, hoàn toàn không ngủ, Tam Thi sẽ
không có cách nào mượn bảy phách nơi thân người
để lên thiên đ́nh được!
[27] Điều
này là chủ trương của Đạo giáo.
[28] Trong các
kinh văn Đạo gia, Tứ Đại là mắt, tai,
mũi, lưỡi.
[29] Theo pháp
sư Định Hoằng, Trung Cung ở đây không phải
là một bộ vị nhất định trên thân thể,
mà có nghĩa là Ngũ Hành hết sức cân bằng.
[30] Hứa
Chân Nhân chính là Hứa Do (239-374), tự là Kính Chi, là một
đạo sĩ nổi danh thời Tấn. Ông quê ở huyện
Nam Xương (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây), được
tôn là tổ sư của hai phái Tịnh Minh Đạo và
Lư Sơn của Đạo giáo. Ông từng làm huyện
lệnh Thắng Dương. Do vậy, c̣n được
gọi là Thắng Dương Tổ Sư. Ông thuở trẻ
thích săn bắn, có lần toan bắn một con nai con,
nai mẹ đă tung ḿnh đón mũi tên chịu chết
để cứu con. Ông cảm động, thôi săn bắn,
theo học đạo với Ngô Mănh. Khi loạn Bát
Vương nổ ra, ông từ quan, đi tu, truyền bá
Đạo giáo tại Dự Chương. Ông lại c̣n bỏ
công sức lo thủy lợi ngăn ngừa nạn lụt
tại Hồ Quảng, Dự Chương, Phước Kiến…
[31] Thanh Tịnh
Kinh ở đây không phải là bộ kinh Pasadika Sutta trong tạng
Nikaya của Phật giáo Nam Truyền, mà là Thái Thượng
Lăo Quân Thuyết Thường Thanh Tịnh Kinh của Đạo
giáo. Kinh này rất ngắn chưa đến bốn
trăm chữ, dạy người ta trừ dục nhập
tịnh, tĩnh tâm, giữ cho tâm thần trong sáng v.v…
[32] Tường
sanh là những người đă đậu Tú Tài,
được vào học trường huyện, nhưng
chưa đậu Cử Nhân. Tường (庠) là trường
học được mở ở huyện, do chánh quyền
tài trợ.
[33] Trừ
Tịch (除夕) là
đêm Ba Mươi tháng Chạp. Gọi là Trừ Tịch
v́ theo lệ cổ từ thời Tần, người ta
đốt pháo xua đuổi tà quỷ. Có thuyết lại
nói, Trừ Tịch tức là đêm chia đôi giữa
năm cũ và năm mới, nên gọi là Trừ Tịch.
[34] Nguyên
văn “giác cân” (角巾), ta thường
dịch là “khăn xéo”,
nhưng thật ra chẳng phải là khăn, mà là một
loại mũ, không có cánh chuồn, thường làm bằng
vải, màu đen, do nh́n từ phía trước có hai mặt
châu vào nhau, phía dưới có hai cánh mũ bẻ ngược
lên trông như mũ có hai lớp, nên gọi là “giác cân”. Các vị ẩn
sĩ thường đội loại mũ này. Người
Hoa có thói quen gọi tất cả các loại mũ là “đầu cân” (khăn đội
đầu), tuy nó chẳng phải là khăn quấn trên
đầu như các dân tộc khác. Các loại mũ mang
tính chất nghi lễ sẽ gọi là Mạo hoặc Quan.
Điểm khác biệt là Mạo thường che hết
đầu, trong khi Quan chỉ che búi tóc.
[35] Người
đàn ông nước Lỗ ở đây chính là Liễu Hạ
Huệ, có thể cho mỹ nữ ngồi trong ḷng mà không nẩy
sanh dục niệm nào.
[36]
Trương Giang Lăng tức là ông Trương Cư
Chánh, do ông là người huyện Giang Lăng tỉnh Hồ
Bắc, nên thường gọi là Trương Giang Lăng.
Thủ Phụ (首輔) là
người đứng đầu trong các vị đại
học sĩ. Theo quy chế nhà Minh, kể từ
đời Minh Thái Tổ, do thừa tướng Hồ Duy
Dung bị tội xử trảm, vua phế hẳn chức
Thừa Tướng, lập ra các cơ cấu
Ngũ Phủ, Lục Bộ, Đô Sát Viện, Đại
Lư Tự để lo việc nước. Do việc nước
quá nhiều, lại không có cố vấn trực tiếp
để giúp vua lo liệu, bất đắc dĩ, phải
phong cho các
vị đại thần thành Đại
Học Sĩ, chia thành Hoa Cái Điện, Vũ Anh Điện,
Văn Uyên Các, Đông Các Điện chư đại học
sĩ. Trên
thực tế, Thủ Phụ chính là Tể Tướng.
[37] Nội
giám chính là thái giám.
[38] Giang Hữu là tên gọi khác của tỉnh Giang Tây. Do
thời cổ, phía Tây nơi hạ lưu của Trường
Giang sẽ gọi là Giang Hữu, phía Đông gọi là Giang
Tả. V́ thế, tỉnh Giang Tây thường được
gọi là Giang Hữu.
[39] Vị
này pháp hiệu là Bích Như, có họ ngoài đời là
Vương nên gọi ghép như vậy. Ngài có tục danh
là Lập Cốc, tức Vương Lập Cốc.
[40] Nguyên
văn “lănh hương tiến”,
tức là dự khoa thi Hương do các châu huyện tiến
cử, nếu đỗ kỳ thi ấy th́ gọi là “lănh hương tiến”.
[41] Vân Thê ở
đây là ngài Liên Tŕ Châu Hoằng đại sư. Bác Sơn
tức là thiền sư Nguyên Lai. Sư Bác Sơn xuất
gia lúc mười sáu tuổi tại chùa Tĩnh Am ở núi
Ngũ Đài; về sau, do đọc Cảnh Đức
Truyền Đăng Lục mà khai ngộ. Sau đấy,
Sư theo học với thiền sư Huệ Kinh
được ấn khả. Sư về núi Bác Sơn ở
Tín Châu (nay là huyện Quảng Phong, tỉnh
Giang Tây), dựng chùa Năng Nhân, tu hành tại đó, đề
xướng “Thiền Tịnh
bất nhị”. Giáo thuyết này được viết
thành sách, người đời sau gọi tác phẩm ấy
là Bác Sơn Vô Dị Thiền Sư Quảng Lục.
[42] Tứ
đoan (四端) là nhân,
nghĩa, lễ, trí. Sách Mạnh Tử có đoạn nói: “Trắc ẩn chi tâm, nhân chi
đoan dă. Tu ố chi tâm, nghĩa chi đoan dă. Từ
nhượng chi tâm, lễ chi đoan dă. Thị phi chi tâm,
trí chi đoan dă” (Cái tâm trắc ẩn
là đầu mối của Nhân. Cái tâm hổ thẹn chính
là đầu mối của Nghĩa. Cái tâm từ ái, nhường
nhịn là đầu mối của Lễ.
Cái tâm phân định đúng sai chính là đầu mối của
Trí). “Bách
hạnh” là từ ngữ phiếm chỉ các đức
hạnh.
[43] Theo giảng
sư Hoàng Bách Lâm, “thần châu”
chính là Ma Ni Bảo Châu, tỷ dụ chân tâm, như nhà Thiền
hay nói: “Ta có một viên thần
châu”.
[44] Tử
Hư Nguyên Quân chính là Ngụy Hoa Tồn
(251-334), c̣n gọi là Ngụy Phu Nhân, là nữ đạo
sĩ thời Tấn, người huyện Phàn Ấp, tỉnh
Sơn Đông. Bà được coi là người truyền
bá Thượng Thanh Kinh, là thái sư đời thứ nhất
của Mao Sơn Tông. Năm hai mươi bốn tuổi,
bà được gả cho Lưu Ấu Ngạn là quan huyện
Tu Vũ. Bà tinh thông Lăo Trang, ngũ kinh của Nho gia, tin thờ
Thiên Sư Đạo, giữ chức Tế Tửu.
Tương truyền bà được Thanh Hư Chân Nhân
truyền đạo Thần Chân, sau
đó được Cảnh Lâm Chân Nhân truyền dạy
kinh Hoàng Đ́nh. Trong cơn chiến
loạn Vĩnh Gia, bà mang hai con lánh về vùng Giang Nam, truyền Thiên Sư
Đạo
xuống phương Nam. Sau khi bà mất, đạo sĩ
Dương Hy tôn bà là Tử Hư Nguyên Quân Nam Nhạc Ngụy
Phu Nhân.
[45] Mao Quân tên thật là Mao Doanh, tự Thúc Thân, người
Hàm Dương. Cha ông là Mao Mông theo tương truyền học
đạo ở Mao Sơn, thành tiên, bay đi mất dưới
thời Tần Thủy Hoàng. Lúc mười tám tuổi, Mao
Doanh cũng vào núi Cú Dung học đạo, thành tiên sau hai
mươi năm tu tập. Hai em ông là Mao Cố và Mao Trung
cũng đều theo anh tu đạo, đều thành tiên.
Do vậy, kinh sách Đạo Giáo thường gọi ba vị
này là Tam Mao Quân.
[46] Theo
Đạo giáo, Đông Thiên tức tầng trời phía
Đông có cung điện của Tam Quan Đại Đế,
gồm Tử Vi Cung, Thanh Hư Cung và Thanh Hoa Cung. Thanh Hư
Cung là chỗ ở của Địa Quan Đại Đế.
[47] “Tàng tinh” là giữ cho tinh khí
không bị thất thoát. Do có những phái trong Đạo
gia quan niệm Tinh là cội gốc của Khí và Thần,
nên họ đề ra những cách luyện khí bế tinh
trong khi hành pḥng (ân ái). Họ tin là có thể sử dụng các cách hít thở theo các
ṿng Châu Thiên trong thân thể để nung tinh thành nguyên thần
bồi bổ năo v.v… Từ đó, họ đề ra những
cách hít thở đặc biệt, các tư thế đặc
biệt khi giao hoan, với hy vọng sẽ chuyển tinh từ
thận tạng lên Nê Hoàn Cung trên đỉnh đầu. Tức
là chỉ chú trọng nơi rèn luyện sắc thân, chẳng
thanh tâm, quả dục để đạt tới diệu
đạo. Do vậy, trong đoạn trước có nói bốn
mươi bảy người bị đánh rớt v́ ôm
ḷng dâm dục mà tu chân.
[48] Tức
là những phương cách luyện kim đan, dùng các kim loại
quư để nấu thành thuốc tiên. Họ tin tưởng:
Uống những thứ “tiên đan” ấy sẽ hoán thai
hóa cốt, chuyển thành thân tiên, có thể bay lên trời,
ngao du các cơi tiên. Đa số các loại kim đan (tiên
đan) có chứa nhiều chất độc như thủy
ngân, ch́, thạch tín, sulfur v.v… uống vào sẽ bị trúng
độc lâu dài, hay mất trí. Do đan sa (tức sulfur thủy
ngân) có màu đỏ được coi là màu đẹp nhất,
nên được các nhà luyện đan sử dụng rất
nhiều. Trong lịch sử, các vua Tấn Ai Đế, Ngụy
Đạo Vũ Đế, Đường Hiến Tông,
Đường Mục Tông, Đường Kính Tông, Minh Thế
Tông… đều bị trúng độc do uống kim đan,
trở thành điên cuồng, chết sớm, hoặc thân thể
lở loét, đau đớn mà chết.
[49] Cải
Quá Thiên là một chương sách
trong bộ Liễu Phàm Tứ Huấn nhằm dạy cách sửa
đổi lỗi lầm.
[50] Quốc
Ngữ là một bộ sử cổ của Trung Hoa, chép các
sự kiện lịch sử của nhà Châu và các nước
chư hầu Lỗ, Tề, Tấn, Trịnh, Sở, Ngô,
Việt từ năm 974 trước Công Nguyên cho đến
năm 453 trước Công Nguyên. Đây là một trong những
bộ sử đầu tiên của Trung Hoa, là nguồn tham
khảo cho tất cả những bộ
sử Trung Hoa về sau. Không rơ tác giả là
ai, đa số đều cho là do Tả Khâu Minh biên soạn.
Bộ sử này c̣n được gọi là Xuân Thu Ngoại
Truyện.
[51] Nguyên văn “chỉ thị
chiếu nhiên” (指視昭然, chỉ ra, nh́n thấy rành rành). “Chỉ thị” là từ ngữ phát xuất từ
một câu nói trong Kinh Thư “thập
mục sở thị, thập thủ sở chỉ”
(mười mắt nh́n vào, mười tay chỉ vào).
[52] Nguyên văn “văn chi
thậm xảo” (文之甚巧). Theo ông Hoàng Bách Lâm, chữ Văn phải hiểu
là “che đậy” do dựa theo câu nói trong Luận Ngữ: “Tiểu nhân chi quá dă tất
văn”, Khổng Dĩnh Đạt chú giải câu này phải
hiểu là “kẻ tiểu nhân
nhất định giấu diếm lỗi lầm”.
[53] Đây
là nói đến quẻ Phong Lôi Ích (風雷益) trong
kinh Dịch. Quẻ này do quẻ Tốn ở trên và quẻ
Chấn ở dưới gộp lại. Tốn biểu thị
gió, Chấn là sấm, nên gọi là Phong Lôi. Gió thổi nhanh
chóng xua tan khí u ám, sấm chấn động đột ngột,
cả hai thứ đều tạo lợi lạc, nên là
Ích. Xét theo Tượng Truyện của kinh Dịch th́ quẻ
này được giải thích là “Lôi Phong Ích: Quân tử dĩ kiến thiện tắc
thiên, hữu quá tắc cải” (Lôi và Phong là Ích. Bậc
quân tử thấy điều thiện bèn hướng theo,
hễ có lỗi bèn sửa đổi).
[54] Nguyên
văn “tinh nhất chi chân truyền”.
Chữ “tinh nhất” xuất
phát từ một câu trong thiên Đại Vũ Mô của
sách Thượng Thư: “Nhân
tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doăn chấp
quyết trung”. Tiên sinh Nam Hoài Cẩn coi câu này là cốt
lơi của truyền thống văn hóa Trung Hoa. Các nhà chú giải
giải thích câu nói này có nghĩa là: Ḷng người dễ bị
xáo động, đạo tâm kín nhiệm, chỉ cốt
sao giữ cho tâm luôn chuyên ṛng, ư niệm thuần nhất,
luôn hành xử theo Trung Đạo.
[55] Câu này
hơi khó hiểu, chúng tôi xin mạn phép rườm lời
dẫn lời giảng giải của ông Hoàng Bách Lâm: Sửa
đổi lỗi từ nơi cái tâm là bậc thượng,
c̣n sửa đổi lỗi bằng cách đối với
từng sự việc bèn tận lực khắc chế dục
vọng để khỏi phạm lỗi th́ là bậc hạ.
Nói “dùng những sự thuộc
về bậc thượng để kiêm hành những công
phu bậc hạ” tức là sửa đổi từ cái tâm,
nhưng không bỏ những chuyện hành tŕ nơi sự
tướng. Tu tập như vậy th́ chưa hề bị
thất bại, hoặc lạc lối. “Nếu chấp vào bậc hạ, chẳng hiểu rơ
những sự nơi bậc thượng” tức là chỉ
biết giữ giới nghiêm ngặt nơi h́nh tướng,
không biết chuyển đổi cái tâm, như vậy sẽ
là như trừ khử lỗi lầm nơi cành nhánh, không
diệt từ căn bản, cho nên sẽ rất tốn
công, không phải là phương tiện khéo léo của hàng Bồ
Tát!
[56] Đây
là cách nói gọn của câu “thiên
đạo chi vị tánh, suất tánh chi vị đạo”
trong sách Trung Dung. Chúng tôi dịch câu này dựa theo cách diễn
giải của tiên sinh Nam Hoài Cẩn.
[57] Bản
kinh Đạo gia này có tên gọi đầy đủ là
Thái Thượng Lăo Quân Nội Quán Kinh, không biết do ai viết,
xuất hiện từ đời Tùy, được xếp
vào bộ loại Động Thần trong Đạo
Tạng. Nội dung kinh dạy về
cách quán tâm. Cách quán tâm của họ là tĩnh tọa cho quên
hết ư niệm, khá tương đồng với các bộ
Linh Bảo Định Quán Kinh và Thường Thanh Tịnh
Kinh của Đạo gia.
[58] “Thiên lư” ở đây nếu hiểu
theo nghĩa hẹp của Nho gia sẽ là thiên mạng, tức
quy luật vận hành của vũ trụ, chân lư trong
vũ trụ. Nếu hiểu theo Phật giáo, sẽ là chân
tâm.
[59] Vị
này tên thật là Triệu Biện (1008-1084), tên tự là Duyệt
Đạo, hiệu là Tri Phi Tử,
người xứ Tây An, Cù Châu (nay là Cù huyện, tỉnh
Chiết Giang). Ông làm quan thanh liêm, làm quan tới chức Tham Tri Chánh Sự.
Do phản đối chánh sách Thanh Miêu (cho nông dân vay nợ trước, đến mùa gặt
sẽ trả nợ), bị Vương
An Thạch đổi
ra làm tri huyện Hàng Châu, rồi bị thuyên chuyển
đi nhiều nơi từ Thành Đô cho đến Sơn
Đông, măi về sau mới được đưa về
làm tri huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Khi
vùng Ngô Việt bị mất mùa to, ông đă tận lực
cứu đói. Khi ông mất, vua ban tặng thụy hiệu
là Thanh Hiến, nên sách này gọi ông là Triệu Thanh Hiến
Công.
[60] Công Tôn
Độ, tự Thăng Tế, là tướng lănh quân phiệt
cuối thời Hán khi Đổng Trác khuynh loát nhà Hán. Xuất
thân là nha lại dưới quyền thái thú Công Tôn Vực,
được Công Tôn Vực quư mến, nâng đỡ, Công Tôn Độ tiến cử làm Hữu Đạo
của quận Huyền Thố, rồi đến Lạc
Dương làm quan, nhận chức Thượng Thư
Lang, sau đó được bổ làm quan ở Kư Lang. Khi
Đổng Trác làm Thừa Tướng, do mối
thân t́nh với bộ tướng Từ Vinh của Đổng
Trác, Công Tôn Độ được bổ làm Thái Thú Liêu
Đông. Công Tôn Độ hiếu sát, giết gần hết những gia
đ́nh vọng
tộc ở Liêu Đông, dần dần toan tính độc
lập xưng bá, tự xưng là Châu Mục xứ B́nh
Châu, tước Liêu Đông Hầu, không thèm nghe theo lệnh
triều đ́nh.
[61] Khi xưa,
những nhà quư tộc giàu có thường nuôi con hát trong nhà.
Nhiều nhà c̣n có riêng rạp hát, đoàn hát với toàn bộ ca nhi, nhạc công. Theo ông Hoàng Bách Lâm, nếu
hiểu theo nghĩa hiện thời, điều này sẽ
có nghĩa là mua sắm những thiết bị âm nhạc,
phương tiện giải trí đắt tiền như
máy karaoke, home theater, mượn thầy dạy khiêu vũ
riêng
v.v…
[62] Dực
Thánh Chân Quân, c̣n gọi là Hắc Sát Nguyên Soái, là một vị
thần bảo hộ trong Bắc Cực Tứ Thánh của
Đạo giáo. Tứ Thánh là Thiên Bồng, Thiên Do,
Chân Vũ và Dực Thánh. Vị này được biết tới
do đạo sĩ Trương Thủ Chân đề xướng.
Theo họ Trương, vào thời Bắc Tống, ông ta
đi vào núi Chung Nam Sơn gặp một vị thần tiên hiển linh, tự xưng là
Cao Thiên Đại Thánh Ngọc Đế Phụ Thần có
sứ mạng phù tá nhà Tống, dạy Trương Thủ
Chân làm đàn cầu Hắc Sát Thần bảo hộ hoàng
triều. Tống Thái Tổ phong cho Hắc Sát Thần làm Dực
Thánh Tướng Quân. Về sau Tống
Chân Tông lại gia phong là Dực Thánh Bảo Đức Chân
Quân.
[63] Lục
Tượng Sơn tên thật là Lục Cửu Uyên
(1139-1193), tự Tử Tĩnh, người xứ Kim Khê,
Phủ Châu (nay là huyện Kim Khê, tỉnh Giang Tây). Ông là một
nhà triết gia theo trường phái Lư Học, và cũng là một văn gia lừng danh thời Bắc
Tống. Do ông sáng lập Tượng Sơn
Thư Viện nên thường được gọi là Lục
Tượng Sơn, hoặc Tượng Sơn Tiên Sinh.
[64] Vương Thập Linh (1124-1171), tự là Quy Linh, hiệu
là Mai Khê, người xứ Lạc Thanh, Ôn Châu (nay là huyện
Lạc Thanh, tỉnh Chiết Giang). Ông là một văn nhân
nổi tiếng của nhà Tống. Khi ông c̣n trẻ, do Khâm
Tông bị người Kim bắt, Cao Tông chạy về Nam
lập ra Nam Tống, trọng dụng Tần Cối. V́ Tần
Cối lũng đoạn quy chế thi cử, ông không
đi thi. Cho đến khi Tần Cối chết, ông mới
đi thi và đỗ Tiến Sĩ khi đă bốn
mươi mốt tuổi. Do tán đồng quan điểm
đánh lên phía Bắc để chiếm lại đất
đai của nhà Tống từ tay quân Kim, ông bị phe chủ
ḥa vùi dập. Khi làm Thị Ngự Sử dưới thời
Tống Hiếu Tông, trong ṿng một tuần lễ, ông
đă dâng mười sáu tờ sớ hạch tội quyền
thần Sử Hạo. Do thấy Hiếu Tông chủ ḥa,
ưa nịnh, thiếu sáng suốt, ông chán nản, từ
quan. Nhưng năm sau triều đ́nh gọi ông đi coi
Nhiêu Châu, rồi Quỳ Châu, Tuyền Châu. Ông luôn chú trọng
việc nông, thủy lợi, yêu dân như con, được
dân Tuyền Châu lập đền thờ sống. Năm
1171, triều đ́nh lại gọi ông về giữ chức
Chiêm Sử trong cung Thái Tử, nhưng ông bệnh nặng,
mất vào tháng Bảy năm ấy, thụy hiệu là Trung
Văn.
[65] Lưu
An Thế (1048-1125), tên tự là Khí Chi, người huyện
Đại Danh, tỉnh Hà Bắc. Ông vốn là học tṛ của
Tư Mă Quang. Khi Tư Mă Quang làm Tể Tướng, đă
đề cử ông làm việc ở Quốc Sử Quán, tiến
dần lên chức Gián Nghị Đại Phu. Ông nổi tiếng
cương trực, bàn luận không kiêng nể, vị t́nh,
thẳng thừng vạch trần những lập luận
quanh co, lừa gạt của các kẻ quyền thần hay những gă xu phụ trong triều, khiến họ
rất e ngại. V́ thế, các đồng liêu thường
gọi ông là Điện Thượng Hổ (cọp trên triều
đ́nh). Khi Tống Huy Tông lên ngôi, do sợ bị ông chỉ
trích, đă đưa ông đi làm tri phủ Chân Định.
Khi gian thần Thái Kinh làm Tể Tướng, hắn đă
đày ông đến Hiệp Châu.
[66]
Lương Sư Thành, tên tự là Thủ Đạo, là hoạn
quan thời Bắc Tống, kết bè kéo cánh với Thái Kinh,
Đồng Quán, Vương Phủ, Lư Ngạn, và Châu Dận
thao túng triều chánh thời Tống Huy Tông, Sử thường
gọi bọn họ là Lục Tặc (sáu thằng giặc).
Sư Thành chỉ biết đọc biết viết, thoạt
đầu là thái giám chuyên truyền chỉ dụ của
nhà vua, trông coi tạp vụ tại Nghệ Thư Cục.
Do khéo nịnh hót, miệng lưỡi trơn tru, hắn
được vua đặc cách ghi tên vào sổ Tiến Sĩ,
lại được cử làm Quan Sát Sứ Duyện Châu
rồi Tiết Độ Sứ, Kiểm Hiệu Thái Phó.
Sau đó Thái Úy, Khai Phong Nghị Đồng Tam Tư oai quyền
lấn át hoàng đế. Người đương thời
gọi hắn là Ẩn Tướng (vị tể tướng
ẩn mặt).
[67] Nguyên Hựu
là niên hiệu của Tống Triết Tông.
[68] “Sứ giả” ở đây có nghĩa là quan do triều đ́nh phái xuống
làm chủ khảo khoa thi tại tỉnh Hồ Bắc.
[69]
Nguyên văn là Mậu Tài. Ông Hoàng Bách Lâm nói Mậu Tài chính là
Tú Tài. Do Hán Quang Vũ Đế tên là Lưu Tú, nên sách vở
thời Hán kỵ húy, viết Tú thành Mậu.
[70]
Đến cuối đời, Dương Chấn
được bổ làm Thái Úy. Theo quy chế đời
Hán, đây là chức quan chỉ huy cao nhất trong quân đội.
Thời Tây Hán, Thái Úy, Thừa Tướng và Ngự Sử
Đại Phu được gọi là Tam Công. Thời
Đông Hán, Thái Úy đổi thành Đại Thái Úy, cùng với
Tư Đồ và Tư Không được gọi là Tam
Công. Dương Chấn sống vào thời Đông Hán. Ḍng
họ ông có đến bốn đời lần lượt
làm Thái Úy, tức là bản thân ông, con trai là Dương Bỉnh,
cháu là Dương Tứ, chắt là Dương Tổ đều
làm Thái Úy. Cụ tằng tổ của ông là Dương
Sưởng làm Thừa Tướng thời Hán Cao Tổ.
[71] Theo ông
Hoàng Bách Lâm, câu này có nghĩa là tuy hiểu đạo lư,
nhưng không thực hiện được, tức là lư
trí không thắng nổi dục vọng tầm thường.
[72] Theo sách Vân
Cấp Thất Thiên, Thái Cực Chân Nhân tên là Đỗ Xung,
tự Viễn Dật, sống vào thời Châu Chiêu
Vương, thành tiên vào thuở ấy.
[73] Theo quy
chế đời Tống, cơ cấu tư pháp
được chia thành hai hệ thống là
Sự Thật Thẩm và Pháp Luật Thẩm. Sự Thật
Thẩm nhằm thẩm vấn, phá án, phán tội, c̣n Pháp Luật
Thẩm là cơ quan giám sát, nhằm đảm bảo việc
xử án đúng luật, không oan khuất. Những quan lại
trực thuộc hệ thống Sự
Thật Thẩm sẽ được gọi là Thôi Tư,
Ngục Tư và Thôi Khám Quan. Những vị quan thuộc về Pháp Luật Thẩm sẽ
được gọi là Pháp Quan hoặc Kiểm Pháp Quan.
Quy chế song hành này được áp dụng từ trung
ương cho đến địa phương, thường
gọi là Tả Đoán H́nh, Hữu Trị Ngục, tức
là các vị thuộc cơ cấu bên tả
sẽ lo việc thi hành luật, các vị thuộc cơ cấu
bên hữu sẽ phụ trách giám
sát.
[74] Ngũ Đại là thời phong kiến quân phiệt
cát cứ sau khi nhà Đường diệt vong kéo dài từ
năm 907 cho đến 979. Sử thường gọi thời
này là Ngũ Đại Thập Quốc v́ có năm triều
đại chính nối tiếp nhau, đồng thời có
đến mười tiểu quốc xen kẽ. Thời kỳ
này chấm dứt khi Triệu Khuông Dẫn thống nhất
Trung Hoa.
Năm triều đại là:
1. Hậu Lương (907-923), do Châu Ôn sáng lập, kéo
dài được ba đời vua, kinh đô là Khai Phong.
2. Hậu Đường (923-937), do Lư Tồn Úc sáng lập,
kéo dài bốn đời vua, kinh đô là Lạc Dương.
3. Hậu Tấn (936-947), do Thạch Kính Đường
sáng lập, được hai đời vua, kinh đô là
Khai Phong.
4. Hậu Hán (947-951), do Lưu Trí Viễn sáng lập,
hai đời vua, kinh đô là Khai Phong. Đây là triều
đại ngắn nhất trong lịch sử Trung Hoa.
5. Hậu Châu (951-960), do Quách Oai sáng lập, ba đời
vua, kinh đô là Khai Phong.
Thập Quốc là mười quốc gia trong giai đoạn
ấy, tức Ngô (902-937, do Dương Hành Mật sáng lập),
Nam Đường (937-975, do Lư Biện sáng lập), Ngô Việt
(907-978, do Tiền Liêu sáng lập), Mân (909-945, do Vương
Thẩm Tri sáng lập), Bắc Hán (951-979, do Lưu Mân sáng lập),
Tiền Thục (903-925, do Vương Kiến sáng lập),
Hậu Thục (934-965, do Mạnh Tri Tường sáng lập),
Kinh Nam (924-963, do Cao Quư Hưng sáng lập), Sở (927-951, do
Mă Ân sáng lập), Nam Hán (917-971, do Lưu Cung sáng lập).
Dưới thời Nam Hán, ngay trong thời Lưu Cung (Nam Hán
Cao Tổ), tại Giao Châu, Ngô Quyền đă dấy binh từ
Ái Châu (vùng Thanh Nghệ) khởi nghĩa tấn công tiết
độ sứ Giao Châu là Kiều Công Tiễn (gă này đă
giết Dương Diên Nghệ để tiếm quyền).
Kiều Công Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán, Lưu Cung sai
đứa con thứ chín là Lưu Hoằng Thao dẫn quân đánh
Giao Châu (thời ấy được gọi là Tĩnh Hải).
Ngô Quyền đă tốc chiến tốc thắng, giết
chết Kiều Công Tiễn, hạ thành Đại La
trước khi quân Nam Hán kéo sang. Do kiêu căng, vô mưu, Hoằng
Thao bị rơi vào bẫy phục binh của quân Việt
và bị giết chết. Thế là nước Việt
được độc lập, chấm dứt thời
kỳ Bắc Thuộc.
[75] Chánh sử không chép hết về quan chức con cháu của
ông, chỉ biết là năm người con trai lần
lượt đỗ Tiến Sĩ, đều ra làm quan. Sử
gọi là Đậu Thị Ngũ Long (năm con rồng họ
Đậu). Con trai trưởng của ông là Đậu
Nghi làm Lễ Bộ Thị Lang đời Châu Thế Tông, về
sau làm Công Bộ Thượng Thư, kiêm nhiệm Đại
Lư Tự. Người em kế là Đậu Nghiễm làm sử
quan suốt bốn triều đại (Hậu Tấn, Hậu
Hán, Hậu Châu và Tống), được thăng Lễ Bộ
Thị Lang nhà Tống. Hầu hết các miếu hiệu của
vua chúa, thân thuộc nhà Tống thuở đầu đều
do Đậu Nghiễm đặt. Người con thứ
ba là Đậu Khảng, làm quan Khởi Cư Lang thời Hậu
Châu. Người con thứ tư là Đậu Chương
làm Xu Mật Viện Trực Học Sĩ rồi Gián Nghị
Đại Phu thời Bắc Tống. Người con thứ
năm là Đậu Hy, làm Tả Bộc Khuyết đời
Bắc Tống.
[76] Do Hàn Kỳ
được phong làm Ngụy Quốc Công và người
Hán có thói quen gọi tên tự hay chức tước lồng
vào giữa tên để tỏ ḷng kính trọng,
không gọi thẳng tên tục, sách Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên Vựng Biên ghi là “Hàn Ngụy Công Kỳ”.
[77] Tào Sứ
là gọi tắt của Tào Vận Sứ, một chức
quan trông nom việc chuyển vận bằng đường
thủy. Chức vụ này c̣n được gọi
Chư Châu Thủy Lộ Chuyển Vận Sứ, hoặc Tào
Ty.
[78] “Tiểu lại” (小吏) có
nghĩa là một viên nha lại cấp thấp.
[79] Đích
tự là con trai do vợ cả sanh ra.
[80] Thúc
Lương Hột (叔梁紇) chính là cha của Khổng
Tử. Ông này tên là Khổng Ngột (Hột),
tên tự là Thúc Lương, nên thường gọi là Thúc
Lương Hột, là đại phu nước
Lỗ. Vợ cả của Thúc Lương Hột là Thí Thị
sanh chín con gái, không có con trai. Người thiếp sanh ra Mạnh
B́, chân lại bị tật. Theo quy chế
thời ấy, Mạnh B́ không thể kế nghiệp, tập
ấm cha. Thúc Lương Hột bèn xin cưới
con gái của họ Nhan, chỉ có cô Nhan Trưng Tại chịu
lấy ông, đẻ ra Khổng Tử. Mạnh B́ thật
ra chỉ tên là B́, do là con trai cả nên gọi là Mạnh B́. Mạnh B́ sanh được một trai
và một gái. Con trai Mạnh B́ là Khổng
Trung là một trong bảy mươi hai môn đệ nổi
tiếng (thất thập nhị hiền) của Khổng Tử,
con gái Mạnh B́ lấy Nam Cung Quát (tự là Tử Dung). Nam Cung Quát cũng là một môn đệ khác của
Khổng Tử thuộc vào thất thập nhị hiền.
[81] Tông miếu
(宗廟) tức
là miếu thờ tổ tông. Câu này có ư nói vua Thuấn do ḷng
đại hiếu, mà tổ tông được kính cẩn
phụng thờ, con cháu nối tiếp giữ ǵn đức
hạnh của cha ông.
[82] Thiếu
Sư (少師) một trong vị Tam Thiếu, là thầy dạy của Thái Tử, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ đứng
đầu, quản trị mọi việc trong cung của
Thái Tử. Vị này mang tính chất là vị thầy hướng
dẫn về cách cai trị của nhà vua tập sự (Thái Tử), vạch ra kế
sách hành xử, trong khi Thiếu Phó mới là người thật
sự dạy chữ (có thuyết nói Thiếu
Phó là thầy dạy vơ, nhưng trong lịch sử, Thiếu
Phó phần nhiều do các quan văn đảm nhiệm). Thiếu
Bảo lo mọi việc an ninh, đối ngoại.
[83] Nguyên
văn là phấn đoàn (粉團). Đây là một loại bánh ở
miền Nam Trung Hoa, làm bằng bột nếp ḥa lẫn
bột gạo, trộn đậu xanh lẫn với bột
(có khi là đậu xanh bọc bột), nặn
thành viên, lăn qua mè hay sợi dừa, hấp chín. Chúng tôi
thấy h́nh chụp giống như loại bánh thường
gọi là “bánh bao chỉ” nên tạm mượn danh xưng
này!
[84] Do khi
xưa để tóc dài, đội măo phải búi tóc lên, dùng
trâm (簪) đâm
qua búi tóc để giữ cho măo khỏi tuột. Măo đội
thường có hai dải dài hai bên để buộc cho khỏi tuột hoặc chỉ
nhằm mục đích trang trí, gọi là Anh (纓). V́ thế,
những người làm quan thường được gọi
là “trâm anh”.
[85] Thái Sử là một chức quan rất cổ đă có
từ thời Châu, đảm nhiệm việc biên soạn
văn thư, chỉ dụ, ghi chép quốc sử, chưởng
quản tài liệu, trông coi thiên văn, lịch pháp, tế
tự… Đến đời Đường, việc soạn
văn thư giao cho Hàn Lâm Viện, Thái Sử chỉ chú trọng
tính toán lịch pháp và quản trị sử sách. Đến
đời Minh Thanh, do Hàn Lâm Viện phụ trách việc
biên soạn sử, nên quan đứng đầu Hàn Lâm Viện
được gọi là Thái Sử.
[86] Ông này
tên thật là Phùng Kỳ, tên tự là Trác Am.
[87] Đô
Đường (都堂) có
nghĩa gốc là tổng dinh thự hành chánh của
Thượng Thư Tỉnh theo quy chế đời
Đường. Thượng Thư Tỉnh cai quản lục
bộ. Đứng đầu Thượng Thư Tỉnh
là Tả Bộc Xạ và Hữu Bộc Xạ, đều
gọi là Đô Tỉnh. Đến thời Minh, Thanh, do các
quan Tổng Đốc hoặc Tuần Phủ trông coi các tỉnh
đều kiêm thêm hàm Đô Ngự Sử, Phó Đô Ngự
Sử, hoặc Kiểm Đô Ngự Sử, nên dân gian
thường gọi các quan đầu tỉnh là Đô
Đường.
[88] Ông này
tên thật là Đồ Huân. Do sau khi mất, được
đặt thụy hiệu là Khang Hy, nên người chép
truyện ghi là Đồ Khang Hy Công.
[89]
Đường quan: Vị quan chủ tŕ công đường
xét án được gọi là “đường
quan”, tức là vị quan đứng
đầu một cơ cấu lănh đạo như tri phủ,
tri huyện v.v…
[90] Đây
là quy chế thời Minh - Thanh nhằm giảm bớt những
vụ án xử oan. Vào tiết Sương Giáng mỗi
năm, ba cơ cấu tư pháp là bộ H́nh, Đô Sát Viện
và Đại Lư Tự sẽ tái thẩm những vụ trọng
án, nhất là các án tử h́nh, lập hồ sơ cặn kẽ,
tấu tŕnh lên cho cửu khanh, tức chín vị đại
thần thẩm duyệt trước khi phán án chung cục.
[91] Ư nói sẽ
làm quan to.
[92] H́nh
pḥng là cơ quan quản trị hồ sơ các vụ án
trong các công đường thuở trước.
[93] Khổng
Mục là chức quan được thành lập từ
đời Đường, chuyên quản trị hồ
sơ. Đời Minh, Hàn Lâm Khổng Mục là chức quan
trông coi việc ban hành chiếu chỉ, sắc lệnh của nhà vua, cũng như lập hồ
sơ, thu lưu, tường tŕnh tấu sớ
của các quan. Chức quan này không cao, nhưng hoàng đế
và các đại thần rất coi trọng. Người giữ
chức này phải là người cẩn thận, nghiêm túc,
tự trọng, cương trực. Đến đời
Thanh lập ra Điển Bạ Sảnh, ủy cho Khổng
Mục chưởng quản.
[94] Ở
đây, do biện định về thiện ác với các
Nho sĩ, ngài Trung Phong đă dẫn Luận Ngữ
để nói: “Hương nguyện,
đức chi tặc dă” (Kẻ thật
thà, ba phải sẽ là kẻ giặc đối với
đạo đức), các nhà chú giải giảng “hương nguyện” hoặc
“cẩn nguyện” (謹愿) là
nói những kẻ thật thà, an phận, mang tính cách ba phải,
không kèn cựa với ai, nhưng không có lập trường,
ai nói sao cũng xuôi theo, người như vậy không bị
ai ghét, nên rất dễ được coi là người hiền
lành, nhưng thật ra, người ấy đă gây hại
cho đạo đức v́ thiện ác chẳng phân định
được, vô t́nh giúp sức cho kẻ ác.
[95] Nguyên
văn “Lỗ nhân hữu thục
nhân thần thiếp ư chư hầu”. Thời Chiến
Quốc, các nước chư hầu đánh nhau liên miên,
dân chúng bị bắt làm tù binh trong các cuộc chiến sẽ
biến thành nô tỳ, nam th́ gọi là Thần (臣), nữ gọi
là Thiếp (妾).
[96] Tử
Cống tên thật là Đoan Mộc Tứ, Tử Cống
là tên tự.
[97] Tử
Lộ tên thật là Trọng Do, tên tự là Tử Lộ. Vị
này được xếp vào hàng Thập Triết, tức
mười vị đại đệ tử của Khổng
Tử.
[98] Lữ
Văn Ư Công ở đây là ông Lữ Nguyên, người huyện
Tú Thủy, tỉnh Chiết Giang, tự là Phùng Nguyên, thụy
hiệu là Văn Ư. Vị này là Tể Tướng dưới
thời Tống Anh Tông.
[99] Dật
(鎰) là đơn vị đo lường thời cổ,
sử dụng cho đến hết đời Tần. Một
Dật bằng hai mươi bốn Lạng.
[100] Quán chức
là chức quan thuộc các Quán dưới đời
Đường, Tống, như Tập Hiền Quán, Quốc
Sử Quán v.v…
[101] Câu chuyện này được nói chi tiết hơn
trong Thọ Khang Bảo Giám như sau: “Ông Cận ở
Trấn Giang đă năm mươi tuổi mà không con. Dạy
trẻ vỡ ḷng tại huyện Kim Đàn. Thấy con gái
nhà hàng xóm khá xinh xắn, vợ ông liền bán thoa, xuyến,
mua về làm thiếp. Ông trở về nhà, bà vợ bày
rượu trong pḥng, bảo ông: “Tôi đă già chẳng thể
sanh nở. Nàng này khá hiền lành, chắc có thể sanh con nối
ḍng cho nhà họ Cận”. Ông cúi đầu, đỏ mặt
tía tai. Bà vợ cho rằng ḿnh có mặt th́ chồng sẽ
ngần ngại, bèn đi ra, đóng chặt cửa lại.
Ông bèn leo qua cửa sổ thoát ra, bảo vợ: “Ư bà tốt
lành, nhưng tôi thường bồng bế cô ta thuở bé,
luôn mong cô ta sẽ được gả vào chỗ đàng
hoàng. Tôi đă già rồi, lại c̣n lắm bệnh, chẳng
thể làm nhục cô ta được”, bèn trả cô ấy
về. Năm sau, bà vợ sanh ra Văn Hy Công, mười bảy
tuổi đă đậu Giải Nguyên, năm sau đỗ
nghè. Về sau, [Văn Hy Công] là một vị Tể Tướng
hiền đức”.