Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

感應篇彙編

Quyển 3

Phần 1

(theo bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội năm 2000)

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Chánh văn) Khinh miệt thiên dân, nhiễu loạn quốc chánh.

          (正文)輕蔑天民。擾亂國政。

          (Chánh văn: Khinh miệt dân chúng, nhiễu loạn nền chánh trị trong nước).

 

          Mạng lệnh của Thượng Đế lấy ḷng dân làm chủ. Phàm những người dân đen đều là con đỏ của Thượng Đế. V́ thế gọi là “thiên dân” (天民, dân của trời). Trời yêu dân tột bậc; lập ra vua, lập ra Tể Tướng, lập ra các quan chức, không ǵ chẳng v́ dân chúng! Sanh ra bậc hào kiệt, sanh ra thánh hiền, thành tiên, thành Phật, thành thần minh, cũng không ǵ chẳng v́ dân vậy! Xếp đặt ngũ hành, tăng trưởng muôn vật, đặt định núi, sông, ấn định kiếp vận, mở mang [thời thế] b́nh trị hay loạn lạc, xét đoán báo ứng, cũng không ǵ chẳng v́ dân vậy! Do đó, sách Châu Lễ chép: “Hễ có người dâng lên vua [bản ghi chép về] số lượng dân chúng, vua ắt lạy rồi tiếp nhận”[1]. Trọng Ni (Khổng Tử) [đang ngồi trên xe] bèn khom ḿnh phủ phục xuống tấm ván chắn ngang trước xe [để tỏ ḷng kính trọng] người cầm bản đồ lănh thổ. Như vậy th́ há có nên khinh miệt dân chúng hay chăng?

          Vua Nghiêu nói: - Ta quan tâm thiên hạ, dốc ḷng lo nghĩ cho dân nghèo, đau xót v́ nỗi hiểm nguy của muôn họ, lo lắng v́ những điều bất thuận lợi của mọi người, thi hành điều nhân mà đạo nghĩa được thành lập, truyền rộng đạo đức, cảm hóa [dân chúng] rộng răi. V́ thế, chẳng tưởng thưởng mà dân siêng năng [vâng giữ đạo nghĩa, đức hạnh]; chẳng trừng phạt mà dân yên ổn.

          Đường Thái Tông nói: - Dân là cội gốc của đất nước. Đức là cội rễ của thân[2]. Đức dầy th́ mọi người sẽ mến mộ. Dân yên, ắt nước vững. V́ thế, kẻ đứng đầu nhân dân mà có đạo đức nhân hậu, dân sẽ nương về như cha mẹ, lẽ tự nhiên là sẽ có lănh thổ, có tài sản vậy.

          Xét từ những lời này, [ta thấy] các bậc thánh vương xưa nay c̣n chẳng nỡ ḷng khinh miệt dân chúng như thế ấy, huống hồ những kẻ thay vua cai trị dân mà chẳng thấu hiểu ư này ư?

          Đời Tống, Trịnh Thanh Thần tánh hà khắc, làm huyện lệnh ở Ḥe Lư, ngược đăi dân chúng. Đến khi hắn rời nhiệm sở, dân chúng chặn đường thóa mạ. Thanh Thần dâng sớ về triều, hạch tội dân chúng thuộc vùng hắn cai quản đă dám khinh lờn, nhục mạ trưởng quan. Tống Chân Tông nói: “Cai trị cốt yếu là được ḷng người. Ḷng dân đă như thế, có thể biết ngươi cai trị theo kiểu nào rồi! Ngươi c̣n dám oán hận dân chúng, để rồi [dám ôm ḷng] khinh nhờn triều đ́nh mà tấu tŕnh ư?” Hắn bèn bị hạch tội, bị biếm trích.

          Đời Minh, ông Đào Đại Lâm nói: - Bọn ta đă được dự vào hàng quan lại, dẫu niệm nào cũng luôn nghĩ giúp người, lợi vật, nhưng đối với tội nghiệp trong cả một đời, vẫn chẳng thể chuộc một phần vạn được! Ta trước kia được vua sai phái [đi công cán], bèn rời kinh thành, từ kinh thành đến đất Nghi, đất Việt, rồi từ đất Việt trở về kinh đô. Phàm mấy ngàn dặm, đường thủy, đường bộ, ngồi thuyền, ngồi xe, sử dụng phu phen khiêng vác, chuyên chở, lôi, dắt [ngựa, lừa], chẳng biết là bao nhiêu người. Nghĩ tới dân chúng xanh xao, bụng rỗng, quần áo tả tơi, toàn là con cái của người ta. Đang trong lúc nóng hừng hực, mồ hôi tuôn đầm đ́a như mưa, thở hồng hộc như sấm động. Gặp cơn rét buốt, họ bươn bả trên đường băng, xông pha mưa tuyết; do vậy, trượt ngă, mất mạng trên đường, chẳng thể kể xiết! Những tội lỗi ấy đều do ta tạo. Nếu cái thuyết báo ứng chẳng phải là bịa đặt, há chẳng đáng kinh sợ ư?

          Năm Đại Lịch[3] thứ hai (767) đời Đường, mùa Thu bị mưa dầm, mùa màng tổn hoại. Huyện lệnh Vị Nam là Lưu Tảo tŕnh báo thóc lúa trong huyện chẳng bị hư hao. Quan trên nghi ngờ, sai người đến xem, [phát hiện] hơn ba ngàn khoảnh ruộng bị hư hoại. Quan trên than: “Huyện lệnh là quan cai quản dân chúng, dẫu không bị tổn thất, vẫn nên nói là bị tổn thất. Thế mà hắn bất nhân như thế đó”, bèn phạt hắn tội lưu đày!

          Đời Tùy, vào thời đầu niên hiệu Nghĩa Ninh[4], vùng Du Lâm bị đói to. Quận Thừa là Vương Tài chẳng lo cứu đói. Quách Tử Ḥa hiệu triệu dân đói, bắt Vương Tài, hạch mấy tội, chém chết Vương Tài rồi khởi loạn. Tuy đấy là hành vi của lũ đạo tặc, rốt cuộc [chúng] cũng bị [triều đ́nh] giết chết, nhưng chuyện này cũng đủ để răn dè những kẻ chẳng dốc sức cứu tế dân chúng vậy.

          Nước nhà cần phải bồi dưỡng phước khí ḥa b́nh, chớ nên mặc sức biến cải [chánh sách]. Nếu có những đề nghị cải cách, phải mười phần [suy xét] tường tận, thận trọng. Nếu chỉ v́ ư kiến riêng tư của một kẻ mà thay đổi, cứ bộp chộp, bàn bạc qua quít rồi thi hành một phen, ắt [dân chúng] sẽ có một phen bị nhiễu hại. Huống hồ các pháp tắc là do tổ tông đă định, những người có chức trách phụng hành đă lâu, dân cũng quen lệ tuân hành, cớ ǵ bày vẽ sửa đổi, gây nên nhiễu loạn vậy thay?

          Đời Tống, Lư Hàng làm Tể Tướng. Mă Lượng nói: “Người ta nghĩ ông là cái hồ lô không có miệng”[5]. Lư Hàng đáp: “Ta đối với việc cai trị chẳng có tài cán sở trường ǵ, nhưng trong ngoài hễ có ai tŕnh bày điều lợi, lẽ hại, phàm là những kiến nghị thay đổi xuất phát từ t́nh tự xung động [nhất thời], hết thảy đều bác bỏ, ngơ hầu có lợi cho nước nhà. Nay những pháp chế của quốc gia đă hết sức chi ly, nếu cứ nghe theo những kiến nghị ấy, thực hành từng điều một, ắt sẽ gây tổn hại rất nhiều [cho đất nước và nhân dân]. Những gă gian ngụy may mắn được bổ dụng, có chịu suy nghĩ: [Do họ đề xướng những tṛ canh tân, cải cách ấy] mà dân chúng bị nhiễu loạn hay chăng?”

          Lư Lâm Phủ ra sức đề xướng cách sử dụng quân Khoắc Kỵ[6]. Triều đ́nh bàn luận rất nhiều phen, Lâm Phủ vẫn dốc sức duy tŕ, cho nên quân đội đời Đường rời ră, chán nản. Vương An Thạch sáng chế, thực hiện tân pháp, phiền nhiễu dân chúng, nguyên khí của nhà Tống từ đấy bị suy vi. Những trường hợp ấy đều là do [những “sáng kiến”] nhiễu loạn mà gây nên tai hại vậy!

 

          (Chánh văn) Thưởng cập phi nghĩa, h́nh cập vô cô.

          (正文)賞及非義。刑及無辜。

          (Chánh văn: Khen thưởng kẻ phi nghĩa, trừng phạt người vô tội).

 

          Cách tưởng thưởng đúng lẽ vốn nhằm để đề cao phẩm đức, báo đáp công huân. Đấy là điển lễ to lớn của triều đ́nh, nhằm khích lệ, khuyến dụ ḷng người vậy. Không đáng thưởng mà cứ thưởng th́ gọi là “phi nghĩa”. Trái nghịch là Phi (). Lơi lỏng pháp lệnh, kỷ cương, tăng trưởng điều ác, a dua lẽ riêng tư, nâng đỡ kẻ gian tà, gạt bỏ kẻ chánh trực, sẽ khiến cho ḷng trời tức giận nhất. Do vậy, kẻ trông coi việc tưởng thưởng thăng chức, há có nên chẳng thận trọng ư?

          Đời Châu, có thị thần[7] theo hầu Tấn Văn Công thuở c̣n lưu vong[8], hỏi Tấn Văn Công: “Chúa thượng định ra ba bậc thưởng công, chẳng thưởng cho thần. Dám xin hỏi thần mắc tội ǵ?” Tấn Văn Công nói: “Kẻ hướng dẫn ta hành xử đúng nhân nghĩa, khuyên ta dùng đức để ban ân, kẻ ấy được thưởng theo bậc thượng. Kẻ giúp ta thực hiện chánh sách, thành lập nước nhà, hạng người ấy được thưởng theo bậc trung. Gian khổ nơi tên đạn, dốc sức hăn mă[9], kẻ ấy được thưởng bậc thứ. Nếu [là kẻ] dốc sức phụng sự ta, mà chẳng bù đắp cho những chỗ ta thiếu sót, sau khi đă ban thưởng ba hạng người ấy rồi sẽ ban thưởng hạng người như ông”. Người nước Tấn vui vẻ. Về sau, [Tấn Văn Công] làm bá chủ chư hầu. Có thể nói Tấn Văn Công đă có thể ban thưởng phù hợp đạo nghĩa. Hễ là như thế, th́ [ban thưởng] một chức quan, một tước vị, một sợi tơ, một hạt gạo, há có vướng thói tệ sơ sót chút nào ư? Tự nhiên là những gă bại hoại chánh sự, dùng các mối quan hệ để lo lót, sẽ không thể do đâu mà chen chân được! Những người đang giữ chức vụ sẽ đều khuyên bảo nhau dũng mănh, ra sức lập công vậy!

          H́nh phạt để trừng trị kẻ ác, thánh nhân bất đắc dĩ phải lập ra, vốn chẳng phải là chuyện cát tường, tốt đẹp! Xử phạt đúng tội trạng mà c̣n buồn thương, chẳng vui. V́ thế, cổ nhân thận trọng trong việc xử phạt, [trước khi dụng h́nh luôn] thẩm tra tường tận, biện định rành rẽ. Nếu lạm dụng h́nh pháp đối với kẻ vô tội, không chỉ là đánh mất công năng xét xử nghiêm minh, thích đáng, mà c̣n trái nghịch ư hiếu sanh của Thượng Đế. Huống hồ kẻ giết người phải bị phạt tội chết, pháp luật đă có điều khoản quy định rơ ràng. Nay hành h́nh kẻ vô tội, không chỉ là giết chết một người, nhưng kẻ hứng chịu báo ứng chỉ có một thân ta! Cách thức đền mạng chẳng biết sẽ là như thế nào! Ôi! Tội nghiệp như thế đó, dẫu là kẻ chuyên hành xử công bằng, liêm khiết, thật khó tránh gặp lúc ngờ vực, lưỡng lự. [Nếu như] cứ khăng khăng chấp chặt ư kiến [của riêng ḿnh], chẳng trống ḷng suy xét tường tận, sẽ đến nỗi có kẻ nuốt hận chốn dạ đài, oan oan chẳng xả! Huống chi kẻ lơ là, chẳng chú tâm ư? Đáng sợ thay!

          Đời Minh, Lữ Khôn tên tự là Thúc Giản, đă biên soạn H́nh Giới Bát Chương, [trong ấy đă viết]:

          - Một là năm loại người chẳng đánh, tức chẳng đánh người già, chẳng đánh trẻ nhỏ, chẳng đánh bệnh nhân, kẻ nghèo túng cơm áo chẳng đủ th́ không đánh. Người khác đánh, chứ ta không đánh.

          - Hai là năm hạng người đừng tùy tiện đánh: Tông thất[10] đừng không xét kỹ mà đánh. Hai là người thuộc giới quan chức, đừng tùy tiện đánh. Ba là sanh viên[11] đừng tùy tiện đánh. [Bốn là] những người được cấp trên sai khiến đừng tùy tiện đánh. [Năm là] phụ nữ đừng tùy tiện đánh.

          - Ba là có năm t́nh huống đừng nên đánh ngay: Người đang gặp lúc gấp rút đừng đánh, người đang giận dữ đừng đánh, người đang say đừng nên đánh, người đi đường xa đừng nên đánh, người chạy đến c̣n đang thở hào hển, đừng đánh.

          - Bốn là có năm trường hợp hăy khoan đánh: Ta giận hăy khoan đánh, ta say hăy khoan đánh, ta bệnh hăy khoan đánh, ta thấy [có chỗ nào trong hồ sơ điều tra] chẳng đúng th́ hăy khoan đánh, ta chẳng thể phân xử, hăy khoan đánh.

          - Năm là có ba trường hợp đừng đánh lần nữa: Đă bị phạt kẹp ngón tay th́ đừng đánh nữa. Đă bị h́nh phạt kềm kẹp th́ đừng đánh nữa. Đă bị gông cùm th́ đừng đánh.

          - Sáu là có ba trường hợp bèn thương xót không đánh: Lúc trời rét buốt hoặc khi nóng bức dữ dội, bèn thương xót chẳng đánh. Vào những dịp lễ lạc bèn thương xót không đánh. Đối với những kẻ mới gặp chuyện thương tâm, sẽ thương xót không đánh.

          - Bảy là có ba trường hợp đáng nên đánh mà không đánh: Kẻ trưởng thượng, tôn quư đáng bị đánh, nhưng bị kẻ kém vai vế hơn hoặc kẻ c̣n thơ ấu kiện tụng th́ không đánh. Dân chúng đáng bị đánh đ̣n, nhưng kiện tụng với kẻ thuộc về nha môn th́ sẽ chẳng đánh. Nhân viên tạp dịch, kẻ làm cho các cửa tiệm đáng bị đánh, nhưng v́ sửa chữa cửa tiệm, hoặc mua bán vật dụng để tự dùng [mà phát sanh tranh chấp với người khác] th́ chẳng đánh.

          - Tám là có ba trường hợp cấm đánh: Cấm đánh bằng gậy nặng, cấm đánh kẻ dưới quyền, cấm thuộc hạ đánh người khác trái phép.

          Mă Bỉnh làm huyện lệnh huyện Gia Ngư. Có lũ cướp trộm đốt phá [quan phủ], cướp đoạt công quỹ rồi chạy mất. Kẻ cầm đầu [bọn cướp] lắm râu. Bỗng có tin báo tại trấn Đoàn Phong có chiếc thuyền chở từ mười đến hai mươi người, tung tích đáng ngờ. Trong số đó, có một gă râu dài, nhưng thật ra [gă ấy] chẳng phải [là kẻ trộm]. Rốt cuộc, họ Mă bắt họ về, tŕnh báo quan trên “đă bắt được kẻ cướp”. Họ bị chết trong ngục. Họ Mă [nhờ báo công láo khoét mà] được phong làm Ngự Sử. Về sau, kẻ trộm thật sự bị bắt tại một huyện khác. Do quan huyện ấy thấy họ Mă là đồng liêu, nên không truy cứu. [Sau đấy], họ Mă được thăng làm Đô Ngự Sử, [lên đường phó nhậm], thuyền đậu tại trấn Đoàn Phong, ban đêm gặp cướp, cả nhà chết sạch!

          Ông Diêm làm tuần phủ Nam Kinh. Có kẻ vu cáo người dân ở Trấn Giang là Châu Chí Liêm cầm đầu lũ trộm cướp. Chí Liêm là kẻ giàu có, sợ bị tra khảo, bèn hối lộ kẻ quyền quư, [cậy nói với ông Diêm] nương tay. Ông Diêm càng ngờ, rốt cuộc do phạt trượng mà giết chết Chí Liêm. Về sau, ông Diêm rốt cuộc bị Chí Liêm [hóa thành lệ quỷ] đ̣i mạng mà chết. Do ngờ vực chuyện ông ta (Chí Liêm) hối lộ mà giết chết, tợ hồ vẫn đúng lẽ công chánh, nhưng v́ giết chẳng đúng tội, [oan hồn] vẫn có thể biến thành lệ quỷ [đ̣i mạng ông Diêm]. Há có nên tự cậy chính ḿnh vô tư để rồi quyết đoán xằng bậy ư?

          Lư Quy Chánh làm hiến chức[12] đă lâu. Từng có một hôm ra ngoài, tới cầu Tam Tỉnh, trông thấy mười mấy người đầu tóc rũ rượi, kêu gào oan uổng, dần dần ép sát ông ta. Họ Lư sợ hăi, vội vàng quay về, răn con cái: “Các con mai sau khi phải chọn lựa ngành nào để làm quan[13], đừng làm quan h́nh tào. Bởi lẽ, ta thanh liêm, cẩn thận, dè dặt, kiêng sợ, luôn noi theo luật định; mà c̣n đến nỗi khiến cho kẻ khác bị oan uổng như thế. Nay hối hận sao kịp!” Không lâu sau, ông chết. Xem chuyện này th́ kẻ chẳng thanh bạch, chẳng cẩn thận, chẳng kiêng sợ, sẽ thành như thế nào đây?

 

          (Chánh văn) Sát nhân thủ tài, khuynh nhân thủ vị.

          (正文)殺人取財。傾人取位。

          (Chánh văn: Giết người cướp của, lật đổ người khác để chiếm đoạt địa vị).

 

          Giết người đoạt của, chưa chắc đă toàn là kẻ cường đạo. Như quan lại tham lam đoạt của, khiến cho kẻ khác chết trong h́nh ngục. Kẻ giàu có ham tiền, bức bách kẻ khác trong cơn khốn đốn. Kẻ tàn nhẫn ham cầu tiền tài, hại kẻ khác lâm vào nơi hiểm nạn. Thầy thuốc bất tài v́ tiền bạc mà đẩy người khác vào cảnh nguy cấp, đều là do tiền tài mà ra! Chuyện ấy giống như giết người vậy, nhưng chẳng có kẻ nào không bị lệ quỷ đ̣i mạng rồi cũng tử vong. Thế mà tiền tài đoạt được, rốt cuộc cũng chẳng có lúc nào không bị mất sạch! Những tấm gương quan lại tham lam đă được trích lục khá nhiều trong những phần trước, ở đây, chỉ kể đại lược.

          Lưu Thược Thi làm nghề cho vay nặng lăi. Có những kẻ vay nợ nhiều năm hắn chẳng hỏi tới. Bỗng có một hôm, hắn xách bằng khoán vay nợ đến tính toán, món nợ đă tăng rất nhiều lần [so với món nợ ban đầu]. Đối với món nợ c̣n thiếu, hắn liền tính lăi theo từng năm, thường là chẳng có kỳ hạn, đến nỗi [người vay nợ] mất sạch gia sản. Kẻ mắc nợ thường bị ép uổng đến nỗi phải chết. Về sau, Thược Thi chết. Nhà hàng xóm có một con nghé sanh ra, trên bụng có ghi tên họ của Thược Thi. Hằng ngày nó bị người thiếu nợ đánh đập, sai khiến, thân thể [con nghé] không có chỗ da nào lành lặn! Những kẻ cho vay lời trong nhân gian, nếu có thể giữ tấm ḷng khoan dung, cũng tùy lúc, tùy chỗ tạo thuận tiện cho người khác. Hiềm rằng có kẻ biết [lẽ ấy] nhưng chẳng chịu làm, là v́ cớ sao vậy?

          Người lái thuyền trên sông Dương Tử là Cung Soạn, nương theo trận gió lớn, d́m chết một thương gia giàu có, chiếm đoạt tài sản của người ấy, trở thành người giàu có. Hắn sống tại Duy Dương, sanh được một trai. Con đă lớn bèn coi cha như kẻ thù. Cung Soạn tức tối, phẫn nộ, cầu tiên giáng cơ [chỉ dạy]. Tiên phán rằng:

          Canh Tư bát nguyệt Tây phong ác,

          Dương Tử giang trung ba lăng tác.

          Nhị thập niên tiền nhất niệm sai,

          Quư quân thí bả tâm đầu mạc.

          (Tạm dịch:

          Canh Tư, tháng Tám, gió Tây giật

          Trường Giang sóng cuộn đă làm ǵ?

          Hai mươi năm trước một niệm quấy,

          Thử xét ḷng ngươi chẳng thẹn ư?)

          Cung Soạn hết sức kinh hăi, bỏ nhà đi, chẳng được chết yên lành. Ôi! Mưu chiếm đoạt tài sản mà chẳng thể tự dùng, rốt cuộc vẫn do oán gia sở hữu. Cái giành được là suốt hai mươi năm bận ḷng lo lắng và chẳng thể chết an lành. Đă thế, c̣n chưa tính nợ trong cơi âm ty, nỗi khổ ấy biết làm sao được?

          Một gă công sai xuất hành từ sớm, đến vùng đồng hoang gai góc. Có kẻ mang theo một món tiền, thấy gă công sai đi tới, ngờ hắn có dị tâm, bèn trốn trong đám cây rậm. Gă công sai cũng mờ mịt, chẳng biết là ǵ, vừa mới nghe tiếng bước chân, đến gần chẳng thấy ai, sợ là hổ, báo, bèn lấy ngọn thương đâm khắp lùm cây. Đâm trúng bèn lôi ra th́ người ấy đă chết, mới biết là lầm lẫn. Đă không biết làm sao, bèn lấy tiền trong bọc người ấy, vứt xác kẻ ấy vào rừng gai, không ai hay biết. Nhờ đó, nhà gă công sai giàu lên. Vợ hắn sanh được một gái. Một hôm, gă công sai ở cửa chính, bỗng thấy người bị đâm ṃ tới, liền đóng chặt cửa, ḍm lén. Rốt cuộc, người đó vào nhà người thợ da đối diện, người [thợ da] ấy bèn sanh được một trai. Gă công sai biết nhân duyên, đăi đằng người thợ ấy nồng hậu, yêu thương con trai người ấy, gả con gái cho. Người thợ da mừng rỡ, bảo con hăy phụng sự gă công sai như cha. Về sau, gă công sai uống rượu nằm ngủ, trời nắng gắt, hắn đổ mồ hôi đầm đ́a. Đứa con trai người thợ da đứng hầu bên cạnh, nhẹ nhàng dùng lưỡi dao gạt mồ hôi. Trong cơn say, gă công sai không biết là vật ǵ, bèn lấy tay đập, đao cắm phập vào bụng, chưa chết ngay, bèn gọi người nhà, kể rơ nguyên cớ. Đứa con gái xuất giá, đem hết tài sản trong nhà trả lại cho người ấy (đứa con người thợ da).

          Tôn giả Mục Liên sáng sớm ra khỏi thành, thấy một ngạ quỷ khóc lóc, thưa rằng: “Thân này của con giống như một khối thịt, chẳng có tay, chân, mắt, tai, miệng, mũi, v.v… bị các loài chim và loài trùng thường xuyên cắn, nuốt. Do tội ǵ mà nên nỗi?” Ngài Mục Liên bảo: “Đời trước, ngươi làm thầy lang, chẳng tinh thông y thuật, cắt thuốc xằng bậy, khiến cho bệnh nhân chẳng thể sống nổi. V́ thế, thành ra nông nỗi này”.

          Đời Tống, ông Phạm Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) chẳng làm Tể Tướng, bèn nguyện làm danh y, v́ sẽ cứu được nhiều người. Những gă thầy thuốc dốt trong thời gần đây, chẳng biết ư này, chỉ biết coi trọng tiền bạc, phần nhiều phạm vào bảy điều sát hại:

          1) Như chứng bệnh vốn có hoăn và cấp, nay họ dùng thuốc dành cho bệnh hoăn đăi để chữa chứng bệnh cấp tốc, dùng thuốc dành cho chứng bệnh cấp tốc để chữa bệnh hoăn đăi. Đấy là điều giết hại thứ nhất.

          2) Coi bệnh vặt là bệnh ngặt, coi bệnh nhẹ là bệnh nặng. V́ thế, dùng thuốc độc khiến cho bệnh nhân chịu đau khổ, mà chỉ thu được công hiệu chậm chạp. Đó là điều giết hại thứ hai.

          3) Thấy bệnh nhân có giàu, nghèo. Đối với kẻ giàu bèn dụng tâm, xem nhẹ kẻ nghèo. Đấy là điều giết hại thứ ba.

          4) Lười nhác, ham chơi, ham ngủ, né tránh lạnh, nóng [chẳng chịu đi thăm bệnh], đánh cờ, nhậu nhẹt, cờ bạc. Đấy là điều giết hại thứ tư.

          5) Ra toa, chẩn mạch chẳng tinh tường, đoán ṃ bệnh tật để thử thuốc. Các thầy thuốc gặp nhau bèn gièm báng lẫn nhau. Đấy là điều giết chóc thứ năm.

          6) Thấy người bệnh mà chẳng chữa trị, [người ta] đến mời chẳng đi, khiến cho bệnh t́nh [của bệnh nhân] nặng hơn. Đó là điều giết chóc thứ sáu.

          7) Chẳng tinh thông dược vị, chẳng bào chế đúng cách, hoặc tăng, hoặc giảm, đến nỗi lầm lạc gây tổn thương [cho bệnh nhân]. Đấy là điều giết chóc thứ bảy.

          Có bảy điều ấy, sẽ giết người c̣n hơn cầm dao bén [đâm người]! Dao bén đâm lút cán mà nếu chẳng phạm đến chỗ yếu hại, [người bị hại] c̣n có thể sống sót. Thế nhưng một viên thuốc lọt vào miệng, ngũ tạng đều bị nứt toạc. Vậy mà vẫn tự phụ bảo: “Ta là bậc danh y”. C̣n như kẻ uống thuốc, càng chớ nên ẩn giấu gốc bệnh. Nếu giấu diếm chẳng nói, cũng như do thấy thuốc men đắt đỏ bèn bỏ chẳng dùng, thậm chí dùng bạc xấu v́ tiếc tiền trả công thầy thuốc, ắt cũng là tự t́m đường chết đó thôi, c̣n oán trách thầy thuốc nỗi ǵ!

          Một quan, một chức đều có mạng trời. Kẻ thuộc hạ cấp thấp, do tu thiện mà có thể hiển đạt tót vời. Kẻ b́nh dân làm lành, có thể hưởng quan lộc. Nếu âm hiểm, khuynh đảo lẫn nhau, hăm hại người khác để chiếm đoạt địa vị, th́ kẻ khuynh đảo vẫn bị kẻ khác khuynh đảo, kẻ chiếm đoạt của người khác rốt cuộc lại bị kẻ khác tước đoạt. Báo ứng mau chóng, có thể trông thấy trong một thời gian ngắn!

          Đời Tống, Di Đức Siêu thấy quan Xu Mật Tào Bân công huân, danh vọng long trọng. Do vậy, hắn bèn vu cáo ông Tào âm mưu phản nghịch. V́ thế, Tào Bân bị băi chức, c̣n Đức Siêu được phong làm Xu Mật Sứ. Chẳng lâu sau, do Triệu Phổ tận lực biện định, xóa nỗi oan [cho ông Tào]. Vua hiểu ra, bèn đày Đức Siêu đi xa, đăi ngộ Tào Bân như cũ. Xem chuyện này, [sẽ thấy] “khuynh đảo người khác thật ra là khuynh đảo chính ḿnh”, chẳng càng đáng tin ư? Nhưng hăm hại kiểu này vẫn c̣n nhỏ nhoi!

          C̣n như Lư Lâm Phủ đời Đường ở ngôi Tể Tướng, phản phúc, khuynh đảo, hăm hại để củng cố địa vị của chính ḿnh. Thuở ấy, những vị tướng soái ngoài biên cương đều là bậc danh thần. Những người có công lao rạng rỡ sẽ được vời về triều làm Tể Tướng. Lâm Phủ muốn chặn đường họ, bèn tâu rằng: “Các quan văn khiếp sợ tên đạn, xin hăy dùng người Hồ[14] để thay thế, họ sẽ có thể dốc trọn sức đến chết”. Do vậy, dẫn đến cuộc biến loạn của An Lộc Sơn. Đấy là v́ ư niệm lo lắng cho tước vị mà làm hại người trong toàn thể thiên hạ vậy. Rốt cuộc, do mắc tội tư thông với kẻ phản nghịch, hắn bị [triều đ́nh xử phạt] bửa quan tài, chém xác. Vốn hắn chẳng phạm tội ấy, nhưng v́ khuynh loát bậc hiền tài để củng cố địa vị, trọng dụng An Lộc Sơn, cho nên [Lư Lâm Phủ] rốt cuộc bị kết tội phản nghịch! Há chẳng phải là hoàng thiên đă âm thầm ấn định bản án đấy hay chăng? Than ôi! Kẻ làm bầy tôi ăn lộc vua, phụng sự như thế nào mà đến nỗi ấy? Người xưa nói: “Khuất thân phụng sự vua, hăy nên coi tấm thân ấy chẳng phải là của chính ḿnh nữa. V́ thế, niệm nào cũng nghĩ đến vua, đến đất nước, há c̣n nặng ḷng v́ gia đ́nh của chính ḿnh ư? Há c̣n lo lắng [chính ḿnh] bất trung nữa ư!” Lời ấy có thể coi như là dược thạch[15] cho hạng người trên đây!

 

          (Chánh văn) Tru hàng lục phục, biếm chánh bài hiền.

          (正文)誅降戮服。貶正排賢。

          (Chánh văn: Giết hại kẻ đă đầu hàng, lưu đày người ngay, gạt bỏ người hiền).

 

          Binh đao hung ác, chiến tranh nguy hiểm, thánh nhân bất đắc dĩ phải dùng. V́ thế, người xưa do giết địch quá nhiều, bèn đau buồn, thương xót. Khi đă chiến thắng, bèn mai táng [địch nhân] theo đúng lễ. Đối với những kẻ đă đầu hàng, quy thuận, sẽ càng xót thương, phủ dụ. Nếu họ đă đầu hàng mà lại c̣n tàn sát, nhẫn tâm tạo nghiệp, họa lớn chẳng ǵ bằng!

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: - [Nếu nói] “người có ḷng nhân từ không nắm giữ binh quyền”, tức là kẻ làm tướng ắt sẽ tàn sát ư? Thưa, chẳng phải vậy. Người làm tướng do cứu dân mà ngăn dứt sự tàn bạo, dẹp loạn, giữ yên đất nước, ắt [dân chúng sẽ] có hy vọng sống c̣n trong ấy. Do vậy, v́ sự sanh tồn [của toàn dân] mà giết [kẻ phản loạn] th́ không ai có công hơn người làm tướng được! V́ sao? Giết một kẻ để cứu vạn người; so với chuyện làm lành lúc b́nh thường, cố nhiên là có sai khác! Nếu v́ giết chóc mà giết chóc[16], ắt tội cũng không ai hơn kẻ làm tướng được! Cớ sao? Hễ thất bại th́ phần nhiều là giết chính ḿnh, hễ thắng lợi th́ sẽ giết nhiều quân địch. Quân luật chẳng nghiêm, ắt [quân lính] sẽ giết nhiều người vô tội, toàn là trách nhiệm của chủ tướng vậy. Do đó, sai tướng [cầm quân chinh phạt], chẳng thể không thận trọng, mà vị tướng sai phái thuộc hạ lại càng chớ nên không thận trọng.

          Cổ nhân nói: “Ba đời làm tướng là điều kiêng tránh của Đạo gia”. Nhưng dùng giết chóc để ngăn dứt giết chóc cũng là chuyện [do t́nh thế] bắt buộc phải như vậy. V́ thế, tùy thuộc cách sử dụng như thế nào đó thôi!

          1) Thứ nhất là sợ vô sự mà sanh sự, dùng xương khô của trăm vạn người để đổi lấy cái ấn phong hầu!

          2) Thứ hai là sợ dùng hung bạo này thay cho sự hung bạo khác, lạm sát dân chúng, v́ tranh công mà chặt đầu kẻ khác.

          3) Thứ ba là sợ đôi bên giao chiến kịch liệt, ra sức tàn sát, phe ta lẫn phe địch đều phải hứng chịu. Kẻ chỉ huy có thể nói: “Do lệnh ta mà giết người để phô trương oai thế”. Lại có thể nói: “Giết người là chuyện của kẻ khác, cho phép thuộc hạ lạm sát, cướp bóc để phô trương thanh thế. V́ đó, ta có thể coi đấy là chiến công của chính ḿnh”. Bởi lẽ, đạo làm tướng th́ trước hết là phải nghiêm cấm quân đội giết hại, chế ngự binh lính nghiêm ngặt, ắt binh sĩ sẽ chẳng gây hại, mà c̣n là có công. Do vậy, [nói] “dùng sống c̣n để hướng dẫn giết chóc” (v́ mục đích bảo vệ sanh mạng của người dân mà giết địch hoặc kẻ phản loạn) là như thế đó.

          Đời Hán, Lư Quảng tay dài như vượn, có tài thiện xạ. Dân Hung Nô kiêng sợ, đặt biệt hiệu cho ông ta là Phi Tướng Quân (tướng quân bay). Nhưng ông ta vận số trắc trở, chẳng được phong tước hầu, đă từng nói với Vương Sóc là một tay tướng số chuyên xem khí sắc: “Quảng kể từ lúc búi tóc (hai mươi tuổi), giao chiến với Hung Nô, chưa hề chẳng giành đi trước. Hễ quân Hán đánh Hung Nô, Quảng chưa hề không ṭng chinh. Nhưng những kẻ thuộc lớp sau đều được phong hầu, riêng ḿnh Quảng chẳng thể! V́ lẽ nào?” Vương Sóc hỏi: “Tướng quân có chút ǵ ân hận hay không?” Lư Quảng đáp: “Đă có tám trăm người Hồ đầu hàng, Quảng đều giết sạch, khá là hối hận”. Vương Sóc nói: “Họa không ǵ lớn bằng giết kẻ đă đầu hàng. Đấy là lư do khiến cho Ngài chẳng được phong hầu vậy!” Về sau, Lư Quảng cũng v́ đánh trận thất bại bèn tự sát. Cháu nội là Lư Lăng lại v́ chuyện đầu hàng quân giặc mà cả họ bị tru di.

          Đời Nguyên, khi [quân Mông Cổ] vừa mới chiếm được vùng Giang Lăng[17], Liêm Hy Hiến[18] trông coi[19] vùng Kinh Nam, hạ lệnh: “Phàm kẻ nào bắt được tù binh mà dám tàn sát, sẽ bị luận tội giống như cố ư giết hại dân thường”. Trong quân đội, những tù binh do bệnh tật mà được [chủ nhân] thải ra, cho phép người khác nhận về nuôi. [Khi người tù ấy đă] lành bệnh, chủ cũ chẳng được giành lại. Nếu có kẻ nào gán vợ bán con, sẽ bị phạt tội nặng, mà c̣n chẳng nhận được món tiền gạ bán ấy. Ấy là v́ Liêm Hy Hiến chẳng thích tàn sát, cho nên có thể làm như thế. Ông mất, thụy hiệu là Văn Chánh. Một người em trai của ông có sáu đứa con trai đều quư hiển.

          Đày đi xa th́ gọi là Biếm (); hăm hại khiến cho kẻ khác bị mất địa vị th́ gọi là Bài (). Bậc chánh nhân hiền sĩ là rường cột của nước nhà, đáng nên trọng dụng, ngơ hầu triều đ́nh có người, trong ngoài biết sợ. Nếu đố kỵ v́ người ấy khác biệt [ư kiến, chí hướng] với ḿnh, bèn dùng nhiều phương cách khiến cho người ấy bị đuổi, bị đày đi xa, trở ngại người hiền, khiến cho nước nhà suy vi, chẳng có tội ác nào lớn hơn thế!

          Đời có Bá Nhạc[20], sau đấy mới có thiên lư mă (ngựa ngàn dặm). Thiên lư mă luôn có, nhưng Bá Nhạc chẳng thường luôn có. Gặp gỡ nhân tài, cũng giống như vậy đó. Nếu kẻ đang nắm giữ địa vị đều như Bá Nhạc, ắt là bậc có khí lượng đạo đức, sẽ có thể làm Tể Tướng. Người hiểu biết đại thể sẽ có thể làm gián quan. Kẻ thông hiểu pháp tắc, sách lược, sẽ có thể giao cho binh quyền. Kẻ có thể trấn thủ, vỗ yên, sẽ có thể trao giữ chức vụ một phương. Kẻ có khí phách, sẽ có thể làm quan giám sát. Kẻ liêm khiết đối với tiền tài, có thể làm quản lư tiền bạc, thóc gạo. Kẻ biết yêu dân, sẽ đều có thể làm Thái Thú hoặc huyện lệnh. Như thế th́ các chức vụ lớn nhỏ sẽ đều có người [xứng đáng đảm nhận], ngoài đồng nội chẳng bỏ sót nhân tài, mà trăm việc đều được thực hiện tốt đẹp vậy!

          Đời Minh, Nhan Mậu Do nói: - Phàm là kẻ mưu toan để biếm trích, hăm hại người khác mất chức và kẻ có thể rộng dung người hiền, vốn chẳng khác biệt cho mấy, [sở dĩ có khác biệt] chỉ v́ ngă kiến gây lụy. Có trường hợp nghe danh tiếng, khá là yêu mến, hâm mộ, cho đến khi gặp mặt, cư xử, sẽ có một, hai chuyện chẳng thể nhẫn nại được. Chất chứa càng lâu, sẽ trở thành oán cừu, hiềm khích. V́ thế, rộng dung người hiền ở xa sẽ dễ dàng, rộng dung người hiền gần kề sẽ khó khăn. Dung thứ kẻ hèn kém dễ dàng, dung thứ người sang cả khó khăn. Dung thứ tạm thời sẽ dễ dàng, dung thứ lâu dài sẽ khó khăn. V́ sao? Tánh khí va chạm nhau, tài năng xung đột, danh vọng lấn át nhau, oai thế chèn ép nhau. Nhưng người hiền ấy cũng chẳng thể hoàn toàn b́nh tâm tĩnh khí, vô ngă được. Sau khi giao du lâu ngày, sẽ thật sự thấy kẻ hiền ấy có chỗ chẳng đúng, [bèn nghĩ ngợi]: “Xưa kia hâm mộ đức hạnh của kẻ ấy, chính là v́ đă nhận biết sai lầm rồi sanh ḷng kính trọng!” Ngày nay ghét kẻ hiền, vẫn cảm thấy là tâm ta đă lắng ḷng [cân nhắc kỹ càng rồi]. Hễ [kẻ nào] nói “thật sự chẳng thể dung thứ”, thật ra là do kẻ đó chẳng thể tiêu trừ [cái tâm đố kỵ ấy]. V́ thế, có khi bậc quân tử gặp gỡ, rốt cuộc trở thành oán cừu, chống trái. Thói tệ khởi nguồn chính từ chỗ này. Thường ngày, cần phải chế ngự những thói xấu của chính ḿnh, nhẫn nhục, vô danh, vô tướng, thật sự có thể xả thân v́ nước, đối với hết thảy chê, khen, yêu, ghét, chẳng bận ḷng mảy may, th́ mới có thể tạo phước cho con cháu và lê dân vậy!

          Đời Tống, Tạ Bí hiểu biết người khác nhất, chẳng dễ dăi nhận lời ai [để tiến cử kẻ khác]. Suốt đời, ông chỉ tiến cử không quá vài người. Mỗi lần gởi thư tiến cử, ông ắt thắp hương, bái vọng cửa khuyết, lễ bái rồi tâu: “Lăo thần lại v́ bệ hạ cầu được một người”. Văn Chánh (Phạm Trọng Yêm) và Vương Đán đều do ông ta tiến cử. Ngày ông sắp mất bèn tắm gội, đốt hương, ngồi ngay ngắn, qua đời, đầu chẳng nghiêng vẹo tí nào! Đấy chẳng phải là đă “thi giải”[21] ư?

          Vào thời Xuân Thu nhà Châu, Yến Tử tâu với Tề Cảnh Công: “Nước có ba điều bất tường, nhưng chẳng dính đáng đến chuyện thần kỳ, quái dị! Hễ có người hiền mà không biết; đó là một điều bất tường. Đă biết mà chẳng dùng, đấy là hai điều bất tường. Dùng mà không tín nhiệm là ba điều bất tường. Nói ‘bất tường’ chính là như thế đó”[22]. Vậy th́ có nên biếm trích người chánh trực, có nên băi chức người hiền hay chăng?

          Đời Đường, Lô Kỷ ghét Nhan Chân Khanh, muốn trục xuất ông ta. Khi ấy, Lư Hy Liệt làm phản, Lô Kỷ bèn tâu vua: “Thần mong có bậc trọng thần tánh t́nh nho nhă, sẽ v́ hắn ta (Lư Hy Liệt) phân tích lẽ họa phước, ắt sẽ có thể chẳng nhọc sức xuất quân mà hắn chịu phục. Xét ra, Chân Khanh là bậc cựu thần đă ba triều vua, trung trực, cương quyết, danh tiếng vang rền cả nước, mọi người tin phục, đúng là người đáng sai đi vậy”. Vua cũng nghĩ là đúng, xuống chiếu sai Chân Khanh đến khuyên nhủ Hy Liệt. Về sau, Hy Liệt muốn giữ Chân Khanh ở lại làm Tể Tướng, Nhan Chân Khanh bèn chết (tự sát). Cuộc biến loạn Phụng Thiên[23] thật sự là do Lô Kỷ gây ra. Lư Hoài Quang tấu tŕnh, [hạch tội] Lô Kỷ tàn hại bậc trung lương, gian nịnh gây hại cho đất nước. Hắn bị đày ra Tân Châu rồi chết ở đó.

          Nhan Mậu Do nói: - Phường tiểu nhân đố kỵ, chỉ v́ sợ người khác sẽ công kích ḿnh, lấn lướt ḿnh, chẳng biết mưu mẹo trí trá chẳng chống nổi tạo hóa. Khi số mạng đă suy bại, dùng hết mọi mánh khóe, chẳng thể làm ǵ được nữa! Những gă như Lô Kỷ chẳng phải là không biết [lẽ ấy], chỉ v́ không biết làm thế nào được nữa! Thoạt đầu chỉ là một niệm [mong cầu] củng cố ân sủng [của nhà vua]. Chuyện đă đến nước ấy, lâm vào t́nh thế cưỡi cọp, chẳng thể xuống được! Vẫn là hăy nên thận trọng ngay từ lúc đầu!

 

          (Chánh văn) Lăng cô bức quả.

          (正文)凌孤逼寡。

          (Chánh văn: Lấn hiếp con côi, bức hại bà góa).

         

          Đối với ư này, trong phần chú giải cho câu “căng cô tuất quả” (thương xót con côi, châu cấp bà góa) trong phần trước đă có nhắc đến. Đức Thái Thượng đă khuyên thương xót, giúp đỡ trong phần trước, lại c̣n răn đe về chuyện lăng nhục, bức bách trong phần sau. Dặn đi, dặn lại, dụng ư đúng là tha thiết tột bậc. Bởi lẽ, mẹ góa, con côi là nỗi bất hạnh trong đời người, [họ là những người] được trời đất coi trọng. Há có nên rắp tâm v́ họ không có nơi nương tựa, mà thừa cơ lường gạt, hăm hại. Hoặc là xâm chiếm, tước đoạt tài sản, hoặc dùng quỷ kế, cấu kết với bọn sai dịch, cậy thế khủng bố, dọa nạt, khiến cho mẹ góa con côi lưu lạc, chẳng thể nào kêu cứu, kiện cáo. Hăy khoan luận quỷ thần luôn ḍ xét, báo ứng chẳng khoan dung; hăy nghĩ “trẻ mồ côi cũng là con kẻ khác, bà góa cũng là vợ người khác”, xin hăy coi họ như con ta, vợ ta để xét lại.

          Củng Cố ở Phương Thành làm hàng xóm của một người nhà giàu họ Châu. Bỗng nhà họ Châu trai gái đều chết sạch, chỉ c̣n sót lại một bà già và đứa cháu bé bỏng. Củng Cố bèn mở tiệc rượu, dụ dỗ: “Cháu của cụ trơ trọi, yếu đuối, giữ lấy gia sản để tự sanh nhai, chẳng phải là kế sách vẹn toàn. Sao bằng bán hết cho tôi, tôi sẽ nuôi già, chăm trẻ”. Bà cụ mừng rỡ, lập bằng khoán, giá bán chưa đến một nửa [giá trị thật sự]. Củng Cố vừa nắm được bằng khoán, bèn [trở mặt], bức bách họ dọn nhà. Củng Cố mộng thấy một người quở trách: “Mày mưu toan chiếm đoạt cơ nghiệp của ta, xua đuổi vợ và cháu ta, ta đă tố cáo lên Thượng Đế. Sang năm, cả nhà mày chết sạch”. Năm sau, quân giặc kéo tới. Quả nhiên, cả nhà họ Củng đều chết hết. Bà cháu [nhà họ Châu] do ĺa khỏi sản nghiệp, nên tránh khỏi tai nạn. Họ trở về, lấy lại tài sản, sản nghiệp trở về nguyên chủ. Họa giáng xuống cả nhà, những kẻ lấn hiếp mẹ góa con côi hăy nh́n vào gương này th́ cũng có thể phản tỉnh, sửa đổi. C̣n như anh em, người cùng họ lấn hiếp, bức bách nhau, diệt tuyệt mối thiên luân, sự báo ứng thê thảm càng to lớn hơn nữa, chẳng đành ḷng nhắc tới!

 

          (Chánh văn) Khí pháp thọ lộ.

          (正文)棄法受賂。

          (Chánh văn: Coi thường pháp luật, tiếp nhận hối lộ).

 

          Từ chỗ này cho tới câu “kiến sát gia nộ” (thấy [người khác mắc tội] đă bị giết chết mà vẫn c̣n giận dữ), đều là nói về chuyện thẩm vấn, xử phạt. Phàm là nha dịch, thư lại, cũng đều được gộp vào trong ấy, chẳng phải là chỉ nói riêng về những vị h́nh quan[24]. Đức Thái Thượng nói đến chuyện đúng, sai, nặng, nhẹ, trước hết, nhắc đến chuyện coi thường luật pháp, nhận hối lộ. Bởi lẽ, đúng, sai, nặng, nhẹ đều có pháp tắc nhất định, nhưng [kẻ xét án] chỉ mong sao được tiền. V́ thế, bèn nghe theo lời xin của kẻ đă hối lộ ḿnh mà hành xử điên đảo. Nếu chẳng biết đến pháp luật, mặc t́nh phán đoán lẽ sống chết [của người bị tố tụng theo ư riêng], th́ dân chúng sẽ chẳng thể làm ǵ được! Cớ sao chẳng nghĩ đến chuyện trời giận, người oán, ắt sẽ vướng phải tai nạn lạ lùng vậy thay?

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: - Kẻ làm quan, gia sản vốn từ thi, thư, lễ, nhạc mà có, há chẳng biết sự liêm khiết đáng nên tôn sùng ư? Chỉ v́ đă quen thấy chuyện mưu cầu quan tước, trả nợ, biếu xén để được thăng thưởng, đề bạt, [bèn nghĩ] “chẳng làm như vậy sẽ không được!” Thoạt đầu là mới nhúng chàm, nhưng tích tập lâu ngày tiêm nhiễm, tánh t́nh đă lậm thói tanh hôi. Hơn nữa, ḷng người có bao giờ chê chán! Đă được trăm lạng, ắt mơ ngàn lạng. Đă có được ngàn lạng, ắt mong vạn lạng. Thậm chí kẻ quyền thế lừng lẫy, vàng lụa chất đầy tận nóc. Đă chất chứa đến nỗi [bỏ mặc cho nó] cũ nát, mà vẫn [cảm thấy] chưa đủ. Kẻ bàng quan [trông thấy t́nh cảnh ấy] chẳng ai không nực cười, nhưng kẻ trong cuộc vẫn không hay biết. Ấy là v́ thật sự mắc bệnh mê tiền vậy! Phần lớn [những kẻ say mê tích lũy tiền của như vậy] đều là v́ tính kế lâu dài cho con cháu, chẳng biết bao nhiêu con em của những kẻ si mê làm giàu [đă gây họa] diệt môn, bao nhiêu kẻ thanh bạch, nghèo túng, đạm bạc mà lại khá lên. Huống chi, phước lộc có vận số, cứ thâu đoạt của cải bất nghĩa cho lắm, để lại món nợ oan nghiệt cho con cháu đền trả! Chẳng thể nói là phước được!

          C̣n như lập miếu thờ phụng [tổ tiên], giúp đỡ ḍng họ, cứu giúp họ hàng nghèo túng, cố nhiên là chuyện tốt đẹp. Nhưng nếu có cái tâm mong cho sự việc được hoàn thành trọn vẹn mau chóng, ắt sẽ phải thâu nhập trái lẽ quá đáng, làm sao có thể “tích đức, ngưng tụ cát tường, làm quan lâu ngày sẽ tự nhiên giàu có” dài lâu cho được? Phàm kẻ làm quan mà mê rượu, chuộng dâm, ưa giết chóc, đều bắt nguồn từ sự tham mê tiền tài. Căn bệnh mê tiền là do buông lung ư niệm đă thành thói quen. Khi thói quen đă h́nh thành, ruột gan sẽ thay đổi, sẽ liều chết theo đuổi, chẳng màng [tiền bạc có được do sự tham ô ấy] sẽ là hữu dụng hay vô dụng! Có kẻ khi mới chập chững bước vào quan trường, vẫn c̣n có thể kiềm chế, nhưng đến khi đă già đời, bèn hoàn toàn đảo ngược. Chỉ v́ dần dần đă coi quan trường là nhà, coi tiền tài là tánh mạng, nhưng đông hơn cả vẫn là những kẻ vừa chen chân vào chốn vinh hoa, phú quư, bèn cầm ngay chiếc cuốc, cái ky, cái mai [để sẵn sàng đục khoét].        

          Hễ nhận hối lộ, ắt sẽ tàn khốc. Những kẻ đó cho rằng: “Chẳng đánh, ắt trong tâm quần chúng sẽ chẳng kinh hăi, sẽ chẳng có kẻ đút lót”. Nhận hối lộ, ắt sẽ ngang ngược. Kẻ đó cho rằng: “Chẳng điên đảo lẽ đúng sai, ắt lư lẽ sẽ thắng quyền thế, người dân do có chỗ nương cậy, sẽ chẳng sợ [oai thế của quan]”. [Những kẻ] ăn hối lộ, ắt sẽ xun xoe những kẻ thân tín, quen biết [của cấp trên] để nắm bắt ư chỉ [của bề trên]. Họ cho rằng, nếu chẳng tụ tập thành bầy hổ đói, ắt oai lệnh sẽ chẳng được coi trọng. Không bẻ cong [sự thật], bao che, thiên vị kẻ khác, ắt khi phạm lầm lỗi, sẽ chẳng có kẻ [thân tín] để trông cậy. Như thế th́ khi phán quyết án lệ, ruột gan đă ngầm chứa điều khuất lấp. Do một điều tham mà sanh ra trăm nỗi khốc liệt! Một gă quan hung ác, lại sanh ra trăm gă nanh vuốt! Ôi! Há lẽ nào dân chẳng v́ nghèo túng mà làm trộm cướp ư?

          Điều khó thể chịu đựng nhất chính là kẻ cướp bóc, cưỡng đoạt đă bị tống giam mà vẫn có thể dùng tiền [hối lộ] để chuộc ra. Kẻ nhận hối lộ đă làm trái pháp luật, lại ngược ngạo ra oai [ḥng lấp liếm lỗi ấy]. Đối với những tội trộm cắp hàng hóa tại tiệm buôn là những tội vặt vănh, bèn sử dụng những h́nh phạt tột cùng tàn độc thấu xương! C̣n như kẻ quan tước càng to, cai quản dân chúng càng đông, một người ăn hối lộ, ắt ngàn người bẻ cong pháp luật. Mười người đùa bỡn với pháp luật, ắt vạn người làm tượng đất [để chôn theo]! Như tám trăm thạch hồ tiêu của Nguyên Tải[25], tám mươi ṿ đường sương (糖霜) của Giả Tự Đạo[26]. Cố nhiên là khiến cho thiên hạ loạn lạc; nhưng những ǵ bọn chúng nó đă chất chứa, há có c̣n hay chăng?

          Phàm là bậc trưởng quan, há nên nghĩ “ta cốt sao giữ ḿnh trong sạch” là được rồi! Hăy nên nghiêm cấm thuộc hạ và những quan lại dưới quyền tham ô. V́ sao? Trưởng quan tai mắt hữu hạn, mọi chuyện toàn là do những nha lại trong công môn lo liệu. Nếu như [trưởng quan] luôn đối chiếu, luôn tra xét tường tận mọi vụ án, mọi h́nh phạt, xét xem trong ấy có những vụ nào mà người nghèo bị mắc lụy, oan uổng gánh tội, hoặc kẻ ngu bị lừa gạt, kẻ yếu thế bị kẻ khác khống chế, gào trời vỗ đất, không cách nào tố cáo được! Chỉ có người trong công môn, dưới là tiếp nhận nỗi đau của người dân, trên là thông hiểu những mối quan hệ trong chốn quan trường. Khi [người dân đang lúc] gian khổ, trơ trọi, nguy ngập, mà nâng đỡ một phần, sẽ hơn tạo phương tiện cho người khác mười phần! Khoan dung một phần, sẽ hơn tạo phương tiện cho người khác mười phần! Nếu có thể cứu giúp kẻ bần cùng, giải trừ oan ức, dạy kẻ ngu, nâng đỡ kẻ yếu thế, chẳng thừa dịp họ gặp nguy mà gạt gẫm, chẳng v́ ăn của hối lộ mà đánh đập [phạm nhân hoặc nghi can] tàn khốc, chẳng cần hiểu biết cặn kẽ t́nh tiết mà đă cố ư oan uổng họ, chẳng điên đảo văn từ (chơi chữ, gài bẫy để kết tội), rối loạn pháp luật, ắt trong một ngày, có thể làm được mười mấy việc thiện. Tích lũy ba năm, sẽ có mấy vạn điều thiện. Người ta đang cơn khốn khó, ai mà chẳng biết cảm kích? Thần minh [ở cách đỉnh đầu] ba thước, có vị nào chẳng phù hộ? Tự nhiên hằng ngày chuyện cát khánh (tốt lành) sẽ xảy tới, con cháu hưng thịnh. Nếu chẳng như vậy, tài sản tom góp bằng sự oán độc, dẫu đạt được cũng chẳng phải là phước!

          Lại có kẻ nghèo túng chẳng có tiền tài để [quan trên, nha lại] có thể lừa gạt được; v́ thế, bèn dùng h́nh phạt tàn khốc [để hành hạ họ, làm như thế] chỉ tổn âm chất, chất chứa oán hận để làm ǵ? Bất luận xưa kia hay trong hiện thời, bậc hào kiệt ẩn thân trong chốn nha môn cũng luôn cúng tế cô hồn, làm trai đàn, thâu nhặt chôn cất đầu lâu, hoặc cũng có kẻ thương xót người già cả cô quạnh, nghèo khó, bèn kêu gọi quyên góp châu cấp, nuôi nấng. [Những người như vậy] toàn là người tốt tâm lành, có ai chẳng phải là con hiếu, cha nhân từ? Chỉ sợ những kẻ coi tiền tài quá nặng, chắc là cơi âm sẽ quở phạt chẳng nhẹ! Sao bằng châm chước tài lực [của chính ḿnh] có thể [giúp đỡ những kẻ nghèo khổ] hay không, ḷng luôn nghĩ tạo thuận tiện [cho người khác], dẹp bớt oai thế hùng hổ, đừng buông lung tàn độc? Trong mạng mà có th́ đến thời rốt cuộc sẽ có, mai sau ắt hưởng phước lâu dài! Trong ấy (trong số các quan lại, nha dịch), có những vị thiện tín, diệu nhân, hăy nên dùng ư này để khuyên bảo các đồng liêu, công đức càng là vô lượng.

          Phàm là những kẻ làm sai dịch trong chốn cửa công, quen thói bẻ cong pháp luật[27], quen tật đánh đập [tội nhân], giống như những kẻ làm nghề đồ tể. Tích tập lâu ngày, ư niệm giết chóc ngày càng thêm lừng, ư niệm cứu sống ngày càng ít ỏi. V́ thế, có kẻ lúc mới vào nha môn, vẫn c̣n có ḷng [trắc ẩn], lâu năm bèn biến thành gă giặc giảo hoạt, quên sạch tánh [hiền lương, nhân từ] thuở trước. Lại có kẻ chính ḿnh c̣n là người tốt, nhưng do bị mọi người công kích, rốt cuộc đọa trong ác đạo. V́ thế, đối với tâm thuật [của chính ḿnh], chẳng thể không cẩn thận. Những kẻ táng tận lương tâm quá mức, cáo mượn oai hùm, tự cho ḿnh là bậc hào kiệt, làm những chuyện gian trá trái pháp, tranh nhau khoe khoang ta là kẻ đảm lược, mưu trí, chẳng biết là đang tạo ác, tạo nghiệp, con cháu sẽ phải hứng chịu, đời sau phải đền trả, cũng ích chi đâu? Khoan hăy nói đến những điều xa xôi ấy, hăy nh́n vào những ǵ ta [thể] thấy nghe trước mắt. Kẻ hại người đă nhiều, lừa gạt quá mức, bị dân trong huyện cùng nh́n bằng nửa mắt[28], có kẻ nào chẳng mắc vào lưới pháp luật? Trong số đó, có kẻ ăn chay, tụng kinh để chuộc tội trước. Cố nhiên cũng là do lương tâm chớm nẩy, có thể giải trừ một, hai phần, nhưng nếu ỷ vào đó, bảo là “có thể chuộc lỗi ác” rồi cứ mặc sức làm bậy chẳng màng th́ sai mất rồi! Tiền của do bất nghĩa mà có, bố thí vô ích! Hơn nữa, sám hối tội lỗi mà vẫn tạo tội, tội càng nặng thêm. Chẳng thà làm phương tiện này, khoan dung đối với kẻ bần cùng, cứu vớt người oan khổ. Mọi người biết kẻ như vậy là bậc trưởng giả trung hậu, ắt sẽ nương cậy nhiều, mà tài vật đạt được cũng khá. Gần th́ là có pháp luật của nước nhà, xa th́ là cơi âm trách phạt, hăy nghĩ kỹ nhé!

          Đời Minh, ông Cảnh Cửu Trù giữ chức Lưỡng Hoài Diêm Vận Ty[29], nổi tiếng liêm khiết. Có lần ông ngồi bên bờ nước, một đứa bé trai thưa: “Nước thanh khiết chẳng bằng sự thanh liêm của sứ quân”. Đầu niên hiệu Thiên Thuận[30], vua muốn đề cử quan viên liêm khiết để tuyên cáo cùng thiên hạ, bèn xuống chiếu phong ông làm Đô Ngự Sử. Về sau, ông làm Thượng Thư. Con ông là Dụ, tuân thủ lời cha giáo huấn, suốt đời vâng giữ sự thanh tu, cũng làm quan đến chức Thái Tử Thái Bảo, Lại Bộ Thượng Thư.

          Phàn Quang làm Quận Tá tại Giao Chỉ, đang làm việc tại nha môn, bỗng gió giật, sấm đánh dữ dội. Phàn Quang, con trai hắn và con chó đều bị sét đánh chết. Vợ hắn trong lúc sấm sét thấy một đạo sĩ nắm lấy thân bà ta, đặt sang chỗ khác, bèn được thoát nạn. Mọi người hỏi duyên cớ, bà vợ đáp: “Từng có hai người thưa kiện nhau, cùng bị tống giam. Kẻ đuối lư bèn hối lộ Phàn Quang, Phàn Quang liền thả kẻ ấy. Người đúng lư lại bị tra khảo dữ dội nhằm ép người ấy nhận tội oan uổng. Những thức ăn [do người nhà] gởi cho người ấy, Phàn Quang đều tước đoạt, đem cho con trai và chó ăn. Người tù ấy v́ đói sắp chết, nghe nói ông ta ở trong ngục bèn xơa tóc tố cáo lên cơi trời. Chẳng đầy mấy bữa bèn xảy ra chuyện này”.

          Hầu Giám làm huyện lệnh ở Giang Hạ, làm bạn với một vị Tăng, mỗi khi rảnh rỗi ắt đến thăm. Hễ đến thăm, vị Tăng ắt đă bày tiệc sẵn. Ngẫu nhiên có một hôm đến thăm, Sư đăi đằng thiếu sót. Hầu Giám hỏi nguyên cớ, vị Tăng đáp: “Mỗi lần ông đến, thần Thổ Địa ắt báo trước. Lần này chẳng báo; do vậy, sơ sót trong tiếp đăi”. Hầu Giám kinh ngạc, bảo vị Tăng hăy hỏi Thổ Địa nguyên do chẳng báo. Đêm ấy, vị Tăng mộng thấy [thần Thổ Địa] nói: “Hầu Giám vốn đáng lẽ làm đến Tể Tướng, nhưng gần đây, hắn đă nhận sáu mươi lượng bạc [đút lót] của họ Hồ để xét xử oan uổng một chuyện. Thiên tào đă tước bỏ chức vị Tể Tướng của hắn, chỉ được làm đến chức Giám Ty[31], chẳng thuộc quyền thống nhiếp của tôi nữa, cho nên chẳng báo”. Ôi! Dùng sáu mươi lượng tiền hối lộ để đổi lấy địa vị Tể Tướng, là có trí hay ngu si vậy? Hơn nữa, thần minh không vị nào chẳng tận lực khuyên dạy con người “nhận của đút lót sẽ bị giảm phước, nhưng kẻ chẳng tự biết đông lắm!

          Lại như thôi quan (推官, vị quan trông coi về h́nh pháp) là Ngụy Chiêu từng nhận của đút lót bốn trăm lạng, cố ư gỡ tội cho kẻ nọ, khiến người đă bị hại chết phải ngậm oan chẳng giăi bày được. Thượng Đế tước bỏ bổng lộc, ngạch trật, và tuổi thọ của hắn; năm sau, Ngụy Chiêu chết ngắc. Người thời nay thường bảo “gỡ tội đỡ hơn buộc tội” để bào chữa. Theo đúng pháp, chẳng thể dung túng [kẻ có tội], chẳng thể oan uổng người vô tội!

          Hạ Xán Nhiên ở Tú Thủy, làm nha lại trông coi h́nh sự[32], liêm khiết, chẳng tham. Xét án công bằng, khoan dung, xét theo t́nh cảm lẫn pháp luật đều thích đáng. Đối với những tội nhân đáng thương, ông thường rộng dung, khoan hồng. Gặp lúc hai tỉnh Sơn Đông và Hà Nam bị mất mùa, ông Hạ lại viết sớ, khuyên Diêu Tư Nhân [đang làm Công Bộ Thượng Thư thuở ấy] hăy xin vua phát chẩn, cứu sống ngàn vạn người. Về sau, ông Hạ đỗ Tiến Sĩ lúc bốn mươi tuổi, làm quan đến chức Lại Bộ Thượng Thư.

          Ông Trần Tài từng nằm mộng thấy thần bảo: “Tử túy khôi[33] dă, thả liên đệ, quan chí Tuần Phủ” (con trai của ngươi sẽ đỗ đầu khoa Tân Dậu, đỗ đạt liên tiếp, làm quan tới chức Tuần Phủ). Ông tỉnh giấc bèn kể với người khác. Có người nói: “Túy là Tân Dậu”. Đến năm Tân Dậu, quả nhiên con ông thi đậu, nhưng thi Hội chẳng đỗ. Ông hoài nghi giấc mộng chẳng ứng nghiệm. Lại mộng thấy thần bảo: “Số trời là cố định, có sự chuyển dời là do con người. Như thiên tử sủng ái một đại thần, ban cho tước lộc trọng hậu. Nếu đại thần chẳng tận lực trung thành, há có thể nào chẳng bị đoạt mất chức tước, bổng lộc ư? Hoặc là cậy được vua sủng ái mà chuyên phóng túng dụng h́nh, giết chóc, ắt họa sẽ xảy đến thân! Số trời và phép nước giống nhau. Sau khi con trai của ngươi đỗ kỳ thi Hương, ngươi đă làm năm chuyện [sai trái], nhận tiền hối lộ của kẻ khác, tổn đức nhiều lắm! Há có nên oán trời tước đoạt phước của ngươi ư? Từ nay hăy nên tu đức, may ra c̣n giữ được tuổi thọ. Nếu không, sẽ đoạt mất tuổi thọ của ngươi!” Ông Trần khóc, lạy, tỉnh giấc, hối lỗi, hướng lành, [rốt cuộc con trai ông ta] chỉ làm tới chức Huấn Đạo[34] là hết mức!

          Phàm là người đă đỗ Cử Nhân, hăy nên tu thân như ngọc, chuyên chú làm những việc gieo bồi đức hạnh, ắt sẽ đỗ đạt và thăng chức đều dễ dàng. Hiềm rằng, kẻ đă bước chân vào chốn quyền thế, lợi lộc, chỉ mong thỏa ḷng khoái ư, chẳng biết dẫu tài văn chương cao sâu mà chẳng gặp thời, công danh vẫn bị trở ngại! Thậm chí c̣n bị giảm thọ, chết yểu, đều thuộc hạng người này. Xin những ai có chí, hăy liền phản tỉnh tu thân. C̣n như bậc hương thân là những người được dân chúng ngưỡng vọng, họ đă từ quan về nghỉ, hễ làm lành sẽ có thể khiến cả quận huyện bị cảm hóa, hưng khởi phong tục tốt đẹp cho cả châu lư[35], vun bồi cho thế hệ sau gấp trăm lần những kẻ đang làm quan. V́ thế, kẻ có thể thân cận người hiền, tuyên dương điều thiện, chủ tŕ phong tục, những người ấy là bậc thượng. Người giữ cho bản thân chánh đáng ḥng hướng dẫn mọi người noi gương, tự giữ sự điềm tĩnh, sẽ kém hơn một bậc. Kém hơn nữa là hạng lo tậu ruộng mua nhà. Kém hơn nữa là hạng người lường gạt con côi, đối xử hung bạo với bà góa. Kém hơn nữa là hạng người mưu cầu tài lợi, nói đến chuyện ǵ cũng ṿi tiền, khiến cho phong hóa biến đổi [ngày càng tệ hơn], chẳng dám nhắc tới nữa!

          Vương Tảo làm nha lại thuộc về h́nh pháp, mỗi ngày đều cầm tiền về. Bà vợ ngờ chồng ăn hối lộ trong khi thẩm tra, bèn sai đứa tớ gái đem mười cái móng gị lợn đem biếu. Đến khi chồng về, bèn nói: “Tôi sai người biếu ông mười ba cái”. Vương Tảo giận đứa tớ gái lấy trộm, bèn tra khảo nghiêm ngặt, đứa tớ gái bị ép uổng phải nhận tội. Bà vợ bèn nói: “Ông hằng ngày cầm tiền về, tôi ngờ ông giở mánh khóe gán ghép kết tội, cho nên dùng chuyện đứa tớ gái để thử ông. Hễ bị tra tấn th́ [nghi can] có chuyện ǵ mà chẳng thừa nhận! Xin ông từ nay đừng đem một đồng nào về nữa! Nhận vật bất nghĩa, sau khi chết, ắt phải chuốc lấy tội vạ”. Vương Tảo run sợ, tỉnh ngộ, mồ hôi ướt đẫm lưng, đề thơ rằng:

          Già khảo truy lai chỉ vị câm (kim),

          Chuyển tăng oán nghiệp kỷ hà thâm.

          Tùng kim bất nguyện cố đao bút,

          Phóng hạ quy lai du trúc lâm.

          (Khảo tra rốt cuộc v́ tiền,

          Tăng sâu bao nỗi oan khiên dường nào,

          Từ nay nguyện bỏ bút đao[36],

          Quay về rừng trúc tiêu dao tháng ngày).

          Ông liền chia hết của cải, bỏ nhà học đạo. Về sau, chứng đạo thành Bảo Ḥa Chân Nhân.

          Trương Nhất Tác làm sai dịch cho một vị h́nh quan ở kinh đô, [luôn] mưu mô để được lănh trát đi bắt người. Hắn thường cầm theo một cái xích sắt rất lớn. Hễ nhận được tiền thỏa ư, mới thả cho đi. Hễ có chút ǵ chẳng vừa ư, nếu chẳng lén tra khảo, th́ sẽ bịa chuyện bẩm báo quan trên: “Kẻ này tung tích quỷ dị, bí hiểm, hăy nên giam chặt”. Lại c̣n trên là cấu kết với bọn thư lại[37], dưới là cấu kết với bọn cấm binh[38], vu cáo, bịa đặt, đe dọa, dối trá, không chuyện ǵ chẳng làm. Ba năm hắn giàu sụ, ai nấy đều sợ. Cái danh hiệu Nhất Tác (一索, một sợi dây xiềng) do đó mà có. Hắn bị Khổng Tuần Án[39] bắt giữ, xử tử, tịch thâu tài sản giao cho quân đội, vợ và con gái bị giao cho giáo phường[40]. Nay những kẻ làm quan lại, sai dịch trong các nha môn đang mài răng hút máu [dân chúng] như Trương Nhất Tác rất đông. [Do vậy, đối với] kẻ chưa gia nhập [giới quan lại, sai dịch], xin khuyên hăy dốc sức cày bừa, buôn bán. Đối với kẻ đă gia nhập, xin khuyên hăy sửa ác theo lành. Đối với thân thích, bằng hữu, cũng đều nên khuyên họ lưu ư.

          Trương Ḥa Tư làm ngục quan (quan trông coi nhà tù, thẩm tra phá án), tham ăn hối lộ, tàn khốc. Mỗi khi hắn thẩm vấn, ắt dùng đủ mọi cách tra khảo, gông, cùm, xiềng, xích, [hành hạ tội nhân] khốn khổ, đau đớn tột bậc. Tù nhân trông thấy, ai mà chẳng vỡ mật. [Do vậy, hắn có biệt hiệu] là Sanh La Sát (La Sát sống). Hắn sanh ra con trai, con gái, đều đeo gông thịt, cùm thịt, rơi xuống đất chết tươi. Về sau, Ḥa Tư cũng do phạm tội mà bị tru lục.

          Lại có một gă lính canh ngục, tham lam, đối xử bạo ngược với tù nhân. Tù nhân chịu khổ chẳng thấu! Gă canh ngục ấy ắt phải nhận được tiền mới bớt hành hạ. Về sau, hắn sanh con, [đứa con] cũng đeo cái gông bằng thịt, chẳng đầy mấy năm, chết ngắc. Gă canh ngục ấy cũng bị phạt trượng mà chết.

          Trong những nỗi khổ của đời người, lao ngục là khổ sở nhất. Trong ấy, nỗi khổ v́ bẩn thỉu, hỗn tạp, dịch bệnh, kiết lỵ nặng nề nhất vào những tháng nóng. Tại kinh đô, mỗi năm các quan vâng chỉ tiến hành nhiệt thẩm[41], nhưng chưa có người thật sự thực hiện đúng. Nếu là bậc quân tử có ḷng nhân, xin hăy nhất quyết ấn định theo lệ, đối với những án chưa được giảm khinh, hăy giải quyết trọn vẹn một phen. Đối với những tù nhân phạm trọng tội đang bị xiềng xích, hăy chú trọng sai những nha lại thích đáng đến quét dọn nhà tù, rửa sạch gông cùm, ngơ hầu ḷng nhân hiếu sanh của thánh chúa được lan rộng. Trong tháng nóng, chẳng được lạm dụng [quyền hạn để] lấy khẩu cung, chẳng được tùy tiện câu lưu [nghi can], chớ nên không thường xuyên xem xét sổ bộ của nhà tù, tra xét số lượng tù nhân. Nghiêm cấm bọn nha lại, sai dịch không được lạm quyền gán tội cho người khác, phải chú trọng sao cho hầm lửa trước mắt hóa thành thế giới thanh lương. Chuyện này chỉ cốt sao kẻ đang nắm giữ quyền hành, do ư niệm dấy động thốt lời, nhấc bút, chỉ trong chốc lát [sẽ có thể giải quyết những tệ nạn tồn đọng] đó thôi!

          Than ôi! Những chuyện vừa nói trên đây, tệ nạn [đối xử] tàn khốc đối với dân chúng của bọn nha lại, sai dịch, không đâu chẳng có! Kẻ cai trị dân đang ngủ say mộng yên trong chốn nha môn cũng nên suy lường chuyện này! Lành thay, ông Châu Thắng đă nói: “Bọn thư lại tham lam, ta chẳng giao án từ cho họ. Bọn sai dịch tham lam, ta chẳng xằng bậy giao cho họ bắt bớ. Kẻ canh ngục tham lam, ta chẳng dễ dăi giao cho họ giam giữ tù nhân”.

 

          (Chánh văn) Dĩ trực vi khúc, dĩ khúc vi trực.

          (正文)以直為曲。以曲為直。

          (Chánh văn: Coi đúng là sai, coi sai là đúng).

         

          Hai bên kiện tụng lên quan, đúng hay sai chưa định, phán quyết sống hay chết do một lời của ta, há nên khinh suất? Nay đúng sai điên đảo, nếu chẳng phải là do được kẻ khác hối lộ, ắt là v́ xử sự theo t́nh cảm riêng tư. Nếu không, sẽ là v́ ơ hờ, lỗ măng! Hễ vướng vào thói ấy, há có đáng làm quan cai trị dân nữa chăng?

          Người họ Trương nọ làm quan ở đất Thục, xử sự tàn khốc ḥng thỏa ḷng tham. Hễ xử án cho dân, chẳng quản đúng sai, kẻ có thể đút lót, ắt hắn sẽ từ vô lư biến thành hữu lư. Kẻ chẳng thể hối lộ, dẫu đúng cũng thành sai! Dân chúng đều nghiến răng [căm hận]! Về sau, hắn bị băi quan, về quê, bị thưa kiện về tội hại mạng người. Con hắn chẳng ra ǵ, tài sản trong nhà mất sạch. Hắn mắc bệnh ngặt nghèo mà chết.

          Lưu An Dân là một huyện lại, giữ ḷng công bằng, được mọi người kính trọng. Hễ dân có chuyện kiện cáo, sẽ chẳng đến huyện ngay, mà ắt sẽ t́m đến ông trước để ông phán quyết đúng sai, vạch ra có nên thưa kiện hay không rồi mới làm theo. Ông ắt sẽ đảm nhận, tiếp nhận vụ án chẳng nề hà. Hễ đúng lư liền nói là đúng lư, đi thưa được. Hễ sai, sẽ phê rằng: “Chuyện này sai rồi! Có kiện cũng thua!” Do vậy, chuyện thưa kiện trong cả huyện giảm thiểu rất nhiều. Về sau, hai đứa con trai của ông đều đỗ đạt, cho đến nay vẫn là vọng tộc.

          Triệu Thời làm Giáo Thọ tại châu Vô Vi. Ông mộng thấy một tù nhân nói: “Tôi bất hạnh bị Tổ Tường làm hại”. Triệu Thời nói: “Tổ Tường thông hiểu pháp luật, lại liêm khiết, cẩn trọng, làm sao oan uổng ông cho được?” Tù nhân nói: “Tôi chết tuy chẳng do ư ông Tổ, nhưng v́ ông ta hoài nghi, cho nên đến nỗi chẳng thể phân biệt đúng sai, rốt cuộc luận định tội chết [cho tôi]. Nỗi oán hận chẳng bắt nguồn từ Tổ Tường th́ là ai đây? Tôi đă tố cáo dưới âm ty, Tổ Tường chẳng c̣n được bao lâu nữa đâu!” Hơn một tháng, quả nhiên [Tổ Tường] chết. Gần đây, chuyện thưa kiện vu khống người khác rất phổ biến, dẫu chẳng thể dùng đức cảm hóa, nhưng nếu luật lệ “kẻ vu cáo sẽ bị phạt tội nặng thêm ba cấp” được thực hiện nghiêm ngặt, ắt kiện tụng sẽ giảm bớt. Dẫu có kiện cáo, cũng sẽ chẳng đến nỗi phán quyết sai lầm quá nhiều! Sợ nhất là kẻ thuộc hạ đứng về phía nguyên cáo, tùy tiện sửa đổi nội dung thẩm vấn, ḥng dấy động thói kiện cáo, bọn họ chỉ sợ các vụ án sẽ được giải quyết dễ dàng!

 

          (Chánh văn) Nhập khinh vi trọng.

          (正文)入輕為重

          (Chánh văn: [Kẻ đáng phán] tội nhẹ mà phán định nặng hơn).

         

          Kinh Thư chép: “Tội nghi duy khinh” (Khi có nghi ngờ, th́ nên kết tội nhẹ). Lại nói: “Ninh thất xuất, vô thất nhập” (Thà tha tội sai, đừng kết tội sai). Vậy th́ cố ư ghép tội nhẹ thành tội nặng, tâm ư thận trọng trong h́nh pháp của thánh nhân há c̣n hay chăng? Mạng người quan trọng bằng trời, [đấy là chuyện] hàng quan lại đáng nên lưu ư nhất. Trong cơi đời, vu cáo là chuyện thảm khốc cùng cực. Kẻ dưới dùng chuyện này để chơi đểu [người bề trên], cho đến kẻ nô bộc lấn hiếp chủ nhân, tá điền ngoan cố quịt nợ chủ ruộng, thê thiếp khống chế chồng, [không kẻ nào chẳng dùng thủ đoạn này]. Hễ chẳng cẩn thận, làng nước, họ hàng sẽ thừa dịp nhúng tay, bọn tấn thân[42] do vậy sẽ mài răng, xâu xé gia sản, làm nhục phụ nữ, giam trói thi thể dẫu xác chết đă rữa nát[43], xúm nhau đánh đập tàn nhẫn để đ̣i hối lộ. Do đó, [những đối tượng dễ bị vu hăm nhất là][44] con v́ kích động mà giết chết mẹ, vợ v́ quá giận mà giết chồng. [Có kẻ] ỷ ḿnh có nhiều con trai để nương cậy, bèn giết trẻ nhỏ để làm bằng cớ vu cáo người khác, nhắm đến những nhà giàu có như miếng mồi thơm béo. Kẻ có học hoặc bậc thân sĩ tằng tịu với bọn nô tỳ, [đúng là bọn] ăn mày trong phường áo mũ[45], ngấm ngầm lập mưu tính kế, công khai giở tṛ, sáng giận, chiều vui[46]. Cho nên mới có chuyện ngược đăi thi thể, đốt xương, đạp cửa, phá nhà, kẻ nghèo cùng [chỉ đành] oán hận, khoanh tay đứng nh́n[47], hàng thân thích giàu có [cũng bị liên lụy] gặp phải tai ương, mắc tội. Đủ mọi lẽ chẳng dễ thuật trọn!

          Bậc trưởng quan trong cơi đời cứ riêng cho rằng hễ kiểm nghiệm thi thể và hiện trường vụ án, sẽ đủ để luận định kết án, ḥng được ca ngợi là [phá án] mau chóng. Nào có biết bọn “cá rỉa thịt nát, ḱnh ngư nuốt chửng, hổ xơi tái” đă đến mức cùng cực như thế ấy! Chẳng ngăn dứt thói tệ ấy, không chỉ là xô đẩy người khác tự sát, mà c̣n khiến cho cha, con, anh, em [do ôm ḷng] cầu lợi từ cái chết [của người thân, dẫn đến những hành vi bạo ngược] như phơi thây, hủy diệt luật pháp! Xét theo những t́nh tiết ấy, có khác ǵ chính tay đâm chết [nạn nhân, những kẻ gây tạo những hành vi bạo ngược ấy] thật sự đáng bị lăng tŕ xử tử! Nay đă khó thể nhất loạt gạt đi chẳng quan tâm tới, chỉ cần nghiêm ngặt phạt tội vu cáo nặng thêm ba bậc. Chẳng luận đến những trường hợp bị oan uổng tột bậc hay bị áp bức cùng cực, phàm là do thuốc mà chết, chẳng thể kết luận là chết v́ dùng thuốc, đối với kẻ treo cổ, hay tự gieo ḿnh xuống nước, chẳng thể kết luận người ấy chết v́ tự treo cổ hay tự trầm[48]. Phải thẩm vấn theo đúng luật, cốt sao trừng trị một người, sẽ khiến cho trăm người kiêng dè, yết bảng thông cáo: Người này bị thân nhân bức tử để mong ngụy tạo chứng cứ ḥng vu cáo [người khác để kiếm lợi]. Đă khám phá sự t́nh, sẽ càng phải nên xử phạt nghiêm trọng. Có kẻ thừa dịp rối ren để lường gạt, mạo nhận, ḥng ḱm kẹp, đánh đập người khác, [đối với những trường hợp như vậy], phải nghiêm ngặt chiếu theo pháp lệnh [để thẩm tra] th́ sự t́nh mới được sáng tỏ. Đă thấu hiểu sự t́nh, sau đấy mới có thể luận định đúng, sai, xét tội nặng, nhẹ, [làm như vậy th́ tội nhân hoặc nghi can] sẽ sống chẳng đau khổ, chết sẽ chẳng ôm hận, thân thích chẳng ôm ḷng kiếm lợi từ cái chết [của người nhà], phong tục sẽ chẳng có thói ác điên đảo thị phi, cướp đoạt tài vật. Âm đức ấy há có hạn lượng ư?

          Người thời nay hễ có chuyện liên quan đến án mạng, [quan lại, nha dịch điều tra vụ án] chẳng cần biết t́nh tiết là nặng hay nhẹ, [chẳng chú trọng] xem xét sự việc là thật hay giả, [đă đánh đập] bằng roi cật tre chưa đủ, [lại c̣n] chuyển sang kẹp ngón tay, lại chuyển sang dùng côn kép[49], thậm chí c̣n có trường hợp đánh hơn trăm gậy! Dưới sự thống khổ ấy, muốn cho tội nhân khai ǵ mà chẳng được! Sau đấy, liền kết án thành tội tử h́nh. Lúc đó mới cho tội nhân được thong thả chốc lát. Những người có ḷng nhân trong cơi đời có thể động ḷng thương xót đối với chuyện này hay chăng?

          Ông Châu Nhật Thăng nói: - Cái thói ngụy tạo những vụ án liên quan đến nhân mạng để vu cáo [người khác ḥng kiếm lợi] hết sức sâu đậm ở phương Nam. Lúc tôi làm huyện lệnh ở Ô Tŕnh, đă đau đáu trừng phạt [để ngăn dứt] thói tệ này. Ngoài ra c̣n ban hành mẫu đơn thưa tŕnh án mạng, [trong đó] viết thẳng thừng ngày, giờ, lời khai, chẳng cho phép sử dụng những từ ngữ thêm thắt, điêu ngoa. Về sau, tờ cáo trạng được in thành hai mặt, lại chia thành bên trái và bên phải. Tờ đơn ghi những chỗ thương tích nơi tử thi do người đâm đơn tố cáo tự điền vào đó, [khi nha môn nghe] tiếng trống báo án, sẽ cho phép người ấy vào nạp đơn. Chẳng câu nệ thời khắc, [hễ nghe báo án], tôi tức khắc đích thân tới chỗ có thi thể, chiếu theo lời cung khai [trong đơn báo án] để thẩm vấn, chiếu theo h́nh vẽ [những chỗ thương tích do người đâm đơn vẽ ra] để kiểm nghiệm sơ qua, trọn chẳng giao phó thuộc hạ [khám nghiệm] cậy ngỗ tác[50] [kiểm nghiệm thi thể]. Nếu quả thật là do thương tích [mà chết], bèn theo đúng luật định tội. Nếu là vu cáo, dối gạt, sẽ quở phạt nghiêm ngặt. C̣n như những trường hợp tự thắt cổ, gieo ḿnh xuống nước, sảy chân ngă chết v.v… bèn chiếu theo t́nh huống của mỗi trường hợp mà phân định, sẽ phê công văn cho chôn ngay để dứt trừ nỗi khổ v́ có kẻ mưu toan cướp đoạt, dối trá, cố t́nh kéo dài. Dẫu gặp lúc nắng gắt hay rét buốt, góc núi xa xôi, hay nơi đọng nước, cũng chẳng ngần ngại, chậm trễ chút nào! V́ thế, trong ṿng hai năm, trọn chẳng có chuyện dùng án mạng để cáo giác kẻ khác. Ôi! Chuyện mạng người liên quan đến sanh tử, há chẳng nên cẩn thận ư?

          Lư Nhược Thủy làm Tư Lư[51] ở Hoài Nam. Khi ấy, có năm tên giặc cướp, do sự t́nh bại lộ bị tống giam. Chúng lại khai đă từng kết bè đảng với một nhà sư. Khi năm gă ấy bị hành h́nh, vị Sư mới xuất hiện thưa: “Tôi thật sự chưa từng trộm cướp”. Đối với chuyện này, Lư Nhược Thủy có thể bỏ qua, nhưng ông ta chấp chặt lời bọn cướp là thật, bèn thảm sát nhà sư. Hơn một tháng sau, gă lính canh ngục tên là Lư Năng vô cớ kêu ầm lên: “Ḥa thượng ơi! Tôi chẳng liên can đến chuyện này, chỉ v́ quan Tư Lư sai khiến tôi mà thôi!” Nói xong, chết ngắc. Hôm sau, viên Thôi Tư[52] là Lưu Nguyên cũng chết. Hôm sau nữa, Nhược Thủy chết bất ngờ. Cả một nha môn chết gần hết!

          Đời Tống, ông Triệu Thanh Hiến[53] làm Tiết Độ Thôi Quan[54] ở huyện Vũ An. Dân chúng có kẻ ngụy tạo ấn tín [của quan chức], bọn nha lại đều nói: “Đáng tội chết!” Chỉ riêng ông là nói: “Tạo ấn trước khi có lệnh đại xá, sau khi đại xá mới dùng. Trước khi đại xá chẳng dùng, sau khi đại xá chẳng tạo. Xét theo pháp luật, đều chẳng đáng chết”. Ông bèn coi đó là tội t́nh nghi, tha cho. Cho đến khi ông làm tri phủ Thành Đô, có gă Lư Hiếu Trung tụ tập hơn hai trăm người, tạo riêng phù điệp[55] để độ người khác làm tăng. Có kẻ cáo giác hắn âm mưu phản nghịch, bọn họ đều bị bắt giam. Ông không nghe lời bọn pháp lại (, nha lại trông coi về h́nh pháp) đề nghị [phán án tử h́nh toàn thể bọn họ], chỉ xử Hiếu Trung về tội lén tạo phù điệp, những kẻ khác đều được miễn tội chết. Chuyện bị đồn thổi ầm ĩ đến kinh thành, đồn ông tha cho lũ phản nghịch. Triều đ́nh tái xét hồ sơ vụ án, rốt cuộc [cũng phán quyết] chẳng khác ông. Về sau, ông được phong làm Thái Tử Thiếu Bảo rồi hồi hưu. Con ông là Hoàn và Ngột đều quư hiển. Mạo Khởi Tông nói: “[Bọn nha lại cố ư kết tội] chẳng luận theo chuyện trước khi đại xá, mà dùng chuyện sau khi đại xá, chính là gán tội nhẹ thành tội nặng”. Ân Văn Trang đă nói hay lắm thay: “Vua đă xuống chiếu tha cho người có tội, thế mà [bọn nha lại] vẫn phán quyết theo lệ cũ. Vua xuống chiếu xóa tội thiếu thuế, mà [bọn nha dịch] vẫn thúc giục thuế má cấp bách. Ân đức [của hoàng đế] bị ngăn lấp, dân chúng không cách nào được hưởng ân trạch nhân từ. Đấy chính là điều khiến cho những vị chánh nhân quân tử đau ḷng, nghiến răng vậy”.

          Đời Hậu Hán, Quách Hoằng học tập tinh thông bộ luật của Tiểu Đỗ[56]. Thái Thú Khấu Tuân cử Quách Hoằng giữ chức Quyết Tào Duyện[57]. Ông xử án suốt ba mươi năm, vận dụng pháp luật công bằng, khoan dung. Dân chúng chẳng hề oán thán. Họ sánh ví ông giống như ông Vu ở Đông Hải[58]. Ông mất lúc chín mươi lăm tuổi. Con ông là Cung, nối nghiệp cha từ trẻ, về sau được phong làm Đ́nh Úy[59]. Gia tộc Quách Cung nhiều đời nắm giữ pháp luật, chú trọng khoan dung, công bằng. Khi ông làm quan phán xử, hễ phán án phần nhiều là thương xót, khoan dung. Ông lại thấy trong pháp luật đương thời có những điều khoản quá nặng, có thể giảm nhẹ, bèn tấu tŕnh bốn mươi mốt điều luật [đáng nên sửa đổi], đều được [vua chấp thuận, cho phép] thi hành, trở thành pháp lệnh. Những đề nghị sửa đổi về luật lệ do Quách Cung tấu tŕnh đă cứu sống nhiều người. Mấy đời sau đều nối nghiệp theo ngành tư pháp, quư hiển, hưng thịnh khôn sánh.

          Bài Tỉnh H́nh Châm (省刑, châm ngôn về giảm thiểu tra tấn) viết: - Đừng mặc sức ra oai, ḥng thỏa thích ḷng riêng, chớ vận dụng phép nước thỏa ḷng ta mừng, giận. Chớ thuận theo t́nh riêng mà vặn vẹo luật pháp, coi sanh mạng dân chúng hệt như lũ ruồi bọ. Đừng v́ kẻ phạm nhân giận dữ trừng mắt nh́n, cứng cổ không chịu phục, nói năng chậm chạp, hoặc lắp bắp, bèn cố ư gài bẫy, trí trá gán tội họ. Đầu ngọn trượng giáng xuống, người sống biến thành ma. Dưới ng̣i bút phán quan, phạm nhân đành chết ngóp. Bứt sợi tóc biết đau, cắn ngón tay biết xót. Một ngày bị đánh đấm, ba mùa nghỉ cuốc cày. Một chồng bị tống ngục, nhà tám mạng đói rách. Động vật hay thực vật, thảy đều là sanh mạng, huyết nhục thảy rền trời. V́ thế, Vu Đông Hải, tiếng nhân ức vạn năm!

          Bài Tỉnh Phạt Châm (省罰, châm ngôn khuyên giảm thiểu h́nh phạt): - Đừng dùng tiền bán con gán vợ của dân để nuôi béo vợ con ta! Đừng phạt dân tan nhà phá sản để tăng thêm ruộng nương, nhà cửa cho ta. Đừng cướp đoạt tài vật khiến dân oán thán, gào khóc v́ đói lạnh, dập đầu than trời để cung ứng cho tiệc tùng ca múa, cười cợt. Để chuộc tội, dân phải tốn món tiền bằng khoản thuế cho trăm mẫu ruộng. Để nạp một tờ đơn, phải húp cháo mười ngày! Một hạt gạo đổi bằng máu của nông phu, bao nỗi gió sương chua xót, khổ sở. Một đoạn the là nước mắt của người phụ nữ dệt cửi, biết bao đêm quên ăn, bỏ ngủ! Kể từ ngày quan phủ tích chứa máu mỡ của dân, chính là lúc bắt đầu nỗi oán ghét của dân nghèo. Chẳng giấu diếm thần minh nổi đâu, đạo trời sẽ báo đền nhanh chóng! Do vậy, Dương Bạch Khởi[60], muôn năm tiếng thơm truyền.

 

          (Chánh văn) Kiến sát gia nộ.

          (正文)見殺加怒。

          (Chánh văn: Thấy [người khác mắc tội] đă bị giết chết mà vẫn c̣n giận dữ).

 

          Tăng Tử nói: “Như đắc kỳ t́nh, tắc ai căng nhi vật hỷ” (Nếu thấu hiểu sự t́nh, ắt sẽ buồn bă, xót thương, chẳng vui). Đấy là nói đối với kẻ có tội, khi kẻ ấy bị hành h́nh, vẫn nên tha thứ cho những chuyện kẻ ấy đă trót phạm, chớ nên tùy tiện tăng thêm h́nh phạt. Huống hồ kẻ đă chết, sẽ chẳng thể sống lại. Tuy tội lỗi do kẻ ấy tự chuốc lấy, nhưng mục kích [kẻ ấy bị hành h́nh], tâm sẽ đau đớn; do vậy, bưng mặt gạt lệ c̣n không xuể, tăng thêm ḷng giận dữ để làm ǵ? [Kẻ giận dữ] tấm ḷng tàn nhẫn cùng cực! C̣n như đối với lục súc[61], chim, cá bị người khác giết mổ, hăy càng thêm thương xót chúng chẳng có tội t́nh ǵ, bèn t́m phương tiện cứu giúp, che chở. Nếu trông thấy mà càng thêm tức giận, ắt là kẻ tàn ác, bạo ngược, ham giết chóc mà thôi.

          Đời Tống, Lô Đa Tốn[62] bị đày đi Châu Nhai. Gián Nghị Đại Phu Lư Phù vào gặp Triệu Phổ thưa: “Châu Nhai tuy ở ngoài biển, nhưng thủy thổ không ác hiểm cho lắm, những kẻ bị lưu đày tới đó, phần nhiều vẫn sống sót. Xuân Châu tuy ở trong đất liền, kẻ đến đó ắt phải chết. Mong Ngài hăy sửa lại lệnh trước, bề ngoài là ra vẻ khoan dung, nhưng thật ra là đẩy hắn vào tử địa”. Triệu Phổ gật đầu. Hơn một tháng sau, [Lư Phù] do phạm tội, bị biếm trích tới Xuân Châu. Hắn mới tới nơi bèn chết.

          Dương Đạo Sanh làm Tham Quân[63] cho Thiệu Lăng Vương (Tiêu Luân), có người anh tên là Hải Trân làm thứ sử tại Trá Châu. Ông xin nghỉ phép về thăm anh. Khi chia tay, [người nhà] mở tiệc tiễn hành. Ông thấy một người bị trói ở gốc cây, khóc lóc, van xin Đạo Sanh: “Thứ sử Trá Châu muốn giết tôi, xin Ngài hăy giải cứu”. Đạo Sanh hỏi: “Ngươi phạm tội ǵ?” Thưa: “Xúi giục người khác bỏ trốn, làm loạn”. Đạo Sanh giận dữ, quát: “Chuyện ấy đáng căm phẫn nhất”. Liền lấy đao giắt nơi thắt lưng khoét tṛng mắt người ấy, nuốt chửng. Trong chốc lát, anh ông ta tới, dặn thuộc hạ xử trảm [phạm nhân ấy]. Đạo Sanh bèn cảm thấy con ngươi [của gă tử tội đó] mắc nghẹn [ở cổ họng], chẳng nuốt xuống được, dần dần nó ph́nh lên, gây tắc nghẽn. Trên đường đi, ông ta không ăn uống ǵ được bèn chết ngắc.

          Thời Xuân Thu, Cao Tử Cao[64] là người nước Vệ, [khi phải] chặt chân tù nhân, lúc sắp hành h́nh, bèn buồn bă. Về sau, gặp nạn Khoái Hội[65], Tử Cao phải chạy trốn. Lúc đó, người bị chặt chân đang canh giữ cửa thành, bảo: “Ở chỗ kia có chỗ [tường thành] bị khuyết”. Tử Cao nói: “Quân tử chẳng trèo tường”. Người đó lại nói: “Ở chỗ kia có lỗ hổng”. Ông đáp: “Quân tử chẳng chui qua lỗ hổng”. Lại nói: “Ở chỗ kia có một gian nhà”. Tử Cao bèn nấp vào đó, những kẻ đuổi theo [chẳng t́m thấy bèn] bỏ đi. Tử Cao nói: “Ta đích thân chặt chân ngươi, ngươi lại ba lần giúp ta bỏ trốn là v́ lẽ nào?” Người bị chặt chân đáp: “Bị chặt chân cố nhiên là v́ tội của tôi. Nhưng khi Ngài sắp hành h́nh bèn ủ dột, chẳng phải là Ngài có ḷng cảm thông cho tôi hay sao? Ngài trời sanh là bậc quân tử, cố nhiên sẽ hành động như thế. V́ vậy, tôi cứu Ngài”.

          Trương Khánh là một nha lại coi ngục, luôn vâng giữ ḷng thương xót, thận trọng. Đối với các đồ dùng trong nhà tù đều rửa sạch. Tháng nóng, ông càng siêng năng quét dọn. Thường răn dạy mọi người: “Người ta phạm pháp, há chẳng phải là chuyện bất đắc dĩ ư? Thức ăn, đồ trải đắp, ắt giữ cho sạch sẽ”. Ông luôn thờ Phật, mỗi khi có tù nhân bị tử h́nh, ắt sẽ v́ kẻ ấy ăn chay, kiền thành tụng kinh, niệm Phật, nguyện cho người ấy được thoát khổ siêu sanh. Ngoài ra, ông c̣n có rất nhiều âm công, thọ tám mươi ba tuổi, không bệnh mà mất. Con cháu đều thành quan lại quư hiển!

          Đời Minh, Lưu Tích Nguyên từng mộng thấy một người bái lạy, thưa: “Tôi là Tào Hàn làm tướng đời Tống. Xưa kia, làm một gă nha lại nho nhỏ đời Đường; do nghe pháp sư giảng kinh bèn cảm ngộ, cúng dường trai tăng một bữa. Từ đó, cảm được báo ứng, đời đời luôn làm quan, dần dần tích tập nhân lành. Tới đời Tống, làm Phó Tướng, do tàn sát dân chúng trong thành, giết hại bừa băi, đời đời làm lợn để đền tội giết chóc. Năm trước, có người tá điền đă đem tôi nạp cho Ngài để bù vào số địa tô bị thiếu, mong Ngài thương xót cho tôi được sống. Nay lại phải đền bồi quả báo ở nơi đây, đặc biệt đến cầu cứu nơi Ngài”. Ông Lưu hỏi: “Dùng cách ǵ để có thể cứu được?” Thưa: “Mỗi khi bị mổ xẻ, sẽ đau khổ không chịu đựng nổi. Chỉ có nghe tiếng niệm Phật th́ mới giải trừ nỗi khổ ấy. Mong Ngài trong lúc thấy tôi bị giết mổ, hoặc trong lúc chặt xẻ, nấu nướng, hăy phát ḷng đại bi, chỉ niệm A Di Đà Phật, hoặc tŕ chú Đại Bi, hay chú Chuẩn Đề, không chỉ là giải trừ nỗi khổ cho tôi, mà tôi c̣n được lợi ích siêu thoát”. Nói xong, buồn bă từ tạ ra đi.

          Lại nữa, Tŕnh Lân bị chết bất th́nh ĺnh. Do cơi âm bắt lầm, nên lại được thả về. Diêm Vương bảo: “Ngươi trở về dương gian, hăy nỗ lực làm lành. Thấy kẻ khác sát sanh, chỉ niệm nam-mô A Di Đà Phật, và Quán Thế Âm Bồ Tát, những con vật ấy đă được thọ sanh, mà ngươi cũng được phước”. Bèn biết là niệm Phật có thể siêu độ người chết, hiện đời có thể tăng phước thọ; sau này, ắt sanh về Tây Phương. Có kẻ nói: “Chỉ niệm danh hiệu Phật, cớ sao ta lẫn người đều được lợi?” Đáp: “Chúng sanh mê muội bản tánh, chẳng có thuở giác ngộ, vừa nghe danh hiệu Phật, như đang mê chợt tỉnh. Huống hồ kẻ kia v́ ḷng tàn nhẫn mà sát sanh, mà ta do từ bi bèn niệm Phật, tức là con đường để xả ác theo thiện ở ngay tại đấy. V́ thế, thấy giết chóc bèn niệm Phật, công đức vô lượng.

          Đời Minh, Hám Sơn đại sư nói: “Tôi trong lúc thường nhật, hễ nghe thấy tiếng giết chóc, bất giác đau ḷng liền niệm Phật và chú Văng Sanh, tự nhủ là trọn hết tấm ḷng này mà thôi!”

          Nay xem những chuyện ấy, bèn biết là những kẻ chịu khổ đó, [do nghe tiếng niệm Phật hay tŕ chú], sẽ thật sự được lợi lạc. Từ đó mà suy, hễ thấy giết chóc, hoặc nghe tiếng giết chóc, hoặc thấy những con vật bị mổ, xẻ, chém, chặt, đun, nấu, ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu, đều phát ra cái tâm này, mắt trông thấy bèn dấy ḷng từ bi, ngay lập tức nghĩ tưởng dẹp khổ. Nếu hết thảy người đời có thể phát khởi từ tâm tam-muội như thế, sẽ toàn là chuyện độ sanh của Bồ Tát, công đức ấy há có thể nghĩ bàn được ư?

          H́nh ngục là đại sự của đất nước, liên quan đến sự sống chết của dân chúng. V́ thế, đức Thái Thượng ban lời giáo huấn, trước hết là nghiêm cấm hối lộ. C̣n như chuyện [cân nhắc] đúng, sai, nặng, nhẹ, Ngài lại càng chú trọng nhắc nhở những kẻ đang giữ quyền tra vấn, hành h́nh, v́ đang nắm quyền lực, sẽ dễ tạo phương tiện. Nhưng mỗi người thấy nghe hữu hạn, kẻ làm nha dịch, thư lại có thể trừ khử thói quen xấu ác, nhờ vào chức vị để hành thiện, cứu người trong cơn hoạn nạn, sẽ tạo công đức vô lượng vô biên. Phàm thiện ác phân chia đôi đường, chỉ trong một niệm. Nương theo gió để xoay cánh buồm, càng dễ ra sức. Kẻ khác nói “đừng vào chốn công môn”, ta nói “công môn dễ tu hành”. Cổ nhân dạy như thế, há lừa dối ta ư? C̣n như giết người, giết vật, người khác giết, ta giết, đều là giết hại! Dẫu chẳng thể trông thấy con vật bèn cứu sống, chẳng lẽ dốc ḷng kiền thành niệm Phật cũng sẽ tốn phí tài lực [đến nỗi] chẳng thể làm ư? Hăy suy nghĩ nhé!

 

          (Chánh văn) Kiến quá bất cải, tri thiện bất vi.

          (正文)知過不改。知善不為

          (Chánh văn: Thấy lỗi mà chẳng sửa, biết điều lành mà chẳng làm).

 

          Văn Thù Bồ Tát bạch Phật: - Tuổi thiếu niên tạo nên oan nghiệt, về già tu hành, có được thành Phật hay không? Đức Phật dạy: Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ!

          Thiền sư Viên Ngộ nói: “Ai mà chẳng có lỗi? Có lỗi mà có thể sửa, không ǵ tốt đẹp bằng!” Chỉ bậc quân tử là có thể sửa lỗi, hướng lành, cho nên đức mỗi ngày một mới. Kẻ tiểu nhân giấu ác, che lỗi; v́ thế, điều ác đầy dẫy. Tiểu nhân có điều ác th́ cũng giấu diếm. V́ thế, đức Thái Thượng ra rả răn dạy. Ông Hà Long Đồ nói:

          - Có lỗi nơi miệng, có lỗi nơi thân, có lỗi nơi tâm. Kẻ khéo sửa đổi điều ác, chỉ nên linh mẫn, tỉnh táo, tận lực trừ khử thói chấp trước, keo kiệt, nghiên cứu, xem xét đến tận chỗ vi tế để trừ khử, sửa đổi [tập khí xấu ác] đến cùng. Tu sửa chuyên ṛng chẳng ngơi, ắt sẽ chuyển tà vạy thành chân thành. Thánh học (Nho học), Phật học, huyền học (Đạo học), hễ nói đến chỗ uyên áo, vi tế, đều chẳng dễ ǵ diễn tả được, nhưng đối với cách thực hiện căn bản nhất th́ xuyên suốt khắp cả ba giáo chỉ là sửa lỗi đó thôi!

          Đời Tống, Tư Mă Ôn Công lúc năm tuổi, lột vỏ quả hồ đào chẳng được. Đứa tớ gái [đem quả hồ đào] ngâm qua nước nóng bèn lột được. Chị ông ta từ bên ngoài bước vào hỏi han, ông nói: “Tự em lột được”. Cha liền quở: “Thằng nhóc này sao lại nói láo?” Ông kinh sợ, hối hận, suốt đời chẳng dám nói dối.

          Đời Tống, ông Tiết Hiếu Từ Tích[66], lúc mới đến gặp tiên sinh An Định[67], đầu cổ hơi ngoẹo, An Định lớn tiếng răn: “Đầu phải thẳng”. Ông liền tỉnh ngộ, thưa: “Đầu mà c̣n phải thẳng, há đâu tâm chẳng thẳng?” Từ ấy, cái tâm chưa hề cong vạy chút nào. Nếu có kẻ hỏi về yếu quyết để lập thân xử sự, ông ắt viết hai chữ Chánh Trực to đùng trao cho!

          Đời Tống, Tăng Tử Cố[68] chơi thân với Vương Kinh Công[69]. Tống Thần Tông hỏi Tử Cố về văn tài, phẩm hạnh, bản lănh của Vương An Thạch [như thế nào]? Tử Cố tâu: “Văn tài, phẩm hạnh, tài năng của An Thạch chẳng kém Dương Hùng [đời Hán], nhưng do keo kiệt nên chẳng bằng”. Vua nói: “An Thạch coi rẻ phú quư, sao lại nói hắn keo kiệt?” Tử Cố thưa: “Thần nói là ‘keo kiệt’ là v́ An Thạch tài năng có thừa, nhưng ít chịu sửa lỗi”. Tống Thần Tông gật đầu. An Thạch có đủ tài năng làm Tể Tướng, rốt cuộc do không chịu sửa lỗi, đến nỗi gây họa cho tông miếu, xă tắc, bị muôn đời thóa mạ, huống hồ người đời nay ương bướng, bất tài, hằng ngày luôn sái quấy, mà chẳng biết sửa đổi ư?

          Do gom từ cái nhỏ mà thành cái lớn, do tích tập từ một mà thành ức. V́ thế, quư ở chỗ tích lũy. Hễ biết bèn làm, hễ làm bèn dốc sức. Lăo Tử nói: “Cái đài chín tầng khởi đầu từ dồn chứa đất. Đi ngàn dặm, bắt đầu từ một bước”. Người nếu mỗi ngày sửa một lỗi, ắt sẽ tiêu một tội nghiệp. Mỗi ngày làm một việc thiện, ắt sẽ tăng trưởng một nền phước.

          Tử Hư Nguyên Quân[70] nói: - Đạo từ an tĩnh mà sanh, đức sanh từ khiêm tốn, nhường nhịn, phước sanh từ thanh liêm, tiết kiệm, mạng sanh từ ḥa thuận, thông suốt. Họa hoạn sanh từ lắm ham muốn, lỗi sanh từ sự khinh mạn. Hăy kiềm giữ mắt, đừng thấy kẻ khác sai trái. Kiềm giữ miệng, đừng bàn khuyết điểm của kẻ khác. Kiềm giữ tâm, đừng mặc sức tham, sân. Kiềm giữ thân, đừng theo bạn ác! Tánh mạng như ngọn đuốc trước gió, luôn nghĩ đến thân đời sau. Thân thể tạm gởi trong ṿng trời đất, đừng ở trong nghiệp lại tạo thêm nghiệp. V́ thế, thiện và ác đều ở trong cái tâm của chính ḿnh, sáng ngời chẳng mảy may tăm tối! Dẫu người có thể mưu mẹo xảo trá, trời càng khéo báo ứng hơn!

          Do vậy, thấy rằng: Nếu ai trong một ngày mà được nghe một lời lành, thấy một hạnh lành, làm một việc lành, ngày ấy mới chẳng luống uổng! Nếu kẻ nào biết điều thiện mà chẳng làm, không biết ruột gan người ấy như thế nào? Tự cam ḷng ruồng rẫy chính ḿnh, phung phí tháng ngày, tự dứt tuyệt [sự che chở của] cơi trời, cũng là kẻ ngu muội lắm thay!

          Trong bài Phổ Thuyết của thiền sư Thiên Như Duy Tắc đời Nguyên có đoạn như sau:

          - Cổ nhân dạy: “Ta thấy người khác chết, ḷng ta nóng như lửa. Chẳng phải nóng ai khác, hăy xem đến phiên ta”. Những lời giống như vậy, có ai mà chẳng biết! Biết th́ dĩ nhiên là biết, chỉ là không chịu tu hành. Nói quư vị không chịu tu hành, cũng là oan uổng cho quư vị lắm! Các vị đại đức trong hiện tiền, phần nhiều là hạ thủ công phu đến cùng, chỉ là chưa đạt đến chỗ ngàn phần trọn vẹn, trăm phần thỏa đáng, lỗi ở chỗ nào? Lỗi ở chỗ không dũng mănh, không tinh tấn, không kiên cố, không lâu dài. Tạm thời phát quyết tâm, chẳng bao lâu lại lui sụt. V́ thế nói: “Phật pháp vô đa tử, trường viễn nan đắc nhân” (Phật pháp ít có kẻ khai ngộ, người có chí dài lâu khó có lắm). Học đạo mà [giữ măi cái tâm giống] như thuở đầu, sẽ thành Phật có thừa! Từ đầu đến cuối bất biến, thật sự là đại trượng phu, nay có được mấy người? Từ đầu đến cuối bất biến, thường là mười người th́ có năm người biến đổi, toàn là đạo tâm lui sụt. Xét đoán nhân duyên khiến cho đạo tâm lui sụt, cũng là v́ ai nấy đều có những điều phiền lụy riêng mà thành ra như vậy. Những điều phiền lụy riêng là ǵ? Có ba loại phiền lụy. Thứ nhất là bất luận tăng, tục, nam, nữ, ai nấy đều bị thân miệng liên lụy. Kế đến là kẻ có quyến thuộc, sẽ bị quyến thuộc phiền lụy. Kẻ có gia sản, sẽ bị gia sản phiền lụy. Ba thứ phiền lụy ấy đă liên lụy chết người trong thiên hạ. Trọn hết người trong thiên hạ do gặp phải ba thứ phiền lụy ấy bận bịu suốt một đời, ầm ĩ suốt một đời, khổ sở suốt một đời, bợ đỡ suốt một đời, luống uổng suốt một đời. Huống hồ lại v́ ba thứ phiền lụy ấy, dấy lên vô lượng tham, sân, si, tạo ra vô lượng ác nghiệp lớn nhỏ. Do nghiệp báo ấy, đọa lạc trong biển khổ tam đồ bát nạn, sanh tử luân hồi, chịu vô lượng khổ năo, chẳng được giải thoát. Tuy gặp phải vô lượng khổ năo, chỉ là từ đầu đến cuối chẳng tỉnh. Kẻ chẳng tỉnh ấy là v́ có những điều chẳng ngộ!

          Chẳng ngộ những ǵ vậy? Chẳng ngộ thân thể, quyến thuộc, gia sản đều chẳng phải của quư vị! Nếu nay nói với quư vị “thân thể chẳng phải là của quư vị”, quư vị c̣n chưa tin! Sơn tăng tận t́nh v́ các vị nói huỵch toẹt từ đầu. Thuở ban sơ, quư vị c̣n ở trong bụng mẹ, lúc đầu thai chỉ là một thần thức trơ trọi, chưa hề có thân thể. Thân thể ấy do xích bạch của cha mẹ ḥa hợp, kết thành một khối thịt trơ trơ, vốn chẳng có tri giác, chẳng biết đau, chẳng biết ngứa, chẳng biết lạnh, chẳng biết nóng, chẳng biết đói, chẳng biết no, chẳng biết khổ, chẳng biết sướng. Do thần thức của quư vị chấp vào một khối thịt trơ trơ ấy, từ đấy trở đi, biết đau, ngứa, biết lạnh, nóng, biết đói, no, biết khổ, sướng. Cho đến khi ra khỏi thai mẹ, một mực thừa nhận, gọi đó là thân ta. Nếu bảo “thân chẳng phải là của ta”, chắc chắn [quư vị] sẽ không chịu tin. Do vậy, Phật, Tổ xót thương, lại rát miệng bảo ban quư vị: “Đấy chẳng phải là thân của quư vị. Đấy là cái đăy da thối do tinh huyết kết thành, chẳng do quư vị cai quản, chẳng do quư vị xếp đặt. Cho đến lăo, bệnh, tử, đều chẳng do quư vị quyết đoán!”

          V́ sao biết là như vậy? Lại như thuở ban đầu, sau khi quư vị đă đầu thai, ở trong thai mẹ, cứ bảy ngày bèn biến đổi một lần. Lần lượt sanh trưởng, tức là ngũ tạng, lục phủ, bách hài (trăm lóng xương), chín lỗ, tứ chi, sáu căn, gân, xương, da, thịt, dần dần thành h́nh, cho đến khi được đẻ ra, đều là gió nóng thổi đến, do nghiệp lực sai khiến. Quư vị bất tri bất giác, chưa hề có điều ǵ do quư vị sắp đặt. Sau khi đă được sanh ra, trưởng dưỡng tới ba, bốn mươi tuổi bèn tóc bạc, răng lung lay, mặt vàng, bắp thịt teo tóp, dần dần biến đổi, dần dần già đi. Tướng già hiện hữu, từ đấy sanh bệnh. Bệnh đă đến, cái chết sẽ đến. Sự biến hoại như thế đó, mỗi mỗi đều chẳng do quư vị! Quư vị vốn chẳng mong như thế, hiềm rằng quản nó chẳng được! Xét ra, quư vị từ thuở sanh ra cho đến chết, đối với cái đăy da thối này, đă trút vào bao nhiêu ân ái t́nh nghĩa, đủ mọi thứ chăm chút nó, đủ mọi cách bảo vệ, trân quư, đủ mọi cách điều trị, an bài, [thế mà] nó vong ân phụ nghĩa. Như thế đă là đáng bị người khác ghét, huống hồ c̣n có chỗ khiến cho người ta càng ghét hơn!

          Ví như trong tháng mùa Hè nóng bức, có một chàng trai tráng kiện, bỗng vào lúc hoàng hôn bị bệnh nguy cấp, chết ngóp. Chết đến lúc canh hai nửa đêm, [người khác] sẽ cảm thấy thối bẩn không ai chịu nổi, chẳng thể đến gần được. Vội vă dùng quan tài đựng lấy, đậy chặt nắp ḥm, đợi chưa đến lúc chuông khua báo sáng, đă vội vă khiêng đi thiêu. Dẫu là quyến thuộc thân ái nhất, cũng chẳng chịu ngăn giữ lại. Cứ nh́n vào đó, buổi tối hôm qua, vẫn c̣n là một người đàn ông khỏe mạnh, sáng nay thức dậy, đă là một vốc tro cốt! Biết thần thức của người ấy sẽ lại đến nơi đâu? Biến đổi cấp tốc như thế, hoàn toàn chẳng do quư vị! Đă là thân thể của quư vị, lẽ ra phải do quư vị cai quản. Đă chẳng do quư vị cai quản, sao lại lầm lạc ngỡ nó là tấm thân của quư vị? Uổng công bị nó phiền lụy, lui sụt đạo tâm. Quyến thuộc của quư vị cũng thế, đây kia đều là những cái đăy da thối tha. Đây kia chẳng tự do, chẳng quản lẫn nhau được! Vô thường ập đến, đôi bên chẳng thể thay thế cho nhau. Trước mắt là suốt cả một đời, đôi bên bị những mối ân t́nh quấn trói, gọi nhau là quyến thuộc. Sau khi đă nhắm mắt, đôi bên chẳng biết nhau! Cớ sao lầm lạc ngỡ họ là quyến thuộc, bị họ phiền lụy, lui sụt đạo tâm? Gia sản của quư vị cũng thế. Lúc mắt sáng, chân mạnh bèn so sánh, tính toán, lo toan, keo kiệt, canh giữ, cứ ngỡ là trăm ngàn vạn năm luôn hưởng thụ nó. Ai biết một hơi chẳng hít vào được, một xu cũng chẳng thể mang theo! Cớ sao lầm lạc ngỡ nó là gia sản của quư vị, bị nó phiền lụy, lui sụt đạo tâm?

          Nay mọi người ơi! Đă nghe lời này, hăy nên hồi quang soi thấu, thống thiết tự tỉnh ngộ. Đối với ba thứ phiền lụy ấy, đừng nên lầm nhận, đừng lưu luyến, đừng tham đắm, hăy xuôi theo phần phước [do nghiệp báo] đă định phân, tùy thuận cho qua ngày. Hăy nên xoay chuyển ư niệm, hướng về sự sanh tử, để phấn chấn, dũng mănh, tinh tấn, kiên cố, lâu dài, thấu hiểu rành rẽ, ắt bậc thượng tọa sẽ tự thẹn bất tài, đă trót lảm nhảm, huyên thiên, thốt ra khá nhiều lời nông cạn, thô lậu, dung tục, hủ bại, chuốc lấy tiếng cười của bậc thông hiểu. Tuy vậy, nếu là bậc thông hiểu, sẽ chẳng thấy đáng cười, một khúc nhạc đồng quê, buồn vui ai nấy tự nghe!

          Đời Đường, Tô Thành tánh ương ngạnh, hèn kém, suốt đời chẳng làm một điều thiện nào! Hễ thấy trong sách vở có chép một lời tốt lành, hay một hạnh cao đẹp, ắt cho là nói tô vẽ. Thấy kẻ khác siêng tu thiện sự, ắt cười nhạo là phường gian tà. Tới tuổi tráng niên, thân thể dần dần rút nhỏ, dùng hai tay chống lê thân trên đất để đi, ăn ngủ cùng với chó. Được một năm, hắn bèn chết.

          Đời nhà Châu, Tề Hoàn Công đi qua mộ của họ Quách, hỏi người già rằng: “V́ sao họ Quách bị diệt vong?” Họ đáp: “Ưa điều thiện, ghét điều ác!” Tề Hoàn Công hỏi: “Ưa điều thiện, ghét điều ác, v́ sao lại diệt vong?” Họ đáp: “Ưa điều thiện mà chẳng thể làm, ghét điều ác mà chẳng thể trừ”. Do vậy, có thể thấy là người thời nay tự mê muội thần thức, chẳng tỉnh ngộ bản tánh. Muôn duyên cùng nhau quấy nhiễu, thù tạc tám mặt (chỉ lo thù tạc về mọi phương diện). Một niệm vừa đi, một niệm khác liền đến. Một ngày một đêm, có tám ức bốn ngàn niệm, như gió thổi trên hư không, chẳng có nơi nương tựa. Như đá đè cỏ, vừa dứt lại sanh. Há có ngày nào chuyên tâm làm lành? V́ thế, dẫu biết là chuyện đáng nên làm, nhưng v́ bị ḷng ham muốn vật chất xoay chuyển, dẫu suốt ngày đàm kinh thuyết pháp, vẫn thường là “tốt lá, thối gốc”, rốt cuộc đổ nhào mà thôi, há chẳng đáng tiếc nuối sâu xa ư?

 

          (Chánh văn) Tự tội dẫn tha, ung tắc phương thuật.

          (正文)自罪引他。壅塞方術。

          (Chánh văn: Tự ḿnh có tội, khiến cho kẻ khác liên lụy. Cản trở nghề nghiệp của kẻ khác).

 

          Tội do ta phạm, tới khi đổ bể, bèn lôi kéo, khiến cho kẻ khác bị liên lụy. Ngạn ngữ nói là “kéo kẻ khác xuống nước”. Ư kẻ đó chẳng phải chỉ là mong lấp liếm sai sót, mà c̣n là nhằm trả thù! Nào có biết rốt cuộc sẽ trọn chẳng thể che đậy lỗi của ḿnh được, rốt cuộc chẳng thể vu vạ cho kẻ khác! Chỉ là tạo thêm oan nghiệt trong những nỗi oan nghiệt mà thôi! Dẫu trốn khỏi phép vua, khó tránh bị trời diệt!         

          Triệu Nghiệp từng xem Giả Dịch giết trâu. Giả Dịch chết, [bị Diêm Vương xử tội giết chóc, hắn đổ lỗi, xin Diêm Vương bắt] Triệu Nghiệp phải chia bớt tội lỗi. [Hồn của] Triệu Nghiệp bị bắt tới cơi âm, gần như chẳng thể biện định. Bỗng thấy một cái gương, đường kính to hơn cả trượng, treo trên không trung. Cơi âm thấy Giả Dịch vung đao, Triệu Nghiệp núp sau cửa nh́n, có ư bất nhẫn. [Khi ấy], Giả Dịch mới chịu phục, Triệu Nghiệp mới được tha về. Xét theo lời đức Phật dạy: “Hết thảy thế gian, sanh tử nối tiếp, khi sắp mạng chung, trước khi xả noăn xúc[71], thiện ác trong cả đời đều cùng một lúc hiện ra”. Đại khái, cảnh giới hiện ra trong lúc lâm chung, chính là cảnh giới nơi tâm địa trong thường nhật của chúng ta. Viên tội châu của ngài Địa Tạng chính là tâm châu của chúng ta. Nghiệp kính của Diêm Vương chính là tâm kính của ta. Nếu nay làm một chuyện bất thiện, có bao giờ chẳng in dấu trong tâm ta, há có thể lôi kéo người khác [liên lụy] ư?

          Phương Thuật (方術) là như nghề thuốc, bói toán, chiêm tinh, xem tướng, và mỗi kỹ năng, mỗi tài nghệ đều là [Phương Thuật]. Người bản lănh nông cạn th́ nhờ vào đó để nuôi thân, kẻ cao sâu th́ có thể giúp đời. Nếu ngăn trở, khiến cho họ chẳng hành nghề th́ cũng là tâm lượng của ta chẳng rộng răi, mà bốn phương sẽ có lắm kẻ đói, rét, thất nghiệp! C̣n như lũ tà sư, thầy thuốc dốt nát, làm tổn thương chánh giáo, hay khiến cho kẻ khác mất mạng, cũng như những lũ phương sĩ[72] đốt ḷ luyện đan, đều chẳng thể viện cớ này [để tự tung, tự tác], những hạng người ấy đáng nên bị ngăn cấm. Mà trong mọi nhà dân chúng hăy đều nên xét giữ nghiêm ngặt môn hộ, phàm là đối với bọn tam cô, lục bà[73] [đều nên] răn nhắc [người nhà] trọn chẳng giao du. Nếu có lui tới, cũng nên xét đoán [phẩm hạnh] của kẻ đó. Đấy mới là phương cách để giữ nghiêm căn bản, dứt tuyệt những mầm họa vậy.

          Lúc ông Trạch Càn Hữu[74] tại thế, do phù phép[75] mà nổi tiếng. Ông từng nghĩ cả huyện Vân An có đến mười lăm chỗ sông ng̣i có đá ngầm băi cạn, bèn triệu tập các vị thần nơi các băi cạn giữa sông (thần sông) để san bằng. Ứng theo lời triệu thỉnh, có mười bốn chỗ [đă san bằng]. Chỉ riêng có một băi cạn do một nữ thần [cai quản, cô ta đội] mũ cao, mặc áo rộng tay, cảm khái thưa rằng: “Xét ư ông chẳng qua là muốn cho thuyền bè [buôn bán] qua lại thuận tiện. Nhưng ông chẳng biết những người kinh doanh bằng thuyền bè, thường ngày kiếm lợi rất nhiều, dẫu có tốn kém đôi chút, chẳng đáng gây tổn hại cho họ. Những dân nghèo ven sông, cả ba, bốn trăm nhà, không có ruộng để cày cấy, không có dâu để nuôi tằm, hoàn toàn cậy vào chuyện kéo thuyền, vác thuyền [qua băi cạn] để kiếm sống. Nay nếu san bằng hết những băi cạn hiểm trở, đối với thuyền bè, cố nhiên hết sức thuận tiện, nhưng cơm áo của những người dân nghèo ấy th́ sao? Ư của đức Thái Thượng ắt chẳng phải là như vậy! Tôi rất sợ khi khác, ông sẽ bị mắc tội, mà tôi cũng chẳng khỏi bị liên lụy, xin hăy cân nhắc thêm!” Thiên sư thở dài nói: “Điều bà lo lắng tôi chẳng nghĩ tới!” Do vậy, mười bốn vị thần đă vâng mạng [san bằng băi cạn] đều hồi phục chỗ băi cạn như cũ. Nh́n vào chuyện này, chẳng phải là riêng phương thuật chớ nên ngăn trở. Hễ là những người vắt sức kiếm chút cháo [để sống qua ngày], càng phải nên t́m cách khiến cho họ được thuận lợi. Đừng vắt kiệt sức họ, đừng khiến cho kỹ năng của họ bị phôi pha. Chỗ nào cũng đều chừa lại đất sống, khiến cho họ chẳng bị vây hăm trong cảnh đói rét. Đấy là cái tâm của người có ḷng nhân vậy.

         

          (Chánh văn) San báng thánh hiền.

          (正文)訕謗聖賢。

          (Chánh văn: Chê bai, báng bổ thánh hiền).

 

          San () là hư lộng, khinh miệt. Báng () là phủ nhận, báng bổ. San báng th́ có hai loại người:

          1) Một là v́ ngu si, khiến cho họ mê mờ, chẳng hiểu sức ảnh hưởng của thánh nhân. Hạng người ấy đáng gọi ở trong ṿ nh́n trời rồi đâm ra oán ghét [trời cao hẹp ḥi].

          2) Hai là hạng có tài ăn nói khuấy động sóng gió. Hạng người này đáng gọi là “ṃ trăng trong nước”.

          “Thánh hiền” là nói đến tam giáo Nho, Thích, Đạo. Nho dùng Chánh để lập giáo, Thích dùng Đại để lập giáo, Đạo dùng Tôn để lập giáo. Nh́n theo phương diện “hiếu sanh, ghét giết chóc”, th́ là cùng một ḷng nhân. “Coi người khác như chính ḿnh” là cùng một niềm công bằng. “Khắc chế ḷng phẫn nộ, dứt trừ ham muốn, ngăn lỗi, ngừa sai”cùng một sự luyện tập, tu dưỡng vậy. [Giáo pháp] như sấm rền [thức tỉnh] kẻ u mê, [chân lư sáng tỏ như] nhật nguyệt chiếu sáng lũ mù, có cùng một công năng giáo hóa vậy. Luận định theo những sự tướng thô thiển, th́ lư trong thiên hạ chẳng qua là hai đường thiện ác. Dụng ư của tam giáo không ǵ chẳng nhằm dạy mọi người sửa ác, theo lành! Luận định theo pháp môn tâm địa, ắt chẳng khỏi quy về một. V́ thế, trong tác phẩm Nguyên Đạo Biện[76], Tống Hiếu Tông đă nói: “Dùng Phật trị tâm, dùng Đạo trị thân, dùng Nho trị thế”, đúng là đă hiểu biết cái tâm vậy. Thân cũng vậy, mà cơi đời cũng vậy, chẳng thể có một thứ nào không điều phục. Vậy th́ tam giáo, há có giáo nào mà có thể chẳng lập ư? Những nho sĩ trong hiện thời, hoặc là dùng Nho để bài bác Phật, hoặc là dùng Phật giáo để chèn ép Nho. Tăng sĩ, đạo nhân ngày nay hoặc là v́ Phật mà diệt Đạo, hoặc v́ Đạo mà phê phán Phật giáo. Nói chung là v́ ngă kiến năng sở, lầm lạc phân chia đại đạo, nào có biết tam giáo vốn chẳng có đồng hay dị. Chỉ lo kẻ lầm lạc nẩy sanh ư kiến ức đoán, dùng ư riêng để suy lường, dùng cái tâm hời hợt để biện định cưỡng từ đoạt lư. Bậc thượng trí nếu thật sự có thể b́nh tâm dung hội, tham cứu thẳng thừng vào cội nguồn, ắt sẽ biết Phật là minh tâm kiến tánh, trừ mê, cầu ngộ”; Đạo là giữ cho tâm thanh tịnh, giảm thiểu ham muốn, tích lũy công hạnh; Nho thấu hiểu nguồn tâm, trừ khử vật dục, chánh tâm, thành ư. Nhiều phương diện nhiếp hóa, chẳng có ǵ trái nghịch! Nói chung, đều nhằm tiếp dẫn con người nhập đạo mà thôi, có danh tướng ǵ để có thể chấp chặt nữa ư? V́ thế biết chánh pháp của tam giáo đều cùng là nhăn mục muôn đời cho các sanh linh. Kẻ khinh miệt, gièm báng chẳng phải là tự tạo cái nhân bị rút lưỡi hay chăng? C̣n như kinh điển, sách vở, giấy có chữ viết, chính là những thứ kư thác tinh thần của thánh hiền, kẻ giẫm đạp sẽ có cùng một tội với kẻ khinh miệt, gièm báng.

          Từng thấy Trung Hoa có tam giáo. Do thiên, địa, nhân gọi là Tam Tài, vua tôi, cha con, vợ chồng là Tam Cương, những thứ ấy chẳng thể có một khắc nào không có. Ấy là kể từ khi Phục Hy vạch ra các quẻ [của Bát Quái], Nho giáo đă được khởi đầu. Tại Trung Hoa, Nho có thể khiến cho cương thường được chánh đáng, các mối quan hệ chánh đáng của con người được tỏ rơ, lễ, nhạc, h́nh pháp, cai trị, bốn món ấy đều được phổ biến rộng khắp, chẳng trái nghịch, rốt cuộc cho tới muôn vật trong trời đất đều đâu vào đấy. Đạo Nho đă có công giúp đỡ cơi đời to lớn. V́ thế, Tần Thủy Hoàng muốn trừ bỏ đạo Nho, mà rốt cuộc chẳng thể trừ bỏ Nho được. Chẳng thể trừ khử, há có nên gièm chê, báng bổ hay chăng? Có kẻ v́ thấy học vấn cong vạy của Công Tôn Hoằng nhằm a dua cơi đời, Chúc Khâm Minh khiến cho ngũ kinh lè tè quét đất, Dương Tử Vân ngộ được lẽ huyền diệu của Thái Huyền, mà lại xiểm nịnh phụng sự Tân Măng, Hứa Kính Tông đă biết đạo nghĩa trung thành với vua, mà lại thất thân phụng sự Ngụy Vũ[77], những kẻ đó đều xuất phát từ Nho, bọn họ thật sự là tội nhân trong làng Nho. Há có nên v́ những kẻ ấy là phường không ra ǵ, bèn gièm chê, báng bổ những bậc thánh hiền lập giáo ư?

          Kể từ khi Lăo Tử vào cửa ải, Đạo đă được khởi đầu. Đạo tại Trung Hoa [có thể khiến cho người học] tự ǵn giữ sự thanh hư, đạm bạc danh lợi, khiêm nhượng để tu tŕ, gột sạch những tập khí rối ren, chằng chéo, cốt sao đạt đến tĩnh lặng, vô vi, khôi phục thiên chân. Do vậy, Đạo có công tột bậc đối với sự giáo hóa trong cơi đời. V́ vậy, Lương Vũ Đế tận lực muốn diệt trừ Đạo, mà Đạo chẳng thể trừ. Đă chẳng thể trừ, há có nên gièm báng hay chăng? Hoặc là do chỉ thấy gă đạo sĩ chuột nhắt dùng Tư Dạ Thuật (子夜術) lừa gạt Tô Đông Pha[78], hoặc Lâm Linh Tố dùng chuyện Thần Tiêu để mê hoặc Tống Huy Tông[79] [nhằm giải thích câu thơ] “thiên thượng thần tiên trịnh hóa cơ” [do nhà vua đă nằm mộng thấy], bất quá là nói lớn lối để dối đời, [hắn nói] “địa hạ thần tiên hà đắc nhất” (dưới đất, thần tiên há được ai), rốt cuộc là bịa đặt để trộm danh. Những gă ấy đều xuất phát từ Đạo, mà thật ra là bọn tội nhân trong Đạo. Há có nên v́ bọn chúng thuộc vào tà thuật, bèn gièm chê, báng bổ những bậc thánh hiền hưng khởi giáo pháp ư?

          Cho tới thời Hán Minh Đế, trong mộng cảm ứng người vàng, Phật giáo bèn hưng khởi [tại Trung Hoa]. Có thể nói là Phật giáo ở Trung Hoa đă khiến cho [dân chúng] vứt bỏ những thứ hoa mỹ để hướng về chân thật, bỏ ngụy, giữ lấy chân thật, do nỗ lực hành tŕ mà đạt tới an trụ, từ thuở đầu là tự lợi, [sau khi tu tập đă lâu], đến cuối cùng là lợi tha. Rốt cuộc là đạt tới mức từ bicoi muôn loài [và bản thân ta] như một, oán thân b́nh đẳng. Đấy là chỗ nương tựa cao tột của dân chúng vậy. V́ thế, Ngụy Vũ Đế[80] cực lực toan diệt Phật, nhưng Phật chẳng thể diệt! Chẳng thể diệt, há nên gièm chê, báng bổ ư? Hoặc là do chỉ thấy chú thuật của Hồ tăng chẳng thể ảnh hưởng đến Phó Dịch (Phó Dịch[81] báng Phật, xằng bậy bịa chuyện; người đời sau chẳng thông đạt, tưởng là kinh sách thật sự, đáng thương xót thay), tượng Phật bằng đá hiện quang chẳng thể khiến cho ông Tŕnh Di động ḷng[82], răng Phật là vật linh thiêng, mà bị sừng linh dương phá nát[83]. Răng Phật là thần vật mà bị hư hoại dưới búa của Triệu Phượng. Lại c̣n bọn Bạch Liên, Vô Vi[84] tung hoành, [các tín đồ] tin theo, quy phục những lời lẽ hư vọng, dối trá của họ La (La Thanh)[85]. Một kẻ xướng suất, bao người hùa theo. [Những thứ đó] đều xuất phát từ Phật giáo, mà [bọn chúng] thật sự là bọn tội nhân trong nhà Phật. Há có nên v́ bọn chúng thuộc hạng tà ma, ngoại đạo, bèn gièm chê, hủy báng bậc thánh hiền truyền giáo ư?

          Đời Minh, Lư Trác Ngô thích phủ nhận, hủy báng thánh hiền, thường chế ra lời hai người [đối đáp]. Một người nói: “Trời chẳng sanh Trọng Ni (Khổng Tử), muôn đời như đêm dài”. Người kia đáp: “Vậy th́ kể từ thời Hy Hoàng[86] trở đi, toàn bộ [mọi người] đều phải đốt đuốc mà đi à?” Kế đến [châm biếm] Mạnh Tử, đối với Tŕnh, Châu, hắn gièm chê, báng bổ càng dữ dội hơn! Về sau, hắn phạm tội, chết trong ngục.

          Văn Xương Đế Quân nói: “Kẻ sĩ được ghi danh vào sổ bộ của ta đều là do kính trọng văn tự mà ra”. Đời Tống, cha của Vương Nghi Công (Vương Tăng) hễ trông thấy [giấy tờ] có chữ viết bị vứt bỏ, ắt nhặt lấy, dùng nước thơm rửa sạch rồi đốt. Một tối, ông mộng thấy đức Tuyên Thánh (Khổng Tử)[87] vỗ lưng ông ta bảo: “Ngươi kính trọng giáo pháp của ta, tiếc là ngươi đă già, ta sẽ sai Tăng Sâm sanh trong nhà ngươi”. Lúc tuổi già, ông Vương bèn sanh con; do vậy, đặt tên là Tăng. [Vương Tăng] là một vị Tể Tướng hữu danh. Lại như Dương Bách Hạnh ở Lô Châu do ngồi trên kinh văn mà cả nhà bị cùi. Tiên Ư Khôn ở Xương Quận do tàn hại sách Mạnh Tử mà cả nhà diệt vong. Dương Toàn Thiện do chôn giấy có chữ [bị người khác vứt bỏ] mà năm đời đều đỗ đạt. Lư Tử Tài do chôn giấy có viết chữ mà được làm quan vinh hiển. Báo ứng chói ngời trước tai mắt mọi người, há có nên chẳng kính trọng, quư tiếc [giáo huấn, sách thánh hiền, giấy chữ] ư? Thơ rằng:

          Thế gian tự chỉ Tạng Kinh đồng,

          Kiến giả tu tương phó hỏa trung,

          Hoặc tống trường lưu, mai tịnh thổ,

          Tứ quân phước thọ vĩnh vô cùng.

          (Giấy chữ trong đời hệt Phật kinh,

          Nếu như trông thấy đốt cho nhanh,

          Hoặc bỏ xuống sông, chôn đất sạch,

          Th́ ngươi phước thọ măi khôn ngằn).

          Lại nói:

          Kính tích tự chỉ phó thủy hỏa,

          Nhân nhân tri đạo thiện nhân quả,

          Giáp hài dạng bạc ná gia vô.

          Hoán tương bạch chỉ phương vi thỏa.

          (Kính tiếc giấy chữ, nhặt thiêu đốt,

          Hoặc bỏ trong sông ở chỗ sâu.

          Ai nấy đều biết nhân quả lành,

          Lột sổ lót giày ai chẳng phạm?

          Đổi thành vải trắng, ắt yên lành).

          Cao Chi Thụ chẳng tin tiên, Phật, phỉ báng hết mức. Hắn từng dùng kinh Pháp Hoa để dán vách. Có người tặng hắn một pho tượng Phật bằng ngọc. Chi Thụ nói: “Khối ngọc này có thể làm thành đồ vật”. Do vậy bèn cưa tượng, làm thành mười cái nhẫn. Về sau, do hắn gièm chê, phỉ báng việc triều chánh, vua xuống chiếu sai H́nh Bộ tra vấn. Hắn bị xử chém ngang lưng ở giữa chợ.

          Đời Minh, Thích Kế Quang chuyên tŕ kinh Kim Cang. Bỗng mộng thấy một người lính đă chết, xin ông tụng giùm một quyển để giúp phước cho kẻ ấy trong cơi âm. Buổi sáng, ông thức dậy, tụng xong, lại thấy người ấy báo mộng: “Đội ân đức to lớn của ông, nhưng chỉ được nửa quyển v́ trong ấy xen tạp hai chữ Chẳng Dùng”. Ông ngẫm nghĩ nguyên cớ, th́ ra là đứa tớ gái mang trà, bánh lên [trong khi ông đang tụng kinh]. Ông phẩy tay từ chối, miệng tuy chưa nói, trong tâm đă sẵn có hai chữ “chẳng dùng”. Sáng hôm sau, ông đóng cửa tụng kinh, lại mộng thấy người lính cảm tạ: “Đă được siêu độ rồi!” Một niệm xen tạp mà c̣n không được, huống hồ hư lộng, khinh miệt ư?

          Triệu Cư Dịch tŕ kinh Ngọc Hoàng, chưa kiêng rượu thịt, bỗng chết đi. Vua cơi âm hỏi: “Thường ngày nhà ngươi làm điều ǵ tốt lành?” Thưa: “Tŕ kinh Ngọc Hoàng từ nhỏ”. Vua đứng dậy, chắp tay nói: “Công đức như thế thật là bậc nhất, sẽ được tăng tuổi thọ thêm một kỷ (mười hai năm)”. Lại nói: “Trọng tội sát sanh, sao lại nấu nướng lợn, dê?” Do vậy, vua bèn sai ngục tốt lấy đinh dài đóng vào đầu Cư Dịch. Cư Dịch thầm niệm bảo hiệu của Ngọc Đế, kim quang trùm khắp thân, [quỷ sứ] chẳng thể đóng đinh được. Đă tỉnh lại, ông bèn bỏ nhà nhập đạo. Về sau, thành tiên.

          Lại nghe nói Cánh Lăng Vương (Tiêu Tử Lương) bệnh t́nh nguy kịch, do ông ta tin tưởng, ngưỡng mộ kinh Lăng Nghiêm, mà Kim Tư thần (thần có cánh tay bằng vàng) rưới thuốc [liền lành bệnh].

          Lô Cảnh Dụ bị nhốt vào ngục, do chuyên tụng Tâm Kinh mà tự thoát gông cùm. Do sớm chiều nương theo kinh Kim Cang mà người phu đào quặng thoát khỏi tai ương khi sụp hầm. Do tâm niệm kinh Pháp Hoa chẳng ngớt mà người thiếp nhà họ Tô thoát khỏi tai ách sóng bủa trên sông[88]. Ấy là v́ kẻ tin tưởng, ngưỡng mộ thánh hiền, chẳng có ai không được thánh hiền báo đáp!

 

          (Chánh văn) Xâm lăng đạo đức.

          (正文)侵凌道德。

          (Chánh văn: Xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức).

         

          Bậc đạo đức trong thế gian như Nho sĩ đọc sách hiểu lư, tăng nhân hay đạo sĩ khắc khổ tu hành, lời nói là pháp tắc, hạnh là khuôn mẫu, vượt trỗi những kẻ cùng hàng, do chánh khí trong thiên địa hun đúc, kính yêu c̣n chẳng xuể, há nên xâm phạm, lăng nhục ư?

          Thiền sư Quốc Thanh[89] thuyết pháp, có giữ chức Phân Thủ Đạo[90] trọn chẳng tin Phật, trói Sư, đánh hai mươi trượng. Đến đêm, gă đó mộng thấy người vợ đă mất, vừa khóc vừa giận dữ nói: “Sao ông dám làm nhục thiền sư? Vua cơi âm phạt tôi hai mươi roi sắt, lại c̣n tước bỏ chức quan của ông!”

          Thuần Vu Sùng Đức lúc hai mươi tuổi vào trường huyện, tánh t́nh tà vạy, ngang ngược. Hễ bậc nho sĩ nào có đạo đức, Sùng Đức ắt sẽ mặc t́nh hiếp đáp, vu vạ. Một đêm, hắn bỗng nhiên mộng thấy một vị thần nói: “Mày trăm kế xâm phạm, lăng nhục bậc đạo đức. V́ thế, tao đến đoạt trí huệ của mày!” Nói xong, cầm đao chém xuống. Sùng Đức ngă lăn ra hôn mê rồi tỉnh lại. Rốt cuộc sau đấy, hắn như kẻ ngu đần, được mấy năm bèn chết ngóp.

          Đời Hán, khi Trương Lương c̣n trẻ, sang chơi Hạ Bi. Trên cầu có một cụ già, làm rơi dép xuống gầm cầu, bảo Trương Lương: “Này nhóc! Mày xuống lấy dép cho ông”. Trương Lương nghĩ cụ già cả, ráng nhịn, xuống nhặt lên. Ông lăo lại giơ chân bảo: “Nhóc t́! Mang dép cho ta”. Trương Lương bèn quỳ xuống đi dép cho cụ. Cụ già bảo: “Nhóc con dễ dạy!” Lấy ra một quyển sách, bảo: “Đọc rồi sẽ có thể làm thầy vua chúa” rồi bỏ đi không quay lại. Xem sách ấy, th́ ra là Thái Công Binh Pháp. Do vậy, Trương Lương học tập, giúp Hán Cao Tổ lấy thiên hạ, được phong là Lưu Hầu. Xem chuyện này, ắt biết là bậc nhân tài thành tựu đạo đức trong thiên hạ đông lắm. Những kẻ xâm phạm, lăng nhục ví như ngược gió tung bụi, toan dùng tay ngăn trời, phần nhiều là kẻ chẳng biết lượng sức vậy.

 

          (Chánh văn) Xạ phi trục tẩu, phát trập kinh thê, điền huyệt phúc sào, thương thai phá noăn.

          (正文)射飛逐走。發蟄驚棲。填穴覆巢。傷胎破卵。

          (Chánh văn: Săn bắn chim thú, phá tổ côn trùng, kinh động nơi chim đậu, lấp hang, lật tổ, phá thai, hại trứng).

         

          “Xạ” (, bắn) không chỉ là dùng cung, tên. Phàm là súng ngắn, súng trường, nơ máy[91], ná, gậy dính[92], bẫy rập, lưới chăng, đều thuộc trong phạm vi này. Hoặc bán để lấy tiền bạc, hoặc v́ tham ăn tục uống, v́ ư niệm giết chóc mà xếp đặt [các thứ dụng cụ săn bắt, bẫy rập] khắp nơi. Loài chim bay bị mất mạng, có con bị găy cổ, khiến cho cả bầy kinh hoảng. Có con vật bị đâm thủng ức, chảy cả tủy ra, khổ sở đến mức nào? Người có ḷng nhân hăy nên phát ḷng Từ gấp bội. Kẻ ăn chúng, sao nỡ kết thành mối oán cừu ắt bị đền trả chỉ nhằm thêm vào cỗ bàn thịnh soạn [một vài món] mà ta có thể giảm bớt? Kẻ sống bằng nghề ấy, sao lại khổ sở tạo nên oán nghiệt vô cùng để đầy túi tiền hữu hạn của ta?

          Người họ Đổng nọ thích giăng lưới bắt chim. Hễ bắt được, bèn dùng tre xuyên qua năo chim, dùng rơm để thui sạch lông đem bán. Hắn giết chóc không biết bao nhiêu mà kể! Tuổi già, hắn mắc bệnh lạ, khắp ḿnh sanh lớp da thô tháp, nổi vảy sần sùi như vỏ cây. Hễ bị ngứa bèn đốt rơm [dí vào chỗ ngứa] để nướng. Lại c̣n bị nhức đầu, thường bảo kẻ khác lấy tre đập [vào đầu cho đỡ đau]. Rốt cuộc, hắn do chứng bệnh ấy mà chết.

          Lại có gă Lưu Đông Nhi chuyên dùng nỏ và tên, tổn thương các sanh mạng rất nhiều. Một hôm, gă tựa cửa bắn chim sẻ. Ngẫu nhiên tai bị ngứa, bèn dùng đầu mũi tên để găi chỗ ngứa. Bỗng gió thổi cánh cửa đập vào tay, mũi tên đâm xuyên qua lỗ tai, tuôn máu như trút nước mà chết. Ôi chao! Nỏ tự bắn ḿnh, rơm tự đốt thân, mỗi mỗi đều đúng như những ǵ đă làm, sao mà báo ứng được thể hiện xảo diệu làm vậy?

          Đời Đường, Vi Cao nuôi một con anh vũ (két, vẹt). Mỗi lần nghe niệm Phật, nó bèn thôi lăng xăng, ngoan ngoăn. Bảo nó niệm Phật, nó bèn lớn tiếng niệm “nam-mô A Di Đà Phật”. Một hôm, nó đứng yên qua đời, chẳng ngă lăn quay. Đem thiêu, thu được mười hạt xá-lợi. Vi Cao bèn lập tháp để chôn cất.

          Lại nữa, trong niên hiệu Nguyên Hựu[93] đời Tống, có vị Tăng nuôi một con cù dục (鴝鵒, con sáo mỏ ngà). Nó thường niệm Phật theo vị Tăng. Một hôm, nó cúi đầu, xếp cánh, đứng qua đời. Vị tăng chủ nhân của nó thương xót, đem chôn, bỗng từ chỗ chôn mọc lên một đóa hoa sen xanh, thơm ngát lạ thường. Đào lên xem, [hóa ra] hoa mọc từ cái lưỡi của con sáo mỏ ngà. Cả quận kéo đến xem. Viên quan Thái Thú viết kệ rằng:

          Thiên sản linh cầm bát bát nhi,

          Giải tùy tăng khẩu niệm A Di.

          Phi cầm thượng chứng Vô Sanh Nhẫn.

          Ngă bối vi nhân khởi bất như!

          (Trời sanh con sáo tánh khôn lanh,

          Biết niệm Di Đà theo tiếng tăng,

          Loài chim c̣n chứng Vô Sanh Nhẫn,

          Lũ ta làm người sánh nổi chăng?)

          Gộp lại những chuyện ấy để xem, [sẽ thấy] loài vật lớn bé trong thiên hạ đều là những chúng sanh có linh tánh, đức Phật từ bi, b́nh đẳng phương tiện che chở, mà sao con người tàn sát như thế đó, v́ lẽ nào vậy?

          Đời Minh, ông Nhan Mậu Do nói: - Người thời nay ai nấy đều nói: “Tạo hóa sanh ra muôn vật để nuôi con người, theo đúng lẽ, hăy nên săn bắt để ăn”. Chẳng biết con người cũng là một sinh vật trong ṿng trời đất, có thể tu chân, hiếu sanh, th́ mới là thông linh hơn các loài vật. Nếu không, có khác ǵ những loài động vật [tăm tối]? Hơn nữa, người chưa theo lẽ chánh để tu tập, sẽ khó tránh khỏi luân hồi trong các nẻo. Những chúng sanh nay mang thân dị loại, có thể là đời trước làm thân người. Kẻ nay đang làm người, đời trước có thể là dị loại. Tham sân, tham giết, mượn tay kẻ khác [giết chóc] để ăn. Nẻo đường sanh tử, đáng kinh sợ nhất! Vừa vào cơi âm, những kẻ săn đuổi trong hiện thời, lẽ đâu chẳng bị săn đuổi? Hăy suy nghĩ nhé!

          Có kẻ bảo: “Nếu ai nấy đều chẳng giết, ắt cầm thú đầy ắp thế gian, c̣n như các loài sài lang, hổ, báo sẽ lại ăn thịt con người, há chẳng phải là nuôi dưỡng những con vật để hại người ư?” Đáp rằng: Đức Phật dạy: “Nếu là người có từ tâm, có công đức, hết thảy binh đao, nước, lửa chẳng thể tổn thương, hết thảy ác thú, độc trùng chẳng thể làm hại”. Xưa kia có gă vua ác xua voi hung dữ toan hại Phật, nhưng đức Phật khởi từ tâm thương xót, voi thấy năm ngón tay của đức Phật hóa thành sư tử rống to. Do vậy, các con voi đều phủ phục xuống đất, quy hàng. V́ lẽ này, kinh Niết Bàn tột bậc tán thán công đức của người có từ tâm. Ấy là v́ ḷng Từ tột bậc có thể cảm hóa kẻ tàn bạo nhất trong thiên hạ.

          Xưa kia, vào thời Hán Quang Vũ Đế, tại quận Hoằng Nông[94] có nhiều hổ. Thái Thú ra lệnh cho dân chúng đặt bẫy rập, dùng cung nỏ để trị. Nạn hổ càng dữ dội hơn! Đến khi Lưu Côn làm Thái Thú, bèn nói: “Do chánh sách tàn bạo mà ra!” Ông truyền dân chúng lấp các hầm bẫy, phá bỏ cung nỏ, chỉ chú trọng cai trị bằng ḷng nhân từ, giải quyết những nỗi đau khổ của dân. Hổ bèn cùng nhau vượt sông bỏ đi. Lưu Côn chưa hề đích thân chứng đại đạo, chỉ v́ một niệm có ḷng nhân mà có thể nhanh chóng dẹp hết loài hổ tàn bạo, huống hồ người học theo ḷng từ bi của đức Phật ư?

          Lại như bậc thánh tăng khuất phục hổ, hàng phục rồng, chói ngời tai mắt người đời, chẳng phải là chuyện bịa đặt vậy. Nếu ai nấy đều có thể học Phật, học theo thánh tăng, dẫu hổ, báo… đầy dẫy thế gian, chúng nó vẫn chẳng thể gây hại, lo chi cầm thú sẽ hại người vậy thay? Bởi lẽ, kẻ tàn bạo đều hóa thành từ bi hết rồi, những loài vật độc hại cũng đều hóa thành lân, phượng. Do vậy biết con vật tuy là hung mănh, tàn độc nhất, cũng đều có chỗ có thể cảm hóa, chỉ sợ con người chẳng thể từ bi đó thôi.

          Họ Tŕnh ở Đức Hưng nhiều đời sống bằng nghề săn bắn, giết hại sanh mạng chẳng thể kể xiết. Một ngày, vào chợ, hắn mua mấy cái mặt nạ quỷ, cho mỗi đứa cháu nội đeo một cái. Bỗng trong chốc lát mấy chục con chó săn do hắn nuôi trông thấy [lũ cháu đeo mặt nạ] bèn tranh nhau cắn xé, đuổi cách nào chúng cũng chẳng chịu lùi. Mấy đứa cháu đều chết!

          Một người vào núi bắt vượn con đem về, vượn mẹ đuổi theo đến tận nhà. Kẻ ấy trói vượn con trên cây để chơi. Vượn mẹ dập đầu tha thiết cầu xin, chỉ là miệng chẳng thể nói được. Rốt cuộc kẻ đó chẳng thả, đập chết vượn con, vượn mẹ ngồi chồm hổm, đau đớn chết đi. Nhà ấy trong ṿng nửa năm, bệnh dịch dấy lên, cả nhà chết sạch!

          Dù thông minh hay ngu xuẩn, đều cùng có giác tánh, người hay thú đều có cha con, há có nên dấy lên nhân duyên sát hại? [Quả báo] trong đời sau chẳng sai chạy, có khi cũng thấy ngay trong t́nh h́nh hiện tại, ở ngay trước mắt, đáng sợ thay! Hơn nữa, dân chúng các ngươi chẳng có gia đ́nh ư? Chẳng có cha, mẹ, vợ, con ư? Giả như ra lệnh cho những kẻ làm quan dùng chánh sách tàn bạo để phá nhà của ngươi, dùng h́nh cụ độc dữ để tàn phá thân thể ngươi, khiến cho các ngươi chồng chẳng c̣n vợ, cha chẳng c̣n con nữa, có kẻ nào chẳng ngửa mặt lên trời gào khóc, oán hận sâu đậm chẳng thể cởi gỡ ư?

          Loài trùng kéo kén, ngủ đông, hễ đào xới, ắt chúng sẽ bị tổn thương. V́ thế, đức Thái Thượng viết lời răn dạy người đời, mà chư Phật càng thêm yêu tiếc chúng. Con người chớ nên không lănh hội ư này để rồi cứ đào xới bừa băi vậy!         Đời Tống, Tào Bân hễ trời rét buốt bèn chẳng sửa chữa tường, nhà. Có kẻ hỏi nguyên do, ông bảo: “Sợ tổn thương những loài trùng đang ngủ Đông”. [Ḍng họ] ông Tào đời đời được phong vương chính là v́ đă gieo cái nhân không chịu làm tổn thương những loài trùng đang ngủ Đông. Nay th́ có kẻ vô cớ đốt đồng hoang nhằm thỏa thích thói vui đùa trong chốc lát, tổn thương muôn loại sanh linh. Sao không dùng chuyện ông Tào để thưa tŕnh, răn nhắc họ? Nếu gặp phải, hăy nên dập tắt ngay. C̣n như dân quê, trẻ nít, do v́ họ vô tri, càng phải nên khéo léo chỉ bảo. Nếu có kẻ nào đổ tro nóng, hoặc nước nóng xuống đất, và kẻ do cúng bái tổ tiên bèn đốt giấy tiền vàng mă, hăy đều nên lưu tâm trong lúc ấy để giữ vẹn mạng sống [cho các loài trùng nhỏ], ḷng nhân sẽ to lớn không ǵ bằng!

          Chim đă đậu, như người đă ngủ, bỗng dưng bị kinh động, há chẳng phải là cả nhà nhiễu loạn ư? Đức Thái Thượng răn nhắc có cùng một ư với [lời dạy] “dặc bất xạ túc” (chẳng bắn chim đă đậu) của Khổng Tử. Tiên kinh chép: “Hễ ai tùy thời tạo phương tiện cứu loài vật, ắt sẽ được quả báo phước đức, trường thọ”.

          Lư Hề Tử là một bà cụ ở trong núi, mỗi khi tuyết đổ dầy, chim không có chỗ trú, thường cho chúng núp trong nhà, lấy gạo cho chúng ăn, lại c̣n chẳng dám kinh động chúng. Thượng Đế bảo bà cụ có ḷng nhân, cụ thọ tới năm trăm tuổi.

          Người họ Dương nọ, sống bằng nghề bắt chim. Một hôm, có một con chim khách tránh rét đậu trên cây, bèn cầm gậy dính trèo lên cây [toan bắt nó]. Cành cây bị găy, hắn ngă xuống, đầu đâm vào cành trúc, máu chảy ồ ạt mà chết.

          “Huyệt” () là chỗ tụ tập sinh sống của hết thảy các loài hàm linh. Nh́n theo phía con người, nơi đó cố nhiên chỉ là một cái hang mà thôi, nhưng đối với chúng, đó là chỗ cư trú an ổn, chẳng khác ǵ [nhà cửa đối với] con người. Há nên san lấp, cắt đứt đường sống, đoạn tuyệt đường ra, lại c̣n vùi lấp tông tộc của chúng, tàn nhẫn đến cỡ nào?

          Xưa kia có một vị tỳ-kheo đắc lục thần thông, ở chung với một chú bé sa-di. Từ trong Định, Sư thấy bảy ngày nữa chú sa-di sẽ chết. Do vậy, tạo phương tiện, bảo chú trở về [thăm nhà]. Tám ngày sau, chú sa-di quay lại. Vị tỳ-kheo lấy làm lạ, nhập Định để xem, biết là chú sa-di trên đường trở về, thấy một tổ kiến sắp bị nước xoáy vào, bèn vội cởi ca-sa hốt đất ngăn nước, không cho nước xoáy vào ổ kiến. V́ nhân duyên ấy, [chú sa-di] được tăng thọ mười hai năm. Do vậy, chú sa-di tinh tấn, chứng đắc Tứ Quả.

          Ở Hàng Châu có một người đàn bà nọ thích sát sanh, rất ghét kiến. Hễ chúng làm bẩn, làm hư thức ăn, liền đốt lửa giết chúng. T́m thấy ổ kiến, nếu chẳng lấp phá, ắt sẽ dùng nước sôi dội vào, giết kiến khôn xiết! Về sau, bà ta sanh được một đứa con, mới c̣n ẵm ngửa. Nó bị lũ kiến cắn xé, khắp ḿnh phù nề, lở loét mà chết. Châu Cơ nói: “Phụ nữ thường coi con cái như tánh mạng, hăy khuyên họ kiêng giết. Hăy nên nói cho họ biết câu chuyện này, ắt họ sẽ tự biết sợ”. V́ thế, trong lời thề Giới Sát (đừng giết chóc) của ông Châu Cơ có hai câu: “Nếu lại vung dao, sẽ giống như giết con cái của ta vậy”. [Hai câu nói ấy] một là tự răn dè ḿnh, hai là răn dè vợ vậy!

          “Sào” () là chỗ hết thảy chim chóc lớn nhỏ nương náu, bú mớm, sanh nở, nhờ vào đó mà tránh gió, mưa, sương, tuyết, hoặc dùng để ẩn náu tránh bẫy rập, ná bắn, tên bay. Nếu kẻ nào bất nhân phá đổ tổ chim, có khác ǵ phá cửa, đốt nhà? Há chẳng đến nỗi dồn chúng vào chỗ chết ư? Trong bài Bảo Tự Chương (保嗣章, chương sách dạy về cách bảo vệ con cháu), đức Thái Thượng đă bảo: “Con cháu của phàm nhân suy vong, tuyệt diệt, đều là do những kẻ trong đời trước đă lật tổ, hủy trứng, đốt núi, tát cạn chuôm, đầm, phá thai, giết con, phạm vào quy định gồm một ngàn sáu trăm hai mươi điều vậy”. Xét theo lời ấy, những kẻ không có con nối dơi, hăy càng nên dũng mănh tỉnh ngộ!

          Đức Phật dạy: “Nếu thấy hết thảy người trong cơi đời trèo lên cây lấy trứng, xuống nước bắt cá, hăy nên thầm niệm danh hiệu Bảo Thắng Như Lai mấy chục câu, chúng nó sẽ được thoát chết. Đấy cũng là phương cách để cứu sống vậy”. Có người nói: “Nhân từ với người rồi mới yêu thương loài vật, nay sao lại chỉ dạy yêu thương loài vật?” Thưa: Nhân từ với người dễ dàng, yêu thương loài vật khó lắm! Tàn nhẫn hại loài vật, ắt sẽ tàn nhẫn hại người. Chẳng nỡ ḷng hại vật, ắt đối với loài người cũng sẽ biết [từ bi]. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Ta c̣n chẳng nỡ ḷng làm khổ một con kiến”, huống chi đối với con người? Vua Thành Thang[95] mở rộng tấm ḷng “[do thương xót loài vật] mà mở lưới” đến tận con người; v́ thế, ḷng nhân bao trùm thiên hạ. Vua Tề (Tề Tuyên Vương) chẳng nỡ ḷng [hạ lệnh giết] một con trâu đang sợ hăi, run rẩy[96], [ḷng nhân từ] đầy ắp đủ để bảo vệ bốn biển. Nếu Bạch Khởi[97] có ḷng yêu thương muôn vật, ắt bốn mươi vạn người ở Trường B́nh sẽ chẳng bị hăm hại! V́ thế, kẻ yêu thương loài vật, sẽ yêu thương con người, có cùng một ḷng nhân. Đức Như Lai khi tu nhân, thương xót một con bồ câu [bị chim ưng săn đuổi, bèn tự cắt thịt ḿnh thí cho chim ưng]. Mở rộng đến tột cùng, ḷng từ bi tràn ngập mười phương, dạt dào trong muôn kiếp. Ai có thể nói là kẻ yêu thương loài vật, chẳng thể yêu thương con người ư? Nhưng tâm luôn nghĩ cứu khổ, sẽ chính là đức Quán Âm xuất hiện. Niệm nào cũng nghĩ hành Từ, tức là Phật Di Lặc hạ sanh vậy!

          Đời Tống, Tô Thức tên tự là Tử Chiêm, do dựng nhà ở Đông Pha[98], bèn lấy hiệu là “cư sĩ Tô Đông Pha”. Trước cửa pḥng sách, có tre, bách, các loại hoa mọc um tùm khắp sân, các loài chim làm tổ trên đó. Do vậy, ông cấm con cái, tôi tớ không được săn bắt. Trong ṿng mấy năm, chim đều làm tổ ở những cành thấp, hễ cúi xuống có thể trông thấy trứng của chúng. Xưa kia, nghe nói các loài chim hễ làm tổ ắt gần người để tránh rắn, chuột, cú, diều; người thời nay ăn thịt chim non, phá tổ của chúng, há chẳng phải là bất nhân hơn các loài rắn, diều hâu ư?

          Một đứa trẻ nhà họ Tiết ở Kế Châu trèo lên cây, thăm ḍ tổ chim thước để bắt chim non. Trước đó, đă có con rắn to ăn chim non nằm sẵn trong tổ. Đứa trẻ vừa trông thấy rắn bèn kinh hăi, há hốc miệng. Rắn ḅ vào trong miệng đứa trẻ, nó ngă rơi xuống nước. Cứu lên, rắn đă cắn tim nó, đứa trẻ và rắn đều chết.

          Lại vào đời Tống, có gă họ Châu thích phá tổ, rất ghét ong. Hễ thấy tổ ong, dẫu ở chỗ cao, ắt bắc thang để phá nát. Về sau, hắn sanh hai đứa con, hậu môn đều bị bít chặt, chúng đều chết ngay, rốt cuộc tuyệt tự. Thiền sư Từ Thọ nói: “Người đời do sát sanh nhiều nên mới có đao binh kiếp. Do ngươi thiếu mạng bèn giết thân ngươi, do ngươi thiếu tiền bèn đốt nhà ngươi, ly tán vợ con ngươi. Từng phá sào huyệt của chúng, sẽ bị ảnh hưởng gần giống như vậy! Hăy rửa tai nghe lời đức Phật dạy”.

          Ông Nghiêm Thiệu Đ́nh nói: - Thánh nhân răn kiêng giết, tâm hết sức thiết tha. Kỳ lân là một con thú, do nó không giẫm đạp cỏ tươi, không ăn các con trùng c̣n sống, nên được coi là điềm lành, được xếp đứng đầu Tứ Linh[99]. Bậc vương giả có ḷng nhân đức, ắt kỳ lân sẽ tới.

          Lại nói: - Chỗ nào có kẻ mổ bụng lấy thai, giết trẻ nhỏ, ngay cả nơi lân cận chỗ ấy, kỳ lân cũng chẳng tới. Tát cạn đầm để bắt cá, ắt giao long chẳng ở nơi vực sâu ấy. Lật tổ, phá trứng, ắt phượng hoàng chẳng bay đến huyện ấy. V́ thế, những điều đó cho thấy phường hiếu sát chẳng sánh bằng cầm thú! Như thế mà nói là thánh nhân chẳng kiêng giết” ư? Từng thấy phường vô lại hôm nay trộm cắp, ngày mai bị trói, vẫn cứ trộm cắp chẳng ngơi, [ắt là v́ kẻ ấy] nghĩ là do trộm cắp, sẽ ngay lập tức có được tiền bạc, của báu; c̣n bị trói là chuyện của ngày mai, cứ mặc kệ, rảnh đâu mà lo tới! Ăn uống sẽ ngay lập tức sướng bụng miệng, c̣n tội lỗi ở tận đâu đâu ngoài h́nh hài trong kiếp sống này! Chẳng trách những lời khuyên đừng giết” dẫu nói tường tận cách mấy, vẫn chẳng thể cứu văn nổi chuyện tàn sát! Chỉ mong những ai trong lúc cầm đao đuổi bắt, hăy tạm thử hồi tâm quan sát, xét xem những chúng sanh ấy trốn chạy, tung bay tán loạn, chạy vào chỗ tối, chui vào kẽ nứt, chẳng có thang để trèo lên trời, không có lỗ nào để rúc xuống đất, giống như lũ chúng ta kinh sợ phép vua, hễ nghe có lệnh truy bắt, bay hồn bạt vía, có khác ǵ chăng? Hăy xem những chúng sanh ấy như cùng một loài [với chúng ta] mà thương xót, ăn ở cùng với nhau. Như cắt cổ một con gà, cả bầy gà ré lên kinh hăi. Mổ một con lợn, cả đàn lợn bỏ ăn. Giống như chúng ta bị bắt lên quan, cả nhà bàng hoàng, hoặc trong lúc sanh ly tử biệt (lúc bị hành h́nh), cả họ khóc rống. Thường ngày yêu thương, quyến luyến, khó thể chia cắt, khó ḷng bỏ ĺa, có ǵ khác chăng? Xem những chúng sanh ấy, bị trói, bị chém, quằn quại, gào thét bi thương, chỉ mong được tha, máu me đầm đ́a, mạng đă dứt rồi, tiếng gào vẫn c̣n bi phẫn. Có lúc c̣n co giật, giống như chúng ta bệnh tật không biết làm sao được, gào thần, niệm Phật mong được bảo vệ. Thần thức ĺa khỏi, mắt trợn trừng, môi mấp máy, quơ tay nắm níu mong sao được sống, có khác ǵ chăng? Suy xét kỹ càng, chẳng cần phải luận định quả báo ngàn đời vạn kiếp, mà ngay trong một niệm hiện tại, há c̣n dám nhẫn tâm giết hại, thương tổn nữa chăng?

          Bạch Quy Niên có được một bộ sách lạ, [học tập theo sách ấy] có thể hiểu ngôn ngữ của loài chim trong chín phương trời và tiếng nói của loài thú trong chín phương đất. Một ngày, họ Bạch ngồi cùng Thái Thú Lộ Châu, nhằm lúc có người xua bầy dê đi qua sân. Trong ấy có một con dê, dẫu bị đánh đập, vẫn không chịu đi, c̣n kêu lên bi thương. Thái Thú hỏi: “Dê nói ǵ vậy?” Họ Bạch thưa: “Dê nói trong bụng có dê con, chờ sanh xong, sẽ cam tâm chịu chết”. Thái Thú bèn giữ dê lại, chẳng giết. Quả nhiên nó sanh ra hai con dê con.

          Văn Lập sống bằng nghề giết mổ, nấu nướng, đă từng giết một con nai. Con nai quỳ khóc, ông ta cho là điềm bất tường. Con nai ấy có thai, sắp sanh nở, chạy vào bếp, ai oán [tỏ ư] cầu xin. [Nó vẫn bị] giết mổ [như những con vật khác]. Về sau, Văn Lập bị chứng bệnh lạ, tóc rụng, da nứt, dấy ḷng hối hận sâu xa, vét sạch nhà cửa, mua đất, dựng chùa Tiểu Trang Nghiêm, bèn lành bệnh. Ông ta liền suốt đời tu hành. Cái tội mổ thai, giết chết con vật c̣n non lớn tột bậc, nhưng vẫn có cách sửa đổi. Xin hăy nh́n vào câu chuyện này.

          Đức Phật dạy: “Nếu kẻ nào bạo ác chẳng tin tội phước, bắt chim non, ăn trứng, khiến cho các loài chim chóc đều bị mất con, khiến cho chúng kêu gào đau đớn đứt ruột, tṛng mắt chảy máu, sẽ mắc phải báo ứng cô độc, không có con”.

          Dương Tự mộng thấy thần nói: “Hơn mười ngày nữa, ngươi sẽ chết. Nếu có thể cứu sống ức vạn sanh mạng th́ sẽ có thể thoát chết”. Dương Tự thưa: “Kỳ hạn cấp bách, chẳng làm kịp!” Vị thần dạy: “Đức Phật bảo, nếu cá con hoặc trứng cá không bị thả vào nước muối, ba năm c̣n có thể sống sót”. Dương Tự tỉnh mộng, hằng ngày mua cá con hoặc trứng cá đem thả. Lại c̣n viết lời thần dạy bằng chữ to dán ở các ngả đường để người khác biết mà kiêng dè. Hễ thấy người khác giết cá, bèn đem trứng cá thả trong sông. Vài hôm sau, lại mộng thấy thần nói: “Con số ức vạn đă măn, có thể kéo dài tuổi thọ”.

 

          Ghi thêm cách thả cá con của ông Thí Ngu Sơn:

 

          Hễ cá đă chết, bèn nhẹ nhàng gỡ lấy trứng, đừng làm tổn hoại, đừng bỏ vào nước muối, dùng rơm rạ phủ lên trên, chờ vết bọt nước hơi khô, hăy đem vùi trong chỗ bùn cát nơi mé nước để khỏi bị cá khác nuốt mất, chúng sẽ được sống sót toàn bộ, nhưng chỗ chôn trứng chẳng thể rời khỏi nước. Một cách khác là trộn với bùn khô, để cho ánh mặt trời chiếu hơi ấm bèn đem cất, từ cuối Đông cho đến ba tháng mùa Xuân, cất cho tới sau ngày Rằm tháng Tư bèn thả xuống băi sông chỗ có nước cỏ, không khi nào chẳng sống toàn bộ. Những tháng khác th́ có thể tùy lúc mà thả, hết sức thuận tiện!

          Châu Dự đă có lần nấu lươn, thấy có con lươn uốn cong ḿnh lên trên, đầu và đuôi th́ ở trong nồi canh, ấy là v́ trong bụng nó có con. Do đó, ông ta kiêng giết.

          Đường Văn Tông thích ăn uống. [Kẻ hầu] chuẩn bị ngự thiện[100], có món trứng luộc. [Trong lúc đang luộc], bỗng nghe trong cái đỉnh có tiếng ŕ rầm cùng nhau hô Quán Thế Âm Bồ Tát, hết sức thê lương, thảm thiết. Viên giám tể[101] nghe tiếng, [tâu lên vua], vua sai kiểm nghiệm th́ đúng là như vậy. Vua than: “Ta chẳng biết thần lực trong đạo Phật có thể làm như thế!” Do vậy, nhà vua sắc truyền: “Từ nay, đừng dùng trứng gà nữa!” Phàm cứu khổ, cứu nạn chính là bổn hạnh của Quán Thế Âm. Trong nồi mà c̣n có tiếng cùng nhau hô [thánh hiệu của Ngài], kẻ làm người mà lại chẳng cung kính niệm ư?

          Đời Lương có kẻ dùng ḷng trắng trứng ḥa vào nước để gội tóc, muốn cho tóc bóng mượt dễ coi. Kẻ ấy phá trứng rất nhiều. Khi sắp chết, trong tóc chỉ nghe tiếng mấy ngàn con gà kêu chiêm chiếp!

          Hồ Gia Đống nói: - Loài vật bay hay chạy giống như con người hành động. Loài vật ngủ Đông giống như con người nằm ngủ. Sào huyệt của loài vật giống như nhà cửa của loài người. Thai, trứng của loài vật giống như con người thai nghén, sanh nở. Há có nên tàn hại đủ mọi cách, dứt bặt ḷng Từ của trời, đất, tạo hóa, trái nghịch ḷng nhân muôn vật có cùng một Thể” vậy thay? Nhưng tám t́nh huống ấy, khắp nơi đều có, chẳng thể nhất loạt mong sao hoàn toàn chẳng có cho được! Chỉ khuyên khắp người đời, hễ có tiền, bèn lấy phóng sanh làm chuyện chánh yếu. Không có tiền th́ ngoài chuyện chính ḿnh kiêng giết, c̣n phải khéo léo khuyên thân thích, xóm giềng, bạn bè, khiến cho họ chẳng c̣n gây tạo nỗi oan nghiệt ấy nữa! Hăy làm theo cách này, ngơ hầu sẽ có rất ít [hành vi] sai lầm!

          Trong bài văn Phóng Sanh của Liên Tŕ đại sư đời Minh có đoạn:

          - Từng nghe, thế gian coi trọng sanh mạng nhất. Điều thê thảm nhất trong thiên hạ là giết hại, tổn thương. Do vậy, [động vật] hễ sắp bị bắt giữ, ắt rảo chạy; rận, rệp c̣n biết tránh né cái chết. Trời sắp mưa, sẽ di tản, dế, kiến c̣n tham sống. Huống chi lưới giăng trong núi, chài quăng nơi vực, [kẻ săn bắt] lắm cách che giấu ḥng bắt lấy, móc câu cong, mũi tên thẳng, trăm kế vây bủa, khiến cho loài vật vỡ mật, tan hồn, mẹ con ly tán. Hoặc giam cầm trong lồng, trong cạm, giống như ở trong tù. Hoặc bị đao chặt, giống như bị lâm vào cảnh chém giết. Nai thương con, liếm vết thương mà ruột non đứt rời từng khúc[102]. Con vượn sợ chết, nh́n thấy bóng cây cung từ xa mà tuôn hai hàng nước mắt[103]. Cậy ta mạnh, hiếp đáp kẻ yếu, sợ rằng chẳng đúng lư! Ăn thịt kẻ khác để bồi bổ thân ḿnh, sao lại nỡ ḷng? Do vậy, trời cao rủ ḷng thương xót, cổ thánh bủa ḷng nhân, Thành Thang tháo lưới giăng bẫy, Tử Sản[104] đề xướng nuôi cá. Thánh thay, trưởng giả Lưu Thủy[105], dùng túi đựng nước suối giúp đỡ bọn cá đang bị khô hạn. Từ bi thay đức Thích Ca, lănh nguy vong [giùm chim bồ câu] bèn tự cắt thịt[106]. Thiên Thai Trí Giả đào ao phóng sanh. Đại Thụ tiên nhân[107] bảo vệ những con chim đậu trên thân. Chuộc những loài có vảy mà đắc độ, ḷng yêu thương của Thọ thiền sư (ngài Vĩnh Minh Diên Thọ) c̣n đó. Do cứu rồng con mà được truyền phương thuốc, phong thái từ bi của Tôn chân nhân[108] chẳng mất. Cứu sống kiến, sa-di đổi đoản mạng thành trường thọ, thư sinh đổi hạng kém thành đỗ bậc thượng[109]. Do thả rùa, Mao Bảo[110] gặp nguy mà thoát nạn, Khổng Du[111] chức kém mà được phong hầu. Khuất Sư thả cá chép tại Nguyên Thôn[112], tăng thọ mười hai năm. Tùy Hầu giúp rắn ở ngoài đồng nước Tề, được báo đáp viên châu ngàn vàng. Cứu con ruồi suưt chết đuối, người thợ làm rượu được miễn án tử h́nh[113]. Thả con ba ba sắp bị nấu, đứa tớ gái nấu bếp bệnh ngặt được lành[114]. Chuộc mạng con vật sắp bị giết từ nhà đồ tể, Trương Đề H́nh hồn siêu thăng thiên giới[115]. Đổi mạng thừa nơi ghe câu cá, Lư Cảnh Văn giải độc bằng đan sa[116]. Tôn Lương Tự giải trừ mối nguy do bị chằng buộc [trong bẫy rập], cho nên được loài chim t́m giùm đất an táng tốt đẹp[117]. Huyện lệnh họ Phan lập lệnh cấm giăng lưới bắt cá trên sông hồ, lúc bị đổi đi trấn nhậm nơi khác, thủy tộc khóc gào đau xót[118]. Cụ Đạo Tín cứu con vật sắp bị giết bởi ngu dân để cúng tế, điềm lành ứng hiện, trời tuôn mưa ngọt[119]. Ngài Tào Khê (Huệ Năng) giữ lưới thợ săn, đạo thống vượt trỗi Thần Châu (Trung Hoa). Chim sẻ được giải cứu, bèn ngậm ṿng đến báo ân. Cáo có thể vào giếng truyền trao đạo thuật[120]. Cho đến trường hợp thân tàn được sống, bám trên vách trắng để nghe kinh; cầu được sống ở nơi hoạn nạn, hiện thân hoàng y báo mộng[121]. Hễ thí đều có báo ứng, chẳng phải là chuyện không có bằng chứng, [những chuyện ấy được] chép trong sách vở, rạng ngời tai mắt. Xin nguyện khắp mọi người, hễ thấy những con vật, hăy phát tâm từ bi, bỏ ra tiền tài chẳng kiên cố[122], để làm chuyện thuận lợi, hoặc là tạo ân giúp đỡ nhiều mạng, tích lũy âm công to tát. Nếu ban ơn cho một con trùng, có lẽ nào cũng chẳng phải là một việc thiện ư? Nếu tháng ngày tích lũy tăng dần, thực hiện rộng răi, phước sẽ cao ṿi vọi, ḷng Từ đầy ắp nhân gian, tiếng thông thấu cơi trời, dẹp sạch làu oán chướng, nhiều phước đức sẽ tụ tập trong kiếp này, vun bồi, chất chứa thiện căn, những điều may mắn lan sang đời khác! Nếu lại c̣n giúp [những con vật mắc nạn ấy] xưng niệm Phật hiệu và tụng kinh văn, v́ chúng hồi hướng Tây Phương, khiến cho chúng được vĩnh viễn ĺa khỏi ác đạo. Ôm tấm ḷng càng to, gieo bồi đức càng sâu. Đạo nghiệp nhờ đó mà chóng thành, sẽ sanh về phẩm vị thù thắng nơi đài sen!

 

          (Chánh văn) Nguyện nhân hữu thất, hủy nhân thành công.

          (正文)願人有失。毀人成功。

          (Chánh văn: Mong cho người khác phạm sai lầm, hủy hoại sự thành công của người khác).

 

          Người khác phạm sai lầm hay thất bại, đó là điều bất hạnh. Chẳng xót thương mà c̣n ngược ngạo mong cho họ [gặp phải]; đấy chính là vui sướng khi người khác mắc họa! Những kẻ đă coi tai họa là chuyện đáng vui thích, há tai họa không theo sát họ ư? Như vậy là sự thất bại chẳng giáng xuống người khác, mà đâm ra rơi vào chính ḿnh! Người dẫu chí ngu, cũng sẽ chẳng làm như thế!

          Lư Sĩ Hành vâng lệnh đi sứ Cao Ly, Du Anh làm phó, những tiền bạc, vải vóc thu được, [Sĩ Hành] đều giao cho Du Anh. Du Anh sợ [tiền bạc, vải vóc của chính ḿnh do] vượt biển sẽ bị ướt, đem hết những đồ vật của Sĩ Hành để dưới đáy thuyền, đem đồ vật của chính ḿnh phủ lên trên. Chẳng ngờ gặp gió to, thủy thủ xin quăng bớt những vật chở theo. Trong lúc bối rối, họ tiện tay nắm được vật ǵ bèn quăng vật đó. Đến khi gió lặng, kiểm điểm những vật đă ném đi th́ toàn là đồ của Du Anh! Những đồ vật của Sĩ Hành đều ở đáy thuyền, chẳng mất một vật nào! Có ư niệm riêng tư giống như vậy, kẻ nào chẳng có? Đều là do chẳng thể b́nh đẳng vậy! Kinh Niết Bàn dạy: “Các người tu hành hăy nên lấy sáu pháp trí lực b́nh đẳng để thâu nhiếp, chế ngự tự tâm, ắt phải sao cho trong lúc vận dụng bèn b́nh đẳng đối với hết thảy”. Thiệu Khang Tiết có thơ rằng:

          Mỗi nhật thanh thần nhất chú hương,

          Tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương,

          Đản cầu xứ xứ điền ḥa thục,

          Duy nguyện nhân nhân thọ mạng trường.

          Quốc hữu hiền thần an xă tắc,

          Gia vô nghịch tử năo gia nương,

          Tứ phương ninh tĩnh can qua tức,

          Ngă nhược bần thời dă bất phương.

          (Mỗi sáng ta đều thắp nén hương,

          Tạ trời, tạ đất, tạ quân vương,

          Chỉ mong khắp chốn mùa màng tốt,

          Chỉ nguyện người người thảy mạng trường.

          Nước có hiền thần yên xă tắc,

          Nhà không nghịch tử, mẹ cha vui,

          Bốn phương yên ổn, không chinh chiến,

          Ta dẫu nghèo hèn, quản ngại chi)

          Do vậy biết tâm của tam giáo đều b́nh đẳng. Lũ chúng ta phải nên có tâm lượng ấy, khắc chế tư dục, đối trị cái tâm. Chớ v́ niệm nào cũng nghĩ đến lẽ riêng tư mà tạo ác tầng tầng!

          “Hủy” () có hai nghĩa, một là hủy hoại, hai là hủy trấm (毀譖, vu vạ, miệt thị, phỉ báng). Kẻ muốn lập công, bất luận lớn, bé, ai nấy đều dốc sức mong đạt thành công, nhưng ta ắt ngăn trở, hủy hoại, tâm thuật đúng là như rắn, rết!

          Đời Tống, ông Chân Tây Sơn[123] nói: Nếu ai nghe một điều thiện của kẻ khác, hăy nên khen ngợi, phụ họa. Nghe các điều ác, ắt dốc sức che giấu, khiến cho kẻ ấy thành công, [có như vậy th́ mới] chẳng đến nỗi sai sót về mặt đức hạnh. Cổ nhân có tấm ḷng như thế, huống ǵ đối với người đă thành công mà c̣n hủy báng ư?   

          Đời Minh, Tăng Tiễn là Tổng Đốc Tam Biên[124] muốn chiếm lại vùng Hà Sáo. Nghiêm Tung[125] đố kỵ sự thành công của ông, ngược ngạo gièm siểm Tăng Tiễn và Hạ Ngôn tự tiện gây hấn nơi vùng biên cảnh, khiến cho họ đều bị giết tại chợ Tây [thành Bắc Kinh]. Về sau, Nghiêm Tung chết, con trai hắn là Thế Phiên bị chặt đầu.

          Đời Tống, Tuyên Kỳ Anh tánh hiểm độc. Hàng xóm xây nhà sắp xong, họ Tuyên đố kỵ, đến đêm bèn qua chặt chân cột. Bỗng kèo nhà rơi xuống, đè chết hắn. Than ôi! Hủy người khác là tự hủy đó thôi! Người thời nay đối với mỗi chuyện, mỗi vật, hoặc là cho đến giao dịch, vay mượn v.v… thường nói cho sướng mồm, hủy hoại sự thành công của người khác, là cái tâm như thế nào vậy? Ta biết những kẻ như thế ấy chỉ tự hủy chính ḿnh mà thôi! Phàm là những người lương dân, hăy nên răn nhắc lẫn nhau!

 

          (Chánh văn) Nguy nhân tự an, giảm nhân tự ích.

          (正文)危人自安。減人自益。

          (Chánh văn: Khiến cho người khác lâm nguy để chính ḿnh an ổn. Giảm trừ lợi ích của người khác để chính ḿnh được lợi).

 

          Ngàn kinh vạn điển chỉ luận định một chữ Tâm. Nay cùng kẻ khác ở trong cảnh họa hoạn, rốt cuộc muốn cho kẻ khác đương đầu nguy hiểm, c̣n ta được yên thân ư? Trước hết là đă chôn vùi bản tâm vậy!

          Ông Vu Thiết Tiều nói: - “Bỏ nguy, t́m an” là lẽ thường t́nh, nhưng trời ghét thói ấy, v́ sao? Chẳng phải là ghét kẻ tự [t́m cách] an thân, mà là ghét kẻ khiến cho người khác gặp nguy hiểm. Đối với những t́nh cảnh phải trải qua trong đời người, có ai mà chẳng biết phán đoán là an hay nguy? Nếu chỉ biết an ổn cho riêng ḿnh, chẳng đoái hoài kẻ khác gặp nguy hiểm, ư niệm giết chóc đă ẩn sẵn trong ấy, sẽ có thể là không ǵ chẳng làm! Nếu mưu kế ấy (mưu kế đùn đẩy người khác hứng chịu hiểm nguy) thực hiện được, ắt kẻ quỷ quyệt sẽ đều gối cao [yên giấc không áy náy], mà kẻ thật thà sẽ chẳng có đường nào sống sót được, há có phải là tấm ḷng của trời đất hay chăng? Huống hồ, lẽ an nguy như chiếc ṿng luôn xoay chuyển, rốt cuộc chẳng để cho kẻ ôm ḷng riêng tư mà ḥng hiểu biết xuyên suốt được. V́ thế, có khi chỗ hướng đến [ḥng tránh hiểm nguy] lại đâm ra là nơi hiểm địa, c̣n chỗ mong né tránh đâm ra lại là chỗ bằng phẳng. Nếu b́nh tâm nơi [sự lợi hại giữa] ta và người, đến bất cứ nơi đâu mà chẳng phải là [vững vàng như đi] trên tảng đá ư?

          Đời Tống, Lư Tự [được phái về] trông coi Vĩnh An quân[126]. Khi ấy, bọn cướp to lớn mới dấy lên, hắn sợ mắc họa, bèn quỷ quyệt tiến cử người bạn là Phạm H́nh thay thế. Do vậy, Phạm H́nh cai quản Vĩnh An, Lư Tự được rời khỏi chức ấy. Về sau, cả nhà Phạm H́nh bị bọn cướp làm hại. Không lâu sau, Lư Tự được điều về trông coi Lâm An, trên đường gặp cướp, cũng chết cả nhà. Than ôi! Thấy người khác gặp nguy, bậc quân tử c̣n nghĩ cách cứu giúp, há nên nhẫn tâm để người khác gặp nguy hiểm ḥng ta được an ổn ư? Đấy là hành vi của phường khắc bạc, tiểu nhân, mắc họa to nhất!

          Trong thiên hạ, chỉ tạo lợi ích cho người khác th́ chính ḿnh mới có thể đạt được lợi ích. Nếu chẳng có ích cho người khác, chỉ kiếm lợi ích cho riêng ḿnh, c̣n chẳng phải là lợi ích thật sự, huống hồ kẻ giảm tổn người khác! Đó gọi là “chỉ cốt sao ta giàu có, chẳng màng kẻ khác nghèo nàn”.

          Ông Vu Thiết Tiều nói: - Người thời nay đối với những chuyện tiền bạc, vải vóc, ruộng nương, nhà cửa v.v… thường làm như thế, há có biết đấy chính là đă riêng vay nợ mà chẳng viết bằng khoán. Tiền lời sẽ ngày càng tăng, sẽ có ngày đến hạn kỳ [phải trả nợ], có ǵ đáng gọi là lợi ích hay chăng?

          Đầu niên hiệu Sùng Trinh đời Minh, có hai người là Giáp và Ất chơi thân với nhau. Gặp khoa thi vơ, do mỗi nơi chỉ có thể tiến cử một Vơ Cử Nhân, Giáp bèn nhờ cậy huyện lệnh, Ất trông cậy quan Tư Lư. [Theo quy định, khi được tuyển, ứng viên] phải biếu xén tạ ơn mỗi chỗ năm mươi lạng. Giáp suy đoán: Danh vọng của huyện lệnh khá nhẹ, ắt việc chẳng thành; quan Tư Lư danh vọng cao trọng, chuyện ắt thành”. Do vậy, hắn muốn bóc rỉa Ất để làm lợi cho ḿnh, lập kế bảo Ất: “Hai người bọn ta đồng tâm, đáng nên đồng cam cộng khổ. Nếu [quan trên] chỉ tuyển lấy một người trong hai đứa ḿnh, chớ luận ta hay ngươi [được tuyển], đều phải chia đôi phần lễ biếu tạ [quan của người không được tuyển]”. Ất đồng ư. Tới khi yết bảng, người nhờ cậy quan Tư Lư không được tuyển, c̣n người cậy quan huyện được chọn. Do món tiền dành để biếu xén đều ở chỗ Ất, Giáp chẳng thể nuốt lời, chỉ đành uất nghẹn mà thôi! Giáp muốn lợi ḿnh, đâm ra làm lợi cho Ất[127]. Từ chỗ này suy ra, phàm quan lại muốn bóc lột dân, nhà giàu bóc lột lợi tức [từ người nghèo], cứ mong căng đẫy túi ḿnh, chẳng có kẻ nào đâm ra không bị tổn hại!

 

          (Chánh văn) Dĩ ác dịch hảo, dĩ tư phế công.

          (正文)以惡易好。以私廢公。

          (Chánh văn: Dùng thứ xấu thay cho đồ tốt [trong khi giao dịch]. V́ ḷng riêng tư mà phế trừ lẽ công).

 

          “Lấy thứ xấu thay cho đồ tốt”: Như dùng sắt thay cho vàng, dùng đá thay cho ngọc, lấy vải thay cho lượt là v.v… Chuyện ấy chẳng đáng cho người thông đạt nh́n vào cười x̣a một tiếng, nhưng cái tâm ấy đă gần với [cái tâm] trộm cắp vậy. Tứ Tổ nói: “Cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu từ tâm khởi”. Nếu cái tâm chẳng cưỡng chia danh tự (tức là tâm có phân biệt), vọng t́nh khởi từ chỗ nào? Pháp sư Nguyên Hiểu từ Đông Hải (Đại Hàn) đến đất Đường (Trung Hoa) t́m thầy [xin học đạo], ban đêm ngủ nơi mộ hoang. Do khát, muốn uống nước. Sư trông thấy cạnh chỗ ngồi có một ḍng nước trong, vốc uống, thấy [vị nước] rất ngọt. Tới sáng, nh́n lại th́ ra là nước chảy từ tử thi vừa chết! Khi ấy, Sư ghê tởm ói ra, bèn hoát nhiên đại ngộ, nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, tốt hay xấu là do ḿnh, liên quan ǵ đến nước!”

          Đời Tống, ông Tô Đông Pha cất giữ, nâng niu một viên ngọc đẹp. Có gă Chương Tŕ[128] đ̣i xem, ngầm lấy đá Yên Sơn tráo vào. Đông Pha chẳng biết, khi bị điều tới Hoàng Châu, mở ra xem, mới biết là Chương Tŕ đă đánh tráo, chỉ đành cười khan. Không lâu sau, Chương Tŕ bị lưu đày chết ở Thai Châu, chẳng biết mỹ ngọc lại về tay ai?

          “Tư” () là nói theo tâm t́nh, Công là nói theo Lư. Do sự mừng, giận, ân, oán trong ư riêng mà phế trừ lẽ đúng sai theo công đạo. Trên là chẳng thể phân biệt trung, nịnh, ắt triều đ́nh mắc họa chia bè kết đảng. Dưới là tà chánh chẳng thẩm định, ắt trong ṿng bạn bè, làng nước, sẽ có mối trở ngại kéo bè kết cánh công kích những kẻ khác ư ta! Nặng hơn nữa là do yêu ghét chẳng thích đáng, ắt người cùng một nhà như cha với con, cốt nhục chí thân cũng trở thành một lũ oán hận nhau! Thói tệ trong ṿng t́nh cảm giữa con người với nhau, không ǵ quá đáng hơn chuyện này! Bất luận hiền, ngu, sang, hèn, ai ấy đều mắc phải căn bệnh này, chỉ là nghiêm trọng hay không mà thôi! Người biết thói tệ này, hăy suy xét lư để tiêu trừ tánh thiên chấp, lắng ḷng để hóa giải thành kiến trong tâm. Đó là người có đại học vấn, có đại bản lănh vậy.

          Đời Tống, Triệu Biện và Phạm Trấn do bàn luận sự việc [trong triều chánh] mà có hiềm khích. Tới khi Vương An Thạch làm Tể Tướng, oán hận Phạm Trấn [trong quá khứ] đă tâu tŕnh những lời lẽ công kích hắn, thừa dịp vua hỏi [ư kiến của hắn] về Phạm Trấn, bèn tâu: “Triệu Biện biết rơ người này!” Vua hỏi Triệu Biện, Triệu Biện thưa: “Phạm Trấn là bậc trung thần!” Vua hỏi: “V́ sao biết là trung?” Triệu Biện tâu: “Khi Nhân Tông bị bệnh, Phạm Trấn là người đầu tiên xin sách lập Hoàng Thái Tử để yên định xă tắc, đă dâng sớ mười chín lượt đợi mạng lệnh trong suốt một trăm ngày, râu tóc đều bạc phơ. Chẳng phải là trung thần th́ là ǵ?” Khi đă lui ra, Vương An Thạch trách: “Chẳng phải là ông với hắn có hiềm khích hay sao?” Triệu Biện đáp: “Há dám v́ hiềm khích riêng mà phế trừ công đạo!”

          Huyện lệnh Lạc Dương là Khổng Dực đốt lửa trước sân, hễ có thư từ nào nhờ cậy đều vứt vào lửa, nói: “Quan huyện gần dân nhất. Trên con đường làm quan có khá nhiều kẻ nhờ vả, cứ làm theo, ắt dân sẽ bị hại. Chẳng làm theo, không tránh khỏi chuốc lấy oán cừu. Chỉ có cách thư gởi tới không mở, ném ngay vào lửa. Ắt là nơi ta chẳng biết là chuyện như thế nào? Mà nơi họ cũng chẳng thấy ta ngỗ nghịch. Đúng hay sai là do dân, phán xử công bằng đúng pháp! Sao đến nỗi v́ riêng tư mà phế trừ [công đạo] ư?” Về sau, một đứa con của ông, mười chín tuổi đă đỗ Tiến Sĩ.       

          Ngưỡng Tư Trung tinh thông thuật Địa Lư. Có lần v́ [một vị quan chức] hiển đạt mà chọn được cuộc đất rất tốt, ông vừa mới điểm huyệt[129], bỗng trời đổ mưa rào, bèn xuống núi. Ban đêm, ông Ngưỡng nằm mộng, thấy thần bảo: “Đừng cho hắn cuộc đất này. Hắn làm khảo quan (quan giám khảo trong trường thi), đă ăn của đút để chấm đậu ba sĩ tử, sẽ mắc họa nơi cơi âm. Ông cho hắn cuộc đất này, sợ rằng trái nghịch ư trời”. Ông Ngưỡng tỉnh giấc, bèn mượn cớ quay về. Chẳng lâu sau, do tranh chấp cuộc đất tốt, gă quan chức ấy bị dính vào kiện tụng, chưa chôn [tổ phụ vào cuộc đất tốt nào cả] mà nhà cửa đă nghèo nàn, suy sụp!

 

          (Chánh văn) Thiết nhân chi năng, tế nhân chi thiện.

          (正文)竊人之能。蔽人之善。

          (Chánh văn: Trộm cắp tài năng của kẻ khác. Che lấp điều lành của người khác).

 

          “Thiết” (, trộm cắp) có nghĩa là chẳng phải là chính ḿnh có, mà lấy [làm của riêng ḿnh]. Như trộm văn của kẻ khác, coi như chính ḿnh soạn ra, trộm mưu của người ta, coi như do chính ḿnh hoạch định, cướp công của kẻ khác, coi như chính ḿnh hoàn thành, trộm cắp những lời dạy bảo của thầy coi như kiến thức của chính ḿnh, đều là những chuyện lừa ḿnh dối người, ắt sẽ bị quở phạt.

          Đời Châu, Lương Sơn bị lở, vua Tấn (Tấn Cảnh Công) cho vời đại phu Bá Tông. Trên đường [vào gặp vua nước Tấn], Bá Tông gặp một người phu đẩy xe, hỏi: “Ngươi có nghe tin ǵ hay không?” Thưa: “Lương Sơn bị lở, khiến cho nước sông bị nghẽn không chảy được, [nhà vua] cho vời đại phu Bá Tông [vào cung thương lượng]”. Bá Tông hỏi: “Nên làm như thế nào?” Thưa: “Vua hăy dẫn quần thần [đến chỗ núi lở] mà khóc lóc, coi như là đă tế bái, nước sông sẽ chảy xuôi được”. Bá Tông đem lời ấy tâu với vua, [vua thật sự làm theo], nước sông chảy trở lại. Vua Tấn hỏi Bá Tông: “V́ sao ngươi biết?” Bá Tông thưa: “Thần tự biết”. Khổng Tử nghe chuyện, bảo: “Bá Tông sẽ không có người nối dơi v́ đă cướp công của người khác”. Về sau, Bá Tông quả nhiên mắc hại, mất hẳn chức khanh [đại phu]. Hễ ăn trộm một lời của kẻ khác, c̣n bị quở phạt như thế, như vậy th́ cũng có thể biết [tội ác] lớn hơn [sẽ có quả báo như thế nào!]

          “Tế” () là che, khiến cho chẳng tỏ lộ. Kinh Phật dạy: “Một chữ Thiện có thể thành tựu hết thảy các hạnh nguyện của người thế gian mạnh nhất”. V́ thế, đối với người có một lời nói, một hành vi tốt lành, hăy nên biểu dương, chỉ sợ [ngôn hạnh tốt đẹp ấy] chẳng được tỏa rạng. [Làm như thế], không chỉ là tạo thành tiếng thơm cho người ấy, mà c̣n có thể khơi gợi thiện niệm của người khác. Những người lan truyền lời khuyên ấy, sẽ dấy khởi thật nhiều [người khác làm theo], đấy cũng là chuyện đáng vui mừng. Hiềm rằng [điều thiện ấy] bị che lấp! Kẻ che lấp ắt trong tâm chẳng có mảy may yêu thích điều thiện, lại c̣n mang ư niệm ganh ghét. V́ thế, chẳng muốn hiển lộ điều tốt lành của người khác, kẻo điều ác của chính ḿnh bị phô bày. Đấy chính là kẻ bất tường trong thiên hạ vậy!

          Đời Tấn, Trần Thọ soạn bộ Tam Quốc Chí, bảo Đinh Lương Châu rằng: “Nếu ông cho tôi vay một ngàn hộc gạo, tôi sẽ viết tiểu sử đẹp đẽ về cha của ông”. Lương Châu chẳng đáp ứng lời xin của ông ta, Trần Thọ bèn chẳng viết về cha của Lương Châu. Bộ sử hoàn thành, mọi người đều chê trách Trần Thọ [có ḷng riêng tư]. Về sau, Trần Thọ mắc hại.

          Có hai người học tṛ ở Giang Âm tu chỉnh huyện chí. Bỗng thấy [trong bản huyện chí cũ] có ghi chuyện hai tiết phụ (người đàn bà trinh tiết), [cho là] tầm thường, chẳng lạ lùng ǵ, bèn gạt bỏ. Đạo sĩ ở miếu Thành Hoàng ban đêm nghe tiếng hai người đàn bà khóc lóc, tố cáo: “Bọn thiếp suốt đời khắc khổ giữ tiết hạnh, chết rồi được chép tiểu sử trong huyện chí. Nay vô cớ bị người ta gạt bỏ”. Thần bảo: “Hai gă học tṛ ấy lẽ ra sẽ đỗ Hoàng Giáp[130], do đă che lấp sự tiết nghĩa của người khác, sẽ bị tước bỏ lộc ấy”. Hai người đàn bà khóc lóc bái tạ, ra đi. Hai người học tṛ nghe chuyện, bài xích là [đạo sĩ] nói dối. Năm sau, quả nhiên do kết quả thi cử quá kém, bị cắt bỏ trợ cấp [dành cho] Lẫm Sanh, đều cùng phẫn uất mà chết.

 

          (Chánh văn) H́nh nhân chi xú, kiết nhân chi tư.

          (正文)形人之醜。訐人之私。

          (Chánh văn: Phô bày những điều xấu của người khác. Rêu rao chuyện riêng tư của người ta).

         

          Đối với hạnh xấu của kẻ khác, đáng gọi là “nói ra sẽ khiến cho người ta bị nhục nhă, chớ nên để người khác nghe thấy”, ngươi lại phô bày, bộc lộ, ắt ḷng đôn hậu bị tổn thương, âm chất cũng bị tổn hại theo. Bàn Sơn Ngữ Lục[131] có đoạn ghi: “Người tu hành kỵ nhất là nói chuyện đúng, sai, tốt, xấu của kẻ khác. Thậm chí đối với hết thảy sự đời, nếu chẳng liên can đến chính ḿnh, miệng chớ nên nói, tâm đừng nên nghĩ. Chỉ cần miệng nói, tâm nghĩ, tức là chính ḿnh đă bị mê muội. Nếu chuyên luyện tâm, sẽ luôn xét lỗi ḿnh, há có công sức để quản chuyện trong nhà kẻ khác? Nát xương, tan thân, chỉ cốt sao tâm đừng động. Thâu liễm tự tâm, thời thời khắc khắc tham cứu, lănh hội chỗ rốt ráo nhất nơi bổn mạng nguyên thần của chính ḿnh. V́ thế, xét theo đó, con người hăy nên gấp rút đối trị chính ḿnh, niệm nào cũng sợ thân tâm của chính ḿnh phạm lỗi, c̣n rảnh đâu để quản chuyện người khác ư?”

          Trong đêm tân hôn của Lưu Trọng Phụ, có gă trộm vào nhà. Ông hoảng hốt, trông ra, [thấy gă trộm] chính là kẻ ông nhận biết, bèn nói: “Ngươi nghèo hả?” Lấy hai món trang sức cho nó. Lại hứa: “Ta trọn chẳng nói, ngươi đừng tái phạm”, bèn thả cho nó đi. Về sau, bà vợ hỏi tên tuổi của gă đó, ông bảo: “Ta đă hứa không nói, sao cứ hỏi miết?” Ông mất rồi, có một người trước kia là phường vô lại, về sau là người làm lành, mặc tang phục[132], khóc lóc hết sức bi thương. Người nhà nghi kẻ ấy là gă trộm khi trước. Cháu ông là Toại, làm quan đến Thượng Thư, thụy hiệu là Trang Tương.

          Có thầy xem tướng nói Tịch Khuông sẽ chết vào năm nọ, Tịch Khuông rất lo âu. Ngẫu nhiên gặp người bàn chuyện trong buồng the, đối với người ấy, Tịch Khuông biểu lộ vẻ tức giận, khiến cho người tán chuyện có ḷng hổ thẹn ngưng nói. Chuyện ấy bèn được ẩn đi. Tới năm ấy (năm tiên đoán sẽ bị chết), Tịch Khuông vẫn không sao. Về sau, ông làm quan tới chức Đài Phụ[133]. Cổ nhân nói: “Trong khi tụ tập tṛ chuyện, ắt có đạn bắn trúng kẻ khác, riêng ta ngồi ngay ngắn, im lặng để tiêu trừ”. Đấy chính là lời dạy đừng nói [chuyện xấu của kẻ khác] vậy. Như ông Tịch có thể coi là gương mẫu!

          Nhiếp Tùng Nghi thích cḥng ghẹo. Hễ kẻ khác có hành vi ǵ xấu, ắt rêu rao bằng thơ phú, ca dao, khiến cho chuyện được lan truyền rất rộng, khó thể giấu diếm. Thậm chí phá hoại hôn nhân của người khác, khiến kẻ trong khuê môn bị mang nhục, chia cắt quyến thuộc của kẻ khác. Về sau, hắn mắc tội, phải bị đày, chết ở Đăng Châu. Than ôi! Cái tội rêu rao điều xấu, những chuyện khác c̣n có thể dung thứ, chứ chuyện trong khuê môn, liên lụy càng trọng đại. Gièm chê, cười cợt, đồn đại, sủa hùa theo bóng, ta đă tạo thành cái nhân [đọa trong địa ngục] Rút Lưỡi. Nhất là họ lại ôm nỗi sỉ nhục mà thác, cốt nhục chia ĺa, con cháu lănh vết nhơ, liên lụy chẳng bé! Oan nghiệt to tát, khó thể siêu được!

          Trịnh Tuyên tánh trầm mặc, ít nói. Ông từng nói: “Trong chốn đông người chen chúc, chớ nên lớn tiếng mặc t́nh nghị luận. Không chỉ là chuốc lấy sự ghen ghét, mà c̣n có thể tổn thương người khác. Há chẳng có người trót đă làm chuyện xấu trong ấy hay chăng? Bàn luận đến họ, họ chẳng nói, nhưng trong tâm bực bội. Như đối với quan bèn nói phải thanh bạch, ắt kẻ chẳng thanh bạch sẽ giận. Đối với bạn mà nói thẳng, ắt kẻ chẳng thẳng thắn sẽ ghét. Họ cho là ta cố ư làm như vậy. Chỉ nên ít nói, vẻ mặt ḥa nhă, hễ hỏi bèn đáp, như thế th́ được”. Lời ấy đă đạt được đạo ứng xử sâu xa. V́ thế, chép thêm lời này.

          Chỉ trích, công kích người khác th́ gọi là Kiết (). Tư () là chuyện ám muội, chẳng quang minh chánh đại. Con người chẳng phải là thánh hiền, ai mà chẳng có chuyện kín đáo, riêng tư [chẳng thể nói ra]. Ta vốn không nên soi mói, t́m ṭi. Nếu ḍm ngó chuyện trong chốn riêng tư, rêu rao rộng khắp, khiến cho kẻ ấy không có chỗ dung thân, th́ là hiểm độc nhất, người người oán trách, gieo họa chẳng nhỏ, hăy nên kiêng dè!

          Tô Tụng [làm quan] ở Hàng Châu. Có kẻ mách lẻo chuyện riêng tư, ông không nghe. Về sau, kẻ ấy làm ngôn quan (gián quan, quan viên chuyên trách việc đàn hặc, can gián) do ôm hận mà [đối trước thượng cấp] bêu xấu ông. Có người khuyên ông hăy viết thư tŕnh lên cấp trên chuyện [mách lẻo] trước kia của gă ấy, ông nói: “Công kích chuyện riêng tư của kẻ khác, há ta nên làm ư?” Hư Tĩnh Chân Nhân[134] nói: “Hễ giấu lỗi, che sai, chính ḿnh chớ nên có; nhưng đối với người khác, chẳng thể không làm như thế. Ấy là v́ che giấu lỗi của chính ḿnh th́ điều thiện chẳng đạt được; che giấu cho người khác th́ là chuyện đức dầy”.

          Vào thời Vũ Tắc Thiên nhà Đường, cấm ngặt giết mổ. Quan Thập Di[135] Trương Đức sanh con trai, lén giết dê, tụ họp đồng liêu [nhậu nhẹt]. Đỗ Túc giấu [một miếng thịt, cầm đi] tố cáo. Hôm sau, Vũ Hậu (Vũ Tắc Thiên) hỏi Trương Đức: “Nghe nói khanh sanh con trai rất vui?” Trương Đức bái tạ. Vũ Hậu: “Từ đâu mà có thịt vậy?” Trương Đức khấu đầu nhận tội. Vũ Hậu nói: “Trẫm cấm giết mổ, [lệnh cấm ấy] chẳng áp dụng cho các trường hợp cát (cưới hỏi, ăn mừng), hung (ma chay). Từ nay có mời khách th́ cũng cần phải chọn người!” Đưa tờ biểu tố cáo của Đỗ Túc cho [Trương Đức] xem. Đỗ Túc hết sức hổ thẹn, cả triều đ́nh muốn nhổ vào mặt hắn! Về sau, Đỗ Túc dần dần bị suy bại.

          Vào đời Lương, ông nội của Đáo Khái là Đáo Ngạn Chi từng gánh phân để nuôi thân. Đến khi Đáo Khái làm Lại Bộ Thượng Thư, gă Hà Kính Dung có chuyện nhờ cậy, chẳng được đáp ứng, bèn nói với người khác: “Cho đến đời Khái Thượng Thư vẫn c̣n sót lại mùi thối, nay bèn học đ̣i làm bậc quư nhân”. Đáo Khái nghe nói, hết sức căm hận. Em trai của Đáo Khái là Đáo Hiệp, một hôm, hỏi Lưu Hiếu Xước: “Tôi rất muốn mua đất của hàng xóm bên phía Đông, nhưng người chủ làm khó dễ, làm sao đây?” Hiếu Xước nói: “Chỉ cần để mấy xe phân bên cạnh nhà hắn để làm khổ hắn, hắn sẽ dọn đi”. Hiệp tức giận, rốt cuộc dùng kế để hại [Hiếu Xước]. Than ôi! Do một lời nói mà tổn thương ḥa khí trong trời đất, do một chuyện mà ươm thành mối họa chung thân. V́ thế, chúng ta sống trong cơi đời, chớ nên nói lời kích động, châm biếm khiến cho kẻ khác oán sâu tận cốt tủy. Ngạn ngữ có câu: “Đánh người đừng đánh đầu gối; nói với người khác, đừng nói sự thật”, có lư lắm!

         

          (Chánh văn) Hao nhân hóa tài.

          (正文)耗人貨財。

          (Chánh văn: Làm cho kẻ khác hao tổn tài vật).

 

          Đấy là nói đến hạng người gian ác, tiểu nhân mê hoặc kẻ ngu si, dụ dỗ họ làm những chuyện chơi gái, cờ bạc, đấu đá, thưa kiện, luyện đan v.v… để ḿnh kiếm lợi từ đó. Hạng con em không nên thân bị hạng người này làm cho ngu muội, chẳng đoái tưởng cha ông sáng lập cơ nghiệp gian nan. Một mai đến lúc phá sạch [gia sản], nhà tan, thân chết, truy cứu nguyên do th́ là lỗi của ai? Những kẻ ấy có tránh khỏi ác báo [v́ dụ dỗ người khác hao tổn tài vật] hay chăng?

          Văn Kỳ là người đất Thục, cậy vào thuật luyện đan, những người quyền quư đều bị hắn lường gạt. Một thương gia giàu có tên là Lư Thập Ngũ bị mê hoặc bởi thuật luyện đan của Văn Kỳ, ba năm sau, tan nhà nát cửa, thắt cổ chết. Văn Kỳ lại đến Kiếm Châu, thuê một căn nhà để luyện thuốc. Ngẫu nhiên bị hỏa hoạn, cháy lan một vùng. Văn Kỳ chạy vào núi trốn, bị thú dữ đuổi ra, hắn bị bắt giải lên quan. Quan theo đúng luật xử trảm!

          Vào đời Minh, Từ Tŕ giàu có, tàn bạo, muốn chiếm nhà của Từ Bát, bè sai người dụ con ông ta ăn chơi phóng đăng, mắc nợ rất nhiều, quả nhiên chiếm được căn nhà ấy. Về sau, hai con và năm cháu của Từ Tŕ đều nhiễm bệnh. Đồng cốt nói là do âm hồn Từ Bát quậy phá. Từ Tŕ kinh sợ, làm trai đàn, đến miếu Thành Hoàng cầu giải cứu. Một người ăn mày đón hắn, thưa: “Ông chẳng phải là Từ Tŕ chứ? Đêm qua, tôi ngủ tại chỗ vắng của miếu. Có người hướng về thần gọi tên ông, [tố cáo] ông đă hại kẻ ấy. Thần cũng hết sức giận dữ”. Từ Tŕ kinh hoảng, trở về rồi chết. Con cháu chẳng có ai sống sót.

          Thanh lâu [là nơi chốn] để đền trả nghiệp nhân thiếu nợ. Bọn gái đẹp thật sự là biển oan nghiệt phá nhà! Người thời nay đều biết [đạo lư ấy], vừa chung chạ với thể chất nhơ bẩn ấy, ghẻ độc phát ra, ngũ quan đổi chỗ, gây hại tới ba đời. Do vậy, cớ sao người hiểu biết mà lại đem thân ḿnh ra thử, chẳng tránh né?

          Có người họ Tiền ở Vô Tích, kết bè lập đảng gồm mười mấy người, dụ dỗ con em nhà giàu. Chúng sử dụng dược đổ (藥骰, xúc xắc (hạt xí ngầu) rỗng ruột, bên trong đổ thủy ngân lỏng để kẻ cờ gian bạc lận có thể khống chế muốn đổ ra mấy điểm tùy ư) để gieo súc sắc, hễ đánh bạc với ai đều thắng. Về sau, bọn chúng so tài đánh bạc với một thiếu niên, thắng tới mấy chục vạn. Bỗng những con xúc xắc văng ra khỏi bồn, họ Tiền ngă lăn đùng ra đất, miệng và mũi đều tuôn máu mà chết. Khi ấy, có một đạo sĩ thỉnh thần tướng, Quan Thánh giáng đàn, chỉ dạy: “Ta đă trừ kẻ hung ác nơi đó, lại c̣n quăng ba con xúc xắc lên xà nhà hắn”. Đạo sĩ liền hỏi thăm, t́m tới nhà ấy, kịp lúc thấy mọi người c̣n đang xúm xít kinh ngạc, bèn bảo họ bắc thang lên xem [trên xà nhà, quả nhiên] t́m được [ba con xúc xắc ấy]. Do vậy, đạo sĩ bèn kể tường tận lời Quan Thánh chỉ dạy. Lũ ác hết hồn! [Sau đó], chúng nối tiếp nhau mắc bệnh dịch mà chết!

          Lại có gă Đinh Thực được thầy tướng số từng đoán sẽ đỗ đầu thiên hạ. Về sau, y gặp lại ông thầy tướng ấy, ông ta kinh hăi nói: “Ông đă làm chuyện ǵ vậy, [tước lộc] đă mất sạch cả rồi!” Đinh Thực suy nghĩ, [nhận biết chính ḿnh] đă từng giở tṛ bạc bịp, thắng được sáu trăm vạn. Do vậy, bèn thật t́nh kể lại. Thầy tướng số nói: “Là v́ lẽ ấy!” Họ Đinh hết sức hối hận, cấp tốc trả lại món tiền đă thắng để chuộc tội. Về sau, hắn đỗ gần chót bảng. Hiện thời, khắp nơi đều có kẻ phạm tội này; nhưng hương thân, sĩ tử đều say sưa chuyện này, thật đáng thống hận! Tục ngữ có câu: “Làm tú tài như gái trinh phải sợ người. Làm tiến sĩ như nàng dâu, phải nuôi nấng người khác. Ở trong rừng (đă nghỉ hưu), giống như mẹ chồng phải dạy người khác”. Bọn họ đă chẳng thể dưỡng người, dạy người th́ thôi, lại c̣n muốn làm hại con em kẻ khác, cái tâm như thế nào vậy?

          Đời Minh, ông Mạo Khởi Tông là người huyện Như Cao, tỉnh Giang Tô, từng soạn lời cảnh tỉnh người đời như sau:

          - Tôi thường thấy con cháu nhà quyền quư và giàu có là hạng chẳng ra ǵ, dâm đăng, phóng túng, phí phạm. Hoặc là thân chưa chết, mà tài sản đă ngầm bán cho nhà khác. Hoặc xác thịt chưa lạnh mà kẻ khác đă chia vụn nhà ấy. Người đời trước tiện tặn tích cóp, kẻ đời sau vung văi như bùn, cát. Nhưng những kẻ không ra ǵ ấy quá nửa lại là người thông minh, là do v́ lẽ nào? Ấy là v́ thuở ấy, [người đời trước] đă ra oai, cậy vào mưu mẹo, áp bức, gài bẫy người khác vào chốn lao lung để hao tán tài sản của họ vô số, để tom góp thành của cải cho nhà ḿnh giàu có. Thoạt đầu là tổn hại người khác, về sau là bị người khác phá tán. Tục ngữ có câu: “Có được bất minh, mất đi vừa khéo” chính là nói về chuyện này! Nh́n từ chuyện này, bèn biết người hiện thời bị kẻ khác hao tán [tài sản] chính là kẻ đă hao tán [tài sản của] người khác thuở trước! Tức là kẻ hao tán [tài sản] của người khác trong hiện thời, có kẻ nào chẳng chớp mắt sẽ bị kẻ khác hao tán!

         

Phụ lục mười câu răn dè cờ bạc:

 

          1) Tâm thuật bại hoại. Vừa vào ṣng bạc, sẽ là nơi tranh đoạt lợi lộc. Tính toán trăm kế, luôn là một tấm ḷng tham. Đôi bên đều dùng thủ đoạn triệt hạ nhau, chuyển sanh ác niệm chẳng có cùng tận. Tuy là kẻ chí thân mà cờ bạc với nhau, ắt đều ngầm giở tṛ đen tối. Dẫu là bạn tốt mà trên cùng một chiếu bạc, cũng nghiễm nhiên coi nhau như cừu địch, chỉ cốt sao chính ḿnh thắng bạc, mặc kệ người khác phá sản. Há chẳng phải là tâm thuật hết sức bại hoại ư?

          2) Chôn vùi phẩm hạnh. Phàm là người th́ tốt, xấu, cao, thấp, ai nấy vốn tự khác nhau. Ở trong ṣng bạc, chỉ cần biết tiền nhiều hay ít, há quản ai sang, ai hèn? Ngồi hỗn độn, chẳng tuân theo luân lư, thứ bậc, kẻ tôi tớ cũng biến thành bầu bạn, chẳng phân tôn ty. Nô bộc nghiễm nhiên là anh em, mặc sức cười đùa, xưng hô luông tuồng, há có thể thống ǵ, thành ra phẩm hạnh ǵ?

          3) Tổn thương tánh mạng. Kẻ thắng tùy hứng t́m đến, chẳng phân biệt ngày đêm. Kẻ thua liều mạng quay lại, chẳng màng đói, lạnh. Từ đó trở đi, tinh thần hao tổn, mệt mỏi, ắt đến nỗi tổn hại thân thể, táng mạng. Lỡ mắc nợ khó trả, không mặt mũi nào nh́n nhau, muối mặt, ngậm hờn. V́ thế, dẫn đến lắm chứng bệnh quấn thân, hết cách, cùng đường, đành liều chết cho xong nợ. Đường dẫn đến Uổng Tử Thành là do noi theo ṣng bài mà trở về vậy! Há chẳng đáng thương ư?

          4) Điếm nhục tổ tông. Tặng tiền bạc cho người khác, c̣n bị chê cười là lăng tử ngớ ngẩn. Phá sạch gia sản, than thở đứa con ngu si làm bậy! Chẳng thể khiến cho tổ tiên rạng mày nở mặt, lại ngược ngạo điếm nhục ḍng họ, suy bại gia đ́nh. Xóm giềng đều đổ lỗi cho tổ tông, ắt cha ông đă chết mà c̣n ngậm oán!

          5) Đánh mất sự dạy dỗ trong gia đ́nh. Chuyện cờ bạc dụ dỗ dễ dàng nhất. Trong ṿng gia đ́nh, thấy nghe tột bậc thân thiết. Thông thường [cha anh] giáo huấn con em đều bảo phải học theo gương tốt. Nhưng trộm thấy tại ṣng bài, cha anh c̣n bảo [con em] hăy theo quy cách của chính ḿnh. Cha con cờ bạc, anh em cờ bạc, tôi tớ cờ bạc, đùa bỡn với pháp tắc như thế th́ thành ra gia pháp kiểu nào đây? Ban ngày đánh bạc, đêm thâu đánh bạc. Đánh bạc trong pḥng kín, phong khí bài bạc ươm thành dâm phong, gia giáo bại hoại quá đỗi, đáng nguội lạnh cơi ḷng!

          6) Phá tan gia sản. Thoạt đầu để biểu lộ hào khí, ắt vung tiền như đất. Rốt cuộc do t́nh thế cấp bách, ắt bỏ cả sản nghiệp [vào tṛ đen đỏ]. Cha ông suốt đời vất vả mới tạo dựng môn hộ, con cháu tiêu xài huy hoắc trong phút chốc, khiến cho danh tiếng gia đ́nh bại hoại. Cầm cố hết sạch xiêm áo, chỉ c̣n trơ lại cái thân. Thân thích, bạn bè ai tiếc? Ruộng nương, nhà cửa bán sạch, mà c̣n mắc nợ, c̣n góc trời nào để lui về? Nghĩ đến t́nh cảnh ấy, há chẳng đáng thương ư?

          7) Nẩy sanh tai biến. Suốt ngày cờ bạc, thâu đêm đỏ đen, cửa rả chẳng đóng, đạo tặc thường hay thừa cơ trà trộn. Đèn, đuốc chẳng tắt, pḥng ốc do vậy dễ bị cháy. Thậm chí lôi cuốn phường lăng tử thừa dịp tính kế, bọn trộm cướp thường t́m dịp giở tṛ gian. Khi tắt đèn có kẻ gơ cửa, sẽ chẳng phân biệt chủ, khách. Dứt đứt giải mũ, cởi áo lót ḿnh [trao tặng nhau], nam nữ buông tuồng, mầm họa ẩn sẵn, sao người ta chẳng lo?

          8) Cốt nhục chia ĺa. Sĩ, nông, công, thương, ai nấy siêng năng chức nghiệp. Cha, mẹ, vợ, con, vui vẻ với nhau, đấy là niềm vui thiên luân, mà cũng là lẽ thường trong t́nh người. Từ khi vào ṣng bài, [gia đ́nh] biến thành bể khổ. Cầm cố, gán nợ bằng thoa, xuyến, vợ nín thinh nuốt hận. Bán tháo ruộng nương, nhà cửa, cha mẹ ṃn mắt, nhăn mày trông ngóng. Chỉ một kẻ tỏ ra hào sảng, chẳng màng cả nhà oán than! Lắng ḷng tự vấn, làm sao yên được?

          9) Trái phạm phép nước. Cấm đoán cờ bạc, lệ mới rất nghiêm. Nhẹ th́ phạt một trăm trượng, cùm hai tháng, thương tổn tận da thịt. Nặng th́ bị đày ba năm, lưu đày xa quê nhà ba ngàn dặm! Hạng thân sĩ th́ theo thường lệ sẽ bị băi truất, c̣n mặt mũi nào! Đối với kẻ lại dịch th́ xử tội gấp bội. Phải nghĩ tới gia đ́nh ḿnh, chứ để chuyện đă lỡ rồi mới hối, sao bằng kiêng dè trước?

          10) Sẽ bị trời quở trách. Xem khắp những kẻ mở ṣng, thường gặp nhiều tai họa ngang trái. Những kẻ thắng tiền, thường [rốt cục] đến nỗi nghèo đói lạ lùng. Nói chung là do cắn xé huyết nhục của người khác ḥng no đẫy ruột gan ta, thâu tóm sự oán sầu của họ để ta được vui cười. V́ thế, quỷ thần ôm ḷng giận, sẽ báo thù chẳng chịu khoan nhượng tí nào! Đạo trời báo đáp, sẽ cùng nhau chết sạch.

          Nh́ chung, ṣng bạc rốt cuộc có ích chi đâu? Mười điều như trên, ngôn từ, dụng ư tột bậc thiết tha. Muôn phần mong mỏi người đời, hăy lắng ḷng suy nghĩ, sẽ dũng mănh đại ngộ. Một đao chặt phăng, thề chẳng c̣n tay nhúng chàm nữa! Có thể xoay người nhảy khỏi ổ sài lang, may mắn chi hơn! Ôi! Cờ bạc hại người c̣n quá nước, lửa, giặc cướp, nhưng người ta cứ măi chấp mê chẳng ngộ, liều chết theo đuổi, đáng thương quá đỗi! Xót thay, đau thay! Do vậy, tôi đau đớn khóc ṛng thưa thốt, những ai trông thấy những lời này mà chẳng quay đầu, há chẳng phải là phường hạ ngu ư?

          Cảm Ứng Thiên Vựng Biên

Quyển 3

Phần 1 hết

 



[1] Điều này được chép trong thiên Tiểu Tư Khấu, phần Thu Quan của sách Châu Lễ. Châu Lễ là bộ sách chép về hệ thống quan chức đời Châu, cũng như cách tổ chức triều đ́nh và các chánh sách cai trị thuở ấy. Sách này thường được coi là bản hiến pháp đầu tiên của Trung Hoa. Đời Hán, sách này được gọi là Châu Quan, hoặc Châu Quan Kinh. Đến cuối thời Tây Hán, Lưu Hâm chỉnh lư, và dùng lại danh xưng cũ là Châu Lễ. Theo sách ấy, quan chức đời Châu được chia thành sáu loại là Thiên, Địa, Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chẳng hạn như Thiên Quan là chức quan coi về việc hành chánh, Địa Quan coi về nông nghiệp, quản lư đất đai, Xuân Quan coi về lễ nghi, tôn giáo và văn hóa, Hạ Quan coi về việc binh bị, quân đội, giao thông, quản trị chư hầu, Thu Quan trông nom h́nh phạt, lao ngục, Đông Quan quản trị việc kiến thiết, đê điều, thủy lợi v.v…

[2] Ông Hoàng Bách Lâm chú giải: Câu này phải hiểu là “đức hạnh chính là căn bản để làm người”.

[3] Đại Lịch là niên hiệu được sử dụng từ năm 766 đến năm 779 trong đời Đường Đại Tông (Lư Dự), tức vị vua thứ mười một của nhà Đường.

[4] Nghĩa Ninh là niên hiệu chỉ tồn tại bảy tháng từ tháng Mười Một năm 617 cho đến tháng Năm năm 618 dưới thời Tùy Cung Đế (Dương Hựu). Ông này là con thứ ba của Dương Chiêu (con trưởng của Tùy Dượng Đế), chỉ là vua bù nh́n do Lư Uyên (Đường Cao Tổ) đưa lên ngôi, ḥng khỏa lấp cuộc chánh biến lật đổ nhà Tùy do Lư Uyên chủ xướng. Ông làm vua được vài tháng, bèn xuống chiếu nhường ngôi cho Lư Uyên.

[5] Đây là một thành ngữ, nguyên văn là “vô khẩu bào” (無口匏). “Bào” () là cái hồ lô, hồ lô phải có miệng th́ mới có thể đựng rượu hay các chất lỏng. Hồ Lô không khoét miệng, sẽ chỉ có h́nh dáng, chẳng dùng được ǵ. Do vậy, từ ngữ này có ư nghĩa chê trách những kẻ bất tài vô dụng, chỉ nói suông, không làm được ǵ!

[6] Khoắc Kỵ (彍騎) là danh xưng của quân túc vệ (quân thủ hộ hoàng thành). Kể từ thời Đường Huyền Tông, do quân túc vệ thường đào ngũ với số lượng lớn, Tể Tướng Trương Thuyết bèn đề nghị lấy quân từ kinh sư và các châu Bồ, Đồng, Kỹ, Hoa, bắt thanh niên đến độ tuổi quân dịch sung vào quân túc vệ, gọi là quân Khoắc Kỵ với thời hạn làm túc vệ hai tháng mỗi năm. Khoắc () có nghĩa là “kéo căng cung tên”. Do vậy, Khoắc Kỵ tức là kỵ binh bắn tên. Do mang tánh chất tạm bợ, ô hợp, quân Khoắc Kỵ thiếu hẳn sức chiến đấu, thiếu kỷ luật; đồng thời, do phải liên tục chuyển quân từ các châu quận về nên chi phí rất tốn kém. Do vậy, triều thần nhiều lần đề nghị băi bỏ, nhưng Lư Lâm Phủ kiên quyết áp dụng chánh sách này.

[7] Nguyên văn là “tiện thần” (賤臣), c̣n gọi là “thị thần” tức những bầy tôi thân cận của nhà vua.

[8] Nguyên văn là “tùng vong” (從亡), tức là những người theo hầu một vị vua lưu vong. Tấn Văn Công (Cơ Trùng Nhĩ) là con thứ hai của Tấn Hiến Công (Cơ Quỷ Chư), là em trai của thái tử Thân Sanh. Do Tấn Hiến Công sủng nịch thứ phi Ly Cơ, bèn tính phế thái tử Thân Sanh, để đưa con trai của Ly Cơ là Hề Tề làm Thái Tử. Do triều thần can gián dữ dội, vua phải bỏ ư định này. Ly Cơ lập mưu hại chết thái tử Thân Sanh, hai người con trai khác của Tấn Hiến Công là công tử Trùng Nhĩ và công tử Di Ngô phải lén trốn về đất phong nhằm bảo đảm tánh mạng. Tấn Hiến Công thấy họ bỏ đi không từ biệt, rất tức giận, cộng thêm sự xúc xiểm của Ly Cơ, bèn sai quân chinh phạt khiến cho hai công tử phải lưu vong. Về sau, Tấn Hiến Công chết, Lư Khắc giết chết Hề Tề, đón Di Ngô về làm vua, tức Tấn Huệ Công. Công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong sang các nước Tề, Tào, Tống, Trịnh, Sở, Tần. Về sau, nhờ vợ là Hoài Doanh (con gái vua Tần) vận động vua cha giúp sức, công tử Trùng Nhĩ mới trở về Tấn, giành ngôi từ tay Di Ngô, trở thành Tấn Văn Công.

[9] “Hăn mă” (汗馬) nghĩa là “ngựa toát mồ hôi”. Từ ngữ này h́nh dung những người tận tụy dốc sức lập chiến công.

[10] “Tông thất” (宗室) là những kẻ có mối quan hệ họ hàng với nhà vua.

[11] “Sanh viên” là những người đă được vào học trường huyện hay trường Quốc Tử Giám, tức là những người là Lẫm Sanh, Phụ Sanh v.v… đều được gọi chung là Sanh Viên.

[12] “Hiến chức” (憲職) là cách gọi khác của quan chức Đô Ngự Sử.

[13] Nguyên văn là “phệ sĩ” (筮仕). Đây là một tục lệ thời cổ. Trước khi sắp ra làm quan, thường tự bói, hay nhờ người khác bói để chọn làm quan trong ngành nào th́ sẽ thành công, thăng tiến.

[14] Người Hồ, c̣n gọi là Hồ Tộc, là từ ngữ phiếm chỉ những dân tộc du mục sống ở phía Đông và Bắc Trung Hoa. Vào thời Hán, chữ Hồ thường dùng để chỉ các bộ tộc Hung Nô. Về sau, chữ Hồ được sử dụng hẹp hơn để chỉ những người có nguồn gốc từ Trung Á, sống tại thảo nguyên, như Ngạn Tông Độc đời Đường đă định nghĩa: “Từ Thông Lănh trở về phía Tây là Phạm chủng, ở bên trái của Thiết Môn th́ gọi là Hồ”. Từ đời Đường, nói chung các sắc dân du mục hoặc Tây Vực thường gọi chung là Hồ. Nói chung, người Hồ bao gồm nhiều sắc dân như Đông Hồ (sống tại Nội Mông), Nhục Chi (nổi tiếng với đế quốc Quư Sương), Ngô Hoàn, Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Đê, Yết, Đinh Linh, Cao Xa, Sớ Lặc, Nhu Nhiên, Đột Quyết, Hồi Hột, Thổ Phiên, Khiết Đan, Khố Mạc Hề, Thất Vi, Thát Đát, Đảng Hạng, Mạt Hạt, Nữ Chân. Trong đó, năm dân tộc là Tiên Ty, Hung Nô, Khương, Yết, Đê đă vào Trung Hoa, thành lập các triều đại mà sử thường gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa (chẳng hạn triều đại Diêu Tần do Diêu Trành vốn là người Khương sáng lập). Người Khiết Đan và Nữ Chân đă lập nên hai triều đại lớn trong lịch sử Trung Hoa là nhà Liêu và nhà Thanh.

[15] Dược thạch (藥石): Theo chế định của đức Phật, tỳ-kheo chỉ ăn một bữa Ngọ. Khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, do khí hậu lạnh lẽo, cũng như do thức ăn trong tự viện đơn bạc, để đỡ đói, chư Tổ cho phép chư Tăng ăn nhẹ vào bữa tối cho khỏi đói, nên gọi bữa tối là Dược Thạch với ư nghĩa dùng như một vị thuốc để chữa căn bệnh đói.

[16] Ông Hoàng Bách Lâm giảng: Nếu v́ công danh, lợi lộc riêng tư mà tàn sát, do thích giết người mà tàn sát, th́ gọi là “dĩ sát dụng sát”.

[17] Giang Lăng là vùng đất ở phía Đông huyện Chi Giang tỉnh Hồ Bắc, nằm ở phía Tây huyện Tiềm Giang và phía Nam huyện Kinh Môn.

[18] Liêm Hy Hiến (1231-1280) là một vị đại thần thời Nguyên, tự là Thiện Phủ, hiệu Dă Vân, vốn là con trai của Liêm Phóng Sứ Bố Lỗ Hải Tà, thuộc bộ tộc Úy Ngột Nhi (Uighur). Trong xu thế Hán hóa đời Nguyên, ông đổi họ thành Liêm. Ông từng được phong làm Kinh Triệu Tuyên Phủ Sứ. Trong khi đang theo pḥ Hốt Tất Liệt (Kublai) tấn công Ngạc Châu của nhà Tống, bỗng nghe tin Nguyên Hiến Tông (Mông Kha) chết, ông đă khuyên Hốt Tất Liệt đem quân về Bắc, giành quyền thống trị Trung Hoa. Khi quân Nguyên hạ thành Giang Lăng, ông được phong làm B́nh Chương Kinh Nam Hành Tỉnh, An Phủ Kinh Châu Giang Lăng. Khi mất, ông được phong là Ngụy Quốc Công, tước Hằng Dương Vương. Liêm Hy Hiến đặc biệt coi trọng giáo dục, nhất là giáo dục Nho gia, thường khuyên Hốt Tất Liệt chú trọng đào tạo, nâng đỡ nhân tài, vỗ yên dân chúng, tái thiết cơ sở kinh tế, vận dụng nhân nghĩa để cai trị. Hốt Tất Liệt thường gọi ông là Liêm Mạnh Tử.

[19] Nguyên văn là “tỉnh Kinh Nam” (省荊南). Tỉnh () là gọi tắt của chức vụ B́nh Chương Hành Tỉnh (平章行省), tức cơ cấu quản trị cao cấp nhất trong một châu huyện thời ấy. Liêm Hy Hiến đứng đầu cơ quan B́nh Chương Hành Tỉnh của vùng Kinh Nam thuở ấy nên nói là “tỉnh Kinh Nam”.

[20] Bá Nhạc là người sống vào thời Xuân Thu, dưới thời đại Tần Mục Công. Ông tên thật là Tôn Dương, giỏi xem tướng ngựa, hễ nh́n ngựa liền biết ngay con nào là tuấn mă có thể chạy nhanh và dai sức.

[21] “Thi giải” (尸解) là thành ngữ của Đạo giáo, chỉ người đă đắc đạo thành tiên, ĺa bỏ xác phàm.

[22] Theo sách Yến Tử Xuân Thu, Tề Cảnh Công đi săn trên núi. Trông thấy trên núi có cọp. Xuống núi, thấy có ao chuôm, trong ao có rắn. Vua trở về, vời Yến Tử đến hỏi ư, cho rằng đó là những điềm bất tường. Yến Tử nhân đó bèn giảng cho vua biết: Bất tường thật sự là như thế nào?

[23] Sử thường gọi cuộc biến loạn này là “Nhị Đế Tứ Vương chi chiến” (cuộc chiến giữa hai đế và bốn vương). Vào thời Đường Đức Tông, các quan Tiết Độ Sứ thế lực rất mạnh, hầu như chỉ nghe theo lệnh triều đ́nh trên danh nghĩa. Đường Đức Tông cực lực mưu tính dẹp bỏ Tiết Độ Sứ tại các phiên trấn. Lúc bấy giờ, Tiết Độ Sứ Thành Đức là Lư Bảo Thần chết, con trai là Lư Duy Nhạc xin nối vị cha. Đường Đức Tông cự tuyệt. Lư Duy Nhạc bèn liên kết với Truy Thanh Tiết Độ Sứ Lư Chánh Kỷ, Sơn Nam Đông Đạo Tiết Độ Sứ Lương Sùng Nghĩa, Ngụy Bác Tiết Độ Sứ Điền Duyệt, cũng như một số Tiết Độ Sứ khác khởi binh phản Đường. Khi Lư Chánh Kỷ chết, con trai là Lư Nạp xin nối ngôi cha, dĩ nhiên Đường Đức Tông từ chối. Các phản tướng tấn công ráo riết, lại thêm Lư Hy Liệt và Châu Thử làm phản. Điền Duyệt xưng là Ngụy Vương, Lư Nạp là Tề Vương, Vương Vũ Tuấn là Triệu Vương, Châu Thao là Kư Vương, Châu Thư là Tề Đế, Lư Hy Liệt xưng là Sở Đế. Họ tấn công các nơi trọng yếu, Đường Đức Tông gọi Diêu Lệnh Ngôn về bảo vệ kinh đô. Do bị các quan trọng thần như Lô Kỷ gièm báng, quân Diêu Lệnh Ngôn khổ cực không được tưởng thưởng xứng đáng, họ tức giận quay giáo tấn công kinh đô. Vua phải bỏ Trường An, chạy về Phụng Thiên lánh nạn. Châu Thử trọng dụng Diêu Lệnh Ngôn, dùng quân của họ Diêu thừa cơ đánh tới Phụng Thiên. May nhờ có viện binh của Lư Hoài Quang chống chọi, vua Đường mới kịp từ Phụng Thiên chạy về Lương Châu lánh nạn. Măi cho đến Hưng Nguyên nguyên niên, dưới sự lănh đạo của tướng Lư Thịnh, quân Đường mới chiếm lại được Trường An, dẹp tan quân phản loạn.

[24] H́nh quan (刑官): Quan viên trông coi về tư pháp.

[25] Nguyên Tải là một đại thần dưới đời Đường Đại Tông. Ông ta từng làm Hành Quân Tư Mă, được phong làm Trung Thư Thị Lang. Ông ta cũng là kẻ chuyên quyền, thích ăn hối lộ, hăm hại bậc trung lương, xa xỉ, hoang phí, làm rất nhiều chuyện ác. Thuở ấy, hồ tiêu (black pepper) là một thứ gia vị quư hiếm phải nhập từ Tây Vực, hoặc lấy từ các nước phương Nam như Mă Lai, Nam Dương. Thế mà ông ta tích trữ đến tám trăm thạch hồ tiêu!

[26] Giả Tự Đạo là người xứ Thai Châu, sống vào đời Tống. Thuở trẻ là một gă lông bông, thích cờ bạc, chơi bời, chẳng ra ǵ. Do chị hắn được tuyển làm quư phi của Tống Lư Tông, hắn bèn nhờ chị vận động giành được một chức quan trong triều đ́nh. Nhờ lắm mánh khóe, thủ đoạn, hắn ngoi lên tới chức Tham Tri Chánh Sự. Khi quân Nguyên đánh Ngạc Châu, vua sai hắn dẫn binh cứu viện. Văn dốt, vũ dát, hắn bị tướng soái quân Nguyên bắt được, phải xưng thần, hứa cống nạp, đút lót để được thả ra. Trở về, hắn tâu dối là đă đại thắng. Về sau, do khéo bợ đỡ, đón ư, hắn c̣n làm tới chức Hữu Thừa Tướng, khuynh loát triều chánh, gạt bỏ những kẻ chống đối, trừ khử những bậc trung lương. Giả Tự Đạo sống rất xa xỉ, ăn hối lộ không biết chán. “Đường sương” chính là đường cát trắng. Thuở đó, tại Trung Hoa chưa có mía. Đường mía phải nhập, hay bắt các nước phương Nam như Việt Nam, Mă Lai, Nam Dương, Xiêm La… cống nạp. Đường thô đă rất đắt, thế mà hắn nghiễm nhiên chiếm riêng tám mươi ṿ đường cát trắng tinh luyện!

[27] Nguyên văn “quán hăn văn vơng” (慣捍文網). Ông Hoàng Bách Lâm giảng: “Hăn là xúc phạm, vi phạm. Văn Vơng là pháp vơng, tức pháp luật”.

[28] Nguyên văn “vi ấp dân cộng trắc mục giả” (kẻ bị dân trong huyện cùng liếc xéo). “Trắc mục” (側目) là nh́n bằng khóe mắt, hoặc liếc xéo, không thèm nh́n thẳng, biểu thị phẫn nộ, căm ghét.

[29] Hiểu thông thường, Lưỡng Hoài (兩淮) là vùng bắc sông Trường Giang thuộc tỉnh Giang Tô, thuộc hai miền Nam và Bắc của lưu vực sông Hoài. Ở đây, Lưỡng Hoài có thể hiểu là hai lộ Hoài Đông và Hoài Tây đời Tống. Nhà Tống chia Trung Hoa thành nhiều lộ, mỗi lộ tương đương với một tỉnh trong hiện thời. Chức Diêm Vận Sứ có tên gọi đầy đủ là Đô Chuyển Diêm Vận Sứ Ty Diêm Vận Sứ (都轉鹽運使司鹽運使), đôi khi chỉ gọi là Diêm Vận Ty, được đặt ra từ đời Nguyên, chỉ áp dụng vào những tỉnh sản xuất muối như Lưỡng Hoài, Lưỡng Chiết, Phước Kiến v.v... Do muối là một nguồn lợi rất lớn, nên triều đ́nh đặc biệt lập ra một cơ quan trông coi việc vận chuyển, đánh thuế, cũng như trừng trị những kẻ buôn lậu muối. Đến đời Thanh, cả nước Trung Hoa có bảy Diêm Vận Sứ tại các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, Lưỡng Hoài, Lưỡng Chiết, Quảng Đông, Tứ Xuyên và Phụng Thiên.

[30] Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn) từ năm 1457 đến năm 1464. Minh Anh Tông sử dụng hai niên hiệu là Chánh Thống (1436-1449) và Thiên Thuận (1457-1464). Sở dĩ có sự gián đoạn là v́ năm 1449, bộ tộc Ngơa Lạt (Oirats) xâm lăng Trung Hoa, Vương Chấn khuyên vua thân chinh. Khi quân Minh kéo đến Thổ Mộc Bảo, đă bị thái sư Dă Tiên của quân Ngơa Lạt đánh tan tác, Minh Anh Tông bị cầm tù. Trước t́nh thế nguy ngập đó, hoàng thái hậu Tôn Thị đă lập em trai của Minh Anh Tông là Châu Kỳ Ngọc làm giám quốc. Không lâu sau, Kỳ Ngọc xưng đế, tức Minh Cảnh Tông. Minh Anh Tông bị cầm tù măi cho đến năm 1450, do Hồng Lô Tự Khanh Dương Thiện bán sạch gia sản, chạy vạy, lo lót, thuyết phục Dă Tiên cho phép đón Minh Anh Tông về Yên Kinh. Về lại Yên Kinh, nhà vua lại bị Minh Cảnh Tông dùng quân cẩm y vệ giam lỏng ở Nam Cung. Vua sống hết sức đói khổ, thường xuyên thiếu ăn. Măi cho đến năm Cảnh Thái thứ tám (1457), Minh Cảnh Tông bị bệnh nặng, không thể thiết triều, Phó Đô Ngự Sử Từ Hữu Trinh, Vũ Thành Hầu Thạch Thuần v.v… thừa cơ dẫn quân tấn công Nam Cung mới cứu được Minh Anh Tông ra, đưa lên ngôi như cũ. Do vậy, vua đổi niên hiệu thành Thiên Thuận.

[31] Giám Ty (監司) là chức quan trông coi việc giám sát ở châu huyện. Thời Tống, các chức vụ Chuyển Vận Sứ, Chuyển Vận Phó Sứ, Chuyển Vận Phán Quan và Đề Điểm H́nh Ngục đều gọi chung là Giám Ty.

[32] Nguyên văn là “h́nh mạc” (刑幕), đây là từ ngữ gọi chung những người làm nha lại giúp đỡ vị h́nh quan xét xử, điều tra, thẩm vấn, lập án từ, bảo quản công văn v.v…

[33] Túy Khôi (醉魁): Khôi () là người đỗ đầu trong một cuộc thi. Chữ Túy nếu tách ra sẽ là do hai chữ Tốt () và Dậu () ghép lại. Chữ Tốt trông giống như chữ Tân (), nên mới có người đoán Túy Khôi có nghĩa là con trai ông Trần Tài sẽ đỗ đầu trong khoa thi năm Tân Dậu.

[34] Huấn Đạo (訓導) là chức quan phụ tá lo quản trị các sinh viên (học sinh đă vào học tại các phủ, châu, huyện). Chẳng hạn, vị quan trông coi về giáo dục của một phủ sẽ được gọi là Giáo Thụ (教授), có bốn người phụ tá gọi là Huấn Đạo. Viên quan trông coi việc giáo dục tại một châu gọi là Học Chánh (學正), có ba viên Huấn Đạo phụ tá. Tại cấp huyện th́ có một người trông coi việc giáo dục gọi là Giáo Dụ (教諭), có hai viên Huấn Đạo làm phụ tá.

[35] Thời cổ, nơi nào có hai ngàn năm trăm hộ trở lên th́ được gọi là một Châu (), nơi có hai trăm năm mươi hộ được gọi là một Lư (). Về sau, châu lư được hiểu theo nghĩa rộng là những người đồng hương.

[36] Do nha lại bên h́nh pháp viết án từ định tội người khác như dao chặt xuống không khoan nhượng, nên gọi là “đao bút” (刀筆).

[37] Thư lại (書吏) là những kẻ giữ sổ sách biên soạn văn từ, hồ sơ, và các bản án trong công môn. Từ ngữ này c̣n dùng để chỉ các quan chức trong giới hành chánh.

[38] Cấm binh (禁兵) c̣n gọi là Cấm Quân, hoặc Cấm Vệ Quân, tức quân bảo vệ hoàng đế và hoàng cung. Ở đây, chỉ nên hiểu theo nghĩa hẹp là bọn lính canh ngục.

[39] Tuần Án (巡按) chính là chức Tuần Án Ngự Sử được thiết lập từ đời Minh, tức là vị Ngự Sử thường đi tuần tra các nơi, có quyền hạn rất lớn. Vị này phụ trách khảo hạch các quan viên và bọn nha lại, chủ tŕ xét xử những vụ án lớn, tái thẩm những vụ nghi án. Từ Tri Phủ trở xuống đều phải nghe theo lệnh vị này.

[40] Giáo phường (教坊) là cơ quan quản lư âm nhạc, chuyên trách quản lư những thể loại âm nhạc ngoài Nhă Nhạc (nhạc tấu trong các dịp lễ trong cung đ́nh như khi tế lễ hoặc thiết triều), cũng như các h́nh thức nghệ thuật diễn xướng, kể cả những tṛ biểu diễn khác, gọi chung là Bách Hư. Nói riêng đào hát, kép hát, vũ công đều trực thuộc sự cai quản của giáo phường. Những người làm nghề giải trí này có địa vị rất thấp kém trong xă hội thuở trước.

[41] Nhiệt thẩm (熱審, xét xử vào tháng nóng) là quy định từ đời Minh. Theo đó, từ sau ngày mồng Mười tiết Tiểu Măn cho đến ngày mồng Một trước tiết Lập Thu, do khí trời quá oi bức, các quan tuần án hoặc giám sát, sẽ xét lại những hồ sơ vụ án để quyết định mà giảm nhẹ án phạt cho những kẻ bị phạt tội lưu đày, phạt trượng v.v… Chuyện này được gọi là Nhiệt Thẩm.

[42] “Tấn thân” (縉紳) có nghĩa là “cắm cái hốt vào đai lưng”. Hốt () là một vật dụng thường có h́nh dạng dài và hẹp, làm bằng ngọc, bằng ngà, hoặc chỉ đơn giản bằng gỗ. Khi vào tâu tŕnh nhà vua, họ thường viết những điều cần tâu trên đó để khỏi quên. Khi tâu vua, hai tay cầm hốt, giơ lên trước mặt nhằm tỏ ḷng cung kính. Về sau, vua cũng cầm hốt khi mặt triều phục ngồi trên ngai khi các quan triều bái. Trong trang phục của các quan, đai lưng thường có chỗ phồng lên ở ngang eo, để các quan cắm hốt vào đó khi quỳ lạy vua, hoặc nhằm rảnh tay khi đi đường. Do vậy, “tấn thân” là từ ngữ phiếm chỉ các quan chức lớn.

[43] Nguyên văn “phược thi quán trấp” (縛屍灌汁). Theo ông Hoàng Bách Lâm, “phược thi” (trói xác người chết), có nghĩa là người đă chết không được phép chôn cất, cứ quàn tại đó. “Quán trấp” (rỉ ra chất lỏng) là một thành ngữ của vùng Kinh Tương, có nghĩa là thi thể bắt đầu rữa nát, tuôn máu chảy mủ. Thành ngữ này có nghĩa là v́ người nhà không hối lộ, bọn quan lại, chức dịch, cường hào không cho phép chôn cất người đă chết, cứ bắt giữ lại đó để làm tang chứng.

[44] Chúng tôi thêm vào câu này theo cách giải thích của ông Hoàng Bách Lâm.

[45] Đây là một cách nói khác của từ ngữ “y quan cầm thú” (lũ cầm thú mặc áo, đội mũ), nhằm thóa mạ những kẻ bề ngoài ra vẻ học thức, đạo đức, tuân theo lễ nghĩa thánh hiền, nhưng hành vi xấu xa, tồi bại.

[46] Ư nói thái độ thay đổi bất thường, tráo trở, chỉ cốt sao đạt được mục đích.

[47] Theo ông Hoàng Bách Lâm, câu này phải hiểu là kẻ nghèo túng, chẳng biết làm sao, đành bó tay, cam ḷng oán hận, trơ mắt nh́n kẻ khác hung hăng, lấn hiếp.

[48] Ông Hoàng Bách Lâm giảng câu này có nghĩa là phải t́m cho ra nguyên nhân, động cơ dẫn đến vụ án, chứ không phải chỉ quan sát trên hiện tượng rồi kết luận vụ án. Chẳng hạn, người bị trúng độc chết v́ thuốc th́ không thể kết luận đơn giản nguyên nhân là chết v́ trúng độc, mà phải t́m ra hung thủ, ai là người đă dùng thuốc độc mưu sát nhằm mục đích ǵ, v́ sao lại dùng độc, cách hạ độc như thế nào, ai sẽ lợi khi người ấy chết v.v… Tương tự như vậy, đối với những người tự tử chết, phải t́m cho ra nguyên nhân nào đă ép họ phải chọn phương cách tự tử, hoặc họ có thật sự tự tử hay không, hay là bị người nhà giết chết rồi dàn cảnh như tự tử?

[49] Những thứ này toàn là h́nh cụ, tức dụng cụ để tra tấn thời cổ. Trúc bản (竹板, tạm dịch là roi cật tre) là dùng những miếng cật tre già bó thành roi, dùng để đập vào đùi, hoặc mông tội nhân khiến cho họ bị nát thịt. H́nh phạt đầu tiên trong ngũ h́nh (năm h́nh phạt) thời cổ là Xuy H́nh (笞刑), tức là dùng trúc bản để đánh. Kẹp ngón tay (拶指, tạt chỉ) là một thứ h́nh cụ bằng gỗ gồm năm miếng gỗ dài bảy tấc, rộng năm phân, dùng dây buộc lại thành h́nh ống. Khi hành h́nh, sẽ đút ngón tay của tội nhân vào đó, rồi xiết chặt dây, khiến cho tội nhân đau đớn thét lên. H́nh phạt này dành cho phụ nữ. Giáp côn (夾棍, tạm dịch là côn kép) là côn được chế bằng hai thanh gỗ to, cứng ghép lại. Phạm nhân bị đánh côn kép thường sẽ bị què quặt suốt đời.

[50] Ngỗ tác (仵作) hoặc c̣n gọi là “lại ngỗ” (吏仵) là nhân viên chuyên mổ xẻ, kiểm nghiệm thi thể trong các cơ quan h́nh pháp thuở trước, tức là nhân viên pháp y trong hiện thời.

[51] Tư Lư (司理) là chức quan thuộc về h́nh pháp, chưởng quản nhà tù, tố tụng, khám nghiệm, điều tra.

[52] Thôi Tư (推司) là chức quan đặc trách điều tra phá án, phụ tá của huyện lệnh.

[53] Vị này tên thật là Triệu Biện, có hiệu là Duyệt Đạo, Thanh Hiến là thụy hiệu, biệt hiệu là Tri Phi Tử. Ông nổi tiếng với chuyện hằng ngày thắp hương tấu tŕnh thiên đ́nh những chuyện đă làm trong một ngày. Ông thường nói: “Chuyện đă làm trong một ngày không ǵ chẳng thể tấu tŕnh thượng đế”. Ông đỗ Tiến Sĩ dưới thời Tống Nhân Tông, giữ chức Điện Trung Thị Ngự Sử, đàn hặc bọn tham quan không e ngại, nên người đương thời gọi ông là Thiết Diện Ngự Sử (vị Ngự Sử mặt sắt). Về sau, dưới thời Tống Thần Tông, do chống đối tân pháp của Vương An Thạch, ông bị đổi làm tri phủ Hàng Châu.

[54] Đây là quy chế đă có từ đời Đường, dưới quyền các chức quan Tiết Độ Sứ, có các chức quan Quan Sát Sứ, Đoàn Luyện Xứ, Pḥng Ngự Sứ, Thái Phỏng Xử Trí Sứ. Dưới những chức quan này, lại đặt một chức Thôi Quan để làm quan ṭa, chưởng quản hồ sơ vụ án, và những sự việc liên quan đến tố tụng và nhà tù. Chức vụ này thường được gọi là Tiết Độ Thôi Quan.

[55] Phù điệp (符牒) c̣n gọi là giới điệp hoặc độ điệp là giấy chứng nhận chánh quyền xác minh một tăng sĩ đă đậu khảo hạch về kinh giáo, và có tư cách xứng đáng làm tăng sĩ.

[56] Tiểu Đỗ là Đỗ Diên Niên. Cha ông ta là Đỗ Châu là một tay quan lại khét tiếng tàn ác đời Đông Hán, nhưng Đỗ Diên Niên lại là người nhân từ, thông hiểu t́nh lư. Đỗ Diên Niên phù tá tể tướng Hoắc Quang. Hoắc Quang áp dụng pháp luật quá khắt khe, Đỗ Diên Niên thường dùng lời lẽ mềm lỏng khuyên lơn. Tiểu Đỗ Luật chính là bộ luật nhà Hán do Đỗ Diên Niên tu chỉnh.

[57] Quyết Tào Duyện (決曹掾) là chức vụ xử án, thẩm phán trong một châu huyện thời Hán.

[58] Đông Hải chính là Đàm Huyện thời Hán, tức vùng đất thuộc huyện Phí tỉnh Sơn Đông ngày nay. Ông Vu chính là cha của Vu Định Quốc, một nhà luật học lừng danh đời Hán. Cha Vu Định Quốc làm phán quan rất công minh, chánh trực. Do vậy, những phạm nhân bị ông phán tội đều phục, không oán thán chút nào.

[59] Theo quy chế đời Hán, Đ́nh Úy (廷尉) là chức quan cao nhất chưởng quản tư pháp cả nước, tương đương bộ trưởng Tư Pháp hiện thời. Đến đời Hán Cảnh Đế, chức vụ này được đổi thành Đại Lư, về sau lại gọi là Đ́nh Úy, măi cho đến thời Bắc Tề mới đổi thành Đại Lư Tự Khanh. Các quan phụ tá được chia thành ba cấp là Đ́nh Úy Giám, Đ́nh Úy B́nh và Đ́nh Úy Sứ.

[60]Dương Bạch Khởi chính là Dương Chấn, ông có tên tự là Bạch Khởi. Dương Chấn sống vào thời Đông Hán, thông hiểu kinh điển Nho gia, đặc biệt là sách Âu Dương Thượng Thư, cho nên được người đương thời xưng tụng là Quan Tây Phu Tử. Ông làm quan đến chức Thái Thú Đông Lai. Vương Mật là huyện lệnh Xương Ấp cảm kích ông đă đề cử, đến đêm, bèn mang mười cân vàng tới biếu tạ. Dương Chấn kiên quyết cự tuyệt, Vương Chấn năn nỉ: “Đêm sâu có ai biết đâu mà!” Dương Chấn quát to: “Trời biết, đất biết, ta biết, ông biết, sao lại nói là không ai biết”.

[61] “Lục súc” (六畜) là sáu loài gia súc, tức ngựa, trâu hay ḅ, dê, gà, chó, lợn.

[62] Lô Đa Tốn là người xứ Hoài Châu, tỉnh Hà Nam, là cháu đời thứ mười bốn của thứ sử Lô Thượng Chi. Ông ta đỗ Tiến Sĩ dưới thời Hậu Châu, về sau theo nhà Tống. Khi làm Hàn Lâm Học Sĩ, ông đă cùng Lưu Hàn biên soạn bộ Khai Bảo Bổn Thảo. Ông được phong làm Trung Thư Thị Lang B́nh Chương Sự, rồi làm Binh Bộ Thượng Thư. Do bất ḥa với Triệu Phổ (vị này là khai quốc công thần của nhà Tống, nổi tiếng với câu nói: “Thần dùng nửa bộ Luận Ngữ mà đă đủ sức để pḥ tá bệ hạ lên ngôi cửu ngũ”), Lô Đa Tốn bèn bịa chuyện tố cáo Triệu Phổ đă tung tin Tống Thái Tổ không hề muốn truyền ngôi cho Tống Thái Tông. Do vậy, Tống Thái Tông ghét bỏ Triệu Phổ. Khi Triệu Phổ được phục chức Tể Tướng, đă kiếm cớ hạch tội, khiến cho Lô Đa Tốn bị mất sạch quan tước, cả nhà phải bị đày đi Châu Nhai (nay thuộc đảo Hải Nam). Lại quy định: Dẫu triều đ́nh đại xá, cũng không đến phiên Lô Đa Tốn được hưởng ân xá. Về sau, Lô Đa Tốn bị bệnh chết tại Châu Nhai.

[63] Tham Quân (參軍) gọi đầy đủ là Tham Mưu Quân Vụ, tức chức quan phụ tá, làm cố vấn tham mưu cho các tướng quân hoặc những quan chức cầm quyền quân sự.

[64] Cao Tử Cao là người nước Vệ, tên thật là Cao Sài, tên tự là Tử Cao. Lúc trẻ, từng sống tại nước Lỗ, theo học với Khổng Tử. Về sau, ông trở về nước Vệ, làm người canh ngục. Nguyệt (, chặt chân) là một h́nh phạt thời cổ, tù nhân phạm tội sẽ bị chặt đứt cả bàn chân hay các ngón chân tùy theo tội trạng.

[65] Khoái Hội (蒯聵, sách Cảm Ứng Thiên khắc sai thành Khoái Quư, 蒯瞆) là vua nước Vệ, là con trai của Vệ Linh Công (Cơ Nguyên). Khi c̣n là Thái Tử, Khoái Hội tính giết phi tần của Vệ Linh Công là Nam Tử. Âm mưu bất thành, Khoái Hội phải trốn sang nước Tấn. Khi Vệ Linh Công đă chết, con trai Khoái Hội là Cơ Triếp lên làm vua, tức Vệ Xuất Công. Nước Tấn muốn đưa Khoái Hội về làm vua, nhưng dân nước Vệ không chịu. Về sau, Khoái Hội nhờ chị là Khổng Cơ giúp sức, trở về nước Vệ, đánh đuổi Vệ Xuất Công phải chạy sang nước Lỗ. Khoái Hội lên làm vua, tức Vệ Trang Công, lại bội ước với nước Tấn, nên nước Tấn vây đánh nước Vệ. Bị nhân dân nước Vệ chống đối, Khoái Hội đành phải chạy sang Nhung Châu lánh nạn. Sử gọi sự kiện này là “Khoái Hội chi nạn”.

[66] Ông này tên là Từ Tích, là người xứ Sơn Dương, Sở Châu (nay thuộc thành phố Hoài An, tỉnh Giang Tô), đỗ Tiến Sĩ dưới đời Tống Anh Tông, làm Giáo Thụ tại Sở Châu. Khi mất, ông được vua đặt thụy hiệu là Tiết Hiếu Xử Sĩ. Do vậy, sách Cảm Ứng Thiên mới ghi tên ông là Từ Tiết Hiếu Tích (tức là lồng thụy hiệu vào giữa tên thật) nhằm tỏ ư kính trọng.

[67] Tiên sinh An Định là Hồ Viện. Ông này là một học gi và là nhà giáo dục lừng danh thời Bắc Tống. Lầu tàng thư ở Như Cao và Hồ Châu là nơi ông dạy học, thường được gọi là An Định Thư Viện. Về sau, ông được mời giữ chức Quốc Tử Giám Trực Giảng và chủ tŕ trường Thái Học. Do sự giáo hóa của ông, học thuật tại Giang Tô, Hồ Châu, Tô Châu đều nổi danh nhất Trung Hoa thuở đó. Triều đ́nh nhà Tống đă phái người đến khảo sát, đúc kết kinh nghiệm, biên soạn thành bộ sách Học Chánh Điều Ước.

[68] Tăng Tử Cố chính là Tăng Củng, vị này có tên tự là Tử Cố. Ông là người xứ Lâm Xuyên, xuất thân từ gia đ́nh thư hương, ông nội và cha đều là những người học giỏi. Ông nội làm Hộ Bộ Thị Lang, cha làm Thái Thường Bác Sĩ. Tăng Củng mới mười hai tuổi đă có thể viết văn lưu loát, thốt ra những câu khiến người khác kinh hăi và thán phục. Âu Dương Tu hết sức ưa thích ông. Tăng Củng được xếp vào Bát Đại Văn Gia thời Đường - Tống.

[69] Vương Kinh Công chính là Vương An Thạch, là một tay chánh trị gia đă đề xướng khá nhiều tân pháp táo bạo, khiến cho sĩ phu thời ấy chống đối dữ dội. Ông cũng là người nổi tiếng hẹp ḥi và độc đoán, chẳng dung thứ những kẻ có ư kiến khác ḿnh. Để chuyển hướng sự công kích của sĩ phu và đại chúng, ông chủ trương xua một vạn quân sang đánh nhà Lư của Đại Việt, với mục đích muốn biến Đại Việt thành thuộc địa Giao Châu như thuở trước. Chiến cuộc dằng dai gần cả năm, tốn kém rất lớn, rất nhiều tướng lănh tài ba tử trận, vẫn không dứt điểm được Đại Việt. Dưới sự chỉ huy tài t́nh của Lư Thường Kiệt, quân Tống không cách nào vượt qua sông Như Nguyệt. Lư Thường Kiệt lại khôn khéo áp dụng chiến tranh du kích, công phá hậu tuyến của quân Tống, lại dùng các biện pháp chiến tranh tâm lư khiến cho sĩ khí quân Tống giảm sút nghiêm trọng. Cuối cùng, nhà Tống phải chấp nhận lời cầu ḥa của Đại Việt, rút về nước. Uy tín của Vương An Thạch mất sạch! Do Vương An Thạch lúc c̣n được vua sủng ái, đă được phong là Kinh Quốc Công, cho nên ở đây sách Cảm Ứng Thiên Vựng Biên gọi ông ta là Vương Kinh Công.

[70] Tử Hư Nguyên Quân là một vị thần trong Đạo giáo. Bà c̣n được gọi là Nam Nhạc Phu Nhân, Thượng Chân Tư Mạng Nam Nhạc Phu Nhân, hoặc Ngụy Phu Nhân, tên thật là Ngụy Hoa Tồn, là đạo sĩ sống vào đời Tấn, quê ở Nhiệm Thành. Bà là con gái của Tư Đồ Ngụy Thư, từ nhỏ đă thích tu tiên, thông hiểu kinh sách Đạo giáo, kiêm tinh thông Nho học, đặc biệt ưa thích tư tưởng Lăo Trang. Bà thích ăn các thứ dược vật như Hồ Ma Tán, Phục Linh Tán v.v… để mong thành tiên. Bà mong sống đời độc thân, nhưng khi hai mươi bốn tuổi bị cha mẹ ép gả cho ông Lưu Văn, sanh được hai con là Phác và Hà. Khi hai con đă lớn, bà tĩnh cư riêng biệt, chuyên tâm tu đạo. Tương truyền bà được Thanh Hư Chân Nhân dạy đạo. Sau khi Lưu Văn mất, do tỵ nạn, bà dẫn hai con xuống Giang Nam. Khi các con đă ra làm quan, bà uống thuốc tiên, bay lên trời, thành tiên.

[71] Noăn xúc (煖觸): Noăn là hơi ấm, Xúc là sự nhận biết, cảm xúc. Noăn () chính là độ ấm của cơ thể, ở đây dùng để chỉ Tứ Đại, v́ Noăn tương ứng với Hỏa Đại. Xúc () là nói chung sáu thức. “Xả noăn xúc” tức là khi Tứ Đại chia ĺa, tiền lục thức chẳng c̣n hiện hành.

[72] Phương sĩ (方士), c̣n gọi là thuật sĩ () là những kẻ tự xưng là tu luyện thuốc tiên, thường đốt ḷ nấu kim đan, tiên đan, tự khoe là biết những bài thuốc trường sanh bất tử, uống vào phàm thân sẽ đổi thành thánh thai, đăng tiên v.v… Hoặc những gă đạo sĩ chuyên đề xướng những thuật tu tiên quái đản, như dùng bùa chú để sai khiến âm binh hăm hại người khác, dùng pḥng trung thuật, nam nữ thái âm bổ dương ḥng kéo dài tuổi thọ v.v…

[73] Tam cô (三姑) là ni cô, đạo cô và quái cô (卦姑, bà thầy bói). Lục bà (六婆) gồm nha bà (牙婆, tức là những người đàn bà chuyên môi giới mua đi bán lại), mưu bà (媒婆, bà mối), sư bà (師婆, hoặc vu bà (巫婆), những người đàn bà để ma quỷ nhập xác, thường gọi là “cốt”, hoặc “xác”, hoặc làm nghề thầy mo, lên đồng), kiền bà (虔婆, những phụ nữ làm nghề bất chánh như chủ chứa, c̣n gọi là bảo mẫu - 鴇母), dược bà (藥婆, những bà lang vườn, chuyên cắt, giác, lể), và ẩn bà (穩婆, mụ đỡ).

[74] Trạch Càn Hữu quê ở Vân An, Tứ Xuyên, là một đạo sĩ nổi tiếng đời Đường. Tương truyền ông đích thân được thần tiên từ núi Hoàng Hạc chỉ dạy nên phù chú rất linh, có bản lănh chế ngự hổ, báo, giao long. Dân gian xưng tụng ông là Thông Linh đại sư.

[75] Nguyên văn là “khảo triệu” (考召). Đạo gia do dùng phù chú để khảo quỷ triệu thần (tra hỏi quỷ, triệu thỉnh thần), nên phù chú được gọi bằng từ ngữ “khảo triệu”.

[76] Nguyên Đạo Biện (原道辨) là một bài viết của Tống Hiếu Tông (Triệu Thận) vào năm Thuần Hy thứ tám (1181) để bác bỏ những luận điệu đả phá Phật giáo trong bài Nguyên Đạo Luận của Hàn Dũ. Tác phẩm này về sau được gọi là Tam Giáo Luận.

[77] Công Tôn Hoằng sống vào đời Tây Hán, làm thừa tướng dưới thời Hán Vũ Đế. Do ông ta đă vay mượn tư tưởng của pháp gia (học thuyết dùng h́nh luật nghiêm khắc để dân chúng sợ hăi mà tuân phục) để chủ trương tập trung quyền hành vào tay hoàng đế, chú trọng đạt đến mục đích, bất cần thủ đoạn, nên đă bị các nhà Nho sau này coi là kẻ đă giải thích cong vạy tư tưởng của Nho gia.

Chúc Khâm Minh giữ chức Quốc Tử Giám Tế Tửu (tương đương với chức Hiệu Trưởng) đời Đường Trung Tông. Ông là người thông hiểu Ngũ Kinh, nhưng tánh ưa xu nịnh. Có lần hoàng đế đăi tiệc đại thần, nhằm bợ đỡ vua, ông khoe là mới chế ra khúc múa Bát Phong Vũ, xin vua cho phép biểu diễn. Tiếc là ông vừa mập ụt ịt, vừa xấu trai, vừa di chuyển lạch bạch, vừa lắc lư đầu, trợn tṛn hai mắt, lúng liếng liếc qua liếc lại làm duyên không giống ai, khiến cả triều đ́nh cười lăn cười ḅ. Lại Bộ Thị Lang Lô Tạng Dụng cảm thán: “Ngũ Kinh đă bị đem quét đất mất rồi”, ngụ ư chê trách Chúc Khâm Minh chẳng biết giữ dáng vẻ tôn nghiêm tối thiểu của một người thầy.

Dương Tử Vân chính là học giả Dương Hùng (53-18 trước Công Nguyên), tên tự là Tử Vân. Ông là một học giả, văn gia và là nhà ngôn ngữ học trứ danh đời Hán. Ông đă đề xướng Thái Huyền là căn nguyên của vạn sự vạn vật trong vũ trụ, chủ trương con người vốn thiện ác lẫn lộn. Trở thành thiện hay ác là do tu tập như thế nào mà thôi! Do khi Vương Măng cướp ngôi nhà Hán, lập ra nhà Tân, đă trọng dụng ông, phong cho ông làm Trung Tán Đại Phu, Dương Hùng bèn viết một bài văn i ca tụng Vương Măng. Bài văn này thường được người đương thời gọi châm biếm là Kịch Tần Mỹ Tân v́ ông phê phán dữ dội Tần Thủy Hoàng nhằm tô chuốt những ưu điểm của nhà Tân.

Hứa Kính Tông làm Trung Thư Xá Nhân dưới đời Đường Thái Tông. Khi vua mất, Đường Cao Tông (Lư Trị, con trai Đường Thái Tông) u mê, bị Vũ Tắc Thiên lung lạc, giao hết quyền chánh cho bà ta. Sau khi Cao Tông mất, Vũ Hậu cướp ngôi của Đường Trung Tông, lập ra nhà Đại Châu. Thay v́ tận tụy phục hồi nhà Đường như các vị trung thần khác, Hứa Kính Tông lại ra sức tận trung với Vũ Tắc Thiên. Do v́ đánh mất khí tiết trung nghĩa, nên sách Cảm Ứng Thiên chê ông là “thất thân”. Lại do Vũ Tắc Thiên tiếm ngôi, nên sách gọi bà ta là Ngụy Vũ (“ngụy” ở đây là hư ngụy, dối trá).

[78] Tô Đông Pha lúc làm tri huyện Dương Châu, có lần nằm mộng thấy lên núi, bỗng có một con hổ nhảy xổ đến toan cắn. Đột nhiên có một gă đạo sĩ mặc áo tía, đội mũ vàng, dùng tay áo che cho Tô Đông Pha, quát lớn khiến con hổ bỏ chạy. Hôm sau, gă đạo sĩ t́m đến nha môn, vênh váo hỏi: “Đêm qua Ngài có sợ hay không?” Tô Đông Pha quát: “Thằng đạo sĩ chuột nhắt kia! Mày dám vác mặt đến đây ư? Có muốn bị đánh trượng găy xương sống hay không? Ta chẳng biết mày giở tṛ Tư Dạ Thuật hay sao?” Gă đạo sĩ kinh hồn, lủi mất. Tư Dạ Thuật là một loại pháp thuật để đi vào trong giấc mộng của người khác ḥng giở tṛ.

[79] Lâm Linh Tố là đạo sĩ thời Bắc Tống, người xứ Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang, tên thật Linh Ngạc. Do Tống Huy Tông mê thích thuật trường sanh của đạo sĩ, Lâm Linh Tố bèn thừa cơ mê hoặc, nói: “Cơi trời có chín tầng, tầng cao nhất là Thần Tiêu. Bệ hạ là con trưởng của Thượng Đế, tước hiệu là Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương, pháp hiệu là Trường Sanh Đại Đế Quân”, c̣n hắn chính là Thần Tiêu Phủ Tiên Khanh giáng hạ để phù tá Tống Huy Tông. Để lấy ḷng bọn quyền thần, hắn nói các gă gian thần như Thái Kinh, Vương Phủ, Thịnh Chương, Vương Cách, Trịnh Cư Trung, cũng như một số thái giám có quyền uy thời đó đều là thần tiên giáng hạ để pḥ tá nhà vua, ngay cả sủng phi của Tống Huy Tông là Lưu Thị cũng là Cửu Hoa Ngọc Chân An Phi giáng thế! Tống Huy Tông mê muội tin theo, ban cho hắn ngự hiệu Thông Chân Đạt Linh Tiên Sinh, xây cung Thượng Thanh Bảo Lục cho hắn ở. Linh Tố bèn thừa cơ khuyên vua phế Phật. Vua bèn xuống chiếu bắt dân gọi Phật là Đại Giác Kim Tiên, các vị Bồ Tát gọi là Tiên Nhân, tăng sĩ bị đổi thành đức sĩ, chùa Phật không được dùng chữ Tự mà phải gọi là Cung, các tự viện gọi là Quán, các tăng sĩ bị xua đuổi, bị coi như hạng người hèn hạ trong xă hội!

[80] Ngụy Vũ Đế chính là Ngụy Thái Vũ Đế (Thác Bạt Đào) nhà Bắc Ngụy, khác với Ngụy Vũ Đế (Tào Tháo). Thác Bạt Đào thuộc tộc người Tiên Ty, là vua thứ ba của nhà Bắc Ngụy. Ngụy Thái Vũ Đế say đắm Đạo giáo, nghe theo lời xúi giục của Thôi Hạo (Thôi Hạo vu cáo Phật tử đă ủng hộ loạn quân Cái Ngô) và đạo sĩ Khấu Sĩ Khiêm, nên nhà vua kiên quyết tiêu diệt Phật giáo. Đây là họa diệt pháp đầu tiên trong tai họa Tam Vũ Diệt Phật (Bắc Ngụy Vũ Đế, Bắc Châu Vũ Đế và Đường Vũ Tông) của Phật giáo Trung Hoa. Vua xuống chiếu cấm ngặt vương hầu và dân chúng cúng dường sa-môn, triệt hạ tự viện, tịch thâu tài sản của nhà chùa, sát hại các vị cao tăng Huyền Cao và Huệ Sùng. Thôi Hạo lại thôi thúc nhà vua tàn sát tăng sĩ tại Trường An rồi ban lệnh diệt Phật, đuổi Tăng khắp toàn quốc, khiến cho các tăng sĩ phải trốn lánh hay hoàn tục.

[81] Phó Dịch sống qua ba triều đại Châu, Tùy, Đường, tinh thông thiên văn và lịch pháp. Trước khi làm quan, ông ta là đạo sĩ. Ông ta làm Thái Sử Lệnh dưới thời Đường Cao Tông, dâng sớ nói: “Phật giáo có hại cho chế độ phong kiến, giúp dân trốn lính, chẳng thờ phụng cha mẹ, sư săi toàn là bọn du thủ du thực trốn việc quan, ăn bám, phải nên phế trừ chùa chiền, bắt hết thảy tăng ni hoàn tục”. Ông ta liên tiếp dâng mười một tờ sớ đề nghị phế Phật.

[82] Tŕnh Di làm chủ bạ ở Ngạc Châu. Có người khuyên ông ta hăy nên đến xem tượng Phật bằng đá phóng quang. Ông lấy cớ bận bịu công việc để thoái thác, bảo người ấy hăy mang tượng đến cho ông ta xem. Rồi khi có người kể chuyện linh dị, ông đều bác bỏ: “Ta cũng có chuyện lạ lắm, ăn vào bèn no!”

[83] Trong niên hiệu Trinh Quán đời Đường, có một vị Tăng người Ấn Độ tự xưng có răng Phật, tuyên bố không ǵ có thể phá hoại được. Phó Dịch bèn bảo con: “Đó không phải là răng Phật mà là đá kim cang. Kim cang cứng nhất, chỉ có sừng linh dương mới phá vỡ được”. Do vậy, con trai Phó Dịch bèn đến xin thử. Sừng linh dương vừa đụng vào, “răng Phật” vỡ nát.

[84] Vô Vi Giáo là chi phái của Bạch Liên Giáo, c̣n gọi là La Tổ Giáo.

[85] La Thanh (1442-1527), tự là Mộng Hồng, hiệu Tư Phù, người huyện Tức Mặc, tỉnh Sơn Đông. Hắn xuất thân là quân nhân, chuyên vận tải lương thực cho quân đội. Sau khi xuất ngũ, hắn trở về quê nghiên cứu Phật giáo, thật ra là vay mượn cách tu tiên, luyện đan, pha trộn vào một ít tư tưởng Phật giáo (theo kiểu diễn giải xằng bậy), thừa kế phần lớn giáo nghĩa của tà giáo Bạch Liên. Hắn tự xưng thừa kế các giáo nghĩa Thiền Tông, Tịnh Độ, giáo nghĩa của các phái Chánh Nhất và Toàn Chân trong Đạo giáo. Đến năm bốn mươi mốt tuổi, hắn tự xưng là đă chứng ngộ Phật pháp, đắc pháp chánh truyền, và đưa ra tà thuyết: “Sau thời Lục Tổ, thiền pháp bị thất truyền, Thiền pháp chánh truyền được duy tŕ bởi hàng tại gia cư sĩ”, chủ trương niệm Phật, lạy Phật là pháp hữu vi, cách tu của hắn mới là pháp vô vi chân chánh, sáng lập ra “tôn giáo” mới, gọi là La Giáo, thực chất chỉ là vận dụng những giáo thuyết của Bạch Liên, và tự xưng rất khoa trương là Vô Tướng Chân Nhân, Hóa Thiện Tổ Sư, Yết Không Cổ Phật.

[86] Hy Hoàng chính là Phục Hy Thị. Phục Hy được tôn xưng là thỉ tổ của nền văn minh Hoa Hạ. Cổ thư ghi tên ông gọi theo nhiều lối khác nhau: Bào Hy, Mật Hy, Bao Hy, hay Hy Hoàng. Sử Kư nói ông là con của Hoa Tư, cha của Thiếu Điển, là ông nội của Viêm Hoàng. Theo truyền thuyết, ông dạy dân đan lưới bắt cá, săn bắn, nuôi dưỡng gia súc, chế ra Bát Quái, chế ra văn tự và đàn cổ cầm. Ông c̣n được xếp vào Tam Hoàng. Thần thoại nói ông thân có vảy, c̣n em gái của ông là Nữ Oa có thân rắn. Truyền thuyết khác lại nói họ là vợ chồng. Có thuyết nói Phục Hy chính là Bàn Cổ. Theo các nhà khảo cứu, sau khi Hoàng Đế thay thế Viêm Đế, đánh bại Si Vưu, do thấy tổ tiên của các bộ lạc Viêm Đế và Si Vưu là Phục Hy rất được kính ngưỡng, bộ tộc của Hoàng Đế bèn vay mượn truyền thuyết về Phục Hy, sáng tạo ra nhân vật Bàn Cổ, dần dần dẫn đến truyền thuyết Bàn Cổ mở mang trời đất.

[87] Dưới thời Hán B́nh Đế, nhà vua đă dâng thụy hiệu cho Khổng Tử là Bao Thành Tuyên Ni Công. Do vậy, các đời sau thường gọi Khổng Tử là Tuyên Thánh.

[88] Theo Pháp Hoa Kinh Tŕ Nghiệm Kư quyển thượng, trong niên hiệu Vũ Đức đời Đường, có một viên Đô Thủy Sứ họ Tô. Vị này chuyên trông coi công tác vận chuyển trên sông ng̣i, tu bổ cầu bến, nạo vét sông rạch, đắp sửa đê điều… Về sau, ông ta làm Thứ Sử tại Ba Châu (Tứ Xuyên), đi qua sông Gia Lăng, sóng to rất lớn, thuyền bị lật, mọi người đều bị chết đuối. Chỉ có một người thiếp do thường đọc kinh Pháp Hoa. Khi rớt xuống nước, cô bèn đội rương đựng kinh lên đầu, nguyện có chết th́ sẽ chết cùng kinh. Lạ thay, thuyền không ch́m mà lừ đừ trôi tới, cô bèn trèo lên thuyền, từ từ bị dạt vào bờ. Lên tới bờ, cô kiểm lại, ngạc nhiên khi thấy kinh không hề bị ướt chút nào.

[89] Thiền sư Quốc Thanh là ngài Phổ Minh Quốc Thanh, sống vào đời Nam Triều, quê ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, là cao tăng của tông Thiên Thai. Năm Thái Kiến thứ năm (582) đời Trần, Sư vào núi Thiên Thai, gặp Trí Giả đại sư giảng kinh, ngộ được tâm yếu, bèn tôn ngài Trí Giả làm thầy, tu tập các phép tam-muội Bát Nhă và Phương Đẳng, kiêm tŕ tụng kinh Pháp Hoa.

[90] Phân Thủ Đạo (分守道) là một chức phụ tá của quan Bố Chánh. Do chức vị này có nhiệm vụ quản trị, phân phối, tích trữ lương thực, quản trị ruộng nương, cũng như coi sóc việc truyền phát công văn giữa cách dịch trạm, nên gọi là Phân Thủ.

[91] Nguyên văn Dược Nỗ (藥弩) là một loại cung bắn tên tự động.

[92] Gậy dính (粘竿, niêm can) là một thứ dụng cụ để bắt chim, thường làm thành h́nh sào dài, một đầu có gắn chất keo dính.

[93] Nguyên Hựu là niên hiệu của Tống Triết Tông (Triệu Hú) từ năm 1086 đến năm 1094. Tống Triết Tông sử dụng ba niên hiệu là Nguyên Hựu, Thiệu Thánh và Nguyên Phù.

[94] Bản in của Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội ghi là Hồng Nông, nhưng các bản khác đều ghi là Hoằng Nông. Ông Hoàng Bách Lâm nói rơ Hoằng Nông là tên một huyện vào thời Hán, nay thuộc phần phía Bắc của thành phố Linh Bảo, tỉnh Hà Nam.

[95] Thành Thang, c̣n gọi là Thiên Ất, Đại Ất, Cao Tổ Ất, hoặc Thành Đường. Vua họ Tử, tên là Lư, là lănh tụ của bộ tộc Thương. Vua trọng dụng Y Doăn và Trọng Hủy, đóng đô tại đất Hào, tích cực biến Thương thành một quốc gia hùng mạnh. Khi vua Kiệt nhà Hạ tàn ác, hôn ám, bóc lột dân chúng tàn bạo, vua Thành Thang đă hiệu triệu chư hầu đứng lên lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương. Theo Lă Thị Xuân Thu, vua thấy có kẻ giăng lưới bốn phía ước nguyện: “Những con vật từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất chui lên, từ bốn phương đến, đều mắc vào lưới ta”. Vua than: “Ôi! Bắt sạch hết, nếu chẳng phải là Kiệt th́ có ai làm như thế ư?” Bèn bảo người ấy chỉ căng lưới một phía, để cho các con vật c̣n có chỗ thoát thân.

[96] Thuở xưa, khi đúc chuông xong, người ta tin phải giết một con trâu lấy máu nó bôi vào chuông th́ tiếng chuông mới vang xa, chuông không bị rè. Tục lệ này gọi là Hấn Chung (釁鐘). Theo sách Mạnh Tử, vua Tề thấy con trâu run lẩy bẩy khi sắp bị hấn chung, bèn hạ lệnh thả nó đi.

[97] Bạch Khởi là một danh tướng của nước Tần, vốn tên là Công Tôn Khởi. Ông ta là vị tướng giỏi, gần như đánh đâu thắng đấy, đă tham dự hơn bảy mươi trận chiến. Tánh Bạch Khởi tàn nhẫn, thích tàn sát, nên bị người đương thời gọi là Nhân Đồ (gă đồ tể giết người). Trong trận Trường B́nh, Bạch Khởi dùng kế khích cho liên quân Triệu và Hàn dưới sự lănh đạo của Triệu Quát khinh địch đánh tan quân Triệu. Số quân Triệu bị bắt lên tới bốn mươi vạn người. Sợ có biến, Bạch Khởi cho quân Triệu ăn uống no say, quân Tần sẽ thừa cơ xông vào, hễ thấy người nào không có vải trắng buộc trên đầu như đă ngầm ấn định trước, cứ giết thẳng cánh. Bốn mươi vạn hàng quân nước Triệu bị giết sạch trong một đêm.

[98] Đông Pha nay thuộc huyện Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc.

[99] Chúng ta thường nói Long, Lân, Quy, Phụng là Tứ Linh, đó là nói cho thuận miệng, chứ theo sách Lễ Kư, thiên Lễ Vận chép: “Hà vị tứ linh? Lân, Phụng, Quy, Long, vị chi tứ linh” (Tứ linh là ǵ? Lân, phụng, rùa, rồng là tứ linh) th́ rồng được xếp vào hạng chót trong tứ linh.

[100] Ngự thiện (禦膳): Bữa ăn, món ăn cho nhà vua.

[101] Giám tể (監宰) là vị quan trông coi việc nấu nướng thức ăn cho nhà vua.

[102] Theo Giới Sát Phóng Sanh Văn Đồ Thuyết, Hứa Tôn là người đời Tấn, tên tự là Kính Chi, thích săn bắn. Có một hôm ông ra đồng, bắn chết một con nai bé. Nai mẹ hết sức đau khổ, chạy đến liếm măi vết thương, nhưng nai con đă chết. Nai mẹ bi thương, lẩn quẩn, hết liếm lại kêu năo nuột. Hồi sau, nó ngă lăn ra chết. Hứa Tôn kinh ngạc, mổ ra xem thấy ruột non của nai mẹ đứt từng khúc. Ông bèn cảm thán, bẻ vụn cung tên, thề không bao giờ săn bắn, rồi bỏ đi tu. Về sau Hứa Tôn được Ngô Mănh truyền dạy Tam Thanh Pháp Yếu, bèn tu thành tiên, tức là Hứa Chân Quân trong Đạo giáo.

[103] Thời Xuân Thu Chiến Quốc, có một tay thiện xạ tên là Dưỡng Do Cơ. Có lần, ông ta theo hầu Sở Vương đi săn, thấy trên cây có một con vượn già. Dưỡng Do Cơ rút cung tên ra toan ngắm bắn, con vượn biết sẽ không tránh khỏi cái chết, nó run lẩy bẩy, khóc ṛng.

[104] Tử Sản là tên tự của Công Tôn Kiều, sống vào thời Xuân Thu. Ông c̣n được gọi là Tử Mỹ, làm quan chánh khanh của nước Trịnh, nổi tiếng là người thông minh, cai trị nhân từ, có tài chỉnh đốn kỷ cương, chú trọng giáo dục, phát triển kinh tế, khiến nước Trịnh trở thành hùng mạnh dưới thời Trịnh Giản Công. Ông thường được người khác biếu tặng cá tươi, nhưng chẳng nỡ ăn, sai người hầu đem thả vào ao đào trong vườn. Ông thấy cá bơi lội thung thăng trong đó, bèn cảm thán “đắc kỳ sở tai” (cá được yên thân).

[105] Theo kinh Kim Quang Minh, quyển bốn, phẩm Trưởng Giả Tử Lưu Thủy, th́ trưởng giả Lưu Thủy có hai con là Thủy Không và Thủy Tạng. Ba cha con đi chơi trong lănh địa của ḿnh, bỗng thấy trong một vùng đầm trũng có một cái ao nước đă cạn khô gần hết, những con cá đang ngoi ngóp trong ấy sắp bị chết khô, hay sẽ làm mồi cho chim, thú. Trưởng giả bẻ cây che cho chúng đỡ nóng, lại sai con về triều mượn đức vua hai mươi thớt voi để chở nước suối đến cứu cá. Lại c̣n thả đồ ăn cho chúng được no đủ. Lại niệm Phật hiệu cho chúng nghe. Đêm ấy, mười ngàn con cá ấy đồng thời mạng chung, sanh lên trời Đao Lợi. Họ đến nhà trưởng giả chiếu hào quang sáng rực, đảnh lễ trưởng giả Lưu Thủy. Trưởng giả Lưu Thủy chính là tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật.

[106] Khi Phật Thích Ca c̣n tu nhân, hành Bồ Tát đạo, trông thấy một con chim ưng đuổi bắt bồ câu. Con bồ câu chạy đến núp dưới vạt áo của Ngài. Chim ưng bảo Bồ Tát hăy trả lại con bồ câu v́ nó đang đói. Bồ Tát bèn cắt thịt của chính ḿnh cho chim ưng ăn, lóc thịt từ bắp tay. Chim ưng cứ đ̣i ăn măi, Bồ Tát lóc thịt lộ cả xương, mà chim ưng vẫn cứ kêu đói. Nó hỏi Bồ Tát có hối hận hay không? Bồ Tát nói: “Ta hoàn toàn chẳng hối hận. Nếu lời này chẳng dối, thịt ta sẽ mọc lại như cũ”. Quả nhiên thịt trên thân Bồ Tát mọc lại như cũ. Chim ưng bèn hiện lại nguyên h́nh là Đế Thích Thiên, đảnh lễ, tán thán ḷng từ bi của Bồ Tát.

[107] Trong quá khứ, có một vị tiên nhân tu Thiền Định rất sâu. Tới khi Ngài xuất Định, chim đă làm tổ trên đầu. Do vậy, Ngài vẫn ngồi yên v́ sợ kinh động chim.

[108] Tôn chân nhân chính là Tôn Tư Mạo. Ông là một vị thầy thuốc nổi danh, Đạo giáo tin là ông đă thành tiên. Tương truyền khi chưa thành tiên, ông thấy một đứa trẻ trong thôn bắt một con rắn, đánh đập để chơi giỡn. Động ḷng thương xót, ông bỏ tiền ra chuộc, dùng thuốc trị thương tích cho nó rồi thả vào rừng. Một tháng sau, trong khi đang tĩnh tọa, ông thấy một thiếu niên mặc áo xanh mời đến thủy tinh cung. Tại đó, ông thấy long vương ra nghênh tiếp, cảm tạ đă cứu con trai. Sau khi bày tiệc đăi đằng ba ngày, vua đem kỳ trân dị bảo biếu tặng khi chia tay. Tôn chân nhân từ chối, chỉ xin một bài thuốc. Long vương bèn tặng Ngọc Cấp Tam Thập Lục Phương (ba mươi sáu bài thuốc trong tráp ngọc). Từ đó, Tôn Chân Nhân y thuật lừng lẫy trong cơi đời.

[109] Đời Tống, Tống Giao và Tống Kỳ là hai anh em. Khi họ c̣n đang học trong trường Thái Học, có một vị cao tăng xem tướng, bảo Tống Kỳ sẽ đỗ Trạng Nguyên khoa này, c̣n Tống Giao tuy cũng đỗ, nhưng thứ hạng rất thấp. Tống Giao ra đồng chơi, thấy có tổ kiến bị gió mưa đánh vỡ, kiến chết đuối vô số; ông động ḷng thương, bắc cầu trúc cho kiến ḅ lên chỗ ráo. Đến lúc thi cử, khi chưa yết bảng, họ gặp lại vị cao tăng. Vị cao tăng kinh ngạc bảo Tống Giao: “Lạ quá, tướng mạo của ông thay đổi! Nhất định là có âm đức đă cứu mấy trăm vạn sanh mạng”. Nói qua nói lại, mới biết là do đă cứu đàn kiến. Vị Tăng bảo: “Tống Kỳ vẫn là Trạng Nguyên, nhưng do âm đức ấy, Tống Giao nhất định chẳng thua em trai ḿnh”. Hỏi nữa, vị Tăng không trả lời. Kết quả là khi duyệt kết quả thi, Chương Hiến Thái Hậu thấy Tống Giao và Tống Kỳ là anh em, Tống Kỳ được chấm đậu Trạng Nguyên, liền bảo: “Em chẳng thể ở trên anh được”. V́ thế, do Tống Giao đỗ hạng mười, triều đ́nh chiều theo lời Thái Hậu đổi Tống Kỳ thành đậu hạng thứ mười một.

[110] Theo Tấn Thư quyển sáu mươi mốt, Mao Bảo là người sống vào đời Tây Tấn. Ông đă mua lại một con rùa trắng sắp bị giết rồi nuôi lớn. Sau đó, thả đi. Trong cuộc chiến ở Châu Thành, quân ông bị chiến bại, Mao Bảo bị vây ép, phải nhảy xuống sông, trước sau ǵ cũng chết. Ông bỗng cảm thấy thân ḿnh nằm trên một tảng đá, từ từ trôi ra xa, tránh được loạn tiễn, thoát nạn. Khi đến bờ, nh́n lại, th́ ra tảng đá ấy là lưng con rùa trắng ông đă cứu mạng xưa kia.

[111] Khổng Du làm quan chức vị rất nhỏ. Có lần ông đi qua Dư Bất Đ́nh, thấy một con rùa đen bị người khác bắt, động ḷng thương xót, bèn mua lại, đem thả xuống sông. Rùa đen nhiều lần nhô đầu nh́n Khổng Du biểu lộ ư cảm tạ, rồi mới lặn xuống. Về sau, Khổng Du được phong làm Đ́nh Hầu của Dư Bất Đ́nh. Ấn quan thuở ấy có khắc đầu rùa. Ấn đúc ra, viên quan trông coi việc đúc ấn lấy làm lạ v́ sao đầu rùa trên ấn lại nghểnh cổ nh́n lại. Ông ta cho là ấn đúc sai, bèn phá hủy, đúc lại. Cả hai lần đều là như vậy, khuôn đúc đă đổi thành như vậy. Viên quan đúc ấn bèn kể lại cho Khổng Du nghe. Khổng Du bỗng nhớ lại chuyện cũ, mới nghĩ chức quan này nhất định là quả báo tốt lành của chuyện thả rùa khi trước.

[112] Vào đời Tống, có một thôn xóm gọi là thôn Nguyên Sanh, chuyên sống bằng nghề bắt cá. Trong xóm, có một người tên là Khuất Sư, mua một cái ao cá, thả đăng đó, tát ao bắt cá. Ông ta thấy có một cặp cá chép lớn, tung ḿnh nhảy qua tấm đăng, đă thoát ra, rồi lại nhảy vào, rồi lại nhảy ra. Đă thoát ra rồi lại nhảy vào, rất nhiều lần như thế. Ông ta ṃ đến gần xem, th́ ra trong đó có đến mấy trăm con cá chép mới nở. Cặp cá chép quẫy ḿnh tung đó để có kẽ hở cho cá con thoát ra. Chúng va ḿnh vào đó nhiều lần đến nỗi ḿnh mẩy đẫm máu. Khuất Sư hết sức cảm khái, bèn tháo tấm đăng, thả hết cá con. Vài năm sau, Khuất Sư bị bệnh nặng, hồn đến cơi âm. Diêm vương phán: “Do âm đức cứu cá, tăng thọ một kỷ (mười hai năm)”.

[113] Có một người thợ làm rượu thấy một con ruồi sa vào ṿ rượu, sắp chết đuối, bèn vớt nó ra, để nơi khô ráo. Lại rải một ít tro, để làm khô bọt nước trên ḿnh nó. Ông ta cứu rất nhiều con ruồi như vậy. Về sau, người ấy bị kẻ khác vu cáo trộm cướp, oan t́nh chẳng thể biện giải. Khi viên quan thẩm vấn cất bút viết án từ phán tội tử h́nh, bỗng ruồi đậu kín ng̣i bút, đuổi không được. Bỏ bút xuống th́ thôi, chứ cầm bút lên, ruồi lại bu vào, chẳng có cách nào viết bản án. Phán quan cho là ắt có oan t́nh, bèn xin thượng quan cho phép tái thẩm, mới biết người ấy bị vu cáo, bèn xóa án.

[114] Có một bà chủ sai đứa tớ gái chuyên nấu nướng trong bếp làm thịt một con ba ba để nấu canh bổ huyết. Nhận biết chính ḿnh đă ra tay giết hại quá nhiều, cô tớ gái cảm thấy áy náy, bèn lén thả con ba ba đi, cam chịu chủ nhân nổi cáu, đánh đập tàn nhẫn. Về sau, vùng ấy bị bệnh dịch nặng, cô tớ ấy bị nhiễm bệnh, sốt cao, sắp chết. Chủ nhân sợ cô ta chết trong nhà, sai gia nhân vứt cô ta ra cạnh ao nước ngoài nhà. Cô ta nằm thoi thóp tại đó, đến nửa đêm, có một con ba ba từ dưới ao ḅ lên, ḿnh mẩy lấm lem bùn đất, ḅ chung quanh, trát bùn khắp thân cô ta. Cơn sốt bèn hạ. Sáng hôm sau, bệnh dịch khỏi hẳn.

[115] Có một người họ Trương giữ chức Đề H́nh, đi ngang qua nhà một gă đồ tể, bèn dùng tiền mua lại con vật sắp bị giết, đem thả. Khi lâm chung, ông ta bảo người nhà: “Ta do phóng sanh, tích đức sâu dầy, nay thiên cung đến nghênh tiếp, ta sẽ sanh lên trời”.

[116] Lư Cảnh Văn tánh rất từ bi, trông thấy ghe bắt cá bắt được rất nhiều cá, bèn vét hết tiền mua lại đem phóng sanh. Do ḷng từ bi ấy, hễ ông gặp cảnh hiểm nạn như bệnh ngặt, hoặc tai nạn bất kỳ đều được thoát khỏi. Đan sa là oxide thủy ngân, thường được dùng làm thuốc với tên gọi là Châu Sa.

[117] Nguyên văn là “bốc táng” (卜葬), tức là xem Phong Thủy Địa Lư để t́m huyệt an táng tốt. Tôn Lương Tự nhà nghèo, thường cứu vớt loài chim bị mắc bẫy. Về sau, ông ta chết, do con cháu quá nghèo, không có tiền mai táng, đem vùi tạm ngoài đồng. Bỗng có mấy ngàn con chim bay tới, mỏ ngậm bùn đất, phủ lên thân Lương Tự, chẳng đầy một ngày, đă trở thành một nấm mộ to.

[118] Phan Hoa làm huyện lệnh huyện Chư Ky (thuộc tỉnh Chiết Giang), là một Phật tử thuần thành. Khi trấn nhậm huyện ấy, ông ra lệnh cả huyện không được đánh bắt cá trên sông, hồ. Khi ông sắp rời nhiệm sở, trong sông, hồ cả huyện bỗng phát ra âm thanh than khóc ầm ĩ một hồi lâu, giống như tiếng con cái bị mất cha mẹ vậy.

[119] Đạo Tín ở đây chính là đệ tứ tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Trong thời Ngài, có lần nơi Ngài ở bị hạn hán rất nặng, đói kém dữ dội. Dân chúng hoảng sợ, bàn nhau mua các con vật tính đem giết để tế thần cầu mưa. Tổ bảo họ phải làm phước, đừng tạo nghiệp, khuyên họ hăy tha cho các con vật ấy, Ngài sẽ đích thân đứng ra cầu mưa. Tổ bèn triệu tập tăng chúng lập hương án đơn sơ, thanh khiết, tụng kinh Lăng Già và Bát Nhă. Quả nhiên một tuần sau, mưa tuôn như trút.

[120] Theo Phóng Sanh Văn Đồ Thuyết, xưa kia có một gă đạo sĩ tâm thuật bất chánh, không lo tu hành, chỉ lo trí trá, dối gạt kiếm lợi. Hắn nghe nói ăn củ hoàng tinh sẽ có thể trường thọ, bèn bỏ thật nhiều hoàng tinh xuống một cái giếng cạn, lừa gạt dụ dỗ để đẩy một người xuống đó, rồi dùng nắp đá đậy kín giếng. Người ấy biết là bị lừa, hết sức hoảng hốt, không biết làm sao. Bỗng có một con cáo xuất hiện, nói nó là hồ tiên, do từng được người ấy cứu mạng trước kia, nay để báo ân, nó sẽ truyền tiên thuật phi thăng. Người ấy nghe theo, tu tập. Sau bốn tuần, quả nhiên người ấy phi thăng, bay thoát khỏi giếng. Gă đạo sĩ mừng quá, mang hoàng tinh vào giếng, dặn người nhà đậy lại thật chặt. Nửa tháng sau, mở ra coi, họ thấy xác gă teo đét v́ chết đói!

[121] Xưa kia có một vị Tăng thấy có người bắt mấy con rết, dùng tre căng uốn thân chúng cong ṿng lại như đồ trang sức. Vị xuất gia bèn xin mua hết, đem phóng sanh. Chúng đă chết gần hết, chỉ c̣n một con sống sót. Về sau, vị xuất gia ấy đang tĩnh tọa cùng với một vị sư khác ở chùa, trên vách vôi trắng, bỗng có con rết ḅ ra. Sư dùng khối gỗ gơ vào tường đuổi nó đi, nhưng nó vẫn không đi. Cuối cùng, Sư nhớ ra hỏi: “Có phải ngươi là con rết đă được thả, muốn đến cảm tạ đó chăng? Nếu phải, hăy nghe ta thuyết pháp: Lắng nghe! Hết thảy hữu t́nh chỉ do tâm tạo. Nếu tâm tàn ác, sẽ thành hổ lang. Nếu tâm độc địa, sẽ thành độc trùng. Ngươi trừ hết độc, sẽ thoát thân này”. Con rết nghe xong, gục gặc đầu, ḅ đi.

Vào năm Vạn Lịch thứ chín đời Minh Thần Tông, tại Hàng Châu có một người họ Vu. Một hôm, người hàng xóm của người họ Vu bị cướp. Họ Vu có một đứa con gái đă gả chồng. Cô ta nghe tin bèn vội về thăm nhà, tiện tay xách theo mười con lươn để làm lễ vật. Họ Vu đem chúng thả hết vào trong lu nước sau nhà, rồi quên khuấy. Có một hôm, bà Vu mộng thấy mười người mặc áo vàng, đội mũ chóp nhọn, quỳ gối, buồn bă, thống thiết van xin cứu mạng. Tỉnh giấc, bà đi coi bói, thầy bói nói: “Ắt là trong nhà bà có sanh mạng nào xin được phóng sanh”. Trở về, bà t́m khắp trong nhà, chỉ thấy trong lu có đúng mười con lươn bụng vàng, chắc là bọn người mặc áo vàng xin cứu mạng trong mộng, bèn đem chúng thả hết trong sông.

[122] Trong bản chú giải của Phóng Sanh Văn, có giải thích: Nói tiền tài không kiên cố là v́ nó sẽ bị nước nhấn ch́m, hoặc lửa đốt rụi, bị cướp bóc hay mất mát v́ chiến tranh, bị trộm cướp tước đoạt, bị con cháu không ra ǵ phung phí tan nát, bị quan lại, vua chúa tịch thu.

[123] Chân Tây Sơn tên thật là Chân Đức Tú (1178-1235), tự là Cảnh Nguyên, hiệu Tây Sơn, thụy hiệu Văn Trung, là người xứ Phổ Thành, tỉnh Phước Kiến. Ông là một vị quan nổi danh thời Nam Tống, thuộc trường phái Lư Học của Châu Hy. Ông thông minh, học rộng, sách đọc qua một lượt đă ghi nhớ, nắm được điều cốt yếu. Ông từng được bổ làm Thái Học Bác Sĩ, chuyên giảng sách cho vua nghe. Về sau, do mâu thuẫn với Sử Di Niên, bị hắn gièm siểm, đổi đi làm An Phủ Sứ Hồ Nam kiêm tri phủ Đàm Châu. Đến thời Tống Lư Tông, ông được triệu về kinh giữ chức Trung Thư Xá Nhân rồi thăng làm Lễ Bộ Thị Lang. Không chịu nổi sự chuyên quyền của Sử Di Viễn, ông lại từ quan. Sau khi Sử Di Niên thất thế, ông lại được vời ra làm quan, lần lượt làm Hộ Bộ Thượng Thư, Hàn Lâm Học Sĩ Tri Cáo Chế, Tham Tri Chánh Sự. Khi ông trông coi Tuyền Châu, vùng này bị hạn hán lớn, nghe lời khuyên của thuộc hạ, ông đến cầu mưa tại miếu thờ Thanh Thủy Tổ Sư, quả nhiên mưa to. Do miếu thờ của vị thần ấy đă có biển đề chữ Chân Nhân, ông cho hạ xuống, sửa thành Chân Chân Nhân (vị Chân Nhân thật sự) nhằm cảm tạ thần ân. Ngoài những tác phẩm Tây Sơn Giáp Ất Cảo, Đại Học Diễn Nghĩa, Tây Sơn Tiên Sinh Chân Văn Trung Công Văn Tập, rất nhiều tác phẩm thi từ của ông được người đương thời đánh giá rất cao.

[124] Tam Biên (三邊) là ba tỉnh thuộc vùng biên cương của Trung Hoa, tức là Thiểm Tây, Cam Túc và Ninh Hạ.

[125] Nghiêm Tung là một gă gian thần cùng hung cực ác thời Minh Thế Tông (Gia Tĩnh) nhà Minh. Minh Thế Tông mê man Đạo giáo, chuyên lo tu tiên để cầu trường sanh, không màng đến chánh sự. Việc triều chánh phó mặc cho bọn quyền thần lo liệu. Lúc bấy giờ, Lễ Bộ Thượng Thư Hạ Ngôn được vua tin cậy, Nghiêm Tung bèn ve văn nịnh bợ Hạ Ngôn. Có lần Nghiêm Tung (lúc đó đang làm Lại Bộ Tả Thị Lang) mở tiệc mời Hạ Ngôn. Hạ Ngôn từ chối không đến, thế là Nghiêm Tung chạy đến trước cửa nhà Hạ Ngôn, thắt chặt vạt áo, quỳ mọp trước cửa khẩn khoản thỉnh cầu. Hạ Ngôn không tiện từ chối, phải đến dự. Từ đó, Hạ Ngôn coi Nghiêm Tung như tri kỷ, hết sức nâng đỡ Nghiêm Tung. Do hắn khéo ve văn, đón ư vua, dần dần vua rất mực tin dùng Nghiêm Tung. Do Hạ Ngôn tánh t́nh tự cao, nhà vua dần dần không ưa Hạ Ngôn. Nghiêm Tung được thăng làm Thái Tử Thái Phó, thừa cơ nhiều lượt sàm tấu khiến vua nghi kỵ, băi chức Hạ Ngôn. Về sau, vua lại gọi Hạ Ngôn ra làm quan. Nghiêm Tung vẫn ngấm ngầm t́m cách làm hại. Năm 1554, quân Thát Đát chiếm vùng Hà Sáo, Tổng Đốc tỉnh Thiểm Tây Tăng Tiễn phát binh chiếm lại Hà Sáo, dâng sớ xin tái thiết vùng này, tái lập trị an, phát triển thủy lợi. Những biện pháp ấy được Hạ Ngôn tán thành. Nghiêm Tung lập tức cấu kết với biên tướng Cừu Loan vu cáo Tăng Tiễn thất bại mà báo công giả, vu cáo Hạ Ngôn lợi dụng quyền chức kiếm lợi. Tăng Tiễn bị giết, Hạ Ngôn bị tù rồi bị xử tử. Nghiêm Tung độc quyền thao túng triều chánh, trở thành Nội Các Thủ Phụ (Tể Tướng), cùng với con trai là Nghiêm Thế Phiên khuynh đảo nhà Minh suốt hai mươi hai năm. Về sau, có một tay đạo sĩ trứ danh là Lam Đạo Hành giỏi cầu cơ, vua rất tin cậy. Một hôm, đang lúc cầu cơ, Lam Đạo Hành nói: “Ngày nay có gian thần phụng sự”, nhằm đúng lúc Nghiêm Tung vừa đi qua. Vua âm thầm lập kế tước đoạt vây cánh của hắn, xử tử Nghiêm Thế Phiên, tịch biên gia sản của cha con họ Nghiêm, và đuổi Nghiêm Tung về quê. Trắng tay, không ai chứa chấp, Nghiêm Tung phải ẩn náu nơi g̣ mả, lượm lặt đồ cúng thừa để sống qua ngày. Hai năm sau, hắn bị bệnh chết, không ai ngó ngàng. Khi chết, hắn không có quan tài để chôn!

[126] Quân () là một đơn vị hành chánh đời Tống. Nhà Tống chia cả nước thành mười tám lộ. Mỗi lộ lại chia thành châu, phủ, quân và giám.

[127] V́ Giáp nghĩ ḿnh sẽ không được tuyển mà vẫn phải biếu quan huyện năm mươi lượng, hắn muốn bắt Ất phải bù một nửa, nên nói là “chia đều”. Nào ngờ Giáp được tuyển, cho nên ngoài số tiền biếu quan huyện năm mươi lượng, hắn phải bù thêm cho Ất hai mươi lăm lượng để biếu quan Tư Lư.

[128] Chương Tŕ là con trai thứ hai của Chương Đôn. Chương Đôn là một nhân vật từng nắm quyền Tể Tướng thời Tô Đông Pha. Ông ta học rộng, giỏi văn chương, tận lực chủ trương cải cách, nhưng không hợp ư Vương An Thạch. Do đối nghịch với Tư Mă Quang, ông tranh căi với Tuyên Nhân Thái Hậu không nể nang, nên bị đày đi làm tri phủ Nhữ Châu. Dưới thời Tống Triết Tông, ông lại được vua trọng dụng, trở thành Tể Tướng, cực lực triệt hạ những người chống đối. Tô Đông Pha bị đày đi Hoàng Châu là do lệnh của Chương Đôn.

[129] Điểm huyệt ở đây là một thuật ngữ trong Địa Lư. Sau khi xác định một cuộc đất có thể có huyệt mộ tốt, người xem Phong Thủy sẽ xét xem long mạch vượng hay suy như thế nào bằng cách cắm kim và ghim những cành cây tươi xuống đó để phân định phương vị. Đến hôm sau, sẽ xem xét mức độ tươi héo của những nhánh cây để đoán định khí của long mạch.

[130] Hoàng Giáp là đỗ Tiến Sĩ Cập Đệ.

[131] Bàn Sơn Ngữ Lục là tác phẩm do môn nhân của đạo sĩ Vương Chí Cần thuộc Toàn Chân Giáo biên soạn dựa trên những lời dạy của thầy. Những lời dạy của ông Vương chủ yếu nói về cách luyện đan, luyện tâm tu tánh theo Đạo giáo, dựa trên tư tưởng trong bộ Thanh Tịnh Kinh của Đạo giáo và Tâm Tánh Luận của Thiền Tông.

[132] Nguyên văn là “thôi điệt” (衰絰). “Thôi” là tấm vải bằng sợi gai hoặc vải sô, dài sáu tấc, rộng bốn tấc, đính nơi ngực áo tang. V́ thế, cái áo tang ấy gọi là Thôi Y. Điệt là cái khăn dùng sợi gai hoặc cỏ vấn thành rế đội lên đầu. Thông thường, kiểu tang phục này dành cho con trai hoặc cháu nội của người đă mất.

[133] Đài Phụ là chức vị thuộc bậc Tam Công.

[134] Hư Tĩnh Chân Nhân tên thật là Trương Kế Tiên (1092-1127), tự là Gia Văn, hiệu là Tiêu Nhiên Tử, là một đạo sĩ lừng danh thời Bắc Tống, giữ chức vị Thiên Sư đời thứ ba mươi của hệ phái Chánh Nhất (con cháu trực hệ của Trương Đạo Lăng). Ông được Tống Huy Tông ban tặng ngự hiệu Hư Tĩnh tiên sinh, nên Đạo Giáo thường gọi ông là Hư Tĩnh Chân Nhân. Ông mất lúc ba mươi sáu tuổi, Đạo giáo coi ông đă đăng tiên. V́ thế, đến đời Nguyên, ông được vua sắc phong tước hiệu Hư Tĩnh Huyền Thông Hoằng Ngộ Chân Quân. Sinh tiền, tuy được nhà Tống hết sức trọng vọng, được ban ấn ngọc khắc Dương B́nh Trị Đô Công Ấn, có quyền thống lănh đạo sĩ toàn quốc, Tông Huy Tông bốn lượt thỉnh ông vào cung làm pháp hội và giảng đạo, nhưng hễ xong việc là ông xin về núi ẩn dật tu hành, không xu phụ, a dua lấy ḷng bọn quyền thần,

[135] Thập Di là chức gián quan có trách nhiệm vạch ra những thiếu sót trong việc triều chánh. Vũ Tắc Thiên đă đặt ra chức Tả Thập Di để giám sát Môn Hạ Tỉnh, Hữu Thập Di để giám sát Trung Thư Tỉnh. Đến đời Bắc Tống, chức vụ này được đổi thành Chánh Tín.