(Nhận định
tổng quát về thánh đức của Bồ Tát Địa
Tạng)
Hoằng Nhất
Đại Sư biên thuật
Chuyển
ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Ḥa
Tháng Chín năm Dân Quốc 21 (Nhân Thân –1932), tôi sống tại Trĩ Sơn; cư sĩ Lư Viên Tịnh gởi thư nhờ tôi cung cấp tài liệu để giúp ông biên soạn tác phẩm Cửu Hoa Sơn Chí. Tôi tự nghĩ từ khi ḿnh thế phát xuất gia đến nay, chí tâm quy y Địa Tạng Bồ Tát suốt 15 năm, thọ ân Ngài rất hậu, từ lâu đă muốn gom chép những giáo tích của Ngài để lưu truyền trong đời, tán dương thánh đức ngơ hầu báo đáp thâm ân. Nay chính là đúng lúc vậy. Tháng Hai năm sau, vân du Nam Mân, trụ ở Vạn Thọ Nham, bèn thu chép những sự việc, gộp thành một cuốn đặt tên là Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Đại Quan, giao cho thư cục khắc bản in riêng để lưu hành và tặng cho cư sĩ Lư Viên Tịnh dùng làm tài liệu.
Cận
đại, các sách tán dương, diễn thuật sự
tích của Bồ Tát Địa Tạng của Tăng, tục
rất nhiều; nhưng đa số chỉ dựa vào
mỗi riêng ḿnh kinh Địa Tạng Bổn Nguyện. Nay tôi
duyệt kỹ Đại Tạng và các trước tác của
mọi nhà, những điều trước đây
người khác đă nói rơ th́ tôi chỉ tŕnh bày đại
lược, chẳng hạn như ư chỉ lớn lao
của bổn nguyện, sự ứng tích của Bồ
Tát nơi núi Cửu Hoa v.v… Những điều
người khác chưa đề cập đến hay c̣n
thiếu sót th́ tôi bổ túc, chẳng hạn như các bài
văn khác. Chỉ tiếc là trong suốt mấy
mươi năm qua, đối với những chuyện
hóa tích của Bồ Tát được ghi chép trong Đại
Tạng và các tác phẩm của các nhà, tôi vẫn lưu ư,
nhưng chưa hề ghi chép, chọn lọc tỉ mỉ,
đến nay phải biên soạn gấp, chẳng thể
kiểm chứng trọn vẹn được, đành
cậy vào trí nhớ để lược chép thành một
quyển, khó ḷng tránh khỏi sai sót, lầm lẫn.
Nói
chung, tác phẩm này được chia thành 10 chương:
1)
Chương thứ nhất là Thích Danh, Biện Dị
(giải thích danh hiệu, bàn về những điểm sai
khác): Do các kinh khi truyền dịch danh hiệu của ngài
Địa Tạng, văn tự nhiều ít, có sai khác đôi
chút, nay tôi nêu ra hết, chỉ ra những điểm sai
biệt.
2)
Chương thứ hai là thuật đại ư kinh Thập
Luân, nêu bật nghĩa kinh, chép ra tường tận.
Phần kinh văn xưng tán công đức của Địa
Tạng Bồ Tát trong phẩm Tự chép ra rất dài,
chỉ mong những người thấy nghe đều hoan
hỷ lớn, cùng sinh ḷng tin sâu xa, chí tâm quy y.
3)
Chương thứ ba luận về đại ư kinh Chiêm
Sát, cũng trích lục tường tận.
4)
Chương thứ tư luận về đại ư kinh
Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện, tôi theo đúng
cuốn Duyệt Tạng Tri Tân của ngài Ngẫu Ích, sao
lục phần cương yếu và trích lục 2 tiết
kinh văn phụ thuộc để chỉ rơ nguyên nhân
tại sao ngày nay chúng ta được thọ ân của
Bồ Tát.
5)
Chương thứ năm tán thán Pháp Thân, đại ư
của nghi quỹ và chân ngôn Diệt Định Nghiệp.
6)
Chương thứ sáu luận về những bản kinh
khác đề cập đến Bồ Tát.
7)
Chương thứ bảy nói về các bản chú sớ
của mọi nhà.
8)
Chương thứ tám nói về các nghi thức sám hối
của mọi nhà soạn.
9)
Chương thứ chín nói về các tác phẩm tán thán, biên
thuật của mọi nhà, trích dẫn nguyên văn cả
19 đoạn trong tác phẩm Linh Phong Tán Địa Tạng
Bồ Tát Biệt Tập, chiếm cả 10 trang giấy,
để thấy đại sư Ngẫu Ích cả
một đời mổ tim vẩy máu, quy ngưỡng, tin
tưởng, tán dương Bồ Tát, ngơ hầu kẻ
hậu học noi gương Bồ Tát tinh tấn tu tŕ,
thiệu long quang đại.
10)
Chương thứ mười là vấn đáp quyết
nghi, chỉ gồm có bốn câu hỏi, lẽ ra chẳng
phải chỉ có vậy, tạm đành khuyết
lược.
Lúc sao
lục, v́ thời gian gấp rút chẳng thể kiểm
chứng tường tận, nên h́nh thức tŕnh bày cũng
chẳng thể hoàn thiện được…. (1)
Trước ngày cảo bản hoàn thành 2 hôm, cư sĩ
Lư Thế Hầu cắt ngón tay lấy máu vẽ một
bức thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát, đem
dâng lên chùa. Thắng duyên khéo gặp, thật chẳng
thể nghĩ bàn nên tôi cho chụp ảnh cẩn thận,
đăng ở đầu sách này. Lư cư sĩ, tên
tự là Cù Nhi, giỏi hội họa, xa nhà theo hầu cha
già đang sống ở Tư Minh. Ông thiên tánh thuần
hậu, thờ song thân nổi tiếng hiếu nghĩa.
Cũng có lẽ là từ nhiều kiếp đến nay,
ông Lư thường được Bồ Tát Địa
Tạng giáo hóa đó chăng?
Sa môn Hoằng Nhất Diễn Âm trần thuật tại chùa Đại Hoa Nghiêm ở Vĩnh Ninh
Vĩnh Ninh Đại Hoa Nghiêm tự Sa môn Hoằng Nhất Diễn Âm kính soạn
Tên Bồ Tát
đọc theo tiếng Phạn là Khất Xoa Để
Nghiệt Sa (Ksitigarbha), Hán dịch là Địa Tạng.
Nhưng trong các bản kinh truyền dịch, tên Ngài cũng
có chỗ được dịch dài hơn, kể ra như
dưới đây:
a) Địa Tạng
Bồ Tát. Danh hiệu này là tên thông dụng trong các bản
dịch kinh. Ư nghĩa chữ “Địa Tạng” như trong
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Sớ của
đại sư Ngẫu Ích đă giảng rộng.
b) Danh hiệu Đại
Địa Tạng Bồ Tát phát xuất từ phẩm
Nhập Pháp Giới của kinh Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm bản dịch đời
Tấn.
c) Danh xưng Tŕ
Địa Tạng Bồ Tát phát xuất từ kinh Phật
Thuyết La Ma Già được dịch vào đời Tây
Tần. Kinh này chính là bản dịch khác của phẩm Nhập
Pháp Giới.
d) Danh hiệu Địa
Tạng Vương Bồ Tát phát xuất từ kinh Đại
Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán dịch vào thời
Đường. Ngài Lai Châu đời Thanh giải thích:
“Chấp chưởng U Minh, tùy nguyện tự tại; v́
thế được tôn là Vương”. Nghĩa chữ
Vương rất rộng, lời giải thích trên chưa
được trọn vẹn.
Cả ba chương
nói về đại ư các kinh sau đây đều dựa
theo tác phẩm Duyệt Tạng Tri Tân của đại
sư Ngẫu Ích đời Minh, chỉ tăng giảm
đôi chút.
Kinh này có hai bản
dịch:
1) Phật Thuyết
Đại Phương Quảng Thập Luân Kinh, 8 quyển,
dịch vào thời Bắc Lương, mất tên
người dịch, cùng một bản gốc với
bản dịch sau, nhưng lời văn thiếu sót,
sơ lược.
2) Đại Thừa
Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh, 10 quyển,
ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường.
Ở đây, tôi
căn cứ vào bản này, lược chép đại ư.
Người chấp
bút cho bản dịch là sư Đại Thừa Phưởng,
ngài cũng là người soạn bài tựa đặt
ở đầu kinh. Sư cho rằng: Kinh Thập Luân
nhằm để giáo hóa chúng sanh thời Mạt Pháp. Kinh
minh thị điều ǵ? Phật thấy đời ác
Mạt Pháp, cách Thánh đă xa, bại căn (căn cơ
bại hoại) giống như đồ đựng
hư hỏng, kẻ không kiến cậy vào hiểu
biết sanh vọng tưởng, ch́m đắm, say sưa
ngũ dục khác nào ruộng cằn, mạ chẳng
trổ được, phóng túng tạo tác thập ác
tựa hồ thân cấu uế hôi thối. V́ thế, kinh
này gột rửa tấm thân hôi thối, mở con mắt
ḷa, đúc nặn lại đồ đựng đă hư
vỡ, vun bón cho ruộng cằn được ph́ nhiêu. Xem
mấy lời ấy đă tạm biết được
những căn cơ được giáo hóa bởi kinh này
vậy.
A.1. Phẩm Tự thứ nhất:
Phật ngự
tại núi Khư La Đế Da, từ phương Nam có
đám mây trôi tới, tuôn xuống các thứ cúng
dường, diễn các tiếng Pháp; trong tay mỗi
người tham dự pháp hội đều có Như Ư châu
tuôn ra các báu, phóng quang khắp cả mười
phương cơi. Họ lại thấy địa
đại trên thân ḿnh tăng thêm nhiều, nặng nề,
cứng chắc, khó giở thân lên nổi. Có vị Thiên
Đế Thích tên là Vô Cấu Sanh, dùng kệ hỏi Phật.
Phật v́ ông ta rộng khen công đức của Địa
Tạng Bồ Tát. Kinh chép:
“Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn bảo Vô Cấu Sanh Đế Thích
rằng:
- Các ông nên biết: Có
Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Địa Tạng đă từng trong vô
lượng vô số đại kiếp, vào đời
trược ác, thành thục hữu t́nh trong thế giới
không có Phật. Nay Ngài và tám mươi trăm ngàn
na-dữu-đa tần-bạt-đà-la Bồ Tát cùng
muốn đến đây lễ kính, thân cận, cúng dường
ta. V́ thấy pháp hội Đại Tập sanh tâm tùy hỷ nên
Ngài cùng các quyến thuộc hiện h́nh tướng Thanh
Văn, sắp đến nơi đây, bèn dùng sức
thần thông hiện ra sự biến hóa ấy.
Vị Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát này có vô số vô lượng công
đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn
để trang nghiêm; hết thảy thế gian, ThanhVăn,
Độc Giác chẳng thể suy lường được
nổi [các công đức ấy]. Vị Đại Bồ Tát
này là kho tàng các công đức vi diệu, là xuất xứ
của các của báu giải thoát, là tṛng mắt sáng
sạch của các Bồ Tát, là người dẫn
đường cho các thương nhân đạt
đến Niết Bàn. Ngài như châu Như Ư tuôn ra các tài
bảo, tùy theo ḷng mong cầu đều được thỏa
măn trọn vẹn.
Ví như bến băi
để thương nhân thu nhặt của báu, Ngài là
ruộng tốt có thể sanh trưởng căn lành, là
lạc khí chứa đầy giải thoát, là hiền b́nh xuất
sanh công đức diệu bảo. Bồ Tát chiếu soi
người hành thiện như mặt trời rạng
rỡ, chiếu sáng người lạc đường
giống như đuốc sáng; trừ nóng phiền năo
như mặt trăng trong mát, như kẻ không chân
được xe cộ, như người đi xa
chuẩn bị đầy đủ tư lương,
như người lạc lối gặp người
chỉ đường, như kẻ cuồng
được uống thuốc hay, như kẻ tật
bệnh gặp được lương y, như
người c̣m cơi, già cả được nương
ghế, gậy; như kẻ mệt nhọc
được nghỉ trên giường, ṭa.
Đối với kẻ
vượt bốn ḍng, Ngài làm cầu cống. Với
kẻ hướng đến bờ kia, Ngài làm thuyền
bè. Ngài là quả báo thù thắng của ba thiện căn, là
những ḍng nhánh dẫn khởi từ ba gốc thiện,
thường rộng bố thí như bánh xe luôn xoay
chuyển, tŕ giới kiên cố như núi Diệu Cao, tinh
tấn khó hoại như báu Kim Cang, an nhẫn bất
động hệt như đại địa, tịnh
lự thâm mật hệt như bí tạng, đạt
đến b́nh đẳng, trang nghiêm, đẹp đẽ
như tràng hoa đẹp, trí huệ rộng sâu hệt
như biển cả, chẳng bị nhiễm trước
như thái hư không, diệu quả cận nhân như các
cánh hoa, chế phục các ngoại đạo như sư
tử chúa, hàng phục các thiên ma như đại long
tượng, chém giặc phiền năo hệt như thần
kiếm, chán các huyên tạp như Độc Giác thừa,
rửa nhơ phiền năo như nước trong sạch,
trừ khử hôi thối như gió thổi mạnh,
đoạn các kết phược như đao kiếm
sắc, bảo hộ các kẻ sợ hăi như thân
thuộc, như bạn bè, pḥng các oán địch như
lũy, như thành.
Cứu các nguy nạn
hệt như cha mẹ, giấu kín các kẻ khiếp hèn
hệt như rừng rậm, như mùa Hè đi xa náu ḿnh
dưới bóng cây to. Đối với kẻ nóng khát, ngài làm
nước trong lạnh; với kẻ đói làm các quả
ngọt. Với kẻ lơa lồ, ngài làm các y phục.
Với kẻ bị nóng bức, thiếu thốn ngài làm
đám mây dầy lớn. V́ kẻ bần cùng làm báu Như
Ư. V́ kẻ hoảng sợ làm chỗ quy y. V́ kẻ
trồng cấy làm mưa ngọt nhuần thấm. V́ các
nước dơ làm Nguyệt Ái châu (2). Ngài khiến cho các
hữu t́nh thiện căn chẳng hoại; hiện
cảnh giới mầu nhiệm khiến cho hữu t́nh vui
sướng; khuyến phát hữu t́nh càng thêm tàm quư. Với
kẻ cầu phước huệ, Ngài làm cho họ
được trang nghiêm đầy đủ; trừ
được phiền năo như thuốc xổ, thâu
nhiếp loạn tâm như cảnh Đẳng Tŕ, biện tài
không úng trệ như nước xoay bánh xe guồng,
nhiếp sự buộc tâm như Diệu Sắc Quán, an
nhẫn, trụ vững như núi Diệu Cao; tổng tŕ
rộng sâu hệt như biển cả, thần túc vô
ngại ví như hư không; diệt trừ hết thảy
Hoặc Chướng tập khí hệt như vầng
mặt trời chói lọi soi tan băng mỏng,
thường dạo chơi trong đường chánh
Tịnh Lự Vô Sắc [và] bến băi quư báu Trí Nhất
Thiết Trí, có thể vô công dụng chuyển đại
pháp luân.
Này thiện nam
tử! Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đây có vô số
vô lượng công đức thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn như thế đó. Ngài cùng các quyến thuộc
muốn đến nơi đây nên trước hết,
hiện ra tướng thần thông như vậy!”
Bồ Tát và các
quyến thuộc hiện h́nh tướng Thanh Văn, làm
lễ dưới chân Phật, tán lễ, cúng dường.
Phật lại v́ Hảo Nghi Vấn Bồ Tát rộng thuật
vô lượng công đức của Địa Tạng Bồ
Tát. Kinh chép:
“Phật ngôn:
- Hăy nghe cho kỹ!
Khéo nghĩ nhớ lấy! Ta sẽ v́ ông lược nói ít
phần. Vị Đại Sĩ như thế thành tựu vô
lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn. Ngài
đă có thể an trụ trong Thủ Lăng Già Ma
tam-ma-địa; khéo có thể ngộ nhập cảnh
giới Như Lai, đă đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn
tối thắng, đă được tự tại trong
Phật Pháp, đă có thể kham nhẫn hết thảy
địa vị trí huệ, đă có thể vượt qua
biển Nhất Thiết Trí, đă có thể an trụ
Sư Tử Phấn Tấn Tràng tam-ma-địa, đă có
thể khéo trèo lên núi Nhất Thiết Trí, đă có thể
đập tan ngoại đạo tà luận. Ngài muốn
thành thục hết thảy hữu t́nh nên đều
dừng ở trong hết thảy cơi Phật. Bậc
Đại Sĩ như thế này hễ dừng ở nơi
cơi Phật nào, hễ an trụ trong các tam- ma-địa nào
th́ đều phát khởi công đức thù thắng, thành
thục vô lượng các hữu t́nh được Ngài hóa
độ”.
Tiếp đó, kinh
văn trần thuật chi tiết Bồ Tát nhập vào các
thứ Định. Do sức của các Định ấy, các
hữu t́nh [trong pháp hội] kia được lợi ích,
an lạc. Ở đây chỉ tŕnh bày đại khái như
sau:
Khiến cho hết thảy hữu
t́nh trong cơi Phật ấy: |
Đều được cùng thấy các
cảnh giới Tam Ma Địa mà ngài đă thực hành |
Vô lượng vật cúng
thượng diệu đáng nên dùng thứ nào th́
đều có thể dùng thứ đó để cung kính
cúng dường chư Phật Thế Tôn. |
|
Thảy đều cùng thấy vô
lượng tội lỗi của các cảnh giới cơi
Dục nên tâm được thanh tịnh. |
|
Đều được đầy
đủ ḷng tàm quư tăng thượng, ĺa các pháp ác, tâm
chẳng quên mất. |
|
Đều được thiện
xảo thiên nhăn, trí thông v.v… liễu đạt nhân quả
đời này, đời sau. |
|
Đều ĺa khỏi hết thảy
ưu sầu, hôn muội. |
|
Đều được đầy
đủ thần thông thiện xảo. |
|
Thấy khắp các cơi Phật trong
mười phương |
|
Xả tà quy chánh, quy y Tam Bảo. |
|
Thảy đều xa ĺa các sự
sợ hăi trong đời sau, đắc pháp an ủi. |
|
Hễ nghĩ đến đều
được thức ăn sung túc. |
|
Không một ai là chẳng
được thế lực tăng thượng, ĺa các
bệnh khổ. |
|
Tùy theo ư thích đều
được giường, ṭa, đồ trải, y
phục, đồ trang sức quư báu, các thứ vật
cần dùng không thiếu hụt, thù thắng đẹp
đẽ, đoan nghiêm. |
|
Thật đáng ưa thích, thân tâm
mạnh mẽ, xa ĺa hết thảy oán ghét trói buộc,
ḥa thuận vui sướng, vui vẻ trọn đủ. |
|
Thí, Giới, an nhẫn, dũng mănh,
tinh tấn, tâm không tán loạn, thành tựu trí huệ. |
|
Đều hưởng vô lượng
hoan hỷ thắng diệu. |
|
Đắc Vô Ngại Trí, có thể tu các
sự nghiệp thanh tịnh. |
|
Đều được đầy
đủ các căn chẳng thiếu, thường thích
viễn ly, thâm tâm tịch tĩnh. |
|
Đều chê trách sâu xa nghiệp họa
của tự thân, đều khéo hộ tŕ
đường trọng yếu để sanh lên Trời
là Thập Thiện Nghiệp Đạo. |
|
Thảy đều phát khởi từ
tâm, bi tâm, tâm không oán hại, tâm phổ b́nh đẳng, tâm
làm lợi ích an lạc lẫn nhau. |
|
Ĺa các sự đấu đá, tật
dịch, đói kém, mưa gió trái thời, đắng, rít,
cay, chua. Các ác sắc xúc thảy đều tiêu diệt |
|
Khiến cho cơi Phật ấy |
Tất cả hết thảy Tiểu
Luân Vi Sơn, Đại Luân Vi Sơn, Tô Mê Lô Sơn và các núi
khác, khe, suối, ng̣i, lạch, ngói, gạch, gai
độc, các cây cỏ bẩn thỉu thảy đều
chẳng hiện. |
Tất cả hết thảy các tà,
cổ độc, các trùng, thú ác, tai hoạnh, dịch
lệ, tối tăm, bụi bặm, các thứ bất
tịnh, hôi thối thảy đều tiêu diệt. |
|
Đất phẳng như ḷng bàn tay, các
thứ tốt lành tự nhiên đột ngột hiện
ra, thanh tịnh thù thắng, các tướng trang nghiêm. |
|
Hết thảy Ma Vương và các
quyến thuộc thảy đều hoảng hốt, quy
y Tam Bảo. |
|
Hết thảy cơi đất do các báu
hợp thành, hoàn toàn không có các khuyết điểm. |
|
Các thứ cây báu, cây y phục, cây sanh
ra đồ vật báu, cây sanh ra anh lạc, cây hoa, cây quả,
cây sanh ra các thứ âm nhạc, vô lượng nhạc
cụ đều trang nghiêm trọn khắp cơi
nước. |
Tiếp đó, kinh lại
giảng rộng: Nếu có ai chí tâm xưng danh, niệm
tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát th́ sẽ đạt được các thứ
lợi ích, an lạc. Kinh chép:
“Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh mong cầu các thứ,
bị ưu khổ bức ngặt nghèo, mà có thể chí tâm
xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều được thỏa những điều ḿnh
cầu mong đúng như pháp, ĺa khỏi các ưu khổ.
Tùy theo [căn cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ
đặt yên họ trên đường sinh Thiên hay
Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị đói khát
bức bách mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng,
quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́
hết thảy đều được thỏa
điều mong cầu đúng như pháp, thức ăn sung
túc. Tùy theo [căn cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ
đặt yên họ trên đường sinh Thiên hay
Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh thiếu thốn các
thứ y phục, vật trang sức báu, thuốc men,
giường chiếu, và các vật cần dùng, có thể
chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều được thỏa điều ḿnh mong
cầu đúng như pháp: y phục, vật trang sức báu,
thuốc men, giường chiếu, và các vật cần dùng
chẳng thiếu thứ ǵ. Tùy theo [căn cơ] thích
ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên
đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh đang yêu thương
mà bị biệt ly, dù oán ghét vẫn phải chung
đụng, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng,
quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́
hết thảy đều được yêu thương
hội hợp, oán ghét biệt ly. Tùy theo [căn cơ] thích
ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên
đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh thân tâm ưu khổ, mà
có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết
thảy đều được thân tâm yên ổn,
khỏi hẳn các bệnh. Tùy theo [căn cơ] thích
ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên
đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh chống trái lẫn
nhau, khởi lên các mối tranh đấu, mà có thể chí
tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều bỏ được tâm độc hại, ḥa
mục với nhau, hoan hỷ chịu đựng, sanh ḷng
thẹn hổ đối với nhau, đối với
nhau bằng tâm từ. Tùy theo [căn cơ] thích ứng,
Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên đường
sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị giam trong lao
ngục, gông, cùm, xiềng, xích trói buộc nơi thân,
chịu đủ các nỗi khổ, mà có thể chí tâm
xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều được giải thoát, lao ngục, gông cùm,
xiềng xích; tự tại yên vui. Tùy theo [căn cơ] thích
ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên
đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị lẽ ra phải
bị giam cầm, đánh đập tra khảo, sắp
sửa bị hại, mà có thể chí tâm xưng danh,
niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy đều tránh khỏi
được sự giam cầm, đánh đập, gia
hại. Tùy theo [căn cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ
đặt yên họ trên đường sinh Thiên hay
Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị thân tâm nhọc
mỏi, khí lực yếu kém, mà có thể chí tâm xưng danh,
niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy đều
được thân tâm vui sướng, khí lực
cường thịnh. Tùy theo [căn cơ] thích ứng,
Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên đường
sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh các căn chẳng
đủ, bất cứ căn nào bị tổn hoại,
mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết
thảy đều được các căn đầy
đủ, chẳng bị tổn hoại. Tùy theo [căn
cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ
trên đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh điên cuồng tâm
loạn, bị quỷ mị dựa, mà có thể chí tâm
xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy đều
được tâm chẳng cuồng loạn, ĺa các ưu
năo. Tùy theo [căn cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ
đặt yên họ trên đường sinh Thiên hay
Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị tham dục, nóng
giận, ngu si, phẫn hận, keo kiệt, ganh tỵ, kiêu
căng, ngạo mạn, ác kiến, ham ngủ, phóng dật,
si mê v.v… thảy đều lừng lẫy, năo loạn thân
tâm, thường chẳng yên vui, mà có thể chí tâm xưng
danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy đều ĺa
được tham, sân v.v… thân tâm yên vui. Tùy theo [căn
cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ
trên đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở nơi đâu,
nếu các hữu t́nh bị lửa đốt, bị
nước vùi, bị gió cuốn, hoặc bị rơi
rụng, té xuống từ chỗ núi non, vách núi, bờ
vực, cây cối, nhà cửa, trong ḷng kinh hoàng, mà có thể
chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều ĺa được nguy nạn, an ổn, không
tổn hại. Tùy theo [căn cơ] thích ứng, Bồ Tát
sẽ đặt yên họ trên đường sinh Thiên hay
Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị rắn
độc, trùng độc cắn phải, hoặc trúng
nhằm các thứ độc dược, mà có thể chí
tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
đều ĺa được các sự năo hại. Tùy theo
[căn cơ] thích ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên
họ trên đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị ác quỷ nắm
giữ, thành ra các bệnh ngược nên cứ phát
bệnh mỗi ngày, hoặc phát bệnh cách ngày, hoặc cách
ba, bốn ngày mới phát bệnh một lần; hoặc
quỷ khiến cho người ấy cuồng loạn,
thân tâm run rẩy, mê man, mất cả ư niệm trọn
chẳng biết ǵ, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm
tụng, quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát th́ hết thảy đều giải thoát không
sợ hăi, thân tâm yên vui. Tùy theo [căn cơ] thích ứng,
Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên đường
sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh bị bị các
Dược Xoa, La Sát, ngạ quỷ, quỷ Tất Xá Giá,
quỷ Bố Đát Na, quỷ Cưu Bàn Trà, quỷ Yết Tra Bố
Đát Na, quỷ hút tinh khí, và các loài hổ, sói, sư tử, ác
thú, cổ độc, các thứ chú thuật ếm
đối, oán tặc, quân trận, và các thứ kinh sợ
khác gây phiền nhiễu, thân tâm hoảng hốt, sợ
mất thân mạng, tham sống sợ chết, ghét khổ
cầu vui, mà có thể chí tâm xưng danh, niệm tụng,
quy kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́
hết thảy đều ĺa được các sự
sợ hăi, bảo toàn thân mạng. Tùy theo [căn cơ] thích
ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên
đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh hoặc v́ đa văn,
hoặc v́ tịnh tín, hoặc v́ tịnh giới, hoặc
v́ tịnh lự, hoặc v́ thần thông, hoặc v́ Bát Nhă,
hoặc v́ giải thoát, hoặc v́ sắc đẹp,
hoặc v́ giọng hay, hoặc v́ hương thơm,
hoặc v́ vị ngon, hoặc v́ cảm xúc êm ái, hoặc v́
lợi dưỡng, hoặc v́ tiếng tăm, hoặc v́
công đức, hoặc v́ khéo léo, hoặc v́ hoa quả,
hoặc v́ rừng cây, hoặc v́ giường ṭa, hoặc
v́ đồ trải, hoặc v́ đường sá, hoặc
v́ tiền của, gạo thóc, hoặc v́ thuốc men,
hoặc v́ nhà cửa, hoặc v́ tôi tớ, hoặc v́ màu
sắc, hoặc v́ mưa lành, hoặc v́ cầu
nước, hoặc v́ mùa màng, hoặc v́ quạt, phất
trần, hoặc v́ gió mát, hoặc v́ cầu lửa,
hoặc v́ xe cộ, hoặc v́ con cái, hoặc v́
phương tiện, hoặc v́ tu phước, hoặc v́
ấm áp, hoặc v́ mát mẻ, hoặc v́ nghĩ nhớ,
hoặc v́ các sự lợi lạc xuất thế gian hay
thế gian; trong lúc truy cầu [những điều ấy]
bị các nỗi ưu khổ bức bách ngặt nghèo, mà có
thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ do công
đức, sức oai thần diệu định của
vị thiện nam tử đây (tức Địa Tạng
Bồ Tát) sẽ khiến cho hết thảy đều ĺa
được ưu khổ, ư nguyện được
thỏa măn trọn vẹn. Tùy theo [căn cơ] thích
ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên họ trên
đường sinh Thiên hay Niết Bàn.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh dùng các hạt giống
gieo cấy trong ruộng hoang hoặc ruộng thục (3),
dù là siêng năng chăm sóc hay chẳng siêng năng mà có
thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ do công
đức, sức oai thần diệu định của
vị thiện nam tử ấy (tức Địa Tạng Bồ
Tát) khiến cho hết thảy quả, hạt sum suê. V́
cớ sao vậy? Vị thiện nam tử này từng
ở trong vô lượng vô số đại kiếp quá
khứ, đối trước không thể biết nổi
số lượng chư Phật Thế Tôn, phát ra
đại thệ nguyện tinh tấn, kiên cố. Do
nguyện lực đó, v́ muốn thành thục các hữu
t́nh nên Ngài thường ǵn giữ khắp hết thảy
đại địa, thường ǵn giữ khắp
hết thảy hạt giống, thường khiến cho
khắp hết thảy hữu t́nh thọ dụng tùy ư. Do
sức oai thần của vị thiện nam tử này
khiến cho rễ, tua, mầm, củ, cành, lá, hoa, quả
của hết thảy thảo mộc trong đại
địa thảy đều sinh trưởng, cỏ
thuốc, ngũ cốc, lúa mạ, hoa quả sum suê, chín
vàng, tươi tốt, thơm tho, mềm mịn, ngon lành.
Bất cứ ở
nơi đâu, nếu các hữu t́nh v́ tham, sân, si v.v… mănh
liệt mà gây tạo sát sanh, hoặc không cho cứ lấy,
hoặc muốn làm hạnh tà, hoặc nói lời dối
trá, hoặc nói thô ác, hoặc nói ly gián, hoặc nói lời
tạp uế, hoặc tham, hoặc sân, hoặc lại c̣n
tà kiến, tạo nghiệp Thập Ác, nhưng nếu có
thể chí tâm xưng danh, niệm tụng, quy kính, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát th́ hết thảy
phiền năo thảy đều tiêu diệt, xa ĺa Thập
Ác, thành tựu Thập Thiện, khởi tâm từ bi và tâm
lợi ích đối với các chúng sanh.
Vị thiện nam tử
này thành tựu sức công đức oai thần diệu
định, dũng mănh, tinh tấn như thế. Trong
khoảng một bữa ăn, Ngài có thể ở trong vô
lượng vô số cơi Phật, trong mỗi một cơi
Phật, trong khoảng bữa ăn có thể độ
thoát vô lượng, vô số các hữu t́nh được
Ngài giáo hóa nhiều như số cát sông Căng Già, khiến
họ ĺa các khổ, đều được an vui. Tùy
theo căn cơ thích ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên
họ trong đường sinh Thiên hay Niết Bàn”.
Phật c̣n giảng
rộng về các thân của Địa Tạng Bồ Tát trong
mười phương cơi, v́ các hữu t́nh thuyết pháp
thích ứng. Kinh chép:
“Hoặc có lúc Ngài
hiện làm thân Đại Phạm Vương v́ các hữu t́nh
thuyết pháp thích ứng; hoặc lại hiện làm thân
Đại Tự Tại Thiên, hoặc hiện thân Tha Hóa Tự
Tại Thiên cơi Dục, hoặc hiện thân Nhạo Biến
Hóa Thiên, hoặc hiện thân Đổ Sử Đa Thiên, hoặc
hiện thân Dạ Ma Thiên, hoặc hiện thân Đế Thích
Thiên, hoặc hiện thân Tứ Đại Vương Thiên,
hoặc hiện thân Phật, hoặc hiện thân Bồ Tát,
hoặc hiện thân Độc Giác, hoặc hiện thân Thanh
Văn, hoặc hiện Chuyển Luân Vương, hoặc
hiện thân Sát Đế Lợi, hoặc hiện thân Bà La Môn,
hoặc hiện thân Phiệt Xá, hoặc hiện thân Thú
Đạt La, hoặc hiện thân trượng phu, hoặc
hiện thân phụ nữ, hoặc hiện thân bé trai,
hoặc hiện thân bé gái, hoặc hiện thân Kiện
Đạt Phược, hoặc hiện thân A Tố Lạc,
hoặc hiện thân Khẩn Nại Lạc, hoặc
hiện thân Mạc Hô Lạc Già, hoặc hiện thân
rồng, hoặc hiện thân Dược Xoa, hoặc
hiện thân La Sát, hoặc hiện thân Cưu Bạn Trà,
hoặc hiện thân Tất Xá Giá, hoặc hiện thân
ngạ quỷ, hoặc hiện thân Bố Đát Na, hoặc
hiện thân Yết Tra Bố Đát Na, hoặc hiện thân
quỷ Áo Xa Ha Lạc, hoặc hiện thân sư tử,
hoặc hiện thân hương tượng, hoặc
hiện thân ngựa, hoặc hiện thân trâu, hoặc
hiện thân các loài cầm thú, hoặc hiện thân vua Diêm La,
hoặc hiện thân ngục tốt cơi Địa Ngục,
hoặc hiện làm thân các hữu t́nh trong Địa Ngục.
Hiện vô số vô lượng các thân khác loại như
thế đó, v́ các hữu t́nh thuyết pháp thích ứng. Tùy
theo căn cơ thích ứng, Bồ Tát sẽ đặt yên
họ trong đường sanh Thiên, Niết Bàn”.
Phật lại so
sánh: Chí tâm quy y, xưng danh, niệm tụng, lễ bái, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát cầu các
sở nguyện là thù thắng nhất. Kinh chép:
“Giả sử có
người trong trăm kiếp chí tâm quy y, xưng danh,
niệm tụng, lễ bái, cúng dường các vị
như Di Lặc, Diệu Cát Tường, Quán Tự
Tại, Phổ Hiền… là thượng thủ của các
đại Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như cát sông Căng
Già để cầu các sở nguyện th́ chẳng
bằng người trong khoảng một bữa ăn chí
tâm quy y, xưng danh, niệm tụng, lễ bái, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát để cầu các
sở nguyện, mau chóng được măn nguyện
trọn vẹn. V́ sao như thế? Địa Tạng Bồ
Tát lợi ích, an lạc hết thảy hữu t́nh,
khiến cho sở nguyện của các hữu t́nh
được viên măn. Ngài giống như châu Như Ư,
cũng lại như kho tàng. Bậc Đại Sĩ như
thế v́ muốn thành thục các hữu t́nh nên từ lâu
đă tu đại nguyện đại bi kiên cố,
dũng mănh, tinh tấn hơn các vị Bồ Tát khác. V́
thế các ông phải nên cúng dường”.
Khi Phật giảng
rộng công đức chẳng thể nghĩ bàn của
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đă xong, chúng hội
đều hưng khởi cúng dường. Kinh chép:
“Lúc bấy giờ,
đại chúng đến từ mười phương:
hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát và các Thanh Văn, trời,
người, Dược Xoa, Kiện Đạt Phược
v.v… đều từ chỗ ngồi đứng dậy,
tùy theo khả năng của ḿnh, ai nấy cầm các
mảnh vàng, bạc… các hương, hoa báu dâng rải lên
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, lại cầm các thứ
y phục thượng diệu, bảo châu Mạt Ni, chân
châu, tràng hoa, chuỗi ngọc, dây báu vàng bạc, tràng phan,
lọng v.v… dâng lên Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát; lại
dùng vô lượng âm nhạc thượng diệu, các
thứ tán tụng để cung kính cúng dường
Địa Tạng Bồ Tát”.
Chúng hội đă
hưng khởi cúng dường xong, Địa Tạng Bồ
Tát bèn chuyển cúng các vật ấy lên đức Thế
Tôn, đồng thời nói thần chú để lợi ích hết
thảy.
Trên đây là
đại ư của phần Tự Phẩm thứ nhất.
Kinh văn trong phẩm này đa phần tán dương công
đức Địa Tạng BồTát nên trích lục ra khá dài
ḍng, trong các phẩm tiếp sau đây, đa số chỉ
lược dẫn.
A.2. Phẩm Thập Luân thứ hai:
ĐịaTạng Bồ
Tát hỏi Phật: “Làm thế nào để chuyển
được Phật luân trong đời ngũ
trược?” Phật đáp: “Do sức bổn nguyện,
thành tựu mười thứ Phật luân nên có thể
ngự trong cơi này. Đó chính là Thập Địa Lực”. Với
mỗi một lực, Phật đều ví như
Chuyển Luân Thánh Vương.
A.3. Phẩm Vô Y Hạnh thứ ba:
Lúc bấy giờ
trong hội có Đại Phạm Thiên tên là Thiên Tạng hỏi
Phật các việc: Thiền Định, đọc tụng,
tạo phước v.v… Phật kể ra mười hai
hạnh Vô Y (hạnh không nên làm theo). Nếu như tu
Định mà vướng phải một hạnh đó th́
trọn chẳng thể thành tựu được các tam
ma địa. Đức Thế Tôn lại c̣n khen ngợi
người tu Định sẽ được Thích, Phạm,
Hộ Thế Tứ Vương Thiên, Chuyển Luân
Vương v.v… tán thán, lễ bái, cung kính, hầu hạ,
dâng cúng trăm ngàn na-dữu-đa vật cúng và nói kệ
tụng. Kinh chép:
“Tu Định dứt
được Hoặc, các nghiệp khác chẳng làm
được vậy. V́ thế, tu Định là cao quư,
kẻ trí nên cúng dường”.
Tiếp đó,
Phật dạy người xuất gia dù phá giới
vẫn có thể phát sinh mười thứ tư duy thù
thắng; quốc vương, đại thần chẳng
nên làm nhục họ một cách phi lư. Tiếp đó, kinh giảng
về tội Ngũ Vô Gián, bốn tội căn bản,
tội báng chánh pháp và tội nghi Tam Bảo, [những
tội này] gọi là đại tội ác nghiệp cực
trọng, là pháp chẳng nên thực hành. Kẻ nào phạm
phải đều chẳng phải là đệ tử
Phật. Phải nên hộ tŕ bốn giới Căn
Bản.
Tiếp đó, nhân
lời hỏi của tôn giả Ưu Ba Ly: “Đời mạt
có ác hạnh Bật Sô (tỳ kheo) th́ nên dùng phương
tiện ǵ để quở trách, cử tội, trục
xuất và trị phạt?”, Phật giải đáp
tường tận. Kế đấy, ngài Địa Tạng
Bồ Tát nguyện cứu đời mạt, nên nói trong
đời mạt có mười sự ác (thập ác luân),
tức là: Quốc vương, tể quan v.v.. do v́ bảo
vệ Bật Sô ác nên năo hại những vị tu hành thanh
tịnh, hạng vua quan như vậy gọi là Chiên Đà La;
cho đến đối với kẻ phá giới, không có
giới hạnh đều chẳng nên làm hại, hạ
nhục họ. Bồ Tát kể lại những chuyện
cổ như La Sát, voi say đều kính trọng áo ca sa
để làm chứng. Nếu xa ĺa được 10
điều ác ấy th́ sẽ được 10 pháp tăng
trưởng, xa ĺa hai mươi lỗi.
Phạm Thiên Thiên
Tạng lại nói bài thần chú Hộ Quốc Bất
Thối Luân Tâm.
A.4. Phẩm Hữu Y Hạnh thứ tư:
Kim Cang Tạng Bồ
Tát hỏi: “Phật đă bảo kẻ phá giới
chẳng phải là đệ tử Phật, nhưng sao
chẳng cho phép hủy nhục họ? Hơn nữa, trong
các kinh khác kinh nào cũng chỉ riêng khen ngợi Đại
Thừa, cớ sao trong kinh này lại nói: Đối với pháp
Tam Thừa đều chẳng cho ẩn giấu?” Phật đáp:
Có 10 loại hữu t́nh khó được thân người,
lại có mười pháp vô y hạnh sai khác, có bốn
thứ Tăng và bốn thứ Sa Môn. V́ thế kẻ phá
giới tuy chẳng phải là đệ tử Phật,
chẳng đáng hưởng cúng dường, nhưng
vẫn có h́nh dáng thánh hiền nên chẳng được
làm hại, hủy nhục họ. Tam Thừa đều là
phương tiện độ sanh của Như Lai nên dù có
tu Đại Thừa cũng chẳng được phế
bỏ hai thừa kia.
Tiếp đó,
Phật lại dạy mười Hữu Y hạnh mà ba
thừa cùng có, lại có mười Hữu Y Hạnh mà
Độc Giác và Đại Thừa cùng chia sẻ. Rồi Phật
dạy Đại Thừa Vô Trần Cấu Hạnh Luân, Vô
Thủ Hạnh Luân. Tùy theo căn cơ chúng sanh nói pháp Tam
Thừa, giới, tịnh, từ bi an lạc hết
thảy th́ mới gọi là Đại Thừa.
A.5. Phẩm Sám Hối thứ năm:
Chúng hội nghe pháp ai
nấy đều sám hối tội trước. Phật
v́ họ giảng mười pháp khiến cho Bồ Tát
đạt được con đường chánh Vô Tội
Pháp Nhẫn. Tiếp đó, Phật dạy: đă
đắc pháp nhẫn rồi, Phật mới chấp
thuận cho họ được ở ngôi vua. Hoặc
phải hành Thập Thiện, hoặc tin Tam Bảo mới
đáng giữ ngôi vua. Nếu không, chắc chắn sẽ
bị đọa lạc.
A.6.
Phẩm Thiện Nghiệp Đạo, thứ sáu:
Kim Cang Tạng Bồ
Tát lại hỏi: Làm thế nào để người trong
Tam Thừa đắc pháp không lầm lỗi, cho
đến tâm hạnh nguyện Bồ Đề không chán
đủ? Phật đáp: Mười thiện nghiệp
đạo chính là thập luân của Bồ Tát. Phật
giảng rộng về nhân quả lợi ích; tiếp
đó, Ngài bài xích điều sai, khuyên tu [điều
đúng]. Kinh chép:
“V́
thế, thiện nam tử! Nếu chẳng chân thật mong
cầu mười thiện nghiệp đạo như
thế để chứng Phật Quả, và tệ
nhất là chẳng chân thật thủ hộ một
thiện nghiệp đạo nào, cho đến lúc mạng
chung, tự xưng rằng: Ta là người hành Đại
Thừa chân thật, ta cầu Vô Thượng Chánh Đẳng
Bồ Đề, th́ hăy biết rằng gă Bổ Đặc Già La
(hữu t́nh) ấy hư dối đến cùng cực, là
đại vọng ngữ, đối trước chư
Phật Thế Tôn trong mười phương cơi mà mà
dối gạt thế gian, không thẹn, không hổ, nói Không
Đoạn Kiến, lường gạt, dối trá, ngu si, [khi]
thân hoại mạng chung sẽ đọa trong các
đường ác!
Này
thiện nam tử! Nếu chỉ nói bàn và chỉ thấy
nghe, chẳng do tu hành Thập Thiện nghiệp đạo
mà có thể đắc Bồ Đề, bát Niết Bàn; trong
một kiếp, hoặc trong một niệm mà có thể
khiến cho các chúng sinh nhiều như toán, số, vi
trần trong hết thảy cơi Phật nơi mười
phương đều đạt Chánh Giác, nhập
Niết Bàn th́ trọn chẳng có lẽ ấy. V́ cớ sao
thế? Thập Thiện nghiệp đạo là cội
gốc của Đại Thừa, là nhân của Bồ Đề,
là thang bậc kiên cố để chứng Niết Bàn.
Này thiện nam
tử! Nếu chỉ do sức phát tâm thệ nguyện,
chẳng do tu hành Thập Thiện nghiệp đạo mà có
thể đắc Bồ Đề, bát Niết Bàn; trong một
kiếp, hoặc trong một niệm mà có thể khiến
cho các chúng sinh nhiều như toán, số, vi trần trong
hết thảy cơi Phật nơi mười phương
đều đạt Chánh Giác, nhập Niết Bàn th́
trọn chẳng có lẽ ấy. V́ cớ sao thế?
Thập Thiện nghiệp đạo là căn bản
của quả báo công đức xuất thế thù
thắng.
Này thiện nam
tử! Nếu chẳng tu hành Thập Thiện nghiệp
đạo, dù có trải qua các kiếp nhiều như
số vi trần trong mười phương hết
thảy cơi Phật, tự xưng là Đại Thừa,
hoặc nói, hoặc nghe, hoặc chỉ phát tâm, hoặc phát
thệ nguyện, vẫn trọn chẳng thể chứng
được Bồ Đề Niết Bàn, cũng chẳng
làm cho người khác thoát khổ sanh tử
được nổi.
Này thiện nam
tử! Phải do tu hành Thập Thiện nghiệp
đạo th́ thế gian mới có các ḍng đại phú quư
như sát đế lợi, bà la môn v.v… Từ Tứ Thiên
Vương thiên cho đến Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ thiên hoặc Thanh Văn thừa,
hoặc Độc Giác thừa, cho đến Vô Thượng
Chánh Đẳng Bồ Đề đều do tu hành Thập
Thiện nghiệp đạo phẩm loại sai khác.
V́ vậy, thiện
nam tử! Nếu muốn mau được măn nguyện Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề th́ nên tu Thập
Thiện nghiệp đạo như vậy để tự
trang nghiêm, chứ chẳng phải là trụ trong Thập
Ác, chẳng hợp luật nghi mà có thể viên măn
đại nguyện Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề như thế được. Nếu cầu mau
được ngộ cảnh giới Đại Thừa, mau
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, mau măn
hết thảy pháp nguyện th́ trước hết
phải hộ tŕ Thập Thiện nghiệp đạo. V́
cớ sao thế? Thập Thiện nghiệp đạo là
căn bản để an lập hết thảy công
đức thiện pháp, là nhân của quả báo thế
gian, xuất thế gian thù thắng. V́ thế phải tu
Thập Thiện nghiệp đạo.
A.7. Phẩm Phước Điền
Tướng thứ bảy:
Kinh lại dạy
về mười Tài Thí Đại Giáp Trụ Luân của
Bồ Tát, mười Pháp Thí Đại Giáp Trụ Luân,
Tịnh Giới Đại Giáp Trụ Luân, An Nhẫn Đại
Giáp Trụ Luân, Tinh Tấn Đại Giáp Trụ Luân, Tịnh
Lự Đại Giáp Trụ Luân, Bát Nhă và Thiện Xảo
Phương Tiện Đại Giáp Trụ Luân, Đại Từ
Đại Giáp Trụ Luân, Đại Bi Đại Giáp Trụ Luân, Kiên
Cố Đại Nhẫn Đại Giáp Trụ Luân. Có thế
mới làm đại phước điền cho hết
thảy Thanh Văn, Độc Giác.
A.8. Phẩm Hoạch Ích, Chúc
Lụy (Đạt lợi ích, dặn ḍ) thứ tám
Đại chúng ai nấy
được lợi ích vô lượng, Phật đem
pháp này phó chúc cho Hư Không Tạng Bồ Tát. Kinh chép:
“Này thiện nam
tử! Ta nay đem pháp môn Địa Tạng Thập Luân
Đại Kư giao vào tay ông, ông nên thọ tŕ, khiến nó
được lưu truyền rộng răi. Nếu các chúng
sanh đối với pháp môn này mà có thể đọc
tụng, tư duy nghĩa lư, giải nói cho người khác
trụ chánh hạnh th́ ông hăy nên v́ người đó
thủ hộ mười pháp khiến cho được
lợi ích, an lạc trong đêm dài. Những ǵ là
mười?
Một là v́ kẻ
ấy thủ hộ khiến hết thảy tiền
của, địa vị chẳng bị thiếu hụt.
Hai là v́ kẻ ấy
thủ hộ khiến cho hết thảy oán địch
chẳng xâm hại được.
Ba là v́ kẻ ấy
thủ hộ khiến bỏ được hết
thảy tà kiến, tà quy, thập ác nghiệp đạo.
Bốn là v́ kẻ
ấy thủ hộ khiến chẳng bị lănh hết
thảy h́nh phạt trên thân hay bị trách phạt bằng
lời nói.
Năm là v́ kẻ
ấy thủ hộ, ngăn che, đoạn trừ hết
thảy báng hủy, coi thường, đùa bỡn.
Sáu là v́ kẻ ấy
thủ hộ khiến cho đối với hết
thảy quỹ phạm, thi-la (giới) đều chẳng
vi phạm.
Bảy là v́ kẻ
ấy thủ hộ khiến trừ diệt hết
thảy phi nhân, tứ đại trái nghịch nhau, già,
bệnh không đúng thời.
Tám là v́ kẻ ấy
thủ hộ khiến chẳng gặp phải hết
thảy tai nạn phi thời, phi lư, chết yểu.
Chín là v́ kẻ ấy
thủ hộ khiến lúc sắp chết, được
thấy hết thảy h́nh sắc của chư Phật.
Mười là v́
kẻ ấy thủ hộ khiến cho sau khi chết,
được sanh trong đường lành, lợi ích yên
vui.
Này thiện nam tử! Nếu các hữu t́nh đối với pháp môn này mà có thể đọc tụng, tư duy ư nghĩa, v́ người khác giải nói, trụ trong chánh hạnh th́ ông hăy nên v́ người ấy càng thêm siêng năng thủ hộ mười pháp như thế khiến kẻ ấy được lợi ích, an lạc trong đêm dài”.
Phụ chú:
Kinh Địa Tạng
Bồ Tát Đà Ra Ni, 1 quyển, do ngài Huệ Lâm dịch
đời Đường được nhắc đến
trong quyển 18 của tác phẩm Nhất Thiết Kinh Âm
Nghĩa chính là bản dịch của phần kinh văn nói
về đà ra ni trong phẩm Tự của kinh
ĐịaTạng Thập Luân.
Pháp Sư Huệ Lâm
nói: “Địa Tạng Bồ Tát Đà Ra Ni trong kinh vốn là
cổ dịch, âm vận không sát [với âm gốc], dùng
chữ mâu thuẫn. Nay tôi có bản thọ tŕ bằng
tiếng Phạn, nhân đó, bèn sửa đổi âm
nghĩa, y theo kinh văn dịch lại. Những vị
biết tiếng Phạn xin hăy so sánh hai bản sau sẽ
biết chi tiết”.
Nhận định:
Trước sau, Đà Ra
Ni này có ba bản dịch, một bản được
chép trong phẩm Tự kinh Đại Phương Quảng
Thập Luân đời Bắc Lương, bản thứ
hai là đà ra ni chép trong bản kinh Địa Tạng Thập
Luân dịch thời Đường và bản thứ ba là
bản dịch lưu hành riêng được nói ở trên
đây.
Kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo gồm 2 quyển, do sa môn Bồ Đề
Đăng người ngoại quốc dịch vào đời
Tùy.
Đại
sư Ngẫu Ích đời Minh bảo: “Kinh này thật
sự là thuốc thần để chữa bịnh trong
đời mạt, chẳng thể chẳng gấp gáp
lưu truyền”.
Trong quyển
thượng, Phật ngự trong núi Kỳ Xà Quật
tại thành Vương Xá, Bồ Tát Kiên Tịnh Tín v́ chúng
sanh đời mạt thưa hỏi phương tiện.
Kinh chép:
“Kiên Tịnh Tín
Bồ Tát thưa:
- Như trước
kia Phật đă nói: ‘Nếu như ta đă qua đời,
sau khi Chánh Pháp diệt mất, Tượng Pháp sắp
tận, sắp vào đời Mạt, trong thời gian
như thế, chúng sanh phước mỏng, lắm nỗi
suy năo, cơi nước lắm phen loạn lạc, tai nạn
xảy ra măi, các thứ ách nạn kinh sợ bức
nhiễu. Các đệ tử của ta đánh mất
thiện niệm, chỉ thêm lớn tham, sân, ghen ghét, ngă
mạn, dù có vẻ dường như hành thiện pháp,
nhưng chỉ chăm cầu lợi dưỡng, danh
tiếng thế gian là chính, chẳng thể chuyên tâm tu
yếu đạo xuất thế. Lúc bấy giờ, các
chúng sanh thấy tai ương, loạn lạc trong
đời, tâm thường khiếp nhược, buồn
sợ thân ḿnh và các thân thuộc chẳng được
cơm no, áo ấm. Do bởi lắm nhân duyên chướng
ngại như vậy nên đối với Phật pháp,
họ là kẻ độn căn, ít ḷng tin, đắc
đạo lại cực ít. Thậm chí dần dần
người sanh ḷng tin, thành tựu trong Tam Thừa cũng
lại rất hiếm. Tất cả những người
tu học Thiền Định thế gian, phát sanh các thần
thông, tự biết túc mạng, lần lần không c̣n có ai.
Như thế, đến khi vào trong đời Mạt Pháp
đă lâu, kẻ đắc đạo, giữ ḷng tin, tu
Thiền Định đạt thần thông v.v... hoàn toàn không
c̣n có ai nữa’.
Con nay v́ những
kẻ thiện căn ít ỏi trong thời ác vị lai
Tượng Pháp sắp hết và trong đời Mạt
Pháp, thưa hỏi Như Lai lập phương tiện
nào, khai thị, dạy dỗ khiến họ sanh tín tâm,
trừ được suy năo, bởi v́ lúc họ gặp
phải sự ác, do sẵn lắm chướng ngại,
họ sẽ lui sụt thiện tâm. Đối với pháp nhân
quả thế gian và xuất thế gian, họ nhiều
lần đem ḷng ngờ vực, chẳng thể vững
tâm chuyên cầu pháp lành. Chúng sanh như thế đáng thương,
đáng cứu. Đức Thế Tôn đại từ,
Nhất Thiết Chủng Trí, nguyện lập phương
tiện để hiểu dụ, khiến họ ĺa
khỏi lưới nghi, trừ các chướng ngại,
tăng trưởng ḷng tin, ở trong thừa nào cũng
mau được bất thối”.
Phật bảo Ngài
đem hỏi Địa Tạng Bồ Tát, đồng
thời minh thị địa vị cao quư và nhân duyên thù
thắng của Bồ Tát. Kinh chép:
“Từ khi Địa
Tạng Bồ Tát phát tâm đến nay đă trải qua vô
lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a tăng
kỳ kiếp. Từ lâu, Ngài đă vượt qua biển
Tát Bà Nhă, công đức viên măn, trọn đủ, nhưng
chỉ y theo sức bản nguyện tự tại,
quyền xảo hiện hóa hiện bóng trong mười
phương.
Tuy Ngài đi vào
khắp hết thảy cơi nước, thường
khởi công nghiệp, nhưng Ngài đặc biệt chú
trọng đến đời ác ngũ trược.
Điều đó cũng là do sức bản nguyện huân
tập vậy và cũng do chúng sanh đáng được
hưởng sự giáo hóa của Ngài. Từ mười
một kiếp đến nay, Bồ Tát trang nghiêm thế
giới này, thành thục chúng sanh. V́ thế ở trong
hội này, thân tướng Ngài đoan nghiêm, oai đức
thù thắng, ngoại trừ Như Lai, không ai hơn
được Ngài.
Lại nữa,
sự nghiệp hóa độ của Ngài trong thế
giới này, chỉ trừ các vị Biến Cát (Văn Thù),
Quán Thế Âm v.v… các Đại Bồ Tát đều chẳng
sánh bằng được. V́ vậy, sức bản
thệ nguyện của Bồ Tát nhanh chóng thỏa măn
hết thảy sở cầu của chúng sanh, diệt hết
thảy tội trọng của chúng sanh, trừ các
chướng ngại, được an lạc trong
hiện đời.
Lại nữa,
vị Bồ Tát có tên là Bậc Khéo Nói An Ủi, nghĩa là:
khéo nói pháp sâu, khéo chỉ dạy khiến kẻ sơ
học khởi ḷng cầu Đại Thừa chẳng bị
khiếp nhược. Do các nhân duyên như thế, trong
thế giới này, chúng sanh khát ngưỡng, nhận
sự giáo hóa, đắc độ. Bởi thế, ta nay
bảo Bồ Tát ấy hăy nói”.
Địa Tạng
Bồ Tát bèn dạy 3 thứ mộc luân để khảo
sát nghiệp báo thiện, ác trong ba đời, đồng
thời chỉ dạy phương pháp sám hối như
trong kinh đă rộng nói.
Trong quyển hạ,
Địa Tạng Bồ Tát lại chỉ ra cảnh giới
Nhất Thật và hai thứ phép Quán: Duy Tâm Thức Quán và
Chân Như Thực Quán. Địa Tạng Bồ Tát lại v́
kẻ thiện căn mỏng manh, phiền năo dày
đặc, lắm nghi, lắm chướng, dạy riêng
một phương tiện để ĺa chướng
duyên, cầu sanh Tịnh Độ. Kinh chép:
“Nếu ai dù học
những tín giải như thế nhưng v́ thiện
căn mỏng manh, chẳng thể tiến lên, chẳng
tạm chế phục được các ác nghiệp
phiền năo, trong ḷng ngờ vực, khiếp hăi, sợ
đọa ba đường ác, sợ sanh trong chỗ tám
nạn, sợ chẳng thường được
gặp gỡ Phật, Bồ Tát v.v… chẳng
được cúng dường, nghe lănh chánh pháp, sợ khó
thể thành tựu hạnh Bồ Đề. Có những
điều nghi ngờ, sợ hăi và các thứ chướng
ngại như thế th́ hăy nên trong mọi lúc, trong mọi
chỗ, thường siêng tụng niệm danh hiệu của
ta. Nếu được nhất tâm, thiện căn
tăng trưởng, tâm ư sắc bén th́ hăy nên quán pháp thân
của ta và pháp thân của hết thảy chư Phật
thể tánh b́nh đẳng với thể tánh của thân
chính ḿnh, không hai, không khác, chẳng sanh, chẳng diệt,
thường, lạc, ngă, tịnh, công đức viên măn,
đáng để quy y. Lại nên quán sát tướng
trạng thân tâm của chính ḿnh là vô thường, khổ,
vô ngă, bất tịnh, như huyễn, như hóa, đáng nên
chán ĺa.
Nếu có thể tu
học phép Quán như thế th́ sẽ mau được
tăng trưởng tâm tịnh tín, tất cả các
chướng dần dần tổn giảm. V́ cớ sao? Người
ấy gọi là học tập, nghe danh hiệu ta th́
cũng có thể học tập, nghe danh hiệu mười
phương chư Phật. Đă có thể học chí tâm,
lễ bái, cúng dường ta th́ cũng có thể học chí
tâm, lễ bái, cúng dường mười phương
chư Phật. Gọi là học nghe kinh Đại Thừa sâu
xa, gọi là học nắm giữ, biên chép, cúng
dường, cung kính kinh Đại Thừa sâu xa, gọi là
học thọ tŕ, đọc tụng các kinh Đại
Thừa sâu xa, gọi là học xa ĺa tà kiến, đối
với chánh nghĩa sâu chẳng hủy báng, gọi là
học tin hiểu Đệ Nhất Thật Nghĩa rốt
ráo rất sâu, gọi là có thể trừ được các
tội chướng, gọi là sẽ được vô
lượng công đức tụ tập. Người
ấy xả mạng th́ trọn chẳng đọa vào ác
đạo, chỗ tám nạn, lại được nghe
chánh pháp, quen tin tưởng, tu hành, cũng có thể tùy
nguyện văng sanh cơi Phật thanh tịnh ở phương
khác.
Lại nữa,
nếu ai muốn sanh về cơi Tịnh nào trong hiện
tại ở mười phương th́ hăy nên dốc ḷng
tụng niệm danh hiệu của đức Phật
ở thế giới đó, nhất tâm bất loạn; quán
sát như trên th́ quyết định sẽ được
sanh về cơi tịnh của đức Phật ấy,
thiện căn tăng trưởng, mau được
bất thối”.
Kế đó, Bồ
Tát dạy về tam nhẫn, tứ Phật để
tỏ rơ địa vị viên măn, và khéo léo thuyết pháp an
ủi kẻ khiếp nhược, xa ĺa cái lỗi
chống đối nhau.
Địa Tạng
Bồ Tát thuyết pháp xong, Phật phó chúc thọ tŕ. Kinh
chép:
“Lúc bấy giờ,
đức Phật bảo các đại chúng rằng:
- Các vị ai nấy
hăy nên thọ tŕ pháp môn này, lưu truyền rộng răi trong
nơi ḿnh ở. V́ cớ sao vậy? Pháp môn như thế
này rất là khó gặp, có đại lợi ích. Nếu ai
được nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát Ma
Ha Tát và tin lời Ngài dạy th́ phải biết là
người ấy mau ĺa được hết thảy
tất cả sự chướng ngại, mau đạt
đến đạo Vô Thượng.
Ngay khi đó,
đại chúng đều cùng phát nguyện: “Con sẽ
thọ tŕ, lưu truyền trong thế gian, chẳng dám
để mất”.
D. Chương thứ tư:
Đại ư kinh Bổn Nguyện
Kinh Địa Tạng Bồ Tát
Bản Nguyện gồm hai quyển, bản thông dụng
chia thành 3 quyển, do sa-môn Thật Xoa Nan Đà người
nước Vu Điền dịch vào thời Đường.
D.1. Phẩm thứ nhất: Đao
Lợi Thiên Cung Thần Thông
Phật ngự trên
trời Đao Lợi, v́ mẹ thuyết pháp. Mười
phương chư Phật, Bồ Tát nhóm hội khen
ngợi. Như Lai mỉm cười, phóng ra mây quang minh,
phát ra tiếng vi diệu. Mười phương Trời,
Rồng, quỷ thần thảy cũng đều
đến dự hội. Phật v́ Văn Thù Bồ Tát nói
nhân xưa của Địa Tạng Bồ Tát.
D.2. Phẩm thứ hai: Phân Thân
Tập Hội
Các phân thân của
Địa Tạng Bồ Tát trong chốn địa ngục
ở mười phương và các chúng sanh được
Ngài giáo hóa đến gặp Thế Tôn. Thế Tôn xoa
đầu phó chúc, kinh chép:
“Ông xem: Ta trong bao
kiếp siêng khổ độ thoát các chúng sanh tội
khổ ương ngạnh khó bề giáo hóa như thế.
Những kẻ chưa được điều phục
sẽ phải theo nghiệp báo ứng. Như lúc chúng
bị đọa ác đạo chịu sự khổ
lớn, ông hăy nên nghĩ nhớ lúc ta ở trên cung trời
Đao Lợi ân cần dặn ḍ, đều khiến cho các
chúng sanh trong thế giới Sa Bà măi đến khi
đức Di Lặc xuất thế, đều
được giải thoát, vĩnh viễn ĺa khỏi các
khổ, gặp Phật thọ kư”.
D.3. Phẩm thứ ba: Quán Chúng Sanh
Nghiệp Duyên
Ma Da Phu Nhân hỏi
về những đường ác do nghiệp báo chiêu
cảm, Địa Tạng Bồ Tát đáp đại
lược về 5 sự vô gián.
D.4. Phẩm thứ tư: Diêm Phù
Chúng Sanh Nghiệp Cảm
Ngài Định Tự
Tại Vương Bồ Tát lại hỏi về nhân
xưa, Phật lại lược thuyết 2 chuyện.
Tứ Thiên Vương thỉnh vấn về phương
tiện đại nguyện của Bồ Tát, Phật
lại những pháp Bồ Tát đă nói về sự báo
ứng.
D.5. Phẩm thứ năm: Địa Ngục Danh
Hiệu
Phổ Hiền
Bồ Tát hỏi, Địa Tạng Bồ Tát đáp.
D.6. Phẩm thứ sáu: Như Lai
Tán Thán
Phật phóng quang minh
nơi thân, vang ra âm thanh lớn khen ngợi Địa Tạng
Bồ Tát. Phổ Quảng Bồ Tát thưa hỏi về
lợi ích. Phật v́ Bồ Tát phân biệt giải đáp
về các việc: thờ tượng, đọc tụng
kinh, tŕ danh v.v…
Địa Tạng
Bồ Tát bạch Phật phổ khuyến chúng sanh
đoạn ác, tu thiện. Trưởng giả Đại
Biện thưa hỏi về công đức siêu độ
người chết, Địa Tạng Bồ Tát dạy: Siêu
độ người chết, trong bảy phần công
đức, người mất chỉ hưởng
được một.
D.8. Phẩm thứ tám: Diêm La
Vương Chúng Tán Thán
Quỷ Vương và
Diêm La Thiên Tử nương vào sức oai thần của
Phật và Bồ Tát đều lên đến trời Đao
Lợi, thưa hỏi v́ sao chúng sanh chẳng nương
theo đường lành. Phật dùng thí dụ người
mê đi lạc đường để giảng. Lại
c̣n có Ác Độc Quỷ Vương, Chủ Mạng Quỷ
Vương, mỗi ông đều phát thiện nguyện,
Phật khen ngợi, ấn khả và thọ kư cho Chủ
Mạng.
D.9. Phẩm thứ chín: Xưng
Phật Danh Hiệu
V́ để lợi
ích chúng sanh, Địa Tạng Bồ Tát diễn thuyết công
đức của danh hiệu chư Phật quá khứ.
D.10. Phẩm thứ 10: Giảo
Lượng Bố Thí Công Đức Duyên
Địa Tạng
Bồ Tát thưa hỏi, Phật phân biệt đáp.
D.11. Phẩm thứ 11: Địa
Thần Hộ Pháp
Kiên Lao Địa
Thần minh thị mười điều lợi do
thờ h́nh tượng Bồ Tát.
D.12. Phẩm thứ 12: Kiến
Văn Lợi Ích
Phật phóng quang
minh từ trên đỉnh đầu, dùng diệu âm xưng
dương Địa Tạng Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ
Tát thỉnh vấn về những sự chẳng thể
nghĩ bàn, Phật bèn phân biệt giải đáp những
sự cúng dường h́nh tượng, thọ tŕ danh
hiệu v.v…
D.13. Phẩm thứ 13: Chúc Lụy
Nhân Thiên
Phật lại xoa
đầu Địa Tạng Bồ Tát, giao phó Bồ Tát hóa
độ các chúng sanh, kinh chép:
“Này Địa Tạng!
Này Địa Tạng! Hăy nhớ hôm nay ta ở trên trời Đao
Lợi, giữa đại hội của trăm ngàn
vạn ức bất khả thuyết bất khả thuyết
hết thảy chư Phật, Bồ Tát, trời, rồng
tám bộ lại đem các hàng trời, người, chúng
sanh chưa thoát khỏi tam giới c̣n ở trong nhà lửa
giao phó cho ông, chẳng để cho một chúng sanh nào
đọa lạc trong đường ác dẫu chỉ
một ngày một đêm, huống hồ là lại bị
đọa lạc vào Ngũ Vô Gián và địa ngục A
Tỳ suốt cả trăm vạn ức kiếp,
chẳng có lúc ra.
Này Địa Tạng!
Chí tánh của chúng sanh trong Nam Diêm Phù Đề đây vô
định, quen thói ác th́ nhiều, dù có phát thiện tâm,
trong khoảnh khắc lại lui sụt. Nếu gặp ác
duyên th́ niệm niệm tăng trưởng. Bởi lẽ
đó, ta phân ra trăm ngàn ức thân để hóa
độ, tùy theo từng căn tánh mà độ thoát.
Này Địa Tạng!
Nay ta ân cần đem hàng trời, người giao phó cho
ông. Trong đời vị lai, nếu có trời,
người và thiện nam tử, thiện nữ nhân gieo
được chút thiện căn trong Phật pháp [chỉ
bằng] một sợi lông, một hạt bụi, một
hạt cát, một giọt nước th́ ông nên dùng
đạo lực ủng hộ kẻ đó, dần
dần tu tập Vô Thượng chớ để thối
thất.
Lại này Địa
Tạng! Trong đời mai sau, dù trời hay người
theo nghiệp báo ứng, rớt trong ác đạo, lúc
sắp đọa trong đường ác, hoặc đă đến
cửa đường ác mà nếu các chúng sanh ấy
niệm được danh hiệu một đức
Phật, một vị Bồ Tát, một câu, một kệ
kinh điển Đại Thừa th́ ông nên dùng thần lực
phương tiện cứu vớt các chúng sanh ấy.
Ở chỗ người ấy, ông sẽ hiện vô biên
thân để làm tan nát địa ngục khiến kẻ ấy
được sanh lên trời, hưởng sự vui thù
thắng, mầu nhiệm”.
Lúc bấy giờ,
đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:
Hiện tại, vị lai chúng trời người
Ta nay ân cần giao cho ông
Dùng đại thần thông, phương tiện
độ
Đừng cho ác đạo lọt vào trong.
Kế tiếp
đó, Hư Không Tạng Bồ Tát nói hai mươi tám
lợi ích do được thấy h́nh tượng
Địa Tạng, nghe kinh điển này; và lại nói bảy
điều lợi ích.
Phụ chú:
Kinh Phật
Thuyết Địa Tạng Bồ Tát Phát Tâm Nhân
DuyênVương Thập Vương, 1 quyển, do Tạng
Xuyên đời Đường biên thuật được
chép trong Tục Tạng Kinh của Nhật Bản là kinh do
người đời ngụy tạo, chẳng nên lưu
thông.
E. Chương thứ năm:
Đại ư [các kinh] tán dương Pháp Thân, các nghi quỹ cùng
Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn
a) Bách Thiên Tụng
Đại Tập Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thỉnh
Vấn Pháp Thân Tán, 1 quyển, do ngài Bất Không dịch vào
đời Đường. Kinh này tán thán công đức
của Pháp Thân, Pháp Giới, Bồ Đề, Niết Bàn,
Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, tất cả
đều dùng thể loại kệ tụng 5 chữ;
cuối cùng là bài kệ bảy chữ như sau:
Nếu ai tương ứng hiển lư này,
Chỉ dùng thân, huệ để phân tích,
Kẻ ấy sanh trong hoa sen sạch
Nghe Vô Lượng Thọ Phật nói pháp.
b) Địa Tạng
Bồ Tát Nghi Quỹ, một quyển, do ngài Thâu Bà Ca La
người xứ Thiên Trúc dịch vào đời
Đường, Trung Hoa thường dịch tên ngài là
Thiện Vô Úy. Đại ư: Phật ngự tại núi Khư La
Đề Da, Địa Tạng Bồ Tát bay lên không trung, nói
thần chú, rồi nói cách họa tượng v.v…
Trong phần Thành
Tựu Pháp, lại nói: Nếu niệm thần chú th́ sẽ
được diệt tội sanh thiện, xả thân
sẽ sanh sang Cực Lạc. Dùng cỏ để hộ ma
(4) ba vạn biến v.v…
c) Địa Tạng
Bồ Tát Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn:
Thấy chép trong
Bất Động Tập của Cam Lộ Pháp Sư ở Mông
Sơn đời Tống, phần nghi thức Mông Sơn
Thí Thực, chưa rơ trích từ kinh nào, mong bậc hậu
hiền sẽ khảo chứng tường tận
vậy. Bài chú ấy như sau:
Om, bát ra mạt lân
đà nĩnh, sa ba hà.
(có bản chép
chữ Lân thành “ninh”).
F. Chương thứ sáu: Các kinh
lưu truyền khác
F.1. Kim Cang Tam Muội Kinh:
2 quyển, dịch
từ thời Bắc Lương. Trong phẩm Tổng Tŕ
thứ tám, Địa Tạng Bồ Tát thưa hỏi,
đức Phật giải đáp, rộng phân biệt
nghĩa Vô Sanh để đoạn trừ ḷng nghi của
đại chúng. Kinh văn rất rộng, ai cần xin hăy
tự t́m đọc.
Sau đó, ḷng nghi
của đại chúng đă được giải
quyết, Địa Tạng Bồ Tát biết đại chúng
đă hết nghi, bèn nói kệ tụng. Kinh chép:
“Con biết chúng tâm ngờ,
Thế nên ân cần hỏi,
Như Lai đại từ thiện,
Phân biệt chẳng c̣n sót,
Cả hai chúng này đây
Thảy đều hiểu rơ cả
Con nay trọn khắp chốn
Giáo hóa khắp chúng sanh
Giống như Phật đại bi,
Chẳng buông bỏ bổn nguyện
Ở địa vị Nhất Tử (5),
Vẫn trụ trong phiền năo”.
Phật lại
giảng rộng cho đại chúng nghe về công
đức tŕ kinh, tŕ danh, kinh chép:
“Vị Bồ Tát này
chẳng thể nghĩ bàn, luôn v́ đại từ cứu
khổ chúng sanh. Nếu có chúng sanh tŕ kinh pháp này, tŕ danh
hiệu Bồ Tát này th́ sẽ chẳng bị đọa
trong đường ác, hết thảy chướng
nạn thảy đều trừ diệt. Nếu có chúng
sanh tŕ kinh này, không c̣n tạp niệm khác, chuyên niệm kinh
này, tu tập đúng pháp th́ lúc bấy giờ Bồ Tát
sẽ thường hóa thân để thuyết pháp, ủng
hộ người ấy trọn chẳng buông bỏ,
khiến cho những người ấy mau đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hàng Bồ Tát các ông
nếu muốn giáo hóa chúng sanh th́ đều nên dạy
họ tu tập Đại Thừa quyết định
liễu nghĩa như thế này”.
Pháp Sư Viên
Chứng đời Minh chú giải như sau:
“Kệ chép:
‘Chẳng bỏ bổn nguyện’ mà Bồ Tát nguyện
rằng: ‘Chúng sanh độ hết mới chứng Bồ
Đề, địa ngục chưa không, trọn chẳng
thành Phật đạo’. Do vậy, thệ nguyện
của Ngài chẳng thể nghĩ bàn, từ bi chẳng
thể nghĩ bàn. Ngài cứu chúng sanh khổ nên chúng sanh
chẳng thể chẳng biết báo ân. Nếu muốn báo
ân Ngài th́ không có cách nào khác ngoài việc tŕ kinh này. Nếu tŕ
danh hiệu Ngài th́ chẳng những là báo ân mà c̣n là tự
đạt được lợi lạc rộng lớn,
chẳng đọa ác đạo, diệt chướng
trừ tội. Câu “các ông hiện tiền Bồ Tát” có hai
duyên: Một là nên học theo Địa Tạng Bồ Tát
đại từ cứu giúp khắp cả, hai là
thường dạy chúng sanh tu tập kinh điển
như vậy”.
E.2. Pháp hội Tu Di Tạng trong
kinh Đại Tập:
Gồm 2 quyển
57, 58 của kinh Đại Tập bộ chữ Hàm, thuộc
phần Tu Di Tạng, do các vị Na Liên Đề Gia Xá và Pháp
Trí người nước Ô Trành dịch vào đời Cao
Tề.
F.2.1. Phẩm thứ hai: Bồ Tát
Thiền
Phật bảo
Bồ Tát chẳng đọa trong Định Tụ của
Nhị Thừa, như thực quán sát, đắc Nhất
Thiết Pháp Vô Ngữ Ngôn Không Tam Muội; như ngài Địa
Tạng Bồ Tát đă đạt đến tự
tại ở bờ kia trong tam muội này, nên có thể
lợi ích hết thảy chúng sanh.
Tiếp đó, kinh
văn rộng nêu các chuyện Địa Tạng Bồ Tát
nhập định để lợi sanh. Kinh văn
rất rộng, ở đây chỉ lược trích. Kinh
chép:
“Hoặc khiến
cho những vật cần dùng để sanh sống
của chúng sanh như thức ăn, quần áo, ngọa
cụ, vườn nhà v.v… hết thảy các sắc, thanh,
hương, vị, xúc v.v… đáng yêu thảy đều
được sung túc. Hoặc khiến cho các bệnh phong,
hoàng đảm v.v… của chúng sanh cho đến các
bịnh phiền năo: tham, sân, si v.v…, những bệnh
khổ nơi thân tâm như thế thảy đều
trừ diệt. Hoặc khiến cho nỗi khổ trong ba
đường ác và nóng, lạnh, các nỗi khổ: oán ghét
phải gặp gỡ nhau, yêu thương xa ĺa, cầu
chẳng được thảy đều trừ
diệt. Khiến các chúng sanh ĺa hết thảy khổ năo
và pháp chẳng lành, thành tựu hết thảy pháp lành, dùng
từ tâm đối xử với nhau, cho đến
khiến cho các chúng sanh tâm được khéo an trụ trong
Đệ Nhất Nghĩa Đế”.
F.2.2. Phẩm thứ ba: Diệt
Phi Thời Phong Vũ (diệt trừ mưa gió trái
thời)
Công Đức Thiên v́
Địa Tạng Bồ Tát thuật lại thệ nguyện
xưa kia, lại cầu Địa Tạng Bồ Tát khởi
ḷng từ mẫn. Địa Tạng Bồ Tát bảo Công
Đức Thiên thỉnh Phật diễn thuyết Thủy Phong
Ma Ni Cung Đà Ra Ni. Phật nói thần chú xong, đại
địa chấn động, Địa Tạng Bồ Tát
cũng nói Ma Đao Đại Đà Ra Ni.
Địa Tạng
Bồ Tát nói đà ra ni xong, đức Thế Tôn lại
rộng khen công đức của Địa Tạng Bồ Tát
Đà Ra Ni, kinh chép:
“Lành thay, lành thay!
Thiện nam tử! Ông nay có thể giống như
đại diệu dược cho hết thảy chúng sanh,
diệt được hết thảy khổ năo của
chúng sanh, thí cho hết thảy chúng sanh những vật
ưa thích, thành tựu đại bi, cho đến do
sức của đà ra ni này khiến cho ḍng giống Tam
Bảo và Pháp Nhăn được tồn tại lâu dài trong đời,
khiến cho những kẻ ngu ám, bạc phước,
bị ngă mạn bại hoại này và hàng sát lợi ác cùng
các tể tướng chẳng tu thiện căn sẽ
chẳng diệt, chẳng hoại pháp mà ta đă tinh
tấn, siêng năng, khó nhọc tích tập trong trăm ngàn
vạn ức a tăng kỳ kiếp như thế. Tỳ
kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di không có các
sự năo loạn. Do không bị năo loạn nên chư Thiên
chẳng giận dữ. Do chư thiên chẳng giận
dữ nên hết thảy chúng sanh đều
được những vật vui thích như trên”.
Địa Tạng
Bồ Tát lại nói Tràng Trượng Đại Đà Ra Ni.
F.3. Các kinh khác:
Phật thuyết La
Ma Già Kinh (dịch đời Tấn, hai quyển), Hoa Nghiêm
kinh (bản dịch trong niên hiệu Trinh Nguyên đời
Đường), Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm (bản dịch trong niên hiệu Trinh Nguyên
đời Đường), Hoa Nghiêm Thập Địa kinh,
Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán Kinh, Phật
Thuyết Bát Đại Bồ Tát Kinh v.v… đều có nêu danh
hiệu của Địa Tạng Bồ Tát.
Trong Bí Mật bộ,
thường có những kinh văn lễ tụng, cúng
dường Địa Tạng Bồ Tát. Chẳng hạn
như:
- Trong Phật
Thuyết Đại Luân Kim Cang Tổng Tŕ Đà Ra Ni kinh có
đề cập đến việc niệm tụng Nam Mô
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát…
- Trong nghi quỹ Diêm La
Vương Cúng Hành Pháp Thứ Đệ có câu: “Nhất tâm
phụng thỉnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”.
- Trong Thắng Quân
Bất Động Minh Vương Tứ Thập Bát Sứ
Giả Bí Mật Thành Tựu Nghi Quỹ có nói vị thiên
vương thứ hai mươi ba trong các Hỏa La Thiên là
thân biến hiện của của Địa Tạng Bồ
Tát.
- Trong Đại Tỳ
Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Thành Tựu Nghi
Quỹ có chép chân ngôn của Địa Tạng Bồ Tát, và
cũng chép kệ tụng. Nguyên văn:
“Phương Bắc: đức Địa Tạng,
Ṭa ngài cực đẹp khéo,
Thân ngự trong diễm thai (6),
Các báu trang nghiêm đất,
Xen kẽ lẫn trang hoàng,
Bốn báu làm hoa sen,
Để thánh giả an trụ,
Kim Cang chẳng thể hoại,
Hạnh, cảnh giới, tam muội,
Danh tiếng đều lớn lao.
Có vô lượng quyến thuộc”
Những đoạn
kinh văn đă lược dẫn ở trên chưa
được chép vào Đại Tạng ở phương này
(Trung Hoa). Gần đây, những kinh ấy được
truyền từ Nhật Bản vào, cho nên chỉ lược
dẫn. Ngoài ra c̣n rất nhiều kinh sách khác nữa,
nếu muốn biết hết, xin hăy t́m trong Đại
Tạng.
Hơn nữa, trong
Mật Giáo, Bồ Tát có mật hiệu là Bi Nguyện Kim
Cang, hoặc c̣n gọi là Dữ Nguyện Kim Cang (vị Kim
Cang ban cho điều mong nguyện). Trong Kim Cang Giới,
Ngài thị hiện làm Tràng Bồ Tát chầu hầu Bảo
Sanh Như Lai ở phương Nam. Trong Thai Tạng
Giới, Ngài chính là vị tôn thánh chính giữa ở ngôi
thứ 9 trong Địa Tạng Viện với tôn hiệu
Địa Tạng Tát Đỏa.
Phụ chú:
- Kinh Liên Hoa Tam
Muội nói đến sáu vị Địa Tạng Bồ Tát và
Thắng Quân Địa Tạng Bồ Tát.
- Kinh Diên Mạng
Địa Tạng nói về Diên Mạng Địa Tạng Bồ
Tát.
- Địa Tạng
Bồ Tát Niệm Tụng Nghi Quỹ nhắc đến sáu
vị sứ giả của Địa Tạng Bồ Tát.
Ba kinh này chỉ
thấy lưu truyền trong một chi phái của Thai
Mật (7) Nhật Bản, nghi là ngụy kinh, nên chẳng
sao lục vào đây. Lại c̣n các thuyết Đỗ Soạn
cổ truyền của Nhật Bản cũng chẳng chép
vào đây.
G. Chương thứ bảy: Chú
sớ của các nhà
1. Đại Thừa
Đại Tập Địa Tạng Thập Luân Kinh Giải
của đại sư Ngẫu Ích đời Minh; tác
phẩm này đang soạn, chưa hoàn tất.
2. Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo Kinh Huyền Nghĩa, 1 quyển do đại
sư Ngẫu Ích đời Minh trước thuật.
3. Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo Kinh Sớ, 2 quyển, cũng do ngài Ngẫu Ích
soạn.
Trong lời bạt
cuốn Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Sớ của
đại sư Ngẫu Ích, đại sư viết:
“Nhớ mùa Đông năm
Tân Mùi, ngụ ở Thiên Bắc Mục, có cư sĩ Ôn
Lăng Từ Vũ Hải, pháp danh là Hoằng Khải
kể cho tôi nghe về bản kinh Chiêm Sát mầu nhiệm
này, tôi sai người qua chỗ ngài Vân Thê xin một
bản. Mở ra xem một lượt, buồn vui lẫn
lộn. Một ngày mùa Đông năm Quư Dậu, tôi ngụ
tại chùa Tây Hồ ở Kim Đ́nh, dựa theo kinh soạn ra
sám pháp. Đầu mùa Hạ năm Ất Hợi, tôi ngụ
ở am Trí Nguyệt tại Vũ Thủy, giảng
diễn, phân khoa (8) kinh này; ngay khi ấy đă có ư nguyện
soạn sớ giải, nhưng bệnh tật trầm
trọng chẳng thỏa ngay được nguyện.
Bấm đốt tay
đă 15 năm rồi, Phạm Vơng, Phật Đảnh, Duy
Thức, Pháp Hoa tôi đều đă chú giải rồi, riêng
mỗi ư nguyện cũ này vẫn chưa hoàn thành nổi,
cũng đáng than thở vậy. Nay là năm Canh Dần,
sống ở đời đă năm mươi hai năm
rồi, trăm ư niệm đă như tro tàn, chợt có
mấy người đồng chí đến kiết
hạ tại Tàng Kinh Đường ở Bắc Thiên
Mục, dốc ḷng nơi Tỳ Ni (Giới Luật).
Tôi nghĩ đời
mạt muốn được tịnh giới mà bỏ
pháp chiêm nghiệm luân tướng trong kinh Chiêm Sát đây th́
không c̣n cách nào khác nên bèn cất bút viết vào ngày mồng
Một tháng Sáu, đến ngày mười bốn th́ xong.
Dùng một giọt nước thêm vào biển cả, dâng
một hạt bụi đắp vào núi Tu Di, tuy chẳng ích
ǵ cho bậc cao thâm, chỉ mong khéo lọc lơi chất
sữa lạc khiến những người đồng
chí với tôi cùng hưởng Đề Hồ”.
4. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Sớ của đại
sư Ngẫu Ích đời Minh đang soạn dở,
chưa hoàn thành.
5. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Khoa Văn, 1 quyển, do ngài
Linh Thừa đời Thanh soạn.
6. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Luân Quán, 1 quyển, cùng tác
giả.
7. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Khoa Chú, 6 quyển, cùng tác giả.
8. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Khai Mông, 3 quyển, do ngài
Phẩm Điềm đời Thanh kết tập, dựa theo
bản Khoa Chú sao tập mà thành, nhưng lộn xộn, tạp
nhạp, không đáng lưu thông.
9. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Diễn Hiếu Sớ, 3
quyển do ngài Tri Tánh đời Thanh soạn.
10. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Kinh Bạch Thoại Giải
(chưa hoàn tất), do ngài Hồ Trạch Phạm
đời Thanh soạn.
1. Tán Lễ Địa
Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi, 1 quyển, do đại
sư Ngẫu Ích đời Minh soạn.
Cuối tác phẩm
này, đại sư Ngẫu Ích ghi lời tự như sau:
“Đại pháp ch́m
mất đă lâu, lắm kẻ hiểu lầm, chấp
Đại báng Tiểu, khắp thế gian đều vậy.
Nhưng các nỗi khổ ở Địa Ngục vẫn cứ
theo sau, các dư báo câm, ngọng vẫn khó hết
được. V́ thế Địa Tạng từ tôn trong
hội Đại Tập, hiện tướng Thanh Văn,
đức Thế Tôn rộng khen đức hạnh thù
thắng của Bồ Tát. Phật c̣n so sánh rằng: Giả
như trong trăm kiếp quy y, xưng niệm, lễ cúng
nơi các vị Đại Bồ Tát như Diệu Cát
Tường, Quán Tự Tại, Phổ Hiền nhiều
bằng số cát sông Căng Già để cầu các sở
nguyện vẫn chẳng bằng trong khoảng bữa
ăn, quy y, xưng niệm, lễ cúng Địa Tạng
Bồ Tát v́ Ngài đă từ lâu tu tập kiên cố,
đại nguyện, đại từ, dũng mănh, tinh
tấn, vượt hơn các Bồ Tát vậy.
Ôi, đời mạt
ưa nói Đại Thừa rất dễ, nhưng tận
lực hành tŕ Tăng hạnh thật là khó. Họ nào
biết phế Tiểu, luận Đại th́ Đại cũng
chẳng xong. Ngộ Đại dụng Tiểu th́ Tiểu càng
thù thắng. V́ thế, kinh Pháp Hoa răn người
hoằng kinh phải y theo bốn An Lạc hạnh; kinh
Niết Bàn luận đàm Phật tánh đến cùng
cực nhưng vẫn đề cao giới luật. Công
đức của Đại Sĩ đặc biệt thù
thắng đến thế, lẽ nào lại chẳng
xuất phát từ đây ư?
Trí Húc tôi ân hận sâu
xa thói quen tai ác từ đời trước, tuổi
trẻ cực lực báng bổ Tam Bảo, tạo tội
Vô Gián, may thiện căn chưa mất sạch, c̣n
được nghe Bản Nguyện tôn kinh, biết lẽ
đại hiếu xuất thế, chuyển tà kiến,
phát sanh chánh tín, nhưng bởi dư nghiệp báng pháp,
dẫu siêng năng nhọc nhằn tu chứng vẫn
chưa đắc pháp nhẫn. Mỗi phen giở ba kinh
của Đại Sĩ ra đọc liền chẳng ngăn
nổi nước mắt đầm đ́a, buồn
tiếc ngày xưa vô tri, càng cảm ân Đại Sĩ cứu
vớt.
Nhân nghĩ nay là lúc
trược trí lưu chuyển, những kẻ cùng mắc
phải lỗi ấy thật chẳng ít nên kính tuân theo kinh
Thập Luân và hai kinh: Chiêm Sát, Bản Nguyện, trước
thuật sám pháp này mong chóng rửa sạch lỗi cũ,
định hạn cầu chứng quả về sau,
trọn chẳng làm hạnh Vô Y. Những người
chưa chứng được chánh vị Vô Sanh đều
có thể tu tập [pháp sám này] chẳng luận là sơ tâm
hay người tu học đă lâu”.
Đời Thanh, pháp
sư Ấn Quang trong bản trùng khắc Tán Lễ Địa
Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi đă viết lời
tựa như sau:
“Tâm thể vốn
tịnh, nhân căn trần mà trược niệm bèn
khởi. Phật tánh thường tồn, do mê muội, trái
nghịch khiến phàm t́nh lừng lẫy. Ngay nơi sức
Tịch Chiếu, lại biến thành duyên hôn động;
ngay trong lẽ thường trụ, lại lầm chịu
nỗi khổ sanh tử. Chấp trước Ngũ
Ấm, chẳng biết rốt ráo đều là Không,
chướng lấp nhất tâm, chẳng rơ vốn bất
khả đắc. Đắm nhiễm huyễn cảnh
lục trần, đọa lạc trong đường
khổ tam ác, dù có trải qua vi trần kiếp số,
vẫn chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi.
V́ thế, đức
Thế Tôn ta riêng rủ ḷng thương xót, nhân lời
hỏi của Địa Tạng Bồ Tát nói ra Thập
Lực Phật pháp luân để nghiến nát phiền hoặc,
thành tựu đạo khí. Bởi đó, vứt bỏ ác
pháp, đoạn trừ hết thảy hạnh Vô Y, tu tŕ
thiện pháp, đầy đủ hết thảy hạnh
Hữu Y. Nhưng muốn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn th́
phải sám trừ tội khiên túc thế. Nếu có thể
chẳng chấp trước Ngũ Ấm th́ tự viên
chứng được tam thân. Ngoài nương vào Phật
lực, Pháp lực, Bồ Tát thệ nguyện lực; trong
cậy vào sức chí thành, sức sám hối, sức công
đức của tự tánh nên tiêu diệt triệt
để mây mù tội chướng mù mịt cả không
trung, khiến bầu trời Chân Tánh sẵn có hiển hiện
toàn thể. V́ thế biết ba kinh: Thập Luân, Bản
Nguyện Chiêm Sát đều do sức đại bi
nguyện của ngài Địa Tạng khiến cho chúng sanh
trơ trọi cô quạnh trong đời mạt không
nơi nương dựa đều có được
chỗ nương cậy lớn lao.
Đại Sư Ngẫu
Ích đă chứng Pháp Thân, nương bản nguyện
hồi nhập cơi này, thoạt tiên hiện h́nh tích Xiển
Đề, sau mới làm sứ giả của Như Lai. Một
đời hạnh giải, sự lư viên dung, suốt
đời trước thuật, tánh - tu cùng đủ,
muốn cho trược trí biến thành tịnh trí, y theo ba
kinh chế định sám nghi, ngơ hầu phàm tâm trở thành
Phật tâm, đấy chính là điều kinh Thập Luân
ngợi khen, khuyên nhắc. Gương báu đă mài, quang minh
tự phát. Ma ni đă gột, trân bảo tự tuôn.
Thật có thể nói là diệu pháp để phản
bổn hoàn nguyên, diệu đạo để ngay chính tâm
này làm Phật.
Thượng nhân
Hoằng Nhất vốn đă ngưỡng mộ
trước thuật của Đại Sư, đặc
biệt cho khắc bản kinh này để lưu thông
rộng răi ngơ hầu người hữu chí diệt
vọng huyễn hoặc nghiệp, chứng
được chân tâm sẵn có, trên là nối tiếp
huệ mạng của Như Lai, dưới là để
làm gương mẫu cho đời mạt đều
được thọ tŕ”.
2. Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo Hạnh Pháp, 1 quyển, do đại sư
Ngẫu Ích đời Minh soạn.
Tác phẩm này
được chia thành sáu môn:
a. Thứ nhất là
duyên khởi, kinh văn như sau:
“Phàm chư Phật
Bồ Tát nghĩ thương quần mê, khác nào mẹ
nhớ đến con. Bởi thế, [dùng] mọi thứ
phương tiện dạy thoát khổ luân, nhưng chúng sanh
chẳng rơ nhân duyên nghiệp báo, nào biết đoạn ác
tu thiện. Tịnh tín ngày một ít ỏi, ngũ
trược ngày càng tăng mạnh. Do vậy, sự
khổ kịch liệt cơ cảm bội phần ứng
đến ḷng Vô Duyên Từ, nên mới có bậc
đương cơ tên là Kiên Tịnh Tín, cầu xin
Thế Tôn rủ ḷng bi cứu vớt. Phật bèn rộng
tán thán công đức của ngài Địa Tạng để
ḥng kiến lập phương tiện.
Bởi đó, Bồ
Tát dùng ba thứ Luân Tướng để chỉ bày
thiện ác sai biệt, dùng hai môn Quán Đạo để
dẫn về cảnh giới Nhất Thật. Nhưng kẻ
nghiệp nặng phải kiêng dè, chẳng được
tu ngay vào Định Huệ, phải nên dựa vào sám pháp. Sau
khi được thanh tịnh rồi, mới nên tu tập
hai Quán, định hạn cầu quả khó ǵ! Đấy
thật là thuốc thần để trị bệnh
đời mạt, là phương tiện thù thắng
nhất trong các phương tiện.
Tôi thẹn
chướng sâu, tuổi trẻ loạn pháp, Luật, Giáo,
Thiền Tông, lẫn lộn, sai lạc nào phải một
lỗi. May gặp kinh này, vẹt toang đám mây mê lầm
cho tôi, Lư Quán, Sự Nghi chiếu soi rạng ngời dễ
noi theo được. Trộm dùng mười khoa hạnh
pháp của các pháp sám, tường, lược sai khác
đôi chút, nhất nhất tỏ bày, chút nghi dứt
sạch, nào dám khoe khoang, thuật trọn duyên khởi”.
b. Thứ hai là Khuyên
Tu, kinh văn như sau:
“Nếu đệ
tử Phật muốn tu chánh pháp xuất thế, muốn
hiện tại không có các chướng duyên, muốn trừ
diệt nghiệp nặng ngũ nghịch, thập ác, vô
gián, muốn cầu các vật cần dùng đều
được sung túc, muốn khiến cho nạn nặng,
vạ nhẹ đều được tiêu diệt,
muốn đắc luật nghi ưu bà tắc, sa-di,
tỳ-kheo thanh tịnh, muốn đắc Bồ Tát tam
tụ tịnh giới, muốn chứng các thiền tam
muội, muốn đạt vô tướng trí huệ,
muốn cầu chứng được quả vị Tam
Thừa ngay trong hiện đời, muốn tùy ư văng sanh các
Phật Tịnh Độ, muốn ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn,
viên măn chứng nhập cảnh giới Nhất Thật th́
đều phải nên thọ tŕ pháp Sám Hối này.
V́ sao vậy? Đây là
ḷng từ phi thường của đức Thích Ca Như
Lai, là bi nguyện xứng cơ của Địa Tạng
Bồ Tát, không khổ nào chẳng cứu, không vui nào
chẳng ban. Nương theo đây tu hành, tịnh tín kiên
cố, như kinh đă giảng rộng, hăy nên tin
chắc!”
Tiếp đó là
bốn môn như trong Hành Pháp đă thuật chi tiết.
Hai sám nghi vừa nêu
trên là hoàn thiện nhất. Nghi thức sám nguyện chủ
yếu dựa theo kinh Thập Luân, Hạnh Pháp lấy kinh
Chiêm Sát làm chính. Kẻ hậu học tùy theo ư thích hăy
tận lực tu tập.
3. Từ Bi Địa
Tạng Bồ Tát Sám Pháp, 3 quyển, văn từ dài ḍng,
hỗn tạp, chưa thích hợp để sử dụng.
4. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Nguyện Sám Nghi, 1 quyển, do ngài Thừa
Giới đời Thanh soạn. Bản này văn nghĩa
giản dị, minh bạch, nhưng vẫn chưa hoàn
thiện.
Từ xưa
đến nay, trong các tác phẩm của các tác giả,
phần tán thuật Địa Tạng Bồ Tát rất
nhiều; hoặc là có tác giả soạn riêng một
quyển để chuyên thuật những sự linh
cảm của Địa Tạng Bồ Tát. Nay v́ gấp gáp,
chưa thể kiểm nghiệm đầy đủ,
đành chỉ ghi lại những tác phẩm tôi c̣n nhớ
và căn cứ theo thời đại mà liệt kê
trước sau như dưới đây:
1. Trong các tác phẩm
biên soạn của tông Thiên Thai, thường hay dẫn kinh
văn của kinh Chiêm Sát. Trong kinh Chiêm Sát, kể theo
thứ tự th́ thành Phật có bốn loại. Đại Sư
Ngẫu Ích bảo thuyết “lục tức” của tông
Thiên Thai phát xuất từ kinh này.
2. Trong các tác phẩm
như Tứ Phần Luật Hành Sự Sao… của sáng
tổ Nam Sơn Luật Tông (ngài Đạo Tuyên), thường
dẫn kinh văn kinh Thập Luân.
3. Trong Hoa Nghiêm Kinh
Truyện Kư của Quốc Sư Hiền Thủ
đời Đường có tường thuật sự linh
cảm của Địa Tạng Bồ Tát, nguyên văn:
“Năm Văn Minh
nguyên niên (684 - Đường Dung Tông), người đất
kinh sư, họ Vương, không rơ tên, đă không có
giới hạnh lại chẳng hề tu thiện. Mắc bệnh
chết đi, thấy hai người dẫn đến
trước cửa địa ngục, thấy có một
vị Tăng, họ gọi là Địa Tạng Bồ Tát,
dạy họ Vương tụng bài kệ nhất
hạnh như sau:
Nếu ai muốn cầu biết
Tam thế hết thảy Phật
Nên quán như thế này:
Tâm tạo các Như Lai.
Bồ Tát dạy kinh văn xong, bảo: ‘Tụng được bài kệ này th́ mở toang được địa ngục’. Họ Vương tận lực tụng, liền vào được bên trong gặp vua Diêm La. Vua hỏi người này có công đức ǵ. [Kẻ hầu cận] đáp: Chỉ thọ tŕ một bài kệ bốn câu như trên đă kể. Vua liền thả ra. Trong lúc họ Vương tụng kệ, tiếng tụng vang đến đâu, những người thọ khổ ở đấy đều được giải thoát.
Họ Vương ba
ngày sau tỉnh lại, nhớ kỹ bài kệ ấy,
kể lại cho các vị sa môn nghe. Khảo nghiệm
kệ văn, mới hay đó chính là bài kệ nằm trong
phẩm Dạ Ma Thiên Cung Vô Lượng Chư Bồ Tát Vân
Tập Thuyết Pháp thuộc quyển mười hai
của kinh Hoa Nghiêm bản dịch đời Tấn (9).
Họ Vương tự đối trước pháp sư
Tăng Định ở chùa Không Quán kể cặn kẽ
chuyện này”.
4. Trong tác phẩm
Thích Hoa Nghiêm Kinh của ngài Thanh Lương quốc sư
đời Đường, đề mục chú giải
của phần thứ nhất phẩm Thập Hồi Hướng
là Đại Khổ Cứu Hộ (chịu khổ thay, cứu
giúp) cũng tán thán Địa Tạng Bồ Tát. Lời sớ
thích như sau:
“Do chánh nguyện lúc
mới tu của hàng Bồ Tát là v́ chúng sanh chịu khổ
nên khi đạt đến địa vị rốt ráo,
nguyện lực tự tại, thường ở trong
nẻo ác, cứu giúp chịu khổ thay cho chúng sanh giống
như ngài Địa Tạng Bồ Tát”.
5. Theo Thần Tăng
Truyện của bộ Tống Cao Tăng Truyện th́ vào
niên hiệu Vĩnh Huy (650-655, triều Đường Cao Tông)
đời Đường, người thuộc hoàng tộc
nước Tân La họ Kim tên là Kiều Giác đến Trung
Quốc, sống ở núi Cửu Hoa. Linh tích rất
nhiều, chép đủ trong truyện; tương
truyền vị này là Bồ Tát Địa Tạng ứng
hiện.
6. Địa Tạng
Bồ Tát Tượng Linh Nghiệm Kư, 1 quyển, do ngài
Thường Cẩn đời Tống soạn,
được xếp vào Nhật Bản Tục Tạng
Kinh. Hiện thời, tác phẩm này được xếp
vào bộ Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Ứng
Lục.
7. Trong lời bạt
viết cho Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện Kinh
theo lời thỉnh của tỳ kheo Tánh An, đại
sư Liên Tŕ đời Minh hạ bút:
“Kinh Địa Tạng
do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường;
nhưng bản dịch hiện thời lại đề
tên người dịch là Pháp Đăng, Pháp Cự, chẳng
đề niên đại, cũng chẳng ghi xứ sở,
ḍng dơi [người dịch], không cách nào khảo nghiệm
trong Đại Tạng được. [So với kinh văn
ghi trong Đại Tạng th́ kinh văn của bản lưu
hành] tuy tiểu dị đại đồng nhưng
nghĩa lư chẳng khác. Xét ra, để bản kinh này
thực sự được lưu truyền, tin
tưởng th́ ắt phải [chọn bản] có căn
cứ, thế nên tỳ kheo Tánh An mới thuận theo chí
trước, khắc in bản Đường dịch.
Nếu ai bảo
rằng bản kinh này chỉ lăm lăm bàn về nhân
quả của chúng sanh, danh tướng địa
ngục, chẳng có huyền luận ǵ, chẳng đáng
để đời nay xem, nghe tới th́ ôi thôi! Vải
bông, đậu bắp lúc b́nh thời sao bằng
được minh châu, nhưng lúc mất mùa hóa ra tột
quư. Cứu thế trong cơn hung hiểm đời
mạt pháp, kinh này cũng có công chẳng nhỏ! C̣n như
“chúng sanh độ hết mới chứng Bồ Đề,
địa ngục chưa không thề chẳng thành
Phật” th́ những kẻ thích thăm ḍ lẽ huyền
vời vợi, hăy thử chung thân nếm thử mùi vị
ấy xem sao!”
8. Linh Phong Tán Địa Tạng
Bồ Tát Biệt Tập, 1 quyển, do đại sư
Ngẫu Ích đời Minh soạn, ngài Diễn Âm
đời Thanh kết tập.
Ngài Ngẫu Ích lúc c̣n
trẻ, khi chưa xuất gia, thường báng Phật
pháp, sau nghe kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện
liền phát tâm xuất thế. Bởi thế, cả đời
Ngài tận lực hoằng dương, tán thán Địa
Tạng Bồ Tát. Trong bộ Linh Phong Tông Luận, tôi
thấy rất nhiều đoạn tán dương Địa
Tạng Bồ Tát. Do đó, môn đệ trích ra hết,
kết tập thành một quyển riêng đặt tên là Linh
Phong Tán Địa Tạng Bồ Tát Biệt Tập, nay tôi xin
ghi cả vào đây để rộng truyền pháp ích. Tác
phẩm này chia thành năm môn.
8.1. Liên quan
đến kinh Thập Luân
Bài tựa tự ghi
ở cuối bản Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám
Nguyện Nghi. Xin xem lại trong chương thứ tám.
8.2. Liên quan
đến kinh Chiêm Sát
a. Lời tự
bạt của Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh sớ,
xin xem trong chương thứ bảy.
b. Lời tựa trong
bản khắc Chiêm Sát Hạnh Pháp Trợ Duyên Sớ:
“Kinh Dịch chép: ‘Nhà
tích thiện ắt sự vui có thừa, nhà tích điều
bất thiện ắt tai ương có thừa’. Kinh Thư
chép: ‘Nhân ái dẫn đến điều tốt, giả
sử có chuyện nghịch, xấu th́ đó chỉ là ảnh
hưởng. Làm thiện th́ trăm điều tốt lành
giáng xuống, làm ác th́ trăm điều tai ương
giáng xuống’. Thuyết nhân quả báo ứng chưa
từng chẳng hiển hiện rơ ràng trong thế gian.
Nhưng Nho giáo chỉ luận việc đời này,
chưa đủ để dứt hết mọi ngờ
vực của kẻ ngu. Từ khi kinh Phật du nhập
Trung Hoa, giảng rơ đủ nhân quả ba đời,
tạo ích lợi cho sự hiểu biết c̣n hơn
những điều tỏ ngộ của Nam Cung lẫn
đức hạnh của Khổng Tử, sự lư
chẳng ngoa. Thế nhưng Tam Tạng c̣n nói một cách
quyền biến, chỉ giảng về nhân duyên sanh pháp,
chưa giảng thẳng vào nhân duyên vô tánh, v́ thế
mới bảo: ‘Phật chuyển được hết
thảy nghiệp, nhưng chẳng chuyển
được định nghiệp’.
Đến trong hội
Đại Thừa, Phật mới rộng tỏ ḷng từ
sâu xa phi thường, lập phương tiện thù
thắng, lạ lùng, nương theo lư ‘vạn pháp duy tâm,
duyên sanh vô tánh’, lập ra hai pháp sám Thủ Tướng (10)
và Vô Sanh để gồm suốt đến cùng cực
cách tác pháp. Kể từ đó về sau, tội không phân lớn
nhỏ, chướng chẳng luận cạn sâu, y giáo hành
tŕ, thảy đều tiêu diệt như vầng mặt
trời rạng rỡ giữa hư không, sương móc
nhanh chóng tan biến.
Kẻ mê muội
bảo tội nặng mới nên sám hối, cứ khai
tạo tội môn. Ấy chẳng những chẳng
hiểu ḷng từ của Phật, Bồ Tát, mà cũng nào
hiểu đạo nghĩa của Nho gia. Khổng Tử
bảo: ‘Có lỗi mà chẳng chịu sửa đổi là
càng lỗi; lo buồn nếu vẫn c̣n một chút lỗi,
trọn không c̣n chút lỗi nào vẫn lo lắng’. Điều
ấy đă minh thị đầu mối để tự
đổi mới con người vậy. Vả nữa,
tội có nặng nhẹ, đâu phải là nhất loạt
như nhau, thế pháp không trị nổi, nhưng Phật
pháp trị được. Tác pháp chẳng trị
được th́ Thủ Tướng trị
được. Thủ Tướng chẳng trị
được th́ Vô Sanh trị được. Đấy
chính là pháp giải thoát ĺa khổ rốt ráo; chẳng
thể chẳng quy công về Phật môn, mà cũng
chẳng thể chẳng quy công về các bậc
đại sĩ Quán Âm, Địa Tạng vậy. Quán Âm
ứng hiện mười phương cơi, hữu duyên
nhất trong đời ngũ trược. Địa Tạng
dạo trong Sa Bà ngũ trược, ḷng bi đặt
nặng nhất nơi chốn tam đồ. Như cha
mẹ b́nh đẳng yêu mến con cái, nhưng vẫn lo
lắng hơn cho những đứa con nhỏ dại hay
yếu đuối.
Kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo đây thật đúng là cầu bến
bậc nhất cho kẻ đa chướng trong
đời mạt. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă ân cần
cầu thỉnh, Thích Ca Mâu Ni Phật trân trọng phó chúc,
lợi khắp ba căn, đầy đủ cả
bốn Tất Đàn (11), không chướng nào chẳng
trừ, không nghi nào chẳng phá. Ba thứ luân tướng
đều là nương theo lư để thành sự, cho nên
có thể dùng ngay chính sự để đạt lư. Hai
thứ quán đạo hoàn toàn là dùng chính ngay sự
để nhập lư, chưa hề chấp lư bỏ
sự.
Đă thế, kinh c̣n
thuật rơ sám pháp, tức là Thủ Tướng chính là Vô
Sanh, ngay từ đầu đă chỉ thẳng, khai
thị xưng danh, quán pháp thân, quán tự thân chóng cùng
một thể. Cho đến khéo nói an ủi, các thứ
phương tiện khéo léo chẳng trái nghịch Thật
Lư. Hai quyển kinh này đă bao quát đại cương
của một đời giáo hóa, nêu bày trọn yếu lănh
của Tánh, Tướng, Thiền Tông, phơi bày hết
tấm ḷng khổ thiết của Phật, của Tổ.
Tôi y theo kinh lập
sám, cư sĩ Tŕnh Dụng Cửu cúng tiền và khuyến
mộ thiện tín góp sức in xong. Đây chính là muốn
tự lập cho ḿnh, lập thành cho người, muốn
ḿnh đạt thành, khiến người thành đạt.
Ai bảo học Phật chẳng phải là phận sự
của nhà Nho ư!”
c. Thư gởi cho
Trầm Phủ Thọ, Phủ Đôn:
“Chiêm Sát Hành Pháp tuy
được Côn Ngọc khắc bản in kinh, nhưng
nếu chẳng nhiều phen kết đàn th́ trọn
chẳng đạt được tướng mộc luân
thanh tịnh, như vậy th́ làm sao khiến thiên hạ
đời sau tin tưởng được? Nay hăy nên
thề bày trận dựa lưng vào nước, đóng
tử quan mà lễ đi” (12).
d. Thư gởi Thánh
Khả, có đoạn:
“Tôi bất tiếu,
tội lỗi nơi tam nghiệp chẳng ít, tâm nhơ
tạp loạn th́ làm sao cảm được tướng
mộc luân thanh tịnh? Bởi vậy, phát tâm thẹn
hổ, tự lui xuống làm người chỉ mới Tam
Quy, thề chẳng làm ông thầy mô phạm cho chúng,
thề chẳng nhận sự lễ bái của
người khác, thề chẳng ra khỏi núi. Thề
đạt được luân tướng thanh tịnh,
chẳng luận là trăm ngày, ngàn ngày, sáu năm, chín
năm, lấy cái chết làm hạn. Từ tạ việc
ở Gia Hưng xong, từ đấy sẽ từ
tuyệt mọi sự!”
e. Thư gởi
Liễu Nhân và hết thảy Tăng, tục có
đoạn:
“Tống Nho nói: ‘Tài quá đức th́ bất tường, danh quá thực ắt có họa, màu mè quá thực chất th́ chẳng thể tồn tại lâu được’. Húc tôi một thân mắc đủ cả ba căn bệnh ấy, nên chẳng lạ ǵ chuyện tôi cứ kẹt măi nơi địa vị phàm phu, chẳng vượt lên bậc thánh nổi!
Húc tôi lúc 12, 13 tuổi, nhân phóng túng học đạo bèn báng Tam Bảo, tội ấy đáng đọa ngục Vô Gián, chẳng thuộc trong [số những kẻ được cứu vớt bởi] bốn mươi tám nguyện của đức Di Đà. Thiện căn chưa diệt sạch, ngầm được sức gia bị của hai vị đại sĩ Quán Âm, Địa Tạng nên chuyển nghi thành tín, chuyển tà quy chánh. Từ năm 20 đến nay, tận lực hoằng truyền chánh pháp ḥng tiêu tội báng pháp.
Khổ nỗi phiền năo sâu dầy, với các giới phẩm chỉ có nói được chứ không làm được. Tiết Trung Nguyên năm Quư Dậu, rút thăm xin thối lui làm một Bồ Tát Sa Di (13). Ấy là v́ làm tỳ kheo đời nay th́ thừa sức, nhưng làm một vị sa di thời cổ th́ lại chưa xứng, thế sao không bỏ cái thừa để bù đắp cái thiếu? Túc chướng sâu nặng, bệnh ma vấn vít, từ đấy ẩn cư nơi Cửu Hoa, tưởng là đă có thể trọn đời ẩn cư. Hơn nửa năm, lại dần dần đồn đại, dần dần lan qua Tân An, Mân Địa, Thiều Thành, Tuy Lư, Lưu Đô, hư danh càng thịnh, thật đức càng khuyết. Mùa Hạ này hai lượt mắc phải bệnh lạ, cầu chết không xong. B́nh nhật, tuy tôi huệ giải rạng rỡ, chứ thực chưa từng được đại thọ dụng!
Vả như một cuốn Chiêm Sát Hạnh Pháp đây, suy cặn nghĩ kẽ rồi mới dám tuân theo cách thức xưa mà soạn thành, chỉ giữ lấy những điểm tinh giản, cốt sao không trái nghịch ư kinh. Ở Tây Hồ, tôi lễ bốn thất chẳng được tướng mộc luân thanh tịnh. Năm ngoái lễ hai thất vẫn chẳng được. Năm nay, vào núi lễ một thất thêm một ngày vẫn chẳng được. Lúc lễ sám, phiền năo, tập khí hiện khởi càng thêm dị thường. V́ vậy, tôi phát tâm quyết định, bỏ sạch tất cả tịnh giới của Bồ Tát Sa Di, chỉ làm một đệ tử Tam Quy, đợi gặp dịp tốt, vào núi bế quan ngàn ngày, cầu Phật, Bồ Tát từ bi cứu bạt. Nếu chẳng được vậy đành nát mớ xương này trong quan vậy”.
f. Trong Văn Sám
Nguyện nhân dịp đặt tượng Phật,
Bồ Tát lên ṭa, có đoạn:
“Từng nghe công
đức tạo tượng thật có thể diệt
tội trừ khiên, lễ bái sám-ma thật có thể
rửa ḷng gột ư. Tôi vừa phát ḷng thành, góp của
dựng sửa một tượng Phật, hai
tượng Bồ Tát, bèn phát thệ nguyện: luôn lễ
bái nghi thức Chiêm Sát Hạnh Pháp, chẳng cần biết
đến năm tháng, chuyên cầu tướng mộc luân
thuần thiện. Dẫu chúng sanh cấu trược
nặng nề, Phật, Bồ Tát vẫn chẳng chán
bỏ, ắt các ngài sẽ v́ đại bi thương xót
độ thoát tôi, khiến cho tôi từ nay về sau, tâm
chẳng chao động, thân được khinh an, giữ
ǵn lỗi miệng, chẳng thốt lời thêu dệt,
lời ác, thanh tịnh tâm ư, chẳng khởi tạp tư,
dục giác, mau được thanh tịnh tam luân (thân,
khẩu, ư), quyết đạt đến tự lợi,
lợi tha, phổ hóa chúng sanh đồng sanh Tịnh
Độ”.
g. Trong bài tựa
tặng cho ông Thạch Tông nhân dịp yểm quan lễ sám
luân tướng, Tổ viết:
“Xưa làm tỳ kheo
thẹn thùng nhiều nỗi bèn lui xuống cầu mong
vắng lặng. Nay lại hổ thẹn với chân
nghĩa Sa Di, bèn chỉ xưng là đệ tử Tam Quy,
dám đâu đem lời xuông tặng người. Nhưng
tôi trộm thấy kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
vốn xuất phát từ tâm đại bi triệt
để của đức Đại Thánh Thích Ca, là
phương tiện phi thường của Địa Tạng
Bồ Tát. Ba thứ Luân Tướng khéo chỉ bày
nghiệp báo nhân duyên vô ngại. Hai phép Quán Đạo tỏ rơ
sâu xa phương tiện tiến lên để đạt
Đại Thừa. Dùng Ngũ Hối Xưng Danh để
bắt đầu nhận rơ bổn lai diện mục,
lấy cảnh giới Nhất Thực để
hướng về b́nh đẳng.
Ngũ Hối (14)
đủ sức dứt trừ t́nh chấp thế gian,
Nhị Quán đủ sức dứt trừ vọng
tưởng chấp trước. Sám hối phát lộ:
vĩnh viễn đoạn diệt [sự ác] nối
tiếp, diệt nghiệp chướng. Khuyến thỉnh
thuyết pháp: diệt ma chướng. Tùy hỷ công
đức: diệt tật đố (ganh ghét, ghen tỵ)
chướng. Thiện xảo hồi hướng: diệt
chướng chấp có. Phát nguyện kiên cố: diệt
chướng lui sụt, quên mất.
Duy Tâm Thức Quán:
trước hết biết rơ ngoại cảnh vốn
hư giả, chỉ do tâm biến hiện; kế đó,
hiểu thấu nội tâm như huyễn, trọn không có ǵ
là chân thật.
Chân Như Thực
Quán: Thâm đạt dù cảnh hay tâm cũng chỉ là pháp
tánh. Pháp tánh chẳng sanh, chẳng diệt; v́ thế
bản thể của các pháp đều chẳng sanh,
chẳng diệt. Như ngàn bọt nước, vạn con
sóng đều cùng chung tánh thấm ướt, ngàn vật
muôn tượng đều chung tánh vàng.
Ngũ Hối phá
chuyển vô thỉ Sự chướng; Nhị Quán phá
chuyển vô thỉ Lư chướng. Hai chướng đă
sạch liền thành hai thân: chân thân và ứng thân; trong một
niệm phát khởi viên măn tam tụ tịnh giới
Nhưng, đối
với tướng tam luân thanh tịnh, tôi cần phải
riêng ḿnh biểu thị để thủ tín; ḥng hiển
thị: dù Trụ Tŕ Tăng Bảo đă tuyệt vẫn
có thể tiếp nối được, như lời
Mạnh Kha đă nói: “Kẻ hào kiệt không được
như Văn Vương: nghe đến liền biết,
chẳng khác ǵ trông thấy mà biết…” Than ôi! Tôi biết
được đại ư kinh Chiêm Sát bèn y kinh lập sám,
nhưng chưa đạt được luân tướng
thanh tịnh th́ ai mà tin được nổi. Đây thật
là kê thuốc nhưng không uống, lỗi chẳng phải
tại thuốc! Toa hay, thuốc hay rành rành sẵn
đủ, Địa Tạng Bồ Tát quyết chẳng
lừa tôi. Lỗi ở tôi đă biết mà chẳng
chịu uống, thề sẽ uống lấy.
Pháp hữu Thạch
Tông thấu hiểu ḷng tôi trước hết nên cũng
yểm quan cầu được thanh tịnh. Nguyện ai
nấy nỗ lực, tháng ngày bôi đắp thuốc, kiêng
những thứ kỵ thuốc, tránh phong hàn (15), ngày sau
sẽ cảm được chân thân Xá Na, phiến đá
Linh Phong sẽ cùng ngọn núi Linh Thứu bậc nhất
cùng gật đầu vậy”.
h. Bài văn viết
trong dịp hoàn măn Đại Bi Sám Đàn ở Tổ Đường
có đoạn viết:
“Trí Húc năm 46
tuổi tự thẹn thùng lắm nỗi, thối lui thành
người chỉ mới thọ Tam Quy, siêng lễ Thiên
Phật, Vạn Phật và Chiêm Sát Hạnh Pháp. May
được chư Phật đại từ,
đại bi ban cho luân tướng thanh tịnh ngay trong
ngày Nguyên Đán tháng Giêng, cũng tự an ủi đôi chút”.
(Nhận xét:
Ngày Rằm tháng
Bảy năm Quư Dậu, lúc 35 tuổi, Đại Sư lùi
xuống làm Bồ Tát Sa Di, rồi phát tâm lễ Chiêm Sát Sám
Pháp. Năm Giáp Thân lúc Ngài 46 tuổi, Đại Sư lùi
xuống làm người thọ Tam Quy. Đúng Nguyên Đán năm
Ất Dậu, lúc 47 tuổi, Sư bèn đạt được
luân tướng thanh tịnh, đắc tỳ kheo
giới).
i. Chiêm Sát Hạnh
Nguyện Văn (Đại Sư viết bài văn này sau khi
đă được luân tướng thanh tịnh một
năm, tức là Bính Tuất) có đoạn:
“Quy mạng
đấng từ oai khôn sánh, đạo trọng yếu
dẹp khổ, ban vui xuất thế chân thật. Định
lực trừ được kiếp tam tai (hỏa tai, thủy
tai, phong tai), bậc cứu thế chân sĩ rủ ḷng
từ cứu vớt. Đệ tử Trí Húc đau đớn
nghĩ kiếp trược khó thể trốn tránh, đao
binh đua nhau nổi lên. Tuy bảo là đồng phận
vọng kiến (16), nhưng thực sự không
điều ǵ chẳng phải là do lầm lạc mà chiêu
cảm cả. Nghiệp cũ khó truy, nhưng sự
sắp đến có thể chọn lựa. Bởi thế,
con với mấy người đồng chí (10
người) quyên góp tịnh tài, bày biện cúng
dường, ba ngày phương tiện, bảy ngày chánh tu,
đúng pháp kết đàn thanh tịnh, đảnh lễ
Chiêm Sát Hạnh Pháp. Sáu thời hành đạo, Ngũ
Hối luyện tâm; ai cầu đồng thể
đại bi, khẩn xin vô duyên cứu vớt.
Cúi nghĩ: Chúng sanh
chướng cấu tuy cực nặng, cực sâu, Tam
Bảo ḷng từ mênh mông chẳng chán, chẳng bỏ.
Nếu một niệm biết sửa lỗi, ắt
sẽ thuận cho kẻ ấy tự thay đổi
mới. Huống nữa, Thích Ca được khen ngợi
là bậc dũng mănh tối thắng, ĐịaTạng
đại sĩ thệ nguyện chẳng dối. Con
yếu đuối, cha thương hơn đứa
mạnh, con kém cỏi, mẹ càng thương quá thể.
Xót con ngu si, ḅ lê té giếng, bèn dùng thân, tay, áo, địu
(17) giúp cho.
Ngưỡng mong: Hào quang chiếu
thấu, tiêu can qua để trời tốt, mây lành; pháp
vũ thấm nhuần, chuyển tà nghiệt thành giống
thiêng, mầm đạo. Những mong mưa ḥa gió
thuận, quốc thái dân an, chánh giáo lưu thông, tà ma
trốn biệt. Lại nguyện tỳ kheo Trí Húc thân không
bệnh khổ, tâm thoát kết triền, giữ cân bằng
được Định lẫn Huệ, Thừa và Giới
đều cùng thanh tịnh. Mong người lănh
xướng pháp xă dù kéo dài ba năm vẫn giữ vẹn
lời nguyện khác nào một buổi. Các vị… ai
nấy thật v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, khắc
trừ tập khí, gắng tu pháp môn, tam học (Giới,
Định, Huệ) viên thành, nhị nghiêm (Phước và
Huệ) khắc chứng, nối huệ mạng Phật,
lợi khắp trời người.
Lại nguyện
tăng tục tùy hỷ ngoài đàn, hiểu ngộ
Nhất Thật, khai hiển ba nhân, tu trọn Nhị Quán,
chứng vẹn Tam Nhẫn. Lại nguyện những
vị trợ duyên ngoài đàn, rộng đến pháp
giới hàm thức được thấy hay nghe, hoặc
chẳng thấy nghe, đều gieo căn lành như nhau,
cùng hưởng lợi ích thù thắng.
Lại nguyện Giang
Bắc, Giang Nam, cho đến toàn trong cơi Chấn Đán (Trung
Hoa), những người gần đây gặp phải
nạn binh hỏa, tiêu trừ các thứ nợ nần, oán
hiềm mỗi mỗi đều cởi mở, thoát
nỗi khổ khốc liệt chốn u minh, siêu thăng
chốn thai sen. Kính nguyện pháp giới Tam Bảo, Địa
Tạng Thánh Sư chân thật chứng tri, chân thật
nhiếp thọ”.
j. Bài Hóa Tŕ Địa
Tạng Bồ Tát Danh Hiệu Duyên Khởi (Duyên khởi
khuyên tŕ niệm danh hiệu Bồ Tát ĐịaTạng) có
đoạn:
“Cái thiết yếu
nhất của chúng ta không ǵ bằng tự tâm. Trong thế
gian không có ǵ khéo tỏ rơ tâm yếu bằng Phật pháp.
Nhưng không có Tăng, Phật pháp chẳng truyền
được; không có Giới, Tăng Bảo chẳng
lập được. Giới chính là giềng mối
của Phật Pháp, là đường trọng yếu
để minh tâm.
Buồn một
nỗi chánh giáo ngày càng ch́m lấp, lắm kẻ tập
theo thói tục. Đầu trọc, áo thâm mà chẳng biết
giới Tỳ Kheo là cái ǵ! Một hai vị hoằng truyền
Luật học truyền theo Thế Đế, khai, già, tŕ,
phạm c̣n chẳng hiểu tí nào! Huống là tăng
thượng oai nghi, tăng thượng tịnh hạnh,
tăng thượng ba la đề mộc xoa ư!
Huống hồ là nương theo Tứ Niệm Xứ tu
hành, tăng tâm, tăng huệ để thành tựu tam
tụ ngũ chi nữa ư?
Chao ôi! Chao ôi!
Chẳng hiểu tam tụ ngũ chi mà bảo là Đại
Thừa Tăng Bảo, tôi chẳng dám tin! Tăng đă
hữu danh vô thật, mà bảo là truyền tŕ Phật pháp,
tỏ rơ tự tâm, tôi càng chẳng tin hơn nữa! Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát xót thương, thưa hỏi Thích
Tôn, đức Thích Ca càng bội phần thương xót,
giao Đại Sĩ Địa Tạng đảm đương
trách nhiệm. Đại Sĩ lại càng thương xót sâu
xa, bèn nói ra kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo.
Kinh dạy: ‘Kẻ ác
nghiệp nặng nhiều, chẳng được học
ngay vào Định Huệ, trước hết phải tu sám
pháp. V́ cớ sao vậy? Người ấy tâm ác đă quen
tập từ trước rất mạnh mẽ, hiện
tại ắt cũng lắm phen hủy phạm trọng
cấm. Nếu chẳng sám trừ cho sạch mà tu Định
– Huệ th́ sẽ nhiều chướng ngại, quyết
chẳng thể đạt được, hoặc mất
trí, lầm loạn, hoặc bị ngoại tà khuấy
rối, hoặc nhận lănh tà pháp, tăng trưởng ác
kiến. V́ thế cần phải tu sám hối
trước. Nếu giới căn thanh tịnh và trọng
tội đời trước đă nhẹ mỏng th́
sẽ ĺa được các chướng’.
Kinh c̣n dạy: ‘Dù
học tín giải, tu Duy Tâm Thức Quán, Chân Như Thực
Quán mà thiện căn nghiệp mỏng manh, chẳng
thể tiến triển được, chẳng tạm
khuất phục được các ác phiền năo, trong ḷng
ngờ khiếp, sợ hăi và [bị] các thứ
chướng ngại [khác] th́ hăy nên trong mọi lúc, mọi
nơi, thường siêng tụng niệm danh hiệu
của ta. Nếu được nhất tâm th́ thiện
căn tăng trưởng, tâm ư mạnh mẽ, sắc bén.
Hăy quán xét pháp thân của ta và của chư Phật và thân
của chính ḿnh thể tánh b́nh đẳng, không hai, không
khác, chẳng sanh, chẳng diệt, thường, lạc,
ngă, tịnh; công đức viên măn đáng để quy y.
Lại quán tâm
tướng tự thân: vô thường, khổ, vô ngă,
bất tịnh, như huyễn, như hóa, đáng nên chán
ĺa. Quán như thế th́ mau tăng trưởng
được tâm tịnh tín, tất cả các
chướng ngại dần dần tổn giảm.
Người ấy được gọi là người
học tập, nghe danh hiệu ta. Nếu tâm nhơ bẩn
tạp loạn, tụng niệm danh hiệu ta th́ chẳng
thể gọi là “nghe” [tên ta] v́ chẳng thể sanh tín
giải quyết định, chỉ đạt thiện
báo thế gian, chẳng được lợi ích rộng
lớn thâm diệu’. (Chín câu trên đều là tóm tắt kinh
văn).
Than ôi! Theo đó mà
suy, giới chẳng thanh tịnh th́ Nhị Quán quyết
chẳng dễ tu thành. Nhị Quán chẳng tu không cách nào
chứng nhập, khế hợp Nhất Thật. Vậy
th́ muốn cho giới căn thanh tịnh mà bỏ sám
hối, tŕ danh th́ c̣n có phương tiện nào nữa
đây?
Vả nữa,
một pháp tŕ danh nếu nói thiển cận th́ ngu phu, ngu
phụ chẳng ai là không thể nhép miệng
được; nếu bàn sâu xa th́ chẳng đạt Pháp
Thân b́nh đẳng, tâm c̣n tạp loạn nhơ bẩn,
sẽ chẳng được gọi là “nghe” vậy!
Bởi thế biết rằng: lấy Nhị Quán làm
chỉ nam, tu tập được Nhị Quán mới
gọi là “nghe” được danh hiệu Bồ Tát.
Lấy nghe danh làm phương tiện, chân thật tŕ danh
lại chính là gồm trọn Nhị Quán.
V́ thế, nghe danh
nghiệp chướng thanh tịnh, nghiệp chướng
thanh tịnh nên đạt được giới. Do
đắc giới nên Định-Huệ phát sanh, Định Huệ
như một, thật sự chứng nhập vậy! Minh
tâm kiến tánh là chân Tăng Bảo, chân truyền Phật
pháp. Bọn ta sanh vào đời mạt, nghe pháp chân thật
này sao không nỗ lực tự gắng lên?
8.3. Liên quan
đến kinh Bổn Nguyện
a. Trong lời tựa
tác phẩm Tŕ Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện
Kinh Kiêm Khuyến Nhân (Tự tŕ kinh và khuyên người khác
thọ tŕ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện) của
cư sĩ Kính Tâm, Tổ viết:
“Ôi! Thánh mê niệm
liền thành cuồng, cuồng chánh niệm liền thành
Thánh. Lẽ nguy hiểm, nhỏ nhiệm ấy đă rơ
vậy. Phật pháp cũng thế, một niệm mê, cơi Thường
Tịch Quang biến thành địa ngục A Tỳ;
một niệm ngộ, A Tỳ địa ngục liền
thành cơi Thường Tịch Quang. Bởi thế, kinh
Địa Tạng Bổn Nguyện cùng một huyết
mạch với kinh Hoa Nghiêm.
Hăy xét xem: Hoa Nghiêm
thế giới chính là Không, chính là Giả, chính là Trung
chẳng thể nghĩ bàn; các nỗi khổ trong
địa ngục cũng chính là Không, chính là Giả, chính
là Trung chẳng thể nghĩ bàn. Hoa Nghiêm giảng về
cơi Tịnh Độ vốn sẵn có trong tự tâm cho
người biết mà quay về; kinh Địa Tạng giảng
sự khổ sẵn có trong tự tâm để
người ta biết mà tránh. Một quay về, một
tránh né, chỉ thú (18) khác xa nhau, nhưng cũng quy về
tự tâm. Ngoài tâm quyết chẳng có pháp khác.
Nhà Nho nói đạo
chỉ có hai: nhân và bất nhân mà thôi; nguy sao, nhỏ
nhiệm sao? Thích thiện và ham lợi chính là cửa ải
phân chia giữa vua Thuấn và Đạo Chích, c̣n hay mất [thiện
tâm] chính là điểm phân biệt giữa người và
thú. Ai đọc đến kinh Bổn Nguyện mà
chẳng nghĩ chuyện tự lợi, lợi tha, thoát
địa ngục, về với Hoa Nghiêm, th́ ắt
phải là kẻ bất nhân cùng cực.
Cư sĩ Kính Tâm
thương xót, đă cả đời thọ tŕ lại
c̣n khuyên người, tôi bảo: Vừa phát tâm ấy,
nỗi khổ trong địa ngục ngay lập tức
đă ngưng mất cả. Hoan hỷ viết tựa
để thay cho pháp giới chúng sanh phổ khuyến vậy”.
b. Sớ đọc
trong pháp hội Hoa Nghiêm ở Phù Dung Các núi Hoa Sơn như
sau:
“Tôi hay nói kinh Địa
Tạng Bổn Nguyện và kinh Hoa Nghiêm tám mươi
quyển có thể bổ trợ lẫn nhau. Hoa Nghiêm
dạy về Phật cảnh giới, xứng tánh
chẳng thể nghĩ bàn; kinh Bổn Nguyện giảng về
cảnh giới địa ngục, cũng xứng tánh
chẳng thể nghĩ bàn. Một kinh là thuận theo tánh mà
tu, hưởng thọ niềm vui pháp tánh chẳng thể
nghĩ bàn; một kinh là nghịch tánh mà tu, chịu
đựng nỗi khổ chẳng thể nghĩ bàn.
Thuận, nghịch tuy khác nhưng toàn tánh khởi tu, toàn tu
tại tánh, vẫn là một.
Một niệm mê
lầm tánh chẳng thể nghĩ bàn của Phật
giới th́ ngay nơi ư niệm đó, cơi Thường
Tịch Quang hóa thành non đao, rừng gươm, ḷ than,
vạc sôi. Một niệm ngộ tánh chẳng thể
nghĩ bàn của địa ngục th́ những khí cụ
khổ độc trong Nê Lê (địa ngục) ngay trong ư
niệm đó biến thành Phổ Quang Minh điện,
Tịch Diệt đạo tràng. Mê, ngộ tuy khác, tánh
đức chẳng tăng, chẳng giảm; lại
cũng là một. Nhưng tánh đức dù chẳng tăng
giảm, chẳng phải là thuận, nghịch chẳng
thuộc về mê, ngộ; nhưng hễ mê th́ liền
nghịch tu trong cửu giới, liền cảm hai khổ
báo: phần đoạn tử và biến dịch tử.
Ngộ th́ thuận tu
trong Phật giới, liền thành hai thứ chuyển y:
Bồ Đề, Niết Bàn. Mê là Tam Hoặc, ngộ là Tam Trí.
Nghịch tu là thập ác, ngũ nghịch; thuận tu là
lục độ, vạn hạnh. Sanh tử là tam giới,
tứ tướng; chuyển y là tam thân, tứ đức
(19). Khổ chính là Pháp Thân, Hoặc chính là Bát Nhă, Nghiệp
chính là Giải Thoát. Ngạn ngữ nói: “Đẩy
người hay nâng người chỉ cùng một tay thôi;
khen người hay chửi người chỉ là một
miệng thôi”.
Đại Phật
Đảnh là như nước thành băng, băng lại tan
thành nước, chẳng tin nổi hay sao? Tôi tin chín đóa
Phù Dung (20) đây có thể tiêu biểu cho chín hội
của kinh Hoa Nghiêm; há nào phải là kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện chỉ bàn về địa ngục, nhân
quả, sự tướng mà thôi!
Huống nữa, Hoa
Tạng thế giới an trụ trong đại liên hoa,
Như Lai thành đạo cũng ngồi trên hoa sen báu.
Nhưng các tên địa ngục Ưu Bát La, Ba Đầu Ma
v.v… cũng là tên các loài hoa sen xanh, hoa sen đỏ,
đủ thấy một tên, một dụ, một sự,
một pháp thảy đều có đủ thập
giới, chỉ v́ đương nhân mê hay ngộ,
thuận hay nghịch mà thành như thế đó thôi. Pháp
tánh chẳng thể nghĩ bàn, thể chẳng phải là
các tướng, nhưng chẳng ngại các tướng
phát huy; sao c̣n phân chia địa ngục và Tịch Quang
nữa vậy?
Nguyện các vị
Khai Sĩ suất lănh các đàn-việt liền lấy
đó làm nhân duyên thuận tu, khai phát chánh ngộ th́ hai núi
Thiết Vi chính là Kim Cang Bồ Đề Đạo Tràng, không cho
ngọn lửa huyễn hiện sen vàng, đấy là
đại diệu vậy!”
8.4. Liên quan
đến Diệt Định Nghiệp Chân Ngôn
a. Lời sớ khuyên
tŕ tụng Diệt Định Nghiệp chân ngôn đến
số lượng bằng hết thảy thế giới,
trang nghiêm thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát:
“Đức Thích Ca
bảo chẳng cứu được định
nghiệp là để làm nguội lạnh cái tâm tạo
tội. Địa Tạng Bồ Tát nói Diệt Định
Nghiệp Chân Ngôn để vỗ về khách đă cùng
đường. Húc tôi lúc nhỏ học theo Đông Lỗ (21),
thường báng Tây Càn; được Quán Âm đại
sĩ chạm đến, nhiếp thọ, sau nghe
ĐịaTạng Bổn Nguyện tôn kinh, mới phát
đại tâm, thề làm cửu giới trống không. Nay
được dự vào hàng Tăng, tu tập thọ
giới, đều là do từ nguyện [của Đại
Sĩ] ngầm gia bị, thật chẳng ngoa vậy.
Nhưng tôi nghĩ Sa
Bà tệ ác, ba thứ Hoặc, Nghiệp, Khổ tụ
lại như chĩa ba; vô thượng Đề Hồ
đều thành độc dược. Người tŕ
luật tuy vâng giữ y bát, nhưng trọn chẳng
hiểu tác, phạm, chỉ, tŕ. Người tu tập Giáo
chỉ thờ ngoài miệng, ngoài tai, Thiền Na, lư quán mù
mờ, không hề sở đắc. Kẻ tham Thiền
lưu loát cơ cảnh (22), đùa giỡn tinh thần,
đối với cội nguồn chân chính của tâm và
Phật, không một mảy thật chứng. Một môn
Tịnh Độ khá hợp với thời tiết, căn
cơ, nhưng khổ nỗi hay bị biến thành
thối thác, chưa khế hợp bất khả tư
nghị Đại Thừa. Rơ ràng do nghiệp nặng,
chướng sâu, trược trí lưu chuyển, nên
dẫu có bậc Thánh vẫn chẳng biết làm thế
nào!
Riêng ḿnh đức
Địa Tạng bi sâu, nguyện nặng, chuyên thương
xót kẻ ương ngạnh. Tà tâm sâu nặng của tôi
trong lúc ấy mà Ngài c̣n chuyển được, khiến
cho tôi được chánh tín xuất gia th́ Ngài sẽ
chuyển được chúng sanh không biết lỗi
lầm trong cả đại địa, khiến họ
quay về với lẽ chân thật, nào có khó ǵ!
V́ vậy, đối
trước Tam Bảo phát tâm, muốn tạo ngôi Vạn
Phật điện bằng đồng, trong thờ
tượng Đại Sĩ để vĩnh trấn Cửu
Hoa. Tôi bèn thọ phép ngày chỉ ăn một bữa,
kết đàn một trăm ngày, tŕ Diệt Định
Nghiệp chân ngôn năm trăm vạn biến. Lại
khuyên Tăng, tục những ai có đại tâm hoặc tŕ
mười vạn hoặc tŕ trăm ngàn vạn để
cộng chung thành mười vạn vạn, biểu
thị con số tam thiên đại thiên thế giới. Đem
tổng số ấy dâng trước tượng Đại
Sĩ để làm khoán ước rộng hóa độ
mười phương đến tột cùng vị lai
vậy”.
b. Trong quyển 1
của bộ Linh Phong Tông Luận, có chép Tục Tŕ Hồi
Hướng Kệ để bổ sung cho Tổng Tŕ
Sớ, Diệt Định Nghiệp Chú Đàn Sám Nguyện Văn
(văn sám nguyện trong đàn tràng tŕ tụng chú Diệt
Định Nghiệp) và những câu đề cập
đến chú Diệt Định Nghiệp trong các bài
nguyện văn khác thảy đều khuyết
lược chưa sao lục được. Nếu
muốn xem đủ, xin hăy t́m xem vậy.
c. Thư đáp câu
hỏi của ông Hoàng Trĩ Cốc (gồm 2 đoạn)
như sau:
Hỏi: Phật
chẳng diệt nổi định nghiệp, cớ sao
Địa Tạng Bồ Tát lại có Diệt Định
Nghiệp chân ngôn? Vả đă hiểu rơ tội
phước vốn không, sao lại nói như thế?
Đáp: Nghiệp cùng
với báo đều là hiện lượng của tự tâm.
Tâm không th́ hết thảy đều không; tâm giả th́
hết thảy đều giả, tâm trung th́ hết
thảy đều trung. Nhưng phàm phu chẳng hiểu
năng tạo (người tạo nghiệp), sở
tạo (nghiệp được tạo), năng thọ,
sở thọ, đương thể tam đức bí
tạng nên cứ sốt sắng dốc chí tạo ác
nghiệp nặng dày, nên ắt phải chiêu lấy khổ
báo dày nặng, đấy gọi là “định nghiệp”.
Tâm họ đă định, chẳng thể văn hồi, th́
đấng Đại Giác cũng chẳng thể làm cho
[định nghiệp ấy] tiêu diệt được.
V́ thế, đấng đại từ, đại bi khéo
bày phương tiện, sai Địa Tạng Bồ Tát nói chú
khuyên họ tŕ, tức là chuyển định tâm của
họ cho dần dần tiêu diệt.
Bởi đó, công
năng của Bồ Tát hoàn toàn là công năng của
Phật. Phật đă chẳng ở, Bồ Tát cũng
chẳng ở, rốt cục chỉ là cái tâm của
đương nhân trong một niệm tin nhận tŕ chú mà
thôi. Đấy chính là ư chỉ “Đă thấu đạt tội
phước vốn là không”; vốn chẳng phải là bài
bác không nhân quả v́ đương thể của tội
phước, nhân quả chính là không, mà cũng chính là trung,
là giả. Hễ mê th́ diệt và bất diệt đều
chẳng hiểu tận gốc; c̣n đạt rồi th́
diệt và bất diệt trọn chẳng trở ngại
ǵ đến không cả. Cổ nhân bảo: “Thế nào là
vốn sẵn là không? Là nghiệp chướng. Thế nào
là nghiệp chướng? Vốn sẵn là không”. Hiểu
được hai câu này rồi th́ liền thoát
được vết cũ cáo hoang vậy! (23)”
Hỏi tiếp:
Rốt lại, v́ sao Phật chẳng tự nói? Bởi
Phật nói chẳng thể diệt được
[định nghiệp] cho nên vẫn c̣n nghi ngờ?
Đáp: Để giải
mối nghi ấy, cần phải biết ba nghĩa:
a) Một là chư
Phật thuyết pháp ắt đều theo đúng bốn
nhân duyên Tất Đàn. Có kẻ nghe đức Phật nói sanh
hoan hỷ, sanh thiện, diệt ác, nhập lư th́ Phật
liền tự nói, như các chú Lăng Nghiêm, Tôn Thắng
đều là chú để diệt định nghiệp
vậy. Có kẻ nghe Bồ Tát nói mà sanh hoan hỷ, sanh
thiện, diệt ác, nhập lư th́ Bồ Tát phải nói,
như chú này, chú Đại Bi v.v…
b) Hai là tội
chẳng tự diệt, chẳng tha diệt, chẳng
cộng diệt, chẳng vô nhân diệt, nhưng có thời
chỉ nói là tự diệt, tức là nói tâm không, nghiệp
không. Có lúc nói tha diệt, như nói Phật lực, Bồ
Tát lực. Có lúc nói cần phải “cộng diệt”, cùng
nêu nội nhân và ngoại duyên. Có lúc nói “vô nhân diệt”,
nghĩa là: chẳng phải tự, chẳng phải tha,
đều là bốn nhân duyên Tất Đàn. Nếu không
liền thành Tứ Đế.
c) Ba, chẳng thể
diệt là nói theo phương diện Tích Phật (24) trong
Tam Tạng. Người diệt được tội là
người thuộc về Viên Giáo, như kinh Hoa Nghiêm nói:
“Mới phát tâm đă hơn Mâu Ni” cũng giống như
vậy.
Biết
được ba nghĩa ấy rồi th́ không có pháp nào là
chẳng thông đạt.
8.5. Các trước
tác khác
a. Bài phát nguyện
trước tháp Địa Tạng ở núi Cửu Hoa:
“Kính lạy đức Từ Bi đại nguyện
vương,
Bổn nguyên tâm địa Như Lai tạng,
Cứu thế chân thật khéo vỗ về,
Hiện tướng Thanh Văn để hộ pháp,
Nguyện dùng bổn thệ độ chúng sanh
Xét con ḷng thành, thương gia hộ,
Trí Húc xưa tạo
ương họa sâu, trẻ dại trong đời
mạt, tuy thọ Giới phẩm, khinh phạm lắm
nhẽ, dẫu tập Thiền tư, thô hoặc chẳng
đoạn. Tụng Đại Thừa chỉ hiểu theo
nghĩa, xưng niệm danh hiệu chưa nhập Chánh Định.
Trông ra ngoài, ma đảng tung hoành, đau ḷng nhức óc.
Trong thấy phiền năo chao động tơi bời,
thẹn trời hổ đất. Lại v́ ác nghiệp,
chịu đủ bệnh khổ. Đau Sa Bà tệ ác, than ch́m
đắm vô phương. Do vậy, gượng bệnh
vào núi, khẩn cầu Đại Sĩ, cầu Bồ Đề
trong muôn kiếp, phó thân mạng cho phù vân. Đốt
hương sáu lọn trên cánh tay. Ba lọn hương cúng
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát: vô số hóa thân trên
trời Đao Lợi, hiện tướng Thanh Văn trong
hội Đại Tập thắng diệu, Bồ Tát hiện
tướng Thanh Văn, sáu căn tụ hội, thiện
xảo thuyết pháp.
Một lọn sám
hối lỗi nặng tam nghiệp, sát nghiệp, dâm
dật, chê bai, hủy báng Tam Bảo, tội lỗi nơi
miệng, ác niệm cho đến những lỗi nhơ
từ trước, và các việc chẳng hoàn toàn đúng
như pháp sau khi mắc bệnh. Những tội như
thế nguyện đều tiêu trừ.
Một lọn
để cầu bốn nguyện: luật nghi thanh
tịnh, đoạn Hoặc, chứng chân, khỏe mạnh
lâu dài, không bệnh, rộng làm việc phước.
Một lọn
để dứt lưới nghi, hoặc là trước
đă lễ sám cầu tịnh luật nghi, hoặc là
trước đă tu Thiền đoạn trừ phiền
năo, hoặc là trước đây đă đọc Kinh
Tạng để mở mang huệ giải, hoặc
trước đă lập hạnh để mở rộng
phước duyên, chỉ mong bậc Cứu Thế Chân
Sĩ, Đại Trí Khai Sĩ, bậc thấy biết hết
thảy, bậc chẳng quên nghĩ tới chúng sanh
đều rủ ḷng thương, xét soi mở toang đám
mây mê mờ cho con. Con lại đối trước
đấng Đại Từ Bi Phụ, vẩy máu, khắc tim
phát nguyện như thế này: Nếu c̣n một chúng sanh
chưa thành Phật th́ con chẳng chứng Niết Bàn
trước. Giả sử túc nghiệp lôi kéo con vào ác
đạo, nguyện Đại Sĩ ḷng từ sâu rộng
thường giác ngộ con, khiến con niệm niệm
nhớ đến Bồ Đề tâm, khiến cho Bồ
Đề tâm liên tục chẳng đoạn. Nếu túc
chướng nhẹ bớt, nguyện Đại Sĩ oai
thần khiến con sớm thành tựu Niệm Phật tam
muội, quyết sanh trong thế giới của Phật A
Di Đà, nương bổn nguyện lực vào trong vô biên sát
hải phổ độ hữu t́nh, đến tột cùng
đời vị lai chẳng hề chán mỏi”.
b. Bài khuyến hóa
đúc tượng Địa Tạng bằng sắt:
“Hồng chung
đủ tánh vô biên âm, vừa gơ, vẳng ngay tới
Thiết Vi. Địa Tạng viên măn đồng thể
đại bi, vừa chiêm lễ liền mau được
cứu bạt. U Minh giác ngộ hăy nên mong, chướng
duyên hiện tại hăy nên chuyển; Linh Phong mang ư nguyện
lễ Ngài, đă đúc chuông, thỉnh chuông; lại nghĩ
đến tượng Ngài bèn tạo tượng. Tuy
[tượng ngài được] vẽ vời, sơn
khắc [khác nhau], tánh đều giống như hư không;
nhưng nay lại đúc tượng ngài thuần bằng
gang để tiêu biểu sự kiên cố bất hoại.
Tứ đức
không bụi trần nhưng phải nhờ một trần
để hiển hiện trọn vẹn. Tam thân không
tướng, nhưng phải dùng ảnh tượng
để khéo léo tỏ bày. Xin bậc cao hiền cùng hành
đàn thí: Giúp cho sắt như chánh nhân phát tâm, có thể
đạt diệu quả Pháp Thân; giúp than giống như
liễu nhân phát tâm, có thể ngộ quang minh Bát Nhă; giúp
thức ăn, vật dụng như duyên nhân phát tâm, có
thể đặt nền tảng cho giải thoát, thần
thông.
Từ nơi Đại
Sĩ phát ra tâm ấy, chính là toàn tánh khởi tu. Do các
thiện tín thành được tượng này, chính là toàn
tu tại tánh. Sự như thế, lư như thế, nhân như
thế, quả như thế, chân ngữ, thật ngữ,
hăy nghĩ kỹ, hành cho chắc”.
c. Bài Khuyến Hóa Cúng
Dường Dầu Thắp Đèn Trong Lễ Cúng Hải
Đăng ở núi Cửu Hoa:
“Thuở kiếp
sơ thân người có ánh sáng, chẳng cần nhờ
đến mặt trời, mặt trăng. Thân quang
giảm dần, nhật nguyệt sanh ra. Nhưng nhật
nguyệt có lúc chẳng chiếu, nên tiếp đó bèn có
đèn lửa. Công đức của đèn lửa
chẳng phải chỉ giống như công đức
của mặt trời, mặt trăng mà thôi. Nhật,
nguyệt thuộc về bi điền; đốt đèn
cúng dường đủ cả bi lẫn kính.
Vả nữa,
Địa Tạng đại sĩ do vô duyên từ, tâm
đồng thể đại bi, thị hiện trụ
trên đảnh núi Cửu Tử, cứu khắp trần sa
hàm thức. Tháp thiêng nhục thân, bốn biển quy y. Do vậy
mới có lễ cúng Hải Đăng.
Phải biết
rằng: Một tia sáng chiếu phô trọn tự tánh
diệu minh, duyên thiện đă ấp, chánh nhân, liễu
nhân cùng hiển. Nếu bảo đấy là sự
tướng, là trần duyên, là chẳng quan hệ ǵ
với tu chứng th́ là ĺa sự bàn lư, ĺa cảnh t́m tâm, lư
tựa lông rùa, tâm đồng sừng thỏ. Ai đem
vạn thiện trang nghiêm để thành quả
Lưỡng Túc đó vậy?
Xưa có kẻ
trộm vật của nhà chùa, xẻ đèn cúng Phật, c̣n
cảm nhiều kiếp chịu báo sắc thân u ám,
huống là kẻ hảo tâm thí cúng, nương ḷng từ
bi của Đại Sĩ cầu được chiếu soi
lồng lộng trong nẻo u đồ, mới tiếp
nối được đèn huệ của Như Lai,
rạng rỡ đuốc báu pháp giới. Dù tự hay tha đều
mở toang ải tối trong đêm dài, chứ nào phải
chỉ là quả báo sung sướng trong chốn sanh tử
mà thôi đâu! Xin mau phát tâm, đừng để sau này
phải hối!”
d. Văn khuyến hóa
kiến tạo tháp Chúng Tăng ở núi Cửu Hoa:
“Phước
điền có hai là bi điền và kính điền. Kính
điền chú trọng đến điền (đối
tượng được ḿnh cúng dường, làm
phước). Bi điền đặt nặng về tâm.
Cúng xá lợi
phước ngang hư không, đó là Kính Điền.
Thương xót đến cả mớ xương khô, muôn
đời xưng là đấng Nhân Chủ, đấy là
Bi Điền.
Một điền
công đức đă bất khả tư nghị, huống
là tu đủ cả Bi lẫn Kính. Vả nữa, La Hán
Tứ Quả chứng nhập Vô Sanh, vĩnh viễn ĺa
bỏ Ngă Chấp, đă nhập Niết Bàn th́ chẳng quư
ǵ nắm xương khô. Phàm phu tỳ kheo chưa
đoạn nổi Tư Hoặc, nếu như thi hài
cốt tênh hênh, ắt thần thức sẽ bất an.
Thần thức bất an thật đáng thương
vậy. Đường đường Tăng Bảo là
bậc nên kính vậy.
Huống hồ phàm
thánh khôn lường, thần thánh sâu kín, rắn rồng
ở lẫn, sao có thể dùng nhục nhăn để
biết vị này là phàm tăng, chẳng phải là đại
sĩ ứng hóa cho được? V́ thế, cúng
dường một bộ xương lẽ đâu
chẳng đủ hai điền bi, kính?
Cửu Hoa là thiên
hạ đệ nhất danh sơn, nhưng xương khô
vẫn phơi tênh hênh trong chốn hoang vu, nhức mắt,
đau ḷng. Lúc tôi mới đến núi, luôn lấy việc
này làm chuyện quan tâm hàng đầu. May có các bậc kỳ
lăo, ra sức cổ vũ, chẳng nề vụng dốt,
xướng lên tiếng nói đầu tiên. Có ai thấy,
nghe, tùy hỷ, chẳng luận là Tăng hay tục, dù ít dù
nhiều, đều đă gieo nhân tối thắng, ắt
đạt quả vô thượng. Kính th́ thành Phật
đạo có thừa, Bi th́ sẽ độ sanh vô
lượng. Bèn có kệ rằng:
Tăng tướng
đường đường
Là biển phước
đức
Dẫu thành xương mục,
Phước tánh nào đổi!
Dựng tháp cúng dường
Ắt lên Phạm Thiên,
Huống c̣n tán đồng,
Đâu chẳng được vậy?
Đại Sĩ thị hiện
Xương ră xanh bầm
Ống khóa hoàng kim,
Chắp tay, khảy ngón (25)
Chân nhân đành rành,
Lấy ǵ làm chứng?
Diệu Pháp Hoa Kinh!”
e. Thư gởi
tăng chúng thường trụ núi Cửu Hoa:
“Năm trước
dạo gót núi báu, đối với hết thảy hành
giả giữ luật thanh tịnh, tưởng như
Địa Tạng Đại Sĩ; đối với một hai
vị chẳng câu nệ tiểu tiết cũng
tưởng họ giống như Chí Công, Tế Điên… Cơi
đất thánh đạo tràng, rắn rồng hỗn
tạp, phàn thánh lẫn lộn, chẳng dám dùng con mắt
trâu, dê để suy xét xằng, tự chiêu lấy trọng
tội vô gián. Chợt nghe trong núi có chút lộn xộn. Tuy
Bồ Tát thị hiện ngắn ngủi, nhưng kinh có
dạy: ‘Thà phá ngàn giới Phật, chẳng để
người ngoài biết’. Sách vở thế gian cũng
chép: ‘Người đất Hồ (Hồ Nam, Hồ
Bắc), đất Việt (Quảng Đông) thù địch
nhau, nhưng ngồi thuyền gặp gió ngược th́
liền cứu giúp nhau như tay phải với tay trái”.
Cửu Hoa thật
sự là nơi Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện.
Đại chúng trong núi không ai chẳng phải là con cháu
thật sự của ngài Địa Tạng, chẳng biết
trải bao kiếp tu hành mới đến được
chốn danh sơn phước địa này; bèn v́
chuyện hờn giận nhỏ nhặt một buổi mà
chẳng bằng được người đất
Hồ, đất Việt ngồi chung một thuyền,
chẳng khác nào: “Một hạt cải che trời, một
hạt bụi phủ kín đất” đó ư?
Trí Húc tôi bất
tiếu, tuổi nhỏ vô tri, hủy báng Tam Bảo,
tội đầy hư không, nương nhờ ḷng từ
sâu xa, thệ nguyện nồng hậu của Địa
Tạng Đại Sĩ dẹp tan tà kiến của tôi,
khiến được dự ké vào chúng Tăng; bởi
thế, nay tôi xưng ḿnh là viên quan cô độc của
Địa Tạng Bồ Tát. Đại chúng trong núi đều là
ấu chúa của tôi. Quan không ư niệm khinh vua, nhưng có
chức trách can gián vua; chỉ là thật dạ hoảng
sợ, dập đầu, rạp đầu, xa
hướng về núi báu, bày tỏ lời thưa trung
thành:
- Kính xin các sư, ai
nấy bỏ tâm nhân ngă thị phi, nghĩ đến
thể thống của sơn môn, pháp môn, cùng tu Vô Tránh Tam
Muội, vĩnh viễn phát huy đạo phong của
Đại Sĩ. Cổ nhân nói: “Nhà không tiểu nhân, chẳng
thành quân tử”. Dù có kẻ thật sự chẳng phải
là quyến thuộc của Đại Sĩ, cũng nên dùng ḷng
từ khoan thứ, khiến kẻ ấy dần dần
gieo trồng thiện căn th́ mới nên vậy!”.
f. Tán vịnh h́nh
tượng Địa Tạng Từ Tôn
1) Đồng thể
đại từ,
Vô duyên hoằng
thệ,
Tổ của ngàn
Phật,
Ḍng dơi quần sanh,
Định nhập sát
trần
Châu treo tam thế (26)
Luân tướng phá
nghi,
Biện tài hiển
Đế (chân đế)
Muốn cho giới
học lại rạng
Đảnh lễ
chẳng nề số lượng,
2) Người ta
chỉ biết ngài cứu khổ địa ngục,
chẳng biết ngài không đâu chẳng hiện.
Người ta chỉ biết ngài phù tŕ lúc lâm chung,
chẳng biết ngài không lúc nào chẳng niệm.
Ba bộ kinh
vương,
Hai thứ diệu
quán.
Thập Luân khuông pḥ
mạt pháp,
Tam luân xé toạc
lưới nghi
Đây chính là pháp môn
thần tốc bậc nhất trong vô lượng pháp môn,
dẫu có gặp hay chẳng gặp, tựa hồ thấy
hay là chẳng thấy. Đứa con bất tiếu một
đời cực lực đề cao, riêng hứa quy y,
tin tưởng không gián đoạn. Nếu c̣n một
sự hoài nghi, xin hỏi nên lấy pháp thân nào khác
để hoàn măn nữa?
3) Chúng sanh đọa
lạc địa ngục đều do phá giới
trọng chướng. Đại Sĩ vào ngục cứu
khổ, chỉ hiện giới tướng Thanh Văn, chẳng
giảng giải, phân tích Pháp Thân, chỉ giảng
đề cao chuyện hướng thượng. Đấy là
vô tác diệu sắc, chúng sanh tánh sẵn có trong nhà. Cầm
minh châu, giới thân kiên cường, Địa Tạng: ai ai
cũng là Địa Tạng.
4) Ngũ thừa
gồm trọn hiếu từ tâm
Thật đúng y
vương nguyện lực thâm
Trăm rễ, nhánh
cây nào sót bỏ
Khắp trong
đại địa thảy tri âm.
g. Bài ca đuổi
bệnh :
Đỉnh Cửu Hoa mây
mù phủ đẫm
Ba, Tư hai tháng rét
căm căm
Quấn kín áo tàn
nằm ngất ngưởng,
Hơi ấm trốn
xa, mất biệt tăm
Ngọn suối
Cửu Hoa quen nếm vị,
Ngàn gịng trăm lũ
cuốn băng băng
Nhặt lấy
quả thông phơi nắng ráo
Dùng thế sâm nhung
trị bệnh ḿnh
A Nan cách nhật, ḿnh
ba bữa
Bệnh tật chao ôi
khó nỗi lành,
Sao vẫn đêm ngày
luyến hoa đốm
Thương ta
biết cửa, chửa về nhà
Bởi thế tŕ danh
hằng chăm chắm
Mong khai đồng
thể diệu tam từ
Bịnh ta hết,
chúng sanh hết bệnh
Sát na chẳng chóng,
kiếp nào lâu.
h. Lễ ngàn
đức Phật ở Lầu Tàng Kinh núi Cửu Hoa,
tặng các bạn năm bài kệ:
* Dưa ngọt
chớ thay bằng mướp đắng
Chốn chốn
Từ Tôn sẵn nghiệp nhà
Niệm tánh uổng
xem trăng đáy nước
Cúi đầu đă
ngự bạch ngưu xa.
* Bụi trần vét
sạch đắp đồi, non
Một trận
từ phong sạch chẳng c̣n
Thiết Vi thổi
nát c̣n đâu tối,
Cần ǵ dụi
mắt hỏi đường quang!
* Thói xưa năm
cũ sát na quên,
Năm hết Xuân
về trời ấm lên
Những tưởng
Côn Luân tràn mạch suối
Chỉ thấy sông
băng khó vượt lên.
* Một điểm
thông linh tánh vốn thông,
Chạm cảnh
đối t́nh đạo tự dung,
Bỗng nhiên cùng lúc âm
vang vọng
Lầu báu cùng nh́n
vẫn ở trong
* Một thể chia
ra tướng với t́nh
Lạnh lùng xét kỹ
hóa vô sinh
Ngũ hối công
thành phiền hoặc sạch
Lầu cao chi nhọc
dạ kết minh?
Mùa Xuân năm Bính
Tuất, huyễn du Thạch Thành, tùy duyên duyệt Đại
Tạng để thỏa nguyện cũ, đêm mộng
thấy đắp tượng Địa Tạng Đại
Sĩ; thân, đầu đă thành, nhưng chưa nặn
xong chân, tay, xúc cảm làm bài phú:
“Mưa dầm mênh
mông, khách nghĩ miên man. Chim kêu ai oán, đổi sang cành
mới. Mạch học ngàn năm biết gởi gắm
vào ai, nỗi sầu vạn cổ chỉ tự ḿnh
biết.
Trong gương,
gương mặt bệnh hoạn đă suy quá rồi.
Trong mộng, h́nh tướng từ bi thân vẫn
khuyết. Khi nào đền xong nợ văn ngôn, sấn vào
núi thẳm về chốn chữa bệnh cũ”.
9. Địa Tạng
Bồ Tát Hạnh Nguyện Kư, 1 quyển, do ngài Hiển
Ấm đời Thanh soạn.
10. Địa Tạng
Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục, 1 quyển, do cư
sĩ Lư Viên Tịnh soạn vào đời Thanh.
11. Địa Tạng
Đại Sĩ Thánh Tích, 1 quyển, do Phạm Huyễn Tu
soạn vào đời Thanh.
12. Địa Tạng
Bồ Tát Văng Kiếp Cứu Mẫu Kư (Truyện Địa
Tạng Bồ Tát cứu mẹ trong các kiếp
trước), 1 quyển, do Uông Phụng Tŕ soạn vào
đời Thanh.
13. Địa Tạng
Bồ Tát Cửu Hoa Thùy Tích Đồ Tán (tranh và thơ tán thán
sự ứng hóa của Địa Tạng Bồ Tát tại
núi Cửu Hoa), 1 quyển, do Lư Thế Hầu
đời Thanh vẽ.
14. Cửu Hoa Sơn
Chí, chưa hoàn tất, do ông Hứa Chỉ Tịnh
đời Thanh biên soạn. Bản Sơn Chí đă ấn
hành chưa được hoàn thiện, không đáng để
lưu thông.
1) Hỏi:
Chương thứ nhất đă bảo Địa Tạng
Bồ Tát là tên thông dụng được dùng trong các kinh,
nhưng v́ sao gần đây nguời tŕ danh Ngài đều
niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, chưa rơ nên
tuân theo cách nào th́ tốt hơn?
Đáp: Kinh Chiêm Sát
quyển thượng, phần dạy rơ về cách chiêm
nghiệm nghiệp báo có ghi: “Nhất tâm thưa rằng: Nam
Mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”, chuẩn theo đó, khi
tŕ danh nên xưng Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là
đúng. Nếu v́ câu dài khó tŕ tụng được th́ có
thể lược chữ Ma Ha Tát đi, chỉ đọc
Nam Mô Địa Tạng Bồ Tát. Nhưng nếu có ai quen
niệm theo cách cũ: “Nam Mô Địa Tạng Vương
Bồ Tát” cũng nên thuận theo sự ưa thích của
họ, v́ cách niệm ấy phù hợp với danh xưng
được ghi trong Đại Thừa Bổn Sanh Tâm
Địa Quán Kinh.
2) Hỏi: Kinh
Thập Luân nói: Trong trăm kiếp chí tâm quy y, xưng danh,
niệm tụng, lễ bái, cúng dường các vị
Đại Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù, Quán Âm, Phổ
Hiền vẫn chẳng bằng trong khoảng một
bữa ăn, quy y cho đến cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát. Kinh Bổn Nguyện cũng bảo: các
vị Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc nguyện
c̣n chưa xong xuôi, Địa Tạng Bồ Tát đây đă
phát thệ nguyện trong kiếp số nhiều như
trăm ngàn ức hằng hà sa. Chuẩn theo hai kinh này,
Địa Tạng là cao nhất, c̣n các vị Đại Bồ Tát
kém cỏi hơn ư?
Đáp: Các Đại Bồ
Tát: Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Di Lặc cho
đến Địa Tạng đều thị hiện ở
địa vị Đẳng Giác, nhưng các ngài chẳng có cao
thấp, sai khác, nhưng chúng sanh đă kết pháp duyên
từ nhiều kiếp đến nay chẳng phải là
không có sâu cạn khác nhau. V́ thế, ước về
sự cơ cảm th́ tựa hồ có hơn kém, nhưng
nếu ước về vị trí của các Bồ Tát,
nhất định chẳng thể nói là có hơn kém
được.
Địa Tạng
Bồ Tát có đại nhân duyên đối với các chúng
sanh trong thế giới này nên đức Thích Ca mới riêng
tán thán Bồ Tát là tối thắng để làm cho chúng sanh
tín tâm kiên cố, thảy đều khát ngưỡng, lănh
thọ sự giáo hóa của Bồ Tát mà đắc
độ vậy.
3) Hỏi: V́ sao trong
kinh Địa Tạng lại giảng rộng về quả
báo nhân thiên, chẳng hề khuyên lơn, khen ngợi
chuyện văng sanh Tịnh Độ?
Đáp: Trong kinh Bổn
Nguyện tuy chưa nói rơ điều ấy, nhưng trong
các kinh khác khuyên khen rất nhiều, nay xin nêu đại
lược vài kinh:
Kinh Địa Tạng
Thập Luân chép: “Sẽ sinh cơi Phật tịnh, là chỗ
đạo sư ở”; lại chép: “Sẽ sanh Phật
tịnh độ, xa ĺa các lỗi ác”; lại chép: “Chẳng
lâu sau sẽ an trụ trong cơi Phật thanh tịnh,
chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề”; lại chép: “Mau trụ cơi Phật tịnh,
chứng đắc Đại Bồ Đề”.
Trong kinh Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo, như kinh văn đă trích dẫn
trong ba chương đầu: “Người ấy xả
thân cũng có thể tùy nguyện văng sanh tịnh Phật
quốc độ ở phương khác”, c̣n chép: “Nếu
ai muốn sanh về các cơi tịnh trong hiện tại
ở phương khác th́ hăy nên chuyên ư tụng niệm danh
hiệu của đức Phật ở thế giới
ấy, nhất tâm bất loạn, quyết định
sẽ được sanh về tịnh độ của
đức Phật ấy”.
Trong Địa Tạng
Thỉnh Vấn Pháp Thân Tán, như trong chương thứ
năm đă trích dẫn bài kệ bảy chữ:
“Người ấy sanh trong hoa sen sạch, nghe pháp Phật
Vô Lượng Thọ nói”.
Trong Địa Tạng
Bồ Tát Nghi Quỹ như đă dẫn trong chương
thứ năm: “Xả thân xong sanh Cực Lạc”.
Hơn nữa, trong
tác phẩm Chiêm Sát Hạnh Pháp của đại sư
Ngẫu Ích, như phần kinh văn đă dẫn trong
chương thứ tám: “Muốn được tùy ư văng
sanh tịnh Phật quốc độ th́ phải nên
thọ tŕ tu hành pháp sám hối này”. Bởi thế, lời
phát nguyện tối hậu trong Hạnh Pháp là: “Xả thân,
đời sau sanh trước Phật; đích thân phụng
sự Di Đà, đi hầu hạ khắp các đức
Phật; được thọ kư, trở vào trần lao,
nhóm khắp các kẻ mê cùng về Bí Tạng”. Đại Sư
soạn ra Hạnh Pháp, đề cao kinh văn của kinh
Địa Tạng Chiêm Sát, khen ngợi, khuyên lơn văng sanh,
đủ chứng thực vậy.
4) Hỏi: Chúng
Tăng đời sau cho rằng: Bài Văn Tán Thán Địa
Tạng đang được lưu truyền chưa trang
nhă, bóng bẩy, chẳng đáng để vâng dùng. Nay
muốn đối trước Bồ Tát xưng
dương, tán thán các công đức th́ nên xướng bài
kệ nào mới là thù thắng?
Đáp: Bài kệ tôi dùng
là hai bài kệ soạn theo ư được diễn
giải bởi kinh văn trong phẩm Tự của kinh
Thập Luân. Lại nữa, bài kệ Thuật Tán trong Sám
Nguyện Nghi của Đại Sư Ngẫu Ích diễn ư
đoạn văn trường hàng trong kinh Thập Luân, nêu
bật thánh đức không điểm nào chẳng hoàn
bị, khen ngợi Chỉ - Quán. Nay tôi cũng sao lục sau
chương này để kết thúc quyển Thánh Đức
Đại Quan này.
* Hai bài kệ tán thán
soạn theo kinh Thập Luân:
Kho tàng thất thánh
tài,
Âm thanh Phật vô úy
Là tràng báu thù thắng
Của các vị
Bồ Tát
Đầu quư của
chúng sanh
Là thành cho kẻ
sợ,
Như trăng sáng soi
đường
Sanh căn lành như
đất
Phá Hoặc như kim
cang,
Giả sử trong
trăm kiếp,
Khen nói công đức
Ngài,
Vẫn c̣n chưa
hết nổi
Nên đều
phải cúng dường.
Bài thứ hai
Một ngày khen công
đức,
Tiếng tăm ngài
Địa Tạng
C̣n hơn câu chi
kiếp
Nêu đức bậc
trí khác,
Chúng sanh trong năm
đường
Bị các khổ
bức bách
Có khổ đều
trừ cả
Hiện ra các thứ
thân
V́ chúng sanh thuyết
pháp
Thí công đức
đầy đủ
Thương xót các
chúng sanh
Giả sử trong
trăm kiếp,
Nói khen công đức
Ngài
Vẫn c̣n chưa
hết được
V́ thế nên cúng
dường.
Kệ tán trong Sám Nguyện Nghi của đại
sư Ngẫu Ích:
Nam mô Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát,
Dùng sức thần
thông, hiện thân Thanh Văn, là kho lớn của các công
đức vi diệu, là chốn xuất sanh các trân bảo
giải thoát, là tṛng mắt sáng sạch của các Bồ
Tát, là người dẫn đường cho các
thương nhân tiến đến Niết Bàn, như châu
Như Ư mưa các của báu, mong cầu điều ǵ đều
được trọn đủ. Chiếu người làm
lành khác nào mặt nhật rạng ngời, soi người
lạc đường hệt như đuốc sáng. Trừ
nóng phiền năo như trăng trong mát. Ngài làm cầu đ̣
để vượt bốn ḍng, Ngài làm thuyền bè
để đến bờ kia. Dẹp các ngoại
đạo như sư tử chúa. Hàng các thiên ma như
đại long tượng. Giúp kẻ hoảng sợ
như người thân, như bạn bè. Ngừa các oán
địch như thành, như lũy. Cứu các nguy nạn
hệt như cha mẹ. Giấu kẻ khiếp
nhược giống như rừng rậm. Khiến các
hữu t́nh thiện căn chẳng hoại. Hiện
cảnh giới diệu khiến chúng vui sướng.
Khuyến phát hữu t́nh tăng trưởng tàm quư.
Khiến kẻ cầu phước huệ được
đủ trang nghiêm, hay vô công dụng chuyển đại
pháp luân. Công đức thù thắng chẳng thể suy
lường. Tu lâu đại nguyện, đại từ
kiên cố, dũng mănh tinh tấn vượt các Bồ Tát.
Trong khoảng bữa ăn, chí tâm quy y, xưng danh, niệm
tụng, lễ bái, cúng dường, khiến cho hết
thảy đều ĺa ưu khổ, những điều
cầu nguyện mau được viên măn, đặt yên
trong đường sinh thiên, Niết Bàn. Bởi thế,
con nhất tâm quy mạng đảnh lễ.
(Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa dịch xong ngày 17 tháng 5 năm
2003)
1. Lược một
đoạn không dịch v́ Đại Sư thuyết minh cách
ấn loát kinh văn trong bản in lần thứ nhất
tác phẩm này. Văn bản dùng để dịch ở
đây là phiên bản điện tử không tŕnh bày theo cách
ấn loát được Đại Sư đề cập
trong lời tựa.
2. Nguyệt Ái châu là
một loại bảo châu theo truyền thuyết có thể
làm nước đục hóa thành trong.
3. Ruộng thục: là
ruộng đă được trồng cấy từ lâu,
đất đă “thuần” nên sản lượng cao.
4. Hộ ma (homa):
dịch nghĩa là Hỏa Cúng Dường, là một cách tác
pháp trong Mật Tông; hành giả dùng cỏ tranh, trầm, các
dược liệu, mè, bơ, đề hồ, vật thực
vừa tụng chú vừa đổ vào lửa để
cúng dường Bổn Tôn.
5. Địa vị
Nhất Tử là địa vị Đẳng Giác Bồ Tát,
coi như con một của thập phương chư
Phật.
6. Diễm thai: tức
là vầng quang minh tỏa sáng rực như h́nh những
ngọn lửa bao quanh thân, lửa này tượng trưng
cho trí huệ mạnh mẽ thiêu đốt mọi si ám,
7. Thai Mật tức là
Mật Tông theo truyền thống Thiên Thai của Nhật
Bản. Ở Nhật Bản có hai trường phái Mật
Tông chính: Chân Ngôn Tông (c̣n gọi là Đông Mật, Đông Tự
Mật giáo) do ngài Không Hải sáng lập và Thai Mật. Thai
Mật tổng hợp giáo nghĩa của Thiên Thai, Mật
Tông, Thiền và Luật mà thành. Thai Mật bắt nguồn
từ tông Thiên Thai của ngài Tối Trừng, nhưng
người tập thành hoàn bị Thai Mật là đại
sư Viên Nhân, Viên Chân và An Nhiên. Thai Mật về sau phân chia
rất nhiều các chi phái nhỏ.
8. Phân khoa: chia kinh
văn thành từng chương đoạn.
9. Do sự tích này, trong
khoa Mông Sơn Thí Thực cúng thí cô hồn mỗi chiều
tại các tự viện luôn có đọc bốn câu kệ
này (nhưng dùng bản Đường dịch):
Nhược nhân
dục liễu tri,
Tam thế nhất
thiết Phật
Ưng quán pháp
giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo.
(Nếu ai muốn biết rơ
Tam
thế hết thảy Phật
Hăy quán
tánh pháp giới,
Hết thảy do tâm
tạo).
10. Thủ tướng sám hối:
Phương pháp sám hối cầu thấy những
điềm lành ứng hiện để ấn chứng
tội chướng của ḿnh đă tiêu. Vô sanh tác pháp là
sám hối bằng cách quán sát tội tính vốn không, không
c̣n chấp vào tướng nữa.
11. Tứ Tất Đàn: hoan hỷ, phá ác,
sanh thiện, nhập lư (thông hiểu đệ nhất
nghĩa đế)
12. Bày trận dựa lưng vào
nước, đóng tử quan mà lễ: Khi xưa
để buộc quân phải quyết chiến, Hàn Tín bày
trận xoay lưng ra sông. Quân sĩ phải liều
chết chiến đấu v́ nếu khiếp nhược
lùi lại sẽ bị địch quân đẩy lùi
xuống sông. “Đóng tử quan” (yểm tử quan) nghĩa là
bế quan nhập thất chuyên tu đến chết
mới thôi. Tổ dùng hai điển tích này để khuyên
các vị họ Trần phải tinh tấn chuyên tu lễ
sám như quân lính bị đặt vào hiểm địa
phải liều chết phấn đấu.
13. Bồ Tát Sa Di: ư tổ nói ḿnh không
xứng đáng làm tỳ kheo, chỉ xin làm vị sa di
giữ Bồ Tát giới.
14. Ngũ Hối là 5 chi phần tác pháp
của việc sám hối gồm: phát lộ (xưng bày
tội lỗi), khuyến thỉnh thuyết pháp (khuyên
mời chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp), tùy hỷ
công đức, hồi hướng, phát nguyện. 5 chi
phần này dựa theo mười nguyện vương
của Phổ Hiền Bồ Tát mà lập ra. Nhị Quán là
Duy Tâm Thức Quán và Chân Như Thực Quán.
15. Ở đây, Tổ ví dụ
việc tu tập như dùng thuốc: “Tháng ngày bôi
đắp thuốc” là thực hành tu tập sám pháp, kiêng
thứ kỵ thuốc và tránh phong hành là tránh những nguyên
do khiến việc tu tập bị tán loạn. Chân Thân Xá Na
là báo thân Lô Xá Na của Phật. Tương truyền,
xưa có vị cao tăng giảng đạo cao huyền,
đá nghe cũng gật đầu tán thưởng.
16. Đồng phận vọng kiến:
cái thấy biết sai lầm của những người
mang cùng nghiệp lực. Chẳng hạn những
người cùng sống trong một đất
nước, cùng chủng tộc th́ sẽ cùng nhận
biết, chia sẻ nghiệp cảnh giống nhau.
17. Địu: một thứ đồ
dùng bằng vải của người Trung Hoa, gồm
một tấm vải dài có may bốn sợi dây buộc,
thường thêu hoa và có màu đỏ, mẹ đặt con
vào địu, cho con ôm lưng mẹ, rồi buộc dây
giữ quang vai và bụng mẹ để có thể vừa
làm lụng vừa trông con.
18. Chỉ thú: tông chỉ và thú
hướng. Giáo môn hay giáo nghĩa được một
bộ kinh đề cao, đặc biệt tuyên
dương gọi là tông hay tông chỉ. Mục đích
hướng về hay pháp môn tu hành mà bộ kinh quy kết
lại gọi là thú hay thú hướng. Chỉ thú
thường gọi là “tông thú”.
19. Tam giới là Dục Giới,
Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Tứ tướng là vô
thường, khổ, vô ngă, bất tịnh. Tam thân là Pháp
Thân, Hóa Thân, Ứng Thân. Tứ đức là Thường,
Lạc, Ngă, Tịnh.
20. Núi Cửu Hoa nơi ứng tích
của Bồ Tát Địa Tạng có chín ngọn,
thường được gọi là Phù Dung Cửu
Đảnh Sơn hay Phù Dung Cửu Đóa Sơn.
21. Đông Lỗ chỉ Nho Giáo, v́
Khổng Tử quê ở Khúc Phụ, thuộc đất
Lỗ. Tây Càn là Ấn Độ, Trung Hoa xưa thường
gọi Ấn Độ là Tây Càn v́ Ấn Độ ở phía Tây
Trung Hoa. Ở đây, Tây Càn chỉ Phật giáo.
22. Nguyên văn: “lưu nhập cơ
cảnh”, ư nói: thiền cơ sắc bén, phản ứng
nhanh nhẹn trong mọi hoàn cảnh. Các Thiền Sư hay
dùng những “cơ phong” đối đáp nhau chan chát.
23. Vết cũ cáo hoang (dă hồ
khỏa cữu): Dă hồ là thân cáo hoang, chồn hoang.
“Khỏa cữu” là khuôn sáo cũ, vết cũ. Lấy tích
vị Tăng thời Ca Diếp v́ lầm giảng nhân
quả, phải mang thân cáo năm trăm kiếp, may
nhờ tổ Bách Trượng điểm hóa nên
được giải thoát. Thiền giả chấp lư
phế sự sẽ dễ mắc đúng ngay lỗi “bác
không nhân quả” ấy nên Tổ Linh Phong gọi là “vết
cũ cáo hoang”.
24. Tích Phật: Đức Phật
thị hiện. Theo giáo nghĩa tông Thiên Thai, chư Phật
thị hiện trong một quốc độ nào đó
để giáo hóa gọi là Tích Phật, c̣n báo thân chân
thật gọi là Bản Phật. Chẳng hạn,
đức Phật Thích Ca thị hiện thành đạo,
giáo hóa 40 năm, nhập Niết Bàn, đó là Tích Phật.
C̣n Bản Phật th́ thọ lượng vô lượng vô
biên bất khả thuyết, bất khả thuyết.
25. Đoạn này Tổ nhắc
đến phẩm Hiện Bảo Tháp trong kinh Pháp Hoa:
Chư Bồ Tát chắp tay khải thỉnh Phật mở
tháp Đa Bảo, Phật khảy ngón tay, ống khóa vàng khóa
cửa tháp tự mở, Phật Đa Bảo hiện toàn thân,
ngồi kiết già trong ấy.
26. Sát trần: thuật ngữ kinh Hoa
Nghiêm, chỉ số lượng vi trần trong một cơi
Phật, dùng để ví với con số không thể tính
đếm được. “Châu treo ba cơi”: Châu ở đây
là viên Như Ư Châu Bồ Tát thường cầm trong tay.
Trong Phật đường thường hay tán thán Địa
Tạng Bồ Tát như sau: “Chưởng ốc minh châu
quang bất muội, thủ trung kim tích nạp thiện
duyên” (Tay cầm minh châu ánh sáng chẳng mờ tối; tay
cầm tích trượng vàng nạp thọ thiện duyên).