HỌC VI NHÂN SƯ
HÀNH VI THẾ PHẠM
Những bài khai thị buổi
sáng của
Ḥa
thượng Tịnh Không
Tập 1-3
Chuyển ngữ:
Một nhóm Diệu Âm cư sĩ
Giảo chánh: Bửu Quang
tự đệ tử Như Ḥa
學為人師
行為世範
淨空老法師講述
早餐開示
越語譯本
Học vi nhân sư hành vi thế phạm
Tập 1
Ḥa thượng Tịnh Không thuyết
giảng
Chuyển ngữ theo bản in của
Vân Lâm Tịnh Tông Học Hội, tháng 9-2003
Đây là những bài khai
thị buổi sáng của ḥa thượng Tịnh Không cho
đồng tu tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán, chưa
được ḥa thượng giám định. Đây chỉ là những bài ghi chép tóm
tắt của đệ tử Ngộ Hữu, chỉnh lư
cho gọn rồi viết thành bài nháp này để cúng
dường độc giả.
A. KHAI THỊ VỀ PHƯƠNG PHÁP TU TR̀
(Buổi sáng
02-01-95)
1.
Tu phước và tu
huệ.
Phước và Huệ là
hai mục tiêu lớn trong việc tu học Phật
pháp. Lúc chúng ta làm lễ
truyền thọ Tam Quy Y, trong lời thệ nguyện có câu
‘Quy y Phật, Nhị Túc Tôn’, ‘nhị’ ở đây là
phước và huệ, ‘túc’ là đầy đủ, viên măn. Do đó có thể biết thành
Phật là tu học phước và huệ viên măn,
được thế gian và xuất thế gian tôn kính.
Người trong thế
gian xưa nay, trong nước và ngoài nước chẳng
ai không cầu phước huệ, thiệt ra chúng sanh
vốn sẵn có phước huệ, trong tự tánh
vốn sẵn đầy đủ, hơn nữa c̣n viên
măn rốt ráo. Tại sao
hiện nay phước huệ của chúng sanh chẳng c̣n
nữa? Phật nói chúng ta có
hai thứ chướng ngại cản trở, đó là
Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Phiền Năo chướng ngại
phước đức, Sở Tri chướng ngại trí
huệ. Người có
Phiền Năo Chướng th́ phước đức
chẳng có; người có Sở Tri Chướng th́ trí
huệ chẳng c̣n nữa; cho nên chỉ cần dẹp
bỏ hai chướng này th́ phước huệ liền
hiện tiền.
Làm thế nào để
tiêu trừ hai chướng ngại này? Việc này phải nhờ tu
đức. Phước
huệ vốn là tánh
đức, nếu chẳng có tu đức, phước
huệ trong tự tánh chẳng thể hiển lộ,
thế nên phải tu hành. Làm
thế nào để tu? Trong
kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Phật
dạy trước hết phải tu Tam Phước. Nếu chúng ta chân chánh có thể
tin tưởng, chân chánh có thể hiểu đạo lư này,
chịu phát tâm tu học th́ tri kiến này là trí huệ chân
thật; ai thật sự chịu làm th́ người đó có
phước.
Mọi người
đều biết ‘Tam phước’ nhưng tại sao
chẳng làm được? V́
nhận thức chẳng đủ, nhận thức chẳng
đủ tức là chẳng có trí huệ. Chúng ta nhận thức
được một phần th́ gắng sức làm
một phần. Nhận
thức được hai phần th́ tự nhiên làm
được hai phần, người hoàn toàn chẳng
chịu làm là người chẳng có phước
huệ. Từ điểm này
có thể biết trên phương diện tu đức th́
tu huệ và tu phước là hai thứ bổ sung và thành
tựu lẫn nhau.
Trong kinh điển
đức Phật thường dạy: ‘Thọ tŕ, đọc tụng, v́
người diễn nói’. Câu này là dạy chúng ta tu hành chân
thực. Đặc biệt là ‘v́
người diễn nói’, diễn là biểu diễn, là
dạy cho chúng ta làm [ra thành tích] cho người ta xem. ‘Nói’ tức là v́ người
giảng giải, khuyên người học Phật, thế
nên ‘diễn’ là thân giáo [lấy
bản thân làm gương mẫu cho người], ‘nói’ là ngôn giáo.
2.
Sự quan trọng của định - huệ
(Buổi sáng 03-01-95)
Mấu chốt của
sự học Phật ở tại ‘định’ –
‘huệ’. Kinh Kim Cang dạy: ‘Chẳng chấp vào tướng, như
như chẳng động’ [1].
Định tức là như như chẳng động,
huệ tức là chẳng chấp vào tướng. Trong kinh Kim Cang đức Phật
dạy Tu Bồ Đề quan trọng nhất là hai câu này. Chúng ta cũng có thể dùng hai câu
này để phản tỉnh, kiểm điểm ḿnh có trí
huệ hay chăng, ḿnh có công phu hay chăng.
Nguyên nhân [khiến cho]
học Phật chẳng thể thành tựu là v́ chẳng có
định, chẳng có huệ.
Nói cách khác tức là mê hoặc điên đảo, trong
kinh thường gọi là ‘người đáng
thương xót’. V́ lúc khởi
tâm động niệm có phân biệt, chấp trước,
vọng tưởng, lúc đối xử với
người khác vẫn c̣n tham, sân, si, mạn, vẫn c̣n
đố kỵ, tạo ra nghiệp nhân của ba ác
đạo. Bất luận là
tham thiền, học kinh giáo, hay niệm Phật, có
những hành vi này th́ chẳng có cách chi để thoát ly luân
hồi, đích thực là phải ghi nhớ lời dạy
của Huệ Năng đại sư: ‘Người tu đạo chân chánh chẳng
thấy lỗi người khác’,
phải thấy lỗi của ḿnh chứ chẳng thấy
lỗi của người thế gian, đây là hai câu quư
báu đại sư Huệ Năng dạy cho người
đời sau. Nếu
chẳng dụng công nơi việc này, đời này
cũng sẽ giống như những đời
trước, nhất định cũng sẽ luống
qua. Tại sao lại luống
qua? V́ nhịn chẳng
được. Nếu
chẳng nhẫn nhịn th́ làm sao có định? Lục Ba La Mật cũng
giống như đi lên sáu tầng lầu, nếu không lên
tầng thứ ba th́ chẳng có cách chi lên đến
tầng thứ tư, chỉ có bố thí, tŕ giới,
chẳng có nhẫn nhục th́ làm sao tu hành thành công
được? Cho nên thứ
tự tu học Lục Độ là có nhẫn nhục, tinh
tấn, mới được thiền định, có
được định và huệ th́ mới thành
tựu. Người có
định và huệ th́ tâm lượng sẽ lớn, và
sẽ tương ứng với tự tánh.
Niệm Phật văng sanh
cũng vậy, chẳng đạt đến tầng
thứ sáu th́ niệm Phật chẳng thể văng sanh. Điều kiện thấp nhất
của niệm Phật văng sanh là công phu thành phiến (thành khối), nếu
chẳng có định - huệ th́ công phu làm sao thành
phiến được. Thành
phiến nghĩa là thế nào?
Lục Tổ nói rất hay: ‘chẳng thấy
lỗi của người thế gian’, đây tức là
h́nh dáng của công phu thành phiến.
Vẫn c̣n thấy lỗi thế gian th́ nhất
định công phu chẳng thành phiến, tại v́ trong tâm
của bạn vẫn có phân biệt, chấp trước,
vẫn c̣n chướng ngại.
Trong Niệm Phật
đường vị sư chủ tŕ thường nói: ‘Buông xuống thân tâm thế giới’. Nếu bạn buông
không nổi th́ tâm sẽ chẳng thanh tịnh. Nh́n từ thế gian pháp, nếu
mọi người đều có thể thấy lỗi
lầm của ḿnh, chẳng thấy lỗi người
khác, mọi người trong thế gian sẽ có thể
chung sống ḥa b́nh, làm sao thế giới c̣n đấu
tranh nữa! Xă hội nhất
định sẽ tốt lành,
may mắn, an ḥa, thế giới
nhất định sẽ đại đồng!
Những ǵ trong kinh nói
đến chẳng phải niệm qua một lần là có
công đức đâu, quan trọng là phải làm
được những điều ấy, chỉ đọc
mà chẳng làm th́ không có ích ǵ cả. Lục Tổ dạy rất hay: ‘Việc lớn sanh tử, phước
chẳng thể cứu, phải có định - huệ
mới có thể cứu; giải ngộ chẳng thể
cứu, phải chứng ngộ mới cứu
được’. Lúc c̣n tại thế thầy Lư thường dạy: ‘Người tu hành phải cải tâm’
(cải tâm nghĩa là cải thiện tâm niệm). Sửa đổi tâm
rồi, hành vi tự nhiên sẽ thiện. Nếu chỉ sửa đổi
trên hành vi, chẳng sửa đổi trong tâm th́ chỉ là
làm giả bộ bên ngoài, trong tâm vẫn c̣n vọng
tưởng, chấp trước, cũng vẫn y như
cũ, chẳng có ích chi, quan trọng là phải sửa
đổi trong tâm.
3. Tổng cương lănh
của việc tu hành
(Buổi sáng 25-01-95)
Tổng cương lănh
của việc tu hành chẳng qua chỉ là phá bỏ hai
thứ chấp trước và đoạn phiền năo mà
thôi. Người Tiểu
Thừa th́ v́ phá ngă chấp mà phá ngă chấp nên phương
pháp của họ c̣n vụng về. Dùng công phu thiền định
thâm sâu để đè nén phiền năo, chấp
trước, để cho nó chẳng khởi lên. Sau khi chứng được
Sơ quả th́ phải tới lui trong cơi Trời và cơi
Người bảy lần nữa mới đoạn
hết Kiến Tư Hoặc, xuất ly tam giới.
Phương pháp của
Đại Thừa vô cùng khéo léo, dạy cho chúng ta phát Bồ
Đề Tâm, chuyển phiền năo thành Bồ Đề, là dùng
phương pháp chuyển biến.
Thiệt ra phiền năo chẳng thể đoạn
được, tại v́ phiền năo là chỗ khởi
dụng của tự tánh, nếu đoạn hết
phiền năo th́ đương nhiên tự tánh cũng bị
đoạn mất luôn[2]. Cho nên chỗ khởi dụng
của tự tánh khi giác ngộ th́ gọi là Bồ Đề,
khi mê th́ gọi là phiền năo, phiền năo và Bồ Đề
là một sự việc, chỉ khác nhau ở chỗ mê hay
ngộ. Thế nên
phương pháp tu hành của Đại Thừa là chuyển mê
thành ngộ; có thể chuyển mê thành ngộ tức là có
thể chuyển phiền năo thành Bồ Đề, chuyển
sanh tử thành Niết Bàn.
Đại Thừa dùng phương pháp chuyển biến
là tuyệt đối chính xác, đối với lư và
sự đều tương ứng. Chỗ này cũng nói rơ
người Đại Thừa cao minh hơn Tiểu Thừa,
người Tiểu Thừa chẳng có trí huệ nên
phải dùng cách đè nén; người Đại Thừa có trí
huệ nên chuyển biến [3]
trở lại.
Gương mẫu tu
học của Đại Thừa là năm mươi ba
lần tham vấn trong kinh Hoa Nghiêm.
Năm mươi ba lần tham vấn này gồm có
mọi người trong các ngành nghề, nam nữ già
trẻ, thế gian và xuất thế gian, hết thảy
đều tu Bồ Tát hạnh, vả lại c̣n là hạnh
Bồ Tát cao cấp -- Phổ Hiền hạnh. Thế th́
chúng ta rốt cuộc có học được hay chưa?
Trong sanh hoạt mỗi ngày từ sáng đến tối có
phải chúng ta đang tu Bồ Tát hạnh hay không? Có tu
hạnh Phổ Hiền không? Nếu có th́ mới hy vọng
thành Phật, nếu không th́ vẫn phải chịu sanh
tử luân hồi.
Phải tu học như
thế nào? Dùng những
điểm chính yếu để nói th́ là làm thế nào áp
dụng Lục Độ vào trong đời sống hằng
ngày. Làm được Lục
Độ trong sanh hoạt th́ bạn sẽ là Bồ Tát,
nếu làm được mười nguyện trong sanh
hoạt th́ bạn sẽ là Phổ Hiền Bồ Tát
rồi đó. Nên biết
cội gốc của Đại Thừa là phát Bồ Đề
tâm, Bồ Đề tâm là ǵ?
Tức là độ hết thảy chúng sanh. Dùng ngôn ngữ ngày nay th́
độ hết thảy chúng sanh nghĩa là dốc toàn tâm,
dốc hết sức để giúp đỡ hết
thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, tâm ấy là tâm Bồ
Đề.
Làm thế nào để
thực hiện? Lục
Độ và Thập Nguyện là phương pháp. Phải thực hiện Lục Độ
và Thập Nguyện trong đời sống, sự
nghiệp, đó tức là hành Bồ Tát đạo. Lục Độ tức là Bồ Tát
đạo, Thập Nguyện tức là Phổ Hiền
Bồ Tát đạo. Việc
hành Phổ Hiền hạnh nói trong kinh Vô Lượng
Thọ nghĩa là tu Thập Nguyện vương.
‘Bố thí’ nói theo ngôn
ngữ hiện nay tức là ‘hy sinh, cống hiến’. Tự ḿnh chịu hy sinh, chịu
cống hiến cho đại chúng, chịu cống
hiến cho đoàn thể.
‘Tŕ giới’ tức là
tuân giữ pháp luật, tuân giữ luật lệ, quy
củ.
‘Nhẫn nhục’
tức là nhẫn nại.
Phải biết nhẫn nại trong công việc,
đặc biệt là những sự việc liên quan
đến người khác; chúng sanh có phiền năo, ân oán,
bất b́nh tích lũy từ vô lượng kiếp
đến nay. Chúng ta bất
kỳ lúc nào cũng có thể gặp được nên
phải nhẫn nhịn; đối với hoàn cảnh
tự nhiên cũng phải biết nhẫn nhịn.
‘Tinh tấn’ tức là
cầu tiến bộ. Không
thể nào ‘dậm chân tại chỗ’ hoài, lưu lại
trong một phạm vi, một giới hạn hoài. Có rất nhiều đại
đức học Phật, tu tŕ tuy rất tốt, nhưng
không thể hoằng pháp lợi sanh, nguyên nhân ở tại
chỗ nào? Họ cứ
‘dậm chân tại chỗ’, không chịu tinh tấn. V́ thời đại bất
đồng cho nên ư thức, h́nh thái, phương thức
sinh hoạt của chúng sanh cũng không giống nhau. Trong thời đại nào có
phương pháp hoằng pháp của thời đại đó,
cũng có phương pháp thực hiện Lục Độ,
Thập Nguyện của thời đại đó, cứ
giữ chặt phương pháp thời xưa là không
được. Sau khi Phật
pháp từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc liền
thay đổi rất nhiều; cách sinh hoạt hằng ngày
lúc trước [ở Ấn Độ] là đi tŕ bát (khất thực),
ngủ dưới gốc cây, mỗi ngày ăn một
bữa mà thôi. Sau khi truyền
đến Trung Quốc th́ tiếp nhận sự cúng
dường của các vị đồng tu tại gia nên
chẳng tŕ bát nữa, tất cả hoàn cảnh sinh
hoạt đều thay đổi.
Thế nên phải thích ứng với những nguyên
tắc ‘hiện đại hoá, địa phương hóa,
sanh hoạt hóa’. Đây mới là ư
nghĩa chân chánh của sự tinh tấn. Chúng ta phải suy nghĩ từ
phương diện này – trong sanh hoạt thường ngày
làm thế nào để cầu Giác, cầu Huệ, tu
Lục Độ, Thập Nguyện.
Khi chư vị xem kỹ năm mươi ba lần
tham vấn th́ sẽ hiểu rơ đạo lư này.
‘Thiền
định’ tức là tự
ḿnh làm chủ được ḿnh, có cách nh́n của ḿnh,
chẳng bị ngoại cảnh lay động, đó là
thiền định.
‘Bát nhă’ tức là
đối với hết thảy những điều
thiệt - giả, tà - chánh, thị - phi, thiện - ác
của người, sự, vật đều hiểu rơ
ràng, minh bạch, chẳng mê hoặc, chẳng điên
đảo. Như vậy chính
là trí huệ Bát Nhă.
Thế nên nếu có
thể thực hiện Lục Độ, Thập Nguyện
trong đời sống của ḿnh th́ bạn sẽ vui
vẻ. Bất luận làm công
việc ǵ th́ cũng là tu Bồ Tát hạnh, hành Bồ Tát
đạo. Người hành
Bồ Tát đạo này sẽ tràn đầy pháp hỷ,
đây tức là chuyển phiền năo thành Bồ Đề,
chuyển mê hoặc thành giác ngộ.
Phàm phu thế gian
nếu cảm thấy bị áp lực trong công việc làm
của ḿnh th́ sẽ khổ chẳng thể nói nổi, luôn
luôn than phiền, có tâm trạng ấy th́ nhất định
phải luân hồi trong lục đạo. Pháp Bồ Tát Đại Thừa cao
minh, vừa chuyển biến tâm niệm th́ đă thành
Bồ Tát. Họ biết làm
việc cần cù là để kết pháp duyên với
hết thảy chúng sanh, là để thành tựu Bố Thí
Ba La Mật cho ḿnh. Cho nên khi tâm
niệm vừa chuyển th́ khoái lạc vô cùng, hạnh phúc
vui vẻ, liền được thoát khổ.
Nếu cảm thấy
chẳng thể ḥa đồng khi sinh hoạt cùng
đại chúng th́ đó là tự ḿnh đang sanh phiền
năo, chứ chẳng phải là đang học Phật. Học Phật là đem những
cành lá tạp nhạp này dung ḥa trở lại, làm cho nó hóa
giải hết. Những
cảnh giới này từ nội tâm của ḿnh phát sanh nên
cũng phải hóa giải từ nội tâm của ḿnh,
thế nên Phật pháp được gọi là ‘Nội
Học’. Phật pháp chẳng
phải mong cầu nơi người khác mà là cầu
nơi ḿnh, mọi người đều có thể
hướng vào trong mà khai phát tự tánh của ḿnh, cái
đoàn thể này mới gọi là ‘Tăng đoàn’.
Giới luật trong
Phật pháp được dùng để yêu cầu chính
ḿnh chứ chẳng phải yêu cầu kẻ khác, đây là
một cách rất cao minh, chẳng giống với pháp
luật thế gian dùng để kềm chế đại
chúng. Thế nên phải
học Lục Tổ Huệ Năng đại sư,
phải ‘thường thấy
lỗi của ḿnh, chẳng thấy lỗi của thế
gian’, được vậy th́
tâm sẽ chuyển biến thực sự, hướng vào
trong và quán chiếu.
Căn bịnh lớn
của chúng sanh là ‘chẳng
thấy lỗi của ḿnh, chuyên thấy lỗi của
kẻ khác’.
Chuyên thấy lỗi của kẻ khác th́ sẽ
tăng trưởng phiền năo, sẽ chẳng có cách chi
để hướng vào trong mà quán chiếu. Nếu chúng ta chỉ lo
hướng vào trong mà quán chiếu, chẳng đếm
xỉa đến sự dụ hoặc của ngoại
cảnh, ‘chiếu’ như vậy là trí huệ, có thể hoá
giải hết phiền năo, tập khí.
Chúng ta đọc
Lục Tổ Đàn Kinh sẽ hiểu tại sao những
người biết dụng công giống như Lục
Tổ đại sư trong nhà bếp xay gạo, chẻ
củi, làm những việc nặng nhọc mà khai
ngộ. Tại sao vậy? V́ khi xay gạo, chẻ củi
họ có đầy đủ Lục Độ, Thập
Nguyện, nên trong lúc xay gạo, chẻ củi họ tu
được hết Lục Độ, Thập
Nguyện. Những
người chẳng biết dụng công dù mỗi ngày
tĩnh tọa tham thiền trong Thiền đường
cũng không thể khai ngộ, phiền năo tập khí
vẫn c̣n cả đống.
Nếu chúng ta biết tu th́ lúc rửa chén, lau bàn,
hết thảy Lục Độ, Thập Nguyện đều
đầy đủ, vậy th́ làm sao chẳng hoan hỷ
chứ? Người không biết dụng công sẽ nghĩ
rằng những công việc này quá cực nhọc. Thế
nên chuyển cảnh giới tức là chuyển tâm --
chuyển biến tâm lư, thay đổi cách suy nghĩ, thay
đổi quan niệm. Sự
sai khác giữa người biết tu và chẳng biết tu
là ở tại chỗ này.
Pháp sư Đàm Hư trong
phần sau của quyển Niệm Phật Luận kể
chuyện bà họ Trương ở Thanh Đảo, chùa
Trạm Sơn, bà tu hành như thế nào? Mỗi ngày chủ nhật chùa
Trạm Sơn có khóa tu niệm Phật, bà vào nhà bếp
rửa chén. Chồng bà làm
nghề kéo xe chở khách, chẳng ai coi trọng bà, thoạt
nh́n bà chỉ rửa chén trong bếp, nhưng thực
sự lúc đó bà đang tu Lục Độ, Thập
Nguyện. Cho nên bà có thể
dự biết ngày giờ ra đi, ngồi mà văng sanh. Nếu bà chẳng tu tập
như vậy th́ làm sao có thành tựu như thế? Chỉ có người tu hành
mới có thể nh́n biết [ai là] người chân chánh tu
hành, người thường trong thế gian chẳng nh́n
thấy. Người thế
gian chỉ thấy bà là một người chẳng
biết chữ, dốt nát, nghe kinh cũng chẳng
hiểu, là một người chuyên giúp kẻ khác làm
những công việc nặng nhọc. Họ đâu biết người
như bà mới đáng gọi là người chân tu, thành
tựu của những kẻ nghe kinh, tham thiền
chẳng sánh bằng bà.
Thế nên phải chân tu, phải hiểu lư, phải
thực hiện các nguyên tắc, cương lănh tu hành ngay
trong đời sống thường ngày.
4. Công phu niệm Phật
(Buổi sáng 26-01-95)
Có thể vận
dụng lư luận của kinh Kim Cang vào trong pháp môn Tịnh
Độ chính là câu ‘phát Bồ Đề tâm, một
hướng chuyên niệm’ trong kinh Vô Lượng
Thọ. Cả bộ kinh Kim
Cang dạy chúng ta phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm là
căn bản, các pháp môn Đại Thừa đều
được xây dựng trên cơ sở của Bồ
Đề tâm. Chỉ cần phát
được tâm Bồ Đề th́ bất luận tu
học pháp môn nào cũng sẽ thành tựu, người
niệm Phật cũng sẽ nhất định văng sanh.
Lư do chính niệm Phật chẳng thể văng sanh là v́
chẳng phát Bồ Đề tâm nên tuy có ‘một hướng
chuyên niệm’ cũng chẳng thể văng sanh. Người
xưa nói:‘Một ngày
niệm mười vạn Phật hiệu, hét bể
cổ họng cũng uổng công’. Tại sao chẳng được? Tại v́ ‘Tâm
tịnh th́ cơi tịnh’, tâm phải tịnh th́ mới văng
sanh được.
Ngẫu Ích đại
sư nói rất hay: ‘Phẩm
vị văng sanh cao hay thấp là do công phu niệm Phật sâu
hay cạn, chẳng phải là Phật hiệu nhiều hay
ít’.
Sâu hay cạn là nói về cái ǵ? Là nói đến tâm thanh
tịnh. Công phu niệm
Phật có thể chia thành ba tầng – Lư Nhất Tâm Bất
Loạn là sâu nhất, kế đó là Sự Nhất Tâm
Bất Loạn, sau cùng là Công Phu Thành Phiến. Nếu chẳng có công phu bậc
này, niệm nhiều hơn bao nhiêu cũng chẳng
được văng sanh. Công phu
thành phiến là như thế nào?
Tức là tâm thanh tịnh,
trong tâm chẳng có xen tạp, chẳng có vọng
niệm, chỉ chuyên chú trên một câu Phật hiệu,
chuyên chú tại y báo, chánh báo trang nghiêm của Tây
phương Cực Lạc thế giới.
Tiêu chuẩn của kinh
Kim Cang tức là tiêu chuẩn của Lư Nhất Tâm bất
loạn. Nhưng Lư Nhất Tâm bất loạn cũng có sâu
cạn khác nhau. Kinh Kim Cang nói: ‘Hết
thảy hiền thánh đều do Vô Vi pháp mà có chỗ sai
khác’.
Hết thảy hiền thánh là tam hiền, thập
thánh, tức là bốn mươi mốt vị Pháp Thân
đại sĩ nói trong kinh Hoa Nghiêm, họ đều
đạt đến Lư Nhất Tâm. Tuy cùng đạt
đến Lư Nhất Tâm bất loạn, công phu vẫn c̣n
sâu cạn khác nhau, nhưng đến khi cứu cánh viên măn
th́ đều thành Phật.
Những thứ này
đều là nói về ‘Tự Phần’ – công phu của
tự ḿnh, chưa nói đến sự gia tŕ của A Di Đà
Phật. Nếu luận về
sự gia tŕ của A Di Đà Phật th́ mọi người
đều b́nh đẳng. Đây
là sự khác biệt giữa Cực Lạc thế giới
và tha phương thế giới, Cực Lạc thế
giới có Phật lực gia tŕ.
Nếu tự ḿnh chịu nỗ lực, công phu
của ḿnh đă đắc lực, phẩm vị tăng
lên, đến Tây phương Cực Lạc thế
giới thành Phật sẽ nhanh hơn; người văng sanh
mà phẩm vị Tự Phần hơi thấp tuy cũng
được Phật lực gia tŕ nhưng sẽ viên măn
thành Phật chậm hơn.
Cũng tức là thời gian đạt đến
viên măn Bồ Đề có sự nhanh chậm khác nhau.
5. Xung đột (Buổi sáng 26-01-95)
Xung đột giữa
người với người ở tại chỗ
nào? Ở chỗ lợi
hại (quyền lợi).
Chúng ta đối với người chẳng có
lợi hại th́ sẽ rất dễ tiếp xúc,
đối đăi lẫn nhau, thiệt có thể làm được
‘chẳng tranh với
người, chẳng cầu với đời’. Trong kinh Kim Cang có hai
câu: ‘Chẳng chấp vào
tướng, như như chẳng động’, làm được vậy th́ mới giống một
người tu hành.
Mọi người
tụ lại ở một chỗ nhất định
phải có một mục tiêu phương hướng chung
để cùng nhau nỗ lực, đây là một khái niệm
cơ bản. Ngoài ra c̣n
phải đồng tâm hiệp lực, nỗ lực v́
Phật giáo, v́ chúng sanh, nhất định phải buông
bỏ lợi ích cá nhân.
Chẳng kể là xuất gia hay tại gia đều
nên buông xuống, nếu buông xuống chẳng nổi th́
đây sẽ là một chướng ngại to lớn. Đương nhiên chướng
ngại nghiêm trọng nhất là chướng ngại ḿnh,
không những ḿnh không thể thành tựu, cho đến
việc văng sanh, khai ngộ, thậm chí đến việc
đạt được niệm Phật tam muội
cũng không chắc, bởi vậy nên nhất định
phải buông xuống.
Tu hành thiệt ra
chẳng phải là một việc dễ dàng, người
chân chánh muốn tu hành trong một đoàn thể phải
tập tánh khiêm nhượng, học khách sáo, học nhường
nhịn. Khổng Lăo Phu Tử
dạy chúng ta phải giữ lễ, lễ là ǵ? Lễ là tự ty [hạ thấp
ḿnh] và tôn trọng người khác.
Phải giảm bớt sự xích mích, giảm bớt
xung đột, luôn luôn nhường nhịn, như vậy
mới có thể thành công, lập đại nghiệp.
Người quá nổi danh
sẽ bị đố kỵ, đây cũng là hiện
tượng b́nh thường v́ con người là phàm phu,
đố kỵ và sân hận là tập khí từ vô
lượng kiếp đến nay, nếu chẳng có
những tập khí này th́ họ đă là Phật, Bồ Tát
tái lai rồi.
6. Tâm Phật (Buổi sáng 26-01-95)
Bất cứ lúc nào chúng
ta cũng phải giữ tâm chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi.
Thường thường dùng tâm này để
kiểm điểm và phản tỉnh; chúng ta có tâm này hay
không? Có tâm này tức là tâm
Phật, mới có tư cách học Phật, mới có
tư cách văng sanh.
Trong lúc xử sự, đăi người,
tiếp vật, tu hành phải nắm giữ những nguyên
tắc này: nh́n thấu, buông xuống, tự tại, tùy
duyên, phải niệm Phật.
Nếu có thể giữ chặt những nguyên tắc
cơ bản này th́ sẽ chẳng sai lầm. Thật sự có thể nắm
lấy th́ hết thảy sự việc của ḿnh
đều giao cho Phật, Bồ Tát, thần hộ pháp an
bài. Đây là lời Chương
Gia đại sư dạy tôi lúc trước: ‘Một người chân chánh muốn học
Phật, chân chánh là người muốn hoằng pháp
lợi sanh th́ đừng lo lắng suy nghĩ về
tương lai, sanh hoạt của ḿnh, chư Phật
sẽ hộ niệm, thần hộ pháp sẽ chiếu
cố, lo lắng cho bạn’ Việc ǵ cũng chẳng cần
phải suy nghĩ, một ḷng một dạ làm theo lời
dạy trong kinh điển, Phật pháp coi trọng
thực hành, nếu có thể làm được th́ sẽ
tương ứng, làm chẳng được th́ sẽ
chẳng có tương ứng (cảm
ứng).
7. Chấp tướng (Buổi
sáng 29-01-95)
Tâng bốc, khen ngợi
ḿnh, hạ thấp người khác trong Du Già Giới
Bổn là một giới nặng nhất -- giới tự
tán hủy tha. Trong Phạm Vơng
Giới Bổn th́ thấp hơn bốn giới
trọng. Tại sao lại
nặng như vậy. V́
chấp tướng. Tiêu
chuẩn của kinh Kim Cang nói chấp bốn tướng
th́ chẳng phải Bồ Tát.
Nếu cống cao ngă mạn, cứ nghĩ ḿnh
đúng, cứ nghĩ ḿnh hạng nhất th́ tiêu tùng
rồi, cho dù làm được rất nhiều việc
tốt th́ cũng là phước báo hữu lậu của
thế gian, đối với việc liễu sanh tử,
xuất tam giới chẳng có liên quan ǵ hết.
Chúng ta học Phật,
đặc biệt là người xuất gia, một ḷng
một dạ phải muốn thoát ly tam giới, đây là
phương hướng, mục tiêu chung. Hết thảy danh văn lợi
dưỡng, vinh hoa phú quư trong thế gian đều
phải buông bỏ sạch sành sanh từ trong tận
đáy ḷng, phải niệm niệm v́ Phật pháp, v́ chúng
sanh, v́ muốn tương ứng với bổn nguyện
của A Di Đà Phật và mười phương chư Phật. Nếu niệm niệm vẫn c̣n
một cái ‘Ta’ tồn tại th́ sẽ tương ứng
với ma. Chỗ khác nhau
của ma và Phật tức là niệm niệm của ma
đều v́ tự ḿnh.
8. Nhường nhịn
(Buổi sáng 30-01-95)
Người xưa nói:
‘Xử sự khó, đối xử với người c̣n
khó hơn’. Con người là
phàm phu, tâm người biến đổi muôn vàn, tâm
niệm của phàm phu thay đổi tùy theo cảnh
giới th́ giao thiệp, tiếp xúc đương nhiên
sẽ khó khăn, nguyên tắc duy nhất chính là
nhường nhịn. Phải
mở rộng tâm lượng của ḿnh, tập tánh dung
ḥa, tập nhường nhịn, tránh hết thảy xung
đột, va chạm, hộ tŕ tinh thần giới
luật của đạo tràng -- Lục Ḥa Kính. Hộ tŕ Lục Ḥa Kính tức là
nhường nhịn, nếu chẳng thể nhẫn,
chẳng thể nhường th́ ḥa kính sẽ bị phá
hoại, trong giới luật gọi là ‘phá ḥa hợp
tăng’. Tội phá ḥa hợp
tăng là một trong năm tội ngũ nghịch, đây
là nghiệp nhân đọa địa ngục A Tỳ. Trong năm tội ngũ nghịch,
bốn tội kia chẳng dễ phạm đến,
chỉ có tội này dễ phạm nhất, vả lại
c̣n phạm một cách vô cớ [phạm rồi mà
người đó chẳng hay biết], chỉ có
người một ḷng hướng về đạo,
người có thể nhường nhịn mới tránh
khỏi mà thôi.
Giống như lời
của Lục Tổ: ‘Nếu là
người tu đạo chân chánh th́ chẳng thấy
lỗi của người khác’. Họ chỉ v́ việc lớn
sanh tử nên luôn giữ tâm cảnh giác cao độ. Một ḷng một dạ muốn
liễu sanh tử, xuất tam giới, hết thảy
việc trong thế gian đều chẳng liên can ǵ
với họ. Cảnh
thuận, cảnh nghịch ǵ cũng tùy thuận v́ họ
coi việc liễu sanh tử là quan trọng nhất. Người niệm Phật chúng
ta đem việc văng sanh làm việc quan trọng hàng
đầu, trừ việc cầu văng sanh chẳng có
việc ǵ khác đáng giữ trong tâm.
Người chân chánh từ bi
gặp đồng tham đạo hữu vi phạm quy
củ, phá giới, làm việc ác, không những phải bao
dung nhẫn nại mà c̣n phải dùng trí huệ, thiện
xảo cảm hóa họ, như vậy mới là
đại từ đại bi.
9. Giải hành tương ứng (Buổi
sáng 30-01-95)
Xây dựng đạo
tràng, hộ tŕ đạo tràng nhất định phải
giải hành tương ứng.
Giảng kinh thuyết pháp là Giải môn, lănh chúng tu hành
là Hành môn, cả hai đều quan trọng, cả hai
đầy đủ mới là một đạo tràng hoàn
chỉnh. Nhưng người
tu hành có đầy đủ giải và hành từ xưa
đến nay rất hiếm, nếu cả hai đều
chẳng đủ th́ thà chọn Hành môn, chẳng cầu
Giải môn.
Chọn hành môn, tức
là cảm thấy ḿnh chẳng hiểu, chẳng biết ǵ
cả, việc ǵ cũng chẳng sánh bằng người
khác, người như vậy sẽ rất khiêm tốn,
chịu chắc thật niệm Phật, thông thường
người như vậy sẽ được văng sanh
phẩm vị rất cao.
Người có Giải nhưng chẳng có Hành th́ hoàn
toàn tương phản, họ cống cao ngă mạn,
cứ nghĩ ḿnh giỏi nhất, cứ coi thường
việc tu hành, sẽ chẳng thể văng sanh.
Lănh chúng tu hành là công việc
tự lợi, lợi tha, quan trọng nhất là phải
chân thành, chân thật, tự ḿnh có tâm chân thành, tâm thanh
tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm cung kính, tâm từ bi th́
sẽ thành công.
10. Phương pháp niệm Phật (Buổi sáng 30-01-95)
Tu hành dụng công muôn vàn
phải ghi nhớ chẳng thể coi việc khởi
vọng tưởng thành quán chiếu. Nhưng lúc mới bắt
đầu học, đích thực là có dùng tâm ư thức,
nếu quán chiếu đắc lực th́ vọng
tưởng và phiền năo sẽ giảm bớt, trí
huệ sẽ tăng trưởng, việc này cho biết
việc tu hành của ḿnh đă đi đúng
đường. Nếu
vẫn c̣n vọng tưởng, phiền năo chẳng
đoạn hết th́ chứng minh công phu quán chiếu
của ḿnh chẳng đắc lực, đây là chỗ khó
khăn của phương pháp tu hành thông thường.
Phương tiện
của Tịnh Độ Tông là dùng tâm ư thức chuyển thành
tŕ danh hiệu, công đức của danh hiệu chẳng
thể nghĩ bàn, danh hiệu đích xác là chân thật nên
dùng vọng tâm, tâm ư thức để tŕ danh hiệu chân
thật này, vọng tâm này tức là chân tâm. Đây là chỗ thù thắng của
pháp môn niệm Phật, cũng là chỗ hết thảy
pháp môn khác chẳng có, thế nên mới gọi pháp môn này là
pháp môn phương tiện hạng nhất.
Bất cứ lúc nào,
chỗ nào đều có thể quy về danh hiệu này, cho
đến khi công phu thành phiến, tŕnh độ này
cũng giống như tŕnh độ ‘quán chiếu’ trong
Tông Môn. Nếu có thể niệm
đến Sự nhất tâm bất loạn tức là
‘chiếu trụ’. Niệm
đến Lư nhất tâm bất loạn tức là ‘chiếu
kiến’. Thế nên cổ
đức thường nói: ‘pháp
môn niệm Phật thầm hợp đạo nhiệm
mầu’[4]. Đạo diệu tức
là minh tâm kiến tánh, rất nhiều người dùng
phương pháp này đắc được định,
kiến tánh. Cho dù chẳng
được định, chẳng kiến tánh, cũng có
thể văng sanh. Tổ sư
đại đức cũng nói:
‘Gặp
được Di Đà th́ lo ǵ chẳng khai ngộ’
(Đản
đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ).
Khai ngộ tức là minh
tâm kiến tánh, một khi văng sanh th́ tuyệt đối
sẽ khai ngộ, sẽ kiến tánh. Điểm thù thắng của pháp môn
Tịnh Độ là ở tại chỗ này.
Nhưng nguyên tắc tu
học của pháp môn Tịnh Độ là phải ‘Phát Bồ Đề tâm, một hướng
chuyên niệm’. ‘Một hướng’ tức là
một phương hướng, một ḷng một
dạ. Bồ Đề tâm là ǵ? Ngoài cái tâm ḿnh nhất quyết
cầu văng sanh c̣n phải dùng những thiện xảo
phương tiện giới thiệu pháp môn niệm
Phật cho người khác, đây tức là Bồ Đề
tâm. V́ chúng ta hiểu rơ chỉ
có pháp môn này có thể đoạn phiền năo, xuất tam
giới, có thể bất thoái thành Phật.
Cho nên việc lớn nhất
suốt cả đời của người tu học
Tịnh Độ là tự ḿnh cầu sanh Tịnh Độ,
giới thiệu pháp môn niệm Phật cho người
khác, tự hành hóa tha. Trừ
việc này ra chẳng c̣n tâm niệm nào khác nữa, như
vậy gọi là ‘phát Bồ Đề tâm, một
hướng chuyên niệm’.
Có tâm nguyện như vậy th́ hành tŕ nhất
định sẽ văng sanh. Tuy
chẳng dồn sức để đoạn phiền năo,
vọng tưởng, nhưng nó sẽ từ từ
giảm bớt, trí huệ sẽ tự nhiên tăng
trưởng hằng ngày.
11. Nguyên tắc tu hành (Buổi sáng 01-02-95)
Việc quan trọng
nhất trong việc tu hành là nắm lấy cương
lănh, giữ chặt nguyên tắc, công phu sẽ dễ
đắc lực. Cương lănh, nguyên tắc tức là ‘Phát Bồ Đề tâm,
một hướng chuyên niệm’. Nhất định phải
hiểu tường tận đạo lư và ư nghĩa
của hai câu này, phải thực hành theo ‘Nguyên tắc
phải tuân thủ của đồng học Tịnh Tông’,
đó là Tam Phước, Lục Ḥa, Tam Học, Lục
Độ, Thập Nguyện.
Nhất định phải ứng dụng trong
đời sống hằng ngày, đây tức là tự hành
hóa tha.
[Nội dung của tác
phẩm] tiết lục (trích lục, trích đoạn
và ghi chép lại) sách ‘Yếu
Lược Sa Di Luật Nghi’ bao gồm những
điểm chính của năm khoa mục nêu trên, thế nên
‘Nguyên tắc tu hành’ là thuộc về Hạnh Kinh. Kinh có bốn thứ là Giáo, Lư,
Hạnh, Quả. ‘Hạnh Kinh’
là [những ǵ đức Phật] muốn chúng ta thật
sự làm được. Chúng
ta thực sự có thể dùng tâm ‘chân thành, cung kính’
để tu học, phục vụ chúng sanh, nhất
định sẽ được pháp hỷ sung măn, sẽ
được tâm thanh tịnh.
Có thể dùng tâm chân thành, tâm cung kính để phục
vụ hết thảy chúng sanh chính là tu học Đại
Thừa.
Trong pháp Đại Thừa,
viên măn cứu cánh nhất là ‘Phổ Hiền Bồ Tát
Hạnh’. Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát là ǵ? Tức
là Lễ Kính Chư Phật, Xưng Tán Như Lai, Quảng
Tu Cúng Dường, Sám Hối Nghiệp Chướng, Tùy
Hỷ Công Đức, Thỉnh Chuyển Pháp Luân, Thỉnh
Phật Trụ Thế, Thường Tùy Phật Học,
Hằng Thuận Chúng Sanh, Phổ Giai Hồi
Hướng. Những hạnh
này đều nằm trong sinh hoạt hằng ngày. Lễ kính nhất định
phải bao gồm chân thành, cung kính; xưng tán nhất
định phải pháp hỷ sung măn; rộng tu cúng
dường tức là phục vụ hết thảy chúng
sanh. Thế nên Phổ Hiền
hạnh bao gồm phạm vi rất rộng lớn,
chẳng phải chỉ là lấy một chút tiền
bỏ vào bao giấy đỏ là cúng dường đâu,
quan điểm này là sai lầm.
Bồ Tát đạo và
tinh thần của Phật pháp Đại Thừa chính là
rộng tu cúng dường, rộng độ chúng sanh. Kinh Kim Cang nói: ‘Ta làm cho hết thảy chúng sanh đều
nhập Vô Dư Niết Bàn để diệt độ’[5]. Nói theo cách bây giờ th́
là: ‘Tận tâm tận lực giúp
đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ’. Kết quả của
việc phá mê khai ngộ tự nhiên sẽ là ĺa khổ
được vui. ‘Mê,
phải giúp họ phá hết; Ngộ, phải giúp họ
viên măn’, đây tức là thành Phật, tức là ‘nhập
Vô Dư Niết bàn, nhi diệt độ chi’. Nếu chẳng sanh về Tây
phương Cực Lạc thế giới mà tu hành ở
thế giới này, hoặc tu hành tại mười
phương cơi Phật phải trải qua ba
a-tăng-kỳ kiếp mới viên măn. Nếu có người hỏi
tại sao phải chọn Tịnh Độ? Chúng ta có thể nói với họ:
‘Là v́ sợ luân hồi, sợ sanh tử, sợ dày ṿ,
sợ chướng ngại, và v́ tự lợi lợi tha
đạt đến viên măn nên mới quyết
định cầu sanh Tịnh Độ’.
Sanh đến Tây
phương Cực Lạc thế giới chính là như
trong kinh có nói: ‘Hết
thảy khổ nạn đều ĺa khỏi’. Hơn
nữa có thể trong thời gian ngắn viên măn thành
tựu Phật quả. Trí huệ
đức năng viên măn hiện tiền, sau đó mới
trở lại chín pháp giới rộng tu cúng dường,
phục vụ cho chúng sanh th́ sẽ chẳng có
chướng ngại nữa, đây tức là việc nhà
Phật thường nói: ‘thừa nguyện tái lai’.
12. Phát bồ đề tâm,
một hướng chuyên niệm (Buổi sáng 02-02-95)
Người niệm
Phật ít nhất phải hiểu rơ tám chữ ‘Phát Bồ Đề tâm, một hướng
chuyên niệm’. Nếu chẳng hiểu rơ tám
chữ này th́ chẳng thể nào niệm được
tốt, công phu sẽ chẳng được đắc
lực. Không những chẳng
thể chuyển cảnh giới, mà vẫn bị cảnh
giới chuyển như cũ; bị cảnh giới
chuyển tức là tiếp tục luân hồi lục
đạo. Nếu có thể
chuyển cảnh giới th́ nhất định sẽ
được văng sanh, cho nên tám chữ này vô cùng quan
trọng.
Bồ Đề tâm là
ǵ? Làm thế nào phát? Kinh Kim Cang nói: ‘Sanh tâm’, Sanh tâm
tức là phát tâm, sanh tức là sanh khởi, ư nghĩa
giống như phát khởi.
Cư sĩ Giang vị Nông trong cuốn Kim Cang
Giảng Nghĩa nói: ư nghĩa của chữ ‘sanh’ sâu và
rốt ráo hơn chữ ‘phát’.
Một hướng
chuyên niệm, một hướng có nghĩa hẹp và
nghĩa rộng. Nghĩa
hẹp là niệm niệm đều hướng về Tây
phương Cực Lạc thế giới. Một phương hướng,
hướng về Tây phương Tịnh độ, như
vậy mới có thể văng sanh, đây là thuộc về
‘sự’, có thể đạt được Sự
nhất tâm. Nói theo nghĩa
rộng, ‘nhất’ là Nhất Chân pháp giới, hướng
về Nhất Chân pháp giới.
Phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát
chẳng biết Nhất Chân pháp giới, chẳng nhập
vào Nhất Chân pháp giới nên vọng tưởng, chấp
trước, chướng ngại trùng trùng.
Nhất chân pháp giới
ở tại đâu? Thiệt
ra, chẳng nơi đâu chẳng phải, chẳng lúc nào
chẳng phải [là Nhất Chân Pháp Giới]. Người hiện nay ưa nói
về ‘đột phá’.
Nhất chân th́ sẽ đột phá hết thảy. Các khoa học gia và triết
học gia trong thế gian tư duy, tưởng
tượng, cảm nhận về thời gian và không gian,
đặc biệt là thời gian không gian nhiều
chiều, tức là không gian bốn chiều, không gian năm
chiều, sáu chiều, … cho đến không gian vô số
chiều, trên thực tế tức là ‘pháp giới’ nói trong
nhà Phật. Pháp giới chia
một cách đại khái th́ có mười pháp giới,
nếu chia nhỏ ra th́ thành vô lượng vô biên, cách nói này
rất kề cận với không gian vô số chiều. Những hiện tượng này
đều là từ vô minh, bất giác sanh ra, nếu có
thể đột phá từng tầng th́ có thể nh́n
thấy Nhất Chân pháp giới; khi nh́n thấy Nhất Chân
pháp giới th́ thành Phật rồi, như nhà Thiền nói
‘kiến tánh thành Phật’.
Nhất Chân tức là chân tánh, chân tâm. Phật nói hết thảy vạn
pháp duy tâm hiện, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm
(không gian nhiều chiều) là do duy thức biến. Có thể nương vào
phương hướng này một hướng chuyên
niệm th́ sẽ được Lư nhất tâm bất
loạn, đây gọi là ‘biết niệm Phật’, công phu
dễ đắc lực.
Hiện tượng công
phu đắc lực tức là vọng tưởng,
phiền năo, phân biệt, chấp trước sẽ ngày
càng giảm bớt, trí huệ ngày càng tăng trưởng,
tâm địa ngày càng thanh tịnh, tự tự nhiên nhiên
sẽ buông xuống. Họ
từ bi, họ chịu niệm Phật, đây đều
là hiện tượng công phu đắc lực. Trong đời sống hằng
ngày những hiện tượng này của chúng ta chẳng
thể hiện tiền tức là c̣n mê hoặc điên
đảo rất nặng cho nên công phu chẳng thể
đắc lực.
Lời nói của Phật, câu
nào câu nấy cũng đều chân thực. Kinh Kim Cang nói: ‘Phàm hết thảy các tướng
đều là hư vọng’. Hết thảy tướng
đích thực là hư vọng, là mộng, huyễn,
bọt, bóng. Nếu ở trong
đó khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước, như vậy tuyệt đối là sai
lầm. Nghĩ trong đó có
thể có cầu, có được th́ tuyệt đối
là vọng tưởng. Có
những vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước này bày trước mặt là chướng
ngại to lớn. Không
những chướng ngại chứng đạo, văng sanh,
c̣n chướng ngại công phu đắc lực. Những thứ chướng
ngại này đều do tự ḿnh tạo thành nên vẫn
phải do ḿnh tự giải trừ, bất cứ
người nào cũng chẳng thể giúp ḿnh giải
trừ, cho dù là Phật, Bồ Tát cũng chẳng có năng
lực ấy.
13. Làm thế nào mới
được văng sanh
(Buổi sáng 03-02-95)
Trong cả đời tu
học nếu người tu hành chẳng thoát khỏi tam
giới th́ chẳng kể là thành công, nhưng siêu việt
tam giới thực sự là một việc rất khó. Tuy nói Tịnh Độ là pháp dễ
hành (dễ hơn so với
những pháp môn khác), trên thật tế th́
cũng chẳng dễ, thê nên người niệm Phật
th́ nhiều nhưng người văng sanh rất ít.
Người văng sanh
thực sự gồm có hai hạng. Một hạng là những
người thượng căn lợi trí, họ có
thể thông suốt chân tướng sự thật nên
họ chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, tịnh
niệm tiếp nối mà văng sanh.
Hạng thứ nh́ là những người ‘ngu
độn’, phần đông thường nói là những ông
già, bà cả, cái ǵ họ cũng chẳng biết, chẳng
hiểu, nhưng họ chết ḷng trọn ư niệm câu A
Di Đà Phật đến cùng, những người này
cũng có thể văng sanh. C̣n
những người ở chính giữa chẳng phải là
thượng trí cũng chẳng phải là hạ ngu th́ khó
hơn. Tại v́ họ có phân
biệt, có tri kiến, đây tức là chướng
ngại. Chúng ta phải nên
lắng ḷng suy nghĩ xem chúng ta thực sự thuộc
về hạng nào?
Bắt chước theo
người thượng trí rất khó; bắt
chước người ngu chỉ cần thực sự
chịu học theo th́ có thể học được,
tức là phải buông xả hết thảy. Quan trọng nhất là phải
buông xả hết danh văn lợi dưỡng. ‘Lợi dưỡng’ bao gồm
ngũ dục, lục trần, ‘danh văn’ bao gồm
quyền thế, địa vị, hết thảy chúng ta
đều đừng đụng đến, chỉ
một ḷng một dạ chắc thật niệm Phật,
phục vụ đại chúng.
Như Đàm Hư pháp
sư nói trong phần sau của cuốn Niệm Phật
Luận, trong những người xuất gia có thầy Tu
Vô, thầy là người ngu độn, cái ǵ cũng chẳng
biết, cái ǵ cũng chẳng
hiểu. Bà họ Trương
ở chùa Trạm Sơn, Thanh Đảo, chồng bà làm
nghề kéo xe chở khách, một ngày không kéo xe th́ chẳng
có cơm ăn. Mỗi ngày
chủ nhật chùa Trạm Sơn có pháp hội, bà
đều đến nhà bếp giúp việc rửa chén, bà
làm những việc cực nhọc này, bạn hăy xem họ
văng sanh vô cùng thong dong, tự tại! Đó là những người ‘ngu
độn’. Người ngu
cũng có thể văng sanh, người tuyệt đỉnh
thông minh cũng có thể văng sanh, những người
ở chính giữa hai hạng này th́ khó hơn nhiều.
Khó khăn đều là
chướng ngại do ḿnh tạo ra – tranh danh đoạt
lợi, tham hưởng lợi dưỡng. Chúng ta có thể gặp được
pháp môn Tịnh Độ là một nhân duyên hiếm có, nếu
luống qua nhân duyên hy hữu này th́ thiệt là vô cùng
đáng tiếc!
14.
Sám hối
(Buổi sáng 04-02-95)
[Các pháp] trong Hạnh môn
có thể tóm lại thành một, đó chính là pháp Sám hối
– Sám hối nghiệp chướng [trong Thập Nguyện]
Phổ Hiền Bồ Tát.
Điều quan trọng trong pháp sám hối là sửa
đổi tâm niệm, sửa đổi hành vi, dù chẳng
có h́nh thức nhưng là chân sám hối. Nếu có đầy đủ
h́nh thức và y theo kinh văn mà làm lấy có, chẳng
biến cải tâm niệm th́ chẳng phải là sám
hối, chẳng có ích ǵ hết.
Phật dạy Bồ
Tát tu hành tức là dạy Bồ Tát nên nghĩ tưởng
về chúng sanh, phục vụ chúng sanh, đó là Bồ Tát
đạo, Bồ Tát hạnh.
Luôn v́ chúng sanh là Bồ Tát đạo, phục vụ
cho chúng sanh là Bồ Tát hạnh.
Phàm phu khi khởi tâm động niệm đều v́
ḿnh, đều làm cho ḿnh, thế nên chỗ khác biệt
giữa Phật, Bồ Tát và phàm phu là ở tại chỗ
này.
Hộ tŕ đạo tràng
điểm quan trọng nhất là Lục Ḥa Kính, buông
bỏ Lục Ḥa Kính th́ chẳng là đạo tràng Phật
pháp, chẳng phải đạo tràng của Phật th́
nhất định phải là đạo tràng của
ma. Đạo tràng của Phật
là dùng để hoằng pháp lợi sanh, là nơi
để hướng dẫn đại chúng tu hành, làm cho
đại chúng phá mê khai ngộ, ĺa khổ được
vui. Hướng về mục
tiêu này mà làm th́ đúng, đây là đạo tràng của
Phật. Nếu chiếm
giữ đạo tràng của Phật mà chẳng làm công tác
giáo học, bỏ việc chánh và chuyên làm những
chuyện chẳng cần thiết th́ là ma sự. Là Phật hay là Ma đều
ở tại một niệm, làm Phật th́ có thể văng
sanh, làm Ma th́ đời sau nhất định sẽ đi
vào tam ác đạo, cho dù bạn làm hết thảy thiện
pháp th́ cũng chẳng tránh khỏi đọa lạc. Tại sao vậy? V́ bạn đă phá hoại chánh
pháp. Do đó hết thảy
thiện pháp chẳng bù nổi tội lỗi này.
15.
Ba giai đoạn
của sự tu hành
(Buổi sáng 05-02-95)
Đích thực chúng ta đă
gặp chẳng ít người chân chánh muốn tu hành,
thực sự muốn thành tựu, nhưng cửa ải
khó khăn nhất là vọng tưởng và tạp
niệm, muốn trừ nhưng chẳng trừ nổi. Vấn đề này chẳng
phải người đời nay mới có, từ xưa
đến nay đều như vậy. Trong kinh điển đức
Phật dạy chúng ta, đây cũng là một đề
mục chính, làm thế nào để đoạn trừ
vọng tưởng, chấp trước. Thực ra hết thảy các kinh
luận đều nhằm giải quyết vấn
đề này. Phật đă
giảng rất thấu triệt, phương pháp cũng
rất khéo léo, đáng tiếc là chúng ta chẳng ráng sức
mà làm nên từ vô lượng kiếp đến nay
đều bị vọng tưởng phiền năo trói
buộc, chẳng thể giải thoát. Có rất nhiều phương
pháp giải quyết mà trong đó niệm Phật đích
thực là một phương pháp tốt nhất nhưng
nhiều người chẳng dùng.
Người niệm
Phật, miệng th́ niệm Phật hiệu nhưng trong
tâm cứ khởi vọng tưởng không ngừng, như
vậy th́ chẳng thể thành tựu. Miệng niệm và tâm cũng
phải niệm, tâm và miệng có tương ứng th́ công
phu mới đắc lực.
Đắc lực tức là có thể đè nén vọng
tưởng, phiền năo. Đè
nén được lâu rồi th́ sẽ đắc
định, sẽ thành tựu tam muội. Định được lâu th́
sẽ khai mở trí huệ, trí huệ vừa khai mở th́
liền chuyển phiền năo thành Bồ Đề, chuyển
sanh tử thành Niết Bàn, đó là thành công. Chỉ cần công phu
được đắc lực, có thể đè nén
vọng tưởng và phiền năo th́ có thể đới
nghiệp văng sanh. Đây là chỗ
pháp môn này thù thắng hơn những pháp môn khác. Chỉ cần chịu dụng
công th́ ai cũng có khả năng làm được
hết.
Văng sanh đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, cổ
đức nói: ‘Đă gặp
được Di Đà th́ lo ǵ chẳng khai ngộ’, gặp được đức Phật A Di Đà th́
không ai chẳng khai ngộ.
Khai ngộ là khai mở trí huệ, khai trí huệ
tức là chuyển phiền năo thành Bồ Đề.
Chúng ta thường
đề xướng khuyến khích mọi người,
sự tu hành của chúng ta có ba giai đoạn:
a. Giai
đoạn thứ nhất: Đọc thuộc kinh văn. Niệm kinh ba ngàn
lần, đọc thuộc ḷng kinh, ghi nhớ lời
dạy trong kinh, nếu lời dạy của Phật
cũng chẳng nhớ th́ tu cái ǵ?
Làm sao để tu theo lời dạy? Đây là bước thứ nhất.
b. Giai
đoạn thứ nh́: Yêu cầu viên giải (hiểu biết một cách viên
dung, trọn vẹn).
Phải hiểu rơ những lời dạy của
Phật, phải hiểu
được viên dung th́ mới chẳng chết cứng
trên văn tự. Phải
hiểu lời dạy của Phật là có nguyên lư nguyên tắc
ǵ, phải có thể ứng dụng những lời
dạy này một cách khéo léo trong đời sống
hằng ngày, như vậy mới chẳng là chỉ
đọc suông, đó mới là khai trí huệ.
c. Giai
đoạn thứ ba: Là phải thực hành, y theo lư luận và phương pháp dạy trong kinh
để sửa đổi tư tưởng, sự
hiểu biết, hành vi sai lầm của ḿnh, như vậy
mới gọi là chân chánh tu hành, như vậy th́ mới
văng sanh được.
Chứ chẳng phải đọc kinh ba ngàn lần
là xong xuôi, đọc như vậy chẳng có ích ǵ
hết. Phải biết
từ đầu đến cuối Phật pháp
đều chú trọng thực hành, nghĩa là phải làm
cho bằng được.
Chân chánh tu hành là tu ở
nơi khởi tâm động niệm chứ chẳng
phải là ở chỗ học thuộc ḷng. Nhớ nhiều, hiểu nhiều
chẳng hữu dụng ǵ hết, phải làm cho bằng
được. Có thể làm
được một phần th́ sẽ được
một phần lợi ích; làm được hai phần th́
được hai phần lợi ích, nếu chẳng
hết ḷng nỗ lực mà làm th́ không thể nào đạt
được lợi ích chân thật này.
16.
Bồ Tát hạnh (Buổi
sáng 07-02-95)
Phật dạy chúng ta
những ǵ: Tổng hợp
lại th́ chính là ‘sửa đổi tâm niệm’. Tâm phàm phu là ǵ? Tâm Phật, Bồ Tát là ǵ? Phải hiểu rơ, minh bạch
hoàn toàn. Làm thế nào
để thay đổi tâm phàm phu thành tâm Phật? Làm sao thay đổi sự hành tŕ
của phàm phu trở thành sự hành tŕ của Phật,
Bồ Tát? Nếu tự ḿnh
chúng ta chẳng hiểu đạo lư này, chẳng gắng
sức đi làm mà c̣n giả danh Phật pháp, dạy sai
chúng sanh, tội lỗi đều ở địa
ngục A Tỳ, đây là việc Phật, Bồ Tát
chẳng muốn nh́n thấy.
Cho nên những người đảm nhiệm
trọng trách giáo học nhất định phải ráng
sức nỗ lực khắc phục tập khí, khó khăn
của ḿnh.
Phật pháp và Thế
pháp là một chứ chẳng phải hai. Dùng tâm của Phật, Bồ Tát
vào thế gian th́ Thế pháp thành Phật pháp, chẳng có
pháp nào chẳng phải là Phật pháp. Dùng tâm phàm phu vào Phật pháp th́
hết thảy Phật pháp đều biến thành pháp
thế gian. Từ điểm
này có thể biết cái gọi là Phật pháp và Thế pháp
đều chẳng ở tại sự tướng mà
ở tại tâm niệm của mỗi người, đó
là ‘tâm tịnh th́ cơi nước tịnh’.
Phật pháp chẳng làm
hoại thế gian pháp cho nên lúc Thế Tôn c̣n tại
thế, khi dạy rất nhiều tín đồ của các
tôn giáo ở Ấn độ, Phật chẳng thay đổi
phương thức sanh hoạt của họ, chỉ
sửa đổi quan niệm của họ cho đúng, giúp
họ từ sinh hoạt mê tín quay trở về sinh
hoạt giác ngộ, chánh tín.
Thế Tôn chẳng thay đổi họ, chỉ thêm
vào cách giải thích mới, tư tưởng mới, quan
niệm mới, phương pháp này đúng như thánh nhân
Trung quốc gọi là: ‘vô cùng cao minh nhưng
đường lối trung dung’ [6],
đó mới là trí huệ chân thật.
Sanh hoạt giác ngộ
tức là Bồ Tát hạnh, nói cách khác nghĩa là từ sanh
hoạt của phàm phu đổi thành sanh hoạt của
Bồ Tát. Nhưng sanh hoạt
chẳng có biến đổi, lúc trước làm nghề
nghiệp ǵ th́ bây giờ cũng làm nghề đó, khác nhau
ở chỗ lúc trước là mê, bây giờ đă giác
ngộ. Lúc mê th́ khổ, lúc
giác th́ vui, cái niềm vui này chính là ‘pháp hỷ sung măn’, khác
nhau ở chỗ này. Chẳng
thay đổi đời sống của họ, chẳng
thay đổi chức nghiệp, ngành nghề của
họ. Năm mươi ba
lần tham vấn trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy những
Bồ Tát, nam nữ già trẻ, các ngành các nghề, tức
là các ngành nghề vốn có của họ, trong đời
sống tập quán sanh hoạt vốn có của họ giác
ngộ xong th́ ĺa khổ được vui, đây là
Phật pháp.
Thí dụ chúng ta làm việc
trong nhà bếp, mỗi ngày nấu cơm, rửa chén, lau
bàn, người thế gian cho những việc này là
những việc khổ nhọc, nhưng người giác
ngộ cho là những việc sung sướng, thiệt ra
những chuyện này trong Lục Độ vạn hạnh
tức là Giới Định Huệ tam học. Công việc giống như nhau,
sự việc cũng giống nhau, chỉ là tâm lư, quan
niệm thay đổi.
Vừa thay đổi th́ là đời sống của
Bồ Tát. Đời sống
của Bồ Tát là ǵ? Tức
là mỗi ngày nấu cơm, lau bàn, rửa chén. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta
những thứ này, dạy chúng ta làm thế nào để
sống một đời sống sung sướng
nhất, hạnh phúc nhất.
Đây là sự thật, đây tức là tu hành, Đại
Thừa Bồ Tát hạnh, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác là tu ở chỗ này.
Người chẳng hiểu cho rằng mỗi ngày
làm những chuyện này thiệt là khổ quá chừng, các
bà nội trợ ai cũng muốn chạy trốn. Như vậy là mê, mê th́ sẽ
khổ; khi ngộ rồi th́ sẽ vui. Người giác ngộ biết tu
bố thí, tu xưng tán, tu cúng dường, tu nhẫn
nhục, tu thiền định, tu Bát Nhă ngay trong những
trường hợp này.
Thế nên mê và ngộ hoàn toàn sẽ chẳng giống
nhau.
17.
Tu thanh phước (Buổi
sáng 08-02-95)
Họa phước
thiệt ra ở tại một niệm mà thôi. Một niệm thiện th́ là
phước, một niệm ác là tai họa. Phật dạy chúng sanh
phước huệ song tu, khi phước huệ viên măn
rồi th́ xưng là Nhị Túc Tôn, thế nên tu phước
và tu huệ đều vô cùng quan trọng. Trong các thứ phước báo,
‘thanh phước’ [7]
là quư nhất. Trong thanh
phước có trí huệ cao độ cho nên chẳng
tạo tội nghiệp. Trong
phước báo của thế gian th́ phước báo càng
lớn tạo tội càng dễ, v́ vậy nên tác dụng
phụ [của phước báo] cũng lớn. Đây là điểm chúng ta phải ghi
nhớ.
Nếu chúng ta có thể
hiểu rơ thanh phước, hưởng thọ thanh
phước th́ phước báo này thiệt là vô
lượng vô biên, trí huệ nhất định sẽ
tăng trưởng theo. Chúng
ta phải cố gắng tu phước và khuyên mọi
người tu phước, khi mọi người
đều có phước báo rồi th́ khu vực này sẽ
chẳng bị nạn.
Giả sử chỉ có cá nhân ḿnh có phước,
mọi người khác chẳng có phước th́ chúng ta
cũng chẳng thể tránh khỏi cộng nghiệp,
thế nên khuyên lơn chúng sanh tu phước là một
việc vô cùng, vô cùng quan trọng.
Phải tu phước như
thế nào? [Những ǵ chúng ta]
nghĩ và làm đều v́ chúng sanh, có thể quên ḿnh th́
đó là phước báo to lớn.
Tạo ác là ǵ? Niệm
niệm đều v́ ḿnh mà tưởng, mà làm th́ đó là
chuyện ác to lớn.
18.
Mục tiêu của sự tu hành
(Buổi sáng 09-02-95)
‘Chân thành,
Thanh tịnh, B́nh đẳng, Chánh giác, Từ bi.
Nh́n thấu,
Buông xuống, Tự tại, Tuỳ duyên, Chắc Thật
Niệm Phật’ là mục tiêu hiện
nay của chúng ta trong công việc hoằng pháp lợi sanh,
và cũng là mục tiêu tu học của chúng ta. Tất cả những kinh luận,
hành pháp đều nhằm giúp chúng ta đạt đến
mục tiêu này, hoàn thành mục tiêu này.
Chúng ta tự hành hóa tha đă
có phương hướng, mục tiêu chính xác, đời
sống này mới có ư nghĩa, có giá trị, sẽ rất
vui sướng và rất hạnh phúc. Hy vọng đại chúng từ
điểm này thể hội -- tự ḿnh phải nên tu
học như thế nào, làm thế nào đăi người,
tiếp vật. Đây là Phật
pháp chân chánh, Phật pháp chân thực.
19.
Ly tướng tu phước (Buổi
sáng 09-02-95)
Xả tài là
phước, nhưng càng quan trọng hơn là phải
chẳng chấp tướng.
Tu phước mà chấp tướng là phước
báo nhân thiên, tu phước mà ly tướng mới có
thể minh tâm kiến tánh, mới có thể văng sanh, bất
thoái thành Phật.
Chẳng những ngoại tài
có thể xả, nội tài cũng phải xả. Nội tài là ǵ? Tinh thần, lao lực của
chúng ta, nếu có thể phục vụ cho đại chúng
một cách vô điều kiện th́ gọi là xả
nội tài. Chẳng cầu báo
đáp, thực sự v́ xă hội, v́ đại chúng mà
phục vụ là bố thí.
20.
Phước báo và trí huệ (Buổi
sáng 11-02-95)
‘Có tiền là
phước báo, dùng tiền là trí huệ’. Nếu người có
phước báo to lớn nhưng chẳng có trí huệ, toàn
bộ [tiền của] họ dùng đều vô ích;
người có trí huệ tuy phước báo nhỏ nhưng
họ có thể đem mỗi đồng tiền của
họ tu những phước báo to lớn, đó gọi là
‘xả tài tu phước’.
Từ đó có thể biết người chẳng có
trí huệ muốn tu phước cũng chẳng tu
được.
Trên thực tế xét từ
lúc tu nhân mà nói th́ trí huệ quan trọng hơn phước
báo, v́ người có trí huệ sẽ chẳng tạo
tội nghiệp và giảm bớt những lỗi lầm
của ḿnh đến mức thấp nhất; người
chẳng có trí huệ khi tạo tội nghiệp c̣n
tưởng là ḿnh đang tu phước. Trước mắt chúng ta có
thể nh́n thấy rất nhiều trường hợp
này, họ thiệt là có tiền và cũng phát tâm nhưng
những ǵ họ tạo tác đều là tội nghiệp,
chẳng phải tu phước, lại cứ tưởng
ḿnh đang tu phước, chuyện này thiệt là rất
đáng tiếc.
21.
Tùy hỷ
(Buổi sáng 12-02-95)
Trong các đoàn thể,
phiền năo tập khí dễ nh́n thấy nhất là
‘đố kỵ’.
Người nào chẳng có tâm đố kỵ? Ai nói ‘Tôi chẳng có tâm đố
kỵ’ th́ người đó chẳng phải là phàm phu. Hễ là phàm phu th́ chắc
chắn sẽ có tâm đố kỵ, cho dù là người
xuất gia cũng chẳng ngoại lệ. Tùy, Đường là thời
đại hoàng kim của Phật giáo Trung Quốc, là
thời đại Phật pháp vô cùng hưng thịnh,
Lục Tổ Huệ Năng đă xuất hiện trong thời
đại này. Sau khi
được truyền trao y bát ở Hoàng Mai, bạn xem
ai có thể nhịn được [không giành lại y bát]? Đây là hiện tượng ǵ? Đố kỵ!
Nếu chúng ta không
thể hàng phục được tâm đố kỵ,
tham, sân, si, mạn, chẳng những đạo nghiệp
không thể thành tựu mà kết quả của việc này
nhất định sẽ phá hoại đạo tràng. Cho dù ảnh hưởng không rơ
ràng th́ cũng gây chướng ngại cho sự phát triển
của đạo tràng và gây chướng ngại cho sự
thành tựu của đồng tham đạo hữu. Nói một cách khác th́ là
chướng ngại cho việc hoằng pháp lợi
sanh. Mọi người
đều biết tội này được gọi là
‘năm tội vô gián’ trong giới luật. Thế nên Phật, Bồ Tát
dạy chúng ta tu ‘Tùy hỷ’.
Tại sao không tu tùy hỷ? [Tại sao phải tu tùy
hỷ?] Thay đổi tâm
niệm ngược lại, nếu có thể tùy hỷ th́
người ta có thành tựu bao lớn, thành tựu của
ḿnh cũng sẽ bằng họ, công đức của
việc tùy hỷ chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc thấy người
khác làm việc tốt nếu chúng ta có thể sanh tâm hoan
hỷ, có thể giúp họ, giúp họ thành tựu th́ công
đức của họ chính là công đức của ḿnh,
thế nên chúng ta phải biết tu tùy hỷ. Những ǵ ḿnh không thể làm
được nhưng họ làm được th́ ḿnh giúp
họ; nếu giúp chẳng được th́ ḿnh tán thán,
ḿnh hoan hỷ, ḿnh lo lắng cho họ, như vậy công
đức sẽ bằng nhau v́ tâm của ḿnh
được thanh tịnh, đây là việc mà chúng ta
thường gọi là pháp hỷ sung măn.
Đây cũng là lư do tại sao
chúng ta đổi khoá tụng buổi tối thành tụng
kinh Vô Lượng Thọ, phẩm ba mươi hai
đến phẩm ba mươi bảy. Chúng ta có thể mỗi ngày
đọc những tập khí lỗi lầm nói trong đoạn
kinh này một lần, đọc xong phản tỉnh,
kiểm điểm xem ḿnh có những tội lỗi này hay
không? Nếu có th́ phải
sửa sai đổi mới, như vậy mới gọi
là chân chánh tu hành.
22.
Khóa tụng sáng tối (Buổi
sáng 12-02-95)
‘Xă hội’ hiện nay có
thể nói là đă lan rộng đến toàn thế
giới, chẳng c̣n giới hạn ở một
địa phương nào, đều có sự hiểu
lầm rất lớn đối với Phật pháp. Sự hiểu lầm này sẽ
gây chướng ngại cho sự tu học Phật pháp,
chướng ngại cho sự truyền bá Phật pháp. Thế nên cần phải in hai
cuốn sách mỏng ‘Nhận thức Phật giáo’ và ‘Truyền
thọ Tam Quy’ với số lượng thật nhiều
và truyền bá rộng ra.
Tu hành, những khóa
tụng và nghi thức mà cổ đức soạn ra
đích thực có thể đem lại lợi ích cho
hết thảy chúng sanh thời xưa. Ngày nay nghiệp chướng chúng
sanh sâu nặng và cơ sở đă mất hết – cơ
sở là chẳng đọc sách Khổng - Mạnh, Lăo -
Trang, những lư luận Đạo giáo cũng chẳng
hiểu, Tiểu Thừa cũng chẳng học. Giống như ngày nay chúng ta xây
nhà lầu mà chẳng có nền móng vậy, chẳng có
cơ sở th́ đi vào Đại Thừa làm sao có thể
thành tựu được?
Xưa nay phàm những đại đức có thành
tựu bất kể là tại gia hay xuất gia, căn
bản Nho học của họ đều rất sâu
dày. V́ vậy những nghi
quỹ (thời xưa gọi là Khoá tụng sáng tối) bây
giờ chẳng dùng được. Mục đích của công khóa sáng
tối là nhằm giúp chúng ta sửa đổi tâm hạnh,
nếu chúng ta tụng xong mà tâm hạnh chẳng có thay
đổi ǵ hết th́ khóa tụng sáng tối này cũng
dư thừa. V́ vậy chúng
tôi mới thay đổi nội dung của khóa tụng,
buổi sáng tụng phẩm thứ sáu, buổi tối
tụng phẩm ba mươi hai đến phẩm ba
mươi bảy của kinh Vô Lượng Thọ.
Mục đích của
khóa sáng là hy vọng trong tâm của mỗi người
đều có bốn mươi tám lời nguyện, như
vậy mới gọi là niệm Phật, nhớ Phật. Trong tâm thực sự có Phật,
trong tâm có A Di Đà Phật, có bốn mươi tám lời
nguyện của Phật A Di Đà.
Trong bốn mươi tám nguyện này bao gồm
hết thảy y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây
phương Cực Lạc thế giới. Khóa tối là niệm niệm
chẳng quên lời dạy của Phật A Di Đà, chúng ta
phải y giáo phụng hành, như pháp tu tŕ, đây mới
thực là chân chánh niệm Phật, chẳng phải
niệm suông trong miệng mà thôi.
Kinh Vô Lượng
Thọ là đốn giáo.
Đốn giáo nghĩa là chẳng có thứ lớp, cho dù
chúng ta chẳng có cơ sở Nho học sâu dày cũng có
thể thành tựu, đây là chỗ thù thắng của pháp
môn này. Từ đó có thể y
theo nguyện của A Di Đà Phật mà phát nguyện, y theo
lời dạy của A Di Đà Phật mà tu hành -- phẩm ba
mươi hai đến phẩm ba mươi bảy là
lời dạy của A Di Đà Phật, nội dung là ngũ
giới, thập thiện, là cơ sở chung của
Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Từ đây gắng sức học tập, chúng ta
niệm Phật mới có thành tựu, đây là lư do tại
sao chúng tôi thay đổi khóa tụng sáng tối.
23.
Tâm thanh tịnh (Buổi sáng
14-02-95)
Trong thời đại
ngày nay muốn tu hành có được thành tựu th́
chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
trừ con đường này ra th́ đích thực chẳng
có con đường nào khác.
Niệm Phật phải niệm đến lúc nào th́
mới thực sự nắm chắc có thể văng sanh? Phải niệm đến lúc tâm
thanh tịnh. Tâm thanh tịnh
tức là công phu thành phiến, có thể đới
nghiệp văng sanh.
Làm thế nào có thể
làm được tâm thanh tịnh?
Nhất định phải có công phu ‘nh́n thấu,
buông xuống’. Nh́n thấu là
học vấn, buông xuống là công phu. Buông xuống những ǵ? Buông xuống hết thảy
vọng tưởng, phiền năo, tri kiến. Chân chánh phải học Lục
Tổ Huệ Năng đại sư: ‘Nếu là người tu đạo chân
chánh, chẳng nh́n lỗi thế gian’ th́ tâm bạn sẽ thanh tịnh.
Ngày nay chúng ta vẫn c̣n
thấy người này chẳng đúng, chuyện kia
cũng chẳng đúng là v́ nguyên nhân ǵ vậy? V́ chúng ta có phân biệt, chấp
trước. Chỉ có
người chân chánh muốn văng sanh th́ mới thiệt
buông xuống hết. Tăng
đoàn là tăng đoàn ḥa hợp, thanh tịnh -- không
những chẳng nghe đến thị - phi, ngay cả
trong tâm cũng chẳng có tâm niệm này.
24.
Học (Buổi sáng 14-02-95)
Trong xă hội có câu:
‘Học làm người’.
Học làm người tức là học luân lư,
đạo đức. Thí
dụ học Thập thiện, Tứ vô lượng tâm
(từ, bi, hỷ, xả) tức là học làm người
của trời Dục Giới, họ cao hơn chúng ta
một bậc. Học Tứ
thiền bát định tức là học làm người
của trời Sắc Giới, cảnh giới này c̣n cao
hơn. Học Bốn
mươi tám nguyện, học Lục Độ, Thập đại
nguyện vương tức là học làm người
của Tây phương Cực Lạc thế giới,
đây mới là việc chúng ta thực sự muốn
học.
‘Học’ chẳng có
nghĩa là ‘tôi hiểu, tôi biết rơ’ th́ xem là đă học
rồi. Chữ học ở
đây có nghĩa là ‘noi gương’, ‘học tập theo’,
đây là động từ chứ chẳng phải là danh
từ, tức là muốn chúng ta chân chánh làm cho bằng
được. Ngày nay chúng ta
tu hành tự ḿnh chẳng đạt được pháp
hỷ, đó chỉ là sống qua ngày, tại sao chẳng
được pháp hỷ? V́
chúng ta chẳng thực ḷng học tập.
Học phải bắt
đầu từ đâu?
Bắt đầu từ đọc kinh. Trong kinh dạy chúng ta phải làm
như thế nào th́ chúng ta làm như vậy, y theo kinh
điển mà hết ḷng phản tỉnh, mỗi ngày có
thể phát hiện một lỗi lầm của ḿnh,
như vậy tức là giác ngộ.
Mỗi ngày có thể sửa đổi một lỗi
lầm th́ mới là chân tu, cũng như lăo cư sĩ
Hạ Liên Cư trong cuốn ‘Tịnh Ngữ’ có dạy:
‘Chân cán’ (Làm thực sự). Có
thể chân tu, làm thiệt, ba năm liền siêu phàm nhập
thánh, sẽ chẳng là phàm phu nữa; nếu chẳng chịu học,
chẳng chịu làm th́ chẳng có cách ǵ hết.
Phải đọc kinh như
thế nào? Phải dùng tâm chân
thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính mà đọc,
được vậy th́ sẽ có chỗ ngộ. Có nhiều người
đọc kinh rất khổ, tại sao vậy? V́ họ dùng tâm vọng
tưởng, phân biệt, phiền năo để
đọc, hoàn toàn chẳng thể hội ư tứ,
cảnh giới trong kinh, vậy th́ đương nhiên càng
đọc càng khổ. Chỉ
có dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính để
đọc th́ mới tương ứng với tâm
Phật, mới có thể hiểu được ư tứ
trong kinh. V́ chân thành, thanh
tịnh, cung kính chẳng có cùng tận, cho nên ư tứ trong
kinh cũng chẳng có cùng tận, vô cùng, vô tận.
25.
Lục Ḥa Kính (Buổi
sáng 16-02-95)
Người với
người ở chung với nhau phải biết bao
dung. Phật v́ tăng đoàn
chế định Lục Ḥa Kính, Lục Ḥa Kính là đoàn
thể thù thắng nhất nên gọi là ‘Chúng Trung Tôn’ – trong
các đoàn thể khắp thế gian, xuất thế gian,
đoàn thể ḥa kính là tôn quư nhất. Đích thực là được
chư Phật hộ niệm, Long thiên tán thán, ủng
hộ. Tại sao chẳng
thể ḥa? Nguyên nhân ở
đâu? Đoàn thể càng lớn
th́ ḥa kính càng khó khăn, nguyên nhân căn bản là v́ ngă
kiến, ngă chấp, đây là nguyên nhân căn bản
của sự bất ḥa, của sự tạo tội.
Sự tu học của
Phật pháp, chẳng nói đến pháp Đại thừa,
trong pháp Tiểu Thừa, điều đầu tiên là
phải phá ngă kiến, phá ngă chấp. Học Phật đầu tiên
phải học cái ǵ? Là
học ‘vô ngă’, vô ngă th́ sẽ ḥa, vấn đề liền
được giải quyết ngay trên căn bản --
chẳng có ngă chấp, chẳng có pháp chấp.
Chúng ta đă phát tâm xuất
gia, sanh hoạt trong tăng đoàn là một nhân duyên
hiếm có, phải tự ḿnh tôn trọng ḿnh (tự trọng), phải
hết ḷng nỗ lực, coi đạo nghiệp làm
hạng nhất, y chúng, nương vào đại chúng,
khuyến khích lẫn nhau, trau giồi dùi mài. Tự ḿnh chúng ta có thể thành
tựu th́ là thành tựu của xă hội, tức là
Phật pháp trụ thế có thành tựu, tức là thành
tựu chúng sanh ĺa khổ được vui. Bạn xem ảnh hưởng
của việc này bao lớn?
Chúng ta phải tự ḿnh làm một gương
tốt, chẳng những làm gương cho người
tại gia, đồng thời cũng làm gương cho
đồng tu xuất gia, như vậy mới thiệt
chẳng cô phụ đă một phen xuất gia, đây
mới chân chánh là tu tập tích lũy công đức.
26.
Phước huệ nhân quả (Buổi
sáng 16-02-95)
Phải biết hết
thảy các pháp trong thế gian và xuất thế gian
đều là nhân quả phước huệ. Phước tuy quan trọng,
nhưng huệ c̣n quan trọng hơn. Có phước chẳng có huệ,
khi hưởng phước nhất định sẽ tạo
tội nặng, đây là như nhà Phật thường nói
‘oán ba đời’. Đến lúc
phước hưởng hết, đọa lạc trong ác
đạo rồi mới muốn thoát khỏi th́ chẳng
dễ, không biết phải trải qua bao nhiêu đời,
bao nhiêu kiếp?
Có huệ chẳng có
phước tuy đời sống rất thanh bần,
rất khó khăn, nhưng chẳng tạo tội
nghiệp. Họ thế nào
cũng có khả năng văng sanh thành Phật, v́ sanh sống
quá khổ, họ chán chường đời sống trong
thế gian này, dễ sanh khởi đạo tâm. Do đây có thể biết
phước báo chẳng phải là chuyện tốt,
Phật dạy đệ tử xuất gia phải tu
phước nhưng nhất định đừng
hưởng phước, cứ sống đời
sống thanh bần như cũ, phải dùng sự khổ
làm thầy, đạo lư là ở chỗ này, là sợ
bạn hưởng phước rồi tạo tội
nghiệp.
27.
Thật thà (Buổi
sáng 08-05-95)
Ư nghĩa quan trọng
nhất trong kinh Kim Cang là: tu học Đại Thừa Phật
pháp là phải tu học trong đời sống hằng
ngày. Nói một cách khác tức
là dạy cho chúng ta làm thế nào để sống cuộc
đời của chư Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát sống
cuộc đời đại trí huệ, đại giác
ngộ, đời sống như vậy mới là chân
thực hạnh phúc mỹ măn.
Niệm Phật
chẳng thể thành tựu là v́ chẳng thật thà (chẳng chắc thật). Chẳng thật thà là
chẳng biết sống cách nào, khi sanh ra đời hồ
đồ lộn xộn, chết đi cũng mờ
mịt, lộn xộn. Như
vậy đúng là rất đáng thương, cũng như
trong kinh thường gọi họ là: ‘những
người đáng thương xót’.
Sau khi có trí huệ Bát
Nhă, hiểu rơ chân tướng của nhân sanh mới
biết thật thà, một ḷng một dạ niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Ai có thể tiếp nhận th́ người đó
sẽ được lợi ích.
Nếu chẳng chấp nhận, chẳng thể
chắc thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
chính là như kinh Địa Tạng có nói: ‘Chúng
sanh trong Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm không có
ǵ là chẳng tạo tội’. Đă tạo tội nghiệp th́
đời sau nhất định sẽ c̣n luân hồi trong
lục đạo, bất luận là tu hành tốt
đến đâu, nếu chẳng thể thoát ra khỏi
tam giới th́ đều là chẳng thành tựu.
Mục đích chúng tôi
giảng kinh Kim Cang là v́ muốn khuyên mọi người,
dạy cho mọi người hiểu rơ chân tướng
sự thật, phải chết ḷng trọn ư thật thà
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Những ǵ nói trong kinh Kim Cang cho
đến những ǵ đức Phật nói trong hai
mươi hai năm giảng kinh Bát Nhă đều cũng
là v́ dạy chúng ta phải nh́n thấu, buông xuống. Tại sao bốn chữ ‘nh́n
thấu, buông xuống’ này đă giảng trong suốt hai
mươi hai năm? Hăy
nghĩ xem ai nghe xong liền nh́n thấu, liền buông
xuống được? Nghe
th́ cũng nghe rồi, nói th́ cũng nói xong nhưng vẫn
chẳng nh́n thấu, chẳng buông xuống y như
cũ. Trong tâm từ sáng
đến tối vẫn suy nghĩ lung tung, lời nói hành
động vẫn phê b́nh kẻ khác, chẳng biết
kiểm điểm bản thân ḿnh, đây đúng là nh́n
chẳng thấu, buông xuống chẳng nổi.
28.
Thừa nguyện tái lai (Buổi
sáng10-05-95)
Tự ḿnh chẳng
chịu hết ḷng tu hành, nghiệp báo thân thể của
bạn là được định sẵn trong số
mạng. Nếu tự ḿnh
chịu hiến thân v́ Phật pháp, hiến thân v́ hết
thảy chúng sanh th́ thân thể này chẳng phải là
của bạn nữa mà là thừa nguyện tái lai
(nương vào nguyện trở lại).
V́ vậy chẳng cần
phải đợi đến lúc từ Tây phương
Cực Lạc thế giới trở lại đây,
chỉ cần bây giờ nguyện lực vừa chuyển
th́ có thể chuyển biến thân nghiệp báo của ḿnh
thành thân của nguyện lực, đây chính là thừa
nguyện tái lai. Thừa
nguyện tái lai là ngay trong một niệm có thể làm
được, trong đây một chút xíu giả dối
chẳng thể xen vào, phải là thuần chánh chẳng
vọng, xen vào một tí giả dối th́ vẫn phải
thọ nghiệp báo.
29.
Sửa lỗi (Buổi
sáng12-05-95)
Bất luận là
xuất gia hay tại gia, hễ là đệ tử Phật
tiếp nhận sự cúng dường tài vật nhất
định phải đáp trả lại bằng pháp cúng
dường. Lúc Phật c̣n
tại thế dùng chế độ tŕ bát, lúc tiếp
nhận cúng dường nhất định phải
thuyết pháp cho người ta nghe, đây tức là báo
đáp ân của thí chủ.
Trong bất cứ trường hợp nào chúng ta
tiếp nhận sự cúng dường đều phải
biết quy củ, phải biết v́ người thuyết
pháp. Nếu chẳng có
người khải thỉnh th́ có thể không
thuyết. Có người
mời th́ nhất định phải thuyết pháp. Nguyên tắc quan trọng nhất
của sự thuyết pháp là chỉ rơ những lỗi
lầm thông thường của đại chúng, giúp họ
sửa sai, như vậy mới có ích lợi. Thế nên chẳng cần
phải nói huyền thuyết diệu, chẳng cần
phải nói những lời nói dư thừa chẳng có ích
lợi.
Nhà Phật thường
nói đến ‘khai ngộ’ và ‘tu hành’, mọi người
đều biết danh từ thuật ngữ này, nhưng
người hiểu được hàm nghĩa bên trong th́
chẳng nhiều. Trong khi
đọc kinh sẽ có chỗ ngộ, niệm Phật
cũng sẽ có chỗ ngộ, thực ra trong đời
sống, lúc đăi người tiếp vật cũng
sẽ có lúc ngộ được.
Chỗ ngộ được này nghĩa là ǵ? Nghĩa là phát hiện lỗi
lầm. Phát hiện
được lỗi lầm tức là khai ngộ, sửa
đổi sai lầm trở lại tức là tu hành. Tu hành chẳng phải nói mỗi
ngày niệm bao nhiêu cuốn kinh, niệm bao nhiêu Phật
hiệu, lạy bao nhiêu lạy.
Thật sự mà nói đó đều là h́nh thức,
h́nh dáng mà thôi. Công phu chân
thật là ‘biết lỗi’, ‘sửa lỗi’, có thể làm
được bốn chữ này, ngày hôm nay bạn sẽ
cảm thấy rất sung măn, chẳng luống uổng.
Chẳng những
người tu hành phải tuân thủ chặt chẽ, chúng
ta xem trong Liễu Phàm Tứ Huấn người thế
gian có ông Triệu Duyệt Đạo mỗi ngày đều
phản tỉnh, đều kiểm điểm, t́m lỗi
lầm của ḿnh để sửa đổi, chẳng
để tái phạm. Nhưng
người học Phật ngày nay trong miệng th́ nói
huyền thuyết diệu, thực tế công phu th́ hoàn toàn
chẳng có, cho nên chúng ta thấy người xuất gia
thành tựu chẳng bằng người tại gia. Người tại gia học
Phật đích thật có một số có thể buông
xuống hết thảy; trái lại người xuất
gia học Phật, trong miệng nói toàn là Phật pháp,
đều là nói huyền thuyết diệu, nhưng
những ǵ trong tâm suy nghĩ và hành động đều
là nghiệp nhân luân hồi. Nói
th́ là phá mê khai ngộ, nhưng trên thực tế những
ǵ tự ḿnh làm đều là mê hoặc điên đảo.
Công phu chân thật phải
bắt đầu từ việc kiểm điểm
lỗi lầm, tiêu chuẩn này là những lời dạy
của đức Phật trong kinh điển. Thế nên tại sao chúng ta
phải học thuộc ḷng kinh điển? Chính là để nhớ rơ tiêu
chuẩn này, nếu nhớ chẳng rơ tiêu chuẩn ấy
th́ chẳng thể phân biệt thị phi, thiện ác,
cứ thường xem sai cho là đúng, đúng cho là sai,
đây tức là: ‘điên đảo, sai loạn’. Thế nên nhất định
phải nhớ thuộc ḷng kinh điển, phải
hết ḷng tự cứu ḿnh.
Nếu có thể siêu việt luân hồi ngay trong
đời này, văng sanh Tịnh Độ th́ tự ḿnh thực
sự đă được cứu. Nếu chẳng thể văng sanh
Tịnh Độ, đời này đă luống uổng,
những ǵ tu được trong đời này cũng
chẳng có ích ǵ, tại v́ chẳng bù nổi những ác
nghiệp đă tạo -- khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ tạo tác đều là tham, sân, si, mạn,
đố kỵ, chướng ngại. Chư vị nghĩ coi nếu
sức lực này mạnh th́ sẽ đi vào tam đồ,
muốn giữ được hai đường nhân, thiên
chẳng phải dễ dàng đâu.
30. Tâm thanh tịnh (Buổi sáng 13-05-95)
Những thức ăn
chúng ta thường dùng phải nên cẩn thận
để ngừa trúng độc.
Nên biết phương pháp giải độc có
hiệu quả nhất là tâm thanh tịnh, tâm đại
từ đại bi. Đem
bất cứ độc dược nào cho Phật, Bồ
Tát cũng chẳng tạo nên tác dụng ǵ hết, nguyên
nhân là ở chỗ nào? V́ tâm
quư ngài thanh tịnh, từ bi.
Thế nên tâm từ bi là thuốc giải độc
công hiệu nhất. C̣n chúng ta
khi khởi tâm động niệm ǵ cũng tự tư
tự lợi nên rất dễ bị những chất
độc này cảm nhiễm.
Gần đây chúng tôi
nh́n thấy một số người nhất tâm chuyên chú,
bất kể là già hay trẻ (lăo cư sĩ Lưu
Thừa Phù chín mươi mấy tuổi là thí dụ rơ ràng
nhất), bạn hăy xem sự biến hóa trên thân thể,
trên tinh thần, tướng mạo của họ. Điểm này chứng minh những
ǵ Phật nói đều chẳng giả, đó gọi là
chứng chuyển, một trong tam chuyển pháp luân --
chứng chuyển là làm chứng minh [8]. Thế nên chúng ta muốn thân
thể khoẻ mạnh, muốn được ít bịnh,
ít phiền năo, nếu chẳng tu tâm thanh tịnh, chẳng
tu tâm từ bi th́ chẳng có cách ǵ làm được
hết.
31. Chuyển phước đức thành công
đức
(Buổi sáng 14-05-95)
Khi gặp chuyện trong
thế gian th́ chúng ta làm, đó là tu phước. Lúc làm việc th́ đừng
sợ chịu thiệt tḥi, làm nhiều là tu nhiều phước,
như vậy th́ có ǵ chẳng tốt? Lúc làm chẳng nên chấp
trước, chẳng nên để trong tâm, trong tâm một
dấu vết ǵ cũng chẳng lưu giữ lại,
như trong kinh Kim Cang có nói: ‘Nên không
trụ vào đâu để sanh cái tâm ấy’ [9] Đó mới là
phước báo chân chánh, phước đức biến
thành công đức. Nếu
trong tâm cứ thường nghĩ: ‘Tôi đă từng làm
được bao nhiêu việc’, đó tức là pháp thế
gian, là phước báo hữu lậu sẽ có quả báo
rất nhỏ.
Lúc c̣n trẻ nên tu
một chút phước, đến lúc tuổi già th́
bạn sẽ hưởng phước, sẽ có rất
nhiều người đến lo lắng cho bạn. Lúc trẻ chẳng chịu tu
phước đến lúc già chẳng có ai lo lắng cho th́
bạn vẫn phải lao nhọc, những nhân duyên quả
báo này thiệt là tơ hào chẳng sai.
B. LUẬN SỰ SANH TỬ TRỌNG ĐẠI
1. Liễu sanh tử (Buổi
sáng 27-01-95)
Phổ Hiền Bồ Tát
dạy:
‘Thị nhật dĩ
quá, mạng diệc tùy giảm
(Một ngày đă qua,
mạng cũng giảm theo)
Người sáng mắt
nh́n thấy quang âm ṃn mỏi, thời gian mỗi ngày trôi
qua, mỗi ngày giảm bớt.
Nói một cách khác th́ tức là ngày càng gần kề
cái chết.
Đạo nghiệp của
chúng ta có tiến bộ theo thời gian hay không? Chỉ có chân thật tu tŕ mới
có thể liễu sanh tử, xuất tam giới. Nếu chẳng thể liễu sanh
tử, xuất tam giới th́ đời này sẽ luống
uổng. Cho dù niệm Phật
tu phước th́ cũng như Phật thường nói
‘tam thế oán’ (oán ba đời).
Oán ba đời chẳng phải là chuyện tốt,
đời này niệm Phật tu phước, đến
đời sau hưởng phước th́ sẽ trở nên
hồ đồ; khi hồ đồ sẽ tạo tội
nghiệp, sẽ chịu khổ báo. Những người quyền quư
giàu to đều là do đời trước trong nhà
Phật từng niệm Phật tu phước nhưng
chẳng thể liễu sanh tử.
Trong đời này có quyền thế, làm xằng làm
bậy, khi tạo tội nghiệp so với những
người thường đều nặng hơn rất
nhiều. Thế nên chúng ta
phải nh́n xa một chút, một người chân chánh giác
ngộ phải lấy việc liễu sanh tử làm
mục tiêu.
Muốn được
liễu sanh tử pháp duy nhất trong các pháp Đại
thừa mà chúng ta dám chắc [ḿnh có khả năng thành công]
là pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu muốn chân chánh làm
được th́ phải ghi nhớ lời của Phổ
Hiền Bồ Tát -- học Bồ Tát đạo, tu Bồ
Tát hạnh. Mỗi khi gặp
một vị thiện tri thức trong năm mươi ba
lần tham vấn, Thiện Tài đồng tử đều
hỏi về hai vấn đề này. Cái gọi là Bồ Tát đạo
chính là cách giữ tâm, trong những bài giảng chúng ta
thường nói: ‘Tâm,
Nguyện, Giải, Hạnh phải giống như
Phật’.
Tâm và Nguyện tức là Bồ Tát đạo, Giải
và Hạnh tức là Bồ Tát hạnh.
Học Phật th́
phải học giống Phật, cho dù chẳng thể làm
giống y hệt th́ cũng phải làm chẳng khác
nhiều lắm, như vậy mới gọi là học
Phật. Trong thế gian có
một số người chuyên làm việc ‘Phật
học’ chứ chẳng phải là học Phật. Phật học là ǵ? Tức là có Giải chẳng có
Hạnh, chỉ nghiên cứu Phật pháp như một
thứ học vấn nhưng chẳng thể làm theo,
họ chẳng có tâm này, và cũng chẳng có cái nguyện
này, đó là Phật học; người có Tâm, có Nguyện
khi hiểu được bao nhiêu th́ họ sẽ làm bấy
nhiêu, như vậy mới là một người học
Phật. V́ vậy ‘học
Phật’ có thể liễu sanh tử, ‘Phật học’
chẳng thể liễu sanh tử, chúng ta phải hiểu
rơ hai việc này.
Kinh giáo trong nhà Phật
là dung thông – viên dung, thông đạt vô ngại, cho nên thông
[đạt] một kinh th́ hết thảy kinh đều
thông. Không những kinh giáo là
dung thông, pháp thế gian, xuất thế gian cũng thông, v́
tất cả đều từ chân tâm bản tánh của
ḿnh biến hiện mà thành, nó đều có cùng một
căn nguyên, không có đạo lư chẳng thông. Tại sao chẳng thông? Chẳng thông là v́ có chướng
ngại, chướng ngại chính là mê hoặc, điên
đảo, phân biệt, chấp trước, chỉ
cần phá trừ chướng ngại th́ pháp thế gian và
xuất thế gian đều viên dung và thông đạt vô
ngại.
Quán Thế Âm Bồ Tát
hiểu rơ đạo lư này nên được đại
tự tại. Tại sao Ngài
có thể biết được?
Do quán chiếu mà hiểu được. Quán chiếu nghĩa là ǵ? Lúc sáu căn tiếp xúc với sáu
trần bên ngoài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp
trước, chẳng có vọng tưởng, tất
cả đều rơ ràng minh bạch, như vậy gọi
là quán chiếu. Nếu có
một chút ư tứ ở trong đó th́ chẳng gọi là
quán chiếu.
‘Quán chiếu’ thực ra
là tự tánh tịnh, tức là ‘kiến văn giác tri’
(thấy - nghe - hay - biết) của tự tánh, cho nên có
thể thấy được chân tánh. Phàm phu mê mất tự tánh,
chỉ dùng t́nh thức – nghĩa là tám thức, năm
mươi mốt tâm sở, đó là ‘t́nh kiến’ – t́nh
kiến nghĩa là như người ta thường
gọi: ‘có xen lẫn cảm t́nh’.
Cảm t́nh là ǵ? Tức
là phân biệt, chấp trước, vọng
tưởng. Đem theo ‘kiến văn
giác tri’ của những thứ này là kiến giải
của phàm phu. Do đó có
thể biết khi ĺa khỏi hết thảy phân biệt,
chấp trước, vọng tưởng th́ là kiến
giải của Phật, Bồ Tát.
Kiến giải của Phật, Bồ Tát gọi là
quán chiếu, gọi là chiếu kiến. V́ vậy nếu dùng kiến
giải của phàm phu để tu hành th́ tuyệt
đối chẳng thể siêu việt lục đạo.
Phàm phu rất khó ĺa khỏi
t́nh kiến, nếu dùng t́nh kiến để tu học th́
hết thảy pháp môn chẳng có pháp nào được
thành tựu hết, chỉ có tu học Tịnh Độ
mới có thể. Nhưng chúng
ta nên biết tu Tịnh Độ là phải dùng công phu niệm
Phật đè nén t́nh kiến, được vậy th́
mới có thể văng sanh.
Nếu đè nén chẳng nổi th́ không thể văng
sanh. Cũng có nghĩa là
phiền năo chưa đoạn, chỉ là tạm thời
đè nén mà thôi. Nếu trong sát
na lâm chung mà phiền năo chẳng hiện lên th́ sẽ thành
công. Nếu phiền năo
khởi lên ngay lúc đó th́ chẳng thể văng sanh. Thật ra niệm Phật cũng
là ‘quán chiếu’, người biết dụng công so với người tham
thiền chẳng có ǵ khác nhau.
Trong ‘Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên
Thông Chương’ có dạy: ‘nhiếp trọn sáu căn’,
nếu làm được nhiếp trọn sáu căn th́
giống hệt như tham thiền; thí dụ chúng ta
chỉ làm được ‘tịnh niệm tiếp nối’
mà chẳng biết làm thế nào để ‘nhiếp
trọn sáu căn’ th́ chẳng giống với tham
thiền.
C. KHUYẾN
KHÍCH THÀNH KÍNH NHÂN SANH
1. Thành kính (Buổi sáng
04-02-95)
Cầu học, cầu
đạo đều dùng một chữ ‘cầu’, tự
ḿnh phải cầu cho được, nếu tự ḿnh
chẳng chịu [t́m cầu] th́ chẳng có ai nói cho bạn
đâu. V́ chúng sanh chẳng
biết và cũng chẳng biết cầu nên chư
Phật, Bồ Tát đại từ đại bi hiện
thân thuyết pháp, thay thế chúng sanh thỉnh cầu. Trong kinh điển chúng ta
thấy những người ‘đương cơ’ là
người thay thế chúng sanh [thỉnh] cầu pháp. Trong kinh Vô Lượng Thọ, A
Nan đứng ra khải thỉnh tức là thỉnh pháp
thay cho chúng sanh.
Đạo và Học
nhất định phải có cầu mới nói, dụng ư
ở đây là ‘trọng đạo’ – tôn sư trọng
đạo. Chỉ có ‘tôn’, có
‘trọng’ th́ người học mới đạt
được lợi ích.
Cũng như Ấn Quang đại sư dạy: ‘Một phần thành kính được
một phần lợi ích, hai phần thành kính th́
được hai phần lợi ích’. Mười phần
thành kính th́ người ta sẽ khai ngộ,
được lợi ích to lớn. Bởi vậy nên người
xưa thường nói: ‘không thành th́
không ngộ’. Chẳng có tâm thành kính th́ lợi
ích ǵ cũng chẳng đạt được, cho dù
đến nghe th́ chẳng qua chỉ là việc học thông
thường mà thôi, chẳng thể nào đạt
được lợi ích chân thật.
Lợi ích chân thật là
điều mà nhà Nho gọi là ‘biến hóa thân thể’
(biến hóa khí chất) và nhà Phật gọi là chuyển
thức thành trí. Nếu có
thể biến hóa thân thể th́ tức là chuyển phàm
thành thánh. Nếu nghe không
hiểu th́ chỉ là nghe trên lời nói, văn tự,
chẳng có liên quan ǵ đến tâm tánh của ḿnh. Nếu chẳng có một chút xíu
thành kính th́ chỉ được một tí lợi ích bên
ngoài mà thôi. Nếu mọi
người lưu ư một chút th́ sẽ thấy những
hiện tượng này rất rơ ràng.
Có thể chúng ta tự
ḿnh sẽ nghĩ: ‘Tôi đích thật đối với
thầy rất cung kính, đối với Phật pháp
cũng rất cung kính, bản thân cũng rất thâm nhập,
vậy th́ tại sao chẳng đạt được
lợi ích?’. Hăy thử
nghĩ: chúng ta đối với người ác th́ sao? Đối với người ḿnh
ghét th́ sao? Có thể cung kính hay
chăng? Trong chân tâm chẳng
có phân biệt, có phân biệt th́ chẳng là chân tâm. Tôi đối với người
này cung kính, đối với người kia chẳng cung
kính, cái tâm này là giả, là hai tâm.
Thế nên vấn đề phát sanh ở chỗ
chẳng có tâm thành kính, chẳng có tâm cung kính.
Tâm cung kính chân chánh tức là
nhất tâm, tức là tâm b́nh đẳng, tâm thanh
tịnh. Bất luận
biểu hiện được kiền thành như thế
nào, nếu trong tâm c̣n phân biệt, chấp trước, th́
chẳng phải là nhất tâm.
Có phân biệt tức là chẳng b́nh đẳng;
chấp trước tức là nhiễm ô, chẳng thanh
tịnh, đây là mấu chốt tại sao nghe pháp,
đọc kinh chẳng được lợi ích chân
thật.
D. KHUYÊN TIN SÂU NHÂN QUẢ
1.
Nhân quả (Buổi
sáng 26-01-95)
Bát Nhă và Tịnh Độ
đều đặc biệt nhấn mạnh nhân duyên
quả báo – ‘nhân như vậy th́ quả như vậy,
duyên như vậy th́ báo như vậy’ [10]. Thế nên khi chúng ta khởi tâm
động niệm nếu có thể nghĩ đến
quả báo tương lai th́ tự nhiên tâm sẽ thâu
liễm, tự nhiên sẽ b́nh tĩnh lại. Nếu chúng ta tạo nhân gây
chướng ngại cho người khác, tương lai
nhất định sẽ nhận quả báo người
khác chướng ngại ḿnh, thiệt đúng là ‘một
miếng ăn một miếng uống đều đă
định sẵn’[11]. Là do ai định sẵn? Là do nhân ḿnh đă tạo
định sẵn. Thế nên
Phổ Hiền Bồ Tát Thập Nguyện vương
dạy chúng ta phải tùy hỷ công đức. Tùy hỷ tức là tâm Bồ Tát,
tùy hỷ tức là chẳng gây chướng ngại cho
người khác.
Tâm đố kỵ,
chướng ngại của phàm phu chúng ta rất nặng,
vừa thấy người ta có một chút lợi lộc
ǵ, chúng ta liền cảm thấy khó chịu. Có tâm niệm này th́ đă là không
đúng rồi, nếu c̣n t́m cách để phá rối họ,
phá hoại họ, th́ tội nghiệp sẽ rất
nặng. Nếu thiện pháp
này có thể đem lại lợi ích cho chúng sanh th́ tội
lỗi này c̣n nặng hơn nữa, v́ đây chẳng
phải chỉ gây chướng ngại cho một
người mà là chướng ngại rất nhiều
người, v́ vậy nên chúng ta nhất định
phải hiểu rơ những mối quan hệ nhân quả
này.
2.
Bố thí pháp (Buổi sáng 15-02-95)
Trong ‘Hoa Nghiêm Kinh
Biệt Hành Sớ Sao’ có giảng về Quảng tu cúng
dường – Cúng dường tài vật chẳng bằng
cúng dường pháp. Trong kinh
văn có một đoạn khai thị vô cùng hấp
dẫn của cư sĩ Duy Ma, trong đó quan trọng
nhất là chân chánh bố thí pháp không như chúng ta hiện
nay tặng vài quyển kinh sách, tặng vài cuồn băng
thâu âm [thuyết pháp] th́ gọi là bố thí pháp, chuyện
này quá nhỏ bé. Cư sĩ
Duy Ma nói: ‘Pháp bố thí là dùng thân làm mẫu mực,
như pháp tu hành, làm gương tốt cho tất cả
chúng sanh, như vậy mới là pháp bố thí chân chánh’. Đoạn khai thị này dạy cho
chúng ta một điểm rất hay, như vậy chúng ta
mới đạt được lợi ích chân thật
của Phật pháp.
Thí dụ chúng ta thực
sự bố thí tài vật, bố thí pháp, và bố thí vô úy,
tu ba thứ nhân này th́ sẽ được ba thứ
quả báo -- được giàu sang, thông minh trí huệ,
khoẻ mạnh sống lâu.
Làm cho hết thảy chúng sanh nh́n thấy, để
cho họ thấy những quả báo này và hỏi bạn:
‘Làm sao bạn được lợi ích thù thắng như
vậy?’, bạn mới nói cho họ biết [muốn
được quả báo như vậy th́] phải tu ba
thứ nhân này. Cho nên nhất
định phải làm cho người khác nh́n thấy. Khi tŕ giới th́ tự ḿnh
hết ḷng tŕ giới, đoạn hết thảy ác
nghiệp, làm cho tận đáy ḷng ḿnh thực sự
đạt được thanh tịnh, thiện
lương. Cho đến
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhă
đều phải thực sự làm cho được,
như vậy chính là bố thí pháp.
Nếu bạn làm chẳng
được mà nói cho người khác nghe, khuyên
người th́ chẳng có hiệu quả ǵ hết,
người ta chưa chắc sẽ tin tưởng. Trong kinh đức Phật nói: ‘Chúng
sanh sợ quả, Bồ Tát sợ nhân’. Chúng sanh nh́n thấy quả báo th́
họ mới phản tỉnh.
Nh́n thấy quả báo tốt th́ họ sẽ
ngưỡng mộ, nh́n thấy quả báo không tốt th́
họ sợ hăi. Cho nên chúng ta
phải làm hết ḷng, đem quả báo bày trước
mặt mọi người, để tự họ quan sát,
phản tỉnh, sau đó sẽ phát tâm học tập,
như vậy mới thực sự là pháp bố thí.
E. HIỂU RƠ GIÁO DỤC
PHẬT ĐÀ
1.
Hiểu lư (Buổi
sáng 29-01-95)
Việc quư báu nhất
của đời người là có một phương
hướng, mục tiêu chính xác trong đời sống
của ḿnh, tức là có sanh hoạt giáo dục tốt đẹp. Cổ thánh tiền hiền ở
Trung Quốc dạy chúng ta làm người tốt, giữ
tâm tốt, đây là giáo dục trong một đời. Tu được tốt th́
đời sau có thể sanh lên trời, sáu tầng trời
Dục giới đều là nơi những người
tốt sanh đến.
Đức Phật dạy
cho chúng ta phương hướng, mục tiêu đích
thực là cứu cánh viên măn -- viễn ly tam giới,
vĩnh viễn thoát ly luân hồi.
Nhưng nhất định phải hiểu rơ lư
luận, hiểu rơ lư luận là hiểu rơ chân tướng
sự thật. Nguồn
gốc của tam giới luân hồi là vọng
tưởng, chấp trước, đặc biệt là ngă
chấp, có cái Ta (ngă), có cái của Ta (ngă sở) là nguyên nhân tạo
nên lục đạo luân hồi.
Muốn thoát ra tam giới th́ phải phá ngă chấp,
ngă sở. Ngă sở là
những ǵ ḿnh có, người ta khởi tâm động
niệm ǵ cũng liên quan đến ‘cái ḿnh có’, khi có quan
niệm ‘cái của ḿnh’ này th́ sẽ chẳng thể thoát ra
tam giới lục đạo luân hồi. Phật pháp Đại thừa và
Tiểu thừa đều nhằm phá cái Ta này,
người tu Tiểu thừa đoạn được
ngă chấp th́ có thể chứng quả A La Hán, thoát ra
được tam giới.
‘Ta’ c̣n không có th́ làm sao có
‘cái của Ta’? ‘Danh văn
lợi dưỡng của Ta’ đă làm hại chúng ta thê
thảm. Từ vô lượng
kiếp đến nay chúng ta chẳng phải là chưa
gặp Phật pháp, và cũng chẳng phải chưa
hết ḷng tu học qua, vậy th́ tại sao ngày nay
phải ra nông nỗi này? Chính
là bị cái ‘Ta’ này, ‘cái của Ta’ này hại đấy.
Chỗ cao minh của
kinh điển Đại Thừa, đặc biệt là kinh
Bát Nhă trong Đại Thừa dạy bạn mỗi khi khởi
tâm động niệm ǵ cũng v́ Phật pháp, v́ hết
thảy chúng sanh. Nhưng
người thế gian thường đều lo sợ
cho miếng cơm manh áo, đời sống sẽ gặp
khó khăn, đây đều là ngă chấp -- chấp
trước ‘Ta’, những ǵ ‘của Ta’. Nếu có tâm niệm này th́
chẳng phải là người học Phật và sẽ
chẳng đạt được lợi ích chân thật
của Phật pháp.
Kinh Kim Cang nói rất hay: ‘Nếu Bồ Tát có tướng Ta,
tướng Người, tướng chúng sanh,
tướng thọ giả tức chẳng phải là
Bồ Tát’, hăy suy nghĩ coi ư nghĩa
của câu này là ǵ? Ư nghĩa
chân chánh của câu này là: ‘Nếu mỗi tâm niệm
của chúng ta đều c̣n có ‘Ta’, ‘của Ta’ th́ chúng ta
chẳng phải là học tṛ của Phật, đích
thực chẳng phải là người học Phật’. Vẫn c̣n ‘Ta’, c̣n ‘cái của Ta’
tức là c̣n lưu luyến thế gian này nên chẳng
thể văng sanh được.
Tại sao tín đồ Cơ
Đốc giáo có thể sanh lên trời? Là v́ tâm niệm của họ có
thể đem hết thảy vinh dự đều
hướng dâng lên Chúa, nếu họ đem hết
thảy vinh dự đều cho là của ḿnh th́ họ
chẳng thể sanh lên trời, v́ cái ‘Ta’ của họ
chưa phá hết. Thế nên
mọi người hăy suy nghĩ kỹ đạo lư này.
2.
Bản chất của
Phật giáo (Buổi sáng 10-02-95)
Trong thời đại
ngày nay Phật giáo cũng đang cải cách, nhưng
nếu chẳng thể giữ vững tinh thần chân chánh
của Phật giáo th́ Phật giáo sẽ biến
chất. Một khi biến
chất th́ Phật giáo chân chánh sẽ bị tiêu diệt,
thế nên phải giữ vững bản chất này. Bản chất là những
điều ghi trong tựa đề của kinh Vô
Lượng Thọ: ‘Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Giác’, đây
là căn bản, không những là căn bản của Tịnh
Tông, mà tất cả hết thảy Phật pháp Đại
Thừa đều xây dựng trên căn bản này. Tất cả hết thảy pháp
môn đều phải đạt đến mục đích
này, tách ĺa khỏi mục tiêu này sẽ chẳng là Phật
pháp nữa.
Kinh điển trong
Phật pháp có vô lượng kho báu, bản thân bạn
phải biết đi t́m kiếm, phát hiện. Bất kỳ một bộ kinh
luận nào cũng có kho tàng vô tận, hơn nữa hết
thảy kinh luận đều hỗ tương thông
đạt lẫn nhau. Thế
nên thông đạt một bộ kinh th́ sẽ thông
đạt hết thảy kinh điển. Tại sao lại thông đạt
hết? V́ mục tiêu của mỗi bộ kinh đều là ‘Thanh
Tịnh, B́nh Đẳng, Giác’.
Chỉ cần bạn đạt được thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác th́ bạn sẽ thông suốt
hết thảy kinh, chẳng có chướng ngại ǵ
hết.
Một bộ kinh cũng
chẳng thông th́ bất kỳ kinh nào cũng chẳng thông,
đây là v́ lư do ǵ? V́ chẳng
đạt được tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, vẫn c̣n mê hoặc điên đảo cho nên
chẳng thông. Nếu mọi
người hiểu rơ chân tướng sự thật này
th́ mới hiểu Phật pháp chú trọng ở chỗ chân
chánh tu hành, [có chân chánh tu hành] th́ mới thông
được. Chẳng tu hành
chân chánh, nếu chỉ học trên chữ nghĩa, văn
tự th́ sẽ tuyệt đối chẳng thể thông
được.
3.
Giới định
huệ (Buổi sáng 09-05-95)
Tu học Phật pháp
chẳng thể tách rời ‘Giới Định Huệ’. Giới tức là giữ pháp
luật, giữ quy củ, giữ những lời răn
dạy của Thế Tôn ghi trong kinh điển, chúng ta tuân
theo mà làm.
Mấu chốt quan
trọng nhất trong việc tu hành là ‘Định’, Định
chính là tâm thanh tịnh. Có
thể tu tâm thanh tịnh trong mọi cảnh thuận, cảnh
nghịch, chẳng bị hoàn cảnh nhân sự quấy
nhiễu, ô nhiễm th́ đạo nghiệp của bạn
sẽ thành công.
Có Định th́ sẽ có
Huệ, Huệ tức là có khả năng biết rơ
thị phi, thiện ác, tuy có thể biết rơ sự khác
nhau nhưng tuyệt đối chẳng khởi tâm động
niệm. Một khi khởi tâm
động niệm th́ đă lạc vào ư thức rồi,
sẽ chẳng c̣n giới - định - huệ nữa. V́ vậy nên chư Phật,
Bồ Tát đối với bất cứ ai đều
chẳng oán hận, cho dù có người ác, việc ác
đến chướng đạo, chư Phật, Bồ
Tát đều xem như tự nhiên, chẳng khởi lên tâm
oán hận. Tại sao
vậy? Hy vọng
người ác có thể sớm ngày giác ngộ, có thể
quay lại. V́ người ác
cũng có Phật tánh cho nên Phật, Bồ Tát
đối xử với
họ rất tôn kính.
F. ĐIỂN TỊCH PHẢI ĐỌC
1.
Ngũ kinh nhất
luận (Buổi sáng14-05-95)
Học Phật và đă
phát tâm xuất gia th́ nhất định phải gánh vác
sứ mạng hoằng pháp lợi sanh, nếu không th́ thành
tựu sẽ chẳng bằng người tại gia. Hoằng pháp lợi sanh, một
đời có thể học một hai bộ kinh th́ cũng
đủ dùng rồi, chẳng cần phải học quá
nhiều. Bộ kinh mà bạn
chọn để tu học này, kinh văn và chú giải
đều phải học thuộc ḷng, nếu chẳng
tuân theo phương pháp của các đại đức
đời xưa truyền lại, th́ sự thành tựu
của chúng ta sẽ thua xa người đời
trước.
Người đời
trước học một bộ kinh không những phải
học thuộc ḷng kinh văn, mà c̣n phải học
thuộc ḷng chú giải. Như
trong Tông Thiên Thai họ phải học thuộc ḷng ba bộ
-- kinh Pháp Hoa, ‘Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa Thích Thiêm’, ‘Pháp Hoa
Kinh Văn Cú’, những cuốn này tính là hai bộ; ngoài ra
c̣n một bộ liên quan đến việc tu hành, đó là
‘Ma Ha Chỉ Quán’. Đây là
điều kiện căn bản để học theo phái
Thiên Thai; nếu chẳng học thuộc ḷng ba bộ này
th́ chẳng có tư cách để học Thiên Thai. Cho nên người ngày nay chẳng
chịu học thuộc ḷng kinh sách th́ chẳng có cách nào
để vượt hơn chư vị tổ sư. Học kinh Vô Lượng Thọ
không những phải học thuộc ḷng kinh văn của
kinh Vô Lượng Thọ mà c̣n phải học thuộc ḷng
chú giải của kinh Vô Lượng Thọ.
Trong cả đời
tôi chỉ gặp được một người
vẫn c̣n dùng phương pháp dạy học thời
xưa này, -- đó là Hải Nhân lăo pháp sư ở Hương
Cảng. Năm 1977 tôi
đến thăm ngài, qua năm sau th́ ngài văng sanh, văng sanh
lúc chín mươi mấy tuổi.
Ở Hương Cảng ngài chỉ có sáu học tṛ
mà thôi; ngài chuyên nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, chuyên hoằng
Lăng Nghiêm, ở Hương Cảng ngài được
xưng là Thủ Lăng Nghiêm Vương. Học tṛ của ngài phải
học thuộc ḷng kinh Lăng Nghiêm, phải học
thuộc ḷng chú giải nên học tṛ của ngài chỉ có
sáu người mà thôi.
Nếu muốn thực
sự có thành tựu th́ không thể không hạ thủ công
phu ở chỗ này. Muốn
học kinh Vô Lượng Thọ th́ Chú Giải Kinh Vô
Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ rất hay, tốt nhất là có thể học
thuộc ḷng cuốn này.
Nếu học kinh Quán Vô
Lượng Thọ th́ chọn ‘Quán Kinh Tứ Thiếp
Sớ’, đây là Sớ của Thiện Đạo đại
sư, phải học thuộc ḷng cả kinh lẫn chú
giải.
Nếu học kinh Di Đà,
kinh Di Đà có hai thứ chú sớ: ‘Di Đà Sớ Sao’ và ‘Di Đà
Yếu Giải’. ‘Sớ Sao’
tốt nhất nên thêm ‘Diễn Nghĩa’, Diễn Nghĩa là
để chú giải cuốn Sớ Sao. Sớ Sao là do Liên Tŕ đại
sư soạn, Diễn Nghĩa do học tṛ của Liên Tŕ
đại sư là Cổ Đức pháp sư soạn. Sách Yếu Giải th́ tốt nhất
nên học thêm cuốn Giảng Nghĩa của Viên Anh pháp
sư soạn.
Học Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm th́ tốt nhất nên chọn
‘Biệt Hành Sớ Sao’, học thuộc ḷng hết hai
cuốn này.
Học Đại Thế
Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương th́
chọn Sớ Sao của Quán Đảnh pháp sư.
Học Văng Sanh Luận
th́ chọn chú giải của Đàm Loan pháp sư.
Phải có khả
năng học một môn, theo một nhà th́ mới
được, nếu chẳng dồn hết sức
như vậy th́ chỉ là giỡn chơi với Phật
pháp mà thôi, chẳng thể tự độ, độ
tha. Thế nên đại
đức thời xưa nói: ‘Năm năm học
giới’, phục vụ những người thường
trú tại đạo tràng trong ṿng năm năm là tu
phước, tu bố thí, tu nhẫn nhục; trong năm
năm này bạn phải học thuộc ḷng những kinh
điển mà ḿnh phải học.
Trong ṭng lâm tự viện ngày xưa, năm năm này
bạn chẳng có tư cách để nghe kinh. Trong hoàn cảnh ngày nay, bạn có
thể nghe kinh, nhưng bạn phải chú trọng vào
việc học thuộc ḷng kinh.
Năm kinh một luận
nếu có thể học thuộc ḷng càng nhiều th́ càng
tốt, chú giải th́ tối thiểu phải chọn
một loại. Bạn phát tâm
tương lai hoằng dương bộ kinh nào th́
phải dồn sức vào kinh ấy, mỗi ngày đều
đọc, đọc quen rồi th́ tự nhiên sẽ
nhớ nằm ḷng, chẳng cần phải học cũng
thuộc, giới định huệ của bạn có
thể hoàn thành bằng cách tu học này. Thực sự có thể dồn
sức, dồn công phu vào việc này, th́ bạn đâu c̣n
thời gian để khởi vọng tưởng,
kiếm chuyện thị phi?
Vẫn c̣n vọng tưởng, thị phi th́ bạn
chẳng thể tu học bằng phương pháp này. Thế nên cổ đức
xưa nay đều ‘chuyên công’ -- dồn sức vào học
một môn, đều là một môn thâm nhập mà có
được thành tựu.
G. TRẢ LỜI NGHI VẤN HỌC PHẬT
1.
Mục đích của việc
xuất gia
(Buổi sáng 04-01-95)
Người
phát tâm xuất gia nói chung cũng đă giác ngộ chút ít
rồi. Giác ngộ việc
ǵ? Giác ngộ việc sanh
tử luân hồi rất đáng sợ, lập chí muốn
liễu sanh tử, xuất tam giới ngay trong đời
này, đây là như người xưa nói: ‘Thiệt v́ sanh tử mà xuất gia’. Một người có giác ngộ
như thế sẽ có thái độ chẳng giống
như người thường, khi đối xử
với người, với sự, với vật, họ
sẽ chẳng tranh danh đoạt lợi, sẽ chẳng
ganh ghét chống đối.
Tại sao vậy? Họ
biết đó là nghiệp nhân luân hồi. Hết ḷng muốn liễu sanh
tử, xuất tam giới chẳng phải là làm không
được, nếu ‘chắc thật niệm Phật’
th́ sẽ làm được, chúng ta phản tỉnh tự
hỏi ḿnh có ‘chắc thật’ hay không?
Chân
chánh xuất gia phải nói đến nguyện vọng
hoằng pháp lợi sanh, việc này sẽ bị chướng
ngại hay chăng?
Chướng ngại rất nhiều. Huynh đệ đại chúng
ở chung trong một đạo tràng, nếu bạn là
người muốn xuất sắc hơn kẻ khác,
người ta sẽ đố kỵ, gây chướng
ngại để d́m bạn xuống. Mức độ nghiêm trọng
của sự đố kỵ, chướng ngại này
đă bắt đầu từ thời đức Phật
Thích Ca, nhóm sáu tỳ kheo kết bè kết đảng [12]
(Lục Quần Tỳ Kheo) là thí dụ cho sự đố
kỵ chướng ngại này.
Trong ‘Lục Tổ Đàn Kinh’ [có nói] Lục Tổ
Huệ Năng đại sư phải trà trộn trong nhóm
thợ săn hết mười lăm năm, tại sao
vậy? V́ để tránh
sự đố kỵ chướng ngại của
những kẻ khác. Họ
chẳng thể thành tựu nên cũng không muốn ngài
được thành tựu.
Tại
sao người xuất gia c̣n những tâm niệm như
vậy? Đây là con cháu của Ma
Ba Tuần. Lúc Phật c̣n
tại thế không phải trong kinh đă ghi lại rơ ràng
hay sao: ‘Trong thời Mạt Pháp, Ma Vương Ba Tuần kêu
ma con, ma cháu đều xuất gia, đắp ca sa lên ḿnh
để phá hoại Phật pháp’, chắc họ là
những người này.
Nếu chúng ta có tâm niệm rằng: ‘Người khác
giỏi hơn ḿnh, họ làm sự nghiệp hoằng pháp
lợi sanh, ḿnh ganh ghét họ, ḿnh phải kiếm cách phá
đám, cản trở họ’.
Vậy th́ ḿnh đă là con cháu của Ma Vương,
chuyên làm việc phá hoại Phật pháp. Nếu có người chân chánh phát
tâm làm việc hoằng pháp lợi sanh, chúng ta sanh tâm hoan
hỷ, dốc toàn tâm toàn lực để giúp đỡ
họ, lo lắng cho họ, như vậy mới thực
sự là Phật tử.
Thế nên ngày nay chúng ta đă xuất gia, rốt
cuộc chúng ta là con cháu của Ma hay là con cháu của
Phật? Tự ḿnh phản
tỉnh, kiểm điểm th́ sẽ biết liền. Con cháu của Ma Vương xuất
gia quả báo tương lai nhất định sẽ
ở trong ba đường ác, v́ họ gây chướng
ngại cho đạo pháp chứ chẳng hoằng pháp ǵ
hết.
Thế
nên chân chánh phát tâm hoằng pháp lợi sanh th́ nhất
định phải có thiện xảo phương
tiện, đó tức là lúc tự ḿnh dụng công, tư
thế phải đặt ở những chỗ thấp
nhất, tốt nhất là dụng công đừng
để cho người khác biết. Ở những chỗ
người ta không thấy th́ ḿnh dụng công; những chỗ
người ta có thể thấy th́ ḿnh ḥa đồng
với đại chúng, ḥa ḿnh với mọi người,
hằng thuận chúng sanh tùy hỷ công đức. Ở những chỗ
người ta không thấy th́ tự ḿnh nỗ lực
gắng sức. Buông bỏ
hết thảy danh văn lợi dưỡng, tham - sân - si
- mạn, đố kỵ chướng ngại. Buông bỏ những thứ này
tức là buông bỏ lục đạo luân hồi, một
ḷng một dạ niệm Phật cầu sanh Tịnh độ,
khuyên người niệm Phật, đây là con đường
văng sanh thành Phật.
Hôm
nay nh́n người này chẳng ưa, ngày mai thấy
người nọ chướng mắt, chúng ta phải
biết như vậy là tạo nghiệp luân hồi. Hết thảy những ǵ trên
thế gian đều tùy hỷ, tự ḿnh làm tṛn bổn
phận của ḿnh, như vậy mới đúng, ngay
cả Khổng lăo phu tử cũng dạy tông chỉ này – ‘phải làm tṛn bổn phận
của ḿnh’. Bổn
phận tu học của chúng ta là y theo kinh Vô Lượng
Thọ, tu tập Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Chánh Giác, Từ
Bi; trong đời sống hằng ngày phải thực
hiện được Nh́n Thấu, Buông Xuống, Tự
Tại, Tùy Duyên. Thiện
Đạo đại sư dạy: ‘Hết
thảy phải làm từ tâm chân thật’, như vậy
mới đúng.
Chương
Gia đại sư dạy tôi, ở đây tôi cũng
tặng lại cho quư vị: ‘Người
học Phật cả đời này bất cứ việc
ǵ đều giao cho Phật, Bồ Tát, thần hộ pháp
an bài’. Bản thân ḿnh không
cần lo lắng ǵ cả, được như vậy
th́ tâm mới thanh tịnh, b́nh đẳng. Gặp cảnh thuận là do
Phật, Bồ Tát an bài; gặp cảnh nghịch th́
cũng do Phật, Bồ Tát an bài.
Do vậy trong cảnh thuận chẳng sanh tâm ưa
thích, trong cảnh nghịch cũng chẳng sanh phiền
năo. Hết thảy đều
do Phật, Bồ Tát xếp đặt một cách ổn
thỏa nhất, dùng công việc để luyện tâm,
thành tựu đạo nghiệp, vậy th́ đâu có
chuyện oán trời trách người.
2.
Năm trăm năm sau (Buổi
sáng 26-01-95)
Người
chân chánh cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới
phải có tâm thanh tịnh.
Nhưng chúng ta ai cũng là phàm phu chứ chẳng
phải thánh nhân, phàm phu vẫn c̣n phiền năo, tập khí
tích lũy từ vô lượng kiếp đến nay. Chúng ta sanh trong thời đại
này, thời đại ngày nay là thời đại ǵ? Là thời đại ‘đấu
tranh kiên cố’. Trong kinh Kim
Cang, Phật có nói đến ‘năm trăm năm sau’, [danh
từ này] có nhiều cách giải thích, một trong những
cách giải thích là năm lần năm trăm năm sau --
thời Chánh pháp dài một ngàn năm, Tượng pháp dài
một ngàn năm, Mạt Pháp mười ngàn năm; năm
trăm đầu tiên của thời Mạt Pháp tức là
năm trăm năm này.
Đức Phật nói đây là thời đại
đấu tranh kiên cố.
Năm
trăm năm thứ nhất – năm trăm năm
đầu tiên sau khi Phật diệt độ -- là
thời kỳ ‘giải thoát kiên cố’, lúc đó
người tu hành chứng quả rất nhiều, kinh
điển Phật pháp được kết tập trong
thời đại này, cho nên những vị tham dự
kết tập kinh điển tối thiểu cũng
chứng được Tam Quả trở lên, phần
đông đều là Tứ Quả A La Hán.
Năm
trăm năm thứ nh́ là thời kỳ ‘thiền
định kiên cố’.
Năm
trăm năm thứ ba là thời kỳ ‘đa văn kiên
cố’. Đa văn nghĩa là
chỉ chú trọng vào việc nghiên cứu, thảo
luận kinh giáo, giảng kinh thuyết pháp mà chẳng chú trọng
vào việc tu hành.
Năm
trăm năm thứ tư là thời kỳ ‘tháp tự kiên
cố’. Lúc đó chẳng c̣n
tinh thần để thảo luận về Phật
học, mọi người đều bận rộn công
việc xây dựng chùa miếu.
Năm trăm
năm thứ năm là thời kỳ ‘đấu tranh kiên
cố’. Dựa vào sự ghi
chép trong lịch sử Trung Quốc, đức Phật
Thích Ca Mâu Ni diệt độ đến nay (1995) là ba ngàn
lẻ hai mươi mốt năm (3021 năm), cũng
tức là mở đầu của năm trăm năm
thứ bảy. Đây là thời
kỳ đấu tranh, đấu tranh không ngừng. Chúng ta suy nghĩ kỹ xem có
chỗ nào chẳng đấu tranh?
Thật ra lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n
tại thế có hết thảy chín mươi sáu nhóm
ngoại đạo đối lập với Phật pháp;
c̣n trong Phật môn có Đề Bà Đạt Đa, nhóm sáu tỳ kheo
kết bè kết đảng nhiễu loạn Tăng
đoàn, phá ḥa hợp tăng, thậm chí c̣n muốn ám
hại đức Phật Thích Ca.
Ngoài ra nh́n lại lịch sử Trung Quốc có
đạo tràng nào chẳng có đấu tranh? Trong đạo tràng có rồng
rắn lẫn lộn, có người tu hành tốt và
cũng có người cốt ư muốn phá hoại, đây
là chuyện bất cứ đoàn thể nào cũng
chẳng tránh khỏi. Đây là
một sự bất hạnh của nhà Phật và cũng
là hiện tượng chúng sanh phải gặp nạn và
chịu khổ.
3. Công việc của người
xuất gia
(Buổi sáng 29-01-95)
Tại
sao phải phát tâm xuất gia?
Học Phật th́ tại gia cũng có thể thành
Phật. Xuất gia là v́
chủ tŕ Phật pháp, tiếp nối huệ mạng
của Phật, hoằng pháp lợi sanh, phát triển
Phật pháp, đem lại lợi ích chân thật cho chúng
sanh, đây mới là công việc của người
xuất gia. Nếu mỗi
người xuất gia đều có tâm niệm này th́ Đài
Loan sẽ thành ḥn đảo trân quư, phước
địa thật sự.
Trong thời đại này nếu chẳng thật
sự làm được sự nghiệp lợi ích chúng
sanh th́ nhất định sẽ làm sự nghiệp
đấu tranh – tranh danh đoạt lợi, chẳng
thể nhường nhịn lẫn nhau, ḱnh chống
lẫn nhau và tạo nên những tội nghiệp này.
Nếu
chúng ta đă xuất gia rồi nhưng chẳng thể tín,
giải, thực hành theo lời giáo huấn của
đức Phật, th́ chúng ta sẽ là con cháu của Ma
Vương, trong thời kỳ Mạt Pháp trộn lẫn
trong tăng đoàn để hủy hoại Phật
pháp. Tuy trước mắt có
được một chút lợi ích -- lợi ích là danh
văn lợi dưỡng, hưởng thọ ngũ
dục lục trần, nhưng đời sau nhất
định sẽ đọa vào địa ngục A
Tỳ.
Công việc
hoằng pháp lợi sanh chỉ cần có tâm muốn làm th́
ai cũng có khả năng làm, đều có thể làm
được viên măn, nếu chẳng làm th́ cũng không có
cách ǵ khác.
4.
Chánh tri chánh kiến (Buổi
sáng 06-02-95)
Tri
kiến quan trọng nhất là chánh tri chánh kiến. Tổng cương lănh tu hành
của pháp môn niệm Phật là ‘Phát
Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm’. Phát Bồ Đề tâm là chánh tri chánh
kiến, thế nên nếu chẳng phát Bồ Đề tâm th́
dù đă làm được nhất hướng chuyên
niệm nhưng cũng rất khó văng sanh, điểm này
rất quan trọng. Thực
tại mà nói nếu chẳng có chánh tri chánh kiến, tuy có
nhất hướng chuyên niệm th́ cũng rất khó thành
tựu. V́ ‘nhất’ là nhất
tâm, tâm có tạp niệm th́ chẳng là nhất tâm, niệm
A Di Đà Phật mà có xen tạp, tuy buông xuống những pháp
môn khác th́ h́nh như là có nhất tâm chuyên niệm nhưng
thật sự chẳng phải, bạn c̣n xen tạp
vọng tưởng, c̣n xen tạp phiền năo nên vẫn
không thể thành tựu. Do
đó tri kiến vô cùng quan trọng trong sự tu hành.
Nếu
dùng ngôn ngữ hiện nay mà nói th́ ‘tri kiến’ có nghĩa là
‘nhận thức’ -- nhận thức đối với
Phật pháp, nhận thức về thế gian pháp. Có nhận thức chính xác tức
là chánh tri chánh kiến.
Phật pháp trong thế gian giáo hóa chúng sanh chẳng có
ǵ khác ngoài việc giúp chúng sanh xây dựng chánh tri chánh
kiến, một khi đă có chánh tri chánh kiến th́ tu hành
rất dễ. Tu hành là
việc của mỗi người, nếu mỗi
người tu hành không thể khắc phục phiền năo
và tập khí th́ vấn đề vẫn ở tại tri
kiến. Cho nên vừa mở
đầu kinh Pháp Hoa đức Thế Tôn liền chỉ
rơ tông chỉ của sự giáo học: ‘Khai thị ngộ nhập Phật chi tri kiến’. Đức Phật khai thị cho chúng
ta, chúng ta phải có khả năng ngộ nhập. ‘Ngộ’ tức là minh liễu,
hiểu rơ, ‘nhập’ tức là thực sự làm
được. Và cũng có
nghĩa là ‘dung hóa’ chánh tri chánh kiến, có thể ḥa thành
một thể với đời sống của ḿnh th́
gọi là ‘dung hóa’, tục ngữ gọi là chứng
quả, ‘nhập’ nghĩa là chứng.
Chúng
ta tu học cũng phải có mục tiêu và tiêu chuẩn rơ
ràng. Mỗi năm phải
tiến bộ hơn năm trước th́ thời gian
mới chẳng uổng phí.
Người học Phật có thể dùng hai
điều sau đây để tự kiểm điểm
và phản tỉnh coi ḿnh có tiến bộ hay không:
Thứ
nhất là khai mở trí huệ và cũng là điều
đă nói ở phía trước, chánh tri chánh kiến càng ngày
càng rơ ràng, thông suốt.
Những đạo lư nói trong kinh năm nay rơ ràng
hơn năm ngoái, lănh ngộ được nhiều
hơn.
Thứ nh́ là
đoạn phiền năo.
Vọng tưởng, phiền năo, và tập khí ít
hơn lúc trước. Nếu
trí huệ chẳng tăng trưởng, phiền năo
tập khí vẫn c̣n rất nặng th́ cả năm nay
đă trôi qua một cách vô ích, uổng phí.
5.
Hoằng pháp (Buổi
sáng 09-02-95)
Tu học Phật pháp, hoằng dương
Phật pháp muôn vàn chẳng thể lấy danh nghĩa
Phật pháp để lừa gạt chúng sanh, để t́m
cầu danh văn lợi dưỡng, tham đắm
hưởng thọ ngũ dục lục trần, nếu
làm như vậy là sai lầm.
Cho dù trước mắt có thể tham được
một chút tiện nghi nhưng đời sau nhất định
phải đọa địa ngục A Tỳ, đạo lư
và sự thật này mọi người đều
chẳng khó hiểu. Do đây
có thể biết hết ḷng tu học, dũng mănh tinh
tấn là một điều tất yếu.
Hoằng
dương Phật pháp th́ tự ḿnh nhất định
phải làm gương tốt, phải nhận thức rơ
ràng thời đại này, phải có trí huệ, thiện
xảo phương tiện, làm cho hết thảy chúng sanh
tín thọ phụng hành dễ dàng, được vậy
th́ đời này mới chẳng luống uổng.
Chúng
ta giúp đỡ người khác, bất luận là cá nhân,
đoàn thể, hay đạo tràng đều phải ghi
nhớ lời dạy của đại sư Thiện
Đạo: ‘Hết thảy phải làm với tâm chân
thật’, chẳng thể giả dối. Sự khác biệt giữa
Phật pháp và Thế pháp là ở chỗ chân và giả,
Phật pháp là chân thật, tâm là chân thật, cho nên hết
thảy đều là chân thật.
Tâm người thế gian là hư vọng giả
dối nên hết thảy đều là hư vọng,
đây cũng tức là: ‘vạn
pháp duy tâm, vạn pháp duy thức’.
6.
Đời sống của
người xuất gia
(Buổi sáng11-02-95)
Trong thời kỳ Mạt Pháp, hoàn cảnh sinh
sống của người xuất gia khác hẳn với
lúc trước, hoàn cảnh sinh sống của
người xuất gia lúc trước có bảo
đảm. Giống như
ở Trung Quốc đại lục ngày xưa, tự
viện am đường đều có hằng sản, có
ruộng đất, có rừng núi, có thể cho nông phu
mướn ruộng đất trồng trọt, do tự
viện thâu tiền mướn đất nên nguồn
lương thực của đạo tràng rất ổn
định, có tài nguyên kinh tế nên tâm thanh tịnh, tâm
định, chẳng phải chiều theo thị hiếu
của tín đồ, tu hành cũng thành tựu dễ dàng
hơn.
Trong xă hội ngày nay chùa chiền không có thâu
nhập, chẳng có hằng sản, hoàn toàn phải nhờ
tín đồ cúng dường.
V́ vậy nên xem tín đồ như là ‘y thực
phụ mẫu’ (cha mẹ cung cấp thức ăn áo
mặc), t́m đủ mọi cách để lung lạc tín
đồ, cũng v́ vậy nên tâm phan duyên rất nặng
và đạo tâm lơ là, tâm chẳng thanh tịnh, tâm đă
bị ô nhiễm, đây là hoàn cảnh tu học ngày nay
của chúng ta chẳng sánh bằng người đời
xưa. Đây cũng là lư do
tại sao ngày nay người tu hành nhiều nhưng thành
tựu rất ít. Nếu chúng
ta muốn thành tựu ngay trong một đời này th́
phải hiểu rơ những vấn đề này, phải
rất minh bạch, chẳng thể phạm sai lầm. Thế nên đạo tràng
chẳng cần phải lớn, càng nhỏ càng tốt, chi
phí ít th́ sanh hoạt dễ dàng hơn; c̣n có khả năng
dư thừa th́ phải tận tâm làm công việc hoằng
pháp lợi sanh.
‘Đạo’ tức là tâm thanh tịnh, nhất
định phải ghi nhớ điều này. Đề kinh của kinh Vô
Lượng Thọ là ‘Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Giác’,
đây tức là Đạo, chúng ta tu hành là tu việc này. Hễ những ǵ nhiễu
loạn tâm thanh tịnh, phá hoại tâm thanh tịnh
đều là chướng ngại, đều là ma. Nếu chúng ta ngăn ngừa
cẩn thận th́ sẽ có thêm ‘tăng thượng duyên’ [13]
để hướng về Đạo, cho dù đang ở
trong thời loạn cũng có thể thành tựu
được. Nếu
chẳng để ư th́ tập khí, bịnh cũ của
chúng ta sẽ tái phát, tương lai nhất định
sẽ đọa lạc.
Đă
phát tâm xuất gia rồi chúng ta nhất định
phải biết [nếu đọa lạc th́] sự
đọa lạc của chúng ta sẽ nặng hơn và thê
thảm hơn người thế gian rất nhiều. Người thế gian mê hoặc
điên đảo, đọa lạc th́ vẫn c̣n có
thể tha thứ được; chúng ta ngày ngày
được nghe Phật pháp, đều có tŕnh độ
hiểu biết tương đối khá nhiều
đối với sự thật và đạo lư của
nhân duyên quả báo, đă biết rơ rồi mà c̣n cố
phạm cho nên tội lỗi sẽ tăng gấp bội,
c̣n nặng hơn những người thường
phạm lỗi rất nhiều, đây là lư do tại sao
chúng ta chẳng thể không cẩn thận, chẳng thể
không hiểu rơ.
7.
Văng sanh (Buổi sáng 11-02-95)
Chúng ta phải niệm niệm nhớ về
cố hương (quê hương), cố hương
là y báo, chánh báo trang nghiêm ở Tây phương Cực
Lạc thế giới.
Phải ghi nhớ chuyện này trong ḷng, những
chuyện khác chẳng có liên hệ ǵ đến ta, phải
luôn luôn mong muốn trở về quê hương, cái tâm
niệm muốn văng sanh này là chánh niệm.
Phần đông người thế gian không hiểu,
cứ cho rằng: ‘Tại sao người này cứ
muốn chết hoài?’. Đây là
quan niệm sai lầm của người thế gian. Văng sanh là sống mà đi chứ
chẳng phải chết, vả lại c̣n là ‘sống măi’
-- sẽ chẳng c̣n sanh tử, chẳng c̣n luân hồi
nữa. Cho nên đó mới là
sự mở đầu của sự ‘sanh’; nếu
chẳng thể văng sanh th́ sẽ có sanh tử. Trong nhà Phật chúng ta
thường nói: ‘Pháp thân huệ mạng’. Văng sanh là bắt đầu
chứng được Pháp thân huệ mạng, là sự
bắt đầu của chân thường, chẳng
phải vô thường, c̣n ở thế gian này đều
là vô thường. Chúng ta
phải luôn luôn có cái tâm này, có ư niệm này, như vậy
mới tốt.
‘Thế
duyên’ tức là làm lợi ích cho chúng sanh. Tuy phước báo của chúng ta
rất mỏng, mỏng cũng chẳng thành vấn
đề, cho dù chỉ là một chút thí xả, nhưng
đó đích xác là lợi ích chân thật, đó cũng là
công đức viên măn.
8.
Ma chướng (Buổi sáng
09-05-95)
Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên nói rất hay: ‘Họa
hay phước chẳng có lối vào, chỉ có
người tự chiêu cảm lấy’[14]. Nếu chúng ta trong đời
sống sanh hoạt hằng ngày, vô ư hay cố ư mắc
lỗi [gây xích mích] với người ác sẽ đem
đến những quả báo chẳng vừa ư, th́
người tu hành chúng ta sẽ có nhiều ma chướng
trên đường tu học Bồ Tát đạo. ‘Ma chướng’ là những
chuyện cản trở do những người hay việc
mà ḿnh có xích mích, đụng chạm làm nên. Nếu chẳng mắc lỗi [xích
mích] với người th́ ma chướng sẽ ít. Mắc lỗi với
người nhiều th́ ma chướng sẽ nhiều.
Chúng ta phải khắc phục tâm sân
khuể của ḿnh, khắc phục ḷng đố kỵ,
chướng ngại của ḿnh.
Đây đều là phiền năo tích lũy từ nhiều
kiếp trước, khi thấy người khác giỏi
th́ trong ḷng chẳng vui; khi nh́n người khác có thành
tựu th́ ḿnh rất khó chịu, liền t́m đủ
mọi cách để phá hoại người ta, gây trở
ngại phá rối người khác, đâu biết đó là
giúp họ thành tựu tâm nhẫn nhục, thành tựu cho
định - huệ của họ, chỉ đem lại
cho ḿnh nhiều điều chẳng như ư mà
thôi. V́ chuyện bạn đă
tạo là ‘tánh tội’, tội này sanh từ tâm ác, bản
thân của nó đă là tội, cho dù người ta chẳng
báo phục th́ tự ḿnh cũng sẽ chịu lấy báo
ứng.
9.
Chánh tri chánh kiến (Buổi
sáng 09-05-95)
Tông Thiên Thai có câu: ‘Có
thể nói mà không thể làm là quốc sư; có thể nói và
cũng có thể làm là quốc bảo’ [15],
ư nghĩa của hai câu này là điều mà đức
Phật thường nói đến trong kinh; người
phá giới c̣n có thể cứu được, phá kiến (người
có tri kiến sai lầm) th́ chẳng thể cứu được.
‘Có thể nói mà không
thể làm’ là phá giới -- người đó biết nói
nhưng làm chẳng được, những ǵ họ nói
đều đúng, nói chẳng sai, tri kiến là chính xác, cho
nên người này vẫn c̣n có thể cứu
được. Giả sử
[người này] tŕ giới rất nghiêm mật, làm rất
tốt, nhưng tri kiến sai lầm th́ chẳng thể
cứu nổi. Thí dụ
chư Phật Như Lai, lịch đại tổ sư
đại đức đều dạy chúng ta phải nên
cầu sanh Tịnh độ, không những người
niệm Phật phải cầu sanh Tịnh độ, tu
học bất cứ pháp môn nào đến cuối cùng
cũng nên hồi hướng cầu sanh Tịnh
độ, kiến giải này tức là chánh tri chánh
kiến.
Tự ḿnh có thể
một ḷng một dạ cầu sanh Tịnh độ và
c̣n giới thiệu chánh pháp cho mọi người,
người như vậy tức là quốc bảo. Cho nên làm thế nào hoằng pháp
lợi sanh mới có hiệu quả tự độ,
độ tha? Phải đem
lời dạy trong kinh thực sự làm được
trong đời sống hằng ngày. Nếu làm chẳng
được, tuy những chuyện ḿnh nói là chánh pháp th́
cũng chẳng nói được thấu suốt,
triệt để. Tại sao
sẽ không thấu triệt?
V́ đó chẳng phải sự thể nghiệm
của chính ḿnh mà chỉ là những ǵ ḿnh nghe
được; dù cho biết được từ trong
kinh th́ cũng thuộc về ‘chuyện ḿnh nghe
được’ – là nghe đức Phật Thích Ca nói, nghe
chư Bồ Tát nói, chẳng phải là do ḿnh đích thân
nh́n thấy. Phải làm sao
mới có thể đích thân nh́n thấy? Phải tự ḿnh đích thân làm,
phải đoạn ác tu thiện, tích công lũy
đức, phải mỗi ngày phản tỉnh, kiểm
điểm lỗi lầm của ḿnh. Chúng ta đều đă
đọc cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn, ông Viên
Liễu Phàm là một tấm gương rất tốt.
Học
vi nhân sư hành vi thế phạm
Tập
2
Ḥa thượng Tịnh Không thuyết giảng
Đây là những bài khai
thị buổi sáng của ḥa thượng Tịnh Không cho
đồng tu khắp nơi, chưa được ḥa
thượng giám định.
Chỉ là do nhóm ghi chép bài giảng đích thân nghe
băng thâu âm, ghi lại những điểm chính yếu,
chỉnh lư cho gọn rồi viết thành bài nháp này
để cúng dường độc giả.
A. KHAI
THỊ VỀ PHƯƠNG PHÁP TU TR̀
1. Đến cũng không
không, đi cũng không không (Buổi sáng 21-11-98)
Tôi
cùng Lư hội trưởng đi thăm lăo cư sĩ
Hồng Cung Lan và tặng cho ổng một xâu chuỗi. Lăo cư sĩ nói lúc b́nh
thường ông có rất nhiều vọng niệm, sau khi
có được xâu chuỗi này th́ vọng niệm ít
đi. Ông nằm mộng
thấy một nam một nữ đến thăm ông,
họ nói là do Ngọc Hoàng Đại Đế phái đến
để bảo hộ cho ông, khuyên ông phải nhẫn
nại, và nói: ‘Đến cũng không
không, đi cũng không không’. Cả đời lăo cư sĩ
Hồng chẳng có tâm nhẫn nại, tính t́nh nóng nảy;
nghe xong, ông hiểu được và rất hoan hỷ. Sau khi ông tỉnh dậy th́ hai
người này biến mất.
Ông nói ông đă tám mươi tuổi rồi, nhất
định không lừa gạt người, đây là
cảnh giới thật.
‘Đến cũng không không, đi cũng không không’,
hai câu này nói toạc hết nghĩa thú của kinh Bát
Nhă. Không những trước
lúc chúng ta đến đă không không, đi rồi cũng
không không, hiện tại [chẳng phải] cũng không
không đó sao? Đức Phật
nói chân tướng sự thật là như ‘mộng,
huyễn, bọt, bóng’.
Mộng, huyễn, bọt, bóng đều chẳng chân
thực, đều là giả tướng, thời gian
giả tướng này tồn tại rất ngắn, trong
kinh h́nh dung ‘như sương, như ánh chớp. Như sương là nói
tướng tương tục -- tiếp nối, như
ánh chớp là nói ‘sát na tế’ -- rất nhanh, nói rơ thật
tướng chư pháp đích thật như vậy. Người hiểu rơ và giác
ngộ th́ được xưng là Phật, Bồ Tát;
người mê hoặc và chẳng giác ngộ cho rằng
chuyện này không thật, đây là phàm phu. Cho nên sự sai khác giữa
Phật, Bồ Tát và phàm phu là ở tại một niệm
giác hay mê. Người giác
ngộ trong mộng, huyễn, bọt, bóng được
tự tại, người mê hoặc th́ rất đau
khổ.
Do
đó có thể biết đây là ‘duyên sanh’, duyên khởi tánh
không. Nghiệp duyên rất
phức tạp, gồm có ba thứ: thiện, ác, và vô kư (vô kư là chẳng thiện, chẳng ác). Chỉ có người giác ngộ
chân chánh mới có thể vận dụng một cách thích
hợp, giúp đỡ những chúng sanh chưa giác ngộ
có thể khai ngộ, đây tức là chư Phật,
Bồ Tát phổ độ chúng sanh. Hiểu rơ chư pháp là vô sở
hữu, ‘không không’ cũng là vô sở hữu, liễu
bất khả đắc (trọn chẳng
thể có được); cái tâm niệm có
thể đắc và những vật đắc
được đều là ‘không không’, tâm chúng ta mới
chân chánh trở lại b́nh tịnh, trở lại thanh
tịnh, b́nh đẳng. Thanh
tịnh b́nh đẳng là chân tâm bản tánh của chúng ta,
và cũng là ‘minh tâm kiến tánh’ nói trong Tông Môn, [hiểu
được như vậy] chúng ta mới
thể hội tại sao cả đời giảng kinh
thuyết pháp, Thế tôn phải dùng hết hai mươi
hai năm để giảng kinh Bát Nhă là v́ hết thảy
chúng sanh chẳng biết chân tướng sự thật,
chẳng biết các pháp đều không, chẳng thể
hành Bồ Tát đạo.
Bồ Tát đạo là con đường giác ngộ,
phàm phu đi con đường mê hoặc nên mới
xuất hiện thập pháp giới, lục đạo, tam
đồ. Mê nặng th́ là
hiện tượng tam đồ, nhẹ hơn th́ là
lục đạo, nhẹ hơn nữa là tứ thánh pháp
giới. Hết thảy tam
đồ, lục đạo, tứ thánh pháp giới
đều là mê, đều chẳng khế nhập vào ‘lư
không’, khế nhập vào ‘lư không’ th́ sẽ chứng
được Nhất Chân pháp giới.
Nhất
Chân cũng là danh tướng nói một cách miễn
cưỡng, nếu chúng ta chấp trước có một
cái ‘Nhất’, chấp trước có một cái ‘Chân’ th́
cũng sai luôn. Đối
ngược của một là nhiều, đối
ngược của chân là giả, Huệ Năng
đại sư nói: ‘Một và nhiều,
chân và giả là Nhị pháp, Nhị pháp chẳng phải
Phật pháp’. Cho
nên chẳng có ư niệm của ‘nhất’, của ‘chân’ th́
mới thực sự là Nhất Chân pháp giới. Do đó có thể biết vừa
khởi tâm động niệm một chút th́ đă sai
mất rồi.
Học
Phật th́ phải học như thế nào? Tông Môn thường nói: ‘Tu từ
căn bản’, căn bản tức là một niệm
chẳng sanh, tâm địa thanh tịnh chẳng khởi
một tâm niệm ǵ hết.
Nếu nghĩ: ‘hiện giờ một niệm
cũng chẳng sanh’ th́ đă sanh lên cái tâm ‘một niệm
chẳng sanh’, vậy th́ cũng sai rồi. Lúc mới bắt đầu
học, Tông Môn dùng phương pháp ngồi xếp bằng
quay mặt vào vách để tập ‘không
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước’. Sau khi học thành công rồi th́
phải thao luyện trong đời sống, khi lục
căn tiếp xúc cảnh giới lục trần phải
không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt,
không chấp trước, vậy th́ mới thành công, lúc
bấy giờ mọi cảnh giới đều là
Nhất Chân pháp giới.
Nhất Chân pháp giới chẳng tách ĺa thập pháp
giới, lục đạo, tam đồ; làm sao có thể gọi
là Nhất Chân pháp giới? Do
chuyển biến nơi tâm, chuyển biến ở chỗ
nhận biết, nhận thức chân tướng của
cảnh giới, tức là nhận thức được
chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Ư
nghĩa của câu ‘Đến cũng không không, đi cũng
không không’ rất sâu, nếu nhận thức rơ th́ sẽ
rất vui vẻ mà nắm lấy duyên, thành tựu vô
lượng công đức, đó là tích công lũy
đức. Phàm phu nhận
lầm cảnh giới, tạo thành tội nghiệp
nhưng chẳng phải là cố ư tạo tội. Đức Phật nói nguồn
gốc của hết thảy tội nghiệp là ngu si, si
tức là chẳng hiểu rơ chân tướng sự
thật nên làm sai, dùng duyên sai lầm. Người giác ngộ hiểu rơ
chân tướng sự thật nên khi khởi tâm
động niệm, hết thảy hành động
đều là tích công lũy đức. Tích công lũy đức là khái
niệm của người thế gian, người giác
ngộ chẳng có tâm niệm này.
Chúng sanh trong thập pháp giới có tâm niệm này,
Phật, Bồ Tát trong Nhất Chân pháp giới chẳng có
tâm niệm này, đó là ‘làm mà không làm, không làm mà làm’.
Chúng
sanh có ‘cảm’ th́ Phật, Bồ Tát liền ‘ứng’,
tự nhiên cảm ứng đạo giao, nhất
định chẳng có khởi tâm động niệm. Cổ đức dùng thí dụ
đánh khánh, gơ khánh thí dụ cho cái ‘cảm’ của chúng
sanh, âm thanh phát ra từ cái khánh thí dụ cho sự ‘ứng’
của Phật, Bồ Tát. Trên
thực tế cái ‘ứng’ của Phật, Bồ Tát là
cảm ứng của tự tánh.
Chúng ta xem Phật, Bồ Tát thành người, xem
hết thảy các pháp thành thực thể, tinh nghĩa
của Đại thừa chúng ta chẳng có cách nào thể hội
được nên chẳng biết hết thảy sự
vật trong tận hư không trọn khắp pháp giới
đều là tự tánh.
Người giác ngộ trong Tông Môn thường nói: ‘Đâu
cũng là đạo, trái phải đều về
nguồn’ [16],
câu này nói toạc chân tướng sự thật, hư không
pháp giới đều chỉ là một cái tự tánh mà
thôi. Tự tánh là năng
biến (chủ thể có thể biến),
cảm ứng là sở biến (cái
được biến), chỗ nào có
cảm th́ chỗ đó có ứng, cảm ứng
đạo giao, tơ hào chẳng sai. Lư Sự của cảm ứng
sâu rộng vô cùng, chúng ta
phải thể hội kỹ càng, sau khi hiểu rơ th́
sẽ biết học Phật như thế nào, làm
người như thế nào, làm thế nào sinh sống qua
ngày, đạt được hạnh phúc chân chánh mỹ
măn.
Thế pháp nói đến
‘chân - thiện - mỹ - huệ’, Phật pháp nói đến
‘thường - lạc - ngă - tịnh’, những thứ này
đều là thật; nhưng chúng sanh trong thập pháp
giới chẳng có, Phật, Bồ Tát trong Nhất Chân pháp
giới mới có; cũng có thể nói người khởi
tâm động niệm chẳng có, người không
khởi tâm động niệm mới có. Phật thí dụ tâm như
nước, lúc nước b́nh tịnh chẳng khởi
sóng giống như một cái kiếng, soi những cảnh
giới bên ngoài rơ ràng, nước này ví như chân -
thiện - mỹ - huệ, thường - lạc - ngă -
tịnh. Nhưng lúc
nước khởi sóng tuy vẫn có thể chiếu soi
cảnh giới nhưng rời rạc, tan nát, cho nên chân
thiện mỹ huệ, thường lạc ngă tịnh
cũng mất luôn. Từ đây
có thể biết dù tâm của Phật, Bồ Tát ứng hóa
trong lục đạo, tùy loại hiện thân, tùy cơ
thuyết pháp nhưng vẫn b́nh tịnh. Lúc thuyết pháp th́ ‘nói mà chẳng
nói, chẳng nói mà nói’, lúc thị hiện th́ ‘hiện mà
chẳng hiện, chẳng hiện mà hiện’ vĩnh
viễn trụ trong cảnh giới nhất chân, tâm vĩnh
viễn giữ được b́nh tịnh như
nước. Tự tánh công
đức tức là ánh sáng của nước có thể
chiếu kiến hết thảy vạn pháp. Trong thập pháp giới càng đi
xuống th́ cường độ rung động của
làn sóng tâm càng lớn, càng lên trên th́ làn sóng càng nhỏ. Đến lúc nào trong cảnh giới
tâm chẳng động nữa, dùng kinh Hoa Nghiêm mà nói th́
mức thấp nhất là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát,
lúc đó Bát Nhă, giải thoát, pháp thân của tự tánh
sẽ hiện tiền.
2.
Phương pháp khai ngộ (Buổi
sáng 24-11-98)
Cách dạy học
thời xưa trong Phật pháp và thế pháp đại khái
tương đồng, đều theo quan niệm dùng
phương cách khơi gợi, chú trọng ngộ tánh
của học sinh. Cách dạy
học của nhà Phật là nhằm giúp đỡ học
sinh khai ngộ, cách dạy học của Nho gia, Đạo gia
cũng vậy, chẳng đề xướng cách học
kư vấn [17],
đích thật chẳng giống với cách dạy học
ngày nay. Ngày nay chú trọng cách
học thuộc ḷng và học tràn lan nhiều môn để
tích tụ thường thức phong phú, đây là thuộc
cách học kư vấn.
Người xưa chú trọng học thuộc ḷng
nhằm mục đích tu định, chứ không coi
trọng kư ức; người xưa dùng cách học thuộc ḷng
để đoạn dứt vọng tưởng, phân
biệt, khôi phục tâm thanh tịnh, đây là phương
pháp khai mở cánh cửa khai ngộ tốt nhất. V́ cánh cửa khai ngộ bị
bế tắc nên chúng sanh chẳng thể khai ngộ, nếu
dẹp bỏ phân biệt và chấp trước th́ trí
huệ sẽ hiện tiền, đó tức là ‘mở tung
cái nút chặn’ (mao tắc đốn khai).
Do đây có thể
biết phân biệt chấp trước càng nghiêm trọng
th́ càng chẳng thể khai ngộ; phân biệt chấp
trước nhẹ mỏng th́ dễ khai ngộ hơn, đây
là lư do tại sao thế pháp và Phật pháp đều coi
trọng ‘một môn thâm nhập’.
Trong một giai đoạn nào đó, chẳng kể
là học tŕnh dài ngắn, chỉ cho phép học một môn,
bất kỳ khóa tŕnh của một môn nào cũng mong
cầu có chỗ ngộ, ngộ nhập trong một môn này
th́ sự dạy học thành công.
Ngược lại nếu chẳng có lănh ngộ,
chẳng khai ngộ, sự dạy học này
được kể là thất bại. Do đó giáo học đích
thực chú trọng trên trí huệ và đức hạnh,
người sơ học th́ đức hạnh
đứng hàng đầu, trí huệ đi sau. Một người có trí huệ
nhưng chẳng có đức hạnh rất dễ tạo
nên chuyện ác to lớn, gây hại xă hội, thế nên
đức hạnh đứng hàng đầu. Vừa có đức hạnh
lẫn trí huệ th́ làm việc ǵ cũng là đại
phước, có thể đem lợi ích cho xă hội,
lợi ích cho chúng sanh.
Giáo học của
nhà Nho lấy Khổng Lăo Phu Tử làm tiêu chuẩn,
Khổng Lăo Phu Tử dạy bốn khoa: thứ nhất là
đức hạnh, thứ nh́ là ngôn ngữ, thứ ba là
chánh sự (năng lực kỹ thuật), thứ tư là
văn học. Lúc đức
hạnh và kỹ năng đă được thành tựu,
nếu có dư sức lực th́ mới học văn
học nghệ thuật, đề cao đời sống
tinh thần. Thứ tự này
rất hợp lư, giáo học của nhà Phật cũng
chẳng ngoại lệ, là đoạn phiền năo
trước sau đó mới học pháp môn; đoạn
phiền năo tức là đức hạnh, học pháp môn
tức là chánh sự. Tuy trên
phương thức vận dụng có thể biến hóa
nhưng nguyên lư và nguyên tắc th́ vĩnh viễn chẳng
biến đổi, đó là triết lư giáo dục.
Xă hội ngày nay có
thể nói là hoàn toàn chẳng giống ngày xưa. Nếu quan niệm giáo học và
nguyên tắc sanh hoạt ngày xưa có thể thích ứng và
dung hợp với thời đại hiện nay th́ chúng
sanh sẽ thực sự đạt được
hạnh phúc. Đây cũng là
điều những người có ḷng tốt, trong
Phật pháp gọi là những Bồ Tát có tâm đại
từ bi muốn t́m cách giúp đỡ chúng sanh. Thế nên Bồ Tát nhất
định phải thông suốt hết thảy pháp trong
thế gian mới có thể làm thầy của trời và người,
mới có năng lực chỉ đạo xă hội, giáo
hóa chúng sanh. Năng lực này
tức là trí huệ chân thật và thiện xảo
phương tiện. Chân
thật trí huệ là thể, thiện xảo phương
tiện là vận dụng, nếu chẳng có chân thật
trí huệ th́ chẳng thể vận dụng
được thiện xảo phương tiện.
Lấy thí dụ:
Xă hội thời xưa truy cầu ḥa b́nh, xă hội ngày nay
lại khuyến khích cạnh tranh, bề ngoài hai bên hoàn toàn
xung đột th́ phải làm thế nào để dung hợp? Nói từ mặt Lư th́ dung hợp
nhất định có thể làm được v́ cả
hai đều cùng chung một pháp tánh. Kinh Đại thừa nói tận
hư không trọn khắp pháp giới đều
cùng chung một lư thể, ngay cả pháp giới địa
ngục và pháp giới Phật cũng có thể dung hợp,
huống ǵ là những pháp giới khác? Do đó trên mặt Lư như
vậy th́ trên mặt Sự đương nhiên cũng có
thể làm được. Trên
Sự tướng chúng ta gặp phải khó khăn, nguyên
nhân ở tại phân biệt, chấp trước. Đặc biệt là ngă chấp
nặng nề, niệm niệm đều v́ ‘lợi ích
của tôi’, người nào cũng chấp trước
‘lợi ích của tôi’, đây là cội rễ của
vấn đề, tạo thành chẳng thể dung ḥa
lẫn nhau, và cũng tạo nên vô lượng vô biên
tội nghiệp. Nếu ‘tôi’
là thật th́ c̣n có thể chấp nhận được;
nào ai biết cái ‘tôi’ này chỉ là một khái niệm
trừu tượng, hư giả mà thôi.
Khóa tŕnh cơ
bản của Pháp Tướng Tông là ‘Bách Pháp Minh Môn
Luận’, tŕnh độ của bộ luận này rất
cao, là chỗ nhập môn của pháp Đại thừa, nói rơ
về chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Bộ luận này thuộc về
‘Tông Kinh Luận’, giải thích rơ tông chỉ của
[những ǵ] đức Phật nói, trên thực tế là
giải thích một câu nói của đức Phật. Đức Phật nói: ‘Hết thảy pháp vô ngă’, Bách Pháp Minh
Môn Luận lấy câu này làm tông chỉ, quy nạp hết
thảy pháp thành một trăm pháp, bách pháp này tức là
hết thảy pháp. ‘Vô ngă’ nói
rơ ‘người vô ngă’, ‘pháp vô ngă’, nếu có thể khai
ngộ hai việc này th́ sẽ hoàn toàn buông xuống ngă
chấp và pháp chấp, liền có thể siêu phàm nhập
thánh. Phàm phu chấp
trước có ngă, có pháp; Phật, Bồ Tát th́ giác ngộ
‘vô ngă và vô pháp’ nên Phật, Bồ Tát trong y báo, chánh báo trang
nghiêm của thập pháp giới có thể ‘lư sự vô
ngại, sự sự vô ngại, viên dung tự tại’.
Chúng sanh chấp
trước có ngă, có pháp th́ vĩnh viễn sẽ không
thể giải thoát, vĩnh viễn chịu sanh tử luân
hồi, khổ chẳng thể tả nổi. Người mê hoặc chẳng
hiểu chân tướng sự thật này, chỉ có
người giác ngộ hiểu được. Cho dù học tập Phật pháp,
nghiên cứu Phật pháp, nhưng họ vẫn c̣n chấp
trước ngă và pháp, vẫn c̣n khen ḿnh chê người (tự tán hủy tha). Đây là v́ c̣n ngă chấp, chẳng
biết chư pháp b́nh đẳng, chư pháp không tịch,
chư pháp duyên sanh nên mới có hành vi này. Phàm những pháp duyên
sanh đều chẳng có tự thể, chẳng có tự
tánh, ‘đương thể tức không, liễu bất
khả đắc’.
Tướng th́ có mà Thể th́ không, Sự th́ có mà Lư
th́ không cho nên Tướng là huyễn tướng, Sự
như mộng, huyễn, bọt, bóng, đây đều là
chân tướng sự thật.
Sau khi hiểu rơ
chân tướng rồi th́ tâm sẽ định, sẽ
thanh tịnh; lúc đó sự cảm thọ, hưởng
thọ trong Phật pháp được gọi là ‘chánh
thọ’, chánh tức là chánh thường. Hưởng thọ của
người thế gian chẳng chân thường, có
‘khổ, vui, sầu, hỷ, xả’; chánh thọ của Phật
pháp chẳng có ‘khổ, vui, sầu, hỷ, xả’. Chư Phật, Bồ Tát ứng
hóa trong thế gian tuy là có ‘khổ, vui, sầu, hỷ,
xả’ nhưng đó là thị hiện, biểu diễn, du
hư thần thông, chẳng phải là thiệt. Phàm phu thiệt có ‘khổ, vui,
sầu, hỷ, xả’, chẳng phải diễn tuồng,
cho nên tạo nghiệp.
Người chân chánh giác ngộ th́ sẽ giống hệt chư Phật,
Bồ Tát, du hư thần thông, tự tại vô ngại.
Học Phật
phải gánh vác trách nhiệm tiếp nối huệ mạng
của Phật, gánh vác sứ mạng hoằng pháp lợi
sanh, muốn đảm đương sứ mạng này
th́ nhất định phải ngộ nhập. Phương pháp ngộ nhập
chẳng có ǵ khác ngoài buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước mà thôi. Lúc xử thế, đăi
người, tiếp vật trong cuộc sống hằng
ngày phải buông xuống ngă chấp. Kinh Kim Cang nói đến ‘ngă
tướng, nhân tướng, chúng sanh tưởng, thọ
giả tướng’, chỉ cần buông xuống một
tướng này th́ sẽ hoàn toàn buông xuống hết. Bốn tướng này có sự
liên hệ mật thiết, có một tướng th́
bốn tướng sẽ đều có, buông xuống
một tướng th́ sẽ buông xuống cả
bốn. Sau đó đoạn
hết thảy ác, tu hết thảy thiện tức là công
đức chân thật, đây là điều mà chư
Phật, Bồ Tát đều tán thán, khen ngợi. Chúng ta cần phải biết có
đủ bốn tướng này là chướng ngại
nghiêm trọng cho sự tu học Phật pháp.
Bạn phát tâm từ bi muốn
cứu độ hết thảy chúng sanh, muốn cứu
chúng sanh th́ trước hết phải độ ḿnh cái
đă, nếu tự ḿnh chẳng độ được
th́ sẽ chẳng có năng lực độ chúng sanh. Cho nên tự tu học và
tương lai giúp đỡ chúng sanh đều phải
nhờ vào chính ḿnh, tuy chư Phật, Bồ Tát từ bi
nhưng cũng chẳng giúp được. Chư Phật, Bồ Tát chỉ
giúp chúng ta trên việc dạy dỗ, nói rơ sự thật
chân tướng cho chúng ta nghe, cung cấp phương pháp
cho chúng ta tham khảo, nhưng khế nhập vào cảnh
giới nhất định phải là sự việc
của chính ḿnh, hy vọng mọi người phải
hết ḷng nỗ lực.
3.
Khỏe mạnh là căn
bản của việc tu đạo (Buổi sáng 25-11-98)
a. Khỏe
mạnh là căn bản của việc tu đạo
Bất luận là
pháp thế gian hay xuất thế gian, nếu chẳng có
thân thể cường tráng th́ làm việc ǵ cũng không
thể thành tựu. Đời xưa
bất luận là trong thiền đường, niệm
Phật đường, đả thất là việc
rất b́nh thường, hơn nữa là bảy ngày
bảy đêm chẳng ngủ chẳng nghỉ. Cho nên hơn phân nửa là
những người trẻ tuổi tham gia, họ có
khả năng và thể lực làm việc này, bốn
mươi mấy tuổi trở lên th́ thể lực
đă suy rồi, việc nghiên giáo (nghiên cứu giáo lư)
cũng chẳng ngoại lệ.
Cho nên thời kỳ thanh thiếu niên là [thời gian]
để củng cố cội rễ của học
thuật, sự nghiệp.
Tôi sanh vào thời
chiến tranh loạn lạc, suốt cả đoạn
đời niên thiếu tốt đẹp nhất tôi
phải bôn ba, chạy nạn, cho nên cơ sở giáo
dục chẳng được củng cố, dù cho ngày nay
siêng năng nỗ lực tu học cũng chẳng có thành
tựu bằng người đời xưa. Nếu thể chất kém một
chút, thân thể suy yếu, nhiều bịnh th́ càng khó
khăn hơn. Cho dù có ư
muốn học, vẫn cảm thấy tâm có dư nhưng
sức chẳng đủ, đây là một chuyện vô cùng
đáng tiếc. Thế nên
trong đời sống thường ngày nhất
định phải chú ư đến thân thể của ḿnh.
Phương pháp thay đổi
thể chất nhanh chóng và có hiệu quả nhất là tu
tâm thanh tịnh, đoạn trừ hết thảy vọng
tưởng, tạp niệm, sống cuộc đời
đơn giản và có quy luật.
Đời sống đơn giản là đời
sống khỏe mạnh.
Thực sự có thể làm được thiểu
dục tri túc, hết ḷng hướng về đạo,
hết ḷng nghĩ đến chúng sanh khổ nạn,
dốc toàn tâm toàn lực để giúp đỡ chúng sanh
khổ nạn, đó là đại từ bi. Nhân quả đều có thể
chuyển. Có thân tâm khỏe
mạnh th́ mới có thể phục vụ cho xă hội
đại chúng, làm thêm một số việc tốt.
b. Nhân
quả
Miền đông
bắc Trung Quốc nước sông tràn ngập lênh láng, có
rất nhiều người gần chết đói, hy
vọng được cứu giúp.
Chúng tôi gởi mười vạn bộ áo lạnh và
lương thực cho họ, và giúp họ xây dựng
lại trường học.
Những thời gian chịu đựng khổ
nạn này có thể cảnh giác mọi người
đừng nên tạo ác nghiệp nữa. Họ tự ḿnh phản tỉnh
là do trước kia bắt cá, sát sanh quá nhiều, ngày nay
nghĩ lại [mới thấy] cái được chẳng
bù nổi cái mất. Có câu ‘Ở gần núi th́ ăn [đồ ở] núi, ở
gần sông th́ ăn [đồ ở] sông’,
ở ven biển hay sông th́ làm nghề chài lưới sinh
sống, đời sống được no ấm th́
liền biết đủ, như vậy c̣n có thể tha
thứ. Nếu tham
hưởng thụ, hy vọng lợi dụng việc sát
sanh để phát tài, vậy th́ là tạo tội nghiệp,
gia đạo làm sao có thể hưởng lâu dài được? Trong lịch sử và cuộc
sống hiện thực, nếu chúng ta quan sát kỹ càng th́
đích thực nhân quả báo ứng tơ hào chẳng sai.
Từ nghiệp sát
này chúng ta liên tưởng đến người hiện
nay tạo bốn thứ nghiệp:
giết hại, trộm cắp, dâm dục, nói
dối; trong Phật pháp đây là bốn giới trọng,
bất luận là xuất gia, tại gia đều phải
tuân thủ. Nh́n vào xă hội
ngày nay những ǵ trong tâm mọi người suy nghĩ,
lời nói, hành động đều là giết hại,
trộm cắp, dâm dục, nói dối, rượu chè (sát,
đạo, dâm, vọng, tửu), mỗi ngày đều
tạo nên năm thứ tội nghiệp này, trên thực
tế tức là tạo ra mười ác nghiệp, tai
nạn trên thế gian làm sao tránh nổi?
Nếu muốn
cứu ḿnh th́ phải hạ quyết tâm ngay tại chỗ
này, giữ ǵn cấm giới nghiêm túc, y giáo phụng
hành. Có thể cứu ḿnh th́
mới có thể giúp đỡ người khác,
phương pháp duy nhất giúp đỡ người khác
cũng chỉ là khuyên nhủ.
Những ǵ đời sống người xuất gia
cần th́ phải nhờ vào người tại gia cúng
dường, cũng chẳng c̣n sức lực dư
thừa để giúp người khác, duy chỉ có thể
dùng thân ḿnh làm gương, khuyên mọi người trong xă
hội và những người có phước báo lớn nên
phát tâm tu phước. Nếu
tư tưởng và hành vi của chúng ta chẳng ngay
thẳng th́ làm sao khuyên người ta cho được,
làm sao làm cho người khác tin tưởng? Thế nên phải bắt
đầu từ ḿnh mà làm, tâm và hạnh của ḿnh chân
chánh th́ mới ảnh hưởng người khác
được.
Đặc biệt là khuyên những
người phú quư, hy vọng họ giác ngộ, đây là
duyên đời trước họ tu phước
đời này mới hưởng phước, lúc
hưởng phước phải tiếp tục tu nhân th́
phú quư mới đời đời kiếp kiếp
tiếp nối chẳng dứt; nếu trong đời này
hưởng hết phú quư th́ đời sau nhất
định sẽ đọa lạc. Người bần cùng
hưởng nhiều khổ nạn v́ đời
trước chẳng tạo thiện nhân, đời này
chưa gặp được thiện duyên, v́ vậy nên
ngu muội vô tri, tạo tác rất nhiều ác
nghiệp. Chúng ta cũng nên
khuyên các người nghèo khổ phải giác ngộ, quay trở lại,
đoạn ác tu thiện th́ đời sau mới
được phước báo.
Được vậy th́ người phú quư hay nghèo
khổ ǵ cũng đều được độ. Chư Phật, Bồ Tát xuất
hiện ở thế gian đều là v́ công việc này,
toàn tâm toàn lực giúp đỡ chúng sanh giác ngộ, đây
là sự nghiệp của Phật, Bồ Tát. Chúng ta làm học tṛ, đệ
tử của Phật, phải học tập và bắt chước
tâm nguyện từ bi của Phật, Bồ Tát, phát huy
mạnh mẽ sự nghiệp của Phật, Bồ Tát.
c. Mở
rộng tâm lượng.
Trong thời
đại ngày nay chúng ta phải mở rộng tâm
lượng. V́ thông tin phát
đạt, giao thông tiện lợi nhanh chóng, những ǵ
phát sanh khắp nơi trên thế giới lập tức
liền có thể biết được, thế nên
phạm vi hoạt động của chúng ta bằng cả
trái đất. Chúng ta phải
quan tâm thương mến bất cứ địa khu nào trên
trái đất, chẳng thể g̣ bó trong một phạm vi
nhỏ hẹp, như vậy th́ tâm lượng quá
nhỏ. Ngoài trái đất này
ra tâm lượng của chúng ta c̣n phải mở rộng
đến khắp hư không pháp giới th́ chúng ta mới
có khả năng xuất ly.
Nếu chẳng có tâm niệm này th́ làm càng nhiều việc
tốt cũng chỉ là phước báo nhân thiên. Có hiểu được lư này th́
mới biết tận hư không khắp pháp giới
hết thảy chúng sanh hữu t́nh đều là
đồng bào của chúng ta, những đồng bào này có
cùng chung một pháp tánh, đều là chân tâm bản tánh
của ḿnh biến hiện ra.
Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘t́nh và vô t́nh
đều viên thành chủng trí’ [18]. Chỉ có thành Phật mới
thực sự nh́n thấy ‘t́nh và vô t́nh đều là
đồng bào’. Sau khi hiểu
rơ th́ mới biết trong đời này ḿnh nên làm như
thế nào, làm sao nỗ lực mới có thể
tương ứng với chư Phật, Như Lai thanh
tịnh từ bi.
4.
Làm thế nào mới được công phu đắc
lực (Buổi sáng 29-11-98)
a. Nh́n
thấu. Buông xuống
Trong kinh Di Đà,
đức Thế Tôn ba lần khuyên chúng ta phải nên phát
tâm cầu sanh Tịnh Độ, sáu phương Phật khuyên
chúng ta nên tin kinh này và cũng khuyên chúng ta phải tin
tưỏng lời của đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Sáu phương Phật
đại biểu cho mười phương ba
đời hết thảy chư Phật, do đó mới
biết Thế Tôn khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ
cũng tức là mười phương hết thảy
chư Phật đều khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh
Độ, lời khuyên này là lời chân thật, chẳng
thể nghĩ bàn, khẩn thiết đến cùng cực.
Tại sao Phật
lại khuyên như vậy?
Đức Phật giáo hóa chúng sanh là v́ muốn chúng sanh phá
mê khai ngộ, ĺa khổ được vui, mà văng sanh
đến Cực Lạc thế giới mới là phá mê
khai ngộ viên măn, được niềm vui rốt ráo,
vĩnh viễn chẳng thoái chuyển măi cho đến khi
thành Phật. Đó là đại
nguyện viên măn của chư Phật thành Phật
đạo, độ chúng sanh, thế nên hết thảy
chư Phật mới đau ḷng mỏi miệng khuyên
[như vậy]. Chúng ta
đọc kinh, nghiên giáo phải thể hội
được ư chỉ này một cách sâu sắc, hết
ḷng nỗ lực, thật thà niệm Phật th́ mới
chẳng phụ ḷng hết thảy chư Phật.
Chúng ta đều
có tâm niệm này nhưng tại sao công phu vẫn chẳng
đắc lực? Đây là do
phiền năo tập khí đang hoành hành, chướng ngại
đạo nghiệp và sự tinh tấn của chúng ta. Kinh Kim Cang dạy cho chúng ta
nguyên tắc vô cùng quan trọng, phương pháp phá trừ
chướng ngại là ‘nh́n thấu, buông xuống’. Không những thế pháp phải
nh́n thấu, buông xuống, Phật pháp cũng phải nh́n
thấu, buông xuống. Nh́n
thấu tức là hiểu rơ chân tướng sự
thật. Nếu chúng ta dựa
trên nguyên lư, nguyên tắc dạy trong kinh rồi quan sát
kỹ càng tất cả hiện tượng trong thế
gian và xuất thế gian th́ sẽ hiểu rơ. Hiểu rơ chân tướng sự
thật, đối với pháp thế gian và xuất
thế gian chẳng khởi vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước nữa chính là buông
xuống. Sau khi buông xuống
không những trên sự tu hành chẳng có chướng
ngại, lúc xử sự, đăi người, tiếp
vật trong đời sống sanh hoạt hằng ngày
cũng được đại tự tại, cùng chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian du hư thần
thông, không hai không khác. Kinh Kim
Cang nói “Ta, Người, Chúng sanh, Thọ giả” đều
là giả, toàn là mộng, huyễn, bọt, bóng, thời gian
tồn tại như sương và như chớp, đó là
chân tướng sự thật.
Ba Mươi
Bảy Đạo Phẩm là tổng nguyên tắc, tổng
cương lănh của sự tu hành. Ba Mươi Bảy Đạo
Phẩm chia thành bảy khoa,
khoa đầu tiên là ‘Tứ Niệm xứ’ dạy cho
chúng ta nh́n thấu. Nội dung
của Tứ Niệm Xứ và ‘Ta, Người, Chúng sanh,
Thọ giả đều là giả’ nói trong Kinh Kim Cang hoàn
toàn là cùng một đạo lư.
Kinh Kim Cang dạy cho người Đại Thừa c̣n
Tứ Niệm Xứ dạy cho người Tiểu Thừa. Cho nên Ba Mươi Bảy Đạo
Phẩm giống như sáu chữ hồng danh, tam căn
phổ bị (bao trùm hết ba hạng căn tánh:
thượng, trung, hạ), lợi độn gồm
thâu, chín pháp giới chúng sanh tu học cũng chẳng
rời nguyên tắc này.
Trong Tứ Niệm Xứ:
thứ nhất là ‘Quán thân bất tịnh’: quán sát thân này
chẳng tịnh. Thứ nh́:
‘Quán thọ thị khổ’.
Thứ ba: ‘Quán tâm vô thường’. Suy nghĩ kỹ càng một
người đến thế gian này mấy chục
năm ngắn ngủi cho dù trường thọ
đến một trăm tuổi th́ cũng ngắn
ngủi như thời gian búng một ngón tay, trong mấy sát
na mà thôi. Thứ tư: ‘Quán
pháp vô ngă’ bao gồm ‘Tướng người, tướng
chúng sanh, tướng thọ giả’; quán thân, quán thọ,
quán tâm đều thuộc về ‘tướng ta’ (ngă
tướng), hoàn toàn tương đồng với
chỉ thú của kinh Kim Cang.
Sau khi nh́n thấu th́ phải buông xuống. ‘Tứ Như Ư Túc’ trong ‘Ba mươi bảy Đạo
Phẩm’ tức là buông xuống, chẳng c̣n nắm giữ
pháp thế gian và pháp xuất thế gian trong tâm nữa.
b. Tu Tam Học, Lục Độ,
Thập Nguyện
Phật dạy
chúng ta đă được thân người, phải trú
ở thế gian này mấy chục năm, đúng là ‘đă đến rồi th́ hăy ở yên’ [19]. Thế nên người thông minh, có
trí huệ biết tích công lũy đức, v́ họ
hiểu được ‘vạn pháp
đều không, nhân quả chẳng không’. Tích công lũy đức như
thế nào? Đây là lời
dạy trong ‘Tứ Chánh Cần’, đoạn hết
thảy ác, tu hết thảy thiện. Đoạn ác nhất định
phải đoạn phiền năo tập khí của ḿnh, tu
thiện nhất định phải tu Giới - Định -
Huệ Tam Học, tu Bồ Tát Lục Độ, tu Thập
Nguyện Vương. Biến
Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện thành kiến
giải và hành tŕ trong đời sống của ḿnh tức
là tích công lũy đức.
Hoàn toàn trái
ngược với Tam Học: Giới - Định - Huệ
là tam độc: tham - sân - si.
Phật dạy chúng ta lấy Giới để
đoạn tham, lấy Định để đoạn sân,
lấy Huệ để đoạn si, biến tham - sân -
si thành Giới - Định - Huệ, đây là đoạn
ác tu thiện. Bồ Tát
Lục Độ nói càng rơ hơn, dùng Bố Thí đoạn
trừ tham lam, lấy Tŕ Giới đoạn trừ ác
nghiệp, lấy Nhẫn Nhục đoạn trừ sân
khuể, lấy Tinh Tấn đoạn trừ giải
đăi, lấy Thiền Định đoạn trừ tán
loạn, lấy Trí Huệ đoạn trừ ngu si. Nếu có thể tuân theo sáu nguyên
tắc này khi xử sự, đăi người, tiếp
vật trong đời sống hằng ngày th́ người
đó là Bồ Tát. Bồ Tát
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác,
nhất định phải tương ứng với
những nguyên tắc này.
Phổ Hiền
Thập Nguyện là đại hạnh viên măn của
Bồ Tát, trong kinh nói Bồ Tát không tu Phổ Hiền
hạnh th́ chẳng thể viên thành Phật đạo. Cốt tủy của Phổ
Hiền hạnh là tâm lượng viên măn, ‘tâm bao trùm
thái hư, lượng gồm thâu các cơi nhiều như cát’
[20], đây là tâm lượng của
Phổ Hiền Bồ Tát; dùng tâm lượng to lớn này
tu hết thảy thiện pháp là Phổ Hiền
hạnh. Kinh Hoa Nghiêm quy
nạp vô lượng hạnh môn của Phổ Hiền
thành mười cương lănh, tức là Phổ Hiền
thập đại nguyện vương, mười
điều này là tổng cương lănh của Phổ
Hiền hạnh. Mười
điều này phải thuận theo thứ tự, chẳng
thể thay đổi lộn xộn, thứ nhất là
Lễ Kính Chư Phật, đây là căn bản của
hạnh môn. Đối với
hết thảy người, sự, vật, tận hư
không trọn khắp pháp giới hết thảy chúng sanh
đều phải cung kính.
Trong kinh nói: ‘Hết thảy chúng
sanh đều là cha mẹ quá khứ, chư Phật vị
lai’. Dùng tâm
hiếu thuận cha mẹ để hiếu thuận
hết thảy chúng sanh, dùng tâm tôn kính sư trưởng
để tôn kính hết thảy chúng sanh, người này
sẽ là Phổ Hiền Bồ Tát.
Việc tu học này được gọi là Phổ
Hiền hạnh. Đây là cốt
lơi của Phổ Hiền hạnh, là cội rễ của
Phổ Hiền hạnh.
Dùng Lễ Kính làm
cơ sở, điều thứ hai là Xưng Tán Như
Lai. Cổ thánh tiền
hiền dạy người ta dấu ác, bày thiện,
đây là tu dưỡng đức hạnh của ḿnh, và
cũng v́ xă hội an định, hy vọng mọi
người đều nh́n thấy mặt tốt mà
thôi. Phiền năo tập khí
của hết thảy chúng sanh đều chưa
đoạn trừ, đều có mặt xấu ác, xấu
ác th́ chẳng cần phải nói đến, mặt tốt
đẹp th́ phải tận lực đi tuyên
dương, làm cho hết thảy chúng sanh đều giác
ngộ đến phải đoạn ác tu thiện. Nếu bạn tạo ác,
người ta tha thứ cho bạn, một câu nói cũng chẳng
nói đến, bạn sẽ sanh tâm xấu hổ; khi
bạn làm một chút chuyện thiện, người khác
biểu dương, khen ngợi bạn, đây là
để cổ vơ việc tu thiện. Cách dụng tâm này rất hay,
rất tốt.
Thứ ba là
Quảng Tu Cúng Dường, hết thảy chúng sanh bất
luận là trên phương diện vật chất hay tinh
thần có thiếu thốn, nếu chúng ta có khả năng
th́ hăy tận tâm tận lực chủ động giúp
đỡ, chẳng cần người ta lại cầu,
đây là bố thí cúng dường.
Từ Bồ Tát mà nói th́ đây là bố thí, sự
bố thí của Phổ Hiền Bồ Tát th́ gọi là cúng
dường. Phổ Hiền
Bồ Tát coi hết thảy chúng sanh là cha mẹ quá khứ,
chư Phật vị lai, v́ vậy nên gọi là cúng
dường, đây là sự tôn kính hết thảy chúng sanh
đến cùng cực. Thứ
tư là Sám Hối Nghiệp Chướng, đây là nói
về sự tu hành của ḿnh.
Trong Phổ Hiền Thập
Nguyện vương mỗi một nguyện đều
bao hàm hạnh môn viên măn, nguyện nào cũng như vậy,
hàm nhiếp lẫn nhau.
Niệm Phật như vậy th́ làm sao có việc
niệm Phật chẳng đắc lực
được? Niệm
Phật như vậy th́ làm sao chẳng văng sanh
được? Cho nên Phật
dạy những nguyên lư, nguyên tắc này, chúng ta nhất
định phải nắm chắc [và áp dụng vào] trong
đời sống hằng ngày th́ mới thật sự
thành tựu cho ḿnh, chẳng phụ kỳ vọng của
chư Phật Như Lai đối với chúng ta.
5.
Làm thế nào hàng [phục] ma
(Buổi sáng 30-11-98)
Ngạn ngữ có câu: ‘Chuyện tốt có nhiều trắc trở’(Hảo
sự đa ma), và: ‘Đạo cao
một thước, ma cao một trượng’. Ma là chướng ngại trong
đời sống và sự tu hành của chúng ta. Muốn giải quyết vấn
đề này chỉ có học theo phương pháp của
đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Trong bát tướng thành đạo Thế Tôn thị
hiện ‘hàng phục ma ngoại’ đáng để chúng ta
học tập. Phương
pháp Thế Tôn hàng phục ma chẳng phải là đối
ngoại mà là đối nội.
Ma quân tới nhiễu loạn, uy hiếp, Thế Tôn
chẳng chống lại, ma nữ đến dụ
hoặc Thế Tôn cũng chẳng trốn tránh mà dùng Giới
Định Huệ Tam Học để giải quyết.
Từ đây chúng ta rút ra
được một bài học, khi gặp phải
bất kỳ uy hiếp dụ hoặc, hay chướng
nạn có bao lớn đi nữa th́ chỉ cần tiêu
trừ ma oán trong nội tâm, cảnh giới bên ngoài sẽ
là ‘chẳng có Phật mà cũng chẳng
có ma’. Cũng
như Ngẫu Ích đại sư nói: ‘Cảnh
duyên chẳng có tốt xấu, tốt xấu là ở
nơi tâm’. Ma
cảnh bên ngoài thật ra là do tâm ma biến hiện ra, có
thể biến thành ma cảnh là do tà tri tà kiến của
chính ḿnh, phiền năo tham - sân của ḿnh, cảnh giới
bên ngoài là cảnh bị biến ra (sở biến). Thế Tôn dạy chúng ta
phương pháp là phải hàng phục cái tâm năng
biến của ḿnh, ma cảnh được biến
ở bên ngoài sẽ chẳng gây chướng ngại ǵ
cả.
Kinh Bát Đại Nhân Giác chia Ma thành
bốn loại, đó là Ngũ Ấm Ma, Phiền Năo Ma,
Tử Ma, Thiên Ma. Ngũ Ấm
Ma, Phiền Năo Ma, Tử Ma đều thuộc về tâm ma
của ḿnh; chỉ có Thiên Ma là ở phía ngoài. Thiên Ma từ đâu tới? Cũng là do tâm ma của ḿnh
biến hiện ra thôi.
Người đời chẳng biết đạo lư
này nên khi gặp yêu ma quỷ quái th́ liền t́m mọi cách
để kháng cự, khắc phục, như vậy
vĩnh viễn chẳng thể giải quyết vấn
đề. Phương pháp
giải quyết vấn đề là phải hóa
giải. Bản thân ḿnh có
phiền năo, tà tri tà kiến, đây là gốc rễ của
hết thảy ma chướng.
Thế nên chỉ cần làm được ‘tri
kiến chánh, trừ phiền năo’, ma ngoại cũng sẽ
thành Phật luôn. Trong bốn
hoằng thệ nguyện có nguyện ‘chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ’, ma cũng là chúng sanh, độ
ma thành Phật th́ mới đúng là phổ độ chúng
sanh.
Chánh tri chánh kiến là từ Tam
Muội mà được.
Một người tu hành có công phu định lực
tương đương th́ cũng chẳng biết ḿnh
có chánh định hay tà định, thế nên chúng sanh trong
chín pháp giới tu hành chẳng thể tách ĺa kinh điển. Nếu lư luận, phương
pháp tu học và cảnh giới hiện ra trong công phu
tương ứng với kinh điển th́ là chánh tri,
chánh kiến, tức là chánh hạnh, chánh thọ; chánh
thọ tức là Tam Muội.
Phạm vi của Tam Muội rất rộng lớn,
chỉ cần là ‘chánh’ th́ là Tam Muội, cho nên chánh tri, chánh
giải, chánh hạnh, chánh thọ đều thuộc
về Tam Muội.
Chúng ta xem trong kinh, khi Phật
thuyết pháp cho chúng sanh trước hết phải
thị hiện nhập định, kinh Hoa Nghiêm cũng
chẳng ngoại lệ. Kinh
Lăng già nói: ‘Na Già thường
tại định, vô hữu bất định thời’[21],
Pháp Thân đại sĩ cũng thường ở trong
định, Phật c̣n phải nhập định hay
sao? Phật thị hiện
nhập định là muốn thuyết minh: thuyết pháp
độ sanh dùng Tam Muội làm căn bản, hết
thảy pháp đều từ Tam Muội lưu lộ ra; Tam Muội
rộng lớn vô cùng, tức là tánh đức lưu
xuất.
Cảnh giới trong định
là Nhất Chân pháp giới, chẳng có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, chẳng có trước
sau, lớn nhỏ, hết thảy khái niệm và sự
tướng tương đối đều chẳng
tồn tại. Nhất Chân
tức là sự thật chân tướng mà Như Lai
chứng được, điều Như Lai sở
chứng tức là tướng cảnh giới được
hiện ra trong khi nhập Tam Muội. Cảnh giới này đối
với phàm phu chẳng thể nghĩ bàn. Thí dụ trong kinh có nói: ‘Hạt cải chứa Tu di’[22],
hạt cải nhỏ cũng như hạt mè vậy,
hạt cải chẳng có phóng đại, núi Tu Di cũng
chẳng thâu nhỏ, làm sao bỏ núi Tu Di vào trong hạt
cải? Là v́ chẳng có
lớn nhỏ cho nên có thể tương tức,
tương dung (có thể chính
là nhau, dung chứa lẫn nhau). Chúng ta biết phân biệt lớn
nhỏ, chấp trước lớn nhỏ, nhỏ
chẳng thể chứa lớn, đây tức là ma
cảnh. Ma cảnh là từ
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước sanh
ra; nếu xa ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước th́ chẳng có lớn - nhỏ, trong - ngoài,
hạt cải sẽ có thể chứa núi Tu Di.
Phàm phu sanh hoạt trong thời
gian, không gian tương đối, khoa học gia gọi
là ‘tương đối luận’, tương đối
tức là phân biệt chấp trước, chẳng
phải thật. Phật,
Bồ Tát chẳng có phân
biệt chấp trước, chẳng có tương
đối, ngay cả Lư Sự cũng chẳng có, cho nên các
Ngài không có chướng ngại.
Trong cái nh́n của Phật, Bồ Tát, dù là yêu ma
quỷ quái th́ cũng là cha mẹ quá khứ, chư Phật
vị lai, đều dùng tâm hiếu thuận, cung kính để
đối đăi, chẳng có giảm bớt chút nào.
Đây là Thế Tôn thị hiện
bản lănh hàng phục ma, dụng ư là cho chúng ta học
tập. Chỉ cần có tà
kiến, phiền năo th́ nhất định sẽ có ma
chướng, yêu ma quỷ quái sẽ thường
thường bao quanh bên ḿnh.
Nếu có thể diệt trừ tà kiến, phiền
năo th́ yêu ma quỷ quái cũng sẽ thành Phật. Từ đây có thể biết
Phật và Ma chỉ ở tại một niệm mà thôi. Một niệm mê th́ Phật
sẽ biến thành Ma; một niệm giác th́ Ma sẽ thành
Phật. V́ vậy gút mắt
ma chướng chẳng ở bên ngoài mà ở trong nội
tâm. Người thế gian mê
muội gặp yêu ma quỷ quái th́ mời đạo sĩ
vẽ bùa, niệm chú để trừ tà ma, vậy là dùng
vơ lực để kháng cự.
Cho dù bạn có thể thắng họ th́ vấn
đề vẫn chưa được giải quyết;
tâm oán hận của họ, tâm báo thù vẫn c̣n, họ
vẫn sẽ quay lại trả thù, vả lại sẽ
c̣n mạnh mẽ hơn, như vậy th́ sẽ dây dưa
chẳng dứt, vấn đề sẽ ngày càng trầm
trọng. Cho nên Thế Tôn
chẳng chống đối mà dùng tâm chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, từ bi để bao dung, cảm
hóa. Biến đổi Ma thành
Phật là một việc tốt, hai bên đều có
lợi. Sau khi Ma thành Phật
th́ sẽ vĩnh viễn cảm kích bạn, khi bạn
thị hiện thành Phật độ sanh, Ma sẽ thị
hiện đủ mọi thân phận để hộ pháp,
đây mới là cách thực sự giải quyết vấn
đề. Phàm ai làm hỏng
vấn đề đều là do ngu si tạo nên. Do đó mới biết trí huệ
là đáng quư.
Phật pháp từ đầu
đến cuối đều truy cầu trí huệ,
chỉ có trí huệ mới có thể giải quyết
hết thảy vấn đề một cách viên măn. Tất cả những vấn
đề thế gian và xuất thế gian đều có
thể giải quyết viên măn, v́ trên Lư là cùng chung một
pháp tánh, pháp tánh là cứu cánh viên măn. Hết thảy sự vật
đều y pháp tánh làm tự thể, tự thể viên măn,
tự thể hiện ra tướng cũng nhất
định viên măn. Phàm
chẳng thể giải quyết đều là v́ trí huệ
chẳng đủ, phương pháp chẳng hoàn hảo,
phải quay lại tu trí huệ.
Phương pháp tức là quyền trí, nhà Phật
gọi là thiện xảo phương tiện; quyền trí
y vào thực trí, thực trí chính là Tam Muội. Cho nên mới nói tự ḿnh thành
Phật rồi nh́n thấy núi sông, sơn hà, đại
địa, chúng sanh ‘t́nh và vô t́nh
đều viên thành chủng trí’. Từ đó có thể biết
giải quyết bất kỳ nghi nan tạp chứng trong
thế gian, xuất thế gian đều ở tại
nội tâm. Phật pháp xưng
là Nội Học, chẳng hướng ngoại,
hướng ngoại là ngoài tâm cầu pháp, là ngoại
đạo. Ngoại
đạo chẳng thể giải quyết vấn
đề, chỉ có Nội học mới có thể
giải quyết vấn đề.
Do đó trong giai đoạn sơ
học nhất định phải đọc thuộc
Đại Thừa, đặc biệt là những người
phát tâm hoằng pháp lợi sanh, không những phải
đọc tụng mà c̣n phải khế nhập vào cảnh
giới. Khế nhập
tức là ‘tùy văn nhập quán’.
Mở quyển kinh ra tùy lời dạy trong kinh mà
chuyển biến quan niệm của ḿnh th́ gọi là ‘tùy
văn nhập quán’. Nhập
tức là khế nhập, ư nghĩa của ‘nhập’ bao
gồm ‘tín - giải - hành - chứng’. Nhập tức là chứng, có hành
mới có chứng, hành là thay đổi quan niệm; thay
đổi quan niệm là v́ hiểu rơ đạo lư,
hiểu lư tức là tin tưởng lời dạy của
Phật. Phật nói về
‘Giáo - Lư - Hạnh - Quả’, chúng ta có thể làm
được tín - giải - hành - chứng, cảnh
giới liền chuyển, đây tức là ‘tùy văn
nhập quán’, đây là chân thật tu hành, có thể
đạt được thọ dụng chân thật. Phương pháp tu hành vô
lượng vô biên, tùy văn nhập quán là phương pháp
tu hành của Giáo Hạ, tức là mở ra cuốn kinh có
thể nhập vào cảnh giới Phật. Nhập cảnh giới quan
trọng nhất là ở trong sanh hoạt hằng ngày, trong
lúc xử sự, đăi người, tiếp vật, lúc nào
cũng giữ
được, chẳng đánh mất tức là chẳng
thoái chuyển. Có bản lănh
này th́ khi gặp yêu ma quỷ quái chúng ta sẽ chẳng kinh
sợ, chúng ta có khả năng giúp đỡ họ cùng
thành Phật đạo, đây là cách giải quyết viên
măn nhất. Đây là lời Phật
dạy, đây mới là chân thật, cứu cánh, mỹ măn.
6. Làm thế nào để đối
xử ḥa mục với tất cả chúng sanh (Buổi sáng 01-12-98)
Từ xưa đến nay giáo
dục của nhà Phật, nhà Nho đều chẳng ra ngoài
hai việc: thứ nhất là dạy chúng ta nhận
thức quan hệ giữa chúng ta và đại vũ
trụ, đây tức là ‘chư pháp thật
tướng’. Hiểu rơ chân
tướng của vũ trụ nhân sanh một cách chính xác
là tông chỉ chủ yếu của giáo dục, đây là
Thể. Thứ nh́ là dạy
chúng ta làm thế nào đối người, đối
sự, đối vật và cũng nghĩa là trong sanh
hoạt làm sao xử sự, đăi người, tiếp
vật, đây là Dụng. Hai
cái Thể và Dụng này bao gồm toàn bộ giáo học,
đây chẳng phải chỉ là lời dạy của
Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi, mười phương ba
đời hết thảy chư Phật giáo hóa tất
cả chúng sanh đều chẳng ngoại lệ.
Trên mặt tác dụng tại sao
chúng ta không thể đối xử ḥa mục với
hết thảy chúng sanh? Là v́
chẳng hiểu chân tướng sự thật. Chư Phật, Bồ Tát
đại thánh đại hiền hiểu rơ chân
tướng cho nên có thể đối xử ḥa mục
với hết thảy chúng sanh.
Đức Phật dạy chúng ta phải coi tất
cả chúng sanh như cha mẹ quá khứ, chư Phật
vị lai; Bồ Tát Giới
Bổn trong kinh Phạm Vơng cũng nói: ‘Hết
thảy người nam là cha ta, hết thảy
người nữ là mẹ ta’, những
chuyện này đều là sự thật, chẳng phải
là thí dụ. Kiến giải,
tâm tư, thường thức của phàm phu hơn phân
nửa giới hạn trong một đời, chẳng
biết đời quá khứ và đời vị lai, cho nên
sanh ra rất nhiều hiểu biết sai lầm. Phật, Bồ Tát dùng định
công thâm sâu đột phá giới hạn của thời gian
và không gian, đối với quá khứ vô thỉ, vị
lai vô chung hết thảy đều hiểu rơ, cho nên
biết hết thảy chúng sanh đời đời
kiếp kiếp đều là quyến thuộc lẫn nhau.
Chư Phật, Bồ Tát dùng tâm
ǵ để đối đăi hết thảy người,
sự, vật? Là dùng tâm
Hiếu Kính. Câu đầu tiên
của Tam Phước trong Quán Kinh: ‘Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng’. Dùng hiếu thuận, tôn kính
đối đăi hết thảy người, sự,
vật, đó tức là Phật, Bồ Tát, đại thánh
nhân. Tâm tư, quan niệm, hành
động của phàm phu hoàn toàn ngược lại. Tương ứng th́ là tùy
thuận tự tánh, tánh đức, tùy thuận thật
tướng của chư pháp.
Có thể tùy thuận một cách viên măn th́ là Nhất
Chân pháp giới. Nếu
chẳng thể tùy thuận, trái ngược với
những điều trên th́ là lục đạo phàm phu; hoàn
toàn trái ngược th́ là tam ác đạo. Cho nên làm thánh làm phàm, thiên
đường địa ngục đều ở ngay tại
một niệm của ḿnh mà thôi.
Nếu một niệm này tương ứng với
pháp tánh th́ là Phật, Bồ Tát; niệm này trái ngược
với tánh đức th́ là chúng sanh, ác đạo.
Do đây có thể biết
cảnh giới bên ngoài thực sự như chư
Phật đă nói: ‘mộng, huyễn, bọt, bóng’, cảnh
giới biến hóa tùy theo tâm niệm của chúng ta, cũng
như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Duy tâm sở
hiện, duy thức sở biến’. Phật c̣n nói cho chúng ta
biết: ‘hết
thảy pháp từ tâm tưởng sanh’,
tâm là năng biến (cái có thể
biến), pháp là sở sanh (cái được sanh ra). Những pháp được sanh
này chẳng như ư là v́ cái tâm năng sanh chẳng
tương ứng với pháp tánh.
Thế nên hết thảy cảnh giới chẳng
phải người khác biến hiện ra cho bạn
hưởng thụ mà do tự ḿnh biến ra cho ḿnh
hưởng dùng, đây là chân tướng sự
thật. Sau khi hiểu rơ chân
tướng, nếu chúng ta muốn sinh hoạt trong một
hoàn cảnh thích hợp với ḿnh th́ phải tuân theo
lời dạy của Phật.
Nói thật ra, tuân theo lời Phật dạy tức là
tuân theo tánh đức của tự tánh, pháp tắc của
tự tánh. Những ǵ chư
Phật, Bồ Tát nói đều là pháp tắc của
tự tánh chúng ta, chẳng phải của riêng Ngài. Thế nên Phật nói Ngài chưa
từng nói qua một lời, những ǵ Ngài nói đều
là tánh đức của tự tánh chúng ta khai phát. Chỉ có chân chánh hiểu rơ
đạo lư này mới thực sự hoàn toàn tiếp
nhận và khâm phục Phật pháp đến năm vóc sát
đất.
Cho nên học Phật tức là
tùy thuận tự tánh, Phật đại biểu cho
tự tánh của chúng ta, Bồ Tát và đại thánh
đại hiền là thị hiện của tánh đức,
là tánh đức lưu lộ, là tự ḿnh chẳng
phải người khác, đây tức là ‘ta người không hai’ [23]. Chúng ta phải lănh hội cái ư
tưởng này, từ đó xây dựng ḷng tin. Nếu có thể khế nhập
th́ mới hoảng nhiên đại ngộ, chư Phật,
Bồ Tát vốn là tánh đức của ḿnh lưu
xuất, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm cũng
là tự tánh lưu lộ. Sau
đó mới chân chánh thể hội đến tận
hư không trọn khắp pháp giới chỉ là chính ḿnh mà
thôi, ngoài chính ḿnh ra, đích thực chẳng có pháp nào
cả. Ḷng đại từ
Vô Duyên, ḷng đại bi Đồng Thể tự nhiên sẽ
hiện ra, từ bi là tánh đức, tánh đức sẽ
hiện ra, lưu lộ viên măn.
Chúng ta hiếu kính đối với Phật, Bồ
Tát, đại thánh đại hiền, hiếu kính cha
mẹ, sư trưởng, sau đó từ từ sẽ
hiếu kính đối với hết thảy chúng sanh,
thậm chí đối với oan gia đối đầu
của ḿnh, rắn độc thú dữ, địa
ngục ngạ quỷ đều hiếu kính như nhau,
nhất định sẽ dùng tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng đối đăi với họ.
Nếu nhập vô cảnh
giới này th́ bạn đă thành Phật rồi. Cho dù chẳng thành Phật th́
cũng là Pháp Thân đại sĩ, trí huệ đă khai mở. Đối với hết thảy
vạn pháp trong hư không pháp giới, bạn đă giác
ngộ, hiểu rơ rồi, biết được phải
làm như thế nào. Đối
với những chúng sanh chưa giác ngộ th́ cũng
biết làm thế nào để giúp đỡ, đây
tức là giữ tâm Bồ Tát, hành Bồ Tát đạo. Cho nên bất cứ thân phận
ǵ, ngành nghề ǵ, nam nữ, già trẻ đều có thể
tu Bồ Tát đạo viên măn.
Bồ Tát tuyệt đối chẳng giới hạn
trong một pháp giới nào, hết thảy pháp giới
đều là pháp giới Bồ Tát.
Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Một tức là nhiều, nhiều
tức là một, một và nhiều không hai’ tức
là ư nghĩa này.
Chúng ta đời đời
kiếp kiếp tiếp xúc với hết thảy chúng sanh
đă kết thiện duyên và cũng có ác duyên. Có nhiều người rất
hợp với ḿnh, có duyên và rất thích ḿnh, đây là
thiện duyên từ đời quá khứ. Có nhiều người là oán gia
đối đầu của ḿnh, đem lại cho ḿnh
rất nhiều điều chẳng như ư, đây là oan
nghiệp từ kiếp trước. Quá khứ mê hoặc điên
đảo nên gây ra oan nghiệp này, hiện nay giác ngộ
hiểu rơ rồi, phải hóa giải oan kết này th́
cũng dùng ‘hiếu kính’ như lời Phật dạy. Hiếu thuận và tôn trọng
bằng tâm chân thành, oan kết tự nhiên sẽ
được hóa giải.
Cho
nên đối với hết thảy oán ghét, chúng ta phải
tùy thuận, thực sự làm được hằng
thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức; trong sự tùy
hỷ thành tựu trí huệ chân thật cho ḿnh, giới -
định - huệ chân thật, đây là công
đức. Tùy thuận làm sao
có thể thành tựu công đức? Tâm thanh tịnh quan trọng, tâm
trí huệ quan trọng, bạn dùng tâm chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi tức là tùy
thuận, đây là có công. Có
thể thành tựu, tăng thêm ḷng chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi của bạn là
đức.
Cho nên nếu có một niệm oán
trời trách người th́ là sai lầm quá đỗi. Khi gặp hết thảy cảnh
giới, nghịch duyên không như ư, đều phải quay
lại tự ḿnh phản tỉnh, nhất định là do
nghiệp chẳng thiện của ḿnh tích lũy lại
tạo thành, lỗi lầm chẳng ở tại người
khác. Quay đầu lại
tự ḿnh chân thật sám hối, sửa sai đổi
mới, đây là chân tu hành. Là
do ḿnh chẳng xem họ như cha mẹ, sư
trưởng, chẳng có hiếu thuận, tôn trọng
họ, là lỗi của ḿnh, chẳng phải của
họ. Chư Phật Như
Lai dùng phương pháp này
được thành tựu, chúng ta muốn làm Phật, làm
Bồ Tát th́ cũng chẳng ngoại lệ, vẫn
phải dùng phương pháp này.
Chúng ta phải thực hiện ‘kính người, kính
sự, kính vật’ trong đời sống, niệm
niệm chẳng được tách ĺa; một niệm tách
ĺa là một niệm mê, một niệm tương ứng
là một niệm giác, cho nên phải dụng công trong
từng tâm niệm. Chẳng
thể không đọc kinh điển Đại thừa,
chẳng thể không thâm giải ư thú [24],
được vậy chúng ta mới có thể giữ ǵn
giác chứ không mê, mới có thể đạt
được đời sống hạnh phúc mỹ măn
chân chánh.
7. Nói chuyện với
đồng tu tại Niệm Phật Đường (Buổi sáng 06-12-98)
Từ lúc khai
giảng đến nay Niệm Phật Đường đă
từ từ đi vào nề nếp, mọi người
đều cảm nhận công đức thù thắng
của sự niệm Phật một cách sâu sắc, sanh tâm
hoan hỷ. Nhưng cũng có
một số đồng tu nói với tôi rằng trong
đại chúng c̣n một số ư kiến. Vấn đề này chúng ta không
thể không để ư.
Cổ đức thường nói lúc cùng nhau tu tập
(cộng tu)
nếu có nghi hoặc, xen tạp th́ sẽ phá hoại công
phu niệm Phật. Mục
đích của sự niệm Phật là để
đạt được ‘nhất tâm bất loạn’,
nhất tâm tuy không dễ đạt được,
chỉ cần đạt đến cảnh giới này th́
nhất định nắm chắc văng sanh bất thoái thành
Phật.
Công phu thành phiến tức là
chẳng có nghi hoặc, xen tạp, bất luận là ở
chỗ nào lúc nào, dù lúc nửa đêm nằm mộng cũng
chẳng quên A Di Đà Phật, đó tức là h́nh dáng của
công phu thành phiến. Ngoại
trừ A Di Đà Phật ra, lúc tiếp xúc với hết
thảy người, sự, vật phải luôn luôn
cảnh giác cao độ, nhất định chẳng
để ngoại cảnh dụ hoặc, lay động,
đó tức là công phu. Chúng ta
muốn đạt được công phu này nhưng
tại sao niệm Phật măi trong Niệm Phật
Đường cũng làm không được?
Có hai nguyên nhân:
Một là phiền năo tập khí
từ vô lượng kiếp đến nay quá nặng;
tập khí tức là tri kiến, phần nhiều gọi là
thành kiến, thành kiến rất nặng, ư kiến quá
nhiều, đây là một chuyện rắc rối.
Hai là không thật thà, thật thà
cũng chẳng dễ, người có thể làm
được thật thà bất luận tu học pháp môn
nào đều nhất định có thể thành tựu.
Phương pháp bổ khuyết,
bù đắp là đọc kinh, nghe giảng. Đọc kinh nghe giảng giúp cho chúng
ta có thể nh́n thấu, buông xuống, giúp cho chúng ta
hiểu rơ chân tướng sự thật của vũ
trụ nhân sanh. Nói một cách
khác hiểu rơ chân tướng ḿnh đến thế gian
trong đời này. Nếu
thực sự hiểu rơ triệt để sinh hoạt và
hoàn cảnh xung quanh trong đời này th́ tự nhiên sẽ
buông xuống. Thế Tôn đă đau ḷng mỏi miệng
nói hết bốn mươi chín năm, luôn luôn nhắc
nhở nhưng chúng ta thực sự đă mê quá sâu đậm. Không ngừng nhắc nhở là hy
vọng có một ngày nào đó chúng ta có thể hoảng
nhiên đại ngộ, biết được ḿnh
đến thế gian chỉ là để thọ báo mà thôi.
Nghiệp đă tạo trong
những đời kiếp trước th́ đời này
đến để thọ nhận quả báo, đây là
nhân quả tuần hoàn.
Tạo thiện nghiệp nhiều th́ đời này
hưởng được một chút phước;
tạo ác nghiệp nhiều th́ đời này phải chịu
rất nhiều đau khổ.
Nhưng chẳng có người nào trong lúc thọ báo
bèn cam chịu thọ báo, vẫn cứ tạo nghiệp y
như cũ. Thọ báo
rồi tạo nghiệp, tạo nghiệp xong lại
thọ báo, vĩnh viễn cứ tuần hoàn. Hiện tượng tuần hoàn
này chẳng nâng lên trên mà là từ từ đi xuống,
đời này chẳng bằng đời trước,
như vậy đau khổ biết bao! Tại sao lại có hiện
tượng này? Tại chúng ta
tạo ra những nghiệp chẳng thiện. Thế Tôn nói rơ cho chúng ta biết
tạo thiện nghiệp th́ đi cơi thiện siêu sanh,
tạo ác nghiệp th́ đi vào cơi ác đọa lạc,
đây là chân tướng sự thật của nhân sanh. Thử suy nghĩ kỹ th́
đích thực là như vậy.
Phật từ bi thương xót những chúng sanh
thọ khổ thọ nạn này v́ ngu muội vô tri mê
mất tự tánh, cho nên mới nói rơ chân tướng
sự thật, hy vọng chúng sanh có thể vượt
thoát tam giới, lục đạo luân hồi, cùng các Ngài
làm Phật, làm Bồ Tát.
Vào Niệm Phật Đường
và muốn công phu được đắc lực th́
phải buông xuống hết thảy thân tâm thế
giới. Không buông xuống
nổi là v́ không hiểu giáo lư nên phải dùng phương
pháp giảng kinh để bổ cứu. Thời xưa Niệm Phật
Đường chẳng có giảng kinh, nhưng mỗi cây
hương lúc chỉ tịnh[25]
đều có giảng khai thị, dụng ư cũng
giống với giảng kinh, là giúp mọi người
đoạn nghi sanh tín, công phu đắc lực. Đặc biệt là ngày nay thời
gian chúng ta nghe kinh ngắn, chẳng đủ căn cơ,
tuy là có duyên trụ tại Niệm Phật Đường thù
thắng như vầy mà vẫn sanh phiền năo, vẫn c̣n
nhiều ư kiến, vẫn gây chướng ngại cho công
phu tu học của ḿnh. Do
đó có thể biết chẳng thể không đọc
kinh, chẳng thể không nghe giảng, mọi người
phải hết ḷng nỗ lực dụng công.
Sau khi Làng Di Đà xây xong, Niệm
Phật Đường có thể chứa từ một
đến hai ngàn người.
Đồng tu trụ tại Làng Di Đà đều là
Phật, Bồ Tát v́ những người đến
chỗ này chỉ có một mục đích là làm Phật. ‘Niệm Phật là nhân, làm Phật là quả’. Niệm Phật Đường
nhất định niệm Phật chẳng gián
đoạn suốt hai mươi bốn giờ, ngày ngày
đều như vậy, năm nào cũng đều như
vậy. Chúng ta là phàm phu
nghiệp chướng nặng nề muốn ngày đêm
niệm Phật chẳng gián đoạn, nhưng thể
lực có trở ngại, có trở ngại cũng phải
khắc phục. Khi xưa
Đế Nhàn lăo ḥa thượng dạy phương pháp
niệm Phật cho đồ đệ của Ngài --
người làm thợ vá nồi: ‘Niệm
mệt rồi th́ nghỉ, nghỉ mệt xong liền
niệm tiếp tục’. Nhất định chẳng
thể làm biếng, giải đăi, đây chính là v́ ḿnh mà
cũng v́ chúng sanh; bạn thành
Phật rồi th́ có thể phổ độ chúng sanh,
đây là tự lợi, lợi tha.
Hy vọng mọi người tự động,
tự phát đừng để người ta phải
đốc thúc. Trong Niệm
Phật Đường mặc áo hải thanh (áo tràng), lúc nghỉ
mệt cũng đừng cởi áo hải thanh, khi cởi
áo hải thanh th́ sợ ngủ mê, làm ngưng trệ công phu
niệm Phật; mặc luôn áo mà ngủ th́ có thể
đề cao cảnh giác, tận lực ngăn ngừa cho
ḿnh đừng làm biếng. Tu
học trong đạo tràng như vậy th́ làm sao chẳng
thành Phật cho được!
Trụ ở Làng Di Đà đều
miễn phí, một đồng [chúng tôi] cũng chẳng
nhận, v́ các bạn là Phật, Bồ Tát, chúng tôi
đương nhiên phải cúng dường. Một trong mười
đức hiệu của Phật là ‘Ứng Cúng’, các
bạn trú ở đây th́ đương nhiên phải
nhận sự cúng dường của hết thảy chúng
sanh. Bạn sẽ làm Phật
nên chúng tôi dùng tâm cúng dường chư Phật để
cúng dường các bạn, giúp các bạn ngay trong một
đời này viên thành Phật đạo, cái duyên này vô cùng
thù thắng! Nơi đây xin
chúc các bạn ngay trong một đời ngắn ngủi
này nhất định sẽ thành tựu.
8.
Học Phật tức là học
làm người
(Buổi sáng 07-12-98)
Học Phật tức là học
làm người, học làm một người tốt,
học làm một người minh bạch. Nhà Nho nói: “Đạt
đến mức tốt lành tột bậc” [26],
Phật pháp đích thật đă làm câu này được
viên măn. Chí thiện là thiện
đến mức cùng cực, đạt đến
cứu cánh viên măn. Nhà Nho và nhà
Phật đều có phương pháp đạt
đến chí thiện, cơ sở của phương
pháp này có thể nói là hoàn toàn tương đồng. Nhà Nho dạy học trước
hết đề ra ‘Tam Cương, Bát Mục’[27]. Nhà Phật dạy học
trước hết đề ra ‘Tứ Hoằng, Lục
Độ’, tinh thần và nội dung của hai thứ này
rất giống nhau. Thế
nên tư tưởng, kiến giải, giáo học, hành tŕ
của Khổng Lăo phu tử và Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
hẹn mà hợp với nhau, đúng là ‘Cái nh́n
của anh hùng đại lược giống nhau’.
Việc đầu tiên trong
sự tu học là phải phát nguyện, nhà Nho nói phải
lập chí, lập chí làm thánh hiền, làm đại sự,
chẳng phải lập chí làm quan phát tài, hưởng vinh
hoa phú quư. Đại sự là
ǵ? Nhà Phật nói: ‘Tử sanh đại sự’,
câu này nói rơ ư nghĩa của đại sự. Trong Phật pháp, đại
sự nhân duyên nói đến chỗ cứu cánh viên măn
tức là phổ độ chúng sanh và cũng là nguyện
thứ nhất trong Tứ hoằng thệ nguyện: ‘Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ’. Độ là ví dụ, độ qua
biển khổ sanh tử, độ qua lục đạo
luân hồi, đây mới là đại sự.
Vô lượng kiếp
đến nay chúng sanh kẹt măi trong sanh tử luân hồi
đời này sang kiếp khác, vĩnh viễn chẳng
thể thoát ly; trong kinh gọi chúng sanh trong lục
đạo là ‘người đáng thương xót’. T́nh trạng trong lục
đạo chỉ có Phật, Bồ Tát mới rơ ràng, phàm
phu mê trong đó và chẳng hiểu rơ chân tướng sự
thật. Chân tướng
sự thật này tức là chân tướng của sanh
tử và chân tướng của đời sống chúng ta.
Đức Phật nói khi chúng ta
ở trong luân hồi th́ nhất định thời gian
trong ba ác đạo dài, thời gian trong ba thiện
đạo ngắn. Thọ
mạng dài nhất trong tam thiện đạo là cơi Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở trời Vô
Sắc Giới, thọ mạng là tám vạn đại
kiếp; một đại kiếp bằng thời gian thế
giới chúng ta trải qua ‘thành - trụ - hoại - không’
một lần, tám vạn đại kiếp là thời gian
thế giới chúng ta thành, trụ, hoại, không tám vạn
lần, họ có thọ mạng dài như vậy. Thời gian dài trong ác đạo
càng dễ sợ hơn. Kinh
Địa Tạng dạy: ‘Thọ mạng trong
địa ngục là vô số kiếp’. Cho dù là trong cơi súc sanh tuy thọ
mạng chẳng dài nhưng súc sanh ngu si, kiên cố chấp
trước thân h́nh này là của ḿnh cho nên rất khó thoát
ra. Lúc Thế Tôn c̣n tại
thế, tại Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên có
một ổ kiến, Thế Tôn nói với đệ
tử: ‘Đă trải qua bảy vị
Phật rồi, cả ổ kiến này cũng chưa thoát
thân làm kiến, đời đời kiếp kiếp
cứ làm kiến hoài’. Thời gian này dài hơn thọ
mạng của Phi Phi Tướng Xứ Thiên quá nhiều,
quá nhiều!
Cho nên Phật, Bồ Tát
thường nhắc nhở chúng ta, cảnh cáo chúng ta, tam
ác đạo tuyệt đối chẳng thể đi vào,
đọa tam ác đạo rất dễ dàng, thoát ly tam ác
đạo th́ quá khó. Tuy
Phật, Bồ Tát từ bi ứng hóa trong ác đạo
độ chúng sanh, nhưng ác đạo chúng sanh ngu si
đến cùng cực, c̣n thêm vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước nặng nề, so với độ
người c̣n khó gấp nhiều lần. Tuy vậy nhưng Phật, Bồ
Tát cũng chẳng buông bỏ, các Ngài thực sự là
từ bi đến cùng cực.
Trong lục đạo chúng sanh
dễ độ nhất là loài người, thế nên
Bồ Tát thị hiện thành Phật cũng ở tại
cơi người. Nguyên nhân là
ǵ? Phật, Bồ Tát thị
hiện ở chỗ nào là do cảm ứng đạo giao
với chúng sanh nơi đó, chúng sanh có cảm, Phật,
Bồ Tát liền có ứng. Do
đó mới biết cơi người có sức cảm
ứng rất lớn với chư Phật, Bồ Tát,
thế nên quư Ngài ứng hóa trong cơi người, thị
hiện làm Phật, làm Bồ Tát, đây là chân lư.
Đời này chúng ta có thể sanh vào
cơi người, cơ hội này vô cùng hiếm hoi và quư báu,
quư ở chỗ cơi người dễ giác ngộ, dễ
được độ, cho nên chúng ta nhất định
phải nắm vững cơ duyên.
Vả lại cơ duyên này chẳng lâu dài v́ thọ
mạng của cơi người rất ngắn, cho dù
sống đến một trăm tuổi th́ cũng như
búng ngón tay, một sát na ngắn ngủi mà thôi. Thọ mạng ngắn nói lên
cơ duyên này đặc biệt quư báu, v́ vậy
được thân người nếu chẳng nghe
được Phật pháp th́ rất đáng tiếc. Số người
được thân người nhưng chẳng có cơ
duyên nghe Phật pháp đích thật là chiếm đại
đa số. Trong thời
đại hiện nay Phật pháp nương vào khoa học
kỹ thuật phổ biến truyền đến
khắp thế giới, bất luận là tin hay không,
chỉ v́ ‘một phen lọt
vào tai, vĩnh viễn là hạt giống đạo’,
đây là người thế gian có phước. Nếu ở trong đời này
thiệt có thể thoát ly lục đạo luân hồi th́
là thực sự thành tựu.
Ngược lại đời này chẳng thể
thoát ly lục đạo, đời sau không cách chi tránh
khỏi luân hồi như cũ; một khi đă luân
hồi th́ chẳng biết phải trôi lăn đến
kiếp nào mới có thể gặp được Phật
pháp. Nhất định
chẳng thể đời nào cũng gặp được
Phật pháp, nếu đời nào cũng được
gặp th́ chúng ta đă thành Phật sớm rồi, bởi
vậy mới biết việc này chẳng dễ.
Gặp được Phật
pháp mọi người đều hy vọng ngay trong
đời này được thành tựu, chuyện này
cũng chẳng phải khó, đích thực mỗi
người đều có thể làm được,
mấu chốt là ở chỗ giác ngộ. Biết được khuyết
điểm của ḿnh chính là giác ngộ; sửa khuyết
điểm cho đúng trở lại là tu hành. Nếu chẳng biết khuyết
điểm của ḿnh th́ không biết bắt đầu
sửa đổi từ đâu.
Nhưng một người biết được
khuyết điểm của ḿnh rất khó, ai cũng
tưởng là ḿnh đúng hoàn toàn.
Lư do phàm phu vẫn cứ là phàm phu v́ họ chẳng
biết lỗi lầm của ḿnh, cứ cho rằng ḿnh
đúng. Bồ Tát khác với
phàm phu là v́ Bồ Tát chẳng có quan niệm ḿnh đúng,
chỉ biết rằng lỗi lầm của ḿnh quá
nhiều, mỗi ngày đều phản tỉnh, ngày ngày đều
sửa lỗi, đây là người giác ngộ. Người mê th́ cứ
tưởng là ḿnh đúng, cho dù phản tỉnh th́ cũng
nghĩ ḿnh chẳng có lỗi, lỗi đều ở
nơi người khác.
Nhưng họ chẳng biết khi thấy lỗi
người khác th́ chính là lỗi của ḿnh; khi nào chẳng
thấy lỗi của người khác th́ lỗi của
ḿnh cũng chẳng c̣n.
Huệ Năng đại sư
dạy: ‘Nếu là người tu
đạo chân thật chẳng thấy lỗi thế gian’. Nh́n thấy người khác có
lỗi tức là phiền năo tập khí của ḿnh hiện
ra. Bên ngoài là duyên, duyên giúp cho
phiền năo tập khí của ḿnh khởi lên, đây là
lỗi lầm lớn. Cho nên
người biết tu hành, hết thảy ngoại duyên
đều là thiện tri thức, gặp người
thiện, chuyện thiện th́ có thể học tập,
gặp người ác, chuyện ác giúp ḿnh phản tỉnh
sửa lỗi lầm, thuận hay nghịch đều là
thiện tri thức. Trong lúc
phản tỉnh ‘có lỗi th́ sửa,
không th́ nhắc nhở để đừng phạm’,
lư do Bồ Tát tu hành có thể thành Phật là ở tại
điểm này.
Nếu chẳng hiểu
đạo lư và chân tướng sự thật, học
Phật mà chẳng thực sự thay đổi trên tâm
địa, tức là học Phật nhưng vẫn tạo
tội nghiệp y như cũ th́ đúng như lời
người xưa nói ‘Trước cửa
địa ngục có nhiều Tăng sĩ’[28]. Chữ Tăng này không nhất
định chỉ người xuất gia, người
tại gia cũng bao gồm trong đó; Tăng là đoàn
thể, bất luận là xuất gia hay tại gia, đoàn
thể học Phật đều xưng là Tăng đoàn.
Hiện nay tu học pháp môn Niệm
Phật có thể giúp chúng ta đoạn phiền năo,
tăng trưởng trí huệ, thoát ly sanh tử luân
hồi, viên thành Phật đạo. Trong vô lượng pháp môn đây
là pháp môn hy hữu thù thắng hạng nhất, chẳng
dễ ǵ gặp được.
Đặc biệt là đạo tràng có tổ chức tu
tập chung như vầy chẳng phải do sức
người tạo nên, mà là do chư Phật, Bồ Tát gia
tŕ nên đạo tràng có chư Phật hộ niệm, Long
thiên ủng hộ. Mọi
người ở trong đạo tràng này tu học phải
đặc biệt trân trọng cái nhân duyên hiếm có, khó
gặp này, phải hết ḷng nỗ lực, nhất
định nội trong một đời này viên măn thành
tựu.
9.
Cầu cảm ứng (Buổi sáng 08-12-98)
a. Học Phật
tức là học giác ngộ.
Phật pháp quư ở chỗ giác
ngộ, cổ thánh tiền hiền cũng nói: ‘chế ngự được niệm th́ thành thánh’[29] , thế nên thánh hay
phàm chỉ ở tại một niệm giác hay mê mà thôi. Một niệm giác, ngay lúc đó
tức là Nhất Chân pháp giới; một niệm mê th́
đâu phải chỉ có mười pháp giới không
thôi? Người giác ngộ
thực sự có thể buông xuống, chỉ có
người mê mới có chấp trước. Chư Phật, Bồ Tát là
tấm gương tốt cho chúng ta, cho nên học Phật,
Bồ Tát tức là học giác ngộ, học nh́n thấu,
buông xuống, thực sự làm được ‘chẳng tranh với người, chẳng cầu
với đời’ th́ tự nhiên thân tâm tự
tại, trí huệ tăng trưởng.
Người học Phật
chẳng thể khế nhập vào cảnh giới là v́
một niệm t́nh chấp chưa tiêu trừ. Nếu muốn thành tựu th́
chẳng thể không biết đạo lư này, chẳng
thể không hết ḷng học tập ‘chẳng tranh,
chẳng cầu’, học tập từ bi, nhiệt thành giúp
người. Trong quá tŕnh giúp
người, nhất định chẳng thể chấp
trước danh - văn - lợi -dưỡng, ngũ
dục lục trần, phải vĩnh viễn bảo tŕ
tâm thanh tịnh, b́nh đẳng; đây là Bồ Tát
hạnh, Bồ Tát hạnh là hạnh giác ngộ.
Chúng ta phải quan sát kỹ và thể
hội cả đời hành tŕ của đức Thế
Tôn. Thế Tôn hoằng pháp
lợi sanh giảng kinh thuyết pháp, chẳng có danh
phận, cũng chẳng có chức vị, đối
với chúng ta chỉ là quan hệ thầy tṛ. Quan hệ này vẫn c̣n là kiến
giải phàm phu, Thế Tôn tuyệt chẳng có khái niệm
này; nếu Ngài có khái niệm này th́ chẳng thể thành
thánh, thành Phật. V́ thầy
tṛ là nhị pháp, nhị pháp chẳng phải là Phật
pháp, đây là lời Lục Tổ Huệ Năng
đại sư nói.
b. Nhị
đế
Thế Tôn cả đời giảng
kinh thuyết pháp y cứ theo nguyên lư, nguyên tắc Nhị
Đế; mười phương ba đời hết
thảy chư Phật Như Lai thuyết pháp cũng
dựa trên Nhị Đế.
Nhị Đế tức là Chân Đế và Tục
Đế. Chân Đế hoàn toàn nói
về chư pháp thật tướng, chẳng có tơ hào
phân biệt chấp trước, người thế gian
khó hiểu việc này. Tục
Đế tức là thế gian pháp, y theo tri kiến và
thường thức của chúng sanh, mọi người
đều dễ hiểu.
Nhưng trí huệ của Phật cao, thiện xảo
phương tiện đạt đến cực
điểm, nói Tục Đế cũng bao gồm Chân Đế,
nói về Chân Đế nhưng cũng chẳng ĺa Tục
Đế, Chân và Tục viên dung, được đại
tự tại. Người
thế gian không những mê Chân Đế mà cũng mê Tục
Đế. Phật có thể viên
dung cả Chân lẫn Tục, tức là Chân Đế nh́n
thấu rồi, th́ Tục Đế cũng buông xuống. Nh́n thấu và buông xuống là
một chứ chẳng phải hai, đây mới là trí
huệ chân thật. ‘Trụ
chân thật huệ’ trong kinh Vô Lượng Thọ
tức là cảnh giới này.
Những việc làm cả đời của chư
Phật, Bồ Tát chỉ có một mục đích là
hoằng pháp lợi sanh, ban cho chúng sanh lợi ích chân
thật. Dù ban lợi ích chân
thật nhưng Ngài cũng chẳng cầu một cái ǵ, và
cũng chẳng phân biệt chấp trước. Những chỗ này chúng ta phải
rơ ràng, thấu hiểu triệt để, hết ḷng
học tập.
c. Cầu cảm ứng
Sự nghiệp hoằng pháp
lợi sanh chẳng thể không cầu cảm ứng. Đối với việc này, nếu
có thể thể hội được Chân Tục viên dung
th́ sẽ có chánh tri, chánh kiến, chánh giải, và sẽ
chẳng nghiêng lệch về một bên. Người thế gian chấp
trước trên Tục Đế, thực sự niệm
niệm đều mong cầu, niệm niệm mong cầu
th́ liền lọt vào trong ư thức. Cầu mong chư Phật, Bồ
Tát là làm một cách đúng lư, đúng pháp, có nguyện
cầu nhưng chẳng có tâm mong cầu, như vậy
mới viên dung, mới có cảm ứng.
Nhà Nho nói: ‘lập chí’, nhà Phật
nói ‘phát nguyện’, hai thứ này có khác nhau không? Trong ‘chí’ có mong cầu, có cầu
th́ sẽ lọt vào t́nh thức; trong ‘nguyện’ chẳng có
mong cầu. Nói một cách khác
‘lập chí’ có mang theo cảm t́nh, ‘phát nguyện’ thuần
túy là trí huệ, chẳng có t́nh thức. Thực ra chúng ta chỉ cần
làm đúng như lư, như pháp, chư Phật Như Lai
sẽ tự nhiên hộ niệm, đây tức là ‘cầu’,
‘cầu’ như vậy th́ có cảm ứng. Chúng ta cầu mà chẳng cầu,
chư Phật, Bồ Tát ứng mà chẳng ứng, thế
th́ sẽ cảm ứng đạo giao chẳng thể
nghĩ bàn, không những Phật, Bồ Tát hộ niệm,
long thiên thiện thần cũng sẽ ủng hộ. Nếu có tâm mong cầu th́
tuyệt đối sẽ chẳng có cảm ứng,
tại v́ tâm này là t́nh thức, gây trở ngại cho sự
cảm ứng giữa chúng ta và chư Phật, Bồ Tát. Thế nên có nguyện nhưng
chẳng có tâm mong cầu, chỉ cần hết ḷng nỗ
lực như lư như pháp mà làm th́ tự nhiên sẽ có
cảm ứng.
Tự ḿnh tu tập phải
đoạn phiền năo tập khí, phải khai trí huệ,
giúp đỡ người khác cũng có mục đích này,
nhưng thủ đoạn phương pháp phải tùy
cơ ứng biến, v́ cơ duyên chẳng giống nhau,
phương thức sẽ chẳng đồng, có câu ‘phương tiện có nhiều cửa,
đường trở về chẳng hai’. Tự ḿnh thành tâm thành ư mà làm,
chướng ngại của ḿnh chẳng c̣n nữa
nhưng chúng sanh c̣n chướng ngại, tức là duyên
chưa chín muồi. Duyên
chưa chín muồi th́ tự ḿnh phải dưỡng
đạo, cũng tức là tiến tu, không ngừng nâng
cao cảnh giới của ḿnh, chờ đợi cơ
duyên của chúng sanh chín muồi, việc này chẳng
thể miễn cưỡng chút nào.
Nếu muốn dời cơ duyên
độ chúng sanh đến sớm hơn th́ tự ḿnh
phải hết ḷng nỗ lực tu pháp sám hối, sửa
lỗi đổi mới, hết thảy đều
cầu về hướng tự tánh. Thế nên Phật pháp
được gọi là Nội Học, hoàn toàn khác với
thế gian pháp. Người
thế gian hướng về bên ngoài mong cầu, Phật pháp
th́ hướng về tự tánh mà cầu, chẳng hướng
ngoại. Cầu chư
Phật, Bồ Tát gia tŕ th́ cũng là từ tự tánh mà
cầu. Nếu chúng ta thực
sự cùng tâm, cùng nguyện, cùng đức, cùng hạnh
với Phật, đây tức là ‘cầu’, cầu như
vậy chẳng hướng ngoại, hết thảy
Như Lai làm sao chẳng gia tŕ?
Như vậy cũng giống như tiếp nối
đường điện, chẳng có chướng
ngại, nhất định sẽ có cảm ứng
đạo giao. Nếu có một
tâm niệm riêng tư, đường điện sẽ
đứt mất và sẽ chẳng có cảm ứng.
Nếu có tâm riêng tư, có t́nh
[chấp] dục [vọng] mà cầu th́ cũng có cảm
ứng, đây là ma cảm ứng, trong xă hội ngày nay,
những chuyện này rất nhiều. Yêu ma quỷ quái cũng có thể
làm cho bạn có thần thông, làm cho bạn phát cuồng, cho
bạn một số khả năng đặc biệt,
bạn cũng có thể mê hoặc chúng sanh, nhưng đây
đều là tạo nghiệp. Năm mươi loại
Ấm Ma giảng trong kinh Lăng Nghiêm rất rơ ràng.
Những thứ thần thông, đạo lực này là do ma
nhập vào người, ma gia tŕ họ; sau khi ma rời
khỏi th́ hoàn toàn mất hết, sau cùng bản thân
người đó cũng sẽ gặp nạn. Cho nên nhà
Phật nói về đạo lư ‘cầu’ chúng ta nhất
định phải hiểu; pháp thế và xuất thế
gian đều hướng về tâm tánh, như vậy
mới đúng.
d. Hoằng pháp và
Hộ pháp.
Chư Phật hộ niệm,
long thiên thiện thần ủng hộ, hiển thị
tại đâu? Xung quanh chúng ta
sẽ có rất nhiều bạn tốt giúp đỡ,
hộ tŕ, đây là hộ pháp.
Hộ pháp gồm có nội hộ và ngoại hộ,
nội hộ là do người xuất gia hộ tŕ,
ngoại hộ do hai chúng tại gia hộ tŕ,
được vậy chánh pháp mới được xây
dựng, thường trụ tại thế gian. Tuy được hộ tŕ
cả trong lẫn ngoài, tâm địa chúng ta vẫn
phải thanh tịnh, vẫn phải mảy trần chẳng
nhiễm như cũ.
Giống như Cư Sĩ Lâm Tân
Gia Ba và Tịnh Tông Học Hội đích thực có
thiện hữu giúp đỡ mạnh mẽ, nhưng chúng
ta đối với họ chẳng có tiếp đăi đặc
biệt. Lúc ăn cơm ở
Cư Sĩ Lâm, họ tự động lấy dĩa
đi gắp thức ăn, tự kiếm chỗ ngồi,
chẳng nhận một sự tiếp đăi đặc
biệt nào cả, đây mới thật sự là thiện
hữu chân thật. Có câu ‘Một vị Phật ra đời, ngàn Phật
ủng hộ’, những người này
đều là Phật, Bồ Tát, cho nên đạo tràng này có
thể thành lập, là mọi người có
phước. Chúng ta rất may
mắn gặp được nhân duyên này và cũng rất
hoan hỷ dốc toàn tâm toàn lực để hợp tác,
ủng hộ, cống hiến một chút sức hèn
mọn. V́ giúp họ là giúp hết
thảy chúng sanh, giúp họ tức là giúp chư Phật
Như Lai.
Cho nên người xuất gia
tốt nhất đừng quản lư sự vụ, đây
là do Thế Tôn thị hiện cho chúng ta thấy. Người xuất gia quản lư
sự vụ là bất đắc dĩ, là đă biến
dạng rồi. Nếu
người xuất gia quản lư sự vụ th́ là hộ
pháp, chẳng phải là hoằng pháp, vậy th́ phải toàn
tâm toàn lực bồi dưỡng những người đi
sau (lớp đàn em),
chiếu cố những pháp sư hoằng pháp. Quản lư sự vụ cũng
giống như hiệu trưởng trong trường
học, phải quản lư giáo vụ, tổng vụ,
đây là [chức vụ] Chấp Sự, có tánh cách phục
vụ. Hoằng pháp là giáo viên,
chẳng đảm nhiệm Chấp Sự. Phía trong Chấp Sự là nội
hộ, bên ngoài Chấp Sự là ngoại hộ.
Nếu chúng ta có thể hiểu rơ
quan niệm này, mỗi người đều tận tâm
làm tṛn trách nhiệm của ḿnh, Phật pháp nhất
định sẽ hưng vượng, chúng sanh mới
thực sự có phước.
Nhất định chẳng tranh giành chức vị
Chấp Sự, sau đó tác oai, tác phước để
hưởng thọ, chướng ngại cho pháp sư
hoằng pháp, chẳng bồi dưỡng huấn luyện
hậu học, đây là tạo ra vô lượng vô biên
tội nghiệp, tạo tội nghiệp này phải
đọa A Tỳ địa ngục. Chúng ta phải rơ ràng minh bạch,
phải tu phước trong nhà Phật, đừng nên tạo
nghiệp.
Chúng ta làm tṛn nội hộ và
ngoại hộ, tự nhiên sẽ có chư Phật Bồ
Tát đến hoằng pháp lợi sanh. Nội hộ và ngoại hộ
làm chẳng đúng như pháp, nhất định sẽ
chẳng có Phật, Bồ Tát đến thuyết pháp v́
duyên chưa chín muồi. Công
tác hộ pháp làm được viên măn th́ là duyên chín
muồi, tự nhiên sẽ cảm được chư
Phật, Bồ Tát đến thị hiện giáo hóa chúng
sanh.
10. Làm
đệ tử Di Đà (Buổi sáng 09-12-98)
a. Gặp duyên rất
quan trọng.
Những năm đầu Dân
quốc, Thái Hư pháp sư đề xướng ‘Bồ
Tát Học Xứ’, ư tưởng này rất tốt. Hiện nay chúng ta đề
xướng làm ‘Đệ Tử Di Đà’.
Đệ tử Di Đà đương nhiên cũng là Bồ
Tát. Như thế nào mới
làm được? Đây là
vấn đề của giáo dục. Thánh nhân thế gian và xuất
thế gian dạy: ‘Người ta ai cũng có thể làm
thánh hiền, ai cũng có thể làm Nghiêu, Thuấn’,
mấu chốt là ở tại giáo học. Dùng Phật pháp mà nói, giáo học
là trợ duyên, tăng thượng duyên, nếu gặp
được tăng thượng duyên tốt,
người có tài năng hạng trung cũng có thể làm
thánh làm hiền, trong nhà Phật có chuyện này, trong các
triều đại Trung Quốc cũng có. Đặc biệt là trong Phật
pháp, hạ hạ căn cũng có thể làm A La Hán, làm
Bồ Tát, đây là chỗ cao minh của nền giáo học
Phật pháp. Trong nhóm
đệ tử của Thế Tôn, Châu Lợi Bàn Đà Già [30] là
một thí dụ rất hay.
Ngay cả người hạ hạ căn cũng có
thể chứng quả vị A La Hán, có thể thành
đại Bồ Tát, huống chi là người trung,
thượng căn?
Phần đông người ta cả
một đời chẳng thể thành tựu, pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng thành, hoặc có
được chút ít thành tựu nhưng sau cùng lại
thất bại đều là v́ gặp duyên chẳng
tốt. Phật thuyết pháp:
‘Hết thảy pháp do nhân duyên sanh’ rất có
đạo lư. Một duyên
phần tốt th́ chỉ có thể gặp mà chẳng
thể cầu. Vậy th́
đời này chúng ta có thể gặp duyên tốt
chăng? Câu trả lời là
khẳng định được, tại v́ ‘trong nhà Phật chẳng xả một người
nào hết’, vấn đề ở tại phát
tâm. Nếu chúng ta phát tâm
thuần chánh, chư Phật Bồ Tát nhất định
sẽ đến làm tăng thượng duyên cho chúng ta,
sẽ đến giúp đỡ chúng ta.
b. Phát tâm.
Nhà Phật nói chữ ‘thuyết
pháp’, cơ duyên chín muồi mà bạn chẳng thuyết pháp
cho họ nghe th́ đánh mất cơ hội, là mất
đi thời tiết nhân duyên; nếu cơ duyên chẳng
chín muồi mà thuyết pháp cho họ th́ là không đúng
lúc. Phật hiểu rơ thời
tiết nhân duyên nên Phật thuyết pháp được ví
như ‘hải triều
âm’. Hải triều chỉ
thủy triều dâng (nước lên)
và xuống có thời gian nhất định, nhất
định chẳng bao giờ sai.
Đức Phật giáo hóa chúng sanh cũng vậy.
Đây là nói rơ một sự thật:
chúng sanh có Cảm th́ Phật sẽ Ứng, cảm ứng
đạo giao. Do đó có
thể biết thành tựu hay không là thao túng trong tay của
chính ḿnh. Nếu ḿnh hy vọng
làm thánh làm hiền, làm Phật, làm Bồ Tát th́ cái tâm này là
Cảm, nhất định Phật, Bồ Tát sẽ có
Ứng. Nếu niệm này
chẳng sanh khởi th́ là chẳng có Cảm; chẳng có
Cảm th́ đương nhiên Phật, Bồ Tát chẳng
có Ứng, cho nên bạn sẽ chẳng gặp được cơ
duyên. Nếu nguyện vọng
của bạn là chân thật th́ cảm ứng sẽ
rất nhanh chóng; nếu nguyện vọng rất yếu
ớt, khi có khi không, th́ cảm ứng cũng sẽ
yếu ớt. Cho nên một
đời này của bạn có thành tựu hay không là do
sự ‘phát tâm’.
Nguyên nhân ‘Bồ Tát Học Xứ’
của Thái Hư pháp sư chưa thực hiện thành công
là v́ người chân chánh phát tâm làm Phật, làm Bồ Tát quá
ít. Chân chánh phát tâm làm Bồ Tát
th́ nhất định chẳng bị danh văn lợi
dưỡng, ngũ dục lục trần trong thế gian
dụ hoặc; nếu c̣n bị dụ hoặc th́ sẽ
chẳng làm Bồ Tát nổi.
Chuyện này phải nhờ tự ḿnh khắc
phục phiền năo tập khí th́ mới có được
cảm ứng, có được trợ duyên.
Hiện nay ngoại duyên ở Tân
Gia Ba đă chín muồi, đây là cảm ứng của
Phật, Bồ Tát. Chúng ta
từ sự ‘ứng’ của Phật, Bồ Tát th́ có
thể biết được trong nhóm đồng tu có
Cảm; nếu chẳng có Cảm th́ làm sao có Ứng
được? Cho nên trong các
vị đồng tu nhất định có người chân
chánh phát tâm muốn làm Bồ Tát, muốn làm đệ
tử Di Đà nên duyên này mới chín muồi, chẳng có chút ǵ
miễn cưỡng, đây là chân thật chẳng hư
dối. Chúng ta gặp
được thời tiết nhân duyên vô cùng thù thắng
như vậy th́ càng tăng thêm tín nguyện của chúng ta,
và từ đó chúng ta cũng thành tựu theo. Đúng như lời của cư
sĩ Bành Tế Thanh ‘vô lượng
kiếp đến nay hiếm có, khó gặp’,
chúng ta nhất định phải trân quư cái duyên phần
này. Nếu trong nhân duyên thù
thắng như vậy mà vẫn chẳng chống nổi
phiền năo tập khí, chẳng chống nổi danh văn
lợi dưỡng, ngũ dục lục trần dụ
hoặc, bỏ lỡ cơ duyên quư báu th́ thiệt rất
đáng tiếc!
Cư sĩ Lư Mộc Nguyên phát tâm chân
thật, chẳng có một chút tâm riêng tư, cho nên làm
việc hoằng pháp được thành công, làm tăng
thượng duyên cho mọi người. Nếu ổng có một chút tâm
riêng tư th́ công chuyện sẽ nhất định
thất bại, v́ nếu có tâm riêng tư th́ sẽ
chẳng được Tam Bảo cảm ứng. Nếu vẫn có cảm ứng
th́ nhất định là ma đến ứng, chẳng
phải Phật đến ứng.
Ma và Phật khác nhau chẳng ở cảnh bên ngoài mà
là ở nội tâm. Một
niệm chân thành, Phật đến cảm ứng; một
niệm tự tư tự lợi th́ ma đến cảm
ứng. Thế nên trong tâm
chẳng có một chút tâm niệm ham muốn riêng tư
mới cảm được chư Phật đến
ứng.
c.Tâm chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, từ bi
Trong đời sống hằng
ngày lúc đối người, đối sự,
đối vật chẳng thể có ‘tôi đúng anh sai’, ‘tôi
chánh anh tà’. Nếu vẫn c̣n
tâm niệm tự tư tự lợi, cứ cho là ḿnh
đúng th́ đó là phiền năo tập khí, tâm như vậy
sẽ chẳng thanh tịnh, chẳng b́nh đẳng,
đó là chướng ngại cho sự cảm ứng đạo
giao với chư Phật, Bồ Tát. Chuyện tốt cuối cùng
biến thành ma cảnh là ở tại một niệm sai
trái này. Tâm Phật, Bồ Tát
là tâm chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi, nh́n
hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng,
đối với hết thảy chúng sanh đều chân
thành, cung kính. Chúng ta phải
học tập những tâm này th́ mới có được
cảm ứng, có được trợ duyên. Có được trợ duyên
rồi th́ tự hành hóa tha sẽ rất thuận tiện.
Cứ thường thấy
lỗi người khác, cứ cho là ḿnh đúng, đây là
lỗi lầm lớn nhất.
Cho dù người khác tạo nên tội ngũ
nghịch, thập ác, chúng ta vẫn phải học
Phật, Bồ Tát dùng con mắt từ bi mà quán, họ
chỉ v́ một lúc mê hoặc nên tạo thành lỗi
lầm, họ chẳng dùng chân tâm, trong chân tâm chẳng có
lỗi lầm, họ dùng vọng tâm nên bị phiền năo
tập khí chi phối. Chư
Phật Bồ Tát nh́n thấy những người này
sẽ dùng tâm thương xót, tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng để đối đăi; v́ chân tâm Phật
tánh của họ chẳng bị giảm mất chút nào,
Phật, Bồ Tát đối với họ vẫn hoàn toàn
cung kính. Phổ Hiền Bồ
Tát dạy chúng ta ‘Lễ kính chư Phật’, cho nên
đối với những người làm ác đa đoan,
lễ kính vẫn chẳng giảm bớt mảy may.
Chuyện này chúng ta có thể làm
được hay không?
Nếu có phân biệt, chấp trước th́ sẽ
làm không được. Làm
không được th́ là chúng sanh, chẳng phải Bồ
Tát. Muốn học làm Bồ
Tát th́ phải bắt đầu học từ chỗ này,
phải chân chánh làm được đối với
người cực ác th́ cũng hoan hỷ khen bề
tốt, mặt thiện của họ, tuyệt đối
chẳng đề cập đến bề ác, mặt
xấu của họ. Không
những không đề cập, trong tâm cũng chẳng lưu
lại dấu vết, tâm như vậy mới thực
sự thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ được
đại tự tại. Chúng
ta xem họ cũng giống như một vị Phật,
v́ ‘hết thảy chúng sanh vốn thành Phật’, Phật
đối đăi với người như vậy
đó. Chúng ta học Phật
th́ cũng phải đối đăi với người
như vậy. Bây giờ
họ làm ác chỉ bất quá là v́ một lúc hồ
đồ, hồ đồ rồi một ngày nào đó
cũng sẽ minh bạch; chúng ta có nghĩa vụ giúp
đỡ họ, làm cho họ sớm hiểu rơ; khi
hiểu rơ rồi th́ họ cũng sẽ phổ độ
hết thảy chúng sanh, chúng sanh sẽ có phước.
Trong tâm đừng nên nghĩ về
thị - phi, nhân - ngă, ân - ân, oán - oán, phải thường
nghĩ đến lời dạy của Phật,
thường nghĩ đến ư nghĩa của kinh. Dùng kinh Vô Lượng Thọ làm
chánh th́ phải thường nghĩ đến nghĩa lư
của kinh Vô Lượng Thọ, đem nghĩa lư đó
biến thành sự suy nghĩ chân chánh của ḿnh, ứng
dụng trong đời sống, dùng mắt Phật quán
thế gian, chúng ta mới chân chánh thành đệ tử Di
Đà, chân chánh làm Bồ Tát, chuyển phàm thành thánh. Chuyển từ trong tâm, chuyển
trên hành vi, đây là công đức chân thật, hy vọng
mọi người cùng nhau khích lệ.
11. Mở
rộng tâm lượng, bao dung kẻ khác
(Buổi sáng 14-12-98)
Quyển hai của kinh Hoa Nghiêm
vừa mở đầu liền hiện lên cảnh
giới: ‘tâm bao trùm thái hư, lượng gồm
thâu các cơi nhiều như cát’. Câu nói của Lăo Tử: ‘Có bao dung th́ mới rộng lớn, chẳng ham
muốn th́ sẽ mạnh mẽ’ [31]
cũng thể hiện trong đoạn kinh văn này. Trong kinh nói đến ‘đại
nhẫn’ tức là chân nhẫn, là dùng chân tâm mà nhẫn, tâm
lượng của chân tâm lớn, không có ǵ chẳng bao
dung. Chỉ có hiểu rơ
triệt để chân tướng sự thật th́
mới có tâm lượng lớn như vậy. Cảnh giới đó là vốn
có, chẳng phải là do học mà được, cũng
chẳng phải có được dần dần, cho nên
Phật mới nói ‘hết thảy chúng
sanh vốn thành Phật’. Chúng ta vốn có đại
nhẫn, vốn là Phật, giống y như Tỳ Lô Giá Na
Phật, A Di Đà Phật, hiện nay lại biến thành
như vầy là v́ đă mê mất tự tánh, chân tâm. Giáo học Phật giáo chẳng có
ǵ khác ngoài sự giúp đỡ chúng sanh khôi phục bộ mặt
vốn có mà thôi; ngoài chuyện này ra, Phật chẳng có
một pháp ǵ để dạy chúng sanh. Cho nên thánh và phàm, Phật và chúng
sanh khác nhau ở tại một niệm mê - ngộ mà
thôi. Phật thường than
tiếc chúng sanh mê hoặc là ‘người đáng
thương xót’, chỉ v́ mê mất tự tánh nên tâm
địa hẹp ḥi, chẳng thể bao dung người
khác, thậm chí hai người sống chung cũng có ư
kiến bất đồng, chẳng thể ḥa hợp, đúng
là đáng thương xót đến mức cùng cực. Kinh Hoa Nghiêm vừa mở
đầu liền triển hiện lên tận hư không
trọn khắp pháp giới mọi chúng tạp thần, có
thiện thần, có ác thần, có bát bộ quỷ thần
trong thập pháp giới, c̣n có chư thiên, thiên vương,
tổng cộng có hai trăm hai mươi tám đoàn
thể chủng tộc khác nhau.
Thiệt là chẳng ǵ chẳng bao gồm, dung
chứa, tâm lượng như vậy quá lớn! Chúng ta cũng phải khôi phục
lại tâm lượng lớn như vậy. Nếu chẳng thể dung
nhẫn, kết oán cùng người, tạo thành oan oan
tương báo, bạn gây chướng ngại cho
người khác th́ người khác sẽ chướng
ngại bạn; bạn phá hoại kẻ khác th́ kẻ khác
sẽ phá hoại bạn, tạo ra nhân ǵ th́ sẽ chịu
quả báo đó, quả báo thông ba đời, rất
đáng sợ. Cho nên khi
bạn bao dung kẻ khác, th́ kẻ khác bao dung bạn; bạn
giúp đỡ người khác th́ người khác giúp
đỡ bạn, đây là chân lư vĩnh viễn chẳng
biến. Đây là trong kinh Hoa
Nghiêm, Phật hiện thân thuyết pháp, biểu diễn cho
chúng ta coi, để cho chúng ta thể hội.
Chỗ vĩ đại của
Phật, Bồ Tát là ở chỗ chẳng đối
địch với người, ngay cả đối
với ác quỷ cực ác cũng cung kính, thương yêu
che chở, v́ biết [hết thảy đều] cùng
một căn bản, cùng một tự tánh. Tào Thực nói: ‘Vốn cùng sanh
một rễ, nấu nhau sao quá gấp?’ [32],
tận hư không trọn khắp pháp giới hết
thảy chúng sanh đều cùng một cội rễ, cái
cội rễ này chính là chân như tự tánh.
Một đoàn thể chủng
tộc chẳng thể bao dung những chủng tộc khác
th́ sẽ có đấu tranh giữa các đoàn thể
chủng tộc, một quốc gia chẳng thể bao dung
quốc gia khác th́ sẽ sanh khởi chiến tranh. Muốn giải quyết những
vấn đề này th́ tâm lượng nhất định
phải lớn, khi khởi tâm động niệm
đều nghĩ đến hết thảy chúng sanh,
phải tôn trọng, kính ái, hợp tác lẫn nhau, th́
mới tiêu trừ những sự hiểu lầm, mâu
thuẫn, ngăn cách, kỳ thị, thế giới mới
chân chánh đạt được ḥa b́nh an
định. Nếu niệm
niệm đều v́ lợi ích của ḿnh, xem
thường lợi ích của đối phương, xem
thường lợi ích của toàn thể nhân loại, cho
dù mỗi ngày đều hô hào thế giới ḥa b́nh, th́
đó cũng chỉ là một khẩu hiệu, chẳng
thể thực hiện. Do
đó người tâm lượng hẹp ḥi chẳng có cách
ǵ để giải quyết vấn đề. Các đoàn thể chủng tộc
trên thế giới, người lănh đạo quốc gia
nhất định phải mở rộng tâm lượng,
niệm niệm đều v́ hết thảy chúng sanh
khổ nạn trên thế giới, ḥa b́nh an định
mới có thể thực hiện.
Giả sử mọi
người đều nghĩ đến lợi ích
của hết thảy chúng sanh trên trái đất, vấn
đề vẫn chẳng thể giải quyết y như
cũ v́ tâm lượng này vẫn c̣n quá nhỏ. Chúng ta chỉ thương yêu
quả đất này, chẳng thương yêu những tinh
cầu khác th́ tương lai chiến tranh giữa các tinh
cầu vẫn có thể xảy ra.
Thế nên tâm lượng phải mở rộng,
phải học Phật, Bồ Tát khi khởi tâm
động niệm phải quan tâm đến tận hư
không, trọn khắp pháp giới, chẳng buông bỏ
một chúng sanh nào hết.
Nếu chưa có tâm lượng lớn như vậy
th́ làm sao mới làm được câu ‘chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ’?
Nếu tâm lượng nhỏ bé chẳng thể dung
nạp một người nào, mỗi ngày phát nguyện
[như vậy] th́ chẳng phải là tự sỉ nhục
hay sao, lừa gạt Phật, Bồ Tát hay sao? Đó là nói dối. Nói nghe rất hay, nhưng làm toàn
những chuyện phản đạo, đều là tạo
nghiệp, nên cổ đức thường nói: ‘Trước cửa địa ngục, tăng
đạo nhiều’, nguyên nhân người học
Phật vẫn c̣n đọa địa ngục là ở
tại chỗ này.
Người chẳng nghiên
cứu giáo lư làm sai th́ c̣n tha thứ được; chúng ta
mỗi ngày đều nghiên cứu Phật lư, chẳng t́m
hiểu rơ ràng những đạo lư này, vẫn c̣n mê trong
danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục
trần, việc này ngay cả ḿnh cũng chẳng tha
thứ ḿnh được.
Nếu từ chỗ này chúng ta có thể tỉnh
ngộ th́ đó là sự giác ngộ chân chánh. Lúc đó đọc kinh Hoa Nghiêm
mới có thọ dụng chân thật, quan niệm tư
tưởng mới chuyển biến được,
sẽ ‘nhập tri kiến Phật’. Hiểu rơ y báo, chánh báo trang nghiêm
của thập pháp giới vốn có cùng một gốc
rễ, đó tức là tri kiến Phật.
Trong cuốn ‘Địa Tạng Kinh
Luân Quán’ Thanh Liên pháp sư giảng: ‘Không
tướng không tên, dứt bặt suy nghĩ”[33],
đây tức là nghĩa lư và tinh hoa của kinh Kim
Cang, đây là chân tướng sự thật. Nếu chúng ta thể hội
đến ư nghĩa chân thật của câu này th́ quan
niệm tư tưởng, ngôn ngữ hành vi sẽ
chuyển biến, chuyển phàm thành thánh. Hiểu được một
phần th́ chuyển biến một phần; hiểu
được hai phần th́ chuyển biến hai phần;
mức độ chuyển biến bao lớn đi đôi
với mức độ lư giải sâu hay cạn. Đây cũng có thể dùng làm
phương pháp đo lường công phu tu học của
ḿnh, nếu có chỗ tiến bộ th́ tâm địa
sẽ ngày càng thanh tịnh, trí huệ ngày càng tăng
trưởng, phiền năo cũng sẽ ngày càng giảm
bớt. Đến lúc phiền năo
nhẹ, trí huệ tăng th́ những kinh luận thế
gian và xuất thế gian bày ra trước mặt, vô
lượng vô biên nghĩa thú tự nhiên sẽ tuôn trào ra. Thế nên chân tu tức là làm
một sự chuyển biến to lớn trên quan niệm và
tâm lư.
Chúng ta là chúng sanh mê hoặc,
chỗ nương dựa duy nhất để chuyển
biến là thánh giáo, dựa vào phương hướng và
mục tiêu của thánh giáo chỉ đạo, hết ḷng
làm việc chuyển biến, chuyển thức thành trí,
chuyển phiền năo thành Bồ Đề, chuyển sanh
tử thành Niết Bàn, chuyển mê thành ngộ, siêu phàm
nhập thánh, chúng ta phải làm công tác này. Đối với chúng sanh có duyên
cũng phải hết ḷng, hết sức giúp đỡ
họ chuyển biến; tuy giúp đỡ chúng sanh nhưng
tâm địa vẫn giữ thanh tịnh như cũ,
tuyệt chẳng chấp tướng; chấp
tướng sẽ sanh phiền năo, tâm sẽ bị ô
nhiễm. Phật, Bồ Tát
dạy dỗ hết thảy chúng sanh có thể giữ ǵn
tâm thanh tịnh, chẳng bị ô nhiễm, nếu chúng sanh
có thể chuyển biến tư tưởng quan niệm,
th́ tán thán hoan hỷ; nếu chẳng thể chuyển
biến th́ tâm địa của Phật, Bồ Tát cũng
vẫn thanh tịnh, chẳng lưu lại dấu vết,
đây chính là ‘tam luân thể không’
nói trong kinh Bát Nhă, thế nên Phật, Bồ Tát vĩnh
viễn tự tại, vĩnh viễn chẳng thoái
chuyển, đạo lư là ở tại chỗ này.
Chúng ta tu học tiến bộ
ít, thoái lui nhiều là v́ niệm niệm đều bị ô
nhiễm. Khi chỉ dạy
người ta, nếu họ chịu tiếp nhận th́
sanh tâm hoan hỷ, vậy là bị hoan hỷ ô nhiễm
rồi; ngược lại khi người ta không chịu
tiếp nhận hoặc chẳng thể làm
được, thậm chí những ǵ họ làm đều
trái ngược với lời dạy th́ sanh phiền năo,
vậy là bị phiền năo ô nhiễm rồi, bị ô
nhiễm th́ sẽ thoái chuyển.
Nếu có thể làm được như lời
dạy trong kinh Kim Cang: ‘chẳng chấp vào
tướng, như như chẳng động’,
tâm chẳng bị ô nhiễm th́ sẽ chẳng thoái
chuyển.
Những ǵ Phật dạy chúng ta câu
nào cũng là lời chân thật, phải dựa vào lời
dạy của Phật, tự t́m cầu nhiều
phước đức.
Phước đức chân thật là giúp đỡ
hết thảy chúng sanh, tức là hết ḷng nỗ lực
tu bố thí tài vật, bố thí pháp, bố thí vô úy, đây
là những người biết t́m cầu nhiều
phước đức, hy vọng mọi người lưu
ư thêm những lời dạy trong Đại Kinh,
được vậy th́ sự thọ dụng trong
đời này sẽ vô cùng tận.
12. Người
làm công tác giáo dục xă hội thiện nguyện (Buổi sáng 15-12-98)
Nếu có thể thấu hiểu
kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Hoa Nghiêm, y giáo phụng hành
th́ có thể khế nhập vào Bồ Tát đạo, làm
một sự chuyển biến trọng đại. Chẳng những có thể đem
lại phước báo chân thật cho ḿnh trong đời
này, khai triển quang minh cho tương lai, trên Bồ
Đề đạo sau này ắt cũng sẽ thuận
buồm xuôi gió.
Gần đây nhiều
đồng học trích lục một bài ‘Nhân sanh cam
lộ’, nếu có thể đích thật làm được
[như trong bài văn ấy nói], nói theo thế pháp th́ là
thánh hiền quân tử, nói theo Phật pháp th́ là Bồ Tát
chân thật. Trong việc
tự hành hóa tha, hoằng pháp lợi sanh nhất định
sẽ được hết thảy chúng sanh hoan nghinh và
kính yêu. Cho dù chỉ làm
được vài điều trong đó, đời này
cũng sẽ thọ dụng chẳng hết. Chẳng những tự ḿnh làm mà
c̣n phải khuyến khích hết thảy chúng sanh tận
hết trách nhiệm của ḿnh làm một phần tử
hoàn hảo trong công việc giáo dục xă hội thiện
nguyện.
Trong sanh hoạt b́nh thường
ráng hết sức để tránh tạp niệm, tránh tán
gẫu, lúc nói chuyện với người th́ luận
đạo, lúc chẳng nói chuyện th́ đọc kinh,
như vậy mới là tích công lũy đức. Hạnh phúc nhất trong
đời người là ngày ngày cùng những bạn bè có
chung chí hướng và tâm đạo cùng nhau thuyết kinh,
luận đạo, đây là đời sống vô cùng thù
thắng. Hoàn cảnh sanh
hoạt như vậy là [hoàn cảnh] ở Tây phương
Cực Lạc thế giới.
Chúng ta thấy được trong kinh, người
ở cơi Cực Lạc đến từ mười phương,
ba đời, họ buông bỏ tập khí đến
để thân cận đức Phật A Di Đà cùng chư
Phật Như Lai. Mỗi ngày
cùng đồng tham đạo hữu hoặc trên mặt
đất, hoặc trên không trung, hoặc đi kinh hành
đều là thuyết kinh luận đạo. Hoàn cảnh tu học ở Tây
phương Cực Lạc thế giới là hoàn mỹ
hạng nhất, đây là đời sống chúng ta mong
mỏi, ngưỡng mộ.
Cho nên chúng ta phải xây dựng một mô phạm,
điển h́nh, biểu diễn cho người đời
xem, nếu họ có thể hiểu được th́
cũng sẽ phát tâm hết ḷng đến học tập.
Ở Tân Gia Ba chúng tôi đi
thăm viếng những người Hồi Giáo, đây là lần
đầu tiên chúng tôi tiếp xúc với họ, hy vọng
có thể t́m hiểu, tôn trọng lẫn nhau, tiêu trừ các
sự hiểu lầm, ngăn cách.
Làm công tác đa nguyên văn hóa được viên măn
là công đức to lớn, là chuyện tốt thực
sự đối với xă hội.
Hồi trước tôi đă từng quen biết
với các lănh tụ Phật giáo và Hồi giáo ở vùng biên
cương Trung Quốc, sự quan hệ của họ vô
cùng ḥa hài, hợp tác lẫn nhau, tôn trọng và lễ kính
lẫn nhau. Hy vọng quan
niệm và tinh thần này có thể đẩy mạnh
đến toàn thế giới, làm cho mọi người
đều đối xử ḥa mục, hỗ trợ
hợp tác, cùng nhau xây dựng đời sống hạnh
phúc mỹ măn. Đây là công
việc của những người làm công tác giáo dục
xă hội thiện nguyện, là việc mà trách nhiệm
chẳng thể thoái thác cho người khác
được. Nói một cách
khác, cả đời chúng ta đều v́ một việc
này, Phật pháp gọi là ‘Phật sự’, đây tức là
công việc giác ngộ chúng sanh.
Chúng ta phải hết ḷng
đẩy mạnh công việc này, phát triển rộng
răi. Đặc biệt giao
thiệp với những đoàn thể và nhân vật có
sức ảnh hưởng đến xă hội, nói theo
Phật pháp th́ những người này có đầy
đủ thiện căn phước đức. Thế nên những người có
sức ảnh hưởng hoặc có địa vị lănh
đạo đều là do quả báo đời
trước tu phước tích thiện. Nếu chúng ta có thể dùng
Phật pháp để giao thiệp với họ th́
nhất định sẽ ảnh hưởng họ,
tăng trưởng thiện căn phước
đức của họ, như vậy sẽ có thể
đem lại ḥa b́nh an định, phồn vinh hưng
vượng cho thế giới, tiêu trừ hết thảy
các tai hại tự nhiên hoặc do người đem
đến.
Không những như vậy thôi
đâu, chúng ta vẫn phải tiếp tục mở
rộng tâm lượng, đức Phật dạy chúng ta ‘tâm bao trùm
hư không, lượng gồm thâu các cơi nhiều như
cát’, phải hết ḷng nỗ lực
thực hiện. Tâm
lượng mở rộng đến viên măn th́ cho dù làm
một việc thiện nhỏ bé nhưng nương theo
tâm lượng cũng có thể biến trọn khắp
hư không pháp giới, đây là đạo lư vun trồng
phước báo to lớn, làm chuyện đại thiện
th́ cảnh chuyển tùy theo tâm.
Trong tự viện khi cúng thí thực đều
niệm ‘bảy hạt biến thập
phương’, nếu tâm lượng của
bạn biến trọn khắp mười phương
pháp giới, bố thí một hạt gạo sẽ có thể
biến trọn khắp mười phương pháp
giới, hết thảy chúng sanh đều có thể
được thọ dụng; nếu tâm lượng
nhỏ bé, niệm Chú cũng chẳng ích lợi ǵ, cảnh
chẳng chuyển theo Chú. Chú
là tăng thượng duyên (duyên phụ),
tâm là thân nhân duyên (duyên chánh), nếu
chẳng có duyên chánh th́ duyên phụ chẳng giúp ǵ
được. Nếu
thực sự ‘tâm bao trùm hư không, lượng gồm
thâu các cơi nhiều như cát’ th́ tăng
thượng duyên của Chú sẽ khởi tác dụng
rất lớn. Thế nên
căn bản là ở nơi tâm địa, tâm địa
phải lương thiện và chân thành. ‘Tâm thành’ th́ hành vi tự nhiên
sẽ đoan chánh, công phu chân thực là ở chỗ này.
Chúng ta nói được nhất
định phải làm được, vả lại khi
gặp ai cũng nói. Nhưng
nói pháp phải khế cơ.
Trong kinh Hoa Nghiêm có nói mười thứ cơ [duyên],
quan sát kỹ lưỡng hết thảy chúng sanh chẳng
ai là không ở trong mười thứ cơ [duyên] này. Nếu chúng sanh chẳng
đạt được lợi ích trước mắt,
chúng ta có thể trồng nhân cho tương lai, đó chính
là ‘một khi lọt vào tai th́ vĩnh
viễn thành hạt giống đạo’. Từ điểm này quan sát th́ ai
cũng là người đương cơ trong Phật
pháp.
Trong kinh nói vận may nhất
của người ta trong một đời là có thể
thấy được tượng Phật, có thể nghe
đến danh hiệu của Phật, Bồ Tát. Không kể là họ biết hay
không biết, đối với Phật, Bồ Tát cung kính
hoặc hủy báng đều được phước
lớn. Cho dù là hủy báng th́
khi chịu hết quả báo ác này, khi gặp duyên hạt
giống kim cang sẽ khởi tác dụng, cũng do vậy
nên được độ, được độ
tức là được liễu sanh tử, thoát khỏi
tam giới. Thế nên chúng ta
tuyệt đối không thể v́ họ hủy báng mà không
giúp đỡ, đây là sự thiếu sót của chúng
ta. Họ hủy báng, chúng ta
bèn niệm một câu danh hiệu Phật, Bồ Tát cho
họ nghe, làm nhân duyên cho họ đời sau
được độ.
Thế nên phải biết cách kết
pháp duyên rộng răi, vui vẻ thân thiết với
người, thường thường nên mang theo lễ
vật nho nhỏ để có thể kết duyên với
người ta, sau đó mới giảng giải khái
niệm của nền giáo dục Phật Đà, việc này
quan trọng phi thường.
Chúng ta chẳng nói kết thiện duyên v́ thiện
duyên và ác duyên đều là tương đối, pháp duyên
th́ vượt ra ngoài thiện và ác, duyên này mới thực
sự thù thắng. Ác duyên chiêu
cảm ác báo, thiện duyên tuy có thiện báo nhưng cũng
chẳng tốt. V́ vậy nên
chư Phật Như Lai trong sanh hoạt thị hiện ba
chiếc y, một cái b́nh bát chính là thiện ác hai bên
đều chẳng tiêm nhiễm.
Nếu chư vị lắng ḷng thể hội th́
mới biết đó là cách sống rốt ráo viên măn
bậc nhất, đáng được học tập, hy
vọng chúng ta cùng nhau nỗ lực.
13. Căn
nguyên của bịnh tật (Buổi
sáng 19-12-98)
a.
Đạo dưỡng
sanh.
Khi bác sĩ Hoàng khám sức
khỏe cho mọi người biết được thân
thể của những người trẻ tuổi quư
vị chẳng bằng người già như tôi. Nghe xong tôi rất buồn. Thân thể của tôi có thể
bảo tŕ khỏe mạnh là được Tam Bảo gia
tŕ, tôi tuyệt đối chẳng dùng những
phương pháp bảo tŕ sức khỏe hiện
đại. Tôi tin câu của
Phật dạy ‘Hết thảy pháp
từ tâm tưởng sanh’, tâm địa
thanh tịnh, từ bi, lương thiện th́ cho dù
chẳng bảo dưỡng thân thể và chẳng vận
động cũng vẫn khỏe như thường.
Từ xưa đến nay đa
số người tu hành trong nhà Phật mỗi ngày nếu
không tọa thiền th́ đi kinh hành, niệm Phật, thân
tâm đều giữ trong trạng thái tịnh; hăy khoan nói
đến vơ thuật của Thiếu Lâm tự. Người thế gian đều
ưa chuộng vận động, đạo dưỡng
sanh ở trong trạng thái ‘tịnh’ th́ chẳng có nhiều
người biết đến.
Chúng ta hiểu được đạo lư ấy,
biết được tâm thanh tịnh, chân thành, từ bi
mới là đạo dưỡng sanh chân chánh.
b. Ngă chấp
Nếu nâng cao cảnh giới
thêm một tầng như trong kinh Kim Cang có nói: ‘Chẳng có ngă tướng, chẳng có chúng sanh
tướng, chẳng có thọ giả tướng’,
[lúc đó] không có ‘tôi’ th́ ai sanh bịnh? Có ‘tôi’ th́ tôi mới sanh bịnh,
do đó mới biết ‘vô ngă’ (chẳng
chấp có tôi) không những đă nhổ
tận gốc rễ của bịnh khổ, mà cũng
nhổ tận gốc rễ sanh tử luôn.
Phá ngă chấp tương
đối khó nhưng vô cùng cần thiết. Có ‘tôi’ th́ sẽ có các hiện
tượng sanh tử, bịnh khổ, luân hồi; không có
‘tôi’ th́ những hiện tượng này mất hết. Trong pháp Đại thừa
đức Phật dạy chúng ta phương pháp phá ngă
chấp vô cùng khéo léo. Trong
cuốn Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị
Nông nói: ‘Biến đổi thành rộng lớn’ (đại
nhi hóa chi), câu này nói rất hay, đây là từ chỗ phát
Bồ đề tâm mà có, cho nên tâm lượng phải
lớn. ‘Tâm bao trùm
hư không, lượng gồm thâu các cơi nhiều như
cát’ là tâm lượng vốn sẵn có
của chúng ta, của mỗi chúng sanh, chẳng sai khác ǵ
với quả địa của chư Phật Như
Lai. Nhưng ngày nay chúng ta ra
nông nỗi này là v́ vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước tạo nên, đây là gốc bịnh thực
sự. Trong vô lượng
kiếp qua chúng ta măi trôi lăn trong sáu nẻo và không
thể thoát khỏi là v́ chẳng t́m ra được
gốc bịnh, chẳng biết chữa trị từ
căn bản này.
Hết thảy hiện
tượng trong thế pháp đều là hư ảo
chẳng thật, không ǵ chẳng phải ‘mộng,
huyễn, bọt, bóng’, thế nên giàu sang chẳng đáng ngưỡng
mộ, bần tiện cũng chẳng cần phải
đau xót. Hiểu rơ nhân
tố của những hiện tượng này là do
nghiệp nhân quả báo biến hiện ra, nếu tự
ḿnh nắm chắc nghiệp nhân và nghiệp duyên, sự
biến hóa của quả báo sẽ có thể tùy theo ư ḿnh,
đó là được đại tự tại. Người được
đại tự tại biết cách nắm lấy ‘duyên’,
biết được cái nút để tạo nên thiên
biến vạn hóa ở tại ‘duyên’. Quả báo thiện là do nhân
thiện và duyên thiện.
Quả báo ác là do nhân ác và duyên ác. ‘Nhân’ đă tạo rồi
chẳng thể thay đổi, ‘duyên’ c̣n có thể khống
chế [thay đổi] được.
Đây vẫn c̣n là pháp thế gian chứ
chưa phải là ‘đệ nhất nghĩa’, đệ
nhất nghĩa th́ phải ‘quán không’. Nói một cách khác phải thoát ra
khỏi luân hồi, siêu việt thập pháp giới, như
vậy mới là anh hùng hảo hán.
Chỗ chúng ta cúng Phật gọi là ‘Đại Hùng
Bảo Điện’, ‘đại hùng’ là đại anh hùng. Chuyện người thế gian
làm chẳng nổi mà Ngài làm được nên xưng Ngài
là anh hùng. Người thế
gian chẳng có cách chi thoát khỏi luân hồi, siêu việt
thập pháp giới, Phật có thể làm được;
không những làm mà c̣n dạy cho chúng ta làm thế nào
để đạt được.
c. Tự tư tự
lợi
Pháp
môn niệm Phật của chúng ta đang tu tập là
‘dị hành đạo’, đạo dễ thực hành mà
chẳng thể thành tựu, nguyên nhân là v́ không thể buông
xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, niệm niệm vẫn c̣n tự tư tự
lợi. Dùng tâm niệm này tu
học th́ đúng như người xưa đă nói: ‘Hét bể cổ họng cũng uổng công’! Thế nên chỉ cần buông
xuống ư niệm tự tư tự lợi th́ niệm
Phật nhất định sẽ đắc lực, thân
tâm sẽ khinh an. Cho dù có
một chút bịnh th́ cũng chỉ v́ ăn uống
chẳng cẩn thận nên phát ra cảm mạo phong hàn mà
thôi, sẽ chẳng sanh bịnh nặng.
Nếu thật sự nh́n
thấu, buông bỏ tự tư tự lợi, niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, trong kinh Di Đà nói: ‘Nếu [niệm] từ một ngày đến
bảy ngày’ sẽ được thành
công. Những người y
giáo tu hành xưa nay niệm Phật văng sanh rất
nhiều, phổ biến nhất là từ hai đến ba
năm th́ văng sanh. Tại sao có
người chẳng nhiều hơn bảy ngày, có
người lại phải niệm hai ba năm? Người tin sâu nguyệt
thiết, thực sự niệm đến khi mất
hết những tâm niệm tự tư tự lợi th́
tự nhiên cảm ứng hiện tiền, công phu thành
tựu.
Chúng ta xem trong Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục, Văng Sanh Truyện, vào đời nhà Tống
pháp sư Oánh Kha tin sâu nguyện thiết niệm ba ngày
liền thành công. Nếu ḷng
tin và nguyện lực chưa đạt đến mức
khẩn thiết th́ phải niệm hai, ba năm. Thế nên những người
này ‘sanh tử tự tại’, chẳng phải là thọ
mạng chấm dứt mà là thọ mạng hăy c̣n nhưng
họ bỏ ra đi sớm, đạo lư là như
vậy.
Chúng ta nh́n thấy có nhiều
người ra đi rất tiêu sái (tiêu sái
nghĩa là nhàn hạ, chẳng vướng bận) tự
tại, chẳng có bịnh khổ, [làm cho người khác]
vô cùng hâm mộ. Tôi
thường nhắc nhở mọi người, chúng ta
nhất định phải làm được. Nếu làm chẳng được
th́ trong lúc bịnh nặng, thân thể chịu sự
sắp đặt của người khác, tự ḿnh
chẳng thể làm chủ, sẽ chẳng nắm chắc
việc văng sanh, thế nên bây giờ phải dự bị
cho tương lai. Phương pháp tốt nhất là
chẳng cần người khác chăm sóc, có thể
dự biết trước ngày giờ ra đi, muốn
đi lúc nào th́ ra đi lúc đó.
Nhất định phải hạ quyết tâm làm
việc này cho bằng được th́ đời này
mới chẳng luống uổng.
Những việc c̣n lại toàn là giả, chỉ có
việc này là thật mà thôi.
Chúng ta nói về ‘tự lợi’, đây mới
thực sự là tự lợi.
Nhưng ‘tự lợi’ phải
được xây dựng trên cơ sở của ‘lợi
tha’. Trong đời sống
sinh hoạt thường ngày, khởi tâm động
niệm đều v́ chúng sanh chứ chẳng v́ ḿnh. Suy nghĩ cho ḿnh là sai lầm,
phải nghĩ cho chúng sanh, quên mất cái ‘tôi’ đi. Nhất định phải v́
chúng sanh th́ tâm niệm tự tư tự lợi mới có
thể đoạn trừ; chỉ cần đoạn
trừ th́ công phu tu học mới có thể nắm
chắc.
Chúng ta niệm niệm nghĩ
đến chúng sanh, chúng sanh là chúng duyên ḥa hợp mà sanh, bao
gồm cả động vật, thực vật, và khoáng
vật. Thí dụ cái bàn không
sạch th́ ḿnh chùi cho sạch; cái ghế không ngay ngắn
th́ ḿnh sắp cho nó ngay ngắn, như vậy đều là
v́ chúng nó. Cách làm này tức là
Lễ Kính Chư Phật trong mười nguyện Phổ
Hiền, kính người, kính sự, kính vật.
Đừng nên có tâm riêng tư,
dục vọng, tâm niệm muốn chiếm hữu (chiếm đoạt),
tâm niệm chiếm hữu này là căn bản của sanh
tử luân hồi, là nguồn gốc của hết
thảy tội nghiệp; chúng ta phải nhổ trừ
tội căn này. Tại sao không
được chiếm hữu?
Phật dạy ‘Hết thảy pháp
đều không’, ngạn ngữ cũng nói: ‘Sanh chẳng mang đến, chết chẳng mang
theo’, vậy th́ tại sao có thể
chiếm hữu được?
Đây là từ trên hiện tượng thô thiển mà
nói. Đi sâu thêm th́ Phật
dạy: ‘Hết thảy các pháp do nhân duyên
sanh, chẳng có tự tánh, đương thể tức
không, trọn chẳng thể được’[34],
chẳng những các vật ngoài thân chẳng thể
được, ngay cả thân thể này cũng chẳng
thể được.
Chẳng có tâm chiếm lấy, chiếm hữu
những vật ngoài thân, đối với thân thể
cũng chẳng có ư niệm là thân ‘của ḿnh’, như
vậy th́ vấn đề sẽ được giải
quyết. Lúc đó ‘Một niệm tương ứng một niệm
Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật’, quyết định sẽ sanh
Tịnh Độ. Đó là giải
thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, ra khỏi
thập pháp giới.
Được vậy th́ may mắn lắm!
Từ vô thỉ kiếp
đến nay chúng ta chẳng gặp được duyên
thù thắng, đời này rất may đă gặp
được. Trong Quán Kinh
chú giải Thiện Đạo đại sư nói: ‘Cửu phẩm văng sanh đều là do gặp
được duyên khác nhau’[35]. Nói một cách khác
khi gặp duyên thù thắng th́ phàm phu cũng có thể văng
sanh thượng thượng phẩm; Bồ Tát nếu
chẳng gặp duyên thù thắng th́ lại văng sanh vào
phẩm trung, hạ. ‘Duyên’
rất khó gặp, ấy là ‘có thể gặp mà chẳng
thể cầu’. Trong kinh
giảng ‘thiện tri thức là duyên’. Nếu được thiện
tri thức hướng dẫn, thiện hữu nâng
đỡ, đồng tham đạo hữu tốt,
đạo tràng tu hành tốt, th́ tu hành sẽ chẳng có
chướng ngại. Hiện
nay chúng ta đă có đầy đủ duyên này, đă
được nhưng vẫn chẳng thể thành
tựu, vậy th́ chỉ có thể trách ḿnh, không thể
trách kẻ khác. Nhất
định phải biết cơ duyên thù thắng như
vậy ‘trăm năm, vạn kiếp khó gặp
được’, ‘trong vô lượng kiếp hiếm hoi khó
gặp’, có thể thành tựu được hay không,
mấu chốt nằm ở chỗ đột phá, phá
trừ ‘tự tư tự lợi’.
Phương pháp đột phá là
niệm niệm v́ chúng sanh, nhất định chẳng v́
chính ḿnh; nếu v́ ḿnh th́ nên văng sanh Tịnh Độ sớm
hơn. Thân thể c̣n lưu
lại nơi thế gian này, mỗi ngày đều phải
phục vụ cho chúng sanh, như vậy là hoàn toàn giống
với hạnh nguyện của chư Phật Như Lai,
[làm vậy] bạn sẽ được đại tự
tại. Đạo lư và sự
thật này chúng ta phải hiểu tường tận, y
giáo tu hành.
14. Phương
pháp tu hành (Buổi sáng 21-12-98)
Hôm nay mở đầu Phật thất ở Dallas, thầy Ngộ Khải gởi fax cho tôi hy vọng trong thời gian Phật thất này, [tôi có thể] dùng mạng Internet mỗi ngày nói chuyện vài câu với mọi người.
Trong những năm gần đây không kể cư trú ở đâu chúng ta đều cảm thấy thế giới càng ngày càng không an toàn, tai nạn xảy ra khắp nơi, vả lại ngày càng nghiêm trọng. Nhân t́nh lănh đạm, không biết ân nghĩa, không những tự hủy diệt mà không hay biết, lại c̣n tạo ra những tội hủy diệt Phật pháp, hủy diệt thế gian. Chúng ta không nói đến người khác, chỉ nói những người học Phật trong bốn chúng đệ tử, có ai không tạo ra những tội này? Ngày xưa người ta tạo tội nhẹ, ngày nay tạo tội nặng; khi tạo tội thiệt nặng nhưng tự ḿnh lại không biết, như vậy là ngu si. Những người ngu si hằng ngày nghe giảng kinh, hằng ngày đọc kinh, vẫn không giác ngộ như cũ, đây là v́ ‘chướng sâu nghiệp nặng’; nếu không tiêu trừ nghiệp chướng sâu nặng này th́ tuyệt đối không thể tránh khỏi đọa lạc vào tam ác đạo.
Nếu chúng ta muốn cải thiện đời
sống, công phu tu học được đắc
lực, biện pháp duy nhất là phải nghe [giảng] kinh
cho nhiều thiệt nhiều.
Lúc c̣n tại thế đức Phật Thích Ca
giảng kinh trên ba trăm hội, thuyết pháp ṛng ră
bốn mươi chín năm, đức Phật Thích Ca
chưa từng hướng dẫn đại chúng niệm
Phật lần nào, hoặc tham thiền một lần nào
cả. Phải nên biết
đức Phật không hướng dẫn chúng ta tu hành là
v́ tu hành dễ dàng, giác ngộ khó khăn. Cũng v́ giác ngộ quá khó cho nên
đức Phật khổ tâm mỏi miệng phải
thuyết pháp mỗi ngày, khuyến đạo mỗi
ngày. Chúng sanh ngu si, tuy mỗi
ngày nghe Phật thuyết pháp nhưng vẫn mê mờ
như cũ.
Tuy vậy đức Phật đại từ
đại bi vẫn giảng kinh mỗi ngày; chúng sanh
đọa lạc trong lục đạo th́ Phật
thị hiện trong lục đạo, vẫn đi theo
không nỡ bỏ rơi, đây gọi là ‘Trong nhà Phật không buông bỏ bất cứ
người nào’. Chúng sanh
tạo tội nghiệp, phỉ báng và sỉ nhục
Phật, Bồ Tát, thậm chí hăm hại các ngài, nhưng các
ngài không màng đến, vẫn thương xót chúng sanh,
giảng kinh thuyết pháp v́ chúng sanh, đây là ḷng
đại từ đại bi của chư Phật,
Bồ Tát. Đời đời
kiếp kiếp trong vô lượng kiếp qua vẫn không
bỏ rơi chúng sanh, đây là việc không phải một
số người thường có thể làm
được, từ điểm này chúng ta có thể
hiểu được ân đức của Phật là bao
lớn.
Hàn Quán Trưởng hộ tŕ chúng ta trong suốt ba mươi năm, xây dựng nền móng vững chắc cho chánh pháp. Có người nói Hàn Quán trưởng có công và cũng có lỗi lầm, nhưng theo tôi nghĩ th́ bà chỉ có công chứ không có lỗi lầm chi hết. Nếu quư vị b́nh tĩnh quan sát kỹ càng th́ sẽ biết công đức của bà vô lượng vô biên. Đây là một vị Bồ Tát tái lai, thị hiện cho chúng ta xem, người trong thế gian làm sao biết được?
Trong kinh nói người ở Tây Phương Cực
Lạc thế giới cho dù hạ hạ phẩm văng sanh
đều có ‘thiên nhăn nh́n suốt, thiên nhĩ nghe
thấu, tha tâm đều biết’ [36],
năng lực của sáu căn hầu như bằng
với đức Phật A Di Đà, cho nên khi chúng ta khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ hành động, chư
Phật, Bồ Tát nh́n thấy rơ rơ ràng ràng. Chúng
ta mong cầu văng sanh th́ khi khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ hành động nhất định phải
tương ứng, phù hợp với lư luận và
phương pháp của sự văng sanh, điểm này vô cùng
quan trọng. Tây phương
Cực Lạc thế giới là
‘Nơi tụ tập của các người thiện
nhất’[37],
cho nên chúng ta niệm Phật th́ cũng phải tu
‘thượng thiện’.
Nếu tâm không thiện, ngôn ngữ không thiện, cho
dù một ngày niệm mười vạn câu Phật
hiệu th́ cũng không văng sanh được. Giống như lời của hai
vị tôn giả Hàn Sơn và Thập Đắc đă nói: ‘Hét bể cổ họng cũng
luống công’ (hai vị này là hóa thân của Văn Thù và
Phổ Hiền Bồ Tát).
Chúng ta đă phát tâm cứu ḿnh th́ cũng phải [phát tâm] cứu người xung quanh; sự sanh hoạt và tu học nhất định phải đúng như lư, như pháp, v́ vậy phải hiểu rơ nội dung của kinh Phật. Nội dung này có bốn điểm: ‘Giáo, Lư, Hành, Quả’.
Lời dạy của đức Phật được người đời sau ghi chép lại thành kinh điển, những ngôn ngữ, văn tự, lời chép trong kinh này gọi là ‘Giáo’.
Hàm ư chứa đựng trong ‘Giáo’ gọi là ‘Lư’, ‘Lư’ này là lư luận giải thích rơ chân tướng sự thật của vũ trụ, nhân sinh. Chỉ có đức Phật mới có thể nói rơ những chân tướng sự thật này v́ đây là cảnh giới mà đức Phật [đích] thân chứng [được], là cảnh giới hiện lượng (đích thật từng trải qua) chứ không phải do suy đoán, vọng tưởng.
Không những đức Phật nói rơ ràng đạo lư và sự thật này, Ngài c̣n dạy chúng ta phương pháp để khế nhập vào cảnh giới của chư Phật Như Lai, đây tức là ‘Hành’ (phương pháp thực hành).
Noi theo lư luận phương pháp trong kinh điển mà làm, đạt được sự lợi ích thù thắng, việc này tức là ‘Quả’.
Chúng ta hiểu rơ tính chất của kinh điển th́ mới khâm phục Phật pháp, bái phục đến năm vóc sát đất.
Đức
Phật dạy chúng ta khi tu học phải kiến lập
một khái niệm căn bản, đó là ‘Tín, Giải,
Hành, Chứng’.
‘Tín’
là tin sâu, không nghi ngờ những lời giáo huấn
của đức Phật.
‘Giải’
là hiểu rơ, thấu triệt lư luận trong kinh
điển.
‘Hành’ tức là làm theo lư luận phương pháp này.
‘Chứng’ tức là đích thân chứng
được cảnh giới giống như chư
Phật Như Lai.
Ngày nay chúng ta c̣n tạo nghiệp, c̣n vọng
tưởng, c̣n nói vọng ngôn tức là không hiểu
thấu lư luận, không biết được sự
lợi hại nên mới tạo ra những nghiệp
tội nặng nề thậm chí hủy diệt Phật
pháp, chướng ngại Phật pháp, làm cho người ta
thoái tâm (sụt lùi).
Phải biết khi gặp nghịch cảnh Thanh
Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát c̣n có thể thoái tâm;
chỉ có Pháp Thân Đại Sĩ mới không thoái tâm. Chướng nạn của chúng
ta rất nhiều, bao gồm cả trong lẫn ngoài. Những việc làm của Hàn Quán
Trưởng và cư sĩ Lư Mộc Nguyên ở Tân Gia Ba
đều là hành vi của đại Bồ Tát, Pháp Thân
Đại Sĩ. Hàn Quán
Trưởng hộ tŕ chánh pháp suốt ba mươi năm
vẫn không sụt lùi; luôn luôn không bị ảnh
hưởng bởi những lời phỉ báng, rao
đồn, kiếm chuyện phá rối, đều như
như bất động và xem như không có việc ǵ
xảy ra, điều này vô cùng hiếm có, quư báu! Khi Lư cư sĩ gặp phải
bất cứ chướng nạn ǵ, bất cứ lời
hủy báng ǵ đều không thoái tâm, xây dựng đạo
tràng ở Tân Gia Ba thành một đạo tràng điển
h́nh, gương mẫu.
Nếu không phải là hóa thân của chư Phật, Bồ
Tát, Pháp Thân Đại Sĩ ứng hiện th́ không thể làm
được. Chúng ta có
được nhân duyên thù thắng này tức là gặp
được hộ pháp chân chánh.
Cho nên mặc cho người ta hủy báng, phá
hoại, làm ǵ th́ làm, chúng ta đều được
sự hộ tŕ của chư Phật, Bồ Tát.
Ngày nay Tịnh Tông có thể hoằng truyền
khắp thế giới, những người niệm kinh
Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và tu học theo lư luận
của kinh này theo thống kê một cách bảo thủ th́
ít lắm cũng được hơn hai chục triệu
người. Tịnh Tông có
thể đạt được thành tích như vậy là
công đức của Hàn Quán Trưởng, chúng ta uống
nước phải nhớ nguồn, tri ân báo ân (biết ơn
đền ơn). Nếu thiệt
thấy rơ, hiểu thấu th́ mới biết đây là
Bồ Tát thị hiện, cảnh thuận hay nghịch
đều là tăng thượng duyên (trợ duyên), đều
để thành tựu Phật pháp, thành tựu cho chúng sanh.
Lúc trước thầy Lư nói với tôi muốn
thực sự thành tựu trong việc hoằng pháp lợi
sanh, nhất định phải cư trú lâu dài tại
một nơi nhất định.
Hiện nay chúng ta an tâm lưu tại Tân Gia Ba, toàn
bộ nhân lực, tài lực, vật lực đều
tập trung tại đây nên có thể thành lập
được một đạo tràng gương mẫu,
tuyệt đối không thể phân tán lực lượng,
tinh thần. Cho nên chúng ta
gặp được rất nhiều Bồ Tát ở
nơi đó, thiệt đúng là ‘những
người thiện nhất tụ hợp ở một
chỗ’. V́ mục đích
khuyếch trương nền giáo dục của Phật
Đà, chúng ta dùng thân phận của người quét dọn,
người làm công để làm việc cho đức
Phật A Di Đà, chư Phật Như Lai. Đừng tưởng là ḿnh đă
làm được việc ǵ cả, tất cả những
thứ này đều là Phật, Bồ Tát an bài, là do chư
Phật, Bồ Tát làm nên đấy, chúng ta chỉ bất
quá chấp hành theo mà thôi. Cho
nên thầy Lư dạy tôi phải ‘tin Phật’, tin Phật
thiệt quá khó. Nhưng
phải tin thiệt nghe!
Trong thời đại nhiều tai nạn này, con
đường duy nhất của chúng ta là niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ; dự Phật thất
cũng lấy việc này làm mục tiêu. Chúc quư vị Phật thất
lần này được thành tựu viên măn.
15. Làm
thế nào để tiêu tai miễn nạn
(Buổi sáng23-12-98)
Giáo hội Thiên Chúa Giáo có lời tiên tri rằng
năm 1999 thế giới sẽ có tai nạn lớn, khuyên
các bạn đồng đạo nên đọc kinh,
phải thật ḷng sám hối, hy vọng có thể thoát
khỏi tai nạn này. Và nói:
tai nạn có thể xảy ra hay không c̣n dựa trên ‘nhân
tâm’, nếu nhân tâm có thể hướng thiện th́ tai
nạn có thể hóa giải, có thể tŕ hoăn về sau. Cách nói này rất có lư.
Một ngày trước khi văng sanh lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam dặn ḍ các vị đồng học: ‘Thế giới đă loạn rồi, cho dù chư Phật, Bồ Tát, thần tiên trở lại cũng không cứu nổi. Chỉ có con đường sống sót duy nhất là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ’, cho nên tai nạn càng ngày càng gần, chúng ta không c̣n nhiều thời gian nữa, phải nên buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật.
Đạo Thiên Chúa khuyên người ta cầu lên thiên
đường, họ nói không có Cực Lạc thế
giới, chỉ có thiên đường và địa
ngục. Ngay cả
người trên cơi trời cũng không có cách ǵ nh́n thấy
toàn bộ t́nh huống phức tạp trong đại
vũ trụ. Chúng ta hiểu
rơ đích thật là có Cực Lạc thế giới, Hoa
Tạng thế giới, cùng quốc độ của
chư Phật. Làm thế nào
để biết vậy? Đó
là ‘duy tâm sở hiện, duy
thức sở biến’, nếu hiểu được
đạo lư này th́ sẽ tin ngay.
Thật ra y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp
giới cũng không có, Phật pháp nói: ‘Tam tâm bất khả đắc’, ‘Chư pháp vô
sở hữu’; nói có th́ chỉ là tạm có, huyễn có,
giả có, trong kinh dùng chữ ‘diệu hữu’. Thế nên thiên đường,
địa ngục cũng là diệu hữu; cơi này, cơi
nọ cũng là diệu hữu, Cực Lạc thế
giới cũng không ngoại lệ. Nếu dùng ngôn ngữ hiện nay
của khoa học gia th́ đây chỉ là không gian duy thứ
(duy có nghĩa là chiều, là phương vị) khác nhau mà thôi, thí
dụ như không gian ba chiều [của loài người
chúng ta], không gian bốn chiều, năm chiều. Khoa học gia đă chứng minh
có mười một chiều không gian tồn tại, nhưng
trên lư luận th́ không gian có vô số chiều.
Những người vừa mới hiểu Phật
pháp đều khẳng định có không gian vô số
chiều tồn tại.
Nếu bạn không thể đột phá những
thời gian, không gian này th́ không thể hiểu rơ sự
thật. Vô số không gian có
duy thứ không giống nhau tức là vô lượng vô biên
thế giới, đức Phật nói [những thế
giới này] đều từ tâm tưởng sanh. Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến’
tức là từ tâm tưởng sanh. Vô lượng vô biên chúng sanh có vô
lượng vô biên vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước nên biến đổi ‘Nhất Chân pháp
giới’ trở thành vô lượng vô biên không gian khác nhau,
vô lượng vô biên cảnh giới, đạo lư là
như vậy.
Đức Phật dạy chúng ta có thể đột phá những không gian này bằng cách xa ĺa vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Lục đạo [luân hồi] là do vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra; nếu buông bỏ chấp trước, chỉ c̣n vọng tưởng và phân biệt th́ lục đạo luân hồi sẽ không c̣n nữa, tức là Tứ Thánh pháp giới. Nếu cả phân biệt cũng buông bỏ th́ Tứ Thánh pháp giới (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật) cũng không c̣n, tức là không c̣n thập pháp giới nữa. Không c̣n thập pháp giới tức là Nhất Chân pháp giới. Do đây có thể biết thập pháp giới là từ phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Xa ĺa phân biệt chấp trước th́ thập pháp giới sẽ không c̣n tồn tại. Việc này cũng giống như nằm mộng, khi tỉnh dậy những cảnh giới trong mộng đều không c̣n. Người ta thường nói đến danh từ ‘tu hành chứng quả’, chứng quả nghĩa là chứng được Nhất Chân pháp giới, khế nhập vào Nhất Chân pháp giới. Tây phương Cực Lạc thế giới thuộc về Nhất Chân pháp giới. Do đó có thể biết nếu chúng ta c̣n phân biệt, chấp trước th́ nhất định sẽ không nh́n thấy Nhất Chân pháp giới.
Trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy Nhất Chân pháp
giới vẫn có bốn mươi mốt cấp bậc,
đó là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, đến Đẳng Giác Bồ
Tát, hết thảy đều là Pháp Thân Đại Sĩ. Những cấp bậc này c̣n
tồn tại là v́ vọng tưởng chưa dứt
trừ. Vọng tưởng
tức là vô minh vi tế (vi tế nghĩa là
nhỏ bé). Có câu nói: ‘phá một phẩm vô
minh, chứng một phần pháp thân’, bốn mươi
mốt phẩm vô minh tức là bốn mươi mốt
phẩm vọng tưởng.
Khi đoạn dứt hết bốn mươi
mốt phẩm vô minh này, không c̣n vọng tưởng
nữa th́ chứng được rốt ráo, đây là
Phật quả Viên Giáo, đây mới là quả vị
cứu cánh.
Người Thiên Chúa Giáo chưa từng nghe những đạo lư này, thật đáng tiếc. Phật pháp trong thế gian và xuất thế gian đều vô cùng thù thắng, đáng tiếc là người truyền bá quá ít. Hoằng dương Phật pháp không dễ tại v́ tự người đó phải khế nhập trước, nếu ḿnh chưa khế nhập th́ làm sao có thể nói được [một cách hoàn hảo và đúng đắn]? Làm sao có thể hiểu được? Nếu muốn lư giải, hiểu rơ th́ phải tu học, có tu học th́ mới khế nhập, sau đó mới có thể giải thích [tường tận], mới có thể giúp đỡ người khác.
Chúa Jesus nói: ‘Ngày nay
người trong thế gian quên ân, phụ nghĩa, không
biết ân đức’. Chúa
Jesu, Thánh Mẫu Maria thiệt thương yêu người
đời, người đời không những phản
bội mà c̣n sỉ nhục, huỷ báng các Ngài và tạo ra
vô lượng vô biên tội nghiệp. Trong thế giới hiện nay
những chuyện này rất phổ biến. Con cái chịu ân đức
dưỡng dục của cha mẹ, không biết báo ân mà
c̣n bỏ rơi cha mẹ.
Chúng tôi đi thăm viện dưỡng lăo của
những người đạo Hồi giáo (Islam), những
người già ở đó đều bị con cái bỏ
rơi, không nhà không cửa.
Ngày nay con cái bỏ rơi cha mẹ, học sinh
phản bội thầy giáo, không biết ân nghĩa, tạo
ra vô lượng vô biên nghiệp tội, v́ vậy nên chiêu
cảm quả báo thế giới hủy diệt.
Cho nên lời tiên tri nói tai họa này là do chúng ta tự chiêu cảm lấy, không phải Thượng Đế nổi giận trừng phạt chúng ta, Thượng Đế rất không muốn nh́n thấy sự việc này xảy ra, nhưng không thể tránh khỏi, tạo ra nghiệp tội nhất định phải nhận lấy tai họa. Cách nói như vậy mới hợp t́nh hợp lư.
Những năm gần đây tôi khổ tâm mỏi
miệng khuyên răn mọi người, nếu ba ngày không
khuyên th́ mọi người quên ráo trọi. Đây đúng như kinh Địa
Tạng nói: ‘Chúng sanh ở Diêm
Phù Đề ương ngạnh khó giáo hóa’, chúng ta thể
hội câu này một cách sâu sắc.
Nhưng chư Phật, Bồ Tát làm gương, làm mô
phạm cho chúng ta noi theo, cho dù chúng sanh có cang cường
khó giáo hóa đến đâu th́ cũng không thể bỏ
rơi. Đây đúng như câu
nói: ‘Trong nhà Phật không buông
bỏ một ai cả’, đây mới là đại
từ đại bi chân thật.
Kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta tự ḿnh chân tu th́ có
thể ảnh hưởng đến người khác, làm
cho người khác cảm động khi nh́n thấy
tấm gương tu hành của chúng ta, họ sanh tâm
xấu hổ nên tự nhiên sẽ học theo,
được vậy th́ có thể đem lại sự an
định cho xă hội, ḥa b́nh cho thế giới. Đức Phật nói ‘tự hành hóa
tha’ nghĩa là nhờ vào sự tu hành chân thật của
ḿnh [mới có thể cảm hóa người khác], tự
ḿnh không tu hành chân thật th́ không có ích lợi ǵ cả. Cho dù biết nói, nói
được hay đến đâu, khi tai họa xảy
ra th́ cũng không tránh khỏi, vốn phải sanh tử
như thế nào th́ vẫn phải sanh tử như
thế ấy, vẫn không ra khỏi luân hồi như
cũ, và cũng không thể văng sanh.
Chúng ta nhất định phải dùng tâm chân thành, tâm
thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác ngộ, tâm từ
bi, chắc thật niệm câu Phật hiệu này. Câu Phật hiệu này nhất
định phải tương ứng với ‘Thanh
Tịnh, B́nh Đẳng, Giác’, và cũng là ‘một niệm tương ứng một niệm
Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật’; nếu không tương ứng, không
phù hợp, câu Phật hiệu sẽ chẳng có công
đức. Làm thế nào
mới được tương ứng? Trong đời sống hằng
ngày nhất định phải làm được ‘nh́n
thấu, buông xả, tự tại, tùy duyên’. Nh́n thấu nghĩa là hiểu rơ
chân tướng sự thật của vũ trụ nhân
sanh; buông xả tức là buông xuống tất cả
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Thiền Tông Lục Tổ Huệ Năng dạy: ‘Nếu là người tu
đạo chân chánh, không nh́n thấy lỗi lầm của
thế gian’, chỉ biết tu [sửa bản thân] ḿnh,
tự ḿnh nỗ lực đoạn ác tu thiện. Kinh Vô Lượng Thọ dạy
ba nguyên tắc của sự tu thiện:
Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng chê bai
lỗi của người khác.
Khéo giữ ǵn thân nghiệp, chẳng hành động
trái ngược với giới luật.
Khéo giữ ǵn ư
nghiệp, phải luôn thanh tịnh không nhiễm ô [38]
Chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ từng giờ
từng phút, phải làm cho bằng được. Cả bộ Đại tạng kinh
trong nhà Phật và những ǵ đức Phật đă nói
trong bốn mươi chín năm [tóm lại] tức là ba
câu này. Chúng ta nhất
định phải thực sự làm được th́
mới có thể cứu ḿnh và cứu chúng sanh.
Khi chúng ta tu [hành chân] thật th́ tâm sẽ b́nh (phẳng lặng, yên ổn). Ngày nay khoa học gia nói về
những làn sóng tư tưởng, tư tưởng
của người thế gian rất phức tạp,
đặc biệt những tư tưởng tà ác
đều là những làn sóng lớn, [cường
độ rung động] lên xuống rất lớn. Những người niệm
Phật chúng ta tu ‘thanh tịnh, b́nh đẳng, giác’ nên làn
sóng tư tưởng này đều b́nh phẳng, yên ổn. Niệm Phật Đường
ở Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba được chư Phật
Như Lai gia tŕ, có Phật, Bồ Tát cùng chúng ta niệm
Phật cho nên từ trường (hoàn
cảnh, môi trường tu học) ở Niệm
Phật Đường vô cùng thù thắng. Từ trường của
Niệm Phật Đường tốt vô cùng, từ
trường này an định, b́nh tịnh; những làn sóng
tư tưởng phát ra từ nơi đây có thể
điều ḥa tư tưởng tà ác trong thế gian. Dùng làn sóng tư tưởng b́nh
yên phẳng lặng của chúng ta để hóa giải
những làn sóng tư tưởng tà ác to lớn của
thế gian th́ những làn sóng này có thể giảm bớt,
yếu đi; đây là nguyên lư hóa giải tà ác, hóa giải
tai họa.
Chúng ta ở nhà niệm Phật th́ cũng có cống hiến cho xă hội, thế giới. V́ khi chúng ta niệm Phật phát ra những làn sóng tư tưởng thanh tịnh, b́nh đẳng, giác nên có thể điều ḥa những làn sóng tư tưởng tà ác trong thế gian. Nếu hiểu rơ đạo lư này th́ sẽ tin tưởng khi chúng ta tâm b́nh, khí ḥa niệm Phật cũng có thể giúp đỡ cho thế giới ḥa b́nh, xă hội an định.
Chân chánh phát tâm niệm Phật tức là tự
độ, độ tha (độ ḿnh, độ người); chân chánh phát tâm
niệm Phật tức là cứu văn kiếp nạn của
thế gian, đừng tưởng là chúng ta không có năng
lực này. Nếu chư
vị đồng tu có thể chân chánh giác ngộ, chân chánh
buông xuống hết thảy những điều thị
phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn, làm theo lời dạy trong Tam
Phước, Lục Ḥa, Tam Học, Lục Độ của
đức Thế Tôn th́ sẽ có năng lực an
định xă hội, duy tŕ ḥa b́nh thế giới.
Chỉ cần chúng ta tâm ư chân thành, chư Phật, Bồ Tát ứng hiện khắp nơi, sẽ cảm ứng đạo giao. Đặc biệt là trong lúc thế gian có tai nạn to lớn, chúng ta phải giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn. Niệm Phật không chỉ là v́ chính ḿnh, càng phải v́ tất cả chúng sanh. Chúng ta nhất định phải làm, không làm th́ không có tâm từ bi. Hy vọng chúng ta cùng nhau nỗ lực, tự độ và độ tha.
16. Lư
của việc niệm Phật thành Phật
(Buổi sáng 24-12-98)
a. Hư không pháp giới và ḿnh cùng
một thể
Từ kinh Hoa Nghiêm chúng ta nhận được
rất nhiều khải thị (gợi ư) cho sự tu
học Phật pháp. Hội
kinh Hoa Nghiêm là do đức Thế Tôn thuyết giảng
ở Bồ Đề Đạo Tràng trong [lúc nhập]
định, đại chúng tham dự hội kinh này
đều là Pháp Thân Đại Sĩ.
Họ thuộc rất nhiều chủng tộc,
rất nhiều đoàn thể khác nhau trong khắp hư
không pháp giới, số nhiều vô lượng vô biên. Từ điểm này có thể
biết pháp hội Hoa Nghiêm trên thực tế là một hội
bao gồm tận hư không trọn khắp pháp
giới. Hội Hoa Nghiêm
như vậy, những hội giảng kinh khác không
phải như vậy sao?
Nếu suy nghĩ sâu thêm, việc này cho chúng ta biết
tận hư không trọn khắp pháp giới đều là
một thể. Đến lúc thành
Phật th́ mới ư thức đến ‘tất cả chúng sanh vốn đă thành Phật’,
hiểu rơ triệt để ‘hữu
t́nh và vô t́nh đều tṛn đầy chủng trí’. Nói tóm lại hư không pháp
giới và ḿnh đều là một thể, hiểu như
vậy mới thực sự sanh tâm từ bi.
Nhà
Phật thường nói: ‘Vô
duyên đại từ, đồng thể đại bi’. Chư Phật Như Lai đă giác
ngộ rồi, các Ngài đă ngộ việc này; phàm phu
vẫn c̣n mê, mê cũng là mê việc này. Nhưng trong chân tướng
sự thật không có mê và ngộ, mê và ngộ là ở
tại người.
Người giác ngộ th́ gọi là Phật, Bồ
Tát, người mê hoặc th́ gọi là phàm phu. Nhưng sự thọ dụng
của mê và ngộ khác nhau, người mê không biết
hư không pháp giới đều là ḿnh, không biết
hết thảy chúng sanh đều là ḿnh cả, cho nên trong
đó [trong mê] sanh khởi vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, tạo nên vô lượng vô
biên nghiệp tội.
b. Hết
thảy các pháp từ tâm tưởng sanh
Nghiệp tội tức là những hành vi, việc làm
trái ngược với chân tướng sự thật. Những nghiệp đă tạo
sẽ hiện ra tướng.
Tướng làm sao hiện ra?
Đức Phật nói: ‘Tất
cả pháp từ tâm tưởng sanh’, muôn vàn xin mọi
người đừng coi thường câu này. Sự việc trong vũ trụ
thiên biến vạn hóa, y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập
pháp giới, đây là đức Phật quy nạp xong nói
cho chúng ta biết, trên thực tế th́ pháp giới vô
lượng vô biên. Vô
lượng vô biên pháp giới đều từ tâm
tưởng sanh – trong tâm nghĩ tưởng ǵ th́ sẽ
hiện ra cái đó. V́ vậy
cho nên tưởng Phật th́ sẽ hiện ra Phật;
Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta:
‘Nhớ Phật
niệm Phật, hiện giờ tương lai, nhất
định thấy Phật’, đây nghĩa là tưởng Phật
thành Phật.
Tưởng Phật th́ Phật hiện, tưởng
Bồ Tát th́ Bồ Tát hiện, tưởng ǵ th́ hiện
cái đó, việc này là sự thật. Thí dụ chúng ta nghĩ
tưởng đến một việc xứng tâm vừa ư
th́ sẽ sanh tâm hoan hỷ, niềm vui này liền hiện
lên gương mặt ḿnh; nghĩ tưởng đến
một việc không vừa ư th́ sẽ nhăn nhó mặt
mày, nét âu sầu sẽ hiện rơ trên gương mặt,
lập tức liền thay đổi. Quan sát việc nhỏ này mới
biết lời dạy của đức Phật vô cùng
chính xác.
Thế
nên chư Phật Như Lai khuyên chúng ta tưởng
Phật, nhớ Phật, niệm Phật, buông xuống
hết tất cả những tư tưởng khác. [Pháp môn] niệm Phật văng sanh
bất thoái thành Phật trong Tịnh Tông được xây
dựng trên cơ sở và lư luận này. Từ xưa đến nay
những người noi theo phương pháp này tu hành
chứng quả rất nhiều, những người này
đều làm gương tốt cho chúng ta noi theo. Nếu dùng cách nói thông
thường của các tôn giáo, những người này là
những chứng cớ rơ rệt và những tấm
gương cụ thể cho chúng ta. Trong ba thứ chuyển pháp luân
của Phật pháp, việc này gọi là ‘tác chứng
chuyển’ (chuyển pháp luân bằng cách làm chứng),
họ hiện thân thuyết pháp làm chứng minh cho chúng ta,
nói rơ đây là sự thật.
c. Chuyện văng sanh.
Mấy năm trước chuyện mẹ của ông Tước Sĩ (Huân tước) Hà Đông văng sanh ở Hương Cảng đă làm nhiều người cảm động, và đă củng cố cơ sở cho hội Phật giáo Hương Cảng. Cả nhà của cụ đều là tín đồ Thiên Chúa Giáo thuần thành, chỉ có cụ là người tin Phật, niệm Phật. Tuy vậy nhưng nhà này vô cùng phóng khoáng (không câu nệ), đích thật là tự do tín ngưỡng, đối xử ḥa thuận với nhau, tôn trọng lẫn nhau, đây là một việc rất đáng quư. Thế nên không gây trở ngại cho tự do của người khác mới là tự do thật sự. Gây trở ngại cho người khác, xâm phạm người khác là không hiểu được [như thế nào mới là] tự do; đây là cảm t́nh, là trí huệ.
Cùng một lư lẽ, ngày nay chúng ta sinh sống trên
quả địa cầu này, có rất nhiều dân tộc
khác nhau, văn hóa khác nhau, tư tưởng khác nhau, tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau, mọi người đều
không thể ḥa thuận, công kích hủy báng lẫn nhau,
thậm chí dẫn đến chiến tranh tôn giáo, đây
cũng là v́ không hiểu rơ ư nghĩa chân chánh của tự
do. Nguyên nhân họ không
hiểu rốt cuộc cũng là vấn đề của
giáo dục, đặc biệt là giáo dục luân lư
đạo đức.
Gia đ́nh ông tước sĩ Hà Đông là tấm
gương tốt cho chúng ta, mở rộng ra th́ cũng là
tấm gương cho cả thế giới. Bất luận chúng ta tín
ngưỡng tôn giáo nào th́ nhất định phải tôn
trọng những tôn giáo khác.
Trong nhà Phật bất luận tu học theo môn phái
nào, nhất định cũng phải tôn trọng môn phái
khác; như vậy mới hiểu tự do một cách
đúng đắn, mới thiệt có trí huệ.
Lúc văng sanh cụ Hà Đông nói với con trai và dâu: ‘Cả
đời má không đ̣i hỏi các con việc ǵ hết, bây
giờ trước lúc văng sanh, má yêu cầu các con niệm
vài câu Phật hiệu tiễn đưa má văng sanh’. Lúc văng sanh, cụ thật sự
mở một buổi họp văng sanh, mời tất cả
thân bằng quyến thuộc đến dự, sau khi
cụ dặn ḍ xong xuôi, cụ văng sanh một cách êm
đềm, an lành giữa tiếng niệm Phật của
mọi người. Cả nhà
chứng kiến tận mắt bà cụ niệm Phật
văng sanh nên sau này cả nhà đều niệm Phật
hết. Cách bà cụ này
độ chúng sanh quá đặc biệt, vô cùng cao minh, dùng
lời nói th́ không ai nghe nên cụ biểu diễn cho họ
coi, cuối cùng có thể độ hết cả nhà.
Việc
cụ văng sanh là một sự biểu diễn vô cùng
ngoạn mục, phải có trí huệ sâu rộng mới làm
được. Trên thế
gian này chuyện ǵ cũng có thể gạt người, có
thể giả mạo, chỉ có chuyện này không thể
nào giả mạo được.
Lúc tôi c̣n học ở Đài Trung, lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Nam thường dùng chuyện này khích lệ chúng tôi, dạy
chúng tôi, Tây phương Cực Lạc thế giới có
thật, người niệm Phật đích thật là có
thể văng sanh.
d. Làm thế nào
tự tại văng sanh
Nửa thế kỷ trở lại đây tuy chúng ta
không thể đích thân nh́n thấy người ta văng sanh
nhưng những chuyện nghe đến thật không
ít. Tại sao người ta có
thể tự tại văng sanh?
Đây là việc mọi người đều muốn
biết. Đặc biệt là
những người đang sinh sống trong thời
đại nhiều tai họa, tự tại văng sanh đối
với chúng ta vô cùng quan trọng, thiệt là một
việc quan trọng nhất trong đời
người. Thiệt ra
chỉ cần noi theo kinh luận, tu học đúng như
lư như pháp, th́ có thể làm được. Đặc biệt là kinh Vô
Lượng Thọ, cổ đức nói kinh Vô
Lượng Thọ là kinh số một của Tịnh
Tông, v́ kinh Vô Lượng Thọ giới thiệu hoàn
cảnh ở Tây phương Cực Lạc thế
giới đầy đủ nhất, giải thích
phương pháp tu học tường tận nhất, nói
quả báo sau khi văng sanh viên măn nhất. Nếu chúng ta chân chánh muốn
tự tại văng sanh, tu học từ ba tháng đến sáu
tháng sẽ có thể thành công.
Cho nên pháp môn này rất thù thắng, được
hết thảy chư Phật tán thán, tuyên dương.
Thiện Đạo đại sư nói những ǵ
đức Phật dạy th́ chúng ta phải làm
được hoàn toàn, những ǵ đức Phật
dạy chúng ta không nên làm th́ tuyệt đối đừng
làm. Nếu thiệt có thể
hết ḷng làm theo những lời dạy trong kinh Vô
Lượng Thọ, làm hằng ngày, một ngày cũng không
vi phạm, những công đức này tích lũy trong ba tháng
th́ bạn sẽ là thượng thiện nhân, sẽ nắm
chắc sự văng sanh tự tại. Nếu có thể làm hết sáu
tháng th́ càng chắc chắn hơn.
Cứ tiếp tục làm như vậy, bạn
muốn chừng nào văng sanh th́ lúc đó văng sanh, đứng
văng sanh, ngồi văng sanh, tự tại tùy theo ư muốn. Đây là một việc [quan trọng]
hạng nhất trong đời người!
Có một số người văng sanh không
được tự tại, lúc lâm chung c̣n bị bịnh
khổ, nguyên nhân là v́ những ǵ đức Phật
dạy, họ đều không thể làm hết hoàn toàn;
những ǵ đức Phật dạy không được
làm th́ họ vi phạm không ít, đây là nghiệp
chướng. Nhưng nhờ
đời trước hay đời này cũng c̣n chút
thiện căn, lúc lâm chung gặp được bạn
tốt nhắc nhở, trợ niệm, th́ cũng có
thể văng sanh.
Người ta sống trên đời này mấy
chục năm ngắn ngủi, lúc đến mang hai bàn tay
không th́ ra đi cũng mang theo hai bàn tay trắng. Cổ đức nói: ‘Muôn thứ không đem
được, chỉ có nghiệp theo thân’[39]. Tất cả mọi vật trên
thế gian này không có một vật ǵ có thể đem theo,
những ǵ có thể đem theo được chỉ là
những nghiệp mà ḿnh đă tạo ra, việc này rất
đáng sợ! Tôi đọc
đến việc này rởn da gà, có nhiều người
đọc đến nhưng không hề ǵ, như vậy
đúng là nội tâm đă chai đá hết trơn
rồi. Nếu thiệt có tri
giác, đọc đến thiệt rất sợ th́ làm sao
dám tạo nghiệp?
Chư Phật, Bồ Tát từ bi, có ḷng thương
yêu chân thành, chúng ta không biết thân cận [học hỏi]
mà c̣n xa ĺa họ, đi kết bạn với những
bạn xấu trong thế gian, đó là sai lầm quá
đỗi! Bạn xấu
tức là những người tạo ngũ nghịch
thập ác, không chịu nghe lời dạy của thánh
hiền, không y giáo phụng hành.
Đây là một sự mất mát to lớn đối
với đời sống tu học của chúng ta, chúng ta
phải nhận thức rơ ràng.
Nhất định phải hết ḷng nỗ lực tu học, nắm chắc sanh mạng ngắn ngủi nhưng quư báu trong đời này, hoàn thành nhân duyên hiếm hoi từ vô lượng kiếp đến nay. Niệm Phật thành Phật, đây là một chuyện lớn, người như vậy mới đáng gọi là người có chí khí, nếu nói theo nhà Phật th́ thiệt đúng là đại anh hùng, đại trượng phu. Hy vọng chúng ta cùng nhau gắng sức, khuyến khích lẫn nhau, ngay trong đời này làm cho xong công việc to lớn này, không uổng phí cuộc đời.
17. Nh́n
thấu, Buông xuống (Buổi sáng25-12-98)
a. Nh́n thấu, buông xuống.
Thông thường hai ngày đầu của Phật
thất, tâm [của người tham dự] c̣n chưa an
định, công phu không thể nào đắc lực. Đến ngày thứ bảy v́ Phật
thất gần kết thúc, trong tâm lại phóng dật, buông
lung trở lại nên cũng không thể đắc
lực. Do đó niệm
Phật trong bảy ngày, thiệt có thể đắc lực
là trong ngày thứ năm và thứ sáu, đây là một
hiện tượng rất b́nh thường.
Nguyên
nhân người đời nay niệm Phật không bằng
người đời xưa cũng là v́ không thể ‘nh́n
thấu, buông xả’. Chữ
nh́n thấu (thấy thấu suốt) là tŕnh
độ hiểu rơ đối với trạng thái sanh
hoạt hiện thực; nếu chúng ta không hiểu rơ, ham
mê luyến tiếc thế gian th́ đương nhiên
sẽ không buông xuống nổi.
Cho nên hơn phân nửa những người niệm
Phật văng sanh là những người già bảy tám
chục tuổi, v́ họ nh́n thấy nhiều, từng
trải nhiều, biết hết thảy những việc
trong thế gian đều là hư ảo không thật,
bất luận sinh sống trong cảnh thuận hoặc
nghịch, trải qua một thời gian dài th́ sẽ chán
chường, sinh sống cảm thấy chán ghét, không
muốn ở lại thêm nữa, đến lúc này th́ buông
xuống hết, đây là một yếu tố rất quan
trọng. Nếu cảm
thấy thế gian này c̣n rất đẹp đẽ,
vẫn c̣n muốn sống thêm vài năm nữa, thậm chí
muốn sống thêm vài chục năm, vài trăm năm
nữa, họ buông xả, buông xuống hết không nổi
th́ công phu làm sao có thể đắc lực cho
được! Phật pháp
nói đến chuyện giác ngộ tức là giác ngộ
việc này.
b. Nhân duyên quả báo.
Mọi người đều biết chuyện đời vô thường, biết chuyện trong đời không có ǵ chẳng là nhân duyên quả báo cả, nhưng hiểu không được chắc thật, không cụ thể. Lúc trước lăo cư sĩ Ô Dư Khánh đă kể lại một câu chuyện có thật. Vào thời kháng chiến [chống Nhật] bắt đầu, cụ ở Thượng Hải quen một thương gia, ông này làm ăn buôn bán rất thuận lợi, có một người con trai duy nhất, người con này rất nghịch ngợm. Một hôm người con đi học mang theo 10 đồng trong túi, làm rớt tờ giấy 10 đồng này trên đường lộ, lúc đó có một người quen đi ngang nh́n thấy nên lượm lên rồi nói chơi với đứa bé: ‘Em kêu tôi bằng Bác th́ tôi trả tiền này cho em’. Đứa bé này trả lời: ‘Nếu ông kêu tôi bằng Bác th́ tôi cho ông thêm 10 đồng nữa’. Nghịch ngợm đến như vậy!
Một hôm ông thương gia này ăn mừng sinh
nhật và mời rất nhiều bạn bè đến nhà
dự tiệc. Hôm ấy ông
đột nhiên nh́n thấy gương mặt của
đứa bé này và vô cùng kinh ngạc, ngay lúc ấy liền
tuyên bố với mọi người hiện diện ông
sẽ giao toàn bộ tài sản cho đứa bé. Sau này ông giải thích với
bạn bè rằng toàn bộ tài sản của ông vốn là
của một người Đức; lúc trước
chiến tranh ông làm việc cho người Đức này, khi
ông chủ trở về Đức nhờ ông quản lư dùm công
ty. Kể từ đó ông
chủ không trở lại [Thượng Hải] nữa và
qua đời ở Đức.
Hôm ăn sinh nhật ông đột nhiên nh́n thấy
gương mặt của đứa bé hiện ra giống
hệt như gương mặt của ông chủ
người Đức, từ đó ông mới biết
đứa bé này chính là ông chủ người Đức
trở lại đầu thai nên ông lập tức trả
lại toàn bộ tài sản.
Nhờ vậy mà quan hệ cha con mới có thể duy
tŕ.
Đức Phật nói những người trong nhà
như cha con, chồng vợ, anh em đều có quan hệ
báo ân, báo oán, đ̣i nợ, hoặc trả nợ nên mới
ở chung một nhà. Đứa
bé này đến là để đ̣i nợ, nhân duyên quả
báo tơ hào chẳng sai. Chúng
ta hiểu rơ đạo lư này th́ thử nghĩ nếu chúng
ta có lỗi đối với người, hiếp đáp
người, hăm hại người, nếu người
này đầu thai đến nhà chúng ta th́ trong tương
lai nhất định sẽ làm cho nhà tan cửa nát. Thế nên bất cứ ai trong
thế gian đều nhất định không có việc
bị thiệt tḥi, và cũng không có việc chiếm
tiện nghi hoặc lợi dụng người khác
được.
Thi ân cho người, giúp đỡ kẻ khác sẽ
nhận được báo đền; hiếp đáp
người, dày xéo người, sỉ nhục
người, hăm hại người cũng sẽ có báo
đền. Nếu sự báo
đền này chỉ vừa đúng [không hơn, không kém]
th́ cũng c̣n được; nhưng sự báo đền
luôn luôn quá đáng, biến thành hận thù oan oan tương
báo, đời đời kiếp kiếp không
nhường nhịn lẫn nhau, oán hận không bao giờ
chấm dứt. Chiến tranh
giữa quốc gia này với quốc gia khác cũng như
vậy. Tuy dân chúng của hai
nước không có oán thù ǵ với nhau, những
người có oán thù chỉ là thiểu số, nhưng
nếu họ có quyền lực th́ sẽ liên lụy
đến rất nhiều người cùng chịu tai
họa, tổn hại đến tài sản và sanh mạng
của nhiều người, tai hại vô cùng, làm sao có
đạo lư không đọa địa ngục cho
được? Chúng ta
hiểu được đạo lư, hiểu rơ chân
tướng sự thật, th́ mới biết không nên làm
việc này.
Bởi vậy nên lục đạo luân hồi
chỉ là ân ân oán oán báo đền lẫn nhau mà thôi, chúng ta
hiểu được th́ sẽ buông xả, biết
được thế gian này không vui chút nào. Chư Phật, Bồ Tát nh́n
thấy rơ ràng, chỉ cho chúng ta một con đường
quang minh, rộng lớn, đây tức là Đại thừa
Phật pháp, cơi nước chư Phật ở thập
phương. Trong pháp Đại
thừa, [các Ngài] lại nói cho chúng ta biết một pháp môn
đặc biệt, trong số các cơi nước chư
Phật th́ cơi Cực Lạc của đức Phật A Di
Đà là cơi nước thù thắng tốt đẹp
nhất. Không những
đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho chúng ta,
trong bản dịch kinh A Di Đà của đại sư
Cưu Ma La Thập nói đến sáu phương Phật
tán thán; bản dịch kinh Di Đà của Huyền Trang
đại sư nói đến mười phương
Phật tán thán. Kinh Vô
Lượng Thọ cũng nói đến mười
phương Phật tán thán.
Hết thảy chư Phật Như Lai đều
khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ Di Đà. Chư Phật, Bồ Tát không
gạt người, chúng ta đừng nên hoài nghi lời
nói của chư Phật, Bồ Tát. Từ xưa đến nay kinh
điển được trao truyền từ đời
này sang đời khác, đích thực là được
phiên dịch từ tiếng Phạn ở Ấn Độ, có
người phiên dịch, có nơi chốn phiên dịch,
chứng thật những kinh điển này có thể tin
được.
Cả đời xưa và đời nay những người chiếu theo phương pháp này tu hành được văng sanh rất nhiều. Chúng ta hăy quan sát điều kiện của họ, nói chung so với chúng ta th́ không khác ǵ mấy, không tốt hơn chúng ta nhiều lắm. Nhưng quan trọng nhất là họ có ḷng tin vững chắc, nguyện vọng khẩn thiết, buông xả hết thảy, chắc thật niệm Phật. Họ đă làm được điểm này, trên phương diện này chúng ta c̣n rất kém, chúng ta phải nỗ lực học tập theo họ.
c. Đoạn ác tu
thiện
Đặc biệt là
ở thời đại ngày nay, Thiên Chúa Giáo có lời
dự đoán, năm 1999 là năm thế giới tận
thế, những lời này làm cho người ta rất lo lắng,
kinh sợ. Lời dự
đoán nói nếu người ta tiếp tục tạo ác
không ngừng, tai nạn này có thể trở thành sự
thật; nếu có thể đoạn ác tu thiện, hồi
tâm chuyển ư, tai nạn có thể hóa giải. Câu nói này vô cùng linh động,
chẳng cứng chắc (chẳng
phải thay đổi không được), và nói rơ quan
hệ vẫn nằm trong tay của con người. T́nh h́nh có thể hóa giải
nghĩa là tai nạn có thể giảm bớt, tŕ hoăn
đến sau này. Cách nói này
hợp t́nh, hợp lư, hợp pháp, có thể biết họ
cũng có trí huệ rất cao.
Đoạn ác tu thiện là việc rất nên làm, [chúng ta]
làm không phải là v́ muốn tránh tai nạn; không có tai
nạn th́ cũng phải đoạn ác tu thiện.
Đoạn ác tu thiện phải bắt đầu
từ trong tâm. Tâm của
chư Phật, Bồ Tát là tâm thuần thiện, tâm làm
lợi ích cho tất cả chúng sanh mà không v́ lợi ích cho
cá nhân ḿnh. Theo sự quan sát
của tôi, Tân Gia Ba ít nhất có mười vị Bồ
Tát, thiệt đúng với câu: ‘chư
thượng thiện nhân câu hội nhất xứ’. Họ có tâm chân thành, tâm thanh
tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm từ bi, niệm niệm v́
chánh pháp tồn tại lâu dài, v́ lợi ích cho tất cả
chúng sanh, làm nên sự cống hiến to lớn. Đời sống của họ
tương ứng với Lục Độ Ba La Mật,
đây là Bồ Tát trụ thế, hóa thân của Bồ
Tát. Tuy vai tṛ của họ
không giống nhau, đúng như kinh điển nói ‘cần dùng vai tṛ ǵ để
độ th́ hiện thân đó, cần dùng phương pháp
ǵ để làm lợi ích cho chúng sanh th́ họ dùng
phương pháp đó’.
Tất cả hành động của họ
đều giữ tâm của Bồ Tát, hành theo Bồ Tát
Đạo.
Hy
vọng [đồng tu ở] Dallas cũng tổ chức
phái đoàn đến đó tham học, học hỏi tinh
thần và phương pháp của họ, và cũng hy
vọng đạo tràng Dallas này có thể biến thành trung
tâm Tịnh Tông ở Mỹ.
Chúng ta truyền bá Tịnh Tông đến tất
cả địa phương có duyên trên thế giới,
đây là lời nói trong nhà Phật: ‘Trong nhà Phật không buông bỏ một người
nào cả’. Chúng ta cũng
phải có hoằng nguyện to lớn của chư
Phật, Bồ Tát, dốc toàn tâm toàn lực giúp đỡ
các vị đồng tu ở mọi nơi. Xin chúc phúc cho chư vị trong
Phật thất được đạo nghiệp
tăng trưởng, tín nguyện thành tựu, Phật
thất kỳ này sẽ thâu thập được hiệu
quả tốt đẹp.
18. Làm
thế nào để giữ ǵn công phu
(Buổi sáng26-12-98)
Trong quá tŕnh tu học đa số người
học Phật đều gặp phải một vấn
đề, đó là trong tâm có thể giữ được
thanh tịnh lúc niệm Phật trong Niệm Phật
Đường, nhưng vừa trở về nhà, về
chỗ làm việc th́ không thể nào giữ ǵn công phu
được. Nếu chúng ta
hy vọng trong đời này
có thể tu học thành tựu th́ đây cũng là một
vấn đề to lớn, cấp bách, cần phải
giải quyết nhanh chóng.
Không thể giữ ǵn công phu có hai yếu tố:
thứ nhất, phiền năo tập khí từ vô
lượng kiếp đến nay quá nặng, không có
năng lực khắc phục; thứ nh́, tâm sanh tử
không thiết tha. Tại sao tâm
sanh tử không thiết tha?
Đối với thế gian này nhận thức chưa
rơ ràng, không biết thế gian này là hư ảo. Kinh Kim Cang dạy ‘Phàm những ǵ có tướng đều là hư vọng’, ‘Tất cả các pháp hữu vi như mộng
huyễn, bọt, ảnh’.
Trong kinh nói chân tướng sự thật, chúng ta
gặp mặt trên mạng lưới internet càng dễ
thể hội điều này.
Chúng ta nói chuyện với nhau mặt đối
mặt trên màn ảnh [máy vi tính], chuyện này cũng là
mộng huyễn bọt ảnh, và cũng là một thứ
hư vọng, nếu có thể từ phương diện
này mà thể hội th́ đă giác ngộ rồi, sau đó mới
biết cho dù chúng ta đối diện với nhau th́
cũng hư vọng, không chắc thật.
Những ǵ chắc
thật có hay không? Có, nhưng
chúng ta không nh́n thấy. Lúc nào
mới nh́n thấy? Buông
xuống tất cả vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, buông bỏ hết đến mức
‘nhất tâm bất loạn’ th́ có thể nh́n thấy sự
thật. Chỉ cần chúng ta
đạt được nhất tâm bất loạn,
cảnh giới chân thật tự nhiên sẽ hiện ra,
đây gọi là ‘Nhất Chân pháp giới’ trong Phật pháp.
Nhưng cho dù công phu tu
học của ḿnh có tốt hơn, định công sâu
hơn nữa, chỉ cần trong tâm c̣n giữ một cái
‘Nhất Chân pháp giới’ th́ sẽ không thấy Nhất Chân
pháp giới. Công phu đến
mức Tứ Thiền Bát Định vẫn chưa thấy
được Nhất Chân pháp giới v́ tuy đè nén
được phiền năo, nhưng vọng tưởng
phân biệt chưa đè nén. Đến
mức Định Thứ Chín, ra khỏi lục đạo
luân hồi, ra khỏi tam giới, sanh đến Tứ
Thánh pháp giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật
(Phật trong thập pháp giới là Tạng Giáo Phật,
Thông Giáo Phật trong Tông Thiên Thai) th́ cũng chưa thấy
được tướng chân thật, nguyên nhân là v́ chưa
đoạn dứt vọng tưởng, chấp
trước. Cần phải
nỗ lực thêm nữa, dùng định huệ
đoạn dứt phân biệt (Trần Sa phiền năo), phá
thêm một phần vô minh (tức là vọng tưởng)
đến mức này mới ra khỏi thập pháp
giới, thấy được tướng chân thật,
mới thực sự tương ứng với cảnh
giới của quả địa chư Phật Như
Lai. Phải mất bao nhiêu công
phu mới đến mức này?
Ngày nay một chút định lực chúng ta cũng
không có!
Thí dụ [hằng ngày] pḥng
ăn ở Cư Sĩ Lâm có gần hai mươi món
ăn, quá nhiều món ăn để trước mặt
như vậy là một sự cám dỗ, chỉ thử
mỗi món một chút thôi th́ cũng no quá chừng. Người niệm Phật
ăn đến mức ngày càng mập thêm th́ không phải là
một chuyện tốt, chúng ta phải tự khắc
phục ḿnh, trong nhiều món đồ ăn này chỉ
gắp ba bốn món th́ thôi.
Trong việc ăn uống phải biết chế
ngự, ăn cho điều độ th́ mới có thể
giữ thân tâm khỏe mạnh; không chế ngự nổi
th́ thân tâm sẽ không khỏe mạnh. Nếu ăn đến mập
béo ra th́ thân thể sẽ không khỏe mạnh; nh́n thấy
những món ăn này rất dễ tăng trưởng tâm
tham, lại tạo nên tâm lư không khang kiện. Tu hành là phải tu trong
những sự việc này.
Cho nên
trong tất cả hoàn cảnh phải biết khắc
phục được vọng tưởng của ḿnh,
chế ngự phân biệt, chấp trước của
ḿnh, hết thảy [những việc này] đều là
Phật pháp. Nếu có thể
khắc phục, chế ngự được ḿnh th́
mới có thể bảo tŕ [giữ ǵn] được công
phu; nếu không thể khắc phục được ḿnh
th́ không thể bảo tŕ công phu.
Những đại đức thời xưa biết
được tập tánh của phàm phu rất nặng,
khắc phục ḿnh rất khó, nên mới chủ
trương, đề xướng ‘Nương dựa
vào, noi theo đám đông’, mới tụ hợp lại
tu tập chung với nhau, đốc thúc, cảnh tỉnh,
khích lệ lẫn nhau, dụng ư là ở chỗ này.
Đạo
tràng tu tập chung với nhau cần phải có đầy
đủ nhân duyên, trong đó quan trọng nhất là duyên
phận, là phải nhờ vào người xuất gia
dẫn đầu; người xuất gia càng nhiều,
ḷng tin của những người đồng tu sẽ
càng tăng trưởng. V́
vậy nên người xuất gia phải phát ḷng từ bi,
không nệ khó nhọc, lănh chúng trong Niệm Phật
Đường. Đạo tràng có
càng nhiều người xuất gia càng tốt, đây là
sự thù thắng trang nghiêm chân chánh của đạo
tràng.
Cho nên huân tập ở
Niệm Phật Đường trong một thời gian dài, hy
vọng là có thể bảo tŕ được công phu,
bất kỳ ở nơi chốn nào, trong gia đ́nh,
sở làm đều có thể giữ ǵn tâm thanh tịnh,
niệm Phật như thế mới gọi là đạt
được mục đích.
Ngày nay số
người ở Niệm Phật Đường tại
Cư Sĩ Lâm ngày càng nhiều, xây dựng và đẩy
mạnh phong trào niệm Phật.
Những người đến đó niệm
Phật rất đông, đến măi không ngớt, càng ngày
càng nhiều. Chúng tôi hy
vọng xây dựng một đạo tràng ‘giải hành
tương ứng’, mỗi ngày giảng kinh không gián
đoạn, niệm Phật không gián đoạn, làm
gương cho đạo tràng ở những nơi
khác. Thích hợp nhất cho
những vị đồng tu đă về hưu, họ
buông xuống công việc làm ăn, ở đó
trường kỳ tham gia niệm Phật. Những người có gia
đ́nh, vẫn c̣n đang đi làm th́ lợi dụng
thời gian rảnh rỗi đến Niệm Phật
Đường để niệm Phật. Thế nên hiện nay khí phần (không khí hoàn cảnh tu
học) ở Niệm Phật Đường vô
cùng tốt đẹp, vô cùng thù thắng. Và cũng v́ khí phần tốt
đẹp như vậy nên rất nhiều vị
đồng tu vui vẻ đi đến, đến
rồi đều không muốn đi về. Nếu có thể trụ ở
đạo tràng như vậy trong ṿng nửa năm,
một năm, ba năm th́ không thể nào không thành tựu
được.
Trong
‘Tịnh Độ Thánh Hiền Lục’, ‘Văng Sanh Truyện’
chúng ta thấy rất nhiều Bồ Tát văng sanh bất thoái,
thời gian niệm Phật phần nhiều là ba
năm. Do đó có thể
biết trong ṿng ba năm th́ có thể thành tựu. Nhưng không thể nói họ
niệm Phật hết ba năm th́ thọ mạng
đều hết, mà v́ công phu thành thục nên mới
tự tại văng sanh. Nếu
những người có công phu thành thục không văng sanh mà
c̣n lưu lại trên thế gian này th́ chỉ có một
nguyên nhân duy nhất là để độ chúng sanh. Vẫn c̣n một số chúng sanh
có duyên với họ, họ có thể giúp đỡ cho nên
lưu lại thêm một thời gian nữa. Nếu không có duyên phần với
những người ở đó th́ tại sao không đi
sớm hơn? Mỗi ngày chúng
ta đều mong mỏi, trông về Tây phương Cực
Lạc thế giới, mỗi ngày tưởng niệm
đức Phật A Di Đà, có thể gặp Ngài sớm
hơn th́ tốt biết mấy, tại sao cơ duyên
đến lại phải kéo thêm vài ngày? Chúng ta muốn đi nhưng
đi không được, nếu có năng lực th́
đă đi sớm mất rồi.
Chúng ta b́nh tĩnh suy nghĩ, quan
sát người trên thế gian này ai cũng khổ. Chúng ta cảm thấy sanh
hoạt, việc làm của ḿnh quá khổ, thật ra
những người làm sự nghiệp to lớn c̣n
khổ hơn chúng ta. Gần
đây tôi xem cuồn phim ‘Chiến tranh lạnh bắt
đầu và chấm dứt’, nói về những
người lănh đạo quốc gia trong nửa thế
kỷ vừa qua, mỗi ngày đều phải đề
pḥng không cho tai họa bộc phát, đặc biệt là
những tai nạn do con người gây ra, làm thế nào t́m
mọi cách để tiêu trừ [tai nạn]. Họ bận tâm, lo lắng quá
nhiều, cuộc sống khổ quá đi thôi. Sau khi tôi coi xong mới biết
muốn làm một người lănh đạo quốc gia,
đoàn thể thiệt là không đơn giản chút nào.
Thiệt
ra đời sống của những người lănh
đạo có địa vị cao, những người làm
ăn buôn bán giàu có không sung sướng chi cả. Nếu bạn đă nh́n thấy
rơ ràng, minh bạch th́ mới biết đời sống của
họ c̣n sánh không bằng đời sống của
một người ăn xin.
Người đi xin ăn khi nào bụng đói th́
đi xin ăn, ăn no rồi th́ hết chuyện, tùy
tiện t́m một chỗ để ngủ, không có bồn
chồn lo lắng, [họ] thảnh thơi tự tại
biết bao! Chuyện đau
khổ nhất của con người là chuyện bận
tâm quá nhiều, lo lắng quá nhiều, vướng bận
quá nhiều, ngày tháng đích thật không thoải mái tí nào. Nếu họ có thể học Phật
th́ thiệt là phước báo to lớn!
Lúc trước tôi có
khuyên đại chúng, gắng sức làm việc kiếm
tiền trong một năm để có đủ tiền
chi tiêu cho đời sống th́ nghỉ không làm việc hai
năm, chuyên tâm hết ḷng niệm Phật; đây là
người có trí huệ, có đại phước báo. Sau hai năm tiền xài hết th́
đi kiếm công việc trở lại. Nếu bạn hỏi t́m công
việc làm không dễ, đến lúc đó có thể t́m
được hay không?
Nhất định sẽ t́m được. Tại sao vậy? Chư Phật, Bồ Tát gia tŕ cho
bạn, bạn nên tin tưởng chư Phật, Bồ
Tát. Ở thế gian này
nhờ vả người ta không được, nhờ
vả Phật, Bồ Tát nhất định có thể
được. Nhưng
bạn phải có ḷng tin tuyệt đối với chư
Phật, Bồ Tát, tu học đúng như lư và làm đúng
như lời dạy, làm sao không thành tựu
được cơ chứ!
Đây cũng là một phương pháp bảo tŕ tâm thanh
tịnh.
Nói tóm lại nguyên tắc quan trọng nhất
để giữ tâm thanh tịnh là:
Thứ nhất phải có ḷng tin vững chắc
muốn rời khỏi Sa Bà, cầu sanh Tịnh Độ,
đây là chân tâm.
Thứ nh́ tuyệt đối đừng bị thế
gian cám dỗ, có thể buông xuống, buông xả hết
thảy pháp thế gian và xuất thế gian.
Trong tất cả pháp thế gian và
xuất thế gian chỉ lựa chọn một pháp mà ḿnh
cần, tuyệt đối không chọn quá nhiều, có câu
rằng ‘biết đủ th́
thường vui’. Tâm
của bạn sẽ định, sẽ thanh tịnh;
mới có thể bảo tŕ tâm thanh tịnh trong thời gian
dài mà không mất. Điểm này
vô cùng quan trọng. Những
người tu hành thời xưa có thành tựu đều
là nhờ yếu tố này. Có
thể khắc phục dục vọng của ḿnh, khắc
phục vọng tưởng của ḿnh, thiệt có thể
làm đến mức nói trong kinh Kim Cang: ‘Không chấp vào tướng, như như chẳng
động’. Trong
đời sống chỉ lấy những ǵ ḿnh cần
dùng là đủ, như vậy mới không bị cám
dỗ, mới giữ được tâm thanh tịnh.
19. Khống chế và chiếm lấy (Buổi sáng 30-12-98)
a. Đạo dưỡng sinh
Người xưa
dạy chúng ta: ‘Buổi sáng
phải ăn cho tốt, buổi trưa phải ăn cho
no, buổi tối phải ăn ít’. Đây là đạo dưỡng sinh
và cũng là một nguyên tắc của sự hấp
thụ dinh dưỡng. Chân
chánh biết đạo dưỡng sinh nói theo nhà Phật
th́ phải biết ‘dưỡng tâm’, v́ tâm có thể sanh ra
rất nhiều pháp, tâm là pháp năng sanh (pháp có thể sanh), thân là pháp sở sanh (pháp được sanh), cho
nên tâm thanh tịnh th́ thân sẽ thanh tịnh; thân tâm thanh
tịnh th́ hoàn cảnh bên ngoài sẽ thanh tịnh, đây là
một đạo lư nhất định. Nhưng rất ít người
trong thế gian hiểu được đạo lư này,
vẫn ráng sức t́m cầu để bù đắp dinh
dưỡng từ bên ngoài.
Người tu hành chân
chánh đối với dinh dưỡng cho thân thể không
t́m cầu ở bên ngoài mà hoàn toàn hướng về bên
trong. Trong kinh nói người
trên cơi Sắc Giới trở lên dùng ‘thiền duyệt’ làm
thức ăn, thiền duyệt là từ tự tánh lưu
xuất, không phải cầu được từ bên
ngoài. Cho nên đức Phật
nói năm thứ ‘tiền tài, sắc đẹp, danh
tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ’ đều có
thể bỏ được.
Năm thứ này được gọi là ‘ngũ cái’ (năm thứ che
đậy), nó che phủ tâm tánh, trí huệ, đức
năng của chúng ta, làm cho trí huệ, đức năng
của chúng ta không thể hiện tiền. Năm thứ này là dục
vọng, nếu sanh tâm tham đắm năm thứ này th́
phiền năo chỉ gia tăng mà không giảm bớt, làm sao
đoạn dứt phiền năo được?
Đức
Phật dạy đệ tử nhất định
đừng phân biệt, chấp trước đối
với thức ăn. Ngày
xưa lúc đức Phật c̣n tại thế đi
khất thực, người ta cho ǵ ăn nấy, vả
lại chỉ cho phép đi khất thực bảy nhà,
nếu bảy nhà này cho không đủ hay không cho th́
phải đi về tu thiền định. Cách làm này là để giúp chúng ta
khắc phục dục vọng, tâm tham, và phiền năo; chúng
ta phải hiểu đạo lư này.
V́ chúng ta có thân thể cho nên phải
[ăn uống để] hấp thụ dinh dưỡng,
không thể không duy tŕ sự khỏe mạnh của thân
thể. Nếu thân thể
không khỏe mạnh, phải nhờ người khác
săn sóc, cư ngụ trong đạo tràng cũng phải
làm nhọc [chúng] thường trụ, như vậy không
tốt. Nhưng phải
hiểu đạo lư khỏe mạnh là do tâm thanh
tịnh. Đối với ḿnh
tuyệt đối phải giữ tâm cho được
thanh tịnh, thanh tịnh vô vi; đối với
người, với sự, với vật cần phải
có tâm đại từ đại bi, vô sở bất vi (không từ
khước làm bất cứ thứ ǵ), được vậy chúng ta
mới có thể dùng hành động để phục
vụ đại chúng, giúp đỡ đại chúng. Đây đều là lời thánh nhân
thế gian và xuất thế gian chỉ dạy cho chúng ta.
b. Khống chế và
chiếm lấy
Nhưng ái tâm (tâm thương mến) là nghĩa vụ,
nhất định không được chiếm
lấy. Cho dù rất
thương mến con cái và người thân của ḿnh, tâm
này của phàm phu cũng không thể gọi là từ bi, v́
nó có chứa đựng tâm niệm khống chế,
chiếm lấy ở trong.
Mỗi [khi khởi lên một] tâm niệm [ǵ]
đều muốn điều khiển, khống chế,
chiếm lấy tất cả người, sự, và
vật, như vậy là sai lầm.
Sai ở chỗ nào?
Đức Phật dạy chúng ta: ‘năng sở giai không, liễu bất khả
đắc’ (năng và sở đều là không, trọn
chẳng thể lấy được, có
được). Trong sáu
trăm quyển kinh Bát Nhă, ba chữ ‘bất khả
đắc’ (không
thể lấy được, có được) đă lập đi lập lại trên ngàn lần, đó
là muốn cho chúng ta ghi nhớ kỹ ‘bất khả
đắc’ là chân tướng sự thật, nếu
cứ tưởng tất cả có năng đắc, có
sở đắc (có cái năng được, có cái để
ḿnh lấy được), đó đều là ngu si, vô
minh.
Nếu hiểu thấu tất cả
pháp đều không thể có được, năng và
sở đều không thể đạt được th́
bạn sẽ giải thoát.
Dùng danh từ hiện nay để nói th́ ‘giải
thoát’ tức là tâm lư không có ràng buộc, lo lắng, bận
bịu, tâm của bạn được tự tại,
buông xuống hết thảy vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước.
Lư do việc ǵ chúng ta cũng buông xuống không
được chính là v́ ngu si chưa bị phá trừ,
vẫn c̣n cho là ‘có năng đắc, có sở đắc’,
trong tâm c̣n bị ràng buộc, c̣n lo âu cho nên sinh sống
rất khổ sở, công phu tu học cũng không
đắc lực.
Chư Phật Như
lai ứng hóa trong thế gian, tất cả những
việc làm, hành động đều là ‘Phật sự trong mộng, đạo tràng như
bóng trăng dưới nước’. Đạo tràng được xây
dựng càng lớn, càng huy hoàng, người giác ngộ
đều xem là hoa trong gương, ánh trăng dưới
nước, không có chút ǵ chấp trước, keo tham,
như vậy mới được đại tự
tại, đó mới là sự hưởng thọ cao
độ. Trong sanh hoạt
đối với tất cả người và vật
nếu có những sự thọ dụng, tuyệt
đối không được khống chế, đừng
có tâm niệm chiếm lấy, như vậy mới
sống một đời sống của Phật, Bồ
Tát; sự khác biệt của phàm phu và Phật, Bồ Tát là
ở chỗ này. Phàm phu th́
mỗi tâm niệm đều muốn khống chế,
điều khiển người khác, mỗi tâm niệm
đều muốn chiếm lấy tất cả, cho nên
trong tâm cứ lo được, lo mất, âu lo phiền năo
vĩnh viễn không dứt, sống trong những ngày tháng
như vậy rất khổ sở.
C̣n chư Phật, Bồ Tát
đại từ đại bi nhất định viên măn
hàm nhiếp ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh
giác’. Bất cứ một
điều trong năm chữ này đều chứa
đựng bốn điều kia, như vậy mới là ‘một là tất cả, tất
cả là một’. Nếu
tâm từ bi không thanh tịnh, không b́nh đẳng th́ đây
là một trong bốn loại ‘ái duyên từ bi’ nói trong
Phật pháp. Đây là từ bi
của phàm phu, vẫn c̣n khống chế, chiếm lấy,
không có bỏ hết tất cả yêu cầu, đ̣i
hỏi, đây không phải là đại từ đại
bi. ‘Ái duyên từ bi’
hướng lên trên là ‘chúng sanh duyên từ bi’, ‘pháp duyên
từ bi’, lên nữa là ‘vô duyên từ bi’, đại từ
đại bi tức là ‘vô duyên từ bi’. Vô duyên tức là không điều
kiện, không yêu cầu đ̣i hỏi, không có chiếm
lấy, không có khống chế, đó là đại từ
đại bi của chư Phật và Pháp Thân Đại
Sĩ. ‘Vô duyên từ bi’ có
đầy đủ chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác. Nếu
chúng ta dùng tâm này để xử sự, đối đăi
với người, tiếp xúc với sự vật,
thế th́ trong lúc xử sự, đối người,
tiếp vật đă chứng quả rồi. Giống như ‘nhập
đại giải thoát môn’ (vào cửa giải thoát to
lớn) nói trong kinh Hoa Nghiêm, thế th́ thành Phật
rồi. Chữ đại
ở đây cũng có nghĩa là Đại thừa, cửa
giải thoát nhỏ là A La Hán, bậc thánh của Tiểu
Thừa.
c. Đọc
kinh nghe pháp quan trọng
Chúng ta là phàm phu, nghiệp
chướng, tập khí, phiền năo vô cùng sâu nặng,
rất khó đoạn dứt, chỉ có dùng phương
pháp giác ngộ mới có thể đoạn dứt. V́ vậy cho nên đọc kinh,
nghe pháp vô cùng quan trọng, một ngày cũng không thể
gián đoạn. Chúng ta không
phải là người có thượng căn, lợi trí (đầu óc lanh
lợi bén nhạy), không thể chỉ
lắng nghe, học tập trong một thời gian ngắn
mà có thể khai ngộ.
Người trung và hạ căn muốn đạt được
ích lợi ngay trong một đời, chỉ có
phương pháp duy nhất là đọc kinh, nghe pháp, huân tu
trong thời gian dài mới có thể khế nhập vào
cảnh giới ‘nhập Phật pháp’ nói trong kinh Hoa
Nghiêm. Nhập Phật pháp
tức là giác ngộ, đây là đạt được
lợi ích chân thật.
d. Quản sự
bận tâm
Tôi là
một người phàm, là người căn tánh trung
hạ, hôm nay có được chút đỉnh thành tựu
này, có được chút đỉnh trí huệ này
đều là do đọc kinh, giảng kinh hằng ngày
trong suốt bốn mươi mấy năm qua. Có một số đại
đức cũng giảng kinh nhưng ngoài việc
giảng kinh ra họ c̣n phải quản sự (quản lư
sự việc); quản sự phải lo lắng, bận
tâm, ít nhiều cũng gây ra chướng ngại cho
ḿnh. Duyên phần của tôi
trong đời này rất thù thắng, cả đời
‘không quản lư người, không quản lư sự việc,
không quản lư tiền bạc’, cho nên sự việc trong
thế tục đối với tôi không gây chướng
ngại, mới có được chút đỉnh thành
tựu này, đây cũng là việc tôi hiện thân thuyết
pháp làm gương cho mọi người.
Người như
thế nào có thể quản lư sự việc? Phải có tâm thanh tịnh. Cho nên ngày xưa những vị quản
sự trong chùa chiền, ṭng lâm đều là chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa tái lai.
Chúng ta không phải thánh nhân ứng hóa, chúng ta đích
thực là phàm phu. Nếu phàm
phu đi làm việc tức là xả kỷ vị nhân (hy sinh ḿnh để
phục vụ cho người khác)
thế th́ cũng đáng được ngưỡng
mộ, kính phục. Tuy hy sinh
định huệ của ḿnh để phục vụ
đại chúng, nhưng nhất định phải giữ
giới cho được thanh tịnh, đây mới là tu
phước báo chân chánh.
[Giữ] giới thanh tịnh tức là chăm sóc
phục vụ cho đại chúng đúng như lư, như
pháp, không có tâm riêng tư, dùng tâm chân thành, lo lắng, chăm
sóc, giúp đỡ hết thảy đại chúng tu học
đàng hoàng.
Hàn Quán Trưởng là hạng
người này, bà không phải là Phật, Bồ Tát hóa thân
đến, bà sáng lập xây dựng đạo tràng, thành
tựu cho đại chúng, có ân đức rất lớn đối
với chúng ta. Chúng ta báo
đáp cho bà được thể hiện [một cách
trọn vẹn] lúc bà lâm chung, chúng ta tiễn đưa bà
văng sanh, đây là báo ân một cách trọn vẹn, lớn
lao. Nhưng duyên như vầy
rất khó được, không phải người nào
cũng có duyên phần tốt như vậy, cơ hội
tốt như vậy. Nếu
bà không văng sanh được th́ đời sau sẽ
hưởng phước báo to lớn, làm quốc
vương đại thần, trưởng giả cự
phú. Nhưng phước báo
ở thế gian cho dù làm đến Đại Phạm Thiên
Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương th́ vẫn c̣n
ở trong ṿng lục đạo luân hồi, thoát không
khỏi tam giới, cho nên phước báo như vậy
chẳng rốt ráo viên măn. Ngày
nay chúng ta hiểu rơ ràng minh bạch th́ chỉ có văng sanh
bất thoái thành Phật mới là chân thực [rốt ráo,
viên măn].
d. Học sống qua
ngày
Tu học tức là
học làm thế nào sống qua ngày, biết làm thế nào
đối với ḿnh, đối với người. Đối với ḿnh tuyệt
đối phải thanh tịnh, từ bi, chuyên tu chuyên
hoằng; đối với người nhất
định phải chân thành, thanh tịnh, từ bi,
phải làm được vô duyên [từ bi], không có
điều kiện. Nhất
định đừng có tâm niệm khống chế
[bắt buộc người ta luôn luôn phải làm theo ư
của ḿnh], đừng giữ tâm niệm chiếm
lấy, đối với tất cả mọi
người, mọi sự, mọi vật, phải buông
bỏ hết tất cả yêu cầu, đ̣i hỏi,
đây là trí huệ, đây là công đức, sánh với phước
đức c̣n thù thắng hơn nhiều. Hy vọng mọi người
đều khích lệ khuyến tấn lẫn nhau, y giáo
phụng hành.
B. LUẬN SỰ TỬ SANH TRỌNG
ĐẠI
1. Tử sanh đại sự (Buổi sáng 20-12-98)
Lần
trước chúng ta thăm viếng giáo hội đạo
Islam (Hồi Giáo) có được tiếng vang rất
tốt. Từ đó có thể
thấy xă hội đại chúng chẳng phân chủng
tộc, biên giới quốc gia, chẳng phân tôn giáo tín
ngưỡng, mọi người đều hy vọng xă
hội an định phồn vinh, thế giới ḥa
b́nh. Việc này ấn
chứng cho sự suy nghĩ và cách làm của chúng ta là chính
xác. Cho nên phải nỗ
lực tinh tấn thêm, làm cho văn hóa đa nguyên kính
trọng lẫn nhau, kính ái lẫn nhau, giúp đỡ
hợp tác, nỗ lực đẩy mạnh sự
nghiệp cùng tồn cùng vinh này.
Chuyện
này là Phật sự, Phật sự là sự nghiệp giác
ngộ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, ĺa
khổ được vui.
Việc chúng ta làm chính là giúp đỡ chúng sanh mở
rộng tâm lượng, thương ḿnh th́ càng
thương người; thương gia đ́nh ḿnh th́ càng
yêu thương xă hội, tiêu trừ hết thảy
những sự hiểu lầm, mâu thuẫn, xung đột
để cùng nhau đạt đến mục tiêu ḥa
b́nh. Chúng ta đẩy mạnh
chuyện này nhất định phải dựa căn
bản trên ‘tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng,
tâm chánh giác, tâm từ bi’, đây mới là Phật sự,
mới là sự nghiệp của Bồ Tát.
Đối
với bản thân của chúng ta nhất định
phải có sự cảnh giác cao độ. Hàn Quán Trưởng từ lúc sanh
bịnh đến lúc văng sanh đều tỉnh táo,
việc này rất khó được. Bà hiện thân thuyết pháp và nói
cho chúng ta biết một người lúc lâm chung ngay cả
trở ḿnh [nằm lật qua tư thế khác] cũng
chẳng làm nổi, cũng cần phải có người
giúp đỡ. Chuyện này làm
tôi nghĩ đến [cho dù] người trong thế gian có
phước báo lớn hơn, quyền lực lớn
hơn th́ lúc lâm chung vẫn phải chịu sự sắp
đặt của người khác, chẳng có cách nào ĺa
khỏi hoàn cảnh nguy hiểm này.
Phật dạy chúng ta lúc bấy giờ là thời
khắc quan trọng nhất của một đời
người, quan hệ đến đời sau sẽ sanh
vào chốn nào.
Duyên
của Hàn Quán Trưởng thù thắng, được ba
mươi mấy vị xuất gia dùng tâm chân thành, thanh
tịnh niệm Phật giúp cho bà, bảo vệ bà, cho nên
từ lúc bà sanh bịnh đến lúc văng sanh chúng tôi nh́n
thấy được rất nhiều tướng
lành. Thứ nhất, kinh
Địa Tạng nói lúc người ta lâm chung sẽ nh́n
thấy những thân bằng quyến thuộc đă qua
đời, những người này chẳng phải là bà
con thiệt mà là những oan gia chủ nợ của ḿnh
biến ra quyến thuộc để dụ dỗ,
trả thù ḿnh. Chuyện này
xảy ra rất nhiều.
Từ lúc Hàn Quán Trưởng sanh bịnh đến
văng sanh chẳng có hiện tượng này, đây là nhờ
chúng tôi bảo vệ được hiệu quả. Thứ hai, bà nh́n thấy đức
Phật A Di Đà hai lần, nh́n thấy Liên Tŕ hải hội
một lần nên bà khẳng định đă văng sanh
Tịnh Độ. Sự thị
hiện của bà cảnh giác chúng ta, bà có phước báo
nên lúc lâm chung được nhiều người có
niềm tin chân chánh, chăm sóc đúng lư đúng pháp, đây
là quả báo bà có được sau ba mươi năm
hộ tŕ chánh pháp. Sau này
mỗi lần giảng kinh tôi đều hồi
hướng cho bà, tôi luôn luôn ghi nhớ chẳng quên sự
giúp đỡ của bà lúc trước, ân đức
của bà giúp cho tôi thành tựu.
Chúng
ta quay lại thử nghĩ về ḿnh, ngày này chắc
chắn sẽ đến, lúc đó nếu ḿnh không có
phước báo, duyên phận như bà th́ phải làm sao
đây? Đây là việc quan
trọng nhất trong đời của ḿnh, chẳng
thể không chuẩn bị trước. Từ
xưa đến nay có không ít người niệm Phật
thị hiện cho chúng ta, thị hiện lúc lâm chung
chẳng có bịnh khổ cho chúng ta xem, chẳng cần
phải nhờ người khác chăm sóc, dự biết
thời giờ ra đi, tự tại văng sanh. Chúng ta nhất định phải
đi theo con đường này th́ mới đáng tin
cậy, mới chắc ăn.
Cuốn
‘Ảnh Trần Hồi Kư Lục’ ghi pháp sư Đế Nhàn có
người đệ tử niệm Phật văng sanh,
vị này trước khi xuất gia làm thợ vá
nồi. Người này cả
đời sinh sống vô cùng khốn khổ, trung niên
xuất gia, chẳng biết chữ, và cũng chưa được
nghe giảng kinh, việc ǵ cũng chẳng biết. Pháp sư Đế Nhàn chỉ
dạy cho ông niệm một câu ‘Nam Mô A Di Đà Phật’ và nói
với ông: ‘Ông cứ niệm riết câu này, niệm
mệt th́ nghỉ, hết mệt th́ niệm tiếp
tục, tương lai chắc chắn sẽ có lợi ích
’. Ông này là người nhà
quê, thật thà chất phác, chẳng có vọng tưởng
tạp niệm, chịu nghe lời dạy và niệm
tới cùng. Ông niệm
được ba bốn năm th́ thành công. Chẳng có bịnh khổ, dự
biết trước giờ ra đi, sau khi văng sanh c̣n
đứng ba ngày chờ pháp sư Đế Nhàn đến
để lo hậu sự cho ông.
Cụ Đế khen ông và nói: ‘Kể ra th́ ông chẳng
uổng phí đă một phen xuất gia, ông làm
được như vậy ngay cả những
đại ḥa thượng, phương trượng
trụ tŕ, đại pháp sư giảng kinh thuyết pháp
đều chẳng sánh bằng ông’, đây là sự
thật.
Tại
Đài Bắc Liên Hữu Niệm Phật Đoàn, Đài Loan, cư
sĩ Lư Tế Hoa văng sanh cũng là tấm gương
tốt cho chúng ta. Lư cư
sĩ dự biết trước giờ văng sanh,
trước lúc văng sanh đă khẩn thiết khai thị
cho mọi người trong pháp hội, nói xong th́ chào
biệt mọi người và nói: ‘Tôi sẽ về nhà’. Thính chúng cứ tưởng là ông
mệt rồi nên muốn về nhà nghỉ ngơi, đâu
ngờ ông ngồi trên ghế dài trong pḥng khách Liên Hữu
Niệm Phật Đoàn, ngồi được một chút th́
văng sanh.
Đây
là hai chuyện thật, một vị là người
xuất gia, vị kia là người tại gia, họ
đă làm được th́ chúng ta cũng có thể làm
được, chúng ta phải học theo. Chỉ có dùng phương thức
này mới thiệt là an toàn, chẳng phải nhờ
người khác sắp đặt, lúc người ta
sắp đặt nếu duyên chẳng tốt đẹp
th́ nhất định sẽ bị nạn.
Sau
khi hiểu rơ chân tướng sự thật th́ phải
nghĩ xem những ǵ gây chướng ngại cho chúng ta, san
bằng những chướng ngại này th́ chúng ta cũng
có thể sanh tử tự tại.
Có thể làm được việc này tức là
việc mà trong Phật pháp gọi là: ‘chuyện cần làm đă làm xong’ (sở
tác dĩ biện),
những chuyện ǵ ḿnh cần làm đều đă làm xong
xuôi, sau đó mới yên tâm đi làm những chuyện
lợi ích cho chúng sanh. Nếu
chuyện của ḿnh làm chưa xong, có thể hy sinh ḿnh giúp
cho người th́ cũng là một chuyện tốt,
nhưng những ǵ ḿnh làm lúc bấy giờ đều là
phước báo, vẫn chẳng thể thoát ra khỏi lục
đạo. Nếu ‘chuyện
cần làm đă làm xong’ tức là nhất định đă
nắm chắc việc văng sanh, th́ làm các sự việc giúp
đỡ hết thảy chúng sanh mới là công đức
chân thật, chẳng phải thọ báo trong tam
giới. Cho nên nhất
định phải nhắc nhở chính ḿnh, bất
luận là giờ nào chốn nào, trong bất cứ
trạng huống nào tự ḿnh phải nắm chắc văng
sanh được, tránh hết tất cả đau khổ,
tất cả những dày ṿ do người tạo nên. Nếu muốn làm được
điểm này th́ nhất định phải ‘nh́n thấu,
buông xuống’.
Địa
Tạng Kinh Khoa Chú Luân Quán nói: ‘Một niệm tự tánh,
thể vốn trạm tịch’ [40]. Nếu thật sự niệm
niệm đều tương ứng với tánh thể
trạm tịch, hết thảy tác dụng có thể
tương ứng với tâm tánh, th́ mới nắm
chắc việc văng sanh.
Lục Tổ Huệ Năng đại sư nói c̣n rơ
hơn nữa: ‘Vốn
là chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi
trần’[41], hai câu này nói về tâm thanh tịnh
và tâm b́nh đẳng. Tâm thanh
tịnh chẳng nhiễm, tâm địa thanh tịnh
chẳng vướng bận, trong tâm ‘vốn chẳng có
một vật’. Dùng tâm thanh
tịnh nhất tâm niệm Phật th́ việc này có thể
làm được.
Nhất
định phải hiểu rơ hết thảy pháp thế
gian và xuất thế gian đều là giả hết, thân
thể của chúng ta cũng giả. ‘Mượn giả để tu chân’, văng sanh Tây phương Cực
Lạc thế giới là chân, trừ việc này ra th́
hết thảy đều là giả, chúng ta phải
nhận thức rơ ràng.
Hiện nay tai
nạn dồn dập, chúng ta phải tu nhanh lên,
đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện,
dùng tâm thanh tịnh niệm Phật. Buông xuống vạn duyên là
đoạn hết thảy ác, dùng tâm thanh tịnh
để niệm Phật là tu hết thảy
thiện. Tự ḿnh nắm
chắc có thể văng sanh rồi mới dốc toàn tâm toàn
lực khuyên người khác, thị hiện cho
người khác làm tấm gương tốt, đó là việc
thiện nhất trong những việc thiện, chẳng có
việc thiện nào lớn hơn việc này. Không chỉ có người học
Phật nh́n thấy làm cho họ phát tâm muốn xuất ly;
trong văn hóa đa nguyên những người chưa có
dịp tiếp xúc với Phật pháp nh́n thấy cũng
sẽ động tâm, cũng sẽ quay lại hết ḷng
học tập, đây là chuyện nhà Phật thường
gọi là ‘phổ độ chúng sanh’. Hy vọng chúng ta khuyến khích
lẫn nhau, hết ḷng nỗ lực làm cho bằng
được.
2. Kể chuyện văng sanh (Buổi sáng 22-12-98)
Mọi
người ở đây kết thất niệm Phật
cần phải hiểu rơ ư nghĩa của việc kết
thất niệm Phật. Trong
bảy ngày này chúng ta hy vọng đạt được
kết quả ǵ th́ bảy ngày này mới chẳng luống
uổng.
Chúng ta sinh sống trong thời đại
hiện nay, nếu có trí huệ th́ nhất định
sẽ có cảnh giác cao độ.
Con người sống trong thế gian bất quá chỉ
được mấy chục năm ngắn ngủi, búng
ngón tay th́ đă trôi qua mất rồi, b́nh tĩnh quan sát
mới biết đó chỉ là một con số không [to
tướng], đây là sự thật. Sự hạnh phúc quư báu nhất
của người ta trong đời là không tạo ác
nghiệp. Nếu có thể
không tạo ác nghiệp, tương lai nhất định
sẽ sanh vào cơi lành, cơi tốt đẹp.
Người xưa nhắc nhở người
tu hành như chúng ta cần phải có ‘tiền hậu
nhăn’. Tiền hậu nhăn
nghĩa là biết quá khứ, nh́n thấy tương lai,
không chỉ tập trung ở hiện tại. Điểm này vô cùng quan trọng.
Lúc Hàn Quán trưởng văng sanh đă cho chúng ta
rất nhiều bài học, nhắc
nhở chúng ta ‘tử sanh sự đại’ (việc sanh
tử vô cùng quan trọng).
Chúng ta cần phải có cảnh giác cao độ,
đến lúc lâm chung tự ḿnh phải làm chủ
được ḿnh, được như vậy th́
tiền đồ mới xán lạn. Nếu lúc lâm chung tự ḿnh không
làm chủ được, phải chịu sự sắp
xếp của người khác, cho dù có rất nhiều người
lo lắng chăm sóc, nhưng những ǵ ḿnh cảm xúc
chưa chắc sẽ được toại ư. Đời sau đi về đâu
đều quyết định ở một niệm
cuối cùng. Một niệm
cuối cùng là tham, sân, si th́ sẽ đi vào ác
đạo. Chuyện này
dễ sợ vô cùng!
Hàn Quán trưởng có phước báo, từ lúc
sanh bịnh đến lúc văng sanh được ba
mươi mấy vị xuất gia có tâm địa thanh
tịnh, suốt ngày đêm ở bên giường bịnh
niệm Phật và chăm sóc; sau khi văng sanh [họ trợ]
niệm suốt bốn mươi chín ngày đêm không
ngừng, ngay cả những vị xuất gia, đại
pháp sư cũng không làm được việc này. Ngay cả lăo cư sĩ Lư
Bỉnh Nam ở Đài Trung cũng sánh không bằng, lúc
thầy Lư sanh bịnh chỉ là do vài người học
tṛ chăm sóc, không có nhiều người xuất gia
đắp y đầy đủ oai nghi giúp đỡ. Phước báo này là một nhân
duyên hiếm hoi! Đây là quả
báo của bà đă hộ tŕ chánh pháp suốt ba mươi
năm, cho nên bà có thể văng sanh Tịnh Độ một cách
vô cùng thuận lợi -- trợ duyên quá thù thắng, tốt
đẹp!
Suy nghĩ trở lại, tương lai lúc chúng
ta văng sanh có được duyên phận thù thắng như
vậy hay không? Điều này
chúng ta cần phải cảnh giác đến, đây
thiệt là một việc lớn lao nhất trong
đời này. Trong trường hợp và hoàn cảnh hiện
tại, phương pháp [an toàn nhất] là tự ḿnh
phải nhất quyết tu học cho được thành
tựu, không cần nhờ người khác, lúc văng sanh không
bị bịnh khổ, dự biết trước thời
giờ ra đi, đứng văng sanh, ngồi văng sanh,
nằm văng sanh, tùy ư muốn của ḿnh, đây là sanh tử
tự tại, được vậy chúng ta mới không
bỏ uổng đời này.
Mọi người tham dự Phật thất
niệm Phật phải hiểu rơ, nắm chắc tông
chỉ này, chúng ta đến đây là để huấn luyện
thêm, học tập để tương lai tự tại
văng sanh.
Trong quyển Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục và Văng Sanh Truyện có ghi rất
nhiều người tự tại văng sanh, số
người không được ghi chép lại c̣n nhiều
hơn. Gần đây trong
quyển Niệm Phật Luận của lăo pháp sư Đàm
Hư, Ngài nói đă chứng kiến tận mắt hơn
hai mươi mấy người văng sanh, [số
người văng sanh] nghe nói đến c̣n nhiều hơn. Trong quyển Niệm Phật
Luận, Ngài thuật lại bốn chuyện văng sanh, trong
đó người xuất gia có pháp sư Tu Vô ở chùa
Cực Lạc, Harbin (miền Đông Bắc
Trung Quốc), người tại gia có cư
sĩ Trịnh Tích Tân và người em của ông, người thứ
tư là cư sĩ họ Trương ở chùa Trạm
Sơn.
Pháp sư Tu Vô là một
người cực khổ cả đời và mù chữ;
trong pháp hội truyền giới ở chùa Cực Lạc
thầy phát tâm giúp đỡ săn sóc cho người
bịnh. Pháp hội truyền
giới c̣n chưa kết thúc, thầy Tu Vô dự biết
trước thời giờ đă đến, niệm
Phật văng sanh. Trước
lúc văng sanh ngài nhắc nhở đại chúng ‘có thể
nói mà không thể làm th́ chẳng phải trí huệ chơn
thật’.
Cư sĩ Trịnh Tích Tân là một
người làm ăn buôn bán, được dịp nghe lăo
pháp sư Đàm Hư thuyết pháp nên rất vui vẻ, tán
thán. Sau này nghỉ buôn bán,
học giảng kinh Di Đà, ông đi đến nhiều
nơi giảng kinh và khuyên người niệm
Phật. Ông không sanh bịnh,
ngồi mà văng sanh. Một hôm
sau khi giảng kinh xong ông nói với đại chúng: ‘Tôi
phải đi đây’, thật là siêu thoát! Thật là tự tại! Người em của ông lúc
trước cứ cho rằng ông học Phật quá mê
lầm, sau khi nh́n thấy ông tự tại văng sanh nên
tỉnh ngộ và cũng siêng năng, thật thà niệm
Phật. Ba năm sau
người em của ông cũng văng sanh, lúc văng sanh mang
bịnh nhẹ.
Gia đ́nh cư sĩ
Trương ở chùa Trạm sơn vô cùng nghèo túng,
chồng bà làm nghề kéo xe chở khách. Bà làm công quả trong những pháp
hội niệm Phật ở chùa Trạm Sơn, cả ngày
từ sáng đến tối Phật hiệu không gián
đoạn. Bà dự biết
trước ngày giờ văng sanh, hôm đó bà dặn ḍ
chồng phải chăm sóc cho con xong rồi an nhiên ngồi
trên giường mà văng sanh. Đây
là tấm gương tốt cho những người
học Phật chúng ta, không cần phải nhờ cậy
người khác giúp đỡ, tự ḿnh thiệt nắm
chắc [có thể tự tại văng sanh].
Ngoài ra cụ Đàm
[Hư] c̣n kể chuyện một học tṛ của lăo pháp
sư Đế Nhàn, ông này là thợ vá nồi và không biết
chữ. [Người này là
bạn chơi thân với lăo pháp sư lúc nhỏ,
đến xin xuất gia v́ đời sống quá cực
khổ, muốn t́m lối thoát.
Sau khi cho ông xuất gia], cụ Đế [Nhàn] dạy ông
đến một ngôi miếu đổ nát ở miền
quê gần Ôn Châu, t́m vài người hộ pháp săn sóc
[việc ăn uống] cho ông.
Cụ Đế chỉ dạy cho ông niệm một câu
‘A Di Đà Phật’, dạy ông thật thà niệm câu Phật
hiệu này, niệm đến mệt th́ nghỉ, nghỉ
ngơi xong th́ niệm tiếp tục. Ông niệm trong ṿng ba đến bốn
năm th́ thành công; ông đứng mà văng sanh, c̣n đứng
ba ngày sau khi văng sanh [để đợi lăo pháp sư
Đế Nhàn đến lo hậu sự]. Thật là vô cùng tự
tại! Cụ Đế khen ông:
‘So với những đại pháp sư giảng kinh
thuyết pháp, những vị phương trượng
trụ tŕ, [sự thành tựu của] ông vượt
trỗi hơn họ quá nhiều, quá nhiều!’
Phẩm vị văng sanh
của những người này không phải ở Trung
phẩm, Hạ phẩm mà là ‘Thượng phẩm văng sanh’
nói trong kinh Vô Lượng Thọ.
Họ có thể làm được là v́ họ đă
buông xả danh văn lợi dưỡng, ngũ dục
lục trần. Ngày nay chúng ta
làm không nổi là v́ buông xả chẳng nổi những
sự quyến rũ, khó là khó ở chỗ này. Nên biết danh văn lợi
dưỡng, ngũ dục lục trần đều là
giả hết, đă hại chúng ta đời đời
kiếp kiếp kẹt măi trong lục đạo luân
hồi, đọa lạc trong ác đạo chịu
hết bao nhiêu khổ nạn.
Cho nên mới nói
người đời nay ‘ngu si’, không những không
hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh, mà
c̣n không có khả năng phân biệt những thứ tà
chánh, thiện ác, lợi hại.
Không biết tự tư tự lợi, danh văn
lợi dưỡng, ngũ dục lục trần tai
hại vô cùng; chỉ có buông xuống vạn duyên, nhất
tâm niệm Phật là việc thiện lớn nhất. Đây là lời kinh dạy: ‘Đoạn dứt tất cả
điều ác, tu tất cả điều thiện’,
chúng ta phải hiểu rơ ư nghĩa chân chánh của nó.
Trong đời này
mỗi vị đồng tu có thể đạt
được sự thành tựu thù thắng nhất hay
không? Có thể. Thiện Đạo đại sư
nói: ‘Chín phẩm văng sanh
đều là do gặp duyên chẳng đồng’. Chúng ta đă gặp
được nhân duyên thù thắng, gặp được
Phật pháp Đại thừa, gặp được Tịnh
Tông, gặp được bản hội tập của
kinh Vô Lượng Thọ, gặp được
đồng tham đạo hữu tốt, nếu trong
đời này không thể thành tựu th́ đó là v́ tập
khí phiền năo của ḿnh quá nặng, cứ mỗi ngày
tạo nghiệp như cũ.
Khi khởi tâm
động niệm đều v́ ḿnh là tạo
nghiệp. Ngôn ngữ gây
tổn hại cho người khác, thị phi nhân ngă đều
là khẩu nghiệp. Trong kinh
Vô Lượng Thọ nói đến tam nghiệp,
đặt khẩu nghiệp ở hàng đầu: ‘khéo giữ ǵn khẩu nghiệp,
đừng chê bai lỗi của người khác’
tức là cảnh giác chúng ta khẩu nghiệp quan trọng
nhất, dễ phạm nhất.
Nh́n thấy chúng sanh có lỗi lầm đều không
thể nói đến; nếu [người ta] không có
lỗi mà ḿnh đặt chuyện, và c̣n hoài nghi
người ta có lỗi th́ tội nghiệp này c̣n nặng
hơn.
Người tu học
c̣n chịu ảnh hưởng của phiền năo tập
khí [tích lũy] từ vô lượng kiếp đến nay
nên thoái chuyển rất dễ dàng, tinh tấn rất khó
khăn. Thế nên những
vị đại đức, tổ sư ngày xưa
đề xướng tu tập chung, kết Phật thất
để cùng nhau niệm Phật, nương vào
đại chúng để tu tập, đó là đạo lư
của việc tu tập chung.
Niệm
Phật Đường ở Tân Gia Ba càng ngày càng thù thắng,
từ mồng một tháng Giêng đến 30 tháng Chạp
(tháng 12), mỗi ngày niệm Phật 24 giờ đồng
hồ không gián đoạn, đây là Phật thất [kéo
dài] quanh năm. Giảng
đường mỗi ngày giảng kinh hai giờ, 365 ngày
trong năm không gián đoạn, thiệt đúng là giải
và hành đều quan trọng như nhau, đều cùng nhau
tu Định và Huệ. Lăo ḥa
thượng Tịch Độ ở Ngũ Đài Sơn, lăo ḥa
thượng Nhân Đức ở Cửu Hoa Sơn, lăo ḥa
thượng Mính Sơn ở chùa Định Huệ, Tiêu
Sơn, Trung Quốc, đều tán thán đạo tràng này là
‘đạo tràng hạng nhất trên thế giới’.
Mọi người ở Cư Sĩ
Lâm từ trên xuống dưới đều ḥa thuận,
ai cũng thường nở nụ cười
tươi, chúng ta ở đây có thể nh́n thấy việc
‘thường sanh tâm hoan
hỷ’ nói trong kinh. Hy
vọng mọi người có cơ hội đến Tân
Gia Ba tham học, đem phương pháp tu học ở
đây phổ biến đến khắp nơi trên thế
giới, để mọi nơi đều có thể xây
dựng đạo tràng như vậy. Chúng ta nỗ lực hết ḷng tu
học, không những tự ḿnh trong đời này nhất
quyết văng sanh, chúng ta c̣n có thể đem lại sự an
định cho xă hội, ḥa b́nh cho thế giới, đây
là công đức chân thật, tự hành hóa tha nói trong nhà
Phật. Hy vọng mọi
người hăy siêng năng tinh tấn niệm Phật.
C.
KHUYÊN TIN SÂU NHÂN QUẢ
1.
Chư Phật, Bồ Tát giúp
đỡ chúng sanh đang bị khổ nạn như
thế nào. (Buổi sáng 14-11-98)
Những năm gần đây, tai
nạn ngày càng nhiều, đời sống chúng sanh ngày càng
khổ, từ đây trở về sau sẽ càng nghiêm
trọng hơn. Có
người hỏi tôi: ‘Phật, Bồ Tát đại
từ đại bi làm sao đến cứu độ
hết thảy chúng sanh khổ nạn?’. Những lời nói này chẳng sai
nhưng ư nghĩa chân chánh trong đó hoàn toàn bị hiểu
sai. Chư Phật, Bồ Tát
từ bi cứu độ, chẳng phải nói chúng sanh
thiếu thốn đồ ăn, quần áo, Phật
liền tặng lương thực, cho quần áo. Phật giúp đỡ chúng sanh phá
mê khai ngộ, làm cho chúng sanh hiểu rơ nguyên nhân của tai
nạn, sau đó tiêu trừ nguyên nhân ấy, vậy th́
quả báo tai nạn sẽ tiêu trừ, đó mới là chân
chánh cứu độ chúng sanh.
Muốn được hạnh phúc mỹ măn, tự tại
khoái lạc, những thứ này đều là quả báo,
quả nhất định phải có nhân; Phật, Bồ
Tát dạy chúng ta tu nhân, tu nhân thiện nhất định
được quả thiện, ấy mới là
đạo lư đúng đắn, cứu độ thực
sự.
Ḷng từ bi của Thế Tôn
được biểu hiện trong cả đời
của Ngài. Phật là
Phước Huệ Nhị Túc Tôn, nghĩa là cả phước
báo lẫn trí huệ đều viên măn. Phước báo đă viên măn th́
tại sao chẳng thị hiện hưởng
phước? Kinh Vô
Lượng Thọ giảng người có phước báo
lớn nhất trên thế gian này là Đại Phạm Thiên
Vương, nhưng phước báo của Đại Phạm
Thiên Vương c̣n chẳng sánh bằng phước báo
của người văng sanh về Cực Lạc hạ
hạ phẩm. Từ đó
chúng ta mới hiểu phước báo của Phật
đích thật là chẳng ai trong thế gian và xuất
thế gian có thể sánh bằng.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ba chiếc
y, một b́nh bát, ngày ăn một bữa, đêm ngủ
dưới gốc cây, đây là sự thị hiện
đại từ đại bi.
Người giàu sang trong thế gian ít ỏi,
người nghèo khổ nhiều, nếu Phật thị
hiện thân phận người phú quư th́ người nghèo
khổ nh́n thấy Phật chỉ có ngưỡng mộ
nhưng chẳng dám đến gần. Phật thị hiện bần
tiện đến cùng cực, người bần tiện
nh́n thấy Phật giống y như ḿnh th́ sẽ cảm
thấy rất thân thiết nên tâm sẽ b́nh. Đây là sự đại từ
đại bi của Phật, chúng ta phải thể hội
điểm này.
Nếu những người
học Phật đều giàu sang, cao quư, chỗ ở
đều giống hoàng cung, khi ra đường
đều ngồi xe sang trọng, mắc tiền th́ những
người nghèo khổ nh́n thấy sẽ nghĩ ra
sao? Đặc biệt là tiền
tài, sự hưởng thụ của người xuất
gia là do mười phương cúng dường,
đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật cũng
chẳng hưởng thụ như vậy. Cả đời đức
Phật chẳng cầu người ta, mỗi ngày tŕ bát
khất thực th́ cũng chỉ đi trong ṿng bảy nhà
mà thôi, nếu đi cả bảy nhà không được
hoặc chẳng đủ th́ ngày hôm đó sẽ nhịn
đói một ngày; khi khất thực nhà thứ nhất mà
đủ rồi th́ sẽ chẳng đi xin ở nhà
thứ hai. Sự thị
hiện này là nhằm dạy chúng ta phải biết
đủ, thường vui, bịnh căn của
người thế gian là chẳng biết đủ nên mới
chiêu cảm đến vô lượng vô biên họa hại.
Học Phật tức là học
tập theo Phật, bất luận là thân phận ǵ,
bất luận làm ngành nghề ǵ, đều phải
học tập tinh thần, quan niệm, từ bi của
Phật, vả lại phải thực hiện trong
đời sống. Sanh
hoạt của chính ḿnh phải giản dị, chất
phác, phải biết đủ, có dư phải chia xẻ
với hết thảy chúng sanh cùng hưởng, đây là
chỗ khác nhau giữa quan niệm của chư Phật,
Bồ Tát và người thế gian; Phật, Bồ Tát có
phước th́ mọi người cùng hưởng, phàm phu
có phước th́ một ḿnh hưởng, chẳng chịu
phân chia cho người.
Phật chẳng những chỉ dùng ngôn ngữ
dạy dỗ chúng sanh, Ngài nói được làm
được. Ngài thực
sự nh́n thấu, nh́n thấu nghĩa là thông suốt
hết tất cả lư sự, nhân quả trong thế gian
và xuất thế gian. Ngài
thực sự nh́n thấu, chẳng quyến luyến
bất cứ một pháp nào trong thế gian và xuất
thế gian, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục
lục trần chẳng tiêm nhiễm một tí nào hết. Hiện nay có rất nhiều
đồng tu cảm thấy nghiệp chướng
của ḿnh nặng nề, tai nạn quá nhiều, họ làm
thế nào để tiêu trừ nghiệp chướng, hóa
giải tai nạn, thực ra đó chính là sự thị
hiện trong suốt cả đời đức Phật
Thích Ca Mâu Ni. Nếu chúng ta học
được rồi, lợi ích vô lượng vô biên,
chẳng những tai nạn trước mắt có thể
tiêu trừ, nghiệp chướng tập khí từ vô
thỉ cũng có thể đoạn dứt.
Do đó có thể biết chúng ta
học Phật đích thật là quá sơ ư. Phật pháp chẳng có bí mật,
bày trước mắt chúng ta vô cùng rơ ràng, nhưng chúng ta
nh́n không thấy, và cũng chẳng cảm được,
đây là v́ chúng ta nghiệp chướng sâu nặng. Mặc dù chúng ta đọc kinh, nghe
kinh nhưng vẫn chẳng hiểu ư nghĩa trong kinh,
chẳng thể thực hiện những lời dạy này
và áp dụng vào trong đời sống hiện thực
hằng ngày, cho nên chẳng đạt được
lợi ích chân thật. Chúng ta
chẳng thể trách Phật, Bồ Tát chẳng từ bi,
chẳng thể trách Phật, Bồ Tát không giúp đỡ
chúng ta; Phật, Bồ Tát thực sự có giúp đỡ
nhưng chúng ta chẳng thể hội được,
lại c̣n đánh mất cơ hội nhân duyên, lỗi này
là ở tại chúng ta. Thế
nên tự ḿnh phải phản tỉnh, phải sám hối,
phải học tập từ trong sự phản tỉnh và
sám hối.
Khắc phục phiền năo và
tập khí của ḿnh chính là tiêu nghiệp chướng. Phương pháp khắc phục
rất nhiều, nhà Phật thường nói tám vạn
bốn ngàn pháp môn, pháp là phương pháp, môn là cửa vào;
cánh cửa khắc phục phiền năo và tiêu trừ
nghiệp chướng th́ vô lượng vô biên. Trong vô lượng pháp môn này
đức Thế Tôn nói với chúng ta Pháp Môn Niệm
Phật là phương tiện nhất, đơn giản
nhất, dễ dàng nhất, có hiệu quả nhất. Nhất định phải
hiểu lư luận của sự niệm Phật th́ sẽ
chẳng hoài nghi, Phật hiệu có thể niệm
đến có hiệu quả, có sức mạnh; sức
mạnh tức là có thể tiêu trừ nghiệp
chướng, đoạn phiền năo. Niệm Phật có thể tiêu
trừ nghiệp chướng, đoạn phiền năo hay
không then chốt ở chỗ niệm đúng như pháp hay
không, biết cách niệm hay không.
Người biết niệm đúng như lư như
pháp th́ hiệu quả sẽ vô cùng thù thắng.
Bởi vậy chẳng những
phải hiểu ư kinh mà c̣n phải ‘thâm giải nghĩa
thú’, v́ hiểu kinh giáo càng sâu, càng triệt để, th́
ḷng tin càng kiên định, ḷng tin có thể chuyển
cảnh giới. Kinh Kim Cang
nói: ‘Tín tâm thanh tịnh ắt sanh thật
tướng’. Khi
tín tâm thật sự thanh tịnh th́ có thể chuyển
thập pháp giới thành Nhất Chân pháp giới, Nhất
Chân pháp giới chính là thật tướng. Có thể chuyển biến
thập pháp giới thành Nhất Chân pháp giới chính là
‘cảnh chuyển tùy theo tâm’.
Thế nên Phật cứu độ hết thảy
chúng sanh bằng cách dạy cho họ tự chuyển
cảnh giới, v́ cảnh giới là do chính ḿnh tạo
thành nên chỉ có ḿnh có thể giải quyết, bất
cứ người nào khác cũng chẳng giúp
được ǵ cả, chư Phật, Bồ Tát cũng
chẳng giúp được.
Trong kinh Lăng Nghiêm [có ghi] khi tôn giả A Nan bị
nạn, Phật cũng chẳng thể giúp ngài, Phật
chỉ nói rơ tiền nhân hậu quả của sự
gặp nạn này, sau đó dạy ngài làm sao hóa giải tai
nạn, việc này vẫn phải do chính ngài hóa
giải. Tự ḿnh thông
đạt hiểu rơ, chuyển tâm hạnh trở lại,
tai nạn liền được tiêu trừ, cảnh
giới liền chuyển biến.
Khởi một tâm niệm ác,
cảnh giới thiện liền biến thành cảnh
giới ác; khởi một tâm niệm thiện, cảnh
giới ác liền biến thành cảnh giới thiện, rơ
ràng nhất là thập pháp giới.
Khởi một tâm niệm b́nh đẳng th́ pháp
giới Phật hiện tiền; khởi một tâm
niệm Lục Độ th́ pháp giới Bồ Tát hiện
tiền; khởi một tâm niệm tham sân, một niệm
thập ác, hoàn cảnh sinh hoạt sẽ là ngũ
trược ác thế; khởi một tâm niệm thanh
tịnh th́ sẽ là thanh thái an ổn, chính là Cực Lạc
thế giới. Phật
thường nói: ‘Phàm những ǵ có
tướng đều là hư vọng,
v́ tướng là hư vọng nên tâm niệm mới có
thể chuyển cảnh giới, vả lại sự
hư vọng này giống như ‘mộng, huyễn,
bọt, bóng’. Cho nên Phật
nói: ‘Các thứ tâm sanh [nên] các thứ pháp
sanh; các thứ pháp sanh, các thứ tâm sanh’[42],
câu này nói rơ chân tướng của vũ trụ nhân
sanh. Lại nói: ‘Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh’,
chân chánh có thể lư giải triệt để đạo
lư này th́ sẽ biết tâm chúng ta tưởng như thế
nào th́ hoàn cảnh thế giới sẽ biến đổi
như thế ấy; hoàn cảnh lớn sẽ thay
đổi, hoàn cảnh nhỏ cũng sẽ thay
đổi; dung mạo của chúng ta cũng sẽ thay
đổi, thể chất sẽ thay đổi, tất
cả hoàn cảnh sanh hoạt sẽ đều thay
đổi, đây tức là ‘cảnh chuyển theo tâm’. Cho nên chẳng có cảnh giới
nào không thể thay đổi, không thể thay đổi là
v́ chẳng thấu triệt lư luận, chẳng rơ
phương pháp, thêm vào chẳng có nhẫn nại nên không
được hiệu quả; nếu làm đúng như lư
như pháp th́ làm sao có chuyện không thay đổi
được?
Chỗ thù thắng vi diệu của
Phật pháp là hết thảy pháp thế gian, xuất
thế gian không thể nào so sánh nổi. Đời này chúng ta may mắn
được thân người, được nghe
Phật pháp, nếu có thể hiểu một chút nghĩa
lư, nghĩa thú thậm thâm [vi diệu] này th́ thiệt là
rất hy hữu, rất khó được. Cho nên chúng ta phải nỗ
lực hết ḷng hết sức để tu học. Tu học tức là thực hành,
làm ra h́nh dáng cho hết thảy chúng sanh nh́n thấy, đây
là thực sự giúp đỡ hết thảy chúng sanh giác
ngộ. H́nh dáng là chiêu bài
(bảng hiệu), chiêu bài tốt làm cho người ta
thấy liền sanh hoan hỷ.
Tướng hảo của Phật chẳng ai có
thể sánh bằng nên khi Phật thuyết pháp chúng sanh tin
tưởng. Chỉ cần tu
học y theo lời dạy của Phật th́ sẽ
đạt được tự tại, viên măn giống
như đức Phật, đây chính là hiện thân
thuyết pháp.
2.
Nói về nhân quả và chuyển
cảnh giới
(Buổi sáng 16-11-98)
a. Nói về nhân quả:
Sự nghiệp làm ăn của
cư sĩ họ Thôi ở vùng Đông Bắc rất thành công,
lúc kinh tế suy thoái mà tiền tài vẫn tiếp tục
tăng trưởng không ngừng, rất nhiều
người chẳng hiểu được nhân tố
này. Nếu khế nhập kinh
tạng đôi chút th́ sẽ hiểu rơ, hết thảy pháp
thế gian và xuất thế gian đều chẳng
vượt ra ngoài định luật nhân quả. Nhà Phật nói: ‘pháp duyên sanh’,
chẳng những thập pháp giới đều là pháp do
nhân duyên sanh, Phật pháp cũng là pháp do nhân duyên sanh. Thế nên kinh Kim Cang nói: ‘Pháp c̣n phải xả, hà huống là phi pháp’,
ngay cả Phật pháp cũng chẳng được
chấp trước. Phàm
những pháp do nhân duyên sanh đều chẳng có tự
tánh, đúng là ‘Thể ngay lúc đó
là không, trọn chẳng thể được[43],
đây là chân tướng sự thật.
‘Vạn pháp
đều không, nhân quả chẳng không’,
tại sao nhân quả chẳng không?
Hăy lấy thí dụ trái đào, hột đào là nhân,
hột đào trồng dưới đất sẽ
lớn thành cây đào, lúc đó hột đào mất đi
rồi; cây đào lớn lên lại kết quả thành trái
đào, đây là nhân quả tuần hoàn. Thế nên ‘nhân quả chẳng
không’ là nói nhân quả tương tục - tiếp nối
chẳng không, chuyển biến chẳng không. Phật, Bồ Tát dạy hết
thảy chúng sanh là v́ muốn chúng ta hiểu đạo lư
này, nắm chắc chân tướng sự thật th́
sẽ được đại tự tại. Trong kinh thường nói: ‘cảnh
chuyển theo tâm’. Kinh
Lăng Nghiêm nói: ‘Nếu chuyển được
cảnh th́ cũng đồng như Như Lai’. Phật, Bồ Tát hiểu nhân
quả chuyển biến chẳng không, tiếp nối
chẳng không, vả lại vận dụng hết sức
khéo léo nên các ngài có thể chuyển biến cảnh
giới, chẳng bị cảnh giới chuyển, đây
chính là việc chúng ta phải học.
Người hiện nay cứ mê
mẩn chạy theo tiền tài, bạn tranh tôi đoạt,
làm cho thiên hạ đại loạn. Tranh đoạt thiệt có thể
kiếm được tiền tài hay chăng? Không thể nào! Chỉ có đau khổ thêm mà thôi,
Phật pháp nói đó là tạo nghiệp. Giết người th́ phạm
giới sát sanh, đoạt lấy tài vật của
người khác là phạm tội ăn cắp, cứ tạo
ra những ác nghiệp giết hại, trộm cắp, tà
dâm, nói dối, th́ làm sao đem lại quả báo tốt lành
cho được?
Người thế gian ngu si nên tạo ra tội
nghiệp cực nặng.
Phật dạy chúng ta giàu sang là do bố thí tài vật
mà ra, tiền tài của cư sĩ họ Thôi cũng là do
bố thí tài vật mà có được. Đời quá khứ tu bố thí tài
vật th́ đời này sẽ được giàu sang,
được giàu sang mà c̣n tu bố thí tài vật tiếp
tục th́ tiền tài sẽ đến ào ạt. Cho dù trong thời gian kinh tế
suy thoái, tiền tài vẫn không ngừng tăng thêm,
chuyện này chứng minh cho lời Phật dạy
chẳng sai.
Bố thí pháp được thông
minh trí huệ, tôi có thể chứng minh cho mọi
người. Lúc c̣n trẻ tôi
chẳng phải là người thông minh, ngày nay đối
với Phật pháp và thế pháp chỉ cần tiếp xúc
th́ tôi liền hiểu rơ, đây là quả báo có
được do ngày nào cũng tu bố thí pháp trong suốt
bốn mươi mấy năm học Phật.
Bố thí vô úy th́ được
khỏe mạnh sống lâu.
Bố thí vô úy là ǵ? Ăn
chay tức là bố thí vô úy, đây là vun trồng tâm từ
bi và tâm thương yêu. Năm
hai mươi sáu tuổi tôi bắt đầu học
Phật, nửa năm sau bắt đầu ăn chay
trường cho đến bây giờ. Hồi đó người coi bói
nói tôi đoản mạng, tôi rất tin và nghĩ là tôi
chẳng có lư do ǵ để sống lâu. Tư tưởng và hành vi của
tôi hồi c̣n trẻ rất giống với ông Viên Liễu
Phàm, khuyết điểm của ông ta tôi đều có
đủ, ưu điểm của ổng tôi chẳng có,
tôi chẳng bằng ổng, chẳng có phước lớn
như ổng. Thế nên
nhất định phải biết bố thí là nhân, giàu
sang, trí huệ, khỏe mạnh sống lâu là quả báo.
Nói thực ra khỏe mạnh
sống lâu chẳng cần thuốc men, tẩm bổ. Người thế gian cho
rằng bảo dưỡng sức khỏe bằng
thuốc men có thể làm cho một người
được khỏe mạnh sống lâu, đây là mê
hoặc điên đảo, nếu thiệt có hiệu
quả th́ định luật nhân quả chẳng phải
đă bị lật đổ rồi sao? Đáng sống lâu th́ dù chẳng chú
trọng dinh dưỡng vẫn sống lâu; đáng
đoản mạng cho dù mỗi ngày đều tẩm
bổ th́ vẫn đoản mạng, đây mới là chân
lư.
Nói đến đoàn thể th́ Cư
Sĩ Lâm Tân Gia Ba và Tịnh Tông Học Hội phát khởi
việc xây dựng Làng Di Đà, xây Phật Học Viện
cần phải có thật nhiều tiền bạc, trong t́nh
trạng kinh tế hiện nay quyên góp tiền bạc vô cùng
khó khăn. Tại sao đoàn
thể này trong thời gian rất ngắn có thể tích
tụ lại một số tiền tương đối
khả quan? Đó là bố thí
chẳng phải v́ ḿnh, v́ hết thảy chúng sanh, v́ xă
hội an định ḥa b́nh, v́ Phật pháp an trụ lâu dài
trong thế gian, tâm chánh hạnh chánh, phát tâm chân thành xây
dựng đạo tràng th́ có sẽ cảm ứng. Cũng giống như kinh Lăng
Nghiêm có nói: ‘phát ư viên thành’,
khi vừa phát chân tâm liền viên măn công đức, cảm
ứng liền hiện tiền.
b. Chuyển cảnh giới:
Người học Phật tuy
nghe thuyết pháp như vậy nhưng vẫn chẳng tin
tưởng, vẫn chạy theo vọng tưởng
chấp trước của ḿnh nên cảnh giới
trước sau ǵ cũng chẳng chuyển nổi; nếu
có thể tin tưởng lời dạy của đức
Phật, y giáo phụng hành th́ tự nhiên sẽ có thể
chuyển cảnh giới.
Chuyển được thù thắng nhất là
chuyển phàm thành thánh, đây là ‘đại đạo’;
chuyển bần cùng thành phú quư trong Phật pháp thuộc
về ‘tiểu đạo’, việc này quá dễ. Chuyển ngũ trược ác
thế thành quốc độ thanh thái th́ chẳng dễ
dàng; chuyển Sa Bà thành Cực Lạc càng khó hơn! Dù cho khó khăn nhưng vẫn có
thể làm được th́ chuyện dễ làm chẳng
cần bàn tới. Cho nên mục
đích của việc học Phật là nhằm ĺa khổ
được vui, nếu chúng ta chẳng thể chuyển
cảnh giới th́ vĩnh viễn phải chịu khổ,
chịu nạn.
Có chẳng ít bạn đồng
tu tu học rất gian khổ, càng khổ hơn lúc chưa
học Phật trước kia, nguyên nhân là v́ họ
chẳng hiểu lư luận của việc tu học, tu
chẳng đúng như lư, chẳng đúng như pháp. Tu học Phật pháp tức là
chuyển biến cảnh giới, làm thế nào biến
bần cùng thành phú quư, chuyển hỗn loạn thành an
định, nếu chẳng hiểu đạo lư và
phương pháp th́ chẳng thể chuyển
được. Nếu
biết được đạo lư, biết phương
pháp, tu học đúng như lư như pháp th́ tự nhiên
sẽ chuyển biến cảnh giới
được. Phật pháp
thường nói: ‘chuyển phiền
năo thành Bồ Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn’,
chúng ta ứng dụng trong đời sống, không có
một cảnh giới nào chẳng thể chuyển
được. Nguyên tắc
chung, đạo lư lớn lao này chính là y báo, chánh
báo trang nghiêm ‘duy tâm sở hiện, duy thức sở
biến’.
Phật cũng nói: ‘Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh’,
cho nên tâm phải tưởng đến chuyện
thiện, đừng tưởng chuyện ác. Thiện là như thế nào? Ác ra
làm sao? Lợi ích chúng sanh,
lợi ích xă hội là thiện; lợi ích cho chính ḿnh, gia
đ́nh ḿnh, đoàn thể nhỏ của ḿnh là ác. Tại sao vậy? Niệm niệm đều v́ ḿnh
và cái ṿng tṛn vây quanh ḿnh, đó là phân biệt chấp
trước, đă biến Nhất Chân pháp giới vốn
có thành thập pháp giới, biến thành lục đạo
luân hồi, biến thành t́nh h́nh hiện nay. Chúng ta muốn thoát ra ngoài cảnh
khốn khổ này th́ chỉ có thể giải quyết
nơi tâm lượng. Nếu
chẳng nghĩ tưởng cho ḿnh, gia đ́nh ḿnh, và
chẳng tưởng cho cái đoàn thể nho nhỏ
của ḿnh th́ chấp trước sẽ bị phá tan. Niệm niệm đều v́
hư không pháp giới hết thảy chúng sanh th́ phân
biệt sẽ bị phá trừ.
Khi hết chấp trước th́ lục đạo
sẽ chẳng c̣n nữa; hết phân biệt th́ thập
pháp giới sẽ chẳng c̣n nữa, sẽ khôi phục
lại Nhất Chân pháp giới.
Nhất Chân pháp giới là vũ trụ sanh thái tự
nhiên; sanh thái tự nhiên tốt đẹp nhất. Vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước phá hoại sanh thái tự nhiên. Đến lúc phân biệt và chấp
trước vô cùng nghiêm trọng th́ hoàn cảnh sanh thái
của địa cầu chúng ta sẽ bị phá hoại,
cho nên khí hậu toàn thế giới sẽ chẳng b́nh
thường, chúng sanh đều chẳng có cảm giác an
toàn. Vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước là căn nguyên của việc
phá hoại sanh thái tự nhiên.
Chỉ có Phật pháp Đại thừa giải thích
việc này rơ ràng, thấu triệt.
Các tầng lớp lănh đạo
trong chánh phủ Úc Châu đang t́m kiếm phương pháp
làm cho xă hội an định, ḥa mục nhân quần. Làm thế nào dung ḥa các chủng
tộc khác nhau, văn hóa khác nhau, tôn giáo tín ngưỡng
khác nhau thành một thể, làm cho những người
cư trú ở Úc Châu tôn trọng, quan hoài, và hợp tác
lẫn nhau, tạo nên xă hội phồn vinh, nhân sanh
hạnh phúc. Cách suy nghĩ và
mục tiêu này tức là truy t́m sự ḥa hợp của
đa nguyên văn hóa, hy vọng đạt đến xă
hội an định, thế giới ḥa b́nh, người
người tôn trọng lẫn nhau.
Người ta ai cũng có ưu
điểm và khuyết điểm, nếu chúng ta có
thể nh́n ưu điểm của người ta th́ trong
thế gian này ai cũng là người tốt; nếu
chỉ nh́n khuyết điểm th́ ngay cả Phật,
Bồ Tát cũng chẳng phải là người tốt,
thế nên tốt xấu đều tại nơi một
niệm. Ngẫu Ích
đại sư nói: ‘Cảnh duyên
chẳng có tốt xấu, tốt xấu ở tại tâm’. Hiểu được nguyên lư
nguyên tắc này th́ có thể chuyển cảnh giới. Chư Phật, Bồ Tát, chư
thiên, thiện thần hiểu được đạo lư
này cho nên cảnh giới của họ càng chuyển càng
tốt thêm. Phàm phu chẳng
hiểu đạo lư này, chuyên nh́n khuyết điểm
của người khác, chuyên nói xấu người khác cho
nên cảnh giới càng chuyển càng xấu, đời
sống càng ngày càng khổ.
Chúng ta đọc kinh Phật nên biết
được những chân tướng sự thật này,
quan sát kỹ càng hoàn cảnh của chúng ta mới biết
câu nào của Phật nói đều là chân lư, câu nào cũng
là lời chân thật. Chỉ
cần chúng ta hết ḷng nỗ lực tu học th́
nhất định có thể sáng tạo tương lai
tốt đẹp.
D. HIỂU RƠ GIÁO DỤC PHẬT
ĐÀ
1.
Mục đích của giáo dục
Phật Đà
(Buổi sáng 17-11-98)
Mục đích của giáo dục
Phật Đà là dạy cho mọi người thành
Phật. Trong thập pháp
giới th́ pháp giới Phật là chân thật, rốt ráo,
viên măn; chư Phật Như Lai khởi dụng[44] th́
xưng là Bồ Tát. Trong kinh Vô
Lượng Thọ, Bồ Tát làm ‘người bạn
chẳng mời mọc’ của hết thảy chúng sanh,
chỉ cần các ngài nh́n thấy, nghe đến, th́
nhất định sẽ dang tay ra giúp đỡ, chủ
động giúp đỡ hết thảy chúng sanh khổ
nạn.
Cư sĩ Lư Mộc Nguyên ở
Tân Gia Ba phát tâm rộng lớn muốn lập Phật Đà
Giáo Dục Học Viện.
Trước hết phải hiểu giáo dục
Phật Đà bồi dưỡng những người như
thế nào, mục tiêu đó là ǵ.
Đây là một giáo dục đặc biệt, hoàn toàn
khác với giáo dục thế gian, giáo dục thế gian là
giáo dục nhân đạo, thuộc về giáo dục
của pháp giới Người trong thập pháp
giới. Giáo dục Phật Đà
là giáo dục của pháp giới Phật, Bồ Tát trong
thập pháp giới, đây là việc chúng ta nhất
định phải nhận thức rơ ràng. Từ đó có thể biết pháp
giới Phật bao gồm thập pháp giới mà pháp
giới Người chẳng bao gồm thập pháp
giới.
Đời người vô cùng
ngắn ngủi, nhất định phải nắm
chắc [cơ hội này], phải từ pháp giới
Người nâng cao lên đến pháp giới Phật,
Bồ Tát th́ công đức tu học mới kể là viên măn. Giáo học của chúng ta cũng
đặt căn bản trên quan niệm này, giúp cho con
người nâng cao cảnh giới, đó là giáo dục
Phật Đà. Giáo dục Phật
Đà chẳng giống với giáo dục thế gian, mục
tiêu chung cực của giáo dục thế gian là nhằm
đạt được danh văn lợi dưỡng,
hưởng thọ ngũ dục lục trần. Mục đích của giáo dục
Phật Đà là hoàn thành đức hạnh của ḿnh, thành
tựu trí huệ viên măn của ḿnh, sau đó t́nh nguyện
phục vụ cho xă hội, phục vụ cho chúng sanh. Những ǵ người thế
gian đeo đuổi th́ Phật, Bồ Tát hoàn toàn buông
bỏ, buông xuống, v́ người giác ngộ hiểu
được truy cầu danh văn lợi dưỡng,
hưởng thọ ngũ dục lục trần tất
nhiên sẽ dẫn đến cạnh tranh, cạnh tranh
đến sau cùng là đấu tranh. Chư Phật, Bồ Tát hy
vọng hết thảy chúng sanh đều có thể tôn trọng,
kính ái, quan hoài, và hợp tác lẫn nhau; muốn đạt
đến lư tưởng ấy th́ nhất định
phải buông bỏ đấu tranh, muốn buông bỏ
đấu tranh th́ trước hết phải buông bỏ
cạnh tranh. Hiện nay trong
tâm người nào chẳng có cạnh tranh, chẳng có
đấu tranh? Tâm như
vậy thuộc về pháp giới của tam ác đạo.
Nếu người tu hành c̣n
chịu sự dụ dỗ của cảnh giới,
vẫn c̣n bị quỷ thần phá rối th́ tâm
đạo ở đâu? Kinh
nói với chúng ta chân chánh quy y Tam Bảo phải từ ‘mê,
tà, chánh’ quay đầu lại, nương vào ‘giác, chánh,
tịnh’, bất luận có trải qua h́nh thức quy y hay
chăng th́ thần hộ pháp đều bảo hộ. Các sách [khuyến] thiện trong
thế gian đều nói: ‘Một người
có tâm địa đôn hậu, tâm thiện hạnh
thiện, th́ sẽ có rất nhiều thiên thần, quỷ
thần hộ vệ’; cho dù chẳng
học Phật, chẳng có thọ nhận Tam Quy th́ cũng
có thần hộ pháp bảo hộ.
Lư do thần hộ pháp bảo hộ là v́ tôn kính đức
hạnh của những người ấy, là tự nhiên
cảm động đến hộ tŕ. Giới kinh nói thọ ngũ
giới th́ sẽ có hai mươi lăm vị thần
hộ giới ngày đêm giữ ǵn, hộ tŕ. Thế th́ làm sao có thể bị
quỷ thần, yêu ma quỷ quái đến phá rối cho
được? Từ đó
có thể biết chỉ thọ Tam Quy và Thọ Giới
trên h́nh thức th́ đều là giả, vậy mà cứ cho
là ḿnh rất hiển hách, nhưng quỷ thần lại
khinh chê.
Ấn Quang đại sư là
tấm gương tốt của chúng ta, ngài thị
hiện cho chúng ta coi, ngài cũng phải trải qua tu
học trong thời gian dài.
Truyện kư có ghi lúc ngài trên bảy mươi
tuổi, th́ muỗi ṃng, kiến, bọ chét ở chỗ
ngài cư trú đều tự động dọn đi
chỗ khác, chẳng dám khuấy nhiễu ngài. Tại sao chẳng dám khuấy
nhiễu ngài? V́ tôn kính ngài. Chúng ta nghĩ coi tại sao ngài có
thể cảm động lục đạo chúng sanh mà chúng
ta làm chẳng được?
V́ chúng ta chẳng buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, tâm luân hồi cứ
tạo ra nghiệp luân hồi y như cũ, ai chịu tôn
trọng? Niệm niệm
đều hy vọng văng sanh Tịnh Độ, chỉ có
một nguyện vọng này mà thôi, có thể đạt
được hay chăng th́ chưa biết. Có nguyện th́ nhất
định phải có hạnh, dùng hạnh để
thực hành nguyện, [được vậy] th́ nguyện
vọng mới viên măn.
Có chẳng ít bạn đồng
tu bị cảnh giới chuyển nên tôi đặc
biệt nhắc nhở mọi người chúng ta nhất
định phải có khả năng chuyển cảnh
giới. Khí phận trong môi trường
hoàn cảnh chẳng tốt, chúng ta phải có khả
năng chuyển biến khí phận xấu thành khí phận
tốt, từ trường chẳng tốt thành từ
trường tốt, đây là công phu tu học có chút
đắc lực rồi.
Nếu ḿnh trong cảnh giới ấy không thể
chuyển th́ sẽ chẳng có khả năng giúp đỡ
người khác, nói giúp đỡ người ta chỉ là
nói suông mà thôi. Thế nên
trước hết phải học tập nh́n thấu,
buông xuống, phải thấy thấu suốt ‘vạn pháp
giai không’. Kinh Kim Cang dạy: ‘Phàm hết thảy các tướng đều là
hư vọng’[45],
tại sao phải trong tướng hư vọng này đi
phân biệt, tính toán? Tất
cả hết thảy hiện tượng, lục căn
tiếp xúc cảnh giới lục trần, thuận tâm và
chẳng thuận tâm đều là vọng tưởng. Nếu bạn có thể nh́n
thấy rơ ràng, minh bạch rồi th́ bất luận là
cảnh nghịch hay thuận, tâm đều b́nh tịnh,
đích thực dùng thanh tịnh, b́nh đẳng, giác
để đối xử với mọi người,
chẳng tiêm nhiễm mảy may nào hết, yêu ma quỷ quái
sẽ chẳng đến kế bên thân bạn
được. Có ngă chấp
th́ sẽ có thân thể, chẳng có ngă chấp th́ chẳng
có thân thể, đây là đạo lư tại sao quỷ
thần chẳng thể đến sát thân bạn
được. Nếu
niệm niệm đều c̣n rơi vào ‘ta, người,
chúng sanh, thọ giả’, bạn chẳng thiện th́
quỷ thần sẽ dọa bạn, phá khuấy bạn.
Từ xưa đến nay,
những người học Phật đều tu học y
theo kinh Kim Cang, Tông Môn xưng kinh này là đốn giáo
chẳng phải là không có đạo lư. Chúng ta niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ nếu y chiếu nguyên lư nguyên tắc trong
kinh Kim Cang để tu học th́ nhất định
sẽ văng sanh thượng thượng phẩm, sanh
Thật Báo Trang Nghiêm Độ.
Chúng ta phát tâm xuất gia, xuất gia tức là ‘học
làm thầy của người, hạnh làm gương cho
đời’ [46],
chúng ta phải hết ḷng học tập những
đạo lư phương pháp nói trong kinh Kim Cang. V́ chúng ta chẳng thật thà, kinh
Kim Cang có thể giúp chúng ta đạt đến thật
thà niệm Phật, thật thà làm người, thật thà
làm việc. Tham thấu kinh Kim
Cang rồi, người trở nên thật thà rồi,
thật thà tức là Phật, Bồ Tát. Thật thà th́ sẽ chẳng có
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
nữa, nếu vẫn c̣n vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước th́ chẳng thật thà.
Tổ sư đại
đức trong Tịnh Tông dạy chúng ta ‘thật thà
niệm Phật’, hai chữ ‘thật thà’ (lăo thật, chắc thật)
này chẳng dễ làm được, những người
làm được th́ đời này quyết định
sẽ văng sanh thượng phẩm. Người có thiện căn,
phước đức sâu dày, chẳng cần tu cũng
thật thà, họ vừa nghe lời Phật dạy th́
thực sự buông xuống vạn duyên, đối với
ngũ dục lục trần, danh văn lợi
dưỡng trong thế gian chẳng c̣n để ư
đến nữa, hoàn toàn buông bỏ hết tất cả
những điều thị - phi, nhân - ngă. Có người phải tu th́
mới thật thà, c̣n chúng ta đă học xong những
vẫn chưa thật thà, đây là v́ nghiệp
chướng tập khí sâu nặng.
Nhất định phải chuyển cảnh giới
trong hoàn cảnh sanh hoạt, niệm niệm tự
nhắc nhở ḿnh, hết ḷng nỗ lực tu học,
thực sự buông xuống vạn duyên th́ mới tiêu
trừ nghiệp chướng được.
Tiến tŕnh hoằng pháp ở nơi
đây rất thuận lợi, đây là oai thần Tam
Bảo gia tŕ. Chư Phật,
Bồ Tát chiếu cố chúng ta đến như vậy, nếu
chúng ta chẳng hết ḷng, chẳng nỗ lực th́ làm sao chẳng có
lỗi với quư ngài? Mỗi
ngày đều niệm ‘Thượng báo tứ trọng ân,
hạ tế tam đồ khổ’, nếu hai câu này
chẳng thể thực hiện th́ sẽ có lỗi với
Phật, Bồ Tát, có lỗi với thiên long thiện
thần hộ pháp. Chúng ta tự
ḿnh tu học và sau này thành tựu Phật Học Viện,
nhất định phải y theo lời giáo huấn trong
kinh điển, bắt đầu làm từ chính bản
thân ḿnh. Học tŕnh là bảy
năm, ‘bảy’ là một con số viên măn, hy vọng trong
bảy năm này, chúng ta tối thiểu cũng phải
giống ‘Vô Lượng Thọ Phật’. Chúng ta chẳng thể đạt
đến Phần Chứng Vị, ít nhất cũng
phải làm đến Tương Tự Vị, có thể
chứng đến Tương Tự Tức Phật trong
Thiên Thai Lục Tức Phật th́ mới chẳng có
lỗi đối với Phật, Bồ Tát. Có thể đạt đến
Phần Chứng Vị là tốt nhất, Phần Chứng
Vị tức là Pháp Thân Đại Sĩ, trong Viên Giáo là Sơ
Trụ Bồ Tát, Biệt Giáo là Sơ Địa Bồ Tát;
Tương Tự Vị là Biệt Giáo Tam Hiền Bồ
Tát, Viên Giáo Thập Tín Vị Bồ Tát. Cho nên mọi người phải
nỗ lực, hướng đến mục tiêu này th́
sẽ có thể siêu phàm nhập thánh.
2.
Tam Quy Y (Buổi sáng 23-11-98)
‘Quy Y Phật, Nhị Túc Tôn’,
chữ nhị là chỉ trí huệ và phước
đức. Phật thuyết
pháp cho chúng sanh đặc biệt chú trọng phước
đức, đây cũng là ứng cơ thuyết pháp, v́
hết thảy chúng sanh chẳng có ai không mong cầu
phước báo. Phước
báo khi chưa kiến tánh th́ nhất định phải
dựa vào tu đức; sau khi kiến tánh th́ là ‘tánh tu
bất nhị’ (tánh đức và tu đức chẳng
hai). Cho nên
đối với phần lớn người ta mà nói th́ tu
phước vô cùng quan trọng.
Địa phương nào có nhiều người tu
phước th́ nhất định sẽ quốc thái dân
an, đời sống sung túc.
Lời dạy tu phước trong kinh rất nhiều,
phải thể hội kỹ càng, hiểu rơ triệt để
th́ sẽ biết làm thế nào tu học mới có thể
đạt được quả báo vừa ư. Trong nhà Phật thường nói
‘Có cầu ắt ứng’, lời này chân thật chẳng
giả dối. Nhưng
cầu th́ có lư luận và phương pháp để
cầu, đúng như lư như pháp mà cầu th́ nhất
định sẽ được thâu hoạch; nếu
chẳng tương ứng với lư luận và
phương pháp của sự cầu th́ chẳng thể
măn nguyện.
Phước báo cùng người
hưởng là phước báo chân thật, phước báo
hưởng riêng một ḿnh rất dễ biến thành
họa hại. Cổ
đức hiểu rơ đạo lư và sự thật này cho
nên lúc tạo ra chữ Họa (禍)và
Phước (福)làm
h́nh tướng của hai chữ này rất giống nhau,
là hy vọng chúng ta có thể cảnh giác, đừng
biến phước thành họa.
Cổ thánh tiền hiền tuy đă cảnh cáo
nhưng trong lịch sử Trung Quốc rất nhiều
chuyện phước biến thành họa xảy ra;
hiện nay trên thế giới những chuyện thật
như vậy chẳng thể nào đếm hết,
người thật sự có tâm cảnh giác vẫn
chẳng nhiều, đúng như lời trong kinh nói chúng sanh
ngu muội, vô tri, chẳng những coi kinh chẳng
hiểu, nghe giảng giải chẳng hiểu, chân
tướng sự thật bày trước mặt cũng
chẳng hiểu. Phật
giảng về ‘tam chuyển pháp luân’ gồm có: thị
chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển [47];
chứng chuyển tức là đem chân tướng sự
thật bày trước mặt chúng sanh, nếu vẫn
chẳng hiểu th́ Phật cũng chẳng có cách chi
hết. Người như
vậy trong kinh gọi là ‘nhất xiển đề’,
tức là người chẳng có thiện căn.
Hiện nay những người
chẳng có thiện căn rất nhiều, vả lại
họ đều là người có phước báo, có
phước báo mà chẳng có thiện căn, phước
sẽ biến thành họa hại.
Họa hại th́ không chỉ có người này
chịu nạn mà thôi, rất nhiều người khác
phải chịu chung, nghiệp chướng của họ
tạo càng nghiêm trọng th́ quả báo càng dễ
sợ. Người học
Phật tin sâu nhân quả tuy nh́n thấy rất rơ ràng
nhưng cũng chẳng làm ǵ được, v́ ngay cả
Phật cũng chẳng làm ǵ được, chúng ta đương
nhiên chẳng có cách chi. Ngay lúc
này việc chúng ta duy nhất làm được là tự
độ, tự ḿnh giúp ḿnh thoát ly cảnh khổ nạn,
đây là người thông minh.
Đây cũng là những ǵ Phật, Bồ Tát dạy chúng
ta.
Gần đây có vài vị
đồng tu đă văng sanh, đa số đều có
tướng lành, nh́n thấy A Di Đà Phật đến
tiếp dẫn, những người này làm chứng minh cho
chúng ta, làm cho ḷng tin của chúng ta tăng trưởng. Họ có thể tự tại an
tường văng sanh là phước báo to lớn, nguyên nhân
[họ có thể tự tại văng sanh] là v́ họ có
thể buông xuống. Thế
nên ‘vạn duyên buông xuống’ là chuyện quan trọng
nhất của chúng ta hiện nay, chuyện ǵ cũng buông
xuống được, tâm khai ư giải, th́ có thể tiêu
tai miễn nạn. Chỉ có
buông xuống th́ mới có thể chân chánh làm
được nhất tâm hướng Phật. ‘Nhớ Phật
niệm Phật, hiện giờ tương lai, nhất
định thấy Phật’[48],
đây là công khóa trước mắt quan trọng nhất
của chúng ta. Chúng ta phải
chuẩn bị đàng hoàng, tiêu trừ những nhân tố
của việc niệm Phật không được
đắc lực th́ niệm Phật sẽ
được đắc lực, th́ sẽ đạt
được công phu thành phiến, thậm chí đến
công phu nhất tâm bất loạn, đây mới là
phước báo chân chánh, trí huệ chân thật.
‘Quy y Pháp, Ly Dục Tôn’. Dục tức là ngũ dục
lục trần. Chẳng
thể tiêu trừ trần duyên trong tâm tức là
chướng ngại to lớn.
Những việc chẳng vừa ư do trần duyên
đem đến là căn nguyên của hết thảy tai
họa, cho nên Phật dạy chúng ta phải xa ĺa trần
duyên. Xa ĺa không phải là chẳng
muốn, kinh Đại thừa nói khi chư Phật, Bồ Tát
giảng kinh thuyết pháp có thiên nhân cúng dường, ca múa,
giống y như người thế gian. Thế nên chúng ta phải hiểu
Phật dạy chúng ta xa ĺa nghĩa là xa ĺa vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Đă đoạn trừ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước th́ sự
hưởng thọ ngũ dục lục trần là tùy
duyên; vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước c̣n chưa đoạn trừ mà hưởng
thọ là phan duyên. Chư
Phật, Bồ Tát tùy duyên, nếu có thiên nhân đến cúng
dường th́ rất tốt, Bồ Tát biến hóa
đến cúng dường cũng rất tốt, tuyệt
chẳng có tơ hào lưu luyến, đây là sự
hưởng thọ chân chánh, sự hưởng thọ
như vậy tuyệt đối chẳng có tai nạn.
Cái gọi là ‘sáu căn thanh
tịnh, mảy trần chẳng nhiễm’ là lúc cảnh
giới hiện tiền, sáu căn [cũng] thanh tịnh,
chẳng phải là lúc xa ĺa trần duyên, sáu căn mới
thanh tịnh, đây là phương pháp tu học của Tiểu
thừa. Lúc tiếp xúc
cảnh giới th́ tâm lại loạn lên, lại khởi
vọng niệm, như vậy là chẳng có công phu. Khi đối diện với
cảnh giới mà có thể tập thành ‘thanh tịnh
chẳng nhiễm’ đ̣i hỏi có trí huệ cao
độ. Kinh Kim Cang nói: ‘Phàm những ǵ có tướng đều là hư
vọng’, câu này phải thường nhớ
đến, đây là công phu quán chiếu. Khi gặp cảnh giới vừa
khởi tâm động niệm liền nhớ câu ‘Phàm những ǵ có tướng đều là hư
vọng’ th́ tâm sẽ b́nh trở lại. Gặp cảnh thuận chẳng
khởi tâm tham luyến, gặp cảnh nghịch chẳng
khởi tâm sân khuể, biết tất cả đều là
giả. Cho nên phải bắt
chước Phật, Bồ Tát du hư thần thông trong
thế gian, mục đích là giúp cho hết thảy chúng sanh
giác ngộ, giúp người khác tức là giúp chính ḿnh, ḿnh
và người không hai (tự tha bất
nhị). Tu
phước phải bắt đầu từ những
chỗ này.
‘Quy y Tăng, Chúng Trung Tôn’. Chúng là đoàn thể. Tăng đoàn là đoàn thể
đáng được tôn kính nhất trong thế gian và
xuất thế gian. V́ đây
là đoàn thể tu học ‘Phật pháp’; Phật là đại giác, Pháp là ly
dục, ly dục là xa ĺa hết thảy vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên
chẳng có đoàn thể nào có thể hơn
được. Chúng ta
phải hiểu, phải học tập, phải làm cho
bằng được!
Giới điều của Lục Ḥa Kính là Kiến
Ḥa Đồng Giải, Giới Ḥa Đồng Tu, Thân Ḥa Đồng
Trụ, Khẩu Ḥa Vô Tránh, Ư Ḥa Đồng Duyệt, Lợi Ḥa
Đồng Quân, đây là [giới điều] Phật chế
định ra cho những người chẳng triệt
để hiểu rơ, chẳng chịu làm thực
sự. Người có thể
triệt để hiểu rơ, thực sự dụng công tu
học th́ tự nhiên phù hợp với Lục Ḥa Kính và
sẽ chẳng cần những giới điều này. Nếu chúng ta chẳng đạt
đến tŕnh độ hiểu rơ triệt để th́
Lục Ḥa Kính đối với chúng ta vô cùng quan trọng,
có thể làm tăng thượng duyên cho chúng ta, giúp chúng ta
đi trên con đường ngay thẳng, đây là từ
bi và thiện xảo phương tiện của
đức Phật, chúng ta nhất định phải y
giáo phụng hành.
3.
Giáo - Lư - Hạnh - Quả (Buổi sáng 28-11-98)
Trong kinh Hoa Nghiêm, Thế Tôn nói
đến thế chủ hộ tŕ chánh pháp một cách
tường tận. Chánh pháp
là ǵ? Như Lai nói đến
‘Giáo - Lư - Hạnh - Quả’, [Giáo - Lư - Hạnh - Quả]
được xưng là chánh pháp.
Sau khi Phật diệt độ, chúng đệ
tử đem những lời Phật nói chép thành văn
tự gọi là kinh điển.
Những lời nói và văn tự này tức là ‘Giáo
Pháp’, giáo pháp nói rơ về chân lư của vũ trụ nhân sanh,
lư này là y cứ cho những ǵ Như Lai thuyết giáo pháp,
cũng như kinh Bát Nhă gọi là ‘Chư Pháp Thật
Tướng’, cho nên giáo lư có lư luận chính xác, viên măn,
đây tức là ‘Lư pháp’.
Nếu đời sống của hết thảy chúng
sanh tương ứng với lư luận và chân tướng
sự thật th́ được gọi là chánh hạnh, và
cũng tức là sanh hoạt của Phật, Bồ Tát. Ngược lại, nếu
phản nghịch với chân tướng sự thật th́
là tư tưởng, hành vi sai lầm. Sửa đổi cho đúng
những tư tưởng và hành vi sai lầm để
tương ứng với chư pháp thật tướng
th́ xưng là tu hành, đây là ‘Hạnh pháp’. Khi tư tưởng và ngôn
hạnh của chúng ta tương ứng với chư pháp
thật tướng th́ có thể đạt
được sự khoái lạc chân thật cứu cánh
viên măn trong cuộc sống, đây tức là ‘Chứng quả’.
Đây là sự cống hiến cho
chúng sanh khi Như Lai xuất hiện trong thế gian. Đây là việc hết thảy chúng
sanh vô cùng cần thiết, bất luận là chánh hạnh
chúng sanh (tức là Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn) hay là tà
hạnh chúng sanh (tức là lục đạo chúng sanh)
đều vô cùng cần thiết.
Chư Phật Như Lai đem kinh nghiệm,
phương pháp, và những lợi ích sau khi tu chứng
của ḿnh, chẳng dấu diếm mảy may ǵ để
dạy dỗ hết thảy chúng sanh, đây chính là giáo
dục Phật đà, tức là sự giáo học của
đức Phật, thường được xưng là
‘Nền giáo dục chí thiện viên măn của đức
Phật đối với chín pháp giới chúng sanh’. Sự thị hiện và giáo
học của đức Phật đối với
hết thảy chúng sanh chẳng yêu cầu, đ̣i hỏi
ǵ hết. Nhưng hiện nay
có một số người giảng kinh thuyết pháp c̣n
bán vé vào cửa, đây là ‘buôn bán Như Lai’, phá hoại h́nh
tướng của Phật Giáo.
Kinh Hoa Nghiêm nói đây là hiện tượng kỳ
quái trong thời Mạt Pháp.
Đức Phật là một người làm công tác
nghĩa vụ giáo dục xă hội, ‘nghĩa vụ’ là
chỉ có ‘hiến dâng’ chứ tuyệt chẳng có đ̣i
hỏi, đây là chỗ Phật, Bồ Tát đáng cho
người kính mến. Lúc
đức Phật trụ thế Ngài sống một
đời sống có tiêu chuẩn sanh hoạt thấp
nhất, mỗi ngày ăn một bữa, đêm ngủ
dưới gốc cây, đó là để làm gương cho
chúng sanh, làm mô phạm, chúng ta nên noi theo, học tập.
Phát tâm xuất gia làm đệ
tử Phật phải gánh vác nguyện vọng giáo hóa chúng
sanh của đức Phật.
Trước hết phải hiểu rơ cái h́nh
tướng, thân thể này là giả, chẳng phải
định tướng, nếu chấp trước cái
tướng này là nhất định, chấp cái
tướng này là Ta th́ vĩnh viễn sẽ không thể
thoát ly luân hồi. Vả
lại cái chấp trước này cũng nhất
định sẽ chẳng như nguyện vọng của
bạn; sau khi chết đi nếu đọa vào cơi súc sanh
th́ sẽ hiện thân súc sanh, đọa cơi ngạ quỷ
th́ sẽ hiện thân ngạ quỷ, chẳng giống cái
thân bây giờ; cho dù sanh đến cơi người hiện
thân người th́ cũng sẽ thay đổi mặt mày,
đó là sự thật.
Thế nên nhất định chẳng nên chấp
trước, nhất định buông bỏ phân biệt và
chấp trước. Chư
Phật Như Lai chẳng có thân tướng cho nên mới
có thể tùy loại hóa thân, chúng sanh có cảm th́ Phật
sẽ thị hiện ứng hóa.
‘Phàm những ǵ có tướng
đều là hư vọng’, Tướng thiên
biến vạn hóa, Tướng có Dụng chẳng có
Thể cho nên nhất định đừng chấp
trước.
Tướng là giả, Phật
thuyết pháp cũng là giả, Phật chẳng có
định pháp ǵ để nói, Phật chẳng có pháp ǵ
để nói. Phật
thuyết pháp hoàn toàn căn cứ vào căn bịnh của
chúng sanh, tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc; căn
bịnh của chúng sanh sai khác muôn vàn cho nên Phật
đều ứng cơ thuyết pháp. Chúng ta học thuyết pháp cứ
cho pháp là định pháp, nhất định phải dùng
một cách nào để nói th́ là sai rồi. Pháp có nguyên lư nguyên tắc nhất
định, nhưng chẳng có phương pháp nhất
định, nên Phật giảng kinh là dựa trên nguyên lư
nguyên tắc nhất định.
Những người kết tập kinh tạng tuy nói
là học tṛ của Phật nhưng thật ra đều
là chư Phật Như Lai ứng hóa đến, đúng
như câu ‘Một vị Phật ra đời, ngàn
Phật ủng hộ’, v́ vậy các ngài kết tập
kinh tạng có thể theo đúng nguyên lư nguyên tắc nói
trên. Cho nên khi người chân
chánh lănh ngộ mở cuốn kinh ra, mỗi chữ mỗi
câu đều linh hoạt sống động, nói ngang nói
dọc ǵ cũng chẳng trái ngược với nguyên lư và
nguyên tắc, đây là chánh pháp.
Chánh pháp tức là ‘Giáo - Lư -
Hạnh - Quả’, chánh giáo, chánh lư, chánh hạnh, chánh
quả chỉ cần chẳng trái ngược, bất
luận thuyết pháp như thế nào đều xưng là
chánh pháp. Nhưng trong kinh
dạy chúng ta ‘chánh pháp’ nhất định phải xây
dựng trên cơ sở của ‘chánh hạnh’, nếu
chẳng có chánh hạnh th́ sẽ chẳng có chánh
giải. Cho nên muốn làm
được ‘Tín - Giải - Hành - Chứng’ th́ phải
thực hiện được ‘Giáo - Lư - Hạnh -
Quả’, đó chính là ‘Tín - Giải - Hành - Chứng’.
Trong quá tŕnh này phải có một
sự nhận thức chính xác, nhận thức tận
hư không trọn khắp pháp giới đều là chính
ḿnh, thế nên khi đối xử với hết thảy
chúng sanh th́ niệm niệm phải v́ lợi ích chúng
sanh. Phàm phu tu học chẳng
thể khế nhập là v́ niệm niệm đều v́ cá
nhân ḿnh, chẳng nghĩ đến người khác. Chư Phật, Bồ Tát niệm
niệm đều v́ chúng sanh, chẳng v́ ḿnh, v́ tận
hư không trọn khắp pháp giới tức là chính ḿnh,
hết thảy chúng sanh đều là chính ḿnh, trên từ
chư Phật Như Lai, dưới đến chúng sanh
trong A Tỳ địa ngục đều là chính ḿnh. Thí dụ thân thể chúng ta là do vô
số tế bào tạo thành, tế bào tốt, tế bào
khỏe mạnh ví như Phật, Bồ Tát, tế bào
hư xấu, tế bào có bịnh ví như tam ác
đạo, hết thảy đều trong một thân
thể, chẳng có tế bào nào xa ĺa thân thể. Cho nên v́ chúng sanh mới là chân chánh
v́ chính ḿnh, chỉ v́ ḿnh mà buông bỏ chúng sanh th́ là sai
lầm quá đỗi.
Từ đó chúng ta mới
hoảng nhiên đại ngộ, Phật v́ hết thảy
chúng sanh tức là chân chánh v́ chính ḿnh; nhà Phật nói về ba thân, đây
là Pháp Thân. Báo Thân là trí huệ,
triệt để giác ngộ minh bạch là Báo Thân. Sau đó dốc toàn tâm toàn lực
phục vụ hết thảy chúng sanh, giúp đỡ
hết thảy chúng sanh giác ngộ, giúp đỡ hết
thảy chúng sanh hồi đầu cũng ví như giúp
đỡ thân thể của ḿnh, trong thân chỗ nào có
bịnh đau th́ liền chữa trị. Có thể nhận thức hư
không pháp giới là một thể th́ quan niệm của
chúng ta đối với hết thảy người,
sự, và vật sẽ hoàn toàn biến đổi.
Niệm niệm v́ hết thảy chúng
sanh, niệm niệm v́ sự hạnh phúc của toàn
thể tức là chân chánh v́ ḿnh.
Đối người, đối sự, đối
vật sẽ từ từ tương ứng với ‘thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác’; khi tương ứng th́
sẽ là Bồ Tát, tương ứng viên măn th́ sẽ thành
Phật. Một niệm
tương ứng này cũng giống như một tế
bào kiện toàn rồi, vĩnh viễn sẽ chẳng sanh
bịnh nữa. Cho nên chúng ta
nên thương yêu đoàn thể, thương yêu thế
giới, thương yêu hết thảy chúng sanh, như
vậy th́ tâm lượng tự nhiên sẽ mở
rộng. Khi tâm lượng
mở rộng th́ chân tâm bản tánh sẽ hiển lộ,
vô lượng trí huệ đức năng sẽ tự
nhiên hiện tiền. Cho nên quư
trọng sự dạy dỗ của Phật Đà, hết ḷng
nỗ lực tu học sẽ có thể khôi phục lại
trí huệ đức năng sẵn có trong tự tánh.
4.
Sứ mạng của Giáo dục
Phật đà trong thế kỷ hai mươi mốt
Bài giới thiệu sáng lập Tập
San Giáo Dục Phật Đà (Buổi sáng 13-12-98)
Thế giới ngày nay đă
đi đến thời đại dân chủ, tự do,
mở rộng; thông tin phát đạt, giao thông thuận
tiện nhanh chóng, địa cầu h́nh như đă
biến thành một thôn xóm – thôn địa cầu, việc
này nói rơ nhân dân cư trú trên quả địa cầu này
giao thiệp với nhau ngày càng thêm mật thiết, gần
gũi. Quan hệ gần
gũi như vậy th́ từ từ sẽ phát sanh xung
đột và mâu thuẫn giữa các đoàn thể
chủng tộc, các truyền thống văn hóa chẳng
đồng, các phương thức sinh hoạt, h́nh thái ư
thức, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau, đây là một
hiện tượng tự nhiên.
Hiện tượng này phải dùng phương
thức thích hợp để tiêu trừ th́ mới có
thể đạt đến mức đoàn thể
chủng tộc, văn hóa đa nguyên tôn trọng, quan hoài,
và kính ái lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng chung sáng
tạo phước lợi xă hội cho toàn thể văn
minh nhân loại đa nguyên, đây là mục tiêu chung của
các tầng lớp lănh đạo toàn thế giới và các
thân hào nhân sĩ hướng đến.
Sự giáo học của Phật
pháp được kiến lập v́ vấn đề
này. Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni nói với chúng ta có Tây Phương Cực Lạc thế
giới, đó là thế giới tân hưng (mới xây dựng)
do đức Phật A Di Đà kiếp lập, nơi đó
cũng đề xướng dân chủ, tự do, mở
rộng, hoan nghinh bạn bè thuộc các đoàn thể
chủng tộc bất đồng, cùng chung chí
hướng, đạo hiệp, đến từ bốn
phương tám hướng, di dân đến địa khu
ấy để cùng nhau sinh hoạt, tuy họ khác nhau
nhưng cũng có những điểm giống nhau,
điểm tương đồng chẳng trở
ngại dị biệt, tương đồng và dị
biệt chẳng hai, nhiều màu nhiều sắc,
đẹp chẳng thể tả, tán thán kính trọng
lẫn nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng chung khai phát
Cực Lạc thế giới, cho nên những đoàn
thể chủng tộc tụ tập ở địa khu
ấy phức tạp hơn địa cầu rất
nhiều. Họ đă thông qua
giáo dục trí huệ cao đẳng nên đạt
được mục đích ấy. Trong kinh Hoa Nghiêm, Hoa Tạng
thế giới của Tỳ Lô Giá Na Phật cũng
giống như vậy! Thiên
đường chẳng phải là một đoàn thể
cộng đồng đa nguyên văn hóa hay sao! Chúng ta quan sát kỹ đức
Phật Thích Ca, đức Phật A Di Đà, Tỳ Lô Giá Na
Như Lai, Thượng Đế làm thế nào để
đối diện với hiện thực, giải
quyết những vấn đề này. Chúng ta có thể rút tỉa
khải thị từ trong đó, khai mở trí huệ xong
th́ sẽ biết làm thế nào giải quyết vấn
đề của chúng ta.
‘Xây dựng
đất nước, cai trị nhân dân, việc giáo
học phải đi đầu’[49],
người giác ngộ chân chánh biết chúng sanh tức là
chính ḿnh, thế nên Phật, Bồ Tát đều coi pháp
giới như nhà ḿnh, nên sự giáo hóa có thể hiện
thành cơi nước an lạc.
Trong kinh Vô Lượng Thọ
đức Phật nói với chúng ta ‘Phật sở hành
xứ’ tức là những địa phương
được đức Phật giáo hóa, có thể đạt
đến hiệu quả này chăng? ‘Nước, ấp, làng xóm không
nơi nào chẳng được Phật giáo hóa’ [50],
quốc gia, địa khu, thành thị, thôn trang, hết
thảy chỗ ở của chúng sanh chẳng đồng
đoàn thể chủng tộc được sự giáo
hóa của đức Phật, đều thay đổi
ḷng dạ hẹp ḥi của họ, mở rộng tâm
lượng, bao dung hết thảy, ḥa đồng hết
thảy, lại có thể chẳng làm hoại hết
thảy, từ từ có thể đạt được
hiệu quả ‘thiên hạ ḥa
thuận’, và cũng tức là hết thảy mọi
người khác chủng tộc đều có thể
đối xử ḥa mục, tùy thuận lẫn nhau,
hiện nay gọi là ‘hoàn cảnh chuyển theo tâm chúng
sanh’. Nếu người
người ai cũng có thể biết đủ, chỉ
lấy những ǵ ḿnh cần mà thôi, tuyệt đối
chẳng vượt quá phận ḿnh, chẳng xâm phạm
người khác, như vậy th́ thiên hạ sẽ
được ḥa thuận.
Những đoàn thể chủng tộc khác nhau trên
quả địa cầu đều có thể chung sống
ḥa b́nh, thuận theo quy luật thiên nhiên, nhân tâm trở nên
lương thiện, người đối xử với
người phải chân thành, tuyệt chẳng gian dối,
tâm địa của người nào cũng thanh tịnh,
b́nh đẳng, từ bi, đầy đủ trí huệ,
ḷng yêu thương; hoàn cảnh cư trú của chúng ta
tự nhiên sẽ trở nên ‘ mặt trời, mặt
trăng trong sáng, mưa thuận gió ḥa, tai họa ôn dịch
đều chẳng sanh’[51]. Cho dù chẳng thể cắt
đứt hết thảy hoạn nạn th́ nhất
định cũng sẽ ḥa hoăn, giảm bớt.
Người Trung Quốc chú
trọng phong thủy, phong thủy tức là hoàn cảnh
cư trú của chúng ta, đích thật chuyển biến
theo t́nh cảm, tư tưởng con người, đó chính
là cảnh tùy tâm chuyển.
Người xưa nói: ‘người có phước
cư ngụ ở đất phước’[52],
cũng là đạo lư này.
Bởi vậy nên chúng ta cần phải biết cách tu
phước, tích phước, sau đó mới
được quốc thái dân an, tai hại do người
gây ra có thể vĩnh viễn tiêu trừ. Chúng ta tuân theo đạo
đức, đề xướng nhân nghĩa, hy vọng
có thể đạt đến người người
đều hiểu lư, đều có thể nhường
nhịn, đối xử theo lễ với nhau, tránh khỏi cạnh tranh.
Cạnh tranh chẳng phải là
một việc tốt, đến sau cùng nhất
định sẽ sanh ra xung đột quyền lợi,
chẳng nhường nhịn lẫn nhau, vậy th́ tai
nạn do người tạo ra sẽ chẳng thể tránh
khỏi. Từ những môi
giới thông tin chúng ta biết được hiện nay
các nơi trên thế giới tai nạn dồn dập,
vả lại mỗi năm càng nghiêm trọng hơn
trước, ngày càng nghiêm trọng hơn trước,
hơn nữa chẳng có dấu hiệu giảm bớt,
đây là một chuyện lớn làm cho cả nhân loại
âu lo. Nếu mọi
người muốn tiêu trừ thiên tai nhân họa th́
phải biết sự quan trọng của lễ
nhượng và nhường nhịn. Phật nói với chúng ta đó chẳng
phải chỉ làm lợi ích cho ḿnh mà cũng là lợi ích
xă hội, lợi ích cho hết thảy chúng sanh trong thế
gian. Nếu chỉ biết v́
lợi ích của ḿnh th́ nhất định sẽ gây
hại cho người khác, gây hại cho kẻ khác th́
sẽ kết oán thù với chúng sanh. Sanh mạng này chẳng phải
chỉ có một đời mà thôi, mà là vĩnh hằng,
nếu những oán thù này chẳng thể hóa trừ, oan oan
tương báo, [oan trái dây dưa] chẳng bao giờ
dứt. Cho dù đời này
chẳng tạo ra tai nạn to lớn, sau này lúc nhân gặp
duyên th́ kiếp nạn từ trước đến
giờ chưa có vẫn sẽ xảy ra, đây là tự
làm tự chịu, cho nên chúng ta phải hiểu rơ
đạo lư, hiểu rơ chân tướng sự thật này.
Tôi hy vọng tập san này sẽ có
thể dùng tông chỉ Phật pháp hiện đại hóa,
bản địa hóa để khuyến đạo
người ta đối xử ḥa mục, tuyên
dương giáo nghĩa Đại Thừa, đạt
đến mục tiêu đa nguyên văn hóa cùng tồn cùng
vinh. Cũng giống như
lời kinh dạy: ‘Mạnh chẳng bức hiếp
yếu, ai cũng được lợi ích’[53],
nếu chúng ta có thể thiết thật thực hiện
quan niệm này, và phát triển rộng ra th́ tập san này
sẽ thành công. Tôi tin
tưởng nó sẽ thực sự cống hiến cho
thời đại này, hy vọng mọi người chúng
ta v́ mục tiêu này cùng nhau khích lệ.
5.
Cảm tưởng sau khi thăm
viếng Hồi Giáo (Buổi sáng 16-12-98)
Chúng tôi đă đi thăm
viếng viện dưỡng lăo và cô nhi viện của
những người Hồi Giáo; phương pháp quản
lư, tinh thần làm việc, thái độ thành khẩn
của họ làm cho người ta kính phục. Trên phương diện kỹ
thuật, họ lợi dụng máy vi tính dạy học,
học sinh nhỏ nhất mới có bốn tuổi. Do đây có thể biết họ
đối với việc truyền bá giáo nghĩa c̣n làm hoàn
hảo hơn chúng ta nhiều, có nhiều chỗ đáng cho
chúng ta học tập. Đặc
biệt là tinh thần đoàn kết, tập trung lực
lượng là chẳng có đoàn thể nào khác có thể
sánh bằng. Điều thứ ba
trong Tam Quy Y là ‘Quy y Tăng, chúng trung tôn’. Chúng là đoàn thể, Tăng
đoàn là đoàn thể đáng được
người tôn kính nhất trong những đoàn thể
của thế gian và xuất thế gian v́ Tăng đoàn
làm được ‘Lục Ḥa Kính’.
Chúng tôi thấy những người đạo
Hồi này tuy chẳng có điều lệ Lục Ḥa Kính
nhưng sự đoàn kết và cách làm của họ phù
hợp với Lục Ḥa Kính, việc này đáng để
cho chúng ta phản tỉnh.
Đối với hết thảy
sự lư, nghiệp nhân quả báo nh́n thấy
được rơ ràng nhất, triệt để nhất
là chư Phật, Bồ Tát. Đó
là ‘người đương sự th́ mê, người
bàng quan th́ sáng suốt hơn’ [54]. Chư Phật, Bồ Tát là
người bàng quan, chẳng phải là người trong
cuộc nên họ có thể nh́n thấy rơ ràng. Người trong cuộc có phân
biệt, chấp trước, người bàng quan chẳng
có phân biệt, chấp trước, hết thảy
đối với họ chẳng liên can. Do đó có thể biết nếu
muốn đạt được trí huệ giống
như chư Phật, Bồ Tát, th́ nhất định
phải làm người bàng quan, và cũng tức là phải
buông xuống phân biệt, chấp trước; đối
với hết thảy sự lư, cảnh duyên, nghiệp nhân
quả báo mới có thể rơ ràng, thấu triệt, mới
biết xử lư công việc như thế nào.
Chân tướng sự thật
rốt ráo chính là ‘vạn pháp đều là không’,
người trên trời nói với Hồng lăo cư sĩ
‘Đến cũng không không, đi cũng không không’, đó là
chân tướng sự thật rốt ráo. Ư nghĩa của hai chữ
‘Đến’ và ‘Đi’ là chỉ cho sự sanh diệt của tâm
niệm, tâm niệm sanh tức là ‘đến’, diệt
tức là ‘đi’, đến - đi đều là trong ṿng
sát na. Hiểu rơ ư tứ này th́
đương lúc đó sẽ là ‘không không’. Phật pháp giảng về tam
không – nhân ngă không, pháp ngă không, không cũng không, sau cùng ngay
cả chữ không này cũng ‘không’ luôn, tức là ngay cả
tâm niệm ‘không’ cũng chẳng thể phân biệt,
chấp trước. Phân
biệt không, chấp trước không th́ vẫn chẳng
không, v́ vẫn c̣n cái ‘tâm niệm không’ này, cho nên mới nói
‘cái không này’ cũng phải không.
Đoạn hết sạch vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước th́ tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng sẽ hiện tiền, sẽ đạt
được trí huệ giống chư Phật, Bồ
Tát.
Đại Thừa giáo nói có
‘Tướng’, có thể thọ dụng. Nhưng phải hiểu ‘có’ này là
huyễn có, Dụng cũng chẳng chân thật, v́ Thể
Tánh là không. Thể là tịch
tịnh, tịch tịnh tức là chân không. Sâm la vạn tượng, y chánh
trang nghiêm đều dựa vào nó mà sanh khởi, Duy Thức
Tam Tánh nói ‘Y Tha Khởi Tánh’[55],
chân không, tịch tịnh là ‘Viên Thành Thật Tánh [56]’. Nhất định phải
hiểu được Viên Thành Thật th́ mới hiểu
được Y Tha Khởi.
Sau đó mới biết vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước là ‘Biên Kế Chấp’, biên là
biên kiến, kế là phân biệt, chấp là chấp
trước. Buông bỏ Biên Kế
Chấp th́ Y Tha Khởi sẽ chẳng chướng
ngại, do đó ‘lư sự vô ngại, sự sự vô
ngại’
Chúng ta đối với hết
thảy pháp trong thế gian và xuất thế gian
đều lọt vào phân biệt, chấp trước mà
chẳng biết buông xuống, đây chính là mê,
chướng ngại trí huệ đức năng vốn
sẵn có trong tự tánh, làm cho nó chẳng thể hiện
tiền, do đó chư Phật, Bồ Tát, tổ sư
đại đức chẳng ai không khuyên chúng ta buông
xuống. Buông xuống là
phước, nh́n thấy thấu suốt là huệ. Phước huệ của
Phật viên măn nên được xưng là ‘Nhị Túc Tôn’. Triệt để buông xuống
th́ huệ mới viên măn.
Tây phương có một cuốn
sách nói con người từ lúc lọt ḷng liền quan sát
cha mẹ và những người xung quanh, chẳng hay
chẳng biết dần dần dưỡng thành tập
quán ưa thích khống chế người khác và không
chế hoàn cảnh, do đó sanh ra dục vọng đi
cướp đoạt.
Dục vọng này che phủ linh tánh của ḿnh, làm cho
đời sống cả đời này vô cùng đau
khổ, tạo ra vô lượng vô biên tội
nghiệp. Tác giả cuốn
sách này chẳng có học Phật, cũng chẳng
đọc kinh Phật, nhưng những câu nói này rất có
đạo lư. Đây là
đoạn văn lưu lại từ vài ngàn năm
trước ở Nam Mỹ châu.
Cho nên ưa thích khống chế
người khác, cướp đoạt đồ vật
của người khác làm lợi ích cho ḿnh là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Mê càng sâu, phiền năo tập khí
càng nặng, tạo ra tội nghiệp càng lớn, th́ làm
sao có lư chẳng thọ quả báo cho được? Nghiệp nhân quả báo là mấu
chốt của sự chuyển biến trong thập pháp
giới. Phật nói: ‘Phật
pháp cũng do nhân duyên sanh’.
Phàm phu muốn thành Phật th́ phải chuyển
biến, chuyển về mặt thiện nhất, làm cho
tự tánh khôi phục viên măn rốt ráo, lúc đó được
xưng là thành Phật. Đức
Phật độ chúng sanh là công việc này. Lúc nào chúng sanh giác ngộ, lúc nào
gặp được duyên phần, mỗi người
đều chẳng giống nhau.
Chư Phật, Bồ Tát có trí huệ quán cơ, quán cơ
là dùng ‘Căn Bản Trí’, cảm ứng đạo giao cùng
hết thảy chúng sanh. Giáo
hóa chúng sanh, thiện xảo phương tiện là
thuộc về ‘Hậu Đắc Trí’; biết thời
tiết nhân duyên thành thục hay chưa, biết làm thế
nào để tiếp xúc, làm thế nào thuyết pháp.
Không những chúng ta phải dùng
Lễ để đối xử với các tôn giáo khác,
đối với đồng tu học Phật cũng
phải có lễ mạo.
Mọi người tu học pháp môn khác nhau, nhất
định phải tôn trọng lẫn nhau, chẳng
thể phá hoại lẫn nhau.
Nếu phá hoại lẫn nhau th́ dù công phu tu học có
tốt cách mấy cũng phải đọa tam đồ
thọ quả báo. Đó chính là ‘Thà khuấy động nước ngàn sông chứ
chẳng động tâm của người tu đạo’[57],
phá hoại đạo tâm của người khác, không hay
không biết th́ đă tạo nên tội ‘phá ḥa hợp
tăng’, quả báo sẽ là ở A Tỳ địa
ngục. Thí dụ nếu bạn
đến đạo tràng Thiền Tông khuyên họ niệm
A Di Đà Phật, tự cho là ḿnh có công, thật ra là đă
phạm một sai lầm rất lớn. Người ta tham thiền mấy
chục năm gần thành công rồi, bạn lại
đến phá hoại, đây là tạo tội nghiệp,
chẳng có nhiều người biết được
đạo lư này. Bởi
vậy nên phần đông các đạo tràng chẳng dám tùy
tiện mời pháp sư, đại đức để
giảng kinh thuyết pháp là sợ họ chẳng biết
quy củ, trái lại tạo ra tội nghiệp. Bất luận tông phái nào chỉ
cần là pháp sư chân chánh biết quy củ, mời
họ đến giảng kinh thuyết pháp, đối
với đại chúng tuyệt đối có lợi
ích. Pháp sư chân chánh biết
quy củ sẽ biết tán thán đạo tràng của người
khác, tán thán pháp môn của người khác, tán thán vị
thiện tri thức chỉ đạo họ.
Tôi ở Hương Cảng
giảng kinh năm 1977, pháp sư Thánh Nhất ở núi
Đại Dự mỗi ngày đều đến nghe kinh, nghe
xong rất hoan hỷ nên mời tôi đến thăm
viếng chùa Bảo Liên. Đây là
một đạo tràng Thiền Tông mỗi ngày có bốn
mươi mấy vị tọa hương, c̣n có mấy
vị xuất gia người ngoại quốc, vô cùng quư
báu! Tôi giảng khai thị ở
thiền đường từ đầu đến
cuối chẳng đề cập đến một câu A
Di Đà Phật nào cả. Tôi tán
thán đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm, tán thán Thánh Nhất
pháp sư là một vị thiện tri thức chân chánh, tán
thán đại chúng là tăng đoàn ḥa hợp. Thế nên Thánh Nhất pháp sư
mới dám mời tôi đến giảng, thầy biết
tôi là người hiểu quy củ, sẽ chẳng phá
hoại đạo tràng, sẽ làm cho thính chúng tăng thêm
ḷng tin đối với pháp môn và thầy giáo.
Năm 1987 lần đầu tiên
tôi đến Tân Gia Ba giảng kinh, pháp sư Diễn
Bồi mời tôi đến đạo tràng của
thầy giảng khai thị cho tín chúng. Pháp sư Diễn Bồi tu Di
Lặc Tịnh Độ nên tôi tán thán Di Lặc Tịnh
Độ, tán thán đạo tràng của họ, tán thán pháp
sư. Tôi chẳng nói
đến một câu A Di Đà Phật nào cả, và cũng
chẳng nói Di Lặc Tịnh Độ chẳng bằng Di Đà
Tịnh Độ.
Nếu tín chúng không có một
phương pháp và mục tiêu tu hành nhất định nào
cả th́ chúng ta có thể khuyên họ niệm Phật. Nếu đă có pháp môn tu học
th́ không nên thay đổi, thay đổi họ chỉ có
thể nói lúc ở riêng nơi khác, nếu nói tại
đạo tràng của họ th́ sẽ phá hoại sự tu
học, đây là tội lỗi rất lớn. Bởi vậy nên những pháp
sư học giảng kinh nhất định phải
hiểu lễ tiết.
Chúng tôi đến đạo tràng
Hồi Giáo nhất định phải tán thán Thượng
đế ‘Allah’ của họ, chẳng thể tán thán A Di
Đà Phật. Cũng giống
như đến nhà người khác th́ phải biết tôn
trọng chủ nhân, đây là đạo lư của
người làm khách, và cũng là điều kiện căn
bản của việc làm người. Nhất định phải
biết tôn trọng người khác, thương yêu
người khác, giúp đỡ họ, tuyệt đối
chẳng thể phá hoại, v́ thành tựu cho người
khác chính là thành tựu cho ḿnh.
Đức Thế Tôn đối đăi
với những tôn giáo khác tuyệt đối chẳng
khuyên họ buông bỏ tôn giáo của họ để đến
cùng ngài tu học Phật pháp.
Hành vi ấy cũng giống như khuyên họ bỏ
cha mẹ để đi theo ḿnh học, đó là sai
lầm. Phật pháp
được xây dựng trên cơ sở hiếu thân (hiếu dưỡng cha mẹ),
sau khi học Phật th́ càng phải hiếu kính cha mẹ
hơn lúc trước, càng yêu thương Thượng
Đế của bạn, càng yêu thương anh chị em
của bạn, đó mới là Phật pháp. Bởi vậy nên Phật pháp
được hết thảy trời người tôn
trọng, Phật được xưng ‘Thế Tôn’ là v́
đạo lư này. Chúng ta làm
đệ tử của Thế Tôn chẳng được
đi đâu cũng phá hoại người khác. Nhất định phải
biết, phải học tập những thường
thức cơ bản của việc xử sự, đăi
người, tiếp vật này.
E.
TRUYỀN BẢO THIỆN TÍN TẠI GIA
1. Làm thế nào để hướng dẫn
quyến thuộc học Phật (Buổi sáng 15-11-98)
Khi các bạn đồng tu
dùng pháp môn niệm Phật để hướng dẫn
quyến thuộc học Phật nhưng gặp
người nhà phản đối và chẳng tiếp
nhận th́ các bạn phải biết nhẫn nại, hết
ḷng niệm Phật, để cho người nhà nh́n
thấy tận mắt những lợi ích, công đức
niệm Phật thù thắng, khi họ đích thân thể
hội được th́ dần dần họ cũng
sẽ được cảm hóa.
Khuyên người nhà niệm Phật mà họ không
chịu th́ hăy nghĩ chắc tại ḿnh chưa biểu hiện
được hoàn hảo, chẳng thể làm cho
người khác tâm phục khẩu phục, cho nên tự
ḿnh phải xoay lại hết ḷng nỗ lực tu học.
Tuy phương pháp và
đường lối tu học rất nhiều, có câu nói:
‘Pháp môn vô lượng, đường nào cũng về
đến đích’[58],
mục tiêu phương hướng đều giống
nhau, mục tiêu chung cực đều nhằm thành tựu
vô thượng đạo, tức là thành Phật. ‘Vô thượng đạo’ chính
là trí huệ cứu cánh viên măn.
‘Thành Phật’ chính là thành tựu trí huệ và
phước đức viên măn; người có trí huệ và
phước đức đến mức rốt ráo viên măn
th́ được xưng là ‘Phật’. Vô lượng vô biên pháp môn
đều nhằm đạt đến mục đích
này. Phật dạy nhiều
phương pháp như vậy là v́ căn tánh, sự ưa
thích, và dục vọng của hết thảy chúng sanh
chẳng giống nhau, sự giáo học của Phật vô
cùng hoạt bát, thiệt giống như người xưa
ví với ‘đẩy chiếc
bè thuận theo ḍng nước’, v́ vậy nên tu học
rất dễ dàng, rất dễ thành tựu, đây tức
là ‘ứng cơ thuyết pháp’.
Trong hết thảy các pháp môn, chư Phật Như
Lai đặc biệt tán thán pháp môn Niệm Phật v́ duy
chỉ có pháp môn Niệm Phật mới được
hết thảy chúng sanh căn tánh chẳng đồng
tiếp nhận, chẳng hạn định một
loại chúng sanh nào, cho nên phạm vi nhiếp thọ vô cùng
rộng lớn, hiệu quả cũng vô cùng thù thắng.
Lư do của sự thù
thắng này nằm ở chỗ nào? Trong kinh có nói đến sự
khởi nguyên của vũ trụ, vạn vật, và sanh
mạng. Đây là điều mà
từ xưa đến nay những nhà khoa học,
triết học, tôn giáo đầy đủ thông minh trí
huệ đều mong muốn hiểu rơ nhưng chưa
hiểu nổi. Đức
Phật Thích Ca cũng v́ việc này mà xuất hiện trong
thế gian để giải đáp chân tướng sự
thật của vũ trụ nhân sanh cho chúng ta hiểu
rơ. Phật nói sanh mạng là
một thể sanh mạng to lớn. Phàm phu cho cái thân này là sanh mạng nhưng
chẳng biết thân này không phải sanh mạng, thân này
chỉ là sự biểu hiện ở trong một h́nh thái
nào đó. Sanh mạng là
vĩnh hằng, chẳng sanh chẳng diệt, c̣n thân này có
sanh có diệt. Thí dụ
sự biểu diễn trên sân khấu, người
[nghệ sĩ] ví như sanh mạng, sự biểu
diễn ví cho sanh diệt. Trên
sân khấu người này chẳng có sanh; rời khỏi
sân khấu người này chẳng có diệt. Nhưng nhân vật, vai tṛ đóng
trên sân khấu khi lên sân khấu th́ được sanh,
rời khỏi sân khấu th́ liền diệt. Thế nên sanh mạng là vĩnh
hằng bất biến, sự biểu hiện của sanh
mạng thiên biến vạn hóa.
Sân khấu của chúng ta chính là thập pháp
giới. Nếu đức
Phật Thích Ca chẳng giải thích chân tướng sự
thật này th́ chúng ta làm sao hiểu nổi!
Hết thảy hiện
tượng đến như thế nào? Phật nói: ‘duy tâm sở
hiện duy thức sở biến’. ‘Tâm’ là bản tánh của tự
ḿnh, chính là sanh mạng chẳng sanh chẳng diệt;
‘thức’ là tác dụng của sanh mạng, lúc sanh mạng
khởi tác dụng biến hiện ra vô lượng vô biên
cảnh giới. Nhà Pháp
Tướng Duy Thức giải thích định nghĩa
của ‘Thức’ chính là liễu biệt, phân biệt. Từ đây có thể biết y
báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới là do tâm phân
biệt biến hiện làm nên.
Kinh nói: ‘Hết thảy pháp từ tâm tưởng
sanh’, ngạn ngữ thế gian nói: ‘tâm tưởng
sự thành’, ư tứ của câu nói này rất sâu xa. Ở đây thuyết minh thập
pháp giới là do tâm tưởng của chúng ta biến
hiện ra, tưởng cảnh giới ǵ liền biến
ra cảnh giới ấy, đây chính là sanh mạng. Nếu chúng ta hiểu
được ư nghĩa của câu này và tin sâu chẳng nghi
th́ mới thể hội được thâm ư của
chư Phật Như Lai khuyên chúng ta tu pháp môn niệm
Phật.
Trong những cảnh
giới được hiện ra, pháp giới Phật trong
thập pháp giới là viên măn nhất, thù thắng
nhất. Pháp giới Phật cũng
là do niệm Phật mà thành, ‘niệm Phật là nhân, thành
Phật là quả’. Cho nên
Bồ Tát muốn thành Phật th́ cũng phải niệm
Phật. Chúng ta hiện nay
niệm Phật là đi đường tắt làm
Phật, chẳng đi đường quanh co. Pháp giới Phật cũng có
nhiều thứ chẳng đồng, những thứ
chẳng đồng này đều là do tâm niệm biến
hiện ra. Trong truyện kư có
ghi Thiên Thai Trí Giả đại sư đời Tùy,
Đường là đức Phật Thích Ca tái lai nên lời
của ngài cũng giống như lời của Phật
Thích Ca đích thân nói ra. Ngài nói
với chúng ta Phật có bốn hạng, tức là [bốn
hạng Phật thuộc] Thiên Thai tứ giáo: Tạng, Thông,
Biệt, Viên, bốn hạng Phật này sai khác rất
lớn. Tạng Giáo Phật và
Thông Giáo Phật c̣n chưa kiến tánh, là địa vị
cao nhất, phước báo lớn nhất trong thập pháp
giới, nhưng vẫn chưa đột phá ra khỏi
thập pháp giới. Biệt
Giáo Phật phá mười hai phẩm vô minh, tương
đương với địa vị Nhị Hạnh
trong Viên Giáo, vẫn c̣n sai khác với Viên Giáo Phật
rất nhiều. V́ địa
vị Nhị Hạnh Bồ Tát vẫn c̣n tám ngôi vị
mới tu thành Thập Hạnh viên măn; phía trên Thập
Hạnh c̣n Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác rồi mới chứng đến quả
vị Phật viên măn. Chúng ta
niệm A Di Đà Phật là trực tiếp chứng quả
vị Viên Giáo Phật, vô cùng thù thắng; thế nên chư
Phật, Bồ Tát chẳng có ai không tán thán pháp môn Niệm
Phật, đây cũng là pháp môn hết thảy chư
Phật đều tu.
Trong kinh Vô Lượng
Thọ nói có rất nhiều Bồ Tát muốn cầu
được pháp môn này nhưng chẳng được,
v́ họ chẳng có cơ hội nghe và cũng chẳng
biết có pháp môn này. Tại
sao họ mong cầu pháp môn này?
Chính là hy vọng chứng được quả
vị Phật viên măn sớm hơn. Đời này chúng ta gặp
được pháp môn này là may mắn to lớn, vô cùng
hiếm có! Nếu gặp
được mà chẳng tin tưởng, chẳng
hiểu rơ, chẳng thể y giáo phụng hành th́ thiệt là
rất đáng tiếc. Có
cơ hội gặp được mà bỏ lỡ là
một sự tổn thất, đáng tiếc vô cùng to
lớn. Trong kinh Di Đà
đức Thế Tôn xót ḷng rát miệng khuyên chúng ta cầu
sanh Tịnh Độ, chúng ta phải thể hội
đến ḷng đại từ đại bi của
Như Lai.
Niệm Phật, niệm là tưởng, ngày ngày
đều tưởng nhớ, tức là trong tâm thật
sự có đức Phật A Di Đà, niệm niệm
đều có A Di Đà Phật; có A Di Đà Phật chính là có tâm,
nguyện, và hạnh của Phật A Di Đà. Nói một cách khác, đem kinh Vô
Lượng Thọ làm tư tưởng hành vi của ḿnh
th́ đó chính là thực sự niệm Phật. Niệm Phật chẳng phải
là chỉ niệm ở ngoài miệng, niệm Phật
ở ngoài miệng là tuyên truyền, là để niệm
cho người khác nghe, để độ chúng sanh, có câu
nói: ‘một khi lọt vào tai th́ vĩnh viễn làm hạt
giống đạo’.
Niệm Phật là ‘tâm, nguyện, hạnh’ phải
giống y như Phật. Tâm
của Phật là chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng,
chánh giác, từ bi; Nguyện
của Phật là giúp đỡ hết thảy chúng sanh
trong pháp giới sớm thành Phật đạo; Hạnh của Phật là thật
sự làm, nguyện chẳng phải giả, chẳng phải
nguyện suông, phải tùy phận tùy sức trong
đời sống hằng ngày, tận tâm tận lực
giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ. Đây là sự nghiệp của
hết thảy chư Phật, Bồ Tát, trong Phật môn
gọi là ‘gia nghiệp Như Lai’, cũng chính là giúp
đỡ hết thảy chúng sanh giác ngộ. Pháp phương tiện hạng
nhất ở thế giới Sa Bà là khuyến đạo,
dùng cách giảng kinh thuyết pháp để khuyên lơn
mọi người, giúp đỡ mọi người khai
ngộ, đây là ngôn giáo; kế đó là thân giáo, làm ra h́nh
dáng cho chúng sanh nh́n thấy.
Nếu có thể làm ngôn giáo và thân giáo viên măn th́ đương
nhiên người nhà của bạn sẽ cảm
động, sẽ tin tưởng.
Bởi vậy nên niệm Phật
vô cùng quan trọng, công đức ấy vô lượng vô
biên, vô cùng thù thắng; không những nghiệp chướng
đời này có thể tiêu trừ, nghiệp chướng
từ vô lượng kiếp về trước cũng có
thể tiêu trừ. Hơn
nữa tiêu trừ ngay trong một niệm, ‘một
niệm tương ứng, một niệm Phật,
niệm niệm tương ứng niệm niệm
Phật’.
Niệm niệm đều
tương ứng cùng ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh
đẳng, chánh giác, từ bi’, tức là tương
ứng với Tâm của Phật.
Niệm niệm đều
tương ứng với bốn mươi tám nguyện
của đức Phật A Di Đà tức là tương
ứng với Nguyện của Phật.
Niệm niệm giúp đỡ
chúng sanh th́ tương ứng với Hạnh của
Phật.
Vọng niệm là từ nghiệp chướng
biến hiện mà thành, vọng niệm tức là nghiệp
chướng. Bởi vậy
nên niệm niệm của chúng ta đều là Phật th́
vọng niệm sẽ không c̣n nữa, nghiệp
chướng cũng sẽ tiêu trừ hết; lúc chẳng
niệm Phật và có vọng niệm tức là nghiệp
chướng hiện lên.
Thế nên phải thường niệm Phật,
chẳng thể gián đoạn th́ nghiệp chướng
mới tiêu trừ được.
‘Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn’
th́ công phu nhất định sẽ đắc lực,
đây là bí quyết của việc niệm Phật.
2. Nói chuyện với Tịnh Tông
Học Hội Mỹ Quốc (Buổi sáng 05-12-98)
Dương hội trưởng
của Tịnh Tông Học Hội Mỹ quốc nhờ tôi
dùng màng lưới điện toán (internet) nói chuyện
với mọi người và trực tiếp truyền
h́nh. Lợi dụng kỹ
thuật của mạng lưới điện toán, tôi
ở Tân Gia Ba nói chuyện, toàn thế giới đều
có thể nghe cùng một lúc, phương pháp này rất
giống với lời nói trong kinh ‘chẳng
dời đạo tràng mà biến trọn khắp
mười phương’[59]. Hiện nay giao thông nhanh chóng
thuận tiện, thông tin phát đạt, đặc
biệt là kỹ thuật của mạng lưới
điện toán, ngay cả lúc đi du lịch, bất
cứ ở lúc nào, nơi nào cũng có thể liên lạc
đến cùng khắp thế giới, bởi vậy nên
thế giới đă thâu nhỏ lại.
Dùng
Phật pháp để nói th́ vốn chẳng có lớn -
nhỏ v́ không có một pháp nào chẳng xứng tánh, tánh
đức chẳng có tương đối, cho nên trong
kinh thường nói ‘chẳng thể nghĩ bàn’, đây
đích thật là cảnh giới chẳng thể nghĩ
bàn. Cảnh giới này ở
ngay trước mắt chúng ta, nhưng v́ tự ḿnh ngu
muội nên chưa phát hiện ra.
Chư Phật, Bồ Tát đă phát hiện ra rồi,
vả lại c̣n rơ ràng minh bạch cho nên quư ngài trụ
ở trong Nhất Chân pháp giới.
Nhất Chân pháp giới và thập pháp giới là viên
dung, chứ chẳng phải ngoài thập pháp giới có
một cái Nhất Chân pháp giới, và cũng chẳng
phải ngoài Nhất Chân pháp giới có thập pháp giới,
trong kinh nói rất rơ ràng về đạo lư và sự
thật này.
Hiện
nay kỹ thuật tiến bộ, xă hội chẳng c̣n
đóng kín nữa. Do đó
chúng ta liên tưởng đến trong kinh Pháp Hoa có nói: ‘Thời Mạt Pháp, pháp Đại Thừa khế
cơ’, đây đích thật là Thế Tôn có
vô lượng trí huệ chân thật. Hiện nay bất cứ
người nào suy nghĩ về vấn đề ǵ, nhăn
quang đều phải hướng về hết thảy
chúng sanh trên thế giới, tuyệt không thể chỉ
nghĩ về một cá nhân, một đoàn thể, chúng ta
phải nghĩ đến lợi ích chung của hết
thảy chúng sanh trên thế giới, sự khảo
lượng như vậy mới chính xác. Nếu mỗi người
chỉ nghĩ đến lợi ích riêng của ḿnh th́
nhất định sẽ phá hoại lợi ích của
đoàn thể.
Tịnh
Tông Học Hội Mỹ quốc vài năm gần đây có
thành tích rất khá. Đặc
biệt là lợi dụng đài truyền h́nh để
chiếu những chương tŕnh giảng kinh, phạm vi
truyền h́nh bao gồm hết vùng bắc Mỹ châu,
đây là công đức vô lượng. Quư vị sẽ phát triển
phạm vi đến khắp bắc Mỹ châu nên tâm
lượng mỗi vị đồng tu phải mở
rộng, bao trùm bắc Mỹ châu cũng chưa đủ,
hy vọng có thể mở rộng đến tối
thiểu là trùm khắp cả địa cầu, niệm
niệm đều phải nghĩ đến sự an
định và phồn vinh của cả địa cầu.
Các
đoàn thể chủng tộc chẳng đồng, văn
hóa khác nhau, phương thức sinh hoạt khác nhau, tôn giáo
tín ngưỡng khác nhau có thể tôn trọng, kính ái lẫn
nhau, hỗ tương hợp tác, cùng nhau duy tŕ sự an
định của xă hội, sáng tạo nên hạnh phúc
mỹ măn cho toàn thể nhân loại, quan niệm và nguyện
vọng này là mục tiêu chung của bất kỳ nhà tôn
giáo và người lănh đạo của học phái nào. Chính phủ Úc châu đối
với văn hóa đa nguyên vô cùng coi trọng, tại
Queensland có một Cục Tôn Giáo Dân Tộc Thiểu Số,
ông Cục trưởng Vưu Lư v́ muốn đạt đến
mục tiêu này nên mỗi tháng đều tổ chức
một buổi luận đàm đa nguyên văn hóa, mời
những lănh tụ tôn giáo và những người có
tiếng tăm trong xă hội cùng nhau nghiên cứu thảo
luận. Hơn nữa ở
đại học Cát Lệ Phỉ Tư hoạch định
xây một ‘Trung tâm hoạt động đa nguyên văn
hóa’, mỗi tôn giáo đều được phân phối
cho một nơi dành để tu đạo. Đại thính đường
của trung tâm hoạt động là một nơi tụ
tập công cộng. Tôi
đề nghị học hiệu đương cục
thiết lập một ‘Sở nghiên tập đa nguyên
văn hóa’, ‘nghiên’ là nghiên cứu, ‘tập’ là thực
tập, thực tập nghĩa là phải làm. Nhà Phật nói: ‘Giải hạnh
tương ứng’,
Vương Dương Minh nói: ‘Tri hành hợp
nhất’, nghĩa là không những phải biết mà c̣n
phải làm nữa. Sở
nghiên cứu học tập đa nguyên văn hóa là
để bồi dưỡng nhân tài chuyên nghiệp, sứ
mạng của những nhân tài này là nhằm hóa giải
những sự mâu thuẫn, hiểu lầm, ngăn cách
giữa những đoàn thể chủng tộc bất
đồng văn hóa, làm cho tất cả chúng sanh
đều hỗ trợ hợp tác, đối xử ḥa
mục, đây là một chuyện tốt, rất có ư
nghĩa.
Phật dạy chúng ta phải
phổ độ chúng sanh, câu thứ nhất trong tứ
hoằng thệ nguyện là ‘chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ’, chúng ta
đối với hết thảy chúng sanh không thể có tâm
phân biệt, chấp trước, thành kiến, thiên
vị. Nhà Phật nói:
‘Thiện lợi’, lợi nghĩa là phước lợi,
phước lợi làm thế nào đạt đến tiêu
chuẩn thiện? Phải
tương ứng với quan niệm và sự thật
của đa nguyên văn hóa, được vậy th́
phước lợi này thiện, không những có thể tiêu
trừ những tai hại do người gây ra mà c̣n có
thể tiêu trừ những tai hại tự nhiên.
Trong kinh nói: ‘Y báo chuyển theo
chánh báo’, chánh báo là tâm người, tâm người b́nh
ḥa (b́nh tịnh, an ḥa)
th́ hoàn cảnh cư trú cũng chuyển biến theo. Những năm gần đây,
địa cầu phát sanh rất nhiều biến hóa,
đem lại rất nhiều tai hại tự nhiên. Nguyên nhân của việc này là tâm
người biến đổi, trở thành tự tư
tự lợi, tham sân si mạn mỗi ngày tăng thêm, nhân
tâm và nhân tánh đều chẳng chánh thường (b́nh
thường) nên hoàn cảnh cư trú cũng trở nên
chẳng b́nh thường. Chân
chánh hiểu được nghĩa lư này th́ phải khôi
phục lại tâm b́nh thường, tâm b́nh thường
chính là ‘tịch tịnh’, như đề kinh của kinh Vô
Lượng Thọ là ‘thanh tịnh, b́nh đẳng, giác’;
trái nghịch với năm chữ này th́ tâm của chúng ta
sẽ chẳng b́nh thường, tâm đă bị bịnh
rồi.
Kinh Vô Lượng Thọ nói
đến y báo và chánh báo trang nghiêm của tây phương
Cực Lạc thế giới, kinh Hoa Nghiêm cũng nói
đến Hoa Tạng thế giới hoàn mỹ đến
cùng cực. Tại sao hoàn
cảnh sinh hoạt của họ tốt đẹp như
vậy? V́ những
người cư trú ở Hoa Tạng thế giới là
bốn mươi mốt vị Pháp thân đại sĩ,
tây phương Cực Lạc thế giới là ‘nơi
những người thượng thiện tụ hợp’. Thế nên chúng ta phải nghĩ
quả địa cầu này cũng biến thành Cực
Lạc thế giới, Hoa Tạng thế giới, chỉ
cần những người cư trú trên địa
cầu chịu sửa đổi, ai cũng chịu tu
thượng thiện th́ sẽ làm được. Chẳng phải nhờ vào
một người, hai người mà phải là mọi
người cùng nhau làm việc này.
Thế nên phải có người chân chánh phát tâm,
đem những đạo lư và chân tướng sự
thật này giới thiệu và tuyên dương rộng răi
đến toàn thế giới.
Chỉ cần mọi người đều hiểu
rơ, đều chịu làm, hết thảy những tai
nạn trên thế giới sẽ có thể tránh khỏi và
tiêu trừ.
Tôi
lợi dụng thời gian buổi họp sáng nay, cống
hiến cho chư vị những lời nói này, hy vọng
chúng ta cùng nhau phát tâm, hết ḷng nỗ lực học
tập, hoằng dương, hy vọng đạt
đến mục tiêu thế giới ḥa b́nh, xă hội an
định, chúng sanh hạnh phúc.
F.
ĐIỂN TỊCH PHẢI ĐỌC
1.
Nói về ‘Hoa Nghiêm Giản
Sử’ và điển tịch Tịnh Tông (Buổi sáng 02-12-98)
a. Sơ lược
lịch sử kinh Hoa Nghiêm.
Kinh Hoa Nghiêm nguyên bản chỉ
có một loại nhưng phân lượng rất
lớn. Cách người
Ấn Độ tính toán kích thước một tác phẩm
bằng cách dùng kệ tụng làm đơn vị. Nói
một bài kệ hoặc một bài tụng đều có
cùng một nghĩa, cứ tính bốn câu là một đơn
vị. Bất luận là
kệ tụng, trường hàng hoặc mật chú
đều dùng bốn câu thành một đơn vị; trong
một đơn vị, số chữ chẳng giống
nhau. Kinh Hoa Nghiêm tổng
cộng có mười vạn bài tụng, tức là bốn
mươi vạn câu, phân lượng này rất lớn.
Đặc biệt là vào thời
cổ xưa, giấy chưa được phát minh, kinh
điển được viết trên lá Bối (cây
Bối đa la). Lá cây
được kết thành từng phiến từng
phiến, thông thường trên một mặt có thể
viết được bốn hàng đến sáu hàng,
viết cả hai mặt. Sau
đó xoi lỗ ở hai đầu, dùng dây xỏ lại
thành từng xấp, đây là phương thức kinh
điển được làm thành thời xưa. Bốn mươi bốn vạn
câu phải cần rất nhiều lá Bối để chép,
hơn nữa lá cây này có chiều dầy nhất
định nên có thể thấy những cuốn kinh
như vậy số lượng tương đối
rất lớn. Số
lượng lớn như vậy rất dễ bị
thất lạc, cho nên lúc được truyền vào Trung
Quốc, kinh Hoa Nghiêm là một bản kinh bị khiếm
khuyết chẳng đầy đủ. Lần đầu tiên
được truyền vào là vào triều nhà Tấn [khoảng
năm 265-420], chỉ có ba vạn sáu ngàn bài tụng, chỉ
bằng một phần ba của mười vạn bài
kệ tụng, hai phần ba c̣n lại đă bị mất
đi. Ba vạn sáu ngàn bài
kệ tụng này dịch sang chữ Hán tổng cộng
thành sáu mươi quyển, bộ này được
gọi là ‘Tấn Kinh’, hay gọi là ‘Lục Thập Hoa
Nghiêm’. Hiện nay vẫn c̣n
lưu thông nhưng người đọc tương
đối ít.
Lần thứ nh́ là vào triều
nhà Đường, khoảng năm Chứng Thánh, tức là lúc
Vơ Tắc Thiên chấp chánh, do Thật Xoa Nan Đà đại
sư (Siksananda 652-710) từ
Tây Vực đem đến, so với lần trước
thêm được chín ngàn bài tụng, tổng cộng có
bốn vạn năm ngàn bài tụng, dịch ra thành tám
mươi quyển, được xưng là ‘Bát Thập
Hoa Nghiêm’. Kinh văn tuy chỉ
có bốn vạn năm ngàn bài tụng nhưng ư tứ chính
của kinh Hoa Nghiêm đều đă có thể đọc
thấy được.
Thế nên ngày nay chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, có khi
đọc đến một đoạn nào đó, ư tứ
chưa hết th́ kinh văn đă chấm dứt là v́
bị thiếu mất [như kể ở trên]. Nguyên bản Phạn văn
của kinh Hoa Nghiêm đă bị thất truyền, hiện
nay bản được bảo tồn đầy
đủ nhất vẫn là bản dịch sang Hoa văn.
Lần thứ ba là khoảng
năm Trinh Nguyên, đời Đường Đức Tông (795), Ấn Độ có một
nước nhỏ [60]
triều cống [lễ vật] cho Trung Quốc. Trong lễ phẩm có một
bộ ‘Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện
Phẩm’, kinh văn hoàn chỉnh chẳng bị thiếu
khuyết, vô cùng trân quư. Do cao
tăng Ấn Độ pháp sư Bát Nhă dịch sang Hoa văn,
tổng cộng có bốn mươi quyển,
được gọi là ‘Tứ Thập Hoa Nghiêm’. Cho nên Tứ Thập Hoa Nghiêm
tức là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện
Phẩm. Phổ Hiền
Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm trong Bát Thập Hoa Nghiêm
chiếm hết hai mươi mốt quyển, chỉ có
khoảng phân nửa của bốn mươi
quyển. Do đó rơ ràng là vào
đời Đường, Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm đă bị thiếu hết phân nửa,
đến năm Trinh Nguyên mới được thêm
đầy đủ. Cho nên
hiện nay kinh Hoa Nghiêm mỗi phẩm đều bị
thiếu chỉ có Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm là đầy đủ mà thôi. Hoằng Nhất đại sư
dạy chúng ta phương pháp học tập, đọc
Bát Thập Hoa Nghiêm đến quyển năm mươi
chín xong th́ đọc tiếp Tứ Thập Hoa Nghiêm,
cộng chung thành chín mươi chín quyển.
Sau khi Bát Thập Hoa Nghiêm
được phiên dịch xong, triều đ́nh thỉnh
Trừng Quán pháp sư (tức
là Thanh Lương quốc sư, 738-839) viết chú giải cho kinh này, chú
giải này được gọi là Sớ. Sau khi Sớ này viết xong lúc
đó có nhiều người vẫn cho rằng Sớ này
c̣n quá thâm áo, sợ hàng hậu học chẳng hiểu
nổi cho nên Thanh Lương quốc sư vô cùng từ bi
lại viết thêm cuốn ‘Tùy Sớ Diễn Nghĩa
Sao’. Sớ là chú giải cho
kinh. Sao là chú giải cho
Sớ, tức là chú giải cho chú giải, cách này rất có
ích cho người đời sau học tập kinh Hoa
Nghiêm. Thanh Lương quốc
sư chỉ viết Sớ chứ chẳng viết Sao cho
Tứ Thập Hoa Nghiêm.
Nhưng nếu bắt đầu học tập
từ Bát Thập Hoa Nghiêm, có cơ sở của năm
mươi chín quyển đầu, sau đó đọc
Tứ Thập Hoa Nghiêm Sớ sẽ chẳng cảm
thấy khó khăn.
Cư sĩ Lư Thông Huyền (635-730) đời
Đường, người đời sau xưng ngài là Lư
Trưởng Giả, là người trong hoàng tộc, tuy
chẳng xuất gia nhưng sinh sống một cuộc
đời thanh tâm ít dục của những bậc tu hành,
cảnh giới rất cao, thần thông cảm ứng
cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Ngài phát tâm viết chú giải cho kinh Hoa Nghiêm, quyển
này được gọi là Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận.
Hiện nay chú giải của hai
người nói trên là tài liệu tham khảo tất yếu
cho những người nghiên cứu kinh Hoa Nghiêm. Phương thức chú giải
của hai người này khác nhau, Thanh Lương quốc sư
th́ chú giải cho từng câu kinh văn, đây là
phương thức của Sớ Sao; Lư Trưởng Giả th́ viết
chú giải cho từng đoạn, luận là thảo
luận, phát huy điểm quan trọng trong cả khoa,
cả đoạn, đây là phương thức của
Luận. Sớ Sao đối
với những người học Giáo rất có ích
lợi, nhưng người tu hành thích nêu ra những
điểm trọng yếu, chẳng thích giảng từng
câu, cho nên có phần thích cuốn Hợp Luận nhiều
hơn. Do đó những
người tham thiền trong Tông Môn rất thích Hợp
Luận; những người nghiên cứu và giảng kinh
th́ lại thích Sớ Sao nhiều hơn. Tóm lại th́ Luận có ưu
điểm của Luận, Sớ Sao có chỗ hay của
Sớ Sao.
Đầu đời nhà Thanh,
phương trượng chùa Dũng Tuyền ở Cổ
Sơn, Phước Châu là Đạo Bái Thiền Sư đem
Sớ và Luận kết hợp lại làm thành Sớ
Luận Toản Yếu.
Chỉ thú của Sớ và Luận chẳng giống
nhau, có thể dung hợp lẫn nhau đích thật
chẳng dễ. Sớ
Luận Toản Yếu đối với người
mới học Hoa Nghiêm rất có ích, cuốn này có thể
nói đă đem những bộ phận tinh yếu của
Sớ Sao và Hợp Luận hội tập lại với
nhau, rất tiện lợi cho người sơ
học. Nhưng nếu chân
chánh muốn thâm nhập th́ vẫn phải đọc toàn
bộ Sớ Sao lẫn Hợp Luận.
b. Điển Tịch
Tịnh Tông
Tu học pháp môn Tịnh Độ
nhất định phải quen thuộc với
điển tịch Tịnh Tông, tức là Ngũ Kinh
Nhất Luận. Ngũ kinh gồm
có kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, kinh A Di Đà, Chương Đại Thế Chí Bồ Tát
Viên Thông [trong kinh Lăng Nghiêm], và Phẩm Phổ Hiền
Bồ Tát Hạnh Nguyện [trong kinh Hoa Nghiêm]; Nhất luận là Văng Sanh
Luận, tổng cộng gồm có sáu thứ. Phải hiểu rơ tánh chất
của mỗi thứ này th́ tu học mới biết
hạ thủ ở nơi nào.
Kinh luận Tịnh Tông lấy
kinh Vô Lượng Thọ làm chủ yếu, kinh Quán Vô
Lượng Thọ Phật bổ sung cho kinh Vô
Lượng Thọ; kinh A Di Đà chủ yếu là khuyên tín,
khuyên nguyện. Trong kinh A Di Đà,
đức Phật ba lần khuyên nguyện, khuyên chúng ta
phải phát nguyện cầu sanh Tây phương Cực
Lạc thế giới. Sáu
phương Phật khuyên chúng ta phải nên tin kinh này, ba
lần khuyên phát nguyện, đức Phật đúng là
đau ḷng rát miệng. Thế
nên rất nhiều người tụng kinh Di Đà vào khóa
tụng sáng tối là có đạo lư của nó.
Có thể nói chương Đại
Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông là Tâm Kinh
của Tịnh Độ Tông.
Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện
cũng bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ. V́ kinh Vô Lượng Thọ
vừa mở đầu có đoạn ‘đều cùng tuân tu theo đức hạnh của
Phổ Hiền Đại Sĩ’ [61],
đức hạnh của Phổ Hiền Đại Sĩ là
Mười nguyện vương của Phổ Hiền
Bồ Tát nói trong phần cuối của Phẩm Phổ
Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện, đây là bổ sung cho
Phổ Hiền Đại Sĩ chi đức, như vậy
th́ Tịnh Tông điển tịch đă viên măn. Văng Sanh Luận là báo cáo tâm
đắc tu học của Thiên Thân Bồ Tát, có thể làm
thị phạm cho chúng ta.
Hiểu rơ tính chất của sáu điển tịch
này th́ tu học mới biết hạ thủ nơi nào, có
thể làm cho người tu học có ḷng tin kiên
định, chân chánh làm được ‘chẳng hoài nghi,
chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn’,
được vậy th́ nhất định sẽ thành
tựu.
G.
TRẢ LỜI NGHI VẤN HỌC PHẬT
1.
Làm thế nào để giải
quyết vấn đề xă hội trước mắt. (Buổi sáng 12-12-98)
Trong tạp chí Mộ Tây của
Tịnh Tông Học Hội Los Angeles, nội dung của
chủ đề thảo luận trong số phát hành kỳ
sau đề cập đến ‘công lợi chủ
nghĩa’[62]
phát triển đến mức cùng cực trong xă hội
hiện đại; truyền h́nh, điện ảnh,
mạng lưới quốc tế mở rộng, tự
do, trong ấy tràn đầy t́nh dục và bạo lực,
những thứ này đă được đem tới
tận cửa mỗi gia đ́nh, tạo thành tổn
hại lớn lao cho nhân loại.
Học tṛ tiểu học ở Mỹ đă bắt
đầu sử dụng máy điện toán, khi máy
điện toán được nối vào mạng
lưới điện toán th́ liền có thể thâu
nhận được những tư liệu, dữ
kiện này. Trẻ em c̣n
chưa có năng lực phân biệt thị phi, thiện ác
mà tiếp nhận những sự đầu độc
này, hấp thụ những tư liệu đen tối này,
tiêu thụ với số lượng khổng lồ,
đây là một hiện tượng vô cùng đáng
sợ. Cho nên họ nói
đến chủ đề ‘Nếu A Di Đà Phật làm
Cục trưởng Bộ thông tin’ th́ may ra có thể
cải biến được phong hóa xă hội. Đây là một sự tỉnh
ngộ, là một cảnh giác cao độ.
Ba mươi năm trước
có một lần tôi đi thăm Phương Đông Mỹ
tiên sinh, nhằm đúng lúc hai viên chức cao cấp trong
Bộ Giáo Dục [Đài Loan] đến thỉnh giáo ông
Phương: ‘Làm thế nào để đẩy mạnh
công việc vận động phục hưng văn hóa
Trung Hoa?’. Ông Phương nói
nếu muốn đạt đến hiệu quả lư
tưởng của sự ‘Vận động phục
hưng văn hóa’ th́:
Thứ nhất hết thảy
các ṭa báo, tạp chí ở Đài Loan đều phải
ngưng hoạt động.
Thứ nh́ đài truyền h́nh,
điện đài vô tuyến cũng phải đóng
cửa.
Ông Phương nói ‘Những
thứ này mỗi ngày đều đang phá hoại văn
hóa Trung Hoa th́ làm sao có thể phục hưng văn hóa cho
được?’.
Sau đó câu hỏi thứ nh́ là:
‘Hiện nay nước Mỹ là nước mạnh
nhất thế giới, trước kia La Mă cũng
phải diệt vong, tương lai nhân tố đầu
tiên làm nước Mỹ diệt vong là ǵ?’.
Phương tiên sinh vô cùng nghiêm
túc và trả lời: ‘Truyền h́nh (TV)’.
Lúc đó mạng lưới
điện toán c̣n chưa phát triển, nếu là bây giờ
th́ Phương tiên sinh nhất định sẽ trả
lời: ‘Mạng lưới điện toán’.
Việc này cùng với vấn
đề quư vị đang âu lo chẳng hẹn mà gặp
nhau. Chúng ta đối
đầu với vấn đề xă hội hiện thực
th́ phải làm thế nào?
Phương pháp của Phương tiên sinh đề
ra quả thật có hiệu quả nhưng chẳng
thể nào thực hiện được v́ bây giờ
chẳng thể nào phế bỏ những phương
tiện truyền bá, môi giới thông tin này nổi. Nói cách khác chúng ta nhất
định phải nhận thức rơ ràng thế giới
hiện nay đang có chiều hướng tiến tới
hủy diệt, tiền đồ là cả một màu
đen tối. Một ngày
trước khi văng sanh, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam nói
với học tṛ đang có mặt lúc đó: ‘Thế gian đă loạn rồi, cho dù chư
Phật, Bồ Tát, thần tiên hạ phàm cũng chẳng
cứu văn nổi. Chỉ c̣n
con đường sống sót duy nhất tức là niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ’,
đây là lời dạy cuối cùng của ngài.
Những nhà tiên tri ở Đông và Tây
phương đều dự đoán cuối thế
kỷ hai mươi thế giới sẽ có tai nạn
lớn kéo dài hơn hai mươi mấy năm. Sau khi tai nạn chấm dứt
thế giới sẽ có một ngàn năm ḥa b́nh. Nhân tố gây ra tai nạn này là
những ǵ các bạn hôm nay đă nh́n thấy.
Trong t́nh huống như vậy,
hy vọng A Di Đà Phật đến làm Cục Trưởng
Cục thông tin, A Di Đà Phật đến hay không? Ai có quyền mời A Di Đà Phật
đến nhậm chức Cục Trưởng Cục
Thông Tin? Đây là việc chẳng
ai làm nổi. Cho nên hy vọng
các vị đồng tu, ai cũng đều làm đệ
tử Di Đà, trong thời đại hiện nay phải
trực tiếp đảm đương làm phát ngôn viên
cho A Di Đà Phật, chẳng những phải tuyên
dương Giáo Nghĩa Di Đà, mà c̣n phải hết ḷng
nỗ lực làm gương tốt cho người thế
gian noi theo.
Tôi giảng kinh hoằng pháp
đến nay đă được bốn mươi
năm. Trong bốn mươi
năm này mỗi ngày tôi đều đọc kinh, chưa
từng rời khỏi cuốn kinh, huân tu trong một
thời gian dài, y giáo phụng hành.
Nhưng chỉ dựa vào lực lượng của
cá nhân ḿnh th́ nhất định chẳng thể nào làm
được, phải cầu mong chư Phật, Bồ
Tát oai thần gia tŕ. Sự
cầu mong này chẳng phải dùng một lời nói suông mà
có thể cầu được, phải dùng tâm chân thành và
thực hiện giáo nghĩa th́ mới cảm ứng
đạo giao. Chúng ta làm
hết ḷng, hết sức, chỉ cần thế gian có thêm
một người hiểu được Phật lư, thêm một
người nhất tâm niệm Phật th́ tai nạn có
thể giảm được một phần; cho dù
chẳng thể hoàn toàn tiêu trừ th́ cũng có thể tŕ
hoăn. Mọi người cùng
nhau hết ḷng nỗ lực làm th́ nhất định
sẽ có được hiệu quả.
Mười năm gần đây tôi tuyên dương
kinh Vô Lượng Thọ trên khắp thế giới, tôi
dùng bản hội tập của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư, bản này do lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam truyền
cho tôi. Năm Dân quốc 39
(1950) thầy Lư giảng kinh này ở chùa Pháp Hoa tại Đài
Trung, trên bản kinh này có lời chú giải tường
tận của thầy. Chúng
tôi đă in ra bản kinh này cúng dường đại
chúng. Và thuận theo lời
giao phó của thầy chúng tôi dốc hết tâm lực
để giới thiệu và truyền bá bản kinh này
khắp nơi.
Sau đó tôi có duyên gặp
được lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ
nhờ tôi đề xướng ‘Tịnh Tông Học
Hội’, từ trước đến giờ tôi chưa
bao giờ nghe đến cái tên ‘Tịnh Tông Học
Hội’, sau đó mới biết ‘Tịnh Tông Học
Hội’ là do lăo cư sĩ Hạ Liên Cư đề ra
nhưng chưa có tổ chức.
Tôi nhận lời phó thác của cụ Hoàng, ở
tại Gia Nă Đại thành lập ra ‘Tịnh Tông Học Hội’
đầu tiên, và ở Mỹ thành lập lần thứ
hai, hiện nay trên toàn thế giới đă có gần
năm mươi ‘Tịnh Tông Học Hội’. Trước kia đạo tràng
Tịnh Tông được gọi là ‘Liên Xă’, hiện nay
chúng ta đổi tên ‘Liên Xă’ thành ‘Tịnh Tông Học
Hội’. Mỗi hội này
đều độc lập, chúng tôi chỉ giúp đỡ
và ủng hộ mà thôi, chẳng có quyền cai quản; chúng
tôi chỉ làm tṛn nghĩa vụ, chẳng có quyền
lợi. Hy vọng mỗi
Học Hội đều hoằng dương kinh Vô
Lượng Thọ và Tịnh Độ ngũ kinh, hết ḷng
nỗ lực, chắc thật niệm Phật, tự hành
hóa tha, cùng nhau vượt qua tai nạn này, đây là
việc mà ngày nay chúng ta có thể làm được.
Những năm gần đây
chúng tôi cũng bắt đầu dạy học trên
mạng lưới điện toán, đem Phật pháp
gởi lên mạng lưới điện toán. Xă hội hiện đại là dân
chủ, tự do, mở rộng, chẳng thể cấm
đoán ngôn luận, sách vở xuất bản tự do
lưu thông, chúng ta chỉ có thể giới thiệu chánh
pháp của Như Lai và những lời dạy của
cổ thánh tiền hiền cho người trong thế gian,
để cho mọi người so sánh kỹ càng, tự do
tuyển chọn. Hiện nay
chỉ có thể dùng cách làm này, nhất định
chẳng thể dùng cách ra lịnh, thời xưa có thể
dùng phương thức ép buộc người ta, hiện
nay chẳng thể [ép buộc người ta] được. Cho dù là cha đối với con,
thầy giáo đối đăi với học tṛ, đều
phải xem như bạn bè lẫn nhau, ngồi xuống
cùng nhau bàn bạc, đây là quan hệ thực tế
giữa người với người trong xă hội
hiện đại. Ngày xưa
người lớn có quyền uy, người nhỏ
tuổi chỉ phục tùng, tiếp nhận sự chỉ
dạy. Cách làm này đích
thật có lợi ích cho hàng căn tánh trung hạ. Trong xă hội dân chủ, tự
do, mở rộng này th́ quyền uy đă không c̣n nữa,
người người đều b́nh đẳng,
chỉ có trao đổi ư kiến lẫn nhau, thương
lượng lẫn nhau. Trong
hoàn cảnh như vậy giáo học khó khăn hơn lúc
trước rất nhiều.
Hơn nữa hết thảy
chúng sanh đích thật là ác nhiều, thiện ít. Bách Pháp Minh Môn Luận nói Thiện
Tâm Sở gồm có mười một thứ, Ác Tâm Sở
gồm có hai mươi sáu thứ; hoàn cảnh bên ngoài
cũng là ác nhiều thiện ít.
Trong hoàn cảnh như vậy những người
biết hồi đầu (quay lại, quay
về), biết đoạn ác tu thiện quá
ít. Chúng ta chỉ có thể
cầu mong chư Phật, chư Bồ Tát thường
thị hiện trong thế gian này, làm gương tốt
cho hết thảy chúng sanh khổ nạn. Chư vị đồng tu giác
ngộ và hiểu rơ rồi, chịu phát tâm quên ḿnh và v́
người khác, làm gương tốt cho xă hội
đại chúng, được vậy th́ các bạn sẽ
là hóa thân của Phật, Bồ Tát đến để
cứu độ những chúng sanh khổ nạn. Bởi vậy nên phải ‘xoay
lại cầu chính ḿnh’, bắt đầu làm từ tâm
địa của ḿnh. Nếu
tự ḿnh hiểu rơ nhưng chẳng chịu hết ḷng
học tập, y giáo phụng hành, mà lại hy vọng
Phật, Bồ Tát đến ứng hóa th́ chẳng thể
được. Chỉ có
thể dùng tâm chân thành, từ bi mới có thể cùng chư
Phật, Bồ Tát và thánh hiền đời xưa khởi
cảm ứng, tơ hào chẳng thể làm giả
được.
Hy vọng những cán sự, nhân viên
tại Tịnh Tông Học Hội ở Los Angeles có thể
tổ chức cùng nhau đến Tân Gia Ba tham học, quan sát,
[tôi] tin tưởng như vậy có thể có đôi chút
cống hiến giúp đỡ cho công việc, sự tu
học, và [giảm bớt] sự lo lắng của quư
vị. Thiện tâm thiện
nguyện của quư vị nhất định sẽ
được chư Phật, Bồ Tát tán thán. Hy vọng chúng ta đem ra hành
động [thực tiễn] để đối phó
với vấn đề này, t́m ra phương pháp giải
quyết.
PHỤ
LỤC
Trích một
đoạn trong bài ‘Tứ Thư Ngẫu Ích Giải – Thiên ‘Học
Nhi’ trong Luận Ngữ’
do Ḥa Thượng
Tịnh Không giảng tại Hoa Tạng Đồ Thư Quán,
Đài Bắc. Số Hồ sơ 20-1-02, trang 11
(để giải
thích thêm về danh từ ‘Tam Cương Bát Mục’
dưới lăng kính Phật pháp.)
Tam
Cương là ǵ? Minh minh
đức, Thân dân, Chỉ ư chí thiện. Trong Phật pháp, Minh minh
đức chính là Tự Giác, Thân dân là Giác Tha, Chỉ ư
chí thiện là Giác Hạnh viên măn, là học những
điều này! Nói tóm lại
tức là học ‘Minh tâm kiến tánh’. Nho và Phật đều giống
nhau, Minh đức chính là Kiến tánh. Trên ‘Minh đức’ lại thêm vào
một chữ ‘Minh’ nữa, có thể nói là Minh đức
đă chẳng ‘minh’ rồi.
Thế nên mục đích chúng ta Học tức là làm
cho ‘Minh đức’ khôi phục lại ánh sáng, là cầu
việc này, đây là ‘Tự Giác’, tự thọ
dụng. Sau khi ḿnh thành tựu
xong mới dạy người khác, đây là việc ‘Giác
tha’, là ‘Thân dân’. ‘Chỉ ư
chí thiện’ là ǵ? Tức là hai
thứ này chẳng hai, Tự giác chính là Giác tha, Giác tha chính
là Tự giác, chẳng phải hai việc mà là một
việc, như vậy mới chí thiện. Chia nó thành hai th́ chẳng chí
thiện. Bạn xem,
người Tiểu Thừa tự giác, chẳng giác tha,
họ chia thành hai sự việc;
Quyền Giáo Bồ Tát giác tha, chẳng biết tự
giác, như vậy cũng chia thành hai sự việc;
thế nên cả hai đều chẳng chí thiện. Chỉ ư chí thiện là
những đại Bồ Tát, Thật Giáo Bồ Tát, minh tâm
kiến tánh, họ là ‘chỉ ư chí thiện’.
Chúng ta dùng cách nói của ‘Tịch và
Chiếu’ để giải thích Tự giác. ‘Tịch mà thường chiếu’
là tự giác. ‘Chiếu’
nghĩa là hiểu rơ hết thảy cảnh giới, tâm
định. Tự Giác chú
trọng trên ‘Thể’, từ Thể khởi Dụng,
đây là Tự Giác. Giác Tha
nghĩa là ‘Chiếu mà thường tịch’, đây là
nhiếp Dụng quy về Thể, tự ḿnh
được thọ dụng.
Bạn xem, từ Thể khởi Dụng, cũng
nghĩa là Tự, Tha đều được lợi
ích. Lúc Giác tha, từ Dụng
quy đến Thể, vẫn là Tự, Tha đều
được lợi ích, Tự, Tha là một chứ
chẳng phải hai. Nếu
phân Tự, Tha thành hai th́ là mê, chẳng giác, có Tự có Tha
th́ chẳng thể nói đến việc Học;
đến khi nào Tự và Tha chẳng hai, Giác Chiếu
đồng thời th́ đây chính là Chỉ ư chí
thiện. Đây là dùng ‘Tam Giác’
để giảng.
Trong pháp Đại Thừa nếu dùng ‘Tam
Bồ Đề tâm’ để giải thích th́ cũng thỏa
đáng. ‘Minh minh đức’
chính là tâm thanh tịnh, đức của tâm là thanh
tịnh, ‘Vốn là chẳng có một vật, chỗ nào
có nhuốm bụi trần’; ‘Thân dân’ là Từ bi, ‘Chỉ
ư chí thiện’ là B́nh Đẳng.
Tâm B́nh đẳng là ‘Trực tâm’, … ‘Tâm đại bi’ là ‘Thân dân’.
Đây là nói Học Phật phải biết
cương lănh, tôi học những ǵ? Nói từ ba Tâm Bồ Đề th́
càng rơ ràng, đạo lư của sự học vấn
chẳng có ǵ khác, đó chính là ‘tâm thanh tịnh, tâm b́nh
đẳng, tâm từ bi’, đây tức là học vấn.
Tam Cương là mục tiêu, dùng
phương pháp ǵ để hoàn thành? Phía sau là Bát Mục, dùng Bát Mục
để đạt đến Tam Cương này. Thứ nhất là ‘Cách Vật’,
vật là vật dục. Trong
‘Tứ Thập Hoa Nghiêm’ chúng ta đọc đến
một đoạn nói rơ tai hại của vật
dục. Không những vật
dục là thất t́nh ngũ dục trong thế gian, ngay
cả Phật pháp xuất thế gian cũng bao gồm
trong ấy; chỉ cần bạn có tham, có ái, đều
gọi là Dục. Trong chữ Cách Vật, ‘Cách’ nghĩa là
‘cách trừ’, là ‘cách sát’. Trong
ba nghĩa của danh từ ‘A La Hán’, có một nghĩa là
‘Sát Tặc’, ‘cách vật’ chính là ‘sát tặc’. ‘Cách’ là chiến đấu,
vật dục chính là giặc cướp, giặc cướp
hại bổn tánh của chúng ta.
Nếu bạn muốn minh tâm kiến tánh,
muốn tu ba tâm Bồ Đề, việc thứ nhất
phải làm chính là đoạn phiền năo, tức là
phải làm công việc ‘cách vật’. Cách vật tức là chúng ta
thường nói đến ‘buông xuống’. Mạnh Tử nói: ‘Đạo
Học vấn chẳng có chi khác, mong cầu buông tâm mà thôi’
(Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm
nhi dĩ). Chữ ‘phóng tâm’
này chính là công việc ‘cách vật’.
Buông xuống những ǵ?
Buông xuống vật dục, buông xuống phiền
năo. Khi chúng ta niệm Phật,
đả Phật thất thường nhắc đến
‘buông xuống vạn duyên’ tức là cách vật, ‘buông
xuống thân tâm thế giới’ cũng nghĩa là ‘cách
vật’, được vậy tâm mới có thể thanh
tịnh, có thể chuyên nhất.
Thứ hai là ‘Trí Tri’, Trí Tri tức là học
pháp môn. Đọc Tụng
giảng phía trước tức là cầu Căn Bản
Trí, đây là ‘chủ tu’.
Thế th́ vạn pháp c̣n lại có cần phải
học hay không? Phải
học, đó là ‘trợ tu’, phải tu cả chánh lẫn
phụ (chủ tu và trợ tu).
Chư vị phải ghi nhớ điều này. Khóa tụng mỗi ngày, tụng
kinh luận là khóa chính, hết thảy pháp môn đều
phải học, đó là công khóa.
Những pháp môn này c̣n phải học rơ ràng, nhưng
chẳng phải chỉ học trên kinh điển. Hăy nói mỗi ngày tôi tụng kinh
Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm là khóa tụng chính của tôi, mỗi
ngày tôi đọc tụng, c̣n những kinh Pháp Hoa, kinh
Lăng Nghiêm, kinh Phương Đẳng, kinh A Hàm, kinh Bát Nhă
mỗi ngày tôi đều xem thoáng qua, ‘pháp môn vô lượng
thệ nguyện học’ có nghĩa là như vậy
phải không? Nếu bạn
xem như vậy th́ quá hạn hẹp rồi.
Học pháp môn là ǵ?
Là Trí Tri. Nói cho các bạn
biết, những ǵ nói trong Trí Tri khi sáu căn tiếp xúc
cảnh giới sáu trần, cả ngày từ sáng
đến tối những ǵ mắt thấy, tai nghe
đều là học vấn, đều là trí huệ, đó
gọi là Trí Tri, lớn hơn phạm vi của kinh bổn
quá nhiều, quá nhiều. Pháp
môn vô lượng vô biên!
Học là học như vậy, chẳng phải
giới hạn trên những kinh sách này thôi.
Lúc học cách này cần phải dụng tâm
để học không?
Chẳng cần dụng tâm, nhưng phải dùng
‘Chiếu’! Cách vật có
thể đạt đến mục đích tịch
định, c̣n Trí Tri là ‘từ Định khởi Chiếu’,
tác dụng của khởi chiếu mới có thể thành
tựu trí huệ, đây đúng như lời Lục
Tổ nói: ‘Sanh tám vạn bốn ngàn pháp môn’, đó là Trí Tri.
Thứ ba là ‘Thành Ư’.
Cho các bạn biết tôi lấy những ǵ nói trong
Tứ Hoằng Thệ Nguyện phối hợp với
điều này th́ sẽ thành Phật đạo. Phật là ǵ? Chỉ là Thành mà thôi! Kinh Vô Lượng Thọ nói
đến ‘Tam Bồ Đề Tâm’, thứ nhất là Chí Thành
Tâm. Nhà Nho nói ‘Thành Ư’ tức là
Chí Thành Tâm, Chí Thành Tâm tức là B́nh Đẳng Tâm, tức là
Trực Tâm, tức là Phật Tâm.
Thế nên chư vị muốn thành Phật phải
tu ǵ? Tu B́nh Đẳng tâm, nhà Nho
gọi công phu của Thành Ư.
Sau khi Thành Ư, th́ nói đến ‘Chánh Tâm’, ‘Cách
Vật, Trí Tri, Thành Ư, Chánh Tâm’.
Tâm như thế nào mới gọi là Chánh? Thế nào gọi là chẳng
Chánh? Có thể biết vạn
vật cùng một thể, Tự Tha chẳng hai, tâm như
vậy là Chánh Tâm. Chia Ta và
Người, chia Tự và Tha, ly gián thị phi, tâm như
vậy là Tà tâm, chẳng chánh.
‘Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’, tâm này là
Chánh Tâm, Dụng của Chánh Tâm.
Nhưng tự ḿnh phải biết,
độ chúng sanh cũng như trong kinh Kim Cang có nói: ‘Diệt
độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật
chẳng có chúng sanh được diệt độ’ [63]. Tại sao vậy? Chúng sanh và ḿnh là một, chẳng
phải hai. Trong cái ‘một’
này chẳng có ‘năng độ’ và ‘sở độ’. Trong ‘hai’ th́ có ‘năng độ’,
có ‘sở độ’; Nhị
pháp chẳng là Phật pháp, nhị pháp chẳng là pháp giác
ngộ. Thế nên ‘năng’ và
‘sở’ là một, chẳng phải hai; Tam Cương Bát Mục là
một, chẳng phải ba, cũng chẳng phải
tám. Nếu bạn chia nó thành
ba, thành tám th́ sai mất, vậy th́ mê rồi, chẳng giác nữa.
Bốn điều này là Nội Học,
Thật Trí, Tự Giác; nói cách khác, đọc tụng chú
trọng tại bốn điều này, hạnh giải
tương ứng! Bốn
điều phía sau: Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, B́nh
Thiên Hạ là Ngoại Học, Quyền Trí, Giác Tha. Bát Mục này giống như tám
tầng bảo tháp vậy, tầng dưới là cơ
sở cho tầng trên, từ đó có thể thấy công phu
phải bắt đầu làm từ ‘Cách Vật, Trí Tri,
Thành Ư, Chánh Tâm’, xong rồi mới có thể nói đến
‘Tu Thân’.
Lại nói với các bạn, [tu thân] tức
là ‘tu hành’ trong Phật pháp, nhưng nghĩa của ‘hành’
rộng hơn ‘thân’. V́ ư
nghĩa của ‘hành’ là hành vi, thân thể đạo
đức là hành vi, ngôn ngữ cũng có thể bao gồm
trên thân thể, khẩu cũng là một bộ phận
của thân; nhưng ngoài thân và khẩu c̣n hành vi của ư
nghiệp. Hành vi của ư
nghiệp tức là ‘Cách Vật, Trí Tri, Thành Ư, Chánh Tâm’, có
thể gọi như vậy, hành vi của Tu Tâm; từ Tu
Thân đến B́nh Thiên Hạ đều là hành vi của Tu
Thân, cả hai hợp lại tức là Tu Hành.
Sau khi Tu Thân th́ mới có thể Tề Gia,
gia đă tề nghĩa là cả gia tộc đều
chỉnh tề, ngay ngắn.
Tề Gia dùng tiêu chuẩn ǵ để ‘tề’? Là dùng Ngũ Luân, Thập Nghĩa
để chỉnh tề.
Khổng Tử nói đến ‘Phụ phụ tử
tử’, đây là gia tề.
Cha giống một người cha, con
giống một người con, ở đây chỉ nêu lên
một điều để nói.
Từ xưa ‘Quân quân, thần thần’, người
quan lănh đạo giống như một người quan
lănh đạo, thuộc hạ giống như một
người thuộc hạ, như vậy th́ quốc
được trị vậy!
B́nh Thiên Hạ nghĩa là ǵ? B́nh là công b́nh, hết thảy chúng
sanh trong thiên hạ đều đạt được
công b́nh. Làm sao mới
đạt được công b́nh?
Mỗi người đều giữ bổn phận
của ḿnh th́ thiên hạ sẽ b́nh. Thế nên pháp thế gian và
xuất thế gian đều vô cùng coi trọng bổn
phận. Chẳng giữ
bổn phận th́ thiên hạ sẽ đại
loạn! Những ǵ ḿnh
đáng làm lại không làm, chuyện của người ta
th́ ḿnh làm, ai cũng làm vậy th́ làm sao thiên hạ chẳng
loạn được? Xă
hội là một đoàn thể sanh hoạt, mỗi
người có cương vị làm việc của ḿnh,
bạn giữ tại cương vị này th́ gọi là
giữ bổn phận. Nói
thật ra người hiện đại đều
chẳng giữ bổn phận, điểm này vô cùng quan
trọng…
Học
vi nhân sư hành vi thế phạm
Tập
3
Ḥa thượng Tịnh Không thuyết giảng
Đây là những bài khai
thị buổi sáng của ḥa thượng Tịnh Không cho
đồng tu khắp nơi, chưa được ḥa
thượng giám định.
Đây chỉ là những lời tóm tắt của nhóm ghi
chép bài giảng, chỉnh lư cho gọn rồi viết thành
bài nháp này để cúng dường độc giả.
A.
KHAI THỊ VỀ PHƯƠNG PHÁP TU TR̀
1. Y giáo phụng hành mới có thể
chứng quả (Buổi sáng 22-2-99)
Thế Tôn
thường nói: ‘Thân người khó
được, Phật pháp khó được nghe’,
chúng ta may mắn được thân người và c̣n có
cơ hội nghe được Phật pháp th́ phải trân
quư nhân duyên thù thắng này.
Những năm gần đây chúng ta hết ḷng
học theo lời dạy của đức Phật và
đă thấy được vài chứng minh trong
đời sống.
Thường thức cạn cợt nhất là lời
dạy của đức Phật về ‘nhân duyên quả
báo’, chúng ta hăy b́nh tĩnh quan sát kỹ th́ đích thật
bố thí tài vật được quả báo giàu sang,
bố thí pháp được quả báo thông minh trí huệ,
bố thí vô úy được quả báo khỏe mạnh
sống lâu. Có thể hiểu
được đạo lư và chân tướng sự
thật này th́ trong sinh hoạt hằng ngày tâm t́nh tự
nhiên sẽ ổn định, đó tức là ‘tâm an lư
đắc’; sau khi hiểu đạo lư th́ tâm sẽ an.
Cuốn Liễu
Phàm Tứ Huấn kể chuyện ông Liễu Phàm và Vân
Cốc thiền sư ngồi trong thiền
đường suốt ba ngày ba đêm chẳng khởi lên
một vọng niệm, phần đông người
thường chẳng làm được việc này. Phần nhiều người ta có
vọng niệm lung tung, phân biệt chấp trước quá
nhiều, trong kinh gọi họ là phàm phu, ‘người
đáng thương xót’.
Thiền sư Vân Cốc nói: “Công phu của anh khá
lắm!”. Ông Liễu Phàm
trả lời: “Con chẳng có công phu, mạng con đă
được Khổng tiên sinh đoán chắc rồi,
cả đời tốt xấu, kiết hung, họa
phước đều đă được an bài sẵn
trong vận mạng, khởi vọng tưởng cũng
chẳng có ích chi nên con không thèm khởi nữa”. Tuy ông Liễu Phàm hiểu sự
thật này nhưng chẳng thấu triệt, chỉ
hiểu như vậy nhưng chẳng hiểu tại sao
lại như vậy. Sau
đó thiền sư khai thị cho ông, giảng cho ông
biết lư do tại sao. Ông y
theo lời dạy của thiền sư, hết ḷng nỗ
lực thực hành và thật sự đă biến
đổi được vận mạng. Thế nên hiểu rơ đạo lư
và chân tướng sự thật mới có thể sửa
đổi và sáng tạo vận mạng.
Bồ Tát gồm có
năm mươi mốt cấp bậc, đạo lư và
cảnh giới của mỗi bậc đều chẳng
giống nhau. Bậc thấp
nhất là quả vị Sơ Tín của Viên Giáo, những
ǵ Bồ Tát bậc này hiểu được cao hơn ông
Liễu Phàm quá nhiều, nhưng thuộc về bậc
thấp nhất trong Phật giáo, đến quả vị
Như Lai mới thấu triệt rốt ráo. Giáo học của nhà Phật
chẳng qua chỉ là giúp chúng ta hiểu rơ chân tướng
của vũ trụ nhân sanh mà thôi.
Người thực sự hiểu rơ chân tướng
là Pháp Thân đại sĩ, là quả vị Viên Giáo Sơ
Trụ Bồ Tát. Từ
quả vị Sơ Trụ trở xuống tuy hiểu
nhưng chẳng thấu triệt, chỉ là giải
ngộ, c̣n chưa chứng ngộ.
Thí dụ việc Phật nói hết thảy chúng sanh
đều là pháp thân của chính ḿnh, chúng ta tin sâu chẳng
nghi, đây là giải ngộ chứ chưa chứng
thực được, c̣n chưa xem hết thảy chúng
sanh như chính ḿnh, chúng sanh và ḿnh c̣n có chỗ khác nhau. Nếu đối đăi với
hết thảy chúng sanh giống như chính ḿnh th́ đó
mới là chứng ngộ, đó là Pháp Thân đại
sĩ.
Chúng ta hiện nay
hiểu được những đạo lư này chứ
chưa làm được, đó là giải ngộ,
chẳng phải chứng ngộ.
Thầy Lư thường nói giải ngộ không dùng
được, phải sanh tử như thế nào th́
vẫn phải sanh tử như thế ấy, chẳng có
cách chi thoát ly luân hồi, đến mức chứng
ngộ mới có thể thoát ly luân hồi; không những
thoát ly luân hồi mà c̣n thoát ly thập pháp giới, chứng
được Nhất Chân pháp giới. Đến Nhất Chân pháp giới
mới thực sự được đại tự
tại, được hạnh phúc mỹ măn. Hạnh phúc mỹ măn trong thập
pháp giới chẳng phải thiệt, ‘chân - thiện -
mỹ - huệ’ chỉ có danh, không thật; Nhất Chân pháp
giới mới là ‘chân - thiện - mỹ - huệ’ chân
thật. Sự kỳ vọng
và khích lệ của Phật đối với chúng ta là hy
vọng chúng ta nội trong đời này chứng
được. Những ǵ
đức Phật dạy, chúng ta nhất định có
thể làm được, vấn đề là ‘chúng ta có
chịu làm hay không’. Phật
dạy chúng ta mở rộng tâm lượng, thương
yêu hết thảy chúng sanh cũng như chính ḿnh, như
vậy là ‘hành’, giải - hành phải tương ứng
mới có thể chứng được.
Nhiều
người trong thế gian có dă tâm rất lớn, họ
muốn làm người khống chế toàn thế
giới, họ có thể làm được không? Có thể.
Trong kinh Phật nói vua lớn nhất trong thế gian
là Kim Luân Vương, thống trị một ‘Tứ thiên
hạ’, tức là thống trị một thái dương
hệ. Tại sao xưng là
Luân Vương? V́ Ngài dùng ‘Luân
Bảo’ làm công cụ giao thông và vơ khí. Việc này làm chúng ta liên
tưởng đến vài chục năm gần đây
nhiều nơi trên thế giới đồn đăi
chuyện dĩa bay, dĩa bay chắc có lẽ là ‘luân
bảo’ của Luân Vương.
Có thể Luân Vương phái thuộc hạ
đến đây xem xét.
Họ dùng luân bảo này trong một ngày đêm có
thể đi khắp một ‘tứ thiên hạ’, tức là
một thái dương hệ, đây là một cách giải
thích.
Nếu nói theo lăo
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, một đơn vị
thế giới là một hệ ngân hà; nói cách khác phạm vi
cai quản của Luân Vương là một hệ ngân hà. Luân bảo của ngài trong ṿng hai
mươi bốn giờ có thể đi khắp một
hệ ngân hà. Tại sao Luân
Vương có thể thống trị một cơi
nước lớn như vậy?
Trong kinh nói ngài tu ‘Thập thiện nghiệp
đạo và Tứ vô lượng tâm’ nên được
phước báo lớn như vậy. Ma Hê Thủ La Thiên Vương là
thiên vương có phước báo lớn nhất, Kim Luân
Thánh Vương là người có phước báo lớn
nhất trong cơi người, họ đều do tu tập
tích lũy công đức mà được thành tựu
như vậy, nhất định chẳng phải do vơ
lực, ngang tàng mà thành tựu.
Ở Trung Quốc,
Tần Thỉ Hoàng dùng bá đạo [cai trị] ba
mươi mấy năm liền mất nước;
thời gian gần đây Hitler dùng bá đạo th́ cũng
vậy; người Nhật dùng vơ lực gây chiến
với Trung Quốc sau tám năm th́ gần như diệt
vong và đến sau cùng phải đầu hàng vô
điều kiện; đây là bằng chứng trong lịch
sử cho việc bá đạo chẳng thể thành
tựu. Trong lịch sử
Trung Quốc, vương triều kiến lập
được dài nhất là đời nhà Châu, kéo dài
được tám trăm năm chính là nhờ thực hành
chánh sách nhân từ, dùng Ngũ Luân, Bát Đức [64]
để trị thiên hạ.
Con cháu cuối đời nhà Châu chẳng tuân theo
lời dạy của tổ tiên, chẳng nhân, chẳng
nghĩa nên dẫn đến vong quốc. Nếu họ vẫn tuân theo
nề nếp của tổ tông th́ nhà Châu đă chẳng
phải diệt vong.
Thế nên nhân
từ, chân thành, yêu người, giúp đỡ người
vô điều kiện, thành tựu cho người là
phước báo chân thật trong thế gian và xuất
thế gian. Phước báo
chân thật chẳng để cho ḿnh hưởng, mà cho
hết thảy chúng sanh hưởng, v́ hết thảy chúng
sanh là chính ḿnh. Cũng
giống như một người già chân chánh thương
yêu con cháu, tự ḿnh làm việc, canh tác siêng năng, cực
nhọc v́ muốn cho con cháu được hạnh phúc,
mỹ măn. Ông ta xem con cháu
như chính ḿnh, con cháu hưởng th́ cũng như chính
ḿnh hưởng thọ, đây là người trong thế
gian. Chư Phật, Bồ Tát
coi tất cả chúng sanh cũng như chính ḿnh, trên
thực tế hết thảy chúng sanh thật sự là
chính ḿnh. Ở đây nói rơ sanh
mạng là một thể hoàn chỉnh, tận hư không
trọn khắp pháp giới là một thể cộng
đồng của chính ḿnh, nghĩa là cùng chung một
thể.
Nếu ví hư
không pháp giới như một thân người, hết
thảy chúng sanh chính là tế bào trong thân thể. Mỗi tế bào đều là
chính ḿnh, mỗi tế bào đều b́nh đẳng. Tuy mỗi công năng chẳng
giống nhau, mắt có thể thấy, tai có thể nghe
nhưng bất luận là mắt, tai, mũi, lưỡi
hay nội tạng, tứ chi, da, móng tay khi phân tách nhỏ
đều thành phân tử, nguyên tử, điện tử,
những bộ phận này đều hoàn toàn giống nhau,
đều b́nh đẳng. Thế
nên tận hư không trọn khắp pháp giới
đều là chính ḿnh, đây là tri kiến Phật.
Tông Hoa Nghiêm
thường nói ‘Tác Pháp Giới Quán’. Lúc trước có một số
lăo pháp sư, như pháp sư Long Tuyền, Trí Quang và Nam Đ́nh
đều học Hoa Nghiêm, trong kinh Hoa Nghiêm họ thấy
tổ sư, đại đức nói về ‘Tác Hoa Nghiêm
Quán’. Thế nào là Hoa Nghiêm
Quán? Trong đời sống
thường ngày, dốc sức làm việc và tận
lực học hành, tận hư không trọn khắp pháp
giới đều là chính ḿnh, đây chính là Hoa Nghiêm
Quán. Thế nên hết thảy
chúng sanh giống như các tế bào trong thân thể, các
tộc đoàn (tạm dịch cho chữ
tộc quần, đoàn thể chủng tộc)
khác nhau giống như các khí quan (bộ phận trên thân thể),
thiếu một tộc đoàn [giống như thiếu
một khí quan] th́ người này sẽ sanh bịnh. Thế mới biết các tộc
đoàn khác biệt hợp lại với nhau một cách
hoàn chỉnh, mỹ măn, tốt đẹp, trở thành
một thể có cùng chung một sanh mạng, hiểu
được như vậy th́ bạn sẽ thương
yêu hết thảy chúng sanh chẳng cùng tộc đoàn. V́ vậy chúng ta đối
với những văn hóa, tộc đoàn, tôn giáo khác nhau
đều dùng tâm chân thành và thương yêu, dùng hết
sức giúp đỡ, như vậy chính là đem kinh Hoa
Nghiêm biến thành hiện thực (lạc thực). Lạc thực nghĩa là
chứng quả của kinh Hoa Nghiêm. Trong ‘Tín, Giải, Hành, Chứng’,
Chứng có nghĩa là ‘lạc thực’, hoàn toàn thực
hiện được trong đời sống, đời
sống hiện thực này chính là ‘Phật Hoa Nghiêm’,
[như vậy] chúng ta mới đạt được
thọ dụng chân thật.
Chúng ta phải thể hội
tấm gương năm xưa đức Phật Thích Ca
thị hiện, hết ḷng học tập trong ṿng một
năm th́ sẽ có thể sống cuộc đời
của Phật, Bồ Tát. Lúc
đó bạn sẽ thành Phật, thành Bồ Tát, tiền
đồ vô cùng tươi sáng.
Đây là kỳ vọng của chư Phật, Bồ Tát
đối với chúng ta, nội trong đời này
chắc chắn có thể chứng được, chỉ
cần thực sự y giáo phụng hành. Những ǵ Phật dạy th́ chúng
ta làm hết ḷng, những ǵ đức Phật dạy
đừng làm th́ chúng ta nhất định không làm, như
vậy th́ sẽ chứng nghiệm được chân
tướng sự thật nói trong kinh, mới
được thọ dụng chân thật của Phật
pháp.
2. Ba nguyên nhân của bịnh
tật
(Buổi sáng 25-2-99)
Nguyên nhân của
bịnh tật gồm có ba loại:
Loại thứ
nhất là nguyên nhân thuộc về sinh lư (thuộc về
phương diện sinh vật học). Kinh Hoa Nghiêm nói hết thảy các
pháp trong hư không pháp giới đều ‘duy tâm hiện,
duy thức biến’. Đây là
cơ sở, căn bản của Phật pháp, tất
cả chư Phật đều kiến lập Phật
pháp trên cơ sở này, tuyên thuyết vô lượng vô biên
pháp môn cho chúng sanh. Thế nên
chân tướng sự thật là ‘y báo
chuyển theo chánh báo’, chánh báo là tâm
thức, những ǵ có thể biến, có thể hiện là
chánh báo, những ǵ được biến, được
hiện là y báo. Nếu hết
thảy y báo đều có thể tùy thuận theo chánh báo,
tức là ‘tùy thuận theo sanh thái tự nhiên’, như
vậy là khỏe mạnh nhất, tốt nhất.
Thân thể là
một cái vũ trụ nhỏ, nếu mỗi khí quan,
mỗi sợi gân máu nhỏ li ti, mỗi tế bào
đều có thể tùy thuận sanh thái tự nhiên th́ [thân
thể] chẳng bao giờ bị bịnh. Ngược lại nếu
chẳng thể tùy thuận theo tự nhiên th́ sẽ sanh
bịnh, đây là nguyên nhân bịnh tật thuộc về
sinh lư. ‘Tự nhiên’ nói ở
đây tức là ‘tâm tánh’ của chính ḿnh, Phật nói ‘chân tâm
ly niệm’, chân tâm chẳng có một vọng niệm ǵ
cả tức là tự nhiên.
Từ đây có thể biết khởi tâm động
niệm là vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, tức là đối nghịch với tự
nhiên, đối nghịch với tâm tánh, cho nên những
thứ này phá hoại khí quan, mạch máu, các tổ chức
tế bào trong thân thể chúng ta, đây là nguyên nhân sanh ra
bịnh tật. Do đó tâm
địa càng thanh tịnh th́ đau bịnh càng ít,
nghiệp chướng cũng giảm nhẹ. Tất cả phiền phức
đều do vọng tưởng sanh ra, đây chẳng
những là nguồn gốc của bịnh tật mà
cũng là cội rễ của lục đạo sanh
tử luân hồi. Chúng ta
hiểu được đạo lư này th́ phải tu tâm
thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm chân thành, quay về
với tự nhiên, quay về với pháp tánh.
Quay về pháp tánh
tức là ‘Pháp Thân Bồ Tát’, vĩnh viễn chẳng c̣n
sanh tử, chẳng c̣n phiền năo, chẳng c̣n bịnh
đau. Cảnh giới này chính
là Nhất Chân pháp giới, Hoa Tạng thế giới,
Cực Lạc thế giới, và các báo độ của
chư Phật, Bồ Tát đều như vậy. Chúng sanh mê mất tự tánh, trái
ngược với tự nhiên nên mới nhận chịu
các thứ khổ nạn.
Người chân chánh có chí khí, có trí huệ sẽ t́m
nguồn gốc của khổ nạn và tiêu trừ nó
để khôi phục cái đạo trường thọ,
hạnh phúc nhất, khỏe mạnh nhất này, đó chính
là ‘Vô Lượng Thọ’ nói trong kinh Vô Lượng
Thọ. Mỗi người
vốn có vô lượng thọ nhưng v́ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước nên mới biến thành
sanh tử luân hồi, tạo thành những ác tướng
[trong luân hồi] này.
Loại thứ nh́
là bịnh oan nghiệp, tức là oan gia chủ nợ trói
buộc. Câu chuyện của
Ngộ Đạt quốc sư đời Đường ghi
trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám là thí dụ điển
h́nh. Ngộ Đạt quốc
sư là cao tăng suốt mười đời, công phu tu
hành rất tốt, tŕ giới tinh nghiêm, thiện căn
chẳng mê muội, liên tục mười đời
đều xuất gia tu hành.
Đến đời thứ mười th́ trí huệ,
phước đức thành tựu nên được vua
tôn làm thầy. Đây chẳng
phải do tu hành trong một đời mà là do tu hành, trí
huệ, phước đức tích lũy từ nhiều
đời mới có thể làm thầy của vua. Giả sử ngài có thể
gặp được pháp môn Tịnh Độ th́ đă
sớm về thế giới Cực Lạc thành Phật
rồi!
Ngộ Đạt
quốc sư thọ nhận hoàng đế cúng
dường trầm hương bảo tọa (ghế Thái
Sư làm bằng gỗ trầm hương), nên sanh tâm hoan
hỷ (hoan hỷ là phiền năo, thuộc về thất
t́nh ngũ dục: hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố,
dục (vui, giận, buồn, mừng,
thương, ghét, ham muốn). Một tâm niệm hoan hỷ
khởi lên th́ thần hộ pháp liền rời khỏi,
oan gia chủ nợ t́m đến và tạo nên một
mụt ghẻ mặt người [trên đầu gối
của quốc sư], khổ chẳng nói nổi. Hoàng đế t́m những vị
thầy thuốc giỏi nhất chẩn bịnh cho ngài
nhưng cũng không chữa hết. Ngài nhiều đời
đều dụng công chân thật, chỉ v́ lúc đó
tiếp thọ cúng dường, sanh tâm ưa thích nên
phiền năo hiện tiền.
Cho nên đức Phật dạy các đệ tử
xuất gia phải ‘dùng khổ làm thầy’ là có đạo
lư phi thường. Rất
nhiều người tu hành một khi nhận sự cúng
dường ngũ dục lục trần của tín đồ
bèn đi đến A Tỳ địa ngục. Tấm gương của
đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện là ba y
một bát, đêm ngủ dưới gốc cây, ngày ăn
một bữa, tuyệt đối sẽ chẳng thoái
đọa.
Ghẻ mặt
người là do oan gia chủ nợ đời
trước của Ngộ Đạt quốc sư,
người này là người làm chung với quốc
sư, đời trước bị ngài hại chết [65]. Oán hận kết quá sâu. Ngài là người tu hành có
thần hộ pháp bảo hộ, tuy oan gia đời
đời kiếp kiếp đều đi theo nhưng
chẳng thể đến gần.
Đến đời thứ mười mới t́m
được cơ hội nên oan gia liền nhập vào
người. Ngài gặp
nạn này, Phật, Bồ Tát biết được; trong
kinh Kim Cang, đức Phật Thích Ca Mâu Ni phó chúc các
đại Bồ Tát phải thường săn sóc, lo
lắng cho tiểu Bồ Tát.
Lúc Ngộ Đạt quốc sư c̣n làm một chú
tiểu, một hôm gặp người hành khất bị
ghẻ độc, mùi hôi hám khó chịu nổi, chẳng ai
chịu đến gần người hành khất này. Khi ngài gặp được, sanh
khởi tâm từ bi và săn sóc cho người hành
khất, lại c̣n dùng miệng hút mủ độc ra. Sau đó người hành khất
bớt bịnh và nói với ngài:
‘Nếu sau này ông gặp khó khăn ǵ th́ hăy đến
t́m tôi, tôi trú tại một ngọn núi ở Tứ Xuyên,
trên núi có hai cây ṭng, [ông t́m chỗ có hai cây ṭng th́ sẽ
gặp tôi]’.
Khi Ngộ Đạt
quốc sư bị ‘ghẻ mặt người’, nhớ
đến lời người hành khất này đă nói lúc
trước nên đến Tứ Xuyên để t́m
người ấy. Đi theo
lời dặn quả nhiên t́m được chỗ có hai
cây ṭng, ngài đến chỗ đó và nh́n thấy một
đạo tràng lớn hiện ra.
Người hành khất sanh bịnh lúc trước
chính là tôn giả Ca Nặc Ca thị hiện, ngài là một
vị đại A La Hán đến để thử xem
Ngộ Đạt quốc sư có tâm đạo, tâm từ bi
hay chăng, và cũng biết tương lai ngài sẽ
bị nạn ghẻ mặt người. Sau đó tôn giả Ca Nặc Ca
dùng nước Từ Bi Tam Muội để rửa
ghẻ mặt người; mụn ghẻ mặt
người đột nhiên thốt ra tiếng và kể
lại nghiệp duyên đời trước. Lúc bấy giờ Ngộ Đạt
quốc sư mới hiểu.
Tôn giả Ca Nặc Ca điều [đ́nh hóa] giải
oan trái này xong, oan gia đồng ư và chịu ra khỏi thân
thể th́ bịnh của Ngộ Đạt quốc sư
liền khỏi.
Thế nên
người đời đừng kết oán thù, chuyện
này quan trọng phi thường.
Nếu người ta hủy báng ḿnh, sỉ nhục
ḿnh, hăm hại ḿnh th́ cũng phải cam tâm nhẫn
chịu, tuyệt đối đừng khởi lên tâm
niệm báo phục ǵ hết.
Nếu có một tơ hào tâm niệm muốn báo thù th́
sẽ oan oan tương báo chẳng bao giờ dứt. Hôm nay họ sỉ nhục, hăm
hại, thậm chí sát hại ḿnh, nhất định là
đời trước ḿnh đă từng hại họ,
sỉ nhục họ, hôm nay họ đối với ḿnh
như vậy th́ món nợ này sẽ được trả
dứt. Hết thảy nên nghĩ
là ḿnh phải trả nợ, đời sau có gặp
lại th́ sẽ là bạn bè, sẽ chẳng làm oan gia
đối đầu nữa.
Do đó quyết không nên có một tơ hào muốn làm
hại người khác, đừng có một chút hành vi ǵ
làm tổn hại kẻ khác, đó chính là tu hành,
được vậy th́ bạn mới thật sự có
phước.
Không thể kết
oán thù với hết thảy chúng sanh, ngay cả súc sanh
cũng chẳng thể kết oán.
Kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Người chết
làm dê, dê chết làm người’, người
ăn thịt dê, người chết đi biến thành dê,
dê chết đi lại sanh làm người, người
lại ăn thịt dê, đời đời kiếp kiếp
ăn qua ăn lại, oan oan tương báo, dây dưa
chẳng dứt. Đến lúc báo
đền th́ tuyệt chẳng báo đền vừa
đúng, sẽ luôn luôn thêm một ít, mỗi đời
đều thêm một chút, đến sau cùng sẽ tạo
thành kiếp nạn to lớn.
Trong bài ‘Văn Xương Đế Quân Âm Chất
Văn’ có một đoạn kể chuyện Văn
Xương Đế Quân đời trước tạo sát
nghiệp, từ một sát nghiệp nho nhỏ tích lũy
mười mấy đời trở thành sát nghiệp
nặng nề, quả báo tại địa ngục A
Tỳ. Đây là nhân duyên thứ
nh́ gây ra bịnh tật.
Nếu gặp những loại bịnh này, phải
tụng kinh, niệm Phật, tích lũy công đức
hồi hướng để điều giải (điều đ́nh hóa giải). Nếu họ tiếp nhận th́
vấn đề sẽ được giải quyết,
[bịnh tật sẽ khỏi]; nếu họ chẳng
chịu th́ vẫn c̣n phiền phức.
Loại thứ ba
là bịnh do nghiệp chướng tạo nên, chẳng
thuộc về sinh lư (thuộc về
phương diện sinh vật học), cũng
chẳng thuộc oan nghiệp, là do tự ḿnh tạo ác
nghiệp quá nhiều. Loại
bịnh này thuốc men chẳng có hiệu quả ǵ
hết; tụng kinh, bái sám, hồi hướng cũng
chẳng có hiệu quả, chỉ có cách dùng tâm chân thành sám
hối mới có thể cứu.
Nói cách khác phải dùng tâm chân thành và tu pháp sám hối,
sửa sai đổi mới, ‘đừng làm việc ác,
chuyên làm việc thiện’ th́ mới có thể tiêu trừ
loại bịnh khổ này. Tóm
lại phàm là bịnh đau ǵ th́ nhất định
phải có nguyên nhân, tiêu trừ hết nguyên nhân ấy
mới có thể khôi phục sức khỏe thực
sự.
Trong xă hội hiện nay
thường có ba loại bịnh này, nếu người
bịnh biết được nguyên nhân gây bịnh, y theo
lời dạy mà tu hành th́ chẳng ai không được
cứu. Những chuyện này
chỉ có Phật pháp mới nói được thấu
suốt, viên măn, chúng ta học Phật th́ cũng phải
biết. Có thân thể khỏe
mạnh, tâm địa thanh tịnh, b́nh đẳng, từ
bi, th́ chướng ngại trên đường Bồ
Đề sẽ giảm bớt, tu hành chứng quả sẽ
được thuận buồm xuôi gió.
3. Ư nghĩa chân thật của
Phật thất
(Buổi sáng 22-3-99)
a. Mục đích của Phật
thất:
Phật thất chẳng phải
là pháp hội, nếu xem như là pháp hội th́ đó
chỉ là tụ tập náo nhiệt, ư nghĩa chẳng
lớn. Mục đích chân
chánh của Phật thất là buông xuống vạn duyên, hy
vọng trong ṿng bảy ngày này nhất tâm chuyên niệm A Di
Đà Phật, và đạt được kết quả ‘nhất
tâm bất loạn, tâm bất điên đảo’. Công phu nhất tâm bất loạn
có sâu cạn chẳng đồng, dựa trên sự buông
xuống của hành giả được nhiều hay ít;
buông xuống được nhiều th́ công phu nhất tâm
được sâu; buông xuống ít th́ công phu nhất tâm
sẽ cạn. Nhất tâm
gồm có Lư nhất tâm, Sự nhất tâm, và công phu thành
phiến, công phu thành phiến là Sự nhất tâm mức
cạn nhưng vẫn nắm chắc có thể văng sanh tây
phương Cực Lạc thế giới.
b. Công phu thành phiến
Công phu thành phiến là như
thế nào? Niệm Phật
đă được thuần thục, chân chánh trong ngày
đêm sáu thời (tức là hai
mươi bốn giờ) chẳng khởi
vọng niệm, chỉ có Phật hiệu trong tâm; lúc
niệm có Phật hiệu, lúc chẳng niệm vẫn có
Phật hiệu trong tâm.
Rất nhiều đồng tu có kinh nghiệm này
nhưng chỉ có thể duy tŕ trong thời gian ngắn,
chẳng thể duy tŕ lâu dài, nếu có thể duy tŕ lâu dài
th́ tức là công phu thành phiến, đây là cảnh giới
tốt.
c. Làm thế nào buông xuống
Phải biết
vọng tưởng, tạp niệm, phân biệt, chấp
trước nhất định sẽ phá hoại chánh
niệm. Chúng ta phải có cảnh
giác cao độ, nếu không thể buông bỏ vọng
tưởng, tạp niệm th́ chẳng thể văng sanh,
chẳng thể thoát ly lục đạo luân hồi. Làm thế nào để giải
quyết vấn đề này? Câu trả lời vẫn là
một câu nói cũ rích: ‘Phải buông
xuống’!. Trong
đời sống thường ngày niệm niệm đều
v́ chúng sanh, niệm niệm đều v́ xă hội,
đừng nghĩ cho ḿnh th́ sẽ dễ buông xuống
được. Lư do
người thế gian chẳng thể buông xuống là v́
khi khởi tâm động niệm đều nghĩ cho
ḿnh, đều v́ ḿnh, đây là một chướng
ngại to lớn. Chư
Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức trong
các kinh luận nhiều lần nhắc nhở chúng ta, chúng
ta đă đọc xong, nghe xong, vẫn trơ trơ như
đá, vẫn tự tư tự lợi, vẫn giữ tâm
niệm bảo hộ ḿnh.
Điều đầu
tiên trong tư tưởng của người Mỹ là làm
thế nào để bảo vệ chính ḿnh. Ở Mỹ tư tưởng này
được công nhận là chính xác, có thiệt là chính xác
hay chăng? Không hẳn
vậy. Niệm niệm
muốn bảo hộ ḿnh là tăng thêm ngă chấp. Ngă chấp là căn bản
của lục đạo luân hồi. Phật dạy chúng ta phải ‘vô
ngă’ cho nên bảo hộ ḿnh là sai lầm. Vô ngă th́ sẽ chẳng có luân
hồi, có ‘Ta’ th́ sẽ có luân hồi; có ‘Ta’ th́ nghiệp
ḿnh tạo là nghiệp luân hồi; vô ngă -- chẳng có Ta th́
nghiệp ḿnh tạo là tịnh nghiệp. Chữ Ngă trong ‘Thường -
Lạc - Ngă - Tịnh’ nói trong kinh là ‘chân ngă’, ngày nay chúng ta
chấp trước thân này là Ta, đây là ‘giả ngă’ (Ta
giả). Thiền tông nói
rất hay: ‘mặt mũi vốn sẵn có khi cha mẹ
chưa sanh’ mới là chân ngă.
Chân ngă là tự
tánh, pháp tánh, pháp thân, t́m được chân ngă tức là
thành Phật, tức là pháp thân Như Lai. Pháp thân là ǵ? Hư không pháp giới hết
thảy chúng sanh chính là pháp thân.
Do đó mới biết chúng ta thường niệm
hết thảy chúng sanh, thường tưởng hết
thảy chúng sanh th́ sẽ tương ứng với pháp
thân, chân ngă, Phật đạo.
Niệm niệm đều tự tư tự
lợi, niệm niệm đều bảo hộ chính ḿnh
là sai lầm to lớn. Bao nhiêu
thiện pháp, công đức chân thật đều bị
quan niệm sai lầm này gây nên chướng ngại;
chẳng những chướng ngại thiện pháp công
đức của ḿnh mà c̣n tạo nên rất nhiều
nghiệp tội. Tội
nghiệp này sẽ chướng ngại hết thảy
thiện pháp của chúng sanh, phá hoại công đức
của đại chúng, căn nguyên của những thứ
này đều là ‘một niệm riêng tư’.
Đặc biệt
trong thời đại hiện nay, tai nạn dồn
dập, đây chẳng phải là dấu hiệu
tốt. Nếu chúng ta muốn
cứu ḿnh th́ đầu tiên phải dẹp bỏ tâm
niệm tự tư tự lợi.
Niệm Phật th́ cũng v́ hết thảy chúng sanh
mà niệm, đây chẳng những là tự lợi mà
cũng là lợi tha. [Hăy
nghĩ] tôi hết ḷng nỗ lực niệm Phật là v́
muốn tiêu tai nạn [nghiệp chướng] của
hết thảy chúng sanh, v́ cầu ḥa b́nh vĩnh cửu cho
thế giới, chẳng phải v́ ḿnh mà niệm. Chúng sanh tạo nghiệp chẳng
biết niệm Phật, tôi niệm Phật thay cho họ,
đây là ḷng tốt. Cho dù
kiếp nạn chẳng thể tiêu trừ nhưng cũng
có thể giảm bớt, tŕ hoăn, hoặc rút ngắn,
hiệu quả này có thể khẳng định
được.
Phật thất tại Niệm
Phật Đường Tân Gia Ba kéo dài suốt năm, giảng
đường mỗi tuần giảng kinh mười
bốn giờ, mục đích là cầu mong tiêu tai miễn
nạn cho hết thảy chúng sanh, cầu mong xă hội an
định ḥa b́nh, chẳng hoàn toàn v́ cá nhân ḿnh. V́ chúng sanh tức là v́ chính ḿnh, v́
ḿnh mà niệm Phật th́ có thể làm biếng giải
đăi, nếu v́ chúng sanh th́ sẽ chẳng dám giải
đăi. Nếu tôi chẳng
hết ḷng niệm Phật th́ chúng sanh sẽ chẳng
được cứu; nếu tôi hết ḷng niệm
Phật th́ tai nạn sẽ được hóa giải; nói
cách khác tôi có trách nhiệm trong việc hóa giải kiếp
nạn được hay không, có thể tŕ hoăn kiếp
nạn hay không. Tôi phải dùng
tâm thanh tịnh, tâm chân thành, tâm từ bi dũng mănh tinh
tấn, niệm câu Phật hiệu này cho đàng hoàng, buông
xuống hết thảy thân tâm thế giới th́ tự
nhiên sẽ được cảm ứng.
4.
Duyên và Sám hối (Buổi sáng 27-3-99)
a. Thị hiện văng sanh.
Trong Phật
thất tại Dallas, lăo cư sĩ họ Mă văng sanh, chúng
tôi nghe xong vô cùng hoan hỷ.
Trong ‘tam chuyển pháp luân’ - thị chuyển,
khuyến chuyển, chứng chuyển, cụ Mă thị
hiện văng sanh trong Phật thất và đă chứng minh
cho chúng ta. Đây là lợi ích, công
đức thù thắng của sự niệm Phật, chúng
ta nên noi gương và học tập. Hết thảy pháp trong thế
gian đều là giả, chỉ có văng sanh bất thoái thành
Phật là thiệt, chúng ta phải nắm chắc cơ duyên
này.
Đại Từ Bồ Tát nói: ‘Nếu
có thể trong đời này khuyên hai người văng sanh th́
c̣n hơn tự ḿnh tinh tấn, nếu có thể khuyên
mười hoặc hai mươi người văng sanh th́
công đức vô lượng’.
Khuyên người được càng nhiều th́ càng
thù thắng, công phu niệm Phật của ḿnh dở
một chút cũng có thể văng sanh. Thế nên giúp người văng sanh
là công đức lớn nhất trong thế gian và xuất
thế gian.
b. Duyên
Lư do niệm
Phật nhưng chẳng thể văng sanh, thứ nhất là
v́ thiện căn, phước đức, và nhân duyên
chẳng đủ. Kinh Di Đà nói:
‘Chẳng thể dùng ít thiện căn,
phước đức, nhân duyên được sanh cơi
ấy’. Thứ
nh́ là v́ nghe kinh quá ít, đối với những đạo
lư và chân tướng sự thật mà đức Phật
đă dạy, chẳng khế nhập, chẳng thể lư
giải, vẫn sanh hoạt trong phiền năo, vọng
tưởng, tạp niệm, cho nên công phu đă bị
khấu trừ đi rất nhiều. Công phu chẳng đắc lực
và niệm Phật khó được thành tựu cũng chẳng
vượt ra ngoài hai nhân tố này.
Thiện căn phước đức có thể thành
thục hay chăng th́ ‘duyên’ rất quan trọng. Đây cũng như lời dạy
của Thiện Đạo đại sư trong ‘Quán Kinh
Sớ’: ‘Cửu phẩm văng sanh
đều do gặp duyên chẳng đồng’. Nói cách khác nếu
gặp được duyên thù thắng th́ cho dù thiện
căn phước đức kém một tí nhưng vẫn
có thể bù đắp, đời này cũng quyết định
văng sanh. Do đó có thể
thấy ‘duyên’ đối với chúng ta vô cùng quan trọng.
Đạo tràng là duyên, bạn
tốt là duyên, nghe pháp là duyên, năm xưa lúc đức
Phật c̣n tại thế, Ngài thị hiện cho chúng ta xem
suốt bốn mươi chín năm mỗi ngày giảng
kinh thuyết pháp chẳng gián đoạn, đây là làm
‘tăng thượng duyên’ cho chúng ta, làm cho những
người có thiện căn phước đức kém
một chút dùng phương pháp nghe kinh để bù
đắp th́ ngay trong đời này có thể thành tựu.
c. Đạo tràng chánh pháp
Đạo tràng của
nhà Phật từ xưa đến nay đều lấy
việc giảng kinh, thuyết pháp, giáo học làm chính. Phật pháp suy thoái th́ cũng
mới hai trăm năm nay mà thôi.
Nguyên nhân suy thoái chính là v́ trong chùa không có giảng
kinh. Không có giảng kinh,
chẳng hiểu lư luận, phương pháp tu hành, cho dù tu
hành th́ cũng là tu mù luyện đui, chẳng
được chư Phật, Bồ Tát gia tŕ,
ngược lại c̣n bị yêu ma quỷ quái nhiễu
loạn, đây là nguyên nhân đạo tràng suy bại. Chúng ta hiểu rơ, minh bạch nên
hy vọng xây dựng một đạo tràng chánh pháp, báo ân
Phật, báo ân chúng sanh.
Đạo tràng chánh
pháp phải giảng kinh mỗi ngày nhưng hiện nay pháp
sư giảng kinh rất ít, chúng ta lợi dụng sự
tiện lợi của khoa học kỹ thuật, lúc
giảng kinh giữ lại băng thâu h́nh và thâu âm rồi
làm thành CD, VCD để tặng miễn phí cho đại
chúng. Được vậy th́
bạn có thể nghe kinh mỗi ngày. Nếu bạn chẳng có
nhiều băng thâu h́nh cứ nghe lại băng cũ, nghe
mười lần, hai mươi lần, nghe hoài chẳng
bỏ, th́ sẽ từ từ hiểu được
đạo lư, tâm ngày càng thanh tịnh, tâm ngày càng
định, như vậy th́ Ma sự sẽ giảm ít, Ma
chẳng thể làm ǵ được, Ma muốn nhiễu
loạn cũng chẳng t́m được cơ
hội. Chỉ cần bạn
thực sự làm th́ Ma cũng sẽ cảm động,
không những Ma chẳng nhiễu loạn mà c̣n đến
hộ pháp nữa, đây là việc chúng ta phải
biết. Thế nên nghe kinh quan
trọng hơn bất cứ chuyện ǵ.
Đạo tràng phải có Học,
phải có Đạo. ‘Học’ là
mỗi ngày đều giảng kinh, nghe kinh. Chữ Đạo ở đây là tŕ
danh niệm Phật, Phật hiệu chẳng gián
đoạn trong Niệm Phật Đường, người
niệm Phật chẳng gián đoạn. Có Đạo, có Học mới có
thể ‘trên đền tứ ân,
dưới độ tam khổ’.
d. Buông xuống
Cần phải buông xả
những chuyện tạp nhạp trong thế gian và
xuất thế gian, buông xuống chẳng phải buông
xuống trên Sự tướng, mà là buông xuống trong tâm,
trong tâm chẳng tiêm nhiễm mảy tơ. Người xuất gia chủ tŕ
đạo tràng phải hộ tŕ đạo tràng nên
phải phát họa các hoạt động nhằm giúp
đỡ mọi người tu học, đây là
Sự; Buông xuống là trong
tâm chẳng lưu lại dấu vết, vĩnh viễn
bảo tŕ ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác,
từ bi’. Tâm địa
‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi’,
hành tŕ tự hành hóa tha, hóa tha là khi tiếp xúc hết
thảy đại chúng đều tương ứng
với ‘nh́n thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên’,
được vậy th́ chúng ta trụ trong chánh pháp. Đề ra mười câu này,
mục đích là hy vọng chúng ta khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ tạo tác, từng ly từng tí ǵ
cũng đều tương ứng. Làm thế nào mới có thể
được tương ứng là học vấn, công
phu, phải thường học tập, thường
thể hội. Nguyên tắc tu
hành trong nhà Phật rất nhiều, tổng tŕ (tức là
cương lĩnh) chẳng phải chỉ có một
thứ; nắm chắc lấy mỗi cương lĩnh
đều có thể quán thông hết thảy các pháp.
e. Sám hối
Đối với
những người nghiệp chướng sâu nặng th́
sám hối rất quan trọng.
Tam Trọng Diệu Âm Tịnh Tông Học Uyển
ở Đài Bắc mỗi ba tháng cử hành phát lồ sám
hối một lần, tất cả các đồng học
tụ hợp lại kiểm điểm coi trong ba tháng
vừa qua đă làm những chuyện ǵ sai, nói ra chẳng
dấu ǵ hết, sửa sai đổi mới. Trong Phật môn gọi việc này
là ‘Tự tứ pháp hội’, lúc trước là một
năm cử hành một lần, hiện nay chúng ta
nghiệp chướng nặng, một năm làm một
lần không đủ. Tam
Trọng Diệu Âm Tịnh Tông Học Uyển ba tháng
cử hành một lần, cách làm này đáng được
đẩy mạnh và truyền rộng ra.
Cư sĩ Lư Mộc Nguyên ở
Tân Gia Ba chẳng phát lồ sám hối mỗi năm một
lần, cũng chẳng phải ba tháng một lần, ông
ta sám hối mỗi ngày, mỗi ngày đều phát hiện
lỗi lầm của ḿnh, mỗi ngày sửa lỗi nên hai
năm gần đây đạo tràng nơi đó vô cùng
hưng vượng, thù thắng.
Bất cứ người nào phê b́nh chúng tôi, chúng tôi
đều vui vẻ tiếp nhận, hết ḷng phản
tỉnh, nếu có sai th́ sửa, nếu không sai th́ ngăn
ngừa. Đa số người
phê b́nh đều rất ít tiếp xúc với chúng tôi,
chẳng hiểu rơ, có rất nhiều sự hiểu
lầm. Nhưng họ nói ra
cũng tốt, nếu chẳng có lỗi này th́ chúng tôi
cố gắng chẳng phạm; nếu có th́ khi họ
chỉ ra giúp chúng tôi, chúng tôi rất cảm kích, lập
tức sửa đổi, họ đều là thiện tri
thức. Học Phật
như thế th́ cả đời đều sinh hoạt
với tâm niệm biết ơn, đây thực sự là
hạnh phúc mỹ măn. Có thái
độ tu học tốt đẹp th́ đạo
nghiệp đời này mới có thể thành tựu, sanh
hoạt mới mỹ măn.
Nếu vừa nghe người khác nói ra lỗi
lầm của chúng ta liền chẳng vui, như vậy là
sai lầm to lớn, là mê hoặc điên đảo,
lỗi lầm vĩnh viễn chẳng thể sửa
đổi trở lại, đây là chướng ngại to
lớn trên đạo nghiệp, làm sao có thể thành
tựu cho được!
Những người thành tựu trong pháp thế gian và
xuất thế gian đều mạnh dạn sửa sai,
vui vẻ tiếp nhận sự phê b́nh của kẻ khác.
5. Ư nghĩa quan trọng của
việc siêu tiến (siêu độ)
(Buổi
sáng 30-3-99)
Nh́n một cách
cạn cợt th́ Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự
là sự hiển thị của hiếu đạo, nhà Nho
coi trọng, cung kính làm chuyện truy niệm công ơn
tổ tiên, hiệu quả là đạo đức của
dân chúng trở nên sâu dày [66]. Đây là sự giáo dục tốt
đẹp, dạy chúng ta hiếu thân, báo ân, đây là
căn bản của đức hạnh. Từ xưa đến nay
người Trung Quốc chú trọng hiếu đạo,
đặc biệt coi trọng việc tế lễ tổ
tiên. Trong ‘Cổ Lễ’
đối với tế lễ rất thận trọng,
lễ tiết tương đối nhiều và tỉ
mỉ, dụng ư rất sâu!
Trong Phật pháp
nếu quan sát sâu thêm một tầng th́ ư nghĩa này càng
trọng đại. Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát
bổn nguyện, Thế Tôn cụ thể nói rơ, việc
siêu tiến (siêu độ) đích thật có hiệu
quả. Người nhà
của cô gái ḍng Bà La Môn và cô Quang Mục lúc sanh tiền
tạo ra tội nghiệp cực nặng, sau khi chết
đọa vào địa ngục.
T́m cách cứu người thân ra khỏi địa
ngục là tâm của người con hiếu. Có thể làm nổi hay
chăng? Có thể, v́
đức Phật dạy: ‘Hết thảy pháp
từ tâm tưởng sanh’. Dùng tâm chân thành, tâm từ bi, tu
học đúng theo lư luận và phương pháp Phật
dạy th́ có thể đạt được mục
đích này. Nếu chỉ có
h́nh thức siêu độ mà chẳng chuyển biến trên
thực chất th́ không được; chỉ có thể
nói ‘có làm’ tốt hơn ‘chẳng làm’ mà thôi, hiệu quả
thực sự rất khó nói.
Phương pháp
[siêu độ] dùng trong kinh Địa Tạng là phương
pháp niệm Phật, thế mới biết phương
pháp niệm Phật vô cùng thù thắng. Niệm Phật nhất
định phải niệm đến lúc có công phu th́
mới đạt được hiệu quả; nếu
niệm Phật chẳng có công phu, niệm càng nhiều,
chẳng chuyển cảnh giới nổi th́ hiệu
quả của việc siêu độ sẽ chẳng
đạt được. Cô
gái Bà La Môn niệm Phật một ngày một đêm nh́n thấy
địa ngục trong lúc nhập định, gặp
quỷ vương, quỷ vương nói với cô
rằng mẹ cô đă sanh đến cung trời Đao
Lợi. Tại sao bà có thể
sanh lên trời? V́ bà có
người con hiếu thảo, y theo lời dạy
của Phật mà siêu độ cho bà, chẳng những bà
được sanh lên trời, những chúng sanh cùng
chịu tội trong địa ngục với bà cũng
được hưởng phước lây, họ
đều được sanh lên trời. Cô niệm Phật một ngày
một đêm có chuyển biến như thế nào? ‘Chuyển
phàm thành thánh’. Cô
được nhất tâm bất loạn, được
nhất tâm bất loạn tức là thánh nhân, chẳng c̣n là
phàm phu, cho nên quỷ vương xưng cô bằng Bồ
Tát, đây là cảnh giới trong định. Do đó mới biết lời
trong kinh Di Đà nói: ‘Nếu [niệm]
một ngày, nếu hai ngày, đến bảy ngày nhất
tâm bất loạn’ là
chẳng giả dối. Cô Bà
La Môn niệm hết một ngày một đêm, công phu
của cô sâu cạn th́ chúng ta chẳng biết nhưng
khẳng định là cô đạt được
‘nhất tâm bất loạn’.
Nhất tâm bất loạn có cạn sâu chẳng
đồng, có Sự Nhất Tâm, Lư Nhất Tâm. Nếu là Lư Nhất Tâm th́ như
kinh Hoa Nghiêm có nói, bốn mươi mốt vị Pháp Thân đại
sĩ chứng được Lư Nhất Tâm; cấp bậc
cạn sâu của Lư Nhất Tâm gồm có bốn mươi
mốt cấp bậc. Lư
Nhất Tâm đă vậy th́ Sự Nhất Tâm cũng
chẳng ngoại lệ, chứng được Sự
Nhất Tâm Bất Loạn, công phu tương
đương với A La Hán, Kiến Tư phiền năo
đă đoạn dứt.
Kiến Tư phiền năo chưa đoạn là công phu
thành phiến, cho nên thấp nhất th́ cô cũng
đạt được Sự Nhất Tâm Bất
Loạn.
Cô Bà La Môn có thể
chuyển phàm thành thánh là do má cô giúp.
Nếu má cô chẳng tạo tội nghiệp,
chẳng đọa địa ngục th́ cô sẽ chẳng
niệm Phật, cô vĩnh viễn sẽ là phàm phu, v́
vậy công đức của má cô là ở chỗ này,
nhờ bà có công đức nên mới sanh lên trời
được. Chúng ta
hiểu đạo lư xong mới biết muốn siêu
độ người thân trong nhà th́ phải phát tâm chân
thật, tự ḿnh phải tu hành chân thật, chân chánh tu
hành chứng quả, hồi hướng công đức cho
họ. Họ đọa
lạc bắt buộc chúng ta không tu không được,
nếu ḿnh chẳng tu th́ họ không được độ,
họ phải chịu khổ; nếu ḿnh chân tu, làm ra thành
tích th́ họ có thể ĺa khổ, thế nên hai bên giúp
đỡ thành tựu cho nhau.
Hôm nay chúng ta làm
Phật sự, làm theo nghi thức, nếu cảnh giới
của chúng ta chẳng thể chuyển biến th́ hiệu
quả của sự siêu độ vô cùng yếu ớt. Họ ở cơi địa
ngục th́ vẫn ở địa ngục; ở cơi
ngạ quỷ th́ vẫn ở cơi ngạ quỷ. Nếu trong khóa Phật sự này
tâm niệm của người siêu độ có thể thay
đổi, có thể làm được ‘chuyển ác thành
thiện, chuyển mê thành ngộ’, người
được siêu độ sẽ được lợi
ích; nếu trong khóa Phật sự này thật sự có
thể làm được ‘chuyển phàm thành thánh’ th́
người được siêu độ chắc chắn
sẽ thoát ly ác đạo.
Cô Quang Mục
cũng niệm Phật nhưng công phu cạn hơn
một chút, chẳng đạt được nhất tâm
bất loạn, chỉ đạt được công phu
thành phiến, nên chỉ có thể được cảm
ứng trong giấc mộng.
Trong mộng, Phật nói cho cô biết mẹ cô đă
thoát ly ác đạo, và sanh vào cơi người. Mẹ cô Bà La Môn sanh lên trời Đao
Lợi, c̣n mẹ cô Quang Mục sanh làm con của
người đầy tớ trong nhà. So sánh hai người này th́ công phu
của cô Quang Mục thấp hơn một bậc nên
hiệu quả cũng giảm xuống một bậc. Từ đó có thể biết
tiếp nhận [lời thỉnh cầu] siêu độ cho
người ta chẳng dễ.
Tín đồ lấy tiền cung cung kính kính mời
bạn siêu độ cho người nhà của họ,
nếu bạn siêu độ chẳng nổi, nhưng
bạn đă thâu tiền của người ta rồi,
phiền phức lớn lắm!
Cả đời tôi chẳng dám làm việc này v́ tôi
hiểu đạo lư và chân tướng sự thật trong
đó. Cho nên làm Phật sự
th́ đừng thâu một đồng xu cắc bạc ǵ
hết, phải dùng tâm chân thành, tận tâm tận lực mà
làm th́ đối với họ sẽ có ích lợi. Nếu siêu độ mà c̣n trả
giá, kèo nài tiền bạc, chẳng những một tí
hiệu quả ǵ cũng không có mà c̣n ‘tác dụng phụ’
nữa, đây là điều mà chúng ta phải hiểu. Do đó mới biết chỉ
cần tự ḿnh làm thật sự, tự ḿnh có công phu chân
thật th́ h́nh thức chẳng quan trọng.
Trong cuốn Ảnh Trần
Hồi Ức Lục của lăo pháp sư Đàm Hư có ghi
một câu chuyện gọi là ‘Tám năm đóng cửa
đọc Lăng Nghiêm’ [67]. Lúc đó ngài c̣n chưa xuất
gia, cùng vài người bạn đồng tham (bạn đạo) cùng nhau học
tập kinh Lăng Nghiêm.
Họ dùng tám năm để học bộ kinh này, có
được một phần thành kính và cũng
được chút ít công phu.
Họ hùn vốn lập ra một tiệm bán thuốc
Bắc, một hôm vào bữa trưa chẳng có khách,
một người trong nhóm ngủ gục ở quày bán
thuốc. Đang lúc mơ màng trong
giấc ngủ th́ nh́n thấy hai người đến
t́m ông ta, hai người này là oan gia chủ nợ của
ông. Lúc hai người này c̣n
sống v́ xích mích tiền bạc nên phải thưa
kiện, kết quả là ông thắng kiện và hai
người thua kiện này treo cổ tự tử. [Nh́n hai người này đến
ông cũng hơi lo, sợ họ lại đ̣i nợ] Hai linh quỷ này đi đến
trước mặt ông quỳ xuống, ông ấy hỏi:
‘Các ông đến làm ǵ?’
Họ nói: ‘Chúng tôi đến
cầu xin siêu độ’.
Nghe xong ông mới
hơi yên tâm và hỏi: ‘Tôi làm sao siêu độ cho các
ông?’.
‘Chỉ cần ông
chấp thuận là được’.
‘Được, tôi
sẽ siêu độ cho các ông’.
Nói xong ông thấy
hai linh quỷ này đạp lên đầu gối và vai
của ông xong rồi bay lên trời, ông chẳng phải làm
một nghi thức ǵ để siêu độ cả.
Sau đó lại
nh́n thấy hai linh quỷ khác, một là vợ lúc
trước của ông, hai là con ông.
Hai người này cũng đến xin ông siêu
độ. Ông chấp
thuận và thấy hai linh quỷ này cũng đạp lên
đầu gối và vai của ông rồi bay lên
trời.
Đạo lư của
câu chuyện này là như thế nào?
Giống như đạo lư nói trong kinh Địa
Tạng, ông này đọc kinh Lăng Nghiêm sau tám năm cũng
có công phu. Nếu tu hành
chẳng có công phu, quỷ cũng chẳng chịu
đến t́m bạn; nếu họ đến t́m bạn
th́ chứng minh rằng công phu của bạn có thể giúp
đỡ cho họ.
Bởi vậy nên
tôi khuyên các vị đồng học, hiện nay đă
học được kỹ thuật nói chuyện trên
giảng đài, đức hạnh rất quan trọng, có đức
hạnh mới có thể siêu độ cho oan gia chủ
nợ. Nếu chẳng có
đức hạnh th́ giảng kinh thuyết pháp chỉ là
phước đức, phước đức chẳng
thể xuất tam giới, chỉ được quả
báo tốt ở đời sau; giảng kinh thuyết pháp là
tu bố thí pháp, đời sau sẽ được thông
minh trí huệ. Nếu có
đức hạnh th́ giảng kinh thuyết pháp là công
đức, dùng công đức ấy hồi hướng
cầu sanh Tịnh độ th́ chắc chắn sẽ
được sanh. Chúng ta
phải hiểu rơ ràng những đạo lư và chân tướng
sự thật này, chúng ta phải biết cách làm lễ siêu
độ Phật sự Tam Thời Hệ Niệm này
như thế nào.
Tôi đă giảng
Tam Thời Hệ Niệm, tại sao phải giảng? Nếu chẳng giảng th́ không
[hiểu đạo lư và khi làm Phật sự không] thể
khế nhập vào cảnh giới.
Các đại đức thời xưa thường
dạy chúng ta khi đọc kinh, nghiên giáo phải ‘tùy
văn nhập quán’, tùy văn nhập quán tức là khế
nhập vào cảnh giới, nếu chẳng hiểu câu văn
này th́ làm sao có thể nhập cảnh giới
được! Nhất
định phải giảng rơ phương pháp để
cho hết thảy những người tham gia đều
hiểu rơ, lúc [hiểu rơ và] đọc câu văn ấy th́
cảm thọ sẽ khác; nói cách khác tức là chuyển
cảnh giới. Tuy thời
gian chuyển cảnh giới chẳng dài, làm xong th́
đều quên hết, nhưng trong lúc làm có thể khế
nhập vô đôi chút cũng tốt, cũng có thể sanh ra
một ít hiệu quả.
Nếu thật sự có thể khế nhập và
chẳng thoái chuyển th́ công đức sẽ lớn vô
cùng, người ḿnh muốn siêu độ sẽ thực
sự được độ.
Cùng một đạo lư ấy, tu hành bất cứ
pháp sự nào cũng phải giảng kỹ càng về
nội dung của pháp sự đó, đều phải
nghiên cứu đàng hoàng, tốt nhất là những
người tham gia đều hiểu rơ th́ pháp sự này
sẽ thù thắng phi thường.
Dùng phương pháp khoa học hiện đại
để giải thích những đạo lư này th́ đó
chính là hiện tượng ba động (làn sóng). Tu
học, đọc kinh, niệm Phật đích thực là
có hiệu quả, không những nâng cao cảnh giới
của ḿnh, đối với người thân, quyến
thuộc thậm chí đến hết thảy chúng sanh
đều có ích lợi. Ích
lợi nhiều hay ít, lớn hay nhỏ hoàn toàn tùy thuộc
vào cách dụng tâm của ḿnh, tâm càng chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, th́ hiệu quả càng thù thắng. Nếu trong đó xen tạp nghi
ngờ, âu lo, xen tạp vọng tưởng, phiền năo
th́ công phu sẽ bị phá hoại hoàn toàn, phải hiểu
rơ nghĩa lư này.
Trong truyện kư có chép một câu
chuyện, Thích Kế Quang là một vị tướng
đời Minh, ông là một Phật giáo đồ rất
thuần thành. Có lần
nằm mộng, gặp một người lính đă
chết ngoài trận đến xin siêu độ, xin ông
niệm kinh Kim Cang để hồi hướng cho ông lính,
ông tướng này chấp thuận. Hôm sau ông dùng tâm rất cung kính
để niệm một bộ kinh Kim Cang, niệm
đến phân nửa, người hầu trong nhà rót cho ông
một tách trà, ông chẳng nói ǵ chỉ dùng tay vẩy
vẩy có ư muốn nói ‘không cần’ nên người hầu
mới bưng tách trà đi khỏi. Đêm đó ông nằm mộng
thấy người lính này đến cám ơn,
người lính nói: “Tôi chỉ được nửa
cuốn, v́ trong đó ông đă ‘nhét’ vô một chữ ‘không
cần’”. Niệm một
bộ kinh mà xen tạp một chữ ‘không cần’ th́
hiệu quả đă giảm mất phân nửa. Đến ngày hôm sau ông tướng
này phải niệm lại một cuốn kinh để
hồi hướng cho người lính. Cho nên công phu kỵ nhất là xen
tạp, một khi xen tạp th́ công phu sẽ mất
hết. Cũng chính v́ vậy
nên người xưa nói ‘Đọc kinh chẳng
bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm
Phật’, tại v́ càng đơn giản, càng
ngắn th́ càng chẳng dễ xen tạp. Chân chánh làm được
chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn
mới là công phu.
6. Điều kiện để giác ngộ (Buổi sáng 06-4-99)
Từ xưa
đến nay người giác ngộ chẳng
nhiều. Trong Tịnh Độ
Tông thời Đông Tấn, tại Lô Sơn, Viễn Công
đại sư chỉ có một trăm hai mươi ba
người văng sanh, đây là một hội có nhóm người
[văng sanh] nhiều nhất trong lịch sử. C̣n trong Thiền Tông th́ học tṛ
khai ngộ của Lục Tổ Huệ Năng đại
sư cũng chỉ có sáu mươi ba người. Từ những điểm này
chúng ta mới hiểu rằng người giác ngộ
chẳng nhiều.
Người như thế nào mới có thể giác
ngộ? Những người
triệt để hy sinh lợi ích của ḿnh mới có
thể giác ngộ, nếu buông xuống danh văn lợi
dưỡng thế gian chẳng nổi, buông xuống
sự hưởng thọ ngũ dục lục trần
chẳng nổi, buông xuống ân oán t́nh chấp chẳng
nổi th́ sẽ không có khả năng giác ngộ. Người chân chánh giác ngộ
chẳng phải là người có thiên tài đặc
biệt ǵ cả. Tôn giả
Châu Lợi Bàn Đà Già, học tṛ của đức Phật
Thích Ca Mâu Ni, là một người ngu độn, ngài làm
học tṛ của Thế Tôn chẳng bao lâu cũng có
thể chứng A La Hán, nguyên nhân chính là ngài có thể buông
xuống.
Chúng ta trong
nhiều đời nhiều kiếp trước đă
học Phật rồi, đă gặp Phật, Bồ Tát,
đă cúng dường Phật, Bồ Tát, vun trồng
thiện căn sâu dầy.
Tại sao vẫn chẳng khai ngộ? Nguyên nhân là v́ chúng ta chẳng
triệt để buông xuống t́nh chấp. Người triệt để
buông xuống t́nh chấp trong tâm chỉ có một tâm
niệm, đó chính là phục vụ cho hết thảy chúng
sanh. Chúng ta thường nghe
nói danh từ ‘phục vụ cho dân’, phạm vi của danh
từ này c̣n nhỏ, đây chỉ là pháp giới
người trong thập pháp giới. C̣n phạm vi ‘phục vụ cho
hết thảy chúng sanh’ mới lớn, ngoài người ra
th́ chín pháp giới kia cũng bao gồm trong ấy, tâm
lượng như vậy thật là vĩ đại! Nhất định chẳng có Ta,
biết là hư không pháp giới hết thảy chúng sanh là
chính ḿnh, phục vụ cho chúng sanh chính là phục vụ cho
ḿnh, nghĩa lư này rất sâu.
Nếu chỉ v́
Ta, chẳng chịu v́ người khác, v́ chúng sanh th́ là mê
hoặc điên đảo, mê mất tự tánh, [tâm
niệm này sẽ] hại ḿnh, tức là hại ḿnh
đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn
chẳng thể thoát ly luân hồi; nói rơ hơn một chút vĩnh
viễn chẳng thể thoát ly tam ác đạo. Phải hiểu rằng chúng ta
sanh đến cơi người và trời là rất may
mắn nhưng thời gian vô cùng ngắn ngủi, trong kinh
Phật tỷ dụ chúng ta [sanh đến cơi người
cũng như] đi du lịch, tam ác đạo là quê nhà nên
thời gian ở tam ác đạo rất dài. Đây là nguyên nhân ǵ? Là do tự tư tự lợi
tạo nên, tham luyến hưởng thọ ngũ dục
lục trần trong thế gian tạo nên. Do đó v́ ḿnh là hại ḿnh, v́
chúng sanh mới chân thực là lợi ích cho ḿnh. Những người mê trong
lục đạo, mê trong t́nh dục chẳng hiểu
nổi và cũng chẳng giác ngộ những đạo lư
và chân tướng sự thật này.
Hôm nay chúng ta vô cùng
may mắn hiểu được đạo lư và chân
tướng sự thật này nên mới thể hội
được vài phần ḷng đại từ đại
bi của Phật, Bồ Tát.
Và cũng bắt đầu tỉnh ngộ, có thể
học tập Phật, Bồ Tát, buông bỏ vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước của ḿnh,
dùng tâm thương yêu chân thành, bố thí cúng dường
một cách vô tư, giúp đỡ hết thảy chúng sanh
một cách vô điều kiện, những người
như vậy mới giác ngộ, mới khai trí huệ. Trí huệ và phiền năo là một
chuyện, lúc c̣n mê và cũng là lúc chúng ta chưa buông xả
tự tư tự lợi, trí huệ của chúng ta
đều biến thành phiền năo. Nếu chúng ta buông xả
được vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, buông xả tự tư tự lợi, vô
lượng vô biên phiền năo lập tức chuyển
biến thành vô lượng vô biên trí huệ. Trong kinh Phật nói: ‘phiền năo
tức là Bồ Đề’, Bồ Đề là trí huệ; ‘sanh
tử tức là Niết Bàn’, đây là một việc. Tại sao Phật, Bồ Tát có trí
huệ? Phật, Bồ Tát
chẳng có [quan niệm] ‘ḿnh’, chỉ có chúng sanh, niệm
niệm đều v́ hết thảy chúng sanh, đây
tức là Phật, Bồ Tát.
Niệm niệm đều nghĩ đến lợi
ích của ḿnh, người như vậy là phàm phu, sự
sai khác giữa Phật, Bồ Tát và phàm phu là ở tại
chỗ này. Chúng ta thật
sự hiểu rơ rồi th́ trong quá tŕnh học Phật
mới có thể làm được ‘chuyển ác thành
thiện’, đây là giai đoạn thứ nhất.
Từ giai
đoạn thứ nhất chúng ta nâng cao lên giai đoạn
thứ nh́ là ‘chuyển mê thành ngộ’; hy vọng nâng
cao đến giai đoạn thứ ba là ‘chuyển phàm
thành thánh’. Phàm và thánh là
như thế nào? Tuy đă
chuyển mê thành ngộ rồi nhưng chẳng có cách chi
thoát ly lục đạo luân hồi th́ vẫn là Phàm, thoát
ly lục đạo luân hồi mới xưng là Thánh. Ngoài lục đạo ra c̣n có A La
Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật, bốn hạng này là
Tiểu Thánh, vẫn c̣n trong thập pháp giới. Phật pháp có Tiểu Thừa, có
Đại Thừa, đây là bậc thánh của Tiểu
Thừa. Siêu việt thập
pháp giới mới chân chánh là Đại Thánh, tức là bốn
mươi mốt vị Pháp Thân đại sĩ nói trong
kinh Hoa Nghiêm. Quan niệm
của đại thánh chẳng giống Tiểu Thánh. Đối tượng phục
vụ, từ bi yêu thương, che chở của Tiểu
Thánh là chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới
cho nên tâm lượng của họ là tam thiên đại
thiên thế giới. Tâm
lượng của Đại Thánh c̣n lớn hơn nữa, là
tận hư không, trọn khắp pháp giới, chúng sanh
trong vô lượng vô biên cơi nước của chư
Phật. Đối tượng
phục vụ, từ bi, thương yêu che chở của
họ tức là Đại thừa trong Phật pháp. Siêu phàm nhập thánh là mục đích chân chánh của
Thế Tôn và chư Phật Như Lai dạy chúng ta, là hy
vọng chúng ta làm Đại Thánh chứ chẳng làm Tiểu
Thánh.
‘Tâm bao trùm hư không,
lượng gồm thâu các cơi nhiều như cát’ [68] là tâm lượng của đại
thánh. Tuy người niệm,
người đọc hai câu này rất nhiều, nhưng
tâm lượng vẫn chẳng thể mở rộng,
vẫn chẳng thể bỏ hết tự tư tự
lợi, chỉ dùng hai câu này để khen tặng
đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật Như Lai,
hai câu này vĩnh viễn là của người khác,
chẳng phải là của ḿnh, đây là lỗi lầm
của chúng ta. Hai câu này là
lời chân thật, tâm lượng của hết thảy
chúng sanh trong tận hư không, trọn khắp pháp giới
đều bao trùm khắp hư không pháp giới. Từ đây có thể biết
trọn hư không pháp giới là chân tâm của chúng ta, là tâm
lượng vốn sẵn có của chúng ta. Phật nói chúng ta đă mê
hoặc, đem tâm lượng lớn như vậy mê
hoặc rồi, hiện nay biến thành tâm lượng
rất nhỏ, ngay cả hai người cũng chẳng
dung nạp nổi. Vừa nghe
người ta đồn đăi, hủy báng th́ mất ngủ
suốt mấy ngày, tâm lượng như vậy quá
nhỏ!
Chúng ta học
Phật là học cái ǵ, tự ḿnh phải biết. Người thượng căn
mở rộng tâm lượng, người trung hạ
căn sửa lỗi hướng thiện, từ trên
sự tướng dần dần sửa đổi hành vi,
cách suy nghĩ, cái nh́n sai trái của ḿnh. Người thượng căn
lợi trí tu từ căn bản, căn bản là quan
niệm, trong học thuật ngày nay gọi là nhân sinh quan,
vũ trụ quan; quan tức là cách nh́n, cái nh́n đối
với vũ trụ nhân sanh.
Tu từ căn bản là chuyển biến cái nh́n sai
lầm đối với vũ trụ nhân sanh trước
kia trở lại giống tri kiến của chư
Phật Như Lai, trong kinh Pháp Hoa gọi là ‘nhập
Phật tri kiến’. Chỉ
cần thay đổi quan niệm th́ toàn bộ tư
tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, hành vi đều
sẽ chuyển trở lại, trong nhà Phật gọi
người này là người thượng căn lợi
trí.
Người
thượng căn lợi trí chỉ là thiểu số,
chúng ta có thể làm được như người
thượng căn lợi trí hay không, đức Phật
hiểu và nói cho chúng ta biết chuyện này chẳng khó,
chỉ là v́ gặp duyên chẳng đồng. Thực ra tuy nói chẳng khó
nhưng vẫn có điều kiện. Thứ nhất là tâm danh lợi phải
lợt lạt một chút, sanh hoạt thường ngày
dễ biết đủ, có thể sống một
đời sống tự tại vui vẻ với cơm
rau đạm bạc, đây là một điều kiện
tốt. Thứ nh́ là phải
gặp được thiện tri thức, hoặc nếu
chẳng gặp được thiện tri thức
nhưng gặp được Phật pháp, ưa thích
đọc kinh. Chỉ cần
đầy đủ hai điều kiện này, huân tu trong
thời gian dài th́ độn căn cũng biến thành
lợi căn, ngu si cũng sẽ biến thành trí huệ,
Châu Lợi Bàn Đà Già là một thí dụ điển h́nh. Do đó nếu chúng ta muốn huân
tập thành thượng căn lợi trí nội trong
một đời này, chỉ cần làm theo lời dạy
của đức Phật, bắt chước theo
những đại đức thời xưa, họ có
thể thành tựu trong một đời th́ chúng ta cũng
có thể thành tựu ngay trong đời này. Thế nên chỉ cần chịu
sống một cuộc sống có tiêu chuẩn sanh hoạt
thấp và cộng thêm một tính hiếu học là
đủ. Hiếu học th́
phải học theo đức Phật, học theo Bồ
Tát, học theo tổ sư đại đức,
được vậy th́ làm sao không thành tựu cho
được!
Phiền năo ít, trí huệ mở,
phiền năo đoạn dứt th́ trí huệ sẽ viên
măn. Trí huệ viên măn, ái tâm viên
măn, phục vụ viên măn, nhà Phật gọi là đại
viên măn. Người như
vầy rất ít, đúng như lời của Thiện
Đạo đại sư là gặp duyên chẳng
đồng. Ngày nay chúng ta
rất may mắn, đầy đủ nhân duyên, hy vọng
các bạn đồng tu phải hết ḷng nỗ lực,
chúng ta hết thảy đều v́ pháp giới chúng sanh
khổ nạn, nếu chúng ta chẳng thành tựu th́
họ sẽ chịu khổ thêm một ngày; nếu chúng ta
sớm thành tựu, sớm phục vụ cho họ th́
họ sẽ sớm được thoát ly khổ
nạn. Phải thường
giữ tâm niệm này để tự khuyến khích,
dũng mănh tinh tấn th́ mới viên măn Bồ Đề.
7.
Thực hiện cảnh giới Hoa Nghiêm
(Buổi sáng 12-4-99)
Cư Sĩ Lâm Tân
Gia Ba từ trên xuống dưới đoàn kết hài ḥa,
ngạn ngữ có câu: ‘nhà ḥa th́ vạn
sự hưng vượng’, đây là
điểm đặc sắc nhất ở nơi
đó. Thời gian
người ta giao tiếp với nhau rất ngắn
ngủi, duyên phần rất sâu dầy. Tháng trước tôi đến
Hương Cảng giảng kinh, lúc trở về ăn
trưa tại tiệm ăn ở phi trường, tôi nói
với mọi người, trong tiệm ăn có rất
nhiều người, những người này chỉ có
duyên gặp chúng ta một lần, cả đời này chỉ
gặp một lần. Cái duyên
gặp một lần này là duyên phần từ bao nhiêu
đời, bao nhiêu kiếp, nếu không th́ sẽ chẳng
bao giờ gặp được.
Cả đời chỉ gặp một lần trong
ṿng một hai phút, tại sao chẳng trân trọng? Tại sao [chúng ta cứ] nh́n
người này chướng mắt, nh́n người kia
chẳng vui, lại phải kết những duyên thù hằn
này? Chẳng cần phải
làm vậy. Khi giao tiếp
với bất cứ ai chúng ta đều phải ḥa
mục, chân thành, có tâm thương mến, như vậy là
Phật, Bồ Tát. Làm thế
nào để giữ tâm niệm này?
Nhất định phải hiểu rơ thêm về chân
tướng sự thật.
Thời gian thân quyến, bạn bè tụ hội,
gặp mặt rất nhiều;
Phật dạy đây là bốn thứ duyên: báo ân, báo
oán, đ̣i nợ, trả nợ, nếu chẳng phải là
bốn thứ duyên này th́ cả đời sẽ chẳng
gặp nhau. Bốn thứ
duyên này đều là t́nh chấp, t́nh chấp sẽ đem
lại phiền năo, sẽ làm ra lục đạo sanh
tử luân hồi.
Sự giáo huấn
của đức Phật cho hết thảy chúng sanh là nói
rơ chân tướng sự thật này để mọi
người hiểu, thực sự triệt để giác
ngộ, hư không pháp giới hết thảy chúng sanh và
chúng ta đều cùng chung một thể, là một thể
có cùng chung một sanh mạng, đây là lời dạy trong
kinh Hoa Nghiêm. Hiện nay
rất nhiều khoa học gia, triết học gia đang
truy t́m khởi nguyên của vũ trụ, của
đời sống, trong kinh Phật có câu trả lời
rất rơ, đó là một niệm tự tánh biến
hiện nên, ‘duy tâm hiện, duy
thức biến’.
Thức là vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, v́ có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước nên có thiên biến vạn hóa, biến
hiện ra thập pháp giới; xa ĺa vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước th́ thập pháp giới
sẽ biến thành một pháp giới gọi là Nhất
Chân pháp giới.
Cho
nên hư không pháp giới, hết thảy chúng sanh
đều là chính ḿnh, trong nhà Phật gọi cái này là Pháp
Thân. Lúc nào bạn khẳng
định, thừa nhận rằng hư không pháp giới
hết thảy chúng sanh là chính ḿnh th́ bạn sẽ
chứng được Pháp Thân thanh tịnh. Đức Phật xuất hiện
tại thế gian giảng kinh thuyết pháp, ngàn kinh
vạn luận là để thuyết minh chân tướng
sự thật này. Hiểu
được chân tướng sự thật này th́ tâm yêu
thương nhất định sẽ phát khởi, bạn
sẽ thương yêu hết thảy chúng sanh, thương
yêu chúng sanh giống y như thương yêu ḿnh, biết
hết thảy chúng sanh chính là ḿnh.
Hiện
nay tai nạn dồn dập, vả lại ngày càng nghiêm
trọng, đối với người có trí huệ,
học vấn và đức hạnh th́ đây là một
sự khải thị rất lớn, nếu họ có thể
hết ḷng phản tỉnh từ những chuyện này th́
họ sẽ giác ngộ.
Muốn đời sống hạnh phúc, mỹ măn,
điều kiện thứ nhất là xă hội an
định, thế giới ḥa b́nh.
Nếu dần dần càng nhiều người có quan
niệm như vậy th́ tai nạn sẽ có thể tiêu
trừ; cho dù chẳng thể tiêu trừ th́ cũng có
thể giảm nhẹ, thời gian tai nạn cũng có
thể rút ngắn. Rất
nhiều người lănh đạo tôn giáo đều có
giác ngộ như vậy, đây là việc tốt. Ở Úc châu tôi tham gia ‘Luận
đàm về văn hóa đa nguyên’, họ có một tổ
chức gọi là Tổ Chức Ḥa B́nh Tôn Giáo Thế
Giới’, gồm có ba mươi mấy tôn giáo tham gia.
Có
một vị cha xứ Thiên Chúa Giáo đề nghị, hy
vọng lúc mỗi tôn giáo truyền giáo, giảng đạo
đừng công kích các tôn giáo khác.
Quan niệm này rất hay, đây là thực sự có
tự giác. Sau khi nghe xong tôi nói
không những chúng ta chẳng thể công kích kẻ khác, phê
b́nh kẻ khác mà c̣n phải lễ kính, tán thán họ. Hy vọng hết thảy
những nhà lănh đạo tôn giáo trên toàn thế giới
đều giác ngộ, các tín đồ đều có
thể hỗ tương tôn trọng, kính ái lẫn nhau,
hợp tác lẫn nhau, cùng tồn cùng vinh, được
vậy th́ thế gian này mới có ḥa b́nh an định
thật sự. Họ đă
thảo luận nhiều năm rồi nhưng vẫn
chưa thực hiện được nên tôi tŕnh bày cách làm
của chúng tôi ở Tân Gia Ba cho họ tham khảo, và
mời họ đến tham quan.
Gần
đây chúng tôi thăm viếng người Y Tư Lan giáo
(Islam), Hồi giáo, Ấn Độ giáo (tức là Bà La Môn giáo)
và Thiên Chúa giáo. Tân Gia Ba có chín
tôn giáo, chúng tôi qua lại rất mật thiết. Khi họ có nhu cầu cần giúp
đỡ, chúng tôi dốc toàn tâm toàn lực để giúp
đỡ họ, đây là việc chưa từng có từ
trước đến giờ.
Chúng tôi cũng hy vọng có thể thực hiện
trong đời sống của quần chúng nên muốn
cử hành một buổi họp ‘Các Tôn Giáo Ḥa B́nh ở Tân
Gia Ba Chúc Mừng Năm Mới’, dự định cử
hành mười ngày, trong mười ngày này tất cả
tín đồ các tôn giáo đều hội họp với
nhau. Đây là sự đoàn
kết giữa những đoàn thể chủng tộc khác
nhau, tôn giáo khác nhau. Hy vọng
buổi hội họp này được thành công, có
thể giúp cho xă hội an định, thế giới ḥa
b́nh. Chúng tôi sẽ mời
những nhà lănh đạo tôn giáo ở những
nước khác tới tham quan, chỉ đạo, hy
vọng hoạt động này sẽ được
đẩy mạnh đến khắp nơi trên thế
giới. Chúng tôi dự trù
nới rộng lớp bồi huấn thành Phật Học
Viện, khóa tŕnh của Phật Học Viện
tương lai bao gồm mọi tôn giáo. Chúng tôi mời các nhà truyền giáo
của mỗi tôn giáo đến giới thiệu giáo
nghĩa của họ, sanh hoạt tập quán và lễ nghi
của họ. Chúng ta học
họ trước, đọc kinh của họ, sau này
họ sẽ đọc kinh Phật của chúng ta. Hỗ tương t́m hiểu
lẫn nhau th́ những chuyện hiểu lầm, va
chạm, ngăn cách sẽ được tiêu trừ,
như vậy mới làm được đại
đồng, mới thực sự thực hiện
được mục đích cùng tồn cùng vinh, hỗ
trợ hợp tác.
Chính
phủ Tân Gia Ba rất coi trọng những hoạt
động này của chúng ta, họ nhận định
rằng những hoạt động này có cống hiến
trực diện cho xă hội nên vô cùng hoan nghinh. Có người hỏi tôi: ‘Tại
sao phải làm như vậy?’.
Tôi trả lời: “Đây là thực hiện theo kinh
‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm’”. Kinh Hoa Nghiêm vừa mở
đầu liền liệt kê hai trăm hai mươi tám
tộc đoàn (đoàn
thể chủng tộc) khác nhau, tôn giáo và
tộc đoàn khác nhau đều ở trong Hoa Nghiêm Hải
Hội. Tây phương
Cực Lạc thế giới cũng có nhiều tộc
đoàn khác nhau cùng chung sinh sống.
Chúng ta phải học theo Tỳ Lô Xá Na Phật, A Di Đà
Phật th́ thế giới này của chúng ta mới
được mỹ măn, mọi người mới
được hạnh phúc.
Đọc kinh vô cùng quan trọng, Thế Tôn không những
dạy chúng ta đọc kinh mà c̣n dạy chúng ta phải hiểu
sâu ư nghĩa và phương hướng. Đối với những
đạo lư nói trong kinh phải lư giải kỹ càng,
giải được càng sâu càng rộng th́ khi vận
dụng sẽ càng được tự tại. Nhất định phải áp
dụng trong đời sống hằng ngày, trong công
việc hằng ngày, trong khi xử sự, đăi
người, tiếp vật, th́ học Phật pháp mới
có lợi ích thực sự.
8. Giải Hạnh tương ứng (Buổi sáng 17-4-99)
Giáo học thế
gian chú trọng trên ‘phẩm học kiêm
ưu’ (phẩm hạnh và học hành đều hoàn
hảo), Trung quốc cổ đại cho
rằng ‘học nhi ưu
tắc sĩ’, nghĩa là học vấn và
phẩm đức đạt đến mức độ
cao th́ có thể đảm nhận công chức của
quốc gia, phục vụ cho nhân dân. Tu học Phật pháp chú trọng
‘Giải Hạnh tương ứng’, trong câu thệ
nguyện Tam Quy Y ‘Quy y Phật, Nhị Túc Tôn’, Nhị Túc tôn
tức là Giải và Hạnh đều đạt
đến viên măn. Giải
thuộc về Huệ, Hạnh thuộc về
Phước, giải hạnh là nhân, phước huệ là
quả báo. Do đó thành
Phật tức là trí huệ và phước báo đều
viên măn, chẳng có một tơ hào thiếu sót, lúc đó
sẽ có thể dốc hết tâm lực phục vụ
hết thảy chúng sanh.
Những việc mà Phật, Bồ Tát phục vụ
cho chúng sanh vô lượng vô biên, có câu ‘tùy loại hóa thân,
tùy cơ thuyết pháp’, cho nên các loại phục vụ
cũng đạt đến cứu cánh viên măn. Học sinh phải học theo
thầy giáo, thầy giáo là mô phạm tốt nhất cho
chúng ta, thầy giáo phục vụ cả đời cho chúng
sanh, chúng ta học Phật th́ cũng phải phát tâm
nguyện này. Đă phát tâm
nguyện này xong th́ phải hết ḷng nỗ lực
học tập, thực hành.
Trong tam huệ Văn - Tư - Tu của Bồ Tát th́
nghe pháp (Văn), tư duy (Tư) là khai giải, tu hành (Tu) là
đem những sự hiểu biết thực hiện vào
trong đời sống.
Hạnh và Giải tương ứng th́
được gọi là đức hạnh, có thể
hiểu rơ, lănh ngộ được lời dạy
của đức Phật.
Pháp môn tu hành vô
lượng vô biên. Cư
sĩ Âu Dương Cánh Vô nói: ‘Chân chánh tu hành chẳng câu
nệ h́nh thức’. Phật
pháp trong ṿng hai trăm năm gần đây quá hạn
chế trên h́nh thức, h́nh thức tuy có ích lợi,
nhưng nếu mê trên h́nh thức, chấp trước h́nh
thức là sai lầm. [Mục
đích của] Phật pháp là muốn phá vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước. Thí dụ đến Niệm
Phật Đường niệm Phật là h́nh thức, nếu
quá chấp trước ‘chẳng đến Niệm
Phật Đường niệm Phật th́ không
được’, đó là như lời người xưa
nói: ‘Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn,
hét bể cổ họng cũng uổng công’. Niệm Phật phải niệm
như thế nào? Chữ
niệm chẳng phải là miệng niệm, chữ
niệm gồm có hai chữ ‘kim’ và ‘tâm’ gộp lại,
tức là cái tâm hiện nay. Cái
niệm chân chánh là niệm tự tánh, trong niệm này
tương ứng với Phật th́ đó là niệm
Phật. Tâm của
bạn là tâm Phật, nguyện là nguyện của Phật,
miệng nói lời của Phật, hạnh là hạnh
của Phật, đó là thực sự niệm Phật,
chân chánh tu hành, như vậy mới có thể lợi
lạc cho khắp hết thảy chúng sanh.
Lục Tổ
Huệ Năng đại sư là người chân chánh tu
thiền định, ngài chẳng ngồi xoay mặt vào
vách trong thiền đường mà ngài ở trong gian nhà sau
bếp chẻ củi giă gạo, mỗi ngày đều làm
việc này, đó là tu thiền định. Thiền định là như
thế nào? Bên ngoài chẳng
chấp tướng gọi là Thiền, bên trong chẳng
động tâm gọi là Định. Thế nên một ngày họ làm
việc hai mươi bốn tiếng đồng hồ
cũng chẳng mệt v́ họ đang trong thiền
định. Trong khi làm
việc chẳng chấp vào tướng làm việc, trong
công việc chẳng có phân biệt, chấp trước nên
chẳng thấy mệt. Ngày
nay chúng ta làm việc mấy giờ đồng hồ xong
liền cảm thấy: ‘Tôi đă làm xong rất nhiều
việc, mệt quá đi thôi!’, nghĩ vậy nên rất
mệt. Người ta
thực sự làm đến mức ‘làm mà chẳng làm,
chẳng làm mà làm’, đây là trong thiền định,
thiền định tức là niệm Phật. Tâm - nguyện - giải - hạnh
của họ đều tương ứng với
Phật. Chân chánh hiểu
được đạo lư này th́ h́nh thức sẽ
chẳng quan trọng nữa, được vậy th́
bạn mới hiểu làm thế nào thực sự niệm
Phật, thực sự dụng công, giải hạnh
tương ứng, phẩm học kiêm ưu. Tâm tương ứng với tâm
nguyện của Phật, kết hợp với nhau, nên
đọc kinh là niệm Phật, nghiên cứu giáo lư cũng
là niệm Phật.
Nói đến
chỗ cứu cánh th́ tâm hạnh tương ứng với
tự tánh là niệm Phật chân chánh, là niệm Phật
viên măn. V́ tánh là Phật,
Phật chính là chân như bản tánh; chân như bản tánh
là chân tâm, chân tâm tức là Phật.
Cách nói dễ thể hội, dễ lư giải hơn
chính là khi khởi tâm động niệm bất kể là
đối người, đối sự, đối
vật đều tương ứng với năm tâm sau
đây: ‘chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác,
từ bi’, đó là chân thật niệm Phật. Ngược lại tức là ‘Miệng
niệm Di Đà tâm tán loạn, hét bể cổ họng cũng
uổng công’. Nếu
thực sự tương ứng với năm tâm này th́
cho dù cả ngày từ sáng tới tối chẳng niệm
một câu Phật hiệu nào cả th́ cũng là
người chân thật niệm Phật.
Tâm - Nguyện -
Giải của Phật biểu hiện ra bên ngoài tức là
‘nh́n thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên’;
‘niệm Phật’ là làm ra h́nh dáng niệm Phật, đây là
hóa tha. Nếu không th́ khuyên
người khác niệm Phật nhưng ḿnh lại
chẳng niệm Phật, người ta sẽ không tin
tưởng. Biểu hiện
trên đời sống của người chân chánh niệm
Phật nhất định phải là ‘nh́n
thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên’. Nh́n thấu
là đối với hết thảy Lư - Sự, nhân -
quả trong thế gian, xuất thế gian đều rơ
ràng. Buông
xuống là trong tâm đối với pháp
thế gian và xuất thế gian chẳng tiêm nhiễm
một mảy tơ nào cả; chẳng phải là không làm
việc, công việc vẫn phải làm như
thường, làm c̣n tích cực và tốt hơn
người khác, nhưng trong tâm thanh tịnh, chẳng tiêm
nhiễm mảy may. Đây là
Bồ Tát hạnh, năm tâm kể trên là Bồ Đề
tâm. Có thể thực hiện
được như vậy là chân thật tu hành, có
thể lư giải minh bạch là trí huệ chân thật. Cho nên cả đời giáo
huấn của Thế Tôn, nói suốt bốn mươi
chín năm quy nạp lại chính là hai mươi chữ [chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi; nh́n
thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm
Phật] này.
Những bạn
đồng tu học giảng kinh mỗi tuần phải
đến niệm Phật đường niệm
Phật ba mươi sáu giờ đồng hồ, v́
nếu bạn chẳng niệm Phật, người ta
sẽ coi thường bạn.
Giống lúc trước lăo pháp sư Đế Nhàn là
người giảng kinh thuyết pháp, và cũng là
người tái lai. Có
người hỏi Ngài: ‘Thầy có tham thiền không?’. ‘Không có!’.
Mọi người đều cho rằng Ngài chỉ
có Giải chẳng có Hạnh nên giảng kinh không có
người nghe. Bởi
vậy nên Ngài đến thiền đường chùa Kim
Sơn ở Chấn Giang để tham thiền, làm ra h́nh
dáng ấy th́ mọi người đều tin
tưởng. Lần
trước lăo pháp sư Nhân Đức đến đây
thăm viếng, nh́n thấy phương pháp tu học
của chúng ta, có Giải và có Hạnh, thầy rất khâm
phục.
Bồ Tát giáo hóa
chúng sanh chẳng xả phương tiện, nhà Phật
gọi là ‘thiện xảo phương tiện’. Trong lúc giảng kinh Địa
Tạng tôi đặc biệt giảng giải kỹ
về ‘Tứ Nhiếp Pháp’ và ‘Tứ Tất Đàn’ là muốn
mọi người chân chánh hiểu rơ ư tứ ở trong
ấy, việc này vô cùng quan trọng đối với
người hiện nay.
Tứ Tất Đàn là nguyên tắc hướng dẫn
cao nhất của chư Phật, Bồ Tát để
phục vụ chúng sanh, và Tứ Nhiếp Pháp là nguyên
tắc để thực hiện.
Nếu bạn học được rồi th́
bạn sẽ biết cách làm người, đi đâu
bạn cũng được người ta hoan nghinh, ngay
cả yêu ma quỷ quái cũng hoan nghinh bạn,
được vậy mới có thể phổ độ
chúng sanh; dùng cách nói hiện nay th́ phổ độ chúng sanh
tức là phục vụ hết thảy chúng sanh. Thế nên chư Phật, Bồ
Tát đi đến đâu trong chín pháp giới đều
được mọi người nghinh đón là v́ nguyên
nhân này, chúng ta nên học tập, nên thực hiện. Nếu bạn chẳng học cho
đàng hoàng th́ khi bạn giúp người ta, không những
họ không tiếp nhận, ngay cả sự tu học
của ḿnh cũng chẳng thành tựu.
Đặc biệt là
ở thời đại hiện nay, thời đại này
có tai nạn. Có thể tránh
khỏi tai nạn hay chăng?
Vô cùng khó khăn, những ǵ chúng ta hôm nay làm, học,
tu tập đều là phương pháp tránh khỏi tai
nạn. Chẳng những
tự ḿnh phải tránh miễn, chúng ta c̣n phải giúp
đỡ xă hội, giúp đỡ hết thảy chúng sanh
tiêu tai miễn nạn, nếu chúng ta không hết ḷng nỗ
lực th́ làm sao được?
Tự ḿnh chịu khổ chịu nạn th́ chẳng
sao, nhưng nh́n thấy quảng đại chúng sanh
chịu khổ chịu nạn th́ chẳng nhẫn tâm! Làm sao giúp đỡ? Nhất định phải t́m
cầu học vấn, phải khai trí huệ, phải
đề cao phẩm đức của ḿnh. Tai nạn từ đâu
đến? Là từ tà tri, tà
kiến, tà hạnh sanh ra.
Phật pháp nói một nguyên lư tối cao: ‘Cảnh chuyển tùy theo tâm’;
hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất cũng
đều tùy tâm chuyển, y báo chuyển tùy theo chánh
báo. Nhân tâm thiện th́ tai
nạn sẽ hết; nhân tâm chẳng thiện th́ tai
nạn sẽ đến.
Tai nạn khẳng
định là có, v́ tâm niệm của phần đông
người ta trên thế giới đều chẳng
thiện, chúng ta cư trú ở địa phương này
là do cộng nghiệp chiêu cảm.
Sanh ra trong thời đại này có may mắn hay
chăng là ở tại một niệm; có người cho
rằng tự ḿnh tâm hạnh hiền lương nhưng
bị người khác liên lụy nên phải cùng chịu
khổ nạn này, thật là không may; thử nghĩ
ngược lại: tôi sanh trong thời đại này, chúng
sanh khổ nạn như vậy, tôi hết ḷng nỗ
lực tu học để giúp đỡ họ th́ đó là
rất may mắn. Chúng ta
phải phát nguyện, phát tâm làm Chúa cứu thế, đến
thế gian này mới có ư nghĩa, có giá trị, chẳng
phải đến để cùng mọi người
chịu khổ chịu nạn, phải chuyển
đổi tâm niệm, tâm lư này ngược lại. C̣n về chuyện có thể làm
được bao nhiêu th́ cứ tận tâm tận lực,
công đức đều sẽ viên măn.
Trong sinh hoạt
hiện nay, tâm người ta luôn phiêu bồng, người
lúc trước bất kể đời sống ra sao,
cư trú trong hoàn cảnh như thế nào th́ tâm đều
an định. Có an th́ sau
đó mới có lạc (vui), nếu cả ngày tâm thần
chẳng an th́ làm sao có ‘lạc’ được? Niềm an lạc ngày nay là cái
‘lạc’ từ chích morphine, hút ma túy mà ra. Hút ma túy là thí dụ, tranh danh
đoạt lợi, xa xỉ lăng phí, hoàn toàn vứt bỏ
luân lư đạo đức, đây tức là hút ma túy; khi
sáu căn tiếp xúc sáu trần khởi lên tham, sân, si tam
độc, đây chính là hút ma túy, tạo ra tội cực
nặng. Những thiên tai nhân
họa xảy ra hiện nay là ‘hoa báo’, quả báo sẽ
ở tại ba đường ác.
Chúng ta vô cùng may mắn gặp được Phật
pháp, hiểu rơ chân tướng sự thật này. Biết bao nhiêu người c̣n mê
hoặc ở trong ấy, vĩnh viễn chẳng tỉnh
ngộ, nh́n họ tạo nghiệp, đọa lạc, tuy
Phật, Bồ Tát từ bi cũng chẳng có cách chi
cứu họ. Nhất
định phải đợi đến khi tội
nghiệp của họ thọ chịu hết, họ
tỉnh ngộ trở lại th́ Phật, Bồ Tát mới
có thể cứu họ.
Thoạt nh́n th́ kinh
luận trong Phật pháp h́nh như rất dễ hiểu,
nhưng trên thực tế mỗi chữ mỗi câu
đều chứa đựng vô lượng nghĩa. Nói ở mức sâu hơn th́
mức độ sâu này không đáy, mức độ
rộng lớn vô biên, bất kỳ một bộ kinh
điển nào chẳng những một đời học
chẳng hết, đời đời kiếp kiếp
cũng học chẳng hết.
V́ kinh điển tương ứng với tự
tánh, mỗi chữ mỗi câu đều là sự lưu
lộ của tánh đức, tánh đức chẳng cùng
tận, chẳng có biên giới, đạo lư là như
vậy. Trong kinh luận
đức Phật dạy chúng
ta phải ‘thâm giải nghĩa thú’ (giải
ngộ sâu ư nghĩa, tông thú),
‘quảng học đa văn’ (học
rộng nghe nhiều),
nhưng phần đông người tu học đều
hiểu sai ư nghĩa này, đều cho rằng ‘quảng
học đa văn’ là cái ǵ cũng phải học, cái ǵ
cũng phải nghe, như vậy là hiểu sai mất
đất. Quảng học và
thâm giải đều là một môn thâm nhập, một môn
th́ làm sao gọi là ‘học rộng’? Một môn kiến tánh tức là
rộng, ‘một kinh thông [đạt] th́ hết thảy
kinh đều thông’, thông đạt một kinh rồi th́
sẽ hiểu hết tất cả kinh.
Thí dụ trong ṿng
tṛn có viên tâm (cái tâm của ṿng
tṛn), bất cứ một điểm nào
ở trên ṿng tṛn cũng có thể thông đến trung tâm, thông đến
tâm th́ hết thảy đều thông; nếu chẳng thông
đến tâm th́ chỉ có thể thông một môn, môn
thứ nh́ chẳng thể thông đến. Làm thế nào để thông
đến trung tâm? Một môn
thâm nhập. Tâm là tự tánh,
viên châu (ṿng tṛn xung quanh)
là pháp tướng do tự tánh biến hiện. Viên tâm của nhà Phật th́ Tông
Môn gọi là ‘minh tâm kiến tánh’, Giáo Hạ gọi là
‘đại khai viên giải’, Tịnh Độ Tông gọi là
‘nhất tâm bất loạn’, danh từ chẳng giống
nhau nhưng ư tứ đều là một. Thế nên tu học phải chuyên,
phải tinh. Nếu bạn
học từng điểm trên ṿng tṛn th́ vĩnh viễn
sẽ chẳng học hết.
Nếu bạn đạt đến trung tâm (của
ṿng tṛn) th́ toàn bộ đều được bao gồm
trong ấy, pháp thế gian và xuất thế gian đều
thông đạt th́ mới có thể khai trí huệ, vô
lượng vô biên pháp môn liền viên dung tức khắc.
Bởi vậy
bất cứ một điểm nào trên ṿng tṛn (bất
kỳ một pháp môn nào) đều có thể thông
đến trung tâm, đây chính là ‘pháp môn b́nh đẳng,
chẳng có cao thấp’.
Không những Phật pháp như vậy, pháp thế
gian cũng như vậy. Pháp
thế gian và xuất thế gian đều từ tâm này
biến hiện ra, nhất tâm là Phật chân thật. Phật, Bồ Tát đau ḷng rát
miệng, muôn vàn lời nói cứ nhắc đi nhắc
lại, rất tiếc là chúng ta đă hiểu sai ư
nghĩa, vẫn tu mù luyện đui như cũ. Người biết học ngay
trong một niệm, tâm niệm vừa chuyển
ngược lại th́ thành công liền. Phàm thánh chẳng khác nhau mảy
may, chỉ là tâm niệm này có thể chuyển trở lại
hay không mà thôi.
Một ngàn năm
trước ở Trung Quốc, kinh Kim Cang rất thích
hợp với người thời ấy tu học cho nên
kinh Kim Cang lưu thông rất phổ biến ở Trung Quốc. V́ kinh Kim Cang vô cùng thích hợp
với căn tánh của chúng sanh thời ấy, nhưng
thời hiện đại không được, chẳng có
người hiểu được kinh Kim Cang. Cho dù hiểu được
[nhưng] thật sự làm không nổi. Thời đại ngày nay th́ kinh
Vô Lượng Thọ khế cơ nhất, thích hợp cho
người hiện đại tu học nhất. Kinh Vô Lượng Thọ dạy
chúng ta tu hành:
Khéo giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng
chê bai lỗi của người khác.
Khéo giữ ǵn thân nghiệp, chẳng hành
động trái ngược với giới luật
Khéo
giữ ǵn ư nghiệp, phải luôn thanh tịnh không
nhiễm ô [69]
Làm thế nào
để thực hiện ba câu này?
Dùng thập thiện.
‘Khéo
giữ ǵn khẩu nghiệp, đừng chê bai lỗi
của người khác’ tức là không nói
dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời
thô ác, không nói lời thêu dệt;
‘Khéo giữ ǵn thân nghiệp, chẳng hành
động trái ngược với giới luật’
tức là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm
(người xuất gia th́ không dâm dục);
‘Khéo giữ ǵn ư nghiệp, phải luôn thanh
tịnh không nhiễm ô’ tức là
đối với pháp thế gian, pháp xuất thế gian,
hết thảy người, sự, vật, đều
không tham, không sân, không si. Ba
điều này dễ hơn kinh Kim Cang rất nhiều, nói
được rất cụ thể. Nếu có thể làm
được những điều này th́ đức
hạnh, tu dưỡng của bạn rất hiếm có,
rất quư báu trong thời đại hiện nay.
Trong
ba câu này, thập thiện phải bắt đầu từ
đâu? Bắt đầu
từ ‘không nói dối’.
Nếu không dám nói thiệt với người khác th́
không cần nói ǵ nữa.
Người ngoại quốc nói về ‘quyền riêng
tư’ (quyền ẩn tư), dấu diếm riêng tư
tức là không thể nói thiệt, như vậy là sai
lầm. Sự thành tựu
trong cả đời của Tư Mă Quang là ‘chẳng có ǵ không thể cho người ta biết’ [70],
tâm địa quang minh chính trực.
Học Phật phải bắt đầu từ
đâu? ‘Thành thật’. Có dấu diếm riêng tư
rất khổ, cái này cũng sợ người ta biết,
cái kia cũng sợ người ta biết, như vậy
rất g̣ bó, khó chịu, áp lực rất lớn. Nếu hết thảy đều
trở thành trong suốt chẳng có một tí ǵ phải
ẩn dấu th́ sẽ tự tại, sung sướng. Cuộc đời ngắn
ngủi, nhiều đau khổ, cần ǵ phải g̣ bó, trói
buộc ḿnh như vậy, tại sao chẳng sống vui
vẻ một tí? Đức
Phật được đại tự tại,
người thành thật được đại tự
tại, chuyện ǵ cũng phải ẩn dấu th́ quá
đáng thương.
Ngày
nay chúng ta đề xướng tuyệt chẳng đèo
bồng cao xa, chỉ hy vọng làm được ngũ
giới thập thiện, niệm Phật chắc chắn
sẽ được văng sanh Tịnh Độ. Ngũ giới thập thiện là
đức hạnh, chân chánh làm được lời giáo
huấn của đức Phật dạy trong kinh, chân chánh
thực hiện, đó chính là tu dưỡng phẩm
đức. Niệm Phật
đường vẫn phải đến, ngũ giới
thập thiện làm được hoàn hảo, đó là tŕ
giới niệm Phật.
Niệm Phật ở Niệm Phật
Đường là để ảnh hưởng
đại chúng, hết ḷng niệm Phật, giải
hạnh tương ứng, làm cho người mới
học Phật sanh khởi tín tâm, hoan hỷ tâm, đây
thuộc về tự hành hóa tha.
Phần
đông người ta đặc biệt tôn trọng, kính
mến người xuất gia, chẳng cần biết
người ấy có đức hạnh hay không, khi mặc
chiếc áo [cà sa] này, người ta nh́n họ một cách
khác biệt v́ họ là đệ tử Phật. Thế nên chúng ta phải
thường thường phản tỉnh coi ḿnh có
giống đệ tử Phật hay không. Làm thế nào mới giống
đệ tử Phật?
Mỗi ngày đều tiếp nhận sự răn
dạy của đức Phật, ngày ngày làm theo lời
dạy của Phật, như vậy mới là đệ
tử Phật. Trong kinh
thường nói: ‘Thọ tŕ
đọc tụng, v́ người diễn nói’,
Thọ nghĩa là hoàn toàn tiếp nhận những ǵ
đức Phật răn dạy, có thể tiếp
thọ, có thể tin tưởng, có thể hiểu rơ, có
thể làm theo; Tŕ tức là giữ ǵn, phải làm từng
ngày, từng giờ, một giây một phút cũng chẳng
buông lung.
Quan
niệm của tôi là người xuất gia phải
trụ ở ‘quảng đơn’, thông thường
gọi là giường lớn, lúc ngủ th́ mọi
người đều nh́n thấy lẫn nhau, có câu là ‘mười con mắt nh́n, mười tay chỉ’,
tự ḿnh sẽ quản thúc chính ḿnh, chẳng thể buông
lung, đạo nghiệp mới có thể thành tựu. Nếu mỗi người
đều có pḥng riêng th́ sẽ buông lung, phóng dật,
giải đăi. Ṭng lâm tự
viện ngày xưa chỉ có những người lớn
tuổi, cử động chẳng thuận tiện
mới có thể ở pḥng riêng.
Đây là điều mà nhà Phật gọi là ‘nương
dựa vào đại chúng’, nếu phiền năo, tập khí
của ḿnh nặng nề, chẳng có cách để tự
kiềm chế th́ hy vọng đại chúng giúp đỡ.
Nhà
Phật vô cùng coi trọng phương pháp này, đây
chẳng phải là do đức Phật Thích Ca Mâu Ni
đề xướng, mà do thiền sư Bách
Trượng và ḥa thượng Mă Tổ Đạo Nhất
ở Trung Quốc đề xướng, đây là
đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Năm xưa lúc đức
Phật c̣n tại thế, trí huệ đức hạnh
của học tṛ rất tốt, đều tiếp
nhận sự giáo huấn của đức Phật, ai
cũng hết ḷng tu học.
Nhưng tăng đoàn vẫn phải làm một
tấm gương cho chúng ta xem, mỗi ngày ăn một
bữa, đêm ngủ dưới gốc cây. Mỗi người tĩnh
tọa dưới gốc cây, dưỡng thần nghỉ
ngơi, ai cũng nh́n thấy lẫn nhau. Chúng ta phải cảm nhận
được cách làm này, đây đều là những tài
liệu cung cấp cho chúng ta tu học, có thể giúp chúng ta
tránh việc tu mù luyện đui, tránh lỗi lầm,
mới có thể thành tựu đạo nghiệp của
ḿnh, giúp đỡ xă hội đại chúng.
9. Tất cả
pháp từ tâm tưởng sanh
(Buổi sáng 18-04-99)
Phật dạy: ‘Tất
cả pháp từ tâm tưởng sanh’, tâm lư có thể
ảnh hưởng đến sinh lư của một
người, tâm lư khỏe mạnh th́ sinh lư sẽ chẳng
bịnh hoạn; tâm địa thanh tịnh, từ bi th́
sẽ chẳng dễ bị bịnh truyền nhiễm; tâm
thanh tịnh có thể chống cự được
bịnh tật, tâm từ bi có thể hoá giải
được chất độc.
Người chân chánh có trí huệ có thể
điều chỉnh t́nh trạng sức khoẻ của
ḿnh, chẳng cần phải dựa vào thuốc men từ
bên ngoài. Nhà Phật gọi
việc này là Nội Học, nguyên lư của việc này là
như kinh Hoa Nghiêm có nói: ‘Hết thảy pháp
duy tâm hiện, duy thức biến’. Tâm Phật thanh tịnh từ bi
đến cùng cực nên thế giới của Phật,
hoàn cảnh y báo của Phật viên măn cùng cực. Hoa Tạng thế giới của
Phật Tỳ Lô Giá Na, Cực Lạc thế giới
của Phật A Di Đà là do tâm thanh tịnh, tâm từ bi
biến hiện thành. Hiện
nay hoàn cảnh xă hội chúng ta trược ác đến
cùng cực là v́ chúng sanh ở thế giới này tự
tư tự lợi, tham, sân, si, mạn, nghi biến
hiện ra. Nói cách khác, tâm
cực kỳ chẳng thanh tịnh, chẳng có từ bi
cảm thành y báo trược ác hiện tiền của chúng
ta. Do đó mới biết t́nh
trạng sức khỏe của thân thể chúng ta và hoàn cảnh
sanh hoạt xấu hay tốt đều có nguồn gốc
sâu kín từ một niệm tự tánh.
Phật dạy
chúng ta cầu sanh tây phương Cực Lạc thế
giới, làm thế nào mới văng sanh được? Tâm phải thanh tịnh, ‘tâm tịnh th́ cơi nước tịnh’. Niệm Phật phải niệm
đến tâm thanh tịnh, tâm từ bi phát ra, nếu
mỗi ngày niệm Phật nhưng thanh tịnh, b́nh
đẳng, từ bi chẳng thể hiện tiền th́
đó chỉ là kết duyên với đức Phật A Di
Đà mà thôi, đời này chẳng thể văng sanh. Niệm đến lúc tương
ứng với thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi th́
sẽ quyết định văng sanh Tịnh Độ. Ngẫu Ích đại sư
dạy:
‘Có văng sanh
được hay không là do tín, nguyện có hay không’,
đây là điều kiện thứ nhất của
việc văng sanh;
‘Phẩm
vị cao hay thấp đều do công phu niệm Phật
sâu hay cạn’.
Công phu chính là tâm
thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi, chúng ta hiểu
được đạo lư này, hiểu rơ chân tướng
sự thật này th́ sẽ biết làm thế nào để
dụng công [niệm Phật].
Thanh tịnh, b́nh
đẳng là tự lợi, từ bi là lợi tha. Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn
Đại Thừa, chẳng phải Tiểu Thừa, nếu cứ
giữ cái tâm ‘chỉ lo cho ḿnh’ (tự liễu hán) th́
chẳng thể văng sanh.
Đại Từ Bồ Tát nói rất hay: ‘Nếu có thể giúp cho hai người có thể văng
sanh th́ c̣n tinh tấn hơn ḿnh; nếu có thể giúp cho
mười người có thể văng sanh th́ phước
đức vô lượng vô biên; nếu có thể giúp cho
mấy trăm người văng sanh th́ bạn thực
sự là Bồ Tát’.
Chẳng có duyên phần th́ thôi nhưng nếu có cơ
duyên giúp đỡ chúng sanh mà chẳng chịu giúp
đỡ, chỉ chú trọng tự ḿnh, tâm niệm này
sẽ chướng ngại cho việc văng sanh. Thanh tịnh, b́nh đẳng,
từ bi hiển lộ từ nơi nào? Khởi tâm động niệm
đều v́ chúng sanh, đều v́ Phật pháp. Tu học Tịnh Độ, chuyên tu,
chuyên hoằng, việc chuyên tu và chuyên hoằng là một
chứ chẳng phải hai.
Khuyên người khác là khuyên chính ḿnh, dẫn dắt
người khác niệm Phật là dẫn dắt chính ḿnh, ḿnh và người chẳng hai. Chúng sanh và Phật chẳng hai,
thế nên v́ chúng sanh là thực sự v́ ḿnh, nếu chỉ
v́ ḿnh mà chẳng lo đến chúng sanh th́ đó chính là
chướng ngại to lớn cho ḿnh.
Bởi vậy nên giúp đỡ
người khác mới là thực sự giúp ḿnh, gây
chướng ngại cho người khác tức là gây
chướng ngại cho ḿnh.
Giúp đỡ người khác là tâm nguyện của
chư Phật, gây chướng ngại cho người khác
là trái ngược với nguyện vọng độ sanh
của chư Phật, vậy th́ làm sao văng sanh
được? Cho dù niệm
Phật được tốt cách mấy, lúc bước
tới cửa ngơ sanh tử của ḿnh th́ nghiệp
chướng chắc chắn sẽ hiện ra. Chúng ta phải hiểu rơ những
đạo lư và chân tướng sự thật này th́ con
đường Bồ Đề, con đường văng sanh
của chúng ta mới được thuận buồm xuôi
gió.
10. Làm thế nào tu hành (Buổi sáng 21-4-99)
Có câu nói: Người ta trong cơi đời này ‘chuyện không
vừa ư xảy ra như ăn cơm bữa’ [71],
thời gian gặp cảnh nghịch th́ nhiều, gặp
cảnh thuận, được xứng tâm, vừa ư
rất ít. Làm thế nào
để đối phó với nghịch cảnh? Trong bức thư Ấn Quang
đại sư gởi cho cư sĩ Vệ Cẩm Châu
dạy chúng ta khi gặp nghịch cảnh phải làm
thế nào để đối phó, trong nghịch cảnh
nên làm thế nào để tu học, đây là một bài
khai thị rất quan trọng, chúng ta phải đọc
nhiều lần, phải hết ḷng nỗ lực học
tập th́ khi người khác gặp khó khăn mới
biết làm thế nào để giúp đỡ họ.
Kinh Phật có
đầy đủ bốn pháp: ‘Giáo, Lư, Hạnh, Quả’,
trong đó quan trọng nhất là Hạnh, người
hiện nay thường gọi là ‘lạc thực’ (thực hiện). Nếu chẳng thể biến
Giáo và Lư thành hành vi trong sanh hoạt thực tế th́
cũng uổng công đi học, nhất định
cũng sẽ lưu chuyển theo nghiệp, lúc
trước lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam thường nói: ‘Sanh tử như thế nào th́ vẫn phải sanh
tử như thế ấy’. Phật dạy chúng ta phải làm
một sự chuyển biến, phải thay đổi
từ trong tâm niệm. Thay
đổi từ tâm niệm nào?
Thay đổi từ tâm niệm ‘tự tư tự
lợi’, từ trong lúc tu nhân, sự tu hành chứng quả
của hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều
bắt đầu từ chỗ này. Từ xưa đến nay đâu
có một ai khởi tâm động niệm chẳng v́ ḿnh,
đó là tự tư tự lợi, phải chuyển tâm
niệm này ngược lại, phải đổi thành v́
hết thảy chúng sanh. Khi tâm
niệm này vừa chuyển tức là chuyển phàm thành
thánh, sẽ triệt để chuyển biến trở
lại.
Trong mỗi tâm
niệm tuyệt đối chẳng có Ta, chỉ có hết
thảy chúng sanh. Tôi
đến thế gian này là v́ phục vụ cho hết thảy
chúng sanh, nếu vẫn thường nghĩ về lợi
ích của ḿnh th́ c̣n là phàm phu.
Dứt ác, tu thiện; tạo ác th́ sẽ có ác báo,
trồng thiện nhân th́ sẽ được thiện
quả, nếu c̣n v́ ḿnh th́ vẫn là phàm phu. Chuyển mê thành ngộ, chân chánh
giác ngộ nhất định phải xả ḿnh v́
người. Nếu tâm
niệm này chưa nảy sanh, tâm nguyện chưa phát, cho
dù giác ngộ th́ cũng vẫn c̣n giới hạn; sự
giác ngộ này vẫn chưa thể đoạn phiền
năo, chẳng thể thoát ly tam giới và liễu sanh tử,
cái ngộ này c̣n rất nông cạn.
Thượng căn lợi trí là như thế nào? Tức là chuyển biến từ
căn bản, v́ hết thảy chúng sanh chẳng quản
khó nhọc. Đọc sách là v́
chúng sanh mà đọc, bởi v́ phát tâm phục vụ chúng
sanh, nhất định phải có thường thức
phong phú, học vấn chân thật.
Tu dưỡng phẩm đức cũng là v́ phục
vụ hết thảy chúng sanh mà tu dưỡng, thậm chí
việc mặc áo, ăn cơm, nuôi dưỡng thân thể
cũng là v́ muốn phục vụ chúng sanh nhiều hơn
nữa.
Khi thể lực
của người thế gian suy yếu th́ về hưu,
trong nhà Phật chẳng có việc về hưu. Thích Ca Phổ, Thích Ca Phương
Chí là truyện kư của Thế Tôn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng có hưu trí, chúng
đệ tử của Phật cũng chẳng về
hưu. Trong nhà Phật ở
Trung Quốc có ‘ḥa thượng thoái cư’ (lui về ẩn cư, thoái ẩn),
đây là những người lớn tuổi, truyền
trao công việc cho những người trẻ tuổi
lớp sau, c̣n ḿnh th́ về hưu.
Ở Trung Quốc cách những người xuất
gia thoái ẩn này chẳng thấy ghi trong kinh điển
Phật Đà. Thoái ẩn nghĩa
là giao những công việc chấp tác cho người khác,
chẳng phải là dưỡng lăo.
Chế độ của Phật giáo Trung Quốc và
Phật giáo cổ Ấn Độ hoàn toàn khác nhau. Khi đức Phật c̣n tại
thế thuần túy là giáo học.
Thời kỳ sau đó cũng có tiếp nhận
sự cúng dường của quốc vương,
đại thần, trưởng giả, thí dụ như
tiếp nhận sự cúng dường tịnh xá Lâm Viên, là
v́ để cho mọi người có một nơi cư
trú an định. Nhưng
Thế Tôn chỉ tiếp nhận quyền sử dụng,
tuyệt đối chẳng tiếp nhận quyền
sở hữu; nói cách khác chỉ tạm trú mà thôi, quyết
chẳng lấy làm của riêng cho ḿnh, bởi vậy nên
trong tâm chẳng có lưu luyến, vướng bận.
Sau khi Phật pháp
truyền đến Trung Quốc, vua chúa cúng dường
cho những cao tăng từ Ấn Độ đến,
họ cũng chỉ tiếp nhận quyền sử
dụng. Măi cho đến
giữa đời nhà Đường, Phật giáo ở Trung
Quốc có một sự cải cách to lớn, đó là
chế độ ṭng lâm. Đây là
do ḥa thượng Mă Tổ Đạo Nhất (tổ thứ
tám của Thiền Tông), và thiền sư Bách Trượng
phát khởi. Chế độ
này tốt, lúc trước ông Phương Đông Mỹ vô cùng
tán thán. Từ lúc bấy
giờ trở về trước, sự giáo học trong
nhà Phật thuộc về giáo học tư nhân,
phương pháp lập ṭng lâm là đặt giáo dục vào
trong chánh quy (nề nếp
đàng hoàng), lập thành chế độ,
cũng như đại học ngày nay, ṭng lâm tức là
đại học, đây là đặc sắc của
Phật giáo Trung Quốc.
Tổ chức và
sự sắp xếp của ṭng lâm giống như
trường học ngày nay, chỉ có danh xưng khác nhau mà
thôi. Chủ tịch hay
phương trượng của ṭng lâm sau này
được gọi là Trụ Tŕ chính là chức vụ
Hiệu Trưởng, có trách nhiệm chính cho việc giáo
học. Phía dưới có
chấp sự chánh, phân ra làm ba cơ cấu: Thủ
Tọa Ḥa Thượng nói theo tính chất của
trường học hiện nay là Giáo Vụ Trưởng,
Duy Na tức là Huấn Đạo Trưởng, Giám Viện
tức là Tổng Vụ Trưởng. A Xà Lê hiện nay gọi là Pháp
Sư, tức là Giáo Thọ (giáo sư). Có tổ chức, kế hoạch,
lập ra các khóa tŕnh tiêu chuẩn, khóa tŕnh tiêu chuẩn
tức là sự phân khoa phán giáo h́nh thành tại Trung
Quốc. Dụng ư là nhằm
chỉnh lư kinh điển Phật giáo y theo tánh chất,
nội dung, tŕnh độ sâu cạn, sắp xếp tŕnh tự
của giáo học trong kinh điển. Nhưng căn bản nhất là
bồi dưỡng đức hạnh, đây là việc mà
Nho, Phật đều chẳng ngoại lệ.
Một hai trăm
năm gần đây Phật giáo đă suy thoái, đến
nay đă suy thoái đến mức cùng cực, nguyên nhân là
v́ chẳng học tập, chẳng noi theo quy củ đă
thành lập từ trước.
Quy củ tiểu học của nhà Nho khác với
tiểu học hiện nay, tiểu học của nhà Nho là
để bồi dưỡng đức hạnh, bồi
dưỡng đức hạnh nhất định
phải bắt đầu từ nhỏ. Trẻ nít nghe lời, dạy chúng
nó giữ phép tắc, tập cho nó thành thói quen. Trong sách Lễ Kư có ghi: dạy
cấp tiểu học là giáo dục đời sống, ‘quét dọn, đối đáp
đúng phép, hiếu thuận cha mẹ, tôn trọng thầy
giáo’ [72]. Trên phương diện học
thuật chỉ dạy học thuộc ḷng kinh văn,
chẳng có giảng giải.
Lợi dụng thời kỳ sức ghi nhớ
tốt nhất để học thuộc ḷng, ghi nhớ
hết thảy những lời dạy của cổ thánh
tiền hiền, cả đời chẳng quên. Bất luận lúc nào, trong hoàn
cảnh nào, khi khởi tâm động niệm đều
nhớ đến tiêu chuẩn của cổ thánh tiền
hiền, chẳng thể vi phạm. Dụng ư của việc
đọc sách là ở chỗ này, chẳng dám vi phạm quy
tắc, chẳng dám làm sái, làm trật. Tiêu chuẩn thị phi, tà chánh,
thiện ác, kinh nghiệm của cổ thánh tiền
hiền cung cấp cho chúng ta, kinh nghiệm của chư
Phật, Bồ Tát cũng cung cấp cho chúng ta, chúng ta
muốn siêu phàm nhập thánh vẫn phải y theo kiểu
cách này mới có thể thành tựu. Nếu chúng ta lập riêng ra
một số tiêu chuẩn khác th́ không thể nào không thất
bại, nhất định phải tuân theo quy củ. Thế nên phải ghi nhớ
lời dạy trong kinh điển, phải hiểu rơ
triệt để lư luận, sau đó thực hiện
những đạo lư, lời dạy này trong sinh hoạt,
đó chính là ‘tu hành’.
Người xuất gia thời
xưa phải học giới năm năm, đó là giáo
dục căn bản, hiện nay chẳng c̣n nữa. Năm năm học giới
chẳng phải học Luật tạng, mà trong ṿng năm
năm này tuân giữ giáo giới của thầy. Giáo giới của thầy
tức là Sa Di Luật Nghi, nam chúng là Tỳ Kheo Giới,
nữ chúng là Tỳ Kheo Ni Giới, Tam Tụ Tịnh Giới. Phải hết ḷng học
tập, thành tựu đức hạnh cho ḿnh, đây là
chỗ tương đồng với nhà Nho. Giáo học Khổng Phu Tử
gồm có bốn môn, thứ nhất là Đức Hạnh,
thứ nh́ là Ngôn Ngữ, thứ ba là Chánh Sự, thứ
tư là Văn Học. Chánh
Sự nói theo bây giờ là một số thường
thức để làm việc; cũng gọi là khả
năng phục vụ nhân dân, xă hội, quốc gia trong
tương lai, đây là thuộc về Chánh Sự. C̣n dư sức lực mới
học Văn Học, Văn Học là để nâng cao
sự hưởng thọ về tinh thần của ḿnh nên
được sắp sau chót.
Giáo học trong nhà Phật cũng chẳng ngoại
lệ, đầu tiên là giới hạnh, bồi
dưỡng đức hạnh của ḿnh. Nhất định phải coi
trọng Hạnh Kinh, nghĩa là đem lư luận, lời
dạy trong kinh điển thực hiện trên công
việc, xử sự, đăi người, tiếp vật,
trong đời sống hằng ngày; bất luận là
thuận cảnh, nghịch cảnh, khi khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều
chẳng thể trái ngược với lời dạy
của Phật Tổ, được vậy th́
đời này của chúng ta mới được
độ.
11. Đạo dưỡng sanh (Buổi sáng 24-4-99)
Đối với
người trung niên và đặc biệt là người
già nếu có thể chú ư việc ăn uống một chút
th́ thân thể sẽ chẳng có vấn đề ǵ
hết. Nhưng thân thể
khỏe mạnh quan trọng nhất vẫn là do tâm lư
khỏe mạnh, nếu tâm lư chẳng khang kiện th́
bất luận dùng thuốc men, thuốc bổ, thức
ăn đều chẳng ăn thua ǵ hết. Người học Phật hiểu
được đạo lư này, tin sâu chẳng nghi.
Buông bỏ dục
vọng của ḿnh, đối với danh văn lợi
dưỡng, ngũ dục lục trần trong thế gian
buông xả sạch sành sanh th́ tâm sẽ được thanh
tịnh, tự tại. Tâm
địa thanh tịnh tự tại th́ thân thể sẽ
chẳng bịnh hoạn.
Người coi bói, coi tướng thường nói: ‘tướng chuyển theo tâm’,
tướng chính là thân thể, thân tướng; thân
tướng đẹp đẽ hay không, thân thể
kiện khang hay không đều từ tâm chuyển, bởi
vậy nên tâm lư khỏe mạnh th́ thân thể chắc
chắn sẽ khỏe mạnh.
Mê hoặc, vọng tưởng, phiền năo là
những căn bịnh của tâm lư, nếu có thể buông
xả hết những căn bịnh này th́ thân thể
chẳng cần bất cứ bảo dưỡng ǵ tự
nhiên cũng sẽ khỏe mạnh.
Thuận theo tự nhiên th́ thân thể sẽ khỏe
mạnh; cốt ư t́m cầu, cốt ư bảo dưỡng
là trái nghịch với tự nhiên.
Trên lịch sử rất nhiều vua chúa, tể
tướng, trưởng giả giàu có dùng cạn hết
tâm tư để bảo dưỡng thân thể nhưng
vẫn bị đủ thứ bịnh, rất ít
người được trường thọ. Nguyên nhân là tâm lư chẳng khỏe
mạnh, bất cứ bảo dưỡng ǵ cũng
chẳng giúp ích được.
Những
đạo lư và sự thật này đều bày
trước mắt chúng ta.
Chúng ta muốn thân tâm khỏe mạnh, tự tại,
hạnh phúc, th́ phải nghe lời giáo huấn của
đức Phật, đoạn phiền năo, chuyển
biến tâm niệm và cũng là chuyển biến quan
niệm. Nhà Phật nói tu quán
chính là sửa đổi quan niệm, tư tưởng sai
lầm. Đây là tu hành chân chánh,
nghiên cứu giáo lư là tu quán, tham thiền cũng vẫn là tu
quán, niệm Phật cũng chẳng ngoại lệ. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô
lượng pháp môn đều là phương pháp, con
đường để sửa đổi tư
tưởng, quan niệm sai lầm mà thôi. Chúng ta chọn pháp môn Tịnh Tông,
pháp môn này bao gồm niệm Phật và nghiên giáo, nghiên giáo là
Giải Môn, niệm Phật là Hạnh Môn, Giải và
Hạnh tương ứng.
Đối với phần tử trí thức, phương
pháp này rất có hiệu quả.
Phần tử trí thức tu học chẳng thể
ngă về một bên, ngă về một bên không thể thành
tựu; thiên về giáo lư, phế bỏ tu hành chẳng
thể thành tựu; thiên về tu hành chẳng nghiên cứu
giáo lư th́ sẽ gặp nhiều chướng ngại.
Nhưng có nhiều
người chỉ có Hạnh, chẳng có Giải cũng
có thể thành tựu, đây là những người
thật thà. Có hai loại
người thật thà chân chánh: một là thượng
căn lợi trí, hai là hạ ngu, vô cùng ngu độn. Người hạ ngu cứ
một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, chẳng
suy nghĩ ǵ cả th́ có thể thành tựu. Chúng ta vừa niệm một câu
Phật hiệu vừa suy nghĩ lung tung th́ làm sao sánh
bằng được!
Bởi vậy nên người hạ ngu, cổ thánh
tiền hiền không ai chẳng tán thán. Họ gặp được nhân
duyên tốt, được thiện tri thức dạy cho
họ niệm Phật th́ họ thật thà niệm câu
Phật hiệu này đến cùng, việc này chúng ta
chẳng làm nổi. Lăo cư
sĩ Lư Bỉnh Nam đă từng nói rằng ngài rất
muốn học [như người] ngu, ráng cả đời
cũng chẳng làm nổi. Hèn
chi người xưa mới nói: ‘Ngu chẳng bằng
nổi’, đây là lời chân thật.
Học Phật
trước hết phải hiểu rơ đạo lư, sau
đó hiểu rành chân tướng sự thật, biết
làm thế nào điều tâm, điều thân (điều ḥa thân
tâm), làm cho thân tâm ḿnh khinh an, tự
tại, th́ công phu mới có thể đắc lực,
mới có thể đạt được pháp hỷ sung
măn. Hết thảy pháp thế
gian và xuất thế gian phơi bày trước mặt,
thực sự đều có thể buông xuống hoàn
toàn. Một ngày ba bữa có
thể ăn được no, quần áo mặc được
ấm, có một căn nhà nho nhỏ có thể che mưa che
nắng th́ đủ rồi!
Những ǵ dư thừa đều là gánh nặng.
Trên phương
diện ẩm thực, cổ thánh tiền hiền dạy
chúng ta buổi sáng phải ăn cho tốt, bữa trưa
ăn cho no, bữa tối phải ăn ít, đây là
đạo dưỡng sanh.
Nguyên nhân bữa tối ăn ít là v́ lúc đi ngủ,
các khí quan trong cơ thể đều giảm bớt
hoạt động, hệ thống tiêu hóa giảm bớt
hoạt động, khả năng hấp thụ cũng
giảm lại, bởi vậy nên bữa tối phải
ăn ít là có ích cho thân thể khoẻ mạnh. Cho nên ‘ngày ăn một bữa’
trong nhà Phật rất có đạo lư.
Hiện nay
nhiều người chẳng ăn bữa tối nhưng
thân thể cũng không khỏe là tại sao?
V́ vọng tưởng chẳng dứt. Ẩm thực là nguồn bổ sung
năng lượng, sự tiêu hao năng lượng
của mỗi người khác nhau, có người tiêu hao
năng lượng nhiều, có người tiêu hao ít. Vả lại chín mươi
đến chín mươi lăm phần trăm (90% - 95%) là
tiêu hao trên vọng tưởng.
Nếu vọng tưởng ít th́ tiêu hao sẽ ít. Người tu hành đời
xưa vọng tưởng ít, chẳng có dục vọng,
mong cầu, tâm địa thanh tịnh, cho nên mỗi ngày
ăn một chút là đủ bổ sung năng lượng,
đủ cho nhu cầu đ̣i hỏi trong thân thể. Nhưng người có vọng
tưởng nhiều th́ không được, nếu bổ
sung chẳng đầy đủ, thể lực chịu
không nổi th́ sẽ sanh bịnh.
Cho nên đây cũng là vấn đề tâm lư, tâm
tạp loạn th́ thân thể cần phải bồi
đắp rất nhiều năng lượng; tâm thanh
tịnh, vọng tưởng ít th́ đ̣i hỏi năng
lượng bù đắp ít, mỗi ngày ăn một
bữa cũng đủ.
Nếu gom số lượng ba bữa để
ăn trong một bữa th́ sẽ bị bịnh
đường ruột.
Bề ngoài th́ làm rất đúng như pháp -- mỗi
ngày chỉ ăn một bữa – nhưng trên thực
tế th́ mang bịnh đầy thân, việc này chẳng
thể miễn cưỡng được.
Ở Trung Quốc
phương pháp tu định trong thiền
đường là tịnh tọa, thêm vào vận
động ‘băo hương’ [73],
nhưng chủ yếu là tịnh tọa. Do đó việc ăn uống
trong thiền đường rất đặc biệt,
ăn điểm tâm rất nhiều lần [mỗi
lần ăn chút ít] để cho ‘chẳng no lắm,
chẳng đói lắm’, tiện cho việc dụng công
tĩnh tọa. ‘Chẳng no
lắm, chẳng đói lắm’ rất quan trọng, trong
đời sống sinh hoạt thường ngày nếu
chúng ta hiểu được đạo lư này th́ thân
thể chúng ta tuyệt đối sẽ khỏe mạnh. Người ta lúc đói quá th́
chịu không được, no quá th́ hôn trầm, tinh
thần chẳng phấn chấn, công phu sẽ không
đắc lực. Việc
ăn uống trong thiền đường chẳng
thể ăn no hơn năm phần, lúc đói th́ ăn
một chút điểm tâm. Cho
nên trong thiền đường mỗi ngày ăn tám, chín
bữa, phần đông là ăn những bánh bao nhỏ và
chút xíu điểm tâm, để cho mọi người luôn
luôn giữ được mức chẳng đói lắm,
chẳng no lắm, như vậy th́ công phu dễ
đắc lực. Đặc
biệt là buổi tối, ăn càng ít càng tốt.
Dưỡng thân là
cả một môn học vấn, chỉ có Phật pháp
giảng rốt ráo, viên măn nhất về vấn đề
này. T́m đến gốc rễ
th́ chỉ là tâm thanh tịnh, tiêu trừ hết thảy
dục niệm.
Chẳng những
phải buông bỏ hết những dục vọng trong
thế pháp, những mong cầu trong Phật pháp cũng
phải bỏ hết, chỉ giữ một tâm niệm: ‘cầu
sanh Tịnh Độ’. Thế
gian này là giả chứ chẳng phải thiệt, ‘Phàm những ǵ có tướng đều là hư
vọng’, phải luôn luôn đề khởi tâm
niệm này, trong thuận cảnh sẽ chẳng khởi
tâm tham luyến, trong nghịch cảnh sẽ chẳng sanh
phiền năo.
Trong hết
thảy cảnh duyên đều có thể giữ
được ‘tâm b́nh thường’, tâm b́nh thường
chính là ‘đạo’, là Bồ Đề đại đạo.
Phải tin sâu nhân
quả, ‘một miếng ăn, miếng
uống đều đă định sẵn’,
có thể tin sâu chẳng nghi th́ tự nhiên có thể buông
xuống, sẽ dám buông xuống.
Nhiều người chẳng dám buông xuống v́
sợ nếu buông xuống hết tất cả th́ ngày mai
phải làm sao đây? Cứ
luôn nghĩ trước, nghĩ sau, chẳng chịu buông
xuống triệt để.
Đây là v́ chẳng hiểu rơ Sự Lư, chẳng sanh
khởi ḷng tin. Nhưng sự
thật là buông xuống càng nhiều th́ thâu hoạch càng
nhiều. Giàu sang từ đâu
đến? Từ bố thí
tài vật mà đến, đây là quả báo. Quả báo của bố thí pháp là
thông minh trí huệ, quả báo của bố thí vô úy là
khỏe mạnh, sống lâu, tóm lại là càng bố thí th́
được càng nhiều.
Phải điều tâm,
điều thân cho đàng hoàng, thân tâm là chiêu bài, làm cho
người ta nh́n thấy có thể sanh khởi ḷng tin. Nơi ăn chốn ở, ẩm
thực phải đúng như pháp, đừng nên miễn
cưỡng, quan trọng nhất cũng vẫn phải tu
tâm thanh tịnh, tâm an trú trên thánh hiệu Di Đà, niệm
niệm ở đều v́ phục vụ chúng sanh, giới
thiệu pháp môn vô thượng này cho họ, giới
thiệu cho đại chúng.
Đặc biệt là đối với những thiện
tri thức, bạn bè từ nơi khác đến đây
tham học, phải nhiệt tâm, từ bi tiếp đăi,
rộng kết thiện duyên.
12. Nói về
bố thí (Buổi sáng 30-4-99)
a. Ba thứ bố thí
Kinh nói lúc phàm phu
chưa minh tâm kiến tánh, trí huệ đức năng vô
tận trong tự tánh chưa hiện tiền, nhất
định phải nhờ vào tu đức, nếu
chẳng biết tu hành th́ đời sống sẽ rất
khổ. Định luật nhân quả
[nói rơ] thiện nhân được thiện quả, ác nhân
đem đến ác báo, đây là nguyên lư của tam
đồ lục đạo.
Sự khác nhau lớn nhất giữa người
thế gian và chư Phật, Bồ Tát là giác và mê, trí và
ngu. Phật, Bồ Tát giác
ngộ, có trí huệ; phàm phu mê hoặc, ngu si, chẳng có trí
huệ, tư tưởng kiến giải chẳng ĺa
cảm t́nh, cảm t́nh chính là vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, cho nên quả báo khác nhau
rất lớn, tuyệt chẳng phải những ǵ
phần đông phàm phu có thể nghĩ tới, thấy
được.
Người trong
thế gian coi trọng tài và lợi, đặc biệt là
hiện nay, kinh tế đứng hàng đầu, ai cũng
liều mạng tranh giành kiếm tiền, giàu sang có thể
tranh đoạt mà được hay sao? Trong số mạng chẳng giàu
sang, nếu tranh giành được th́ chư Phật,
Bồ Tát cũng phải tôn bạn làm thầy. Thật ra những ǵ có thể
tranh giành được vẫn là trong số mạng
vốn sẵn có, đúng như câu ‘một
miếng ăn một miếng uống không ǵ chẳng
được định sẵn’,
nếu trong số mạng chẳng có th́ làm cách nào tranh
đoạt cũng không được. Liễu Phàm Tứ Huấn nói
về đạo lư này rất rơ ràng, cho nên người
xưa nói ‘quân tử vui làm quân tử, tiểu nhân lại
oán trách làm tiểu nhân’, một miếng ăn, một
miếng uống ǵ cũng đều đă được
định sẵn trong số mạng. Số mạng là do tự ḿnh
tạo ra, tự làm tự chịu.
Người
thế gian mong cầu ba thứ quả báo tốt
đẹp là ‘giàu sang, thông minh, và khỏe mạnh sống
lâu’. Nhà Phật nói: ‘Trong nhà Phật có cầu ắt ứng’,
đích thật là cầu ǵ th́ được cái đó. Chỉ cần biết lư luận
và phương pháp của sự cầu mong này, cầu
đúng lư đúng pháp th́ chẳng có ǵ mà cầu không
được. Giàu sang là do
bố thí tài vật mà được, bố thí tài vật
là nhân. Trong đời này có
được tiền tài cự phú là do đời quá
khứ tu đại bố thí, bố thí lớn lao th́ đời
này mới được quả báo to lớn. Tu bố thí pháp th́ được
thông minh trí huệ; tu bố thí vô úy th́ được
khỏe mạnh, sống lâu.
Quả chắc chắn phải có nhân, nếu
chẳng chịu tu nhân th́ làm sao có quả báo cho
được? Cướp
đoạt tranh giành làm tổn hại người
để làm lợi cho ḿnh, tạo tội nghiệp, đó
chẳng phải phước mà là họa hại. Cho dù có đoạt
được vẫn là trong số mạng có sẵn, nhưng
v́ thủ đoạn, khởi tâm động niệm
chẳng thiện, tạo ác nghiệp, đời này
hưởng hết phước sẽ đọa vào tam ác
đạo. Tam ác đạo
vào th́ dễ nhưng thoát ra rất khó!
Năm hai
mươi sáu tuổi tôi tiếp xúc với Phật pháp,
nghe tiên sinh Phương Đông Mỹ giảng giải kinh
Phật, triết học, và nhận lời dạy của
lăo cư sĩ Châu Kính Trụ.
Cụ Châu tặng cho tôi một cuốn Liễu Phàm
Tứ Huấn, kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện
nhân quả báo ứng, phần lớn đều là
những chuyện cụ đích thân gặp
được. Đọc xong
Liễu Phàm Tứ Huấn, biết cá tánh lúc nhỏ của
ông Liễu Phàm, những ác nghiệp ông tạo hầu
như tôi đều đă phạm; lỗi của ổng
tôi đều có, ưu điểm của ông tôi chẳng
có. Sau khi hiểu rơ tôi hết
ḷng nỗ lực tu học, sửa lỗi. Thế nên trong đời này lúc
về già tôi có được một chút phước báo,
một chút trí huệ, tuổi thọ cũng kéo dài thêm. Tôi chẳng minh tâm kiến tánh, tôi
chỉ biết dùng tâm chân thành để tu ba thứ bố
thí. Hiện nay tâm người
ta chẳng chánh thường, chúng ta dùng tâm chân thành
đối xử với họ, họ c̣n hoài nghi ‘có lẽ
ông giả bộ, chắc là giả, chẳng phải
thiệt’, hoài nghi nặng nề.
Cho nên có
được giàu sang là phước báo, nhưng là
phước hay là họa cũng rất khó nói. Cổ thánh tiền hiền Trung Quốc
tạo ra văn tự đều là những kư hiệu tràn
đầy trí huệ, [chúng ta] nh́n thấy, đọc
đến phải giác ngộ.
Chữ Họa (禍)
và Phước (福)
vô cùng tương tợ, ư này là ‘Là Họa hay Phước
chỉ ở trong một niệm mà thôi’. Một niệm giác th́ Họa
biến thành Phước, một niệm mê th́ Phước
biến thành Họa. Thí dụ
bạn có tiền nhưng không biết làm việc tốt,
chỉ nắm chặt số tiền này, đây là họa
hại. Số tiền này có
thể làm lợi ích cho rất nhiều chúng sanh, cứu
sống rất nhiều sinh mạng của chúng sanh,
bạn giữ chặt chẳng chịu đem đi cứu
người, để cho những người này chết
v́ nạn, chết v́ đói, bạn đă tạo ra tội
nghiệp rất lớn. Tuy
chẳng hại người, chỉ giữ tiền, v́
điểm này thôi sẽ làm cho bạn đọa
địa ngục A Tỳ.
Cho nên [Tiền] Tài từ xưa đến nay
được xưng là ‘thông hóa’, thông hóa nghĩa là
phải lưu thông, chẳng thể giữ chặt. Giữ ở trước mặt
tức là tội, có thể lưu thông đi là
phước, họa và phước chỉ ở tại
một niệm.
Nhưng người có tiền
luôn nói: ‘Tôi chịu bố thí, nhưng bố thí chưa
chắc có thể đến tay những người
đang bị nạn’. Đây là
tùy thuận theo vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước của ḿnh, làm mất đi cơ hội tu
phước. Người có
trí huệ chẳng có vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, biết những ǵ nên làm th́ làm,
những ǵ chẳng nên làm th́ chẳng làm. Tham quan ô lại rút bớt tiền
cứu trợ những vùng bị nạn từ xưa
đă có, không có cách ǵ tránh khỏi, đây chỉ là
thiểu số mà thôi. Chúng ta
không thể v́ những người như vậy mà
chẳng làm các công tác cứu trợ, chẩn tai, như
vậy là sự sơ sót của chúng ta. Phải dùng tâm chân thành mà làm, tâm
chân thành có thể làm người ta cảm động. Tự ḿnh làm chẳng
được hoàn hảo là do tâm chân thành chẳng
đủ, đem những trách nhiệm này đẩy cho
người khác, như vậy là không có trí huệ. Cư sĩ Lư Mộc Nguyên và tôi
đều là thí dụ, cả đời bố thí một
cách vô tư, hết ḷng nỗ lực làm ba chuyện bố
thí tài vật, bố thí pháp, và bố thí vô úy. Quả báo các bạn đều
đă thấy rơ ràng: những ǵ cần thiết trong sinh
hoạt vật chất đều chẳng thiếu
thốn, thông minh trí huệ mỗi năm đều
tăng trưởng, vừa khỏe mạnh lại
sống lâu. Đây chẳng
phải tánh đức mà là tu đức, do tu mà có. Tịnh Tông Học Hội và
Cư Sĩ Lâm đều tu ba thứ bố thí, cả hai
đoàn thể đều có được ba thứ
quả báo. Việc này
chứng minh cho lời Phật dạy là chính xác, hoàn toàn
tương ứng.
b. Tin Phật
Lúc trước, thầy Lư rát ḷng
mỏi miệng căn dặn tôi, phó chúc tôi phải ‘tin
Phật’, ư nghĩa này rất sâu.
Con người thường tin quan niệm sai
lầm, cách suy nghĩ sai lầm của ḿnh, chẳng
chịu tin Phật. Coi
những lời Phật dạy như gió thoảng qua tai,
nghe xong gật đầu, vừa quay đi liền quên ráo
trọi, vẫn cứ tin vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước của ḿnh, vẫn tạo
tội nghiệp như cũ.
‘Tin Phật’ là đừng tin vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước của ḿnh, nhất
định phải tin Phật.
Trong kinh nói sau khi chứng được quả A La
Hán mới có thể tin tư tưởng của ḿnh
được v́ tư tưởng và kiến giải
của ḿnh lúc đó mới chính xác.
A La Hán được xưng là ‘Chánh Giác’, lúc chưa
chứng được quả A La Hán th́ tư
tưởng, cái nh́n của ḿnh đều chẳng tin
được. Nếu có
thể suy tư lời Phật dạy, liễu giải sâu
thêm, sau đó biến nó thành tư tưởng và hành vi
của ḿnh th́ người này thực sự có
phước.
c. Tự độ và độ tha
(độ ḿnh và độ người khác).
Kinh Đại Thừa
nói con người nhất định phải tự
độ rồi sau đó mới có thể độ
người khác. Lời
Phật nói hàm ư rất sâu, nhưng có nhiều người
‘đoạn
chương thủ nghĩa’ [74],
hiểu sai lời Phật dạy nên gấp gấp tự
độ ḿnh trước, sau đó mới độ tha, họ phân chia tự độ và độ tha thành
hai việc, như vậy là sai lầm. Lúc chưa giác ngộ,
trước khi minh tâm kiến tánh, độ tha là tự
độ, học tập ở nơi độ tha. Tôi dạy các bạn đồng
học trước khi chúng ta tự độ, mỗi ngày
giảng kinh thuyết pháp, nh́n thính chúng ngồi ở phía
dưới đều là thầy giáo, thiện tri thức,
đều là người giám học của ḿnh. Ở trên giảng đài ḿnh báo
cáo những ǵ ḿnh học được cho họ nghe,
mời họ phê b́nh chỉ giáo cho ḿnh, là dùng tâm trạng và
thái độ này, như vậy gọi là tự
độ. Đến khi ḿnh
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh
rồi th́ nh́n thính chúng ngồi phía dưới thành học
tṛ, lúc đó tức là độ tha. Tự độ và độ tha
đều ở tại một giảng đường,
khi rời khỏi giảng đường, rời
khỏi thính chúng để t́m tự độ chẳng
thể được.
Phật giảng kinh thuyết pháp mới gọi là
độ tha, Thập Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ
Tát giảng kinh thuyết pháp đều là tự
độ.
Chẳng thể
độ tha th́ sẽ chẳng thể tự độ, ta
và người chẳng hai.
Bởi vậy bạn tu mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát ngay
trên giảng đài. Lễ kính
chư Phật, thính chúng ngồi phía dưới là chư
Phật. Xưng tán Như Lai,
giảng giải kinh luận của Thế Tôn tức là
xưng tán tánh đức của đại chúng trong
hội. Quảng tu cúng
dường, hết ḷng nỗ lực chuẩn bị
để giảng giải buổi học kinh giáo này
được hoàn hảo, là pháp cúng dường cho
đại chúng trong giảng đường. Sám trừ nghiệp chướng,
đại chúng sửa sai th́ chúng ta hết ḷng nỗ
lực cải tiến tức là sám trừ nghiệp
chướng. Thỉnh
chuyển pháp luân, Thỉnh Phật trụ thế, mời
người khác rất khó, khi người ta chẳng
chịu th́ phải thỉnh chính ḿnh; mời chính ḿnh lên
giảng đài chuyển pháp luân, mời chính ḿnh trụ
thế. Hết thảy
đều phải ỷ lại vào người khác th́
Phật pháp sẽ diệt vong.
Tự ḿnh giác ngộ, tự ḿnh phải gánh vác sứ
mạng tiếp nối huệ mạng chư Phật,
hoằng pháp lợi sanh, phải hết ḷng nỗ lực
làm cho hoàn hảo. Tu
mười đại nguyện vương ngay trên
giảng đài. Thế nên
tự độ tức là hóa tha, hóa tha bao gồm ở
trong tự độ, tự độ và độ
người là một, chẳng phải là hai. Trên giảng đài như vậy,
dưới giảng đài cũng phải như vậy;
xử sự, đăi người, tiếp vật không có ǵ
chẳng vậy. Trước
lúc giác ngộ, những việc này đều là tu
đức, phước huệ song tu, định huệ
cùng học.
Hy vọng các
bạn đồng học hiểu rơ, phải hết ḷng
nỗ lực, ba thứ phước báo [nói trên] đều
có thể đạt được, chẳng cần
phải tính toán, tự nhiên sẽ thành tựu. Hết thảy đều cầu
nơi ḿnh, đừng cầu kẻ khác. Dùng chánh tâm, chánh hạnh, làm
việc thiện cần đến tiền tài th́ sẽ có
Phật, Bồ Tát đem đến cho bạn. Cư sĩ Lư Mộc Nguyên
thường nói chúng ta làm những việc này cần
đến tài lực hoàn toàn nhờ A Di Đà Phật,
nương dựa vào A Di Đà Phật; chẳng cần quyên
góp, chẳng cần xin người khác. Chúng sanh chẳng có phước
th́ tiền sẽ chẳng tới; nếu chúng sanh thực
sự có phước báo th́ Phật, Bồ Tát sẽ
khiến người mang tiền đến. Cầu người tức là
lọt vào trong ư thức, sẽ sanh phiền năo. Đời Đường, Bàng cư
sĩ dạy chúng ta: ‘Chuyện tốt
chẳng bằng không có chuyện’. Hôm nay chúng ta thấy chúng sanh
khổ nạn nhiều như vậy, hăy phát tâm từ bi
giúp đỡ họ. Phật,
Bồ Tát cũng sẽ cứu khổ, cứu nạn,
chỉ cần bạn chịu phát tâm, làm người
đại diện cho Phật, Bồ Tát, th́ Phật,
Bồ Tát sẽ là ông chủ đứng sau lưng bạn,
sẽ không ngừng ủng hộ cho bạn. Nếu tâm bạn chẳng
thiện, hạnh chẳng thiện, là một người
đại diện giả dối th́ sẽ chẳng có
Phật, Bồ Tát nào ủng hộ, nhưng yêu ma quỷ
quái sẽ ủng hộ cho bạn, bạn cũng sẽ có
tài lực rất dồi dào, sẽ tạo ra tội
cực ác, tương lai sẽ đọa vào địa
ngục khổ cùng cực. Yêu
ma quỷ quái cũng biết đùa giỡn con
người, không thể không biết điều này. Đặc biệt là trong đời
Mạt Pháp, kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Tà sư
thuyết pháp như cát sông Hằng’,
phải biết phân biệt tà chánh.
Phải biết chân chánh tu phước, có tu
phước mới có thể hưởng phước,
mới được phước; nếu không tu
phước mà mỗi ngày cứ khởi vọng
tưởng, phước báo chân chánh sẽ chẳng bao
giờ có được.
B. KHUYÊN TIN SÂU NHÂN QUẢ
1. Cứu văn kiếp nạn. (Buổi sáng 19-4-99)
Vào khoảng
giữa thế kỷ thứ mười bốn, ở Pháp
có một nhà tiên tri mà ai cũng quen thuộc, đó là
Nostradamus, khả năng của ông này cũng tương
đương với Khổng tiên sinh nói trong Liễu Phàm
Tứ Huấn. Khổng tiên
sinh đoán mạng vô cùng chính xác, khẳng định
hết thảy chúng sanh đều chịu sự an bài
của vận mạng, tuyệt chẳng thể thay
đổi. Nostradamus cũng thuộc
loại người này, ông đích thật có thể nh́n
thấy t́nh trạng xă hội hiện nay của chúng
ta. Ông làm sao có được
khả năng ấy? Một
là số học, hai là thiền định. Ông ta có công phu thiền
định, kết hợp thiền định và thuật
số nên lời tiên đoán của ông có thể chính xác
như vậy, mức độ chính xác hầu như
đă đạt đến chín mươi phần
trăm. Nhưng vẫn c̣n
mười phần trăm không đúng, đây là chỉ
biết chuyện đó nhưng chẳng biết tại
sao. Ông chẳng cao minh bằng
Vân Cốc thiền sư, sau khi ông Viên Liễu Phàm gặp
Vân Cốc thiền sư, vâng theo lời dạy của
thiền sư, đoạn ác tu thiện, thay đổi
vận mạng của ḿnh.
Con người ai
cũng có vận mạng, nhưng chẳng biết
đạo lư cải tạo vận mạng, chẳng
biết phương pháp tu học, cả đời này
sẽ chịu sự chi phối của số mạng,
thiệt như câu: ‘Một miếng
ăn một miếng uống không có ǵ chẳng
được định sẵn’. Nhà có vận nhà, nước có
vận nước, thế giới có vận của
thế giới, những người có năng lực
đặc biệt như vậy đều có thể
biết. Trung Quốc cũng
có lời tiên tri cổ xưa được gọi là
‘Hoàng Cực Kinh Thế Thư’, được thâu thập
trong Tứ Khố Toàn Thư.
Lời dự đoán này chẳng những nói
đến bây giờ, thực sự là nói đến ngàn
năm vạn thế. C̣n dài
hơn thời gian nói trong cuốn ‘Chư Thế kỷ’
của Nostradamus. Hoàng Cực
Kinh Thế Thư là một bộ sách rất quư, hoàn toàn
dựa vào giáo lư của Kinh Dịch mà quán sát, dự
đoán.
Chỉ có đức Phật
mới nói đến pháp thế gian và xuất thế gian
một cách thấu triệt, nói được rơ ràng. Nếu mọi người
đều thông thạo những điển tịch trong
thế gian, tư duy, quán sát kỹ càng, mới biết
tại sao đức Phật phải thị hiện trong
thế gian này. Chẳng
phải thế gian này không có người thông minh trí
huệ, nhưng có thông minh hơn, có khả năng trội
hơn th́ cũng chỉ biết như vậy nhưng
chẳng biết tại sao lại như vậy.
Bà La Môn giáo ở
cổ Ấn Độ và những nhà tôn giáo lớn thời
ấy, công phu thiền định của họ cũng
rất sâu, trong định có thể đột phá thời
gian, không gian, đem cảnh giới của lục
đạo luân hồi đều bày ra trước mặt,
nh́n thấy rất rơ ràng.
Nhưng lục đạo luân hồi làm thế nào
h́nh thành, diễn biến ra sao, kết quả tương
lai sẽ như thế nào, quy túc ra sao th́ họ đều
chẳng biết. Họ
rất muốn biết nhưng thiền định trí
huệ chẳng nâng cao lên nữa th́ không có khả năng
biết được.
Bởi vậy nên mới cảm động chư
Phật, Bồ Tát phải xuất hiện ở trong
thế gian này, giúp cho họ được thỏa măn
nguyện vọng, nhu cầu của họ, trả lời
rơ ràng và giải thích minh bạch cho đạo lư tại sao
như vậy.
Tu học theo lư
luận, phương pháp của Phật giáo th́ vận
mạng của từng người có thể thay
đổi, vận nhà, vận nước, hay vận
thế giới không có ǵ chẳng thể thay
đổi. Kinh Phật
thừa nhận có vận mạng, nhưng chẳng
phải Túc Mạng Luận, vận mạng chẳng
phải là nhất định, có thể thay
đổi. Dùng phương
pháp ǵ để thay đổi?
Hoàn toàn tại nơi tâm hạnh của ḿnh, cũng có
nghĩa là tư tưởng và hành động tạo thành
vận mạng. Tâm hạnh
thiện th́ vận mạng sẽ tốt; tâm hạnh
chẳng thiện th́ tiền đồ (tương lai)
sẽ ngày càng ảm đạm.
Đọc kỹ
Liễu Phàm Tứ Huấn và hiểu rơ lư luận ấy
xong, lại đọc lời dự đoán của Tây
phương th́ bạn cũng chẳng cảm thấy kinh
sợ, v́ bạn hiểu đó là như thế nào. Trong cộng nghiệp vẫn có
biệt nghiệp, đích thực có thể tiêu trừ
nghiệp chướng của ḿnh, tai nạn của ḿnh. Cả nhà tu học th́ cả nhà
miễn tai nạn. Nếu nhân
dân cả nước tu học th́ vận nước
sẽ hưng vượng, thiên tai nhân họa sẽ
giảm bớt. Thế nên quy
kết về nguồn cội chỉ là một việc:
giáo dục. Phật pháp là Giáo
Dục Chánh Giác tức là giáo dục Chân Thật Trí Huệ,
là dạy cho chúng sanh ‘giáo dục lợi ích chân
thật’. Những năm
đầu Dân Quốc, ông Âu Dương Cánh Vô nói rất
đúng: ‘Phật pháp chẳng phải là
tôn giáo, chẳng phải triết học mà là sự
việc vô cùng cần thiết trong thời đại ngày
nay’. Kim
thế tức là hiện đại, là nền giáo dục
người hiện đại cần phải học.
Các nhà tiên tri
biết cuối thế kỷ tồn tại những
vấn đề này nhưng chẳng có biện pháp
giải quyết. Họ đẩy
kết quả không may này cho Thượng Đế, chúng sanh
tạo ra ác nghiệp nên Thượng Đế nổi
giận phải trừng phạt họ, chẳng có
biện pháp thay đổi, đây là luận điệu sai
lầm theo Túc Mạng Luận.
Các vị thiên
thần đều công b́nh và chánh trực, Thượng
Đế mà họ nói chính là Thiên Chủ cơi trời Dục
giới, tuy phiền năo của người trên trời
Dục giới chưa đoạn hết nhưng cũng
nhẹ hơn chúng ta rất nhiều, trí huệ cao hơn
chúng ta rất nhiều.
Nếu tôi là Thượng Đế và chúng sanh có thể
đoạn ác tu thiện, quay đầu trở lại là
bến bờ, th́ tôi cũng rất hoan hỷ. ‘Người cùng tâm
ấy, tâm cùng lư ấy’. Thế
nên chúng ta phải tin lời Phật nói, nên tiếp nhận
lời dạy của Phật, cải tạo vận
mệnh của chính ḿnh, thay đổi vận mạng
của gia đ́nh, được vậy th́ chẳng
uổng công đă theo học Phật pháp.
Lúc trước có
rất nhiều người ở nhiều nơi khác nhau
coi bói cho tôi, họ đều nói tôi đoản mạng,
sẽ chẳng sống quá bốn mươi lăm tuổi. Sau khi tôi học Phật, vận
mạng đă thay đổi, mọi người
đều nh́n thấy rất rơ ràng. Bởi vậy phải biết
vận mạng có thể thay đổi được. Cuốn sách tôi đọc
đầu tiên khi học Phật là cuốn Liễu Phàm
Tứ Huấn, do lăo cư sĩ Châu Kính Trụ giới
thiệu, sau khi đọc xong tôi vô cùng cảm
động. Lúc c̣n trẻ,
tật xấu của tôi cũng giống như của ông
Liễu Phàm, những lỗi lầm mà ông phạm th́ tôi
đều phạm hết.
‘Biết lỗi mà
sửa được th́ chẳng có ǵ thiện hơn’ cho nên chúng ta đừng giữ cái
tâm trốn tránh cầu may, tâm niệm này chẳng
tương ứng với hoằng nguyện của
Đại Thừa, bây giờ quan trọng nhất là tự
ḿnh nhất định phải tuân thủ lời giáo
huấn của thánh hiền, nỗ lực ‘đoạn ác
tu thiện, phá mê khai ngộ’, và phải giúp đỡ
hết thảy khổ nạn chúng sanh hiểu rơ chân
tướng sự thật, khuyên nhủ họ cùng nhau
sửa sai tu thiện, tích công lũy đức, thành kính
từ bi, thương yêu che chở chúng sanh, kính trọng
hợp tác lẫn nhau, cùng tồn cùng vinh, đồng tâm
hiệp lực, ngăn ngừa hết thảy thiên tai nhân
họa, cùng nhau cứu văn kiếp vận này, như vậy
mới là điều hết thảy chúng sanh hy vọng.
2. Y báo chuyển theo chánh báo
(Buổi sáng 20-4-99)
a. Y báo chuyển theo chánh báo.
Tổ Ấn Quang
cả đời cực lực đề xướng ba
cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn, Văn Xương
Đế Quân Âm Chất Văn, và An Sĩ Toàn Thư, dụng ư
của ngài là ǵ, chúng ta phải lắng ḷng thể
hội. An Sĩ Toàn Thư có
thể nói là trước thuật của nhà Phật v́ Châu
An Sĩ tiên sinh là một Phật tử kiền thành. An Sĩ Toàn Thư tổng
cộng gồm bốn thiên (phần),
thiên thứ nhất là chú giải của Văn Xương
Đế Quân Âm Chất Văn, phần này dài nhất; thứ
nh́ là Vạn Thiện Tiên Tư, khuyên người
đừng sát sanh, khuyên ăn chay; thư ba là Dục
Hải Hồi Cuồng, khuyên người đừng tà
dâm; thiên cuối cùng khuyên người niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ, đây là nội dung của sách
này. Văn Xương Đế
Quân Âm Chất Văn và Thái Thượng Cảm Ứng Thiên
đều thuộc về Đạo Giáo. Ấn Tổ cho phổ biến
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, chú
giải rất tường tận, sau này cũng không
ngừng thêm vào một số công án, nhân duyên.
Nếu ngay cả
làm người cũng không được hoàn hảo th́
học Phật làm sao có thể thành Phật, Bồ Tát
được? Không những
làm Phật, Bồ Tát không nổi, nói thực ra Thanh Văn,
Duyên Giác cũng chẳng nổi.
Tu Đà Hoàn có khả năng đoạn dứt tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong Tam giới,
được xưng là ‘Nhập Lưu’ -- đă nhập
vào ḍng Thánh. Nếu chúng ta
chưa có khả năng này th́ nhất định sẽ là
phàm phu sanh tử, sanh tử phàm phu chắc chắn ở
trong tam đồ thọ báo. Chúng
ta khởi tâm động niệm, những chuyện đă
làm, nghiệp nhân lục đạo bày trước mặt,
tự nghĩ coi ḿnh sẽ tương ứng với cơi
nào. Ấn Quang đại
sư là Tổ Sư Tịnh Độ Tông, ngài dốc toàn tâm,
toàn lực để phổ biến ba cuốn sách này, ngày
nay chúng ta mới hiểu rơ dụng tâm của ngài, đây là
đại từ đại bi, cứu khổ cứu
nạn. Trong truyện kư có ghi
ngài là Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại
Thế Chí Bồ Tát tái lai, cả đời hành tŕ của
ngài đích thật rất giống với Đại Thế
Chí Bồ Tát. Đại Thế Chí
Bồ Tát tiêu biểu cho trí huệ, Quán Thế Âm Bồ Tát
tiêu biểu cho từ bi, những ǵ ngài dạy chúng ta là trí
huệ chân thật.
Ấn Tổ cả đời
đề xướng ba cuốn sách này, dụng ư là
nhằm cứu văn kiếp nạn hiện nay. Kiếp nạn là do tâm người
tạo nên, là tâm của ai tạo vậy? [Nếu] Là tâm của chính ḿnh
tạo thành, kiếp nạn này mới có thể
cứu. Nếu kiếp
nạn là do người khác tạo tác chẳng thiện gây
ra th́ kiếp nạn này sẽ chẳng thể cứu, chính
ḿnh cũng phải thọ nạn theo. Chẳng thể đẩy
hết lỗi lầm cho người khác, chuyện tốt
là do người khác làm, chuyện xấu là do chính ḿnh làm,
là do công phu tu hành của ḿnh không đắc lực, tu hành
chẳng đúng như pháp cho nên mới tạo thành
hiện tượng y báo này. Y
báo chuyển theo chánh báo, thật sự có tâm đại
từ bi, đại trí huệ th́ phải chuyển
biến bắt đầu nơi chính ḿnh; tự ḿnh
chuyển biến th́ hết thảy thân tâm thế giới
đều chuyển biến, đó chính là ‘Tâm thanh tịnh th́ thân thanh tịnh; thân tâm thanh
tịnh th́ thế giới sẽ thanh tịnh’. Phật pháp được
xưng là Nội Học, tức là dụng công từ trong
nội tâm của ḿnh.
b. Quư tiếc pháp duyên
Nhà tiên tri Tây
phương Nostradamus giống như Khổng tiên sinh
kể trong cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn, họ cho
rằng hết thảy tai nạn đều là vận
mạng, là Thượng Đế an bài, chẳng thể thay
đổi. Đó là chỉ
biết như vậy chứ chẳng biết tại sao
lại như vậy. Trong kinh
luận đức Phật nói về đạo lư ‘tại
sao như vậy’ rất tường tận, không những
từng ly từng tí quả báo theo sát thân ḿnh do chính ḿnh
tạo ra, mở rộng đến hư không pháp giới
đều do một niệm tự tánh của chính ḿnh
biến hiện thành. Những
người này vô cùng thông minh, nhưng chẳng đủ
duyên gặp được Phật pháp. Nếu họ có thể gặp
Phật pháp, nội trong một đời sẽ tu hành
chứng quả, có khả năng thoát ly tam giới.
Chúng ta có thể
gặp được cơ duyên thù thắng, thiệt
đúng là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp, đă
gặp được th́ phải trân quư, phải hiểu
nghĩa, chẳng thâm giải nghĩa thú của lời
Phật dạy th́ sẽ chẳng được ích
lợi. Chỉ có thâm giải
nghĩa thú mới có thể thật sự hướng
dẫn đời sống, hành vi của chúng ta, mới có
thể đạt được công đức lợi ích
thù thắng. Thâm nhập kinh
tạng th́ mỗi ngày đều phải giảng trên
giảng đài, một ngày cũng chẳng thể nới
lỏng. Huân tu trong thời
gian dài mới có thể đại khai viên giải, cảnh
giới của đại khai viên giải và đại
triệt đại ngộ trong Tông Môn hoàn toàn tương
đồng, như vậy mới khế nhập vào
cảnh giới Như Lai; không những siêu việt lục
đạo, trên thực tế cũng siêu việt thập
pháp giới.
Chúng ta khẳng
định có thể làm được, chỉ cần tiêu
trừ chướng ngại của ḿnh, chướng
ngại là phiền năo tập khí, nhất định phải
lánh xa, phải phát đại thệ nguyện: ‘Xả ḿnh
v́ người, cứu độ hết thảy chúng sanh’,
chỉ cần đầy đủ hai điều kiện
này th́ sẽ có khả năng thành công. Thành công nhanh hay chậm là do tinh
tấn, nếu có thể tinh tấn chẳng giải
đăi th́ thành công nhanh; nếu tinh tấn chậm th́ sẽ
thành công trễ. Chướng
ngại lớn nhất đối với chúng ta là T́nh
Chấp, vô lượng kiếp đến nay tu hành
chẳng thể chứng quả chính là v́ những
chướng ngại này, phải nhận thức rơ ràng,
phải buông xuống triệt để. Sau khi buông xuống mới
biết có lợi ích vô biên, trí huệ khai, phiền năo
đoạn, không những lănh vực sinh hoạt tinh
thần mở rộng, sanh hoạt vật chất cũng
mở rộng. Không gian
hoạt động của chư Phật, Bồ Tát và Pháp
Thân đại sĩ là cả hư không pháp giới,
hết thảy chúng sanh là hóa thân, ứng thân của các ngài,
tận hư không trọn khắp pháp giới là một
thể hoàn chỉnh của sinh mạng. Nếu không khế nhập vào
cảnh giới th́ không thể nào hiểu nổi sự
thọ dụng như vậy.
Rất nhiều
người muốn khế nhập vào cảnh giới này
nhưng chẳng có duyên phần, chẳng có cơ
hội. Hiện nay từ
nhiều nơi trên thế giới những người
đến đây tham học mỗi tháng đều gia
tăng, họ ngưỡng mộ Phật pháp nên mới
tới đây. Nhưng bị
hạn chế bởi [quy chế] du lịch, có rất
nhiều người từ Trung Quốc tới chỉ có
thể lưu lại hai mươi bốn giờ đồng
hồ. V́ muốn cầu pháp
nên chẳng ngại đường xá xa xôi [đến
đây], tinh thần này rất đáng kính phục. Người có duyên phần
tốt hơn một chút th́ dùng lư do thăm người nhà
có thể lưu lại một tháng, họ thật sự
hiểu được duyên phần quư giá. Những người mỗi ngày ở
chung với nhau, không biết quư tiếc duyên phận sẽ
chẳng tinh tấn nỗ lực, đây là mấu chốt
của sự tu học thành công hay thất bại.
Lúc trước tôi
ở Đài Trung theo học với lăo cư sĩ Lư Bỉnh
Nam, tôi được kể là người ở
phương xa đến nên vô cùng trân quư cơ hội
ấy, có thể thân cận một ngày th́ tuyệt
chẳng để uổng phí.
Tôi chẳng nghĩ ḿnh sẽ có cơ duyên tốt
để thân cận ngài suốt mười năm,
mười năm cũng như [chỉ có] một ngày. Tôi thường nghĩ một khi
duyên này hết, rời khỏi Đài Trung th́ sẽ chẳng có
cơ hội đến để học tập. Những người cư trú
ở Đài Trung ngược lại chẳng thể thành
tựu, nguyên nhân là v́ họ nghĩ thầy Lư c̣n trụ
ở Đài Trung lâu dài, cơ hội [học tập] quá
nhiều, hôm nay chẳng hiểu th́ vẫn c̣n ngày mai,
năm nay không biết th́ vẫn c̣n năm sau. Măi đến lúc thầy văng sanh
mới hối hận nhưng không c̣n kịp nữa, đă
chẳng nắm chắc cơ hội và thời gian. Tâm trạng của những
người từ xa đến để cầu pháp th́
khác hẳn, họ chân thành khẩn thiết, chỉ cần
nhắc nhở vài câu, thọ dụng cả đời
chẳng hết. Những
đạo lư sự thật này chúng ta đều phải
hiểu. Ấn Tổ
thường dạy ‘Một phần thành
kính được một phần lợi ích, mười
phần thành kính được mười phần lợi
ích’. Trong kinh
có nói thất bảo trong đại thiên thế giới
cũng chẳng kỳ lạ, gặp được
Phật pháp mới là trân kỳ.
Phật pháp có thể giúp chúng ta liễu sanh tử, xuất
tam giới, mượn một câu nói theo tôn giáo để
bàn th́ Phật pháp có thể giúp chúng ta đạt
được đời sống vĩnh cửu. Người có trí huệ, thật
sự thông minh nhận biết cơ hội, họ cầu
mong c̣n không được th́ làm sao có thể bỏ qua? Ngạn ngữ thường nói: ‘Người đang hưởng phước mà
chẳng biết’, câu này nói những người
đă gặp cơ duyên nhưng chẳng biết trân quư.
Bởi vậy nên chúng ta phải
thâm nhập thêm vào giáo lư, buông xuống thân tâm thế
giới triệt để, hết thảy đều v́
chúng sanh, v́ Phật pháp tồn tại lâu dài nơi thế
gian, mong cầu xă hội an định, thế giới ḥa
b́nh. Muốn tiêu trừ
hết thảy tai nạn của chúng sanh th́ mọi
người cần phải chân chánh giác ngộ, hết ḷng
nỗ lực.
3. Nói về nhân quả (Buổi sáng 23-4-99)
a. Kiến ḥa đồng giải
Tịnh Tông Học Hội Tân Gia
Ba do hội trưởng Lư Mộc Nguyên lănh đạo, ông
vô cùng nhiệt tâm làm sự nghiệp hoằng pháp lợi
sanh. Đạo tràng ở đó
thiệt rất khó được, bao nhiêu người
từ trên tới dưới đều đồng tâm,
chẳng có ư kiến [riêng rẽ], việc này thiệt là hy
hữu khó được.
Ngạn ngữ nói: ‘Ba người
đồng tâm, sắc bén cắt đứt vàng’ [75]. Phật dạy
chúng ta khi giao tiếp với đại chúng nhất
định phải y theo pháp Lục Ḥa Kính. Điều thứ nhất của
Lục Ḥa Kính là Kiến Ḥa Đồng Giải, dùng lời nói
hiện nay th́ điều này nghĩa là xây dựng nhận
thức chung. Cho dù nhiều
người, chỉ cần cách suy nghĩ, cách nh́n giống
nhau th́ có thể cùng nhau nỗ lực làm việc, chẳng
có chuyện ǵ không thành công.
b. Nói về nhân quả
Tai nạn trên
thế gian xảy ra dồn dập, xă hội động
loạn chẳng yên, có một số vùng tuy điều
kiện vật chất tương đối tốt
nhưng tâm thần con người chẳng an, đây là
một điều rất đáng tiếc, đúng như
câu nói: ‘Giàu mà không vui’, c̣n
chẳng bằng ‘nghèo mà vui’. Nguyên nhân của việc này
phức tạp nhưng có một nhân tố căn bản,
đó tức là cách suy nghĩ, cách nh́n của con
người thiên lệch, sai lầm, người
người ai cũng có tư tưởng này, cách làm này,
th́ xă hội làm sao chẳng loạn cho được! Hoàn toàn phản nghịch với
luân lư đạo đức.
Phật pháp từ
đầu đến cuối đều chẳng ĺa nhân
quả, pháp thế gian là một hiện tượng nhân quả
phức tạp, Phật pháp cũng chẳng ngoại
lệ; thế pháp duyên sanh, Phật pháp cũng duyên sanh. Cổ đức phán Hoa Nghiêm là
‘Ngũ Châu nhân quả’ [76],
kinh Pháp Hoa là ‘Nhất Thừa nhân quả’. Pháp thế gian và xuất thế
gian chẳng ĺa nhân quả, định luật nhân quả
nói trồng nhân thiện chắc chắn được
quả thiện, tạo nhân ác nhất định chiêu
cảm ác báo. Hiện nay xă
hội chẳng an định, thiên tai nhân họa
đều chiêu cảm từ ác nghiệp. Tâm ác, ư niệm ác, ngôn ngữ ác,
hành vi tạo tác không có ǵ chẳng ác, giống như kinh Địa
Tạng nói: ‘Chúng sanh trong Diêm Phù
Đề khởi tâm động niệm không có ǵ chẳng là
nghiệp, không có ǵ chẳng là tội’.
Tai nạn có
thể hóa giải được không? Câu trả lời chắc chắn
là được. Vận
mạng của mỗi người là do chính người
ấy tạo ra, vận mạng chắc chắn là có,
vận mạng chính là nghiệp lực của người
ấy h́nh thành. Trong cuốn
Liễu Phàm Tứ Huấn, Vân Cốc thiền sư giúp cho
ông Viên Liễu Phàm cải tạo vận mạng, tức là
hiểu rơ đạo lư nhân quả.
Đoạn dứt hết thảy ác nghiệp, tu hết
thảy thiện nghiệp th́ tai nạn sẽ tiêu trừ. Vận mạng của cá nhân có
thể thay đổi, cho đến vận mạng
của gia đ́nh, vận mạng quốc gia, vận
mạng của toàn thế giới đều có thể thay
đổi.
Trong Liễu Phàm
Tứ Huấn, Khổng tiên sinh đoán sẵn vận
mạng của ông Viên Liễu Phàm.
Ông Liễu Phàm so sánh [lời tiên đoán với
cuộc đời của ổng] từng chút th́ tí ǵ
cũng chẳng sai. Năm nào
thi đậu hạng mấy, bổng lộc năm ấy
bao nhiêu, đều đă được đoán
định trước.
Bởi vậy nên tâm ông Viên lắng xuống, buông
xả hết vọng niệm, và cả đời chịu
vận mạng an bài. Gặp
Vân Cốc thiền sư, cùng thiền sư ngồi ở
thiền đường suốt ba ngày ba đêm chẳng
khởi lên một vọng niệm.
Việc này rất hiếm có, người
thường chẳng làm nổi.
Vân Cốc thiền sư rất khâm phục ông Viên và
khen: ‘Công phu của anh khá lắm!’.
Ông Viên thú thật:
‘Con chẳng có công phu ǵ hết, mạng con đă
được định sẵn rồi, khởi vọng
tưởng cũng chẳng ích ǵ, cho nên con chẳng
khởi vọng tưởng nữa’.
Thiền sư nghe
xong cười ha hả: ‘Tôi cứ tưởng anh là thánh
nhân, thiệt ra anh vẫn c̣n là phàm phu’, sau đó mới
dạy cho ông phương pháp cải tạo vận
mạng.
Phải hiểu
nguyên nhân h́nh thành và diễn biến của vận mạng
th́ mới có khả năng thay đổi vận
mạng. Chúng ta thay đổi
chính ḿnh quan trọng hơn bất cứ việc ǵ khác,
nếu tự ḿnh có thể thay đổi, th́ gia đ́nh có
thể thay đổi, mọi người đều có
thể thay đổi, xă hội chắc chắn cũng
sẽ thay đổi, quốc gia mới được an
định, hạnh phúc, hưng vượng.
Cả đời
Ấn Tổ cực lực đẩy mạnh việc
lưu thông Liễu Phàm Tứ Huấn, Thái Thượng
Cảm Ứng Thiên, và An Sĩ Toàn Thư. Chúng ta ngày nay hiểu rơ dụng ư
ấy, duy chỉ có những thứ này mới có thể
cứu cấp, có thể cứu văn xă hội, tiêu tai
miễn nạn. Phật pháp
tuy rất tốt nhưng chẳng c̣n kịp nữa,
nhất định phải đại chúng hóa, phổ
biến rộng ra mới có hiệu quả. Ba cuốn sách này đích thật
là cơ sở để học Phật; có được
cơ sở này th́ niệm Phật phát nguyện văng sanh
mới thật sự nắm chắc. Ba cuốn sách này có thể giúp
người hiện đại xây dựng nhận thức
chung, nhận thức chung này chính là nhận thức về
nhân quả, khẳng định là có nhân quả báo ứng.
Nếu chẳng thay đổi
từ tâm lư, hành vi th́ niệm Phật cũng chẳng
được văng sanh. Trong
kinh nói rất rơ ràng, tây phương Cực Lạc thế
giới là ‘nơi những
người thiện nhất tụ hội’, nếu
tâm hạnh của chúng ta chẳng thiện th́ làm sao có
thể văng sanh! ‘Tâm tịnh th́ cơi Phật tịnh’,
tâm thanh tịnh là tâm thiện nhất. Hết thảy tai họa
đều từ phiền năo sanh khởi, đều
từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
sanh khởi; nếu tâm địa thanh tịnh th́ những
tai nạn này sẽ tiêu trừ.
Xa ĺa hết thảy vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước th́ tâm mới được
thanh tịnh. Trong kinh Kim Cang có
nói: ‘chẳng chấp vào tướng,
như như chẳng động’. ‘Chẳng chấp vào tướng’
tức là khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài
chẳng bị dụ hoặc th́ gọi là ‘chẳng
chấp tướng’.
Đương lúc tiếp xúc ngoại cảnh nếu
trong tâm chẳng khởi tham, sân, si, mạn, chẳng
khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước th́ gọi là ‘chẳng động tâm’. ‘Ngoài chẳng chấp
tướng, trong chẳng động tâm’ là tiêu
chuẩn của tâm thanh tịnh.
Ngàn kinh vạn luận, vô lượng pháp môn
đều giảng về việc này, đều hy
vọng chúng ta đạt đến mức này.
c. Tầm quan trọng của việc
nghe kinh
Trong vô lượng
pháp môn chúng ta chọn pháp môn Tŕ Danh Niệm Phật, pháp môn
này tiện lợi nhất, khi đi, đứng, nằm,
ngồi đều chẳng chướng ngại. Chỉ cần thật sự
chịu niệm, niệm đúng như lư, như pháp th́
sẽ đạt được hiệu quả. Kinh chẳng thể không nghe, không
hiểu giáo lư mà niệm Phật trong Niệm Phật
Đường lúc ban đầu rất hoan hỷ, rất
sốt sắng, nhưng niệm được một
thời gian sau sẽ giải đăi, làm biếng. Vậy là v́ nguyên nhân ǵ? Không hiểu giáo lư nên niệm Phật
chẳng có được hiệu quả. Lúc chẳng niệm tâm tán
loạn, phiền năo rất nhiều; lúc niệm tâm cũng
tán loạn, phiền năo cũng vẫn nhiều nên mới
thoái tâm. Do đó tham thảo
giáo lư vô cùng quan trọng, năm xưa lúc đức
Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n tại thế, mỗi ngày
đều giảng kinh thuyết pháp, mục đích
chẳng ǵ khác là muốn cho mọi người hiểu
đạo lư, hiểu rơ chân tướng sự thật,
giữ cho đừng thoái chuyển, làm cho công phu
đắc lực.
Đúng như lư như pháp th́ công phu
dễ đắc lực hơn; công phu đắc lực
th́ đương nhiên sẽ dễ bảo tŕ; công phu
chẳng đắc lực th́ sẽ bảo tŕ chẳng
được. Phiền năo,
nghiệp chướng, tập khí của chúng ta vô cùng
nặng nề, nếu chẳng hạ quyết tâm
để khắc phục, đời này tuy có cơ duyên
nghe được Phật pháp nhưng đời sau
vẫn sẽ là sáu nẻo luân hồi. Chuyện này cũng giống
như đánh giặc, nếu đánh thua th́ sẽ
chẳng thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, cho nên nhất
định phải hạ quyết tâm, khắc phục phiền
năo tập khí của ḿnh, như vậy mới là anh
hùng. Đại điện trong
Phật môn gọi là ‘Đại Hùng Bảo Điện’,
đại hùng tức là đại anh hùng. Những ǵ phần đông
người ta chẳng làm nổi mà người ấy làm
nổi; phần đông người ta chẳng thể
khắc phục phiền năo tập khí của ḿnh,
người ấy có thể khắc phục, người
ấy chính là anh hùng hảo hán, đây là việc chúng ta
phải nên học tập.
C.
HIỂU RƠ GIÁO DỤC PHẬT ĐÀ
1. Làm thế nào xây dựng văn
hóa đa nguyên cùng tồn cùng vinh
(Bài nói chuyện của Ḥa
Thượng Tịnh Không tại Hội Nghị Tổ
Chức Ḥa B́nh Tôn Giáo Thế Giới 3/3/1999) (Buổi sáng 17-1-99)
Năm 1996 tôi gặp ông Vưu Lư,
Cục Trưởng Cục Dân Tộc Thiểu Số
ở Queensland, Úc Châu. Ông cho tôi
biết những năm gần đây, chính
phủ Úc Châu thi
hành chánh sách mở rộng, hoan
nghinh người từ khắp mọi nơi di dân
đến Úc Châu. Những
người này đến từ các quốc gia khác nhau,
địa phương khác nhau, chủng tộc, văn hóa,
tư tưởng, tôn giáo tín ngưỡng đều khác
nhau, thậm chí những người có sanh hoạt tập
quán hoàn toàn khác nhau. Hiện nay
mọi người cư trú chung một chỗ, làm thế
nào mới có thể tôn trọng lẫn nhau, kính ái lẫn
nhau, hỗ trợ hợp tác, cùng tồn cùng vinh, sáng tạo
cho Úc Châu có được hoàn cảnh sinh sống tốt
đẹp, xă hội an định và phồn vinh. Cách suy nghĩ của ông Vưu Lư
rất hợp lư, vô cùng quư báu, trong Phật pháp nói
đến trí huệ chân thật cũng chẳng hơn
được cách suy nghĩ này.
Đầu năm ngoái
tôi đến thăm đại học Bang Đức ở
bải biển Hoàng Kim, ông Bảo La, viện trưởng
viện Khoa Học Xă Hội Nhân Văn, tiếp đón chúng
tôi, ông nói trường học này có hơn hai ngàn học
sinh đến từ hơn ba mươi mấy quốc
gia, địa phương, giống như một Liên
Hiệp Quốc nho nhỏ.
Họ đang t́m phương pháp để dung
nạp hết thảy các văn hóa đa nguyên khác nhau, làm
cho thầy tṛ toàn trường có thể dung hợp, cùng
chung sanh hoạt và học tập, tương lai phát triển
tinh thần đa nguyên văn hóa này đến toàn thế
giới.
Lúc nói chuyện
với viện trưởng Bảo La tôi liền nghĩ
đến Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm. Vừa mở
đầu kinh này chúng ta thấy những thính chúng
đến tham dự bao gồm hai trăm hai mươi tám
đoàn thể chủng tộc khác nhau, xă đoàn khác nhau,
hội kinh ấy nếu nói thông hết mười
phương th́ có vô số vô tận các đoàn thể
chủng tộc. Đây cũng
như đại tập hợp của những văn hóa
đa nguyên mà chúng ta thường nói đến. Trong kinh nói đến chân
tướng của vũ trụ nhân sanh tức là vô
lượng vô số những đoàn thể chủng
tộc này, các văn hóa tư tưởng khác nhau tập
hợp tại một nơi, mọi người
đều hưởng các thứ sanh hoạt chân thiện
mỹ huệ ḥa hợp viên dung.
Thế Tôn và chư Phật, Bồ Tát v́ muốn
đạt đến mục đích này nên chọn
phương pháp giáo học, tức là muốn hết
thảy chúng sanh nhận thức rơ ràng căn nguyên, chân
tướng của vũ trụ nhân sanh. Thế nên Phật nói lời thành
thật với mọi người, lời thành thật là
ǵ? Tận hư không, trọn
khắp pháp giới vốn là một thể hoàn chỉnh,
diệu hữu, hoàn mỹ.
Cổ thánh tiền hiền ở Trung Quốc cũng
đă từng nói đến tư tưởng và kiến
giải này. Kinh Dịch nói: ‘Thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh
tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái
sanh vạn vật’ [77]. Đạo gia nói c̣n rơ hơn ‘Thiên địa và ḿnh có cùng gốc rễ, vạn
vật và ḿnh cùng một thể’ [78],
những câu này rất giống với lời Phật
dạy.
Chúng ta phải
đạt đến sự ḥa hợp, viên dung giữa các
văn hóa đa nguyên, trước hết nhất
định phải có nhận thức này, như vậy th́
vấn đề mới được giải
quyết. Phàm người
chẳng có nhận thức này, khi khởi tâm động
niệm hành vi tạo tác đều chỉ lo đến
căn nhà nhỏ bé của chính ḿnh, sanh khởi
quan niệm tự tư tự lợi. Tâm hạnh tự tư tự
lợi phát triển nhất định sẽ làm những
việc tổn người lợi ḿnh, như vậy
sẽ sanh ra xung đột mâu thuẫn với người
khác, xâm phạm lẫn nhau, làm hại đối
phương, do đó tạo thành nguyên nhân căn bản
của thiên tai nhân họa.
Chúng ta b́nh tĩnh quan sát thế gian, rất nhiều
tai nạn từ đâu đến?
Đều từ tâm hạnh tự tư [ích kỷ]. Thế nên Phật nói vô cùng chính
xác, hết thảy tai nạn, hết thảy những
quả báo không tốt đều sanh ra từ si mê.
Hăy lấy thí
dụ cây cổ thụ, cây này là một thể hoàn
chỉnh, chúng ta thí dụ cây này như vũ trụ, pháp
giới, c̣n ḿnh ví như một chiếc lá trên cây. Chiếc lá này nh́n chiếc lá kia
sanh ra đối lập, đối kháng, nghi ngờ
lẫn nhau. Nếu nh́n xa thêm
một chút th́ những chiếc lá này đều cùng mọc
ra từ một cành cây, là cùng chung một tộc đoàn,
nếu nh́n như vậy th́ chiếc lá này sẽ chẳng
xung đột với chiếc lá kia. Nếu nh́n xa thêm nữa, các cành
cây nhỏ sanh từ cành cây lớn, các cành cây lớn này sanh
từ cùng một thân cây, các thân cây này sanh từ một
gốc cây; t́m đến cội nguồn mới biết
cả cây cổ thụ là một thể hoàn chỉnh
(chỉnh thể), một đại ngă, chân thật là chính
ḿnh, như vậy mới thật sự là t́m
được căn nguyên của sanh mạng. Do đó hết thảy
đối lập, mâu thuẫn, xung đột đều
tan thành mây khói, tâm đại từ đại bi tự
nhiên sanh khởi, thương yêu hết thảy chúng sanh
cũng như thương yêu chính ḿnh, thật sự
khế nhập vào cảnh giới ḿnh và người
chẳng hai (tự tha bất nhị).
Thực sự
nhận thức đại vũ trụ, thế giới là
một nhà, cả quả địa cầu là một nhà th́
sự tranh chấp giữa người với
người sẽ không c̣n nữa, do đó bất kỳ
đoàn thể chủng tộc nào đều là một cá
thể trong văn hóa đa nguyên dung hợp lẫn nhau,
chúng ta nhất định phải nhận thức
điều này. Triệt
để giác ngộ tất cả các tinh cầu trong
hư không pháp giới là một thể hoàn chỉnh,
hiểu như vậy th́ tất cả vấn đề
mới có thể giải quyết được viên
măn. Kinh Hoa Nghiêm giảng chân
tướng sự thật này rất tường tận,
rơ ràng, thế nên tài liệu giáo dục tốt nhất cho
văn hóa đa nguyên chính là Kinh Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm. ‘Hoa’
tiêu biểu cho vô lượng tộc đoàn khác nhau trong
hư không pháp giới, ‘Nghiêm’ nghĩa là bỉ thử vô
ngại, cùng tồn cùng vinh, cảnh giới trang nghiêm
tốt đẹp viên măn ḥa mục tương
đắc. Phàm những
người có nhận
thức như vậy th́ trong Phật pháp gọi là
‘Phật tri Phật kiến’, người ấy gọi là
Bồ Tát, Phật Đà.
Năm nay tôi
thăm viếng đại học Các Lư Phỉ Tư ở
Queensland, ông Vưu Lư xây một Trung Tâm Hoạt Động Đa
Nguyên Văn Hóa trong trường này. Tôi biết được nên
rất hoan hỷ, hết sức khen ngợi và giúp
đỡ. Tôi c̣n đề
nghị với hiệu trưởng, hy vọng nhà
trường có thể mở một Sở Nghiên Cứu
Học Tập Đa Nguyên Văn Hóa, bồi dưỡng
những nhân tài chuyên môn làm công việc xây dựng xă hội
an định phồn vinh, thế giới ḥa b́nh. Lư tưởng nhất là quốc
gia xây một trường đại học Đa Nguyên Văn
Hóa, hoặc mỗi trường đại học
đều có một học viện Đa Nguyên Văn Hóa, Khoa
Hệ Đa Nguyên Văn Hóa, cùng nhau nỗ lực thực
hiện xă hội an định, thế giới ḥa b́nh, quan
niệm đa nguyên văn hóa mới chẳng đến
nổi trở thành một khẩu hiệu suông mà thôi. Đây là chỗ chính phủ Úc Châu,
giới học thuật nhân sĩ Úc Châu đáng cho chúng ta
kính trọng, khâm phục. Chúng
ta sẽ dốc hết tâm lực khen ngợi và giúp
đỡ họ, hoàn thành lư tưởng tối thiện
vĩ đại này trở thành hiện thực.
Phật pháp có lư luận,
phương pháp, nhất định có thể thực
hiện được, chúng ta nên học tập; kinh
điển Phật giáo là kho tàng quư báu chung của các
văn hóa bất đồng của nhân loại. Nó chẳng có phân biệt,
chẳng có chấp trước, cách nh́n, cách suy nghĩ và
cách làm hoàn toàn tương ứng với chỉnh thể
của đại vũ trụ hoàn mỹ, tương
ứng với chỉnh thể tức là tương
ứng với tự tánh như nói trong kinh điển,
như vậy mới có thể giải quyết hết
thảy vấn đề của vũ trụ nhân sanh
một cách viên măn. Hôm nay tôi có
duyên tham gia buổi hội thảo thù thắng này, vô cùng
cảm tạ những người chí sĩ thuộc ban
tổ chức, nơi đây xin biểu lộ nhiệt tâm
ủng hộ, tán thán, cống hiến đôi chút sức hèn
mọn, xin chỉ giáo thêm, cám ơn mọi người!
2. Mục đích của việc tu
học Phật pháp
(Buổi
sáng 7-4-99)
Trong Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thế Tôn thuyết minh rơ cho chúng ta ‘các tâm
lượng’ của hết thảy chúng sanh trong
mười phương thế giới, đây là một
hiện tượng rất phức tạp. Các tâm lượng khác nhau từ
đâu sanh ra? Chẳng
vượt ngoài vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Tâm lượng
vốn là giống nhau, Phật pháp có câu: ‘Tâm bao trùm hư không, lượng trọn
khắp các cơi nhiều như cát’, đây là tâm
lượng vốn sẵn có của chúng ta, chư Phật
đều như vậy, hết thảy chúng sanh trong
mười phương pháp giới chẳng ai là không
như vậy. Tâm lượng
to lớn vốn sẵn có này hiện nay biến thành
nhỏ bé; tâm lượng nguyên thủy đơn thuần
biến thành phức tạp, đây là việc chúng ta
phải suy nghĩ kỹ càng.
Tâm lượng
vốn sẵn có hiện ra những cảnh giới
tức là Nhất Chân pháp giới.
Trong kinh Hoa Nghiêm, tác dụng của Nhất Chân pháp giới
được gọi là ‘Phật Hoa Nghiêm’, kinh Tịnh
Độ gọi là Cực Lạc thế giới. Những thứ này đều là
những ǵ chúng ta sẵn có, giống như Bồ Tát Mă Minh
nói: ‘Bổn giác vốn có’. Nhất Chân vốn có, Cực
Lạc vốn có, bao thái hư, châu sa giới vốn có,
sự dạy học của chư Phật, Bồ Tát
đối với hết thảy chúng sanh chính là dạy cho
người ta khôi phục lại tự tánh vốn sẵn
có mà thôi. Thế nên Phật
chẳng độ chúng sanh, Phật chẳng có năng
lực giúp chúng sanh thêm một chút, hoàn toàn chỉ là khôi
phục tự tánh mà thôi.
Phải biết khôi phục bản tánh mới là
đại viên măn, đại tự tại. Sự tự tại, khoái lạc,
viên măn của Phật là những ǵ chúng ta vĩnh viễn
không có cách chi tưởng tượng nổi, nhưng
những thứ này đều là tự tánh chúng ta vốn
sẵn có đầy đủ.
Chữ ‘A Di Đà’ nghĩa là ‘Vô
Lượng’. Tâm lượng
là vô lượng, trí huệ cũng vô lượng,
đức năng cũng vô lượng, tài nghệ
cũng vô lượng, thọ mạng cũng vô
lượng, hưởng lạc cũng vô lượng,
không có ǵ chẳng vô lượng cả. Vả lại những thứ vô
lượng này đều vốn sẵn có đủ trong
tự tánh chúng ta, chẳng phải cầu từ bên ngoài mà
có, bởi vậy nên Phật pháp được gọi là
Nội Học, hướng vào chân tâm của ḿnh mà
cầu. Nếu có thể khôi
phục cái vô lượng trong tự tánh th́ xưng là
Phật, Bồ Tát, Pháp Thân đại sĩ; mê mất cái vô
lượng trong tự tánh tức là phàm phu, chúng sanh. Do đó có thể biết toàn
bộ Phật pháp quy nạp lại chỉ là vấn
đề của mê - ngộ mà thôi.
Mục đích
của giáo học Phật pháp gồm có ba thứ:
Thứ nhất là ‘Đoạn Ác Tu Thiện’, đây là
phương tiện ban đầu, là thủ đoạn
khi bước vào cửa Phật.
Hy vọng bạn làm một người thuần
thiện, thiện tâm thiện hạnh thanh tịnh có
thể giúp cho bạn giác ngộ; ác tâm ác hạnh chắc
chắn là mê hoặc, chẳng thể khai ngộ.
Thứ hai là ‘Phá Mê Khai Ngộ’, dần dần
hiểu rơ đại đạo lư, chân tướng sự
thật của vũ trụ nhân sanh th́ có thể thoát ly lục
đạo luân hồi, cũng có thể thoát ly thập pháp
giới. Hiện nay chúng ta
đang ở ranh giới này, có lúc tỉnh giác nhưng
thời gian rất ngắn, cảnh giới của danh
văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần
vừa hiện tiền th́ lập tức mê hoặc. Tuy chẳng thể coi hiện
tượng này là thành tựu nhưng cũng tương
đối rất quư. Thế
gian có bao nhiêu người trong một đời có thể
tỉnh ngộ một hai lần?
Cũng giống như trong bóng tối đột nhiên
có một ánh điện xẹt tỏa sáng, tuy ngắn
ngủi nhưng vô cùng quư báu.
Chúng ta hy vọng có thể có vài lần điện
xẹt này, nhịp độ xẹt ngày càng nhiều, ánh
sáng ngày càng sáng, đây là hiện tượng, dấu
hiệu tốt.
Thứ ba là ‘Chuyển Phàm Thành Thánh’, chỉ có chân chánh
giác ngộ, chân chánh hiểu rơ mới thật sự
muốn học theo Phật, Bồ Tát. Muốn học thật sự th́
có thể thành tựu thật sự. Phật nói một người
trong đời này chắc chắn có thể thành tựu,
vấn đề ở chỗ có chịu hết ḷng làm hay
không. Lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư trong cuốn Tịnh Ngữ có dạy ‘chân cán’ (làm thật sự, làm hết ḷng),
chỉ cần chịu làm thật sự, ngay trong đời
này có thể thành tựu. Trong
kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử thành tựu ngay
trong một đời; trong kinh Pháp Hoa có nói Long Nữ tám
tuổi thành Phật; Thế Tôn nêu ra những chuyện này
tức là nói rơ chúng ta cũng có thể làm
được. Cử ra
đồng nam, đồng nữ là biểu thị,
tượng trưng phải dùng tâm thành thật mới có
thể thành tựu. Tâm trẻ
nít c̣n chưa bị ô nhiễm, tâm chưa ô nhiễm có
thể thành tựu.
Có thể buông
xuống hết thảy vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước th́ sẽ chẳng ô nhiễm;
đối với hết thảy pháp vẫn c̣n tốt -
xấu th́ tâm đă ô nhiễm rồi. Hết thảy pháp thế gian và
xuất thế gian đều thanh tịnh, b́nh đẳng
cả; nếu trong cảnh giới khởi tâm tốt -
xấu, thương - ghét, khống chế, chiếm
hữu, như vậy là ô nhiễm nghiêm trọng. Chúng ta phải học tập
chư Phật, Bồ Tát, cảnh giới của chư
Phật, Bồ Tát là Hoa Tạng thế giới, Cực
Lạc thế giới, y báo, chánh báo trang nghiêm, đẹp
chẳng thể tả. Tuy các
ngài có mọi thứ hưởng thọ nhưng chẳng
có tâm niệm muốn khống chế, chiếm hữu
hết thảy người, sự, việc; tâm niệm
cũng chẳng có huống ǵ là hành vi? Như vậy mới là chân
lạc -- vui thật sự.
Bất luận vui cũng vậy, khổ cũng
vậy, hiện nay chúng ta đều có tâm niệm, hành vi
khống chế và chiếm hữu, như vậy là tạo
nghiệp. Từ đây có
thể biết khởi tâm động niệm muốn
chiếm hữu, muốn khống chế chính là tạo
nghiệp. Tạo nghiệp th́
nhất định nghiệp ác nhiều, nghiệp
thiện ít. Thiện nghiệp
là ǵ? Thỉnh thoảng buông
lỏng tâm chiếm hữu, khống chế một chút
tức là thiện nghiệp.
Nắm quá chặt th́ tạo ác nghiệp, thiện và
ác bất quá chỉ như vậy mà thôi. Thế nên Phật mới nói tam ác
đạo là quê nhà, tam thiện đạo là nơi du
lịch của lục đạo chúng sanh [v́ thời gian
ở trong tam ác đạo lâu dài như ở quê nhà,
thời gian ở tam thiện đạo ngắn ngủi
như đi du lịch, đi chơi vài ngày rồi cũng
phải trở về nhà, trở về tam ác
đạo]. Chúng ta hăy lắng
ḷng quán sát kỹ càng, lời Phật nói đích thực là
chân tướng sự thật.
Tôi hy vọng các
bạn đồng tu phải giác ngộ, giác ngộ th́
phải học Phật, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là
gương tốt nhất của chúng ta. Chúng ta dùng đức Phật Thích
Ca Mâu Ni làm cơ sở, làm mô thức căn bản, sau
đó chúng ta mới có định lực. Định lực tức là chẳng
bị cảnh giới bên ngoài dụ hoặc, lay
động; khi gặp nghịch cảnh, nghịch duyên
chẳng sanh phiền năo, khi gặp thiện cảnh,
thiện duyên chẳng sanh tham luyến. Có định lực th́ tự
nhiên sẽ có trí huệ, trí huệ tức là thông suốt
hết thảy, được vậy th́ có thể học
Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Đạo chính là tâm
Bồ Đề rộng lớn, dùng tâm đại từ
đại bi để thương yêu và giúp đỡ
tất cả chúng sanh một cách vô điều kiện. Nếu có tâm này mà chẳng có hành
động th́ chỉ là phát tâm suông, nhất định
phải dùng hành động để thực hiện,
đó mới là Bồ Tát hạnh.
Trong phần lớn kinh điển Đại Thừa nói
đến Bồ Tát hạnh gồm sáu điều: bố
thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, Bát Nhă; kinh Hoa Nghiêm nói đến mười
điều, nói tường tận viên măn hơn. Thật ra nội dung của sáu
điều và mười điều đều giống
nhau, quy nạp mười điều th́ thành sáu
điều, sáu điều mở rộng ra tức là
mười điều. Trong
mười điều th́ Bát Nhă được mở
rộng ra, Bát Nhă tức là Căn Bản Trí, Căn Bản
Trí khởi tác dụng là Hậu Đắc Trí, cho nên có
Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí. Hậu Đắc Trí là tác dụng
của trí huệ, dùng trên bố thí, tŕ giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định. Mười điều này bất
quá chỉ là nói rơ thêm về trí huệ Bát Nhă mà thôi.
Trong sinh hoạt hằng ngày, trong
lúc chúng ta xử sự, đăi người, tiếp vật
nhất định phải làm được sáu Ba La
Mật. Ba La Mật là Phạn
ngữ, dịch nghĩa là Đến Bờ Kia (Đáo Bỉ Ngạn), viên măn, sáu thứ
viên măn. Bố thí phải vô
điều kiện, chẳng chấp tướng th́
sẽ viên măn. Trong kinh Bát Nhă
nói đến ‘Tam Luân Thể Không’, tức là đừng
chấp trước ḿnh đă làm được bao nhiêu việc
tốt rồi, cũng đừng chấp trước
người khác làm được bao nhiêu việc tốt
rồi, viên măn nhất định phải ‘tam luân thể không’.
‘Chẳng có tướng Ta, tướng Người,
tướng Chúng sanh, tướng Thọ Giả’,
bố thí phải ĺa bốn tướng ấy, tŕ
giới, tinh tấn, thiền định, Bát Nhă cũng ĺa
bốn tướng, như vậy mới gọi là Ba La
Mật, mới viên măn. Hy
vọng các bạn đồng tu phải lắng ḷng
thể hội, buông xuống tự tư tự lợi,
niệm niệm v́ xă hội, v́ hết thảy chúng sanh,
phục vụ vô điều kiện, tận tâm tận
lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh trong pháp giới. [Được vậy th́] trong
đời này tu học, học tập chư Phật,
Bồ Tát chắc chắn sẽ đạt được
kết quả thù thắng.
3. Nhập tri kiến Phật (Buổi sáng 9-4-99)
a. Thâm
nhập kinh tạng.
‘Khẳng định hư không pháp
giới hết thảy chúng sanh chính là tự tánh’,
đây là nhập tri kiến Phật, đây là chân
tướng của vũ trụ nhân sanh. Đặc biệt là trong thời
đại hiện nay nếu chẳng có nhận biết
như vậy th́ tai nạn của ḿnh và hết thảy
chúng sanh sẽ chẳng có cách ǵ tránh khỏi. Muốn nhận biết sự
thật này th́ nhất định phải thâm nhập kinh
tạng, nhưng ‘kinh tạng’ ở đây không phải
chỉ Đại Tạng Kinh mà là bất kỳ một bộ
kinh nào trong Phật giáo, chân lư chứa đựng trong
một bộ kinh có thể giải quyết vấn
đề. Chân lư chứa
đựng trong bất kỳ một bộ kinh nào cũng đều
giống nhau cho nên ‘pháp môn b́nh
đẳng, chẳng có sai khác’.
Tu học Phật
pháp y cứ bất kỳ một bộ kinh nào đều
có thể nhập tri kiến Phật. C̣n việc lựa chọn một
bộ kinh luận nào, pháp môn nào là do duyên phần của
từng người, căn tánh, sự ưa thích và hoàn
cảnh sinh hoạt [của mỗi người] chẳng
đồng. Chư Phật
Như Lai giới thiệu kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa cho
người lợi căn; giới thiệu kinh Vô
Lượng Thọ cho người trung hạ căn, chúng
sanh căn tánh trung hạ vẫn chiếm số nhiều
hơn. Pháp môn Tịnh Tông
chẳng phải chỉ có một ḿnh đức Phật
Thích Ca Mâu Ni giới thiệu, mà mười phương ba
đời hết thảy chư Phật Như Lai
đều giới thiệu, vậy th́ c̣n sai được
nữa sao? Vấn đề
ở chỗ phải thâm nhập vào chân lư, chân tướng
sự thật của vũ trụ nhân sanh chứa
đựng trong kinh; nếu chẳng thể thâm nhập th́
không thể đè nén phiền năo tập khí, đè nén
phiền năo tập khí không nổi th́ chắc chắn
sẽ tạo nghiệp, tạo nghiệp nhất định
sẽ tổn hại chính ḿnh, và cũng tổn
thương đến hết thảy chúng sanh.
Tổn hại ḿnh
th́ chẳng sao cả, tương lai đọa địa
ngục, biến thành súc sanh, đó là tự làm tự
chịu; nhưng tổn thương đến rất nhiều
chúng sanh th́ tội này nặng lắm. Đoạn dứt pháp thân huệ
mạng của hết thảy chúng sanh, chẳng có tội
ǵ nặng hơn tội này, v́ tội nghiệp này mới
đọa địa ngục.
[Hăy thử nghĩ] người ấy từ vô
lượng kiếp đến nay, đời này
được thân người, có cơ hội nghe
được Phật pháp, mà bạn đoạn dứt
duyên phận này của họ, tội này bao nặng? Chúng ta phải hiểu thâm ư
của cách luận tội nói trong kinh Phật. Ngược lại giúp đỡ
hết thảy chúng sanh có cơ hội nghe đến
Phật pháp, có cơ hội tu học Phật pháp, đây là
công đức hạng nhất trong thế gian và xuất
thế gian. Trên thế gian này
tuy có nhiều tiền, lắm của nhưng sau khi
chết đi một đồng xu cũng chẳng mang theo
được, đúng là ‘muôn vật đem
chẳng nổi chỉ có nghiệp đi theo mà thôi’. Mang ǵ theo được? Có thể mang theo công đức
giúp đỡ chúng sanh có cơ duyên được
độ hóa.
Trong xă hội ngày nay rất nhiều
người có địa vị, giàu sang nhưng chẳng
biết đạo lư và sự thật này, chẳng có trí
huệ, chẳng biết căn nguyên thật của
kiết hung, họa phước, cho nên vẫn chẳng
thể giữ kiết, tránh hung.
Những việc nhân quả báo ứng này không
những cổ đức ghi chép rất nhiều, nếu
chúng ta lưu ư một chút trong xă hội ngày nay th́ chỗ
nào cũng có thể thấy được. Ngày nay chúng ta may mắn gặp
được duyên phần này, thiệt là trăm ngàn muôn
kiếp khó gặp được, nếu chúng ta c̣n không
biết nắm lấy cơ hội, vẫn chẳng
biết tu phước, trái lại c̣n tạo nghiệp,
chướng ngại nhân duyên này, tội ấy rất
nặng. Thế nên gặp
được duyên phần thù thắng này rốt cuộc
là tốt hay xấu th́ cũng khó nói, phải coi bạn dùng
tâm ǵ. Bạn dùng tâm thiện,
chịu thành tựu cho chúng sanh th́ đó là chuyện tốt. Nếu tự ḿnh có ư niệm
muốn khống chế, chiếm giữ th́ duyên phần
này sẽ giúp bạn đọa vào địa ngục A
Tỳ. Đây đều là sự
thật, hoàn toàn sai khác trên sự nhận biết.
b. Tầm
quan trọng của việc nghe kinh
Làm thế nào
để vun bồi trí huệ?
Phương pháp duy nhất là phải nghe kinh. Năm xưa đức Phật
Thích Ca Mâu Ni c̣n tại thế thuyết pháp suốt bốn
mươi chín năm chưa hề gián đoạn. Trong các học tṛ của Ngài
những vị xuất gia thường tùy chúng có một
ngàn hai trăm năm mươi lăm người, ngoài ra
những vị chẳng phải thường tùy chúng c̣n
nhiều hơn nữa.
Rất nhiều người đi theo đức
Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng nỡ rời khỏi, mỗi
ngày nghe Phật giảng pháp thậm thâm vi diệu. Từ chuyện này chúng ta mới
hiểu nếu chúng ta muốn đạt được
trí huệ chân thật th́ không thể tách rời kinh giáo, phải
nghe mỗi ngày, phải giảng hằng ngày. Nghe xong, chính ḿnh đă hiểu th́
phải giảng cho người khác nghe. Cả đời Thế Tôn
dạy chúng ta ‘thọ tŕ,
đọc tụng, v́ người diễn nói’,
đă nói câu này ngàn vạn lần, chúng ta phải vô cùng vui
vẻ, phải thích v́ người diễn nói.
Hiện nay
người giảng kinh rất ít, chúng ta lợi dụng
phương pháp kỹ thuật tân tiến: mạng
lưới điện toán (internet) và truyền h́nh vệ
tinh để truyền bá, hoằng dương Phật
pháp. Thật sự muốn
nhập tri kiến Phật, làm cho tư tưởng
kiến giải được thuần chánh, chẳng sai
lầm, nếu không nghe kinh, không đọc kinh th́ tuyệt
đối chẳng làm nổi.
Tôi học Phật bốn mươi bảy năm, kinh
nghiệm từ nhiều năm nay cho tôi biết chỉ có
cách phải huân tập hằng ngày, một ngày cũng
chẳng thể gián đoạn; [được vậy th́
lúc] xử sự, đăi người, tiếp vật trong
đời sống hằng ngày, chúng ta mới chẳng tùy
thuận phiền năo, cũng chẳng tùy thuận ư
tưởng của ḿnh, v́ ḿnh c̣n mê, c̣n chưa giác ngộ.
Phật dạy lúc
chúng ta c̣n chưa chứng A La Hán th́ không thể tin theo ư
tưởng của ḿnh; ư tứ của ḿnh đều sai
lầm, đều là tri kiến của phàm phu, tri kiến
luân hồi. Tùy thuận theo ư
tứ của ḿnh th́ chắc chắn sẽ tạo
nghiệp luân hồi, Phật nói lời chân thật. Bởi vậy nên trước khi
khai ngộ th́ phải tùy thuận theo lời dạy
của Phật, nhưng nếu chưa thông thuộc kinh
giáo, không thể thâm nhập th́ chẳng làm nổi. Đến lúc tự ḿnh đă
đoạn phiền năo, mức thấp nhất là phải
đoạn dứt Kiến Tư phiền năo, buông xuống
hết thảy chấp trước, chứng
được quả vị A La Hán, A La Hán được
gọi là Chánh Giác, nghĩa là tư tưởng kiến
giải chẳng c̣n sai lầm nữa, đến mức
này mới có thể tin tưởng sự suy nghĩ
của ḿnh. Bồ Tát c̣n cao
hơn A La Hán, được xưng là Chánh Đẳng Chánh
Giác, đă đoạn Trần Sa phiền năo, chẳng c̣n
phân biệt; Quả vị
Phật là viên măn nhất, chẳng c̣n vọng tưởng,
vô minh, được xưng là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Kiến Tư
phiền năo của chúng ta vẫn c̣n đầy đủ,
trong đời sống hằng ngày vẫn c̣n thị - phi,
nhân - ngă, tham, sân, si, mạn, tự tư tự lợi, đây
đều là tâm luân hồi, những ǵ tạo tác
đều là nghiệp luân hồi.
Khi tâm luân hồi, nghiệp luân hồi gặp Phật
pháp th́ thường thường đều chướng
ngại Phật pháp, không những hiện nay như
vậy, thời xưa cũng chẳng ngoại lệ. Nhưng người xưa c̣n
đỡ hơn người hiện nay v́ phần đông
người xưa đều được un đúc
bởi đạo đức, vẫn c̣n quan niệm
đạo nghĩa. Hiện
nay luân lư đạo đức chẳng c̣n, nếu bạn
nói luân lư đạo đức với họ, không những
họ không thể tiếp nhận mà c̣n bài bác nữa. Họ cho rằng tự tư
tự lợi là đúng, lợi ḿnh hại người là
đúng, trong đó họ có thể kiếm được
chút lợi nhuận. Họ
chẳng biết [làm như vậy chỉ] được
một chút lợi ích trước mắt, chớp mắt
là phải đọa lạc vào địa ngục A
Tỳ, Phật pháp gọi những người này là ngu si,
chẳng có trí huệ mới làm những việc điên
rồ như vậy.
Người giác
ngộ tuyệt đối sẽ chẳng có tâm niệm
tự tư tự lợi, tuyệt đối chẳng có
tâm niệm và hành động khống chế, chiếm
hữu tất cả người, sự, vật. V́ họ thực sự hiểu
được ‘ba tâm đều
chẳng thể được’(ba tâm là tâm
quá khứ, hiện tại, và vị lai), ‘vạn pháp đều không, nhân quả chẳng
không’ thế nên họ sẽ chẳng
khởi ác niệm, chẳng có hành vi lầm lạc, khi
khởi tâm động niệm, tất cả hành vi tạo
tác đều tương ứng với pháp tánh, trong
Phật pháp gọi là ‘xứng tánh’.
Xứng tánh tức là Phật tri, Phật kiến,
tức là Phật ngôn, Phật hạnh, thành tựu vô
lượng vô biên công đức.
Dùng công đức ấy trang nghiêm pháp giới, trang
nghiêm chúng sanh, được như vậy th́ xưng là
Phật, Bồ Tát.
Phàm phu chẳng
chịu làm những việc có lợi ích cho chúng sanh,
niệm niệm đều nghĩ đến lợi ích
của ḿnh, tâm niệm đầu tiên luôn luôn là tự ḿnh
được lợi ích, bảo hộ ḿnh. Nếu hy sinh chính ḿnh có thể
đem lại lợi ích cho chúng sanh th́ Phật, Bồ Tát
cũng hoan hỷ làm. Hy sinh
sanh mạng của ḿnh c̣n chẳng tiếc huống chi là
những vật ngoài thân?
Chỉ cần làm cho chúng sanh được lợi
ích chân thật th́ chẳng có việc không khởi tâm hoan
hỷ lớn lao, đây là chỗ khác nhau giữa Phật
và phàm phu. Chúng ta học
Phật nhất định phải ‘làm thật sự’,
nếu gặp chuyện thực sự có lợi ích cho chúng
sanh mà c̣n suy nghĩ coi có lợi ích ǵ cho ḿnh hay không, có
đáng làm hay không, c̣n những tâm niệm như vậy là
mê hoặc. Tại sao lại
có hiện tượng như vậy? Thứ nhất là thiện căn
phước đức của ḿnh chẳng đủ. Thứ nh́ là ngoại duyên
chẳng đủ, ngoại duyên là cơ hội nghe kinh,
nghe thuyết pháp quá ít. Nếu
thường có người nói cho bạn nghe, lâu dần th́
không hay không biết đều un đúc thành hạt
giống. Đây là hạt
giống Phật, hạt giống Phật là hạt
giống giác ngộ. Nếu
hạt giống này có nhiều th́ sẽ nảy sanh sức
mạnh, khi gặp cơ hội th́ bạn sẽ nắm
lấy, nhất định sẽ chẳng buông bỏ
cơ hội này.
Tôi đă già rồi
nhưng vẫn phải giảng kinh hằng ngày là v́ chúng
sanh; nếu là v́ ḿnh th́ tôi có thể về hưu
rồi. Trong sách xưa có ghi:
‘thất thập trí sĩ’, trí sĩ nói theo bây giờ
tức là về hưu, cáo lăo về quê. Tôi cũng có thể về hưu,
t́m nơi có hoàn cảnh thanh tịnh để niệm
Phật cầu văng sanh, c̣n phải nhọc sức bôn ba
nữa sao? Cũng v́ chẳng
có người giảng những kinh giáo này, nếu có
người giảng th́ tôi sẽ chẳng giảng
nữa. Chẳng có
người giảng th́ không thể không giảng, đây là
hy sinh ḿnh, giúp đỡ người khác.
Chư Phật, Bồ Tát v́
người quên ḿnh tức là giảng kinh thuyết pháp,
Phật, Bồ Tát v́ chúng ta thị hiện cách thức
giảng dạy: Bất luận là tại gia hay xuất gia
đều vạn duyên buông xuống, chẳng có ǵ hết,
thanh tịnh vô vi, giúp đỡ chúng sanh. Trong thế giới Sa Bà này nhĩ
căn của chúng sanh bén nhậy nhất cho nên giảng
kinh thuyết pháp là phương cách hay nhất; kế
đó dùng thân thể thị hiện, làm một gương
tốt cho xă hội đại chúng xem, chỉ là vậy mà
thôi. Chân chánh là đệ
tử Phật, bất luận tại gia hay
xuất gia, xuất gia phải học Phật, học cao
tăng, tại gia phải học cao sĩ, những cao
tăng, cao sĩ này đều là chư Phật, Bồ Tát
ứng hóa đến thế gian, làm mô phạm, làm
gương tốt nhất cho chúng ta. Chúng ta phải hiểu, phải
hết ḷng nỗ lực học tập, thành tựu vô
lượng vô biên công đức.
4. Giáo dục là đường
lối căn bản để giải quyết tai
nạn (Buổi sáng 28-4-99)
Hiện nay xă
hội chẳng an định, nguyên nhân ở tại
chỗ nào? Tư tưởng
kiến giải sai lầm, đây là nguyên nhân chính của
sự động loạn bất an. Nếu mọi người
chẳng có chánh tri chánh kiến th́ hiện tượng này
chắc chắn sẽ xảy ra.
Chánh tri chánh kiến phải nhờ giáo dục mới
có. Ngàn vạn người khó
kiếm được một người vừa sanh ra
liền có chánh tri chánh kiến, họ đều là chư
Phật, Bồ Tát ứng hóa tại thế gian, chẳng
phải phàm phu. Phàm phu từ
vô lượng kiếp đến nay chịu phiền năo
tập khí huân tập nên sanh khởi tri giác sai lầm,
đây là hiện tượng tự nhiên sẽ xảy ra,
cho nên nhất định phải nhờ giáo học. Trung Quốc thời xưa có giáo
dục gia đ́nh, có giáo dục nhà trường – gọi là
giáo dục tư thục. Trong
Lễ Kư, thiên Khúc Lễ, thiên Nội Tắc nói rất
tường tận. Nhất
định phải bắt đầu xây dựng cơ
sở giáo dục từ nhỏ, vun bồi khả năng
phân biệt chân và vọng, tà và chánh, thị và phi, họa và
phước; khi có khả năng này th́ cả đời có
thể kiến công lập nghiệp, lập ở chỗ
chẳng bại.
Trung Quốc
từ xưa đến nay rất coi trọng giáo
dục. Giáo dục gia đ́nh,
giáo dục nhà trường, giáo dục xă hội dung ḥa
thành một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh; nhờ
vậy xă hội đương nhiên an định,
phồn vinh, hưng vượng, quốc gia nhất
định cường thạnh, thế giới ḥa
b́nh. Chỉ có tâm thương
yêu chân thành, giáo dục hoàn hảo mới có thể tự cứu
ḿnh, gia đ́nh, xă hội, thế giới. Xă hội ngày nay động
loạn là tai họa do kinh tế đem lại, mọi
người ai cũng nóng ḷng kiếm chác, kiếm lợi,
ai cũng bị sức hút của đồng tiền lôi
kéo. Nhà Thanh trước kia, chính giữa
đồng tiền có một lỗ hổng gọi là
‘mắt đồng tiền’ (tiền nhăn), cái lỗ này có
h́nh vuông giống như cái gông, gông là một dụng cụ
để cùm đầu tội nhân.
[Người xưa] làm đồng tiền giống
như vậy là muốn nhắc nhở chúng ta đồng
tiền chẳng phải là một vật tốt, bị
lôi cuốn vào trong đó th́ sẽ mang gông cùm, sẽ
phạm tội. Người
Trung Quốc cổ đại làm ra những thứ này
đều có ẩn chứa ư nghĩa giáo dục trong
ấy. Ngày nay sử dụng
tiền giấy, tờ giấy bạc này là một vật
rất dơ, có bao nhiêu người cầm đến
tờ giấy tiền này, có bao nhiêu vi khuẩn
được truyền trên ấy. [Người ta] chẳng hiểu
những chuyện này, cắm cúi liều mạng chui vào cái
‘mắt đồng tiền’!
Cả vợ
lẫn chồng đều đi làm kiếm tiền, con cái
chẳng được cha mẹ thương yêu, [lo
lắng, chăm sóc], trong tâm sẽ bất b́nh
thường, đây là hậu quả của sự
thiếu thốn giáo dục gia đ́nh. Giáo dục gia đ́nh đă bị
máy truyền h́nh (TV) thay thế, hơn nữa nội dung
của [những chương tŕnh] truyền h́nh có lợi
cho sức khỏe, tinh thần, và thể chất của
trẻ em rất ít, hầu hết đều là bắn
giết, trộm cắp, tà dâm, nói dối, dạy con
người trở nên tự tư tự lợi, tổn
hại người để làm lợi cho ḿnh. Trẻ em hằng ngày coi TV, có
ấn tượng vô cùng sâu đậm, chúng nó đều
cho rằng những thứ này là b́nh thường, cứ
tưởng làm người đương nhiên phải
như vậy. Giáo dục nhà
trường chẳng dạy luân lư đạo đức,
hầu hết những ǵ xă hội nh́n thấy đều
giống như chương tŕnh chiếu trên TV. Con người sinh sống trong
hoàn cảnh như vậy cho dù có thiện căn th́ cũng
sẽ biến thành hư hỏng, như câu nói: ‘Gần son th́ đỏ, gần
mực th́ đen’, bao nhiêu
người có thể chẳng bị hoàn cảnh dụ
dỗ và ảnh hưởng?
Đây là nguyên nhân của sự động loạn trong
xă hội. Phương pháp
đối trị là phải bắt đầu từ
căn bản, đó là giáo dục gia đ́nh, giáo dục
trường học và giáo dục xă hội phải dung
hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh mới có
thể cứu văn xă hội, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh tỉnh giác, quay đầu là bến bờ,
mới giải quyết được vấn đề
này.
Ngày nay cả
thế giới đều động loạn, vơ lực không
thể giải quyết, vơ lực chỉ tăng thêm
hận thù giữa các tộc đoàn, hận thù này rất
khó tiêu trừ. Dùng kỹ
thuật tối tân hiện đại để tận
diệt một tộc đoàn, tiêu diệt một quốc
gia rất dễ dàng. Nhưng
thật sự có thể tiêu diệt được hay
chăng? Chẳng
được. Những oan
hồn này sau khi chết sẽ đến quốc gia
của bạn đầu thai, làm con cháu của bạn,
tương lai sẽ báo thù này.
Trong lịch sử Trung Quốc đời nhà Thanh có
ghi rơ một câu chuyện. Lúc
triều nhà Thanh vừa mới bắt đầu, họ
dựa vào vơ lực của ḿnh để tiêu diệt gịng
họ Diệp Hách. Lúc gần
chết người thủ lănh của ḍng họ Diệp
Hách thề: “Tương lai dù trong ḍng họ chỉ c̣n
một người đàn bà [duy nhất] th́ [người
này] cũng sẽ báo thù, cũng sẽ tiêu diệt các
ngươi”. Những năm
cuối triều đại, nhà Thanh diệt vong trong tay
Từ Hi thái hậu, họ của bà chính là Diệp
Hách! Trong cung đ́nh nhà Thanh,
quy ước của tổ tông có ghi ‘Con gái nhà Diệp Hách
tuyệt chẳng thể vào cung’.
Trải qua nhiều năm mọi người
đều lơ là và quên mất.
Lúc Từ Hi thái hậu vào cung có người nhắc
lại chuyện này nhưng vua Hàm Phong chẳng màng,
đến sau cùng nhà Thanh diệt vong trong tay của bà, bà
đến là để báo thù đấy. Thế nên vơ lực chẳng
thể giải quyết vấn đề, oan oan
tương báo dây dưa chẳng dứt. Chẳng thể sỉ nhục,
hiếp đáp bất cứ một chúng sanh nào, kinh Lăng
Nghiêm nói: ‘Người
chết sanh làm dê, dê chết sanh làm người’, hôm nay bạn làm người, thế
lực mạnh giết dê làm thịt ăn; đời sau
bạn sanh làm dê, dê lại sanh làm người, rồi
lại giết bạn, oan oan tương báo dây dưa
chẳng bao giờ dứt.
Muốn
giải quyết vấn đề phải dùng ḷng
thương yêu chân thật, ḷng chăm sóc chân thành, giúp
đỡ vô tư, cảm hóa nhân tâm. Hết thảy chúng sanh hữu t́nh
đều có lương tâm, trong nhà Phật có rất
nhiều công án cao tăng đại đức chế
phục sư tử, hổ, báo, mănh thú; ngay cả mănh thú
cũng có thể cảm hóa th́ đâu có lư do chẳng
thể cảm hóa con người được. Chẳng thể cảm hóa là v́
chẳng đạt đến mức tinh thành, có câu nói: ‘Tinh thuần chí thành đến
mức cùng cực, đá vàng cũng phải bể’ [79]. Chúng
ta chẳng hiểu lư ấy, chẳng biết hướng
về trong phản tỉnh, chẳng đem ḷng
thương yêu cho người, bởi vậy nên chỉ
làm cho vấn đề ngày càng tệ, càng chẳng thể
thâu tóm. Đây là sai lầm đă
chẳng coi trọng giáo dục, quả báo đă coi
thường giáo dục. Chúng
ta quán sát lịch sử, tai nạn, diễn biến của
thiên tai nhân họa, ngày càng khốc liệt, ngày càng
khủng khiếp, sức phá hoại mỗi lần
đều tăng thêm, đây chính là oan oan tương báo;
những chuyện tàn sát tập thể đến sau cùng
thế giới cùng nhau tận diệt, đây là kết
quả do trí huệ nhân loại kết hợp với khoa
học tân tiến tạo thành!
Cổ thánh
tiền hiền Trung Quốc đích thật có trí huệ,
nh́n được sâu, được rộng,
được xa cho nên cực lực đề
xướng giáo dục, xếp giáo dục vào vị trí quan
trọng hàng đầu trong đời người. Người ta có thể không
ăn, không mặc, nhưng không thể không có giáo
học. Câu đầu tiên trong
Luận Ngữ nói:
‘Học rồi thực hành theo cũng chẳng vui
sướng sao’ [80].
‘Học’ là việc lớn nhất trong đời
sống con người, như câu nói: ‘Sống đến già th́ học đến già,
học hoài chẳng hết’ [81]. Sanh
mạng nằm trong sự học tập, cả đời
học chẳng hết, đời đời kiếp
kiếp cũng học chẳng hết. Phật pháp nói càng viên măn hơn,
nói càng hay hơn: ‘Từ
lúc mới phát tâm đến quả vị Như Lai, sự
học trong vô lượng kiếp mới đạt
đến cứu cánh viên măn’. Sau khi viên măn th́ mới có thể
phục vụ, giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Từ đó mới biết
mục đích của sự ‘học’ là để phục
vụ xă hội đại chúng.
Từ nhỏ mở rộng ra đến phục
vụ gia đ́nh, phục vụ tông tộc, phục vụ
làng xóm, phục vụ đất nước, phục
vụ hết thảy chúng sanh, nếu như chẳng có
học dưỡng tốt đẹp th́ phục vụ
sẽ chẳng được viên măn; thậm chí phục
vụ lại tạo nghiệp thêm, đem lại tai
nạn cho xă hội, quốc gia, thế giới. Người thực sự có
đạo đức, có học vấn, có lương tâm
nhất định sẽ chẳng phát triển vơ khí
mới. Trong Bồ Tát
Giới, những người tạo nên những công
cụ giết hại chúng sanh này đều phạm
giới sát. Tạo công cụ
dùng để săn bắn cũng phạm tội sát sanh,
huống chi là tạo vơ khí có thể giết hại rất
nhiều người, tội này lớn lắm! Bạn tuy chẳng [đích thân]
giết người, nhưng bạn chế tạo
những vơ khí này, tương lai giết hại rất
nhiều người, bạn phải chịu trách
nhiệm, quả báo này chẳng thể nào tưởng
tượng nổi.
Ngày nay nếu
muốn xă hội an định, phồn vinh, hưng
vượng, hết thảy chúng sanh có thể sống
cuộc đời hạnh phúc mỹ măn th́ vẫn phải
nhờ giáo dục. Mục tiêu
của giáo dục gồm có: thứ nhất là hiểu rơ
quan hệ giữa người và người, thứ hai là
hiểu rơ quan hệ giữa người và hoàn cảnh
tự nhiên, thứ ba là hiểu rơ quan hệ giữa
người và thiên địa quỷ thần. Giáo dục Phật pháp cũng có
ba mục tiêu, thứ nhất là ‘Đoạn ác tu thiện’,
thứ hai là ‘Chuyển mê thành ngộ’, sau cùng là ‘Chuyển
phàm thành thánh’. Bởi
vậy nên giáo dục gia đ́nh, trường học, xă
hội chẳng thể xa ĺa quan niệm này, kiếp
nạn của tất cả chúng sanh mới
được hóa giải, xă hội mới có thể khôi
phục lại an định, ḥa b́nh. Ngày nay chúng ta nhận thức,
hiểu rơ rồi th́ phải nỗ lực bắt
đầu làm từ chính ḿnh, dốc hết tâm lực
để giúp đỡ những chúng sanh có duyên. Có duyên là như thế nào? Có thể nghe được, có
thể tiếp nhận, chúng ta dốc hết tâm lực
giúp đỡ họ. Chẳng
nghe được, chẳng chịu tiếp nhận th́
cũng chịu thua thôi, đây là như Phật pháp
thường nói: ‘Phật
không thể độ người chẳng có duyên’, ư nghĩa là như vậy.
D. ĐỀ XƯỚNG HIẾU
ĐẠO VÀ SƯ ĐẠO
1. Nói chuyện tại Trung Tâm Cao
Niên Tùng Bách, Tuyết Lê (Sydney) năm 1999
(Buổi sáng 29-4-99)
Kính thưa các
vị phụ lăo anh em:
Hôm nay cử hành
lễ Kính Lăo Quốc Tế năm 1999 tại Tuyết
Lê. Tịnh Không có duyên tham gia
thắng hội cảm thấy vô cùng vinh hạnh. ‘Kính lăo tôn hiền,
hiếu thân tôn sư’ là mỹ
đức của dân tộc Trung Hoa; ở Trung Quốc
đời xưa, đi ngược ḍng lịch sử ít
lắm cũng có trên ba ngàn năm lịch sử. Chư vị tổ tiên cổ lăo
Trung Quốc trải qua nhiều đời đều dùng
quan niệm này để truyền măi đến
đời sau. Khổng Tử
sáng lập nền giáo học tư nhân mô phạm
điển h́nh. Việc quốc
gia chính thức chế định chánh sách giáo học
cũng có thể truy được [nguồn gốc]
bắt đầu từ ba đời Hạ, Thương,
Châu.
Mục đích giáo
học cổ đại gồm có ba điểm: thứ
nhất là dạy chúng ta quan hệ giữa người
với người; làm người như thế nào, làm sao
tiếp xúc với đại chúng, gọi là Giáo Dục Luân
Lư, người xưa chia Nhân Luân thành năm loại. Từ phạm vi nhỏ nhất
là ‘phu phụ’ (vợ chồng), vợ chồng ở cùng
chung một pḥng. Ở ngoài
pḥng có gia (nhà), nhà có ‘phụ tử’ (cha con), ‘huynh
đệ’ (anh em). Phía ngoài
của nhà là xă hội, xă hội có ‘bằng hữu’
(bạn bè), có ‘quân thần’ (vua – tôi); quân thần nói theo bây
giờ là người lănh đạo và người bị
lănh đạo. Chúng ta hiểu
rơ những quan hệ này, trong những quan hệ này có quan
hệ máu mủ gọi là Thiên Luân, có quan hệ đạo
nghĩa gọi là Nhân Luân.
‘Phụ tử hữu thân’ (cha con có
t́nh thân) là quan hệ máu mủ, là quan hệ
Thiên Luân. ‘Bằng hữu
hữu tín, quân thần hữu nghĩa’ (Bạn bè
giữ chữ tín, vua tôi có nghĩa), được
xây dựng trên đạo nghĩa của quan hệ Nhân
Luân, thế nên khi người giao tiếp lẫn nhau
tự nhiên sẽ tương thân tương ái
[thương yêu lẫn nhau], kính trọng, chiếu cố,
hợp tác lẫn nhau. Kinh Vô Lượng
Thọ dạy rơ ràng: ‘Nhân dân trong thế
gian, cha con, anh em, chồng vợ, thân quyến nên tôn kính,
thương yêu lẫn nhau, chẳng nên ghen ghét lẫn
nhau. Kẻ có chia xẻ cho
người không, chẳng nên tham tiếc’ [82]. Con người là một
động vật [có tập quán sống chung với nhau
trong] xă hội, chẳng thể thoát ly xă hội nhân
quần mà sinh sống đơn độc, đặc
biệt là chung sống với những tộc đoàn khác
nhau, từ xưa đến nay đă như vậy, hôm nay
vẫn như cũ, chẳng ngoại lệ. Bởi vậy nên văn hóa đa
nguyên thuộc về thiên nhiên, chẳng do người
tạo thành. Có thể thích
ứng với văn hóa đa nguyên th́ sẽ khỏe
mạnh. Phản nghịch
với văn hóa đa nguyên th́ tâm lư và sinh lư của
người này sẽ sanh bịnh.
Thứ hai là
dạy con người hiểu rơ quan hệ giữa
người và hoàn cảnh tự nhiên. Đời sống của chúng ta
nhờ vào sự cung cấp từ thiên nhiên; y phục,
ăn uống, chỗ ở, hành vi đều chẳng tách
ĺa hoàn cảnh tự nhiên.
Bởi vậy nên làm thế nào để tiếp xúc
với hoàn cảnh tự nhiên?
Phải biết ‘người nhân
từ thương yêu vạn vật’ (nhân dân ái vật). ‘Nhân dân’ nghĩa là ǵ? Tức là ‘Những
ǵ ḿnh không ưa th́ đừng đưa cho người
khác’. Đối
đăi với người khác phải thường nghĩ
đến ḿnh, nếu người khác dùng thái độ và
tâm niệm ấy đối xử với ḿnh, ḿnh có
thể tiếp nhận không.
Nếu không thể tiếp nhận th́ ḿnh đừng
dùng thái độ và tâm niệm này để đối
xử với kẻ khác.
Như vậy mới là chân thành thương mến
rộng răi. Chẳng những
phải thương mến tất cả người mà
c̣n phải thương mến tất cả vật, đó
là ḷng thương mến hoàn cảnh tự nhiên.
Thứ ba, nâng cao
lên, dạy chúng ta hiểu rơ quan hệ giữa con
người và thiên địa quỷ thần. Rất nhiều học giả,
tôn giáo kính ngưỡng Thượng Đế. Dân tộc Trung Quốc từ
xưa đến nay đă coi trọng việc cúng tế
thiên địa quỷ thần.
Trong Phật giáo, đức Phật dạy chúng ta ngày
mồng một mỗi năm, đây là ngày đầu tiên
mỗi năm, việc đầu tiên người
đệ tử Phật phải làm là việc ǵ? ‘Cúng Thiên’, phải làm Phật
sự này, đó là cung kính Thượng Đế, dùng tâm chân
thành nhất để phụng hiến cho Thượng
Đế.
Nội dung của
giáo dục cổ đại ở Trung Quốc
được duy tŕ măi đến cuối triều nhà
Thanh. Quan niệm giáo dục
này vẫn chẳng thay đổi.
Căn cơ của giáo dục được xây
dựng trên cơ sở của Hiếu đạo,
‘Hiếu thân tôn sư’.
Hiếu thân quan trọng nhất là ‘Dưỡng
lăo’. Hiếu dưỡng cha
mẹ là thiên chức của người làm con. Nhưng giáo dục hiện
đại hoàn toàn khác với quan niệm giáo dục
của Trung Quốc thời xưa.
Người trẻ tuổi hiện nay coi
thường việc hiếu kính, chuyện này chẳng
thể trách các em -- những người trẻ
tuổi. Nếu chúng ta trách các
em là sai lầm. Vậy th́
phải trách ai? Phải trách
chính ḿnh, chúng ta chẳng dạy dỗ các em, chẳng làm
gương tốt cho các em noi theo.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thế Tôn dạy: ‘Người đời trước chẳng lành
[không biết đạo đức], chẳng có
người nói cho họ biết th́ không thể trách họ
được’ [83]. Đời
trước chẳng dạy dỗ th́ bạn làm sao có
thể trách các em được?
Không thể đẩy hết trách nhiệm này cho
đời sau.
Tôi sanh vào thời
đại này coi như cũng c̣n may mắn, vẫn c̣n
được dạy dỗ chút ít, c̣n hiểu
được đôi chút về những đạo lư
này. Chẳng may là tôi sanh vào
thời chiến tranh loạn lạc, khổ nạn. Tôi rời khỏi gia đ́nh
từ năm mười bốn tuổi, đă nhiều
năm qua rất ít khi gặp mặt, đoàn tụ với
cha mẹ dù chỉ trong thời gian ngắn. Thế nên luôn nghĩ nhớ
đến ân đức dưỡng dục của cha
mẹ, lúc nào cũng nghĩ đến lời dạy
của cổ thánh tiền hiền và Phật Tổ. Kinh Phật dạy: ‘Tất cả người nam là cha ta, tất cả
người nữ là mẹ ta’, chúng ta hăy xem
tâm lượng của Phật, Bồ Tát [lớn biết
mấy]. Đời Tống,
Phạm Trọng Yêm tiên sinh nói: ‘Kính trọng
người già cả của kẻ khác như người
già của chính ḿnh, yêu thương con trẻ của
người ta như con trẻ của chính ḿnh’ [84]. Đây chính là thực hiện tinh
thần từ bi bác ái. Thế
nên lần trước khi tôi ghé Tuyết Lê, nghe nói Trung Tâm
Cao Niên Ṭng Bách muốn xây một viện dưỡng lăo,
tôi rất hoan hỷ; tôi sẽ dốc toàn tâm toàn lực
để đóng góp vào việc này.
Sau đó nhiều người đến nói với
tôi: “T́nh huống bên đó không được lư
tưởng lắm, Pháp sư đừng bị gạt”. Giả sử mỗi người
đều có tâm niệm như vậy th́ chuyện
thiện trong thiên hạ sẽ chẳng có ai làm nữa,
đâu có ai dám làm? Giống
như thế gian này có rất nhiều tai nạn, mọi
người ai cũng chẳng chịu đi cứu
trợ, tại sao vậy?
Sợ tiền cứu trợ chẳng đến tay
những người đang bị nạn, đành ḷng nh́n
thấy nhiều người chịu đói chịu
lạnh đến chết.
Như vậy là bị cảm t́nh lung lạc,
chẳng có ḷng từ bi thật sự. Có ḷng từ bi chân thật th́ dù
chúng ta dùng thiện tâm, ra sức, ra tiền nhưng bị
người ta gạt, Phật nói công đức của
chúng ta vẫn viên măn. Trong kinh
Lăng Nghiêm, đức Phật nói: ‘Phát ư viên
thành, viên măn công đức’. Người làm việc thiện
tu phước th́ đời sau sẽ sanh lên trời, làm
Phật, những người ăn cắp tài vật
cứu trợ và hại người chịu nạn
phải chịu lạnh chịu đói th́ đời sau
chắc chắn sẽ đọa địa ngục A
Tỳ. Họ đọa
địa ngục A Tỳ chẳng phải do chúng ta
cốt ư hại họ, nếu bạn cốt ư muốn
hại người, muốn làm cho họ vào địa
ngục, [nghĩa là bạn cốt ư] quyên góp một ít
tiền cho họ tham ô, vậy th́ bạn đă làm
chuyện ác rồi. Bạn
chẳng có ư này! Đại
Thừa Phật pháp luận tội là luận về tâm
chứ chẳng luận trên sự tướng.
Chúng ta hiểu rơ
đạo lư ấy th́ hăy yên tâm, mạnh dạn đi làm
các sự nghiệp từ thiện.
Tôi dùng một tấm ḷng thuần thiện, thiệt
là ḷng thương yêu chân thành.
Xem người già giống như cha mẹ ḿnh
vậy. Hôm nay có người
phát tâm xây viện dưỡng lăo, có nhiều người
như vậy săn sóc cho người già, săn sóc dùm cho
tôi, tôi thiệt là mừng quá trời, cảm ơn c̣n không
kịp th́ sao lại chẳng tận tâm tận lực
để làm công việc này cho hoàn hảo? Chẳng phải là giúp đỡ
họ làm, việc này vốn là bổn phận của
tôi. Nếu chúng ta ai cũng có
tâm này, người nào cũng nghĩ như vậy, săn
sóc cho người già, người về hưu, th́
tương lai quả báo ḿnh có được sẽ
rất thù thắng. Nếu
chúng ta sợ đầu sợ đuôi, chẳng dám làm,
đến lúc chúng ta lớn tuổi sẽ chẳng có
người săn sóc. Đến
lúc đó tự ḿnh sẽ cảm thấy đau khổ,
hối hận không c̣n kịp nữa.
Trong pháp thế gian
và xuất thế gian quư nhất là bạn có tâm chân thành, tâm
này rất quư báu. Tài lực
chẳng quư, đó là vật ngoài thân chẳng ăn nhằm
ǵ cả, một niệm chân tâm này quư báu, một niệm
tín tâm quư báu. Tin ai? Tin chính ḿnh. Thế nên chúng ta nh́n rất rơ
ràng, rất minh bạch.
Người đầy đủ ḷng tự tin
rất ít, nên tu học thế pháp và Phật pháp đều
rất khó thành tựu.
Chẳng có ḷng tự tin mà muốn tin người khác
th́ rất khó. Trong Di Đà Yếu
Giải, Ngẫu Ích đại sư giảng về
chữ ‘tín’ cho chúng ta [như sau], thứ nhất là tin
tưởng chính ḿnh, thứ hai là tin Phật. Đạo lư này rất sâu, chúng ta
phải tư duy, thể hội, tu học kỹ càng.
Cho dù thế gian có
tai nạn, người có ḷng tin có thể được
cứu. Bởi vậy nên hôm
nay chúng ta làm công việc tốt này th́ đừng sợ
đầu, đừng sợ đuôi, nhất định
chẳng bị cảnh giới xung quanh lay động. Việc này làm được thành
công th́ rất tốt, chẳng thành công th́ cũng tốt
thôi. Tóm lại, một chút tâm
chân thành này của chúng ta Thượng Đế biết,
Thần minh biết, Phật, Bồ Tát đều
biết. Chúng tôi cũng
đang dự trù xây một Làng Di Đà ở Tân Gia Ba,
đối tượng là để giúp đỡ
người già, mọi người tụ hợp chung
sống một cuộc sống hưu trí hạnh phúc
nhất, có hy vọng nhất, mỹ măn nhất. Tôi vô cùng quan tâm, lưu ư
đến phước lợi cho người về
hưu. Ở nhiều nơi
trên thế giới, phàm những nơi tôi đến, tôi
phải đi tham quan những chỗ dành cho người
hưu trí, đích thật Úc châu làm sự nghiệp chăm
sóc cho người về hưu được hoàn hảo
nhất. Nhưng có
điều đáng tiếc là sinh hoạt tinh thần
rất thiếu thốn. Cho
nên tôi hy vọng Trung Tâm Cao Niên Ṭng Bách ngoài việc lo
lắng đời sống vật chất cho người
già, nhất định phải nâng cao đời sống
tinh thần, làm cho họ thật sự có đời
sống về già hạnh phúc nhất, mỹ măn
nhất. Người Trung
Quốc thường nói: ‘Người
thiếu niên th́ vun bồi phước, người trung
niên th́ tạo phước cho xă hội đại chúng,
đến văng niên (tuổi già) th́ hưởng
phước’.
Chúng tôi hy vọng Trung Tâm Cao Niên này là nơi để
người già hưởng phước. Nếu chẳng làm đến mức
cho người già hưởng phước th́ chúng ta
sẽ có tội lỗi.
Thế nên tôi yêu cầu hết thảy những nhân
viên làm việc tại Làng Di Đà ở Tân Gia Ba phải
hiếu thuận người già cư trú nơi đó
như hiếu thuận cha mẹ ḿnh, phải tôn kính họ
như chư Phật, Bồ Tát, được vậy th́
chúng ta mới là học tṛ của đức Phật,
mới thật sự là đệ tử Phật. Tận tâm tận lực phục
vụ cho người già. Trong
viện dưỡng lăo giảng kinh thuyết pháp cho họ,
cung cấp cho họ những tiết mục giải trí
văn hóa. Những tiết
mục giải trí này nhất định phải tuân
thủ nguyên tắc ‘tư vô tà’ (không suy nghĩ tà vạy)[85]
của Khổng Phu Tử. Làm
cho người già mỗi ngày ở đây đều có
thể tiếp nhận được chánh tri chánh kiến
của cổ thánh tiên hiền và Phật, Bồ Tát.
Tôi đă nói qua,
viện dưỡng lăo là công tŕnh có nhiều hy vọng
nhất. V́ nơi ấy
họ phải làm một sự thay đổi, làm thế
nào để thay đổi?
‘Chuyển phàm thành thánh’.
Giống như phần đông những tín đồ
tôn giáo vậy, đây là chỗ chuẩn bị cho họ
sanh lên trời, ở nơi này họ chuẩn bị sanh
thiên. Ở nơi đây
chuẩn bị văng sanh bất thoái thành Phật, bạn nói
công tŕnh này thù thắng bao nhiêu?
C̣n công tŕnh nào có hy vọng hơn công tŕnh này? Có công tŕnh nào thù thắng hơn
công tŕnh này? Chúng ta có thể
hiếu thuận tất cả người già giống
như tôn kính Thượng Đế.
Kinh Phật dạy chúng ta hiếu kính là tánh
đức, đây là tánh đức tự nhiên lưu
lộ. Tánh đức có
thể lưu lộ th́ người này là Phật, là Bồ
Tát. Phật, Bồ Tát
đến đâu tu? Tu ở
viện dưỡng lăo th́ sẽ thành Phật, thành Bồ
Tát. Ở nơi đó hành
Bồ Tát đạo, tu Bồ Tát hạnh.
Hôm nay Tịnh Không có duyên tham
dự thắng hội này, thật là vô cùng hy hữu. Mọi người muốn tôi nói
vài câu, ở đây tôi khuyến khích tất cả các ông,
các bà tham dự đại hội hôm nay, chúng ta phải cùng
nhau phát tâm rộng lớn, phải dùng ḷng yêu thương
rộng lớn để thương yêu xă hội,
thương yêu che chở hết thảy chúng sanh. Làm công việc to tát ‘chăm sóc
người già, giúp đỡ người già’ này, dốc
hết tâm lực để làm cho hoàn hảo,
được vậy mới chẳng cô phụ dụng ư
của buổi lễ Quốc Tế Kính Lăo năm 1999
tại Tuyết Lê. Tịnh
Không nguyện cùng mọi người khuyến khích, nỗ
lực làm công việc hữu ích này cho được hoàn
hảo. Xin cám ơn mọi
người.
A Di Đà Phật.
E. PHƯƠNG PHÁP LUYỆN
TẬP THUYẾT GIẢNG
1. Nhân tài hoằng pháp phải coi
trọng đức hạnh (Buổi sáng 29-3-99)
‘Hội Nghị Tịnh Tông Hộ
Pháp Mỹ Quốc’ mở tại Dallas có ư muốn thỉnh
pháp sư Trung Quốc đến các địa
phương ở Mỹ giảng kinh hoằng pháp, ư
tưởng này rất hay, và cũng thật sự là
một chuyện tốt.
Hiện nay nhân tài hoằng pháp vô cùng ít ỏi, [công
việc] bồi dưỡng nhân tài cần có nhiệt tâm
để chiếu cố, cần thời gian lâu dài mới
có thể thành tựu. Điểm
trọng yếu nhất, căn bản nhất, nhân tài
cần có là đức hạnh, nếu chỉ có tài
năng, chẳng có đức hạnh th́ không những không
thể thành tựu mà c̣n tạo nghiệp, đối
với ḿnh, với người, với Giáo đều
chẳng có ích lợi. Bồi dưỡng
nhân tài chẳng khó, bồi dưỡng đức hạnh
rất khó, xă hội hiện đại khác với cổ
đại, so với thời xưa, danh văn lợi dưỡng,
ngũ dục lục trần, dụ hoặc thời nay
đă gia tăng không phải chỉ có trăm lần, ngàn
lần thôi đâu. Trong hoàn
cảnh của người thời xưa tuy rất ít
dụ hoặc nhưng họ cũng ngăn ngừa
rất cẩn thận, sợ bị thoái chuyển. Sanh trưởng trong xă hội
hiện đại nếu tránh sự dụ hoặc
của vật dục chẳng nổi th́ chắc chắn
sẽ thoái đọa, sẽ tạo nghiệp, đó là
như người xưa thường nói: ‘Dưới chiếc áo cà sa mất thân người’,
đây là một chuyện rất đáng thương xót, vô
cùng bi thương.
Tu dưỡng
phẩm đức trong xă hội hiện nay phải
nương dựa vào chính ḿnh. Xưa kia, cha mẹ, thầy giáo có
thể giúp đỡ, có thể làm tăng thượng
duyên (duyên phụ). Xă hội hiện nay đề
xướng tự do, dân chủ, mở rộng, con cái
chẳng nghe lời dạy của cha mẹ, học sinh
chẳng tiếp nhận lời khuyên của thầy giáo,
cho nên trong hoàn cảnh như vậy nếu chẳng
nương dựa chính ḿnh th́ không thể thành tựu. Nương dựa chính ḿnh
nghĩa là tự ḿnh phải giác ngộ, phải luôn không
quên ‘Tam Quy’, ‘Giác chứ không mê,
Chánh chứ chẳng tà, Tịnh chứ chẳng nhiễm’,
niệm niệm đều phải tương ứng
với Giác, Chánh, Tịnh, niệm niệm xa ĺa Mê, Tà,
Nhiễm, như vậy mới cứu nổi. Đây là chuyện mà chư vị
đồng học phải cảnh giác cẩn thận.
Hàm nghĩa của
‘đức hạnh’, ‘hạnh’ là hành vi, bao gồm tư
tưởng, kiến giải, ngôn ngữ và tạo tác
của thân thể, được gọi chung là ‘hành vi của
ba nghiệp’. ‘Đức’ là tánh
đức, đức năng vốn sẵn có trong tự
tánh. Hành vi tương ứng
với tánh đức được gọi là ‘đức
hạnh’. Tánh đức là ǵ?
‘Một niệm tự tánh’ là tánh đức, ‘nhất tâm
bất loạn’ nói trong kinh Di Đà là tánh đức; do đó
có thể biết ‘nhất’ vô cùng quan trọng! Cổ đại đức
đă nói ‘Hiểu được một
chuyện th́ vạn chuyện sẽ xong hết’ [86]. ‘Nhất’ tức là chân tâm, tự
tánh, chân như. Nhất
chẳng phải là con số, những ǵ lọt vào số
lượng th́ chẳng phải là tánh đức.
Trên thực tế,
tự tánh, tánh đức chẳng thể dùng ngôn ngữ
để diễn đạt, lúc tôi giảng kinh đă
từng giới thiệu ‘Bốn thứ chẳng thể
nói’ [87],
đây là cách nói của nhà Thiên Thai, cách nói này căn cứ
vào ‘Sáu thứ chẳng thể nói’ trong kinh Đại Niết
Bàn. Chẳng thể nói tức
là chẳng thể nghĩ bàn, bất đắc dĩ
phải dùng ‘nhất’ để biểu thị
[tượng trưng].
Nhất niệm, nhất tâm tức là chân tâm, bản
tánh của ḿnh, tức là Phật tánh của chúng sanh
hữu t́nh, pháp tánh của hết thảy chúng sanh. Nhị niệm th́ đă biến
chất rồi, nhị niệm là vô minh, tam niệm tức
là A Lại Da. Thế nên nói
tương ứng với nhất niệm, thuần chánh vô
vọng, tư tưởng này, kiến giải này, hành vi
này được gọi là ‘đức hạnh’. Đây là đức hạnh của
Pháp Thân đại sĩ, chúng ta có thể mong chứ
chẳng thể bằng.
Nơi những
người sơ học chúng ta, tiêu chuẩn của
đức hạnh được hạ xuống
đến mức thấp nhất, đó là ‘Tịnh
Nghiệp Tam Phước’.
Tư tưởng, kiến giải, ngôn hạnh tương ứng với Tam
Phước, hành vi như vậy th́ được gọi
là ‘đức hạnh’. Trong
Tam Phước, thứ nhất là ‘Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết hại, tu thập thiện
nghiệp’, từ tâm chẳng giết hại
tức là ngũ giới. Hành
vi tương ứng với hiếu thân, tôn sư, thọ
tŕ ngũ giới, thập thiện chính là đức
hạnh. Thứ hai: ‘Thọ tŕ tam quy, đầy đủ các giới,
chẳng phạm oai nghi’; thứ ba: ‘Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc
tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả’,
mười một câu này là tiêu chuẩn tu học
đức hạnh của chúng ta hiện nay. Nếu chẳng lấy việc
này làm cơ sở th́ tu học bất cứ pháp môn nào
cũng chẳng thể thành tựu, niệm Phật
cũng chẳng thể văng sanh.
Phía sau Tam Phước, Đức Phật tổng kết
ba điều này chính là ‘Tịnh Nghiệp Chánh Nhân’ của
ba đời hết thảy chư Phật; tu học có
kết quả, có thành tựu hay chăng then chốt là
ở chỗ này. Nói cách khác,
hết thảy ngàn lời vạn chữ trong kinh
điển Đại Thừa, Tiểu Thừa, những ǵ
đức Phật nói trong bốn mươi chín năm
chẳng qua chỉ là giải thích cho ba điều này,
giải thích rơ ràng cho chúng ta mà thôi.
Phương pháp và
kỹ thuật giảng kinh không khó, học trong ṿng một
tháng là đủ rồi; người căn tánh chậm
lụt một chút th́ ba tháng cũng đủ. Lớp bồi huấn của
chúng ta trên phương diện kỹ thuật giảng kinh
đạt được hiệu quả, về phương
diện đức hạnh th́ phải dựa vào sự
tự giác của các bạn đồng học, tự ḿnh
hết ḷng nỗ lực, phải phát tâm làm thầy, làm mô
phạm, ‘học vi nhân sư,
hành vi thế phạm’. Phải phát tâm rộng lớn này,
lập chí lớn lao th́ đời này chúng ta mới có
thể độ chính ḿnh, mới có thể giúp đỡ
kẻ khác.
Muốn thỉnh
pháp sư ra nước ngoài hoằng pháp lợi sanh th́
đức hạnh là điều phải cân nhắc
đầu tiên, kế đến mới là học
thuật, như vậy đối với chúng ta mới có
lợi ích chân chánh. Các bạn
đồng học ở đây cùng nhau tu tập, v́
tương lai đến khắp nơi trên thế
giới hoằng pháp lợi sanh, nhất định
phải trau giồi phẩm đức của ḿnh, tu
học đúng như lư, như pháp, chẳng cô phụ
niềm hy vọng của những đại đức
hộ pháp trong và ngoài nước, thành tựu công
đức tự lợi, lợi tha, điểm này quan
trọng phi thường.
Thế nên muốn thỉnh pháp sư, chỉ cần
tư tưởng, ngôn ngữ, và hành vi của họ
tương ứng với Tam Phước th́ có thể
lễ thỉnh, phải đặc biệt chú trọng
điểm này.
Tôi hy vọng
Phật thất, Phật học thuyết giảng ở
Dallas cử hành mỗi tháng một lần, chẳng thể
gián đoạn. Thể lực,
tinh thần của chúng ta sánh chẳng bằng người
xưa, chẳng thể tinh tấn như người
xưa nên chúng ta tổ chức một tuần, tuần sau
nghỉ ngơi một tuần.
Mỗi tháng có một lần Phật thất, một
lần Phật học thuyết giảng, như vậy
mới giống một đạo tràng [thật sự].
Nếu không
chịu giúp đỡ hết thảy xă hội đại
chúng, tự ḿnh muốn làm một người tu hành già
dặn, như vậy là người theo Tiểu Thừa, ư
nguyện làm lợi ích cho chúng sanh chẳng mạnh, chỉ
hy vọng ḿnh được thành tựu, thế th́
cũng được!
Phải kiếm một chỗ trong núi sâu dựng túp
lều tranh, một ḿnh ở đó tu hành. Đây là chỗ khác biệt giữa
tâm Đại Thừa và Tiểu Thừa, nhưng như
vậy cũng đáng được tán thán. Bồ Tát Đại thừa có
thể xả ḿnh v́ kẻ khác, hy sinh chính ḿnh để
thành tựu cho người.
Đại Từ Bồ Tát nói nếu trong đời này
bạn chân chánh giúp đỡ hai người văng sanh thành
Phật th́ sánh với tự ḿnh tu hành c̣n tinh tấn
hơn. V́ phước báo
lớn nhất, thù thắng nhất trong thế gian và
xuất thế gian chính là giúp đỡ cho người
thành Phật. Một vị
Phật sau khi thành Phật sẽ độ rất
nhiều chúng sanh, việc này liên quan đến bạn v́
bạn giúp đỡ cho họ thành Phật, cũng
giống như bạn độ những người
ấy. Nếu bạn có
thể giúp đỡ mười mấy người văng
sanh th́ phước báo của bạn sẽ vô lượng
vô biên, bạn chắc chắn sẽ được văng
sanh Tịnh Độ. Chỉ
cần lúc lâm chung tâm bạn có thể không điên
đảo, tinh thần tỉnh táo, công phu niệm Phật
dở một chút cũng chẳng sao, những người
này sẽ tháp tùng đức Phật A Di Đà tới tiếp
dẫn bạn. V́ họ tri ân
báo ân, nghĩ ḿnh có thể đến Cực Lạc
thế giới là nhờ bạn giúp đỡ, sẽ
chẳng quên ân nhân của ḿnh.
Người đồng tâm ấy, tâm đồng lư
ấy, chúng ta phải hiểu như vậy.
Cho nên phát tâm Đại thừa, phát
nguyện Đại thừa, tu hạnh Đại thừa th́
hết thảy chư Phật, Bồ Tát tán thán. Trong kinh Lăng Nghiêm đức
Phật Thích Ca Mâu Ni quở trách Tiểu Thừa, trách
mắng Tiểu Thừa, phải hiểu ư tứ này. Tâm Đại Thừa quư báu tức
khắc được hết thảy chư Phật hộ
niệm, long thiên thiện thần ủng hộ; Tiểu
thừa muốn được cảm ứng chẳng
dễ, đây là việc đức Phật dạy chúng ta
trong kinh. Đặc biệt là
trong kinh Pháp Hoa, đức Phật khai thị rơ ràng: đời Mạt Pháp th́ Đại Thừa khế
cơ, Tiểu Thừa chẳng khế cơ. Ngày nay chúng ta thể hội sâu
sắc, xă hội thời xưa đóng kín, bảo thủ
nên Tiểu Thừa khế cơ; xă hội ngày nay tự do,
mở rộng, nếu bây giờ truyền bá giáo pháp
bảo thủ th́ phần đông người ta sẽ
rất khó tiếp nhận, bởi vậy nên Đại
Thừa khế cơ hơn.
2. Hoằng pháp coi trọng phẩm
đức
(Buổi
sáng 14-4-99)
Nói đến
việc hoằng pháp, tuy kỹ xảo giảng kinh quan
trọng nhưng tu dưỡng phẩm đức càng quan
trọng hơn. Nếu
chẳng có đức hạnh, cho dù giảng đến
mức ‘hoa trời rơi lả tả’ cũng chẳng có
ích ǵ hết, vẫn dối ḿnh dối người như
cũ, tạo tác ác nghiệp, đến cuối cùng
vẫn phải đọa lạc.
Do đó phải coi trọng phẩm đức tu
dưỡng, thực sự buông bỏ danh văn lợi
dưỡng, buông bỏ ngũ dục lục trần, trong
cảnh duyên có thể làm được không khởi tâm,
không động niệm, như vậy mới chân chánh là
đệ tử của Như Lai, mới có thể gánh vác
sứ mạng hoằng pháp, tự lợi lợi tha.
Trong việc
bồi dưỡng đức hạnh cơ bản
nhất là Tam Phước dạy trong Quán Kinh. Điều đầu tiên trong Tam
phước bao gồm ngũ giới thập thiện,
đây là căn bản. Có
đức hạnh mới được chư Phật
hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Nếu phá giới, tâm niệm
chẳng thiện, dù giảng kinh có giỏi đi nữa,
pháp duyên có thù thắng hơn nữa th́ xung quanh chỉ là
yêu ma quỷ quái mà thôi, sau cùng chắc chắn sẽ
thất bại. Kinh Lăng
Nghiêm nói tâm tà, hạnh tà th́ Ma sẽ có cơ hội, chí
đồng đạo hiệp cùng Ma th́ Ma sẽ nhập
vào người. Bạn
cũng có thể nói lời thiện, thậm chí cũng có
chẳng ít thần thông, rất có thể dụ hoặc
được người.
Cùng Ma hợp tác, vẫn như cũ chẳng thể
thoát ly cảm t́nh, Ma chẳng phải thánh nhân, thời gian
hợp tác dựa trên t́nh cảm lâu rồi sẽ chán
chường; đến lúc chán chường th́ Ma sẽ
rời khỏi, khả năng của bạn sẽ hoàn
toàn mất hết, chắc chắn sẽ gặp
vương nạn.
Vương nạn tức là phạm pháp, phải
chịu pháp luật trừng trị, phải chịu dư
luận xét xử.
Kinh Lăng Nghiêm nói
năm mươi thứ Ấm Ma (Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là ngũ ấm, mỗi ấm có
mười thức, cộng lại thành năm mươi
Ấm Ma) Mỗi loại
đều vô lượng vô biên.
Trong xă hội hiện nay chúng ta nh́n thấy rất rơ
ràng, rất minh bạch.
Mở kinh Phật ra giống như nói về sự
thật của chúng ta ngày nay.
Chúng ta tiếp xúc với cảnh giới bên ngoài
đều là ma cảnh, thế nên trong hoàn cảnh như
vậy muốn đứng vững, tu hành chứng quả
th́ thật sự chẳng dễ.
Cho nên các
đại đức thời xưa xây đạo tràng
đều chọn những nơi núi cao, người ta ít
đến, mục đích là để tránh sự quấy
nhiễu của ngoại duyên.
Tâm người sơ học vẫn c̣n chưa
định, định lực chẳng đủ, khi tiếp
xúc với cảnh giới bên ngoài chẳng tránh khỏi
bị ảnh hưởng, thế nên đạo tràng cách
thôn xóm rất xa, trong kinh gọi những nơi này là ‘A Lan
Nhă’, nơi người tu hành cư trú. Phàm phu chắc chắn sẽ
chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, ‘tâm
chuyển theo cảnh’ cho nên phải lựa chọn hoàn cảnh
tốt đẹp; nếu tự ḿnh có công phu, ‘cảnh
chuyển theo tâm’ th́ không sao cả.
Thế nên cổ đức bảo hộ những
người sơ học rất chặt chẽ, dụng
tâm vô cùng châu đáo. Nhưng xă
hội ngày nay, kỹ thuật thông tin phát đạt, giao
thông thuận tiện nhanh chóng, muốn kiếm một
đạo tràng chân chánh thanh tịnh để tu hành
rất khó.
Chúng ta làm công tác
giáo dục xă hội, nhất định phải hiểu
rơ người xuất gia học Phật diễn vai tṛ ǵ
trong xă hội. Mặc y
phục này, người ta xưng bạn bằng pháp
sư, ‘sư’ là gương mẫu của quần chúng, mô
phạm của nhân dân. Chúng ta
giảng kinh hoằng pháp, chủ đề là ‘Học vi
nhân sư, Hành vi thế phạm’, tự ḿnh phải thường
suy nghĩ sự khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ tạo tác của ḿnh có thể làm gương
tốt, mô phạm hoàn hảo cho xă hội đại chúng
hay chăng; nếu chẳng thể th́ tuyệt đối
đừng làm, không thể tưởng, không thể
nói. Tám chữ này là do các giáo
sư trường Đại Học Sư Phạm Bắc Kinh
cùng chung phác thảo, định ra.
Tám chữ này chính là ‘Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh’; mỗi vị thiện tri thức
trong kinh Hoa Nghiêm đều làm thầy, làm mô phạm cho
chúng sanh.
Trong thời
đại hiện nay chẳng có ai ràng buộc bạn,
chỉ có ḿnh tự ràng buộc ḿnh. Người hiện nay chẳng
ai chịu bị ràng buộc nên cha mẹ không thể
dạy dỗ con cái, thầy giáo chẳng thể răn
dạy học tṛ. Làm theo
vọng tưởng, chấp trước của ḿnh th́ làm
sao có chuyện chẳng tạo tội nghiệp cho
được. Đă tạo
tội nghiệp th́ làm sao tránh được khổ
nạn? Mọi người ai
cũng đều tạo tội nghiệp nên sẽ
cảm lấy cộng nghiệp; tai nạn toàn thế
giới là cộng nghiệp của nhiều
người. Người
học Phật hiểu rơ trong cộng nghiệp có biệt
nghiệp, trong biệt nghiệp có cộng nghiệp. Chẳng phải chỉ có
người học Phật phải suy tư về
việc này, rất nhiều nhà tôn giáo đều có giác
ngộ rất sâu đậm.
Tuy nhiên tín ngưỡng và hoằng dương tôn giáo
khác nhau, chúng ta đều nhận thức như vậy,
tự ḿnh phải làm cách nào mới giảm nhẹ
được một phần khổ nạn cho chúng sanh,
đây là sự thật. ‘Đụng một sợi tóc liền động
đến toàn thân’, hư không pháp giới là toàn thân,
đụng một sợi tóc tức là khởi một tâm
niệm, khoa học gia nói về hiện tượng làn
sóng (ba động). Khởi một tâm niệm tức
là phát ra một làn sóng, làn sóng này trong một sát na liền
lan rộng đến trọn khắp pháp giới.
Sự cảnh giác
của một người chân chánh học tập kinh Vô
Lượng Thọ đúng ra phải cao hơn phần
đông những người khác.
Trong kinh nói nhân số của tây phương Cực
Lạc thế giới chẳng có cách chi tính đếm
nổi, mức độ rộng lớn của thế
giới Cực Lạc cũng chẳng có cách chi đo
lường được.
Người ở mười phương thế
giới văng sanh về thế giới Cực Lạc th́
bản năng đều khôi phục trở lại, thiên
nhăn nh́n thấu suốt, thiên nhĩ nghe trọn hết, tha
tâm đều biết, khi chúng sanh ở tận hư không
trọn khắp pháp giới khởi tâm động
niệm, ngôn ngữ tạo tác th́ người ở Cực
Lạc đều rơ ràng, minh bạch. Thế nên chẳng phải
chỉ có nhà Nho nói: ‘Mười con
mắt đều thấy, mười tay đều
chỉ’. Đừng
tưởng là ḿnh khởi một tâm niệm ác, làm một
việc xấu th́ chẳng có ai biết, có thể dấu
người khác. Thật ra th́
chỉ có thể dấu những người ngu si, ngay
cả người thế gian thông minh trí huệ cũng
chẳng dấu nổi, huống chi là thiên địa
quỷ thần, chư Phật, Bồ Tát! Nếu có thể cảnh giác
như vậy th́ tự nhiên sẽ tự kềm chế
ḿnh, tâm hạnh mới chánh trực. Tâm hạnh có chánh trực th́ dù cho
có kiếp nạn to lớn, có cộng nghiệp, tự ḿnh
chẳng thể tránh cũng không sao, chắc chắn sẽ
có chỗ tốt dành sẵn cho ḿnh trở về. Chúng ta buông bỏ thế gian ô
uế này, một số tôn giáo thường nói đến
việc lên thiên đường, Phật giáo nói đến
sự văng sanh Cực Lạc thế giới c̣n thù thắng
hơn nữa. Thế nên
tiền đồ vô cùng tươi sáng đều ở
tại một niệm của ḿnh.
Chúng ta có duyên gặp
được cơ hội này, chỉ cần nắm
chắc cơ hội th́ đời sống của ḿnh
sẽ hạnh phúc, tự tại, không gian sinh hoạt ngày
càng rộng lớn, đây chẳng phải là ảo
tưởng mà là sự thật, chỉ cần tu học
đúng như lư như pháp, ngay trong đời này nhất
định sẽ đạt được, đầu
mối đều ở nơi bản thân ḿnh, chẳng do
người khác. Bởi
vậy nên tự ḿnh phải biết kiểm điểm,
tự kềm chế, khởi tâm động niệm, ngôn
ngữ tạo tác chẳng trái ngược với lời
dạy của Phật, hết ḷng nỗ lực học
tập, như vậy mới chẳng cô phụ Phật,
Bồ Tát, chẳng cô phụ chính ḿnh. Có được thân
người, có thể gặp được Phật pháp,
duyên phận này vô cùng hiếm có, tại sao chẳng học
theo chuyện tốt? Hai con
đường ở trước mặt, một là thiên
đường, hai là địa ngục, tại sao
chẳng lên thiên đường, tại sao cứ xuống
địa ngục? Hy vọng
chúng ta cùng nhau khích lệ.
3. Bí quyết giảng kinh và
phương pháp tu hành. (Buổi sáng 25-4-99)
Giảng kinh
phải chú ư nghi thái (oai nghi và thái
độ). Nhất
định phải đạt được điều
kiện đ̣i hỏi trong cuốn Nội Điển Giảng
Tọa Chi Nghiên Cứu, khi có khuyết điểm th́
phải không ngừng cải thiện. Giảng kinh tại pḥng thâu h́nh
khác với giảng tại hiện trường, mắt
nh́n thẳng vào ống kiếng của máy thâu h́nh và coi nó
như là đại chúng đang nghe. Nhưng cũng phải
thường thường nh́n khắp cả hiện
trường, tuy nh́n khắp toàn giảng đường
nhưng ánh mắt tốt nhất phải giữ cho ngay
thẳng, được vậy mới thêm phần trang
trọng. Nhất định
phải ngẩng đầu lên, v́ vậy phải thuộc
bài giảng, nếu không thuộc th́ phải thường
cúi xuống coi bài, làm vậy sẽ cho thính chúng ấn
tượng không tốt.
Tốt nhất là các bạn đồng học có
thể cùng nhau nghiên cứu thảo luận, nh́n ra chỗ
dở của ḿnh rất khó, nh́n chỗ dở của
người khác dễ hơn, thế nên cùng nhau nghiên
cứu thảo luận có thể giúp ḿnh tiến bộ.
Hiện nay mọi
người luyện tập thuyết giảng đều
dùng kinh Vô Lượng Thọ, đây là một chuyện
tốt. Thế Tôn nói với
chúng ta tương lai lúc Phật pháp diệt tận, kinh Vô
Lượng Thọ sẽ được lưu lại
thêm một trăm năm trên thế gian. Trên thực tế đây là nói
chúng sanh thời Mạt Pháp duy chỉ nương theo kinh
này và pháp môn Tịnh Độ mới có thể thành tựu, có
thể giúp đỡ chúng sanh thoát ly sanh tử luân hồi, văng
sanh Tịnh Độ, một đời thành Phật. Ngoài ra th́ chẳng có pháp môn
thứ hai nào nữa.
Điển tịch Tịnh Tông là Ngũ kinh Nhất
luận, đây là công khóa nhất định phải
tu. Nếu c̣n khả năng,
thời gian th́ cũng nên coi những chú sớ Tịnh Tông
do các đại đức xưa nay hội tập. Như cuốn Tịnh Độ
Thập Yếu do Ngẫu Ích đại sư biên tập và
cuốn Tịnh Độ Ṭng Thơ do cư sĩ Mao Lăng
Vân biên soạn, nội dung sưu tập tương
đối phong phú, phân lượng cũng khá lớn,
rất tốt cho đồng học chuyên tu Tịnh
nghiệp làm tài liệu tham khảo.
Muốn thành
tựu th́ nhất định phải thâm nhập một
môn, một môn thâm nhập không phải là một đời
chỉ đọc một bộ kinh; chuyên đọc một
bộ kinh là để tu định, mục đích
của sự tu định là khai trí huệ. Nhưng người hiện nay
nói thật ra tu định chẳng thể khai huệ. Người xưa tu định
có thể khai huệ, người hiện nay tu định
chẳng thể khai huệ, nguyên nhân là v́ chẳng buông
xuống phân biệt chấp trước. Người xưa có thể buông
xuống, người hiện nay buông chẳng nổi nên
chẳng thể khai huệ.
Như vậy th́ phải làm thế nào để giúp
ḿnh khai huệ? Học
rộng xem nhiều là một phương pháp, có thể làm
tăng thượng duyên cho việc khai huệ. Học rộng xem nhiều
tập trung trên bộ kinh chính mà ḿnh chuyên tu, đó cũng
vẫn là một môn thâm nhập.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: ‘một tức là
nhiều, nhiều tức là một, một và nhiều không
hai’, tự ḿnh vẫn chuyên tu một môn,
chuyên hoằng một môn, một môn tức là hết
thảy môn, một kinh tức là hết thảy kinh. Đương nhiên đây chẳng
phải là việc chúng ta hiện nay có thể làm nổi,
nhưng chúng ta phải hiểu rơ lư này, định tâm
lại, dồn sức vào một môn. [Bạn] có thể đọc
trước những cuốn trong phạm vi liên quan
đến môn này, có thể giúp cho bạn giải
được sâu thêm, rộng thêm, và cũng giúp bạn
tuyên dương kinh ấy.
Thế nên lúc mới bắt đầu, phải coi
‘Ngũ kinh, Nhất luận’, đối với sự tu
học Tịnh Tông mới dần dần mở rộng tâm
lượng. Nhưng đó
chỉ dùng để trợ tu mà thôi, chủ tu vẫn là
một bộ kinh (trợ tu là phụ,
chủ tu là chánh).
Nếu dùng kinh Vô Lượng Thọ làm chủ tu, th́
năm thứ c̣n lại là trợ tu; nếu chọn
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm làm chủ tu, th́
năm thứ kia sẽ là trợ tu.
Lúc trước
Hoằng Nhất pháp sư dạy những phần tử
trí thức học Phật bắt đầu nhập môn
từ Hoa Nghiêm Sớ Sao. Hoa Nghiêm
Sớ Sao nói theo ngôn ngữ hiện nay tức là Phật
học khái luận. Bất
luận tu học khoa nào đều phải bắt
đầu từ khái luận, trước tiên phải t́m
hiểu toàn thể, sau đó chuyên công [dồn sức] vào
một môn trong đó. Nhưng
căn tánh người hiện nay thua người xưa
rất xa, và cũng chẳng có đủ thời gian và tinh
lực. Phân lượng của
một bộ Sớ Sao rất lớn, trong một thời
gian ngắn chẳng thể nào đọc thuộc làu,
nghiên cứu, học tập nổi.
Thế nên Thanh
Lương đại sư lưu thông cuốn chót của
Tứ Thập Hoa Nghiêm, tức là ‘Phổ Hiền Bồ Tát
Hạnh Nguyện Phẩm’, đây là cương yếu,
tổng kết của kinh Hoa Nghiêm.
Đă là tổng kết của kinh Hoa Nghiêm nhưng
nếu chẳng hoàn toàn hiểu kinh Hoa Nghiêm th́ làm sao có
thể tổng kết?
Đối với thập đại nguyện
vương nếu chẳng đọc toàn bộ kinh th́ làm
sao hiểu được!
Chúng ta hiện nay chẳng đọc hết toàn
bộ kinh, một thường thức thô thiển này
chỉ có thể xem được trong chú giải của
những đại đức thời xưa mà thôi.
Vả nữa, Hoa
Nghiêm đối với chúng ta đích thực có lợi ích
chân thật. Người
ở tây phương Cực Lạc thế giới ai cũng
học Hoa Nghiêm, tây phương Cực Lạc thế
giới là thế giới của Phổ Hiền Bồ Tát,
phàm là người văng sanh Cực Lạc thế giới th́
người nào cũng là Phổ Hiền Bồ Tát. Đoạn đầu kinh Vô
Lượng Thọ có câu: ‘Đều cùng tuân tu
đức của Phổ Hiền đại sĩ’, tức
là nói rơ người ở tây phương Cực Lạc
thế giới đều tu Phổ Hiền hạnh. Phổ Hiền hạnh khác
với những hạnh Bồ Tát khác như thế nào? Niệm niệm của Phổ
Hiền Bồ Tát đều bao gồm tận hư không,
trọn khắp pháp giới, niệm niệm đều
phục vụ cho hết thảy chúng sanh trong hư không
pháp giới. Đối
tượng phục vụ của những Bồ Tát
Đại thừa khác là một đại thiên thế
giới, mười đại thiên thế giới,
hoặc một trăm đại thiên thế giới,
chẳng đến tận hư không, trọn khắp pháp
giới. Đây là chỗ khác nhau
giữa Phổ Hiền Bồ Tát và các Bồ Tát Đại
thừa khác.
Bất
luận là Đại thừa hoặc Tiểu thừa Phật
pháp, nếu có ‘cái Ta’ và ‘cái của Ta’ (ngă và ngă sở) th́
chẳng thể nhập môn được. Phật pháp tuy rộng lớn
nhưng chẳng nhập môn được. Nguyên nhân chẳng thể nhập
môn là v́ ḿnh có chướng ngại, chướng ngại
ấy là: ‘Ngă chấp, pháp chấp’.
Nhập môn tức là kiến tánh, kiến tánh tức
là thấy pháp giới, cũng chính là hiểu rơ chân
tướng của vũ trụ nhân sanh. Chân tướng của vũ
trụ nhân sanh ở ngay trước mặt, nguyên nhân
bạn chẳng thể hiểu rơ chính là v́ hai chướng
ngại ‘Ngă chấp, pháp chấp’.
Làm cho bạn chẳng có cách chi khế nhập,
chẳng có cách ǵ hiểu rơ.
Nếu bạn muốn nhập cảnh giới
của Phật, muốn minh tâm kiến tánh mà chướng
ngại này không tiêu trừ th́ sẽ chẳng làm nổi.
Tám
vạn bốn ngàn pháp môn trong nhà Phật, vô lượng
pháp môn đều là pháp môn phá trừ chướng
ngại. Ngày nay chúng ta chọn
phương pháp Tŕ Danh Niệm Phật, người
niệm Phật rất nhiều nhưng người
thật sự có thể dẹp trừ chướng
ngại và đạt đến công phu đắc lực
rất ít. Nguyên nhân trọng
yếu nhất là chẳng triệt để liễu
giải chân thật nghĩa của câu Phật hiệu này. Nhân tố thứ nh́ là lúc
phiền năo khởi lên th́ Phật hiệu chẳng khởi
dậy nổi. Đây là v́
Phật hiệu chẳng thuần thục, vẫn c̣n
rất sống sít. Cổ
đức nói người niệm Phật muốn công phu
đắc lực nhất định phải đem
chỗ sống sít chuyển thành thuần thục, chỗ
chín biến thành chỗ sống.
Vọng tưởng tập khí là chỗ chín, Phật
hiệu vẫn c̣n sống sít, cho nên tâm niệm vừa
khởi đều là phiền năo.
Đây là dạy cho chúng ta thay đổi chỗ sống
và chỗ chín, ở mọi nơi, mọi lúc, trong tâm
vừa khởi niệm đều là A Di Đà Phật, đem
Phật hiệu trở thành thuần thục (chín), biến
phiền năo trở thành sống sít, được vậy
th́ công phu sẽ đắc lực.
Thế
nên chỗ hạ thủ là phải buông bỏ phân biệt,
chấp trước. Tôi
thường khuyên các vị đồng tu phải buông
bỏ những ư niệm muốn khống chế tất
cả người, sự, vật.
Ư niệm khống chế là phiền năo tích tụ
lại từ nhiều kiếp trước, là tập khí
từ vô lượng kiếp đến nay, đều
cứ muốn quản lư người khác, [nghĩa là
muốn người ta phải làm theo ư của ḿnh]. Nghiêm trọng hơn nữa là
chiếm hữu, lấy làm của riêng cho ḿnh, đây là
căn bản của sanh tử luân hồi, phải buông
bỏ hết những ư niệm này, phải buông xả
hết sạch sành sanh. Chư
Phật, Bồ Tát thị hiện tại thế gian
tuyệt đối chẳng có ư niệm khống chế,
chiếm hữu, chỉ có hy sinh cống hiến. Hy sinh cũng là nói thuận theo
phàm phu, Phật, Bồ Tát phục vụ cho hết thảy
chúng sanh, chẳng ngại lao nhọc, chẳng ngại oán
trách, quyết định chẳng vị kỷ.
Sự khác biệt giữa Phật, Bồ Tát và phàm phu
là ở tại chỗ này.
Mọi
người phải thể hội kỹ càng, hết ḷng
học tập, được vậy th́ đời này
mới chẳng đến nỗi luống uổng. Chân chánh noi gương, học
theo Phật, Bồ Tát, như vậy gọi là học
Phật. Tự ḿnh tu học
có được tâm đắc th́ giảng kinh mới có
đạo vị. Nếu
chẳng khế nhập vào cảnh giới th́ giảng có
hay cách mấy th́ cũng chẳng có đạo vị. V́ những ǵ được
giảng đều là của người khác, chẳng
phải từ tự tánh của ḿnh lănh ngộ xong rồi
lưu xuất. Những ǵ từ tự tánh lănh
ngộ xong lưu xuất cũng vẫn c̣n cạn cợt,
hoàn toàn từ tự tánh tự nhiên lưu xuất mới
sâu xa, việc này đều nhờ dụng công lúc b́nh
thường.
Sau
này các bạn trở về đạo tràng của ḿnh
phải nên giảng kinh mỗi ngày tối thiểu là
một giờ rưỡi, tốt nhất là có thể
giảng hai giờ, chẳng thể gián đoạn; mỗi
ngày niệm Phật tối thiểu là tám giờ
đồng hồ, th́ ngày hôm đó chẳng trôi qua uổng
phí. Chỉ cần bạn phát
tâm này th́ tự nhiên sẽ được hết thảy
chư Phật Như Lai gia tŕ, đừng sợ chẳng
có trí huệ, vấn đề là ḿnh có chịu phát tâm hay
không. Hoan hỷ giảng,
giảng mười năm, hai mươi năm th́ đâu
có lư nào không thành tựu cho được! Giảng kinh cũng là một phương
pháp tu tam muội, ‘Ngôn Thuyết Tam Muội’. Hy vọng các bạn đồng
học đều hết ḷng nỗ lực, tự
khuyến khích chính ḿnh.
F. TRUYỀN BẢO THIỆN TÍN
TẠI GIA
1. Nắm lấy cơ hội, thành
tựu đạo nghiệp
(Buổi sáng 8-4-99)
a. Phước từ tâm tạo
Từ xưa đến nay trong
nước và ngoài nước, chẳng có ai không mong
cầu phước báo.
Phước từ đâu đến? Tục ngữ Trung Quốc
thường nói: ‘Phước do tâm
tạo’, nếu chẳng cầu từ tâm
địa th́ tuyệt đối sẽ chẳng
được phước báo.
Nhà Nho, nhà Phật nói đến những đạo lư
này rất nhiều, thánh triết cổ kim trung ngoại
đều biết và cũng dạy người như
vậy. Hiện nay
người mong cầu phước báo càng nhiều hơn
nữa, nhưng đều không từ chối bất
cứ thủ đoạn ǵ để cướp
đoạt tài vật của kẻ khác, làm những
việc tổn người lợi ḿnh. Cướp đoạt tài vật
của người khác đem về làm của ḿnh, thật
ra những tài vật này vốn là trong mạng ḿnh đă có
sẵn, có câu là ‘Trong vận mạng
có th́ cuối cùng sẽ có, trong mạng chẳng có th́
đừng mong cầu’[88]
, những ǵ cưỡng cầu
được th́ cũng là trong số mạng vốn
sẵn có, trong mạng chẳng có th́ cầu cũng
chẳng được.
Thế nên người xưa nói: ‘Quân tử
vui làm người quân tử, tiểu nhân oán trách làm
tiểu nhân’. Khi
hiểu rơ đạo lư rồi mới biết ‘Một miếng ăn miếng uống, không ǵ
chẳng là đă định trước’,
sau đó th́ tâm sẽ định, định rồi
sẽ sanh trí huệ, sẽ được tự tại,
an vui.
b. Giữ tâm Bồ Tát, hành Bồ Tát
đạo.
Đối với chân
tướng sự thật, Phật pháp giảng rất
thấu triệt. Hết
thảy đều v́ chúng sanh, ngay cả sinh sống
cũng v́ chúng sanh, ăn cơm cũng v́ chúng sanh. V́ ăn cơm để nuôi
dưỡng cái mạng sống này, mạng sống này là
để phục vụ chúng sanh, thế nên ăn cơm là
v́ chúng sanh. V́ chúng sanh là
Phật, Bồ Tát, Thánh hiền, v́ ḿnh là phàm phu, phải
tham thấu đạo lư này.
Thân thể này c̣n ở thế gian, tuy chẳng lâu dài,
mấy mươi năm ngắn ngủi, nhất
định phải lợi dụng nó để tạo phước
cho hết thảy chúng sanh, v́ tiếp tục huệ
mạng của Phật, chánh pháp thường trụ,
đó là giữ tâm Bồ Tát, hành Bồ Tát đạo. Tuy chưa thọ Bồ Tát
giới, thậm chí vẫn chưa thọ Tam Quy Y, nhưng
người đó chân chánh đă là Bồ Tát, chắc
chắn sẽ được sanh Tịnh Độ. Quy y, thọ giới đều là
h́nh thức, h́nh thức chẳng quan trọng, tuy chẳng
có h́nh thức nhưng có thật chất, thật chất
quan trọng hơn h́nh thức.
Có thể giữ tâm Bồ Tát,
hành Bồ Tát đạo, chắc chắn sẽ
được hết thảy chư Phật hộ
niệm, long thiên thiện thần giúp đỡ. Lư do chư Phật hộ
niệm, long thiên thiện thần giúp đỡ là v́ [quư
ngài muốn] giúp đỡ chúng sanh, bạn giúp đỡ
chúng sanh th́ chí đồng đạo hiệp cùng chư
Phật, Bồ Tát, long thiên thiện thần; những ǵ
bạn làm, bạn nghĩ chính là việc chư Phật,
Bồ Tát, long thiên thiện thần làm và nghĩ, thế th́
các ngài sao không giúp đỡ bạn được? Ngày nay chúng ta nghe có người
muốn làm một việc tốt, chuyện này chính là
chuyện mà ḿnh muốn làm, họ thiệt đă làm xong
chúng ta liền hoan hỷ, tự động giúp
đỡ. Phát tâm phổ độ
chúng sanh thay Phật, Bồ Tát, làm sự nghiệp của
Phật, Bồ Tát, th́ người ấy là Phật, Bồ
Tát. Hôm nay chúng ta đă phát tâm
rồi, làm được không tốt lắm là v́ phiền
năo tập khí của chúng ta quá nặng, và cũng là
nghiệp chướng quá nặng.
c. Nắm chắc cơ hội tốt
Phật, Bồ Tát
từ bi, giúp cho chúng ta có được hoàn cảnh tu
học, hoàn cảnh làm việc rất tốt, cơ duyên
này thật là vô cùng khó gặp, trăm ngàn vạn kiếp
khó gặp được, nhưng thường chúng ta
đều bỏ lỡ, chẳng coi trọng, ngay
trước mặt mà luống qua, thiệt rất đáng
tiếc! Nên biết cơ
hội tốt rất khó gặp, thời gian gặp
được thường thường rất ngắn
ngủi, cho nên khi người có trí huệ gặp
được liền mau nắm lấy, nhất
định sẽ chẳng buông thả, lợi dụng
cơ hội này thành tựu cho ḿnh, lợi ích chúng sanh. Cổ kim trung ngoại, phàm
những người đă thành tựu trong thế gian và
xuất thế gian, cứ quan sát kỹ [th́ sẽ thấy
họ] đều biết nắm lấy cơ hội; phàm
những người thất bại đều v́ họ
đánh mất thời cơ tốt đẹp. Do đó: có thể nhận
biết cơ hội tốt là trí huệ, học vấn,
nắm lấy cơ hội tốt là phước báo chân
thật.
Trong thời
thế ngày nay ở đâu cũng động loạn
chẳng an, từ trước đến giờ trong
lịch sử chưa từng xảy ra. Trong kinh đức Thế Tôn nói
về ‘ngũ trược ác thế’, chúng ta ngày nay có
thể ư thức được, hơn nữa lại c̣n
trược ác đến cùng cực. Trong hoàn cảnh như vậy mà
chúng ta c̣n có thể gặp được Phật pháp,
vẫn c̣n có được một hoàn cảnh tu học
tốt đẹp, đây là phước báo tu
được từ vô lượng kiếp đến
nay. Nhiều người
muốn thật sự tu hành trên thế gian nhưng
kiếm chẳng ra hoàn cảnh tu học. Thật sự dụng công
nhưng t́m chẳng ra hoàn cảnh tu học là duyên chẳng
đủ; có hoàn cảnh tu học nhưng chẳng
chịu dụng công là thiện căn, phước đức
chẳng đủ. Trong kinh Di
Đà nói: ‘Chẳng thể dùng ít thiện
căn phước đức nhân duyên được sanh
cơi ấy’. Chúng ta
có nhân duyên nhưng thiện căn, phước đức
chẳng đủ. Sức
mạnh của tín nguyện không mạnh là thiện căn
chẳng đủ, chẳng chịu làm thật sự là
phước đức chẳng đủ, người
như vậy dù có gặp được nhân duyên nhưng
đời này cũng sẽ luống uổng.
Lúc trước tôi
ở Đài Trung cầu học, số người thân cận
lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam có đến mấy chục
vạn người, có được bao nhiêu người
thành tựu? Thầy Lư
thường nói trong một vạn người chỉ có
hai ba người thật sự thành tựu mà thôi. Đây là sự thật bày
trước mắt, chúng ta muốn thành tựu ngay trong
đời này th́ nhất định phải nắm
lấy cơ hội. Hơn
nữa nhất định phải nhận thức rơ ràng
nếu đời này chẳng thể thành tựu th́ sẽ
chẳng tránh khỏi luân hồi lâu dài vô số
kiếp. Lần sau muốn
gặp được cơ hội này chẳng phải
ở đời sau, chẳng phải đời kế
tiếp, sợ là phải nhiều đời nhiều
kiếp sau này, thế nên đại Thanh Văn, đại
Bồ Tát vô cùng trân quư cơ duyên.
Nếu chúng ta chẳng thường đọc kinh,
thấy Phật, Bồ Tát coi trọng cơ duyên như
vậy, nói thật ra chúng ta gặp được mà
bỏ lỡ cơ hội, cũng chẳng tiếc. Cứ tưởng là những
cơ hội này thường xuất hiện, hôm nay làm
biếng một chút cũng chẳng sao, vẫn c̣n ngày mai;
năm nay phóng dật cũng chẳng sao, vẫn c̣n năm
sau. Tư tưởng này vô
cùng sai lầm, đó là nghiệp chướng hiện
tiền; Không phải chỉ
là nghiệp chướng mà là Ma chướng hiện
tiền, ngày mai sẽ c̣n có cơ hội này hay sao? Năm sau vẫn c̣n cơ hội
này hay sao? Không chắc đâu!
Năm đầu
Dân quốc, Âu Dương Cánh Vô tiên sinh lập ra ‘Chi Na
Nội Học Viện’, cũng tính là sẽ tiếp
tục lâu dài, nhưng sau hai năm liền chấm dứt. V́ lúc đó quân phiệt phân chia,
chiếm cứ [đất đai], chiến tranh dồn
dập, không thể không giải tán, không thể không
chấm dứt. Ngày nay thế
giới động loạn chẳng an, ngày an ổn
chẳng nhiều, càng phải nên nắm lấy cơ
hội, dụng công nỗ lực tu học. Trong kinh luận có nói: ‘Sanh tử đại sự’, ‘Mạng người
vô thường’, ‘Cơi nước mong manh’, đây
đều là lời chân thật, là trí huệ cao
độ, cảnh giác cao độ.
Ngày nay người thế gian
đối với danh văn lợi dưỡng
đều tranh giành từng giây từng phút, chúng ta cũng
phải có tinh thần này, từng giây từng phút nhất
định phải tranh thủ thành tựu đạo
nghiệp, lợi ích chúng sanh.
Chúng sanh có tai nạn, chúng sanh chẳng đạt
được lợi ích chân thật là v́ chúng ta chẳng
tu hành hoàn hảo, trách nhiệm nhất định phải
quy về ḿnh, v́ ḿnh ngu muội vô tri, chẳng thể y giáo
phụng hành, chẳng thực sự chịu làm,
tương lai tiền đồ đen tối. Tiền đồ ở tại đâu? Tại tam ác đạo, chẳng
phải tam thiện đạo!
Nếu chúng ta chẳng thể nắm lấy thời
gian, cơ duyên, luống uổng hết, vậy th́ đáng
tiếc biết bao! Chẳng
những là chuyện đáng tiếc trong đời này, có
thể nói là chuyện vô cùng đáng tiếc từ vô
lượng kiếp đến nay, chẳng c̣n chuyện ǵ
đáng tiếc hơn chuyện này nữa đâu. Hy vọng các bạn đồng
tu đều có nhận biết, cảnh giác như vậy,
phải hết ḷng nỗ lực, hy vọng trong một
đời này có thể thành tựu. Trong kinh Di Đà nói rất hay: ‘Nếu một ngày, nếu hai ngày, đến bảy
ngày, nhất tâm bất loạn’, người
lợi căn một ngày có thể thành tựu,
người độn căn bảy ngày cũng có thể
thành tựu, chúng ta phải có tinh thần và nghị lực
này.
G. TRẢ LỜI NGHI VẤN
HỌC PHẬT
1. Nói về ‘ḥa’ (Buổi sáng 23-2-99)
a. Sự quan trọng của ‘ḥa’.
Luận Ngữ nói:
‘Cái dụng của Lễ, Ḥa là quư’. Lễ tức là quy phạm trong
sanh hoạt hằng ngày. Trong
đời sống hằng ngày, xử sự, đối
người, tiếp vật, quư nhất là Ḥa. Ngạn ngữ có câu: ‘Nhà ḥa thuận th́ vạn sự hưng vượng’. Từ xưa đến nay vua chúa
Trung Quốc thống trị quốc gia, dạy dỗ dân
chúng đều dùng chữ Ḥa.
Cơ sở của Ḥa là Hiếu, Hiếu biểu
hiện ở bên ngoài tức là Ḥa, chẳng Ḥa tức là
chẳng Hiếu. Cố cung
ở Bắc Kinh, Trung Quốc là hoàng cung của ba triều
Nguyên, Minh, Thanh, thời gian ba triều này kéo dài gần
năm trăm năm. Trong hoàng
cung có ba kiến trúc chính, nhiều người gọi là
‘Điện Kim Loan’, thật ra tấm biển ngạch [treo
trước điện] chẳng ghi Điện Kim Loan. Điện lớn nhất gọi là
‘Thái Ḥa Điện’, phía sau đó là ‘Trung Ḥa Điện’, thứ ba
là ‘Bảo Ḥa Điện’.
Triều nhà Thanh dùng ‘Thái Ḥa, Trung Ḥa, Bảo Ḥa’
để trị thiên hạ cho nên có thể kéo dài hai
trăm sáu mươi mấy năm. Đến đời sau cùng, nhà
chẳng ḥa dẫn đến vong quốc; nếu con cháu
đều có thể giữ ǵn được ḥa mục
th́ [có lẽ] nhà Thanh c̣n kéo dài đến ngày nay.
Trong lịch sử
Trung Quốc mỗi vị đế vương thành
lập đất nước đều đề
xướng hiếu đạo, ḥa mục, nếu con cháu
có thể giữ pháp tắc, quy chế của tổ tông,
th́ quốc gia sẽ vĩnh viễn chẳng suy thoái. Ngược lại chẳng tuân
thủ thành quy của tổ tông, anh chị em trong nhà,
bạn bè thân thích chẳng ḥa tức là dấu hiệu vong
quốc. Chỉ cần
cục diện bất ḥa sanh ra, chánh quyền tuyệt
chẳng duy tŕ được đến năm mươi
năm; nếu tranh chấp kịch liệt hơn th́
đại khái mười năm, năm năm liền
diệt vong. Gia đ́nh,
quốc gia, cho đến bất cứ một đoàn
thể nào trong thế gian và xuất thế gian đều
như vậy.
Thế nào là
người chân chánh tu đạo?
Ḥa tức là tu đạo, chẳng Ḥa th́ không có
đạo ǵ để nói hết.
Nếu tứ chúng đệ tử tuân giữ thành
pháp, quy củ do Phật chế định th́ Phật pháp
sẽ trụ lâu dài trong thế gian, pháp duyên thù thắng,
chúng sanh có phước.
Nếu người xuất gia mặc trên
người bộ đồ này, ở trong Tăng đoàn
chẳng ḥa hợp tức là phá hoại Tăng đoàn,
quả báo sẽ ở tại địa ngục A
Tỳ. Người xuất
gia tu hành tốt, có thể thành Phật, thành Bồ Tát, thành
tựu sẽ là cao nhất; nếu tu không tốt th́
đọa lạc sẽ tới chỗ thấp
nhất. Người xuất
gia làm một người ‘lăo hảo nhân’ có thể thành
tựu hay không? Chẳng
thể thành tựu, lăo hảo nhân là kẻ đạo
đức giả (nghĩa
là kẻ giả nhân giả nghĩa),
không những không thể duy tŕ h́nh tượng của
Phật pháp, ngược lại c̣n bại hoại, phá
hoại h́nh tượng của Phật pháp, tội
nghiệp ấy vô lượng vô biên.
b.Tư cách xuất gia thời xưa
Hiện nay
người xuất gia chẳng bằng lúc trước,
lúc trước xuất gia đâu có dễ dàng như
vậy! Mặc lên chiếc áo
người xuất gia th́ vua chúa nh́n thấy cũng
phải chắp tay xá một cái, đó là tôn kính đạo
đức, học vấn, đức hạnh của
bạn, [v́] bạn là ‘thầy của
trời và người’, ngôn hạnh
cử chỉ đều là tấm gương cho
người và trời.
Thế nên thời cổ đại xuất gia
phải thông qua sự khảo thí của nhà vua, thi
đậu rồi mới được phát văn
bằng, gọi là ‘độ điệp’. Sau khi thi đậu lấy
được ‘độ điệp’, bạn có duyên
với đạo tràng nào, pháp sư nào th́ đến đó
để xuất gia. Nếu
bạn chẳng có ‘độ điệp’ mà họ cạo
đầu cho bạn th́ là phạm pháp, phải chịu pháp
luật quốc gia trừng trị.
Tiến Sĩ là đẳng
cấp cao nhất của sự thi cử trong nước,
đây là tiêu chuẩn học thuật phổ thông,
tương đương với cấp bằng Bác Sĩ
(Tiến Sĩ, PhD)
trong trường học hiện nay. Người xuất gia trong
học thuật phổ thông đậu văn bằng
Tiến Sĩ, rồi thi cử về Phật pháp, sau
đó mới khảo đức hạnh, cả ba
đều phải đậu hết mới
được phát ‘độ điệp’. Nếu chế độ [hiện
nay vẫn giống] như thời xưa, có lẽ chúng ta
sẽ chẳng có tư cách xuất gia. Nhưng sau này chế độ
ấy bị Thuận Trị hoàng đế nhà Thanh phế
bỏ. Ấn Quang pháp sư
trong Văn Sao có đề cập đến vấn
đề này nhiều lần, đều vô cùng cảm khái,
thương tiếc! Cách làm
này của vua Thuận Trị sai lầm, làm cho Phật pháp
suy bại đến như vậy, lọt xuống
[đáy sâu] tận ngàn trượng. Vua Thuận Trị cho rằng
xuất gia là một việc tốt, đáng
được tôn kính, đề xướng, chẳng nên
hạn chế một cách nghiêm khắc. Đương lúc đó đích
thật là việc tốt, làm cho những người có
tŕnh độ kém một chút cũng có thể xuất gia,
nhưng ông ta chẳng nghĩ đến ba trăm năm
sau, Phật giáo v́ vậy đă bị hủy diệt, ông ta
phải chịu trách nhiệm này.
c. Tam Phước và Lục Ḥa
Đức Phật
dạy chúng ta tu hành, cơ sở chính là Tịnh Nghiệp
Tam Phước và Lục Ḥa Kính.
Tịnh Nghiệp Tam Phước là để tự
ḿnh tu tập, Lục Ḥa Kính là dùng để chung sống
ḥa đồng với đại chúng. Giống như việc xây nhà,
đây là nền móng, nếu không có nền móng th́ những
việc khác chẳng cần nói nữa. Điều thứ nhất trong
Tịnh Nghiệp Tam Phước: ‘Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết hại, tu thập thiện
nghiệp’, phải làm hết ḷng, đây là
phước báo nhân thiên.
Học Phật th́ trước tiên phải làm
người cho hoàn hảo, nếu người c̣n làm chẳng
nổi th́ làm sao có thể thành Phật, làm Tổ? Thế nên chúng ta ngày nay khuyên
người chẳng nói đến lư luận cao siêu,
chỉ khuyên người tu tam quy, ngũ giới, thập
thiện. Nếu có thể làm
theo tam quy, ngũ giới, thập thiện được
hoàn hảo th́ người này là thánh nhân hiện đại.
Trong Tam Quy Y,
thứ nhất là Giác chứ chẳng mê, thứ nh́ là Chánh
chứ chẳng tà, thứ ba là Tịnh chứ chẳng
nhiễm. Quy tức là quay
về, y tức là nương dựa. Khi chúng ta khởi tâm động
niệm, làm chuyện ǵ cũng đều tương
ứng với Giác - Chánh -Tịnh, đó là quy y chân chánh. Nếu không tương ứng th́
chẳng có quy y, chẳng quay về, vẫn c̣n mê, tà,
nhiễm. Hành vi sinh hoạt,
xử sự, đăi người, tiếp vật phải
nương theo ngũ giới, thập thiện. Thực hiện ngũ giới,
thập thiện vào trong đời sống, biến thành
hành vi sinh hoạt cụ thể, như vậy mới là
học Phật. Phật pháp
được xây dựng trên cơ sở của
Phước thứ nhất này, sau đó mới ‘Thọ tŕ tam quy, đầy đủ các giới,
chẳng phạm oai nghi’; lại nâng cao lên
trên ‘Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả,
đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành
giả’, như thế là Phật pháp.
Phật dạy
chúng ta khi tiếp xúc với đại chúng phải y theo
Lục Ḥa. Thứ nhất ‘Kiến ḥa đồng giải’
là căn bản. Tức là xây
dựng phương thức chung, cách suy nghĩ và cách nh́n
của mọi người đều như nhau, vấn
đề sẽ được giải quyết. Đức Phật có trí huệ chân
thật, cứu cánh, viên măn, đức Phật dạy chúng
ta ‘Kiến ḥa đồng giải’, hoàn toàn buông bỏ thành
kiến của ḿnh, như vậy th́ sẽ Ḥa. Đức Phật chẳng nói: ‘Tri
kiến của ta mới đúng, tri kiến của quư
vị đều sai lầm, đều phải theo ta’. Đức Phật chưa từng
‘xỏ mũi người ta dắt đi’, Phật dạy
chúng ta hoàn toàn buông xuống hết thảy vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, đây là
chánh tri chánh kiến. Chỉ
cần tự ḿnh c̣n tri kiến th́ đó đều là tà tri
tà kiến. Mọi
người đều chẳng có vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước, th́ thiên hạ sẽ thái
b́nh.
Đức Phật giảng kinh
thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, Ngài có
tri kiến hay chăng?
Chẳng có. Kinh Kim Cang nói:
‘Đức Phật chẳng nói một câu
pháp’ v́ những ǵ Phật nói đều là
chân tướng sự thật, tuyệt đối
chẳng xen vào một ư kiến riêng của ḿnh, thế nên
mới nói: ‘chẳng nói mà nói, nói
mà chẳng nói’.
Tự ḿnh chẳng có ư tứ, đó là chẳng nói,
những ǵ nói ra đều là chân tướng sự
thật. Khi thấy chúng sanh
làm sai lầm th́ nói với họ: ‘Việc
này sai rồi, tương lai sẽ có quả báo’,
đó là giảng sự thật.
Bởi vậy nên nếu ai nói Phật thuyết pháp
tức là báng Phật.
d. Cảnh duyên chẳng tốt xấu,
tốt xấu ở nơi tâm
Vào đời
Đường, Mă Tổ Đạo Nhất ḥa thượng và
Bách Trượng đại sư là Tổ thứ tám
của Thiền Tông, phát khởi việc xây dựng ṭng lâm,
đề xướng cộng tu (cùng nhau tu
tập). Xây
dựng ṭng lâm nói theo cách nói hiện nay tức là xây
dựng đại học Phật giáo, thành lập chế
độ cho việc tu học Phật pháp, đây là
đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Điều thứ nhất trong Bách
Trượng Thanh Quy: ‘Ṭng lâm lấy
việc ‘vô sự’ làm hưng vượng’. Chẳng có sự việc mới
là hưng vượng, có sự việc th́ chẳng hưng
vượng. Chuyện
phiền toái của chúng ta ngày nay là hai con mắt chuyên nh́n
thấy lỗi lầm của người khác, chẳng
biết hồi quang phản chiếu nơi ḿnh. Ngẫu Ích đại sư
dạy: ‘Cảnh duyên chẳng tốt
xấu, tốt xấu ở nơi tâm’. Cảnh là hoàn cảnh vật
chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự; hết thảy
những người, sự, vật ở bên ngoài chẳng
có thiện - ác, tốt - xấu; tốt - xấu ở
tại tâm ḿnh. Nếu bạn
dùng ác tâm nh́n th́ người bên ngoài đều là
người ác, dùng ác tâm nh́n th́ sự việc bên ngoài
đều là việc xấu, cho nên xấu là do ḿnh xấu,
chẳng phải là bên ngoài xấu.
Phật coi hết thảy chúng
sanh đều là Phật; Bồ Tát coi hết thảy chúng
sanh đều là Bồ Tát; người thiện coi
thết thảy chúng sanh đều là người
thiện, người ác coi hết thảy chúng sanh
đều là người ác.
Mọi người hăy phản tỉnh xem ḿnh rốt
cuộc là thiện hay ác, là phàm hay thánh, là mê hay ngộ. Vô lượng vô biên tội
nghiệp, lỗi lầm của ḿnh đều chẳng
biết, đều phản ứng ở bên ngoài; bạn
nh́n thấy t́nh huống bên ngoài thực tế đều
là phản ứng từ tâm thái của ḿnh, bên ngoài thật
sự là trung lập. Cách nói này
của Ngẫu Ích đại sư, đức Phật
trong kinh nói đến rất nhiều; Phật dạy y
báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới đều là ‘duy tâm hiện, duy thức biến’. Thế nên Phật nh́n hết
thảy chúng sanh đều là Phật, chúng sanh ở
địa ngục cũng là Phật, đối với
chúng sanh ở địa ngục, Phật cũng cung kính,
cũng chẳng dám coi thường. Phổ Hiền Bồ Tát Thập
Nguyện dạy chúng ta phải ‘Lễ kính chư Phật’,
đối với chúng sanh ở địa ngục và yêu ma
quỷ quái cũng đều cung kính, đều niệm
‘Nam mô’, Nam mô nghĩa là quy y, lễ kính. Đây là chân tướng sự
thật.
e. Tầm quan trọng của việc
nghe kinh
Năm xưa, Thiên
Ất pháp sư ở Cao Hùng nêu ra một câu hỏi:
‘Tại sao đạo tràng hiện nay khó quản lư như
vậy? Tôi dùng hảo tâm, ư
tốt để đối xử với đại chúng,
đại chúng lại vong ân bội nghĩa?’. Tôi chỉ nói với pháp sư
một câu: ‘Đó là v́ đạo tràng chẳng có Đạo’. Đạo tức là mỗi ngày
đều phải giảng kinh.
Lúc trước người học tṛ mỗi ngày
đều phải đọc sách; ba ngày chẳng
đọc sách th́ mặt mũi mất hết, v́ thói quen
tập khí từ vô thỉ kiếp đều khơi
dậy. Mỗi ngày nghe kinh là
mỗi ngày đè nén phiền năo tập khí của ḿnh;
một ngày không nghe kinh th́ thói quen đều khơi
dậy. Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni chưa từng hướng dẫn đại chúng
niệm Phật, tham thiền, Ngài giảng kinh thuyết
pháp mỗi ngày, c̣n tu hành là ở nơi mỗi cá nhân. Lúc trước trong đạo
tràng có ‘Hai thời giảng kinh’, hai thời là đơn
vị thời gian của Ấn Độ, Ấn Độ chia một
ngày đêm thành sáu thời, ngày ba thời, đêm ba thời,
cho nên hai thời ở Ấn Độ là tám tiếng
đồng hồ hiện nay.
Mỗi ngày tám giờ liên tục nghe đức
Phật giảng kinh thuyết pháp, tự ḿnh dần
dần sẽ minh bạch, khai ngộ. Ngày nay đạo tràng chẳng giảng
kinh, ai cũng nghĩ ngợi lung tung th́ đạo tràng làm
sao có thể ḥa mục cho được?
Hiện nay pháp
sư giảng kinh ít, phương pháp bù đắp là dùng
băng thâu h́nh, thâu âm để nghe kinh, đây là
phương pháp cứu cấp.
Bốn chúng đồng tu đều phải nghe kinh,
tuyệt chẳng thể gián đoạn, cũng giống
như học tṛ vào trường học, mỗi ngày nghe
kinh hai giờ đồng hồ, nghe như vậy không gián
đoạn trong ṿng hai ba năm th́ sẽ biến
đổi thể chất.
Nếu chẳng nghe kinh, chẳng nghiên giáo, học
Phật ba mươi năm, năm mươi năm
vẫn là phàm phu, mỗi ngày đều làm những
chuyện thị phi, nhân ngă, tạo tội nghiệp tam
đồ. Tôi là một phàm
phu, lúc trẻ tuổi cũng nh́n thấy chỗ sai xấu
của người khác, hiện nay tôi nh́n ai cũng là
Phật, Bồ Tát. Cảnh
giới này làm sao chuyển biến được? Là do bốn mươi năm
giảng kinh, đọc kinh chẳng gián đoạn,
đây là kinh nghiệm của tôi.
Lúc tôi chẳng giảng kinh th́ mỗi ngày đều
đọc kinh, chẳng có ngày nào buông lỏng, việc này
có thể nói để quư vị rút kinh nghiệm. Thế nên nhất định
phải đọc kinh, nghe kinh, phải hết ḷng thực
hiện Tam Phước, Lục Ḥa.
Thiền Tông lục Tổ
Huệ Năng đại sư dạy: ‘Nếu là người tu đạo chân chánh,
chẳng nh́n lỗi của thế gian’,
đây là một câu rất quan trọng, có thể giúp cho
chúng ta tu hành thành tựu.
Người chân chánh tu đạo chẳng nh́n lỗi
lầm của người khác trong thế gian, chỉ nh́n
lỗi lầm của ḿnh.
Nếu bạn chẳng nh́n lỗi của ḿnh, chuyên
nh́n lỗi kẻ khác th́ nhất định sẽ
đọa tam đồ, khẳng định chắc
chắn một trăm phần trăm.
2. Xây dựng đạo tràng (Buổi sáng 24-2-99)
a. Y báo chuyển theo chánh báo.
Ở Úc châu, Tân Tây
Lan (New Zealand), t́m nơi phong cảnh đẹp đẽ,
núi sông tao nhă để làm đạo tràng chẳng khó,
vấn đề ở chỗ có người chân chánh tu
đạo hay không. Có câu
‘cảm ứng đạo giao’, nếu chúng sanh có cảm
th́ Phật, Bồ Tát nhất định sẽ ứng;
không những hữu t́nh chúng sanh có ứng, sơn hà
đại địa vô t́nh cũng sẽ cung ứng cho
bạn. Đó là như trong kinh
thường nói: ‘y báo chuyển theo
chánh báo’, chánh báo là tâm của ḿnh, trừ ḿnh
ra đều là y báo. Chúng ta
nương dựa vào hoàn cảnh sinh tồn, hết
thảy người, sự, việc, núi sông đại
địa đều thuộc về y báo, thậm chí
chư Phật, Bồ Tát cũng là y báo của chúng ta. Nhà Phật nói về danh từ ‘Y
Chánh’ (y báo, chánh báo), chúng ta phải minh bạch, hiểu rơ
khái niệm ấy.
Tâm chúng ta chánh
trực th́ cảm ứng sẽ chánh trực; tâm tà vạy
th́ cảm ứng sẽ tà vạy, thế nên mới nói: ‘Hết thảy pháp từ tâm tưởng sanh’,
‘Hết thảy pháp duy tâm hiện’. Hoàn cảnh bên ngoài không tốt,
xấu ác là v́ tâm ḿnh tà, tâm ḿnh xấu ác, tuyệt chẳng
thể trách hoàn cảnh. Làm
thế nào cải tiến hoàn cảnh sinh hoạt của
ḿnh? Phải sửa
đổi bắt đầu từ tâm niệm; tâm chánh
trực, hết thảy pháp đều chánh trực. Cho nên sanh hoạt của chư
Phật, Bồ Tát trang nghiêm như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm
chúng ta thấy y báo, chánh báo trang nghiêm của Tỳ Lô Giá Na
Phật, trong kinh văng sanh thấy y báo, chánh báo trang nghiêm
của A Di Đà Phật. Từ
đó mới biết tâm hạnh chẳng tương
ứng với A Di Đà Phật th́ niệm Phật cũng
chẳng thể văng sanh, tâm hạnh là việc quan trọng
hạng nhất trong việc văng sanh.
Trong đoạn
cuối của Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật
Viên Thông Chương Sớ Sao, Từ Vân Quán Đảnh pháp
sư nói đến một trăm thứ quả báo
của người niệm Phật, quả báo đầu
tiên là đọa địa ngục A Tỳ. Đối với chuyện này tôi
cảm thấy vô cùng kinh ngạc nên mới hỏi thầy
Lư. Thầy Lư nói: ‘Đây là một
vấn đề quan trọng, tôi chẳng nói riêng cho anh
biết, tôi sẽ trả lời trong buổi giảng
kinh’. Tại sao niệm
Phật lại đọa địa ngục A Tỳ? Cả ngày từ sáng đến
tối trong miệng th́ niệm A Di Đà Phật, trong tâm mong
cầu văng sanh tây phương Cực Lạc thế
giới, nhưng ngôn ngữ hành vi đều phá hoại
đạo tràng, phá hoại Phật pháp, tạo nghiệp
phá hoại Tam Bảo cho nên quả báo sẽ đọa
địa ngục A Tỳ.
Đặc biệt là thời kỳ ‘Đấu Tranh Kiên
Cố’ trong đời Mạt Pháp, các người xuất
gia cùng chung cư trú tại một đạo tràng chẳng
ḥa hợp, cứ đấu tranh với nhau, tuy niệm A
Di Đà Phật, tương lai cũng sẽ cùng nhau
đọa địa ngục A Tỳ, đạo lư là
như vậy.
Niệm
Phật làm sao mới có thể văng sanh thượng
phẩm? Tâm là tâm Phật,
Hạnh là hạnh của Phật th́ nhất định
sẽ sanh Tịnh Độ. Thế nên tôi thường nói
những người trên sáu mươi tuổi th́ bất
cứ chuyện ǵ cũng đừng để ư,
đừng quan tâm quá nhiều, một ḷng một dạ
cầu sanh Cực Lạc thế giới, vạn duyên buông
xuống. Bạn làm việc
thiện, rất tốt; bạn hộ pháp, rất tốt;
bạn giết người, đốt nhà cũng tốt,
cái ǵ cũng tốt, đối với chính ḿnh chẳng
liên can ǵ hết. Bạn
tạo nghiệp của bạn th́ bạn chịu quả
báo của bạn; tôi tạo nghiệp th́ tôi chịu
quả báo của tôi. Tự
ḿnh phải t́m ra một con đường thoát ly, họ
tiến về địa ngục A Tỳ, nếu ḿnh
đi theo th́ ḿnh cũng ngu si.
Người ta chửi mắng ḿnh, ḿnh tôn kính họ;
người ta hủy báng ḿnh, ḿnh tán thán họ. Con người ai cũng có ưu
điểm và cũng có khuyết điểm, nếu có
thể chỉ nh́n ưu điểm của người ta
th́ người trong thiên hạ đều là người
tốt; nếu chỉ nh́n khuyết điểm của
người ta th́ ngay cả Phật, Bồ Tát cũng
chẳng là người tốt.
Từ đó có thể biết thị - phi, thiện -
ác chẳng có tiêu chuẩn, chỉ dựa trên sự
khởi tâm động niệm của ḿnh. Nếu tâm thiện th́ tận
hư không, trọn khắp pháp giới chẳng có ǵ là không
thiện, nghĩ vậy th́ cả đời bạn sẽ
rất hạnh phúc, rất mỹ măn.
Thế nên đừng yêu cầu
người khác giống ḿnh.
Muốn nghiên cứu một khóa tụng sáng tối
tiêu chuẩn, một Phật thất, một Nghi thức
cho Tam Thời Hệ Niệm tiêu chuẩn, để cho
tất cả Tịnh Tông Học Hội trên thế
giới đều y theo tiêu chuẩn đó, như vậy
là sai lầm. Sự ưa thích
của mỗi người khác nhau, không thể yêu cầu
cả thế giới đều giống như ḿnh. Khổng Phu Tử dạy chúng ta
phải ‘nhập cảnh tùy tục’,
được vậy th́ sẽ tự tại biết
bao! Phổ Hiền Bồ Tát
dạy: ‘Hằng thuận chúng sanh, tùy
hỷ công đức’ tức là dạy
ḿnh phải thuận theo người ta, đừng yêu
cầu người ta thuận theo ḿnh, đây là chỗ khác
nhau giữa Phật, Bồ Tát và phàm phu. Phật, Bồ Tát có thể tôn
trọng, thuận theo người khác, [ngược
lại] phàm phu muốn người khác phải thuận
theo ḿnh, phục tùng theo ḿnh, thế nên phàm hay thánh là dựa
trên một niệm khác nhau mà thôi.
b. Văn hóa đa nguyên
Văn hóa đa
nguyên là ǵ?
Hằng thuận chúng sanh chính là
‘văn hóa đa nguyên’.
Phải tuân lệnh của một người, đó
là ‘văn hóa thống nhất’, là văn hóa nhất
nguyên. Thí dụ một
buổi họp quy mô lớn, quốc kỳ của toàn
thế giới treo chung một chỗ sẽ rất đẹp;
nếu tất cả quốc kỳ của các nước
trên thế giới đều có cùng một màu th́ sẽ
chẳng đẹp cho lắm.
Trong vườn hoa, trăm hoa đua nở sẽ
rất đẹp, nếu chỉ trồng một loại
hoa th́ sẽ [rất đơn điệu], chẳng có giá
trị thưởng thức.
Thế nên văn hóa trên căn bản là đa nguyên (nhiều nguồn gốc). Lấy một thân thể
để nói th́ mắt có thể thấy, tai có thể nghe,
cái tổ hợp này chính là đa nguyên vậy. Nếu phải thống nhất
thành nhất nguyên, chỉ cần con mắt mà thôi, tai,
mũi, miệng đều bỏ hết th́ người ta
sẽ chẳng thể sinh tồn.
Cho nên mỗi khí quan trong thân thể đều là
một tổ hợp văn hóa đa nguyên, thế giới
cũng là một thể cộng đồng có văn hóa
đa nguyên, làm sao có thể ép người ta thành ‘nhất
nguyên văn hóa’ được?
Nhà Phật nói: ‘Một tức là
nhiều, nhiều tức là một’, nhất
là nhất nguyên, đa là đa nguyên. Nhất nguyên là nói về tự
tánh, đa nguyên là nói về hiện tướng, tác
dụng. Kinh Hoa Nghiêm nói:
‘Thể, Tướng, Dụng’, Thể là nhất nguyên,
Tướng và Dụng là đa nguyên. Đây là chân lư, chân tướng
sự thật, nếu phản nghịch lại th́
chẳng kiết tường, chắc chắn sẽ có hung
hiểm, tai nạn; nếu bạn có thể thuận theo
th́ sẽ hạnh phúc mỹ măn phi thường.
c. Khống chế và chiếm hữu.
Làm thế nào
nội trong đời này thoát ly ra khỏi Tam giới,
lục đạo, thập pháp giới, văng sanh Cực
Lạc thế giới, thành tựu viên măn Phật
đạo?
Nhất
định phải tiêu trừ chướng ngại
của ḿnh.
Chúng ta từ vô
thỉ kiếp đến nay, chướng ngại thứ
nhất chính là có ư niệm muốn khống chế
[điều khiển] người khác, đây là
chướng ngại rất lớn. Hy vọng người khác
đều nghe lời ḿnh, tâm niệm như vậy là
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
đó là căn bản của lục đạo sanh tử
luân hồi, nhất định phải buông bỏ.
Quan niệm sai
lầm thứ nh́ chính là muốn chiếm hữu, chiếm
lấy hết thảy người, sự, vật. Trong kinh Bát Nhă, đức Phật
giảng về chân tướng sự thật của
Hiện Tướng, Tác Dụng, kinh Kim Cang dạy: ‘Ba tâm chẳng thể được’,
đó là tâm quá khứ chẳng thể được, tâm
hiện tại chẳng thể được, tâm tương
lai chẳng thể được.
Nếu quả thật bạn hiểu được
th́ bạn đă thành Phật rồi, v́ cách dụng tâm của
bạn cùng chư Phật tương đồng. Đối với hết thảy
người, sự, vật nếu bạn c̣n khởi tâm
động niệm th́ bạn chưa hiểu kinh Kim
Cang. Ba tâm chẳng thể
được cho nên chẳng có tâm để
được (năng đắc), tâm có thể khống
chế. Những ǵ muốn
được khống chế, muốn đạt
được là người, sự, vật ở bên
ngoài, những thứ này thuộc về cảnh giới,
hết thảy cảnh giới đều là pháp do nhân duyên
sanh, chẳng có tự tánh, ‘thể của nó là
không, trọn chẳng thể được’,
thế nên những thứ bên ngoài như người,
sự, vật đều chẳng thể
được. Phần
cuối kinh Kim Cang có tổng kết như sau: ‘Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng,
huyễn, bọt, bóng, như sương và cũng như
ánh chớp, nên quán như vậy’, cách nh́n này
chính là cách nh́n của chư Phật Như Lai, tức là
Phật tri Phật kiến.
Kinh Pháp Hoa dạy chúng ta ‘nhập Phật tri kiến’,
tri kiến của Phật chính là: ‘Hết
thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng’.
Trong hết thảy pháp
đều chẳng có tâm niệm được - mất,
chẳng có tâm niệm chiếm hữu, khống chế th́
sẽ được đại tự tại. Nhà Phật nói chân giải thoát,
đại tự tại là được từ chỗ
này. Nếu vẫn lo
được, lo mất, vẫn c̣n tâm niệm muốn
khống chế hết thảy người, sự,
vật th́ như vậy là phiền năo, trói buộc, bạn
sẽ chẳng tự tại.
Không tự tại chẳng phải do người khác
đem cho bạn, là do chính ḿnh tạo thành đấy. Hết thảy pháp đều do
duyên sanh, duyên tụ duyên tán (duyên hợp duyên tan),
hiểu được chân tướng sự thật này
th́ chúng ta mới có thể kết duyên tốt, kết
thiện duyên với hết thảy chúng sanh, với chư
Phật Như Lai.
d. Xây đạo tràng
Chân chánh phát tâm tu
hành, chân chánh cần một nơi có phong cảnh xinh
đẹp, thù thắng để làm đạo tràng, Lai
cư sĩ sẽ phát tâm cúng dường, thành tựu cho
các bạn tu đạo, tương lai làm Phật, làm
Bồ Tát. Hiểu
được đạo lư này, cần hay không cần là
việc của các bạn, hôm nay tôi giao gậy [của
cuộc chạy đua tiếp sức], tôi đă hết
việc rồi, cái ǵ cũng chẳng cần nữa, trên
thế gian này tôi không c̣n lưu luyến bất cứ
thứ ǵ, chẳng có ưu, chẳng có lo nữa. Các bạn lo sợ thế
giới có tai nạn to lớn, nhưng tôi chẳng lo
sợ, tôi nh́n bom nguyên tử nổ tung như coi
đốt pháo bông vậy. Đây
là quan niệm, cách nh́n, cách suy nghĩ của chúng ta
chẳng giống nhau.
Chúng ta xây dựng đạo tràng
tại Úc châu là v́ chúng sanh ở nơi đó, giúp đỡ
họ phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui, đó
là hành Bồ Tát đạo, được vậy th́ xây
dựng đạo tràng này mới có ư nghĩa. Chúng ta đến nơi ấy
chẳng phải là để tránh nạn, hưởng
phước, mà là để hoằng pháp lợi sanh, đây
là để báo ân Phật, báo ân cha mẹ, đây là nguyên
nhân xây dựng đạo tràng.
Có người hỏi tôi: ‘Thưa pháp sư,
đạo tràng của thầy ở đâu?’ Tôi nói: ‘Tôi chẳng có đạo
tràng, cả đời đều trụ tại
đạo tràng của người khác’. Cho nên chúng ta xem chân tướng
sự thật cho rơ ràng, cho minh bạch th́ sẽ tâm an, lư
đắc, sẽ chẳng có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước.
Ĺa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, trí huệ Bát Nhă của tự tánh sẽ
hiện tiền. Trí huệ
chẳng cần học tập, là trong tự tánh vốn
sẵn có đầy đủ, được vậy th́
bạn làm sao chẳng tự tại ?
e. Học giảng kinh
Việc quan
trọng nhất ở đạo tràng là giảng kinh
thuyết pháp, một ngày cũng chẳng thể
thiếu. Nếu chẳng có
pháp sư có thể giảng kinh thuyết pháp th́ ḿnh cần
phải phát tâm, cầu người chẳng bằng
cầu ḿnh. Giảng không hay
th́ làm sao? Cầu Phật,
Bồ Tát gia tŕ. Tôi
thường nói tôi chẳng biết giảng kinh, tôi hy
vọng Phật, Bồ Tát mượn thân thể của
tôi để giảng kinh, thân thể của tôi miễn
phí, cho Phật, Bồ Tát mượn không điều
kiện. Phải thật sự
phát tâm này, tuyệt chẳng v́ chính ḿnh, hết thảy
đều v́ chúng sanh, v́ Phật pháp.
Cho nên nhất
định phải đọc kinh, phải nghe Phật
pháp, tự ḿnh phải phát tâm học giảng kinh. Giống như cư sĩ
Triệu Lập Bổn ở Los Angeles, Mỹ quốc, nghe
tôi giảng kinh rất hoan hỷ nên phát tâm học giảng
kinh. Ông học hai bộ
‘Lục Tổ Đàn Kinh’ và ‘Kim Cang Kinh’. Ông hỏi tôi: ‘Cả đời
tôi chuyên nghe hai bộ kinh này được không?’. Tôi trả lời
‘Được’. Sau khi ông nghe hai
bộ kinh này hết hai mươi mấy lần xong nói
với tôi. Tôi nói: ‘Ông tiếp
tục nghe, nghe hết một trăm lần xong lại
nghe tiếp một trăm lần nữa’. Hiện nay ông giảng hai bộ
kinh này rất hay, c̣n đến khắp nơi ở Mỹ
để giảng, ông đă thành chuyên gia. Cho nên không cần phải học
phương pháp giảng kinh, thuộc ḷng rồi th́ sẽ
biến thành của ḿnh. Dùng
giảng kinh thuyết pháp để giúp đỡ
người khác, có niềm nhiệt thành này th́ tự nhiên
sẽ có Phật, Bồ Tát gia tŕ.
Có câu ‘Trụ sắt mài thành kim, chỉ cần công phu sâu’ [89],
chỉ cần có tâm chân chánh, thực sự chịu làm,
đâu có lư nào không thành công cho được! Thế nên đừng coi
thường chính ḿnh, chẳng có chuyện ǵ trong thiên
hạ không thể thành tựu được cả. Việc khó nhất trong thiên
hạ là việc làm Phật cũng có thể làm
được, ngoài chuyện này ra đều là chuyện
nhỏ, chẳng cần phải bận tâm, giảng kinh
không có khó ǵ cả. Chỉ
sợ là tự ḿnh không chịu làm mà thôi. Cho nên tự ḿnh làm thật
sự, chân chánh phát tâm th́ có thể thành tựu, có thể
tiếp tục huệ mạng của Phật, tự
lợi lợi tha.
3. Viện dưỡng lăo là công
tŕnh có hy vọng nhất (Buổi sáng 21-3-99
đến 25-3-99)
Hiện nay do
kỹ thuật khoa học y dược phát đạt,
thọ mạng của con người được kéo
dài; Phật nói đây là phước báo của họ đă
tu từ đời trước.
Người trường thọ nhiều, nhân
khẩu thêm nhiều người già, đây là vấn
đề nghiêm trọng trong xă hội hiện nay. Chính phủ của các quốc gia,
địa phương đều vô cùng quan tâm đến
việc này, cho nên xây dựng chung cư người già và
viện dưỡng lăo một cách phổ biến. Chúng tôi thấy những làng
hưu trí ở Úc châu đều là những chỗ đem
phước lợi cho người già.
Phật pháp rất
coi trọng việc ‘dưỡng lăo’, đây là thực
hiện Tịnh Nghiệp Tam Phước. Điều đầu tiên dạy
chúng ta ‘Hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng
giết hại, tu thập thiện nghiệp’. Thế nên lập viện
dưỡng lăo tức là thực hiện lời giáo
huấn của đức Phật một cách thực
tiễn. Giáo huấn này là
cơ sở cho toàn bộ Phật pháp, nếu chẳng
thực sự dụng công trên việc này, niệm Phật
cũng chẳng thể văng sanh, tu học bất cứ pháp
môn nào cũng chẳng đạt được kết
quả, cho nên dưỡng lăo là vấn đề trung tâm
của Phật pháp, quan trọng hơn bất cứ
việc ǵ khác.
Nhưng trong xă
hội có nhiều người cho rằng viện
dưỡng lăo là công tŕnh chẳng có hy vọng,
người già rồi th́ sẽ chết, chẳng bằng
lập cô nhi viện, lập trường học. Quan niệm này rất sai lầm,
có hy vọng hay không là ở tại con người,
chẳng ở tại sự việc. Chánh phủ Tân Gia Ba khuyến khích
các đoàn thể tôn giáo lập viện dưỡng lăo và
cô nhi viện, lo cho những người già và cô nhi
chẳng có người thân chăm sóc. Chúng tôi vô cùng quan tâm đến
việc này, chúng tôi thúc đẩy giáo dục tái sanh, giáo
dục đời sau, cho nên người già trở nên có hy
vọng, hơn nữa lại là hy vọng chân thật. Trong kinh Lăng Nghiêm đức
Phật nói rơ chân tướng của sanh tử, đó
chỉ là hiện tượng nhân quả chuyển biến
và tiếp nối mà thôi, sanh mạng là vĩnh hằng,
sắc thân của người phàm hiện thành và chuyển
biến theo nghiệp lực mà họ đă tạo. Cho nên người già trong sự
chuyển biến này sanh khởi niềm hy vọng lớn
nhất.
Năm 1983 tôi
đến một chung cư dành cho người già ở
Cựu Kim Sơn (San Francisco),
nơi ấy có hơn bốn trăm người già, ngoài
ra c̣n có xây thêm một nhà giữ trẻ, đây là do một
người Do Thái xây dựng, làm rất thành công. Từ đó tôi mới liên
tưởng đến đạo tràng Phật giáo ở
thế kỷ hai mươi mốt nhất định
sẽ có h́nh thức như vậy, gợi cho tôi ư
tưởng về Làng Di Đà, những người trụ
ở Làng Di Đà là những người về hưu. Những ǵ cần làm trong
đời họ đều đă làm xong, đến lúc
về hưu vẫn c̣n thời gian dư thừa, chúng ta
nên giúp cho họ làm một sự chuyển biến cho
đời sau, đây là công tŕnh rất có ư nghĩa.
Do đó chúng ta
phải dạy ‘Giáo Dục về Tôn Giáo’ cho họ, mỗi
ngày cho họ có cơ hội nghe kinh, giúp họ giác ngộ,
mỗi ngày hướng dẫn họ niệm Phật. Họ sẽ ư thức đến
sanh hoạt tu học lúc về già mới là sanh hoạt
hạnh phúc nhất trong cả đời của
họ. Người Trung
Quốc thường nói: ‘Lúc c̣n trẻ,
‘đồng [niên], thiếu niên’ phải vun bồi
phước, đặt nền móng cho phước
đức cả đời.
Lúc tráng niên phải phục vụ cho xă hội, cho nhân
dân, đây là tạo phước.
Lúc về già mới hưởng phước’. Thế nên hưởng
phước nhất định phải đợi
đến già, chúng ta phải thực hiện quan niệm
này. Con người lúc lớn
tuổi, từ từ suy yếu, nếu chẳng có
việc ǵ để làm th́ sẽ khởi vọng
tưởng, sẽ sanh phiền năo, cũng như
người ngoại quốc thường nói: ‘Tuổi già
là phần mộ của cuộc đời’, [câu này] khác
hẳn với cách suy nghĩ của người Trung
Quốc.
Cho nên ‘Giáo dục
tôn giáo’ vô cùng quan trọng, phải giải thích cho họ
biết về t́nh huống trong lục đạo luân
hồi, nói cho họ biết sự thù thắng trang nghiêm
của cơi nước chư Phật trong thập pháp
giới, giới thiệu lịch sử của tây
phương Cực Lạc thế giới, sự tu
học của A Di Đà Phật lúc c̣n tu nhân, sự thành
tựu trên quả địa (lúc thành
Phật), sự tán thán của chư Phật,
sự thù thắng của việc văng sanh. Làm cho họ tràn đầy hy
vọng, tràn đầy sức sống, giúp cho họ
thực sự thấy thấu suốt thế gian, buông
xuống hết thảy, được đại tự
tại. Chỉ cần họ
thoát khỏi lục đạo luân hồi, thoát ly thập
pháp giới, văng sanh đến tây phương Cực
Lạc thế giới th́ sẽ thành Phật. Đạo tràng của chúng ta chỉ
cần có một người niệm Phật văng sanh thành
Phật th́ tất cả đầu tư, kiến
thiết sẽ chẳng uổng phí, thế nên đây là
một công tŕnh có hy vọng nhất! Hy vọng ǵ trong thế gian
cũng chẳng thù thắng bằng hy vọng này.
Loại ‘Viện
dưỡng lăo’ này thành tựu cho đạo tràng hạng
nhất của chư Phật, Bồ Tát, và cũng là
đạo tràng tu học chủ yếu của thế kỷ
thứ hai mươi mốt. Chúng
ta làm trước tiên, và cũng giới thiệu quan
niệm, cách làm, thành quả của việc này cho các tôn giáo
khác. Chúng tôi hy vọng tất
cả tôn giáo đều có thể chủ động [làm
việc] dưỡng lăo này, đều có thể giúp
đỡ người già văng sanh thành Phật hoặc sanh
lên trời hưởng phước trời.
Kinh Đại Thừa
nói: ‘văng sanh bất thoái thành Phật’. Bất cứ người nào trên
thế giới này chỉ cần hiểu được lư
luận, phương pháp, tu học đúng như lư như
pháp th́ chẳng ai không thành tựu cả, cũng như
cổ đại đức đă nói: ‘Vạn
người tu, vạn người đỗ (văng sanh)’. Văng sanh thành Phật là việc khó
nhất mà chúng ta cũng làm nổi th́ sanh lên trời há
chẳng làm nổi ư!
Mỗi tôn giáo đều có Thiên Đường mà họ
hâm mộ và mong muốn được sanh đến, chúng
ta nên dốc toàn tâm toàn lực để giúp họ
đạt đến mục đích sanh lên trời này. Chúng ta chịu sanh lên Thiên
Đường và phải dẫn mọi người lên Thiên
Đường. Đồng tu
học Phật hy vọng văng sanh tây phương Cực
Lạc thế giới, chúng ta phải dẫn tất
cả đồng tu của chúng ta đến Cực
Lạc thế giới, đây là công đức to lớn,
vô cùng thù thắng trang nghiêm. Hy
vọng hết thảy chúng sanh nội trong đời này
ai cũng làm Phật, làm Bồ Tát.
Đời này chúng ta sanh đến thế gian mới có ư
nghĩa, có giá trị, chẳng uổng công.
Nhưng muốn
thực hiện chuyện này, muốn làm được
viên măn, thành công th́ phải thâm nhập kinh tạng. Tôi học Phật bốn
mươi bảy năm, giảng kinh bốn mươi
năm, thể hội về việc này vô cùng sâu
đậm. Người
xưa học Phật thành tựu nhiều, nguyên nhân chính là
họ chăm chỉ, chẳng xao lảng việc
đọc tụng, giảng giải, nghiên cứu, thảo
luận, cho nên xây dựng tín nguyện kiên cố, dùng tín
nguyện kiên định làm cơ sở th́ sẽ thành
tựu. Năm xưa khi
đức Thế Tôn c̣n tại thế đă làm
gương tốt nhất cho chúng ta -- mỗi ngày
đều giảng kinh thuyết pháp chưa từng gián
đoạn. Các bạn
đồng học từng giờ từng phút mỗi ngày
đều nghiên cứu thảo luận, làm bạn với
Phật, Bồ Tát, thời thời khắc khắc
đều chẳng xa ĺa, Ma sẽ chẳng thể
nhiễu loạn, đạo nghiệp sẽ
được thành tựu.
Ngày nay tại Tân
Gia Ba mỗi ngày chúng ta giảng kinh hai giờ đồng
hồ, như vậy vẫn chưa đủ. Nhưng chúng sanh hiện
đại chẳng có phước báo to lớn, họ
phải làm việc, phải lo
lắng cho gia đ́nh, mỗi ngày có thể đến nghe
giảng hai tiếng đồng hồ là quư lắm
rồi. Do đó chúng tôi
nghĩ lúc về già mới là giai đoạn tu học thích
hợp nhất, họ đă buông xuống công ăn
việc làm, con cháu đều trưởng thành, chẳng
phải lo lắng nữa. Lúc
bấy giờ có thể an tâm để tu đạo,
đây là thời gian tu đạo tốt nhất. Chúng ta nh́n rơ ràng, minh bạch
rồi th́ phải dốc toàn tâm toàn lực để giúp
đỡ họ, thành tựu cho họ.
Tôi yêu cầu cư
sĩ Lư Mộc Nguyên, những công nhân viên phục vụ
trong Làng Di Đà tương lai phải được huấn
luyện, phải nghe kinh mỗi ngày, phải niệm Phật
ở Niệm Phật Đường.
Chúng ta phải dùng tâm hiếu thuận cha mẹ
để phục vụ cho mỗi người già, dùng tâm
cung kính Phật, Bồ Tát để cung kính từng
người lớn tuổi, đây là chuyện mà những
viện dưỡng lăo khác chẳng có. Trong Làng Di Đà mỗi ngày có hai
giờ giảng kinh, hai mươi hai giờ niệm
Phật. Nhưng như
vậy chẳng có nghĩa là mỗi ngày phải nghe kinh
niệm Phật suốt hai mươi bốn giờ, mà là
muốn người chân chánh phát tâm đến Niệm
Phật Đường niệm Phật, niệm mệt th́
nghỉ ngơi, nghỉ xong bèn niệm tiếp. Trong Niệm Phật Đường,
Phật hiệu không gián đoạn suốt hai mươi
bốn giờ, ban đêm ngủ tỉnh dậy liền
đến Niệm Phật đường để
niệm Phật, cho nên trong Niệm Phật Đường
luôn luôn có người niệm Phật, chẳng cần
biết là có bao nhiêu người niệm. C̣n về những chương
tŕnh giải trí th́ cũng sẽ được an bài,
như những ca vũ dân tộc, biểu diễn, ca
kịch, mỗi tuần đều có một lần, để
cho họ có nhiều thời gian giải trí, có đời
sống b́nh tịnh, vui vẻ, giống như sống trong
một đại gia đ́nh ḥa thuận đầm ấm.
Xem những
truyện văng sanh các đời trước chúng ta thấy
nếu tu học đúng như lư như pháp th́ nhiều
người có thể thành tựu trong ṿng ba năm
đến năm năm; cũng có người tám năm,
mười năm mới thành công.
Do đó có thể biết sau khi về hưu đúng
là thời gian tốt để cho chúng ta dụng công
niệm Phật. Thế nên
viện dưỡng lăo tràn đầy hy vọng, tuyệt
đối không phải là công tŕnh chẳng có hy vọng,
trong lúc chẳng có hy vọng tôi nhất định
phải giúp họ có được tràn đầy hy
vọng. Hơn nữa tôi c̣n
phải giới thiệu quan niệm này đến hết
thảy các tôn giáo, chúng ta cùng chung nỗ lực giúp
đỡ hết thảy chúng sanh, đề cao phẩm
chất đời sống của họ, từ cơi người
nâng cao lên cơi trời, từ phàm phu nâng cao lên thánh nhân,
đây là việc chúng ta nên dốc hết tâm lực đi
làm. Chúng ta giúp đỡ
người khác nâng cao th́ tự ḿnh không hay không biết
cũng sẽ nâng lên cùng lúc.
Chúng ta giúp đỡ người ta làm Phật th́ chính
ḿnh sao lại chẳng làm Phật được! Chúng ta giúp đỡ người
ta lên trời th́ chúng ta làm sao không sanh lên trời
được!
Do đó mới
biết pháp thế gian và xuất thế gian đích
thật giống như Phật đă nói: ‘chẳng có pháp
nhất định’, hết thảy kiết - hung, họa
- phước, thiện - ác, lợi - hại đều
ở tại một niệm mà thôi.
Nếu có thể chuyển một niệm này trở
lại, chuyển ác thành thiện, chuyển không hy vọng
thành tràn đầy hy vọng, chuyển người thành
trời, chuyển phàm thành thánh đều ở tại
một niệm.
Những ǵ
đức Phật giáo huấn chúng ta đều lưu
xuất từ trong tự tánh, đây là trí huệ
đức năng vốn sẵn có trong tự tánh của
chúng ta, mà tánh đức nhất định phải
biến thành hiện thực, bước đầu tiên
của việc thành hiện thực này chính là dưỡng
lăo. Mỗi người chúng ta
đều sẽ già, chúng ta tôn kính người già, chăm
sóc người già, đến lúc ḿnh già th́ người
trẻ tuổi sẽ tôn kính, chăm sóc cho ḿnh. Nếu chúng ta không tôn kính
người già, đến lúc ḿnh già đi th́ sẽ
chẳng có người tôn kính ḿnh, đây là nhân quả báo
ứng. Trong kinh Phật nói
công đức chăm sóc cha mẹ ḿnh bằng như cúng
dường Phật. Phật
thường nói trong nhà của bạn có hai vị Phật
sống, đó chính là cha mẹ của bạn. Chẳng hiếu dưỡng cha
mẹ mà đi cúng dường Phật, Phật sẽ
chẳng chấp nhận, cho nên nhất định
phải bắt đầu từ ‘hiếu thân tôn sư’.
Ngày nay công tác
của chúng ta tại Tân Gia Ba thứ nhất là phải xây
Làng dưỡng lăo Di Đà, thứ nh́ là bồi huấn pháp
sư trẻ tuổi, thứ ba là liên kết với các
tộc đoàn tôn giáo cùng chung tôn trọng, hỗ
tương kính ái, hỗ tương hợp tác, cộng
tồn cộng vinh. Để
chúng ta cùng chung sáng tạo một xă hội mỹ măn,
phồn vinh, an định, sáng tạo ḥa b́nh thế
giới thật sự, nhất quyết chẳng thể có
tâm riêng tư. Tự tư
tự lợi là mê hoặc điên đảo, giữ [tâm
niệm] tự tư chính là bảo đảm cho ḿnh
lọt vào tam ác đạo vĩnh viễn chẳng có ngày xuất
ly, thế nên người chân chánh giác ngộ nhất
định sẽ niệm niệm v́ chúng sanh, buông bỏ
lợi ích riêng tư của ḿnh, như vậy mới có
thể siêu việt lục đạo luân hồi, siêu
việt thập pháp giới.
Kinh Phật
thường nói: ‘Tâm bao trùm hư không,
lượng gồm thâu các cơi nhiều như cát’,
chúng ta phải biến câu này thành hiện thực. Trong thế gian có một số
người làm ác, làm thế nào mới có thể biến
người ác thành người tốt, biến
người tà tri tà kiến thành người có chánh tri chánh
kiến, biến người tạo tội nghiệp thành
người tu phước th́ bạn sẽ thành công. Chúng ta dùng chân thành, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chánh giác, từ bi để đối
đăi với mọi người, [dù họ] có ác cách
mấy cũng sẽ bị cảm hóa, nếu họ
chẳng thể cảm hóa là v́ ḿnh làm chưa đủ,
phải phản tỉnh và sửa đổi, đây là trong
chân thành vẫn c̣n tự tư [tự lợi]. Trên sự tướng th́ nh́n
thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên là
được rồi.
‘Hằng thuận chúng sanh, Tùy hỷ công đức’,
triệt để buông xuống tâm niệm muốn
khống chế, chiếm hữu hết thảy người,
sự, vật. Buông xả
thành kiến của ḿnh, việc này rất quan trọng;
[cứ nghĩ] ḿnh phải làm như thế nào là sai
lầm.
Ḿnh có rất
nhiều khuyết điểm nhưng chẳng biết,
người khác nh́n thấy và nói ra lỗi lầm của
ḿnh th́ ḿnh phải hết ḷng kiểm thảo, lập
tức sửa đổi, sửa sai tức là tiến
bộ. Người khác
chỉ giúp chúng ta nâng cao hướng thượng, chúng ta
vô cùng cảm kích, đó là ân nhân, cả đời chúng ta
đều sống trong sự ‘cảm ân’. Chúng ta dốc hết ḷng, hết
sức giúp đỡ xă hội, làm lợi ích cho chúng sanh,
người khác làm như thế nào không cần phải
để ư đến, tâm phải vĩnh viễn giữ
ǵn thanh tịnh, công đức này mới viên măn. Chúng ta thấy rất nhiều
người làm việc tốt, làm xong vẫn c̣n lo
lắng, c̣n vướng bận, như vậy tâm sẽ
chẳng thanh tịnh, chỉ làm để được
những thiện quả hữu lậu trong tam giới,
quả báo tại nhân thiên.
Phước đức thanh tịnh th́ quả báo
tại Cực Lạc thế giới, ở Nhất Chân
pháp giới, tuyệt đối sẽ chẳng giống
nhau.
Các bạn đồng tu học
Phật, người xuất gia phải làm gương
tốt cho người xuất gia, người tại gia
học Phật phải làm gương tốt cho người
tại gia, đạo tràng phải làm gương tốt
cho đạo tràng, chúng ta xây dựng viện dưỡng
lăo là gương tốt cho hết thảy viện dưỡng
lăo, [được vậy] th́ chúng ta sẽ thành công. Đó đích thật là công tŕnh thù
thắng nhất, có hy vọng nhất trong thế gian, chúng
ta gặp được duyên th́ phải nắm chắc
cơ hội, hết ḷng nỗ lực làm, chẳng thể
bỏ uổng cơ hội.
Nguyện chư vị đồng tu cùng nhau khích
lệ!
4. Nguyện lực và dục
vọng (Buổi sáng 10-4-99)
a. Nguyện lực và dục vọng
Nguyện lực và
dục vọng khác nhau ở chỗ nào? Nhà Phật nói đến ‘phát
nguyện’, người thế gian nói: ‘tâm nguyện’, tâm
nguyện là dục vọng, phát nguyện chẳng phải,
nhưng phần đông người ta rất khó phân
biệt được.
Nếu bạn có thể hiểu đạo lư ở
trong ấy th́ cũng chẳng khó phân biệt. Dùng kinh Kim Cang làm thí dụ, nhà
Phật thường nói đến ‘Tứ hoằng thệ
nguyện’, nếu tách ĺa tứ tướng, ĺa tứ
kiến để phát nguyện, như vậy mới là
thực sự phát nguyện; trái ngược với
nguyện tức là dục vọng, đây là một cách phân
biệt. Ngoài ra hết
thảy tùy duyên là phát nguyện, phan duyên là dục vọng;
v́ ḿnh là dục vọng, v́ hết thảy chúng sanh là phát
nguyện.
Kinh Kim Cang dạy: ‘Nếu Bồ Tát có tướng Ta, tướng
Người, tướng Chúng sanh, tướng Thọ
giả, tức không phải là Bồ Tát’,
nếu có bốn tướng này th́ chẳng là Bồ Tát,
vẫn là phàm phu. Phàm phu có
dục vọng cho nên có Dục giới; phàm phu có phân
biệt, chấp trước cho nên có Sắc giới và Vô
Sắc giới; Sắc giới chấp trước
Hữu, Vô Sắc giới chấp trước Không. Hai bên Hữu và Không đều
chẳng chấp trước th́ mới có thể siêu
việt Tam giới. Niệm
niệm lấy ḿnh làm bổn vị, niệm niệm
đều nghĩ đến Ta, phát hết thảy
nguyện cũng biến thành tham dục của chính ḿnh.
b. Xây đạo tràng
Chúng ta b́nh tĩnh
quan sát, tư duy kỹ càng, trong kinh điển đức
Phật Thích Ca Mâu Ni và các đại đệ tử
chưa từng xây chùa, xây dựng đại đạo
tràng. Đạo tràng ở
đâu? Cư sĩ Duy Ma nói
rất hay: ‘Tâm thanh tịnh chính
là đạo tràng, tâm từ bi là đạo tràng, chẳng
có h́nh thức’.
Những đạo tràng có h́nh thức đều do
đế vương đại thần, tín đồ cúng
dường.
Liên Tŕ đại
sư của Tịnh Độ Tông, đạo tràng của ngài
được h́nh thành như thế nào? Tùy duyên thành tựu, chẳng có
một tơ hào phan duyên ǵ cả.
Ngài đến núi Vân Thê, thấy nơi ấy phong
cảnh rất đẹp nên tự ḿnh dựng một túp
lều tranh trụ nơi đó tu hành. Sau này có người thấy ngài
là một người có đạo đức nên muốn
thân cận học hỏi, cũng dựng thêm lều tranh
ở kế bên. Sau đó
nhiều người có địa vị, có tài phú biết
đến và phát tâm xây đạo tràng cho họ. Liên Tŕ đại sư chẳng
hóa duyên, đạo tràng ở nơi đó đều
tự nhiên thành tựu.
Nếu tự ḿnh đi quyên góp th́ đó là dục
vọng, chẳng phải nguyện lực. Cho nên dục vọng chẳng
độ chúng sanh được, tương lai chính ḿnh
phải đọa vào tam ác đạo. Kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù
Thắng Chí Nhạo giảng rất rơ ràng. Người cả đời
chẳng xây đạo tràng có thể văng sanh làm Phật,
Bồ Tát, quả báo này không giống nhau.
Tông chỉ cứu
cánh chân thật của Phật pháp là ‘Tự giác, giác tha’,
muôn vàn xin chớ làm chuyện ‘Tự mê, mê người ta’,
tự mê và mê người ta th́ chẳng thể nào không
đọa địa ngục cho được. Sanh hoạt của người
xuất gia, ‘quần áo, đồ ăn, chỗ ở, hành
động (y - thực - trụ - hạnh) hết thảy
đều tùy duyên. Chúng
xuất gia đối với chúng xuất gia cũng là
bố thí cúng dường.
Họ xuống bếp nấu cơm cúng dường,
chúng ta dùng tâm lư ‘tŕ bát khất thực’ để tiếp
nhận, họ cúng dường cái ǵ th́ ăn cái nấy,
chẳng có phân biệt. Chúng ta
dùng tâm niệm và thái độ này để sống qua
ngày, đó gọi là tu hành. Tâm
phải thanh tịnh, bất cứ lúc nào, bất cứ
ở đâu cũng đều bảo tŕ tâm thanh
tịnh. Bàng cư sĩ
thị hiện ‘Nhiều chuyện
không bằng ít chuyện, ít chuyện chẳng bằng không
có chuyện’.
Kiếp nạn
thật sự đang ở trước mắt, tự ḿnh
nhất định phải hết ḷng nỗ lực, buông
xuống vạn duyên, thành tựu đức hạnh của
ḿnh, thành tựu trí huệ chân thực của ḿnh, trong
đời này, thực sự có thể làm được
tự độ, độ người. Duyên tự độ đầy
đủ rồi, độ người th́ phải tùy
duyên, tuyệt đối chẳng phan duyên. Hiện nay trong xă hội cũng
có việc gọi là ‘sáng tạo điều kiện, sáng
tạo cơ hội’; Phật, Bồ Tát cũng sẽ sáng
tạo điều kiện, sáng tạo cơ hội,
nhưng sáng tạo điều kiện cũng phải trong
lúc đầy đủ điều kiện th́ mới sáng
tạo được; sáng tạo cơ duyên th́ cũng
phải có cơ duyên hảo hợp; nếu chẳng có
điều kiện, cơ hội th́ không thể nào sáng
tạo được. Trong
Phật pháp gọi là ‘thiện xảo phương
tiện’, cách nói này rơ hơn cách nói của người trong
thế gian, nói chân thật viên măn hơn.
Là Phật tử chân chánh th́
phải học theo đức Phật, đức Phật
là gương mẫu tốt nhất cho chúng ta, học theo
Phật chắc chắn sẽ không sai. Đức Phật thị hiện cho
chúng ta một tấm gương tốt nhất, mỗi
ngày ăn no mặc ấm, có một chỗ nho nhỏ có
thể che nắng che mưa, như vậy là đủ
rồi! Đức Phật
chẳng có ư muốn xây đạo tràng, cả đời
đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho chúng sanh,
giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, chỉ làm công việc này. Từ những chỗ này chúng ta
phải thể hội một cách sâu sắc.
c. Thượng trí và hạ ngu
Trong Phật pháp
bất luận tu học môn phái nào, có hai hạng
người có thể thành tựu dễ dàng: một là
thượng căn lợi trí, hai là hạ ngu. Có câu nói rất hay: ‘Ngu không thể bằng được’ [90], chúng ta chẳng bằng những
người hạ ngu. Tại
sao hai hạng người này dễ thành tựu? Hai hạng người này
dụng công chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng
gián đoạn, cho nên họ có thể thành tựu. Người căn tánh trung
đẳng nghi hoặc, xen tạp, và c̣n gián đoạn nửa
chừng, thế nên bất luận tu học pháp môn nào
đều chẳng dễ thành tựu, đạo lư là
như vậy. Thế nên
Phật mới dạy chúng ta ‘Một môn
thâm nhập, huân tu trong thời gian dài’,
như vậy mới có thể giảm bớt nghi hoặc,
xen tạp. Khi học nhiều
rồi, thấy đức Phật trong kinh này nói ‘Hữu’
(Có), trong kinh kia lại nói ‘Không’, [nên sẽ tự hỏi]
rốt cuộc là Hữu hay Không?
Bạn sẽ hoài nghi đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
ngay cả Phật cũng chẳng tin tưởng nữa.
Phải biết đức
Phật chẳng có pháp ǵ để nói, Phật thuyết
pháp là v́ phá chấp trước.
Người ấy chấp trước Hữu nên
Phật mới giảng Không, phá cái chấp trước
Hữu của họ. Nếu
người đó chấp trước Không, Phật bèn giảng
Hữu để phá cái chấp trước Không của
họ. Chính v́ chúng sanh có
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nên
Phật mới có pháp để nói.
Nếu chúng sanh chẳng có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, đại đức Tông Môn
thường nói: ‘Treo miệng trên
tường’, sẽ chẳng c̣n ǵ để
nói hết. Chúng ta đọc
kinh luận nhiều rồi th́ nhất định sẽ
sanh nghi hoặc, nghi hoặc là chướng ngại lớn
nhất của Bồ Tát.
Bởi vậy nên chẳng bằng hạng hạ ngu,
chẳng bằng những cụ già, cái ǵ họ cũng
chẳng nghĩ tưởng, cái ǵ cũng chẳng
biết, cũng không nghe kinh, một câu Phật hiệu
niệm đến cùng, có thể đứng văng sanh,
ngồi văng sanh, lúc ra đi hiện tướng lành hy
hữu, đây là những người chúng ta chẳng sánh
bằng. Nếu có nghi hoặc
th́ nhất định phải giải trừ, nếu không
th́ sẽ thành chướng ngại. Người thượng trí nghe
một hiểu ngàn, vừa tiếp xúc liền thông
đạt, liền hiểu rơ, một tí nghi hoặc ǵ
cũng chẳng có, cho nên rất dễ thành tựu.
d. Kết luận
Chúng ta phải
hiểu rơ sự khác biệt giữa nguyện lực và
dục vọng một cách rơ ràng, lọt vào dục vọng
tức là tạo nghiệp tam ác đạo, đó là tâm luân hồi,
tạo nghiệp luân hồi.
Nên biết dùng tâm luân hồi để tu học
Phật pháp th́ cũng là nghiệp luân hồi, dùng tâm luân
hồi để niệm A Di Đà Phật cũng vẫn
tạo nghiệp luân hồi.
Trong phần chót của cuốn ‘Đại Thế Chí
Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao’,
Quán Đảnh pháp sư nói người niệm Phật có
một trăm thứ quả báo, thứ nhất là
đọa địa ngục A Tỳ. Tại sao niệm A Di Đà Phật
lại c̣n đọa địa ngục A Tỳ? Tức là tâm luân hồi, mê
hoặc điên đảo, họ chẳng phải phát
nguyện, chỉ v́ muốn thỏa măn dục vọng
của họ, tạo tác vô lượng vô biên tội
nghiệp, thiệt rất đáng sợ! Nếu người khác tạo,
chúng ta cũng chẳng cần phải nói, nói ra th́ sẽ
kết oán thù với người, họ cũng chẳng
tiếp nhận, quan trọng là tự ḿnh phải hiểu
rơ ràng, minh bạch, tự ḿnh tuyệt đối
đừng tạo, phải hết ḷng trọn ư, an
phận, tu hành đàng hoàng, niệm niệm đều
phải tương ứng với Giới Định Huệ.
Chúng ta giảm tiêu chuẩn sinh
hoạt tới mức thấp nhất, niệm niệm
đều tương ứng với ngũ giới,
thập thiện th́ tốt lắm rồi, chân chánh giữ
ngũ giới, thập thiện đến cứu cánh viên
măn th́ có thể thành Phật, sự tŕ giới của
bạn sẽ được viên măn, tâm địa chân
thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chắc thật niệm
Phật, đời này chắc chắn sẽ thành
tựu. Giới thiệu pháp
môn mà ḿnh thành tựu cho chúng sanh có duyên, đây tức là
tự hành hóa tha. Ngoài những
chuyện này ra th́ buông xuống hết thảy, đừng
tiếp tục khởi vọng tưởng nữa. Đừng nghĩ ḿnh phải xây
một đạo tràng to lớn, phải tiếp dẫn
rất nhiều chúng sanh; chúng sanh th́ cũng sẽ tiếp
dẫn, nhưng chẳng biết là tiếp dẫn
đến nơi nào? Chư
vị phải b́nh tĩnh tư duy, quan sát th́ mới
hiểu được chân tướng sự thật.
5. Nói về xây dựng đạo
tràng (Buổi
sáng 13-4-99)
a. Xây đạo tràng
Một vị
đồng tu ở Tần Hoàng Đảo hy vọng xây
dựng một tự viện Tịnh Tông ở địa
phương đó. Sự tu học
và hoằng dương Phật pháp ở thời
đại này, công năng của tự viện dần
dần giảm bớt, có hiệu quả lớn nhất là
lợi dụng kỹ thuật truyền bá thông tin tân
tiến. Năm xưa lúc
đức Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n tại thế chẳng
có xây dựng tự viện đạo tràng, phương
thức sanh hoạt của Ngài là du hóa nhân gian, chẳng
ở một nơi nhất định, đây là việc
mà ngày nay chúng ta gọi là ‘cơ hội giáo dục’,
hiệu quả rất cao, rất đáng để chúng ta
suy tư.
Kinh điển ghi
chép những đệ tử thường tùy chúng của
đức Phật gồm có một ngàn hai trăm năm
mươi người, họ đi theo đức Phật
trong thời gian ngắn cũng có tám đến
mười năm, thời gian dài là đi theo cả
đời. Họ chính là
người kế thừa Phật pháp, nhân tài hoằng pháp
được bồi huấn như vậy. Có đạo tràng th́ sẽ có
rất nhiều chuyện lắt nhắt trong thế
tục, những chuyện này sẽ làm loạn tâm thanh
tịnh. Có thể giữ ǵn
tâm thanh tịnh mà chẳng bị xen tạp trong khi quản
lư người, sự, vật là một việc hầu
như không thể nào làm được. Thế Tôn làm ra khuôn mẫu cho
chúng ta xem, tốt nhất là không có đạo tràng, không có đạo
tràng mà đi t́m đạo tràng là tự ḿnh đi t́m
rắc rối.
Sự hành tŕ của Phật,
Bồ Tát và Tổ sư đại đức là tấm
gương tốt nhất cho chúng ta. Trong bốn mươi mấy
năm kinh nghiệm của tôi cũng cảm nhận
được, những vị cùng chung xuất gia với
tôi chẳng ít, người giảng kinh thuyết pháp
chỉ có một ḿnh tôi.
Tuyệt đối chẳng phải tài trí của tôi
vượt trội người khác, nguyên nhân là v́ họ có
đạo tràng, phải quản lư người, quản lư
sự, quản lư tiền bạc, lao tâm mệt óc,
đối với việc hoằng pháp lợi sanh, tự
hành hóa tha sanh ra chướng ngại. Lợi điểm của tôi chính
là chẳng quản lư người, chẳng quản lư
sự việc, chẳng quản lư tiền bạc,
chẳng có đạo tràng, cả đời đều
ở nhờ tại đạo tràng của người
khác, chỉ làm khách chứ không làm chủ. Làm chủ rất mệt, làm khách
rất tự tại.
Giống như chúng ta ở khách sạn, chủ khách
sạn là ông chủ, họ chẳng tự tại, khách
trọ ở khách sạn rất tự tại. Chúng ta nên có một thái độ:
đến thế gian này chỉ là để làm khách,
chẳng mong lập nhà, chẳng mong ‘cắm dùi’ ở
nơi đây, được vậy th́ bạn sẽ được
tự tại. Thế nên
cả đời chúng ta học Phật, tùy duyên chứ
không phan duyên.
b. Quay lại là bến bờ
Xây dựng quan
niệm, sanh khởi ḷng tin nhất định phải có
nhận thức và lư giải tương đương
đối với giáo lư, cho nên đọc kinh nghe pháp
rất quan trọng. Ngạn
ngữ có nói: ‘Ba ngày không
đọc sách, mặt mày dễ ghét’,
câu này là nói người đọc sách thời xưa, ba
ngày không đọc sách thánh hiền, th́ phiền năo tập
khí liền khởi lên. Học
Phật cũng vậy, nếu mấy ngày không đọc
kinh, không nghe kinh th́ phiền năo tập khí cũng sẽ
khơi dậy, tùy thuận phiền năo tập khí th́
chắc chắn sẽ đọa lạc. Phiền năo tập khí chính là tâm
luân hồi, phiền năo tập khí làm chủ cho nên hết
thảy tư tưởng kiến giải, ngôn ngữ hành
vi đều tạo nghiệp luân hồi, quả báo
tương lai chắc chắn sẽ ở trong lục
đạo luân hồi. Từ
vô thỉ kiếp đến nay chúng ta chưa từng giác
ngộ qua.
Tâm thiện,
hạnh thiện th́ tương lai sẽ sanh lên trời,
cơi trời có hai mươi tám tầng cũng chẳng thoát
ra khỏi lục đạo luân hồi. Thọ mạng trên trời dài
hơn nhân gian, đợi đến lúc thọ mạng
chấm dứt, những chủng tử tập khí ác
ẩn chứa trong A Lại Da Thức sẽ làm cho bạn
đọa lạc. Cho nên
sẽ chẳng siêu việt lục đạo luân hồi,
tu học như vậy trong Phật pháp chẳng kể là
có thành tựu. Thành tựu
thấp nhất trong Phật pháp là siêu việt lục
đạo luân hồi, đây là Tiểu Quả Thanh Văn,
thuộc về thành tựu nhỏ.
Thoát ly thập pháp giới mới kể là thành
tựu lớn. Chúng ta là phàm
phu, tội nghiệp sâu nặng, trong đời này có
thể đạt được thành tựu lớn hay
không? Câu trả lời
chắc chắn là được.
Tội nặng hơn cũng không sợ, chỉ
cần có thể giác ngộ, có thể quay trở lại,
đúng như câu ‘quay đầu là bến bờ’. Trong kinh Phật nói tội Ngũ
nghịch Thập ác quay trở lại cũng có thể
thành tựu. Ngũ nghịch
là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân
Phật ra máu, phá ḥa hợp Tăng, tạo những tội
nặng như vậy nếu [sám hối] quay đầu
lại cũng có thể đạt được thành
tựu thù thắng ngay trong đời này.
Có rất nhiều
đồng tu nghi hoặc, tạo tội nặng như
vậy làm sao có thể thành tựu cho được? Tạo tội nghiệp là mê hoặc
nhất thời, sau khi giác ngộ th́ tội này sẽ tiêu
mất. Trong kinh Phật ví
tội nghiệp như bóng tối, giác ngộ ví như ánh
sáng, ‘pḥng tối ngàn năm’ là thí dụ gian pḥng tối
tăm suốt một ngàn năm chẳng có ánh sáng, đây
là tạo tội nghiệp rất lâu dài, rất sâu,
nhưng khi thắp một ngọn đèn lên th́ bóng tối
liền tiêu mất. Phật
pháp quư ở trí huệ, giác ngộ, đừng nên
thường nghĩ ḿnh tạo tội nghiệp, v́ mỗi
lần suy nghĩ th́ cũng như tạo tội thêm
một lần. Phật
dạy chúng ta phải chuyển đổi tâm niệm
trở lại, hăy nghĩ đến Phật, đến
Bồ Tát, đây là một chuyển biến to lớn,
như vậy mới là quay về.
Từ đâu quay lại? Từ mê quay trở lại,
nghĩ về giác ngộ.
Chư Phật, Bồ Tát là người giác ngộ
rốt ráo viên măn, chúng ta thường nghĩ đến
Phật, thường học theo Phật mới
đúng. Thường nghĩ
về ḿnh là sai lầm, thường nghĩ đến
hết thảy chúng sanh là giác ngộ. Các bạn phải b́nh tĩnh suy
tư, quan sát, để hiểu rơ đạo lư sự
thật này, hiểu rơ th́ sẽ yên tâm, mạnh dạn
đi làm. Chẳng v́ ḿnh,
chỉ v́ xă hội, v́ chúng sanh, chắc chắn sẽ có
lợi ích. Mong muốn ḿnh giàu
thêm th́ phải bận tâm, trên phương diện sanh
hoạt, chuyện ǵ cũng phải tự lo lắng, lo cho
ḿnh. Nếu chúng ta niệm
niệm luôn nghĩ đến xă hội, v́ chúng sanh, hết
thảy sẽ có người chiếu cố, chăm sóc,
một tí ǵ cũng chẳng cần bận tâm, vậy th́
tự tại biết mấy!
‘Tôi v́ người ta, người ta v́ tôi’ là chuyện
đương nhiên, đạo lư chân thật. Người thế gian
thường nói đến ‘chân lư’, đây chính là chân lư. Học Phật
chẳng qua chỉ là làm một sự chuyển biến mà
thôi, ‘Chuyển ác thành
thiện’, ‘Chuyển mê thành ngộ’, ‘Chuyển phàm thành
thánh’.
c. Trí huệ
Có năng lực phân biệt tà
chánh, thị phi, thiện ác, lợi hại là trí
huệ. Thông minh trong thế
gian là ‘thế trí biện thông’, chẳng có khả năng
phân biệt những thứ này.
Người Trung Quốc có trí huệ,. Khoa học kỹ thuật phát minh
sớm nhất là ở Trung Quốc, thời đại
Vương Măng, người Trung Quốc đă nghĩ
muốn học phi hành. Gia Cát
Lượng phát minh Trâu Gỗ Ngựa Máy, tàu chuyên chở
cơ giới hóa. Tại sao
người Trung Quốc chẳng tiếp tục phát
triển? V́ họ có trí
huệ, biết được sự phát triển khoa
học kỹ thuật sẽ đem lại ảnh
hưởng phụ cho con người, nếu muốn
thế giới b́nh trị lâu dài, không thể chú trọng trên
sự phát triển khoa học kỹ thuật. Người tây phương
chẳng có cái nh́n xa này, lao đầu vào sự phát
triển khoa học kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên
của địa cầu cơ hồ đều kiệt
tận mau chóng. Dùng hết th́
thế giới hủy diệt, phát triển khoa học
kỹ thuật đến cuối cùng là cả thế
giới phải cùng nhau diệt vong. Cho nên người chân chánh có trí
huệ sẽ chẳng làm những chuyện này.
d. Khôi phục bản năng
Thế Tôn, chư
Phật, Bồ Tát có trí huệ cứu cánh viên măn, các Ngài
biết về sự phát minh của người hiện
đại c̣n rơ hơn chúng ta, trong kinh Phật cũng có lư
luận tri thức khoa học kỹ thuật. Phật pháp chẳng phát triển
từ phương diện cơ giới bên ngoài, mà phát
triển từ thiền định nội tâm. Hiện nay khoa học kỹ
thuật c̣n chưa làm được việc phân thân, chúng
ta từ đây muốn đi Mỹ phải ngồi máy bay,
c̣n người có công phu thiền định thâm sâu có
thể phân thân. Đây chẳng
phải là lời thần thoại, đều là sự
thật, chúng ta có thể thấy được trong kinh
điển, chuyện ngắn, bút kư của người
đời xưa càng ghi nhiều nữa. Trong ‘Tây Du Kư’, Tôn Ngộ Không
bảy mươi hai phép biến chỉ là tiểu thần
thông, chẳng đáng nói.
Chuyện này có thể xảy ra không? Có thể lắm, v́ đây là
bản năng, đây là ‘Thần túc thông’, là một trong sáu
thứ thần thông thường nói đến trong
Phật pháp. Sáu thứ
thần thông đều là bản năng của chúng ta,
tại sao bản năng lại mất hết? V́ có ba chướng ngại to
lớn: vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, che lấp mất trí huệ đức
năng. Khi bản năng
hiện tiền th́ mới được đại
tự tại.
Phật dạy chúng ta khôi
phục bản năng, mắt chúng ta có thể thấy
chẳng bị chướng ngại, tận hư không,
trọn khắp pháp giới đều có thể nh́n
thấy rơ ràng, minh bạch.
Những ǵ nói trong kinh chúng ta đều xem như
thần thoại, đều coi như khả năng
của chư Phật, Bồ Tát, chẳng phải của
chính ḿnh, cho nên chúng ta tu hành chẳng thể nhập vào
cảnh giới của Phật.
Tôi thường khuyên các bạn đồng tu,
từng ly từng tí nói trong kinh đều là chuyện
của chính bản thân chúng ta, đều là trí huệ
đức năng vốn sẵn có trong tự tánh của
chúng ta. Khả năng của
Phật hiện tiền, khả năng của chúng ta
chẳng thể hiện tiền, như vậy là có
chướng ngại, dẹp chướng ngại th́
khả năng của chúng ta sẽ khôi phục trở
lại. Phật hy vọng
mỗi người đều khôi phục đức
năng vốn sẵn có trong tự tánh, không gian sinh
hoạt sẽ mở rộng đến tận hư không,
trọn khắp pháp giới, đâu phải chỉ là
phạm vi nhỏ nhoi này đâu!
e. Tầm quan trọng của việc
nghe kinh
Cho nên không thể
không đọc kinh, không nghe giảng. Phải nghe cho nhiều, cho
thường xuyên, đừng gián đoạn, nghe suốt
ba năm, năm năm th́ bạn sẽ giác ngộ,
hiểu rơ, nhà Phật thường gọi là ‘khai
ngộ’. Nếu có nghi hoặc
th́ tồn nghi, không cần hỏi, cứ tiếp tục
nghe kinh không ngừng, sẽ có một ngày nghe đến lúc
nghi hoặc đều mất hết, đó gọi là có
chỗ ngộ. Thế nên
tiểu nghi có tiểu ngộ, đại nghi có đại
ngộ, nghi hoặc không cần phải đi hỏi
người khác liền, dù người ta giải thích cho
bạn th́ bạn cũng chẳng khai ngộ; không những
chẳng khai ngộ mà lại c̣n gây thêm chướng
ngại cho sự khai ngộ, chắn ngang cánh cửa khai
ngộ. Nếu tự ḿnh
hiểu rơ, tự ḿnh giác ngộ th́ đó là của ḿnh;
những ǵ người khác nói, nghe xong h́nh như đă
hiểu nhưng không rơ, chớp mắt liền mê
hoặc. Đây là thái độ
cầu học, chúng ta phải hiểu rơ.
Vài năm gần đây, tôi
đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc nghe kinh, v́ có rất nhiều bạn
đồng học tu tập lâu năm vẫn bị thoái
chuyển, công phu không đắc lực, nguyên nhân là v́ không
hiểu thấu triệt, vọng tưởng quá nhiều,
cho nên chẳng thể xây dựng ḷng tin, tâm nguyện. Muốn giải quyết vấn
đề này th́ phương pháp duy nhất là phải nghe
kinh. Tôi nghĩ đến
tại sao đức Phật Thích Ca Mâu Ni mỗi ngày
đều giảng kinh trong suốt bốn mươi chín
năm, đạo lư là như vậy. Thế Tôn dặn ḍ cặn kẽ,
phó chúc kỹ càng muốn chúng ta phải ‘thọ tŕ, đọc tụng, v́ người
diễn nói’. Y
giáo phụng hành là thọ tŕ, thọ tŕ vẫn phải
đọc tụng hằng ngày, nếu không đọc
tụng hằng ngày, không nghe kinh hằng ngày, th́ thọ tŕ
sẽ thoái chuyển. V́
người diễn nói là ‘hóa tha’; diễn là biểu
diễn, làm ra khuôn mẫu cho người ta coi; nói là
giải thích cho người ta, toàn thân thuyết pháp, đó
thực sự là đem lại lợi ích cho chúng sanh. Nếu chỉ biết nói,
chẳng biết làm th́ cũng không được; phải
tự ḿnh làm được, th́ mới có thọ dụng
thật sự.
f. Xây túp lều tranh
Nếu muốn xây
dựng đạo tràng tôi đề nghị xây những
túp lều tranh nhỏ, đừng xây tự viện, hao
tiền hao sức. Bạn ra
ngoài quyên góp là phải chịu trách nhiệm nhân quả. Nhà Phật nói rất hay:
‘Một
hạt gạo của thí chủ
To như
núi Tu Di
Đời này
không chứng đạo
Mang lông
đội sừng trả’ [91]
Nếu bạn không thể thành
tựu, tương lai phải trả nợ. Ngày nay bạn quyên góp
được rất nhiều, tương lai trả
nợ rất khổ nhọc, phải biết đạo
lư ‘không mắc nợ cả người
khỏe re’, thế nên tuyệt đối
đừng mắc nợ.
Hết thảy đều phải thành tựu một
cách tự nhiên, đừng nên có một tơ hào miễn
cưỡng, như vậy mới tốt.
6.
Ba
thứ chân thật (Buổi sáng 15-4-99)
Phật pháp là trí
huệ chân thật, kinh Vô Lượng Thọ giảng
đến ba thứ chân thật, đây là trung tâm của
toàn bộ sự tu học Phật pháp.
Thứ nhất ‘Khai mở hiển thị chân thật Tế’ [92],
câu này giải thích rơ Phật giáo là ǵ. Khai là khai đạo - dạy
dỗ, nhà Phật nói là ‘khai thị’, cũng tức là
giảng giải, thuyết minh.
Giảng rơ ràng, nói rơ ràng, th́ tư tưởng quan
niệm của thính chúng sẽ thay đổi, đó là thành
quả của sự giáo học, dạy dỗ. Giảng những ǵ? Trong tâm của thính chúng biến
đổi những ǵ? ‘Chân thật chi tế’. Chân thật chi tế nói theo cách
bây giờ là ‘chân lư’, cũng tức là ‘chân tướng
của vũ trụ nhân sanh’, đây là giáo học của
Phật giáo, mục tiêu chung của sự tu học.
Hoàn toàn hiểu rơ
chân tướng của vũ trụ nhân sanh th́ xưng là
‘Phật’; tuy hiểu rơ nhưng chưa được viên
măn th́ xưng là ‘Bồ Tát’. Do
đó có thể biết Phật, Bồ Tát chẳng phải
là người, cũng chẳng phải là thần linh, Ngài
chẳng là ǵ hết, nhưng cái ǵ cũng là Ngài hết,
trong nhân gian th́ Ngài hiện thân người, trên trời th́
hiện thân người trời, trong cơi súc sanh th́ hiện
thân súc sanh, trong cơi ngạ quỷ th́ hiện thân ngạ
quỷ, trong pháp giới nào th́ hiện thân ấy, nhưng
tŕnh độ tu học của các Ngài th́ đích thật là
Phật, Bồ Tát. Thân
tướng thị hiện trong thập pháp giới
chẳng giống nhau, tộc loại khác nhau, đó là
Dị (khác nhau); nhưng cảnh giới mà Ngài khế
nhập đích thật hiểu rơ chân tướng của
vũ trụ nhân sanh, đó là Đồng; ‘Đồng chẳng
ngại cho Dị , Dị chẳng ngại cho Đồng’. Cũng giống như giáo học
hiện đại, thí dụ bạn đậu được
bằng Tiến sĩ, bạn đi làm việc trong chánh
quyền th́ chức vị là quan viên chánh phủ; c̣n một
người cũng đậu cấp bằng Tiến
sĩ đi bán đậu hủ, là chủ tiệm bán
đậu hủ (đậu
phụ); tuy thân phận khác nhau nhưng
đều là Tiến sĩ.
Tiến sĩ là Đồng; thân phận, địa
vị, công việc chẳng đồng, như vậy
tức là ‘Trong Dị có
Đồng, trong Đồng có Dị, Dị chẳng ngại
Đồng, Đồng chẳng ngại Dị’. Kết cấu của hết
thảy chúng sanh trong vũ trụ đều là hiện
tượng này.
Trong xă hội chúng
ta đóng vai tṛ ǵ th́ nhất định phải rơ ràng. Thân phận của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni là một người làm công tác giáo
dục nghĩa vụ xă hội, hơn nữa chẳng
cần trả lương, hoàn toàn thiện nguyện;
đệ tử của Phật th́ cũng phải
vậy. Đệ tử Phật
buông bỏ công việc đáng làm của ḿnh, đây là
hiện tượng xảy ra trong thời cận
đại, chuyện này mới xảy ra trong ṿng hai
trăm năm gần đây.
Những năm đầu đời nhà Thanh,
người xuất gia vẫn c̣n làm việc giáo học;
kể từ giữa đời Thanh trở đi mới
biến thành Kinh Sám Phật sự, làm pháp hội. Hiện nay giáo học Phật pháp
cơ hồ đă chẳng c̣n tồn tại nữa,
những ǵ chúng ta thấy được hiện nay
đều là Phật giáo đă biến h́nh, đó gọi là
Phật giáo [như một] tôn giáo.
Cho nên người ta nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta
không thể không thừa nhận, h́nh tướng này
đích thật là tôn giáo, đây là Phật pháp đă biến
chất, chúng ta phải nhận thức rơ ràng.
Muốn khôi
phục lại bộ mặt nguyên thủy của Phật
giáo, khôi phục lại giáo dục xă hội th́ Phật pháp
mới có thể quảng độ chúng sanh. ‘Độ’ nói theo ngôn ngữ hiện
nay tức là giúp đỡ, giúp đỡ hết thảy
chúng sanh; ‘Quảng’ là phổ biến, chẳng phân chia
tộc đoàn, chẳng phân chia chủng tộc, thập
pháp giới đều giúp đỡ một cách b́nh
đẳng. Vả lại
tuyệt đối là giúp đỡ t́nh nguyện, chẳng
mong cầu những cá nhân được giúp đỡ này
đáp trả, trong tâm vĩnh viễn giữ được
chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, đây là tự giác.
Gần đây tôi
thường nghĩ xây cất đạo tràng tuyệt
đối là sai lầm.
Thế Tôn cả đời chẳng xây dựng
đạo tràng, Bồ Tát, A La Hán chẳng xây dựng
đạo tràng, các vị Tổ sư đại
đức cũng chẳng xây dựng đạo tràng. Tại sao vậy? Chẳng xây đạo tràng th́ tâm
ở tại đạo; một khi đă xây đạo
tràng th́ tâm liền biến đổi. Cho nên chẳng có đạo tràng
th́ tâm an trụ trên Phật đạo, Bồ Tát
đạo; một khi đạo tràng xây xong th́ tâm an
trụ trên ‘luân hồi đạo’.
Ai có thể xây cất đại đạo tràng? Cư sĩ tại gia. Họ xây dựng đạo tràng
rồi cúng dường, chúng ta có thể tiếp nhận
nhưng tự ḿnh tuyệt đối không thể xây cất.
Liên Tŕ đại
sư làm một tấm gương rất tốt cho chúng
ta, lúc ban đầu Ngài thấy hoàn cảnh ở núi Vân Thê
rất tốt nên tự ḿnh dựng lều tranh tu hành tinh
tấn nơi ấy. Sau đó
người ta phát hiện Ngài là người có đạo
đức, có học vấn, muốn thân cận Ngài, nên
cũng dựng lều tranh ở kế bên. Sau đó một số quan
lớn, Tể tướng, trưởng giả giàu có
biết nhiều cao tăng đại đức ở
nơi ấy tu hành, nên mới [phát tâm] xây đại
điện, pḥng ốc, từ đó nơi ấy mới
trở thành một ngôi ṭng lâm.
Liên Tŕ đại sư và những người cùng chung
tu hành ở núi đó không những chẳng nhọc tâm này,
ngay cả tâm niệm cũng chẳng khởi, thế nên
đạo tràng ấy là tự nhiên h́nh thành. Tự nhiên h́nh thành th́ chẳng
mất tâm thanh tịnh. Tuy
đạo tràng đă h́nh thành, trong tâm người tu hành
chẳng chấp trước một mảy tơ, có thể
buông xuống, vẫn giữ được chẳng
mất tâm thái lúc trụ ở lều tranh xưa kia, chút
tơ hào lưu luyến cũng chẳng có.
Đạo tràng tại
Dallas của chúng ta cũng là tự nhiên h́nh thành, chưa
từng hóa duyên. Thành tựu
của đạo tràng này là phước báo của
người ở tiểu bang Đức Châu (Texas). Chúng ta giúp đỡ và thành
tựu cho việc này, nhưng đối với việc
này chẳng lưu luyến; nếu lưu luyến
đạo tràng th́ sẽ chẳng thể văng sanh. Đạo tràng của người
chân chánh tu hành ở đâu?
Tận hư không, trọn khắp pháp giới
đều là đạo tràng, tự tại biết bao! C̣n đạo tràng của tôi là
những máy móc này, tôi đi đến đâu th́ máy móc cũng
đi theo, mỗi ngày tôi giảng kinh đều phát h́nh,
phát thanh trên mạng lưới điện toán (internet),
đó là đạo tràng vậy.
Đạo tràng là
tận hư không, trọn khắp pháp giới, chúng ta
phải xây dựng quan niệm này.
Quan niệm này tức là ‘Trụ chân
thật huệ’ trong ba thứ chân thật. Có thể trụ chân thật
huệ, có thể hiểu rơ chân tướng của vũ
trụ nhân sanh, sau đó mới có thể làm
được điều chân thật thứ ba ‘ban cho lợi ích chân thật’;
giúp đỡ người khác, bố thí lợi ích chân
thật, cúng dường cho đại chúng. Ba thứ chân thật này trong kinh
Vô Lượng Thọ, lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
trong cuốn Chú Giải đặc biệt nhắc nhở
chúng ta phải chú ư. Ba thứ
chân thật này đại biểu cho toàn bộ Phật
pháp, không những Phật pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật dạy
chẳng tách ĺa ba thứ chân thật này, những ǵ
thập phương ba đời hết thảy chư
Phật Như Lai tu chứng và hoằng dương cũng
chẳng ra ngoài ba thứ chân thật này.
Hai mươi
mấy năm về trước, pháp sư Tẩy Trần
ở Hương Cảng đă từng đến Đài Loan
thăm tôi. Tôi đề nghị
với thầy, chúng tôi t́m năm vị tỳ kheo thật
sự chí đồng đạo hiệp, đến
khắp nơi trên thế giới hoằng pháp lợi
sanh. Mỗi người chúng
tôi vác theo một cái lều nhỏ, ban đêm dựng
năm cái lều này với nhau.
Năm xưa Thế Tôn ngủ dưới gốc cây,
ngày nay thể lực chúng ta chẳng làm nổi cho nên
phải ở trong lều.
Thầy nghe xong rất hoan hỷ, nhưng sau đó th́
cũng tăm hơi bặt tiếng. Đó là đời sống
người xuất gia phải nên sinh sống, là sinh
hoạt tŕ bát [khất thực].
Ở Lương Hương,
Trung Quốc tôi có một miếng đất, diện tích
là hai ngàn ba trăm mẫu, Lương Hương sản
xuất đá gạch nên chúng ta lấy tài nguyên nơi
đó xây nhà bằng đá.
Mỗi người xây một gian nhỏ, cách xa nhau
khoảng chừng ba đến năm phút đi bộ. Trong đó chỉ cung cấp
nước, không cung cấp điện, không có điện
thoại, như vậy con người sẽ thanh tịnh. Ban đêm đốt đèn
cầy để bạn phải ngủ sớm, thức
sớm; trời tối rồi th́ đi ngủ, trời
chưa sáng liền thức dậy làm công phu sáng. Lớp học ở tại một
pḥng lớn có nhiều công năng; lạy Phật, cùng tu
tập, sinh hoạt tại một trung tâm hoạt
động được đặt tên là ‘Lục Ḥa
Đường’. Đạo tràng có
rất nhiều cây ăn trái, có đến vài ngàn cây, do
đó đạo tràng được đặt tên là
‘Thiện Quả Lâm’, trồng thiện nhân được
thiện quả. Chỉ
cần phát tâm chân thật, mọi việc đều có Tam
Bảo gia tŕ, long thiên ủng hộ.
7. Hết thảy pháp vô ngă (Buổi sáng 22-4-99)
a. Vô Ngă Vô
Pháp
Trong Linh Phong Tông
Luận, có đoạn Ngẫu Ích đại sư khai
thị về ‘vô ngă’ rất đáng cho chúng ta học
tập. Đại ư là nói hết
thảy chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay
ngộ nhận có một cái Ta nên từ đó phân biệt
Ta, chấp trước Ta.
Bởi v́ sự nhận biết sai lầm này nên
mới biến Nhất Chân pháp giới thành lục
đạo luân hồi; [măi trôi lăn] trong luân hồi, tri
kiến này ngày càng sâu dày, chẳng thể phá vỡ, nên
mới khởi Hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Thế nên nguyên nhân căn bản
chúng sanh luân hồi trong lục đạo chính là sự
nhận thức sai lầm ấy.
Trong hết thảy kinh luận bất luận là
Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Hiển Giáo hay Mật
Giáo, đức Phật đều thường giảng
về Vô Ngă và Vô Pháp. Điển
tịch nhập môn của Tướng Tông, tôi nghĩ
rất nhiều đồng tu đều đă đọc
qua, Bách Pháp Minh Môn Luận mọi người đều
đă đọc qua. Văn
tự trong bộ luận này tuy chẳng nhiều nhưng
chú giải của nó rất phong phú, trong Tục Tạng
đă có sáu bản chú giải, c̣n rất nhiều chú
giải chẳng được ghi trong ấy. Những ǵ bộ luận này nói
chính là ‘Hết thảy pháp vô ngă’. Hết thảy pháp là ǵ? Vô ngă là ǵ?
Trong Du Già Sư Địa Luận, Di Lặc Bồ Tát quy
nạp hết thảy pháp thành sáu trăm sáu mươi
pháp. Thiên Thân Bồ Tát lại
quy nạp sáu trăm sáu mươi pháp này thành một
trăm pháp, tiện lợi cho người sơ học,
một trăm pháp này mở rộng ra tức là vô
lượng vô biên hết thảy pháp. Trong hết thảy pháp này vô ngă,
không những người vô ngă, pháp cũng vô ngă. Cho nên vừa nhập môn vào
Tướng Tông th́ liền phá hai thứ ngă chấp và pháp
chấp, nếu phá được hai thứ chấp
trước này th́ bạn sẽ nhập vào cánh cửa
Đại Thừa, như vậy mới kể là đă
nhập môn.
Do đó có thể biết ngày nay
chúng ta tu học chẳng nhập môn nổi, và cũng
chẳng biết cánh cửa này ở đâu, chúng ta có tâm t́m
cầu, cũng rất hết ḷng nỗ lực, nhưng
rốt cuộc cũng chẳng nhập môn
được. Trong kinh
luận đức Phật nói với chúng ta rất rơ ràng,
đề ra th́ h́nh như chúng ta đều hiểu rơ,
tại sao vẫn chẳng thể nhập môn như cũ? Đó là v́ chẳng buông xuống. Đọc th́ đă đọc
rồi, nghe th́ cũng nghe rồi, nhưng chẳng thực
hiện được.
Muốn buông xuống thiệt chẳng phải
dễ, tại sao vậy? Trong
kinh Phật nói rất rơ: tập khí từ vô thỉ
kiếp đến nay chứ chẳng phải chỉ một
đời này mà thôi, đă mê chấp từ nhiều
đời nhiều kiếp về trước. Người như thế nào
mới có thể buông xuống?
Có hai hạng: một là thượng căn, lợi trí
(trí óc lanh lợi),
hai là thiện căn phước đức sâu dày; khi
họ vừa nghe, vừa tiếp xúc liền thật
sự tin tưởng, thật sự hiểu rơ lợi ích
của sự buông xuống, họ chịu [buông
xuống]. Người căn
tánh trung hạ th́ khó hơn, h́nh như họ hiểu
nhưng thật sự chẳng hiểu, họ vẫn
tạo nghiệp, vẫn thọ báo như cũ; chúng ta là
những người này.
Hạng người này chỉ có một phương
pháp cứu nổi, đó chính là nghiêm tŕ giới cấm,
nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trừ cách này ra không thể
cứu nổi! Tuy có vô
lượng pháp môn, pháp môn b́nh đẳng, nhưng
chẳng khế hợp căn cơ của chúng ta; chúng ta
khổ công tu học nhưng vẫn chẳng đắc
lực như cũ; so ra chẳng bằng những
người chắc thật niệm Phật, bạn hăy xem
tướng lành khi họ văng sanh.
Gần đây đồng tu ở Dallas nh́n thấy
tận mắt, trong Phật Thất có người văng sanh
an lành, chẳng bị bịnh khổ. Những năm gần đây,
ở Tân Gia Ba, ở Mă Lai Á những người niệm
Phật văng sanh chẳng ít, tướng lành vô cùng thù
thắng. Trong Phật pháp có
‘Tam chuyển pháp luân’ những người này thị
hiện cho chúng ta bằng cách ‘chứng chuyển’, niệm
Phật văng sanh, đây là chứng minh cho chúng ta coi. Trong kinh điển đức
Phật dạy chúng ta, khuyên chúng ta, hiện nay lại có
nhiều người như vậy chứng minh cho chúng ta
thấy, chúng ta c̣n không tin nữa hay sao? Vẫn để nhân duyên này trôi
qua, uổng phí hay sao?
b. Bàn
về gia tŕ
Trong xă hội
hiện nay, Phật pháp tuy rất tốt, chẳng có ǵ
trong thế gian, xuất thế gian có thể sánh nổi,
nhưng người phát tâm hoằng dương quá ít. Có rất nhiều bạn
đồng học khiêm tốn và nói ‘Nghiệp chướng
của tôi quá nặng, tôi chẳng có khả năng
hoằng pháp lợi sanh, nếu đời này tôi có thể
văng sanh th́ cũng măn nguyện rồi’. Nói như vậy cũng chẳng
thể nói là sai, nhưng cũng chẳng thể nói là
đúng hoàn toàn. Sau khi bạn
được lợi ích nơi Phật pháp xong rồi
bạn ra đi, thế gian này chẳng có người
tiếp nối, thế th́ chẳng phải Phật pháp
đă đoạn dứt trong đời của bạn hay
sao? Từ khi đức
Phật Thích Ca Mâu Ni sáng [lập] giáo [đoàn] đến
nay, đă truyền sang nhiều thế hệ [liên tục
nên] chúng ta mới có duyên phận gặp được
Phật pháp, đến đời này của chúng ta lại
bị đoạn dứt, như vậy th́ làm sao chẳng
có lỗi đối với chư Phật, Bồ Tát cho
được? Làm sao
chẳng có lỗi đối với chư vị Tổ
Sư Đại Đức? Đức
Phật hiểu rơ tâm lư của những người này nên
trong kinh thường khuyên chúng ta, không những phải
tự hành mà c̣n coi trọng hóa tha, giúp đỡ
người khác. Nếu tôi
chẳng có trí huệ, chẳng có khả năng, phiền
năo tập khí c̣n rất nặng, nhưng tôi phát tâm rộng
lớn, xả ḿnh v́ người để làm sự
nghiệp hoằng pháp lợi sanh th́ nhất định sẽ
được chư Phật Như Lai gia tŕ.
Nói thật ra, chư Phật
Như Lai gia tŕ một cách b́nh đẳng cho hết
thảy chúng sanh; có người có thể nhận
được sự gia tŕ c̣n người khác lại chẳng
nhận được, vấn đề chẳng ở
phía chư Phật mà ở phía chúng ta, vấn đề là
chúng ta có chịu tiếp nhận oai thần của Như
Lai gia tŕ hay không? Làm thế nào
mới tiếp nhận được? Tâm hạnh cùng Phật
tương ứng th́ sẽ tiếp nhận
được; trái ngược với Phật th́ sẽ
tiếp nhận không được, Phật sẽ gia tŕ
không được, đạo lư là ở tại chỗ
này. Nếu tâm nguyện
của chúng ta tương ứng với Phật, sức
gia tŕ chúng ta nhận được vẫn không rơ ràng
lắm, tại sao như vậy?
Nguyên nhân ở chỗ xen tạp. Chỗ tương ứng của
chúng ta có xen tạp ô nhiễm, cũng như Ngẫu Ích
đại sư nói: xen tạp ‘Ta và cái của Ta’ (ngă và ngă
sở), nên sự tương ứng này giảm xuống
thật nhiều. Nếu có
thể buông xuống ‘Ta và cái của Ta’ th́ sức gia tŕ
sẽ rơ ràng vô cùng, hầu như chính ḿnh cũng có thể
cảm giác được, người có công phu cũng có
thể thấy được.
‘Tâm - Nguyện - Giải - Hạnh’ của chúng ta
tương ứng với Như Lai th́ trong đó nhất
định phải buông bỏ ‘Ta và cái của Ta’, tự
ḿnh mới có thể thực sự trở thành pháp khí, có
thể tiếp nhận đại pháp của Như
Lai. Cũng như chạy
đua tiếp sức vậy, chúng ta phát nguyện
đến thay thế, đến nhận ‘cái cây tiếp
sức’ này; sau khi nhận rồi lập tức nghĩ
đến phải giao cho người khác, làm cho Phật
pháp có thể truyền măi đến những đời
sau, làm cho chánh pháp được trụ lâu dài trên thế
gian. Pháp vận của Thế
Tôn về sau c̣n chín ngàn năm nữa, chẳng như
nhiều người nói đến năm 1999 là ngày tận
thế, trong Phật pháp chẳng có cách nói như vậy,
thế nên chúng ta phải có ḷng tin, có nguyện lực,
hết ḷng nỗ lực tu học.
Cơ sở tu học nhất định là tịnh
giới. Đoạn mở
đầu kinh Vô Lượng Thọ liền dạy chúng ta
‘khéo giữ ǵn ba nghiệp’, đây là lời dạy chân
thành.
c.
Nhất tâm niệm Phật
Nhất tâm niệm
Phật, niệm Phật là nghĩa rộng, chẳng
phải nghĩa hẹp, tâm nguyện tương ứng
với Phật chính là niệm Phật. Chúng ta nh́n thấy ‘Phổ
Hiền Hạnh Nguyện Phẩm’, ‘Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm’ cũng được gọi là
‘Tứ Thập Hoa Nghiêm’; Thiện Tài đồng tử tham
học Kiết Tường Vân tỳ kheo, pháp môn tu của
Kiết Tường Vân tỳ kheo chính là pháp môn Niệm
Phật, trong kinh được gọi là ‘Ban Chu Tam
Muội’. Kiết Tường
Vân tỳ kheo giảng giải cho Thiện Tài đồng
tử và giới thiệu pháp môn Niệm Phật, giới
thiệu hết hai mươi mốt loại; hai
mươi mốt pháp môn Niệm Phật này hầu như
đă bao gồm hết tất cả Phật pháp trong
ấy; Trong kinh Hoa Nghiêm, một tức là nhiều, nhiều tức là một,
một và nhiều chẳng hai, Kiết
Tường Vân giảng vô cùng viên măn. Bởi vậy nên nói Niệm
Phật th́ pháp nào chẳng phải Niệm Phật? Nói Tọa Thiền th́ pháp nào
chẳng phải Tọa Thiền?
Nói Tŕ Giới th́ pháp nào chẳng phải Tŕ
Giới? Chúng sanh chúng ta
khởi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước trong những pháp này, ĺa khỏi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước th́ bất
cứ pháp nào cũng là Phật pháp viên măn, như vậy
mới có thể thành vô thượng đạo. Chẳng giống như
người thế gian, chúng ta tu Tịnh, Tịnh chẳng
phải Thiền, Thiền chẳng phải Giới,
Giới chẳng phải Mật, chúng ta ngăn chia ranh
giới rơ ràng như vậy nên từ đầu
đến cuối đều chẳng thể thâm
nhập. Bất luận là tu
học pháp môn nào đều chẳng thể thành tựu,
tâm chẳng thanh tịnh, chúng ta từ đầu
đến cuối đều chẳng đạt
được Thanh Tịnh, B́nh Đẳng, Giác. Nguyên nhân ở tại chỗ nào,
biết hay chăng? Ĺa
khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước th́ bất luận là tu học pháp môn nào
đều đạt được Thanh Tịnh, B́nh
Đẳng, Giác. Thanh Tịnh, B́nh
Đẳng, Giác tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
cũng tức là cứu cánh viên măn đại Bồ Đề,
đại Niết Bàn.
Từ đó có thể biết
gốc bịnh của chúng ta là phân biệt, chấp
trước, trong kinh Kim Cang, Kinh Bát Nhă nói đến
‘chấp tướng’, gốc bịnh ở tại chấp
tướng. Chúng ta phải
dùng: ĺa hết thảy tướng, tức hết thảy
pháp, dùng phương pháp này để đối trị. Làm thế nào ĺa tướng? Chúng ta cũng chẳng
biết. Dù cho bạn có
biết đi nữa, biết đạo lư và phương
pháp, thật ra cũng chẳng thực hiện
được trong đời sống hằng ngày,
chẳng làm nổi! Tổ
sư đại đức dạy chúng ta niệm Phật,
khi phân biệt chấp trước vừa khởi lên,
lập tức dùng một câu A Di Đà Phật phủ kín nó,
đây là công phu ban đầu; công phu lên thêm một chút
nữa th́ câu A Di Đà Phật này hóa giải nó, đây là công
phu bậc thứ nh́; lên thêm một bậc nữa th́ câu A
Di Đà Phật này viên dung rồi.
Cùng niệm một câu A Di Đà Phật, công phu của
mỗi người chẳng giống nhau, phương pháp
này rất tốt! Thiện Tài
tham vấn vị thiện tri thức thứ nhất dùng
phương pháp này. Thứ
tự sắp xếp trong Phật pháp đều có ư
nghĩa, chẳng phải tùy tiện sắp đặt. Vị thiện hữu thứ
nhất trong năm mươi ba lần tham vấn là ‘Pháp
môn Niệm Phật’, vị thiện hữu sau cùng, Phổ
Hiền Bồ Tát ‘Thập đại nguyện
vương, dẫn về Cực Lạc’, các bạn xem
như vậy có ư nghĩa ǵ?
Từ đầu đến cuối đều là
một câu A Di Đà Phật này niệm đến cùng. Không những phải niệm
Phật, sau cùng c̣n phải yêu cầu văng sanh tây
phương Tịnh Độ, Phổ Hiền Bồ Tát
thập đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, chư vị nghĩ xem đó là ư nghĩa
ǵ? Hy vọng chúng ta từ
chỗ này có thể lănh ngộ.
8. Phong thủy và vận
mạng (Buổi sáng 26-4-99)
a. Phong
thủy và vận mạng
Nhà Nho nói ‘Đạo
của phu tử chỉ là trung hậu, khoan thứ mà thôi’ [93]. Nhà Phật nói: ‘Từ bi làm
gốc, phương tiện làm cửa’, quan niệm
chánh nói trong nhà Nho và nhà Phật đích thật có thể
giúp đỡ hết thảy chúng sanh đạt
đến nguyện vọng hạnh phúc mỹ măn.
Phàm phu nhất
định sẽ phải chịu ảnh hưởng
của sự vật bên ngoài, phàm phu có phân biệt, chấp
trước cho nên lọt vào trong vận mạng. Vận mạng có thể đoán
được, Liễu Phàm Tứ Huấn nói về
những đạo lư này rất rơ ràng. Thế nên lúc khởi tâm
động niệm mà có phân biệt chấp trước
th́ sẽ chẳng thoát ra ṿng chi phối của vận
mạng. Vẫn c̣n chịu
sự quyến rũ, ảnh hưởng của những
sự vật bên ngoài th́ tâm sẽ chuyển theo cảnh
giới; tâm vẫn c̣n chuyển theo cảnh giới là phàm
phu, như vậy th́ chắc chắn sẽ có phong thủy.
Thông đạt
hiểu rơ hết thảy sự vật th́ gọi là thánh
nhân. Thánh nhân chẳng bị
vận mạng chi phối v́ họ đối với tất
cả người, sự, và vật trong thế gian và
xuất thế gian chẳng có phân biệt chấp
trước, họ đă vượt ra ngoài vận
mạng. Vẫn chịu
ảnh hưởng của hoàn cảnh th́ sẽ có phong
thủy; chẳng bị hoàn cảnh bên ngoài ảnh
hưởng, tự ḿnh có thể làm chủ ḿnh là chư
Phật, Bồ Tát. Kinh Lăng
Nghiêm nói: ‘Nếu chuyển được cảnh
giới th́ cũng giống như Như Lai’, có năng
lực không bị cảnh giới chuyển, lại có
thể chuyển cảnh giới tức là thánh nhân. Sự khác biệt giữa phàm và
thánh là ở tại chỗ này.
Chúng ta không có
năng lực chuyển biến cảnh giới nên
phải lựa chọn những hoàn cảnh tốt, có ích
cho sự tu học của ḿnh; người xưa lúc công
phu chưa thành tựu đều chọn ở trong núi sâu,
đầm lớn. Phần
đông các ṭng lâm đạo tràng ở Trung Quốc
đều được xây dựng trên núi cao, ở
những chỗ giao thông chẳng thuận tiện,
người ta ít lui tới, hoàn cảnh như vậy có ích
cho sự tu học. Nếu
chúng ta dễ bị ngoại cảnh ảnh hưởng
th́ phải tránh tiếp xúc, đây là cách làm thông minh, sự
lựa chọn có trí huệ.
Đến khi đạo nghiệp của ḿnh có thành
tựu, chẳng bị hoàn cảnh ảnh hưởng, có
thể làm chủ được ḿnh, đến lúc này
xuống núi, vào đời giúp đỡ chúng sanh khổ
nạn. Nếu chẳng thành
tựu mà cứ đi vào xă hội, đặc biệt là xă
hội ngày nay, chắc chắn sẽ mê mất chính ḿnh,
rất dễ bị đọa lạc. Không chỉ hiện tại
đọa lạc trong danh văn lợi dưỡng,
ngũ dục lục trần, mà đời sau sẽ
đọa vào ba đường ác, như vậy th́
khổ lắm. Bởi vậy
nên lựa chọn hoàn cảnh đối với sự
học tập của chúng ta vô cùng quan trọng.
Ngày nay hoàn cảnh
lớn xung quanh chẳng tốt, chúng ta phải xây dựng
hoàn cảnh nhỏ tốt hơn, bảo vệ ḿnh. Hoàn cảnh là ǵ? Người ngoại quốc
gọi là từ trường, người Trung Quốc
gọi là phong khí, cũng có thể nói từ trường
của hoàn cảnh xung quanh chẳng thuận tiện cho
sự tu học của chúng ta.
Hiện nay hoàn cảnh ở đô thị chẳng
giống như ở thôn quê, hoàn cảnh ở thôn quê c̣n
mộc mạc, sự dụ dỗ quyến rủ c̣n ít,
mức dụ hoặc c̣n nhẹ.
Những sự dụ hoặc ở đô thị
nhiều hơn, sức dụ hoặc mạnh mẽ,
nếu chẳng có công phu định huệ tương
đối khá th́ rất khó bảo toàn ḿnh.
Có thể t́m được
một nơi núi sông tao nhă, hoàn cảnh vắng lặng
để tu học là tùy nơi phước báo của
từng người. Chúng ta
rất muốn ẩn cư nhưng chẳng có
phước báo, tu hành ở thành thị rất khó khăn,
mỗi ngày đều phải chống chọi với
ngoại cảnh, phải đề cao cảnh giác từng
giây từng phút, vừa sơ hở chút xíu liền bị
đánh bại, liền bị đọa lạc. Nếu y theo Phật pháp mà nói th́
xă hội ngày nay chỗ nào cũng là cạm bẫy, đi
đâu cũng dẫn tới cửa địa ngục, có
bao nhiêu người có thể cảnh giác nổi, có thể
nh́n thấy, có thể pḥng ngừa?
Phàm những ai có thể nh́n thấy chân tướng
sự thật này th́ họ được cứu; nếu
chẳng nh́n thấy mà nhắc nhở cũng chẳng
tỉnh ngộ th́ sẽ không có cách chi cứu nổi.
b.
Học vi nhân sư, hành vi thế phạm
Chúng ta có trách
nhiệm giữ ǵn sự an định, ḥa b́nh của xă
hội, quốc gia, thế giới. Luôn luôn nghĩ cho sự hạnh
phúc của chúng sanh, chẳng v́ ḿnh là hành Bồ Tát
đạo. Phải luôn luôn
nghĩ đến ‘Học vi nhân sư, hành vi thế
phạm’, làm gương mẫu tốt cho xă hội
đại chúng. Xă hội
hiện tại phạm lỗi lầm ǵ th́ chúng ta phải
đối trị, giúp đỡ họ, như vậy th́
phải làm ngược lại những chuyện này. Người thế gian tham
hưởng danh văn, lợi dưỡng th́ chúng ta
phải buông bỏ danh văn, lợi dưỡng. Người thế gian chạy
theo vinh hoa phú quư th́ chúng ta phải buông bỏ vinh hoa phú quư,
phải thật sự làm ra khuôn mẫu cho người ta
xem. Người thế gian
luôn luôn muốn khống chế hết thảy
người, sự, vật th́ chúng ta phải buông xuống
những ư niệm muốn khống chế này. Người thế gian luôn t́m cách
chiếm lấy, tranh đoạt tất cả
người, sự, vật th́ chúng ta phải buông xả
những tâm niệm muốn chiếm đoạt này;
nếu chẳng có tâm niệm th́ làm sao có hành động cho
được!
Khi người khác
nh́n thấy đời sống của chúng ta [có lẽ
nghĩ rằng] rất cực khổ, nhưng khổ và
vui chẳng có tiêu chuẩn, những ǵ chúng ta cảm
thọ đều là niềm vui chân thật. Khi chúng ta hưởng lạc,
hưởng thanh phước, thanh phước là chân
lạc, là niềm vui khỏe mạnh. Người thế gian hưởng
thọ niềm vui của ngũ dục lục trần,
đó là ma túy, niềm vui của sự hút thuốc
phiện, là niềm vui bệnh hoạn, chẳng b́nh
thường! Chỉ trong
chớp mắt, quả báo sẽ chẳng thể
tưởng tượng nổi.
Lời giáo huấn của Phật, Bồ Tát, và thánh
triết thế gian đều là lời vàng ngọc. Trong xă hội hiện nay đích
thật có nhiều người bị danh lợi, vật
dục làm mờ mắt, mê mất phương
hướng, t́m đủ mọi cách tranh giành danh văn
lợi dưỡng, hưởng thọ vật dục,
đă đến mức chẳng từ một thủ
đoạn nào hết, ngay cả Phật pháp cũng bị
lợi dụng. Trong kinh có ghi
lại một chuyện lúc Thế Tôn c̣n tại thế, Ma
Vương Ba Tuần khuyên Thế Tôn sớm nhập
Niết Bàn, Ma thề sẽ phá hoại Phật pháp. Phật nói: ‘Phật pháp là chánh
pháp, chẳng có ai có thể phá hoại nổi’. Ma Vương đáp: ‘Đợi
đến thời kỳ Mạt Pháp của ông, tôi sẽ
kêu ma con, ma cháu của tôi đều xuất gia để
tiêu diệt pháp của ông’.
Thế Tôn nghe xong chẳng nói một lời, rơi
lệ, đúng như câu ‘ví như con trùng trên
thân sư tử rỉa thịt sư tử’ [94]. Hiện nay là
thời Mạt Pháp, trong tâm mọi người ai cũng
biết rơ.
Chúng ta phải làm
người đệ tử chân chánh của đức
Phật, phải nghĩ nội trong một đời này
phải có thành tựu thực sự, trước hết
phải nhận biết căn bịnh tệ hại này,
cắt đứt mầm mống của nó trong tâm chúng ta
th́ mới có thể thành tựu.
Thực ra, Thế Tôn đă làm tấm gương
tốt nhất cho chúng ta, Ngài buông bỏ hoàn toàn, sinh
sống vô cùng tự tại, khoái lạc. Thế Tôn cả đời
chẳng có đạo tràng, đều ở trong những túp
lều tranh, Phật giảng kinh thuyết pháp ngay trên
bải cỏ, dưới bóng cây.
Ngày nay chúng ta cùng nhau tu tập cũng nên khôi phục
lại cách sống trong lều tranh, việc này có ích
lợi rất lớn, đối với hoàn cảnh cư
trú chẳng có mảy tơ lưu luyến. Nếu cư trú trong nhà cao cửa
rộng, pḥng ốc tráng lệ, rất thoải mái, rất
an ổn th́ sẽ chẳng muốn xa ĺa, sẽ sanh
khởi tâm tham, khống chế, chiếm hữu. Tương lai lúc chết đi
phải đọa làm thân súc sanh, sanh làm dán, kiến, và
những loài côn trùng trong đạo tràng, như vậy th́
đáng thương quá, bi thương quá!
Năm xưa lúc
đức Thế Tôn c̣n tại thế, tăng đoàn
chẳng có tổ chức hẳn ḥi, chẳng có tầng
tầng tiết chế, chỉ có quan hệ thầy
tṛ. Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni là thầy, một ngàn hai trăm năm mươi
người là học tṛ.
Những ‘thượng thủ’ đề cập trong
kinh đều là tiêu biểu pháp, chẳng phải tổ
chức thật sự. Nguyên
nhân họ sống vui vẻ, hạnh phúc là v́ mỗi ngày
đều nghe pháp, tư tưởng và kiến giải
của mọi người dần dần giống nhau. Giống nhau ở đây không có
nghĩa là tiếp nhận tư tưởng và kiến
giải của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà mỗi
người đều buông bỏ vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước của ḿnh,
được vậy th́ tư tưởng sẽ
giống nhau, đây là ‘kiến ḥa đồng giải’. Chẳng phải nói “tư
tưởng của Phật chính xác, chúng ta đều sai
lầm hết, chúng ta phải dùng tư tưởng
của đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm tư
tưởng của ḿnh”.
Đức Phật tuyệt đối chẳng làm
việc này, làm vậy là Ma. Phật
tuyệt đối chẳng khống chế người,
Phật dạy hết thảy chúng sanh đều có
Phật tánh, đều sẽ làm Phật. Cho nên Phật pháp chân chánh
tuyệt đối chẳng có tâm niệm khống chế,
chiếm hữu hết thảy người, sự,
vật. Nếu chúng ta có
thể buông bỏ tâm niệm khống chế, chiếm
hữu, phân biệt, chấp trước th́ sẽ
được đại tự tại, sống cuộc
đời của Phật, Bồ Tát, Trời, Thần Tiên. Đây là việc chúng ta phải
hiểu, phải hết ḷng nỗ lực học tập.
Những tổ chức có h́nh
thức hẳn ḥi rất dễ bị người ta
lợi dụng, chẳng có tổ chức vẫn tốt
hơn. Có người nói
nếu không có tổ chức th́ sẽ chẳng có sức
mạnh, đây là sức mạnh tranh giành quyền lợi,
chúng ta chẳng ham những thứ này. Chúng ta muốn được
sức mạnh của Giới, Định, Huệ, sức
mạnh này có thể đột phá tam giới, đoạn
dứt sanh tử, có thể mở rộng không gian sinh
hoạt của chúng ta đến tận hư không pháp
giới, đây là trí huệ chân thật. Trí huệ chân thật mới có thể
giúp đỡ xă hội an định, thế giới ḥa
b́nh, hết thảy chúng sanh đạt đến hạnh
phúc mỹ măn, đây là đại từ đại bi,
đây là đạo trung thứ (trung
hậu, khoan thứ) của Khổng Phu Tử. Người học Phật
phải có trí huệ chân chánh, đem đạo trung thứ
của Khổng Phu Tử và đại từ đại bi
của Thế Tôn thực hiện ngay trong đời này,
được vậy mới chẳng thẹn làm
đệ tử của thánh nhân, sống cuộc
đời này mới có ư nghĩa, có giá trị.
Phụ lục 1: Đạo cư
xử giữa má chồng và con dâu
Ḥa thượng Tịnh Không giảng thuyết
Đệ tử cung kính
chỉnh lư
Có một
đồng tu học Phật trẻ tuổi nói với tôi
rằng cô muốn ly hôn.
Tôi nói: ‘Tại sao
cô lại có ư niệm này, đời sống có trục
trặc khó khăn ǵ chăng?’
Cô nói: ‘Chồng
không tốt, ba má chồng không tốt, đặc biệt
là ba má chồng khó quá’.
Nếu cô chẳng
học Phật th́ tôi không nói, đă là người học
Phật th́ phải biết cách đối xử giữa
người với nhau, bất luận là gặp nhau một
giờ, một ngày, hoặc một đời cũng
vậy, hết thảy đều là nghiệp duyên từ
đời trước, nếu không có duyên, dù có đối
diện th́ cũng chẳng gặp
gỡ. V́ đă có nghiệp duyên th́
phải nhẫn chịu, dù là ác duyên cũng phải
nhẫn chịu, khó nhẫn cũng phải nhẫn.
Khi gặp cảnh
duyên và cảm thấy khó nhẫn v́ tự ḿnh chẳng có
trí huệ, phải luôn luôn nhắc nhở ḿnh: lỗi
chẳng ở tại người khác, đều ở
tại chính ḿnh. Hăy ghi nhớ
kỹ lời Lục Tổ Huệ Năng đại
sư dạy: ‘Nếu là
người chân thật tu hành th́ không thấy lỗi
của thế gian’.
Má chồng và con dâu
không hạp, người con dâu có học Phật th́
phải phản tỉnh ‘má chồng ḿnh chẳng có lỗi
ǵ hết, lỗi ở tại nơi ḿnh’, nếu
thường nghĩ như vậy tức là hành Bồ Tát
đạo. Lúc nào cũng
sửa sai đổi mới th́ có thể cởi mở
những oán kết từ đời trước.
Nếu lúc nào
cũng oán trách người khác, luôn cảm thấy là
lỗi của đối phương, chính ḿnh chẳng có
lỗi lầm chi cả, gút mắt trong tâm ngày càng cứng
chắc, đời đời kiếp kiếp cứ
trả thù lẫn nhau, oan oan tương báo đến
chừng nào mới dứt?
Tại sao không thừa dịp này tháo mở gút mắt
ra? Người có trí huệ có
thể tháo gỡ gút mắt, sau khi gỡ ra th́ oan gia
quyến thuộc sẽ trở thành pháp quyến, như
vậy th́ tốt biết mấy!
Thực sự độ ḿnh và độ
người, đây là sự nghiệp của Bồ
Tát. Thế nên nếu gặp
hoàn cảnh như vậy th́ phải biết đây là
cơ duyên tốt để ḿnh hành Bồ Tát đạo.
Tu hành không phải
là mỗi ngày chỉ niệm kinh, lạy Phật, gơ mơ,
đó đều là h́nh dáng bề ngoài mà thôi; thực
chất phải ở tại việc xử sự, đăi
người, tiếp vật, hóa giải hết thảy ân
oán từ vô lượng kiếp đến nay, như
vậy mới là chân tu hành.
Không những
tự ḿnh trong đời này phải siêu việt Lục
Độ, thập pháp giới, văng sanh Tịnh Độ bất
thoái thành Phật, mà cũng phải khiến cho oan gia
chủ nợ của ḿnh đều thức tỉnh, và giúp
họ niệm Phật văng sanh bất thoái thành Phật; tâm
đại từ bi của bạn hiển lộ ra,
những oan gia chủ nợ này nhất định sẽ
được độ, v́ họ có duyên với
bạn. Trong kinh Phật
thường nói: ‘Phật không
độ người chẳng có duyên’,
chỉ cần có duyên th́ nhất định sẽ
được độ, bất luận là thiện duyên,
ác duyên đều là có duyên cho nên đều sẽ
được độ.
Nếu đem
hết thảy sai lầm đều gán cho người
khác, kết tội trên hoàn cảnh, luôn luôn cảm thấy
ḿnh chẳng sai, đây chính là lỗi lầm lớn
nhất của chúng ta, và cũng là lư do tại sao một
người cả đời tu học chẳng thể
thành công. Phật nói trong
thế gian chỉ có hai hạng người không có lỗi
lầm: thứ nhất là chư Phật Như Lai, cho dù
Đẳng Giác Bồ Tát cũng vẫn c̣n lỗi lầm, duy
chỉ có chư Phật Như Lai chẳng có lỗi
lầm. Hạng thứ hai là
phàm phu, người ngu, có lỗi lầm đầy ḿnh
nhưng chẳng thừa nhận.
Trừ hai hạng này ra th́ ai chẳng có lỗi
lầm? Do đó lỗi
lầm chẳng ở tại cảnh giới bên ngoài mà
ở tại ḿnh. Cổ
đức dạy ‘quay đầu là bến bờ’, nếu
có thể quay về phản tỉnh th́ đó là giác ngộ,
khai ngộ rồi; sau khi phản tỉnh xong niệm niệm
đều sửa sai đổi mới, nỗ lực
hướng thiện, đó mới là tu hành chân chánh. Phải t́m cầu lợi ích chân
thật của Phật pháp ở nơi này, phải chân
thành, phải cung kính; ‘kính’ là kính người, kính sự,
kính vật, kính nghiệp. Tâm
thành kính lớn th́ đạt được lợi ích
lớn; tâm thành kính nhỏ th́ đạt được
lợi ích nhỏ; chẳng có thành kính th́ chẳng
đạt được ǵ cả. Đó là điều Ấn Tổ
dạy chúng ta: ‘Có một phần
thành kính th́ được một phần lợi ích;
mười phần thành kính th́ được mười
phần lợi ích’.
Nếu chân thành, cung kính đến cùng cực th́
bạn có thể đạt được hoàn toàn, đây
chính là chỗ ‘minh tâm kiến tánh’ trong Tông Môn.
Trong kinh Vô Lượng Thọ
đức Phật dạy chúng ta phải: ‘Ban lợi ích chân thật cho chúng sanh’,
dạy cho chúng sanh đạt được lợi ích chân
thật tức là dạy chúng sanh dùng tâm chân thành, thanh
tịnh, b́nh đẳng, từ bi để xử sự,
đăi người, tiếp vật, sau đó trên sự
tướng mới thực sự có thể nh́n thấu,
buông xuống. ‘Nh́n thấu’ là
hiểu rơ triệt để, ‘buông xuống’ là tâm
địa thanh tịnh, mảy trần chẳng nhiễm,
như vậy mới được tự tại, tùy
duyên, niệm Phật sẽ nhất định
được sanh Tịnh Độ.
Phụ lục 2: Nói chuyện
với bốn mươi ba vị Tu Nữ Thiên Chúa Giáo.
Ḥa Thượng Tịnh Không giảng thuyết.
Trước
hết chúng tôi nhiệt liệt hoan nghinh chư vị Tu
Nữ Thiên Chúa Giáo tôn kính từ mười bốn quốc
gia, địa phương đến phỏng vấn
Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba.
Hai năm nay chúng
tôi dốc toàn lực khởi động đa nguyên văn
hóa, có người hỏi tôi tại sao phải làm như
vậy?
Câu trả lời
là từ lời dạy của đức Phật. Bản thân Phật giáo vốn là
một giáo dục xă hội đa nguyên văn hóa. Hai ngàn năm trăm năm
trước lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n tại
thế, sự giáo học của Ngài chẳng phân giới
hạn quốc gia, chẳng phân chủng tộc và tôn
giáo. Chúng ta từ những
bản ghi chép lời dạy của Ngài (kinh điển)
thấy được năm xưa khi đức Phật
dạy học khắp nơi ở Ấn Độ, có
mười mấy vị quốc vương và rất
nhiều nhà truyền giáo, lănh đạo tôn giáo đều
đến tham dự nghe giảng.
Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni chẳng phải thần, Ngài là
người. Nói theo ngôn
ngữ hiện nay th́ Ngài là một học giả giáo
dục xă hội, hơn nữa c̣n là một vị vô cùng
nhân từ, chuyên làm công tác giáo dục xă hội đa
nguyên. Ngài dạy chúng ta
giữa người với người phải nên chung
sống như thế nào, làm sao sinh sống trong hoàn
cảnh thiên nhiên, đối xử với thiên địa
quỷ thần, và cũng là làm thế nào để
đối xử với các tôn giáo khác.
Nói sâu thêm nữa,
như khoa học gia hiện nay phát hiện khái niệm
về Thời Không (thời gian và không
gian) có rất nhiều duy thứ (nhiều chiều), chúng ta chẳng
nh́n thấy những chúng sanh sinh sống ở thời gian
và không gian bốn chiều trở lên. Thích Ca Mâu Ni Phật nói với
chúng ta Thời Không là nhiều duy thứ, Thời Không
nhiều duy thứ này đă được chứng minh
bởi khoa học gia. Chúng sanh
ở Thời Không cao duy thứ hơn những chúng sanh mà
chúng ta biết được, tiếp xúc đến
rất nhiều. Cho nên mục
đích giáo học của Thích Ca Mâu Ni Phật là muốn
chúng ta hiểu rơ, mở rộng tâm lượng, siêu t́nh ly
kiến, bao dung vạn vật, từ ái chúng sanh;
được vậy th́ xă hội mới có thể ḥa hài,
an định, phồn vinh, hưng vượng.
Hiện nay mọi
người đều biết, năm 1999 và 2000 trên
thế giới sẽ có rất nhiều tai nạn. Những tai nạn này đều
do con người tạo ra, v́ tư tưởng của con
người sai lầm, kiến giải, ngôn ngữ, hành vi
đều sai lầm nên mới tạo thành thiên tai nhân
họa. Những tai nạn này
không phải ngày nay mới có, mà đă từng xảy ra hai
ngàn năm trước. Thích Ca
Mâu Ni Phật đă xuất sanh trong thời đại
đó, nên Ngài hiểu rơ vô cùng, biết việc này chẳng
thể dùng chánh trị, vơ lực giải quyết
được, bản thân của Ngài là một vị
Vương tử, nên Ngài buông bỏ ngôi vua. Kinh tế và khoa học kỹ
thuật hiện nay tạo thành rất nhiều ảnh
hưởng phụ trong xă hội, thế nên kinh tế và
khoa học cũng không thể giải quyết vấn
đề. Hiện nay chúng ta
hiểu rơ duy chỉ có nhà tôn giáo đem ḷng chân thành và trí
huệ, ḷng thương yêu b́nh đẳng để giúp
đỡ xă hội th́ vấn đề này mới
được giải quyết một cách viên măn.
Phật Đà, Bồ
Tát, và A La Hán trong Phật giáo đều là danh xưng
của học vị. Phật
nói hết thảy chúng sanh vốn thành Phật, cho nên chúng ta
nh́n hết thảy chúng sanh đều là Phật,
đều là Bồ Tát.
Những người chẳng mê hoặc, hiểu rơ
vũ trụ nhân sanh th́ chúng ta xưng là Phật, đây là
định nghĩa của Phật, Phật là một
người tràn đầy từ bi, viên măn trí huệ chân
thật.
Tôi đă từng
tiếp xúc với rất nhiều người lănh
đạo tôn giáo, họ là Bồ Tát. Hôm nay quư vị đến đây
thăm viếng, mỗi người quư vị đều
là Bồ Tát. Bồ Tát tức
là người có trí huệ, có ḷng thương yêu, có
thể hy sinh, dâng hiến, là danh xưng cho những
người làm công tác [phục vụ] xă hội đại
chúng. Chúng tôi tiếp xúc
với rất nhiều tôn giáo, cho dù lễ nghi và giáo
nghĩa của quư vị chẳng đồng nhưng ḷng
thương yêu chân thành hoàn toàn tương đồng, ḷng
thương yêu chân thành này có thể cứu độ
hết thảy hoạn nạn của chúng sanh.
Chúng ta phải
mở rộng tâm lượng.
Phật nói tâm lượng của mỗi người
vốn to bằng hư không nếu chúng ta chẳng có
chấp trước, chẳng có phân biệt, chẳng có
vọng tưởng. Tâm
lượng đích thật là như hư không, việc này
có thể tin được.
Thế nên chúng ta muốn dùng trí huệ và ḷng
thương để giúp đỡ xă hội rộng
lớn th́ nhất định phải bắt đầu
làm từ sự mở rộng tâm lượng.
Chúng tôi xây dựng
một đạo tràng nhỏ ở đây, đạo tràng
này chẳng phải xây cho giáo hội chúng tôi, cũng
chẳng phải v́ địa phương Tân Gia Ba này, mà là
v́ toàn thế giới, v́ hết thảy chúng sanh mà xây
dựng. Chúng ta hiến dâng trí
huệ, ái tâm, lao lực là để làm một gương
tốt cho hết thảy chúng sanh, thế nên tông chỉ
của giáo học nhà Phật tức là ‘Học vi nhân
sư, hành vi thế phạm’.
V́ thế chúng tôi là một học tṛ của Thích Ca Mâu
Ni Phật th́ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ
tạo tác đều phải nghĩ tâm niệm và hành vi
của ḿnh có thể làm gương mẫu cho xă hội
đại chúng hay chăng.
Nếu chẳng thể làm gương tốt cho xă
hội đại chúng th́ chẳng thể suy nghĩ,
chẳng thể nói, chẳng thể làm.
Chúng ta học
tập theo đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tiếp nhận
lời giáo huấn của Ngài th́ phải hy sinh, phụng
hiến giống như Ngài.
Chúng ta biết một cách sâu sắc nếu chỉ
thương ḿnh, gia đ́nh ḿnh th́ sẽ có xung đột
với người khác, gia đ́nh khác; nếu chỉ
thương yêu tôn giáo ḿnh mà bài xích tôn giáo khác th́ sẽ
dẫn đến chiến tranh tôn giáo; nếu chỉ
thương yêu quốc gia ḿnh mà chẳng thương yêu
quốc gia của người khác th́ giữa quốc gia
này với quốc gia khác sẽ sanh ra đối kháng; chỉ
thương yêu địa cầu này của chúng ta,
chẳng thương tinh cầu khác th́ sẽ có chiến
tranh giữa các tinh cầu. Thế
nên chúng ta nhất định phải mở rộng tâm
lượng, phải thương yêu hết thảy chúng
sanh trong tận hư không, trọn khắp pháp giới.
Có người
hỏi tôi niệm Phật như thế nào? Tôi trả lời những ǵ
mắt tôi nh́n thấy, tai tôi nghe đến, thân thể
tiếp xúc đến, hết thảy người, hết
thảy sự, hết thảy vật đều là A Di Đà
Phật. Thế nên dùng tâm chân
thành, tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm từ bi
để đối đăi với hết thảy
người, sự, vật, đó chính là niệm Phật.
Chúng tôi vô cùng hy
vọng mỗi tôn giáo đều coi trọng giáo dục ‘Chân
Trí Nhân Ái’. Tuyên giảng giáo
học Nhân Ái của Thượng Đế, giáo học Nhân Ái
của Thần, hoàn toàn tương đồng với tuyên
giảng giáo học của đức Phật. Trước lúc học Phật tôi
cũng rất thích đọc điển tịch của
các tôn giáo, đều hết sức tôn trọng. Luôn cho rằng duy chỉ có nhà
truyền giáo và tín đồ của các tôn giáo nối ṿng
tay lớn với nhau, hỗ tương tôn trọng,
hỗ tương kính ái, hỗ tương hợp tác th́ thế
giới mới an định, ḥa lạc.
Xă hội hiện
nay có cảnh giới tốt và không tốt; có người
thiện và cũng có người ác. Đối với người không
tốt th́ ḿnh phải nghĩ họ chỉ mê hoặc
điên đảo nhất thời, bản tâm bản tánh
của họ vốn đều tốt, chúng ta phải giúp
đỡ họ quay trở lại, nhà Phật nói: ‘Quay
lại là bến bờ’.
Thế nên giáo dục văn hóa đa nguyên là giáo
dục chân thành thương yêu, có thể thương yêu
hết thảy chúng sanh một cách phổ biến.
Hôm nay chúng tôi vô cùng
hoan nghinh quư vị quang lâm đến tham quan Cư Sĩ
Lâm, chúng tôi cũng hy vọng quư vị có thể dùng tâm
thương yêu chân thành để cứu vớt thế gian
khổ nạn này. Nếu quư
vị cần chúng tôi hợp tác, giúp đỡ th́ chúng tôi
sẽ dốc toàn tâm toàn lực để giúp đỡ quư
vị. Chúng tôi xem những
chuyện tốt của mỗi người trong thế
gian đều như chuyện ḿnh nên làm, giúp đỡ
người khác chính là giúp đỡ ḿnh; thương
người khác chính là thương ḿnh.
Chúc mọi
người khỏe mạnh, vui vẻ, phước
huệ tăng trưởng.
Xin cám ơn quư vị!
Trong quá tŕnh chuyển
ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc
thức giả hoan hỷ phủ chính cho.
Xin chân thành cảm tạ đạo hữu Như Ḥa đă tận tụy sửa chữa, giảo duyệt bản dịch cũng như hướng dẫn và giúp đỡ chúng tôi trong công việc chuyển ngữ.
Một
nhóm Diệu Âm cư sĩ,
Tu
chỉnh và tŕnh bày, 4-tháng 9-2006
Hồi hướng
Nguyện đem công đức này trang nghiêm Phật
Tịnh Độ
Trên đền bốn ân nặng, dưới
độ ba đường khổ
Nếu có người nghe được đều
phát Bồ Đề Tâm
Đến hết báo thân này đồng sanh Cực
Lạc quốc
[1] (Bất thủ ư tướng, như như bất động)
[2] Đây chỉ là một cách nói nhằm đoạn dứt phân biệt. Xét trên bản thể, chỉ do vọng huyễn phân biệt, chấp trước, nên có phiền năo. Khi đă thấu hiểu phiền năo là vọng huyễn th́ phiền năo không c̣n, lúc đó phiền năo chính là tự tánh, v́ ngoài tự tánh không có phiền năo nữa. Do mê tự tánh nên có phiền năo v́ thế nói “phiền năo là chỗ khởi dụng (khởi ra tác dụng) của tự tánh”. Khi phiền năo đoạn hết, tức là đă thấy được phiền năo chính là tự tánh, đă không c̣n có cái gọi là phiền năo th́ cái thấy nhị nguyên (tức cái thấy đối lập giữa có và không, phiền năo và Bồ Đề) không c̣n nữa, nên không c̣n danh xưng tự tánh nữa, do vậy, nói: “Đương nhiên tự tánh cũng bị đoạn mất luôn”.
[3] Chuyển biến nghĩa là chuyển mê thành ngộ; có thể chuyển mê thành ngộ tức là có thể chuyển phiền năo thành Bồ Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn
[4] (Niệm Phật pháp môn, ám hiệp đạo diệu)
[5] (Nhất thiết chúng sanh, ngă giai linh nhập Vô Dư Niết Bàn nhi diệt độ chi)
[6] Cực cao minh nhi đạo trung dung
[7] Thanh phước là
đối với si phước mà nói.
“Thanh phước” chính là tu phước nhằm trưởng dưỡng Pháp Thân huệ mạng, chứ không phải cầu phước báo nhân thiên, tu phước nhằm thực hiện “phước huệ song tu”, tu phước nhưng không cầu báo, tu phước nhưng không chấp tướng, làm phước tự nhiên như đói ăn khát uống, đó gọi là “thanh phước”. C̣n “si phước” là làm lành nhưng không biết hồi hướng về Tịnh Độ, hoặc để cầu vô thượng Bồ Đề, chỉ nhằm được hưởng phước báo trời người đời sau.
[8] Xin xem chú thích số 46, trang 216
[9] (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm)
[10] (như thị nhân, như thị quả, như thị duyên, như thị báo)
[11] (nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định)
[12] Lục Quần
Tỳ Kheo tiếng Phạn là sad-vargīka-bhiksu, tiếng Pali là cha-bbaggiyā. Chỉ sáu ác tỳ-kheo kết
thành bè đảng, c̣n gọi là Lục Chúng Bí Sô, Lục Quần.
Khi Phật c̣n tại thế, có sáu ác tỳ kheo kết thành
bè đảng, chẳng tuân thủ luật nghi. Phật chế
giới luật phần nhiều là do sáu tỳ-kheo [làm chuyện
trái quấy] mà lập. Các bộ luật chép tên sáu tỳ-kheo
này không giống nhau. Theo Tứ Phần Luật, quyển 22
th́ sáu tỳ-kheo là: 1. Nan Đà, c̣n phiên là Nan Đồ. 2. Bạt
Nan Đà, c̣n phiên là Ô Ba Nan Đà. 3. Ca Lưu Đà Di 4. Xiển
Na, c̣n phiên là Xa Nặc. 5. A Thuyết Ca (c̣n phiên là A Thấp
Bà, dịch là Mă Túc, Mă Sư). 6. Phất Na Bạt, c̣n phiên là
Phú Na Bà Sa, hoặc Phổ Nại Bà Tố Ca, dịch là Măn
Túc. Thiện Kiến Luật Tỳ
Bà Sa quyển mười bốn, Ma Ha Tăng Kỳ Luật
quyển mười bảy đều ghi Nan Đà và Bạt
Nan Đà là anh em. Luật Tỳ Nại Da, quyển 2, chép Mă
Sư, Phất Na Bạt là đệ tử của ngài Mục
Kiền Liên. Mục Kiền Liên bị gă Phạm chí (fakir) cầm gậy đánh chết,
hai người này bèn giết gă Phạm chí đó. Lại
theo sách Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển bốn chép
th́ trong Lục Quần Tỳ Kheo, Ca Lưu Đà Di và Xiển
Na hai người được nhập Vô Dư Niết
Bàn. Nan Đồ, Bạt Nan Đà hai người sanh lên trời,
Mă Túc, Măn Túc hai người sanh trong loài rồng. Theo sách Ma
Ha Tăng Kỳ Luật, quyển 7, quyển 15 v.v… th́ ngoại
trừ những người như Nan Đà, Bạt Nan
Đà ra, c̣n kể thêm 2 người là Tam Văn Đà Đạt
Đa và Ma Hê Sa Đạt Đa, lại c̣n chép rằng khi
Đề Bà Đạt Đa phá Tăng, Lục Quần Tỳ
Kheo đều theo phe của ông ta.
[13] Tăng thượng duyên (adhipati-pratyaya): là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến nguyên nhân hay kết quả của hết thảy pháp hữu vi, tức là những duyên có khả năng tăng mạnh thêm hoặc khiến cho một pháp khác được sanh khởi, hoặc thúc đẩy kết quả của một nhân được mau thành tựu, th́ gọi là Tăng Thượng Duyên. Ví dụ như ruộng, phân, nước v.v… là Tăng Thượng Duyên của mùa màng (mùa màng là kết quả trực tiếp của hạt giống). Tăng Thượng Duyên theo công dụng c̣n chia thành hai loại: a. Dữ Lực Tăng Thượng Duyên: Duyên thúc đẩy sự sanh khởi của pháp khác.
b. Bất Chướng Tăng Thượng Duyên: Duyên khiến cho pháp khác được sanh khởi không bị ngăn trở.
[14] (Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu)
[15] (Năng thuyết bất năng hành, quốc chi sư dă, năng thuyết hựu năng hành, quốc chi bảo dă)
[16] (Đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên)
[17] Cách học kư vấn là học thuộc ḷng và học nhiều môn để tích tụ kiến thức
[18] (t́nh dữ vô t́nh đồng viên chủng trí)
[19] (kư lai chi, tắc an chi)
[20] (tâm bao thái hư, lượng châu sa giới)
[21] Na Già là dịch âm tiếng Phạn
chữ nāga, có nghĩa là rồng,
voi, vô tội, bất lai. Đây là thuật ngữ
để xưng tụng Phật hoặc bậc A La Hán.
Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa chép: “Kinh Khổng Tước
gọi Phật là Na Già, do Phật chẳng c̣n sanh tử”.
Đại Trí Độ Luận quyển ba chép: “Ma Ha là
lớn, Na là Vô, Già là Tội. A La Hán đă đoạn các
phiền năo, nên gọi là Đại Vô Tội”. Thiền
Định của đức Phật cũng gọi là Na
Già.
[22] (Giới tử nạp Tu Di)
[23] (tự tha bất nhị)
[24] nghĩa là hiểu sâu ư nghĩa và tông thú. Tông là điều được đề cao bởi kinh điển, tức là pháp môn chủ yếu được dạy trong kinh, thú là đường lối để thực hiện tông. Chẳng hạn, kinh A Di Đà có tông là “nhất tâm bất loạn”, c̣n thú là “nhất hướng chuyên niệm, tŕ danh niệm Phật, tích lũy công đức"
[25] Chỉ tịnh là thời gian đại chúng ngồi xuống, yên lặng, niệm Phật thầm sau khi nhiễu Phật, hoặc sau khi niệm lớn tiếng.
[26] (Chỉ ư chí thiện)
[27] Đây là cương lĩnh tu thân của nhà
Nho. Tam Cương gồm: Minh
minh đức, Thân Dân, Chỉ ư chí thiện. (Chữ Thân này thời cổ
đọc là Tân (mới), nên hiện thời tuy viết là
Thân nhưng vẫn phải đọc là Tân)
( Nghĩa là: Làm sáng tỏ cái đức
sáng, làm cho dân chúng hiểu biết được cái hay
đẹp rồi sửa đổi thành con người
mới tốt đẹp, nhắm đến sự
tốt đẹp tột bực, làm cho được
rồi giữ cho nó tồn tại măi).
Bát Mục
gồm: Cách Vật, Trí Tri, Thành Ư, Chánh Tâm, Tu Thân, Tề Gia,
Trị Quốc, B́nh Thiên Hạ.
Xin xem Phụ lục ở cuối Tập 2.
[28] (Địa ngục môn tiền Tăng đạo đa)
[29] (khắc niệm tác thánh)
[30] Tánh Ngài
cực kỳ ngu độn, xuất gia đă nửa
năm, cả năm trăm vị La Hán xúm vào dạy
dỗ, Ngài vẫn không thể tŕ tụng nổi nửa bài
kệ. Học suốt cả ba năm vẫn chưa
thuộc nổi, nhớ câu trước quên câu sau, nhớ được
câu sau liền quên ngay câu trước. Người anh
bực quá, quở trách, buộc em hoàn tục. Do thiện
căn thâm hậu, lúc đương khóc lóc ngoài cửa,
bịn rịn chẳng đi, gặp đức Thế Tôn
lân mẫn dạy niệm hai chữ “tảo chửu” (quét
dọn). Thế mà vẫn cứ nhớ chữ này quên chữ
kia. Nhưng nhờ Ngài vẫn cứ siêng gắng, chẳng
lười, nên lâu ngày hốt nhiên chứng ngộ: “Tảo
Chửu nghĩa là trừ dơ khiến cho sạch. Như
vậy là đức Thế Tôn muốn ta đoạn
trừ những dơ bẩn phiền năo trong thân”. Nhờ
thế, ngài đắc quả A La Hán. Theo kinh Ngũ Bách Đệ Tử
Bản Khởi, tôn giả trong đời trước do
xua lợn qua sông, dùng dây buộc chặt miệng nó
khiến hơi thở không thông, con lợn bị chết
ngộp giữa gịng. V́ thế, Ngài bị quả báo ám
muội. Thêm nữa, trong thời Phật Ca Diếp, Ngài là
một vị Tam Tạng Pháp Sư, do tiếc pháp chẳng
hóa độ chúng nên cảm ác báo ấy. Ác nghiệp
đời trước măi đến đời này mới
hết, mới có thể đoạn ngu, phát huệ. (Trích
Kinh Di Đà Hợp Giải)
[31] (Hữu dung năi đại, vô dục tắc cương)
[32] Nguyên văn: Bổn thị đồng căn sanh, tương tiễn hà thái cấp. Tào Thực là em Tào Phi, hai người là con của Tào Tháo. Tào Thực thông minh đĩnh ngộ lạ lùng, đi bảy bước là làm xong một bài thơ. Tào Phi sợ Tào Thực sau này sẽ cướp ngôi ḿnh, nên t́m cớ bắt tội, định xử chết, Tào Thực bèn làm bài thơ trên, ngụ ư: Dùng vỏ đậu, dây đậu để nấu hạt đậu, khác nào anh em tàn sát lẫn nhau.
[33] (Vô tướng vô danh, tuyệt tư tuyệt nghị)
[34] (Nhất thiết chư pháp, nhân duyên sở sanh, vô hữu tự tánh, đương thể tức không, liễu bất khả đắc)
[35] (Cửu phẩm văng sanh, tổng tại ngộ duyên bất đồng).
[36] (thiên nhăn đổng thị, thiên nhĩ triệt thính, tha tâm biến tri)
[37] (Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ)
[38] Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá
Thiện hộ thân nghiệp,
bất thất luật nghi
Thiện hộ ư nghiệp, thanh
tịnh vô nhiễm
[39] (Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân)
[40] (Nhất niệm tự tánh, thể nguyên trạm tịch)
[41] (Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai)
[42] (Chủng chủng tâm sanh, chủng chủng pháp sanh; chủng chủng pháp sanh, chủng chủng tâm sanh)
[43] (đương thể tức không, liễu bất khả đắc)
[44] Khởi dụng là từ báo thân thị hiện trong các cơi, các loài thực hiện mọi sự hóa độ, tiếp dẫn, cứu tế.
[45] (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng)
[46] (học vi nhân sư, hành vi thế phạm)
[47] Thị Chuyển:
Phật dạy người lợi căn: đó là Khổ,
tánh bức bách; đó là Tập, tánh chiêu cảm; đó là
Diệt, tánh có thể chứng; đó là Đạo, tánh là
có thể tu, làm cho họ vừa nghe liền ngộ.
Khuyến
Chuyển: Phật dạy người trung căn: đó là
khổ, ngươi nên biết; đó là Tập,
ngươi nên đoạn; đó là Diệt, ngươi nên
chứng; đó là Đạo, ngươi nên tu, làm cho
người nghe tín thọ phụng hành.
Chứng
Chuyển: Phật sợ người độn căn
vẫn chẳng thể tín giải nên mới bảo họ
rằng Phật đă chứng, đó chẳng phải
giả. Đó là Khổ, ta
đă biết; đó là Tập, ta đă đoạn; đó
là Diệt, ta đă chứng; đó là Đạo, ta đă
tu, làm cho người nghe dứt trừ nghi hoặc.
[48] (Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai, nhất định kiến Phật)
[49] Kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên
[50] (Quốc ấp khưu tụ, mị bất mông hóa)
[51] (nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi)
[52] (phước địa phước nhân cư)
[53] (cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở)
[54] (đương cục giả mê, bàng quan giả thanh)
[55] Y Tha Khởi Tánh
nghĩa là do nhân duyên nên sanh khởi
hết thảy vạn pháp Ví dụ: Sợi dây thừng do
chánh nhân là những sợi gai và những trợ duyên khác
cùng tạo thành. Không c̣n có ư tưởng lầm lẫn th́ sợi
thừng chính là sợi thừng, nhưng sợi thừng
chẳng có thật tánh. Hễ các duyên chia ĺa th́ sợi
thừng không c̣n. C̣n gọi là
‘sanh vô tánh’ (Trích Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ,
Phẩm 17: Công Đức Của Ao)
[56] Viên Thành Thật Tánh tức là tánh chơn thật thành tựu viên măn. Viên Thành Thật tánh c̣n gọi là Pháp Tánh, hoặc là Chơn Như, nó chính là thể tánh của hết pháp hữu vi. Chẳng hạn như thật tánh của sợi dây thừng là gai. Viên Thành Thật tánh là pháp dứt bặt các đối đăi, ĺa hết thảy tướng. Nếu thấy biết là gai th́ ĺa được cả tướng rắn lẫn tướng thừng. C̣n gọi là ‘Thắng Nghĩa vô tánh’. (Trích Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 17: Công Đức Của Ao)
[57] (Ninh động thiên giang thủy, bất động đạo nhân tâm)
[58] (Pháp môn vô lượng, thù đồ đồng quy)
[59] (bất động đạo tràng, châu biến thập phương)
[60] nước Ô Trà (Odra), nước cổ ở Đông Ấn Độ, nay là Orissa
[61] (hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức)
[62] Công lợi chủ nghĩa là chủ nghĩa chú trọng lợi ích trước mắt của ḿnh, làm việc ǵ cũng đặt lợi ích của ḿnh lên trên hết.
[63] (Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ giả)
[64] Ngũ luân là năm quan hệ của con người: phu phụ (vợ chồng), phụ tử (cha con), huynh đệ (anh em), bằng hữu (bạn bè), quân thần (vua tôi).
Bát đức là tám đức hạnh quan trọng phải có để tu thân: Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ.
[65] Mười đời trước đời của Ngộ Đạt quốc sư có chuyện Viên Áng chém Triều Thố (200 – 154 trước Công Nguyên, một chính trị gia nổi tiếng đời Tây Hán) ở ngoài chợ. Triều Thố bị chém vô cùng oan ức nên ôm mối hận trong ḷng và t́m cách báo thù. Viên Áng cả mười đời đều xuất gia làm tăng, giới luật nghiêm minh nên Triều Thố chẳng trả thù được, đến đời thứ mười Triều Thố mới trả thù bằng cách gây ra mụt ghẻ mặt người trên chân của Ngộ Đạt (tức Viên Áng) quốc sư. (Trích từ tựa cuốn Từ Bi Thủy Sám)
[66] Thận
chung truy viễn, dân đức quy hậu
[67] Bát tải hàn song độc Lăng Nghiêm
[68] Tâm bao thái hư,
lượng châu sa giới
[69]
Thiện
hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá
Thiện hộ thân
nghiệp, bất thất luật nghi
Thiện hộ ư nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm
[70] Sự
vô bất khả cáo nhân ngôn
[71] Nguyên văn là: ‘Bất như ư sự thường bát cửu’ (sự chẳng như ư thường xảy ra tám, chín)
[72] Sái tảo, ứng đối, hiếu thân tôn sư
[73] Băo hương nghĩa là chạy hương, vừa đi bộ vừa tham thiền, mục đích của việc này để trấn áp vọng niệm và cũng là một h́nh thức vận động. Đi như thế hết một tuần hương nên gọi là đi hương, khác với đi kinh hành.
[74] Đoạn chương thủ nghĩa là cắt lấy một đoạn văn, không xét trong toàn bộ ngữ cảnh của nó, tự tiện giải thích diễn giải theo kiến chấp của ḿnh. Chẳng hạn, như trong Ngọc Lịch có ghi chuyện một ông Tăng đọc câu “bất sanh bất diệt” trong Tâm Kinh bèn giải thích là “không c̣n sống nữa th́ không bị diệt mất” nên khuyến khích sát sanh!
[75] Tam nhân đồng tâm, kỳ lợi đoạn kim
[76] Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển
3, nội dung kinh Hoa Nghiêm (bản Bát Thập Hoa Nghiêm)
được chia thành năm tầng nhân quả (ngũ
châu nhân quả), gồm:
1. Sở Tín Nhân
Quả Châu: Tức từ hội thứ nhất
được giảng tại Bồ Đề
đạo tràng nhằm tuyên thuyết y báo, chánh báo của
Như Lai (từ quyển thứ 1 đến quyển
thứ 11, gồm 6 phẩm). Năm phẩm đầu
giảng rơ về quả đức của đức
Tỳ Lô Giá Na Như Lai, phẩm thứ sáu giảng rơ
bản nhân của Phật, khiến cho người nghe sanh
tín tâm, ưa thích thọ tŕ, v́ thế gọi là Sở Tín
Nhân Quả.
2. Sai Biệt Nhân
Quả Châu (c̣n gọi là Tu Chánh Nhân Quả hay Sanh Giải
Nhân Quả): Hội thứ hai đến hội thứ
bảy đều được giảng tại
điện Phổ Quang Minh, do nhiều vị Bồ Tát
giảng, tuyên thuyết nhân quả sai biệt của các
địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác. Phần này kéo dài từ quyển 12
đến quyển thứ 48, gồm 29 phẩm, 26 phẩm
đầu biện định về nhân sai biệt trong 51
địa vị, 3 phẩm sau minh thị ba quả
tướng sai biệt nơi tam đức của
Phật quả. Do vậy, tầng này được
gọi chung là Sai Biệt Nhân Quả Châu.
3. B́nh
Đẳng Nhân Quả Châu (c̣n gọi là Tu Hiển Nhân
Quả hay Xuất Hiện Nhân Quả): Trong hội thứ
bảy tại điện Phổ Quang Minh, lần
lượt tuyên thuyết về nhân quả b́nh
đẳng. Phần này kéo dài từ quyển 49 đến
quyển 52, gồm 2 phẩm. Trong phẩm đầu
(Phổ Hiền Hạnh), Phổ Hiền Bồ Tát
giảng về nhân viên măn b́nh đẳng của Phổ
Hiền. Phẩm sau (Như Lai Xuất Hiện), Phổ
Hiền Bồ Tát tiếp tục giảng về quả
viên măn b́nh đẳng của đức Tỳ Lô Giá Na
Phật, nhân quả dung nhiếp lẫn nhau, b́nh
đẳng bất nhị. Do vậy, tầng này gọi là
Nhân Quả B́nh Đẳng Châu.
4. Thành Hạnh
Nhân Quả Châu (c̣n gọi là Xuất Thế Nhân Quả):
Tức là hội thứ tám, cũng giảng tại
điện Phổ Quang Minh.
Phần này từ quyển 53 đến quyển 59,
chỉ có một phẩm (tức phẩm Ly Thế Gian),
lần lượt giảng về nhân hạnh của
năm địa vị, quả tướng đại
dụng của tám tướng thành Phật. Do vậy,
tầng này được gọi là Thành Hạnh Nhân
Quả Châu.
5. Chứng Nhập Nhân Quả Châu: Tức là hội cuối cùng được giảng ở Thệ Đa Lâm (Jetavana), nói về diệu môn chứng nhập pháp giới, từ quyển 60 đến quyển 80, gồm một phẩm (tức phẩm Nhập Pháp Giới), lần lượt giảng về đại dụng tự tại nơi Phật quả, sau đó lần lượt dạy về Bồ Tát khởi dụng tu nhân, đồng thời chứng nhập cả nhân lẫn quả (biểu thị bằng việc Thiện Tài Đồng Tử tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức), nên gọi là Chứng Nhập Nhân Quả Châu . Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thật ra là phần cuối của phẩm này, nhưng bản Bát Thập Hoa Nghiêm bị thiếu. Sau này, khi ngài Bát Nhă dịch thêm, cổ đức vẫn lưu hành như một phẩm riêng biệt.
[77] Thái Cực là âm dương hợp nhất, là trạng thái tối sơ trước khi chưa có phân chia. Ta có thể hiểu đại lược như thế này: Từ trong bản thể thuần nhất, phát sanh ra Âm và Dương (lưỡng nghi), từ Âm và Dương lại chia ra làm hai Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương (Tứ Tượng). Phối hợp tứ tượng ta có tám quẻ (bát quái): Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Bát Quái tượng trưng cho tất cả những yếu tố căn bản và đối lập của vạn vật cho nên nói Bát Quái sanh vạn vật.
[78] Thiên
địa dữ ngă đồng căn, vạn vật
dữ ngă nhất thể
[79] Tinh thành sở chí, kim thạch vị khai
[80] Học nhi thời tập chi, bất
diệc duyệt hồ
[81] Hoạt đáo lăo, học đáo lăo, học bất liễu
[82] Thế gian nhân dân, phụ tử huynh đệ phu phụ thân thuộc, đương tương kính ái, vô tương tăng tật, hữu vô tương thông, vô đắc tham tích
[83] Tiên nhân bất thiện, [bất thức đạo đức] vô hữu ngữ giả, thù vô quái dă
[84] Lăo
ngô lăo dĩ cập nhân chi lăo, ấu ngô ấu dĩ cập
nhân chi ấu
[85] Đây là lời Khổng Tử khen ngợi kinh Thi: “Thi tam bách thiên, nhất ngôn dĩ quán chi, tư vô tà” (Kinh Thi có ba trăm bài, có thể dùng một lời để bao trùm hết: Không suy nghĩ tà vạy!)
[86] Thức đắc nhất, vạn sự tất
[87] Tứ bất khả thuyết c̣n gọi “tứ bất khả tư nghị cú ngữ”, giáo nghĩa này được thành lập dựa theo câu kinh Niết Bàn: “Sanh bất sanh bất khả thuyết, sanh sanh diệc bất khả thuyết, sanh bất sanh diệc bất khả thuyết, bất sanh bất sanh diệc bất khả thuyết”. Thiên Thai Trí Giả Đại Sư đă phối hợp với bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên để giảng như sau:
1. Sanh sanh bất
khả thuyết: Xét về lư được giảng trong
Tạng giáo th́ các pháp đều nương theo nhân duyên mà
sanh, pháp tuy sanh diệt, nhưng lư vốn vô ngôn nên “bất
khả thuyết” (chẳng thể nói được).
2. Bất sanh sanh bất khả thuyết: Xét về lư được nói trong Thông Giáo th́ các pháp đều do nhân duyên sanh, nhưng chúng vốn là không nên “bất khả thuyết”.
3. Sanh bất sanh bất khả thuyết: Xét về Lư được nói trong Biệt Giáo th́ lư Chân Như Bất Sanh nương vào sự kết hợp của nhân duyên sanh ra tướng trạng mười pháp giới sai biệt, cho nên gọi là “sanh bất sanh” (tuy sanh nhưng chẳng sanh). Lư vốn vô ngôn nên gọi là “bất khả thuyết”.
4. Bất sanh bất sanh bất khả thuyết: Đối với lư Viên giáo th́ lư Chân Như cùng tướng sai biệt của mười pháp giới hoàn toàn không hai, cả hai vốn đều là Thật Tướng Trung Đạo Bất Sanh, cho nên gọi là Bất Sanh Bất Sanh. Lư vốn vô ngôn nên gọi là Bất Khả Thuyết.
Trong bốn câu này, hai câu đầu dựa theo Chân Đế để luận, hai câu sau luận trên Trung Đế.
[88] Mạng
lư hữu thời chung tu hữu, mạng lư vô thời
mạc cưỡng cầu
[89] Thiết trụ ma thành châm, chỉ yếu công phu thâm
[90] Ngu bất khả cập
[92] (Khai hóa hiển thị chân thật chi tế)
[93] Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ
[94] Thí như sư tử trùng, hoàn phệ sư tử nhục