Bác
sĩ Quách Huệ Trân
Download
bài viết dưới dạng Microsoft Word Doc
Bác sĩ Quách Huệ Trân là một bác sĩ chuyên khoa
ung thư, bà rất nhiệt thành và tận tâm trong công
việc. Ḷng từ bi và
thuần thành của bà không những đă đem lại
sự khích lệ to lớn cho bịnh nhân mà c̣n cảnh giác
những người khỏe mạnh, làm cho nhiều người
phát tâm học Phật và niệm Phật. Sau đây là bài nói chuyện
với các bạn học ở Huệ Trí Phật Học Xă
của Đại học Trung Nguyên, nội dung rất phong phú
cảm động. Tuy là đang
bị bịnh ung thư trầm trọng, bác sĩ Trân
vẫn rán chịu đau và dùng ḷng tín nguyện niệm
Phật vô cùng kiên cố của ḿnh lên giảng đài
thuyết pháp; khi tuyên bố bị bịnh bà nói: ‘Bây
giờ vừa đúng lúc để tôi nhất tâm niệm
Phật và chuẩn bị văng sanh’
(Sau lần nói chuyện này bác sĩ Trân từ chức
và lên núi đi xuất gia).
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này,
chúng ta luôn luôn tham luyến tất cả những ǵ
‘của ḿnh’; ai cũng đầu tắt mặt tối,
bận rộn suốt cuộc đời, đến phút
cuối cùng nh́n lại [chỉ là một con số không to
lớn] rồi âu sầu than thở. Thưa quư vị, quư vị
muốn cuộc đời của ḿnh như thế
nào? Làm sao để vượt
ra khỏi sự trói buộc của luân hồi sanh
tử? Chúng tôi hy vọng bài
này sẽ đem nhiều tư duy và chất liệu có
thể giúp quư vị t́m ra phương hướng [về
quê hương] của ḿnh!
Kính thưa quư
thầy cô, kính thưa quư bạn:
Khi lên giảng đài
này, tôi cảm thấy rất bối rối và xấu
hổ khi nh́n thấy phía dưới phần đông đều
là những người trong hàng tiền bối, bậc
thầy cô của ḿnh. Trước hết xin giải thích tại sao
một người mạt
học dở ẹt như tôi cũng lên giảng đài
nói chuyện với quư vị?
Đây là do ảnh hưởng của một bịnh nhân
cho nên tôi thường kể lại câu chuyện của
bịnh nhân này và nói lên lư do người này đă giúp cho tôi
hiểu được nhiều vấn đề. Chúng ta thường phải
trả một giá rất đắt mới có thể
hiểu được một câu nói trong kinh, nhiều khi
chỉ một câu kinh thật đơn giản. Cô này mới có ba mươi
mấy tuổi th́ bị ung thư ruột già. Khi cô đến bịnh viện
cứ khóc hoài không thôi. Lúc đó
tôi mới làm bác sĩ tập sự thuộc khoa ung thư,
xem bịnh lư mới biết cô đă mổ qua hai lần
nhưng ung thư vẫn tái phát trở lại, đúng là vô
phương cứu chữa.
Cô khóc hoài nên nói không ra tiếng nữa, thiệt là
không biết làm sao, muốn t́m bác sĩ để hỏi rơ
bịnh trạng của ḿnh.
Hôm đó tôi hết ca trực liền đến pḥng
bịnh để thăm cô và cũng nhân tiện giới
thiệu sơ lược một ít Phật pháp cho cô
biết. Không ngờ cô nghe xong,
xúc động, mở mắt thật to và nói:
“Tại sao bấy lâu nay không có ai
nói cho tôi biết về những chuyện này? Tại sao tôi đă sống ba mươi
mấy năm đầy phiền năo và đến lúc
sắp ĺa đời tôi mới được nghe Phật
pháp?”.
Tuy chỉ có mấy
câu nói thật ngắn nhưng h́nh như đă xoi thủng
tim tôi. Sau đó cô bật khóc
và làm tôi cũng khóc theo, khóc một cách rất bức
rức. Lúc bấy giờ
Tuyết Công lăo ân sư (lăo cư sĩ Lư Bỉnh
‘Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp.
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngă kim kiến văn đắc thọ tŕ.
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa’.
V́ ảnh hưởng
của cô nên từ hôm đó trở đi tôi không ngại
sự hiểu biết c̣n thô thiển của ḿnh, luôn luôn
cố gắng, tích cực hơn, và muốn mau mau giới
thiệu cho mọi người những điều
trọng yếu trong Phật pháp [mà ḿnh hiểu được],
nói cho đại chúng biết những sự hạnh phúc mà
Phật pháp có thể đem lại cho mọi người. Hạnh phúc này tiền tài mua không được,
kẻ ăn trộm cũng không thể lấy mất. Trong bất cứ trường
hợp và cảnh giới nào và không kể người ta
dùng quan niệm ‘phước’ hay ‘họa’ trong thế gian để
đo lường những cảm nhận hạnh phúc này,
trong nội tâm của chúng ta đều luôn luôn đầy đủ
sự an tịnh, hạnh phúc, và tươi sáng.
Tôi hỏi các vị đạo
hữu ở Phật học xă nghiên cứu đề
mục hay kinh điển ǵ trong khóa học này, bác Hứa
trả lời là đang thảo luận ‘Kinh Bát Đại Nhân
Giác’. Chắc ai cũng đă
xem qua kinh này và có thể đă học thuộc ḷng
rồi. Điều giác ngộ
thứ nhất là:
‘Thế gian vô thường, quốc độ mong
manh, tứ đại khổ không, năm ấm vô ngă, sanh
diệt đổi dời, hư ngụy không chủ…’.
Tuy là biết
thuộc ḷng nhưng phần đông chúng ta không tin như
vậy. Tuy Phật nói thế
gian là khổ, là vô thường, nhưng bạn lại
cảm thấy nhân gian rất vui sướng! Mỗi sáng thức dậy ăn
bánh uống cà phê, …, ngước mắt nh́n lên, ôi chao
trời trong mây trắng, đời sao mà sung sướng
thế! Nếu được
vậy th́ cũng thường thôi, nhưng những lúc như
vậy trôi qua rất nhanh.
Giả sử một lúc nào đó, chuyện khó khăn
thử thách th́nh ĺnh xảy ra, khi đó bạn sẽ không
thấy trời trong mây trắng, không thấy trăm hoa đua
nở, trong ḷng của bạn sẽ không c̣n cảm
thấy vui sướng nữa.
Ở đây tôi xin kể một vài câu chuyện
thật mà tôi đă gặp khi làm việc ở bịnh
viện. Trong những câu
chuyện này, mỗi bịnh nhân đều là giáo sư
của tôi, mỗi người đều kể cho tôi
một đạo lư mà đức Phật đă nói trong kinh
điển, họ ấn chứng (chứng minh) những điều
Phật dạy, họ làm cho tôi hết ḷng tin tưởng
lời Phật nói và tin đức Phật là ‘người
nói lời chân thật, không bao giờ nói dối’.
Có nhiều bịnh
nhân hỏi tôi: “Bác sĩ năm nay bao nhiêu tuổi?”.
Tôi trả lời: “Ba
mươi hai tuổi”.
Lại hỏi: “Bác
sĩ lập gia đ́nh chưa?
Tôi làm mai cho”.
Tôi liền hỏi
họ: “Cuộc sống của bà rất sung sướng
phải không?”
Thật kỳ lạ
không có một người nào đáp là ‘phải’
hết! Cho đến một
hôm tôi gặp một bịnh nhân bị ung thư cổ
tử cung, mỗi lần đến khám bịnh đều
trang điểm thiệt là đẹp, thoa môi son thiệt đỏ,
móng tay chân đều có sơn màu rất đẹp. Khám bịnh xong bà muốn làm mai
cho tôi. Bà nói:
“Cháu tôi làm việc
ở bịnh viện Quốc Thái, người rất
lịch sự đàng hoàng”.
Tôi hỏi bà: “Bà
thiệt là rất sung sướng phải không?”
Bà nói: “Phải,
chồng tôi đối xử rất tốt; con cái rất
có hiếu, nhà cửa rất sung túc”.
Như vậy
thật là sung sướng, xin chúc mừng cho bà. Bà là người duy nhất nói
ḿnh có hạnh phúc, thiệt là mừng giùm bà. Tại v́ khi bịnh nhân bước
chân vào bịnh viện th́ thường khóc và than:
“Bác sĩ không
biết đâu, tôi phải mượn tiền của người
ta để lại đây khám bịnh, con cái không vui chút
nào”;
Hoặc là: “Ôi chao lúc
về nhà không ai đếm xỉa tới; mang bịnh lâu
quá rồi người ta không chịu chăm sóc
nữa”.
Cũng không ai thăm
hỏi: “Thưa ba ăn cơm chưa?”.
Hoặc là: “Từ lúc
tôi mắc bịnh này, chồng tôi bỏ đi luôn”.
Phần lớn là
thuộc vào loại này, t́nh tiết không giống nhau nhưng
nội dung hoàn toàn tương tợ; chỉ có bà này
thiệt là may mắn có được hạnh phúc. Nhưng qua một thời gian
ngắn sau đó, y tá coi báo ngạc nhiên nói bà đó đă
tự tử. Cô y tá nói: “Trong
báo đăng tin bà được vớt lên từ bờ
sông ở ….Bà bỏ nhà ra đi hết năm ngày, sau đó
th́ tự tử”.
Tôi hỏi: “Bà đó rất sung sướng,
rất hạnh phúc, sao lại tự tử?”.
Thưa quư vị,
chúng ta thử nghĩ xem tại sao lúc đó niềm thương
yêu của chồng không thay đổi được tâm
niệm muốn tự tử của bà? Tại sao sự hiếu thảo
của con cái cũng không kéo bà lại được? Tại sao tiền bạc không mua được
sự an ổn của tinh thần?
Chồng thương yêu cho mấy và con cái hiếu
thảo đến đâu cũng không thay thế được
sự đau đớn trên thân thể của bà. Một người đàn bà xinh đẹp
như thế tại sao lại phải trốn khỏi nhà
đi lang thang rồi cuối cùng phải nhảy vào ḍng nước
đen tối? Có lẽ v́ trước
đó bà cảm thấy cuộc đời quá xinh đẹp,
chưa nếm qua mùi vị của sự khổ, bà chưa
biết qua: ‘thế gian vô thường, quốc độ
mong manh’, cho nên trong tâm không có chuẩn bị tâm lư, gặp
chuyện thử thách trong đời chịu không nổi,
không có ‘chích ngừa’ để pḥng bị, không có khả năng
đề kháng, chịu đựng khổ không được
nên mới tự tử. Tôi
rất hối hận trước đó không giới
thiệu Phật pháp để cho bà thay đổi quan
niệm và hướng về quang minh, hướng về
Di Đà.
Những sự
khổ này có lẽ mọi người sẽ nghĩ: ‘Đó
chỉ là thiểu số, người tự tử rất
ít’. Thiệt ra người
tự tử rất nhiều, tôi làm việc trong khoa ung thư,
nếu có ngày nào không gặp bịnh nhân muốn tự
tử th́ ngày đó phải được kể là ngày
rất tốt, rất hiếm!
Thiệt đó, mỗi ngày tôi thường nghe câu: ‘Tôi
nên chết sớm th́ tốt hơn’. Khi người ta cầu mong
khỏe mạnh và sự quan tâm chăm sóc mà không được
toại nguyện th́ thường thường sẽ
tự sát. Ban đêm trong
bịnh viện tôi thường phải đi giải
quyết những chuyện tự tử này. Không phải là họ cố ư không
muốn sống nhưng bị bịnh đau khổ quá nên
không biết cách nào để chịu đựng nữa.
Ngoài ra c̣n có người
cầu sanh không được cầu chết cũng không
xong, nằm trên giường bệnh rên siết. Có một người bịnh
nguyên phần phía dưới bụng bị ung thư
lở loét ra hết, bác sĩ phải mổ và làm một
cái hậu môn tạm trên bụng, nhưng không cách nào
trị lành được.
Chất bài tiết trong ruột rỉ thẳng ra. Pḥng của người này ở
lầu ba, từ lầu hai đă nghe mùi hôi bay đến. Không phải người này có ǵ đặc
biệt nhưng bất cứ ai trong chúng ta khi gặp
phải trường hợp này đều như
vậy. Khi con bà săn sóc cho
mẹ bất đắc dĩ phải dùng một miếng
vải để bịt miệng và mũi lại. Mỗi ngày bà đều muốn
tự tử nhưng chưa gặp cơ hội. Một hôm nhân dịp con bà đi
ra chợ mua đồ ăn sáng, bà rán hết sức ḿnh
ngồi dậy, leo qua cửa sổ từ lầu ba
của bịnh viện nhảy xuống. Vừa đúng lúc đó người
con về đến, nh́n thấy mau mau chạy tới để
đỡ bà. Kết cục bà
nhảy xuống không chết mà c̣n bị thương. Vốn là đă quá đau khổ
bây giờ c̣n bị thương thêm, mỗi ngày đau đớn
không thể nào diễn tả được, cầu sanh
không được, cầu tử cũng không xong; mạng
chưa hết tự tử cũng không chết. Cho dù tự tử chết đi
rồi, vĩnh viễn trầm luân trong lục đạo
luân hồi, sự khổ năo vô tận lại tái diễn
trở lại!
Nhà thơ Rabindranath
Tagore có nói:
‘Sanh thời lệ tợ hạ hoa, tử thời
mỹ như thu nguyệt’
(Lúc sống đẹp như hoa mùa hạ, lúc
chết đẹp như trăng mùa thu).
Bạn muốn
sống đẹp như hoa mùa hạ có lẽ cũng không
khó lắm; nhưng muốn chết đẹp như trăng
mùa thu th́ phải ra sức chuẩn bị công phu mới được! Lắm lúc có nhiều người
phê b́nh những người học theo Phật và nói: “Ôi
chao, sao quư vị ưa nói chuyện ‘chết’, ưa nói
chuyện ‘lâm chung’ quá, h́nh như đă xem thường
cả cuộc đời. Trong
cuộc sống có rất nhiều chuyện phải làm, đặc
biệt là những người tu theo Tịnh độ như
quư vị, ngày ngày cứ niệm ‘A Di Đà Phật’, chuẩn
bị để văng sanh Tây phương, thật là quá tiêu
cực”. Thật ra cuộc
sống chúng ta giống như quá tŕnh vẽ một con
rồng, mỗi nét vẽ mỗi màu sắc đều
rất quan trọng. Lúc lâm
chung cũng như nét vẽ cuối cùng vào mắt
rồng. Lúc sanh lúc tử đều
rất quan trọng, không có nét vẽ nào có thể cẩu
thả được.
Niệm Phật là tâm niệm tối thiện
nhất, tích cực làm cho lúc sống và lúc chết đều
là chí thiện chí mỹ (tốt đẹp nhất).
Nói chuyện từ
năy đến giờ nhưng chưa nói vào đề tài
chính hôm nay: ‘Lắng nghe bài ca bên sông Hằng’. Mấy năm trước tôi có
dịp đi qua Ấn độ và ngồi thuyền đi
dọc theo bờ sông Hằng.
Lúc đó trong ḷng tôi rất an tịnh; âm thanh trên sông
cứ cuồn cuộn nổi dậy làm tôi có cảm giác như
là đang đi trong ḍng nước ‘sanh tử’…. Khi lắng tai nghe những âm thanh
này tôi nghe thấy trong đó có âm thanh của trẻ con,
của người lớn, có tiếng khóc, có tiếng cười
vui. …Tất cả những âm thanh này trộn lẫn vào nhau
biến thành một câu vạn đức hồng danh: ‘A Di
Đà Phật’. Bạn hăy nh́n h́nh
ảnh của sông Hằng, của từng làn sóng nhấp
nhô, h́nh bóng của chính bạn, của người thân,
bạn bè, mặt trời lặn, con chim và làn mây đang bay
lơ lửng ở cuối chân trời, tất cả
những h́nh bóng này ḥa hợp lẫn nhau làm thành con sông ‘sanh
mạng’. Chúng ta hăy cùng nhau xem
những h́nh ảnh và lắng nghe bài ca bên sông Hằng này,
từ bài ca ‘luân hồi sanh tử của sông Hằng’ cho đến
bài ca ‘đức Phật giác ngộ’. Đối với chúng ta sông Hằng
là một con sông rất quen thuộc v́ trong kinh đức
Phật thường dùng danh từ
‘cát sông Hằng’ để h́nh dung ư nghĩa ‘vô lượng
vô biên’. Trong con ‘sông Hằng’
sanh mạng này chúng ta đều là những người bơi
lội qua sông….
Con thuyền cứ
tiếp tục tiến tới và đi ngang một chỗ
dùng để hỏa táng ở bờ sông. Phong tục mai táng người
chết của Ấn độ rất đơn giản,
họ không cần quan tài chỉ dùng vải bao bọc thi
thể lại rồi đem thiêu ở bờ sông, cho đến
bà Gandhi cũng không ngoại lệ (bà được dùng lá
quốc kỳ để bao).
Người giàu th́ có đủ củi lửa nên có
thể thiêu thành tro rồi đem bỏ xuống sông. Người nghèo th́ thiêu qua loa
một chút rồi đem thi thể bỏ xuống sông. Lúc tôi ngồi thuyền đi ngang
một chỗ thiêu người chết này, dưới đống
tro tàn c̣n thấy được một cái chân đen
kịt thiêu chưa thành tro.
Chúng ta thử hỏi cái chân thiêu nửa chừng này là
của ai? Không lâu trước
đó nó cũng có làn da rất mềm mại và được
ôm ấp trong ḷng mẹ. Có lúc
nào đó cái chân này đang rảo bước trên bải
cỏ xanh mướt, cũng có thể là có rất
nhiều thanh niên muốn thân cận nó. Rồi theo thời gian trôi qua nó
bắt đầu chai cứng và khô khốc khi người
chủ của nó già đi.
Rốt cục rồi nó biến thành một cái chân
thiêu nửa chừng, đen kịt, nằm dưới đống
tro tàn. Sau một thời gian
nữa th́ nó sẽ biến thành một đống cát trong
sông Hằng. Thêm một
lần nữa chúng ta hăy nh́n kỹ h́nh ảnh và lắng
nghe bài ca bên sông Hằng.
Những h́nh ảnh này của người Ấn
độ mà cũng có thể là của chúng ta nữa!
Có một ông thường
ngày rất thích ăn trầu, hút thuốc, uống rượu
rồi sau này bị ung thư trong miệng. Khi đến bịnh viện khám
th́ chỗ bị ung thư đă lan rộng ra, lở loét đến
quai hàm và g̣ má lủng lỗ.
Chỗ lở cứ chảy nước vàng ra hoài, khi
ông ăn uống th́ thức ăn đều lọt ra
ngoài. Cho dù ông uống rượu
ngon trước đó ông thích nhất cũng rất đau,
khi ăn trầu vào cũng đau như ‘nuốt viên
sắt nóng’. Thân thể cường
tráng của ông dần dần tiều tụy v́ ăn
uống không được; chúng tôi phải đút một
ống dẫn đồ ăn từ mũi vô đến
bao tử. Vợ ông rất
hối hận và nói lúc trước hai vợ chồng
họ cứ căi lộn hoài. Bà
kể lại: “Được rồi, ông chửi tôi ông sẽ
bị ung thư miệng, tôi trù cho ông bị ung thư
miệng. Ai ngờ rằng
ổng bị ung thư miệng thật, người
khổ nhất lại là tôi; ngoài việc phải chăm
sóc vết thương cho ổng, đi khắp nơi
kiếm bác sĩ trị cho ổng, c̣n phải lo kiếm
tiền để trang trải…thiệt là khổ không cách
nào diễn tả được”.
Nếu bà biết trước được cảnh
khổ bây giờ th́ sẽ trân trọng những lúc c̣n
khỏe mạnh và c̣n nói: “Lúc ổng chửi tôi, tôi thà đi
lạy Phật một trăm lạy chúc phúc cho ổng,
mời ổng ăn đồ ngon, tôi cũng không dùng
lời ác độc để trù ổng”.
Hai người cùng nhau niệm
Phật trong ánh sáng từ bi trí tuệ của đức
Phật th́ không tốt hơn là căi lộn hay sao? Rất tiếc là chúng ta thường
chọn lấy những phương thức đối
xử để gây đau khổ lẫn nhau; lúc chưa
bịnh th́ mặc sức hành hạ thân thể này, đến
lúc mang bịnh rồi th́ lại than trời than đất. Hy vọng là chúng ta trong những
nhân duyên tương ngộ rất ngắn ngủi này, hăy
dùng tâm từ bi chân thành đối đăi với nhau;
sự giận tức oán hờn chỉ giúp tạo ra con đường
đầy chông gai đau khổ ở phía trước. Ông rất thích đi câu cá; lúc tay
mang trầu, rượu, và cần câu đi ra bờ sông th́
ông cảm thấy rất thích thú.
Nhưng đến khi bị ung thư loét hết
miệng th́ mới giựt ḿnh sực tỉnh, mới
biết được cảm giác của con cá khi bị lưỡi
câu đâm thủng miệng. V́
miệng lở loét nên ông nói chuyện rất khó khăn, lúc
tôi săn sóc vết thương cho ông, ông rán chịu đau
và nói ra những lời hối hận này, cảm nhận được
khi trước v́ một chút khoái lạc nhất thời mà
gây đau khổ cho những con cá; sự đau khổ đó
bây giờ quay ngược lại đến với ông,
cũng là đau khổ khi miệng bị lủng lỗ;
khi miệng nuốt đồ ăn giống như
cuống họng đang bị thiêu đốt, đang
bị đâm bằng dao, đau quá cũng muốn giằng
co giăy giụa như con cá cắn câu rán hết sức ḿnh để
thoát khỏi lưỡi câu.
Ông dạy cho tôi một bài học nhớ hoài không quên,
đúng là ‘nhân quả tơ hào chẳng sai!’. Có bài thơ như sau:
Mạc đạo quần sanh tánh mạng vi
Nhất ban cốt
nhục nhất ban b́
Khuyên quân mạc đả
chi đầu điểu
Tử tại sào trung
vọng mẫu quy.
(Mạng vật
yếu ớt đừng khinh
Thịt, da, xương
xẩu như ḿnh khác chi!
Chớ bắn chim
trên cành kia
Chim non trong tổ đang
mong mẹ về)
Có một bác bị
ung thư miệng và cũng phải mổ để
cắt bỏ tế bào ung thư ở g̣ má. Cuộc giải phẫu này
rất phức tạp, phải chia ra mấy lần
mới xong, phải cắt da ngực để đắp
lại vết mổ ở g̣ má, và đ̣i hỏi rất
nhiều sức chịu đựng. Ban đêm khi tôi đi tuần pḥng
bịnh nhân, tôi thấy đôi mắt của bác mở thao
láo nh́n lên trần nhà, đêm đă khuya rồi mà bác ngủ
không được; ngoài trời đêm tối lạnh, nước
mắt của bác cũng rất lạnh lẽo thê lương;
chúng ta phải làm sao để an ủi những bịnh
nhân này? Bác đang đợi để
mổ lần thứ nh́ nhưng không sống được
đến lần mổ cuối cùng. Có
lẽ chúng ta thường chờ đợi để làm
một công việc ǵ đó nhưng chưa chắc có
thể sống đến lúc đó, cho nên chuyện tốt
mau mau làm, niệm Phật phải niệm ngay bây giờ !
Lúc chăm sóc
những người bị ung thư miệng, tôi thường
nghĩ đôi lúc ḿnh bị mụt nước lở trong
miệng th́ rất đau, nhất là khi ăn những
thức ăn chua cay vào th́ rất rát, huống chi vết thương
lở loét cả hàm của những người này, khi
uống nước lạnh cũng phải đau đến
run. Khi chúng ta mở miệng
nói lời không tao nhă chỉ dùng năm sáu giây để nói
một câu mà câu nói đó làm cho người nghe đau ḷng
cả đời, và khi quả báo hiện ra th́ cũng đau
đớn như những người bị ung thư hàm
này! Trầu và rượu có
thể đem lại cho người ta một chút khoái
lạc nhất thời nhưng cũng đem đến
những sự đau khổ không thể nào giảm
nhẹ khi mang bịnh vào thân.
Chúng ta phải nên cẩn thận, một giây phút vui sướng ngắn ngủi đi
qua rất nhanh, thời gian chịu đau trên giường
bịnh một ngày dài như một trăm năm!
Pḥng khám bịnh
số 1 và số 2 của bịnh viện nối liền
nhau bằng một cánh cửa tự động. Một hôm tôi thấy có một bà
khoảng năm mươi mấy tuổi nằm ở
pḥng 1. Bà bị ung thư vú và
cần một loại thuốc nhưng bảo hiểm lao động
chưa chịu trả cho thuốc này nên ngoài việc đau
bịnh bà phải lo kiếm tiền trang trải chi phí
thuốc men; bà thường khóc thầm v́ chịu đựng
không nổi áp lực quá lớn.
Lúc đó bên pḥng 2 có một cô mới ba mươi
mấy tuổi và cũng bị ung thư vú, nghe được
chuyện của bà bên pḥng 1 nên lấy hết tiền trong
túi rồi nói với tôi: “Nhờ bác sĩ trao cho bà ở
pḥng kế bên”. Cô vừa khóc
vừa nói: “Chúng tôi đều chịu chung cái khổ
này”. Tôi rất cảm động
và khen ngợi tinh thần Bồ Tát vị tha của cô, tôi
hiểu rơ hoàn cảnh của cô c̣n thiếu thốn hơn
bà kia rất nhiều. Con
của cô c̣n nhỏ nên phải gởi người ta nuôi
giùm, tiền lương của chồng cô rất thấp,
lại không có bảo hiểm, tiền dành dụm đă xài
hết để trả tiền bịnh viện và mổ
xẻ. Khi cô được
giới thiệu đến bịnh viện để
trị liệu phóng xạ, cô tính bỏ mặc vận
mạng đẩy đưa và không trị bịnh nữa
v́ không có tiền; nhưng khi cô nh́n thấy ḍng chữ trên tường:
‘Cho dù ngày mai là ngày tận
thế, tối nay tôi cũng phải trồng đầy
hoa sen trong vườn’ nên mới nghĩ lại, đi
về nhà má mượn tiền, tiếp tục trị
bịnh và duy tŕ mạng sống.
Cô nói: “Sanh mạng
thiệt là vô thường và có nhiều thử thách đầy
đau khổ, tuy tôi không có khả năng lớn lao ǵ
nhưng tôi có một chút tâm nguyện là hy vọng làm
hết sức ḿnh, giúp đỡ những người đồng
cảnh ngộ cho họ sớm ĺa khổ được
vui”. Tôi rất cảm động;
hai người này đều bị bịnh ung thư nhưng
một người th́ âu sầu khổ năo; c̣n một người
th́ vượt thoát sự bi ai của ḿnh, giúp đỡ, an
ủi, và lau nước mắt cho người khác, phát huy
tiềm năng của ḿnh; khi c̣n sống th́ mỗi ngày
trồng một hoa sen, dần dần có nguyên hồ sen thơm
phức. Thử nghĩ
trị bịnh nan y đ̣i hỏi bao nhiêu sức chịu đựng
và bao nhiêu sự giày ṿ; nếu đem sự giày ṿ này đổi
lấy mạng sống âu sầu khổ năo có phải là
rất đáng tiếc không?
Tại sao không ‘trồng hoa sen thanh khiết’ trong tâm
khảm của ḿnh, cho dù chỉ nở một nụ cười
th́ cũng là bố thí, có thể làm cho ḿnh và người
khác đều được vui!
Có câu là: ‘Chỉ cần
một niệm từ bi phát khởi, tật bịnh cùng
khốn đều không ngại !’
Có một bé trai
mới sáu tuổi đă bị ung thư tuyến lâm ba
(lymphatic cancer), mới có bây lớn đă phải trải
qua rất nhiều đau khổ.
Mỗi khi lượng bạch huyết cầu
của em lên cao th́ bác sĩ phải chích một loại
thuốc có tác dụng phụ là ói mửa. Việc làm cho em vui nhất là khi lượng
bạch huyết cầu giảm xuống quá thấp,
thấp đến độ không thể làm trị
liệu hóa học được, bác sĩ sợ độ
bạch huyết cầu quá thấp th́ dễ bị
nhiễm trùng có thể nguy hiểm đến tánh mạng; đối
với em mỗi lần như vậy th́ em vui sướng
như ở tù được thả ra, tạm thời có
thể ‘miễn bị hành h́nh’!
Em nói với tôi: “Mỗi ngày ngoại trừ xem TV th́
cũng là xem TV”. Nhà em cũng
khá giả nên em được ở một pḥng bịnh
riêng. Em nói: “Cô em gần
lập gia đ́nh rồi; cô mời em làm ‘em bé cầm bông’
trong hôn lễ của cô.
Phải chi em có thể trưởng thành th́ tốt
biết mấy, nhưng không biết có thể lớn
nổi không?” Đây là lời nói
của một em bé mới sáu tuổi, thiệt là làm cho người
nghe được không khỏi ngậm ngùi. Có lúc em ngồi ở pḥng đợi
để chờ chích thuốc, trước đó em
rất vui khi mang đồ chơi đến đó,
nhưng đến cửa pḥng th́ nhớ lại ‘đau
khổ gần đến, gần bắt đầu
rồi’ cho nên cụt hứng ngay.
Đôi khi em cắn chặt răng đưa tay tự
ḿnh t́m ra một mạch máu rồi nói: “Lấy chỗ này đi”. Đôi lúc em cũng buồn hiu không
chịu đi vô, em không khóc ra tiếng, chỉ khóc khe
khẽ, lệ ướt đẫm mi. Lần đầu tiên đến để
rút máu từ vành tai em đă khóc hết hai giờ đồng
hồ. Cho đến nay đă
chịu khổ quá nhiều lần rồi, em thừa
hiểu khóc hoặc là nhơng nhẽo th́ cũng không giúp ích được
ǵ nên em rất dũng cảm để chịu đựng. Thiệt là một em bé quá đáng
thương. Trong đời sống chúng ta không muốn già nua th́
phải đoản mạng (chết yểu), nếu không
muốn chết yểu th́ phải già nua!
Có một người
mới ba mươi mấy tuổi đă bị ung thư
mũi vào thời kỳ chót. Thường
thường nếu ba mươi mấy tuổi đă
chết th́ có lẽ bạn nói rất đoản
mạng. Nhưng cô này chỉ
mới ba mươi mấy tuổi đă làm cho người
nhà của cô cảm thấy không thể chịu đựng
nổi nữa. Chồng cô
phải vừa lo cho con vừa lo cho cô nên phải xin
nghỉ hoài, và cũng v́ vậy nên đă mất chỗ
làm. Cả nhà lâm vào hoàn
cảnh thiếu thốn và phải đến hội
Từ Tế xin giúp đỡ.
Hội Từ Tế đồng ư cho cô một số
tiền to lớn để trợ giúp cô trả tiền
nhà thương. Má cô đợi
lâu quá nên than: “Tại sao lâu quá c̣n chưa đem tiền
lại. Lâu quá!”. Tôi nói: “Không phải người
ta thiếu tiền bà đâu.
Tiền này là do hội viên dành dụm, ăn xài
tiện tặn, từ bi đem đi giúp người. Họ không nhẫn tâm thấy bà
chịu khổ chứ không phải người nào cũng
giàu có ǵ đâu”. Bà thở dài
ra! Không phải lo tiền
bạc nữa! Nhưng không
khí trong gia đ́nh c̣n quá ngột ngạt. Bịnh nhân cũng không an tâm
tiếp tục sống, má cô lo cho cô đă quá mệt
mỏi nên nói: “Mày sao không mau chết cho rồi, làm hại
tụi tao phải chịu khổ theo!”. Chồng cô khổ quá thường
lại hỏi tôi: “Cổ c̣n ‘kéo dài’ được bao lâu
nữa?”. Tôi nói: “Xin đừng
dùng chữ ‘kéo dài’ được không? Sống được một
ngày trong cuộc đời này thiệt là rất quư, tương
ngộ một ngày thiệt là hiếm có”. Nếu chỉ chú trọng vào
sự khổ và để ư đến chỗ tối tăm
trong đời sống của ḿnh, cho dù không có bịnh th́
cũng là ‘kéo dài’ mạng sống.
Nếu tích cực nghĩ về những chuyện
tốt, cho dù đời sống rất khó khăn th́
cũng đáng sống.
Nếu trân trọng đời sống, ba mươi
tuổi so với mười lăm tuổi cũng là trường
thọ gấp đôi, so với người sáu tuổi th́ cũng
trường thọ hơn gấp năm lần.
Tâm địa có thể cải tạo vận
mạng. Tôi có người bạn mới
ba mươi mấy tuổi th́ bị ung thư xương,
trước sau tổng cộng đă phải giải
phẫu hai mươi lần.
Sau một lần động mạch ra máu không
ngừng nên phải cưa đứt một chân. Đời sống của cô c̣n khó khăn
hơn người kể ở trên nhưng nhờ biết
áp dụng Phật pháp, lấy tâm biết ơn đối đăi
với nhau, cả nhà sinh sống c̣n vui hơn lúc chưa
bị bịnh.
Cô nói với tôi: “Tôi
rất may mắn, tôi mất đi một chân mà có thể
nghe được Phật pháp.
Nếu không nghe được th́ không biết
phải tạo ra bao nhiêu nghiệp tội, phải chịu
bao nhiêu khổ đau”.
Chồng cô ở bên
ngoài pḥng mổ đợi qua hai mươi lần giải
phẫu, quư vị biết được tâm trạng
của ông chồng này không? Ông
nâng đỡ chăm sóc cô như một vị Bồ Tát,
không hề than thở chút nào.
Sau khi biết Phật pháp, cô chống nạng cùng
chồng nấu đồ ăn đem cho những người
cùng bị bịnh và khuyên họ niệm Phật. Tôi hẹn với cô: “Cô học
thuộc ḷng kinh A Di Đà rồi chúng ta cùng nhau đi lên núi
vừa đi vừa lạy để hồi hướng
cho những người bị bịnh ung thư”. Do đó cả nhà cùng với cô
học kinh, con cô mới học đến tiểu học
nói với cô: “Má học thuộc ḷng kinh A Di Đà một
chữ không sai th́ con cho má năm trăm đồng
tiền thưởng”; Cô
ở nhà vừa làm đồ thủ công vừa học kinh
hoặc niệm Phật, đến tối th́ trả bài
cho mọi người nghe.
Đến ngày cô học
thuộc hết quyển kinh, cô nói: “Cả nhà tôi từ trước đến giờ
chưa khi nào vui mừng giống như hôm đó”. Kể cả tiền thưởng
của con và tiền công kiếm được trong
thời gian học kinh cô có được bốn ngàn đồng,
cô đem toàn bộ đi cúng dường Tam Bảo. V́ muốn đi lên núi mỗi đêm
khi cả nhà đă ngủ yên giấc, cô phải tập
luyện lạy Phật.
Nếu bạn thấy cô dùng một chân để
lạy Phật bạn sẽ cảm động đến
rơi lệ. Chồng cô t́m
cách quyên tiền để làm cho cô một cái chân giả. Cô nói: “Nếu ông có thể quyên được
mười vạn đồng th́ xin đưa tiền này
cho tôi để tôi bố thí; tại v́ một cái chân
cũng đủ dùng rồi”.
Cô chỉ hai cây nạng rồi nói: “Tôi không phải là
thiếu một chân mà ngược lại tôi dư một
chân”. Khi cô nói câu này là lúc
tế bào ung thư đă lan đến phổi nên phải
mổ và trị liệu hóa học thêm một lần
nữa. Nét mặt cô hồng
hồng và thường có nụ cười thật tươi,
nhiều khi c̣n tươi hơn những người không
bịnh nữa. Cô nói: “Nhà tôi
tuy là không giàu có ǵ nhưng bây giờ c̣n vui hơn lúc trước
khi chưa cưa chân nữa”.
Người niệm Phật ngay đời này đă
có thể sống trong Tịnh độ, trong không khí vui
vẻ ḥa thuận của cuộc sống hàng ngày.
Như phần đông
người bịnh ung thư khác, cô cũng không tránh
khỏi t́nh trạng kinh tế thiếu thốn; có người
mời cô mở tiệm làm tṛ chơi điện tử cho
trẻ em có thể kiếm rất nhiều tiền. Cô nói: “Tôi muốn thử chồng
nên cố ư đem việc này hỏi ư kiến của
chồng”. Cô rất vui khi ông
nói: “Chúng ta là người niệm Phật, sợ con ḿnh
bị tṛ chơi điện tử mê hoặc th́ làm sao có
thể làm hại con cái của người khác!”. Tôi rất khâm phục hai vợ
chồng này, tuy trong hoàn
cảnh khó khăn mà họ vẫn có những hành động
rất cao thượng. Có
nhiều gia đ́nh cũng v́ kinh tế khó khăn nên
phải sa vào hoàn cảnh đen tối, ngược
lại gia đ́nh của cô nhờ bị bịnh mà có
thể hướng về đức Phật, đem
những chướng ngại khó khăn của ḿnh
biến thành những đóa hoa sen thơm ngát, rất
xứng đáng làm gương cho người khác.
Có một người
bị ung thư hàm miệng phải giải phẫu để
cắt bỏ tế bào ung thư và phải cắt bỏ
luôn xương hàm dưới.
Bác sĩ phải cắt da trên ngực để đắp
chỗ mổ và bất đắc dĩ ông trở thành người
không có môi. Ông không thể ăn
cơm, chỉ có thể uống súp hoặc thức ăn
lỏng. Ông không thể
ngồi ăn như người thường, phải
nằm xuống để ăn, nếu không th́ thức ăn
sẽ đổ ra. V́ không có
môi cho nên đối với ông không có chuyện ‘ngậm
miệng lại’. Bạn hăy
nh́n những người này làm thế nào rán hết sức
ḿnh để chịu đựng và chống chỏi
với bệnh tật; có nhiều lúc tôi tự hỏi
tại sao ḿnh lại được may mắn hơn
họ? Trong lúc chịu khổ
đau như vậy ai nỗ lực th́ cũng có thể vượt
qua; tuy họ có hoàn cảnh và tâm trạng không giống nhau
và có cái nh́n đời sống khác biệt nhau, nhưng
tất cả đều tin sâu những ǵ Phật nói. Lúc tôi giải thích những điều
Phật dạy cho người trẻ tuổi, nhiều khi
phải nói đến khô cuống họng luôn mà họ
cũng không tin; nhưng đối với những người
đang chịu đau khổ trong bịnh viện, không
cần nói ǵ hết, chỉ hỏi: “Khó chịu, đau
khổ không?”.
Họ đáp:
“Rất khó chịu, rất đau khổ”.
Tôi nói: “Phật nói thế gian là biển khổ,
hăy niệm A Di Đà Phật, đem tâm niệm hướng
về phía quang minh, ĺa khổ được vui”.
Họ không nói thêm câu
nào nữa lập tức bắt đầu niệm A Di Đà
Phật. Hèn chi mới có câu: ‘Thập phương ba đời
chư Phật đều lấy tám thứ khổ làm
thầy’. Khổ là vị
thầy tốt nhất, nhưng chúng ta phải đợi
cho đến lúc này sao?
Lại thêm một người
bị ung thư hàm miệng, ông đă bị mù, tế bào
ung thư đă phát triển đến cổ. Nước vàng không ngừng
từ g̣ má chảy xuống.
Con dâu của ông nói: “Ở nhà tôi xịt không biết
bao nhiêu dầu thơm cũng không làm những mùi hôi này bay
mất”. Tôi nghe rồi mới
nói riêng với cô: “Tôi thấy cô thường dẫn ba
chồng của cô đi khám bịnh, cô rất có hiếu
thảo; chăm sóc cho người bịnh ung thư
rất khổ, nhưng Phật có nói: ‘Trong tám phước điền, chăm sóc cho người
bịnh là phước điền hạng nhất’. Nếu cô tận tâm chăm sóc cho
ông, làm cho ông già được hoan hỷ, tự nhiên phước
báo sẽ vô lượng.
Một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ già đi,
sẽ sanh bịnh, chúng ta đối xử với người
già như thế nào, con cái của ta cũng sẽ bắt
chước theo để đối xử với chúng
ta. Chúng ta phải để ư,
cho dù một hành động lời nói rất nhỏ nào
cũng vậy, cũng phải thương xót và tội
nghiệp cho người bịnh.
Người bịnh không muốn có những mùi hôi như
vậy. Ngày nay một trong ba
bốn người sẽ có một người bị ung thư,
nếu người đó là ḿnh th́ cũng không thể nào
không có mùi hôi; họ bất đắc dĩ phải như
vậy mà, nếu cô có thể bao dung một chút th́ cô sẽ
có thêm phước báo.”
V́ ông bị mù nên
thường hỏi bác sĩ bệnh trạng rất
kỹ: “Bịnh của tôi thật sự ra sao? Bác sĩ nói thiệt cho tôi
biết đi, không hề ǵ đâu.
Điều tôi lo nhất bây giờ là con tôi c̣n một đứa
chưa lấy vợ!”. Ôi chao,
người ta đúng là có vô biên phiền năo, một ḿnh
bịnh nặng mà không lo, lại lo cho ‘đứa con chưa
cưới vợ’!
Khi một người
không có năng lực lo cho ḿnh th́ thiệt ra không có khả
năng và biện pháp ǵ để lo cho người
khác. Nếu không vượt
qua biển khổ của ḿnh th́ không thể nào độ
người khác và giúp họ vượt qua biển khổ
được.
Có một bịnh nhân
ở trước ngực có xâm h́nh rồng và cọp,
chắc trước kia là người trong băng đảng
ǵ đó. Từ ngày bị ung
thư hóc miệng trở đi ông bắt đầu chân
thành sám hối. Ông nói: “Tôi
thiệt đáng đời”, không một lời trách móc,
chân thành ăn năn, giúp đỡ bịnh nhân khác, tận
lực tu thiện. Trải qua
rất nhiều hoàn cảnh khổ nạn cuối cùng ông
cũng đă vượt qua…
Tôi thường nghe
bịnh nhân than thở: “Cả đời tôi đâu có làm
ác, đâu có làm hại ai đâu, đúng là ông trời không có
mắt; tại sao để cho tôi bị bịnh khổ như
vầy?”. Lời này làm tôi suy
nghĩ có thiệt như vậy không? Có thiệt là chưa làm việc ác
không? Nếu đúng như
vậy th́ chúng ta đều là thánh nhân hết. Xem lời Phật dạy, chúng ta
từ nhỏ đến lớn khi gặp chuyện không
vừa ư th́ nổi giận, mở miệng th́ chửi
mắng. V́ dục vọng khi ăn
uống không đoái hoài ǵ đến gà con mất mẹ,
không màng ǵ đến heo con một nhà sanh ly tử
biệt. Không nói lời thành
thật, làm việc không tích cực, thường căi
lời cha mẹ, vân vân.
Tất cả không có thứ nào không bị tham, sân, si
chi phối. Người có
trồng cải rồi đều biết hột cải
tuy nhỏ nhưng lúc mọc ra cây cải th́ không
nhỏ. Lúc quả báo chưa
hiện ra chúng ta c̣n dám nói xấu người khác, hoặc
là trong lúc giận dữ nói lời xúc phạm đến người
khác, dám mời khách ăn hải sản sống. Khi quả báo hiện ra mới
biết khổ không chịu đựng nổi, đến
lúc bị khổ nạn mới cầu nguyện để
tiêu nghiệp chướng.
Lăo ḥa thượng
Quảng Khâm có nói:
“Phải từ thân, khẩu, ư mà tiêu trừ căn
bản của nghiệp chướng”.
Nói một cách khác khi
tham ăn, nghĩ đến con cá chép, con cá trê này cũng là
một chúng sanh mà mười phương chư Phật thương
xót; nói như vậy th́ đó cũng là huynh đệ
của ḿnh, chư Phật đang thương xót, má nó đang
trông đợi nó; khi gặp
chuyện muốn nổi giận nhưng v́ hiểu đó đều
là mộng huyễn cho nên không sanh tâm sân hận nữa. Nhịn không được
muốn chửi người, nghĩ đến họ
cũng là chúng sanh mà đức Phật A Di Đà ngày đêm
trông mong để cứu độ và tiếp dẫn;
họ cũng bị nghiệp lực trói buộc và có
sự khổ năo, cho nên mới chuyển tâm niệm để
nghĩ đến Phật và niệm Phật.
Nếu có thể
sửa đổi ḿnh một cách tích cực, không bị
ngôn ngữ, hành động, ư niệm của thói quen làm chướng
ngại, nghiệp chướng sẽ bị tiêu trừ,
sự khổ của bịnh tật cũng nhờ tâm
niệm từ bi nhu nhuyễn hóa giải và giảm dần đi.
Tôi gặp một giáo
sư trung học, ông là một bịnh nhân rất phi thường. Mỗi lần đi ngang giường
bịnh tôi đều dùng tâm niệm t́m ṭi học hỏi để
quan sát họ. Khi ông vào
bịnh viện th́ ung thư đă lan đến tuỷ xương
sống, đè đến dây thần kinh cho nên hai chân không
thể cử động được nữa. Trải qua một thời gian dùng
phóng xạ trị liệu th́ miễn cưỡng có
thể chống nạng đi được; nhà cầu ở ngay kế bên giường
đối với ông là một khoảng cách rất xa. Ông thường phải phấn đấu
rất khó khăn mới có thể ngồi dậy và đi
vào nhà cầu; mặc dù thân thể của ông rất
yếu nhưng hai mắt ông rất có tinh thần. Ông nói chuyện rất khó khăn
v́ thần kinh trong năo cũng bị ung thư. Lúc ngủ hai mắt nhắm không được,
rồi sau đó xương chân bị găy luôn. Trong lúc bị bịnh nặng như
vậy mà ông nói: “Rất tiếc là bây giờ tôi không
thể dạy học được nữa!” (ông đă là
một giáo sư rất nhiệt tâm dạy học tṛ). Ông nói: “Từng trải qua cơn
bịnh quá đau khổ này làm cho tôi hiểu thêm về
cuộc đời, hiểu rơ được sự
khổ đau của mọi người, tôi sẽ càng thương
yêu chăm sóc học sinh của tôi; rất tiếc là tôi
không c̣n cơ hội nữa!”.
Tôi nói: “Ông là một giáo sư rất đáng kính
trọng, chỉ xem nguyện vọng của ông khi bị
bịnh như vậy th́ biết được”. Ông từ trên giường
phấn đấu để ngồi dậy nhưng
chỉ có thể ngước đầu lên ba tấc. Chúng ta lúc ngồi dậy th́
lập tức ngồi dậy.
Ông phấn đấu đến cả người đổ
mồ hôi ướt đẫm áo cũng chỉ ‘gần’
ngồi dậy được; nhưng ông rất vui và nói:
“Tôi hôm nay có thể nhích được khoảng cách như
thế này”. Đối với tôi,
khi ông ngồi dậy được khoảng 30 đến
40 độ c̣n đáng nể phục hơn lực sĩ
nhảy xa ở Thế Vận Hội.
Ngoài sự phấn đấu
về thể lực ra ông c̣n có tâm nguyện muốn
tiếp tục dạy học và tiếp tục chăm sóc
cho học sinh. Người thường
chúng ta mỗi ngày khoẻ mạnh đầy đủ tinh
thần nhưng thường tính toán chuyện nhỏ
nhặt để đem phiền năo đến cho ḿnh;
chúng ta thường than trách công việc trong chỗ làm, có
sức lực khả năng mà không làm chuyện tốt.
Ông là một bịnh nhân nằm chịu đau trên giường
nhưng lại có nguyện vọng đi dạy học
trở lại để chăm sóc dạy dỗ thêm cho
học sinh. Tuy là ông không
thể làm vậy được, nhưng tâm nguyện
rộng lớn chân thành của ông đă đem ông lên
giảng đài vĩnh viễn và trở nên giáo sư
của hàng vạn người.
Có một người
bị ung thư lưỡi đang trong thời kỳ
cuối cùng. Tế bào ung thư
đă từ lưỡi lan rộng đến cả hàm dưới. Lúc đầu c̣n khoẻ th́ có
thể tự ḿnh đi đứng được, sau đó
phải có hai người vịn ở hai bên mới đi được,
rồi phải ngồi xe lăn, rồi cuối cùng th́
không cử động được nữa. Nước vàng từ những
chỗ bị ung thư rỉ ra hoài; mỗi khi tôi đến
thay thuốc ông thường hỏi: “Tại sao càng ngày càng
lớn vậy?”. Ông nói
chuyện không rơ ràng; khi tôi rửa vết thương thay
thuốc cho ông, ánh mắt của ông nh́n tôi h́nh như là đang
hỏi: “Không biết bịnh của tôi có thể lành được
không? Tôi gần chết
rồi phải không?” Cái tâm
trạng sợ hăi đó chính là tấm ảnh của ‘sanh
tử trên sông Hằng’.
Khi chúng sanh đối
đầu với sanh tử, ai cũng cảm thấy
rất cô độc, sợ hăi, khủng bố. Cho dù là một bà mẹ tám mươi
mấy tuổi cũng co ro vào ḷng tôi khóc nức nở như
một đứa bé … Một
hôm tôi đi nghe giảng kinh và đi ngang qua đường
T. H. Trời lúc đó rất
lạnh, quán bán thịt nai bên đường vừa
mới khai trương. Tôi lái
xe mô tô đi ngang nh́n thấy có ba con nai đang đứng
khép nép trong lồng. Ánh mắt
của con nai đó rất quen thuộc, rất giống ánh
mắt của những bịnh nhân đang nằm trong
bịnh viện, h́nh như họ đang nói: “Tôi sắp
chết phải không? Mau mau cứu
tôi với; không kể dùng thuốc ǵ, dùng phương pháp
ǵ …” Tội nghiệp ba con nai. Hăy thả chúng ra! Thả cho chúng về rừng đi! Một khi hô hấp của chúng
ngừng lại th́ không có cách ǵ có thể làm cho nó chạy
nữa, mau mau kiếm người chủ van xin đừng
giết chúng nó!
Khi quay trở lại
tôi ghé ngang và mua mấy con nai đi phóng sanh. Khi người chủ nghe chúng tôi
muốn đem nai đi phóng sanh, cảm động mà nói:
“Tôi là người nuôi nai, rất thương yêu chúng, không
bao giờ giết hại chúng.
Nhưng v́ kinh tế khó khăn, bất đắc
dĩ hôm nay phải bán chúng làm thịt, tôi cũng rất đau
ḷng!”. Nghe xong tôi rất xúc động,
chúng sanh tạo nghiệp thọ báo đều có những
sự khổ năo bất đắc dĩ như
vậy. Thật ra mỗi người
đều có Phật tánh; đây cũng là lư do mà đức
Phật A Di Đà luôn luôn khoan dung, thương xót, chờ đợi
đến lúc chúng ta có một niệm quay đầu
trở về với quang minh.
Chúng tôi mua nai xong đem chúng đi quy y Tam Bảo
rồi thả vào rừng, hy vọng là chúng sẽ không
bị bắt trở lại, và cũng nguyện cho
những người đi săn có thể phát Bồ đề
tâm, gặp nhân duyên thiện có thể đổi nghề
nghiệp, chấm dứt nghiệp sát để khỏi
chịu khổ báo nữa.
Bịnh nhân thường để một
con cá trê hay cá chép trong nồi hay thau nước ở dưới
giường hoặc trên bàn để ăn cho bổ. Khi tôi đến thăm bịnh
th́ thấy h́nh như những con cá này đang vùng
vẫy. Có một hôm tôi đến
giường bịnh của một cô bị bịnh ung thư
vú. Cô là một tín đồ Cơ
Đốc giáo rất trẻ, mới hai mươi bảy
tuổi đă bị bịnh này; bạn có thể tưởng
tượng được khổ tâm của cô không? Hai tay cô lúc nào cũng lạnh. Ở dưới giường cô
có để một con cá; tôi nói với cô:
“Có người đang
kêu cứu ở dưới giường cô”. Cô mở mắt thật lớn và
tỏ vẻ rất ngạc nhiên.
Tôi hỏi cô:
“Lúc biết được
mắc phải bịnh này th́ cô rất hy vọng sẽ có
người cứu cô hết bịnh phải không?”. Cô gật đầu, tôi nói
tiếp:
“Con cá dưới giường
biết là nó sắp sửa vô chảo nóng, cảm tưởng
của nó cũng giống cảm tưởng của cô bây
giờ. Cô chịu làm Chúa Giê Su
đi cứu con cá này không? Con
cá đang cầu cứu cô đó.
Cô hăy xem”.
Mắt của cô đỏ
lên (muốn khóc). Tôi mới nói
thêm:
“Cô phát tâm cứu chúng
nó, lúc cô bị chuyện khó khăn hay tai nạn, tự
nhiên sẽ có người lại cứu cô”. Cô vui mừng chịu đem cá đi
phóng sanh. Sau đó một
vị đạo hữu ở trường đại
học Chuyên Khoa Đài Trung giúp cô đem cá đi phóng sanh…
Nhiều khi tôi nói
với bịnh nhân: “Bán cho tôi nồi cá sống này được
không?”.
Bịnh nhân thường
nói: “Nếu bác sĩ thích ăn
th́ tôi tặng cho bác sĩ”.
Tôi trả lời:
“Tôi ăn chay, không ăn cá, tôi muốn mua những con cá này đi
phóng sanh, đem công đức phóng sanh này hồi hướng
cho bạn, hy vọng là bạn cũng giống như con cá
này cũng được giải thoát, khôi phục lại
sức khoẻ, sớm lành bịnh về nhà đoàn viên
với gia đ́nh.”
Thông thường
những bịnh nhân đă chịu quá nhiều đau
khổ hoặc có kinh nghiệm đi gần đến cánh
cửa sanh tử đều hiểu rơ ‘t́nh cảnh của
ḿnh cũng giống như của con cá’. Họ thường phát tâm từ
bi đem cá đi phóng sanh. Tâm
niệm đem cá phóng sanh thường có thể làm cho
họ có cảm giác vui vẻ, cổ vơ sự yêu
đời của họ, và làm tươi nhuận đời
sống họ nhiều hơn là ăn cá.
Có một người trẻ tuổi khi đi
trên phố nửa đêm bị kẻ bất lương đâm
vào bụng bị thương nằm ngă quỵ ở bên đường. Sau đó được người
ta chở vào nhà thương, vết thương quá lớn
nên ḷi ruột ra, gan và mật cũng bị thương. Chúng tôi nửa đêm phải giúp
anh giải phẫu và khi đó anh không có người nhà đi
theo nên chúng tôi phải chụp h́nh vết thương trước
khi giải phẫu để ngừa trường hợp
giải phẫu có trục trặc ǵ phải có bằng
chứng bị thương trước… (Trong xă hội
hiện nay chúng ta cứu người cũng không phải
là chuyện dễ dàng!). Anh này
mới đính hôn không bao lâu, bạn có thể tưởng
tượng được sự bối rối, lo
lắng của người vợ sắp cưới khi
nghe tin anh bị thương không?
Những thứ trong bụng chúng ta thật không
phải là vật ǵ tốt đẹp, đức Phật
nói với chúng ta về ‘quán bất tịnh’, chúng ta có
thể quán tưởng thử xem.
Nếu lúc đính hôn mà lấy một tấm h́nh
vết thương bụng máu me tùm lum đem cho người
ta xem, chắc rất ít người sẽ chịu đính
hôn với bạn!
Có một bịnh nhân
nọ vào bịnh viện để trị bịnh xương,
phía trên chân có gắn một cây bằng kim loại xuyên qua xương
và qua luôn cả bắp thịt phía bên kia. Phía dưới chân cũng xỏ
thêm một cây như vậy.
Bạn có thể tưởng tượng khuôn mặt
và tiếng hét kêu đau của người này lúc đút cây
vào xương. Nếu người
đó là bạn th́ bạn có thể mỉm cười được
không? Chúng ta thử đoán
xem? Bạn thấy những
chỗ bán chim nướng ở chợ đêm không? Có cả năm mười con chim
xỏ chung vô một xâu treo lủng lẳng trước quày
hàng. Sự đau khổ ǵ gây
ra cho những chúng sanh khác một ngày nào đó cũng có
thể xảy ra đến thân thể chúng ta. Khi chuyện đó xảy ra th́
chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn,
một chút xíu cũng không dễ chịu. Nhưng chúng ta thường đem
sự đau khổ này gây ra cho chúng sanh khác một cách vô
t́nh và xem như không có ǵ xảy ra.
Hăy nghĩ đến sự khổ của chúng sanh, và
cũng nên nghĩ đến hạnh phúc lâu dài, xin tất
cả mọi người đừng làm vậy nữa, để
khỏi ‘hư tiếu sát tha mạng, bi khốc nhập địa
ngục’ (cười vui khi giết mạng sống của
con vật, rồi khóc than lúc vào địa ngục).
Có một người
bị ung thư tử cung mỗi lần gặp tôi
đều khóc. Bà đă ly
dị và một ḿnh nuôi mấy đứa con rất
cực khổ; đứa nhỏ mới học tiểu
học th́ bà bị bịnh này.
Mỗi ngày âu sầu phiền muộn qua ngày… Thật ra trước đó bà đă
trị bịnh gần hết rồi; nếu bà có được
chút ít trí tuệ trong đời sống… th́ cũng có
thể sinh sống vui vẻ.
Người ta có thể trị hết bịnh ung thư,
nhưng sự đau khổ trong tâm nếu không dùng trí
huệ và nghe Phật pháp th́ trừ không hết. Bà đă được trị
liệu bằng phóng xạ, bằng giải phẫu,
chỉ thiếu một chuyện là không thỉnh đức
Phật mổ cho tâm bà. Sự
giải phẫu có hiệu quả nhất là phải
giải phẫu trong tâm, bứng tận gốc rễ
của phiền năo, để bà đừng ôm cứng cây
cổ thụ phiền năo mỗi ngày mà cứ tưởng
là cây phiền năo quấn chặt lấy bà.
Có một bà lăo lúc vào
bịnh viện băng kín vải trên mắt. Lúc tôi mở băng ra trong tâm
cảm thấy đau nhói! Bà
lăo này có gương mặt rất hiền hậu, tṛng
mắt bà đă bị móc ra v́ bị ung thư nên phải
làm như vậy. Chúng ta có khi
nào nghĩ đến lúc dùng đũa để gắp
tṛng mắt của con cá trên bàn ăn? Chúng ta thử nghĩ đến
Helen Keller, một vĩ nhân bị điếc, câm, và mù đă
viết như vầy: ‘Nếu mắt tôi có thể sáng
lại được chỉ ba ngày thôi, chỉ ba ngày thôi…’. Chúng ta có thể trong một trường
hợp nào đó sẽ bị mất đi đôi mắt,
vậy mà lúc c̣n đôi mắt th́ lại nh́n đông, nh́n tây
và tự ḿnh sanh ra phiền muộn? Tại sao chúng ta không nh́n ánh
mắt từ bi của đức Phật? Tại sao không nh́n về phía có vô
lượng hào quang? Chúng ta thường
dùng cặp mắt quư báu để nh́n rác rến ở chung
quanh; đem rác rến của người khác bỏ vào tâm
khảm của ḿnh. Để lâu
rồi th́ cả nội tâm giống như một cái thùng
rác hôi thúi nên phải xa cách với chúng Bồ Tát trong thanh
tịnh đại hải. Xin
hăy mở rộng con mắt của nội tâm, nhân lúc c̣n
nh́n thấy được, hăy nh́n cái tốt đẹp
của người khác, học tập ưu điểm
của người khác; hăy cảm nhận thêm một chút,
hăy nh́n thêm ‘cám mục trừng thanh tứ đại
hải’ (bốn biển lớn trong ngần mắt
biếc) của đức Phật A Di Đà, hăy nh́n phong
cảnh cực kỳ xinh đẹp của thế
giới Cực Lạc, và tấm ḷng rộng lớn như
biển của chư Bồ Tát.
Có một người
bị ung thư ở thực quản, hô hấp bị khó
khăn, phải đút một ống từ mũi vào
phổi để giúp sự hô hấp và một ống để
đút đồ ăn vào bao tử; có khi bà phải rán
sức để ho, mỗi lần ho th́ đau như xé
ruột gan, toàn thân run rẩy v́ đau đớn. Chồng bà nh́n thấy cảnh tượng
đau ḷng như vậy chịu không nổi nên chạy ra
hành lang mà khóc. Đôi lúc tôi đi
chợ nh́n thấy những con gà bị treo trên quày thịt
cũng tội nghiệp như vậy. Trên cổ của con gà nào cũng
có khoét một lỗ để treo, rất ít người
thương hại sự đau đớn của chúng
nó; nhưng đến khi người
đút ống thở vào mũi là vợ, là con, hoặc là
mẹ của bạn th́ bạn cũng sẽ đau nhót
ruột mỗi khi họ ho và thở mạnh.
Có một người
làm nghề bán thịt heo, ông bị ung thư phổi được
một thời gian th́ qua đời. Tôi nghe vợ và con ông kể
lại khi ông về nhà mấy ngày hôn mê không tỉnh
nhưng miệng cứ la hét và nói:
“Mau mau đem
những gan heo treo trên tường đi chỗ khác”. Hoặc là:
“Mau đem đầu
heo đi chỗ khác”.
Ông cứ kêu la như
vậy suốt mấy ngày đêm, mọi người trong
nhà sợ đến lông tóc dựng đứng nhưng
không hiểu ông nói cái ǵ.
Cảnh tượng lúc ông chết rất là dễ
sợ, ông chịu rất nhiều đau khổ. Từ đó người nhà
của ông mới biết nhân quả báo ứng của
sự sát sanh; khi ông nằm bịnh viện tôi đă khuyên
người nhà ông niệm Phật, nhưng họ nói trong
lúc buồn khổ như thế th́ làm sao niệm được? Tuy đức Phật A Di Đà có ḷng
đại từ bi tiếp dẫn người niệm được
mười danh hiệu Phật lúc lâm chung văng sanh về cơi
Cực Lạc, nhưng lúc c̣n khỏe mạnh người
ta rất khó niệm được v́ bị mê hoặc
bởi t́nh ái của thế gian, huống chi là lúc gần
chết bị sự bịnh khổ giày ṿ, hành hạ th́
làm sao có thể niệm được! Nguyện cho sự thị
hiện thuyết pháp của người bịnh này làm cho
người khác nghe thấy được và rút tỉa
kinh nghiệm để tránh khỏi sự đau khổ tương
tợ. Và cũng nguyện công
đức cảnh giác chúng sanh của ông có thể giúp ông
ĺa cảnh khổ và được Phật tiếp
dẫn. Và cũng nguyện cho
những chúng sanh bị ông giết hại nương vào nước
cam lồ của Phật pháp, cởi mở gút mắt trong
ḷng, đồng niệm Di Đà, đồng sanh tây phương,
đồng thành Phật đạo.
Người khỏe
mạnh thường than ngủ không đủ. Trong bịnh viện có quá
nhiều nước mắt, sự đau khổ kéo dài lây
lất! Người chưa
tới số, nằm nướng trên giường và nói
đồng hồ reo báo thức quá ồn. Người tới số,
suốt đêm chiến đấu và dằng co với sanh
tử. Có một người
bị ung thư ở hàm dưới và lan đến
cuống họng. Ông không
thể nuốt được, hô hấp cũng khó khăn,
cho nên bác sĩ mới khoét một lỗ ở bụng để
đút ống dẫn thức ăn vào dạ dày, và khoét
một lỗ ở cổ để giúp sự hô
hấp. Chúng ta có thể ăn
uống không cần khoét lỗ để đút đồ ăn
và hô hấp không cần khoét lỗ đút ống th́
thiệt rất quư, rất đáng biết ơn!
Vài ngày trước
khi ông mất, có thể nói là mỗi ngày đều chảy
máu một chút, cách hai ba ngày lại chảy máu nhiều; máu
từ miệng và mũi chảy ra, từ chỗ đút
ống thở chảy ra. Những
người y tá và bác sĩ trực rất muốn cứu
ông nhưng chỉ có thể đứng một bên cầm
cái thau để hứng máu từ thân ông chảy ra,
rồi phải truyền máu cho ông tại v́ máu trong ḿnh ông
chảy ra từ những chỗ không thể cầm được. Có một lúc máu của ông chảy
ra dính vào cả người tôi.
Đôi mắt của ông đỏ ngầu và sưng
lớn lên trông rất dễ sợ. Cả đêm chúng tôi ở bên
cạnh chăm sóc và hứng máu cho ông. Sáng ngày hôm sau c̣n phải tiếp
tục khám bịnh nên tôi mới nhờ một người
bạn đem áo lại cho tôi thay.
Áo tôi có thể thay c̣n áo của ông th́ không thể thay được! Bạn biết không, mỗi
lần ông cử động mạnh một chút là máu
chảy ra nhiều thêm nữa.
Chúng tôi phải không ngừng tiếp máu vào cho ông nhưng
cũng không nhanh bằng máu từ người ông tuôn ra;
thuốc men ǵ cũng hết công hiệu; thân thể ông
cứ chảy máu như vậy và hành hạ ông cả ngày,
cả đêm. Người ta
muốn nhắm mắt một cách êm đềm thiệt
không phải là một việc đơn giản!
Từ hôm đó tôi
hiểu thêm một chút về vấn đề sanh tử,
cái h́nh bóng phản chiếu trên sông Hằng rất có
thể cũng là h́nh bóng của chính ḿnh!
Có một em trai 16
tuổi là một học sinh hạng nhất trong lớp;
em bị bịnh ung thư năo.
Em đă phải mổ năo bốn lần mà ba lần mổ
được tiến hành trong cùng một năm. Em vào
bịnh viện lần này để trị liệu phóng
xạ, xương năo của em bị cắt đi một
khoảng cho nên cái đầu bị lơm vô một bên. May mà tánh mạng c̣n duy tŕ và có cơ
hội nghe được Phật pháp. Một hôm tôi nhận
được một bức thiệp cám ơn của ba
em gởi. Trong đó ông nói là
em nhờ ông viết và hy vọng nếu thuận tiện
th́ xin gởi cho em một tượng Phật để em
lễ lạy. Ông rất khách
sáo sợ làm phiền tôi, và làm như là bất đắc
dĩ lắm mới xin tượng Phật. Tôi cảm động đến
chảy nước mắt nên lập tức đi
thỉnh một tượng Phật A Di Đà cho em. Ông ở Phong Nguyên, tôi quá bận
nên phải nhờ một cô y tá đem cho ông. Cô y tá này kể lại khi cô
vừa đến th́ em từ trên giường ngồi
bật dậy, v́ nửa thân người gần như
cử động không được nên đi cà nhắc
nhưng rất hăng hái và có tinh thần để đi
lạy Phật. Nh́n cảnh
tượng như vậy nên cô cảm động và nói:
“Tứ chi tôi c̣n khỏe mạnh nhưng từ
trước đến nay không bao giờ có ư muốn
lạy Phật, nh́n thấy em chí thành như vậy,
phấn đấu hết sức lực yếu ớt
của ḿnh để lạy Phật, tôi rất xấu
hổ”.
Khi người ta c̣n
khoẻ mạnh đi đứng cử động
được, th́ cứ nghĩ đó là tự nhiên, ít khi
nào quư trọng. Thời gian
thân thể khỏe mạnh không thể kéo dài hoài
được, những đoạn trước có kể
người ta có thể mất đi miệng, mất
cuống họng, thậm chí đến mất bộ
năo. Ngày nay chúng ta c̣n có
miệng chúng ta nên học những lời nói ôn ḥa tốt
đẹp, cùng nhau khuyên nhủ giúp đỡ, cùng nhau
niệm câu vạn đức hồng danh ‘A Di Đà
Phật’. Chúng ta không biết
khi nào có thể mất đi bộ năo, ngày hôm nay nên dùng nó
để nghĩ đến hào quang và ḷng từ bi của đức
Phật.
A Di Đà Phật. A Di Đà Phật.
Khi tôi làm bác sĩ
nội trú vào năm thứ nhất, có một đêm
trực ở pḥng cấp cứu.
Nửa đêm có một người bị nghẽn
động mạch cơ tim, đă ngừng hô hấp và hôn
mê không tỉnh. Mặt và
lưỡi đă biến thành màu tím ngắt. Máy đo tim và kết quả
thử máu cho biết là tim đă bị hư hoại
trầm trọng; theo kinh nghiệm của bác sĩ chủ
nhiệm th́ bịnh trạng nhẹ hơn người này
cũng không cứu được nữa huống chi là
t́nh trạng nặng như người này nên nói cho
người nhà phải ‘chuẩn bị tinh thần’. Tôi cứ theo lệ thường
vừa niệm Phật vừa lo cấp cứu bịnh
nhân. Dùng hết nhiều
thứ thuốc rồi nhưng huyết áp của ông không
thế nào đo được, ông vẫn c̣n hôn mê và không
thể tự ḿnh hô hấp.
Vợ của ông đau ḷng nói với tôi:
“Người ta nói ông
trời thương và giúp đỡ người hiền
lương, nhưng tại sao ông trời không thương
tôi?”. “Xin bác sĩ t́m mọi
cách để cứu ông, cho dù ông biến thành ‘người
thực vật’ th́ tôi cũng chịu chăm sóc cho ông”.
Tôi cảm thấy là
bà rất đôn hậu và thật thà nên mới khuyên bà:
“Lúc người
gặp tai nạn lớn, phải phát đại nguyện
niệm Phật th́ hy vọng có thể vượt qua”.
Bà nói: “Làm sao phát
đại nguyện?”.
Tôi nói: “Dùng tâm chí thành
của ḿnh mà phát đại nguyện”.
Bà liền nói: “Từ
nay trở đi hai vợ chồng chúng tôi sẽ ăn chay
trường và niệm Phật; ông ta là thầy giáo, khi
hết bịnh có thể hoằng dương Phật pháp”.
Tôi đưa bà và
mấy người con mỗi người một xâu
chuỗi và nói: “Đêm nay quư vị nóng ḷng chờ đợi
trong pḥng cứu cấp th́ cũng không ích lợi ǵ, không
bằng đem tâm bồn chồn này lắng xuống
để niệm một vạn danh hiệu Phật A Di
Đà, cầu Phật gia bị, Phật lực không thể
nghĩ bàn. Chúng tôi rán hết
sức để cứu ông, quư vị v́ ông mà niệm
Phật, nếu thọ mạng của ông hết th́ ông
cũng có thể văng sanh Cực Lạc”. Đêm đó ba người bác sĩ
chúng tôi cứ nh́n các điện đồ đo tim và
đo máu, điều chỉnh lượng thuốc từ
7 giờ chiều đến 3 giờ khuya. Một trong ba bác sĩ than là:
“Chúng ta ba người trực cả đêm để lo cho
một người mà không đo áp suất máu
được!” (Nghĩa là
người này nếu không có gắn máy th́ không thể
tự ḿnh hô hấp được). Điều kỳ lạ là
đến khoảng bốn năm giờ sáng th́ áp suất
máu của ông từ từ tăng lên, ông cũng từ
từ tỉnh lại. Tôi
lập tức đi thông báo cho người nhà của ông. Tôi rất cảm động khi
mở cửa nh́n thấy cả nhà ngồi xếp thành
một hàng đang niệm Phật một cách rất chí
thành. Con của ông viết trên
một trang giấy: “Thưa ba, con rất muốn ba mở
đôi mắt hiền từ ra”.
Có một thanh niên
đến thăm ông và khóc sướt mướt làm tôi
cứ tưởng là con của ông.
Người thanh niên đó nói: “Ổng là thầy tôi,
lúc trước ổng ở trong một chái nhà lụp
sụp, dùng hết tiền lương để cung
cấp lo cho đám học sinh chúng tôi. Nếu không có thầy th́ hôm nay
không có tôi, xin bác sĩ nhất định phải cứu
sống ổng”. Lời nói
chưa dứt th́ lại khóc tiếp; sau đó tôi mới
biết ông đă được chọn là một trong
‘mười vị thầy có ḷng thương học tṛ
lớn nhất’. Sau khi ông
tỉnh lại phải tiếp tục dùng máy để
trợ giúp hô hấp thêm ba ngày nữa. Lúc đó ông bắt đầu
niệm Phật; ngoài bịnh
bị nghẽn động mạch cơ tim ông c̣n bị
bịnh phổi nữa.
Cuối cùng ông cũng lành bịnh và tự ḿnh
bước đi ra khỏi bịnh viện. Sau đó ông trở lại
bịnh viện kiếm tôi để hợp tác in kinh. Những bác sĩ xem qua tâm
điện đồ và kết quả thử máu rồi
thấy sức khoẻ ông từ từ b́nh phục
đều cảm thấy không thể tưởng
tượng nổi.
Có một cô gái
rất đẹp, lúc trước từng là hoa khôi trong
trường. Trên mặt
bị bịnh ung thư sưng lớn lên khoảng gần
bằng ba cái đầu chụm lại. Lúc tôi mới gặp và nh́n thấy cô th́ có cảm
tưởng như là có đứa bé đang ngồi trên
đầu. Tuy cô phải
chịu đựng sự đau khổ to lớn này
nhưng nghĩ lại cũng c̣n may. Trong thời gian đau khổ này
cô biết đến Phật pháp, cô than là: “Rất tiếc
tôi nghe được quá trễ!”.
Nhưng nếu kịp thời phát tâm th́ cũng không
trễ. Trong trường
hợp đau khổ như vậy nếu người khác
th́ đă kêu trời kêu đất rồi, ngược
lại cô c̣n có thể niệm Phật. Cô đem sự đau khổ
biến thành nước cam lồ của ḷng từ bi,
đổi sự áo năo buồn rầu thành ánh sáng thanh
lương, tâm cô đă nương dựa vào đức
Phật A Di Đà. Cô đem
tất cả tài sản của cô ra để cúng
dường cho mọi người và dặn ḍ chuyện
lâm chung đại sự.
Rất nhiều pháp sư và liên hữu cũng cảm
động và từ bi niệm Phật tiếp cô. Một hôm cô đưa năm
trăm đồng nhờ tôi mua hột giống hoa đem
gieo trong chùa hoặc là phía trước của Tịnh
Nghiệp Tinh Xá Niệm Phật Đường; cô nói là
để khi nào hoa nở có thể cúng Phật, có hoa
nở ra hoài để cúng Phật.
Chúng ta là người khoẻ
mạnh nhưng không ai có tâm niệm đẹp như
cô. Có lẽ bạn sẽ nói
mặt của cô rất xấu xí, diện mạo không c̣n
đẹp như xưa nữa, nhưng nghĩ lại
chúng ta có tâm niệm đẹp như cô không? Cô đưa tôi sợi dây
chuyền quư nhất mà má cô tặng cho cô lúc trước và
nói: “Nhờ bác sĩ bán sợi dây chuyền này xong rồi
đem tiền đi in kinh, cúng dường Tam Bảo…
tuỳ tiện làm thế nào cũng được,
miễn là có thể làm lợi ích cho chúng sanh”. Thật là hiếm có, trong lúc cô
chịu đựng muôn vàn đau khổ mà lại có
được tâm niệm đẹp như vậy,
bạn đă thể hội được sức lực
của Phật pháp hay không?
Rất nhiều người vào thăm cô, cô nói: “Tôi bị
bịnh này là do nghiệp báo [của những chuyện ác mà
tôi làm lúc trước], quư vị thăm tôi rồi sau này
phải đừng làm việc ác, nên làm việc lành, luôn luôn
nhớ như vậy, phải biết dự trữ
đồ ăn pḥng khi đói kém.
Mau sớm niệm Phật th́ mới không uổng
chuyến đi thăm tôi lần này”.
Có một ông già tám
mươi tuổi bị ung thư phổi từ viện
dưỡng lăo đến. Ông nói: “Lúc ông năm tuổi th́
cha ông mất, tám tuổi th́ mẹ mất, một
người sống cô đơn đến nay đă 80
năm”. Có thể nói là ông
đă nếm đủ hết mùi vui, buồn, ly, hiệp
trong đời. Đến nay
đă già lại mắc phải bịnh nặng, suốt
ngày phải nằm trên giường. Có một đêm ông ngồi
dậy ôm gối tự nói chuyện với ḿnh : “Tôi muốn
đi về, tôi muốn đi về”; giọng nói rất
là thê lương, nhưng lúc đứng dậy th́
đứng không vững và lại té bị
thương. Răng trong
miệng đă bám đầy bựa, mỗi ngày y tá phí bao
nhiêu sức lực để kêu ông chà răng, ông nhất
định không chịu chà và nói: “Người muốn
chết rồi, chà răng để làm ǵ nữa!”. Đă gần hai tháng ông không chịu
ăn ǵ hết nên gần kiệt lực v́ đói. Rất khó khăn lắm tôi
mới để thuốc và thức ăn vào miệng ông,
nhưng ông nhất định không chịu nuốt và
quyết tâm muốn chết.
Sau đó đại
và tiểu tiện cũng không khống chế và
điều kiển được; đi đại
tiểu tiện ngay trên giường bịnh. Ông không có gia đ́nh, người
làm trong bịnh viện không đủ, không có người
túc trực ở kế bên để thay vải trải
giường và thay quần áo.
Sau đó cả quần áo cũng không c̣n sức
để mặc mà cũng không chịu mặc, chỉ c̣n
trơ da bọc xương như vậy nằm trên
giường. V́ ông không
chịu ăn cơm cho nên chỉ có thể chích thuốc.
Có một bịnh nhân
đă già, có người nói ông đă 80 tuổi, có
người nói ông đă 90 tuổi.
H́nh như trước kia ông là giáo sư trường
đại học Bắc Kinh, diện mạo của ông
rất giống người trí thức. Ông không phải là bịnh nhân
thuộc chuyên khoa chữa trị của tôi. Từ lúc đầu tiên khi tôi
gặp ông th́ ông đă hôn mê bất tỉnh. Mỗi lần đi vào pḥng
bịnh tôi chỉ có thể niệm ‘A Di Đà Phật, A Di Đà
Phật’ vào tai ông. Cứ
như vậy cả hai tháng ông chưa khi nào có một chút
phản ứng ǵ hết. Sau cùng
ông tỉnh lại, có chút phản ứng và nh́n tôi, ra
hết sức h́nh như muốn niệm ‘A Di Đà Phật’,
nhưng không có sức để niệm ra tiếng.
H́nh như tôi đă
đem h́nh tượng của những người lớn
tuổi kéo xuống tận đáy thẳm vực sâu, như
thế có phải quá tàn nhẫn hay không? Nhưng nếu không diễn
tả rơ ràng như vậy th́ mọi người không
hiểu rơ những chuyện trong thế gian, không buông
xả được th́ không thể đạt
được hạnh phúc tự tại. Nếu không kịp lúc hồi
đầu niệm Phật e rằng sẽ hối hận
vĩnh kiếp về sau!
Phần đông khi
người ta sắp chết th́ hô hấp rất khó
khăn. Nếu đang ở
trong bịnh viện th́ bác sĩ sẽ đút một ống
vào miệng hoặc vào mũi vô khí quản đến
phổi để duy tŕ sự hô hấp. Đến lúc nguy
cấp th́ đẩy vào pḥng có y tá túc trực thường
xuyên để theo dơi bịnh nhân.
Có khi dùng duỡng khí chụp vào mũi để giúp
cho bịnh nhân thở.
Khắp nơi trên thân thể chỗ nào có thể
đút ống vào th́ cũng đều đút ống, thí
dụ đường tiểu th́ đút ống vào để
thông tiểu, miệng th́ đút ống vào để
dẫn thức ăn vào bao tử, hoặc mũi th́ đút
ống vào phổi, chỉ thiếu một thứ là không có
một ống ǵ để dẫn ánh sáng của đức
Phật A Di Đà vào tâm khảm của người ta. Một pḥng bịnh có y tá túc
trực (intensive care) th́ cũng giống như một
địa ngục ở trần gian. Có lẽ những thiết bị
tối tân này đă cứu sống rất nhiều
người, nhưng thiệt ra đối với bịnh
nhân, không kể là chữa lành bịnh hay không đều là
địa ngục rất dễ sợ, không người
nào thích bị đưa vào thêm một lần nữa! Lúc trước khi đọc kinh
Địa Tạng tôi thường nghĩ là chư Phật
Bồ Tát sợ chúng sanh làm chuyện ác, cố ư nói ra
để dọa người, đâu có chỗ nào là
địa ngục thiêu đốt, địa ngục cắt
lưỡi, … cái khổ ǵ cũng có, rất là dễ
sợ, h́nh như đều là dọa người ta. Đến khi tôi vô bịnh viện
th́ mới biết đức Phật nói câu nào cũng
đều là sự thật, và cũng hiểu
được tại sao đức Phật ở trong kinh
đă nhiều phen dặn ḍ và phó chúc Địa Tạng Bồ
Tát là:
“Đừng để chúng sanh đọa vào ác
đạo [cho dù chỉ là] một ngày một đêm”. Nhất
định phải nói rơ cho chúng sanh biết những sự khổ trong nhân
quả báo ứng này, đừng để cho chúng sanh
đọa vào ác đạo chịu khổ một ngày
một đêm.” Nhưng lúc
b́nh thường chúng ta có để ư và hiểu tâm từ
bi này của Phật không?
Khi bịnh nhân kêu tôi
nửa đêm, lúc tôi rất mệt và buồn ngủ nhưng
phải tỉnh dậy để đi thăm họ,
săn sóc, cho thuốc hoặc là trị liệu, lúc đó
thấy chúng sanh đang chịu đựng bên bờ sanh
tử, những câu trong kinh Bát Đại Nhân Giác liền
hiện ra trong tâm:
“Sanh
tử thiêu đốt, khổ năo vô lượng, phát đại
thừa tâm, phổ tế tất cả, nguyện chịu
thay vô lượng khổ cho chúng sanh, làm cho chúng sanh đến
được sự sung sướng viên măn”.
Nhưng khi nh́n
thấy những cảnh tượng quá khổ này, kêu
bạn đi chịu khổ thay cho chúng sanh bạn có
thể làm được không?
Thử hỏi những sự khổ đă kể
ở đoạn trước, bạn có thể thay thế
cho họ một đêm không?
Tôi không nói chuyện ‘thay thế’ này quá khó, chỉ là
ở một bên để săn sóc an ủi người
bịnh liên tục mấy đêm liền không ngủ,
cả ngày lẫn đêm th́ đă quá khó rồi (thường
th́ bạn sẽ cảm thấy đầu nặng, tim đập
mạnh hơn lúc trước…).
Tu hành trong nhà Phật
trừ tâm từ bi ra, c̣n cần có ḷng tin vững chắc,
nguyện lực rộng lớn, niệm Phật chuyên
cần th́ mới có khả năng thoát ra khỏi lục đạo
sanh tử luân hồi khổ năo.
Thiệt ra không nói là thay thế chịu khổ,
chỉ ‘nghe’ thôi, cả ngày ngồi ở đó từ sáng đến
tối nghe người ta than thở: “Tôi khổ như
thế nào”, “nhà tôi có sự khổ vô cùng”, để cho
bạn nghe một ngày 24 giờ, liên tục mấy ngày
liền th́ bạn sẽ hiểu.
Sau khi tôi ‘nghe’ một thời gian, có một hôm khi tôi đang
niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ nghe có tiếng người
khác cũng đang niệm “Nam mô Đại từ Đại bi
Quán Thế Âm Bồ Tát”, nghe xong câu này tôi liền có một
niềm xúc động vô hạn, chảy nước
mắt lúc nào không hay.
Thật đúng như vậy, đừng
nói để bạn thay thế chúng sanh chịu vô lượng
khổ, chỉ để bạn ‘nghe’ sự khổ th́
liền biết ḷng từ bi vô biên của Bồ Tát. Ngài đă phát nguyện “lắng
nghe chuyện khổ nạn trong thế gian”, chỗ nào có
người chịu khổ liền lập tức đến
để cứu họ. Chúng
ta lắng tâm để niệm Bồ Tát, từ danh
hiệu của một vị Bồ Tát th́ biết được
ḷng từ bi vô cùng tận của chư Bồ Tát, tâm địa
rộng lớn không thể nghĩ bàn của quư ngài.
Khi đôi mắt tôi
nh́n thấy sự buồn rầu, lo sợ, khủng
bố của những người sắp chết, đôi
tai nghe vô số tiếng khóc lúc sanh ly tử biệt, quay
lại niệm ‘vô lượng quang minh và vô lượng
thọ’ của đức Phật A Di Đà, tự nhiên
lại tràn đầy nước mắt và cảm nhận
được sự từ bi thông cảm vô cùng thân
thiết chứa đựng trong danh hiệu đức
Phật A Di Đà. Th́ ra đức
Phật A Di Đà từ xưa đă biết được
những sự đau buồn đen tối và sự lo sợ
trong ṿng sanh tử của phàm phu chúng ta, nên ngài phóng vô lượng
quang đến khắp mọi nơi để cứu độ,
không nhàm chán mà an ủi chúng sanh.
Ngài không nghỉ ngơi, không ‘lấy vacation!’, ngày
cũng như đêm, chí nguyện vĩnh viễn không bao
giờ ngừng nghỉ mà cứu giúp chúng sanh trong biển
khổ sanh tử, đem sự thanh lương ở cơi
Cực Lạc ban bố cho chúng sanh. Bạn có để ư những khi
mưa suốt mấy ngày liền nhưng mặt trời
vẫn không mất đi. Vô Lượng
Quang Thọ là một nguồn từ bi vĩnh hằng,
chiếu rọi vô tận, không bị bất an v́ mất đi
quang minh, không có sự đau khổ của sanh ly tử
biệt.
Có khi đêm đă
khuya, thuốc ngủ và thuốc chống đau đều
không c̣n hiệu lực nữa, tôi thường ở bên giường
bịnh nhân giúp họ niệm Phật (thật ra phải
nói là ‘Bồ Tát bịnh nhân’ giúp tôi niệm Phật, v́
nếu không có họ ở một bên, tôi không siêng đến
nỗi nửa đêm không ngủ, thức dậy niệm
Phật). Ḥa hợp vào
nhịp thở và tiếng niệm Phật của bịnh
nhân, vừa niệm vừa nghe từng câu từng tiếng
một cách an tịnh. Khi
thuốc men không c̣n công hiệu nữa, hết sức thành
khẩn cầu cứu đức Phật A Di Đà có công
hiệu mạnh nhất, có thể an ủi thân tâm đau
khổ của bịnh nhân; lắng nghe được
một tiếng th́ ngay khi đó liền được
giải thoát, nếu an tịnh mà nghe rơ ràng từng chữ
từng chữ th́ sự đau khổ trong mỗi phút này
biến mất cũng như sương tan khi mặt
trời mọc. Phật A Di Đà
giống như một công ty cung cấp điện lực
miễn phí, chỉ cần bạn đừng rút đồ
cắm điện ra th́ sẽ thâu nhận được
nguồn năng lượng vĩnh viễn không bao giờ
chấm dứt này.
Có một người
bị ung thư ở mũi, ở đây giới thiệu
về người này là có ư nghĩa đặc
biệt. Ung thư của cô đă
lan rộng đến lúc khó thở th́ cô mới đến
bịnh viện, lúc đó vô cùng đau đớn. Một thời gian không lâu trước
khi mất, cô phát tâm ăn chay; cô kéo tay tôi và nói: “Bác sĩ à,
nếu bịnh tôi không có hy vọng chữa hết th́ xin
cầu cho tôi được mau mau về nước
của đức Phật A Di Đà”.
Cô từ bịnh viện khác đến bịnh
viện chúng tôi để trị liệu phóng xạ. Bịnh ung thư mũi vốn là
bịnh có hiệu quả trị lành bịnh rất cao,
chỉ cần phát hiện sớm và trị liệu sớm
th́ đều hết bịnh, nhưng cô phát hiện
bịnh quá trễ. V́ nửa đêm
cô bị hô hấp khó khăn nên người ta mới
chở cô đến bịnh viện chúng tôi cấp
cứu, nhưng cứu không được. Đêm đó tôi không có trực tại
bịnh viện, cho đến sáng hôm sau lúc tôi đến
th́ cô đă ngừng thở hết một thời gian và được
xem là đă chết rồi, người nhà đang sửa
soạn để xuất viện.
Không biết tại sao y tá ở pḥng cấp cứu
kêu tôi bằng hệ thống truyền thanh của bịnh
viện. Khi tôi đến nh́n
thấy cô th́ cảm thấy rất buồn; tôi kề bên
tai cô và nói:
“Trong đời sống ngắn ngủi của cô đă
chịu đựng quá nhiều đau khổ, con cô tuy c̣n
nhỏ nhưng c̣n chồng cô lo cho nó, những chuyện này
cô muốn lo cũng lo không được rồi. Bây giờ cô nhất định
phải buông xả hết tất cả mọi việc, cô
hăy cùng tôi niệm A Di Đà Phật rồi theo ngài về Tây phương
Cực Lạc Thế Giới ”.
Tôi ở bên cạnh
cô niệm Phật và cầu đức Phật từ bi
nhiếp thọ; lúc đó trong ḷng tôi cảm thấy
rất rơ ràng mỗi một câu niệm Phật đều
từ đáy ḷng phát ra.
Một điều kỳ lạ là nước mắt
của cô cứ chảy ra hoài.
Sau đó tôi mời những cô y tá trong pḥng cấp
cứu lại xem và nói:
“Trên mặt y khoa chúng ta nói là cô ta đă chết, hơi
thở đă đoạn dứt rồi, không c̣n nhịp tim
đập, không c̣n áp suất của máu, tất cả
đều không c̣n nữa.
Nhưng nhà Phật nói tại v́ người chết
có chấp trước, thần thức của họ chưa
hoàn toàn rời khỏi thân thể, b́nh quân phải đợi
đến 8 giờ sau mới ĺa khỏi thân thể, do đó
chúng ta phải lo cho người gần lâm chung hoặc là
mới chết một cách đàng hoàng”.
Nhưng người
hiện nay nếu tắt thở trong bịnh viện, phần
đông là không cho chúng ta để yên không động thi
thể của họ, điều này thật đáng
tiếc.
Là người
học Phật chúng ta phải đặc biệt chú ư, lúc
lâm chung vô cùng quan trọng, v́ lúc người ta gần
tắt thở tứ đại phân ly rất là đau đớn,
thần thức gần thoát ly ra khỏi thân thể đau
giống như gió rét cắt thịt hoặc như kéo mu
rùa rời khỏi thân rùa.
Lúc bấy giờ
tuyệt đối đừng đụng chạm đến
thân thể của người mất, phải nhắc
nhở và giúp họ niệm Phật, giúp họ khởi lên
chánh niệm muốn văng sanh cơi Cực Lạc. Nếu không văng sanh th́ phải tùy
theo nghiệp báo đi đầu thai, đời đời
kiếp kiếp luân lạc trong sáu nẻo luân hồi,
sự khổ đau của sanh lăo bịnh tử cứ
diễn đi diễn lại măi măi. Cho dù bạn là ông vua hay tổng
thống cũng không tránh khỏi, thông minh không đối
chọi được với nghiệp lực, giàu sang
cũng không miễn được luân hồi!
Một lần nữa xin nhắc nhở quư vị,
nếu sau này gặp những trường hợp như
vậy th́ phải chú ư: lúc lâm chung và 8 giờ đồng
hồ sau khi tắt thở, đều phải nhất tâm
niệm Phật, nếu tín nguyện được chân
thành thiết tha, đức Phật nhất định
từ bi nhiếp thọ. Trong
lúc này (trong ṿng tám giờ ) không được di chuyển
và động chạm đến thi thể của người
mất, không được làm bất cứ chuyện ǵ động
chạm đến họ (kể cả di chuyển giường
họ đang nằm) .
Nếu bạn đă
bị bịnh nặng th́ biết trong lúc thân thể vô cùng
yếu đuối và đau đớn, cho dù chỉ là nhích
một tí để xoay ḿnh lại, hoặc là thay áo th́
cũng làm cho người bịnh rất đau, thân tâm
rất khó an lạc. Phần đông
người ta cho rằng niệm Phật là để
tiễn đưa người mất, thật ra đức
Phật A Di Đà có vô lượng quang và vô lượng
thọ, niệm Phật cho người bịnh nặng là đem
tâm đang đau khổ rối loạn của người
bịnh khế hợp (nối liền) với vô lượng
hào quang của Phật (cũng là để khôi phục
lại vô lượng quang thọ trong tự tánh của
mỗi người.). Nếu
mạng chưa hết niệm Phật nhờ vào Phật
lực gia tŕ có thể tiêu tai diên thọ; có nhiều
bịnh nhân buông xả hết vạn duyên nhất tâm
niệm Phật, vốn là bịnh rất nặng nhưng
cũng lành bịnh. Nếu
thọ mạng đă hết khi niệm Phật th́ được
đức Phật tiếp dẫn về cơi Cực Lạc
đi ‘du học’, được tự tại an
lạc.
Trong bịnh viện
tôi từng thấy rất nhiều bịnh nhân được
đưa vào pḥng cấp cứu nhưng cứu không được,
bác sĩ tuyên bố đă chết rồi. Vài giờ sau người nhà
từ phương xa đến, người mất
tự nhiên ra máu mũi hoặc chảy nước mắt. Những chuyện này làm cho tôi càng
tin tưởng lời dạy của người xưa ‘không được đụng
chạm và di động người
mất trong ṿng tám giờ sau khi tắt thở, hết ḷng
niệm Phật để trợ niệm cho người
mất’. Ở đây xin quư
vị để ư đừng nên xem thường chuyện
này mà tạo nên những sơ sót không thể nào hàn gắn
lại được.
Có một bịnh nhân
vốn là một người bán thịt heo, thường
ngày đối xử với mọi người rất
tử tế; nghề mổ heo là do cha mẹ truyền
lại, ông nói: “Chúng tôi không thể đổi nghề và
cũng không biết là nên đổi nghề khác”. Thuở nhỏ có người
dạy ông niệm A Di Đà Phật, nên mỗi lần ông nh́n
thấy tượng Phật th́ đều chắp tay
niệm ba tiếng ‘A Di Đà Phật’.
Điều đáng quư là ông nói ông không cầu nguyện ǵ
cho ḿnh cả, mà hy vọng đức Phật pḥ hộ cho
tất cả chúng sanh; ông nói: “Đức Phật làm sao chỉ
pḥ hộ cho một ḿnh tôi được chứ”. Quan niệm này thật rất đúng. Tuy đă làm nghề này lâu rồi
nhưng tâm địa của ông rất hiền lương;
ông không biết giết heo là làm hại chúng sanh th́ phải
chịu quả báo không tốt.
Ông bị ung thư hàm dưới, qua một thời
gian sau nguyên cả cuống họng cũng bị ung thư
lan đến, tuy có chữa trị nhưng cũng tái phát
trở lại. Mỗi đêm
ông nằm trên giường rên rỉ, hít thở rất khó
khăn và phát ra âm thanh như kéo cưa vậy. Trong miệng có đàm không thể
khạc ra và không thể nuốt xuống, cuống họng
như bị xiết cứng lại nên mỗi lần
thở mạnh th́ rất đau.
Ông nói lúc đó ông mới biết được
sự đau khổ của con heo vừa bị làm
thịt; ông thật tâm sám hối.
Ông ăn không được
nên phải đút ống (vào miệng để dẫn
thức ăn lỏng). Trên
quan niệm th́ ông đă hiểu rơ và phát tâm niệm Phật
cầu sanh Tịnh độ; sắc mặt của ông khác
hẳn với những bịnh nhân khác, ông không thường
âu sầu. Ông nói: “Nhờ bác
sĩ xem thân thể tôi có bộ phận nào c̣n dùng được,
đôi mắt của tôi có thể quyên cho người khác
không? Tim tôi c̣n tốt không? Có thể quyên cho người
không? Nếu quyên được
th́ xin quyên, tại v́ hy sinh một ḿnh tôi không quan trọng
lắm, nếu có thể làm cho người khác sung sướng
th́ rất quư”. Tôi nói: “Tâm
của ông thiệt rất giống tâm địa của
Bồ Tát. Đời của
mỗi người có thể làm gương cho người
khác, đôi mắt của ông chỉ có thể cho một người
duy nhất. Người đó
có đôi mắt này sẽ nh́n thấy mọi sự
vật, nhưng sau khi nh́n thấy không biết người
đó sẽ ‘vui’ hay ‘giận’.
Nếu dùng đôi mắt này để nh́n những
thứ làm cho người đó phẫn nộ th́ rất đáng
tiếc. Một người
tiếp nhận đôi mắt thịt này chưa chắc
sẽ sung sướng.
Nếu không biết dùng th́ giải phẫu thay tim
cũng không thể làm cho người hạnh phúc, nếu
người đó không hiểu rơ được đạo
lư chân chánh”.
Ư tôi không phải
phản đối không cho người giải phẫu thay
bộ phận trên thân thể.
Nhưng người có thể chịu đau trong lúc
mổ xẻ mà không sanh tâm sân giận hay hối hận
cần phải có ‘đạo lực’ rất lớn; hơn
nữa, tuy là người bị bịnh ung thư có ḷng
tốt và quyên tặng bộ phận trên thân thể khi
họ c̣n sống, nhưng người tiếp nhận có
ngại sau khi nhận bộ phận này sẽ bị ung thư
không? Ông có ḷng tốt như
vậy rất đáng quư, tôi không thể ngăn cản ông được,
chỉ nói với ông là: “Bây giờ ông nên niệm Phật
gấp rút để văng sanh đến tây phương
Cực Lạc thế giới và sau đó theo nguyện
vọng trở lại độ chúng sanh; chỉ cần
lúc này ông nỗ lực niệm Phật để đến
phút cuối có thể bước chân lên đài sen, ông
sẽ làm gương tốt cho rất nhiều người,
và làm cho họ hiểu được sự thù thắng
của cơi Cực Lạc”.
Ông nói suốt đời
ông làm nghề này, lúc ban đầu v́ t́nh trạng kinh
tế trong gia đ́nh bắt buộc, nếu không làm
(giết heo) th́ không có tiền sinh sống. Sau này tính lại số tiền
ông kiếm được làm nghề này không đủ để
ông trả tiền nằm nhà thương mà trái lại c̣n
thiếu nợ nữa, làm cho đời sống càng khó khăn
thêm. Người ta thường
viện cớ ‘không làm như vậy không được’,
tuy biết là làm như vậy không đúng với Phật
pháp mà cũng tiếp tục làm.
Đợi đến một ngày nào đó phát hiện ra
‘không được nữa’, quay đầu nh́n lại
mới biết làm như vậy kiếm không được
bao nhiêu nhưng cuối cùng phải mang bịnh và đau
khổ, phải trả bằng một giá quá đắt,
thiệt không đáng chút nào.
Lúc ông nằm bịnh viện có một số liên
hữu lại giới thiệu Phật pháp và giúp ông
niệm Phật. Sau khi về
nhà và mấy ngày trước khi ông mất, ông nhờ người
nhà kiếm họ tiếp tục trợ niệm. Vài người ở Y Vương
Học Xă và bà chủ nhà trọ của tôi đều đến
trợ niệm cho ông. Nghe nói
ông mỉm cười và niệm Phật mà đi. Họ càng niệm Phật th́ ông
càng cười tươi hơn.
Xong rồi họ nói với tôi: “Chúng tôi trợ
niệm cho ông, ông mỉm cười nh́n chúng tôi. Sau tám giờ đồng hồ
ông cũng vẫn c̣n mỉm cười nh́n chúng tôi”.
Có câu thơ như
vầy:
‘Tự thị
bất quy, quy tiện đắc
Cố hương
phong nguyệt hữu thuỳ tranh’
(Không chịu quay
về, về được ngay,
Gió trăng quê cũ
kẻ nào tranh?)
Nụ cười
của ông khi ‘quay về cố hương’ thật là
sự an ủi và khích lệ cho những người đang
vùng vẫy bàng hoàng bên bờ sanh tử. Nụ cười cuối cùng
của ông là nụ cười vô cùng hiếm hoi và trân quư.
Những câu chuyện
kể trên đều là h́nh ảnh của sông Hằng. Tất cả các h́nh ảnh
của ḍng sông ‘sanh tử’ này đă làm cho đức
Phật Thích Ca cảm thấy rất nhức đầu. Ngài đă nh́n thấy những h́nh
ảnh của sanh, lăo, bịnh, tử và suy nghĩ để
t́m cách cứu giúp chúng sanh xa ĺa biển khổ sanh
tử. Trải qua một quá
tŕnh tu tŕ gian khổ dưới bóng cây Bồ đề,
ngài đă giác ngộ được tất cả đạo
lư của nhân sanh vũ trụ.
Bắt đầu chuyển pháp luân tại vườn
Lộc Uyển, thuyết pháp Tứ Đế (Khổ,
Tập, Diệt, Đạo) cho nhóm năm tỳ kheo đầu
tiên (nhóm ông Kiều Trần Như).
Ngài nói cho họ biết ‘nhân sanh’ có các thứ khổ
như thế nào, nguyên nhân của khổ là ǵ, phương
pháp thoát khổ là ǵ, và sau khi thoát khổ th́ sẽ ra
sao.
Tôi nghĩ đây là
cuộc diễn giảng về y học hoàn hảo
nhất trong lịch sử nhân loại. Đức Phật là một người
thầy thuốc vĩ đại nhất, ngài đă
giảng cho chúng ta phương pháp vĩnh viễn miễn
trừ những sự đau khổ này! Như tia sáng lóe ra từ trong đêm
dài đen tối, giác ngộ là một con đường
vô cùng xinh đẹp, con đường đi về
cố hương, đi trở về với Phật tánh
thanh tịnh vốn sẵn có của mỗi người. Đức Phật Thích Ca mỗi ngày đều
kêu gọi chúng ta mau mau lên đường đi về quê hương. Ngài muốn chúng ta tháo mở
những phiền năo đang trói buộc chúng ta để đi
đến sự an lạc viên măn.
Quư vị muốn
nối gót đức Phật lên đường về quê
hương không? Có nhiều người
đi theo đức Phật và đă giác ngộ
rồi. Xin quư vị xem h́nh
của lăo ḥa thượng Hư Vân, chỉ cần nh́n
thần sắc của ngài, chỉ cần nh́n phong độ
phi phàm của ngài mà không cần xem truyện kư, chúng ta
cũng cảm nhận được tấm ḷng của
ngài rộng lớn như thế nào mới có thần
sắc như vậy? Tôi đă
nghe một pháp sư kể lại vào năm thầy
của pháp sư 36 tuổi, lăo ḥa thượng lúc bấy
giờ đă 106 tuổi, hai người đi qua một
con sông, cây cầu bắt ngang sông làm bằng hai cây trúc hợp
lại. Vị thầy trẻ
tuổi này không dám đi qua, lăo ḥa thượng nắm
lấy cổ áo của ông nâng lên như thế rồi
khiêng ông đi qua sông. Hai chân
của ông c̣n đá tới đá lui sợ hết hồn,
lăo ḥa thượng một nháy mắt cũng không chớp
th́ đă khiêng ông đi qua cầu.
Nguyên câu chuyện này quư vị có thể đọc được
trong niên phổ truyện kư, ở đây chúng ta chỉ
nhắc đến một chút, mọi người có
thể từ đó mà suy nghĩ.
Hăy nh́n xem những người nối gót theo chân
đức Phật, họ làm thế nào mà ‘sanh thời
lệ tợ hạ hoa, tử thời mỹ như thu
nguyệt’? Lúc sống đẹp
như hoa mùa hạ, lúc chết đẹp như trăng
tṛn mùa thu chiếu sáng khắp nơi.
Thêm một vị đại
đức gần đây nhất là lăo ḥa thượng
Quảng Khâm, mọi người đều xưng tán ngài
là ‘bảo vật’ trong Phật giáo.
Đây là di ảnh chụp lúc ngài 95 tuổi, hai ngày trước
khi văng sanh, đôi mắt sáng và vô cùng sắc sảo. Năm lăo ḥa thượng 92
tuổi, tôi có dịp theo ngài đi lên núi; ngài đi ở
phía trước từng bước rất vững vàng và
nhanh chóng. Tôi đi theo phía sau
thiệt rất mệt mới theo kịp. Lúc đó chùa Thừa Thiên c̣n đang
xây cất chưa xong, khi đi qua một đoạn đường
có nhiều vật chướng ngại, xém chút xíu tôi bị
té, ngài quay đầu lại nói:
“Con phải đi
cẩn thận nghen!”.
Giọng nói của
ngài khàn khàn nhưng có oai lực, ánh mắt nghiêm nghị nhưng
chứa đựng ḷng từ bi vô hạn. Tôi rất hổ thẹn; bây
giờ trên đường đời đă vấp ngă bao
lần, đă gặp phải nhiều chướng
ngại, nhớ lại lời ngài nói th́ tự nhiên lệ đẫm
ướt mi lúc nào không biết.
Có người tưởng
ngài rất là huyền bí nên muốn đi ‘điều tra’
cặn kẽ. Đến khi nghe
ngài nói chuyện hết nửa ngày chỉ nghe toàn là
những từ ngữ như: ‘niệm
Phật’, ‘đừng ăn thịt’ nên trong bụng
thầm nghĩ: ‘tôi cũng biết nói như vậy,
cần ǵ phải hỏi lăo ḥa thượng!’. Thật không sai, ai cũng biết
nói như vậy, nhưng chúng ta không ai đă từng
trải qua sự tu hành khổ hạnh, công phu thứ
thiệt như ngài, lại không có đủ đức
hạnh để cảm hóa người khác. Cho dù có nhiệt tâm để
khuyên người, người ta c̣n chê ḿnh là ‘nhiều
chuyện’ nữa. Ngài đă
hàng phục được ḿnh, đă hạ thủ công phu
rất sâu trong sự tu niệm nên tự nhiên cảm hóa được
hàng vạn người.
Lúc ngài c̣n trẻ tu hành ở trong
hang trên núi, khi lương thực đem theo đă hết
th́ chỉ nhờ vào khoai rừng và rễ cây để duy
tŕ mạng sống. Ba
chiếc áo vá đi vá lại đến khi chỉ c̣n
một chiếc, suốt sáu mươi năm chỉ
ngồi không nằm, đối với vật chất yêu
cầu rất thấp. Lúc c̣n
trẻ ở chùa Thừa Thiên thầy của ngài là
Chuyển Trần lăo ḥa thượng có dạy ngài như
vầy:
“Ăn những thứ mà người khác không ăn,
mặc những thứ mà người khác không [muốn]
mặc, làm những ǵ mà người khác không làm, sau này th́
ông mới biết”.
Thầy của ngài
chỉ dạy ngài tu khổ hạnh và chuyên niệm
Phật. Ngài làm theo những
lời dạy này một cách rất thật thà, hạ thủ
công phu trên tâm địa ḿnh, rốt cục ngài trở thành
một vị rất là phi phàm; rất nhiều người
vừa mới gặp liền cảm động, mến
phục, và rất kính trọng ngài.
Những lời ngài
khai thị thường thường chỉ là một vài
câu nhưng có ư nghĩa rất quan trọng; nếu chúng ta
tin theo được th́ nhất quyết sẽ không lăng
phí đời này. Như phía trước
có nói: ‘niệm Phật’ và ‘đừng ăn thịt’. Nếu chúng ta trong mỗi niệm
đều niệm Phật, làm cho đại quang minh, trí
huệ, từ bi, và giác ngộ của chư Phật
bất kỳ lúc nào cũng tràn đầy trong tâm khảm
của ḿnh; như vậy không phải là lúc nào cũng
kiết tường hay sao?
Không c̣n sự đau khổ của ‘nhân, ngă, thị,
phi’ (ḿnh, người, đúng, sai), không chịu sự hành
hạ của tham, sân, và si nữa.
Nếu giảm bớt sự ham thích ăn uống và
làm theo lời dạy của ngài: ‘đừng ăn
thịt’ th́ từ từ sẽ thể hội được
đạo lư: ‘cùng một gốc rễ’ (cùng bản
thể), sẽ thưởng thức được sự
hỷ duyệt (vui sướng ) của ḷng từ bi;
mỗi ngày trong ḷng đều điềm đạm, b́nh
thản, mộc mạc, tin sâu, nguyện thiết và
niệm Phật cầu sanh tây phương; lúc lâm chung
sẽ nhờ sức Phật tiếp dẫn, thoát khỏi
sự đau khổ đời đời kiếp kiếp
của sanh tử luân hồi!
Hai câu nói đơn giản của ngài đă chỉ ra
con đường sáng rỡ thành Phật ngay trong một đời. Ai thật thà chịu nghe, tin, và
làm theo th́ sẽ được lợi ích lớn; người
không thật thà chỉ thích nói lư thuyết cao siêu, làm
những chuyện kỳ quái, phô trương một số
thần thông mà lại xem thường lời dạy quan
trọng nhất này th́ sẽ đánh mất cơ hội
quư báu để thoát ly sanh tử luân hồi.
Đệ tử của
lăo ḥa thượng thuật lại lúc ngài c̣n tại
thế, một hôm có một người xách cặp táp
kiểu điệp viên 007 một cách rất thần bí, lên
núi xin gặp và nói chuyện ‘riêng’ với ngài. V́ trong quá khứ đă có người
có ư muốn làm hại ngài cho nên các đệ tử không cho
người này đơn độc gặp lăo ḥa thượng. Người này đến kề
vào tai lăo ḥa thượng và hỏi ngài một cách rất
cung kính:
“Kính thưa lăo ḥa thượng,
người ta đều nói ngài có thần thông, xin ngài nói
thật với tôi ngài có thần thông hay không?”.
Sau đó lăo ḥa thượng
cũng thần bí kề vào tai người kia và nói: “Tôi nói
với ông, tôi có ăn th́ có thông, không ăn th́ không thông!”.
Sự kỳ diệu
của Phật pháp là ở chỗ rất b́nh thường,
không lôi cuốn sự hiếu kỳ của người ta
bằng những thần thông hoặc những tướng
trạng kỳ dị. Người
người đều có đầy đủ thần
thông, chỉ v́ bị tâm tham, sân, si, mạn, nghi, phiền
năo che lấp nên không thể hiện ra được; có
thần thông mà không thể giải quyết vấn đề
sanh tử th́ cũng như không.
Hướng ngoại t́m cầu nhờ ‘những người
có thần thông’ cứu giúp th́
là ‘bỏ gốc rễ (căn bản) mà t́m cành
nhánh’. Ngài nói: “Cầu người
th́ là mất đi đức Phật Thích Ca”.
Tôi cảm thấy
‘thần thông’ vĩ đại nhất rất đáng cho
mọi người tán thán là công phu nhẫn nhục của
ngài: ‘nhẫn chuyện người
không nhẫn được, làm chuyện người khác làm không được’. Năm xưa khi ngài từ hang động
trên núi về đến chùa Thừa Thiên ở Đại
lục, đầu tóc mọc ra quá dài làm cho ngài trông
giống như một người rừng, không ai nhận
biết đến khi giải thích rơ ràng th́ mọi người
mới nhận ra. Về chùa
qua một thời gian sau đó, vị sư ‘đương
gia’ (thầy giám viện) và ‘điện chủ’ trong chùa
muốn khảo nghiệm công phu tu hành của ngài nên cố
ư đem tiền trong thùng phước sương dấu đi,
rồi giả vờ nói nghi ngờ lăo ḥa thượng đă
ăn cắp tiền này; từ đó mọi người đều
cho là ngài đă ăn cắp, ai cũng đều nói
nặng nói nhẹ lăo ḥa thượng.
Ngài nghe những
lời nói này như gió mùa xuân thổi và như uống nước
cam lồ, an nhiên tự tại, tâm lượng của ngài
thật vô cùng rộng lớn, thật là một người
tiêu diêu tự tại. Cái
‘thần thông’ nhẫn nhục này so với những thứ
‘phóng quang, lên khói’ th́ c̣n thần kỳ hơn nhiều;
tại v́ đốt giấy th́ sẽ lên khói, đốt đèn
th́ sẽ phóng quang, nhưng chúng ta tự hỏi ai bị vu
oan là người ăn trộm mà vẫn an nhiên tự
tại như uống nước cam lồ và vẫn không
giải thích biện bạch rằng ḿnh không phải
[người ăn trộm].
Ai có công phu tu hành đến mức nh́n thấu
chuyện thế gian như bèo như bọt là người
có đại trí huệ, xứng đáng được người
khác cung kính. Chúng ta thường
biến thành vật mà lăo ḥa thượng h́nh dung là
‘thạch đầu cẩu’ (con chó chạy theo cục đá). Người ta muốn chúng ta
chạy th́ rất dễ, chỉ cần liệng một
cục đá th́ ḿnh liền chạy theo, đuổi theo đến
khi mệt lả, đuối sức cũng chỉ v́ đuổi
theo một cục đá ăn không được! Lăo ḥa thượng mở to đôi
mắt nói: “Không có chủ trương
(ư chí không cứng rắn nhất định) như
vậy làm sao có thể đi về Tây phương được?”
Ngài làm chủ được
ḿnh, sanh tử tự tại, mọi người đều
kính trọng. Ngài không cầu
danh văn lợi dưỡng và biểu hiện qua hành vi
trong đời sống thường ngày, làm cho mọi người
tâm phục khẩu phục. Có
lần nọ một kư giả nhà báo lên chùa uy hiếp,
đ̣i tiền ngài và nói: “Ng̣i bút của tôi rất lợi
hại, nếu không đưa tiền cho tôi th́ tôi sẽ
viết xấu về ngài”. Lăo
ḥa thượng điềm nhiên và nói: “Cứ việc đăng
lên báo, tùy ư viết như thế nào cũng được,
tôi không cần người ta cung kính, nếu người
ta cung kính tôi, mỗi ngày tôi phải niệm Chú Đại Bi gia
tŕ vào nước Đại Bi cho họ; nếu người
ta không cung kính tôi, tôi được rảnh rang thanh
tịnh mà niệm A Di Đà Phật”.
Người kư giả này cũng không làm ǵ được
và cảm than rằng ngài không giống người phàm, đúng
là: ‘Sự việc đến mức không tâm th́ rất
vui sướng, người có thể không mong cầu th́
phẩm đức tự nhiên cao’.
C̣n lần nọ,
một số đệ tử theo ngài đi nghe giảng và
biết vị pháp sư thuyết pháp có ư phê b́nh ngài trong
buổi giảng nên nổi giận và về chùa thuật
lại với ngài. Không
ngờ ngài nghe xong không những không nổi giận mà c̣n
kêu nhóm đệ tử này phải sám hối với vị
pháp sư đó, và c̣n giải thích rơ [dùm vị pháp sư]
hàm ư của những ngôn từ đó. Ngài nói với nhóm đệ
tử nếu người ta lấy pháp danh của ḿnh mà
chửi mắng th́ ḿnh phải cám ơn người ta,
huống chi là họ không có nói rơ tên ḿnh ra! Ngài c̣n nghiêm nghị mà giảng
về đạo lư: “Nếu muốn Phật pháp hưng
thịnh th́ tăng phải khen ngợi tăng”. Ngài khen ngợi vị pháp sư đó:
“Trong thế giới trược ác này có thể độ
chúng sanh, đúng là Bồ Tát”.
Và c̣n khiêm tốn nói: “Tôi không dám làm”.
Công phu của lăo ḥa
thượng đạt đến mức chúng ta không
thể suy đoán nổi, những việc xảy ra thường
ngày đều nói lên tâm lượng rộng lớn của
ngài. Mỗi câu chuyện đều
làm cho tôi cảm động, ngài như ánh thái dương
từ bi phổ chiếu từng ngọn cỏ từng
gốc cây; tuy nhiên có khi cũng dùng cây kiếm trí huệ
của ngài chém sạch cành lá của phiền năo, chém
sạch danh văn lợi dưỡng, giúp cho những
mầm non đang lớn có thể hướng về Tây phương
thanh tịnh.
Ngài thường đề
ra những bài thi đột xuất, thường rất
là sôi nổi và kích thích, tài nghệ ‘diễn kịch’
của ngài rất xuất sắc; những người
bị khảo thí này thường bị cảnh giới
chuyển dời, ngay khi đó không cảnh giác th́ không
biết, lâu dần th́ hiểu được và mới
biết dụng ư rất từ bi của lăo ḥa thượng. Có thể h́nh dung phương pháp
và sự tập luyện của ngài là: ‘Xay đến tróc
vỏ, mài đến [gạo] trắng, nhồi đến
nhuyễn, nung đến đổi màu’. Cách này làm cho một người
chân chánh phát tâm tu hành trở thành ‘một cái bánh thánh có
thể cúng dường tất cả chúng sanh, cúng dường
tất cả chư Phật’.
Quá tŕnh này thường phải đ̣i hỏi rất
nhiều nước mắt và mồ hôi.
Có lúc lăo ḥa thượng
cũng rớt nước mắt, từ bi mà nói với đệ
tử đang bị ngài khảo thí: “Thầy dạy như
vậy con có hiểu rơ chưa?
Thầy sợ kết oán thù với con, vốn là
muốn giúp con phá đi những thứ chấp trước
này, nhưng nếu con không hiểu rơ được
hết dụng ư, th́ sẽ kết thành oán thù với các
con. Tạo cảnh nghịch
ra là để tập luyện cho các con mà thôi!”.
Tổ sư nói ba món
tư lương cần có để văng sanh Tây Phương
là ‘tín, nguyện, và hạnh’. Nguyện
là chán ghét muốn thoát ly cơi Sa Bà và ưa thích cơi Cực
Lạc. (Sa Bà là từ
‘tự tâm ác’ và ‘tâm uế’ (dơ) tạo ra, Cực Lạc
là do ‘tự tâm thanh tịnh’ hiện ra). Tuyết Công lăo ân sư cũng
nhấn mạnh cái tâm ‘hân’ (ưa thích) và tâm ‘yếm’ (chán
ghét) là pháp môn ‘tổng an tâm Tịnh độ’. Phàm phu chúng ta trong cảnh
thuận rất khó phát ra tâm chán ghét Sa Bà, bất đắc
dĩ nên lăo ḥa thượng cho đến chư Phật
Bồ Tát đều ‘ban’ cho chúng ta những cảnh
nghịch, để cho chúng ta ‘dùng khổ làm thầy’,
dũng mănh phát tâm chán ghét Sa Bà ưa thích Cực Lạc mà
niệm Phật, liễu sanh thoát tử, dùng sự tinh
tấn cần khổ trong đời này đổi lấy
sự tự tại hạnh phúc vĩnh viễn; thật ra
đây là ân huệ không có ǵ quư hơn mà các ngài ‘ban’ cho chúng
ta. Ngặt v́ chúng ta ưa thích
những ‘ḿn nổ chậm được bao bọc đẹp
đẽ bên ngoài’, theo đuổi sự khoái lạc và danh
lợi nhất thời mà đánh mất sự an lạc
vĩnh cửu. Chư Phật
Bồ Tát thường rơi lệ v́ những sự
tổn thất lớn lao của chúng ta.
Có lần lăo ḥa thượng
nghiêm nghị nói:
“Trong thế giới Sa Bà này, chỉ cần tham ái
một ngọn cỏ th́ sẽ đi vào luân hồi trở
lại”
Cho nên mặc cho
mọi người đối với ngài vô cùng cung kính cúng
dường, ngài vẫn buông xả một cách rất là
siêu thoát; ngôi chùa có một kiến trúc vô cùng hùng vĩ trên
núi đối với ngài chỉ là ‘một công cụ
dạy học nhất thời mà thôi’, ngài mượn
những nhân duyên và cảnh giới này để giảng
dạy cho những chúng sanh có duyên.
Những người buông xả hoàn toàn và thành
thật niệm Phật văng sanh mới là đệ tử
chân chánh của ngài. Không lâu trước
khi văng sanh, ngài cứ lập đi lập lại và nói:
“Sự khổ nạn càng ngày càng nhiều, hăy tu mau
lên, phải tu mau mau; tu một
phần được một phần công đức, tu
một ngàn phần được một ngàn phần công đức,
tu một vạn phần được một vạn phần
công đức!”.
Ngài rất nhẫn
nại nhắc đi nhắc lại hoài, đây là sự
khuyên nhủ vô cùng khẩn thiết; tin lời ngài nói th́
hăy thật thà niệm Phật, một môn thâm nhập không
nên đổi tới đổi lui hoài !
Có một vị
đạo hữu kể lại khi ông đi thăm và
hỏi lăo ḥa thượng:
“Phải niệm
Phật cách nào?”.
Ngài nghe xong liền
hỏi lại: “Ông niệm như thế nào?”.
Ông trả lời:
“Khi tôi rảnh rang th́ liền niệm Phật”.
Lăo ḥa thượng đáp:
“Ông ‘rảnh’ th́ niệm, không rảnh th́ không niệm, như
vậy chắc ông có ‘quen biết lớn’ (điểm đầu
chi giao) với Phật phải không? Niệm như vậy th́ làm sao
kỳ vọng Phật đến cứu ông trong giờ
phút sanh tử. Lại đây,
mọi người đưa chân ra, chân nào là chân
Phật? Nhận ra chân của
Phật không? Nếu muốn
ôm chân Phật, chân Phật là chân nào cũng không nhận ra,
th́ làm sao ôm được. Ông
đích thật là có nhận biết được
Phật không?” (ôm chân Phật nghĩa là cầu cứu đức
Phật).
Ngài nói như vậy
là để thức tỉnh người ta. Vị đạo hữu này
kể tiếp, ngài hớp một ngụm trà rồi ngước
đầu lên hỏi: “Ông thấy tôi có ‘xướng’ ra
tiếng không?”. Ông đáp:
“Không có”. Ngài hỏi: “Tôi
niệm Phật ông biết không?”
Lăo ḥa thượng dạy một cách rất sống động
và biểu diễn niệm Phật trong khi uống trà, ăn
cơm, đi, đứng, nằm, ngồi, tất cả
mọi thời đều phải niệm Phật. Nửa đêm không vặn đèn
khi nghe hai tiếng ho ‘ách x́’ th́ bạn biết là cha bạn đă
về. Như vậy lúc
nửa đêm nếu đức Phật A Di Đà đến
th́ bạn biết là Phật đến hay không? Chúng ta hăy thử hỏi ḿnh đă
niệm đến mức nhận biết Phật và cùng
Phật rất quen thuộc hay không? Lăo ḥa thượng đă niệm đến
mức đó rồi. Có
một lần ngài nói với một vị bác sĩ đến
thăm: “Tiếng chim hót, xe chạy, âm thanh tạp loạn đều
là tiếng niệm Phật”.
Ông này hỏi ngài có thể niệm như vậy được
bao lâu, ngài đáp: ‘trú dạ lục thời’ (nghĩa là 24
giờ mỗi ngày, bất kỳ lúc nào cũng niệm như
vậy).
Mười năm trước
lăo ḥa thượng đă nói với đệ tử
của ngài: “Tương lai lúc tôi văng sanh sẽ hiện ra tướng
có bịnh” và c̣n nói ba người trong nhóm đệ tử
của ngài sẽ không tiễn ngài ra đi (hiện diện
lúc ngài ra đi). Ba người
đệ tử này đều không tin, tại v́ [họ
nghĩ] một trong ba người thế nào cũng có
một người luôn ở bên cạnh ngài. Làm sao có thể nói là họ không
thể ‘tiễn ngài ra đi’ được. Quả nhiên lúc ngài ra đi v́
một lư do đặc biệt ǵ đó cả ba người
tạm thời đi khỏi th́ ngài thiệt đă văng sanh
rồi.
Trước lúc ra đi
ngài khuyến khích đại chúng:
“Thế giới Sa Bà rất khổ! Đại chúng mau mau niệm Phật
để đi về tây phương Cực Lạc
thế giới”.
Cuối cùng ngài nói: “Không đến, không đi, không
có chuyện ǵ!”
rồi an nhiên niệm Phật và văng sanh. Thật là đẹp, thật là
siêu phàm!
Chúng ta th́ ngược
lại: “Đến đến, đi đi, quá nhiều
chuyện!”, không có ngày nào, không có giờ phút nào mà không có
chuyện để lo lắng và bận tâm đến. Chữ ‘sự t́nh’ (chuyện
xấu) trong tiếng địa phương ở Đài Loan
hàm ư không kiết tường, đúng như người ta
thường nói:
‘Bất thị nhàn nhân nhàn bất đắc, nhàn nhân
bất thị đẳng nhàn nhân’
(Nếu không phải người nhàn hạ th́ nhàn
không được, người nhàn hạ không phải là
người tầm thường).
Trong tâm chúng ta nếu
thiệt là không có ‘chuyện ǵ’ hết, thiệt là ‘nhàn
hạ’ th́ phải cần công phu tập luyện chứ
không phải dễ!
Khoảng một
tuần trước lúc ngài văng sanh, cả ngày lẫn đêm
ngài đều to tiếng niệm Phật, cách niệm
của ngài là ‘dùng hết sức ḿnh rất thành khẩn mà
niệm A Di Đà Phật’, không phải người nào cũng
có thể niệm như vậy được. Đại chúng luân phiên nhau niệm
lớn tiếng theo ngài mà c̣n khan tiếng, đau ngực,
chịu không nổi huống chi ngài đă 95 tuổi ! Đa số người ta lúc gần
ra đi th́ hô hấp rất yếu ớt, không thể làm chủ
được, c̣n ngài th́ mạnh như ‘tướng quân đột
phá ṿng vây thoát ra khỏi ngũ trược ác thế’. Mấy người đệ
tử sợ ngài yếu sức chịu không nổi v́
cả tháng ngài đă không ăn ǵ hết nên nói:
“Để chúng con
niệm, xin sư phụ đừng niệm, chỉ nghe
theo mà thôi!”.
Ngài mở to mắt
ra nói một cách rất dứt khoát: “Mỗi người tự niệm cho ḿnh, sanh tử
của ai th́ tự người đó đoạn dứt.”
Nói xong liền
lớn tiếng và thành khẩn mà niệm tiếp. Vào ngày thứ sáu trong tuần đó,
đột nhiên ngài ‘biểu diễn’ một màn kịch, tôi
nghĩ thật là đáng để mọi người
chiêm nghiệm. Hôm đó đột
nhiên ngài không khuyên mọi người niệm A Di Đà
Phật như lúc trước mà lại ra lịnh cho đại
chúng mau đem Đại Tạng Kinh ra tụng. Đại Tạng Kinh quá dài ai
cũng không biết bắt đầu từ đâu mà
tụng nên hỏi lăo ḥa thượng phải tụng
quyển nào?
Ngài đáp: “Tổng
tụng” (tụng hết).
Đại chúng mới đem
từ quyển Đại Tạng Kinh ra, nội việc khiêng
ra cũng mệt đứt hơi, nh́n thấy ngài có
vẻ rất quyết tâm văng sanh, mọi người
vừa mệt, vừa gấp, mà vừa buồn. Ngài nói: “Để coi quư vị
biết quyển kinh nào, tất cả đều tụng
cho tôi nghe!” V́ thế cho nên đại
chúng mới tụng từng bộ từng bộ: Tâm kinh,
kinh Kim Cang, kinh Dược Sư, kinh Địa Tạng, …
Lúc ở trong cửa
ngơ sanh tử khẩn yếu này mới biết nội hai
trăm mấy chữ trong Tâm kinh cũng tụng không
mạch lạc; có thể nói miệng họ tụng
nhưng tâm họ lại lo ra.
Lúc mọi người tụng kinh như vậy, ngài
lại cười chúm chím mà tiếp tục niệm: “
Xin quư vị đừng
nghi hoặc tại sao lăo ḥa thượng lại thay đổi
tiết mục bất ngờ như vậy. Ngài thường dùng phương
pháp ‘phản diện’ rất khéo léo để làm cho mọi
người tỉnh giác và c̣n làm cho mọi người ghi
nhớ vào xương vào tuỷ; ư nghĩa rốt ráo
của sự tu hành là phải ‘thực hành’, không phải chỉ nghe rồi
bỏ qua; trong trường Y khoa bàn luận chuyện
chữa bịnh trên sách vở hiển nhiên rất khác
với chuyện gặp lúc bệnh nhân máu chảy
đầm đ́a! Có lẽ các
bạn sẽ nghĩ sự thị hiện của lăo ḥa thượng
rất giống cách nói của Tuyết Công lăo ân sư:
‘Sáu chữ hồng danh bao gồm hết tinh hoa
của tất cả vạn pháp’.
Phần đông người
ta khi lâm chung rất khổ sở, chỉ bốn chữ ‘A
Di Đà Phật’ cũng niệm không được, huống
ǵ là tụng kinh, mà c̣n tụng Đại Tạng kinh
nữa! Chúng ta hăy nghe theo
lời dạy bảo và hăy ‘lăo
thật niệm Phật, đừng thay đổi đề
mục’ nữa. Đừng lâm
vào t́nh trạng ‘luyện hết mười tám thứ vơ
nghệ, đến lúc khổ đau quá không biết
phải dùng thứ nào’.
Mỗi ngày thay đổi đề mục h́nh như
có vẻ học rộng biết nhiều và h́nh như
cũng kết rất nhiều duyên với Phật và
Bồ Tát. Đến lúc cần
thiết th́ tâm rối nùi như tơ, không biết phải
niệm vị nào mới được. Thiệt ra trong kinh A Di Đà có nói: ‘Sáu phương Phật đều
hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán A Di Đà
Phật, khuyên chúng sanh tín thọ cầu sanh Tây phương’. Đây là nói rơ chúng ta niệm Phật A Di Đà th́ tất cả chư
Phật đều vui vẻ tán thán, đây chính là ‘tổng
tụng’ vậy!
Hai ngày trước
lúc văng sanh, lăo ḥa thượng đích thân gơ mơ và kêu đệ
tử niệm Phật, trong đó có nhiều chuyện
rất thú vị. Ngài đem
câu ‘
Một hôm tôi cùng
một bác sĩ lên núi để thỉnh giáo ngài. Ông bác sĩ này hỏi: “Làm thế
nào tĩnh tọa mới có thể đả thông huyết
mạch?”. Ngài đáp: “Không
cần phải đả thông huyết mạch, nhất tâm
niệm Phật chứng đến Niệm Phật Tam
Muội th́ tất cả huyết mạch tự nhiên đều
thông!”; đây là lời dạy của người đă
giác ngộ và đă được đại tự
tại; chúng ta hiểu được th́ không cần
phải phí sức tốn công đi t́m kiếm vô ích. Mau sớm chuẩn bị tư lương
như ngài đă nói:
“Tôi đă mua vé xe
rồi! Đă xác nhận ghế ngồi rồi!
Quư vị có phải đă
mua vé rồi hay chưa?
Đă xác nhận ghế
rồi chưa?
Hay là không cần xác
nhận chỗ ngồi?
Hay là không chịu lên
xe? ”
Phải nên mua vé
sớm th́ hơn, đừng làm giống tôi sau khi ngài văng
sanh lên núi niệm Phật, niệm hết mấy giờ đồng
hồ, nước mắt cứ chảy hoài, không thể
nào niệm Phật được đàng hoàng để
cúng dường lăo ḥa thượng; cúi đầu không dám
ngước lên, tại v́ không làm theo đúng lời dạy
và lời dặn ḍ của ngài, xấu hổ và sám hối đều
đau khổ; xin nguyện cho các bạn đều sớm
mua vé thượng hạng ở toa thứ nhất, lên đài
sen vàng ở thượng phẩm thượng sanh!
Tiếp theo đây
chúng ta hăy xem Tuyết Công lăo ân sư (lăo cư sĩ Lư
Bỉnh
Mấy hôm trước
nửa đêm nằm mộng thấy trăng sáng trên núi,
tự nhiên nhớ lại lời giảng của thầy mười
năm trước. Lúc đó
thầy giảng kinh Hoa Nghiêm đến đoạn ‘Vô
tận tạng’, thầy có nhắc đến mấy câu
trong bài Xích Bích Phú của Tô Đông Pha: ‘Duy
giang thượng chi thanh phong
Dữ sơn gian chi
minh nguyệt,
Nhĩ đắc chi
nhi vi thanh,
Mục ngộ chi nhi
thành sắc...
Thị tạo
vật giả chi vô tận tạng dă’
Có một người
[không rơ tên] đă dịch như vầy:
“Bui gió mát trên sông dài,
Trăng sáng chiếu
non thẳm,
Tiếng thoảng qua
tai,
Cảnh in vào mắt
…
Ḱa kho vô tận
của hóa công!”
Thầy giải thích
chữ ‘vô tận tạng’ trong bài thơ này là lấy
từ kinh Phật. Nửa đêm
nằm mơ nhớ lại chuyện này rồi bị điện
thoại reo giựt ḿnh, tỉnh dậy không thấy
rừng núi trăng sáng ǵ cả, chỉ thấy bịnh
nhân khó chịu nên mấy cô y tá kêu đi khám bịnh. Sau cơn mộng này mới càng
hối hận, lúc đó tôi đi nghe kinh không hiểu nên
cứ nghĩ là thầy giảng không hay; thật ra là v́
tŕnh độ của ḿnh quá kém (thiệt ra là không có tŕnh độ
ǵ cả!), cho nên mới chê là thầy giảng không hay và
không tiếp tục nghe cả mười năm rồi,
xém chút xíu th́ làm hỏng pháp thân huệ mạng của ḿnh! Cách một thời gian sau đó
thầy không ra giảng kinh; khi tôi tham gia ‘Trai Giới
Học Hội’ chịu ảnh hưởng rất lớn
của Pháp sư Sám Vân, nên có thể nói Trai Giới Học
Hội đă chuyển biến cả đời tôi. Trong thời công phu tối pháp
sư đọc bài hồi hướng cho lăo ḥa
thượng Quảng Khâm và lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam làm
cho tôi có ấn tượng rất sâu đậm, nên
một hôm có cơ duyên đặc biệt tôi liền theo
mấy vị liên hữu đi nghe giảng kinh.
Hôm đó chân thầy
Lư sưng lên đến nỗi đi đứng không
vững nên người ta phải dùng kiệu để khiêng
thầy lên bục giảng.
Phật pháp thiệt quá quan trọng và người
hoằng pháp thiệt là vĩ đại, chân sưng lên
đi không được mà vẫn tiếp tục
giảng kinh thuyết pháp.
Buổi giảng hôm đó tôi khóc từ đầu
đến cuối; bài giảng ghi lại nghuệch
ngoạc, nét chữ xem không rơ, đến nay cũng không
nhớ nội dung là giảng về đề tài ǵ,
nhưng ḷng từ bi vô lượng của thầy Lư đă
làm chấn động tâm tôi một cách mănh liệt, tôi
cảm động tinh thần ‘v́ pháp quên ḿnh’ của
thầy, nếu không có ḷng nhiệt thành hoằng pháp
của thầy th́ không có cách nào cứu nổi cái tâm ngoan
cố ngu si của tôi, kể từ đó tôi dọn nhà
về Đài Trung để nghe giảng cho thuận tiện.
Mỗi đầu
tháng khi bịnh viện sắp xếp thời khoá biểu
làm việc tôi luôn luôn yêu cầu sắp xếp tránh thời
gian đi nghe giảng; tôi thà chịu liên tục làm suốt
mấy ngày liền và thà chịu mệt chứ không
chịu bỏ qua những buổi giảng của
thầy. Tại v́ ‘Thân người khó
được, đây là một nhân duyên rất hiếm có;
Phật pháp khó nghe được, cơ hội rất khó
gặp trong lũy kiếp; nếu lỡ bỏ qua,
thiệt không ai có thể bù đắp sự tổn
thất này!”
Mỗi ngày bịnh nhân của tôi
đều than thở khóc lóc để nhắc tôi tầm
mức quan trọng của chuyện này; không phải không
có người khuyên tôi: “Cô nên ăn uống có dinh
dưỡng một chút, uốn tóc đẹp một chút,
mặc áo đẹp một chút”;
nhưng tôi thể hội được một cách
rất sâu sắc rằng trong giờ phút khẩn cấp
của sự sanh tử trong đời người,
những thứ này đều không cần thiết tí
nào! Phải nên thấy rơ,
hiểu thấu, nghe kinh, thực hành theo để
chuyển hóa đời sống th́ có ích lợi hơn. Cho nên mặc dù giọng nói
miền Sơn Đông của thầy rất khó nghe, nhưng
nghe hiểu được câu nào th́ trân quư câu đó,
thật là cơ hội hiếm hoi ngàn đời khó
gặp! Huống chi là lời
phiên dịch qua tiếng thổ ngữ Đài Loan của bác
Giản rất rơ ràng và lưu loát, giúp đỡ rất
nhiều; nếu c̣n chỗ nào không hiểu th́ tôi
đến Đài Trung để cung kính nghe những vị trưởng
thượng trong Liên Xă giảng lại. Khi nghe lại mới biết là
các đạo hữu rất chăm học, tư duy thâm
nhập [giáo lư] mà lại c̣n nỗ lực đi thực
hành, ai cũng cảm nhận sự giáo huấn và
đức hạnh của thầy chiêu cảm.
Vào mỗi ngày thứ
tư rất nhiều người từ khắp nơi
như Đài Bắc, Đài Nam, và Cao Hùng lũ lượt về
đến Đài Trung để nghe giảng, cả một
giải liễu châu, lục châu, tôi gặp rất nhiều
người tay cầm xâu chuỗi, mặc áo đà,
thật là một cảnh tượng rất ôn nhu, đẹp
đẽ, thanh lương trong thế giới Sa Bà … Tôi c̣n nhớ rơ ràng buổi
giảng cuối cùng của thầy, thầy dùng tấm
ḷng bi nguyện rộng lớn, từ câu, từ câu
khuyến khích mọi người phải luôn ‘tịnh
niệm tiếp nối’; đây là lời trong Chương
Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông; nhiều
người cảm động quá không cầm
được nước mắt.
Thầy rán hết
sức trong mấy hơi cuối cùng để khuyên
mọi người:
‘tịnh niệm tiếp nối’ là điều quan
trọng trong sự tu niệm;
Chúng ta có thiết thật làm
được chuyện này hay chưa? Trong kinh Phật thường
bắt đầu bằng câu: “Tôi nghe như thế
này”. Trên bề ngoài chúng ta
đều có ‘nhĩ văn’ (tai nghe) nhưng câu cuối cùng
“hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ” (vui vẻ tin
nhận, lễ lạy rồi lui ra) th́ có mấy
người làm được?
Y theo lời của Ngẫu Ích Tổ sư, thân tâm vui
mừng th́ gọi là ‘hoan hỷ’, không có nghi ngờ ǵ
hết th́ gọi là ‘tín’, nhận chịu không quên th́
gọi là ‘thọ’; cảm đại ân đức quy
mạng lạy xuống th́ gọi là ‘tác lễ’; y theo
lời dạy mà tu tŕ không lùi bước th́ gọi là ‘nhi
khứ’. Chúng ta có thiệt là
‘y giáo tu tŕ, nhất văng bất thoái’ không?
Nghĩ đến
đây th́ rất xấu hổ, mọi người thử
xem th́ biết, tôi tự biết vọng tưởng
của ḿnh có sức mạnh giống như thạch nham từ
trong núi lửa trào ra, c̣n tịnh niệm th́ yếu ớt
như xách một thùng nước nhỏ mà đi chữa
lửa. Muốn thay đổi thế lực của hai
thứ này (vọng niệm và tịnh niệm) th́ phải
ra sức khổ công; nếu không như vậy th́ lúc thân
thể khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, tự ḿnh
c̣n không làm chủ ḿnh được, tự ḿnh c̣n không
biết tâm niệm kế tiếp là tâm niệm ǵ th́ lúc lâm
chung c̣n tệ hại hơn nữa!
Thầy dạy chúng ta:
“Niệm Phật không nên cầu niệm nhiều,
niệm một trăm lẻ tám hột chuỗi tâm không
loạn, trong đó nếu có một niệm loạn, quay
xâu chuỗi niệm từ đầu trở lại”.
Tôi luyện tập
qua một thời gian, chỉ có ba hột đầu tiên
trong xâu chuỗi là có màu đen thôi!
Không biết trong ba niệm này có xen tạp không
nữa; khi niệm một vạn, hai vạn, cho đến
có lúc niệm sáu vạn, bảy vạn danh hiệu th́
cũng rất khó t́m ra được ‘trăm lẻ tám
tịnh niệm tiếp nối’.
Cái tâm này thiệt loạn đến mức quá nguy
hiểm rồi, nguy hiểm nhưng tự ḿnh không
biết, làm sao không sớm nỗ lực gia công thêm
được! Chúng ta hăy nh́n
thầy một lần nữa và đem lời dạy này
nhớ kỹ trong ḷng. Ánh
mắt kiên nghị của thầy, ánh mắt nh́n về Tây
phương thanh tịnh, nh́n về hư không vô tận, và
cũng nh́n chúng sanh khổ nạn vô biên. Thầy dạy chúng ta:
“Tận hư không biến khắp pháp giới
đều là thân của đức Phật A Di Đà. Chúng ta nằm trong ḷng của
đức Phật A Di Đà cho nên Phật lại tiếp
dẫn chúng ta rất dễ dàng.
Điều này cũng như cái bàn ở trước
mặt chúng ta, có con kiến đi từ bên đây qua
đến bên kia bàn, nếu ḅ theo đường thẳng
th́ cũng phải ḅ hết một thời gian rất
dài. Cũng như Phật A Di
Đà, chúng ta có thể đem con
kiến từ bên này qua đến bên kia, cũng có thể
đem ngược lại; chúng ta
đi và lại đă nhiều lần rồi mà con
kiến cũng chưa đi đến bờ bên kia. Chúng ta niệm Phật khi
đến mức có cảm ứng, đức Phật
đến tiếp dẫn th́ cũng như vậy. Làm sao mới cùng đức
Phật A Di Đà có cảm ứng?
Phải đem ngũ dục lục trần buông
xuống; phàm những ai niệm Phật không có cảm
ứng đều tại v́ các thứ này trói buộc.”
Nguyện cho chúng ta có
thể thật thà làm theo lời dạy của ngài trong
đời sống, có thể làm giống như thầy, có
thể biết trước ngày giờ văng sanh, quảng
độ chúng sanh, viên măn bồ đề nguyện.
Có thể có người sẽ nói: rất
khó có cơ hội gặp được những
người giống như lăo ḥa thượng Quảng
Khâm hoặc là lăo cư sĩ Lư Bỉnh
“Không sao đâu, tôi
sẽ lựa một ngày mát mẻ mà văng sanh!”.
Quư vị xem bà có
thể ‘lựa chọn ngày mát mẻ để văng sanh’,
thiệt là thong dong tự tại biết bao. Đến lúc
cuối, mọi người trợ niệm giúp bà, bà không
thể niệm ra tiếng, nhưng tay có thể gơ vào
giường để ḥa vào tiếng niệm Phật
của mọi người, chánh niệm phân minh mà về
Người xưa có câu:
‘Thuấn hà nhân dă, Vũ hà nhân dă, hữu vi giả diệc
nhược thị’ (Thuấn là người nào, Vũ là người
nào, họ làm được ḿnh cũng làm được! Đại ư: Vua Nghiêu Thuấn, Vua Đại
Vũ là những ông vua nổi tiếng nhân từ hiếu
thảo, tôi cũng là một người, nếu tôi rán
hết sức th́ có thể làm giống vua Thuấn, vua
Vũ). Một bà lăo có thể
làm được như vậy, chúng ta tại sao không
thể nh́n mà bắt chước theo? Thiệt ra chúng ta có chỗ nào là
thông minh hơn [hay thua] bà lăo này không? Đạo lư của pháp môn Tịnh
độ vô cùng thâm diệu, muốn chân chánh đảm đương
triệt để th́ chỉ có các vị tổ sư như
Mă Minh, Long Thọ, Trí Giả, và Vĩnh Minh; nếu chúng ta
dùng vọng tưởng để đo lường th́
càng suy nghĩ càng sai lầm, ngược lại không
bằng bà lăo thật thà niệm Phật và có thể từ
từ thâm nhập vào Phật trí, âm thầm phù hợp
với đạo lư thâm diệu!
Có thể sẽ có người
hỏi: niệm danh hiệu A Di Đà Phật có hiệu
lực lớn như vậy sao?
Đúng vậy. Hăy khoan nói
công đức vô lượng của danh hiệu đức
Phật, trước hết hăy dùng một tên thông thường
làm thí dụ: thí dụ như tên ‘quưt’ (hay cam). Có một bác nông phu muốn
trồng quưt để đến mùa thu [đem ra chợ
bán và] có người sẽ thưởng thức được
mùi vị ngọt ngào giải khát của quưt. Từ khi gieo hạt giống, vun
bới, bón phân, tốn rất nhiều công sức, cây quưt
này trải qua những trận mưa mùa xuân và ánh nắng
gay gắt mùa hè, trải qua những cơn băo tố,
từ đất đen nở ra cây trái vàng óng ánh, toả
ra hương thơm ngát, trải qua thời gian rất dài
và tốn nhiều công sức, thật không phải
dễ.
Cây quưt có sự liên
quan vô cùng mật thiết với cả thế giới này,
rễ quưt bám sâu vào ḷng đất, cây quưt hít thở bầu
không khí rộng lớn và ḥa vào không khí mà chúng ta hít thở
hàng ngày, và cùng thọ nhận nguồn ánh sáng mặt
trời vô tư. Anh nông phu
cần phải dựa vào sức lao lực và hoa trái
của những người khác để duy tŕ đời
sống; anh phải mặc áo và khi bị bịnh phải đi
khám bác sĩ. Cây quưt này có
một lai lịch thật là phức tạp nhưng khi người
mẹ hỏi con: “Con muốn ăn ǵ?” Bạn chỉ trả lời:
“quưt” th́ liền ăn được trái quưt vô cùng ngọt
ngào này, hưởng thụ được thành quả mà người
nông phu phải ra sức vun bồi mới có được.
Không phải vậy
sao? Trái quưt b́nh thường đă
vậy, huống chi là câu vạn đức hồng danh ‘A
Di Đà Phật’. Quá tŕnh thành
Phật đ̣i hỏi bao nhiêu sự khó khăn gian khổ, đ̣i
hỏi bi nguyện rộng lớn chấn động đến
trời đất, thêm vào sức nhẫn nại nỗ
lực qua nhiều kiếp mới thành tựu được
Phật quả không thể nghĩ bàn. Niệm danh hiệu th́ cũng như
nếm trái quưt; hưởng thụ được
những mùi thơm ngọt của nó; trong danh hiệu ‘A Di
Đà Phật’ này, đức Phật ban cho chúng ta hạnh phúc
vô lượng vô biên, ban cho chúng ta thành quả gặt hái được
từ tất cả công phu tu hành của ngài. Có người hấp tấp
nuốt liền và cũng có người từ từ thưởng
thức hương vị; mỗi người nếm được
mùi vị khác nhau, nhưng ai cũng được đă khát.
Danh hiệu ‘A Di Đà
Phật’ chứa đựng tất cả sự trang
nghiêm, tốt đẹp, tự tại, thong dong của
Cực Lạc thế giới; tất cả đều có
sẵn nhưng chỉ có người có tín nguyện thành
khẩn mới có thể tiếp nhận được. Giả sử bạn nhất định
không chịu tin rằng ‘nói ‘quưt’ th́ má bạn sẽ cho
bạn ăn trái quưt’, mà nhất định phải tự
ḿnh đi gieo hột giống để trồng cây
quưt. Như vậy th́ cũng được
nhưng sợ cây quưt chưa lớn th́ bạn đă khát quá
và chết đi rồi, hoặc là bị rắn trong vườn
cắn bị thương.
Như tôi không
biết trồng cây, mạng sống lại rất
ngắn ngủi nên thích nói chữ ‘quưt’ để má cho ăn
và liền có thể nếm được mùi vị ngon
ngọt của trái quưt, liền hấp thụ được
mùi vị ngọt ngào dinh dưỡng của trái quưt, và
cũng cám ơn sự cần khổ của anh nông phu, tin
tưởng vào nguyện và hành của anh nông phu đă thành
tựu, tin vào lời má nói, rất đơn giản và
dễ dàng. Ăn xong trái quưt
th́ có sức lực để đi khám bịnh, phục
vụ xă hội, như vậy th́ quá tốt! Giả sử tin không được
nên phải từ sáng bận rộn cho đến tối
làm việc [trồng trọt] để kiếm ăn, đây
là cả một vấn đề khó khăn.
Chúng ta ở trong đời
trược ác này lâu quá nên
rất khó có thể tin những chuyện tốt hoặc
tin chân lư. Nếu có người
nói với chúng ta bên đường phía đông có một băng
đảng tên là Kim Quang, họ chuyên môn lập kế để
gạt tiền người khác.
Chúng ta sẽ tin liền, sợ họ và không dám đi
về phía đông. Nhưng
nếu nói với chúng ta Tây phương thế giới có đức
Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí
Bồ Tát thường phóng hào quang và từ bi cứu giúp chúng sanh, giúp cho họ
thoát ly khổ nạn, và hưởng an lạc vĩnh
viễn. Chúng ta ngược
lại sẽ hoài nghi cho đến chết cũng không
tin. Tại sao đều là
nh́n không thấy mà chúng ta lại tin là có băng đảng
Kim Quang và sợ không dám đi về phía đông. Chúng ta tại sao không tin Phật
Bồ Tát từ bi và có vô lượng hào quang trí huệ,
không hoan hỷ tin tưởng để có thể đi
về phương tây? Tâm
của chúng ta trầm luân đến nỗi chỉ tin ác
chứ không tin thiện, chỉ tin giả chứ không tin
thật? Tôi cũng tin người
trong băng đảng Kim Quang đều có Phật tánh, nếu
chuyển ư niệm và niệm A Di Đà Phật th́ cũng
sẽ thành Phật. Đức
Phật A Di Đà từ bi sẽ không bao giờ bỏ rơi
họ. Tôi cũng tin Kim Quang đảng
trong nội tâm của tôi: tham, sân, si có một ngày nào đó
cũng sẽ phóng hào quang như đức Phật A Di Đà.
Tôi xin giới
thiệu thêm chuyện của bác Phan Tạ Ánh Mai. Vốn là một đêm trước
tết, khi tôi mở cửa pḥng khám bịnh chuẩn
bị đi về th́ nh́n thấy một người
trẻ tuổi nói là họ từ Mỹ về thăm bà má
vợ (chồng) bị đụng xe. Bà này đă dặn ḍ chuyện ra đi
của bà từ một năm trước, bà dặn khi bà
qua đời th́ kêu họ mời ngài Sám Công và các vị
bạn sen trong liên xă trợ niệm cho bà. V́ họ kêu điện thoại đến
chùa Liên Nhân không gặp thầy và có người kêu họ
lại kiếm tôi để nhờ giúp đỡ. Tôi nghe nói bà đă thọ giới
Bồ Tát, rất siêng năng niệm Phật, và đă dặn
ḍ con cái không được di động thân thể
của bà sau khi bà lâm chung, không cho con cái khóc lóc, và phải
niệm Phật trợ giúp bà.
Tôi nghĩ: “Bà siêng năng tu hành như vậy mà c̣n
gặp phải tai nạn đụng xe, huống chi là người
như tôi” nên mau mau đi trợ niệm giúp bà, phải làm
cho bà được măn nguyện, giúp bà văng sanh.
Khi tôi đến
bịnh viện th́ gặp con bà đang nói chuyện điện
thoại bàn bạc về hậu sự. Tôi cảm nhận được
sự khổ của tất cả chúng sanh đang trôi lăn
trong ṿng sanh, lăo, bịnh, tử.
Bà nằm trong pḥng cấp cứu hôn mê đă mấy
ngày không tỉnh. Nhưng đến
khi niệm Phật cho bà th́ bà chảy nước
mắt. Đêm đó các bạn
ở liên xă chưa ăn cơm xong vừa nghe liền
nhiệt tâm đến giúp chồng bà chuẩn bị và
giải thích rơ về việc trợ niệm. Con bà rất hiếu thảo,
muốn làm cho bà được măn nguyện và văng sanh tây phương;
họ đem các h́nh gia đ́nh họ hàng đang treo trên tường
đem cất để cho bà khỏi động tâm lưu
luyến thế giới Sa bà này.
Bà ra đi ngay đêm giao thừa; có ba bốn mươi
người bạn trong liên xă đến để trợ
niệm mà trước đó không có người nào quen
biết bà.
Tôi rất xúc động
khi thấy tờ giấy viết bài phát nguyện (bài
kệ phát nguyện trong phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện) đă nhuốm vàng bởi khói nhang. Con bà nói trước đó bà thường
đi trợ niệm và có viết sẵn tên của
những người quen có thể đến trợ
niệm cho bà. Nhưng gặp
ngay đêm giao thừa có một số đi về quê,
một số khác th́ bận việc nên không đến được. Con bà rất lo không có ai đến,
nhưng không ngờ lại có nhiều người không quen
biết nhiệt tâm đến để trợ niệm
cho bà. Thiệt là nhân quả
không sai, người niệm Phật chỉ cần tu nhân,
‘nhân’ đúng th́ ‘quả’ chắc chắn sẽ đúng.
Người Á đông
vốn rất kỵ chuyện tang lễ vào dịp
tết, nhất là vào đêm giao thừa, nhưng Phật
tử th́ không màng đến chuyện này, chúng ta chỉ hy
vọng có thêm một người văng sanh thành Phật th́ có
thể độ được vô lượng chúng sanh;
chúng ta chỉ sợ người trong gia đ́nh trong lúc
buồn rầu làm cho họ mất đi ‘tín’ và
‘nguyện’. Sau khi hỏa táng
bà để lại vài viên xá lợi màu xanh, vàng, và
trắng. Chồng bà rất
cảm động; trước đó ông thường phàn
nàn: “Tôi nghèo như vầy cũng v́ bà bố thí hết trơn
và không nấu thịt cá cho tôi ăn!” (từ điểm
này có thể biết được bà là người như
thế nào). Ông nói tiếp:
“Mỗi khi tôi ngồi coi truyền h́nh, bà đều
ngồi xếp bằng, dùng gốc cây nhang để tính
số niệm Phật; nhiều lúc tôi trách bà nhưng không
ngờ là bà đă tu thành công!”.
Tôi cảm thấy một việc rất không thể
nghĩ bàn là xâu chuỗi của bà làm bằng hột ‘Tinh
Nguyệt Bồ Đề’, sau khi hỏa thiêu xong c̣n lại hai
hột y nguyên không bị cháy hết. Con trai, con gái, và con rể bà đều
là tiến sĩ ở Mỹ, đối với việc này
cũng nói là không thể tưởng tượng
nổi. Thật thà niệm
Phật, công phu đắc lực th́ sẽ thành công; nhân
quả tơ hào chẳng sai.
Hồi xưa có
một đệ tử hỏi Phật: “Nếu gặp
chuyện bất trắc mà chết đi bất ngờ th́
có thể văng sanh được không?” Phật thí dụ: “Nếu có
một cây mọc nghiêng về phía đông, nếu bị
gẫy th́ cũng sẽ ngă về hướng đông”. Chúng ta niệm Phật cũng như
cây mọc nghiêng về hướng tây, mỗi ngày đều
hướng về tây mà lớn thêm, nếu bị gẫy
th́ cũng sẽ ngă về hướng tây. Chúng ta phải tự hỏi ḿnh
có nghiêng về hướng tây không? (chỉ sợ là không
có!). Cái tâm của ḿnh thường
thường đều hướng về bốn phương
tám hướng nhảy tùm lum, và không nhất tâm hướng
thẳng về tây. Hai mươi
bốn giờ trong ngày, thời gian thiệt thà niệm
Phật cũng không quá năm phút; nếu người siêng
năng hơn một chút th́ một ngày niệm được
vài giờ, trong đó cũng không biết có bao nhiêu câu
niệm được đàng hoàng (không xen tạp và không
gián đoạn). Cho nên cây này đúng
là mọc tùm lum, nếu bị gẫy bất ngờ
rồi ngă về hướng nào th́ rất khó mà biết trước
được.
Trong nhật kư bà đă
viết sẵn di chúc dặn con cháu phải lo chuyện lâm
chung như thế nào, đến sau này th́ con bà mới t́m
ra. Cũng may là hậu sự
cũng được làm giống theo ư muốn của
bà. Có một đoạn trong
nhật kư làm cho tôi có ấn tượng rất sâu. Bà có một người con
từng làm khoa trưởng ở đại học Phùng
Giáp bị tai nạn xe đă qua đời. Lúc đó bà chưa học Phật
và cảm biết được sự đau khổ trong đời
người, bà viết: “Hôm nay là ngày vĩnh biệt con tôi
và là ngày đau khổ nhất trong đời tôi”. Một người mẹ
nhận chịu sự đau khổ của người
‘tóc trắng tiễn đưa người tóc đen’
thật là chua xót biết bao.
Một người không tầm thường sẽ
không vùi đầu vào sự đau khổ và tối ngày than
vắn thở dài. Người
đó sẽ từ những sự khổ: ‘sanh, lăo,
bịnh, tử, thương xa ĺa, ghét gặp mặt, năm
ấm hừng hực (ngũ ấm xí thạnh)’ giác
ngộ trở lại và bước theo gót chân của
những thánh nhân hồi xưa.
Chúng ta hăy cùng nhau hướng về pháp hội Di Đà
vĩnh hằng vô tận, hướng về Liên Tŕ Hải
Hội thanh tịnh, hoan hỷ, sáng lạng, tràn ngập
tiếng cười. Ấn
Quang đại sư đă từng nói:
Ưng đương
phát nguyện nguyện văng sanh.
Khách lộ khê sơn
nhậm bỉ luyến
Tự thị bất
quy, quy tiện đắc
Cố hương
phong nguyệt hữu thùy tranh
Tạm dịch:
Văng sanh phát nguyện đi
thôi,
Suối non đất
khách mặc người quẩn quanh,
Quê nhà chẳng
chịu về nhanh,
Hễ về ắt được,
ai giành gió trăng?
Chúng ta đừng đi
lang thang nữa. Hăy học theo
thế giới nội tâm của Hoằng Nhất đại
sư: “Hoa chi xuân măn, thiên tâm nguyệt viên”; hăy niệm
Phật cho đàng hoàng. Pháp môn
niệm Phật là một pháp môn đặc biệt
nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn của đức
Phật Thích Ca, pháp môn này dễ thành công nhất. Mỗi ngày niệm đến khi
vô cùng thành khẩn th́ giống như hồi nhỏ trẻ
em thường ca:
“Xe lửa mau bay, xe
lửa mau bay, bay qua núi cao, bay qua khe suối …”
Lúc niệm Phật
trong tâm càng trải qua nhiều sự khó khăn th́ cũng
như xuyên qua núi cao, băng qua khe suối. Và cũng giống như lời
ca: “Mẹ hiền trông thấy thiệt là vui mừng”. Cha mẹ từ bi vô tận vô biên
của chúng ta, đức Phật A Di Đà đă dang tay ra
từ lâu rồi, rất lâu rồi, khi nh́n thấy chúng ta
quay trở về nhà th́ vui mừng biết bao! Nghĩ đến “Bồ Tát đón
mừng, Di Đà đợi ở ngưỡng cửa”
tiếng vang dội từ xa truyền lại th́ làm sao không
bước mau lên….
Quay đầu nh́n
lại tất cả những h́nh ảnh sanh tử bên
bờ sông Hằng chúng ta giống như những người
đang vùng vẫy sắp chết, chư Phật Bồ Tát
từ bi nhảy vào ḍng nước sanh tử tràn đầy
đau khổ và dạy chúng ta dùng một câu “ A Di Đà Phật”
để chứng đến bản tánh bổn vô sanh
diệt của chúng ta, đem gịng nước ác trược
dơ bẩn này biến thành con sông thanh tịnh thánh
thiện; đem lợn sóng cay đắng này biến thành
những mùi thơm ngọt ngào.
‘Không nỡ để
chúng sanh khổ, không nỡ để thánh giáo suy’. Nguyện cho chúng ta phát ra tâm
từ bi, thường làm theo đại nguyện của đức
Phật A Di Đà mà cứu giúp tất cả chúng sanh,
nguyện chúng sanh đều sanh đến Liên Tŕ Hải
Hội trang nghiêm, cùng nhau thưởng thức mưa
Mạn Đà La hoa….
Xin quư vị thứ
lỗi, tôi thường không có nội dung tốt đẹp
ǵ để cúng dường cho quư vị, chỉ kể
một vài câu chuyện thê thảm cho quư vị nghe, không
muốn quư vị ghi nhớ những huyết lệ trong đó,
chỉ nguyện cho quư vị trên con đường đời
sớm giác ngộ. Chúng ta
phải làm ‘ngựa hạng nhất’ không cần phải đợi
những sự đau khổ này đến kề bên người
rồi mới chạy.
Ngựa hạng nhất là vừa thấy bóng dáng
của cây roi phất ngựa là chạy liền. Thấy
người khác khổ, biết được đời
sống có chuyện khổ như vậy, đừng
chờ đợi nữa, hăy mau tu hành! Ngựa
hạng nh́ là đợi đến khi roi đánh tới
ḿnh rồi mới chạy;
ngựa hạng ba là đợi đến lúc bị đánh
tróc da chảy máu rồi mới chạy. Ngựa hạng tư là cho dù
trầy da tróc vảy, đau đến xương tủy
cũng không biết chạy.
Có thể cũng có ngựa hạng năm là chết
rồi cũng không sợ, loại này làm cho Bồ Tát
phải rơi nước mắt!
Buổi diễn
giảng hôm nay vốn là có đạo hữu đề
nghị tôi đừng giảng hoặc là mời thầy
khác giảng dùm. (Ở đây
thuận tiện nên báo cáo cùng quư vị đạo hữu
luôn) V́ cũng như đă nói ở phía trước, chúng ta
đều ở trong ḍng sông sanh tử, những h́nh
ảnh mà chúng ta thấy được trên sông Hằng đều
là h́nh bóng của chính ḿnh. Tôi
cùng tất cả bịnh nhân đều giống nhau, đều
bị bịnh ung thư, bây giờ đúng lúc nhất tâm
niệm Phật chuẩn bị văng sanh. Tôi đă nhận lời nói
chuyện với quư vị ngày hôm nay (27 tháng 4). V́ bác Hứa gọi điện
thoại nhiều lần và vô cùng thành khẩn nên cho dù hôm
nay chỉ có một người đến nghe tôi cũng
sẽ nói. V́ nếu có thêm
một người niệm Phật văng sanh Cực Lạc
thế giới th́ sẽ ít đi một người đau
khổ rơi lệ. Hơn
nữa tôi đă gặp nhiều vị sư trưởng đều
‘không nỡ chúng sanh chịu khổ, không nỡ thánh giáo
suy’, rán hết sức ḿnh để đem những điều
vô cùng quan trọng trong Phật giáo dạy cho chúng ta. Hôm nay tôi có thể không ở trên
giường bịnh rên siết, đến đây cùng các
bạn học tập đều là nhờ ân đức
của họ (những vị sư trưởng). Tôi chỉ muốn rán hết
sức ḿnh (phấn đấu với bịnh đau) để
báo đáp phần nào ân đức của họ.
Trong Đại Trí Độ
Luận, có một vị Bồ Tát nói: ‘Tôi đă mất đi
thân mạng trong vô thỉ kiếp sanh tử vừa qua, chưa
từng v́ pháp (mà hy sinh)’.
Phải đúng vậy không?
‘Quay đầu nh́n lại xương chất thành
núi’, vô số lần mất mạng trong đời quá
khứ đều nhẹ như hồng mao, chưa
từng nặng như Thái sơn th́ cũng phải mất
mạng. Chúng ta hăy v́ Phật
pháp, v́ chúng sanh, chánh niệm rơ ràng, niệm Phật mà văng
sanh!
Nếu như trong
những lời nói hôm nay có một tơ hào nào thành khẩn
đáng quư, nguyện đem phần công đức này
hồi hướng cho tất cả thiện tri thức,
cha mẹ, thầy giáo, bạn bè đă nhắc nhở tôi
trên con đường Bồ đề này. Tôi xin cám ơn tất cả, cám ơn
từng câu nói thành khẩn, không kể là khích lệ hay trách
mắng; cảm ơn từng nụ cười, từng
giọt lệ chân thành, từng lời dạy dỗ. Cũng xin hồi hướng cho
mỗi vị ‘bịnh nhân Bồ Tát’ của tôi, cho tất
cả chúng sanh đang chịu đau khổ, nguyện cho
họ sớm nghe được lời kêu gọi của
Di Đà trong nội tâm, đồng sanh nơi ‘không có sự
khổ, chỉ toàn đều vui’ ở liên bang Cực
Lạc.
Lúc tôi đi khám
bịnh v́ bác sĩ không biết tôi cũng hành nghề này
nên lúc họ thảo luận bịnh trạng với nhau
tôi nghe và biết rất rơ và cũng nh́n thấy chỗ ung
thư qua máy siêu âm. Chỗ ung
thư này đến lúc tôi có thời gian đi khám th́ đă
quá lớn, lớn đến gần hết phía dưới
bụng. Tôi rất xấu
hổ không biết và lo chữa sớm, thiệt là quá
tệ. Mỗi lần ‘beeper’
kêu là tôi phải mau mau chạy đi, nhiều khi đang
tắm cũng phải ngưng và chạy đi. Mấy ngày trước khi đi
khám, chân tôi sưng lên đến nỗi mang giày không được
nhưng cũng phải rán mang như mang dép đi làm. Tuyết Công có nói: “Nếu có mười
phần sức lực mà chỉ dùng hết chín phần th́
không đủ thành tâm”.
Tôi không có cảm giác
lo sợ hay khủng bố ǵ hết, cảm thấy
rất b́nh thường, chỉ quyết tâm niệm
Phật cầu sanh tây phương, tận dụng hết
thời gian c̣n lại để hoàn thành công việc ḿnh
phải làm, gặp mặt những người giác ngộ
từ xưa đến nay.
Chỉ cần tin tưởng Phật pháp, tin tưởng
điều giác ngộ thứ nhất dạy trong kinh Bát
Đại Nhân Giác là ‘thế gian vô thường’, nếu như
vậy th́ chuyện này rất b́nh thường, không
cần phải hỏi: “Có thiệt không? Tôi làm sao mà bị bịnh này được”. Bịnh nhân thường hỏi
như vậy lắm. Và
cũng không cần phải khóc: “Không. Không thể nào là tôi được. Tôi không thể nào bị bịnh
này được (bịnh nhân thường kháng cự
giống như vậy).
Tại sao không thể là chúng ta được? Rất có thể là chúng ta. Hoặc giả vốn là luân phiên đến
lượt chúng ta. Hăy thức
tỉnh đi, vận dụng thời gian c̣n lại đừng
lăng phí và chạy trốn nữa!
Kể từ ngày sanh
ra đời này, chúng ta ai nấy đều từ từ tiến
dần đến cái chết.
Có một người bạn sen thường hay
nhắc nhở chúng tôi: “Mọi
người đều có một sự việc luôn luôn
dũng mănh tinh tiến, đó là từ lúc sanh ra đời
th́ liền từ từ tiến dần đến trạm
cuối của cuộc đời.”
Lại c̣n nói: “Nếu nói bạn trưởng
thành th́ bạn rất vui, nhưng nếu nói là bạn đang
đi về phần mộ th́ bạn rất buồn,
thiệt ra hai chuyện này đều là một”.
Lại có người
hỏi: “Quư vị là những người tin Phật th́ làm
sao có thể bị bịnh ung thư được?”
Kinh
Phật nói với chúng ta rất rơ ràng: ‘Những
ác nghiệp mà chúng ta đă làm từ vô thỉ kiếp đến
nay nếu tính ra th́ vô lượng vô biên. Giả
sử những ư niệm, ngôn ngữ, và hành vi sai lầm
của chúng ta có thể tích và có h́nh tướng th́ cả
tận hư không này cũng chứa không hết. Muốn biết nhân ở thời
quá khứ cứ xem những ǵ ḿnh thọ nhận ngày hôm
nay th́ biết được; muốn biết quả tương
lai, cứ xem những ǵ ḿnh làm hôm nay th́ biết được.’
Từ lũy kiếp
đến nay, không biết tôi đă làm hại hết bao
nhiêu chúng sanh, đă làm bao nhiêu sanh linh đau khổ, bây
giờ quả báo hiện ra th́ phải nhận chịu
một cách vui vẻ và b́nh tĩnh; chúng ta niệm Phật
phải noi theo trí huệ và ḷng từ bi của chư
Phật, nguyện cho tất cả những chúng sanh bị
tôi làm hại lúc trước đều được
tắm gội trong ánh sáng từ quang giác ngộ, hóa
giải những oán hận kết tập lại trong
nội tâm, phá bỏ tất cả không cho oan oan tương
báo tiếp tục. Đây là
sự gia tŕ tốt nhất của chư Phật Bồ
Tát cho tôi, miễn hết tất cả những trách móc và
so đo không cần thiết, tất cả những gút
mắt t́nh cảm không tốt đẹp. Giả sử ngày mai là ngày tận
thế, tối nay tôi vẫn phải trồng đầy
hết ‘phần đà lợi hoa’ (hoa sen) trong vườn, dưới
gió mát trăng thanh phải lớn tiếng niệm Phật
A Di Đà.
Vẫn có nhiều
bạn không bỏ qua được, cứ trách móc
Phật Bồ Tát không gia tŕ cho tôi, để cho tôi mang
bịnh này. Thiệt ra không
phải là Phật Bồ Tát làm cho tôi mắc phải
bịnh này; chúng ta hăy nghĩ xem một hạt dầu khi
nhỏ vào nước sẽ nổi lên mặt nước,
trái lại viên đá sẽ ch́m xuống đáy nước. Nghiệp chướng của tôi
cũng nặng như viên đá cho nên tự nhiên sẽ ch́m
xuống đáy, sẽ mang bịnh.
Rất may đức Phật A Di Đà đă chuẩn
bị đại nguyện, đem chiếc ‘hàng không
mẫu hạm’ để cứu vớt tôi và tất
cả chúng sanh có nghiệp chướng sâu nặng. Nên tôi không lo ǵ cả, chỉ
cần có tín nguyện kiên cố, chấp tŕ danh hiệu
Phật, nhất định sẽ văng sanh. Ngẫu Ích đại sư không
phải đă nói với chúng ta rồi sao:
“Được sanh hay không toàn do có tín nguyện hay không.
Phẩm vị cao
thấp toàn do tŕ danh sâu hay cạn”.
Tôi tuy là chưa
niệm đến mức ‘nhất tâm bất loạn’ nhưng
tiếp tục nỗ lực gắng sức niệm và tin đức
Phật A Di Đà sẽ lại tiếp dẫn. Tôi hiểu được đời
người cũng giống như quá tŕnh vẽ một h́nh
đức Phật. Mỗi
một nét chúng ta đều dùng tâm hết sức chân thành để
vẽ! Đừng để khi
gác cọ xong rồi nh́n lại bức tranh ḿnh vẽ
lại thành ra một con chó sói, hoặc là một con heo,
thậm chí là một con ác quỷ!
Tôi biết có một
bịnh nhân vô cùng siêu thoát, bà đă dạy cho tôi rất
nhiều. Bà bị ung thư
gan. Lúc bà vào bịnh viện là
v́ đường tiêu hóa bị chảy máu chứ không
phải vào để trị bịnh ung thư. Đêm đó nhằm ngày tôi trực
ở bịnh viện, tôi giúp bà đút ống vào mũi đến
dạ dày, đổ nước đá vào để cầm
máu và cũng để khám chỗ chảy máu. Thường khi đút ống vào
mũi thẳng đến dạ dày phần đông
bịnh nhân ai cũng rên xiết kêu đau, nhưng bà này
rất là điềm đạm an nhàn, không nhăn nhó tí
nào, có vẻ dường như không có chuyện ǵ xảy
ra hết. Sau đó tôi nh́n
thấy vết thẹo mà những người thọ
giới đốt để lại trên tay mới biết
bà là một người biết tu hành đă lâu.
Đêm đó bịnh nhân
rất đông tôi phải làm việc liên tục đến
5 giờ sáng. Lúc đi ngang qua
giường, bà chắp tay nói: “A Di Đà Phật, chào bác
sĩ”. Lúc đó bà đang
nằm ở giường tạm đặt ngoài hành lang v́
bịnh viện không đủ giường cho bịnh nhân
nên phải đặt thêm giường tạm. Những bịnh nhân nằm những
giường này luôn luôn phàn nàn là ‘nhiều người đi
qua lại ồn quá’ và ‘đi nhà vệ sinh không thuận
tiện’. Nhưng bà này lại
không phàn nàn ǵ hết, bà nở nụ cười chắp
tay niệm Phật (lúc đó đang đút ống vào
mũi) và nói: “Ở đây không khí thiệt là tốt, sáng
sớm bốn giờ mấy là tôi đă làm xong công phu
(tụng kinh) khóa sáng! Nghe xong
tôi rất cảm động, tâm lượng của bà quá đẹp.
Trong hoàn cảnh không
thuận lợi, nơi chốn ồn ào, thân thể đang
bịnh nặng, đối với bà tất cả đều
là: “rất thanh tịnh mát mẻ”.
Chúng ta đừng xem thường công phu niệm được
một câu A Di Dà Phật trong lúc này (mỗi người
thử đút một ống vào mũi rồi niệm
thử xem). Thường ngày
muốn niệm đến tương ứng trong niệm
này phải dẹp sạch tất cả phiền năo
của tạp niệm lên xuống (giả như muốn được
niệm niệm đều tương tục th́ phải
niệm niệm đều thoát ra khỏi ṿng vây, niệm
niệm phải đều thắng lợi, phải
chiến thắng tất cả vọng tưởng)
huống chi là lúc khổ nhất!
Muốn có một niệm A Di Đà Phật mà ‘tâm và
miệng tương ứng với nhau’ phải có tâm
lực mạnh mẽ để khắc phục tất
cả đau khổ và khó khăn, bạn có biết
không? Cho nên một câu niệm
Phật và vài câu nói của bà đă làm cho tôi cảm động
rơi lệ.
Tôi khám chỗ đau của bà,
cảm thấy gan cứng và sưng lên, tôi nghi là ung thư.
Qua ngày sau rọi siêu âm và thử nghiệm mới biết
ung thư gan đă lớn đến đường kính
tám phân (8 cm). Thấy thái độ
và biểu hiện khác người của bà nên tôi nói
thiệt bịnh t́nh cho bà biết (thường thường
th́ chúng tôi phải suy nghĩ cân nhắc trước khi nói
với bịnh nhân).
Một người
học Phật chân chính sẽ xem chuyện sanh tử
rất là b́nh thường.
Chúng ta sợ nhất là trí huệ không khai mở, đời
này hồ đồ lộn xộn, chết đi rồi
lại tiếp tục sanh vào lục đạo luân
hồi. Khi đă hiểu rơ đạo
lư này sẽ không kêu trời trách đất và sẽ
niệm Phật đàng hoàng, đặt bước trên con đường
về cố hương, chuẩn bị tham gia liên tŕ
hải hội. Đây là sự
‘pḥ hộ’ tốt nhất, t́nh cảnh bi thương là đau
khổ đối với người khác, nhưng chúng ta
vui vẻ xem như là chuyện thường, đây là
lễ vật của chư Phật Bồ Tát! Mười triệu đồng
có thể mua được đủ loại chữa
trị (không thiếu đau khổ giày ṿ) nhưng mua không được
tâm b́nh tĩnh vui vẻ, c̣n lễ vật nào quư hơn tâm
này không?
Lúc tôi nói thiệt
bịnh t́nh cho bà biết, bà nói liền giống như đă
chuẩn bị lời văn từ trước: “Tôi
sống ngày nào th́ phục vụ thêm một ngày cho chúng sanh,
đến lúc mạng tôi sắp hết, đức
Phật A Di Đà sẽ lại rước tôi đi”. Bà siêu thoát như thế đó, tràn
đầy từ bi và ḷng tin, thần sắc của bà
khắc sâu vào tâm khảm của tôi, làm thành một sức
mạnh có khả năng khuyến khích và giúp đỡ tôi
vượt qua rất nhiều khó khăn chướng
ngại thường ngày.
Thiệt t́nh mà nói,
không phải là tôi làm bác sĩ mà phải nói tôi đang ‘đi
học’, ‘bịnh’ của tôi nặng nhất trong số
những người bịnh, ‘các thứ xấu ác’ trong tâm
nhiều quá; tham, sân, si, mạn … đều rất
nặng. Mỗi bịnh nhân đều
thị hiện một hoàn cảnh đặc biệt để
dạy cho tôi hiểu được một đạo lư
nào đó. Người nào
cũng rất từ bi không tiếc đem những lời
dạy và những câu chuyện sống động đầy
máu và nước mắt để dạy và làm cho tôi
hiểu được lời trong kinh Lăng Nghiêm ‘Chương
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông’ đoạn
‘Mười hai vị Như Lai liên tục một kiếp,
vị Phật sau hết danh hiệu Siêu Nhật Nguyệt
Quang dạy tôi Niệm Phật Tam Muội’.
Có một thầy giáo nói:
“Thiện duyên của đức Đại Thế Chí Bồ
Tát vô cùng tốt đẹp có thể gặp được
muời hai vị Phật và được truyền
dạy Niệm Phật Tam Muội; chúng ta một vị
Phật cũng không được gặp”. Tuy là thiện căn của tôi
rất mỏng, nhưng nhân duyên th́ rất đặc
biệt, rất tốt!
Mỗi ngày đều có một vị Bồ Tát đem
h́nh ảnh của sự khổ nạn vô tận trên sông
Hằng đến để cảnh tỉnh và giúp cho tôi
giác ngộ: niệm Phật đi, niệm Phật đi;
họ giúp tôi trao dồi tâm lực, giúp tôi buông xả. Đây là sự gia tŕ của chư
Phật Bồ Tát, giả sử không có sự từ bi gia
tŕ này, khi nghe đến ‘tên bịnh’ th́ tứ chi liền
phát run, tay chân không c̣n sức lực nữa và khóc: ‘Thù
hận trong đời người làm sao miễn được,
…’
Có khi tôi thấy
rất nhiều người thầm vái ở trước
tượng Phật, đôi lúc tôi cũng muốn hỏi
họ khấn vái những ǵ?
Mỗi người thắp ba cây nhang rồi ‘rù ŕ rù
ŕ’ khấn vái, lời họ khấn chắc c̣n dài hơn
48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà; nào
là: xin ngài pḥ hộ cho con tôi thông minh khỏe mạnh, có
thể thi đậu vào trường Y Khoa (tốt nhất
là trúng tuyển hạng nhất); pḥ hộ cho con tôi cưới
được một người vợ hiền hậu
hiếu thảo; pḥ hộ cho chồng tôi sự nghiệp
phát tài kiếm được thiệt nhiều tiền;
pḥ hộ cho tôi trúng số độc đắc và được
lên chức… Nói ra tràng giang đại hải xong rồi đem
trái cây cúng Phật đem về nhà ăn cho ‘được
b́nh an’. Nếu cầu không được
toại nguyện liền trách móc Phật Bồ Tát không pḥ
hộ, chỉ ‘nh́n’ đồ cúng và ‘ngửi’ hương
tôi cúng rồi thôi, không ‘linh’ tí nào!
(Thiệt ra họ đâu biết tự ḿnh không
hiểu nhân quả, không làm theo lời dạy của
Phật, là tự ḿnh không ‘linh’).
Chúng ta thử nghĩ
xem người ta mong cầu những ǵ? Chẳng qua là cầu cho da mặt
ḿnh nhăn thêm một chút (cầu trường thọ
sống lâu th́ tránh không khỏi da nhăn tóc bạc);
cầu gánh nặng vác trên vai nặng thêm (cầu con cái đầy
nhà th́ nhiều phiền năo); cầu chướng ngại
trong đời sống nhiều một chút (lo danh lợi,
lo ‘được’, lo ‘mất’).
Người ta chỉ cầu để được
nhiều những thứ nhỏ nhặt này. Thật ra pháp lực của chư
Phật Bồ Tát rộng lớn vô biên và có thể cho chúng
ta sự pḥ hộ thần kỳ mà lại vĩnh cữu,
cho chúng ta một ch́a khóa trí huệ để khai mở kho
tàng vô tận trong tự tánh, có thể lấy ra sự
hạnh phúc vô tận. Sự
hạnh phúc này không bị hoàn cảnh thay đổi làm
mất đi, không bị ăn trộm, không bị
giựt, cũng không bị mất.
Cái ch́a khóa này chính là xưng niệm ‘Nam Mô A Di Đà
Phật’; chỉ cần tiếp nhận rồi thiệt
t́nh đi mở, ai cũng có được kho tàng quư báu vô
tận!
V́ tôi bị bịnh
nên có người nói: “Cô ăn chay thiếu dinh dưỡng
nên mới bị bịnh”.
Thiệt ra chỉ cần so sánh là biết ăn chay được
khỏe mạnh và sống lâu;
giống như đoạn trước có nói đến
lăo ḥa thượng Hư Vân và Quảng Khâm, Tuyết Công lăo
ân sư đều là ‘nhân thụy’ (người trường thọ và vô cùng
khỏe mạnh). Nhưng
ăn chay không phải để cầu trường
thọ mà là không muốn v́ sự hưởng thụ
ngắn ngủi trên ba tấc lưỡi của ḿnh đem
lại sự lo sợ sắp bị mất mạng và
sự đau khổ cùng cực cho chúng sanh; mỗi con ḅ
chờ đợi bị làm thịt cũng run và chảy
nước mắt, mỗi con chim bị bắt đều
có những con chim mẹ đang chờ đợi con bay
về tổ. Chúng ta chưa
bao giờ nghe hoặc thấy con gà nào t́nh nguyện
trườn cổ dài ra đợi bị làm thịt,
nhổ lông và nói: “Tốt quá, tôi sẽ được
đi làm con gà nướng!”.
Như những
bịnh nhân của tôi luôn vùng vẫy trong sự đau khổ
bên bờ sanh tử, mỗi một con vật đối
diện với cái chết đều sợ phát run lên. Nếu tôi xem thường
mạng người, không đếm xỉa đến
sự đau khổ của người bịnh, họ
nhất định sẽ không tha thứ cho tôi. Cũng giống như vậy
nếu chúng ta xem thường sự đau khổ của
các loài vật khác, chúng nó cũng sẽ không tha thứ cho
chúng ta. Nếu bạn chặt
một cái đùi của nó, nó cũng sẽ t́m cách
để làm bạn găy đi một cái chân; cứ như
vậy oan oan tương báo, trở thành oan gia chủ
nợ lẫn nhau, vĩnh viễn không có ngày thoát ra, trong
sự oán thù rối nùi này ai cũng vô cùng đau
khổ!
Tôi từng nghe
một vị pháp sư thuật lại câu chuyện
thật như sau: Một hôm
có người bồng em bé nằm trong nôi đi bái kiến
lăo hoà thượng Quảng Khâm.
Đứa bé mặt mũi khôi ngô rất là dễ
thương, ai nh́n cũng thích và muốn nựng em bé. Chỉ có lăo ḥa thượng
vừa nh́n thấy liền hiện vẻ không vui (mặt
trầm xuống) và nói với chúng đệ tử: “Nó
lại để đ̣i nợ đó (chỉ em bé)”. Mọi người đều
không hiểu. Lăo ḥa
thượng mới nói với những người này:
“Quư vị làm ăn buôn bán gà đông lạnh phải
không? Hăy xem đứa bé”. Cha mẹ của em vừa khóc
vừa gật đầu rồi vạch áo của em ra; em
bé tuy có bộ mặt rất dễ thương nhưng
phía dưới thân ḿnh lại giống y hệt như thân
h́nh của một con gà!
Lăo ḥa thượng
không ngớt lời khuyên họ nên đổi nghề. Họ nói: “Đă tốn hết 30
triệu đồng trong việc thiết bị hệ
thống đông lạnh, rất là khó mà đổi….”
Tôi nghĩ tiền
lời được trong việc làm ăn này có lẽ
cũng không đủ trả tiền thuốc men cho em bé,
càng không thể bù đắp nổi những giọt nước
mắt chảy ra... (V́ tôi biết rất nhiều bịnh
nhân có t́nh trạng giống như vậy). Nhưng phần đông
người ta thà chịu khổ, chịu tổn hao tài sản
sau này, và c̣n mất thêm sự hạnh phúc cả đời
người nhưng không chịu buông bỏ cái lợi
trước mắt, sự thèm muốn của cái miệng
và cái bụng của ḿnh. Lăo
ḥa thượng là người có pháp nhăn, vừa nh́n th́
đă thấy rơ nhân quả, hết ḷng khuyên nhủ,
nhưng có mấy ai tin và chịu làm theo?
Người ta
thường cầu Phật pḥ hộ nhưng không tin
lời Phật nói, thiệt là kỳ lạ! Cho dù hôm nay có một danh y bác sĩ
nổi tiếng nào nói với tôi là ‘đổi ăn
thịt’ đừng ăn chay nữa th́ có thể chữa
cho tôi hết bịnh, tôi cũng không chịu đi hy sinh
tánh mạng của con gà, heo, dê, ḅ, để gây ra sự
đau khổ cho chúng nó.
Huống chi không có một bác sĩ nổi tiếng nào
có thể xác nhận ăn mặn (ăn thịt) th́ sẽ
‘kéo dài đời sống lâu’ hơn là ăn chay; bất
kỳ bác sĩ nổi tiếng nào cũng sẽ chết,
họ cũng không thể bảo đảm ăn thịt
có thể trường sanh th́ làm sao có thể bảo
đảm cho tôi? Th́ làm sao có
thể bảo đảm cho người khác?
Tôi chỉ tin tưởng
lời Phật dạy và trí huệ của Phật. Hôm nay tôi có thể lấy
được thêm một số ‘đản bạch
chất’ và chất béo từ
thịt động vật, nhưng tôi không thể bù
đắp nổi sự đau khổ của chúng nó, không
thể an ủi sự sợ hăi khủng bố của
chúng nó, càng không lau hết nước mắt của má chúng
nó khóc con mất mạng. Có
một ngày nào đó chúng nó sẽ quay lại để
trả thù. Nhân quả của
con người rất là phức tạp nhưng không sai
chạy tí nào. Mắt thịt
của phàm phu chúng ta chỉ nh́n thấy một mà không nh́n
thấy hai, thường cho ‘quấy’ thành ‘phải’. (Hồi xưa, Nicolaus Copernicus
(1473-1534) nói địa cầu là tṛn xém chút th́ phải
mất mạng. Chúng ta nói nhân
quả báo ứng và lục đạo luân hồi, nếu
bị chê là ‘mê tín’ th́ cũng là ‘việc nhỏ’ mà thôi).
Thiệt ra danh từ
‘chủ nợ’ không hẳn là phải ‘đeo mắt
kiếng đen, hút thuốc lá thơm, cầm súng, mặt
đầy ác khí, đi đến trước cửa
để đ̣i nợ’.
Chủ nợ có rất nhiều dạng: có thể là
một người đẹp mà bạn vừa nh́n đă
bị ‘hốt hồn’ đi mất rồi, bạn không có
suy nghĩ liền đem tiền cho người đó phung
phí, đến khi hết tiền th́ người đó
bỏ bạn, làm cho bạn âu sầu ủ rũ cả
đời. Hoặc có thể
là người khi bạn mới nh́n th́ nổi nóng lên,
mặt đỏ gay lên để căi lộn với họ,
rốt cùng rồi làm cho bạn lên huyết áp, chảy máu
trong đầu và chết bất ngờ. Chúng ta hăy nên tin lời nói
đầy trí huệ của chư Phật Bồ Tát, tránh
làm hại và kết oán thù với chúng sanh, tại v́ tất
cả sự khổ đều sẽ quay trở vào thân
ḿnh, thường là hối hận không kịp. Chúng ta hăy quyết tâm luôn luôn
kết thiện duyên, khai mở trí huệ trong bổn tánh,
mở ra nguồn vui sướng vô tận không phải là
tốt đẹp hơn không?
Những người như vậy, giống như
lăo hoà thượng Quảng Khâm và Tuyết Công lăo ân sư
cho dù sống cả trăm tuổi mọi người đều
thương tiếc.
‘Tại sao ngài
lại ra đi sớm vậy?’
‘Tại sao không
sống đến hai trăm tuổi, để cho cháu
chắt của tôi cũng có dịp gặp ngài?’
Thọ mạng
của các ngài vĩnh viễn đối với mọi
người đều không đủ. Phần đông người ta
chỉ cần sanh ra một bịnh nan y, ai cũng than là
tại sao họ lại ‘kéo’ [mạng sống] quá dài như
vậy, làm cho cả nhà ‘kéo’ đến gần sụp
luôn. Nói như vậy th́
‘trường thọ’ hay không, không phải dựa trên
‘số tuổi’; chúng ta nên sống mà mọi người
đều tiếc là quá ngắn, nhưng đừng nên
‘kéo’ dài để cho ai cũng than là quá dài!
Thiệt ra phải
sống làm sao mới tốt?
Th́ nên nghe theo lời dạy của đức
Phật và những người đă đắc
đạo trong quá khứ, nên thật t́nh niệm
Phật! Dùng cái tâm tánh không
thể nghĩ bàn và rộng lớn vô biên của chúng ta
để xưng niệm danh hiệu không thể nghĩ
bàn của đức Phật Vô Luợng Thọ Vô
Lượng Quang A Di Đà; mỗi khi niệm một tiếng
th́ có một tiếng vượt ra khỏi trần lao! Nguyện cho chúng ta dùng ḷng tín
nguyện vô cùng vững chắc, trang nghiêm từng danh
hiệu A Di Đà Phật, mỗi một niệm đều
chiến thắng tất cả phiền năo, mỗi một
niệm đều đầy đủ quang minh tự tại,
mỗi một niệm đều hiện ra trời trong
trăng sáng. Dùng danh hiệu
bất khả tư ngh́ này thể hội được
vô lượng quang thọ của tự tánh. Cũng như Ngẫu Ích Tổ
sư có nói: “Chuyển kiếp trược thành hải
hội thanh tịnh, chuyển kiến trược thành vô
lượng quang, chuyển phiền năo trược thành
thường tịch quang, chuyển chúng sanh trược
thành liên hoa hoá sanh, chuyển mạng trược thành vô
lượng thọ”. Nguyện
từng tiếng Phật hiệu thành khẩn, thiết tha
đem sóng nước cuồn cuộn trên sông Hằng sanh
tử trồng đầy hoa sen….
Trong quá tŕnh chuyển
ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc
thức giả hoan hỷ phủ chính cho.
Xin thành thật cám ơn.
Hồi
hướng
Nguyện
đem công đức này trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên báo
bốn ân nặng, dưới độ ba đường
khổ
Nếu có
người nghe được đều phát Bồ
Đề Tâm
Đến
hết báo thân này đồng sanh Cực Lạc quốc
Sách biếu không bán.