LỄ PHẬT

Y HỌC

(lược trích)

 

Đạo Chứng Pháp Sư biên thuật

Bửu Quang tự đệ tử

Như Ḥa chuyển ngữ

Download tác phẩm dưới dạng Microsof Doc

LỜI NÓI ĐẦU

 

          Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn nghĩ lễ Phật chỉ là một hành động bày tỏ ḷng cung kính cũng như để sám hối nghiệp chướng, điều phục tâm ngă mạn của chính ḿnh mà thôi, chứ chẳng hề biết lễ Phật c̣n là một phương pháp tập luyện thân thể tuyệt diệu.

          Trong một lần được tiếp chuyện cô Cát Tường, cô có nhắc đến tác phẩm Lễ Phật Dữ Y Học (Lễ Phật và Y Học) của pháp sư Đạo Chứng do Tịnh Tông Học Hội ấn hành và tha thiết yêu cầu chúng tôi chuyển ngữ sang tiếng Việt. Trước khi đọc tập sách này, chúng tôi thường lễ Phật theo thói quen, lễ một cách máy móc, lễ cho đủ số. Lễ xong ai nấy thường thở ph́ pḥ, mồ hôi nhễ nhại, chứ chưa bao giờ được hưởng pháp vị vi diệu trong khi lễ Phật cả.

          Thử thực hành theo cách lễ Phật do Pháp Sư từ bi chỉ dạy, dù chưa nắm hoàn toàn được yếu quyết lễ Phật, chúng tôi đă nhận thấy việc lễ Phật trở nên nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Cứ mỗi lần quỳ xuống, cúi thân rạp lạy, lại quán tưởng Đức Phật đoan nghiêm vi diệu, nghiễm nhiên đứng trên hai bàn tay sen của ḿnh, ḷng chúng tôi lại thấy lâng lâng khôn tả. Trước đây, mỗi lần lạy Phật sám hối, lễ xong 108 lễ là mệt nhoài; nay lễ đủ 108 lễ chỉ thấy hơi mệt, tâm t́nh cũng thoải mái, ư cũng chuyên chú hơn. Chúng tôi tin chắc rằng nếu tập luyện lâu ngày theo đúng cách Pháp Sư dạy, chắc chắn việc lễ Phật sẽ trở thành một niềm pháp hỷ sung măn vô biên đúng như các đệ tử của Pháp Sư đă trần thuật.

          Do tập sách khá dày, đă thế 2/3 cuốn sách lại luận giải nhiều về cơ sở sinh lư/vật lư của phương pháp này, nếu dịch đủ cả, bản dịch sẽ trở nên quá dài, trở thành một cuốn sách giáo khoa về sinh vật học, khiến điểm cốt yếu của tập sách này là cách lễ Phật đúng quy cách bị mờ nhạt đi. V́ thế, chúng tôi chỉ chọn dịch phần khái luận, phương pháp lễ Phật và một hai luận điểm Pháp Sư dùng để chứng minh tính cách khoa học và hợp lư của phương pháp lễ Phật này. Tưởng cũng nên nói thêm, trước khi xuất gia, Pháp Sư Đạo Chứng từng là một vị nữ bác sĩ, khuê danh là Quách Huệ Trân. Sau khi bị ác chứng ung thư, nhờ chí tâm tin tưởng vào Tam Bảo và lễ sám, bác sĩ Quách đă vượt qua được những di chứng ngặt nghèo của căn bệnh. Với ḷng tin nhiệt thành vào Tam Bảo, nhất là pháp môn Tịnh Độ, bà đă xuất gia và trở thành một vị pháp sư hữu danh của Phật giáo Trung Hoa. Khi nghiên cứu cách lạy Phật này, Ngài đă chú tâm diễn giải và hoàn thiện nó trên cơ sở y học và vật lư học. V́ thế, có thể nói không sợ phóng đại rằng cách lạy Phật này rất hợp lư và rất khoa học.

Ngưỡng mong những vị đồng tu có duyên đọc đến tác phẩm này sẽ t́m được niềm vui pháp hỷ sung măn trong việc lễ Phật, cũng như càng lễ sám, tu niệm, càng thấy thân tâm khang kiện hơn.

.

PHẦN THỨ NHẤT:DẪN NHẬP

 

CHƯƠNG I:

 

I. Lễ Phật là một hành động rèn luyện tự giác, là sự hưởng thụ tối cao.

          Có người cứ nghe nói đến việc “lễ Phật” bèn bài xích là hành động mê tín, chứ thật ra đối với ư nghĩa của chữ Phật và đạo lư “lễ bái” hoàn toàn chẳng hiểu ǵ nên mới ngộ nhận như thế. Lễ Phật nào phải là sùng bái, van vái thần minh bên ngoài một cách mù quáng, mà chính là một hành vi hợp lư, đúng đắn, có tiềm năng thâm nhập, khai phát tự tánh nội tại. Lễ bái chẳng những giúp cho thân, tâm khang kiện, mà c̣n có thể giúp ta huấn luyện năng lực giác chiếu cao cấp. Nếu bàn đến tác dụng “khiến tâm vui vẻ, sảng khoái, an định” th́ lễ bái cũng là cách hưởng thụ pháp lạc cao quư. Nếu đă có thể tin tưởng vào lời giải thích căn bản trên th́ không ai lại chẳng tán thành, đề cao hoạt động thân, tâm, tinh thần ưu tú này. 

          Có nhiều phương thức biểu đạt sự lễ kính sai khác. Do mỗi quốc gia có một nền văn hóa sai khác nên phương thức biểu đạt lễ kính cũng phải sai khác. Chẳng hạn như: Nước th́ chắp tay, nước th́ khom ḿnh, có nước cúi đầu để biểu đạt ư lễ kính. Tại Tây Tạng, thường dùng phương thức “đại lễ bái” để lễ Phật. Thậm chí ngay nơi lúc trời Đông tuyết đọng, họ vẫn kiền thành rạp lạy toàn thân, nằm mọp xuống đất, hai tay hướng thẳng về trước, ép sát xuống đất.

Tại Ấn Độ, có chín phương thức biểu đạt sự lễ kính, gọi là “Thiên Trúc cửu nghi”:

1. Mở lời thưa hỏi.

2. Cúi đầu biểu thị sự cung kính. 

3. Giơ tay lên cao vái chào.

4. Chắp tay đặt ngang ngực.

5. Co gối (Ấn Độ coi phía phải tượng trưng cho chánh đạo, v́ thế trong kinh thường thấy nói “trật áo vai hữu, gối phải chấm đất, gối trái dựng thẳng lên” để biểu thị sự lễ kính).

6. Quỳ thẳng (hai gối cùng đặt sát đất, mũi bàn chân chạm đất).

7. Bàn tay và gối cùng chạm đất.

8. Ngũ luân cùng gập lại (ngũ luân c̣n gọi là ngũ thể) tức là đầu, hai gối, hai tay thảy đều cong lại

9. Ngũ thể đầu địa (năm vóc gieo xuống đất) là cách lễ kính cao nhất, c̣n gọi là “đảnh lễ”, “đầu diện lễ”, “tiếp túc lễ”; hàm ư: dùng phần cao nhất trong thân ta là đầu mặt chạm đất để kính lễ, ôm lấy chân người nhận lễ. Cách này c̣n gọi là “ngũ luân đầu địa” v́ đầu, hai tay, hai gối đều chạm đất.

Chín cách lễ bái trên liệt kê theo thứ tự từ khinh đến trọng (chép theo sách Đại Đường Tây Vực Kư).

II. Có nhiều cách lễ ngũ thể đầu địa khác nhau, nhưng mỗi cách đều có ư nghĩa sâu xa

 Trong các đạo tràng, chùa miếu của ta, phần nhiều dùng cách “ngũ thể đầu địa” để lễ Phật. Tuy cùng gọi là “ngũ thể đầu địa”, nhưng có nhiều cách thực hiện khác nhau:

1) Trước phải sau trái: Tại Ấn Độ, dùng phía phải tượng trưng cho Chánh Đạo nên quỳ gối phải trước, theo thứ tự: tay phải rồi tay trái chạm đất, biểu ư: tôn trọng chánh pháp, nguyện cho chúng sanh đắc Giác Chánh Đạo.

* Cách lạy: Đứng ngay thẳng, chắp tay ngang trán (cánh tay hơi chạm theo mép áo). Trước hết là gối phải rồi đến gối trái, hai khủy tay lần lượt theo thứ tự chạm đất, rồi x̣e hai tay ra, ḷng bàn tay ngửa lên. Quán tưởng như đang chạm vào chân đối phương, dùng trán dập xuống đất một lạy (theo Phật Quang Đại Từ Điển, điều 6.582).

2) Phải trái cùng lúc: Hai tay đối xứng đồng thời chạm đất, hai gối cũng đồng thời chạm đất. Cách lạy này dùng tả, hữu tượng trưng cho Chỉ - Quán, Định - Huệ, Quyền - Thật, Từ - Bi nên dùng trái phải cùng lúc, biểu thị các ư nghĩa: “Định Huệ Đẳng Tŕ” (cùng b́nh đẳng ǵn giữ Định lẫn Huệ), “Từ Bi Song Vận” (cùng vận dụng Từ và Bi), “Chỉ Quán Song Vận”... 

Do hai cách lạy này, cách nào cũng có đạo lư, ư nghĩa sâu xa, chúng ta đều phải b́nh đẳng học tập, thâm nhập thể hội.

III. Tinh thần, thái độ đúng đắn trong việc học tập cách lễ Phật.

 Do những điều vừa nói trên, ta biết lễ Phật có nhiều cách khác nhau, trong mỗi đạo tràng lại quen dùng những cách thức lễ Phật khác nhau. Mỗi cách thức đều có điểm đặc sắc, ư nghĩa và ưu điểm khác nhau. Đến mỗi nơi, chúng ta phải đặc biệt lưu tâm. Đến trong đạo tràng nào để tham gia đoàn thể cộng tu, chúng ta đều phải tôn trọng sự chỉ dạy của người lănh đạo, và cũng phải tôn trọng phương tiện và cách sắp đặt trật tự đoàn thể của họ, cần phải làm đúng theo nghi thức được sử dụng bởi đạo tràng ấy. Bởi lẽ, tôn trọng người khác cũng là biểu hiện sự lễ kính chư Phật, là thực tiễn để ḥa thuận với chúng sanh. Chúng ta phải bắt chước như hang núi trống rỗng ḥng hấp thâu những điều sở trường của người khác th́ mới có thể tự ḿnh cải tiến không ngừng, sửa ḿnh ngay thẳng. Như vậy mới là tu hành, mới là lễ Phật, mới là tinh thần học Phật khiêm kính, mới là thái độ đúng đắn. Những phương pháp lễ Phật chúng tôi giới thiệu ở đây chỉ là nhằm kính tŕnh mọi người tham khảo mà thôi.

 

IV. Đừng khơi những tâm thái sai trái khiến chính ḿnh bị chướng ngại

 Ngàn vạn phần chúng ta chớ v́ người khác dùng cách thức lễ bái khác với cách ḿnh đă học trước đây hoặc khác với tư thế ḿnh quen dùng mà nảy sinh tâm lư kháng cự, chẳng chấp nhận, tự sanh ḷng phiền năo (chẳng những chỉ đối với việc lễ Phật như vậy mà đối với những điều khác cũng đều nên như vậy), hoặc lăng phí tinh thần vào những hoài nghi, không cách nào thâm nhập, lănh hội những điểm hay của họ. Chớ v́ một động tác nào ta không học được mà ngă ḷng, chán nản. Hoặc v́ gân cốt thiếu vận động, trở thành cứng cỏi chẳng thể thực hiện ngay được động tác ấy bèn chán nản. Thậm chí phê b́nh mù quáng, sanh tâm khinh mạn th́ là hoàn toàn chẳng phù hợp với nội dung của tinh thần lễ Phật, mà cũng là trái nghịch với mục đích của việc lễ Phật là khai phát Phật tánh, mỹ đức nơi tự tâm.

 

V. Điều phục thân tâm, khiêm kính, nhu nhuyễn

 Học tập lễ Phật th́ điều đầu tiên là phải hàng phục thái độ kiêu căng, lười nhác, ngạo mạn của chính ḿnh, điều ḥa, làm dịu đi sự ngoan cố, bướng bỉnh, khẩn trương nơi thân tâm ḿnh. Hễ tâm đă khoan ḥa, rỗng rang, từ bi, dịu dàng th́ thân cũng tự nhiên thong dong, đoan chánh, linh hoạt, khí huyết cũng thông suốt. Nếu như tâm căng thẳng, cố chấp vào một thói quen nào đó, thân sẽ tự nhiên trở nên cứng c̣ng, mất đi tánh linh hoạt, dẻo dai, biến thành lăo hóa, các công năng của thân bị thoái hóa, bệnh tật phát sanh.

 

VI. Lễ Phật là một cách vận động để khôi phục thân tâm khang kiện

Phật là bậc giác ngộ. Ngài cũng là bậc Đại Y Vương về thân và tâm. Lễ Phật là h́nh thức vận động phù hợp với những nguyên lư của y học, khiến cho nội tâm giao cảm với bậc Đại Y Vương, khiến cho công năng chữa bệnh tự nhiên được phát khởi, có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch, đề pḥng bệnh tật, tự ḿnh điều tiết, khiến cho thân, tâm và cả thế giới cùng điều ḥa. V́ thế, lễ Phật tiêu trừ được nguyên nhân gây bệnh, chữa lành tật bệnh.

 * Lời Phụ:

Lễ Phật nên mặc y phục tề chỉnh, sạch sẽ.

Nếu là người xuất gia phải nên đắp y (y trơn tức là mạn y hoặc ca-sa). Nếu là cư sĩ tại gia th́ phải nên mặc lễ sám y (tức là mạn y), hoặc mặc y phục thống nhất theo quy định của từng đoàn thể. Cố gắng tránh mặc y phục không tề chỉnh, đừng đội mũ, mặc quần áo quá ngắn hở lưng, hở đùi. Trong tập sách này, do phương tiện giúp cho người mới học hiểu rơ những điểm trọng yếu của từng động tác, nên [các người mẫu] không mặc quần áo rộng răi. V́ thế, khi chụp h́nh, người lễ Phật không mặc áo tràng (hải thanh) hay đắp y (mạn y hay quải y), chỉ ăn mặc rất sơ sài như thế. Xin mọi người lúc tự tu, phải nên tận tâm lễ kính. Thập phần cung kính ắt thập phần lợi ích.

 

VII. Do lễ Phật là tu tập về mặt Sự mà khế nhập Lư sâu

 Cách lễ Phật chúng tôi giới thiệu ở đây về cơ bản là tuân theo cách thức do ân sư là Pháp Sư thượng Sám hạ Vân truyền dạy tại Đại Chuyên Học Sinh Trai Giới Học Hội, phối hợp những lời thuyết minh thô thiển theo nguyên tắc giải phẫu sinh vật. Chỉ mong mọi người lúc mới học cách lễ Phật, trước hết, trong từng động tác sẽ được lợi ích thân tâm mềm mại, dần dà sẽ nhập Lư sâu. V́ thế, bước đầu là phù hợp với những nguyên tắc của giải phẫu học, sinh lư học, vật lư học (ḥng tránh khỏi những chướng ngại nơi thân nghiệp, nội tâm an định). Cao hơn là từ việc lễ Phật trên mặt sự tướng, sẽ khế nhập lư Thật Tướng.

Xin quư vị chớ v́ cách thức ḿnh lễ Phật không đúng, trái nghịch với những nguyên tắc sinh lư học, động tác gấp rút, mất sức khiến ḿnh bị mệt mỏi, đau đớn mà ngă ḷng (Có người lại do đó quy tội cho việc lễ Phật. Đi đâu cũng bảo lễ Phật có những điều chẳng thoải mái như thế đó, tựa hồ mười phương chư Phật xử tệ với họ. Đấy chẳng những là chẳng hiểu rơ lư, mà thậm chí c̣n gây tạo khẩu nghiệp, khiến người khác lầm tưởng lễ Phật là chẳng thoải mái, rất khổ sở. Kỳ thật, chỉ v́ người ấy lầm lạc mà thôi!)

 

VIII. Lễ Phật tiêu trừ nghiệp chướng, chớ lầm tưởng là khổ nhục kế

 Lễ Phật là để tiêu trừ nghiệp chướng, tiêu trừ trần lao cũng như tiêu trừ những chướng ngại đă tích lũy từ những tư thế chẳng đúng trong các hành vi thường nhật, kéo duỗi các chỗ căng thẳng, co rút, tiêu trừ những ứ trệ, đả thông những chỗ bế tắc, rèn giũa thân tâm không chướng ngại, chứ chẳng phải là khổ nhục kế.

Có kẻ cho rằng càng lễ Phật đến nỗi kiệt sức, thống khổ, càng quỳ đến nát cả đầu gối, mọp đầu đến rách trán, th́ càng được Phật, Bồ Tát thương xót. Sau đấy v́ quá mệt mỏi, kiệt sức, không cách chi giữ măi như thế được, tâm bèn lui sụt, hối hận. Do chẳng nhẫn được sự cực khổ quá mức (cũng là do chưa xả được nỗi khổ nơi da thịt) bèn viện cả đống lư do: “V́ tôi lễ Phật chẳng được khoẻ khoắn như thế, bác sĩ bảo tôi đừng nên lễ Phật”. Đấy cũng là hạng thiếu tín tâm, chưa hiểu rơ lư rốt ráo. Thật ra, chẳng phải v́ lễ Phật mà không khỏe khoắn, mà chính là v́ chẳng hiểu cách lễ Phật và nhiều vọng tưởng nên mới không khỏe khoắn!

Kẻ mạt học này lúc mới học cũng hiểu lầm như thế, chẳng nắm được yếu lănh, lễ Phật đến mệt nhoài nhọc khổ, cho rằng lễ Phật rất mệt mỏi, sau rồi mới biết là chính ḿnh lầm lạc.

 

IX. Nguyên nhân gây nên sự mệt nhọc trong khi lễ Phật

 Lúc ban đầu tập tành lễ Phật, thấy nhọc nhằn, đau khổ là v́:

- Phương pháp chẳng thích đáng, tư thế mâu thuẫn với những nguyên tắc kiện khang của sinh lư học: chẳng khéo giữ trọng tâm theo vật lư học, chẳng khéo dùng lực tự nhiên, tự dùng sức một cách nhầm lẫn, lăng phí sức.

- Các khớp, khủy, gân, thịt của ḿnh vốn đă sẵn có những phế vật ứ trệ hoặc đă tiêu ṃn v́ tuổi tác (khác nào khe nước vốn sẵn có bùn lầy lắng đọng), lại c̣n thiếu vận động nhiều năm (giống như khe nước chẳng hề nạo vét). Trong t́nh huống như thế, toan vét sạch một lúc th́ đương nhiên những bùn lầy ch́m đắm, ứ đọng sẽ nổi lên khiến cho nước trong khe ngầu đục quá mức. Chỉ cần liên tục đổ nước trong vào, tự nhiên bùn lầy sẽ trôi đi, khôi phục sự trong sạch. Quư vị nên hiểu rơ: Lúc nạo vét sạch, chất bẩn thỉu, tạp nhạp nổi lên chính là những bùn lầy sẵn có, chứ nào phải đâu do nạo vét sạch mà có. Nếu bảo là do nạo vét mới có bẩn thỉu, tạp nhạp th́ chính là chẳng quan sát, suy nghĩ rơ ràng vậy.

Cùng một lư ấy, nếu phương pháp lễ Phật đă chính xác mà cảm thấy có bộ phận nào đặc biệt co rút hoặc đau đớn th́ đấy chính là những “bùn lầy” ứ đọng nhiều năm hiển hiện, cho thấy chỗ ấy vốn bị ứ trệ hoặc ṃn mỏi v́ tuổi già, chứ nào phải là Phật hại chúng ta, cũng chẳng phải do lễ Phật mới bị đau đớn. Nói cách khác, lúc quét dọn thấy bẩn thỉu, lộn xộn, đấy chính là dấu hiệu báo trước cho sự thanh tịnh, quư vị càng nên tin tưởng dọn dẹp. Xin quư vị hăy quan sát, suy nghĩ chính xác, sự lư phân minh, chớ thấy ḿnh có chút bịnh vặt liền quy tội cho việc lễ Phật.

Người hằng ngày thiếu vận động, bảo đi một đoạn ngắn đă thấy đau chân, bảo khiêng vật nặng liền kêu đau hông, nhức lưng; đương nhiên khi lễ Phật cũng phải bị đau nhức, mỏi nhọc. Kỳ thật chỉ v́ các chi thể thiếu được huấn luyện, hoạt động, chẳng tuần hoàn tốt, cho nên sự chuyển hóa năng lượng và thải trừ các chất cặn bă đều yếu kém. Do vậy, phải khéo luyện tập, nếu không lương tri, lương năng sẵn có sẽ bị mất đi. Tuổi trẻ không tập luyện, đến già sẽ phải chịu khổ không thể nói. Đă nhận thức được [giá trị của] sự tập luyện th́ mới có thể đột phá [những khó khăn].

 

X. Dốc ḷng vào một chỗ th́ không việc ǵ chẳng hoàn thành, đừng phí tinh thần thẩn thơ, giận hờn

 Trong nhà Phật, có rất nhiều người có thể mỗi ngày lễ Phật cả ba ngàn lạy, lặng lẽ dụng công (mặt chẳng đổi sắc, thung dung tự tại), đủ thấy họ là những người lễ lạy có phương pháp, có rèn luyện. Quư vị phải khéo tự trân trọng bản năng Phật tánh, dụng tâm khai ư, đừng lăng phí thời gian, tinh lực quư báu để than khổ và oán hờn. Thậm chí suốt ngày bôn ba t́m người khác giăi bày nỗi khổ, chẳng dụng tâm tự giải ngộ! Nếu có thể đem hết tâm lực than khổ, bất măn đó chuyên chú nơi việc khai phát tự tâm th́ những phiền muộn đó sẽ bị trừ sạch! Phật nói: “Dốc ḷng vào một chỗ, không sự ǵ chẳng hoàn thành”. Trên đời không có việc ǵ khó, chỉ sợ người thiếu ḷng!

 

XI. Những điểm mấu chốt khiến việc học lễ Phật trở thành khó khăn hay dễ dàng

 Quan sát những người tập luyện lễ Phật, chúng tôi nhận thấy:

·       Những đứa trẻ ngây thơ, thoải mái, không có tâm thành kiến sẽ học rất nhanh. Có thể nói là chỉ vẽ cách lạy cho chúng từ một đến ba lần, đại đa số bọn trẻ đều làm được ngay. Đủ thấy đây là một loại động tác đơn giản, dễ học. Quư vị đừng cho cách lễ Phật này là rắc rối, khó khăn, sanh tâm chán nản. Cũng từ sự kiện trên, ta thấy lúc tâm không vướng mắc, thong dong, mềm dịu sẽ có khả năng học tập rất tốt, giác tánh sẽ phát khởi công dụng tốt nhất, trí huệ dễ khai phát nhất.

·       Đối với người trưởng thành, những người chưa từng học qua cách lễ Phật (tâm không có sẵn thành kiến) sẽ học rất nhanh v́ chẳng bị thói quen từ quá khứ gây trở ngại, nắm được yếu lănh rất nhanh, đạt được lợi ích thân tâm nhu nhuyễn.

·       Những người khó tập nhất là những người cá tánh khẩn trương, bướng bỉnh, hay những người cố chấp vào tập quán quá khứ. Là v́ họ chỉ mơ hồ thuận theo động tác đă quen, chẳng đặt chút ư niệm giác tánh. V́ thế, lúc lễ Phật mơ màng trên dưới, tâm chẳng chuyên chú (thân cứ theo thói quen đứng lên, sụp xuống, tâm mơ tưởng chuyện khác). Bởi vậy, chẳng biết ḿnh đang làm ǵ. Đứng lệch chẳng biết là đứng lệch. Chắp tay chẳng biết là năm ngón so le, tán loạn. Mỗi một động tác đều là vọng tưởng, làm qua quít mơ hồ, chẳng hề dụng tâm minh bạch rơ ràng để tự quán chiếu. Đấy là buông thả theo thói quen của tự thân, cô phụ giác tánh của ḿnh. Lễ Phật một lạy vốn là việc có thể hiểu rơ trong vài giờ, nhưng nếu học tập như thế th́ mười năm cũng học chẳng xong. Thậm chí học hơn cả mười năm, ngay cả động tác chắp tay cũng so le, tán loạn. Ngay trong lúc khiêm cung cúi đầu cũng vẫn hồ đồ ngửa đầu, thẳng cổ. Ngay trong khoảnh khắc ấy chẳng dụng tâm th́ cái tật nhỏ cố hữu ấy dù mười năm vẫn chẳng thay đổi được.

Bởi thế, việc tu tập chẳng nh́n vào thời gian mà chú trọng tại một niệm tâm ngay trong lúc ấy có chuyên chú, có thong dong, có cung kính hay không.

 

XII. Giải đáp thắc mắc

 Có người cho rằng: “Lễ Phật chỉ là để biểu hiện sự lễ kính, cốt sao trong tâm cung kính là được, việc ǵ phải giảng phương pháp lễ Phật? Phiền phức quá!”

Có người nói: “Phật và chúng sanh bản thể là không. Đều cùng là tánh Không, cần ǵ phải chấp trước sự tướng lễ Phật? Cần ǵ phải giảng giải, nghiên cứu phương pháp lễ Phật cơ chứ?”

Đối với câu hỏi thứ nhất, chúng ta phải hiểu rơ rằng học Phật tu tŕ th́ phải “sự lư viên dung”, chẳng thể chấp trước vào Lư, phế bỏ tu hành về mặt Sự, cũng chẳng thể chấp vào sự tướng nhưng chẳng hiểu rơ đạo lư (Ngẫu Ích đại sư nói: “Chấp lư phế sự th́ lư cũng chẳng viên dung”“toàn sự tức lư, toàn lư tức sự”).

Trong tâm có ư niệm cung kính th́ ḷng thành bên trong biểu hiện ra ngoài. Hoàn toàn chẳng thể nói tôi đối với anh có ư cung kính là tốt rồi. Anh đến nhà tôi, tôi chẳng thèm lư đến, ḍm ngó ǵ đến, thản nhiên coi truyền h́nh, anh hỏi tôi cũng chẳng đáp. Có thức ăn ngon, tôi ăn một ḿnh, dành vỏ trái cây, thức ăn hư, cơm xấu cho anh. Tin chắc là nếu có ai đối xử với anh như thế, nhất định anh chẳng thể nào nghĩ trong tâm họ có ư kính trọng anh được! V́ thế ḷng kính trọng phải có thái độ và lời nói tương xứng, và cũng cần phải có phương cách để biểu lộ.

Nếu như ta bụng đói, trong ḷng muốn ăn, ắt sẽ có hành động, biểu hiện mong được ăn no. Đă có ư muốn ăn mà vẫn c̣n suy xét cách ăn, thực đơn, thậm chí phân tích mức dinh dưỡng, hiệu năng của thức ăn. Thậm chí c̣n nghiên cứu các phép tắc ứng xử nơi bàn ăn, huống hồ trong ḷng có ư kính trọng mà chẳng cần phải nghiên cứu phương pháp kính lễ ư? Ngày ngày hễ muốn ăn liền dùng ăn uống để giải quyết, chẳng hiềm phiền phức, cớ sao đối với tâm ư kính cung kính lại ngại phiền toái?

Đối với câu hỏi thứ hai: Điểm áo diệu trong đạo lư nhà Phật là “Có, Không chẳng hai” (nếu chấp vào không th́ phế Sự tu, đó cũng là thiên chấp). Bản thể của hết thảy sâm la vạn tượng là Không, nhưng huyễn hiện giả tướng Có. V́ thế chẳng thể một bề chấp trước vạn tượng là có, chẳng biết bản thể của chúng là không. Cũng chẳng thể một bề chấp bản thể của chúng là Không, phủ nhận sự hiện hữu của vạn tượng. Bản thể của hết thảy sâm la vạn tượng thực chất là Không, nhưng chúng sanh huyễn thấy h́nh bóng của vạn tượng. Chẳng những thế, sự hiển hiện và biến hóa của giả tướng vẫn tồn tại theo định luật nhân quả (Nếu chấp trước vào Không, bác bỏ nhân quả, th́ thành Ác Thú Không. Nếu chưa thể đối với lửa đốt, dao cắt vẫn an nhiên th́ vẫn là chấp Có, sao lại bỏ Sự Tu?)

Thân chúng ta đây tuy “đương thể tức không” (ngay cái thân này chính là không), nhưng kẻ phàm phu chưa chứng ngộ vẫn chấp trước có thân thể, có tác dụng, có công năng. Nếu chúng ta cử động chẳng thích đáng, chẳng phù hợp với nguyên tắc vận động th́ cứ theo lư nhân quả, sẽ phát sanh các thứ tật bệnh chẳng thoải mái (nguyên tắc vật lư và sinh lư chẳng thể ra ngoài quy luật nhân quả). Bệnh tật đương nhiên là không, nhưng vấn đề là kẻ phàm phu chưa tu chứng được tánh Không ắt nhiên sẽ chấp trước vào chuyện đau bệnh.

Thân thể giả hợp này giống như pháp khí, lẽ dĩ nhiên chẳng nên tham chấp nó quá mức, nhưng cũng chẳng nên ngược đăi nó một cách phi lư. Phật là bậc dùng Giả để tu Chân (vận dụng thân thể giả huyễn để tu hành, khế nhập Chân Lư). Đă sử dụng giả tướng th́ đương nhiên cũng chẳng thể ĺa bỏ các nguyên tắc nhân quả của giả tướng được. V́ thế phải khéo vận dụng sao cho phù hợp với những nguyên tắc vật lư, sinh lư th́ mới có thể phát huy lương năng, lương tri, khai phát được tiềm năng Phật tánh.

Do nhân lạy Phật bất đồng nên quả cũng sai khác. Phàm phu một mực chấp giả là chân, hệt như nằm mộng cứ chấp mộng là thật, có khi nào trong mộng lại biết đấy là mộng? Giả sử thân thể giả huyễn có bệnh khổ th́ bèn thấy bệnh khổ là thật, chưa thể thấy bệnh đó là giả, chẳng hiện hữu! V́ thế nếu chúng ta sử dụng cái thân giả huyễn này chẳng đúng với nguyên tắc sinh lư, vật lư th́ đương nhiên sẽ bị chướng ngại, khổ sở, bực bội vậy!

Miệng tuy nói lư Không, lúc bị đau bệnh, trọn chẳng thấy không nên bèn phiền bực. Chẳng bằng như lúc vận động, trước hết hiểu rơ phép tắc, khéo vận dụng để chẳng bị chướng ngại bức bách phải chịu khổ quả, cũng như sẽ chẳng bị mệt nhọc, khó chịu khi lạy Phật, để rồi lại ngờ Phật tổ không thiêng, chẳng ban ân cho ḿnh!

Nói một cách nghiêm túc, [lễ lạy] một cách hồ đồ, mê muội, trên dưới tán loạn th́ chẳng thể gọi là lễ Phật được! Bởi lẽ, Phật là Giác Giả, dùng sự giác ngộ để cảnh tỉnh tâm, soi xét, quán chiếu tường tận, giác ngộ th́ mới là tương ứng với đạo. Theo Địa Tŕ Bồ Tát Giới, Bồ Tát hằng ngày phải tu công đức lễ Phật, nếu không tu như thế là phạm giới. Chỉ hàng Bồ Tát từ Sơ Quả trở lên mới là ngoại lệ (khai duyên). Nếu bảo chẳng cần đến sự tướng lễ Phật th́ kẻ nói đó có đă chứng Sơ Quả hay chưa? Nếu đă chẳng chấp tướng th́ lạy Phật nào có ngại ǵ?

 

CHƯƠNG II:

 

A.  Lễ Phật là cách thực hiện “điều tốt lành bậc nhất” một cách chặt chẽ nhất

1. Điều tốt lành bậc nhất: Hăy tự đoan chánh tâm, hăy tự đoan chánh thân

 Kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Thế nào là điều lành bậc nhất? Hăy nên đoan chánh tâm, hăy nên đoan chánh thân”. Lễ Phật là cách thực hiện “điều tốt lành bậc nhất” một cách chặt chẽ. Bởi lẽ, việc lễ Phật rèn luyện sức quán chiếu, rèn luyện đoan chánh mà thung dung, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyễn. Vận động đúng quy tắc sẽ vun bồi sức an định, sức giác chiếu và tinh thần lễ kính. Dùng công phu ấy vận dụng vào mỗi một hoàn cảnh sinh hoạt thường nhật th́ trong mỗi một động tác chẳng c̣n phân biệt giữa lễ Phật và sinh hoạt. Nếu c̣n phân biệt giữa sinh hoạt và lễ Phật là đă đánh mất ư nghĩa của việc lễ Phật.

Hoàn chỉnh những sinh hoạt thường nhật chính là vận dụng tinh thần của việc lễ Phật: biến tán loạn thành chuyên chú, biến căng thẳng thành nhẹ nhàng, thung dung; biến cứng cỏi thành mềm mại, biến chấp trước thành rỗng rang, sáng suốt; biến mờ mịt thành giác chiếu, biến hồ đồ thành sáng suốt.

 

2. V́ sao cần phải đoan chánh, thung dung?

 Cứ quan sát hoạt động nuốt chất lỏng của thực quản, ta sẽ thấy rơ:

1) Thực quản phải thẳng và thông suốt th́ mới có thể nuốt chất lỏng dễ dàng. Nếu thực quản cong quẹo, việc nuốt chất lỏng cũng bị trở ngại. Cùng lư đó, nếu thân thể đoan chánh th́ huyết quản mới thông suốt. Nếu thân thể bị g̣ ép trong tư thế nghiêng lệch một thời gian dài th́ huyết quản cũng như thực quản liên tục bị vặn cong, sự tuần hoàn của máu chẳng thông suốt.

2) Nếu dùng tay đè mạnh lên thực quản đă ở vị trí thẳng th́ vẫn khó nuốt chất lỏng. V́ thế cần giữ ngay ngắn nhưng phải thoải mái.

Nếu gân cốt chúng ta liên tục ở trong trạng thái căng cứng, co rút th́ những mạch máu trong gân gốt bị trở ngại, khác nào thực quản bị đè chặt chẳng được thông suốt. Ấy chính là gân cốt của chính ḿnh tạo áp lực trên chính huyết quản của ta. Áp lực ấy do tâm trạng căng thẳng gây nên. Do vậy, tâm có thư thái th́ khí huyết mới thông suốt, chẳng đến nỗi tự ḿnh áp chế chính ḿnh. Tâm có thư thái th́ sức giác chiếu mới phát huy được, mới sáng suốt chuyên chú được.

 

3. Giữ cho thân ngay thẳng chính là cơ sở để tu Quán

 Bài kệ lễ Phật như sau:

Năng lễ, sở lễ tính không tịch,

Cảm ứng đạo giao nan tư nghị,

Ngă thử đạo tràng như đế châu,

Thập phương Như Lai ảnh hiện trung,

Ngă thân ảnh hiện Như Lai tiền,

Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

Có kẻ vặn: Đă là Không Quán th́ cần ǵ phải luận đến nguyên tắc “đoan thân” (giữ cho thân ngay ngắn) nữa cơ chứ?

Đáp: Tu hành phải có tŕnh tự. Nền tảng đă bất ổn lại xây lầu cao th́ sẽ chẳng vững. Xin hăy xem các trước tác của chư cổ đức. Như trong cuốn Quán Vô Lượng Phật Kinh Sớ của đại sư Thiện Đạo, trước khi bắt đầu giảng dạy pháp quán tưởng, Ngài cũng dạy công phu chuẩn bị để an định thân tâm làm cơ sở. Ngay trước đoạn dạy: “Lại quán tứ đại nơi thân trong ngoài đều không, trọn không có một vật”, có đoạn văn như sau: “Dạy ngồi xếp bằng ngay ngắn, giữ thân ngay ngắn, ngậm miệng, răng đừng cắn chặt, lưỡi chống lên ṿm họng để cho hơi thở giữa yết hầu và mũi được thông suốt”.

Đó chính là đoạn văn dạy về cách chuẩn bị trước khi tu Quán (tiền phương tiện), là lời dạy cực trọng yếu. Kẻ sơ học đừng vội ham cao, chuộng xa, coi thường công phu “giữ cho thân ngay ngắn...” Cây không rễ dễ bị khô, xin kẻ sơ học hăy dụng tâm chú ư.

 * Công đức thù thắng của việc lễ Phật:

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:

“Lễ tháp miếu Phật, được mười thứ công đức:

Một là được thân đẹp đẽ, giọng hay.

Hai là nói ra điều ǵ người khác đều tin phục.

Ba là ở giữa đám đông không sợ hăi.

Bốn là thiên nhân yêu mến, bảo vệ.

Năm là oai thế đầy đủ.

Sáu là những chúng sanh có oai thế thảy đều đến thân cận, gần gũi.

Bảy là thường được thân cận chư Phật, Bồ Tát.

Tám là đủ đại phước báo.

Chín là mạng chung sanh thiên.

Mười là mau chứng Niết Bàn”.

 

4. Lễ Phật tiêu trừ nghiệp chướng, khai phát tiềm năng

 Nói đại lược, Nghiệp là hành vi, Chướng là chướng ngại. Do các hành vi trong quá khứ tích lũy phát sanh các thứ chướng ngại, bất luận là chướng ngại nơi thân hay nơi tâm. Các hành vi trong quá khứ vừa nói đó bao gồm các ư tưởng trong tâm (ư niệm), lời nói và các tư thế, hành động nơi thân thể.

Có người cho rằng phải gây sự ác lớn th́ mới là tạo ác nghiệp, mới có nghiệp chướng. Kỳ thật, chỉ cần trong tâm động niệm là đă có nghiệp (thiện niệm có thiện nghiệp, ác niệm có ác nghiệp. Niệm Phật là tịnh nghiệp). Thân có những động tác, tư thế đều là “nghiệp”. Bất cứ động tác, tư thế tạo thành những chướng ngại cho thân th́ gọi là “nghiệp chướng” nơi “thân nghiệp”. Rất nhiều sự đau khổ, bệnh tật có liên quan đến những tư thế thường ngày, tức là có quan hệ với thân nghiệp. Thân nghiệp lại chịu sự chỉ huy của tâm. Hễ tâm bị vướng mắc, giằng kéo th́ thân cũng hiện vẻ khẩn trương, bất giác tự gây nên chướng ngại cho chính ḿnh (nghiệp chướng).

V́ sao nói niệm Phật, lễ Phật có thể tiêu trừ nghiệp chướng? Là v́ trong khi lễ Phật, tâm phải điều chỉnh, hướng đến cung kính và từ bi thanh tịnh, miệng niệm Phật nên không nói chuyện tạp nào khác, trở thành “ngôn ngữ thanh tịnh”, động tác nơi thân trở thành nhu nhuyễn, khiêm ḥa, cung kính. V́ thế tiêu trừ được những tư thế xấu thường ngày gây những chèn ép, chướng ngại trên thân. Cả ba phương diện thân, ngữ, ư đều thanh tịnh, cung kính, nên tiêu trừ được những chướng ngại do những hành vi bất hợp lư trong quá khứ gây nên (đó là “tiêu nghiệp chướng”) và cũng thuận tiện cho việc tập luyện “đạt an định trong khi động”. 

...Chúng ta hăy yên lặng quan sát tư thế của chính ḿnh hoặc quan sát tư thế của người khác để tự cảnh tỉnh chính ḿnh (nhưng cần chú ư: mục tiêu là quay lại quan sát chính ḿnh, sửa đổi chính ḿnh, chứ chẳng phải để phê b́nh, chỉ trích). Hễ tâm có vướng mắc th́ bất giác gân thịt trên thân cũng tự nhiên co rút, căng cứng.

Do chẳng hề tự quán chiếu ḿnh nên rất khó phát hiện để tự sửa đổi, khiến cho những chướng ngại rất dễ trừ bỏ cũng khó có cơ hội trừ bỏ. Lúc lễ Phật là lúc tự soi xét ḿnh, điều phục thân tâm, hết sức điều tiết thân tâm khiến thân tâm tự tại, rất thong dong, chẳng c̣n bị khẩn trương, chướng ngại rất oan uổng nữa!

 

5. Lễ Phật là điều phục thân tâm, tiêu trừ nghiệp chướng (vô trụ sanh tâm)

 Khởi tâm lễ Phật, Phật liền biết ngay, phóng quang gia bị.

Lễ Phật:

a) Tâm buông bỏ vạn duyên, nhất tâm chánh niệm niệm Phật (linh minh giác chiếu).

b) Thân thả lỏng các cơ, nhất tâm (linh hoạt, thong dong, mềm mại).

Trong khi lễ Phật, thân tâm đều thong dong mà cung kính, chuyên chú, cử động nhẹ nhàng, sáng suốt, thoải mái. Tuy là trong động mà vẫn an định quán chiếu. Tuy là động mà nhu nhuyễn, không cứng cỏi, co rút, lực phân bố đều, phù hợp tinh thần “vô trụ sanh tâm” trong kinh Kim Cang.

Chẳng hạn như: khi gối chấm đất, tay liền lập tức duỗi nhẹ ra (chẳng chống mạnh xuống, phí sức!). Khi ngồi quỳ xuống, hai gối và toàn thân lại lập tức hoàn toàn buông lỏng (vô trụ), tùy thời luyện tập, buông bỏ tâm khẩn trương chấp trước. Rèn luyện sao cho có thể đề khởi, có thể buông bỏ khiến thân lẫn tâm đều thông suốt, không chướng ngại.

Trong động lại có thể tùy thời vận dụng tác dụng chiếu soi rành rẽ của tâm (sanh tâm). Lại c̣n tùy thời buông lỏng chẳng giữ cứng (vô trụ). Dù thong dong nhưng chẳng ngừng tinh tấn (vô trụ sanh tâm). Tâm như bánh xe, xoay vần vận chuyển, trục là nhất niệm, nhưng lại “không tâm” chẳng vướng mắc. Bánh xe tiến về trước, chuyển động, nhưng trung tâm của bánh xe không lay động.

 

 B. Kinh Nghiệm Lễ Phật

 

1. Lễ Phật Tâm Đắc (Pháp sư Diệu Âm trần thuật)

 Kẻ mạt học này lấy việc lễ Phật làm nhật khóa đă nhiều năm. Khi ấy tôi chẳng biết tư thế lễ Phật phải phù hợp với kết cấu tự nhiên của thân thể và nguyên tắc sinh học. Mỗi khi lễ Phật xong thường cảm thấy rất mệt mỏi, cổ tay nhức mỏi, xây xẩm, sắc mặt trắng bệch, cảm thấy rất khổ sở. Sau này, do cơ duyên ngẫu nhiên hạnh ngộ sư phụ Đạo Chứng, được Ngài từ bi dạy dỗ, khai thị, mới biết rằng do tư thế sai lầm nên mới đến nỗi ấy. V́ thế, tôi liền phát tâm theo Ngài học cách lễ Phật.

Học cách lễ Phật vốn là việc rất đơn giản, rất dễ dàng, những đứa trẻ hồn nhiên học rất nhanh, nhưng kẻ mạt học phải mất trọn cả năm mới sửa đúng được những tư thế căn bản nhất, mới tạm luyện thuần thục. Do v́ chút thói tật vặt vănh tập khí gây chướng ngại, lại thêm năng lực học tập yếu kém, nên học vừa chậm lại vừa tốn sức. Nói ra hết sức xấu hổ, học theo cách lễ lạy mới tôi bèn phát hiện những động tác tối cơ bản trước đây như chắp tay, đứng thẳng, thậm chí cách thức nhắc thân lên, tôi đều làm trật cả. Đứng th́ ngả nghiêng, vẹo vọ. Chắp tay th́ các ngón so le không đều, lễ kính th́ lụp chụp, quều quào, khom ḿnh th́ xương sống cứng như vách sắt. Lại c̣n lúc lễ th́ trọng tâm thường rơi vào đầu mũi chân, chứ chẳng đặt tại gót chân; x̣e tay như đang quơ mái chèo. Thậm chí chẳng biết thở ra khi lạy xuống, hít vào khi đúng lên. V́ thế, thường chỉ lạy được hơi trước, chẳng tiếp được hơi sau, ph́ pḥ, hào hển!

Hồi tưởng lại lúc mới bắt đầu học cách lễ Phật, toàn thân cứng c̣ng chẳng linh hoạt, gân cốt căng thẳng chẳng thư giăn. Lễ Phật Như Lai xong như trâu già kéo xe nặng, mới dùng sức một chút, khắp thân mồ hôi đă đổ tháo như mưa. Mới lễ mấy lạy, y phục đă ướt sũng.

Trong lúc học cách lễ Phật, thường thường chẳng nắm vững bí quyết: chẳng biết rằng trọng tâm phải đặt tại gót chân th́ mới hợp với trọng tâm tự nhiên của vật lư học. Thoạt đầu, tôi chẳng biết dùng sức ở huyệt Đan Điền để gập thân, thót bụng, và cúi đầu để nh́n vào khoảng giữa hai chân một cách tự nhiên. Chẳng biết ngửa đầu, cúi đầu đều phải dùng lực tự nhiên để mềm mại cúi xuống, chỉ cậy vào sức. Kết quả là cong vẹo nhiều hơn ngay ngắn, càng lạy vội vàng càng thêm mệt!

Lúc mới học, lễ một lạy, đối với mỗi động tác đều phải chăm chú xem từ đầu đến chân có chính xác hay không. Nếu sai th́ sẽ thấy cúi đầu nhưng đầu chẳng gục xuống (lại vội vàng ngẩng đầu, sau gáy càng cứng đờ). Cong lưng nhưng xương sống chẳng gập lại (bụng chẳng thót vào), thậm chí quên cả hô hấp. Do phương pháp sai lầm nên hông đau, lưng mỏi, choáng váng rất khó chịu, trọn chẳng có một mảy pháp hỷ nào!

Tuy lúc đầu thường làm sai nên bị khổ sở oan uổng, nhưng tôi vẫn cứ dốc ḷng tin, luyện tập liên tục không ngừng, lập chí không học thuần thục không được. Vậy mà phải mất một hai năm mới học xong, mới đạt được thân tâm thư thái, gân cốt mềm mại, mỗi một lạy đều tự nhiên, thong dong, mềm mại, tràn trề pháp hỷ!

Do tập quán từ nhiều năm trước tạo thành những động tác quán tính, cứ hễ một phen vọng tưởng, tâm chẳng chuyên chú vào ngay trong mỗi sát na th́ những động tác quán tính sẽ xuất hiện. V́ thế, phải dùng tánh cảnh giác cao độ để quán chiếu.

So với những người mới học th́ việc sửa đổi cho chính xác những động tác, tư thế không chính xác đă quen thói càng khó hơn nữa. Trong khi ấy, hành nhân lại c̣n thử thách bởi một vài trục trặc, tức là những phản ứng mang tính tạm thời [do những tư thế sai lạc quá lâu gây ra]. Nếu chẳng có đại nguyện lực thúc đẩy, tin chắc rằng hành nhân sẽ thoái tâm, chẳng nghĩ đến việc lễ bái nữa. Ấy là v́ toàn thân đă có những tổn thương cũ, hoặc có những tật bịnh vặt vănh đă lâu, nay trong lúc lễ Phật, khác nào vét sạch ống cống, nhất thời sẽ có phản ứng đau đớn. Cũng may là tôi chẳng ngă ḷng, tín tâm càng cao, thêm dũng khí tiếp tục lễ bái. Kết quả là do bị phản ứng, [sức khỏe] lại được cải thiện lớn lao. Chẳng hạn như lúc nhỏ bị thương ở đầu, xương cổ bị trục trặc nên thường hay bị chóng mặt. Trong lúc lễ Phật, chẳng hề hay biết là sức khỏe ḿnh đă khá hơn, đầu không c̣n bị choáng váng nữa. Xương cổ cũng khôi phục b́nh thường. Cũng như chẳng biết sao bắp chân phải đột nhiên phát sanh chứng thũng, sưng phù, nóng hực, vừa đau, vừa nhức, nhưng cứ liên tục lễ bái th́ chứng này cũng biến mất không thấy tăm hơi.

Từ nhỏ, kẻ mạt học này nơi Đan Điền vô lực, nói nhiều liền phát suyễn, xướng tụng kinh kệ liền bị tức ngực, hơi ngắn, khó đọc liên tục, cũng chẳng thể đang nằm ngửa ngồi nhổm dậy được. Sau này, do v́ lễ Phật, trong bụng tự nhiên hóa ra hữu lực, hiện tại đang nằm ngửa có thể ngồi nhổm dậy được, khi tụng niệm cũng có thể xướng hơi dài chẳng bị phát suyễn, học được cách hít thở sâu. Lúc trước khí sắc chẳng tươi, mặt thường trắng bệch, ḷng bàn tay vàng khè, ai gặp tôi cũng bảo: “Pháp sư phải uống thuốc bổ đi!” Nhưng hiện tại thể chất thay đổi, khí sắc rất tươi, chẳng c̣n ai giục tôi uống thuốc bổ nữa.

Do lễ Phật mà thân thể có những điều cải thiện như vậy, tâm cũng chuyên chú, an định, chẳng c̣n phải nhọc ḷng v́ những chứng bệnh lặt vặt, khiến cho kẻ mạt học càng thêm tin tưởng vào phương pháp lễ Phật phù hợp với tự nhiên và nguyên lư y học; đối với việc lễ Phật càng thêm ưa thích, vui sướng sâu sắc. Một ngày chẳng lễ Phật là một ngày chẳng khoan khoái vậy.

Có kẻ bảo lễ Phật th́ muốn thế nào cứ lễ thế ấy, việc ǵ phải suy xét là đúng hay không đúng phương pháp, là chính xác hay không chính xác! Cần phải biết rằng: “Tư thế có thể dẫn đến sự khang kiện mà cũng có thể tạo thành tật bệnh!”, điểm quan yếu là có đúng phương pháp hay không! Nhà Phật dạy chúng ta bốn oai nghi: “Đi như gió, đứng như tùng, ngồi như chuông úp, nằm như cung” là do đạo lư ấy. Đấy là v́ mỗi tư thế, động tác của chúng ta đều ảnh hưởng sâu xa đến sự khang kiện của thân tâm cũng như ảnh hưởng vô cùng lớn lao đến việc tu hành thành tựu của chúng ta. Thân tâm có khang kiện th́ tu hành mới không bị chướng ngại. Chẳng riêng ǵ việc lễ Phật, nếu các tư thế động tác trong sinh hoạt thường ngày không đúng đắn th́ xương sống sẽ bị cong vẹo, chèn ép huyết quản, thần kinh, nội tạng, tạo thành đủ thứ bệnh tật, ưu năo, thống khổ. V́ vậy, đă có tâm lễ Phật th́ tốt nhất là dùng phương pháp hữu ích cho cả thân lẫn tâm th́ mới là hành vi sáng suốt.

Sau cùng, chỉ mong những ai hữu tâm học lễ Phật sẽ đều được chư Phật hộ niệm, đạt được pháp bảo như vậy. Thực hành theo đó, phước huệ cùng tăng, lại phát Bồ Đề tâm, hoan hỷ niệm Phật, cùng sanh Cực Lạc quốc.

 

2. Điều chủ yếu là luyện được cách lễ Phật vừa thong dong vừa tự nhiên (tiến sĩ Tạ Thanh Giai, phó giáo sư đại học Đài Loan kính thuật) 

 Pháp sư thượng Đạo hạ Chứng hỏi tôi có muốn viết một bài tŕnh bày điều ḿnh tâm đắc trong việc lễ Phật để các liên hữu được xem hay không. Do v́ lễ Phật được hưởng niềm hoan hỷ và sảng khoái thù thắng, nên tôi bèn sung sướng xin viết, chẳng nệ ḿnh ngu vụng, dùng tấm ḷng thô thiển, quê mùa, viết ra một bài tŕnh lên quư vị để khích lệ lẫn nhau.

 

1)    Rất nhiều người niệm Phật lấy việc lễ Phật làm nhật khóa

Nhớ lại mười năm trước lúc mới học Phật, gặp được một nhóm người niệm Phật, đại đa số lấy việc lễ Phật làm nhật khóa, hoặc lạy 24 lạy, hoặc lạy 48 lạy, 60 lạy, hoặc 108 lạy, hoặc 200, hoặc 300, hoặc 500, hoặc 600. Tôi chẳng biết cách lễ Phật, cứ tự ḿnh lễ theo cách lễ vụng về bên ngoài, học cách đảnh lễ của họ. Thoạt đầu lễ bốn mươi tám lạy, sau tăng dần đến 108 lạy. Rồi lấy 108 lạy làm định khóa, hành tŕ liên tục mấy năm. Sau gặp nhân duyên tiếp xúc cách đại lễ bái của Mật giáo. Lúc mới học cũng rất khó, nhưng một khi đă nắm được yếu quyết bèn như cá gặp nước. Cứ mỗi lần toàn thân nằm rạp xuống đất th́ chẳng khác nào được tiếp xúc với đức A Di Đà Phật, không hề vướng mắc. V́ thế, bèn đổi sang cách đại lễ bái.

 

2)       Sau khi giải phẫu, việc lễ Phật bị ảnh hưởng lớn

Sau khi tôi bị ung thư vú, phải cắt bỏ vú phải, bác sĩ bèn khuyên: “Từ đây không được dùng tay phải để khâu vá, cũng như chẳng thể đo huyết áp trên tay phải”. Thoạt nghe như vậy, chẳng biết đấy là điều nghiêm trọng. Từ đấy về sau, nách phải thường bị sưng đau, vai phải cứng, đau; thậm chí đau buốt cả xương bả vai phải. Có lúc cảm giác như tay phải rời khớp rụng luôn xuống đất, khó chịu đựng nổi. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc lễ Phật.

Lúc lễ xuống, phải dùng cánh tay để nâng đỡ trọng lượng toàn thân. Lễ rồi đứng dậy, lại phải dùng tay vận sức đỡ thân lên. Do tay phải, vai phải chịu lực quá nhiều khó chịu đựng nổi, lạy một vài lạy là không thể nào lạy nổi nữa. Nhất là cách đại lễ bái, lúc lạy xuống, phải dùng hai tay chống đỡ trọng lượng toàn thân để nằm mọp xuống. Hai tay chịu lực rất lớn, không những không thể lễ nhiều mà c̣n cảm thấy khó chịu. Tuy rất ưa thích cách đại lễ bái, nhưng dù ưa cũng chẳng thể cưỡng cầu, nhật khóa phải trở về cách lễ Phật b́nh thường. Sở dĩ tôi chẳng buông bỏ việc lễ Phật là v́ không lễ không chịu được. Cứ nghĩ xem: dù là lễ Phật rất mệt nhọc nhưng so ra vẫn hơn không lễ Phật. V́ thế, vẫn cứ lễ Phật như cũ. 

 

3)  Sức tiêu trừ nghiệp chướng của việc bái sám rất lớn, nhưng do cách lạy không thích đáng nên rất khó khăn, khổ sở.

Sau khi mắc bệnh, tôi nhận rơ ḿnh nghiệp chướng sâu nặng, nhưng hết thảy nghiệp chướng lại do sám hối mà được trừ diệt. V́ thế, tôi bèn bắt đầu lễ sám. Bản sám văn tôi dùng là Bảo Vương Tam Muội Sám, trứ tác cuối cùng vào tuổi già của lăo cư sĩ Hạ Liên Cư. Bản này chẳng những khai thị tường tận về đạo lư sám hối: “Phải sanh khởi tâm hổ thẹn, chẳng tái phạm nữa”, mà c̣n dung nhập những nghĩa lư trọng yếu của kinh Vô Lượng Thọ. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă nhận định về sám văn này như sau: “Lấy nhân hạnh của ngài Pháp Tạng làm khuôn mẫu cho chính ḿnh, lấy quả chứng của đức Di Đà làm chỗ ḿnh quy y... Dung hàm Lư sám trong Sự sám, ai ai cũng thực hành được!” Bởi thế, tôi dùng bản sám này làm định khóa, mỗi tháng lạy một lần.

Trong nửa trước bản sám th́ quỳ tụng sám văn hoặc lễ bái khoảng chừng một giờ. Trong nửa sau, cứ xưng một danh hiệu Phật lại lễ một lạy, lạy liên tục gần 300 lễ. Đây là một thử thách lớn đối với tôi sau khi được giải phẫu. Trước mỗi lượt lễ Phật, tôi lại phải tự khích lệ một lần, phát đại nguyện một lần để tự cổ vũ dũng khí lẫn tinh thần rồi mới bái sám. Lễ xong tưởng chừng như ḿnh vừa hoàn thành cả một việc lớn lao. Nhưng dù lễ ít hay nhiều đều chẳng thoải mái cả. Mỗi khi lễ sám xong, các liên hữu gặp tôi đều hỏi: “Ủa! Sao mặt bà sưng lên vậy?” Khủy tay do dùng sức để chống xuống nên đau rần, chân cũng nhức buốt. Lại do dùng sức quá độ nên nách phải cũng như cánh tay phải đều rất đau đớn, lại c̣n sưng đau nữa.

C̣n may là không đau đến nỗi không thể nào chịu đựng nổi. Tôi cứ nghĩ đến sám hối tiêu trừ nghiệp chướng, chẳng những chỉ là nghiệp chướng của chính ḿnh, mà c̣n v́ nghiệp chướng của hết thảy chúng sanh, thậm chí trọng tội báng Phật, báng pháp, thay chúng sanh lễ sám, nên mới có thể lễ sám như vậy mấy năm.

 

4) Rất vui khi nghe có phương pháp lễ Phật cả ba trăm lạy nhưng chẳng mệt, chẳng thở dốc, rất hâm mộ nhưng vẫn vô duyên chưa được học

Kỳ nghỉ Hè năm trước, nghe băng giảng của pháp sư thượng Đạo hạ Chứng. Trong băng, Ngài có nói đến việc mỗi lần lễ Phật là lạy cả 300 lạy, chẳng những đă không mệt nhọc, không thở dốc, mà c̣n giống như chỉ lạy một lạy mà thôi. Tôi nghĩ: thật là chẳng thể nghĩ bàn, nếu được như vậy th́ quá tuyệt. V́ vậy, nghe đi nghe lại băng giảng mấy lần, chiếu theo lời Ngài dạy trong băng, tự ḿnh bắt chước tập lạy theo. Dù đă biến cải động tác lạy, nhưng chưa lănh ngộ được nhiều, nên vẫn chưa thể hoàn toàn lănh hội, chẳng thể hiểu rơ phương pháp lễ Phật pháp sư đă dạy. 

 

5) Do Phật lực gia bị có được cuốn Bái Phật Giảng Nghĩa khác nào được của cải cực quư, bắt đầu tự học

Suốt cả năm đó, trong tâm tôi luôn nguyện cầu, mong mỏi. Cuối cùng tôi t́m được một phần cuốn Bái Phật Giảng Nghĩa gồm bốn trang giấy, có phần giải thích động tác và những h́nh vẽ đơn giản, rất dễ hiểu, khác nào có được của cải cực quư. Sau khi đă đọc kỹ càng, tôi bèn bắt đầu tập lạy theo cách sách dạy. Quả nhiên, so với cách lễ Phật khi trước, ít tốn sức hơn nhiều. Điều cải thiện đầu tiên quan trọng nhất là hai khủy tay không c̣n bị đau nhức nữa, chân cũng không nhức mỏi. Tuy nhiên, bây giờ nh́n lại lúc ấy c̣n có quá nhiều động tác và cách thức dùng lực chưa đúng, chẳng thể buông lỏng một cách tự nhiên, thế mà đă có sự cải thiện rất lớn. Sách Giảng Nghĩa dạy lễ Phật là để thâu tóm sáu căn, là định trong động, đừng lầm là chỉ lễ Phật xuông. Đây lại c̣n là một hành pháp quán chiếu tự tâm, chỉ có điều chưa biết thực hiện những điều đó như thế nào.

 

6) Lễ Phật tốn sức là do chưa thể buông lỏng

Lúc bắt đầu lễ Phật, tôi hiểu rằng động tác gây mất sức nhất chính là do ḿnh không thực hiện tốt được những động tác sẽ nói sau đây. Chủ yếu là v́ quá vội vàng, căng thẳng, tâm có điều mong mỏi, chẳng thể buông lỏng thân, động tác không đúng tiêu chuẩn khiến ḿnh lễ Phật bị mất sức. Hễ buông lỏng được th́ tự nhiên sẽ lễ bái dễ dàng.

 

a. Khom ḿnh

Từ ngực, ức, eo, bụng trên cho đến đầu gối đều đẩy về sau tạo thành một h́nh ṿng cung tự nhiên. Lúc ban đầu, xương sống cứng c̣ng, rất khó làm đúng cách. Nhưng cứ mỗi ngày lễ Phật lại cải thiện được một chút. Ngày chầy tháng đọng, động tác ngày càng nhẹ nhàng, thong dong hơn, tư thế ngày càng đúng tiêu chuẩn hơn, đến lúc nào đó động tác trở thành hoàn mỹ. Trèo được lên núi cao cả chín nhẫn là do gắng công chẳng bỏ. Ngay bản thân tôi phải mất nửa năm mới thực hiện được động tác này một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Những liên hữu trẻ tuổi có thể thực hiện được động tác này rất nhanh. Trong các vị đồng học thuộc Đài Đại Thần Hy Xă, có rất nhiều vị cũng làm được động tác này rất nhanh, chẳng như tôi phải mất cả nửa năm mới làm được.

Kỳ thật, hễ buông lỏng được th́ làm được động tác này càng nhanh. Tôi càng cố ư dùng sức gập thân để tạo thành h́nh cung có độ cong thật đẹp th́ kết quả đương nhiên là chẳng tự nhiên. Khi đă buông lỏng, chẳng dùng sức th́ trái lại, cong ḿnh rất tự nhiên.

 

b. Gập gối

Nói chung, đây là động tác đại đa số mọi người có làm sai nhiều nhất. Điểm quan trọng nhất là khi gập gối hạ thân xuống, trọng tâm phải rơi vào điểm chính giữa hai gót chân, cũng là hoàn toàn dùng hai gót chân chịu lực rồi mới đặt hai tay chạm đất, bắp chân phải giữ thẳng.

Lúc mới học, rất khó thực hiện. Phải giữ cho bắp chân khỏi nghiêng xéo, dùng bàn chân chịu lực, mông chẳng được hạ xuống thấp quá, hoặc nửa chừng ngẩng đầu lên, cổ cứng, cũng chẳng nên đưa hai tay đang chắp vào nhau ra xa quá khoảng diện tích do hai mũi chân tạo ra, khiến cho trọng tâm bất ổn. Cũng có trường hợp trọng tâm bị đẩy lùi ra sau quá khiến cho người lễ bị bật ngửa ra sau. Thử nhiều lần, thất bại nhiều phen, thậm chí có lúc tôi cho rằng động tác này là sai, trái với nguyên lư lực học, căn bản là không thể nào làm được!

Kỳ thật, tâm niệm chính là chướng ngại nặng nề nhất, nó có khả năng tàn phá nhất. Học Phật không thành phần nhiều là do ư niệm chết người “tự cho ḿnh là đúng” này. May mắn là tôi tin tưởng mạnh mẽ vào Pháp Sư, thả lỏng thân, luyện tập nhiều lượt, tuy trước mắt chẳng thể bảo là làm đúng tiêu chuẩn, nhưng khả dĩ thực hiện động tác này một cách nhẹ nhàng. Đúng là bắp chân để thẳng, dùng gót chân chịu lực th́ chẳng phải tốn sức dùng đùi và gối, nên lễ lâu cũng không nhức đầu gối.

 

c. Quỳ hai gối xuống, quỳ xong, hai mũi bàn tay và hai đầu gối đặt thẳng hàng trên mặt đất

Khom ḿnh xong, hai tay duỗi ra trước chạm đất, hơi dùng sức chống xuống, hai gối quỳ xuống. Quỳ xong, hai mũi bàn tay và hai gối đặt thẳng hàng trên mặt đất. Trước đây, cách lễ của tôi là hai tay đặt cách xa gối từ mười lăm đến hai mươi centimeters, quỳ xuống th́ hai đầu gối nằm sau hai tay, dùng hai tay để chống đỡ một phần trọng lượng của thân thể. V́ thế, sức nặng đè lên hai cổ tay không phải là ít.

Lúc mới học cách lễ của Pháp Sư, hai gối và hai tay đặt nằm trên cùng một đường thẳng sau khi quỳ xuống thấy thật chẳng thuận tiện, cứ nghĩ: “Hay là sách Giảng Nghĩa dạy sai?” Xem kỹ mươi lần, hết ngờ vực nữa, bèn kiên tŕ lạy theo đúng cách sách Giảng Nghĩa đă dạy, ước chừng khoảng một tháng đă có thể làm được động tác này một cách tự nhiên. Tôi mới hiểu ra là động tác này giảm thiểu sức nặng đè lên hai cổ tay. Nhờ đó, dù lễ Phật lâu cũng không c̣n bị đau cổ tay nữa.

 

d. Quỳ tọa

          Quỳ xuống rồi nên “quỳ tọa”, tức là hai mông phải ngồi trên mé trong hai gót chân. Lúc mới học, khớp cổ chân c̣n cứng, chẳng thể làm được dễ dàng, ngồi nửa chừng khớp chân đau nhức, nhưng ngồi lâu không thấy nữa. Theo kinh nghiệm của tôi th́ chừng khoảng hai ba ngày sẽ ngồi được dễ dàng.

         

e. Hít sâu vào

Lúc năm vóc gieo xuống đất, lật ngửa tay như đón chân Phật. Tiếp đó, hít sâu vào để đứng lên. Lúc tôi mới học, chẳng thể hít sâu nhiều, nhưng động tác này không khó, chỉ cần được dạy một lần là ai cũng làm đúng cả, không cần phải tập luyện nhiều mới làm được. Chỉ cần nhớ là phải hít sâu vào.

 

7) Mỗi ngày lễ ba trăm lạy, trèo núi bốn giờ không mệt nhọc

Từ tháng Mười năm ngoái trở đi, mỗi ngày tôi lễ ba trăm lạy. Nhân v́ mỗi ngày thời gian có hạn, tôi tăng thêm thời gian lễ Phật cũng như bỏ bớt thời gian tập thể dục. Trước đây, tôi thường mỗi ngày đi bộ đến công viên Đại An khoảng bốn mươi đến bốn mươi lăm phút suốt cả một năm. Sau đổi qua chạy nhanh phối hợp với vỗ tay suốt một giờ. Tập như thế cũng khoảng đâu nửa năm. Sau v́ lễ Phật nhiều, bèn bỏ luôn cả tập thể dục. Đương nhiên, có lúc cũng lo không biết có ảnh hưởng ǵ đến thể lực hay không. Nhưng v́ lễ Phật rất vui sướng nên cũng không bận tâm chi nhiều.

Tôi không leo núi đă lâu, nên tháng trước dành ra một ngày Chủ Nhật theo bác sĩ Lư Phong trèo núi để trắc nghiệm thể lực chính ḿnh. Kết quả thật đáng cao hứng. Tôi theo vợ chồng bác sĩ Lư đi bộ theo đường núi suốt bốn tiếng đồng hồ mà chẳng thấy mệt nhọc ǵ hết. Đi đường vẫn theo kịp tốc độ của vợ chồng họ, mà họ là kiện tướng trèo núi mỗi ngày cơ đấy! Đủ thấy rơ lễ Phật có công năng duy tŕ sức khoẻ rất tốt.

 

8) Xương sống tự nhiên điều chỉnh ngay ngắn khiến bác sĩ chỉnh xương thập phần kinh ngạc!

Năm ngoái, con gái út tôi từ Nữu Ước trở về, vừa xuống phi cơ đă bảo nó bị vấp té v́ băng đóng trơn trợt, phải đi chỉnh cột sống. Tôi dẫn con đến một vị y sư nắn xương giàu kinh nghiệm để chữa chạy. Ông này cũng là một Phật tử kiền thành, chúng tôi thân thiết nhau gần cả mười năm. Đưa con đi trị bệnh cũng là nhân tiện để ḿnh chỉnh thẳng cột sống luôn.

Nào ngờ, ông vừa chỉnh đă kinh ngạc bảo: “Giáo sư Tạ, bà khác quá đi. Bà thật là khác quá chừng. Xương sống bà cũng như dây chằng hai bên đều không giống như trước. Đă mười tháng bà không đến đây. Trong quá khứ, nhất định phải cần nắn chỉnh một hai ngày th́ xương sống mới thẳng thắn, nay chỉ nắn một cái đă ngay ngắn rồi”. Ông ta truy ráo riết tôi đă tập cách nào? Tôi cao hứng quá nên cười lớn đáp: “Tôi lễ Phật đó mà!”

 

9) Huyết áp, mạch nhảy cũng tự cải thiện lúc nào không biết

 Sau khi giải phẫu suốt cả sáu năm đến nay, huyết áp luôn ở mức 90/60 mà mạch đập cũng dưới 60 lần một phút. Tận lực tập tành đủ thứ, tịnh tọa, uống thuốc Tàu, chẳng thấy đỡ chút nào. Hai ba hôm trước, sau khi đă theo đúng phương pháp lễ Phật của Pháp Sư thượng Đạo hạ Chứng mỗi ngày lễ Phật 300 lạy được chừng nửa năm, tôi tùy hứng ghé qua pḥng mạch nhỏ gần nhà nhờ bác sĩ khám tai. Khám xong, thấy trên bàn có máy đo huyết áp, tôi nhờ bác sĩ đo huyết áp giùm. Kết quả thật bất ngờ: huyết áp nhiều năm chỉ là 90/60 nay là 110/70. Về nhà, tâm trạng bồi hồi liền tự ḿnh đếm mạch đập, từ nhiều năm mạch chỉ 60 nay đă tăng lên 70. Lễ Phật có công hiệu thật chẳng thể nghĩ bàn. 

 

10) Vừa lễ, vừa xướng, vừa nghe câu niệm, vừa tưởng đến A Di Đà Phật để luyện nhất tâm niệm Phật cũng như khiến cho Đan Điền hữu lực, không sợ lạnh nữa

Sau khi động tác lễ Phật đă thuần thục rồi th́ sẽ theo lời Pháp Sư dạy, xướng thêm Phật hiệu. Cứ mỗi phen lạy xuống, lúc thở ra bèn xướng một câu lục tự hồng danh, lúc đứng lên hít vào th́ không xướng. Lúc đầu xướng cũng chẳng nhịp nhàng, lạy chưa hết nửa chừng đă không c̣n hơi để xướng nữa. Tôi cứ tưởng rằng dùng liền hai hơi để niệm cũng chẳng trái lời Pháp Sư dạy, bèn gân cổ xướng ráng xướng liền một hơi. Mỗi phen xướng xong một câu là đều ḅ lăn ra trước đức A Di Đà, thở ph́ pḥ ba bốn hơi mới thở lại b́nh thường được. Có lần xướng đă hết hơi, nhưng vẫn gắng cật lực xướng, kết quả là ngực phải đau buốt suốt cả một ngày. Từ đấy, chẳng dám ép ḿnh làm quá sức, mà bèn tự điều chỉnh hai điều như sau:

- Trước lúc lạy xuống, hít vào một hơi sâu, hít cho thật đầy phổi rồi mới xướng lạy. 

- Lúc đă lạy xuống rồi, nếu hơi chẳng đủ bèn hít sâu thêm một hơi nữa để xướng.

Lạy như vậy suốt hai tháng, hóa ra chẳng cần phải lưu ư hít sâu vào mà cũng vẫn có thể tự nhiên xướng trọn câu trong một hơi. Phối hợp lễ Phật với hô hấp thành thục rất mau. Tôi cứ bảo mùa Đông năm nay trời không lạnh, sau mới phát hiện: đây có thể là hiệu quả của việc lễ Phật. Mùa Đông năm trước, tôi mặc áo ấm c̣n dày hơn cả thầy tôi. Năm nay th́ chỉ cần mặc một cái áo ấm lót ḿnh che kín ngực, trong khi thầy tôi phải mặc áo dày cộp.

Ngoài ra, khi tham gia tụng niệm khóa lễ sáng chiều tại chùa miếu hoặc dự một ngày niệm Phật, thấy thanh âm xướng tụng của chính ḿnh vang rơ, hữu lực hơn trước kia rất nhiều. Kỳ thật, đấy là kết quả của việc lễ Phật, chuyên tâm xướng niệm, chuyên tâm lắng nghe, chuyên tâm lễ bái, chuyên tâm tưởng nhớ Phật A Di Đà, rèn luyện nhất tâm niệm Phật, tăng trưởng định lực. Nhất tâm sẽ tạo thành một người niệm Phật già giặn, chắc thật. Đấy chính là nguyên nhân thật sự khiến tôi say mê lễ Phật.

 

11) Khó khăn biến thành hoan hỷ, càng lễ càng nhẹ nhàng, thong dong, những đau đớn không uống thuốc tự hết

Đích thân tôi kinh nghiệm: Lễ Phật theo phương pháp của Pháp Sư thượng Đạo hạ Chứng đích xác là rất ít tốn sức, vừa có thể nhiếp tâm vừa nhẹ nhàng, thong dong. Một ngày lễ ba trăm lạy không những chẳng c̣n là một công khóa khó nhọc, lại c̣n biến thành một khóa lễ rất hoan hỷ. Có lúc khênh vác vật nặng, tay phải lẫn vai phải đă mỏi đừ rồi, hoặc có lúc tự ḿnh đă dạy cả sáu giờ, rất mệt mỏi, nhưng khóa lễ chiều phải lạy một trăm năm mươi lạy, tôi cứ kiên tŕ lạy đủ. Cứ mỗi lần như thế, tôi đều kinh ngạc nhận thấy sau khi lạy từ 20 đến 30 lạy rồi th́ tay phải, vai phải hết c̣n đau mỏi, trong người cũng không c̣n thấy mệt mỏi ǵ nữa!

 

12) Kiên tŕ lễ Phật, tăng trưởng định lực nhất tâm hướng Phật, trở thành một người thực sự già dặn, chắc thật niệm Phật

 Phương pháp lạy Phật này chẳng giống với những phương pháp lạy quen thuộc của mọi người. V́ thế, phải có tín tâm mới kiên tŕ tập luyện được. Chính bản thân tôi đă từng kinh nghiệm như thế: Ở nhà tôi đă lạy Phật rất nhuần nhuyễn rồi, nhưng đến khi so sánh với các liên hữu mới phát hiện ḿnh c̣n rất nhiều động tác chưa đúng tiêu chuẩn, lại cần phải điều chỉnh, rồi lại nhận thấy cách lễ mới vẫn chưa hoàn toàn, thật là nản chí, nhưng vẫn cứ kiên tŕ tập luyện.

Tôi nghiệm thấy một điều: Phật pháp là vô tận tạng, dù đă tiến bộ vẫn cần phải tiến bộ hơn nữa, chẳng được tự măn, vĩnh viễn phải luôn có cái tâm thong dong, rộng mở như suối nguồn. Việc lễ Phật cũng thế, phải có đầy đủ tín tâm sâu xa, một khi tín lực đă viên măn sẽ biến trọn thành Phật lực, công đức sẵn có nơi tự tâm sẽ phát hiện cuồn cuộn chẳng ngừng. Tôi chỉ là một kẻ sơ học, vô h́nh trung được lợi lạc rất nhiều trên phương diện thân thể lẫn tu hành Định - Huệ. V́ thế, tôi rất vui mừng viết lại điều ḿnh tâm đắc kính tŕnh đại chúng.

Sau cùng, tôi rất cảm kích Phật, Bồ Tát đă ban cho tôi nhân duyên rất hay như thế này, học tập được phương pháp lễ Phật này. Tôi cũng chỉ cầu mong: tự ḿnh có thể lạy Phật, ngó nh́n cảnh trăng thanh gió mát chốn cố hương Tây Phương, tưởng niệm khuôn mặt từ ái thân thiết của Phật A Di Đà đang dơi mắt đau đáu ngóng trông đứa con lưu lạc chốn Sa Bà sẽ quay về cố hương, nên bèn sanh khởi tín nguyện chân thật, tăng trưởng định lực nhất tâm hồi hương, trở thành một người thật sự già giặn, chắc thật niệm Phật. Cũng mong tất cả những ai đang niệm Phật trong thế gian, đang đi trên con đường trở về quê cha Tây Phương đều đạt nhân duyên thù thắng. A Di Đà Phật!

 

lilmonk

PHẦN THỨ HAI: PHƯƠNG PHÁP LỄ PHẬT VÀ QUÁN TƯỞNG

 

I. Phật là đấng giác ngộ

 Lễ Phật để khai phát Giác Tánh, chứ không phải là sùng bái mù quáng, cũng chẳng phải là một cử chỉ được làm theo thói quen. Lễ Phật là để bồi dưỡng năng lực “hồi quang phản chiếu”, khiến cho giác tánh được phát khởi trước khi quán tánh (thói quen) phát hiện, chứ không phải là một động tác tầm thường. V́ thế, phải luôn luôn quán chiếu từng động tác trong từng ư niệm.

Do đó, khi lễ Phật, xin chú ư là đừng nhắm mắt, từ đầu đến cuối là ngưng đọng ánh mắt để quán chiếu chính ḿnh (đó gọi là Quán Tự Tại). Thị lực tập trung vào chính giữa, làm ǵ cũng tưởng như có đức Phật ngự trên đảnh đầu đang nh́n ḿnh, chẳng thể hồ đồ bất giác. Phải thâu tóm sáu căn, đừng để chúng tán loạn.

 

II. Đứng như cây tùng, ngay ngắn nhưng thong dong

 Hai chân đứng theo thế “tiền bát, hậu nhị” (hai mũi chân cách nhau 8 phân, hai gót chân cách nhau 2 phân). Đầu ngay thẳng (đứng như tùng), dùng gót chân chịu lực, hít thở sâu, toàn thân buông lỏng. Kiểm xem các ngón chân có hoàn toàn buông lỏng hay không. Đầu như quả chuông treo, rỗng rang, đoan chánh, tai nằm lọt giữa hai vai.

Gáy chạm vào cổ áo, xương cổ thẳng góc với xương ngực. Tưởng như từ điểm giữa hai chân qua cột sống, lên đến giữa đỉnh đầu dường như nằm trên cùng một đường thẳng.

Thả lỏng các khớp nơi hàm dưới, đừng nghiến chặt răng. Lưỡi, ṿm họng, yết hầu đều thư giăn. Đầu lưỡi đặt ngay nơi ṿm họng sau hàm răng trên. Cuống lưỡi co lên trên như thể đang ngậm một búng không khí (giữ như vậy th́ dễ dàng nuốt nước miếng ứa ra trong họng, khí quản lẫn yết hầu đều thông thoáng).

Cơ thể thư giăn th́ khí mạch thông, đầu nhẹ nhơm, dễ giữ ǵn chánh niệm, chẳng hôn trầm, chẳng tán loạn.

 

III. Chắp tay nhiếp tâm

 Hai tay chắp ngang ngực (vai và cánh tay phải thư giăn). Hai gốc ngón cái phải nằm ngang huyệt Đản Trung (huyệt Đản Trung là trung điểm của đường thẳng nối liền hai đầu vú). Hai tay đừng áp lên ngực, nên đặt cách xa ngực chừng một phân. Kiểm xem các ngón tay có áp sát vào nhau cùng hướng thẳng ngay ngắn lên trên hay không (nếu tâm tán loạn th́ ngón út sẽ tự tách xa các ngón khác).

Tay chắp ngay ngắn nhưng phải rất thư giăn, đừng gồng cứng, hai tay dường như dựa vào nhau ngơi nghỉ. Hít thở sâu, vai thả lỏng, đừng áp sát tay vào nách. Giữ tư thế đoan chánh nhưng thư giăn, hít thở sâu, sung măn. Thâu nhiếp ánh mắt, chú mục nơi chính giữa hai tay (trung tuyến). Ở mức cao hơn th́ quán sát hơi thở ra vào nơi mũi.

 

IV. Cúi đầu

 Mềm mại cúi đầu xuống lễ kính. Đầu giống như nhánh lúa chín ươm ngả xuống cho đến khi cằm chạm vào ngực. Cổ hoàn toàn buông lỏng đừng dùng sức (thoạt đầu nếu không làm được như vậy là do gân cổ đă cứng lâu ngày. Cứ buông lỏng th́ lâu ngày sẽ như khi ngủ gật, đầu tự nhiên gục xuống dễ dàng, chẳng cần phải tốn sức, tự nhiên sẽ buông lỏng được gân cổ).

Vẫn thâu nhiếp ánh mắt, phản quán chính ḿnh. Lễ Phật là tu tập “tịnh trong động”, dù trong khi lễ lạy, cảnh vật trước mắt thay đổi, thủy chung vẫn lưu ánh mắt nơi chính giữa.

 

lephat1

thuy_image2

Cúi đầu

Cúi đầu & khom ḿnh

thuy_image3

 

Thả lỏng hai vai

 

 

V. Khom ḿnh

 Chú ư: Động tác này không phải là gập lưng ngả về trước khiến trọng tâm rơi vào đầu ngón chân, mà là khom ḿnh hướng tâm (vẫn giữ trọng tâm nơi gót chân), hai gót chân vẫn đứng yên. Giống như khi đang nằm ngửa, muốn ngồi dậy phải dùng sức của bụng eo, đùi, gối; khi cúi ḿnh phải đẩy xương sống ra sau. Có thể thót bụng lại chừng một phân, nhưng hai tay phải giữ mềm mại, bất động.

 

VI. Thả lỏng vai (cúi xuống)

 Vẫn cúi đầu, khom ḿnh, hai tay vẫn chắp lại buông thẳng xuống, hướng đúng ngay nơi trung điểm của hai gót chân. Hai tay chắp sát vào nhau. Hướng theo đường thẳng tưởng tượng đi từ ngực xuống đến điểm chính giữa hai gót chân, mượn trọng lực để hạ hai vai xuống. Tư thế này tiêu trừ sự căng thẳng thường nhật của hai vai. Đầu hai bàn tay buông xuống hướng đúng vào ngay điểm giữa hai gót chân là chuẩn mực để kiểm nghiệm xem ḿnh có làm đúng động tác hay không.

 * Động tác 7 và 8 là hai động tác liên tục. Tay chạm đất là động tác chuyển tiếp trong nháy mắt. Dù động tác này thực hiện rất nhanh (chừng 3 giây), nhưng việc giữ nguyên trọng tâm, độ mở của hai mũi bàn chân, cũng như sức nơi Đan Điền là những điều rất trọng yếu. V́ thế không thể lướt qua sơ sài được mà phải quan sát tách bạch.

 

VII. Cong gối – cong thân hạ ḿnh xuống

 Đầu vẫn cúi, khom ḿnh, buông hai tay xuống dưới, bắp chân vẫn giữ thẳng, gập gối lại cho đến khi hai tay chạm đất (tựa hồ sau lưng ḿnh có cái ghế, nhưng bắp chân đặt sát chân ghế, hướng ra sau ngồi xuống ghế). Trong khi thực hiện động tác này, ánh mắt chuyên chú tại trung điểm của hai gót chân; rồi nhẹ nhàng tách hai tay ra, đặt hai bên bắp chân, xoay ḷng bàn tay hướng ra sau để dễ áp lên mặt đất.

Chú ư: Trong khi làm động tác này, đừng để bắp chân ngả về trước.

 

VIII. Qùy gối sát đất

 Khi đầu ngón tay vừa chạm đất, nhấc gót chân lên khỏi mặt đất, chạm gối xuống đất, quỳ xuống.         Khi vừa quỳ xuống liền duỗi bàn chân và các ngón chân ra phía sau. Lúc quỳ xuống, đầu các ngón tay áp đất sao cho ngang với đầu gối. Hai đầu gối cách nhau chừng 5 phân (đừng tách đầu gối ra xa nhau quá kẻo lúc nằm rạp xuống, xương sống bị vơng xuống quá mức). Khi đầu gối đă chạm đất, hai tay liền buông lỏng (chẳng phí sức để chống đỡ thân), từ đầu đến cuối giữ trọng tâm ở nguyên một chỗ.

 

 IX. Quỳ tọa thư thái

 Ngồi xuống, hai ḷng bàn chân hướng lên trên tạo thành chữ V. Hai ngón cái khẽ chạm nhau, đừng để chúng đè lên nhau. Ngồi lên mặt trong của hai bàn chân. Qùy một cách yên định sao cho trọng lượng cơ thể đè lên hai gót chân.

 

thuy_image6

thuy_image7

Quỳ tọa

Duỗi tay đón Phật

 

X. Duỗi tay đón Phật

 Ngồi vững vàng, trọng tâm đặt tại phía sau giữa gót chân, thả lỏng thân. Vẫn cúi đầu, hai tay mềm mại hướng ra chính giữa phía trước, duỗi thẳng (đầu các ngón tay chạm hờ mặt đất). Tuy cánh tay duỗi thẳng, nhưng vẫn thư thả, chẳng gồng cứng, chỉ dùng lực giữ hai vai tách ra mà thôi. Lúc này bụng dưới hướng gần sát mặt đất, phần thân trên vẫn thư giăn (lực đặt tại Đan Điền).

 

 XI. Ngũ thể đầu địa

Ngồi vững vàng, vẫn trong tư thế quỳ, dùng đầu ngón tay giữa làm điểm tựa chống xuống đất, hai khủy tay hướng ra ngoài, đặt hướng về trước sao cho nằm ngang với hai lỗ tai. Giăn hai vai ra, phía sau vai vẫn giữ bằng thẳng, đừng để chúng bị giật cục, tách hai nách ra (tăng dung lượng hoạt động của phổi). Ngón tay, ḷng bàn tay đều áp sát đất.

Trong khi tách hai khủy tay ra, phần thân trên đồng thời hạ xuống. Nằm mọp xuống rồi th́ Ấn Đường (phần giữa hai chân mày) hướng xuống dưới, áp lên đất (bất tất phải hướng ra trước, hướng xuống dưới là được, khiến cho xương sống gồ lên phía trên). Làm như vậy giúp cho ta hô hấp triệt để. Đảnh đầu, lưng và điểm chính giữa hai gót chân phải nằm trên cùng một đường thẳng.

 

thuy_image8

thuy_image9

Ngũ thể đầu địa

Lật ngửa bàn tay đón Phật

 

XII. Lật ngửa bàn tay đón Phật

 Trước hết, nhè nhẹ lật nghiêng bàn tay lên (lấy ngón út làm điểm tựa), rồi từ từ chuyển ḷng bàn tay ngửa lên trên, như đóa sen nở, như dốc ḷng cúng Phật. Lúc lật tay lên, lật sao cho ḷng bàn tay nằm thẳng, hướng thẳng lên phía trên (đừng nghiêng ngả). Đừng căng cứng bàn tay, lật xong liền thả lỏng bàn tay ngay lập tức khiến cho các ngón tay mềm mại, nhẹ nhàng như những cánh sen.

Dùng bàn tay sen ấy tiếp lấy chân Phật, hai bàn tay đặt cách đầu khoảng một nắm tay, hai ngón giữa cách nhau chừng 4 cm. Các ngón tay tuy thả lỏng nhưng vẫn giữ cho chỉnh tề, nhu nhuyễn.

 

XIII. Ḥa nhập cùng tâm Phật, chúng sanh và Phật cảm ứng nhau

 Lúc ngửa tay đón Phật, quán tưởng Đức Phật đang đứng trên bàn tay sen của ḿnh tiếp nhận sự lễ kính. Ngay khi ấy, tâm ḿnh và tâm Phật ḥa nhập, mỉm cười. Tưởng Phật phóng quang chiếu ta, Phật quang chiếu thẳng vào đỉnh đầu, sung măn toàn thân tâm (lúc ấy, toàn thân buông lỏng, mỉm cười, tự nhiên hô hấp thật sâu).

 

XIV. Khôi phục tư thế quỳ tọa

 Sau khi tiếp Phật xong, trước hết, lật bàn tay lại (dùng ngón út làm điểm tựa), úp ḷng bàn tay xuống dưới, áp thẳng trên mặt đất. Dựa vào sức hít vào để nhấc đầu lên, khôi phục lại tư thế quỳ tọa (hít vào tự nhiên, đừng cưỡng sức). Hai tay vẫn úp sát đất, đặt ngang với đầu gối.

 

thuy_image14

thuy_image15

Khôi phục tư thế quỳ tọa

Quỳ, dựng ḷng bàn chân đứng lên

thuy_image16

 

Khôi phục tư thế đứng

 

 

XV. Quỳ, dựng ḷng bàn chân đứng lên

 Dùng đầu gối làm điểm tựa (hai tay đặt bên gối chỉ phụ giúp hờ mà thôi). Nhấc mông lên để hai chân linh hoạt đổi thành dạng chữ V ngược (khi quỳ ngồi xuống, hai chân chụm đầu ngón cái lại, bè gót ra thành h́nh chữ V. Khi chuẩn bị đứng lên, hai gót chân chụm lại, hai đầu bàn chân chơe ra tạo thành chữ V ngược).

* Cách chuyển chân:

Hai ngón chân cái hướng ra ngoài, điểm xuống đất (hai ngón chân cái cách nhau 8cm). Hai gót chân chụm lại, nhưng vẫn cách nhau chừng 2cm (mục đích là để khi đứng lên, vị trí của chân giống như thế đứng trước khi quỳ xuống - tiền bát hậu nhị).

 

XVI. Khôi phục tư thế đứng

 Dựa vào sức hơi thở (đừng cố ư thở quá sức, cứ hít thở tự nhiên), giống như con rối gỗ bị dây kéo lên, ta cũng như được Phật kéo theo đường thẳng chính giữa thân đứng lên, rất nhẹ nhàng, linh hoạt, trong khoảnh khắc đă khôi phục lại tư thế đứng (đứng lên hoàn toàn chẳng tốn sức cơ lưng, cũng chẳng cần dùng đến hai tay chơi xuống đất nhấc thân lên). Từ đầu đến cuối, luôn giữ đầu ở vị trí cao nhất (mông không được cao hơn đầu). Cần phải dụng tâm thể hội điểm trọng yếu này: dùng sức nhấc đầu lên, chẳng bận tâm đến các bộ vị khác của thân thể.

Chú ư: Trong khi đứng lên, đừng nhấc mông trước rồi mới nhấc đầu sau. Nếu làm vậy sẽ rất tốn sức khiến hông nhức, lưng đau.

 


PHẦN THỨ BA: PHÂN TÍCH Ư NGHĨA PHẬT PHÁP & NGUYÊN LƯ Y HỌC CỦA MỘT SỐ ĐỘNG TÁC

 

Hỏi: Cổ đức bảo lễ Phật như “thụ đảo sơn băng” (cây đổ, núi lở). Thế sao sách này lại bảo lễ Phật phải phù hợp với những nguyên lư, nguyên tắc?

Đáp: Cổ đức dùng câu trên để diễn tả ư “nhất tâm tin tưởng” giống như cây đổ, núi lở hoàn toàn đều do sức hút của trái đất dẫn khởi, hoàn toàn nhờ mặt đất nâng đỡ, không hề hoài nghi, cách ngại, cưỡng chấp; chứ không phải là bảo đột ngột đổ ầm xuống đất. Dĩ nhiên, cây đổ, núi lở tự nhiên đều tuân theo nguyên tắc trọng tâm của vật lư. Đấy chính là ư nghĩa “hợp lư” vậy.

 

I. V́ sao cần phải chắp tay?

 

1.1. Ư nghĩa:

 Nhà Phật thường dùng những động tác, điệu bộ không lời để diễn tả những đạo lư cực thâm áo. V́ thế, tuy là những cử chỉ thường thấy, cũng chớ nên xem thường lướt qua. Chắp tay cũng thế. Từ cổ, người Ấn Độ quan niệm tay phải là “tay thần thánh”, tay trái là “tay bất tịnh”. V́ thế, trong mỗi sinh hoạt thường nhật, họ có thói quen phân biệt khi sử dụng hai tay. Chẳng hạn như: cầm thức ăn th́ chuyên dùng tay phải, nhưng để tẩy rửa thứ ǵ ô uế th́ chỉ dùng tay trái.

Nếu chắp hai tay lại, đấy là biểu thị sự hợp nhất của hai phương diện thần thánh và bất tịnh (tượng trưng cho sự dung hợp các phương diện đối lập, khôi phục diện mục chân thật nhất thể), mà cũng là biểu thị cho đạo lư chân tướng của vũ trụ (Thật Tướng vô nhị, mà cũng là vô bất nhị). Bát Nhă Tâm Kinh nói “bất cấu bất tịnh” là cũng thể hiện ư này. V́ thế, chắp tay để biểu thị bản lai diện mục tối chân thật của nhân loại.

Khi lễ Phật, hoặc lúc b́nh thường gặp nhau liền chắp tay, tượng trưng cho việc “lấy diện mục chân thành để gặp gỡ nhau”, tiêu trừ các thứ ngăn cách, vướng mắc, đối lập trong nội tâm. Tâm người này, người kia dung thông, hệt như một. Chắp tay cũng nhắc nhở phản bổn hoàn nguyên, ngộ nhập chân lư, khôi phục bổn lai diện mục, khế nhập Thật Tướng của vũ trụ.

Ta c̣n có thể hiểu là hai tay tương ứng biểu trưng Lư và Trí, Định và Huệ. V́ thế, chắp tay lại biểu thị Lư Trí nhất như, ǵn giữ Định Huệ cân bằng. Mười ngón tay tương ứng với ngũ đại (địa, thủy, hỏa, phong, không) hoặc tương ứng với “thập Ba La Mật”.

Lại có thuyết cho rằng: Mười ngón tay tiêu biểu mười pháp giới. Đầu ngón tay tán loạn tiêu biểu tâm chạy tán loạn trong mười pháp giới. Chắp tay lại chính là thâu nhiếp loạn tâm, chuyên chú nhất tâm hướng Phật (hướng về nhất chân pháp giới). Nhất tâm hướng Phật th́ liền đó tâm quang chiếu trọn mười phương, mà cũng là cảnh tỉnh tu hành phải khế hợp Lư Sự tương ứng (ngay khi đó, xoay Sự hướng về Lư).

Chắp tay c̣n biểu thị sự cung kính. Sự cung kính ấy chẳng thuộc về tánh sai biệt, mà phát xuất từ cội nguồn Phật tánh. Cung có nghĩa là cùng một tâm chung. Cùng chung một Phật tâm chính là thể hội được đạo lư “đây kia đều vốn sẵn Phật tánh b́nh đẳng”; do đó, cung kính b́nh đẳng. Đấy chính là đă thể hội được sự cung kính tự nhiên “bản lai nhất thể trước khi những quan niệm đối lập được h́nh thành”.

 

1.2. Phương thức

Theo Đại Nhật Kinh Sớ, có mười hai cách chắp tay; chúng chính là cơ sở của các ấn khế. Cùng với sáu loại “quyền ấn” (ấn tạo thành bằng cách nắm tay), chắp tay (hiệp chưởng ấn) được gọi chung là “ấn mẫu”. Mười hai cách chắp tay này, mỗi cách đều hàm chứa ư nghĩa sâu xa

 

hand1

 

1. Kiên thật tâm hiệp chưởng: dựng đứng hai bàn tay lên, hai bàn tay áp chặt vào nhau không để hở

hand2

 

2) Hư tâm hiệp chưởng: C̣n gọi là “không tâm hiệp chưởng”. Giống như kiên thật tâm hiệp chưởng, nhưng hai lưng bàn tay hơi khum lên tạo thành khoảng hở giữa hai bàn tay.

hand3

 

3) Vị phu liên hoa hiệp chưởng (chắp tay như đóa sen chưa nở): C̣n gọi là “vị khai liên hoa hiệp chưởng” hay “Như Lai khai liên hiệp chưởng”. Gần giống với hư tâm hiệp chưởng nhưng khoảng trống tạo thành bởi hai bàn tay ép vào nhau rộng hơn, trông giống như búp sen chưa nở.

hand4

 

4) Sơ cát liên hiệp chưởng (chắp tay như đóa sen vừa tách): chắp tay sao cho ngón út, ngón cái của hai bàn tay đâu nhau, các ngón c̣n lại để hơi xa nhau, trông giống như búp sen vừa hé nở.

hand5

 

5) Hiển lộ hiệp chưởng: Đặt hai bàn tay sao cho hai ngón út kề sát nhau, ḷng bàn tay ngửa lên trên, không úp vào nhau (tức là lật ngửa bàn tay hướng lên trên, ép sát cạnh bàn tay ở phía ngón út vào nhau; các ngón khít nhau).

hand6

 

6) Tŕ thủy hiệp chưởng (chắp tay như đang vốc nước): hai bàn tay ngửa lên, các đầu ngón tay hơi co lại, chạm vào nhau, chỉ trừ hai ngón cái đặt bên hông hai ngón trỏ, như thể đang vốc nước.

 

07

 

7) Quy mạng hiệp chưởng: c̣n gọi là “kim cang hiệp chưởng”. Mười đầu ngón tay đan xen kẽ nhau, năm ngón tay của bàn tay phải đặt phía trên năm ngón tay bàn tay trái.

tmp2

 

8) Phản xoa hiệp chướng (chắp tay đan ngược ngón): Đâu hai lưng bàn tay vào nhau, mười đầu ngón tay xen kẽ giống như trên.

 

09

 

9) Phản bối hỗ tương trước hiệp chưởng (chắp tay áp ngược lưng nhau): Ngửa bàn tay phải lên đặt nằm ngang trên lưng bàn tay trái, lưng hai bàn tay áp vào nhau. Đầu các ngón của hai tay ngược chiều nhau.

hand10

 10) Hoành chù chỉ hiệp chưởng (chắp tay các ngón chống ngang nhau): Gần giống cách “tŕ thủy hiệp chưởng”, ngửa hai bàn tay lên, chỉ có hai ngón giữa giống vào nhau, các ngón khác hơi tách ra.

 

11

 

11) Phúc thủ hướng hạ hiệp chưởng (úp tay hướng xuống dưới chắp tay): hai bàn tay đặt ngang, úp hai ḷng bàn tay hướng xuống, nhưng chỉ có các ngón cái, ngón giữa chạm đầu nhau.

 

12

 

12) Phúc thủ hiệp chưởng: Giống như trên, nhưng chỉ có hai ngón cái đặt sát hông nhau. Mười đầu ngón tay đều hướng ra ngoài. 

  So ra, trong các đạo tràng, thường dùng nhất là cách kiên thật tâm hiệp chưởng và quy mạng hiệp chưởng (kim cang hiệp chưởng). V́ thế, ở dưới đây sẽ nói rơ hai cách chắp tay ấy.

 

1) Kiên thật tâm hiệp chưởng:

- Thả lỏng hai vai, nhưng vẫn giữ vai ngay ngắn, tuy đoan chánh nhưng vẫn thư giăn, đừng gồng cứng.

- Hai bàn tay áp chặt vào nhau, như thể dựa vào nhau nghỉ ngơi.

- Chắp hai tay ngang ngực, giữ phía dưới nách thông thoáng th́ khí huyết mới chảy thông suốt. Gốc hai ngón cái nằm ngang huyệt Đản Trung, đừng áp hai bàn tay lên ngực.

- Mắt nh́n vào khoảng giữa hai bàn tay, kiểm xem ḿnh có thư giăn, đoan chánh hay không. Người thường ngày hay tán loạn th́ lúc chắp tay cũng rất khó làm cho đúng. Lúc tâm loạn, năm ngón tay sẽ tách nhau ra mà ngón út cũng khó áp sát vào các ngón khác. Cứ hễ chẳng nhất tâm chuyên chú th́ ngón út liền tách ra.

 

2) Kim Cang hiệp chưởng (quy mạng hiệp chưởng)

Cách chắp tay này trong kinh thường diễn tả bằng từ ngữ “xoa thủ hiệp chưởng”.

Phương pháp: Lấy bàn tay phải làm chính, các đầu ngón tay đan nhau ở ngay đốt thứ nhất.

Ư nghĩa: Bàn tay phải là Phật Giới, bàn tay trái là Chúng Sanh Giới, biểu thị: chúng sanh quy mạng nơi chư Phật. Chắp tay lại tiêu biểu “năng, sở bất nhị”, “chúng sanh và Phật như một”. Hành giả Mật giáo dùng các ấn này để biểu thị ḷng cung kính đối với Bổn Tôn, tín tâm kiên cố. 

 

 II. V́ sao không được chắp tay đè lên ngực?

 V́ làm vậy không những thể hiện h́nh tướng lười nhác, tán loạn, mà c̣n có hại về mặt sinh lư.

Hành giả làm như vậy có thể v́ không biết nơi ngực có một tuyến, là cơ quan trọng yếu của hệ thống sản xuất ra chất dịch “lâm ba”. Trong hệ thống miễn dịch nơi thân chúng ta, trọng yếu nhất là các “lâm ba cầu T” (T cells). Chúng có trách nhiệm trừ khử những ngoại vật xâm nhập cơ thể, cũng như tiêu hóa những tế bào phân chia bất thường (chẳng hạn như các tế bào ung thư). Tuyến ngực nói trên tiết ra “hung tuyến tố” giúp cho các tế bào T phân chia, phát triển tốt đẹp. Nếu áp lực tinh thần quá lớn, mạch nơi ngực liền bị co rút, kém tác dụng. Nếu đè tay lên ngực cũng khiến cho ngực phải chịu sức ép, khí huyết chẳng thông.

 

III. V́ sao chẳng nên nghiến chặt răng?

 

3.1. Về phương diện tu tâm trong Phật pháp:

 a. Trong tác phẩm Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ của Thiện Đạo Đại Sư, trước khi dạy về cách quán tưởng, có một đoạn rất trọng yếu giảng về “tiền phương tiện” (cách chuẩn bị trước khi quán tưởng). Đây chính là tŕnh tự chẳng thể thiếu trong việc tu quán, người học đừng ham cao chuộng xa mà lướt qua.

Sách chép: “Giữ thân ngay thẳng, ngậm miệng, nhưng răng đừng đè sát nhau, lưỡi chống lên ṿng họng để luồng khí giữa yết hầu và mũi thông suốt”.

Đoạn văn trên viết ngay trước câu “lại quán tứ đại trên thân, trong ngoài đều không, trọn không có một vật”. Đủ thấy trước khi quán Không hay thực hành mười sáu phép quán, vẫn phải “giữ thân ngay thẳng, ngậm miệng, răng đừng nghiến sát, lưỡi chống lên ṿm họng” (là v́ nếu luồng khí giữa yết hầu và mũi không thông suốt th́ năo sẽ bị thiếu dưỡng khí, những công năng thông thường c̣n gặp chướng ngại, huống hồ là công năng quán tưởng cao thâm?)

Nho gia cũng nói: “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh” (người quân tử chú trọng cái gốc, gốc đă lập th́ đạo sẽ sanh). Nếu kẻ sơ học chẳng thiết thực, chắc thật tận lực thực hành những điều cơ sở căn bản, gốc cội chưa vững chắc th́ rất khó ḷng khai hoa kết quả được.

         

b. Tâm có vọng tưởng, chấp trước, khẩn trương, vướng mắc th́ sẽ có những biểu hiện tự nhiên nơi thân nhưng ḿnh chẳng biết: răng nghiến chặt, lưỡi cứng dính chặt vào họng, hơi thở nơi mũi lẫn yết hầu cũng chẳng thông suốt, cổ cũng căng cứng. Như vậy, chẳng nghiến răng chính là để cảnh tỉnh ḿnh buông bỏ vọng tưởng, chấp trước. Lúc tâm t́nh khích động th́ chuyện nghiến răng, nghiến lợi rất dễ thấy; nhưng lúc b́nh thường, ḷng có điều lo nghĩ, chẳng dễ nhận thấy ḿnh đang nghiến răng, nghiến lợi mà cũng thường chẳng hay! Chỉ cần trong tâm có điều vướng vất, gân mặt sẽ lập tức căng cứng nên tự nhiên ḿnh nghiến chặt răng. Không nghiến chặt răng chính là buông lỏng những sợi gân nhỏ trên mặt, mà cũng là buông bỏ những điều bận ḷng trong tâm.

         

3.2. Lợi ích về phương diện sinh lư

a) Khiến cho ống dẫn nước bọt được thông suốt, nước bọt tiết ra đầy đủ

Nước bọt là một chất dịch tiết rất quan trọng trong cơ thể, chẳng những nó giúp ích cho việc hấp thụ thức ăn, tiêu hóa, phân giải thức ăn, mà c̣n có những chất đề kháng, tăng cường sức kháng bệnh của cơ thể.

Chúng ta có ba loại tuyến nước bọt lớn:

- Tuyến dưới tai: Ở phía trước tai, tuyến này đổ ra khoảng giữa cằm và g̣ má (ngay nơi răng hàm thứ hai)

- Tuyến dưới cằm: Nằm ở xương hàm dưới, đổ ra khoảng dưới lưỡi (chỗ lưỡi nối vào sàn miệng).

- Tuyến dưới lưỡi (nằm ở phía đầu lưỡi, nằm dưới niêm mạc của xoang miệng). Có một ống dẫn khá lớn (tuyến nước miếng dưới cằm thường đổ ra theo đường này) và khoảng mười ống dẫn nhỏ, mỗi ống đều có lỗ thoát nằm ngay dưới lưỡi và trong khoang miệng.

Ngoại trừ ba loại tuyến nước bọt lớn trên, chúng ta c̣n nhiều tuyến nước bọt nhỏ, phân bố trong ṿm miệng phía trong má, môi trên, môi dưới, ṿm họng cũng như trên đầu lưỡi.

Khi chúng ta nghiến răng, các ống dẫn và lỗ thoát của chúng đều bị đóng lại, nên miệng bị thiếu nước bọt, chẳng những miệng khô, lưỡi ráo, mà c̣n bị thiếu cả các diếu tố (enzyme) tiêu hóa, thành ra bị khó tiêu. Đồng thời c̣n bị thiếu cả kháng thể, sức miễn dịch giảm thấp. V́ lẽ đó, cần phải nên thư giăn, đừng nghiến chặt răng, chỉ ngậm chặt hai môi mà thôi.

Mọi người thường hay t́m mua những thức uống bên ngoài, chẳng biết thức uống tốt nhất, chính là nước miếng của chính ḿnh. Nước miếng chính là nguồn cung ứng bất tuyệt suốt 24 giờ, trọn bảy ngày. Nhưng đa số chúng ta lại cắn răng, nghiến lợi khiến cho lỗ thoát của các tuyến bị bít chặt, lại c̣n than thở là miệng bị khô, thật là oan uổng quá (người hay than khô miệng, ráo lưỡi chắc chắn là người tâm thường lo âu, đăm chiêu, cứ cắn răng, nghiến lợi nhưng không hay, hoặc là kẻ tinh thần bị căng thẳng làm ảnh hưởng đến thần kinh, khiến nước bọt bớt tiết ra).

Xin hăy thí nghiệm: Trong lúc thư thái, đừng nghiến chặt răng, thả lỏng cơ cổ, đầu lưỡi áp nhẹ lên ṿm họng trên, giữ cho có một khoảng trống giữa phía trên mặt lưỡi, gốc lưỡi và ṿm họng trên như thể đang ngậm hột mận, hoặc ngậm một búng không khí th́ tự nhiên nước miếng tuôn ra ào ào (v́ lỗ thoát của các tuyến nước miếng được thông thoáng). Làm vậy th́ niệm Phật, lễ Phật chẳng bị khô miệng, lúc tâm tịnh th́ nước miếng cực ngon ngọt, hơn hẳn các thứ thức uống trong thế gian.

 

b) Không nghiến răng th́ tâm dễ an định, ninh tịnh, khả năng tư duy được nâng cao

 Khi quan sát vỏ năo, người ta thấy chỉ cần nghiến răng th́ liền xuất hiện ḍng điện gây nhiễu “năo điện kế” (máy đo ḍng điện ở vỏ năo). Đủ thấy khi gân cơ căng thẳng do nghiến răng sẽ tạo thành sóng điện, khuấy rối sự an định trong tâm. Phải thả lỏng th́ tâm mới có thể an định.

Qua nghiên cứu, ta thấy rơ khi nghiến răng th́ khả năng tư duy, phân tích, quán tưởng ở mức độ cao của năo cũng bị trở ngại. V́ thế, nghiến răng thật bất lợi đối với việc tư duy Phật pháp.

 

c) Nâng cao thính lực

 Khi nghiến chặt răng, các gân cơ bị căng thẳng (thân nghiệp) khiến cho những huyết quản lớn nhỏ quanh tai cũng bị chèn ép. Bởi thế, công năng của tai cũng như thính lực tất nhiên đều bị giảm thấp (đó chính là nghiệp biến thành chướng). Rất nhiều người than nghe giảng Phật pháp hoặc nghe thầy giảng bài, nghe nhưng không hiểu, hoặc nghe xong quên ngay phần lớn là do hay nghiến chặt răng. Chỉ cần biết thư giăn th́ chẳng đến nỗi do thân nghiệp tạo thành chướng ngại vậy.

 

IV. V́ sao phải nên đứng theo kiểu “tiền bát hậu nhị” [1]

4.1. Luận về phương diện sinh lư và vật lư:

4.1.1. Nhà Phật chẳng hề yêu cầu người học làm những chuyện vô lư.

Lúc đứng, 2 gót chân cách nhau 2 phân là điều hợp lư. Quan sát cấu trúc xương nơi thân người, ta thấy: thân ta có khung xương sống. Phần cuối, xương sống cong ra phía sau. V́ thế, trọng lượng của thân dồn nặng xuống chính giữa phía sau của phần chính giữa thân (nơi xương cùng). Khi đứng, cần phải chia đều trọng lượng ấy cho hai gót chịu đựng.

Gót chân cách nhau 2 phân là v́:

- Khoảng cách này xấp xỉ độ rộng của xương sống, rất phù hợp để hai chân chịu đều sức nặng của thân thể dồn xuống.

- Khoảng cách này rất thích hợp để giữ cho hai xương ống chân đứng thẳng th́ gân thịt mới thư giăn được.

- Khoảng cách này phù hợp với góc độ của khớp xương hông, khớp gối, khớp xương đùi, khiến chúng chẳng bị chịu lực quá đáng đến nỗi bị hư ṃn, thoái hóa.

Hăy tự thí nghiệm để chính ḿnh quan sát lấy:

- Nếu gót chân cách nhau khá xa th́ hai xương chân bị xéo đi, gân thịt nơi chân bị căng không đều, góc độ chịu lực nơi các khớp không thích nghi, không đều, rất dễ bị đau mỏi.

- Nếu chụm sát hai gót chân lại th́ xương chân cũng chẳng được thẳng, gân cốt cũng bị căng thẳng.

 

4.1.2. Hai ngón chân cái cách nhau 8 phân (nói 8 phân là ước chừng ngang với bề rộng của vai)

 Chỗ rộng nhất trên thân là vai. Giữ hai chân cách nhau vừa đúng chiều rộng của vai th́ chân đă chịu lực tốt mà diện tích mặt chân đế cũng lớn, khiến cho trọng tâm rất ổn.

Nếu chân không cách nhau đủ 8 phân th́ mặt chân đế quá hẹp so với mông, trọng tâm bất ổn. Nếu lớn hơn 8 phân th́ cơ đùi bị kéo quá căng, nên cũng không đáp ứng được yêu cầu về mặt vật lư.

 

4.2. Xét trên phương diện điều tâm trong nhà Phật

“Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh”.

 

V. V́ sao lúc đứng thẳng lại cần phải dùng gót chân chịu lực?

 

Như đă nói, cách đứng như vậy chẳng những vừa chỉnh tề, vừa đẹp mắt, khiến người khác thấy trang nghiêm, mà c̣n là phù hợp với những nguyên tắc giải phẫu sinh lư nữa.

 

5.1. Xét về mặt Phật pháp

 Nhà Phật giảng: “Tánh không duyên khởi”, các pháp từ duyên sanh. Thể là chân không, nhưng Tướng là diệu hữu. Đă có thân thể giả tướng, th́ trong giả tướng ấy đương nhiên có đạo lư nhân quả; nhưng sự biến hóa của giả tướng vẫn tuân theo nguyên tắc nhân quả. Bởi vậy, những động tác sinh hoạt thường ngày cũng phải tuân thủ theo điều kiện nhân quả.

Hăy thử suy nghĩ kỹ, trong 32 tướng hảo của Phật, có tướng “gót chân rộng bằng” (gót chân viên măn, chẳng lộ xương) và “ḷng bàn chân bằng phẳng”. Những tướng hảo ấy đă tiết lộ ư nghĩa sâu thẳm “gót chân chịu lực”.

Tổ sư nhà Thiền, khi khảo nghiệm đệ tử đă dụng công đắc lực hay chưa, đắc pháp hay chưa, thường hỏi: “Gót chân chấm đất rồi chưa?” Điểm này phải nghĩ hiểu cho kỹ vậy. Có người cho rằng cần phải dùng cả bàn chân lẫn các ngón chân chịu lực th́ mới đứng vững được. Kỳ thật, thời cổ phụ nữ bị ép bó chân, chỉ c̣n chừa mỗi gót chân chạm đất mà họ vẫn có thể đi vững, đứng vững được.

 

 5.2. Xét về mặt giải phẫu sinh lư

 Từ xương bắp chân trở lên cả phân trên đều liên tục ở ngay trên gót chân (xương bàn chân chỉ nhằm tăng gia diện tích mặt chân đế). Tự nhiên là trọng tâm của thân thể rơi vào chính giữa hai gót chân. V́ thế, ta dùng gót chân để chịu lực, cũng như khi trọng tâm của vật đă ổn th́ vật sẽ tự nhiên ổn định, chẳng cần tốn sức. Lúc trọng lượng đặt tại gót chân, mỗi ngón chân đều được thư giăn, gân thịt nơi chân cũng không cần phải hao tổn năng lượng để giữ vững tư thế cân bằng; cơ lưng cũng không phải phải gồng cứng. Như thế, sẽ bất tất phải lăng phí khí lực, bất tất phải gánh chịu nỗi nhọc nhằn, đau đớn không cần thiết.

Mỗi người có thể tự kiểm nghiệm, so sánh. Khi đứng, tự dùng tay sờ nắn xương hông th́ sẽ thấy rằng: Nếu dùng mũi bàn chân làm điểm tựa th́ xương nơi thắt lưng sẽ thúc vào bụng, các cơ quanh hông sẽ gồ lên. Như vậy sẽ dễ bị đau lưng, mà cũng khó thể hô hấp sâu.

Nếu dùng gót chân để chịu lực th́ xương nơi thắt lưng khá thẳng, không c̣n thúc vào bụng. Hông, lưng, bàn chân, ngón chân, cơ chân đều thả lỏng, dễ hít thở sâu.

 

 

 

lotus_wht

 

 

 

 


 

 

 

 

 

禮佛與醫學

道證法師講述

越語譯本

寶光寺弟子如和節譯

 

 

 

 

 

 

 

Sách biếu không bán.

For free distribution.  Not for sale



[1] (đầu bàn chân cách nhau 8 phân, hai gót chân cách nhau 2 phân)?