(dịch theo bản
in của Tịnh Tông Học Hội thành phố Cao Hùng, Đài
Loan)
1. Dạy
Pháp Nguyên
Công phu Niệm Phật chỉ quư ở tín tâm chân thật. Thứ nhất phải tin rằng: Ta là Phật chưa thành, Di Đà là Phật đă thành, thể vốn không hai. Kế đó, tin Sa Bà thật sự là khổ, An Dưỡng đích xác đáng quay về, ưa - chán rành rành. Tiếp đó, tin mỗi một hành động hiện tại đều có thể hồi hướng về Tây Phương. Nếu chẳng hồi hướng, dù là thượng phẩm thiện vẫn chẳng thể văng sanh. Nếu biết hồi hướng, dẫu trót lầm gây hạnh ác, nhưng nhanh chóng dứt tâm tương tục (1), khởi ḷng trân trọng sám hối; nhờ sức sám hối cũng được văng sanh. Huống là tŕ giới, tu phước, bao nhiêu nghiệp thù thắng, há chẳng đủ để trang nghiêm Tịnh Độ ư?
Chỉ v́ tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp ch́m trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay! Chỉ nên tăng thêm ḷng tin chân thành, chẳng cần phải thay đổi hết thảy các hạnh nghiệp vậy.
2. Dạy Vương Tâm Quỳ
Kinh Pháp Hoa đă ân cần khen
ngợi phương tiện. Phải biết rằng có
phương tiện thế gian: bố thí, ái ngữ,
hiếu, đễ (2), trung, tín v.v...; có phương tiện
xuất thế gian là các pháp môn: Khổ, Không, Vô
Thường, Vô Ngă, Bất Tịnh, Sổ Tức, Nhân
Duyên, Viễn Ly, Tri Túc v.v... C̣n có phương tiện
xuất thế thượng thượng: Thập Ba La
Mật, Tứ Nhiếp, Tứ Biện, tám vạn bốn
ngàn tam muội tổng tŕ v.v...
Lại c̣n có phương tiện thù
thắng khác lạ chẳng thể nghĩ bàn: tin trong
tự tánh ta thực sự có đức A Di Đà Như Lai
hiện thành Phật đạo ở Tây Phương,
ở ngay trong tâm ta thực sự có thế giới Cực
Lạc trang nghiêm. Tin sâu, nguyện rộng, quyết chí văng
sanh. Chẳng những các phương tiện thượng
thượng chỉ là tư lương của nó, mà
hết thảy các phương tiện dù là thế gian,
xuất thế gian, không ǵ chẳng phải là pháp phụ
trợ cho việc văng sanh mà thôi. Pháp môn này chính là thủ
đoạn để điểm sắt hóa vàng, chẳng
cần phải trải qua A Tăng Kỳ kiếp, chóng
đạt lên Bất Thoái, bặt danh nghĩa, tuyệt
đối đăi vậy.
3. Dạy Tĩnh Văn
Hương Sơn đến
tham phỏng ngài Ô Sào, Ngài bảo thẳng rằng: “Đừng làm các điều ác, vâng
giữ các điều lành”. Đứa trẻ lên ba cũng
nói được, ông già tám mươi làm chửa xong.
Trước đây, chư tổ chỉ điểm pháp
thoát ly sanh tử tối giản dị, tối minh
bạch, bất tất phải vẽ vời huyền
diệu... Những năm đầu Mă Tổ chỉ nói: “Tức tâm thành Phật. Nếu
thực sự biết là tức tâm thành Phật th́ tự
nhiên chẳng làm các điều ác, vâng giữ các
điều thiện. Nếu quả thật chẳng làm các
điều ác, vâng giữ các điều thiện th́
liền biết tức tâm thành Phật”.
V́ thế, biết rằng: Muốn
ngộ “tức tâm thành Phật” th́ phải tŕ giới,
niệm Phật. Tŕ giới thanh tịnh, niệm Phật
thiết tha, trần cấu tự trừ, quang minh tự
hiện. Kệ rằng:
Tŕ
giới tiện thị b́nh tâm,
Niệm Phật tiện thị trực
hạnh,
Tham đắc cá điểm huyền quan,
Bất đồng bát vu thảo bính,
Nhược tiện giả, dă, chi, hồ,
Thất khước Phật, Tổ tánh
mạng!
(Tạm dịch:
Tŕ giới là để tâm b́nh,
Niệm Phật là hạnh
để ḿnh tu thân,
Lẽ mầu dù ngộ một
phần,
Chẳng bằng tu tập tinh
thuần đó thôi,
Cứ luận giáo nghĩa xuông hoài,
Tánh mạng Phật, tổ mất
rồi c̣n đâu!)
4. Dạy
Quách Thiện Hữu
Biển cả Phật pháp, lấy Tín
để vào, lấy Trí để chứng. Nếu có tín
tâm nhưng thiếu trí huệ, chỉ e khó tránh phân vân
đôi ngả. Phật dạy: “Đời
mạt đấu tranh kiên cố, ức ức
người học đạo, hiếm có một
người chứng quả. Chỉ nương vào
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, mới có
thể vượt ngang ra khỏi luân hồi”. Nếu
tin tưởng sâu xa niệm Phật, lễ bái là cái nhân
chân chánh để thành Phật, thành Tổ th́ đích xác là
chẳng bị gịng đời xoay chuyển, lại c̣n là
trí huệ đại quang minh, vượt thẳng lên
Tịnh Độ, vĩnh viễn chẳng sợ bị
lạc đường nữa.
5. Dạy
Tống Dưỡng Liên
Hai câu “Tự
tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, đời tranh nhau
truyền tụng, nhưng chẳng biết thế nào là tâm
tánh. Ôi, Tánh không có đạo lư, nhưng không ǵ là chẳng
thuộc trong Tánh. V́ thế, đấng Đạo Sư đă
thành Phật từ mười kiếp chẳng ở ngoài
Tánh. Tâm không duyên ảnh, nhưng không ǵ chẳng đủ.
V́ thế, cơi Cực Lạc cách xa mười vạn
ức cơi Phật thật sự ở trong tâm.
Bởi Di Đà tức là tự tánh Di Đà nên
chẳng thể không niệm. Bởi Tịnh Độ chính là
duy tâm Tịnh Độ nên chẳng thể không sanh về....
Trên th́ từ Văn Thù, Phổ Hiền, Mă Minh, Long Thọ,
Thiên Thân, dưới th́ đến các loài ngọ nguậy,
bay, ḅ, loài có vẩy, lũ có lông, chỉ có mỗi sự
này.
Đối với sự này th́ điều
thứ nhất là phải tin đến cùng cực, thứ
hai là phải luôn luôn phát nguyện, ba là công phu niệm
Phật đừng gián đoạn. Đủ ba điều
này th́ kẻ thậm ngu cũng được văng sanh.
Thiếu ba điều này dù thông minh lanh lợi cũng
chẳng được sanh. Ai báng pháp này chính là báng tam
thế chư Phật, Bồ Tát. Trên đảnh Tỳ Lô
trở thành tầng thấp nhất ngục của A
Tỳ (3). Buồn thay!
6. Dạy
Lục Dụ Liên
Siêu sanh thoát tử nhưng bỏ qua
pháp môn Tịnh Độ th́ quyết chẳng c̣n phương
tiện hoành siêu, thẳng chóng nào khác nữa. Nhưng
[muốn] sanh về Tịnh Độ mà bỏ pháp Niệm
Phật th́ chắc chắn chẳng c̣n công phu “vạn
người tu, vạn người đậu” nào nữa!
Gần đây, kẻ manh Thiền (4) lầm bảo
chẳng cần phải niệm Di Đà, chẳng cần sanh
Tịnh Độ. Bướng bỉnh, mù quáng, hung hăng, sa
hầm, sụp hố. Ôi, đêm lúc sắp ngủ, gối
chiếu xộc xệch, c̣n phải xếp lại cho ngay.
Ba cơi như nhà cháy nhưng chẳng nghĩ xuất ly há có
được chăng?
Nếu buông tuồng đáp: “Tôi làm
chủ được tâm, nơi này chính là cơi Tịch Quang”
th́ sao chẳng bảo: Chửi rủa nặng nề chính
là khen ngợi, đánh đập tàn nhẫn chính là cúng
dường, phẩn uế chính là chiên đàn, trát tro chính
là cung trời, điện báu? Vẫn chưa thể
nuốt phân nằm tro th́ nhất quyết chẳng thể
sanh về Tịnh Độ được. Dù có làm
được như vậy th́ cũng chỉ giống
như heo lợn, gà, chó mà thôi!
Sao bằng già giặn, chắc thật
niệm Phật, lấy Tín dẫn đường, lại
phải phát nguyện chóng ngự lên chín phẩm đài sen,
cùng Quán Âm, Thế Chí, Hải Chúng làm quyến thuộc! Ngó
lại kẻ ác kiến tà thiền trống rỗng,
mượn hư danh Tổ Sư vênh váo một thời,
đọa nỗi khổ thực sự: kéo lưỡi
trâu cày trong vạn kiếp, khác ǵ mây sánh với bùn! Bất
luận tán tâm, định tâm, chỉ khắc định
khóa tŕnh, trọn đời chẳng khuyết, mỗi ngày
càng thêm siêng gắng, thiết tha th́ hoa nhụy cơi Tịnh
Độ ngày càng tươi tốt thêm!
7. Dạy
ưu-bà-di Tịnh Kiên
Người cực thông minh lại
bị thông minh làm cho lầm lạc, cho nên chẳng thể
niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Trái lại,
kẻ ngu, đàn bà chịu chán nỗi khổ Sa Bà, sâu xa
cầu xuất ly. Thế mới biết rằng: Kẻ
thông minh kia đúng là ngu si, c̣n người ngu si đây
lại chính là đại trí huệ. Tốt xấu dễ
phân, chớ tự lầm lẫn!
Thường thấy những kẻ
dốt nát, dối trá, đại ngôn, dối đời
giả danh thiện tri thức, gặp kẻ tiều phu,
nông phụ ngu độn, chất phác cũng dạy tham
thiền, đẩy qua kéo lại, rồi tự vỗ tay.
Những người chất phác ấy lầm
tưởng là thật, phá hoại thiện căn. Rốt
cục, tham thiền tham chẳng tới, niệm cũng
niệm chẳng thuần, chỗ đặt chân chẳng
ổn, tâm t́nh bàng hoàng. Ôi! Chẳng đáng thảm sao!
Tôi khuyên bà: Nhằn đinh, nhai sắt,
tin chắc vào Tây Phương, phát nguyện khẩn
thiết, tŕ giới, tu phước để hỗ
trợ. “Không Thiền có
Tịnh Độ, vạn người tu vạn người
đắc, chỉ cần thấy Di Đà, lo ǵ không khai
ngộ”. Đấy là lời phán định ngàn đời
[đúng thật], bà chớ nên nghi. Hạng tà sư không
biết xấu hổ kia dám vu báng thánh hiền đời
trước, dám tự tiện thay đổi, chỉ càng
lộ rơ ác kiến của họ mà thôi. Sao lại dám thay
đổi lời phán định của cổ nhân!
8. Dạy
Phương Nhĩ Giai
Pháp môn Niệm Phật tuy bao trùm tám
giáo, thâu trọn vô lượng trăm ngàn tam muội,
nhưng cách thực hiện lại rất thẳng
tắt, nhanh chóng. Hễ niệm tướng hảo,
niệm pháp môn, niệm Thật Tướng v.v... th́
trước hết phải khai giải thật sự,
rồi mới tu tập, muôn phần không c̣n chút nghi t́nh
nơi lư nữa. Riêng ḿnh pháp môn Tŕ Danh đây, chỉ hâm
mộ là tu được ngay, chẳng dùng đến ba
tâm, hai ư.
Tin sâu Tịnh Độ th́ sanh, phát
nguyện quyết định văng sanh, lấy Tŕ Danh làm
Chánh Hạnh, lấy Lục Độ v.v... làm Trợ Hạnh.
Vạn người tu, vạn người văng sanh,
tuyệt đối bảo đảm. Nếu tâm c̣n
một điểm háo thắng, tu lấn sang Tham Cứu,
cho là “hướng thượng” th́ chỗ đặt chân
chẳng ổn, mất cả Thiền lẫn Tịnh! Là
bậc trí th́ chẳng thể không quyết đoán chỗ
ḿnh toan hướng đến!
9. Dạy
Lưu Kim Độ
Trong ba hạng người thuộc
Thượng Phẩm Thượng Sanh, đầu tiên là “từ tâm bất sát, đủ
các giới hạnh”. Bởi lẽ, Giới thống lănh
vạn hạnh, thế nhưng từ tâm chẳng giết
lại là điều cần phải làm trước tiên
trong Giới. Dùng những điều này phát trọn
vẹn ba tâm th́ cơi nào lại chẳng tịnh? Ba tâm là:
- Trực tâm chánh niệm Chân Như th́
gọi là Chí Thành Tâm, hiển Pháp Thân đức.
- Thích chứa góp hết thảy công
đức th́ gọi là Thâm Tâm, hiển Bát Nhă đức.
- Thệ nguyện sâu rộng vô
tận, gọi là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm,
hiển Giải Thoát đức.
Giới cũng có ba loại:
- Nhiếp Luật Nghi Giới: không ác
nào chẳng đoạn, tức là thành Pháp Thân.
- Nhiếp Thiện Pháp Giới: không
thiện nào chẳng viên măn, tức là thành Bát Nhă.
- Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới: không chúng
sanh nào chẳng độ, tức là thành Giải Thoát.
Từ cũng có ba:
- Sanh Duyên Từ: chẳng sát sanh, duyên
quán hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ, anh em,
lục thân quyến thuộc của ḿnh.
- Pháp Duyên Từ: chẳng sát pháp, duyên
quán hết thảy địa, thủy đều là thân
đời trước của ḿnh, hết thảy hỏa,
phong đều là bản thể của ḿnh.
- Vô Duyên Từ: chẳng chấp Ngă, duyên quán hiện tiền nhất niệm Phật tánh không chỗ nào chẳng hiện hữu, mười phương tam thế hữu t́nh vô t́nh đồng một giác thể, không hai, không khác.
Niệm niệm tu ba ḷng Từ này
liền tịnh Tam Tụ. Tam Tụ Giới đă tịnh
th́ liền đầy đủ ba tâm, đắc
Thượng Phẩm Thượng Sanh không c̣n ngờ ǵ
nữa!
Hơn nữa, nếu quán hạnh tam
tâm th́ sanh vào Thượng Phẩm Phàm Thánh Đồng Cư
Độ. Nếu tương tự tam tâm th́ sanh trong
Thượng Phẩm Phương Tiện Hữu Dư
Độ. Nếu chứng được một phần Tam
Tâm th́ sanh trong Thượng Phẩm Thật Báo Trang Nghiêm
Độ. Rốt ráo tam tâm th́ sanh trong Thượng Phẩm
Thường Tịch Quang Độ. Ngài Vĩnh Gia nói: “Ai vô niệm, ai vô sanh. Nếu
thực vô sanh th́ là vô bất sanh”. Kinh Kim Cang dạy: “Hăy đừng trụ vào đâu
cả để sanh tâm”, “Hết thảy hiền thánh
đều do pháp vô vi mà có sai biệt” là nói về ư này.
10. Dạy
Huyền Trứ
Phật tri, Phật kiến chẳng là
ǵ khác, chỉ là nhất niệm tâm tánh hiện tiền
của chúng sanh mà thôi. Hiện tiền nhất niệm tâm
tánh vốn chẳng ở trong, chẳng ở ngoài,
chẳng ở khoảng giữa, chẳng thuộc vào tam
thế, chẳng thể dùng tứ cú để diễn
tả được (5). Chỉ v́ chẳng chịu quán sát
kỹ càng, lầm nhận bóng dáng của lục trần là
tướng của tự tâm nên tạo thành tri kiến
của chúng sanh.
Nếu quán sát tỉ mỉ tri kiến
chúng sanh ấy th́ nó chẳng ở trong các nơi: trong,
ngoài, trung gian, chẳng thuộc ba đời, chẳng
rớt vào tứ cú, th́ bản thể của tri kiến
chúng sanh vốn là tri kiến của Phật vậy.
Nếu như chẳng thể tin nhận ngay điều
này cũng chớ khởi nghi t́nh, cũng như
đừng uổng công đảm đương, chỉ
nên thâm tâm tŕ giới, niệm Phật. Nếu tŕ
đến thanh tịnh, niệm đến mức thân
thiết, bỗng tự nhiên tin nhận, như
thường nói: “Lại dùng
phương tiện khác để giúp Đệ Nhất
Nghĩa hiển lộ”. Gậy này đập vào
đầu người đá, dăi dầu luận chuyện
thực. Nếu muốn “chi, hồ, giả, dă” (6), tốn
nước dăi [luận chuyện] các nơi th́ tôi chẳng
biết đến. Kệ rằng:
Chúng sanh tri kiến,
Phật tri kiến,
Như thủy
kết băng, băng hoàn hăn,
Giới lực xuân
phong, Phật nhật huy,
Hoàng hà sách thanh
chấn lưỡng ngạn,
Thiết mạc si
cuồng hướng ngoại cầu,
Triệt ngộ y
nhiên đảm bản hán.
(Tạm dịch:
Tri kiến chúng sanh, tri kiến
Phật,
Như nước đóng băng,
băng lại tan,
Gió xuân Giới lực, Phật nhật
rạng,
Băng sông Hoàng nứt rền hai
bờ,
Chớ có si cuồng cầu bên ngoài,
Ngộ rồi, vẫn như kẻ
ngốc nghếch).
11. Dạy
Tự Thiên
Trú dạ Di Dà
thập vạn thanh,
Tất sanh mạc
khởi Tông - Giáo tưởng,
Trực tống tâm
quy Cực Lạc bang,
Liên nhụy trân tŕ
lập địa trưởng,
Nhậm tha tiếu
ngă thị si phu,
Hành xích tùng lai
thắng thuyết trượng,
Tha niên mạch
thượng nguyện vương châu,
Thiện Tài
thường đề đồng phủ chưởng!
(Tạm dịch:
Ngày đêm mười vạn tiếng
Di Đà,
Ắt được văng sanh,
đừng nghĩ tưởng
Này đây là Giáo, kia là Tông!
Gởi thẳng ḷng về chốn
Lạc Bang,
Ao quư, đóa sen tươi tốt măi,
Mặc ai cười ḿnh là gă cuồng,
Từ rày làm ít hơn nói xuông (7)
Năm nao chợt ngự thuyền
nguyện vương,
Thiện Tài thường kêu vỗ tay
măi!)
12. Dạy
Thạch Hữu
Niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ chính là một pháp môn gồm thâu trọn vẹn
trăm ngàn pháp môn, chứ chẳng phải là đề cao
một pháp môn, vứt bỏ trăm pháp môn khác! Nhưng
phải thâm nhập một môn, lấy Niệm Phật làm
Chánh Hạnh, c̣n hết thảy Giới, Định, Huệ
v.v... làm Trợ Hạnh. Chánh - Trợ cùng hành như
thuyền thuận gió, lại thêm có giây lèo th́ càng chóng
đến được bờ.
Pháp Niệm Phật tuy nhiều,
nhưng Tŕ Danh là giản tiện nhất. Pháp Tŕ Danh tuy
nhiều, nhưng phép Kư Số là ổn thỏa, thích
đáng nhất. Kẻ tu hành thực sự nào có mong làm ǵ
khác với hạng ngu phu, ngu phụ đâu!
13. Dạy
Lương Nhiên
Nhạt một phần t́nh đời,
tự nhiên đắc lực thêm một phần Phật
pháp. Xem nhẹ chuyện kiếm sống trong cơi Sa Bà
một phần, phương tiện sanh về Tây
Phương ổn đáng thêm một phần. Điều này
ḿnh chỉ tự hỏi ḷng, đừng hỏi bạn tri
thức. Tri thức cũng chỉ khuyên nhạt bớt mùi
đời, coi nhẹ chuyện làm ăn, chuyên tu
đạo Xuất Yếu mà thôi!
14. Dạy
Minh Tây
Ra khỏi nhà lửa tam giới, có hai
đường Dọc và Ngang:
- Dùng Tự Lực đoạn Hoặc
để siêu thoát sanh tử gọi là Thụ Xuất Tam
Giới (vượt khỏi Tam Giới theo chiều
dọc), khó khăn, thành công chậm chạp.
- Dùng Phật Lực tiếp dẫn
sanh về Tây Phương gọi là Hoành Siêu Tam Giới (siêu
thoát Tam Giới theo chiều ngang), dễ dàng, thành công nhanh
chóng. Viễn Tổ (đại sư Huệ Viễn) nói: “Công cao dị tấn, niệm
Phật vi tiên” (công cao mà dễ tiến th́ niệm
Phật đứng đầu). Kinh dạy: “Mạt thế ức ức nhân
tu hành, hăn nhất thành đạo. Duy y niệm Phật
khả đắc độ thoát, như sấn thuyền
độ hải, bất lao công lực” (Đời mạt
ức ức người tu hành, hiếm có một ai thành
đạo. Chỉ có nhờ vào niệm Phật mới
được độ thoát, như nhờ thuyền vượt
biển, chẳng mất công sức).
Nếu có thể dốc ḷng vào
đường tắt Tây Phương, chí thành phát
nguyện, một ḷng niệm Phật cầu văng sanh th́
đúng là bậc trượng phu. Nếu vẫn chưa
thật sự tin, nguyện chẳng thiết, hành chẳng
tận sức, dù Phật có từ bi thả thuyền, chúng
sanh chẳng chịu lên thuyền th́ biết làm thế nào
đây?
15. Dạy
Tạ Tại Chi
Một niệm tâm tánh hiện tiền
của chúng ta quá khứ không khởi đầu, vị lai
không kết thúc, hiện tại không ngằn mé, t́m chẳng
thể được, nhưng chẳng thể nói là Không;
ứng dụng thiên biến vạn hóa, nhưng chẳng
thể nói là Có. Tam thế chư Phật, hết thảy chúng
sanh đều không hai thể. Hư không mười
phương, sát trần sai biệt đều là
tướng phần được hiện trong tâm ta mà
thôi. V́ thế, bốn loại Tịnh Độ đều
chẳng ở ngoài tâm, nên gọi là “duy tâm”. Nếu bảo
Cực Lạc chẳng phải là tâm th́ hóa ra Tây
phương ở ngoài tâm ư? Nhưng tâm ta đâu
phải chỉ hạn cuộc trong Đông phương!
Có người bảo: “Các pháp hữu vi đều như mộng, như huyễn”, chẳng biết rằng tâm tánh chẳng thể bảo là hữu vi, cũng chẳng thể bảo là vô vi. Do mê nên vô vi trở thành hữu vi, có tam giới, luân hồi, nhân quả, ví như mộng, huyễn, bọt nước, bóng dáng, sương, chớp. Nếu phản mê quy ngộ th́ hữu vi lại biến thành vô vi, như mộng được tỉnh, như huyễn trở về gốc, như bọt tan thành nước, như bóng dáng quy về thể chất, sương chẳng khác tính ướt, ánh chớp chẳng khác thường quang. Nay niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chính là phản mê quy ngộ, chí viên, chí đốn, giống hệt như những chuyện: mộng, huyễn... quy về.
Nhưng nếu luận trên
phương diện đối đăi th́ kiếm sống
chốn Sa Bà là càng tăng thêm mộng, cầu sanh Tịnh
Độ là tỉnh mộng; chẳng thể chẳng cầu
sanh. Nếu luận theo tuyệt đăi th́ Hoặc
nghiệp cảm tam giới chính là ác mộng, niệm
Phật sanh về Tịnh Độ chính là hảo mộng,
cũng chẳng thể chẳng cầu sanh.
Nếu lại có kẻ bảo: “Ngay
nơi đây chính là Tịnh Độ, cần ǵ đến Tây
Phương?” th́ liền vặn ngay: “Ngay lúc này đă
ấm no, cần chi phải ăn cơm, mặc áo? Ngay
nơi đây chính là phú quư, cớ ǵ phải kinh doanh,
đỗ đạt? Ngay đây đă là học vấn,
cớ ǵ phải đọc sách? Ngay nơi đây chính là
đế kinh, cần ǵ phải lên mạn Bắc? Pháp
thế gian đă chẳng bỏ được một
mảy nào, sao lại muốn bỏ một ḿnh pháp xuất
thế?”
Nếu suy nghĩ sâu xa lẽ này th́
đối với chuyện sanh về Tịnh Độ
cả ngàn con trâu cũng không kéo lại được.
Tổ Sư Thiên Như nói: “Ngộ
rồi chẳng nguyện văng sanh, chẳng dám chắc lăo
huynh đă ngộ!” Dù đức Thích Ca sống lại
cũng chẳng sửa được câu này!
16. Dạy
Thái Nhị Bạch
Trời đất, vạn vật
đều có bắt đầu và kết thúc, có h́nh
tướng, có phương vị, có chia cắt. Chỉ
ḿnh tâm thức là không khởi đầu, không kết thúc,
không h́nh tướng, phương vị, chia cắt. V́
thế bảo: “T́m tâm trọn
chẳng thể được!”
Tâm đă hoàn toàn chẳng thể
được nhưng trời, đất, muôn vật,
không thứ nào chẳng phải là duy tâm. Chẳng phá
được hai thứ Ngă Chấp và Pháp Chấp th́ lư duy
tâm, duy thức chẳng thể hiện bày. Chẳng rơ lư
thức tâm th́ chẳng thể hiểu được
lẽ mầu nhân quả cảm ứng. V́ thế, kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Nên quán tánh pháp
giới, hết thảy duy tâm tạo”. Quán kinh dạy: “Tin sâu nhân quả, chẳng báng
Đại Thừa”.
Ôi! Tâm như vàng vậy. Nhân quả
mười pháp giới giống như những thứ
vật dụng để trang hoàng. Nhưng trên đời
c̣n có thứ vàng trơ chẳng thể chế tạo thành
vật dụng được, chứ trọn chẳng có
cái tâm trơ trơ chẳng tạo ra mười pháp
giới. Ví như một niệm chẳng sanh bèn tạo
thành Vô Tưởng ngoại đạo. V́ thế,
người đại trí huệ ngộ sâu xa lẽ duy tâm
ắt sẽ siêng niệm Phật. Đối với câu nói: “Tâm này là Phật, tâm này làm
Phật”, chỉ ḿnh cư sĩ Nhị Bạch
đảm đương nổi câu này thôi.
17. Dạy
Chứng Tâm
Đại đức Chứng Tâm hỏi
tôi về tâm yếu. Tôi thưa:
- Tâm yếu không ǵ bằng niệm Phật. Ngài
Thọ Xương nói: “Tâm
niệm Phật chính là Phật”. Bởi lẽ, một
niệm tâm hiện tiền là vô tánh duyên sanh, duyên sanh vô tánh.
V́ tâm ấy vô tánh duyên sanh nên hễ nghĩ
đến danh th́ ḷng toàn là danh, nghĩ đến lợi
th́ bụng đầy cả lợi. Thậm chí ngày làm ǵ,
đêm mộng nấy, không thứ ǵ chẳng phải là
điều ư niệm đă chuyên chú vào. Mười giới
thăng trầm đều do đây cả.
Bởi niệm tâm hiện tiền là duyên sanh vô tánh
nên đang trong lúc lăng xăng tạo tác, chất
chứa thiện ác, đột nhiên buông xuống th́ hết
thảy pháp đều trọn chẳng thể
được. Nhưng nếu chấp chặt vào nơi
“chẳng thể được” ấy th́ lại bị
rớt vào hầm sâu vô vi, chẳng chứng được
bản thể vô chướng ngại của pháp giới,
chẳng thể khởi công dụng vô chướng
ngại của pháp giới. V́ thế, niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ mới chính là pháp môn Đại
Thừa viên đốn chẳng thể nghĩ bàn!
Niệm Phật th́ có ǵ là khác đâu! Dùng ngay một
niệm duyên sanh vô tánh này để niệm danh hiệu
Phật vô tánh duyên sanh kia đó thôi! Danh hiệu Phật
đă là vô tánh duyên sanh th́ dù duyên sanh cũng vẫn là vô tánh.
Bởi vậy, niệm một tiếng th́ có một
tiếng danh hiệu Phật hiển hiện. Niệm
mười, trăm, ngàn, vạn tiếng th́ có mười,
trăm, ngàn, vạn danh hiệu Phật hiển hiện.
Lúc chẳng niệm th́ vắng lặng.
Niệm đă là duyên sanh vô tánh th́ vô tánh chẳng
ngại ǵ duyên sanh. C̣n nếu chẳng niệm Phật
chỉ e lại sanh bao thứ tạp niệm. Dù chẳng
sanh tạp niệm cũng sợ đọa trong lỗi ṃn
vô vi. V́ thế, phải dùng Phật hiệu để phát
sanh cái niệm của ḿnh, khiến ḿnh niệm niệm
chẳng ĺa Phật hiệu. Đấy chính là ngoài tâm không
Phật, ngoài Phật không tâm, tâm này làm Phật, tâm này là
Phật, có thể nói là dùng Phật để chứng tâm,
mà cũng có thể nói là dùng tâm để chứng Phật,
hoặc nói là dùng Phật chứng Phật, dùng tâm chứng
tâm cũng đều được. Rất thẳng
tắt, ổn thỏa, thích đáng, liễu nghĩa
cực viên đốn, chẳng thể nghĩ bàn, các pháp
môn khác chẳng thể sánh bằng được.
Nếu thật sự tin được như
vậy, thẳng một bề mà niệm th́ chư Phật
sẽ hiện tướng lưỡi rộng dài
để chứng thực cho. “Nếu
ai chuyên niệm Di Đà Phật th́ gọi là vô thượng
thâm diệu thiền. Khi chí tâm tưởng tượng
thấy Phật th́ là pháp bất sanh bất diệt”.
Lời chân thành từ nơi kim khẩu chẳng tin
được sao?
18. Dạy
Niệm Phật Xă
Chúng ta từ vô thỉ đến nay,
thẳng cho đến tận vị lai, hoàn toàn không có lúc
nào là chẳng khởi niệm. Dù cho tâm t́nh nguội
lạnh, nhập Vô Tưởng Định, vẫn c̣n
đọa trong tám vạn bốn ngàn loạn tưởng
khô khao. Nhưng nếu niệm địa ngục th́ là
người thuộc trong địa ngục giới,
niệm ngạ quỷ th́ là người trong ngạ
quỷ giới, cho đến niệm Phật th́ là
người thuộc về Phật giới. Lẽ này thật
rơ ràng. V́ thế sách Tông Kính Lục viết: “Một niệm tương ứng một niệm
Phật, niệm niệm tương ứng niệm
niệm Phật”.
Nếu lại hỏi người
niệm Phật là ai th́ là trên đầu lại mọc thêm
đầu, đang cưỡi lừa lại đi
kiếm lừa, ắt kẻ mắt sáng phải
cười sặc cả cơm. Nhưng gần đây
hạng vô tri, ngông cuồng, càn rỡ lại xem thoại
đầu là kỳ đặc, coi danh hiệu Phật là
tầm thường, bỏ Như Ư bảo châu, tranh nhau
nhặt lấy ngói sạn, đáng buồn thay!
Riêng ḿnh các thiện hữu Thịnh Khê
kết xă niệm Phật, suốt cả ngày niệm
Phật ra tiếng tàn một cây hương, lại
niệm thầm hết một cây hương, tuần hoàn
như thế chẳng gián đoạn, lấy Nhất Tâm
Bất Loạn làm hạn. Phải tin sâu chớ nghi
Hạnh đơn giản, khéo léo này, lâu ngày đừng
biến đổi th́ sẽ tự siêu thoát trọn vẹn
ngũ trược, viên tịnh bốn cơi Tịnh Độ,
chẳng c̣n phải ở ngay trong điện Hàm Nguyên
lại hỏi Trường An ở đâu nữa!
19. Dạy
Mân Châu Đĩnh
Tín - Nguyện như mắt, các
hạnh như chân. Tín - Nguyện như trâu, các hạnh
như xe. Tín - Nguyện như chữ khắc trên con
cờ, các hạnh như con cờ. V́ Tín - Nguyện -
Hạnh ba thứ, thiếu một thứ chẳng
được, nhưng phải lấy Tín - Nguyện làm
chủ đạo. Bởi lẽ, nếu Tín - Nguyện
đă chuyên th́ mọi thứ điều thiện
đều là tư lương Tịnh Độ. Dẫu cho
vạn phần bất hạnh, trót lầm gây các
điều ác, thành tâm sám hối, dứt tâm tiếp nối
th́ cũng đủ để làm diệu hạnh văng sanh.
Nếu không có Tín Nguyện, dù cho Giới động
trời người, Định cảm cơi Sắc, cơi Vô
Sắc th́ trí huệ chỉ đạt bằng Nhị
Thừa Quyền Quả mà thôi!
20.
Giảng về pháp môn Niệm Phật
Pháp môn Niệm Phật chẳng có ǵ là
lạ lùng, đặc biệt cả. Chỉ cốt
yếu là tin sâu, tận lực hành tŕ mà thôi. Phật
dạy: “Nếu ai chỉ
niệm A Di Đà Phật th́ gọi là vô thượng thâm
diệu thiền”. Ngài Thiên Thai nói: “Bốn thứ tam muội, cùng tên Niệm Phật,
Niệm Phật Tam Muội là vua trong các tam muội”. Ngài
Vân Thê nói: “Một câu A Di Đà bao
trùm tám giáo, nhiếp trọn năm tông”.
Tiếc rằng người
đời nay nghĩ pháp Niệm Phật là tầm
thường, thiển cận, cho là công phu của hạng
ngu phu, ngu phụ. Đó là v́ tín chẳng sâu, hành cũng
chẳng tận sức, suốt ngày lơ là, tịnh
nghiệp chẳng hề đạt được. Dù có ai
khéo bày phương tiện, muốn cho họ hiểu rơ môn
tam muội này, nhưng cứ hễ động tới,
họ liền cho rằng tham cứu chữ “ai” (ai là
người niệm Phật) mới là hướng
thượng, nào biết đâu cái tâm năng niệm -
sở niệm hiện tiền vốn tự vượt
khỏi những đối đăi, phân biệt, chẳng
mảy may tác ư rời ĺa hay tuyệt dứt cái ǵ. Tức
là một câu Phật được ta niệm này đây
cũng vốn tự vượt ngoài t́nh thức, ĺa
khỏi mọi phân biệt, phán đoán, nào phải c̣n
nhọc nhằn đàm huyền thuyết diệu nữa
ư?
Cốt sao tin cho đến nơi,
giữ cho ổn, thẳng một bề mà niệm.
Hoặc là suốt ngày đêm niệm mười vạn,
hoặc năm vạn, ba vạn, lấy số câu quyết
định chẳng thiếu làm chuẩn. Trọn cả
đời này, thề chẳng biến cải. Nếu
chẳng được văng sanh th́ tam thế chư
Phật đều là nói dối. Một phen được
văng sanh sẽ vĩnh viễn chẳng thoái chuyển; các
thứ pháp môn đều được hiện tiền.
Kỵ nhất hôm nay Trương Tam,
ngày mai Lư Tứ. Gặp người bên Giáo, bèn toan tầm
chương trích cú. Gặp kẻ bên Tông những mong tham
cứu vấn đáp. Gặp người tŕ luật bèn
toan đắp y, tŕ bát. Đấy chính là kẻ chẳng
hiểu mối đầu, chẳng tường gốc
ngọn. Đâu biết rằng niệm A Di Đà Phật
đến thuần thục th́ những giáo lư chí cực
của Tam Tạng mười hai bộ kinh cũng
đều nằm trong ấy cả. Một ngàn bảy
trăm công án, mấu chốt hướng thượng
cũng nằm trong ấy cả. Ba ngàn oai nghi, tám vạn
tế hạnh, Tam Tụ Tịnh Giới đều
nằm trong ấy cả.
Chân thật niệm Phật, buông
bỏ thân tâm, thế giới xuống, chính là Đại
Bố Thí. Chân thật niệm Phật, chẳng khởi
tham, sân, si nữa, chính là Đại Tŕ Giới. Chân thật
niệm Phật, chẳng quản thị phi, nhân ngă, chính là
Đại Nhẫn Nhục. Chân thật niệm Phật,
chẳng mảy may gián đoạn, lai tạp, chính là
Đại Tinh Tấn. Chân thật niệm Phật, chẳng
đuổi theo vọng tưởng nữa, chính là Đại
Thiền Định. Chân thật niệm Phật, chẳng
bị lầm lạc bởi những tṛ ngoắt ngoéo
của người khác, chính là Đại Trí Huệ.
Hăy thử kiểm điểm: Nếu
c̣n chưa thể buông thân tâm, thế giới xuống, tham
- sân - si vẫn c̣n tự hiện khởi, thị phi – nhân
ngă vẫn c̣n tự ôm giữ, gián đoạn – lai tạp
c̣n chưa trừ sạch, chưa vĩnh viễn diệt
hết chuyện rong ruổi theo vọng tưởng, các
thứ tṛ ngoắt ngoéo của người khác vẫn c̣n
lung lạc được ḿnh th́ chưa phải là niệm
Phật chân thật.
Muốn đạt đến cảnh
giới Nhất Tâm Bất Loạn th́ cũng không có
thuật chi khác. Cách hạ thủ ban đầu hết là
phải dùng xâu chuỗi để nhớ số cho phân minh;
khắc định khóa tŕnh, quyết định chẳng
thiếu. Nếu là kẻ Sơ Tâm mà thích bàn chuyện Khán
Thoại Đầu, muốn chẳng chấp tướng,
muốn học viên dung tự tại th́ nói chung là hạng
tin chẳng sâu, hành chẳng tận sức. Dù có giảng
được mười hai phần giáo, hạ
được một ngàn bảy trăm câu Chuyển
Ngữ cũng chỉ là chuyện bên bờ sanh tử;
đến lúc lâm chung, hoàn toàn vô dụng. Hăy trân trọng!
21.
Giảng về Niệm Phật Tam Muội
Niệm Phật Tam Muội c̣n gọi là Bảo
Vương Tam Muội, là vua trong các tam muội. Phàm là các
tam muội Thiên, Viên, Quyền, Thật, không tam muội nào
là chẳng phát xuất từ tam muội này, không thứ nào
chẳng quy về môn tam muội này. Bởi v́ Niệm
Phật Tam Muội là yếu chỉ chí viên chí đốn,
là phương tiện thiện xảo để lợi
ích khắp cả ba căn.
Tâm tánh chúng sanh chỉ là một mà thôi. Nhưng cái
Nhất Tâm ấy, vốn dĩ có đủ cả hai môn
Chân Như và Sanh Diệt. Tùy duyên nhưng bất biến th́
gọi là Chân Như Môn; bất biến mà tùy duyên th́ gọi
là Sanh Diệt Môn.
Nương vào Chân Như Môn nói ra Viên Đốn Giáo,
nương theo Sanh Diệt Môn, nói ra Thiên Quyền Giáo. Ĺa
Chân Như, vô Sanh Diệt th́ Quyền ấy là Quyền trong
Thật, nên mới có thể v́ Thật lập bày Quyền.
Ĺa Sanh Diệt, vô Chân Như th́ Thật ấy là Thật
trong Quyền, nên mới có thể khai Quyền hiển
Thật. V́ Thật lập Quyền, có ba Giáo: Tạng, Thông,
Biệt. Khai Quyền hiển Thật th́ chỉ có mỗi
Viên Giáo.
Bốn giáo Quyền - Thật (Tạng, Thông, Biệt,
Viên) không giáo nào chẳng phải là pháp môn Niệm Phật,
tức là: niệm tự Phật, niệm tha Phật, song
niệm tự tha Phật (niệm cả tự lẫn tha
Phật). Ước theo bốn giáo, lập thành
mười hai loại Niệm Phật Tam Muội. Thêm
nữa, bốn thứ tam muội như Thường Hành
v.v... cùng tên là Niệm Phật. Mỗi một tam muội
đều có đủ mười hai thứ, cộng thành
bốn mươi tám thứ.
Hơn nữa, niệm tha Phật th́
hoặc là niệm tướng hảo, niệm pháp môn,
niệm Thật Tướng. Theo đó, các pháp niệm
tự Phật, song niệm cũng có thể chia làm ba
loại như vậy. Nói gộp khắp cả bốn
loại tam muội, bốn giáo th́ thành ra một trăm
bốn mươi bốn thứ. Mỗi một thứ
lại có vô lượng cảnh, quán sai biệt, chẳng
thể nói hết. Nhưng một pháp Tŕ Danh phát xuất
từ kinh Di Đà, không thuộc trong số những tam
muội đă kể ở trên. Quán kinh dạy: “Nếu ông chẳng thể
niệm đức Phật ấy th́ hăy nên xưng Vô
Lượng Thọ Phật”, tức là xưng danh
vậy.
Pháp môn Tŕ Danh này tựa hồ chỉ
dành cho căn cơ Trung, Hạ, nhưng lại là pháp
tối viên, tối đốn. Bởi lẽ, danh hiệu
được tŕ niệm ấy, bất luận là
hiểu hay chẳng hiểu, bản thể của nó không
chi chẳng phải là Nhất Cảnh Tam Đế; tâm tŕ
niệm chẳng luận là đạt hay không đạt,
bản thể của nó không chi chẳng phải là Nhất
Tâm Tam Quán.
Xin thử nói xem: sáu chữ Di Đà là do
danh mà lập danh, là do tâm mà lập danh, là do v́ cả danh
lẫn tâm mà lập danh, hay chẳng phải do tâm, chẳng
phải do danh mà lập danh? Nếu do danh mà lập danh th́
danh nên tự tŕ, cần ǵ phải đợi tâm tŕ?
Lại nữa, nếu danh có thể tự tŕ, can dự chi
đến tâm? Nếu do tâm mà lập danh, tâm này vốn
đă có danh th́ nếu lúc chẳng tŕ, sao danh chẳng
hiện? Nếu vừa do tâm, vừa do danh mà lập danh th́
danh tự có danh, cần ǵ phải đợi tâm? Tâm
cũng tự có danh, cần ǵ phải đợi nơi
danh?
Hơn nữa, danh tự ấy
phần nào thuộc danh, phần nào thuộc tâm? Vả
nữa, lúc chẳng tŕ, dù phân nửa danh thuộc về
Danh chẳng tồn tại, th́ lẽ ra phân nửa danh
thuộc về Tâm phải tồn tại. Lúc tách ra đă là
không, lúc hợp lại sao lại là có? Nếu phi danh phi tâm
mà lập danh th́ đă phi danh phi tâm sao lại c̣n có danh
hiệu Di Đà?
Suy xét danh như vậy th́ tánh của
danh hiệu là Không, duyên sanh huyễn có. Tánh của một
danh hiệu chính là tánh của hết thảy danh hiệu.
Danh hiệu chính là Trung Đạo Thật Tướng của
pháp giới. Nêu lên một danh hiệu liền gồm thâu
tất cả, không một pháp nào ở ngoài danh hiệu
cả. Cảnh được niệm đă như thế
th́ quán trí năng niệm cứ dựa theo đó mà suy.
Hơn nữa, ba cảnh này gộp
chung lại gọi là Diệu Giả. Chỉ nêu chánh báo
đă gồm cả y báo, nêu hóa chủ đă gồm cả
đồ chúng, nêu giả danh liền gồm cả thật
pháp. Một câu danh hiệu trọn khắp cơi tam thiên
vậy.
Hơn nữa, ba pháp quán này gọi
gộp chung lại là Không bởi kiếm tâm chẳng
được. Thêm nữa, nếu danh là tâm, cái ǵ mới
là danh? Nếu danh chẳng phải tâm, sao tâm tŕ
được danh? Nếu tâm là danh, cái ǵ mới là tâm?
Nếu tâm chẳng phải là danh, danh ăn nhập ǵ
đến tâm? Trong khoảng giữa, chẳng phải là,
chẳng phải không là, đó chẳng phải là Trung hay
sao? Câu nói của ngài Hổ Khê nói: “Cảnh là Diệu Giả, Quán là Không. Cảnh, quán
cùng tiêu chính là Trung. Không chiếu chưa hề có sau,
trước. Nhất tâm viên tuyệt trọn chẳng c̣n
dấu vết!” là nói về ư này.
Ngộ lư này mà tŕ danh th́ một
xưng, một niệm liền viên đốn Vô
Thượng Bồ Đề. Nếu chưa ngộ nhưng
lần chuỗi nhớ số khắng khít suốt năm
th́ chưa từng lúc nào chẳng ngầm hợp
đạo mầu, hoàn toàn thuộc trong diệu cảnh,
diệu quán. Huân tập lâu ngày, tánh đức dần
dần hiển lộ: “Như
người ướp hương, thân có mùi thơm.
Chẳng nhọc phương tiện, tự
được tâm khai”. Đấy chính là lư do v́ sao chư
tổ Liên Tông cực lực hoằng dương. Ai là
người có trí mà lại bỏ pháp này, t́m cầu ngơ quanh
nào khác nữa ư?
22. Bàn
về Niệm Phật Tam Muội
Ông Chương Khiết Chi ở Toàn Thành kể rằng cha ḿnh là cụ Vũ Hành, suốt đời thực sự tu hành, lâm chung ngồi niệm Phật qua đời, và mẹ ông ta là bà Vũ Thạc Nhân (8), thừa dịp ấy thọ Tam Quy, Ngũ Giới, chánh niệm nhân duyên qua đời tốt đẹp. Ông xin tôi dạy cho một lời để trang nghiêm Tịnh Độ.
Kinh Tịnh Danh dạy: “Nếu muốn tịnh cơi nước th́ hăy tịnh
tâm ḿnh”. Hai vị trên tâm đă tịnh th́ lẽ đâu
cơi nước chẳng tịnh? Vả nữa, cư sĩ
ḷng hiếu chẳng khuyết, quy hướng sâu xa nơi
pháp môn, tâm lại tịnh th́ có đâu cơi nước
lại chẳng càng thêm tịnh? Đâu cần phải
đợi tôi nói, nhưng tôi đành tạm nói thôi.
Sách Diệu Tông Sao ghi: “Ngũ trược nhẹ th́ cơi Đồng Cư thanh
tịnh, khéo hiểu Không th́ cơi Phương Tiện thanh
tịnh, viên chứng tam quán th́ cơi Thật Báo thanh tịnh,
chứng rốt ráo th́ cơi Thường Tịch thanh
tịnh”. Ôi, đạo Tịnh Độ hệt như
đường lớn nên chẳng khó biết; nhưng lư
Tịnh Độ hệt như biển cả há có thể
trong một bước rảo khắp hết nổi
sao?
Xét ra, do người đă khuất
tập khí ngũ trược nhẹ ắt phải
tịnh được cơi Đồng Cư. C̣n như
để tịnh các cơi Phương Tiện, Thật Báo,
Tịch Quang th́ kế sách khéo léo hoàn toàn phải nhờ vào
ḷng hiếu của ông. Cư sĩ hăy nên quan sát kỹ:
Một niệm hiếu thuận đây là ở trong, ở
ngoài, hay ở khoảng giữa? Là quá khứ, hiện
tại hay vị lai? Là xanh, vàng, đỏ, trắng ư?
Là dài, ngắn, vuông, tṛn chăng? Là tự sanh, do cái khác sanh,
cùng sanh hay không do nhân ǵ mà sanh ư? Là có, là không, cũng có
cũng không hay chẳng có chẳng không? Quán như thế
rồi chẳng giữ lấy tâm, chẳng chấp lấy
pháp, hiểu rơ bản thể của ḷng hiếu chính là
Không, là Giả, là Trung.
Do là Không nên Kiến Tư
được tịnh, do là Giả nên Trần Sa tịnh,
do là Trung nên Vô Minh tịnh. Do ba Hoặc đă tịnh nên ba
cơi cũng tịnh. Ba cơi trong tâm ḿnh đă tịnh th́ ba cơi
trong tâm cha mẹ cũng tịnh theo, bởi không có cha
mẹ ở ngoài tâm.
Như quán một niệm suy nghĩ
về chữ Hiếu, tùy ư thanh tịnh được ba
Hoặc; quán hết thảy thiện niệm, hết
thảy ác niệm, hết thảy vô kư niệm (9) cũng
đều như thế cả. Đấy gọi là Giác Ư tam
muội, c̣n gọi là Niệm Phật tam muội.
V́ biết tự tâm chính là Không nên được thấy Hóa Thân Phật. Biết tự tâm là Giả nên được thấy Báo Thân Phật. Biết tự tâm là Trung nên được thấy Pháp Thân Phật. Như quán tự tâm thấy được ba [thân] Phật th́ niệm ba Phật cũng chính là hiển phát ba đức của tự tâm (Pháp Thân, Giải Thoát, Bát Nhă). Bởi thế mới nói: Quán Thật Tướng của thân thế nào th́ cũng quán Phật thế ấy. Quán Thật Tướng của Phật thế nào, quán thân thế ấy. Chúng sanh và Phật chẳng hai, cha con cùng một thể. Người độ, kẻ được độ đều chẳng thể nghĩ bàn.
Dè dặt chớ nên nói: Chỉ quan tâm
đến cái có trước lúc cha mẹ chưa sanh.
Nếu ông nói đến cái có trước khi cha mẹ
chưa sanh ấy th́ đă sớm có vô biên sanh tử. Chỉ
nh́n suốt thấu nơi một niệm hiện tiền
th́ nào có cái ǵ là do cha mẹ sanh đâu? Bởi thế
mới nói: “Thập thế
cổ kim, thủy chung chẳng ĺa ư niệm ngay hiện
tại”. Trọn khắp trước mắt, không pháp
nào thừa. Hăy suy nghĩ chín chắn!
23. Nói
với Dựng Liên (c̣n gọi Bí Quyết Cầu Sanh Tịnh Độ)
Mùa Đông năm Quư Mùi, tôi giảng kinh Pháp
Hoa tại Phổ Đức, cư sĩ Lư Thạch Lan quên
cả tuổi già, đến quy y trước hết. Lúc
ấy cụ vẫn c̣n phàm t́nh cầu có con, tôi răn:
“Thanh tịnh ḷng dục”. Ba năm sau, tâm cầu con
chuyển biến, tạc tượng Phật, sáng tối
luyến mộ, nhất ư cầu sanh Tịnh Độ. Tôi
bảo cụ:
- Chuyện sanh sản của thế
gian máu mủ tạp loạn, sao gọi là tịnh
được? Chỉ có liên hoa hóa sanh mới là sự sanh
nở thanh tịnh. Tôi đặt biệt hiệu cho
cụ là Dựng Liên (mang thai sen). Tôi lại khuyên cụ hăy
nhớ yếu quyết để làm bằng cứ. Cổ
nhân nói: “Ái chẳng nặng,
chẳng sanh Sa Bà. Niệm bất nhất, chẳng sanh
Cực Lạc”. Cư sĩ đă chẳng cầu con
nữa th́ ḷng ái đă nhẹ, lại c̣n có thể tạc
tượng Phật th́ niệm đă chuyên nhất.
Lại c̣n có yếu quyết là: Không chi
khẩn thiết bằng hai câu “tâm
này là Phật, tâm này làm Phật”. Bởi lẽ, chiên
đàn chẳng qua chỉ là gỗ trong thế gian mà thôi,
đốt th́ thành than, chạm trổ liền thành
tượng, chẳng phải là tùy tâm mà thành hay sao? Đă
tạo thành tượng rồi, sáng tối lễ bái, chiêm
ngưỡng, sáng tối giữ trong tâm, trong mắt, ngoài
tâm không Phật th́ chẳng phải là cái tâm ấy chính là
Phật hay sao?
Nếu biết tượng Phật
khắc chạm ấy đích xác là “tâm làm, tâm là” th́ sẽ
biết Cực Lạc, Di Đà cũng chỉ là “tâm làm, tâm là”
mà thôi! Nếu biết Cực Lạc, Di Đà là “tâm làm, tâm là”,
sẽ biết mười phương tam thế hết
thảy chư Phật cũng rành rành là “tâm làm, tâm là”.
Nếu biết hết thảy chư Phật là “tâm làm, tâm
là” th́ biết hết thảy Tịnh Độ cũng rành rành
là “tâm làm, tâm là”.
Dùng nhân thanh tịnh duy tâm để
nuôi dưỡng tịnh quả duy tâm, vô sanh nhưng
lại sanh, sanh chính là vô sanh. Vin vào bằng cứ ấy mà
vẫn phải đọa nghi thành là chuyện nhất
định không bao giờ có. Nếu ngộ
được yếu quyết này rồi mà vẫn bảo
pháp môn Tịnh Độ chẳng phải là chí đốn, chí
viên th́ lại càng là điều không thể có!
24. Luận về Tŕ Danh Niệm Phật cửu
phẩm văng sanh
Nếu muốn mau thoát khỏi nỗi
khổ luân hồi th́ không ǵ bằng tŕ danh niệm
Phật, cầu sanh thế giới Cực Lạc. Nếu
muốn quyết định được sanh về
thế giới Cực Lạc th́ lại không ǵ bằng
lấy Tín để dẫn đường, lấy
Nguyện để thúc đẩy. Tin xác quyết,
nguyện khẩn thiết, dù tán tâm niệm Phật cũng
chắc chắn được văng sanh. Ḷng tin chẳng chân
thật, nguyện chẳng dũng mănh, dù nhất tâm
bất loạn cũng chẳng được văng sanh.
Thế nào là Tín? Một là tin vào
nguyện lực của Phật A Di Đà. Hai là tin vào lời
dạy của đức Thích Ca Văn Phật. Ba là tin vào
lời khen ngợi của sáu phương chư Phật.
Phàm là bậc chánh nhân quân tử trong thế gian c̣n chẳng
nói dối, huống hồ là Di Đà, Thích Ca, sáu phương chư
Phật há lại vọng ngữ sao? Chẳng tin
điều này th́ thật chẳng c̣n cách nào cứu
được nữa. V́ thế, trước hết
phải sanh ḷng tin sâu xa.
Thế nào là Nguyện? Trong hết
thảy thời, chán ghét nỗi khổ sanh tử cơi Sa Bà,
ưa thích, hâm mộ niềm vui Bồ Đề cơi Cực
Lạc. Làm bất cứ điều ǵ thiện hay ác,
nếu thiện th́ hồi hướng cầu văng sanh, ác
th́ sám nguyện cầu văng sanh, không c̣n chí ǵ khác. Đấy
gọi là Nguyện.
Tín - Nguyện đă đầy
đủ th́ Niệm Phật chính là chánh hạnh; cải ác
tu thiện đều là trợ hạnh. Tùy theo công sức
sâu cạn mà chia thành chín phẩm, bốn cơi Tịnh Độ,
mảy may chẳng lạm. Chỉ cần tự kiểm
điểm lấy ḿnh, chẳng cần phải hỏi
người khác nữa.
Nghĩa là: tín sâu nguyện thiết
niệm Phật, nhưng lúc niệm Phật, tâm nhiều
tán loạn th́ là Hạ Phẩm Hạ Sanh. Tín sâu, nguyện
thiết niệm Phật nhưng lúc niệm Phật tán
loạn giảm thiểu th́ là Hạ Phẩm Trung Sanh. Tin sâu,
nguyện thiết niệm Phật, nhưng lúc niệm
Phật lại chẳng tán loạn th́ là Hạ Phẩm
Thượng Sanh. Niệm đến Sự Nhất Tâm
Bất Loạn, chẳng khởi tham, sân, si th́ thuộc vào
ba phẩm Trung Sanh. Niệm đến Sự Nhất Tâm
Bất Loạn, tùy ư đoạn Kiến Tư Hoặc hay
Trần Sa Hoặc trước và cũng hàng phục
được vô minh th́ thuộc vào ba phẩm
Thượng Sanh. V́ thế, tín nguyện tŕ danh niệm
Phật sanh trong chín phẩm, đích xác chẳng lầm.
Hơn nữa, tín nguyện tŕ danh, tiêu
phục nghiệp chướng, đới nghiệp văng
sanh chính là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ. Tín
nguyện tŕ danh, đoạn sạch Kiến Tư Hoặc
mà văng sanh th́ là Phương Tiện Hữu Dư Tịnh
Độ. Tín nguyện tŕ danh, phá tan một phần vô minh mà
văng sanh chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ. Tín
nguyện tŕ danh, tŕ đến chỗ cứu cánh,
đoạn sạch vô minh mà văng sanh th́ chính là Thường
Tịch Quang Tịnh Độ. V́ thế tŕ danh sanh trong tứ
độ cũng là điều đích xác chẳng lầm
vậy.
Hỏi: Tŕ danh như thế nào
để đoạn được vô minh?
Đáp: Đối với danh hiệu Phật
được tŕ, chẳng luận là ngộ hay chẳng
ngộ, không ǵ chẳng là “nhất cảnh tam đế”
(9). Cái tâm tŕ niệm chẳng luận là đạt hay không
đạt, không ǵ chẳng là “nhất tâm tam quán” (10).
Chỉ v́ chúng sanh vọng tưởng chấp
trước, t́nh kiến phân biệt nên chẳng thể
khế hợp viên thường. Nào có biết rằng [tâm]
năng tŕ chính là Thỉ Giác. [Danh hiệu Phật]
được tŕ (sở tŕ) chính là Bổn Giác. Nay cứ
thẳng thừng mà tŕ th́ ngoài chuyện tŕ niệm ấy
không có Phật, ngoài Phật chẳng có tŕ niệm. Năng
- Sở bất nhị th́ Thỉ Giác hợp với Bổn
Giác, ấy gọi là Cứu Cánh Giác.
Hỏi: Thỉ Giác đă hợp
với Bổn Giác th́ ngay đó chính là Thường Tịch
Quang, sao c̣n nói là văng sanh?
Đáp: Nếu đă thấu đạt
ngay đó chính là Thường Tịch Quang th́ nói đến
văng sanh nào có ngại ǵ? Bởi văng tức là chẳng văng,
không văng mà văng, sanh chính là vô sanh, vô sanh mà sanh. Văn Thù,
Thiện Tài sanh về Tây Phương là bởi lẽ
đấy.
Ôi chao! Nam tử! Đừng mất công suy
nghĩ nữa.
25. Lời phổ thuyết ở Nhân Nghĩa Viện
thuộc Phong Nam, Hấp Tây
...Nay Huyền Thúy Ngô cư sĩ v́
khắp hàng Tăng, Tục, xin tôi khai thị pháp môn siêu sanh
thoát tử, Ngẫu Ích tự xét ḿnh chưa siêu sanh thoát
tử, làm sao khai thị cho người được?
Nhưng dù cùng trong biển sanh tử, đối với
pháp xuất sanh tử, tôi c̣n may mắn biết chút ít
đầu mối chân chánh. V́ thế, tôi chẳng ngại
cùng các nhân giả luận b́nh, thương lượng
bước đường tối sơ.
Nếu thật sự muốn siêu sanh
thoát tử th́ thứ nhất là chẳng được suy
nghĩ so đo, thứ hai là chẳng được
cậy ḿnh nóng vội, thứ ba là chẳng được
xen tạp danh lợi. Phía Nam đi xuống đất Mân
(Phước Kiến), phía Bắc đi lên Yên, nếu
lầm đường một chút là càng đi càng xa. Đây
thực là lời lời huyết lệ, chữ chữ
nhói ḷng! Chỉ e: “Sầu nhân
mạc hướng vô sầu thuyết, thuyết dữ vô
sầu tổng bất tri” (Dạ sầu chớ kể
người vui, giăi bày cách mấy ai người hiểu
cho!)
Chư nhân giả! Đă biết sầu
chưa? Phật dạy: Được thân người như
đất dính trên móng tay, mất thân người như
đất trong đại địa. Một hơi
thở ra chẳng hít vào được, liền
hướng đến thai lừa, bụng ngựa, ám
độn, càn rỡ, trải qua ngàn đời, trăm
kiếp mới ló đầu ra, biết là lúc nào? Huống
là đời mạt, tà sư thuyết pháp như cát sông
Hằng. Một kẻ mù dẫn lũ đui, kéo nhau
sụp hầm lửa.
V́ thế, Vĩnh Minh đại sư
nói: “Không Thiền, có Tịnh
Độ. Vạn người tu, vạn người
đỗ”. “Có Thiền, không Tịnh Độ. Mười
người chín lầm nẻo”. Hám Ông đại sư
lại nói: “Hiện thời có
Thiền không Tịnh Độ, nào phải là chỉ là chín
người lầm lạc, dám bảo đảm là
mười người đều lạc cả!”
Đấy đều là những lời chân ngữ, thực
ngữ, đại từ bi sâu xa.
Lại xin chư nhân giả! Đừng
đọa vào đồng cuồng, nẻo lấp, phải
đau đáu nghĩ thẳng vào lẽ vô thường, tín
nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ.
Đời này chẳng độ được thân này, c̣n
đợi kiếp nào mới độ được.
Trân trọng!
26. Lời phổ thuyết ở Thiên Mă Viện,
Hấp Phố
Kinh Hoa Nghiêm dạy:
Nếu ai muốn
biết rơ
Nên quán tánh pháp
giới,
Thảy chỉ do tâm
tạo.
Kinh Kim Cang dạy:
Hết thảy pháp
hữu vi,
Như mộng,
huyễn, bọt, ảnh,
Như sương,
như ánh chớp,
Hăy quán sát như
vậy.
Hăy biết rằng chỉ thú của
hai bài kệ này không khác nhau. Đă chỉ là do tâm tạo th́
đều là hữu vi. Đă chỉ là hữu vi th́ đều
như mộng huyễn. Nhưng hữu vi có hai thứ:
một là hữu vi hữu lậu, tức là lục phàm pháp
giới; hai là hữu vi vô lậu, tức là tứ thánh pháp
giới. Mười giới phàm thánh tuy khác, nhưng
rốt ráo đều chỉ là do tâm tạo. Hữu vi hữu
lậu như mộng, huyễn, c̣n hữu vi vô lậu do
thuận theo pháp tánh nên chẳng phải là mộng,
huyễn.
V́ sao bảo là lục phàm đều
chỉ là do tâm tạo? Nếu một niệm ứng
với thượng phẩm thập ác th́ toàn thể pháp
giới là địa ngục. Một niệm ứng
với trung phẩm thập ác th́ toàn thể pháp giới là
súc sanh. Một niệm ứng với hạ phẩm
thập ác th́ toàn thể pháp giới là Tu La. Một niệm
ứng với trung phẩm thập thiện th́ toàn thể
pháp giới là nhân đạo. Một niệm ứng
với thượng phẩm thập thiện th́ toàn
thể pháp giới là thiên đạo.
Trong sáu giới này, chẳng phải
chỉ riêng ḿnh tam đồ và trời người hạ
giới phải chết đi, sanh lại như huyễn,
như mộng, mà ngay cả trời Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ cũng chẳng tránh khỏi đọa
lạc, không vong, đều như huyễn, như mộng
cả.
V́ sao bảo là tứ thánh đều chỉ do tâm tạo? Nếu có thể biết Khổ, đoạn Tập, ngưỡng mộ Diệt, tu Đạo, siêng tu Giới - Định - Huệ phẩm, chứng được thiên chân Niết Bàn (11) th́ toàn thể pháp giới là Thanh Văn. Nếu có thể quán đúng đắn sự lưu chuyển, hoàn diệt, mười hai nhân duyên mà được giác ngộ th́ toàn thể pháp giới là Độc Giác. Có thể dùng tiên tri để giác hậu tri, dùng tiên giác để giác hậu giác, tu khắp lục độ, vạn hạnh, tự lợi, lợi tha th́ toàn thể pháp giới là Bồ Tát.
Bồ Tát lại có bốn loại:
- Nếu dựa theo sanh diệt Tứ
Đế phát bốn hoằng thệ nguyện, trong ba
đại A-tăng-kỳ kiếp, chế phục Hoặc
và độ sanh th́ là Bồ Tát của Tạng Giáo .
- Nếu dựa theo vô sanh Tứ Đế
phát hoằng thệ, trước hết đoạn Chánh
Sử, tập tành lợi lạc chúng sanh, độ chúng
sanh như huyễn th́ là Bồ Tát của Thông Giáo.
- Nếu dựa theo vô lượng
Tứ Đế phát hoằng thệ, chẳng chỉ
độ lục phàm thoát khỏi phần đoạn sanh
tử mà c̣n độ cả tam thừa quyền thánh thoát
khỏi biến dịch sanh tử th́ là Bồ Tát của
Biệt Giáo.
- Nếu triệt ngộ rằng
một niệm tâm tánh hiện tiền vốn sẵn thông
suốt chiều dọc, trọn khắp theo chiều ngang,
chúng sanh c̣n mê th́ toàn thể là Tập - Khổ, nhưng tâm
này chẳng giảm. Chư Phật đă ngộ th́ toàn
thể là Đạo - Diệt, nhưng tâm này chẳng tăng.
Diệu tâm tuy đồng nhưng do mê ngộ nên cách
biệt vời vợi. Lại y theo vô tác Tứ Đế, phát
tâm Vô Thượng Bồ Đề, xứng tánh tu hành lục
độ vạn hạnh, tự giác, giác tha th́ là Bồ Tát
của Viên Giáo.
Những phước trí do bốn
hạng Bồ Tát này tu tập gọi là hữu vi vô
lậu. Huống hồ là công hạnh viên măn, đồng
quy Vô Thượng Bồ Đề th́ toàn thể pháp giới
trở thành bốn trí Bồ Đề, trên thân vô lậu
đoạn sạch bờ mé vị lai, lợi lạc
hữu t́nh, há cũng có thể nói là như huyễn, như
mộng chăng? Trong tứ thánh, Nhị Thừa dù ra
khỏi sanh tử, chỉ chứng được thiên
chân, chẳng thấu đạt toàn thể tâm tánh nên
chỉ gọi là hữu vi vô lậu. Chư Phật, Bồ
Tát chứng được toàn thể tâm tánh. V́ thế,
nếu ước trên phương diện toàn tánh khởi
tu th́ gọi là hữu vi vô lậu cũng được;
nhưng nếu xét theo phương diện hoàn toàn tu nơi
tánh th́ gọi là vô vi vô lậu cũng được.
Kinh Kim Cang nói như huyễn, như
mộng là để phá những thứ phàm, ngoại và hai
thứ chấp: Ngă Chấp, Pháp Chấp. Bởi mộng
cảnh tuy là Không, nhưng mộng tâm chính là giác tâm.
Huyễn sự tuy là Không, nhưng huyễn vốn chẳng
hoàn toàn là giả. Bọt nước tuy chẳng thật,
nhưng phải đâu không là nước. Bóng dáng tuy không
thực, nhưng nào phải không có chất.
V́ thế, biết được
rằng: tuy lục phàm sanh tử qua lại như
huyễn, như mộng, nhưng Phật tánh vẫn
chẳng đoạn diệt, chỉ thường chẳng
biết hay đó thôi! Bồ Tát hiểu rơ một niệm tâm
tánh hiện tiền, xưa nay thường hằng,
chẳng sanh, chẳng diệt, trên th́ bằng với
chư Phật, dưới th́ bằng với chúng sanh. Dù
chẳng muốn thượng cầu hạ hóa cũng
chẳng thể được.
Nhưng, tuy phát đại tâm Bồ
Đề, tập khí hư vọng vô minh từ vô thỉ
rất nặng, quán lực nhỏ yếu, e dễ bị
lui sụt, nên phải hiểu trọn vẹn lẽ trên,
chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh về thế
giới Cực Lạc. Bởi lẽ, một niệm tâm
tánh hiện tiền của chúng ta vốn đă cùng tột
theo chiều dọc, trọn khắp theo chiều ngang nên
vốn đủ cả vô biên sát hải (13).
Nơi vô biên sát hải trong tâm tánh
của ta, thật có thế giới Cực Lạc cách ngoài
mười vạn ức cơi, thật có đức A Di Đà
Phật hiện tại, Ngài đă chứng tâm tánh
trước, từ bi tiếp dẫn hết thảy loài
mê. Nay ta dùng Bồ Đề tâm lực này xưng danh hiệu
Ngài th́ cùng với đức A Di Đà Phật như hư
không ḥa lẫn hư không, như nước ḥa lẫn vào
nước. V́ thế, xưng danh một tiếng th́
mỗi tiếng nhất tâm bất loạn. Xưng danh
mười tiếng th́ mười tiếng nhất tâm
bất loạn, cho đến xưng danh bảy ngày th́
bảy ngày nhất tâm bất loạn. Ngay đang lúc
xưng danh, không c̣n tâm thứ hai, nên chẳng thể
loạn được.
Nếu như nói: ngũ nghịch,
thập ác lâm chung mười niệm c̣n được
văng sanh, sao cứ phải hằng ngày khư khư xưng
danh? Thật lầm to quá! Hạng ngũ nghịch thập
ác được văng sanh nói đến trong kinh phải là
hạng trong quá khứ đă từng gieo trồng hạt
giống Bồ Đề. Nếu không có hạt giống
Bồ Đề, làm sao gặp được thiện
hữu? Ví dù gặp thiện hữu khuyên lơn, cũng
chẳng thể sanh ngay tín niệm, xưng niệm hồng
danh được!
V́ thế, phàm là bậc tu tâm tịnh nghiệp
th́ phải gấp đề cao diệu tâm, phát Bồ
Đề nguyện, xưng niệm A Di Đà Phật, dù chẳng
đoạn Hoặc, vẫn có thể đới nghiệp
văng sanh, hoành siêu tam giới. Đây chính là pháp môn chẳng
thể nghĩ bàn, mười phương chư Phật
dùng vô lượng lưỡi, vô lượng âm, khen ngợi
pháp môn này vẫn c̣n chưa nói hết được
nổi. Hăy nên tin chắc chắn, tận lực thực
hành.
Nay Thánh Hà Ngô cư sĩ ở Hoàng Nam
cùng pháp hữu Kiên Mật riêng v́ lệnh tiên từ là Thành
Tịnh ưu bà di Hồng thái nhụ nhân (14) thỉnh tôi
giảng pháp yếu nên tôi kính cẩn v́ họ giảng nói.
27. Phạm
Thất Ngẫu Đàm (trích bảy đoạn)
* Trở về nguồn th́ tánh không hai,
nhưng phương tiện lại có nhiều môn. Thế
nên Tham Thiền, Niệm Phật, Chỉ Quán đều là
phương tiện cả. Đă nói là môn th́ sao giống nhau
được? Nếu biết toàn tánh khởi tu, toàn tu
tại tánh th́ cả ba môn đều nhất trí, há phải
là khác? V́ thế, tu hành chân chánh chỉ quư thuận
đường về nhà. Nói là đồng hay dị
chỉ càng tăng thêm hư luận.
* Hiện thời, kẻ tri thức
thường dạy người lợi căn tham
thiền, dạy kẻ độn căn niệm Phật,
nghĩ rằng: tham thiền chỉ thích hợp với
thượng cơ, niệm Phật chỉ xứng với
hàng trung, hạ. Nếu nghĩ Thiền chẳng độ
được kẻ trung căn, hạ căn th́ là báng
Thiền; cho là niệm Phật chẳng thích hợp với
thượng cơ th́ chính là báng Giáo. Họ báng bổ
cả Thiền lẫn Giáo, dấy động thành trào
lưu khiến cho Thiền trở nên hư danh, nhưng cũng
chẳng thực sự niệm Phật. Đáng buồn thay!
Nào biết rằng mỗi loại người tham
Thiền, niệm Phật và tu Giáo Quán đều có túc
căn. Mỗi một căn tánh lại chia ra ba phẩm:
Người thuộc phẩm thứ
nhất trong cửa Thiền vừa chạm đến
liền thấu tỏ, không c̣n sự ǵ khác nữa. Vốn
xưa đă có sẵn linh căn như mưa đúng
thời. Người thuộc phẩm thứ hai liền
chẳng c̣n nghi, ẩn tàng sâu xa, hàm dưỡng kín đáo,
đợi đến lúc dưa chín, cuống rụng,
đại dụng hiện tiền, trời rồng
ủng hộ, tùy ư lợi sanh. Người thuộc
phẩm thứ ba đầy đủ đại nghi t́nh,
như mang mối thù giết cha, dốc tận sức b́nh
sinh để hiểu thấu tột cùng sự ấy.
Người niệm Phật thuộc
phẩm thứ nhất th́ đốn ngộ tự tâm là
Phật, niệm niệm viên minh. Người thuộc
phẩm thứ hai tin tưởng sâu xa tự tâm là
Phật, niệm niệm lư nhập. Người thuộc
phẩm thứ ba tin tưởng sâu xa vào Phật lực vô
lượng, niệm niệm diệt ác. Lại c̣n có
bốn loại, tức là niệm tự tánh của
Phật, niệm tướng hảo, công đức
của Phật, niệm danh hiệu Phật, niệm h́nh
tượng Phật. Bốn loại này thông cả ba
phẩm.
Người giáo quán thuộc phẩm
thứ nhất vừa nghe viên lư liền phát ngay sơ tâm,
thành Chánh Giác trong khoảng sát-na, thị hiện tám
tướng trong trăm giới. Người thuộc
phẩm thứ hai tin vào Nhất Cảnh Tam Đế, thanh tịnh
sáu căn nơi thân, chế phục trụ địa vô
minh, dẹp tan bụi bặm Kiến Tư. Người
thuộc phẩm thứ ba nghe kinh liền viên giác, tu năm
phẩm quán hạnh, tu tập Tam Quán để huân tập,
chế phục Ngũ Trụ, hướng về Giác.
Từ đó có thể nói là pháp không
ưu liệt, thuốc trị được bệnh là
thuốc hay. Căn cơ có cạn, sâu, nếu chấp
chặt vào phương tiện th́ chính là do thuốc mà
đổ bệnh.
* Như có kẻ hỏi tôi: “Ông do
nguyện nào nguyện sanh Tây Phương?” Tôi hỏi: “Là do
nguyện nào nguyện vào địa ngục?” Người
ấy đáp: “Là cái tâm nào vậy?” Tôi đáp: “Tây
Phương là trên thờ chư Phật, địa
ngục là dưới độ chúng sanh. Với Phật
th́ bắt đầu từ đức Di Đà v́ nguyện
vương thù thắng. Với chúng sanh th́ bắt
đầu từ địa ngục v́ bi tâm khẩn
thiết”.
* Có kẻ thiền giả hỏi tôi:
“Sư tu tập công phu ǵ?” Đáp: “Niệm Phật”. Kẻ
ấy hỏi: “Niệm Phật để làm ǵ?” Đáp:
“Để cầu sanh Tây Phương!” Thiền giả
cười khẩy: “Sao chẳng chuyên chú nơi tự tánh
Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, mà lại dùng cái vọng niệm
ấy để vọng cầu làm ǵ?” Tôi đáp: “Ông
bảo Phật A Di Đà ở ngoài tánh, cơi Cực Lạc
ở ngoài tâm ư? [Nếu vậy] th́ tâm tánh quá hạn
hẹp rồi. Như vậy lời ông vừa bảo vô
cầu vô niệm đó chẳng phải là chấp vào Không
một cách xấu ác hay sao?”
* Người ta bảo tham Thiền
ắt ngộ đạo, chẳng cần cầu sanh Tây
Phương. Niệm Phật là sanh về Tây, chưa
chắc ngộ đạo được. Họ biết
đâu rằng người đă ngộ rồi c̣n
chẳng thể chẳng sanh Tây Phương, huống là kẻ
chưa ngộ ư? Hơn nữa, Thiền giả
muốn sanh về Tây Phương, bất tất phải
đổi sang niệm Phật. Chỉ cần đầy
đủ tín - nguyện th́ tham Thiền chính là hạnh
Tịnh Độ.
Hơn nữa, niệm Phật
đến nhất tâm bất loạn, Năng lẫn
Sở đều mất chính là đắc Vô Sanh Pháp
Nhẫn, há chẳng phải là ngộ đạo hay sao? V́
thế, tham Thiền hay niệm Phật đều có
thể ngộ đạo, đều có thể sanh về
Tây Phương. Nhưng có nghi th́ tham, không nghi th́ niệm,
tự châm chước ngay trong lúc mỗi người tu
tập mà thôi!
* Sanh về Tây Phương dùng ba
thứ tâm: chí thành tâm, thâm tâm và hồi hướng phát
nguyện tâm. Do ba tâm này [có thể tu] thẳng thành Phật.
Người trôi lăn cơi tục cũng có ba tâm: tâm khinh,
tâm sao nhăng, tâm tương tục. Do ba tâm này thường
qua lại trong năm đường. Ô hô! Ba thứ tâm
trước trong trăm người họa chăng có
một; ba tâm sau trăm ngàn người chẳng có nổi
một người không. Chẳng lạ ǵ người
miệng bảo cầu sanh th́ lắm, kẻ thật
sự văng sanh lại ít vậy!
* Đại Sư Vân Thê phát huy pháp môn
Niệm Phật như sau: Có Sự nhất tâm bất
loạn và Lư nhất tâm bất loạn. Có kẻ bảo:
tŕ danh hiệu là Sự Nhất Tâm, tham cứu chữ Ai là
Lư Nhất Tâm, chẳng phải lầm lắm sao? Bởi
lẽ, Sự Nhất Tâm là rành rành phân minh, chẳng hôn
trầm, chẳng tán loạn. Lư Nhất Tâm là ngầm
khế hợp vô sanh, thấu rơ tột cùng tự tánh. Lúc
tham cứu thoại đầu dù thuần thục, vẫn
chỉ là thuần thục về mặt Sự. Lúc niệm
đến mức tâm lẫn Phật cùng mất th́ đă
thuộc về Lư, lẽ đâu cứ nói đến Sự
là chỉ nói về niệm, c̣n nói đến Lư là chỉ
dành riêng cho tham cứu ư?
Hơn nữa, tham chữ Ai bảo là
tham cứu Lư c̣n được, chứ bảo là Lư
Nhất Tâm lại không được. Nhưng không một
ai tham cứu Lư lại có thể xem thường Sự
được. V́ sao vậy? Sự có công năng hỗ
trợ Lư. Lư không thể tồn tại một ḿnh. Mong hăy
suy nghĩ kỹ!
28. Thư
trả lời Tịnh Thiền Sư
Pháp môn Tịnh Độ vốn bao gồm
hết thảy tông giáo, thâu trọn hết thảy các
căn cơ. V́ thế, trước nay, trứ tác của
Phật, Tổ, Thánh Hiền đă quá nhiều. Muốn
chọn lấy những điều tinh yếu để
lợi ích các phẩm th́ hăy nên chọn đủ những
điều sở trường chứng thực cho tâm
ngộ th́ mới có thể lưu truyền được.
Nếu chưa thâm hiểu sâu xa pháp môn này th́ hăy nên chú
trọng tu tập tận lực, đừng vội vàng
đặt nặng việc trước thuật.
Đối với trách nhiệm trọng
yếu là độ người hăy lấy trí huệ và
phương tiện làm gốc. Có trí huệ th́ mới
hiểu ngọn ngành lẽ quyền - thật, nói tương
xứng với lư th́ không nghĩa nào là chẳng gồm
trọn. Có phương tiện th́ văn chương
mới bóng bẩy, văn đúng như nghĩa khiến cho
người đọc vui thích.
Nay ông thâu thập khắp[các tác
phẩm Tịnh Độ để soạn thành sách] th́ hăy nên
chú trọng [những phần nói] về lư đến
bảy tám phần, chỉ coi trọng văn chương
chừng năm sáu phần. Có lẽ ông nên tu dưỡng
sâu xa, giồi luyện thêm cho khéo. Ư tứ đầy
đủ được nghiền ngẫm kỹ càng th́
chỉ có những sách như Di Đà Sớ Sao, Long Thư
Tịnh Độ Văn v.v... E rằng cuốn Diệu Tông Sao
chưa giảng cứu nghĩa lư tới cùng tột.
Xin khuyên ông hăy t́m ṭi, chọn lọc
cẩn thận, xem thêm các sách Thập Nghi, Tịnh Độ
Hoặc Vấn, Bảo Vương Tam Muội, Tây
Phương Hiệp Luận v.v... để rốt ráo
được mở rộng tầm mắt. Sau
đấy mới dùng tâm từ bi, xem xét căn cơ
của nơi này, chỗ này, chọn lọc lấy một
lời, nửa câu để làm lợi ích cho họ th́ công
đức càng thù thắng vậy.
29. Thư
trả lời ông Đặng Tĩnh Khởi
Tham Thiền hay niệm Phật nếu
khéo dùng th́ không môn nào chẳng phải là thuốc cả.
Chẳng khéo dùng th́ không môn nào là chẳng tăng thêm
bệnh. Thậm chí, chấp thuốc thành bệnh hoặc
lấy bệnh làm thuốc. Sự việc chẳng
giống hệt một loạt như nhau, chẳng thể
dùng đôi lời nói trọn hết được.
Đại sự sanh tử, Phật đạo huyền
diệu. Nếu như hiểu biết hời hợt, công
phu sơ sài th́ giải quyết về mặt Sự c̣n
chưa xong, huống hồ là thanh toán nổi câu “nhất
vị” hay sao? Hai câu “Thiền vốn chẳng tham, Phật
vốn chẳng niệm” vừa là đề hồ,
vừa là độc dược! Nay quát trời xanh,
mắng Phật, Tổ chính là rớt vào hầm vô tham, vô
niệm. Nếu thật sự tham, thật sự niệm,
chắc chắn sẽ chẳng có thái độ ngông
cuồng như thế!
30. Thư
gởi Châu Tẩy Tâm
Chẳng thể nói toạc v́ sợ
ngăn lấp cửa ngộ là một đường
lối phương tiện riêng của tham cứu. Nhà
Thiền cũng có khi chẳng ngại nói toạc thẳng
thừng, huống hồ là Giáo Quán, Tịnh Độ ư? Ư
chỉ của Tịnh Độ nằm trọn trong cuốn
Diệu Tông. Nếu tŕ danh mà chẳng tu quán làm sao thấu
đạt bốn cơi Tịnh Độ dọc ngang?
Cuốn Tây Phương Hiệp
Luận cũng là một cuốn sách hữu công trong
Tịnh Độ, chẳng hổ là một tác phẩm viên
thông, bao hàm trọn vẹn cương tông của pháp
Niệm Phật Tam Muội, nhưng lời ít nghĩa
nhiều, chỉ nêu lên cái học đề cương,
yếu lănh, chứ chẳng khảo sát trọn khắp toàn
bộ giáo pháp, chẳng thể trong vài ngàn câu mà ḥng thâu tóm
trọn vẹn hết được.
Nếu chú trọng chuyên tu, chưa
rảnh để lợi sanh th́ cứ ngày đêm niệm
Di Đà mười vạn câu, cầu được văng sanh;
bất tất phải mong cầu thông suốt những giáo
nghĩa trọng yếu của các tông. Câu: “Chỉ được thấy Di Đà, lo ǵ chẳng
khai ngộ” chính là luận về điều này.
Nếu là người đại
từ bi, toan lưu lại trứ tác th́ tác phẩm
phải thập phần tinh vi, ngời sáng, mới ḥng
lợi lạc khắp ba căn. Nếu không, vừa
lập một pháp liền nảy sanh ngay một
điều tệ. Vả lại, đời mạt các
ngữ lục của Thiền, Giáo, Tịnh Độ chất
chật nhà, cao tận rường, chỉ xét về
mặt Sự đă tạp nham chẳng thuần, cốt
khoe mẽ cùng thế tục đó thôi!
31. Thư
gởi Đinh Liên Lữ
Một môn Tịnh Độ hữu danh vô nghĩa đă lâu! Cư sĩ chú trọng tu hành thực tiễn, làm gương mẫu cho cả Tăng lẫn tục. Đấy chính là được quang minh của đức Di Đà chiếu rạng vậy. Nhưng đời mạt thường coi rẻ pháp môn này là pháp dành riêng cho căn cơ Trung, Hạ, chẳng biết nó là pháp chí viên, chí đốn, lợi khắp ba căn. Hăy nên nghiền ngẫm, suy nghĩ kỹ càng hai cuốn Diệu Tông Sao và Tây Phương Hiệp Luận, mới ḥng phá được cái kiến chấp tà vạy ấy!
32. Trả
lời thư ông Hàn Triều Tập
...Tịnh Độ cực nhanh, thẳng
tắt, quảng đại, viên dung, chí đốn, cực
dễ, không căn cơ nào là chẳng thâu tóm, không tội
nào chẳng diệt được. Ông vừa phát tâm
liền biết quy hướng pháp môn này, nhưng sao
hơn ba mươi năm vẫn c̣n nửa tin, nửa
ngờ? Tôi chép riêng hai thiên công án văng sanh để giúp tín
lực cho ông. Muôn phần chẳng nên chần chừ
nữa!
33. Thư
trả lời Đường Nghi Chi
Cuốn [Quán Vô Lượng Thọ Kinh] Diệu Tông Sao chẳng thể đổi được một chữ. Bởi lẽ, Đại - Tiểu A Di Đà kinh (kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà) độ khắp ba căn nên sách chú giải hai kinh ấy phải tương xứng căn cơ cạn lẫn căn cơ sâu. C̣n kinh này (Quán Vô Lượng Thọ Kinh) chuyên để độ bậc đại căn viên đốn như bà Vi Đề Hy khiến họ ngay trong đời này ngộ được Vô Sanh Nhẫn.
Nếu chưa thấu triệt
được yếu chỉ tâm “làm, là” (tâm này làm Phật,
tâm này là Phật) th́ hoàn toàn chẳng thể nương vào
Sự để tu Quán được! Ngài Vân Thê nói: “Tâm thô, cảnh tế, diệu
quán khó thành!” Đây chính là điều được các
vị đại tổ sư như ngài Thiện Đạo
đề xướng, tôi tin ngài Vân Thê chẳng đoán ṃ.
Húc tôi (đại sư Ngẫu Húc
tự xưng) cho rằng: Thời Tống căn tánh khá
lanh lợi, những yếu nghĩa được ngài
Tứ Minh phát huy hăy c̣n sơ lược (Ư nói: do căn tánh
chúng sanh thời ấy lanh lợi, nên đại sư
Tứ Minh chỉ giảng đại lược
người đọc liền lănh hội ngay
được ư chỉ, không cần phải viết dài
ḍng).
Nếu nay đại sư lại trước tác [chú
giải Quán kinh] lẽ ra nên giải thích tận
tường, có đâu lại chỉ tiết yếu?
Thợ cả chẳng v́ bạn thợ vụng về mà
đổi, bỏ dây mực; Hậu Nghệ chẳng v́
kẻ vụng bắn mà thay đổi quy cách ngắm cung,
kéo cung. Điều này quan hệ chẳng nhỏ. Nếu
chẳng viên giải thấu triệt cả mười hai
phần, chẳng tránh khỏi gây nên ma sự. Chỉ có
mỗi một pháp Tŕ Danh, ngàn phần ổn thỏa, trăm
chiều thích đáng.
Xét ra Quán kinh cùng sách Diệu Tông Sao dành
riêng cho hạng viên đốn. Nếu là những chúng sanh thuộc
căn tánh chẳng suy lường lầm lạc th́ họ
cũng tự có thể thấu hiểu được.
Kẻ đă hiểu sẽ nhất định chẳng
ngại sách dài. Đối với kẻ chưa hiểu,
lại c̣n rút ngắn đi th́ có ích ǵ cho họ? Nếu
lược bớt những phần ư nghĩa nông cạn,
chỉ giữ lại những phần sâu xa, kẻ sơ
cơ càng thêm khó hiểu. Nếu lược bỏ phần
sâu, giữ lại phần cạn th́ lại càng trái
nghịch tông chỉ kinh. Suy đi nghĩ lại, vạn phần
chẳng nên dấy khởi ư niệm ấy.
NGẪU ÍCH
ĐẠI SƯ PHÁP NGỮ HẾT
(dịch xong ngày 04
tháng 12 năm 2003)
(1)
Tâm tương tục: ở đây chỉ ư muốn
tiếp tục làm ác.
(2)
Đễ: ḥa thuận, kính anh, nhường em, anh em
thương yêu nhau gọi là Đễ.
(3)
“Trên đảnh Tỳ Lô” là lối nói phá chấp
của nhà Thiền: “Đạp trên đảnh Tỳ Lô”, ư nói:
đă vượt qua mọi kiến chấp. Tỳ Lô
tức là Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), tức là Pháp Thân
Phật.
(4)
Manh thiền: hành Thiền nhưng không hiểu lẽ
Thiền một cách viên dung nên gọi là Manh Thiền
(Thiền mù).
(5)
Tứ cú: có, không, cũng có cũng không, chẳng
phải có chẳng phải không.
(6)
Chi, hồ, giả, dă: là những hư từ trong Hán
văn dùng làm trợ ngữ. V́ thế “chi hồ giả dă”
thường được dùng để chỉ những
chuyện trống rỗng, vô ích.
(7)
Nguyên văn: “Hành xích tùng lai thắng thuyết
trượng”, nghĩa là: từ nay trở đi, làm
được một thước c̣n hơn là nói cả
một trượng. Ư nói: Dù làm chút ít (một thước)
vẫn hơn nói xuông (cả một trượng). Một
trượng là mười thước (Tàu).
(8)
Vũ Thạc Nhân: bà thạc nhân họ Vũ. Từ
đời Tống trở đi, vợ các quan thị lang
được gọi là Thạc Nhân.
(9)
Vô kư niệm: niệm không thiện, không ác.
(10)
Nhất cảnh tam đế: đối với
một cảnh gồm đủ cả ba đế là Chân
Đế, Tục Đế và Thắng Nghĩa Đế (Đệ
Nhất Nghĩa Đế).
(11)
Nhất tâm tam quán:
một tâm gồm đủ ba phép quán: Không, Giả, Trung.
(12)
Thiên chân Niết Bàn: do
cảnh giới Niết Bàn của Thanh Văn c̣n thiên
lệch, chưa hoàn toàn là cảnh giới giác ngộ
rốt ráo nên gọi là “thiên chân”.
(13)
Sát hải: gọi đủ là “sát độ
đại hải”, thuật ngữ dùng trong tông Hoa Nghiêm,
chỉ số lượng các cơi nước (thế
giới hóa độ của một đức Phật)
nhiều vô số, quá lớn nên dùng chữ “hải”
(biển) để sánh ví. Sát là nói tắt của chữ
Sát-độ (Kshetra), thường dịch là Độ,
Quốc Độ, Xứ. Hiểu theo nghĩa rộng, sát
hải nghĩa là mười phương thế giới.
(14)
Lệnh tiên từ: tiếng gọi kính cẩn
đối với mẹ của người khác đă
mất. Ông cư sĩ họ Ngô này hiệu là Thánh Hà,
mẹ đă thọ ngũ giới tại gia, pháp danh là
Thành Tịnh nên gọi là Thành Tịnh ưu bà di. Bà họ
Hồng, chồng là quan nên gọi là Hồng Thái Nhụ Nhân
(thời cổ, vợ quan đại phu gọi là Nhụ
Nhân).