念佛法要
Tịnh Nghiệp Đệ Tử Dịch
Viên
Mao Lăng Vân kính cẩn biên tập
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
kính dịch sang Việt ngữ
QUYỂN
II GƯƠNG SÁNG NIỆM
PHẬT
Tịnh nghiệp đệ tử
Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập
Từ lúc Huệ Viễn đại
sư thời Đông Tấn đề xướng tu Tịnh
Độ đến nay, sự tích văng sanh của tăng, ni và
nông, công, thương gia, những kẻ tạo tội,
người bệnh tật khổ sở trong các
đời đâu phải chỉ có ức vạn; những
chuyện được ghi chép trong các sách vở chỉ là
một, hai trường hợp được tạm thấy
biết đến trong cả ức vạn trường
hợp mà thôi.
Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo. Ở
đây, tôi lược trích những sự hành tŕ của
họ để chúng ta học theo, lấy đó làm khuôn
phép. Nguyện những ai xem đến di tích của các
vị tiên đức, trông thấy đức hạnh
của người khác sẽ mong chính ḿnh được
bằng mà sốt sắng dốc chí tu hành.
Huệ Viễn đại sư
đời Tấn là Sơ Tổ của Liên Tông, họ
Giả, người xứ Nhạn Môn. Ngài tinh thông cả
Nho lẫn Lăo. Năm hai mươi mốt tuổi, nghe pháp
sư Đạo An giảng kinh Bát Nhă, hốt nhiên đại
ngộ, than rằng:
- Nho, Đạo cửu lưu đều
chỉ là bă hèm.
Liền xuất gia, thề hoằng
dương Phật giáo. Ngài Đạo An khen ngợi:
- Khiến cho đạo pháp
được lưu hành ở Trung Nguyên phải nhờ
vào ông Viễn!
Sau đấy, Ngài trụ tại chùa Đông
Lâm trên Lô Sơn, suất lănh đại chúng hành đạo,
đào ao trồng sen. Trên mặt nước thả hoa sen
mười hai cánh xoay chuyển theo sóng nước nhằm
phân định thời khắc ngày đêm để
biết thời hạn tu hành. Ngài cùng với các ông Lưu
Di Dân v.v… hơn một trăm hai mươi ba người
cả Tăng lẫn tục sáng lập Liên Xă, sáu thời
niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ngài ở trong
núi suốt ba mươi năm chẳng hề đặt
chân vào cơi trần; chuyên chí Tịnh Độ, lắng ḷng
hệ niệm, thấy thánh tượng cả ba lần,
nhưng vẫn giấu kín không nói.
Một đêm, lúc Ngài vừa xuất
định, bỗng thấy A Di Đà Phật thân đầy
chật cả hư không, Quán Âm, Thế Chí đứng
hầu hai bên. Lại thấy nước chảy, quang minh
chia làm mười bốn nhánh cùng chảy lên, rót xuống,
diễn thuyết diệu pháp.
Phật dạy:
- Do bổn nguyện lực nên ta
đến an ủi ông. Sau bảy ngày nữa, ông sẽ sanh
về cơi ta!
Những vị trong Liên Xá đă văng sanh
trước như các ông Lưu Di Dân, Phật Đà Da Xá v.v…
đều hầu bên Phật. Sư bảo:
- Lúc ta mới ở đây, ba lần
thấy thánh tượng; nay lại được
thấy, ắt sẽ sanh về Tịnh Độ.
Đến thời hạn, Ngài liền
đoan tọa nhập tịch, thọ tám mươi ba
tuổi.
(theo Đông
Lâm Truyện)
Nhận định:
Nếu như thấy tướng
hảo liền muốn nói cho mọi người biết,
ắt sẽ bị ma gây lầm lạc, khiến nguyện
hạnh bị thoái thất. Xin hăy bắt chước Ngài:
Ba lần thấy nhưng không nói, chỉ đến lúc lâm
chung mới cho biết mà thôi!
2. Thiên
chúng đến đón chẳng đi
* Đại sư Tăng Tạng
đời Đường, người xứ Tây Hà. Tuổi
nhỏ xuất gia, nép ḿnh thờ người, hết
thảy cung kính, chẳng nề hà lao khổ. Thấy
tăng y của người khác liền ngầm giặt giũ
giùm, rồi lại vá chằm. Ngày nắng gắt, Sư
cởi áo ngồi trong đám cỏ để thí máu
thịt cho các loài muỗi, ve.
Hằng ngày, Ngài niệm Phật hiệu
chẳng cần ghi số, chỉ ngầm nhớ rơ trong
tâm, chưa hề thiếu sót. Đến khi báo tận,
thấy chư thiên theo thứ tự đến đón, Ngài
đều chẳng theo. Ngài chợt bảo mọi
người:
- Vừa về Tịnh Độ, thấy
các thượng thiện nhân rải hoa trên không.
Rồi chắp tay niệm Phật mà hóa.
(theo Cao
Tăng Truyện, tập ba)
* Đại sư Thiện Ngang đời
Đường, người Ngụy Quận. Chí kết Tây
Phương, nguyện sanh An Dưỡng. Sau Ngài ngụ
tại chùa Báo Ứng, biết đă đến lúc, bèn
bảo trước những người hữu duyên:
Đầu tháng Tám sẽ chia tay. Đến kỳ, Ngài lên ṭa
cao, lư tỏa mùi hương lạ, dẫn tứ chúng
thọ Bồ Tát giới, dạy dỗ những
điều thiết yếu. Chợt thấy thiên chúng
rộn ràng, đàn sáo véo von. Ngài bảo đại chúng:
- Trời Đâu Suất Đà đến đón
ta; nhưng Thiên đạo chính là căn bản sanh tử,
chẳng phải chỗ ta ước mong. Ḷng ta
thường mong sanh về Tịnh Độ, nguyện này
chẳng được thỏa hay sao?
Nhạc trời bỗng bặt
tiếng. Từ phương Tây, hương, hoa, âm nhạc
vùn vụt kéo đến, xoay quanh trên đỉnh
đầu, toàn thể mọi người đều
thấy. Sư bảo:
- Nay tướng lành Tây Phương
đến đón. Ta đi đây.
Nói xong liền tịch, thọ sáu
mươi chín tuổi.
(theo Cao
Tăng Truyện, tập hai)
Nhận định:
Lúc lâm chung, Tứ Đại chia ĺa là lúc
nào vậy? Chư Thiên lần lượt đến đón
là cảnh nào đây? Nếu chẳng phải là bậc tín
nguyện kiên cố th́ ngay trong lúc đó, đối
trước cảnh ấy làm sao cưỡng làm chủ
tể nổi? Đây đúng thật là gương sáng thiên
cổ cho những kẻ tu Tịnh nghiệp vậy.
Nếu không, một phen sanh lên trời, sẽ lại
đọa trong luân hồi. Xin đừng lầm tin
ngoại đạo cầu sanh Thiên Quốc.
Đại sư Thiện Đạo đời
Đường là Tổ thứ hai của Liên Tông. Nhân thấy
đạo tràng Tịnh Độ Cửu Phẩm của
thiền sư Đạo Xước, Ngài liền vui mừng
bảo:
- Đây chính là phương cách trọng
yếu để thành Phật. Tu các hạnh nghiệp khác
ngoắt ngoéo khó thành; chỉ có pháp môn này là chóng thoát sanh
tử.
Từ đó, Ngài tinh tấn, siêng năng
lễ niệm. Ít lâu sau, đến kinh sư, Ngài khích
lệ tứ chúng. Mỗi lần nhập thất,
thường quỳ thẳng niệm Phật, nếu
chưa kiệt sức th́ chẳng nghỉ. Dù cho lúc
trời lạnh đến mức đóng băng, Ngài
vẫn [niệm Phật đến khi] toát mồ hôi
[mới thôi] để bày tỏ ḷng chí thành.
Thường khi Ngài niệm Phật
một tiếng, có một ánh quang minh từ trong miệng
tỏa ra. Từ mười câu cho đến ngàn câu
cũng đều tỏa sáng như vậy, ai nấy
đều thấy. Ngoài việc niệm Phật, Sư
liền diễn nói pháp môn Tịnh Độ, không hở lúc nào
chẳng làm việc lợi sanh.
Hơn ba mươi năm, Ngài chưa
từng ngủ nghỉ, ngoại trừ lúc tắm gội,
Ngài chưa hề cởi y; hộ tŕ giới phẩm
chẳng phạm mảy may. Trọn chẳng màng danh
lợi, không hề cười đùa. Mỗi lần đi
đâu, Ngài thường đi một ḿnh, không cho ai đi
cùng, sợ phải bàn chuyện đời trở ngại
việc tu đạo nghiệp. Ba y, bát sành, Ngài đích thân
cầm giữ, giặt, rửa lấy. Thức ăn ngon
dành cho đại chúng, món thô dở Ngài dành cho ḿnh; các
thứ sữa, lạc, đề hồ đều
chẳng nếm đến.
Tất cả những thứ
được cúng thí Ngài đều dành để chép kinh
Di Đà tới hơn mười vạn quyển, vẽ
hơn ba trăm bức Tây Phương Thánh Cảnh,
sửa chùa, dựng tháp, thắp đèn nối sáng suốt
năm chẳng ngớt. Cả tăng lẫn tục
được Ngài giáo hóa, có người tụng kinh Di Đà từ
mười vạn đến năm mươi vạn
biến; nhật khóa niệm danh hiệu Phật từ
một vạn đến mười vạn. Trong số
ấy, những người đắc tam-muội, văng sanh
Tịnh Độ chẳng thể ghi chép nổi.
Ngài đột nhiên bảo mọi
người:
- Thân này đáng chán, ta sẽ về Tây!
Liền trèo lên cây liễu trước
chùa, hướng về Tây, cầu:
- Nguyện Phật tiếp dẫn con,
Bồ Tát giúp con, khiến con chẳng mất chánh niệm,
được sanh An Dưỡng!
Đứng ngay ngắn mà tịch.
(theo
Phật Tổ Thống Kỷ)
Nhận định:
Đại Sư là hóa thân của Phật A
Di Đà, chỉ bày khuôn phép niệm Phật rộng độ
chúng sanh. Xin hăy bắt chước Ngài, tuyệt ư danh
lợi, niệm Phật chẳng ngơi.
Đời Đường, Hoài Ngọc
đại sư, họ Cao, người xứ Đan Khâu,
chấp tŕ giới luật, ngày ăn một bữa.
Tụng kinh Di Đà ba mươi vạn biến, nhật khóa
niệm Phật năm mươi vạn câu, thường
hành sám hối. Chợt thấy thánh chúng Tây Phương
đầy chật hư không, một vị cầm đài
bạc đến đón. Sư bảo:
- Tôi một đời niệm Phật,
thề đạt được đài vàng, sao lại
chẳng được vậy?
Thánh chúng liền biến mất. Ngài
lại càng thêm tinh tấn, đến hai mươi mốt
ngày sau, người bưng đài lại đến
bảo:
- V́ Sư tinh tấn, nhọc nhằn,
nên được thăng lên Thượng Phẩm. Hăy nên
ngồi xếp bằng chờ Phật đến đón.
Ba ngày sau, ánh sáng lạ tràn ngập
cả thất. Sư bảo:
- Nếu ngửi thấy mùi hương
lạ th́ báo mạng của ta sẽ tận.
Ngài viết kệ:
Một
đời khổ hạnh siêu mười kiếp
Măi ĺa Sa Bà
về Tịnh Độ.
Ngay lập tức, mùi hương
ngập thất, thánh chúng đông nghịt. Phật và hai
vị Bồ Tát cùng ngự đài vàng đến đón.
Ngài mỉm cười mà tịch. (Theo Cao Tăng truyện, quyển ba)
Nhận định:
Theo Quán Kinh, chỉ bậc Thượng
Phẩm Thượng Sanh mới ngự đài kim cang.
Nếu chẳng bội phần tinh tấn, siêng khó,
đốn siêu mười kiếp, làm sao đạt
được như vậy? Đủ chứng minh có chí
ắt thành công, có nguyện ắt được thỏa.
Xin hăy cùng bắt chước Ngài tinh tấn, thề
đạt được đài vàng.
5. Lấy
việc lợi lạc chúng sanh làm đầu
Tự Giác đại sư đời
Đường, người xứ Bác Lăng. Xuất gia
từ nhỏ, học Kinh, Luật, Luận siêng năng
suốt cả chín năm, kinh luận nào cũng đều
hiểu sâu sắc. Về sau, Ngài trụ tại Trùng Lâm
Sơn Viện trong núi B́nh, nhặt quả, hái rau, mỗi
ngày chỉ ăn một bữa, phát tâm đúc tượng
đức Đại Bi Quán Âm và dựng chùa Phật.
Gặp lúc đại hạn, Tiết
Độ Sứ xứ Hằng Dương là ông
Trương thỉnh Ngài cầu mưa. Ngài kiền thành
khẩn cáo long thần, mưa to liền đổ
xuống. Do đó, thí chủ chen nhau tụ về, đúc
được tượng cao bốn mươi chín
thước, chùa cũng dựng xong. Ngài liền
đối trước đàn, thệ nguyện
nương nhờ Thánh lực sớm sanh Tịnh Độ.
Chợt thấy hai đạo kim quang: A Di Đà Phật và hai
vị Đại Sĩ từ trong quang minh giáng xuống, x̣e tay
sắc vàng xoa đầu Sư, bảo:
- Giữ nguyện chẳng đổi,
lấy việc lợi sanh làm đầu. Sanh chốn ao báu,
mặc t́nh thỏa nguyện.
Về sau, Sư chợt thấy thần
nhân đứng trong mây hiện nửa thân, bảo:
- Thời kỳ Sư quy Tây đă
đến rồi!
Ngài liền ngồi xếp bằng
trước tượng Quán Âm mà hóa.
(theo Cao
Tăng Truyện, quyển ba)
Nhận định:
Phàm những việc như tạo
tượng, lập chùa, cầu mưa lợi người
v.v… đều là những trợ duyên cho Tịnh nghiệp.
Đem những việc ấy hồi hướng Tây
Phương. Do làm được như vậy nên Phật
dạy: “Giữ nguyện chẳng đổi, lấy
việc lợi sanh làm đầu”. Nếu như Ngài
chẳng có mật hạnh niệm Phật, làm sao cảm được
đức Phật đến xoa đầu?
Thừa Viễn đại sư
đời Đường là Tổ thứ ba của Liên Tông.
Sư theo học với Ngọc Tuyền Chân Công,
được sai về ngụ tại Hành Sơn
để giáo hóa. Ngài sống dưới gộp đá
ở phía Tây
(theo
Liễu Hà Đông Văn Tập)
Nhận định:
Ăn đất, mặc áo rách: Dùng
khổ hạnh để tiêu nghiệp. Của dư
đem bố thí: Chẳng tích chứa để lụy tâm.
Dạy người chuyên niệm, tuy c̣n sống đă
hầu Phật, hạnh của Ngài chuyên tinh, văng sanh
Thượng Phẩm không c̣n ngờ ǵ nữa!
Ngũ Hội Pháp Chiếu đại
sư đời Đường, là Tổ thứ tư
của Liên Tông; trụ tại chùa Vân Phong ở Hành Châu.
Siêng tu chẳng lười, được Văn Thù
Bồ Tát dùng sức oai thần đưa vào thánh cảnh
Ngũ Đài. Ngài làm lễ, thưa:
- Phật pháp mênh mông, tu pháp môn nào là
thiết yếu nhất?
Ngài Văn Thù dạy:
- Nay ông niệm Phật th́ chính là đúng
thời. Trong các hạnh môn để tu, không có môn nào
hơn được Niệm Phật. Cúng dường Tam
Bảo, phước huệ song tu. Hai môn ấy là
đường tắt trọng yếu nhất. Trong
kiếp quá khứ, ta do niệm Phật và cúng dường,
nên đắc Nhất Thiết Chủng Trí.
V́ vậy, trong hết thảy các pháp Bát
Nhă Ba La Mật, Thiền Định rất sâu, thậm chí
chư Phật đều do từ niệm Phật mà thành.
V́ thế, biết rằng: Niệm Phật là vua của các
pháp. Ông hăy nên thường niệm chớ để gián
đoạn.
Sư hỏi:
- Niệm như thế nào?
Đức Văn Thù dạy:
- Phía Tây thế giới này có đức
A Di Đà Phật. Đức Phật ấy nguyện lực
chẳng thể nghĩ bàn. Ông nên niệm liên tiếp
chẳng để gián đoạn th́ khi mạng chung
quyết định văng sanh, vĩnh viễn chẳng thoái
chuyển.
Bồ
Tát lại duỗi cánh tay sắc vàng xoa đảnh, thọ
kư:
- Do ông niệm Phật, nên chẳng bao
lâu sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề. Nếu những kẻ thiện nam, thiện nữ
mong chóng được thành Phật, không ǵ hơn pháp
Niệm Phật, sẽ mau chứng Bồ Đề.
Sư hoan hỷ làm lễ, lui ra. Từ
đấy, dốc chí niệm Phật, ngày đêm chẳng
bỏ luống, thề sanh Tịnh Độ. Chợt thấy
Phạm tăng Phật Đà Ba Lợi bảo:
- Hoa sen của ông đă viên măn. Ba năm
nữa, hoa sẽ nở.
Đến kỳ, Ngài bảo đại
chúng:
- Ta đi đây!
Đoan tọa mà tịch.
(theo Cao Tăng Truyện
tập ba và Lạc BangVăn Loại)
Nhận định:
Đại Sư được đức
Văn Thù khai thị: “Niệm
Phật cúng dường, phước huệ song tu là
khẩn yếu, nhanh chóng nhất”. Xin hăy tin nhận, vâng
làm, ngày đêm chẳng bỏ uổng, thề sanh Tịnh
Độ, mau chứng Bồ Đề.
Đại sư Đài Nham Thiếu Khang
đời Đường là Tổ thứ năm của Liên
Tông. Ngài họ Châu, người xứ Tấn Vân, xuất
gia từ nhỏ, thông kinh luận, giỏi Luật
Tạng. Về sau, Ngài đến chùa Bạch Mă ở
Lạc Dương, do thấy bài Tây Phương Hóa Đạo
Văn của đại sư Thiện Đạo phóng quang,
nên đến chùa Quang Minh ở Trường An chiêm lễ
nơi đài hiện bóng của đại sư Thiện
Đạo; cảm được đại sư hiện
thân trên không, dạy:
- Ông tuân lời ta dạy, rộng hóa
độ hữu t́nh. Ngày sau công thành, ắt sanh An
Dưỡng.
Ngài liền qua Tân Định, không ai
biết đến Ngài. Ngài bèn xin tiền để dụ
trẻ nhỏ niệm Phật, cứ niệm
được một tiếng bèn cho một đồng.
Sau một tháng, trẻ niệm Phật để
được tiền đă đông. Sư bảo:
- Niệm Phật mười tiếng ta
mới cho tiền.
Nhiều năm như thế, hễ
trai, gái, trẻ, già thấy Sư đều thưa A Di Đà
Phật. Tiếng niệm Phật vang khắp mọi
nẻo đường. Sau đấy, Ngài đến núi Ô
Long, kiến lập Tịnh Độ đạo tràng, xây
đàn ba bậc. Vào mỗi ngày trai, thiện tín tụ
lại xong; Ngài liền lên ṭa cao, lớn tiếng niệm
Phật, đại chúng ḥa giọng theo. Thấy Sư
niệm Phật một tiếng, một vị Phật
từ trong miệng bay ra. Mười tiếng là
mười vị Phật như xâu chuỗi.
Sư nói:
- Các vị thấy Phật, ắt
được văng sanh.
Mọi người đều vui
mừng. Người lễ Phật đông đến
mấy ngàn, nhưng cũng có người chẳng
được thấy. Sư chợt dặn ḍ kẻ
Tăng, người tục:
- Nên khởi tâm tăng tấn
đối với Tịnh Độ, sanh tâm chán ĺa Diêm Phù
Đề. Hiện thời các ông thấy quang minh của ta th́
đúng là đệ tử của ta.
Nói xong, liền phóng ra mấy đạo
quang minh lạ thường rồi tịch.
(theo Cao
Tăng Truyện, tập ba)
Nhận định:
Xin tiền dụ trẻ niệm
Phật là tài thí và pháp thí để rộng hóa độ
hữu t́nh. Phật từ miệng bay ra, phóng quang mà
tịch chính là niệm Phật thành công, ắt sanh An
Dưỡng vậy!
Đại sư Vĩnh Minh Trí Giác Xung
Huyền Diên Thọ đời Tống là Tổ thứ sáu
của Liên Tông. Ngài là con nhà họ Vương ở
Tiền Đường, trông nom việc thuế. Ngài
thường dùng tiền công quỹ để mua loài
vật phóng sanh nên mắc tội chết.
Lúc sắp gia h́nh, Tiền Văn Mục
Vương sai người ŕnh xem thấy Ngài chẳng
đổi sắc, vương ra lệnh tha. Ngài liền
xuất gia, tham học với ngài Chiếu Quốc Sư
thuộc tông Thiên Thai, thấy rơ tâm yếu.
Do nguyện xưa chưa quyết, Ngài
lên Trí Giả Nham, làm hai cái thăm “nhất tâm Thiền
Định” và “vạn hạnh trang nghiêm Tịnh Độ”,
dốc ḷng tinh thành cầu đảo, bảy lần rút
đều trúng cái thăm Tịnh Độ. Do vậy, Ngài
một dạ tu Tịnh nghiệp, được đức
Quán Âm dùng cam lộ rưới vào miệng, đắc
đại biện tài, soạn bộ Tông Kính Lục và
Vạn Thiện Đồng Quy Tập chỉ quy Tịnh
Độ.
Về sau, Ngài trụ ở chùa Vĩnh
Minh, mỗi ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự.
Đêm lên ngọn núi khác, đi kinh hành niệm Phật,
người ta nghe tiếng nhạc trời rền vang không
trung. Ngài tụng kinh Pháp Hoa được một vạn
ba ngàn bộ; đệ tử một ngàn bảy trăm
người. Sư thường truyền Bồ Tát
giới cho đại chúng, thí thức ăn cho quỷ
thần, bỏ tiền chuộc mạng cho sanh vật,
[những việc ấy] đều hồi hướng về
Tịnh Độ.
[Một hôm], Ngài chợt thắp
hương, gọi đại chúng rồi ngồi xếp
bằng mà tịch, thọ bảy mươi hai tuổi.
Về sau, có vị Tăng bị bệnh, thấy ḿnh
xuống âm phủ, thấy Diêm vương thờ một
bức họa bên trái điện, siêng năng lễ bái.
Hỏi ra mới biết Sư đă văng sanh Thượng
Thượng Phẩm. Vua trọng đức của Ngài nên
lễ kính vậy.
(Theo
Lạc Bang Văn Loại)
Nhận định:
Đại Sư là hóa thân của A Di Đà Phật,
do bảy lần bói đều rút được cái
thăm Tịnh Độ, nên mới nhất ư niệm
Phật, Thượng Phẩm Thượng Sanh. V́ chí
tại Thiền Định, nên về hạnh Ngài phải
xả Thiền tu Tịnh để làm gương vậy.
Đại sư Tạo Vi Tỉnh
Thường đời Tống là Tổ thứ bảy
của Liên Tông. Ngài họ Nhan, người huyện
Tiền Đường. Bảy tuổi xuất gia,
mười bảy tuổi thọ Cụ Túc Giới. Ngài
lấy việc kiên tŕ giới luật, chuyên xưng danh
hiệu, phát Bồ Đề tâm, kết xă để khích
lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Độ. Ngài trụ
tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn
của Tổ Huệ Viễn nên thành lập Tịnh
Hạnh Xă. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan
Tướng Quốc Văn Chánh Công Vương Đán v.v…
một trăm hai mươi người đều
xưng là Tịnh Hạnh Đệ Tử, c̣n Tăng th́ có
đến một ngàn vị đồng tu Tịnh
nghiệp.
Ngài cắt máu chép phẩm Tịnh
Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một chữ,
ba lạy, nhiễu ba ṿng, ba lượt xưng danh hiệu
Phật. Chép được ngàn quyển, thí cho ngàn
người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc
tượng Vô Lượng Thọ Phật, quỳ
trước tượng, phát nguyện:
- Con cùng đại chúng bắt
đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Đề
tâm. Cho đến cùng tột đời vị lai, hành
hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này,
sẽ sanh An Dưỡng
Một hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang
niệm Phật, Ngài chợt kêu to: “Phật đến rồi!”,
lặng lẽ mà hóa. Đại chúng thấy mặt đất
đều có màu vàng ṛng. Sư thọ sáu mươi hai
tuổi.
(Theo Phật Tổ Thống Kỷ)
Nhận định:
Kết xă khích lệ lẫn nhau đúng
là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành
được điều này trong hiện tại, phải
có bậc hữu đức thống suất đại
chúng cộng tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp.
Nếu không có được cơ duyên như vậy,
chẳng thà đóng cửa tiềm tu, so ra c̣n dễ tinh tấn
hơn!
Đại sư Từ Vân Tri Bạch Tuân
Thức đời Tống, người xứ Ninh Hải,
họ Diệp. Lúc đầu học Luật, sau nghiên
cứu giáo nghĩa tông Thiên Thai, luôn siêng khổ, tự khích
lệ. Sau đó, Ngài qua chùa Bảo Vân tu pháp Ban Châu
tam-muội, nhọc nhằn đến nỗi thổ
huyết, hai chân rách toạc cả da, thề tu hành
đến chết.
Ngài mộng thấy đức Quán Âm
chỉ vào miệng, khều ra mấy con trùng, dùng cam lộ
rưới vào; tỉnh dậy, thân tâm thanh lương, các
bệnh tật mất hết, trí huệ, biện tài vô
ngại. Ngài viết bài kư thề sanh Tây Phương;
rồi liền kết hội Tăng lẫn tục chuyên
tu Tịnh nghiệp.
Ít lâu sau, Ngài trở về Đông Dịch,
lập tinh xá, suất lănh đại chúng chuyên tu Niệm
Phật tam-muội. Tuổi già, Ngài trụ tŕ các chùa Chiêu
Khánh, Linh Sơn v.v…. ở Hàng Châu, xin quan cai trị
địa phương[1] là Vương Hân
Nhược phê chuẩn cho dùng Tây Hồ làm ao phóng sanh.
Ngài soạn các sám pháp viên dung Tam Quán,
lấy Tịnh Độ làm chỗ quy thú. Ngài soạn sách
Tịnh Độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn và
đề ra pháp Thập Niệm vào lúc sáng sớm, soạn
Văng Sanh Lược Truyện v.v… được lưu hành
trong cơi đời.
Đột nhiên, Ngài làm thơ từ tạ
thế gian và tỏ lời từ biệt đại chúng,
cho biết Ngài sắp quy tịch. Ngài liền thị
hiện có chút bệnh, từ chối không dùng thuốc,
lược nói pháp yếu cho đại chúng, thắp
hương lễ Phật, thỉnh Phật chứng minh,
văng sanh An Dưỡng; lại c̣n bày tỏ chỗ ḿnh
muốn về là Tịch Quang Tịnh Độ. Đến
chiều, Ngài tọa hóa, thọ sáu mươi chín tuổi.
(Theo
Phật Tổ Thống Kư)
Nhận định:
Muốn cầu được phú quư
trong đời hiện tại c̣n phải ra sức
đến chết, huống hồ là muốn liễu sanh
thoát tử, siêu phàm nhập thánh ư? Nếu chẳng
lấy cái chết làm lời thề th́ làm sao tọa hóa,
văng sanh cơi Thường Tịch Quang Tịnh Độ cho
được?
Đại sư Tư Chiếu đời
Tống, họ Dương, người huyện Tiền
Đường. Thuở nhỏ theo học với ngài Thần
Ngộ lănh hội được yếu chỉ rất
nhiều. Ngài cắt máu chép kinh Pháp Hoa đến
mười bộ; cứ mỗi một chữ là một
lạy.
Ngài tụng Quán Kinh được
năm tạng, kinh Di Đà mười tạng, kinh Pháp Hoa
một ngàn bộ. Lễ các kinh Hoa Nghiêm, Phạm Vơng,
bảy kinh Tịnh Độ v.v… được hai trăm
bảy mươi quyển. Ngài chuyên tu Niệm Phật
tam-muội, dựng một am nhỏ đặt tên là
Đức Vân, khắc tượng Tam Thánh. Mỗi đêm,
vừa mới canh tư đă dạy niệm Phật.
Tỳ-kheo lười nhác nghe tiếng Ngài niệm mà run
rẩy, hổ thẹn. Mỗi tháng, vào ngày hai mươi
ba, Sư suất lănh Tăng, tục hệ niệm Tam Thánh.
Suốt cả ba mươi năm, đại chúng nhóm
về thường đến cả ngàn người.
Ngài chợt bảo đồ chúng:
- Ta mộng thấy thân Phật vàng
trượng sáu, đấy là điềm văng sanh.
Liền mỗi ngày thỉnh bảy
vị Tăng trợ niệm. Đến tối ngày thứ
bảy, Ngài chợt nhỏm dậy, chắp tay, lớn
tiếng niệm Phật, ngồi xếp bằng, kết
ấn mà hóa. Lúc trà-tỳ, răng Ngài sáng rực như
ngọc.
(theo Phật Tổ Thống Kỷ)
Nhận định:
Đại Sư chuyên tu Niệm Phật
Tam-muội ba mươi năm, trước khi lâm chung
mộng thấy Phật mà c̣n thỉnh Tăng trợ
niệm. Bọn phàm phu chúng ta rất phải nên chú ư
điểm này.
13. Đi kinh
hành thành vết trũng
Đại sư Nghĩa Tú đời Minh,
người xứ Ôn Lư. Trụ tại am Tán Thán ở
đất Bồ, nhật khóa niệm A Di Đà Phật hơn
mười vạn tiếng, sáng chiều không gián
đoạn suốt hơn năm mươi năm. Chỗ
Ngài đi kinh hành, gạch ṃn thành vết trũng, hoặc
thủng xuống tận đáy. Người khác thử
sửa sang, ít lâu sau lại ṃn như cũ.
Thoạt đầu, có kẻ nghèo
chẳng tự kiếm ăn nổi, đến sống
nhờ [nhà chùa]; lâu ngày, làm điều bất thiện.
Sư quở: “Ngươi đúng là giặc!” Hắn bèn
ước hẹn đồng bọn, nhân đêm tối
đến đánh Sư. Đánh lần thứ nhất,
tiếng niệm Phật vẫn c̣n vang rền. Đánh lần
nữa, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt.
Đến khi khí tuyệt, Sư bèn tịch. (Theo Tử Bách Lăo Nhân Tập)
Nhận định:
Đại sư Tử Bách ca ngợi: “Đến lúc sắp chết,
tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Ngay
cả khi bắp đùi đă găy, Ngài vẫn c̣n có thể
ngồi xếp bằng để qua đời. Nếu
chẳng phải là suốt năm mươi năm chí khí
kiên cường lẫm lẫm th́ làm sao đạt nổi
như thế?”
Đây chỉ là nghiệp trái nhiều
đời, nhân duyên hội ngộ, nên trả nợ ngay
trước khi văng sanh. Chớ lầm là v́ cả một
đời niệm Phật nên mắc phải ác báo!
Đại sư Liên Tŕ Phật Huệ Châu
Hoằng đời Minh là Tổ thứ tám của Liên Tông,
người xứ Nhân Ḥa, họ Trầm. Năm
mười bảy tuổi, Ngài được bổ làm
thầy dạy các sinh đồ v́ học vấn và
đức hạnh đều xứng đáng.
Ngài nghe người hàng xóm tŕ danh
hiệu Phật, không bệnh tật ǵ mà mất, biết
niệm Phật có công đức chẳng thể nghĩ
bàn, liền dốc ḷng gửi nơi Tịnh Độ,
viết bốn chữ “sanh
tử sự đại” treo ngay đầu án thư
để tự răn nhắc ḿnh. Năm ba mươi hai
tuổi, Ngài xuất gia, tham yết các vị đại lăo
Biến Dung, Tiếu Nham… tham cứu câu “người
niệm Phật là ai?” có phần lănh hội.
Sau đấy, Ngài trụ trong núi Vân Thê.
Do trong núi có lắm hổ, Ngài bèn v́ mọi người
tụng kinh, thí thực, nạn hổ liền dứt.
Năm đại hạn, dân cư xin Ngài cầu mưa.
Ngài đi quanh ruộng niệm Phật, theo bước chân
Ngài mưa liền trút xuống. Mọi người vui
sướng bèn cùng nhau sắm sửa vật liệu
dựng chùa. Tăng chúng ngày càng quy tụ về, liền
trở thành chốn tùng lâm. Ngài bèn đề xướng
Tịnh Độ, thống trách Cuồng Thiền, rộng tu
các điều lành để làm tư lương Tịnh
Độ.
Lúc bấy giờ, giới đàn bị
cấm đoán đă lâu. Người cầu giới có
đủ tam y đối trước Phật xin thọ
giới, Ngài chứng minh cho họ. Ngài san định khoa
nghi trai đàn Thủy Lục và nghi thức Du Già Diệm Khẩu,
lập ra ao phóng sanh, soạn bài Giới Sát Văn
để cứu tế nỗi khổ trong cơi âm lẫn
dương gian. Ngài viết tác phẩm A Di Đà Kinh Sớ Sao
và Vân Thê Pháp Vựng dung hội Lư và Sự, thống
nhiếp ba căn. Kẻ được Ngài hóa độ
rất nhiều.
Ngài chợt giă biệt khắp
đồ chúng cả Tăng lẫn tục, bảo:
-
Ta sắp qua chốn khác.
Đến kỳ, Ngài dạy các đệ
tử thật thà niệm Phật, rồi hướng
về Tây niệm Phật mà tịch, thọ tám mươi
mốt tuổi. (theo Vân Thê Pháp
Vựng)
Nhận định:
Sanh tử việc lớn, vô
thường mau chóng, một phen mất thân người,
vạn kiếp khó có lại được. Thường
nghĩ đến điều này, sẽ tự nhiên
niệm Phật chân thành, thiết tha. Rộng tu các
điều lành, thật thà niệm Phật. Pháp yếu
Tịnh Độ đă được gói trọn trong hai
lời này.
Đại sư Hám Sơn Trừng Ấn
Đức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim
Lăng. Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm
niệm Phật, mộng thấy A Di Đà Phật hiện thân
trên không, quang tướng phân minh.
Từ đấy, thánh tượng sáng
rực rỡ luôn hiện diện trước mắt Ngài.
Sau Ngài đến Ngũ Đài tu Định, phát minh
được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh
Hoa Nghiêm, mỗi một nét bút hạ xuống là một câu
niệm Phật. Lâu dần, động và tịnh hệt
như nhau.
Sau đó, Ngài ẩn cư trong Lao Sơn
là chỗ bọn ngoại đạo sanh sống. Thoạt
đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam
Bảo, nhưng lâu sau, ai nấy đều biết
niệm Phật. Lư Thái Hậu hạ lệnh chở vàng
đến dựng chùa, ban tấm biển đề tên chùa
là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy Ngài đi
Lôi Châu. Nhân đấy, Ngài trùng hưng tổ đ́nh Tào Khê.
Về sau, Ngài được vua hạ
chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh
Nghiệp càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột
trở về Tào Khê, thị hiện bệnh nhẹ,
tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng
rằng:
- Hăy nghĩ tới việc lớn sanh
tử, vô thường mau chóng.
Đoan tọa mà tịch, có quang minh
chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi
tám tuổi, nhục thân hiện vẫn c̣n. (theo Mộng Du Tập)
Nhận định:
Thánh tượng thường hiện,
động tịnh nhất như th́ đúng là tu hành
Tịnh Nghiệp thật tinh cần. V́ chẳng chứng
đắc chút ít đă cho là đủ, nên nhục thân
của Ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt Ngài
phải sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh
nơi Thật Báo Tịnh Độ hoặc Thường
Tịch Quang Tịnh Độ trong thế giới Cực
Lạc.
Đại sư Ngẫu Ích Trí Húc
đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài
họ Chung, người Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ,
tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết
sách bác Phật. Đến khi Ngài đọc được tác
phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân Thê bèn đốt
những sách ḿnh đă viết.
Năm hai mươi tuổi, nhân
đọc kinh Địa Tạng bèn phát chí xuất thế,
hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm hai
mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Đức
giảng kinh, nghi t́nh chợt phát, dụng tâm tham cứu,
chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn
tu ở Ngô Giang. Bị bệnh gần chết, Ngài mới
nhất ư cầu sanh Tịnh Độ. Lúc bệnh giảm chút
ít, Ngài bèn kết đàn tŕ chú Văng Sanh bảy ngày. Sau
đấy, Ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước
thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh
Độ được lưu truyền rộng răi.
Ngài chợt thị hiện có bệnh,
dặn ḍ sau khi trà-tỳ hăy đem tro của Ngài ḥa với
bột đem thí cho các loài chim, cá, để chúng
được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi
bệnh đă khỏi hẳn, Ngài bèn ngồi xếp
bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch,
thọ năm mươi bảy tuổi.
Ba năm sau, mở khám đựng
nhục thân của Ngài ra, tóc đă mọc dài phủ tai,
vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng
nỡ tuân theo di mạng, nên lập tháp thờ ở Linh
Phong. (theo Linh Phong Tông Luận)
Nhận định:
Gặp
lúc bệnh gần chết mới bỏ Thiền tu
Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:
“Tinh tấn là chẳng v́ chút
bệnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh.
Nếu như bị túc nghiệp sai sử th́ nên tụng
Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn
Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni. Tŕ một lần,
diệt được tất cả các tội Ngũ
Nghịch, Thập Ác nơi thân. Tŕ được ba
mươi vạn biến, quyết sẽ sanh về
Tịnh Độ”.
Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp
Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ
Thần Chú có nói: “Kẻ có
thể tụng chú này th́ A Di Đà Phật thường ngự
trên đảnh người ấy, ngày đêm ủng
hộ chẳng để cho oán gia có dịp hăm hại.
Hiện đời thường được an ổn;
lúc mạng sắp hết, tùy ư văng sanh”. V́ thế, lúc
Ngài vừa bớt bệnh, liền kết thất tŕ chú
bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu
hăy bắt chước Ngài, lấy việc chuyên tu làm
trọng.
Đại sư Triệt Lưu Hành Sách
đời Thanh là Tổ thứ mười của Liên Tông,
là con của vị lăo nho Tưởng Toàn Xương ở
huyện Nghi Hưng. Ông Tưởng mộng thấy
đại sư Hám Sơn vào nhà, sanh ra Ngài; nhân đó,
đặt tên Ngài là Mộng Hám.
Năm hai mươi ba tuổi, Ngài
xuất gia tại chùa Lư An ở Vũ Lâm. Suốt năm
năm, chẳng đặt ḿnh nằm xuống chiếu,
đốn triệt nguồn pháp. Ít lâu sau, Ngài trụ ở
chùa Báo Ân, được bạn cùng tham thiền là Anh pháp
sư ở Tức Am khuyên siêng tu Tịnh Nghiệp,
Tiều Thạch Pháp Sư ở Tiền Đường
dẫn dụ Ngài học hỏi giáo lư tông Thiên Thai, bèn cùng
nhập tịnh thất, tu Pháp Hoa Tam-muội. Túc huệ
đốn thông, nên Ngài thấu triệt tột cùng giáo
tủy.
Từ đấy, Ngài bèn dựng am
ở Tây Khê thuộc Hàng Châu để chuyên tu Tịnh
nghiệp, đặt tên cho chỗ ḿnh ở là Liên Phủ
Am (am búp sen). Về sau, Ngài trụ tại Phổ Nhân
Viện ở Ngu Sơn, đề xướng, hưng
khởi Liên Xă, hoằng hóa thù thắng. Những trước
tác của Ngài như Liên Tạng Tập, Tịnh Độ
Cảnh Ngữ v.v… được lưu hành trong
đời. Ngài mất lúc năm mươi lăm tuổi.
Lúc bấy giờ có Tôn Hàn và người
họ Ngô mắc bệnh chết rồi sống lại,
đều kể là: “Bị sai nha cơi âm lôi đến
dưới điện, chợt thấy quang minh rực
trời, vua Diêm La phủ phục sát đất, nghênh
tiếp Tây Quy Đại Sư. Liếc trông th́ ra là ngài
Triệt Lưu. Nhờ quang minh của Ngài chiếu
đến nên được tha về”. (theo Tịnh Độ Ước Thuyết)
Nhận định:
Đốn triệt nguồn pháp, thấu
triệt tột cùng giáo tủy mà sau đấy vẫn
kết am chuyên tu để đề xướng hưng
khởi Liên Xă hoằng pháp lợi sanh. Phàm là những
kẻ ḿnh chưa đắc độ mà muốn
độ người th́ có hợp lư hay chăng?
Đại sư Tỉnh Am Tư Tề
Thật Hiền đời Thanh là Tổ thứ
mười một của Liên Tông. Ngài họ Thời,
người huyện Thường Thục. Từ nhỏ
đă chẳng ăn mặn, bảy tuổi xuất gia.
Năm hai mươi bốn tuổi, thọ Cụ Túc Giới,
giữ giới nghiêm cẩn, chẳng ngả ḿnh nằm
xuống chiếu.
Vừa được phép lên diễn
giảng, Ngài đă chứng tỏ rơ rệt cái học
của ḿnh về Tánh lẫn Tướng. Sau đấy,
Ngài tham cứu có phần chứng ngộ, bèn nói: “Ta
tỉnh mộng rồi!”. Ngài bế quan ba năm, ngày th́
đọc Kinh Tạng, tối lấy Phật hiệu làm
thường khóa.
Ngài đến lễ tháp chùa A Dục
Vương. Vào ngày Phật nhập Niết Bàn, Ngài tập
hợp đông đảo cả Tăng lẫn tục
thiết lễ cúng dường trọng thể,
đốt ngón tay trước tượng Phật, phát
bốn mươi tám đại nguyện, cảm
xá-lợi phóng quang. Ngài soạn ra Niết Bàn Sám và Khuyến
Phát Bồ Đề Tâm Văn để khích lệ tứ
chúng, nhiều người tụng đọc đều
ứa lệ.
Về già, Ngài về ở chùa Tiên Lâm
tại Hàng Châu, kết Liên Xă chuyên tu Tịnh Nghiệp,
soạn văn ước thệ cùng đại chúng
lấy hết cả đời làm hạn. Nhiếp hóa
khắp ba căn, pháp hóa lợi lạc khắp tất
cả.
Mùa Đông năm Ung Chánh thứ mười
một (1733), Ngài cho biết trước ngày Mười
Bốn tháng Tư năm sau sẽ Tây quy, rồi bế quan,
mỗi ngày niệm Phật mười vạn tiếng.
Đến kỳ, Ngài bảo: “Ngày giờ đă tới,
lại thấy Tây Phương Tam Thánh, sẽ sắp văng
sanh ư?”
Ngài liền đọc kệ từ
biệt đại chúng, tắm gội sạch sẽ, thay
áo, hướng mặt về Tây ngồi im lặng.
Người đưa tiễn lũ lượt kéo
đến, Ngài chợt mở mắt bảo:
- Ta đă đi rồi lại trở
về. Sanh tử là việc lớn, ai nấy phải
tịnh tâm niệm Phật mới được!
Rồi
Ngài chắp tay niệm Phật mà tịch, thọ bốn
mươi chín tuổi. (theo
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Nhớ số tŕ danh để pḥng
biếng nhác. Đại sư biết trước thời
giờ mà vẫn bế quan tinh tấn, nhật khóa niệm
Phật cả mười vạn tiếng. Đúng là c̣n một
hơi thở chẳng chịu lười nhác chút nào,
thật là tấm gương niệm Phật vậy!
19. Càng
bệnh tật khốn khổ càng thêm thiết tha
Đạo Triệt đại sư
đời Thanh, người huyện Tiền Đường.
Xuất gia tham học các sư, sau khi thấy rơ bản
tánh, bèn chuyên tu Tịnh nghiệp. Ngài trụ tại am
Văn Thù ở Hàng Châu. Ngài định kỳ bế quan:
Trong thất không để bất cứ vật ǵ dài,
lớn, ngoại trừ một cái ghế và một cái
đơn[2] mà thôi! Mới
được vài ngày đă mắc bệnh rất
nặng, Ngài tự cổ vũ ḿnh: “Niệm Phật chính
là v́ sanh tử, lẽ nào lại v́ bệnh mà biếng nhác
ư?” rồi tŕ danh hiệu Phật càng thêm khẩn
thiết.
Đột nhiên, kim quang chiếu rực
cả thất, Phật xoa đầu Ngài, bệnh lành ngay
lập tức; Ngài liền đắc Niệm Phật
Tam-muội. Đi, đứng, nằm, ngồi, trọn không
c̣n có niệm nào khác. Suốt ba năm như thế,
đến ngày rằm tháng Ba, Ngài xuất quan, lên ṭa
giảng pháp xong, bảo đại chúng rằng:
- Ta sẽ về Tây sau ngày Rằm tháng
Bảy, các ông có thể đến tiễn.
Đến kỳ, Ngài bèn thiết lễ Vu
Lan Bồn Hội. Chúng nhóm lại, nhắc lại lời
Ngài dự báo trước đây. Ngài nói: “Quả có thế,
hăy chờ một chút!” Ngày hôm sau, Ngài bèn dặn ḍ trụ
tŕ thiết trai, giă biệt đại chúng rồi vào khám,
ngồi yên lặng, dứt hơi thở. Giây lâu sau,
tỉnh lại, bảo:
- Chia tay cùng các ông, chẳng thể không
nói một lời. Sa Bà khổ không nói nổi, Cực
Lạc vui không nói nổi. Nếu c̣n nghĩ nhớ
đến tôi th́ chỉ niệm A Di Đà Phật, chẳng lâu
sau sẽ lại thấy nhau. Bỏ lỡ đời này,
luân chuyển trong đêm dài, đau đớn lắm,
đau đớn lắm!
Nói xong bèn tịch, thọ bốn
mươi tám tuổi. (theo
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Bệnh càng bức bách càng thêm khẩn
thiết, cho nên đắc Niệm Phật Tam-muội.
Thật đúng là lấy bệnh khổ làm thuốc hay,
biến trở ngại thành thông suốt vậy! Tự
chủ được trong khi bệnh tật th́ lúc
chết cũng sẽ tự chủ được, nên có
thể đi về tự tại như vậy!
Huệ Minh đại sư đời
Thanh, người Ngân Huyện, trụ tại chùa Báo
Quốc ở Hàng Châu. Tánh t́nh chất trực, chỉ
biết niệm Phật. Mỗi khi Ngài chấp tŕ hồng
danh, âm thanh như sóng vỗ, nhang hết chẳng hay.
Được ai cúng thí, Ngài liền dùng
để phóng sanh. Khi phóng sanh loài nào đều xưng danh
hiệu Phật, hồi hướng Tây Phương.
Gặp ai, chẳng hỏi thăm xă giao mà chỉ nói: “[Coi
chừng] cái chết xảy đến đó, niệm
Phật gấp đi!” Nếu ai hỏi đến sở
đắc, liền nói:
- Lúc trước tôi bị bệnh
nhiệt nặng lắm, mấy lần chẳng gắng
gượng nổi, may là trong ư căn có một câu Phật
hiệu th́ nơi đảnh có một câu phát ra, liên miên
chẳng ngơi; nhờ đó mà được lành
bệnh! Từ đấy, chẳng cần biết là nói
năng, im lặng, động, tịnh, hễ trong tâm có
một câu Phật hiệu phát sanh th́ trên đảnh
đầu có một câu Phật hiệu phát ra.
Về sau, Ngài bị bệnh ung loét
ở cổ, biết là túc nghiệp hiện tiền,
trọn chẳng rên rỉ, than văn. Lúc lâm chung, vẻ
mặt vui tươi, niệm Phật qua đời. (theo Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Niệm Phật như sóng dồn, nhang
hết không hay; thấy người khác chẳng hỏi
chuyện hàn huyên; đúng là công phu đă đạt
đến mức thuần thục. Tuy bệnh nguy
ngập, nhưng trong tâm câu Phật hiệu vẫn cuồn
cuộn phát ra, đúng là: Vô niệm mà niệm, bệnh
chẳng gây trở ngại ǵ!
Đại sư Mộng Đông Nột
Đường Triệt Ngộ Tế Tỉnh là Tổ
thứ mười hai của
Liên Tông. Ngài họ Mă, người huyện Phong Nhuận. Thuở
nhỏ thông kinh sử, năm hai mươi hai, do mắc
bệnh, bèn tỉnh ngộ xuất gia, tham học khắp
nơi, thông hiểu rộng khắp hai tông Tánh và
Tướng. Ngài tham học với Túy Như thiền
sư, tỏ ngộ thấu suốt, được
kế vị làm trụ tŕ chùa Quảng Thông ở kinh
đô, hướng dẫn đại chúng tham Thiền, tông
phong đại chấn.
Về sau, do túc nghiệp sâu nặng, nên
lắm bệnh duyên, nghĩ trong Ngũ Đ́nh Tâm Quán của
bên Giáo, đối với người nhiều
chướng th́ dùng Niệm Phật để trị.
Vả lại, các vị đại Bồ Tát như Văn
Thù, Phổ Hiền v.v…, các vị đại Tổ Sư
như Mă Minh, Long Thọ… các vị đại thiện tri
thức như Trí Giả, Vĩnh Minh, Sở Thạch, Liên
Tŕ v.v… thảy đều quy tâm vào một môn này; lẽ nào
v́ cớ người đời coi thường mà ta
chẳng dám quy mạng. Ngài liền bỏ tham Thiền
để niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp.
Mỗi ngày Ngài hạn định
chỉ tiếp khách chừng tàn một cây hương,
những thời giờ c̣n lại để chuyên lễ
niệm. Về già, Ngài ở chùa Tư Phước
thuộc núi Hồng Loa, người theo học ngày càng
nhiều, dần dần trở thành một đạo tràng
của Liên Tông. Tâm Ngài chẳng hề chán mỏi sự
nghiệp v́ pháp, v́ người, một mực lấy
Tịnh Độ làm chỗ quy hướng. Mỗi khi Ngài
diễn nói về ân đức cứu khổ ban vui của
đức Như Lai, nói ra mỗi chữ là lệ rơi
đầm đ́a. Người nghe cũng thường khó
ngăn được lệ đẫm cả áo. Hai
quyển Ngữ Lục của Ngài thật tối cần
thiết.
Mười tháng trước khi Ngài lâm
chung, Ngài đă báo sẵn kỳ hạn quy Tây, dặn ḍ
những kẻ ngoại hộ:
- Huyễn duyên chẳng dài lâu, đáng
tiếc kiếp sống phí uổng. Ai nấy nên nỗ
lực niệm Phật, năm sau sẽ thấy hảo
tướng Tịnh Độ.
Đến kỳ, Ngài thị hiện
mắc bệnh, bảo đại chúng trợ niệm.
Chợt thấy trên không vô số tràng phan từ
phương Tây bay lại. Ngài bảo đại chúng:
- Tướng Tịnh Độ hiện, ta
sắp về Tây.
Lại bảo:
- Được Phật đích thân tiếp
dẫn, ta đi đây!
Đại chúng xưng niệm Phật
hiệu càng mạnh mẽ, đại sư ngồi
hướng mặt về Tây mà tịch, thọ bảy
mươi tuổi. Đại chúng ngửi thấy mùi
hương ngập tràn không trung. Quàn xác Ngài, mở nắp
quan suốt bảy ngày, vẻ mặt vẫn như lúc
sống. Trà-tỳ thâu được hơn trăm viên
xá-lợi. (theo Triệt Ngộ
Thiền Sư Ngữ Lục)
Nhận định:
Sau khi đă thông suốt cả Tông
lẫn Giáo c̣n chuyên tu Tịnh nghiệp, Ngài đúng là
bậc “có Thiền, có Tịnh Độ” nên được làm
thầy trời người, làm Phật, làm Tổ,
nhưng Ngài chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu! Lúc
lâm chung đại chúng bảo đại chúng trợ
niệm để làm gương cho đời!
Đại sư Trúc Phong Viên Dung đời
Thanh, họ Diêu, người huyện Đức Thanh. Năm ba
mươi tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới,
tŕ giới không khiếm khuyết. Ngài đặc biệt
thích lễ niệm, lập chí quyết định văng sanh
Tây Phương.
Ngài
chẳng nuôi đệ tử, chẳng tự trụ tŕ am
viện, luôn ở nhờ người khác để tu
tập ḥng khỏi bị phân tâm. Ngài không ở chỗ nào
nhất định, hợp th́ lưu lại, chẳng
hợp th́ đi. Tánh t́nh phóng khoáng, chẳng câu chấp, mà
cũng chẳng thích làm theo mọi người. Ngài
thường bế quan ở yên tịnh, thực hành
cả lễ lẫn niệm: Chẳng lễ th́ niệm,
không niệm th́ lễ, chẳng lúc nào gián đoạn,
cũng chẳng tu pháp nào khác, chỉ lấy đó làm pháp tu
suốt đời.
Vào giữa trưa, Sư thường gơ
mơ niệm Phật măi cho đến sắp rạng đông
ngày hôm sau, người khác thấy Ngài trọn chẳng
nghỉ ngơi bèn lớn tiếng gọi, Ngài mới
ngưng, tự bảo là giống như mới niệm
được nửa ngày mà thôi. Hỏi Ngài có đói không?
Liền đáp:
- Trong miệng tôi thường có
nước ngọt như mật thấm đẫm
cổ họng, thọ dụng vô lượng, nên chẳng
nghĩ đến ăn uống ǵ nữa!
Ngài chẳng đặt ḿnh nằm
xuống chiếu suốt cả mấy mươi năm,
cho nên ít mộng. Dù có mộng đôi chút, cũng chẳng
rời việc lễ niệm nên không c̣n có duyên nào khác. Trong
mộng, Ngài thường thấy Phật và Bồ Tát
hoạt động như đang hiện tiền, khen
ngợi, khuyến khích, hoặc hướng dẫn
niệm Phật.
Chợt Ngài biết đă đến lúc,
bèn niệm Phật mà tịch, thọ sáu mươi bốn
tuổi, đảnh đầu c̣n hiện tướng nóng
bừng. (theo Nhiễm
Hương Tục Tập)
Nhận định:
Chẳng nuôi đồ chúng, sống không
chỗ nhất định, đúng là bậc giải thoát
thanh tịnh. Niệm Phật suốt đêm ngày, chẳng
ai gọi th́ chẳng ngưng, chẳng đói, chẳng
khát, mộng và tỉnh đều giống hệt như
nhau. Nếu chẳng phải là đă đắc Niệm
Phật Tam-muội th́ làm sao mà được như
thế?
Đại sư Mặc Am Chân Nguyên
Thượng Nhân đời Thanh, họ Chu, người
huyện Hành Châu, tỉnh Hồ Nam. Thuở nhỏ, Ngài
đă dĩnh ngộ, thông tiệp, có ư tưởng xuất
thế. Cha mất sớm, mẹ tính cưới vợ cho,
bèn trốn đi xuất gia. Thọ Cụ Túc Giới,
nghiên cứu tinh tường Tam Tạng, thâm nhập giáo
nghĩa. Sau khi tham học khắp cả Nam Bắc [Trung
Hoa], Ngài bèn dựng tinh xá Chúc Thánh ở Nam Nhạc, giới
luật tinh nghiêm, siêng năng, khẩn thiết ngầm tu.
Mỗi ngày niệm Phật sáu vạn tiếng. Lâu ngày,
chẳng niệm mà tự niệm, không lúc nào gián đoạn.
Sau đấy, Ngài ở tại chùa
Đại Thiện thuộc Nam Nhạc, phỏng theo khuôn phép
của thiền sư Triệt Ngộ. Thập
phương đến học; v́ có chỗ chẳng dung
hợp nhau, nên Ngài bèn dùng phép Giáo Quán của tông Thiên Thai
để dẫn dắt, lấy Tịnh Độ Di Đà làm
chỗ quy hướng rốt ráo.
Đột nhiên, nhà chùa muốn giao Ngài
đứng đầu trông coi mọi việc trong chùa, Ngài
bảo: “Tôi sắp về Tây!”. Ngài liền cử hành
Phật Thất hai tuần, trong Định thấy ao
bảy báu, nước bát công đức. Ngài liền
hiện tướng bệnh nhẹ, khước từ
thuốc thang, nhất tâm niệm Phật, bảo
đồ chúng luân phiên trợ niệm.
Ngài
trông thấy tướng bạch hào của A Di Đà Phật
sáng rực, bèn ngồi ngay thẳng hướng về Tây.
Khi ấy, những người trợ niệm gơ mơ càng
nhanh, Ngài bèn bảo thôi gơ, chỉ cùng nhau niệm Phật
đến hơn trăm câu, chắp tay mà tịch, thọ
sáu mươi bốn tuổi. (theo
Cận Đại Văng Sanh Truyện)
Nhận định:
Chẳng niệm mà tự niệm chính là
niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Nếu chẳng
phải là tận lực niệm đến mức
thuần thục th́ làm sao mà được như thế?
Trước khi lâm chung c̣n cử hành Phật Thất,
bảo đại chúng trợ niệm để cầu
được quyết định văng sanh. Tiếng mơ gơ
quá ồn chẳng thuận tiện cho việc trợ
niệm nên Sư bảo thôi gơ, chỉ nên đồng thanh
niệm Phật.
24. Hễ
niệm Phật liền niệm lớn tiếng
Đại sư Chánh Thành thời Dân
Quốc, họ Châu, người huyện Qua Dương,
tỉnh Giang Tây. Nhà nghèo, Sư thường niệm
Phật cầu sanh Tây phương. Cho đến lúc không
phải phụng dưỡng ai, chôn cất vợ xong xuôi,
tuổi đă sáu mươi tám, Ngài mới đem con đi
xuất gia, tu tŕ cật lực. Ở trong núi suốt
mười ba năm, Sư chưa hề nằm xuống
giường.
Hễ niệm Phật là Ngài niệm
lớn tiếng, thường niệm đến lúc toàn
thân ướt đẫm mồ hôi rồi mới ngưng.
Người khác ghét Ngài niệm oang oang thường hay
quở mắng. Bạn đồng tu thường khuyên
Ngài niệm nhỏ tiếng để khỏi bị
người khác ghét, Ngài chỉ cười, bảo
đúng. Đến lúc niệm Phật vẫn niệm lớn
tiếng như cũ mà chẳng tự biết.
Ngài thường niệm Phật bên
gốc tùng trong chùa hoặc tịnh tọa trước
ngọn núi. Mỗi khi Ngài thấy tượng Phật
đứng trên đỉnh núi thường hay gọi
người khác đến xem. Ai đến th́ chẳng
thấy nữa.
Ngài chợt biết thời giờ
đă đến, bèn nói kệ, ngồi ngay ngắn niệm
Phật mà hóa. (theo Tịnh
Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)
Nhận định:
Do niệm Phật, tâm chuyên chú, đă
đạt đến cảnh giới Nhất Tâm nên lúc
niệm Phật chỉ biết niệm Phật, không c̣n
niệm nào khác; tiếng niệm Phật lớn hay nhỏ
có làm phiền người khác hay không Ngài cũng chẳng
hay! Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt và Đại Trang Nghiêm Kinh
Luận đều bảo lớn tiếng niệm Phật
có mười công đức:
1. Một là bài trừ chướng
ngại mê ngủ.
2. Hai là thiên ma kinh sợ.
3. Ba là tiếng vọng khắp
mười phương.
4. Bốn là tam đồ được
dứt khổ.
5. Năm là những tiếng động
bên ngoài chẳng lọt vào.
6. Sáu là khiến cho tâm chẳng tán
loạn.
7. Bảy là dũng mănh tinh tấn.
8. Tám là chư Phật hoan hỷ.
9. Chín là tam-muội hiện tiền.
10. Mười là văng sanh Tịnh Độ.
Những điều ấy là những
chứng cớ khiến ta càng thêm tin tưởng.
Đại sư Kim Trược thời Dân
Quốc, người Đài Châu. Tám tuổi xuất gia, ít lâu
sau là được thọ giới. Được thầy
dạy tụng chú Đại Bi và niệm thánh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát, Ngài liền mỗi ngày tụng chú
bốn mươi tám biến; ngoài ra, chuyên tŕ thánh hiệu
chưa hề gián đoạn.
Ngài xem danh lợi như bào ảnh;
tập khí, thị hiếu đều tiêu trừ hết
chẳng c̣n sót. Lúc bấy giờ, Ngài trị bệnh cho
người khác, vừa đặt tay, bệnh đă
được lành, chẳng nhận thù lao. Ngài ngụ trong
một ngôi miếu nhỏ, gặp phải nạn
cướp. Bọn cướp thấy ngoại trừ
chiếc cà -sa rách, không c̣n có vật ǵ khác, giận quá
liền dùng thương đâm Ngài, đâm hai nhát vào phía
phải trên trán, đâm một nhát trúng tay phải, chưa
chết. Ít lâu sau, thương thế lành, nhưng vết
thương vẫn c̣n in dấu.
Đột nhiên, Ngài qua tạm trú ở chùa A
Dục Vương thuộc thành phố Ninh Ba. Vị
Tăng quản đường kê đơn, Ngài liền
bảo:
- Tôi ở đây chẳng lâu sẽ văng sanh
Tây Phương. Kính xin Ngài từ bi!
Liền bảo đại chúng:
- Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm
đài bạc đă hiện thân trước mặt tôi,
trong ba ngày nữa, tôi sẽ văng sanh. Xin các vị
đồng tham hăy thật thà niệm Phật hoặc
niệm Bồ Tát; nhất tâm xưng danh quyết sẽ
sanh về Tây Phương. Phật chẳng nói dối.
Đến thời, Ngài liền hướng
về vị sư quản đường nói:
- Sau chánh ngọ một giờ, tôi
sẽ sanh Tây.
Mọi người cho là Ngài nói dối.
Giữa trưa, Ngài vẫn dùng cơm như thường,
lễ Phật tại các điện xong, bèn ngồi
hướng mặt về Tây mà hóa. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)
Nhận định:
Vị này chuyên niệm Quán Thế Âm
Bồ Tát thoát khỏi nạn chết, cũng muốn làm
gương tốt văng sanh Tây Phương, nên chẳng
chết trong miếu nhỏ mà tọa hóa tại ngôi chùa A
Dục Vương danh tiếng, v́ đại chúng hiện
thân thuyết pháp.
26. Làm
việc nặng vẫn niệm Phật không gián
đoạn
Đại sư Cụ Hạnh Nhật
Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lư
ở Vân
Ḥa Thượng Hư Vân dạy Ngài tu
pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ. Ngài bèn
dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai
điếc, mặt mũi xấu xí, không biết chữ,
ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế Âm
Bồ Tát. Rảnh rỗi th́ tập tịnh tọa,
học khóa tụng và các kinh điển, tự siêng gắng
hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại
danh sơn trở về đất Điền (Vân
- Thầy đă đi thăm quyến
thuộc chưa?
Sư thưa:
- Con chẳng bận tâm đến
họ.
Ḥa Thượng lại hỏi:
- Thầy tính làm ǵ?
Thưa:
- Những việc nặng nhọc
nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.
Phàm là những việc nặng như
đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng
cây, vác đá, đào đất, quét tước, nấu
nướng, Ngài đều làm không lúc nào ngơi tay,
nhưng không một khắc nào để câu niệm
Phật bị gián đoạn.
Khi đêm xuống, vào lúc chỉ
tịnh, Ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các
kinh Tịnh Độ; cứ một chữ là một lạy.
Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đă lên điện
tham dự khóa tụng như thường, chưa hề
ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo, hoặc chằm vá áo giùm
bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một
câu Phật hiệu.
Trong kỳ hạn kết giới,
được thỉnh làm Tôn Chứng, Ngài bèn bán hết y,
mền, đồ dùng để thiết trai cúng
dường đại chúng. Hỏi Ngài sẽ đi
đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn
tất, Ngài ngầm lên điện sau cùng, ngồi xếp
bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa
tự thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. H́nh trạng
vẫn như lúc sống, mùi hương lạ lan tận
ra xa. Đại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh
khánh, di thể của Ngài chợt sụp xuống, hóa thành
tro. (theo Hư Vân Ḥa
Thượng Niên Phổ)
Nhận định:
Một chữ chẳng biết, nhưng
lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián
đoạn niệm Phật. Chúng ta là những kẻ
biết chữ đọc được sách, nếu
cứ lơi là để uổng phí ngày tháng trôi qua, há
chẳng biết thẹn hay chăng?
Nhưng
tự thiêu là chưa đắc tam-muội. Chớ nên manh
nha vọng niệm như vậy để khỏi bị
ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác
đạo!
Đại sư Thường Tàm Quư Tăng
Ấn Quang Thánh Lượng là Tổ thứ mười ba
của Liên Tông. Ngài họ Triệu, là người huyện
Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ học
Nho, từng bài xích Phật, mắc bệnh mắt mấy
lượt suưt mù, mới biết lỗi trước.
Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài xuất gia thọ
Cụ Túc Giới. Đọc cuốn Long Thư Tịnh Độ
Văn, biết được Niệm Phật chính là
đạo trọng yếu để liễu sanh thoát
tử, Ngài liền chuyên niệm Phật hiệu. Trong lúc
làm lụng, tâm chẳng rời niệm Phật. Về sau,
Ngài trụ tại chùa Tư Phước ở núi Hồng Loa,
chuyên tu Tịnh Độ và thâm nhập Kinh Tạng, diệu
khế Phật tâm.
Ngài triều bái Ngũ Đài, đến kinh
đô, theo ḥa thượng Hóa Văn thỉnh Đại
Tạng về Phổ Đà, trụ tại chùa Pháp Vũ,
dốc chí tinh tu, bế quan suốt sáu năm, lấy đó
làm kỳ hạn, ngày đêm niệm Phật ḥng sớm
đắc Niệm Phật Tam-muội. Các vị như
cư sĩ Từ Úy Như v.v… đem in bộ Văn Sao
của Ngài khiến cho sự giáo hóa của Ngài càng
được rộng răi. Ngài tự hành và dạy
người, một ḷng lấy Tịnh Độ làm chỗ
quy hướng, chẳng ĺa nhân quả, chẳng lạm bàn
huyền luận diệu. Người quy y Ngài hơn hai
mươi vạn, kẻ y giáo phụng hành được
sanh Tây Phương cũng rất nhiều.
Ngài c̣n hóa độ cả những tù
nhân và dị loại, thường tŕ chú Đại Bi vào
nước và gạo để chữa các bệnh nguy
ngập. Về sau, Ngài bế quan tại chùa Báo Quốc
ở Tô Châu. Ngoài những lúc hành tŕ thời khóa, lại lo
hiệu đính, bổ cứu những bản tự chí
của các núi Phổ Đà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa
v.v…
Xưa kia Ngài đă nguyện chẳng làm
Trụ Tŕ, chẳng thâu đồ chúng; nhân v́ Tăng,
tục theo về quá đông, Ngài mới khai sáng Tịnh Tông
Đạo Tràng ở núi Linh Nham để đại chúng cùng
tu. Ngài sáng lập Hoằng Hóa Xă (nhà xuất bản
Hoằng Hóa), in tặng năm trăm vạn bộ kinh sách
Phật, hơn trăm vạn bức h́nh Phật. Ngài
bảo vệ pháp môn, trung hưng Tịnh Tông, cứu
tế kẻ đói nghèo, quyên góp trợ giúp kẻ túng
ngặt, công chẳng thể nghĩ bàn nổi.
Về sau, Ngài dời về Linh Nham[3], biết
trước đă đến lúc, dạy đại chúng:
- Niệm Phật thấy Phật,
quyết định sanh Tây. Được Phật tiếp
dẫn, ta đi đây!
Ngài
hướng về Tây niệm Phật, tọa hóa, thọ
tám mươi tuổi. Lúc trà-tỳ, hàm răng c̣n nguyên,
xá-lợi ngũ sắc thu được mấy ngàn
hạt. (theo Ấn Quang Đại
Sư Hạnh Nghiệp Kư)
Nhận định:
Tổ Sư là Đại Thế Chí Bồ
Tát lai thế nhằm trung hưng Tịnh Tông mà vẫn c̣n
thường bế quan tinh tu, ngày đêm niệm Di Đà!
Bọn phàm phu chúng ta há nên qua loa, biếng nhác, chẳng
chịu dũng mănh tinh tấn hay sao?
Đại sư Quảng Khâm Chiếu Kính
thời Dân Quốc, họ Hoàng, người huyện
Huệ An, tỉnh Phước Kiến. Năm Ngài mới
bốn tuổi, v́ nhà nghèo nên phải bán vào nhà họ Lư
ở Tấn Giang làm con nuôi.
Ngài thể chất yếu đuối,
lắm bệnh, theo mẹ nuôi thờ Phật, ăn chay.
Năm mười một tuổi, v́ cha mẹ nuôi
đều mất cả, Ngài bèn xin xuất gia tại chùa
Thừa Thiên ở Tuyền Châu. Nhà chùa sai làm các việc bên
ngoài như trồng rau, nhổ cỏ… Sau Ngài qua Nam
Dương, đến năm ba mươi sáu tuổi
mới trở về chùa Thừa Thiên chính thức thế
phát. Thế phát xong, Ngài chuyên chí tu khổ hạnh,
thường nằm chẳng ngồi, nhất tâm niệm
Phật.
Năm bốn mươi hai tuổi, sau
khi thọ Cụ Túc Giới, Ngài càng quyết chí tiềm tu,
qua thạch động bên vách Bán Sơn Nham của núi Thanh
Nguyên ở Tuyền Châu để tọa Thiền niệm
Phật, chỉ dùng các loài khoai rừng, quả dại
để đỡ ḷng. Trong núi có nhiều hổ,
vượn. Từ đó, khỉ, vượn đến
dâng quả, mănh hổ đến quy y, nên Ngài
được xưng tặng nhă hiệu là Phục Hổ
Sư (vị thầy hàng phục hổ). Sư
thường nhập định, từng có lần
nhập định cả mấy tháng chẳng ăn
uống, chẳng động đậy.
Tháng Sáu năm Dân Quốc thứ 36 (1947),
lúc đă năm mươi sáu tuổi, Ngài vượt
biển đến Đài Loan, khoét thạch động ở
Quảng Minh Nham phía sau núi Tân Điếm thuộc Đài Bắc
để ẩn cư tiềm tu. Chỗ ấy về sau
khuếch trương thành chùa Quảng Minh. Mặt sau phía
bên phải động có vách đá lớn, Ngài bèn chạm
khắc thành tượng Phật A Di Đà lớn bằng
đá. Phía dưới, về bên trái lại khoét thành
thạch động; sau này được mở rộng
thành chùa Quảng Chiếu.
Sau
này, Ngài t́m được thạch động thiên nhiên
ở Thổ Thành, đột nhiên có suối nước
trong từ đá phun ra, măng xà quy y. Ngài lại khuếch
trương nơi ấy thành chùa Thừa Thiên, tiếp
dẫn đệ tử đồng tu. Năm Dân Quốc 58
(1969), Sư khai sáng Quảng Thừa Nham ở trấn
Thổ Thành.
Đáp lời cầu thỉnh nhiều
lượt của tín chúng, Sư đến các địa
phương Hoa Liên, Đài Trung, Nam Đầu, Gia Nghĩa, Cao Hùng
v.v… hoằng pháp độ chúng. Kế đó, Ngài kiến
lập chùa Tường Đức ở Thiên Tường, chùa
Quảng Long ở núi Long Tỉnh v.v… thâu nạp đông
đảo đồ chúng.
Ngài thường ngồi xếp bằng
niệm Phật, từng nhập Định ba lần,
mỗi lần ước chừng cả tuần trở
lên. Hằng ngày, Sư chỉ ăn trái cây, uống
nước để sống, nên lại được
tặng nhă hiệu là Thủy Quả Sư. Sau cùng, Ngài
hoạch định việc tạo dựng chùa Diệu
Thông ở làng Lục Quy thuộc thành phố Cao Hùng,
truyền thọ tam đàn thành công viên măn. Tứ chúng
đệ tử cầu giới nơi Ngài nhiều
đến cả mấy ngàn. Đệ tử quy y nhiều
hơn nữa. Ngài có những tác phẩm Khai Thị
Lục, Truyền Kỳ Sự Tích… được ấn
hành lưu truyền trong đời.
Sư thân gầy g̣ nhưng thể
chất mạnh khỏe, hành động mẫn tiệp.
Ngày Hai Mươi Sáu tháng Chạp năm Dân Quốc bảy
mươi bốn (1985), Sư cấp tốc trở về
chùa Thừa Thiên. Ngày mồng Một tháng Giêng năm sau, vào
lúc sáng sớm, Sư triệu tập đệ tử
phụ trách các phân viện và đại chúng chùa Thừa
Thiên, nhất nhất phó chúc hậu sự xong, liền
trở về chùa Diệu Thông, suất lănh đại chúng
ngày đêm niệm Phật, tinh thần càng mạnh mẽ,
tinh tường.
Hai giờ chiều ngày mồng Năm,
Sư chợt bảo đại chúng:
- Chẳng đến cũng chẳng
đi, chẳng có việc ǵ!
Ngài hướng về đại chúng
gật đầu, mỉm cười, an tường
tọa hóa, thọ chín mươi lăm tuổi. Trà-tỳ,
lưu lại xá lợi rất nhiều. (theo Quảng Khâm Ḥa Thượng Niên Phổ và
Lược Sử)
Nhận định:
Đại Sư tuy chưa từng
đọc sách, lúc nhỏ tuổi, thể chất yếu
đuối lắm bệnh, theo dưỡng mẫu thờ
Phật, ăn chay. Sau khi xuất gia, chuyên chí tu khổ
hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm
niệm Phật. Sau khi đến Đài Loan, tuy Đại Sư
tiềm tu, chỉ dùng trái cây và nước lă để
sống, nhưng thân nhẹ nhàng, mạnh khỏe, lại
sống rất thọ. Dựng chùa, truyền giới,
hoằng pháp độ chúng. Đột nhiên, Sư suất lănh
đại chúng niệm Phật, mỉm cười,
tọa hóa, ắt phải là Thượng Phẩm
Thượng Sanh.
Đại sư Huệ Tam Tư Nguyên
thời Dân Quốc, người huyện Uyển B́nh,
tỉnh Hà Bắc. Năm mười bảy tuổi
xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học
trường Phật Giáo Học Hiệu tại tỉnh An
Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.
Ngài nhận trách nhiệm trụ tŕ chùa
Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài kiến
lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm.
Trước giờ Ngọ mỗi ngày, Ngài tụng kinh Hoa
Nghiêm. Cuối năm, Ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất,
lănh đạo đại chúng huân tu pháp Chân Không Pháp
Giới Quán; từng đốn nhập Pháp Giới
Định. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được
hư không pháp giới Lư Sự vô ngại, pháp hỷ tràn
đầy, khen là chưa từng có.
Từ đấy, Ngài càng thêm tinh
tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm
Dân Quốc 37 (1948), Ngài đến Đài Loan lúc bốn
mươi tám tuổi, lănh trọng trách giảng dạy
tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung
Lịch. Năm sau, Ngài đến Sở Giảng Dạy
Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy
Phật giáo, đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất
Đồng suốt bảy năm.
Sư thường tới các chùa ở
Đài Bắc,
Năm sáu mươi sáu tuổi, Sư
lại càng thêm thường tinh tấn, hằng khóa
niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm tám
mươi tuổi liền bắt đầu niệm
Phật, tọa Thiền cộng tu, và khởi xướng
nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên
nhà chùa; sáng lập thư viện để mọi
người đến đọc sách; đề
xướng, lo liệu việc giảng giải, học
hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu,
phước huệ song tu.
Sư từng đáp ứng lời thỉnh
sang Mỹ hoằng pháp, qua Đại Hàn truyền giới,
người thọ giới lên đến hơn năm ngàn
người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng Bảy
năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, Sư chợt
nói:
- Ta sắp đi đây!
Liền triệu tập tất cả
đệ tử trong chùa, dặn ḍ:
- Sau khi ta mất, các con nên hợp tác
với nhau.
Sau bữa cơm chiều, Ngài không
bệnh ǵ, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi
sáu tuổi. (theo tạp chí
Từ Vân số 126)
Nhận định:
Đại Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa
Nghiêm, tu Chân Không Quán, từng nhập Pháp Giới Định,
từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Đến năm
sáu mươi tuổi, bắt đầu mỗi ngày
hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy
là bỏ Quán niệm Phật.
Từ
năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại
tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Đấy là
tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ
chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu. Không bệnh,
đang đứng mà hóa, nhất định phải là
Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Đại sư Chử Vân Thật Tuyền
Tỉnh Thế thời Dân Quốc, người huyện
Như Cao, tỉnh Giang Tô. Đến tuổi nhược quan
(tuổi đôi mươi), xuất gia thọ giới. Ngài
lần lượt tốt nghiệp các đại Phật
Học Viện tại Hoa Lục, thâm nhập Tam Tạng,
chuyên tu Tịnh Độ.
Năm Dân Quốc 39 (1950), Sư theo quân
đội sang Đài Loan, lănh chức thầy truyền giáo
ở y viện hậu phương, tiếp dẫn vô
số thương binh quy y Tam Bảo. Về sau đáp
ứng lời thỉnh cầu khẩn khoản của phân
hội Phật Giáo Đài Loan, Ngài đi khắp đảo
truyền giáo, thâm nhập vùng thôn dă, hoằng dương
Tịnh Độ. Ngài lần lượt chống tích
trượng ra hải ngoại, viếng thăm các
nước Mỹ, Gia Nă Đại, Đại Hàn, Thái, Việt Nam
v.v… tuyên dương Phật pháp, thăm hỏi kiều bào.
Ngài v́ nước v́ đạo dốc bao công lao!
Năm Dân Quốc 47 (1958), sau khi bế
quan tiềm tu, Ngài hoằng pháp lợi sanh chẳng tiếc
sức. Năm Dân Quốc 61 (1972), Ngài bắt đầu
đề xướng việc tu tập Tinh Tấn
Phật Thất, mỗi ngày niệm Phật đến tàn
hết chín cây hương, lễ Phật một ngàn
lạy, lấy thân ḿnh làm gương để hóa
đạo tứ chúng và các sinh viên đại học.
Suốt mười lăm năm, Sư đều giữ
đúng như một ngày.
Ngài
lại dự trù kiến lập chùa Thanh Lương Hộ
Quốc ở Liên Hoa Sơn thuộc Đài Trung, dựng
Tịnh Tông Phật Học Viện để làm Tịnh Độ Đạo Tràng chuyên
hoằng truyền Tinh Tấn Phật Thất.
Trước tác có: Phật Giáo Dữ
Cơ Đốc Giáo Tỷ Giảo (so sánh Phật giáo và Cơ
Đốc giáo), Nam Hải Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ
Dị Văn Lục (ghi chép về những chuyện
kỳ lạ được lưu truyền ở núi
Phổ Đà trong Nam Hải), Phật Môn Dị Kư (ghi chép
những chuyện lạ nơi cửa Phật), Chử Vân
Pháp Sư Giảng Diễn Tập, Tinh Tấn Phật Thất
Khai Thị Lục… mười mấy cuốn,
được lưu hành rộng răi trong nước
lẫn hải ngoại, rộng tiếp độ tín chúng
rộng răi.
Tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986),
Ngài biết trước thời khắc, từ tinh xá Di Đà
ở Đài Bắc điện thoại cho pháp sư Huệ
Khải chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Thái B́nh,
Đài Trung:
- Tôi muốn đến Liên Xă ở
Phụng Hoàng Sơn tạm ngụ hai mươi ngày, tôi
sắp đi rồi!
Quả nhiên, 9 giờ tối ngày Hai
Mươi Ngài tới Liên Xă, mỗi ngày niệm Phật,
kiêm tŕ chú Văng Sanh một trăm hai mươi biến.
Đến chín giờ tối ngày mồng Chín tháng Tám, vừa
đúng hai mươi ngày (Ngài ngụ tại đó), Ngài
liền nằm yên lành, tay lần xâu chuỗi, môi khẽ
động niệm Phật, chợt dặn ḍ đệ
tử đứng hầu:
- Mọi người hăy chăm chỉ
niệm Phật.
Rồi an tường văng sanh, thọ sáu
mươi tám tuổi. (theo
Chử Vân Ḥa Thượng Kỷ Niệm Chuyên Tập)
Nhận định:
Phật dạy: “Nghe nói A Di Đà Phật, chấp tŕ danh hiệu hoặc
một ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm bất
loạn. Lúc lâm chung liền được văng sanh thế
giới Cực Lạc”, cho nên phải tinh tấn
niệm Phật trong bảy ngày th́ mới ḥng đạt
được nhất tâm bất loạn.
Nếu bảy ngày chẳng thành th́
điều dưỡng tinh thần, lại tinh tấn thêm
một thất, hai thất cho đến bảy thất.
Nếu vẫn chẳng đắc Nhất Tâm Bất
Loạn phải dơng mănh, tinh tấn, thường tu
Phật Thất th́ lâu ngày sẽ tự đạt
được Nhất Tâm Bất Loạn. Xin hăy bắt
chước đại sư tinh tấn.
31.
Luật Tịnh song hoằng (hoằng dương Luật tông và
Tịnh tông đồng thời)
Đại sư Đạo Nguyên Trung Luân
Năng Tín thời Dân Quốc, họ Vương,
người Thương Thủy, tỉnh Hà Nam. Từ bé
đă thông duệ, bảy tuổi vào trường
đọc sách; hai mươi tuổi xuất gia. Không lâu
sau, thọ Cụ Túc, thân cận đại sư Từ
Châu ở tỉnh Giang Tô và đại sư Ấn Quang chùa
Linh Nham.
Đối với hai tông Luật Tông và
Tịnh Tông, Ngài được thọ truyền và tâm
đắc thâm sâu. Ngài liền bế quan ba năm, tiềm
tu Tịnh nghiệp, dùng hai tông Luật và Tịnh
để tự hành và hóa độ người, chẳng
tiếc sức. Sư triều lễ ba đại danh
sơn Phổ Đà, Cửu Hoa, Ngũ Đài; từng đảm
nhiệm chức giáo sư và chủ giảng tại các
Phật học viện.
Sư liên tiếp đảm nhiệm vai
tṛ Giáo Thọ trong sáu lần Giới Đàn. Ngài trụ tŕ các
chùa Đâu Suất ở Hà Bắc, chùa Vân Tuyền Sơn ở
Trương Gia Khẩu, chùa Tịnh An ở Thượng
Hải… Ngài luôn giảng diễn Giới Luật, hoằng
dương Tịnh Độ. Giải hạnh đều thâm
sâu, tứ chúng quy ngưỡng!
Tháng Ba năm Dân Quốc ba mươi tám
(1949), Sư qua Đài Loan, sáng lập Tịnh Độ Tông Hải
Hội Tự ở núi Chánh Đạo thuộc phường
Bát Đổ, thành phố Cơ Long. Sư thường chủ
tŕ Phật Thất, hoằng truyền Tịnh Độ.
Ở Đài Loan, mỗi năm truyền tam đàn đại
giới một hoặc hai lần, truyền giới
tại gia nhiều lần, hầu như đại sư
luôn đảm nhiệm một chức vị trong Tam
Sư.
Lúc được suy cử làm Lư Sự
Trưởng (Hội Trưởng) hội Phật Giáo Trung
Quốc, khi đại hội Hoa tăng thế giới
khai mạc, Sư lại được cử làm chủ
tịch của chủ tịch đoàn đại hội.
Đức hạnh của Sư vang dội cả hoàn cầu,
Sư thường du hóa tại các nước Mỹ, Gia Nă
Đại, Nhật Bản, Đại Hàn, Indonesia, Thái Lan, Tinh Châu
(Singapore), Mă Lai, Cao Miên v.v… Hương Cảng là nơi
Sư thường đến để giảng kinh,
truyền giới. Pháp duyên thù thắng, ít vị Tăng nào
bằng nổi.
Về già, Sư sáng lập Năng Nhân
Phật Học Viện để bồi dưỡng,
đào tạo tăng tài hoằng dương Tịnh Tông.
Cả một đời, Sư thường ở khắp
các chùa viện để giảng kinh, thuyết pháp,
hoằng truyền Tịnh Độ ngũ kinh, nhất
luận. Nhằm thích ứng với cơ duyên các nơi,
Sư cũng thường giảng các kinh luận như
Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Địa Tạng,
Khởi Tín Luận v.v… Giảng kinh luận nào, Sư cũng
đều quy hướng Tịnh Độ. Người nghe
pháp khởi ḷng tin, tŕ giới niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ chẳng biết là bao nhiêu!
Tiếc là những kinh, luận Sư
đă giảng chưa được ghi chép đầy
đủ, chỉ có những cuốn giảng lục kinh
Di Đà, Quán Kinh và Phật Đường Giảng Thoại
Ngũ Tập là được ấn loát và lưu hành trong
đời, nhưng cũng đủ để làm chỉ
nam phổ độ chúng sanh đồng quy Tịnh Độ.
Ngày mồng Hai tháng Chạp năm Dân
Quốc 76 (1987), Sư chợt thị hiện có bệnh,
nằm điều dưỡng trong bệnh viện.
Biết thời giờ đă đến, Ngài liền phó
chúc hậu sự. Đêm ngày Rằm tháng Tư năm sau, Sư
chợt bảo đồ chúng đang hầu cận
đưa Ngài về chùa Hải Hội. Sư ngồi ngay
ngắn, hướng dẫn đại chúng niệm
Phật. Một chốc sau, Sư lên giường nằm
an tường bên hông hữu, môi khẽ động
niệm Phật. Đến bảy giờ rưỡi tối
hôm sau, giữa tiếng niệm Phật của đại
chúng, Sư an tường xả báo, văng sanh Cực Lạc.
Đến ngày Mười Tám, khi làm lễ
đại liệm, toàn thân Sư vẫn mềm mại,
sắc mặt như c̣n sống. Ngày Mười Ba tháng
Năm, di quan trà tỳ, thu được hơn ngàn viên xá
lợi ngũ sắc, chiếu sáng rực rỡ. Sư
thọ tám mươi chín tuổi. (theo Đạo Nguyên Lăo Pháp Sư Kỷ Niệm Tập)
Nhận định:
Đại sư học pháp từ hai vị
đại lăo Từ Châu và Ấn Quang. Tiếp nối
nghiệp thầy, nên lấy Tịnh - Luật song hoằng
làm trách nhiệm, phổ khuyến đại chúng tŕ
giới niệm Phật, hóa độ phổ cập
khắp Trung Hoa lẫn hải ngoại. Từ sau lúc vị
Tổ thứ mười ba của Tịnh Tông là Ấn
Quang đại sư quy hồi An Dưỡng, chỉ có
ḿnh đại sư hoằng truyền Tịnh Tông, là
chỗ hướng về của đại chúng.
Ngài
đáng được tôn xưng là Tổ thứ
mười bốn của Tịnh Tông v́ đă tiếp
nối người trước, mở đường cho
người sau, tiếp nối lối cũ, mở
lối mới, ắt có lẽ tứ chúng trong Tịnh tông
ta đều cùng tán đồng vậy!
32. Dứt vọng niệm
Phật
Thời Dân Quốc, ni sư Liễu
Định là người tỉnh An Huy, họ Thôi.
Thuở bé sang chỗ cha làm quan ở đất Ngô,
được gả cho họ Hoàng, do mắc họa ghen
ghét, [bị nhà chồng] trả về bố mẹ
ruột, cha toan ép con tự tử, mẹ lén cho đi
xuất gia. Do trắng trẻo, nên bà tự phơi nắng
cho đen đúa, mong hủy dung mạo hầu nghiêm giữ
hành vi. Sau khi thọ giới, bế quan ba năm, chuyên tu
Tịnh nghiệp. Trên vách, dán tờ giấy to viết:
“Ngươi là kẻ nào? Ta là ni cô. Đă là ni cô, hăy nên
dứt vọng niệm Phật”.
Mỗi khi vọng niệm khởi lên, cũng như
khi niệm Phật mệt mỏi, bèn đọc tờ
giấy ấy, tâm liền đại định, càng
niệm càng hào hứng. Về già, dạy học tṛ, ân
lẫn uy trọn đủ, như mẹ đối
với con gái vậy. V́ thế, [đồ chúng] tŕ
giới, niệm Phật đều rất siêng năng,
cẩn thận. Sư không bệnh mà mất, có khá nhiều
tướng lành, thọ bảy mươi sáu tuổi. (theo Cận Đại Văng Sanh
Truyện)
Nhận định:
Niệm Phật là cách dứt vọng
bậc nhất, dùng niệm Phật để khống
chế vạn niệm. Trong khi vọng niệm khởi lên,
lớn tiếng niệm Phật, ra rả niệm,
đừng nghỉ, vọng chẳng dứt cũng sẽ
tự dứt.
Cư sĩ Lưu Tŕnh Chi, tự
Trọng Tư, hiệu Di Dân đời Tấn,
người xứ Bành Thành. Thuở nhỏ mồ côi,
thờ mẹ hiếu thuận, thích Lăo Trang, giữ
chức Phủ Tham Quân. Ông cực lực từ bỏ
chuyện tiến dẫn trên đường công khanh,
đến Lô Sơn theo học với Tổ Huệ
Viễn. Tổ hỏi:
- Quan chức, bổng lộc ṿi vọi
sao lại chẳng làm?
- Nhà Tấn không có sự được
sự bền vững như đá tảng, dân t́nh mang
nỗi nguy như trứng chồng, con biết làm thế
nào?
Ông cùng những vị sĩ phu có ḷng tin
thanh tịnh như Tông Khác v.v… một trăm hai mươi
ba người dựng am, kết xă đồng tu Tịnh
Nghiệp, khắc đá lập thệ. Ông nghiên cứu
đạo huyền một cách tinh tường, kiêm tŕ
giới cấm, làm thơ Niệm Phật Tam-muội.
Ở Lô Sơn mới được nửa năm, trong
khi nhập Định, ông thấy kim quang của Phật
chiếu sáng mặt đất. Mười lăm năm
sau, trong khi đang niệm Phật, thấy tướng
ngọc hào quang của Phật chiếu soi, Phật x̣e tay
đón tiếp, vỗ về. Ông Lưu nguyện:
- Xin Phật xoa đầu con, dùng y trùm
thân con!
Phật liền xoa đầu ông,
lại dùng áo ca-sa trùm lên. Tiếp đó, ông lại mộng
thấy ḿnh vào trong ao bảy báu, thấy hoa sen xanh,
trắng, và thấy một vị sau cổ có viên quang, trên
ngực có chữ Vạn, chỉ nước trong ao
bảo:
- Nước tám công đức đó, ông
nên uống đi!
Uống vào thấy nước ngon
ngọt. Tỉnh giấc, thấy mùi hương lạ
bốc ra từ lỗ chân lông, bèn nói:
- Đây là duyên Tịnh Độ của ḿnh
đă đến rồi!
Ông đốt hương, lễ
nguyện:
- Nguyện cho hết thảy hữu t́nh
đều sanh Tịnh Độ.
Ông từ biệt đại chúng,
hướng về Tây tọa hóa, thọ năm mươi
chín tuổi. (theo Đông Lâm
Truyện)
Nhận định:
Từ lúc ngài Huệ Viễn đề
xướng Tịnh Độ, trong những cư sĩ theo
Ngài kết xă niệm Phật th́ vị cư sĩ này là
người thứ nhất văng sanh, nên được nêu
lên đầu tiên để làm khuôn phép vĩnh viễn cho
việc tŕ giới niệm Phật.
Cư sĩ Vương Cổ tự
Mẫn Trọng đời Tống, người Đông Đô,
là tằng tôn của Văn Chánh Công Vương Đán (ông Đán
làm Tướng Quốc đời Tống, từng tham gia
Tịnh Hạnh Xă của tổ Tỉnh Thường).
Trong bảy đời trước, ông từng giữ
giới không sát sanh, phát tâm phóng sanh mấy cả trăm
vạn mạng. Lúc đầu, ông học hỏi những
sự thuộc về Tông môn. Ít lâu sau, viết tác phẩm
Trực Chỉ Tịnh Độ Quyết Nghi Tập
để hoằng dương Thánh giáo. Lúc nhàn cư, xâu
chuỗi chẳng rời tay; đi, đứng, nằm,
ngồi đều tu hành Tịnh nghiệp chưa hề
gián đoạn. Ông làm quan đến chức Hộ Bộ
Thị Lang; do bè đảng trong triều xâu xé nhau, ông
bị mất chức, ít lâu sau liền tịch. Có vị
Tăng nhập định lên Tịnh Độ, thấy ông và
ông Cát Phồn đều ở tại đó. (theo Tống Sử, phần Pháp
Hỷ Chí)
Nhận định:
Kinh Sổ Châu Công Đức nói: “Nếu có người tay cầm
xâu chuỗi, dù chẳng niệm tụng danh hiệu Phật
và đà-ra-ni, th́ người ấy cũng được
phước vô lượng”, huống hồ là xâu
chuỗi chẳng rời tay, niệm Phật không gián
đoạn?
Quán Kinh nói: “Từ
tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh sẽ
Thượng Phẩm Thượng Sanh”, huống hồ
là phóng sanh đến cả trăm vạn mạng?
34. Mỗi
ngày làm một điều lành
Cư sĩ Cát Phồn đời
Tống, người xứ Trừng Giang. Lúc đầu
mỗi ngày làm một điều lợi cho người,
rồi hành hai điều, ba điều, cho đến
mười điều. Suốt mấy mươi năm
chưa hề bỏ phế một ngày nào.
Lúc làm quan Thái Thú trấn nhậm vùng Giang
Tô, có người hỏi làm thế nào để làm lợi
cho người, ông chỉ ngay cái bệ lót chân ở
chỗ ḿnh ngồi, bảo:
- Nếu vật này chẳng đặt
ngay th́ sẽ làm người ta què chân, tôi liền kê ngay
lại, đấy cũng là việc lợi người.
Nếu ai khát, tôi cho uống nước th́ cũng là việc
lợi người. Chỉ tùy theo từng việc mà làm
lợi. Trên cho đến khanh tướng, dưới
xuống đến kẻ ăn mày, ai nấy đều có
thể làm được. Chỉ cốt sao lâu ngày
chẳng buông bỏ mà thôi.
Ông làm quan đến chức Triêu Tán
Đại Phu, dù là phủ đường hay nhà tư, ông
đều sắp dọn một gian tịnh thất bày
tượng Phật. Một ngày kia, trong lúc ông đang
lễ bái niệm Phật, xá-lợi từ trên không hạ
xuống. Sau đấy, ông không bệnh tật ǵ, ngồi
ngay ngắn hướng về Tây mà tịch. (theo Tống Sử và Long Thư
Tịnh Độ Văn)
Nhận định:
Tùy việc lợi người là trợ
hạnh cho Tịnh nghiệp. Xá-lợi từ trên không giáng
xuống là do ḷng tinh thành cảm nên. Người ta hay than
không tiền nên chẳng thể làm công đức, hoặc
niệm Phật không cảm ứng, th́ do đây sẽ
thấy công đức chẳng tốn phí tiền bạc,
công niệm Phật chẳng luống uổng, ai nấy
chẳng nên quan tâm ra sức tu hành hay sao?
Xin
hăy bắt chước ông Cát gắng sức tu hành. Phàm
bất cứ việc ǵ có lợi cho người, chẳng
cần biết là việc lớn hay nhỏ, bản thân nhàn
rỗi hay bận bịu, sức ḿnh cáng đáng nổi hay
không, đều cứ hoan hỷ thi hành, làm được
đến đâu hay đến đó!
Tŕ đă thuần thục, hễ
động niệm th́ vạn thiện đều
nương theo, không việc ǵ là chẳng lành. Dùng
đấy để niệm Phật hồi hướng,
ắt phẩm vị văng sanh sẽ cao!
Cư sĩ Mă Vu tự Trọng Ngọc
đời Tống, người huyện Hợp Ph́. Cha là
Trung Túc Công Mă Lương, làm thái thú Hàng Châu, được
ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Độ,
cả nhà bèn thờ Phật.
Cư sĩ gặp được
vị Tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn
Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ
bảo:
- Tôi nay đă t́m được chỗ
về rồi!
Ông liền áp dụng pháp Thập
Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu
tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao
du với Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm
Phật, thường lấy việc phóng sanh làm Phật
sự. Ông lần lượt làm thái thú ở Chuy Xuyên, Tân
Định, cai trị bằng ḷng nhân từ, độ
lượng. Hằng ngày ông luôn định thời khóa
tụng kinh chú.
Thuở đó, phu nhân của Kinh
Vương (Kinh Vương là chú của vua Tống
Triết Tông) nằm mộng dạo chơi Liên Tŕ, trông
thấy ông mặc triều phục ngồi trên hoa sen. Sau
đó, ông mắc bệnh, bèn tắm gội, thay áo, ngồi
ngay ngắn niệm Phật mà qua đời. Người
nhà đều nằm mộng thấy ông bảo:
- Ta đă được sanh vào
Thượng Phẩm của Tịnh Độ!
Con ông là Vĩnh Dật cũng tu pháp
Thập Niệm hơn ba mươi năm; về sau
cũng mắc bệnh, thấy Phật và hai vị Bồ
Tát tiếp dẫn, bèn kết ấn, thị tịch. Mùi
thơm tràn ngập cả nhà. (theo Lạc Bang Văn
Loại)
Nhận định:
Sáng ra niệm mười niệm th́ dù
là người bận rộn cũng dễ làm
được. Nếu có thể mỗi ngày chí thành như
thế, không ai chẳng văng sanh. Trường hợp
của Mă công tử (Mă Vĩnh Dật) đủ để
chứng nghiệm vậy. Do sau khi đă tinh tấn
niệm Phật, ông Mă lại c̣n thường phóng sanh và
dùng ḷng nhân từ, độ lượng để cai
trị, phước huệ song tu, nên ngay lúc c̣n sống
thần thức đă ngao du Tịnh Độ; chết đi,
liền sanh trong Thượng Phẩm. Những
người đang nắm giữ quyền chức hăy nên
học theo gương ông.
36. Ngàn
lạy trong khóa tụng hằng ngày
Cư sĩ Vương Nhật Hưu
hiệu Hư Trung đời Tống, người
huyện Long Thư. Được cử vào chức Quốc
Học Tấn Sĩ, ông bỏ quan chức chẳng
nhận. Ông bác thông kinh sử, nhưng một bữa kia,
buông bỏ hết, bảo:
- Đều là những thứ tạo thêm
nghiệp, chẳng phải là pháp rốt ráo, ta lấy Tây
Phương làm chỗ quay về!
Từ đấy, ông tinh tấn niệm
Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông mặc áo vải,
ăn rau, nhật khóa lễ một ngàn lạy đến
nửa đêm mới nghỉ. Trong tác phẩm Long Thư
Tịnh Độ Văn, từ hạng vua, quan, cho đến
những kẻ đồ tể, nấu rượu,
hạng người tội lỗi, ông đều khuyên tŕ
danh niệm Phật, phổ khuyến tu tŕ.
Ba ngày trước khi mất, ông từ
biệt tất cả thân hữu, khuyên họ nên tinh
tấn Tịnh nghiệp, bảo: “Ta sắp có việc
phải đi, không gặp lại nhau nữa”. Đến
kỳ, ông giảng sách cho học tṛ xong, lễ niệm
như thường, chợt cao giọng niệm Phật
mấy tiếng, bảo: “Phật đến đón ta!”,
đứng trơ trơ mà hóa. (theo
Tịnh Độ Văn)
Nhận định:
Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:
“Lễ
Phật một lạy được mười thứ
công đức:
1. Một
là được sắc thân đẹp đẽ.
2. Hai là nói
ra được người khác tin tưởng.
3. Ba là
ở giữa đại chúng không sợ hăi.
4. Bốn
là được chư Phật hộ niệm.
5. Năm
là đầy đủ oai nghi.
6. Sáu là
mọi người thân cận.
7. Bảy
là chư thiên kính yêu.
8. Tám là
đủ đại phước báo.
9. Chín là
chết đi sẽ văng sanh.
10.
Mười là mau chứng Niết Bàn”.
Huống hồ là nhật khóa ngàn lạy
ư?
Tác phẩm Tịnh Độ Văn của
ông tuy lời lẽ đơn giản, nhưng thí dụ
sâu xa đều là do ông bác thông kinh luận và thân hạnh
cùng tột mà thành. Phổ khuyến tu tŕ thật là
thiết tha, khẩn khoản; ai đọc đến mà
chẳng phát khởi tín tâm? Xin hăy ấn hành lưu thông
rộng răi tác phẩm ấy để khuyên khắp
mọi người lễ niệm, đồng sanh Tịnh
Độ.
37.
Đoạn tuyệt đồ mặn, văng sanh Tây Phương
Cư sĩ Châu Sở Phong, hiệu
Đ́nh Chương đời Minh, người tỉnh Vân
Ai khen ông chỉ cười; ai mắng
chửi, nhục mạ, ông cũng chỉ cười mà
thôi! Mỗi sáng sớm, ông tụng kinh Kim Cang, kinh Di Đà và
niệm Phật hiệu rất vui vẻ, sung sướng!
Ông thường bảo:
- Tôi chẳng bỏ công việc hằng
ngày, nhưng chẳng dính vào tham ái, cứ như thế mà
thôi!
Năm tám mươi chín tuổi, vào
tiết Thanh Minh, ông đi viếng mộ để từ
biệt tổ tiên, cha mẹ; trở về, bảo vợ:
- Tôi sắp đi đây, Phật Di Đà
đón tôi, Quán Âm và Thế Chí đều đến cả!
Lại bảo:
- Đức Quán Âm bảo tôi dứt trọn
đồ mặn trong năm ngày mới được văng
sanh Tây Phương!
Mỗi ngày, ông liền ăn một
bữa cháo, một bữa rau. Đến kỳ, tắm
gội, đội măo, sai con cháu tụng Phật hiệu.
Tự ḿnh tụng kinh xong, ông đoan tọa mà hóa. Thân
bốc ra mùi thơm, vẻ mặt hệt như lúc
sống. (theo Kim Cang Linh Dị
Lục)
Nhận định:
Ai khen chỉ cười là mật
hạnh tịnh tấn. Ai mắng chửi cũng
cười là sân độc đă hết sạch. Có
của cải ǵ liền chia hết là tham độc
cũng đă tận. Phật và Bồ Tát đến
đón, c̣n dặn phải kiêng đồ mặn trong năm
ngày mới có thể văng sanh, đủ chứng minh
rằng dù chưa thể ngưng tay dao, miệng c̣n tham
vị ngon, vẫn có thể được văng sanh. Xin hăy
lấy việc ăn chay, kiêng giết chóc làm nhiệm
vụ cấp bách.
Cư sĩ Văn Trọng Tử,
tự Tử Dữ, hiệu Khải Sơ và Đại
Thịnh đời Minh, người huyện Tiền
Đường. Thuở bé lắm bệnh, chí muốn thoát sanh
tử, không có ư định lập gia đ́nh. Ông quy y
với Tổ Vân Thê, thọ tŕ pháp môn Niệm Phật,
dốc ḷng tin, cật lực tu hành.
Em rể là cư sĩ Hoàng Nguyên Phù
tự Thừa Huệ, hiệu Tịnh Minh tính người
khẳng khái, thanh cảnh, không thích bon chen cơi tục,
hiếu thuận, thích bố thí. Ông Văn thấy em rể
thanh bần như thế bèn hướng dẫn
đến quy y với tổ Vân Thê. Sau ông Hoàng mửa ra
máu, lâu ngày càng nặng, ông Văn lại dạy em rể hăy
niệm Phật. Ông Hoàng càng thống khổ; vừa
mới tỉnh, Văn cư sĩ đă lớn tiếng
hỏi:
- Lúc mắt chú dại đi th́ lúc ấy
mới biết khổ, rốt cục sẽ đi về
đâu?
Ông Hoàng run sợ:
- Phải làm thế nào đây?
Ông Văn bảo:
- Chẳng ǵ bằng niệm Phật!
Ông Hoàng hỏi:
- Bác dạy em niệm tự tánh Di Đà hay
là niệm Cực Lạc Di Đà?
Ông Văn bảo:
- Chú cho là có hai hay sao?
Ông Hoàng có phần tỉnh ngộ,
liền thỉnh Tăng, bày tượng Phật, giảng
nhân duyên Tịnh Độ, xuống tóc, thọ giới Sa Di và
trợ niệm cho ḿnh; tự suất lănh cả nhà niệm
Phật suốt bảy ngày. Chợt nghe mùi hoa sen, ông Hoàng
mỉm cười, nói kệ, ngồi ngay ngắn qua
đời.
Đến khi ngài Hám Sơn Đức Thanh
đến điếu tang ngài Vân Thê, ông Văn cũng
đến lễ thỉnh, xin được thế phát.
Đại sư bảo:
- Tứ Đại chẳng thể
ngăn trở được Phật tánh, râu tóc có trở
ngại chi! Cha mẹ c̣n, Phật tử đành cam bất
hiếu hay sao?
Ông mới thôi. Về sau, bị bệnh
nặng, ông ỷ y chính ḿnh tín lực mạnh mẽ, văng
sanh chẳng khó khăn ǵ. Đến lúc bệnh gần
chết, bao nhiêu nghiệp tích tập hiện tiền, tâm
thần hoảng hốt, ông mới biết là Tịnh
nghiệp chưa thuần, văng sanh chẳng dễ dàng, bèn
cố nhỏm dậy, kêu ầm lên:
- Mau thỉnh thiện tri thức
niệm Phật giúp ta!
Bạn bè nhóm lại, niệm Phật
suốt mấy ngày, nhưng những nghiệp cảnh
tập khí vẫn vần vũ, ông lại kêu:
- Căn bản sanh tử không có
người nào khác dẹp nổi!
Liền đứng dậy, mặc áo,
tắm gội, đối trước Phật đốt
hương trên cánh tay, buồn thương, thành khẩn
sám hối, niệm Phật suốt đêm không chút mệt
mỏi. Ông tự biết túc chướng đă băng
tiêu, tâm an, thần sảng, Tịnh Độ hiện tiền,
hoan hỷ tịch định, vội cạo tóc, khoác ca-sa
ra dáng tăng sĩ, từ biệt mọi người,
ngồi ngay ngắn qua đời. (theo Mộng Du Tập)
Nhận định:
Ông Hoàng bệnh càng ngày càng nặng,
chợt được nghe khai thị bèn tỉnh ngộ,
liền nhất niệm kiên quyết, nên bèn có thể buông
xuống vạn duyên, niệm Phật bảy ngày, văng sanh
ngay chẳng trở ngại ǵ.
Ông Văn tuy sớm dốc ḷng tin,
tận lực tu hành, nhưng tự cậy chính ḿnh tín
lực mạnh mẽ, văng sanh chẳng khó khăn;
đến lúc nguy ách, tập khí hiện tiền, mới
biết Tịnh nghiệp chưa thuần, văng sanh chẳng
dễ! Cho đến khi nhờ tri thức trợ niệm
suốt mấy ngày vô hiệu, mới rơ căn bản sanh
tử không ai có thể bạt trừ giùm ḿnh!
Đại sư Hám Sơn nói: “Lúc lâm chung, cảnh giới
tập khí hiện tiền, há chẳng phải là để
thấy trước ác đạo ư? Sao chẳng dũng
mănh, phấn khởi, hô to một tiếng giận dữ, bạt
trừ cội gốc sanh tử bao kiếp, biến
nẻo khổ thành Tịnh Độ, há chẳng phải là
những bậc trượng phu hay sao? Đạo lư ấy há
có thể dùng âm thanh, vẻ mặt cười cợt
để thực hành được ư?”
Nếu ỷ y là dễ th́ sẽ
lười nhác, c̣n biết là khó th́ sẽ dũng mănh, tinh
tấn!
39.
Thầy thuốc khuyên niệm Phật
Cư sĩ Trầm Khải Bạch
tự Trung Húc đời Thanh, người Ngô Huyện;
rộng răi từ bé, thích giúp đỡ người
hoạn nạn. Sau ông nổi danh về tài làm thuốc, càng
ưa bố thí. Đối với người nghèo, ông
chẳng lấy tiền khám bệnh, hoặc c̣n cho thêm
tiền.
Năm hai mươi lăm tuổi,
vợ mất, ông không tái giá, dốc ḷng tu Tịnh
nghiệp. Trên những tăng phường, đầu
đường, thành cầu đi qua, ông đều
đề danh hiệu Tây Phương Phật và những
lời cảnh sách khuyên người niệm Phật.
Gặp phải người bệnh nguy ngập, ông
đều nghiêm nghị bảo:
- Tội nghiệt sâu nặng, sức tôi
chẳng cứu nổi, biết làm sao đây!
Người bệnh khóc lóc cố van nài,
ông liền bảo:
- Chỉ có đức A Di Đà Phật
ở thế giới Cực Lạc nơi phương Tây,
nếu ông có thể chí tâm xưng niệm một tiếng
th́ diệt được tội trong tám mươi
kiếp sanh tử. Ông có tin nổi, niệm nổi hay không?
Kẻ ấy vâng vâng, dạ dạ. Ông
bảo:
- Nếu đúng là như vậy th́
bệnh có thể trị được!
Liền cắt thuốc, lần nào
cũng hiệu nghiệm lạ kỳ nên từ đó,
những người quy hướng Phật rất
nhiều. Lúc hơn bảy mươi tuổi, ông niệm
Phật rồi tịch. (theo
sách Nhị Lâm Cư, tập cuối)
Nhận định:
Bố Thí là độ đầu tiên
trong Lục Độ. Ông Vương Long Thư nói:
“Kẻ làm
thầy thuốc nên thường tự nghĩ: Thân
người bệnh khổ nào khác thân ta. Chớ nề hà
quư, tiện, nghèo, giàu, chuyên tâm cứu người
để kết nhân duyên, để tích phước cho
ḿnh, sẽ được thánh hiền ngấm ngầm gia
hộ. Nếu luôn giữ được tấm ḷng như
vậy, hồi hướng Tịnh Độ, ắt sẽ
sanh trong Thượng Phẩm.
Nếu
nhân lúc người khác bị bệnh khổ mà ḿnh khuyên
dạy họ Tịnh Độ, họ sẽ dễ sanh tín
tâm. Lại khiến cho họ phát đại nguyện,
lưu truyền rộng răi chuyện của họ
để bù chuộc túc nghiệp, cầu mong được
lành bệnh, ắt sẽ được thỏa
nguyện. Nếu như tuổi thọ đă hết,
cũng sẽ nhờ vào nguyện lực ấy chóng sanh
về Tịnh Độ.
Thường
giáo hóa người khác như vậy, không chỉ sau khi
xả thân được sanh trong Thượng Phẩm, mà
ngay trong hiện đời cũng được
hưởng phước báo vô tận vậy!”
Ông Trương Lan Chử, tự Sư
Thành, hiệu Nhất Tây Cư Sĩ đời Thanh,
người huyện Quy An ở Hồ Châu. Lúc trẻ,
đỗ đạt, đi trấn nhậm những vùng
biên cương.
Ông làm tuần vũ (tuần phủ)
tỉnh Giang Tô, thấy sát nghiệp quá nặng bèn nhiều
lần ra yết thị khuyên tránh sát sanh, lập con sông
phóng sanh, nghiêm cấm đánh cá; trong dinh không thết
tiệc đăi khách, không sát sanh, trường trai thờ
Phật, gởi ḷng nơi Tịnh Độ.
Ông
chọn lấy những luận thuyết Tịnh Độ
của các bậc tiên hiền, soạn thành cuốn Kính Trung
Kính Hựu Kính (con đường tắt hơn con
đường tắt nhất trong những
đường tắt) để phổ khuyến
niệm Phật.
Lúc đă ngoài sáu mươi tuổi, ông
xin từ quan, về làng, ở yên trong một gian nhà
hẹp, một dạ quy Tây. Lâm chung, tụng kinh Di Đà xong,
vừa mới niệm Phật hiệu được
năm câu, ông lặng lẽ tịch. (theo Trương Lan Chử Niên Phổ)
Nhận định:
Phú quư học đạo khó v́ kẻ theo
đuổi công danh lấy việc thăng quan tiến
chức làm trọng; kẻ ham vui, phóng dật, coi tịnh
tu là khổ, đâu ai chịu buông bỏ trần lao
để gởi ḷng nơi Tịnh Độ, trường
trai thờ Phật? Xin những người làm quan hăy
lấy ông Trương làm gương.
41. Từ
Đạo Giáo chuyển sang Phật giáo
Ông Bành Xích Mộc tự Thiệu
Thăng, hiệu Tế Thanh, Nhị Lâm Cư Sĩ, Tri Quy
Tử… đời Thanh là người Trường Châu.
Năm mười tám tuổi, ông liên tiếp đỗ
đầu, được danh hiệu Tấn Sĩ.
Đột nhiên, ông tự tỉnh ngộ,
bảo: “Ta chưa minh được cái tâm ḿnh, biết làm
sao đây!” Bèn tu luyện theo cách tu của Đạo Gia
suốt ba năm, chẳng kết quả ǵ. Đọc sách
Phật, ông sảng khoái nói: “Đạo chính là đây!”. Từ đấy,
ông tin tưởng đạo Phật, bỏ hết
những điều ḿnh đang tu tập, chuyên tâm niệm
Phật.
Ít lâu sau, ông thọ Bồ Tát giới,
thôi ăn thịt, chẳng gần đàn bà; thường
bảo: “Chí nơi Tây
Phương, hạnh tại Phạm Vơng”. Ông bế quan
tại Văn Tinh Các tu Nhất Hạnh Tam-muội;
đề biển Nhất Hạnh Cư. Ông sai thợ
vẽ tranh Cực Lạc Thế Giới dựa theo
cảnh y báo và chánh báo trang nghiêm được dạy trong
ba kinh Tịnh Độ.
Ông viết cuốn Nhất Thừa
Quyết Nghi Luận để hóa giải sự hục
hặc giữa Nho và Thích. Ông c̣n soạn cuốn Hoa Nghiêm
Niệm Phật Tam-muội Luận để dàn ḥa
cuộc tranh luận giữa Thiền và Tịnh. Ông
soạn ra Tịnh Độ Tam Kinh Tân Luận để
xiển dương những ư chỉ chưa
được bàn luận rốt ráo trong Liên Tông. Những
tác phẩm của ông như Cư Sĩ Truyện, Thiện
Nữ Nhân Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục v.v…
tùy cơ tiếp dẫn, được truyền tụng
nhiều trong đời.
Ông bỏ ra cả vạn lượng
vàng như không để lập chùa thờ Phật, ấn
tống kinh điển, nuôi cơm tăng chúng, mở ra
Cận Thủ Đường để chữa bệnh cho
người nghèo túng, dùng ruộng của người giàu
trong họ để giúp đỡ họ hàng nghèo. Ông sáng
lập Tuất Ly Hội để giúp đỡ những
người ở góa, lập nên Phóng Sanh Hội để
chuộc mạng cho loài vật. Việc nào ông cũng làm
văn phát nguyện hồi hướng Tịnh Độ. Ông
ẩn cư trong các tăng xá ở đất Tô, Hàng
hơn mười năm, mỗi ngày đều có thời
khóa tụng niệm.
Về sau, ông mắc bệnh hạ
lỵ, biết trước ngày mất, chẳng lập
kẻ thừa tự, đem những tài sản của các
hội giao cho cháu là Chúc Hoa, dặn ḍ duy tŕ lâu dài,
đừng để tan ră. Ông làm kệ từ biệt cơi
đời, hướng về Tây niệm Phật tọa
thoát. Thọ năm mươi bảy tuổi. (theo Cư Sĩ Truyện)
Nhận định:
Tuổi trẻ đă đỗ
đạt cao, nhưng chẳng tham luyến vinh hoa cơi
trần, chỉ cầu minh tâm, từ Đạo giáo chuyển
sang Phật giáo. Chánh hạnh và trợ hạnh kiêm tu, làm
kệ, tọa thoát, nếu chẳng phải là thiện căn
vốn sẵn đủ từ bao đời trước,
đă thâm nhập Tam-muội th́ làm sao mà như thế
được?
Cư sĩ Trầm Đ́nh Du đời
Thanh, người huyện Gia Hưng. Ông tánh t́nh đoan
chánh, cẩn trọng, làm ǵ cũng hết sức, nhưng
cứ luôn miệng niệm Phật thao thao chẳng
ngưng. Ai có cười cũng mặc.
Mấy mươi năm như thế,
tự nói:
- Niệm Phật càng được
thuần thục th́ xử sự càng sáng suốt.
Năm bảy mươi ba tuổi, ông
thị hiện bệnh nhẹ, chợt bảo
người nhà rằng:
- Phật đến rồi đó, hăy
đem đuốc cho ta.
Tự
tay thắp hương mà thác. (theo
Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Cư sĩ Hồ Liên Quy bảo: “Niệm Phật càng
được thuần thục th́ xử sự càng sáng
suốt. Đúng là động tịnh đều giống
hệt như nhau, là bậc thâm nhập tam-muội.
Người dốc ḷng mong cầu danh lợi, hễ
động đến liền nói: ‘Tôi phân tâm xử sự
đâu có rảnh mà niệm Phật’. Đến khi sanh tử
xảy đến, đành phải trắng tay, là lỗi
của ai vậy?”
Xin hăy mạnh mẽ tỉnh ngộ
để gấp bắt chước gương này.
Cư sĩ Bùi Vĩnh Độ đời
Thanh người huyện Thái Châu tỉnh Giang Tô. Ông
sống bằng nghề nông, tánh t́nh điềm
đạm, không ham thích ǵ, cứ thấy việc lành là làm.
Từ nhỏ đă dốc trọn ḷng tin tưởng vào
Phật pháp, ăn chay trường, định thời
khóa niệm Phật không gián đoạn.
Sau đấy, ông thọ tŕ Tam Quy,
Ngũ Giới, hành tŕ nghiêm khiết, chưa hề
khuyết lậu. Vợ cũng niệm Phật, thọ
giới, tuy cùng ở chung một nhà, nhưng đối
đăi với nhau trinh bạch. Chỉ có một con gái,
cũng ăn chay niệm Phật. Về sau, cô này xuất
gia thọ Cụ Túc giới, biến nhà thành am.
Ông dạy vợ con cùng tu Tịnh
nghiệp. Ông lập riêng một căn tịnh thất,
ở một ḿnh niệm Phật hơn mấy mươi
năm. Lúc tuổi gần thất tuần, chợt bảo
thân tộc rằng:
- Năm ngày sau nữa ta sẽ chia tay,
xin hăy thiêu hóa giùm cái xác thừa. Thân này như huyễn,
đừng lầm lẫn mà tiếc nuối!
Đến kỳ, ông tŕ danh tọa hóa. Trà
tỳ, thu được hơn trăm viên xá lợi
ngũ sắc lóng lánh. (theo
Nhiễm Hương Tục Tập)
Nhận định:
Cả nhà thờ Phật, vốn có
thể đồng tu. Do con gái đă xuất gia biến nhà
thành am nên ông cất một tịnh thất, ở một
ḿnh niệm Phật; cho đến già chết, không qua
lại với vợ con nữa là ái căn đă
đoạn. Thân c̣n tại gia mà tâm đă xuất gia
vậy!
Đời Thanh, cư sĩ Châu Quang tự
Tây Liên, là Tú Tài ở Giang Ninh. Ông tánh thuần hậu,
nhạt nhẽo danh lợi, tuy gia thế quư hiển,
nhưng không quen thói hưởng thụ.
Tuổi
trung niên, ông trường trai thờ Phật, mỗi ngày
tụng Phật hiệu cả vạn tiếng để
cầu sanh Tịnh Độ. Anh em, bè bạn gặp nhau, hàn
huyên đôi câu xong là ông liền đem pháp môn Tịnh Độ
khuyên đi, khuyên lại. Ông quyên tiền in lại bộ Di
Đà Sớ Sao, đích thân ḍ lỗi, sửa sai để tác
phẩm này được lưu truyền rộng răi.
Tuổi già, thần khí suy yếu,
nhưng niệm Phật càng thêm hăng hái. Đột nhiên, ông
bị mắc bệnh sa đ́ (c̣n gọi là thoát vị,
tức chứng hernia) rất nặng, nhưng chẳng
hề bỏ lỡ việc chấp tŕ danh hiệu.
Bệnh được lành, có người thấy thế
khen ngợi [tinh thần niệm Phật của ông], ông
bảo:
- Trong những khi bị đau như
vậy, lúc mới đầu tôi cũng đau đớn,
khó chịu đựng nổi, nhưng rồi nghĩ
đến thân này đă là giả th́ khổ cũng
chẳng phải là thật, huống hồ mức
độ tinh và thô giữa thân và tâm đă rơ rành rành!
Cái
thân kia thống khổ, tôi chẳng biết làm cách nào; tâm
tôi tự niệm Phật th́ cái thân kia cũng chẳng làm
ǵ được. Lúc mới đầu c̣n thấy có tâm và
thân đối lập nhau, dần dần chỉ biết có
tâm, chẳng c̣n biết có thân, thống khổ cũng
dần dần hết!
Về sau, ông niệm Phật mà tịch.
(theo Nhiễm Hương
Tập)
Nhận định:
Niệm Phật trị được
trọng bệnh vạn kiếp sanh tử, huống hồ
đă biết là thân giả, khổ chẳng thật,
sẽ nhẫn được điều khó nhẫn,
chẳng những thống khổ sẽ tự tuyệt, mà
đến lúc văng sanh, do trong lúc bệnh nguy ngập đau
đớn đă làm chủ được, lúc lâm chung văng
sanh ắt sẽ tự chủ được!
Cư sĩ Phạm Dụng Ḥa tự
Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền
Đường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất
có hiếu. Lúc cha mẹ bệnh, trước sau, ông đă
cắt thịt bắp tay ḥa với thuốc trị lành
bệnh cho cha.
Bước vào tuổi tráng niên, cha
mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần
duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Đạo giáo)
hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm.
Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân
Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ
Giới, nhất chí kiên tŕ, thậm chí những thứ làm
bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng
hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều chính
ḿnh đă tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành,
thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo,
chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo
bệnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu ǵ.
Về sau, ông bế quan niệm Phật
suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên
yên tịnh, cách tu huyền thuật trước kia chợt
hiện ra, nhận thấy khí Thiên Địa cuồn cuộn,
mù mịt trong không trung, xông thẳng vào miệng, mũi,
chạy thẳng vào huyệt Đan Điền, ḥa hợp với
nguyên khí của chính ḿnh, [cảm thấy] khinh an chẳng
thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa
bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt
ra, lăng đăng trước mặt; được một
chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào.
Từ đấy trở đi, mỗi
khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong
niệm, liền có đứa bé bước ra, trở vào
như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông
chợt nghĩ:
- Đây há chẳng phải là năm
mươi thứ Ấm Ma như đă nói trong kinh Lăng
Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc th́ sẽ
bị lạc vào quần tà! Niệm Phật chí tại Tây
Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích
chi?
Ngay khi đó, ông liền giác chiếu,
chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng
xuất hiện nữa. Đối với yếu chỉ Duy
Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín - Hạnh - Nguyện lực
càng thêm thuần thục. Thường bảo với
mọi người rằng:
- Đối với cửa ải hiểm
yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có
chút phần chẳng rơ, sẽ lạc vào bàng môn. V́ vậy,
tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!
Chợt ông kết liễu mọi
việc, dặn ḍ, từ biệt bè bạn, ngồi niệm
Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu
vẫn c̣n nóng, thọ sáu mươi ba tuổi. (theo Nhiễm Hương Tục
Tập)
Nhận định:
Từng tu tập huyền công của
ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên
khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện
tiền, quần tà tự diệt.
Cư sĩ họ Trần đời
Thanh, không rơ tên là ǵ, là chú họ của các ông Thế Anh và
Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng
dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh,
niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng, đều
chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như
thế người nhà chẳng hay v́ ông hành mật
hạnh.
Trước khi mất ba tháng, ông tự
bảo đă đến lúc sắp mất, người nhà
thấy ông không bệnh tật ǵ nên không tin. Ba ngày
trước khi mất, ông thị hiện bệnh nhẹ,
vẫn đi đứng như thường. Đến ngày,
ông tọa hóa, người nhà vây quanh kêu khóc; ông bèn mở
mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta
đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi
hương lạ ba ngày mới hết. (theo Văng Sanh Cận Nghiệm Lục)
Nhận định:
Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay
lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà
cũng chẳng hay biết. Nay th́ hành nhân rêu rao khoe mẽ,
nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên
người niệm Phật th́ nhiều mà kẻ văng sanh
lại ít. Hăy dè dặt, hăy thận trọng!
Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự
Vạn Dật đời Thanh, người huyện
Thường Thục, làm nghề bán rượu, thích chè
chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa
đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu
thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm
Phật.
Một người con của ông
bệnh lao, niệm Phật qua đời, mọi
người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như
cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự
tuyệt người khuyên tục huyền:
- Có con nhưng nó đă mất rồi,
tôi cưới vợ nữa để làm ǵ? Chí tôi xuất
thế, lẽ nào c̣n nhọc nhằn t́m kiếm
người nối dơi ư?
Nhà cửa bị lửa cháy, ông
hướng lên không, nguyện:
- Nghiệp của tôi đáng bị
lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại
đến nhà hàng xóm.
Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô
hại. Ông chợt mắc bệnh thổ huyết, tâm sanh
tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ.
Đến lúc bệnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay.
Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện
cổ đức nhịn ăn để thấy Phật,
ông vui vẻ bảo:
- Có phương cách tiện lợi
lớn như vậy, cháu phải dũng mănh làm theo!
Ông liền tắm gội, đến
trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ:
giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh
cầu sanh Tịnh Độ. Đêm ngày niệm Phật chẳng
sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi:
“Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay
sao?” Ông nói:
- Chẳng ngủ có lợi là niệm
Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bệnh
chẳng được an nhàn; nay do bệnh mới
được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm
sao c̣n mệt nhọc được?
Hết kỳ hạn, thần thức
hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên
gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:
- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy
th́ cũng giống như đă đốt ngón tay rồi,
chẳng bằng nhất ư cầu về Tây Phương th́
hơn.
Ông liền nhắm mắt niệm
Phật, lúc đầu c̣n miễn cưỡng, sau do
dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an
định. Lại được mười mấy
người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên
tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây
Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng
hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có
tiếng nói:
- Thân ông chưa sạch!
Ông liền sai lấy nước thơm
tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền
bảo người nhà rằng:
- Tôi đă đến được
Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên
đó, sướng chẳng thể nói nổi!
Ông chỉ vào thân ḿnh bảo:
- Đây chẳng phải là thân ta!
Một lát, lại bảo:
- Phật đông nghẹt cả nhà!
Ngồi hướng về Tây, qua
đời, thọ ba mươi tám tuổi. (theo Tục Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục)
Nhận định:
Đoạn được rượu
thịt là tham độc đă hết. Bị cười
chê chẳng đoái hoài là sân độc đă hết. Con
chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn
đă đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy
vợ lần nữa, chẳng mong có người nối
dơi là si độc đă hết.
V́ vậy, gặp phải nghịch
cảnh, ông vẫn có thể chẳng thoái thất cái tâm ban
đầu; dù bệnh tật khổ sở vẫn giữ
vững chánh niệm. Dù v́ nghiệp chướng hiện
tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có
thể dụng công mạnh mẽ, lại được
trợ duyên, nên nhanh chóng cảm được
tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du
cơi Sen, thật đáng làm gương vậy!
Cư sĩ Dương Liên Hàng thời
Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh
Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông
Đồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối
với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.
Ông tham dự Liên Xă niệm Phật. V́
bị bệnh nên lại sát sanh, dần dần xa ĺa các liên
hữu. Sau này, bệnh nguy kịch, liên hữu bảo ông
ắt phải chết. Tự xét ḿnh không thể nào qua
nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng
sức đến trước Phật, tận t́nh bày
tỏ, dốc ḷng thành sám hối, lại giữ Ngũ
Giới, thề chẳng tái phạm.
Từ đấy trở đi, ông buông
bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm
thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên
hữu biết công năng tŕ danh của ông nông cạn nên
trước hết v́ ông thỉnh người trợ
niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông
chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy
quang minh. Đến canh hai, liên hữu sắp ra về,
chẳng biết rằng đến lúc đó, việc
trợ niệm đă có hiệu lực. Ông liền bảo:
- Tôi chưa đến được
Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm
Phật trợ niệm suốt đêm, đừng
để lỡ!
Mọi người lại cao giọng
niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông
mỉm cười bảo:
- Tôi nay đă đến Tây Phương
rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh
đẹp quá!
Mắt ông nh́n chăm chú vào tượng
Phật mà qua đời. Mọi người vẫn
trợ niệm đến khi thân ông đă lạnh mới
thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Đến trưa hôm
sau, đảnh đầu ông vẫn c̣n ấm, thọ ba
mươi tuổi! (theo
Cận Đại Văng Sanh Truyện)
Nhận định:
Công phu tŕ danh nông cạn mà
được văng sanh là do sức liên hữu trợ
niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế
đó. Xin hăy đề xướng rộng răi. Nếu
như không có liên hữu, xin hăy dùng băng niệm Phật
để trợ niệm, tạm dùng làm phương
tiện cũng có thể được hưởng
đại lợi văng sanh vậy!
Cư sĩ Trương Trân Ngọ
thời Dân Quốc, sang Nhật học Y và học Mật
Tông. Về sau, ông mắc bệnh thũng, nghiệp
cảnh hiện tiền. Lúc b́nh thường, ông tŕ chú
thấy có linh nghiệm, lúc này trọn không có hiệu
quả ǵ. Ông bèn chuyên niệm Phật th́ nghiệp cảnh
mới tiêu diệt.
Ông liền dẹp hết thuốc men,
nhất tâm tŕ danh. Vợ ông khuyên hăy nên ăn uống, ông
bảo:
- Bà đừng khuấy nhiễu tôi,
chỉ nên giúp tôi niệm Phật và thỉnh đạo
hữu họp lại trợ niệm. Tôi sẽ đi trong
ngày hôm nay.
Đạo hữu đến, đồng
thanh trợ niệm. Ông cũng nương theo đó,
niệm theo rơ ràng; đoạn kết ấn, niệm
Phật mà qua đời. (theo
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)
Nhận định:
Lâm chung nghiệp cảnh hiện
tiền, há chẳng phải là để thấy
trước ác đạo đó chăng? Lúc ấy, tŕ chú
hoàn toàn chẳng có công năng ǵ, may nhờ chuyển sang
niệm Phật và nhóm đạo hữu lại trợ
niệm th́ nghiệp mới tiêu, được văng sanh.
Những kẻ bỏ Tịnh Độ để tu Mật,
khá nên lấy đó làm gương!
50. Từ
biệt mọi người, tọa hóa
Cư sĩ Lư Ngoa, tự Tế Hoa
thời Dân Quốc, người huyện Như Cao tỉnh
Giang Tô; tốt nghiệp từ Trắc Hội Học
Đường[4].
Năm Dân Quốc thứ nhất (1912),
ông được cử về làm việc ở Trắc
Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Đồng
Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất
bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử
tử, ông được người cứu khỏi,
được phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân
ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù nóng hay
lạnh vẫn chẳng gián đoạn.
Từ chiến dịch Bắc Phạt
trở về, ông từng đảm nhiệm các chức
vụ nghị trưởng huyện nghị hội và
cục trưởng các cục kiến thiết, tài chánh
v.v…
Mùa Xuân năm Dân Quốc 22 (1933), ông quy y
Ấn Quang đại sư, được đặt pháp
danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh
nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng
một cuốn Di Đà, niệm Phật cả vạn
tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc kinh điển Đại
Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, hoằng
dương Tịnh Độ, khuyên người niệm
Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời
chẳng lười nhác.
Sau khi qua Đài Loan, ông sáng lập Liên
Hữu Niệm Phật Đoàn ở Đài Bắc, soạn
cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Đồng Nhân Phát
Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Văng Sanh Đoàn Văn
để đề xướng việc trợ niệm.
Ngày Hai Mươi Lăm tháng Hai năm
Dân Quốc 51 (1962) là ngày pháp hội định kỳ
của Niệm Phật Đoàn, ông lănh chúng niệm Phật. Sau
bữa ăn trưa, ông giảng đại ư kinh A Di Đà.
Đến hai giờ năm mươi phút giảng xong, ông
từ biệt đại chúng:
- Tôi sắp đi rồi, mọi
người hăy chăm chỉ niệm Phật!
Rồi ông tọa hóa giữa tiếng
niệm Phật của đại chúng. Đúng ba giờ
năm phút, tay ông kết Di Đà ấn như đang nhập
Thiền Định. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông
mềm mại, vẻ mặt như c̣n sống. Ngày
mồng Bốn tháng Ba trà-tỳ, thu được rất
nhiều xá-lợi, thọ bảy mươi chín tuổi. (theo Lư Tế Hoa Cư Sĩ Di
Tập và các báo Liên Hợp, Dân Tộc v.v…)
Nhận định:
Ấn Quang đại sư nói: “Chịu giúp người tịnh
niệm văng sanh th́ cũng sẽ được
hưởng báo có người trợ niệm!” Ông Lư sáng
lập Liên Hữu Niệm Phật Đoàn, đề
xướng trợ niệm, nên được liên hữu
đại chúng trợ niệm văng sanh.
Ngôn
giáo chẳng bằng thân giáo, nên ông chọn đúng vào lúc
pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngơ
hầu đại chúng cùng thấy, cùng tin, gấp gáp
bắt chước theo, đồng sanh Tây Phương
vậy!
Cư sĩ Tử B́nh Trần Tự Quân
thời Dân Quốc, là người huyện Định
Hải, tỉnh Triết Giang. Lúc chưa tốt nghiệp
đại học Pháp Chánh (Pháp Luật Chánh Trị) ở Thượng
Hải, bố vợ ông đă mở sẵn xưởng
dệt Thiên Nhất ở Tân Long Hoa, Thượng Hải,
giao cho ông làm đổng sự trưởng (giám đốc).
Năm Dân Quốc 11 (1922), tốt
nghiệp xong, ông vừa đúng hai mươi ba tuổi. Do
nghiên cứu kinh luận Tịnh Độ, ông liền
quyết tâm bỏ thuốc lá, rượu chè, cờ
bạc, đồ mặn, để trường trai
lễ Phật. Năm hai mươi bảy tuổi, ông quy
y với lăo pháp sư Hưng Từ ở núi Thiên Thai,
cầu truyền ngũ giới.
Mỗi ngày ông lo kinh doanh, tối
đến tụng kinh, niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ. Thương những người nghèo bị
bệnh, không đủ sức trị bệnh, ông liền
cùng chú lập ra Bảo Khang Trai để thí thuốc và
chữa bệnh rộng răi. Ông c̣n phát động việc
thành lập Thượng Hải Bần Bệnh Cứu
Tế Hội, thay mặt gia đ́nh đưa người
bệnh vào bệnh viện chữa trị để những
người bệnh đều được lành.
Năm Dân Quốc 21 (1932), quê ông bị
đại hạn, ông liền cùng những đồng
hương lo vận chuyển lương thực chẩn
tế những người đói nghèo. Năm sau, gặp
phải tai nạn băo lốc, nhiều căn nhà bị
sụp đổ, ông liền xin hội Cứu Tế chi
tiền cứu trợ.
Năm Dân Quốc 38 (1949), ông ngầm
rời khỏi Đại Lục, trốn sang Hương
Cảng rồi sang Đài Loan. Năm Dân Quốc 42 (1953), ông quy
y đại sư Đạo An, được đặt pháp
danh là Trí Thặng. Ông liền chọn mua đất, xây
dựng chùa Tùng Sơn, thỉnh ngài Đạo An làm trụ tŕ,
tự ḿnh làm Giám Viện. Đến năm Dân Quốc 55 (1966),
đại điện lạc thành; thỉnh pháp sư Linh
Căn tiếp nhận chức Giám Viện kiêm phó Trụ
Tŕ, ông tiếp tục xây dựng điện
đường hai bên và liêu pḥng để tạo thành
chốn tùng lâm vĩnh viễn cho mười phương.
Ông lại chắt mót tiền xây dựng
biệt thự Tịnh Liên ở sau chánh điện,
thỉnh những vị cư sĩ như Mao Dịch Viên…
gồm chín người cùng ở để cộng tu. Ông
thường lănh đạo Tinh Tấn Phật Thất
để cầu sanh Cực Lạc. Để tiếp
độ rộng răi những người sơ cơ, ông
Mao soạn thuật cuốn Niệm Phật Tam Yếu. Ông
liền đứng ra in đến mười vạn hai
ngàn cuốn, gởi tặng khắp nơi trong ngoài
nước để rộng kết tịnh duyên.
Để ḿnh lẫn người
đều được lợi, ông Mao lại biên
soạn, kết tập bộ Vựng Biên Tịnh Độ
Tùng Thư; Trần cư sĩ liền phát động các
vị đại đức, các chùa miếu, các nhà xuất
bản lớn trong ngoài nước hoan hỷ hỗ
trợ ấn loát hoặc kết ước hỗ trợ.
Sách in ra và số tiền dành cho ấn loát c̣n dư, ông bèn
giao cho Đài Loan Ấn Kinh Xứ lưu thông và tục bản
để tác phẩm ấy được hoằng
dương rộng răi.
Tháng Tư năm Dân Quốc 62 (1973), ông
phát tâm bế quan ba năm để chuyên tu Tịnh
nghiệp. Đến khi măn kỳ bế quan, ông vẫn
tiếp tục tinh tấn. Ngày mồng Bốn tháng Chạp
năm Dân Quốc 71 (1982), đột nhiên ông thị
hiện mắc bệnh nhẹ; mới vào bệnh viện
được một tuần, ông đă trở về
biệt thự tịnh dưỡng, ăn uống như
thường. Đến ngày mồng Bốn tháng Giêng năm Dân
Quốc 72 (1983), ông chợt bỏ không ăn sáng, há to miệng
niệm Phật. Ông Mao liền suất lănh đại chúng
trợ niệm. Đến một giờ trưa, miệng ông
mới dần khép lại; mặt hiện vẻ
tươi cười, an tường về Tây, thọ tám
mươi bốn tuổi.
Mọi người tiếp tục thay
phiên trợ niệm cho đến khi toàn thân lạnh
hết nhưng đảnh đầu vẫn c̣n ấm.
Đến giữa trưa ngày hôm sau làm lễ đại
liệm, toàn thân vẫn mềm mại. Ngày mồng
Mười lúc làm lễ công tế, da dẻ ông trông c̣n
tươi tắn mịn hơn lúc c̣n sống. Trà tỳ
thu được rất nhiều xá lợi. (theo tạp chí Sư Tử
Hống, bộ 20, kỳ 9)
Nhận định:
Cả một đời lấy Tín -
Nguyện - Hạnh làm Chánh Hạnh, lấy việc làm lành,
dựng chùa làm Trợ Hạnh. Ông đă tích tụ nhân duyên,
phước đức, thiện căn rất nhiều.
Xả báo an tường, vẻ mặt tươi vui,
ắt phải được trông thấy Phật
đến tiếp dẫn. Đảnh đầu ấm, thân
mềm mại, tươi tắn hơn lúc c̣n sống, xá
lợi rất nhiều, ắt phải là Thượng
Phẩm Thượng Sanh, thật đáng nên noi
gương!
Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân
Quốc, người huyện Phụng Hóa, tỉnh
Triết Giang; tánh t́nh trung hậu, thuần phác.
Năm Dân Quốc 35 (1946), ông đến
Đài Loan, kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc
Quang và xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập khá
thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967), ông được đồng
hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Đài Bắc
nghe ḥa thượng Tịnh Không giảng kinh; ông liền
theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của
Phật Pháp. Ông quy y với lăo ḥa thượng Quảng Khâm
ở Thổ Thành và trưởng lăo Sám Vân ở Thủy Lư,
thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới.
Mùa Đông năm Dân Quốc 67 (1978), ông
đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh
để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm tŕ
giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin
vững vàng, ư nguyện thiết tha cầu sanh Tây
Phương. Ông thường cúng Tam Bảo, phụng
sự sư trưởng, bố thí làm phước
chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành
lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp Hoành
Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng
(người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm),
lănh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để
cùng tu.
Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), v́
bệnh tật, ông phải về nhà chữa trị,
nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng
lười. Đầu tháng Ba năm Dân Quốc 72 (1983),
chợt ông bị bí đường tiểu tiện,
trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa
vào bệnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Ḥa
để chữa. Tuy đau đớn tột bậc,
trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai
mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người
con trưởng đang trông bệnh rằng:
- Từ ngày mai các con đừng có đi
đâu!
Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ
đến khám toàn thân, thấy tất cả đều
b́nh thường, dặn ḍ ông phải nghỉ ngơi chu
đáo, ông Ổ bảo:
- Hiện tại tôi rất thoải mái,
cảm ơn Ngài!
Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng
đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông
dựa. Cô hỏi:
- Có chuyện ǵ làm ba không được
thoải mái hả?
- Không có!
Đúng mười một giờ trưa,
ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào
nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi
dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua
đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn
thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng
trợ niệm. Trưởng lăo Sám Vân và các vị pháp
sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh
Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính
ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ
niệm. Đến khoảng sáu giờ tối, toàn thân
đều lạnh, chỉ c̣n mỗi đảnh
đầu là ấm.
Trợ niệm đến chín giờ
rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. V́
tứ chi của ông đă cứng đờ nên
trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay,
chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết
bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm,
hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt
biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi
đẹp đẽ hơn lúc sống.
Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm,
quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng
niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm
Phật bốn mươi chín ngày đă nghỉ rồi
vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương
Tây vẳng tới. (theo tạp
chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)
Nhận định:
Một phen nghe giảng kinh liền theo
Phật môn, thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu
Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao
kiếp thành thục.
Lập
Tịnh Nghiệp Lâm để cộng tu là người
tự lợi, lợi tha. Càng bệnh càng tinh tấn là
mượn bệnh để tiềm tu. Chợt dặn ḍ
ngày mai đừng đi đâu là biết trước
thời khắc.
Mỉm cười chắp tay, ắt là
thấy Phật hiện đến tiếp dẫn.
Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng
niệm Phật từ phương Tây vẳng lại
để họ biết là ḿnh đă văng sanh trong
thượng phẩm, nhằm khiến họ đều
tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm
bệnh, xin hăy bắt chước ông tinh tấn!
Cư sĩ Lư Bỉnh
Ông quy y với vị Tổ thứ
mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại
sư, được ban hiệu là Đức Minh. Ông gắng
sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh
nghiệp. Về sau, ông nhận lời mời, làm chủ
nhiệm bí thư của Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư
Phụng Kỵ Quan.
Ông theo chủ nhiệm Khổng
Thượng Công (Khổng Đức Thành) thiên di theo chính
phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ
Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân
Đảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu
sau, ông lănh trách nhiệm giảng dạy cho Phật Học
Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm,
người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 35
(1946), theo Khổng Thượng Công trở về Nam Kinh,
ông thường giảng kinh, thuyết pháp tại chùa
Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xă.
Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc
sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua
Đài Loan, ngụ tại thành phố Đài Trung. Vừa mới
sắp xếp công vụ xong, ông đă t́m được
chùa Pháp Hoa làm cơ sở hoằng pháp và lập pḥng
chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Đề Y Viện và Thí
Y Hội v.v… để chữa trị, hốt thuốc
miễn phí. Ông khởi xướng những sự
nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp
dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp. Ông
trù bị, tổ chức và thành lập Đài Trung Liên Xă và
đoàn thể hoằng pháp, diễn giảng các kinh điển
của đạo Nho và đạo Thích.
Ông thường nhóm chúng niệm
Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các
nhà giam và những gia đ́nh liên hữu. Do đó, pháp duyên
ngày càng rộng răi; ṭa giảng kinh của ông mở
rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo
Thiện v.v… Ông c̣n khuếch trương những cơ
sở truyền giáo khắp cả Tam Đài (Đài Bắc, Đài
Trung và Đài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Độ
phổ độ chúng sanh.
Mỗi năm, cử hành Phật
Thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân
chủ tŕ, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông
thường soạn các tài liệu Phật học hàm
thụ và vấn đáp, soạn các chương tŕnh phát
thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh. Về
trước tác có: A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ
Nghĩa Uẩn (lược chú kinh Di Đà để những
người kém hiểu biết lănh hội được
ư nghĩa sâu xa), Đại Chuyên Học Sinh Phật Học
Giảng Ṭa (tài liệu giảng dạy Phật học cho
sinh viên các trường đại học và chuyên
nghiệp) gồm sáu cuốn; Phật Học Vấn Đáp
Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng
Tồn v.v… hóa độ nhân gian.
Nhân
đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người
đều được b́nh đẳng hưởng
thụ pháp ích. Sau đấy, ông nghỉ việc để
tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người
khác tin sâu nhân quả, thật thà niệm Phật. Ngày
mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông
bảo đệ tử hầu cận:
- Ta sắp đi đây!
Đến sáng hôm sau, ông niệm Phật
đến mức nhất tâm bất loạn, dặn ḍ
đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch, thọ
chín mươi bảy tuổi. Lúc trà-tỳ, thu được
hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc. (theo Lư Công Tuyết Lư Lăo Cư
Sĩ Lược Sự)
Nhận định:
Mỗi sáng đều lễ tụng
niệm Phật, đấy là tự hành chuyên tu.
Thường giảng kinh, thuyết pháp, tổ chức Liên
Xă và Hoằng Pháp Đoàn, tổ chức rộng răi các cơ
sở truyền giáo, thường nhóm chúng niệm Phật,
cử hành Phật thất; đấy đều là v́ làm
cho người khác chuyên tu. Tuy là một vị cư sĩ
tại gia, nhưng có thể tự hành, dạy
người chuyên tu Tịnh Nghiệp, đồng sanh
Cực Lạc, thật đúng là gương mẫu!
* Ông Trương Thiện Ḥa đời
Đường, làm nghề giết trâu. Lâm chung, thấy
bầy trâu tranh nhau đến đ̣i mạng, ông sợ quá,
gọi vợ:
- Mau thỉnh Tăng đến cứu
ta!
Tăng đến, dạy:
- Kinh nói: “Nếu
có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành phải đọa
ác đạo, lâm chung chí tâm đầy đủ
mười niệm xưng A Di Đà Phật th́ trừ
được tội trong tám mươi ức kiếp
sanh tử, liền được văng sanh thế giới
Cực Lạc”.
Ông Trương nói:
- Địa ngục đến gấp quá
rồi, chẳng kịp lấy lư hương nữa.
Ông bèn dùng tay trái bốc than hồng, tay
phải cầm hương, hướng về Tây, dũng
mănh xưng Phật hiệu, chưa đủ mười
tiếng, đă nói:
- Trâu đi, Phật đến, tôi
được ngồi ṭa báu rồi!
Mỉm cười mà thác. (theo Phật Tổ Thống
Kỷ)
* Ông Thí Tịnh Nghiêm đời Thanh,
người huyện Hoa Đ́nh, tánh đoan chánh, cẩn
trọng, làm ǵ cũng chu đáo, cẩn mật.
Được ai nhờ đều tận tâm, thân tộc
nhiều người phải cậy vào ông. Chợt bị
bệnh ngặt nghèo rất đau khổ, anh họ là
Trịnh Huệ Am xót thương nói:
- Chú bệnh nặng quá, sao chẳng
chịu niệm Phật? Kinh nói: “Lâm chung mười
niệm cũng được văng sanh”.
Ông Thí nói:
- Em hận lúc thường ngày chẳng
biết niệm Phật, nay chẳng niệm nổi,
biết làm sao đây?
Rồi khóc ṛng. Ông Trịnh bảo:
- Không sao cả! Chú nghe tôi niệm, trong
tâm tưởng niệm cũng được!
Liền
xướng danh Phật hiệu rơ ràng, ông Thí cũng cao
giọng đọc theo. Vừa mới được
chừng mươi lần, chợt bảo:
- A Di Đà Phật và các Bồ Tát
đều ở ngay trước mắt!
Nói xong liền mất.
Nhận định:
Niệm Phật cốt yếu chẳng
phải do thời gian niệm đă lâu, mà quư tại ḷng tin
chuyên dốc. Kinh Pháp Tập Yếu Lănh dạy: “Nếu có người trong
trăm năm lười nhác, thiếu tinh tấn th́
chẳng bằng người dũng mănh hành tinh tấn
trong một ngày”.
V́ thế, bất luận là thiện hay
ác đều có thể do mười niệm lúc lâm chung
được văng sanh, chẳng ngờ ǵ. Nhưng
những người ấy đều là do căn lành trong
quá khứ đến nay thành thục, nên mới gặp
được thiện tri thức khuyên niệm Phật,
và cũng do tâm sợ khổ nên sức tín hạnh nguyện
dũng mănh trở thành tương ứng với nguyện
lực từ bi của Phật, cảm ứng đạo
giao, được Phật tiếp dẫn!
Nếu không, chỉ sợ rằng
nghiệp chướng lôi kéo, thiện hữu khó gặp,
bệnh khổ bức bách, chánh niệm khó thành. Thập
niệm tuy dễ, thật khó mong gặp được.
Xin hăy sớm lo liệu tư lương mới là
điều quan trọng nhất!
55. Làm
việc nặng vẫn niệm Phật
* Ông Hoàng Đả Thiết đời
Tống, người Đàm Châu. sống bằng nghề rèn.
Thấy du phương Tăng đi đến, ông mời
vào, dâng trà. Thưa ḿnh vốn dĩ nghèo khổ, cầu
thầy chỉ dạy cách tu hành. Tăng liền dạy:
- Pháp môn Tŕ Danh chẳng tốn tiền,
chẳng trở ngại làm lụng. Nếu suốt một
đời tŕ niệm chẳng sai sót, lúc lâm chung, ắt
Phật sẽ tiếp dẫn văng sanh cơi Ngài, chẳng có các
điều khổ, chỉ hưởng các sự vui!
Ông Hoàng mừng lắm, bèn tuân theo
lời dạy tu hành. Mỗi lúc đập sắt, ông
niệm Phật không ngớt tiếng. Vợ bảo:
- Rèn sắt đă khổ cực sẵn
c̣n đèo thêm niệm Phật, có phải là càng khổ
hơn nữa không?
Ông Hoàng đáp:
- Pháp này cực hảo! Hằng ngày
ngồi bên ḷ thấy lửa nóng, nhưng niệm Phật
chẳng thấy nóng. Đập sắt thấy đau tay,
nhưng niệm Phật rồi chẳng thấy đau
nữa!
Mấy năm sau, một hôm, ông chợt
tắm gội, thay áo, bảo vợ:
- Hôm nay, tôi phải về nhà đây!
Vợ đáp:
- Đây không phải là nhà ông sao? Nhà ông ở
chỗ nào cơ chứ?
Đáp:
- Nhà tôi ở Tây Phương.
Vợ cười bảo:
- Vậy ông đi b́nh an nghe!
Ông bèn đập sắt, niệm
Phật như thường. Lát sau, bèn nói kệ:
Binh binh,
bang bang,
Luyện
măi thép bền,
Thái b́nh
sắp đến
Ta về
Tây Phương
Rồi
cầm búa đứng yên mà mất, mặt chẳng
đổi sắc. Mùi hương lạ ngào ngạt, thiên
nhạc rền trời; ai nấy đều nghe. (theo Phật Tổ Thống
Kỷ)
* Ông Lại Tường Lân thời Dân
Quốc, người huyện Hưng Quốc, tỉnh Giang
Tây; làm nghề nông, hay uống rượu. Năm ông ngoài
sáu mươi tuổi, con trai chết sớm, ông phải
lănh nuôi con dâu góa, cháu nội côi cút, cực nhọc cày
cấy để kiếm sống.
Ông chán nản thế gian phiền
khổ sâu xa, nghĩ mong xuất ly, nghe cư sĩ Lại
Thiền Dung giảng pháp môn Tịnh Độ liền
trường trai niệm Phật, chuyên chí văng sanh. Lâu sau,
niệm càng ngày càng thuần thục, tuy suốt ngày
phải làm lụng mà niệm Phật chẳng gián
đoạn. Người làng đều dùng câu A Di Đà
Phật để gọi ông, ông cũng ứng tiếng
đáp: “A Di Đà Phật!”
Lúc ngoài bảy mươi tuổi,
chợt có bệnh thũng nhẹ nơi chân, ông liền sai
cháu hướng về Tây bày biện hương án, nói:
- Cảnh giới Tây Phương
thật đẹp. Cháu coi ḱa! Có biết bao nhiêu là hoa sen!
Hôm nay ông sắp về Tây Phương Cực Lạc
thế giới.
Cháu hỏi:
- Chân ông bị thũng làm sao đi
được?
Nói:
- Chẳng phải là thân đi mà là tâm
đi!
Lúc đang thắp hương, ông
ngồi xếp bằng, hướng mặt về Tây,
niệm Phật qua đời. (theo
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)
Nhận định:
Người tu Tịnh Nghiệp
chẳng phân biệt là nam, nữ, sang, hèn, hễ tin
tưởng sâu xa th́ được vào, thật sự tích
lũy công lao th́ được văng sanh. Hai vị trên tuy làm
lụng bận rộn, chưa hề thọ Tam Quy, Ngũ
Giới, nhưng lúc làm lụng niệm Phật không gián
đoạn, nên công niệm Phật đều đạt
đến mức thuần thục, đến thời là
văng sanh. Những ai bảo ḿnh quá bận rộn, chẳng
rảnh rỗi để niệm Phật th́ xin hăy lấy
đó làm gương!
Ông Ngô Quỳnh đời Tống là
vị Tăng hoàn tục, làm nghề đầu bếp,
buôn rượu, bán thịt. Mỗi khi ông giết những
gà, vịt v.v… đều nói: “Hỡi con của A Di Đà
Phật, khéo thoát thân này nghe!”, rồi niệm tiếp
mấy câu Phật hiệu. Lúc xẻ thịt cũng
niệm Phật không ngớt.
Ông thường dạy người
tụng kinh niệm Phật. Mắt ông chợt nảy cái u
to như quả trứng gà; ông mới hoảng sợ, tách
rời vợ con, cất một cái am tranh, ngày đêm
niệm Phật, tu sám. Sau, ông bảo người trong thôn:
- Giờ Tuất ngày mai, Quỳnh tôi
sẽ đi.
Chiều hôm sau, ông bảo các đạo
hữu rằng:
- Đă đến lúc rồi, hăy gắng
niệm Phật giúp nhau!
Viết bài kệ xong, ông chắp tay
niệm Phật, chợt lớn tiếng nói: “Phật
đến rồi”, liền tọa hóa. (theo Long Thư Tịnh Độ Văn)
Nhận định:
Hoàn tục phạm giới, lẽ
đâu lại đáng nêu gương? Nhưng v́ mắc
bệnh, ông hoảng sợ, tách rời vợ con, niệm
Phật tu sám, nên lại được văng sanh. Điều này
đủ chứng minh lời nhận định trong sách
Linh Phong Tông Luận: “Tuy v́
lầm lẫn nên trót làm hạnh ác, nhưng mau chóng
đoạn tâm tương tục, khởi ḷng ân cần,
thâm trọng sám hối, th́ nhờ sức sám hối cũng
được văng sanh!”
Những người v́ lầm lẫn
tạo ác hạnh xin hăy gấp bắt chước,
đừng nên cam chịu đọa lạc!
Ông Ngô Mao đời Thanh là đầy
tớ nhà họ Ngô ở Thanh Dương. Tŕ trai niệm
Phật, kiêm tu các điều lành.
Lúc quân Thanh vượt sông, cả nhà
họ Ngô chạy trốn hết, ḿnh ông Mao ở lại
giữ nhà, bị quân Thanh đâm bảy nhát thương
chết đi. Lúc đă yên, chủ trở về, ông Mai
tỉnh lại, bảo:
- Do túc nghiệp, lẽ ra tôi phải làm
thân heo bảy đời, nhờ tŕ trai niệm Phật,
nên bảy nhát thương đó tiêu tan oan khiên, niệm
tới mức Phật hiện đến tiếp dẫn
văng sanh Tây Phương!
Nói xong, chắp tay niệm Phật qua
đời. (theo Quả Báo
Văn Kiến Lục)
Nhận
định:
Niệm Phật tu thiện nhưng
bị chết thảm; nếu như không sống lại
để tự tŕnh bày, làm sao biết được ông
đă chuyển báo nặng trong thân sau thành báo nhẹ
hiện đời, được Phật tiếp dẫn
văng sanh? Phàm những ai làm lành niệm Phật mà gặp
nghịch cảnh, hăy nên tỉnh ngộ, mừng rỡ và
càng thêm tinh tấn!
Đời Tống, Việt Quốc phu nhân
Vương thị là vợ của Kinh Vương (chú
của Tống Triết Tông). Bà hướng dẫn bọn
tỳ, thiếp đồng tu Tịnh Độ ngày đêm
không gián đoạn.
Chỉ có một nàng thiếp biếng
nhác nên bị đuổi bèn hối hận, buồn
bực, ra sức tinh tấn lâu ngày chẳng nhọc
mỏi. Cô chợt bảo các nàng thiếp khác: “Đêm nay tôi
sẽ sanh Tây!”
Trong đêm, mùi hương lạ
ngập tràn cả nhà, không bệnh ǵ mà mất. Sáng ra, có
người thiếp khác báo với phu nhân:
- Đêm qua, tôi nằm mộng thấy cô
thiếp ấy bảo tạ ơn phu nhân, nhờ
được phu nhân quở dạy nên được sanh
về Tây Phương, cảm đức vô lượng!
Phu nhân nói:
- Nếu khiến ta cũng mộng
thấy th́ ta mới tin!
Đêm đó, bà mộng thấy cô thiếp
đă chết đến cảm tạ giống hệt
như trên; hỏi có đến được Tây
Phương chăng, cô thiếp bảo được! Cô
liền đi trước dẫn đường, thấy
một cái ao lớn, hoa sen trắng, hồng, lớn,
nhỏ xen lẫn, có hoa tươi tốt, có hoa găy nát.
Hỏi lư do, cô bảo:
- Người tu Tây Phương trong
thế gian vừa mới khởi một niệm th́ trong ao
này liền nảy một cành hoa. Do siêng năng hay
lười nhác khác nhau nên hoa tươi tốt hay khô héo sai
khác. Tinh tấn th́ hoa tươi, thậm chí to như bánh
xe; lười nhác, phế bỏ th́ tàn héo, thậm chí
biến mất. Nếu hành lâu ngày mà chẳng ngơi
nghỉ, niệm thuần thục, quán tưởng thành
tựu, thân xác dù tiêu, nhưng thần thức tồn
tại, quyết sẽ sanh về nơi đây.
Bà hỏi ḿnh sẽ sanh về chốn
nào; cô dẫn đi xa mấy dặm nữa, thấy
một hoa đài, vàng, ngọc chiếu sáng rực rỡ.
Cô thiếp bảo:
- Đây là chỗ sanh của phu nhân, chính là
kim đài thượng phẩm thượng sanh vậy!
Liền tỉnh mộng, vui buồn
lẫn lộn. Về sau, trong ngày sinh nhật, bà cầm
đuốc thắp hương, đứng nh́n về
hướng Quán Âm Các. Quyến thuộc tiến đến
chúc thọ đă thấy bà hóa rồi! (theo Lạc Bang Văn Loại)
Nhận định:
Vừa khởi một niệm niệm
Phật là đă trồng cành sen nơi Tây Phương,
cảm ứng nhanh chóng như thế đó. Đối với
danh lợi, người ta thường ưa cầu không
lúc nào ngơi, c̣n đối với một niệm niệm
Phật này, lắm người chẳng chịu phát. Dù có
phát cũng lười nhác, tiếc chẳng có thiện tri
thức tùy thời răn trách, ngơ hầu hối hận, bi
phẫn mà tinh tấn vậy!
Đời Tống, bà Quảng B́nh quận
phu nhân Phùng Pháp Tín, lúc nhỏ lắm bệnh, đến lúc
gả cho Trấn Đào Quân Thừa Tuyên Sứ Trần Tư
Cung, bệnh càng nặng thêm.
Bà hướng về Từ Thọ Thâm
Thiền Sư cầu cách trừ hết bệnh; sư
dạy tŕ trai niệm Phật, bà liền tin nhận, vâng
làm; dứt sạch huyết nhục, không dùng đồ
trang sức, mặc áo chằm vá để chuyên tu Tịnh
Nghiệp. Bà tự tụng kinh, đi kinh hành; đứng,
ngồi, động, tịnh cho đến trong từng
sát-na, bất cứ mảy may điều thiện nào
đều đem hồi hướng về Tây
Phương.
Ít lâu sau, bệnh đỡ dần, bà
trông nom việc nhà như cũ, nhưng cũng chẳng
quên niệm Phật. Suốt mười năm như
thế, không lười nhác, không kiêu căng, tâm yên, thân
mạnh, tinh thần càng mạnh mẽ. Bà chợt viết
kệ:
Tùy duyên
lănh nghiệp mấy năm trường
Uổng
kiếp trâu cày thật xót thương
Quét
sạch thân tâm, mau thoát khỏi
Không ai
xỏ mũi kéo lên đường
Ai đọc đến ngạc nhiên, bà
bảo: “Hễ đi là về
Tây, chứ có chi là lạ!” Bà liền nằm bệnh;
một tối, bảo kẻ hầu:
- Thần thức ta vừa đến
Tịnh Độ, đích thân lễ bái đấng Từ Tôn,
đức Quán Âm đứng bên tả, Ngài Thế Chí
đứng bên hữu, trăm ngàn vạn ức Phật
tử thanh tịnh cúi đầu mừng ta đă sanh
về cơi ấy. Những cung điện, ao nước,
rừng cây, quang minh đẹp đẽ thần diệu,
giống hệt như đă tả trong Thập Lục Quán
Kinh không khác chút nào. Có đến mới biết, chẳng
cách nào diễn tả cho các ngươi biết
được nổi!
Kẻ hầu mời ông Tư Cung
đến, thuật lại như vậy xong, bèn cùng
chắp tay niệm Phật. Đến sáng hôm sau, bà nằm
nghiêng bên phải mà qua đời. Ba ngày sau khâm liệm,
người nhà chợt ngửi thấy mùi hương
tuyệt diệu. Đến lúc trà-tỳ, mở nắp quan ra
coi, vẻ mặt vẫn như c̣n sống, thọ ba
mươi sáu tuổi. (theo
Lạc Bang Văn Loại)
Nhận định:
Chúng ta suốt ngày tạo nghiệp, nên
bị lưu chuyển theo nghiệp, chẳng thể
tự chủ. Nguyện mau tŕ trai niệm Phật, sớm
cầu giải thoát, tránh khỏi bị người xỏ
mũi lôi đi.
Cư sĩ Dư Tông Thị đời
Thanh, người Từ Châu; con là Ḥa Thượng Chiếu
Minh trụ tŕ chùa Cao Mân ở Dương Châu, lập thất
đón đến ở. Bà nhớ nhà quá, bèn bảo Ḥa
Thượng là phải về ngay lo việc nhà.
Sư giảng cho bà nghe pháp Khổ, Không,
Vô Thường, Vô Ngă; khuyên mẹ nhất tâm niệm
Phật cầu sanh Tây Phương. Mẹ chẳng tỉnh
ngộ, Sư liền tránh mặt, chẳng gặp; van nài
cũng chẳng đến. Không biết làm sao, bà đành
miễn cưỡng tŕ danh, cho là khốn khổ lắm.
Ở chùa ba năm, niệm hơi
thuần thục, bà bắt đầu sanh ḷng tin sâu xa,
thọ Bồ Tát giới, sáng tối lễ Phật rất
cung kính. Ḥa Thượng đến gặp, hỏi c̣n
nhớ nhà không? Bà nói: “Niệm Phật vui lắm, không
nhớ nhà nữa!”
Một ngày nọ, bà ngồi ở sân
trước, hướng mặt về tháp niệm
Phật, chợt thấy ánh sáng chói ḷa, thấy thế
giới sắc vàng ṛng rực rỡ không bờ bến,
tường, vách, cây cối đột nhiên biến đâu
mất hết. Mừng quá, bà nhỏm ngay dậy tiến
đến th́ chẳng thấy ǵ nữa. Từ đó,
lục căn rỗng rang, động, tịnh,
đứng, ngồi, chẳng sanh niệm nào khác. Lâu sau,
mộng thấy đến một nhà kia, có một
người đàn bà đang ngồi trên nệm, kinh
ngạc bảo: “Sao ḿnh lại đến đây? Ta chỉ
cầu sanh Tây Phương. Nhập thai, xuất thai
thật đáng sợ hăi quá!”
Bà chạy mau ra khỏi nơi đó,
sợ đến nỗi tỉnh dậy. Sáng ra, bảo
với Ḥa Thượng: “Sanh duyên của tôi đến nay
đă tận; xin v́ tôi nhóm Tăng niệm Phật,
đưa tôi về Tây!” Bà
liền ngồi hướng mặt về Tây, qua
đời. (theo Thiện
Nữ Nhân Truyện)
Nhận định:
Chúng ta niệm Phật sanh tâm lơ là th́
phải miễn cưỡng mà hành: Người đă
niệm được một th́ sẽ niệm
đến mười, niệm được trăm th́
gắng niệm đến ngàn. Lâu dần thuần
thục, thành công cũng như nhau. Lúc lâm chung, mộng
thấy người đàn bà ngồi trên đệm;
nếu lục căn chẳng rỗng rang, sanh kinh sợ
bỏ chạy gấp, sẽ vào trong thai người khác
bèn đọa luân hồi, cầu sanh về Tây lần nữa
làm sao nổi? Nguy hiểm thay!
61.
Nằm, ngồi đều hướng về Tây
Cư sĩ Châu Dương Huệ Khanh
thời Dân Quốc, quy y Ḥa Thượng Hư Vân,
được đặt pháp danh là Khoan Huệ, tự
Phật Trí, là phu nhân của cư sĩ Bang Đạo Chu Khánh
Quang, Thứ Trưởng đặc trách bộ Khảo Tuyển.
Quê bà ở Thụy Kim, theo chồng đi nhậm chức
ở Nam Kinh, ngụ tại Lan Viên. Có một vị lăo
tăng từ núi Cửu Hoa đến bảo:
- Bà tu tŕ nhiều đời. Sau năm
bốn mươi tuổi, ắt sẽ học Phật
thành công.
Sau bà nghe kinh Địa Tạng, ngắm
bức tranh thờ của Đại Sĩ, mới biết
đích xác vị lăo tăng ấy chính là hóa thân của
Địa Tạng Bồ Tát. Năm bốn mươi, bà
sống tại Đồng Giang thuộc Kiềm Đông (phía
Đông tỉnh Quư Châu), quả nhiên phát tâm học Phật,
chẳng t́m được thầy. Bà mộng thấy hai
vị Tăng to lớn đồng ư giới thiệu giúp.
Ít lâu sau, nơi hội Quán Âm ở
miếu Đông Nhạc, chợt nghe có tiếng trên không nói: “Quy
y Tam Bảo”; bà liền thấy vị vân du tăng tên là
Khoan Ngoạn, bà xin được quy y. Sư dạy bà tŕ
thánh hiệu Quán Thế Âm và chú Đại Bi. Trong mộng, bà
lại thấy vị lăo tăng núi Cửu Hoa dạy
tụng kinh A Di Đà.
Từ ngày ấy trở đi, bà lấy
đó làm thường khóa, tụng chú vào nước,
nước phát quang. Cho chó dữ uống, nó trở thành
thuần lương; đem trị bệnh cho người
ta liền lành bệnh, cứu sống vô số
người. Ḷng từ ái thấu đến những con
vật khiến cho con yểng bà đă thả đi lại
quay về làm tổ dưới mái nhà, loài kiến
đỏ nghe kinh, mèo chuột sống ḥa thuận với
nhau. Ḷng tin của bà cảm động cả dị
loại, bà thường mộng thấy cô gái đẹp
dẫn bà lễ Phật, nghe kinh, hoặc chỉ dạy
cách tu tŕ, hoặc dẫn qua chơi cảnh Cực Lạc,
hoặc chỉ dạy phương hướng tránh tai
nạn v.v… rất linh nghiệm. V́ thế, bà thường
coi giấc mộng là niềm vui.
Sau khi đă đến Đài Loan, bà theo lăo
cư sĩ Lư Bỉnh
Mùa Thu năm Dân Quốc 51 (1962), phát
nguyện tụng kinh Địa Tạng để cầu
thọ cho mẹ, nhiều lần thấy hoa đèn
hiện xá-lợi. Mùa Đông năm ấy, bà bị ung thư
gan, niệm Phật càng thêm khẩn thiết.
Ngày Hai Mươi tháng Ba năm Dân
Quốc 52 (1963), bệnh t́nh nguy ngập, bà di chúc in kinh,
vẽ tượng, thờ Phật, cúng dường, không
nói chuyện ǵ khác, thầm niệm hồng danh theo
đại chúng rồi qua đời. Nơi ấn
đường phóng quang nhiều lần.
Lúc tẫn liệm, thân vẫn an
tường, mềm mại. Tối hôm sau, khi làm xong
lời ước hẹn với bà, người cùng
thọ Bồ Tát giới là Trịnh Khương họ Chân
mộng thấy bà về bảo: “Đă sanh Cực Lạc,
được thân cận Di Đà, Quán Âm”.
Trà-tỳ thu được hơn ba
trăm viên xá lợi, thọ sáu mươi ba tuổi. Lúc
làm tuần hai mươi mốt ngày, bà hiện
tướng trên không mặc áo hải thanh[5],
đứng trên sen hồng cho đại chúng cùng
được thấy. Năm người con trai, hai
người con gái của bà đều học hành xuất
sắc, thành đạt. (theo Châu
Dương Huệ Khanh Cư Sĩ Kỷ Niệm Lục)
Nhận định:
Chồng vinh, con quư là phước báo do
tu tŕ từ bao nhiêu kiếp. Nhưng phú quư học
đạo rất khó, bà may mắn được
đức Địa Tạng hóa thân thọ kư, trong mộng
dạy kinh, mộng thấy vị Tăng to lớn
giới thiệu cho được thọ Tam Quy. Mộng
thấy mỹ nữ chỉ dạy cách tu tŕ và dẫn
đi thăm Cực Lạc v.v… là thiện căn
phước đức nhân duyên rất sâu. Thường thấy
quang minh lẫn thân Phật, xá lợi thường giáng
hiện, các thứ thắng cảnh là do giới hạnh
tinh tấn cảm thành.
Nước
Đại Bi trị lành được các bệnh, nhưng
trọn chẳng tự cứu nổi ḿnh, có phải là
muốn chịu khổ thay cho chúng sanh, hành Bồ Tát
Đạo đấy chăng? Có phải là do túc nghiệp
nhiều đời, một đời này báo tận, nên
tạm chịu nỗi khổ nhỏ để vĩnh
hưởng Cực Lạc đấy chăng?
Xem trong di chúc, chẳng bàn đến
chuyện ǵ khác là chẳng tham luyến. Niệm Phật
theo đại chúng là chánh niệm phân minh. Xả báo an
tường là làm chủ được trong cơn
bệnh khổ. Lại c̣n các điềm lành: phóng quang, báo
mộng, lưu xá lợi, hiện tướng v.v… th́ đă
chứng Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng c̣n
nghi ngờ ǵ nữa!
Cư sĩ Lưu Lư Cúc thời Dân
Quốc là người ở thành phố Đài Trung. Từ bé
đă thông minh, dĩnh ngộ, khéo hiểu ư người
khác. Đến lớn, kết hôn với ông Lưu A
Vượng, thờ cha mẹ chồng rất hiếu
thuận, ḥa thuận đối với xóm giềng, sanh
được năm trai, sáu gái. Bà giúp chồng dạy con,
tánh t́nh ôn nhu, hiền thục, tâm địa thiện
lương, tùy duyên giúp đỡ người nghèo, ai
nấy đều kính trọng.
Năm Dân Quốc 68 (1979), chồng
mất, bà thường sầu muộn v́ nỗi khổ ái
biệt ly; may có cháu gái là cư sĩ Lưu Mạnh Chân do
nghe thầy Lư Bỉnh Nam khai thị pháp môn Tịnh Độ,
liền khuyên bà niệm Phật. Bà liền vui vẻ tin
nhận, quy y Tam Bảo, sáng tối niệm Phật cầu
sanh Tây Phương.
Lại c̣n tùy duyên cúng dường Tam
Bảo, bố thí, phóng sanh. Sau đó, bà lại phát
nguyện ăn chay trường, mỗi ngày công khóa
niệm Phật chẳng gián đoạn. Tịnh nghiệp
tinh tấn đến nỗi trong mộng cũng
thường niệm Phật.
Hai
năm trước khi bà được văng sanh, bà chiếu
theo lời khai thị Lâm Chung Tam Đại Yếu (ba
điều trọng yếu lúc lâm chung) của Tổ Sư
Ấn Quang:
“1. Khéo léo
khai thị, an ủi khiến sanh chánh tín.
2. Cả
nhà luân phiên niệm Phật để trợ giúp tịnh
niệm.
3. Cẩn
thận tránh xao động, khóc lóc, khiến cho
người chết bị lỡ làng”.
Để dặn ḍ cặn kẽ toàn
thể dâu, con; lại c̣n ghi âm làm chứng để mong con
cháu trước và sau lúc bà văng sanh sẽ khéo tuân hành theo, ngơ
hầu lúc lâm chung chẳng bị chướng ngại,
quyết được văng sanh Tây Phương. Tuy tuổi
đă ngoại bát tuần, thân thể bà vẫn khang
kiện.
Đến giữa trưa ngày Hai Mươi
Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 78 (1989), bà tắm gội
thay áo, tụng niệm thời khóa tối xong, bà hơi hôn
mê, chẳng nói năng ǵ nữa. Con cháu hơn năm mươi
người liền tuân theo di chúc, luân phiên niệm
Phật. Liên hữu nghe tin, cũng đến trợ
niệm.
Sau khi niệm Phật được
hơn mười hai giờ một chút, bà chợt tỉnh
táo, tay lần xâu chuỗi, tự nh́n tượng Phật,
miệng lầm rầm niệm Phật. Giữa tiếng
trợ niệm của toàn thể con cháu và các liên hữu,
bà liên tục niệm Phật chẳng gián đoạn.
Đến trưa ngày Hai Mươi Tám, bà chánh niệm phân minh,
an tường mỉm cười văng sanh; thọ tám
mươi ba tuổi.
Lúc ấy, mùi hương lạ tràn
ngập cả nhà, ai ngửi thấy đều khen
ngợi. Mọi người tiếp tục trợ
niệm. Đến ngày hôm sau, lúc tắm rửa, thay áo, thân bà
vẫn mềm mại, tướng mạo hệt như
lúc c̣n sống. Lúc nhập liệm lại ngửi thấy
mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, hồi lâu
chẳng tan. Con cháu cảm động, liền suốt ngày
đêm niệm Phật đủ bảy ngày. Lúc trà tỳ,
thu được rất nhiều xá-lợi. (theo Cận Đại Văng Sanh
Truyện)
Nhận định:
Đại Sư Liên Tŕ nói: “Làm con đối với cha mẹ hầu hạ,
phụng dưỡng cho được an ổn là
hiếu; lập thân hành đạo để rạng
rỡ mẹ cha là đại hiếu. Nhưng khuyên cha
mẹ dùng pháp môn Niệm Phật để văng sanh Tịnh
Độ là đại hiếu nhất trong những sự
đại hiếu!”
Vị nữ cư sĩ này tuy
trước đă sẵn đủ thiện căn,
nhưng lúc tuổi già khổ sở v́ chồng chết,
được cháu gái khuyên niệm Phật liền tín
nguyện tận lực hành tŕ, nhưng lâm chung bị hôn
mê, phải nhờ đến con cháu chia phiên trợ
niệm mới tỉnh lại để niệm Phật,
mỉm cười văng sanh. Mùi hương lạ tràn
ngập cả nhà, tướng lành hiển nhiên.
Nguyện những kẻ làm con cháu trong
thế gian thấy điều lành hăy gắng làm theo
mới đúng là đại hiếu nhất trong những
người đại hiếu!
Bà lăo Bách Bất Quản đời Thanh
không rơ họ tên, người Hàng Châu; từng đến
hỏi ḤaThượng Đạo Nguyên ở Hiếu Từ Am
rằng:
- Tu pháp môn ǵ th́ trong một đời
quyết sẽ thoát khỏi biển khổ?
Ḥa Thượng dạy:
- Không ǵ bằng niệm Phật!
Nhưng niệm Phật chẳng khó, niệm cho lâu bền
mới khó. Niệm lâu bền chẳng khó, nhất tâm
mới khó. Nếu có thể chẳng quản đến
hết thảy, chuyên tâm tŕ danh, chí thành phát nguyện văng
sanh th́ lâm chung Phật đến tiếp dẫn, sẽ
thoát ly khổ hải!
Bà vui mừng lễ tạ, liền
đem việc nhà giao hết cho con, dâu v.v... tự lập
tịnh thất để thờ Phật hầu tu tŕ trong
ấy. Một năm sau, lại đến hỏi:
- Từ khi được khai thị,
đệ tử đă buông bỏ việc nhà, chuyên gắng
niệm Phật, tự vấn thấy ḿnh tu hành đă lâu
chẳng lười nhác, nhưng khổ nỗi vẫn
chưa được nhất tâm, thầy có cách nào dạy
cho con?
Ḥa Thượng bảo:
- Bà tuy bỏ hết việc nhà, nhưng
chưa thể thôi nghĩ tưởng đến con cháu,
quyến thuộc. Đấy là ái căn chưa nhổ, làm sao
nhất tâm được? Nay bà nên gia công, trước
hết phải nhổ sạch ái căn, đem hết
thảy buông xuống th́ sau đấy mới đắc
Nhất Tâm.
Bà than:
- Lời thầy thật đúng, con tuy
chẳng quản đến thân, nhưng chưa thể
chẳng quan tâm đến cái tâm, từ nay phải thật
sự trăm việc chẳng quan tâm đến vậy!
Bà liền càng gia công tinh tấn, ái tâm
vừa động liền thầm niệm ba chữ “bách
bất quản” để tự khu trừ. Nếu ai
hỏi đến việc nhà cũng dùng ba chữ ấy
để cự tuyệt. Do vậy, thành tên Bách Bất
Quản trong ṿng gia thuộc. Hơn một năm sau, bà
đến am, tạ:
- Thầy chẳng lừa dối con.
Đệ tử có ngày đi về Tây rồi!
Vài hôm sau, không bệnh mà mất. (theo Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Cư sĩ Hồ Liên Quy b́nh rằng: “Bách Bất Quản là hỗn danh.
Nói rộng ra, từ trăm đến ngàn, ngàn đến
vạn đều chẳng quản đến. Nói gọn
lại, một điều c̣n chẳng quản, huống
hồ là trăm? Làm được như vậy th́
trần duyên thân sau đoạn
được, tịnh nghiệp thành được. Than
ôi! Thế nhân làm sao đều trăm sự chẳng
quản như thế được ư?”
Pháp này tối diệu. Ai không đạt
được Nhất Tâm, xin hăy bắt chước cách
này mà tận lực hành tŕ.
Bà Châu Uông Thị[6], người Hoa
Đ́nh; chồng là Châu Văn Vinh, nhà nghèo, phải đi làm
ăn xa, chết nơi đất khách ở tỉnh
Hồ Bắc, lâu ngày không đưa tin về; bà phải
thêu thùa, may vá tự kiếm sống.
Bà trường trai niệm Phật, nuôi
con khôn lớn; sai t́m hài cốt cha đưa về quê an
táng, cả họ khen là có hiếu. Tuổi già, bà niệm
Phật càng thêm cung kính, chân thành, nguyện cha mẹ ḿnh,
bố mẹ chồng và chồng đều
được sanh về Cực Lạc.
Về sau bà mắc bệnh, đóng
cửa niệm Phật, chẳng hỏi đến
việc nhà. Lâm chung, bảo con rằng:
- Đêm qua, ta mộng thấy ông bà nội,
ông bà ngoại và cha con đều ở trong Liên Hoa thế
giới, đằng trước có mây ngũ sắc
hiện ra, nâng một đóa sen to như cái thuyền, ta
liền ngồi lên đó văng sanh.
Nói xong qua đời, cả nhà có mùi
thơm như hoa lan. (theo
Nhiễm Hương Tập)
Nhận định:
Chồng chết tu Tịnh nghiệp,
nguyện chồng cùng cha mẹ ḿnh, bố mẹ chồng
cùng sanh Cực Lạc, đều được măn
nguyện. Trong đời có kẻ tuổi xuân góa chồng,
nhưng chỉ uổng lưu truyền cái hư danh tiết
liệt, để lỡ mất cái lợi ích thật
sự được đồng quy Cực Lạc. Xin hăy
bắt chước gương này!
Thời Dân Quốc, một người
phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh
Triết Giang, không biết họ, nhà nghèo, con ngỗ
nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm
đau đớn, khó nhẫn, đến than thở
với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng
bảo:
- Bà đă biết khổ; sao chẳng
đem cái khổ ấy bán đi?
Hỏi:
- Làm sao bán được đây?
Tăng bảo:
- Bà chuyên niệm A Di Đà Phật cầu
sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến tiếp
dẫn ra đi, sẽ vĩnh viễn thoát khỏi các
nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Đấy là
bán khổ đi!
Bà nói:
- Mẹ con tôi sống chung một pḥng.
Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới
gầm giường có chuồng heo. Bẩn thỉu như
vậy làm sao niệm Phật được?
Tăng bảo:
- Không hề chi, bà sống tại gia th́
chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có
thể đến chùa lễ Phật.
Bà liền phụng hành đúng như
lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật
không gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm
chung vài tháng, bà nói trước với con:
- Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây
Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, v́ ta lo
liệu hậu sự để trọn đạo làm con.
Người con chẳng tin; ít lâu sau, bà
nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước khi
mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, t́m
khắp nơi chẳng biết từ đâu ra, mới tin
lời mẹ là thật. Đến kỳ, cả nhà trông
chừng, thấy mẹ tắm gội, thay áo, ngồi ngay
ngắn niệm Phật qua đời. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)
Nhận định:
Dùng cái tâm sợ khổ để
niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất
để thoát khổ. Nếu chẳng phải là nhà nghèo,
con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu
đựng nổi th́ làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ
niệm Phật sanh Tây? Thuận, nghịch đều là
phương tiện; nghịch cảnh c̣n thù thắng
hơn thuận!
* Đạo sĩ Vương Si Đầu
đời Thanh, người tỉnh Trực Lệ, tánh
cực ngu. Cha mẹ mất, đói ăn, nằm mọp
trong căn lều nát, không biết tính cách nào. Có ai cho
tiền cũng chẳng biết dè xẻn. Trần
đạo nhân bèn thâu gă làm đồ đệ, sai hằng
ngày quét tước, hái củi; khóa chiều th́ niệm
Phật vài trăm câu, lễ bái, thắp hương làm
lệ thường.
Vương tụng Phật hiệu
chẳng thành câu, mỗi lúc hôn trầm sắp ngủ
gục, ông Trần dùng gậy dài đập, quở:
- Mày đă ngu muội như vậy,
lại c̣n chẳng biết tinh tấn hay sao?
Suốt ba năm như thế. Một
ngày kia, Vương ha hả cười lớn. Ông Trần
lại đánh, Vương nói: “Hôm nay thầy đánh con
không được đâu!” Thầy cật vấn lư do,
Vương nói:
- Thầy ngồi như cây khô suốt
mười tám năm, chẳng biết tu pháp. Nếu
thầy có thể lễ niệm thật thà như con th́
đă sớm được sanh về Tây Phương
thấy Phật rồi!
Ông Trần ngạc nhiên, nhưng không quan
tâm đến lời ấy. Ngày hôm sau, Vương trèo lên
Tiêu Nhai, đứng hướng về Tây chắp tay qua
đời. Trà tỳ thu được hai viên xá-lợi. (theo Nhiễm Hương Tập)
* Thời Dân Quốc, bà A Ấu chẳng
rơ họ tên, người huyện Đài Trung tỉnh Đài Loan,
chỉ sanh được một đứa con gái, bắt
con rể ở rể. Do một chữ chẳng biết,
nên chỉ thật thà niệm Phật.
Mỗi Phật Thất mùa Xuân, mùa Thu
ở chùa Linh Sơn, bà đều kiền thành tham gia. Bà
thấy nam, nữ đồng tu đều mặc áo
hải thanh, trang nghiêm chỉnh tề, liền lấy vàng
để dành giao cho con rể đem bán, mong may áo hải
thanh tham gia Phật thất. Con rể chịu bỏ
tiền ra may, khuyên bà đừng bán vàng.
Đến sáng sớm ngày thứ nhất
của Phật Thất, bà tắm gội, thay áo, mặc áo
hải thanh mới. Trong lúc đang thắp hương,
đốt đèn, liên hữu là A Tam-muội đến
rủ đi dự Phật thất. Bà Ấu nói:
- Cô đi trước đi, tôi lễ
Phật tại nhà trước đă!
Bà mới hoan hỷ lại ba lạy
xong, chợt thấy thánh tượng của Tam Tôn xoay tṛn,
hương cũng xoay theo, càng nghĩ càng thấy kỳ,
càng nh́n càng thấy chuyển. Bà liền đi kêu mấy
liên hữu ở gần đến xem. Ai cũng bảo là
chẳng thấy chuyển động. Chẳng nghe bà
ừ hử ǵ, lúc quay đầu ngó lại, thấy bà
đứng thẳng, chắp tay, mỉm cười quy
Nhận định:
Phật dùng thuyền Từ phổ
độ, khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chỉ biết
thật thà niệm Phật. Một đạo sĩ si
ngốc, một bà lăo ngu ngơ trên đây, tuy chưa
từng thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng do thật thà
niệm Phật nên đứng chắp tay mà hóa, ắt
họ đều thấy Phật đến tiếp
dẫn, văng sanh Cực Lạc. Xin những kẻ tự
cậy ḿnh thông minh, chẳng chịu niệm Phật, hăy
biết chỗ quy hướng vậy!
Niệm Phật Pháp Yếu
Bí
Quyết Niệm Phật của Ấn Quang đại
sư
Tâm tánh của ta giống hệt chư
Phật, chỉ do mê trái, luân hồi chẳng ngơi!
Như
Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến khắp
hàm thức biết đường về nhà.
Pháp môn tuy nhiều, cốt yếu
chỉ có hai pháp môn là Thiền và Tịnh là liễu thoát
dễ nhất.
Thiền chỉ tự lực, Tịnh
kiêm Phật lực. So sánh hai pháp, Tịnh khế cơ
nhất.
Như người vượt biển
phải nhờ thuyền bè mau chóng đến bờ kia,
thân tâm thản nhiên.
Chúng sanh đời mạt, chỉ có
thể hành pháp này. Nếu không, trái nghịch căn cơ,
nhọc nhằn, nhưng khó thành.
Phát đại Bồ Đề, sanh chân tín
nguyện, suốt đời kiên tŕ, chỉ nghĩ
đến Phật.
Niệm đến cùng cực, t́nh
kiến mất sạch, niệm mà vô niệm. Diệu
nghĩa Thiền, Giáo triệt để hiển hiện.
Đến lúc lâm chung, được
Phật tiếp dẫn. Lên ngay thượng phẩm,
chứng Vô Sanh Nhẫn.
Có một bí quyết, khẩn thiết
bảo ban, cạn ḷng thành kính, diệu, diệu, diệu,
diệu!
[1] Nguyên văn là “châu phán” vốn là một
chức quan phụ tá quan Tri Châu. Do chức vụ này
được đặt ra dưới đời Thanh,
trong khi ngài Tuân Thức sống vào đời Tống, nên
chúng tôi đành dịch hàm hồ là “quan cai trị
địa phương” v́ không rơ chức quan này thật
sự tương đương với chức quan nào
dưới đời nhà Tống.
[2] Đơn: là một tấm gỗ thô
hẹp, dài; kê thay cho giường nằm. V́ miếng
gỗ ấy chỉ vừa đủ cho một
người nằm khít nên gọi là đơn.
[3] Đại Sư sáng lập Linh Nham nhưng
không ở đó mà giao cho pháp sư Chân Đạt trông coi, lui
về ẩn cư ở Tô Châu, năm 77 tuổi mới
về lại Linh Nham
[4] Trắc Hội Học Đường:
Trường dạy ngành đo lường, vẽ bản
đồ.
[5] Áo hải thanh: Là loại áo tràng màu
đen rộng tay, bốn tà, màu đen, nâu, hoặc xanh
thẫm, cài xéo; ta thường gọi là “hậu”, c̣n ca-sa
gọi là “y”.
[6] Châu Uông Thị: Bà này họ Uông, lấy
chồng họ Châu. Người Hoa hay gọi tên đàn bà
theo họ chồng, không nêu rơ tên; chỉ gọi họ.
Cũng như bà Dư Tông Thị trong phần Miễn
Cưỡng Niệm Phật ở trên, chồng họ
Dư, bà ta họ Tông.