Niệm Phật Pháp Yếu

念佛法要

Tịnh Nghiệp Đệ Tử Dịch Viên

Mao Lăng Vân kính cẩn biên tập Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

kính dịch sang Việt ngữ

 

QUYỂN II  GƯƠNG SÁNG NIỆM PHẬT

Tịnh nghiệp đệ tử Dịch Viên Mao Lăng Vân cung kính kết tập

 

Từ lúc Huệ Viễn đại sư thời Đông Tấn đề xướng tu Tịnh Độ đến nay, sự tích văng sanh của tăng, ni và nông, công, thương gia, những kẻ tạo tội, người bệnh tật khổ sở trong các đời đâu phải chỉ có ức vạn; những chuyện được ghi chép trong các sách vở chỉ là một, hai trường hợp được tạm thấy biết đến trong cả ức vạn trường hợp mà thôi.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo. Ở đây, tôi lược trích những sự hành tŕ của họ để chúng ta học theo, lấy đó làm khuôn phép. Nguyện những ai xem đến di tích của các vị tiên đức, trông thấy đức hạnh của người khác sẽ mong chính ḿnh được bằng mà sốt sắng dốc chí tu hành.

 

1. Thấy tướng lành chẳng nói

 

Huệ Viễn đại sư đời Tấn là Sơ Tổ của Liên Tông, họ Giả, người xứ Nhạn Môn. Ngài tinh thông cả Nho lẫn Lăo. Năm hai mươi mốt tuổi, nghe pháp sư Đạo An giảng kinh Bát Nhă, hốt nhiên đại ngộ, than rằng:

- Nho, Đạo cửu lưu đều chỉ là bă hèm.

Liền xuất gia, thề hoằng dương Phật giáo. Ngài Đạo An khen ngợi:

- Khiến cho đạo pháp được lưu hành ở Trung Nguyên phải nhờ vào ông Viễn!

Sau đấy, Ngài trụ tại chùa Đông Lâm trên Lô Sơn, suất lănh đại chúng hành đạo, đào ao trồng sen. Trên mặt nước thả hoa sen mười hai cánh xoay chuyển theo sóng nước nhằm phân định thời khắc ngày đêm để biết thời hạn tu hành. Ngài cùng với các ông Lưu Di Dân v.v… hơn một trăm hai mươi ba người cả Tăng lẫn tục sáng lập Liên Xă, sáu thời niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ngài ở trong núi suốt ba mươi năm chẳng hề đặt chân vào cơi trần; chuyên chí Tịnh Độ, lắng ḷng hệ niệm, thấy thánh tượng cả ba lần, nhưng vẫn giấu kín không nói.

Một đêm, lúc Ngài vừa xuất định, bỗng thấy A Di Đà Phật thân đầy chật cả hư không, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy nước chảy, quang minh chia làm mười bốn nhánh cùng chảy lên, rót xuống, diễn thuyết diệu pháp.

Phật dạy:

- Do bổn nguyện lực nên ta đến an ủi ông. Sau bảy ngày nữa, ông sẽ sanh về cơi ta!

Những vị trong Liên Xá đă văng sanh trước như các ông Lưu Di Dân, Phật Đà Da Xá v.v… đều hầu bên Phật. Sư bảo:

- Lúc ta mới ở đây, ba lần thấy thánh tượng; nay lại được thấy, ắt sẽ sanh về Tịnh Độ.

Đến thời hạn, Ngài liền đoan tọa nhập tịch, thọ tám mươi ba tuổi.

(theo Đông Lâm Truyện)

 

Nhận định:

Nếu như thấy tướng hảo liền muốn nói cho mọi người biết, ắt sẽ bị ma gây lầm lạc, khiến nguyện hạnh bị thoái thất. Xin hăy bắt chước Ngài: Ba lần thấy nhưng không nói, chỉ đến lúc lâm chung mới cho biết mà thôi!

 

2. Thiên chúng đến đón chẳng đi

 

* Đại sư Tăng Tạng đời Đường, người xứ Tây Hà. Tuổi nhỏ xuất gia, nép ḿnh thờ người, hết thảy cung kính, chẳng nề hà lao khổ. Thấy tăng y của người khác liền ngầm giặt giũ giùm, rồi lại vá chằm. Ngày nắng gắt, Sư cởi áo ngồi trong đám cỏ để thí máu thịt cho các loài muỗi, ve.

Hằng ngày, Ngài niệm Phật hiệu chẳng cần ghi số, chỉ ngầm nhớ rơ trong tâm, chưa hề thiếu sót. Đến khi báo tận, thấy chư thiên theo thứ tự đến đón, Ngài đều chẳng theo. Ngài chợt bảo mọi người:

- Vừa về Tịnh Độ, thấy các thượng thiện nhân rải hoa trên không.

Rồi chắp tay niệm Phật mà hóa.

(theo Cao Tăng Truyện, tập ba)

 

* Đại sư Thiện Ngang đời Đường, người Ngụy Quận. Chí kết Tây Phương, nguyện sanh An Dưỡng. Sau Ngài ngụ tại chùa Báo Ứng, biết đă đến lúc, bèn bảo trước những người hữu duyên: Đầu tháng Tám sẽ chia tay. Đến kỳ, Ngài lên ṭa cao, lư tỏa mùi hương lạ, dẫn tứ chúng thọ Bồ Tát giới, dạy dỗ những điều thiết yếu. Chợt thấy thiên chúng rộn ràng, đàn sáo véo von. Ngài bảo đại chúng:

- Trời Đâu Suất Đà đến đón ta; nhưng Thiên đạo chính là căn bản sanh tử, chẳng phải chỗ ta ước mong. Ḷng ta thường mong sanh về Tịnh Độ, nguyện này chẳng được thỏa hay sao?

Nhạc trời bỗng bặt tiếng. Từ phương Tây, hương, hoa, âm nhạc vùn vụt kéo đến, xoay quanh trên đỉnh đầu, toàn thể mọi người đều thấy. Sư bảo:

- Nay tướng lành Tây Phương đến đón. Ta đi đây.

Nói xong liền tịch, thọ sáu mươi chín tuổi.

(theo Cao Tăng Truyện, tập hai)

Nhận định:

Lúc lâm chung, Tứ Đại chia ĺa là lúc nào vậy? Chư Thiên lần lượt đến đón là cảnh nào đây? Nếu chẳng phải là bậc tín nguyện kiên cố th́ ngay trong lúc đó, đối trước cảnh ấy làm sao cưỡng làm chủ tể nổi? Đây đúng thật là gương sáng thiên cổ cho những kẻ tu Tịnh nghiệp vậy. Nếu không, một phen sanh lên trời, sẽ lại đọa trong luân hồi. Xin đừng lầm tin ngoại đạo cầu sanh Thiên Quốc.

 

3. Niệm Phật chẳng ngơi

 

Đại sư Thiện Đạo đời Đường là Tổ thứ hai của Liên Tông. Nhân thấy đạo tràng Tịnh Độ Cửu Phẩm của thiền sư Đạo Xước, Ngài liền vui mừng bảo:

- Đây chính là phương cách trọng yếu để thành Phật. Tu các hạnh nghiệp khác ngoắt ngoéo khó thành; chỉ có pháp môn này là chóng thoát sanh tử.

Từ đó, Ngài tinh tấn, siêng năng lễ niệm. Ít lâu sau, đến kinh sư, Ngài khích lệ tứ chúng. Mỗi lần nhập thất, thường quỳ thẳng niệm Phật, nếu chưa kiệt sức th́ chẳng nghỉ. Dù cho lúc trời lạnh đến mức đóng băng, Ngài vẫn [niệm Phật đến khi] toát mồ hôi [mới thôi] để bày tỏ ḷng chí thành.

Thường khi Ngài niệm Phật một tiếng, có một ánh quang minh từ trong miệng tỏa ra. Từ mười câu cho đến ngàn câu cũng đều tỏa sáng như vậy, ai nấy đều thấy. Ngoài việc niệm Phật, Sư liền diễn nói pháp môn Tịnh Độ, không hở lúc nào chẳng làm việc lợi sanh.

Hơn ba mươi năm, Ngài chưa từng ngủ nghỉ, ngoại trừ lúc tắm gội, Ngài chưa hề cởi y; hộ tŕ giới phẩm chẳng phạm mảy may. Trọn chẳng màng danh lợi, không hề cười đùa. Mỗi lần đi đâu, Ngài thường đi một ḿnh, không cho ai đi cùng, sợ phải bàn chuyện đời trở ngại việc tu đạo nghiệp. Ba y, bát sành, Ngài đích thân cầm giữ, giặt, rửa lấy. Thức ăn ngon dành cho đại chúng, món thô dở Ngài dành cho ḿnh; các thứ sữa, lạc, đề hồ đều chẳng nếm đến.

Tất cả những thứ được cúng thí Ngài đều dành để chép kinh Di Đà tới hơn mười vạn quyển, vẽ hơn ba trăm bức Tây Phương Thánh Cảnh, sửa chùa, dựng tháp, thắp đèn nối sáng suốt năm chẳng ngớt. Cả tăng lẫn tục được Ngài giáo hóa, có người tụng kinh Di Đà từ mười vạn đến năm mươi vạn biến; nhật khóa niệm danh hiệu Phật từ một vạn đến mười vạn. Trong số ấy, những người đắc tam-muội, văng sanh Tịnh Độ chẳng thể ghi chép nổi.

Ngài đột nhiên bảo mọi người:

- Thân này đáng chán, ta sẽ về Tây!

Liền trèo lên cây liễu trước chùa, hướng về Tây, cầu:

- Nguyện Phật tiếp dẫn con, Bồ Tát giúp con, khiến con chẳng mất chánh niệm, được sanh An Dưỡng!

Đứng ngay ngắn mà tịch.

(theo Phật Tổ Thống Kỷ)

 

Nhận định:

Đại Sư là hóa thân của Phật A Di Đà, chỉ bày khuôn phép niệm Phật rộng độ chúng sanh. Xin hăy bắt chước Ngài, tuyệt ư danh lợi, niệm Phật chẳng ngơi.

 

4. Thề lấy đài vàng

 

Đời Đường, Hoài Ngọc đại sư, họ Cao, người xứ Đan Khâu, chấp tŕ giới luật, ngày ăn một bữa. Tụng kinh Di Đà ba mươi vạn biến, nhật khóa niệm Phật năm mươi vạn câu, thường hành sám hối. Chợt thấy thánh chúng Tây Phương đầy chật hư không, một vị cầm đài bạc đến đón. Sư bảo:

- Tôi một đời niệm Phật, thề đạt được đài vàng, sao lại chẳng được vậy?

Thánh chúng liền biến mất. Ngài lại càng thêm tinh tấn, đến hai mươi mốt ngày sau, người bưng đài lại đến bảo:

- V́ Sư tinh tấn, nhọc nhằn, nên được thăng lên Thượng Phẩm. Hăy nên ngồi xếp bằng chờ Phật đến đón.

Ba ngày sau, ánh sáng lạ tràn ngập cả thất. Sư bảo:

- Nếu ngửi thấy mùi hương lạ th́ báo mạng của ta sẽ tận.

Ngài viết kệ:

Một đời khổ hạnh siêu mười kiếp

Măi ĺa Sa Bà về Tịnh Độ.

Ngay lập tức, mùi hương ngập thất, thánh chúng đông nghịt. Phật và hai vị Bồ Tát cùng ngự đài vàng đến đón. Ngài mỉm cười mà tịch. (Theo Cao Tăng truyện, quyển ba)

 

Nhận định:

Theo Quán Kinh, chỉ bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh mới ngự đài kim cang. Nếu chẳng bội phần tinh tấn, siêng khó, đốn siêu mười kiếp, làm sao đạt được như vậy? Đủ chứng minh có chí ắt thành công, có nguyện ắt được thỏa. Xin hăy cùng bắt chước Ngài tinh tấn, thề đạt được đài vàng.

 

5. Lấy việc lợi lạc chúng sanh làm đầu

 

Tự Giác đại sư đời Đường, người xứ Bác Lăng. Xuất gia từ nhỏ, học Kinh, Luật, Luận siêng năng suốt cả chín năm, kinh luận nào cũng đều hiểu sâu sắc. Về sau, Ngài trụ tại Trùng Lâm Sơn Viện trong núi B́nh, nhặt quả, hái rau, mỗi ngày chỉ ăn một bữa, phát tâm đúc tượng đức Đại Bi Quán Âm và dựng chùa Phật.

Gặp lúc đại hạn, Tiết Độ Sứ xứ Hằng Dương là ông Trương thỉnh Ngài cầu mưa. Ngài kiền thành khẩn cáo long thần, mưa to liền đổ xuống. Do đó, thí chủ chen nhau tụ về, đúc được tượng cao bốn mươi chín thước, chùa cũng dựng xong. Ngài liền đối trước đàn, thệ nguyện nương nhờ Thánh lực sớm sanh Tịnh Độ. Chợt thấy hai đạo kim quang: A Di Đà Phật và hai vị Đại Sĩ từ trong quang minh giáng xuống, x̣e tay sắc vàng xoa đầu Sư, bảo:

- Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu. Sanh chốn ao báu, mặc t́nh thỏa nguyện.

Về sau, Sư chợt thấy thần nhân đứng trong mây hiện nửa thân, bảo:

- Thời kỳ Sư quy Tây đă đến rồi!

Ngài liền ngồi xếp bằng trước tượng Quán Âm mà hóa.

(theo Cao Tăng Truyện, quyển ba)

 

Nhận định:

Phàm những việc như tạo tượng, lập chùa, cầu mưa lợi người v.v… đều là những trợ duyên cho Tịnh nghiệp. Đem những việc ấy hồi hướng Tây Phương. Do làm được như vậy nên Phật dạy: “Giữ nguyện chẳng đổi, lấy việc lợi sanh làm đầu”. Nếu như Ngài chẳng có mật hạnh niệm Phật, làm sao cảm được đức Phật đến xoa đầu?

 

6. Khổ hạnh chuyên niệm

 

Thừa Viễn đại sư đời Đường là Tổ thứ ba của Liên Tông. Sư theo học với Ngọc Tuyền Chân Công, được sai về ngụ tại Hành Sơn để giáo hóa. Ngài sống dưới gộp đá ở phía Tây Nam núi, ai cho ăn th́ ăn, chẳng ai cho th́ ăn bùn đất. Thân gầy mặt lem, c̣m cơi như que củi. Phàm giáo hóa người, Ngài mong cho họ mau được chứng đắc, nên thường dạy họ chuyên niệm. Ngài viết [lời khuyên chuyên niệm] trên các đường, hẻm, khắc lên hang hốc, tận lực khuyên dạy, số người được Ngài hóa độ tính ra đến cả vạn. Ai nấy đều mang đến vải vóc, chặt cây, san đá, xếp thành pḥng đá. Ngài chẳng cự tuyệt, chẳng tính toán mà chùa điện đều có đủ, đặt tên là chùa Di Đà. Số tiền xây cất c̣n dư đem thí cho những người đói nghèo, bệnh tật. Khi ấy, đại sư Pháp Chiếu ở Lô Sơn, nhập định đến cơi An Lạc, thấy có một vị mặc áo rách đứng hầu Phật. Phật bảo: “Đây là ông Thừa Viễn ở Hành Sơn”. Xuất định, Sư liền đi t́m, xin theo học, truyền giáo khắp nơi. Về sau tổ Thừa Viễn tịch ở chùa, thọ chín mươi mốt tuổi.

(theo Liễu Hà Đông Văn Tập)

 

Nhận định:

Ăn đất, mặc áo rách: Dùng khổ hạnh để tiêu nghiệp. Của dư đem bố thí: Chẳng tích chứa để lụy tâm. Dạy người chuyên niệm, tuy c̣n sống đă hầu Phật, hạnh của Ngài chuyên tinh, văng sanh Thượng Phẩm không c̣n ngờ ǵ nữa!

 

7. Phước huệ song tu

Ngũ Hội Pháp Chiếu đại sư đời Đường, là Tổ thứ tư của Liên Tông; trụ tại chùa Vân Phong ở Hành Châu. Siêng tu chẳng lười, được Văn Thù Bồ Tát dùng sức oai thần đưa vào thánh cảnh Ngũ Đài. Ngài làm lễ, thưa:

- Phật pháp mênh mông, tu pháp môn nào là thiết yếu nhất?

Ngài Văn Thù dạy:

- Nay ông niệm Phật th́ chính là đúng thời. Trong các hạnh môn để tu, không có môn nào hơn được Niệm Phật. Cúng dường Tam Bảo, phước huệ song tu. Hai môn ấy là đường tắt trọng yếu nhất. Trong kiếp quá khứ, ta do niệm Phật và cúng dường, nên đắc Nhất Thiết Chủng Trí.

V́ vậy, trong hết thảy các pháp Bát Nhă Ba La Mật, Thiền Định rất sâu, thậm chí chư Phật đều do từ niệm Phật mà thành. V́ thế, biết rằng: Niệm Phật là vua của các pháp. Ông hăy nên thường niệm chớ để gián đoạn.

Sư hỏi:

- Niệm như thế nào?

Đức Văn Thù dạy:

- Phía Tây thế giới này có đức A Di Đà Phật. Đức Phật ấy nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn. Ông nên niệm liên tiếp chẳng để gián đoạn th́ khi mạng chung quyết định văng sanh, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển.

Bồ Tát lại duỗi cánh tay sắc vàng xoa đảnh, thọ kư:

- Do ông niệm Phật, nên chẳng bao lâu sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Nếu những kẻ thiện nam, thiện nữ mong chóng được thành Phật, không ǵ hơn pháp Niệm Phật, sẽ mau chứng Bồ Đề.

Sư hoan hỷ làm lễ, lui ra. Từ đấy, dốc chí niệm Phật, ngày đêm chẳng bỏ luống, thề sanh Tịnh Độ. Chợt thấy Phạm tăng Phật Đà Ba Lợi bảo:

- Hoa sen của ông đă viên măn. Ba năm nữa, hoa sẽ nở.

Đến kỳ, Ngài bảo đại chúng:

- Ta đi đây!

Đoan tọa mà tịch.

(theo Cao Tăng Truyện tập ba và Lạc BangVăn Loại)

 

Nhận định:

Đại Sư được đức Văn Thù khai thị: “Niệm Phật cúng dường, phước huệ song tu là khẩn yếu, nhanh chóng nhất”. Xin hăy tin nhận, vâng làm, ngày đêm chẳng bỏ uổng, thề sanh Tịnh Độ, mau chứng Bồ Đề.

 

8. Dụ trẻ nhỏ niệm Phật

 

Đại sư Đài Nham Thiếu Khang đời Đường là Tổ thứ năm của Liên Tông. Ngài họ Châu, người xứ Tấn Vân, xuất gia từ nhỏ, thông kinh luận, giỏi Luật Tạng. Về sau, Ngài đến chùa Bạch Mă ở Lạc Dương, do thấy bài Tây Phương Hóa Đạo Văn của đại sư Thiện Đạo phóng quang, nên đến chùa Quang Minh ở Trường An chiêm lễ nơi đài hiện bóng của đại sư Thiện Đạo; cảm được đại sư hiện thân trên không, dạy:

- Ông tuân lời ta dạy, rộng hóa độ hữu t́nh. Ngày sau công thành, ắt sanh An Dưỡng.

Ngài liền qua Tân Định, không ai biết đến Ngài. Ngài bèn xin tiền để dụ trẻ nhỏ niệm Phật, cứ niệm được một tiếng bèn cho một đồng. Sau một tháng, trẻ niệm Phật để được tiền đă đông. Sư bảo:

- Niệm Phật mười tiếng ta mới cho tiền.

Nhiều năm như thế, hễ trai, gái, trẻ, già thấy Sư đều thưa A Di Đà Phật. Tiếng niệm Phật vang khắp mọi nẻo đường. Sau đấy, Ngài đến núi Ô Long, kiến lập Tịnh Độ đạo tràng, xây đàn ba bậc. Vào mỗi ngày trai, thiện tín tụ lại xong; Ngài liền lên ṭa cao, lớn tiếng niệm Phật, đại chúng ḥa giọng theo. Thấy Sư niệm Phật một tiếng, một vị Phật từ trong miệng bay ra. Mười tiếng là mười vị Phật như xâu chuỗi.

Sư nói:

- Các vị thấy Phật, ắt được văng sanh.

Mọi người đều vui mừng. Người lễ Phật đông đến mấy ngàn, nhưng cũng có người chẳng được thấy. Sư chợt dặn ḍ kẻ Tăng, người tục:

- Nên khởi tâm tăng tấn đối với Tịnh Độ, sanh tâm chán ĺa Diêm Phù Đề. Hiện thời các ông thấy quang minh của ta th́ đúng là đệ tử của ta.

Nói xong, liền phóng ra mấy đạo quang minh lạ thường rồi tịch.

(theo Cao Tăng Truyện, tập ba)

 

Nhận định:

Xin tiền dụ trẻ niệm Phật là tài thí và pháp thí để rộng hóa độ hữu t́nh. Phật từ miệng bay ra, phóng quang mà tịch chính là niệm Phật thành công, ắt sanh An Dưỡng vậy!

 

9. Vạn hạnh trang nghiêm

 

Đại sư Vĩnh Minh Trí Giác Xung Huyền Diên Thọ đời Tống là Tổ thứ sáu của Liên Tông. Ngài là con nhà họ Vương ở Tiền Đường, trông nom việc thuế. Ngài thường dùng tiền công quỹ để mua loài vật phóng sanh nên mắc tội chết.

Lúc sắp gia h́nh, Tiền Văn Mục Vương sai người ŕnh xem thấy Ngài chẳng đổi sắc, vương ra lệnh tha. Ngài liền xuất gia, tham học với ngài Chiếu Quốc Sư thuộc tông Thiên Thai, thấy rơ tâm yếu.

Do nguyện xưa chưa quyết, Ngài lên Trí Giả Nham, làm hai cái thăm “nhất tâm Thiền Định” và “vạn hạnh trang nghiêm Tịnh Độ”, dốc ḷng tinh thành cầu đảo, bảy lần rút đều trúng cái thăm Tịnh Độ. Do vậy, Ngài một dạ tu Tịnh nghiệp, được đức Quán Âm dùng cam lộ rưới vào miệng, đắc đại biện tài, soạn bộ Tông Kính Lục và Vạn Thiện Đồng Quy Tập chỉ quy Tịnh Độ.

Về sau, Ngài trụ ở chùa Vĩnh Minh, mỗi ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự. Đêm lên ngọn núi khác, đi kinh hành niệm Phật, người ta nghe tiếng nhạc trời rền vang không trung. Ngài tụng kinh Pháp Hoa được một vạn ba ngàn bộ; đệ tử một ngàn bảy trăm người. Sư thường truyền Bồ Tát giới cho đại chúng, thí thức ăn cho quỷ thần, bỏ tiền chuộc mạng cho sanh vật, [những việc ấy] đều hồi hướng về Tịnh Độ.

[Một hôm], Ngài chợt thắp hương, gọi đại chúng rồi ngồi xếp bằng mà tịch, thọ bảy mươi hai tuổi. Về sau, có vị Tăng bị bệnh, thấy ḿnh xuống âm phủ, thấy Diêm vương thờ một bức họa bên trái điện, siêng năng lễ bái. Hỏi ra mới biết Sư đă văng sanh Thượng Thượng Phẩm. Vua trọng đức của Ngài nên lễ kính vậy.

(Theo Lạc Bang Văn Loại)

 

Nhận định:

Đại Sư là hóa thân của A Di Đà Phật, do bảy lần bói đều rút được cái thăm Tịnh Độ, nên mới nhất ư niệm Phật, Thượng Phẩm Thượng Sanh. V́ chí tại Thiền Định, nên về hạnh Ngài phải xả Thiền tu Tịnh để làm gương vậy.

 

10. Kết xă khích lệ lẫn nhau

 

Đại sư Tạo Vi Tỉnh Thường đời Tống là Tổ thứ bảy của Liên Tông. Ngài họ Nhan, người huyện Tiền Đường. Bảy tuổi xuất gia, mười bảy tuổi thọ Cụ Túc Giới. Ngài lấy việc kiên tŕ giới luật, chuyên xưng danh hiệu, phát Bồ Đề tâm, kết xă để khích lệ lẫn nhau làm chánh nhân Tịnh Độ. Ngài trụ tại chùa Chiêu Khánh ở Hàng Châu, hâm mộ di phong Lô Sơn của Tổ Huệ Viễn nên thành lập Tịnh Hạnh Xă. Trong nhóm sĩ phu dự hội có quan Tướng Quốc Văn Chánh Công Vương Đán v.v… một trăm hai mươi người đều xưng là Tịnh Hạnh Đệ Tử, c̣n Tăng th́ có đến một ngàn vị đồng tu Tịnh nghiệp.

Ngài cắt máu chép phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Mỗi ngày chép một chữ, ba lạy, nhiễu ba ṿng, ba lượt xưng danh hiệu Phật. Chép được ngàn quyển, thí cho ngàn người. Ngài dùng chiên đàn hương khắc tượng Vô Lượng Thọ Phật, quỳ trước tượng, phát nguyện:

- Con cùng đại chúng bắt đầu từ ngày hôm nay trở đi phát Bồ Đề tâm. Cho đến cùng tột đời vị lai, hành hạnh Bồ Tát. Nguyện hết một báo thân này, sẽ sanh An Dưỡng

Một hôm, trong lúc ngồi nghiêm trang niệm Phật, Ngài chợt kêu to: “Phật đến rồi!”, lặng lẽ mà hóa. Đại chúng thấy mặt đất đều có màu vàng ṛng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Kỷ)

 

Nhận định:

Kết xă khích lệ lẫn nhau đúng là tự lợi, lợi tha. Nhưng để thực hành được điều này trong hiện tại, phải có bậc hữu đức thống suất đại chúng cộng tu, rất kỵ nam nữ hỗn tạp. Nếu không có được cơ duyên như vậy, chẳng thà đóng cửa tiềm tu, so ra c̣n dễ tinh tấn hơn!

 

11. Thề tu hành đến chết

 

Đại sư Từ Vân Tri Bạch Tuân Thức đời Tống, người xứ Ninh Hải, họ Diệp. Lúc đầu học Luật, sau nghiên cứu giáo nghĩa tông Thiên Thai, luôn siêng khổ, tự khích lệ. Sau đó, Ngài qua chùa Bảo Vân tu pháp Ban Châu tam-muội, nhọc nhằn đến nỗi thổ huyết, hai chân rách toạc cả da, thề tu hành đến chết.

Ngài mộng thấy đức Quán Âm chỉ vào miệng, khều ra mấy con trùng, dùng cam lộ rưới vào; tỉnh dậy, thân tâm thanh lương, các bệnh tật mất hết, trí huệ, biện tài vô ngại. Ngài viết bài kư thề sanh Tây Phương; rồi liền kết hội Tăng lẫn tục chuyên tu Tịnh nghiệp.

Ít lâu sau, Ngài trở về Đông Dịch, lập tinh xá, suất lănh đại chúng chuyên tu Niệm Phật tam-muội. Tuổi già, Ngài trụ tŕ các chùa Chiêu Khánh, Linh Sơn v.v…. ở Hàng Châu, xin quan cai trị địa phương[1] là Vương Hân Nhược phê chuẩn cho dùng Tây Hồ làm ao phóng sanh.

Ngài soạn các sám pháp viên dung Tam Quán, lấy Tịnh Độ làm chỗ quy thú. Ngài soạn sách Tịnh Độ Quyết Nghi Hạnh Nguyện Nhị Môn và đề ra pháp Thập Niệm vào lúc sáng sớm, soạn Văng Sanh Lược Truyện v.v… được lưu hành trong cơi đời.

Đột nhiên, Ngài làm thơ từ tạ thế gian và tỏ lời từ biệt đại chúng, cho biết Ngài sắp quy tịch. Ngài liền thị hiện có chút bệnh, từ chối không dùng thuốc, lược nói pháp yếu cho đại chúng, thắp hương lễ Phật, thỉnh Phật chứng minh, văng sanh An Dưỡng; lại c̣n bày tỏ chỗ ḿnh muốn về là Tịch Quang Tịnh Độ. Đến chiều, Ngài tọa hóa, thọ sáu mươi chín tuổi.

(Theo Phật Tổ Thống Kư)

 

Nhận định:

Muốn cầu được phú quư trong đời hiện tại c̣n phải ra sức đến chết, huống hồ là muốn liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh ư? Nếu chẳng lấy cái chết làm lời thề th́ làm sao tọa hóa, văng sanh cơi Thường Tịch Quang Tịnh Độ cho được?

 

12. Thỉnh Tăng trợ niệm

Đại sư Tư Chiếu đời Tống, họ Dương, người huyện Tiền Đường. Thuở nhỏ theo học với ngài Thần Ngộ lănh hội được yếu chỉ rất nhiều. Ngài cắt máu chép kinh Pháp Hoa đến mười bộ; cứ mỗi một chữ là một lạy.

Ngài tụng Quán Kinh được năm tạng, kinh Di Đà mười tạng, kinh Pháp Hoa một ngàn bộ. Lễ các kinh Hoa Nghiêm, Phạm Vơng, bảy kinh Tịnh Độ v.v… được hai trăm bảy mươi quyển. Ngài chuyên tu Niệm Phật tam-muội, dựng một am nhỏ đặt tên là Đức Vân, khắc tượng Tam Thánh. Mỗi đêm, vừa mới canh tư đă dạy niệm Phật. Tỳ-kheo lười nhác nghe tiếng Ngài niệm mà run rẩy, hổ thẹn. Mỗi tháng, vào ngày hai mươi ba, Sư suất lănh Tăng, tục hệ niệm Tam Thánh. Suốt cả ba mươi năm, đại chúng nhóm về thường đến cả ngàn người.

Ngài chợt bảo đồ chúng:

- Ta mộng thấy thân Phật vàng trượng sáu, đấy là điềm văng sanh.

Liền mỗi ngày thỉnh bảy vị Tăng trợ niệm. Đến tối ngày thứ bảy, Ngài chợt nhỏm dậy, chắp tay, lớn tiếng niệm Phật, ngồi xếp bằng, kết ấn mà hóa. Lúc trà-tỳ, răng Ngài sáng rực như ngọc.

(theo Phật Tổ Thống Kỷ)

 

Nhận định:

Đại Sư chuyên tu Niệm Phật Tam-muội ba mươi năm, trước khi lâm chung mộng thấy Phật mà c̣n thỉnh Tăng trợ niệm. Bọn phàm phu chúng ta rất phải nên chú ư điểm này.

 

13. Đi kinh hành thành vết trũng

 

Đại sư Nghĩa Tú đời Minh, người xứ Ôn Lư. Trụ tại am Tán Thán ở đất Bồ, nhật khóa niệm A Di Đà Phật hơn mười vạn tiếng, sáng chiều không gián đoạn suốt hơn năm mươi năm. Chỗ Ngài đi kinh hành, gạch ṃn thành vết trũng, hoặc thủng xuống tận đáy. Người khác thử sửa sang, ít lâu sau lại ṃn như cũ.

Thoạt đầu, có kẻ nghèo chẳng tự kiếm ăn nổi, đến sống nhờ [nhà chùa]; lâu ngày, làm điều bất thiện. Sư quở: “Ngươi đúng là giặc!” Hắn bèn ước hẹn đồng bọn, nhân đêm tối đến đánh Sư. Đánh lần thứ nhất, tiếng niệm Phật vẫn c̣n vang rền. Đánh lần nữa, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Đến khi khí tuyệt, Sư bèn tịch. (Theo Tử Bách Lăo Nhân Tập)

 

Nhận định:

Đại sư Tử Bách ca ngợi: “Đến lúc sắp chết, tiếng niệm Phật vẫn chẳng dứt. Ngay cả khi bắp đùi đă găy, Ngài vẫn c̣n có thể ngồi xếp bằng để qua đời. Nếu chẳng phải là suốt năm mươi năm chí khí kiên cường lẫm lẫm th́ làm sao đạt nổi như thế?”

Đây chỉ là nghiệp trái nhiều đời, nhân duyên hội ngộ, nên trả nợ ngay trước khi văng sanh. Chớ lầm là v́ cả một đời niệm Phật nên mắc phải ác báo!

 

14. Rộng tu các điều thiện

 

Đại sư Liên Tŕ Phật Huệ Châu Hoằng đời Minh là Tổ thứ tám của Liên Tông, người xứ Nhân Ḥa, họ Trầm. Năm mười bảy tuổi, Ngài được bổ làm thầy dạy các sinh đồ v́ học vấn và đức hạnh đều xứng đáng.

Ngài nghe người hàng xóm tŕ danh hiệu Phật, không bệnh tật ǵ mà mất, biết niệm Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn, liền dốc ḷng gửi nơi Tịnh Độ, viết bốn chữ “sanh tử sự đại” treo ngay đầu án thư để tự răn nhắc ḿnh. Năm ba mươi hai tuổi, Ngài xuất gia, tham yết các vị đại lăo Biến Dung, Tiếu Nham… tham cứu câu “người niệm Phật là ai?” có phần lănh hội.

Sau đấy, Ngài trụ trong núi Vân Thê. Do trong núi có lắm hổ, Ngài bèn v́ mọi người tụng kinh, thí thực, nạn hổ liền dứt. Năm đại hạn, dân cư xin Ngài cầu mưa. Ngài đi quanh ruộng niệm Phật, theo bước chân Ngài mưa liền trút xuống. Mọi người vui sướng bèn cùng nhau sắm sửa vật liệu dựng chùa. Tăng chúng ngày càng quy tụ về, liền trở thành chốn tùng lâm. Ngài bèn đề xướng Tịnh Độ, thống trách Cuồng Thiền, rộng tu các điều lành để làm tư lương Tịnh Độ.

Lúc bấy giờ, giới đàn bị cấm đoán đă lâu. Người cầu giới có đủ tam y đối trước Phật xin thọ giới, Ngài chứng minh cho họ. Ngài san định khoa nghi trai đàn Thủy Lục và nghi thức Du Già Diệm Khẩu, lập ra ao phóng sanh, soạn bài Giới Sát Văn để cứu tế nỗi khổ trong cơi âm lẫn dương gian. Ngài viết tác phẩm A Di Đà Kinh Sớ Sao và Vân Thê Pháp Vựng dung hội Lư và Sự, thống nhiếp ba căn. Kẻ được Ngài hóa độ rất nhiều.

Ngài chợt giă biệt khắp đồ chúng cả Tăng lẫn tục, bảo:

- Ta sắp qua chốn khác.

Đến kỳ, Ngài dạy các đệ tử thật thà niệm Phật, rồi hướng về Tây niệm Phật mà tịch, thọ tám mươi mốt tuổi. (theo Vân Thê Pháp Vựng)

 

Nhận định:

Sanh tử việc lớn, vô thường mau chóng, một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được. Thường nghĩ đến điều này, sẽ tự nhiên niệm Phật chân thành, thiết tha. Rộng tu các điều lành, thật thà niệm Phật. Pháp yếu Tịnh Độ đă được gói trọn trong hai lời này.

 

15. Chuyên tâm niệm Phật

 

Đại sư Hám Sơn Trừng Ấn Đức Thanh đời Minh, là con nhà họ Thái ở Kim Lăng. Năm mười chín tuổi xuất gia, chuyên tâm niệm Phật, mộng thấy A Di Đà Phật hiện thân trên không, quang tướng phân minh.

Từ đấy, thánh tượng sáng rực rỡ luôn hiện diện trước mắt Ngài. Sau Ngài đến Ngũ Đài tu Định, phát minh được bổn tâm sẵn có. Ngài cắt máu chép kinh Hoa Nghiêm, mỗi một nét bút hạ xuống là một câu niệm Phật. Lâu dần, động và tịnh hệt như nhau.

Sau đó, Ngài ẩn cư trong Lao Sơn là chỗ bọn ngoại đạo sanh sống. Thoạt đầu, chẳng có ai nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng lâu sau, ai nấy đều biết niệm Phật. Lư Thái Hậu hạ lệnh chở vàng đến dựng chùa, ban tấm biển đề tên chùa là Hải Ấn. Vua giận dữ, sai đầy Ngài đi Lôi Châu. Nhân đấy, Ngài trùng hưng tổ đ́nh Tào Khê.

Về sau, Ngài được vua hạ chiếu tha cho về, bèn kết am trong Lô Sơn, tu Tịnh Nghiệp càng thêm chuyên gắng. Ngài đột ngột trở về Tào Khê, thị hiện bệnh nhẹ, tắm gội, thắp hương, bảo đồ chúng rằng:

- Hăy nghĩ tới việc lớn sanh tử, vô thường mau chóng.

Đoan tọa mà tịch, có quang minh chiếu rực tận trời, thọ bảy mươi tám tuổi, nhục thân hiện vẫn c̣n. (theo Mộng Du Tập)

 

Nhận định:

Thánh tượng thường hiện, động tịnh nhất như th́ đúng là tu hành Tịnh Nghiệp thật tinh cần. V́ chẳng chứng đắc chút ít đă cho là đủ, nên nhục thân của Ngài tồn tại vĩnh viễn. Xét ra, ắt Ngài phải sanh trong Thượng Phẩm Thượng Sanh nơi Thật Báo Tịnh Độ hoặc Thường Tịch Quang Tịnh Độ trong thế giới Cực Lạc.

 

16. Bỏ Thiền tu Tịnh

 

Đại sư Ngẫu Ích Trí Húc đời Thanh là Tổ thứ chín của Liên Tông. Ngài họ Chung, người Ngô Huyện. Lúc tuổi trẻ, tự lấy việc học Nho làm trách nhiệm, viết sách bác Phật. Đến khi Ngài đọc được tác phẩm Trúc Song Tùy Bút của tổ Vân Thê bèn đốt những sách ḿnh đă viết.

Năm hai mươi tuổi, nhân đọc kinh Địa Tạng bèn phát chí xuất thế, hằng ngày tụng danh hiệu Phật. Năm hai mươi bốn tuổi, nghe pháp sư Cổ Đức giảng kinh, nghi t́nh chợt phát, dụng tâm tham cứu, chứng ngộ rỗng rang. Ngài liền bế quan ẩn tu ở Ngô Giang. Bị bệnh gần chết, Ngài mới nhất ư cầu sanh Tịnh Độ. Lúc bệnh giảm chút ít, Ngài bèn kết đàn tŕ chú Văng Sanh bảy ngày. Sau đấy, Ngài ẩn tu tại Linh Phong, trước thuật những tác phẩm xiển dương Tịnh Độ được lưu truyền rộng răi.

Ngài chợt thị hiện có bệnh, dặn ḍ sau khi trà-tỳ hăy đem tro của Ngài ḥa với bột đem thí cho các loài chim, cá, để chúng được kết duyên Tây Phương. Sau đó, khi bệnh đă khỏi hẳn, Ngài bèn ngồi xếp bằng, hướng về Tây, giơ tay lên mà tịch, thọ năm mươi bảy tuổi.

Ba năm sau, mở khám đựng nhục thân của Ngài ra, tóc đă mọc dài phủ tai, vẻ mặt vẫn như lúc sống; môn nhân chẳng nỡ tuân theo di mạng, nên lập tháp thờ ở Linh Phong. (theo Linh Phong Tông Luận)

 

Nhận định:

Gặp lúc bệnh gần chết mới bỏ Thiền tu Tịnh. Sách Niệm Phật Trực Chỉ viết:

“Tinh tấn là chẳng v́ chút bệnh duyên nhỏ hay lớn mà biếng nhác cái hạnh. Nếu như bị túc nghiệp sai sử th́ nên tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà Ra Ni. Tŕ một lần, diệt được tất cả các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác nơi thân. Tŕ được ba mươi vạn biến, quyết sẽ sanh về Tịnh Độ”.

Kinh Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Thần Chú có nói: “Kẻ có thể tụng chú này th́ A Di Đà Phật thường ngự trên đảnh người ấy, ngày đêm ủng hộ chẳng để cho oán gia có dịp hăm hại. Hiện đời thường được an ổn; lúc mạng sắp hết, tùy ư văng sanh”. V́ thế, lúc Ngài vừa bớt bệnh, liền kết thất tŕ chú bảy ngày. Những người ham Thiền Tịnh Song Tu hăy bắt chước Ngài, lấy việc chuyên tu làm trọng.

 

17. Kết am chuyên tu

 

Đại sư Triệt Lưu Hành Sách đời Thanh là Tổ thứ mười của Liên Tông, là con của vị lăo nho Tưởng Toàn Xương ở huyện Nghi Hưng. Ông Tưởng mộng thấy đại sư Hám Sơn vào nhà, sanh ra Ngài; nhân đó, đặt tên Ngài là Mộng Hám.

Năm hai mươi ba tuổi, Ngài xuất gia tại chùa Lư An ở Vũ Lâm. Suốt năm năm, chẳng đặt ḿnh nằm xuống chiếu, đốn triệt nguồn pháp. Ít lâu sau, Ngài trụ ở chùa Báo Ân, được bạn cùng tham thiền là Anh pháp sư ở Tức Am khuyên siêng tu Tịnh Nghiệp, Tiều Thạch Pháp Sư ở Tiền Đường dẫn dụ Ngài học hỏi giáo lư tông Thiên Thai, bèn cùng nhập tịnh thất, tu Pháp Hoa Tam-muội. Túc huệ đốn thông, nên Ngài thấu triệt tột cùng giáo tủy.

Từ đấy, Ngài bèn dựng am ở Tây Khê thuộc Hàng Châu để chuyên tu Tịnh nghiệp, đặt tên cho chỗ ḿnh ở là Liên Phủ Am (am búp sen). Về sau, Ngài trụ tại Phổ Nhân Viện ở Ngu Sơn, đề xướng, hưng khởi Liên Xă, hoằng hóa thù thắng. Những trước tác của Ngài như Liên Tạng Tập, Tịnh Độ Cảnh Ngữ v.v… được lưu hành trong đời. Ngài mất lúc năm mươi lăm tuổi.

Lúc bấy giờ có Tôn Hàn và người họ Ngô mắc bệnh chết rồi sống lại, đều kể là: “Bị sai nha cơi âm lôi đến dưới điện, chợt thấy quang minh rực trời, vua Diêm La phủ phục sát đất, nghênh tiếp Tây Quy Đại Sư. Liếc trông th́ ra là ngài Triệt Lưu. Nhờ quang minh của Ngài chiếu đến nên được tha về”. (theo Tịnh Độ Ước Thuyết)

 

Nhận định:

Đốn triệt nguồn pháp, thấu triệt tột cùng giáo tủy mà sau đấy vẫn kết am chuyên tu để đề xướng hưng khởi Liên Xă hoằng pháp lợi sanh. Phàm là những kẻ ḿnh chưa đắc độ mà muốn độ người th́ có hợp lư hay chăng?

 

18. Nhật khóa mười vạn

 

Đại sư Tỉnh Am Tư Tề Thật Hiền đời Thanh là Tổ thứ mười một của Liên Tông. Ngài họ Thời, người huyện Thường Thục. Từ nhỏ đă chẳng ăn mặn, bảy tuổi xuất gia. Năm hai mươi bốn tuổi, thọ Cụ Túc Giới, giữ giới nghiêm cẩn, chẳng ngả ḿnh nằm xuống chiếu.

Vừa được phép lên diễn giảng, Ngài đă chứng tỏ rơ rệt cái học của ḿnh về Tánh lẫn Tướng. Sau đấy, Ngài tham cứu có phần chứng ngộ, bèn nói: “Ta tỉnh mộng rồi!”. Ngài bế quan ba năm, ngày th́ đọc Kinh Tạng, tối lấy Phật hiệu làm thường khóa.

Ngài đến lễ tháp chùa A Dục Vương. Vào ngày Phật nhập Niết Bàn, Ngài tập hợp đông đảo cả Tăng lẫn tục thiết lễ cúng dường trọng thể, đốt ngón tay trước tượng Phật, phát bốn mươi tám đại nguyện, cảm xá-lợi phóng quang. Ngài soạn ra Niết Bàn Sám và Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn để khích lệ tứ chúng, nhiều người tụng đọc đều ứa lệ.

Về già, Ngài về ở chùa Tiên Lâm tại Hàng Châu, kết Liên Xă chuyên tu Tịnh Nghiệp, soạn văn ước thệ cùng đại chúng lấy hết cả đời làm hạn. Nhiếp hóa khắp ba căn, pháp hóa lợi lạc khắp tất cả.

Mùa Đông năm Ung Chánh thứ mười một (1733), Ngài cho biết trước ngày Mười Bốn tháng Tư năm sau sẽ Tây quy, rồi bế quan, mỗi ngày niệm Phật mười vạn tiếng. Đến kỳ, Ngài bảo: “Ngày giờ đă tới, lại thấy Tây Phương Tam Thánh, sẽ sắp văng sanh ư?”

Ngài liền đọc kệ từ biệt đại chúng, tắm gội sạch sẽ, thay áo, hướng mặt về Tây ngồi im lặng. Người đưa tiễn lũ lượt kéo đến, Ngài chợt mở mắt bảo:

- Ta đă đi rồi lại trở về. Sanh tử là việc lớn, ai nấy phải tịnh tâm niệm Phật mới được!

Rồi Ngài chắp tay niệm Phật mà tịch, thọ bốn mươi chín tuổi. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)

 

Nhận định:

Nhớ số tŕ danh để pḥng biếng nhác. Đại sư biết trước thời giờ mà vẫn bế quan tinh tấn, nhật khóa niệm Phật cả mười vạn tiếng. Đúng là c̣n một hơi thở chẳng chịu lười nhác chút nào, thật là tấm gương niệm Phật vậy!

 

19. Càng bệnh tật khốn khổ càng thêm thiết tha

 

Đạo Triệt đại sư đời Thanh, người huyện Tiền Đường. Xuất gia tham học các sư, sau khi thấy rơ bản tánh, bèn chuyên tu Tịnh nghiệp. Ngài trụ tại am Văn Thù ở Hàng Châu. Ngài định kỳ bế quan: Trong thất không để bất cứ vật ǵ dài, lớn, ngoại trừ một cái ghế và một cái đơn[2] mà thôi! Mới được vài ngày đă mắc bệnh rất nặng, Ngài tự cổ vũ ḿnh: “Niệm Phật chính là v́ sanh tử, lẽ nào lại v́ bệnh mà biếng nhác ư?” rồi tŕ danh hiệu Phật càng thêm khẩn thiết.

Đột nhiên, kim quang chiếu rực cả thất, Phật xoa đầu Ngài, bệnh lành ngay lập tức; Ngài liền đắc Niệm Phật Tam-muội. Đi, đứng, nằm, ngồi, trọn không c̣n có niệm nào khác. Suốt ba năm như thế, đến ngày rằm tháng Ba, Ngài xuất quan, lên ṭa giảng pháp xong, bảo đại chúng rằng:

- Ta sẽ về Tây sau ngày Rằm tháng Bảy, các ông có thể đến tiễn.

Đến kỳ, Ngài bèn thiết lễ Vu Lan Bồn Hội. Chúng nhóm lại, nhắc lại lời Ngài dự báo trước đây. Ngài nói: “Quả có thế, hăy chờ một chút!” Ngày hôm sau, Ngài bèn dặn ḍ trụ tŕ thiết trai, giă biệt đại chúng rồi vào khám, ngồi yên lặng, dứt hơi thở. Giây lâu sau, tỉnh lại, bảo:

- Chia tay cùng các ông, chẳng thể không nói một lời. Sa Bà khổ không nói nổi, Cực Lạc vui không nói nổi. Nếu c̣n nghĩ nhớ đến tôi th́ chỉ niệm A Di Đà Phật, chẳng lâu sau sẽ lại thấy nhau. Bỏ lỡ đời này, luân chuyển trong đêm dài, đau đớn lắm, đau đớn lắm!

Nói xong bèn tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)

 

Nhận định:

Bệnh càng bức bách càng thêm khẩn thiết, cho nên đắc Niệm Phật Tam-muội. Thật đúng là lấy bệnh khổ làm thuốc hay, biến trở ngại thành thông suốt vậy! Tự chủ được trong khi bệnh tật th́ lúc chết cũng sẽ tự chủ được, nên có thể đi về tự tại như vậy!

 

20. Phật xuất hiện theo ư

 

Huệ Minh đại sư đời Thanh, người Ngân Huyện, trụ tại chùa Báo Quốc ở Hàng Châu. Tánh t́nh chất trực, chỉ biết niệm Phật. Mỗi khi Ngài chấp tŕ hồng danh, âm thanh như sóng vỗ, nhang hết chẳng hay.

Được ai cúng thí, Ngài liền dùng để phóng sanh. Khi phóng sanh loài nào đều xưng danh hiệu Phật, hồi hướng Tây Phương. Gặp ai, chẳng hỏi thăm xă giao mà chỉ nói: “[Coi chừng] cái chết xảy đến đó, niệm Phật gấp đi!” Nếu ai hỏi đến sở đắc, liền nói:

- Lúc trước tôi bị bệnh nhiệt nặng lắm, mấy lần chẳng gắng gượng nổi, may là trong ư căn có một câu Phật hiệu th́ nơi đảnh có một câu phát ra, liên miên chẳng ngơi; nhờ đó mà được lành bệnh! Từ đấy, chẳng cần biết là nói năng, im lặng, động, tịnh, hễ trong tâm có một câu Phật hiệu phát sanh th́ trên đảnh đầu có một câu Phật hiệu phát ra.

Về sau, Ngài bị bệnh ung loét ở cổ, biết là túc nghiệp hiện tiền, trọn chẳng rên rỉ, than văn. Lúc lâm chung, vẻ mặt vui tươi, niệm Phật qua đời. (theo Nhiễm Hương Tập)

 

Nhận định:

Niệm Phật như sóng dồn, nhang hết không hay; thấy người khác chẳng hỏi chuyện hàn huyên; đúng là công phu đă đạt đến mức thuần thục. Tuy bệnh nguy ngập, nhưng trong tâm câu Phật hiệu vẫn cuồn cuộn phát ra, đúng là: Vô niệm mà niệm, bệnh chẳng gây trở ngại ǵ!

 

21. Nhiếp Thiền quy Tịnh

 

Đại sư Mộng Đông Nột Đường Triệt Ngộ Tế Tỉnh là Tổ thứ  mười hai của Liên Tông. Ngài họ Mă, người huyện Phong Nhuận. Thuở nhỏ thông kinh sử, năm hai mươi hai, do mắc bệnh, bèn tỉnh ngộ xuất gia, tham học khắp nơi, thông hiểu rộng khắp hai tông Tánh và Tướng. Ngài tham học với Túy Như thiền sư, tỏ ngộ thấu suốt, được kế vị làm trụ tŕ chùa Quảng Thông ở kinh đô, hướng dẫn đại chúng tham Thiền, tông phong đại chấn.

Về sau, do túc nghiệp sâu nặng, nên lắm bệnh duyên, nghĩ trong Ngũ Đ́nh Tâm Quán của bên Giáo, đối với người nhiều chướng th́ dùng Niệm Phật để trị. Vả lại, các vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v…, các vị đại Tổ Sư như Mă Minh, Long Thọ… các vị đại thiện tri thức như Trí Giả, Vĩnh Minh, Sở Thạch, Liên Tŕ v.v… thảy đều quy tâm vào một môn này; lẽ nào v́ cớ người đời coi thường mà ta chẳng dám quy mạng. Ngài liền bỏ tham Thiền để niệm Phật, chuyên tu Tịnh nghiệp.

Mỗi ngày Ngài hạn định chỉ tiếp khách chừng tàn một cây hương, những thời giờ c̣n lại để chuyên lễ niệm. Về già, Ngài ở chùa Tư Phước thuộc núi Hồng Loa, người theo học ngày càng nhiều, dần dần trở thành một đạo tràng của Liên Tông. Tâm Ngài chẳng hề chán mỏi sự nghiệp v́ pháp, v́ người, một mực lấy Tịnh Độ làm chỗ quy hướng. Mỗi khi Ngài diễn nói về ân đức cứu khổ ban vui của đức Như Lai, nói ra mỗi chữ là lệ rơi đầm đ́a. Người nghe cũng thường khó ngăn được lệ đẫm cả áo. Hai quyển Ngữ Lục của Ngài thật tối cần thiết.

Mười tháng trước khi Ngài lâm chung, Ngài đă báo sẵn kỳ hạn quy Tây, dặn ḍ những kẻ ngoại hộ:

- Huyễn duyên chẳng dài lâu, đáng tiếc kiếp sống phí uổng. Ai nấy nên nỗ lực niệm Phật, năm sau sẽ thấy hảo tướng Tịnh Độ.

Đến kỳ, Ngài thị hiện mắc bệnh, bảo đại chúng trợ niệm. Chợt thấy trên không vô số tràng phan từ phương Tây bay lại. Ngài bảo đại chúng:

- Tướng Tịnh Độ hiện, ta sắp về Tây.

Lại bảo:

- Được Phật đích thân tiếp dẫn, ta đi đây!

Đại chúng xưng niệm Phật hiệu càng mạnh mẽ, đại sư ngồi hướng mặt về Tây mà tịch, thọ bảy mươi tuổi. Đại chúng ngửi thấy mùi hương ngập tràn không trung. Quàn xác Ngài, mở nắp quan suốt bảy ngày, vẻ mặt vẫn như lúc sống. Trà-tỳ thâu được hơn trăm viên xá-lợi. (theo Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục)

 

Nhận định:

Sau khi đă thông suốt cả Tông lẫn Giáo c̣n chuyên tu Tịnh nghiệp, Ngài đúng là bậc “có Thiền, có Tịnh Độ” nên được làm thầy trời người, làm Phật, làm Tổ, nhưng Ngài chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu! Lúc lâm chung đại chúng bảo đại chúng trợ niệm để làm gương cho đời!

 

22. Lễ niệm cùng hành

 

Đại sư Trúc Phong Viên Dung đời Thanh, họ Diêu, người huyện Đức Thanh. Năm ba mươi tuổi, xuất gia thọ Cụ Túc Giới, tŕ giới không khiếm khuyết. Ngài đặc biệt thích lễ niệm, lập chí quyết định văng sanh Tây Phương.

Ngài chẳng nuôi đệ tử, chẳng tự trụ tŕ am viện, luôn ở nhờ người khác để tu tập ḥng khỏi bị phân tâm. Ngài không ở chỗ nào nhất định, hợp th́ lưu lại, chẳng hợp th́ đi. Tánh t́nh phóng khoáng, chẳng câu chấp, mà cũng chẳng thích làm theo mọi người. Ngài thường bế quan ở yên tịnh, thực hành cả lễ lẫn niệm: Chẳng lễ th́ niệm, không niệm th́ lễ, chẳng lúc nào gián đoạn, cũng chẳng tu pháp nào khác, chỉ lấy đó làm pháp tu suốt đời.

Vào giữa trưa, Sư thường gơ mơ niệm Phật măi cho đến sắp rạng đông ngày hôm sau, người khác thấy Ngài trọn chẳng nghỉ ngơi bèn lớn tiếng gọi, Ngài mới ngưng, tự bảo là giống như mới niệm được nửa ngày mà thôi. Hỏi Ngài có đói không? Liền đáp:

- Trong miệng tôi thường có nước ngọt như mật thấm đẫm cổ họng, thọ dụng vô lượng, nên chẳng nghĩ đến ăn uống ǵ nữa!

Ngài chẳng đặt ḿnh nằm xuống chiếu suốt cả mấy mươi năm, cho nên ít mộng. Dù có mộng đôi chút, cũng chẳng rời việc lễ niệm nên không c̣n có duyên nào khác. Trong mộng, Ngài thường thấy Phật và Bồ Tát hoạt động như đang hiện tiền, khen ngợi, khuyến khích, hoặc hướng dẫn niệm Phật.

Chợt Ngài biết đă đến lúc, bèn niệm Phật mà tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi, đảnh đầu c̣n hiện tướng nóng bừng. (theo Nhiễm Hương Tục Tập)

 

Nhận định:

Chẳng nuôi đồ chúng, sống không chỗ nhất định, đúng là bậc giải thoát thanh tịnh. Niệm Phật suốt đêm ngày, chẳng ai gọi th́ chẳng ngưng, chẳng đói, chẳng khát, mộng và tỉnh đều giống hệt như nhau. Nếu chẳng phải là đă đắc Niệm Phật Tam-muội th́ làm sao mà được như thế?

 

23. Chẳng niệm mà tự niệm

 

Đại sư Mặc Am Chân Nguyên Thượng Nhân đời Thanh, họ Chu, người huyện Hành Châu, tỉnh Hồ Nam. Thuở nhỏ, Ngài đă dĩnh ngộ, thông tiệp, có ư tưởng xuất thế. Cha mất sớm, mẹ tính cưới vợ cho, bèn trốn đi xuất gia. Thọ Cụ Túc Giới, nghiên cứu tinh tường Tam Tạng, thâm nhập giáo nghĩa. Sau khi tham học khắp cả Nam Bắc [Trung Hoa], Ngài bèn dựng tinh xá Chúc Thánh ở Nam Nhạc, giới luật tinh nghiêm, siêng năng, khẩn thiết ngầm tu. Mỗi ngày niệm Phật sáu vạn tiếng. Lâu ngày, chẳng niệm mà tự niệm, không lúc nào gián đoạn.

Sau đấy, Ngài ở tại chùa Đại Thiện thuộc Nam Nhạc, phỏng theo khuôn phép của thiền sư Triệt Ngộ. Thập phương đến học; v́ có chỗ chẳng dung hợp nhau, nên Ngài bèn dùng phép Giáo Quán của tông Thiên Thai để dẫn dắt, lấy Tịnh Độ Di Đà làm chỗ quy hướng rốt ráo.

Đột nhiên, nhà chùa muốn giao Ngài đứng đầu trông coi mọi việc trong chùa, Ngài bảo: “Tôi sắp về Tây!”. Ngài liền cử hành Phật Thất hai tuần, trong Định thấy ao bảy báu, nước bát công đức. Ngài liền hiện tướng bệnh nhẹ, khước từ thuốc thang, nhất tâm niệm Phật, bảo đồ chúng luân phiên trợ niệm.

Ngài trông thấy tướng bạch hào của A Di Đà Phật sáng rực, bèn ngồi ngay thẳng hướng về Tây. Khi ấy, những người trợ niệm gơ mơ càng nhanh, Ngài bèn bảo thôi gơ, chỉ cùng nhau niệm Phật đến hơn trăm câu, chắp tay mà tịch, thọ sáu mươi bốn tuổi. (theo Cận Đại Văng Sanh Truyện)

 

Nhận định:

Chẳng niệm mà tự niệm chính là niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Nếu chẳng phải là tận lực niệm đến mức thuần thục th́ làm sao mà được như thế? Trước khi lâm chung c̣n cử hành Phật Thất, bảo đại chúng trợ niệm để cầu được quyết định văng sanh. Tiếng mơ gơ quá ồn chẳng thuận tiện cho việc trợ niệm nên Sư bảo thôi gơ, chỉ nên đồng thanh niệm Phật.

 

24. Hễ niệm Phật liền niệm lớn tiếng

 

Đại sư Chánh Thành thời Dân Quốc, họ Châu, người huyện Qua Dương, tỉnh Giang Tây. Nhà nghèo, Sư thường niệm Phật cầu sanh Tây phương. Cho đến lúc không phải phụng dưỡng ai, chôn cất vợ xong xuôi, tuổi đă sáu mươi tám, Ngài mới đem con đi xuất gia, tu tŕ cật lực. Ở trong núi suốt mười ba năm, Sư chưa hề nằm xuống giường.

Hễ niệm Phật là Ngài niệm lớn tiếng, thường niệm đến lúc toàn thân ướt đẫm mồ hôi rồi mới ngưng. Người khác ghét Ngài niệm oang oang thường hay quở mắng. Bạn đồng tu thường khuyên Ngài niệm nhỏ tiếng để khỏi bị người khác ghét, Ngài chỉ cười, bảo đúng. Đến lúc niệm Phật vẫn niệm lớn tiếng như cũ mà chẳng tự biết.

Ngài thường niệm Phật bên gốc tùng trong chùa hoặc tịnh tọa trước ngọn núi. Mỗi khi Ngài thấy tượng Phật đứng trên đỉnh núi thường hay gọi người khác đến xem. Ai đến th́ chẳng thấy nữa.

Ngài chợt biết thời giờ đă đến, bèn nói kệ, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà hóa. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)

 

Nhận định:

Do niệm Phật, tâm chuyên chú, đă đạt đến cảnh giới Nhất Tâm nên lúc niệm Phật chỉ biết niệm Phật, không c̣n niệm nào khác; tiếng niệm Phật lớn hay nhỏ có làm phiền người khác hay không Ngài cũng chẳng hay! Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt và Đại Trang Nghiêm Kinh Luận đều bảo lớn tiếng niệm Phật có mười công đức:

1. Một là bài trừ chướng ngại mê ngủ.

2. Hai là thiên ma kinh sợ.

3. Ba là tiếng vọng khắp mười phương.

4. Bốn là tam đồ được dứt khổ.

5. Năm là những tiếng động bên ngoài chẳng lọt vào.

6. Sáu là khiến cho tâm chẳng tán loạn.

7. Bảy là dũng mănh tinh tấn.

8. Tám là chư Phật hoan hỷ.

9. Chín là tam-muội hiện tiền.

10. Mười là văng sanh Tịnh Độ.

Những điều ấy là những chứng cớ khiến ta càng thêm tin tưởng.

 

25. Chuyên niệm Quán Âm

 

Đại sư Kim Trược thời Dân Quốc, người Đài Châu. Tám tuổi xuất gia, ít lâu sau là được thọ giới. Được thầy dạy tụng chú Đại Bi và niệm thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài liền mỗi ngày tụng chú bốn mươi tám biến; ngoài ra, chuyên tŕ thánh hiệu chưa hề gián đoạn.

Ngài xem danh lợi như bào ảnh; tập khí, thị hiếu đều tiêu trừ hết chẳng c̣n sót. Lúc bấy giờ, Ngài trị bệnh cho người khác, vừa đặt tay, bệnh đă được lành, chẳng nhận thù lao. Ngài ngụ trong một ngôi miếu nhỏ, gặp phải nạn cướp. Bọn cướp thấy ngoại trừ chiếc cà -sa rách, không c̣n có vật ǵ khác, giận quá liền dùng thương đâm Ngài, đâm hai nhát vào phía phải trên trán, đâm một nhát trúng tay phải, chưa chết. Ít lâu sau, thương thế lành, nhưng vết thương vẫn c̣n in dấu.

Đột nhiên, Ngài qua tạm trú ở chùa A Dục Vương thuộc thành phố Ninh Ba. Vị Tăng quản đường kê đơn, Ngài liền bảo:

- Tôi ở đây chẳng lâu sẽ văng sanh Tây Phương. Kính xin Ngài từ bi!

Liền bảo đại chúng:

- Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm đài bạc đă hiện thân trước mặt tôi, trong ba ngày nữa, tôi sẽ văng sanh. Xin các vị đồng tham hăy thật thà niệm Phật hoặc niệm Bồ Tát; nhất tâm xưng danh quyết sẽ sanh về Tây Phương. Phật chẳng nói dối.

Đến thời, Ngài liền hướng về vị sư quản đường nói:

- Sau chánh ngọ một giờ, tôi sẽ sanh Tây.

Mọi người cho là Ngài nói dối. Giữa trưa, Ngài vẫn dùng cơm như thường, lễ Phật tại các điện xong, bèn ngồi hướng mặt về Tây mà hóa. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)

 

Nhận định:

Vị này chuyên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thoát khỏi nạn chết, cũng muốn làm gương tốt văng sanh Tây Phương, nên chẳng chết trong miếu nhỏ mà tọa hóa tại ngôi chùa A Dục Vương danh tiếng, v́ đại chúng hiện thân thuyết pháp.

 

26. Làm việc nặng vẫn niệm Phật không gián đoạn

 

Đại sư Cụ Hạnh Nhật Biện thời Dân Quốc, người huyện Hội Lư ở Vân Nam. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải đi ở rể nhà họ Tăng ở Diêm Nguyên, sanh được hai con trai. Nhà nghèo, Ngài phải làm thuê cho chùa Chúc Thánh ở núi Kê Túc. Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài dẫn cả nhà tám người xin xuất gia, thọ Cụ Túc.

Ḥa Thượng Hư Vân dạy Ngài tu pháp môn Niệm Phật Cầu Sanh Tịnh Độ. Ngài bèn dứt bỏ các duyên, nhất tâm hệ niệm. Ngài tai điếc, mặt mũi xấu xí, không biết chữ, ngày trồng rau, đêm lễ bái, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Rảnh rỗi th́ tập tịnh tọa, học khóa tụng và các kinh điển, tự siêng gắng hết sức. Sư vừa đi tham bái tứ đại danh sơn trở về đất Điền (Vân Nam), gặp lúc ngài Hư Vân trùng hưng chùa Vân Thê, hỏi:

- Thầy đă đi thăm quyến thuộc chưa?

Sư thưa:

- Con chẳng bận tâm đến họ.

Ḥa Thượng lại hỏi:

- Thầy tính làm ǵ?

Thưa:

- Những việc nặng nhọc nhất không ai chịu nổi, con sẽ gánh vác.

Phàm là những việc nặng như đắp tường, lợp nhà, trồng rau, trồng cây, vác đá, đào đất, quét tước, nấu nướng, Ngài đều làm không lúc nào ngơi tay, nhưng không một khắc nào để câu niệm Phật bị gián đoạn.

Khi đêm xuống, vào lúc chỉ tịnh, Ngài bèn lễ các kinh Kim Cang, Dược Sư, các kinh Tịnh Độ; cứ một chữ là một lạy. Tảng sáng, hồng chung vừa gióng, đă lên điện tham dự khóa tụng như thường, chưa hề ngủ nghỉ. Ngài tự vá áo, hoặc chằm vá áo giùm bạn đồng tham, mỗi một mũi kim là một câu Phật hiệu.

Trong kỳ hạn kết giới, được thỉnh làm Tôn Chứng, Ngài bèn bán hết y, mền, đồ dùng để thiết trai cúng dường đại chúng. Hỏi Ngài sẽ đi đâu, chỉ cười không nói. Giới đàn hoàn tất, Ngài ngầm lên điện sau cùng, ngồi xếp bằng, hướng về Tây niệm Phật, dùng lửa tự thiêu, thọ ba mươi sáu tuổi. H́nh trạng vẫn như lúc sống, mùi hương lạ lan tận ra xa. Đại chúng tranh nhau đến xem, vừa đánh khánh, di thể của Ngài chợt sụp xuống, hóa thành tro. (theo Hư Vân Ḥa Thượng Niên Phổ)

 

Nhận định:

Một chữ chẳng biết, nhưng lúc làm công việc nặng nhọc chưa hề gián đoạn niệm Phật. Chúng ta là những kẻ biết chữ đọc được sách, nếu cứ lơi là để uổng phí ngày tháng trôi qua, há chẳng biết thẹn hay chăng?

Nhưng tự thiêu là chưa đắc tam-muội. Chớ nên manh nha vọng niệm như vậy để khỏi bị ma dựa phát cuồng, vĩnh viễn đọa trong ác đạo!

 

27. Bế quan tinh tu

 

Đại sư Thường Tàm Quư Tăng Ấn Quang Thánh Lượng là Tổ thứ mười ba của Liên Tông. Ngài họ Triệu, là người huyện Cáp Dương, tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ học Nho, từng bài xích Phật, mắc bệnh mắt mấy lượt suưt mù, mới biết lỗi trước. Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Đọc cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn, biết được Niệm Phật chính là đạo trọng yếu để liễu sanh thoát tử, Ngài liền chuyên niệm Phật hiệu. Trong lúc làm lụng, tâm chẳng rời niệm Phật. Về sau, Ngài trụ tại chùa Tư Phước ở núi Hồng Loa, chuyên tu Tịnh Độ và thâm nhập Kinh Tạng, diệu khế Phật tâm.

Ngài triều bái Ngũ Đài, đến kinh đô, theo ḥa thượng Hóa Văn thỉnh Đại Tạng về Phổ Đà, trụ tại chùa Pháp Vũ, dốc chí tinh tu, bế quan suốt sáu năm, lấy đó làm kỳ hạn, ngày đêm niệm Phật ḥng sớm đắc Niệm Phật Tam-muội. Các vị như cư sĩ Từ Úy Như v.v… đem in bộ Văn Sao của Ngài khiến cho sự giáo hóa của Ngài càng được rộng răi. Ngài tự hành và dạy người, một ḷng lấy Tịnh Độ làm chỗ quy hướng, chẳng ĺa nhân quả, chẳng lạm bàn huyền luận diệu. Người quy y Ngài hơn hai mươi vạn, kẻ y giáo phụng hành được sanh Tây Phương cũng rất nhiều.

Ngài c̣n hóa độ cả những tù nhân và dị loại, thường tŕ chú Đại Bi vào nước và gạo để chữa các bệnh nguy ngập. Về sau, Ngài bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Ngoài những lúc hành tŕ thời khóa, lại lo hiệu đính, bổ cứu những bản tự chí của các núi Phổ Đà, Thanh Lương, Nga Mi, Cửu Hoa v.v…

Xưa kia Ngài đă nguyện chẳng làm Trụ Tŕ, chẳng thâu đồ chúng; nhân v́ Tăng, tục theo về quá đông, Ngài mới khai sáng Tịnh Tông Đạo Tràng ở núi Linh Nham để đại chúng cùng tu. Ngài sáng lập Hoằng Hóa Xă (nhà xuất bản Hoằng Hóa), in tặng năm trăm vạn bộ kinh sách Phật, hơn trăm vạn bức h́nh Phật. Ngài bảo vệ pháp môn, trung hưng Tịnh Tông, cứu tế kẻ đói nghèo, quyên góp trợ giúp kẻ túng ngặt, công chẳng thể nghĩ bàn nổi.

Về sau, Ngài dời về Linh Nham[3], biết trước đă đến lúc, dạy đại chúng:

- Niệm Phật thấy Phật, quyết định sanh Tây. Được Phật tiếp dẫn, ta đi đây!

Ngài hướng về Tây niệm Phật, tọa hóa, thọ tám mươi tuổi. Lúc trà-tỳ, hàm răng c̣n nguyên, xá-lợi ngũ sắc thu được mấy ngàn hạt. (theo Ấn Quang Đại Sư Hạnh Nghiệp Kư)

 

Nhận định:

Tổ Sư là Đại Thế Chí Bồ Tát lai thế nhằm trung hưng Tịnh Tông mà vẫn c̣n thường bế quan tinh tu, ngày đêm niệm Di Đà! Bọn phàm phu chúng ta há nên qua loa, biếng nhác, chẳng chịu dũng mănh tinh tấn hay sao?

 

28. Thường ngồi chẳng nằm

 

Đại sư Quảng Khâm Chiếu Kính thời Dân Quốc, họ Hoàng, người huyện Huệ An, tỉnh Phước Kiến. Năm Ngài mới bốn tuổi, v́ nhà nghèo nên phải bán vào nhà họ Lư ở Tấn Giang làm con nuôi.

Ngài thể chất yếu đuối, lắm bệnh, theo mẹ nuôi thờ Phật, ăn chay. Năm mười một tuổi, v́ cha mẹ nuôi đều mất cả, Ngài bèn xin xuất gia tại chùa Thừa Thiên ở Tuyền Châu. Nhà chùa sai làm các việc bên ngoài như trồng rau, nhổ cỏ… Sau Ngài qua Nam Dương, đến năm ba mươi sáu tuổi mới trở về chùa Thừa Thiên chính thức thế phát. Thế phát xong, Ngài chuyên chí tu khổ hạnh, thường nằm chẳng ngồi, nhất tâm niệm Phật.

Năm bốn mươi hai tuổi, sau khi thọ Cụ Túc Giới, Ngài càng quyết chí tiềm tu, qua thạch động bên vách Bán Sơn Nham của núi Thanh Nguyên ở Tuyền Châu để tọa Thiền niệm Phật, chỉ dùng các loài khoai rừng, quả dại để đỡ ḷng. Trong núi có nhiều hổ, vượn. Từ đó, khỉ, vượn đến dâng quả, mănh hổ đến quy y, nên Ngài được xưng tặng nhă hiệu là Phục Hổ Sư (vị thầy hàng phục hổ). Sư thường nhập định, từng có lần nhập định cả mấy tháng chẳng ăn uống, chẳng động đậy.

Tháng Sáu năm Dân Quốc thứ 36 (1947), lúc đă năm mươi sáu tuổi, Ngài vượt biển đến Đài Loan, khoét thạch động ở Quảng Minh Nham phía sau núi Tân Điếm thuộc Đài Bắc để ẩn cư tiềm tu. Chỗ ấy về sau khuếch trương thành chùa Quảng Minh. Mặt sau phía bên phải động có vách đá lớn, Ngài bèn chạm khắc thành tượng Phật A Di Đà lớn bằng đá. Phía dưới, về bên trái lại khoét thành thạch động; sau này được mở rộng thành chùa Quảng Chiếu.

Sau này, Ngài t́m được thạch động thiên nhiên ở Thổ Thành, đột nhiên có suối nước trong từ đá phun ra, măng xà quy y. Ngài lại khuếch trương nơi ấy thành chùa Thừa Thiên, tiếp dẫn đệ tử đồng tu. Năm Dân Quốc 58 (1969), Sư khai sáng Quảng Thừa Nham ở trấn Thổ Thành.

Đáp lời cầu thỉnh nhiều lượt của tín chúng, Sư đến các địa phương Hoa Liên, Đài Trung, Nam Đầu, Gia Nghĩa, Cao Hùng v.v… hoằng pháp độ chúng. Kế đó, Ngài kiến lập chùa Tường Đức ở Thiên Tường, chùa Quảng Long ở núi Long Tỉnh v.v… thâu nạp đông đảo đồ chúng.

Ngài thường ngồi xếp bằng niệm Phật, từng nhập Định ba lần, mỗi lần ước chừng cả tuần trở lên. Hằng ngày, Sư chỉ ăn trái cây, uống nước để sống, nên lại được tặng nhă hiệu là Thủy Quả Sư. Sau cùng, Ngài hoạch định việc tạo dựng chùa Diệu Thông ở làng Lục Quy thuộc thành phố Cao Hùng, truyền thọ tam đàn thành công viên măn. Tứ chúng đệ tử cầu giới nơi Ngài nhiều đến cả mấy ngàn. Đệ tử quy y nhiều hơn nữa. Ngài có những tác phẩm Khai Thị Lục, Truyền Kỳ Sự Tích… được ấn hành lưu truyền trong đời.

Sư thân gầy g̣ nhưng thể chất mạnh khỏe, hành động mẫn tiệp. Ngày Hai Mươi Sáu tháng Chạp năm Dân Quốc bảy mươi bốn (1985), Sư cấp tốc trở về chùa Thừa Thiên. Ngày mồng Một tháng Giêng năm sau, vào lúc sáng sớm, Sư triệu tập đệ tử phụ trách các phân viện và đại chúng chùa Thừa Thiên, nhất nhất phó chúc hậu sự xong, liền trở về chùa Diệu Thông, suất lănh đại chúng ngày đêm niệm Phật, tinh thần càng mạnh mẽ, tinh tường.

Hai giờ chiều ngày mồng Năm, Sư chợt bảo đại chúng:

- Chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng có việc ǵ!

Ngài hướng về đại chúng gật đầu, mỉm cười, an tường tọa hóa, thọ chín mươi lăm tuổi. Trà-tỳ, lưu lại xá lợi rất nhiều. (theo Quảng Khâm Ḥa Thượng Niên Phổ và Lược Sử)

 

Nhận định:

Đại Sư tuy chưa từng đọc sách, lúc nhỏ tuổi, thể chất yếu đuối lắm bệnh, theo dưỡng mẫu thờ Phật, ăn chay. Sau khi xuất gia, chuyên chí tu khổ hạnh, thường ngồi chẳng nằm, nhất tâm niệm Phật. Sau khi đến Đài Loan, tuy Đại Sư tiềm tu, chỉ dùng trái cây và nước lă để sống, nhưng thân nhẹ nhàng, mạnh khỏe, lại sống rất thọ. Dựng chùa, truyền giới, hoằng pháp độ chúng. Đột nhiên, Sư suất lănh đại chúng niệm Phật, mỉm cười, tọa hóa, ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

 

29. Xả Quán niệm Phật

 

Đại sư Huệ Tam Tư Nguyên thời Dân Quốc, người huyện Uyển B́nh, tỉnh Hà Bắc. Năm mười bảy tuổi xuất gia. Ít lâu sau, thọ Cụ Túc, vào học trường Phật Giáo Học Hiệu tại tỉnh An Huy, nghiên cứu tinh tường nội điển.

Ngài nhận trách nhiệm trụ tŕ chùa Sùng Thọ và Quảng Thiện ở Bắc Kinh. Ngài kiến lập, hưng khởi đạo tràng Hoa Nghiêm. Trước giờ Ngọ mỗi ngày, Ngài tụng kinh Hoa Nghiêm. Cuối năm, Ngài kết Hoa Nghiêm Phật Thất, lănh đạo đại chúng huân tu pháp Chân Không Pháp Giới Quán; từng đốn nhập Pháp Giới Định. Sau khi khai tịnh, mới ngộ được hư không pháp giới Lư Sự vô ngại, pháp hỷ tràn đầy, khen là chưa từng có.

Từ đấy, Ngài càng thêm tinh tấn, tu Quán chẳng lùi. Tháng Mười Một năm Dân Quốc 37 (1948), Ngài đến Đài Loan lúc bốn mươi tám tuổi, lănh trọng trách giảng dạy tại Phật Học Viện chùa Viên Quang ở Trung Lịch. Năm sau, Ngài đến Sở Giảng Dạy Học Tập Phật Học ở Tân Trúc giảng dạy Phật giáo, đồng thời giảng kinh ở chùa Nhất Đồng suốt bảy năm.

Sư thường tới các chùa ở Đài Bắc, Nội Hồ, Nam Đầu… để giảng kinh, độ chúng không đếm nổi. Năm năm mươi lăm tuổi, Ngài sáng lập chùa Phước Huệ trên núi Linh Sơn ở xă Thọ Lâm, Đài Bắc. Mỗi năm, vào tháng Bảy, Ngài lập pháp hội Địa Tạng kéo dài bảy ngày, truyền U Minh Giới một lần. Mỗi năm, tại Đài Loan, khi truyền tam đàn đại giới và giới tại gia, Sư thường được suy cử vào một trong tam sư. Cả cơi âm lẫn dương gian đều được lợi, pháp hóa lợi ích vô cùng!

Năm sáu mươi sáu tuổi, Sư lại càng thêm thường tinh tấn, hằng khóa niệm Phật mỗi ngày là ba vạn câu. Năm tám mươi tuổi liền bắt đầu niệm Phật, tọa Thiền cộng tu, và khởi xướng nghĩa chẩn cứu dân nghèo và thí thuốc trong khuôn viên nhà chùa; sáng lập thư viện để mọi người đến đọc sách; đề xướng, lo liệu việc giảng giải, học hỏi Phật học. Hạnh lẫn giải càng thêm sâu, phước huệ song tu.

Sư từng đáp ứng lời thỉnh sang Mỹ hoằng pháp, qua Đại Hàn truyền giới, người thọ giới lên đến hơn năm ngàn người. Giữa trưa ngày mồng Tám tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), sau khi dùng cơm, Sư chợt nói:

- Ta sắp đi đây!

Liền triệu tập tất cả đệ tử trong chùa, dặn ḍ:

- Sau khi ta mất, các con nên hợp tác với nhau.

Sau bữa cơm chiều, Ngài không bệnh ǵ, đang đứng mà hóa, thọ tám mươi sáu tuổi. (theo tạp chí Từ Vân số 126)

 

Nhận định:

Đại Sư mỗi ngày tụng kinh Hoa Nghiêm, tu Chân Không Quán, từng nhập Pháp Giới Định, từ đấy tu Quán chẳng lui sụt. Đến năm sáu mươi tuổi, bắt đầu mỗi ngày hằng khóa niệm Phật ba vạn tiếng; đấy là bỏ Quán niệm Phật.

Từ năm tám mươi tuổi trở đi, chợt lại tọa Thiền, niệm Phật cộng tu. Đấy là tuổi già tịnh tọa niệm Phật, chứ chẳng phải là Thiền Tịnh Song Tu. Không bệnh, đang đứng mà hóa, nhất định phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh.

 

30. Tinh tấn Phật Thất

Đại sư Chử Vân Thật Tuyền Tỉnh Thế thời Dân Quốc, người huyện Như Cao, tỉnh Giang Tô. Đến tuổi nhược quan (tuổi đôi mươi), xuất gia thọ giới. Ngài lần lượt tốt nghiệp các đại Phật Học Viện tại Hoa Lục, thâm nhập Tam Tạng, chuyên tu Tịnh Độ.

Năm Dân Quốc 39 (1950), Sư theo quân đội sang Đài Loan, lănh chức thầy truyền giáo ở y viện hậu phương, tiếp dẫn vô số thương binh quy y Tam Bảo. Về sau đáp ứng lời thỉnh cầu khẩn khoản của phân hội Phật Giáo Đài Loan, Ngài đi khắp đảo truyền giáo, thâm nhập vùng thôn dă, hoằng dương Tịnh Độ. Ngài lần lượt chống tích trượng ra hải ngoại, viếng thăm các nước Mỹ, Gia Nă Đại, Đại Hàn, Thái, Việt Nam v.v… tuyên dương Phật pháp, thăm hỏi kiều bào. Ngài v́ nước v́ đạo dốc bao công lao!

Năm Dân Quốc 47 (1958), sau khi bế quan tiềm tu, Ngài hoằng pháp lợi sanh chẳng tiếc sức. Năm Dân Quốc 61 (1972), Ngài bắt đầu đề xướng việc tu tập Tinh Tấn Phật Thất, mỗi ngày niệm Phật đến tàn hết chín cây hương, lễ Phật một ngàn lạy, lấy thân ḿnh làm gương để hóa đạo tứ chúng và các sinh viên đại học. Suốt mười lăm năm, Sư đều giữ đúng như một ngày.

Ngài lại dự trù kiến lập chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Liên Hoa Sơn thuộc Đài Trung, dựng Tịnh Tông Phật Học Viện để làm  Tịnh Độ Đạo Tràng chuyên hoằng truyền Tinh Tấn Phật Thất.

Trước tác có: Phật Giáo Dữ Cơ Đốc Giáo Tỷ Giảo (so sánh Phật giáo và Cơ Đốc giáo), Nam Hải Phổ Đà Sơn Truyền Kỳ Dị Văn Lục (ghi chép về những chuyện kỳ lạ được lưu truyền ở núi Phổ Đà trong Nam Hải), Phật Môn Dị Kư (ghi chép những chuyện lạ nơi cửa Phật), Chử Vân Pháp Sư Giảng Diễn Tập, Tinh Tấn Phật Thất Khai Thị Lục… mười mấy cuốn, được lưu hành rộng răi trong nước lẫn hải ngoại, rộng tiếp độ tín chúng rộng răi.

Tháng Bảy năm Dân Quốc 75 (1986), Ngài biết trước thời khắc, từ tinh xá Di Đà ở Đài Bắc điện thoại cho pháp sư Huệ Khải chùa Thanh Lương Hộ Quốc ở Thái B́nh, Đài Trung:

- Tôi muốn đến Liên Xă ở Phụng Hoàng Sơn tạm ngụ hai mươi ngày, tôi sắp đi rồi!

Quả nhiên, 9 giờ tối ngày Hai Mươi Ngài tới Liên Xă, mỗi ngày niệm Phật, kiêm tŕ chú Văng Sanh một trăm hai mươi biến. Đến chín giờ tối ngày mồng Chín tháng Tám, vừa đúng hai mươi ngày (Ngài ngụ tại đó), Ngài liền nằm yên lành, tay lần xâu chuỗi, môi khẽ động niệm Phật, chợt dặn ḍ đệ tử đứng hầu:

- Mọi người hăy chăm chỉ niệm Phật.

Rồi an tường văng sanh, thọ sáu mươi tám tuổi. (theo Chử Vân Ḥa Thượng Kỷ Niệm Chuyên Tập)

 

Nhận định:

Phật dạy: “Nghe nói A Di Đà Phật, chấp tŕ danh hiệu hoặc một ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Lúc lâm chung liền được văng sanh thế giới Cực Lạc”, cho nên phải tinh tấn niệm Phật trong bảy ngày th́ mới ḥng đạt được nhất tâm bất loạn.

Nếu bảy ngày chẳng thành th́ điều dưỡng tinh thần, lại tinh tấn thêm một thất, hai thất cho đến bảy thất. Nếu vẫn chẳng đắc Nhất Tâm Bất Loạn phải dơng mănh, tinh tấn, thường tu Phật Thất th́ lâu ngày sẽ tự đạt được Nhất Tâm Bất Loạn. Xin hăy bắt chước đại sư tinh tấn.

 

31. Luật Tịnh song hoằng (hoằng dương Luật tông và Tịnh tông đồng thời)

 

Đại sư Đạo Nguyên Trung Luân Năng Tín thời Dân Quốc, họ Vương, người Thương Thủy, tỉnh Hà Nam. Từ bé đă thông duệ, bảy tuổi vào trường đọc sách; hai mươi tuổi xuất gia. Không lâu sau, thọ Cụ Túc, thân cận đại sư Từ Châu ở tỉnh Giang Tô và đại sư Ấn Quang chùa Linh Nham.

Đối với hai tông Luật Tông và Tịnh Tông, Ngài được thọ truyền và tâm đắc thâm sâu. Ngài liền bế quan ba năm, tiềm tu Tịnh nghiệp, dùng hai tông Luật và Tịnh để tự hành và hóa độ người, chẳng tiếc sức. Sư triều lễ ba đại danh sơn Phổ Đà, Cửu Hoa, Ngũ Đài; từng đảm nhiệm chức giáo sư và chủ giảng tại các Phật học viện.

Sư liên tiếp đảm nhiệm vai tṛ Giáo Thọ trong sáu lần Giới Đàn. Ngài trụ tŕ các chùa Đâu Suất ở Hà Bắc, chùa Vân Tuyền Sơn ở Trương Gia Khẩu, chùa Tịnh An ở Thượng Hải… Ngài luôn giảng diễn Giới Luật, hoằng dương Tịnh Độ. Giải hạnh đều thâm sâu, tứ chúng quy ngưỡng!

Tháng Ba năm Dân Quốc ba mươi tám (1949), Sư qua Đài Loan, sáng lập Tịnh Độ Tông Hải Hội Tự ở núi Chánh Đạo thuộc phường Bát Đổ, thành phố Cơ Long. Sư thường chủ tŕ Phật Thất, hoằng truyền Tịnh Độ. Ở Đài Loan, mỗi năm truyền tam đàn đại giới một hoặc hai lần, truyền giới tại gia nhiều lần, hầu như đại sư luôn đảm nhiệm một chức vị trong Tam Sư.

Lúc được suy cử làm Lư Sự Trưởng (Hội Trưởng) hội Phật Giáo Trung Quốc, khi đại hội Hoa tăng thế giới khai mạc, Sư lại được cử làm chủ tịch của chủ tịch đoàn đại hội. Đức hạnh của Sư vang dội cả hoàn cầu, Sư thường du hóa tại các nước Mỹ, Gia Nă Đại, Nhật Bản, Đại Hàn, Indonesia, Thái Lan, Tinh Châu (Singapore), Mă Lai, Cao Miên v.v… Hương Cảng là nơi Sư thường đến để giảng kinh, truyền giới. Pháp duyên thù thắng, ít vị Tăng nào bằng nổi.

Về già, Sư sáng lập Năng Nhân Phật Học Viện để bồi dưỡng, đào tạo tăng tài hoằng dương Tịnh Tông. Cả một đời, Sư thường ở khắp các chùa viện để giảng kinh, thuyết pháp, hoằng truyền Tịnh Độ ngũ kinh, nhất luận. Nhằm thích ứng với cơ duyên các nơi, Sư cũng thường giảng các kinh luận như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Địa Tạng, Khởi Tín Luận v.v… Giảng kinh luận nào, Sư cũng đều quy hướng Tịnh Độ. Người nghe pháp khởi ḷng tin, tŕ giới niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chẳng biết là bao nhiêu!

Tiếc là những kinh, luận Sư đă giảng chưa được ghi chép đầy đủ, chỉ có những cuốn giảng lục kinh Di Đà, Quán Kinh và Phật Đường Giảng Thoại Ngũ Tập là được ấn loát và lưu hành trong đời, nhưng cũng đủ để làm chỉ nam phổ độ chúng sanh đồng quy Tịnh Độ.

Ngày mồng Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 76 (1987), Sư chợt thị hiện có bệnh, nằm điều dưỡng trong bệnh viện. Biết thời giờ đă đến, Ngài liền phó chúc hậu sự. Đêm ngày Rằm tháng Tư năm sau, Sư chợt bảo đồ chúng đang hầu cận đưa Ngài về chùa Hải Hội. Sư ngồi ngay ngắn, hướng dẫn đại chúng niệm Phật. Một chốc sau, Sư lên giường nằm an tường bên hông hữu, môi khẽ động niệm Phật. Đến bảy giờ rưỡi tối hôm sau, giữa tiếng niệm Phật của đại chúng, Sư an tường xả báo, văng sanh Cực Lạc.

Đến ngày Mười Tám, khi làm lễ đại liệm, toàn thân Sư vẫn mềm mại, sắc mặt như c̣n sống. Ngày Mười Ba tháng Năm, di quan trà tỳ, thu được hơn ngàn viên xá lợi ngũ sắc, chiếu sáng rực rỡ. Sư thọ tám mươi chín tuổi. (theo Đạo Nguyên Lăo Pháp Sư Kỷ Niệm Tập)

 

Nhận định:

Đại sư học pháp từ hai vị đại lăo Từ Châu và Ấn Quang. Tiếp nối nghiệp thầy, nên lấy Tịnh - Luật song hoằng làm trách nhiệm, phổ khuyến đại chúng tŕ giới niệm Phật, hóa độ phổ cập khắp Trung Hoa lẫn hải ngoại. Từ sau lúc vị Tổ thứ mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại sư quy hồi An Dưỡng, chỉ có ḿnh đại sư hoằng truyền Tịnh Tông, là chỗ hướng về của đại chúng.

Ngài đáng được tôn xưng là Tổ thứ mười bốn của Tịnh Tông v́ đă tiếp nối người trước, mở đường cho người sau, tiếp nối lối cũ, mở lối mới, ắt có lẽ tứ chúng trong Tịnh tông ta đều cùng tán đồng vậy!

 

32. Dứt vọng niệm Phật

 

Thời Dân Quốc, ni sư Liễu Định là người tỉnh An Huy, họ Thôi. Thuở bé sang chỗ cha làm quan ở đất Ngô, được gả cho họ Hoàng, do mắc họa ghen ghét, [bị nhà chồng] trả về bố mẹ ruột, cha toan ép con tự tử, mẹ lén cho đi xuất gia. Do trắng trẻo, nên bà tự phơi nắng cho đen đúa, mong hủy dung mạo hầu nghiêm giữ hành vi. Sau khi thọ giới, bế quan ba năm, chuyên tu Tịnh nghiệp. Trên vách, dán tờ giấy to viết: “Ngươi là kẻ nào? Ta là ni cô. Đă là ni cô, hăy nên dứt vọng niệm Phật”.  Mỗi khi vọng niệm khởi lên, cũng như khi niệm Phật mệt mỏi, bèn đọc tờ giấy ấy, tâm liền đại định, càng niệm càng hào hứng. Về già, dạy học tṛ, ân lẫn uy trọn đủ, như mẹ đối với con gái vậy. V́ thế, [đồ chúng] tŕ giới, niệm Phật đều rất siêng năng, cẩn thận. Sư không bệnh mà mất, có khá nhiều tướng lành, thọ bảy mươi sáu tuổi. (theo Cận Đại Văng Sanh Truyện)

 

Nhận định:

Niệm Phật là cách dứt vọng bậc nhất, dùng niệm Phật để khống chế vạn niệm. Trong khi vọng niệm khởi lên, lớn tiếng niệm Phật, ra rả niệm, đừng nghỉ, vọng chẳng dứt cũng sẽ tự dứt.      

 

33. Tŕ giới niệm Phật

 

Cư sĩ Lưu Tŕnh Chi, tự Trọng Tư, hiệu Di Dân đời Tấn, người xứ Bành Thành. Thuở nhỏ mồ côi, thờ mẹ hiếu thuận, thích Lăo Trang, giữ chức Phủ Tham Quân. Ông cực lực từ bỏ chuyện tiến dẫn trên đường công khanh, đến Lô Sơn theo học với Tổ Huệ Viễn. Tổ hỏi:

- Quan chức, bổng lộc ṿi vọi sao lại chẳng làm?

- Nhà Tấn không có sự được sự bền vững như đá tảng, dân t́nh mang nỗi nguy như trứng chồng, con biết làm thế nào?

Ông cùng những vị sĩ phu có ḷng tin thanh tịnh như Tông Khác v.v… một trăm hai mươi ba người dựng am, kết xă đồng tu Tịnh Nghiệp, khắc đá lập thệ. Ông nghiên cứu đạo huyền một cách tinh tường, kiêm tŕ giới cấm, làm thơ Niệm Phật Tam-muội. Ở Lô Sơn mới được nửa năm, trong khi nhập Định, ông thấy kim quang của Phật chiếu sáng mặt đất. Mười lăm năm sau, trong khi đang niệm Phật, thấy tướng ngọc hào quang của Phật chiếu soi, Phật x̣e tay đón tiếp, vỗ về. Ông Lưu nguyện:

- Xin Phật xoa đầu con, dùng y trùm thân con!

Phật liền xoa đầu ông, lại dùng áo ca-sa trùm lên. Tiếp đó, ông lại mộng thấy ḿnh vào trong ao bảy báu, thấy hoa sen xanh, trắng, và thấy một vị sau cổ có viên quang, trên ngực có chữ Vạn, chỉ nước trong ao bảo:

- Nước tám công đức đó, ông nên uống đi!

Uống vào thấy nước ngon ngọt. Tỉnh giấc, thấy mùi hương lạ bốc ra từ lỗ chân lông, bèn nói:

- Đây là duyên Tịnh Độ của ḿnh đă đến rồi!

Ông đốt hương, lễ nguyện:

- Nguyện cho hết thảy hữu t́nh đều sanh Tịnh Độ.

Ông từ biệt đại chúng, hướng về Tây tọa hóa, thọ năm mươi chín tuổi. (theo Đông Lâm Truyện)

 

Nhận định:

Từ lúc ngài Huệ Viễn đề xướng Tịnh Độ, trong những cư sĩ theo Ngài kết xă niệm Phật th́ vị cư sĩ này là người thứ nhất văng sanh, nên được nêu lên đầu tiên để làm khuôn phép vĩnh viễn cho việc tŕ giới niệm Phật.

 

34. Xâu chuỗi chẳng rời tay

 

Cư sĩ Vương Cổ tự Mẫn Trọng đời Tống, người Đông Đô, là tằng tôn của Văn Chánh Công Vương Đán (ông Đán làm Tướng Quốc đời Tống, từng tham gia Tịnh Hạnh Xă của tổ Tỉnh Thường). Trong bảy đời trước, ông từng giữ giới không sát sanh, phát tâm phóng sanh mấy cả trăm vạn mạng. Lúc đầu, ông học hỏi những sự thuộc về Tông môn. Ít lâu sau, viết tác phẩm Trực Chỉ Tịnh Độ Quyết Nghi Tập để hoằng dương Thánh giáo. Lúc nhàn cư, xâu chuỗi chẳng rời tay; đi, đứng, nằm, ngồi đều tu hành Tịnh nghiệp chưa hề gián đoạn. Ông làm quan đến chức Hộ Bộ Thị Lang; do bè đảng trong triều xâu xé nhau, ông bị mất chức, ít lâu sau liền tịch. Có vị Tăng nhập định lên Tịnh Độ, thấy ông và ông Cát Phồn đều ở tại đó. (theo Tống Sử, phần Pháp Hỷ Chí)

 

Nhận định:

Kinh Sổ Châu Công Đức nói: “Nếu có người tay cầm xâu chuỗi, dù chẳng niệm tụng danh hiệu Phật và đà-ra-ni, th́ người ấy cũng được phước vô lượng”, huống hồ là xâu chuỗi chẳng rời tay, niệm Phật không gián đoạn?

Quán Kinh nói: “Từ tâm chẳng giết, đủ các giới hạnh sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh”, huống hồ là phóng sanh đến cả trăm vạn mạng?

 

34. Mỗi ngày làm một điều lành

 

Cư sĩ Cát Phồn đời Tống, người xứ Trừng Giang. Lúc đầu mỗi ngày làm một điều lợi cho người, rồi hành hai điều, ba điều, cho đến mười điều. Suốt mấy mươi năm chưa hề bỏ phế một ngày nào.

Lúc làm quan Thái Thú trấn nhậm vùng Giang Tô, có người hỏi làm thế nào để làm lợi cho người, ông chỉ ngay cái bệ lót chân ở chỗ ḿnh ngồi, bảo:

- Nếu vật này chẳng đặt ngay th́ sẽ làm người ta què chân, tôi liền kê ngay lại, đấy cũng là việc lợi người. Nếu ai khát, tôi cho uống nước th́ cũng là việc lợi người. Chỉ tùy theo từng việc mà làm lợi. Trên cho đến khanh tướng, dưới xuống đến kẻ ăn mày, ai nấy đều có thể làm được. Chỉ cốt sao lâu ngày chẳng buông bỏ mà thôi.

Ông làm quan đến chức Triêu Tán Đại Phu, dù là phủ đường hay nhà tư, ông đều sắp dọn một gian tịnh thất bày tượng Phật. Một ngày kia, trong lúc ông đang lễ bái niệm Phật, xá-lợi từ trên không hạ xuống. Sau đấy, ông không bệnh tật ǵ, ngồi ngay ngắn hướng về Tây mà tịch. (theo Tống Sử và Long Thư Tịnh Độ Văn)

 

Nhận định:

Tùy việc lợi người là trợ hạnh cho Tịnh nghiệp. Xá-lợi từ trên không giáng xuống là do ḷng tinh thành cảm nên. Người ta hay than không tiền nên chẳng thể làm công đức, hoặc niệm Phật không cảm ứng, th́ do đây sẽ thấy công đức chẳng tốn phí tiền bạc, công niệm Phật chẳng luống uổng, ai nấy chẳng nên quan tâm ra sức tu hành hay sao?

Xin hăy bắt chước ông Cát gắng sức tu hành. Phàm bất cứ việc ǵ có lợi cho người, chẳng cần biết là việc lớn hay nhỏ, bản thân nhàn rỗi hay bận bịu, sức ḿnh cáng đáng nổi hay không, đều cứ hoan hỷ thi hành, làm được đến đâu hay đến đó!

Tŕ đă thuần thục, hễ động niệm th́ vạn thiện đều nương theo, không việc ǵ là chẳng lành. Dùng đấy để niệm Phật hồi hướng, ắt phẩm vị văng sanh sẽ cao!

 

35. Thập niệm hồi hướng

 

Cư sĩ Mă Vu tự Trọng Ngọc đời Tống, người huyện Hợp Ph́. Cha là Trung Túc Công Mă Lương, làm thái thú Hàng Châu, được ngài Từ Vân Tuân Thức dạy cho pháp môn Tịnh Độ, cả nhà bèn thờ Phật.

Cư sĩ gặp được vị Tăng tên Quảng Sơ truyền cho cuốn Thập Nghi Luận của Tổ Thiên Thai, mừng rỡ bảo:

- Tôi nay đă t́m được chỗ về rồi!

Ông liền áp dụng pháp Thập Niệm Hồi Hướng của ngài Tuân Thức, tu tập suốt hơn hai mươi năm. Về sau, giao du với Vương Cổ, ông càng thêm tinh tấn niệm Phật, thường lấy việc phóng sanh làm Phật sự. Ông lần lượt làm thái thú ở Chuy Xuyên, Tân Định, cai trị bằng ḷng nhân từ, độ lượng. Hằng ngày ông luôn định thời khóa tụng kinh chú.

Thuở đó, phu nhân của Kinh Vương (Kinh Vương là chú của vua Tống Triết Tông) nằm mộng dạo chơi Liên Tŕ, trông thấy ông mặc triều phục ngồi trên hoa sen. Sau đó, ông mắc bệnh, bèn tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật mà qua đời. Người nhà đều nằm mộng thấy ông bảo:

- Ta đă được sanh vào Thượng Phẩm của Tịnh Độ!

Con ông là Vĩnh Dật cũng tu pháp Thập Niệm hơn ba mươi năm; về sau cũng mắc bệnh, thấy Phật và hai vị Bồ Tát tiếp dẫn, bèn kết ấn, thị tịch. Mùi thơm tràn ngập cả nhà. (theo Lạc Bang Văn Loại)

 

Nhận định:

Sáng ra niệm mười niệm th́ dù là người bận rộn cũng dễ làm được. Nếu có thể mỗi ngày chí thành như thế, không ai chẳng văng sanh. Trường hợp của Mă công tử (Mă Vĩnh Dật) đủ để chứng nghiệm vậy. Do sau khi đă tinh tấn niệm Phật, ông Mă lại c̣n thường phóng sanh và dùng ḷng nhân từ, độ lượng để cai trị, phước huệ song tu, nên ngay lúc c̣n sống thần thức đă ngao du Tịnh Độ; chết đi, liền sanh trong Thượng Phẩm. Những người đang nắm giữ quyền chức hăy nên học theo gương ông.

 

36. Ngàn lạy trong khóa tụng hằng ngày

 

Cư sĩ Vương Nhật Hưu hiệu Hư Trung đời Tống, người huyện Long Thư. Được cử vào chức Quốc Học Tấn Sĩ, ông bỏ quan chức chẳng nhận. Ông bác thông kinh sử, nhưng một bữa kia, buông bỏ hết, bảo:

- Đều là những thứ tạo thêm nghiệp, chẳng phải là pháp rốt ráo, ta lấy Tây Phương làm chỗ quay về!

Từ đấy, ông tinh tấn niệm Phật. Năm sáu mươi tuổi, ông mặc áo vải, ăn rau, nhật khóa lễ một ngàn lạy đến nửa đêm mới nghỉ. Trong tác phẩm Long Thư Tịnh Độ Văn, từ hạng vua, quan, cho đến những kẻ đồ tể, nấu rượu, hạng người tội lỗi, ông đều khuyên tŕ danh niệm Phật, phổ khuyến tu tŕ.

Ba ngày trước khi mất, ông từ biệt tất cả thân hữu, khuyên họ nên tinh tấn Tịnh nghiệp, bảo: “Ta sắp có việc phải đi, không gặp lại nhau nữa”. Đến kỳ, ông giảng sách cho học tṛ xong, lễ niệm như thường, chợt cao giọng niệm Phật mấy tiếng, bảo: “Phật đến đón ta!”, đứng trơ trơ mà hóa. (theo Tịnh Độ Văn)

 

Nhận định:

Kinh Nghiệp Báo Sai Biệt dạy:

“Lễ Phật một lạy được mười thứ công đức:

1. Một là được sắc thân đẹp đẽ.

2. Hai là nói ra được người khác tin tưởng.

3. Ba là ở giữa đại chúng không sợ hăi.

4. Bốn là được chư Phật hộ niệm.

5. Năm là đầy đủ oai nghi.

6. Sáu là mọi người thân cận.

7. Bảy là chư thiên kính yêu.

8. Tám là đủ đại phước báo.

9. Chín là chết đi sẽ văng sanh.

10. Mười là mau chứng Niết Bàn”.

Huống hồ là nhật khóa ngàn lạy ư?

Tác phẩm Tịnh Độ Văn của ông tuy lời lẽ đơn giản, nhưng thí dụ sâu xa đều là do ông bác thông kinh luận và thân hạnh cùng tột mà thành. Phổ khuyến tu tŕ thật là thiết tha, khẩn khoản; ai đọc đến mà chẳng phát khởi tín tâm? Xin hăy ấn hành lưu thông rộng răi tác phẩm ấy để khuyên khắp mọi người lễ niệm, đồng sanh Tịnh Độ.

 

37. Đoạn tuyệt đồ mặn, văng sanh Tây Phương

 

Cư sĩ Châu Sở Phong, hiệu Đ́nh Chương đời Minh, người tỉnh Vân Nam. Ông tánh hiền lương, thích niệm Phật, trị gia chẳng kể được, mất; có ǵ đều chia ngay cho người nghèo khổ hết.

Ai khen ông chỉ cười; ai mắng chửi, nhục mạ, ông cũng chỉ cười mà thôi! Mỗi sáng sớm, ông tụng kinh Kim Cang, kinh Di Đà và niệm Phật hiệu rất vui vẻ, sung sướng! Ông thường bảo:

- Tôi chẳng bỏ công việc hằng ngày, nhưng chẳng dính vào tham ái, cứ như thế mà thôi!

Năm tám mươi chín tuổi, vào tiết Thanh Minh, ông đi viếng mộ để từ biệt tổ tiên, cha mẹ; trở về, bảo vợ:

- Tôi sắp đi đây, Phật Di Đà đón tôi, Quán Âm và Thế Chí đều đến cả!

Lại bảo:

- Đức Quán Âm bảo tôi dứt trọn đồ mặn trong năm ngày mới được văng sanh Tây Phương!

Mỗi ngày, ông liền ăn một bữa cháo, một bữa rau. Đến kỳ, tắm gội, đội măo, sai con cháu tụng Phật hiệu. Tự ḿnh tụng kinh xong, ông đoan tọa mà hóa. Thân bốc ra mùi thơm, vẻ mặt hệt như lúc sống. (theo Kim Cang Linh Dị Lục)

 

Nhận định:

Ai khen chỉ cười là mật hạnh tịnh tấn. Ai mắng chửi cũng cười là sân độc đă hết sạch. Có của cải ǵ liền chia hết là tham độc cũng đă tận. Phật và Bồ Tát đến đón, c̣n dặn phải kiêng đồ mặn trong năm ngày mới có thể văng sanh, đủ chứng minh rằng dù chưa thể ngưng tay dao, miệng c̣n tham vị ngon, vẫn có thể được văng sanh. Xin hăy lấy việc ăn chay, kiêng giết chóc làm nhiệm vụ cấp bách.

 

38. Lâm chung dũng mănh

 

Cư sĩ Văn Trọng Tử, tự Tử Dữ, hiệu Khải Sơ và Đại Thịnh đời Minh, người huyện Tiền Đường. Thuở bé lắm bệnh, chí muốn thoát sanh tử, không có ư định lập gia đ́nh. Ông quy y với Tổ Vân Thê, thọ tŕ pháp môn Niệm Phật, dốc ḷng tin, cật lực tu hành.

Em rể là cư sĩ Hoàng Nguyên Phù tự Thừa Huệ, hiệu Tịnh Minh tính người khẳng khái, thanh cảnh, không thích bon chen cơi tục, hiếu thuận, thích bố thí. Ông Văn thấy em rể thanh bần như thế bèn hướng dẫn đến quy y với tổ Vân Thê. Sau ông Hoàng mửa ra máu, lâu ngày càng nặng, ông Văn lại dạy em rể hăy niệm Phật. Ông Hoàng càng thống khổ; vừa mới tỉnh, Văn cư sĩ đă lớn tiếng hỏi:

- Lúc mắt chú dại đi th́ lúc ấy mới biết khổ, rốt cục sẽ đi về đâu?

Ông Hoàng run sợ:

- Phải làm thế nào đây?

Ông Văn bảo:

- Chẳng ǵ bằng niệm Phật!

Ông Hoàng hỏi:

- Bác dạy em niệm tự tánh Di Đà hay là niệm Cực Lạc Di Đà?

Ông Văn bảo:

- Chú cho là có hai hay sao?

Ông Hoàng có phần tỉnh ngộ, liền thỉnh Tăng, bày tượng Phật, giảng nhân duyên Tịnh Độ, xuống tóc, thọ giới Sa Di và trợ niệm cho ḿnh; tự suất lănh cả nhà niệm Phật suốt bảy ngày. Chợt nghe mùi hoa sen, ông Hoàng mỉm cười, nói kệ, ngồi ngay ngắn qua đời.

Đến khi ngài Hám Sơn Đức Thanh đến điếu tang ngài Vân Thê, ông Văn cũng đến lễ thỉnh, xin được thế phát. Đại sư bảo:

- Tứ Đại chẳng thể ngăn trở được Phật tánh, râu tóc có trở ngại chi! Cha mẹ c̣n, Phật tử đành cam bất hiếu hay sao?

Ông mới thôi. Về sau, bị bệnh nặng, ông ỷ y chính ḿnh tín lực mạnh mẽ, văng sanh chẳng khó khăn ǵ. Đến lúc bệnh gần chết, bao nhiêu nghiệp tích tập hiện tiền, tâm thần hoảng hốt, ông mới biết là Tịnh nghiệp chưa thuần, văng sanh chẳng dễ dàng, bèn cố nhỏm dậy, kêu ầm lên:

- Mau thỉnh thiện tri thức niệm Phật giúp ta!

Bạn bè nhóm lại, niệm Phật suốt mấy ngày, nhưng những nghiệp cảnh tập khí vẫn vần vũ, ông lại kêu:

- Căn bản sanh tử không có người nào khác dẹp nổi!

Liền đứng dậy, mặc áo, tắm gội, đối trước Phật đốt hương trên cánh tay, buồn thương, thành khẩn sám hối, niệm Phật suốt đêm không chút mệt mỏi. Ông tự biết túc chướng đă băng tiêu, tâm an, thần sảng, Tịnh Độ hiện tiền, hoan hỷ tịch định, vội cạo tóc, khoác ca-sa ra dáng tăng sĩ, từ biệt mọi người, ngồi ngay ngắn qua đời. (theo Mộng Du Tập)

 

Nhận định:

Ông Hoàng bệnh càng ngày càng nặng, chợt được nghe khai thị bèn tỉnh ngộ, liền nhất niệm kiên quyết, nên bèn có thể buông xuống vạn duyên, niệm Phật bảy ngày, văng sanh ngay chẳng trở ngại ǵ.

Ông Văn tuy sớm dốc ḷng tin, tận lực tu hành, nhưng tự cậy chính ḿnh tín lực mạnh mẽ, văng sanh chẳng khó khăn; đến lúc nguy ách, tập khí hiện tiền, mới biết Tịnh nghiệp chưa thuần, văng sanh chẳng dễ! Cho đến khi nhờ tri thức trợ niệm suốt mấy ngày vô hiệu, mới rơ căn bản sanh tử không ai có thể bạt trừ giùm ḿnh!

Đại sư Hám Sơn nói: “Lúc lâm chung, cảnh giới tập khí hiện tiền, há chẳng phải là để thấy trước ác đạo ư? Sao chẳng dũng mănh, phấn khởi, hô to một tiếng giận dữ, bạt trừ cội gốc sanh tử bao kiếp, biến nẻo khổ thành Tịnh Độ, há chẳng phải là những bậc trượng phu hay sao? Đạo lư ấy há có thể dùng âm thanh, vẻ mặt cười cợt để thực hành được ư?”

Nếu ỷ y là dễ th́ sẽ lười nhác, c̣n biết là khó th́ sẽ dũng mănh, tinh tấn!

 

39. Thầy thuốc khuyên niệm Phật

 

Cư sĩ Trầm Khải Bạch tự Trung Húc đời Thanh, người Ngô Huyện; rộng răi từ bé, thích giúp đỡ người hoạn nạn. Sau ông nổi danh về tài làm thuốc, càng ưa bố thí. Đối với người nghèo, ông chẳng lấy tiền khám bệnh, hoặc c̣n cho thêm tiền.

Năm hai mươi lăm tuổi, vợ mất, ông không tái giá, dốc ḷng tu Tịnh nghiệp. Trên những tăng phường, đầu đường, thành cầu đi qua, ông đều đề danh hiệu Tây Phương Phật và những lời cảnh sách khuyên người niệm Phật. Gặp phải người bệnh nguy ngập, ông đều nghiêm nghị bảo:

- Tội nghiệt sâu nặng, sức tôi chẳng cứu nổi, biết làm sao đây!

Người bệnh khóc lóc cố van nài, ông liền bảo:

- Chỉ có đức A Di Đà Phật ở thế giới Cực Lạc nơi phương Tây, nếu ông có thể chí tâm xưng niệm một tiếng th́ diệt được tội trong tám mươi kiếp sanh tử. Ông có tin nổi, niệm nổi hay không?

Kẻ ấy vâng vâng, dạ dạ. Ông bảo:

- Nếu đúng là như vậy th́ bệnh có thể trị được!

Liền cắt thuốc, lần nào cũng hiệu nghiệm lạ kỳ nên từ đó, những người quy hướng Phật rất nhiều. Lúc hơn bảy mươi tuổi, ông niệm Phật rồi tịch. (theo sách Nhị Lâm Cư, tập cuối)

 

Nhận định:

 

Bố Thí là độ đầu tiên trong Lục Độ. Ông Vương Long Thư nói:

“Kẻ làm thầy thuốc nên thường tự nghĩ: Thân người bệnh khổ nào khác thân ta. Chớ nề hà quư, tiện, nghèo, giàu, chuyên tâm cứu người để kết nhân duyên, để tích phước cho ḿnh, sẽ được thánh hiền ngấm ngầm gia hộ. Nếu luôn giữ được tấm ḷng như vậy, hồi hướng Tịnh Độ, ắt sẽ sanh trong Thượng Phẩm.

Nếu nhân lúc người khác bị bệnh khổ mà ḿnh khuyên dạy họ Tịnh Độ, họ sẽ dễ sanh tín tâm. Lại khiến cho họ phát đại nguyện, lưu truyền rộng răi chuyện của họ để bù chuộc túc nghiệp, cầu mong được lành bệnh, ắt sẽ được thỏa nguyện. Nếu như tuổi thọ đă hết, cũng sẽ nhờ vào nguyện lực ấy chóng sanh về Tịnh Độ.

Thường giáo hóa người khác như vậy, không chỉ sau khi xả thân được sanh trong Thượng Phẩm, mà ngay trong hiện đời cũng được hưởng phước báo vô tận vậy!”

 

40. Làm quan thờ Phật

 

Ông Trương Lan Chử, tự Sư Thành, hiệu Nhất Tây Cư Sĩ đời Thanh, người huyện Quy An ở Hồ Châu. Lúc trẻ, đỗ đạt, đi trấn nhậm những vùng biên cương.

Ông làm tuần vũ (tuần phủ) tỉnh Giang Tô, thấy sát nghiệp quá nặng bèn nhiều lần ra yết thị khuyên tránh sát sanh, lập con sông phóng sanh, nghiêm cấm đánh cá; trong dinh không thết tiệc đăi khách, không sát sanh, trường trai thờ Phật, gởi ḷng nơi Tịnh Độ.

Ông chọn lấy những luận thuyết Tịnh Độ của các bậc tiên hiền, soạn thành cuốn Kính Trung Kính Hựu Kính (con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong những đường tắt) để phổ khuyến niệm Phật.

Lúc đă ngoài sáu mươi tuổi, ông xin từ quan, về làng, ở yên trong một gian nhà hẹp, một dạ quy Tây. Lâm chung, tụng kinh Di Đà xong, vừa mới niệm Phật hiệu được năm câu, ông lặng lẽ tịch. (theo Trương Lan Chử Niên Phổ)

 

Nhận định:

Phú quư học đạo khó v́ kẻ theo đuổi công danh lấy việc thăng quan tiến chức làm trọng; kẻ ham vui, phóng dật, coi tịnh tu là khổ, đâu ai chịu buông bỏ trần lao để gởi ḷng nơi Tịnh Độ, trường trai thờ Phật? Xin những người làm quan hăy lấy ông Trương làm gương.

 

41. Từ Đạo Giáo chuyển sang Phật giáo

 

Ông Bành Xích Mộc tự Thiệu Thăng, hiệu Tế Thanh, Nhị Lâm Cư Sĩ, Tri Quy Tử… đời Thanh là người Trường Châu. Năm mười tám tuổi, ông liên tiếp đỗ đầu, được danh hiệu Tấn Sĩ.

Đột nhiên, ông tự tỉnh ngộ, bảo: “Ta chưa minh được cái tâm ḿnh, biết làm sao đây!” Bèn tu luyện theo cách tu của Đạo Gia suốt ba năm, chẳng kết quả ǵ. Đọc sách Phật, ông sảng khoái nói: “Đạo chính là đây!”. Từ đấy, ông tin tưởng đạo Phật, bỏ hết những điều ḿnh đang tu tập, chuyên tâm niệm Phật.

Ít lâu sau, ông thọ Bồ Tát giới, thôi ăn thịt, chẳng gần đàn bà; thường bảo: “Chí nơi Tây Phương, hạnh tại Phạm Vơng”. Ông bế quan tại Văn Tinh Các tu Nhất Hạnh Tam-muội; đề biển Nhất Hạnh Cư. Ông sai thợ vẽ tranh Cực Lạc Thế Giới dựa theo cảnh y báo và chánh báo trang nghiêm được dạy trong ba kinh Tịnh Độ.

Ông viết cuốn Nhất Thừa Quyết Nghi Luận để hóa giải sự hục hặc giữa Nho và Thích. Ông c̣n soạn cuốn Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam-muội Luận để dàn ḥa cuộc tranh luận giữa Thiền và Tịnh. Ông soạn ra Tịnh Độ Tam Kinh Tân Luận để xiển dương những ư chỉ chưa được bàn luận rốt ráo trong Liên Tông. Những tác phẩm của ông như Cư Sĩ Truyện, Thiện Nữ Nhân Truyện, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục v.v… tùy cơ tiếp dẫn, được truyền tụng nhiều trong đời.

Ông bỏ ra cả vạn lượng vàng như không để lập chùa thờ Phật, ấn tống kinh điển, nuôi cơm tăng chúng, mở ra Cận Thủ Đường để chữa bệnh cho người nghèo túng, dùng ruộng của người giàu trong họ để giúp đỡ họ hàng nghèo. Ông sáng lập Tuất Ly Hội để giúp đỡ những người ở góa, lập nên Phóng Sanh Hội để chuộc mạng cho loài vật. Việc nào ông cũng làm văn phát nguyện hồi hướng Tịnh Độ. Ông ẩn cư trong các tăng xá ở đất Tô, Hàng hơn mười năm, mỗi ngày đều có thời khóa tụng niệm.

Về sau, ông mắc bệnh hạ lỵ, biết trước ngày mất, chẳng lập kẻ thừa tự, đem những tài sản của các hội giao cho cháu là Chúc Hoa, dặn ḍ duy tŕ lâu dài, đừng để tan ră. Ông làm kệ từ biệt cơi đời, hướng về Tây niệm Phật tọa thoát. Thọ năm mươi bảy tuổi. (theo Cư Sĩ Truyện)

 

Nhận định:

Tuổi trẻ đă đỗ đạt cao, nhưng chẳng tham luyến vinh hoa cơi trần, chỉ cầu minh tâm, từ Đạo giáo chuyển sang Phật giáo. Chánh hạnh và trợ hạnh kiêm tu, làm kệ, tọa thoát, nếu chẳng phải là thiện căn vốn sẵn đủ từ bao đời trước, đă thâm nhập Tam-muội th́ làm sao mà như thế được?

 

42. Tiếng niệm Phật chẳng dứt

 

Cư sĩ Trầm Đ́nh Du đời Thanh, người huyện Gia Hưng. Ông tánh t́nh đoan chánh, cẩn trọng, làm ǵ cũng hết sức, nhưng cứ luôn miệng niệm Phật thao thao chẳng ngưng. Ai có cười cũng mặc.

Mấy mươi năm như thế, tự nói:

- Niệm Phật càng được thuần thục th́ xử sự càng sáng suốt.

Năm bảy mươi ba tuổi, ông thị hiện bệnh nhẹ, chợt bảo người nhà rằng:

- Phật đến rồi đó, hăy đem đuốc cho ta.

Tự tay thắp hương mà thác. (theo Nhiễm Hương Tập)

 

Nhận định:

Cư sĩ Hồ Liên Quy bảo: “Niệm Phật càng được thuần thục th́ xử sự càng sáng suốt. Đúng là động tịnh đều giống hệt như nhau, là bậc thâm nhập tam-muội. Người dốc ḷng mong cầu danh lợi, hễ động đến liền nói: ‘Tôi phân tâm xử sự đâu có rảnh mà niệm Phật’. Đến khi sanh tử xảy đến, đành phải trắng tay, là lỗi của ai vậy?”

Xin hăy mạnh mẽ tỉnh ngộ để gấp bắt chước gương này.

 

43. Ở một ḿnh niệm Phật

 

Cư sĩ Bùi Vĩnh Độ đời Thanh người huyện Thái Châu tỉnh Giang Tô. Ông sống bằng nghề nông, tánh t́nh điềm đạm, không ham thích ǵ, cứ thấy việc lành là làm. Từ nhỏ đă dốc trọn ḷng tin tưởng vào Phật pháp, ăn chay trường, định thời khóa niệm Phật không gián đoạn.

Sau đấy, ông thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, hành tŕ nghiêm khiết, chưa hề khuyết lậu. Vợ cũng niệm Phật, thọ giới, tuy cùng ở chung một nhà, nhưng đối đăi với nhau trinh bạch. Chỉ có một con gái, cũng ăn chay niệm Phật. Về sau, cô này xuất gia thọ Cụ Túc giới, biến nhà thành am.

Ông dạy vợ con cùng tu Tịnh nghiệp. Ông lập riêng một căn tịnh thất, ở một ḿnh niệm Phật hơn mấy mươi năm. Lúc tuổi gần thất tuần, chợt bảo thân tộc rằng:

- Năm ngày sau nữa ta sẽ chia tay, xin hăy thiêu hóa giùm cái xác thừa. Thân này như huyễn, đừng lầm lẫn mà tiếc nuối!

Đến kỳ, ông tŕ danh tọa hóa. Trà tỳ, thu được hơn trăm viên xá lợi ngũ sắc lóng lánh. (theo Nhiễm Hương Tục Tập)

 

Nhận định:

Cả nhà thờ Phật, vốn có thể đồng tu. Do con gái đă xuất gia biến nhà thành am nên ông cất một tịnh thất, ở một ḿnh niệm Phật; cho đến già chết, không qua lại với vợ con nữa là ái căn đă đoạn. Thân c̣n tại gia mà tâm đă xuất gia vậy!

 

44. Thân đau tâm niệm

 

Đời Thanh, cư sĩ Châu Quang tự Tây Liên, là Tú Tài ở Giang Ninh. Ông tánh thuần hậu, nhạt nhẽo danh lợi, tuy gia thế quư hiển, nhưng không quen thói hưởng thụ.

      Tuổi trung niên, ông trường trai thờ Phật, mỗi ngày tụng Phật hiệu cả vạn tiếng để cầu sanh Tịnh Độ. Anh em, bè bạn gặp nhau, hàn huyên đôi câu xong là ông liền đem pháp môn Tịnh Độ khuyên đi, khuyên lại. Ông quyên tiền in lại bộ Di Đà Sớ Sao, đích thân ḍ lỗi, sửa sai để tác phẩm này được lưu truyền rộng răi.

Tuổi già, thần khí suy yếu, nhưng niệm Phật càng thêm hăng hái. Đột nhiên, ông bị mắc bệnh sa đ́ (c̣n gọi là thoát vị, tức chứng hernia) rất nặng, nhưng chẳng hề bỏ lỡ việc chấp tŕ danh hiệu. Bệnh được lành, có người thấy thế khen ngợi [tinh thần niệm Phật của ông], ông bảo:

- Trong những khi bị đau như vậy, lúc mới đầu tôi cũng đau đớn, khó chịu đựng nổi, nhưng rồi nghĩ đến thân này đă là giả th́ khổ cũng chẳng phải là thật, huống hồ mức độ tinh và thô giữa thân và tâm đă rơ rành rành!

Cái thân kia thống khổ, tôi chẳng biết làm cách nào; tâm tôi tự niệm Phật th́ cái thân kia cũng chẳng làm ǵ được. Lúc mới đầu c̣n thấy có tâm và thân đối lập nhau, dần dần chỉ biết có tâm, chẳng c̣n biết có thân, thống khổ cũng dần dần hết!

Về sau, ông niệm Phật mà tịch. (theo Nhiễm Hương Tập)

 

Nhận định:

Niệm Phật trị được trọng bệnh vạn kiếp sanh tử, huống hồ đă biết là thân giả, khổ chẳng thật, sẽ nhẫn được điều khó nhẫn, chẳng những thống khổ sẽ tự tuyệt, mà đến lúc văng sanh, do trong lúc bệnh nguy ngập đau đớn đă làm chủ được, lúc lâm chung văng sanh ắt sẽ tự chủ được!

 

45. Giác chiếu niệm Phật

 

Cư sĩ Phạm Dụng Ḥa tự Nguyên Lễ đời Thanh, người huyện Tiền Đường. Lúc nhỏ học Nho, thờ cha mẹ rất có hiếu. Lúc cha mẹ bệnh, trước sau, ông đă cắt thịt bắp tay ḥa với thuốc trị lành bệnh cho cha.

Bước vào tuổi tráng niên, cha mẹ mất, vợ chết, ông từ bỏ trần duyên, tu tập huyền công (cách tu hành của Đạo giáo) hơn mười năm, đạt chút linh nghiệm. Về sau, ông đọc những tác phẩm của ngài Vân Thê có phần tỉnh ngộ, bèn thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhất chí kiên tŕ, thậm chí những thứ làm bằng lông thú, dệt bằng tơ tằm, ông chẳng hề khoác vào thân. Bỏ hết những điều chính ḿnh đă tu tập, chuyên tu Tịnh nghiệp. Ông ham làm lành, thí thuốc, phóng sanh, giúp đỡ người nghèo, chẳng nề nhọc mỏi. Gặp Tăng chúng nghèo bệnh, ông liền cúng dường chẳng thiếu ǵ.

Về sau, ông bế quan niệm Phật suốt trăm ngày. Lúc hơi thở ông vừa trở nên yên tịnh, cách tu huyền thuật trước kia chợt hiện ra, nhận thấy khí Thiên Địa cuồn cuộn, mù mịt trong không trung, xông thẳng vào miệng, mũi, chạy thẳng vào huyệt Đan Điền, ḥa hợp với nguyên khí của chính ḿnh, [cảm thấy] khinh an chẳng thể diễn tả nổi. Giây lát, có một đứa bé cao mấy tấc từ đảnh đầu vọt ra, lăng đăng trước mặt; được một chốc, nó lại theo đảnh đầu trở vào.

Từ đấy trở đi, mỗi khi đến lúc hết sức tịch tịnh, vong niệm, liền có đứa bé bước ra, trở vào như trên. Thoạt đầu, ông rất vui; lúc sau, ông chợt nghĩ:

- Đây há chẳng phải là năm mươi thứ Ấm Ma như đă nói trong kinh Lăng Nghiêm đó ư? Nếu cho là kỳ đặc th́ sẽ bị lạc vào quần tà! Niệm Phật chí tại Tây Phương, thánh cảnh chẳng hiện, sự này ích chi?

Ngay khi đó, ông liền giác chiếu, chánh niệm hiện tiền, đứa bé chẳng xuất hiện nữa. Đối với yếu chỉ Duy Tâm, ông khế ngộ sâu xa; Tín - Hạnh - Nguyện lực càng thêm thuần thục. Thường bảo với mọi người rằng:

- Đối với cửa ải hiểm yếu bậc nhất trong cuộc đời này nếu có chút phần chẳng rơ, sẽ lạc vào bàng môn. V́ vậy, tu hành chẳng thể không thận trọng vậy!

Chợt ông kết liễu mọi việc, dặn ḍ, từ biệt bè bạn, ngồi niệm Phật qua đời. Lúc liệm, đảnh đầu vẫn c̣n nóng, thọ sáu mươi ba tuổi. (theo Nhiễm Hương Tục Tập)

 

Nhận định:

Từng tu tập huyền công của ngoại đạo, nguyện thường giác chiếu nên khỏi bị đọa vào bàng môn. Chánh niệm hiện tiền, quần tà tự diệt.

 

46. Mật hạnh tinh tấn

Cư sĩ họ Trần đời Thanh, không rơ tên là ǵ, là chú họ của các ông Thế Anh và Mậu Tài ở huyện Thường Thục. Mỗi sáng dậy, ông thắp hương yên lặng tụng kinh, niệm Phật. Dù gió, mưa, lạnh, nóng, đều chẳng gián đoạn. Suốt mấy năm như thế người nhà chẳng hay v́ ông hành mật hạnh.

Trước khi mất ba tháng, ông tự bảo đă đến lúc sắp mất, người nhà thấy ông không bệnh tật ǵ nên không tin. Ba ngày trước khi mất, ông thị hiện bệnh nhẹ, vẫn đi đứng như thường. Đến ngày, ông tọa hóa, người nhà vây quanh kêu khóc; ông bèn mở mắt, dạy sơ lược vài lời, rồi nói: “Ta đi đây!” Lại yên lặng, thân bốc ra mùi hương lạ ba ngày mới hết. (theo Văng Sanh Cận Nghiệm Lục)

 

Nhận định:

Cổ nhân mật hạnh, dù nóng hay lạnh chẳng gián đoạn, dù là người nhà cũng chẳng hay biết. Nay th́ hành nhân rêu rao khoe mẽ, nhưng một ngày nóng mười ngày lạnh, cho nên người niệm Phật th́ nhiều mà kẻ văng sanh lại ít. Hăy dè dặt, hăy thận trọng!

 

47. Dụng công mănh liệt

 

Cư sĩ Tiền Dực Sơn tự Vạn Dật đời Thanh, người huyện Thường Thục, làm nghề bán rượu, thích chè chén. Ít lâu sau, ông tu Tịnh nghiệp, tận lực sửa đổi lề thói cũ, tránh sát sanh, dứt rượu thịt, khuyên mẹ ăn chay trường niệm Phật.

Một người con của ông bệnh lao, niệm Phật qua đời, mọi người phỉ báng, ông vẫn thờ Phật như cũ. Vợ mất, ông vẫn điềm nhiên, cự tuyệt người khuyên tục huyền:

- Có con nhưng nó đă mất rồi, tôi cưới vợ nữa để làm ǵ? Chí tôi xuất thế, lẽ nào c̣n nhọc nhằn t́m kiếm người nối dơi ư?

Nhà cửa bị lửa cháy, ông hướng lên không, nguyện:

- Nghiệp của tôi đáng bị lửa cháy, chỉ xin đừng làm tổn hại đến nhà hàng xóm.

Lửa tắt, quả nhiên nhà hàng xóm vô hại. Ông chợt mắc bệnh thổ huyết, tâm sanh tử càng thiết tha, niệm Phật càng mạnh mẽ. Đến lúc bệnh nguy kịch, ăn vào là ói ra ngay. Người chú là Tạ Phượng Ngô kể chuyện cổ đức nhịn ăn để thấy Phật, ông vui vẻ bảo:

- Có phương cách tiện lợi lớn như vậy, cháu phải dũng mănh làm theo!

Ông liền tắm gội, đến trước bàn Phật, thắp hương, phát thệ: giữ trai giới bảy ngày, bỏ tiền phóng sanh cầu sanh Tịnh Độ. Đêm ngày niệm Phật chẳng sót, có khát chỉ ăn dưa mà thôi. Có người hỏi: “Cả đêm chẳng ngủ, chẳng mệt mỏi hay sao?” Ông nói:

- Chẳng ngủ có lợi là niệm Phật được nhiều. Lúc tôi chưa bệnh chẳng được an nhàn; nay do bệnh mới được nhàn, đúng là lúc phải dốc sức, làm sao c̣n mệt nhọc được?

Hết kỳ hạn, thần thức hôn loạn, ông cả sợ, chắp tay đặt trên gối, ra lệnh đốt ngón tay. Ông Tạ nói:

- Lúc này, ngươi phát nguyện ấy th́ cũng giống như đă đốt ngón tay rồi, chẳng bằng nhất ư cầu về Tây Phương th́ hơn.

Ông liền nhắm mắt niệm Phật, lúc đầu c̣n miễn cưỡng, sau do dụng công mạnh mẽ, dần dần thần chí an định. Lại được mười mấy người trợ duyên, tiếng niệm Phật liên tục suốt ngày đêm. Ông chợt thấy Tây Phương Tam Thánh hiện tiền, quang minh, tướng hảo, toan cất thân lên kim đài; chợt nghe trên không có tiếng nói:

- Thân ông chưa sạch!

Ông liền sai lấy nước thơm tắm gội xong, Tam Thánh hiện như cũ, liền bảo người nhà rằng:

- Tôi đă đến được Tịnh Độ, thấy vô số hoa sen, tôi ngồi trên đó, sướng chẳng thể nói nổi!

Ông chỉ vào thân ḿnh bảo:

- Đây chẳng phải là thân ta!

Một lát, lại bảo:

- Phật đông nghẹt cả nhà!

Ngồi hướng về Tây, qua đời, thọ ba mươi tám tuổi. (theo Tục Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)

 

Nhận định:

Đoạn được rượu thịt là tham độc đă hết. Bị cười chê chẳng đoái hoài là sân độc đă hết. Con chết, vợ mất vẫn điềm nhiên là ái căn đă đoạn. Cự tuyệt lời khuyên lấy vợ lần nữa, chẳng mong có người nối dơi là si độc đă hết.

V́ vậy, gặp phải nghịch cảnh, ông vẫn có thể chẳng thoái thất cái tâm ban đầu; dù bệnh tật khổ sở vẫn giữ vững chánh niệm. Dù v́ nghiệp chướng hiện tiền khiến thần thức hôn loạn, ông vẫn có thể dụng công mạnh mẽ, lại được trợ duyên, nên nhanh chóng cảm được tướng tốt lành là đài vàng, thần hồn ngao du cơi Sen, thật đáng làm gương vậy!

 

48. Trợ niệm đắc lực

 

Cư sĩ Dương Liên Hàng thời Dân Quốc, người huyện Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Nghe lời ông Đồng Giác Hàng tu Tịnh nghiệp, lâu ngày đối với giáo nghĩa giải ngộ siêu quần.

Ông tham dự Liên Xă niệm Phật. V́ bị bệnh nên lại sát sanh, dần dần xa ĺa các liên hữu. Sau này, bệnh nguy kịch, liên hữu bảo ông ắt phải chết. Tự xét ḿnh không thể nào qua nổi, ông hoảng sợ, hối hận, bèn gắng sức đến trước Phật, tận t́nh bày tỏ, dốc ḷng thành sám hối, lại giữ Ngũ Giới, thề chẳng tái phạm.

Từ đấy trở đi, ông buông bỏ vạn duyên, quét sạch ái dục, nhất tâm thầm niệm Phật hiệu đợi lúc lâm chung. Liên hữu biết công năng tŕ danh của ông nông cạn nên trước hết v́ ông thỉnh người trợ niệm. Hai ngày sau, liên hữu cũng trợ niệm. Ông chợt thấy thần khí thanh sảng, mộng thấy quang minh. Đến canh hai, liên hữu sắp ra về, chẳng biết rằng đến lúc đó, việc trợ niệm đă có hiệu lực. Ông liền bảo:

- Tôi chưa đến được Tây Phương, xin liên hữu lớn tiếng niệm Phật trợ niệm suốt đêm, đừng để lỡ!

Mọi người lại cao giọng niệm Phật, lại luôn luôn khích lệ ông. Chợt ông mỉm cười bảo:

- Tôi nay đă đến Tây Phương rồi, hoa sen đẹp quá! Ao báu đẹp quá! Quang minh đẹp quá!

Mắt ông nh́n chăm chú vào tượng Phật mà qua đời. Mọi người vẫn trợ niệm đến khi thân ông đă lạnh mới thôi, chẳng cho người nhà khóc than. Đến trưa hôm sau, đảnh đầu ông vẫn c̣n ấm, thọ ba mươi tuổi! (theo Cận Đại Văng Sanh Truyện)

 

Nhận định:

Công phu tŕ danh nông cạn mà được văng sanh là do sức liên hữu trợ niệm. Trợ niệm khẩn yếu như thế đó. Xin hăy đề xướng rộng răi. Nếu như không có liên hữu, xin hăy dùng băng niệm Phật để trợ niệm, tạm dùng làm phương tiện cũng có thể được hưởng đại lợi văng sanh vậy!

 

49. Bỏ tụng chú để niệm Phật

 

Cư sĩ Trương Trân Ngọ thời Dân Quốc, sang Nhật học Y và học Mật Tông. Về sau, ông mắc bệnh thũng, nghiệp cảnh hiện tiền. Lúc b́nh thường, ông tŕ chú thấy có linh nghiệm, lúc này trọn không có hiệu quả ǵ. Ông bèn chuyên niệm Phật th́ nghiệp cảnh mới tiêu diệt.

Ông liền dẹp hết thuốc men, nhất tâm tŕ danh. Vợ ông khuyên hăy nên ăn uống, ông bảo:

- Bà đừng khuấy nhiễu tôi, chỉ nên giúp tôi niệm Phật và thỉnh đạo hữu họp lại trợ niệm. Tôi sẽ đi trong ngày hôm nay.

Đạo hữu đến, đồng thanh trợ niệm. Ông cũng nương theo đó, niệm theo rơ ràng; đoạn kết ấn, niệm Phật mà qua đời. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)

 

Nhận định:

Lâm chung nghiệp cảnh hiện tiền, há chẳng phải là để thấy trước ác đạo đó chăng? Lúc ấy, tŕ chú hoàn toàn chẳng có công năng ǵ, may nhờ chuyển sang niệm Phật và nhóm đạo hữu lại trợ niệm th́ nghiệp mới tiêu, được văng sanh. Những kẻ bỏ Tịnh Độ để tu Mật, khá nên lấy đó làm gương!

 

50. Từ biệt mọi người, tọa hóa

 

Cư sĩ Lư Ngoa, tự Tế Hoa thời Dân Quốc, người huyện Như Cao tỉnh Giang Tô; tốt nghiệp từ Trắc Hội Học Đường[4].

Năm Dân Quốc thứ nhất (1912), ông được cử về làm việc ở Trắc Lượng Cục của Lục Quân, gia nhập Đồng Minh Hội. Khi cách mạng lần thứ hai thất bại, ông bị tống giam; lúc sắp bị xử tử, ông được người cứu khỏi, được phóng thích. Tuy vẫn phục vụ trong quân ngũ, nhưng ông ăn chay niệm Phật, dù nóng hay lạnh vẫn chẳng gián đoạn.

Từ chiến dịch Bắc Phạt trở về, ông từng đảm nhiệm các chức vụ nghị trưởng huyện nghị hội và cục trưởng các cục kiến thiết, tài chánh v.v…

Mùa Xuân năm Dân Quốc 22 (1933), ông quy y Ấn Quang đại sư, được đặt pháp danh là Trí Thoát. Từ đấy, ông chuyên tu Tịnh nghiệp, thời khóa sáng tối đều tụng một cuốn Di Đà, niệm Phật cả vạn tiếng. Ông nghiên cứu sâu sắc kinh điển Đại Thừa, hạnh lẫn giải đều sâu, hoằng dương Tịnh Độ, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trọn đời chẳng lười nhác.

Sau khi qua Đài Loan, ông sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Đoàn ở Đài Bắc, soạn cuốn Phổ Khuyến Tịnh Nghiệp Đồng Nhân Phát Khởi Tổ Chức Trợ Niệm Văng Sanh Đoàn Văn để đề xướng việc trợ niệm.

Ngày Hai Mươi Lăm tháng Hai năm Dân Quốc 51 (1962) là ngày pháp hội định kỳ của Niệm Phật Đoàn, ông lănh chúng niệm Phật. Sau bữa ăn trưa, ông giảng đại ư kinh A Di Đà. Đến hai giờ năm mươi phút giảng xong, ông từ biệt đại chúng:

- Tôi sắp đi rồi, mọi người hăy chăm chỉ niệm Phật!

Rồi ông tọa hóa giữa tiếng niệm Phật của đại chúng. Đúng ba giờ năm phút, tay ông kết Di Đà ấn như đang nhập Thiền Định. Ngày hôm sau, nhập liệm, toàn thân ông mềm mại, vẻ mặt như c̣n sống. Ngày mồng Bốn tháng Ba trà-tỳ, thu được rất nhiều xá-lợi, thọ bảy mươi chín tuổi. (theo Lư Tế Hoa Cư Sĩ Di Tập và các báo Liên Hợp, Dân Tộc v.v…)

 

Nhận định:

Ấn Quang đại sư nói: “Chịu giúp người tịnh niệm văng sanh th́ cũng sẽ được hưởng báo có người trợ niệm!” Ông Lư sáng lập Liên Hữu Niệm Phật Đoàn, đề xướng trợ niệm, nên được liên hữu đại chúng trợ niệm văng sanh.

Ngôn giáo chẳng bằng thân giáo, nên ông chọn đúng vào lúc pháp hội định kỳ để tọa hóa, ngơ hầu đại chúng cùng thấy, cùng tin, gấp gáp bắt chước theo, đồng sanh Tây Phương vậy!

 

51. Chánh trợ song tu

Cư sĩ Tử B́nh Trần Tự Quân thời Dân Quốc, là người huyện Định Hải, tỉnh Triết Giang. Lúc chưa tốt nghiệp đại học Pháp Chánh (Pháp Luật Chánh Trị) ở Thượng Hải, bố vợ ông đă mở sẵn xưởng dệt Thiên Nhất ở Tân Long Hoa, Thượng Hải, giao cho ông làm đổng sự trưởng (giám đốc).

Năm Dân Quốc 11 (1922), tốt nghiệp xong, ông vừa đúng hai mươi ba tuổi. Do nghiên cứu kinh luận Tịnh Độ, ông liền quyết tâm bỏ thuốc lá, rượu chè, cờ bạc, đồ mặn, để trường trai lễ Phật. Năm hai mươi bảy tuổi, ông quy y với lăo pháp sư Hưng Từ ở núi Thiên Thai, cầu truyền ngũ giới.

Mỗi ngày ông lo kinh doanh, tối đến tụng kinh, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thương những người nghèo bị bệnh, không đủ sức trị bệnh, ông liền cùng chú lập ra Bảo Khang Trai để thí thuốc và chữa bệnh rộng răi. Ông c̣n phát động việc thành lập Thượng Hải Bần Bệnh Cứu Tế Hội, thay mặt gia đ́nh đưa người bệnh vào bệnh viện chữa trị để những người bệnh đều được lành.

Năm Dân Quốc 21 (1932), quê ông bị đại hạn, ông liền cùng những đồng hương lo vận chuyển lương thực chẩn tế những người đói nghèo. Năm sau, gặp phải tai nạn băo lốc, nhiều căn nhà bị sụp đổ, ông liền xin hội Cứu Tế chi tiền cứu trợ.

Năm Dân Quốc 38 (1949), ông ngầm rời khỏi Đại Lục, trốn sang Hương Cảng rồi sang Đài Loan. Năm Dân Quốc 42 (1953), ông quy y đại sư Đạo An, được đặt pháp danh là Trí Thặng. Ông liền chọn mua đất, xây dựng chùa Tùng Sơn, thỉnh ngài Đạo An làm trụ tŕ, tự ḿnh làm Giám Viện. Đến năm Dân Quốc 55 (1966), đại điện lạc thành; thỉnh pháp sư Linh Căn tiếp nhận chức Giám Viện kiêm phó Trụ Tŕ, ông tiếp tục xây dựng điện đường hai bên và liêu pḥng để tạo thành chốn tùng lâm vĩnh viễn cho mười phương.

Ông lại chắt mót tiền xây dựng biệt thự Tịnh Liên ở sau chánh điện, thỉnh những vị cư sĩ như Mao Dịch Viên… gồm chín người cùng ở để cộng tu. Ông thường lănh đạo Tinh Tấn Phật Thất để cầu sanh Cực Lạc. Để tiếp độ rộng răi những người sơ cơ, ông Mao soạn thuật cuốn Niệm Phật Tam Yếu. Ông liền đứng ra in đến mười vạn hai ngàn cuốn, gởi tặng khắp nơi trong ngoài nước để rộng kết tịnh duyên.

Để ḿnh lẫn người đều được lợi, ông Mao lại biên soạn, kết tập bộ Vựng Biên Tịnh Độ Tùng Thư; Trần cư sĩ liền phát động các vị đại đức, các chùa miếu, các nhà xuất bản lớn trong ngoài nước hoan hỷ hỗ trợ ấn loát hoặc kết ước hỗ trợ. Sách in ra và số tiền dành cho ấn loát c̣n dư, ông bèn giao cho Đài Loan Ấn Kinh Xứ lưu thông và tục bản để tác phẩm ấy được hoằng dương rộng răi.

Tháng Tư năm Dân Quốc 62 (1973), ông phát tâm bế quan ba năm để chuyên tu Tịnh nghiệp. Đến khi măn kỳ bế quan, ông vẫn tiếp tục tinh tấn. Ngày mồng Bốn tháng Chạp năm Dân Quốc 71 (1982), đột nhiên ông thị hiện mắc bệnh nhẹ; mới vào bệnh viện được một tuần, ông đă trở về biệt thự tịnh dưỡng, ăn uống như thường. Đến ngày mồng Bốn tháng Giêng năm Dân Quốc 72 (1983), ông chợt bỏ không ăn sáng, há to miệng niệm Phật. Ông Mao liền suất lănh đại chúng trợ niệm. Đến một giờ trưa, miệng ông mới dần khép lại; mặt hiện vẻ tươi cười, an tường về Tây, thọ tám mươi bốn tuổi.

Mọi người tiếp tục thay phiên trợ niệm cho đến khi toàn thân lạnh hết nhưng đảnh đầu vẫn c̣n ấm. Đến giữa trưa ngày hôm sau làm lễ đại liệm, toàn thân vẫn mềm mại. Ngày mồng Mười lúc làm lễ công tế, da dẻ ông trông c̣n tươi tắn mịn hơn lúc c̣n sống. Trà tỳ thu được rất nhiều xá lợi. (theo tạp chí Sư Tử Hống, bộ 20, kỳ 9)

 

Nhận định:

Cả một đời lấy Tín - Nguyện - Hạnh làm Chánh Hạnh, lấy việc làm lành, dựng chùa làm Trợ Hạnh. Ông đă tích tụ nhân duyên, phước đức, thiện căn rất nhiều. Xả báo an tường, vẻ mặt tươi vui, ắt phải được trông thấy Phật đến tiếp dẫn. Đảnh đầu ấm, thân mềm mại, tươi tắn hơn lúc c̣n sống, xá lợi rất nhiều, ắt phải là Thượng Phẩm Thượng Sanh, thật đáng nên noi gương!

 

52. Càng bệnh càng tinh tấn

 

Cư sĩ Ổ Dư Khánh thời Dân Quốc, người huyện Phụng Hóa, tỉnh Triết Giang; tánh t́nh trung hậu, thuần phác.

Năm Dân Quốc 35 (1946), ông đến Đài Loan, kinh doanh xưởng phụ tùng xe hơi Quốc Quang và xưởng dụng cụ giao thông Trung Lập khá thành công. Năm Dân Quốc 56 (1967), ông được đồng hương rủ đến chùa Pháp Hoa ở Đài Bắc nghe ḥa thượng Tịnh Không giảng kinh; ông liền theo học Phật, tiếp nhận sự un đúc của Phật Pháp. Ông quy y với lăo ḥa thượng Quảng Khâm ở Thổ Thành và trưởng lăo Sám Vân ở Thủy Lư, thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới.

Mùa Đông năm Dân Quốc 67 (1978), ông đến chùa Vĩnh Minh ở núi Dương Minh để thọ giới Bồ Tát tại gia. Ông nghiêm tŕ giới luật, chuyên tu Tịnh nghiệp, niềm tin vững vàng, ư nguyện thiết tha cầu sanh Tây Phương. Ông thường cúng Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, bố thí làm phước chẳng tiếc sức lực. Ông cùng các liên hữu thành lập Phật Giáo Tịnh Nghiệp Lâm ở Tam Giáp Hoành Khê. Ông được cử làm Lâm Trưởng (người đứng đầu Tịnh Nghiệp Lâm), lănh đạo đại chúng cùng trụ trong Lâm để cùng tu.

Mùa Hạ năm Dân Quốc 70 (1981), v́ bệnh tật, ông phải về nhà chữa trị, nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn chẳng lười. Đầu tháng Ba năm Dân Quốc 72 (1983), chợt ông bị bí đường tiểu tiện, trị liệu cách nào cũng vô hiệu, phải đưa vào bệnh viện Trung Hưng ở thành phố Vĩnh Ḥa để chữa. Tuy đau đớn tột bậc, trong tâm ông vẫn niệm Phật chẳng ngớt. Ngày hai mươi mốt tháng Ba, ông chợt bảo người con trưởng đang trông bệnh rằng:

- Từ ngày mai các con đừng có đi đâu!

Ngày hôm sau, gần trưa, bác sĩ đến khám toàn thân, thấy tất cả đều b́nh thường, dặn ḍ ông phải nghỉ ngơi chu đáo, ông Ổ bảo:

- Hiện tại tôi rất thoải mái, cảm ơn Ngài!

Lát sau, ông bảo đứa con gái út nâng đầu giường lên cao hơn, kê gối cho ông dựa. Cô hỏi:

- Có chuyện ǵ làm ba không được thoải mái hả?

- Không có!

Đúng mười một giờ trưa, ông chợt mỉm cười, hai đùi chợt khép sát vào nhau, hai tay giở lên như thể đang co chân ngồi dậy, chắp tay; há miệng niệm Phật mà qua đời, thọ bảy mươi tư tuổi. Toàn thể quyến thuộc đều vây quanh cao giọng trợ niệm. Trưởng lăo Sám Vân và các vị pháp sư, cư sĩ và đạo sư của Tịnh Nghiệp Lâm, lâm hữu v.v… cũng theo nhau đến, tính ra hơn bốn mươi người luân phiên trợ niệm. Đến khoảng sáu giờ tối, toàn thân đều lạnh, chỉ c̣n mỗi đảnh đầu là ấm.

Trợ niệm đến chín giờ rưỡi mới bắt đầu rửa ráy, thay áo. V́ tứ chi của ông đă cứng đờ nên trưởng nữ dùng khăn nóng ủ lên hai khủy tay, chợt ngửi thấy mùi hương thanh khiết bốc ra từ hai tay áo ông. Ngày hôm sau đại liệm, hai tay ông mềm mại, những vệt đen trên mặt biến đâu hết, vẻ mặt ông vui tươi đẹp đẽ hơn lúc sống.

Từ lúc ấy, dù ngày hay đêm, quyến thuộc đều nghe trên không có tiếng niệm Phật, cho đến lúc pháp hội Niệm Phật bốn mươi chín ngày đă nghỉ rồi vẫn nghe có tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng tới. (theo tạp chí Huệ Cự, bộ 22, kỳ 9)

 

Nhận định:

Một phen nghe giảng kinh liền theo Phật môn, thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, chuyên tu Tịnh nghiệp, đấy chính là căn lành từ bao kiếp thành thục.

Lập Tịnh Nghiệp Lâm để cộng tu là người tự lợi, lợi tha. Càng bệnh càng tinh tấn là mượn bệnh để tiềm tu. Chợt dặn ḍ ngày mai đừng đi đâu là biết trước thời khắc.

Mỉm cười chắp tay, ắt là thấy Phật hiện đến tiếp dẫn. Khiến cho quyến thuộc thường nghe tiếng niệm Phật từ phương Tây vẳng lại để họ biết là ḿnh đă văng sanh trong thượng phẩm, nhằm khiến họ đều tín nguyện sanh Tây. Phàm những ai tuổi già lắm bệnh, xin hăy bắt chước ông tinh tấn!

 

53. Tự hành, dạy người khác

 

Cư sĩ Lư Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Lư hay Tuyết Tăng; người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông. Tự bé, ông đă dĩnh ngộ, hiếu học. Ông chuyên học về pháp luật chánh trị và học cả Trung Y, nghiên cứu Phật học, Giáo, Thiền, Tịnh, Mật ông đều thường tu tŕ. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Cử, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.

Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại sư, được ban hiệu là Đức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Về sau, ông nhận lời mời, làm chủ nhiệm bí thư của Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Phụng Kỵ Quan.

Ông theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Đức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân Đảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu sau, ông lănh trách nhiệm giảng dạy cho Phật Học Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm, người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 35 (1946), theo Khổng Thượng Công trở về Nam Kinh, ông thường giảng kinh, thuyết pháp tại chùa Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xă.

Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Đài Loan, ngụ tại thành phố Đài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đă t́m được chùa Pháp Hoa làm cơ sở hoằng pháp và lập pḥng chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Đề Y Viện và Thí Y Hội v.v… để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp. Ông trù bị, tổ chức và thành lập Đài Trung Liên Xă và đoàn thể hoằng pháp, diễn giảng các kinh điển của đạo Nho và đạo Thích.

Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đ́nh liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng răi; ṭa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v… Ông c̣n khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Đài (Đài Bắc, Đài Trung và Đài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Độ phổ độ chúng sanh.

Mỗi năm, cử hành Phật Thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ tŕ, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương tŕnh phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh. Về trước tác có: A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú kinh Di Đà để những người kém hiểu biết lănh hội được ư nghĩa sâu xa), Đại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Ṭa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên các trường đại học và chuyên nghiệp) gồm sáu cuốn; Phật Học Vấn Đáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn v.v… hóa độ nhân gian.

Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được b́nh đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau đấy, ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, thật thà niệm Phật. Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận:

- Ta sắp đi đây!

Đến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, dặn ḍ đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch, thọ chín mươi bảy tuổi. Lúc trà-tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc. (theo Lư Công Tuyết Lư Lăo Cư Sĩ Lược Sự)

 

Nhận định:

Mỗi sáng đều lễ tụng niệm Phật, đấy là tự hành chuyên tu. Thường giảng kinh, thuyết pháp, tổ chức Liên Xă và Hoằng Pháp Đoàn, tổ chức rộng răi các cơ sở truyền giáo, thường nhóm chúng niệm Phật, cử hành Phật thất; đấy đều là v́ làm cho người khác chuyên tu. Tuy là một vị cư sĩ tại gia, nhưng có thể tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh Nghiệp, đồng sanh Cực Lạc, thật đúng là gương mẫu!

 

54. Lâm chung thập niệm

 

* Ông Trương Thiện Ḥa đời Đường, làm nghề giết trâu. Lâm chung, thấy bầy trâu tranh nhau đến đ̣i mạng, ông sợ quá, gọi vợ:

- Mau thỉnh Tăng đến cứu ta!

Tăng đến, dạy:

- Kinh nói: “Nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành phải đọa ác đạo, lâm chung chí tâm đầy đủ mười niệm xưng A Di Đà Phật th́ trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, liền được văng sanh thế giới Cực Lạc”.

Ông Trương nói:

- Địa ngục đến gấp quá rồi, chẳng kịp lấy lư hương nữa.

Ông bèn dùng tay trái bốc than hồng, tay phải cầm hương, hướng về Tây, dũng mănh xưng Phật hiệu, chưa đủ mười tiếng, đă nói:

- Trâu đi, Phật đến, tôi được ngồi ṭa báu rồi!

Mỉm cười mà thác. (theo Phật Tổ Thống Kỷ)

 

* Ông Thí Tịnh Nghiêm đời Thanh, người huyện Hoa Đ́nh, tánh đoan chánh, cẩn trọng, làm ǵ cũng chu đáo, cẩn mật. Được ai nhờ đều tận tâm, thân tộc nhiều người phải cậy vào ông. Chợt bị bệnh ngặt nghèo rất đau khổ, anh họ là Trịnh Huệ Am xót thương nói:

- Chú bệnh nặng quá, sao chẳng chịu niệm Phật? Kinh nói: “Lâm chung mười niệm cũng được văng sanh”.

Ông Thí nói:

- Em hận lúc thường ngày chẳng biết niệm Phật, nay chẳng niệm nổi, biết làm sao đây?

Rồi khóc ṛng. Ông Trịnh bảo:

- Không sao cả! Chú nghe tôi niệm, trong tâm tưởng niệm cũng được!

Liền xướng danh Phật hiệu rơ ràng, ông Thí cũng cao giọng đọc theo. Vừa mới được chừng mươi lần, chợt bảo:

- A Di Đà Phật và các Bồ Tát đều ở ngay trước mắt!

Nói xong liền mất.

 

Nhận định:

Niệm Phật cốt yếu chẳng phải do thời gian niệm đă lâu, mà quư tại ḷng tin chuyên dốc. Kinh Pháp Tập Yếu Lănh dạy: “Nếu có người trong trăm năm lười nhác, thiếu tinh tấn th́ chẳng bằng người dũng mănh hành tinh tấn trong một ngày”.

V́ thế, bất luận là thiện hay ác đều có thể do mười niệm lúc lâm chung được văng sanh, chẳng ngờ ǵ. Nhưng những người ấy đều là do căn lành trong quá khứ đến nay thành thục, nên mới gặp được thiện tri thức khuyên niệm Phật, và cũng do tâm sợ khổ nên sức tín hạnh nguyện dũng mănh trở thành tương ứng với nguyện lực từ bi của Phật, cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn!

Nếu không, chỉ sợ rằng nghiệp chướng lôi kéo, thiện hữu khó gặp, bệnh khổ bức bách, chánh niệm khó thành. Thập niệm tuy dễ, thật khó mong gặp được. Xin hăy sớm lo liệu tư lương mới là điều quan trọng nhất!

 

55. Làm việc nặng vẫn niệm Phật

 

* Ông Hoàng Đả Thiết đời Tống, người Đàm Châu. sống bằng nghề rèn. Thấy du phương Tăng đi đến, ông mời vào, dâng trà. Thưa ḿnh vốn dĩ nghèo khổ, cầu thầy chỉ dạy cách tu hành. Tăng liền dạy:

- Pháp môn Tŕ Danh chẳng tốn tiền, chẳng trở ngại làm lụng. Nếu suốt một đời tŕ niệm chẳng sai sót, lúc lâm chung, ắt Phật sẽ tiếp dẫn văng sanh cơi Ngài, chẳng có các điều khổ, chỉ hưởng các sự vui!

Ông Hoàng mừng lắm, bèn tuân theo lời dạy tu hành. Mỗi lúc đập sắt, ông niệm Phật không ngớt tiếng. Vợ bảo:

- Rèn sắt đă khổ cực sẵn c̣n đèo thêm niệm Phật, có phải là càng khổ hơn nữa không?

Ông Hoàng đáp:

- Pháp này cực hảo! Hằng ngày ngồi bên ḷ thấy lửa nóng, nhưng niệm Phật chẳng thấy nóng. Đập sắt thấy đau tay, nhưng niệm Phật rồi chẳng thấy đau nữa!

Mấy năm sau, một hôm, ông chợt tắm gội, thay áo, bảo vợ:

- Hôm nay, tôi phải về nhà đây!

Vợ đáp:

- Đây không phải là nhà ông sao? Nhà ông ở chỗ nào cơ chứ?

Đáp:

- Nhà tôi ở Tây Phương.

Vợ cười bảo:

- Vậy ông đi b́nh an nghe!

Ông bèn đập sắt, niệm Phật như thường. Lát sau, bèn nói kệ:

Binh binh, bang bang,

Luyện măi thép bền,

Thái b́nh sắp đến

Ta về Tây Phương

Rồi cầm búa đứng yên mà mất, mặt chẳng đổi sắc. Mùi hương lạ ngào ngạt, thiên nhạc rền trời; ai nấy đều nghe. (theo Phật Tổ Thống Kỷ)

 

* Ông Lại Tường Lân thời Dân Quốc, người huyện Hưng Quốc, tỉnh Giang Tây; làm nghề nông, hay uống rượu. Năm ông ngoài sáu mươi tuổi, con trai chết sớm, ông phải lănh nuôi con dâu góa, cháu nội côi cút, cực nhọc cày cấy để kiếm sống.

Ông chán nản thế gian phiền khổ sâu xa, nghĩ mong xuất ly, nghe cư sĩ Lại Thiền Dung giảng pháp môn Tịnh Độ liền trường trai niệm Phật, chuyên chí văng sanh. Lâu sau, niệm càng ngày càng thuần thục, tuy suốt ngày phải làm lụng mà niệm Phật chẳng gián đoạn. Người làng đều dùng câu A Di Đà Phật để gọi ông, ông cũng ứng tiếng đáp: “A Di Đà Phật!”

Lúc ngoài bảy mươi tuổi, chợt có bệnh thũng nhẹ nơi chân, ông liền sai cháu hướng về Tây bày biện hương án, nói:

- Cảnh giới Tây Phương thật đẹp. Cháu coi ḱa! Có biết bao nhiêu là hoa sen! Hôm nay ông sắp về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Cháu hỏi:

- Chân ông bị thũng làm sao đi được?

Nói:

- Chẳng phải là thân đi mà là tâm đi!

Lúc đang thắp hương, ông ngồi xếp bằng, hướng mặt về Tây, niệm Phật qua đời. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tam Biên)

 

Nhận định:

Người tu Tịnh Nghiệp chẳng phân biệt là nam, nữ, sang, hèn, hễ tin tưởng sâu xa th́ được vào, thật sự tích lũy công lao th́ được văng sanh. Hai vị trên tuy làm lụng bận rộn, chưa hề thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng lúc làm lụng niệm Phật không gián đoạn, nên công niệm Phật đều đạt đến mức thuần thục, đến thời là văng sanh. Những ai bảo ḿnh quá bận rộn, chẳng rảnh rỗi để niệm Phật th́ xin hăy lấy đó làm gương!

 

56. Sám hối niệm Phật

 

Ông Ngô Quỳnh đời Tống là vị Tăng hoàn tục, làm nghề đầu bếp, buôn rượu, bán thịt. Mỗi khi ông giết những gà, vịt v.v… đều nói: “Hỡi con của A Di Đà Phật, khéo thoát thân này nghe!”, rồi niệm tiếp mấy câu Phật hiệu. Lúc xẻ thịt cũng niệm Phật không ngớt.

Ông thường dạy người tụng kinh niệm Phật. Mắt ông chợt nảy cái u to như quả trứng gà; ông mới hoảng sợ, tách rời vợ con, cất một cái am tranh, ngày đêm niệm Phật, tu sám. Sau, ông bảo người trong thôn:  

- Giờ Tuất ngày mai, Quỳnh tôi sẽ đi.

Chiều hôm sau, ông bảo các đạo hữu rằng:

- Đă đến lúc rồi, hăy gắng niệm Phật giúp nhau!

Viết bài kệ xong, ông chắp tay niệm Phật, chợt lớn tiếng nói: “Phật đến rồi”, liền tọa hóa. (theo Long Thư Tịnh Độ Văn)

 

Nhận định:

Hoàn tục phạm giới, lẽ đâu lại đáng nêu gương? Nhưng v́ mắc bệnh, ông hoảng sợ, tách rời vợ con, niệm Phật tu sám, nên lại được văng sanh. Điều này đủ chứng minh lời nhận định trong sách Linh Phong Tông Luận: “Tuy v́ lầm lẫn nên trót làm hạnh ác, nhưng mau chóng đoạn tâm tương tục, khởi ḷng ân cần, thâm trọng sám hối, th́ nhờ sức sám hối cũng được văng sanh!”

Những người v́ lầm lẫn tạo ác hạnh xin hăy gấp bắt chước, đừng nên cam chịu đọa lạc!

 

57. Tu thiện niệm Phật

 

Ông Ngô Mao đời Thanh là đầy tớ nhà họ Ngô ở Thanh Dương. Tŕ trai niệm Phật, kiêm tu các điều lành.

Lúc quân Thanh vượt sông, cả nhà họ Ngô chạy trốn hết, ḿnh ông Mao ở lại giữ nhà, bị quân Thanh đâm bảy nhát thương chết đi. Lúc đă yên, chủ trở về, ông Mai tỉnh lại, bảo:

- Do túc nghiệp, lẽ ra tôi phải làm thân heo bảy đời, nhờ tŕ trai niệm Phật, nên bảy nhát thương đó tiêu tan oan khiên, niệm tới mức Phật hiện đến tiếp dẫn văng sanh Tây Phương!

Nói xong, chắp tay niệm Phật qua đời. (theo Quả Báo Văn Kiến Lục)

 

Nhận định:

Niệm Phật tu thiện nhưng bị chết thảm; nếu như không sống lại để tự tŕnh bày, làm sao biết được ông đă chuyển báo nặng trong thân sau thành báo nhẹ hiện đời, được Phật tiếp dẫn văng sanh? Phàm những ai làm lành niệm Phật mà gặp nghịch cảnh, hăy nên tỉnh ngộ, mừng rỡ và càng thêm tinh tấn!

 

58. Tỳ, thiếp đồng tu

Đời Tống, Việt Quốc phu nhân Vương thị là vợ của Kinh Vương (chú của Tống Triết Tông). Bà hướng dẫn bọn tỳ, thiếp đồng tu Tịnh Độ ngày đêm không gián đoạn.

Chỉ có một nàng thiếp biếng nhác nên bị đuổi bèn hối hận, buồn bực, ra sức tinh tấn lâu ngày chẳng nhọc mỏi. Cô chợt bảo các nàng thiếp khác: “Đêm nay tôi sẽ sanh Tây!”

Trong đêm, mùi hương lạ ngập tràn cả nhà, không bệnh ǵ mà mất. Sáng ra, có người thiếp khác báo với phu nhân:

- Đêm qua, tôi nằm mộng thấy cô thiếp ấy bảo tạ ơn phu nhân, nhờ được phu nhân quở dạy nên được sanh về Tây Phương, cảm đức vô lượng!

Phu nhân nói:

- Nếu khiến ta cũng mộng thấy th́ ta mới tin!

Đêm đó, bà mộng thấy cô thiếp đă chết đến cảm tạ giống hệt như trên; hỏi có đến được Tây Phương chăng, cô thiếp bảo được! Cô liền đi trước dẫn đường, thấy một cái ao lớn, hoa sen trắng, hồng, lớn, nhỏ xen lẫn, có hoa tươi tốt, có hoa găy nát. Hỏi lư do, cô bảo:

- Người tu Tây Phương trong thế gian vừa mới khởi một niệm th́ trong ao này liền nảy một cành hoa. Do siêng năng hay lười nhác khác nhau nên hoa tươi tốt hay khô héo sai khác. Tinh tấn th́ hoa tươi, thậm chí to như bánh xe; lười nhác, phế bỏ th́ tàn héo, thậm chí biến mất. Nếu hành lâu ngày mà chẳng ngơi nghỉ, niệm thuần thục, quán tưởng thành tựu, thân xác dù tiêu, nhưng thần thức tồn tại, quyết sẽ sanh về nơi đây.

Bà hỏi ḿnh sẽ sanh về chốn nào; cô dẫn đi xa mấy dặm nữa, thấy một hoa đài, vàng, ngọc chiếu sáng rực rỡ. Cô thiếp bảo:

- Đây là chỗ sanh của phu nhân, chính là kim đài thượng phẩm thượng sanh vậy!

Liền tỉnh mộng, vui buồn lẫn lộn. Về sau, trong ngày sinh nhật, bà cầm đuốc thắp hương, đứng nh́n về hướng Quán Âm Các. Quyến thuộc tiến đến chúc thọ đă thấy bà hóa rồi! (theo Lạc Bang Văn Loại)

 

Nhận định:

Vừa khởi một niệm niệm Phật là đă trồng cành sen nơi Tây Phương, cảm ứng nhanh chóng như thế đó. Đối với danh lợi, người ta thường ưa cầu không lúc nào ngơi, c̣n đối với một niệm niệm Phật này, lắm người chẳng chịu phát. Dù có phát cũng lười nhác, tiếc chẳng có thiện tri thức tùy thời răn trách, ngơ hầu hối hận, bi phẫn mà tinh tấn vậy!

 

59. Tŕ trai niệm Phật

 

Đời Tống, bà Quảng B́nh quận phu nhân Phùng Pháp Tín, lúc nhỏ lắm bệnh, đến lúc gả cho Trấn Đào Quân Thừa Tuyên Sứ Trần Tư Cung, bệnh càng nặng thêm.

Bà hướng về Từ Thọ Thâm Thiền Sư cầu cách trừ hết bệnh; sư dạy tŕ trai niệm Phật, bà liền tin nhận, vâng làm; dứt sạch huyết nhục, không dùng đồ trang sức, mặc áo chằm vá để chuyên tu Tịnh Nghiệp. Bà tự tụng kinh, đi kinh hành; đứng, ngồi, động, tịnh cho đến trong từng sát-na, bất cứ mảy may điều thiện nào đều đem hồi hướng về Tây Phương.

Ít lâu sau, bệnh đỡ dần, bà trông nom việc nhà như cũ, nhưng cũng chẳng quên niệm Phật. Suốt mười năm như thế, không lười nhác, không kiêu căng, tâm yên, thân mạnh, tinh thần càng mạnh mẽ. Bà chợt viết kệ:

Tùy duyên lănh nghiệp mấy năm trường

Uổng kiếp trâu cày thật xót thương

Quét sạch thân tâm, mau thoát khỏi

Không ai xỏ mũi kéo lên đường

Ai đọc đến ngạc nhiên, bà bảo: “Hễ đi là về Tây, chứ có chi là lạ!” Bà liền nằm bệnh; một tối, bảo kẻ hầu:

- Thần thức ta vừa đến Tịnh Độ, đích thân lễ bái đấng Từ Tôn, đức Quán Âm đứng bên tả, Ngài Thế Chí đứng bên hữu, trăm ngàn vạn ức Phật tử thanh tịnh cúi đầu mừng ta đă sanh về cơi ấy. Những cung điện, ao nước, rừng cây, quang minh đẹp đẽ thần diệu, giống hệt như đă tả trong Thập Lục Quán Kinh không khác chút nào. Có đến mới biết, chẳng cách nào diễn tả cho các ngươi biết được nổi!

Kẻ hầu mời ông Tư Cung đến, thuật lại như vậy xong, bèn cùng chắp tay niệm Phật. Đến sáng hôm sau, bà nằm nghiêng bên phải mà qua đời. Ba ngày sau khâm liệm, người nhà chợt ngửi thấy mùi hương tuyệt diệu. Đến lúc trà-tỳ, mở nắp quan ra coi, vẻ mặt vẫn như c̣n sống, thọ ba mươi sáu tuổi. (theo Lạc Bang Văn Loại)

 

Nhận định:

Chúng ta suốt ngày tạo nghiệp, nên bị lưu chuyển theo nghiệp, chẳng thể tự chủ. Nguyện mau tŕ trai niệm Phật, sớm cầu giải thoát, tránh khỏi bị người xỏ mũi lôi đi.

 

60. Miễn cưỡng niệm Phật

 

Cư sĩ Dư Tông Thị đời Thanh, người Từ Châu; con là Ḥa Thượng Chiếu Minh trụ tŕ chùa Cao Mân ở Dương Châu, lập thất đón đến ở. Bà nhớ nhà quá, bèn bảo Ḥa Thượng là phải về ngay lo việc nhà.

Sư giảng cho bà nghe pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngă; khuyên mẹ nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Mẹ chẳng tỉnh ngộ, Sư liền tránh mặt, chẳng gặp; van nài cũng chẳng đến. Không biết làm sao, bà đành miễn cưỡng tŕ danh, cho là khốn khổ lắm.

Ở chùa ba năm, niệm hơi thuần thục, bà bắt đầu sanh ḷng tin sâu xa, thọ Bồ Tát giới, sáng tối lễ Phật rất cung kính. Ḥa Thượng đến gặp, hỏi c̣n nhớ nhà không? Bà nói: “Niệm Phật vui lắm, không nhớ nhà nữa!”

Một ngày nọ, bà ngồi ở sân trước, hướng mặt về tháp niệm Phật, chợt thấy ánh sáng chói ḷa, thấy thế giới sắc vàng ṛng rực rỡ không bờ bến, tường, vách, cây cối đột nhiên biến đâu mất hết. Mừng quá, bà nhỏm ngay dậy tiến đến th́ chẳng thấy ǵ nữa. Từ đó, lục căn rỗng rang, động, tịnh, đứng, ngồi, chẳng sanh niệm nào khác. Lâu sau, mộng thấy đến một nhà kia, có một người đàn bà đang ngồi trên nệm, kinh ngạc bảo: “Sao ḿnh lại đến đây? Ta chỉ cầu sanh Tây Phương. Nhập thai, xuất thai thật đáng sợ hăi quá!”

Bà chạy mau ra khỏi nơi đó, sợ đến nỗi tỉnh dậy. Sáng ra, bảo với Ḥa Thượng: “Sanh duyên của tôi đến nay đă tận; xin v́ tôi nhóm Tăng niệm Phật, đưa tôi về Tây!”  Bà liền ngồi hướng mặt về Tây, qua đời. (theo Thiện Nữ Nhân Truyện)

 

Nhận định:

Chúng ta niệm Phật sanh tâm lơ là th́ phải miễn cưỡng mà hành: Người đă niệm được một th́ sẽ niệm đến mười, niệm được trăm th́ gắng niệm đến ngàn. Lâu dần thuần thục, thành công cũng như nhau. Lúc lâm chung, mộng thấy người đàn bà ngồi trên đệm; nếu lục căn chẳng rỗng rang, sanh kinh sợ bỏ chạy gấp, sẽ vào trong thai người khác bèn đọa luân hồi, cầu sanh về Tây lần nữa làm sao nổi? Nguy hiểm thay!

 

61. Nằm, ngồi đều hướng về Tây

 

Cư sĩ Châu Dương Huệ Khanh thời Dân Quốc, quy y Ḥa Thượng Hư Vân, được đặt pháp danh là Khoan Huệ, tự Phật Trí, là phu nhân của cư sĩ Bang Đạo Chu Khánh Quang, Thứ Trưởng đặc trách bộ Khảo Tuyển. Quê bà ở Thụy Kim, theo chồng đi nhậm chức ở Nam Kinh, ngụ tại Lan Viên. Có một vị lăo tăng từ núi Cửu Hoa đến bảo:

- Bà tu tŕ nhiều đời. Sau năm bốn mươi tuổi, ắt sẽ học Phật thành công.

Sau bà nghe kinh Địa Tạng, ngắm bức tranh thờ của Đại Sĩ, mới biết đích xác vị lăo tăng ấy chính là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát. Năm bốn mươi, bà sống tại Đồng Giang thuộc Kiềm Đông (phía Đông tỉnh Quư Châu), quả nhiên phát tâm học Phật, chẳng t́m được thầy. Bà mộng thấy hai vị Tăng to lớn đồng ư giới thiệu giúp.

Ít lâu sau, nơi hội Quán Âm ở miếu Đông Nhạc, chợt nghe có tiếng trên không nói: “Quy y Tam Bảo”; bà liền thấy vị vân du tăng tên là Khoan Ngoạn, bà xin được quy y. Sư dạy bà tŕ thánh hiệu Quán Thế Âm và chú Đại Bi. Trong mộng, bà lại thấy vị lăo tăng núi Cửu Hoa dạy tụng kinh A Di Đà.

Từ ngày ấy trở đi, bà lấy đó làm thường khóa, tụng chú vào nước, nước phát quang. Cho chó dữ uống, nó trở thành thuần lương; đem trị bệnh cho người ta liền lành bệnh, cứu sống vô số người. Ḷng từ ái thấu đến những con vật khiến cho con yểng bà đă thả đi lại quay về làm tổ dưới mái nhà, loài kiến đỏ nghe kinh, mèo chuột sống ḥa thuận với nhau. Ḷng tin của bà cảm động cả dị loại, bà thường mộng thấy cô gái đẹp dẫn bà lễ Phật, nghe kinh, hoặc chỉ dạy cách tu tŕ, hoặc dẫn qua chơi cảnh Cực Lạc, hoặc chỉ dạy phương hướng tránh tai nạn v.v… rất linh nghiệm. V́ thế, bà thường coi giấc mộng là niềm vui.

Sau khi đă đến Đài Loan, bà theo lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam chuyên tu Tịnh nghiệp. Mùa Thu năm Dân Quốc bốn mươi ba (1954), bà thọ Bồ Tát giới, nghiêm tŕ giới luật, sáng chiều phải tụng niệm thường khóa xong mới ăn uống hay ngủ nghỉ. Nằm, ngồi đều hướng về Tây, thường thấy quang minh, thấy Phật càng cao, càng sáng, cảnh giới rất nhiều, nhưng đều giấu kín chẳng nói ra.

Mùa Thu năm Dân Quốc 51 (1962), phát nguyện tụng kinh Địa Tạng để cầu thọ cho mẹ, nhiều lần thấy hoa đèn hiện xá-lợi. Mùa Đông năm ấy, bà bị ung thư gan, niệm Phật càng thêm khẩn thiết.

Ngày Hai Mươi tháng Ba năm Dân Quốc 52 (1963), bệnh t́nh nguy ngập, bà di chúc in kinh, vẽ tượng, thờ Phật, cúng dường, không nói chuyện ǵ khác, thầm niệm hồng danh theo đại chúng rồi qua đời. Nơi ấn đường phóng quang nhiều lần.

Lúc tẫn liệm, thân vẫn an tường, mềm mại. Tối hôm sau, khi làm xong lời ước hẹn với bà, người cùng thọ Bồ Tát giới là Trịnh Khương họ Chân mộng thấy bà về bảo: “Đă sanh Cực Lạc, được thân cận Di Đà, Quán Âm”.

Trà-tỳ thu được hơn ba trăm viên xá lợi, thọ sáu mươi ba tuổi. Lúc làm tuần hai mươi mốt ngày, bà hiện tướng trên không mặc áo hải thanh[5], đứng trên sen hồng cho đại chúng cùng được thấy. Năm người con trai, hai người con gái của bà đều học hành xuất sắc, thành đạt. (theo Châu Dương Huệ Khanh Cư Sĩ Kỷ Niệm Lục)

 

Nhận định:

Chồng vinh, con quư là phước báo do tu tŕ từ bao nhiêu kiếp. Nhưng phú quư học đạo rất khó, bà may mắn được đức Địa Tạng hóa thân thọ kư, trong mộng dạy kinh, mộng thấy vị Tăng to lớn giới thiệu cho được thọ Tam Quy. Mộng thấy mỹ nữ chỉ dạy cách tu tŕ và dẫn đi thăm Cực Lạc v.v… là thiện căn phước đức nhân duyên rất sâu. Thường thấy quang minh lẫn thân Phật, xá lợi thường giáng hiện, các thứ thắng cảnh là do giới hạnh tinh tấn cảm thành.

Nước Đại Bi trị lành được các bệnh, nhưng trọn chẳng tự cứu nổi ḿnh, có phải là muốn chịu khổ thay cho chúng sanh, hành Bồ Tát Đạo đấy chăng? Có phải là do túc nghiệp nhiều đời, một đời này báo tận, nên tạm chịu nỗi khổ nhỏ để vĩnh hưởng Cực Lạc đấy chăng?

Xem trong di chúc, chẳng bàn đến chuyện ǵ khác là chẳng tham luyến. Niệm Phật theo đại chúng là chánh niệm phân minh. Xả báo an tường là làm chủ được trong cơn bệnh khổ. Lại c̣n các điềm lành: phóng quang, báo mộng, lưu xá lợi, hiện tướng v.v… th́ đă chứng Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng c̣n nghi ngờ ǵ nữa!

 

62. Con cháu trợ niệm

 

Cư sĩ Lưu Lư Cúc thời Dân Quốc là người ở thành phố Đài Trung. Từ bé đă thông minh, dĩnh ngộ, khéo hiểu ư người khác. Đến lớn, kết hôn với ông Lưu A Vượng, thờ cha mẹ chồng rất hiếu thuận, ḥa thuận đối với xóm giềng, sanh được năm trai, sáu gái. Bà giúp chồng dạy con, tánh t́nh ôn nhu, hiền thục, tâm địa thiện lương, tùy duyên giúp đỡ người nghèo, ai nấy đều kính trọng.

Năm Dân Quốc 68 (1979), chồng mất, bà thường sầu muộn v́ nỗi khổ ái biệt ly; may có cháu gái là cư sĩ Lưu Mạnh Chân do nghe thầy Lư Bỉnh Nam khai thị pháp môn Tịnh Độ, liền khuyên bà niệm Phật. Bà liền vui vẻ tin nhận, quy y Tam Bảo, sáng tối niệm Phật cầu sanh Tây Phương.

Lại c̣n tùy duyên cúng dường Tam Bảo, bố thí, phóng sanh. Sau đó, bà lại phát nguyện ăn chay trường, mỗi ngày công khóa niệm Phật chẳng gián đoạn. Tịnh nghiệp tinh tấn đến nỗi trong mộng cũng thường niệm Phật.

Hai năm trước khi bà được văng sanh, bà chiếu theo lời khai thị Lâm Chung Tam Đại Yếu (ba điều trọng yếu lúc lâm chung) của Tổ Sư Ấn Quang:

“1. Khéo léo khai thị, an ủi khiến sanh chánh tín.

2. Cả nhà luân phiên niệm Phật để trợ giúp tịnh niệm.

3. Cẩn thận tránh xao động, khóc lóc, khiến cho người chết bị lỡ làng”.

Để dặn ḍ cặn kẽ toàn thể dâu, con; lại c̣n ghi âm làm chứng để mong con cháu trước và sau lúc bà văng sanh sẽ khéo tuân hành theo, ngơ hầu lúc lâm chung chẳng bị chướng ngại, quyết được văng sanh Tây Phương. Tuy tuổi đă ngoại bát tuần, thân thể bà vẫn khang kiện.

Đến giữa trưa ngày Hai Mươi Hai tháng Chạp năm Dân Quốc 78 (1989), bà tắm gội thay áo, tụng niệm thời khóa tối xong, bà hơi hôn mê, chẳng nói năng ǵ nữa. Con cháu hơn năm mươi người liền tuân theo di chúc, luân phiên niệm Phật. Liên hữu nghe tin, cũng đến trợ niệm.

Sau khi niệm Phật được hơn mười hai giờ một chút, bà chợt tỉnh táo, tay lần xâu chuỗi, tự nh́n tượng Phật, miệng lầm rầm niệm Phật. Giữa tiếng trợ niệm của toàn thể con cháu và các liên hữu, bà liên tục niệm Phật chẳng gián đoạn. Đến trưa ngày Hai Mươi Tám, bà chánh niệm phân minh, an tường mỉm cười văng sanh; thọ tám mươi ba tuổi.

Lúc ấy, mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, ai ngửi thấy đều khen ngợi. Mọi người tiếp tục trợ niệm. Đến ngày hôm sau, lúc tắm rửa, thay áo, thân bà vẫn mềm mại, tướng mạo hệt như lúc c̣n sống. Lúc nhập liệm lại ngửi thấy mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, hồi lâu chẳng tan. Con cháu cảm động, liền suốt ngày đêm niệm Phật đủ bảy ngày. Lúc trà tỳ, thu được rất nhiều xá-lợi. (theo Cận Đại Văng Sanh Truyện)

 

Nhận định:

Đại Sư Liên Tŕ nói: “Làm con đối với cha mẹ hầu hạ, phụng dưỡng cho được an ổn là hiếu; lập thân hành đạo để rạng rỡ mẹ cha là đại hiếu. Nhưng khuyên cha mẹ dùng pháp môn Niệm Phật để văng sanh Tịnh Độ là đại hiếu nhất trong những sự đại hiếu!”

Vị nữ cư sĩ này tuy trước đă sẵn đủ thiện căn, nhưng lúc tuổi già khổ sở v́ chồng chết, được cháu gái khuyên niệm Phật liền tín nguyện tận lực hành tŕ, nhưng lâm chung bị hôn mê, phải nhờ đến con cháu chia phiên trợ niệm mới tỉnh lại để niệm Phật, mỉm cười văng sanh. Mùi hương lạ tràn ngập cả nhà, tướng lành hiển nhiên.

Nguyện những kẻ làm con cháu trong thế gian thấy điều lành hăy gắng làm theo mới đúng là đại hiếu nhất trong những người đại hiếu!

 

63. Trăm sự chẳng quản

 

Bà lăo Bách Bất Quản đời Thanh không rơ họ tên, người Hàng Châu; từng đến hỏi ḤaThượng Đạo Nguyên ở Hiếu Từ Am rằng:

- Tu pháp môn ǵ th́ trong một đời quyết sẽ thoát khỏi biển khổ?

Ḥa Thượng dạy:

- Không ǵ bằng niệm Phật! Nhưng niệm Phật chẳng khó, niệm cho lâu bền mới khó. Niệm lâu bền chẳng khó, nhất tâm mới khó. Nếu có thể chẳng quản đến hết thảy, chuyên tâm tŕ danh, chí thành phát nguyện văng sanh th́ lâm chung Phật đến tiếp dẫn, sẽ thoát ly khổ hải!

Bà vui mừng lễ tạ, liền đem việc nhà giao hết cho con, dâu v.v... tự lập tịnh thất để thờ Phật hầu tu tŕ trong ấy. Một năm sau, lại đến hỏi:

- Từ khi được khai thị, đệ tử đă buông bỏ việc nhà, chuyên gắng niệm Phật, tự vấn thấy ḿnh tu hành đă lâu chẳng lười nhác, nhưng khổ nỗi vẫn chưa được nhất tâm, thầy có cách nào dạy cho con?

Ḥa Thượng bảo:

- Bà tuy bỏ hết việc nhà, nhưng chưa thể thôi nghĩ tưởng đến con cháu, quyến thuộc. Đấy là ái căn chưa nhổ, làm sao nhất tâm được? Nay bà nên gia công, trước hết phải nhổ sạch ái căn, đem hết thảy buông xuống th́ sau đấy mới đắc Nhất Tâm.

Bà than:

- Lời thầy thật đúng, con tuy chẳng quản đến thân, nhưng chưa thể chẳng quan tâm đến cái tâm, từ nay phải thật sự trăm việc chẳng quan tâm đến vậy!

Bà liền càng gia công tinh tấn, ái tâm vừa động liền thầm niệm ba chữ “bách bất quản” để tự khu trừ. Nếu ai hỏi đến việc nhà cũng dùng ba chữ ấy để cự tuyệt. Do vậy, thành tên Bách Bất Quản trong ṿng gia thuộc. Hơn một năm sau, bà đến am, tạ:

- Thầy chẳng lừa dối con. Đệ tử có ngày đi về Tây rồi!

Vài hôm sau, không bệnh mà mất. (theo Nhiễm Hương Tập)

 

Nhận định:

Cư sĩ Hồ Liên Quy b́nh rằng: “Bách Bất Quản là hỗn danh. Nói rộng ra, từ trăm đến ngàn, ngàn đến vạn đều chẳng quản đến. Nói gọn lại, một điều c̣n chẳng quản, huống hồ là trăm? Làm được như vậy th́ trần duyên thân sau đoạn được, tịnh nghiệp thành được. Than ôi! Thế nhân làm sao đều trăm sự chẳng quản như thế được ư?”

Pháp này tối diệu. Ai không đạt được Nhất Tâm, xin hăy bắt chước cách này mà tận lực hành tŕ.

 

64. Phổ nguyện sanh Tây

 

Bà Châu Uông Thị[6], người Hoa Đ́nh; chồng là Châu Văn Vinh, nhà nghèo, phải đi làm ăn xa, chết nơi đất khách ở tỉnh Hồ Bắc, lâu ngày không đưa tin về; bà phải thêu thùa, may vá tự kiếm sống.

Bà trường trai niệm Phật, nuôi con khôn lớn; sai t́m hài cốt cha đưa về quê an táng, cả họ khen là có hiếu. Tuổi già, bà niệm Phật càng thêm cung kính, chân thành, nguyện cha mẹ ḿnh, bố mẹ chồng và chồng đều được sanh về Cực Lạc.

Về sau bà mắc bệnh, đóng cửa niệm Phật, chẳng hỏi đến việc nhà. Lâm chung, bảo con rằng:

- Đêm qua, ta mộng thấy ông bà nội, ông bà ngoại và cha con đều ở trong Liên Hoa thế giới, đằng trước có mây ngũ sắc hiện ra, nâng một đóa sen to như cái thuyền, ta liền ngồi lên đó văng sanh.

Nói xong qua đời, cả nhà có mùi thơm như hoa lan. (theo Nhiễm Hương Tập)

 

Nhận định:

Chồng chết tu Tịnh nghiệp, nguyện chồng cùng cha mẹ ḿnh, bố mẹ chồng cùng sanh Cực Lạc, đều được măn nguyện. Trong đời có kẻ tuổi xuân góa chồng, nhưng chỉ uổng lưu truyền cái hư danh tiết liệt, để lỡ mất cái lợi ích thật sự được đồng quy Cực Lạc. Xin hăy bắt chước gương này!

 

65. Chuyên cầu thoát khổ

Thời Dân Quốc, một người phụ nữ nghèo ở huyện Từ Khê tỉnh Triết Giang, không biết họ, nhà nghèo, con ngỗ nghịch. Một ngày nọ bị con mắng nhiếc, tâm đau đớn, khó nhẫn, đến than thở với vị Tăng ở gần nhà. Vị Tăng bảo:

- Bà đă biết khổ; sao chẳng đem cái khổ ấy bán đi?

Hỏi:

- Làm sao bán được đây?

Tăng bảo:

- Bà chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương. Lâm chung Phật đến tiếp dẫn ra đi, sẽ vĩnh viễn thoát khỏi các nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui. Đấy là bán khổ đi!

Bà nói:

- Mẹ con tôi sống chung một pḥng. Giường và bếp kê chung một chỗ. Dưới gầm giường có chuồng heo. Bẩn thỉu như vậy làm sao niệm Phật được?

Tăng bảo:

- Không hề chi, bà sống tại gia th́ chỉ cốt sao thường niệm, lúc rảnh có thể đến chùa lễ Phật.

Bà liền phụng hành đúng như lời dạy, chuyên cầu thoát khổ, niệm Phật không gián đoạn. Ba năm sau, trước lúc sắp lâm chung vài tháng, bà nói trước với con:

- Ngày tháng đó ta sẽ sanh Tây Phương. Ngươi đừng có đi ra ngoài, v́ ta lo liệu hậu sự để trọn đạo làm con.

Người con chẳng tin; ít lâu sau, bà nhắc lại cũng chẳng tin. Vài ngày trước khi mất, chợt ngửi thấy mùi hương lạ, t́m khắp nơi chẳng biết từ đâu ra, mới tin lời mẹ là thật. Đến kỳ, cả nhà trông chừng, thấy mẹ tắm gội, thay áo, ngồi ngay ngắn niệm Phật qua đời. (theo Tịnh Độ Thánh Hiền Lục)

 

Nhận định:

Dùng cái tâm sợ khổ để niệm Phật là pháp mầu nhiệm bậc nhất để thoát khổ. Nếu chẳng phải là nhà nghèo, con ngỗ nghịch, tâm đau buồn khó chịu đựng nổi th́ làm sao cam tâm chuyên cầu thoát khổ niệm Phật sanh Tây? Thuận, nghịch đều là phương tiện; nghịch cảnh c̣n thù thắng hơn thuận!

 

66. Thật thà niệm Phật

 

* Đạo sĩ Vương Si Đầu đời Thanh, người tỉnh Trực Lệ, tánh cực ngu. Cha mẹ mất, đói ăn, nằm mọp trong căn lều nát, không biết tính cách nào. Có ai cho tiền cũng chẳng biết dè xẻn. Trần đạo nhân bèn thâu gă làm đồ đệ, sai hằng ngày quét tước, hái củi; khóa chiều th́ niệm Phật vài trăm câu, lễ bái, thắp hương làm lệ thường.

Vương tụng Phật hiệu chẳng thành câu, mỗi lúc hôn trầm sắp ngủ gục, ông Trần dùng gậy dài đập, quở:

- Mày đă ngu muội như vậy, lại c̣n chẳng biết tinh tấn hay sao?

Suốt ba năm như thế. Một ngày kia, Vương ha hả cười lớn. Ông Trần lại đánh, Vương nói: “Hôm nay thầy đánh con không được đâu!” Thầy cật vấn lư do, Vương nói:

- Thầy ngồi như cây khô suốt mười tám năm, chẳng biết tu pháp. Nếu thầy có thể lễ niệm thật thà như con th́ đă sớm được sanh về Tây Phương thấy Phật rồi!

Ông Trần ngạc nhiên, nhưng không quan tâm đến lời ấy. Ngày hôm sau, Vương trèo lên Tiêu Nhai, đứng hướng về Tây chắp tay qua đời. Trà tỳ thu được hai viên xá-lợi. (theo Nhiễm Hương Tập)

 

* Thời Dân Quốc, bà A Ấu chẳng rơ họ tên, người huyện Đài Trung tỉnh Đài Loan, chỉ sanh được một đứa con gái, bắt con rể ở rể. Do một chữ chẳng biết, nên chỉ thật thà niệm Phật.

Mỗi Phật Thất mùa Xuân, mùa Thu ở chùa Linh Sơn, bà đều kiền thành tham gia. Bà thấy nam, nữ đồng tu đều mặc áo hải thanh, trang nghiêm chỉnh tề, liền lấy vàng để dành giao cho con rể đem bán, mong may áo hải thanh tham gia Phật thất. Con rể chịu bỏ tiền ra may, khuyên bà đừng bán vàng.

Đến sáng sớm ngày thứ nhất của Phật Thất, bà tắm gội, thay áo, mặc áo hải thanh mới. Trong lúc đang thắp hương, đốt đèn, liên hữu là A Tam-muội đến rủ đi dự Phật thất. Bà Ấu nói:

- Cô đi trước đi, tôi lễ Phật tại nhà trước đă!

Bà mới hoan hỷ lại ba lạy xong, chợt thấy thánh tượng của Tam Tôn xoay tṛn, hương cũng xoay theo, càng nghĩ càng thấy kỳ, càng nh́n càng thấy chuyển. Bà liền đi kêu mấy liên hữu ở gần đến xem. Ai cũng bảo là chẳng thấy chuyển động. Chẳng nghe bà ừ hử ǵ, lúc quay đầu ngó lại, thấy bà đứng thẳng, chắp tay, mỉm cười quy Tây rồi, thọ sáu mươi tám tuổi. Họ liền trợ niệm cho bà, lại dặn cả nhà đồng thanh niệm Phật. (theo Niệm Phật Cảm Ứng Kiến Văn Kư)

 

Nhận định:

Phật dùng thuyền Từ phổ độ, khiến kẻ ngu phu, ngu phụ chỉ biết thật thà niệm Phật. Một đạo sĩ si ngốc, một bà lăo ngu ngơ trên đây, tuy chưa từng thọ Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng do thật thà niệm Phật nên đứng chắp tay mà hóa, ắt họ đều thấy Phật đến tiếp dẫn, văng sanh Cực Lạc. Xin những kẻ tự cậy ḿnh thông minh, chẳng chịu niệm Phật, hăy biết chỗ quy hướng vậy!

Niệm Phật Pháp Yếu

Quyển hai hết

Phụ Lục:

Bí Quyết Niệm Phật của Ấn Quang đại sư

Tâm tánh của ta giống hệt chư Phật, chỉ do mê trái, luân hồi chẳng ngơi!

Như Lai từ mẫn, tùy cơ thuyết pháp, khiến khắp hàm thức biết đường về nhà.

Pháp môn tuy nhiều, cốt yếu chỉ có hai pháp môn là Thiền và Tịnh là liễu thoát dễ nhất.

Thiền chỉ tự lực, Tịnh kiêm Phật lực. So sánh hai pháp, Tịnh khế cơ nhất.

Như người vượt biển phải nhờ thuyền bè mau chóng đến bờ kia, thân tâm thản nhiên.

Chúng sanh đời mạt, chỉ có thể hành pháp này. Nếu không, trái nghịch căn cơ, nhọc nhằn, nhưng khó thành.

Phát đại Bồ Đề, sanh chân tín nguyện, suốt đời kiên tŕ, chỉ nghĩ đến Phật.

Niệm đến cùng cực, t́nh kiến mất sạch, niệm mà vô niệm. Diệu nghĩa Thiền, Giáo triệt để hiển hiện.

Đến lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn. Lên ngay thượng phẩm, chứng Vô Sanh Nhẫn.

Có một bí quyết, khẩn thiết bảo ban, cạn ḷng thành kính, diệu, diệu, diệu, diệu!



[1] Nguyên văn là “châu phán” vốn là một chức quan phụ tá quan Tri Châu. Do chức vụ này được đặt ra dưới đời Thanh, trong khi ngài Tuân Thức sống vào đời Tống, nên chúng tôi đành dịch hàm hồ là “quan cai trị địa phương” v́ không rơ chức quan này thật sự tương đương với chức quan nào dưới đời nhà Tống.

[2] Đơn: là một tấm gỗ thô hẹp, dài; kê thay cho giường nằm. V́ miếng gỗ ấy chỉ vừa đủ cho một người nằm khít nên gọi là đơn.

[3] Đại Sư sáng lập Linh Nham nhưng không ở đó mà giao cho pháp sư Chân Đạt trông coi, lui về ẩn cư ở Tô Châu, năm 77 tuổi mới về lại Linh Nham

[4] Trắc Hội Học Đường: Trường dạy ngành đo lường, vẽ bản đồ.

[5] Áo hải thanh: Là loại áo tràng màu đen rộng tay, bốn tà, màu đen, nâu, hoặc xanh thẫm, cài xéo; ta thường gọi là “hậu”, c̣n ca-sa gọi là “y”.

[6] Châu Uông Thị: Bà này họ Uông, lấy chồng họ Châu. Người Hoa hay gọi tên đàn bà theo họ chồng, không nêu rơ tên; chỉ gọi họ. Cũng như bà Dư Tông Thị trong phần Miễn Cưỡng Niệm Phật ở trên, chồng họ Dư, bà ta họ Tông.