淨土警語
Chuyển ngữ:
Bửu Quang tự đệ tử Như Ḥa
(dịch theo ấn
bản của Đài Trung Liên Xă, tháng Bảy năm 1991)
Pháp
Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là
từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề
xướng ở Lô Sơn, sáng khởi Liên Xă sáu thời
tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn
đời. Tuy nói là “công cao dễ tiến”, nhưng hành nhân
đời mạt hiếm ai thành tựu là do Tín - Nguyện
chẳng chuyên nên chưa thể dẫn dắt thiện
hạnh quy về Tịnh Độ. Bởi thế, tôi nay
xin thưa cùng khắp các bạn lành đồng tu tịnh
nhân: Nếu chẳng suy xét kỹ phát tâm th́ làm sao biết
được đường nẻo trọng yếu
để thoát khổ?
Phàm những vị
đồng nhân với tôi trong pháp hội này phải nên
đầy đủ ḷng tin chân thật. Nếu không có ḷng
tin chân thật, dù có niệm Phật, tŕ trai, phóng sanh, tu
phước, vẫn chỉ là người lành trong thế
gian, được báo sanh trong chốn lành, hưởng
lạc. Trong lúc thọ lạc ắt sẽ tạo
nghiệp, đă tạo nghiệp ắt phải thọ
khổ. Dùng chánh nhăn xem xét, so ra hạng người ấy
chỉ khác với hạng Xiển-Đề, Chiên-Đà-La
một chút. Tín tâm như vậy phải đâu là chân
thật?
Nói
đến ḷng tin chân thật th́:
-
Thứ nhất là phải tin được rằng tâm,
Phật, chúng sanh, ba thứ không sai biệt. Ta là Phật
chưa thành, Di Đà là Phật đă thành; giác tánh không hai.
Ta tuy hôn mê, điên đảo, giác tánh chưa từng
bị mất. Ta tuy bao kiếp luân chuyển, giác tánh
chưa từng lay động. V́ thế mới nói: “Đừng
khinh kẻ chưa ngộ, khi một niệm hồi quang
liền cùng đạt được cái sẵn có!”
- Tiếp đó, phải tin được rằng ta là lư tánh Phật, danh tự Phật (1); Di Đà là cứu cánh Phật. Tánh tuy không hai, địa vị một trời một vực. Nếu chẳng chuyên niệm đức Phật ấy cầu sanh nước Ngài, ắt phải lưu chuyển theo nghiệp, thọ khổ vô lượng. Đấy gọi là Pháp Thân lưu chuyển ngũ đạo, chẳng gọi là Phật, mà gọi là chúng sanh.
-
Kế đến phải tin được rằng ta tuy
chướng sâu nghiệp nặng, sống trong cơi khổ
đă lâu, nhưng là chúng sanh trong tâm Phật Di Đà;
Phật Di Đà tuy vạn đức trang nghiêm, cách xa ngoài
mười vạn ức cơi, vẫn là đức Phật
trong tâm ta. Tâm tánh đă là vô nhị, tự nhiên cảm
ứng đạo giao; nếu ta tha thiết ắt sẽ
cảm được ḷng từ bi của Phật,
Phật ắt sẽ ứng như nam châm hút sắt
chẳng c̣n ngờ ǵ! Ấy là: “Phật nghĩ
đến chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con
nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con đời
đời chẳng xa cách nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ
Phật, niệm Phật, hiện tiền tương lai
nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng
xa”.
Đầy đủ những ḷng tin như trên th́ là “ḷng tin chân thật”. Thiện dù chỉ một mảy, phước dù nhỏ như hạt bụi đều có thể hồi hướng Tây Phương trang nghiêm Tịnh Độ. Huống hồ là tŕ trai, kiêm giữ giới, phóng sanh, bố thí, đọc tụng kinh Đại Thừa, cúng dường Tam Bảo... các thứ thiện hạnh chẳng đủ để chất đầy tư lương Tịnh Độ ư? Chỉ trừ kẻ do ḷng tin chẳng chân nên bị ch́m đắm trong hữu lậu.
Nay tu
hành chẳng có thuật trọng yếu chi khác, chỉ
cần trong mười hai thời, luôn giữ ba thứ
chân tín ấy th́ với hết thảy hành động
chẳng cần phải thay đổi ǵ. Nếu toan
bỏ pháp độ thoát này, t́m lấy công phu hay lạ nào
khác th́ tông tượng (2) các phương như trúc trong
rừng, ngưỡng vọng vị nào hăy đến
đó mà học đạo; cần ǵ phải chen chân vào liên
xă này.
Nếu quả
thật danh - tâm đều hết sạch, chỉ mong khéo
cùng thời tiết, nhân duyên, may được
thường cùng nhóm họp, nương đồng hồ
sen (3), dơi theo kiệu Phật, di phong như thế xưa
nay chưa dứt, ḥng tạo thành đầu mối
để thân cận trong đời sau, ḥng làm vốn
liếng để trợ phát ngay trong đời này. Xin hăy
cùng nhau gắng sức!
Xưa
Chân Hiết ḥa thượng nói: “Phật Phật trao tay,
tổ tổ truyền thừa, chỉ có mỗi một
sự, không c̣n sự nào khác. Ông cụ Thích Ca trụ
thế bảy mươi chín năm thuyết pháp hơn ba
trăm hội, riêng đối với giáo pháp Tịnh
Độ khen nói bao lượt vẫn chưa thôi, há
chẳng phải là đường tắt để siêu
phàm nhập thánh đó ư?”
Nhưng pháp môn này
thật dễ mà cũng thật khó. Phàm chấp tŕ danh
hiệu, tu các phước thiện, chí tâm hồi
hướng liền được văng sanh. Nếu
được văng sanh bèn cắt ngang năm
đường, nhanh chóng siêu thoát ba cơi, đạt
thẳng vào Bất Thoái không phải trải qua nhiều
a-tăng-kỳ kiếp, chẳng phải là giản dị
ư? Nếu như sự nghiệp Sa Bà vẫn c̣n
vương vấn, một nóng mười lạnh, tâm
chẳng chuyên dốc, lúc gặp ngũ dục bèn như keo
như sơn, khi gặp phải nghịch cảnh liền
kết oán nuôi hận, mà muốn lúc mạng chung đức
Phật đến tiếp dẫn, ắt chẳng thể
được cứu, há chẳng phải là chuyện khó
ư?
Xét theo đó, pháp môn
Tịnh Độ là thuốc, nhưng tham ái Sa Bà là chất
kỵ thuốc ấy. Chúng sanh nghiệp bệnh tuân
lời uống thuốc của đấng Y Vương,
vừa uống thuốc ấy xong liền ăn no ứ
chất kỵ thuốc, có nên hay chăng? Lúc mạng
sắp hết, tâm đặt nặng vào đâu sẽ
đọa về đó, tịnh nhân yếu nhỏ, khó thoát
khổ luân, bèn đổ ngược Y Vương khiến
người lầm lạc, Phật pháp chẳng linh! Xót
thay! Bọn họ điên đảo đến cùng cực
vậy!
Sao chẳng nghĩ
đến pháp xă nơi núi Khuông Lư, mười tám
vị cao hiền, một trăm hai mươi ba
người lưu hiện điềm lành chép đầy
trong sách vở. Cổ kim nhật nguyệt, cổ kim
sơn hà (2), họ đă là trượng phu, sao ta chẳng
được như họ? Phải biết rằng ta
chẳng được như họ chỉ v́ c̣n chưa
buông xuống được những điều ḿnh
đặt nặng đó thôi!
Phàm những bạn
tăng, tục, già, trẻ đồng tu với tôi ai
nấy nên đau đáu nghĩ Sa Bà hiểm ác, sớm
cầu thoát khỏi sáu nẻo gập ghềnh, tiêu dao chín
phẩm, lợi hại như trời với vực!
Phải mạnh mẽ thức tỉnh, sanh ḷng ưa - chán,
bỏ uế cầu tịnh, tin rằng chuyện “lấy
- bỏ” này cùng với chuyện “chẳng lấy -bỏ”
vốn chẳng khác đường, đừng chuộng
hư danh, chớ chấp Không Kiến, chớ bị
lầm lạc bởi những kẻ tham thiền có
địa vị cao nhưng chỉ đắc tam muội
nơi cửa miệng, chớ mong đạt hiệu
quả nhanh chóng trong sớm tối, chớ vọng cầu
ngoài tâm có Phật đến tiếp nghênh khiến cho ma
sự phát khởi!
Chẳng luận là
lúc ở nhà hay lúc đến tham dự liên xă, luôn lấy
niệm Phật làm chánh hạnh, gắng tu các việc
thiện làm trợ hạnh; lại phải quyết ư trừ
khử tập khí tham - sân, khiến cho những chỗ
nặng nề trở thành nhẹ nhàng, chỗ sống
dần biến thành chín. Tịnh niệm tiếp nối,
hạnh nguyện hỗ trợ, sẽ tự nhiên ngàn
phần ổn thỏa, trăm phần thích đáng.
Trong các hạnh, phóng
sanh là việc tốt lành nhất, hăy nên nghĩ kỹ: Chúng
nó tuy đồng tánh với ḿnh, dẫu thuộc trong
dị loại vẫn mong được cứu vớt,
huống hồ những kẻ đồng loại với
ḿnh v́ chướng sâu nghiệp nặng, chẳng bao lâu
nữa sẽ phải đọa trong ác đạo, có
kẻ hiện đang phải chịu khổ trong
địa ngục. Nỗi khổ dữ dội trong địa
ngục sánh với cái khổ v́ lửa đốt, dao
xẻ trong thế gian c̣n hơn mười, trăm, ngàn,
ức lần, nỡ nào bỏ mặc, chẳng nghĩ cách
cứu vớt?
Nhưng cách
để cứu vớt họ cũng chỉ là hiện
tại nhất tâm niệm Phật để mau sanh về
An Dưỡng. Sau đấy, nương vào bổn
nguyện, vận đại thần lực, khởi ḷng Vô
Duyên Từ, mở rộng ḷng Bi đồng thể, phân
chia thân h́nh trong các cơi nước mười phương,
trong các nẻo ác mà tầm thanh cứu khổ như Quán Thế
Âm Bồ Tát, thề khiến địa ngục trống
rỗng như Địa Tạng Vương Bồ Tát,
dẹp tan hết thảy khổ nhân, khổ quả
của hết thảy chúng sanh, ban sự vui thế gian và
xuất thế gian cho hết thảy chúng sanh, nhiếp
thủ hết thảy chúng sanh khiến cùng được
thân cận từ phụ Di Đà, đạt đến
chỗ rốt ráo an ổn.
Chí nguyện như
thế mới là bậc đại trượng phu.
Nếu chẳng có được chí nguyện như
thế th́ chỉ là cứ đến kỳ bèn họp nhau
lại tu hành qua quít, dù niệm Phật phóng sanh cũng
chỉ là một cái hội tầm thường, há
chẳng phải là vô phước ư? Đấy
chẳng phải là điều lăo nạp mong mỏi, xin các
thượng thiện hữu rủ ḷng xét đoán cho!
Tuy
chư Phật, chư tổ cùng tán dương pháp môn
Tịnh Độ, nhưng trong hiện tại, đối
với giáo pháp cả một đời của đức
Phật, các sĩ phu c̣n chưa buồn nh́n đến.
Nếu chẳng phải là đă có linh căn từ
trước, há có thể nghe đến, tin tưởng sâu
sa pháp môn này ư? Nay tôi xin v́ các vị lược cử
một hai điểm trọng yếu trong các kinh
Đại Thừa để quư vị có thể hiểu
đại khái được các điều khác, ḥng
biết pháp môn này thù thắng, dễ sanh ḷng tin ưa.
Chẳng hạn
như kinh Hoa Nghiêm, giáo môn rộng lớn, là vua trong các kinh,
tựa hồ mặt trời chói lọi giữa hư không
chói lấp các ngôi sao, như núi Tu Di sừng sững
giữa biển, cao vượt hơn hẳn mọi
ngọn núi khác. Những thế giới được nói
trong kinh cũng chẳng phải là “hằng hà sa số” mà
là “bất khả thuyết bất khả thuyết
Phật sát cực vi trần số”. Phổ Hiền Bồ
Tát dùng trí thông lực, nh́n thấu suốt vô biên
hương thủy hải, vô biên cơi nước như nh́n
trái cây đặt trong ḷng bàn tay. Từ gần đến
xa, với mỗi một phương ngài đều
chỉ rơ danh hiệu, tướng trạng của từng
cơi nước.
Thế giới
Cực Lạc nằm trong sát độ của đức
Tỳ Lô Giá Na. Sát độ này gồm hai mươi
tầng, trên rộng dưới hẹp, h́nh dạng như
cái tháp lật ngược. Sa Bà và Cực Lạc cùng
thuộc tầng thứ mười ba. Trong tầng này có
mười ba Phật sát vi trần số thế giới
san sát. Thế giới Cực Lạc chỉ là một trong
các thế giới ấy. Để h́nh dung các thế
giới trong sát độ của đức Tỳ Lô Giá Na
nhiều như thế nào, trong một trăm năm hăy
lấy hết gạo trong Thiệm Bộ Châu dồn thành
một đống, th́ mỗi một thế giới
giống như một hạt gạo trong đống gạo
ấy! Huống hồ là nh́n đến bao nhiêu thế
giới trong vô biên sát chủng (5) ở ngoài sát độ
của đức Như Lai, há có thể nói, nghĩ, tính,
bàn được ư?
Kinh văn rộng
lớn như thế, cuối cùng kết thúc bằng
việc Bồ Tát dùng mười đại nguyện
vương hướng dẫn quay về Cực Lạc,
chỉ dạy sanh về thế giới An Dưỡng,
chỉ nguyện thấy Phật A Di Đà. Những
lời khuyến phát chuyên tinh, thiết tha, đinh ninh
nhắc đi nhắc lại được chép trong
phẩm Hạnh Nguyện tôi chẳng cần phải chép
vào đây.
Vả
nữa, Phật diệt độ sáu trăm năm, vị
tổ thứ mười hai bên Tây Thiên là Mă Minh đại
sĩ ứng theo lời huyền kư của Phật, trùng
hưng chánh pháp, gộp ư nghĩa của một trăm
lạc-xoa (6) kinh điển Đại Thừa tạo
thành bộ luận đặt tên là Khởi Tín nhằm
khiến chúng sanh đời mạt phát khởi chánh tín
đối với Đại Thừa. Ví như mượn
các sợi màu để dệt thành gấm, gầy mật
từ trăm hoa; những lập thuyết, phân tích của
ngài đạt tới mức tinh vi cùng cực, tŕnh bày toàn
vẹn hết thảy pháp môn, các thứ tam muội
khiến cho ai nấy tu tập, chánh tín. Ngài lại nghĩ
hết thảy pháp môn, các thứ tam muội đều là
khó tu nhưng dễ lui sụt, nên cuối luận, Ngài
lại chỉ ra mặt trời phương tiện
dễ dàng thù thắng của chư Phật.
Hơn
nữa, sơ học Bồ Tát trụ trong thế giới
Sa Bà này gặp phải các nỗi khổ: lạnh, nóng,
mưa gió trái thời, đói kém v.v... hoặc gặp
phải chúng sanh bất thiện, đáng sợ, bị tam
độc quấn trói, quen hành ác pháp. Trong những cảnh
ngộ đó, nếu Bồ Tát ḷng sanh khiếp nhược,
sợ rằng chẳng thể thành tựu tín tâm thanh
tịnh, đâm ngờ, muốn lui sụt th́ hăy nên nhất
tâm chuyên niệm Phật và Bồ Tát để sanh tâm
quyết định. Nhờ đó, lúc mạng chung ắt
được sanh vào các cơi nước của chư
Phật, gặp Phật, Bồ Tát, vĩnh viễn thoát
khỏi đường ác. Như trong kinh nói: “Thiện
nam tử, thiện nữ nhân chuyên niệm Tây Phương
Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, dùng các
thiện căn hồi hướng nguyện sanh, ắt
quyết định được sanh, thường
thấy đức Phật ấy, tín tâm tăng
trưởng, vĩnh viễn chẳng lui sụt,
được dự vào chánh vị”.
V́ thế, biết
rằng: khi đức Phật c̣n tại thế th́ có các
vị Văn Thù, Phổ Hiền; sau khi Phật diệt
độ, có Mă Minh, Long Thọ, các vị đại sĩ
như thế đều khuyên văng sanh. Các ngài lại tự
nguyện được văng sanh để thân cận Di
Đà. Ngoài ra, như trong các bộ kinh lớn khác như:
Bảo Tích, Đại Tập v.v... đều xưng
dương, khen tụng, khuyến khích, nhưng chẳng
thể nêu được hết. Tịnh độ
của mười phương chư Phật vô
lượng, nhưng kinh luận lại đặc
biệt khuyên quy hướng cơi Cực Lạc là v́ ba ư:
-
Một là v́ đức Phật ấy có nhân duyên lớn
đối với người trong cơi này nên chẳng
luận là sang, hèn, hiền, ngu, già, trẻ... ai nấy
đều biết đến danh hiệu của Phật A
Di Đà. Như ai gặp lúc oan khuất, khổ sở,
mở miệng thốt ra lời không ai là chẳng niệm
danh Ngài.
- Hai là
v́ Pháp Tạng tỳ kheo nguyện lực thù thắng. Ngài
tom góp toàn bộ các sự trang nghiêm của hai mươi
mốt ức cơi Phật thanh tịnh để trang nghiêm
một thế giới Cực Lạc. Ngài phát ra bốn
mươi tám nguyện rộng sâu tiếp độ chúng
sanh niệm Phật trong mười phương sanh về
nước Ngài. Tuy chư Phật quả đức
thật sự b́nh đẳng, nhưng trong lúc tu nhân
[thệ nguyện sai biệt] nên đối với
nguyện lực vô sai biệt “tùy ư nhiếp thọ chúng
sanh” bèn có sai biệt vậy.
- Ba là A Di Đà
Phật chính là Pháp Giới Tạng Thân, thế giới
Cực Lạc chính là Liên Hoa Tạng Hải, thấy
một đức Phật chính là thấy vô lượng
Phật, sanh về một cơi chính là sanh trong vô lượng
cơi, niệm một đức Phật chính là niệm
hết thảy chư Phật, tức là được
hết thảy Phật hộ niệm v́ Pháp Thân bất
nhị, chúng sanh và Phật bất nhị, đức
Phật được niệm và người niệm
Phật bất nhị.
Dù các kinh luận
đă rộng tán dương cơi ấy, nhưng chúng sanh cơi
này thoạt đầu chẳng hề biết đến,
chỉ đến khi Viễn Công vào đời Tống
quật khởi ở núi Khuông Lư, sáng lập Liên Xă, danh
hiền, đại nho thời ấy tự nhiên kéo
đến. Ngay cả những vị như Lưu Di Dân,
Tông Lôi v.v... đều khâm phục, học theo, nên giáo
đạo bèn lan truyền rộng răi. Tiếp đó,
từ đời Đường, Tống đến nay,
Thiền Học ngày càng thạnh hành, hàng sĩ đại
phu, kẻ có trí thức đa phần ngưỡng mộ
Tông môn, hướng đến những điều cao
lạ, nhưng từ trên xuống đến dưới,
trong cả một ngàn một trăm năm, người thật
sự kiến tánh chẳng qua chỉ có mấy
người như quan thị lang Dương Ức, pḥ mă
Lư Tuân Úc, lang trung Hứa Thức mà thôi. Ngoài ra chỉ toàn là
hạng dạo chơi ngoài sân, trước cửa,
khiến cho pháp môn dễ dàng thù thắng chẳng thể
nghĩ bàn này chỉ dành riêng cho hàng ngu phu, ngu phụ.
Trong thời gian
ấy, tuy có năm ba vị tôn túc tiếp nối chí
Tổ, nhưng chưa tiếp độ được
nhiều kẻ căn cơ cao, chưa rộng độ
các phẩm. Măi cho đến cuối đời Minh, bèn có
đại sư Vân Thê Châu Hoằng nương bi nguyện
xưa, dùng thuần Nho thoát tục để chuyên hoằng
dương Tịnh nghiệp. Cố nhiên những bậc
danh hiền thời ấy theo về, tin tưởng Ngài
rất nhiều, nhưng những kẻ hủy báng,
cật vấn Ngài cũng chẳng phải là ít. Đại
sư do hoằng tài diệu biện nên bách chiến bách
thắng, biến những điều đó thành niềm
vui pháp hỷ nên Tăng, tục hâm mộ, ngưỡng
phục gần như Viễn Công phục sanh, Vĩnh Minh
tái thế. Đạo Tịnh Độ lại
được trùng hưng mạnh mẽ. Như vậy
Ngài đă hưng khởi pháp môn bị ch́m đắm
cả hơn một ngàn năm, công ấy chẳng vĩ
đại lắm sao?
Cho đến giờ
đây, mạt pháp tối tăm, chúng sanh phiền cấu
nặng nề trong đường hiểm ác mà bỏ
mất người hướng dẫn tốt lành này th́
chẳng đáng than dài sườn sượt ư? Đời
tôi đă xế, chẳng được thân cận học
hỏi đại sư, di ngôn quư báu của Ngài khác nào khuê
bích (8). Mỗi phen giở ra xem, liền chẳng ngăn
nổi lệ ứa ṛng ṛng, phát khởi tâm ư mạnh
mẽ.
Kể từ khi
trụ ở chùa Phổ Nhân đến nay, thường
được tụ họp cùng các vị hiền nhân, sáu
thời hành đạo, rất hợp ḷng mong, nhưng mỗi
phen được gặp một pháp hữu, chẳng dám
dùng con mắt kẻ tục để nh́n, ḷng riêng trộm
tính: “Cơi nước hoa sen lại có thêm một người
bạn thù thắng. Xưa kia, đức Bổn Sư Thích
Ca của chúng ta từng huyền kư: trong cơi này có sáu mươi
bảy ức Bồ Tát văng sanh cơi kia, người này
ắt là một người trong số đó”.
Dù biết rằng
những kẻ hờ hững, lui sụt th́ nhiều,
nhưng đă phát tâm niệm Phật, đă vào trong Di Đà
nguyện hải th́ sẽ như ăn phải một chút
kim cang, rốt cuộc chẳng tiêu được nổi.
Dẫu siêng, lười, chậm, nhanh khác nhau, rốt
cuộc ắt sanh về cơi kia. Đă sanh về cơi kia,
rốt cuộc ắt chứng quả, chứng tám
tướng thành đạo, rộng độ chúng sanh. V́
thế, lúc vừa dự vào hội, tôi liền mong mỏi
[chuyện các bạn sẽ thành] chư Phật vị lai chẳng
phải [là chuyện] hư vọng, chẳng biết các
bạn tự mong mỏi như thế nào? Nếu các
vị cũng mong mỏi giống như lăo nạp th́
những bạn lành hiện diện đây đều là
nhụy sen, cành sen của tôi cả.
Nhưng tôi xem ra,
hiện thời những kẻ phú quư, lanh lẹ, thành
đạt th́ hoặc là tham mến thanh sắc thô tệ,
chẳng biết gốc khổ, hoặc tham luyến danh tiếng
nhỏ tí như cái sừng con ốc, chẳng biết là
hư huyễn, hoặc lại thích trồng trọt, buôn
bán kiếm lợi, toan tính kinh doanh. Phí hèn suốt cả
đời này, tương lai theo nghiệp lưu
chuyển; chẳng biết chẳng nghe đến y báo,
chánh báo trang nghiêm thắng diệu trong cơi Phật kia,
từ sống đến chết chưa từng khởi
một tâm niệm hướng đến văng sanh, chẳng
bằng kẻ tối ngu, cùng quẫn, phần nhiều
biết niệm Phật, từ chỗ tối vào chỗ
sáng, chuyển sanh vào nơi thù thắng!
V́ thế, nay tôi kính khuyên các bạn: Ai đă ghi danh vào Liên Xă, người ấy chính là hoa Ưu Đàm trong nhà lửa, hăy nên đầy đủ ư nguyện chân thật, phát tâm ưa - chán, coi tam giới như lao ngục, coi vườn nhà như gông cùm, coi thanh sắc như trầm độc (7), coi danh lợi như xiềng xích, coi cảnh ngộ cùng - thông trong mấy mươi năm hệt như giấc mộng đêm qua, coi một kỳ thọ báo trong cơi Sa Bà như nơi quán trọ, ngủ qua một đêm liền bỏ đi, chỉ lấy việc trở về nhà làm trọng. Như ư cũng được, chẳng như ư cũng xong, bỏ được [những chuyện chỉ tồn tại trong] chốc lát, nhất tâm niệm Phật. Nếu thật sự làm được như thế mà chẳng sanh Tịnh Độ th́ chư Phật đều thành nói dối. Xin hăy cùng gắng sức.
4. Khai thị cho đại chúng
trước lúc bắt đầu niệm Phật
trường kỳ suốt ba năm
Phàm ai
muốn công hạnh chẳng uổng trong thời gian
định kỳ niệm Phật th́ hăy nên phát ba thứ
tâm để làm phương tiện:
-
Thứ nhất là sanh ḷng đau tiếc quang âm dù thời
gian ba năm chẳng mấy. Cổ nhân đă ví: “Như
bệnh sốt rét mỗi ngày đều lên cơn, cứ
ba lượt nóng lạnh là xong”. Nếu chẳng siêng
gắng, đốc thúc thân tâm đua tranh với từng
phút giây, sẽ chẳng khỏi thấy [thời gian ba
năm] là dài. Nếu thấy là dài th́ năm tháng dằng
dặc, tâm sự ngổn ngang, dễ sanh mệt chán, công
phu tịnh nghiệp chẳng đạt, chẳng tiếc
lắm ư? Huống hồ mạng trong hơi thở, nào
bảo đảm sống được ba năm? Dù
sống hơn được ba năm, nào phải là
trường cửu? Như thường nói: “Như tù
bị dắt ra chợ, như dê bị đưa
đến ḷ mổ, cứ mỗi bước tiến
đến trước là một bước đến
gần cái chết”. Ngày đêm đăm đắm, nóng
lạnh chẳng sờn, một câu hồng danh không lúc nào
gián đoạn; lẽ nào Di Đà chẳng tiếp dẫn,
chẳng quyết định sanh về Tịnh Độ
sao? Những người đồng hạnh với tôi hăy
dè chừng: chớ lúc đầu tinh chuyên, về sau
biếng nhác. Hăy xem ba năm như một ngày, như
một sát-na th́ mới nên.
-
Thứ hai là phải phát tâm chuyên cầu xuất ly. Công
hạnh ba năm chẳng những không cầu những
phước báo thấp thỏi của thế gian, mà
cũng chẳng nên mong cầu công đức, trí huệ,
biện tài, ngộ giải hoặc cầu đời đời
làm tăng để hưng hiển Phật pháp v.v...
Chỉ mong khi chết được sanh sang cơi kia, thoát
khổ sanh tử. Nguyện ấy phải hiện hữu
trong từng khắc, như xưa có người nọ
bị vùi trong cái giếng khô sâu cả ngàn thước,
được con cáo dạy cho khẩu quyết theo lỗ
hổng mà thoát ra. Do nhất tâm muốn thoát ra, người
ấy nh́n vào lỗ hổng [tụng khẩu quyết]
một lúc lâu, lỗ chẳng lớn thêm, thân chẳng nhỏ
đi mà tùy ư bay thoát ra.
Niệm Phật
cũng thế, chuyên niệm đức Phật ấy,
nhất tâm cầu sanh. Niệm đă đến mức
khẩn thiết, Phật thật sự chẳng
đến, ta chẳng đi qua đó mà tự nhiên
được sanh. Được thỏa nguyện
sẽ thấy Phật, nghe pháp, đoạn Hoặc,
chứng quả, chẳng nhọc phương tiện
tự được tâm khai, trăm ngàn tam muội nghĩ
đến liền hiện hữu, bất khả
thuyết bất khả thuyết vi trần số
đại nguyện đồng thời đầy
đủ. Cốt sao ḷng tin chắc chắn, tận
lực hành tŕ, chuyên tinh duy nhất ắt được
thành tựu.
-
Thứ ba là phát tâm ḥa thuận, tuân thủ, kiềm chế.
Trong điện đường đă không có đông chúng,
sáng tối ở chung với nhau, xưng là “đồng
hạnh thiện tri thức”, ai nấy phải pḥng thân
giữ miệng, khiêm cung, nhường nhịn, nhu
thuận, giúp nhau rèn giũa, làm gương cho nhau.
Trong ṿng
ba năm hệt như bế quan cấm túc, lấy sơn
môn làm giới hạn, chẳng được đi ra
ngoài, dù chuyện lớn như người thân, bè bạn
bệnh tật, chết đi cũng chẳng
được phá lệ đi ra, tạo thành đầu
mối khiến người khác tự tiện bắt
chước theo. Đối với hằng khóa mỗi ngày
chẳng được biếng nhác, bỏ qua hay thiếu
sót, chỉ trừ khi bệnh hoạn chẳng ăn
uống được. Dù ngồi hay nằm đều
phải âm thầm niệm Phật; nhất là trong lúc
bệnh hoạn càng phải cấp thiết niệm
Phật.
Ngoài những thời
hằng khóa, nếu mắc lỗi ǵ phải tự
kiểm điểm, đừng buông lung thân tâm. Khi rảnh
rỗi chẳng được chuyện gẫu nói năng
tạp nhạp, phóng dật, cười giỡn, vừa
hại ḿnh vừa khiến người bị trở
ngại. Chẳng được đọc các sách ngoài
đời, ngâm vịnh thi kệ. [Làm vậy th́] chẳng
những uổng phí thời gian, mà c̣n là cô phụ
đàn-việt (thí chủ).
Trong đường,
chọn ra một người làm giám trực, cứ năm
ngày lại đổi phiên thay nhau lănh trách nhiệm. Ai
chẳng ước thúc, tuân thủ, chẳng đúng pháp th́
giám trực sư liền khuyên can. Vừa khuyên can liền
nghe th́ tốt, nếu can đến ba lượt vẫn
chẳng nghe th́ bạch chúng bàn cách trị phạt. Nếu
giám trực sư vị t́nh giấu diếm, chẳng can
gián, chẳng cử tội sẽ bị phạt tùy theo
mức tội. Nếu các thầy tự nghiêm, tự
trọng, ai nấy tinh tấn chẳng phóng dật,
chẳng cần phải dùng đếm quy ước này th́
tốt quá. Gắng lên, gắng lên!
5. Khai thị cho đại chúng
trước lúc khởi đầu tinh tấn Phật
thất
Bảy
ngày tŕ danh quư tại nhất tâm bất loạn, không gián
đoạn, không xen tạp; chứ chẳng phải
niệm nhanh, niệm nhiều là hay. Cốt sao đừng
rề rà, đừng gấp gáp, miên miên mật mật tŕ
danh, khiến cho trong tâm Phật hiệu vằng vặc phân
minh; mặc áo, ăn cơm, đi, đứng, nằm,
ngồi, một câu hồng danh khắng khít chẳng dứt
khác nào hít thở, chẳng tán loạn nhưng cũng
chẳng được ch́m đắm. Tŕ danh như
thế có thể bảo là đạt Nhất Tâm về
mặt Sự.
Nếu là hạng
người học đạo chân chánh, trực tiếp
thấu suốt vạn pháp đều Như, chẳng có
hai tướng, nghĩa là: chúng sanh và Phật chẳng hai,
ta - người chẳng hai, nhân - quả chẳng hai, y báo
- chánh báo chẳng hai, uế - tịnh chẳng hai, khổ -
vui chẳng hai, ưa - chán chẳng hai, lấy - bỏ
chẳng hai, Bồ Đề - phiền năo chẳng hai, sanh
tử - Niết Bàn chẳng hai, tức là các pháp đều
cùng một tướng, một đạo, thanh tịnh,
chẳng phải miễn cưỡng lập bày sai khác,
cứ đúng như sự thật mà suy xét lănh hội.
Suy xét, lănh hội
đến cùng cực sẽ đột nhiên khế hợp
bổn tâm, mới biết rằng ăn cơm, mặc áo
đều là tam muội, cười giỡn, nổi nóng chửi
rủa không ǵ chẳng phải là Phật sự; nhất
tâm, loạn tâm rốt cuộc thành hư luận! Trong
mười hai thời t́m lấy tướng trạng sai
khác chừng bằng mảy tóc cũng chẳng thể
được. Dù chí tâm xưng niệm cũng giống
như thả sức mắng chửi; dù tinh tấn tu tŕ
cũng giống như khổ hạnh trong mộng.
Liễu đạt như thế mới là người chân
chánh học đạo nhất tâm tinh tấn tŕ danh.
Môn nhất tâm thứ
nhất tựa hồ khó khăn nhưng lại dễ, môn
nhất tâm thứ hai tựa hồ dễ nhưng lại
khó. Người đạt được cái nhất tâm
ban đầu là có thể văng sanh. Người chứng thêm
được cái nhất tâm thứ hai ắt có thể
sanh vào thượng phẩm. Hai thứ nhất tâm này
đều thuộc khả năng của hạng phàm phu sát
đất, ai có tâm đều có thể có tu học
được.
Đồng
đường tăng tục (9) chớ đề cao thánh
cảnh, nhưng tự ḿnh cam phận kém hèn, ai nấy
phải thân tâm siêng gắng, gần là trong ṿng bảy ngày,
xa là trong suốt một đời này, thường tin
tưởng như thế, thường tu cái hạnh
như thế, dù chẳng chứng đắc ngay
được để làm nhân, chắc chắn cũng
sẽ gởi phẩm nơi cung hoa, chẳng rớt vào
trung hạ.
Nếu như sau
bảy ngày này, coi như chưa từng nghe đến
[những điều này], chỗ chín rốt cuộc
chẳng biến thành sống, chỗ sống vẫn c̣n
nguyên khó chín, vô minh nghiệp tập chằng trói, buộc
ràng, chỉ muốn thành công cho nhanh th́ hết bảy ngày
này đến bảy ngày khác, vẫn chưa hề
đạt được nhất tâm bất loạn!
Đấy chính là như kinh dạy: “Ít thiện căn,
phước đức nhân duyên”, c̣n mong chi văng sanh
về cơi kia cho được? Để rồi
đến nỗi đâm ra nghi lời thành thật thốt
ra từ kim khẩu là gian dối; th́ đấy là lỗi
của ai vậy? Nguyện đồng thất tịnh
chúng ai nấy hăy tự nghĩ kỹ để ngăn dè,
gắng công vậy!
6. Liệu giản pháp môn
Niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ là một phương
tiện dễ dàng thù thắng do đức Thích Tôn
đặc biệt chọn ra từ vô lượng pháp môn;
nhưng trong pháp Niệm Phật lại có nhiều môn. Tuy
vậy, xét ra chẳng ngoài bốn loại:
-
Một là niệm Phật thật tướng, tức là
như Bổn Giác lư tánh được giảng trong các kinh
như Đại Tập... chính là pháp này.
- Hai là niệm
Phật pháp môn, tức là như các môn tam muội đă nói
trong các kinh Đại Thừa.
- Ba là niệm
Phật tướng hảo, tức là niệm các
tướng thắng, liệt nơi thân như Thập
Lục Quán Kinh đă dạy.
Ba môn niệm Phật
này tuy là thù thắng, nhưng chẳng phải là
phương tiện dễ dàng v́ phải thấu rơ sự
lư, thâm đạt quán cảnh. Thượng trí c̣n khó
đạt, độn căn tuyệt chẳng có phần.
V́ thế mới cách
thứ tư là niệm danh hiệu Phật, tức là
nhất tâm tŕ danh như kinh Tiểu Bổn Di Đà đă
dạy. Chỉ có mỗi môn này nhờ vào nguyện lực
thù thắng của đức Phật kia nên chẳng
cần biết là hữu trí hay vô trí, thượng, trung hay
hạ căn, cứ hễ chấp tŕ danh hiệu, nhất
tâm bất loạn trong bảy ngày thậm chí một ngày th́
chính là “nhiều thiện căn, phước đức
nhân duyên”, liền được Phật Di Đà và thánh
chúng tiếp dẫn, liền được thập
phương hết thảy chư Phật hộ niệm.
Vả nữa,
đức Phật ấy vốn có thệ nguyện: “Nếu
có chúng sanh muốn sanh về cơi ta, chí tâm tin ưa, dẫu
chỉ mười niệm mà nếu chẳng
được sanh th́ ta sẽ chẳng giữ lấy ngôi
Chánh Giác”. Đấy là phương tiện chẳng
thể nghĩ bàn, không những lạ lùng mà c̣n thù thắng
nữa.
Cơi Tịnh Độ
để sanh về cũng có bốn loại:
- Một là
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là chỗ
cư ngụ của thánh nhân cực quả. Đoạn
sạch Vô Minh Hoặc mới được sanh vào cơi này.
- Hai là Thật Báo Vô
Chướng Ngại Độ, là chỗ ở của
bậc Bồ Tát từ Sơ Địa trong Viên Giáo hay
Sơ Trụ trong Biệt Giáo trở lên. Đoạn sạch
Trần Sa Hoặc mới được sanh vào cơi này.
- Ba là Phương
Tiện Hữu Dư Độ, là chỗ trụ của
bậc Tứ Quả thánh nhân, Tam Hiền Bồ Tát của
Biệt Giáo, Thập Tín Bồ Tát của Viên Giáo.
Đoạn sạch Kiến Tư Hoặc mới
được sanh vào cơi này.
Ba thứ Tịnh
Độ này tuy thù thắng, nhưng vẫn chưa
phải là phương tiện lạ lùng, v́ phải
đoạn Hoặc mới được sanh về,
vẫn là thoát ly tam giới theo chiều dọc.
- Bốn là Phàm Thánh
Đồng Cư Độ, là chỗ Quyền Thật
thánh hiền và phàm phu thấp sát đất cùng ở chung.
Chỉ có ḿnh cơi này là nương vào sức nhiếp thọ
của chư Phật nên chẳng cần phải
đoạn Hoặc, lại c̣n đới nghiệp văng
sanh. Chỉ quư sao có tín nguyện dẫn đường,
cảm ứng đạo giao, trược chướng
nhẹ bớt, thoát khỏi khổ luân.
Cơi Đồng Cư
An Dưỡng này theo chiều dọc thông triệt các cơi
Phương Tiện, Thật Báo, Tịch Quang, nên bậc
thượng trí mau chóng viên măn bốn cơi Tịnh Độ
mà kẻ hạ ngu vẫn có thể vượt ngang ra
khỏi tam giới, chẳng phiền phải tu theo Cửu
Thứ Đệ (10), chẳng phải đợi ba
a-tăng-kỳ mới chứng. Đây là phương
tiện không những lạ lùng mà c̣n thù thắng chẳng
thể nghĩ bàn. Pháp môn tối thắng, riêng lạ này lúc
đức Thích Ca Thiện Thệ ân cần chỉ dạy,
khuyên lơn nơi cơi Ngũ Thiên Trúc xa xôi, hằng hà sa
Như Lai dùng tướng lưỡi rộng lớn tán
dương trong mười phương cơi nước, há
lừa dối ta ư?
Trong Tỳ Bà Sa
Luận, ngài Long Thọ viết: “Phật pháp có vô
lượng môn. Như đường đi trên thế
gian có khó có dễ; đi đường bộ th́ khó,
ngồi thuyền th́ dễ. Muốn dễ đi mà mau
đến th́ hăy nên niệm Phật. Xưng danh hiệu A
Di Đà Phật sẽ mau chóng đạt được
A-nậu Bồ Đề”. Ngài Trí Giả cũng
viết trong Thập Nghi Luận rằng: “Trong
đời ác ngũ trược, cầu A Bệ Bạt Trí
rất khó đạt được, ví như kẻ
thọt một ngày đi không quá mấy dặm. Nếu tin
vào Niệm Phật Tam Muội, nhờ nguyện lực
của đức Phật kia nhiếp tŕ quyết định
văng sanh, như ngồi thuyền gặp cơn gió thuận,
trong khoảnh khắc đi cả ngàn dặm. Lại
như gă yếu ớt đi theo Chuyển Luân Vương,
trong một ngày một đêm đi giáp ṿng tứ thiên
hạ, chẳng phải do sức của gă mà là do sức
của Chuyển Luân Vương”.
Đời chỉ
thích nói “trực chỉ”, đa phần cho Tây Phương
là độn, bảo rằng pháp môn này chuyên nhiếp
thọ độn căn liệt khí! Nếu đă có thể
nhất siêu trực nhập th́ cần ǵ phải bận tâm
nghĩ đến tha lực? Văn Thù, Phổ Hiền, Mă
Minh, Long Thọ và những bậc trí, bậc giác ngộ
trong cơi này cùng phát nguyện văng sanh, bọn họ
đều thuộc độn căn hết sao? Trong
hội Bảo Tích, đức Thế Tôn khuyên phụ
vương Tịnh Phạn và sáu vạn người
họ Thích đều sanh Tịnh Độ, bọn họ
đều là liệt khí (căn khí hèn kém) hết sao?
Chẳng nhọc phương tiện mà tâm được
tự khai, há có con đường tắt nào
được như thế chăng? Vừa ủ thai sen
liền vào Bất Thoái, sao lại coi là pháp xa xôi, hèn hạ?
Nếu ai đă
ngộ tâm tông, khi được răn nhắc, vẫn nói
là đời đời chẳng thoái chuyển ắt có lúc
thành Phật, th́ cứ suy sự khó - dễ, nhanh - chậm ắt
sẽ thấy rơ rành rành. Những kẻ học đạo
trong đời nếu nghi ngờ hoặc hủy báng,
hoặc rẻ rúng chẳng thèm nói đến [pháp này], dù có
bảo họ chẳng phải là hạng ngu cuồng, tôi
cũng chẳng tin.
7. Lược giảng chín phẩm
Một môn Tịnh Độ tuy rộng nhiếp các căn đều đạt Bất Thoái, nhưng gặp Phật lâu - mau, nghe pháp lớn - nhỏ, chứng quả, thọ kư nhanh - chậm đúng là khác nhau vời vợi một trời, một vực! Kinh Đại Bổn chia giản lược thành ba bậc, Quán Kinh chia kỹ thành chín phẩm. Nói chung, Thượng Phẩm lấy giải ngộ làm gốc; Trung Phẩm lấy giới - thiện làm gốc; Hạ Phẩm thuần ác không thiện, chỉ là lúc lâm chung gặp thiện hữu, một niệm tín tâm diệt tội văng sanh.
Nếu
phân tích kỹ, “đọc tụng kinh Đại
Thừa” như đă nói trong phần Thượng
Thượng Phẩm nghĩa là “tông thuyết câu thông” (thông
suốt cả Tông lẫn Giáo), tu hành lục niệm đến
mức “hạnh giải tương ứng”, cho nên trong
khoảng khảy ngón tay liền văng sanh, thấy Phật,
nghe pháp, ngộ Vô Sanh Nhẫn, trong khoảnh khắc đi
qua các nơi phụng sự mười phương chư
Phật, được thọ kư. Tăng như Viễn
Công, Trí Giả, tục như các vị Lưu Di Dân,
Dương Vô Vi... đáng thuộc phẩm này.
Người sanh trong
Thượng Trung Phẩm là tuy chưa đạt
đến mức đọc tụng kinh Đại
Thừa, nhưng đă hiểu được Đệ
Nhất Nghĩa. Như vậy, chính người ấy
đă có ngộ nhập, nhưng hạnh chứng chưa
bằng được với bậc Thượng
Thượng Phẩm, nên phải trải qua một đêm
hoa sen mới nở, thấy Phật. Do sự tu tập từ
trước, nghe thấy tất cả các âm thanh
đều nói Đệ Nhất Nghĩa Đế rất
sâu. Trong ṿng bảy ngày đắc Bất Thoái Chuyển
nơi A Nậu Bồ Đề, tu các tam muội, trải
qua một tiểu kiếp đắc Vô Sanh Nhẫn.
Người sanh trong Thượng Hạ Phẩm, tuy chưa ngộ nhập, nhưng cũng đă phát Vô Thượng Đạo Tâm, tự muốn thấy rơ bổn tánh, nhưng chưa được toại chí bèn cầu sanh. Bảy ngày thấy Phật, hai mươi mốt ngày mới được nghe diệu pháp, trải qua ba tiểu kiếp mới trụ vào Hoan Hỷ Địa.
Người
sanh trong Trung Thượng Phẩm là nam nữ tại gia ḷng
tin trong sạch, tŕ giới cầu sanh, lâm chung thấy
Phật văng sanh, hoa sen liền nở, nghe pháp nói Tứ
Đế liền lập tức đắc đạo A La
Hán. Do giới lực chuyên chú nên hoa nở chứng quả
rất nhanh, nhưng do chưa phát Vô Thượng
Đạo Tâm nên những điều được nghe chỉ
là Tứ Đế, quả chứng được chỉ
là Tiểu Quả.
Người
sanh trong Trung Trung Phẩm là hạng nam nữ xuất gia tŕ
giới cầu sanh. Kinh nói: “Một ngày một đêm tŕ
giới Sa Di, tŕ giới Cụ Túc” nhằm chỉ rơ:
Giới pháp thù thắng, dù tŕ [trong một thời gian]
ngắn ngủi c̣n được văng sanh, huống là tŕ
giới đă lâu? Người xuất gia giới hạnh
tinh chuyên cũng sanh trong Trung Thượng Phẩm;
người tại gia tạm thời trai giới cũng
có thể sanh trong Trung Trung Phẩm. Lâm chung thấy
Phật, văng sanh xong bảy ngày sau hoa mới nở, nghe pháp
đắc quả Tu Đà Hoàn, sau nửa kiếp thành A La
Hán.
Người
sanh trong Trung Hạ Phẩm cũng là tục nhân nam nữ
chưa từng quy hướng Tam Bảo, nhưng bẩm
tánh nhân hiếu, có khả năng đạt đạo. Lúc
lâm chung gặp thiện tri thức khai thị liền
được văng sanh. Sau bảy ngày thấy hai vị
đại Bồ Tát, nghe pháp đắc quả Tu Đà
Hoàn, trải mười tiểu kiếp mới thành A La
Hán.
Người
sanh trong Hạ Thượng Phẩm chính là ác nhân tục
gia, lúc lâm chung gặp thiện tri thức dạy xưng
niệm Phật danh, diệt tội văng sanh. Bảy ngày sau
hoa nở, thấy hai vị đại sĩ giảng
mười hai bộ kinh rất sâu, bèn phát Vô Thượng
Đạo Tâm. Qua mười tiểu kiếp
được nhập Sơ Địa.
Người
sanh trong Hạ Trung Phẩm chính là ác nhân xuất gia phá
giới, lâm chung gặp thiện tri thức xưng danh
hiệu Phật, thuyết pháp, nhất niệm văng sanh.
Phải sáu kiếp hoa sen mới nở, thấy hai vị
Đại Sĩ, nghe kinh điển Đại Thừa
rất sâu, phát Vô Thượng Đạo Tâm.
Người
sanh trong Hạ Hạ Phẩm là hạng ngũ nghịch
thập ác cực ác và cả hai loại Tăng, tục, lúc
lâm chung gặp thiện tri thức dạy xưng danh
hiệu Phật, mười niệm văng sanh. Sau
mười hai tiểu kiếp hoa sen mới nở, nghe hai
vị Đại Sĩ v́ ḿnh giảng Thật Tướng
các pháp bèn phát tâm Bồ Đề.
Với
hai phẩm cuối này, kinh không nói đến thời
hạn chứng nhập địa vị, cũng giống
như người sanh trong Thượng Hạ Phẩm: sau
khi phát Vô Thượng Đạo tâm phải qua mười
tiểu kiếp [mới đắc Sơ Địa]. Ba
phẩm Trung tuy dùng giới - thiện để cầu
sanh, tâm tự độ kiên cố, nhưng hạnh
độ tha khiếm khuyết nên dù rốt cuộc sẽ
đắc Đại Thừa, nay tạm thời chỉ chứng
Tiểu Quả. Ba phẩm Hạ tuy là phàm phu cực ác
nhưng do được nghe hai vị Đại Sĩ
thuyết pháp thậm thâm, phát được Vô
Thượng Đạo Tâm nên dù phải trải qua
nhiều kiếp, vẫn dự thẳng vào thánh vị.
Đấy chính là chỉ trong một niệm, nhanh chóng
vượt khỏi Đại - Tiểu, Quyền thừa tiểu
quả, một đời tinh tấn vượt xa
nhiều kiếp. Thai sen lớn - nhỏ là do phát tâm nhanh hay
chậm.
Khuyên hành giả hăy
xét kỹ điều đó mà khởi sự. Người
đă ngộ lại cầu sanh sẽ nhờ vào cảnh
duyên Cực Lạc mà kiết sử, tập khí dễ đoạn,
tam muội dễ tu, mau thành Nhẫn lực để
độ chúng sanh. Người chưa ngộ cầu sanh
do thân cận Di Đà bèn dễ kiến tánh. Ngài Vĩnh Minh
từng nói: “Chỉ được thấy Di Đà, lo ǵ
chẳng khai ngộ” chính là ư này.
Với hai môn
Thiền - Tịnh ai nấy đều nên chuyên chú, bênh môn
này chê môn kia là hiểu lầm ư Phật quá lớn.
Người tham Thiền chẳng cần biết là ngộ
hay không, hễ được văng sanh liền chứng
Thượng Phẩm. Người tu Tịnh Độ dù
ngũ nghịch, thập ác nhưng sám hối c̣n
được dự vào Hạ Phẩm. Thế nhưng
kinh dạy “chẳng báng Đại Thừa”
đủ biết kẻ hủy báng chẳng
được văng sanh vậy! Kẻ trước đă
ngộ rồi sau văng sanh giống như buồm lớn
gặp được gió thuận. Kẻ niệm Phật
báng Thiền như hạt giống hư gieo nơi
đất tốt. Tướng tốt - xấu, mối
quan hệ được - mất như thế chẳng
thể chẳng biện định.
8. Dạy cư sĩ Hạ Tử Di
Đại
A Di Đà Kinh nói: “Tu hành một ngày một đêm trong
thế giới Sa Bà hơn làm lành trong thế giới
Cực Lạc cả trăm năm” là v́ cơi này khó
thể tấn tu, cơi kia dễ ra công sức. Theo đó mà nói
th́ tu hành trong đường đời gió bụi một
ngày hơn tu hành trăm năm nơi cảnh chùa thanh
tịnh chốn non sâu là điều không c̣n nghi ngờ ǵ
nữa. Bởi thế, mới nói: “Dạo nơi kinh
thành cũng được, dấn ḿnh vào chốn bụi
hồng cũng xong, cốt sao tịnh nguyện chẳng
được quên, tịnh hạnh chẳng được
khuyết!”
Than ôi! Gió bụi há nhiễm
được người ư, chỉ sợ
người tự nhiễm gió bụi đó thôi! Cư
sĩ thiện căn sâu dày, tín lực chuyên dốc, từ
lâu đă biết “tuyển quan chẳng bằng tuyển
Phật”. Hạnh ấy vốn chẳng thể cùng
tận, nhưng để vào được trường
thi tuyển Phật, bất luận là núi sâu chùa vắng hay
đường đời gió bụi, đều phải
lấy tâm làm kim chỉ nam, lấy nguyện làm
người dẫn đường th́ điều ḿnh
hướng tới mới chẳng sai trái; dù suốt ngày
đi trên đường có khác ǵ đang ở trong nhà,
Trường An chẳng cách đất này mảy trần!
Từ đó,
đột nắng xông mưa, chơi châu dạo huyện,
trải giấy vung bút (11), nắm cương vung roi,
chốn chốn là đạo tràng, lúc nào cũng là Phật
sự, tịnh nguyện, tịnh hạnh thường được
hiện tiền, tự nhiên đến được
thượng bang Thanh Thái (12), diện kiến thánh nhan Vô
Lượng Thọ, đậu cao tột trong khoa thi
cửu phẩm, trụ hạnh hướng địa,
chầu hầu mười phương chư Phật, tiêu
sạch những lỗi lầm lớn. Sau đấy, phân
thân bổ xứ, ban bố hiệu lệnh thống lănh
trời người cửu giới, thuần hóa bảy
phương tiện đệ tử. Tuyển quan,
tuyển Phật như thế há chẳng đáng là bậc
đại trượng phu ư?
Thế nhưng, nói
dễ, làm khó! Chùa tịnh núi sâu th́ dễ, nẻo
đời gió bụi th́ khó. Tôi xin cư sĩ hăy nhận
biết sự khó khăn đó để mai sau ắt có lúc
sẽ đạt thành tựu lớn lao. Hăy nghĩ
đến thời gian như ngựa phi, mỗi ngày
một già yếu, phải qua lại trên đường
dài, đừng uổng phí dịp tốt. Ngoài định
khóa, có thời gian rảnh th́ niệm thêm Phật hiệu,
c̣n những môn khác như chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi
v.v... đều bất tất phải quan tâm đến.
9. Dạy cư sĩ Đinh Canh Dă
Xưa kia, ḥa thượng Tịch Thất bảo: “Người đời muốn tu Tịnh nghiệp chẳng thể nói tôi nay bận rộn phải đợi đến lúc nhàn hạ, tôi nay nghèo túng hăy đợi đến lúc giàu có, tôi nay trẻ mạnh hăy đợi đến lúc già cả. Nếu viện cớ bận rộn, viện cớ nghèo túng, viện cớ non trẻ th́ là vô duyên tu tập Tịnh nghiệp, lỡ đột nhiên chết mất có hối cũng chẳng kịp! Sao không thừa dịp thân đang mạnh mẽ mà nỗ lực tu đi, lại cứ nói như thế?”
Người đời nay, đừng nói là người tin ưa [pháp này] đă ít, ngay cả những người tin tưởng sâu xa vào pháp môn Tịnh Độ vẫn cứ do dự, lần chần đến nỗi uổng phí một đời, đa phần là như vậy. Cư sĩ thiên tư tinh thuần, cẩn trọng, gặp gỡ lăo nạp chưa lâu liền giác ngộ vô thường, trường trai thờ Phật, ắt là phải sẵn túc duyên!
Nhưng cư sĩ nhà không sẵn của, năm nào cũng phải trông vào lương bổng, cày cấy để chi dụng. Phàm nhà không sẵn của cải th́ chi dụng chẳng đủ là điều dễ hiểu. Thân lănh quan chức đương nhiên chẳng rảnh rỗi, tuổi mới năm mươi đương nhiên cũng chưa già suy, đột nhiên từ quan bỏ chức, giă biệt đàn em dưới tay, tŕ măn phần Ưu-bà-tắc giới, đóng cửa quanh năm, tận lực chuyên tu Tịnh nghiệp, thậm chí đối với lương thực, củi nước trọn chẳng quan tâm đến nữa; nếu chẳng phải là bậc trượng phu dũng mănh dễ hồ làm được như vậy ư? Dùng một gian nhà nhỏ hẹp lép ngăn đôi thờ kinh - tượng, ẩn trong đó lánh ồn náo, náu ḿnh rèn chí chuyên tu, khác nào đang ở trong một căn nhà rộng răi, khoảng khoát. Nếu chẳng phải là bậc tri túc, sao lại có thể chịu đựng lâu dài như thế được?
Chao ôi! Phu nhân sống ngoài đời sao mà cũng an định vậy thay! Tôi thường lén nhận xét: Nhàn th́ không nhàn nhưng chẳng bỏ phí thời gian, giàu th́ không giàu nhưng thường biết đủ, mạnh th́ không mạnh nhưng siêng tinh tấn; nay cư sĩ đủ cả ba điều ấy! Trong thiên hạ, dù có kẻ nhàn hạ, kẻ giàu có, kẻ mạnh mẽ có sức, so với cư sĩ, tôi thấy họ chỉ là hữu danh vô thật! Làm được như vậy ắt phải sanh Tịnh Độ có ǵ lạ đâu!
Tôi lại có một lời xin nhắc nhở ông. Ví như con thuyền chở được cả vạn hộc, muốn đi đến nơi nào đó, dẫu cho cột buồm chẳng phải là không cao, bánh lái chẳng phải là không ngay, lương thực, vật dụng chẳng phải là không hoàn bị, ư chí ra đi chẳng phải là không nhất quyết, có cái thế nương gió căng buồm chớp mắt đi được cả ngàn dặm, nhưng nếu chưa chịu nhổ cây cọc đầu thuyền lên th́ thuyền vẫn bị một sợi dây neo buộc chặt, dù đun đẩy đủ cách há thuyền có đi được chăng?
Hiện tại, hành nhân Tịnh nghiệp suốt ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện, vẫn c̣n cách xa Tây Phương, khó chắc được văng sanh th́ không ǵ khác hơn là chưa nhổ được cọc Ái, chưa dứt được dây t́nh. Nếu có thể xem chuyện ân ái cơi Sa Bà giống như nhai sáp, chẳng quản rảnh - bận, động - tịnh, khổ - sướng, buồn - vui, dựa vào một câu Phật hiệu hệt như ngọn núi Tu Di, hết thảy cảnh duyên chẳng thể dao động; mỗi khi biết ḿnh mệt mỏi, biếng nhác, hoặc khi tập khí hiện tiền liền dũng mănh đề khởi nhất niệm như vung thanh trường kiếm Ỷ Thiên khiến cho phiền năo ma quân không nơi trốn núp, lại cũng giống như ḷ to lửa hừng, khiến cho vô thỉ t́nh thức cháy sạch chẳng sót th́ người ấy tuy đang sống trong cơi ngũ trược, nhưng toàn thân đă ngự trong cơi nước liên hoa, nào c̣n phải chờ Di Đà đưa tay, Quán Âm khuyên lơn, khen tặng, mới tin ḿnh sẽ được văng sanh nữa ư?
Nếu có kẻ bảo: “Vị cư sĩ nọ dũng mănh tinh tấn như thế, há c̣n bị t́nh ái buộc ràng nữa ư? Bỗng dưng không bệnh lại cho thuốc ư?” Tôi đáp: “Chẳng phải thế! Cổ nhân nói: ‘Ái chẳng nặng chẳng sanh Sa Bà’, lại nói: ‘Đạo niệm nếu giống như t́nh niệm th́ thành Phật lắm dịp’. Ngũ Thông tiên nhân tinh tấn bao kiếp c̣n chưa trừ được dục lậu, mất sạch công hạnh. V́ thế biết rằng: Chưa chứng thánh quả vẫn hiếm ai không bị t́nh ái gây hệ lụy!
Nếu quả thật cư sĩ ư niệm thế gian mỏng nhẹ, đạo niệm dũng mănh, sắc bén, thấy dục như tránh hầm lửa, nhớ Phật như quyến luyến mẹ hiền, trai giới, khóa tụng thanh tịnh, lời thề vĩnh viễn chẳng biến đổi th́ người khỏe mạnh không bệnh dù thường uống thuốc hay nào có trở ngại chi? Há chẳng phải là đi đứng nhanh nhẹn, càng thêm mạnh mẽ ư?
Nói chung, phiền năo vô tận, nhưng căn bản sanh tử chỉ là tham ái; nó có thể làm cho hành nhân bị ch́m đắm, là pháp chướng ngại văng sanh. Bởi thế, trước kia, trong các kinh chỗ nào Phật cũng quở trách. Cứ hễ đạm bạc được một phần t́nh ái th́ tịnh nghiệp lại được thành thục thêm một phần ḥng được giải thoát nơi bờ sanh tử vậy! Xin cư sĩ hăy cố gắng!
10. Can ngăn cư sĩ Cố
Triệu Trinh
Đời
mạt pháp bạc bẽo, con người có xu hướng
trá ngụy. T́m lấy một người chăm chú
đạo, giữ ḷng thành, tuân thủ lối cổ,
chất phác như lăo cư sĩ th́ có khác ǵ vẹt sao
chọn lấy mặt trăng đâu! Trong số tịnh
hữu có ông Công Thần nhà cụ, lại thêm ông Đinh Dă
Canh, ông Ông Thuấn Nghi đều là thân thuộc của
cư sĩ, có phải là tường lân thụy
phượng (13) cùng loại tụ họp đó chăng?
Trong số ấy, ông Ông đại hiếu tột bậc,
có thể nói là những hạnh khổ, hạnh khó của
ông ta tôi chưa hề làm mà cũng chẳng thể làm
được nổi. Trong tâm khâm phục, lại
chẳng thể dùng ngọn bút để khen thuật
nổi.
Đọc bài
trường ca [của cư sĩ] ca tụng ông ta đôi
ba lượt, càng thấy tinh vi, điêu luyện. Xưa
ông Hạ Tri Chương tám mươi tuổi vẫn ham ngâm
vịnh, ông Khâu chín mươi tuổi vẫn giỏi làm
phú. Nay cư sĩ tuổi xấp xỉ ông Khâu, ông Hạ
mà trước tác cũng gồm thâu tài khéo của họ,
mong ông hăy tiếc nuối từng phân tấc quang âm,
nhạt bớt nỗi ham thích bút mực, dồn tinh
lực ấy để chuyên tâm vào Tịnh nghiệp
khiến mầm huệ tăng trưởng, đạo
chủng thành thục, ngày sau được hóa sanh trong hoa
sen trước Phật th́ mới chẳng bị chê là
giống hệt như bọn ông Khâu, ông Hạ vậy!
11. Hồi đáp cư sĩ Cố
Triệu Trinh
Trước
đây đă kính gởi vài hàng, tưởng ông đă
hiểu rơ, chợt nhận thư tay có những câu như
“trần nghiệp t́nh duyên chen lẫn, vây hăm, biết bao
giờ mới thành diệu quán?” đủ biết ông
cầu đạo tha thiết; nhưng theo sự thấy
biết bỉ lậu của tôi th́ t́nh trạng nhàm chán
trần t́nh, ham thích diệu quán ấy lại chính là do
học đạo có nội chướng bèn lánh ồn t́m
tịnh. Ở trong đời chưa hề có chỗ nào
để dứt nổi t́nh trần đâu!
Phải biết
rằng: vạn pháp vốn nhàn, chỉ riêng ḿnh gây rối!
Ngẫu Ích đại sư từng bảo: “Tuy nói là sáu
căn huyễn hoặc rong ruổi, sáu t́nh chao động
tơi bời, nhưng suy xét kỹ, trần đă chẳng
thuộc vào tội, há căn cũng biết lỗi đó
ư? Căn đă chẳng biết lỗi ấy, lẽ
nào riêng t́nh phải mang lấy tội? Chia chẻ ba khoa
(căn - trần - thức) đă không có chủ tể
thật sự, dù có gộp chúng lại vẫn nào có
thật pháp?” Nhưng đối với pháp hư
vọng này, bọn ta bèn chấp ngă đắm nhân, bỏ
cái kia, lấy cái này, giống như dụi mắt hoa
đốm lăng xăng liền phát sanh. Toan phân biệt
tướng hoa cái nào tốt, cái nào xấu, chẳng
phải là lầm lẫn ư? Chỉ nên đem toàn thể
thân, tâm, thế giới buông xuống hết th́ trí nhăn
chiếu minh, c̣n có chỗ nào để chán nhàm trần t́nh
nữa đây?
Nhưng muốn
niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ th́ khởi
tâm chán - ưa mạnh mẽ đúng là nào có trở ngại
ǵ, nhưng nếu chấp vào cái tâm chán - ưa ấy th́
lại thành bệnh Hoặc! Hiểu rơ điều đó
th́ [tâm ấy sẽ] là phương tiện để con
người sử dụng mà thôi!
Nói đến
“diệu quán cảnh” th́ chẳng phải Quán kinh đă
từng dạy: “Biển Chánh Biến Tri của chư
Phật từ tâm tưởng sanh, lúc tâm chúng sanh
tưởng Phật th́ tâm ấy chính là ba mươi hai
tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ. Tâm
ấy làm Phật, tâm ấy là Phật” đó ư?
Mấy câu này chính là điểm bí yếu của Niệm
Phật tam muội, hết thảy quán môn không môn nào
chẳng lưu xuất từ đây.
Bởi lẽ,
biết “làm” nhưng không biết “là” th́ đọa vào trong
Quyền Tiểu; biết “là” nhưng không biết “làm”
ắt lạc vào ma ngoại. “Làm” chính là Không Giả Quán.
“Là” tức là Trung Đạo Quán. Toàn thể “làm” là “là”, toàn
thể “là” là “làm”. Một niệm “làm - là” tam quán viên đốn;
v́ thế, kinh Đại Tập có bài kệ rằng:
Nhược
nhân đản niệm Di Đà Phật,
Thị
danh vô thượng thâm diệu thiền,
Chí tâm
tưởng tượng kiến Phật thời,
Tức
thị bất sanh bất diệt pháp.
(Nếu
ai chỉ niệm Di Đà Phật,
Đó
gọi vô thượng thâm diệu thiền,
Lúc chí
tâm tưởng tượng thấy Phật,
Ấy
là pháp chẳng sanh chẳng diệt).
Trí Giác
thiền sư nói: “Một niệm tương ứng
một niệm Phật, niệm niệm tương
ứng niệm niệm Phật”. Phật là lư Bổn
Giác, niệm là trí Thỉ Giác. V́ thế biết rằng ngay
trong lúc niệm Phật th́ Bổn Giác ngầm khế
hợp với Thỉ Giác, Năng - Sở (người
niệm và đức Phật được niệm) cùng
mất, tự - tha bất nhị, không có đức
Phật ở ngoài niệm để mà được
niệm; không có niệm ở ngoài đức Phật
để có thể niệm. Siêu t́nh ly kiến, ly tứ cú,
tuyệt bách phi (14), thẳng tắt, viên đốn, không
chi hơn được pháp này! Ngoài pháp Niệm Phật
ra, há c̣n có diệu quán nào khác để ḥng thành tựu
nữa ư?
Tôi thường
trộm bàn rằng: “Thuốc chẳng quư - hèn, trị
được bịnh là thuốc hay. [Pháp niệm
Phật] là thuốc trị cả gốc lẫn ngọn,
là thuốc thích ứng cho cả bịnh cấp thời
lẫn bịnh kéo dài”. Cư sĩ tuổi già hướng về
đạo, dù có được hơn trăm tuổi th́
tấc bóng há được mấy chốc? Lẽ nào
chẳng nghĩ dồn công vào con đường tối
ổn đáng, sao lại cứ “thử hay hỏi
diệu”, cứ lẩn quẩn do dự trong đó vậy?
Trước khi
thấu hiểu, chẳng những lăo nạp không bàn
đến diệu quán, mà c̣n lược bớt nhiều
thứ nhật khóa, chỉ đem câu “chân ngôn sáu chữ” ra
khuyên nên gắng sức. Đây chính là phương thuốc
lạ từ biển cả trị được bệnh
gấp, lại c̣n trị được cả gốc
lẫn ngọn, bệnh hoăn hay bệnh gấp đều
thích hợp cả; cốt yếu là tin tưởng sâu xa,
tận lực hành tŕ. Cổ nhân đă nói: “Chỉ
được thấy Di Đà, lo chi không khai ngộ!”
Được vậy th́ trần t́nh nào vây hăm
được nữa, tam muội nào mà chẳng hiện
tiền?
Hiện tại dù có
trăm ngàn pháp môn, vô lượng diệu nghĩa
đều bỏ chẳng dùng, chỉ có mỗi một
loại linh đan nhất vị này để tặng nhau.
Nếu chẳng chém đinh chặt sắt, kiệt lực
chuyên tŕ, c̣n cách nào để tự cứu vớt nữa
ư? Nếu cho rằng pháp tŕ danh công hiệu chẳng
bằng tu quán th́ thân tướng vi diệu của
đức Phật kia các kinh luận đă rộng
diễn, quán pháp sâu nhiệm, hàng sơ tâm thấp sát
đất e chẳng dễ thành tựu được.
Rốt cuộc chẳng bằng theo Tiểu Kinh chuyên
nhất tŕ danh là ổn đáng hơn! Lúc tŕ danh liễu đạt
sự - lư nhất tâm bất loạn chính là quán cảnh,
cần ǵ phải cầu môn sâu mầu chi khác.
Tôi nghĩ lăo cư
sĩ mười phần chân thành, quên ḿnh tuổi tác đă
cao, ân cần hạ cố hỏi tới, nên tôi mới dám
vét hết cái ngu, giăi bày niềm riêng, không chút húy kỵ ǵ.
Xin cụ hăy xét kỹ mà quyết định th́ may mắn
lắm thay!
12. Cùng cư sĩ Kim Thủy
Nhược luận về danh tự
Tông
Thiên Thai dùng thuyết “lục tức Phật” để
phân định [sự tu chứng]. Đầu tiên là “lư tánh
tức Phật”, kế đến là “danh tự tức
Phật”. Kể từ mới được nghe thánh giáo
cho đến khi minh tâm kiến tánh đều chẳng ra
ngoài địa vị “danh tự”. V́ thế biết
rằng: thời gian thuộc địa vị “Danh Tự”
rất dài mà ư nghĩa cũng rất sâu vô lượng.
Cư sĩ tên
Thiện tự là Thủy Nhược, nếu hiểu tên
này, thấu rơ tự ấy th́ đối với con
đường kiến tánh thành Phật, tôi nghĩ đă
đi được quá nửa. Cáo Tử nói: “Tánh
giống như nước tuôn chảy; khơi ḍng về
Đông th́ chảy về Đông, khơi ḍng sang Tây th́
chảy sang Tây. Tánh người chẳng chia ra làm thiện
hay bất thiện, giống như tánh nước không phân
biệt Đông, Tây”. Lạ thay! Lời Cáo Tử
luận về tánh tuy chưa phải là nghĩa lư chính
thống của đạo Nho, nhưng lại có phần
giống với khế kinh của đức Như Lai.
Tiếc là ông ta biện bác thua Mạnh Tử nên rốt
cục chẳng thể tŕnh bày rơ ràng thuyết ấy, khác
nào con trùng chống chọi với gỗ vậy.
Mười pháp
giới vốn là nhất tâm, nên pháp dù thiện hay chẳng
thiện tánh đều sáng cả, như thường nói: “Trong
tánh có chủng tử nhiễm và tịnh”. V́ thế,
không có một pháp thế gian và xuất thế gian ở
ngoài tánh được! Noi theo chủng tử tịnh
nơi tánh để hành xử th́ là đạo quân tử,
th́ được gọi là “tu thiện”. Noi theo chủng
tử nhiễm trong tánh để hành xử th́ thành
đạo tiểu nhân, bị gọi là “tu ác”.
Sách Trung Dung nói: “Noi
theo tánh gọi là Đạo”. Khổng Tử nói: “Đạo
chỉ có hai thứ là nhân và bất nhân mà thôi!”
Đạo không phân biệt là nhân hay bất nhân th́ tánh
chẳng phân biệt là thiện hay bất thiện! Nếu
tánh chỉ là thiện, chẳng có bất thiện th́ tam
đồ ác đạo chẳng phải là do tâm tạo, há
c̣n có thể gọi là pháp giới nữa ư? V́ thế
hạng Nhất-xiển-đề dù đoạn tu
thiện, nhưng chẳng đoạn tánh thiện. Nếu
đoạn tánh thiện th́ vĩnh viễn chẳng thể
thành Phật. Chư Phật, thánh nhân chỉ đoạn tu
ác, chẳng đoạn tánh ác. Nếu đoạn tánh ác th́
chẳng thể thị hiện trong thế giới uế
ác để chiết phục chúng sanh.
Hăy nên hiểu rơ
mối quan hệ giữa tánh và tu. Đă chẳng thể
ĺa tánh để khởi tu, cũng chẳng
được bỏ tu mà bảo là tánh! Xin dùng nước
để bàn luận:
Nói về Tánh th́ là
tánh ướt, chảy xuống chỗ thấp, chảy
sang Đông, chảy sang Tây. C̣n Tu là khơi ḍng sang
phương Đông, khơi ḍng sang phương Tây. Cư
sĩ muốn tu Tịnh nghiệp há chẳng quan tâm
đến danh, chẳng nghĩ đến nghĩa
để ḥng xét kỹ nguồn cơn, nắm vững cách
tu ư?
Nếu tâm niệm
niệm hướng đến tham - sân - si lâu ngày chầy
tháng, kéo lại chẳng được, dẫn ra chẳng
xong, th́ phần nhiều những thứ phát khởi nơi
thân - miệng phần nhiều ứng với ác.
Đấy là “khơi ḍng sang Đông, trọn làm
người hay vật trong cơi Chấn Đán”.
Nếu tâm niệm
niệm nhàm ĺa ngũ dục, khăng khăng nghĩ
đến A Di Đà Phật, mong ưa thân cận như
con nhớ mẹ, chẳng bị nghiệp cảnh lôi kéo,
chẳng bị lầm lạc trong những nẻo
ngoắt ngoéo khác th́ gọi là “khơi ḍng sang phương Tây,
quyết định liên hoa hóa sanh gặp Phật thọ kư
trong thế giới Cực Lạc”. Xét theo đó, kiến
tánh thành Phật cũng là do ḿnh quyết chí tại đâu
mà thôi!
Nếu khơi ḍng
sang phương Tây để làm ḍng nước chảy
về Tây ắt sẽ chẳng ḥa vào ḍng nước sôi
sùng sục trong tam đồ, ắt chẳng loạn
tạp với nước nhân thiên khát ái, chẳng lẫn
lộn với nước đục phàm phu, chẳng
nhiễm nước ác ma tà, ngoại đạo, chẳng
đọa ḍng nước tù đọng Nhị Thừa,
chẳng giống như ḍng nước Quyền Thừa xa
lạ, thường được nước lư tánh
thấm ướt ruộng tâm.
Dùng trí thủy viên
dung vạn hạnh th́ chính là ở trong địa vị
Danh Tự mà viên hợp tánh thủy của Như Lai. Đă
viên hợp với tánh thủy bèn sẽ đổ về ao
thất bảo, thành thứ nước: lắng sạch,
trong mát, ngon ngọt, mềm nhẹ, nhuận trạch, an
ḥa, trừ hoạn, tăng ích, để rốt ráo trở
thành thánh thủy tám công đức. “Chảy về Tây”
đến cùng cực là thế đấy, là có thể
thật sự thấu hiểu tận cùng tánh của
nước như vậy đó.
Tôi cho rằng tên
thật và tên tự của cư sĩ dựa theo ư
nghĩa của Mạnh Tử, chứ chẳng phải
dựa theo nghĩa của Cáo Tử. Nếu quyết
chọn lấy thiện pháp để tu tập cho viên măn,
quyết phá bất thiện pháp, tu tập để
trừ sạch bất thiện pháp th́ đạo quân
tử mạnh mẽ, đạo tiểu nhân tiêu mất,
nhưng rốt cuộc cái đạo “chỉ ư chí
thiện” chưa từng phù hợp với ư Cáo Tử,
cũng chẳng hề phù hợp với ư đức Tuyên
Thánh (Khổng Tử), mà cũng chẳng hề phù hợp
với ư của bậc đại thánh nhân ở
phương Tây; cư sĩ có nên tận lực quyết
liệt như thế chăng?
13. Kinh Thủ Lăng Nghiêm,
chương Thế Chí Viên Thông
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm được nói sau kinh Pháp Hoa,
thật là một bộ kinh rộng lớn sâu thẳm trong
Phật pháp. Xưa kia, lúc ngài Trí Giả phán giáo, kinh này
chưa truyền đến Chi Na; v́ thế, Ngài phán
định Pháp Hoa và Niết Bàn là pháp vị cuối cùng.
Nếu Ngài một phen được thấy kinh này,
ắt sẽ viết chú sớ giải thích, ắt phán
định kinh này là vô thượng đề-hồ.
Cớ sao khi Tứ Y đại sĩ diệt độ rồi, các vị sớ chủ xưa nay ai nấy hưng khởi dị kiến, lâu ngày dồn nhau tranh căi khiến cho hàng hậu học không có con mắt trạch pháp (chọn lựa pháp) chẳng biết nên theo ai, đến nỗi toan bỏ sạch các sớ giải, chỉ xem kinh văn. Đấy cũng là ư kiến quá khích. Bởi lẽ dùng trí ḿnh để t́m đọc kinh văn, đa phần chẳng thể lănh hội được chỉ thú, nên rốt cuộc cứ mờ mờ mịt mịt mà thôi!
Thử b́nh tâm mà xét, há các sớ giải không có lấy một cuốn nào có điểm sở trường ư? Trong số những vị nếu không mắc lỗi sai lầm, mâu thuẫn th́ lại bị mắc lỗi thô vụng, sơ sài ra, vẫn có những vị trí thức cao siêu hơn người, lại dựa vào kinh này để phát huy những lư luận mới mẻ trong tâm. Trong những bản chú giải thật sự bỏ đi ư riêng, thuận theo kinh phù hợp Phật ư th́ ngoài bản sớ giải của ngài Tây Hồ Giám ra, tôi chưa thấy bản nào hay được bằng; ai bảo là người thời nay ắt hơn hẳn thời xưa ư?
Rất có thể có người trách Ngài chủ trương thái quá, hoặc chê Ngài bày vẽ quá chi li; cho dù bản sớ giải của Ngài chưa thể hoàn toàn không có điểm nào đáng chê trách, đó vẫn là bản sớ giải có công rất lớn đối với kinh này. C̣n như thuyết “bỏ thức dùng căn, chú trọng viên thông” chính là lời chân thành của chư Phật, ai dám chẳng tin? Giáo thể phương này ai dám chẳng tuân? (14) Toan luận bàn so đo điều ấy chính là trái kinh, chống Phật vậy.
Hiện tại, các thiện hữu đă chú tâm vào Tịnh Độ, lại toan nghiên cứu kinh này thật chẳng dễ dàng. Chẳng luận đến phần trước hay phần sau, chỉ ngay trong chương Viên Thông này đă có những điểm dễ gây lầm lẫn, hiểu lầm lớn. Nếu chẳng khéo đọc, khéo hiểu th́ đúng là đề-hồ biến thành độc dược cũng chẳng xa chi lắm. Há các vị chẳng từng nghe nói “trong trường thi tuyển Phật trên hội Lăng Nghiêm, ngài Quán Âm đăng khoa, ngài Thế Chí thi trượt” đó ư? Đối với thuyết ấy, nếu người tu Tịnh Độ chẳng khéo phân biệt, nhận định, sao có thể phát huy được mật ư của kinh này, sao có thể giữ cho hạnh nguyện kiên cố sau khi học xong kinh này ư?
Chỉ v́ pháp môn của ngài Thế Chí chẳng phải là yếu nghĩa của kinh này nên trong bản sớ giải của ngài Tây Hồ Giám cũng có nêu nhưng chưa phát huy. Nay tôi sẽ trước là biện định về pháp, sau là nêu rơ mật ư.
a. Biện
định pháp môn:
Phải biết
rằng pháp thánh viên thông này thuộc về Căn
Đại trong Thất Đại để nhiếp
trọn sáu căn. V́ thế, nương vào sáu căn
ấy để tu Niệm Phật tam muội bèn có ba
thứ khác nhau: Một là niệm tự Phật, hai là
niệm tha Phật, ba là niệm tự tha Phật.
- Nếu niệm
tự Phật th́ giống với các môn thánh viên thông khác:
lấy căn tánh làm pháp môn được niệm, lấy
sự quay trở về tánh lặng trong làm phương
tiện năng niệm. Như kinh Ương Quật dạy:
“Nhăn căn ấy ở nơi chư Như Lai
thường đầy đủ chẳng giảm, hăy nên
tu cho thấy được phân minh rành rẽ... Ư căn
ấy ở nơi chư Như Lai thường
đầy đủ chẳng giảm, hăy nên tu tập cho
biết được phân minh rành rẽ” th́ cũng
giống như trong kinh này, mười phương chư
Phật cùng bảo A Nan: “Ông muốn mau chứng an
lạc giải thoát tịnh tĩnh diệu thường
th́ chỉ do nơi sáu căn của ông, chứ chẳng
phải từ vật nào khác nữa”.
Lại như Tổ
Sư nói: “Ở trong thai gọi là thân, ở trong
đời gọi là nhân, ở mắt gọi là thấy,
ở tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt
hương, nơi miệng đàm luận, nơi tay
cầm nắm, nơi chân di chuyển. Người hiểu
biết bảo đó là Phật tánh, kẻ chẳng
hiểu biết gọi đó là linh hồn”, chư
Tổ chỉ dạy những điều như trên
rất nhiều. Môn niệm tự Phật tam muội này
bao gồm hết thảy giáo nghĩa, hết thảy pháp
môn trực chỉ của Thiền tông, chẳng sót chút ǵ.
- Nếu niệm tha
Phật bèn có khác với các thánh viên thông: dùng sáu căn làm
năng niệm, lấy quả Phật làm sở niệm.
Dẫu Pháp Thân được niệm ấy vốn cùng
một thể với ta, nhưng ta không có hai thứ trang
nghiêm. Chư Phật phước trí viên măn, thành
Lưỡng Túc Tôn. Niệm quả đức của
Phật chẳng sanh mỏi chán, mắt thường chiêm
ngưỡng Phật, tai thường nghe lời dạy
của Phật, mũi thường ngửi hương
Phật, lưỡi thường xưng Phật hiệu,
thân thường lễ tượng Phật, ư
thường duyên theo Phật pháp. Những điều sáu
căn chuyên chú không ngoài Phật cảnh, liên tục không gián
đoạn, không xen tạp như thế. Môn niệm tha
Phật tam muội này bao gồm hết các kinh Di Đà,
Dược Sư, Di Lặc Thượng Sanh v.v... và
hết thảy nghiệp hạnh, sự tướng, pháp
môn trong liên xă chẳng sót chút ǵ.
- Nếu niệm
tự tha Phật th́ vừa giống như các môn thánh viên
thông khác lại vừa sai khác. Trước hết phải
khai viên đốn giải, biết rơ chúng sanh và Phật
giống hệt như nhau, tâm và cơi nước chẳng
hai, nương nhờ y báo, chánh báo của đức
Phật kia để hiển lộ tâm tánh ḿnh. Đă
chẳng mê lầm ngoài tánh có Phật, mà cũng chẳng
chấp cơi kia chẳng phải là tâm. Đấy là chỗ
“khai viên đốn giải” giống với các môn thánh viên
thông khác, c̣n điểm khác biệt là phải nương
nhờ vào cảnh xứ khác. Quán kinh nói đến
phương tiện thù thắng lạ lùng, c̣n ở đây
kinh dạy: “Chẳng nhọc phương tiện,
tự được tâm khai” nghĩa là dùng phương
tiện tối thắng, cực lạ nên chẳng cần
dùng đến phương tiện nào khác nữa.
Nay đem ba thứ Niệm Phật tam muội trong Viên Đốn giáo so với bốn thứ Tịnh Độ để biện định sơ lược về công dụng nhiếp thọ chúng sanh lớn lao th́:
- Chỉ niệm
tự Phật nhiếp về hai cơi Thật Báo và Tịch
Quang Tịnh Độ, nhưng chỉ có thể “thụ
nhập” (chứng nhập theo chiều dọc) chứ chẳng
thể “hoành siêu” (siêu thoát tam giới theo chiều
ngang). Môn này
lại chỉ có thể độ hàng lợi căn
chứ chẳng thể tiếp độ khắp các
căn. Hơn nữa, môn này giống với các môn thánh viên
thông khác nên chẳng thể tỏ rơ tánh cách độc
dị (lạ lùng độc đáo); tựa hồ chẳng phải
là bản ư nhiếp độ chúng sanh quy hướng
của ngài Thế Chí.
- Nay luận về
hai môn Niệm Tha Phật và Niệm Tự Tha Phật th́
hành nhân thuộc hai môn này quy về Đồng Cư
Tịnh Độ, lại kiêm hoành siêu các cơi Phương
Tiện, Thật Báo, Tịch Quang. V́ thế, kinh văn
giảng sâu xa về lợi ích cảm ứng đạo
giao.
b. Hiển thị
mật ư của kinh:
Chọn lựa pháp viên thông tương tự quốc gia dụng binh tuyển tướng: hoặc cử người làm tiên phong, hoặc cắt người đoạn hậu. Cử người tiên phong, cắt người đoạn hậu là chánh, các người khác chỉ là phân theo từng đội mà thôi. Việc suy cử và cắt đặt chẳng phải vô cớ mà làm.
Như trong mười tám giới, ắt trước hết là Căn, kế đến là Trần, sau cùng là Thức, đấy là lệ thường; nay kinh này đặt Trần ra trước, đặt Căn tiếp theo đó. Trong sáu trần ắt trước hết là Sắc, tiếp đó là Thanh cho đến Hương, Vị, Xúc Pháp; nay kinh này nêu Thanh đầu tiên, kế đến là Sắc. Trong sáu căn chỉ nêu năm căn, xếp Nhĩ Căn vào cuối hai mươi bốn [môn Viên Thông] là v́ trong phương này chân giáo thể thanh tịnh thuộc nơi nghe tiếng. V́ thế, dùng âm trần (tức thanh trần) để mở đầu, xếp Căn Nghe vào cuối cùng ḥng chỉ rơ. Tuy chẳng nói toạc ra, nhưng ai đă nhận hiểu sẽ quy trọng môn viên thông nơi nhĩ căn, đó là yếu chỉ của kinh. Cách tŕnh bày, liệt kê các pháp môn viên thông, lẽ đương nhiên phải như vậy.
Tuy pháp môn Niệm Phật cũng thích hợp với cơ nghi, chúng sanh đời mạt phải nhờ Niệm Phật để đắc độ; nhưng kinh này chỉ khuyên dùng một môn để đột nhập, hiểu rơ thẳng vào tự tánh. Nếu chọn lấy cả hai môn sẽ khiến ư kinh bị mờ nhạt đi. Nếu xếp lẫn pháp môn Niệm Phật vào các đội quân thường th́ lại đánh mất ư chỉ được rộng khen bởi các kinh khác. Bởi thế, Phật khéo bày phương tiện suy cử, áp hậu như mật lệnh trong quân chẳng được tiết lộ.
V́ thế, trong mười tám giới, kinh rút lấy Nhĩ Căn làm viên tướng quan trọng, nhưng trong Thất Đại lại ngầm chọn Căn Đại làm trọng tướng. Thế nhưng Căn Đại vốn thuộc vào pháp môn Niệm Phật nên chẳng những không mâu thuẫn với những tông chỉ các kinh khác đă rộng khen mà cũng chẳng trái nghịch ư nghĩa của Căn được dùng trong kinh này; có thể nói vừa tột khéo lại vừa cực mật vậy!
Thất Đại theo thứ tự là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Kiến chính là Căn Đại; Căn trước, Thức sau. Nay đặt Thức vào vị trí thứ sáu, đặt Căn Đại chót hết, cũng như xếp Nhĩ Căn ở cuối Thập Bát Giới. Thêm nữa, trong năm Đại trước, lấy Hỏa Đại làm tiên phong, xếp Địa, Thủy, Phong tiếp sau. Thế là có hai ư:
- Một là v́ chúng đương cơ mắc lỗi đa dâm mà thuyết khởi giáo pháp nên dùng [h́nh ảnh] đa dâm chuốc lấy lửa hừng để cảnh tỉnh người đa văn trước hết phải trừ dục lậu. V́ thế kinh mới có những câu như: “Người đa dâm [dâm ư] biến thành đống lửa cháy hừng hực” cho đến “biến tâm đa dâm thành lửa trí huệ”. “Chư Phật đặt tên cho tôi là Hỏa Đầu; tôi do sức Hỏa Quang tam muội mà thành A La Hán; nguyện làm lực sĩ đích thân hàng phục ma oán” v.v... để răn nhắc. Trong hết thảy kinh luật đều lấy giới Bất Sát làm đầu, kinh này lấy giới Bất Dâm làm điều quyết định đệ nhất để răn dạy rơ. Trong ba duyên cũng lấy Tham Dục đặt trước Trộm và Giết đều là ư này.
- Hai là đối
trị trọng chướng cho đời Mạt, bởi
lẽ phiền năo tuy nhiều, nhưng chỉ có dâm dục
là căn bản sanh tử, là pháp gây chướng ngại
văng sanh nhất. V́ thế, Phật dạy phàm phu quán
lửa dâm trong thân chính là chân hỏa Như Lai Tạng tánh
nó là không, do nghiệp phát hiện. Quán sâu đắc
ngộ, lửa dâm ấy thành trí huệ quang, chẳng
những không chướng ngại văng sanh mà c̣n hỗ
trợ hành nhân vượt lên thượng thượng
phẩm. Bởi thế, kinh Tịnh Danh khen ngợi dâm -
nộ - si bởi thể tánh của chúng chính là Tạng
tánh, nhưng công dụng nhiễm - tịnh của chúng
giống như ngửa - úp bàn tay. V́ thế, ngài Hỏa
Đầu được nêu đầu tiên [trong số
thánh chúng trần thuật pháp viên thông về thất
đại]; cũng như ngài Trần Na [đứng
đầu] trong thập bát giới.
Xin hăy xem kỹ
[phần kinh văn tường thuật pháp viên thông
của] các thánh giả, trừ hai vị trọng
tướng tiên phong kể trên ra, các vị khác đều
y theo thứ tự thường lệ chẳng xáo
trộn; đủ thấy khi hai mươi lăm thánh
giả từ chỗ ngồi đứng lên, lúc các đại
đệ tử kết tập, mỗi một oai nghi,
một hành động đứng ngồi đều có
thâm ư, đều phù hợp giáo nghĩa. Dùng cái tâm thô phù há
có lănh hội nổi được chăng?
Vậy th́ há phải
Quán Âm riêng chiếm bảng vàng, Thế Chí hoàn toàn thi
trượt sao? Chỉ là Quán Âm là được tuyển
rơ ràng, c̣n Thế Chí th́ được ngầm tuyển. Rơ
ràng là v́ chú trọng riêng vào một căn viên đốn nên
tuyển rơ [Nhĩ căn]; v́ tổng nhiếp các căn khác
nên ngầm tuyển [pháp Niệm Phật]. V́ giáo thể
phương này nên tuyển rơ, v́ cơi này có duyên [với
Phật A Di Đà] nên ngầm tuyển. Có ích chung cho các đương
cơ và chúng sanh khi đức Phật và chánh pháp c̣n
hiện hữu nên tuyển rơ, có ích riêng cho chúng sanh
đời ác lúc pháp mạt, chẳng được
thấy Phật nên ngầm tuyển. Bảng hổ nêu cao
ai nấy đều biết; áo đỏ (16) chấm
điểm ngầm nào ai biết đến. V́ thế
mới nói: “Có điểm gây lầm lẫn, hiểu
lầm lớn, phải khéo đọc, khéo hiểu”.
Nếu có kẻ bảo: “Đă là mật ư, tiết lộ sao được? Trường thi tuyển Phật Lăng Nghiêm yết bảng đă hơn hai ngàn năm rồi! Nếu lúc ấy chẳng soi toang được mật nghĩa, làm sao dùng được?” Hoặc có kẻ vặn: “Nếu là đúng như lời ông nói th́ lúc ngài Văn Thù nói kệ chọn lựa, lư nào Ngài cũng chẳng biết mật ư, lẽ đâu chẳng tuân theo lệ trên chọn hết tất cả ư?”
Thưa: “Chư thánh khi tự tŕnh viên thông đều nói là đệ nhất, nên phải mượn cách nâng lên, ép xuống để khéo chỉ mật cơ. Nếu lúc Ngài vâng lệnh Phật tuyển chọn cứ một mực y theo lệ trên th́ làm sao thành mật nghĩa cho được v́ Thanh Trần và Hỏa Đại vẫn theo như thứ tự thường lệ. Nếu hai môn này (thanh trần và hỏa đại) chẳng được dùng với ư đồ giúp hiển thị điều kinh muốn chú trọng th́ sẽ chẳng được làm cho nổi bật lên như thế. Ngay như pháp môn của ngài Thế Chí, theo mạch văn trường hàng bèn nằm sau phần nói về Thức Đại, thành pháp cuối cùng trong hai mươi bốn môn [viên thông] cũng là chẳng tuân theo thứ tự.
Phật đă dạy chọn lấy một môn, sao Ngài Văn Thù chẳng chọn lấy môn của ngài Thế Chí? Xem lời Ngài phê b́nh [pháp viên thông của ngài Thế Chí] cũng khác với chư thánh, Ngài chỉ nói: “Nay cảm nhân quả khác nhau, làm sao đạt viên thông?” Ư nói: Dù nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhưng cái niệm tiếp nối ấy thuộc về Hành Uẩn đổi dời, cũng là pháp sanh diệt; nhưng dùng đấy làm cái nhân để văng sanh thấy Phật, ai bảo là không được! Nay muốn chứng viên thông bất sanh diệt ngay trong hiện tại th́ nhân quả chẳng phù hợp, làm sao đạt được? Lời phê phán ấy nhắm vào việc chứng đạt viên thông trong hiện tại, chứ không luận về lợi ích sau khi văng sanh.
Ngoài ra, chư thánh chỉ niệm Tự Phật là thuộc về Hiện Tu Quán Chứng nên ngài Văn Thù gạt bỏ hoàn toàn v́ những pháp ấy chẳng phù hợp với cơ nghi cơi này, chẳng xứng hợp giáo thể phương này. Ai có chí tu chứng cũng nên nhân đây suy nghĩ kỹ càng.
Đấy là v́ những người tín lực chưa kiên cố mà nói, c̣n nếu ai tin tưởng Tịnh Độ sâu xa th́ dù kinh Lăng Nghiêm chỉ chê ḿnh ngài Thế Chí, kẻ ấy cũng chẳng ngờ vực ǵ. V́ sao vậy? V́ các kinh đều rộng khen ngợi như “công đức chẳng thể nghĩ bàn”, hoặc “pháp thế gian khó tin”, hoặc “hết thảy chư Phật hộ niệm”, hoặc “vô thượng thâm diệu thiền”, hoặc “phương tiện thù thắng lạ lùng”, hoặc “vua các tam muội”, nhiều chỗ khen ngợi tột bậc như thế. Đă chẳng sanh ḷng tin th́ nếu chỉ có một chỗ chê bai sao liền nẩy ḷng ngờ?
Huống hồ kinh đây chẳng những không chê pháp này mà lại c̣n dạy pháp này là pháp tuyển ngầm nữa ư? Tiếc là chúng sanh đời mạt đọc kinh này đă chẳng thể tuân lời dạy từ Nhĩ căn thâm nhập để chứng viên thông ngay trong hiện đời, lại c̣n ưa khởi nghi hoặc đối với pháp môn Niệm Phật, thậm chí phá hoại ḷng tin trong sạch, chướng ngại thiện hạnh của người khác. Kẻ trí mỏng phước ít phần nhiều quen thói như thế. V́ thế, tôi nay phải ước pháp, nương kinh để biện bạch, phân tích, chẳng hề biết là lời lẽ dài ḍng, rậm rịt, cũng là chuyện bất đắc dĩ thôi!
14. Giảng nghĩa chữ “Lữ Tam”
Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa nói: “Ba cơi không an, giống như nhà
lửa, nếu tham đắm sanh ḷng yêu mến sẽ
bị nó thiêu đốt”. V́ thế, trước hết
đức Phật Thế Tôn dùng phương tiện khuyên
dụ dẫn cho ra khỏi bởi trong căn nhà ấy, các
khổ đầy dẫy, khó thể sống yên. Trong
Tịnh Tín Tập, đại sư Ngẫu Ích viết: “Chân
tánh tịch quang bị ngũ trụ trần lao che lấp
nên hết thảy hàm thức ít khi ở yên. Dù là các cơi
Tứ Thiền, Tứ Không và cơi Phương Tiện
cũng thuộc nơi tạm ghé trong khi rong ruổi
(lữ bạc)”.
Cái nghĩa chữ
“lữ” lớn lao thay! Chữ “lữ” chỉ người
rong ruổi đường xa tạm nghỉ quán trọ.
Kẻ lữ thứ phải có bạn, cũng phải có
nơi [ở trọ], cũng phải có nghiệp riêng. Nay
nh́n khắp tam giới hệt như một cuộc lữ
du, nhưng mỗi người một nghiệp khác nhau.
Bổn nghiệp đă khác nên nơi chốn và bầu
bạn cũng khác.
Buồn thay! Từ khi có thức đến nay, đă trải trần sa kiếp (17), xương chất như núi Phú La, uống sữa quá biển cả. Trong khoảng thời gian ấy, t́nh trạng lênh đênh, nỗi khổ trôi giạt chẳng thể nói xiết. Có lúc làm bầu bạn cùng chủng tánh địa ngục, lấy ác nghịch làm gốc nên các ngục Hữu Gián, Vô Gián là chốn trọ. Có lúc với những kẻ trong đường quỷ làm bạn, lấy keo tham làm gốc nên núi hoang, đầm trống là chốn trọ. Có lúc bầu bạn cùng súc sanh, lấy ngu si làm gốc nên trên cạn, dưới nước, trên không là chốn trọ. Có lúc bầu bạn cùng Tu-la, lấy sân mạn làm gốc nên Tu Di, biển cả là chốn trọ. Có lúc lấy bầu bạn cùng loài người, lấy cương thường làm gốc nên các nước trong bốn châu là chốn trọ. Có lúc bầu bạn với chư Thiên cơi dục, lấy giới thiện làm gốc nên các tầng trời Địa Cư, Không Cư là chốn trọ. Có lúc bầu bạn cùng trời Sắc Giới, Vô Sắc Giới, lấy thiền-định làm gốc nên Tứ Thiền, Tứ Không là chốn trọ.
Ở trọ chốn
nào bèn chấp vào chốn ấy chẳng biết là quán
trọ. Than ôi! Giấc mộng quê xưa hăy c̣n mơ
hồ, tạm dung nơi đất khách há là rốt ráo? Chẳng
gởi thân nơi An Dưỡng để hoành siêu,
chẳng ngộ Tịch Quang để triệt
thượng (thấu suốt theo chiều dọc), há có thể
vượt khỏi cái nghĩa chữ “lữ” ư?
Cư
sĩ Uông Nhuận ở kinh đô, pháp danh Tánh Tịnh,
biệt tự Lữ Tam, xa nhà du học đă lâu. Về già
sống ở Cầm Xuyên, có cậu con trưởng khéo
quán xuyến việc nhà nên cư sĩ chẳng bị
việc nhà phiền nhiễu, tuy nhà cao cửa rộng
đáng để dưỡng già, nhưng cư sĩ coi
như đồ bỏ, coi như ở nhờ. Cư
sĩ luôn trường trai thờ Phật, giữ ḷng
đạm bạc, vô dục, luôn khăng khắng tu tŕ,
hỏi đạo. Niên hiệu Khang Hy, nhằm ngày mồng
Một giữa Thu năm Ất Măo, chính là ngày tṛn bảy
mươi tuổi, các thân hữu cố cựu tranh nhau
soạn văn để chúc mừng, làm thơ để
ca tụng, cư sĩ đều cảm tạ nhưng chẳng
xem, có xem cũng chẳng đọc kỹ, bảo:
“Chỉ tổ gây chướng ngại cho tai mắt mà thôi!
Dùng lời tâng bốc làm ô danh tôi! Nếu ai tặng tôi pháp
ngữ, ḷng tôi mới thỏa”.
Họ bèn xin tôi
giảng ư nghĩa chữ Lữ Tam. Tôi nghĩ rằng:
cư sĩ đă từng lữ du trong tam giới, ông là
bậc lữ du lăo thành, há chẳng phải đă từng
trôi nổi từ kinh đô đến Cầm Ấp
đấy ư? Tôi trộm nghĩ người họ hàng
cùng quê với cư sĩ, đa phần thâu góp vật
lạ đi buôn bán khắp bốn phương. Đối
với chữ Lữ, họ chỉ đạt
được mối lợi chứ chưa hiểu cùng
tột cái nghĩa. Nay cư sĩ lữ du trong ấy,
giả sử có ai bảo cho cái mưu đốt biển
của Y Sinh, hiến cái kế xẻ núi của họ
Quách, tôi biết chắc cư sĩ sẽ bịt tai
bỏ đi.
Chỉ có mỗi
kỳ chúc thọ thất tuần ấy, ông mới có
thể khước từ chén rượu mừng của
bè bạn, chẳng bận tâm sắp đặt cỗ bàn,
[nhưng điều đó] chẳng thể ngăn ông
hỏi tôi về đường lối khô khao, đạm
bạc, tịch mịch, bàn bạc cùng tôi về ư chỉ
khác đời, trái tục, có thể nói là: ḷng tinh thuần
chân thành chưa tan, tánh chất phác vẫn c̣n, [như
vậy] đă gần với đạo chưa? Xin thưa:
vẫn chưa! Đă nói là “Lữ Tam” th́ hết thảy
pháp quy về Lữ, nhưng không có pháp nào qua
được Lữ. Nghĩa là:
- Gặp đâu
chấp đó, chẳng biết nó là tạm bợ.
Đấy là Lư Tánh Lữ.
- Hiểu rơ tam
giới giống như quán trọ; bổn nghiệp,
bầu bạn, nơi chốn mỗi mỗi sai khác.
Đấy là Danh Tự Lữ.
- Biết tam giới
chẳng phải là nhà, chẳng trụ, chẳng chấp
vào cảnh thô tệ, chẳng sanh tham luyến. Đấy là
Quán Hạnh Lữ.
- Phương
tiện chiết phục khách trần phiền năo, giấc
mộng lữ thứ dài dằng dặc mường
tượng sắp tỉnh. Đấy là Tương
Tự Lữ.
- Chẳng ĺa pháp
giới, nương gởi trần hoàn, xót kẻ lữ
thứ tận lực cứu tế. Đấy là Phần
Chứng Lữ.
- Trong căn nhà
mục nát, cũ kỹ thuộc về một người
này (17), ta thường ở trong ấy thuyết pháp, giáo
hóa. Lúc lửa lớn thiêu đốt, ta ở trong cơi này an
ổn. Đấy là Cứu Cánh Lữ.
Nếu chẳng
hiểu được nghĩa này sẽ ngộ nhận
trạm đưa thư, cḥi truyền tin là quê nhà, mọi
chuyện mưu cầu không chuyện nào chẳng phải
là việc trong nhà lửa! Hoặc lại sợ nẻo
đường lữ thứ lắm nỗi khổ
nạn, lắm phen băn khoăn đi không trở
lại, khiến cho tứ sanh cùng hôn mê trong sáu nẻo c̣n
biết nhờ vào đâu? Nếu như vậy th́
đều là chẳng đúng với ư nghĩa chữ
Lữ vậy.
Hiện tại,
cư sĩ chỉ nên lấy An Dưỡng làm chốn
nương náu, đừng suốt đời cam phận
lữ khách. Nếu như hoa nở thấy Phật, chứng
đắc chân thường, lại đoái tưởng Sa
Bà, trở vào tạm ngụ để cứu giúp chúng
bạn, khuyến dụ quần mê, lại c̣n phân thân
ứng tích trong phương xa cơi khác, ra vào tam giới
chẳng chán mệt. Đấy là bậc Cứu Cánh Lữ
th́ mới khỏi uổng cái ư nghĩa đặt tự
cho cư sĩ vậy.
15. Phép quán tướng bạch hào
của Phật
Kinh Quán
Vô Lượng Thọ dạy: “Nếu muốn sanh Tây
Phương nên quán tượng [Phật] một
trượng sáu trên mặt nước ao”. Kinh lại
dạy: “Thân tướng rất nhiều chẳng
thể quán trọn th́ nên khởi đầu từ một
tướng, nghĩa là chuyên quán một tướng
bạch hào. Đợi đến khi quán [tướng
ấy] thành thục th́ các tướng khác tự nhiên
hiển hiện”.
Bạch hào dài một
trượng năm thước, chu vi năm tấc. Phía
ngoài có tám cạnh, bên trong rỗng thông, từa tựa
như ống lưu ly, nằm giữa hai mày, biểu
thị Trung Đạo; uyển chuyển xoay theo chiều
phải trắng như kha tuyết, sáng sạch rực
rỡ soi tỏ thân vàng. Lúc tưởng tướng ấy
nên giữ cho tâm kiên cố. Nếu tâm hôn mê tán loạn th́
hăy chế ngự cho tâm minh tịnh; bởi lẽ minh
sẽ chẳng hôn mê, tịnh sẽ chẳng tán loạn.
Nên biết rằng
minh tịnh là hiệu quả của Chỉ Quán, là thể
của Định Huệ, mà cũng chính là bản thể
của tâm. Chỉ Quán là công phu, Định Huệ là nhân
hạnh. Minh tịnh là hiệu quả của việc
dụng công. Minh tịnh đến cùng cực sẽ nhanh
chóng khế hợp bản thể. Nếu đạt
đến quả vị cùng cực sẽ thành hai thứ
phước trí trang nghiêm.
Nay thân tâm tịch
định là Chỉ, quán tướng bạch hào của
Phật là Quán. Tướng bạch hào rành rẽ là Minh.
Giữ vững chẳng rộng là Tịnh. Đấy là
nhờ đến thân tướng của Phật
để hun đúc tâm tánh của ḿnh; nếu quán trí thành
tựu sẽ tự nhiên hiển hiện, chính là nghĩa
ấy. Nhưng muốn tu pháp quán này phải thấu rơ
“vạn pháp duy tâm”. Kinh nói:
Tâm
như công họa sư,
Tạo
chủng chủng ngũ ấm,
Nhất
thiết thế gian trung,
Mạc
bất tùng tâm tạo.
(Tạm
dịch:
Tâm như thợ
vẽ khéo,
Tạo
bao thứ ngũ ấm,
Trong
hết thảy thế gian,
Không chi
chẳng tâm tạo).
V́
thế biết rằng tướng bạch hào của Phật
Di Đà tâm ta sẵn có, trong định hiện ra
[tướng ấy] cũng là do tâm ta tạo ra. Tâm này làm
thành tướng bạch hào, tâm này là tướng bạch
hào, chẳng từ cái ǵ khác mà có, chẳng từ bên ngoài
đến. Liễu đạt như thế mới
gọi là “tu quán đúng pháp”.
Nói chung, cái quán trí để quán là Nhất Tâm Tam Quán, cái tướng bạch hào được quán là Nhất Cảnh Tam Đế. V́ sao vậy? Trong Định, hào tướng tuy hiện ra trước, nhưng đều do nhân duyên tưởng niệm, không có tánh tướng thật. Đấy là pháp sanh bởi nhân duyên, pháp vốn không có tự tánh, không tha tánh, không cộng tánh, không nhân duyên tánh. Do bốn tánh đều không nên không có thật tánh; nhưng tướng bạch hào sanh bởi tưởng niệm ấy chẳng phải chỉ là tướng không tánh, mà cũng nào có khác chi như bóng trong gương, như bóng trăng in nước nên chẳng có tướng thật.
Do tánh lẫn
tướng chẳng thật nên nó vừa là không, vừa là
chân. Do theo niệm mà thấy được nên nó chính là
Giả, là Tục. Do là Giả, là Tục nên nó chẳng phải
là chân không. Do nó chính là chân, chính là không nên chẳng phải
là Tục, là Giả. Đấy chính là một niệm “tác -
thị” (làm - là: “tâm này làm Phật, tâm này là Phật”) vừa che lấp,
vừa chiếu soi, ĺa “tức” ĺa “phi”, là “tức” mà
chẳng phải là “tức”. V́ thế đấy là quán
cảnh trung đạo tam nhất viên dung chẳng thể
nghĩ bàn (19). Từ các Đế phát khởi Quán, Quán
chiếu ngược lại Đế. Cảnh - Quán
chẳng hai v́ chỉ là nhất tâm. Cổ đức có bài
tụng rằng:
Cảnh vi diệu
giả, quán vi không,
Quán cảnh song vong
tức thị Trung.
Vong chiếu hà
tằng hữu tiền hậu.
Nhất tâm dung
tuyệt liễu vô tung.
Bài tụng này chỉ
nói đại lược nên tôi phải giải thích
đại lược ư nghĩa:
- Cảnh là diệu
giả nên Trung và Không cũng phải gộp trong ấy;
nếu chẳng gộp vào đấy, sao gọi là
“diệu” được? Nói “quán vi không” (quán là không) là ám chỉ Diệu
Không, mà Trung và Giả cũng phải bao hàm trong cái Không
đó.
- Nói “quán cảnh song
vong” là gộp cả ư “song chiếu” vào trong đó. “Song vong”
tức là chẳng phải Không, chẳng phải Giả;
“song chiếu” là vừa Không, vừa Giả. Do chẳng
chấp vào hai bên mà cũng chẳng ĺa hai bên (Không và Giả) nên “tức thị
Trung” (chính là Trung Đạo).
- Hai câu tiếp đó
ư nói: Vong và chiếu đồng thời (“Vong chiếu
hà tằng hữu tiền hậu”: Vong và chiếu chưa
hề có trước sau) nên nhất tâm viên dung, tuyệt đối đăi.
Đó là v́ cảnh tuy có ba (Không - Giả - Trung) nhưng thuộc
về cảnh bị quán (sở quán chi cảnh) nên gọi là
“diệu giả”. Giả quán tuy cũng gồm đủ ba
thứ nhưng thuộc về Năng Quán nên gọi là
Diệu Không. Cảnh và Quán tuy mỗi thứ đều có đủ
ba thứ nhưng đă dùng đến phép diệu quán “song
vong song chiếu”, ngầm khế hợp diệu cảnh
“song phi song tức” (cả hai đều “chẳng
phải là”, nhưng cả hai cũng đều “chính là”) nên chỉ là Diệu
Trung. Do vậy, nêu một chính là ba, nói ba chính là một, ba
và một chẳng tương đồng, nhưng ba và ba
chẳng phải là khác. Chẳng thể dùng ư thức, suy
lường, chẳng thể dùng danh từ, ngôn ngữ ḥng
phân biệt được nên nói là: “Vong chiếu chưa
từng có trước sau! Nhất tâm dung tuyệt vô tăm
tích!”
Dùng bốn câu này
để thâu tóm trọn không c̣n sót diệu lư cảnh - quán
viên dung. [Lănh hội được] bài kệ mầu nhiệm
này c̣n hơn đọc cả trăm quyển sách của
tông Thiên Thai. Nếu chẳng hiểu rơ nhất tâm, dù có quen
thuộc với giáo lư Thiên Thai sợ rằng chẳng
dễ thấu hiểu được nổi bài kệ này.
Kinh dạy: “Chỉ nghe đến tên gọi của
tướng bạch hào c̣n diệt được vô
lượng tội, huống hồ là đúng như pháp mà
hệ niệm”.
Đức Thích Ca
Như Lai kim khẩu truyền dạy, ngài Thiên Thai Trí
Giả khuyên dạy chuyên tu. Cận đại, chỉ có
mỗi U Khê Đại Sư là thường tu phép quán này.
Nay tịnh nghiệp hành nhân nếu có thể nhất tâm tŕ
danh văng sanh lại kiêm tu diệu quán th́ phẩm vị văng
sanh ắt là phải cao, nhưng nếu chẳng phải là
hàng lợi căn thượng thượng th́ đừng
gắng gượng thực hành.
16. Quy củ tu tập của Phật
thất “nhất tâm tinh tấn niệm Phật”
Tịnh
nghiệp tỳ kheo Hành Sách ở Phổ Nhân Viện
thuộc Ngu Sơn chế lập
*
Sự lệ (quy cách kết thất)
Chọn nơi thanh
tịch, rộng răi làm Phật đường. Trong
Phật đường thờ thánh tượng Di Đà,
treo các phan đẹp, thắp đèn, đốt nhang suốt
bảy ngày chẳng dứt. Chỉ dùng hương và ánh
sáng để trang nghiêm đúng pháp cúng dường,
chẳng dùng đến các món thức ăn, trái cây, tán
vịnh, âm nhạc v.v...
Hai bên bày một cái
bàn dài; cũng dùng lư hương, đồ cúng
để trang hoàng. Phía ngoài mỗi bàn bày bốn cái tọa
ỷ. Chính giữa, ngay trước tượng Phật
bày một cái bàn dài, kê sao cho ngang hàng với hai cái bàn ở
hai bên. Mỗi bàn cách nhau chừng một hai thước
để ra vào được. Trên bàn bày một
đạo sớ văn, một bộ lư lớn, hoa,
đèn, vật cúng sao cho tương xứng. Trước
bàn, bày bốn cái bồ đoàn. Hai bên phía gần
tường, nếu không có giường thiền th́ bày
nhiều ṭa ngồi để cho hành nhân lúc theo ban của
ḿnh lui ra sẽ ngồi đó.
[Trong số] những
bạn đồng hạnh tịnh nghiệp chọn
lấy 12 người, chia làm ba ban, mỗi ban bốn
người. Người ngồi vị trí đầu
[trong ban] gơ dẫn khánh để ghi nhớ Phật
hiệu; lấy ngàn câu niệm làm chừng. Người
ngồi kế gơ mơ; hai người c̣n lại tuần sát,
thấy ai hôn trầm tán loạn bèn cảnh tỉnh.
Ban ở
chính giữa hướng thẳng về đức
Phật là ban thứ nhất. Người thứ nhất
ngồi gần phía Tây là trưởng ban, chính là Thất
Chủ. Ban bên phải ngồi hướng mặt về
phía Đông là ban thứ hai, người ngồi gần phía trên
nhất là trưởng ban. Ban bên trái ngồi hướng
về Tây là ban thứ ba, người ngồi gần phía
dưới nhất là trưởng ban. Trên hai cái bàn dài
thượng, hạ đặt trước đức
Phật, mỗi bàn đều đặt một bộ
dẫn khánh và mơ nhỏ, dùng xong lại đặt trên bàn.
Việc
sắp đặt điện đường dành cho
Phật thất nên chuẩn bị chu đáo ngay từ ngày
hôm trước ngày khai thất. Tăng, tục tham dự
Phật thất cũng nên tụ tập đến từ
ngày hôm trước. Tắm gội xong nên thỉnh Chủ
Thất Sư phân ban, quy định chỗ ngồi,
chỉ dạy diễn tập: mỗi ban nhiễu Phật
niệm trăm câu, lại trở về chỗ đổi
ban. Trong khi đang đi nhiễu, đột nhiên đánh
sáu tiếng mơ lớn để thay cho tiếng bang (20) báo
giờ ăn. Ba ban đúng pháp ra khỏi Phật
đường, đến trai đường nhiễu niệm,
ngưng mơ, đánh tiếp mộc bản. Đánh mộc
bản xong liền niệm Phật, trở về Phật
đường đi xoay ṿng trở về chỗ ḿnh
ngồi.
Chỉ
dạy minh bạch mỗi việc cho đại chúng
hiểu rành rẽ v́ trong khi kết thất cấm nói,
chẳng tiện chỉ dạy nên cần phải diễn
tập trước. Tập xong, ai nấy tự chí thành
lễ Phật, cầu Phật gia bị khiến cho
mọi việc trong bảy ngày bảy đêm đều
được hoàn thành, chẳng bị nội ma ngoại
chướng khởi lên. Xong xuôi nên đi nghỉ sớm
để khỏi đến nỗi bị mệt
nhọc.
Ngày
thứ nhất, canh năm, gióng chuông báo thức, đại
chúng thức dậy rửa ráy, súc miệng xong xuôi, dùng cháo
lót dạ, lên Phật đường. Chủ Thất
Sư gơ dẫn khánh, lễ Phật ba lạy, mọi
người đứng yên vào chỗ ḿnh, cử bài
Hương Tán, tụng kinh A Di Đà, tiếng tụng kinh nên
ḥa hoăn. Tụng chú Văng Sanh ba biến, xướng bài kệ
Tán Phật rồi xưng danh hiệu Phật. Ban ngồi
chính giữa đánh hai tiếng khánh, xá rồi nhiễu
Phật. Hai ban tả hữu ngồi ngay ngắn niệm
thầm theo. Kẻ hôn trầm tán loạn nặng nề th́
khẽ động môi răng để khỏi bị quên
lửng, gián đoạn hay bị lạc vào tánh hôn trầm
vô kư. Người tinh thần sáng sủa th́ nên nhắm
mắt tịnh lự, nhất tâm duyên theo Phật khiến
cho Phật hiệu trong tâm rơ ràng như được xâu
thành chuỗi, chẳng gián đoạn, chẳng tạp.
Ban
đầu tiên nhiễu Phật xong, đứng xuống
phía dưới, niệm đến chữ Đà đánh một
tiếng khánh. Ban thứ hai liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, thong thả ra khỏi vị trí,
đứng thành một hàng bên bàn Phật. Ban đầu
tiên lại gơ một tiếng khánh; sau bốn năm câu
niệm Phật, lại gơ liền hai tiếng khánh ở
chữ Đà và chữ Phật, ngừng niệm, hướng
về Phật bái xá, rồi ngồi vào các ṭa trống
ở bên phải.
Ban thứ
hai liền niệm Phật tiếp theo, bái xá, đi
nhiễu giống như trên. Niệm Phật xong lại
đứng ở phía trên, gơ ba tiếng khánh. Ban cuối cùng
liền đứng dậy, ra khỏi chỗ ngồi,
đứng vào phía dưới niệm Phật tiếp, đi
nhiễu giống hệt như cách thức của ban
trước. Ban thứ hai liền lui về ngồi nơi
các ṭa trống ở bên trái, im lặng duyên theo Phật
hiệu.
Ba ban
niệm Phật như thế, hết lượt lại
trở lại từ đầu; từ sáng đến
tối tiếng niệm Phật chẳng dứt. Mỗi
phen xưng niệm một ngàn câu xong lại mặc
niệm hai ngàn câu, đi kinh hành niệm Phật ngàn câu, an
tọa niệm Phật một ngàn câu để thân,
miệng chẳng mệt mỏi, sự gắng sức và
nhàn nhă được quân b́nh. Hễ nhiễu Phật xong,
thấy không có mơ nhỏ đặt ở cạnh bàn
mới được trở về chỗ ngồi
để thứ lớp hoàn toàn không bị lầm lạc.
Ngoài mười hai người ra, chẳng cần biết
là tăng, tục nhiều ít cũng chia thành ba ban, đi th́
cùng đi, ngồi th́ cùng ngồi.
Trai
đường bày biện theo ṿng tṛn, ba mặt kê bàn
nối nhau, chỉ trừ phương dưới và chính
giữa là để trống đôi chút để ban hành
đường ra vào. Bốn phía chỗ gần
tường đều kê sao cho đi nhiễu
được. Ngoài ba bữa cháo ra, trước ngọ
ăn thêm một bữa; chỉ có hai bát thức ăn, hai
người ăn chung. Mỗi bữa, dọn cơm xong,
đánh sáu tiếng bang (biểu thị Nam Mô A Di Đà
Phật).
Trong Phật
đường khi nghe tiếng bang th́ bất luận ban
nào [đang xưng niệm] cũng [tiếp tục]
nhiễu niệm như thường. Đến bàn đặt
sớ, trưởng ban đặt xâu chuỗi lên bàn,
cầm dẫn khánh đánh hai tiếng, bái xá (Nếu lúc này
tiếng niệm Phật quá nhanh th́ ngay lúc này đổi
nhịp mơ lơi hơn). Hai ban tả hữu đứng
dậy, đồng thanh xưng niệm. Trưởng ban
cầm dẫn khánh, theo lối đi chính giữa hướng
về Phật đi nhiễu, theo đường giữa
ra khỏi Phật đường. Nếu ban đầu
tiên dẫn trước th́ các ban c̣n lại nối theo sau. Đợi
cho tất cả tăng, tục thuộc ban ấy đi
hết, ban kế đó mới được đi
tiếp theo. Nếu ban thứ hai ở trước th́ ban
thứ ba đi tiếp theo đó, ban đầu tiên đi
cuối cùng. Nếu ban đầu tiên dẫn đầu th́
ban đầu tiên đi tiếp theo đó, ban thứ hai
đi sau cùng, chẳng được vượt lên làm
loạn thứ tự.
Đến trai
đường, hữu nhiễu một ṿng đợi cho
ban cuối cùng đến trai đường xong,
trưởng ban liền đánh một tiếng khánh,
dứt mơ, ngưng niệm Phật, ai nấy tùy chỗ ḿnh
đă đi đến đâu mà ngồi vào đó, chẳng
được đùn đẩy kẻ trước
người sau, hoặc tách ra khỏi vị trí. Ngồi
đâu ăn ở đó, chẳng dùng đến các pháp
tắc bái xá, niệm tụng, Xuất Sanh v.v… Cạnh
đó, treo một tấm bản và dùi, sai một Sa Di
đứng sẵn cạnh đó, chờ khi tiếng mơ
nhỏ vừa dứt, liền đánh bản niệm
Phật, mỗi tiếng đánh hai tiếng bản.
Đại chúng trong lúc ăn nhất tâm duyên theo Phật
hiệu, chẳng được phóng dật trong khoảnh
khắc.
Ăn xong,
trưởng ban đánh một tiếng khánh ngay chữ Nam,
Sa Di liền đánh liền hai tiếng bản ngay chữ
Đà Phật để kết thúc. Đại chúng ra khỏi chỗ
cũng chẳng bái xá, liền cất tiếng niệm
Phật hữu nhiễu trở về Phật
đường, nhất loạt theo như thứ tự
trước. Trưởng ban đến đứng
tại chỗ của ḿnh, đánh hai tiếng khánh, bái xá,
đặt khánh lên bàn, cầm lấy xâu chuỗi nhiễu
Phật, các ban khác trở về ngồi chỗ cũ.
Những người thuộc tả ban ngoảnh mặt
về Tây nên đi thuận chiều đến bên bàn,
từ vị trí cuối mà tiến lên, đừng đi
xộc thẳng vào, đừng đi ngược
chiều. Phàm khi trở về chỗ hay lúc xuất ban và
người có việc phải ra vào đều nên đi an
tường thong thả, chẳng được hấp
tấp rảo bước.
Đến
đêm, trời vừa hoàng hôn, trên bàn đặt sớ
cũng thắp đuốc lớn. Từ đấy
trở đi, mỗi ban hai lượt đi nhiễu
niệm Phật sáu ngàn tiếng; đợi đến lúc
ban cuối đi nhiễu niệm Phật, Thất Chủ
ra khỏi chỗ ḿnh, đánh một tiếng khánh. Đại
chúng cùng đứng dậy đồng thanh nhiễu
niệm; chẳng cần biết đến thứ tự
của tăng tục của ba ban. Ước chừng vài
mươi ṿng xong, Thất Chủ đứng ngay chính giữa
ở phương dưới, hướng về Phật,
đánh ba tiếng khánh, gơ dồn mơ nhỏ một hồi,
ngưng niệm Phật. Đại chúng cùng hướng
về Phật, đánh dẫn khánh, cùng niệm bài phát
nguyện như sau:
Đệ
tử chúng con chí tâm phát nguyện:
Nguyện
lúc lâm chung tâm chẳng loạn
Chánh
niệm sanh thẳng về An Dưỡng
Gặp
gỡ Di Đà cùng thánh chúng
Tu
hành Thập Địa vui thường hằng
Ba
chữ cuối đánh thong thả ba tiếng khánh, lễ
Phật ba lạy, trở về “đơn” để
ngủ. Lúc ấy, mọi người nên ǵn giữ ba
nghiệp, ngủ trong chánh niệm, chẳng
được làm chuyện khác, nói ǵ khác, khởi lên
tạp tưởng khác. Cũng chẳng được
lễ vị Phật nào khác, tụng kinh, chú khác, dù có
hằng khóa trọn đời chẳng khuyết cũng
đều đ́nh chỉ, sau bảy ngày sẽ hành tŕ bù
lại. V́ nếu để gián đoạn, xen tạp th́
c̣n đáng được gọi là bảy ngày tŕ danh
nhất tâm bất loạn nữa ư?
Sau khi
đại chúng đă ngủ, lúc hai cây quan hương
sắp tàn, vị Hương Đăng Sư (người trông coi nhang đèn) nên bảo
nhà bếp sắp sẵn nước rửa mặt, cháo lót
dạ, rồi đánh chuông báo thức. Từ đấy,
trong sáu ngày sau, vào Phật đường lễ Phật
xong, liền đọc ngay bài Tán Phật, chẳng tụng
kinh chú, những điều khác đều giống như
ngày đầu tiên.
Trong
kỳ kết thất, nên thỉnh hai người làm
Hộ Thất Sư để làm bậc ngoại hộ,
khuyên tăng, tục tùy hỷ chớ vào Phật
đường, ngoại trừ người chuyên v́
niệm Phật mà đến bèn dẫn vào lễ Phật
ba lạy, ghép vào ban đang nhiễu niệm, hoặc ghép
vào hai ban tả hữu đợi đến phiên, chẳng
được xúm xít tṛ chuyện. Nếu kỳ hạn
chưa măn mà đă muốn đi th́ lễ Phật đi ra,
chẳng cần phải từ biệt đại chúng.
Tăng, tục đă đến trước lúc kết
thất, phát nguyện dự trọn đủ bảy ngày
th́ phải dự hết một kỳ, chẳng theo lệ
như người tùy hỷ.
Nếu
như người tuổi cao có bệnh, sức khó
gắng gượng nổi th́ có thể ngầm báo với
Hộ Thất Sư, xin viết thiếp chuyển
đạt cho Thất Chủ, hoặc lúc đi kinh hành th́
ngồi một chốc, hoặc đêm xuống đi
ngủ sớm, đó là phương tiện phá cách vậy.
Kế đó, cắt đặt một người làm Giám
Trực Sư, trong chúng kẻ nào trái nghịch ước
định liền nêu tên ghi phạt, chẳng
được bỏ qua. Kế đến cử một
người làm Hương Đăng và hai người
hành giả. Hương Đăng trông nom hương,
lửa, đèn đuốc, nến lụn th́ cắt
bấc, hương hết th́ thắp hương mới;
khi đại chúng phó trai th́ giữ Phật
đường chẳng ra, khi đại chúng ngủ
nghỉ th́ trông hương định giờ ngủ.
Cần phải sắp đặt bậc lăo thành vào vai tṛ này.
Nếu mệt mỏi th́ có thể cùng Giám Trực Sư
chia phiên ngủ nghỉ, chẳng được để
lỡ việc khiến đại chúng bị lầm
lạc.
Hai
người Hành Giả lo liệu trà nước, tắm
rửa v.v… Trước giờ ngọ dọn trà hai
lần, sau giờ Ngọ chẳng kể mấy lần,
đêm xuống lại dọn trà một lần. Mỗi khi
dọn trà xong, liền thu lấy chén tách rửa sạch,
đợi đến khi ban nhiễu niệm ngồi yên
lại châm thêm. Phàm là chậu, nước, giặt rửa,
nếu đại chúng cần đến đều nên
tận tâm sắp đặt. Hộ Thất Sư cũng
tùy thời xem xét, đừng để thiếu sót.
Ngày
măn thất, đêm xuống, niệm Phật sáu ngàn câu xong,
đợi sau khi ban cuối cùng đă niệm Phật
tiếp theo, Chủ Thất Sư như thường
lệ gơ khánh; ba ban cùng đứng dậy, nhiễu
niệm năm trăm câu Phật hiệu. Chủ Thất
Sư đứng ở đầu phía Đông bàn Phật,
hướng về phía Phật, gơ một tiếng chuông gia
tŕ, đại chúng cùng hướng về Phật.
Đánh
đến tiếng chuông thứ ba th́ chuông trống cùng
trỗi, đánh mơ lớn, quỳ niệm Quán Âm, Thế
Chí, Đại Hải Chúng, mỗi danh hiệu mười
lần như khóa tụng kinh tối thường lệ,
tụng bài Tiểu Tịnh Độ Hồi Hướng Văn,
lễ Phật mười hai lạy, Bồ Tát ba lạy,
tam tự quy xong, liền đánh một tiếng chuông gia
tŕ, đại chúng quay mặt hướng về lối
đi chính giữa. Thất Chủ Sư đến chính
giữa phương dưới, triển cụ (21),
lễ Phật, trường quỳ. Đại chúng niệm:
“Nam Mô Đại Thừa Thường Trụ Tam Bảo”.
Vị Hộ Thất Sư tuyên sớ xong bèn đánh mơ
nhỏ tụng chú Văng Sanh để hóa sớ, chẳng
nệ là bao nhiêu biến.
Tụng chú
xong, niệm kệ phát nguyện, bái xá, trở về
trước Phật, đại chúng cùng triển cụ,
lễ ba lễ, xếp ngọa cụ lại, bái xá. Khánh
đánh lên, dẫn đại chúng ra khỏi Phật
đường, đến thất của vị Chủ
Thất Sư lễ tạ. Chủ Thất Sư cùng
đại chúng đến chỗ Hộ Thất Sư và
chỗ các vị chức sự, đi ṿng quanh liêu tạ
từ xong, rồi trở lại Phật đường
nhiễu lễ. Đấy là xong một kỳ kết
thất.
*
Phạt lệ (quy định xử phạt)
Trị phạt có ba
cấp độ: Bậc thượng phạt tiền
một trăm đồng, bậc trung phạt năm
mươi đồng, bậc hạ phạt mười đồng.
Chẳng cần biết là tiền mắc rẻ, cứ
chuẩn theo đây làm mức. Trong Phật đường
treo một tấm biển, đặt một bộ bút
nghiên. Có kẻ nào đáng phạt, vị Giám Trực Sư
sẽ viết lên tấm biển đó. Viết xong cầm
đưa cho người phạm lỗi biết. Kết
thất xong, kết toán ông kia bà nọ bị phạt bao
nhiêu tiền để kẻ đó mua hương cúng
Phật hoặc phóng sanh. Nếu ai không có tiền th́
phạt tŕ chú Văng Sanh, cứ mười biến chú ứng
với một đồng.
Trong các
lệ cấm, điều thứ nhất là chẳng
được tṛ chuyện. Chẳng luận là trong
Phật đường hay ngoài Phật đường,
trước lúc bắt đầu niệm Phật hay đă
niệm Phật xong, chỉ cần phạm một lần
là phạt tội bậc thượng, phạm ba lần
phải rời khỏi nơi kết thất. Nếu có
việc bất đắc dĩ phải nói th́ ngầm
thưa với Hộ Thất Sư một hai câu rồi
thôi. Nếu nói nhiều hoặc nói lớn tiếng cũng
bị phạt như thế.
Nếu
cần bỏ bớt, mặc thêm áo v.v... th́ tự rời
chỗ, làm xong mau trở lại. Nếu mượn
chuyện bên ngoài để lần chần th́ phạt
tội bậc hạ. Nếu tự lẻn vào liêu xá
để ngồi, hay nằm chốc lát th́ phạt một
tội bậc thượng.
Có
việc muốn ra khỏi Phật đường th́
phải người này ra, người kia vào. Nếu
người trước chưa trở lại, phải
đợi một chút. Nếu có việc gấp rút th́ hai
người cùng đi ra cũng được. Nếu
trong số bốn người, hai người đă đi
ra mà người thứ ba cũng theo ra luôn th́ phạt một
tội bậc hạ. Người đến sau ngồi
ghép vào các ban th́ chẳng tính.
Đi
nhiễu chưa xong th́ chẳng được vượt
ban ra ngoài. Phải đợi đến lúc ban ḿnh trở
về chỗ ngồi yên ổn rồi mới
được rút lui. Nếu bỏ ban đi ra th́ dù là
Tăng hay tục cùng bị phạt một tội bậc
trung.
Thượng
ban nhiễu Phật gần xong, hạ ban chẳng
được rời khỏi vị trí. Nếu ra khỏi
Phật đường không đúng lúc đến nỗi
ban ḿnh đến phiên chẳng vào th́ phạt một
tội bậc trung. Tăng hay tục được ghép
theo ban trong lúc đi nhiễu, nếu chẳng phải là
người cao tuổi có bệnh đă bẩm bạch
[với Hộ Thất Sư] từ trước, cứ
tự tiện đứng ngồi th́ phạt một
tội bậc hạ.
Như
lúc an tọa, nếu do tánh không ngồi yên được
bèn nhập lẫn vào ban khác để nhiễu niệm th́
phạt một tội bậc trung. Ra vào nhiều lần
th́ phạt một tội bậc hạ, trừ người
có bệnh.
Lúc ra
khỏi ban, trở về chỗ ngồi và lúc ra khỏi
Phật đường, vào Phật đường
đều phải oai nghi, thong thả trật tự,
nếu rảo bước gấp gáp th́ phạt một
tội bậc hạ. Trong Phật đường đi
đứng ngược chiều gây trở ngại cho
đại chúng th́ phạt một tội bậc
hạ.
Xông xáo
vượt ban ra vào th́ phạt một tội bậc
hạ.
Nhằm
lúc Hương Đăng Sư không có mặt trong Phật
đường mà đèn lụn, hương hết th́
bốn vị ngồi đầu hay cuối trong hai ban
tả hữu hoặc chúng ngồi phía sau có thể tạm
đứng dậy làm thay. Nhưng Tăng hay Tục
đang đi nhiễu chẳng được cắt
bấc đèn, thắp thêm hương gây trở ngại
cho người đi phía sau. [Nếu phạm] phạt
một tội bậc hạ.
Tăng
tục trong ba ban, nếu có ai chẳng khéo niệm theo
nhịp mơ th́ lúc ban ḿnh đi nhiễu hăy niệm thầm
hoặc niệm nhỏ tiếng. Nếu niệm lớn
tiếng loạn chúng th́ phạm một tội bậc
hạ. Hộ Thất Sư nên dẫn người ấy
ra chỗ khác ngầm bảo cho biết.
Đêm
xuống, sau khi dứt tiếng niệm Phật, nên theo
chúng nghỉ yên. Nếu c̣n lễ Phật, tŕ tụng làm các
công hạnh khác th́ phạt một tội bậc trung.
Hương Đăng Sư nên khuyên người ấy
thôi đi. Nếu kẻ ấy không nghe bèn báo với Giám
Trực Sư ghi phạt.
Đến
giờ ăn đi xuống trai đường, nếu hai
ban đi theo ban chính lẫn lộn thứ tự th́ hai
vị trưởng ban mỗi người bị phạt một
tội bậc trung.
Ở
trai đường ăn xong nếu đứng dậy
tháo lui [không chờ ai] th́ phạt một tội bậc
hạ.
Định
giờ ngủ sai lầm đến nỗi sau khi vào
Phật đường, ba ban chưa xoay phiên hết
một lượt mà trời đă sáng th́ phạt
Hương Đăng Sư một tội bậc hạ.
Vừa vào Phật đường, trời đă sáng ngay,
phạt một tội bậc thượng. Nếu ngủ
mê định giờ hương cháy sai, thức chúng quá
sớm đến nỗi đại chúng mệt nhọc
th́ phạt một tội bậc trung.
Giám
Trực Sư tùy thời, tùy chỗ siêng năng giám sát,
đúng cách thức ghi chép tội. Nếu ai phạm tội
nhiều lần mà chẳng biết hoặc tuy biết
vẫn chẳng ghi th́ bị phạt giống như
người phạm lỗi.
Các đồng
thất sư, hộ thất sư trước khi khởi
thất phải thông thuộc quy thức này. Tiếp đó,
đem điều lệ phạt tội này sao ra, dán trước
nhà khách. Có kẻ tăng, người tục nào đến
sau hăy bảo họ xem kỹ điều ước
rồi mới đưa vào Phật đường.
Nếu kẻ nào chẳng hiểu văn nghĩa th́ nên
thuật tóm tắt cho kẻ ấy hiểu. Nếu vội
vàng đưa kẻ ấy vào khiến kẻ ấy mơ
mơ hồ hồ liền phạm điều ước
th́ Hộ Thất Sư bị phạt một tội
bậc hạ.
Ba
mức phạt này tính gộp lại có hai mươi ba
điều, nay ghi rơ cách thức trừng phạt như
sau:
Phạm
tội cấm nói: một tội bậc thượng.
Nói
nhiều: một tội bậc thượng.
Nói lớn tiếng:
một tội bậc thượng.
Tự tiện bỏ
vào liêu xá nằm, ngồi: một tội bậc
thượng.
Định giờ
ngủ sai lạc: một tội bậc thượng.
Vượt ban ra
khỏi Phật đường: một tội bậc
trung.
Ra khỏi Phật
đường không đúng thời: một tội bậc
trung.
Loạn ban nhiễu
niệm: một tội bậc trung.
Đêm xuống,
thực hành công hạnh khác: một tội bậc trung.
Đi theo ban không
đúng thứ tự: một tội bậc trung.
Mượn cớ
để ra ngoài quá lâu: một tội bậc hạ.
Nối gót nhau bỏ
ra khỏi Phật đường: một tội bậc
hạ.
Đến phiên ban
ḿnh vẫn ngồi hay đứng yên: một tội
bậc hạ.
Ra vào nhiều
lần: một tội bậc hạ.
Hành động
gấp rút: một tội bậc hạ.
Nhiễu ngược
chiều ngáng trở đại chúng: một tội bậc
hạ.
Xông qua các ban ra vào:
một tội bậc hạ.
Đứng
chựng lại [trong khi nhiễu niệm] gây trở
ngại người phía sau: một tội bậc hạ.
Niệm
lớn tiếng loạn chúng: một tội bậc hạ.
Ăn xong đứng
dậy trước: một tội bậc hạ.
Vội vă đưa
người vào Phật đường: một tội
bậc hạ.
Những điều
lệ như trên bắt buộc phải tuân hành là v́
muốn ngăn ngừa phóng dật, giúp thành trợ
hạnh, chứ chẳng phải v́ ưa bày vẽ rắc
rối. Hành giả nên nghĩ rằng: Một đời
sao nhăng, nay chỉ tinh tấn trong bảy ngày, ai nấy
phải khẩn thiết dốc sức mạnh mẽ,
chẳng tiếc thân mạng, chẳng luận đi
đứng nằm ngồi, uống ăn, tiêu tiểu,
một câu hồng danh như hơi thở chẳng
đoạn, chẳng thể ngưng dứt phút chốc,
xen tạp trong chốc lát. Đă muốn nhất tâm bất
loạn th́ thật chẳng phải là tầm
thường, phải nên niệm Phật như thế, hăy
suy nghĩ mà gắng lên.
(trên bao sớ đề:
Niệm Phật Thất Hồi Hướng Phát Nguyện Sớ.
Thừa Giáo Tu Tịnh Chủ Thất Sa Môn... cụ giam.
(Sớ phát nguyện hồi hướng của Niệm Phật thất.
Vâng theo giáo pháp tu hành tịnh nghiệp, sa môn chủ thất tên là.... kính phong)
Nép trông:
Nhất tâm viên
tịnh th́ ngũ trược chẳng ĺa quê nhà Thanh Thái,
hoành siêu ba cơi.
Dẫu lên chín
phẩm, há nào cách biệt địa vị tầm
thường, dung hợp tam muội vương thù
thắng nơi biển chân tánh.
Dùng
miệng chuyển Đệ Nhất Nghĩa Đế,
hoằng đạo bởi tại người, Phật tùy
cơ cảm ứng.
Nước
Đại Thanh (22), tỉnh..., huyện... chùa...
bật-sô... ngày hôm nay tắm gội, dốc ḷng thành,
dập đầu quy mạng Sa Bà Giáo Chủ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Cực Lạc thế giới
Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Quán Âm,
Thế Chí, hết thảy thánh hiền đồng ban
từ bi, rủ ḷng chứng giám.
Xót
nghĩ đệ tử.... cùng hiện tiền chúng sanh,
sanh nhằm Kiếp Trược, báo thuộc thân phàm. Ba
nghiệp, sáu căn không tội nào chẳng tạo. Năm
đường tám nạn không khổ nào đă chẳng
nếm qua. Ám thức lưu truyền, chưa hề giác
ngộ. Sanh tử mênh mông, bao giờ giải thoát? May
nhờ chút túc căn, chút nhân nhỏ bé, được sanh
chánh tín, sớm nhập Di Đà nguyện hải, chuyên tu
pháp môn Tịnh Độ, nguyện cơi báu gá hồn, hoa luân
gởi tưởng. Bởi thế, nương kinh lập
pháp thức, chuẩn thánh giáo sùng tu.
Kính bạch: nay là
ngày... tháng... bắt đầu kiến lập đạo
tràng tinh tấn niệm Phật. Trong suốt bảy ngày
nghiêm sức điện đường, chia ban rành rẽ,
chấp tŕ thánh hiệu trọn chẳng trái nghịch, tâm ǵn
hồng danh chẳng ĺa khoảnh khắc. Đem công
đức này hồi hướng văng sanh, xin nguyện A Di
Đà Phật từ bi nhiếp thọ, nguyện các thánh
chúng rủ ḷng đích thân tiếp dẫn khiến cho các
căn tịch tĩnh, chánh niệm rỡ ràng; cảnh Tu Ma
(23) hiện ngay trước mắt, hoa kim sắc nở
bừng, xả báo như kinh đă dạy, nguyện ắt
chẳng hư.
Lại
nguyện nhờ công đức tinh tấn trong bảy ngày
đây khiến cho khắp các đại chúng dứt
bảy chi ác, diệt bảy tội ngăn che, trừ
bảy mạn chướng, ĺa bảy uế hạnh,
dạo ao bảy báu, rải hoa thất tịnh, đủ
bảy trí biện tài, diễn bảy phần Bồ
Đề, siêu việt bảy địa vị
phương tiện, chứng bảy quả Thường
Trụ.
Lại nguyện do
công đức sanh khởi bởi ba ban tịnh lữ,
mười hai tăng-già ḥa hợp tu tŕ khiến cho
khắp đại chúng tuyệt ba ác đạo, chuyển
ba trọng chướng, tịnh tam tụ giới,
trải khắp địa vị trong ba thừa,
vượt xa khỏi tam giới, cao bước
đứng đầu ba bậc, thâm nhập ba môn giải
thoát, viên phát ba Như Lai Tạng.
Lại
nguyện mọi người khi đă thành Phật,
ngồi dưới đạo thọ, tư duy hai
mươi mốt ngày, v́ các chúng sanh nói pháp Tam Thừa, ba
lượt chuyển pháp luân Tứ Đế, Thập
Nhị Hành, rộng thuyết pháp môn “mười hai chi nhân
duyên ba đời, lưu chuyển hoàn diệt, thuận
nghịch”, rốt ráo cùng vào biển Tát-Bà-Nhă.
Lại nguyện trong
bảy ngày này dù tăng hay tục, dẫu xa hay gần, dù
lâu hay mau, dù đến hay đi, cho đến những ai
ra sức, đổ công, thấy nghe tùy hỷ đều
thoát khổ luân, đều sanh Cực Lạc, cùng thấy
tướng bạch hào [vĩ đại như] Tu Di, cùng
chiêm ngưỡng Pháp Giới Tạng Thân.
Lại nguyện
đại chúng đă được văng sanh An
Dưỡng, thân cận Di Đà... cho đến hết
thảy Như Lai đều được thừa
sự, hết thảy cơi Phật đều qua trang nghiêm,
hết thảy bạn lành thảy đều tùy thuận,
hết thảy pháp môn thảy đều thông đạt,
hết thảy chúng sanh đều được
độ thoát, hết thảy hạnh nguyện thảy
được viên thành. Hư không dù tận, nguyện con
vô cùng.
Ngưỡng nguyện Tam Bảo chứng tri, khiến cho chúng con được măn sở nguyện, măn Bồ Đề nguyện.
Phụ Lục:
Bài kư về kỳ
niệm Phật bảy ngày ở viện Phổ Nhân
Mùa Xuân
năm Đinh Tỵ, nhằm thánh đản Đại
Sĩ, tại thiền viện Phổ Nhân phía Bắc núi
Ngu, phỏng theo lời dạy trong kinh Di Đà, áp dụng
quy cách mới để mở niệm Phật thất, bèn
nhóm tịnh chúng, chẳng phân biệt là Tăng hay Tục.
Chủ thất là
Phổ Nhân đại sư hiệu Triệt Lưu
đạo nhân. Ngoại hộ sư là thầy Thân Diệp
và thầy Cổ Nạp. Các vị tăng hữu
đồng hạnh có các vị Việt Hải, Tại
Nhàn, Huệ Như, Trạm Nguyệt, Từ Hoằng,
Hải Mục, Đức Dung, Việt Chi, Thượng
Pháp, Tái Ứng, Khả Tôn... Những vị ở xa nghe
mở pháp hội vượt sông t́m đến Ngu Sơn có
hai vị Tăng là Minh Cốc và Định Huệ. Hàng
cư sĩ có các vị Uông Lữ Tâm, Ông Phượng Nhuy,
Cố Công Thần, Kim Thủy Nhuợc, Trần Thiên
Khoảnh, Triệu Tồn Hồ, Ông Tử Dư, Ông Khang
Thành, Trầm Đản Tiên, Hạ Tử Di. Do niệm
Phật là đường tắt để văng sanh, Quán Âm
là đạo sư Tây phương nên chọn lấy ngày
mười chín tháng Hai [để mở thất].
Về pháp tắc th́
chọn lấy mười hai vị tăng chia làm ba ban,
mỗi ban bốn người. Mỗi vị đều có
nhiệm vụ, ngoài mười hai người ấy, dù
Tăng hay tục nhiều ít cũng chia thành ba ban ghép theo
sau. Cứ một ban nhiễu niệm th́ hai hai ban kia
ngồi yên. Đến giờ ăn xuống trai
đường ngồi theo thứ tự chẳng dám
lẫn lộn. [Đại chúng] ngồi yên rồi,
tiếng niệm Phật tạm ngưng, tiểu sa-di
đánh mộc bản niệm Phật tiếp theo khiến
cho một câu hồng danh chẳng dứt nơi tâm và
miệng. Trong đêm, chia giờ tạm ngủ, nghe
tiếng chuông gióng bèn cùng thức dậy. Phàm những ai
đi nhiễu ngược chiều: phạt! Vượt
vị trí: phạt! Nói chuyện: phạt gấp bội.
Nghiêm như quân lệnh vậy.
Ngày hôm ấy mấy
người như các vị Uông Lữ Tam v.v... đi
trước, tôi theo sau, nghe trong Phật đường
tiếng niệm Phật sang sảng. Hộ Thất Sư
dẫn tôi vào, chỉ cho phép lễ Phật, chẳng
được chào hỏi đại chúng, sư liền
ghép tôi vào ban, đi kinh hành xong liền lui ra ngồi một
phía, hoặc niệm Phật hiệu nhưng chỉ
khẽ động môi răng, hoặc nhắm mắt
tịnh lự lắng nghe, tâm duyên theo Phật hiệu.
Những người khác đến sau cũng theo lệ
ấy.
Có lúc, tiếng
niệm Phật ḥa hoăn du dương như một hơi
thở ra vào liền lạc chẳng đoạn. Có lúc
tiếng niệm Phật rộn ràng, lại có lúc như
mănh tướng truy bức địch quân, chưa tận
diệt bèn chẳng ngưng khiến cho tạp vọng
không cách nào xen vào, lũ ma không nẻo chen chân. Ngay cả lúc
gió mưa mù mịt, các tiếng vang rền, chẳng
biết đến đầu non sương phủ,
điện vũ mây trùm; hay lúc trời quang, khí rạng, gió
lùa thông reo xào xạc, nước khe tuôn róc rách, không
tiếng nào chẳng tương ứng tiếng niệm
Phật, khác nào tiếng suối xướng niệm trong
veo.
Lửa đèn c̣n sáng,
tia b́nh minh vừa lố dạng, khói hương vờn
quanh niệm Phật buổi mai. Bóng núi vừa thẫm,
rừng khe vừa sụp tối, tiếng trùng im vắng,
phạm âm riêng trỗi niệm Phật chiều hôm. Có
kẻ tâm t́nh vui sướng, chẳng nhiễm mảy
trần, chỉ c̣n bốn chữ, thật sự
đạt nhất tâm bất loạn. Có kẻ quắc
thước, phấn phát tinh thần, tâm rong ruổi
hầu như muốn bặt. Kỳ kết thất này
dẫu chưa thể nhất tâm bất loạn, nhưng
tín nguyện đă vững vàng.
Mừng gặp duyên
thù thắng, [ngờ đâu] việc trần bức bách, ma
chướng đa đoan, vừa mới nhập ban đă
phải rời chỗ. Thở than hối hận, chẳng
thể dự trọn bảy ngày niệm Phật. Thầy
tôi phương tiện độ sanh, từ bi răn
dạy chân thành thiết tha, ai nấy tin Tây phương
đến được, có ngày ắt được theo
về. Biết hồng hiệu (24) khó thể nghĩ bàn, v́
xưng dương cảm động lệ ứa.
Than ôi! Lửa đá,
sáng chớp (25), người sống trăm năm khác nào
bảy bữa! Đem bảy bữa dâng cho trần
lụy, bao giờ trần lụy mới xong? Đem
bảy hôm mong cầu Tịnh Độ, ắt hẳn
Tịnh Độ có ngày. Huống hồ trăm năm so
với bảy bữa ắt nhiều hơn lắm,
nhưng trong sát-na sanh sang đời khác lại nhiều
hơn nữa! Không hiếm người biết trăm
năm khó cầu, nhưng chẳng ai biết bảy ngày này
khó phen gặp gỡ! Lại chỉ biết luống
uổng trăm năm, nào có biết bảy ngày bỏ phí.
Buồn thay!
Phụ Kư:
Sau khi Triệt Lưu
đại sư chùa Phổ Nhân ở Thường Thục
quy Tây, có người con trưởng của Tôn Trạng
Nguyên Phù Tang tiên sinh là Hàn Thần bị âm phủ bắt
đi. Ông ta chết đi một ngày một đêm bèn
sống lại bảo: “Tôi bị trói dắt đến
dưới điện vua Diêm La. Trong lúc tối đen
chợt thấy sáng ḷa. Hoa trời, hương trời
phủ kín hư không, Diêm quân phục xuống đất
đón Tây Quy đại sư. Tôi nhận ra ngài là
đại sư Triệt Lưu. Tôi nhờ quang minh của
Ngài chiếu đến bèn được thả về”.
Cùng ngày ấy có người họ Ngô ở Nam Quan bị
bệnh chết, qua đêm sống lại, thuật lại
sự việc giống như họ Tôn.
Thường Thục Thúc Nguyên Bảo
Lâm Thị ghi vào ngày Rằm tháng Giêng năm Khang Hy thứ ba
mươi sáu (1697).
(dịch xong ngày 21
tháng 04 năm 2004)
(1) Lư tánh tức Phật: là một khái
niệm trong giáo nghĩa “Lục tức Phật” của
tông Thiên Thai. Lư tánh tức Phật nghĩa là ai cũng có
khả năng thành Phật, tức là Như Lai Tạng Tánh
ai cũng có cả.
(2) Tông tượng: các vị
đại sư có khả năng giáo hóa rộng lớn
trong các tông, đào tạo được các đồ
đệ tài giỏi nên được ví như thợ
khéo (tượng) có khả năng chế ra những
vật dụng tinh xảo.
(3) Đồng hồ sen (liên lậu):
xưa dùng b́nh đồng, trên thân b́nh có khắc vạch
định giờ và đáy khoan lỗ, nước từ
từ rỉ ra, mực nước ngang đến vạch
nào th́ biết là giờ ấy. V́ thế, gọi là
“lậu” (rỉ chảy), hoặc “đồng hồ”. Liên
lậu là một loại đồng hồ do liên xă Lô
Sơn chế ra, có h́nh hoa sen thả trên mặt
nước. Nh́n nước ngập đến đâu sẽ
biết giờ mà tụng niệm.
(4) Ngụ ư: mặt trời, mặt
trăng, núi sông xưa nay vẫn giống nhau, ta thua kém ǵ
người xưa!
(5) Sát chủng: tức là thế
giới chủng. Xin xem chương VII, tiết II - “Các
thế giới” sách Phật Học Tinh Yếu cuốn II
của Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm.
(6) Lạc-xoa (laksa): 100 ngàn.
(7) Khuê bích: c̣n gọi là ngọc khuê.
Khuê là một dụng cụ dùng để tế lễ
tạc bằng ngọc thời cổ, trên nhọn
dưới vuông. Về sau, các thứ ngọc quư dùng trong
tế lễ hay triều cống đều gọi là “khuê”
cả. V́ thế, sau này những ǵ quư báu, phẩm hạnh
tốt đẹp đều ví với khuê bích.
(8) Trầm độc: người
Trung Hoa thời cổ tin có một loại chim rất
độc tên là Trầm (c̣n đọc là Chậm), lông nó
rớt xuống nước cá liền chết tươi.
(9) Đồng đường tăng
tục (đồng đường truy tố): “Truy” là
mầu sẫm, màu đen, chỉ cho tăng sĩ (v́
tăng sĩ thường mặc áo màu nâu, màu đen),
“bạch” chỉ cho người tại gia. “Đồng
đường truy tố” là tiếng chỉ tất
cả tăng lẫn tục cùng tham dự trong kỳ
Phật thất.
(10) Cửu Thứ Đệ (navànupùrva
samàpattayah): gọi đủ là Cửu Thứ Đệ Định
tức là chín pháp thiền định tu hành theo thứ
tự không gián đoạn, gồm: Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Xứ, Thức
Xứ, Vô Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Tưởng và
Diệt Thọ Tưởng.
(11) Nguyên văn là “tháo cô tróc bút”. Cô là
một dụng cụ bằng gỗ để làm mẫu
nhằm viết cho ngay hàng. V́ thế, sau này mỗi khi
soạn giấy bút để làm văn thường
gọi là “tháo cô”. “Tróc bút” là cầm bút để viết
lách, sáng tác.
(12) Thanh Thái: tên khác của cơi Cực
Lạc (theo kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà Ra Ni).
“Thượng bang” là cơi nước tốt đẹp, cao
quư.
(13) Tường lân thụy
phượng: lân và phượng là hai con vật
tượng trưng cho điềm lành quư (tường
thụy) nên những nhân vật tư cách cao quư, đức
hạnh tốt đẹp thường được ví
là “tường lân thụy phượng”.
(14) Tứ cú, bách phi: “Tứ cú” là có,
không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng
phải không. “Bách phi” là tiếng phiếm chỉ phủ
định tất cả. Nói “tứ cú bách phi” nhằm
chỉ tất cả những ǵ thuộc trong lư luận
nhị nguyên.
(15) Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật
dạy cơi này nhĩ căn lanh lợi nhất, nên giáo
thể của phương này phải lấy âm thanh làm
chính; từ đó pháp “phản quán tự tánh”
được ngài Văn Thù Sư Lợi chọn làm pháp
viên thông bậc nhất.
(16) Áo đỏ: xưa màu đỏ
tượng trưng cho sự cao sang, nên các quan
thường được gọi là “áo đỏ”.
(17) Trần sa kiếp: Số kiếp
nhiều như cát bụi.
(18) Ám chỉ cơi Sa Bà. Kinh Pháp Hoa ví cơi Sa
Bà như căn nhà cũ nát thuộc về một
người làm chủ.
(19) Tam nhất viên dung: nhất cảnh
tam quán (một phép quán có đầy đủ cả ba phép
quán: Giả, Không, Trung) và nhất tâm tam đế (một
tâm quán niệm gồm đủ cả ba đế: Chân,
Tục và Đệ Nhất Nghĩa Đế)
(20) Bang: một
loại mơ dài, thường khắc thành h́nh con cá lớn,
treo trên cao để làm hiệu lệnh trong trai
đường nhằm báo giờ thọ trai. Đôi khi thay
bằng một tấm bản bằng gỗ lớn,
khắc h́nh mây gọi là “vân bản”.
(21) Triển cụ:
Tức là mở ngọa cụ ra, đặt xuống
đất, quỳ lên đó. Ngọa cụ (c̣n gọi theo
âm phạn là Ni-sư-đàn) là một tấm vải h́nh
chữ nhật thường may hai lớp, kích thước
đúng theo quy định trong Luật Tạng; xưa dùng
để cho các du tăng hành cước trải ngồi.
Lễ xong, sẽ xếp đôi lại vắt lên cánh tay
trái. Hiện tại, trong các Niệm Phật Thất,
ngoại trừ trường hợp vị Hộ Thất
cũng là Tăng th́ mới áp dụng cách triển cụ
này; kỳ dư, việc tuyên sớ thường do một
vị Tăng hoặc cư sĩ làm Duy Na đảm
nhậm nhưng không triển cụ, đại chúng
cũng không triển cụ.
(22) V́ Tổ sống dưới
triều Thanh, nên viết như thế.
(23) Tu Ma: tức là Tu Ma Đề
(sumaddhi) chánh định.
(24) Hồng hiệu: tức hồng
danh của Phật
A Di Đà. Danh hiệu Phật có vô
lượng công đức, ư nghĩa rộng lớn nên
gọi là “hồng danh” hay “hồng hiệu” (hồng là to
lớn rộng răi).
(25) Lửa đá, sáng chớp: Tia lửa xẹt ra do dùng dao chém vào đá, ánh sáng ḷa của tia chớp. Hai h́nh ảnh này thường được dùng để ví những sự vật chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, quá ngắn ngủi.