Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên (phần bổ sung)
phần 2
(nguyên tác: Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Bổ)
印光法師文鈔三編補
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong, Huệ Trang và Chúc Bảo
* Thư gởi Tề
Dụng Tu (thư thứ nhất)
Nhận
được thư, do bận bịu cùng cực, cho nên
phúc đáp chậm trễ, hết sức tạ lỗi! Tôi
gom góp hơn bảy trăm chữ thành bài tựa về
Xung Điền Phân Xă, nhưng rốt cuộc chẳng thể
nói rơ về Phật quang. Mong ông hăy thỉnh lệnh sư
là Dịch cư sĩ gọt giũa, ngơ hầu chẳng
đến nỗi gai mắt người nhă. Tôi đă đọc
bài thơ họa vận của thầy Dịch, [ông ta] nói
tính ghép chung lại [nguyên xướng và bài họa cùng
một chỗ trong bản in], sợ chẳng dễ thực
hiện! Nếu thợ chưa xếp chữ tới phần
đó, sẽ ghép sau các môn. Nếu thợ đă sắp chữ
xong, chỉ đành xếp vào sau sách.
Các
hạ túc căn sâu dày, nếu dùng công phu mười
năm, sẽ có thể tự giương cao ngọn cờ
trong Phật môn. Nếu thoạt đầu liền quy y với
một ông Tăng chỉ biết cơm
cháo, há chẳng trở thành một chuyện nuối tiếc
to lớn suốt đời ư? V́ thế, chẳng dám vội
vàng làm thầy quy y cho các hạ. Đă nhận được
trước tác kỷ niệm mừng thọ mẹ của
ông, ba mươi bài thơ mừng thọ rất hay. Lại
nữa, Quang đă bảy mươi mốt tuổi, do đời
trước ít vun bồi, tinh thần lẫn mục lực
đều chẳng đủ. Thầy Đức Sâm tuy tuổi
chưa già, tinh thần cũng khá suy nhược. Nay đang
có Tịnh Độ Thập Yếu, Viên Tịnh lại
muốn sắp chữ bộ [Tịnh Độ] Thánh Hiền Lục. Ông Hứa Chỉ
Tịnh biên soạn bộ [Phật Học] Cứu Kiếp
Biên cũng chấp thuận giao cho Quang giảo chánh, đối
chiếu rồi sắp chữ giùm. Đối với
văn tập của thầy Dịch, không chỉ Quang chẳng
có học thức ấy, mà cũng chẳng có tinh thần
[để thực hiện]. Mong ông chớ gởi đến
để khỏi bị chậm trễ!
* Thư gởi Tề
Dụng Tu (thư thứ hai)
Bài
văn về Phật Quang Phân Xă, ư nghĩa tợ hồ có
thể chấp nhận được, nhưng văn từ
khá vụng về, chất phác. [Thế mà] thầy Dịch
và ông đều cho là hay, chắc là v́ ḷng yêu thương, dẫu
văn chương chẳng hay, vẫn cho là hay! Nói đến
chuyện quy y, rất sợ sau này ông sẽ hối hận,
cho nên chẳng dám đáp ứng. Nay ông nhắc lại, chỉ
đành đem lầm đáp lỡ, đợi đến khi
ông biết chắc chắn là sai, chẳng ngại coi tôi là
người qua đường. Hoặc bảo ngược
lại tôi hăy tôn ông làm thầy th́ cũng chẳng phải
là không thể! Nay tôi đặt pháp danh cho ông là Huệ Mậu
(慧懋), ư nói dùng trí huệ
để tự khích lệ chính ḿnh, khích lệ người
khác, ắt mong sao [ai nấy] đều giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành
các điều thiện, sanh tín, phát nguyện, tŕ
danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu có
thể thực hành như thế, sẽ chẳng cô phụ
sự giáo hóa của đức Phật, chẳng phụ
linh tánh của chính ḿnh, hướng dẫn cả một
làng, làm kim chỉ nam cho hàng hậu học, may mắn chi
hơn?
Pháp
môn Tịnh Độ được gọi là “pháp khó
tin”. Xưa kia, có pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm, mắng
học nhân phát tâm niệm Phật là chủng tánh kém hèn! Gần
đây, nghe nói một pháp sư cũng giảng kinh Hoa
Nghiêm, nghe chuyện có vị học nhân giảng Tâm Kinh cho
thiện tín xong, lại cùng họ niệm Phật một
lượt. Vị pháp sư ấy nói: “Ông đă làm giám
đốc ngân hàng, sao lại đi bán đậu tẩm Ngũ Vị Hương?” Trộm nghĩ: Ư thầy ấy
cho niệm Phật cũng là chuyện nhục
nhă to lớn lắm! Chẳng phải là Quang thích nói chuyện
thị phi, mà là mong ông hăy khăng khăng một dạ làm
theo hạnh tu tŕ của ngu phu ngu phụ, ngơ hầu chẳng
đến nỗi v́ nhân lành mà chuốc lấy quả ác,
đáng thương, đáng xót lắm thay!
* Thư trả lời
Châu Tễ Quang
Nhận
được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn.
Quang ăn nói chẳng nên hồn, sao có thể nêu tỏ
đức hạnh cao đẹp của lệnh từ?
Nhưng do thời cuộc hiện thời căm ghét hiếu
thảo, cố nhiên chẳng thể không phụ họa chuyện
đề xướng hiếu đạo, ḥng cứu văn phần
nào thói tục xấu ác. Ghép một trăm hai mươi
tám chữ thành bài ca tụng đức hạnh cao đẹp
của cụ, chẳng biết có thể xếp cùng văn
chương mênh mông của các bậc thông gia hay không? Phận
làm con báo đáp cha mẹ, hăy nên giữ lấy những
điều chánh yếu. Mong ông đừng chú trọng bày vẽ,
chỉ thêm tốn kém! Hăy tiết giảm chi phí để
làm chuyện từ thiện, công ích. Không chỉ lợi ích
to lớn cho mẹ lẫn chính ḿnh, lại c̣n có thể mở
mang phong thái, khiến cho khách khứa đến chúc tụng
cũng đều được gieo phước, bắt
chước làm theo. Hai bài văn số năm và số chín
chữ quá nhỏ, mắt già khó xem được! Hơn nữa,
những điều nói trong ấy, tôi chẳng biết, xin
chớ gởi nữa!
Trộm
cho rằng: Phàm muốn lập quốc, lập gia, đều
phải nên dốc sức từ căn bản. Nếu chẳng
tin tưởng đạo đức, tín nghĩa, nội
chiến hằng ngày dấy lên, sẽ do đâu mà khống
chế ngoại nhân? Nước ta suy yếu đến mức
này, nói chung là do những kẻ nắm quyền chỉ lo
theo đuổi hư danh. Hễ bị ngoại nhân dùng lợi
dụ dỗ, ắt quốc gia, con cháu đều chẳng
đoái hoài, chỉ ưa thích mối lợi! Do vậy,
đến nỗi hết thuốc chữa, suy yếu cùng cực
đến nỗi nước hèn, dân nghèo! Chẳng vun bồi
tín nghĩa, đạo đức, mà mong báo thù nỗi sỉ
nhục, cứ khích động cái tâm quyết liệt, có
khác ǵ xúi dân tay không, chân trần xông vào trận địa rừng
đao, đất gai ư? Quang là kẻ xuất gia, vốn
chẳng có tư cách bàn đến quốc sự. Bất
quá, do các hạ chẳng chê bỏ là phường ngu muội,
chẳng ngại thổ lộ nỗi niềm chất chứa,
cũng vốn là ḷng ngu thành mong cầu thái b́nh vậy!
Nay
kính gởi Văn Sao một bộ, Quán Âm Tụng bốn bộ
để đáp tạ ḷng quan hoài cao đẹp, cũng
như thay cho lời chúc tụng. Lệnh từ đă
ăn chay trường nhiều năm, kiền thành thờ
phụng đức Quán Âm, càng phải nên đem pháp môn Tịnh
Độ thường v́ cụ khuyên nhủ, hướng
dẫn, mong sao cụ Tín, Nguyện, Hạnh mỗi mỗi
đều đầy đủ vẹn toàn; để rồi
năm nào hết tuổi thọ, sẽ dự vào Liên Tŕ Hải
Hội, thường gặp gỡ Di Đà, Quán Âm. Đó là
đạo rốt ráo để vinh hiển và báo đền
cha mẹ. Các hạ đă có tín tâm, cố nhiên hăy nên dốc
sức ở chỗ này. Các chuyện khác đều là chuyện
thuộc về Thế Đế, xét theo thân, tâm, tánh mạng của cha mẹ, đều chẳng
liên quan cho mấy! Thành tựu cha mẹ được sanh
về Tịnh Độ, tức là thành tựu cho cha mẹ
thành Phật. Nếu cha mẹ thành Phật, chính ḿnh ắt
sẽ được nhiếp thọ. Trong Văn Sao của
Quang, có nói các chuyện cần nên biết khi cha mẹ c̣n sống,
khi cha mẹ lâm chung, và sau khi cha mẹ đă khuất. Mong
hăy lắng ḷng đọc, chưa hẳn là chẳng có lợi
ích ǵ!
* Thư gởi Mă
Sĩ Hoằng
Người
sống trong thế gian, hăy nên ai nấy trọn hết
bổn phận. Bổn phận chính là “cha từ, con hiếu,
anh nhường, em kính, vợ chồng ḥa thuận, chủ
nhân từ, tôi tớ trung thành”. Mỗi người tṛn hết
bổn phận ấy, hoặc làm được hơn quá
nửa. Phàm những ǵ thuộc về bổn phận của
ḿnh, ắt cần phải chăm chú tṛn hết
bổn phận của chính ḿnh. Người đời chẳng
nói đến đạo lư “trọn hết bổn phận”;
v́ vậy, thiên tai, nhân họa nối tiếp nhau dấy
lên! Ai nấy đều trọn t́nh, trọn hết bổn
phận, thiên hạ sẽ thái b́nh. Các bổn phận đều
dễ trọn hết, chỉ có bổn phận của
người làm cha mẹ nhiều người chẳng biết.
Cho nên mới tạo thành hiện tượng rối loạn
trong hiện tại. Nếu người làm cha mẹ, khi
con cái vừa bắt đầu hiểu biết, liền dạy
con đạo “hiếu, đễ, trung, tín, lễ,
nghĩa, liêm, sỉ”, và lư “nhân quả báo ứng, sanh tử
luân hồi”, con cái chắc chắn trở thành hiền
nhân, thiện nhân. Phàm những đứa hung hăng mù quáng
quấy rối và kẻ ác cường đạo, thổ
phỉ từ đâu mà ra vậy? Lũ mù quáng quấy rối,
cường đạo, thổ phỉ, tuy là tội của
chính chúng nó, nhưng thật ra là v́ cha mẹ [của chúng
nó] chẳng biết đạo làm cha mẹ! Do đó, đă
biến tư chất “có thể thành bậc hiền thiện” [của con cái] trở thành trộm cướp! Ai mà chẳng có cha mẹ? Ai không có con cái? Chớ
nên nghĩ nuông chiều con quen thói kiêu ngạo là thương
con; dạy cho con đạo đức mới là ḷng Từ.
Nay cơi đời đă loạn cùng cực, ông
làm y sĩ, ắt quen biết nhiều. Hăy nên thường
bàn chuyện “khéo dạy con cái sẽ có thể đạt
tới thái b́nh”, ắt công đức sẽ to tát. Nếu
ông thật sự có thể khéo dạy con cái, thanh danh của
gia đ́nh ông chắc chắn sẽ vang dội. Thứ nhất
là cần phải giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, ngăn tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng hành các điều thiện. Các
điều khác dễ biết, chỉ có chuyện [bổn
phận của người] làm cha mẹ th́ lắm kẻ
chẳng biết! V́ thế, tôi nói cặn kẽ trước.
Ông hăy gắng công th́ mới đáng là đệ tử
đức Phật.
Nay
đặt pháp danh cho ông là Đức Hoằng (德弘), hàm ư mang tâm tự
lợi, lợi ích người khác. Phàm chuyện ǵ có thể
làm, bèn tận lực làm. Đối với chuyện chẳng
có sức làm, hăy nên khiến cho cái thiện tâm ấy phát
sanh, tăng trưởng. Chỉ phát thiện tâm, cũng có
công đức. Ắt cần phải dùng thuốc
men thế gian để trị thân bệnh cho người
khác, dùng pháp dược của đức Phật để trị
tâm bệnh của họ, và trị các bệnh do oán nghiệp
mà thuốc men chẳng thể chữa trị. Gặp bệnh
do oán nghiệp, hăy dạy họ đổi ác, hướng
lành, kiêng giết, phóng sanh, ăn chay niệm Phật. Nghiệp
lực tiêu, bệnh sẽ tự lành. Đấy là cách càng
thử, càng thấy hiệu nghiệm!
Y
sĩ chẳng chuyên trọng tiền tài, sẽ
tự có thể tích đức. Có hạng chủng tử
địa ngục chuyên nghĩ tới tiền. Bệnh nhẹ
ắt khiến cho nặng hơn ḥng có thể vơ vét, cầu
lợi! Thầy thuốc kiểu đó, đời sau chắc
chắn chẳng thể làm thân người! Hơn nữa,
Tây y hễ gặp người bệnh nặng ăn chay, ắt
[bác sĩ sẽ]
bắt họ (bệnh nhân) ăn mặn. Tới
chừng ăn mặn, bệnh nặng thêm, [bác sĩ] vẫn chẳng
thay đổi phương châm. Loại người ác ấy,
đời sau chắc chắn thành loài động vật
thỏa thích bụng miệng của kẻ khác. Ông đă
làm nghề y, hăy nên nghĩ tới điều
này để vun bồi đức, há có nên do vậy
mà tạo nghiệp ư? Các pháp tắc tu tŕ khác, mong hăy
đọc tường tận trong Văn Sao hay Gia Ngôn Lục,
chẳng viết cặn kẽ ở đây!
* Thư gởi cư
sĩ Trương Cụ Nhụ
Tất
cả các cảnh giới trong thế gian đều là vô
thường. Mặt trời giữa Ngọ rồi sẽ
chênh, trăng tṛn rồi khuyết. Bờ cao thành hang, hang
sâu thành vực. Biển xanh biến thành ruộng dâu, ruộng
dâu thành biển xanh. Dân đen thành quan cao chức cả,
quan cao chức cả trở thành thường dân. Đủ
mọi nỗi cát hung họa phước đều đủ
để tổn hại con người, [mà cũng] đều
đủ để chu toàn con người! Không chỉ hung
họa có thể tổn hại, mà phước lành cũng
có thể tạo ích. Chỉ có bậc quân tử biết
hành xử đúng theo địa vị,
vui theo mạng trời, th́ ở chỗ nào cũng đều
đạt được lợi ích. Nếu không, chuyện
ǵ cũng bị hao tổn! V́ thế, sách Trung Dung dạy: “Tố
phú quư hành hồ phú quư, tố bần tiện hành hồ bần
tiện, tố di địch hành hồ di địch, tố
hoạn nạn hành hồ hoạn nạn” (ở trong cảnh phú quư bèn hành
xử theo cảnh phú quư, ở trong cảnh nghèo hèn bèn hành xử
theo cảnh nghèo hèn, ở nơi mọi rợ bèn hành xử
theo hoàn cảnh mọi rợ, ở trong cảnh hoạn nạn
bèn hành xử theo cảnh hoạn nạn). Ư chỉ của
bốn câu ấy sâu lắm. Tiếc là người đời
chẳng khéo hiểu, đến nỗi chẳng đạt
được lợi ích. Nay tôi tiếm phận chú thích rơ
ràng như sau: “Tố” (素) có nghĩa là “hiện
tại”, chẳng phải là [hiểu theo ư nghĩa] “cứ
một mực như thế”. Nay đang ở trong cảnh
phú quư, hăy nghĩ người nghèo khó rất nhiều,
phước tinh rất ít, ắt phải nghĩ
phương cách cứu vớt kẻ khốn đốn và
đói nghèo, ḥng tạo hạnh phúc cho đồng bào, khiến
cho người đời đều hưởng niềm
hạnh phúc ấy, th́ mới có
thể gọi là “hành hồ phú quư”. Nếu kẻ
phú quư chỉ theo đuổi tài lợi, cơm áo, để
mong bản thân vinh hiển, con cháu dư dật, sẽ chẳng
phải là đạo “hành hồ phú quư”. “Hành hồ”
(行乎) chính là ưu du
tự tại, hợp với đạo nghĩa. “Tố
bần tiện hành hồ bần tiện” chẳng phải
là cứ một mực
nghèo hèn, coi như lẽ dĩ nhiên, mà [có nghĩa là] là kẻ một
mực phú quư, bỗng dưng gặp họa, vụt trở
thành nghèo hèn. Cố nhiên hăy nên nghĩ lui một bước,
hăy nghĩ ḿnh trước nay chưa hề phú quư, cái tâm sẽ
thảnh thơi, giải thoát, trọn chẳng có ư niệm
lo nghĩ, đau buồn,
oán hận. Tức là gặp họa, trở thành nghèo hèn, vẫn
là lợi khí hướng dẫn tốt lành thành tựu
điều tốt đẹp cho người khác. Biết
phú quư hay bần tiện đều do túc nghiệp hiện
duyên mà ra, nhưng nghiệp do tâm tạo, cũng do tâm diệt.
Chúng ta ở trong sanh tử luân hồi, ai có thể thường
hưởng phước lành, chẳng gặp hung họa
ư? Nhưng hung hiểm do nghiệp trong quá khứ
cảm vời, ta hăy nên nghĩ vượt ra ngoài phạm
vi của cát hung, họa phước, vận dụng toàn thể
đại dụng nơi tâm tánh vốn sẵn có của chính
ta, làm một người hưởng an lạc dài lâu.
Đó gọi là “liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập
thánh”, chứng Phật tánh vốn sẵn có, thoát khỏi
luân hồi huyễn vọng. Nhưng muốn được
như thế, có rất nhiều cách tu. Mong t́m một cách dễ
thực hiện nhất, dễ thành tựu nhất, không ǵ
bằng niệm Phật cầu sanh Tây Phương là hay
khéo nhất. Đă muốn văng sanh Tây Phương, hăy nên
chán các thứ nỗi khổ trong thế giới này. Nỗi
khổ trong thế giới này, nói chẳng thể tận!
Cố nhiên [trong thế giới này], khổ là khổ, mà lạc
cũng là khổ! Hăy nên vui thích các thứ lạc trong Tây
Phương Cực Lạc thế giới.
Đối
với niềm vui nơi Tây Phương, hăy xem kinh Di
Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, sẽ tự biết. Đă sanh ḷng tin th́ phải
nên phát nguyện ĺa cảnh khổ này, vào cơi vui kia, giống như tù nhân mong thoát khỏi lao ngục,
trở về quê nhà. V́ thế, tŕ niệm vạn đức
hồng danh Nam-mô A Di Đà Phật để mong lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn,
văng sanh Tây Phương. Cũng đem tất cả công
đức do làm chuyện công ích trong thường nhật
và thiện niệm “an phận, an vui trong cảnh nghèo, chẳng
oán, chẳng hờn” trong hiện thời dùng để
hồi hướng. Cũng khiến cho người nhà, quyến
thuộc đều suy nghĩ như thế, đều tu
Tịnh nghiệp. Tuy ở trong cảnh nghèo hèn, hoạn nạn,
vẫn vui với thiên chân của chính ḿnh, tiến thẳng
đến “chí đạo” (đạo cùng
tột). So với kẻ gặp họa bèn sầu muộn,
oán hờn, khiến cho thân tâm thường chịu khổ
năo, th́ khác biệt vời vợi há chỉ một trời,
một vực! Hai câu “tố di địch” và “tố
hoạn nạn” có thể suy ra ư nghĩa, cho nên chẳng
viết rơ.
Trong
Văn Sao có phương pháp niệm Phật, cho nên chẳng viết cặn kẽ ra đây. Hăy nên
đọc kỹ lá thư gởi cho Vệ Cẩm Châu trong
Văn Sao. Phó Đại Sĩ nói: “Đắc như bổn
hữu, thất như bổn vô” (được th́
như vốn có, mất th́ như vốn không). Hai câu ấy
hay khéo tột bậc! “Như vốn có” sẽ chẳng
sanh vui mừng, “như vốn không” sẽ chẳng
sanh ưu năo. Cái tâm ấy chẳng chuyển
theo cảnh, cho nên sẽ an vui. Chỉ là kẻ phú quư một
mực quen thói phú quư vênh váo, một khi nghèo hèn, sẽ cảm
thấy mọi chuyện đều chẳng như
ư. Hăy thử nghĩ khi xưa ta nghèo hèn, làm thế nào để
sống sót? Dẫu ta từ lúc sanh ra đến nay luôn là kẻ
phú quư, nhưng ông cha ta, khi xưa thuở chưa phú quư lại
sống bằng cách nào? Dẫu cho sau khi đă phú quư, há nên
quên cội gốc, liền muốn áo đẹp, cơm
ngon, ở trong nhà cao, viện lớn, hô tớ gọi hầu,
tùy thuận ư ta ư? Kẻ tiểu dân đầu tắt mặt
tối suốt ngày, c̣n khó no ḷng, những người dân mắc
tai nạn mong có vỏ cây, rễ cỏ đỡ ḷng mà c̣n
chưa được! Ta c̣n chưa đến nông nỗi ấy,
hăy nghĩ tới nỗi khổ của họ, dẫu hằng
ngày phải ăn gạo thô, người nhà tự nấu cơm, may áo, chẳng có kẻ hầu
nào, cũng vẫn hưởng phước trời, niềm
vui ấy chẳng thể thí dụ được! Đó
là pháp môn mầu nhiệm nhất để “tùy ngộ
nhi an” (dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn
an vui). Nếu chịu xét kỹ th́ may mắn lắm thay!
* Thư
trả lời cư sĩ Niệm Phật (thư thứ
nhất)
(do tạp chí bị thiếu
trang, lá thư này chẳng đầy đủ)
…ăn đồ đă cúng. Điều này
thuộc về tôn trọng Phật giới, cũng chớ
nên quá chấp trước. Đối với chánh thần
trong thế gian, chẳng ngại thuận theo t́nh lư thế
gian để lễ bái, nhưng chớ nên thường lễ
bái như đối với Phật, Bồ Tát. [Như thế
th́ đối với chuyện] ăn đồ đă cúng
quỷ thần, cũng sẽ hiểu trọn vẹn! Do sự
bố thí ấy thuộc về làm phước. Nếu nói “nhất
quyết chẳng thể ăn”, như thế th́ phẩm
vật đă cúng tổ tiên, cúng thần đều vứt
đi, trọn chẳng có lư ấy! Phật c̣n nhận
thức ăn của con người, huống hồ
người thọ Ngũ Giới chẳng thể ăn thực
phẩm đă cúng cho quỷ thần ư? Kẻ thích Phật
pháp mà chẳng coi trọng tŕ tụng, lễ bái, đều
thuộc về hạng nói suông vậy!
* Thư trả lời
cư sĩ Niệm Phật (thư thứ hai)
(đính kèm nguyên văn câu hỏi)
1)
Hỏi: Bản thân đứa con trai cả do túc nghiệp,
cũng do quan hệ di truyền với vợ chồng
đệ tử, thiếu sự từ bi, ḥa nhă, cố chấp
dị thường! Con tính giao nó cho cư sĩ Giang Dịch
Viên giáo hóa, nhưng bà nội kế của nó sợ
đường xa, nếu bị bệnh tật, không
người chăm sóc, chẳng muốn cho nó đi. V́ thế,
nửa chừng phải bỏ dở. Đấy cũng là
v́ đứa con ấy bạc phước, chẳng sớm
được bậc thiện tri thức hun đúc.
Nhưng tâm nguyện đă phát, chắc sẽ có ngày được
thỏa nguyện ư?
Đáp:
Gởi đi xa theo Dịch Viên, chẳng bằng tự dạy
tại nhà tốt hơn! Mong hăy vĩnh viễn dứt bỏ
ư niệm ấy. Đối với thói đời, Quang
đă hiểu rơ. Ông đă khó dạy nó, Dịch Viên càng khó dạy
hơn, v́ chẳng dám nghiêm khắc quở trách. Nếu
nó thật sự là đứa có căn khí, ở bên ngoài
cũng thế, mà ở trong nhà cũng thế. Nếu không,
ở bên ngoài chẳng bằng ở trong nhà, sẽ tốt
hơn nhiều!
2)
Hỏi: Ngạn ngữ nói “gia phú bất như gia ḥa”
(nhà giàu chẳng bằng nhà ḥa thuận). Trong một nhà,
đầu mối bất ḥa bắt đầu từ vợ
chồng, lan sang con cháu. Thói quen giận dữ, tranh chấp
đă thành, thay đổi cực khó! Chỉ có cách cả
nhà ăn chay trường, ngơ hầu huân tập lâu ngày, biến
đổi xấu ác thành tốt đẹp. Trong nhà đệ
tử, ngoài trừ đệ tử và đứa con gái lớn
là hai người ăn chay trường, các đứa con
khác vẫn chưa dám mười phần chẳng tuân theo.
Nhưng do vợ đệ tử chẳng muốn trường
trai, cho nên các con cũng đều
ăn mặn theo. Nếu vợ đổi sang ăn chay
trường, có thể cả nhà ăn chay. Lại nữa,
đệ tử con cái đông đảo, tiêu dùng rất tốn
kém, nhưng vợ chẳng biết đại thể,
thường đến các pḥng[1]
đánh bạc. Mỗi tháng luôn lăng phí mười mấy
đồng, lại c̣n khiến cho con cái bắt chước,
con càng cảm thấy lo sợ. Đệ tử nhiều lần
khuyên bà ta ăn chay trường, kiêng đánh bạc. Lại
c̣n thường khuyên nhủ bà ta: “Nhà khác ít
người, tiền bạc c̣n thong thả. Nhà ta đông
con, tiền bạc ắt phải sớm
lo liệu th́ mới khỏi tan tác”. Bà ta luôn chẳng nghe
theo. Do vậy, con tính nói rơ với bà ta, từ nay nếu vẫn
chẳng nghe lời, con sẽ bỏ mặc hết sạch
việc nhà, ngầm lánh sang nơi khác. Hết thảy do bà
ta tự chịu trách nhiệm! Chờ cho bà ta sửa chữa
rồi mới quay về. Chủ trương như thế
chẳng biết có được hay không? Kính xin thầy từ
bi dạy rơ cho!
Đáp:
Bọn họ chẳng thể đúng như pháp, một là
cần phải dùng lời lẽ khuyên dụ, hai là cần đối trước
Phật thay bà ta sám hối, mong được gia bị,
khiến cho bà ta hồi tâm chuyển ư. Hăy nên tâm b́nh khí ḥa,
nói các chuyện như người phú quư do ham vui, buông lung,
đến nỗi chịu khổ sở, người bần cùng do siêng năng, tiết kiệm mà được
vui sướng v.v… Hăy cứ rủ rỉ nói, lâu ngày chắc
bà ta sẽ động tâm. Nếu nghiêm mặt, gằn giọng
để nói, ắt sẽ trở thành chống trái. Không chỉ
là vô ích, mà bà ta càng sai trái thêm sâu! Hơn nữa, lời này
chỉ nhằm đe dọa, chẳng phải là làm thật.
Nếu ông thật sự bỏ đi, chẳng màng tới,
ắt sẽ chẳng đầy một hai năm, con cái chẳng
được dạy bảo, chẳng thể nên người!
Gia tư lẫn gia quy sẽ thất bại thảm hại!
Sao ông lại nghĩ ra cách làm hỏng bét đến thế?
Hăy vĩnh viễn đừng nói như thế, chỉ vận
dụng hai cách khuyên nhủ và cầu đảo là được
rồi!
3)
Hỏi: Đệ tử đức mỏng, tài mọn, tâm
lượng lệch lạc, thiển cận. Từ nay về
sau, tính tạ tuyệt ngoại duyên, ở nhà hiếu thảo
với cha mẹ, dạy con, kiền thành tu Tịnh nghiệp.
Nếu gặp người hữu duyên, sẽ tùy cơ khuyến
thiện. Suốt đời như thế, cũng chẳng
tiếc nuối! Một ḷng thành khăng khăng, có
được hay chăng?
Đáp:
Tạ tuyệt ngoại duyên, ở nhà phụng dưỡng
song thân, tùy cơ khuyến hóa, quả thật là chuyện
không chi tốt lành bằng!
4)
Hỏi: “Oan oan tương báo” có phải là “oán oán
tương báo” bị nói lầm hay không?
Đáp:
“Oán oán” (怨怨) là cừu hận.
“Oan oan” (冤冤) là oan khuất.
Kinh điển đạo Nho và đạo Thích dùng lẫn
lộn hai cách nói ấy. Theo kinh Hoa Nghiêm th́ một nửa
là oán, một nửa là oan. Nếu chú trọng kỹ càng, cố
nhiên là nên tách ra để sử dụng.
5)
Hỏi: Đệ tử nếu cùng người khác nẩy
sanh chuyện trái ư, lập tức dấy lên cái tâm chống
đối, báo cừu. Lại gặp nữ sắc, chẳng
dấy khởi Bất Tịnh Quán được. Có phải
là v́ hai tập khí sân và dâm trong đời trước quá nặng
đó chăng?
Đáp:
Bệnh ấy, hăy nên suy lường khi vô sự, th́ khi hữu
sự, sẽ tự nhiên chẳng phát khởi ác niệm ấy.
Đối với nữ sắc, nếu chẳng thể dấy
khởi Bất Tịnh Quán được, hăy nên tưởng
theo nhân quả, hoặc tưởng [người nữ] ấy
là mẹ, chị, em, con gái v.v… th́ [ư niệm bất tịnh]
sẽ tiêu diệt.
6)
Hỏi: Năm trước, ân sư trả lời thư,
đă dạy rằng: “Tu pháp môn Tịnh Độ phải
có chuyên và viên. Do căn khí của chúng sanh chẳng đồng
nhất, khiến cho chư tổ lập pháp bất đồng.
Ngài Thiện Đạo dạy mọi người nhất
tâm tŕ danh, đừng tu các tạp nghiệp khác, v́ sợ kẻ
căn cơ trung hạ do tạp nghiệp đến nỗi tâm trí khó chuyên nhất.
V́ thế, Ngài dạy chuyên tu. Tổ Vĩnh Minh dạy ‘vạn
thiện cùng tu, hồi hướng Tịnh Độ’, v́ sợ
người thượng căn hành tŕ sẽ thiên lệch,
đến nỗi phước huệ chẳng thể xứng tánh viên măn. V́
thế, Ngài dạy viên tu”. Con trộm nghe “một
câu Di Đà thích hợp khắp các căn. Theo chiều dọc,
thấu triệt năm thời. Theo chiều ngang, bao trùm
tám giáo. Lục độ vạn hạnh không ǵ chẳng được
bao gồm. Nương theo đó để thành Phật vẫn
c̣n có thừa”. Cớ sao chuyên tu chỉ hạn
chế trung hạ, thượng căn lại lo thiên lệch?
Như thế th́ đối với các nghĩa “thích hợp
khắp, bao trùm” v.v… tợ hồ mâu thuẫn! Đệ
tử ngu muội, kính xin thầy dạy rơ.
Đáp:
Sao ông lại coi lời nói viên thông thành lời thiên lệch?
Một câu A Di Đà bao gồm toàn thể các pháp. Thượng
căn chẳng thể vượt ra ngoài, trung hạ sẽ
do vậy mà chuyên ṛng, cho nên có thể đạt được
lợi ích viên măn. Thượng căn có thể tu trọn
khắp, nhưng chỉ chuyên tu cũng chẳng phải là
không được. Tuy vậy, đối với
chuyện giáo hóa, sợ rằng chẳng thể nhiếp trọn
khắp các căn cơ. Chí của ông thuở trước
vốn to lớn không ǵ chẳng sót, nhưng cho đến
nay vẫn có thiên kiến này, tức là do chưa thể thấu
triệt lư mà ra!
7)
Hỏi: Con kính hỏi, trong các chùa thường có thánh
tượng A Di Đà Phật đặt ở phía Đông xoay mặt
về phía Tây. Nếu tụng niệm xong bèn hướng về
đó hồi hướng, tức là [chính ḿnh] xoay lưng về
phía Tây, tâm khá bất an. Con tính dời sang chỗ khác để
hồi hướng cho thỏa đáng, có nên hay chăng?
(nói theo lời một vị đệ tử, chẳng phải
là Tăng chúng trong chùa đều cho là như thế).
Đáp:
Tây Phương Cực Lạc thế giới, phương
nào cũng đều có A Di Đà Phật. Có thể đúng
pháp th́ cố nhiên là tốt. Nếu không, tưởng
như thế cũng chẳng trở ngại ǵ!
8)
Hỏi: Đứa con gái lớn của con tánh t́nh chẳng
sáng suốt, nhanh nhạy, nhưng khá điềm tĩnh,
chuyên dốc. Như kinh A Di Đà, Cảm Ứng Thiên, Đại
Học, Luận Ngữ, cháu đều tụng thông thạo.
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Nữ Luận Ngữ[2]
cũng có thể đọc theo. Mỗi ngày lễ Phật
bốn mươi tám lạy, đọc kinh Di Đà, Hạnh
Nguyện Phẩm, Cảm Ứng Thiên mỗi thứ một
lượt, niệm Phật một ngàn câu. Con c̣n tính dạy
cháu học Mao Thi[3],
khiến cho nó biết nhiều chữ hơn. Lại c̣n dạy
kinh Địa Tạng, phẩm Phổ Môn, kinh Ngọc Da Nữ,
bốn mươi tám nguyện, chương Cửu Phẩm
[trong Quán Kinh] v.v… chẳng biết có rườm rà quá hay không? Chẳng
bằng dạy cháu chuyên niệm Phật khiến cháu dễ
đạt tới nhất tâm ư? Cũng xin thầy chỉ
điểm, khôn ngăn cảm kích.
Đáp:
Vạn phần chẳng thể đọc Mao Thi, do trong Quốc
Phong[4],
phần nhiều là [các bài thơ] thuộc về t́nh cảm
nam nữ. Các cô gái chưa thể đặt vững chân, hễ
đọc sách ấy, sẽ có thể nẩy sanh mơ
tưởng t́nh ái. Hăy nhớ kỹ nhé! Con gái th́ có sự
nghiệp của con gái. Thêu thùa chẳng học cũng không
sao, nhưng may vá quyết chẳng thể không học! Nếu
chuyên nhất tu hành, hoặc chẳng lấy chồng, hoặc
xuất gia, dẫu không học [may vá] cũng chẳng bị
ảnh hưởng lớn lao; nhưng cũng cần phải
học cho biết th́ mới tốt. Nếu theo chồng,
trọn chẳng thể không học may vá. Nếu không, sau này, ắt sẽ bị
hạn chế, và bị kẻ khác bắt nạt!
* Thư trả lời
cư sĩ Niệm Phật (thư thứ ba)
Ông
X… nghe nói sách ấy giá quá cao, toan đem Thiên Phật Đồ
Chinh Văn in thạch bản bán giá cao, đó là chẳng hợp
lư. Có lẽ nên chỉ tính lời đôi chút th́ sẽ hữu
ích cho cơi đời. Bán giá cao th́ người viết lời
bạt [cho sách ấy] sẽ trở thành kẻ môi giới
để kiếm lợi. Nói hay ho là để sách
được lưu thông, nhưng nói thẳng ra là cầu
lợi! Lại nghe nói tranh Phật do kẻ đó vẽ,
đă tùy ư ḿnh mà vẽ tướng khác lạ, cũng là chẳng
đúng pháp! [Quy tắc vẽ] Phật và La Hán khác nhau. La Hán
có thể vẽ thành các h́nh trạng khác nhau, nhưng Phật
th́ chỉ có thủ ấn (mudra) hơi khác
đôi chút, sao lại vẽ mỗi vị Phật mỗi
khác! Nếu vẽ mỗi vị mỗi khác, sẽ trở
thành đùa bỡn, khinh nhờn, lỗi ấy chẳng nhỏ! Quang đă viết lời tựa
và bài tụng xong xuôi mới nghe chuyện này. Nếu đă
nghe từ trước, sẽ chẳng viết!
Đối
với chuyện ngài Linh Phong khuyên mọi người lễ
Quán Âm vào ban đêm, chớ nên chấp chết cứng, cho rằng
nhất định phải lễ vào ban đêm. Bất quá,
do ban đêm yên tĩnh, tâm thanh tịnh, dễ thấy hiệu
quả nhất. Chớ nên cho người khác biết, mà cũng
chớ nên chấp trước, nhằm đối trị
cái tâm háo danh. Nếu chẳng thể không khiến cho
người khác biết th́ người khác biết cũng
chẳng có lỗi ǵ. Nếu khoe khoang sự tu tŕ của
chính ḿnh, sẽ trở thành “cầu được
tiếng tăm!” Người
đời nay chẳng tu Pháp Hoa Sám Pháp, cần ǵ phải kiểm
nghiệm tướng trạng tu chứng của Pháp Hoa
tam-muội? Phàm tu hết thảy các pháp môn, nói chung là dùng
ḷng chí thành, cung kính, cầu tâm hợp với đạo,
tâm hợp với Phật, đừng chú trọng thấy
cảnh giới thù thắng, mầu nhiệm, sẽ chẳng
đọa vào ma sự. Nếu do vọng tâm bộp chộp,
muốn thấy cảnh giới thù thắng, nhiệm mầu,
tâm mong mỏi như đói, như khát; đó là duyên do đọa
vào cảnh ma. Nếu hiện thời chẳng mất trí,
phát rồ, cũng là may lắm, chớ nên như thế!
Hai
đứa con ông lười học, cũng là do túc nghiệp
khiến thành như thế. Hăy nên bảo chúng nó lễ niệm
Quán Thế Âm để tiêu trừ ngu si, chúng nó sẽ tự
chịu học! Lại nên tạo công đức cho chúng nó,
và niệm Quán Âm, v́ chúng nó cầu nguyện, sẽ dễ thấy
hiệu quả.
Đối
với căn bệnh của bạn ông, Quang có một toa thuốc
tuyệt diệu. Nếu chịu uống, không ai chẳng lập tức
lành bệnh. Nhưng toa thuốc ấy cực kỳ khô
khan, nhạt nhẽo, không chỉ ông ta chẳng chịu uống,
mà sợ rằng vợ ông ta cũng chẳng chịu uống,
sẽ khó thể thấy chuyển biến tốt đẹp
được! Ông chỉ biết ông ta sau khi bị bệnh
c̣n chưa b́nh phục hẳn, lại bị bệnh rồi
lại chẳng lành hẳn, chẳng biết nguyên do dẫn
đến bệnh tật và chưa b́nh phục của ông
ta, sao có thể khiến cho bệnh t́nh của ông ta khỏi
hẳn, thân thể khỏe mạnh được ư?
Xét theo lời ông kể, Quang phỏng đoán là do ông ta làm
chuyện pḥng the quá độ; do vậy đến nỗi
mắc bệnh. Bệnh c̣n chưa phục hồi như
cũ, lại lo ân ái. V́ thế, tâm trạng
ủ rũ, tâm thần uể oải, lờ đờ, ngủ
mê mệt chẳng tỉnh, hành vi hỗn loạn. Nếu là
kẻ chưa thể thường ở nhà thân thiết với
vợ, th́ hoặc là do tà dâm, hoặc thủ dâm, hoặc
mơ tưởng nữ sắc, tinh tiết ra, hoặc c̣n
mộng tinh, hay di tinh. Đó là bệnh chung của kẻ
thiếu niên thông minh. Bệnh ấy chẳng trị, chắc
sẽ đến nỗi chết, nói ǵ đến chuyện
khỏe mạnh được! Huống hồ nay [bạn
ông] ở nhà, sống chung với vợ, nguy hiểm c̣n
hơn vào chốn vực sâu, đi trên băng mỏng. Nếu
vợ hiền thục, sẽ chẳng đến nỗi quá
đáng. Nếu vợ cũng coi đó là chuyện vui sướng,
sợ rằng lâu ngày sẽ “ô hô! ai tai” (Than ôi! buồn
thay), sẽ có cùng một kết quả như ông La Tế
Đồng[5].
Nếu
ông mong bạn ông sống lâu, khỏe mạnh, hăy nên nói cặn
kẽ với ông ta về nỗi hại của chuyện
t́nh dục nam nữ, khiến cho ông ta và vợ cùng sanh ḷng
kiêng sợ. Hai người khuyên nhắc lẫn nhau, lập
thệ ước đoạn dục một năm. Trong một
năm ấy, không chỉ chẳng thể cùng ở chung một
nhà với vợ, mà c̣n nên nhất quyết chẳng thấy
nhau. Bảo vợ hăy thường ở bên nhà mẹ, ngơ hầu
chẳng đến nỗi v́ trông thấy nhau mà động
t́nh, hoặc không thể tự kiềm chế, hoặc do
ḱm nén mà lập tức tiết tinh, sẽ trở thành vô
ích! Lại nên thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát
để mong được âm thầm gia hộ. Phẩm
Phổ Môn có nói “nếu có chúng sanh nhiều dâm dục,
thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ
được ĺa dục”. Lại đem Thọ Khang Bảo
Giám bảo vợ chồng họ đều đọc kỹ,
sẽ tự biết, tự yêu thương ḿnh, chẳng
đến nỗi do khoái lạc mà giết mất thân mạng!
Năm
Dân Quốc thứ mười (1921), ông Mă Khế Giác ở
Ninh Ba đang bệnh mà cưới vợ, chưa đầy
nửa năm liền mắc chứng bệnh giống
như bạn ông. Ông ta giữ sổ sách cho người
khác, chẳng thể chống đỡ nổi. Mùa Xuân năm
sau, bèn lánh sang sống tại chùa Pháp Vũ. Hằng ngày tŕ
thánh hiệu Quán Âm suốt nửa năm mà vẫn chưa
b́nh phục hẳn. Bà mẹ sợ ông ta xuất gia, lôi kéo
bố vợ và chủ tiệm kêu ông ta quay về trông coi sổ
sách như cũ. Nhưng mỗi lần trở về nhà, h́nh hài lại
tiều tụy. Ông ta tự nói mấy tháng chẳng về,
vẻ mặt rất tốt. Về nhà ở dăm ba bữa,
đúng là giống như một người khác. Do thân thể
bệnh tật chưa hoàn toàn b́nh phục, lại trải
qua chuyện pḥng sự gây hao tổn, cho nên đến
nỗi như thế. Tháng Chín năm ngoái, Quang đến Thượng
Hải. Ông ta đến gặp Quang, vẻ mặt rất
tốt. Tới khi Quang trở về núi, đến Ninh Ba,
th́ vẻ mặt của ông ta đă kém xa trước kia.
Quang hỏi: “Ông đă về nhà rồi à?” Ông ta hỏi: “Sao
thầy biết?” Quang nói: “Nh́n sắc mặt ông, biết
ông lại phạm chuyện pḥng sự!” Ông ta thưa: “Con
đă về nhà ở bốn hôm, chỉ hành sự hai lần,
liền đổi khác ngay. V́ sao vậy?” Quang nói: “Người
cường tráng bảy ngày mới có thể khôi phục [sau khi hành pḥng]. Huống chi ông
đă bị bệnh sẵn, trong ṿng bốn ngày lại hành
pḥng hai lần ư?” Ông ta liền tự than thở, hổ
thẹn. Người ấy khá có thiện căn, ăn chay
trường, niệm Phật. Tuy chưa học hành nhiều,
nhưng viết lách thư từ văn nghĩa rất trôi
chảy, nhưng cũng may mà chẳng chết! Hơi chẳng
cẩn thận th́ xương đă khô từ lâu rồi, há
c̣n có ngày nay ư? Vợ ông ta chẳng biết chữ, chẳng
thông hiểu văn lư. Vợ bạn ông là người biết
chữ, hiểu văn lư. Nếu chịu vâng theo đạo
để bảo vệ chồng, bạn ông sẽ sống
thọ, khỏe mạnh.
Do
Quang thấy các ông coi Quang là thầy, giống như thầy
thuốc chữa bệnh, ắt phải nói tường tận chuyện cấm kỵ.
Đừng bảo Quang là tăng nhân mà bàn cặn kẽ
chuyện pḥng the của nam nữ rất không thích đáng,
th́ một phen khổ tâm của Quang chẳng đến nỗi
đành đổ sông, đổ biển, mà cái tâm yêu
thương bạn của ông cũng đạt được
hiệu quả thật sự! Mong hăy đưa thư này
cho bạn ông xem, cũng nên sao thành một bản để
vợ ông ta xem. Lại nên ai nấy đều giữ lấy,
lâu lâu lại xem, sẽ thấy vợ chồng sống
đến già, con cháu đều mập mạp, khỏe mạnh.
Quang bàn về căn bệnh của bạn ông, vẫn sợ
ông ta chẳng cho là đúng, hăy nên dẫn lời Mạnh lăo
phu tử để nói với ông ta. Mạnh Tử nói: “Dưỡng
thân giả, mạc thiện ư quả dục. Kỳ vi
nhân dă quả dục, tuy hữu bất tồn yên giả quả
hỹ. Tắc kỳ vi nhân dă đa dục, tuy hữu tồn
yên giả, quả hỹ” (Đạo dưỡng thân
không ǵ bằng ít ham muốn. Kẻ làm người mà ít ham
muốn, tuy có kẻ đă chết, nhưng số đó ít
lắm. Kẻ làm người mà nhiều ham muốn, tuy có
người sống sót, nhưng ít lắm). Thiếu niên chỉ
biết dâm dục là vui, chẳng biết nó chính là cái gốc
để tàn phá thân thể, mất mạng! Vui sướng
trong một khắc, khổ suốt bao kiếp, chẳng
đáng buồn ư?
Năm
Dân Quốc thứ mười (1921), tôi sang Dương Châu,
thuận đường đến Nam Kinh gặp Vương
Ấu Nông. Ông ta giữ ở lại một đêm, để
có dịp gặp một người bạn chưa hề
gặp mặt là Lưu Viên Chiếu. Viên Chiếu mời bạn
ông ta là Ngụy Mai Tôn đến. Ông này vốn giữ chức
Hàn Lâm, nhà lại giàu có, cho nên cái tật thích ăn ngon đặc
biệt nặng nề! Ông ta nói: “Tôi cũng tin Phật pháp,
cũng chịu niệm Phật, cũng đă từng xem
Văn Sao của thầy, chỉ là chẳng thể ăn
chay”. Quang nói: “Phú quư khó học đạo, nhưng ông muốn
ăn chay, tôi cũng có cách”. Ông ta hỏi: “Có cách ǵ vậy?”
Quang nói: “Xin đọc thuộc ḷng bài Sớ về ao phóng
sanh ở Nam Tầm của Quang, chắc chắn sẽ có
thể ăn chay. Nếu đọc một hai lần sẽ
chẳng được, cần phải đọc đi
đọc lại, đọc tới
đọc lui th́ mới được”. Lời ấy
nói vào ngày Mười Hai tháng Tám năm Dân Quốc thứ
mười (1921). Tới tháng
Mười, nhằm dịp ông ta sanh nhật sáu mươi
tuổi, sợ sát sanh, bèn lánh sang Kim Sơn cho qua sanh nhật,
trở về liền ăn chay trường. Năm sau
đó, liền phát tâm mở đạo tràng phóng sanh. Ông ta
là kẻ chẳng thể ăn chay, một khi đă biết
nguyên do, ngay lập tức trừ ngay thói ham ăn ngon. Bạn
của ông nếu đọc nằm ḷng bài sớ ấy, và
các văn tự kiêng giết trong Văn Sao của Quang,
cũng sẽ sanh ḷng chẳng nỡ, không chỉ chẳng
dám mua con vật c̣n sống về giết, mà con vật
đă chết cũng chẳng đành ḷng nuốt trôi
được!
* Thư đặt
mua Đại Tạng Kinh bản khắc đời Tống
được in theo lối ảnh ấn[6]
cho Linh Nham Sơn Tự
Lời tựa đă viết xong, nay v́ Linh
Nham Sơn thỉnh một bộ. Khoản tiền năm
trăm tám mươi tám đồng (kinh là năm trăm năm
mươi hai đồng, bưu phí hai mươi đồng,
bốn hộp đựng kinh là bốn mươi đồng,
bưu phí ba đồng), mong hăy giao thư này cho ḥa thượng
Chân Đạt ở chùa Thái B́nh. Quang có khoản tiền gởi
ở chỗ thầy ấy, thầy ấy sẽ giao cho.
Sách in ra, xin gởi cho bưu điện thuộc trấn Mộc
Độc ở Tô Châu, giao cho thầy Đương Gia của
Linh Nham là Diệu Chân. Mỗi lần gởi đều cần
phải ghi rơ tổng cộng là bao nhiêu bưu kiện để
chẳng đến nỗi thất lạc.
* Thư trả lời
cư sĩ Trâu Trí Chương
Hôm
trước đă nhận được ảnh chụp
và thư của ông gởi, do chẳng rảnh rỗi,
đến nay mới trả lời. Người thông minh
trong thế gian thường coi chuyện pḥng the giữa
nam nữ là chuyện b́nh thường như ăn cơm,
uống trà, đến nỗi khá nhiều kẻ đoản
mạng mà chết. Dẫu chẳng chết, cũng trở
thành tàn phế. Bệnh của ông, há thuốc men thế
gian có thể trị lành được chăng? Mong hăy lắng
ḷng thường niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”.
Nếu thật sự chí thành, khẩn thiết, gạt bỏ
vọng niệm, ắt sẽ có thể ngưng thổ huyết,
chẳng bị di tinh. Nếu cái tâm dâm dục chẳng dứt,
tâm niệm Bồ Tát chẳng khẩn thiết, sẽ khó cảm
thông, chớ quở Bồ Tát chẳng linh, lời tôi dối
trá vậy!
* Thư trả lời
cư sĩ Hứa Huệ Phảng
Xem
thư ông, biết ông đang bị bệnh, quá đáng
thương! Hăy nên gạt bỏ hết thảy các chuyện
râu ria, nhất tâm niệm Quán Thế Âm. Cớ ǵ lại muốn
chép kinh để cầu lưu danh nơi công quán ấy?
Nay tôi nói cho ông cách để chữa trị căn bệnh
“không có cách ǵ chữa trị”. Nếu ông thật sự có
thể phát tâm chân thành tự lợi, lợi ích người
khác, ắt sẽ có thể nghiệp tiêu, bệnh lành!
Năm
Dân Quốc thứ mười (1921), Từ Úy Như lo chuyện
khắc Đại Tạng Kinh ở Bắc Kinh, do dụng
tâm quá độ, hai năm trước bị mắc bệnh
ḷi dom. Sau khi đại tiện, phải nằm một khắc,
chờ ruột rút lên rồi mới dám cử động.
Đầu tháng Giêng, do có công chuyện, sau khi đi tiêu xong,
liền ngồi xe đi, bị chà sát, [ruột] vĩnh viễn
không co lên được! Suốt bảy ngày đêm đau
đớn đến mức không thể chịu được,
như bị nhiều cây kim cùng đâm. Đau đớn cùng cực, không làm sao được; v́ thế, ông ta
phát tâm nói: “Bệnh này khổ quá, chỉ mong khi tôi bị
nhiều bệnh khổ, nguyện cho cả thế gian
không bị loại bệnh khổ này!” Rồi liền niệm
Quán Thế Âm; không lâu sau, ngủ thiếp đi. Đến
khi tỉnh giấc, hoàn toàn b́nh phục. Bệnh cũ suốt
hai năm, từ đấy vĩnh viễn hết tận
gốc. Sau đó, ông ta viết thư cho Quang. Quang nói:
“Căn bệnh ấy của ông tuy do dụng tâm quá độ,
cũng thuộc về túc nghiệp cảm vời. Do ông
phát cái tâm đại Bồ Đề ấy, cho nên
được lập tức tiêu trừ túc nghiệp,
đoạn dứt bệnh căn. Cái tâm ấy chẳng dễ
phát”. Ông ta nói: “Do lúc đó nhằm ngay lúc con đang giảo
chánh phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa
Nghiêm. Đối với đại nguyện và đại
hạnh trong phẩm Thập Hồi Hướng, phàm phu và
Nhị Thừa chẳng thể mong bén mảng được!”
Ông chẳng dụng tâm chân thật sám hối, lại dụng
tâm nơi tiếng tăm hư huyễn, dẫu có lợi
ích, sao chẳng hiềm túc nghiệp sâu nặng vậy thay?
* Thư trả lời
cư sĩ Trần Huệ Cung
Mỗi
người nhập đạo đều có nhân duyên. Gần
đây, một đệ tử ở Cam Túc tên là Trịnh
Triết Hầu, đă sáu mươi bốn tuổi.
Trước lúc sáu mươi tuổi, ông ta coi Phật
như thứ ô uế, tránh xa c̣n chẳng kịp. Lúc sáu mươi tuổi,
thấy Văn Sao bèn đọc, suất lănh cả nhà ăn
chay, niệm Phật dường như sợ chẳng kịp.
Năm nay, nhiều lần gởi cúng dường các khoản
tiền lớn, mong cầu siêu cho tổ tiên, sám hối tội
lỗi, trai tăng, phóng sanh, thỉnh kinh, tạc tượng
Phật, cũng như giúp cho mấy chỗ đang tu sửa
đại điện. Người như thế, thoạt
đầu chẳng muốn nghe danh hiệu Phật, nay bèn
niệm, chỉ sợ chẳng đủ thời gian. Cơi
đời có thiện nhân chẳng chịu niệm Phật,
cũng là do túc nghiệp khiến thành ra như vậy, chẳng
biết Phật là chỗ nương cậy to lớn cho hết
thảy chúng sanh.
Lại
nữa, một đệ tử ở Vân Nam, tuổi sắp
bốn mươi, hiếu thảo với cha mẹ, ḥa thuận
với anh em đă thành tánh, khuyên cha mẹ ăn chay, niệm
Phật. Cha người ấy rất thông hiểu các
nghĩa của Nho và Đạo, lại tin Thiền Tông, chẳng
chú trọng niệm Phật. Người ấy đă nhiều
cách khuyên nhủ, và khuyên cha đọc các sách như Văn
Sao v.v… Cha người ấy bèn hướng dẫn [người
khác hành theo], chẳng tiếc sức thừa. Rằm tháng
Tư, người con bị bệnh
chết đột ngột, người mẹ v́ thấy
con chết, liền uống thuốc độc tự sát.
Nào có biết sau khi uống thuốc độc, thân tâm an lạc,
chánh niệm phân minh, niệm Phật an tường qua
đời. Quàn xác hai ngày, trọn chẳng có mùi thối.
Sáu bảy ngày sau, rải tro ngoài đồng, hiển hiện nhiều tướng lành như hoa sen v.v… Lập tức
người trong vùng, ai nấy đều sanh tâm chánh tín. Niệm
Phật đến lúc thuần thục, chất độc
chẳng thể làm người ấy trúng độc
được. Cha người ấy hôm trước có gởi
thư đến, Quang gởi cho ông ta bảy mươi
gói sách để giúp cho việc giáo hóa, hướng dẫn.
Trầm Nhất Cơ đă phát tâm quy y, ắt sẽ đề
xướng to lớn. Do ông ta đă từng làm lâm trưởng,
thích điều lành, chuộng bố thí, sẽ chuyên hoằng
dương pháp môn này. Nay đặt pháp danh cho ông ta là Huệ
Dương (慧揚), ư nói: Nương theo trí huệ Phật pháp để hoằng
dương, tự lợi, lợi người rộng khắp.
* Thư trả lời
cư sĩ Khế Như
Pháp
danh được viết trong tờ giấy khác, mong hăy
chuyển giao [những người xin quy y]. Doăn Minh tám
mươi hai tuổi, hăy nên nhất tâm niệm Phật cầu
sanh Tây Phương. Cũng nên dạy người nhà, quyến
thuộc niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Trừ
hai chuyện ấy ra, hết thảy
đều chẳng bận tâm tới. Lại cần bảo
các quyến thuộc, khi cụ lâm chung,
mọi người đều v́ cụ trợ niệm Phật
hiệu. Chớ nên lau rửa thân thể, thay áo sẵn, hỏi
han hậu sự, và an ủi thừa thăi. Cứ đợi
cho tới sau khi cụ tắt hơi hơn ba tiếng đồng hồ, sau đấy mới sắp
đặt [chuyện mai táng], ngơ hầu chẳng đến
nỗi do hiếu tâm mà lầm lạc đại sự sanh
tử của cha mẹ. Hăy nên dựa theo Sức Chung Tân
Lương để khuyên cả nhà và quyến thuộc. Ngoài ra, đều
nên khuyên [mọi người] giữ vẹn luân
thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng
tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành
các điều thiện, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng,
ăn chay, niệm Phật, quyết định cầu sanh
Tây Phương Cực Lạc thế giới, chớ nên cầu
phước báo nhân thiên cho đời sau. Đó là điều
hết sức trọng yếu. Chuyện viết lời tựa
phóng sanh, xin hăy thỉnh người khác viết, do tôi mục
lực lẫn tinh thần chẳng đủ, bận bịu
lắm việc. Một cụ già đă bảy mươi
lăm tuổi, sao có thể thù tạc các chuyện
như thế được!
* Thư trả lời
Hàn Thế Tử
Sách
Vật Do Như Thử[7]
đă giao cho Tập Cần Sở[8]
sắp chữ ấn hành. Quang v́ muốn sách được
lưu truyền rộng khắp, bèn sửa thành một quyển,
thống nhất số trang. Đầu sách, Quang viết lời
tựa. Phàm các lời tựa trước đó, đều
xếp ngay sau đó. Mục lục cũng quy về một
chỗ. Văn từ trong sách nhất loạt chẳng sửa
đổi. Do mục lực của Quang chẳng đủ,
chẳng thể xem. Ông Từ học thức khá phong phú, tiếc
rằng đối với Phật pháp vẫn c̣n bị
ngăn cách. Sách này chính là pháp thế gian, cho nên chẳng có
ǵ không thích đáng. Chỉ có điều trong phần lời
b́nh cho chương thứ nhất là Thông Huệ Giám (tấm
gương thông huệ), dẫn lời chú giải Tâm Kinh của
ngoại đạo, chẳng phải là không có tỳ vết
nhỏ. Môn sinh nhỏ tuổi nhất của ông ta xuất
gia tại Phổ Đà Sơn, từng kể tường
tận chuyện của thầy ḿnh cho Quang nghe. Ông ta thọ
chín mươi sáu tuổi, khi lâm chung, nhạc trời vang rền
trên hư không, đó là đă sanh lên trời vậy! Sách Vật
Do Như Thử chỉ sắp chữ theo cỡ chữ số
ba. Sách có khổ lớn, mỗi trang mười hai cột,
mỗi cột ba mươi hai chữ, cũng tính in ba vạn
cuốn. Nếu quư xă cần dùng Chỉ
Bản, cũng có thể tặng cho một bản. C̣n Chỉ
Bản gốc th́ vẫn phải dùng để ấn loát,
chẳng giống như sách Kỹ Lộ Chỉ Quy cần
phải sửa đổi thành văn ngôn. Nếu muốn
dùng, xin báo cho biết, tôi sẽ bảo họ làm thêm một
Chỉ Bản nữa. Chỉ Bản của sách Kỹ Lộ
Chỉ Quy đă tặng cho Bắc B́nh Trung Ương Khắc
Kinh Viện một bản,
hiện c̣n ba bản. Sách Vật Do Như Thử cũng muốn
làm theo cách ấy. Hiện thời, thế đạo lẫn
ḷng người chẳng thể cứu văn, do bởi sách
này, may ra có thể tạo ích lợi cảm phát vậy!
* Thư trả lời
cư sĩ Triệu Tuấn Phong
Trước
kia, chẳng dám gởi thư v́ Nam Bắc đường
sá xa xôi; hễ họ ra đi, chẳng thể nào không tốn
mấy chục đồng. Huống hồ thổ phỉ
tràn ngập khắp nơi. Nếu trên đường, gặp
phải chuyện kiểu này, sẽ phải làm như thế
nào đây? Hơn nữa, tôi chưa từng gặp họ, thật, giả khó thể biện định. Nếu họ đến,
Quang cũng chẳng có cách nào xếp đặt ổn thỏa
được! Do vậy, một mực chẳng gởi
thư từ chính là biện pháp ổn thỏa nhất. Nay
đă gởi thư, hăy nên nói với người ở quê
nhà: “Ngàn vạn phần đừng đến phương
Nam! V́ hễ đến, chẳng tốn mấy chục
đồng sẽ không được!” Hơn nữa, Quang
định năm sau ĺa Tô Châu ở ẩn thật xa, cho
nên sẽ chẳng gặp. Dẫu gặp, Quang cũng chẳng
thể giúp họ lộ phí trở về. Huống hồ bến
tàu ở phương Nam có rất nhiều kẻ
xấu, thấy người nhà quê, họ sẽ dùng mưu
kế dụ dỗ, lường gạt, ắt sẽ khiến
cho tất cả mọi thứ của kẻ khác thuộc
về ḿnh th́ mới cam ḷng!
Hơn
nữa, pháp Niệm Phật dựa theo những ǵ kinh điển
đă nói để tu hành, chẳng có ǵ bí mật, trọn
chẳng có đạo lư “miệng truyền, tâm trao”,
sao lại mạo hiểm t́m đến? Dẫu có đến,
Quang cũng chẳng thể cung cấp chi phí cho quư vị
được! Quang là một tăng nhân nghèo nàn, một mực
chẳng có chùa, sống nhờ chùa người khác, cũng
chẳng có một đồ đệ
xuất gia nào. Dẫu có người
biếu tiền cho tôi, hễ nhận được bèn
dùng ngay, hoàn toàn chẳng giữ lại. Nếu đồng
hương, đồng tộc t́m đến, đừng
nói là chẳng có tiền để cung cấp, ngay cả
chuyện ăn ở cũng khó ứng phó! V́ một người
cung cấp cho ngần ấy người, sao có sức ấy?
Lại c̣n hoàn toàn chẳng quen biết, sao lại mạo muội
t́m đến? Đă là mạo muội t́m đến, chỉ
đành dùng cớ “chẳng quen biết” để cự tuyệt, ḥng khỏi phải v́ một
người mà dẫn đến nhiều người
lũ lượt làm phiền! Nếu một người
biết “từ bụng ta, suy ra bụng
người”, ắt sẽ chẳng có kiểu
mong mỏi vô đạo lư ấy! Nếu không, chỉ có tự
chuốc lấy phiền năo!
* Thư trả lời
cư sĩ Trương Tri Giáp
Mấy
ngày trước nhận được thư ông và sách bổ
ích, quư giá; do vậy, bảo người ta gởi cho hai Niệm
Phật Đường Xích Thành và Tử Quang mỗi
nơi một trăm hai mươi lăm gói kinh sách, giao
cho Triệu Tuấn Phong và Vương Tín Phủ. Hôm qua, tôi
mới viết thư cho hai người ấy, chỉ một
lá thư để hai người cùng xem. Sách quư giá, bổ
ích gởi kèm vào đó, không chỉ đỡ tốn lệ
phí, mà c̣n ít bị lay động, hư hao. Ba ngày trước,
lại nhận được thư của nhóm ba người
Triệu Vũ Khôn (em trai của Tuấn Phong), cho biết
mùa Xuân năm sau họ muốn đến Tô Châu. Trong
thư gởi cho Tuấn Phong, Quang đă nói cặn kẽ nỗi
họa hại do đến Tô Châu, bảo ông ta nói với mọi
người để đôi bên khỏi cùng bị phiền
lụy, hoàn toàn vô ích! Một lần đến phương
Nam, cả trăm đồng sẽ chẳng đủ dùng.
Bọn họ mỗi người lo liệu mấy chục
đồng, sợ chẳng dễ dàng [làm được]!
Nếu họ đến, Quang sắp xếp họ ở
chỗ nào?
Huống
hồ lại là người trọn chẳng quen biết,
chỉ dùng danh nghĩa “đồng hương, đồng
tộc” để đến. Một người đă
chẳng dễ tiếp đăi, nhiều người th́ sắp
xếp như thế nào đây? Nếu hoàn toàn bù lại lộ
phí cho họ, Quang chẳng thể nào lo nổi! Bọn họ
uổng công một phen đi lại, lại c̣n tốn mấy
chục đồng! Trong thế gian, kẻ không hiểu biết
thường sẽ do khốn khó mà nẩy sanh mong mỏi
kiểu đó, đâm ra đă nghèo túng càng thêm nghèo túng,
đôi bên cùng chịu tổn hại. Mong cư sĩ hăy phát
tâm từ bi, cũng gởi thư cho Tuấn Phong và Tín Phủ,
khuyên hết thảy mọi người chớ manh nha ư niệm
xuống phương Nam. Chỉ nên dựa theo các sách đă
gởi như Gia Ngôn Lục v.v… để tu tŕ, sẽ liền
có thể đạt được lợi ích chân thật.
Nếu cư sĩ có thể nêu cặn kẽ lợi hại,
những kẻ vô tri sẽ chẳng đến nỗi riêng
ḿnh đến chịu khổ! Huống chi năm sau Quang sẽ
ĺa Tô Châu, ẩn cư nơi xa, một thân tôi c̣n ngại
nhiều, không có chỗ nào để an thân! Huống hồ
họ là đồng hương, đồng tộc trọn
chẳng quen biết, làm sao có thể khiến cho họ đều
được măn nguyện trở về? Việc này quan hệ
quá lớn! Nếu chẳng lập cách cực lực
ngăn cản, ắt họ sẽ nhọc nhằn v́ chuyện
này, có thể đến nỗi chết ở bên ngoài nhiều
lắm! Mong ông hăy v́ họ phát tâm từ bi, ngơ hầu Quang lẫn
những người đồng hương, đồng tộc
đều được hưởng lợi ích thực tế.
Chưa
thể định được ngày ra sách của Cửu
Hoa Chí. Ước chừng trong mùa Hè có thể ra sách. Khi có
sách, sẽ gởi cho ông một gói, cần ǵ phải hỏi
sẵn ngày tháng? Chuyện này thuộc về công việc của
nhà in, chẳng thể chuyên v́ chuyện này mà buộc họ
lập tức dựa theo kỳ hạn để giao sách
được. Chuyện họ phải làm rất nhiều,
cho nên mỗi chuyện đều phải thực hiện
dần dần. Nay gia đ́nh tôi lại lập tự (chọn
người làm con thừa tự), hoàn toàn trái lẽ! Quang
đă xuất gia, sao c̣n có thể lập tự? Đă bảo
kẻ đó thừa tự anh cả của tôi cũng
như thừa kế anh hai. Quang là tăng nhân, trong nhà thờ
của gia đ́nh, quyết chẳng thể lập bài vị.
Nếu lập th́ tăng tục lẫn lộn, tràn lan, khiến
cho tôn ty đều mất! (ngày Mười Tám tháng Mười
Hai).
* Thư trả lời
cư sĩ Giang Hữu Bằng
Quang
một mực chẳng tin vào chuyện sửa chữa cuộc
đất [theo Phong Thủy]. V́ thế, khi ở nhờ tại
chùa Báo Quốc, đă nói thẳng với họ: “Điều
ǵ Quang chẳng biết, sẽ chẳng dám giới thiệu
cho người khác, do chuyện ấy can hệ rất lớn”.
Thường thấy những kẻ coi Phong Thủy luôn nói
kiến trúc của tiền nhân không đúng, cũng chẳng
biết những điều chính họ hiểu biết
chưa thể nào ứng nghiệm ngay được, chỉ
có thể khiến cho kẻ vô tri mê tín. Chẳng biết
[họ phán điều này điều nọ như thế]
lại đâm ra khiến cho người có kiến thức
chẳng tin tưởng.
* Thư trả lời
cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ nhất)
Tôi
chẳng muốn trả lời thư lần trước,
do ông chỉ biết một mà chẳng biết hai, chỉ
biết buộc người khác làm như thế. Nếu bảo
ông làm, cũng chẳng thể mỗi mỗi điều
đều hoàn toàn trông cậy được! Ví như luận
binh trên giấy, oai mănh vô địch, nhưng nếu đến
gần chỗ hai bên giao tranh, chỉ có bản lănh to lớn
là dùng kế sách đào tẩu. Quang chẳng
dám tán thành kế hoạch của ông. Về phần trợ
niệm suốt đêm, há có nên cắt bỏ chuyện [chia
người tham gia trợ niệm thành] ba ban luân
lưu niệm Phật [mà nói là] “chẳng ĺa thể lệ
ban đầu?” Do vậy, biết cách thức do ông đặt
ra đều là do chưa đích thân thể nghiệm, xem
xét. Đối với thư ông gởi cho vị đại
pháp sư X… tuy ư nghĩa thật đáng khâm phục,
nhưng lời lẽ thiếu uyển chuyển, ḥa nhă. Rốt
cuộc người ấy cho là hủy mạ, chẳng xin
lỗi, sám hối lỗi lầm, tức ông ta là hạng
người thường ngày tự phụ, “duy ngă độc
tôn” đă hoàn toàn bộc lộ chẳng sót. Ông ta
đương nhiên tán thành biện pháp “tinh tấn tổ”
của ông, cũng có thể thấy rơ chí hướng của
ông ta là kẻ hâm mộ những chuyện to tát, chẳng
xét kỹ chi tiết.
Đối
với bài trả lời Du Hữu Duy, Quang tột bậc bội
phục, tiếc là người ấy đă mê đến
cùng cực, thơm, thối, tà, chánh, chân, ngụy, lợi,
hại, không ǵ chẳng hiểu lầm, cho nên cũng chẳng
có hiệu quả “sửa đổi,
quay đầu”. Đáng thương,
đáng xót thay! Quang đă già rồi, chẳng có kính lăo và
kính lúp, sẽ chẳng thể đọc thư gởi
đến, nhưng [chỉ đọc] cũng đă rất
mơ hồ, huống hồ c̣n trả lời thư ư?
V́ thế, đối với bất cứ ai, đều dùng
câu “từ nay đừng gởi thư đến nữa”
để cự tuyệt, nhưng họ vẫn làm phiền
như cũ.
[Đối
với câu hỏi của ông về lá thư chất vấn
tổ Liên Tŕ của Tào Lỗ Xuyên], [những ǵ ông ta nêu ra]
là ư trong nhà Thiền, cần phải có ngộ xứ th́ mới
có thể biết thấu triệt. Lỗ Xuyên tự coi ḿnh là
bậc đại thông gia thông Tông thông Giáo, vẫn c̣n hiểu
sai ư ấy. Các hạ nếu muốn tôi nêu bày ư ấy,
đúng là câu hỏi đùa bỡn mà thôi! Các hạ hăy nên
buông xuống hết thảy tri kiến thừa thăi, nhất
tâm niệm Phật. Sau khi đă niệm đến mức “tâm
lẫn Phật đều mất”, sẽ tự cười
to, v́ đă hoàn toàn hiểu rơ! Chưa tới mức ấy,
nếu nói với người khác, họ cũng chẳng
biết. Ví như đă đến điện Hàm Nguyên[9],
các thứ trong điện ấy đều biết trọn
hết. Nếu đối với kẻ chưa đến
đó, dẫu nói rơ ràng, họ vẫn hệt như cũ mờ
mịt, chẳng rơ! Câu nói trong nhà Thiền toàn là dạy
người khác tham cứu, nếu hiểu theo nghĩa
văn tự, không chỉ chẳng đạt được
lợi ích, mà c̣n coi hiểu lầm
là ngộ, tội ấy rất lớn. Dẫu ngộ thật
sự, vẫn cách biệt liễu sanh thoát tử đă xa
càng xa hơn! Do họ chỉ cậy vào tự lực, trừ
phi sau khi đă đại ngộ bèn đoạn hết sạch
phiền năo Hoặc nghiệp th́ mới được. Nếu
không, sẽ chẳng có cách nào.
Pháp
môn Niệm Phật nếu trọn đủ nguyện chân
thành, tín thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây
Phương, nương vào từ lực của Phật,
đới nghiệp văng sanh. Căn tánh của các hạ chỉ
có thể học theo cách tu tŕ của ngu phu ngu phụ. Nếu
lầm lạc phỏng theo thân phận của Tào Lỗ
Xuyên, tôi thật sự sợ rằng ông chắc chắn sẽ
đọa vào ba ác đạo. V́ lẽ nào vậy? Do
chưa đắc mà cho là đă đắc, chưa chứng
mà bảo là đă chứng. V́ thế, hoại loạn Phật
pháp, khiến cho chúng sanh ngờ vực, lầm lạc! Gởi
cho ông một gói các sách như Văn Sao v.v… Nếu chẳng
chê là kém hèn, thô lậu, xin hăy đọc kỹ để
hành theo, ngơ hầu chẳng uổng đời này, chẳng
uổng dịp gặp gỡ này. Nếu cho là chẳng
đáng để vào mắt, xin hăy chuyển thí cho kẻ chẳng
có mắt. Về sau, chỉ có thể đàm luận cùng Phạm
Cửu, chớ nên gởi thư cho kẻ chẳng thông huệ
v́ tôi chẳng có tinh thần để thù tạc được!
* Thư trả lời
cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ hai)
Sáng
nay, nhận được thư của ông và Châu Thiện
Xương, ông chỉ mong ngóng kết quả của chuyện
ấy. Thiện Xương đă phần nào thể hiện
các chuyện diệt pháp như Quang đă nói, may mà gởi
thư cho Quang, chẳng đến nỗi uổng công chuốc
họa! Nếu gởi thư cho vị đại pháp
sư ham cao chuộng xa, chắc chắn [ông ta] sẽ cực
lực tán thành, mặc sức làm theo ḷng ham muốn, [vậy
th́] “phí tiền, mệt tâm” đă trở
thành chuyện chẳng thể tưởng tượng nổi.
Quang suốt đời chẳng cộng sự với
người khác. Chùa Pháp Vân ở Nam Kinh là do Ngụy Mai Tôn
kiên quyết lôi kéo gia nhập, nhưng
cũng chẳng có lợi ích to lớn mỹ măn cho mấy,
v́ người đời nay đều thuộc loại
ích kỷ.
Tái
bút: Tôi chỉ khoác cái danh suông là hội trưởng danh dự
của Pháp Vân Tự. Lúc Mai Tôn c̣n sống, mọi chuyện
đều gởi thư thương lượng. Khi ông ta
khuất bóng, Quang chẳng hề hỏi đến nữa.
Xin chớ nói lời ấy để khỏi bị người
khác ghi hận.
* Thư trả lời
cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ ba)
Đạo
bất đồng sẽ chẳng cùng nhau mưu tính
được! Kẻ đó chẳng bỏ chuyện cầu
cơ, chẳng thể cho quy y được! Trong tháng
Mười, có một kẻ theo đạo Kim Đan ở
Thiên Tân viết thư xin quy y, ăn nói tột bậc khẩn
thiết. Do những điều người ấy hỏi
phần nhiều thuộc về ngoại đạo, Quang
liền vạch ra chỗ cuồng vọng của kẻ
đó. Kẻ đó liền gởi thư chửi bới ầm
ĩ. Phàm đối với những kẻ “tợ hồ
đúng mà thật sự sai trái” ấy, phải nên tuyệt
giao với họ (hai chữ “tuyệt giao” được
khoanh tṛn), ngơ hầu chẳng đến nỗi phá hoại
Phật pháp.
* Thư trả lời
cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ tư)
“Như
con nhớ mẹ, nhớ Phật, niệm Phật, nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” là diệu
pháp thiết yếu nhất cho hết thảy những ai
niệm Phật. “Giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng hành các điều thiện” là
phương cách to lớn đáng nên tuân thủ trong cuộc
sống thường nhật của người học Phật.
Tự hành như thế, mà giáo hóa người khác cũng
thế. Nếu bỏ cách này, toan tạo lập những việc
ngoài bổn phận, dẫu đạt được lợi
ích nhỏ nhoi, ắt sẽ có nỗi họa to lớn ẩn
tàng. Đừng bảo lăo tăng bàn chuyện hủ bại
th́ may mắn lắm thay! Xin hiền khế[10]
Đức Chấn hăy xét soi.
* Thư trả lời
cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ năm)
Sanh
trong thời Mạt Pháp này, tự chẳng có vốn liếng,
nương vào ḷng bao dung của mọi người, trong
đời loạn “sáng chẳng dám bảo đảm tối”
này, muốn cho kinh luận của các tông đều
được lưu thông, hoằng dương pháp của
các tông cho người dân đang trong cảnh “sáng chẳng bảo
đảm tối”, lời ấy chỉ có ông dám nói, chứ
Quang chẳng dám nói. V́ lẽ nào vậy? Đừng nói ông
không có bản lănh ấy; dẫu có bản lănh ấy, chẳng
khác ǵ Phật, cũng chỉ là khế lư mà chẳng khế
cơ, sao chẳng dùng Tịnh Độ để đề
xướng ư? Chắc là ông cho rằng đề xướng
Tịnh Độ, sẽ chẳng thể bộc lộ sở
đắc do đọc Đại Tạng Kinh, đánh mất
thân phận đại thông gia của chính ḿnh
đó chăng? Ông hoàn toàn nói mớ trong mộng! Quang sợ
sau này ông sẽ bị ma dựa phát cuồng, cho nên chẳng
tiếc sức rát miệng ngăn dứt tri kiến cuồng
vọng của ông. Duyệt tạng (đọc Đại
Tạng Kinh) th́ [xem rộng kinh sách của
các tông, các pháp môn] đều được, hoằng
pháp th́ phải có pháp chuyên biệt, chủ yếu.
Đối
với pháp “thích hợp khắp ba căn, chín pháp giới
cùng tuân hành” do đức Phật đă nói mà vẫn chưa muốn chuyên nhất ư chí trong thời
buổi “sáng chẳng bảo đảm tối” này, đủ
biết ông chẳng hiểu thời thế, cuồng vọng tự
cho là đúng. Đă biết đến tác phẩm Duyệt
Tạng Tri Tân[11],
sao lại nói trước bao nhiêu chương tŕnh? Quang cứ
ngỡ là ông chẳng biết sách ấy; về sau, ông lại
nhắc đến, càng biết ông tự cho ḿnh là kẻ
thông minh, chẳng nương theo quy tắc cực thiện
do cổ nhân đă thành lập sẵn. Để luận
định các kinh luận chuyên biệt của mỗi tông,
hăy nên xem bộ Pháp Hải Quán Lan (gồm hai quyển,
Dương Châu Tàng Kinh Viện có sách ấy), sẽ thông suốt
trọn khắp các tông. Hoằng pháp trong thời buổi
“sáng chẳng bảo đảm tối, cứu chết chóc
chẳng xuể” này, chắc chắn
chẳng thể không nương theo pháp môn Tịnh Độ.
Đó là đường lối vạn phần chẳng
nghi ngờ chi! Ông hăy nên tự lượng. Nếu không, sẽ
chẳng phải là học tṛ của tôi.
Pháp
danh của những người xin quy y được viết
trong một tờ khác. Mồng Sáu, Quang sẽ sang đất
Thân (Thượng Hải), Mười Bảy quay về.
Ngày mồng Chín sẽ khởi thất, [nhưng tôi] chẳng nhập
chúng niệm tụng, mà tự niệm
trong liêu pḥng. Buổi chiều chỉ nói khai thị một
lần, bất luận người nào cũng đều
chẳng tiếp, chẳng nhận quà cáp. Ngày Mười
Sáu ở lại một hôm để truyền Tam Quy,
Ngũ Giới (chuyện này Quang chẳng chấp thuận, nhưng v́ ông
Khuất Văn Lục đôi ba lượt nhắc đến,
cho nên nói một phen). Do mắt chẳng thấy chữ, chỉ
chiếu theo phương diện b́nh thường để
nói. Quang bảo người khác làm thay, họ không chịu,
cũng chỉ đành thuận theo họ. Tất cả tiền
hương kính, bất luận nhiều hay ít, đều
dùng làm chi phí cho hội, th́ sẽ chẳng đến nỗi
mệt chết. Nếu không, chẳng thể không bị mệt
đến chết (ngày Mười Tám trở về, lại
vào quan pḥng để tránh các nơi mời mọc). Quang
đă già rồi, từ nay vĩnh viễn chớ nên gởi
thư đến nữa, cũng chẳng chấp thuận giới thiệu người khác đến quy
y. Phàm các ghi chép khi duyệt kinh, các điều ông ngộ được,
và các bản thảo nhằm nêu tỏ [ư nghĩa trong Phật
pháp] đều chớ nên gởi đến v́ Quang chẳng
có mục lực để thù tạc được!
* Thư trả
lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ nhất)
Thư ông và bốn mươi đồng
đều nhận được. Ḷng chân thành v́ mẹ của
ông có thể nói là chí thành không ǵ hơn được! Hăy
nên dùng ḷng thành ấy để khuyên mẹ ăn chay niệm
Phật, cầu sanh Tây Phương, th́ mới là ḷng hiếu
hữu ích đến
cùng tột. Các điều thế gian quen mưu tính cho cha mẹ
đều là chuyện da lông (hời hợt bề ngoài), lại c̣n tạo thêm tội
cho cha mẹ (như chuyện coi phụng dưỡng cho
cha mẹ có thịt ăn là hiếu), gây lụy cho cha mẹ
đọa lạc (như lúc lâm chung lau rửa thân thể,
thay quần áo sẵn, nói chuyện gẫu để an ủi,
hay khóc lóc, và lúc tang ma, cúng quải, dùng rượu thịt
để làm cỗ bàn cúng bái và đăi đằng
khách khứa v.v…) Các sự lư ấy là do người đời
vô tri, cho nên chẳng
đáng trách! Nếu là đệ tử Phật, vẫn cứ
vướng mắc trong tập tục ấy, chính là cậy
vào chuyện đó để đổi chác cái danh hiếu
thảo với cha mẹ; thật ra là phá hoại con đường thoát khổ
của cha mẹ, thành tựu phương tiện khiến
cho cha mẹ đọa lạc! Coi đó là hiếu, sẽ
chẳng khác t́nh yêu của La Sát nữ cho mấy! (La Sát nữ
bắt người khác về ăn thịt, bảo: “Ta yêu
ngươi nên ăn thịt ngươi!” Hiếu tử kiểu
này trong thế gian th́ vạn người có hơn chín ngàn
chín trăm kẻ; hoặc c̣n chưa được một
hai phần như thế cũng chưa biết chừng).
Nay
tôi gởi cho ông Sức Chung Tân Lương và Tang Tế Tu
Tri (các điều cần biết trong tang lễ, cúng tế),
gởi riêng ba gói sách khác để đáp tạ năm
đồng cúng dường của ông, cũng như sẽ
bảo thầy Đương Gia đọc và giải nói
thư của ông với đại chúng, bảo họ làm cỗ
chay dâng cúng, cúng Phật và Tăng, và chia tiền biếu. Lại
c̣n lễ bái, niệm Phật một khóa. Đó là v́ ḷng
thành của ông, chứ chẳng phải là lệ thường!
Trong buổi cúng Ngọ vào ngày Mười Bảy ở chùa Báo Quốc, chỉ
có năm vị Tăng, có hai vị ra ngoài chưa trở về.
Vừa khéo có bốn vị khách Tăng, biếu mỗi vị
hai cắc, đối với bảy vị tại gia làm
công quả trong chùa cũng thế, khiến cho họ sanh
tâm hoan hỷ. Lúc sắp dùng cơm, có bốn vị đệ
tử từ Thượng Hải tới, khá là hữu
duyên. Gần đây, tôi bận bịu lắm việc; v́ thế,
phúc đáp chậm trễ, mong ông xét hiểu cho!
* Thư trả lời
cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ hai)
Ḷng
người vốn thiện, do huân tập mà chuyển biến.
Thuận theo kẻ chẳng có ḷng tin, sẽ hủy báng Phật
pháp. Thuận theo người có chánh tín, sẽ tu tŕ Tịnh
nghiệp. Xă hội và quốc gia hưng thịnh hay suy bại,
cứ nh́n vào kẻ thủ lănh sẽ biết ngay! Hiện
thời, loạn lạc đến cùng cực, hăy nên dùng lư
sự “nhân quả ba đời, và lục đạo luân
hồi” để cứu văn. Kẻ nào chịu thuận
theo, sẽ v́ họ nói pháp môn Tịnh Độ, khiến
cho họ cùng niệm Phật hiệu, cùng sanh về Tây Phương.
Đó là điều trọng yếu nhất. Những vị
được nhắc đến trong thư của ông
Lưu đă muốn quy y, nay tôi đặt pháp danh cho mỗi
người, viết trong một tờ giấy khác. Quang
đă già rồi, mục lực lẫn tinh thần chẳng
đủ, chẳng thể khai thị tường tận.
Nay dùng sáu mươi lăm đồng hương nghi của
họ để gởi bốn mươi tám gói sách, mỗi
thứ đều là tám người một bộ. C̣n
dư, có thể tặng cho người
có tín tâm, hoặc người thông văn lư, có tâm cung kính. Về
sau, hăy đọc tường tận các sách đó, không mối
nghi nào chẳng được cởi gỡ, cũng chẳng cần phải viết thư hỏi han! Hăy
nên bảo họ giữ vẹn luân thường, trọn hết
bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, giữ
tấm ḷng tốt đẹp, nói lời tốt lành, làm chuyện
tốt, ngơ hầu chẳng phụ chí hướng trong sạch
cầu quy y ngày nay. Các điều khác
được nói tường tận trong Văn Sao, Gia
Ngôn Lục, ở đây chẳng ghi chi tiết. Mong ông hăy
nói với họ.
Tái
bút: Gần đây, tôi nghe một phương pháp cai thuốc
phiện rất hay. Dùng một miếng vải Tây đỏ
vuông vắn chừng một thước, cắt thành hai
mươi bốn miếng. Trước khi hút thuốc, hăy
dùng cái kim khêu thuốc phiện cắm vào một đầu
mảnh vải. Sau đó bỏ vào chén để đốt
cháy miếng vải ấy. Tro rơi trong chén, đem ḥa với
nước sôi để uống. Sau đó mới hút thuốc.
Chẳng cần dùng hết tấm vải ấy (xin hăy thử
xem), chứng ghiền đă dứt. Nếu linh nghiệm,
hăy nên truyền bá rộng răi để cứu cái họa
thuốc phiện!
Bệnh
cùi là chứng bệnh xưa nay, trong ngoài nước chẳng
thể trị lành. Hiện thời, đă có cách trị
lành, [cách ấy] được in kèm vào cuối sách Sơ
Cơ Tiên Đạo (hướng dẫn ban đầu dành
cho sơ cơ)[12],
mong hăy đọc kỹ. Lại nữa, sau toa cai thuốc
phiện, có toa trị bệnh
sốt rét[13],
linh nghiệm tột bậc, không ai chẳng được
trị lành. Có người bệnh đă một, hai, ba
năm, cũng đều có thể hễ trị liền
lành ngay. Cũng mong ông hăy nói với hết thảy mọi
người: - Sau này, bất cứ ai cũng đều chớ
nên gởi thư tới. Nếu thỉnh kinh sách, hăy nên bàn
bạc trực tiếp với Hoằng Hóa Xă, đừng nhờ
Quang chuyển.
* Thư trả lời
cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ ba)
Sách
Kỹ Lộ Chỉ Quy đă được Lư Viên Tịnh
giảo chánh một lần. Phàm các chữ viết theo lối
Tục Thể[14]
đại lược đều được sửa, vẫn
có một hai chỗ cần sửa đổi. Ông ta gởi
đến, mong tôi giao cho thợ sắp
chữ. Quang lại duyệt cặn kẽ một lượt
nữa, hễ chỗ nào ngữ ư chẳng trọn vẹn
bèn bổ túc. Thầy Đức Sâm lại duyệt một
lần nữa, đổi thành dùng [kư hiệu] ○ để
lược bớt ngữ ư, cũng có chỗ bổ túc.
Phàm các chữ dùng theo tiếng địa phương khó nhận
biết, Quang đều sửa thành chữ dễ nhận
biết. Cũng sửa “chương tŕnh” thành thực
hành để đỡ tốn giấy. Phàm trước
các câu hỏi, đều dùng [kư hiệu] ●, trước
lời đáp thêm [kư hiệu] ○, để xếp cho
ngay hàng. Lời hỏi và đáp đều bắt đầu
bằng một ḍng riêng. Trước lời nói
đầu, Quang và thầy Đức Sâm mỗi người
viết một lời tựa. Lời cuối sách th́ dùng
bài văn của một vị lăo nho ở Tần An, tỉnh Cam Túc, [vị này] thoạt đầu do bài bác Phật
mà gặp quả báo, sau đó học Phật, viết bài phát lộ sám hối, tôi
bèn ghép [bài viết ấy vào sau sách]. Ông ta cậy Quang viết
lời Bạt, cũng ghép thêm vào để làm hướng
dẫn cho người đọc sách. Tôi đă giao cho Du Dân
Tập Cần Sở sắp chữ. Sắp chữ xong, sẽ
cho làm ba bốn Chỉ Bản, tính tặng cho Đạo
Đức Thư Cục một bản, thu hồi các bản
trước đó để đốt đi. Mong ông hăy nói
với thư cục, kẻo chẳng đến nỗi họ
không chịu. Sách này in lần đầu th́ trước hết
là in hai vạn quyển, về sau in tiếp có thể đến
mấy chục vạn quyển không chừng. Đợi
sách in xong, sẽ gởi cho ông mấy gói. Ông đọc rồi
sẽ biết dụng ư ấy. Hễ Quang in sách, đều
chẳng dám phung phí giấy, một quyển tiết kiệm
được một trang, mười vạn quyển
sẽ bớt được mười vạn trang, chi
phí sẽ giảm đáng kể. Hiện thời,
nhân dân khốn khổ, chúng ta tuy muốn lợi người,
cũng chớ nên chỉ cốt sao cho dễ coi, chẳng
màng vật dụng, công sức khó khăn!
* Thư trả lời
cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ tư)
Hơn
mười ngày trước, Tôn Hạc Niên đến
đây, mang theo các thứ thức ăn, chia đều cho mọi
người cùng ăn, hoa sâm th́ cho thầy Đức Sâm.
Do Quang một mực chẳng thích đa sự, vật ấy
giữ lại hoặc để uống đều rất
rườm rà. Hạc Niên là người khá thành thật, nay trước hết
bảo ông ta ở chùa Báo Quốc, đợi có vị thầy
nào hợp lẽ, sẽ cho ông ta nương theo, xuống tóc.
Chuyện này chẳng thể vội vă được! Quang thề suốt
đời chẳng thâu nhận đồ đệ, cho nên
cần phải đợi [có vị thầy thích hợp]
để có thể bái sư rồi mới cho ông ta
nương theo vị ấy xuống tóc. Chuyện này vốn
phải trả lời ngay, nhưng do bận bịu nhiều
việc, tinh thần lẫn mục lực đều
chẳng đủ, cho nên chậm trễ đến nay! Nay
Kỹ Lộ Chỉ Quy sắp in, khi in ra, sẽ dùng hết
hai trăm bốn mươi đồng để gởi sách.
* Thư trả lời
cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ năm)
Lệnh
từ tuổi đă cao, hăy nên v́ quyến thuộc nói lợi
ích do trợ niệm khi lâm chung, và họa hại do khi
chưa tắt hơi mà đă lau rửa thân thể, thay quần áo, khóc lóc, khiến
cho họ luyện tập thuần thục, hiểu rơ lợi
hại. Nếu như thế th́ đến khi lâm chung, cụ
sẽ chắc chắn có thể văng sanh Tây Phương. Nếu
chẳng bảo họ luyện tập và nói lợi hại, th́ mười trường hợp hết chín bị
hiếu tâm của quyến thuộc phá hoại, đến
nỗi vẫn luân hồi trong lục đạo, hứng
chịu sanh tử. Xem kỹ Sức Chung Tân Lương sẽ
tự biết. Đă đặt pháp danh cho bảy người,
gởi cho mỗi người ba gói sách gồm Ngũ Kinh,
Thập Yếu v.v… để giúp tu tŕ.
Kẻ
hậu sanh (tức Tôn Hạc Niên trong thư trước)
đă đến đây trước kia, vào thượng tuần
tháng nhuận, do có vị tăng từ chùa Quốc
Thanh ở núi Thiên Thai đến đây, sẽ cậy thầy
ấy dẫn đi, hoặc vị Trụ Tŕ [chùa Quốc
Thanh] sẽ thâu nhận, hoặc người khác thâu nhận
[làm đồ đệ] đều được. Do vị
trụ tŕ chùa Quốc Thanh cũng là vị trụ tŕ chùa
Linh Thứu ở Tô Châu khá biết cách cư xử, cho nên tôi bảo [kẻ hậu sanh ấy] đi theo. Xin ông đừng
bận tâm. Kỹ Lộ Chỉ Quy chẳng lâu sau sẽ gởi
đến. Lại c̣n Tịnh Độ Ngũ Kinh chẳng
lâu sau cũng sẽ gởi đến. Vật Do Như Thử
th́ khoảng chừng tháng Sáu hoặc tháng Bảy sẽ có
thể gởi đến. Sách của Cử Huyện, vẫn
gởi về chỗ ấy. Tôi cho làm năm Chỉ Bản của sách Kỹ
Lộ Chỉ Quy, một bản gởi sang Đạo
Đức Thư Cục ở Thượng Hải, một
bản đưa sang Bắc B́nh Khắc Kinh Viện. Sách Vật
Do Như Thử cũng làm như thế. Hiện thời
đă cho sắp xếp, đổi thành cỡ chữ số
ba để người già dễ xem hơn, cũng tính in
ba vạn quyển.
* Thư trả lời
cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ sáu)
Chuyện
trong thế gian muốn thực hiện không lầm lỗi,
đều cần phải trọn hết một phen tâm lực.
Nếu có điều ǵ chẳng cẩn thận, sẽ là
công ít, tội nhiều. Mùa Thu năm ngoái,
Quang mới biết nỗi thê thảm do sữa độc
giết trẻ, bèn nói ngay trong lời khai thị
cho pháp hội Tức Tai. Nếu sau khi nổi giận,
hăy nên sau một ngày, đợi cho độc tánh của sữa
mất đi, mới lại cho con
bú. Mùa Xuân năm nay, do nhiều lượt
nghe người khác kể người chết,
người bệnh quá nhiều; do vậy, làm một tờ
quảng cáo nói về chuyện “sữa độc giết
trẻ”, khuyên [người mẹ
trót nổi giận] phải đợi ba ngày sau mới cho
trẻ bú. Thư ấy in ra, gởi cho một đệ tử
ở Nam Kinh. Ông ta nói chuyện này với vợ. Vợ ông
ta là người Tây Dương, nói chuyện ấy
được gọi là “sữa nóng giận”. Hễ nổi
nóng, cần phải liền giữ sao cho tâm b́nh khí ḥa. Nếu
không, ôm hận trong ḷng, sữa khó chuyển thành tốt được!
Nửa ngày sau khi hết giận, mới có thể cho bú. Khi
cho bú, trước hết cần phải vắt sữa chừng
nửa chén trà đổ đi, rồi mới cho con bú, sẽ
không có họa hoạn ǵ. Nếu quá ba ngày, chắc sữa sẽ
gây căng phồng, đau nhức, đâm ra chẳng hay!
V́
thế, tôi bảo thợ sửa Chỉ Bản, lần thứ
hai in ba vạn tờ, sẽ không sai lầm. Lại nói cho tới
khi có kinh nguyệt, cũng đừng nên nổi nóng; hễ
nổi nóng, sẽ tắt kinh. V́ thế, nữ nhân chưa
lập gia đ́nh, cũng có người mắc bệnh
kinh nguyệt chẳng điều ḥa. Tôi trộm cho rằng
việc này đối với giáo dục gia đ́nh, quốc
gia, và nhân dân đều có mối quan hệ. Bởi nữ
nhân từ bé cần phải tập sao cho tánh t́nh nhu ḥa, sẽ
chẳng có chuyện kinh nguyệt không điều ḥa, và nóng
giận đến nỗi làm chết con, hoặc bực tức
đến nỗi khiến con sanh bệnh. Tánh t́nh đă nhu
ḥa, sẽ chẳng có chuyện khẩu thiệt thị phi,
gia đ́nh ḥa thuận. Mong hăy đem ư này nói với hết
thảy mọi người. Tất cả các tờ quảng
cáo đăng lời khai thị trong pháp hội Tức Tai,
phía dưới mục sữa độc giết chết
trẻ nhỏ, hăy ghi rơ, xóa bỏ ba chữ “sau ba ngày”
th́ trọn chẳng có hậu hoạn ǵ.
Thư
của ông và ba mươi đồng đều nhận
được, pháp danh của mười bảy người
được viết trong một tờ giấy khác. Kể
từ khi nhà Nho phá trừ, bài xích nhân quả, những kẻ
ngu, kẻ cuồng trong cơi đời liền lừng lẫy
phô bày ư chí. Ai nấy mù quáng bịa chuyện đồn
đăi, lập ra một “giáo môn”, dẫn kẻ vô tri gia nhập bè
đảng của chúng, lại c̣n giấu kín chẳng tiết
lộ chút nào. V́ thế, khiến cho người trong cả
nước quá nửa đi vào đường tà, phạm
lỗi đại vọng ngữ “chưa đắc mà
khoe là đă đắc, chưa chứng bảo là đă chứng”,
chẳng hề sợ hăi, đều do Tống Nho bài xích nhân
quả luân hồi mà càng thêm to gan tạo nghiệp. Nay gởi cho ông
mười gói gồm hai mươi bộ Văn Sao, ba gói
Gia Ngôn Lục, hai gói Liễu Phàm Tứ Huấn. Hễ
người quy y nào có thể xem th́ đều tặng
cho. Kẻ chẳng thể xem th́ đừng tặng. Hăy nên
tặng cho người có tín tâm, thông văn lư, có thể cung
kính!
* Thư trả lời
cư sĩ Quách Huệ Thái
Ông
muốn phát khởi tín tâm cho hết thảy mọi người
trong hiện tại và vị lai, há chỉ vài câu mà có thể
đạt được ư? Nay tôi viết một bài tựa,
gồm sáu trăm bốn mươi hai chữ. Tuy văn
chương chẳng tao nhă, nhưng ư nghĩa th́ có thể
chấp nhận được! Xin hăy mời người
viết chữ đẹp, viết theo lối chữ Khải
to hơn một tấc, chớ nên dùng kiểu chữ Hành
Thư nguệch ngoạc, Triện Thư, hoặc Lệ
Thư v.v… Lối chữ Tục Thể hoặc Thiếp Thể
cũng đừng nên dùng. Khi viết, cần phải
lưu tâm, chớ để sai ngoa, hoặc thừa, hoặc
sót chữ. Hăy nên làm một tấm biển bằng gỗ,
hoặc dán, hoặc khắc lên đó. Phía sau tấm biển,
ken gỗ dày, dùng vải đay dày c̣n mới, cắt xéo
thành từng giải, dùng sơn sống[15]
đính lên, [tấm biển ấy sẽ] chẳng đến
nỗi nứt toác, ngơ hầu có thể giữ được
lâu dài. Treo ở chỗ mọi người hay trông thấy
để được lợi ích. Phàm khuyên, điểm (chấm câu), cũng nên sử dụng
như thế, ngơ hầu người ít học cũng có thể
hiểu rơ ư nghĩa. Vạn phần đừng nên dùng vải
đay cũ [để bồi lưng tấm biển], v́
chất sợi đă yếu, lâu ngày sẽ nứt ra. Quang
đă già rồi, mục lực chẳng
đủ, từ nay về sau chẳng chấp thuận [người
khác] sai bảo viết lách. Nếu vẫn gởi thư
đến, cũng chẳng trả lời thư. Chẳng
phải là tôi không muốn kết duyên, mà là do chẳng có sức chống
đỡ nổi!
* Thư gởi pháp sư
Trí Nguyện
Quang
mục lực chẳng đủ, xem đại lược
vài ba tờ, thấy đại ư khá hay. Chữ Tấn (訊) trong “vấn tấn”
(問訊, thưa hỏi,
bái xá) do Ngôn (言) và Phàm (凡) ghép thành. Thầy noi theo lề lối thư nào
cũng đều viết lời thăm hỏi, chớ
nên dùng [kiểu ấy]. Tiếp đó, lại coi chung một
lượt, bèn bổ sung đại lược đôi chỗ.
Sau này, bất luận loại văn tự nào, nhất loạt
mong đừng gởi đến, mong thầy rộng dung th́
may mắn lắm thay!
* Đính kèm thư của
pháp sư Diệu Chân và Liễu Nguyện
Cách
lễ bái kinh A Di Đà đă tŕnh lên Ấn lăo pháp sư từ
bi phê duyệt, liền được Ngài giám định
là tốt. Nay tiện dịp ḥa thượng Huệ Khai của
chùa Pháp Tạng trở về đất Hỗ (Thượng
Hải), đem dâng của báu đă tụ tập, mong hăy
xem xét, thâu nhận.
* Thư trả lời
cư sĩ Hồng Vô Ngă
Hôm
qua, nhận được thư, biết ông do tự tu Tịnh
nghiệp, lại c̣n khiến cho mẹ già tám mươi hai
tuổi văng sanh Tây Phương, đúng là khéo phụng sự
mẹ! Nếu đem lợi ích ấy khuyên khắp hết
thảy quyến thuộc và những người cùng hàng
th́ điều lợi ấy sẽ rộng khắp. Quang
thuộc hạng tăng nhân chỉ biết cơm cháo,
đối với Thiền, Giáo, Luật, Mật đều
chẳng biết ǵ, chỉ biết
pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong một
đời giáo hóa của đức Phật. Ông đă chẳng
muốn làm đại thông gia, cho nên khéo khế hợp.
Nhưng ông đă từng xem Văn Sao, ngoài những điều
nói trong ấy ra, tôi chẳng c̣n có ǵ để có thể
nói. Huống hồ gần đây mục lực suy yếu
cùng cực, không thể viết nhiều.
Nay
đặt pháp danh cho ông là Trí Đạo (智導), hàm ư dùng cái trí
hiểu sâu xa pháp môn Tịnh Độ để hướng
dẫn trọn khắp hết thảy những người
cùng hàng thoát khỏi đời ác ngũ trược, cùng
lên cơi sen Tứ Đức (thường, lạc, ngă, tịnh)
kia. Nay đem Thượng Hải Tức Tai Pháp Hội Khai
Thị Lục từ năm trước, và bài Niệm Phật
Khẩn Từ của ông Trịnh Đức Thuần tại
Vân Nam gởi đến. Trong lời khai thị, có lời
tuyên truyền rộng khắp về chuyện “sữa
độc giết trẻ”, là một đại
sự xưa nay chưa được nêu tỏ. Thoạt
đầu, tôi đă cho in sáu vạn bản, do đă được
đặt trước, nên sách in ra sẽ
gởi đi gần một nửa. Năm trước,
đường bưu điện không thông, Du Dân Tập Cần
Sở lại bị ném bom, phàm các sách đă đóng gáy xong, chưa gởi đi,
đều thành tro tàn. Quang bị tổn thất khoảng
hai ngàn đồng. Ngoài ra, c̣n có Vật Do
Như Thử và danh mục các sách đă in được
kèm theo trong đó. Phía sau Niệm Phật Khẩn Từ lại
có in kèm Sơ Cơ Tiên Đạo. Trong ấy có bài Một
Lá Thư Gởi Trọn Khắp, khá có quan hệ, hăy nên
đọc kỹ để tùy cơ diễn nói. Cuối
sách Khai Thị Lục, có toa thuốc trị bệnh sốt
rét, tột bậc linh nghiệm, hăy nên nói với hết thảy
mọi người, không ai chẳng được trị
lành. Món tiền mười đồng của ông sẽ
dùng làm chi phí in Văn Sao Tục Biên. Ước chừng mùa
Hạ năm sau, sẽ có thể ra sách, sẽ gởi cho
ông mấy gói để kết duyên. Lần này khác với
cách thức ban đầu, từa tựa như văn
khuyên đời, nhưng đối với hai chuyện sanh
và tử, cùng với “giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận”, thiên sách nào cũng đều
nói để mong toàn quốc đều cùng chú ư vậy.
* Thư trả lời
cư sĩ Thí Tông Đạo
Cha
ông lúc lâm chung như thế, lại thêm các ông trợ niệm,
đủ có thể văng sanh Tây Phương. Hiện thời,
sát kiếp c̣n đang lừng lẫy, tiền đồ
nguy hiểm. Hăy nên khuyên quyến thuộc, cùng với người
làng, ai nấy ăn chay, niệm Phật để cầu
văng sanh Tây Phương. Nếu không, đời sau làm
người, chẳng biết sẽ khổ năo đến
mức nào! Khi hồi hướng trong khóa tụng sáng tối,
Quang đọc tên cha ông để hồi hướng suốt
bảy ngày cho trọn hết t́nh thầy tṛ. Pháp danh của
hai mươi chín người [xin quy y] được viết
trong tờ giấy khác. Các sách như Văn Sao v.v… phải
chờ đến đầu tháng Tám, thầy Tánh Tịch
trở về Tô Châu, sẽ bảo thầy ấy gởi
cho ông. Thầy Đức Sâm v́ giảo duyệt sách, phải
ở chùa Thái B́nh tại Thượng Hải, ước chừng
tháng Chín có thể trở về Tô Châu. Chuyện Hoằng
Hóa Xă đợi thầy ấy quay về sẽ xét theo t́nh
huống mà sắp xếp.
Hiện
thời, chỉ có cách chiếu theo giá gốc, [các biện
pháp] tặng nửa giá hoặc biếu tặng hoàn toàn
đều hủy bỏ, do chẳng có người duy tŕ,
không thể giữ như cũ. May là bưu điện
đă thông, nhưng trên đường c̣n có thổ phỉ,
nếu gặp phải, sẽ khó tránh bị thất lạc.
Quang tính gởi cho ông mấy chục gói, mong ông hăy châm
chước phân phối. Hễ có nhiều th́ tùy tiện kết
duyên. Về sau, có ai muốn quy y, hăy bảo họ quy y với
vị Tăng ở nơi đó, Quang chẳng có mục lực
và tinh thần để thường thù tạc chuyện
này. Năm ngoái tới núi khá an nhàn, kể từ tháng Sáu
bưu điện thông thuận, ngày càng rườm rà! Nếu
chẳng cự tuyệt, ắt sẽ chẳng có ngày nào rảnh
rỗi! Phàm những ai quy y, đều nên bảo họ ai
nấy gắng hành “giữ vẹn luân thường, trọn
hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng
làm các điều ác, vâng hành các điều thiện”
để làm bậc thiện nhân trong thế gian. Ăn
chay, bảo vệ sanh vật, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương ḥng liễu sanh tử! Dùng các
chuyện ấy để tự hành, lại c̣n giáo hóa
người khác, khiến cho khắp những ai cùng hàng
đều cùng hưởng pháp trạch. Nếu không, nỗi
khổ mai sau chỉ hơn nỗi khổ trước mắt
chứ chẳng kém! Than ôi, buồn thay! Cái gốc của nỗi
họa ấy, gần là do giáo dục trong gia đ́nh chẳng
khéo dạy dỗ, xa là do tà thuyết của Tŕnh Châu bài xích
thật lư thật sự “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo” ươm thành. Họ bảo đức
Phật lập ra pháp ấy để làm căn cứ dụ
dỗ kẻ ngu phu ngu phụ tôn phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật
sự chẳng có chuyện ấy!
* Thư trả lời
cư sĩ Tô Trí Tường
Hôm
qua, nhận
được thư của Cổ Nông và thư của
ông, biết cặn kẽ ngoại đạo đang
hưng thịnh nơi quư địa. Ông có thể bỏ
ngoại đạo, mong tu Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong Phật
pháp, cũng có thể nói là “xưa kia đă có thiện
căn”, nhưng đối với chỗ tự cao tự đại, trọn chẳng tự
biết. V́ thế, tuy đọc kinh Phật, cũng chỉ
là da lông mà thôi! Cổ Nông là bạn bè, hễ gởi thư đến,
đều xưng là “đệ
tử X…. ḥa nam” (“ḥa-nam”
(vandana)
tức là dập đầu, đảnh lễ).
Mười lăm người các ông cậy Cổ Nông viết
thư giới thiệu, mà chẳng nói là “gởi cho
Quang”. Chỗ xưng danh chỉ ghi là Trí Tường
ở Tô Châu “hiệp thập” (chắp mười ngón
tay). Khi ông vào phái ngoại đạo, không chỉ chắp
mười ngón tay mà thôi! Trong Văn Sao của Quang, có nói
Thanh Thế Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thuận
Trị) khi gởi thư cho đệ tử của Ngọc
Lâm quốc sư là thiền sư Lữu Khê Sâm[16],
chỗ kư tên đều xưng là “pháp đệ Hành Si ḥa-nam”.
Nếu ông là hoàng đế, lại chẳng biết
sẽ tự đại khinh người đến cỡ
nào? Nay tôi đem thư của Cổ Nông gởi kèm theo. Lại
mong ông tra duyệt quyển một của Văn Sao, trang
sáu mươi bảy, tức thư trả lời Vưu
Tích Âm sẽ tự biết. Ở đây, không nói cặn kẽ!
Ông
đă biết thị lực của Quang suy yếu, sao lại
viết kiểu chữ nhỏ như thế này! Giấy viết
thư vốn viết được tám gịng, ông viết
thành mười sáu gịng, sao lại tiếc giấy mà chẳng
sợ khi Quang xem phải tốn sức? Xưa kia, Quang
đă tạo ác nghiệp to lớn nơi mắt, cho nên mới
sanh ra sáu tháng liền bị bệnh mắt. Suốt một
trăm tám mươi ngày, mắt chưa hề mở
được. Sau đó, c̣n có thể thấy bầu
trời đă là hết sức may mắn! Nay đă bảy
mươi chín tuổi, dẫu chữ viết to cả tấc,
không đeo kính vẫn chẳng thể thấy rơ. Phàm
thư từ qua lại, ắt phải dùng cả hai thứ
kính lăo và kính lúp th́ mới phảng phất xem được,
trả lời được. Ông cho rằng thư này gởi
cho Cổ Nông chứ chẳng phải gởi cho Quang ư?
Cổ Nông sẽ v́ ông chép lại rồi mới gởi cho
tôi, há có lư ấy hay chăng? Thầy là khuôn mẫu của
người khác. Nếu chẳng huấn thị ở chỗ
này, tức là tự khinh Phật, Pháp, Tăng, mà cũng khiến
cho kẻ khác khinh thường Tam Bảo. Đừng bảo
Quang chuộng được người khác cung kính, đấy
chính là chỗ Quang cung kính người khác. Nếu không,
đối với Tam Bảo mà c̣n chẳng chịu nói nhún
nhường một chữ, huống hồ thật sự hành lễ kính
ư? Học Phật như thế, chắc chắn sẽ
chẳng có lợi ích to lớn! Muốn siêu phàm nhập
thánh, phải chờ tới năm con lừa, hoặc nằm
mộng! Nếu [siêu phàm nhập thánh] trong các năm Ngọ,
Mùi v.v… chi đó, trọn chẳng có chuyện không
tương xứng nhân quả ấy. V́ thế nói là “Quang
thật sự cung kính người khác”. Những
điều khác đă nói trong Một Lá Thư Gởi Khắp,
không rườm lời nữa!
* Thư trả lời
pháp sư Viên Anh
Hôm
trước nhận được thư, biết chuyện
vu báng đă được làm rơ, trả lại giảng
đường. Lại c̣n trong lúc nguy hiểm ấy,
Sư đạt được công phu đại
tương ứng, có thể nói là do họa mà
được phước. Chính là “chẳng trải một
phen lạnh buốt xương, há được hoa mai
thơm ngát mũi”! Nguyện từ nay về sau, chuyên
dùng pháp môn “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối” để nói với các Phật tử đang
c̣n ở trong lao ngục tam giới th́ lợi ích ấy chỉ
có Phật biết được! C̣n như chuyện Quang
và các Sư trong chùa cầu nguyện chính là chuyện thuộc
về bổn phận của chúng tôi, nào đáng để
ca ngợi, cảm tạ? Khoản tiền Sư gởi
cúng đại chúng cũng có thể khiến cho mọi
người tin sâu Phật lực, pháp lực, chúng sanh tâm lực,
ba thứ đều chẳng thể nghĩ bàn, khiến
cho ai nấy đều đạt được công phu “tịnh
niệm tiếp nối”, tức là tài thí mà là pháp thí,
đều cùng cảm tạ. Tôi vốn muốn phúc đáp
ngay, nhưng có chuyện được nhờ cậy chẳng
thể tŕ hoăn, cho nên tới nay mới phúc đáp.
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ nhất)
Nay
có đệ tử ở Phụ Dương tên là Triệu
Sư Viễn muốn ở lại núi trong thời gian ngắn
mười mấy ngày, xin tôi giới thiệu. Người
ấy và Vương Tông Nhất đều thuộc vào hàng
thân thích, ở trên núi cũng chẳng cần phải
đăi như khách, chỉ dùng cơm nước theo lệ
thường, một ngày ba bữa là được rồi.
Nếu ông ta có tinh thần th́ cũng có thể tùy hỷ niệm
Phật, chẳng cần câu nệ buộc phải thường
xuyên đến niệm.
Tái
bút: Nếu ông ta muốn chi tiêu, liền nói thẳng với
ông ta, cũng chẳng cần đôi bên phải khắc khổ,
chỉ cốt sao vừa phải là được rồi.
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ hai)
Đúng
dịp vợ ông Vương Bích Trần đến đây,
nói một thân quyến nằm bệnh đă lâu ngày, muốn
mở một Phật Thất. Quang ước
định có thể mời mười lăm người
hay hai mươi người. Nếu đă ấn định
ngày xong xuôi, thầy liền gởi thư cho biết.
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ ba)
Buổi
chiều hôm trước, vị Phạn Đầu[17]
đến giao thư, do có khách đến, chưa xem, đến
tối mới xem, biết ngày hôm qua đă khởi thất,
do vậy, bèn báo tin ngay cho Vương Huệ Phong. Ông ta đến nhà họ
Hoa thương lượng, bốn giờ đến
đây, giao ba trăm đồng. Cúng cho hai mươi vị
tham dự Phật Thất hai trăm đồng, cúng cho bài
vị trường sanh[18]
năm mươi đồng, cúng Phật và Tăng và tiền
vàng hương là năm mươi đồng. Ước
chừng vào sáng ngày Mười Sáu, sẽ phái người dẫn
Vương Huệ Phong và con gái của bệnh nhân (mười
lăm tuổi) đến núi lễ Phật, buổi chiều
về ngay. Tôi bảo họ chỉ mặc y phục thường
ngày tại nhà để tránh bị kẻ tiểu nhân ngắm
nghé.
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ tư)
Nhà
họ Hoa chỉ mở một Phật Thất, thỉnh
hai mươi vị, lập hai loại bài vị cầu
siêu cho vong linh và tăng thọ. Hăy nên niệm A Di Đà Phật,
do A Di Đà Phật chính là Vô Lượng Thọ. Cụ bà
nhà họ Vương do thấy con dâu bị sốt rét rất
nặng suốt hai mươi mấy ngày, dặn đem
mười đồng giao cho Linh Nham để cúng Phật
và Tăng. Quang đem toa thuốc trị sốt rét trao cho,
ngày hôm sau liền lành bệnh.
Ông
Dương Chấn Nhân, pháp danh Trí Siêu đă đến.
Sáng nay, đă đi theo thuyền của thầy Diệu
Viên đến. Người này mọi việc chẳng
thông thuận, hơi lăng tai. Hăy nên xét theo tánh cách của ông
ta để sắp xếp làm các việc nhẹ, phục vụ
trong pḥng trà cũng được, chẳng nhất định
phải bảo người quản sự thâu nhận.
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ năm)
Đại
kiếp xảy đến, trọn chẳng có chỗ tránh
né. Quang trọn chẳng thích di chuyển, huống hồ
chuyện ném bom ác liệt nơi nào cũng đều có, há
chịu xả nơi đă ở yên để dời sang
chỗ khác ư? V́ thế, điện tín cũng chẳng
xem. Nghe nói cả nhà các vị cư sĩ Quư, Vương,
Ngô, Hoàng, Lư đều đến núi, pháp hội rộng mở,
cũng là chuyện may mắn to lớn trong khi bất hạnh.
Nếu mọi người có thể chí thành niệm Quán Âm,
sẽ có thể khiến cho oai thế của quân ta bừng
bừng mạnh mẽ. Đó cũng là chuyện
tương trợ của người ở ngoài cuộc. Từ khi người Âu Tây vào Trung
Quốc đến nay đă bảy tám chục năm qua, giao
chiến với
họ, trọn chẳng thắng trận nào! Ngày Sáu tháng
Giêng thắng một trận nhỏ, thắng trận lần
này trước nay chưa hề có, một là do người
Nhật quá hung tàn, hết sức
trái nghịch ḷng trời. Đằng khác là do nước
ta gần đây người niệm Phật nhiều, cho
nên được Tam Bảo gia bị mà có hiện tượng
như thế. Quang sớm tối cầu Tam Bảo và Quán
Âm gia bị người Nhật diệt dứt ác tâm, nẩy
sanh thiện niệm, chẳng gây chướng ngại cho
Trung Quốc nữa.
Nghe
nói Hoàng cư sĩ trước kia bị trúng mưa to gió lớn
(do gởi thư có kể tên ông Hoàng, cho nên lăo nhân nói như
thế. Đức Sâm ghi chú), sợ sẽ sanh bệnh. Nay
gởi cho thầy bốn b́nh sắt Tây đựng tro hương Đại Bi. Nếu có người bệnh, hăy bảo họ pha uống,
sẽ có thể lành bệnh. Tro ấy đă được
gia tŕ năm sáu ngàn biến chú Đại Bi. Từ bốn
cái b́nh ấy, có thể pha thành mấy trăm b́nh nước
Đại Bi, cũng bảo Minh Tâm uống một chút. Mong
thầy khuyên khắp dù Tăng hay tục cùng niệm thánh
hiệu Quán Âm, có lẽ chẳng lâu sau họ sẽ tự
cầu ḥa, nỗi nhục mấy chục năm của
nước ta có thể gột sạch đôi chút. Đừng
lo cho Quang, sống chết có số, huống chi Quang đă
sắp tám mươi, c̣n có ư niệm sợ chết ư?
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ sáu)
Chữ
Kiến tức là chọn lựa người thật sự
có đạo tâm chừng mười vị, hoặc hai
mươi vị, chỉ ở một chỗ, niệm
thánh hiệu Quán Âm suốt ba ngày. Chính ḿnh ắt phải
thường lo liệu để tránh sơ sót. Cha ông Đậu
Tồn Ngă chính là một người quật cường,
chẳng hiểu việc đời. Do bọn con cháu thấy
Tồn Ngă đối với họ khá tiếc tiền,
nhưng làm công đức th́ lại chẳng tiếc tiền,
kẻ tiểu nhân bèn thừa dịp ấy xúi giục (chị
dâu của Tồn Ngă khá thông minh, nhưng xấu nết).
Cha ông ta tuổi cao, quyết ư muốn chia tách nhà để
tự lo liệu, nhưng lại chẳng hiểu chuyện,
lại không hiểu thói đời. Hễ ông cụ quản
lư, sau này chắc đến nỗi cả nhà mắc họa.
Tám chín năm trước, Tồn Ngă đă bỏ tiền
in sách hai ba ngàn đồng. Chi phí ở chỗ thầy Minh
Đạo, Linh Nham, và Hoằng Hóa Xă rất lớn.
Trong
lúc chẳng có cách nào giải quyết như thế này, chỉ
đành cầu Bồ Tát gia bị, khiến cho cha ông ta một
khi tỉnh ngộ, vẫn giao cho Tồn Ngă [quản trị gia nghiệp] th́ c̣n có thể
cứu văn. Nếu không, chẳng phải chỉ một nhà
không yên ổn! Khoản tiền ấy sẽ quy về Quang
bỏ ra, chớ cùng người khác nói nguyên do, chỉ khuyên
ông ta phát tâm báo ân, cầu Đại Sĩ gia bị là
được rồi. Sáng nay, Hải Lan tới, nói cặn
kẽ t́nh h́nh chung. Hai giờ chiều ông ta rời đi. Ba giờ chiều
th́ Tồn Ngă đến, biết ông ta trọn chẳng có
cách nào, tôi bảo ông ta niệm Quán Âm, và ông ta cũng hứa
tự ḿnh sẽ giúp đỡ Linh Nham.
Lại
nữa, cha ông ta hoàn toàn chẳng hiểu việc đời.
V́ thế, đă bảy mươi sáu tuổi, vẫn v́ yêu
thương cháu mà cho họ tách ra, lại c̣n thâu hồi sổ
sách (một bà vợ bé trước đó đă trốn
đi. Nếu bà ta chẳng tốt cho lắm, sẽ cuỗm
tiền bạc mang theo). Một mai ông cụ mạng chung, sự
nương cậy của cả nhà sẽ bị kẻ xấu
trộm mất, liền trở thành kẻ nghèo hèn không
nơi nương tựa, đáng sợ tột bậc.
* Thư gởi Diệu
Chân đại sư (thư thứ bảy)
Thư
hôm qua cũng chưa trả lời. Trưa nay, Trần Tài
Hoa chuyển khoản năm trăm đồng, nhưng
chưa nhận được. Có đệ tử quy y là
Hà Huệ Can ở Như Cao dẫn con và hai bà cụ trong
thân quyến muốn tới triều bái Thiên Trúc, lại muốn
đến núi lễ Quán Âm, và lễ niệm Phật. Hôm
nay, họ nghỉ lại núi, sáng mai trở về Tô Châu, buổi
chiều ngồi thuyền nhỏ sang Hàng Châu, xin được
chỉ dạy. Tôi cũng bảo họ tùy hỷ niệm
Phật để gieo thiện căn. Ngay trong buổi chiều,
đối với trái cây và hương họ mang đến,
cũng bảo họ mang theo. Lại có một cái hộp
không, bèn dùng đựng tro hương [đă tŕ chú Đại
Bi] để khi có dịp cần đến, cho họ trữ
sẵn mang theo.
* Thư trả lời
Đỗ Ấm Nam
Xem
thư gởi đến, biết ông xưa đă có huệ
căn, nhưng chỉ mong làm bậc đại thông gia, chẳng
thể khăng khăng một mực thật sự lo chuyện liễu sanh tử trọng yếu. Tín tâm
chân thật, nguyện chân thật, sao chẳng chịu
thường niệm Phật vậy? Pháp Niệm Phật cực
dễ tu tŕ, hoàn toàn chẳng cần phải gác bỏ sự
nghiệp kiếm sống. Sớm tối tùy thuộc công
phu của mỗi người, lập một công khóa. Ngoài
ra, hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, đều có thể thường niệm, hoặc niệm
ra tiếng, hoặc niệm thầm, miễn sao thuận tiện
cho mỗi người. Lại cần phải nhiếp tai
lắng nghe (pháp này mầu nhiệm tột bậc. Đại
Thế Chí Bồ Tát nhiếp trọn sáu căn, hễ nghe
th́ tâm quy về một chỗ, gọi là “tịnh niệm”).
Lâu ngày chầy tháng, tâm tự nhiên quy nhất. Nay chỉ v́
niệm chưa được bao lâu đă mong chẳng có vọng
niệm, há có được chăng?
* Thư trả lời
Đào Dă Công
Hôm
qua, nhận được thư của ông và thư của
Thiệu phu nhân, biết rơ hết thảy. Ông Thiệu liều
ḿnh v́ nước, tuy chết mà có công. Thiệu phu nhân hăy
nên dứt buồn niệm Phật, ngơ hầu người
mất lẫn kẻ c̣n đều được lợi
ích. Nếu chỉ đau xót th́ đối với ông Thiệu
cũng như chính ḿnh đều bị tổn hao nhiều,
chẳng có ích lợi nhỏ nhoi ǵ! Bởi lẽ, ông Thiệu
do vợ đau thương, sẽ khó quên t́nh, giải thoát.
Bản thân bà ta không chỉ chẳng đạt được
lợi ích to lớn do niệm Phật, mà c̣n hứng chịu
thân tâm đau khổ! Do bà ta hoàn toàn chẳng biết cội
nguồn của pháp môn Tịnh Độ, cho nên chỉ sanh
ḷng đau khổ cảm thương, chẳng tu tập lợi
ích siêu độ.
Pháp
môn Niệm Phật là pháp môn quy túc cho Luật, Giáo, Thiền,
Mật. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n cần phải đem
công đức của mười đại nguyện
vương hồi hướng văng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới để mong viên măn Phật
quả. Huống hồ hết thảy các vị Bồ Tát
thuộc các địa vị thấp hơn và các vị
đại đức đang tu học ư? Bổn địa
của ngài Vĩnh Minh là đă chứng Phật quả từ
lâu, nhưng do Ngài thị hiện sanh
trong thế gian, ắt cần phải thực hiện hạnh
tự lợi, lợi tha. Niệm Phật văng sanh Tây
Phương chính là pháp tự lợi, lợi tha tối
thượng! V́ thế, Ngài dùng thân làm gương, cực
lực đề xướng, để mong trọn hết
chức trách gánh vác Phật pháp, an ủi bổn hoài thuyết
pháp của Như Lai. Người thời nay phần nhiều không
nghiên cứu, hoặc hoàn toàn chẳng biết; đó gọi
là “quen làm mà chẳng xem xét”. Hoặc là sợ đề
xướng pháp môn Tịnh Độ, sẽ bị kẻ
khác coi rẻ, cho là kẻ không có trí huệ, v́ thế, chẳng
dám! Điều này chính là như Mạnh Tử đă nói “chung
thân do chi”[19],
chẳng biết phương hướng của đạo.
Cần
phải biết pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn
đặc biệt trong hết thảy các pháp môn suốt một
đời thuyết pháp của đức Thế Tôn. Ngu
phu, ngu phụ tâm chẳng có thành kiến, dễ sanh ḷng tin.
Kẻ thông Tông, thông Giáo biết là pháp môn đặc biệt,
ắt sẽ cực lực đề xướng. Nếu
kẻ thông Tông, thông Giáo mà luận định pháp môn đặc
biệt như pháp môn b́nh phàm, sẽ không chỉ chẳng
sanh ḷng tin, mà c̣n bài bác. Do vậy, gọi là “pháp khó tin”.
V́ thế, Quang thường nói: “Pháp môn Tịnh Độ
là pháp môn tổng tŕ để mười phương ba
đời hết thảy chư Phật, trên thành Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành tựu từ
lúc phát tâm cho đến lúc chứng quả. V́ thế, [pháp
này] được chín pháp giới (lục phàm tam thánh là
chín pháp giới) cùng hướng về, mười
phương đều xưng tán. Ngàn kinh cùng xiển
dương, vạn luận đều tuyên nói”. Ông có thể
tin tưởng, chắc chắn sẽ có phần văng sanh!
Mong
hăy đem thư này đưa cho Thiệu phu nhân xem. Nếu
bà ta lănh hội được, sẽ lập tức lành bệnh.
Nếu không, chỉ là t́nh nghĩa vợ chồng trong thế
gian mà thôi. Bà ta gởi đến bốn mươi đồng,
sẽ dùng để in kinh sách, ḥng tiêu túc nghiệp cho vợ
chồng, mẹ con họ, tăng trưởng thiện
căn văng sanh, cũng do họa mà đạt được
đại hạnh phúc liễu sanh thoát tử. Viết
đến đây, bài viết về tiểu sử của
ông Thiệu mới gởi đến, Quang do mục lực
chẳng đủ, gượng xem lời lược thuật
tiểu sử của ông ta, biết ông ta
chẳng phải là tầm thường. Điều
đáng tiếc là ông ta chuyên tâm nơi pháp thế gian, trọn
chưa từng bén mảng Phật pháp. Người thông
minh như thế, nếu lại nghiên cứu Phật pháp,
th́ sự nghiệp phát huy, sẽ chẳng chỉ như vậy.
Bởi lẽ, những bậc lập đại công tạo đại nghiệp
từ xưa, ḷng tinh trung chói ḷa nhật nguyệt, hạo
khí lấp thiên địa, đều do học Phật
đắc lực mà ra. Nhưng sử quan chỉ chép sự
tích của họ, chẳng nói rơ nguồn đạo. V́ thế,
cơi đời phần nhiều chẳng biết. Trong lời
bạt cho tác phẩm chép kinh chú của Lâm Văn Trung Công[20],
Quang đă nêu tỏ nghĩa ẩn tàng ấy. Mong hăy đọc
kỹ, sẽ tự biết lời Quang nói chẳng sai!
* Thư trả lời
cư sĩ Dư Huệ Thông
Viện
Đại Hùng ở Lư Sơn được xây dựng
rất tốt, nhưng tăng sĩ chân thật chẳng dễ
có! Cố nhiên chẳng thể không lưu tâm suy xét. Phàm học
Phật pháp, ắt trước hết hăy nên v́ liễu sanh
tử. Nay cư sĩ tại gia, kẻ hơi thông minh, phần nhiều đều muốn làm bậc đại
thông gia, mong tuyên nói trước
đám đông, và lưu lại tác phẩm để lưu
danh cho hậu thế, khiến cho hiện tại lẫn vị
lai đều cho rằng ta là X… là bậc đại thông
gia. C̣n chuyện đối trị tập khí phiền năo,
và làm như thế nào để có thể tự liễu
thoát trong cơi đời hiện tại đều chẳng
buồn hỏi tới! Nếu có gă phường tuồng
nào đóng giả làm đế vương thiên tiên, [đại chúng] sẽ ưa thích khôn ngằn,
chẳng biết đó chỉ là giả trất, đời
sau kiếp sau chẳng biết đầu mặt lại là
tướng trạng như thế nào? Cũng đáng buồn
lắm thay!
* Thư trả lời
cư sĩ Lưu Đạm Nhiên ở Lưu Dương
Xem
thư ông gởi đến, ngữ khí quá lớn! Hễ là
người thật thà niệm Phật, sẽ trọn chẳng
chịu nói những ư kiến của riêng ḿnh, mà sẽ một
mực nương theo lời dạy của các vị thạc
đức trong Tông hay Giáo để mong mỏi. Nếu cứ
thích như thế (cứ ăn nói phô trương kiến
giải của chính ḿnh như thế), sẽ liễu sanh
thoát tử vào năm con lừa! Đức Phật đă v́
hết thảy phàm thánh lập ra pháp môn Tịnh Độ
này. Ông và tôi là hạng phàm phu lè tè sát đất, trong ư ông
dường như đă chẳng vừa ư pháp này, lại cầu
Quang bố thí vô úy ḥng chữa tâm bệnh. Tôi làm sao có thể
thí vô úy cho ông được? Đức Phật bố thí
pháp vô úy có thể chữa tâm bệnh cho ông, ông chẳng cho
là đúng. Ấn Quang tôi là một phàm phu đầy nghiệp
lực, há có thể ở ngoài pháp môn Tịnh Độ phổ
độ phàm lẫn thánh của đức Phật mà lại
lập ra một pháp môn khác ư? Xét theo lời lẽ ông
đă nói, đúng là Quang chẳng dám phúc đáp, huống hồ
làm thầy quy y ư? Nếu chẳng coi lời Quang là vô dụng,
xin hăy đọc kỹ Văn Sao hoặc Gia Ngôn Lục,
nương theo đó để tu, chắc chắn là khi sắp
mạng chung, sẽ nương vào từ lực của Phật mà văng sanh Tây
Phương, đúng là pháp để chân thật đạt
được đại vô úy, trừ khử tâm
bệnh. Muốn cầu vô úy ở ngoài pháp ấy, cần
phải là bậc tái lai th́ mới có thể đích thân
đạt được. Ông và tôi muốn đạt
được, chắc là khi nằm mơ, may ra có thể
mộng thấy không chừng! Trừ khi nằm mộng, trọn chẳng
có lẽ ấy! Nay đặt pháp danh cho ông là Trí Viên
(智圓). Các điều khác xin hăy đọc kỹ trong Văn Sao
để thực hành, đó là chuyện trọng yếu.
Quang đă già rồi, tinh thần chẳng đủ, chẳng
thể thù tạc. Mong đừng gởi thư đến;
cứ gởi đến sẽ thật sự khó thể trả
lời!
* Thư trả lời
cư sĩ Tôn Khánh Trạch về chuyện tang lễ chẳng
dùng đồ mặn
Hiện
thời, thế đạo suy đồi, lễ pháp hoại
loạn. Phàm tiến hành mọi chuyện đều mong sao
phô trương, tráng lệ, chẳng biết điều ǵ
nên làm, điều ǵ nên tránh! Thuở sanh tiền, mẹ ông
đă ăn chay, niệm Phật, lâm chung c̣n có tướng lành
ứng hiện, đừng nói chẳng nên dùng đồ mặn,
mà c̣n phải nên gắng tuân theo ư mẹ,
toàn thể đều dùng đồ chay! Cổ nhân trong tang
lễ trọn chẳng dùng rượu thịt. Khi Tùy
Dượng Đế làm thái tử, mẹ ông ta chết,
ông ta chẳng dám ăn thịt, lén lút sai người dùng ống
tre đựng thịt, dùng sáp bịt kín miệng ống,
nhét vào bọc để dâng lên. Đủ thấy dùng thịt
trong tang lễ, bậc cổ Nho nghiêm ngặt như thế
đó. Dẫu là thái tử, vẫn sợ người khác
biết, bèn làm theo cách ấy. Người thời nay chính
ḿnh cũng ăn thịt, lại c̣n dùng thịt đăi
đằng khách khứa. Khách khứa đều chẳng
biết tang sự là chuyện ra sao, cứ nghiễm nhiên uống
rượu, ăn thịt, coi đó là dịp để
hưởng một hồi náo nhiệt, vui sướng!
Chuyện này hoàn toàn trái nghịch lễ pháp của tiên
vương, chỉ biết mong sao khoe khoang đẹp mặt
với người khác! Nếu muốn tránh bị chê bai là “dùng đồ
chay để giảm chi tiêu”, hăy nên nêu bày ư nghĩa to
lớn, đặc biệt đề xướng
“bỏ ra bao nhiêu tiền để làm chuyện công ích”, th́ người ta sẽ tự chẳng đến nỗi
trách móc [tang chủ] muốn giảm bớt chi tiêu.
Phận
làm con phải nên khiến sao cho thần thức của cha
mẹ được an ổn. Kẻ làm con trong hiện thời
phần nhiều đều coi chuyện “quăng đá
người đă té xuống giếng” là hiếu. Nếu
chẳng chịu ném đá, tợ hồ giống như hổ
thẹn chẳng c̣n mặt mũi nào gặp người
khác. Ném đá càng nhiều, càng tự đắc ư! Đáng
thương cha mẹ suốt một đời v́ con cái, cho
tới khi chết, chúng nó lại mượn dịp tang sự
để sát sanh, hại mạng, cúng tế vong linh, đăi
đằng khách khứa, hoặc tự ăn nuốt.
Đă thế, c̣n nhơn nhơn tự đắc, đắc
ư bảo: “Đối với đám tang của cha mẹ, ta
đă mổ mấy con lợn, mua bao nhiêu gà, vịt, cá, tôm đăi
đằng khách khứa. Cha mẹ ta sanh ra ta một
phen, cũng có thể nói là ta đă trọn hết tấm
ḷng rồi!” Chẳng biết do đám tang của cha mẹ
mà sát sanh, khiến cho cha mẹ hứng chịu quả báo do
giết chóc. Mắt phàm chẳng thấy, bảo đó là “hành hiếu”. Thiên nhăn nh́n vào, [thấy
chuyện đó] càng đáng thương xót hơn giết
cha mẹ! V́ lẽ nào vậy? Do sát sanh nhiều, khiến
cho cha mẹ và chính ḿnh cùng với khách khứa đời
đời kiếp kiếp phải đền trả lẫn
nhau, chẳng đáng buồn ư?
Đứa
con đă thành gia lập nghiệp, chẳng vay lăi nặng.
Huống hồ muốn thể hiện ḷng hiếu, mà vay nợ
tánh mạng ư? Ông tuy quy y Phật pháp, sợ chẳng hiểu
rơ lư này, v́ thế tôi nói với ông! Nếu anh em trai, chị
em gái trong nhà có kẻ chẳng biết lư này, hăy nên đem lời
Quang đưa cho họ xem, nói rơ nguyên
do cho họ. Nếu họ hiểu rơ lư này, ai chịu hành hiếu
theo kiểu “ném đá người đă té giếng”.
Hành hiếu kiểu “ném đá xuống giếng”, dẫu
cọp, sói c̣n chẳng nỡ ḷng, huống con người
ư? Nhưng do người đời chẳng biết
nhân quả ba đời, cố chấp các chuyện thuộc
vào tập quán thế gian để cử hành tang lễ,
trái nghịch to lớn với tang lễ của tiên
vương. Ông và Quang chưa gặp mặt, mẹ ông và
Quang cũng chẳng quen biết, cớ ǵ Quang phải lằng
nhằng, lan man, chuốc lấy người khác phiền ḷng,
nói những lời rỗng tuếch ấy để làm ǵ?
Bất quá, nghĩ ông vẫn tin tưởng Quang, mẹ ông suốt
đời siêng năng, tiết kiệm, nhân từ, rộng
răi, niệm Phật, tu thiện. Quang chỉ muốn mẹ
ông được lợi ích, chẳng muốn mẹ ông do
ông chẳng hiểu rơ lư to lớn đến nỗi bị
tổn hại. Nếu các ông chẳng sợ
mẹ ḿnh bị tổn hại, chẳng chịu để
cụ đạt được lợi ích, th́ cũng chỉ
đành tùy ḷng các ông! Há Quang có thể ép buộc các ông chẳng
làm ư? Nhưng Quang đă nói rồi th́ tâm Quang chẳng thẹn.
Nếu Quang chẳng nói, sẽ đánh mất thân phận của
chính ḿnh. V́ lẽ nào vậy? Do ông coi Quang là thiện tri thức.
Ví như có người muốn trở về nhà, hỏi
đường với người khác, [người
được hỏi] ắt cần phải chỉ cho con
đường chánh đáng nên đi, chỉ rơ con
đường ngoắt ngoéo chớ nên đi. Nếu ông vẫn
noi theo ư ḿnh, nhất định muốn đi theo con
đường ngoắt ngoéo chẳng nên đi, đó là lỗi
của ông, chẳng liên quan ǵ đến người chỉ
đường. Mong hăy xét kỹ lời tôi là lừa gạt
ông, hay là thành tựu hiếu đạo cho ông? Kẻ biết
tốt xấu, sẽ chẳng coi lời tôi là sai lầm!
* Thư trả lời
cư sĩ Hoàng Tụng B́nh ở Tương Âm
Quang
là loại tăng nhân chỉ biết cơm cháo, một mực
thẳng ruột ngựa, trọn chẳng chịu hư dối
ca ngợi người khác, mà cũng trọn chẳng muốn
người khác ca ngợi ḿnh hư dối! Lời lẽ
nơi trang thứ nhất của bài văn các hạ viết,
tôi rất chẳng muốn nghe, do chẳng phải là thân phận
của tôi, sẽ trở thành nỗi nhục không ǵ lớn
bằng! Bệnh từ thân sanh, thân do nghiệp sanh. Hăy nên
thống thiết sám hối để tiêu túc nghiệp. Lại
cần phải hết sức pḥng ngừa chuyện pḥng the để bệnh khỏi
nặng hơn. Bất luận bệnh ǵ, chẳng kiêng chuyện
pḥng the, chắc chắn khó thể lành bệnh! Khổng Tử
nói: “Phụ mẫu duy kỳ tật chi ưu giả” (cha
mẹ chỉ lo về căn bệnh ấy); do chuyện
pḥng the là cội gốc của hết thảy các bệnh.
Trong
khi thân đang bệnh tật, cần
ǵ phải đến Cư Sĩ Lâm theo đại chúng niệm
Phật? Chỉ ở tại nhà lắng
ḷng tĩnh niệm, đó là tốt
nhất. C̣n như ông nói nghiên cứu Phật lư với thiện
tri thức, do thân đang vương bệnh nặng,
chỉ nên nghiêm túc tu tŕ. Hăy nên chí thành niệm
Phật, và niệm Quán Âm, lúc này chẳng cần phải
nghiên cứu. Hễ nghiên cứu, ngược lại sẽ trở thành rối ren. Ví như có
bệnh, có được một viên linh đan, liền
chú trọng dùng ngay. Chớ nên trước hết nghiên cứu
xem viên linh đan ấy do thuốc ǵ chế thành, thuốc
sẽ đi theo kinh lạc nào, trị bệnh ǵ? Ắt
mong hiểu rơ từng điều rồi mới chịu uống
thuốc ư? Ông trọn chẳng biết nguyên do của học
Giải và học Hành, cho nên chẳng đạt được
lợi ích chân thật.
Danh
mục của ngoại đạo chất chứa thành
trăm, thành ngàn loại, nhưng cách dụng công của họ
nói chung chẳng ngoài luyện đan, vận khí. Dẫu
chúng nó dạy người ta xem kinh, niệm Phật, đều
là màu mè ngoài mặt, chứ cố nhiên chúng nó chẳng cho đấy
là đạo! Muốn đắc đạo của chúng, ắt
phải khẩn thiết đến cực điểm. Ban
đêm một ḿnh vào pḥng, đóng chặt cửa cái, cửa
sổ, bên ngoài phái người tuần tra, chỉ cho phép một
người vào pḥng. Trước hết, cần phải
phát lời thề cực ác, cực thảm: “Nếu trái nghịch
giáo đó, nhất định chịu loại thảm báo ấy”.
Thề độc rồi, họ sẽ điểm khiếu,
chỉ huyệt, hoặc nơi đầu, mặt, hoặc
ở trong thân. Đối với các huyệt trong thân, ắt
phải cởi sạch áo ngoài lẫn áo lót, sờ soạng
để chỉ điểm. Cách làm như thế chính là
mánh khóe mê hoặc người khác, nhưng hết thảy
các ngoại đạo, thoạt đầu dùng một “kinh” để truyền
đạo “chẳng tu [các pháp khác] mà có thể ngay lập
tức thành tựu!” Nếu bỏ cách bí mật
để dạy rơ cho người khác, chẳng bắt thề
độc mà cho phép người khác tùy ư nhập đạo
hay bỏ đạo, ngoại đạo sẽ chẳng có
căn cứ để tồn tại được!
Phật
pháp chẳng có chuyện bí mật truyền dạy riêng
tư, cũng chẳng buộc kẻ khác thề độc!
Hễ tin th́ nương theo đó để tu, chẳng tin
th́ tùy ư ĺa bỏ. Ông đă niệm Phật, vẫn toan tính
theo ngoại đạo, tức là ông hoàn toàn chẳng biết
sự tà chánh giữa Phật pháp và ngoại đạo, chỉ noi theo người
khác mà sanh tín tâm, thật
sự chẳng phải là chân tín. Nếu sanh ḷng tin chân thật,
sẽ chỉ dốc sức tu tŕ, há c̣n nghĩ ngợi ngoại
đạo đông đảo, hoặc hăm nhập vào đó
ư? Ông đă có túc nghiệp, mắc bệnh hiểm nghèo,
hăy nên ăn chay, niệm Phật để làm chuyện siêu
độ oán gia. Nói tới “siêu độ” th́ cũng
chẳng bắt buộc phải thỉnh Tăng làm Phật
sự, nhưng chính ḿnh phải nghiêm túc, khẩn thiết, chí
thành niệm Phật, niệm Quán Âm. Đừng bảo “chỉ
niệm một vị Phật, một vị Bồ Tát, há
có thể lành bệnh ư?” Cần phải biết: Niệm
Phật là pháp viên đốn nhất, thẳng thừng, nhanh
chóng nhất trong Phật pháp, lợi ích vượt xa hết
thảy các pháp môn. Chỉ v́ tâm chí thành hay không mà thành ra sai
khác, chẳng phải là pháp có linh hoặc chẳng linh. Tôi
giải đáp các câu hỏi khác như sau:
1)
[Ông hỏi] “Tịnh Độ đă chỉ do tâm tạo,
phải nên nói ‘duy tâm’, sao lại nói tới Tịnh Độ
là cái được tạo [bởi tâm]? Đă là Tịnh
Độ được tạo bởi tâm, sao lại chỉ
là duy tâm, chẳng có cảnh ở ngoài Tịnh Độ vậy?”
“Duy tâm Tịnh Độ” là dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật, cầu
sanh Tịnh Độ. Cho tới lúc lâm chung, do tịnh tâm của
chính ḿnh, cảm Phật tiếp dẫn, văng sanh Tây
Phương. Như thế mới là “duy tâm Tịnh Độ”.
Nếu chẳng có Tịnh Độ, chỉ nên nói là “duy
tâm”, sao có thể từ trong không sanh ra có, thêm vào một
cái Tịnh Độ? Lại thêm vào một cái “được
tạo” ư? Vốn chẳng có Tịnh Độ, tạo
cái ǵ chứ? Kẻ tà kiến
ngăn trở người khác tu tŕ, tự ăn nói lớn
lối, chẳng biết lời nói của chính ḿnh hoàn toàn
tương phản! Muốn phá sự tu tŕ của người
khác, thật ra là tự phá, tự bộc lộ tà kiến,
kiến giải sai lầm! Nước ta loạn lạc
đến nỗi phế kinh điển, phế luân
thường, phế hiếu, vứt bỏ liêm sỉ, giết
cha, giết mẹ hết thuốc chữa, đều do
người thuở trước ăn nói lớn lối,
xướng lên tà thuyết phá nhân quả, luân hồi, bảo
“Phật lừa kẻ ngu tuân phụng
giáo pháp của Ngài” mà ra! Giả sử ai nấy đều
biết “tam thế nhân quả, lục đạo luân hồi” là thật lư, thật sự, ai dám phô phang ư kiến ức
đoán nhất thời để tạo khổ báo bao kiếp măi măi, khiến cho người đời sau trong thiên hạ
hứng chịu sự độc hại vô cùng ấy?
2)
“Chẳng phải là người thuộc địa vị
[lănh đạo], chẳng toan tính phương cách cai trị”. Ông là người
tiêu túc nghiệp để mong bệnh hiểm nghèo
được lành c̣n chưa xuể, sao lại xằng bậy
luận định chuyện chiến đấu, giết
chóc của nước nhà ư? Binh lực là thứ bất
tường, thánh nhân bất đắc dĩ phải sử
dụng. Quốc gia có đường lối của quốc
gia, chúng ta sao có thể xen vào? Xét theo lư để luận
bàn, hăy nên dùng đạo đức, nhân nghĩa làm căn bản,
dùng h́nh pháp và quân đội để phụ trợ. Nếu
không, cực kỳ hiếu chiến, dẫu là đại
quốc hay cường quốc, cũng sẽ
diệt vong, huống hồ nước nhỏ, nước
yếu ư? Như bọn Trương Tông Xương[21]
chẳng tiếc mỡ máu của nhân dân để cung ứng
vui sướng cho chính ḿnh, nay đang ở đâu? Đó là
do hiếu chiến mà chết, hay là v́ không có quân đội
mà chết? Do vậy, biết văn hiến và đức hạnh có thể an dân, vũ bị có thể
bảo vệ đất nước. Tuy sẵn có mà chẳng
phải dùng đến th́ mới là
thượng sách. Nếu chuyên chú trọng dùng vũ lực,
ắt có mối họa diệt quốc, táng thân! Nếu
có thể dụng tâm như Tào Bân[22]
th́ có thể nắm giữ binh quyền. Nếu không, đều
sẽ thành kết quả như Tào Hàn[23],
đáng tiếc lắm thay! Ông bàn đến chuyện này, bảo
là “noi theo Phật pháp, phải phế sạch binh lực và
h́nh phạt”, tức là chẳng biết Phật pháp có pháp
thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp thế gian là pháp
trị đằng ngọn, pháp xuất thế gian là pháp trị
đằng gốc. Như Khổng Tử nói “đạo
chi dĩ chánh, tề chi dĩ h́nh, dân miễn nhi vô sỉ.
Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu
sỉ thả cách” (Dùng chánh lệnh để cai trị, dùng h́nh pháp
để uốn nắn họ [tuân theo đạo đức].
Chỉ cốt sao dân chúng chẳng “phạm tội
bị trừng phạt” th́ [người
lănh đạo] chẳng hổ thẹn. Hướng dẫn
dân chúng bằng đạo đức, dùng lễ giáo để
cảm hóa họ, dân chúng không chỉ biết hổ thẹn
[v́ không tuân thủ lễ giáo], mà lại c̣n tin
phục, nghiêm túc tuân thủ). Thánh nhân tuy chẳng phế bỏ
binh lực, nhưng chẳng coi binh lực là điều chủ
yếu để trị quốc. Nay ngoại trừ binh lực
th́ hết thảy đều chẳng nói đến, ắt
binh lực là mối hại của dân, chẳng có thuốc
nào chữa được! Buồn thay!
3)
Độc ác và từ thiện chẳng trái nghịch. Nếu
ai chẳng có tâm độc ác, rắn, cọp cũng có thể
làm bạn. Dẫu chưa đạt đến mức
độ ấy, nhưng nếu là thiện nhân thường
niệm Phật, niệm kinh, quyết chẳng bị các thứ
ấy làm hại. Do giữ ḷng từ thiện, có thể
chuyển hóa các thứ độc ác ấy. Huống hồ
người tu hành thường có thiện thần bảo
vệ! Đoạn văn này của ông tội lỗi vô
lượng, dạy thiên hạ vô duyên vô cớ sát hại
sanh mạng, tôi sợ họ càng giết càng nhiều, mà kẻ
làm chuyện giết chóc đều bị diệt môn, tuyệt
diệt, kiếp sau đời đời thường bị
kẻ khác giết, đều do lời ấy của ông
gây lầm lẫn. Ông há có nên dễ dăi thốt
lời ư?
4)
Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện,
mà bệnh vẫn chưa lành, đâm ra do vậy mà sanh nghi.
Như thế th́ các điều ác sẽ đều làm, các
điều lành đều phế, làm sao có thể lành bệnh cho
được? Cần phải biết “đừng làm
các điều ác, vâng làm các điều thiện” mà bệnh
vẫn chẳng lành, tức là hạng người phô phang
cái danh bên ngoài, chưa thể tận lực thật sự
thực hiện. Hoặc là vẫn tự làm ác, chẳng biết
những ǵ đă làm là ác. Như ông Tăng ở chùa
Tinh Kiến tận lực dùng thịt để dâng cho cha
mẹ, cho đó là hành hiếu! Kẻ thế tục thích
ăn thịt, hùa nhau ca tụng! Chẳng biết kẻ
đó đă phạm giới cấm của Phật, lại
c̣n dấy lên tà kiến. Phá giới, phá kiến, khiến cho cha mẹ lẫn người khác đều
bị lầm lạc! Đứa con hiếu
thảo phải lấy chuyện “dùng đạo để
khuyên nhủ cha mẹ” làm gốc. Người có ḷng nhân
cúng tế tổ tiên, ắt cầu thóc gạo từ chỗ
người có ḷng nhân. Ông Tăng hiếu
thảo với mẹ, ngược ngạo t́m thịt từ
nhà đồ tể. Cố nhiên hiếu tâm của người
ấy th́ có, nhưng chẳng biết cái hiếu tâm kiểu đó chẳng khác
chính ḿnh giết mẹ cho mấy! Đề cao tấm ḷng
của ông Tăng “có hiếu” ấy, [tức là tán đồng]
phàm là kẻ làm con đều phải nên tận lực cung
ứng thịt cho cha mẹ. Nếu không, chính ḿnh đă dùng
thịt để dâng cho song thân, sao có thể cấm
người khác dùng thịt dâng cho cha mẹ ư? [Đối
với] kẻ chưa mở mang chánh nhăn [như thế ấy,
ông] c̣n thêm một chữ Cao, đáng thương cho vị “cao
tăng” ấy chẳng biết đă ươm mầm
cho bao nhiêu kẻ giết cha, giết mẹ trong đời
sau? Buồn thay!
5)
Chưa đạt tới địa vị “chân cùng, Hoặc tận”, tự nhiên thân, tâm, thế
giới là có thật. Đă đạt tới địa vị “chân cùng, Hoặc
tận”, th́ đối với người ấy, sẽ
đều là không; nhưng đối với kẻ chưa
đắc đạo đó, th́ đều là có. Chớ nên
lẫn lộn lư sự giữa phàm và thánh để rồi
hàm hồ nói xằng! Bản thể của cái tâm chúng sanh
chính là Chân Như Thật Tướng, hiềm rằng do
chưa ngộ, tuy suốt ngày nương vào sức Chân
Như, nhưng bao kiếp chẳng biết Chân Như ở
đâu! Nói tới vô minh, vốn chẳng có cội nguồn, đầu
mối, nhưng v́ chưa ngộ, lại muốn chỉ ra
nó vốn chẳng có; nên nói là “Chân Như chẳng giữ
lấy tự tánh mà dấy khởi vô minh”. Thật ra, chẳng
phải là thoạt đầu th́ không, sau đó bèn có. Nói
như vậy v́ muốn cho người ta dễ biết bản
thể đó thôi! Ví như vàng lẫn lộn trong quặng,
chẳng phải ban đầu là thuần vàng, sau đó mới
sanh ra quặng! Cần phải biết: Vàng ở trong quặng,
vàng vẫn chẳng phải là quặng. Luyện quặng
th́ lộ ra vàng, quặng chẳng xen tạp chất vàng. Chúng
ta hăy nên dốc sức ở chỗ phá vô minh, chẳng lo thế
giới là có hay là không, hư vọng sanh nghị luận
nơi danh từ “vô minh sanh diệt!” Quán Tự Tại
Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa, cho nên có thể
chiếu kiến “Ngũ Uẩn đều là Không”. Thân, tâm, thế
giới chính là Ngũ Uẩn. Chúng ta chưa đạt
được địa vị Bát Nhă sâu xa, hăy nên là “thật
có”. Thế giới hư huyễn, phàm phu thường nghi là vọng. Nếu hết sạch
phàm t́nh, núi, sông, đại địa đều chẳng
ngăn ngại! V́ thế, cổ đức nói: “Nếu
có thể ngay lập tức vong t́nh, vách núi c̣n có thể vượt
thẳng qua”. Ông vừa xọc chân vào, liền muốn biện luận tranh căi với họ,
đủ biết ông học Phật là để ăn nói
lưu loát, chẳng thật sự v́ thân, tâm, tánh mạng mà tính toán. Ông bài bác họ, họ bài bác
ông, suốt ngày khó có tinh thần và thời
gian để đấu đá, biện bác, vô
ích cho chính ḿnh, mà cũng vô ích đối với pháp. Hăy
nghiêm túc tu tŕ, sẽ đạt được lợi ích
thật sự, sẽ tự có hiện tượng “chẳng
nói mà tin, chẳng dạy mà tuân theo”.
6)
Người đời sống uổng chết phí. Người
tu Tịnh Độ liễu sanh thoát tử, đối với
các hành vi trong thế gian đều là giữ vẹn “hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”. Nhưng có kẻ do
[thấy người tu Tịnh Độ] chán ĺa Sa Bà, bèn
gán cho cái nhăn là “tiêu cực”. Đấy đúng là “thà
mua một ngàn gánh giả, chẳng mua một gánh thật”, ngược ngạo sanh tham đắm
đối với thứ chẳng thực tế, cho đó
là “tích cực”. Ngược ngạo cho rằng “vận
dụng công phu nơi luân lư cương thường, thân,
tâm, tánh mạng” là tiêu cực. Tôi nguyện người
đời đều tiêu cực như thế th́ thế
giới Sa Bà sẽ chuyển thành cơi Phật thanh tịnh vậy.
7)
Chẳng thể nương theo toàn bộ, nếu thuận
theo ư người khác, chẳng thể gọi là phù hợp
Phật pháp được! Trứng cũng chớ nên
ăn, do có mầm sống, lại có chất độc.
Sách thuốc của Trương Trọng Cảnh[24]
có chép kẻ ham ăn gà và trứng, về sau, trong bụng
sanh ra gà và trứng. Trọng Cảnh bảo người ấy
ăn tỏi chín, bèn ói sạch ra mà lành bệnh. Trọng Cảnh
bảo suốt đời chớ ăn nữa, hễ
ăn sẽ chẳng thể trị được!
8)
Cao tăng dùng thơ và văn chương để hoằng
pháp lợi sanh th́ được, chứ dùng thơ và văn
chương để trà trộn vào văn xă rượu
thịt th́ chẳng thể được!
9)
Kẻ cuồng luôn mong cao hơn hết thảy mọi
người xưa nay, cho nên có kẻ bài bác Phật, cho rằng
kinh Phật toàn là do người đời sau ngụy tạo.
Đối với Khởi Tín, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa,
cũng có kẻ cho là ngụy tạo. Kẻ thốt lời
ấy muốn chuốc lấy cái hư danh “kiến thức
cao siêu”, chẳng màng cái họa thật sự “bao kiếp
đọa vào địa ngục”. Do vậy, thông minh phải
biết dùng, khéo dùng th́ sẽ lợi ḿnh, lợi người.
Chẳng khéo dùng, sẽ tự lầm,
lầm người. Ông và tôi hăy ăn nói thận trọng,
nỗ lực niệm Phật, mặc cho kẻ khác lật
mây đảo mưa, nhất loạt chẳng nghe tới,
hỏi tới!
10)
Phật giáo chẳng có pháp bí mật chẳng thể nói cho
người khác. Tĩnh tọa dụng công tùy theo từng
người mà tu. Người niệm Phật khi ngồi,
trong tâm thầm niệm Phật hiệu, ắt sao cho từng
chữ, từng câu, tai nghe cho rơ ràng. C̣n như cách ngồi
th́ hoặc là bán già (đơn già phu, chân nọ chồng lên
chân kia), hoặc xếp bằng (song già phu, ngồi theo thế
liên hoa tọa). Nếu chẳng thể ngồi xếp bằng
th́ ngồi khoanh chân cũng được.
Đối
với các sách ông xin thỉnh, tôi đều chiếu theo
đó mà gửi. Ngoài ba gói sách, gởi thêm một gói sách lẻ
và tượng. Hơn nữa, kinh Phật do ông Lâm Văn
Trung Tắc Từ viết là do chắt của ông ta gởi
tới. Hăy đọc bài phát ẩn và
lời bạt, sẽ biết bậc đại nhân thời
cổ ẩn mật tu tŕ nhiều lắm!
Sau khi đă nhận được thư và sách, chỉ nên
gởi một mảnh giấy báo tin đă nhận
được thư và sách, chớ viết
những lời khen hư huyễn rỗng tuếch giống
như chửi người [trong thư báo tin ấy]. Sau này,
tại Tây Phương sẽ lại gặp gỡ, lại
tṛ chuyện, đời này quyết chẳng thể thù tạc
các hạ được!
* Thư trả lời
cư sĩ Tŕnh Viên ở Phong Kính
Xem
thư gởi đến, biết ông coi chuyện học Phật
như học vấn, trọn chẳng chú trọng liễu
sanh tử! Nếu hời hợt nghiên cứu các tông, dẫu
đối với mỗi tông đều lănh hội ư chỉ,
nhưng sanh tử xảy đến, vẫn phải theo
nghiệp duyên mà đi! Tu hành cậy vào tự lực,
chưa đoạn sạch làu phiền hoặc trong tam giới,
quyết chẳng có phần liễu sanh tử, khó khăn
như lên trời! Nếu ông là bậc thánh nhân đă đoạn
Hoặc, chẳng cần phải cưỡng ép ông chuyên tu
pháp môn Tịnh Độ. Nếu muốn tiến cao hơn, vẫn cần phải phát đại Bồ Đề
tâm, cầu sanh Tây Phương. Nếu ông là phàm phu đầy
dẫy triền phược, chưa đoạn mảy may
phiền hoặc, tuổi tác đă cao, vẫn cứ muốn
hời hợt, phù phiếm, đàm huyền thuyết diệu,
sợ một khi Diêm La lăo tử đến mời, ông có thể
thị hiện thật tướng chân
không, khiến cho ông ta chẳng thấy thân h́nh của
ông hay chăng?
Người
đời mỗi khi thấy ngu phu ngu phụ niệm Phật
cầu sanh Tây Phương, liền miệt thị pháp môn Tịnh
Độ. Chẳng biết bậc Bồ Tát đă chứng
Pháp Thân như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng, Thập Địa, cùng với Đẳng
Giác, vẫn cần phải dùng công đức của mười
đại nguyện vương để hồi hướng
văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ḥng viên
măn Phật quả. Ngu phu ngu phụ có thể niệm Phật
th́ có thể liễu sanh tử ngay trong đời này. Người
đại thông minh, đại trí huệ, chẳng chịu
niệm Phật, đến nỗi đời sau mê muội,
tạo ác nghiệp, đọa ác đạo, bị
ngu phu ngu phụ đă văng sanh thương xót, muốn cứu
giúp nhưng kẻ nghiệp chướng chẳng có cách nào
[thoát khổ] quá nhiều!
* Thư trả lời
cư sĩ Tử Tâm
Các
nơi như Cư Sĩ Lâm, Phật giáo hội v.v… là chỗ
đề xướng, chẳng phải là đạo tràng
để mọi người thường trụ, tu tŕ.
Người đời nay chuyện ǵ cũng đều muốn
phô trương to tát, chẳng biết lợi ích do người
tại gia tùy phận tùy lực tu tŕ trong nhà. Chương
tŕnh của ông nói ra th́ rộng lớn, nghiêm mật, hoàn
toàn chẳng nói tại gia th́ phải nên tu tŕ như thế
nào! Nếu nhất quyết “phải vứt bỏ gia
đ́nh th́ mới tu tŕ được”, Quang nhất quyết
chẳng chịu để cho ông dùng hai chữ Ấn Quang,
v́ sợ mọi người sẽ bảo Quang là tà ma, ngoại
đạo, vứt bỏ luân lư! Chương tŕnh tinh tấn
của ông quyết chẳng thể tiến hành được,
dẫu có thể tạo lợi ích to lớn, vẫn có
đại họa và thói tệ to lớn ngầm ẩn trong
đó. Ông hoàn toàn chẳng biết t́nh người trong
đời Mạt, chỉ biết ăn nói lớn lối,
trọn chẳng nghĩ lại rốt cuộc sẽ dẫn
đến đâu, trở thành t́nh trạng như thế
nào.
Quang
suốt đời tâm thẳng tuột, ăn nói thẳng
tuột, thà bị người khác chửi bới, chẳng
dám khiến cho người khác bị lầm. Ông nhất
quyết chẳng nghe theo lời Quang, Quang cũng chẳng
dám ép ông, nhưng từ nay về sau, vĩnh viễn chấm dứt giao t́nh, mặc cho ông phô
trương ŕnh rang cỡ nào, Quang chẳng hỏi tới.
Nếu lôi tên Ấn Quang vào đó, ắt chẳng đáp ứng. Nếu
ông cứ lôi Quang vào đó, sau này nếu tôi đăng báo
thanh minh, mong chớ trách móc. Cách làm như thế của
Quang, một là khiến cho ông tỉnh cơn mê, hai là ngăn
thói tệ kẻ gian bắt chước làm theo ông, chẳng
phải là do lửa vô minh to lớn, cho nên chẳng tán thành
chuyện tốt của người khác đâu nhé! Do ông
hoàn toàn chẳng hiểu cách tu của người tại
gia. Nếu pháp ấy được thực hành rộng
răi, ắt có họa diệt pháp. Có lẽ ông chẳng trông
thấy, nhưng Quang đă sớm biết, chẳng
nỡ không nói với ông. Ông nghe theo th́ cũng chẳng qua lại
với ông, ông chẳng nghe th́ cũng chẳng qua lại với
ông, do chẳng có mục lực và tinh thần để thù
tạc.
* Thư trả lời
cư sĩ Tạ Huệ Lâm
Hai
lần nhận được thư gởi theo đường
tàu thủy, do công việc bận rộn, chưa thể trả
lời ngay. Công khóa do ông đă lập, chẳng có ǵ là không
được! Đối với lời huấn từ
dành cho trường nữ sinh của ông, đă ngay trong ngày
hôm sau khi nhận được thư thứ hai theo
đường thủy và thư của ông, đều gởi
liền cho Vân Đài, đừng lo!
Đạo
lư của Mật Tông chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng hiện
thời người truyền, kẻ học Mật Tông
đều chú trọng thần thông, chẳng khỏi
đánh mất ư chỉ cội gốc. Người truyền
c̣n chẳng có thần thông thật sự, kẻ học có
ai thật sự đắc thần thông? Nặc Na[25]
đến chùa Thái B́nh ở Thượng Hải, bàn về
Mật Tông, cũng nói “chú trọng văng sanh Tây Phương”,
nhưng [chủ trương] tŕ A Di Đà Trường Thọ
Đà La Ni[26] ở
ngay mỏ ác, liền có thể tùy ư trường thọ, hoặc
liền văng sanh. Sao có thể nói nhất loạt kiểu
đó cho được? Đừng nói ông và tôi chẳng thể,
ngay cả Nặc Na cũng chẳng thể tùy ư văng sanh. Nặc
Na nói ông ta bị Đạt Lai Lạt Ma nhốt trong một
địa lao. Hằng ngày từ bên trên tḥng xuống ít cháo
để kéo dài mạng sống. Ông ta dùng tay moi vách địa
lao, sáu năm mới khoét thủng, trốn sang
Trung Quốc. Ông ta nói trong ngục chẳng có vật ǵ, ngay
đũa cũng chẳng có một chiếc. Dùng tay moi đất đào vách địa
lao, khổ sở chẳng thể kể xiết! Huống
hồ bị nhốt trong địa lao, phân tiểu bừa
băi, thối bẩn khôn kham, sao trong lúc ấy
chẳng văng sanh Tây Phương? Quang thoạt nghe ông ta nói,
cho rằng kẻ này hoàn toàn chẳng biết Phật pháp. Nếu
không, sẽ chí thành tŕ chú để cầu tự thoát ra,
sao lại phải dùng tay moi? Sau đó, lại nghe ông ta có thể
chữa bệnh cho người khác rất hiệu nghiệm;
do vậy, được mọi người ngưỡng
mộ. Đệ tử đem chuyện này hỏi Quang, Quang
trả lời: “Lư sự ấy đích xác là thật sự
có, nhưng chẳng thể nói là ai cũng đều có thể!”
Hiển
Ấm (đồ đệ của pháp sư Đế
Nhàn) đă đắc chân truyền của Mật Tông, về
nước gặp thầy. Thầy bảo ông ta: “Thanh danh
của con rất lớn, hăy nên bế quan, chân thật dụng
công ba năm th́ mới nên”. Ông ta học đầy một
bụng Phật pháp, nghe thầy ḿnh nói như vậy, giống
như dao chọc vào tim, liền ngă bệnh. Ngày hôm sau liền
qua Thượng Hải
Cư Sĩ Lâm để dưỡng bệnh, được
hơn một năm liền chết. Khi chết, chẳng
tỉnh táo, chú cũng chẳng niệm, mà Phật cũng
chẳng niệm. Các vị cư sĩ niệm Phật cho
ông ta. Hiển Ấm là bậc đại quán đảnh A
Xà Lê, Hiển lẫn Mật đều thông, mà c̣n như thế
đấy!
Đại
Ngu[27]
hoằng dương Mật Tông ở Thượng Hải,
người ta đua nhau kéo về như xua vịt, ông ta dạy
người khác thành Phật trong một trăm ngày. Một
ṭa nhà Tây ba tầng, thuê trọn cả sáu bảy chục
gian (ṭa nhà ấy ở đường Kim Thần Phụ[28],
nơi ấy pḥng trống rất nhiều), có thể biết
người đông cỡ nào. Từ giữa năm Dân Quốc
17 (1928) cho đến mùa Hè năm Dân Quốc 18 (1929), ở Bắc
Kinh có kẻ muốn nhờ vào đó để trục lợi,
dùng hơn một ngàn đồng làm lộ phí, mời ông ta
đến Bắc Kinh. Cả nước như cuồng, [coi ông ta] khác nào Phật sống xuất thế.
[Ông ta tuyên bố “ai học theo pháp của ông ta”], bốn
mươi tám ngày liền có thể thành Phật. Tới nửa
năm sau, đă có hiềm nghi, tiếng tăm dần dần
giảm. Sau đó, đối với những kẻ muốn
phát tài, muốn được thắng lợi, hướng
về ông ta, [ông ta] đều nói có thể đạt
được, nhưng họ đều thất bại,
căm hận ông ta thấu xương. Từ đấy về
sau, Bắc Kinh lẫn Thiên Tân không ai quan tâm đến ông
ta. Lúc đó, đúng là lúc nên dùng pháp Trường Thọ
Đà La Ni để văng sanh, nhưng ông ta bỏ về
nhà làm người thế tục. Đủ thấy những
giáo nghĩa như “tức thân thành Phật” (thành Phật
ngay trong hiện đời) v.v… như Mật Tông đă nói
đều chẳng phải là chuyện kẻ b́nh phàm mà mong mỏi được!
Những kẻ ấy đều khoác lác thần thông!
Mấy
năm trước, Bạch lạt-ma[29]
ở Nam Kinh làm pháp hội Kim Quang Minh, nhằm lúc trời hạn
hán, lại cầu lập đàn cầu mưa. Cho tới
khi viên măn, một giọt mưa cũng chẳng rơi xuống! Mùa Hạ năm nay, gă X… ở Hàng Châu lập pháp hội
Thời Luân (Kalachakra), đất Hàng c̣n bị hạn hán nặng
hơn các nơi khác. Về sau, hắn ta tới Thượng
Hải, một kẻ tin tưởng, xin hắn ta cầu
mưa, cũng chẳng được một giọt nào.
Hắn ta lại c̣n đem tiền của Trung Quốc mua
súng ống, muốn chuyển về Tây Tạng, cũng có
khi bị cường đạo cướp mất,
cũng có khi bị người mua bớt xén, hoặc cuỗm
tiền trốn mất. Nếu hắn ta thật sự có thần
thông, cớ sao đối với các chuyện kiểu ấy
đều chẳng thể biết?
Cần
phải biết yếu chỉ của Mật Tông là ba nghiệp
tương ứng. Nếu tam nghiệp tương ứng
đă lâu, sẽ có thể tùy ḷng mong muốn. Chưa đạt
đến mức độ “tâm không”, mà đă hư vọng
muốn đạt được th́ có thể sẽ bị
ma dựa. Đấy là một điều quan hệ to lớn
trong Mật Tông. Lời này chớ nên nói công khai để
khỏi mắc họa ngấm ngầm. Nay những gă đại dũng mănh đều
hướng theo chuyện hoằng dương Mật Tông,
chẳng thể không cẩn thận!
* Thư trả lời
Cố Hiển Vi và Hoàng Hàm Chi
Hai
vị cư sĩ Hiển Vi và Hàm Chi nhă giám! Chuyện cá ở
hồ Hàng Châu, hôm trước Chung Khang Hầu ở Hàng
Châu đă gởi đến chương tŕnh và thông báo, bảo
Quang viết lời Sớ. Vốn tính ngày hôm qua liền gởi
đi, nhưng do có khách tới, đến nỗi chưa
viết xong. Hôm qua, Khang Hầu lại gởi thư, lại
c̣n đem điều bàn bạc đă được quyết
định và văn bản phê duyệt của chánh phủ
gởi đến, nay tôi sẽ đem lời Sớ gởi
đi. Ông Chung vốn bảo gởi một bản cho Hàm
Chi, nay nghe nói đă bảo Hứa Chỉ Tịnh viết.
Văn chương của Chỉ Tịnh cao hơn Quang rất
nhiều. Nay đem bản thảo gởi tới, may ra có
thể cùng sử dụng, cũng có thể khiến cho
người ta tỉnh ngộ sâu xa. Văn của
Quang mộc mạc, chỉ có ư nghĩa mà thôi! Văn của
ông Hứa th́ từ ngữ lẫn nghĩa lư đều hay
khéo. Nếu cùng sử dụng th́ cũng nên đem bài của
ông Hứa gởi cho Khang Hầu, nay Quang đă gởi
thư bảo đảm rồi. Bài Niệm Phật Ca vẫn
mong cư sĩ Hiển Vi sửa chữa th́ mới tốt
đẹp được.
Trong
mùa Xuân, Quang tính rút ra từ một ngàn đồng tiền
in sách, do chuyện trước đó chưa hoàn thành, cho nên
chẳng dám đảm nhiệm. Nay việc đă thành, cũng nên
giúp đỡ đôi chút. Khi trước, Giang Dịch Viên gởi
hai trăm đồng nhờ phóng sanh. Quang xét kỹ thời
cơ chưa dám làm; do vậy, bèn đổi thành in sách.
Đă ghi vào danh sách công đức ấn loát Bạch Thoại,
Gia Ngôn v.v… Nay vẫn dùng [món tiền đó] để phóng
sanh. Lại c̣n ông Tào Thạch Như gởi hai trăm đồng
để cầu siêu cho mẹ, một nửa để niệm
Phật, một nửa để làm việc thiện. Nay
cũng dùng một trăm đồng ấy để phóng
sanh. Mong các vị đến chùa Thái B́nh, yêu cầu thầy
Chân Đạt giao cho ba trăm đồng tính vào khoản
chi của Quang. Về danh sách quyên góp th́ ghi ông Giang Dịch Viên cúng hai trăm đồng,
một trăm đồng kia th́ đề tên Tào Thạch
Như, đừng đề tên Quang, hoặc ghi là “Quang rút
từ khoản tiền in sách của ông Giang và ông Tào bao nhiêu
đó” th́ cũng được. Quang vốn chẳng muốn
đề tên, nhưng nếu muốn nhờ vào đó để
giúp cho việc đề xướng th́ cũng là chuyện
hữu ích.
Tiền
đồ của Phật giáo nguy hiểm muôn dạng. T́nh cảnh
ở Phổ Đà chẳng dễ bàn nói. Tuy chưa hung hiểm
như ở Hoàng Nham, Vĩnh Khang, nhưng hai ba năm qua,
càng ngày càng sâu, trực tiếp trở thành “xông vào nhà múa
giáo, binh lính ồn ào đoạt chủ”, nhưng
Tăng chúng trên núi không có người cầm đầu
đứng ra cáng đáng mọi việc, lại chẳng
có người có đạo đức, học vấn, kiến
thức [để đảm nhận]. Quang vốn là kẻ
ăn nhờ ở đậu, do họ đă chẳng có
người có khả năng lo liệu, Quang cũng chẳng
thể ra sức. Muốn cho tiền đồ chuyển biến
tốt đẹp, nếu chẳng do Bồ Tát hiển
đại thần thông th́ sẽ muôn đời vô vọng!
Mong hăy nói duyên do với cư sĩ Hậu Tại, Quang bận
nhiều việc, chẳng rảnh rỗi gởi thư
riêng cho ông ta.
* Thư gởi vị
sư X… ở chùa Báo Quốc (thư thứ nhất)
Giá
sách của Dương Lệ Đ́nh (tức
là như trong lần trước đă bảo gởi), cũng
trừ vào khoản ấy. Tàng Kinh Các c̣n bị mối hay không?
Nếu vẫn c̣n, chẳng ngại rải [nước Đại
Bi] một hai lần nữa để bảo toàn gác ấy
và kinh sách. Tại Linh Nham, loài ong đục gỗ (carpenter
bee) đục rất hung. Rải [nước Đại Bi]
một lần, chúng chẳng
đục nữa. Do hăy c̣n có chút ít, bèn rải một lần
nữa, chúng hoàn toàn chẳng đục nữa. Phật lực,
pháp lực, chúng sanh tâm lực đều chẳng thể
nghĩ bàn. Muốn đuợc Phật lực và pháp lực,
trước hết cần phải có tâm lực chí thành khẩn
thiết th́ mới có cảm ứng. Quang sống ở Báo
Quốc tám năm; hiện thời, chẳng lâu sau sẽ thiêu hóa, hy vọng lầu ấy chẳng hư
hoại th́ kinh sách sẽ có thể tồn
tại lâu dài. Các chuyện khác, nhất loạt chẳng hỏi
tới.
* Thư gởi vị
sư X… ở chùa Báo Quốc (thư thứ hai)
Dương
Lệ Đ́nh đến xin thỉnh Quán Âm Bổn Tích và
Văn Sao mỗi thứ ba gói. Khoản tiền ấy
cũng trừ vào khoản tiền của tôi. Các con vật
đă mua đưa sang ao phóng sanh, giao cho thầy Đương
Gia. Hễ có người lên núi, bèn bảo họ đem
đi. Lại mua hai cây chổi rơm dày, [chổi] trên núi
đă hết sức mỏng rồi! Dùng [chổi ấy]
để quét chỗ đất chẳng sạch.
* Thư gởi vị
sư X… ở Linh Nham
Thầy
Diệu Viên là vị Tăng sống theo thói thế tục,
người tỉnh An Huy, là đồ đệ của
sư Chung Phương thuộc Thanh Hư Các ở Phổ
Đà, là đồng hương của lăo ḥa thượng
Chân Đạt. Thầy Chân Đạt chính là sư thúc của
ông ta. Chiều ngày Hai Mươi Chín tháng Mười tới
đây (trước nay chưa hề đến), cho biết
ông ta đến nhà Lôi Doăn Thượng, do nhà ông ta (ông Lôi) từng đến
Phổ Đà mà quen biết. Ông ta đến nhà họ Lôi
trước (ắt là để hóa duyên), nói đồ vật
để ở nhà họ Lôi, tay không đến đây, ở
lại hai đêm. Hôm qua, sau khi dùng
cơm chiều, ngồi xe kéo [quay về], nửa đường
sắp chết. Cảnh sát đến báo tin, vội sai Ngô
Cốc Nghi đến xem th́ đă chết thật rồi.
Khiêng đến thất của thầy Minh Đạo,
trong đêm phái người niệm Phật, canh chừng.
Sáng sớm, thuê thuyền, sai người cẩn thận
chèo thuyền, sai các công nhân trẻ khiêng ḥm xuống sẵn,
đợi thuyền tới, sẽ chuyển ḥm đến
hang hóa thân, đợi sau mấy ngày liền hỏa táng,
đưa tro vào tháp Phổ Đồng. Ông ta nói chẳng có
đồ đệ, trụ tại Hoằng Ẩn Am. Khi
thầy Kiến Ngộ quay về, sẽ đến chùa
Thái B́nh ở Thượng Hải báo tin là được rồi,
chẳng c̣n dính dáng tới nữa. Hoặc là trước hết
đừng nhập tháp, đợi cho sau này không ai nhận
tro rồi mới nhập.
Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên Bổ phần 2 hết
[1] “Các pḥng” ở
đây là nói theo các gia tộc lớn
thuở đó. Tuy con cái đă lập gia đ́nh, vẫn cùng
sống trong một trang viên, thường xây theo kiểu tứ
hợp viện, mỗi người có nhà riêng trong trang viên,
hoặc các dăy pḥng riêng dành cho gia đ́nh và con cái, nhưng
khi dùng cơm vẫn ăn chung với nhau. Nơi ở của
con cả gọi là đại pḥng, con thứ hai là nhị
pḥng v.v… Cư sĩ Niệm Phật nói vợ “thường đến các pḥng”, tức là bà ta
thường la cà sang pḥng (nhà) các chị em bạn dâu để
bài bạc, chứ thời đó, phụ nữ nhà đàng
hoàng không thể nào la cà nơi các ṣng bạc (đổ
phường) được!
[2] Nữ Luận
Ngữ là một bộ sách do Tống Nhược
Tân biên soạn trong niên hiệu Trinh Nguyên đời
Đường. Tống Nhược Tân đă dựa theo
tư tưởng trong Luận Ngữ để đề
ra các khuôn phép hành xử cho nữ giới, dùng h́nh thức vấn
đáp để tŕnh bày. Bà ta mượn danh một vị
nữ học sĩ lừng danh thời Hán là Ban Chiêu để
nêu ra quan điểm giáo dục phụ nữ. Theo
Đường Thư, Tống Nhược Tân dùng sách này dạy
các em nghiêm ngặt như thầy dạy tṛ. Về sau, em
gái của bà là Tống Nhược Chiêu viết thêm lời
chú giải. Sách này cùng với các bộ Nữ Giới, Nội
Huấn và Nữ Phạm Tiệp Lục được gọi
là Nữ Tứ Thư. Sau này, các Nho sĩ cộng thêm Liệt
Nữ Truyện thành năm bộ sách phải học dành
cho nữ giới cho đến khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc
thành lập. Theo Đường Thư, sau khi Nhược
Tân chết, bà Nhược Chiêu nối chí chị, hoằng
truyền mạnh mẽ sách ấy, cho nên được
Đường Mục Tông mời vào cung chưởng quản
văn học của lục cung, và được phong
tước là Ngoại Thượng Thư. Đồng thời,
kiêm nhiệm dạy học cho các hoàng tử (khi c̣n bé) và các
công chúa, công nương. Bà dạy học trải qua các
đời vua Đức Tông, Thuận Tông, Hiến Tông, Mục
Tông, Kính Tông, được phong mỹ hiệu là
Lương Quốc phu nhân.
[3] Mao Thi chính là
kinh Thi do Mao Hanh và Mao Trành biên soạn vào thời Tiền
Hán. Kinh Thi trong Thập Tam Kinh được lưu hành hiện
thời chính là Mao Thi. Do Tần Thủy Hoàng đốt sách,
chôn học tṛ, kinh điển thời Khổng Tử bị
thất lạc. Khi Khổng Học được khôi phục
dưới thời Tiền Hán (Tây Hán), các Nho sĩ phải
sưu tầm, chỉnh lư từ các văn bản tản
mát trong dân gian. Thời Hán, có bốn trường phái chỉnh
lư, h́nh thành bốn phiên bản kinh Thi,
được gọi là Tề Thi (do Viên Cố người
nước Tề chỉnh lư), Lỗ Thi (do Thân Bồi biên
tập), Hàn Thi (do Hàn Anh chỉnh lư), và Mao Thi. Kể từ
sau thời Ngụy - Tấn, chỉ c̣n Mao Thi được
lưu truyền đến hiện thời. Mao Hanh chính là
cháu của mưu sĩ Mao Toại (môn hạ của B́nh
Nguyên Quân Triệu Thắng), Mao Trành là cháu gọi Mao Hanh bằng
chú.
[4] Quốc Phong chính là “Phong” trong ba bộ phận
lớn của kinh Thi (Phong, Nhă, Tụng). Phong tức là tiếng
gọi chung các khúc nhạc của nước chư hầu
và nhà Châu kể từ đầu thời Tây Châu cho đến
thời Xuân Thu. Đó chính là các bài dân ca của các nước, chia thành Châu Nam, Thiệu Nam, Bội, Dung,
Vệ, Vương, Trịnh, Cối, Tề, Ngụy,
Đường, Tần, Bân, Trần, Tào v.v… (tức là phân
loại theo tên gọi của các nước chư hầu,
hoặc các khu vực thời đó), bao gồm một
trăm sáu mươi bài, chiếm quá nửa nội dung của
kinh Thi. Bài nổi tiếng nhất là bài Quan Thư, tức “quan
quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục
nữ, quân tử hảo cầu. Sâm si hạnh thái, tả hữu
lưu chi, yểu điệu thục nữ, ngụ mị
cầu chi. Cầu chi bất đắc, ngụ mị
tư phục, du tai, du tai, triển chuyển phản trắc…”
Tiên sinh Tạ Quang Phát dịch thành: “Quan quan ḱa tiếng thư cưu, bên cồn hót họa
cùng nhau vang dày, u nhàn thục nữ thế này, xứng cùng
quân tử sánh vầy lứa duyên. So le rau hạnh
lơ thơ, hái theo ḍng nước ven bờ đôi bên. U nhàn
thục nữ chính chuyên. Nhớ khi
thức ngủ triền miên chẳng rời. Nếu cầu
mà chẳng được người. Khi mơ, khi tỉnh,
bồi hồi nhớ thương. Xa xôi trông nhớ đêm
trường, chiếc thân trằn trọc trên giường
nào yên”.
[5] Trong lời tựa
cho sách Thọ Khang Bảo Giám, tổ Ấn Quang đă viết
rơ như sau: “Một đệ tử [của Quang] là La Tế
Đồng, người Tứ Xuyên, bốn mươi sáu
tuổi, có thuyền buôn ở Thượng Hải, tánh t́nh
khá trung hậu, tin sâu Phật pháp, cùng với nhóm ông Quan
Quưnh Chi v.v… đồng sáng lập Tịnh Nghiệp Xă. Trong
những năm Dân Quốc 12, 13 (1923-1924), thường muốn
đến núi [Phổ Đà] quy y, do bận việc, nên
chưa được thỏa nguyện. Năm Dân Quốc
14 (1925), ông ta mắc bệnh cổ trướng mấy
tháng, t́nh thế cực nguy hiểm, chữa thuốc Tàu,
thuốc Tây đều vô hiệu. Đến ngày Mười
Bốn tháng Tám, thanh toán tiền thuốc, v́ số tiền
quá lớn, liền bực ḿnh nói: “Từ đây dù có chết,
ta cũng không uống thuốc nữa”. Bà vợ bèn đối
trước Phật cầu đảo khẩn thiết,
nguyện suốt đời ăn chay, niệm Phật, cầu
cho chồng được lành bệnh. Ngay trưa hôm ấy,
bệnh liền chuyển biến, đi tiêu xả ào ạt
nước ứ ra, không thuốc ǵ mà hết bệnh. Cuối
tháng Tám, Quang đến đất Thân (Thượng Hải),
ngụ tại chùa Thái B́nh. Ngày mồng Hai tháng Chín, đến
Tịnh Nghiệp Xă, họp mặt cùng ông Quan Quưnh Chi, ông Tế
Đồng cũng có mặt. Tuy thân thể chưa hoàn toàn
khỏe hẳn, nhưng khí sắc thuần tịnh,
tươi tắn không ai bằng. Gặp Quang, ông ta vui mừng
thưa: “Sư phụ đến rồi! Con xin quy y tại
đất Thân, chẳng cần phải lên núi nữa!” Ông
ta chọn ngày mồng Tám, cùng vợ đến chùa Thái B́nh,
cùng thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Lại thỉnh các cư
sĩ Tŕnh Tuyết Lâu, Quan Quưnh Chi, Đinh Quế Tiêu, Âu
Dương Thạch Chi, Từ Trĩ Liên, Nhậm Tâm Bạch
v.v… bồi tiếp Quang dùng cơm. Ngày mồng Mười,
lại mời Quang đến nhà dùng cơm, và nói: “Sư phụ
chính là cha mẹ của bọn đệ tử, bọn
đệ tử chính là con cái của sư phụ”. Quang
nói: “Cha mẹ chỉ lo khi con bệnh, nay bệnh ông tuy khá,
nhưng chưa b́nh phục, hăy nên thận trọng”. Tiếc
là chưa nói rơ “chuyện phải thận trọng” chính là chuyện
pḥng sự (ân ái). Đến hôm cuối tháng, tại Công
Đức Lâm mở hội Cảm Hóa Nhà Tù, ông ta cũng dự
hội. Buổi hội giải tán xong, có mười mấy
người giữ Quang lại dùng cơm. Ông ta vừa mới
đến, bèn cùng người trông coi sổ sách trao đổi
mấy câu rồi đi, sắc mặt giống hệt như
người chết, Quang biết là do ông ta phạm phải
pḥng sự mà ra. Rất hối tiếc lúc đó chỉ nói
“cha mẹ chỉ lo khi con bệnh”, chưa từng nói rơ
duyên do, đến nỗi ông ta lại bị nguy ngập.
Muốn tu chỉnh sách này để khẩn thiết khuyên
răn, nhưng do bận bịu, chưa làm được.
Ngày mồng Sáu tháng Chín, Quang về núi, bèn gởi ngay một
lá thư, tŕnh bày hết sức tường tận lẽ
lợi, hại, nhưng đă không c̣n thuốc ǵ cứu
được nữa, mấy ngày sau [ông ta] mất. Lúc mất,
ông Quan Quưnh Chi mời các vị cư sĩ đều đến
niệm Phật, ông La có được
văng sanh Tây Phương hay không, chưa thể biết,
nhưng không đến nỗi đọa lạc. Ôi! Bị
bệnh nặng mấy tháng, do Tam Bảo gia bị, nên không
dùng thuốc mà được lành bệnh, trong ṿng mười mấy ngày, khí sắc
tươi tỉnh vượt xa người b́nh thường.
Do không biết thận trọng, lầm lẫn phạm phải
pḥng sự mà chết. Không chỉ là tự tàn hại cuộc
đời, mà c̣n cô phụ từ ân của Tam Bảo quá
đỗi!”
[6] “Ảnh ấn” thuở đó
là lối in chụp các trang sách đă có sẵn, chế bản
kẽm để in lại. Do đời Tống, ấn
loát bằng mộc bản rất thịnh hành, các bản
khắc ván thời Tống rất sắc sảo, nét chữ
đẹp, chữ viết thường phỏng theo cách viết
của các thư pháp gia nổi tiếng thời đó như Âu
Dương Tuân, Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền, Tô
Đông Pha… Cách tŕnh bày trang sách đẹp đẽ, hợp
lư, dễ đọc. V́ vậy, đối với
kinh điển, người Hoa thường chuộng các bản
khắc đời Tống.
[7] Vật Do
Như Thử (loài vật mà c̣n như thế) do Từ Khiêm biên soạn vào
đời Thanh, tổng hợp các chuyện hiếu
nghĩa của các loài vật được ghi chép trong
kinh sách. Tổ Ấn Quang đă chỉnh lư, giảo định
những lỗi do ấn loát sai lầm vào năm 1937 rồi
cho ấn hành dự định là ba vạn quyển. Cuối
cùng thành sáu vạn quyển. Từ Khiêm có tên tự là Ích Khanh, hiệu là Bạch Phảng, biệt
hiệu là Hạc Tử, quê ở trấn
Vĩnh Phong, huyện Quảng Phong, tỉnh Giang Tây, làm quan tại
Hàn Lâm Viện, từng đảm nhiệm viện trưởng
thư viện tại tỉnh Giang Tây do triều đ́nh
thành lập. Ông là người kiến thức uyên thâm,
văn chương lỗi lạc, cẩn thận,
liêm chánh, thích làm lành, tin Phật. Ngoài bộ Vật Do Như Thử,
tác phẩm Hải Nam Nhất Chước (một giọt
nước ở Hải Nam) của ông cũng được
lưu truyền khá rộng. Ngoài ra, ông c̣n viết
hơn sáu mươi tác phẩm như Ngộ Tuyết Lâu
Thi Tồn (34 quyển), Hiếu Kinh Giảng Nghĩa, Linh
Sơn Di Ái Lục, Quế Cung Thê, Khủng Cụ Tu Tỉnh
Lục, Nhất Quyển Băng Tuyết v.v…
[8] Tập Cần
Sở có tên gọi đầy đủ là Thượng Hải
Du Dân Tập Cần Sở là cơ cấu từ thiện
được thành lập từ năm 1927, cho đến
thời Kháng Chiến chống Nhật th́ bị ngưng hoạt
động và đóng cửa. Sau đó, được hội
Hồng Thập Tự phân hội Thượng Hải tiếp
quản và đổi tên thành Thượng Hải Lưu Dân
Tập Cần Sở, tồn tại cho đến năm
1949 th́ bị chính quyền mới giải thể. Mục
đích của hội là cứu tế dân nghèo đến
Thượng Hải kiếm sống, hoặc những
kẻ lang thang, ăn mày v.v… Ngoài trợ giúp ban đầu
cho họ ổn định cuộc sống, chủ yếu
là dạy cho họ một nghề để kiếm sống
(bao gồm các ngành ấn loát, thêu may, dệt, làm giày, nghề
mộc, nghề đan bện mây tre, giặt tẩy hấp,
hớt tóc, chăm sóc cây cảnh, làm vườn, công nhân vệ
sinh, thợ gốm v.v...) và dạy chữ
để nâng cao trí thức, giáo dục đạo nghĩa
để họ trở thành công dân lương thiện.
Cơ cấu này có nhiều doanh nghiệp để tạo
công ăn việc làm cho di dân. Xưởng in đặt tại
Tào Hà Kính (Thượng Hải) là xưởng in khá nổi
tiếng, cho nên tổ Ấn Quang thường đặt
in sách tại đây.
[9] Điện Hàm
Nguyên là ṭa điện thứ nhất trong cung Đại
Minh của nhà Đường ở thành Trường An.
Điện này được xây vào năm Long Sóc thứ
hai (662) đời Đường Cao Tông, mất một
năm mới xây xong. Công tŕnh này được dùng để
tổ chức lễ Nguyên Đán, cũng như dùng để
thiết đại triều vào mùa Đông, cũng như
các dịp lễ long trọng như duyệt binh, hiến
phù (giao nạp tù binh, báo công thắng trận), thưởng
yến cho các quan, hoặc dâng tôn hiệu (cho cha mẹ hoặc
các chú bác của vua).
[10] Hiền khế
(賢契) là mỹ từ
để gọi bạn bè, ư nói người có ư kiến khế
hợp với ḿnh.
[11] Duyệt Tạng
Tri Tân là tác phẩm ghi lại những nét chánh yếu của
mỗi bộ kinh trong Đại Tạng Kinh do tổ Ngẫu
Ích viết vào năm Thuận Trị 11 (1654), gồm 48 quyển.
Theo các nhà nghiên cứu, điểm đặc sắc của
tác phẩm này là tổ đă dựa theo giáo nghĩa Thiên
Thai để phân loại Tam Tạng, chia luận tạng
thành thích kinh luận và tông kinh luận, đặt ra khái niệm
Tạp Tạng (tức là các
trước tác không thuộc kinh, luật, luận, nếu
lư kiêm Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, hoặc
dính dáng đến pháp thế gian, bèn xếp vào loại Tạp
Tạng), và đối với các kinh được dịch
nhiều lần, chỉ chọn lấy bản hoàn chỉnh
nhất để tŕnh bày. Pháp Hải Quán Lan
cũng là một tác phẩm khác của tổ Ngẫu Ích,
trần thuật đại cương một số kinh
luận chánh yếu trong Đại Tạng Kinh
[12]
Bài thuốc này có đăng tải trong Ấn Quang Văn
Sao Tam Biên, quyển 2, trong thư trả lời cư sĩ
Doăn Toàn Hiếu.
[13]
Bài thuốc này được Tổ nhắc đến
trong Ấn Quang Văn Sao Tam Biên quyển 2, tức thư trả
lời cư sĩ Vương Ngộ Trần (thư thứ
ba). Do toa thuốc này đơn giản, chúng tôi trích
đăng như sau: “Bài thuốc trị bệnh sốt
rét, không một ai chẳng được lành bệnh.
Một đệ tử dùng bài thuốc ấy trị cho
mấy trăm người, thường khuyên họ
đừng vất đi những tờ giấy có viết
chữ đă dùng, nhưng vẫn có người vứt
đi, tâm khá buồn phiền. Mộng thấy một
cụ già nói: ‘Chỉ dùng một tờ giấy trắng
viết năm chữ Ngược Tật Điều Lư Hoàn
(瘧疾調理丸), đem
đốt rồi pha vào nước sôi, uống xong
bệnh chẳng phát nữa’. Đem thử thấy
hiệu nghiệm lạ kỳ! Cũng cần phải
uống khoảng một tiếng đồng hồ
trước khi cơn sốt rét phát ra. Khi đốt mảnh
giấy có viết chữ, hăy nên dùng kim dài hoặc cái dùi
để ghim vào đầu tờ giấy cho khỏi
bị lửa táp tay đến nỗi chữ cháy không
hết. Thế gian có rất nhiều chuyện chẳng
thể dùng t́nh lư để suy lường được.
Một đệ tử ở Quảng Đông đem
phương thuốc trị bệnh sốt rét trị lành vô
số người. Lỡ có ai hỏi: “Là do đạo lư nào,
chẳng phải là chú, chẳng phải là bùa, chẳng
phải là thuốc, mà trị được bệnh?” Ông
ta nói: “Đấy chính là đạo lư nơi vô đạo
lư, gọi là chẳng thể nghĩ bàn vậy!”
[14] Tục Thể (俗體) c̣n gọi
là Tục Tả (俗寫), hay Tục Tự, chính là những
chữ viết theo cách thức thông dụng
trong dân gian. Nói cách khác, đó là các chữ viết
theo thói quen, không được sử dụng trong các văn
bản chánh thức, không được dùng để viết
bài thi, hoặc không được
dùng để ghi chép kinh
điển, hay các tác phẩm văn
học. Đời Đường, Nhan Nguyên Tôn định
nghĩa: “Tục có nghĩa là thiển cận, chỉ dùng
để ghi sổ sách, hoặc khế ước, toa thuốc,
chẳng thể dùng cho những bài viết văn nhă”, tức
là các chữ dùng theo thói quen hay giản tiện, không được
coi là chánh thức, không được sử dụng trong các
văn bản của triều đ́nh
hay kinh điển. Tục Tự nói chung
có bốn loại:
1. Tăng
Bút (nhiều
nét chữ hơn chữ viết theo lối Chánh Thể),
chẳng hạn chữ Bộ (步) trong Chánh Thể
viết thành Bộ (歩), Quả (果) viết thành Quả
(菓) trong Tục Thể.
2. Tỉnh
Văn
(viết bớt nét chữ, hoặc viết
tắt), như Thanh (聲) trong Chánh Thể
viết thành Thanh (声), Nhĩ (儞) viết
thành Nhĩ (你), Môn (門) viết thành Môn (门), Vô (無) viết thành Vô (无). Quán (觀) viết thành Quán (观), Điểm (點) viết thành
Điểm (点). Dữ (與) viết thành
Dữ (与). Phần lớn
các chữ này được
sử dụng trong lối Giản Thể tại Hoa Lục
hiện thời.
3. Dịch
Vị (đổi
vị trí bộ chữ) như Phong (峯) viết thành
Phong (峰), Tỳ (毘) viết thành
Tỳ (毗).
4. Dịch
Tả (viết
khác đi) như Thể (體) viết
thành Thể (体), Nhận
(認) viết
thành Nhận (认) Kê (雞, gà) viết
thành Kê (鷄), Vệ (衞) viết thành
Vệ (卫), Đầu (頭) viết thành
Đầu (头), hoặc tận
dụng các chữ đồng âm, như thay v́ viết chữ
Phát (髮) lại
dùng chữ Phát (发, phát
triển), Hậu (後, sau) viết thành Hậu (后, hoàng hậu).
[15] Sơn sống tức là nhựa cây sơn (Tất
Thụ, Rhus Succedaneum,
sơn ta, Wax tree, Japanese Hazenoki tree), thuộc họ Đào lộn hột.
Nhựa sơn (lớp sơn trên cùng, gọi là sơn thượng,
hay sơn nhất) chủ yếu dùng để chế thành
sơn cánh gián và sơn then để phủ lên các tượng
thờ, làm đồ sơn mài v.v… Lớp sơn thứ nh́,
thứ ba th́ dùng để làm sơn bó, keo dính để trét
kín như trét thuyền chẳng hạn.
[16]
Ngài Lữu Khê Hành Sâm (1614-1677) là người xứ Tân La, tỉnh
Quảng Đông, là một vị cao tăng thuộc tông Lâm
Tế. Lúc bảy tuổi, Sư xin xuất gia với ngài Tông
Bảo Độc Công, về sau tham học với Vân Môn Viên
Tín, cuối cùng trở thành đệ tử dưới pháp
ṭa của ngài Ngọc Lâm Thông Tú (tức quốc sư Ngọc
Lâm, do ngài Ngọc Lâm được vua Thuận Trị
phong tặng danh hiệu Đại Giác Phổ Tế Năng
Nhân Quốc Sư). Năm Thuận Trị 17 (1660), Sư vâng
chiếu vào cung giảng pháp. Do từ chối tước
hiệu được phong tặng, Sư được
vua Thuận Trị gọi thân mật là Từ Ông. Sau này, Sư
ẩn cư tại chùa Long Khê (tức chùa Viên Chiếu sau này)
thuộc Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Hiện thời, c̣n
có bộ Lữu Khê Sâm Thiền Sư Ngữ Lục được
lưu truyền.
[17] Phạn Đầu
(飯頭) là vị sư trông coi nhà bếp trong tùng lâm.
[18] Bài vị
trường sanh c̣n gọi là “trường sanh lộc vị”,
tức bài vị viết tên người sống để
cầu an, cầu phước, hoặc cầu tăng thọ,
tiêu tai giải nạn cho người đó. Bài vị này
thường viết bằng giấy đỏ, đặt
trên bàn thờ Quán Âm, hay dán trên tường cạnh bàn thờ Quán Âm nếu
trong chánh điện có bàn thờ Quán Âm Bồ Tát riêng.
[19] Đây là một
câu nói khá nổi tiếng của Mạnh Tử: “Hành chi
nhi bất trước yên, tập hỹ nhi bất sát yên, chung thân do chi nhi bất tri kỳ đạo
giả, chúng dă”. Câu này được
diễn giải là: “Tuy làm như thế mà hoàn toàn chẳng
hiểu nguyên do, đă làm quen tay rồi mà vẫn chẳng
hiểu sâu sắc nguyên do, nguồn cội; suốt đời
tuân hành mà chẳng hiểu rơ đường lối. Kẻ
như thế đông lắm”.
[20] Lâm Tắc Từ (1785-1850),
tự Nguyên Phủ, có các biệt hiệu
là B́nh Tuyền cư sĩ, Lịch Xă tản nhân, và Sĩ Thôn lăo nhân, quê ở Phước Châu, tỉnh
Phước Kiến, từng làm Lưỡng Quảng Tổng
Đốc, Thiểm Cam Tổng Đốc, và Tổng Đốc
Vân Quư. Khi làm Lưỡng Quảng Tổng Đốc,
ông hạ lệnh thiêu hủy hơn 20.000 ḥm thuốc phiện
của người Anh tại Quảng Đông, dẫn
đến cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ
nhất giữa Anh và Trung Hoa. Tuy bị cách chức, đầy đi Y Lê (vùng Tân
Cương), nhưng đến đâu, ông cũng có tài cai
trị, chú trọng phát triển nông nghiệp tại địa
phương, nhất là kiến thiết các công tŕnh thủy
lợi. Do khi mất, ông được tặng thụy hiệu
là Văn Trung nên để tỏ ḷng tôn kính, người
Hoa thường gọi ông là Lâm Văn Trung Công Tắc Từ.
[21] Trương
Tông Xương (1881-1932) là thủ lănh quân phiệt tỉnh
Sơn Đông thời Dân Quốc, bị người Âu Tây
gọi là “tướng quân đê tiện nhất”, có xước
danh là ‘cẩu nhục tướng quân’ (tướng
quân thịt chó), cực kỳ hiếu chiến và hành xử
tàn nhẫn. Thời hắn ta làm thủ lănh Sơn Đông, đă tăng sưu thuế rất nặng, in tiền
vô tội vạ, phung phí công quỹ, tiêu diệt kẻ chống
đối không nương tay, thiết lập hành dinh ở
Tế Nam xa xỉ như cung điện vua chúa thời cổ,
tiệc tùng liên miên. Khi quân của chánh quyền Dân Quốc
tiến hành Bắc phạt (diệt trừ các thủ lănh
quân phiệt ở miền Bắc), hắn ra lệnh cho kỹ
sư người Đức chế tạo nhiều máy bay
để phản kích, nhưng các máy bay ấy vô dụng
đến nỗi không cất cánh được. Bị
tướng Bạch Sùng Hy của chánh quyền Dân Quốc
đánh bại, hắn phải chạy ra Măn Châu. Trên
đường rút chạy, hắn c̣n ra lệnh cướp bóc
dân chúng dữ dội. Khi thủ lănh quân phiệt vùng Phụng
Thiên là Trương Học Lương kư kết ḥa ước
với chánh quyền Dân Quốc, hắn c̣n tổ chức
phản công, nhưng bị đánh bại, cuối cùng phải
nương cậy người Nhật. Sau đó, phải sống lưu
vong tại Nhật. Khi trở về Tế Nam vào ngày Ba
tháng Chín năm 1932, hắn bị ám sát bởi cháu của một
sĩ quan đă từng bị hắn sát hại trước
kia.
[22] Tào Bân (931-999), tự
Quốc Hoa, là danh tướng thời Bắc Tống, lập
nhiều chiến công to lớn, được xếp vào
hai mươi bốn công thần được ghi danh
trong Chiêu Huân Các. Ông là người thanh liêm, cẩn trọng,
giản dị. Ông giỏi dùng quân, nhưng nhân từ. Khi cầm quân diệt Nam Đường, vây chặt
thành Kim Lăng (Nam Kinh), ông đă nhiều lần tŕ hoăn,
để mong vua Nam Đường tự đầu hàng.
Thành sắp hạ được, ông cáo bệnh, không tấn
công. Chư tướng đến hỏi thăm. Ông buộc
họ thề khi chiếm thành, không giết bừa băi,
cướp bóc một ai, đốt hương thệ nguyện
rồi mới cho tấn công, khiến cho vua quan, dân chúng ở
Nam Kinh không ai bị tàn sát oan uổng.
[23] Tào Hàn (924-992)
cũng là danh tướng thời Bắc Tống, lập
nhiều chiến công, nhưng tánh t́nh hung bạo, ưa tàn
sát, tham ô, khoe khoang, khi làm quan th́ cậy thế, thích tăng
thuế khóa, bỏ bê chánh sự. Cảm Ứng Thiên có chép
chuyện Tào Hàn do tàn sát vô cớ quá nhiều, đă biến
thành lợn nhiều kiếp.
[24]
Trương Trọng Cảnh (150-219), tên thật là Cơ,
tên tự là Trọng Cảnh, quê ở
huyện Niết Dương, quận Nam Dương (tỉnh
Hà Nam), là một danh y vào cuối thời Đông Hán,
được tôn xưng là Y Thánh. Y thuật của ông
ngang ngửa với Hoa Đà. Tác phẩm Thương Hàn Tạp
Bệnh Luận của ông cho đến nay vẫn
được coi là một trong các bộ y thư cơ bản
của Trung Y. Danh y Đào Hoằng Cảnh đời
Lương cũng hết sức ca ngợi lư luận y thuật
trong bộ sách này. Một tác phẩm khác của ông là bộ
Kim Quỹ Yếu Lược ghi chép bệnh trạng và cách
chữa trị các bệnh nội ngoại khoa cũng rất
có tiếng.
[25] Nặc Na Hô Đồ Khắc Đồ
(Norha Hotogtu, 1865-1936) là
người huyện Xương Đô, Tây Khang, vốn là
người Hán, con trưởng nhà họ Từ ở
Xương Đô. Họ Từ là một gia đ́nh nhiều đời theo
Hồi giáo. Theo các đệ tử, ông ta được
công nhận là Hoạt Phật đời thứ mười
bốn của chùa Nặc Na (Nuona) ở Kim Đường
thuộc Hồng Giáo Tây Tạng (Cổ Mật - Nyingmapa). Lúc mới
ba tuổi, ông ta được
tăng sĩ chùa ấy rước về, và tấn phong lên ngôi
Pháp Vương chùa ấy lúc
bảy tuổi. Tương truyền, ông ta đă bế
quan hơn hai mươi năm để tu Mật Pháp. Do
vùng Khang Tạng, Hắc Giáo (đạo Bon – một tôn giáo
bản địa cổ truyền của Tây Tạng,
người Hoa thường gọi là Bổng giáo) hoạt
động rất mạnh, Nặc Na liền suất lănh
quân binh đánh nhau với họ nhiều lần, nhưng không
thắng. Theo môn đồ, để báo thù, ông ta đă lập
đàn Đại Phẫn Nộ Kim Cang Pháp trong ṿng sáu
năm để sát hại năm vị pháp sư
của Hắc giáo và hơn một ngàn “thổ phỉ”
Hắc giáo. Về sau, ông ta tự tuyên bố là Phục
Tạng Sư (Terton), tức người có khả năng t́m được
các mật điển do đại sĩ Liên Hoa Sanh (Padmashambava)
chôn giấu, bèn hoàn tục, nhưng vẫn làm thống lănh
các lạt-ma tại vùng Xương Đô. Tổng
Đốc Tứ Xuyên thời ấy là Triệu Nhĩ Phong
trọng dụng Nặc Na, giao toàn thể vùng Xương
Đô cho Nặc Na cai trị. Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911),
Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Tây Tạng tuyên bố độc
lập, chánh quyền Lhasa muốn tách Xương Đô khỏi
ảnh hưởng Trung Hoa. Chính Nặc Na đă cùng với
các tướng Bành Nhật Thăng, Trương Nghị
Tướng v.v.. liên minh đánh bại quân đội của
Đại Lai Lạt Ma thứ 13. Do Bành Nhật Thăng
đột ngột trở giáo đầu hàng quân Đại
Lai Lạt Ma, Nặc Na bại trận, phải trốn khỏi
Xương Đô, tập hợp tàn quân, liên kết với
đại lạt-ma Giang Kha Tùng Minh tiếp tục đánh
nhau với quân Tây Tạng, nhưng lại thua trận, bị
giải về Lhasa, bị giam cầm dưới địa
huyệt nhiều ngày. Về sau, Nặc Na thừa cơ trốn
thoát qua Nepal (các tín đồ bịa chuyện ông ta dùng thần
thông tàng h́nh ra khỏi nhà lao). Trong quá tŕnh lang thang khất thực,
do dâng thuốc chữa lành bệnh cho con gái tiểu
vương trong vùng,
nên được vị vua ấy giúp đỡ đưa
sang Ấn Độ. Ở Ấn Độ một thời
gian, ông ta ngồi thuyền sang Trung Hoa tới Hương Cảng
rồi lên Bắc Kinh vào năm 1924. Nặc Na nhiều
lượt đến cầu cạnh Mông Tạng Viện
và Chấp Chánh Phủ của Trung Hoa Dân Quốc, xin họ
cấp viện binh để giành lại Tây Khang, nhưng
do không thông tiếng Hán, quần áo rách nát nên Nặc Na luôn bị
đối xử lănh đạm, xua đuổi. Về sau,
gặp được Lư Huyền của Chấp Chánh Phủ
giúp đỡ, đưa về sống ở Ung Ḥa Cung, tiến
cử lên Đại Chấp Chánh Đoàn Kỳ Thụy. Cũng trong năm ấy, do tranh chấp
quyền bính với Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt
Ma (Panchen Lam Erdeni) phải tỵ nạn sang Trung Hoa.
Liên kết với Ban Thiền, Nặc Na vận động,
dựa dẫm thế
lực của quân
đội Quốc Dân Đảng,
trở về Trùng Khánh (Tứ Xuyên) để mưu chiếm
lại Tây Khang. Năm 1928, Nặc Na được chánh quyền
Nam Kinh cử làm Ủy Viên của Mông Tạng Ủy Viên Hội
tại Bắc Kinh. Rồi được cử làm Tây Khang
Tuyên Úy Sứ (làm việc dưới trướng của Lưu
Tương) vào năm 1935. Ông ta đă tích cực bày mưu hiến
kế cho Lưu Tương hăm hại đối thủ là
Lưu Văn Hy. Do tranh chấp một mục trường
chăn nuôi gia súc với một tộc trưởng, ông ta đă
bị bắt giữ và giao cho hồng quân vùng Chiêm Hóa quản
lư. Do bị sốt cao, ông ta mất vào tháng Năm năm 1936
tại Cam Tư, trước khi hoàn thành giấc mộng
tái chiếm Tây Khang. Hiện thời, những môn đồ
của ông ta tạo thành một tông phái riêng với danh
xưng Tây Tạng Hồng Giáo Viên Giác Tông, tự tuyên bố
Nặc Na được
truyền thừa trực tiếp từ Kim Cương Tát
Đỏa (Vajrasattva), hoàn toàn phớt lờ các vị tổ
sư và các vị thầy truyền giới, truyền pháp của
Nặc Na. Tổng đàn là Hoa Tạng Tinh Xá ở Đài Bắc.
Thủ lănh hiện thời
của giáo phái này là thượng sư Trí Mẫn và Huệ
Hoa, hoạt động rất mạnh tại Đài Loan và
Bắc Mỹ nhờ tuyên truyền nhị vị thượng
sư có thể chú nguyện khiến cho tín đồ
được văng sanh Cực Lạc, lưu Xá-lợi
đủ màu. Họ tuyên bố hoằng truyền tinh hoa của
bốn tông phái Mật giáo Tây Tạng, Tịnh Độ
Tông, Thiên Thai Tông và Thiền Tông, thành tựu mật pháp biến
thân thành hào quang cầu vồng v.v…
[26]
Đây chính là bài thần chú Thánh Vô Lượng Thọ Quang
Minh Vương Đà La Ni trong phần Thập Chú của công
phu sáng trong nhà Thiền (tuy phiên âm hơi
khác và ngắn hơn so với các bản ghi trong Đại
Tạng). Trong Đại Tạng Kinh, thần chú này
được ghi trong ba kinh:
1. Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, c̣n gọi là Thánh Vô
Lượng Thọ Tông Yếu Kinh (mất tên người
dịch).
2. Phật
Thuyết Đại Thừa Thánh Vô Lượng Thọ
Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Đà La
Ni Kinh do ngài Pháp Thiên dịch vào đời Tống.
3. Phật Thuyết
Vô Lượng Thọ Đại Trí Đà La Ni Kinh, do ngài
Pháp Hiền dịch.
Học giả
Rudolf Hoernle đă dựa theo bản chép tay của kinh Mật
Tông tại Đông Đột Quyết (East Turkestan) để
phục hồi nguyên âm tiếng Phạn của chú này
như sau: “Oṃ namo bhagavate aparimitāyur jñāna suviniścita
tejorājāya tathāgatāyārhate samyak saṃbuddhāya,
tadyathā: Oṃ puṇya mahā puṇya aparimita puṇya
aparimitāyu puṇya jñāna saṁbhāropacite. Oṁ
sarva saṃskāra pariśuddha dharmate gagaṇa samudgate svabhāva.
Pariśuddhe mahānaya parivāre, svāhā”.
[27] Pháp sư Đại Ngu (1888-1947),
tên thật là Lư Thục Bồi, tự Tông Đường,
hiệu Thời Am, sanh quán ở Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc).
Trước khi xuất gia, ông ta từng làm chủ quản ty hải
quan Vũ Hán, Hồ Bắc Tỉnh Tham Nghĩa Hội Nghị Viên, và thứ
trưởng Bộ Giáo Dục của Trung Hoa Dân Quốc. Về
sau, sau khi nghe Thái Hư đại sư giảng kinh Duy Ma Cật
vào năm 1919 tại Bắc Kinh, bèn xin thọ
Tam Quy với đại sư vào năm 1920 tại Hán Khẩu,
có pháp danh là Huệ Dung. Sau đó, vào năm 1923, xin xuất
gia tại Ngọc Hoa Luật Tự ở Nam Kinh, được
Thái Hư đại sư ban pháp hiệu là Đại Ngu. Sau
đó, ông ta sang Đông Lâm Tự, quyết chí khổ tu. Thoạt
đầu, tu theo pháp môn Tịnh Độ. Kế đó, sau một thời
gian hành Ban Châu tam-muội vào năm 1926, tự xưng cảm
được Phổ Hiền Bồ Tát ứng hiện
truyền dạy pháp môn Tâm Trung Tâm, bỏ tu Tịnh Độ,
chuyên tu Mật Tông. Ông ta tuyên bố do pháp ấy được
Phật, Bồ Tát trực tiếp gia tŕ, tu hành dễ mà
thành công cao, đề ra pháp tu Tâm Mật y cứ theo bộ Phật
Tâm Kinh (tức quyển thượng của Đại Tùy
Cầu Đà La Ni Kinh), thành lập pháp môn Ấn Tâm. Ông ta
tuyên bố đấy là pháp tu “thành Phật tức thời ngay trong
thân hiện tại”, và chính thức truyền đạo vào cuối năm
1928. Sau đó, hoàn tục.
Đệ tử truyền
pháp của ông ta là cư sĩ Vương Tương Lục.
Về sau, ông Vương chỉ định Nguyên Âm lăo nhân
là người thừa kế.
[28]
Kim Thần Phụ lộ vốn có tên là Route Pere Robert, là tên
gọi được đặt ra khi người Pháp chiếm
vùng Hoàng Phố của Thượng Hải làm tô giới.
Đường này hiện thời có tên gọi là Thụy
Kim Nhị Lộ (đường Thụy Kim số hai).
[29] Bạch lạt-ma (1870-1927) tên là Quang Pháp, tự
là Phổ Nhân, là người Mông Cổ, sống tại Nhiệt
Hà, tu ở Ung Ḥa Cung từ đầu thời Dân Quốc.
Do ông ta họ Bạch, lại là lạt-ma, nên thường
được gọi là Bạch lạt-ma. Ông ta tự
xưng từng triều bái Ngũ Đài Sơn, được
Văn Thù Bồ Tát điểm hóa, tự thông suốt Phật
pháp. Các đệ tử của ông ta tô vẽ truyền thuyết:
Năm 1914, quanh Bắc Kinh phát sanh lũ lụt lớn, Bạch
lạt-ma biết là do rồng đất quậy phá, bèn tập
hợp sáu vị lạt-ma lập đàn trấn yểm. Bạch
lạt-ma nhập định, thấy rồng hiện ra,
bèn dùng ngọn đèn cúng Phật thắp bằng bơ ném
vào đầu rồng, rồng tháo chạy, hôm sau hết lụt!
Sáu vị lạt-ma tham gia hàng phục rồng
đều là kẻ bị chết, người bị què, hay mù
ḷa, hay bệnh liệt giường, chỉ riêng Bạch lạt-ma
vô sự. Do Bạch lạt-ma tu pháp Dạ Xoa đại
tướng theo kinh Kim Quang Minh, nên thường cử hành pháp hội Kim Quang Minh. Năm 1925,
khi Ban Thiền Lạt Ma Ngạch Đức Ni (Panchen Lama
Erdeni) đời thứ chín mâu thuẫn với Đại
Lai Lạt Ma XIII, lưu vong sang Bắc Kinh, nghe danh Bạch
lạt-ma, cho mời ông ta đến. Bạch lạt-ma bèn
bái Ban Thiền làm thầy, được ban phẩm vị
Kham Bố (Khenpo), tức là không theo đúng quy tŕnh đào tạo chính
quy của một vị Kham Bố đúng nghĩa. Do khéo tuyên truyền, ông ta
được Đoàn Kỳ Thụy (tổng thống của
chánh quyền Bắc Dương) thỉnh chủ tŕ đứng
đầu 108 lạt-ma làm pháp hội Kim Quang Minh và Bạch
Tán Cái suốt hai
mươi mốt ngày. Sau đó, được mời đến
Tịnh Nghiệp Xă của chùa Giác Viên ở Thượng Hải
để cử hành pháp hội Kim Quang Minh. Tiếng tăm lừng lẫy
đến nỗi Phạm Cổ Nông cũng bị mê hoặc, theo ông ta làm hộ pháp khắp các
nơi như Hàng Châu, Gia Hưng, Trường Sa, Vũ Hán,
Cửu Giang, Nam Kinh v.v…