Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên (phần bổ sung)

phần 2

(nguyên tác: Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Bổ)

印光法師文鈔三編補

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong, Huệ Trang và Chúc Bảo

 

* Thư gởi Tề Dụng Tu (thư thứ nhất)

 

          Nhận được thư, do bận bịu cùng cực, cho nên phúc đáp chậm trễ, hết sức tạ lỗi! Tôi gom góp hơn bảy trăm chữ thành bài tựa về Xung Điền Phân Xă, nhưng rốt cuộc chẳng thể nói rơ về Phật quang. Mong ông hăy thỉnh lệnh sư là Dịch cư sĩ gọt giũa, ngơ hầu chẳng đến nỗi gai mắt người nhă. Tôi đă đọc bài thơ họa vận của thầy Dịch, [ông ta] nói tính ghép chung lại [nguyên xướng và bài họa cùng một chỗ trong bản in], sợ chẳng dễ thực hiện! Nếu thợ chưa xếp chữ tới phần đó, sẽ ghép sau các môn. Nếu thợ đă sắp chữ xong, chỉ đành xếp vào sau sách.

          Các hạ túc căn sâu dày, nếu dùng công phu mười năm, sẽ có thể tự giương cao ngọn cờ trong Phật môn. Nếu thoạt đầu liền quy y với một ông Tăng chỉ biết cơm cháo, há chẳng trở thành một chuyện nuối tiếc to lớn suốt đời ư? V́ thế, chẳng dám vội vàng làm thầy quy y cho các hạ. Đă nhận được trước tác kỷ niệm mừng thọ mẹ của ông, ba mươi bài thơ mừng thọ rất hay. Lại nữa, Quang đă bảy mươi mốt tuổi, do đời trước ít vun bồi, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ. Thầy Đức Sâm tuy tuổi chưa già, tinh thần cũng khá suy nhược. Nay đang có Tịnh Độ Thập Yếu, Viên Tịnh lại muốn sắp chữ bộ [Tịnh Độ] Thánh Hiền Lục. Ông Hứa Chỉ Tịnh biên soạn bộ [Phật Học] Cứu Kiếp Biên cũng chấp thuận giao cho Quang giảo chánh, đối chiếu rồi sắp chữ giùm. Đối với văn tập của thầy Dịch, không chỉ Quang chẳng có học thức ấy, mà cũng chẳng có tinh thần [để thực hiện]. Mong ông chớ gởi đến để khỏi bị chậm trễ!

 

* Thư gởi Tề Dụng Tu (thư thứ hai)

 

          Bài văn về Phật Quang Phân Xă, ư nghĩa tợ hồ có thể chấp nhận được, nhưng văn từ khá vụng về, chất phác. [Thế mà] thầy Dịch và ông đều cho là hay, chắc là v́ ḷng yêu thương, dẫu văn chương chẳng hay, vẫn cho là hay! Nói đến chuyện quy y, rất sợ sau này ông sẽ hối hận, cho nên chẳng dám đáp ứng. Nay ông nhắc lại, chỉ đành đem lầm đáp lỡ, đợi đến khi ông biết chắc chắn là sai, chẳng ngại coi tôi là người qua đường. Hoặc bảo ngược lại tôi hăy tôn ông làm thầy th́ cũng chẳng phải là không thể! Nay tôi đặt pháp danh cho ông là Huệ Mậu (慧懋), ư nói dùng trí huệ để tự khích lệ chính ḿnh, khích lệ người khác, ắt mong sao [ai nấy] đều giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, sanh tín, phát nguyện, tŕ danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu có thể thực hành như thế, sẽ chẳng cô phụ sự giáo hóa của đức Phật, chẳng phụ linh tánh của chính ḿnh, hướng dẫn cả một làng, làm kim chỉ nam cho hàng hậu học, may mắn chi hơn?

          Pháp môn Tịnh Độ được gọi là “pháp khó tin”. Xưa kia, có pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm, mắng học nhân phát tâm niệm Phật là chủng tánh kém hèn! Gần đây, nghe nói một pháp sư cũng giảng kinh Hoa Nghiêm, nghe chuyện có vị học nhân giảng Tâm Kinh cho thiện tín xong, lại cùng họ niệm Phật một lượt. Vị pháp sư ấy nói: “Ông đă làm giám đốc ngân hàng, sao lại đi bán đậu tẩm Ngũ Vị Hương?” Trộm nghĩ: Ư thầy ấy cho niệm Phật cũng là chuyện nhục nhă to lớn lắm! Chẳng phải là Quang thích nói chuyện thị phi, mà là mong ông hăy khăng khăng một dạ làm theo hạnh tu tŕ của ngu phu ngu phụ, ngơ hầu chẳng đến nỗi v́ nhân lành mà chuốc lấy quả ác, đáng thương, đáng xót lắm thay!

 

* Thư trả lời Châu Tễ Quang

 

          Nhận được thư, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn. Quang ăn nói chẳng nên hồn, sao có thể nêu tỏ đức hạnh cao đẹp của lệnh từ? Nhưng do thời cuộc hiện thời căm ghét hiếu thảo, cố nhiên chẳng thể không phụ họa chuyện đề xướng hiếu đạo, ḥng cứu văn phần nào thói tục xấu ác. Ghép một trăm hai mươi tám chữ thành bài ca tụng đức hạnh cao đẹp của cụ, chẳng biết có thể xếp cùng văn chương mênh mông của các bậc thông gia hay không? Phận làm con báo đáp cha mẹ, hăy nên giữ lấy những điều chánh yếu. Mong ông đừng chú trọng bày vẽ, chỉ thêm tốn kém! Hăy tiết giảm chi phí để làm chuyện từ thiện, công ích. Không chỉ lợi ích to lớn cho mẹ lẫn chính ḿnh, lại c̣n có thể mở mang phong thái, khiến cho khách khứa đến chúc tụng cũng đều được gieo phước, bắt chước làm theo. Hai bài văn số năm và số chín chữ quá nhỏ, mắt già khó xem được! Hơn nữa, những điều nói trong ấy, tôi chẳng biết, xin chớ gởi nữa!

          Trộm cho rằng: Phàm muốn lập quốc, lập gia, đều phải nên dốc sức từ căn bản. Nếu chẳng tin tưởng đạo đức, tín nghĩa, nội chiến hằng ngày dấy lên, sẽ do đâu mà khống chế ngoại nhân? Nước ta suy yếu đến mức này, nói chung là do những kẻ nắm quyền chỉ lo theo đuổi hư danh. Hễ bị ngoại nhân dùng lợi dụ dỗ, ắt quốc gia, con cháu đều chẳng đoái hoài, chỉ ưa thích mối lợi! Do vậy, đến nỗi hết thuốc chữa, suy yếu cùng cực đến nỗi nước hèn, dân nghèo! Chẳng vun bồi tín nghĩa, đạo đức, mà mong báo thù nỗi sỉ nhục, cứ khích động cái tâm quyết liệt, có khác ǵ xúi dân tay không, chân trần xông vào trận địa rừng đao, đất gai ư? Quang là kẻ xuất gia, vốn chẳng có tư cách bàn đến quốc sự. Bất quá, do các hạ chẳng chê bỏ là phường ngu muội, chẳng ngại thổ lộ nỗi niềm chất chứa, cũng vốn là ḷng ngu thành mong cầu thái b́nh vậy!

          Nay kính gởi Văn Sao một bộ, Quán Âm Tụng bốn bộ để đáp tạ ḷng quan hoài cao đẹp, cũng như thay cho lời chúc tụng. Lệnh từ đă ăn chay trường nhiều năm, kiền thành thờ phụng đức Quán Âm, càng phải nên đem pháp môn Tịnh Độ thường v́ cụ khuyên nhủ, hướng dẫn, mong sao cụ Tín, Nguyện, Hạnh mỗi mỗi đều đầy đủ vẹn toàn; để rồi năm nào hết tuổi thọ, sẽ dự vào Liên Tŕ Hải Hội, thường gặp gỡ Di Đà, Quán Âm. Đó là đạo rốt ráo để vinh hiển và báo đền cha mẹ. Các hạ đă có tín tâm, cố nhiên hăy nên dốc sức ở chỗ này. Các chuyện khác đều là chuyện thuộc về Thế Đế, xét theo thân, tâm, tánh mạng của cha mẹ, đều chẳng liên quan cho mấy! Thành tựu cha mẹ được sanh về Tịnh Độ, tức là thành tựu cho cha mẹ thành Phật. Nếu cha mẹ thành Phật, chính ḿnh ắt sẽ được nhiếp thọ. Trong Văn Sao của Quang, có nói các chuyện cần nên biết khi cha mẹ c̣n sống, khi cha mẹ lâm chung, và sau khi cha mẹ đă khuất. Mong hăy lắng ḷng đọc, chưa hẳn là chẳng có lợi ích ǵ!

 

* Thư gởi Mă Sĩ Hoằng

 

          Người sống trong thế gian, hăy nên ai nấy trọn hết bổn phận. Bổn phận chính là “cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, vợ chồng ḥa thuận, chủ nhân từ, tôi tớ trung thành”. Mỗi người tṛn hết bổn phận ấy, hoặc làm được hơn quá nửa. Phàm những ǵ thuộc về bổn phận của ḿnh, ắt cần phải chăm chú tṛn hết bổn phận của chính ḿnh. Người đời chẳng nói đến đạo lư “trọn hết bổn phận”; v́ vậy, thiên tai, nhân họa nối tiếp nhau dấy lên! Ai nấy đều trọn t́nh, trọn hết bổn phận, thiên hạ sẽ thái b́nh. Các bổn phận đều dễ trọn hết, chỉ có bổn phận của người làm cha mẹ nhiều người chẳng biết. Cho nên mới tạo thành hiện tượng rối loạn trong hiện tại. Nếu người làm cha mẹ, khi con cái vừa bắt đầu hiểu biết, liền dạy con đạo “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, và lư “nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi”, con cái chắc chắn trở thành hiền nhân, thiện nhân. Phàm những đứa hung hăng mù quáng quấy rối và kẻ ác cường đạo, thổ phỉ từ đâu mà ra vậy? Lũ mù quáng quấy rối, cường đạo, thổ phỉ, tuy là tội của chính chúng nó, nhưng thật ra là v́ cha mẹ [của chúng nó] chẳng biết đạo làm cha mẹ! Do đó, đă biến tư chất “có thể thành bậc hiền thiện [của con cái] trở thành trộm cướp! Ai mà chẳng có cha mẹ? Ai không có con cái? Chớ nên nghĩ nuông chiều con quen thói kiêu ngạo là thương con; dạy cho con đạo đức mới là ḷng Từ.

          Nay cơi đời đă loạn cùng cực, ông làm y sĩ, ắt quen biết nhiều. Hăy nên thường bàn chuyện “khéo dạy con cái sẽ có thể đạt tới thái b́nh”, ắt công đức sẽ to tát. Nếu ông thật sự có thể khéo dạy con cái, thanh danh của gia đ́nh ông chắc chắn sẽ vang dội. Thứ nhất là cần phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện. Các điều khác dễ biết, chỉ có chuyện [bổn phận của người] làm cha mẹ th́ lắm kẻ chẳng biết! V́ thế, tôi nói cặn kẽ trước. Ông hăy gắng công th́ mới đáng là đệ tử đức Phật.

          Nay đặt pháp danh cho ông là Đức Hoằng (德弘), hàm ư mang tâm tự lợi, lợi ích người khác. Phàm chuyện ǵ có thể làm, bèn tận lực làm. Đối với chuyện chẳng có sức làm, hăy nên khiến cho cái thiện tâm ấy phát sanh, tăng trưởng. Chỉ phát thiện tâm, cũng có công đức. Ắt cần phải dùng thuốc men thế gian để trị thân bệnh cho người khác, dùng pháp dược của đức Phật để trị tâm bệnh của họ, và trị các bệnh do oán nghiệp mà thuốc men chẳng thể chữa trị. Gặp bệnh do oán nghiệp, hăy dạy họ đổi ác, hướng lành, kiêng giết, phóng sanh, ăn chay niệm Phật. Nghiệp lực tiêu, bệnh sẽ tự lành. Đấy là cách càng thử, càng thấy hiệu nghiệm!

          Y sĩ chẳng chuyên trọng tiền tài, sẽ tự có thể tích đức. Có hạng chủng tử địa ngục chuyên nghĩ tới tiền. Bệnh nhẹ ắt khiến cho nặng hơn ḥng có thể vơ vét, cầu lợi! Thầy thuốc kiểu đó, đời sau chắc chắn chẳng thể làm thân người! Hơn nữa, Tây y hễ gặp người bệnh nặng ăn chay, ắt [bác sĩ sẽ] bắt họ (bệnh nhân) ăn mặn. Tới chừng ăn mặn, bệnh nặng thêm, [bác sĩ] vẫn chẳng thay đổi phương châm. Loại người ác ấy, đời sau chắc chắn thành loài động vật thỏa thích bụng miệng của kẻ khác. Ông đă làm nghề y, hăy nên nghĩ tới điều này để vun bồi đức, há có nên do vậy mà tạo nghiệp ư? Các pháp tắc tu tŕ khác, mong hăy đọc tường tận trong Văn Sao hay Gia Ngôn Lục, chẳng viết cặn kẽ ở đây!

 

* Thư gởi cư sĩ Trương Cụ Nhụ

 

          Tất cả các cảnh giới trong thế gian đều là vô thường. Mặt trời giữa Ngọ rồi sẽ chênh, trăng tṛn rồi khuyết. Bờ cao thành hang, hang sâu thành vực. Biển xanh biến thành ruộng dâu, ruộng dâu thành biển xanh. Dân đen thành quan cao chức cả, quan cao chức cả trở thành thường dân. Đủ mọi nỗi cát hung họa phước đều đủ để tổn hại con người, [mà cũng] đều đủ để chu toàn con người! Không chỉ hung họa có thể tổn hại, mà phước lành cũng có thể tạo ích. Chỉ có bậc quân tử biết hành xử đúng theo địa vị, vui theo mạng trời, th́ ở chỗ nào cũng đều đạt được lợi ích. Nếu không, chuyện ǵ cũng bị hao tổn! V́ thế, sách Trung Dung dạy: “Tố phú quư hành hồ phú quư, tố bần tiện hành hồ bần tiện, tố di địch hành hồ di địch, tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn” (ở trong cảnh phú quư bèn hành xử theo cảnh phú quư, ở trong cảnh nghèo hèn bèn hành xử theo cảnh nghèo hèn, ở nơi mọi rợ bèn hành xử theo hoàn cảnh mọi rợ, ở trong cảnh hoạn nạn bèn hành xử theo cảnh hoạn nạn). Ư chỉ của bốn câu ấy sâu lắm. Tiếc là người đời chẳng khéo hiểu, đến nỗi chẳng đạt được lợi ích. Nay tôi tiếm phận chú thích rơ ràng như sau: “Tố” () có nghĩa là “hiện tại”, chẳng phải là [hiểu theo ư nghĩa] “cứ một mực như thế”. Nay đang ở trong cảnh phú quư, hăy nghĩ người nghèo khó rất nhiều, phước tinh rất ít, ắt phải nghĩ phương cách cứu vớt kẻ khốn đốn và đói nghèo, ḥng tạo hạnh phúc cho đồng bào, khiến cho người đời đều hưởng niềm hạnh phúc ấy, th́ mới có thể gọi là “hành hồ phú quư”. Nếu kẻ phú quư chỉ theo đuổi tài lợi, cơm áo, để mong bản thân vinh hiển, con cháu dư dật, sẽ chẳng phải là đạo “hành hồ phú quư”. “Hành hồ” (行乎) chính là ưu du tự tại, hợp với đạo nghĩa. “Tố bần tiện hành hồ bần tiện” chẳng phải cứ một mực nghèo hèn, coi như lẽ dĩ nhiên, mà [có nghĩa là] là kẻ một mực phú quư, bỗng dưng gặp họa, vụt trở thành nghèo hèn. Cố nhiên hăy nên nghĩ lui một bước, hăy nghĩ ḿnh trước nay chưa hề phú quư, cái tâm sẽ thảnh thơi, giải thoát, trọn chẳng có ư niệm lo nghĩ, đau buồn, oán hận. Tức là gặp họa, trở thành nghèo hèn, vẫn là lợi khí hướng dẫn tốt lành thành tựu điều tốt đẹp cho người khác. Biết phú quư hay bần tiện đều do túc nghiệp hiện duyên mà ra, nhưng nghiệp do tâm tạo, cũng do tâm diệt. Chúng ta ở trong sanh tử luân hồi, ai có thể thường hưởng phước lành, chẳng gặp hung họa ư? Nhưng hung hiểm do nghiệp trong quá khứ cảm vời, ta hăy nên nghĩ vượt ra ngoài phạm vi của cát hung, họa phước, vận dụng toàn thể đại dụng nơi tâm tánh vốn sẵn có của chính ta, làm một người hưởng an lạc dài lâu. Đó gọi là “liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh”, chứng Phật tánh vốn sẵn có, thoát khỏi luân hồi huyễn vọng. Nhưng muốn được như thế, có rất nhiều cách tu. Mong t́m một cách dễ thực hiện nhất, dễ thành tựu nhất, không ǵ bằng niệm Phật cầu sanh Tây Phương là hay khéo nhất. Đă muốn văng sanh Tây Phương, hăy nên chán các thứ nỗi khổ trong thế giới này. Nỗi khổ trong thế giới này, nói chẳng thể tận! Cố nhiên [trong thế giới này], khổ là khổ, mà lạc cũng là khổ! Hăy nên vui thích các thứ lạc trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.

          Đối với niềm vui nơi Tây Phương, hăy xem kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, sẽ tự biết. Đă sanh ḷng tin th́ phải nên phát nguyện ĺa cảnh khổ này, vào cơi vui kia, giống như tù nhân mong thoát khỏi lao ngục, trở về quê nhà. V́ thế, tŕ niệm vạn đức hồng danh Nam-mô A Di Đà Phật để mong lúc lâm chung, được Phật tiếp dẫn, văng sanh Tây Phương. Cũng đem tất cả công đức do làm chuyện công ích trong thường nhật và thiện niệm “an phận, an vui trong cảnh nghèo, chẳng oán, chẳng hờn” trong hiện thời dùng để hồi hướng. Cũng khiến cho người nhà, quyến thuộc đều suy nghĩ như thế, đều tu Tịnh nghiệp. Tuy ở trong cảnh nghèo hèn, hoạn nạn, vẫn vui với thiên chân của chính ḿnh, tiến thẳng đến “chí đạo (đạo cùng tột). So với kẻ gặp họa bèn sầu muộn, oán hờn, khiến cho thân tâm thường chịu khổ năo, th́ khác biệt vời vợi há chỉ một trời, một vực! Hai câu “tố di địch” “tố hoạn nạn” có thể suy ra ư nghĩa, cho nên chẳng viết rơ.

          Trong Văn Sao có phương pháp niệm Phật, cho nên chẳng viết cặn kẽ ra đây. Hăy nên đọc kỹ lá thư gởi cho Vệ Cẩm Châu trong Văn Sao. Phó Đại Sĩ nói: “Đắc như bổn hữu, thất như bổn vô” (được th́ như vốn có, mất th́ như vốn không). Hai câu ấy hay khéo tột bậc! “Như vốn có” sẽ chẳng sanh vui mừng, “như vốn không” sẽ chẳng sanh ưu năo. Cái tâm ấy chẳng chuyển theo cảnh, cho nên sẽ an vui. Chỉ là kẻ phú quư một mực quen thói phú quư vênh váo, một khi nghèo hèn, sẽ cảm thấy mọi chuyện đều chẳng như ư. Hăy thử nghĩ khi xưa ta nghèo hèn, làm thế nào để sống sót? Dẫu ta từ lúc sanh ra đến nay luôn là kẻ phú quư, nhưng ông cha ta, khi xưa thuở chưa phú quư lại sống bằng cách nào? Dẫu cho sau khi đă phú quư, há nên quên cội gốc, liền muốn áo đẹp, cơm ngon, ở trong nhà cao, viện lớn, hô tớ gọi hầu, tùy thuận ư ta ư? Kẻ tiểu dân đầu tắt mặt tối suốt ngày, c̣n khó no ḷng, những người dân mắc tai nạn mong có vỏ cây, rễ cỏ đỡ ḷng mà c̣n chưa được! Ta c̣n chưa đến nông nỗi ấy, hăy nghĩ tới nỗi khổ của họ, dẫu hằng ngày phải ăn gạo thô, người nhà tự nấu cơm, may áo, chẳng có kẻ hầu nào, cũng vẫn hưởng phước trời, niềm vui ấy chẳng thể thí dụ được! Đó là pháp môn mầu nhiệm nhất để “tùy ngộ nhi an” (dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng vẫn an vui). Nếu chịu xét kỹ th́ may mắn lắm thay!

 

* Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật (thư thứ nhất)

(do tạp chí bị thiếu trang, lá thư này chẳng đầy đủ)

 

          …ăn đồ đă cúng. Điều này thuộc về tôn trọng Phật giới, cũng chớ nên quá chấp trước. Đối với chánh thần trong thế gian, chẳng ngại thuận theo t́nh lư thế gian để lễ bái, nhưng chớ nên thường lễ bái như đối với Phật, Bồ Tát. [Như thế th́ đối với chuyện] ăn đồ đă cúng quỷ thần, cũng sẽ hiểu trọn vẹn! Do sự bố thí ấy thuộc về làm phước. Nếu nói “nhất quyết chẳng thể ăn”, như thế th́ phẩm vật đă cúng tổ tiên, cúng thần đều vứt đi, trọn chẳng có lư ấy! Phật c̣n nhận thức ăn của con người, huống hồ người thọ Ngũ Giới chẳng thể ăn thực phẩm đă cúng cho quỷ thần ư? Kẻ thích Phật pháp mà chẳng coi trọng tŕ tụng, lễ bái, đều thuộc về hạng nói suông vậy!

 

* Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật (thư thứ hai)

(đính kèm nguyên văn câu hỏi)

         

          1) Hỏi: Bản thân đứa con trai cả do túc nghiệp, cũng do quan hệ di truyền với vợ chồng đệ tử, thiếu sự từ bi, ḥa nhă, cố chấp dị thường! Con tính giao nó cho cư sĩ Giang Dịch Viên giáo hóa, nhưng bà nội kế của nó sợ đường xa, nếu bị bệnh tật, không người chăm sóc, chẳng muốn cho nó đi. V́ thế, nửa chừng phải bỏ dở. Đấy cũng là v́ đứa con ấy bạc phước, chẳng sớm được bậc thiện tri thức hun đúc. Nhưng tâm nguyện đă phát, chắc sẽ có ngày được thỏa nguyện ư?

          Đáp: Gởi đi xa theo Dịch Viên, chẳng bằng tự dạy tại nhà tốt hơn! Mong hăy vĩnh viễn dứt bỏ ư niệm ấy. Đối với thói đời, Quang đă hiểu rơ. Ông đă khó dạy nó, Dịch Viên càng khó dạy hơn, v́ chẳng dám nghiêm khắc quở trách. Nếu nó thật sự là đứa có căn khí, ở bên ngoài cũng thế, mà ở trong nhà cũng thế. Nếu không, ở bên ngoài chẳng bằng ở trong nhà, sẽ tốt hơn nhiều!

          2) Hỏi: Ngạn ngữ nói “gia phú bất như gia ḥa” (nhà giàu chẳng bằng nhà ḥa thuận). Trong một nhà, đầu mối bất ḥa bắt đầu từ vợ chồng, lan sang con cháu. Thói quen giận dữ, tranh chấp đă thành, thay đổi cực khó! Chỉ có cách cả nhà ăn chay trường, ngơ hầu huân tập lâu ngày, biến đổi xấu ác thành tốt đẹp. Trong nhà đệ tử, ngoài trừ đệ tử và đứa con gái lớn là hai người ăn chay trường, các đứa con khác vẫn chưa dám mười phần chẳng tuân theo. Nhưng do vợ đệ tử chẳng muốn trường trai, cho nên các con cũng đều ăn mặn theo. Nếu vợ đổi sang ăn chay trường, có thể cả nhà ăn chay. Lại nữa, đệ tử con cái đông đảo, tiêu dùng rất tốn kém, nhưng vợ chẳng biết đại thể, thường đến các pḥng[1] đánh bạc. Mỗi tháng luôn lăng phí mười mấy đồng, lại c̣n khiến cho con cái bắt chước, con càng cảm thấy lo sợ. Đệ tử nhiều lần khuyên bà ta ăn chay trường, kiêng đánh bạc. Lại c̣n thường khuyên nhủ bà ta: “Nhà khác ít người, tiền bạc c̣n thong thả. Nhà ta đông con, tiền bạc ắt phải sớm lo liệu th́ mới khỏi tan tác”. Bà ta luôn chẳng nghe theo. Do vậy, con tính nói rơ với bà ta, từ nay nếu vẫn chẳng nghe lời, con sẽ bỏ mặc hết sạch việc nhà, ngầm lánh sang nơi khác. Hết thảy do bà ta tự chịu trách nhiệm! Chờ cho bà ta sửa chữa rồi mới quay về. Chủ trương như thế chẳng biết có được hay không? Kính xin thầy từ bi dạy rơ cho!

          Đáp: Bọn họ chẳng thể đúng như pháp, một là cần phải dùng lời lẽ khuyên dụ, hai là cần đối trước Phật thay bà ta sám hối, mong được gia bị, khiến cho bà ta hồi tâm chuyển ư. Hăy nên tâm b́nh khí ḥa, nói các chuyện như người phú quư do ham vui, buông lung, đến nỗi chịu khổ sở, người bần cùng do siêng năng, tiết kiệm mà được vui sướng v.v… Hăy cứ rủ rỉ nói, lâu ngày chắc bà ta sẽ động tâm. Nếu nghiêm mặt, gằn giọng để nói, ắt sẽ trở thành chống trái. Không chỉ là vô ích, mà bà ta càng sai trái thêm sâu! Hơn nữa, lời này chỉ nhằm đe dọa, chẳng phải là làm thật. Nếu ông thật sự bỏ đi, chẳng màng tới, ắt sẽ chẳng đầy một hai năm, con cái chẳng được dạy bảo, chẳng thể nên người! Gia tư lẫn gia quy sẽ thất bại thảm hại! Sao ông lại nghĩ ra cách làm hỏng bét đến thế? Hăy vĩnh viễn đừng nói như thế, chỉ vận dụng hai cách khuyên nhủ và cầu đảo là được rồi!

          3) Hỏi: Đệ tử đức mỏng, tài mọn, tâm lượng lệch lạc, thiển cận. Từ nay về sau, tính tạ tuyệt ngoại duyên, ở nhà hiếu thảo với cha mẹ, dạy con, kiền thành tu Tịnh nghiệp. Nếu gặp người hữu duyên, sẽ tùy cơ khuyến thiện. Suốt đời như thế, cũng chẳng tiếc nuối! Một ḷng thành khăng khăng, có được hay chăng?

          Đáp: Tạ tuyệt ngoại duyên, ở nhà phụng dưỡng song thân, tùy cơ khuyến hóa, quả thật là chuyện không chi tốt lành bằng!

          4) Hỏi: “Oan oan tương báo” có phải là “oán oán tương báo” bị nói lầm hay không?

          Đáp: “Oán oán” (怨怨) là cừu hận. “Oan oan” (冤冤) là oan khuất. Kinh điển đạo Nho và đạo Thích dùng lẫn lộn hai cách nói ấy. Theo kinh Hoa Nghiêm th́ một nửa là oán, một nửa là oan. Nếu chú trọng kỹ càng, cố nhiên là nên tách ra để sử dụng.

          5) Hỏi: Đệ tử nếu cùng người khác nẩy sanh chuyện trái ư, lập tức dấy lên cái tâm chống đối, báo cừu. Lại gặp nữ sắc, chẳng dấy khởi Bất Tịnh Quán được. Có phải là v́ hai tập khí sân và dâm trong đời trước quá nặng đó chăng?

          Đáp: Bệnh ấy, hăy nên suy lường khi vô sự, th́ khi hữu sự, sẽ tự nhiên chẳng phát khởi ác niệm ấy. Đối với nữ sắc, nếu chẳng thể dấy khởi Bất Tịnh Quán được, hăy nên tưởng theo nhân quả, hoặc tưởng [người nữ] ấy là mẹ, chị, em, con gái v.v… th́ [ư niệm bất tịnh] sẽ tiêu diệt.

          6) Hỏi: Năm trước, ân sư trả lời thư, đă dạy rằng: “Tu pháp môn Tịnh Độ phải có chuyên và viên. Do căn khí của chúng sanh chẳng đồng nhất, khiến cho chư tổ lập pháp bất đồng. Ngài Thiện Đạo dạy mọi người nhất tâm tŕ danh, đừng tu các tạp nghiệp khác, v́ sợ kẻ căn cơ trung hạ do tạp nghiệp đến nỗi tâm trí khó chuyên nhất. V́ thế, Ngài dạy chuyên tu. Tổ Vĩnh Minh dạy ‘vạn thiện cùng tu, hồi hướng Tịnh Độ’, v́ sợ người thượng căn hành tŕ sẽ thiên lệch, đến nỗi phước huệ chẳng thể xứng tánh viên măn. V́ thế, Ngài dạy viên tu”. Con trộm nghe “một câu Di Đà thích hợp khắp các căn. Theo chiều dọc, thấu triệt năm thời. Theo chiều ngang, bao trùm tám giáo. Lục độ vạn hạnh không ǵ chẳng được bao gồm. Nương theo đó để thành Phật vẫn c̣n có thừa”. Cớ sao chuyên tu chỉ hạn chế trung hạ, thượng căn lại lo thiên lệch? Như thế th́ đối với các nghĩa “thích hợp khắp, bao trùm” v.v… tợ hồ mâu thuẫn! Đệ tử ngu muội, kính xin thầy dạy rơ.

          Đáp: Sao ông lại coi lời nói viên thông thành lời thiên lệch? Một câu A Di Đà bao gồm toàn thể các pháp. Thượng căn chẳng thể vượt ra ngoài, trung hạ sẽ do vậy mà chuyên ṛng, cho nên có thể đạt được lợi ích viên măn. Thượng căn có thể tu trọn khắp, nhưng chỉ chuyên tu cũng chẳng phải là không được. Tuy vậy, đối với chuyện giáo hóa, sợ rằng chẳng thể nhiếp trọn khắp các căn cơ. Chí của ông thuở trước vốn to lớn không ǵ chẳng sót, nhưng cho đến nay vẫn có thiên kiến này, tức là do chưa thể thấu triệt lư mà ra!

          7) Hỏi: Con kính hỏi, trong các chùa thường có thánh tượng A Di Đà Phật đặt ở phía Đông xoay mặt về phía Tây. Nếu tụng niệm xong bèn hướng về đó hồi hướng, tức là [chính ḿnh] xoay lưng về phía Tây, tâm khá bất an. Con tính dời sang chỗ khác để hồi hướng cho thỏa đáng, có nên hay chăng? (nói theo lời một vị đệ tử, chẳng phải là Tăng chúng trong chùa đều cho là như thế).

          Đáp: Tây Phương Cực Lạc thế giới, phương nào cũng đều có A Di Đà Phật. Có thể đúng pháp th́ cố nhiên là tốt. Nếu không, tưởng như thế cũng chẳng trở ngại ǵ!

          8) Hỏi: Đứa con gái lớn của con tánh t́nh chẳng sáng suốt, nhanh nhạy, nhưng khá điềm tĩnh, chuyên dốc. Như kinh A Di Đà, Cảm Ứng Thiên, Đại Học, Luận Ngữ, cháu đều tụng thông thạo. Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, Nữ Luận Ngữ[2] cũng có thể đọc theo. Mỗi ngày lễ Phật bốn mươi tám lạy, đọc kinh Di Đà, Hạnh Nguyện Phẩm, Cảm Ứng Thiên mỗi thứ một lượt, niệm Phật một ngàn câu. Con c̣n tính dạy cháu học Mao Thi[3], khiến cho nó biết nhiều chữ hơn. Lại c̣n dạy kinh Địa Tạng, phẩm Phổ Môn, kinh Ngọc Da Nữ, bốn mươi tám nguyện, chương Cửu Phẩm [trong Quán Kinh] v.v… chẳng biết có rườm rà quá hay không? Chẳng bằng dạy cháu chuyên niệm Phật khiến cháu dễ đạt tới nhất tâm ư? Cũng xin thầy chỉ điểm, khôn ngăn cảm kích.

          Đáp: Vạn phần chẳng thể đọc Mao Thi, do trong Quốc Phong[4], phần nhiều là [các bài thơ] thuộc về t́nh cảm nam nữ. Các cô gái chưa thể đặt vững chân, hễ đọc sách ấy, sẽ có thể nẩy sanh mơ tưởng t́nh ái. Hăy nhớ kỹ nhé! Con gái th́ có sự nghiệp của con gái. Thêu thùa chẳng học cũng không sao, nhưng may vá quyết chẳng thể không học! Nếu chuyên nhất tu hành, hoặc chẳng lấy chồng, hoặc xuất gia, dẫu không học [may vá] cũng chẳng bị ảnh hưởng lớn lao; nhưng cũng cần phải học cho biết th́ mới tốt. Nếu theo chồng, trọn chẳng thể không học may vá. Nếu không, sau này, ắt sẽ bị hạn chế, và bị kẻ khác bắt nạt!

 

* Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật (thư thứ ba)

 

          Ông X… nghe nói sách ấy giá quá cao, toan đem Thiên Phật Đồ Chinh Văn in thạch bản bán giá cao, đó là chẳng hợp lư. Có lẽ nên chỉ tính lời đôi chút th́ sẽ hữu ích cho cơi đời. Bán giá cao th́ người viết lời bạt [cho sách ấy] sẽ trở thành kẻ môi giới để kiếm lợi. Nói hay ho là để sách được lưu thông, nhưng nói thẳng ra là cầu lợi! Lại nghe nói tranh Phật do kẻ đó vẽ, đă tùy ư ḿnh mà vẽ tướng khác lạ, cũng là chẳng đúng pháp! [Quy tắc vẽ] Phật và La Hán khác nhau. La Hán có thể vẽ thành các h́nh trạng khác nhau, nhưng Phật th́ chỉ có thủ ấn (mudra) hơi khác đôi chút, sao lại vẽ mỗi vị Phật mỗi khác! Nếu vẽ mỗi vị mỗi khác, sẽ trở thành đùa bỡn, khinh nhờn, lỗi ấy chẳng nhỏ! Quang đă viết lời tựa và bài tụng xong xuôi mới nghe chuyện này. Nếu đă nghe từ trước, sẽ chẳng viết!

          Đối với chuyện ngài Linh Phong khuyên mọi người lễ Quán Âm vào ban đêm, chớ nên chấp chết cứng, cho rằng nhất định phải lễ vào ban đêm. Bất quá, do ban đêm yên tĩnh, tâm thanh tịnh, dễ thấy hiệu quả nhất. Chớ nên cho người khác biết, mà cũng chớ nên chấp trước, nhằm đối trị cái tâm háo danh. Nếu chẳng thể không khiến cho người khác biết th́ người khác biết cũng chẳng có lỗi ǵ. Nếu khoe khoang sự tu tŕ của chính ḿnh, sẽ trở thành cầu được tiếng tăm! Người đời nay chẳng tu Pháp Hoa Sám Pháp, cần ǵ phải kiểm nghiệm tướng trạng tu chứng của Pháp Hoa tam-muội? Phàm tu hết thảy các pháp môn, nói chung là dùng ḷng chí thành, cung kính, cầu tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật, đừng chú trọng thấy cảnh giới thù thắng, mầu nhiệm, sẽ chẳng đọa vào ma sự. Nếu do vọng tâm bộp chộp, muốn thấy cảnh giới thù thắng, nhiệm mầu, tâm mong mỏi như đói, như khát; đó là duyên do đọa vào cảnh ma. Nếu hiện thời chẳng mất trí, phát rồ, cũng là may lắm, chớ nên như thế!

          Hai đứa con ông lười học, cũng là do túc nghiệp khiến thành như thế. Hăy nên bảo chúng nó lễ niệm Quán Thế Âm để tiêu trừ ngu si, chúng nó sẽ tự chịu học! Lại nên tạo công đức cho chúng nó, và niệm Quán Âm, v́ chúng nó cầu nguyện, sẽ dễ thấy hiệu quả.

          Đối với căn bệnh của bạn ông, Quang có một toa thuốc tuyệt diệu. Nếu chịu uống, không ai chẳng lập tức lành bệnh. Nhưng toa thuốc ấy cực kỳ khô khan, nhạt nhẽo, không chỉ ông ta chẳng chịu uống, mà sợ rằng vợ ông ta cũng chẳng chịu uống, sẽ khó thể thấy chuyển biến tốt đẹp được! Ông chỉ biết ông ta sau khi bị bệnh c̣n chưa b́nh phục hẳn, lại bị bệnh rồi lại chẳng lành hẳn, chẳng biết nguyên do dẫn đến bệnh tật và chưa b́nh phục của ông ta, sao có thể khiến cho bệnh t́nh của ông ta khỏi hẳn, thân thể khỏe mạnh được ư? Xét theo lời ông kể, Quang phỏng đoán là do ông ta làm chuyện pḥng the quá độ; do vậy đến nỗi mắc bệnh. Bệnh c̣n chưa phục hồi như cũ, lại lo ân ái. V́ thế, tâm trạng ủ rũ, tâm thần uể oải, lờ đờ, ngủ mê mệt chẳng tỉnh, hành vi hỗn loạn. Nếu là kẻ chưa thể thường ở nhà thân thiết với vợ, th́ hoặc là do tà dâm, hoặc thủ dâm, hoặc mơ tưởng nữ sắc, tinh tiết ra, hoặc c̣n mộng tinh, hay di tinh. Đó là bệnh chung của kẻ thiếu niên thông minh. Bệnh ấy chẳng trị, chắc sẽ đến nỗi chết, nói ǵ đến chuyện khỏe mạnh được! Huống hồ nay [bạn ông] ở nhà, sống chung với vợ, nguy hiểm c̣n hơn vào chốn vực sâu, đi trên băng mỏng. Nếu vợ hiền thục, sẽ chẳng đến nỗi quá đáng. Nếu vợ cũng coi đó là chuyện vui sướng, sợ rằng lâu ngày sẽ “ô hô! ai tai” (Than ôi! buồn thay), sẽ có cùng một kết quả như ông La Tế Đồng[5].

          Nếu ông mong bạn ông sống lâu, khỏe mạnh, hăy nên nói cặn kẽ với ông ta về nỗi hại của chuyện t́nh dục nam nữ, khiến cho ông ta và vợ cùng sanh ḷng kiêng sợ. Hai người khuyên nhắc lẫn nhau, lập thệ ước đoạn dục một năm. Trong một năm ấy, không chỉ chẳng thể cùng ở chung một nhà với vợ, mà c̣n nên nhất quyết chẳng thấy nhau. Bảo vợ hăy thường ở bên nhà mẹ, ngơ hầu chẳng đến nỗi v́ trông thấy nhau mà động t́nh, hoặc không thể tự kiềm chế, hoặc do ḱm nén mà lập tức tiết tinh, sẽ trở thành vô ích! Lại nên thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để mong được âm thầm gia hộ. Phẩm Phổ Môn có nói “nếu có chúng sanh nhiều dâm dục, thường niệm Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ được ĺa dục”. Lại đem Thọ Khang Bảo Giám bảo vợ chồng họ đều đọc kỹ, sẽ tự biết, tự yêu thương ḿnh, chẳng đến nỗi do khoái lạc mà giết mất thân mạng!

          Năm Dân Quốc thứ mười (1921), ông Mă Khế Giác ở Ninh Ba đang bệnh mà cưới vợ, chưa đầy nửa năm liền mắc chứng bệnh giống như bạn ông. Ông ta giữ sổ sách cho người khác, chẳng thể chống đỡ nổi. Mùa Xuân năm sau, bèn lánh sang sống tại chùa Pháp Vũ. Hằng ngày tŕ thánh hiệu Quán Âm suốt nửa năm mà vẫn chưa b́nh phục hẳn. Bà mẹ sợ ông ta xuất gia, lôi kéo bố vợ và chủ tiệm kêu ông ta quay về trông coi sổ sách như cũ. Nhưng mỗi lần trở về nhà, h́nh hài lại tiều tụy. Ông ta tự nói mấy tháng chẳng về, vẻ mặt rất tốt. Về nhà ở dăm ba bữa, đúng là giống như một người khác. Do thân thể bệnh tật chưa hoàn toàn b́nh phục, lại trải qua chuyện pḥng sự gây hao tổn, cho nên đến nỗi như thế. Tháng Chín năm ngoái, Quang đến Thượng Hải. Ông ta đến gặp Quang, vẻ mặt rất tốt. Tới khi Quang trở về núi, đến Ninh Ba, th́ vẻ mặt của ông ta đă kém xa trước kia. Quang hỏi: “Ông đă về nhà rồi à?” Ông ta hỏi: “Sao thầy biết?” Quang nói: “Nh́n sắc mặt ông, biết ông lại phạm chuyện pḥng sự!” Ông ta thưa: “Con đă về nhà ở bốn hôm, chỉ hành sự hai lần, liền đổi khác ngay. V́ sao vậy?” Quang nói: “Người cường tráng bảy ngày mới có thể khôi phục [sau khi hành pḥng]. Huống chi ông đă bị bệnh sẵn, trong ṿng bốn ngày lại hành pḥng hai lần ư?” Ông ta liền tự than thở, hổ thẹn. Người ấy khá có thiện căn, ăn chay trường, niệm Phật. Tuy chưa học hành nhiều, nhưng viết lách thư từ văn nghĩa rất trôi chảy, nhưng cũng may mà chẳng chết! Hơi chẳng cẩn thận th́ xương đă khô từ lâu rồi, há c̣n có ngày nay ư? Vợ ông ta chẳng biết chữ, chẳng thông hiểu văn lư. Vợ bạn ông là người biết chữ, hiểu văn lư. Nếu chịu vâng theo đạo để bảo vệ chồng, bạn ông sẽ sống thọ, khỏe mạnh.

          Do Quang thấy các ông coi Quang là thầy, giống như thầy thuốc chữa bệnh, ắt phải nói tường tận chuyện cấm kỵ. Đừng bảo Quang là tăng nhân mà bàn cặn kẽ chuyện pḥng the của nam nữ rất không thích đáng, th́ một phen khổ tâm của Quang chẳng đến nỗi đành đổ sông, đổ biển, mà cái tâm yêu thương bạn của ông cũng đạt được hiệu quả thật sự! Mong hăy đưa thư này cho bạn ông xem, cũng nên sao thành một bản để vợ ông ta xem. Lại nên ai nấy đều giữ lấy, lâu lâu lại xem, sẽ thấy vợ chồng sống đến già, con cháu đều mập mạp, khỏe mạnh. Quang bàn về căn bệnh của bạn ông, vẫn sợ ông ta chẳng cho là đúng, hăy nên dẫn lời Mạnh lăo phu tử để nói với ông ta. Mạnh Tử nói: “Dưỡng thân giả, mạc thiện ư quả dục. Kỳ vi nhân dă quả dục, tuy hữu bất tồn yên giả quả hỹ. Tắc kỳ vi nhân dă đa dục, tuy hữu tồn yên giả, quả hỹ” (Đạo dưỡng thân không ǵ bằng ít ham muốn. Kẻ làm người mà ít ham muốn, tuy có kẻ đă chết, nhưng số đó ít lắm. Kẻ làm người mà nhiều ham muốn, tuy có người sống sót, nhưng ít lắm). Thiếu niên chỉ biết dâm dục là vui, chẳng biết nó chính là cái gốc để tàn phá thân thể, mất mạng! Vui sướng trong một khắc, khổ suốt bao kiếp, chẳng đáng buồn ư?

          Năm Dân Quốc thứ mười (1921), tôi sang Dương Châu, thuận đường đến Nam Kinh gặp Vương Ấu Nông. Ông ta giữ ở lại một đêm, để có dịp gặp một người bạn chưa hề gặp mặt là Lưu Viên Chiếu. Viên Chiếu mời bạn ông ta là Ngụy Mai Tôn đến. Ông này vốn giữ chức Hàn Lâm, nhà lại giàu có, cho nên cái tật thích ăn ngon đặc biệt nặng nề! Ông ta nói: “Tôi cũng tin Phật pháp, cũng chịu niệm Phật, cũng đă từng xem Văn Sao của thầy, chỉ là chẳng thể ăn chay”. Quang nói: “Phú quư khó học đạo, nhưng ông muốn ăn chay, tôi cũng có cách”. Ông ta hỏi: “Có cách ǵ vậy?” Quang nói: “Xin đọc thuộc ḷng bài Sớ về ao phóng sanh ở Nam Tầm của Quang, chắc chắn sẽ có thể ăn chay. Nếu đọc một hai lần sẽ chẳng được, cần phải đọc đi đọc lại, đọc tới đọc lui th́ mới được”. Lời ấy nói vào ngày Mười Hai tháng Tám năm Dân Quốc thứ mười (1921). Tới tháng Mười, nhằm dịp ông ta sanh nhật sáu mươi tuổi, sợ sát sanh, bèn lánh sang Kim Sơn cho qua sanh nhật, trở về liền ăn chay trường. Năm sau đó, liền phát tâm mở đạo tràng phóng sanh. Ông ta là kẻ chẳng thể ăn chay, một khi đă biết nguyên do, ngay lập tức trừ ngay thói ham ăn ngon. Bạn của ông nếu đọc nằm ḷng bài sớ ấy, và các văn tự kiêng giết trong Văn Sao của Quang, cũng sẽ sanh ḷng chẳng nỡ, không chỉ chẳng dám mua con vật c̣n sống về giết, mà con vật đă chết cũng chẳng đành ḷng nuốt trôi được!

 

* Thư đặt mua Đại Tạng Kinh bản khắc đời Tống được in theo lối ảnh ấn[6] cho Linh Nham Sơn Tự

         

          Lời tựa đă viết xong, nay v́ Linh Nham Sơn thỉnh một bộ. Khoản tiền năm trăm tám mươi tám đồng (kinh là năm trăm năm mươi hai đồng, bưu phí hai mươi đồng, bốn hộp đựng kinh là bốn mươi đồng, bưu phí ba đồng), mong hăy giao thư này cho ḥa thượng Chân Đạt ở chùa Thái B́nh. Quang có khoản tiền gởi ở chỗ thầy ấy, thầy ấy sẽ giao cho. Sách in ra, xin gởi cho bưu điện thuộc trấn Mộc Độc ở Tô Châu, giao cho thầy Đương Gia của Linh Nham là Diệu Chân. Mỗi lần gởi đều cần phải ghi rơ tổng cộng là bao nhiêu bưu kiện để chẳng đến nỗi thất lạc.

 

* Thư trả lời cư sĩ Trâu Trí Chương

 

          Hôm trước đă nhận được ảnh chụp và thư của ông gởi, do chẳng rảnh rỗi, đến nay mới trả lời. Người thông minh trong thế gian thường coi chuyện pḥng the giữa nam nữ là chuyện b́nh thường như ăn cơm, uống trà, đến nỗi khá nhiều kẻ đoản mạng mà chết. Dẫu chẳng chết, cũng trở thành tàn phế. Bệnh của ông, há thuốc men thế gian có thể trị lành được chăng? Mong hăy lắng ḷng thường niệm “nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Nếu thật sự chí thành, khẩn thiết, gạt bỏ vọng niệm, ắt sẽ có thể ngưng thổ huyết, chẳng bị di tinh. Nếu cái tâm dâm dục chẳng dứt, tâm niệm Bồ Tát chẳng khẩn thiết, sẽ khó cảm thông, chớ quở Bồ Tát chẳng linh, lời tôi dối trá vậy!

 

* Thư trả lời cư sĩ Hứa Huệ Phảng

 

          Xem thư ông, biết ông đang bị bệnh, quá đáng thương! Hăy nên gạt bỏ hết thảy các chuyện râu ria, nhất tâm niệm Quán Thế Âm. Cớ ǵ lại muốn chép kinh để cầu lưu danh nơi công quán ấy? Nay tôi nói cho ông cách để chữa trị căn bệnh “không có cách ǵ chữa trị”. Nếu ông thật sự có thể phát tâm chân thành tự lợi, lợi ích người khác, ắt sẽ có thể nghiệp tiêu, bệnh lành!

          Năm Dân Quốc thứ mười (1921), Từ Úy Như lo chuyện khắc Đại Tạng Kinh ở Bắc Kinh, do dụng tâm quá độ, hai năm trước bị mắc bệnh ḷi dom. Sau khi đại tiện, phải nằm một khắc, chờ ruột rút lên rồi mới dám cử động. Đầu tháng Giêng, do có công chuyện, sau khi đi tiêu xong, liền ngồi xe đi, bị chà sát, [ruột] vĩnh viễn không co lên được! Suốt bảy ngày đêm đau đớn đến mức không thể chịu được, như bị nhiều cây kim cùng đâm. Đau đớn cùng cực, không làm sao được; v́ thế, ông ta phát tâm nói: “Bệnh này khổ quá, chỉ mong khi tôi bị nhiều bệnh khổ, nguyện cho cả thế gian không bị loại bệnh khổ này!” Rồi liền niệm Quán Thế Âm; không lâu sau, ngủ thiếp đi. Đến khi tỉnh giấc, hoàn toàn b́nh phục. Bệnh cũ suốt hai năm, từ đấy vĩnh viễn hết tận gốc. Sau đó, ông ta viết thư cho Quang. Quang nói: “Căn bệnh ấy của ông tuy do dụng tâm quá độ, cũng thuộc về túc nghiệp cảm vời. Do ông phát cái tâm đại Bồ Đề ấy, cho nên được lập tức tiêu trừ túc nghiệp, đoạn dứt bệnh căn. Cái tâm ấy chẳng dễ phát”. Ông ta nói: “Do lúc đó nhằm ngay lúc con đang giảo chánh phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm. Đối với đại nguyện và đại hạnh trong phẩm Thập Hồi Hướng, phàm phu và Nhị Thừa chẳng thể mong bén mảng được!” Ông chẳng dụng tâm chân thật sám hối, lại dụng tâm nơi tiếng tăm hư huyễn, dẫu có lợi ích, sao chẳng hiềm túc nghiệp sâu nặng vậy thay?

 

* Thư trả lời cư sĩ Trần Huệ Cung

 

          Mỗi người nhập đạo đều có nhân duyên. Gần đây, một đệ tử ở Cam Túc tên là Trịnh Triết Hầu, đă sáu mươi bốn tuổi. Trước lúc sáu mươi tuổi, ông ta coi Phật như thứ ô uế, tránh xa c̣n chẳng kịp. Lúc sáu mươi tuổi, thấy Văn Sao bèn đọc, suất lănh cả nhà ăn chay, niệm Phật dường như sợ chẳng kịp. Năm nay, nhiều lần gởi cúng dường các khoản tiền lớn, mong cầu siêu cho tổ tiên, sám hối tội lỗi, trai tăng, phóng sanh, thỉnh kinh, tạc tượng Phật, cũng như giúp cho mấy chỗ đang tu sửa đại điện. Người như thế, thoạt đầu chẳng muốn nghe danh hiệu Phật, nay bèn niệm, chỉ sợ chẳng đủ thời gian. Cơi đời có thiện nhân chẳng chịu niệm Phật, cũng là do túc nghiệp khiến thành ra như vậy, chẳng biết Phật là chỗ nương cậy to lớn cho hết thảy chúng sanh.

          Lại nữa, một đệ tử ở Vân Nam, tuổi sắp bốn mươi, hiếu thảo với cha mẹ, ḥa thuận với anh em đă thành tánh, khuyên cha mẹ ăn chay, niệm Phật. Cha người ấy rất thông hiểu các nghĩa của Nho và Đạo, lại tin Thiền Tông, chẳng chú trọng niệm Phật. Người ấy đă nhiều cách khuyên nhủ, và khuyên cha đọc các sách như Văn Sao v.v… Cha người ấy bèn hướng dẫn [người khác hành theo], chẳng tiếc sức thừa. Rằm tháng Tư, người con bị bệnh chết đột ngột, người mẹ v́ thấy con chết, liền uống thuốc độc tự sát. Nào có biết sau khi uống thuốc độc, thân tâm an lạc, chánh niệm phân minh, niệm Phật an tường qua đời. Quàn xác hai ngày, trọn chẳng có mùi thối. Sáu bảy ngày sau, rải tro ngoài đồng, hiển hiện nhiều tướng lành như hoa sen v.v… Lập tức người trong vùng, ai nấy đều sanh tâm chánh tín. Niệm Phật đến lúc thuần thục, chất độc chẳng thể làm người ấy trúng độc được. Cha người ấy hôm trước có gởi thư đến, Quang gởi cho ông ta bảy mươi gói sách để giúp cho việc giáo hóa, hướng dẫn. Trầm Nhất Cơ đă phát tâm quy y, ắt sẽ đề xướng to lớn. Do ông ta đă từng làm lâm trưởng, thích điều lành, chuộng bố thí, sẽ chuyên hoằng dương pháp môn này. Nay đặt pháp danh cho ông ta là Huệ Dương (慧揚), ư nói: Nương theo trí huệ Phật pháp để hoằng dương, tự lợi, lợi người rộng khắp.

 

* Thư trả lời cư sĩ Khế Như

 

          Pháp danh được viết trong tờ giấy khác, mong hăy chuyển giao [những người xin quy y]. Doăn Minh tám mươi hai tuổi, hăy nên nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Cũng nên dạy người nhà, quyến thuộc niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Trừ hai chuyện ấy ra, hết thảy đều chẳng bận tâm tới. Lại cần bảo các quyến thuộc, khi cụ lâm chung, mọi người đều v́ cụ trợ niệm Phật hiệu. Chớ nên lau rửa thân thể, thay áo sẵn, hỏi han hậu sự, và an ủi thừa thăi. Cứ đợi cho tới sau khi cụ tắt hơi hơn ba tiếng đồng hồ, sau đấy mới sắp đặt [chuyện mai táng], ngơ hầu chẳng đến nỗi do hiếu tâm mà lầm lạc đại sự sanh tử của cha mẹ. Hăy nên dựa theo Sức Chung Tân Lương để khuyên cả nhà và quyến thuộc. Ngoài ra, đều nên khuyên [mọi người] giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chớ nên cầu phước báo nhân thiên cho đời sau. Đó là điều hết sức trọng yếu. Chuyện viết lời tựa phóng sanh, xin hăy thỉnh người khác viết, do tôi mục lực lẫn tinh thần chẳng đủ, bận bịu lắm việc. Một cụ già đă bảy mươi lăm tuổi, sao có thể thù tạc các chuyện như thế được!

 

* Thư trả lời Hàn Thế Tử

 

          Sách Vật Do Như Thử[7] đă giao cho Tập Cần Sở[8] sắp chữ ấn hành. Quang v́ muốn sách được lưu truyền rộng khắp, bèn sửa thành một quyển, thống nhất số trang. Đầu sách, Quang viết lời tựa. Phàm các lời tựa trước đó, đều xếp ngay sau đó. Mục lục cũng quy về một chỗ. Văn từ trong sách nhất loạt chẳng sửa đổi. Do mục lực của Quang chẳng đủ, chẳng thể xem. Ông Từ học thức khá phong phú, tiếc rằng đối với Phật pháp vẫn c̣n bị ngăn cách. Sách này chính là pháp thế gian, cho nên chẳng có ǵ không thích đáng. Chỉ có điều trong phần lời b́nh cho chương thứ nhất là Thông Huệ Giám (tấm gương thông huệ), dẫn lời chú giải Tâm Kinh của ngoại đạo, chẳng phải là không có tỳ vết nhỏ. Môn sinh nhỏ tuổi nhất của ông ta xuất gia tại Phổ Đà Sơn, từng kể tường tận chuyện của thầy ḿnh cho Quang nghe. Ông ta thọ chín mươi sáu tuổi, khi lâm chung, nhạc trời vang rền trên hư không, đó là đă sanh lên trời vậy! Sách Vật Do Như Thử chỉ sắp chữ theo cỡ chữ số ba. Sách có khổ lớn, mỗi trang mười hai cột, mỗi cột ba mươi hai chữ, cũng tính in ba vạn cuốn. Nếu quư cần dùng Chỉ Bản, cũng có thể tặng cho một bản. C̣n Chỉ Bản gốc th́ vẫn phải dùng để ấn loát, chẳng giống như sách Kỹ Lộ Chỉ Quy cần phải sửa đổi thành văn ngôn. Nếu muốn dùng, xin báo cho biết, tôi sẽ bảo họ làm thêm một Chỉ Bản nữa. Chỉ Bản của sách Kỹ Lộ Chỉ Quy đă tặng cho Bắc B́nh Trung Ương Khắc Kinh Viện một bản, hiện c̣n ba bản. Sách Vật Do Như Thử cũng muốn làm theo cách ấy. Hiện thời, thế đạo lẫn ḷng người chẳng thể cứu văn, do bởi sách này, may ra có thể tạo ích lợi cảm phát vậy!

 

* Thư trả lời cư sĩ Triệu Tuấn Phong

 

          Trước kia, chẳng dám gởi thư v́ Nam Bắc đường sá xa xôi; hễ họ ra đi, chẳng thể nào không tốn mấy chục đồng. Huống hồ thổ phỉ tràn ngập khắp nơi. Nếu trên đường, gặp phải chuyện kiểu này, sẽ phải làm như thế nào đây? Hơn nữa, tôi chưa từng gặp họ, thật, giả khó thể biện định. Nếu họ đến, Quang cũng chẳng có cách nào xếp đặt ổn thỏa được! Do vậy, một mực chẳng gởi thư từ chính là biện pháp ổn thỏa nhất. Nay đă gởi thư, hăy nên nói với người ở quê nhà: “Ngàn vạn phần đừng đến phương Nam! V́ hễ đến, chẳng tốn mấy chục đồng sẽ không được!” Hơn nữa, Quang định năm sau ĺa Tô Châu ở ẩn thật xa, cho nên sẽ chẳng gặp. Dẫu gặp, Quang cũng chẳng thể giúp họ lộ phí trở về. Huống hồ bến tàu ở phương Nam rất nhiều kẻ xấu, thấy người nhà quê, họ sẽ dùng mưu kế dụ dỗ, lường gạt, ắt sẽ khiến cho tất cả mọi thứ của kẻ khác thuộc về ḿnh th́ mới cam ḷng!

          Hơn nữa, pháp Niệm Phật dựa theo những ǵ kinh điển đă nói để tu hành, chẳng có ǵ bí mật, trọn chẳng có đạo lư “miệng truyền, tâm trao”, sao lại mạo hiểm t́m đến? Dẫu có đến, Quang cũng chẳng thể cung cấp chi phí cho quư vị được! Quang là một tăng nhân nghèo nàn, một mực chẳng có chùa, sống nhờ chùa người khác, cũng chẳng có một đồ đệ xuất gia nào. Dẫu có người biếu tiền cho tôi, hễ nhận được bèn dùng ngay, hoàn toàn chẳng giữ lại. Nếu đồng hương, đồng tộc t́m đến, đừng nói là chẳng có tiền để cung cấp, ngay cả chuyện ăn ở cũng khó ứng phó! V́ một người cung cấp cho ngần ấy người, sao có sức ấy? Lại c̣n hoàn toàn chẳng quen biết, sao lại mạo muội t́m đến? Đă là mạo muội t́m đến, chỉ đành dùng cớ chẳng quen biết để cự tuyệt, ḥng khỏi phải v́ một người mà dẫn đến nhiều người lũ lượt làm phiền! Nếu một người biết “từ bụng ta, suy ra bụng người”, ắt sẽ chẳng có kiểu mong mỏi vô đạo lư ấy! Nếu không, chỉ có tự chuốc lấy phiền năo!

 

* Thư trả lời cư sĩ Trương Tri Giáp

 

          Mấy ngày trước nhận được thư ông và sách bổ ích, quư giá; do vậy, bảo người ta gởi cho hai Niệm Phật Đường Xích Thành và Tử Quang mỗi nơi một trăm hai mươi lăm gói kinh sách, giao cho Triệu Tuấn Phong và Vương Tín Phủ. Hôm qua, tôi mới viết thư cho hai người ấy, chỉ một lá thư để hai người cùng xem. Sách quư giá, bổ ích gởi kèm vào đó, không chỉ đỡ tốn lệ phí, mà c̣n ít bị lay động, hư hao. Ba ngày trước, lại nhận được thư của nhóm ba người Triệu Vũ Khôn (em trai của Tuấn Phong), cho biết mùa Xuân năm sau họ muốn đến Tô Châu. Trong thư gởi cho Tuấn Phong, Quang đă nói cặn kẽ nỗi họa hại do đến Tô Châu, bảo ông ta nói với mọi người để đôi bên khỏi cùng bị phiền lụy, hoàn toàn vô ích! Một lần đến phương Nam, cả trăm đồng sẽ chẳng đủ dùng. Bọn họ mỗi người lo liệu mấy chục đồng, sợ chẳng dễ dàng [làm được]! Nếu họ đến, Quang sắp xếp họ ở chỗ nào?

          Huống hồ lại là người trọn chẳng quen biết, chỉ dùng danh nghĩa “đồng hương, đồng tộc” để đến. Một người đă chẳng dễ tiếp đăi, nhiều người th́ sắp xếp như thế nào đây? Nếu hoàn toàn bù lại lộ phí cho họ, Quang chẳng thể nào lo nổi! Bọn họ uổng công một phen đi lại, lại c̣n tốn mấy chục đồng! Trong thế gian, kẻ không hiểu biết thường sẽ do khốn khó mà nẩy sanh mong mỏi kiểu đó, đâm ra đă nghèo túng càng thêm nghèo túng, đôi bên cùng chịu tổn hại. Mong cư sĩ hăy phát tâm từ bi, cũng gởi thư cho Tuấn Phong và Tín Phủ, khuyên hết thảy mọi người chớ manh nha ư niệm xuống phương Nam. Chỉ nên dựa theo các sách đă gởi như Gia Ngôn Lục v.v… để tu tŕ, sẽ liền có thể đạt được lợi ích chân thật. Nếu cư sĩ có thể nêu cặn kẽ lợi hại, những kẻ vô tri sẽ chẳng đến nỗi riêng ḿnh đến chịu khổ! Huống chi năm sau Quang sẽ ĺa Tô Châu, ẩn cư nơi xa, một thân tôi c̣n ngại nhiều, không có chỗ nào để an thân! Huống hồ họ là đồng hương, đồng tộc trọn chẳng quen biết, làm sao có thể khiến cho họ đều được măn nguyện trở về? Việc này quan hệ quá lớn! Nếu chẳng lập cách cực lực ngăn cản, ắt họ sẽ nhọc nhằn v́ chuyện này, có thể đến nỗi chết ở bên ngoài nhiều lắm! Mong ông hăy v́ họ phát tâm từ bi, ngơ hầu Quang lẫn những người đồng hương, đồng tộc đều được hưởng lợi ích thực tế.

          Chưa thể định được ngày ra sách của Cửu Hoa Chí. Ước chừng trong mùa Hè có thể ra sách. Khi có sách, sẽ gởi cho ông một gói, cần ǵ phải hỏi sẵn ngày tháng? Chuyện này thuộc về công việc của nhà in, chẳng thể chuyên v́ chuyện này mà buộc họ lập tức dựa theo kỳ hạn để giao sách được. Chuyện họ phải làm rất nhiều, cho nên mỗi chuyện đều phải thực hiện dần dần. Nay gia đ́nh tôi lại lập tự (chọn người làm con thừa tự), hoàn toàn trái lẽ! Quang đă xuất gia, sao c̣n có thể lập tự? Đă bảo kẻ đó thừa tự anh cả của tôi cũng như thừa kế anh hai. Quang là tăng nhân, trong nhà thờ của gia đ́nh, quyết chẳng thể lập bài vị. Nếu lập th́ tăng tục lẫn lộn, tràn lan, khiến cho tôn ty đều mất! (ngày Mười Tám tháng Mười Hai).

 

* Thư trả lời cư sĩ Giang Hữu Bằng

 

          Quang một mực chẳng tin vào chuyện sửa chữa cuộc đất [theo Phong Thủy]. V́ thế, khi ở nhờ tại chùa Báo Quốc, đă nói thẳng với họ: “Điều ǵ Quang chẳng biết, sẽ chẳng dám giới thiệu cho người khác, do chuyện ấy can hệ rất lớn”. Thường thấy những kẻ coi Phong Thủy luôn nói kiến trúc của tiền nhân không đúng, cũng chẳng biết những điều chính họ hiểu biết chưa thể nào ứng nghiệm ngay được, chỉ có thể khiến cho kẻ vô tri mê tín. Chẳng biết [họ phán điều này điều nọ như thế] lại đâm ra khiến cho người có kiến thức chẳng tin tưởng.

 

* Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ nhất)

 

          Tôi chẳng muốn trả lời thư lần trước, do ông chỉ biết một mà chẳng biết hai, chỉ biết buộc người khác làm như thế. Nếu bảo ông làm, cũng chẳng thể mỗi mỗi điều đều hoàn toàn trông cậy được! Ví như luận binh trên giấy, oai mănh vô địch, nhưng nếu đến gần chỗ hai bên giao tranh, chỉ có bản lănh to lớn là dùng kế sách đào tẩu. Quang chẳng dám tán thành kế hoạch của ông. Về phần trợ niệm suốt đêm, há có nên cắt bỏ chuyện [chia người tham gia trợ niệm thành] ba ban luân lưu niệm Phật [mà nói là] “chẳng ĺa thể lệ ban đầu?” Do vậy, biết cách thức do ông đặt ra đều là do chưa đích thân thể nghiệm, xem xét. Đối với thư ông gởi cho vị đại pháp sư X… tuy ư nghĩa thật đáng khâm phục, nhưng lời lẽ thiếu uyển chuyển, ḥa nhă. Rốt cuộc người ấy cho là hủy mạ, chẳng xin lỗi, sám hối lỗi lầm, tức ông ta là hạng người thường ngày tự phụ, “duy ngă độc tôn” đă hoàn toàn bộc lộ chẳng sót. Ông ta đương nhiên tán thành biện pháp “tinh tấn tổ” của ông, cũng có thể thấy rơ chí hướng của ông ta là kẻ hâm mộ những chuyện to tát, chẳng xét kỹ chi tiết.

          Đối với bài trả lời Du Hữu Duy, Quang tột bậc bội phục, tiếc là người ấy đă mê đến cùng cực, thơm, thối, tà, chánh, chân, ngụy, lợi, hại, không ǵ chẳng hiểu lầm, cho nên cũng chẳng có hiệu quả sửa đổi, quay đầu. Đáng thương, đáng xót thay! Quang đă già rồi, chẳng có kính lăo và kính lúp, sẽ chẳng thể đọc thư gởi đến, nhưng [chỉ đọc] cũng đă rất mơ hồ, huống hồ c̣n trả lời thư ư? V́ thế, đối với bất cứ ai, đều dùng câu “từ nay đừng gởi thư đến nữa” để cự tuyệt, nhưng họ vẫn làm phiền như cũ.

          [Đối với câu hỏi của ông về lá thư chất vấn tổ Liên Tŕ của Tào Lỗ Xuyên], [những ǵ ông ta nêu ra] là ư trong nhà Thiền, cần phải có ngộ xứ th́ mới có thể biết thấu triệt. Lỗ Xuyên tự coi ḿnh là bậc đại thông gia thông Tông thông Giáo, vẫn c̣n hiểu sai ư ấy. Các hạ nếu muốn tôi nêu bày ư ấy, đúng là câu hỏi đùa bỡn mà thôi! Các hạ hăy nên buông xuống hết thảy tri kiến thừa thăi, nhất tâm niệm Phật. Sau khi đă niệm đến mức “tâm lẫn Phật đều mất”, sẽ tự cười to, v́ đă hoàn toàn hiểu rơ! Chưa tới mức ấy, nếu nói với người khác, họ cũng chẳng biết. Ví như đă đến điện Hàm Nguyên[9], các thứ trong điện ấy đều biết trọn hết. Nếu đối với kẻ chưa đến đó, dẫu nói rơ ràng, họ vẫn hệt như cũ mờ mịt, chẳng rơ! Câu nói trong nhà Thiền toàn là dạy người khác tham cứu, nếu hiểu theo nghĩa văn tự, không chỉ chẳng đạt được lợi ích, mà c̣n coi hiểu lầm là ngộ, tội ấy rất lớn. Dẫu ngộ thật sự, vẫn cách biệt liễu sanh thoát tử đă xa càng xa hơn! Do họ chỉ cậy vào tự lực, trừ phi sau khi đă đại ngộ bèn đoạn hết sạch phiền năo Hoặc nghiệp th́ mới được. Nếu không, sẽ chẳng có cách nào.

          Pháp môn Niệm Phật nếu trọn đủ nguyện chân thành, tín thiết tha, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, nương vào từ lực của Phật, đới nghiệp văng sanh. Căn tánh của các hạ chỉ có thể học theo cách tu tŕ của ngu phu ngu phụ. Nếu lầm lạc phỏng theo thân phận của Tào Lỗ Xuyên, tôi thật sự sợ rằng ông chắc chắn sẽ đọa vào ba ác đạo. V́ lẽ nào vậy? Do chưa đắc mà cho là đă đắc, chưa chứng mà bảo là đă chứng. V́ thế, hoại loạn Phật pháp, khiến cho chúng sanh ngờ vực, lầm lạc! Gởi cho ông một gói các sách như Văn Sao v.v… Nếu chẳng chê là kém hèn, thô lậu, xin hăy đọc kỹ để hành theo, ngơ hầu chẳng uổng đời này, chẳng uổng dịp gặp gỡ này. Nếu cho là chẳng đáng để vào mắt, xin hăy chuyển thí cho kẻ chẳng có mắt. Về sau, chỉ có thể đàm luận cùng Phạm Cửu, chớ nên gởi thư cho kẻ chẳng thông huệ v́ tôi chẳng có tinh thần để thù tạc được!

 

* Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ hai)

 

          Sáng nay, nhận được thư của ông và Châu Thiện Xương, ông chỉ mong ngóng kết quả của chuyện ấy. Thiện Xương đă phần nào thể hiện các chuyện diệt pháp như Quang đă nói, may mà gởi thư cho Quang, chẳng đến nỗi uổng công chuốc họa! Nếu gởi thư cho vị đại pháp sư ham cao chuộng xa, chắc chắn [ông ta] sẽ cực lực tán thành, mặc sức làm theo ḷng ham muốn, [vậy th́] phí tiền, mệt tâm đă trở thành chuyện chẳng thể tưởng tượng nổi. Quang suốt đời chẳng cộng sự với người khác. Chùa Pháp Vân ở Nam Kinh là do Ngụy Mai Tôn kiên quyết lôi kéo gia nhập, nhưng cũng chẳng có lợi ích to lớn mỹ măn cho mấy, v́ người đời nay đều thuộc loại ích kỷ.

          Tái bút: Tôi chỉ khoác cái danh suông là hội trưởng danh dự của Pháp Vân Tự. Lúc Mai Tôn c̣n sống, mọi chuyện đều gởi thư thương lượng. Khi ông ta khuất bóng, Quang chẳng hề hỏi đến nữa. Xin chớ nói lời ấy để khỏi bị người khác ghi hận.

 

* Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ ba)

 

          Đạo bất đồng sẽ chẳng cùng nhau mưu tính được! Kẻ đó chẳng bỏ chuyện cầu cơ, chẳng thể cho quy y được! Trong tháng Mười, có một kẻ theo đạo Kim Đan ở Thiên Tân viết thư xin quy y, ăn nói tột bậc khẩn thiết. Do những điều người ấy hỏi phần nhiều thuộc về ngoại đạo, Quang liền vạch ra chỗ cuồng vọng của kẻ đó. Kẻ đó liền gởi thư chửi bới ầm ĩ. Phàm đối với những kẻ “tợ hồ đúng mà thật sự sai trái” ấy, phải nên tuyệt giao với họ (hai chữ “tuyệt giao” được khoanh tṛn), ngơ hầu chẳng đến nỗi phá hoại Phật pháp.

 

* Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ tư)

 

          “Như con nhớ mẹ, nhớ Phật, niệm Phật, nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” là diệu pháp thiết yếu nhất cho hết thảy những ai niệm Phật. “Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện” là phương cách to lớn đáng nên tuân thủ trong cuộc sống thường nhật của người học Phật. Tự hành như thế, mà giáo hóa người khác cũng thế. Nếu bỏ cách này, toan tạo lập những việc ngoài bổn phận, dẫu đạt được lợi ích nhỏ nhoi, ắt sẽ có nỗi họa to lớn ẩn tàng. Đừng bảo lăo tăng bàn chuyện hủ bại th́ may mắn lắm thay! Xin hiền khế[10] Đức Chấn hăy xét soi.

 

* Thư trả lời cư sĩ Thôi Đức Chấn (thư thứ năm)

 

          Sanh trong thời Mạt Pháp này, tự chẳng có vốn liếng, nương vào ḷng bao dung của mọi người, trong đời loạn “sáng chẳng dám bảo đảm tối” này, muốn cho kinh luận của các tông đều được lưu thông, hoằng dương pháp của các tông cho người dân đang trong cảnh “sáng chẳng bảo đảm tối”, lời ấy chỉ có ông dám nói, chứ Quang chẳng dám nói. V́ lẽ nào vậy? Đừng nói ông không có bản lănh ấy; dẫu có bản lănh ấy, chẳng khác ǵ Phật, cũng chỉ là khế lư mà chẳng khế cơ, sao chẳng dùng Tịnh Độ để đề xướng ư? Chắc là ông cho rằng đề xướng Tịnh Độ, sẽ chẳng thể bộc lộ sở đắc do đọc Đại Tạng Kinh, đánh mất thân phận đại thông gia của chính ḿnh đó chăng? Ông hoàn toàn nói mớ trong mộng! Quang sợ sau này ông sẽ bị ma dựa phát cuồng, cho nên chẳng tiếc sức rát miệng ngăn dứt tri kiến cuồng vọng của ông. Duyệt tạng (đọc Đại Tạng Kinh) th́ [xem rộng kinh sách của các tông, các pháp môn] đều được, hoằng pháp th́ phải có pháp chuyên biệt, chủ yếu.

          Đối với pháp “thích hợp khắp ba căn, chín pháp giới cùng tuân hành” do đức Phật đă nói vẫn chưa muốn chuyên nhất ư chí trong thời buổi “sáng chẳng bảo đảm tối” này, đủ biết ông chẳng hiểu thời thế, cuồng vọng tự cho là đúng. Đă biết đến tác phẩm Duyệt Tạng Tri Tân[11], sao lại nói trước bao nhiêu chương tŕnh? Quang cứ ngỡ là ông chẳng biết sách ấy; về sau, ông lại nhắc đến, càng biết ông tự cho ḿnh là kẻ thông minh, chẳng nương theo quy tắc cực thiện do cổ nhân đă thành lập sẵn. Để luận định các kinh luận chuyên biệt của mỗi tông, hăy nên xem bộ Pháp Hải Quán Lan (gồm hai quyển, Dương Châu Tàng Kinh Viện có sách ấy), sẽ thông suốt trọn khắp các tông. Hoằng pháp trong thời buổi “sáng chẳng bảo đảm tối, cứu chết chóc chẳng xuể này, chắc chắn chẳng thể không nương theo pháp môn Tịnh Độ. Đó là đường lối vạn phần chẳng nghi ngờ chi! Ông hăy nên tự lượng. Nếu không, sẽ chẳng phải là học tṛ của tôi.

          Pháp danh của những người xin quy y được viết trong một tờ khác. Mồng Sáu, Quang sẽ sang đất Thân (Thượng Hải), Mười Bảy quay về. Ngày mồng Chín sẽ khởi thất, [nhưng tôi] chẳng nhập chúng niệm tụng, tự niệm trong liêu pḥng. Buổi chiều chỉ nói khai thị một lần, bất luận người nào cũng đều chẳng tiếp, chẳng nhận quà cáp. Ngày Mười Sáu ở lại một hôm để truyền Tam Quy, Ngũ Giới (chuyện này Quang chẳng chấp thuận, nhưng v́ ông Khuất Văn Lục đôi ba lượt nhắc đến, cho nên nói một phen). Do mắt chẳng thấy chữ, chỉ chiếu theo phương diện b́nh thường để nói. Quang bảo người khác làm thay, họ không chịu, cũng chỉ đành thuận theo họ. Tất cả tiền hương kính, bất luận nhiều hay ít, đều dùng làm chi phí cho hội, th́ sẽ chẳng đến nỗi mệt chết. Nếu không, chẳng thể không bị mệt đến chết (ngày Mười Tám trở về, lại vào quan pḥng để tránh các nơi mời mọc). Quang đă già rồi, từ nay vĩnh viễn chớ nên gởi thư đến nữa, cũng chẳng chấp thuận giới thiệu người khác đến quy y. Phàm các ghi chép khi duyệt kinh, các điều ông ngộ được, và các bản thảo nhằm nêu tỏ [ư nghĩa trong Phật pháp] đều chớ nên gởi đến v́ Quang chẳng có mục lực để thù tạc được!

 

* Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ nhất)

 

          Thư ông và bốn mươi đồng đều nhận được. Ḷng chân thành v́ mẹ của ông có thể nói là chí thành không ǵ hơn được! Hăy nên dùng ḷng thành ấy để khuyên mẹ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, th́ mới là ḷng hiếu hữu ích đến cùng tột. Các điều thế gian quen mưu tính cho cha mẹ đều là chuyện da lông (hời hợt bề ngoài), lại c̣n tạo thêm tội cho cha mẹ (như chuyện coi phụng dưỡng cho cha mẹ có thịt ăn là hiếu), gây lụy cho cha mẹ đọa lạc (như lúc lâm chung lau rửa thân thể, thay quần áo sẵn, nói chuyện gẫu để an ủi, hay khóc lóc, và lúc tang ma, cúng quải, dùng rượu thịt để làm cỗ bàn cúng bái và đăi đằng khách khứa v.v…) Các sự lư ấy là do người đời vô tri, cho nên chẳng đáng trách! Nếu là đệ tử Phật, vẫn cứ vướng mắc trong tập tục ấy, chính là cậy vào chuyện đó để đổi chác cái danh hiếu thảo với cha mẹ; thật ra là phá hoại con đường thoát khổ của cha mẹ, thành tựu phương tiện khiến cho cha mẹ đọa lạc! Coi đó là hiếu, sẽ chẳng khác t́nh yêu của La Sát nữ cho mấy! (La Sát nữ bắt người khác về ăn thịt, bảo: “Ta yêu ngươi nên ăn thịt ngươi!” Hiếu tử kiểu này trong thế gian th́ vạn người có hơn chín ngàn chín trăm kẻ; hoặc c̣n chưa được một hai phần như thế cũng chưa biết chừng).

          Nay tôi gởi cho ông Sức Chung Tân Lương và Tang Tế Tu Tri (các điều cần biết trong tang lễ, cúng tế), gởi riêng ba gói sách khác để đáp tạ năm đồng cúng dường của ông, cũng như sẽ bảo thầy Đương Gia đọc và giải nói thư của ông với đại chúng, bảo họ làm cỗ chay dâng cúng, cúng Phật và Tăng, và chia tiền biếu. Lại c̣n lễ bái, niệm Phật một khóa. Đó là v́ ḷng thành của ông, chứ chẳng phải là lệ thường! Trong buổi cúng Ngọ vào ngày Mười Bảy ở chùa Báo Quốc, chỉ có năm vị Tăng, có hai vị ra ngoài chưa trở về. Vừa khéo có bốn vị khách Tăng, biếu mỗi vị hai cắc, đối với bảy vị tại gia làm công quả trong chùa cũng thế, khiến cho họ sanh tâm hoan hỷ. Lúc sắp dùng cơm, có bốn vị đệ tử từ Thượng Hải tới, khá là hữu duyên. Gần đây, tôi bận bịu lắm việc; v́ thế, phúc đáp chậm trễ, mong ông xét hiểu cho!

 

* Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ hai)

 

          Ḷng người vốn thiện, do huân tập mà chuyển biến. Thuận theo kẻ chẳng có ḷng tin, sẽ hủy báng Phật pháp. Thuận theo người có chánh tín, sẽ tu tŕ Tịnh nghiệp. Xă hội và quốc gia hưng thịnh hay suy bại, cứ nh́n vào kẻ thủ lănh sẽ biết ngay! Hiện thời, loạn lạc đến cùng cực, hăy nên dùng lư sự “nhân quả ba đời, và lục đạo luân hồi” để cứu văn. Kẻ nào chịu thuận theo, sẽ v́ họ nói pháp môn Tịnh Độ, khiến cho họ cùng niệm Phật hiệu, cùng sanh về Tây Phương. Đó là điều trọng yếu nhất. Những vị được nhắc đến trong thư của ông Lưu đă muốn quy y, nay tôi đặt pháp danh cho mỗi người, viết trong một tờ giấy khác. Quang đă già rồi, mục lực lẫn tinh thần chẳng đủ, chẳng thể khai thị tường tận. Nay dùng sáu mươi lăm đồng hương nghi của họ để gởi bốn mươi tám gói sách, mỗi thứ đều là tám người một bộ. C̣n dư, có thể tặng cho người có tín tâm, hoặc người thông văn lư, có tâm cung kính. Về sau, hăy đọc tường tận các sách đó, không mối nghi nào chẳng được cởi gỡ, cũng chẳng cần phải viết thư hỏi han! Hăy nên bảo họ giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, giữ tấm ḷng tốt đẹp, nói lời tốt lành, làm chuyện tốt, ngơ hầu chẳng phụ chí hướng trong sạch cầu quy y ngày nay. Các điều khác được nói tường tận trong Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ở đây chẳng ghi chi tiết. Mong ông hăy nói với họ.

          Tái bút: Gần đây, tôi nghe một phương pháp cai thuốc phiện rất hay. Dùng một miếng vải Tây đỏ vuông vắn chừng một thước, cắt thành hai mươi bốn miếng. Trước khi hút thuốc, hăy dùng cái kim khêu thuốc phiện cắm vào một đầu mảnh vải. Sau đó bỏ vào chén để đốt cháy miếng vải ấy. Tro rơi trong chén, đem ḥa với nước sôi để uống. Sau đó mới hút thuốc. Chẳng cần dùng hết tấm vải ấy (xin hăy thử xem), chứng ghiền đă dứt. Nếu linh nghiệm, hăy nên truyền bá rộng răi để cứu cái họa thuốc phiện!

          Bệnh cùi là chứng bệnh xưa nay, trong ngoài nước chẳng thể trị lành. Hiện thời, đă có cách trị lành, [cách ấy] được in kèm vào cuối sách Sơ Cơ Tiên Đạo (hướng dẫn ban đầu dành cho sơ cơ)[12], mong hăy đọc kỹ. Lại nữa, sau toa cai thuốc phiện, có toa trị bệnh sốt rét[13], linh nghiệm tột bậc, không ai chẳng được trị lành. Có người bệnh đă một, hai, ba năm, cũng đều có thể hễ trị liền lành ngay. Cũng mong ông hăy nói với hết thảy mọi người: - Sau này, bất cứ ai cũng đều chớ nên gởi thư tới. Nếu thỉnh kinh sách, hăy nên bàn bạc trực tiếp với Hoằng Hóa Xă, đừng nhờ Quang chuyển.

 

* Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ ba)

 

          Sách Kỹ Lộ Chỉ Quy đă được Lư Viên Tịnh giảo chánh một lần. Phàm các chữ viết theo lối Tục Thể[14] đại lược đều được sửa, vẫn có một hai chỗ cần sửa đổi. Ông ta gởi đến, mong tôi giao cho thợ sắp chữ. Quang lại duyệt cặn kẽ một lượt nữa, hễ chỗ nào ngữ ư chẳng trọn vẹn bèn bổ túc. Thầy Đức Sâm lại duyệt một lần nữa, đổi thành dùng [kư hiệu] ○ để lược bớt ngữ ư, cũng có chỗ bổ túc. Phàm các chữ dùng theo tiếng địa phương khó nhận biết, Quang đều sửa thành chữ dễ nhận biết. Cũng sửa “chương tŕnh” thành thực hành để đỡ tốn giấy. Phàm trước các câu hỏi, đều dùng [kư hiệu] ●, trước lời đáp thêm [kư hiệu] ○, để xếp cho ngay hàng. Lời hỏi và đáp đều bắt đầu bằng một ḍng riêng. Trước lời nói đầu, Quang và thầy Đức Sâm mỗi người viết một lời tựa. Lời cuối sách th́ dùng bài văn của một vị lăo nho ở Tần An, tỉnh Cam Túc, [vị này] thoạt đầu do bài bác Phật mà gặp quả báo, sau đó học Phật, viết bài phát lộ sám hối, tôi bèn ghép [bài viết ấy vào sau sách]. Ông ta cậy Quang viết lời Bạt, cũng ghép thêm vào để làm hướng dẫn cho người đọc sách. Tôi đă giao cho Du Dân Tập Cần Sở sắp chữ. Sắp chữ xong, sẽ cho làm ba bốn Chỉ Bản, tính tặng cho Đạo Đức Thư Cục một bản, thu hồi các bản trước đó để đốt đi. Mong ông hăy nói với thư cục, kẻo chẳng đến nỗi họ không chịu. Sách này in lần đầu th́ trước hết là in hai vạn quyển, về sau in tiếp có thể đến mấy chục vạn quyển không chừng. Đợi sách in xong, sẽ gởi cho ông mấy gói. Ông đọc rồi sẽ biết dụng ư ấy. Hễ Quang in sách, đều chẳng dám phung phí giấy, một quyển tiết kiệm được một trang, mười vạn quyển sẽ bớt được mười vạn trang, chi phí sẽ giảm đáng kể. Hiện thời, nhân dân khốn khổ, chúng ta tuy muốn lợi người, cũng chớ nên chỉ cốt sao cho dễ coi, chẳng màng vật dụng, công sức khó khăn!

 

* Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ tư)

 

          Hơn mười ngày trước, Tôn Hạc Niên đến đây, mang theo các thứ thức ăn, chia đều cho mọi người cùng ăn, hoa sâm th́ cho thầy Đức Sâm. Do Quang một mực chẳng thích đa sự, vật ấy giữ lại hoặc để uống đều rất rườm rà. Hạc Niên là người khá thành thật, nay trước hết bảo ông ta ở chùa Báo Quốc, đợi có vị thầy nào hợp lẽ, sẽ cho ông ta nương theo, xuống tóc. Chuyện này chẳng thể vội vă được! Quang thề suốt đời chẳng thâu nhận đồ đệ, cho nên cần phải đợi [có vị thầy thích hợp] để có thể bái sư rồi mới cho ông ta nương theo vị ấy xuống tóc. Chuyện này vốn phải trả lời ngay, nhưng do bận bịu nhiều việc, tinh thần lẫn mục lực đều chẳng đủ, cho nên chậm trễ đến nay! Nay Kỹ Lộ Chỉ Quy sắp in, khi in ra, sẽ dùng hết hai trăm bốn mươi đồng để gởi sách.

 

* Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ năm)

 

          Lệnh từ tuổi đă cao, hăy nên v́ quyến thuộc nói lợi ích do trợ niệm khi lâm chung, và họa hại do khi chưa tắt hơi đă lau rửa thân thể, thay quần áo, khóc lóc, khiến cho họ luyện tập thuần thục, hiểu rơ lợi hại. Nếu như thế th́ đến khi lâm chung, cụ sẽ chắc chắn có thể văng sanh Tây Phương. Nếu chẳng bảo họ luyện tập và nói lợi hại, th́ mười trường hợp hết chín bị hiếu tâm của quyến thuộc phá hoại, đến nỗi vẫn luân hồi trong lục đạo, hứng chịu sanh tử. Xem kỹ Sức Chung Tân Lương sẽ tự biết. Đă đặt pháp danh cho bảy người, gởi cho mỗi người ba gói sách gồm Ngũ Kinh, Thập Yếu v.v… để giúp tu tŕ.

          Kẻ hậu sanh (tức Tôn Hạc Niên trong thư trước) đă đến đây trước kia, vào thượng tuần tháng nhuận, do có vị tăng từ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai đến đây, sẽ cậy thầy ấy dẫn đi, hoặc vị Trụ Tŕ [chùa Quốc Thanh] sẽ thâu nhận, hoặc người khác thâu nhận [làm đồ đệ] đều được. Do vị trụ tŕ chùa Quốc Thanh cũng là vị trụ tŕ chùa Linh Thứu ở Tô Châu khá biết cách cư xử, cho nên tôi bảo [kẻ hậu sanh ấy] đi theo. Xin ông đừng bận tâm. Kỹ Lộ Chỉ Quy chẳng lâu sau sẽ gởi đến. Lại c̣n Tịnh Độ Ngũ Kinh chẳng lâu sau cũng sẽ gởi đến. Vật Do Như Thử th́ khoảng chừng tháng Sáu hoặc tháng Bảy sẽ có thể gởi đến. Sách của Cử Huyện, vẫn gởi về chỗ ấy. Tôi cho làm năm Chỉ Bản của sách Kỹ Lộ Chỉ Quy, một bản gởi sang Đạo Đức Thư Cục ở Thượng Hải, một bản đưa sang Bắc B́nh Khắc Kinh Viện. Sách Vật Do Như Thử cũng làm như thế. Hiện thời đă cho sắp xếp, đổi thành cỡ chữ số ba để người già dễ xem hơn, cũng tính in ba vạn quyển.

 

* Thư trả lời cư sĩ Lư Đức Minh (thư thứ sáu)

 

          Chuyện trong thế gian muốn thực hiện không lầm lỗi, đều cần phải trọn hết một phen tâm lực. Nếu có điều ǵ chẳng cẩn thận, sẽ là công ít, tội nhiều. Mùa Thu năm ngoái, Quang mới biết nỗi thê thảm do sữa độc giết trẻ, bèn nói ngay trong lời khai thị cho pháp hội Tức Tai. Nếu sau khi nổi giận, hăy nên sau một ngày, đợi cho độc tánh của sữa mất đi, mới lại cho con bú. Mùa Xuân năm nay, do nhiều lượt nghe người khác kể người chết, người bệnh quá nhiều; do vậy, làm một tờ quảng cáo nói về chuyện “sữa độc giết trẻ”, khuyên [người mẹ trót nổi giận] phải đợi ba ngày sau mới cho trẻ bú. Thư ấy in ra, gởi cho một đệ tử ở Nam Kinh. Ông ta nói chuyện này với vợ. Vợ ông ta là người Tây Dương, nói chuyện ấy được gọi là “sữa nóng giận”. Hễ nổi nóng, cần phải liền giữ sao cho tâm b́nh khí ḥa. Nếu không, ôm hận trong ḷng, sữa khó chuyển thành tốt được! Nửa ngày sau khi hết giận, mới có thể cho bú. Khi cho bú, trước hết cần phải vắt sữa chừng nửa chén trà đổ đi, rồi mới cho con bú, sẽ không có họa hoạn ǵ. Nếu quá ba ngày, chắc sữa sẽ gây căng phồng, đau nhức, đâm ra chẳng hay!

          V́ thế, tôi bảo thợ sửa Chỉ Bản, lần thứ hai in ba vạn tờ, sẽ không sai lầm. Lại nói cho tới khi có kinh nguyệt, cũng đừng nên nổi nóng; hễ nổi nóng, sẽ tắt kinh. V́ thế, nữ nhân chưa lập gia đ́nh, cũng có người mắc bệnh kinh nguyệt chẳng điều ḥa. Tôi trộm cho rằng việc này đối với giáo dục gia đ́nh, quốc gia, và nhân dân đều có mối quan hệ. Bởi nữ nhân từ bé cần phải tập sao cho tánh t́nh nhu ḥa, sẽ chẳng có chuyện kinh nguyệt không điều ḥa, và nóng giận đến nỗi làm chết con, hoặc bực tức đến nỗi khiến con sanh bệnh. Tánh t́nh đă nhu ḥa, sẽ chẳng có chuyện khẩu thiệt thị phi, gia đ́nh ḥa thuận. Mong hăy đem ư này nói với hết thảy mọi người. Tất cả các tờ quảng cáo đăng lời khai thị trong pháp hội Tức Tai, phía dưới mục sữa độc giết chết trẻ nhỏ, hăy ghi rơ, xóa bỏ ba chữ “sau ba ngày” th́ trọn chẳng có hậu hoạn ǵ.

          Thư của ông và ba mươi đồng đều nhận được, pháp danh của mười bảy người được viết trong một tờ giấy khác. Kể từ khi nhà Nho phá trừ, bài xích nhân quả, những kẻ ngu, kẻ cuồng trong cơi đời liền lừng lẫy phô bày ư chí. Ai nấy mù quáng bịa chuyện đồn đăi, lập ra một “giáo môn”, dẫn kẻ vô tri gia nhập bè đảng của chúng, lại c̣n giấu kín chẳng tiết lộ chút nào. V́ thế, khiến cho người trong cả nước quá nửa đi vào đường tà, phạm lỗi đại vọng ngữ “chưa đắc mà khoe là đă đắc, chưa chứng bảo là đă chứng”, chẳng hề sợ hăi, đều do Tống Nho bài xích nhân quả luân hồi mà càng thêm to gan tạo nghiệp. Nay gởi cho ông mười gói gồm hai mươi bộ Văn Sao, ba gói Gia Ngôn Lục, hai gói Liễu Phàm Tứ Huấn. Hễ người quy y nào có thể xem th́ đều tặng cho. Kẻ chẳng thể xem th́ đừng tặng. Hăy nên tặng cho người có tín tâm, thông văn lư, có thể cung kính!

 

* Thư trả lời cư sĩ Quách Huệ Thái

 

          Ông muốn phát khởi tín tâm cho hết thảy mọi người trong hiện tại và vị lai, há chỉ vài câu mà có thể đạt được ư? Nay tôi viết một bài tựa, gồm sáu trăm bốn mươi hai chữ. Tuy văn chương chẳng tao nhă, nhưng ư nghĩa th́ có thể chấp nhận được! Xin hăy mời người viết chữ đẹp, viết theo lối chữ Khải to hơn một tấc, chớ nên dùng kiểu chữ Hành Thư nguệch ngoạc, Triện Thư, hoặc Lệ Thư v.v… Lối chữ Tục Thể hoặc Thiếp Thể cũng đừng nên dùng. Khi viết, cần phải lưu tâm, chớ để sai ngoa, hoặc thừa, hoặc sót chữ. Hăy nên làm một tấm biển bằng gỗ, hoặc dán, hoặc khắc lên đó. Phía sau tấm biển, ken gỗ dày, dùng vải đay dày c̣n mới, cắt xéo thành từng giải, dùng sơn sống[15] đính lên, [tấm biển ấy sẽ] chẳng đến nỗi nứt toác, ngơ hầu có thể giữ được lâu dài. Treo ở chỗ mọi người hay trông thấy để được lợi ích. Phàm khuyên, điểm (chấm câu), cũng nên sử dụng như thế, ngơ hầu người ít học cũng có thể hiểu rơ ư nghĩa. Vạn phần đừng nên dùng vải đay cũ [để bồi lưng tấm biển], v́ chất sợi đă yếu, lâu ngày sẽ nứt ra. Quang đă già rồi, mục lực chẳng đủ, từ nay về sau chẳng chấp thuận [người khác] sai bảo viết lách. Nếu vẫn gởi thư đến, cũng chẳng trả lời thư. Chẳng phải là tôi không muốn kết duyên, mà do chẳng có sức chống đỡ nổi!

 

* Thư gởi pháp sư Trí Nguyện

 

          Quang mục lực chẳng đủ, xem đại lược vài ba tờ, thấy đại ư khá hay. Chữ Tấn () trong “vấn tấn” (問訊, thưa hỏi, bái xá) do Ngôn () và Phàm () ghép thành. Thầy noi theo lề lối thư nào cũng đều viết lời thăm hỏi, chớ nên dùng [kiểu ấy]. Tiếp đó, lại coi chung một lượt, bèn bổ sung đại lược đôi chỗ. Sau này, bất luận loại văn tự nào, nhất loạt mong đừng gởi đến, mong thầy rộng dung th́ may mắn lắm thay!

 

* Đính kèm thư của pháp sư Diệu Chân và Liễu Nguyện

 

          Cách lễ bái kinh A Di Đà đă tŕnh lên Ấn lăo pháp sư từ bi phê duyệt, liền được Ngài giám định là tốt. Nay tiện dịp ḥa thượng Huệ Khai của chùa Pháp Tạng trở về đất Hỗ (Thượng Hải), đem dâng của báu đă tụ tập, mong hăy xem xét, thâu nhận.

 

* Thư trả lời cư sĩ Hồng Vô Ngă

 

          Hôm qua, nhận được thư, biết ông do tự tu Tịnh nghiệp, lại c̣n khiến cho mẹ già tám mươi hai tuổi văng sanh Tây Phương, đúng là khéo phụng sự mẹ! Nếu đem lợi ích ấy khuyên khắp hết thảy quyến thuộc và những người cùng hàng th́ điều lợi ấy sẽ rộng khắp. Quang thuộc hạng tăng nhân chỉ biết cơm cháo, đối với Thiền, Giáo, Luật, Mật đều chẳng biết, chỉ biết pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Phật. Ông đă chẳng muốn làm đại thông gia, cho nên khéo khế hợp. Nhưng ông đă từng xem Văn Sao, ngoài những điều nói trong ấy ra, tôi chẳng c̣n có ǵ để có thể nói. Huống hồ gần đây mục lực suy yếu cùng cực, không thể viết nhiều.

          Nay đặt pháp danh cho ông là Trí Đạo (智導), hàm ư dùng cái trí hiểu sâu xa pháp môn Tịnh Độ để hướng dẫn trọn khắp hết thảy những người cùng hàng thoát khỏi đời ác ngũ trược, cùng lên cơi sen Tứ Đức (thường, lạc, ngă, tịnh) kia. Nay đem Thượng Hải Tức Tai Pháp Hội Khai Thị Lục từ năm trước, và bài Niệm Phật Khẩn Từ của ông Trịnh Đức Thuần tại Vân Nam gởi đến. Trong lời khai thị, có lời tuyên truyền rộng khắp về chuyện “sữa độc giết trẻ, là một đại sự xưa nay chưa được nêu tỏ. Thoạt đầu, tôi đă cho in sáu vạn bản, do đă được đặt trước, nên sách in ra sẽ gởi đi gần một nửa. Năm trước, đường bưu điện không thông, Du Dân Tập Cần Sở lại bị ném bom, phàm các sách đă đóng gáy xong, chưa gởi đi, đều thành tro tàn. Quang bị tổn thất khoảng hai ngàn đồng. Ngoài ra, c̣n có Vật Do Như Thử và danh mục các sách đă in được kèm theo trong đó. Phía sau Niệm Phật Khẩn Từ lại có in kèm Sơ Cơ Tiên Đạo. Trong ấy có bài Một Lá Thư Gởi Trọn Khắp, khá có quan hệ, hăy nên đọc kỹ để tùy cơ diễn nói. Cuối sách Khai Thị Lục, có toa thuốc trị bệnh sốt rét, tột bậc linh nghiệm, hăy nên nói với hết thảy mọi người, không ai chẳng được trị lành. Món tiền mười đồng của ông sẽ dùng làm chi phí in Văn Sao Tục Biên. Ước chừng mùa Hạ năm sau, sẽ có thể ra sách, sẽ gởi cho ông mấy gói để kết duyên. Lần này khác với cách thức ban đầu, từa tựa như văn khuyên đời, nhưng đối với hai chuyện sanh và tử, cùng với “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận”, thiên sách nào cũng đều nói để mong toàn quốc đều cùng chú ư vậy.

 

* Thư trả lời cư sĩ Thí Tông Đạo

 

          Cha ông lúc lâm chung như thế, lại thêm các ông trợ niệm, đủ có thể văng sanh Tây Phương. Hiện thời, sát kiếp c̣n đang lừng lẫy, tiền đồ nguy hiểm. Hăy nên khuyên quyến thuộc, cùng với người làng, ai nấy ăn chay, niệm Phật để cầu văng sanh Tây Phương. Nếu không, đời sau làm người, chẳng biết sẽ khổ năo đến mức nào! Khi hồi hướng trong khóa tụng sáng tối, Quang đọc tên cha ông để hồi hướng suốt bảy ngày cho trọn hết t́nh thầy tṛ. Pháp danh của hai mươi chín người [xin quy y] được viết trong tờ giấy khác. Các sách như Văn Sao v.v… phải chờ đến đầu tháng Tám, thầy Tánh Tịch trở về Tô Châu, sẽ bảo thầy ấy gởi cho ông. Thầy Đức Sâm v́ giảo duyệt sách, phải ở chùa Thái B́nh tại Thượng Hải, ước chừng tháng Chín có thể trở về Tô Châu. Chuyện Hoằng Hóa Xă đợi thầy ấy quay về sẽ xét theo t́nh huống mà sắp xếp.

          Hiện thời, chỉ có cách chiếu theo giá gốc, [các biện pháp] tặng nửa giá hoặc biếu tặng hoàn toàn đều hủy bỏ, do chẳng có người duy tŕ, không thể giữ như cũ. May là bưu điện đă thông, nhưng trên đường c̣n có thổ phỉ, nếu gặp phải, sẽ khó tránh bị thất lạc. Quang tính gởi cho ông mấy chục gói, mong ông hăy châm chước phân phối. Hễ có nhiều th́ tùy tiện kết duyên. Về sau, có ai muốn quy y, hăy bảo họ quy y với vị Tăng ở nơi đó, Quang chẳng có mục lực và tinh thần để thường thù tạc chuyện này. Năm ngoái tới núi khá an nhàn, kể từ tháng Sáu bưu điện thông thuận, ngày càng rườm rà! Nếu chẳng cự tuyệt, ắt sẽ chẳng có ngày nào rảnh rỗi! Phàm những ai quy y, đều nên bảo họ ai nấy gắng hành “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện” để làm bậc thiện nhân trong thế gian. Ăn chay, bảo vệ sanh vật, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương ḥng liễu sanh tử! Dùng các chuyện ấy để tự hành, lại c̣n giáo hóa người khác, khiến cho khắp những ai cùng hàng đều cùng hưởng pháp trạch. Nếu không, nỗi khổ mai sau chỉ hơn nỗi khổ trước mắt chứ chẳng kém! Than ôi, buồn thay! Cái gốc của nỗi họa ấy, gần là do giáo dục trong gia đ́nh chẳng khéo dạy dỗ, xa là do tà thuyết của Tŕnh Châu bài xích thật lư thật sự “nhân quả ba đời, luân hồi lục đạo ươm thành. Họ bảo đức Phật lập ra pháp ấy để làm căn cứ dụ dỗ kẻ ngu phu ngu phụ tôn phụng giáo pháp của Ngài, chứ thật sự chẳng có chuyện ấy!

 

* Thư trả lời cư sĩ Tô Trí Tường

 

          Hôm qua, nhận được thư của Cổ Nông và thư của ông, biết cặn kẽ ngoại đạo đang hưng thịnh nơi quư địa. Ông có thể bỏ ngoại đạo, mong tu Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt trong Phật pháp, cũng có thể nói là “xưa kia đă có thiện căn”, nhưng đối với chỗ tự cao tự đại, trọn chẳng tự biết. V́ thế, tuy đọc kinh Phật, cũng chỉ là da lông mà thôi! Cổ Nông là bạn bè, hễ gởi thư đến, đều xưng là đệ tử X…. ḥa nam (“ḥa-nam” (vandana) tức là dập đầu, đảnh lễ). Mười lăm người các ông cậy Cổ Nông viết thư giới thiệu, mà chẳng nói là “gởi cho Quang”. Chỗ xưng danh chỉ ghi là Trí Tường ở Tô Châu “hiệp thập” (chắp mười ngón tay). Khi ông vào phái ngoại đạo, không chỉ chắp mười ngón tay mà thôi! Trong Văn Sao của Quang, có nói Thanh Thế Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thuận Trị) khi gởi thư cho đệ tử của Ngọc Lâm quốc sư là thiền sư Lữu Khê Sâm[16], chỗ kư tên đều xưng là “pháp đệ Hành Si ḥa-nam”. Nếu ông là hoàng đế, lại chẳng biết sẽ tự đại khinh người đến cỡ nào? Nay tôi đem thư của Cổ Nông gởi kèm theo. Lại mong ông tra duyệt quyển một của Văn Sao, trang sáu mươi bảy, tức thư trả lời Vưu Tích Âm sẽ tự biết. Ở đây, không nói cặn kẽ!

          Ông đă biết thị lực của Quang suy yếu, sao lại viết kiểu chữ nhỏ như thế này! Giấy viết thư vốn viết được tám gịng, ông viết thành mười sáu gịng, sao lại tiếc giấy mà chẳng sợ khi Quang xem phải tốn sức? Xưa kia, Quang đă tạo ác nghiệp to lớn nơi mắt, cho nên mới sanh ra sáu tháng liền bị bệnh mắt. Suốt một trăm tám mươi ngày, mắt chưa hề mở được. Sau đó, c̣n thể thấy bầu trời đă là hết sức may mắn! Nay đă bảy mươi chín tuổi, dẫu chữ viết to cả tấc, không đeo kính vẫn chẳng thể thấy rơ. Phàm thư từ qua lại, ắt phải dùng cả hai thứ kính lăo và kính lúp th́ mới phảng phất xem được, trả lời được. Ông cho rằng thư này gởi cho Cổ Nông chứ chẳng phải gởi cho Quang ư? Cổ Nông sẽ v́ ông chép lại rồi mới gởi cho tôi, há có lư ấy hay chăng? Thầy là khuôn mẫu của người khác. Nếu chẳng huấn thị ở chỗ này, tức là tự khinh Phật, Pháp, Tăng, mà cũng khiến cho kẻ khác khinh thường Tam Bảo. Đừng bảo Quang chuộng được người khác cung kính, đấy chính là chỗ Quang cung kính người khác. Nếu không, đối với Tam Bảo mà c̣n chẳng chịu nói nhún nhường một chữ, huống hồ thật sự hành lễ kính ư? Học Phật như thế, chắc chắn sẽ chẳng có lợi ích to lớn! Muốn siêu phàm nhập thánh, phải chờ tới năm con lừa, hoặc nằm mộng! Nếu [siêu phàm nhập thánh] trong các năm Ngọ, Mùi v.v… chi đó, trọn chẳng có chuyện không tương xứng nhân quả ấy. V́ thế nói là “Quang thật sự cung kính người khác”. Những điều khác đă nói trong Một Lá Thư Gởi Khắp, không rườm lời nữa!

 

* Thư trả lời pháp sư Viên Anh

 

          Hôm trước nhận được thư, biết chuyện vu báng đă được làm rơ, trả lại giảng đường. Lại c̣n trong lúc nguy hiểm ấy, Sư đạt được công phu đại tương ứng, có thể nói là do họa mà được phước. Chính là “chẳng trải một phen lạnh buốt xương, há được hoa mai thơm ngát mũi”! Nguyện từ nay về sau, chuyên dùng pháp môn “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” để nói với các Phật tử đang c̣n ở trong lao ngục tam giới th́ lợi ích ấy chỉ có Phật biết được! C̣n như chuyện Quang và các Sư trong chùa cầu nguyện chính là chuyện thuộc về bổn phận của chúng tôi, nào đáng để ca ngợi, cảm tạ? Khoản tiền Sư gởi cúng đại chúng cũng có thể khiến cho mọi người tin sâu Phật lực, pháp lực, chúng sanh tâm lực, ba thứ đều chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho ai nấy đều đạt được công phu “tịnh niệm tiếp nối”, tức là tài thí mà là pháp thí, đều cùng cảm tạ. Tôi vốn muốn phúc đáp ngay, nhưng có chuyện được nhờ cậy chẳng thể tŕ hoăn, cho nên tới nay mới phúc đáp.

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ nhất)

 

          Nay có đệ tử ở Phụ Dương tên là Triệu Sư Viễn muốn ở lại núi trong thời gian ngắn mười mấy ngày, xin tôi giới thiệu. Người ấy và Vương Tông Nhất đều thuộc vào hàng thân thích, ở trên núi cũng chẳng cần phải đăi như khách, chỉ dùng cơm nước theo lệ thường, một ngày ba bữa là được rồi. Nếu ông ta có tinh thần th́ cũng có thể tùy hỷ niệm Phật, chẳng cần câu nệ buộc phải thường xuyên đến niệm.

          Tái bút: Nếu ông ta muốn chi tiêu, liền nói thẳng với ông ta, cũng chẳng cần đôi bên phải khắc khổ, chỉ cốt sao vừa phải là được rồi.

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ hai)

 

          Đúng dịp vợ ông Vương Bích Trần đến đây, nói một thân quyến nằm bệnh đă lâu ngày, muốn mở một Phật Thất. Quang ước định có thể mời mười lăm người hay hai mươi người. Nếu đă ấn định ngày xong xuôi, thầy liền gởi thư cho biết.

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ ba)

 

          Buổi chiều hôm trước, vị Phạn Đầu[17] đến giao thư, do có khách đến, chưa xem, đến tối mới xem, biết ngày hôm qua đă khởi thất, do vậy, bèn báo tin ngay cho Vương Huệ Phong. Ông ta đến nhà họ Hoa thương lượng, bốn giờ đến đây, giao ba trăm đồng. Cúng cho hai mươi vị tham dự Phật Thất hai trăm đồng, cúng cho bài vị trường sanh[18] năm mươi đồng, cúng Phật và Tăng và tiền vàng hương là năm mươi đồng. Ước chừng vào sáng ngày Mười Sáu, sẽ phái người dẫn Vương Huệ Phong và con gái của bệnh nhân (mười lăm tuổi) đến núi lễ Phật, buổi chiều về ngay. Tôi bảo họ chỉ mặc y phục thường ngày tại nhà để tránh bị kẻ tiểu nhân ngắm nghé.

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ tư)

 

          Nhà họ Hoa chỉ mở một Phật Thất, thỉnh hai mươi vị, lập hai loại bài vị cầu siêu cho vong linh và tăng thọ. Hăy nên niệm A Di Đà Phật, do A Di Đà Phật chính là Vô Lượng Thọ. Cụ bà nhà họ Vương do thấy con dâu bị sốt rét rất nặng suốt hai mươi mấy ngày, dặn đem mười đồng giao cho Linh Nham để cúng Phật và Tăng. Quang đem toa thuốc trị sốt rét trao cho, ngày hôm sau liền lành bệnh.

          Ông Dương Chấn Nhân, pháp danh Trí Siêu đă đến. Sáng nay, đă đi theo thuyền của thầy Diệu Viên đến. Người này mọi việc chẳng thông thuận, hơi lăng tai. Hăy nên xét theo tánh cách của ông ta để sắp xếp làm các việc nhẹ, phục vụ trong pḥng trà cũng được, chẳng nhất định phải bảo người quản sự thâu nhận.

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ năm)

 

          Đại kiếp xảy đến, trọn chẳng có chỗ tránh né. Quang trọn chẳng thích di chuyển, huống hồ chuyện ném bom ác liệt nơi nào cũng đều có, há chịu xả nơi đă ở yên để dời sang chỗ khác ư? V́ thế, điện tín cũng chẳng xem. Nghe nói cả nhà các vị cư sĩ Quư, Vương, Ngô, Hoàng, Lư đều đến núi, pháp hội rộng mở, cũng là chuyện may mắn to lớn trong khi bất hạnh. Nếu mọi người có thể chí thành niệm Quán Âm, sẽ có thể khiến cho oai thế của quân ta bừng bừng mạnh mẽ. Đó cũng là chuyện tương trợ của người ở ngoài cuộc. Từ khi người Âu Tây vào Trung Quốc đến nay đă bảy tám chục năm qua, giao chiến với họ, trọn chẳng thắng trận nào! Ngày Sáu tháng Giêng thắng một trận nhỏ, thắng trận lần này trước nay chưa hề có, một là do người Nhật quá hung tàn, hết sức trái nghịch ḷng trời. Đằng khác là do nước ta gần đây người niệm Phật nhiều, cho nên được Tam Bảo gia bị mà có hiện tượng như thế. Quang sớm tối cầu Tam Bảo và Quán Âm gia bị người Nhật diệt dứt ác tâm, nẩy sanh thiện niệm, chẳng gây chướng ngại cho Trung Quốc nữa.

          Nghe nói Hoàng cư sĩ trước kia bị trúng mưa to gió lớn (do gởi thư có kể tên ông Hoàng, cho nên lăo nhân nói như thế. Đức Sâm ghi chú), sợ sẽ sanh bệnh. Nay gởi cho thầy bốn b́nh sắt Tây đựng tro hương Đại Bi. Nếu có người bệnh, hăy bảo họ pha uống, sẽ có thể lành bệnh. Tro ấy đă được gia tŕ năm sáu ngàn biến chú Đại Bi. Từ bốn cái b́nh ấy, có thể pha thành mấy trăm b́nh nước Đại Bi, cũng bảo Minh Tâm uống một chút. Mong thầy khuyên khắp dù Tăng hay tục cùng niệm thánh hiệu Quán Âm, có lẽ chẳng lâu sau họ sẽ tự cầu ḥa, nỗi nhục mấy chục năm của nước ta có thể gột sạch đôi chút. Đừng lo cho Quang, sống chết có số, huống chi Quang đă sắp tám mươi, c̣n có ư niệm sợ chết ư?

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ sáu)

         

          Chữ Kiến tức là chọn lựa người thật sự có đạo tâm chừng mười vị, hoặc hai mươi vị, chỉ ở một chỗ, niệm thánh hiệu Quán Âm suốt ba ngày. Chính ḿnh ắt phải thường lo liệu để tránh sơ sót. Cha ông Đậu Tồn Ngă chính là một người quật cường, chẳng hiểu việc đời. Do bọn con cháu thấy Tồn Ngă đối với họ khá tiếc tiền, nhưng làm công đức th́ lại chẳng tiếc tiền, kẻ tiểu nhân bèn thừa dịp ấy xúi giục (chị dâu của Tồn Ngă khá thông minh, nhưng xấu nết). Cha ông ta tuổi cao, quyết ư muốn chia tách nhà để tự lo liệu, nhưng lại chẳng hiểu chuyện, lại không hiểu thói đời. Hễ ông cụ quản lư, sau này chắc đến nỗi cả nhà mắc họa. Tám chín năm trước, Tồn Ngă đă bỏ tiền in sách hai ba ngàn đồng. Chi phí ở chỗ thầy Minh Đạo, Linh Nham, và Hoằng Hóa Xă rất lớn.

          Trong lúc chẳng có cách nào giải quyết như thế này, chỉ đành cầu Bồ Tát gia bị, khiến cho cha ông ta một khi tỉnh ngộ, vẫn giao cho Tồn Ngă [quản trị gia nghiệp] th́ c̣n có thể cứu văn. Nếu không, chẳng phải chỉ một nhà không yên ổn! Khoản tiền ấy sẽ quy về Quang bỏ ra, chớ cùng người khác nói nguyên do, chỉ khuyên ông ta phát tâm báo ân, cầu Đại Sĩ gia bị là được rồi. Sáng nay, Hải Lan tới, nói cặn kẽ t́nh h́nh chung. Hai giờ chiều ông ta rời đi. Ba giờ chiều th́ Tồn Ngă đến, biết ông ta trọn chẳng có cách nào, tôi bảo ông ta niệm Quán Âm, và ông ta cũng hứa tự ḿnh sẽ giúp đỡ Linh Nham.

          Lại nữa, cha ông ta hoàn toàn chẳng hiểu việc đời. V́ thế, đă bảy mươi sáu tuổi, vẫn v́ yêu thương cháu mà cho họ tách ra, lại c̣n thâu hồi sổ sách (một bà vợ bé trước đó đă trốn đi. Nếu bà ta chẳng tốt cho lắm, sẽ cuỗm tiền bạc mang theo). Một mai ông cụ mạng chung, sự nương cậy của cả nhà sẽ bị kẻ xấu trộm mất, liền trở thành kẻ nghèo hèn không nơi nương tựa, đáng sợ tột bậc.

 

* Thư gởi Diệu Chân đại sư (thư thứ bảy)

 

          Thư hôm qua cũng chưa trả lời. Trưa nay, Trần Tài Hoa chuyển khoản năm trăm đồng, nhưng chưa nhận được. Có đệ tử quy y là Hà Huệ Can ở Như Cao dẫn con và hai bà cụ trong thân quyến muốn tới triều bái Thiên Trúc, lại muốn đến núi lễ Quán Âm, và lễ niệm Phật. Hôm nay, họ nghỉ lại núi, sáng mai trở về Tô Châu, buổi chiều ngồi thuyền nhỏ sang Hàng Châu, xin được chỉ dạy. Tôi cũng bảo họ tùy hỷ niệm Phật để gieo thiện căn. Ngay trong buổi chiều, đối với trái cây và hương họ mang đến, cũng bảo họ mang theo. Lại có một cái hộp không, bèn dùng đựng tro hương [đă tŕ chú Đại Bi] để khi có dịp cần đến, cho họ trữ sẵn mang theo.

 

* Thư trả lời Đỗ Ấm Nam       

 

          Xem thư gởi đến, biết ông xưa đă có huệ căn, nhưng chỉ mong làm bậc đại thông gia, chẳng thể khăng khăng một mực thật sự lo chuyện liễu sanh tử trọng yếu. Tín tâm chân thật, nguyện chân thật, sao chẳng chịu thường niệm Phật vậy? Pháp Niệm Phật cực dễ tu tŕ, hoàn toàn chẳng cần phải gác bỏ sự nghiệp kiếm sống. Sớm tối tùy thuộc công phu của mỗi người, lập một công khóa. Ngoài ra, hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, đều có thể thường niệm, hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, miễn sao thuận tiện cho mỗi người. Lại cần phải nhiếp tai lắng nghe (pháp này mầu nhiệm tột bậc. Đại Thế Chí Bồ Tát nhiếp trọn sáu căn, hễ nghe th́ tâm quy về một chỗ, gọi là “tịnh niệm”). Lâu ngày chầy tháng, tâm tự nhiên quy nhất. Nay chỉ v́ niệm chưa được bao lâu đă mong chẳng có vọng niệm, há có được chăng?

 

* Thư trả lời Đào Công

 

          Hôm qua, nhận được thư của ông và thư của Thiệu phu nhân, biết rơ hết thảy. Ông Thiệu liều ḿnh v́ nước, tuy chết mà có công. Thiệu phu nhân hăy nên dứt buồn niệm Phật, ngơ hầu người mất lẫn kẻ c̣n đều được lợi ích. Nếu chỉ đau xót th́ đối với ông Thiệu cũng như chính ḿnh đều bị tổn hao nhiều, chẳng có ích lợi nhỏ nhoi ǵ! Bởi lẽ, ông Thiệu do vợ đau thương, sẽ khó quên t́nh, giải thoát. Bản thân bà ta không chỉ chẳng đạt được lợi ích to lớn do niệm Phật, mà c̣n hứng chịu thân tâm đau khổ! Do bà ta hoàn toàn chẳng biết cội nguồn của pháp môn Tịnh Độ, cho nên chỉ sanh ḷng đau khổ cảm thương, chẳng tu tập lợi ích siêu độ.

          Pháp môn Niệm Phật là pháp môn quy túc cho Luật, Giáo, Thiền, Mật. Đẳng Giác Bồ Tát c̣n cần phải đem công đức của mười đại nguyện vương hồi hướng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên măn Phật quả. Huống hồ hết thảy các vị Bồ Tát thuộc các địa vị thấp hơn và các vị đại đức đang tu học ư? Bổn địa của ngài Vĩnh Minh là đă chứng Phật quả từ lâu, nhưng do Ngài thị hiện sanh trong thế gian, ắt cần phải thực hiện hạnh tự lợi, lợi tha. Niệm Phật văng sanh Tây Phương chính là pháp tự lợi, lợi tha tối thượng! V́ thế, Ngài dùng thân làm gương, cực lực đề xướng, để mong trọn hết chức trách gánh vác Phật pháp, an ủi bổn hoài thuyết pháp của Như Lai. Người thời nay phần nhiều không nghiên cứu, hoặc hoàn toàn chẳng biết; đó gọi là “quen làm mà chẳng xem xét”. Hoặc là sợ đề xướng pháp môn Tịnh Độ, sẽ bị kẻ khác coi rẻ, cho là kẻ không có trí huệ, v́ thế, chẳng dám! Điều này chính là như Mạnh Tử đă nói “chung thân do chi”[19], chẳng biết phương hướng của đạo.

          Cần phải biết pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn đặc biệt trong hết thảy các pháp môn suốt một đời thuyết pháp của đức Thế Tôn. Ngu phu, ngu phụ tâm chẳng có thành kiến, dễ sanh ḷng tin. Kẻ thông Tông, thông Giáo biết là pháp môn đặc biệt, ắt sẽ cực lực đề xướng. Nếu kẻ thông Tông, thông Giáo mà luận định pháp môn đặc biệt như pháp môn b́nh phàm, sẽ không chỉ chẳng sanh ḷng tin, mà c̣n bài bác. Do vậy, gọi là “pháp khó tin”. V́ thế, Quang thường nói: “Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn tổng tŕ để mười phương ba đời hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành tựu từ lúc phát tâm cho đến lúc chứng quả. V́ thế, [pháp này] được chín pháp giới (lục phàm tam thánh là chín pháp giới) cùng hướng về, mười phương đều xưng tán. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên nói”. Ông có thể tin tưởng, chắc chắn sẽ có phần văng sanh!

          Mong hăy đem thư này đưa cho Thiệu phu nhân xem. Nếu bà ta lănh hội được, sẽ lập tức lành bệnh. Nếu không, chỉ là t́nh nghĩa vợ chồng trong thế gian mà thôi. Bà ta gởi đến bốn mươi đồng, sẽ dùng để in kinh sách, ḥng tiêu túc nghiệp cho vợ chồng, mẹ con họ, tăng trưởng thiện căn văng sanh, cũng do họa mà đạt được đại hạnh phúc liễu sanh thoát tử. Viết đến đây, bài viết về tiểu sử của ông Thiệu mới gởi đến, Quang do mục lực chẳng đủ, gượng xem lời lược thuật tiểu sử của ông ta, biết ông ta chẳng phải là tầm thường. Điều đáng tiếc là ông ta chuyên tâm nơi pháp thế gian, trọn chưa từng bén mảng Phật pháp. Người thông minh như thế, nếu lại nghiên cứu Phật pháp, th́ sự nghiệp phát huy, sẽ chẳng chỉ như vậy. Bởi lẽ, những bậc lập đại công tạo đại nghiệp từ xưa, ḷng tinh trung chói ḷa nhật nguyệt, hạo khí lấp thiên địa, đều do học Phật đắc lực mà ra. Nhưng sử quan chỉ chép sự tích của họ, chẳng nói rơ nguồn đạo. V́ thế, cơi đời phần nhiều chẳng biết. Trong lời bạt cho tác phẩm chép kinh chú của Lâm Văn Trung Công[20], Quang đă nêu tỏ nghĩa ẩn tàng ấy. Mong hăy đọc kỹ, sẽ tự biết lời Quang nói chẳng sai!

 

* Thư trả lời cư sĩ Dư Huệ Thông

 

          Viện Đại Hùng ở Lư Sơn được xây dựng rất tốt, nhưng tăng sĩ chân thật chẳng dễ có! Cố nhiên chẳng thể không lưu tâm suy xét. Phàm học Phật pháp, ắt trước hết hăy nên v́ liễu sanh tử. Nay cư sĩ tại gia, kẻ hơi thông minh, phần nhiều đều muốn làm bậc đại thông gia, mong tuyên nói trước đám đông, và lưu lại tác phẩm để lưu danh cho hậu thế, khiến cho hiện tại lẫn vị lai đều cho rằng ta là X… là bậc đại thông gia. C̣n chuyện đối trị tập khí phiền năo, và làm như thế nào để có thể tự liễu thoát trong cơi đời hiện tại đều chẳng buồn hỏi tới! Nếu có gă phường tuồng nào đóng giả làm đế vương thiên tiên, [đại chúng] sẽ ưa thích khôn ngằn, chẳng biết đó chỉ là giả trất, đời sau kiếp sau chẳng biết đầu mặt lại là tướng trạng như thế nào? Cũng đáng buồn lắm thay!

 

* Thư trả lời cư sĩ Lưu Đạm Nhiên ở Lưu Dương

 

          Xem thư ông gởi đến, ngữ khí quá lớn! Hễ là người thật thà niệm Phật, sẽ trọn chẳng chịu nói những ư kiến của riêng ḿnh, mà sẽ một mực nương theo lời dạy của các vị thạc đức trong Tông hay Giáo để mong mỏi. Nếu cứ thích như thế (cứ ăn nói phô trương kiến giải của chính ḿnh như thế), sẽ liễu sanh thoát tử vào năm con lừa! Đức Phật đă v́ hết thảy phàm thánh lập ra pháp môn Tịnh Độ này. Ông và tôi là hạng phàm phu lè tè sát đất, trong ư ông dường như đă chẳng vừa ư pháp này, lại cầu Quang bố thí vô úy ḥng chữa tâm bệnh. Tôi làm sao có thể thí vô úy cho ông được? Đức Phật bố thí pháp vô úy có thể chữa tâm bệnh cho ông, ông chẳng cho là đúng. Ấn Quang tôi là một phàm phu đầy nghiệp lực, há có thể ở ngoài pháp môn Tịnh Độ phổ độ phàm lẫn thánh của đức Phật mà lại lập ra một pháp môn khác ư? Xét theo lời lẽ ông đă nói, đúng là Quang chẳng dám phúc đáp, huống hồ làm thầy quy y ư? Nếu chẳng coi lời Quang là vô dụng, xin hăy đọc kỹ Văn Sao hoặc Gia Ngôn Lục, nương theo đó để tu, chắc chắn là khi sắp mạng chung, sẽ nương vào từ lực của Phật văng sanh Tây Phương, đúng là pháp để chân thật đạt được đại vô úy, trừ khử tâm bệnh. Muốn cầu vô úy ở ngoài pháp ấy, cần phải là bậc tái lai th́ mới có thể đích thân đạt được. Ông và tôi muốn đạt được, chắc là khi nằm mơ, may ra có thể mộng thấy không chừng! Trừ khi nằm mộng, trọn chẳng có lẽ ấy! Nay đặt pháp danh cho ông là Trí Viên (智圓). Các điều khác xin hăy đọc kỹ trong Văn Sao để thực hành, đó là chuyện trọng yếu. Quang đă già rồi, tinh thần chẳng đủ, chẳng thể thù tạc. Mong đừng gởi thư đến; cứ gởi đến sẽ thật sự khó thể trả lời!

 

* Thư trả lời cư sĩ Tôn Khánh Trạch về chuyện tang lễ chẳng dùng đồ mặn

         

          Hiện thời, thế đạo suy đồi, lễ pháp hoại loạn. Phàm tiến hành mọi chuyện đều mong sao phô trương, tráng lệ, chẳng biết điều ǵ nên làm, điều ǵ nên tránh! Thuở sanh tiền, mẹ ông đă ăn chay, niệm Phật, lâm chung c̣n có tướng lành ứng hiện, đừng nói chẳng nên dùng đồ mặn, mà c̣n phải nên gắng tuân theo ư mẹ, toàn thể đều dùng đồ chay! Cổ nhân trong tang lễ trọn chẳng dùng rượu thịt. Khi Tùy Dượng Đế làm thái tử, mẹ ông ta chết, ông ta chẳng dám ăn thịt, lén lút sai người dùng ống tre đựng thịt, dùng sáp bịt kín miệng ống, nhét vào bọc để dâng lên. Đủ thấy dùng thịt trong tang lễ, bậc cổ Nho nghiêm ngặt như thế đó. Dẫu là thái tử, vẫn sợ người khác biết, bèn làm theo cách ấy. Người thời nay chính ḿnh cũng ăn thịt, lại c̣n dùng thịt đăi đằng khách khứa. Khách khứa đều chẳng biết tang sự là chuyện ra sao, cứ nghiễm nhiên uống rượu, ăn thịt, coi đó là dịp để hưởng một hồi náo nhiệt, vui sướng! Chuyện này hoàn toàn trái nghịch lễ pháp của tiên vương, chỉ biết mong sao khoe khoang đẹp mặt với người khác! Nếu muốn tránh bị chê bai là “dùng đồ chay để giảm chi tiêu”, hăy nên nêu bày ư nghĩa to lớn, đặc biệt đề xướng “bỏ ra bao nhiêu tiền để làm chuyện công ích, th́ người ta sẽ tự chẳng đến nỗi trách móc [tang chủ] muốn giảm bớt chi tiêu.

          Phận làm con phải nên khiến sao cho thần thức của cha mẹ được an ổn. Kẻ làm con trong hiện thời phần nhiều đều coi chuyện “quăng đá người đă té xuống giếng” là hiếu. Nếu chẳng chịu ném đá, tợ hồ giống như hổ thẹn chẳng c̣n mặt mũi nào gặp người khác. Ném đá càng nhiều, càng tự đắc ư! Đáng thương cha mẹ suốt một đời v́ con cái, cho tới khi chết, chúng nó lại mượn dịp tang sự để sát sanh, hại mạng, cúng tế vong linh, đăi đằng khách khứa, hoặc tự ăn nuốt. Đă thế, c̣n nhơn nhơn tự đắc, đắc ư bảo: “Đối với đám tang của cha mẹ, ta đă mổ mấy con lợn, mua bao nhiêu gà, vịt, cá, tôm đăi đằng khách khứa. Cha mẹ ta sanh ra ta một phen, cũng có thể nói là ta đă trọn hết tấm ḷng rồi!” Chẳng biết do đám tang của cha mẹ mà sát sanh, khiến cho cha mẹ hứng chịu quả báo do giết chóc. Mắt phàm chẳng thấy, bảo đó là “hành hiếu. Thiên nhăn nh́n vào, [thấy chuyện đó] càng đáng thương xót hơn giết cha mẹ! V́ lẽ nào vậy? Do sát sanh nhiều, khiến cho cha mẹ và chính ḿnh cùng với khách khứa đời đời kiếp kiếp phải đền trả lẫn nhau, chẳng đáng buồn ư?

          Đứa con đă thành gia lập nghiệp, chẳng vay lăi nặng. Huống hồ muốn thể hiện ḷng hiếu, mà vay nợ tánh mạng ư? Ông tuy quy y Phật pháp, sợ chẳng hiểu rơ lư này, v́ thế tôi nói với ông! Nếu anh em trai, chị em gái trong nhà có kẻ chẳng biết lư này, hăy nên đem lời Quang đưa cho họ xem, nói rơ nguyên do cho họ. Nếu họ hiểu rơ lư này, ai chịu hành hiếu theo kiểu “ném đá người đă té giếng”. Hành hiếu kiểu “ném đá xuống giếng”, dẫu cọp, sói c̣n chẳng nỡ ḷng, huống con người ư? Nhưng do người đời chẳng biết nhân quả ba đời, cố chấp các chuyện thuộc vào tập quán thế gian để cử hành tang lễ, trái nghịch to lớn với tang lễ của tiên vương. Ông và Quang chưa gặp mặt, mẹ ông và Quang cũng chẳng quen biết, cớ ǵ Quang phải lằng nhằng, lan man, chuốc lấy người khác phiền ḷng, nói những lời rỗng tuếch ấy để làm ǵ? Bất quá, nghĩ ông vẫn tin tưởng Quang, mẹ ông suốt đời siêng năng, tiết kiệm, nhân từ, rộng răi, niệm Phật, tu thiện. Quang chỉ muốn mẹ ông được lợi ích, chẳng muốn mẹ ông do ông chẳng hiểu rơ lư to lớn đến nỗi bị tổn hại. Nếu các ông chẳng sợ mẹ ḿnh bị tổn hại, chẳng chịu để cụ đạt được lợi ích, th́ cũng chỉ đành tùy ḷng các ông! Há Quang có thể ép buộc các ông chẳng làm ư? Nhưng Quang đă nói rồi th́ tâm Quang chẳng thẹn. Nếu Quang chẳng nói, sẽ đánh mất thân phận của chính ḿnh. V́ lẽ nào vậy? Do ông coi Quang là thiện tri thức. Ví như có người muốn trở về nhà, hỏi đường với người khác, [người được hỏi] ắt cần phải chỉ cho con đường chánh đáng nên đi, chỉ rơ con đường ngoắt ngoéo chớ nên đi. Nếu ông vẫn noi theo ư ḿnh, nhất định muốn đi theo con đường ngoắt ngoéo chẳng nên đi, đó là lỗi của ông, chẳng liên quan ǵ đến người chỉ đường. Mong hăy xét kỹ lời tôi là lừa gạt ông, hay là thành tựu hiếu đạo cho ông? Kẻ biết tốt xấu, sẽ chẳng coi lời tôi là sai lầm!

 

* Thư trả lời cư sĩ Hoàng Tụng B́nh ở Tương Âm

 

          Quang là loại tăng nhân chỉ biết cơm cháo, một mực thẳng ruột ngựa, trọn chẳng chịu hư dối ca ngợi người khác, mà cũng trọn chẳng muốn người khác ca ngợi ḿnh hư dối! Lời lẽ nơi trang thứ nhất của bài văn các hạ viết, tôi rất chẳng muốn nghe, do chẳng phải là thân phận của tôi, sẽ trở thành nỗi nhục không ǵ lớn bằng! Bệnh từ thân sanh, thân do nghiệp sanh. Hăy nên thống thiết sám hối để tiêu túc nghiệp. Lại cần phải hết sức pḥng ngừa chuyện pḥng the để bệnh khỏi nặng hơn. Bất luận bệnh ǵ, chẳng kiêng chuyện pḥng the, chắc chắn khó thể lành bệnh! Khổng Tử nói: “Phụ mẫu duy kỳ tật chi ưu giả” (cha mẹ chỉ lo về căn bệnh ấy); do chuyện pḥng the là cội gốc của hết thảy các bệnh.

          Trong khi thân đang bệnh tật, cần ǵ phải đến Cư Sĩ Lâm theo đại chúng niệm Phật? Chỉ ở tại nhà lắng ḷng tĩnh niệm, đó là tốt nhất. C̣n như ông nói nghiên cứu Phật lư với thiện tri thức, do thân đang vương bệnh nặng, chỉ nên nghiêm túc tu tŕ. Hăy nên chí thành niệm Phật, và niệm Quán Âm, lúc này chẳng cần phải nghiên cứu. Hễ nghiên cứu, ngược lại sẽ trở thành rối ren. Ví như có bệnh, có được một viên linh đan, liền chú trọng dùng ngay. Chớ nên trước hết nghiên cứu xem viên linh đan ấy do thuốc ǵ chế thành, thuốc sẽ đi theo kinh lạc nào, trị bệnh ǵ? Ắt mong hiểu rơ từng điều rồi mới chịu uống thuốc ư? Ông trọn chẳng biết nguyên do của học Giải và học Hành, cho nên chẳng đạt được lợi ích chân thật.

          Danh mục của ngoại đạo chất chứa thành trăm, thành ngàn loại, nhưng cách dụng công của họ nói chung chẳng ngoài luyện đan, vận khí. Dẫu chúng nó dạy người ta xem kinh, niệm Phật, đều là màu mè ngoài mặt, chứ cố nhiên chúng nó chẳng cho đấy là đạo! Muốn đắc đạo của chúng, ắt phải khẩn thiết đến cực điểm. Ban đêm một ḿnh vào pḥng, đóng chặt cửa cái, cửa sổ, bên ngoài phái người tuần tra, chỉ cho phép một người vào pḥng. Trước hết, cần phải phát lời thề cực ác, cực thảm: “Nếu trái nghịch giáo đó, nhất định chịu loại thảm báo ấy”. Thề độc rồi, họ sẽ điểm khiếu, chỉ huyệt, hoặc nơi đầu, mặt, hoặc ở trong thân. Đối với các huyệt trong thân, ắt phải cởi sạch áo ngoài lẫn áo lót, sờ soạng để chỉ điểm. Cách làm như thế chính là mánh khóe mê hoặc người khác, nhưng hết thảy các ngoại đạo, thoạt đầu dùng một kinh để truyền đạo chẳng tu [các pháp khác] mà có thể ngay lập tức thành tựu! Nếu bỏ cách bí mật để dạy rơ cho người khác, chẳng bắt thề độc mà cho phép người khác tùy ư nhập đạo hay bỏ đạo, ngoại đạo sẽ chẳng có căn cứ để tồn tại được!

          Phật pháp chẳng có chuyện bí mật truyền dạy riêng tư, cũng chẳng buộc kẻ khác thề độc! Hễ tin th́ nương theo đó để tu, chẳng tin th́ tùy ư ĺa bỏ. Ông đă niệm Phật, vẫn toan tính theo ngoại đạo, tức là ông hoàn toàn chẳng biết sự tà chánh giữa Phật pháp và ngoại đạo, chỉ noi theo người khác sanh tín tâm, thật sự chẳng phải là chân tín. Nếu sanh ḷng tin chân thật, sẽ chỉ dốc sức tu tŕ, há c̣n nghĩ ngợi ngoại đạo đông đảo, hoặc hăm nhập vào đó ư? Ông đă có túc nghiệp, mắc bệnh hiểm nghèo, hăy nên ăn chay, niệm Phật để làm chuyện siêu độ oán gia. Nói tới “siêu độ” th́ cũng chẳng bắt buộc phải thỉnh Tăng làm Phật sự, nhưng chính ḿnh phải nghiêm túc, khẩn thiết, chí thành niệm Phật, niệm Quán Âm. Đừng bảo “chỉ niệm một vị Phật, một vị Bồ Tát, há có thể lành bệnh ư?” Cần phải biết: Niệm Phật là pháp viên đốn nhất, thẳng thừng, nhanh chóng nhất trong Phật pháp, lợi ích vượt xa hết thảy các pháp môn. Chỉ v́ tâm chí thành hay không mà thành ra sai khác, chẳng phải là pháp có linh hoặc chẳng linh. Tôi giải đáp các câu hỏi khác như sau:

          1) [Ông hỏi] “Tịnh Độ đă chỉ do tâm tạo, phải nên nói ‘duy tâm’, sao lại nói tới Tịnh Độ là cái được tạo [bởi tâm]? Đă là Tịnh Độ được tạo bởi tâm, sao lại chỉ là duy tâm, chẳng có cảnh ở ngoài Tịnh Độ vậy?” “Duy tâm Tịnh Độ” là dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Cho tới lúc lâm chung, do tịnh tâm của chính ḿnh, cảm Phật tiếp dẫn, văng sanh Tây Phương. Như thế mới là “duy tâm Tịnh Độ”. Nếu chẳng có Tịnh Độ, chỉ nên nói là “duy tâm”, sao có thể từ trong không sanh ra có, thêm vào một cái Tịnh Độ? Lại thêm vào một cái “được tạo” ư? Vốn chẳng có Tịnh Độ, tạo cái ǵ chứ? Kẻ tà kiến ngăn trở người khác tu tŕ, tự ăn nói lớn lối, chẳng biết lời nói của chính ḿnh hoàn toàn tương phản! Muốn phá sự tu tŕ của người khác, thật ra là tự phá, tự bộc lộ tà kiến, kiến giải sai lầm! Nước ta loạn lạc đến nỗi phế kinh điển, phế luân thường, phế hiếu, vứt bỏ liêm sỉ, giết cha, giết mẹ hết thuốc chữa, đều do người thuở trước ăn nói lớn lối, xướng lên tà thuyết phá nhân quả, luân hồi, bảo “Phật lừa kẻ ngu tuân phụng giáo pháp của Ngài” mà ra! Giả sử ai nấy đều biết tam thế nhân quả, lục đạo luân hồi là thật lư, thật sự, ai dám phô phang ư kiến ức đoán nhất thời để tạo khổ báo bao kiếp măi măi, khiến cho người đời sau trong thiên hạ hứng chịu sự độc hại vô cùng ấy?

          2) “Chẳng phải là người thuộc địa vị [lănh đạo], chẳng toan tính phương cách cai trị”. Ông là người tiêu túc nghiệp để mong bệnh hiểm nghèo được lành c̣n chưa xuể, sao lại xằng bậy luận định chuyện chiến đấu, giết chóc của nước nhà ư? Binh lực là thứ bất tường, thánh nhân bất đắc dĩ phải sử dụng. Quốc gia có đường lối của quốc gia, chúng ta sao có thể xen vào? Xét theo lư để luận bàn, hăy nên dùng đạo đức, nhân nghĩa làm căn bản, dùng h́nh pháp và quân đội để phụ trợ. Nếu không, cực kỳ hiếu chiến, dẫu là đại quốc hay cường quốc, cũng sẽ diệt vong, huống hồ nước nhỏ, nước yếu ư? Như bọn Trương Tông Xương[21] chẳng tiếc mỡ máu của nhân dân để cung ứng vui sướng cho chính ḿnh, nay đang ở đâu? Đó là do hiếu chiến mà chết, hay là v́ không có quân đội mà chết? Do vậy, biết văn hiến đức hạnh có thể an dân, vũ bị có thể bảo vệ đất nước. Tuy sẵn có mà chẳng phải dùng đến th́ mới là thượng sách. Nếu chuyên chú trọng dùng vũ lực, ắt có mối họa diệt quốc, táng thân! Nếu có thể dụng tâm như Tào Bân[22] th́ có thể nắm giữ binh quyền. Nếu không, đều sẽ thành kết quả như Tào Hàn[23], đáng tiếc lắm thay! Ông bàn đến chuyện này, bảo là “noi theo Phật pháp, phải phế sạch binh lực và h́nh phạt”, tức là chẳng biết Phật pháp có pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Pháp thế gian là pháp trị đằng ngọn, pháp xuất thế gian là pháp trị đằng gốc. Như Khổng Tử nói “đạo chi dĩ chánh, tề chi dĩ h́nh, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách” (Dùng chánh lệnh để cai trị, dùng h́nh pháp để uốn nắn họ [tuân theo đạo đức]. Chỉ cốt sao dân chúng chẳng phạm tội bị trừng phạt th́ [người lănh đạo] chẳng hổ thẹn. Hướng dẫn dân chúng bằng đạo đức, dùng lễ giáo để cảm hóa họ, dân chúng không chỉ biết hổ thẹn [v́ không tuân thủ lễ giáo], mà lại c̣n tin phục, nghiêm túc tuân thủ). Thánh nhân tuy chẳng phế bỏ binh lực, nhưng chẳng coi binh lực là điều chủ yếu để trị quốc. Nay ngoại trừ binh lực th́ hết thảy đều chẳng nói đến, ắt binh lực là mối hại của dân, chẳng có thuốc nào chữa được! Buồn thay!

          3) Độc ác và từ thiện chẳng trái nghịch. Nếu ai chẳng có tâm độc ác, rắn, cọp cũng có thể làm bạn. Dẫu chưa đạt đến mức độ ấy, nhưng nếu là thiện nhân thường niệm Phật, niệm kinh, quyết chẳng bị các thứ ấy làm hại. Do giữ ḷng từ thiện, có thể chuyển hóa các thứ độc ác ấy. Huống hồ người tu hành thường có thiện thần bảo vệ! Đoạn văn này của ông tội lỗi vô lượng, dạy thiên hạ vô duyên vô cớ sát hại sanh mạng, tôi sợ họ càng giết càng nhiều, mà kẻ làm chuyện giết chóc đều bị diệt môn, tuyệt diệt, kiếp sau đời đời thường bị kẻ khác giết, đều do lời ấy của ông gây lầm lẫn. Ông há nên dễ dăi thốt lời ư?

          4) Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, mà bệnh vẫn chưa lành, đâm ra do vậy mà sanh nghi. Như thế th́ các điều ác sẽ đều làm, các điều lành đều phế, làm sao có thể lành bệnh cho được? Cần phải biết “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện” mà bệnh vẫn chẳng lành, tức là hạng người phô phang cái danh bên ngoài, chưa thể tận lực thật sự thực hiện. Hoặc là vẫn tự làm ác, chẳng biết những ǵ đă làm là ác. Như ông Tăng ở chùa Tinh Kiến tận lực dùng thịt để dâng cho cha mẹ, cho đó là hành hiếu! Kẻ thế tục thích ăn thịt, hùa nhau ca tụng! Chẳng biết kẻ đó đă phạm giới cấm của Phật, lại c̣n dấy lên tà kiến. Phá giới, phá kiến, khiến cho cha mẹ lẫn người khác đều bị lầm lạc! Đứa con hiếu thảo phải lấy chuyện “dùng đạo để khuyên nhủ cha mẹ” làm gốc. Người có ḷng nhân cúng tế tổ tiên, ắt cầu thóc gạo từ chỗ người có ḷng nhân. Ông Tăng hiếu thảo với mẹ, ngược ngạo t́m thịt từ nhà đồ tể. Cố nhiên hiếu tâm của người ấy th́ có, nhưng chẳng biết cái hiếu tâm kiểu đó chẳng khác chính ḿnh giết mẹ cho mấy! Đề cao tấm ḷng của ông Tăng “có hiếu” ấy, [tức là tán đồng] phàm là kẻ làm con đều phải nên tận lực cung ứng thịt cho cha mẹ. Nếu không, chính ḿnh đă dùng thịt để dâng cho song thân, sao có thể cấm người khác dùng thịt dâng cho cha mẹ ư? [Đối với] kẻ chưa mở mang chánh nhăn [như thế ấy, ông] c̣n thêm một chữ Cao, đáng thương cho vị “cao tăng” ấy chẳng biết đă ươm mầm cho bao nhiêu kẻ giết cha, giết mẹ trong đời sau? Buồn thay!

          5) Chưa đạt tới địa vị “chân cùng, Hoặc tận”, tự nhiên thân, tâm, thế giới là có thật. Đă đạt tới địa vị “chân cùng, Hoặc tận”, th́ đối với người ấy, sẽ đều là không; nhưng đối với kẻ chưa đắc đạo đó, th́ đều là có. Chớ nên lẫn lộn lư sự giữa phàm và thánh để rồi hàm hồ nói xằng! Bản thể của cái tâm chúng sanh chính là Chân Như Thật Tướng, hiềm rằng do chưa ngộ, tuy suốt ngày nương vào sức Chân Như, nhưng bao kiếp chẳng biết Chân Như ở đâu! Nói tới vô minh, vốn chẳng cội nguồn, đầu mối, nhưng v́ chưa ngộ, lại muốn chỉ ra nó vốn chẳng có; nên nói là “Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh mà dấy khởi vô minh”. Thật ra, chẳng phải là thoạt đầu th́ không, sau đó bèn có. Nói như vậy v́ muốn cho người ta dễ biết bản thể đó thôi! Ví như vàng lẫn lộn trong quặng, chẳng phải ban đầu là thuần vàng, sau đó mới sanh ra quặng! Cần phải biết: Vàng ở trong quặng, vàng vẫn chẳng phải là quặng. Luyện quặng th́ lộ ra vàng, quặng chẳng xen tạp chất vàng. Chúng ta hăy nên dốc sức ở chỗ phá vô minh, chẳng lo thế giới là có hay là không, hư vọng sanh nghị luận nơi danh từ “vô minh sanh diệt!” Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba La Mật Đa, cho nên có thể chiếu kiến Ngũ Uẩn đều là Không. Thân, tâm, thế giới chính là Ngũ Uẩn. Chúng ta chưa đạt được địa vị Bát Nhă sâu xa, hăy nên là “thật có”. Thế giới hư huyễn, phàm phu thường nghi là vọng. Nếu hết sạch phàm t́nh, núi, sông, đại địa đều chẳng ngăn ngại! V́ thế, cổ đức nói: “Nếu có thể ngay lập tức vong t́nh, vách núi c̣n thể vượt thẳng qua”. Ông vừa xọc chân vào, liền muốn biện luận tranh căi với họ, đủ biết ông học Phật là để ăn nói lưu loát, chẳng thật sự v́ thân, tâm, tánh mạng mà tính toán. Ông bài bác họ, họ bài bác ông, suốt ngày khó có tinh thần và thời gian để đấu đá, biện bác, vô ích cho chính ḿnh, mà cũng vô ích đối với pháp. Hăy nghiêm túc tu tŕ, sẽ đạt được lợi ích thật sự, sẽ tự có hiện tượng “chẳng nói mà tin, chẳng dạy mà tuân theo”.

          6) Người đời sống uổng chết phí. Người tu Tịnh Độ liễu sanh thoát tử, đối với các hành vi trong thế gian đều là giữ vẹn hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Nhưng có kẻ do [thấy người tu Tịnh Độ] chán ĺa Sa Bà, bèn gán cho cái nhăn là “tiêu cực”. Đấy đúng là “thà mua một ngàn gánh giả, chẳng mua một gánh thật”, ngược ngạo sanh tham đắm đối với thứ chẳng thực tế, cho đó là “tích cực”. Ngược ngạo cho rằng “vận dụng công phu nơi luân lư cương thường, thân, tâm, tánh mạng” là tiêu cực. Tôi nguyện người đời đều tiêu cực như thế th́ thế giới Sa Bà sẽ chuyển thành cơi Phật thanh tịnh vậy.

          7) Chẳng thể nương theo toàn bộ, nếu thuận theo ư người khác, chẳng thể gọi là phù hợp Phật pháp được! Trứng cũng chớ nên ăn, do có mầm sống, lại có chất độc. Sách thuốc của Trương Trọng Cảnh[24] có chép kẻ ham ăn gà và trứng, về sau, trong bụng sanh ra gà và trứng. Trọng Cảnh bảo người ấy ăn tỏi chín, bèn ói sạch ra mà lành bệnh. Trọng Cảnh bảo suốt đời chớ ăn nữa, hễ ăn sẽ chẳng thể trị được!

          8) Cao tăng dùng thơ và văn chương để hoằng pháp lợi sanh th́ được, chứ dùng thơ và văn chương để trà trộn vào văn xă rượu thịt th́ chẳng thể được!

          9) Kẻ cuồng luôn mong cao hơn hết thảy mọi người xưa nay, cho nên có kẻ bài bác Phật, cho rằng kinh Phật toàn là do người đời sau ngụy tạo. Đối với Khởi Tín, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, cũng có kẻ cho là ngụy tạo. Kẻ thốt lời ấy muốn chuốc lấy cái hư danh “kiến thức cao siêu”, chẳng màng cái họa thật sự “bao kiếp đọa vào địa ngục”. Do vậy, thông minh phải biết dùng, khéo dùng th́ sẽ lợi ḿnh, lợi người. Chẳng khéo dùng, sẽ tự lầm, lầm người. Ông và tôi hăy ăn nói thận trọng, nỗ lực niệm Phật, mặc cho kẻ khác lật mây đảo mưa, nhất loạt chẳng nghe tới, hỏi tới!

          10) Phật giáo chẳng có pháp bí mật chẳng thể nói cho người khác. Tĩnh tọa dụng công tùy theo từng người mà tu. Người niệm Phật khi ngồi, trong tâm thầm niệm Phật hiệu, ắt sao cho từng chữ, từng câu, tai nghe cho rơ ràng. C̣n như cách ngồi th́ hoặc là bán già (đơn già phu, chân nọ chồng lên chân kia), hoặc xếp bằng (song già phu, ngồi theo thế liên hoa tọa). Nếu chẳng thể ngồi xếp bằng th́ ngồi khoanh chân cũng được.

          Đối với các sách ông xin thỉnh, tôi đều chiếu theo đó mà gửi. Ngoài ba gói sách, gởi thêm một gói sách lẻ và tượng. Hơn nữa, kinh Phật do ông Lâm Văn Trung Tắc Từ viết là do chắt của ông ta gởi tới. Hăy đọc bài phát ẩn và lời bạt, sẽ biết bậc đại nhân thời cổ ẩn mật tu tŕ nhiều lắm! Sau khi đă nhận được thư và sách, chỉ nên gởi một mảnh giấy báo tin đă nhận được thư và sách, chớ viết những lời khen hư huyễn rỗng tuếch giống như chửi người [trong thư báo tin ấy]. Sau này, tại Tây Phương sẽ lại gặp gỡ, lại tṛ chuyện, đời này quyết chẳng thể thù tạc các hạ được!

 

* Thư trả lời cư sĩ Tŕnh Viên ở Phong Kính

 

          Xem thư gởi đến, biết ông coi chuyện học Phật như học vấn, trọn chẳng chú trọng liễu sanh tử! Nếu hời hợt nghiên cứu các tông, dẫu đối với mỗi tông đều lănh hội ư chỉ, nhưng sanh tử xảy đến, vẫn phải theo nghiệp duyên mà đi! Tu hành cậy vào tự lực, chưa đoạn sạch làu phiền hoặc trong tam giới, quyết chẳng có phần liễu sanh tử, khó khăn như lên trời! Nếu ông là bậc thánh nhân đă đoạn Hoặc, chẳng cần phải cưỡng ép ông chuyên tu pháp môn Tịnh Độ. Nếu muốn tiến cao hơn, vẫn cần phải phát đại Bồ Đề tâm, cầu sanh Tây Phương. Nếu ông là phàm phu đầy dẫy triền phược, chưa đoạn mảy may phiền hoặc, tuổi tác đă cao, vẫn cứ muốn hời hợt, phù phiếm, đàm huyền thuyết diệu, sợ một khi Diêm La lăo tử đến mời, ông có thể thị hiện thật tướng chân không, khiến cho ông ta chẳng thấy thân h́nh của ông hay chăng?

          Người đời mỗi khi thấy ngu phu ngu phụ niệm Phật cầu sanh Tây Phương, liền miệt thị pháp môn Tịnh Độ. Chẳng biết bậc Bồ Tát đă chứng Pháp Thân như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, cùng với Đẳng Giác, vẫn cần phải dùng công đức của mười đại nguyện vương để hồi hướng văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ḥng viên măn Phật quả. Ngu phu ngu phụ có thể niệm Phật th́ có thể liễu sanh tử ngay trong đời này. Người đại thông minh, đại trí huệ, chẳng chịu niệm Phật, đến nỗi đời sau mê muội, tạo ác nghiệp, đọa ác đạo, bị ngu phu ngu phụ đă văng sanh thương xót, muốn cứu giúp nhưng kẻ nghiệp chướng chẳng có cách nào [thoát khổ] quá nhiều!

 

* Thư trả lời cư sĩ Tử Tâm

 

          Các nơi như Cư Sĩ Lâm, Phật giáo hội v.v… là chỗ đề xướng, chẳng phải là đạo tràng để mọi người thường trụ, tu tŕ. Người đời nay chuyện ǵ cũng đều muốn phô trương to tát, chẳng biết lợi ích do người tại gia tùy phận tùy lực tu tŕ trong nhà. Chương tŕnh của ông nói ra th́ rộng lớn, nghiêm mật, hoàn toàn chẳng nói tại gia th́ phải nên tu tŕ như thế nào! Nếu nhất quyết “phải vứt bỏ gia đ́nh th́ mới tu tŕ được”, Quang nhất quyết chẳng chịu để cho ông dùng hai chữ Ấn Quang, v́ sợ mọi người sẽ bảo Quang là tà ma, ngoại đạo, vứt bỏ luân lư! Chương tŕnh tinh tấn của ông quyết chẳng thể tiến hành được, dẫu có thể tạo lợi ích to lớn, vẫn có đại họa và thói tệ to lớn ngầm ẩn trong đó. Ông hoàn toàn chẳng biết t́nh người trong đời Mạt, chỉ biết ăn nói lớn lối, trọn chẳng nghĩ lại rốt cuộc sẽ dẫn đến đâu, trở thành t́nh trạng như thế nào.

          Quang suốt đời tâm thẳng tuột, ăn nói thẳng tuột, thà bị người khác chửi bới, chẳng dám khiến cho người khác bị lầm. Ông nhất quyết chẳng nghe theo lời Quang, Quang cũng chẳng dám ép ông, nhưng từ nay về sau, vĩnh viễn chấm dứt giao t́nh, mặc cho ông phô trương ŕnh rang cỡ nào, Quang chẳng hỏi tới. Nếu lôi tên Ấn Quang vào đó, ắt chẳng đáp ứng. Nếu ông cứ lôi Quang vào đó, sau này nếu tôi đăng báo thanh minh, mong chớ trách móc. Cách làm như thế của Quang, một là khiến cho ông tỉnh cơn mê, hai là ngăn thói tệ kẻ gian bắt chước làm theo ông, chẳng phải là do lửa vô minh to lớn, cho nên chẳng tán thành chuyện tốt của người khác đâu nhé! Do ông hoàn toàn chẳng hiểu cách tu của người tại gia. Nếu pháp ấy được thực hành rộng răi, ắt có họa diệt pháp. Có lẽ ông chẳng trông thấy, nhưng Quang đă sớm biết, chẳng nỡ không nói với ông. Ông nghe theo th́ cũng chẳng qua lại với ông, ông chẳng nghe th́ cũng chẳng qua lại với ông, do chẳng có mục lực và tinh thần để thù tạc.

 

* Thư trả lời cư sĩ Tạ Huệ Lâm

 

          Hai lần nhận được thư gởi theo đường tàu thủy, do công việc bận rộn, chưa thể trả lời ngay. Công khóa do ông đă lập, chẳng có ǵ là không được! Đối với lời huấn từ dành cho trường nữ sinh của ông, đă ngay trong ngày hôm sau khi nhận được thư thứ hai theo đường thủy và thư của ông, đều gởi liền cho Vân Đài, đừng lo!

          Đạo lư của Mật Tông chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng hiện thời người truyền, kẻ học Mật Tông đều chú trọng thần thông, chẳng khỏi đánh mất ư chỉ cội gốc. Người truyền c̣n chẳng có thần thông thật sự, kẻ học có ai thật sự đắc thần thông? Nặc Na[25] đến chùa Thái B́nh ở Thượng Hải, bàn về Mật Tông, cũng nói “chú trọng văng sanh Tây Phương”, nhưng [chủ trương] tŕ A Di Đà Trường Thọ Đà La Ni[26] ở ngay mỏ ác, liền có thể tùy ư trường thọ, hoặc liền văng sanh. Sao có thể nói nhất loạt kiểu đó cho được? Đừng nói ông và tôi chẳng thể, ngay cả Nặc Na cũng chẳng thể tùy ư văng sanh. Nặc Na nói ông ta bị Đạt Lai Lạt Ma nhốt trong một địa lao. Hằng ngày từ bên trên tḥng xuống ít cháo để kéo dài mạng sống. Ông ta dùng tay moi vách địa lao, sáu năm mới khoét thủng, trốn sang Trung Quốc. Ông ta nói trong ngục chẳng có vật ǵ, ngay đũa cũng chẳng có một chiếc. Dùng tay moi đất đào vách địa lao, khổ sở chẳng thể kể xiết! Huống hồ bị nhốt trong địa lao, phân tiểu bừa băi, thối bẩn khôn kham, sao trong lúc ấy chẳng văng sanh Tây Phương? Quang thoạt nghe ông ta nói, cho rằng kẻ này hoàn toàn chẳng biết Phật pháp. Nếu không, sẽ chí thành tŕ chú để cầu tự thoát ra, sao lại phải dùng tay moi? Sau đó, lại nghe ông ta có thể chữa bệnh cho người khác rất hiệu nghiệm; do vậy, được mọi người ngưỡng mộ. Đệ tử đem chuyện này hỏi Quang, Quang trả lời: “Lư sự ấy đích xác là thật sự có, nhưng chẳng thể nói là ai cũng đều có thể!” 

          Hiển Ấm (đồ đệ của pháp sư Đế Nhàn) đă đắc chân truyền của Mật Tông, về nước gặp thầy. Thầy bảo ông ta: “Thanh danh của con rất lớn, hăy nên bế quan, chân thật dụng công ba năm th́ mới nên”. Ông ta học đầy một bụng Phật pháp, nghe thầy ḿnh nói như vậy, giống như dao chọc vào tim, liền ngă bệnh. Ngày hôm sau liền qua Thượng Hải Cư Sĩ Lâm để dưỡng bệnh, được hơn một năm liền chết. Khi chết, chẳng tỉnh táo, chú cũng chẳng niệm, mà Phật cũng chẳng niệm. Các vị cư sĩ niệm Phật cho ông ta. Hiển Ấm là bậc đại quán đảnh A Xà Lê, Hiển lẫn Mật đều thông, mà c̣n như thế đấy!      

          Đại Ngu[27] hoằng dương Mật Tông ở Thượng Hải, người ta đua nhau kéo về như xua vịt, ông ta dạy người khác thành Phật trong một trăm ngày. Một ṭa nhà Tây ba tầng, thuê trọn cả sáu bảy chục gian (ṭa nhà ấy ở đường Kim Thần Phụ[28], nơi ấy pḥng trống rất nhiều), có thể biết người đông cỡ nào. Từ giữa năm Dân Quốc 17 (1928) cho đến mùa Hè năm Dân Quốc 18 (1929), ở Bắc Kinh có kẻ muốn nhờ vào đó để trục lợi, dùng hơn một ngàn đồng làm lộ phí, mời ông ta đến Bắc Kinh. Cả nước như cuồng, [coi ông ta] khác nào Phật sống xuất thế. [Ông ta tuyên bố “ai học theo pháp của ông ta”], bốn mươi tám ngày liền có thể thành Phật. Tới nửa năm sau, đă có hiềm nghi, tiếng tăm dần dần giảm. Sau đó, đối với những kẻ muốn phát tài, muốn được thắng lợi, hướng về ông ta, [ông ta] đều nói có thể đạt được, nhưng họ đều thất bại, căm hận ông ta thấu xương. Từ đấy về sau, Bắc Kinh lẫn Thiên Tân không ai quan tâm đến ông ta. Lúc đó, đúng là lúc nên dùng pháp Trường Thọ Đà La Ni để văng sanh, nhưng ông ta bỏ về nhà làm người thế tục. Đủ thấy những giáo nghĩa như “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong hiện đời) v.v… như Mật Tông đă nói đều chẳng phải là chuyện kẻ b́nh phàm mong mỏi được! Những kẻ ấy đều khoác lác thần thông!

          Mấy năm trước, Bạch lạt-ma[29] ở Nam Kinh làm pháp hội Kim Quang Minh, nhằm lúc trời hạn hán, lại cầu lập đàn cầu mưa. Cho tới khi viên măn, một giọt mưa cũng chẳng rơi xuống! Mùa Hạ năm nay, gă X… ở Hàng Châu lập pháp hội Thời Luân (Kalachakra), đất Hàng c̣n bị hạn hán nặng hơn các nơi khác. Về sau, hắn ta tới Thượng Hải, một kẻ tin tưởng, xin hắn ta cầu mưa, cũng chẳng được một giọt nào. Hắn ta lại c̣n đem tiền của Trung Quốc mua súng ống, muốn chuyển về Tây Tạng, cũng có khi bị cường đạo cướp mất, cũng có khi bị người mua bớt xén, hoặc cuỗm tiền trốn mất. Nếu hắn ta thật sự có thần thông, cớ sao đối với các chuyện kiểu ấy đều chẳng thể biết?

          Cần phải biết yếu chỉ của Mật Tông là ba nghiệp tương ứng. Nếu tam nghiệp tương ứng đă lâu, sẽ có thể tùy ḷng mong muốn. Chưa đạt đến mức độ “tâm không”, mà đă hư vọng muốn đạt được th́ có thể sẽ bị ma dựa. Đấy là một điều quan hệ to lớn trong Mật Tông. Lời này chớ nên nói công khai để khỏi mắc họa ngấm ngầm. Nay những gă đại dũng mănh đều hướng theo chuyện hoằng dương Mật Tông, chẳng thể không cẩn thận!

 

* Thư trả lời Cố Hiển Vi và Hoàng Hàm Chi

 

          Hai vị cư sĩ Hiển Vi và Hàm Chi nhă giám! Chuyện cá ở hồ Hàng Châu, hôm trước Chung Khang Hầu ở Hàng Châu đă gởi đến chương tŕnh và thông báo, bảo Quang viết lời Sớ. Vốn tính ngày hôm qua liền gởi đi, nhưng do có khách tới, đến nỗi chưa viết xong. Hôm qua, Khang Hầu lại gởi thư, lại c̣n đem điều bàn bạc đă được quyết định và văn bản phê duyệt của chánh phủ gởi đến, nay tôi sẽ đem lời Sớ gởi đi. Ông Chung vốn bảo gởi một bản cho Hàm Chi, nay nghe nói đă bảo Hứa Chỉ Tịnh viết. Văn chương của Chỉ Tịnh cao hơn Quang rất nhiều. Nay đem bản thảo gởi tới, may ra có thể cùng sử dụng, cũng có thể khiến cho người ta tỉnh ngộ sâu xa. Văn của Quang mộc mạc, chỉ có ư nghĩa mà thôi! Văn của ông Hứa th́ từ ngữ lẫn nghĩa lư đều hay khéo. Nếu cùng sử dụng th́ cũng nên đem bài của ông Hứa gởi cho Khang Hầu, nay Quang đă gởi thư bảo đảm rồi. Bài Niệm Phật Ca vẫn mong cư sĩ Hiển Vi sửa chữa th́ mới tốt đẹp được.

          Trong mùa Xuân, Quang tính rút ra từ một ngàn đồng tiền in sách, do chuyện trước đó chưa hoàn thành, cho nên chẳng dám đảm nhiệm. Nay việc đă thành, cũng nên giúp đỡ đôi chút. Khi trước, Giang Dịch Viên gởi hai trăm đồng nhờ phóng sanh. Quang xét kỹ thời cơ chưa dám làm; do vậy, bèn đổi thành in sách. Đă ghi vào danh sách công đức ấn loát Bạch Thoại, Gia Ngôn v.v… Nay vẫn dùng [món tiền đó] để phóng sanh. Lại c̣n ông Tào Thạch Như gởi hai trăm đồng để cầu siêu cho mẹ, một nửa để niệm Phật, một nửa để làm việc thiện. Nay cũng dùng một trăm đồng ấy để phóng sanh. Mong các vị đến chùa Thái B́nh, yêu cầu thầy Chân Đạt giao cho ba trăm đồng tính vào khoản chi của Quang. Về danh sách quyên góp th́ ghi ông Giang Dịch Viên cúng hai trăm đồng, một trăm đồng kia th́ đề tên Tào Thạch Như, đừng đề tên Quang, hoặc ghi là “Quang rút từ khoản tiền in sách của ông Giang và ông Tào bao nhiêu đó” th́ cũng được. Quang vốn chẳng muốn đề tên, nhưng nếu muốn nhờ vào đó để giúp cho việc đề xướng th́ cũng là chuyện hữu ích.

          Tiền đồ của Phật giáo nguy hiểm muôn dạng. T́nh cảnh ở Phổ Đà chẳng dễ bàn nói. Tuy chưa hung hiểm như ở Hoàng Nham, Vĩnh Khang, nhưng hai ba năm qua, càng ngày càng sâu, trực tiếp trở thành “xông vào nhà múa giáo, binh lính ồn ào đoạt chủ”, nhưng Tăng chúng trên núi không có người cầm đầu đứng ra cáng đáng mọi việc, lại chẳng có người có đạo đức, học vấn, kiến thức [để đảm nhận]. Quang vốn là kẻ ăn nhờ ở đậu, do họ đă chẳng có người có khả năng lo liệu, Quang cũng chẳng thể ra sức. Muốn cho tiền đồ chuyển biến tốt đẹp, nếu chẳng do Bồ Tát hiển đại thần thông th́ sẽ muôn đời vô vọng! Mong hăy nói duyên do với cư sĩ Hậu Tại, Quang bận nhiều việc, chẳng rảnh rỗi gởi thư riêng cho ông ta.

 

* Thư gởi vị sư X… ở chùa Báo Quốc (thư thứ nhất)

 

          Giá sách của Dương Lệ Đ́nh (tức là như trong lần trước đă bảo gởi), cũng trừ vào khoản ấy. Tàng Kinh Các c̣n bị mối hay không? Nếu vẫn c̣n, chẳng ngại rải [nước Đại Bi] một hai lần nữa để bảo toàn gác ấy và kinh sách. Tại Linh Nham, loài ong đục gỗ (carpenter bee) đục rất hung. Rải [nước Đại Bi] một lần, chúng chẳng đục nữa. Do hăy c̣n có chút ít, bèn rải một lần nữa, chúng hoàn toàn chẳng đục nữa. Phật lực, pháp lực, chúng sanh tâm lực đều chẳng thể nghĩ bàn. Muốn đuợc Phật lực và pháp lực, trước hết cần phải có tâm lực chí thành khẩn thiết th́ mới có cảm ứng. Quang sống ở Báo Quốc tám năm; hiện thời, chẳng lâu sau sẽ thiêu hóa, hy vọng lầu ấy chẳng hư hoại th́ kinh sách sẽ có thể tồn tại lâu dài. Các chuyện khác, nhất loạt chẳng hỏi tới.

 

* Thư gởi vị sư X… ở chùa Báo Quốc (thư thứ hai)

 

          Dương Lệ Đ́nh đến xin thỉnh Quán Âm Bổn Tích và Văn Sao mỗi thứ ba gói. Khoản tiền ấy cũng trừ vào khoản tiền của tôi. Các con vật đă mua đưa sang ao phóng sanh, giao cho thầy Đương Gia. Hễ có người lên núi, bèn bảo họ đem đi. Lại mua hai cây chổi rơm dày, [chổi] trên núi đă hết sức mỏng rồi! Dùng [chổi ấy] để quét chỗ đất chẳng sạch.

 

* Thư gởi vị sư X… ở Linh Nham

 

          Thầy Diệu Viên là vị Tăng sống theo thói thế tục, người tỉnh An Huy, là đồ đệ của sư Chung Phương thuộc Thanh Hư Các ở Phổ Đà, là đồng hương của lăo ḥa thượng Chân Đạt. Thầy Chân Đạt chính là sư thúc của ông ta. Chiều ngày Hai Mươi Chín tháng Mười tới đây (trước nay chưa hề đến), cho biết ông ta đến nhà Lôi Doăn Thượng, do nhà ông ta (ông Lôi) từng đến Phổ Đà mà quen biết. Ông ta đến nhà họ Lôi trước (ắt là để hóa duyên), nói đồ vật để ở nhà họ Lôi, tay không đến đây, ở lại hai đêm. Hôm qua, sau khi dùng cơm chiều, ngồi xe kéo [quay về], nửa đường sắp chết. Cảnh sát đến báo tin, vội sai Ngô Cốc Nghi đến xem th́ đă chết thật rồi. Khiêng đến thất của thầy Minh Đạo, trong đêm phái người niệm Phật, canh chừng. Sáng sớm, thuê thuyền, sai người cẩn thận chèo thuyền, sai các công nhân trẻ khiêng ḥm xuống sẵn, đợi thuyền tới, sẽ chuyển ḥm đến hang hóa thân, đợi sau mấy ngày liền hỏa táng, đưa tro vào tháp Phổ Đồng. Ông ta nói chẳng có đồ đệ, trụ tại Hoằng Ẩn Am. Khi thầy Kiến Ngộ quay về, sẽ đến chùa Thái B́nh ở Thượng Hải báo tin là được rồi, chẳng c̣n dính dáng tới nữa. Hoặc là trước hết đừng nhập tháp, đợi cho sau này không ai nhận tro rồi mới nhập.

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Bổ phần 2 hết

 



[1] “Các pḥng” ở đây là nói theo các gia tộc lớn thuở đó. Tuy con cái đă lập gia đ́nh, vẫn cùng sống trong một trang viên, thường xây theo kiểu tứ hợp viện, mỗi người có nhà riêng trong trang viên, hoặc các dăy pḥng riêng dành cho gia đ́nh và con cái, nhưng khi dùng cơm vẫn ăn chung với nhau. Nơi ở của con cả gọi là đại pḥng, con thứ hai là nhị pḥng v.v… Cư sĩ Niệm Phật nói vợ thường đến các pḥng, tức là bà ta thường la cà sang pḥng (nhà) các chị em bạn dâu để bài bạc, chứ thời đó, phụ nữ nhà đàng hoàng không thể nào la cà nơi các ṣng bạc (đổ phường) được!

[2] Nữ Luận Ngữ là một bộ sách do Tống Nhược Tân biên soạn trong niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường. Tống Nhược Tân đă dựa theo tư tưởng trong Luận Ngữ để đề ra các khuôn phép hành xử cho nữ giới, dùng h́nh thức vấn đáp để tŕnh bày. Bà ta mượn danh một vị nữ học sĩ lừng danh thời Hán là Ban Chiêu để nêu ra quan điểm giáo dục phụ nữ. Theo Đường Thư, Tống Nhược Tân dùng sách này dạy các em nghiêm ngặt như thầy dạy tṛ. Về sau, em gái của bà là Tống Nhược Chiêu viết thêm lời chú giải. Sách này cùng với các bộ Nữ Giới, Nội Huấn và Nữ Phạm Tiệp Lục được gọi là Nữ Tứ Thư. Sau này, các Nho sĩ cộng thêm Liệt Nữ Truyện thành năm bộ sách phải học dành cho nữ giới cho đến khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc thành lập. Theo Đường Thư, sau khi Nhược Tân chết, bà Nhược Chiêu nối chí chị, hoằng truyền mạnh mẽ sách ấy, cho nên được Đường Mục Tông mời vào cung chưởng quản văn học của lục cung, và được phong tước là Ngoại Thượng Thư. Đồng thời, kiêm nhiệm dạy học cho các hoàng tử (khi c̣n bé) và các công chúa, công nương. Bà dạy học trải qua các đời vua Đức Tông, Thuận Tông, Hiến Tông, Mục Tông, Kính Tông, được phong mỹ hiệu là Lương Quốc phu nhân.

[3] Mao Thi chính là kinh Thi do Mao Hanh và Mao Trành biên soạn vào thời Tiền Hán. Kinh Thi trong Thập Tam Kinh được lưu hành hiện thời chính là Mao Thi. Do Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học tṛ, kinh điển thời Khổng Tử bị thất lạc. Khi Khổng Học được khôi phục dưới thời Tiền Hán (Tây Hán), các Nho sĩ phải sưu tầm, chỉnh lư từ các văn bản tản mát trong dân gian. Thời Hán, có bốn trường phái chỉnh lư, h́nh thành bốn phiên bản kinh Thi, được gọi là Tề Thi (do Viên Cố người nước Tề chỉnh lư), Lỗ Thi (do Thân Bồi biên tập), Hàn Thi (do Hàn Anh chỉnh lư), và Mao Thi. Kể từ sau thời Ngụy - Tấn, chỉ c̣n Mao Thi được lưu truyền đến hiện thời. Mao Hanh chính là cháu của mưu sĩ Mao Toại (môn hạ của B́nh Nguyên Quân Triệu Thắng), Mao Trành là cháu gọi Mao Hanh bằng chú.

[4] Quốc Phong chính là Phong trong ba bộ phận lớn của kinh Thi (Phong, Nhă, Tụng). Phong tức là tiếng gọi chung các khúc nhạc của nước chư hầu và nhà Châu kể từ đầu thời Tây Châu cho đến thời Xuân Thu. Đó chính là các bài dân ca của các nước, chia thành Châu Nam, Thiệu Nam, Bội, Dung, Vệ, Vương, Trịnh, Cối, Tề, Ngụy, Đường, Tần, Bân, Trần, Tào v.v… (tức là phân loại theo tên gọi của các nước chư hầu, hoặc các khu vực thời đó), bao gồm một trăm sáu mươi bài, chiếm quá nửa nội dung của kinh Thi. Bài nổi tiếng nhất là bài Quan Thư, tức “quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Sâm si hạnh thái, tả hữu lưu chi, yểu điệu thục nữ, ngụ mị cầu chi. Cầu chi bất đắc, ngụ mị tư phục, du tai, du tai, triển chuyển phản trắc…” Tiên sinh Tạ Quang Phát dịch thành: Quan quan ḱa tiếng thư cưu, bên cồn hót họa cùng nhau vang dày, u nhàn thục nữ thế này, xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên. So le rau hạnh lơ thơ, hái theo ḍng nước ven bờ đôi bên. U nhàn thục nữ chính chuyên. Nhớ khi thức ngủ triền miên chẳng rời. Nếu cầu mà chẳng được người. Khi mơ, khi tỉnh, bồi hồi nhớ thương. Xa xôi trông nhớ đêm trường, chiếc thân trằn trọc trên giường nào yên”.

[5] Trong lời tựa cho sách Thọ Khang Bảo Giám, tổ Ấn Quang đă viết rơ như sau: “Một đệ tử [của Quang] là La Tế Đồng, người Tứ Xuyên, bốn mươi sáu tuổi, có thuyền buôn ở Thượng Hải, tánh t́nh khá trung hậu, tin sâu Phật pháp, cùng với nhóm ông Quan Quưnh Chi v.v… đồng sáng lập Tịnh Nghiệp Xă. Trong những năm Dân Quốc 12, 13 (1923-1924), thường muốn đến núi [Phổ Đà] quy y, do bận việc, nên chưa được thỏa nguyện. Năm Dân Quốc 14 (1925), ông ta mắc bệnh cổ trướng mấy tháng, t́nh thế cực nguy hiểm, chữa thuốc Tàu, thuốc Tây đều vô hiệu. Đến ngày Mười Bốn tháng Tám, thanh toán tiền thuốc, v́ số tiền quá lớn, liền bực ḿnh nói: “Từ đây dù có chết, ta cũng không uống thuốc nữa”. Bà vợ bèn đối trước Phật cầu đảo khẩn thiết, nguyện suốt đời ăn chay, niệm Phật, cầu cho chồng được lành bệnh. Ngay trưa hôm ấy, bệnh liền chuyển biến, đi tiêu xả ào ạt nước ứ ra, không thuốc ǵ mà hết bệnh. Cuối tháng Tám, Quang đến đất Thân (Thượng Hải), ngụ tại chùa Thái B́nh. Ngày mồng Hai tháng Chín, đến Tịnh Nghiệp Xă, họp mặt cùng ông Quan Quưnh Chi, ông Tế Đồng cũng có mặt. Tuy thân thể chưa hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng khí sắc thuần tịnh, tươi tắn không ai bằng. Gặp Quang, ông ta vui mừng thưa: “Sư phụ đến rồi! Con xin quy y tại đất Thân, chẳng cần phải lên núi nữa!” Ông ta chọn ngày mồng Tám, cùng vợ đến chùa Thái B́nh, cùng thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Lại thỉnh các cư sĩ Tŕnh Tuyết Lâu, Quan Quưnh Chi, Đinh Quế Tiêu, Âu Dương Thạch Chi, Từ Trĩ Liên, Nhậm Tâm Bạch v.v… bồi tiếp Quang dùng cơm. Ngày mồng Mười, lại mời Quang đến nhà dùng cơm, và nói: “Sư phụ chính là cha mẹ của bọn đệ tử, bọn đệ tử chính là con cái của sư phụ”. Quang nói: “Cha mẹ chỉ lo khi con bệnh, nay bệnh ông tuy khá, nhưng chưa b́nh phục, hăy nên thận trọng”. Tiếc là chưa nói rơ “chuyện phải thận trọng” chính là chuyện pḥng sự (ân ái). Đến hôm cuối tháng, tại Công Đức Lâm mở hội Cảm Hóa Nhà Tù, ông ta cũng dự hội. Buổi hội giải tán xong, có mười mấy người giữ Quang lại dùng cơm. Ông ta vừa mới đến, bèn cùng người trông coi sổ sách trao đổi mấy câu rồi đi, sắc mặt giống hệt như người chết, Quang biết là do ông ta phạm phải pḥng sự mà ra. Rất hối tiếc lúc đó chỉ nói “cha mẹ chỉ lo khi con bệnh”, chưa từng nói rơ duyên do, đến nỗi ông ta lại bị nguy ngập. Muốn tu chỉnh sách này để khẩn thiết khuyên răn, nhưng do bận bịu, chưa làm được. Ngày mồng Sáu tháng Chín, Quang về núi, bèn gởi ngay một lá thư, tŕnh bày hết sức tường tận lẽ lợi, hại, nhưng đă không c̣n thuốc ǵ cứu được nữa, mấy ngày sau [ông ta] mất. Lúc mất, ông Quan Quưnh Chi mời các vị cư sĩ đều đến niệm Phật, ông La có được văng sanh Tây Phương hay không, chưa thể biết, nhưng không đến nỗi đọa lạc. Ôi! Bị bệnh nặng mấy tháng, do Tam Bảo gia bị, nên không dùng thuốc mà được lành bệnh, trong ṿng mười mấy ngày, khí sắc tươi tỉnh vượt xa người b́nh thường. Do không biết thận trọng, lầm lẫn phạm phải pḥng sự mà chết. Không chỉ là tự tàn hại cuộc đời, mà c̣n cô phụ từ ân của Tam Bảo quá đỗi!”

[6] Ảnh ấn thuở đó là lối in chụp các trang sách đă có sẵn, chế bản kẽm để in lại. Do đời Tống, ấn loát bằng mộc bản rất thịnh hành, các bản khắc ván thời Tống rất sắc sảo, nét chữ đẹp, chữ viết thường phỏng theo cách viết của các thư pháp gia nổi tiếng thời đó như Âu Dương Tuân, Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền, Tô Đông Pha… Cách tŕnh bày trang sách đẹp đẽ, hợp lư, dễ đọc. V́ vậy, đối với kinh điển, người Hoa thường chuộng các bản khắc đời Tống.

[7] Vật Do Như Thử (loài vật mà c̣n như thế) do Từ Khiêm biên soạn vào đời Thanh, tổng hợp các chuyện hiếu nghĩa của các loài vật được ghi chép trong kinh sách. Tổ Ấn Quang đă chỉnh lư, giảo định những lỗi do ấn loát sai lầm vào năm 1937 rồi cho ấn hành dự định là ba vạn quyển. Cuối cùng thành sáu vạn quyển. Từ Khiêm có tên tự là Ích Khanh, hiệu là Bạch Phảng, biệt hiệu là Hạc Tử, quê ở trấn Vĩnh Phong, huyện Quảng Phong, tỉnh Giang Tây, làm quan tại Hàn Lâm Viện, từng đảm nhiệm viện trưởng thư viện tại tỉnh Giang Tây do triều đ́nh thành lập. Ông là người kiến thức uyên thâm, văn chương lỗi lạc, cẩn thận, liêm chánh, thích làm lành, tin Phật. Ngoài bộ Vật Do Như Thử, tác phẩm Hải Nam Nhất Chước (một giọt nước ở Hải Nam) của ông cũng được lưu truyền khá rộng. Ngoài ra, ông c̣n viết hơn sáu mươi tác phẩm như Ngộ Tuyết Lâu Thi Tồn (34 quyển), Hiếu Kinh Giảng Nghĩa, Linh Sơn Di Ái Lục, Quế Cung Thê, Khủng Cụ Tu Tỉnh Lục, Nhất Quyển Băng Tuyết v.v…

[8] Tập Cần Sở có tên gọi đầy đủ là Thượng Hải Du Dân Tập Cần Sở là cơ cấu từ thiện được thành lập từ năm 1927, cho đến thời Kháng Chiến chống Nhật th́ bị ngưng hoạt động và đóng cửa. Sau đó, được hội Hồng Thập Tự phân hội Thượng Hải tiếp quản và đổi tên thành Thượng Hải Lưu Dân Tập Cần Sở, tồn tại cho đến năm 1949 th́ bị chính quyền mới giải thể. Mục đích của hội là cứu tế dân nghèo đến Thượng Hải kiếm sống, hoặc những kẻ lang thang, ăn mày v.v… Ngoài trợ giúp ban đầu cho họ ổn định cuộc sống, chủ yếu là dạy cho họ một nghề để kiếm sống (bao gồm các ngành ấn loát, thêu may, dệt, làm giày, nghề mộc, nghề đan bện mây tre, giặt tẩy hấp, hớt tóc, chăm sóc cây cảnh, làm vườn, công nhân vệ sinh, thợ gốm v.v...) và dạy chữ để nâng cao trí thức, giáo dục đạo nghĩa để họ trở thành công dân lương thiện. Cơ cấu này có nhiều doanh nghiệp để tạo công ăn việc làm cho di dân. Xưởng in đặt tại Tào Hà Kính (Thượng Hải) là xưởng in khá nổi tiếng, cho nên tổ Ấn Quang thường đặt in sách tại đây.

[9] Điện Hàm Nguyên là ṭa điện thứ nhất trong cung Đại Minh của nhà Đường ở thành Trường An. Điện này được xây vào năm Long Sóc thứ hai (662) đời Đường Cao Tông, mất một năm mới xây xong. Công tŕnh này được dùng để tổ chức lễ Nguyên Đán, cũng như dùng để thiết đại triều vào mùa Đông, cũng như các dịp lễ long trọng như duyệt binh, hiến phù (giao nạp tù binh, báo công thắng trận), thưởng yến cho các quan, hoặc dâng tôn hiệu (cho cha mẹ hoặc các chú bác của vua).

[10] Hiền khế (賢契) là mỹ từ để gọi bạn bè, ư nói người có ư kiến khế hợp với ḿnh.

[11] Duyệt Tạng Tri Tân là tác phẩm ghi lại những nét chánh yếu của mỗi bộ kinh trong Đại Tạng Kinh do tổ Ngẫu Ích viết vào năm Thuận Trị 11 (1654), gồm 48 quyển. Theo các nhà nghiên cứu, điểm đặc sắc của tác phẩm này là tổ đă dựa theo giáo nghĩa Thiên Thai để phân loại Tam Tạng, chia luận tạng thành thích kinh luận và tông kinh luận, đặt ra khái niệm Tạp Tạng (tức là các trước tác không thuộc kinh, luật, luận, nếu lư kiêm Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, hoặc dính dáng đến pháp thế gian, bèn xếp vào loại Tạp Tạng), và đối với các kinh được dịch nhiều lần, chỉ chọn lấy bản hoàn chỉnh nhất để tŕnh bày. Pháp Hải Quán Lan cũng là một tác phẩm khác của tổ Ngẫu Ích, trần thuật đại cương một số kinh luận chánh yếu trong Đại Tạng Kinh

[12] Bài thuốc này có đăng tải trong Ấn Quang Văn Sao Tam Biên, quyển 2, trong thư trả lời cư sĩ Doăn Toàn Hiếu.

[13] Bài thuốc này được Tổ nhắc đến trong Ấn Quang Văn Sao Tam Biên quyển 2, tức thư trả lời cư sĩ Vương Ngộ Trần (thư thứ ba). Do toa thuốc này đơn giản, chúng tôi trích đăng như sau: Bài thuốc trị bệnh sốt rét, không một ai chẳng được lành bệnh. Một đệ tử dùng bài thuốc ấy trị cho mấy trăm người, thường khuyên họ đừng vất đi những tờ giấy có viết chữ đă dùng, nhưng vẫn có người vứt đi, tâm khá buồn phiền. Mộng thấy một cụ già nói: ‘Chỉ dùng một tờ giấy trắng viết năm chữ Ngược Tật Điều Lư Hoàn (瘧疾調理丸), đem đốt rồi pha vào nước sôi, uống xong bệnh chẳng phát nữa’. Đem thử thấy hiệu nghiệm lạ kỳ! Cũng cần phải uống khoảng một tiếng đồng hồ trước khi cơn sốt rét phát ra. Khi đốt mảnh giấy có viết chữ, hăy nên dùng kim dài hoặc cái dùi để ghim vào đầu tờ giấy cho khỏi bị lửa táp tay đến nỗi chữ cháy không hết. Thế gian có rất nhiều chuyện chẳng thể dùng t́nh lư để suy lường được. Một đệ tử ở Quảng Đông đem phương thuốc trị bệnh sốt rét trị lành vô số người. Lỡ có ai hỏi: “Là do đạo lư nào, chẳng phải là chú, chẳng phải là bùa, chẳng phải là thuốc, mà trị được bệnh?” Ông ta nói: “Đấy chính là đạo lư nơi vô đạo lư, gọi là chẳng thể nghĩ bàn vậy!”

[14] Tục Thể (俗體) c̣n gọi là Tục Tả (俗寫), hay Tục Tự, chính là những chữ viết theo cách thức thông dụng trong dân gian. Nói cách khác, đó là các chữ viết theo thói quen, không được sử dụng trong các văn bản chánh thức, không được dùng để viết bài thi, hoặc không được dùng để ghi chép kinh điển, hay các tác phẩm văn học. Đời Đường, Nhan Nguyên Tôn định nghĩa: “Tục có nghĩa là thiển cận, chỉ dùng để ghi sổ sách, hoặc khế ước, toa thuốc, chẳng thể dùng cho những bài viết văn nhă”, tức là các chữ dùng theo thói quen hay giản tiện, không được coi là chánh thức, không được sử dụng trong các văn bản của triều đ́nh hay kinh điển. Tục Tự nói chung có bốn loại:

1. Tăng Bút (nhiều nét chữ hơn chữ viết theo lối Chánh Thể), chẳng hạn chữ Bộ () trong Chánh Thể viết thành Bộ (), Quả () viết thành Quả () trong Tục Thể.

2. Tỉnh Văn (viết bớt nét chữ, hoặc viết tắt), như Thanh () trong Chánh Thể viết thành Thanh (), Nhĩ () viết thành Nhĩ (), Môn () viết thành Môn (), Vô () viết thành Vô (). Quán () viết thành Quán (), Điểm () viết thành Điểm (). Dữ () viết thành Dữ (). Phần lớn các chữ này được sử dụng trong lối Giản Thể tại Hoa Lục hiện thời.

3. Dịch Vị (đổi vị trí bộ chữ) như Phong () viết thành Phong (), Tỳ () viết thành Tỳ ().

4. Dịch Tả (viết khác đi) như Thể () viết thành Thể (), Nhận () viết thành Nhận () Kê (, gà) viết thành Kê (), Vệ () viết thành Vệ (), Đầu () viết thành Đầu (), hoặc tận dụng các chữ đồng âm, như thay v́ viết chữ Phát () lại dùng chữ Phát (, phát triển), Hậu (, sau) viết thành Hậu (, hoàng hậu).

[15] Sơn sống tức là nhựa cây sơn (Tất Thụ, Rhus Succedaneum, sơn ta, Wax tree, Japanese Hazenoki tree), thuộc họ Đào lộn hột. Nhựa sơn (lớp sơn trên cùng, gọi là sơn thượng, hay sơn nhất) chủ yếu dùng để chế thành sơn cánh gián và sơn then để phủ lên các tượng thờ, làm đồ sơn mài v.v… Lớp sơn thứ nh́, thứ ba th́ dùng để làm sơn bó, keo dính để trét kín như trét thuyền chẳng hạn.

[16] Ngài Lữu Khê Hành Sâm (1614-1677) là người xứ Tân La, tỉnh Quảng Đông, là một vị cao tăng thuộc tông Lâm Tế. Lúc bảy tuổi, Sư xin xuất gia với ngài Tông Bảo Độc Công, về sau tham học với Vân Môn Viên Tín, cuối cùng trở thành đệ tử dưới pháp ṭa của ngài Ngọc Lâm Thông Tú (tức quốc sư Ngọc Lâm, do ngài Ngọc Lâm được vua Thuận Trị phong tặng danh hiệu Đại Giác Phổ Tế Năng Nhân Quốc Sư). Năm Thuận Trị 17 (1660), Sư vâng chiếu vào cung giảng pháp. Do từ chối tước hiệu được phong tặng, Sư được vua Thuận Trị gọi thân mật là Từ Ông. Sau này, Sư ẩn cư tại chùa Long Khê (tức chùa Viên Chiếu sau này) thuộc Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Hiện thời, c̣n có bộ Lữu Khê Sâm Thiền Sư Ngữ Lục được lưu truyền.

[17] Phạn Đầu (飯頭) là vị sư trông coi nhà bếp trong tùng lâm.

[18] Bài vị trường sanh c̣n gọi là “trường sanh lộc vị”, tức bài vị viết tên người sống để cầu an, cầu phước, hoặc cầu tăng thọ, tiêu tai giải nạn cho người đó. Bài vị này thường viết bằng giấy đỏ, đặt trên bàn thờ Quán Âm, hay dán trên tường cạnh bàn thờ Quán Âm nếu trong chánh điện có bàn thờ Quán Âm Bồ Tát riêng.

[19] Đây là một câu nói khá nổi tiếng của Mạnh Tử: “Hành chi nhi bất trước yên, tập hỹ nhi bất sát yên, chung thân do chi nhi bất tri kỳ đạo giả, chúng dă”. Câu này được diễn giải là: “Tuy làm như thế mà hoàn toàn chẳng hiểu nguyên do, đă làm quen tay rồi mà vẫn chẳng hiểu sâu sắc nguyên do, nguồn cội; suốt đời tuân hành mà chẳng hiểu rơ đường lối. Kẻ như thế đông lắm”.

[20] Lâm Tắc Từ (1785-1850), tự Nguyên Phủ, có các biệt hiệu là B́nh Tuyền cư sĩ, Lịch Xă tản nhân, Sĩ Thôn lăo nhân, quê ở Phước Châu, tỉnh Phước Kiến, từng làm Lưỡng Quảng Tổng Đốc, Thiểm Cam Tổng Đốc, và Tổng Đốc Vân Quư. Khi làm Lưỡng Quảng Tổng Đốc, ông hạ lệnh thiêu hủy hơn 20.000 ḥm thuốc phiện của người Anh tại Quảng Đông, dẫn đến cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất giữa Anh và Trung Hoa. Tuy bị cách chức, đầy đi Y Lê (vùng Tân Cương), nhưng đến đâu, ông cũng có tài cai trị, chú trọng phát triển nông nghiệp tại địa phương, nhất là kiến thiết các công tŕnh thủy lợi. Do khi mất, ông được tặng thụy hiệu là Văn Trung nên để tỏ ḷng tôn kính, người Hoa thường gọi ông là Lâm Văn Trung Công Tắc Từ.

[21] Trương Tông Xương (1881-1932) là thủ lănh quân phiệt tỉnh Sơn Đông thời Dân Quốc, bị người Âu Tây gọi là “tướng quân đê tiện nhất”, có xước danh là ‘cẩu nhục tướng quân’ (tướng quân thịt chó), cực kỳ hiếu chiến và hành xử tàn nhẫn. Thời hắn ta làm thủ lănh Sơn Đông, đă tăng sưu thuế rất nặng, in tiền vô tội vạ, phung phí công quỹ, tiêu diệt kẻ chống đối không nương tay, thiết lập hành dinh ở Tế Nam xa xỉ như cung điện vua chúa thời cổ, tiệc tùng liên miên. Khi quân của chánh quyền Dân Quốc tiến hành Bắc phạt (diệt trừ các thủ lănh quân phiệt ở miền Bắc), hắn ra lệnh cho kỹ sư người Đức chế tạo nhiều máy bay để phản kích, nhưng các máy bay ấy vô dụng đến nỗi không cất cánh được. Bị tướng Bạch Sùng Hy của chánh quyền Dân Quốc đánh bại, hắn phải chạy ra Măn Châu. Trên đường rút chạy, hắn c̣n ra lệnh cướp bóc dân chúng dữ dội. Khi thủ lănh quân phiệt vùng Phụng Thiên là Trương Học Lương kư kết ḥa ước với chánh quyền Dân Quốc, hắn c̣n tổ chức phản công, nhưng bị đánh bại, cuối cùng phải nương cậy người Nhật. Sau đó, phải sống lưu vong tại Nhật. Khi trở về Tế Nam vào ngày Ba tháng Chín năm 1932, hắn bị ám sát bởi cháu của một sĩ quan đă từng bị hắn sát hại trước kia.

[22] Tào Bân (931-999), tự Quốc Hoa, là danh tướng thời Bắc Tống, lập nhiều chiến công to lớn, được xếp vào hai mươi bốn công thần được ghi danh trong Chiêu Huân Các. Ông là người thanh liêm, cẩn trọng, giản dị. Ông giỏi dùng quân, nhưng nhân từ. Khi cầm quân diệt Nam Đường, vây chặt thành Kim Lăng (Nam Kinh), ông đă nhiều lần tŕ hoăn, để mong vua Nam Đường tự đầu hàng. Thành sắp hạ được, ông cáo bệnh, không tấn công. Chư tướng đến hỏi thăm. Ông buộc họ thề khi chiếm thành, không giết bừa băi, cướp bóc một ai, đốt hương thệ nguyện rồi mới cho tấn công, khiến cho vua quan, dân chúng ở Nam Kinh không ai bị tàn sát oan uổng.

[23] Tào Hàn (924-992) cũng là danh tướng thời Bắc Tống, lập nhiều chiến công, nhưng tánh t́nh hung bạo, ưa tàn sát, tham ô, khoe khoang, khi làm quan th́ cậy thế, thích tăng thuế khóa, bỏ bê chánh sự. Cảm Ứng Thiên có chép chuyện Tào Hàn do tàn sát vô cớ quá nhiều, đă biến thành lợn nhiều kiếp.

[24] Trương Trọng Cảnh (150-219), tên thật là Cơ, tên tự là Trọng Cảnh, quê ở huyện Niết Dương, quận Nam Dương (tỉnh Hà Nam), là một danh y vào cuối thời Đông Hán, được tôn xưng là Y Thánh. Y thuật của ông ngang ngửa với Hoa Đà. Tác phẩm Thương Hàn Tạp Bệnh Luận của ông cho đến nay vẫn được coi là một trong các bộ y thư cơ bản của Trung Y. Danh y Đào Hoằng Cảnh đời Lương cũng hết sức ca ngợi lư luận y thuật trong bộ sách này. Một tác phẩm khác của ông là bộ Kim Quỹ Yếu Lược ghi chép bệnh trạng và cách chữa trị các bệnh nội ngoại khoa cũng rất có tiếng.

[25] Nặc Na Hô Đồ Khắc Đồ (Norha Hotogtu, 1865-1936) là người huyện Xương Đô, Tây Khang, vốn là người Hán, con trưởng nhà họ Từ ở Xương Đô. Họ Từ là một gia đ́nh nhiều đời theo Hồi giáo. Theo các đệ tử, ông ta được công nhận là Hoạt Phật đời thứ mười bốn của chùa Nặc Na (Nuona) ở Kim Đường thuộc Hồng Giáo Tây Tạng (Cổ Mật - Nyingmapa). Lúc mới ba tuổi, ông ta được tăng sĩ chùa ấy rước về, và tấn phong lên ngôi Pháp Vương chùa ấy lúc bảy tuổi. Tương truyền, ông ta đă bế quan hơn hai mươi năm để tu Mật Pháp. Do vùng Khang Tạng, Hắc Giáo (đạo Bon – một tôn giáo bản địa cổ truyền của Tây Tạng, người Hoa thường gọi là Bổng giáo) hoạt động rất mạnh, Nặc Na liền suất lănh quân binh đánh nhau với họ nhiều lần, nhưng không thắng. Theo môn đồ, để báo thù, ông ta đă lập đàn Đại Phẫn Nộ Kim Cang Pháp trong ṿng sáu năm để sát hại năm vị pháp sư của Hắc giáo và hơn một ngàn “thổ phỉ” Hắc giáo. Về sau, ông ta tự tuyên bố là Phục Tạng Sư (Terton), tức người có khả năng t́m được các mật điển do đại sĩ Liên Hoa Sanh (Padmashambava) chôn giấu, bèn hoàn tục, nhưng vẫn làm thống lănh các lạt-ma tại vùng Xương Đô. Tổng Đốc Tứ Xuyên thời ấy là Triệu Nhĩ Phong trọng dụng Nặc Na, giao toàn thể vùng Xương Đô cho Nặc Na cai trị. Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911), Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Tây Tạng tuyên bố độc lập, chánh quyền Lhasa muốn tách Xương Đô khỏi ảnh hưởng Trung Hoa. Chính Nặc Na đă cùng với các tướng Bành Nhật Thăng, Trương Nghị Tướng v.v.. liên minh đánh bại quân đội của Đại Lai Lạt Ma thứ 13. Do Bành Nhật Thăng đột ngột trở giáo đầu hàng quân Đại Lai Lạt Ma, Nặc Na bại trận, phải trốn khỏi Xương Đô, tập hợp tàn quân, liên kết với đại lạt-ma Giang Kha Tùng Minh tiếp tục đánh nhau với quân Tây Tạng, nhưng lại thua trận, bị giải về Lhasa, bị giam cầm dưới địa huyệt nhiều ngày. Về sau, Nặc Na thừa cơ trốn thoát qua Nepal (các tín đồ bịa chuyện ông ta dùng thần thông tàng h́nh ra khỏi nhà lao). Trong quá tŕnh lang thang khất thực, do dâng thuốc chữa lành bệnh cho con gái tiểu vương trong vùng, nên được vị vua ấy giúp đỡ đưa sang Ấn Độ. Ở Ấn Độ một thời gian, ông ta ngồi thuyền sang Trung Hoa tới Hương Cảng rồi lên Bắc Kinh vào năm 1924. Nặc Na nhiều lượt đến cầu cạnh Mông Tạng Viện và Chấp Chánh Phủ của Trung Hoa Dân Quốc, xin họ cấp viện binh để giành lại Tây Khang, nhưng do không thông tiếng Hán, quần áo rách nát nên Nặc Na luôn bị đối xử lănh đạm, xua đuổi. Về sau, gặp được Lư Huyền của Chấp Chánh Phủ giúp đỡ, đưa về sống ở Ung Ḥa Cung, tiến cử lên Đại Chấp Chánh Đoàn Kỳ Thụy. Cũng trong năm ấy, do tranh chấp quyền bính với Đại Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lam Erdeni) phải tỵ nạn sang Trung Hoa. Liên kết với Ban Thiền, Nặc Na vận động, dựa dẫm thế lực của quân đội Quốc Dân Đảng, trở về Trùng Khánh (Tứ Xuyên) để mưu chiếm lại Tây Khang. Năm 1928, Nặc Na được chánh quyền Nam Kinh cử làm Ủy Viên của Mông Tạng Ủy Viên Hội tại Bắc Kinh. Rồi được cử làm Tây Khang Tuyên Úy Sứ (làm việc dưới trướng của Lưu Tương) vào năm 1935. Ông ta đă tích cực bày mưu hiến kế cho Lưu Tương hăm hại đối thủ là Lưu Văn Hy. Do tranh chấp một mục trường chăn nuôi gia súc với một tộc trưởng, ông ta đă bị bắt giữ và giao cho hồng quân vùng Chiêm Hóa quản lư. Do bị sốt cao, ông ta mất vào tháng Năm năm 1936 tại Cam Tư, trước khi hoàn thành giấc mộng tái chiếm Tây Khang. Hiện thời, những môn đồ của ông ta tạo thành một tông phái riêng với danh xưng Tây Tạng Hồng Giáo Viên Giác Tông, tự tuyên bố Nặc Na được truyền thừa trực tiếp từ Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), hoàn toàn phớt lờ các vị tổ sư và các vị thầy truyền giới, truyền pháp của Nặc Na. Tổng đàn là Hoa Tạng Tinh Xá ở Đài Bắc. Thủ lănh hiện thời của giáo phái này là thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa, hoạt động rất mạnh tại Đài Loan và Bắc Mỹ nhờ tuyên truyền nhị vị thượng sư có thể chú nguyện khiến cho tín đồ được văng sanh Cực Lạc, lưu Xá-lợi đủ màu. Họ tuyên bố hoằng truyền tinh hoa của bốn tông phái Mật giáo Tây Tạng, Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông và Thiền Tông, thành tựu mật pháp biến thân thành hào quang cầu vồng v.v…

[26] Đây chính là bài thần chú Thánh Vô Lượng Thọ Quang Minh Vương Đà La Ni trong phần Thập Chú của công phu sáng trong nhà Thiền (tuy phiên âm hơi khác và ngắn hơn so với các bản ghi trong Đại Tạng). Trong Đại Tạng Kinh, thần chú này được ghi trong ba kinh:

1. Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, c̣n gọi là Thánh Vô Lượng Thọ Tông Yếu Kinh (mất tên người dịch).

2. Phật Thuyết Đại Thừa Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Đà La Ni Kinh do ngài Pháp Thiên dịch vào đời Tống.

3. Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Đại Trí Đà La Ni Kinh, do ngài Pháp Hiền dịch.

Học giả Rudolf Hoernle đă dựa theo bản chép tay của kinh Mật Tông tại Đông Đột Quyết (East Turkestan) để phục hồi nguyên âm tiếng Phạn của chú này như sau: “Oṃ namo bhagavate aparimitāyur jñāna suviniścita tejorājāya tathāgatāyārhate samyak saṃbuddhāya, tadyathā: Oṃ puṇya mahā puṇya aparimita puṇya aparimitāyu puṇya jñāna saṁbhāropacite. Oṁ sarva saṃskāra pariśuddha dharmate gagaṇa samudgate svabhāva. Pariśuddhe mahānaya parivāre, svāhā”.

[27] Pháp sư Đại Ngu (1888-1947), tên thật là Lư Thục Bồi, tự Tông Đường, hiệu Thời Am, sanh quán ở Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc). Trước khi xuất gia, ông ta từng làm chủ quản ty hải quan Vũ Hán, Hồ Bắc Tỉnh Tham Nghĩa Hội Nghị Viên, và thứ trưởng Bộ Giáo Dục của Trung Hoa Dân Quốc. Về sau, sau khi nghe Thái Hư đại sư giảng kinh Duy Ma Cật vào năm 1919 tại Bắc Kinh, bèn xin thọ Tam Quy với đại sư vào năm 1920 tại Hán Khẩu, có pháp danh là Huệ Dung. Sau đó, vào năm 1923, xin xuất gia tại Ngọc Hoa Luật Tự ở Nam Kinh, được Thái Hư đại sư ban pháp hiệu Đại Ngu. Sau đó, ông ta sang Đông Lâm Tự, quyết chí khổ tu. Thoạt đầu, tu theo pháp môn Tịnh Độ. Kế đó, sau một thời gian hành Ban Châu tam-muội vào năm 1926, tự xưng cảm được Phổ Hiền Bồ Tát ứng hiện truyền dạy pháp môn Tâm Trung Tâm, bỏ tu Tịnh Độ, chuyên tu Mật Tông. Ông ta tuyên bố do pháp ấy được Phật, Bồ Tát trực tiếp gia tŕ, tu hành dễ mà thành công cao, đề ra pháp tu Tâm Mật y cứ theo bộ Phật Tâm Kinh (tức quyển thượng của Đại Tùy Cầu Đà La Ni Kinh), thành lập pháp môn Ấn Tâm. Ông ta tuyên bố đấy là pháp tu thành Phật tức thời ngay trong thân hiện tại”, và chính thức truyền đạo vào cuối năm 1928. Sau đó, hoàn tục. Đệ tử truyền pháp của ông ta là cư sĩ Vương Tương Lục. Về sau, ông Vương chỉ định Nguyên Âm lăo nhân là người thừa kế.

[28] Kim Thần Phụ lộ vốn có tên là Route Pere Robert, là tên gọi được đặt ra khi người Pháp chiếm vùng Hoàng Phố của Thượng Hải làm tô giới. Đường này hiện thời có tên gọi là Thụy Kim Nhị Lộ (đường Thụy Kim số hai).

[29] Bạch lạt-ma (1870-1927) tên là Quang Pháp, tự là Phổ Nhân, là người Mông Cổ, sống tại Nhiệt Hà, tu ở Ung Ḥa Cung từ đầu thời Dân Quốc. Do ông ta họ Bạch, lại là lạt-ma, nên thường được gọi là Bạch lạt-ma. Ông ta tự xưng từng triều bái Ngũ Đài Sơn, được Văn Thù Bồ Tát điểm hóa, tự thông suốt Phật pháp. Các đệ tử của ông ta tô vẽ truyền thuyết: Năm 1914, quanh Bắc Kinh phát sanh lũ lụt lớn, Bạch lạt-ma biết là do rồng đất quậy phá, bèn tập hợp sáu vị lạt-ma lập đàn trấn yểm. Bạch lạt-ma nhập định, thấy rồng hiện ra, bèn dùng ngọn đèn cúng Phật thắp bằng bơ ném vào đầu rồng, rồng tháo chạy, hôm sau hết lụt! Sáu vị lạt-ma tham gia hàng phục rồng đều kẻ bị chết, người bị què, hay mù ḷa, hay bệnh liệt giường, chỉ riêng Bạch lạt-ma vô sự. Do Bạch lạt-ma tu pháp Dạ Xoa đại tướng theo kinh Kim Quang Minh, nên thường cử hành pháp hội Kim Quang Minh. Năm 1925, khi Ban Thiền Lạt Ma Ngạch Đức Ni (Panchen Lama Erdeni) đời thứ chín mâu thuẫn với Đại Lai Lạt Ma XIII, lưu vong sang Bắc Kinh, nghe danh Bạch lạt-ma, cho mời ông ta đến. Bạch lạt-ma bèn bái Ban Thiền làm thầy, được ban phẩm vị Kham Bố (Khenpo), tức là không theo đúng quy tŕnh đào tạo chính quy của một vị Kham Bố đúng nghĩa. Do khéo tuyên truyền, ông ta được Đoàn Kỳ Thụy (tổng thống của chánh quyền Bắc Dương) thỉnh chủ tŕ đứng đầu 108 lạt-ma làm pháp hội Kim Quang Minh và Bạch Tán Cái suốt hai mươi mốt ngày. Sau đó, được mời đến Tịnh Nghiệp Xă của chùa Giác Viên ở Thượng Hải để cử hành pháp hội Kim Quang Minh. Tiếng tăm lừng lẫy đến nỗi Phạm Cổ Nông cũng bị mê hoặc, theo ông ta làm hộ pháp khắp các nơi như Hàng Châu, Gia Hưng, Trường Sa, Vũ Hán, Cửu Giang, Nam Kinh v.v…