Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên (phần bổ sung)

phần 3

(nguyên tác: Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Bổ)

印光法師文鈔三編補

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo chánh: Đức Phong, Huệ Trang và Chúc Bảo

 

II. Tự, bạt, sớ

* Bài tựa nêu duyên khởi của Phật Thất vĩnh viễn

         

          Vốn nghe “tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh” (nhà tích lũy điều thiện, niềm vui có thừa). Hậu duệ của tổ tiên nhiều đời đức hạnh thường vượt xa những kẻ cùng hàng, chỉ v́ tích đức đă sâu, cho nên sẽ tỏa sáng; do vun bồi cũng sâu, cho nên phát khởi cũng lâu dài. Lư ấy vốn tất nhiên là như thế. Gia đ́nh ông Ngô Hằng Tôn ở thành Tô Châu nhiều đời truyền thừa đức hạnh, thích làm lành, chuộng bố thí. Hễ gặp dịp cứu chẩn tai nạn hay cứu nạn gấp, đều công khai hoặc âm thầm quyên góp. Đấy là v́ muốn trọn hết tấm ḷng của ḿnh, nhưng chẳng mong bộc lộ tên tuổi. Mẹ và vợ ông ta đều quy y Tam Bảo, khẩn thiết hộ tŕ. Năm nay, bổn tự dựng ngôi lầu Niệm Phật Đường và hơn ba mươi gian nhà. Trừ khoản tiền quyên tặng của lăo ḥa thượng Chân Đạt, cũng như khoản tiền dư từ các Phật Thất của thường trụ, và sự trợ giúp của những vị thiện tín các nơi, cho tới khi công tŕnh sắp hoàn thành, c̣n thiếu mấy ngàn đồng. Dẫu muốn vay mượn, cũng chẳng thể được! Ngô thái phu nhân bèn khảng khái chấp thuận giúp cho hoàn thành, cả nhà cùng giúp hơn năm ngàn bảy trăm đồng. Lại bỏ ra khoản tiền bảy trăm đồng để tạo khám thờ Tam Thánh, ngơ hầu khi xây dựng xong, thường trụ chẳng đến nỗi mắc nợ. Cảm kích hậu ư ấy, [bổn tự] quyết định mỗi năm kể từ mồng Một tháng Tư sẽ bắt đầu một khóa Phật Thất vĩnh viễn do toàn thể đại chúng thường trụ cùng niệm. Trong bảy ngày ấy, quyết chẳng v́ gia đ́nh nào khác mà niệm Phật. Từ nay trở đi, trong khóa Phật Thất ấy, nhất loạt chẳng thâu lệ phí. Tới lúc đó, sẽ chỉ thông báo trước mà thôi! Nho giáo nói “đầu đào, báo lư” (đưa cho đào, trả lại mận), Phật giáo dạy “tài thí lẫn pháp thí đều b́nh đẳng bố thí”, dùng công đức của Phật Thất ấy cầu cho cả nhà họ Ngô hiện thời nghiệp tiêu, tăng thọ, hết thảy cát tường. Trong tương lai, nhờ vào từ lực của Phật, văng sanh Tây Phương. Con cháu đều kế thừa đức của tiền nhân, đều thành bậc đáng được mọi người trọng vọng, sống th́ dự vào bậc thánh hiền, thác sẽ về cơi Cực Lạc.

          (Ngày mồng Tám tháng Chạp, năm Dân Quốc 21 (1932), tức năm Nhâm Thân âm lịch)

 

* Bi kư [trần thuật duyên khởi] lập Phật Thất vĩnh viễn để ghi nhớ công đức giúp tu tạo đại điện của Linh Nham sơn

 

          Từ khi khởi công [kiến tạo] Đại Hùng bảo điện tới nay, công tŕnh to lớn, tiền công lẫn vật liệu đắt đỏ, lại c̣n thêm hạn hán, đói kém, quyên mộ gian nan, khiến cho công tŕnh mấy lượt khốn khó. Tiền công thợ, tiền mua vật liệu, ngoại trừ các khoản lạc quyên từ các vị hộ pháp, vẫn chẳng đủ chi trả. Do thương lượng với hai vị lăo nhân Ấn, Chân (Ấn Quang và Chân Đạt) đồng ư, [bổn tự quyết định] phát khởi hai khóa Phật Thất vĩnh viễn. Mỗi khóa Phật Thất th́ mỗi người tán trợ sẽ giúp năm trăm đồng. Đă có mười lăm người gia nhập (trong đó có cư sĩ Hoàng Hành Thu một phần. Ông Hoàng chính là người phát khởi tu bổ đại điện. Năm ngoái, một ḿnh ông ta đă giúp năm ngàn đồng). Quyết định bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Mười Một âm lịch, toàn thể mọi người trong Niệm Phật Đường đều niệm, cho đến ngày Mười Bảy là viên măn, vĩnh viễn làm như thế. Khóa Phật Thất khác th́ mỗi phần sẽ giúp một trăm đồng, người gia nhập đă có mười tám phần, cũng là năm nào cũng tổ chức đúng lệ, chỉ dựa theo số người và thời gian để châm chước, cân nhắc.

          Pháp môn Niệm Phật chính là dùng phàm t́nh để khế nhập thánh trí, dùng quả giác làm nhân tâm (cái tâm tu nhân), chín pháp giới đều hướng về, chư Phật cùng xưng tán. Công đức rộng lớn, lợi ích sâu rộng; phàm những điều mong cầu đều được toại nguyện. Dẫu ngay trong đời này, [mong được] siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử vẫn có thể đạt được, huống hồ những điều thấp hơn ư? Bởi lẽ, pháp này chính là pháp môn tổng tŕ để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành tựu từ lúc phát tâm cho đến lúc chứng đắc. Hiềm rằng người đời tu tŕ, phần nhiều cậy vào tự lực, vứt bỏ Phật lực, phần nhiều mong cầu phô trương mà sơ sót lợi ích thực tế, đến nỗi gieo nhân mà chẳng đạt được cái quả thật sự, bỏ vốn mà rốt cuộc chỉ thành uổng công, cũng đáng cảm khái lắm thay!

          Linh Nham là đạo tràng cổ đă một ngàn sáu trăm năm. Từ đời Tấn, quan Tư Không Lục Ngoạn[1] biến nhà thành chùa, trải qua các đời Hậu Lương, Đường, Tống, Minh, Thanh, đều được sắc phong tu tạo. Lại c̣n được Trí Tích Bồ Tát hoặc dùng h́nh vẽ, hoặc hiện tướng trạng tăng sĩ để hiển lộ sự linh dị, khiến cho đạo tràng này đứng đầu đất Ngô. Cuối đời Thanh, chùa gặp nạn binh hỏa, rốt cuộc thành chốn g̣ hoang, chỉ c̣n một ṭa tháp bằng gạch sừng sững. Do được ông Cung Bảo Bành Ngọc Lân lập phương cách, thoạt đầu dựng một ngôi điện nhỏ, hai mươi mấy gian nhà nhỏ. Tăng chúng thường trụ hành đạo vẫn chưa lo xuể. Năm Tuyên Thống thứ ba (1911), bạn tôi là ḥa thượng Chân Đạt do được vị hương thân trong ấp là ông Nghiêm Lương Xán gởi thư thỉnh làm Trụ Tŕ. Thầy Chân Đạt liền muốn khôi phục quy chế cũ. Chờ đúng thời cơ, vào năm Dân Quốc 15 (1926), đổi chùa thành đạo tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ, suốt năm niệm Phật, chẳng khác ǵ Phật Thất phổ thông[2]. Chưa đầy hai, ba năm, đạo phong lan xa. Các chỗ như Thượng Hải, Thiên Tân, Phước Kiến, Cam Túc v.v… đều gởi thư xin đả thất. Do vậy, chúng Tăng thường trụ đă đông, không thể nào chẳng khởi công tu tạo lớn. Niệm Phật Đường và các liêu xá cần thiết đă lần lượt cất xong, chỉ có công tŕnh đại điện to lớn, tuy đă khởi công, nhưng chi phí thiếu hụt quá lớn. Do thời cuộc gian nan, chẳng tiện quyên mộ, hóa duyên. V́ thế, nhóm họp đại chúng làm Phật Thất vĩnh viễn, mỗi người bỏ ra năm trăm đồng, dùng công đức ấy để hoàn thành đại điện. May được các vị đại cư sĩ như Quư Thánh Nhất, Tào Tung Kiều v.v… đều giúp đỡ, công tŕnh tu tạo đại điện mới chẳng đến nỗi bỏ dở nửa chừng. Do vậy, cung điện mênh mông chẳng mấy chốc sẽ hoàn thành, măn nguyệt kim dung sẽ thường trụ bao kiếp. Tứ chúng chiêm lễ gieo phước điền xuất thế, cùng nhau tŕ tụng trong tinh thần Lục Ḥa để thành tựu đạo nghiệp siêu phàm. Công đức ấy há có thể diễn tả nổi chăng?

          Chọn ngày Mười Một tháng Mười Một âm lịch làm ngày khởi thất cho đến ngày Mười Bảy là ngày thánh đản của A Di Đà Phật th́ viên măn. Dùng công đức ấy để siêu độ tiên linh, cầu cho cha mẹ tăng thọ, sám hối nghiệp chướng mà do chính ḿnh đă trót tạo, tạo phước ấm cho con cháu, hậu duệ. Lại cầu mưa thuận, gió ḥa, thóc lúa chín rộ, trong ngoài nước thường ḥa thuận, giúp đỡ lẫn nhau, thiên hạ vĩnh viễn thái b́nh. Tứ sanh cửu hữu cùng lên Tịnh Độ huyền môn, bát nạn tam đồ cùng vào biển nguyện Di Đà. Từ nay về sau, mỗi năm vào dịp này đều mở Phật Thất, [người tham dự] nhất loạt chẳng phải bỏ tiền, quả thật là phương cách thuận tiện cho Tăng lẫn tục. Phương danh của những người quyên tặng sẽ ghi đầy đủ trong phần sau.

 

* Lời tựa cho bài kư giảo chánh đối chiếu phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện (chữ Lệ () chính là chữ Lệ () viết theo lối cổ. Chọn chữ này cho dễ khắc đó thôi)

 

          Đây chính là phẩm kinh cuối cùng của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh; nói đầy đủ là Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, nói gọn là phẩm Nhập Pháp Giới, tức mười sáu quyển cuối cùng trong bản dịch kinh Hoa Nghiêm gồm sáu mươi quyển đời Tấn, và hai mươi mốt quyển cuối cùng trong bản dịch Hoa Nghiêm tám mươi quyển đời Đường. Hai bản dịch ấy tuy đại lược hay chi tiết, [nhưng chánh văn] đều chưa được truyền đến [Trung Hoa] đầy đủ. Cho tới khoảng niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông, kinh văn bằng tiếng Phạn của trọn phẩm mới được truyền tới, dịch thành bốn mươi quyển. Trong Duyệt Tạng Tri Tân, Linh Phong đại sư đă viết: “Áp chót kinh này, Phổ Hiền Bồ Tát đă v́ Thiện Tài ca ngợi công đức thù thắng của Như Lai xong, lại nói mười đại nguyện vương, hướng dẫn [Hoa Tạng hải chúng] trở về thế giới Cực Lạc”. Hiện thời, chỉ lấy quyển cuối cùng [của phẩm] này, nối vào sau bản Đường dịch tám mươi quyển để cùng lưu thông rộng khắp. Nhưng bản dịch này văn lẫn lư đều xuất sắc, chẳng kém [cách dịch của] ngài Thật Xoa Nan Đà[3]. Lời khai thị của bậc tri thức (Phổ Hiền Bồ Tát) lại càng tường tận, rơ ràng. Thiết thực vận dụng trong thường nhật, thiết thực cứu thói tệ trong đời Mạt, thích hợp nhất để lưu thông chung.

          Tiếc là kinh văn đă lâu chỉ hạn cuộc trong Đại Tạng, chưa thể truyền rộng. Vào thời Tống, Nguyên, [kinh văn của phẩm này] c̣n chưa bị sai ngoa cho lắm. Tới đầu thời Minh, khi khắc in Nam Tạng[4], do [người chủ tŕ] chưa giảo chánh cặn kẽ, đến nỗi sai ngoa lũ lượt xuất hiện. Sau này, Bắc Tạng, Thanh Tạng, và Thư Sách Tạng[5] cuối đời Minh đều noi theo sự sai ngoa ấy, thật đáng đau xót! Bản kinh in theo lối Thư Sách này thật sự dựa theo Đại Tạng đời Minh được in lại theo lối Thư Sách. Vào những năm cuối thời Quang Tự, Lượng[6] đă lấy hai tạng đời Minh và Thanh cùng với phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm giảo chánh đại lược, ghi chú bên cạnh, cao hơn [chánh kinh] một gịng. Mùa Xuân năm nay, tôi nói chuyện này với cư sĩ Từ Úy Như ở Hải Diêm[7], ông ta bèn phát tâm sửa chữa. Do vậy, lấy bản kinh của Lượng, và Tống, Nguyên, Cao Ly, Nam, Bắc, Thanh sáu tạng kinh để đối chiếu giảo duyệt. Dụng tâm ấy khá vất vả, cần cù, nhưng so trong sáu tạng, chỉ có Cao Ly Tạng là tốt nhất, cho nên phần nhiều dựa theo đó. Những chữ sai ngoa, khác biệt được ghi thành từng tấm thẻ, dán cao lên một gịng [so với chánh kinh], chuyển đến cho Lượng. Do vậy, tôi liền giảo đính, xem xét, nương theo đó để sửa chữa bản thảo. Đối với các chữ nhất định cần phải sửa, tôi dùng chữ to ghi rơ quyển nào, trang nào, gịng nào, chữ nào. Phía dưới, dùng chữ cỡ nhỏ ghi chú chỗ sai lầm và dựa theo tạng kinh nào để sửa chữa. Cũng có chỗ chỉ ghi chú chữ sai, không nêu rơ tạng kinh nào, v́ các tạng kinh đời Tống, Nguyên, và tạng Cao Ly giống nhau, không cần phải viết rơ! Có chỗ th́ chữ X… phải là chữ Y… Và các chữ [nếu xét theo mạch văn th́] hoặc thừa, hoặc sót, tuy [xét theo] nghĩa rất đích xác, nhưng do chẳng có chứng cứ trong các tạng kinh [để thêm hoặc bớt các chữ ấy], chẳng dám xằng bậy tự tiện sửa đổi, tăng giảm. Để tỏ lộ sự thận trọng, chỉ dùng chữ to viết bên cạnh đó mấy hàng, phía dưới dùng chữ nhỏ để chỉ ra ư nghĩa sai hoặc đúng ḥng giúp cho việc nghiên cứu. Lại có chỗ ư nghĩa thật sự chẳng sai, nhưng chữ dùng trong bản nào đó hay hơn, các văn bản ghi khác nhau, nhưng ư nghĩa thật sự b́nh đẳng, th́ đều chẳng sửa, cũng dùng chữ cỡ nhỏ ghi dưới trang đó, gịng đó để tránh cho các bậc hậu hiền dựa theo các tạng kinh để đối chiếu, sẽ lại nẩy sanh tranh luận. Nay do chuyện tu chỉnh văn bản lần này mà khắc bài kư này, ghép vào cuối kinh để lưu truyền, ngơ hầu người đọc mai sau sẽ bớt tâm lực, chẳng có ư niệm nghi ngờ!

 

* Lời tựa cho phần Bổ Sung Duyên Khởi Khắc In Đại Tạng Kinh   

 

          Tử Bách đại sư, húy Chân Khả, tên tự là Đạt Quán, hiệu Tử Bách. Ngài mong pháp hóa rộng khắp, đề xướng khắc in Đại Tạng Kinh theo lối in sách như thế tục (tức lối Thư Sách, hay c̣n gọi là Phương Sách). Nhất thời, tể quan, cư sĩ, và các bậc kỳ túc các phương đua nhau phụ họa, bèn được thành tựu nguyện ấy. Tới khi toàn bộ Đại Tạng Kinh khắc xong, bèn trích yếu các bài văn đề xướng khắc kinh, gồm mười tám bài, đem khắc thành một quyển, đặt tựa đề là Khắc Tạng Duyên Khởi, ghép kèm theo Đại Tạng để lưu thông ḥng khiến cho mọi người biết nguyên do mà thấu hiểu lợi ích của Phật pháp. Nhưng do lời văn đề xướng lúc ban đầu của đại sư có những câu bàn đến thói đời biến đổi vô thường, cơi đời b́nh trị hay loạn lạc há có thể nghịch chuyển, an định được chăng v.v… sợ phạm đến điều kỵ húy của quốc gia, cho nên chưa khắc. Lại nữa, tuy chuyện ấy đă xong, nhưng bài văn nêu rơ lợi ích do khắc Đại Tạng của ngài Tử Bách, bài văn sai Huyễn Dư đại sư quyên mộ, sâu, chữ khéo, trọn chẳng có các lời lẽ phạm kỵ húy, chẳng biết do lẽ nào cũng chẳng được đăng tải, sao lục, rất đáng than thở! V́ thế, chép lại hai bài ấy từ trong Tử Bách Tập, bổ sung vào phía sau, ngơ hầu đời sau đều biết, đều thấy một phen tâm huyết “v́ pháp, v́ người” của đại sư.

 

* Lời nhận định về duyên khởi khắc in Đại Tạng Kinh (thứ nhất)

 

          Phàm những ǵ thuộc về kinh Phật, theo lư phải nên tôn kính, v́ được tắm gội bởi từ ân của Phật, tuân phụng giáo huấn rơ ràng của Phật. Chớ nên v́ kinh được in theo lối Phạm Sách hay Phương Sách mà cho là sai khác. Nhà Nho thường có thói xấu, coi kinh truyện của thánh hiền chẳng khác ǵ giấy cũ, trọn chẳng kính sợ. Cứ thế thành thói quen, rốt cuộc chẳng biết là sai trái, cho rằng kinh sách [nhà Phật] được in theo lối Phương Sách cũng giống như thế. Nay đă đem kinh Phật sửa thành in theo lối Phương Sách để mong được lợi ích rộng khắp, cố nhiên phải giáng xuống một búa thống thiết, khiến cho họ đối với kinh Phật được in theo lối Phương Sách phải sanh ư tưởng khó gặp gỡ, cần phải chuyên chú dốc cạn ḷng thành, trọn hết ḷng kính, như trung thần tuân phụng thánh dụ (chiếu chỉ của nhà vua), hiếu tử đọc di chúc, nghiêm túc, cung kính, e sợ, chẳng dám coi thường, trọn chẳng thể noi theo thói quen cũ của nhà Nho để đối đăi kinh Phật, ngơ hầu ai nấy đều được hưởng pháp lợi, cùng được độ thoát. Chỉ sợ có kẻ hiểu lầm, chỉ chú trọng lưu thông, chẳng tôn kính, kiêng dè, chẳng thể nào không nêu đại lược lời luận bàn thẳng thắn!

 

* Lời nhận định về duyên khởi khắc in Đại Tạng Kinh (thứ hai)

 

          Những chuyện như đốt tượng, vứt kinh v.v… là các hành vi vượt ngoài khuôn khổ của nhà Thiền, chớ coi đó là khuôn phép. Các vị đó cũng bất quá thỉnh thoảng làm như thế; há có nên phỏng theo hành vi ấy để mắc tội, tự lầm, lầm người! Nếu cho rằng nhà Thiền cố nhiên chẳng tôn kính kinh tượng, há không chỉ chẳng biết thực tế của Thiền, mà c̣n chẳng biết h́nh tích và nguyên do của các hành vi lập bày của nhà Thiền! Cần phải biết pháp chẳng có tướng cố định, hễ gặp duyên bèn đề cao. Kẻ đốt tượng, vứt kinh vẫn là Thiền, há kẻ tôn kính kinh tượng chẳng phải là Thiền ư? Người thời nay nếu muốn hiểu rơ Thiền, ắt cần phải khởi đầu bằng tôn kính kinh tượng, đem chuyện tôn kính kinh tượng làm câu Thoại Đầu, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, tâm tâm niệm niệm, đừng coi thường, quên bẵng! Sẽ tự nhiên nghiệp tận, t́nh không, tâm nguyệt vằng vặc, Lư lẫn Sự hai đằng đều đạt được, phước lẫn huệ đều trang nghiêm vậy!

 

* Lời nhận định về duyên khởi khắc in Đại Tạng Kinh (thứ ba)       

 

          Đọc sách thánh hiền đều phải nên rửa tay, súc miệng, ngồi ngay ngắn, giống như đối trước thánh hiền, đích thân nghe dạy bảo, huống hồ kinh Phật ư? Cư sĩ Lục Mộng tinh thông sâu xa Phật pháp, nhưng xét theo lời ông ta nói về hai hành vi “nghiêm cẩn kính phụng kinh Phật được in theo lối Phạm Sách”, và bắt bẻ chuyện nhiều lượt rửa tay [khi đọc kinh Phật] v.v… th́ đúng là [ông ta cho rằng]: Đối với kinh Phật in theo lối Phạm Sách th́ phải giữ ḷng kính sợ, c̣n đối với [kinh điển in theo lối] Phương Sách th́ có thể tùy ư. Đấy gần như là thói quen thô lậu của Nho gia, chẳng biết đó là sai trái. Ông ta lại nói “chẻ vi trần lấy kinh, [vậy th́] trần chính là kinh, sao lại phải kiêng ô uế? Phiền năo chính là Bồ Đề, vậy th́ phiền năo chính là kinh, sao lại thiên vị nghiêm kính [kinh điển nhà Phật]?” Đúng là chấp Lư phế Sự, phá hoại tướng pháp thế gian, rơi vào cuồng huệ. Kẻ tâm ư hời hợt, nông cạn nghe hai thuyết ấy, ắt sẽ dốc ḷng tuân phụng như khuôn phép, nỗi hại ấy không thể kể xiết!

          Người học đạo ắt cần phải hiểu lư tột bậc viên dung, đối với nghi quỹ (khuôn phép nghi thức) bèn chẳng hỗn tạp hoặc trái vượt mảy may th́ mới có thể hoằng dương, lưu thông Phật pháp, tự lợi, lợi người. Nếu không, đối với kẻ nói, chỉ trở thành hư luận; người nghe rồi làm theo, ắt sẽ tạo nghiệp chịu khổ vô cùng! Cần phải biết, hễ là kinh Phật và các sách hoằng truyền, xiển dương Phật pháp, bất luận là Phạm Sách hay Phương Sách, dẫu viết trên vách, khắc trên tràng, khắc trên núi đá, đúc nơi chuông, khánh, đều phải nên cung kính. V́ đấy là pháp để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, lợi ích vô biên, ân đức quá sâu! Nếu có thể trọn hết ḷng thành, tận hết ḷng kính, ắt nghiệp chướng như băng tan, phước huệ như trăng tṛn, đoạn Hoặc chứng Chân c̣n có thể đạt được, huống hồ minh tâm ư? Nếu không, dẫu minh tâm, vẫn khó thoát khổ. Do chỉ chuộng hiểu biết hư huyễn, chẳng chú trọng thật tu, tất cả ngộ giải đều trở thành cuồng huệ. Tuy thuộc loại nhân lành, ngược ngạo chuốc lấy ác quả. Người muốn đạt được lợi ích thực tế trong Phật pháp, xin hăy t́m cầu từ ḷng cung kính.

 

* Bài sớ nêu duyên khởi quyên góp tư lương để tái giảo đính cho quy tắc tu tŕ trong đạo tràng Tịnh Độ chùa Di Đà ở Hàng Châu

 

          Có cuộc đất tối thắng th́ mới có thể hoằng dương đạo tối thắng. Để kiến lập chuyện phi thường, ắt phải đợi bậc phi thường! Muốn hưng khởi pháp môn Tịnh Độ, cần phải có đủ nội hộ và ngoại hộ. “Nội hộ” là bậc thiện tri thức thật sự, đề xướng, gợi mở, hướng dẫn, dẫn dắt đại chúng hành đạo. “Ngoại hộ” là bậc cư sĩ chánh tín ngăn ngừa sự lấn hiếp từ bên ngoài, cung cấp tư lương. Cả hai đằng đều đủ, pháp đạo sẽ tự có thể hưng thịnh to lớn, nhân dân đều được cảm hóa. Huống hồ đại chúng đích thân dự vào đạo tràng, há chẳng đạt được lợi ích chân thật ư?

          Chùa Di Đà ở Tùng Mộc Tràng, Hàng Châu chính là đạo tràng Tịnh Độ do hai vị pháp sư Diệu Nhiên và Ngọc Phong kiến lập, tới nay đă hơn năm mươi năm. Mười mấy năm gần đây đă khá hoang vắng. Từ năm Dân Quốc thứ mười (1921), pháp sư Trí Huệ trụ tŕ cho tới nay, điện vũ thảy đều rạng rỡ, tứ chúng đều chú trọng chân tu, mọi người xa gần đều khen ngợi. Mùa Xuân năm nay, cư sĩ Ngô Bích Hoa và Chung Khang Hầu thuộc Hàng Châu Phật Học Hội triều bái Đại Sĩ, có nói đất Hàng chùa chiền san sát, nhưng người thật sự tu Tịnh nghiệp đă hiếm hoi như sao buổi sớm! Nếu chẳng sốt sắng đề xướng, pháp Tịnh Độ chắc sẽ hầu như bị ngưng dứt! Làm sao có thể sống th́ đắc tam-muội, lợi khắp trời người, mất bèn lên thượng phẩm, nhanh chóng chứng Vô Sanh ư?

          Thầy Trí Huệ than: “Người tu pháp môn Tịnh Độ, ắt cần phải thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, tŕ danh hiệu Phật. Lại c̣n phải nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Người có thể làm như vậy, trong đời hiện tại, nhất định có thể đích thân đắc tam-muội, sau khi mất, ắt được lên thẳng thượng phẩm, lợi ḿnh, lợi người, hai đằng đều trọn đủ! Thoạt đầu, tôi trụ tại chùa này, liền muốn phỏng theo quy củ xưa kia của Đông Lâm và Phạm Thiên[8], chỉ v́ chẳng có tư lương, chẳng dám tiến hành. Nay các vị cư sĩ đă phát tâm này, nguyện đứng ra khởi xướng, hướng dẫn, ngơ hầu nguyện ấy được viên thành, may mắn lắm thay!” Khéo sao hai vị cư sĩ ở Thượng Hải là Vương Nhất Đ́nh và Trầm Tinh Thúc vừa đến, bàn tới chuyện này, họ đều cực lực nguyện tán trợ.

          Trong tháng Năm, thầy Trí Huệ đến đất Hỗ (Thượng Hải), thương lượng với sư Đế Nhàn và Quang, cùng các vị cư sĩ, thảy đều hoan hỷ tán thán. Các vị cư sĩ cũng hứa tùy sức giúp đỡ, bèn tái giảo định quy tắc, mong sao [chúng thường trụ] hành tŕ chân thật, thiết tha, hoàn thành trong một đời. Hạn ngạch cố định là bốn mươi tám vị, niệm Phật quanh năm, chẳng hề lơi lỏng chút nào. Phàm người đến trụ, tối thiểu tu trọn một năm, kế đó là ba năm, kế đó là suốt đời, ắt mong đạt được tâm và Phật tương ứng, Tịnh nghiệp thành tựu mới thôi! Nhưng cơm áo, chi dụng của các vị Tăng ấy, mỗi người hàng năm cần hơn một trăm đồng. Bốn mươi tám vị cần tới hơn năm ngàn đồng. Chi tiêu to lớn, chẳng do mọi người phát Bồ Đề tâm to tát, sẽ chẳng có cách nào thực hiện được. Khẩn cầu mười phương thiện tín hoan hỷ vui thích giúp đỡ, khiến cho đạo tràng tối thắng này được thành tựu viên măn, công đức và lợi ích ấy chỉ Phật có thể biết! V́ thế, viết ra duyên khởi, mong hăy rủ ḷng khéo xét soi!

 

* Lời bạt cho Vương Mẫu Uông Thái Quân[9] Văng Sanh Kư

 

          Văng sanh Tây Phương chú trọng tín nguyện. Do nương vào Phật lực, dẫu kẻ trọn chẳng tin Phật, cho đến khi lâm chung, hễ được thiện tri thức khơi gợi, hướng dẫn, nếu có thể sanh ḷng tin, phát nguyện, xưng danh, cầu sanh, sẽ đều được sanh về cơi ấy. Do cái tâm ấy chính là tâm tối hậu, hữu lực nhất! Lại c̣n được tri thức hướng dẫn, khơi gợi chánh tín. Lại thêm gia quyến, quyến thuộc, thiện hữu trợ niệm, khiến cho tâm được thanh tịnh, chuyên dốc sức nơi Phật hiệu, trọn chẳng có niệm khác xen tạp. V́ vậy, có thể đạt được lợi ích thật sự. Cơi đời có người suốt đời niệm Phật, lúc lâm chung bị con cháu chẳng hiểu Phật pháp phá hoại chánh niệm của người ấy, đến nỗi chẳng thể văng sanh, không biết là bao nhiêu! Vương mẫu được văng sanh là do con của cụ là Trạm Nhiên và Trác Nhiên biết rơ đại thể, hiểu Phật pháp. Do vậy, có thể thành tựu chánh niệm cho cụ. Nếu các con của cụ chẳng biết đại thể và ư nghĩa trợ niệm, ắt cụ chưa chết mà [con cháu] đă tắm gội, thay quần áo, buồn bă, quyến luyến than khóc. Đừng nói Vương mẫu là người công hạnh nông cạn cho nên chẳng được văng sanh, dẫu là bậc công hạnh sâu xa, vẫn chẳng thể văng sanh! Chỉ có bậc đă chứng Nhẫn th́ mới có thể chẳng bị phá hoại, chứ những kẻ khác không ai chẳng bị hiếu tâm kiểu “đă té giếng c̣n bị ném đá” đó khiến cho lỡ làng! Tôi mừng v́ Vương mẫu được trợ niệm mà văng sanh, buồn v́ những ai do bị phá hoại mà vẫn luân hồi như cũ trong cơi này. V́ thế, đặc biệt chỉ rơ sự tổn hại và lợi ích, mong sao những kẻ làm con trong cơi đời, và hết thảy mọi người, hễ thấy có kẻ lâm chung, sẽ đều trợ niệm như thế, khiến cho người chết ấy cùng được văng sanh. Mong mỏi lắm thay! Nguyện những ai thấy nghe thảy đều chú ư.

 

* Lời tựa cho bộ Sơ Cơ Học Phật Trích Yếu (vốn có tên là Cư Sĩ Học Phật Cương Yếu)

 

          Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn rốt ráo để mười phương ba đời hết thảy chư Phật trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành tựu từ lúc phát tâm cho đến khi chứng quả. Trên là cho đến bậc Đẳng Giác, dưới là cho tới phàm phu nghịch ác, đều là căn cơ được thâu nhiếp bởi pháp môn này. Pháp môn to lớn không chi hơn được! Ví như biển cả dung nạp trọn khắp muôn sông. Do vậy, cổ nhân nói: “Hết thảy các pháp môn, không ǵ chẳng từ pháp giới này lưu xuất. Hết thảy các pháp môn, không ǵ chẳng quy hoàn pháp giới này”. Tu pháp môn này so với tu các pháp môn khác sẽ thẳng chóng, nhanh lẹ hơn, dễ đạt được lợi ích. Do pháp môn này dùng quả địa giác làm nhân địa tâm, cho nên nhân bao trùm biển quả, quả thấu triệt nguồn nhân. Chúng sanh đời Mạt Pháp căn cơ mỏng cạn mà bỏ pháp môn này, sao có thể yên được?

          Cư sĩ Trầm Tiểu Thuyên ở Như Cao, bẩm tánh chân thành, chất phác, dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, đối với Tịnh Độ lại càng chú ư. Hễ gặp kẻ hữu duyên, sẽ liền tuyên nói, chỉ mong [mọi người] đều biết trọn khắp. V́ thế, từ trong các sách hoằng dương Tịnh Độ xưa nay, trích ra mười mấy chương, đặt tên là Cư Sĩ Học Phật Cương Yếu, in ra để thí tặng cho người khác. Cư sĩ Lư Huệ Thật quen thân với ông ta, nhưng trọn chẳng tin Phật. Do được Tiểu Thuyên khéo léo hướng dẫn, bèn sanh khởi tín tâm to lớn. Cho tới khi Tiểu Thuyên niệm Phật về Tây, Huệ Thật càng sanh tâm cảm kích, mong báo ân hướng dẫn, chỉ vẽ trong nẻo mê của ông Trầm, muốn tái bản sách này, mong truyền bá rộng răi. Nhưng sách Tịnh Độ tuy nhiều, người nghèo túng thường khó thể mua được. V́ thế, dùng sách này làm phương tiện tiếp dẫn kẻ sơ cơ. Do vậy, tôi đổi tên là Sơ Cơ Phật Học Trích Yếu, lược thuật đại cương, duyên khởi này nọ!

 

* Lời tựa cho kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

 

          Địa Tạng Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng lớn. Trong vô lượng kiếp trước, cố nhiên Ngài đă chứng Tam Đức Bí Tạng, nhưng do ḷng độ sanh ân cần, chẳng ở địa vị Phật, vận dụng ḷng Bi đồng thể, dấy ḷng Từ vô duyên, phân thân trong các cơi nước nhiều như vi trần ḥng độ thoát chúng sanh. Đối với các pháp Ngài dùng để hóa độ và người được Ngài hóa độ, ba đời chư Phật chẳng có cách nào nói trọn; huống hồ chúng sanh trong Sa Bà ương ngạnh, khó giáo hóa. Bởi thế, Bồ Tát có nhân duyên rất sâu đối với thế giới này. Do đó, trên cung trời Đao Lợi, Như Lai phóng quang minh nhóm họp đại chúng, nêu rơ các chuyện về nhân hạnh, phát nguyện v.v… của Bồ Tát trong bao kiếp trước. Điều đó thường được nói là “chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Đề. Địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật”. Cơi Sa Bà may mắn cỡ nào mà có được sự nương tựa ấy?

          Tuy văn từ trong kinh này dễ hiểu, nghĩa lư cực sâu rộng. Cơi đời lắm kẻ chẳng suy xét, cho là chuyên bàn nhân quả để khuyên dụ kẻ ngu muội, u mê, trọn chẳng thấu hiểu ư chỉ “hiếu tâm của Bồ Tát tinh thuần, chuyên dốc, nguyện lực rộng lớn, tam thế chư Phật chẳng thể tán dương, chúng sanh trong chín pháp giới đều cùng quy y”. Như vậy th́ có khác nào bỏ vàng, gánh gai, mua rương trả lại châu ư? Kinh này gồm hai quyển, mười ba phẩm, do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường. Trước kia, tuy có bản dịch của Pháp Đăng và Pháp Cự; kể từ khi Liên Tŕ đại sư chủ trương dùng bản dịch của ngài Thật Xoa Nan Đà, bản của Pháp Đăng chẳng được lưu thông. Ngay như bản dịch của ngài Thật Xoa, cũng có hai quyển hay ba quyển sai khác, lắm người ngờ vực. Cần phải biết hai quyển là theo cách phân chia trong Đại Tạng, c̣n ba quyển là bản lưu thông. Theo bản của Đại Tạng Kinh th́ quyển thượng gồm sáu phẩm, quyển hạ gồm bảy phẩm. Bản lưu hành th́ quyển thượng có bốn phẩm, quyển trung năm phẩm, quyển hạ gồm bốn phẩm. Tuy số quyển khác nhau, kinh văn chẳng khác. Chỉ v́ lưu truyền đă lâu, cho nên câu chữ có sai khác đôi chút. V́ thế, hăy nên lấy bản trong Đại Tạng làm chủ yếu, nhưng cũng chẳng cần phải sửa đổi bản lưu thông, do hai bản cùng được lưu hành, trọn chẳng ngăn ngại!

 

* Lời tựa cho Mộng Đông Thiền Sư Di Tập

 

          Triệt Ngộ Ngữ Lục là khai thị trọng yếu nhất trong Tịnh Tông. Nếu Ngài sanh trước thời Ngẫu Ích lăo nhân, chắc chắn [tác phẩm ấy] sẽ được chọn đưa vào bộ Tịnh Độ Thập Yếu. Nhưng người có pháp nhăn, há chịu để cho sách này chôn vùi chẳng được lưu truyền ư? V́ thế, cư sĩ Tiền Y Am vào năm Gia Khánh 24 (1819), đă chọn lựa trích yếu, đặt tên là Triệt Ngộ Thiền Sư Di Cảo, cho khắc in lưu truyền ở phương Nam. Năm Đồng Trị thứ bảy (1868), thầy Thẩm Tây ở Hàng Châu dựa theo bản của Y Am, khắc in lại tại Hàng Châu. Năm Đồng Trị thứ mười (1870), cư sĩ Dương Nhân Sơn lại rút gọn đôi chút, đổi tên là Ngữ Lục, cho khắc in ở Kim Lăng. Năm Quang Tự 16 (1890), ḥa thượng Quán Thông ở Dương Châu, khắc Tịnh Độ Thập Yếu, đă dựa theo bản của ông Nhân Sơn, ghép thành phụ lục của Thập Yếu để lưu hành. Nay sắp xếp phần chánh văn của Tịnh Độ Thập Yếu [để ấn hành], đem tác phẩm này ghép vào sau tác phẩm thứ mười của sách Thập Yếu, vẫn dựa theo bản của Nhân Sơn, nhưng thêm vào bài tựa của ông Tiền ở đầu sách để người đọc biết nguyên ủy của sách này. Mong rằng người thấy nghe sẽ đều cùng thâm nhập Tịnh tông pháp giới, lên thẳng đài sen thượng phẩm, ngơ hầu chẳng phụ bạc một phen tâm từ bi của Triệt Ngộ lăo nhân.

 

* Lời tựa nêu duyên khởi của Triều Dương Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

         

          Trong thánh giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Nương theo một pháp môn, dùng đại Bồ Đề tâm để tu tập, đều có thể liễu sanh tử, thành tựu Phật đạo. Nhưng trước khi tu chứng, không ǵ chẳng là khó, dễ, nhanh, chậm khác biệt. Cầu một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, khế lư, khế cơ, tu chính là tánh, tánh chính là tu, thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều gồm thâu, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường nhanh tắt cho trời, người, phàm, thánh chứng Chân, không ǵ bằng pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”. Ấy là v́ hết thảy các pháp môn đều cậy vào tự lực, pháp môn Niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Cậy vào tự lực th́ chẳng đoạn hết sạch phiền hoặc, sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới. Nương vào Phật lực, nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, sẽ có thể cao đăng chín phẩm sen. Người hiện thời muốn liễu thoát đại sự sanh tử trong đời hiện tại mà bỏ pháp này, sẽ trọn chẳng có hy vọng! Cần phải biết pháp môn Tịnh Độ, pháp nào cũng đều viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa bầu trời, sông nào cũng đều hiện bóng. Thủy ngân rơi xuống đất, giọt nào cũng tṛn xoe. Không riêng ǵ cách vật trí tri[10], cùng lư tận tánh, mà đối với chuyện giác ngộ cơi đời, yên ổn dân chúng, b́nh trị đất nước, an ổn quốc gia, đều giúp ích to lớn; dẫu sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, hay già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt bệnh khổ, không ai chẳng đều do cảm vời mà ứng theo, được thỏa ḷng, măn nguyện.

          Hiện thời, ḷng người ch́m đắm, cơi đời đă loạn lạc cùng cực, phế kinh điển, phế luân thường, vứt bỏ ḷng hiếu và liêm sỉ, thực hành chuyện biến thành loài thú. Đủ loại tà thuyết bùng nổ, được cực lực đề xướng. Nếu chẳng cứu văn, ắt loài người gần như diệt mất. V́ thế, các vị hữu tâm khắp nơi đua nhau đề xướng Phật pháp, phô rơ nhân quả ba đời, hiển lộ sự luân hồi trong lục đạo, nêu bày cơi Sa Bà trược ác, biểu lộ Cực Lạc trang nghiêm, thanh tịnh, để mong người trong cơi đời này, khắc phục tư dục, tuân giữ lễ pháp, c̣n sống th́ dự vào địa vị thánh hiền, liễu sanh thoát tử, mất th́ về cơi Cực Lạc.

          Các vị cư sĩ ở Triều Dương như Quách Huệ Thái, Huệ Hải, Phạm Trí Siêu, Châu Huệ Thật, Diêu Khắc Sơ, Tiêu Sỉ Phàm, Ngưỡng Tuyên, Lâm Thận Chi v.v… đă lập Phật Giáo Cư Sĩ Lâm trong huyện thành. Ngày mồng Một và Rằm mỗi tháng, và ngày thánh đản Phật, Bồ Tát, nhóm họp đại chúng niệm Phật. Buổi chiều, sau khi niệm Phật xong, thỉnh bậc Tăng hay tục thông văn lư, diễn nói đạo “ở trong cơi trần mà học đạo, chẳng cầm quyền mà hộ quốc, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”, và pháp “thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, khiến cho trọn khắp những người cùng hàng vượt thoát biển khổ”, ngơ hầu hết thảy mọi người đều biết nguyên do “ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật”, thực hành tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tận lực thực hiện tám sự “cách vật trí tri, thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”, sẽ trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, đều chú trọng học theo thánh, học theo Phật. Đấy thật sự là pháp môn đại phương tiện để “chẳng nắm giữ địa vị cai trị mà hộ quốc, cứu dân, thay đổi phong tục mà chẳng lộ h́nh tích”. Lâm hữu đều do Cư Sĩ Lâm đă thành lập, sẽ dùng đại nghĩa để dạy khắp những kẻ thông sáng trong mai sau, ngơ hầu dù thấy hay nghe, đều phát khởi tín tâm, cùng hoằng dương đạo này, thiên hạ sẽ tự có thể thái b́nh, nhân dân yên vui. Họ gởi thư cậy Bất Huệ soạn lời tựa, bèn viết những điều này cho xong trách nhiệm!

 

* Lời tựa nêu duyên khởi của Lũng Hữu Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

 

          Trong thánh giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Nương theo một pháp môn, dùng đại Bồ Đề tâm để tu tập, đều có thể liễu sanh tử, thành tựu Phật đạo. Nhưng trước khi tu chứng, không ǵ chẳng là khó, dễ, nhanh, chậm khác biệt. Cầu một pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, khế lư, khế cơ, tu chính là tánh, tánh chính là tu, thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều gồm thâu, là chỗ quy túc của các tông Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường nhanh tắt cho trời, người, phàm, thánh chứng Chân, không ǵ bằng pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương”. Ấy là v́ hết thảy các pháp môn đều cậy vào tự lực, pháp môn Niệm Phật kiêm cậy vào Phật lực. Cậy vào tự lực mà chẳng đoạn hết sạch phiền hoặc, sẽ chẳng thể siêu thoát tam giới. Nương vào Phật lực, nếu tín nguyện chân thật, thiết tha, liền có thể cao đăng chín phẩm sen. Người hiện thời muốn liễu thoát đại sự sanh tử trong đời hiện tại mà bỏ pháp này, sẽ trọn chẳng có hy vọng!

          Cần phải biết pháp môn Tịnh Độ, pháp nào cũng đều viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa bầu trời, muôn sông đều hiện bóng. Thủy ngân rơi xuống đất, giọt nào cũng tṛn xoe. Không riêng ǵ “cách vật trí tri, cùng lư tận tánh”, mà đối với chuyện giác ngộ cơi đời, yên ổn dân chúng, b́nh trị đất nước, an ổn quốc gia, đều giúp ích to lớn; dẫu sĩ, nông, công, thương muốn phát triển sự nghiệp, hay già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt bệnh khổ, không ai chẳng đều do cảm vời mà ứng theo, được thỏa ḷng, măn nguyện. Hiện thời, ḷng người ch́m đắm, cơi đời đă loạn lạc cùng cực, phế kinh điển, phế luân thường, vứt bỏ ḷng hiếu và liêm sỉ, thực hành chuyện biến thành loài thú. Đủ loại tà thuyết bùng nổ, được cực lực đề xướng. Nếu chẳng cứu văn, ắt loài người gần như diệt mất. Do vậy, các bậc hữu tâm ở mọi nơi đua nhau đề xướng Phật pháp, nêu tỏ nhân quả ba đời, hiển lộ sự luân hồi trong lục đạo, phô bày sự trược ác trong cơi Sa Bà, biểu lộ sự trang nghiêm thanh tịnh của cơi Cực Lạc, để mong người trong cơi đời này, khắc phục tư dục, tuân giữ lễ pháp, c̣n sống th́ dự vào địa vị thánh hiền, liễu sanh thoát tử, mất th́ về cơi Cực Lạc.

          Cư sĩ Tịnh Niệm Tần An Thành ở Cam Túc gởi thư xin quy y, bèn đặt pháp danh là Huệ Kiện (慧健). Tiếc là ở nơi hẻo lánh, Phật pháp suy vi; do vậy, gởi tặng một trăm mấy chục gói kinh sách để giúp đề xướng. Các vị cư sĩ gần huyện thành lập ra Lũng Hữu[11] Phật Giáo Cư Sĩ Lâm. Vào mồng Một và ngày Rằm mỗi tháng, và các dịp khánh đản Phật, Bồ Tát, nhóm họp đại chúng niệm Phật. Buổi chiều, sau khi niệm Phật xong, thỉnh bậc Tăng hay tục thông văn lư, diễn nói đạo “ở trong cơi trần mà học đạo, chẳng cầm quyền mà hộ quốc, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”, và pháp “thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, khiến cho trọn khắp những người cùng hàng vượt thoát biển khổ”, ngơ hầu hết thảy mọi người đều biết nguyên do “ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn, ai cũng đều có thể thành Phật”, thực hành tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tận lực thực hiện tám sự “cách vật trí tri, thành ư, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”, sẽ trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, đều chú trọng học theo thánh, học theo Phật. Đấy thật sự là pháp môn đại phương tiện để “chẳng nắm giữ địa vị cai trị mà hộ quốc, cứu dân, thay đổi phong tục mà chẳng lộ h́nh tích”. Lâm hữu đều do Cư Sĩ Lâm đă thành lập, sẽ dùng đại nghĩa để chỉ dạy trọn khắp những kẻ thông sáng trong đời vị lai, ngơ hầu dù thấy hay nghe đều phát khởi tín tâm, cùng hoằng dương đạo này, thiên hạ sẽ tự có thể thái b́nh, nhân dân yên vui. Họ gởi thư cậy Bất Huệ soạn lời tựa, bèn viết những điều này cho xong trách nhiệm!

 

* Thuyết minh nguyên do quyên mộ và biện pháp ấn hành Quán Thế Âm Bổn Tích Cảm Ứng Tụng

 

          Quán Thế Âm Bồ Tát trong quá khứ vô lượng kiếp trước, thành tựu Phật đạo đă lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh; nhưng do tâm từ bi khẩn thiết, ḷng cứu khổ ân cần, chẳng rời cơi Tịch Quang, hiện h́nh trong chín pháp giới, tùy loại hiện thân để độ thoát chúng sanh trong mười phương vô lượng thế giới. Phẩm Phổ Môn nói “đáng nên hiện thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy để thuyết pháp”. Tuy mười phương thế giới, không cơi nào chẳng hiện, nhưng Ngài có nhân duyên rất sâu với thế giới Sa Bà. Tuy các thân trong mười pháp giới, chẳng thân nào không hiện, nhưng người đời đều dùng danh xưng Bồ Tát để xưng tụng. Tuy chỗ Ngài ứng hóa trọn khắp hoàn vũ, nhưng Phổ Đà ở Chiết Giang là nơi rơ rệt nhất. Ấn Quang chịu ơn rất lớn, đội ân rất sâu. Thoạt đầu, xuất gia tại Nam Ngũ Đài Sơn[12] ở Thiểm Tây, là đạo tràng nơi đức Quán Âm hiện thân hàng phục độc long. Kế đó, sống nhờ tại Phổ Đà trong Nam Hải là thánh địa chiêm bái Quán Âm trong chuyến đi về phương Nam của Thiện Tài.

          Thường nghĩ người đời chẳng biết ḷng từ bi rộng sâu của Bồ Tát, muốn sưu tập từ Đại Tạng và các sách vở, phàm là hạnh nguyện nơi bổn địa của Bồ Tát, cùng với sự tích cảm ứng ở các nơi để viết thành bài văn ca tụng, lại c̣n chú giải cặn kẽ, ngơ hầu những người cùng hàng trong cơi đời đều biết được tâm từ bi to lớn của đức Quán Âm, cũng như thật lư, thật sự “tùy loại hiện h́nh, tầm thanh cứu khổ” của Ngài, mong sao ai nấy cùng tŕ thánh hiệu, cùng tiêu nghiệp chướng, cùng tăng phước huệ, sống th́ là người thân tâm thanh tịnh, thác th́ dự vào hội của Liên Tŕ hải chúng. Dùng điều đó để uốn nắn ḷng người cho ngay thẳng ḥng văn hồi kiếp vận để mong thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc. Tuy đă phát cái tâm ấy, nhưng do học thức nông cạn, thô lậu, văn chương vụng về, mộc mạc, chẳng thể ngay lập tức thực hiện. Khéo sao, bậc đại văn học gia ở Giang Tây là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh đến núi thăm viếng, vừa gặp gỡ bèn thành bạn tâm đầu ư hợp. Do vậy, đem chuyện này nhờ cậy, ông ta liền vui vẻ chấp thuận, lắng ḷng viết lách trải qua hai năm, biên soạn thành tụng văn hơn hai vạn chữ. Đối với mỗi câu sự tích, đều chú giải sau mỗi đoạn, khiến cho độc giả vừa xem liền hiểu ngay, tổng cộng là ba quyển. Lại sao lục các nghĩa trọng yếu trong kinh, đặt tên là Kinh Chứng (經證, dùng kinh điển để làm chứng) gồm một quyển, ghép vào sau phần Tụng Văn (頌文, phần văn chương ca tụng). Lại c̣n ghép thêm bài ca tụng công đức của kinh Kim Cang vào cuối sách, khiến cho người tụng kinh, niệm Phật đều biết phương hướng, những mong do phàm tâm mà thấy Phật tâm, thỏa nguyện độ sanh của Như Lai.

          V́ thế, giao cho thợ sắp chữ, ấn loát. Mỗi bộ gồm hai trăm trang, mỗi trang gồm hai mươi sáu hàng, mỗi hàng gồm ba mươi lăm chữ. Phần sách chính dùng loại giấy phỏng theo giấy đời Tống. B́a sách th́ dùng loại giấy b́a bền nhất có màu sắc theo kiểu cổ có sức chịu nén đến một trăm pounds để in. Mỗi bộ được chia làm hai tập, dùng chỉ khâu gáy sách. Nếu in hai vạn bộ, mỗi trang trong phần nội dung chính của sách sẽ tốn ba mươi đồng. Mỗi bộ sách, giá b́a và in chữ trong phần Thư Căn[13] là ba xu. Nếu [sách sắp chữ xong, có] đủ cả hai trăm trang, cứ một vạn bộ sẽ có giá ba ngàn ba trăm đồng. Nếu bớt đi một trang, [chi phí in] sẽ giảm ba mươi đồng. Nhiều trang hơn hay ít hơn, cứ chiếu theo đó mà suy (do hiện thời chưa sắp chữ xong, số trang chưa thể xác định, nhưng cũng chẳng quá một, hai, ba, bốn trang [nhiều hơn]). Mỗi gói sách [khi gởi đi], sẽ dùng bao b́ của bưu điện để tiện gởi cho người khác. Bưu phí gởi sách được tính kèm trong đó, mỗi bộ chừng ba cắc ba xu. Cách làm này chính là thay cho thiện tín in sách, chẳng phải là theo lệ quyên mộ tiền bạc để tự làm thiện sự. Nếu có ai phát tâm đứng ra chịu tiền in sách, muốn in một vạn bộ th́ giao ba ngàn ba trăm đồng, một ngàn bộ th́ giao ba trăm ba mươi đồng. Tháng Hai năm sau có thể ra sách. Khi sách đă in ra, cứ dựa theo tiền đă giao mà gởi sách, chẳng chiết khấu bộ nào. Nếu ai muốn ủy thác [chúng tôi] thay cho người ấy thí tặng, chính ḿnh chỉ muốn nhận một số ít, cần phải nói rơ trước để có thể gởi thay. Nếu không, sẽ gởi toàn bộ sách [ứng với số tiền đă giao] cho người gởi tiền, chẳng giảm bớt mảy may. Tại Thượng Hải th́ không cần bưu phí, sẽ giao thẳng đến nhà. Các nơi khác nếu là thành thị lớn, có thể nhờ công ty chuyển vận gởi giùm. Số lượng nhỏ th́ gởi qua bưu điện. Chi phí ấy hoặc khấu trừ vào số lượng sách, hoặc [người gởi] sẽ giao thêm chi phí bổ sung, đều tùy theo ư của người đứng in.

          Hiện thời, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, thế đạo ḷng người đă ch́m đắm đến cùng cực. Đặc biệt nhờ vào chuyện này để đẩy lùi cơn sóng cuồng, nâng đỡ thế đạo, làm hướng dẫn để cùng đạt lên bậc thánh, cùng chứng Bồ Đề. Nguyện thiện tín có sức cùng bỏ ra tịnh tài, ngơ hầu những người cùng hàng trên cơi đời ai nấy đều được gội từ ân của Quán Âm Bồ Tát, ḥng cùng được đích thân chứng Phật tánh vốn sẵn có, viên măn giác đạo vô thượng. Tấm ḷng khăng khăng như thế mà thôi! Phàm những ai muốn đứng ra ấn hành, xin chuyển khoản trực tiếp đến Trung Hoa Thư Cục Ấn Loát Tổng Xưởng ở ngơ Cáp Đồng, đường chùa Tĩnh An, Thượng Hải, giao cho hai vị tiên sinh Du Trọng Hoàn và Đường Tử Quyền thâu nhận. Khi họ nhận được, sẽ giao biên lai. Khi sách được in ra, sẽ dựa theo khoản tiền đă gởi mà giao sách, quyết chẳng đến nỗi sai lầm.

* Nguyên do đính kèm Phật Pháp Đạo Luận vào sau bộ Phật Học Cứu Kiếp Biên

 

          Phật Học Cứu Kiếp Biên là v́ người đời chẳng biết sự lư “nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi”, cho nên suy nghĩ hành xử đều trái nghịch với ḷng trung hậu, khoan dung, từ bi. Tuy muốn lợi lạc cho chính ḿnh, chẳng biết nếu tự lợi trái lư, ắt sẽ khiến cho kẻ khác mắc hại, tuy chính ḿnh tạm thời được lợi, nhưng trong chốn âm thầm, ắt sẽ đến nỗi có chuyện khiến cho các lợi ích chính ḿnh đáng được hưởng bị mất đi, gây thành mối họa vô cùng cho nhiều đời nhiều kiếp nơi thân sau của chính ḿnh và con cháu. Nếu mọi người biết điều ấy, ai chịu v́ điều lợi nhỏ nhoi mà chuốc lấy đại họa ư? Do vậy, dùng sáu loại kinh Phật để đề xướng, khiến cho hết thảy mọi người, ai nấy thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới, dùng chuyện tu Thập Thiện để mong thành bậc thiện nhân “ba nghiệp thân, miệng, ư thanh tịnh”. Nếu ai thật sự nương theo đó để tu tŕ, phong thái cạnh tranh sẽ tự chấm dứt, ư niệm “chúng sanh là ruột thịt, là đồng loại của ta”[14] sẽ tự sâu thêm, sao c̣n có kiếp vận được nữa? Lại c̣n chỉ bày pháp môn Tịnh Độ nương vào từ lực của Phật để liễu sanh thoát tử ngay trong hiện đời. Không chỉ chẳng tạo ác nghiệp, chẳng thọ ác báo, mà ngay cả thiện báo nhân thiên cũng chẳng buồn hưởng! Ấy là v́ chẳng liễu sanh tử, dẫu được hưởng phước báo trong nhân gian, nhưng v́ chưa đoạn phiền hoặc, khó tránh khỏi do hưởng phước mà lại tạo ác nghiệp đến nỗi càng thêm đọa lạc. Dẫu sanh lên trời, nhưng khi phước trời đă hết, lại sanh xuống nhân gian. Nếu có túc nghiệp, hoặc tạo oan khiên mới, lại vẫn đọa lạc trong tam đồ ác đạo. Đáng sợ lắm thay! V́ thế, khuyên họ kiêm tu pháp môn tín nguyện niệm Phật để mong siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Đấy chính là đạo cứu kiếp rốt ráo!

          Sách này gồm ba quyển, chia thành hai tập. Tập thượng dày, tập hạ mỏng, chẳng thể chia đều thích đáng. Do vậy, năm ngoái, cư sĩ Lư Viên Tịnh biên soạn bộ Phật Pháp Đạo Luận khá khế hợp sơ cơ. Tông chỉ của sách ấy khá giống như Cứu Kiếp Biên. Cách dùng chữ, lập luận trong ấy càng dễ dẫn khởi tín tâm của giới học thuật trong thời gần đây. Đem ghép vào tập hạ [của sách Cứu Kiếp Biên] th́ hai tập cân bằng, lại c̣n khiến cho người đọc đạt được lợi ích đôi bên chứng nghĩa lẫn nhau. Nhưng người chuộng đơn giản, chẳng ngại xem trước sách Đạo Luận; đợi tới khi đă biết chỗ chỉ quy, sẽ lại xem kỹ cả bộ sách, sẽ [đọc dễ dàng] với khí thế như chẻ tre, mới biết: Chẳng thông suốt Phật pháp, sẽ chẳng thể thành tựu vẹn toàn rốt ráo thế pháp được! V́ thế, xưa nay các bậc lập đại công, dựng đại nghiệp lớn, chánh khí lấp trời đất, ân trạch thấm đẫm dân sanh, phần nhiều là do học Phật đắc lực mà thành. Nếu có thể xem trọn khắp các sách vở, lắng ḷng suy xét cẩn thận, sẽ đều có thể biết rơ! Nếu xem bằng cái tâm hời hợt, ắt sẽ không ai chẳng phải là đă chạm mặt mà bỏ lỡ! Nếu có tri kiến ấy, th́ Phật pháp và thế pháp hai đằng không chỉ trở ngại nhau, mà đôi bên c̣n thành tựu lẫn nhau. Như hai vầng trăng soi lẫn nhau, hai tay giúp đỡ nhau, ao chuôm nhuần thấm lẫn nhau, hai bánh xe cùng tiến, ngơ hầu vận đời trở về thuở đại đồng, nhân dân hưởng an lạc, may mắn chi hơn?

 

* Lời sớ nêu duyên khởi giảng kinh Thỉnh Quán Âm và Phổ Môn Phẩm   

          Quán Thế Âm Bồ Tát là chỗ nương cậy cho hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới, là chỗ nương về cho vô biên hàm thức[15] trọn hết hư không giới. Ấy là do Ngài đă trọn đủ đạo và chứng, đức vượt xa bậc Thập Địa, đă sớm thành Chánh Giác từ vô lượng kiếp trước. Nhưng do tâm từ bi tha thiết, ḷng độ sanh ân cần, cho nên Ngài lại chẳng ĺa cơi Tịch Quang, rủ ḷng hiện thân trong chín pháp giới, tùy theo từng loại mà hiện thân, tầm thanh cứu khổ, đủ loại phương tiện độ thoát chúng sanh. Đáng nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện thân ấy để thuyết pháp. Ví như vầng trăng rạng ngời giữa trời, in bóng trọn khắp muôn sông; Xuân về trên đại địa, trăm loài thảo mộc cùng tươi tốt. Dấu tích từ bi cảm ứng của Ngài chẳng thể nghĩ bàn được nổi! V́ thế, trong các kinh như Pháp Hoa, Đại Bi v.v… đức Thích Ca Thế Tôn đă riêng khen ngợi công đức nơi Bổn Tích của Ngài, và đạo hưng khởi ḷng từ, vận dụng ḷng bi, khiến cho khắp chúng sanh đều hưởng từ ân của Đại Sĩ. Nhưng trong các kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm v.v… đại sĩ tự nói đại lược các chuyện tùy loại hiện thân, tầm thanh cứu khổ, khác nào lên cao hô một tiếng, trăm hang đều vọng tiếng dội. Phàm là hữu t́nh, chẳng có kẻ nào không kính ngưỡng; nhưng đức Thế Tôn mẫn niệm chúng sanh Sa Bà, muốn khiến cho họ đều được che chở. Ngài bèn đặc biệt thừa dịp nhân dân nước Tỳ Xá Ly (Vaiśālī) bệnh khổ, dạy trưởng giả Nguyệt Cái lễ thỉnh Tây Phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ Tát tiêu trừ độc hại cho họ. Do vậy, Bồ Tát giáng lâm thành Tỳ Xá Ly, cành dương vừa rẩy, muôn bệnh b́nh phục. Lại dạy họ tụng niệm danh hiệu Tam Bảo và thần chú, khiến cho người trong nước ấy thường được cát tường. Đó là nói về nguyên do của kinh Thỉnh Quán Âm[16].

          Ấy là v́ Bồ Tát phân thân trong các cơi nhiều như vi trần, độ thoát chúng sanh, lại có nhân duyên rất sâu với thế giới Sa Bà. Đức Thế Tôn nặng ḷng lo cho nỗi khổ của chúng sanh trong đời vị lai, cho nên đặc biệt nhường chuyện cứu khổ cho Quán Âm, mong cho đời sau có chỗ nương cậy. Tới khi kinh truyền đến cơi này, Trí Giả đại sư đặc biệt chú sớ giải thích. Đối với phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa, Ngài lại dốc hết tâm ư phát huy, mong cho hết thảy người thấy nghe đều cùng ngộ Phật tánh vốn sẵn có trong tâm, cùng tu tịnh nghiệp “phản vọng quy chân”.

          Tới nay đă hơn một ngàn năm, kinh sớ cố nhiên vẫn c̣n, nhưng chẳng có ai đề xướng, đúng là chuyện đáng tiếc nuối! Huống hồ mười mấy năm qua, binh đao nhiều phen dấy lên, đói kém lắm lượt, thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống. Vận mạng quốc gia nguy ngập, dân chúng lầm than, phàm những ai hữu tâm không người nào chẳng đau thương. V́ thế, những người cùng có ḷng nhân toan thỉnh bậc thượng tọa trong tông Thiên Thai là pháp sư Đế Nhàn giảng hai kinh này tại chùa Bồ Đề, kỳ hạn là hai mươi mốt ngày, để cầu cho mọi người đều được an ổn. Nguyện khắp người thấy nghe, cùng dùng tâm của đức Quán Âm làm tâm của chính ḿnh, cùng coi chuyện của ngài Quán Âm là chuyện của chính ḿnh, ắt sẽ mất tướng nhân ngă, ngưng dứt cái tâm đấu tranh, tâm t́nh từ ái thiết tha, tâm tàn hại tiêu trừ. Do vậy, tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha, ắt phong thái đại đồng há khó thấy trong hiện thời ư? Nguyện những vị cùng hàng với tôi đều dự hội thù thắng này, ai nấy xướng niệm danh hiệu tốt lành để làm duyên khởi “cùng được gội Phật ân trong hiện thời, tương lai cùng thành Phật đạo”.

 

* Sớ tạo lập Niệm Phật Đường chùa Phước Nghiêm tại huyện Sùng Đức tỉnh Chiết Giang

 

          Đấng đại giác Thế Tôn do thương xót chúng sanh mê muội cái tâm mầu nhiệm vốn có mà phải luân hồi sanh tử, bèn thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác. Ngài thuận theo căn cơ của chúng sanh, nói đủ loại pháp. Tuy lớn, nhỏ, quyền, thật bất đồng, thiên, viên, đốn, tiệm khác nhau, nhưng đều v́ muốn khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật, rốt ráo thành Phật mới thôi! Nhưng chúng sanh căn tánh có lớn, nhỏ, mê có cạn, sâu, chẳng thể ngay lập tức thỏa thích bổn hoài của Phật. Đă thế, chúng sanh thời mạt, nghiệp chướng sâu dày, trí huệ nông cạn, thọ mạng ngắn ngủi, bậc tri thức hiếm hoi, chẳng cậy vào Phật lực, quyết khó thể liễu thoát. V́ thế, Ngài đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ, thâu nhiếp các pháp thuộc chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối, độ trọn khắp các căn cơ thượng, trung, hạ, khiến cho bậc đă chứng Pháp Thân sẽ nhanh chóng thành Phật đạo, kẻ chưa đoạn phiền hoặc cũng thoát khỏi luân hồi. Đấy là lợi ích siêu xuất trong giáo pháp suốt một đời đức Phật. Do một đằng chuyên cậy vào tự lực, một đằng kiêm nhờ vào Phật lực. Ví như kẻ thọt, suốt ngày chỉ có thể đi được vài dặm, nếu nương theo luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương, trong một ngày có thể đến khắp bốn châu. V́ thế, chín pháp giới cùng quay về, mười phương đều xưng tán. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên nói. Do đấy là pháp môn tổng tŕ để mười phương ba đời hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, thành tựu từ thuở phát tâm cho đến khi chứng quả.

          Xét ra, kể từ khi đại giáo truyền đến phương Đông, Viễn công (Sơ Tổ Huệ Viễn) mở liên xă đầu tiên, bậc cao Tăng, cự nho thuở ấy tham dự hội có đến một trăm hai mươi ba người. Từ đấy về sau, đời nào cũng có bậc cao nhân, tiếp lửa, truyền đèn (tục diệm truyền đăng) rộng khắp trong ngoài nước. Đại pháp của Như Lai có năm loại là Luật, Giáo, Tông (Thiền), Mật, Tịnh, chỉ có pháp Tịnh Độ là dễ tu tŕ nhất, dễ thành tựu nhất, là chỗ quy túc cho Luật, Giáo, Tông, Mật. V́ thế, các bậc tri thức trong Luật, Giáo, Tông, Mật xưa nay đều chú trọng ngầm tu, nhiều vị c̣n cực lực khuyến hóa hiển nhiên. Pháp này chân lẫn tục đều viên dung, khế lư lẫn khế cơ. Không chỉ là pháp để người học đạo thoát khỏi luân hồi, mà c̣n là nền tảng để người cai trị đất nước ngồi yên hưởng thái b́nh. V́ thế, văng thánh tiền hiền, người thông hiểu, bậc trí huệ, đều chú trọng tu tŕ. Ví như các ngôi sao chầu về Bắc Đẩu, các gịng nước chảy xuôi về Đông. Chùa Phước Nghiêm ở Sùng Đức chính là đạo tràng Tịnh Độ đă một ngàn năm trăm năm. Năm Thiên Giám thứ hai (503) đời Lương, pháp sư Đông Hy hâm mộ đạo của Viễn Công, chuyên tu Tịnh nghiệp, ư mong lợi khắp người đồng hàng, lập ra chùa Phước Nghiêm để làm đạo tràng Tịnh Độ. Hơn một ngàn năm qua, đạo phong chẳng giảm. Đầu đời Thanh, thiền sư Phí Ẩn Dung làm trụ tŕ, pháp đạo trung hưng. Trong thời Hàm Phong - Đồng Trị, do gặp loạn Hồng Dương[17], bèn trở thành chốn hoang tàn. Về sau, dần dần tu bổ kiến tạo, mới hơi khôi phục lại quang cảnh cũ.

          Gần đây, do nhiều lần gặp cảnh mất mùa, ruộng dâu biển xanh biến đổi, đến nỗi chẳng đủ lương thực chi dụng, Phật đường ngưng hoạt động. Đại sư Tánh Không gần đây tới làm Trụ Tŕ, mong khôi phục quy củ cũ, an trụ đại chúng niệm Phật, sợ chi dụng, lương thực chẳng đủ, có lẽ khó được như nguyện, cậy Quang viết sớ để báo với thiện tín. Quang cho rằng mọi việc đều phải lấy chí thành làm gốc: “Ông đă chí thành, ắt các sư tăng chí thành sẽ đến ở. Do sư tăng chí thành, niệm thánh hiệu Di Đà, xa gần nghe đồn, cùng sanh ḷng tin tưởng, hướng về, ắt sẽ có bậc đại đàn-việt tin sâu Phật pháp tranh nhau đến bố thí, chẳng khiến cho cơm áo bị thiếu thốn!”

 

* Sớ cầu siêu cho tổ tiên

         

          Đầu lá sớ của cư sĩ Dương X… đề tên chính ḿnh, hướng dẫn con là Đạt Quyền thưa rằng: - Trộm nghĩ đệ tử… đời trước đă gieo nhân lành, được sanh tại Trung Hoa, gần độ tuổi cổ hy (bảy mươi), lại được nghe Phật pháp. Tuy thuở trẻ vâng theo gia phong tứ tri[18], tuổi già thọ khuôn phép Tam Quy, càng sợ thiếu sót phản tỉnh, tự xét, chẳng bớt tội khiên. Huống nay đă bảy mươi, phụng dưỡng mẹ chưa tṛn, nào dám chẳng dốc cạn tấc ḷng thành cầu siêu tổ tiên. Do vậy, kính cẩn trong ngày hôm nay, tại Linh Nham sơn, thỉnh sư tăng giới đức bao nhiêu vị, xưng niệm vạn đức hồng danh Nam-mô A Di Đà Phật suốt một ngày, dùng công đức này, ngưỡng mong Phật quang chiếu trọn khắp, khiến cho pháp giới đều được thọ ân, khiến cho tiên khảo, tiên tỷ[19] tiêu trừ ác nghiệp từ vô thỉ, tăng trưởng thiện căn thù thắng, liền được đức Phật từ bi, rủ ḷng đích thân tiếp dẫn lên thượng phẩm nơi chín phẩm sen, được Phật thọ kư ngay trong một đời. Lại nguyện ông X… và thân quyến, thân tâm an lạc, các duyên thuận lợi, vừa ư, hiện thời đồng tu Tịnh nghiệp, tương lai cùng sanh về Tịnh Độ, báo chung bốn ân, giúp khắp ba cơi, pháp giới chúng sanh cùng viên thành Chủng Trí. Cung kính xin đức Bổn Sư hai cơi và mười phương vô tận Tam Bảo chứng minh nhiếp thọ. Đại lược là như thế, hăy nên châm chước để sử dụng.

 

IV. Pháp ngữ khai thị

* Phương pháp niệm Phật theo kiểu Thập Niệm Kư Số

 

          Gần đây, Quang t́m ra một phương pháp nhiếp tâm niệm Phật. Nếu đă thành phiến, cố nhiên chẳng cần cách này. Nếu chưa thành phiến, cách này rất dễ ra sức. Trong khi niệm Phật, chỉ dùng mười niệm để nhớ số, từ một tới mười, tâm và miệng niệm cho rành mạch, tai nghe rành mạch. Lại c̣n từng câu ghi nhớ rành rẽ, rơ ràng. Nếu có thể nhớ rơ ràng từ một tới mười th́ vọng niệm chẳng thể do đâu mà dấy lên được! Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, hăy dùng chuyện này làm tiền phương tiện. Chỉ dùng tâm để nhớ, chớ nên lần chuỗi. Từ một tới mười, rồi lại từ một đến mười, chẳng thể là hai mươi hoặc ba mươi. Cần phải biết nếu tới hai mươi hay ba mươi, tâm lực sẽ chẳng chịu nổi, ắt đến nỗi bị bệnh. Như Lai dạy pháp Sổ Tức (đếm hơi thở), cũng chỉ từ một tới mười mà thôi. Trong Liên Tông Bảo Giám, đă viết sai là từ một tới mười, tới trăm, tới ngàn, tới vạn, gây hại chẳng nhỏ!

          Lại nữa, pháp Thập Niệm này khác với pháp Thập Niệm vào buổi sáng, do pháp kia coi hết một hơi là một niệm, chẳng luận số câu niệm Phật là bao nhiêu. Ở đây, lấy một câu làm một niệm. Cách kia chỉ có thể dùng vào buổi sáng, hễ thường dùng, sẽ bị tổn khí thành bệnh. Cách này th́ từ sáng đến tối, hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm, hoặc nhanh, hoặc chậm, đều sử dụng được, không ǵ chẳng thích hợp. Nhưng khi làm việc, sẽ khó nhớ rơ, hăy cứ thẳng thừng mà niệm. Đến khi xong việc, lại tiếp tục, nhưng vẫn là mười niệm. Nếu nhớ một lèo cảm thấy tốn sức, hăy từ một đến năm, từ sáu tới mười. Hoặc từ một đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến mười. Tùy theo tâm lực của chính ḿnh, tuy niệm hai hơi hay ba hơi, hoàn toàn chẳng ngưng chút nào, chỉ dùng tâm để ghi nhớ như thế mà thôi!

 

* Răn cấm đóng ấn có danh hiệu Phật, Bồ Tát lên đệm ngồi

 

          Phụ nữ có tín tâm vùng Giang Chiết[20] thường hay dùng vải trắng trải lên mặt đất để lễ Phật, gọi là “thủ phương” (手方, khăn vuông lót tay), hoặc có khi dùng lót ngồi để giữ cho y phục khỏi bị hư. Chuyện ấy cố nhiên chẳng phải là không được, nhưng chớ nên đóng con dấu có [danh hiệu Phật, Bồ Tát] lên đó. Nếu đă đóng dấu, muôn vàn chớ nên trải ra [để quỳ lên đó] lễ Phật, huống hồ làm đệm ngồi lên ư? Có kẻ cho rằng ngồi lên nửa phần vải chưa in dấu th́ chẳng trở ngại, chẳng biết: Nếu đă có chữ viết mà đem trải xuống đất, vẫn là khinh nhờn! Huống hồ đă ngồi trên nửa dưới [tấm vải không có chữ], nửa trên vẫn dựa sát vào phần dưới thân thể của chính ḿnh, hoặc có kẻ hoàn toàn ngồi trên chỗ vải đă đóng dấu!

          Cần phải biết chữ trên con dấu đều là thánh hiệu của Phật, Bồ Tát. Theo đúng lư, phải nên đặc biệt tôn trọng, sao lại khinh nhờn đến thế? Con dấu tại chùa A Dục Vương lại là ấn bảo tháp chân thân xá-lợi của Thích Ca Như Lai. C̣n con dấu tại chùa Phổ Tế ở Phổ Đà chính là Sắc Kiến Nam Hải Phổ Đà Thiền Tự Quán Âm Bảo Ấn (Phổ Đà Thiền Tự chính là tấm biển được sắc phong vào năm Vạn Lịch 33 (1605). Tới năm Khang Hy 38 (1699) đời Thanh, mới đổi thành tấm biển sắc phong Phổ Tế Thiền Tự. Như vậy th́ chắc cái ấn ấy là ấn đúc trước năm Khang Hy 38). [Ấn của] chùa Pháp Vũ th́ là Nam Hải Phổ Đà Thiên Hoa Pháp Vũ Quán Âm Bảo Ấn. Những thứ khác có thể suy ra tương tự. Vải đă đóng dấu chỉ có thể cất trong khám thờ Phật tại nhà, hoặc để trong khám thờ thần, sẽ có công đức. Nếu dùng để trải xuống đất lễ Phật, tội ấy chẳng nhỏ, huống hồ dùng làm đệm ngồi ư? (Lại nữa, Thủ Phương đă dùng để lót xuống đất lễ Phật, chỉ nên giặt sạch rồi đốt đi, đừng nên cất trong khám thờ Phật).

          Ví như con cháu dùng tên của cha ông, viết lên vải, dùng để trải xuống đất khi lễ bái tổ phụ và khi ngồi xuống đất v́ sợ bẩn quần áo, dùng vải ấy để lót làm đệm ngồi, ắt người khác sẽ cho là bất hiếu, mà tâm chính ḿnh cũng chẳng nỡ! Sao lại dám dùng thánh hiệu của Phật, Bồ Tát in trên vải lót đất để bảo vệ quần áo vậy thay? Nguyên do là v́ Tăng nhân chẳng biết sự vụ, chỉ muốn in cho nhiều để có nhiều tiền, chẳng màng loại vải ấy muôn phần chẳng thể đóng dấu! Dẫu các tăng sĩ kiểu đó có tu tŕ, cũng sẽ đọa lạc, do đă v́ kẻ khác đóng dấu loạn xạ, khiến cho hết thảy hàng phụ nữ có tín tâm cùng tạo đại tội khinh nhờn Phật, Bồ Tát. Nguyện các hàng Tăng tục hăy thống thiết răn dè. Lại mong những người biết chữ, thấy nghe lời này, hễ gặp người khác bèn khuyên răn, khiến cho hết thảy mọi người đều sửa đổi thói quen này, công đức sẽ vô lượng vô biên vậy!

 

* Pháp ngữ trong dịp Ban Thiền Lạt Ma tổ chức cúng trai tăng một ngàn vị Tăng tại chùa Phổ Tế ở Phổ Đà Sơn (viết thay ḥa thượng Liễu Tín)

 

          Pháp đạo của đấng Pháp Vương trọn khắp trần hoàn, do túc duyên đă lănh nhận lời căn dặn hoằng pháp; vị nắm quyền cai trị lẫn lănh đạo giáo pháp đất Tây Tạng, v́ lễ đấng Phổ Môn mà đến Nam Hải. Nay có đại lạt-ma Ban Thiền Hoạt Phật[21] của Tây Tạng, xưa kia đă nhận lời chúc lụy của đức Phật, nương theo nguyện mà thị hiện giáng sanh làm bậc thầy khuôn mẫu cho đất Tạng, hoằng dương đại giáo của Như Lai, Hiển và Mật cùng tŕ, Chân và Tục viên dung, ngự nơi pháp vương chánh vị, thực thi kế sách to lớn để b́nh trị. Do ngưỡng mộ ḷng từ bi của Đại Sĩ, đến Bổ Đát Lạc Ca[22] để lễ yết. Lại muốn kết pháp duyên rộng khắp, b́nh đẳng cúng dường đại chúng, vốn toan tự ḿnh thăng ṭa, v́ khắp đại chúng tuyên dương, chỉ v́ ngôn ngữ chẳng thông, cho nên bảo sơn tăng nói thay. Đại chúng hăy nên biết: Hết thảy chúng sanh đều trọn đủ Phật tánh, do mê trái mà oan uổng làm chúng sanh. Hoạt Phật là do chúng sanh bao kiếp tu tŕ mà thành. Trọn chẳng có chuyện trời sanh Di Lặc, đất nẩy Thích Ca, chẳng do tu tŕ mà thành Chánh Giác được! Nay đặc biệt nêu ra một pháp môn nhanh tắt, để trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, thấy sắc, nghe tiếng, xúc động căn cơ, gặp cảnh giới, đều quán ngược lại sự “thấy, nghe, hay, biết” ấy rốt ráo đều là nương vào sức của ai? Do ai sai khiến? Quán lâu ngày th́ “thấy, nghe, hay, biết” trọn chẳng thể được, tự nhiên linh quang riêng chiếu, chứng thấu triệt chân thường! Tuy là như thế, do trai tăng bèn vui mừng tán thán một câu để làm ǵ vậy? Chống trượng, bảo: “Quán Âm không cơi nào chẳng hiện thân, Hoạt Phật vốn là tâm từ bi”.

 

* Báo cáo trong lễ khai mạc Phật Giáo Từ Ấu Viện ở Nam Kinh (trích lục những điều chánh yếu)

 

          Giữa khoảng Thu - Đông năm Dân Quốc 11 (1922), các vị cư sĩ như cụ Phùng Mộng Hoa, Ngụy Mai Tôn, Vương Ấu Nông, Bàng Tánh Tồn, và hai vị sư Diệu Liên, Tâm Tịnh, do thấy đại đức của trời đất là “sanh”, bèn tổ chức hội phóng sanh. Anh em cư sĩ Phương Tuấn Sanh đă đem cuộc đất thuộc hạ trang viên do tổ tiên để lại ở sông Tam Xoa nhượng lại, chỉ lấy nửa giá, phần c̣n lại dùng làm công đức. Trong lúc bàn bạc quyết định về Quán Âm Am, đúng dịp Ấn Quang đến Ninh Ba, tán thành quyết định ấy, bèn được các ông Vương và Ngụy thôi thúc kư tên đầu tiên cùng với cụ Phùng Mộng Hoa. Trong mấy năm qua, được các vị đại thiện tín hớn hở hoan hỷ giúp đỡ, trước sau, xây dựng điện đường, đào ao nhiều chỗ. Quy mô vừa tạm đủ. Trong việc lo toan kiến tạo công tŕnh, thầy Tâm Tịnh đổ công tốn sức khá nhiều. Trong mùa Xuân năm Dân Quốc 12 (1923), ông Nhậm Tâm Bạch nhiều lượt gởi thư đề nghị: “Trong khu vực của ao phóng sanh, hăy lập một cô nhi viện”. Cụ Phùng Mộng Hoa, cụ Vương Nhất Đ́nh, cụ Từ Tích, các ông Ngụy, Vương, Bàng nhất trí tán thành. Do vậy, lại tổ chức kiến lập Phật Giáo Từ Ấu Viện (cô nhi viện Phật giáo), được các vị đại thiện tín khảng khái vui vẻ giúp đỡ, quyên tiền cũng tới mấy vạn, cho nên các ṭa nhà của viện mồ côi sớm được hoàn thành. Đúng lúc cụ Phùng Mộng Hoa lo toan giúp đỡ nạn nhân chiến tranh tại vùng Hoài Từ, chọn gởi tới ba mươi mấy đứa trẻ nạn nhân chiến tranh, cùng với mấy đứa cô nhi không nơi nương tựa ở Kim Lăng và huyện Thành Sương, tổng cộng là năm mươi mấy đứa. Kể từ đầu tháng Giêng, đă bắt đầu dạy bảo. Nhằm lúc Ấn Quang đến Ninh Ba, [Từ Ấu Viện] bèn cử hành lễ khai mạc, được tỉnh trưởng, huyện trưởng, các vị đại thiện tín quang lâm chỉ giáo, cảm thấy may mắn khôn cùng.

          Viện này mới bắt đầu hoạt động, hết sức non nớt, càng hết sức mong mỏi tỉnh trưởng, huyện trưởng, các vị đại thiện tín luôn rủ ḷng đốc thúc, sách tấn. Trẻ trong viện quá nửa đến từ các vùng bị chiến tranh, [hiện thời] ĺa khổ được vui, càng cần phải nhớ kỹ cái nhân gây khổ, hăng hái dốc ḷng cầu học, ngơ hầu chẳng phụ ḷng thiết tha trông mong của tỉnh trưởng, huyện trưởng, và các vị đại thiện tín. Nền đất của Pháp Vân Tự chưa định, lại được anh em cư sĩ Phương Tuấn Sanh đem hai trang viên thượng và trung hoàn toàn bán nhường cho, cụ Đặng Phác phát bốn mươi tám nguyện, xây cất đại điện. Do quyên góp cũng đă được quá nửa, chẳng lâu sau sẽ có thể khởi công. Điều khó bỏ mà có thể bỏ được, điều khó làm mà có thể làm, đều là nhân duyên hy hữu vô thượng!

 

* Pháp ngữ khai thị trong ngày Quán Âm Thành Đạo tại Thế Giới Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

 

          Hôm nay là ngày lành Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, đặc biệt trần thuật bổn tích cảm ứng của Bồ Tát như sau: Cơi đời truyền tụng có ba ngày kỷ niệm Bồ Tát, tức là Mười Chín tháng Hai, Mười Chín tháng Sáu, và Mười Chín tháng Chín. Ngày Mười Chín tháng Hai thật sự chẳng thể khảo chứng, có người nói là đó là ngày Bồ Tát đản sanh. Ngày Mười Chín tháng Sáu chính là ngày Ngài thị hiện ở Nam Ngũ Đài Sơn. Ngày Mười Chín tháng Chín tức là ngày hôm nay, được truyền tụng là ngày thành đạo; nhưng Bồ Tát đă sớm thành Phật từ bao kiếp lâu xa, hiệu là Chánh Pháp Minh. Nay điều truyền tụng bất quá là sự tích cảm ứng nơi thân ứng hóa của Bồ Tát, khiến cho chúng sanh kẻ thấy, người nghe gieo các thiện căn mà thôi! Thật ra, chẳng ngày nào không phải là ngày sanh của Đại Sĩ, không giờ nào chẳng phải là lúc Đại Sĩ nhập Niết Bàn. Trong lúc tu nhân, Đại Sĩ do Nhĩ Căn mà chứng nhập, từ Văn, Tư, Tu mà nhập tam-ma-địa. Do tam-muội ấy bèn đắc Viên Thông. Xét theo Quả, do chúng sanh xưng danh mà Ngài quán âm thanh ấy, khiến cho họ được giải thoát. V́ thế, có hiệu là Quán Thế Âm Bồ Tát. Tuy Bồ Tát an trụ trong cơi Tịch Quang, nhưng phân thân trong các cơi nhiều như vi trần, tùy loại hiện thân. Hoặc hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân trời, thân A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, như phẩm Phổ Môn đă nói “đáng nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện thân ấy thuyết pháp”.

          Cần phải biết: Một niệm tâm tánh của chúng sanh chẳng hai, chẳng khác với chư Phật, Bồ Tát. Đại Sĩ chẳng chứng ǵ khác, hoàn toàn là chứng tâm tánh chúng sanh vốn sẵn có. Chúng sanh bỏ mê về ngộ, cũng sẽ giống như Đại Sĩ ứng hiện khôn ngằn thuận theo căn cơ, hưởng niềm vui pháp hỷ tịch diệt. Ngài đă là trượng phu, ta cũng vậy, sao lại tự khinh để rồi thoái khuất? Bọn chúng ta nếu mong sanh nhằm lúc Quán Âm tu tŕ, rất ư là khó. Nay Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đă chỉ dạy cặn kẽ pháp tắc tu tŕ, ví như tổ tiên đă sáng lập gia nghiệp, chỉ cần con cháu khéo ǵn giữ, sẽ chẳng đến nỗi bại vong. Đại Sĩ đă sáng lập gia nghiệp của Phật, chỉ cần chúng ta có thể y giáo tu tŕ, liền có thể hưởng thụ tự tại. Y giáo tu tŕ như thế nào? Hăy nên lấy tâm Quán Âm làm tâm của chính ḿnh, lấy hạnh Quán Âm làm hạnh của chính ḿnh. Tâm Quán Âm là đại từ bi, hạnh Quán Âm là tự lợi, lợi tha. Nếu chúng sanh tin tưởng, ngưỡng mộ Bồ Tát, dẫu gặp phải các cảnh giới ác như đao binh, nước, lửa, giặc cướp, tai nạn ngang trái, cũng chớ nên có một niệm gián đoạn. Sự nhân quả thông ba đời. Lư nhân quả phát xuất từ tự tâm. Đạo ở trong ḷng người, như nước ngầm trong đất. Chịu đào bới, sẽ liền được nước; chịu niệm, sẽ được thọ dụng. Hễ cầu sẽ đạt được, không cầu bèn đánh mất. Tuy nói là “cảm ứng đạo giao”; thật ra cũng do chính tự tâm cảm ứng. Hư không chẳng ngăn ngại cương giới, cương giới chẳng trở ngại hư không. Một vầng trăng sáng vằng vặc giữa trời, bất luận sông to, rạch lớn, dẫu bé như một giọt nước, một hớp nước, hễ ánh trăng chiếu đến bèn hiện bóng. Chỉ có nước trong lặng, trăng bèn hiển hiện; nước đục, dao động, bóng trăng bèn ẩn mất. Cái tâm của chúng sanh như nước, A Di Đà Phật như trăng. Chúng sanh do tín nguyện trọn đủ, chí thành cảm Phật, ắt Phật sẽ ứng hiện, như nước trong, trăng hiện. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, chẳng chí thành, tương ứng với tham, sân, si, trái nghịch Phật, Phật sẽ chẳng thể cảm, giống như nước đục ngầu, xáo động, bóng trăng ẩn mất. Tuy trăng vẫn chiếu soi chẳng sót, nhưng chẳng thể hiện bóng rơ ràng.

          Trong thế gian hiện thời, họa loạn và hoạn nạn rất dữ dội. Muốn t́m một pháp trọn khắp hết thảy các pháp, tu ngay trong đời này liền chứng ngay trong đời này, là đường tắt tu hành, chỉ có Niệm Phật là bậc nhất! Đại chúng đă là đệ tử đức Phật, cần phải có con mắt sáng suốt để chọn lựa pháp. Phật pháp vô lượng vô biên, mọi người cần phải tự lượng căn tánh của chính ḿnh. Bậc thượng căn lợi trí, hiện thân thành Phật, dẫu Phật tại thế cũng chẳng được thấy nhiều, c̣n nói chi đến hạng độn căn trong thời Mạt Pháp đời này ư? Hết thảy các pháp môn, đều cần phải có công tự lực sâu xa, đoạn Hoặc, chứng Chân, chẳng c̣n sót mảy may Kiến Tư Hoặc th́ mới liễu sanh tử. Đă đoạn Kiến Hoặc liền chứng Sơ Quả, dự vào gịng thánh, gọi là Tu Đà Hoàn. Vẫn phải bảy lần sanh lên trời, bảy lượt trở vào nhân gian, đoạn Tư Hoặc, dần dần chứng địa vị Tứ Quả La Hán th́ mới liễu sanh tử! Pháp môn Niệm Phật chẳng vậy. Chỉ cần chí thành khẩn thiết, tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo, khi lâm chung, tự có thể được Phật tiếp dẫn, phẩm vị cao hay thấp do tu tŕ sâu hay cạn quyết định. Tuy sanh vào cơi Đồng Cư trong bốn cơi của Cực Lạc, mà cũng thuộc địa vị Bất Thoái, lập tức có thể nhanh chóng vượt lên Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, đới nghiệp văng sanh, hoàn toàn cậy vào Phật lực. Ví như trăm ngàn vạn tảng đá to, muốn vượt qua biển lớn, đặt trên chiếc tàu to, sẽ có thể chẳng ch́m mà chuyển sang nơi khác. Nếu không, một dúm đất cát, cũng liền ch́m ngay. Tự lực mà mong liễu sanh tử như bỏ thuyền vượt biển, trừ phi có lông vũ để có thể [chắp cánh] tự bay lượn được. Nếu không, chẳng ai không rơi xuống, ch́m đắm! Cậy vào Phật lực để liễu sanh tử, giống như an ổn ngồi trên thuyền, chốc lát liền tới bờ kia. Kẻ tu học, điều thứ nhất là chớ nên có hai ba tâm, bị xoay chuyển theo cảnh, đối với Thiền, Giáo, Mật Tông, trọn chẳng có định kiến! Rốt cuộc bỏ công sức lớn lao mà đạt được lợi ích nhỏ nhoi, không chỉ đời này chẳng liễu sanh tử, dẫu đời sau cũng chẳng dễ ǵ! Pháp Niệm Phật luận về tu học, sẽ là đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng; luận theo pháp môn, rộng lớn không ngằn!

          Ngài Đế Nhàn giảng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện tại chùa Viên Thông, đối với sự lư Tịnh Độ, đă phát huy nhiều điều; nay tôi lại trần thuật thêm. Thiện Tài tham học với khắp các vị tri thức, cuối cùng được đức Phổ Hiền dạy dỗ, sau khi đă chứng bằng chư Phật, dùng mười đại nguyện vương hồi hướng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới để mong viên măn Phật quả. Lại c̣n khuyên trọn khắp hải chúng trong Hoa Tạng. Hải chúng trong Hoa Tạng chẳng có vị nào là phàm phu hay Nhị Thừa, đều là Pháp Thân đại sĩ, phá vô minh, hiển pháp tánh, [thế mà] vẫn cần phải văng sanh! Ta là hạng người như thế nào mà dám chẳng vâng theo? Pháp môn Niệm Phật quả thật là trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, là con đường để phàm thánh cùng noi theo, là pháp môn thành tựu từ lúc tu nhân cho đến khi chứng quả. Người tu hành ai nấy hăy nên trọn hết bổn phận, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng xướng, vợ theo, ba nghiệp thân, miệng, ư chẳng ô uế, phát Bồ Đề tâm, tự lợi, lợi người, mới gọi là “chân tu”. Nếu miệng nói tu hành, tâm ôm ấp điều bất thiện, th́ là “giả thiện nhân”. Nhân địa đă hư ngụy, làm sao đạt được lợi ích chân thật?

          Lại nữa, đối với chuyện lợi người, nếu kẻ khác chẳng tin, hăy nên nín lặng mà thôi. Đối với cha mẹ, quyến thuộc, do thiên tánh liên quan, nếu có ai chẳng tin, hăy nên v́ họ chân thành sám hối thay, lâu dần sẽ tự có thể cảm hóa. Đó gọi là “ḷng thành tột bậc, đá, vàng cũng phải nứt”. Nếu cha mẹ và quyến thuộc nghiệp tiêu, trí rạng, chính ḿnh tu tŕ chân thành, chuyên dốc, người khác nh́n vào sẽ tốt lành theo. Cổ nhân nói: “Dĩ ngôn giáo giả tụng, dĩ thân giáo giả tùng” (dùng lời nói để dạy sẽ có tranh căi, dùng thân làm gương, người khác sẽ thuận theo). Dùng thân làm gương, nói ra mọi người sẽ tuân theo, hiệu quả cực lớn. Người có đủ tín tâm chớ nên học theo ngoại đạo cầu phước quả sanh trong cơi trời người, và quả báo phú quư, dục lạc trong đời sau. Tôi bảo đảm Phật nhất định tiếp dẫn, quyết định hoa nở thấy Phật.

          Nay có vị cư sĩ hỏi tôi “ư của Tổ Sư từ phương Tây đến [Đông độ], trước sân một cây bách”, người ấy thật sự chẳng có mảy may tâm đắc! Ư của tổ sư, cây bách trước sân, đại thụ chót vót, học nhân thấy ngay trong một niệm hiện tiền, khiến cho người đó tham cứu mà tự đạt được. Nếu không, tâm địa vốn sáng suốt chẳng được thấu tỏ, sẽ thấy bất quá là cây bách mà thôi. Tất cả các câu chữ trong nhà Thiền, mỗi mỗi đều nhằm chỉ quy tự tánh ngay trong cái tâm, trọn chẳng có nghĩa lư để có thể suy lường. “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” chính là thấy Danh Tự Phật ngay trong tự tánh thiên chân, chẳng phải là đấng Lưỡng Túc Tôn phước huệ viên măn rốt ráo Niết Bàn. “Minh tâm kiến tánh” là ngộ, chẳng phải chứng. Sau khi đă ngộ, cần phải đoạn Kiến Hoặc, chứng địa vị Sơ Tín, tiến vào gịng thánh. Đoạn Tư Hoặc chứng Thất Tín bèn liễu sanh tử. Bát Tín, Cửu Tín, và Thập Tín phá Trần Sa, chế phục Vô Minh. Phá một phẩm Vô Minh, chứng một phần Tam Đức Bí Tạng, chứng địa vị Sơ Trụ, tức là Pháp Thân đại sĩ. Lại trải qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, cho đến Thập Địa, Đẳng Giác, lại phá một phẩm vô minh, chứng một phần Tam Đức Bí Tạng mà thành Phật. Người học chớ nên hiểu lầm. Cổ nhân nói: “Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có một chữ Lạc, tiếc là người đời chẳng thể toàn thân nương cậy”. Đại chúng đă nghe pháp vốn sẵn có, đă hiểu rơ, tôi mong mỏi sâu xa quư vị sẽ chí thành khẩn thiết tu tŕ. Tôi bảo đảm trong tương lai, sẽ có phần thành Phật. Hăy gắng lên, hăy cố lên nhé!

 

* Pháp ngữ về sách Quán Thế Âm Bồ Tát Cảm Ứng Linh Khóa[23]

 

          Quán Thế Âm Bồ Tát nghĩ thương chúng sanh, tầm thanh cứu khổ. Phàm làm thiện sự, khẩn cầu Bồ Tát, ắt sẽ được Ngài rủ ḷng gia bị, khiến cho việc ấy được thành tựu. Nếu làm việc ác, Ngài cũng rủ ḷng gia bị, khiến cho việc ấy quyết chẳng thành. Bởi [chuyện ác ấy] được thành, sẽ là tạo tội, đọa vào chốn khổ sở. Đó là cứu vớt khổ nạn vậy! Đấy là chân từ đại bi của Bồ Tát. Kẻ muốn quyết nghi, mà nếu thờ tượng Bồ Tát, hăy đối trước tượng Bồ Tát, dâng hương, lễ bái. Nếu không có, liền hướng về khóa bổn này mà thắp hương, lễ bái. Dùng năm đồng tiền sạch, hơ qua khói hương, trong tâm thầm niệm cầu đảo chuyện muốn hỏi, dựa theo bài kệ được liệt kê trong phần sau, và niệm Bồ Tát chừng bao nhiêu tiếng. Cầm tiền trong tay lắc mấy lượt, khiến cho các đồng tiền đảo lộn thứ tự. Sau đó, gieo xuống bàn, dựa theo thứ tự mấy đồng sấp, mấy đồng ngửa, chiếu theo khóa bổn để tra là quẻ nào, sẽ được dạy cho biết điều tương ứng.

 

* Pháp ngữ trong lễ thượng lương Quán Âm Điện chùa Nam Thiên Trúc tại Hàng Châu

 

          Đại Sĩ vốn chẳng có thân và tâm, tùy duyên ứng hiện trọn khắp các cơi nhiều như vi trần. Hôm nay trùng tu chùa Thiên Trúc, khiến cho khắp mọi loài được gội từ ân. Đặt kèo rường cho điện báu thênh thang, đại chuyển pháp luân xiển dương Phật quang. Đàn-việt hộ pháp trợ duyên được nhờ vào pháp lực mà con cháu muôn đời hiền thiện, hưng thịnh trăm đời.

 

* Pháp ngữ thượng đường[24] (gồm sáu mươi bảy bài, trích từ nguyên gốc Văn Sao Tam Biên bản chép tay)

 

          1) Một câu Di Đà diệu khó lường, phàm thánh cùng nương chứng chân thường, chỉ nguyện pháp này truyền bá rộng, cùng tột ba đời, khắp mười phương.

          Đức Như Lai thuyết pháp, chúng sanh đắc độ, khó, dễ, nhanh, chậm khác biệt rất lớn! Do vậy, viên âm[25] vừa diễn, kẻ căn cơ chín muồi liền chứng Bồ Đề. Một trận mưa thấm khắp, kẻ tiểu căn chỉ tăng trưởng phân tấc. Do vậy, rộng lập các giáo Đốn, Tiệm, Thiên, Viên để phù hợp căn cơ; mở toang các môn Luật, Giáo, Thiền, Mật ḥng lợi lạc chúng sanh. Cầu một pháp phàm thánh cùng tu, đại tiểu nhất trí, vừa cạn, vừa sâu, thực hiện dễ mà thành công cao, chí viên, chí đốn, dùng sức ít mà đạt được hiệu quả nhanh chóng, Đẳng Giác Bồ Tát nương theo đó để viên thành Phật đạo, chúng sanh nghịch ác nương vào đó để thoát ĺa luân hồi, không ǵ thù thắng, siêu tuyệt bằng pháp Tịnh Độ! Trong đời Chánh Pháp và Tượng Pháp xưa kia, đời nào cũng có cao nhân “tiếp lửa, truyền đèn” (tục diệm truyền đăng) rạng ngời Thiên Trúc và Chấn Đán (Trung Hoa). Đời mạt căn cơ kém hèn, muốn liễu sanh tử mà bỏ pháp môn này, làm sao yên được? Mọi người ai nấy hăy nên chí thành khẩn thiết, tŕ danh hiệu Phật. Phật niệm vừa dấy lên, phàm t́nh nhanh chóng đoạn dứt. Núi phước chót vót, biển nghiệp cạn khô, sương tội tiêu, huệ nhật rạng ngời, mới biết pháp Tŕ Danh này vốn là Thật Tướng. Hễ sanh vào Tịnh Độ, sẽ thẳng thừng khế nhập Tịch Quang!

          (Chống trượng nói): Thênh thang một nẻo về nguồn, thẳng bước về nhà há hỏi han!

          2) Một câu nam-mô A Di Đà, đúng là tâm yếu của đức Phật. Dọc thấu năm thời Tiểu Đại Thừa, ngang trùm tám loại giáo Quyền, Thật.

          Đức đại giác Thế Tôn thị hiện sanh trong thế gian, căng rộng lưới giáo để độ thoát chúng sanh. Dùng một vị đề-hồ, tùy cơ nghi mà nói khác biệt. Với kẻ căn cơ chín muồi, liền dạy họ thẳng thừng chứng nhập. Kẻ căn cơ sống sít, bèn giúp hun đúc dần dần. Từ thuở mới thành đạo, cho tới khi nhập Niết Bàn, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Tuy Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn, Tiệm, không pháp nào chẳng đủ, không hạnh nào chẳng vẹn. Nhưng trong các hội, đối với một môn Tịnh Độ này, lại càng liên tiếp tán thán, ra rả căn dặn, muốn cho chín pháp giới cùng lên Phật giới, ba thừa cùng chứng Nhất Thừa. V́ thế, phí sạch tấm ḷng đau đáu, chẳng tiếc kim khẩu [răn dạy]. Ngày nay các vị may mắn được nghe, ắt phải cảm ân đức của Phật, chuyên tŕ thánh hiệu, nhiếp trọn sáu căn, buông xuống muôn duyên, sao cho tâm lẫn cảnh rỗng rang, tĩnh lặng, khác nào Không hợp với Không, Phật niệm khế hợp, hệt như nước ḥa vào nước, sẽ chẳng ĺa một niệm hiện tiền, mau chóng chứng chân thường. Lời Phật thành thật, ai nấy đều nên tin nhận.

          (Chống trượng nói): Há đợi Long Hoa được thọ kư? Ao quư lên thẳng sen tử kim.

          3) Thầy của mười phương hết thảy Phật, vốn là Tây Phương A Di Đà. Một câu “súc miệng” của Triệu Châu, khiến khắp hàm thức thoát Sa Bà.

          Bậc thượng sĩ tham Thiền, hàng cao nhân học Phật, muốn đắc Vô Sư Trí, cần phải biết pháp hữu sư. Xưa kia, có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: “Mười phương chư Phật có thầy hay không?” Triệu Châu nói: “Có”. Hỏi: “Như thế nào là thầy của chư Phật?” Triệu Châu đáp: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Phàm sở chứng sở đoạn của hết thảy chư Phật thảy đều b́nh đẳng, chẳng hề sai kém mảy may. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Thập phương chư Như Lai, đồng cộng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất trí huệ, lực vô úy diệc nhiên” (Mười phương các Như Lai, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, lực, vô úy cũng thế). V́ sao ngài Triệu Châu nói A Di Đà Phật là thầy của mười phương chư Phật? Hăy nói xem ư chỉ là như thế nào? Nếu có thể hiểu thấu triệt, may mắn chi bằng? Nếu chẳng liễu giải, xin hăy chuyên tŕ thánh hiệu Di Đà. Tŕ tới lúc “toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm Phật chẳng hai, tâm lẫn Phật cùng mất”, bỗng dưng ngă giữa đất bằng, đột nhiên xoay người đứng phắt dậy, mới biết đạo của Triệu Châu vốn rộng thênh thang, lời lẽ vượt ngoài khuôn phép, chẳng dấy can qua, ngồi yên hưởng thái b́nh. Các vị c̣n thấy Triệu Châu nữa chăng?

          (Chống trượng nói): Yết đế, yết đế, ba la yết đế.

          4) Hăy nên phát nguyện, nguyện văng sanh. Khách đường trược ác gấp khởi hành. Tự ḿnh chẳng về, về liền được. Gió trăng quê cũ, có ai giành?

          Đức đại giác Thế Tôn nghĩ thương chúng sanh, mở ra pháp môn Tịnh Độ, chỉ bày con đường tắt trở về nguồn. Gộp chung ba thừa, năm tánh cùng lên cơi tịnh, dẫn thượng thánh, hạ phàm đều chứng chân thường. V́ vậy, Như Lai do hành chuyện khó này, mau thành Bồ Đề. Đời Mạt Pháp chỉ cậy vào Niệm Phật ḥng thoát sanh tử. Hoa Nghiêm khuyến tấn, Văn Thù phát nguyện. Hành phương tiện tối thắng, Mă Minh dạy trong luận Khởi Tín. Đạo dễ hành, chóng đạt, Long Thọ xiển dương trong luận [Tỳ] Bà Sa. Trí Giả là hậu thân Thích Ca, nói Thập Nghi Luận khuyên khắp mọi người văng sanh. Di Đà thị hiện thân Vĩnh Minh, soạn Tứ Liệu Giản ḥng chuyên chỉ Tịnh Độ. V́ thế, văng thánh tiền hiền, người người tiến hướng. Ngàn kinh vạn luận, chốn chốn chỉ về. Các vị hăy nên dùng Phật hiệu để đối trị phàm t́nh, khiến cho mỗi căn, mỗi trần, không ǵ chẳng niệm Phật, ngơ hầu mỗi pháp, mỗi sự, đều chứng Viên Thông. Tâm tánh tự ḿnh vốn có, do đấy triệt để tỏ lộ trọn vẹn. Bổn hoài xuất thế của chư Phật mới có thể rốt ráo vui thỏa.

          (Chống trượng nói): Báu cột nơi áo gă nghèo, chính là châu tại đỉnh đầu Luân Vương.

          5) Một câu Di Đà vượt khuôn khổ, vô biên pháp tạng thảy gồm trong. Bóng trăng đáy nước do trăng rọi. Đầu ghềnh lùa gió, gió lùa hang.       

          Pháp dược vô lượng, hễ trị được bệnh th́ là thuốc hay. Biển giáo vô biên, pháp khế cơ là diệu. Các pháp môn khác, mỗi pháp thích hợp một loại căn cơ, chẳng thể thích hợp khắp ba căn. Nói pháp Đại, tiểu căn chẳng thể nhập. Nói pháp Tiểu, đại căn chẳng cần phải tu! Chỉ có pháp Tịnh Độ này vượt ngoài thể lệ, Đại lẫn Tiểu cùng nhiếp, lợi căn lẫn độn căn gồm thâu, toàn thể tánh thành tu, thượng thượng căn chẳng thể vượt ngoài phạm vi của pháp này. Toàn thể sự chính là Lư, hạ hạ căn cũng có thể đạt tới cơi ấy. Nương theo từ lực của đức Di Đà, mở toang tri kiến của Như Lai, thoạt đầu là nhiếp trọn sáu căn, kế đó là nhất tâm bất loạn. Dùng cái tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn, mới biết trăm ngàn pháp môn chẳng rời một tấc vuông (chân tâm). Diệu đức nhiều tợ cát sông Hằng, đều thuộc nguồn tâm. Ví như đă tắm trong biển cả, ắt dùng nước của trăm sông. Thân đă ở trong điện Hàm Nguyên, cần ǵ phải hỏi Trường An chi nữa? Hễ nhập môn này, việc làm đều xong. Chỉ chịu bằng ḷng, quyết chẳng thua thiệt. Đấy thật sự là phương tiện siêu xuất Vô Thượng Thiền Tông.

          (Chống trượng nói): Chỗ được nắng Xuân vừa chiếu đến, không đâu hoa chẳng trổ tươi hồng!

          6) Một câu nam-mô A Di Đà, vô tận pháp tạng được tổng tŕ. Tín, nguyện, hạnh nếu như đầy đủ, đời này chắc chắn chứng Bồ Đề.

          Một môn Tịnh Độ thông trên, thấu dưới, sơ cơ và hậu tâm cùng tu. Đối với chuyện văng sanh, giúp [tu tŕ] từ đầu đến cuối. Tiểu, phàm, đại thánh đều tiến nhập; chí viên, chí đốn, tối diệu, tối huyền, là chỗ quy tông cuối cùng của Hoa Nghiêm, là lời đàm luận tột bậc triệt để v́ chúng sanh của Như Lai. Đừng luận những ai đă thấu triệt ba cửa ải, ngũ nhăn viên minh, dẫu bậc hiểu ngộ bằng đức Chánh Pháp Minh trong quá khứ, vẫn phải nên thân cận A Di Đà trong hiện tại. Nếu tham mà chưa ngộ, hoặc đă ngộ mà chưa thấu triệt, hăy nên lấy một câu Nam-mô A Di Đà Phật này làm bổn mạng nguyên thần. Thời thời hệ niệm, khắc khắc giữ ǵn. Bỗng dưng Năng lẫn Sở cùng mất, nhanh chóng thấy tâm và Phật chẳng hai, mới biết “mười đời xưa nay, từ đầu đến cuối chẳng rời một niệm hiện tại!” Vô biên cơi nước, ta cùng người nào cách mảy lông! Do vậy, nghiệp tiêu, trói buộc tự rớt, sanh vào nhà Như Lai, an trụ trong Tam Đức Bí Tạng, thường hưởng pháp lạc, khắp mười phương sát hải rộng độ chúng sanh.

          (Chống trượng nói): Lâu đài gần nước được sáng trước, hoa cỏ hướng dương sớm gặp Xuân.

          7) Rung đất, rền trời, siêng niệm Phật. Đập cửa, giộng cổng khuyên tu hành. Hỏi ai cớ ǵ luôn bận bịu? Chỉ sợ chúng sanh lọt lửa hầm.   

          Một môn Tịnh Độ gồm trọn vạn hạnh, thỏa thích bổn hoài xuất thế của chư Phật, là đường tắt để chúng sanh trở về nguồn. Nói đại lược, chỉ một chữ Tịnh có thể nhiếp trọn chẳng sót. Đó gọi là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Tịnh đến mức cùng cực, ắt thông đạt rạng ngời, tịch chiếu trọn hư không. Sanh diệt đă diệt, tịch diệt hiện tiền. Viên măn Bồ Đề, trở về chỗ chẳng có ǵ để đạt được. Đấy là tịnh đến tột cùng, trừ Phật Thế Tôn ra, ai dám đảm đương? Nói rộng th́ dẫu đàm luận viên dung trong Tam Tạng mười hai bộ, diệu nghĩa của các vị thầy trong năm tông vẫn diễn tả chẳng trọn! Dẫu hết thảy chúng sanh trong thế giới hải trọn hết mười phương cùng thành Chánh Giác, dùng sức thần thông, vi trần nói, cơi nước nói, hừng hực nói, nói chẳng gián đoạn, há có thể trọn hết ư? Bởi lẽ, pháp môn Tịnh Độ vốn chẳng thể nghĩ bàn! Do v́ lẽ ấy, các kinh Đại Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa… các vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền… các vị đại tổ sư như Mă Minh, Long Thọ… các đại thiện tri thức như Thiên Thai, Vĩnh Minh… ai nấy đều dùng pháp này để chỉ dạy, khuyên bảo khiến cho chúng sanh văng sanh. Do pháp này chính là chỗ quy túc của các pháp, là tâm ấn của Phật, Tổ vậy!

          (Chống trượng nói): Họ là trượng phu, ta cũng thế. Ao báu ai nấy chiếm cành sen!

          8) Muốn được đời này ĺa kết phược, tâm thần mau gởi chốn Liên Bang. Văng sanh cầu chứng bằng chư Phật, vốn sẵn Hoa Nghiêm bước cuối cùng.

          Như Lai do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời, tùy theo căn cơ mà thí giáo, nói đủ loại pháp, không ǵ chẳng nhằm khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật mà thôi! Tuy chúng sanh vốn sẵn có tri kiến của Phật, nhưng mê muội từ vô thỉ cạn hay sâu khác nhau. Kẻ mê cạn tu bất cứ pháp nào, cũng đều có thể ngộ nhập. Người mê sâu, chẳng cậy vào thệ nguyện lực sâu rộng của đức Di Đà, quyết khó thể chứng đắc. Huống hồ pháp này chính là bí yếu của chư Phật, là sự tu chứng tột bậc. Như Lai lúc mới thành Chánh Giác, bèn nói kinh Hoa Nghiêm, trọn đủ vô lượng pháp môn, thâu nhiếp căn tánh Nhất Thừa. Nhưng Thiện Tài sau khi chứng bằng chư Phật, Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy phát mười đại nguyện vương, hướng dẫn về Cực Lạc, c̣n khuyên Hoa Tạng hải chúng cùng sanh về Tây Phương. Các kinh Đại Thừa đều khơi mở lẽ trọng yếu ấy, các bậc Khai Sĩ đều vào môn này. Xét các điều này, có thể dứt sạch hồ nghi, chuyên tŕ Phật hiệu, mong thân cận Di Đà chốn Tịch Quang, vĩnh viễn nêu gương giác ngộ cho thời Mạt.

          (Chống trượng nói): Kể từ hải chúng về Tây, cơi đời ai cũng noi theo tuân hành.

          9) Tây Phương từ phụ A Di Đà, thệ nguyện rộng sâu, lợi ích nhiều. Chỉ chịu nhất tâm thường nghĩ nhớ, quyết được tiếp dẫn thoát Sa Bà.

          Pháp môn Tịnh Độ được khởi xướng bởi đức Di Đà đạo sư, được diễn bày bởi Thích Ca Thế Tôn, mười phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài tán dương. Cao tăng hai cơi (Ấn Độ và Trung Hoa) phát kim cang tâm lưu truyền. Quy củ tu tŕ chia thành bốn loại, tức là tŕ danh, quán tượng, quán tưởng, Thật Tướng. Tŕ danh dễ nhất, Thật Tướng khó nhất. Nhưng có thể tŕ tới mức nhất tâm bất loạn, tâm lẫn Phật cùng mất, diệu lư Thật Tướng sẽ tỏ lộ toàn thể. Do vậy biết tŕ danh chẳng khác Thật Tướng. Trăm ngàn pháp môn trong một thời giáo hóa của đức Phật, không ǵ chẳng nhằm khiến cho mọi người đích thân chứng Thật Tướng đó thôi! Đă chứng Thật Tướng, sẽ t́nh không, cảnh không, tâm tịnh, cơi tịnh. Như gió mạnh lùa qua, muôn ống sáo vang tiếng vi vu, như một vầng trăng in bóng khắp ngàn sông. Quang minh, thọ mạng, theo chiều ngang trọn khắp, theo chiều dọc tột cùng, lâu bền rộng lớn giống hệt như Di Đà Thế Tôn. Như vậy th́ có kinh nào chẳng phải là kinh Tịnh Độ, có hạnh nào chẳng phải hạnh Tịnh Độ? Do vậy, biết pháp này gồm trọn pháp tạng, toàn thể Sự chính là Lư, toàn thể vọng chính là chân, nhân bao trùm biển quả, quả thấu triệt nguồn nhân, là môn trọng yếu để nhập đạo, là chỗ nương tựa cho cả chín pháp giới.

          (Chống trượng nói): Pháp môn Tịnh Độ như biển cả. Ngàn gịng, muôn phái thảy chầu về.

          10) Tâm ta, tâm Phật, tâm chúng sanh. Cả ba rốt ráo chẳng sai biệt. Nếu trái vọng để trở về chân; lập tức, sáng sanh mà tối diệt.

          Cái tâm của chúng sanh và tâm của chư Phật vốn giống hệt như nhau, trọn chẳng sai khác. Do chúng sanh mê, hư vọng hứng chịu sanh tử, nhưng oai thần chẳng giảm. Chư Phật v́ ngộ, đích thân chứng Niết Bàn, mà đức tướng chẳng tăng. Đó gọi là chư Phật nương vào sức ngu si của chúng sanh, phá sạch vô minh, thành Đẳng Chánh Giác, giăng mây đại pháp, tuôn mưa pháp lớn, khiến cho nóng bức được mát mẻ, khiến cho đêm dài mau sáng. Chúng sanh nương theo sức trí huệ của chư Phật, phát sanh vô minh, luân hồi lục đạo, tạo các nhân gây khổ, hứng chịu các khổ báo. Do mê Phật tánh nên chẳng giác, quên mất viên châu trong chéo áo, trái nghịch, xa rời bổn phận, lực, dụng, lẽ thật v.v… Mê, ngộ tuy khác, tâm tánh chẳng hai. Hiểu rơ điều này, sẽ bỏ mê trở về ngộ, bỏ chúng sanh theo Phật, thẳng thừng khiến cho chúng sanh trong tâm Phật, tâm nào cũng đều làm Phật, chư Phật trong tâm chúng sanh, niệm nào cũng chứng chân, như khơi thông Trường Giang, Hoàng Hà, cuồn cuộn chẳng thể ngăn được. Nhưng cần phải cậy vào từ lực của Phật, văng sanh Tây Phương th́ mới có thể “hễ đắc bèn vĩnh viễn đắc”, chẳng đến nỗi bỏ lừng giữa chừng! Ví như khách làm kẻ bần tiện, mà là con ông trưởng giả[26], vô lượng trân bảo chẳng cầu mà tự được.

          (Chống trượng nói): Di Đà từ phụ pháp trung vương, hun đúc thánh phàm chứng chân thường.

          11) Nguyện đem uế độ ba ngàn cơi, gieo hết Lạc Bang chín phẩm sen. Nhắn gởi thượng nhân đang tham học[27], Cực Lạc gấp về giống Phổ Hiền.

          Một niệm tâm tánh của chúng ta bất sanh, bất diệt, chẳng phải Sắc, chẳng phải Không, theo chiều dọc chẳng có trước, sau; theo chiều ngang trọn chẳng ngằn mé! Bất biến tùy duyên, trải chín pháp giới mà chẳng giảm. Tùy duyên bất biến, chứng Phật đạo, nhưng chẳng tăng. Quang minh thấu triệt, thọ dụng tự tại, đúng là chẳng hai, chẳng khác với chư Phật. Nhưng do mê Chân mà đuổi theo vọng, trái giác, theo trần, khiến cho chúng sanh và Phật cách xa, khổ lạc khác biệt vời vợi. Do vậy, đức Thế Tôn dùng ngôn giáo rộng diễn, v́ Thật mà hành Quyền, lập trọn các địa vị thuộc năm thừa. Khai Quyền, hiển Thật, đồng nương về pháp môn Tam Đức. Không ǵ chẳng nhằm khiến cho họ bỏ vọng theo Chân, trái trần, hợp giác, phục hồi thiên chân sẵn có, đích thân chứng giác đạo vô thượng. Lại muốn cho khắp cả ba căn thành tựu ngay trong đời này, đặc biệt mở ra Tịnh Độ, chuyên khuyên văng sanh. Dù là Đẳng Giác Bồ Tát, hay nghịch ác phàm phu, đều dạy họ nghĩ nhớ Di Đà, văng sanh Tây Phương. Ấy là v́ nương vào từ lực của Phật, khiến cho phàm phu nhanh chóng thoát khỏi sanh tử, Bồ Tát mau thành Chánh Giác. Đúng là cương tông của pháp tạng, là đường tắt tu tŕ. Ai nấy hăy nên hăng hái phát khởi đại tâm, đừng cô phụ Phật tánh sẵn có.

          (Chống trượng nói): Chỉ nên gởi thân nơi ao sen, mau chứng thân Tịch Quang thường trụ.

          12) Chân Như pháp tánh vô h́nh thể. Tâm, sắc, hữu, không, thảy chẳng màng. Thanh tịnh trang nghiêm diệu khó tưởng, chẳng ĺa động tác nói năng chi!

          Chân Như pháp tánh vốn chẳng có tên gọi “chúng sanh, Phật, phàm, thánh”. Viên giác diệu tâm há có tướng trời, người, thăng, giáng? Chỉ v́ mê chân, đuổi theo vọng, xuôi theo gịng[28], quên mất cội nguồn, đến nỗi luân hồi trong sáu nẻo bao kiếp chẳng thôi! Đại giác Thế Tôn đặc biệt rủ ḷng thương xót, dạy cho biết quê nhà vốn sẵn có, chỉ đường tắt trở về nguồn. Cực lực bàn Tịnh Độ, khuyên khắp văng sanh. Nếu có thể niệm đâu nghĩ đó, tŕ danh hiệu Phật, lâu ngày chầy tháng, sức tột bậc, công tinh thuần, tự nhiên Năng lẫn Sở đều vắng lặng, tâm lẫn Phật cùng mất, chẳng ĺa một niệm hiện tiền, đích thân chứng tam-muội, hiểu thấu triệt tự tâm, đạt được đại tổng tŕ. Như thế th́ vẫn ở trong Sa Bà, mà đă là con thật sự của đức Di Đà; chưa sanh về Cực Lạc, đă là bạn lành của Đại Sĩ. Dẫu căn cơ yếu kém, chưa đạt tới mức ấy, vẫn có thể trong đời hiện tại phước sâu, thọ dài, ngàn điều lành tụ tập nơi thân, lâm chung chư thánh ứng hiện, Phật tiếp nghênh, bao kiếp ngao du Tịnh Độ. Hăy nói xem v́ sao được như thế?

          (Chống trượng nói): Dây leo cổ thụ hơn ngàn cỏ[29], nước vào biển cả vua trăm sông.

          13) Bốn sắc hoa sen giữa lá xanh. Mỗi hoa chở một đức Di Đà. Đừng ngờ Tịnh Độ đường xa thẳm. Giọt mưa đời người c̣n nhiều hơn[30].

          Đấng giáo chủ Lạc Bang Di Đà Thế Tôn tế độ không ngằn mé, dẫn dụ chẳng lường được! Trong lúc tu nhân, Ngài phát ra bốn mươi tám đại nguyện, đắc quả thâu nhiếp hữu t́nh thuộc chín pháp giới khắp mười phương. Do vậy, sông tuôn, sóng vỗ, cùng về cơi Tịnh. Biển chứa hư không, đều chứng chân thường. Trên th́ Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là bậc Đại Quyền Bồ Tát, dưới th́ con vẹt, sáo, nhồng, địa ngục, ngạ quỷ, phàm phu dẫy đầy triền phược, nếu trọn đủ ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, không một ai chẳng được nhiếp thọ. Do dùng tín nguyện của chính ḿnh để cảm ḷng từ bi của Phật, nương vào sức oai thần, thẳng thừng vượt thoát Ngũ Trược! Đă sanh vào Tịnh Độ, nhờ duyên thù thắng ấy, sáu căn tiếp xúc không ǵ chẳng phải là Phật cảnh. V́ thế, nhanh chóng đoạn phiền hoặc, mau lên bờ giác. Cổ đức nói học đạo trong các môn khác như con kiến ḅ lên ḥn núi cao. Niệm Phật văng sanh giống như căng buồm thuận nước. Ḷng từ lồng lộng đời này, ḷng bi thấu tột mạt kiếp, dẫu là thánh nhân vẫn c̣n có điều chẳng biết, phàm phu há c̣n ǵ để khoe khoang? Khẩn thiết cầu mong ai nấy hăy cung kính tin lời Phật, gấp cầu văng sanh.

          (Chống trượng nói): Phát trọn ba tâm siêng niệm Phật. Ai mà sen báu chẳng sanh vào?

          14) Gạt sóng t́m nước, vốn không nước. Biết nước thành sóng, nước tràn trề. Muốn đắc Như Lai chân giải thoát, tâm hạnh chúng sanh gấp nghiên cầu[31].

          Tâm tánh của Phật và chúng sanh vốn đồng, do mê hay ngộ mà phân cách, khổ lạc khác xa vời vợi! Nơi chúng sanh th́ trái giác, theo trần, trọn đủ vô lượng phiền năo Hoặc nghiệp, công đức trí huệ chẳng có cách nào hiển hiện, như nước do gió lùa mà thành sóng. Nơi chư Phật bèn “trái trần, hợp giác”, trọn đủ vô lượng công đức trí huệ, phiền năo Hoặc nghiệp sạch làu chẳng sót, như sóng do gió lặng mà thành nước. Nếu muốn thành Phật, bỏ chúng sanh, trái trần, hợp giác, ắt phải dùng cảnh giới của Phật làm tăng thượng duyên, phát trọn ba tâm, chấp tŕ thánh hiệu, khăng khăng vâng giữ, đau đáu dấy khởi, tám gió chẳng thể động, vạn duyên chẳng thể dời, niệm nào cũng phản chiếu nguồn tâm, tâm nào cũng đoạn trừ gốc vọng. Một mai sức tột cùng, công đă thuần, tâm không, cảnh lặng, hết sạch vô minh, Phật tánh tỏ lộ rạng ngời, tự hồi phục thiên chân vốn có, thành tựu giác đạo vô thượng. Hăy nói xem một câu “quay lại gốc, trở về nguồn” phải nói như thế nào đây?

          (Chống trượng nói): Mây trôi lờ lững đă cuốn sạch, tự nhiên trăng tỏ rạng bầu trời.

          15) Nếu ai chỉ niệm Di Đà Phật, th́ là vô thượng thâm diệu Thiền. Tam thừa, Thập Địa sanh từ đó. Lục độ, vạn hạnh Thể vẹn toàn.

          Một pháp Tịnh Độ siêu việt các pháp khác, không ǵ lớn mà ra ngoài được, không ǵ nhỏ chẳng gồm trong, không căn cơ nào chẳng thâu nhiếp, không căn tánh nào chẳng thích hợp, không pháp nào chẳng nhiếp, không hạnh nào chẳng vẹn! Trên th́ trọn khắp mười phương, dưới th́ cứu vớt tam đồ. Hết thảy các pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không ǵ chẳng từ pháp giới này lưu xuất. Hết thảy các hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thật, không ǵ chẳng quy hoàn pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp được dự vào Bổ Xứ. Ngay trong đời này, quyết định chứng Bồ Đề. Chúng sanh trong chín pháp giới ĺa pháp này, trên là chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp này, dưới là chẳng thể lợi khắp quần sanh. Từ sau hội Hoa Nghiêm khuyến tấn, hết thảy các vị Bồ Tát trong các thế giới hải tận hư không, chẳng vị nào không cầu sanh Tịnh Độ. Từ lúc được diễn thuyết ở Kỳ Viên cho tới nay, phàm hết thảy các trước thuật tại Tây Thiên, Đông Độ, đều có nguyện dẫn về liên bang. Đấy là chuyện đấng vô thượng pháp vương, từ phụ đệ nhất mới chứng biết được, chẳng lời lẽ nào có thể diễn tả nổi!

          (Chống trượng nói): Phát trọn ba tâm, vượt chín giới. Chẳng rời đương niệm, đắc tự tại.

          16) Tây Phương có nẻo ít người đi. Một câu Di Đà tối thượng thừa. Nắm tay lôi đi, chẳng chịu bước. Kẻ ấy chịu đi, mới tương ứng.

          Pháp môn Tịnh Độ giống như biển cả. Theo chiều dọc, sâu không đáy; theo chiều ngang, rộng không bờ. Dung nạp trọn khắp trăm sông, nuốt trọn vạn phái. Vô biên giáo vơng đều là cước chú [của pháp này][32]. Vô lượng hành môn đều làm trang nghiêm. V́ vậy, Hoa Nghiêm hải chúng đều tuân theo mười đại nguyện vương. Xưng niệm một lần như kinh Pháp Hoa đă dạy, ắt đều chứng Thật Tướng của các pháp. Mười phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài để tán dương. Cao tăng trải các đời phát kim cang thệ nguyện lưu truyền. Quư vị đă xuôi vào biển Phật, hăy nên vào phổ môn, dùng pháp Phản Văn của đức Quán Âm để tŕ thánh hiệu Di Đà. Như gà ấp trứng, như con nhớ mẹ, sáng ở đâu, tối tại đó, niệm đâu chú tâm vào đó, bỗng dưng tâm lẫn Phật cùng mất, trước sau đều đoạn, tự nhiên mây mê hết sạch, bầu trời chân tánh rạng ngời. Uế nghiệp tiêu, tịnh báo hiện tiền. Nhập cảnh giới Phật, thọ dụng như Phật, chẳng rời một niệm hiện tiền, đích thân chứng Pháp Thân. Sau đó, nương theo nguyện luân của chính ḿnh, vào biển sanh tử, cho đến hết đời vị lai độ thoát hữu t́nh, chẳng c̣n cơi để sanh vào mà đều thành Phật đạo.

          (Chống trượng nói): Do đây, đường thẳng thênh thênh. Lập tức quay về gặp chủ nhân.

          17) Một câu Di Đà: Quyền trong Thật. Phải biết trong giáo có chân truyền. Hồng danh vừa dấy, phàm t́nh đoạn. Mây tan, trăng rạng giữa lưng trời.

          Pháp tạng mênh mông, khó lường sâu rộng. Phật địa xa thẳm, ai thấu đạt ngằn mé. Chẳng nương theo giáo pháp phù hợp căn cơ, sao có thể triệt để trở ḿnh? Nếu đạt được môn phương tiện, tự có thể thẳng thừng chứng nhập. Do vậy, đức Thế Tôn phát tâm đại bi, khiến cho khắp chúng sanh chuyên tu Tịnh nghiệp, ngơ hầu bọn phàm phu đang bị phiền năo trói buộc sẽ tŕ thánh hiệu Di Đà, dùng quả đức của Ngài làm cái tâm tu nhân, chuyển biến phàm t́nh, thành tựu thánh trí. Do ghét uế mà ĺa uế, như gột nhơ để chẳng nhơ! Do ưa tịnh mà đạt được tịnh, như nhuốm hương mà được thơm tho. Đoạn Tam Độc bèn viên minh Tam Trí, diệt lục tặc mà lục thông tự tại. Thâm nhập biển Tát Bà Nhă (Sarvajña, Nhất Thiết Trí), cao đăng địa vị A Bệ Bạt Trí. Trong một niệm, cúng dường chư Phật trọn khắp mười phương. Tột đời vị lai, độ chúng sanh tột cùng pháp giới. Tuy là như thế, hăy nói một câu “ngay từ phàm mà thành thánh” rốt cuộc là để làm ǵ vậy?

          (Chống trượng nói): Do đất ngă, từ đất đứng dậy. Chuyển phàm thành thánh do lư này.

          18) Một câu Di Đà Không, Giả, Trung. Ngàn môn vạn phái thâu tóm trọn. Niệm tới tâm lẫn Phật cùng mất. Thoáng chốc lại gặp chủ nhân cũ.

          Chỉ thú của Tịnh Độ mầu nhiệm chẳng lường! Nhất Chân dứt bặt đối đăi, Tam Đế viên dung. Nhân thấu triệt biển quả, chúng sanh và Phật vốn tự như một. Quả thấu triệt nguồn nhân, phàm thánh vốn chẳng hai. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Pháp “chỉ thẳng tâm người” c̣n kém phần lạ lùng, đặc biệt. Niệm Phật trong đời này, thành Phật ngay trong đời này. Trải nhiều kiếp tu chứng, càng thêm ngưỡng mộ phong thái cao vời. Thích hợp trọn khắp căn cơ thượng, trung, hạ, thống nhiếp Luật, Giáo, Thiền Tông. Như trời rộng che khắp các loài, tợ đất dày nâng đỡ muôn vật. Dạy chẳng sót một ai, như mưa đúng thời nhuần tưới vạn vật, ba loại cỏ, hai loại cây[33] đều sum suê. Hễ hướng về, liền được nhiếp thọ, dường biển cả dung nạp trăm sông, ngàn gịng muôn nước đều đổ hết vào đó. Quư vị muốn thoát sanh tử, hăy gấp mau vâng thuận, cốt sao tâm ḿnh chỉ có Phật hiệu đúc thành một khối, chẳng chia “ta, người”, trọn chẳng có Năng, Sở. Như thế th́ diệu tánh vốn có mới có thể triệt để hiển lộ trọn vẹn, Vô Thượng Bồ Đề mau được viên măn rốt ráo.

          (Chống trượng nói): Chuyên niệm Như Lai Vô Lượng Thọ, liền theo Thế Chí chứng Viên Thông.

          19) Phật chân Pháp Thân trọn vô tướng. Ứng cơ để cảm thường thích hợp. Trăng in ngàn sông, chẳng sai lệch. Xuân về thảo mộc thảy xanh tươi.

          Chân Pháp Thân của Phật tṛn đầy pháp giới. Theo chiều dọc, cùng tột ba đời; theo chiều ngang, trọn khắp mười phương. Chẳng động Chân Tế, thích hợp trọn khắp các căn cơ. Vừa khéo phù hợp, trọn chẳng sai lệch! Giống như mùa Xuân ôn ḥa, tăng trưởng trăm loài thảo mộc, há Xuân bận ḷng? Cũng giống như vầng trăng trong mát vằng vặc, in bóng trọn khắp ngàn sông, nhưng trăng chẳng khởi ư. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Phật thân sung măn ư pháp giới, phổ hiện nhất thiết chúng sanh tiền, tùy duyên phó cảm mỵ bất châu, nhi hằng xử thử Bồ Đề ṭa” (thân Phật trọn khắp trong pháp giới, hiện khắp trước hết thảy chúng sanh, tùy duyên cảm ứng chẳng hề sót, luôn ngự trên ṭa Bồ Đề này). Sơn tăng chẳng thích xuôi gịng, căng buồm, tốt nhất là ngược gió, bẻ lái. Lại hỏi các vị: “C̣n được thấy thân Phật nữa chăng?” Nếu nói “chưa từng thấy”; [thân Phật] đă là trọn khắp pháp giới, trong mười hai thời, nơi sáu căn của các vị, phóng quang, rúng động đại địa, v́ sao chẳng thấy? Nếu nói “đă từng thấy”, thân Phật tướng mạo ra sao, hăy thử nói xem? Hồi lâu mà các vị vẫn tiếc nuối chẳng đáp, sơn tăng chẳng khỏi nói thay một câu chuyển ngữ vậy.

          (Chống trượng nói): Giữa mây, mặt trời mọc rạng rỡ. Biển thẳm, sóng thu vỗ dập dềnh!

          20) Như Lai phước đức trí huệ tướng, trọn trong một niệm của chúng sanh. Gió quét sạch mây, rốt ráo trọn, khắp trời đều thấy vầng nhật hồng!

          Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng khác biệt. Do mê hay ngộ mà tách rời, thăng trầm khác nhau vời vợi. Dẫu khác nhau vời vợi, Thể vốn chẳng khác! Như vàng ở trong kho, viên châu nơi chéo áo, do trọn chẳng biết, hư vọng chịu nghèo túng! Nếu gặp bậc có trí từ bi chỉ dạy, th́ vô tận bảo tạng vốn là của báu trong nhà, tùy ư thọ dụng; từ đó, đắc đại tự tại. V́ thế, đức Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác, đă than rằng: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc. Nếu ĺa vọng tưởng, Nhất Thiết Trí, tự nhiên trí liền được hiện tiền”. Hăy nên biết mê th́ trí huệ lẫn đức tướng, hoàn toàn trở thành vọng tưởng, chấp trước. Ngộ th́ vọng tưởng, chấp trước vốn là trí huệ và đức tướng. Giống như nước đông thành băng, băng tan thành nước. Mọi người hăy gấp nên nội chiếu, khôi phục tâm tánh vốn có, ngơ hầu chẳng đến nỗi mê muội chính ḿnh, đuổi theo sự vật, mai một thân pháp vương. Hăy nói thân pháp vương là như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Ánh nắng, bóng mây bàn Chân Đế. Sắc núi, tiếng suối hiện bảo dung.

          21) Bồ Tát trăng trong mát, dạo chơi rốt ráo không. Chúng sanh tâm thủy lặng, hiện h́nh bóng Bồ Đề.

          Bồ Tát niệm nào cũng muốn độ chúng sanh, chúng sanh tâm nào cũng nhớ nghĩ Bồ Tát, giống như hai tấm gương chiếu lẫn nhau, ngàn viên châu hiện bóng lẫn nhau, cảm ứng đạo giao, tự đạt được tế độ. Nếu tâm chẳng chân thành, sẽ khó đạt được lợi ích, do tự ḿnh che ngăn, chẳng phải lỗi của Bồ Tát. Bậc đại sĩ Viên Thông, thệ nguyện rộng sâu, tế độ chẳng ngằn mé, phương tiện khó lường. Cơi cơi, trần trần, nơi nơi, chốn chốn, hễ có cầu đều ứng, không cảm nào chẳng thông. Như một vầng trăng in bóng ngàn sông, trọn chẳng có trước sau, sai lệch, mà ngàn sông đều hiện một vầng trăng, [bóng trăng ấy] có thể có sáng, tối, đến, đi sai khác. Cần phải biết Bồ Tát như vầng trăng nơi tâm, tâm chúng sanh như nước. Nước trong lặng, trăng hiện toàn thể. Trăng hoàn toàn chẳng chọn lựa nước để hiện bóng. Nước nhơ bẩn, xáo động, trăng chẳng có ánh sáng cố định, trăng chẳng bỏ nước mà đi! Nơi nước bèn có trong, đục, động, tĩnh. Nơi trăng chẳng có lấy, bỏ, đến, đi. Nếu nương theo nghĩa này để cảm Bồ Tát, chắc chắn nghiệp chướng tiêu trừ, trí huệ khai phát, hiểu rơ tự tâm ngay trong một niệm, thành Phật quả trong tương lai. Tuy nhiên, do trai tăng mà vui mừng tán dương, lại làm như thế nào đây?

          (Chống trượng nói): Ḷng thành vừa cảm, ngồi ṭa ngàn hoa, vạn phước khôn ngằn, trăm đời hưng thịnh.

          22) Ân trạch Bồ Tát khắp mười phương. Đàn tín chí thành, quang soi rọi. Muốn biết chỗ cảm ứng đạo giao, xin nh́n trăng in ngàn sông rạch.

          Tâm Bồ Tát trọn đủ đại từ bi, như trời che khắp, như đất chở đều, chẳng có chúng sanh nào chẳng mong độ thoát. Tâm chúng sanh trọn đủ đại oai thần, trọn chẳng có một điều ác, viên măn các đức, vốn chẳng hai, chẳng khác với Bồ Tát. Chỉ v́ tùy thuận nhiễm duyên, đến nỗi mê muội bản thể. Ví như trong pḥng tối, đụng phải chất báu, không chỉ chẳng thọ dụng được, ngược lại c̣n bị tổn thương! Mọi người chẳng sợ trèo non vượt biển tới đây cúng dường Bồ Tát, trai tăng, thỉnh pháp, rốt cuộc là nương vào sức của ai, có thể biết nổi hay chăng? Nếu có thể biết, tốt lành chi bằng! Giả sử chưa hiểu, ắt cần phải chí thành khẩn thiết, lễ bái, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, xưng danh hiệu của Ngài. Trong mỗi niệm, phản quán nội chiếu, quán âm thanh ấy, từ đâu khởi lên, sẽ rơi vào đâu, sức đạt đến cùng cực, công đă thuần thục, sẽ thấy thấu triệt nguồn tâm, mới biết tự tâm vốn tự thanh tịnh. Đó gọi là “chúng sanh tức chẳng phải là chúng sanh”.

          (Chống trượng nói): Chẳng phải một phen xương buốt lạnh, há ngửi hoa mai nở ngát hương.

          23) Trí lực Bát Nhă chẳng nghĩ bàn! Vừa chiếu, Ngũ Uẩn thảy rỗng rang. Ai nấy đă muốn thoát khổ ách, sao chẳng dốc chí mà ngưỡng vọng?        

          Bản thể của Ngũ Uẩn là Như Lai Tạng. Chúng sanh chẳng hiểu, hư vọng dấy tham đắm. Do vậy, vừa mê, bao kiếp luân chuyển. Chỉ có đức Đại Sĩ ta dùng trí Bát Nhă chiếu kiến các Uẩn đều không, vượt khỏi các khổ ách, viên thành giác đạo. Chánh trí ấy như khối lửa lớn, bốn phía đều chẳng thể tiến vào được! Hễ tiến vào, sẽ bị lửa thiêu. Như ao trong mát, chung quanh đều có thể gột rửa, hễ gột rửa bèn ĺa chất nhơ. Như thuốc A Già Đà, trị khắp các bệnh. Như Chuyển Luân Thánh Vương cai quản bốn châu. Như Kim Cang Vương có thể phá hoại hết thảy, chẳng vật nào có thể phá hoại nó. Như thái hư không có thể chứa đựng muôn vật, trọn chẳng có một pháp nào có thể trốn thoát. Mọi người ai nấy hăy nên phỏng theo bậc tiên giác, phản chiếu Uẩn tánh. Chiếu thể đă lập, các Uẩn đều nhanh chóng rỗng không! Từ đấy khế nhập Bát Nhă sâu xa, vượt các khổ ách. Vô minh hết mà diệu tánh phô bày toàn vẹn, các pháp đều không, triệt chứng Vô Sanh. Noi theo chư Phật, thành Vô Thượng Đạo, kế thừa chư tổ, truyền Bất Nhị tông. Tuy nhiên, lại có sự nhiệm mầu chẳng truyền của Phật, Tổ, các vị c̣n e ngại ǵ nữa hay chăng?

          (Chống trượng nói): Không mây che ngang núi, trăng in nơi sóng tâm.

          24) Tâm cảnh hai pháp đều đối lập, vô biên sanh tử khởi từ đó. Nếu ngay nơi cảnh hiểu vô tâm, liền chứng Như Như Thể sẵn có.

          Cái tâm trong một niệm hiện tiền vốn tự vô sanh, do cảnh mới sanh. Hết thảy các cảnh hiện tiền vốn chẳng có, do tâm mà có. Mê là do mê cảnh bèn mê tâm. Ngộ là v́ ngộ tâm liền ngộ cảnh. Đó gọi là “căn và trần cùng nguồn, trói buộc và giải thoát chẳng hai!” Cũng như do đất mà té, do đất mà đứng dậy. Nếu có thể biết rơ cảnh chính là tâm, cảnh sẽ chẳng thể được! Do tâm chính là cảnh, tâm do đâu mà có? Tự nhiên hai đằng đều dứt bặt, chẳng ngự nơi Trung Đạo. Ĺa khỏi giả danh “phàm, thánh”, khế hợp tâm ấn của Phật, Tổ, viên măn vô thượng giác đạo, chứng Pháp Thân thường trụ. Nghĩa “tâm và cảnh sanh ra nhau, diệt lẫn nhau” như sơn tăng vừa nói trên đây, sợ mọi người chưa thể tin chắc chắn! Chẳng khỏi dẫn lời một vị cổ đức để chứng minh. Ngài Bàn Sơn nói: “Tâm nguyệt cô viên, quang thôn vạn tượng. Quang phi chiếu cảnh, cảnh diệc phi tồn. Quang cảnh câu vong, phục thị hà vật?” (Vầng trăng trong tâm riêng tṛn, ánh sáng nuốt chửng muôn h́nh tượng. Quang chẳng chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng c̣n! Quang và cảnh đều mất, lại là vật ǵ?) Mọi người có hiểu rơ hay chăng?

          (Chống trượng nói): Nước vẫn chảy về biển, trăng rọi chẳng ĺa trời!

          25) Lay động một giọt nước Tào Khê, đại thiên lập tức lưu truyền khắp. Nếu ai vừa khẽ nhép mồm mép. Năm Uẩn rỗng toang, muôn đức tṛn.

          Nếu luận định chuyện này, ai nấy đều hiện thành, vẹn đủ thánh trí, trọn chẳng có phàm t́nh. Chỉ v́ mê vọng, mất ngay sự sáng suốt vốn có, đến nỗi khiến cho Phật tánh ngược ngạo trở thành chúng sanh. Các vị đă muốn quay lại gốc, trở về nguồn, hăy theo dấu bậc tiên giác. Cần phải biết pháp vị Tào Khê để nối tiếp tâm tông. Xưa kia, có vị Tăng hỏi thiền sư Pháp Nhăn: “Như thế nào là một giọt nước Tào Khê?” Ngài Pháp Nhăn nói: “Là một giọt nước nơi nguồn Tào”. Vị Tăng chẳng hiểu ư chỉ ấy, như vào pḥng tối, chẳng thấy bản thân. Thiên Thai Thiều quốc sư đúng lúc ở ngay bên cạnh, nghe lời ấy giống như cái thùng thủng đáy. Pháp Nhăn nói: “Ông thấy đạo lư ǵ, nói thử xem?” Thiều công nói: “Là một giọt nước nơi nguồn Tào”. Pháp Nhăn bèn ấn khả. Lại nói vị Tăng ấy và Thiều công cùng nghe lời đó, mà ngộ và chẳng ngộ, hăy thử kiểm điểm xem! Nếu kiểm ra được, đúng là ở trong biển sanh tử nóng bức, giăng mây đại từ, xối trận mưa pháp lớn, nhuần thấm trọn khắp hết thảy chúng sanh khô khao. Nếu kiểm chẳng ra th́ hăy kiểm xem chẳng thấy thứ ǵ vậy?

           (Chống trượng nói): Điệu lưu thủy cao sơn, Tử Kỳ[34] mới thấu hiểu.

          26) Hết thảy các ác đều chớ làm. Tất cả điều thiện đều phụng hành. Thân tâm thanh tịnh, sạch trần cấu. Vô thượng Phật đạo mau viên thành.

          Như Lai xuất thế, giáo hóa chúng sanh, không ǵ chẳng nhằm dạy họ thâu nhiếp thân, miệng, ư, đoạn ác, tu thiện, khôi phục tâm tánh vốn có, thành vô thượng đạo mà thôi. Xưa kia, Bạch Cư Dị hỏi Ô Khỏa thiền sư: “Như thế nào là đại ư của Phật pháp?” Sư nói: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện”. Ông Bạch nói: “Đứa con nít ba tuổi cũng có thể nói như thế”. Sư bảo: “Tuy đứa con nít ba tuổi nói được, nhưng ông cụ tám mươi tuổi vẫn chưa làm được”. Nói đúng sự thật, chỉ có Phật thấu hiểu rốt ráo! Người đời chẳng biết, coi đó là thiển cận! V́ thế, chẳng gắng tu đức, chẳng ra sức sửa lỗi, bao kiếp luân hồi sanh tử! Nhưng hai câu ấy chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Nếu muốn đích thân chứng, hăy nên cầu trong cuộc sống thường nhật. Phàm các chuyện trái nghịch “trung, hiếu, tiết, nghĩa”, đều triệt để ĺa bỏ. Phàm các chuyện phù hợp “trung, hiếu, tiết, nghĩa”, hăy toàn thân gánh vác, ắt khiến cho ḷng ham muốn của con người đều hết sạch, thiên lư lưu hành. Tự nhiên diệu tánh hoàn toàn phô bày, khác nào vẹt mây, mặt trăng lộ ra, mới biết trước kia đoạn ác, tu thiện đều thuộc vào quang cảnh nơi bổn địa của Đệ Nhất Nghĩa Đế. Tuy vậy, do trai tăng mà vui mừng tán dương, lại nên làm như thế nào?

          (Chống trượng nói): Ngàn điều lành mây nhóm. Trăm phước tranh nhau đến.

          27) Thử hỏi tâm này do lẽ nào? Như ma-ni theo sắc đổi màu. Khi các sắc hiện, biết bản thể; viên thành Vô Thượng Phật Bồ Đề.

          Chân tâm thường trụ, diệu tánh Niết Bàn, Phật và chúng sanh chẳng hai! Chỉ v́ trong hành xử thường ngày chẳng biết, bèn thành luân chuyển bao kiếp dài lâu. Cần phải biết cái tâm này từ vô thỉ đến nay, suốt ngày tùy duyên, nhưng suốt ngày bất biến. Suốt ngày bất biến, mà suốt ngày tùy duyên. Tuy tùy duyên nhưng rốt ráo bất biến, như vàng đúc thành tượng Phật hay đại pháo, thiện ác khác biệt vời vợi, Thể chẳng đổi khác! Dẫu chẳng thay đổi, nhưng mặc t́nh tùy duyên, như gương hiện bóng người Hồ, người Hán, đẹp xấu lần lượt hiện, thể chất [của gương] chẳng tăng giảm. Thuận theo nhiễm duyên bèn luân hồi lục đạo; theo tịnh duyên bèn vượt khỏi tam thừa. Thăng trầm tuy khác, tâm và tánh chẳng hai. Như châu ma-ni thuận theo các sắc mà hiện, gặp trắng bèn [trở thành màu] trắng, gặp đen bèn đen, biến hiện chẳng đồng nhất, bản thể vẫn như cũ. Nếu có thể ngay trong lúc tùy duyên thấy thấu triệt bản thể bất biến, người ấy liền có thể cùng với tam thế chư Phật, lịch đại tổ sư, kề vai cùng đứng, nắm tay cùng đi. Tuy vậy, hăy nói xem: Cái Thể bất biến, thấy như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Núi trổ hoa tợ gấm, nước khe lắng xanh ŕ!

          28) Một niệm tâm nhỏ bé của ta. Xa ĺa có, không, các danh tướng. Ngàn hiền vạn thánh chẳng thể nói. Thể ấy chẳng chân cũng chẳng vọng.

          Chân Như diệu tâm, giác tánh viên minh, ai nấy sẵn đủ, chẳng có ai không có, thật sự là chánh nhân để thành Phật, là căn bản của trí huệ. Chẳng không, chẳng có, xa ĺa trọn vẹn lỗi của tứ cú. Chính là Sắc, chính là Không, đôi đằng đều dứt bặt. Đoạn giả danh “chân, vọng”, dứt bặt danh xưng “chúng sanh, Phật”. Tṛn xoe xoe, sáng ngời ngời, Ngũ Nhăn chẳng thể nh́n phớt cái Thể ấy. Sạch trần trụi, đỏ lừ lừ, Tứ Biện Tài đều chẳng thể diễn nói tướng của nó. Kẻ mê cái tâm ấy th́ gọi là “phàm”, hư vọng hứng chịu vô biên nỗi khổ sanh tử, nhưng công năng chẳng giảm. Người ngộ cái tâm này được gọi là “thánh”, thường hưởng vô tận niềm vui Niết Bàn, nhưng lực dụng chẳng tăng. Mê và ngộ đă chia, thăng trầm cách biệt. Khổ, lạc tuy khác, bản thể chẳng khác. Sơn tăng chẳng tiếc khẩu nghiệp, v́ khắp mọi người, lôi kinh to lớn từ trong vi trần, chỉ bày viên minh châu nơi chéo áo. Xin ai nấy hăy lănh nạp của báu sẵn có trong nhà, tùy phần thọ dụng. C̣n nói “chính là như thế nào” nữa ư?

          (Chống trượng nói): Hiểu rơ bàn chân đến đỉnh đầu. Thanh trước, sắc sau tỏ rành rành.

          29) Đừng trụ vào đâu mà sanh tâm. Sanh tâm rốt ráo không chỗ trụ, bất động chân tế, xen tạp duyên, rành rành hiện bóng muôn sông rạch.

          Bồ Tát nương theo lẽ Chân mà trụ. V́ thế, trụ vào “vô sở trụ”. Tùy nguyện sanh tâm, cho nên sanh “không có ǵ để sanh”. V́ thế, kinh Bát Nhă dạy: “Hăy đừng trụ tâm vào đâu để sanh tâm. “Chẳng trụ vào đâu” là biết rơ căn và trần vốn là Không, thức tánh như huyễn. Giống như núi sông trong mộng, hoa và liễu trong gương. Do đó, có thể ở trong cơi trần mà chẳng nhiễm, trọn chẳng có tâm tham đắm thế tục. Bản thể của Phật, Pháp, Tăng Bảo là chân; Bồ Đề và Niết Bàn sẵn có trong tâm. Do vậy, xứng tánh khởi tu, chẳng thấy tướng năng tu và sở tu[35]. Kẻ sanh cái tâm ấy, dùng diệu tâm vô trụ để tu trọn vẹn đạo phẩm vô tác. Mây trùm cửa độ, sóng trào biển hạnh. Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Chỉ mong lợi khắp ta, người, chẳng tiếc đầu, mắt, tủy, năo. Phá hai chấp sạch làu, thấu đạt tam luân thể không. Vô trụ mà sanh tâm, sanh tâm mà vô trụ. Tịch chiếu chẳng hai, chân tục viên dung. V́ thế, Lục Tổ vừa nghe bèn nhanh chóng chứng chân thường, đă biết chỗ chứng của Lục Tổ hay chưa?

          (Chống trượng nói): Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?

          30) Thiền cơ vốn tự ĺa ngôn thuyết. Diệu thể viên thành chứng trước tiên. Linh quang riêng chiếu, chạm cảnh thức. Giơ hoa liền truyền nối tiếp tâm.

          Chân Như diệu tánh ai nấy đều viên thành, chẳng phải tâm, chẳng phải sắc, ĺa tướng, ĺa h́nh. Không và Hữu đều chẳng thể toan tính, phàm lẫn thánh đều chẳng thể gọi tên. Pháp nào cũng đều là nó, mê th́ ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ. Pháp nào cũng đều chẳng phải, hễ ngộ th́ toàn thể rạng ngời. V́ thế, ngài Quy Sơn[36] nói: “Linh quang riêng chiếu, vượt thoát căn trần”. Thể lộ chân thường, chẳng câu nệ văn tự. Tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên thành. Chỉ ĺa vọng niệm, chính là Như Như Phật. Mọi người đă tham cứu “ư của tổ sư từ phương Tây đến [Đông Độ]”, mong tiếp nối tông phong hướng thượng. Đối với căn trần, đă từng nhận biết linh quang riêng chiếu hay chưa? Nếu vẫn chưa thể, sơn tăng chẳng khỏi lắm mồm! Nơi mắt là thấy, nơi tai là nghe, nơi mũi phân biệt mùi, nơi lưỡi th́ đàm luận. Chỉ v́ xuôi theo trần lao, trái nghịch giác tánh, rong ruổi theo vọng, mê chân, khiến cho diệu tâm Niết Bàn sẵn có muôn kiếp trầm luân trong sanh tử, vô thượng như ư bảo châu bị chôn vùi dài lâu trong t́nh trần!

          (Chống trượng nói): Sơn tăng đặc biệt nêu lần nữa, mưa báu rải trân cứu kẻ nghèo.

          31) Tánh Nghe vốn sẵn thường viên thông. Động, tĩnh, thức, ngủ luôn rạng ngời. Nếu xoay cái Nghe nghe tự tánh, Sa Bà lập tức là Tịch Quang.

          Giáo thể trong Sa Bà hay khéo ở chỗ nghe tiếng. Tánh Nghe trong một niệm chính là căn bản để thành Phật. Thanh có, chẳng sanh; Thanh không, chẳng diệt. Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay, do mê trái cái Nghe vốn có, đuổi theo thanh mà lưu chuyển, chỉ cầu đa văn, chẳng hiểu quán tâm. Dẫu tŕ pháp do chư Phật đă nói, chẳng hiểu cái tâm “có thể nghe” của chính ḿnh, cho nên chẳng thể khế hội cái sẵn có, lănh nhận của báu gia truyền. V́ thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tương văn tŕ Phật Phật, hà bất tự văn văn. Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo”[37]. Quán Thế Âm Bồ Tát xưa kia được Quán Thế Âm Như Lai dạy dùng Văn, Tư, Tu để nhập tam-ma-địa, bèn nhập lưu vong sở[38], chứng Viên Thông chân thật. Mọi người sau khi đă nghe tiếng, và trước lúc chưa nghe, hăy quán ngược lại cái tánh Nghe này là do thanh mà sanh, theo thanh mà diệt ư? Hay là chẳng do thanh mà sanh, chẳng theo thanh mà diệt ư? Quán sát như thế, sức đến cùng cực, công đă tinh thuần, tự nhiên Văn Trần (thanh trần) thanh tịnh, tánh Nghe rơ ràng, tức là Quán Âm Đại Sĩ chẳng thể hay khéo một ḿnh được! Hải chúng hiện tại và vị lai, đều phải xếp hàng thành đội ngũ chỉnh tề sau [người đă hiểu điều đó]. Tuy vậy, hăy nói một câu cuối cùng, lại làm ǵ nữa đây? (Ra oai quát lớn, bước xuống pháp ṭa).

          32) Trên tri kiến lập thêm tri kiến, đó là cái gốc của vô minh. Tri kiến chẳng thấy tức Niết Bàn, “chẳng lập” liền đều cùng thoát khỏi, diệu đế ngàn thánh chẳng thể truyền.

          Chúng sanh trầm luân sanh tử, chư Phật chứng đắc Niết Bàn, đều do một niệm làm căn bản. Nhưng một niệm ấy, vốn trọn đủ chân giới, chân định, chân huệ, vốn chẳng có vọng tham, vọng sân, vọng si. Chúng sanh mê trái tự tâm, rong ruổi hướng ra bên ngoài truy cầu, chẳng thể biết cái vốn sẵn có. Đối với cái vốn chẳng có, cho là pháp thật sự có. V́ thế, do sáu căn tiếp xúc sáu trần, dẫn khởi sáu thức. Từ đấy, phát sanh vô lượng các thứ tri kiến, chẳng biết căn và trần vốn là không, thức tánh như huyễn. Không thể phản quán nội chiếu, khôi phục bổn thể, đến nỗi luân chuyển sanh tử chẳng có kỳ hạn. Nếu biết tất cả tri kiến hiện tiền này vốn tự chẳng sanh, tự nhiên đối với các trần cảnh chẳng dấy ḷng nắm níu. Hễ chẳng duyên theo trần, căn chẳng có duyên gặp gỡ, liền nhanh chóng chứng Bồ Đề Niết Bàn. V́ thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tri kiến lập kiến, tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết Bàn vô lậu chân tịnh” (Từ trên sự hay biết mà lập thêm một cái thấy nữa. Đó chính là cái gốc của vô minh. Chẳng thấy có sự hay biết th́ chính là Niết Bàn vô lậu chân tịnh). Đó gọi là “vạn cảnh bổn nhàn, duy tâm tự náo” (vạn cảnh vốn thanh nhàn, chỉ có tâm tự náo động). Hễ tâm chẳng sanh, vạn pháp đều dứt! Lại nói một câu cuối cùng để làm ǵ vậy?

          (Chống trượng nói): Hoa trên cành, Xuân nở. Đầm lạnh, bóng trăng in.

          33) Chuyện này không lúc nào chẳng hiện. Mọi pháp, mọi sự vốn tự nhiên. Chạm cảnh mà hay biết tự tánh. Há c̣n nhọc ḷng hỏi tổ Thiền?

          Nếu luận theo Đệ Nhất Nghĩa, th́ nơi mỗi người, vốn đă tự sẵn có, chẳng thừa, chẳng thiếu. Chuyện nào cũng đều hiển lộ, pháp nào cũng phô bày trọn vẹn. Khác nào Xuân đến hoa nở, chẳng khác kênh đă h́nh thành, nước bèn chảy theo. Tùy theo đi, đứng, nằm, ngồi mà hiển lộ thần thông vốn có. Trong “thấy, nghe, hay, biết”, làm Phật sự to lớn. Khạc nhổ, nhấc tay, mặc áo, ăn cơm, mỗi mỗi đều là ư “[tổ sư Đạt Ma] từ phương Tây đến [Trung Hoa]”. Bát Nhă luôn khế hợp Tổ Sư Thiền. Ba đời dứt bặt, trọn chẳng có biến đổi từ đầu đến cuối. Mười pháp giới lặng ch́m, há có nóng lạnh đắp đổi? Nhưng vầng trăng rạng ngời giữa trời, sông nào cũng đều hiện bóng. Ví như thủy ngân rơi xuống đất, giọt nào cũng tṛn xoe. Đúng là khó gọi tên, khó h́nh dung, quả thật tối diệu, tối huyền. Ngàn trăm năm trước, cổ nhân đă sẵn biết tự thọ dụng tam-muội do người hiện thời chứng đắc, đă viết sẵn một bài kệ tụng như sau: “Nhất khí bất ngôn hàm hữu tượng, vạn linh hà xứ tạ vô tư, hiệp lộ đào hoa phong vũ hậu, mă đề vô địa tỵ tàn hồng” (Một khí không lời dung vạn tượng, vạn linh chẳng chốn dứt vô tư, nẻo hẹp sau mưa đào tơi tả, vó ngựa không chỗ tránh hoa rơi).

          (Chống trượng nói): Muốn biết mai sau như thế nào, chỉ nghe vạn chuyện giống như ông.

          34) Ta giơ gậy nâng trời chống đất. Thấu triệt đại ư “đến từ Tây”. Trước mắt mọi người liền trải ṭa, bèn tuyên dương Đệ Nhất Nghĩa Đế.

          (Nâng trượng nói): Một cây gậy chống, sống động như rồng, Thể vốn vắng lặng, tác dụng vô cùng. Thâu lại, đặt yên trong vi trần; phóng ra, chứa đựng thái hư không. Phô bày vật quư, tuôn chất báu đều là chuyện thừa thăi, “làm mái chèo, làm mưa dầm”[39] đừng bỏ công. Nếu là bậc Thiền giả có mắt, “cho” hay “đoạt” đều có thể chấn hưng Tông phong. Cổ đức nói: “Ông có chiếc gậy chống, đoạt chiếc gậy của ông. Ông chẳng có gậy chống, cho ông chiếc gậy chống”. Lại nói: “Ông có chiếc gậy chống, cho ông chiếc gậy chống. Ông không có gậy chống, đoạt gậy chống của ông”. Lại nói: “Hai phen cho và đoạt, là biệt hay là đồng?” Hăy gác “đồng” hay “biệt” tại đó, mọi người đă biết gậy chống hay chưa? Cái gậy chống ấy vốn chẳng có sanh; v́ thế, kiếp thành mà nó chẳng sanh. Vốn chẳng có diệt, cho nên kiếp hoại mà chẳng diệt. Tuy có h́nh tướng, ngũ nhăn rốt cuộc chẳng thể nh́n ngó! Có đại lực dụng, mười pháp giới thảy đều dựa vào. Tuy nhiên, chuyện này lại là như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Lay lay động động hướng cơ duyên, liền thấy rồng bay, báo đổi h́nh.

          35) Đệ Nhất Nghĩa Đế trọn không lời. Nói và chẳng nói thảy đều đúng. Ví như đất dày và trời thẳm. Cơi thế không ai tránh được đâu!

          Nếu luận theo Đệ Nhất Nghĩa, đúng là nên giải tán [pháp ṭa]. Chính mắt thấy mà đạo vẫn c̣n, th́ mới là bậc anh liệt. Tu Bồ Đề ngồi yên trong thạch thất, Thiên Đế Thích rải hoa tán thán. Các vị Bồ Tát đều diễn nói pháp Bất Nhị, Duy Ma Cật im lặng chẳng bàn. V́ thế biết: Tâm thông diệu đế, chẳng nói mà thường hừng hực nói. Tâm thần khế hợp chân thừa, chẳng nghe mà pháp “vốn sẵn như vậy” thường được nghe. Hiểu rơ điều này, trúc xanh biêng biếc đều là Chân Như. Hoa vàng thơm ngan ngát, không ǵ chẳng phải là Bát Nhă. Ngày qua, tháng lại, vốn thuộc tướng thường trụ. Mây bay, sông chảy, mới thấy h́nh dạng chẳng dời. Sấm rền, gió lay, băng tan, lá rụng, quạ kêu, sẻ hót, sắc núi, tiếng khe, mỗi mỗi đều bàn Thật Tướng, thứ nào cũng hoàn toàn hiển lộ Pháp Thân. Mọi người từ sáng đến tối, sáu căn đối trước hết thảy cảnh giới, chẳng thứ ǵ không phải [Pháp Thân]! Sao lại đợi sơn tăng khua mép, múa lưỡi th́ mới là Đệ Nhất Nghĩa ư? Do vậy, chẳng tiếc khẩu nghiệp, triệt để nói toạc ra. Tuy vậy, do trai tăng vui mừng mà khen ngợi một câu là để làm ǵ vậy?

          (Chống trượng nói): Xuân gieo một hạt thóc, Thu thâu hoạch muôn hạt.

          36) Há cần bàn Đệ Nhất Nghĩa Đế. Vạn tượng sâm la nói với nhau. Mưa xô giàn cải rơi đầy đất. Gió cuốn tơ liễu bay lên trời.

          Nếu luận theo Đệ Nhất Nghĩa, không chỉ sơn tăng chẳng có pháp ǵ để nói; ngay cả ba đời chư Phật cũng sẽ treo miệng trên vách! Tuy vậy, đạo vốn chẳng thể nói, mượn lời nói để hiển đạo. Lại từ cửa ngơ thứ hai, trực chỉ con đường hướng thượng. Nếu sơn tăng chưa thăng ṭa, trước khi duy-na bạch chùy[40], triệt để tiến thủ, th́ c̣n lải nhải đôi chút. Nếu không, đang cưỡi trâu mà t́m trâu, tới thuở nào mới xong? Mọi người từ sáng đến tối, cử động, nói năng, đều nương theo sức oai thần của Đệ Nhất Nghĩa. Do v́ ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ quá đỗi, sơn tăng chẳng tiếc lông mày quét đất[41], lại nêu bày ra. Chuyện này trước nay vốn đă hiện thành, chẳng ngại nói với các vị. Cây mai trên non, cội bách trước sân thường hiển lộ, mưa ban đêm, gió mùa Thu tỏ hiện lẫn nhau. Trên trời mây trắng lững lờ từng đám, đầu cành chim hót véo von. Nước trôi, hoa nở đừng bỏ lỡ; áo ấm, cơm thơm tự hiểu rành. Nhân, nghĩa, lễ, trí ta đều đủ, mừng, giận, buồn, vui há phải t́nh? Gặp duyên ngộ cảnh hay tiến thủ, kham báo ơn Phật, độ chúng sanh. Lại nói một câu cuối cùng để làm ǵ vậy?

          (Chống trượng nói): Đă khí khái rồi càng khí khái. Chẳng phong lưu cũng vẫn phong lưu!

          37) Đấng pháp trung vương vừa hướng thượng. Sâm la vạn tượng thảy nêu bày. Mắt thấy căn trần đều rụng sạch. Vô biên nhiệt năo thảy thanh lương.

          Chuyện hướng thượng nêu bày như thế nào? Lông rùa ngắn củn, sừng thỏ dài cả trượng. Chẳng phải tâm, chẳng phải sắc, lớn tột cùng, cứng tột bậc. Mảy trần chẳng lập, vạn đức phô bày trọn vẹn. Núi h́nh[42] chẳng do đâu mà bí mật, khối uẩn há thể chứa đựng? Ĺa vọng tướng (tướng hư vọng) huyễn hóa, trọn chân thường tịch chiếu. Trơ trọi, chẳng cùng vạn pháp làm bầu bạn. Sống động, riêng chấn hưng giềng mối to tát của Phật. Như chim bay lượn trên không, chẳng có chỗ vướng mắc; giống như nước đổ vào đồ chứa, sẽ vuông hay tṛn theo [h́nh dạng của đồ chứa] đó. Có thể làm Phật, có thể làm Tổ, kham làm thánh, kham thành cuồng. Khởi tâm suy lường, sẽ mau chóng đánh mất chân giác. Ĺa niệm hay biết, trực tiếp thấu đạt hiện lượng. Trên noi theo Phật, Tổ, măi dùng tàu thuyền. Chẳng chấp một pháp, chuyện ǵ cũng hiển lộ đại ư “đến từ Tây”. Chẳng bỏ sót một vật, ai nấy đều phô bày quang cảnh của chính ḿnh. Do vậy, gặp việc nhân bèn chẳng nhường, dốc cạn sức giúp đỡ. Chẳng cần dời núi, lấp hang, chẳng cần khoét thịt tạo thành vết thương. Ngay nơi thân khiến cho nhận biết, ngay nơi lưỡi khiến biết nếm vị, khiến cho khắp mọi người theo đường trở về nhà, đích thân thấy cha mẹ ruột của chính ḿnh. Như thế nào là cha mẹ ruột của chính ḿnh vậy?

          (Chống trượng nói): Chống đất, nâng trời, ngang vũ trụ. Thấy nghe, đường nẻo lộ rành rành.

          38) Chuyện hướng thượng nói như thế nào? Mọi pháp, mọi chuyện đều hiện tiền. Ngàn sông có nước, ngàn trăng rọi. Muôn dặm không mây, muôn dặm trời.

          Chuyện hướng thượng, ngàn thánh chẳng truyền. Bất sanh, bất diệt, chẳng đổi, chẳng dời. Ngẩng trông càng thêm cao, dùi mài càng thêm cứng[43]. Phàm chẳng thể giảm, thánh chẳng thể thêm. Chẳng có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, mà mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư nương theo điều này để nhận biết, vận động. Chẳng có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; do vậy, ứng cơ tùy duyên. Tam thừa, Thập Địa từ đấy mà ra. Lục Độ vạn hạnh viên măn nơi Thể. Diệu càng thêm diệu, huyền càng thêm huyền. Tâm muốn nghĩ mà ư dứt bặt, miệng toan bàn mà quên bẵng lời. Trí của Thân Tử (Xá Lợi Phất) chẳng thể biết, tài biện luận của Măn Từ (Phú Lâu Na) chẳng thể diễn tả. Chỉ có ông cụ Thích Ca và cư sĩ Duy Ma bi tâm chân thật, thiết tha, chỉ thẳng nguồn pháp. Chẳng tiếc lông mày của chính ḿnh quét đất, muốn cho khắp các quần sanh mũi hỉnh tận trời. Triệt để hiển thị cho người khác, do lấp miệng mà lặng im. Nói xem ngậm miệng lặng im lại hiển thị điều ǵ vậy?

          (Chống trượng nói): Ôi! Một khí vô ngôn dung vạn tượng, vạn linh không chỗ tuyệt vô tư!

          39) Chuyện hướng thượng mầu nhiệm vô cùng, liền ĺa các pháp, chẳng “có, không”. Nếu tại đỉnh đầu mở chánh nhăn; căn cơ nào chẳng phải tông phong.

          Chuyện hướng thượng chẳng dễ ṃ t́m. Vô tướng, vô h́nh, khó gọi tên, khó thấu đáo. Hết thảy đều là nó, mà hết thảy cũng đều chẳng phải. Hai bên chẳng lập, Trung Đạo chẳng dính mắc. Vừa nghe nói liền lănh hội ư chỉ, vẫn là độn căn. Từ ngay một câu nói bèn hiểu rơ tông thú, vẫn là sai lầm. Ĺa niệm, toàn thể liền hiển lộ; khởi tâm liền triệt để mai một. Sạch làu làu, đỏ hon hỏn, tṛn xoe xoe, sáng rực rỡ, tuyên dương th́ đă rộng lại càng rộng hơn, năm thời, tám giáo[44] chẳng thể tận. Khế chứng th́ đă giản ước lại càng giản ước hơn; cầm cành hoa, mỉm cười[45] liền phó thác. Do vậy, lưu truyền khắp pháp giới, rộng mở đường cho kẻ hậu học. Mỗi pháp đều lập ra cương tông để truyền tâm, cùng thể hiện nơi tay và mắt để tiếp dẫn chúng sanh. Hoặc nh́n vào vách[46] để an tâm, hoặc mài ngói[47] để tháo gỡ trói buộc. Hoặc nhướng mày, chớp mắt, hoặc giơ nắm tay, dựng thẳng phất trần. Hoặc hành chánh lệnh bằng một gậy, hoặc chỉ lối về bằng tiếng hét, ắt đều khiến cho cái tâm mong ngóng chụp giật [của hành nhân] hết sạch, pháp tánh sống động. Như vẹt mây mà trăng tỏ lộ, như trời cao, biển rộng, khôi phục Phật tánh vốn sẵn có, vĩnh viễn chứng chân giác nơi tự tánh. Lại nói xem chân giác là như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Ôi! Chân giác săm soi c̣n chẳng biết. Thoạt nh́n lại chẳng biết A Nan!

          40) Chuyện hướng thượng pháp giới tôn sùng. Vô biên pháp tạng tận bao dung. Tam thế chư Phật từ đấy có. Giáo dưỡng phàm thánh thảy gồm trong.

          Chuyện hướng thượng là cương tông của pháp giới. Chẳng chân, chẳng vọng, không khởi đầu, không kết thúc. Công sánh bằng tạo vật, khéo léo ngang hóa công. Mảy trần chẳng lập, muôn đức thuận theo, trọn khắp kẻ lanh lợi lẫn ngu xuẩn, bàng bạc trong ngoài Trung Hoa. Cha con vâng theo đó mà cha từ, con thảo, vua tôi nhờ đấy mà nhân hậu, trung thành. Ví như nguyên khí ngập tràn vũ trụ, khác nào thái hư diệt sạch dị, đồng. Dẫu tích tập Hoặc nghiệp, ở trong chướng ngại mà chẳng trở ngại. Đúng là viên thành phước huệ! Tuy ở trong chỗ thông suốt mà chẳng thông suốt, hết thảy đều chẳng phải là lư ngoài vạn tượng. Hết thảy đều là trong lúc khế hợp đạo, tánh và tướng thấu triệt lẫn nhau, Lư Sự viên dung. Thức chẳng thể hiểu, trí chẳng thể tột cùng. Đó gọi là “có mà chẳng có”. Đó gọi là “không mà chẳng không”. Đúng là khuôn mẫu to lớn để đúc thành Phật quả, là thần long tuôn mưa pháp. Mê th́ sẽ oan uổng luân hồi bảy nẻo[48], ngộ bèn chứng thẳng đại hùng. Mọi người muốn đạt được điều này, nhận biết chủ nhân ông trong nhà của chính ḿnh, c̣n ngại ǵ nữa chăng?

          (Chống trượng nói): Quán kỹ chỗ cúi, ngửa, nghe, nh́n. Hết thảy v́ ông hiện ngọc dung.          

          41) Chuyện hướng thượng xuyên suốt các cơi. Thấu trời thông đất thật phân minh. Thênh thang giống hệt đường vua dạo. Cơi thế chẳng ai dám đặt chân.

          Chuyện hướng thượng ĺa kiến, siêu t́nh, khó nghĩ, khó bàn, khó h́nh dung, khó gọi tên, chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, chẳng hoại, chẳng thành. Trước sắc chẳng phải là sắc, sau tiếng chẳng phải là tiếng. Sâu thẳm, u viễn không ai đến. Phẳng phiu, thẳng lối đáng nên liên tục tiến lên. Hoa đàm Thật Tướng tỏa hương thơm ngát. Chim nói pháp yếu ḥa giọng thánh thót. Cây mai trên non, cội bách trước sân thường hiển lộ. Mưa đêm, gió thu tỏ rạng lẫn nhau. Chạm vào mắt bèn hiểu rơ tông như nước đổ xuống ghềnh. Qua tai đạt được ư chỉ như cây cối sum suê. Năng lẫn Sở cùng mất, ba đời dứt bặt, căn trần vượt thoát, vạn đức viên minh. Đă đến đứng nơi đỉnh non chót vót, cần phải hướng đến đáy biển sâu thẳm. Chẳng rời nơi đang ở, đến thẳng giác thành. Cảnh và trí ḥa lẫn vào nhau, chứng Tịch Diệt Nhẫn. Tri kiến đắp đổi, đạo khế hợp Vô Sanh. Đắc thường, lạc, ngă, tịnh nơi Phật địa, đủ đức “nguyên, hanh, lợi, trinh”[49] của Càn. Do vậy, trên hoằng dương Phật đạo, dưới tế độ quần manh, khiến cho ai nấy đều đạt được cái tâm diệu giác vốn có. Từ đấy, muôn kiếp luôn hưởng thái b́nh. Mọi người có biết cảnh tượng thái b́nh hay chăng?

          (Chống trượng nói): Cơi bờ pháp giới không ai chiếm. Gió trăng quê cũ có ai tranh?

          42) Chuyện hướng thượng rời ĺa ngôn thuyết. Chẳng sanh, chẳng diệt, vốn tự nhiên. Trọn không một pháp nuôi vạn tượng. Lửa hồng thường nở đóa sen tươi.

          Chuyện hướng thượng h́nh dung thế nào? Bất sanh, bất diệt, chẳng phải sắc, chẳng phải không, chẳng ở chặng giữa, trong, ngoài, không thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai. Sanh tử và Niết Bàn đến đấy đều là hoa đốm trong hư không. Chúng sanh, chư Phật, ở đây đều là giả danh. Vắng lặng, tuy đủ ngũ nhăn mà chẳng có cách ǵ thấy được! Cao minh thay! Dẫu trọn tứ biện tài, chẳng thể tuyên dương. Chẳng có h́nh tượng mà đứng đầu vạn tượng. Chẳng phải pháp mà là cội nguồn vạn pháp. Thánh do vậy mà thành thánh, hiển các đức mà chẳng trụ vào đức. Phàm do vậy mà là phàm, tạo các lỗi mà chẳng nhiễm lỗi. T́nh tưởng chẳng thể nghĩ; danh từ, ngôn thuyết há thể diễn tả? Mê th́ trầm luân măi trong biển khổ; ngộ bèn nhanh chóng lên tánh thiên! Nếu có thể nội chiếu phản quán, ngay lập tức thấu triệt nguồn tâm, lần lượt dùng tâm ấn tâm, khiến cho lửa hết mà củi truyền, tột cùng đời vị lai tiếp nối huệ mạng, khiến cho khắp muôn loài tận mắt thấy diện mạo trước khi sanh ra. Lại nói “thấy diện mạo trước khi sanh ra” là thấy như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Ôi! Sáng ra rửa mặt trúng mũi, hai lỗ hít thở ngay trên đầu!

          43) Chuyện hướng thượng ĺa chân lẫn vọng. Phàm t́nh vốn là tạng Như Lai. Đoạn trừ phân biệt sạch làu làu, liền chứng Tỳ Lô sát trần tướng.

          Chuyện hướng thượng có tướng trạng ra sao? Chẳng trược, chẳng thanh, chẳng chân, chẳng vọng. Ĺa trọn bốn câu, bách phi nào báng? Diệu dụng khó nghĩ, công huân lạ lùng vô lượng! Không chẳng phải không, có chẳng phải có. Trái nghịch chẳng trái nghịch, hướng về chẳng hướng về. Tâm muốn nghĩ mà quên bặt suy tưởng, miệng toan bàn mà từ ngữ mất sạch. Chỉ v́ dân chúng sử dụng thường ngày mà chẳng biết, cho nên cảm chư Phật xứng tánh diễn nói. Muốn đạt được chỉ quy, cần phải thân cận bậc thầy. Tâm hăy khéo hiểu ư chỉ “dựng phất trần, giơ nắm tay”. Đừng bỏ lỡ nước trôi, hoa rụng. Chạm vào mắt đều là Bồ Đề, động niệm liền thành nghiệp chướng, liền đạt được nhất tâm chẳng sanh, lục căn rỗng tuếch. Thân lẫn thế gian đều mất, rốt ráo trở về nguồn. Nhân và pháp cùng mất, triệt để thỏa đáng. Đến đấy th́ trời cao biển rộng, mây tan, trăng sáng. Niết Bàn, sanh tử giống hệt như nhau. Phiền năo, Bồ Đề chẳng hai tướng. Chứng thường trụ Pháp Thân, dứt trôi lăn trong luân hồi. Do đă được thiết tha cầu thỉnh, thấy điều nhân chẳng nhường, mỗi mỗi đều giăi bày trọn hết, ai nấy đều cúng dường trọn khắp.

          (Chống trượng nói): Ôi! Đừng bắt chước nuốt trộng quả táo, nêu bày mùi vị cho người xem.

          44) Chuyện hướng thượng nêu cao chánh lệnh: Dẹp ma, chế ngoại, hun phàm thánh. Vô thỉ vọng hoặc tiêu tan sạch, nhanh chóng khôi phục tánh Chân Như.

          Chuyện hướng thượng toàn là nêu chánh lệnh. Diệu dụng khôi phục rộng lớn, oai lực hùng tráng. Giết, sống tự tại, như kim cang vương đao. Đẹp, xấu cách biệt vời vợi, như ma-ni, gương báu. Mũi nhọn hơi hé lộ, beo biến h́nh, rồng bay lên. Ánh lửa vừa nhá, chuyển phàm thành thánh. Khác nào nước chảy thành sông, giống như búng dây mực [đánh dấu, thợ cưa liền xẻ] thẳng gỗ. Nhanh chóng khiến cho vượt thoát căn trần, dường như không trung sương tan, trời rạng. Định huệ viên minh, như muôn sông lặng sóng, ánh trăng bèn hiện. Do vậy, tam thừa an tâm, quần ma xin tha mạng. Trời đất trong sáng, b́nh yên, nước hưởng ân, dân vui mừng. Dứt luân hồi huyễn hóa, ĺa hố sâu sanh tử. Luận về Thể: Chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh. Tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ dứt sạch. Bao trùm mười pháp giới vẫn c̣n dư, hết sạch ba đời chẳng thừa sót. Là cương tông của pháp tạng, là cốt lơi để tu tŕ. Đấy chính là chân tâm linh tri ly niệm của chính hành nhân, là Phật tánh tùy duyên bất biến. Chỉ v́ vọng tưởng chấp trước, bao kiếp chẳng thể đích thân chứng đắc. Hăy nói xem lúc chứng là như thế nào?

          (Chống trượng nói): Ôi! Biển lặng, trời trong, trăng rạng ngần. Khắp trời trọn đất đều thanh tịnh.

          46) Hăng hái tối thắng kim cang tâm. Thọ tŕ Như Lai kim cang giới. Nhập lưu, quên Sở chứng tịch diệt. Bao kiếp theo gót Quán Tự Tại.

          Như Lai chế định giới để điều ngự chúng sanh, làm cầu bến trong biển khổ, là người khéo hướng dẫn trong đường kinh sợ. Kẻ tiểu căn nương theo, liền được ĺa ác đạo, sanh lên trời, chứng Chân Đế, nhập Niết Bàn. Người đại căn nương theo, mau chóng khôi phục vạn đức vốn có, diệt vô minh, thành Phật quả. Lô Xá Na Phật dùng giới làm Thể. Do không điều ác nào chẳng hết sạch, nên gọi là Tịnh; không điều thiện nào chẳng trọn vẹn, nên gọi là Măn[50]. Cần phải biết Báo Thân viên măn của mười phương chư Phật đều do nghiêm tŕ tịnh giới mà quyết chứng. Các ông đă là Phật tử, đă thọ Phật giới, ắt phải noi theo bậc tiên giác, nghiêm tịnh Tỳ Ni (Vinaya, giới luật). Thà táng thân mất mạng, chẳng để hủy phạm đôi chút th́ mới thanh tịnh ba nghiệp, thành đại pháp khí. Rốt cuộc sẽ nêu gương rộng lớn cho cả tam giới, làm bậc đại đạo sư, nắm giữ kim chỉ nam cho vạn hạnh, đạt được tổng tŕ của pháp tạng, đoạn phàm t́nh để hiển thánh trí, báo Phật ân ḥng độ chúng sanh.

          (Chống trượng nói): Nhân giới sanh định, nhân định phát huệ, tam học viên minh, hai đằng ngát thơm.

          46) Vô thượng Bồ Đề: Giới làm gốc. Tŕ giới, khối công đức viên thành. Vượt thoát căn trần chẳng chấp trước. Đó gọi là tŕ Đệ Nhất Nghĩa.

          Đức Đại Giác Thế Tôn khiến cho khắp các chúng sanh khôi phục nguồn tâm vốn có, nhập cảnh giới của Phật. Từ đầu đến cuối, chỉ có Giới để nương cậy. Nếu chẳng tŕ giới, c̣n chưa thể đạt được thân hữu lậu bị nghiệp trói buộc trong đường trời người, huống hồ trọn đủ các công đức, viên thành Chủng Trí ư? Ví như muốn trở về cố hương, chẳng có Giới làm chân, sẽ chẳng thể đến. Muốn nhặt lấy các thứ báu, không có Giới làm tay, sẽ chẳng thể thâu hoạch! Giới là thánh dược để khử phiền hoặc. Giới là toa thuốc tốt lành nhằm diệt huyễn khổ. Giới đúng là tàu thuyền ḥng thoát biển sanh tử. Giới là bậc thang để lên núi Niết Bàn. Chẳng tŕ giới mà tu điều lành, phước hết, vẫn phải đọa lạc. Có thể tŕ giới để tu thiện; nhân tṛn vẹn, ắt thành giác đạo. Các ông tu tŕ tịnh giới của Phật, gặp các cảnh duyên, ắt cần phải hiểu rơ tam luân thể không, sáu trần chính là giác. Tự nhiên căn và cảnh chẳng dính mắc, thân tâm vĩnh viễn thanh tịnh. Gần th́ là ruộng phước tốt lành cho ba cơi, xa là bậc Điều Ngự của chín pháp giới.

          (Chống trượng nói): Kính tuân lời Phật dạy thanh tịnh, quyết thoát Sa Bà vượt muôn loài.

          47) Trong đời thanh tịnh như hoa sen. Sanh trong bùn nhơ chẳng nhiễm trần. Đối cảnh vô tâm, dứt tỳ vết. Thấy thấu Oai Âm người chốn nào?

          Hết thảy chúng sanh luân hồi lục đạo, sanh tử, tử sanh, sanh sanh tử tử trải bao kiếp dài lâu chẳng thể thoát ĺa. Như con thiêu thân gieo ḿnh vào đèn, tự bị đốt cháy. Như tằm kéo kén, tự khiến bị trói buộc. Xét đến cái nhân căn bản, đều do chẳng biết một niệm tâm tánh của chính ḿnh vốn là Phật. Mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác, hợp trần, dấy tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, đến nỗi nghiệp chất như núi, biển sanh tử sâu thăm thẳm! Đức đại giác Thế Tôn đặc biệt rủ ḷng thương xót, mở ra khuôn mẫu giới rộng lớn để phổ độ quần manh. Trong kinh Phạm Vơng, [đức Phật] đă cực lực khuyên lơn, khen ngợi: “Ông là Phật sẽ thành, ta là Phật đă thành”. Thường tin như thế, giới phẩm đă trọn đủ. Các ông đă phát Bồ Đề tâm, thọ giới cấm của Phật, ắt đối với căn thân của hữu t́nh, khí giới của vô t́nh, biết Ngũ Uẩn vốn là không, sáu trần như huyễn, thoát trọn vẹn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, chẳng chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Do vậy, một niệm chẳng sanh, ba đời đoạn dứt, diệt hết các Hoặc, vạn đức phô bày trọn vẹn.

          (Chống trượng nói): Gió huệ lùa quét sạch trời cao, Phật nhật nghiễm nhiên chiếu hư không.

          48) Vô thượng Bồ Đề: Giới là gốc. Hoa Nghiêm đại giáo nói như vậy. Ba nghiệp thanh tịnh ĺa tỳ vết, như lưu ly sạch đựng trăng báu.

          Đức đại giác Thế Tôn xuất hiện trong thế gian, thuận theo căn cơ của chúng sanh, rộng diễn ngôn giáo. Nói giản ước, chẳng ra khỏi Tam Học. Tam Học như thế nào? Chính là Giới, Định, Huệ. Giới có thể nhiếp thân, Định có thể chế tâm. Chiếu lư phá Hoặc, chỉ có Huệ để nương cậy. Ba pháp nương tựa lẫn nhau th́ mới đạt được lợi ích to lớn. Như tay rửa lẫn nhau th́ mới được thanh tịnh. Bước đầu nhập môn, Giới trọng yếu nhất. Dẫu đạt đến rốt ráo, cũng chẳng ĺa bỏ. Giới là pháp giới, thống nhiếp các pháp. Do vậy biết: Thiền chính là Giới, Giới chính là Thiền. Không chỉ phân chẳng thể phân, mà hợp cũng chẳng thể hợp. V́ thế, kinh Phạm Vơng nói: “Chúng sanh thọ giới của Phật, liền dự vào địa vị của chư Phật”. Các vị đă thọ Phật giới, ắt phải nghiêm tŕ, hệt như dùng phao nổi để vượt biển, chẳng dám để hư hoại chút nào! Thoạt đầu giữ thân chẳng làm; kế đó, giữ cho tâm chẳng khởi. Do vậy, ba nghiệp thanh tịnh, ba đức phô bày trọn vẹn, chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái, mới biết tự tâm vốn là Phật, chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước, trải nhiều kiếp chẳng thể chứng đắc. Hăy nói khi chứng đắc th́ sẽ như thế nào?

          (Chống trượng nói): Mây tan, trăng lộ, trời biếc rạng. Cấu trừ, sáng đến, gương báu ngời!

          49) Thế gian vạn tượng thảy đều không. Diệu tánh viên minh ĺa đầu cuối. Nghiêm tịnh Tỳ Ni chẳng hủy khuyết. Kham thừa Phật Tổ cổ gia phong.

          Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng. Chúng sanh chẳng hiểu rơ, hư vọng dấy lên chấp trước. Thuận cảnh th́ tham, nghịch cảnh bèn sân. Trong cảnh trung dung mà vẫn ngu si. Do tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm. Hễ mê bèn vĩnh viễn mê từ kiếp này sang kiếp khác. Luân hồi sáu nẻo, trọn chẳng có thuở thoát ra. Do bởi duyên ấy, cảm Phật thương xót, giơ cao lưới giới, theo chiều dọc dựng trọn khắp pháp tràng, khiến cho [chúng sanh] giữ miệng, nhiếp thân, đoan tâm, chánh niệm. Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện. Lại dạy phản quán nội chiếu, thấu hiểu tự tánh thấy, nghe, hay, biết. Sức tột bậc, công tinh thuần, phá toang phiền hoặc Kiến, Tư, vô minh ch́m đắm, mới biết Tứ Đại vốn là không, Ngũ Uẩn chẳng phải có. Ngă c̣n trọn chẳng thể được, cảnh lại do đâu mà phát sanh? Từ đấy, sáu căn thanh tịnh, tam đức viên minh. Chẳng chấp vào hai bên, chẳng ở nơi Trung Đạo. Khế nhập tánh giới vô tác, chuyển nguyện luân vô trụ, khiến cho khắp pháp giới hữu t́nh đều cùng lên bờ kia Tỳ Ni.

          (Chống trượng nói): Siêng thọ Ba La Đề Mộc Xoa, liền sanh đại giác pháp vương gia.

          50) Túc căn gieo sâu chẳng chuyển dời. Chẳng nhiễm trần duyên, kết Phật duyên. Giới kiểm nghiêm minh, chuộng rộng tiến. Khác nào riêng có một tầng trời!

          Diệu tánh viên minh vốn chẳng sanh diệt. Hư linh thấu triệt rỗng rang, lặng trong, thường hằng. Vốn ĺa danh xưng “phàm, thánh”, há có chuyện sanh tử? Hiềm rằng chúng sanh mê trái bổn tâm, hư vọng dấy lên phân biệt. Do vậy, khởi Hoặc, tạo nghiệp, luân hồi sáu nẻo. Đại giác Thế Tôn thương xót các hàm thức ấy đă ôm báu như ư mà cam chịu bần cùng. Do vậy, vận ḷng từ vô duyên rộng lớn, khởi đại bi đồng thể, thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, mở pháp hội Phạm Vơng cao cả, để nêu ra khuôn phép xuất thế tốt lành. Trên th́ nhiếp thọ thánh nhân tam thừa, dưới nhiếp thọ lục đạo phàm phu. Bất luận tăng, tục, nam, nữ, thiên, tiên, quỷ, súc, phàm là kẻ có tín tâm, đều dạy họ thọ tŕ. Dẫu táng thân mất mạng, chẳng dám sai phạm chút ít. Thoạt đầu là do ngăn ngừa sai trái mà cấm ngăn điều ác. Kế đó là đoạn Hoặc, chứng Chân, khôi phục cái tâm vốn sẵn thanh tịnh, hoàn phục tánh diệu giác viên minh. Đó chính là đại ư [v́ sao] đức Thế Tôn chế giới, Phật tử tŕ giới vậy. Các ông đă thọ Phật giới, ai nấy hăy gắng lên!

          (Chống trượng nói): Họ là trượng phu, ta cũng thế. Chẳng nên tự khinh mà thoái khuất.

          51) Giới: Thuyền chở người vượt biển khổ. Như vượt sóng cả đến bờ kia. Tam nghiệp tinh thuần chẳng hủy phạm. Siêu phàm nhập thánh cứ ngao du.

          Như Lai do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cơi đời. Vừa mới thành Chánh Giác, liền chế giới pháp Ba La Đề Mộc Xoa để hun đúc phàm thánh, phạm vi bao gồm khắp chín pháp giới, khiến cho hữu t́nh trong khắp pháp giới cùng thành Vô Thượng Giác Đạo. Do vậy, kinh Phạm Vơng dạy: “Chúng sanh thọ giới của Phật, liền dự vào địa vị của chư Phật, địa vị đă đồng đại giác, là Phật tử thật sự”. Do vậy biết một pháp “giới luật” trên th́ là Tam Hiền, Thập Thánh[51] nương vào đó để phá sạch vô minh, vào biển trí của Phật; dưới th́ lục đạo tam đồ nương vào pháp này để nhanh chóng ĺa quả khổ, vĩnh viễn dứt cái nhân gây khổ. Đúng là chiếc thuyền từ trong biển khổ, là bè báu nơi bến mê, là đạo trọng yếu để thoát sanh tử, là phương kế to tát để chứng Tịch Diệt. Nếu thân, ư, nghiệp có thể sạch tợ băng, sương, hễ đă thọ rồi, vĩnh viễn chẳng hủy phạm. Lại c̣n thương ḿnh, xót người, tổn ḿnh, tổn người, phát Tứ Hoằng Nguyện rộng lớn, tu khắp Lục Độ, cạn khô biển phiền năo, vào biển trí huệ, ĺa cái thân trói buộc bởi nghiệp, chứng thân thanh tịnh. Phàm là kẻ có tâm đều có thể kham làm Phật. Phật tử thọ giới, ai nấy hăy nên y giáo tu tập.

          (Chống trượng nói): Ḷ luyện to lớn chẳng phí vàng. Thánh phàm đều khôi phục sơ tâm.          

          52) Tội từ tâm khởi, dùng tâm sám. Khi tâm đă diệt, tội cũng mất. Tâm, tội, cả hai chẳng thể được. Thấy thấu tự tánh đại pháp vương.

          Tâm vốn thanh tịnh, do mê muội mà ngược ngạo trở thành nguồn ác. Thân kham chở đạo, do vọng niệm mà trở thành rừng tội. Do vậy, đối với sáu trần cảnh, dấy tâm điên đảo, chẳng hiểu rơ “vốn là không”. Hư vọng sanh tham đắm, hệt như voi cuồng chẳng câu thúc. Vượn, khỉ trèo lên cây, nhảy nhót, quăng, bắt, chẳng thể ngăn cấm được! Đại giác Thế Tôn do bởi duyên ấy, chế ra giới luật, khiến cho họ thọ tŕ, sám trừ tội khiên trước kia, như giặt áo cũ; vun bồi hạt giống trí huệ cho tương lai, như gieo hạt thóc ngon. Do nhiếp thân mà dần dần đạt đến lắng ḷng, từ trói buộc mà chuyển thành giải thoát. Do vậy biết căn và trần cùng nguồn, trói buộc và giải thoát chẳng hai. Có thể tŕ giới th́ nơi nơi giải thoát; chẳng tŕ giới th́ niệm nào cũng bị trói buộc! Trói buộc và giải thoát đều cùng là sáu căn, chỉ phân thành mê, ngộ, tŕ, phạm đó thôi! Đó gọi là “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt. Mê và ngộ cách biệt như trời cách biệt đất”. Bậc có trí lẽ đâu chẳng dùng Bát Nhă rất sâu, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều không, ḥng cầu độ tận hết thảy khổ ách, mau chóng thành vô thượng giác đạo ư?

          (Chống trượng nói): Diễn Nhă[52] nhanh khỏi bệnh cuồng đầu. Tŕ giới công đức chẳng thể lường.

          53) Tam giới oai lực há thể lường, hay chuyển ba độc thành ba đức. Phật trí toàn là tâm chúng sanh. Ngược gịng bèn độ chẳng cùng cực!

          Tâm tánh của chúng sanh và Phật chẳng hai. Do mê muội nên hư vọng dấy lên vô minh. Do tham, sân, si, mà tạo giết, trộm, dâm, trả thù lẫn nhau, trôi lăn trong sanh tử. Thoắt thăng, thoắt giáng, trồi lên, hụp xuống, đă trải bao kiếp lâu xa, chẳng thể thoát ĺa. Đức Phật Thế Tôn ta là đại y vương, trị các thứ tâm bệnh của trọn khắp chúng sanh. Tâm bệnh dẫu nhiều, Tam Độc làm gốc. Chỉ có ba giới này có thể dẹp trừ hết sạch. Thọ Luật Nghi Giới, nghiêm tŕ chẳng phạm, chế ngự Tam Độc, chẳng cho chúng dấy lên hiện hành. Chế ngự lâu ngày, cái tâm định, đạt được Định Cộng Giới. Do định lực, chế phục Hoặc chẳng khởi. Sức giới định sâu xa, đắc Đạo Cộng Giới. Đoạn hoặc chứng Chân, nhập lưu, vong Sở. Từ đó trở đi, chỉ tiến chẳng lùi, nhanh chóng khôi phục bổn tâm, viên thành Phật quả. Đă viên thành Phật quả, thường hưởng Tam Đức cho đến cùng tột đời vị lai, vô cùng, vô cực. Tam Độc hay Tam Đức, chỉ là một cái tâm này. Mê bèn thành độc, ngộ th́ thành đức. Đạo có cách xa ư? Đụng chuyện bèn ngộ lẽ chân. Thánh xa vời ư? Thấu hiểu th́ tâm bèn lănh hội. Nếu các vị có thể như vậy, khắc cốt minh tâm, chẳng ĺa một niệm hiện tiền, bèn chứng thân Pháp Vương.

          (Chống trượng nói): Giới kiểm nghiêm tịnh như băng sương. Vô biên nhiệt năo thảy thanh lương.

          54) Vô thượng Bồ Đề: Giới làm nhân. Hay chuyển phàm thân thành Phật thân. Tâm, tánh vốn sẵn chẳng hai thể. Tùy duyên chuyển biến chỉ do người.

          Tâm thuật vô thường, thuận theo hay trái nghịch bất định. Tập thói ác th́ dễ, tập điều lành th́ khó. Nhướng mắt dơi trông, toàn là bỏ gốc đuổi theo ngọn. Giữ ḷng khăng khít, đi ngược gịng trở về nguồn. V́ thế nói: “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi” (ḷng người biến đổi vô thường, đạo tâm nhỏ bé). Chẳng có khuôn phép để hướng dẫn, uốn nắn, ắt nhân dục (ḷng ham muốn của con người) ngày càng lừng lẫy, nguy ngập trọn chẳng thể yên; thiên chân ngày một tối tăm, đă ít ỏi lại c̣n chẳng ǵn giữ. V́ thế, đức Phật xuất thế, điều ngự chúng sanh, dùng giới luật để nhiếp thọ, ngơ hầu họ sẽ tuân theo quy củ, dùng quả báo để dạy dỗ, khiến cho họ hướng cát, tránh hung. Ngũ Giới, Thập Thiện, mở rộng nẻo nhân thiên. Tứ Hoằng, Lục Độ, mở toang cửa Niết Bàn. Do vậy biết giới là chỗ y chỉ của chúng sanh, là tàu thuyền trong biển khổ. Khai, giá, tŕ, phạm, treo gương sáng trong ruộng tâm. Cử động, nói năng, giữ ư địa trong ngần! Thường ôm ḷng hổ thẹn, chẳng tự thụt lùi. Trong th́ tôn trọng linh tánh của chính ḿnh, ngoài th́ ngưỡng mộ chư thánh. Từ đó, khôi phục nguồn tâm vốn có, thành vô thượng đạo. Dùng lợi ích tŕ giới để độ hết chúng sanh trái nghịch giới. Các ông ai nấy hăy nên tinh tấn, chẳng phụ cái tâm ban đầu.

          (Chống trượng nói): Phật và chúng sanh vốn y hệt. Do trái nghịch giới, khác vời vợi!

          55) Vô tác giới thể, sanh, Phật đồng. Phật th́ giác ngộ, chúng sanh mê. Một niệm hiện tiền ĺa Năng Sở, lập tức viên thành Phật Bồ Đề.

          Vô tác giới thể vi diệu không chi sánh. Tâm chẳng thể nghĩ, miệng chẳng thể tính. Chứa đựng mười phương mà vẫn thừa, tột cùng ba đời chẳng hề sót! Ngước lên nh́n càng thêm cao, chẳng thấy đỉnh. Thăm ḍ càng thêm sâu, khó lường tận đáy. Giới là bổn sư của chư Phật, là từ mẫu của Bồ Tát. Ai nấy đều trọn đủ, ai nấy đều nương cậy. H́nh tích c̣n chẳng có, há có sanh tử? Chỉ v́ một niệm thuở đầu bất giác, đến nỗi bỗng dưng chạy theo cảnh mê Lư. Do vậy, vọng tưởng bùng dậy, nhân ngă nhanh chóng dấy lên. Trong tâm kết tham, sân, si, ái chẳng ngớt, ngoài th́ hành giết, trộm, dâm, vọng chẳng thẹn. V́ thế, thoắt thăng, thoắt giáng, luân hồi dài lâu trong sáu nẻo. Thoạt ch́m, thoạt nổi, trọn chẳng dựa nương. Như Lai xem các chúng sanh đều như con đỏ, giơ tay d́u dắt, cứu thoát khỏi nước, lửa, ngơ hầu họ đoạn ái kiến trần t́nh, nhận lănh khuôn khổ Tam Quy, Ngũ Giới thơm thảo. Do Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Định Huệ viên minh, đích thân thấy chính ḿnh. Như thế th́ không chỉ chẳng cô phụ sự giáo hóa của đức Phật, mà c̣n chẳng phụ linh tánh của chính ḿnh. Lại c̣n có thể hướng dẫn chúng sanh, làm sứ giả của Như Lai. Hăy nói xem: Làm như thế nào để thấy chính ḿnh?

          (Chống trượng nói): Nơi chốn dương xanh kham buộc ngựa. Nhà nhà có nẻo thấu Trường An.

          56) Có huệ, không phước, huệ chẳng thật. Có phước, không huệ, phước chẳng thuần. Phước huệ đầy đủ thành Chánh Giác. Phước huệ đều không, măi trầm luân!

          Muốn thành vô thượng giác đạo, ắt phải trọn đủ phước huệ. Muốn được phước huệ trọn đủ, ắt cần phải vào căn nhà tịnh giới đẹp đẽ. Pháp môn vô lượng, chẳng ra ngoài Lục Độ. Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, năm độ ấy được gọi là phước đức xuất thế. Một độ Bát Nhă được gọi là trí huệ xuất thế. Năm độ như mù, Bát Nhă như người dẫn đường. Năm độ chẳng có Bát Nhă, sẽ trở thành phước đức trụ tướng, chỉ đạt được tiểu quả nhân thiên, chẳng thể rốt ráo đến bờ kia, chẳng được gọi là Ba La Mật. Bát Nhă như tâm, năm độ như thân. Bát Nhă chẳng có năm độ, dẫu có giác chiếu, trọn chẳng thể thực hiện, cũng chẳng thể rốt ráo đạt tới bờ kia, chẳng được gọi là Ba La Mật. Sáu độ giúp lẫn nhau, pháp nào cũng đạt tới bờ kia. Như hai tay rửa lẫn nhau, mỗi tay đều được sạch sẽ. Một độ Tŕ Giới, thông trước, gồm sau, càng thiết yếu! Do chư Phật có thể tŕ giới, phước huệ trọn đủ, chứng Niết Bàn rốt ráo. Do lục phàm chẳng tŕ giới, phước lẫn huệ hoàn toàn chẳng có, trầm luân trong sanh tử ác đạo. Muốn thoát trần lụy, Giới là bậc nhất. Phật tử các ông, hăy nên nỗ lực!

          (Chống trượng nói): Phước huệ chưa từng ĺa đương niệm. Tŕ, phạm vốn chỉ tại nhất tâm.

          57) Tự tâm thanh tịnh trọn vô trần. Phàm càng tăm tối, thánh càng mới. Nếu chịu nghiêm tŕ giới của Phật. Mây trôi, sương tan, thấy thiên chân.

          Chân nguyên trong lặng, biển giác lặng trong. Vốn chẳng có đầu mối Năng và Sở, há có dấu tích phàm hay thánh? Nhưng bỗng dưng t́nh sanh, ngẫu nhiên thất niệm, đến nỗi sóng thức dấy trào, rúng động chân nguyên. Sóng vọng ùa khởi, cuộn trào biển giác. Từ đó, xuôi theo gịng, quên trở về, trái nghịch trí, rong ruổi măi, ch́m nổi theo sanh tử, tham nhiễm nơi thanh sắc. Do hướng về hay trái nghịch sai khác, đến nỗi có quả báo trong mười pháp giới. Do mê muội sâu hay cạn, bèn chia thành thăng trầm trong sáu nẻo. Muốn quay về cội, trở về nguồn, cần phải chuyên chú chế ngự t́nh, diệt vọng. Phương pháp chế phục và diệt trừ, không ǵ bằng tŕ giới. Chẳng tŕ giới, dẫu sẵn có thánh trí, toàn thể biến thành phàm t́nh. Có thể tŕ giới, sẽ chẳng ĺa phàm t́nh mà thẳng thừng thành tựu thánh trí. Ví như nước kết thành băng, băng tan thành nước. Băng và nước cùng một tánh ướt, nhưng đông cứng hay tuôn chảy bất đồng, do tùy theo duyên [khác nhau] mà có lạnh hay nóng mỗi thứ mỗi khác. Hiểu điều này, sẽ nghiêm tŕ tịnh giới, trái trần, xuôi theo giác, như chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy, dẫu ngàn vị thánh cùng nhau kéo lại, vẫn buông tay tiến lên trước, chẳng ngó lại. Các Phật tử thọ giới ai nấy hăy nên nỗ lực.

          (Chống trượng nói): Căng lưới giới làm mẫu cho đời. Biển khổ vô biên cạn khô sạch!

          58) Tứ Hoằng, Tam Tụ nghĩa vô biên. Nhiếp trọn pháp môn chẳng thể nói. Tam thế Như Lai từ đó có. Do tŕ hay phạm, chia thánh, phàm.

          Đức Phật nói hết thảy các pháp để đối trị hết thảy các tâm. Tâm bệnh của chúng sanh vô lượng, pháp dược của Như Lai cũng vô lượng. Nhưng nêu tổng quát đại cương, nói theo lẽ trọng yếu th́ Tam Tụ Tịnh Giới, Tứ Hoằng Thệ Nguyện thâu nhiếp không ǵ chẳng tận. Ví như trăng mọc giữa trời, in khắp muôn sông, Xuân về trên đại địa, trăm loài cỏ cây đều tươi tốt. Nay v́ các vị, gộp chung lại để nói rơ Tam Tụ là ǵ? Thứ nhất là Luật Nghi Giới, không ác nào chẳng đoạn, tức là hoằng thệ thứ hai, “phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn”. Thứ hai là Nhiếp Thiện Pháp Giới, không điều thiện nào chẳng tu, tức hai hoằng thệ thứ ba và thứ tư, tức “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”“Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Thứ ba là Nhiếp Chúng Sanh Giới, không chúng sanh nào chẳng độ, tức hoằng thệ thứ nhất, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Chỉ với Tam Tụ và Tứ Hoằng Thệ ấy, diệu pháp độ sanh của mười phương ba đời chư Phật không ǵ chẳng lưu xuất từ pháp giới này, không ǵ chẳng trở về pháp giới này. Đúng là cương tông của Phật pháp, là khuôn phép để nhập đạo. Bỏ pháp này th́ thánh chẳng có phương cách tiếp dẫn, chúng sanh chẳng thể độ, phàm phu dứt bặt con đường tu tập, Phật chẳng do đâu mà thành!

          (Chống trượng nói): Thập thánh c̣n tuân nghĩa như thế, lục phàm dám vượt kế lành ư?

          59) Tŕ giới chắc chắn thoát ṿng khổ. Giống h́nh với bóng chẳng chia ĺa. Bốn tướng nhân ngă gột trừ sạch. Quyết chứng chân thường pháp tánh thân.

          Giới chính là nền tảng ban đầu để nhập đạo, là trận đầu để khử ác, là ŕu sắc để chặt cây phiền năo, là thần đan chữa lành bệnh sanh tử. Mười phương chư Phật nương vào đấy để chứng Bồ Đề. Hết thảy Bồ Tát do vậy mà được giải thoát. Vô tận pháp tạng, hễ nêu lên một pháp, sẽ gồm thâu toàn thể. Thông trên, thấu dưới, khôn sánh, khôn tày. Pháp môn mầu nhiệm, không chi hơn được. Đó gọi là “vi trần Phật, một nẻo Niết Bàn môn”. Quá khứ chư Như Lai do môn này mà thành tựu. Các vị Bồ Tát trong hiện tại, nay mỗi vị đều nhập viên minh. Người học đạo trong tương lai, hăy nên nương vào pháp như thế. Luận khít khao tánh thể, chúng sanh và Phật vốn đồng, do mê hay ngộ mà khác biệt, v́ tŕ hay phạm mà phân chia rạch ṛi. Tŕ giới th́ là thánh, phạm giới th́ là phàm. Đó là v́ chúng sanh hễ t́nh kiến sanh th́ trí bị ngăn cách, do tưởng biến đổi mà Thể khác biệt. Bên ngoài th́ hư vọng thấy núi, sông, đại địa, sáng, tối, sắc, không. Trong th́ hư vọng thấy Tứ Đại, Ngũ Uẩn, thấy, nghe, hay, biết. Ví như hễ mắt có màng mộng, sẽ thấy hoa đốm rơi loạn xạ. Do chẳng hiểu ngay nơi bản thể chính là Không, cho nên phải luân chuyển nhiều kiếp dài lâu. Các ông muốn khôi phục bổn tâm, thẳng thừng khế hợp quả giác, chỉ nên kính cẩn tuân phụng Tỳ Ni, nghiêm tŕ chẳng trái phạm. Tự nhiên ṃ được lỗ mũi vốn có trước khi được mẹ sanh ra. Hăy nói là như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Mấy chỗ cùng hô, mấy chỗ ứng. Một phen gặp gỡ, một phen thân.

          60) Nghiêm tịnh Tỳ Ni, đạo hiếu thịnh. Tâm trí gieo sâu nơi Phật thừa. Thế gian, xuất thế đều y chỉ. Muôn vàn sai khác thảy đều thông.

          Thế gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng lấy hiếu làm gốc. Muốn trọn hết đạo hiếu, ắt cần phải nghiêm tŕ tịnh giới, bởi đó là đạo trọng yếu trong đức tột cùng, Nho lẫn Thích cùng đề cao. Đời này, đời sau, lợi ích khác biệt. Đoán trước ư để làm vui ḷng cha mẹ, chăm chút phụng dưỡng, dốc cạn sức ḿnh khiến cho cha mẹ vui ḷng. Chẳng nhuốm bẩn bản thân, chẳng nhục lây cha mẹ. Lập thân hành đạo, nêu danh cho đời sau, ḥng cha mẹ nở mày nở mặt. Đạo hiếu trong thế gian chỉ là như thế mà thôi!

          Nếu trong khi chăm chút phụng dưỡng, khéo léo, uyển chuyển, gợi mở, dẫn dụ tâm ư cha mẹ, khiến cho họ quy y Tam Bảo, trai giới, niệm Phật. Lúc sống th́ phụng dưỡng tấm thân ấy, mất rồi bèn hướng dẫn linh hồn, khiến cho cha mẹ thần siêu tịnh vực, nghiệp giũ sạch trần lao, nở hoa sen thượng phẩm, được Phật thọ kư ngay trong một đời. Đấy chính là ḷng hiếu thế gian mà kiêm ḷng hiếu xuất thế. Đó chỉ là luận định hạn cục xét theo lẽ phụng dưỡng cha mẹ. Nếu có thể thọ tŕ giới cấm của Phật, kính cẩn vâng giữ chẳng phạm, đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện, nương theo ngôn giáo của Phật, tự hành, dạy người, khiến cho khắp mọi người đoạn Hoặc, chứng Chân, siêu phàm nhập thánh. Đó gọi là rốt ráo hiếu thuận cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo, chính là ḷng hiếu đến tột cùng. Hành hiếu như thế, sẽ mau chóng thành Phật. Phàm những ai có tâm, ai nấy đều nên gắng công!

          (Chống trượng nói): Hiếu đạo nếu hay hành như thế, kham gọi chẳng thẹn đấng sanh ta!

          61) Toàn thể Ngũ Giới là Ngũ Thường, hệt hai tấm gương chiếu sáng nhau. Tuy nói giáo lư chia thông, cục, đều dẫn quần mê về cố hương.

          Ư chỉ chánh yếu của Ngũ Giới chẳng khác Ngũ Thường; nhưng sự chế định của chúng có thân, sơ, lợi ích có xa gần khác biệt. Nếu gộp lại để nói th́ không giết là nhân, chẳng trộm tức là nghĩa, chẳng tà dâm tức là lễ, chẳng nói dối tức là tín, không uống rượu th́ tâm chẳng tối tăm, tinh thần sáng suốt, ư chẳng loạn, chí ngưng lặng, tức là trí. Nếu nói tường tận, Nho là bậc quân tử thịnh đức, nhưng xa ĺa bếp núc. Tuy nói “dân là ruột thịt của ta, loài vật và ta như nhau”, nhưng miệng vẫn thích ăn loài vật, vẫn thường ăn thịt mà tâm t́nh thoải mái, chẳng sanh ḷng đau thương. Phật th́ từ lớn tới bé, hữu h́nh, vô h́nh, phàm những ǵ có tâm đều khiến cho được sống yên vui. Sống th́ chẳng nỡ ḷng tổn thương, chết th́ hướng dẫn sao cho thoát khổ. Xa là tháo gỡ trói buộc của nghiệp quá khứ, vun bồi sẵn huệ căn cho vị lai. Dạy người khác tŕ giới, chính là thoạt đầu kiềm chế cái thân chẳng làm. Kế đó, chế ngự không cho tâm dấy lên, dần dần đạt tới t́nh kiến nhân ngă đều không, Năng lẫn Sở cùng diệt, phá sạch vô minh, khôi phục tâm tánh vốn có, xé rách lưới trần lao, vào cửa giải thoát. Có thể nói tam giới đại sư, tứ sanh từ phụ, thánh trong các thánh, trời trong các trời, đức vượt càn khôn, ân sâu biển thẳm. Giới không sát sanh đă là như thế, những giới c̣n lại có thể suy luận tương tự! Trừ kẻ Nhất Xiển Đề, có ai nghe thấy mà chẳng tin nhận?

          (Chống trượng nói): Phật ân trải kiếp chẳng tuyên nói. Dạy sơ đầu mối để thương ḿnh.

          62) Hổ thẹn là mặc áo nhẫn nhục, muốn chứng Pháp Thân chớ tạm ĺa. Vạn hạnh do đây đều trọn đủ, chóng thành vô thượng Phật Bồ Đề.

          Tín, Giới, Văn, Xả, Huệ và Tàm, Quư được gọi là Thất Thánh Pháp Tài, thật sự thuộc về đạo trọng yếu để xuất trần. Năm món trước là Tài, hai món sau là người giữ “tiền tài” ấy. Tài mà chẳng có người giữ, sẽ lập tức mất mát. V́ thế, hai pháp Tàm và Quư càng thiết yếu. Tàm chính là trong tâm tự cảnh giác, kiêng dè, tôn trọng linh tánh của chính ḿnh. Quư là tuân theo cảnh hạnh bên ngoài để hướng dẫn ḿnh, ngưỡng mộ chư thánh. Cừ Bá Ngọc tuổi đă năm mươi, biết bốn mươi chín năm trước sai trái. Khổng Tử lo lắng chính ḿnh đức chẳng tu, học chẳng giảng, nghe đạo nghĩa mà chẳng thể thực hiện, chẳng thể sửa đổi điều bất thiện. Bốn điều đừng (tứ vật)[53] của Nhan Uyên, ba lượt phản tỉnh[54] của Tăng Tử, Mạnh Tử nói “con người chẳng thể không hổ thẹn”. Thánh hiền thế gian không ai chẳng dốc sức nơi đây! Kinh Di Giáo dạy: “Tàm sỉ chi phục, ư chư trang nghiêm, tối vi đệ nhất” (Trong các thứ trang nghiêm, áo hổ thẹn là bậc nhất). Tàm như cái móc sắt, có thể chế ngự điều phi pháp của con người. V́ thế, thường phải nên hổ thẹn, chớ nên tạm rời. Nếu ĺa hổ thẹn, sẽ đánh mất các công đức. Kinh Niết Bàn dạy: “Thế gian hữu nhị chủng kiện nhi. Nhất giả, bất tự tác tội; nhị giả, tác dĩ năng hối” (Thế gian có hai loại người dũng mănh: Một là chẳng tự ḿnh tạo tội, hai là đă tạo mà có thể sám hối). Do vậy biết trọn đủ hổ thẹn th́ phiền năo hoặc nghiệp sẽ thẳng thừng tiêu trừ, công đức trí huệ mau được viên măn. Khế nhập giới thể vô tác, chứng thanh tịnh Pháp Thân. Các ông nếu có thể thường giữ ḷng hổ thẹn, nghiêm tŕ tịnh giới, th́ lợi ích vô biên sẽ tự chứng biết.

          (Chống trượng nói): Nhờ Phật giáo hóa, chứng linh tánh. Toàn nhờ hổ thẹn để nêu gương.

 

          63) Pháp ngữ thượng đường khi phương trượng của Bạch Vân Quán ở kinh đô là Cao Nhân Động[55] cúng trai tăng một ngàn vị

 

          Tam giáo vốn cùng một cội nguồn, đừng nên mờ mịt chỗ căn nguyên. Một vầng trăng sáng chiếu trời thẳm. Vạn nước ngàn sông, bóng hiện tṛn.

          Nay có vị đạo hữu hộ pháp phương trượng của Bạch Vân Quán ở kinh đô là ông Cao Nhân Động lănh thọ chân truyền của ngài Trụ Hạ[56], là lănh tụ của huyền môn, giữ ngôi phương trượng của Bạch Vân, là chỗ quy y của giới hoàng quan[57], muốn tham bái đức Phổ Môn nên đến triều bái danh sơn bậc nhất. Để rộng kết các duyên, do vậy, cúng trai tăng một ngàn vị. Lại do tâm mong đạo lớn, chí tại lợi người, ân cần thỉnh sơn tăng thăng ṭa thuyết pháp, muốn khiến cho đại chúng đều biết: Giáo tuy có ba, đạo vốn chẳng hai. Sơn tăng chẳng khỏi làm phiền mộc thượng tọa[58] v́ đại chúng chỉ ra (nâng gậy chống nói): Đại chúng nh́n xem, vật này là Nho ư, là Đạo ư, là Thích ư? Nếu có thể ngay lập tức hiểu rơ, Nhân lẫn Ngă đều cùng trừ sạch, chuyện tham học đă xong! Một c̣n chẳng thể được, ba lại do đâu mà lập? Nếu như chưa thấu hiểu, chẳng khỏi dây cà dây muống một phen. Đạo chẳng có h́nh tướng, như Xuân về hoa nở trên cành. Người có đây kia, như gương cổ chứa đựng h́nh tượng. Tuy vạn tượng đều khác, nhưng vốn đều được chứa đựng trong một tấm gương! Dẫu ngàn hoa đua sắc, nhưng vốn do cùng một khí sanh trưởng. Toàn bộ nhiều chính là một, toàn thể biệt chính là đồng. Hiểu rơ điều này, pháp nào cũng viên thông, chuyện nào cũng đều là đạo. Từ sáng tới tối, cử động, nói năng, không ǵ chẳng phải là đạo thường hằng của Lăo Tử, là đạo chí thành của Khổng Tử, giống như đạo “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật” của tổ Đạt Ma đến từ trời Tây. Tuy vậy, ông Cao là bậc đầy bản lănh đă thông thạo một mối, chẳng ngại tiến cao hơn một bậc nữa. Hăy nói khi kính rỗng, hoa rụng th́ sẽ lại như thế nào? Hăy thử nêu một câu chuyển ngữ xem sao? (Hồi lâu sau mới nói):

          Bạch vân hiện bóng vị tiên nhân. Quạt lụa hồng cầm che ngang mặt. Gấp nên chú mục nh́n tiên nhân, đừng ngắm chiếc quạt trong tay Ngài.

 

          64) Pháp ngữ thượng đường khi ông Thịnh Cung Bảo cúng trai tăng một ngàn vị (nhằm cầu thọ)

          Thánh triều ca ngợi bậc hiền thần[59], lo liệu trong ngoài vận nước yên. Xưa được Như Lai từng phó chúc, măi v́ phạm vũ giữ yên b́nh.

          Nay có người quê ở vùng… thuộc huyện Vũ Tấn, phủ Thường Châu, tỉnh Giang Tô, sống tại vùng miếu… thuộc huyện Thượng Hải, phủ Tùng Giang của tỉnh nhà, là vị tín chủ quan viên hộ pháp, [đảm nhiệm chức] nghị ḥa khâm sai đại thần, trông coi tu bổ đường sắt, tức đại nhân Hạnh Tôn Thịnh Cung Bảo, đọc sách học đạo, thường ôm ḷng Y Lữ[60] sâu xa, cai trị bằng ḷng nhân, tạo lập công nghiệp rộng lớn như Châu Thiệu[61], ḥa hợp trong ngoài nước để pḥ tá kim luân, tạo phước cho dân đen, đốc thúc tu bổ đường sắt. Đă gieo cội gốc từ xưa, cảm bổng lộc và chức vị cao quư tột bậc, tiếp tục tu phước nhân, nguyện tuổi thọ chẳng có hạn lượng, cầu cho gia đạo được hưởng tốt lành, chúc nước nhà an khang. V́ thế, sai quư sứ đến núi dâng hương, cúng dường đức Phổ Môn Đại Sĩ, trai tăng một ngàn vị tăng già, cung cấp chi dụng cho trọn khắp các tĩnh thất, khiến cho ngôi phạm vũ càng được tỏa sáng rạng ngời. Khẩn khoản thỉnh sơn tăng thăng ṭa thuyết pháp. Sơn tăng chẳng tránh khỏi làm phiền mộc thượng tọa thừa dịp chỉ bày. (Giơ gậy chống nói): “Đă thấy hay chưa?” (giộng gậy nói): “Đă nghe hay chưa?” Mọi người nếu đỉnh đầu có mắt, đối với chuyện này sẽ thấy nghe thân thiết, há chỉ đặc biệt thẳng thừng khế nhập Phật tâm, mà c̣n tiếp nối huệ mạng của Phật bao kiếp, nhanh chóng thấu hiểu tự tánh, hoằng dương Thiền đạo trong tương lai, mới biết ông Thịnh thọ bằng hư không, xưa nay luôn thường hằng chẳng diệt, trí vượt hơn nhật, nguyệt. Hễ hiểu rơ tối tăm, sẽ chẳng mê muội. Các người cộng sự thân thiết đều thành nhân tài cho nước nhà, con cháu đều hành xử làm khuôn mẫu cho cơi đời, lại c̣n khiến cho dân Trung Hoa và ngoại quốc đều cùng hưởng nhiều phước, trong ngoài nước cùng thâu nhận ngàn điều tốt lành. Vương đạo thênh thang, ai nấy đều tuân hành. Chẳng dấy động can qua (chẳng phát động chiến tranh), ngồi hưởng thái b́nh. Hăy nói một câu cuối cùng làm như thế nào đây?

          (Chống trượng nói): Ứng hiện thân tể quan, rộng phát Bồ Đề tâm. Muốn chứng vô lượng thọ, hăy nghe ngược Tánh Nghe.

 

          65) Pháp ngữ thượng đường dành cho Trương Trấn Đài thuộc huyện sảnh của tỉnh nhà

          Nhiều đời gieo sâu mạ thiện căn, chống đỡ pháp môn và thánh triều. Nếu hỏi “Tây lai”[62] Đệ Nhất Nghĩa, xin xem nắng sớm rực mây hồng.

          Nay có vị quan viên tín chủ hộ pháp thuộc bổn sảnh là vị Tổng Nhung[63] đại nhân Trương Liên Thắng và phu nhân Lư Thị, [cùng với] thiếu gia… đến núi dâng hương, đảnh lễ Viên Thông Đại Sĩ. Trên là chúc vận mạng quốc gia hưng thịnh, an lành, khởi lập đạo tràng Thủy Lục để cầu siêu cho cha, mẹ, họ hàng, đặc biệt sắm sửa Như Ư Đại Trai cúng khắp tăng chúng để rộng kết duyên lành. Khẩn khoản thỉnh sơn tăng thăng ṭa tuyên dương Đệ Nhất Nghĩa Đế. Sơn tăng chẳng khỏi tùy cơ chỉ dạy, lên ṭa giảng giải. C̣n như Tổng Nhung vốn văn thông, vơ giỏi, làm rường cột bảo vệ, ḷng tinh trung chói ḷa nhật nguyệt, hạo khí lấp trời đất. Quân oai thấu đến nơi xa, họa loạn tiêu mất khi chưa manh nha. Hăy nói xem là sức của ai khiến thành ra như thế? Nếu có thể nhận biết, th́ người đă khuất mau lên Tịnh Độ, chính ḿnh phước thọ dài lâu. Lan quế sum suê dưới thềm, cha con cùng phục vụ cho minh quân. Dẫu chẳng biết, minh châu vẫn trong chéo áo y như cũ; thấy sắc, nghe tiếng rơ rành rành. Chống đất nâng trời ngang vũ trụ, công huân cơi đời chẳng thể lường. Tuy là như thế, do trai tăng bèn vui mừng chúc tụng một câu là như thế nào vậy?            

          (Chống trượng nói): Thái b́nh vốn do tướng quân định, vui được tướng quân hưởng thái b́nh.

          Xét ra huyện Định Hải vào đời Thanh được gọi là Định Hải Sảnh, Phổ Đà Sơn thuộc vào Định Hải, nên nói “bổn sảnh” tức là nói về Định Hải vậy (Ngày Ba Mươi tháng đầu mùa Đông năm Mậu Tuất, Huệ Dung ghi).

 

          66) Pháp ngữ thượng đường dành cho Trấn Đài X… thuộc bổn sảnh.

          Thơ vịnh hộ thành, ngăn kẻ xấu. Oai trấn bốn phương, giữ nước nhà. Lại c̣n một điều rất kỳ đặc, ḷng son ủng hộ pháp vương gia.

          Nay có vị quan viên hộ pháp thuộc bổn sảnh, tức vị đại nhân X… là Tổng Nhung trong quân đội, trước kia, do có chuyện đến núi đảnh lễ Phổ Môn Đại Sĩ, cầu cho bờ cơi nước nhà an ninh. Lại muốn rộng kết duyên lành, cúng dường khắp các đại chúng. Do công vụ chẳng rảnh rỗi, liền ngồi thuyền đi ngay. Nay phu nhân là bà X…. lại đến dâng hương, đặc biệt xếp đặt trai soạn để bổ sung cho nguyện trước. Khẩn khoản thỉnh sơn tăng thăng ṭa thuyết pháp.

          (Giơ trượng lên, nói): Đây là đao giết người, là gươm cứu sống người. Quân đội nương vào sức ấy, thân làm lá chắn, bảo vệ hoàng triều. Quân oai vang dội thấu nơi xa, tiêu họa loạn khi c̣n chưa manh nha! Phu nhân nương theo sức ấy, chí ngưỡng mộ đấng Đại Giác, chuyên dốc tu Tịnh nghiệp, làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê pḥng, làm bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới. Phật pháp và quân pháp vốn chẳng hề hai! Thất niệm và đắc niệm, vốn là nhất tâm. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật, vọng niệm ngay lập tức diệt trừ, tự nhiên chẳng vướng bận mảy may, muôn điều lo nghĩ hoàn toàn tiêu trừ. Ngũ Uẩn không tịch, sáu căn thanh tịnh, đoạn Tam Hoặc, thành tựu tam-muội, vạn thiện trọn mà vạn đức phô bày toàn vẹn, cũng giống như tính toán đúng lẽ, chế ngự địch đúng cách, quân đội sẽ đao chẳng nhuốm máu, ngoài đồng chẳng phải đốt lửa truyền tin. Tự nhiên kẻ đầu sỏ trao đầu, lũ hùa theo thói ác sẽ quay về nương náu. Toàn thể kẻ giặc cướp cừu oán đều thành con đỏ, bọn phản nghịch đều trọn thành dân lành. Pháp chẳng có tướng nhất định, gặp duyên liền đề cao. Thấu hiểu th́ chuyện ǵ cũng là đạo, pháp nào cũng đều thật. Đao giết người, kiếm cứu người, hai đằng vốn chẳng mâu thuẫn! Hăy tham cứu cặn kẽ chuyện “nhấc lên, bỏ xuống”; sắc trước, thanh sau thường hiển hiện. Tuy vậy, do trai tăng mà vui mừng khen ngợi một câu là như thế nào vậy?

          (Chống trượng nói): Tướng quân, chủ soái thường tỉnh táo. Chẳng động can qua, vững thái b́nh. Can gián, mưu toan[64] pḥ thánh chúa. Sẵn sàng ra sức[65] giúp dân đen!

 

          67) Pháp ngữ thượng đường dành cho ông Hà Minh Phủ ở Quang Châu, tỉnh Hà Nam cầu thọ cho cha mẹ (cha con đều cùng làm Tri Huyện)

          Chu Tứ[66] nguồn sâu thấu Ngân Hán[67]. Chưa gơ cửa Thiền há tri âm? Tánh và thiên đạo nơi tiếp xúc, hiếu tâm tha thiết là Phật tâm.

          Nay có vị tín chủ là quan viên hộ pháp là ông Hà, v́ cầu cho cha là X… và mẹ là Y… núi thọ cao chót vót, biển phước rộng sâu, tước vị tăng cao, thân tâm khỏe mạnh, an vui, chẳng ngại trèo núi vượt biển đến lễ Phổ Môn đại sĩ, chí thành khẩn thiết, nhiều phen chúc thọ, mong [Tam Bảo] rủ ḷng từ mẫn, mau được cảm thông. Lại đặc biệt sắp đặt cỗ chay thơm thảo, rộng kết duyên lành, khẩn khoản thỉnh sơn tăng thăng ṭa thuyết pháp. Sơn tăng đẹp ḷng v́ họ hiếu tâm chân thật thiết tha, chẳng thể không đến đây để chỉ dẫn lẽ hướng thượng. Hiếu kinh dạy: “Phù hiếu, thiên chi kinh dă, địa chi nghĩa dă, dân chi hạnh dă” (hiếu là đạo lư to lớn của trời, là nghĩa của đất, là hạnh của dân). Kinh Phạm Vơng dạy: “Hiếu danh vi giới, hiếu danh chế chỉ, hiếu thuận chí đạo chi pháp” (Hiếu gọi là giới. Hiếu được gọi là ngăn dứt, chế ngự. Hiếu thuận là pháp chí đạo). Do vậy biết một niệm hiếu tâm này thấu suốt xưa nay, bao trùm hư không, bất sanh, bất diệt, không khởi đầu, chẳng kết thúc, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh không tăng, mê bèn oan uổng luân hồi trong sáu nẻo, ngộ th́ mau chóng chứng Viên Thông, có phạm vi bao trùm trời đất, là hóa công tạo ra vạn tượng. Nếu có thể hiểu biết, không chỉ đích thân thấy thọ lượng của cha mẹ dài lâu như trời với đất, phước trạch của cha mẹ như non cao, biển rộng, lại c̣n khiến cho tâm pháp của Khổng Tử muôn đời thường sáng ngời, huệ mạng của Như Lai trải trần kiếp vĩnh viễn tiếp nối. Trên là báo trọng ân của vua và cha mẹ, dưới là mở lối cho dân đen nhiều phước, c̣n ngại ngần ǵ nữa chăng?

          (Chống trượng nói): Trống rền, chuông vọng, tiếng inh tai. Nắm tay, dựng phất, ngó chằm chằm. Tâm pháp Như Lai vốn chẳng ẩn, thấy nghe chồng chất vốn v́ ông!

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên (phần bổ sung)

phần 3 hết 



[1] Lục Ngoạn (278-341) c̣n có tên là Lục Lưu, tự là Sĩ Dao, quê ở Ngô Huyện thuộc Ngô Quận (nay là thành phố Tô Châu tỉnh Giang Tô), là một nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn. Ông là người rộng lượng, nhân hậu, đă có tiếng tốt từ bé. Về sau, ông làm thuộc cấp của thừa tướng Tư Mă Duệ; sau đó, thăng lên làm Thị Trung, Lại Bộ Thượng Thư, Thượng Thư Tả Bộc Xạ. Khi loạn Tô Tuấn xảy ra, ông cùng với anh là Lục Diệp thành công khuyên phản tướng quy hàng. Do vậy, ông được thăng làm Thượng Thư Lệnh rồi được phong làm Tư Không. Ông khiêm hư, luôn chú trọng tiến dẫn nhân tài. Chức quan Tư Không được lập ra dưới thời Tây Châu, là một trong năm chức quan (Tư Mă, Tư Khấu, Tư Sĩ, Tư Đồ, và Tư Không) trực thuộc quyền quản trị của Lục Khanh (Thái Tể, Thái Tông, Thái Sử, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bộc). Tuy vậy, có người đă căn cứ theo Châu Lễ, cho rằng Tư Không là một chức vị thuộc Lục Khanh. Theo họ, Lục Khanh gồm Trủng Tể, Tư Đồ, Tông Bá, Tư Mă, Tư Khấu, và Tư Không. Tư Không chưởng quản công tác thủy lợi, kiến tạo cung điện. Đến thời Tây Hán, bỏ chức quan này. Tới đời Hán Thành Đế, vua lại gọi Ngự Sử Đại Phu là Đại Tư Không. Đời Đông Hán, chức quan Tư Không lại đảm nhiệm công tác chưởng quản kiến tạo. Từ đời Minh - Thanh trở đi, Tư Không là danh xưng để gọi Công Bộ Thượng Thư.

[2] Gọi là Phật Thất Phổ Thông tức là chia làm sáu thời niệm Phật, có nghỉ ngơi, có khai thị, khác với Tinh Tấn Phật Thất suốt 24 tiếng đồng hồ đều niệm Phật không gián đoạn, người nào mệt sẽ lui ra, nghỉ ngơi, hoặc tùy theo ban đă phân chia mà niệm Phật, nhưng trong Niệm Phật Đường không lúc nào chẳng có người niệm Phật.

[3] Lục Thập Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm bản sáu mươi quyển) c̣n gọi là Cựu Hoa Nghiêm hoặc Tấn kinh, được dịch bởi ngài Phật Đà Bạt Đà La vào thời Đông Tấn. Bát Thập Hoa Nghiêm (bản dịch tám mươi quyển) c̣n gọi là Tân Hoa Nghiêm hoặc Đường kinh, do ngài Thật Xoa Nan Đà xứ Vu Điền dịch vào đời Đường. Tứ Thập Hoa Nghiêm (bản bốn mươi quyển) tức phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, do ngài Bát Nhă dịch vào thời Đường Đức Tông. Bản này c̣n được gọi là Trinh Nguyên kinh (do dịch trong niên hiệu Trinh Nguyên).

[4] Nam Tạng c̣n gọi là Hồng Vũ Nam Tạng tức là Đại Tạng Kinh được khắc tại Nam Kinh theo lệnh của Minh Thái Tổ vào năm Hồng Vũ thứ năm (1372). Tạng kinh này được giao cho chùa Tưởng Sơn giảo đính, chủ tŕ, mất 27 năm mới hoàn thành; chia thành 1.600 bộ kinh, gồm hơn 7.000 quyển.

Bắc Tạng c̣n gọi là Vĩnh Lạc Bắc Tạng được khắc in tại Bắc Kinh. Công tŕnh này bắt đầu từ năm Vĩnh Lạc 19 (1421) đến năm Chánh Thống thứ năm (1440) mới hoàn thành, gồm 1.621 bộ kinh. Thanh Tạng tức Càn Long Đại Tạng Kinh, chủ yếu dựa theo Vĩnh Lạc Bắc Tạng.

Cao Ly Đại Tạng Kinh (c̣n gọi là Bát Vạn Đại Tạng Kinh) v́ gồm 81.259 khuôn mộc bản. Đây là Đại Tạng Kinh được khắc vào năm 1087 khi quân Khiết Đan xâm chiếm vương triều Cao Câu Ly. Công tŕnh giảo chánh đă tiến hành từ năm 1011. Bản kinh này dựa chủ yếu vào bản Đại Tạng Kinh đời Bắc Tống. Mộc bản lần đầu bị quân Mông Cổ thiêu hủy phần lớn khi họ xâm lăng Cao Ly vào năm 1232. Cho đến năm Cao Tông thứ 24, vua Cao Ly Cao Tông đă cho khắc lại Đại Tạng Kinh, măi cho đến năm 1249 mới hoàn thành. Đó chính là Bát Vạn Đại Tạng Kinh hiện thời, được lưu trữ tại chùa Hải Ấn từ năm 1398, được coi là quốc bảo của Đại Hàn.

[5] Thư Sách Tạng chính là Đại Tạng Kinh in theo lối sách vở thế tục, tức là các trang dùng chỉ khâu gáy đóng thành quyển (thường gọi là Thư Sách, hay Phương Sách), khác với lối Phạm Sách (tức là kinh trên một trang giấy dài, cuộn thành trục, hay xếp thành sách, không khâu gáy).

[6] Tổ Ấn Quang có pháp danh là Thánh Lượng, cho nên đôi khi Ngài tự xưng là Lượng.

[7] Hải Diêm là một huyện trực thuộc thành phố Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang.

[8] Đông Lâm là đạo tràng của Sơ Tổ Huệ Viễn. Chùa Phạm Thiên tức Phạm Thiên Giảng Tự thuộc Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang) ở phía Đông chân núi Phượng Hoàng. Chùa được xây trong niên hiệu Càn Đức (963-968) đời Bắc Tống. Thoạt đầu có tên là chùa Nam Tháp, đến niên hiệu Trị B́nh (1064-1067) mới đổi thành Phạm Thiên. Đây là đạo tràng của vị tổ thứ 11 của Tịnh tông tức ngài Tỉnh Am Thật Hiền Tư Tề (1686-1734). C̣n một ngôi chùa khác là Phạm Thiên Thiền Tự ở Hạ Môn (tỉnh Phước Kiến) được khai sơn trong niên hiệu Khai Hoàng đời Tùy. Chùa này cũng rất nổi tiếng với các vị thiền sư như Hoàng Bá, Huệ Nhật, Quán Chí, Vô Vi, Pháp Tướng, Vô Nghi, cũng như các vị danh tăng thời cận đại như Hội Tuyền, Ngọc Cơ, Tánh Nguyện, Hoằng Nhất, Hoằng Thuyền, Ấn Thuận v.v… nhưng hoàn toàn chẳng liên quan đến Tịnh Tông.

[9] Thái Quân là tước hiệu gia phong cho mẹ của các quan viên. Từ đời Đường, mẹ của quan viên ngũ phẩm và tứ phẩm được phong là Thái Quân. Đến đời Tống, tùy theo cấp bậc của con mà mẹ được phong là Quận Thái Quân hay Huyện Thái Quân. Sau này, mẹ của những người có chức có quyền đều được gọi là Thái Quân. Bà này là mẹ của ông Vương, họ Uông, nên gọi là Vương mẫu Uông thái quân.

[10] “Cách vật trí tri” theo Tống Nho là thấu hiểu sự vật để đạt đến sự thấu hiểu tột cùng, nhưng tổ Ấn Quang lại giảng là “cách trừ vật dục, phương khả trí tri”, tức là trừ khử ham muốn đối với vật chất th́ mới đạt đến trí huệ chân thật.

[11] Lũng Hữu (隴右) có nghĩa là bên phải của rặng Lũng Sơn (tức Lục Bàn Sơn, 六盤山), c̣n được gọi là Lũng Tây, v́ người Hán quan niệm phía Nam là chánh diện, nên phía Đông là trái, phía Tây là phải (nếu đối mặt với phương Nam). Do vậy, Lũng Hữu và Lũng Tây có cùng nghĩa. Lũng () là tên gọi tắt của tỉnh Cam Túc. Lũng Hữu thường được hiểu là danh xưng chỉ chung toàn thể tỉnh Cam Túc. Ở đây, Lũng Hữu chỉ nhằm nói đến huyện Lũng Tây, thuộc thành phố Định Tây, tỉnh Cam Túc. Huyện này được coi là tỉnh hội của Cam Túc từ xưa, các tuyến đường hành lang Hà Tây và con đường tơ lụa thời cổ đều đi ngang khu vực này.

[12] Núi Nam Ngũ Đài thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, vốn là phần tiếp nối của rặng Chung Nam Sơn. Do núi này có năm ngọn cao vót là Đại Đảnh, Thanh Lương, Văn Thù, Linh Ứng, và Quán Âm, nên gọi là Ngũ Đài. Huyện Diệu ở phía Bắc tỉnh Thiểm Tây cũng có một rặng núi gồm năm ngọn, nên cũng gọi là Ngũ Đài. Gọi là Nam Ngũ Đài Sơn nhằm phân biệt với rặng Ngũ Đài ở huyện Diệu.

[13] Thư Căn tức là phần giấy trắng ở mỗi trang sách đối diện với gáy sách. Do sách in theo lối cổ của Trung Hoa, sẽ in theo từng cột dọc, từ phải qua trái, phần đối diện với gáy sách được gọi là Thư Khẩu. Trong mỗi trang sách, phần trang sách gần Thư Khẩu sẽ được gọi là Thư Căn. Phần này thường dùng để in ḍng chữ ghi tên sách, số trang, số quyển, và tên chương sách.

[14] Nguyên văn là “bào dữ” tức là nói tắt của thành ngữ “dân bào, vật dữ”, có nghĩa: Dân chúng là ruột thịt của ta, loài vật cùng có sanh mạng giống như ta. Thành ngữ này có hàm nghĩa “yêu thương trọn khắp muôn loài”.

[15] Hàm thức chính là hữu t́nh chúng sanh.

[16] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Thỉnh Quán Âm Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni Chú Kinh, do ngài Trúc Nan Đề dịch vào thời Đông Tấn. Trong kinh này, ngoài việc xưng tán danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát, c̣n có nhiều bài thần chú như Thập Phương Chư Phật Cứu Hộ Chúng Sanh Thần Chú, Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni, Đại Cát Tường Lục Tự Chương Cú Cứu Khổ Thần Chú v.v… Kinh này được tông Thiên Thai hết sức coi trọng, Quán Âm Sám Pháp hoàn toàn dựa vào kinh này. Tổ Trí Giả (Trí Khải đại sư) đă viết sớ giải cho bộ kinh này. Trong bộ Ma Ha Chỉ Quán, Tổ c̣n dựa theo kinh này để xiển minh Phi Hành Phi Tọa tam-muội.

[17] Loạn Hồng Dương tức là loạn Thái B́nh Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh lănh đạo, nên sử sách thường gọi là loạn Hồng Dương. Hồng Tú Toàn xuất thân từ thôn Phước Nguyên, huyện Hoa tỉnh Quảng Châu. nhiều lần đi thi không đậu, hắn đâm ra bất măn với thời thế và chánh thể đương thời. Do đọc sách của hội truyền đạo phương Tây, hắn ta tự tuyên bố ḿnh gặp Thượng Đế trong mơ, tự xưng được Thượng Đế khải thị hắn ta là con thứ hai của chúa trời, gọi chúa Jesus bằng anh! Sẵn tâm trạng bất măn với chế độ khoa cử và tài khéo ăn nói, hắn lập ra đạo Bái Thượng Đế để sách động dân chúng làm loạn. Năm 1850, sau khi chiếm được một số vùng tại Quảng Tây, hắn ta thành lập chính quyền mới, gọi là Thái B́nh Thiên Quốc, tự xưng là thiên vương. Chỉ trong nửa năm, quân Thái B́nh Thiên Quốc chiếm 16 phủ, 600 huyện. Tới năm 1853, chiếm luôn cả Nam Kinh, măi cho đến năm 1864, Thái B́nh Thiên Quốc mới bị quân đội Thanh triều dẹp tan. Trong cơn chiến loạn này, các chùa miếu tại Hoa Nam bị tổn thất nặng nề do quân Thái B́nh Thiên Quốc đă phá hủy, cướp bóc.

[18] Tứ Tri là câu nói nổi tiếng của Dương Chấn được chép trong Hậu Hán Thư. Theo đó, khi Dương Chấn làm quận thú, đă tiến cử Vương Mật ở Kinh Châu làm ấp lệnh Xương Ấp. Về sau, Dương Chấn có chuyện đi qua Xương Ấp, Vương Mật đang đêm t́m đến yết kiến, đem ngàn vàng dâng biếu ḥng tạ ơn. Dương Chấn quở trách, Vương Mật cứ nài nỉ, lại nói: “Đêm khuya không ai hay biết!” Dương Chấn quở: “Trời biết, đất biết, tôi biết, ông biết, sao lại nói là không ai hay biết”. Do vậy, “gia phong Tứ Tri” là từ ngữ để ca ngợi người liêm khiết, chánh trực, không làm chuyện ǵ đáng phải hổ thẹn.

[19] Tiên khảo, tiên tỷ (先考先妣) là từ ngữ kính xưng để con cái nói về cha mẹ đă mất.

[20] Giang Chiết là danh xưng phiếm chỉ vùng đất ở phía Nam Trường Giang (sông Dương Tử) và phía Bắc sông Tiền Đường, bao gồm các vùng Hoàn Nam (phía Nam tỉnh An Huy), Tô Nam (phía Nam tỉnh Giang Tô), Thượng Hải, Chiết Giang. Đầu đời Thanh, chữ Giang Chiết dùng để gọi chung hai tỉnh Giang Nam (tức Giang Tô, Thượng Hải và An Huy ngày nay) và tỉnh Chiết Giang.

[21] Hoạt Phật (Phật sống) là tiếng người Hoa dùng để dịch chữ Tulku (hóa thân). Ban Thiền lạt-ma (Panchen Lama) là vị lănh tụ tinh thần đứng hàng thứ hai sau Đại Lai Lạt Ma của tông phái Gelugpa tại Tây Tạng. Panchen là từ ngữ do hai chữ Pandita và Chenpo (vĩ đại) ghép lại, có nghĩa là “đại học giả”. Vị Ban Thiền Lạt Ma đầu tiên là Lobsang Chokyi Gyaltsen (1570-1662) vốn là thầy của Đại Lai Lạt Ma đời thứ năm (Lobsang Gyatso); nhưng do truy tặng ba đời “hóa thân” trước đó của Ban Thiền, nên sử Tây Tạng thường gọi Lobsang Chokyi Gyaltsen là Ban Thiền Lạt Ma đời thứ tư. Do Đại Lai Lạt Ma thứ năm tự tuyên bố là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, cho nên ông ta tôn xưng thầy ḿnh (tức Ban Thiền Lạt Ma) là hóa thân của A Di Đà Phật. Đại Lai Lạt Ma đời thứ năm yêu cầu Ban Thiền chọn tu viện Tahsilhunpo làm trụ xứ của ḿnh. Từ đó, các đời Ban Thiền Lạt Ma đều là tu viện trưởng của tu viện này. Năm 1713, vua Khang Hy nhà Thanh phong tặng danh hiệu Erdeni (được người Hoa phiên âm là Ngạch Đức Ni, có nghĩa là “báu vật” trong tiếng Măn Châu). Từ đó, các chiếu chỉ của Trung Hoa luôn gọi vị này là Ban Thiền Ngạch Đức Ni Hoạt Phật. Vị Ban Thiền lạt-ma được nói ở đây là Ban Thiền Lạt Ma đời thứ chín (Thubten Choekyi Nyima), do bất ḥa với Đại Lai Lạt Ma đời thứ 13 (Ngawang Lobsang Thupten Gyaltso Jigdral Chokley Namgyal) khi ông này cầm tù các cận thần của Ban Thiền, hạn chế quyền lực của Ban Thiền. Ban Thiền Lạt Ma bèn bỏ trốn sang Mông Cổ, t́m cách cầu viện nhà Thanh can thiệp. Ông này được bầu làm Ủy Viên trong Mông Tạng Ủy Viên Hội của chánh quyền Dân Quốc và mất tại Trung Hoa vào năm 1939.

[22] Bổ Đát Lạc Ca là cách phiên âm khác của chữ Potalaka (Phổ Đà, Phổ Đà Lạc Già).

[23] Đây là sách dạy gieo quẻ, thường gọi là Quán Âm Linh Thiêm (thường đọc trại là Quán Âm Linh Xăm) gồm ba mươi hai quẻ. Tương truyền sách này do ngài Huyền Trang được đích thân Quán Thế Âm Bồ Tát chỉ dạy để tiên đoán cát hung, hay thưa hỏi khi có nghi vấn.

[24] Pháp ngữ thượng đường là các lời khai thị trước khi ngồi thiền, hay một dịp lễ lạc nào đó (chẳng hạn trai tăng), do vị Trụ Tŕ, hay Viện Chủ, hay một vị tôn túc được đại chúng cử ra nói pháp ngữ nhằm nhắc nhở hành nhân tấn tu, hay trao một đề tài cho hành nhân tham cứu. Cấu trúc của pháp ngữ thường là mở đầu bằng một bài kệ bốn câu, những câu nói sau đó, sẽ triển khai ư chính của bài kệ ấy. Kết thúc bằng việc người tuyên pháp ngữ giơ cao hay gơ thiền trượng, kết lại bằng một hai câu kệ để đại chúng suy gẫm sâu hơn.

[25] Âm thanh thuyết pháp của đức Phật chỉ dùng một loại tiếng mà tất cả các loài chúng sanh đều hiểu. Hơn nữa, tùy theo căn tánh mà mỗi loại chúng sanh đều lănh ngộ khác nhau, đều đạt được pháp ích. Ngoài ra, mỗi câu mỗi chữ của Phật đă nói đều chứa đựng vô lượng ư nghĩa. Do vậy, âm thanh thuyết pháp của đức Phật được gọi là “viên âm”.

[26] Đây là một thí dụ trong kinh Pháp Hoa: Đứa con của ông trưởng giả giàu có bỏ cha trốn đi, lênh đênh nhọc nhằn, khổ sở, làm thuê kiếm sống. Ông trưởng giả đi kiếm con, trải qua nhiều thành, dừng chân tại một nơi. Đứa con lưu lạc đến đó, trưởng giả ngầm nhận biết, thuê nó làm công. Lần hồi từ dọn phân rồi giao cho nó trông coi gia sản. Tới khi gần chết, trưởng giả nhóm họp đại chúng và thân quyến, báo cho mọi người biết gă nghèo làm công chính là con ḿnh, giao gia sản cho nó.

[27] Nguyên văn “kư ngữ nam tuân chư thượng sĩ” (nhắn lời đến các bậc thượng sĩ đang đi về phía Nam): “Đi về phía Nam” là đi tham học, dựa theo ư Thiện Tài đồng tử tham bái Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được Ngài điểm ngộ, dạy tham học với các vị thiện tri thức. Vị nào cũng dạy Thiện Tài đi về phương Nam. Do đó, từ ngữ “nam tuân” được dùng để chỉ sự tham học với các vị thiện tri thức.

[28] “Gịng” ở đây là tâm thức chấp trước. Kinh thường dùng chữ “tuần lưu” (循流, theo gịng) để nói chúng sanh do một niệm vô minh dấy lên, chấp trước tác dụng dẫn khởi từ chân tâm thể hiện qua các căn khi tiếp xúc cảnh, nẩy sanh chấp trước. Chấp trước càng mê sâu, càng bị cuốn theo căn, trần, cảnh, nẩy sanh vô lượng phiền năo.

[29] Dây leo cuốn quanh thân cây cổ thụ sẽ cao hơn các loài cỏ cây thấp lè tè quanh đó.

[30] Ư nói: Hành nhân thường thấy kinh văn nói cơi Cực Lạc cách Sa Bà mười vạn ức cơi Phật, bèn nghi Cực Lạc quá xa xôi, làm sao có thể văng sanh về đó được, nhưng nếu so với số lượng giọt mưa trong suốt một đời người th́ con số giọt mưa c̣n nhiều hơn khoảng cách ấy rất nhiều.

[31] T́m ṭi, thấu hiểu.

[32] Ư nói các giáo môn khác đều nhằm dẫn đường cho chúng sanh tiến nhập pháp Tịnh Độ.

[33] Đây là thí dụ về căn tánh của chúng sanh được nói trong phẩm Dược Thảo của kinh Pháp Hoa.

[34] Bá Nha tên thật là Du Thụy, tên tự là Bá Nha, người nước Sở, nhưng làm quan Thượng Đại Phu nước Tấn. Ông là người tài hoa, nổi tiếng về đàn cổ cầm thời ấy, đến nỗi Tuân Huống ca ngợi: “Cổ nhân chơi đàn th́ cá cũng phải ngoi lên nghe, Bá Nha chơi đàn khiến sáu ngựa ngừng ăn. Tử Kỳ tên thật Chung Huy, tên tự là Tử Kỳ, là một danh sĩ ẩn dật, sống bằng nghề đốn củi để nuôi cha mẹ già. Khi phụng chỉ đi sứ sang nước Sở, trở về ngang qua sông Hàn, gặp dịp trăng thanh gió mát, Bá Nha gảy đàn th́ dây bị đứt. Ngờ là thích khách, Bá Nha sai quân truy lùng, bắt được Tử Kỳ. Tử Kỳ cho biết ḿnh là một tiều phu, nghe tiếng đàn hay quá, nên dừng chân nghe. Khi Bá Nha đàn, Tử Kỳ thốt lên: “Nguy nguy hồ nhược cao sơn, đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Ṿi vọi thay như núi cao, lưu loát thay như nước chảy). Hai người bèn kết nghĩa kim lan, hẹn Trung Thu năm sau sẽ lại gặp gỡ. Đúng hẹn, Bá Nha đến gặp mặt th́ Tử Kỳ đă chết, Bá Nha bảo thế gian không có ai tri âm, treo đàn trước mộ Tử Kỳ, suốt đời không gảy cổ cầm nữa!

[35] Năng tu là người tu tập, hay cái tâm tu tập. Sở tu là đối tượng được tu, tức là các pháp do đức Phật dạy, hoặc hiểu theo nghĩa hẹp hơn là các hạnh môn trong Phật pháp.

[36] Tức là ngài Quy Sơn Linh Hựu (771-853), người sáng lập tông Quy Ngưỡng trong nhà Thiền. Ngài họ Triệu, sống vào đời Đường, quê ở Trường Khê, Phước Châu, nay là huyện Hạ Phố thuộc thành phố Ninh Đức, tỉnh Phước Kiến. Ngài là đệ tử thủ tọa của tổ Bách Trượng Hoài Hải. Do Ngài vâng lệnh Tổ sang Đại Quy Sơn khai sơn chùa Đồng Khánh tại Đàm Châu, nên thường được gọi là Quy Sơn Linh Hựu, hay Quy Sơn. Đệ tử xuất sắc của Ngài là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch hoằng truyền pháp mạch của thầy. V́ thế, tông phái Thiền này được gọi là Quy Ngưỡng Tông.

[37] Do câu kinh này quá hàm súc, chúng tôi không biết chuyển ngữ như thế nào, đành để nguyên và dẫn lời giảng của pháp sư Tịnh Giới như sau: “Tương văn tŕ Phật Phật: Chữ Phật thứ nhất là nói đến mười phương chư Phật, chữ Phật thứ hai là Phật pháp. Câu này có ư nói quư vị đă có thể nương vào tánh Nghe trong Nhĩ Căn để nghe và thọ tŕ pháp môn của mười phương chư Phật, v́ sao chẳng “tự văn văn”. Chữ Văn thứ nhất chỉ Nhĩ Căn, chữ thứ hai chỉ tánh Nghe, tức bổn lai diện mục. Ư nói: V́ sao quư vị chẳng từ tánh Nghe mà xoay ngược lại nghe nơi tự tánh. Do đó, câu kế tiếp là nhắc lại biện pháp tu tập Nhĩ Căn Viên Thông, do xoay lại nghe nơi tánh Nghe, cho nên từ ngay nơi cái tánh ấy mà chứng ngộ vô thượng đạo”.

[38] Theo pháp sư Thánh Nghiêm, “nhập lưu” chính là tương phản với “xuất lưu”. Xuất lưu là tâm thức duyên theo thanh trần, hướng ra ngoài rong ruổi. C̣n Nhập Lưu là chẳng chấp vào Thanh Trần, mà từ sự cảm nhận Thanh Trần bèn quán ngược lại để thấy được tánh Nghe. V́ thế, gọi là Nhập Lưu. Do đối tượng của tánh Nghe là Thanh Trần chẳng bị chấp trước, giống như vứt bỏ, lăng quên, nên gọi là Vong Sở (quên mất đối tượng nhận biết của tâm tánh).

[39] Nguyên văn “tác tiếp, vi lâm” (作楫爲霖, làm mái chèo, làm mưa dầm) vốn là thành ngữ dùng để ca ngợi bậc hiền thần có tài giúp vua trị nước an b́nh, thịnh vượng. Điển tích này xuất phát từ truyện Phó Duyệt trong sách Thượng Thư. Khi vua Vũ Đinh nhà Thương t́m được Phó Duyệt, đă phong ông làm Tể Tướng, căn dặn: “Triêu tịch nạp hối, dĩ phụ đài đức. Nhược tế cự xuyên, dụng nhữ tác châu tiếp. Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm” (Sáng tối ta nghe lời ông khuyên răn để giúp tăng phẩm đức của chính ḿnh. Như vượt sông lớn, dùng ông làm mái chèo. Nếu gặp năm hạn hán to lớn, dùng ông làm mưa dầm).

[40] Bạch chùy tức là vị duy-na gơ chuông hay khánh, nói một bài kệ thỉnh pháp sư thăng ṭa thuyết pháp.

[41] Nguyên văn “bất tiếc mi mao tha địa”. Đây là một thuật ngữ trong Phật giáo, hàm ư chẳng màng thân ḿnh bị trừng phạt như thế nào, luôn dốc sức v́ người khác thuyết pháp. Cổ nhân nói do nhiệt thành thuyết pháp mà lỡ nói pháp sai lầm, khiến cho kẻ khác hủy báng pháp, cho nên mắc quả báo lông mày rụng sạch.

[42] Đây là cách nói ví von, núi h́nh (h́nh sơn) tức thân thể, khối uẩn (uẩn tụ) tức ngũ uẩn. Ư nói chân tâm chẳng thuộc vào vật chất hay tâm thức.

[43] Đây là lời của học tṛ ca ngợi đạo của Khổng Tử. Trong thiên Tử Hăn sách Luận Ngữ, Nhan Uyên nói: “Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu” (ngửa trông lên th́ càng cao, càng dùi th́ càng cứng, mới thấy đằng trước, bỗng đă ra sau).

[44] Năm thời tức năm giai đoạn giáo hóa của đức Thế Tôn (theo quan điểm phán giáo của tông Thiên Thai): Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhă, và Pháp Hoa - Niết Bàn. Tám giáo chính là tứ hóa nghi (Đốn, Tiệm, Bí Mật và Bất Định) và tứ hóa pháp (Tạng, Thông, Biệt, Viên).

[45] Tức điển tích “niêm hoa vi tiếu”. Theo kinh Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi, Đại Phạm Thiên Vương cúng dường đức Phật cành hoa Kim Ba La, đức Phật cầm cành hoa giơ lên, im lặng không nói ǵ. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Ngài bèn được đức Phật phó chúc chánh pháp nhăn tàng.

[46] Tức điển tích tổ Đạt Ma sau khi đối đáp với Lương Vũ Đế chẳng hợp thời cơ, bèn lên Tung Sơn “cửu niên diện bích” (chín năm nh́n vào vách) tại chùa Thiếu Lâm. V́ thế, tông Tào Động của Nhật Bản khi tọa thiền thường xoay lưng ra ngoài, nh́n vào vách.

[47] Đây là điển cố “ma chuyên thành kính” (mài ngói thành gương) được chép trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Mă Tổ Đạo Nhất đến nhập chúng tại chùa Bát Nhă ở Nam Nhạc của ngài Hoài Nhượng, ngày ngày đóng cửa dụng công. Ngài Hoài Nhượng gơ cửa, Đạo Nhất không thèm trả lời. Ngài Hoài Nhượng cứ gơ cửa ầm ầm măi, Đạo Nhất chịu không nổi, phải mở cửa ra. Hoài Nhượng hỏi: “Đại sư hằng ngày ngồi chết khô trong ấy, nếu chẳng có công phu Chỉ Quán, làm sao có thể thành Phật được?” Mă Tổ không hiểu ư Hoài Nhượng, nẩy sanh phiền năo, bèn đóng sập cửa, tiếp tục tọa Thiền. Hoài Nhượng bèn lấy một viên ngói, dùng sức mài cành cạch trước thảo am của Mă Tổ. Mài suốt nhiều ngày, âm thanh hết sức chói tai. Mă Tổ chịu không nổi, bực bội hỏi: “Thiền sư, Ngài mài ngói để làm ǵ cơ chứ?” “Ta mài ngói muốn làm thành một tấm gương”. “Mài ngói làm sao thành gương cho được?” Hoài Nhượng cười hỏi: “Mài ngói chẳng thành gương, ngồi Thiền khô khốc làm sao thành Phật cho được?” Mă Tổ nghe nói, hoát nhiên khai ngộ, theo học với Hoài Nhượng, rốt cuộc thành bậc tông sư trong nhà Thiền.

[48] Bảy nẻo (thất thú) chính là lục thú (lục đạo), do tách thần tiên ra khỏi thiên đạo và quỷ đạo, nên thành bảy đường.

[49] Nguyên, hanh, lợi, trinh là các phẩm đức của quẻ Càn theo kinh Dịch. Có nhiều cách giải thích bất nhất. Thuyết phổ biến nhất là như thiên Văn Ngôn của sách Dịch Càn viết: “Nguyên là tăng trưởng điều lành, Hanh là tăng thêm điều tốt đẹp, Lợi là ḥa hợp đạo nghĩa, Trinh là điều chủ yếu của sự việc”. Khổng Dĩnh Đạt chú giải: “Nguyên là khởi đầu, Hanh là thông thuận, Lợi là ḥa hợp, Trinh là chánh đáng. Ư nói quẻ Càn này có phẩm đức, tánh chất thuần Dương, tự nhiên có thể dùng khí Dương để sanh khởi vạn vật, khởi nguồn hanh thông, có thể khiến cho vạn vật hài ḥa, mỗi thứ đều được lợi, lại có thể khiến cho sự vật kiên cố, chắc chắn”.

[50] Lô Xá Na dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịnh Măn.

[51] Tam Hiền là ba mươi địa vị Bồ Tát gồm Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng. Thập Thánh chính là mười địa vị Bồ Tát từ Sơ Địa cho đến Thập Địa.

[52] Theo kinh Lăng Nghiêm, chàng Diễn Nhă Đạt Đa soi gương, trông thấy đầu ḿnh bèn sợ hăi phát cuồng!

[53] Theo sách Luận Ngữ, thiên Nhan Uyên có nói: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” (điều phi lễ chớ nh́n, chuyện phi lễ chớ nghe, điều phi lễ chớ nói, chuyện phi lễ chớ làm).

[54] Thiên Học Nhi trong sách Luận Ngữ chép: Tăng tử nói “ngô nhật tam tỉnh ngô thân, vị nhân mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao, nhi bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?” (Ta hằng ngày ba lượt phản tỉnh thân ḿnh, mưu tính cho người khác có trung thực hay không? Chơi với bạn bè có giữ chữ tín hay không? Được dạy bảo có tu tập hay không?)

[55] Cao Nhân Động (?-1907), pháp danh là Minh Động, tự Vân Khê, hiệu Thọ Sơn Tử, quê ở Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, là Phương Trượng đời thứ 12 của Bạch Vân Quán ở Bắc Kinh. Bạch Vân Quán chính là một trong ba đại tổ đ́nh của Toàn Chân đạo Long Môn phái (tức chi phái Toàn Chân Giáo do Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ sáng lập). Đạo quán này được thành lập dưới đời Nguyên. Thoạt đầu, đây là Thiên Trường Quán, do Khưu Xứ Cơ tu ở đó, nên Thành Cát Tư Hăn hạ chiếu đổi tên thành Trường Xuân Cung. Sau khi Khưu Xứ Cơ chết, đại đệ tử là Doăn Chí B́nh kiến lập Bạch Vân Quán ở phía Đông cung ấy.

[56] Tương truyền, trước khi bỏ chức quan cưỡi trâu xanh đi về phía Tây, Lăo Tử giữ chức quan của Trụ Hạ Sứ (柱下使, tức Ngự Sử đại phu), cho nên Trụ Hạ thường là danh xưng để gọi Lăo Tử.

[57] Hoàng quan (黄冠) có nghĩa là cái mũ có màu vàng. Trong một số nghi lễ của Đạo giáo, đạo sĩ phần nhiều đội mũ màu vàng khi cúng bái nên gọi là “hoàng quan”.

[58] Tức là thiền trượng. V́ khi nói pháp ngữ, vị thiền chủ thường dùng thiền trượng để giơ lên hay giộng xuống nhằm biểu thị thiền ư.

[59] Nguyên văn “ngu đ́nh tăng vịnh cổ quăng lương”. Vua Ngu Thuấn được coi là bậc thánh quân đời cổ, do đó chánh quyền của nhà vua được gọi là Ngu Đ́nh. Về sau, từ ngữ này được mở rộng thành ư nghĩa “triều chánh tốt đẹp, thịnh trị, cai trị bằng nhân ái”. “Cổ quăng lương” là hàng bầy tôi đắc lực, hiền năng.

[60] Y Lữ tức là hai bậc hiền thần nổi danh thời cổ, tức Y Doăn đời Thương và Lữ Thượng (Lă Thượng, Khương Tử Nha) thời Châu.

[61] Tức Châu Công Đán và Thiệu Công Thích, hai ông này đều là bậc hiền thần pḥ tá Châu Thành Vương.

[62] Tức công án nổi tiếng của nhà Thiền “vân hà tổ sư Tây lai ư” (như thế nào là ư của tổ sư từ trời Tây đến Trung Hoa?)

[63] Tổng Nhung (總戎) là danh xưng chung để gọi người nắm quyền chỉ huy quân sự tại một địa phương thời cổ. Đời Đường, Tổng Nhung là danh xưng chỉ Tiết Độ Sứ (節度使, quyền oai rất lớn), nhưng đến đời Thanh th́ Tổng Nhung chỉ là Tổng Binh (總兵,chỉ huy quân sự cấp huyện hoặc thị sảnh, hoặc hương trấn). Do ở đây, ông Trương được gọi là Trấn Đài (鎮臺), tức chỉ là chức quan Tổng Binh của một hương trấn thuộc huyện Định Hải. Đôi khi Tổng Nhung chỉ có nghĩa là “chỉ huy” hoặc “cầm quân”, như trong phần Vũ Đế Kỷ của sách Châu Thư chép: “Đế tổng nhung bắc phạt” (vua đích thân cầm quân chinh phạt phương Bắc).

[64] Nguyên văn “bổ cổn, điều canh” (補袞調羹): “Bổ cổn” là can gián khi vua phạm lỗi lầm. “Điều canh” nghĩa đen là nêm nếm cho canh có vị ngon lành, nghĩa bóng là châm chước, toan tính sao cho mọi việc êm đẹp, đúng mực, thích đáng.

[65] Nguyên văn “vi lâm tác tiếp” (爲霖作楫, làm mưa dầm, làm mái chèo) vốn là thành ngữ dùng để ca ngợi bậc hiền thần có tài giúp vua trị nước an b́nh, thịnh vượng. Điển tích này xuất phát từ truyện Phó Duyệt trong sách Thượng Thư. Khi vua Vũ Đinh nhà Thương chiêu mộ được Phó Duyệt, đă phong ông làm Tể Tướng, căn dặn: “Triêu tịch nạp hối, dĩ phụ đài đức. Nhược tế cự xuyên, dụng nhữ tác châu tiếp. Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm” (Sáng tối ta nghe lời ông khuyên răn để giúp tăng phẩm đức của chính ḿnh. Như vượt sông lớn, dùng ông làm mái chèo. Nếu gặp năm hạn hán to lớn, dùng ông làm mưa dầm).

[66] Chu Tứ tức là Chu Thủy và Tứ Thủy là hai con sông lớn tỉnh Sơn Đông. Nước Lỗ xưa thuộc tỉnh Sơn Đông. Hai con sông này bắt nguồn từ huyện Tứ Thủy chảy lên bắc liền hợp lưu thành một, đến huyện Khúc Phụ (quê hương của Khổng Tử) bèn tách thành hai gịng. V́ thế, cổ nhân hay dùng chữ Chu Tứ để nói đến Khổng Tử.

[67] Ngân Hán, tức Ngân Hà.