Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên (phần bổ sung)
phần 3
(nguyên tác: Ấn
Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Bổ)
印光法師文鈔三編補
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức
Phong, Huệ Trang và Chúc Bảo
II. Tự, bạt,
sớ
* Bài tựa nêu
duyên khởi của Phật Thất vĩnh
viễn
Vốn
nghe “tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh” (nhà
tích lũy điều thiện, niềm vui có thừa). Hậu
duệ của tổ tiên nhiều đời đức hạnh
thường vượt xa những kẻ cùng hàng, chỉ
v́ tích đức đă sâu, cho nên sẽ tỏa sáng;
do vun bồi cũng sâu, cho nên phát khởi cũng
lâu dài. Lư ấy vốn tất nhiên là như thế. Gia đ́nh ông
Ngô Hằng Tôn ở thành Tô Châu nhiều đời truyền
thừa đức hạnh, thích làm lành, chuộng bố thí.
Hễ gặp dịp cứu chẩn tai nạn hay cứu nạn
gấp, đều công khai hoặc âm thầm quyên góp. Đấy
là v́ muốn trọn hết tấm ḷng của ḿnh, nhưng chẳng mong
bộc lộ tên tuổi. Mẹ và vợ ông ta đều
quy y Tam Bảo, khẩn thiết hộ tŕ. Năm nay, bổn
tự dựng ngôi lầu Niệm
Phật Đường và hơn ba mươi gian nhà. Trừ
khoản tiền quyên tặng của lăo ḥa thượng
Chân Đạt, cũng như khoản tiền dư từ
các Phật Thất của thường trụ, và sự trợ
giúp của những vị thiện tín các nơi, cho tới
khi công tŕnh sắp hoàn thành, c̣n thiếu mấy ngàn đồng.
Dẫu muốn vay mượn, cũng chẳng thể được!
Ngô thái phu nhân bèn khảng khái chấp thuận giúp cho hoàn thành,
cả nhà cùng giúp hơn năm ngàn bảy trăm đồng.
Lại bỏ ra khoản tiền bảy trăm
đồng để tạo khám thờ Tam Thánh, ngơ hầu khi xây
dựng xong, thường
trụ chẳng đến nỗi mắc nợ. Cảm kích
hậu ư ấy, [bổn tự] quyết định mỗi
năm kể từ mồng Một tháng Tư sẽ bắt
đầu một khóa Phật Thất vĩnh viễn do toàn
thể đại chúng thường trụ cùng
niệm. Trong bảy ngày ấy, quyết chẳng v́ gia đ́nh
nào khác mà niệm Phật. Từ nay trở đi, trong khóa Phật
Thất ấy, nhất loạt chẳng thâu lệ phí. Tới
lúc đó, sẽ chỉ thông báo trước mà thôi! Nho giáo nói
“đầu đào, báo lư” (đưa cho đào, trả
lại mận), Phật giáo dạy “tài thí lẫn pháp thí đều
b́nh đẳng bố thí”, dùng công đức của Phật
Thất ấy cầu cho cả
nhà họ Ngô hiện thời nghiệp tiêu, tăng thọ, hết
thảy cát tường. Trong tương lai, nhờ vào từ
lực của Phật, văng sanh Tây Phương. Con cháu đều
kế thừa đức của tiền nhân, đều thành
bậc đáng được mọi người trọng
vọng, sống th́ dự vào bậc thánh hiền, thác sẽ
về cơi Cực Lạc.
(Ngày
mồng Tám tháng Chạp, năm Dân Quốc 21 (1932), tức năm
Nhâm Thân âm lịch)
* Bi kư [trần thuật duyên khởi]
lập Phật Thất vĩnh viễn để ghi nhớ
công đức giúp tu tạo đại điện của Linh
Nham sơn
Từ
khi khởi công [kiến tạo] Đại Hùng bảo
điện tới nay, công tŕnh to lớn, tiền công lẫn
vật liệu đắt đỏ, lại c̣n thêm hạn
hán, đói kém, quyên mộ gian nan, khiến cho công tŕnh mấy
lượt khốn khó. Tiền công thợ, tiền mua vật
liệu, ngoại trừ các khoản lạc quyên từ các
vị hộ pháp, vẫn chẳng đủ chi trả. Do
thương lượng với hai vị lăo nhân Ấn, Chân
(Ấn Quang và Chân Đạt) đồng ư, [bổn tự quyết
định] phát khởi hai khóa Phật Thất vĩnh viễn.
Mỗi khóa Phật Thất th́ mỗi người tán trợ
sẽ giúp năm trăm đồng. Đă có mười lăm
người gia nhập (trong đó có cư sĩ Hoàng Hành Thu
một phần. Ông Hoàng chính là người phát khởi tu bổ
đại điện. Năm ngoái, một ḿnh ông ta đă giúp
năm ngàn đồng). Quyết định bắt đầu
từ ngày Mười Một tháng Mười Một âm lịch, toàn thể mọi
người trong Niệm Phật Đường đều
niệm, cho đến ngày Mười Bảy là viên măn, vĩnh
viễn làm như thế. Khóa Phật Thất khác th́ mỗi
phần sẽ giúp một trăm đồng, người gia
nhập đă có mười tám phần, cũng là năm nào
cũng tổ chức đúng lệ, chỉ dựa theo số
người và thời gian để châm chước, cân nhắc.
Pháp
môn Niệm Phật chính là dùng phàm t́nh để khế nhập
thánh trí, dùng quả giác làm nhân tâm (cái tâm tu nhân), chín pháp giới
đều hướng về, chư Phật cùng xưng tán.
Công đức rộng lớn, lợi ích sâu rộng; phàm những
điều mong cầu đều được
toại nguyện. Dẫu ngay trong đời này,
[mong được] siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử
vẫn có thể đạt
được, huống hồ những điều thấp
hơn ư? Bởi lẽ,
pháp này chính là pháp môn tổng tŕ để mười
phương ba đời hết thảy chư Phật trên
thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh,
thành tựu từ lúc phát tâm cho đến lúc chứng đắc.
Hiềm rằng người đời tu tŕ, phần nhiều
cậy vào tự lực, vứt bỏ Phật lực, phần
nhiều mong cầu phô trương
mà sơ sót lợi ích thực tế, đến nỗi gieo
nhân mà chẳng đạt được cái quả thật
sự, bỏ vốn mà rốt cuộc chỉ thành uổng
công, cũng đáng cảm khái lắm thay!
Linh
Nham là đạo tràng cổ đă một ngàn sáu trăm
năm. Từ đời Tấn, quan Tư Không Lục Ngoạn[1] biến
nhà thành chùa, trải qua các đời Hậu Lương, Đường,
Tống, Minh, Thanh, đều được sắc phong tu
tạo. Lại c̣n được Trí Tích Bồ Tát hoặc
dùng h́nh vẽ, hoặc hiện tướng trạng tăng
sĩ để hiển lộ sự linh dị, khiến
cho đạo tràng này đứng đầu
đất Ngô. Cuối đời Thanh, chùa gặp nạn
binh hỏa, rốt cuộc thành chốn g̣ hoang, chỉ c̣n một
ṭa tháp bằng gạch sừng
sững. Do được ông Cung Bảo Bành Ngọc Lân lập
phương cách, thoạt đầu dựng một ngôi điện
nhỏ, hai mươi mấy gian nhà nhỏ. Tăng chúng thường
trụ hành đạo vẫn chưa lo xuể. Năm Tuyên
Thống thứ ba (1911), bạn tôi là ḥa thượng Chân Đạt
do được vị hương thân trong ấp là ông
Nghiêm Lương Xán gởi thư thỉnh làm Trụ Tŕ. Thầy
Chân Đạt liền muốn khôi phục quy chế cũ.
Chờ đúng thời cơ, vào năm Dân Quốc 15 (1926), đổi chùa thành đạo
tràng thập phương chuyên tu Tịnh Độ, suốt
năm niệm Phật, chẳng khác ǵ Phật Thất phổ
thông[2]. Chưa
đầy hai, ba năm, đạo phong lan xa. Các chỗ như
Thượng Hải, Thiên Tân, Phước Kiến, Cam Túc v.v…
đều gởi thư xin đả thất. Do vậy, chúng
Tăng thường
trụ đă đông, không thể nào chẳng khởi công tu
tạo lớn. Niệm Phật Đường và các liêu xá cần thiết đă
lần lượt cất xong, chỉ có công tŕnh đại
điện to lớn, tuy đă khởi công, nhưng chi phí
thiếu hụt quá lớn. Do thời cuộc gian nan, chẳng
tiện quyên mộ, hóa duyên. V́ thế, nhóm họp đại
chúng làm Phật Thất vĩnh viễn, mỗi người
bỏ ra năm trăm đồng, dùng công đức ấy
để hoàn thành đại điện. May được
các vị đại cư sĩ như Quư Thánh Nhất, Tào Tung
Kiều v.v… đều giúp đỡ, công tŕnh tu tạo đại
điện mới chẳng đến nỗi bỏ dở
nửa chừng. Do vậy, cung điện mênh mông chẳng
mấy chốc sẽ hoàn thành, măn nguyệt kim dung sẽ thường
trụ bao kiếp. Tứ chúng chiêm lễ gieo phước điền
xuất thế, cùng nhau tŕ tụng trong tinh thần Lục Ḥa
để thành tựu đạo nghiệp siêu phàm. Công đức
ấy há có thể diễn tả nổi chăng?
Chọn
ngày Mười Một tháng Mười Một âm lịch làm
ngày khởi thất cho đến ngày Mười Bảy là
ngày thánh đản của A Di Đà Phật th́ viên măn. Dùng công
đức ấy để siêu độ tiên linh, cầu
cho cha mẹ tăng thọ, sám hối nghiệp chướng
mà do chính ḿnh đă trót tạo, tạo
phước ấm cho con cháu, hậu duệ. Lại cầu
mưa thuận, gió ḥa, thóc lúa chín rộ, trong ngoài nước
thường ḥa thuận, giúp đỡ lẫn nhau, thiên hạ
vĩnh viễn thái b́nh. Tứ sanh cửu hữu cùng lên Tịnh
Độ huyền môn, bát nạn tam đồ cùng vào biển
nguyện Di Đà. Từ nay về sau, mỗi năm vào dịp
này đều mở Phật Thất, [người tham dự] nhất loạt
chẳng phải bỏ tiền, quả thật là phương
cách thuận tiện cho Tăng lẫn tục. Phương
danh của những người quyên tặng sẽ ghi đầy
đủ trong phần sau.
* Lời tựa cho bài
kư giảo chánh đối chiếu phẩm Phổ Hiền Hạnh
Nguyện (chữ Lệ (丽) chính là chữ Lệ
(麗) viết
theo lối cổ. Chọn chữ này cho dễ khắc đó
thôi)
Đây
chính là phẩm kinh cuối cùng của Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh; nói đầy đủ là Nhập
Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền
Hạnh Nguyện Phẩm, nói gọn là phẩm Nhập Pháp
Giới, tức mười sáu quyển cuối cùng trong bản
dịch kinh Hoa Nghiêm gồm sáu mươi quyển đời
Tấn, và hai mươi mốt quyển cuối cùng trong bản
dịch Hoa Nghiêm tám mươi quyển đời Đường.
Hai bản dịch ấy tuy đại lược hay chi tiết,
[nhưng chánh văn] đều chưa được truyền
đến [Trung Hoa] đầy đủ. Cho tới khoảng
niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức
Tông, kinh văn bằng tiếng Phạn của trọn phẩm
mới được truyền tới, dịch thành bốn mươi
quyển. Trong Duyệt Tạng Tri Tân, Linh Phong đại sư
đă viết: “Áp chót kinh này, Phổ Hiền Bồ Tát
đă v́ Thiện Tài ca ngợi công đức thù thắng của
Như Lai xong, lại nói mười đại nguyện vương,
hướng dẫn [Hoa Tạng hải chúng] trở về thế
giới Cực Lạc”. Hiện thời, chỉ lấy quyển
cuối cùng [của phẩm]
này, nối vào sau bản Đường dịch tám mươi
quyển để cùng lưu thông rộng khắp. Nhưng
bản dịch này văn lẫn lư đều xuất sắc,
chẳng kém [cách dịch của] ngài Thật Xoa Nan Đà[3]. Lời khai thị của
bậc tri thức (Phổ Hiền Bồ Tát) lại càng tường
tận, rơ ràng. Thiết thực vận dụng trong thường
nhật, thiết thực cứu thói tệ trong đời
Mạt, thích hợp nhất để lưu thông chung.
Tiếc
là kinh văn đă lâu chỉ hạn cuộc trong Đại
Tạng, chưa thể truyền rộng. Vào thời Tống,
Nguyên, [kinh
văn của phẩm này] c̣n chưa bị sai ngoa cho lắm.
Tới đầu thời Minh, khi khắc in Nam Tạng[4], do [người
chủ tŕ] chưa giảo chánh cặn kẽ, đến nỗi
sai ngoa lũ lượt xuất hiện. Sau này, Bắc Tạng,
Thanh Tạng, và Thư Sách Tạng[5] cuối
đời Minh đều noi theo sự sai ngoa ấy, thật
đáng đau xót! Bản kinh in theo lối Thư Sách này thật
sự dựa theo Đại Tạng đời Minh được
in lại theo lối Thư Sách. Vào những năm cuối
thời Quang Tự, Lượng[6] đă lấy
hai tạng đời Minh và Thanh cùng với phẩm Nhập
Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm giảo chánh đại lược,
ghi chú bên cạnh, cao hơn [chánh kinh] một gịng. Mùa Xuân năm
nay, tôi nói chuyện này với
cư sĩ Từ Úy Như ở Hải Diêm[7], ông ta bèn
phát tâm sửa chữa. Do vậy, lấy bản kinh của
Lượng, và Tống, Nguyên, Cao Ly, Nam, Bắc, Thanh sáu tạng
kinh để đối chiếu giảo duyệt. Dụng
tâm ấy khá vất vả, cần cù, nhưng so trong sáu tạng,
chỉ có Cao Ly Tạng là tốt nhất, cho nên phần nhiều
dựa theo đó. Những chữ sai ngoa, khác biệt được ghi thành từng tấm
thẻ, dán cao lên một gịng [so với chánh kinh], chuyển đến
cho Lượng. Do vậy, tôi liền giảo đính, xem xét,
nương theo đó để sửa chữa bản thảo.
Đối với các chữ nhất định cần phải
sửa, tôi dùng chữ to ghi rơ quyển nào, trang nào, gịng nào,
chữ nào. Phía dưới, dùng chữ cỡ nhỏ ghi chú
chỗ sai lầm và dựa theo tạng kinh nào để sửa
chữa. Cũng có chỗ chỉ ghi chú chữ sai, không nêu rơ
tạng kinh nào, v́ các tạng kinh đời Tống, Nguyên,
và tạng Cao Ly giống nhau, không cần phải viết rơ!
Có chỗ th́ chữ X… phải là chữ Y… Và các chữ [nếu
xét theo mạch văn th́] hoặc thừa, hoặc sót, tuy [xét
theo] nghĩa rất đích xác, nhưng do chẳng có chứng
cứ trong các tạng kinh [để thêm hoặc bớt các
chữ ấy], chẳng dám xằng bậy tự tiện sửa
đổi, tăng giảm. Để tỏ lộ sự
thận trọng, chỉ dùng chữ to viết bên cạnh đó
mấy hàng, phía dưới dùng chữ nhỏ để chỉ
ra ư nghĩa sai hoặc đúng ḥng giúp cho việc nghiên
cứu. Lại có chỗ ư nghĩa thật sự chẳng sai,
nhưng chữ dùng trong bản nào đó hay hơn, các văn
bản ghi khác nhau, nhưng ư nghĩa thật sự b́nh
đẳng, th́ đều chẳng sửa, cũng dùng chữ
cỡ nhỏ ghi dưới trang đó, gịng đó để
tránh cho các bậc hậu hiền dựa theo các tạng kinh
để đối chiếu, sẽ lại nẩy sanh
tranh luận. Nay do chuyện tu chỉnh văn bản lần
này mà khắc bài kư này, ghép vào cuối kinh để lưu
truyền, ngơ hầu người đọc mai sau sẽ bớt
tâm lực, chẳng có ư niệm nghi ngờ!
* Lời tựa cho phần
Bổ Sung Duyên Khởi Khắc In Đại Tạng Kinh
Tử
Bách đại sư, húy Chân Khả, tên tự là Đạt
Quán, hiệu Tử Bách. Ngài mong pháp hóa rộng khắp, đề
xướng khắc in Đại Tạng Kinh theo lối in
sách như thế tục (tức lối Thư Sách, hay c̣n gọi
là Phương Sách). Nhất thời, tể quan, cư sĩ,
và các bậc kỳ túc các phương đua nhau phụ họa,
bèn được thành tựu nguyện ấy. Tới khi
toàn bộ Đại Tạng Kinh khắc xong, bèn trích yếu
các bài văn đề xướng khắc kinh, gồm mười
tám bài, đem khắc thành một quyển, đặt tựa
đề là Khắc Tạng Duyên Khởi, ghép kèm theo Đại
Tạng để lưu thông ḥng khiến cho mọi người
biết nguyên do mà thấu hiểu lợi ích của Phật
pháp. Nhưng do lời văn đề xướng lúc ban đầu
của đại sư có những câu bàn đến thói đời
biến đổi vô thường, cơi đời b́nh trị
hay loạn lạc há có thể nghịch chuyển, an định
được chăng v.v… sợ phạm đến điều
kỵ húy của quốc gia, cho nên chưa khắc. Lại
nữa, tuy chuyện ấy đă xong, nhưng bài văn nêu rơ
lợi ích do khắc Đại Tạng của ngài Tử Bách,
bài văn sai Huyễn Dư đại sư quyên mộ, lư sâu, chữ khéo, trọn
chẳng có các lời lẽ phạm kỵ húy, chẳng biết
do lẽ nào cũng chẳng được đăng tải,
sao lục, rất đáng than thở! V́ thế, chép lại
hai bài ấy từ trong
Tử Bách Tập, bổ sung vào phía sau,
ngơ hầu đời sau đều biết, đều thấy
một phen tâm huyết “v́ pháp, v́ người” của đại
sư.
* Lời nhận định
về duyên khởi khắc in Đại Tạng Kinh (thứ
nhất)
Phàm
những ǵ thuộc về kinh Phật, theo lư phải nên tôn
kính, v́ được
tắm gội bởi từ ân của Phật, tuân phụng giáo huấn rơ
ràng của Phật. Chớ nên v́ kinh
được in theo lối Phạm Sách hay Phương Sách
mà cho là sai khác. Nhà Nho thường có thói xấu, coi kinh truyện
của thánh hiền chẳng khác ǵ giấy cũ, trọn
chẳng kính sợ. Cứ thế thành thói quen, rốt cuộc
chẳng biết là sai trái, cho rằng kinh sách [nhà
Phật] được in theo lối Phương Sách cũng
giống như thế. Nay đă đem kinh Phật sửa
thành in theo lối Phương Sách để mong được
lợi ích rộng khắp, cố nhiên phải giáng xuống
một búa thống thiết, khiến cho họ đối
với kinh Phật được in theo lối Phương
Sách phải sanh ư tưởng khó gặp gỡ, cần phải
chuyên chú dốc cạn ḷng thành, trọn hết ḷng kính,
như trung thần tuân phụng thánh dụ (chiếu chỉ
của nhà vua), hiếu tử đọc di chúc, nghiêm túc, cung kính,
e sợ, chẳng dám coi thường, trọn chẳng thể
noi theo thói quen cũ của nhà Nho để đối đăi
kinh Phật, ngơ hầu ai nấy đều được
hưởng pháp lợi, cùng được độ thoát.
Chỉ sợ có kẻ hiểu lầm, chỉ chú trọng
lưu thông, chẳng tôn kính, kiêng dè, chẳng thể nào không
nêu đại lược lời luận bàn thẳng thắn!
* Lời nhận định
về duyên khởi khắc in Đại Tạng Kinh (thứ
hai)
Những
chuyện như đốt tượng, vứt kinh v.v… là các
hành vi vượt ngoài khuôn khổ của nhà Thiền, chớ
coi đó là khuôn phép. Các vị đó cũng bất quá thỉnh
thoảng làm như thế; há có nên phỏng theo hành
vi ấy để mắc tội, tự lầm, lầm người! Nếu cho rằng
nhà Thiền cố nhiên chẳng tôn kính kinh tượng, há không chỉ là chẳng biết thực
tế của Thiền, mà c̣n chẳng biết h́nh tích và nguyên
do của các hành vi lập bày của nhà Thiền! Cần phải
biết pháp chẳng có tướng cố định, hễ
gặp duyên bèn đề cao. Kẻ đốt tượng,
vứt kinh vẫn là Thiền, há kẻ tôn kính kinh tượng
chẳng phải là Thiền ư? Người thời nay nếu
muốn hiểu rơ Thiền, ắt cần phải khởi đầu
bằng tôn kính kinh tượng, đem chuyện tôn kính kinh tượng
làm câu Thoại Đầu, từ sáng đến tối, từ
tối đến sáng, tâm tâm niệm niệm, đừng coi thường, quên
bẵng! Sẽ tự nhiên nghiệp
tận, t́nh không, tâm nguyệt vằng vặc, Lư lẫn Sự hai đằng đều
đạt được, phước lẫn huệ đều
trang nghiêm vậy!
* Lời nhận định
về duyên khởi khắc in Đại Tạng Kinh (thứ
ba)
Đọc
sách thánh hiền đều phải nên rửa tay, súc miệng,
ngồi ngay ngắn, giống như đối trước
thánh hiền, đích thân nghe dạy bảo, huống hồ
kinh Phật ư? Cư sĩ Lục Mộng tinh thông sâu xa Phật pháp, nhưng
xét theo lời ông ta nói về hai hành vi “nghiêm cẩn kính phụng
kinh Phật được in theo lối Phạm Sách”, và bắt
bẻ chuyện nhiều lượt rửa tay [khi đọc
kinh Phật] v.v… th́ đúng là [ông ta cho rằng]: Đối
với kinh Phật in theo lối Phạm Sách th́ phải giữ
ḷng kính sợ, c̣n đối với [kinh điển in theo
lối] Phương Sách th́ có thể tùy ư. Đấy gần như là
thói quen thô lậu của Nho gia, chẳng biết đó là sai
trái. Ông ta lại nói “chẻ
vi trần lấy kinh, [vậy th́] trần chính là kinh, sao lại
phải kiêng ô uế? Phiền năo chính là Bồ Đề, vậy
th́ phiền năo chính là kinh, sao lại thiên vị nghiêm kính [kinh
điển nhà Phật]?” Đúng là chấp Lư phế Sự, phá hoại tướng
pháp thế gian, rơi vào cuồng huệ. Kẻ tâm ư hời
hợt, nông cạn nghe hai thuyết ấy, ắt sẽ dốc
ḷng tuân phụng như khuôn phép, nỗi hại ấy không thể kể xiết!
Người
học đạo ắt cần phải hiểu lư tột
bậc viên dung, đối với nghi quỹ (khuôn phép nghi
thức) bèn chẳng hỗn
tạp hoặc trái vượt mảy may th́
mới có thể hoằng dương, lưu thông Phật pháp,
tự lợi, lợi người. Nếu không, đối
với kẻ nói, chỉ trở thành hư luận; người
nghe rồi làm theo, ắt sẽ tạo nghiệp
chịu khổ vô cùng! Cần phải biết, hễ là kinh
Phật và các sách hoằng truyền, xiển dương Phật
pháp, bất luận là Phạm Sách hay Phương Sách, dẫu
viết trên vách, khắc trên tràng, khắc trên núi đá, đúc
nơi chuông, khánh, đều phải nên cung kính. V́ đấy
là pháp để siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử,
lợi ích vô biên, ân đức quá sâu! Nếu có thể trọn
hết ḷng thành, tận hết ḷng kính, ắt nghiệp
chướng như băng tan, phước huệ như
trăng tṛn, đoạn Hoặc chứng Chân c̣n có thể đạt
được, huống hồ minh tâm ư? Nếu không, dẫu
minh tâm, vẫn khó thoát khổ. Do chỉ chuộng hiểu
biết hư huyễn, chẳng chú trọng thật tu, tất
cả ngộ giải đều trở thành cuồng huệ.
Tuy thuộc loại nhân lành, ngược ngạo chuốc lấy
ác quả. Người muốn đạt được lợi
ích thực tế trong Phật pháp, xin hăy t́m cầu từ ḷng
cung kính.
* Bài sớ nêu duyên khởi
quyên góp tư lương để tái giảo đính cho
quy tắc tu tŕ trong đạo tràng Tịnh Độ chùa
Di Đà ở Hàng Châu
Có
cuộc đất tối thắng th́ mới có thể hoằng
dương đạo tối thắng. Để kiến
lập chuyện phi thường, ắt phải đợi
bậc phi thường! Muốn hưng khởi pháp môn Tịnh
Độ, cần phải có đủ nội hộ và ngoại
hộ. “Nội hộ” là bậc thiện tri thức
thật sự, đề xướng, gợi mở, hướng
dẫn, dẫn dắt đại chúng hành đạo. “Ngoại
hộ” là bậc cư sĩ chánh tín ngăn ngừa sự
lấn hiếp từ bên ngoài, cung cấp tư lương.
Cả hai đằng đều đủ, pháp đạo
sẽ tự có thể hưng thịnh to lớn, nhân dân đều
được cảm hóa. Huống hồ đại chúng
đích thân dự vào đạo tràng, há chẳng đạt
được lợi ích chân thật ư?
Chùa
Di Đà ở Tùng Mộc Tràng, Hàng Châu chính là đạo tràng
Tịnh Độ do hai vị pháp sư Diệu Nhiên và Ngọc
Phong kiến lập, tới nay đă hơn năm mươi
năm. Mười mấy năm gần đây đă khá
hoang vắng. Từ năm Dân Quốc thứ mười
(1921), pháp sư Trí Huệ trụ tŕ cho tới nay, điện
vũ thảy đều rạng rỡ, tứ chúng đều
chú trọng chân tu, mọi người xa gần đều
khen ngợi. Mùa Xuân năm nay, cư sĩ Ngô Bích Hoa và Chung
Khang Hầu thuộc Hàng Châu Phật Học Hội triều
bái Đại Sĩ, có nói đất Hàng chùa chiền san sát,
nhưng người thật sự tu Tịnh nghiệp đă
hiếm hoi như sao buổi sớm! Nếu chẳng
sốt sắng đề xướng, pháp Tịnh Độ
chắc sẽ hầu như bị ngưng dứt! Làm sao có
thể sống th́ đắc tam-muội, lợi khắp trời
người, mất bèn lên thượng phẩm, nhanh chóng
chứng Vô Sanh ư?
Thầy
Trí Huệ than: “Người tu pháp môn Tịnh Độ, ắt
cần phải thật sự v́ sanh tử, phát Bồ Đề
tâm, dùng tín nguyện sâu, tŕ danh hiệu Phật. Lại c̣n
phải nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối. Người có thể làm như vậy, trong đời
hiện tại, nhất định có thể đích thân đắc
tam-muội, sau khi mất, ắt được lên thẳng
thượng phẩm, lợi ḿnh, lợi người, hai đằng
đều trọn đủ! Thoạt đầu, tôi trụ
tại chùa này, liền muốn phỏng theo quy củ xưa
kia của Đông Lâm và Phạm Thiên[8],
chỉ v́ chẳng có tư lương, chẳng dám tiến
hành. Nay các vị cư sĩ đă phát tâm này, nguyện đứng ra khởi xướng,
hướng dẫn, ngơ hầu nguyện ấy được
viên thành, may mắn lắm
thay!” Khéo sao hai vị cư sĩ ở Thượng Hải
là Vương Nhất Đ́nh và Trầm Tinh Thúc vừa đến,
bàn tới chuyện này, họ đều cực lực
nguyện tán trợ.
Trong
tháng Năm, thầy Trí Huệ đến đất Hỗ
(Thượng Hải), thương lượng với sư
Đế Nhàn và Quang, cùng các vị cư sĩ, thảy đều
hoan hỷ tán thán. Các vị cư sĩ cũng hứa tùy sức
giúp đỡ, bèn tái giảo định quy tắc, mong sao [chúng thường trụ] hành tŕ chân thật,
thiết tha, hoàn thành trong một đời. Hạn ngạch
cố định là bốn mươi tám vị, niệm Phật
quanh năm, chẳng hề lơi lỏng chút nào. Phàm người
đến trụ, tối thiểu tu trọn một
năm, kế đó là ba năm, kế đó là suốt đời,
ắt mong đạt được tâm và Phật
tương ứng, Tịnh nghiệp thành tựu mới thôi!
Nhưng cơm áo, chi dụng của các vị Tăng ấy,
mỗi người hàng năm cần hơn một trăm
đồng. Bốn mươi tám vị cần tới hơn
năm ngàn đồng. Chi tiêu to lớn, chẳng do mọi người
phát Bồ Đề tâm to tát, sẽ chẳng có cách nào thực
hiện được. Khẩn cầu mười
phương thiện tín hoan hỷ vui thích giúp đỡ,
khiến cho đạo tràng tối thắng này được
thành tựu viên măn, công đức và lợi ích ấy chỉ
Phật có thể biết! V́ thế, viết ra duyên khởi,
mong hăy rủ ḷng khéo xét soi!
* Lời bạt cho Vương
Mẫu Uông Thái Quân[9]
Văng Sanh Kư
Văng
sanh Tây Phương chú trọng tín nguyện. Do nương
vào Phật lực, dẫu kẻ trọn chẳng tin Phật,
cho đến khi lâm chung, hễ được thiện tri
thức khơi gợi, hướng dẫn, nếu có thể
sanh ḷng tin, phát nguyện, xưng danh, cầu sanh, sẽ đều
được sanh về cơi ấy. Do cái tâm ấy chính là tâm
tối hậu, hữu lực nhất! Lại c̣n được
tri thức hướng dẫn, khơi gợi chánh tín. Lại
thêm gia quyến, quyến thuộc, thiện hữu trợ
niệm, khiến cho tâm được thanh tịnh, chuyên dốc
sức nơi Phật hiệu, trọn chẳng có niệm
khác xen tạp. V́ vậy, có thể đạt được
lợi ích thật sự. Cơi đời có người suốt
đời niệm Phật, lúc lâm chung bị con cháu chẳng
hiểu Phật pháp phá hoại chánh niệm của người
ấy, đến nỗi chẳng thể văng sanh, không biết
là bao nhiêu! Vương mẫu được văng sanh là do
con của cụ là Trạm
Nhiên và Trác Nhiên biết rơ đại thể,
hiểu Phật pháp. Do vậy, có thể thành tựu chánh niệm
cho cụ. Nếu các con của cụ
chẳng biết đại thể và ư nghĩa trợ niệm,
ắt cụ chưa chết mà [con cháu] đă tắm gội,
thay quần áo, buồn bă, quyến luyến than khóc. Đừng
nói Vương mẫu là người công hạnh nông cạn
cho nên chẳng được văng sanh, dẫu là bậc công
hạnh sâu xa, vẫn chẳng thể văng sanh! Chỉ có bậc
đă chứng Nhẫn th́ mới có thể chẳng bị
phá hoại, chứ những kẻ khác không ai chẳng bị
hiếu tâm kiểu “đă té giếng c̣n bị ném đá”
đó khiến cho lỡ làng! Tôi mừng v́ Vương mẫu
được trợ niệm mà văng sanh, buồn v́ những
ai do bị phá hoại
mà vẫn luân hồi như cũ trong cơi này. V́ thế, đặc
biệt chỉ rơ sự tổn hại và lợi ích, mong sao
những kẻ làm con trong cơi đời, và hết thảy mọi
người, hễ thấy có kẻ lâm chung, sẽ đều
trợ niệm như thế, khiến cho người
chết ấy cùng được văng sanh. Mong mỏi lắm
thay! Nguyện những ai thấy nghe thảy đều chú
ư.
* Lời tựa cho bộ
Sơ Cơ Học Phật Trích Yếu (vốn có tên là
Cư Sĩ Học Phật Cương Yếu)
Pháp
môn Tịnh Độ chính là pháp môn rốt ráo để mười
phương ba đời hết thảy chư Phật trên
thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh,
thành tựu từ lúc phát tâm cho đến khi chứng quả.
Trên là cho đến bậc Đẳng Giác, dưới là cho
tới phàm phu nghịch ác, đều là căn cơ được
thâu nhiếp bởi pháp môn này. Pháp môn to lớn không chi hơn
được! Ví như biển cả dung nạp trọn
khắp muôn sông. Do vậy, cổ nhân nói: “Hết thảy
các pháp môn, không ǵ chẳng từ pháp giới này lưu xuất.
Hết thảy các pháp môn, không ǵ chẳng quy hoàn pháp giới
này”. Tu pháp môn này so với tu các pháp môn khác sẽ thẳng
chóng, nhanh lẹ hơn, dễ đạt được lợi
ích. Do pháp môn này dùng quả địa giác làm nhân địa
tâm, cho nên nhân bao trùm biển quả, quả thấu triệt
nguồn nhân. Chúng sanh đời Mạt Pháp căn cơ mỏng
cạn mà bỏ pháp môn này, sao có thể yên được?
Cư
sĩ Trầm Tiểu Thuyên ở Như Cao, bẩm tánh chân
thành, chất phác, dốc ḷng tin tưởng Phật pháp, đối
với Tịnh Độ lại càng chú ư. Hễ gặp kẻ
hữu duyên, sẽ liền tuyên nói, chỉ mong [mọi người]
đều biết trọn khắp. V́ thế, từ trong các
sách hoằng dương Tịnh Độ xưa nay, trích
ra mười mấy chương, đặt tên là Cư Sĩ
Học Phật Cương Yếu, in ra để thí tặng
cho người khác. Cư sĩ Lư Huệ Thật quen thân với
ông ta, nhưng trọn chẳng tin Phật. Do được
Tiểu Thuyên khéo léo hướng dẫn, bèn sanh khởi tín
tâm to lớn. Cho tới khi Tiểu Thuyên niệm Phật về
Tây, Huệ Thật càng sanh tâm cảm kích, mong báo ân hướng
dẫn, chỉ vẽ trong nẻo mê của ông Trầm, muốn
tái bản sách này, mong truyền bá rộng răi. Nhưng sách Tịnh
Độ tuy nhiều, người
nghèo túng thường khó thể mua được. V́ thế,
dùng sách này làm phương tiện tiếp dẫn kẻ sơ
cơ. Do vậy, tôi đổi tên
là Sơ Cơ Phật Học Trích Yếu, và lược thuật
đại cương, duyên khởi này nọ!
* Lời tựa cho
kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Địa
Tạng Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, từ bi rộng
lớn. Trong vô lượng kiếp trước, cố nhiên
Ngài đă chứng Tam Đức Bí Tạng, nhưng do ḷng độ
sanh ân cần, chẳng ở địa vị Phật, vận
dụng ḷng Bi đồng thể, dấy ḷng Từ vô duyên,
phân thân trong các cơi nước nhiều như vi trần ḥng
độ thoát chúng sanh. Đối với các pháp Ngài dùng để
hóa độ và người được Ngài hóa độ,
ba đời chư Phật chẳng có cách nào nói trọn; huống hồ
chúng sanh trong Sa Bà ương ngạnh, khó giáo hóa. Bởi thế,
Bồ Tát có nhân duyên rất sâu đối với thế giới
này. Do đó, trên cung trời Đao Lợi, Như Lai phóng quang
minh nhóm họp đại chúng, nêu rơ các chuyện về nhân
hạnh, phát nguyện v.v… của Bồ Tát trong bao kiếp
trước. Điều đó thường được
nói là “chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ
Đề. Địa ngục chẳng trống, thề chẳng
thành Phật”. Cơi Sa Bà may mắn cỡ nào mà có được
sự nương tựa ấy?
Tuy
văn từ trong kinh này dễ hiểu, nghĩa lư cực sâu
rộng. Cơi đời lắm kẻ chẳng suy xét, cho là
chuyên bàn nhân quả để khuyên dụ kẻ ngu muội,
u mê, trọn chẳng thấu hiểu ư chỉ “hiếu tâm
của Bồ Tát tinh thuần, chuyên dốc, nguyện lực
rộng lớn, tam thế chư Phật chẳng thể tán
dương, chúng sanh trong chín pháp giới đều cùng quy
y”. Như vậy th́ có khác nào bỏ vàng, gánh gai, mua rương
trả lại châu ư? Kinh này gồm hai quyển, mười
ba phẩm, do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời
Đường. Trước kia, tuy có bản dịch của
Pháp Đăng và Pháp Cự; kể từ khi Liên Tŕ đại
sư chủ trương dùng bản dịch của ngài Thật
Xoa Nan Đà, bản của Pháp Đăng chẳng được
lưu thông. Ngay như bản dịch của ngài Thật
Xoa, cũng có hai quyển hay ba quyển sai khác, lắm người
ngờ vực. Cần phải biết hai quyển là theo cách
phân chia trong Đại Tạng, c̣n ba quyển là bản lưu
thông. Theo bản của Đại Tạng Kinh th́ quyển
thượng gồm sáu phẩm, quyển hạ gồm bảy
phẩm. Bản lưu hành th́ quyển thượng có bốn
phẩm, quyển trung năm phẩm, quyển hạ gồm
bốn phẩm. Tuy số quyển khác nhau, kinh văn chẳng
khác. Chỉ v́ lưu truyền đă lâu, cho nên câu chữ có sai
khác đôi chút. V́ thế, hăy nên lấy bản trong Đại
Tạng làm chủ yếu, nhưng cũng chẳng cần
phải sửa đổi bản lưu thông, do hai bản
cùng được lưu hành, trọn chẳng ngăn ngại!
* Lời tựa cho Mộng
Đông Thiền Sư Di Tập
Triệt
Ngộ Ngữ Lục là khai thị trọng yếu nhất
trong Tịnh Tông. Nếu Ngài sanh trước thời Ngẫu
Ích lăo nhân, chắc chắn [tác phẩm ấy] sẽ được
chọn đưa vào bộ Tịnh Độ Thập Yếu.
Nhưng người có pháp nhăn, há chịu để cho sách
này chôn vùi chẳng được lưu truyền ư? V́
thế, cư sĩ Tiền Y Am vào năm Gia Khánh 24
(1819), đă chọn lựa trích yếu, đặt tên là Triệt
Ngộ Thiền Sư Di Cảo, cho khắc in lưu truyền
ở phương Nam. Năm Đồng Trị thứ bảy
(1868), thầy Thẩm Tây ở Hàng Châu dựa theo bản của
Y Am, khắc in
lại tại Hàng Châu. Năm Đồng Trị thứ mười (1870), cư sĩ
Dương Nhân Sơn lại rút gọn đôi chút, đổi
tên là Ngữ Lục, cho khắc in ở Kim Lăng. Năm
Quang Tự 16 (1890), ḥa thượng Quán Thông ở Dương
Châu, khắc Tịnh Độ Thập Yếu, đă dựa
theo bản của ông Nhân Sơn, ghép thành phụ lục của
Thập Yếu để lưu hành. Nay sắp xếp phần
chánh văn của Tịnh Độ Thập Yếu [để
ấn hành], đem tác phẩm này ghép vào sau tác phẩm thứ mười
của sách Thập Yếu, vẫn dựa theo bản của Nhân Sơn,
nhưng thêm vào bài tựa của ông Tiền ở đầu
sách để người đọc biết nguyên ủy của
sách này. Mong rằng người thấy nghe sẽ đều
cùng thâm nhập Tịnh tông pháp giới, lên thẳng đài
sen thượng phẩm, ngơ hầu chẳng phụ bạc
một phen tâm từ bi của Triệt Ngộ lăo nhân.
* Lời tựa nêu
duyên khởi của Triều Dương Phật Giáo Cư
Sĩ Lâm
Trong
thánh giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Nương
theo một pháp môn, dùng đại Bồ Đề tâm để
tu tập, đều có thể liễu sanh tử, thành tựu
Phật đạo. Nhưng trước khi tu chứng, không
ǵ chẳng là khó, dễ, nhanh, chậm khác biệt. Cầu một
pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ
dàng nhất, khế lư, khế cơ, tu chính là tánh, tánh chính
là tu, thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn
căn đều gồm thâu, là chỗ quy túc của các tông
Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường nhanh tắt
cho trời, người, phàm, thánh chứng Chân, không ǵ bằng
pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương”. Ấy là v́ hết thảy các pháp môn đều
cậy vào tự lực, pháp môn Niệm Phật kiêm cậy
vào Phật lực. Cậy vào tự lực th́ chẳng đoạn
hết sạch phiền hoặc, sẽ chẳng thể vượt
thoát tam giới. Nương vào Phật lực, nếu tín
nguyện chân thật, thiết tha, sẽ có thể cao đăng
chín phẩm sen. Người hiện thời muốn liễu
thoát đại sự sanh tử trong đời hiện tại
mà bỏ pháp này, sẽ trọn chẳng có hy vọng! Cần
phải biết pháp môn Tịnh Độ, pháp nào cũng đều
viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa bầu trời, sông nào
cũng đều hiện bóng. Thủy ngân rơi xuống đất,
giọt nào cũng tṛn xoe. Không riêng ǵ cách vật trí tri[10], cùng lư
tận tánh, mà đối với chuyện giác ngộ cơi đời,
yên ổn dân chúng, b́nh trị đất nước, an ổn
quốc gia, đều giúp ích to lớn; dẫu sĩ, nông,
công, thương muốn phát triển sự nghiệp, hay
già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt bệnh khổ,
không ai chẳng đều do cảm vời mà ứng theo, được thỏa ḷng, măn nguyện.
Hiện
thời, ḷng người ch́m đắm, cơi đời đă
loạn lạc cùng cực, phế kinh điển, phế
luân thường, vứt bỏ ḷng hiếu và liêm sỉ, thực
hành chuyện biến thành loài thú. Đủ loại tà thuyết
bùng nổ, được cực lực đề xướng.
Nếu chẳng cứu văn, ắt loài người gần
như diệt mất. V́ thế, các vị hữu tâm khắp
nơi đua nhau đề xướng Phật pháp, phô rơ nhân
quả ba đời, hiển lộ sự luân hồi trong lục
đạo, nêu bày cơi Sa Bà trược ác, biểu lộ Cực
Lạc trang nghiêm, thanh tịnh, để mong người trong
cơi đời này, khắc phục tư dục, tuân giữ
lễ pháp, c̣n sống th́ dự vào địa vị thánh hiền,
liễu sanh thoát tử, mất th́ về cơi Cực Lạc.
Các
vị cư sĩ ở Triều Dương như Quách Huệ
Thái, Huệ Hải, Phạm Trí Siêu, Châu Huệ Thật, Diêu
Khắc Sơ, Tiêu Sỉ Phàm, Ngưỡng Tuyên, Lâm Thận
Chi v.v… đă lập Phật Giáo Cư Sĩ Lâm trong huyện
thành. Ngày mồng Một và Rằm mỗi tháng, và ngày thánh đản
Phật, Bồ Tát, nhóm họp đại chúng niệm Phật.
Buổi chiều, sau khi niệm Phật xong, thỉnh bậc
Tăng hay tục
thông văn lư, diễn nói đạo “ở trong cơi trần
mà học đạo, chẳng cầm quyền mà hộ quốc,
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện”, và pháp “thật sự
v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, khiến cho trọn khắp những
người cùng hàng vượt thoát biển khổ”, ngơ
hầu hết thảy mọi người đều biết
nguyên do “ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn, ai cũng đều
có thể thành Phật”, thực hành tám đức “hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tận
lực thực hiện tám sự “cách vật trí tri, thành ư,
chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”,
sẽ trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi
nơi, đều chú trọng học theo thánh, học theo Phật.
Đấy thật sự là pháp môn đại phương
tiện để “chẳng nắm giữ địa vị
cai trị mà hộ quốc, cứu dân, thay đổi phong
tục mà chẳng lộ h́nh tích”. Lâm hữu đều
do Cư Sĩ Lâm đă thành lập, sẽ dùng đại
nghĩa để dạy khắp những kẻ thông sáng
trong mai sau, ngơ hầu dù thấy hay nghe, đều phát khởi
tín tâm, cùng hoằng dương đạo này, thiên hạ sẽ
tự có thể thái b́nh, nhân dân yên vui. Họ gởi thư
cậy Bất Huệ soạn lời tựa, bèn viết những
điều này cho xong trách nhiệm!
* Lời tựa nêu
duyên khởi của Lũng Hữu Phật Giáo Cư Sĩ Lâm
Trong
thánh giáo của Như Lai có vô lượng pháp môn. Nương
theo một pháp môn, dùng đại Bồ Đề tâm để
tu tập, đều có thể liễu sanh tử, thành tựu
Phật đạo. Nhưng trước khi tu chứng, không
ǵ chẳng là khó, dễ, nhanh, chậm khác biệt. Cầu một
pháp chí viên, chí đốn, đơn giản nhất, dễ
dàng nhất, khế lư, khế cơ, tu chính là tánh, tánh chính
là tu, thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn
căn đều gồm thâu, là chỗ quy túc của các tông
Luật, Giáo, Thiền, Mật, là con đường nhanh tắt
cho trời, người, phàm, thánh chứng Chân, không ǵ bằng
pháp “tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây
Phương”. Ấy là v́ hết thảy các pháp môn đều
cậy vào tự lực, pháp môn Niệm Phật kiêm cậy
vào Phật lực. Cậy vào tự lực mà chẳng đoạn
hết sạch phiền hoặc, sẽ chẳng thể siêu thoát tam giới.
Nương vào Phật lực, nếu tín nguyện chân thật,
thiết tha, liền có thể cao đăng chín phẩm
sen. Người hiện thời muốn liễu thoát đại
sự sanh tử trong đời hiện tại mà bỏ pháp
này, sẽ trọn chẳng có hy vọng!
Cần
phải biết pháp môn Tịnh Độ, pháp nào cũng đều
viên thông, như vầng trăng vằng vặc sáng ngời giữa bầu trời, muôn sông đều
hiện bóng. Thủy ngân rơi xuống đất, giọt
nào cũng tṛn xoe. Không riêng ǵ “cách vật trí tri, cùng lư tận
tánh”, mà đối với chuyện giác ngộ cơi đời,
yên ổn dân chúng, b́nh trị đất nước, an ổn
quốc gia, đều giúp ích to lớn; dẫu sĩ, nông,
công, thương muốn phát triển sự nghiệp, hay
già, trẻ, nam, nữ muốn tiêu diệt bệnh khổ,
không ai chẳng đều do cảm vời mà ứng theo, được thỏa ḷng, măn nguyện.
Hiện thời, ḷng người ch́m đắm, cơi đời
đă loạn lạc cùng cực, phế kinh điển, phế
luân thường, vứt bỏ ḷng hiếu và liêm sỉ, thực
hành chuyện biến thành loài thú. Đủ loại tà thuyết
bùng nổ, được cực lực đề xướng.
Nếu chẳng cứu văn, ắt loài người gần
như diệt mất. Do vậy, các bậc hữu tâm ở
mọi nơi đua nhau đề xướng Phật pháp,
nêu tỏ nhân quả ba đời, hiển lộ sự luân
hồi trong lục đạo, phô bày sự trược ác
trong cơi Sa Bà, biểu lộ sự trang nghiêm thanh tịnh của
cơi Cực Lạc, để mong người trong cơi đời
này, khắc phục tư dục, tuân giữ lễ pháp, c̣n
sống th́ dự vào địa vị thánh hiền, liễu
sanh thoát tử, mất th́ về cơi Cực Lạc.
Cư
sĩ Tịnh Niệm Tần An Thành ở Cam Túc gởi thư
xin quy y, bèn đặt pháp danh là Huệ Kiện (慧健). Tiếc là ở nơi
hẻo lánh, Phật pháp suy vi; do vậy, gởi tặng một
trăm mấy chục gói kinh sách để giúp đề xướng.
Các vị cư sĩ gần huyện thành lập ra Lũng
Hữu[11]
Phật Giáo Cư Sĩ Lâm. Vào mồng Một và ngày Rằm
mỗi tháng, và các dịp khánh đản Phật, Bồ
Tát, nhóm họp đại chúng niệm Phật. Buổi chiều,
sau khi niệm Phật xong, thỉnh bậc Tăng hay tục thông
văn lư, diễn nói đạo “ở trong cơi trần mà
học đạo, chẳng cầm quyền mà hộ quốc,
giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận,
ngăn ḷng tà, giữ ḷng thành, đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện”, và pháp “thật sự
v́ sanh tử, phát Bồ Đề tâm, tín nguyện niệm Phật,
cầu sanh Tây Phương, khiến cho trọn khắp những
người cùng hàng vượt thoát biển khổ”, ngơ
hầu hết thảy mọi người đều biết
nguyên do “ai cũng có thể là Nghiêu, Thuấn, ai cũng đều
có thể thành Phật”, thực hành tám đức “hiếu,
đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, tận
lực thực hiện tám sự “cách vật trí tri, thành ư,
chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ”,
sẽ trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi
nơi, đều chú trọng học theo thánh, học theo Phật.
Đấy thật sự là pháp môn đại phương
tiện để “chẳng nắm giữ địa vị
cai trị mà hộ quốc, cứu dân, thay đổi phong
tục mà chẳng lộ h́nh tích”. Lâm hữu đều
do Cư Sĩ Lâm đă thành lập, sẽ dùng đại
nghĩa để chỉ dạy trọn khắp những
kẻ thông sáng trong đời vị lai, ngơ hầu dù thấy
hay nghe đều phát khởi tín tâm, cùng hoằng dương
đạo này, thiên hạ sẽ tự có thể thái b́nh, nhân
dân yên vui. Họ gởi thư cậy Bất Huệ soạn
lời tựa, bèn viết những điều này cho xong trách
nhiệm!
* Thuyết minh nguyên
do quyên mộ và biện pháp ấn hành Quán Thế Âm Bổn
Tích Cảm Ứng Tụng
Quán
Thế Âm Bồ Tát trong quá khứ vô lượng kiếp trước, thành tựu
Phật đạo đă lâu, hiệu là Chánh Pháp Minh; nhưng
do tâm từ bi khẩn thiết, ḷng cứu khổ ân cần,
chẳng rời cơi Tịch Quang, hiện h́nh trong chín pháp giới,
tùy loại hiện thân để độ thoát chúng sanh
trong mười phương vô lượng thế giới.
Phẩm Phổ Môn nói “đáng nên hiện thân nào để
độ được, bèn hiện thân ấy để thuyết
pháp”. Tuy mười phương thế giới, không cơi
nào chẳng hiện, nhưng Ngài có nhân duyên rất sâu với
thế giới Sa Bà. Tuy các thân trong mười pháp
giới, chẳng thân nào không hiện, nhưng người
đời đều dùng danh xưng Bồ Tát để xưng
tụng. Tuy chỗ Ngài ứng hóa trọn khắp hoàn vũ,
nhưng Phổ Đà ở Chiết Giang là nơi rơ rệt
nhất. Ấn Quang chịu ơn rất lớn, đội
ân rất sâu. Thoạt đầu, xuất gia tại Nam Ngũ
Đài Sơn[12] ở
Thiểm Tây, là đạo tràng nơi đức Quán Âm hiện
thân hàng phục độc long. Kế đó, sống nhờ
tại Phổ Đà trong Nam Hải là thánh địa chiêm bái
Quán Âm trong chuyến đi về phương Nam của Thiện
Tài.
Thường
nghĩ người đời chẳng biết ḷng từ
bi rộng sâu của Bồ Tát, muốn sưu tập từ
Đại Tạng và các sách vở, phàm là hạnh nguyện
nơi bổn địa của Bồ Tát, cùng với sự
tích cảm ứng ở các nơi để viết thành bài
văn ca tụng, lại c̣n chú giải cặn kẽ, ngơ hầu
những người cùng hàng trong cơi đời đều biết được
tâm từ bi to lớn của đức Quán Âm, cũng như
thật lư, thật sự “tùy loại hiện h́nh, tầm
thanh cứu khổ” của Ngài, mong sao ai nấy cùng tŕ
thánh hiệu, cùng tiêu nghiệp chướng, cùng tăng phước
huệ, sống th́ là người thân tâm thanh tịnh,
thác th́ dự vào hội của Liên Tŕ hải chúng. Dùng điều đó để
uốn nắn ḷng người cho ngay thẳng ḥng văn hồi
kiếp vận để mong thiên hạ thái b́nh, nhân dân an lạc.
Tuy đă phát cái tâm ấy, nhưng do học thức nông
cạn, thô lậu, văn chương
vụng về,
mộc mạc, chẳng thể ngay lập tức thực
hiện. Khéo sao, bậc đại văn học gia ở Giang
Tây là cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh đến núi thăm
viếng, vừa gặp gỡ bèn thành bạn tâm đầu
ư hợp. Do vậy, đem chuyện này nhờ cậy, ông
ta liền vui vẻ chấp thuận, lắng ḷng viết lách
trải qua hai năm, biên soạn thành tụng văn hơn hai vạn chữ.
Đối với mỗi câu sự tích, đều chú giải
sau mỗi đoạn, khiến cho độc giả vừa
xem liền hiểu ngay, tổng cộng là ba quyển. Lại
sao lục các nghĩa trọng yếu trong kinh, đặt tên
là Kinh Chứng (經證, dùng kinh điển
để làm chứng) gồm một quyển, ghép vào sau phần
Tụng Văn (頌文, phần văn chương
ca tụng). Lại c̣n ghép thêm bài ca tụng công đức của
kinh Kim Cang vào cuối sách, khiến cho người tụng
kinh, niệm Phật đều biết phương hướng,
những mong do phàm tâm mà thấy Phật tâm, thỏa nguyện
độ sanh của Như Lai.
V́
thế, giao cho thợ sắp chữ, ấn loát. Mỗi bộ
gồm hai trăm trang, mỗi trang gồm hai mươi sáu
hàng, mỗi hàng gồm ba mươi lăm
chữ. Phần sách chính dùng loại giấy phỏng theo giấy
đời Tống. B́a sách th́ dùng loại giấy b́a
bền nhất có màu sắc theo kiểu cổ có sức chịu
nén đến một trăm pounds để in. Mỗi bộ
được chia làm hai tập, dùng chỉ khâu gáy sách. Nếu
in hai vạn bộ, mỗi trang trong phần nội dung chính
của sách sẽ tốn ba mươi đồng. Mỗi
bộ sách, giá b́a và in chữ trong phần Thư Căn[13] là ba xu.
Nếu [sách sắp chữ xong, có] đủ cả hai
trăm trang, cứ một vạn bộ sẽ có giá là ba ngàn ba trăm
đồng. Nếu bớt đi một trang, [chi phí in] sẽ giảm
ba mươi đồng. Nhiều trang hơn hay ít hơn,
cứ chiếu theo đó mà suy (do hiện thời chưa sắp
chữ xong, số trang chưa thể xác định, nhưng
cũng chẳng quá một, hai, ba, bốn trang [nhiều hơn]).
Mỗi gói sách [khi gởi đi], sẽ dùng bao b́ của
bưu điện để tiện gởi cho người
khác. Bưu phí gởi sách được tính kèm trong đó, mỗi
bộ chừng ba cắc ba xu. Cách làm này chính là thay cho thiện
tín in sách, chẳng phải là theo lệ quyên mộ tiền
bạc để tự làm thiện sự. Nếu có ai phát
tâm đứng ra chịu tiền in sách, muốn in một vạn
bộ th́ giao ba ngàn ba trăm đồng, một ngàn bộ
th́ giao ba trăm ba mươi đồng. Tháng Hai năm sau
có thể ra sách. Khi sách đă in ra, cứ dựa theo tiền
đă giao mà gởi sách, chẳng chiết khấu bộ nào.
Nếu ai muốn ủy thác [chúng tôi] thay cho người ấy
thí tặng, chính ḿnh chỉ muốn nhận một số ít,
cần phải nói rơ trước để có thể gởi
thay. Nếu không, sẽ gởi toàn bộ sách [ứng với
số tiền đă giao] cho người gởi tiền, chẳng
giảm bớt mảy may. Tại Thượng Hải th́ không
cần bưu phí, sẽ giao thẳng đến nhà. Các nơi
khác nếu là thành thị lớn, có thể nhờ công ty chuyển
vận gởi giùm. Số lượng nhỏ th́ gởi qua
bưu điện. Chi phí ấy hoặc khấu trừ vào
số lượng sách, hoặc [người gởi] sẽ
giao thêm chi phí bổ sung, đều tùy theo ư của người
đứng in.
Hiện
thời, thiên tai nhân họa liên tiếp giáng xuống, thế
đạo ḷng người đă ch́m đắm đến
cùng cực. Đặc biệt nhờ vào chuyện này để
đẩy lùi cơn sóng cuồng, nâng đỡ thế đạo,
làm hướng dẫn để cùng đạt lên bậc
thánh, cùng chứng Bồ Đề. Nguyện thiện tín có
sức cùng bỏ ra tịnh tài, ngơ hầu những người
cùng hàng trên cơi đời ai nấy đều được
gội từ ân của Quán Âm Bồ Tát, ḥng cùng được
đích thân chứng Phật tánh vốn sẵn có, viên măn giác
đạo vô thượng. Tấm ḷng khăng khăng như
thế mà thôi! Phàm những ai muốn đứng ra ấn hành,
xin chuyển khoản trực tiếp đến Trung Hoa Thư
Cục Ấn Loát Tổng Xưởng ở ngơ Cáp Đồng,
đường chùa Tĩnh An, Thượng Hải, giao cho
hai vị tiên sinh Du Trọng Hoàn và Đường Tử
Quyền thâu nhận. Khi họ nhận được, sẽ
giao biên
lai. Khi sách được in ra, sẽ dựa theo khoản
tiền đă gởi mà giao sách, quyết chẳng đến
nỗi sai lầm.
* Nguyên do đính kèm Phật
Pháp Đạo Luận vào sau bộ Phật Học Cứu
Kiếp Biên
Phật
Học Cứu Kiếp Biên là v́ người đời chẳng
biết sự lư “nhân quả ba đời, lục đạo
luân hồi”, cho nên suy nghĩ và hành xử đều
trái nghịch với ḷng trung hậu, khoan dung, từ bi. Tuy
muốn lợi lạc cho chính ḿnh, chẳng biết nếu
tự lợi trái lư, ắt sẽ khiến cho kẻ khác mắc
hại, tuy chính ḿnh tạm thời được lợi, nhưng
trong chốn âm thầm, ắt sẽ đến nỗi có chuyện khiến cho các lợi ích chính ḿnh đáng được
hưởng bị mất đi, gây thành mối
họa vô cùng cho nhiều đời nhiều kiếp nơi
thân sau của chính ḿnh và con cháu. Nếu mọi người
biết điều ấy, ai chịu v́ điều lợi
nhỏ nhoi mà chuốc lấy đại họa ư? Do vậy,
dùng sáu loại kinh Phật
để đề xướng, khiến cho hết thảy
mọi người, ai nấy thọ tŕ Tam Quy, Ngũ Giới,
dùng chuyện tu Thập Thiện để mong thành bậc
thiện nhân “ba nghiệp thân, miệng, ư thanh tịnh”. Nếu
ai thật sự nương theo đó để tu tŕ, phong
thái cạnh tranh sẽ tự
chấm dứt, ư niệm “chúng sanh là ruột thịt, là đồng loại của ta”[14] sẽ tự sâu thêm,
sao c̣n có kiếp vận được nữa? Lại c̣n chỉ bày pháp môn Tịnh
Độ nương vào từ lực của Phật để
liễu sanh thoát tử ngay trong hiện đời. Không chỉ
chẳng tạo ác nghiệp, chẳng thọ ác báo, mà ngay cả
thiện báo nhân thiên cũng
chẳng buồn hưởng! Ấy là v́ chẳng liễu sanh
tử, dẫu được hưởng phước báo trong
nhân gian, nhưng v́ chưa đoạn
phiền hoặc, khó tránh khỏi do hưởng phước
mà lại tạo ác nghiệp đến nỗi càng thêm đọa
lạc. Dẫu sanh lên trời, nhưng khi phước trời
đă hết, lại sanh xuống nhân gian. Nếu có túc nghiệp,
hoặc tạo oan khiên mới, lại vẫn đọa lạc
trong tam đồ ác đạo. Đáng sợ lắm thay! V́ thế,
khuyên họ kiêm tu pháp môn tín nguyện niệm Phật để
mong siêu phàm nhập
thánh, liễu sanh thoát tử. Đấy chính là đạo
cứu kiếp rốt ráo!
Sách
này gồm ba quyển, chia thành hai tập. Tập thượng
dày, tập hạ mỏng, chẳng thể chia đều
thích đáng. Do vậy, năm ngoái, cư sĩ Lư Viên Tịnh biên
soạn bộ Phật Pháp Đạo Luận khá khế hợp
sơ cơ. Tông chỉ của sách ấy khá giống
như Cứu Kiếp Biên. Cách dùng chữ, lập luận
trong ấy càng dễ dẫn khởi tín tâm của giới
học thuật trong thời gần đây. Đem ghép vào tập
hạ [của sách Cứu Kiếp Biên] th́ hai tập cân bằng,
lại c̣n khiến cho người đọc đạt được
lợi ích “đôi bên chứng
nghĩa lẫn nhau”. Nhưng người
chuộng đơn giản, chẳng ngại xem trước
sách Đạo Luận; đợi tới khi đă biết
chỗ chỉ quy, sẽ lại xem kỹ cả bộ sách,
sẽ [đọc dễ dàng] với khí thế như chẻ
tre, mới biết: Chẳng thông suốt Phật
pháp, sẽ chẳng thể thành tựu vẹn toàn rốt ráo
thế pháp được! V́ thế, xưa nay các bậc lập
đại công, dựng đại nghiệp lớn, chánh khí
lấp trời đất, ân trạch thấm đẫm dân
sanh, phần nhiều là do học Phật đắc lực
mà thành. Nếu có thể xem trọn khắp các sách vở, lắng
ḷng suy xét cẩn thận, sẽ đều có thể biết
rơ! Nếu xem bằng cái tâm hời hợt, ắt sẽ không
ai chẳng phải là đă chạm mặt mà bỏ lỡ!
Nếu có tri kiến ấy, th́ Phật pháp và thế pháp hai
đằng không chỉ trở ngại nhau, mà đôi bên c̣n thành
tựu lẫn nhau. Như hai vầng trăng soi lẫn
nhau, hai tay giúp đỡ nhau, ao chuôm nhuần
thấm lẫn nhau, hai bánh xe cùng tiến, ngơ hầu vận
đời trở về thuở đại đồng, nhân
dân hưởng an lạc, may mắn chi hơn?
* Lời sớ nêu duyên
khởi giảng kinh Thỉnh Quán Âm và Phổ Môn Phẩm
Quán
Thế Âm Bồ Tát là chỗ nương cậy cho hết
thảy chúng sanh trong chín pháp giới, là chỗ nương
về cho vô biên hàm thức[15] trọn
hết hư không giới. Ấy là do Ngài đă trọn đủ
đạo và chứng, đức vượt xa bậc Thập
Địa, đă sớm thành Chánh Giác từ vô lượng
kiếp trước. Nhưng do tâm từ bi tha thiết, ḷng
độ sanh ân cần, cho nên Ngài lại chẳng ĺa cơi Tịch
Quang, rủ ḷng hiện thân trong chín pháp giới, tùy theo từng
loại mà hiện thân, tầm thanh cứu khổ, đủ
loại phương tiện độ thoát chúng sanh. Đáng
nên dùng thân ǵ để độ được, bèn hiện
thân ấy để thuyết pháp. Ví như vầng trăng
rạng ngời giữa trời, in bóng trọn khắp muôn
sông; Xuân về trên đại địa, trăm loài thảo
mộc cùng tươi tốt. Dấu tích từ bi cảm ứng
của Ngài chẳng thể nghĩ bàn được nổi!
V́ thế, trong các kinh như Pháp Hoa, Đại Bi v.v… đức
Thích Ca Thế Tôn đă riêng khen ngợi công đức nơi
Bổn Tích của Ngài, và đạo “hưng khởi
ḷng từ, vận dụng ḷng bi”, khiến cho khắp
chúng sanh đều hưởng từ ân của Đại
Sĩ. Nhưng trong các kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm v.v… đại
sĩ tự nói đại lược các chuyện “tùy loại hiện
thân, tầm thanh cứu khổ”, khác nào lên cao hô một
tiếng, trăm hang đều vọng tiếng dội. Phàm
là hữu t́nh, chẳng có kẻ nào không kính ngưỡng;
nhưng đức Thế Tôn mẫn niệm chúng sanh Sa Bà, muốn
khiến cho họ đều được che chở. Ngài bèn đặc biệt
thừa dịp nhân dân nước Tỳ Xá Ly (Vaiśālī)
bệnh khổ, dạy trưởng giả Nguyệt Cái
lễ thỉnh Tây Phương Cực Lạc thế giới
Quán Thế Âm Bồ Tát tiêu trừ độc hại cho họ.
Do vậy, Bồ Tát giáng lâm thành Tỳ Xá Ly, cành dương
vừa rẩy, muôn bệnh b́nh phục. Lại dạy họ
tụng niệm danh hiệu Tam Bảo và thần chú, khiến
cho người trong nước ấy thường được
cát tường. Đó là nói về nguyên do của kinh Thỉnh
Quán Âm[16].
Ấy
là v́ Bồ Tát phân thân trong các cơi nhiều như vi trần, độ
thoát chúng sanh, lại có nhân duyên rất sâu với thế giới
Sa Bà. Đức Thế Tôn nặng ḷng lo cho nỗi khổ
của chúng sanh trong đời vị lai, cho nên đặc
biệt nhường
chuyện cứu khổ cho Quán Âm, mong cho đời sau có
chỗ nương cậy. Tới khi kinh truyền đến
cơi này, Trí Giả đại sư đặc biệt chú sớ
giải thích. Đối với phẩm Phổ Môn của
kinh Pháp Hoa, Ngài lại dốc hết tâm ư phát huy, mong cho hết
thảy người thấy nghe đều cùng ngộ Phật tánh
vốn sẵn có trong tâm, cùng tu tịnh nghiệp “phản
vọng quy chân”.
Tới
nay đă hơn một ngàn năm, kinh sớ cố nhiên vẫn c̣n, nhưng
chẳng có ai đề xướng, đúng là chuyện đáng
tiếc nuối! Huống hồ mười mấy năm
qua, binh đao nhiều phen dấy lên, đói kém lắm lượt,
thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống. Vận mạng
quốc gia nguy ngập, dân chúng lầm than, phàm những ai hữu
tâm không người nào chẳng đau thương. V́ thế,
những người cùng có ḷng nhân toan thỉnh bậc thượng
tọa trong tông Thiên Thai là pháp sư Đế Nhàn giảng
hai kinh này tại chùa Bồ Đề, kỳ hạn là hai mươi
mốt ngày, để cầu cho mọi người đều
được an ổn. Nguyện khắp người thấy
nghe, cùng dùng tâm của đức Quán Âm làm tâm của chính ḿnh,
cùng coi chuyện của ngài Quán Âm là chuyện của chính
ḿnh, ắt sẽ mất tướng nhân ngă, ngưng dứt
cái tâm đấu tranh, tâm t́nh từ ái thiết tha, tâm tàn hại
tiêu trừ. Do vậy, tự lập, lập người, tự
lợi, lợi tha, ắt phong thái đại đồng há
khó thấy trong hiện thời ư? Nguyện những vị
cùng hàng với tôi đều
dự hội thù thắng này, ai nấy xướng niệm
danh hiệu tốt lành để làm duyên khởi “cùng được
gội Phật ân trong hiện thời, tương lai cùng thành
Phật đạo”.
* Sớ tạo lập
Niệm Phật Đường chùa Phước Nghiêm tại
huyện Sùng Đức tỉnh Chiết Giang
Đấng đại giác Thế
Tôn do thương xót chúng sanh mê muội cái tâm mầu nhiệm
vốn có mà phải luân hồi sanh tử, bèn thị hiện
sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác. Ngài thuận
theo căn cơ của chúng sanh, nói đủ loại pháp.
Tuy lớn, nhỏ, quyền, thật bất đồng,
thiên, viên, đốn, tiệm khác nhau, nhưng đều v́
muốn khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri
kiến của Phật, rốt ráo thành Phật mới thôi!
Nhưng chúng sanh căn tánh có lớn, nhỏ, mê có cạn, sâu,
chẳng thể ngay lập tức thỏa thích bổn hoài
của Phật. Đă thế, chúng sanh thời mạt, nghiệp
chướng sâu dày, trí huệ nông cạn, thọ mạng ngắn
ngủi, bậc tri thức hiếm
hoi, chẳng cậy vào Phật lực, quyết khó thể
liễu thoát. V́ thế, Ngài đặc biệt mở ra pháp
môn Tịnh Độ, thâu nhiếp các pháp thuộc chặng
đầu, chặng giữa, chặng cuối, độ trọn
khắp các căn cơ thượng, trung, hạ, khiến
cho bậc đă chứng Pháp Thân sẽ nhanh chóng thành Phật
đạo, kẻ chưa đoạn phiền hoặc cũng
thoát khỏi luân hồi. Đấy là lợi ích siêu xuất
trong giáo pháp suốt một đời đức Phật.
Do một đằng chuyên cậy vào tự lực, một
đằng kiêm nhờ vào Phật lực. Ví như kẻ
thọt, suốt ngày chỉ có thể đi được
vài dặm, nếu
nương theo luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương,
trong một ngày có thể đến khắp bốn châu. V́ thế,
chín pháp giới cùng quay về, mười phương đều
xưng tán. Ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều
tuyên nói. Do đấy là pháp môn tổng tŕ để mười
phương ba đời hết thảy chư Phật, trên
thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh,
thành tựu từ thuở phát tâm cho đến khi chứng
quả.
Xét
ra, kể từ khi đại giáo truyền đến phương
Đông, Viễn công (Sơ Tổ Huệ Viễn) mở liên xă đầu
tiên, bậc cao Tăng, cự nho
thuở ấy tham dự hội có đến một trăm
hai mươi ba người. Từ đấy về sau, đời
nào cũng có bậc cao nhân, tiếp lửa, truyền đèn (tục diệm truyền đăng) rộng khắp
trong ngoài nước. Đại pháp của Như Lai có năm
loại là Luật, Giáo, Tông (Thiền), Mật, Tịnh, chỉ
có pháp Tịnh Độ là dễ tu tŕ nhất, dễ thành
tựu nhất, là chỗ quy túc cho Luật, Giáo, Tông, Mật.
V́ thế, các bậc tri thức trong Luật, Giáo, Tông, Mật
xưa nay đều chú trọng ngầm tu, nhiều vị
c̣n cực lực khuyến hóa hiển nhiên. Pháp này chân lẫn
tục đều viên dung, khế lư lẫn khế cơ. Không
chỉ là pháp để người học đạo thoát
khỏi luân hồi, mà c̣n là nền tảng để người
cai trị đất nước ngồi yên hưởng thái b́nh.
V́ thế, văng thánh tiền hiền, người thông hiểu,
bậc trí huệ, đều chú trọng tu tŕ. Ví như các ngôi sao
chầu về Bắc Đẩu, các gịng nước chảy
xuôi về Đông. Chùa Phước Nghiêm ở Sùng Đức
chính là đạo tràng Tịnh Độ đă một ngàn năm
trăm năm. Năm Thiên Giám thứ hai (503) đời Lương,
pháp sư Đông Hy hâm mộ đạo của Viễn Công,
chuyên tu Tịnh nghiệp, ư mong lợi khắp người
đồng hàng, lập ra chùa Phước Nghiêm để làm
đạo tràng Tịnh Độ. Hơn một ngàn năm qua, đạo phong
chẳng giảm. Đầu đời Thanh, thiền sư
Phí Ẩn Dung làm trụ tŕ, pháp đạo trung hưng. Trong
thời Hàm Phong - Đồng Trị, do gặp loạn Hồng
Dương[17],
bèn trở thành chốn hoang tàn. Về sau, dần dần tu
bổ kiến tạo, mới hơi khôi phục lại quang
cảnh cũ.
Gần
đây, do nhiều lần
gặp cảnh mất mùa, ruộng dâu biển xanh biến đổi,
đến nỗi chẳng đủ lương thực và chi dụng, Phật
đường ngưng hoạt động. Đại sư
Tánh Không gần đây tới làm Trụ Tŕ, mong khôi phục quy
củ cũ, an trụ đại chúng niệm Phật, sợ
chi dụng, lương thực chẳng đủ, có lẽ khó được như nguyện,
cậy Quang viết sớ để báo với thiện tín.
Quang cho rằng mọi việc đều phải lấy chí
thành làm gốc: “Ông đă chí thành, ắt các sư tăng chí
thành sẽ đến ở. Do sư tăng chí thành, niệm
thánh hiệu Di Đà, xa gần nghe đồn, cùng sanh ḷng
tin tưởng, hướng về, ắt sẽ có bậc
đại đàn-việt tin sâu Phật pháp tranh nhau đến
bố thí, chẳng khiến cho cơm áo bị thiếu thốn!”
* Sớ cầu siêu
cho tổ tiên
Đầu
lá sớ của cư sĩ Dương X… đề tên chính
ḿnh, hướng dẫn con là Đạt Quyền thưa rằng:
- Trộm nghĩ đệ tử… đời trước đă
gieo nhân lành, được sanh tại Trung Hoa, gần độ
tuổi cổ hy (bảy mươi), lại được
nghe Phật pháp. Tuy thuở trẻ vâng theo gia phong tứ tri[18], tuổi
già thọ khuôn phép Tam Quy, càng sợ thiếu sót phản tỉnh,
tự xét, chẳng bớt tội khiên. Huống nay đă bảy
mươi, phụng dưỡng mẹ chưa tṛn, nào dám
chẳng dốc cạn tấc
ḷng thành cầu siêu tổ tiên. Do vậy, kính cẩn trong ngày
hôm nay, tại Linh Nham sơn, thỉnh sư tăng giới
đức bao nhiêu vị, xưng niệm vạn đức
hồng danh Nam-mô A Di Đà Phật suốt một ngày, dùng công
đức này, ngưỡng mong Phật quang chiếu trọn khắp, khiến cho pháp giới
đều được thọ ân, khiến cho tiên khảo,
tiên tỷ[19]
tiêu trừ ác nghiệp từ vô thỉ, tăng trưởng
thiện căn thù thắng, liền được đức
Phật từ bi, rủ ḷng đích thân tiếp dẫn lên
thượng phẩm nơi chín phẩm sen, được Phật
thọ kư ngay trong một đời. Lại nguyện ông X…
và thân quyến, thân tâm an lạc, các duyên thuận lợi, vừa
ư, hiện thời đồng tu Tịnh nghiệp, tương
lai cùng sanh về Tịnh Độ, báo chung bốn ân, giúp
khắp ba cơi, pháp giới chúng sanh cùng viên thành Chủng Trí.
Cung kính xin đức Bổn Sư hai cơi và mười
phương vô tận Tam Bảo chứng minh nhiếp thọ.
Đại lược là như thế, hăy nên châm chước
để sử dụng.
IV. Pháp ngữ
khai thị
* Phương pháp niệm
Phật theo kiểu Thập Niệm Kư Số
Gần
đây, Quang t́m ra một phương pháp nhiếp tâm niệm
Phật. Nếu đă thành phiến, cố nhiên chẳng cần
cách này. Nếu chưa thành phiến, cách này rất dễ ra
sức. Trong khi niệm Phật, chỉ dùng mười niệm
để nhớ số, từ một tới mười,
tâm và miệng niệm cho rành mạch, tai nghe rành mạch. Lại
c̣n từng câu ghi nhớ rành rẽ, rơ ràng. Nếu có thể
nhớ rơ ràng từ một tới mười th́ vọng
niệm chẳng thể do đâu mà dấy lên được!
Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối,
hăy dùng chuyện
này làm tiền phương tiện. Chỉ dùng tâm để nhớ,
chớ nên lần chuỗi. Từ một tới mười,
rồi lại từ một đến mười, chẳng
thể là hai mươi hoặc ba mươi. Cần phải
biết nếu tới hai mươi hay ba mươi, tâm lực
sẽ chẳng chịu nổi, ắt đến nỗi bị
bệnh. Như Lai dạy pháp Sổ Tức (đếm hơi
thở), cũng chỉ từ một tới mười mà
thôi. Trong Liên Tông Bảo Giám, đă viết sai là từ một
tới mười, tới trăm, tới ngàn, tới vạn,
gây hại chẳng nhỏ!
Lại
nữa, pháp Thập Niệm này khác với pháp Thập Niệm
vào buổi sáng, do pháp kia coi hết một hơi là một
niệm, chẳng luận số câu niệm Phật là bao
nhiêu. Ở đây, lấy một câu làm một niệm. Cách
kia chỉ có thể dùng vào buổi sáng, hễ thường
dùng, sẽ bị tổn khí thành bệnh. Cách này th́ từ sáng
đến tối, hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm
thầm, hoặc nhanh, hoặc chậm, đều sử dụng
được, không ǵ chẳng thích hợp. Nhưng khi làm
việc, sẽ khó nhớ rơ, hăy cứ thẳng
thừng mà niệm. Đến khi xong việc, lại tiếp
tục, nhưng vẫn là mười niệm. Nếu nhớ
một lèo cảm thấy tốn sức, hăy từ một đến
năm, từ sáu tới mười. Hoặc từ một
đến ba, từ bốn đến sáu, từ bảy đến
mười. Tùy theo tâm lực của chính ḿnh, tuy niệm
hai hơi hay ba hơi, hoàn toàn chẳng ngưng chút nào, chỉ
dùng tâm để ghi nhớ như thế mà thôi!
* Răn cấm đóng
ấn có danh hiệu Phật, Bồ Tát lên đệm ngồi
Phụ
nữ có tín tâm vùng Giang Chiết[20] thường
hay dùng vải trắng trải lên mặt đất để
lễ Phật, gọi là “thủ phương” (手方, khăn vuông lót tay), hoặc
có khi dùng lót ngồi để
giữ cho y phục khỏi bị hư. Chuyện ấy cố
nhiên chẳng phải là không được, nhưng chớ
nên đóng con dấu có [danh hiệu Phật, Bồ Tát] lên đó.
Nếu đă đóng dấu, muôn vàn chớ nên trải ra [để
quỳ lên đó] lễ Phật, huống hồ làm đệm ngồi lên ư?
Có kẻ cho rằng ngồi lên nửa phần vải chưa
in dấu th́ chẳng trở ngại, chẳng biết: Nếu
đă có chữ viết mà đem trải xuống đất,
vẫn là khinh nhờn! Huống hồ đă ngồi trên nửa
dưới [tấm vải không có chữ], nửa trên vẫn
dựa sát vào phần dưới thân thể của chính
ḿnh, hoặc có kẻ hoàn toàn ngồi trên chỗ vải đă
đóng dấu!
Cần
phải biết chữ trên con dấu đều là thánh hiệu
của Phật, Bồ Tát. Theo đúng lư, phải nên đặc
biệt tôn trọng, sao lại khinh nhờn đến thế?
Con dấu tại chùa A Dục Vương lại là ấn
bảo tháp chân thân xá-lợi của Thích Ca Như Lai. C̣n con
dấu tại chùa Phổ Tế ở Phổ Đà chính là
Sắc Kiến Nam Hải Phổ Đà Thiền Tự Quán Âm
Bảo Ấn (Phổ Đà Thiền Tự chính là tấm biển
được sắc phong vào năm Vạn Lịch 33
(1605). Tới năm Khang Hy 38 (1699) đời Thanh, mới đổi
thành tấm biển sắc phong Phổ Tế Thiền Tự.
Như vậy th́ chắc cái ấn ấy là ấn đúc trước
năm Khang Hy 38). [Ấn của] chùa Pháp Vũ th́ là Nam Hải
Phổ Đà Thiên Hoa Pháp Vũ Quán Âm Bảo Ấn. Những
thứ khác có thể suy ra tương tự. Vải đă đóng
dấu chỉ có thể cất trong khám thờ Phật tại
nhà, hoặc để trong khám thờ thần, sẽ có công
đức. Nếu dùng để trải xuống đất
lễ Phật, tội ấy chẳng nhỏ, huống
hồ dùng làm đệm ngồi ư? (Lại nữa, Thủ
Phương đă dùng để lót xuống đất lễ
Phật, chỉ nên giặt sạch rồi đốt
đi, đừng nên cất trong khám thờ Phật).
Ví
như con cháu dùng tên của cha ông, viết lên vải, dùng để
trải xuống đất khi lễ bái tổ phụ và
khi ngồi xuống đất v́ sợ bẩn quần áo, dùng
vải ấy để lót làm đệm ngồi, ắt
người khác sẽ cho là bất hiếu, mà tâm chính ḿnh cũng
chẳng nỡ! Sao lại dám dùng thánh hiệu của Phật,
Bồ Tát in trên vải lót đất để bảo vệ
quần áo vậy thay? Nguyên do là v́ Tăng nhân chẳng biết
sự vụ, chỉ muốn in cho nhiều để có nhiều
tiền, chẳng màng loại vải ấy muôn phần chẳng
thể đóng dấu! Dẫu các tăng sĩ kiểu
đó có tu tŕ, cũng sẽ đọa lạc, do đă v́ kẻ
khác đóng dấu loạn xạ, khiến cho hết thảy
hàng phụ nữ có tín tâm cùng tạo đại tội
khinh nhờn Phật, Bồ Tát. Nguyện các hàng Tăng tục hăy thống
thiết răn dè. Lại mong những người biết
chữ, thấy nghe lời này, hễ gặp người khác
bèn khuyên răn, khiến cho hết thảy mọi người
đều sửa đổi thói quen này, công đức sẽ
là vô lượng
vô biên vậy!
* Pháp ngữ trong dịp
Ban Thiền Lạt Ma tổ chức cúng trai tăng một
ngàn vị Tăng tại chùa Phổ Tế ở Phổ Đà
Sơn (viết thay ḥa thượng Liễu
Tín)
Pháp
đạo của đấng Pháp Vương trọn khắp
trần hoàn, do túc duyên đă lănh nhận lời căn dặn
hoằng pháp; vị nắm quyền cai trị lẫn lănh đạo
giáo pháp đất Tây Tạng, v́ lễ đấng Phổ
Môn mà đến Nam Hải. Nay có đại lạt-ma Ban Thiền
Hoạt Phật[21] của
Tây Tạng, xưa kia đă nhận lời chúc lụy của
đức Phật, nương theo nguyện mà thị hiện
giáng sanh làm bậc thầy khuôn mẫu cho đất Tạng,
hoằng dương đại giáo của Như Lai, Hiển
và Mật cùng tŕ, Chân và Tục viên dung, ngự nơi pháp vương
chánh vị, thực thi kế sách to lớn để b́nh trị.
Do ngưỡng mộ
ḷng từ bi của Đại Sĩ, đến Bổ Đát
Lạc Ca[22]
để lễ yết. Lại muốn kết pháp duyên rộng
khắp, b́nh đẳng cúng dường đại chúng, vốn
toan tự ḿnh thăng ṭa, v́ khắp đại chúng tuyên dương,
chỉ v́ ngôn ngữ chẳng thông, cho nên bảo sơn tăng nói thay. Đại
chúng hăy nên biết: Hết thảy chúng sanh đều trọn
đủ Phật tánh, do mê trái mà oan uổng làm chúng sanh. Hoạt
Phật là do chúng sanh bao kiếp tu tŕ mà thành. Trọn chẳng
có chuyện trời sanh Di Lặc, đất nẩy Thích Ca,
chẳng do tu tŕ mà thành Chánh Giác được! Nay đặc
biệt nêu ra một pháp môn nhanh tắt, để trong hết
thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, thấy sắc,
nghe tiếng, xúc động căn cơ, gặp cảnh giới,
đều quán ngược lại sự “thấy, nghe, hay,
biết” ấy rốt ráo đều là nương vào sức
của ai? Do ai sai khiến? Quán lâu ngày th́ “thấy, nghe, hay,
biết” trọn chẳng thể được, tự nhiên
linh quang riêng chiếu, chứng thấu triệt chân thường!
Tuy là như thế, do trai tăng bèn vui mừng tán thán một
câu để làm ǵ vậy? Chống trượng, bảo: “Quán
Âm không cơi nào chẳng hiện thân, Hoạt Phật vốn là
tâm từ bi”.
* Báo cáo trong lễ
khai mạc Phật Giáo Từ Ấu Viện ở Nam Kinh (trích lục những
điều chánh yếu)
Giữa
khoảng Thu - Đông năm
Dân Quốc 11 (1922), các vị cư sĩ như cụ Phùng
Mộng Hoa, Ngụy Mai Tôn, Vương Ấu Nông, Bàng Tánh Tồn,
và hai vị sư Diệu Liên, Tâm Tịnh, do thấy đại
đức của trời đất là “sanh”, bèn tổ chức
hội phóng sanh. Anh em cư sĩ Phương Tuấn Sanh đă
đem cuộc đất thuộc hạ trang viên do tổ
tiên để lại ở sông Tam Xoa nhượng lại, chỉ
lấy nửa giá, phần c̣n lại dùng làm công đức.
Trong lúc bàn bạc quyết định về Quán Âm Am, đúng
dịp Ấn Quang đến Ninh Ba, tán thành quyết định
ấy, bèn được các ông Vương và Ngụy thôi
thúc kư tên đầu tiên cùng với cụ Phùng Mộng Hoa.
Trong mấy năm qua, được các vị đại
thiện tín hớn hở hoan hỷ giúp đỡ, trước
sau, xây dựng điện đường, đào ao nhiều
chỗ. Quy mô vừa tạm đủ. Trong việc lo
toan kiến tạo công tŕnh, thầy Tâm Tịnh đổ công
tốn sức khá nhiều. Trong mùa Xuân năm Dân Quốc 12
(1923), ông Nhậm Tâm Bạch nhiều lượt gởi thư
đề nghị: “Trong khu vực của ao phóng sanh, hăy lập một
cô nhi viện”. Cụ Phùng Mộng Hoa, cụ Vương Nhất
Đ́nh, cụ Từ Tích, các ông Ngụy, Vương, Bàng nhất
trí tán thành. Do vậy, lại tổ chức kiến lập
Phật Giáo Từ Ấu Viện (cô nhi viện Phật giáo),
được các vị đại thiện tín khảng khái
vui vẻ giúp đỡ, quyên tiền cũng tới mấy
vạn, cho nên các ṭa nhà của viện mồ côi sớm được
hoàn thành. Đúng lúc cụ Phùng Mộng Hoa lo toan giúp đỡ
nạn nhân chiến tranh tại vùng Hoài Từ, chọn gởi
tới ba mươi mấy đứa trẻ là nạn nhân chiến
tranh, cùng với mấy đứa cô nhi không nơi nương
tựa ở Kim Lăng và huyện Thành Sương, tổng cộng
là năm mươi mấy đứa. Kể từ đầu
tháng Giêng, đă bắt đầu dạy bảo. Nhằm lúc
Ấn Quang đến Ninh Ba, [Từ Ấu Viện] bèn cử
hành lễ khai mạc, được tỉnh trưởng,
huyện trưởng, các vị đại thiện tín quang
lâm chỉ giáo, cảm thấy may mắn khôn cùng.
Viện
này mới bắt đầu hoạt động, hết sức
non nớt, càng hết sức mong mỏi tỉnh trưởng,
huyện trưởng, các vị đại thiện tín luôn
rủ ḷng đốc thúc, sách tấn. Trẻ trong viện
quá nửa đến từ các vùng bị chiến tranh, [hiện thời] ĺa khổ được
vui, càng cần phải nhớ kỹ cái nhân gây khổ, hăng
hái dốc ḷng cầu học, ngơ hầu chẳng phụ ḷng
thiết tha trông mong của tỉnh trưởng, huyện
trưởng, và các vị đại thiện tín. Nền đất của Pháp Vân
Tự chưa định, lại được anh em cư
sĩ Phương Tuấn Sanh đem hai trang viên thượng
và trung hoàn toàn bán nhường
cho, cụ Đặng Phác phát bốn mươi tám nguyện,
xây cất đại điện. Do quyên góp cũng đă được
quá nửa, chẳng lâu sau sẽ có thể khởi công. Điều
khó bỏ mà có thể bỏ được, điều khó
làm mà có thể làm, đều là nhân duyên hy hữu vô thượng!
* Pháp ngữ khai thị
trong ngày Quán Âm Thành Đạo tại Thế Giới Phật
Giáo Cư Sĩ Lâm
Hôm
nay là ngày lành Quán Thế Âm Bồ Tát thành đạo, đặc
biệt trần thuật bổn tích cảm ứng của Bồ
Tát như sau: Cơi đời truyền tụng có ba ngày kỷ
niệm Bồ Tát, tức là Mười Chín tháng Hai, Mười
Chín tháng Sáu, và Mười Chín tháng Chín. Ngày Mười Chín
tháng Hai thật sự chẳng thể khảo chứng, có người
nói là đó là ngày Bồ Tát đản sanh. Ngày Mười Chín
tháng Sáu chính là ngày Ngài thị hiện ở Nam Ngũ Đài
Sơn. Ngày Mười Chín tháng Chín tức là ngày hôm nay, được
truyền tụng là ngày thành đạo; nhưng Bồ
Tát đă sớm thành Phật từ bao kiếp lâu xa, hiệu
là Chánh Pháp Minh. Nay điều truyền tụng bất quá là
sự tích cảm ứng nơi thân ứng hóa của Bồ
Tát, khiến cho chúng sanh kẻ thấy, người nghe gieo
các thiện căn mà thôi! Thật ra, chẳng ngày nào không phải
là ngày sanh của Đại Sĩ, không giờ nào chẳng
phải là lúc Đại Sĩ nhập Niết Bàn. Trong lúc
tu nhân, Đại Sĩ do Nhĩ Căn mà chứng nhập,
từ Văn, Tư, Tu mà nhập tam-ma-địa. Do tam-muội
ấy bèn đắc Viên Thông. Xét theo Quả, do chúng sanh xưng
danh mà Ngài quán âm thanh ấy, khiến cho họ được
giải thoát. V́ thế, có hiệu là Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tuy Bồ Tát an trụ trong cơi Tịch Quang, nhưng phân thân
trong các cơi nhiều như vi trần, tùy loại hiện
thân. Hoặc hiện thân Bồ Tát, hoặc hiện thân Duyên
Giác, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân trời,
thân A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, như
phẩm Phổ Môn đă nói “đáng nên dùng thân ǵ để
độ được, bèn hiện thân ấy thuyết
pháp”.
Cần
phải biết: Một niệm tâm tánh của chúng sanh chẳng
hai, chẳng khác với chư Phật, Bồ Tát. Đại
Sĩ chẳng chứng ǵ khác, hoàn toàn là chứng tâm tánh chúng
sanh vốn sẵn có. Chúng sanh bỏ mê về ngộ, cũng
sẽ giống như Đại Sĩ ứng hiện khôn
ngằn thuận theo căn cơ,
hưởng niềm vui pháp hỷ tịch diệt. Ngài đă
là trượng phu, ta cũng vậy, sao lại tự khinh để
rồi thoái khuất? Bọn chúng ta nếu mong sanh nhằm
lúc Quán Âm tu tŕ, rất ư là khó. Nay Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật đă chỉ dạy cặn kẽ pháp tắc tu
tŕ, ví như tổ tiên đă sáng lập gia nghiệp, chỉ
cần con cháu khéo ǵn giữ, sẽ chẳng đến nỗi
bại vong. Đại Sĩ đă sáng lập gia nghiệp
của Phật, chỉ cần chúng ta có thể y giáo tu tŕ,
liền có thể hưởng thụ tự tại. Y giáo tu
tŕ như thế nào? Hăy nên lấy tâm Quán Âm làm tâm của chính
ḿnh, lấy hạnh Quán Âm làm hạnh của chính ḿnh. Tâm Quán
Âm là đại từ bi, hạnh Quán Âm là tự lợi, lợi
tha. Nếu chúng sanh tin tưởng, ngưỡng mộ Bồ
Tát, dẫu gặp phải các cảnh giới ác như đao
binh, nước, lửa, giặc cướp, tai nạn ngang
trái, cũng
chớ nên có một niệm gián đoạn. Sự nhân quả
thông ba đời. Lư nhân quả phát xuất từ tự tâm.
Đạo ở trong ḷng người, như nước ngầm
trong đất. Chịu đào bới, sẽ liền được
nước; chịu niệm, sẽ được thọ
dụng. Hễ cầu sẽ đạt được, không
cầu bèn đánh mất. Tuy nói là “cảm ứng đạo
giao”; thật ra cũng do chính tự tâm cảm ứng. Hư
không chẳng ngăn ngại cương giới, cương
giới chẳng trở ngại hư không. Một vầng
trăng sáng vằng vặc giữa trời, bất luận
sông to, rạch lớn, dẫu bé như một giọt nước,
một hớp
nước, hễ ánh trăng chiếu đến
bèn hiện bóng. Chỉ có nước trong lặng, trăng bèn
hiển hiện; nước đục, dao động, bóng
trăng bèn ẩn mất. Cái tâm của chúng sanh như
nước, A Di Đà Phật như trăng. Chúng sanh do tín
nguyện trọn đủ, chí thành cảm Phật, ắt
Phật sẽ ứng hiện, như nước trong, trăng
hiện. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, chẳng chí thành, tương
ứng với tham, sân, si, trái nghịch Phật, Phật sẽ
chẳng thể cảm, giống như nước đục
ngầu, xáo động, bóng trăng ẩn mất. Tuy trăng
vẫn chiếu soi chẳng sót, nhưng chẳng thể hiện
bóng rơ ràng.
Trong
thế gian hiện thời, họa loạn và hoạn nạn
rất dữ dội. Muốn t́m một pháp trọn khắp
hết thảy các pháp, tu ngay trong đời này liền chứng
ngay trong đời này, là đường tắt tu hành, chỉ
có Niệm Phật là bậc nhất! Đại chúng đă
là đệ tử đức Phật, cần phải có
con mắt sáng suốt để chọn lựa pháp. Phật
pháp vô lượng vô biên, mọi người cần phải
tự lượng căn tánh của chính ḿnh. Bậc thượng
căn lợi trí, hiện thân thành Phật, dẫu Phật tại
thế cũng chẳng được thấy nhiều, c̣n
nói chi đến hạng độn căn trong thời Mạt
Pháp đời này ư? Hết thảy
các pháp môn, đều cần phải có công tự lực sâu
xa, đoạn Hoặc, chứng Chân, chẳng c̣n sót mảy
may Kiến Tư Hoặc th́ mới liễu sanh tử. Đă
đoạn Kiến Hoặc liền chứng Sơ Quả,
dự vào gịng thánh, gọi là Tu Đà Hoàn. Vẫn phải bảy
lần sanh lên trời, bảy lượt trở vào nhân
gian, đoạn Tư Hoặc, dần dần chứng địa
vị Tứ Quả La Hán th́ mới liễu sanh tử! Pháp
môn Niệm Phật chẳng vậy. Chỉ cần chí thành khẩn
thiết, tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo,
khi lâm chung, tự có thể được Phật tiếp
dẫn, phẩm vị cao hay thấp do tu tŕ sâu hay cạn quyết
định. Tuy sanh vào cơi Đồng Cư trong bốn cơi của
Cực Lạc, mà cũng thuộc địa vị Bất
Thoái, lập tức có thể nhanh chóng vượt lên Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập
Địa, đới nghiệp văng sanh, hoàn toàn cậy vào Phật
lực. Ví như trăm ngàn vạn tảng đá to, muốn
vượt qua biển lớn, đặt trên chiếc tàu
to, sẽ có thể chẳng ch́m mà chuyển sang nơi khác.
Nếu không, một dúm đất cát, cũng liền ch́m
ngay. Tự lực mà mong liễu sanh tử như bỏ
thuyền vượt biển, trừ phi có lông vũ để
có thể [chắp cánh] tự bay lượn được.
Nếu không, chẳng ai không rơi xuống, ch́m đắm!
Cậy vào Phật lực để liễu sanh tử, giống
như an ổn ngồi trên thuyền, chốc lát liền tới
bờ kia. Kẻ tu học, điều thứ nhất là chớ
nên có hai ba tâm, bị xoay chuyển theo cảnh, đối với
Thiền, Giáo, Mật Tông, trọn chẳng có định kiến!
Rốt cuộc bỏ công sức lớn lao mà đạt được
lợi ích nhỏ nhoi, không chỉ đời này chẳng liễu
sanh tử, dẫu đời sau cũng chẳng dễ ǵ!
Pháp Niệm Phật luận về tu học, sẽ là đơn
giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng; luận
theo pháp môn, rộng lớn không ngằn!
Ngài
Đế Nhàn giảng phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
tại chùa Viên Thông, đối với sự lư Tịnh
Độ, đă phát huy nhiều điều; nay tôi lại
trần thuật thêm. Thiện Tài tham học với khắp
các vị tri thức, cuối cùng được đức
Phổ Hiền dạy dỗ, sau khi đă chứng bằng
chư Phật, dùng mười đại nguyện vương
hồi hướng sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới để mong viên măn Phật
quả. Lại c̣n khuyên trọn khắp hải chúng trong Hoa
Tạng. Hải chúng trong Hoa Tạng chẳng có vị nào là
phàm phu hay Nhị Thừa, đều là Pháp Thân đại sĩ,
phá vô minh, hiển pháp tánh, [thế mà] vẫn cần
phải văng sanh! Ta là hạng người như thế nào
mà dám chẳng vâng theo? Pháp môn Niệm Phật quả thật
là trên thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng
sanh, là con đường để phàm thánh cùng noi theo, là
pháp môn thành tựu từ lúc tu nhân cho đến khi chứng
quả. Người tu hành ai nấy hăy nên trọn hết bổn
phận, cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng
xướng, vợ theo, ba nghiệp thân, miệng, ư chẳng
ô uế, phát Bồ Đề tâm, tự lợi, lợi người,
mới gọi là “chân tu”. Nếu miệng nói tu hành, tâm
ôm ấp điều bất thiện, th́ là “giả thiện
nhân”. Nhân địa đă hư ngụy, làm sao đạt
được lợi ích chân thật?
Lại
nữa, đối với chuyện lợi người, nếu
kẻ khác chẳng tin, hăy nên nín lặng mà thôi. Đối với
cha mẹ, quyến thuộc, do thiên tánh liên quan, nếu có ai
chẳng tin, hăy nên v́ họ chân thành sám hối thay, lâu dần
sẽ tự có thể cảm hóa. Đó gọi là “ḷng thành
tột bậc, đá, vàng cũng phải nứt”. Nếu
cha mẹ và quyến thuộc nghiệp tiêu, trí rạng, chính
ḿnh tu tŕ chân thành, chuyên dốc, người khác nh́n vào sẽ
tốt lành theo. Cổ nhân nói: “Dĩ ngôn giáo giả tụng,
dĩ thân giáo giả tùng” (dùng lời nói để dạy
sẽ có tranh căi, dùng thân làm gương, người khác sẽ
thuận theo). Dùng thân làm gương, nói ra mọi người
sẽ tuân theo, hiệu quả cực lớn. Người có
đủ tín tâm chớ nên học theo ngoại đạo cầu
phước quả sanh trong cơi trời người, và quả
báo phú quư, dục lạc trong đời sau. Tôi bảo đảm
Phật nhất định tiếp dẫn, quyết định
hoa nở thấy Phật.
Nay
có vị cư sĩ hỏi tôi “ư của Tổ Sư từ
phương Tây đến [Đông độ], trước
sân một cây bách”, người ấy thật sự chẳng
có mảy may tâm đắc! Ư của tổ sư,
cây bách trước sân, đại thụ chót vót, học nhân
thấy ngay trong một niệm hiện tiền, khiến
cho người đó tham cứu mà tự đạt được.
Nếu không, tâm địa vốn sáng suốt chẳng được
thấu tỏ, sẽ thấy bất quá là cây bách mà thôi. Tất
cả các câu chữ trong nhà Thiền, mỗi mỗi đều
nhằm chỉ quy tự tánh ngay trong cái tâm, trọn
chẳng có nghĩa lư để có thể suy lường. “Minh
tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” chính là thấy Danh Tự Phật ngay
trong tự tánh thiên chân, chẳng phải là đấng Lưỡng
Túc Tôn phước huệ viên măn rốt ráo Niết Bàn. “Minh
tâm kiến tánh” là ngộ, chẳng phải chứng. Sau
khi đă ngộ, cần phải đoạn Kiến Hoặc,
chứng địa vị Sơ Tín, tiến vào gịng thánh. Đoạn
Tư Hoặc chứng Thất Tín bèn liễu sanh tử. Bát
Tín, Cửu Tín, và Thập Tín phá Trần Sa, chế phục Vô Minh. Phá một phẩm
Vô Minh, chứng một
phần Tam Đức Bí Tạng, chứng địa vị
Sơ Trụ, tức là Pháp Thân đại sĩ. Lại trải
qua Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
cho đến Thập Địa, Đẳng Giác, lại
phá một phẩm vô minh, chứng một phần Tam Đức
Bí Tạng mà thành Phật. Người học chớ nên hiểu
lầm. Cổ nhân nói: “Tây
Phương Cực Lạc thế giới chỉ có một
chữ Lạc, tiếc là người đời chẳng
thể toàn thân nương cậy”. Đại chúng đă
nghe pháp vốn sẵn có, đă hiểu rơ, tôi mong mỏi sâu
xa quư vị sẽ chí thành khẩn thiết tu tŕ. Tôi bảo
đảm trong tương lai, sẽ có phần thành Phật.
Hăy gắng lên, hăy cố lên nhé!
* Pháp ngữ về sách
Quán Thế Âm Bồ Tát Cảm Ứng Linh Khóa[23]
Quán
Thế Âm Bồ Tát nghĩ thương chúng sanh, tầm
thanh cứu khổ. Phàm làm thiện sự, khẩn cầu Bồ
Tát, ắt sẽ được Ngài rủ ḷng gia bị,
khiến cho việc ấy được thành tựu. Nếu
làm việc ác, Ngài cũng rủ ḷng gia bị, khiến cho
việc ấy quyết chẳng thành. Bởi [chuyện ác ấy]
được thành, sẽ là tạo tội, đọa vào
chốn khổ sở. Đó là cứu vớt khổ nạn
vậy! Đấy là chân từ đại bi của Bồ
Tát. Kẻ muốn quyết nghi, mà nếu thờ tượng
Bồ Tát, hăy đối trước tượng Bồ Tát,
dâng hương, lễ bái. Nếu không có, liền hướng
về khóa bổn này mà thắp hương, lễ bái. Dùng năm
đồng tiền sạch, hơ qua khói hương, trong
tâm thầm niệm cầu đảo chuyện muốn hỏi,
dựa theo bài kệ được liệt kê trong phần
sau, và niệm Bồ Tát chừng bao nhiêu tiếng. Cầm tiền
trong tay lắc mấy lượt, khiến cho các đồng
tiền đảo lộn thứ tự. Sau đó, gieo xuống
bàn, dựa theo thứ tự mấy đồng sấp, mấy
đồng ngửa, chiếu theo khóa bổn để tra là
quẻ nào, sẽ được dạy cho biết điều
tương ứng.
* Pháp ngữ trong lễ
thượng lương Quán Âm Điện chùa Nam Thiên Trúc tại
Hàng Châu
Đại
Sĩ vốn chẳng có thân và tâm, tùy duyên ứng hiện trọn
khắp các cơi nhiều như vi trần. Hôm nay trùng tu chùa
Thiên Trúc, khiến cho khắp mọi loài được gội
từ ân. Đặt kèo rường cho điện báu thênh
thang, đại chuyển pháp luân xiển dương Phật
quang. Đàn-việt hộ pháp trợ duyên được
nhờ vào pháp lực mà con cháu muôn đời hiền thiện,
hưng thịnh trăm đời.
* Pháp ngữ thượng
đường[24] (gồm sáu mươi
bảy bài, trích từ nguyên gốc Văn Sao Tam Biên bản
chép tay)
1)
Một câu Di Đà diệu khó lường, phàm thánh cùng nương
chứng chân thường, chỉ nguyện pháp này truyền
bá rộng, cùng
tột ba đời, khắp mười phương.
Đức Như Lai thuyết pháp, chúng
sanh đắc độ, khó, dễ, nhanh, chậm khác biệt
rất lớn! Do vậy, viên âm[25] vừa
diễn, kẻ căn cơ chín muồi liền chứng Bồ
Đề. Một trận mưa thấm khắp, kẻ tiểu
căn chỉ tăng trưởng phân tấc. Do vậy, rộng
lập các giáo Đốn, Tiệm, Thiên, Viên để phù hợp
căn cơ; mở toang các môn Luật, Giáo, Thiền, Mật
ḥng lợi lạc
chúng sanh. Cầu một pháp phàm thánh cùng tu, đại tiểu
nhất trí, vừa cạn, vừa sâu, thực hiện dễ
mà thành công cao, chí viên, chí đốn, dùng sức ít mà đạt
được hiệu quả nhanh chóng, Đẳng Giác Bồ
Tát nương theo đó để viên thành Phật đạo,
chúng sanh nghịch ác nương vào đó để thoát ĺa luân
hồi, không ǵ thù thắng, siêu tuyệt bằng pháp Tịnh
Độ! Trong đời Chánh Pháp và Tượng Pháp xưa
kia, đời nào cũng có cao nhân “tiếp lửa, truyền
đèn” (tục diệm truyền đăng) rạng ngời
Thiên Trúc và Chấn Đán (Trung Hoa). Đời mạt căn
cơ kém hèn, muốn liễu sanh tử mà bỏ pháp môn này,
làm sao yên được? Mọi người ai nấy hăy nên
chí thành khẩn thiết, tŕ danh hiệu Phật. Phật niệm
vừa dấy lên, phàm t́nh nhanh chóng đoạn dứt. Núi
phước chót vót, biển nghiệp cạn khô, sương
tội tiêu, huệ nhật rạng ngời, mới biết
pháp Tŕ Danh này vốn là Thật Tướng. Hễ sanh vào Tịnh
Độ, sẽ thẳng thừng khế nhập Tịch
Quang!
(Chống
trượng nói): Thênh thang một nẻo về nguồn,
thẳng bước về nhà há hỏi han!
2)
Một câu nam-mô A Di Đà, đúng là tâm yếu của đức
Phật. Dọc thấu năm thời Tiểu Đại
Thừa, ngang trùm tám loại giáo Quyền, Thật.
Đức
đại giác Thế Tôn thị hiện sanh trong thế
gian, căng rộng lưới giáo để độ thoát
chúng sanh. Dùng một vị đề-hồ, tùy cơ nghi mà
nói khác biệt. Với kẻ căn cơ chín muồi, liền
dạy họ thẳng thừng chứng nhập. Kẻ căn
cơ sống sít, bèn giúp hun đúc dần dần. Từ thuở
mới thành đạo, cho tới khi nhập Niết Bàn, thuyết
pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội.
Tuy Đại, Tiểu, Thiên, Viên, Quyền, Thật, Đốn,
Tiệm, không pháp nào chẳng đủ, không hạnh nào chẳng
vẹn. Nhưng trong các hội, đối với một môn
Tịnh Độ này, lại càng liên tiếp tán thán, ra rả
căn dặn, muốn cho chín pháp giới cùng lên Phật giới,
ba thừa cùng chứng Nhất Thừa. V́ thế, phí sạch
tấm ḷng đau đáu, chẳng tiếc kim khẩu [răn
dạy]. Ngày nay các vị may mắn được nghe, ắt
phải cảm ân đức của Phật, chuyên tŕ thánh
hiệu, nhiếp trọn sáu căn, buông xuống muôn duyên,
sao cho tâm lẫn cảnh rỗng rang, tĩnh lặng, khác nào
Không hợp với Không, Phật niệm
khế hợp, hệt như nước ḥa vào nước,
sẽ chẳng ĺa một niệm hiện tiền, mau chóng
chứng chân thường. Lời Phật thành thật, ai nấy
đều nên tin nhận.
(Chống
trượng nói): Há đợi Long Hoa được thọ
kư? Ao quư lên thẳng sen tử kim.
3)
Thầy của mười phương hết thảy Phật,
vốn là Tây Phương A Di Đà. Một câu “súc miệng”
của Triệu Châu, khiến khắp hàm thức thoát Sa Bà.
Bậc
thượng sĩ tham Thiền, hàng cao nhân học Phật,
muốn đắc Vô Sư Trí, cần phải biết pháp
hữu sư. Xưa kia, có vị Tăng hỏi ngài Triệu
Châu: “Mười phương chư Phật có thầy hay
không?” Triệu Châu nói: “Có”. Hỏi: “Như thế nào là thầy
của chư Phật?” Triệu Châu đáp: “A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật”. Phàm sở chứng sở đoạn của
hết thảy chư Phật thảy đều b́nh đẳng,
chẳng hề sai kém mảy may. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Thập phương chư Như Lai, đồng cộng
nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất trí huệ, lực vô úy
diệc nhiên” (Mười phương các Như Lai, cùng
chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ, lực, vô
úy cũng thế). V́ sao ngài Triệu Châu nói A Di Đà Phật
là thầy của mười phương chư Phật? Hăy
nói xem ư chỉ là như thế nào? Nếu có thể hiểu
thấu triệt, may mắn chi bằng? Nếu chẳng liễu
giải, xin hăy chuyên tŕ thánh hiệu Di Đà. Tŕ tới lúc “toàn
tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm và Phật chẳng
hai, tâm lẫn Phật cùng mất”, bỗng dưng
ngă giữa đất bằng, đột nhiên xoay người
đứng phắt dậy, mới biết đạo của
Triệu Châu vốn rộng thênh thang, lời lẽ vượt
ngoài khuôn phép, chẳng dấy can qua, ngồi yên hưởng
thái b́nh. Các vị c̣n thấy Triệu Châu nữa chăng?
(Chống
trượng nói): Yết đế, yết đế, ba
la yết đế.
4)
Hăy nên phát nguyện, nguyện văng sanh. Khách đường trược ác gấp
khởi hành.
Tự ḿnh chẳng về, về liền được.
Gió trăng quê cũ, có ai giành?
Đức
đại giác Thế Tôn nghĩ thương chúng sanh, mở
ra pháp môn Tịnh Độ, chỉ bày con đường tắt
trở về nguồn. Gộp chung ba thừa, năm tánh cùng
lên cơi tịnh, dẫn thượng thánh, hạ phàm đều
chứng chân thường. V́ vậy, Như Lai do hành chuyện
khó này, mau thành Bồ Đề. Đời Mạt Pháp chỉ
cậy vào Niệm Phật ḥng thoát sanh tử. Hoa Nghiêm khuyến
tấn, Văn Thù phát nguyện. Hành phương tiện tối
thắng, Mă Minh dạy trong luận Khởi Tín. Đạo
dễ hành, chóng đạt, Long Thọ xiển dương trong
luận [Tỳ] Bà Sa. Trí Giả là hậu thân Thích Ca, nói Thập
Nghi Luận khuyên khắp mọi người văng sanh. Di Đà
thị hiện thân Vĩnh Minh, soạn Tứ Liệu Giản
ḥng chuyên chỉ Tịnh Độ. V́ thế, văng thánh tiền
hiền, người người tiến hướng. Ngàn
kinh vạn luận, chốn chốn chỉ về. Các vị
hăy nên dùng Phật hiệu để đối trị phàm
t́nh, khiến cho mỗi căn, mỗi trần, không ǵ chẳng
niệm Phật, ngơ hầu mỗi pháp, mỗi sự, đều
chứng Viên Thông. Tâm tánh tự ḿnh vốn có, do đấy triệt để tỏ lộ trọn
vẹn. Bổn hoài xuất thế của chư Phật mới
có thể rốt ráo vui thỏa.
(Chống
trượng nói): Báu cột nơi áo gă nghèo, chính là châu tại
đỉnh đầu Luân Vương.
5)
Một câu Di Đà vượt khuôn khổ, vô biên pháp tạng
thảy gồm trong. Bóng trăng đáy nước do trăng
rọi. Đầu ghềnh lùa gió, gió lùa hang.
Pháp
dược vô lượng, hễ trị được bệnh
th́ là thuốc hay. Biển giáo vô biên, pháp khế cơ là diệu.
Các pháp môn khác, mỗi pháp thích hợp một loại căn
cơ, chẳng thể thích hợp khắp ba căn. Nói pháp
Đại, tiểu căn chẳng thể nhập. Nói pháp
Tiểu, đại căn chẳng cần phải tu! Chỉ
có pháp Tịnh Độ này vượt ngoài thể lệ, Đại
lẫn Tiểu cùng nhiếp, lợi căn lẫn độn
căn gồm thâu, toàn thể tánh thành tu, thượng thượng
căn chẳng thể vượt ngoài phạm vi của pháp
này. Toàn thể sự chính là Lư, hạ hạ căn cũng
có thể đạt tới cơi ấy. Nương theo từ
lực của đức Di Đà, mở toang tri kiến của
Như Lai, thoạt đầu là nhiếp trọn sáu căn,
kế đó là nhất tâm bất loạn. Dùng cái tâm niệm
Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn, mới biết trăm
ngàn pháp môn chẳng rời một tấc vuông (chân tâm). Diệu
đức nhiều tợ cát sông Hằng, đều thuộc
nguồn tâm. Ví như đă tắm trong biển cả, ắt
dùng nước của trăm sông. Thân đă ở trong điện
Hàm Nguyên, cần ǵ phải hỏi Trường An chi nữa? Hễ
nhập môn này, việc làm đều xong. Chỉ chịu bằng
ḷng, quyết chẳng thua thiệt. Đấy thật sự
là phương tiện siêu xuất Vô Thượng Thiền
Tông.
(Chống
trượng nói): Chỗ được nắng Xuân vừa
chiếu đến, không đâu hoa chẳng trổ tươi
hồng!
6)
Một câu nam-mô A Di Đà, vô tận pháp tạng được
tổng tŕ. Tín, nguyện, hạnh nếu như đầy
đủ, đời này chắc chắn chứng Bồ
Đề.
Một
môn Tịnh Độ thông trên, thấu dưới, sơ cơ
và hậu tâm cùng tu. Đối với chuyện văng sanh, giúp
[tu tŕ] từ đầu đến cuối. Tiểu, phàm, đại
thánh đều tiến nhập; chí viên, chí đốn,
tối diệu, tối huyền, là chỗ quy tông cuối cùng
của Hoa Nghiêm, là lời đàm luận tột bậc triệt
để v́ chúng sanh của Như Lai. Đừng luận những ai đă thấu triệt
ba cửa ải, ngũ nhăn viên minh, dẫu bậc hiểu ngộ
bằng đức Chánh Pháp Minh trong quá khứ, vẫn phải nên thân cận A
Di Đà trong hiện tại. Nếu tham mà chưa ngộ,
hoặc đă ngộ mà chưa thấu triệt, hăy nên lấy một câu Nam-mô A Di Đà Phật
này làm bổn mạng nguyên thần. Thời thời hệ
niệm, khắc khắc giữ ǵn. Bỗng dưng Năng lẫn Sở cùng mất,
nhanh chóng thấy “tâm và Phật chẳng
hai”, mới biết
“mười đời xưa nay, từ đầu đến
cuối chẳng rời một niệm hiện tại!”
Vô biên cơi nước, ta cùng người nào cách mảy lông!
Do vậy, nghiệp tiêu, trói buộc tự rớt, sanh vào
nhà Như Lai, an trụ trong Tam Đức Bí Tạng, thường
hưởng pháp lạc, khắp mười phương sát
hải rộng độ chúng sanh.
(Chống
trượng nói): Lâu đài gần nước được
sáng trước, hoa cỏ hướng dương sớm
gặp Xuân.
7)
Rung đất, rền trời, siêng niệm Phật. Đập cửa,
giộng cổng khuyên tu hành. Hỏi ai cớ ǵ luôn bận
bịu? Chỉ sợ chúng sanh lọt lửa hầm.
Một
môn Tịnh Độ gồm trọn vạn hạnh, thỏa
thích bổn hoài xuất thế của chư Phật, là đường
tắt để chúng sanh trở về nguồn. Nói đại
lược, chỉ một chữ Tịnh có thể nhiếp
trọn chẳng sót. Đó gọi là “nhiếp trọn sáu
căn, tịnh niệm tiếp nối”. Tịnh đến
mức cùng cực, ắt thông đạt rạng ngời,
tịch chiếu trọn hư không. Sanh diệt đă diệt,
tịch diệt hiện tiền. Viên măn Bồ Đề, trở
về chỗ chẳng có ǵ để đạt được.
Đấy là tịnh đến tột cùng, trừ Phật
Thế Tôn ra, ai dám đảm đương? Nói rộng th́
dẫu đàm luận viên dung trong Tam Tạng mười
hai bộ, diệu nghĩa của các vị thầy trong năm
tông vẫn diễn tả chẳng trọn! Dẫu hết
thảy chúng sanh trong thế giới hải trọn hết
mười phương cùng thành Chánh Giác, dùng sức thần
thông, vi trần nói, cơi nước nói, hừng hực nói, nói
chẳng gián đoạn, há có thể trọn hết ư? Bởi
lẽ, pháp môn Tịnh Độ vốn chẳng thể nghĩ
bàn! Do v́ lẽ ấy, các kinh Đại Thừa như Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa… các vị đại Bồ Tát như Văn Thù,
Phổ Hiền… các vị đại tổ sư như Mă
Minh, Long Thọ… các đại thiện tri thức như Thiên
Thai, Vĩnh Minh… ai nấy đều dùng pháp này để
chỉ dạy, khuyên bảo khiến cho chúng sanh văng sanh. Do
pháp này chính là chỗ quy túc của các pháp, là tâm ấn của
Phật, Tổ vậy!
(Chống
trượng nói): Họ là trượng phu, ta cũng thế. Ao báu ai nấy chiếm
cành sen!
8)
Muốn được đời này ĺa kết phược,
tâm thần mau gởi chốn Liên Bang. Văng sanh cầu chứng
bằng chư Phật, vốn sẵn Hoa Nghiêm bước
cuối cùng.
Như
Lai do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện
trong cơi đời, tùy theo căn cơ mà thí giáo, nói đủ
loại pháp, không ǵ chẳng nhằm khiến cho chúng sanh khai
thị ngộ nhập tri kiến của Phật mà thôi! Tuy
chúng sanh vốn sẵn có tri kiến của Phật, nhưng
mê muội từ vô thỉ cạn hay sâu khác nhau. Kẻ mê cạn
tu bất cứ pháp nào, cũng đều có thể ngộ
nhập. Người mê sâu, chẳng cậy vào thệ nguyện
lực sâu rộng của đức Di Đà, quyết khó
thể chứng đắc. Huống hồ pháp này chính là bí
yếu của chư Phật, là sự tu chứng tột bậc.
Như Lai lúc mới thành Chánh Giác, bèn nói kinh Hoa Nghiêm, trọn
đủ vô lượng pháp môn, thâu nhiếp căn tánh Nhất
Thừa. Nhưng Thiện Tài sau khi chứng bằng chư Phật,
Phổ Hiền Bồ Tát bèn dạy phát mười đại
nguyện vương, hướng dẫn về Cực Lạc,
c̣n khuyên Hoa Tạng hải chúng cùng sanh về Tây Phương.
Các kinh Đại Thừa đều khơi mở lẽ
trọng yếu ấy, các bậc Khai Sĩ đều vào môn
này. Xét các điều này, có thể dứt sạch hồ
nghi, chuyên tŕ Phật hiệu, mong thân cận Di Đà chốn
Tịch Quang, vĩnh viễn nêu gương giác ngộ cho thời
Mạt.
(Chống
trượng nói): Kể từ hải chúng về Tây, cơi đời
ai cũng noi theo tuân hành.
9)
Tây Phương từ phụ A Di Đà, thệ nguyện
rộng sâu, lợi ích nhiều. Chỉ chịu nhất tâm thường
nghĩ nhớ, quyết được tiếp dẫn thoát
Sa Bà.
Pháp
môn Tịnh Độ được khởi xướng bởi
đức Di Đà đạo sư, được diễn
bày bởi Thích Ca Thế Tôn, mười phương chư
Phật hiện tướng lưỡi rộng dài tán dương.
Cao tăng hai cơi (Ấn Độ và Trung Hoa) phát kim cang tâm lưu
truyền. Quy củ tu tŕ chia thành bốn loại, tức là
tŕ danh, quán tượng, quán tưởng, Thật Tướng.
Tŕ danh dễ nhất, Thật Tướng khó nhất. Nhưng
có thể tŕ tới mức nhất tâm bất loạn, tâm lẫn
Phật cùng mất, diệu lư Thật Tướng sẽ tỏ
lộ toàn thể. Do vậy biết tŕ danh chẳng khác Thật
Tướng. Trăm ngàn pháp môn trong một thời giáo hóa của
đức Phật, không ǵ chẳng nhằm khiến cho mọi
người đích thân chứng Thật Tướng đó
thôi! Đă chứng Thật Tướng, sẽ t́nh không, cảnh
không, tâm tịnh, cơi tịnh. Như gió mạnh lùa qua, muôn ống
sáo vang tiếng vi vu,
như một vầng trăng in bóng khắp ngàn sông. Quang
minh, thọ mạng, theo chiều ngang trọn khắp, theo
chiều dọc tột cùng, lâu bền rộng lớn giống
hệt như Di Đà Thế Tôn. Như vậy th́ có kinh nào
chẳng phải là kinh Tịnh Độ, có hạnh nào chẳng
phải hạnh Tịnh Độ? Do vậy, biết pháp này
gồm trọn pháp tạng, toàn thể Sự chính là Lư, toàn
thể vọng chính là chân, nhân bao trùm biển quả, quả
thấu triệt nguồn nhân, là môn trọng yếu để
nhập đạo, là chỗ nương tựa cho cả
chín pháp giới.
(Chống
trượng nói): Pháp môn Tịnh Độ như biển
cả. Ngàn gịng, muôn phái thảy chầu về.
10)
Tâm ta, tâm Phật, tâm chúng sanh. Cả ba rốt ráo chẳng
sai biệt. Nếu trái vọng để trở về chân;
lập tức, sáng sanh mà tối diệt.
Cái
tâm của chúng sanh và tâm của chư Phật vốn giống
hệt như nhau, trọn chẳng sai khác. Do chúng sanh mê, hư
vọng hứng chịu sanh tử, nhưng oai thần chẳng
giảm. Chư Phật v́ ngộ, đích thân chứng Niết
Bàn, mà đức tướng chẳng tăng. Đó gọi
là chư Phật nương vào sức ngu si của chúng
sanh, phá sạch vô minh, thành Đẳng Chánh Giác, giăng mây đại
pháp, tuôn mưa pháp lớn, khiến cho nóng bức được
mát mẻ, khiến cho đêm dài mau sáng. Chúng sanh nương
theo sức trí huệ của chư Phật, phát sanh vô minh,
luân hồi lục đạo, tạo các nhân gây khổ, hứng
chịu các khổ báo. Do mê Phật tánh nên chẳng giác, quên
mất viên châu trong chéo áo, trái nghịch, xa rời bổn phận,
lực, dụng, lẽ thật v.v… Mê, ngộ tuy khác, tâm tánh
chẳng hai. Hiểu rơ điều này, sẽ bỏ mê trở
về ngộ, bỏ chúng sanh theo Phật, thẳng thừng
khiến cho chúng sanh trong tâm Phật, tâm nào cũng đều
làm Phật, chư Phật trong tâm chúng sanh, niệm nào cũng
chứng chân, như khơi thông Trường Giang, Hoàng Hà, cuồn
cuộn chẳng thể ngăn được. Nhưng cần
phải cậy vào từ lực của Phật, văng sanh Tây
Phương th́ mới có thể “hễ đắc bèn vĩnh
viễn đắc”, chẳng đến nỗi bỏ lừng
giữa chừng! Ví như khách làm kẻ bần tiện, mà
là con ông trưởng giả[26], vô
lượng trân bảo chẳng cầu mà tự được.
(Chống
trượng nói): Di Đà từ phụ pháp trung
vương, hun đúc thánh phàm chứng chân thường.
11)
Nguyện đem uế độ ba ngàn cơi, gieo hết Lạc
Bang chín phẩm sen. Nhắn gởi thượng nhân đang
tham học[27],
Cực Lạc gấp về giống Phổ Hiền.
Một
niệm tâm tánh của chúng ta bất sanh, bất diệt, chẳng
phải Sắc, chẳng phải Không, theo chiều dọc
chẳng có trước, sau; theo chiều ngang trọn chẳng
ngằn mé! Bất biến tùy duyên, trải chín pháp giới mà
chẳng giảm. Tùy duyên bất biến, chứng Phật
đạo, nhưng chẳng tăng. Quang minh thấu triệt,
thọ dụng tự tại, đúng là chẳng hai, chẳng
khác với chư Phật. Nhưng do mê Chân mà đuổi
theo vọng, trái giác, theo trần, khiến cho chúng sanh và Phật
cách xa, khổ lạc khác biệt vời vợi. Do vậy,
đức Thế Tôn dùng ngôn giáo rộng diễn, v́ Thật
mà hành Quyền, lập trọn các địa vị thuộc
năm thừa. Khai Quyền, hiển Thật, đồng nương
về pháp môn Tam Đức. Không ǵ chẳng nhằm khiến
cho họ bỏ vọng
theo Chân, trái trần, hợp giác, phục hồi thiên chân sẵn
có, đích thân chứng giác đạo vô thượng. Lại
muốn cho khắp cả ba căn thành tựu ngay trong đời
này, đặc biệt mở ra Tịnh Độ, chuyên khuyên
văng sanh. Dù là Đẳng Giác Bồ Tát, hay nghịch ác phàm
phu, đều dạy họ nghĩ nhớ Di Đà, văng
sanh Tây Phương. Ấy là v́ nương vào từ lực
của Phật, khiến cho phàm phu nhanh chóng thoát khỏi sanh
tử, Bồ Tát mau thành Chánh Giác. Đúng là cương tông
của pháp tạng, là đường tắt tu tŕ. Ai nấy
hăy nên hăng hái phát khởi đại tâm, đừng cô phụ
Phật tánh sẵn có.
(Chống
trượng nói): Chỉ nên gởi thân nơi ao sen, mau chứng
thân Tịch Quang thường trụ.
12)
Chân Như pháp tánh vô h́nh thể. Tâm, sắc, hữu, không, thảy chẳng
màng. Thanh tịnh trang nghiêm diệu khó tưởng, chẳng
ĺa động tác nói năng chi!
Chân Như pháp tánh vốn
chẳng có tên gọi “chúng sanh, Phật, phàm, thánh”. Viên
giác diệu tâm há có tướng trời, người, thăng,
giáng? Chỉ v́ mê chân, đuổi
theo vọng, xuôi theo gịng[28], quên mất
cội nguồn, đến nỗi luân hồi trong sáu nẻo
bao kiếp chẳng thôi! Đại giác Thế Tôn đặc
biệt rủ ḷng thương xót, dạy cho biết quê nhà
vốn sẵn có, chỉ đường tắt trở về
nguồn. Cực lực bàn Tịnh Độ, khuyên khắp
văng sanh. Nếu có thể niệm đâu nghĩ đó, tŕ danh
hiệu Phật, lâu ngày chầy tháng, sức tột bậc,
công tinh thuần, tự nhiên Năng lẫn Sở đều
vắng lặng, tâm lẫn Phật cùng mất, chẳng ĺa
một niệm hiện tiền, đích thân chứng tam-muội,
hiểu thấu triệt tự tâm, đạt được
đại tổng tŕ. Như thế th́ vẫn ở trong Sa
Bà, mà đă là con thật sự của đức Di Đà;
chưa sanh về Cực Lạc, đă là bạn lành của
Đại Sĩ. Dẫu căn cơ yếu kém, chưa đạt
tới mức ấy, vẫn có thể trong đời hiện
tại phước sâu, thọ dài, ngàn điều lành tụ
tập nơi thân, lâm chung chư thánh ứng hiện, Phật
tiếp nghênh, bao kiếp ngao du Tịnh
Độ. Hăy nói xem v́ sao được như thế?
(Chống
trượng nói): Dây leo cổ thụ hơn ngàn cỏ[29],
nước vào biển cả vua trăm sông.
13)
Bốn sắc hoa sen giữa lá xanh. Mỗi hoa chở một
đức Di Đà. Đừng ngờ Tịnh Độ đường xa thẳm. Giọt mưa
đời người c̣n nhiều hơn[30].
Đấng
giáo chủ Lạc Bang Di Đà Thế Tôn tế độ
không ngằn mé, dẫn dụ chẳng lường được!
Trong lúc tu nhân, Ngài phát ra bốn mươi tám đại
nguyện, đắc quả thâu nhiếp hữu t́nh thuộc chín pháp giới
khắp mười phương. Do vậy, sông tuôn, sóng vỗ,
cùng về cơi Tịnh. Biển chứa hư không, đều
chứng chân thường. Trên th́ Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù,
Phổ Hiền là bậc Đại Quyền Bồ Tát, dưới
th́ con vẹt, sáo, nhồng, địa ngục, ngạ quỷ,
phàm phu dẫy đầy triền phược, nếu trọn
đủ ḷng tin chân thật, nguyện thiết tha, không một
ai chẳng được nhiếp thọ. Do dùng tín nguyện
của chính ḿnh để cảm ḷng từ bi của Phật,
nương vào sức oai thần, thẳng thừng vượt
thoát Ngũ Trược! Đă sanh vào Tịnh Độ, nhờ
duyên thù thắng ấy, sáu căn tiếp xúc không ǵ chẳng
phải là Phật cảnh. V́ thế, nhanh chóng đoạn
phiền hoặc, mau lên bờ giác. Cổ đức nói học
đạo trong các môn khác như con kiến ḅ lên ḥn núi cao. Niệm
Phật văng sanh giống như căng buồm thuận nước.
Ḷng từ lồng
lộng đời này, ḷng bi thấu tột mạt kiếp,
dẫu là thánh nhân vẫn c̣n có điều chẳng biết,
phàm phu há c̣n ǵ để khoe khoang? Khẩn thiết cầu
mong ai nấy hăy cung kính tin lời Phật, gấp cầu văng
sanh.
(Chống
trượng nói): Phát trọn ba tâm siêng niệm Phật.
Ai mà sen báu chẳng sanh vào?
14)
Gạt sóng t́m nước, vốn không nước. Biết
nước thành sóng, nước tràn trề. Muốn đắc
Như Lai chân giải thoát, tâm hạnh chúng sanh gấp nghiên
cầu[31].
Tâm
tánh của Phật và chúng sanh vốn đồng, do mê hay ngộ
mà phân cách, khổ lạc khác xa vời vợi! Nơi chúng sanh
th́ trái giác, theo trần, trọn đủ vô lượng phiền
năo Hoặc nghiệp, công đức trí huệ chẳng có cách
nào hiển hiện, như nước do gió lùa mà thành sóng. Nơi
chư Phật bèn “trái trần, hợp giác”, trọn đủ
vô lượng công đức trí huệ, phiền năo Hoặc
nghiệp sạch làu chẳng sót, như sóng do gió lặng mà
thành nước. Nếu muốn thành Phật, bỏ chúng
sanh, trái trần, hợp giác, ắt phải dùng cảnh giới
của Phật làm tăng thượng duyên, phát trọn ba
tâm, chấp tŕ thánh hiệu, khăng khăng vâng giữ, đau
đáu dấy khởi, tám gió chẳng thể động, vạn
duyên chẳng thể dời, niệm nào cũng phản chiếu
nguồn tâm, tâm nào cũng đoạn trừ gốc vọng.
Một mai sức tột cùng, công đă thuần, tâm không, cảnh
lặng, hết sạch vô minh, Phật tánh tỏ lộ rạng
ngời, tự hồi phục thiên chân vốn có, thành tựu
giác đạo vô thượng. Hăy nói xem một câu “quay lại
gốc, trở về nguồn” phải nói như thế
nào đây?
(Chống
trượng nói): Mây trôi lờ lững đă cuốn sạch,
tự nhiên trăng tỏ rạng bầu trời.
15)
Nếu ai chỉ niệm Di Đà Phật, th́ là vô thượng
thâm diệu Thiền. Tam thừa, Thập Địa sanh từ
đó. Lục độ, vạn hạnh Thể vẹn toàn.
Một
pháp Tịnh Độ siêu việt các pháp khác, không ǵ lớn
mà ra ngoài được, không ǵ nhỏ chẳng gồm
trong, không căn cơ nào chẳng thâu nhiếp, không căn
tánh nào chẳng thích hợp, không pháp nào chẳng nhiếp,
không hạnh nào chẳng vẹn! Trên th́ trọn khắp mười
phương, dưới th́ cứu vớt tam đồ. Hết
thảy các pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không ǵ chẳng
từ pháp giới này lưu xuất. Hết thảy các hạnh
Đại, Tiểu, Quyền, Thật, không ǵ chẳng quy hoàn
pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà được
dự vào Bổ Xứ. Ngay trong đời này, quyết
định chứng Bồ Đề. Chúng sanh trong chín pháp
giới ĺa pháp này, trên là chẳng thể viên thành Phật
đạo. Mười phương chư Phật bỏ
pháp này, dưới là chẳng thể lợi khắp quần
sanh. Từ sau hội Hoa Nghiêm khuyến tấn, hết thảy
các vị Bồ Tát trong các thế giới hải tận hư
không, chẳng vị nào không cầu sanh Tịnh Độ.
Từ lúc được diễn thuyết ở Kỳ Viên
cho tới nay, phàm hết thảy các trước thuật tại
Tây Thiên, Đông Độ, đều có nguyện dẫn về
liên bang. Đấy là chuyện mà đấng
vô thượng pháp vương, từ phụ đệ nhất
mới chứng biết được, chẳng lời lẽ nào có thể diễn tả
nổi!
(Chống
trượng nói): Phát trọn ba tâm, vượt chín giới.
Chẳng rời đương niệm, đắc tự
tại.
16)
Tây Phương có nẻo ít người đi. Một câu
Di Đà tối thượng thừa. Nắm tay lôi đi, chẳng
chịu bước. Kẻ ấy chịu đi, mới tương
ứng.
Pháp
môn Tịnh Độ giống như biển cả. Theo chiều
dọc, sâu không đáy; theo chiều ngang, rộng không bờ.
Dung nạp trọn khắp trăm sông, nuốt trọn vạn
phái. Vô biên giáo vơng đều là cước chú [của pháp này][32]. Vô lượng
hành môn đều làm trang nghiêm. V́ vậy, Hoa Nghiêm hải chúng
đều tuân theo mười đại nguyện
vương. Xưng niệm một lần như kinh Pháp
Hoa đă dạy, ắt đều chứng Thật Tướng
của các pháp. Mười phương chư Phật hiện
tướng lưỡi rộng dài để tán dương.
Cao tăng trải các đời phát kim cang thệ nguyện
lưu truyền. Quư vị đă xuôi vào biển Phật, hăy
nên vào phổ môn, dùng pháp Phản Văn của đức Quán
Âm để tŕ thánh hiệu Di Đà. Như gà ấp trứng,
như con nhớ mẹ, sáng ở đâu, tối tại đó,
niệm đâu chú tâm vào đó, bỗng dưng tâm lẫn Phật
cùng mất, trước sau đều đoạn, tự
nhiên mây mê hết sạch, bầu trời chân tánh rạng ngời.
Uế nghiệp tiêu, tịnh báo hiện tiền. Nhập cảnh
giới Phật, thọ dụng như Phật, chẳng rời
một niệm hiện tiền, đích thân chứng Pháp
Thân. Sau đó, nương theo nguyện luân của chính ḿnh, vào biển sanh
tử, cho đến hết đời vị lai độ
thoát hữu t́nh, chẳng c̣n cơi để sanh vào mà đều
thành Phật đạo.
(Chống trượng nói): Do
đây, đường thẳng thênh thênh. Lập tức
quay về gặp chủ nhân.
17)
Một câu Di Đà: Quyền trong Thật. Phải biết
trong giáo có chân truyền. Hồng danh vừa dấy, phàm t́nh
đoạn. Mây tan, trăng rạng giữa lưng trời.
Pháp
tạng mênh mông, khó lường sâu rộng. Phật địa
xa thẳm, ai thấu đạt ngằn mé. Chẳng nương
theo giáo pháp phù hợp căn cơ, sao có thể triệt để
trở ḿnh? Nếu đạt được môn phương
tiện, tự có thể thẳng thừng chứng nhập.
Do vậy, đức Thế Tôn phát tâm đại bi, khiến
cho khắp chúng sanh chuyên tu Tịnh nghiệp, ngơ hầu bọn phàm phu đang bị phiền
năo trói buộc sẽ tŕ thánh
hiệu Di Đà, dùng quả đức của Ngài làm cái tâm
tu nhân, chuyển biến phàm t́nh, thành tựu thánh trí.
Do ghét uế mà ĺa uế, như gột nhơ để chẳng
nhơ! Do ưa tịnh mà đạt được tịnh,
như nhuốm hương mà được thơm tho. Đoạn
Tam Độc bèn
viên minh Tam Trí, diệt lục tặc
mà lục thông tự tại. Thâm nhập biển
Tát Bà Nhă (Sarvajña, Nhất Thiết
Trí), cao đăng địa vị A Bệ Bạt Trí. Trong
một niệm, cúng dường chư Phật trọn khắp
mười phương. Tột đời vị lai, độ
chúng sanh tột cùng pháp giới. Tuy là như thế, hăy nói một
câu “ngay từ phàm mà thành thánh” rốt cuộc là để
làm ǵ vậy?
(Chống
trượng nói): Do đất ngă, từ đất
đứng dậy. Chuyển phàm thành thánh do lư này.
18)
Một câu Di Đà Không, Giả, Trung. Ngàn môn vạn phái thâu
tóm trọn. Niệm tới tâm lẫn Phật cùng mất. Thoáng
chốc lại gặp chủ nhân cũ.
Chỉ
thú của Tịnh Độ mầu nhiệm chẳng lường!
Nhất Chân dứt bặt đối đăi, Tam Đế viên
dung. Nhân thấu triệt biển quả, chúng sanh và Phật
vốn tự như một. Quả thấu triệt nguồn
nhân, phàm thánh vốn chẳng hai. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật.
Pháp “chỉ thẳng tâm người” c̣n kém phần lạ
lùng, đặc biệt. Niệm Phật trong đời này,
thành Phật ngay trong đời này. Trải nhiều kiếp
tu chứng, càng thêm ngưỡng mộ phong thái cao vời.
Thích hợp trọn khắp căn cơ thượng, trung,
hạ, thống nhiếp Luật, Giáo, Thiền Tông. Như
trời rộng che khắp các loài, tợ đất dày nâng
đỡ muôn vật. Dạy chẳng sót một ai, như mưa
đúng thời nhuần tưới vạn vật, ba loại
cỏ, hai loại cây[33] đều
sum suê. Hễ hướng về, liền được nhiếp
thọ, dường biển cả dung nạp trăm sông,
ngàn gịng muôn nước đều đổ hết vào đó.
Quư vị muốn thoát sanh tử, hăy gấp mau vâng thuận,
cốt sao tâm ḿnh chỉ có Phật hiệu đúc thành một
khối, chẳng chia “ta, người”, trọn chẳng có Năng,
Sở. Như thế th́ diệu tánh vốn có mới có thể
triệt để hiển lộ trọn vẹn, Vô Thượng Bồ
Đề mau được viên măn rốt ráo.
(Chống
trượng nói): Chuyên niệm Như Lai Vô Lượng Thọ,
liền theo Thế Chí chứng Viên Thông.
19)
Phật chân Pháp Thân trọn vô tướng. Ứng cơ để
cảm thường thích hợp. Trăng in ngàn sông, chẳng
sai lệch. Xuân về thảo mộc thảy xanh tươi.
Chân
Pháp Thân của Phật tṛn đầy pháp giới. Theo chiều
dọc, cùng tột ba đời; theo chiều ngang, trọn
khắp mười phương. Chẳng động Chân Tế,
thích hợp trọn khắp các căn cơ. Vừa khéo phù hợp,
trọn chẳng sai lệch! Giống như mùa Xuân ôn ḥa, tăng
trưởng trăm loài thảo mộc, há Xuân bận ḷng?
Cũng giống như vầng trăng trong mát vằng vặc,
in bóng trọn khắp ngàn sông, nhưng trăng chẳng khởi
ư. V́ thế, kinh Hoa Nghiêm dạy: “Phật thân sung măn ư
pháp giới, phổ hiện nhất thiết chúng sanh tiền,
tùy duyên phó cảm mỵ bất châu, nhi hằng xử thử
Bồ Đề ṭa” (thân Phật trọn khắp trong pháp
giới, hiện khắp trước hết thảy chúng
sanh, tùy duyên cảm ứng chẳng hề sót, luôn ngự trên
ṭa Bồ Đề này). Sơn tăng chẳng thích xuôi gịng,
căng buồm, tốt nhất là ngược gió, bẻ lái.
Lại hỏi các vị: “C̣n được thấy thân Phật
nữa chăng?” Nếu nói “chưa từng thấy”; [thân Phật]
đă là trọn khắp pháp giới, trong mười hai thời,
nơi sáu căn của các vị, phóng quang, rúng động
đại địa, v́ sao chẳng thấy? Nếu nói “đă
từng thấy”, thân Phật tướng mạo ra sao, hăy
thử nói xem? Hồi lâu mà các vị vẫn tiếc nuối
chẳng đáp, sơn tăng chẳng khỏi
nói thay một câu chuyển ngữ vậy.
(Chống
trượng nói): Giữa mây, mặt trời mọc rạng
rỡ. Biển thẳm,
sóng thu vỗ dập dềnh!
20)
Như Lai phước đức trí huệ tướng,
trọn trong một niệm của chúng sanh. Gió quét sạch
mây, rốt ráo trọn, khắp trời đều thấy
vầng nhật hồng!
Tâm,
Phật, chúng sanh, cả ba chẳng khác biệt. Do mê hay ngộ
mà tách rời, thăng trầm khác nhau vời vợi. Dẫu
khác nhau vời vợi, Thể vốn chẳng khác! Như vàng
ở trong kho, viên châu nơi chéo áo, do trọn chẳng biết,
hư vọng chịu nghèo túng! Nếu gặp bậc có trí
từ bi chỉ dạy, th́ vô tận bảo tạng vốn
là của báu trong nhà, tùy ư thọ dụng; từ đó, đắc
đại tự tại. V́ thế, đức Thế Tôn lúc
mới thành Chánh Giác, đă than rằng: “Lạ thay! Lạ
thay! Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai, chỉ v́ vọng tưởng,
chấp trước mà chẳng thể chứng đắc.
Nếu ĺa vọng tưởng, Nhất Thiết Trí, tự
nhiên trí liền được hiện tiền”. Hăy nên
biết mê th́ trí huệ lẫn đức tướng, hoàn
toàn trở thành vọng tưởng, chấp trước. Ngộ
th́ vọng tưởng, chấp trước vốn là trí
huệ và đức tướng. Giống như nước
đông thành băng, băng tan thành nước. Mọi người
hăy gấp nên nội chiếu, khôi phục tâm tánh vốn có,
ngơ hầu chẳng đến nỗi mê muội chính ḿnh, đuổi
theo sự vật, mai một thân pháp vương. Hăy nói thân
pháp vương là như thế nào vậy?
(Chống
trượng nói): Ánh nắng, bóng mây bàn Chân Đế. Sắc
núi, tiếng suối hiện bảo dung.
21)
Bồ Tát trăng trong mát, dạo chơi rốt ráo không.
Chúng sanh tâm thủy lặng, hiện h́nh bóng Bồ Đề.
Bồ
Tát niệm nào cũng muốn độ chúng sanh, chúng sanh tâm
nào cũng nhớ nghĩ Bồ Tát, giống như hai tấm
gương chiếu lẫn nhau, ngàn viên châu hiện bóng lẫn
nhau, cảm ứng đạo giao, tự đạt được
tế độ. Nếu tâm chẳng chân thành, sẽ khó đạt
được lợi ích, do tự ḿnh che ngăn, chẳng
phải lỗi của Bồ Tát. Bậc đại sĩ Viên
Thông, thệ nguyện rộng sâu, tế độ chẳng
ngằn mé, phương tiện khó lường. Cơi cơi, trần
trần, nơi nơi, chốn chốn, hễ có cầu đều
ứng, không cảm nào chẳng thông. Như một vầng
trăng in bóng ngàn sông, trọn chẳng có trước sau, sai lệch, mà ngàn sông đều
hiện một vầng trăng, [bóng trăng ấy] có thể
có sáng, tối, đến, đi sai khác. Cần phải biết
Bồ Tát như vầng trăng nơi tâm, tâm chúng sanh như
nước. Nước trong lặng, trăng hiện toàn
thể. Trăng hoàn toàn chẳng chọn lựa nước
để hiện bóng. Nước nhơ bẩn, xáo động,
trăng chẳng có ánh sáng cố định, trăng chẳng
bỏ nước mà đi! Nơi nước bèn có trong, đục,
động, tĩnh. Nơi trăng chẳng có lấy, bỏ,
đến, đi. Nếu nương theo nghĩa này để
cảm Bồ Tát, chắc chắn nghiệp chướng tiêu
trừ, trí huệ khai phát, hiểu rơ tự tâm ngay trong một
niệm, thành Phật quả trong tương lai. Tuy nhiên, do
trai tăng mà vui mừng tán dương, lại làm như thế
nào đây?
(Chống
trượng nói): Ḷng thành vừa cảm, ngồi ṭa ngàn
hoa, vạn phước khôn ngằn, trăm đời hưng
thịnh.
22)
Ân trạch Bồ Tát khắp mười
phương. Đàn tín chí thành, quang soi rọi.
Muốn biết chỗ cảm ứng đạo giao, xin nh́n
trăng in ngàn sông rạch.
Tâm
Bồ Tát trọn đủ đại từ bi, như trời
che khắp, như đất chở đều, chẳng có
chúng sanh nào chẳng mong độ thoát. Tâm chúng sanh trọn đủ
đại oai thần, trọn chẳng có một điều
ác, viên măn các đức, vốn chẳng hai, chẳng khác với
Bồ Tát. Chỉ v́ tùy thuận nhiễm duyên, đến nỗi
mê muội bản thể. Ví như trong pḥng tối, đụng
phải chất báu, không chỉ chẳng thọ dụng được,
ngược lại c̣n bị tổn thương! Mọi người
chẳng sợ trèo non vượt biển tới đây cúng
dường Bồ Tát, trai tăng, thỉnh pháp, rốt cuộc
là nương vào sức của ai, có thể biết nổi
hay chăng? Nếu
có thể biết rơ, tốt lành chi
bằng! Giả sử chưa hiểu, ắt cần phải
chí thành khẩn thiết, lễ bái, cúng dường Quán Thế
Âm Bồ Tát, xưng danh hiệu của Ngài. Trong mỗi niệm,
phản quán nội chiếu, quán âm thanh ấy, từ đâu
khởi lên, sẽ rơi vào đâu, sức đạt đến
cùng cực, công đă thuần thục, sẽ thấy thấu
triệt nguồn tâm, mới biết tự tâm vốn tự
thanh tịnh. Đó gọi là “chúng sanh tức chẳng phải
là chúng sanh”.
(Chống
trượng nói): Chẳng phải một phen xương
buốt lạnh, há ngửi hoa mai nở ngát hương.
23)
Trí lực Bát Nhă chẳng nghĩ bàn! Vừa chiếu, Ngũ
Uẩn thảy rỗng rang. Ai nấy đă muốn thoát khổ
ách, sao chẳng dốc chí mà ngưỡng vọng?
Bản
thể của Ngũ Uẩn là Như Lai Tạng. Chúng sanh
chẳng hiểu, hư vọng dấy tham đắm. Do vậy,
vừa mê, bao kiếp luân chuyển. Chỉ có đức Đại
Sĩ ta dùng trí Bát Nhă chiếu kiến các Uẩn đều
không, vượt khỏi các khổ ách, viên thành giác đạo.
Chánh trí ấy như khối lửa lớn, bốn phía đều
chẳng thể tiến vào được! Hễ tiến
vào, sẽ bị lửa thiêu. Như ao trong mát, chung quanh đều
có thể gột rửa, hễ gột rửa bèn ĺa chất
nhơ. Như thuốc A Già Đà, trị khắp các bệnh.
Như Chuyển Luân Thánh Vương cai quản bốn châu.
Như Kim Cang Vương có thể phá hoại hết thảy,
chẳng vật nào có thể phá hoại nó. Như thái hư
không có thể chứa đựng muôn vật, trọn chẳng
có một pháp nào có thể trốn thoát. Mọi người
ai nấy hăy nên phỏng theo bậc tiên giác, phản chiếu
Uẩn tánh. Chiếu thể đă lập, các Uẩn đều
nhanh chóng rỗng không! Từ đấy khế nhập Bát
Nhă sâu xa, vượt các khổ ách. Vô minh hết mà diệu
tánh phô bày toàn vẹn, các pháp đều không, triệt chứng
Vô Sanh. Noi theo chư Phật, thành Vô Thượng Đạo,
kế thừa chư tổ, truyền Bất Nhị tông. Tuy
nhiên, lại có sự nhiệm mầu chẳng truyền của
Phật, Tổ, các vị c̣n e ngại ǵ nữa hay chăng?
(Chống
trượng nói): Không mây che ngang núi, trăng in nơi sóng
tâm.
24)
Tâm cảnh hai pháp đều đối lập, vô biên sanh
tử khởi từ đó. Nếu ngay nơi cảnh hiểu
vô tâm, liền chứng Như Như Thể sẵn có.
Cái
tâm trong một niệm hiện tiền vốn tự vô
sanh, do cảnh mới sanh. Hết thảy các cảnh hiện
tiền vốn chẳng có, do tâm mà có. Mê là do mê cảnh bèn mê
tâm. Ngộ là v́ ngộ tâm liền ngộ cảnh. Đó gọi
là “căn và trần cùng nguồn, trói buộc và giải
thoát chẳng hai!” Cũng như do đất mà té, do đất
mà đứng dậy. Nếu có thể biết rơ cảnh
chính là tâm, cảnh sẽ chẳng thể được!
Do tâm chính là cảnh, tâm do đâu mà có? Tự nhiên hai đằng
đều dứt bặt, chẳng ngự nơi Trung Đạo.
Ĺa khỏi giả danh “phàm, thánh”, khế hợp tâm ấn của
Phật, Tổ, viên măn vô thượng giác đạo, chứng
Pháp Thân thường trụ. Nghĩa “tâm và cảnh sanh ra
nhau, diệt lẫn nhau” như sơn tăng vừa nói
trên đây, sợ mọi người chưa thể tin chắc
chắn! Chẳng khỏi dẫn lời một vị cổ
đức để chứng minh. Ngài Bàn Sơn nói: “Tâm
nguyệt cô viên, quang thôn vạn tượng. Quang phi chiếu cảnh,
cảnh diệc phi tồn. Quang cảnh câu vong, phục thị
hà vật?” (Vầng trăng trong tâm riêng
tṛn, ánh sáng nuốt chửng muôn h́nh tượng. Quang chẳng chiếu cảnh,
cảnh cũng chẳng c̣n! Quang và cảnh đều mất,
lại là vật ǵ?) Mọi người có hiểu rơ hay chăng?
(Chống
trượng nói): Nước vẫn chảy về biển,
trăng rọi chẳng ĺa trời!
25)
Lay động một giọt nước Tào Khê, đại
thiên lập tức lưu truyền khắp. Nếu ai vừa
khẽ nhép mồm mép. Năm Uẩn rỗng toang, muôn đức
tṛn.
Nếu
luận định chuyện này, ai nấy đều hiện
thành, vẹn đủ
thánh trí, trọn chẳng có phàm t́nh. Chỉ v́ mê vọng, mất
ngay sự sáng suốt vốn có, đến nỗi khiến
cho Phật tánh ngược ngạo trở thành chúng sanh. Các
vị đă muốn quay lại gốc, trở về nguồn,
hăy theo dấu bậc tiên giác. Cần phải biết pháp vị
Tào Khê để nối tiếp tâm tông. Xưa kia, có vị Tăng
hỏi thiền sư Pháp Nhăn: “Như thế nào là một giọt
nước Tào Khê?” Ngài Pháp Nhăn nói: “Là một giọt nước
nơi nguồn Tào”. Vị Tăng chẳng hiểu
ư chỉ ấy, như vào pḥng tối, chẳng thấy bản
thân. Thiên Thai Thiều quốc sư đúng lúc ở ngay bên
cạnh, nghe lời ấy giống như cái thùng thủng đáy.
Pháp Nhăn nói: “Ông thấy đạo lư ǵ, nói thử xem?” Thiều
công nói: “Là một giọt nước nơi nguồn Tào”.
Pháp Nhăn bèn ấn khả. Lại nói vị Tăng ấy và Thiều
công cùng nghe lời đó, mà ngộ và chẳng ngộ, hăy thử kiểm
điểm xem! Nếu kiểm ra được, đúng là
ở trong biển sanh tử nóng bức, giăng mây đại
từ, xối trận mưa pháp lớn, nhuần thấm trọn
khắp hết thảy chúng sanh khô khao. Nếu kiểm chẳng
ra th́ hăy kiểm xem chẳng thấy thứ ǵ vậy?
(Chống trượng nói): Điệu
lưu thủy cao sơn, Tử Kỳ[34]
mới thấu hiểu.
26)
Hết thảy các ác đều chớ làm. Tất cả
điều thiện đều phụng hành. Thân tâm thanh tịnh,
sạch trần cấu. Vô thượng Phật đạo
mau viên thành.
Như
Lai xuất thế, giáo hóa chúng sanh, không ǵ chẳng nhằm
dạy họ thâu nhiếp thân, miệng, ư, đoạn ác, tu
thiện, khôi phục tâm tánh vốn có, thành vô thượng đạo
mà thôi. Xưa kia, Bạch Cư Dị hỏi Ô Khỏa thiền
sư: “Như thế nào là đại ư của Phật pháp?”
Sư nói: “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều
thiện”. Ông Bạch nói: “Đứa con nít ba tuổi cũng
có thể nói như thế”. Sư bảo: “Tuy đứa
con nít ba tuổi nói được, nhưng ông cụ tám mươi
tuổi vẫn chưa làm được”. Nói đúng sự
thật, chỉ có Phật thấu hiểu rốt ráo! Người
đời chẳng biết, coi đó là thiển cận! V́
thế, chẳng gắng tu đức, chẳng ra sức sửa
lỗi, bao kiếp luân hồi sanh tử! Nhưng hai câu ấy
chính là Đệ Nhất Nghĩa Đế. Nếu muốn
đích thân chứng, hăy nên cầu trong cuộc sống thường
nhật. Phàm các chuyện trái nghịch “trung, hiếu, tiết,
nghĩa”, đều triệt để ĺa bỏ. Phàm các
chuyện phù hợp “trung, hiếu, tiết, nghĩa”, hăy toàn
thân gánh vác, ắt khiến cho ḷng ham muốn của con người
đều hết sạch, thiên lư lưu hành. Tự nhiên diệu
tánh hoàn toàn phô bày, khác nào vẹt mây, mặt trăng lộ ra,
mới biết trước kia đoạn ác, tu thiện đều
thuộc vào quang cảnh nơi bổn địa của Đệ
Nhất Nghĩa Đế. Tuy vậy, do trai tăng mà vui mừng
tán dương, lại nên làm như thế nào?
(Chống
trượng nói): Ngàn điều lành mây nhóm. Trăm phước
tranh nhau đến.
27)
Thử hỏi tâm này do lẽ nào? Như ma-ni theo sắc đổi
màu. Khi các sắc hiện, biết bản thể; viên thành Vô
Thượng Phật Bồ Đề.
Chân
tâm thường trụ, diệu tánh Niết Bàn, Phật và chúng
sanh chẳng hai! Chỉ v́ trong
hành xử thường ngày chẳng biết, bèn thành luân chuyển bao kiếp dài
lâu. Cần phải biết cái tâm này từ vô thỉ đến
nay, suốt ngày tùy duyên, nhưng suốt ngày bất biến.
Suốt ngày bất biến, mà suốt ngày tùy duyên. Tuy tùy
duyên nhưng rốt ráo bất biến, như vàng đúc thành
tượng Phật hay đại pháo, thiện ác khác biệt
vời vợi, Thể chẳng đổi khác! Dẫu chẳng
thay đổi, nhưng mặc t́nh tùy duyên, như gương
hiện bóng người Hồ, người Hán, đẹp
xấu lần lượt hiện, thể chất [của gương] chẳng tăng
giảm. Thuận theo nhiễm duyên bèn luân hồi lục đạo;
theo tịnh duyên bèn vượt khỏi tam thừa. Thăng
trầm tuy khác, tâm và tánh chẳng hai. Như châu ma-ni thuận
theo các sắc mà hiện, gặp trắng bèn [trở thành màu] trắng, gặp
đen bèn đen, biến hiện chẳng đồng nhất,
bản thể vẫn như cũ. Nếu
có thể ngay trong lúc tùy duyên mà thấy thấu triệt bản thể bất
biến, người ấy liền có thể cùng với tam
thế chư Phật, lịch đại tổ sư, kề
vai cùng đứng, nắm tay cùng đi. Tuy vậy, hăy nói xem:
Cái Thể bất
biến, thấy như thế nào vậy?
(Chống
trượng nói): Núi trổ hoa tợ gấm, nước
khe lắng xanh ŕ!
28)
Một niệm tâm nhỏ bé của ta. Xa ĺa có, không, các danh
tướng. Ngàn hiền vạn thánh chẳng thể nói. Thể ấy
chẳng chân cũng chẳng vọng.
Chân Như diệu tâm, giác
tánh viên minh, ai nấy sẵn đủ, chẳng có ai không có,
thật sự là chánh nhân để thành Phật, là căn bản
của trí huệ. Chẳng không, chẳng có, xa ĺa trọn vẹn
lỗi của tứ cú. Chính là Sắc, chính là Không, đôi đằng
đều dứt bặt. Đoạn giả danh “chân, vọng”,
dứt bặt danh xưng “chúng sanh, Phật”. Tṛn xoe xoe, sáng
ngời ngời, Ngũ Nhăn chẳng thể nh́n phớt cái
Thể ấy. Sạch trần trụi, đỏ lừ lừ,
Tứ Biện Tài đều chẳng thể diễn nói tướng
của nó. Kẻ mê cái tâm ấy th́ gọi là “phàm”, hư vọng
hứng chịu vô biên nỗi khổ sanh tử, nhưng công
năng chẳng giảm. Người ngộ cái tâm này được
gọi là “thánh”, thường hưởng vô tận niềm
vui Niết Bàn, nhưng lực dụng chẳng tăng. Mê và
ngộ đă chia, thăng trầm cách biệt. Khổ, lạc
tuy khác, bản thể chẳng khác. Sơn tăng chẳng tiếc
khẩu nghiệp, v́ khắp mọi người, lôi kinh to
lớn từ trong vi trần, chỉ bày viên minh châu nơi
chéo áo. Xin ai nấy hăy lănh nạp của báu sẵn có trong
nhà, tùy phần thọ dụng. C̣n nói “chính là như thế
nào” nữa ư?
(Chống
trượng nói): Hiểu rơ bàn chân đến đỉnh
đầu. Thanh trước, sắc sau tỏ rành rành.
29)
Đừng trụ vào đâu mà sanh tâm. Sanh tâm rốt ráo không
chỗ trụ, bất động chân tế, xen tạp duyên,
rành rành hiện bóng muôn sông rạch.
Bồ
Tát nương theo lẽ Chân mà trụ. V́ thế, trụ vào
“vô sở trụ”. Tùy nguyện sanh tâm, cho nên sanh mà “không có ǵ để
sanh”. V́ thế, kinh Bát Nhă dạy: “Hăy đừng trụ
tâm vào đâu để sanh tâm”. “Chẳng trụ vào đâu” là biết rơ căn
và trần vốn là Không, thức tánh như huyễn. Giống
như núi sông trong mộng, hoa và liễu trong gương. Do
đó, có thể ở trong cơi trần mà chẳng nhiễm, trọn
chẳng có tâm tham đắm thế tục. Bản thể
của Phật, Pháp, Tăng Bảo là chân; Bồ Đề
và Niết Bàn sẵn có trong tâm. Do vậy, xứng tánh khởi
tu, chẳng thấy tướng năng tu và sở tu[35]. Kẻ
sanh cái tâm ấy, dùng diệu tâm vô trụ để tu trọn
vẹn đạo phẩm vô tác. Mây trùm cửa độ, sóng
trào biển hạnh. Trên cầu Phật đạo, dưới
hóa độ chúng sanh. Chỉ mong lợi khắp ta, người,
chẳng tiếc đầu, mắt, tủy, năo. Phá hai chấp
sạch làu, thấu đạt tam luân thể không. Vô trụ
mà sanh tâm, sanh tâm mà vô trụ. Tịch chiếu chẳng hai,
chân tục viên dung. V́ thế, Lục Tổ vừa nghe bèn
nhanh chóng chứng chân thường, đă biết chỗ chứng
của Lục Tổ hay chưa?
(Chống
trượng nói): Vốn chẳng có một vật, chỗ
nào nhuốm bụi trần?
30)
Thiền cơ vốn tự ĺa ngôn thuyết. Diệu thể
viên thành chứng trước tiên. Linh quang riêng chiếu, chạm
cảnh thức. Giơ hoa liền truyền nối tiếp
tâm.
Chân
Như diệu tánh ai nấy đều viên thành, chẳng phải
tâm, chẳng phải sắc, ĺa tướng, ĺa h́nh. Không và
Hữu đều chẳng thể toan tính, phàm lẫn thánh đều
chẳng thể gọi tên. Pháp nào cũng đều là nó, mê
th́ ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ. Pháp nào cũng
đều chẳng phải, hễ ngộ th́ toàn thể rạng
ngời. V́ thế, ngài Quy Sơn[36] nói: “Linh
quang riêng chiếu, vượt thoát căn trần”. Thể
lộ chân thường, chẳng câu nệ văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm, vốn tự viên thành. Chỉ ĺa vọng
niệm, chính là Như Như Phật. Mọi người
đă tham cứu “ư của tổ sư từ phương
Tây đến [Đông Độ]”, mong tiếp nối tông
phong hướng thượng. Đối với căn trần,
đă từng nhận biết linh quang riêng chiếu hay chưa?
Nếu vẫn chưa thể, sơn tăng chẳng khỏi
lắm mồm! Nơi mắt là thấy, nơi tai là nghe, nơi
mũi phân biệt mùi, nơi lưỡi th́ đàm luận.
Chỉ v́ xuôi theo trần lao, trái nghịch giác tánh, rong ruổi
theo vọng, mê chân, khiến cho diệu tâm Niết Bàn sẵn
có muôn kiếp trầm luân trong sanh tử, vô thượng
như ư bảo châu bị chôn vùi dài lâu trong t́nh trần!
(Chống
trượng nói): Sơn tăng đặc biệt nêu lần
nữa, mưa báu rải trân cứu kẻ nghèo.
31)
Tánh Nghe vốn sẵn thường viên thông. Động,
tĩnh, thức, ngủ luôn rạng ngời. Nếu xoay cái
Nghe nghe tự tánh, Sa Bà lập tức là Tịch Quang.
Giáo
thể trong Sa Bà hay khéo ở chỗ nghe tiếng. Tánh Nghe
trong một niệm chính là căn bản để thành Phật.
Thanh có, chẳng sanh; Thanh không, chẳng diệt. Hết thảy
chúng sanh từ vô thỉ đến nay, do mê trái cái Nghe vốn
có, đuổi theo thanh mà lưu chuyển, chỉ cầu đa
văn, chẳng hiểu quán tâm. Dẫu tŕ pháp do chư Phật
đă nói, chẳng hiểu cái tâm “có thể nghe” của chính
ḿnh, cho nên chẳng thể khế hội cái sẵn có, lănh
nhận của báu gia truyền. V́ thế, kinh Lăng Nghiêm dạy:
“Tương văn tŕ Phật Phật, hà bất tự văn
văn. Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng
đạo”[37]. Quán Thế
Âm Bồ Tát xưa kia được Quán Thế Âm Như
Lai dạy dùng Văn, Tư, Tu để nhập tam-ma-địa,
bèn nhập lưu vong sở[38], chứng
Viên Thông chân thật. Mọi người sau khi đă nghe tiếng,
và trước lúc chưa nghe, hăy quán ngược lại cái
tánh Nghe này là “do thanh mà sanh, theo
thanh mà diệt” ư?
Hay là “chẳng do
thanh mà sanh, chẳng theo thanh mà diệt” ư? Quán
sát như thế, sức đến cùng cực, công đă
tinh thuần, tự nhiên Văn Trần (thanh trần) thanh tịnh,
tánh Nghe rơ ràng, tức là Quán Âm Đại Sĩ chẳng thể
hay khéo một ḿnh được! Hải chúng hiện tại
và vị lai, đều phải xếp hàng thành đội ngũ chỉnh
tề sau [người đă hiểu điều đó]. Tuy vậy,
hăy nói một câu cuối cùng, lại làm ǵ nữa đây? (Ra
oai quát lớn, bước xuống pháp ṭa).
32)
Trên tri kiến lập thêm tri kiến, đó là cái gốc
của vô minh. Tri kiến chẳng thấy tức Niết
Bàn, “chẳng lập” liền đều cùng thoát khỏi, diệu
đế ngàn thánh chẳng thể truyền.
Chúng
sanh trầm luân sanh tử, chư Phật chứng đắc
Niết Bàn, đều do một niệm làm căn bản.
Nhưng một niệm ấy, vốn trọn đủ chân
giới, chân định, chân huệ, vốn chẳng có vọng
tham, vọng sân, vọng si. Chúng sanh mê trái tự tâm, rong ruổi
hướng
ra bên ngoài truy cầu, chẳng thể biết rơ cái vốn sẵn
có. Đối với cái vốn chẳng có, cho là pháp thật
sự có. V́ thế, do sáu căn tiếp xúc sáu trần, dẫn
khởi sáu thức. Từ đấy, phát sanh vô lượng
các thứ tri kiến, chẳng biết căn và trần vốn
là không, thức tánh như huyễn. Không thể phản quán
nội chiếu, khôi phục bổn thể, đến nỗi
luân chuyển sanh tử chẳng có kỳ hạn. Nếu biết
tất cả tri kiến hiện tiền này vốn tự
chẳng sanh, tự nhiên đối với các trần cảnh
chẳng dấy ḷng nắm níu. Hễ chẳng duyên theo trần,
căn chẳng có duyên gặp gỡ, liền nhanh chóng chứng
Bồ Đề Niết Bàn. V́ thế, kinh Lăng Nghiêm dạy:
“Tri kiến lập kiến, tức vô minh bổn. Tri kiến
vô kiến, tư tức Niết Bàn vô lậu chân tịnh”
(Từ trên sự hay biết mà lập thêm một cái thấy
nữa. Đó chính là cái gốc của vô minh. Chẳng thấy
có sự hay biết th́ chính là Niết
Bàn vô lậu chân tịnh). Đó gọi là “vạn cảnh
bổn nhàn, duy tâm tự náo” (vạn cảnh vốn thanh
nhàn, chỉ có tâm tự náo động). Hễ tâm chẳng
sanh, vạn pháp đều dứt! Lại nói một câu cuối
cùng để làm ǵ vậy?
(Chống
trượng nói): Hoa trên cành, Xuân nở. Đầm lạnh,
bóng trăng in.
33)
Chuyện này không lúc nào chẳng hiện. Mọi pháp, mọi
sự vốn tự nhiên. Chạm cảnh mà hay biết tự
tánh. Há c̣n nhọc ḷng hỏi tổ Thiền?
Nếu
luận theo Đệ Nhất Nghĩa, th́ nơi mỗi người,
vốn đă tự sẵn có, chẳng thừa, chẳng thiếu.
Chuyện nào cũng đều hiển lộ, pháp nào cũng
phô bày trọn vẹn. Khác nào Xuân đến hoa nở, chẳng
khác kênh đă h́nh thành, nước bèn
chảy theo. Tùy theo “đi, đứng, nằm, ngồi” mà hiển lộ thần
thông vốn có. Trong “thấy, nghe, hay, biết”, làm Phật sự
to lớn. Khạc nhổ, nhấc tay, mặc áo, ăn cơm,
mỗi mỗi đều là ư “[tổ sư Đạt Ma] từ phương
Tây đến [Trung Hoa]”. Bát Nhă luôn khế hợp
Tổ Sư Thiền. Ba đời dứt bặt, trọn
chẳng có biến đổi từ đầu đến
cuối. Mười pháp giới lặng ch́m, há có nóng lạnh
đắp đổi? Nhưng vầng trăng rạng
ngời giữa trời, sông nào cũng đều hiện
bóng. Ví như thủy ngân rơi xuống đất, giọt nào cũng tṛn
xoe. Đúng là khó gọi tên, khó h́nh dung, quả thật tối
diệu, tối huyền. Ngàn trăm năm trước, cổ
nhân đă sẵn biết tự thọ dụng tam-muội do
người hiện thời chứng đắc, đă viết
sẵn một bài kệ tụng như sau: “Nhất
khí bất ngôn hàm hữu tượng, vạn linh hà xứ tạ
vô tư, hiệp lộ đào hoa phong vũ hậu, mă đề
vô địa tỵ tàn hồng” (Một khí không lời dung
vạn tượng, vạn linh chẳng chốn dứt vô tư, nẻo hẹp
sau mưa đào tơi tả, vó ngựa không chỗ tránh hoa
rơi).
(Chống
trượng nói): Muốn biết mai sau như thế nào,
chỉ nghe vạn chuyện giống như ông.
34)
Ta giơ gậy nâng trời chống đất. Thấu
triệt đại ư “đến từ Tây”. Trước
mắt mọi người liền trải ṭa, bèn
tuyên dương Đệ Nhất Nghĩa Đế.
(Nâng
trượng nói): Một cây gậy chống, sống động
như rồng, Thể vốn vắng lặng, tác dụng
vô cùng. Thâu lại, đặt yên trong vi trần; phóng ra, chứa
đựng thái hư không. Phô bày vật quư, tuôn chất báu đều
là chuyện thừa thăi, “làm mái chèo, làm mưa dầm”[39] đừng
bỏ công. Nếu là bậc Thiền giả có mắt, “cho”
hay “đoạt” đều có thể chấn hưng Tông
phong. Cổ đức nói: “Ông có chiếc gậy chống,
đoạt chiếc gậy của ông. Ông chẳng có gậy
chống, cho ông chiếc gậy chống”. Lại nói: “Ông
có chiếc gậy chống, cho ông chiếc gậy chống.
Ông không có gậy chống, đoạt gậy chống của
ông”. Lại nói: “Hai phen cho và đoạt,
là biệt hay là đồng?” Hăy gác “đồng”
hay “biệt” tại đó, mọi người đă biết
gậy chống hay chưa? Cái gậy chống ấy vốn
chẳng có sanh; v́ thế, kiếp thành mà nó chẳng sanh. Vốn
chẳng có diệt, cho nên kiếp hoại mà chẳng diệt.
Tuy có h́nh tướng, ngũ nhăn rốt cuộc chẳng thể
nh́n ngó! Có đại lực dụng, mười pháp giới
thảy đều dựa vào. Tuy nhiên, chuyện này lại là
như thế nào vậy?
(Chống
trượng nói): Lay lay động động hướng
cơ duyên, liền thấy rồng bay, báo đổi h́nh.
35)
Đệ Nhất Nghĩa Đế trọn không lời.
Nói và chẳng nói thảy đều đúng. Ví như đất
dày và trời thẳm. Cơi thế không ai tránh được
đâu!
Nếu
luận theo Đệ Nhất Nghĩa, đúng là nên giải
tán [pháp ṭa]. Chính mắt thấy mà đạo vẫn c̣n, th́
mới là bậc anh liệt. Tu Bồ Đề ngồi yên
trong thạch thất, Thiên Đế Thích rải hoa tán thán.
Các vị Bồ Tát đều diễn nói pháp Bất Nhị,
Duy Ma Cật im lặng chẳng bàn. V́ thế biết: Tâm thông
diệu đế, chẳng nói mà thường hừng hực
nói. Tâm thần khế hợp chân thừa, chẳng nghe mà pháp
“vốn sẵn như vậy” thường được
nghe. Hiểu rơ điều này, trúc xanh biêng biếc đều
là Chân Như. Hoa vàng thơm ngan ngát, không ǵ chẳng phải
là Bát Nhă. Ngày qua, tháng lại, vốn thuộc tướng thường
trụ. Mây bay, sông chảy, mới thấy h́nh dạng chẳng
dời. Sấm rền, gió lay, băng tan, lá rụng, quạ
kêu, sẻ hót, sắc núi, tiếng khe, mỗi mỗi đều
bàn Thật Tướng, thứ nào cũng hoàn toàn hiển lộ
Pháp Thân. Mọi người từ sáng đến tối, sáu
căn đối trước hết thảy cảnh giới,
chẳng có thứ ǵ không
phải [Pháp Thân]! Sao lại đợi
sơn tăng khua mép, múa lưỡi th́ mới là Đệ
Nhất Nghĩa ư? Do vậy, chẳng tiếc khẩu nghiệp,
triệt để nói toạc ra. Tuy vậy, do trai tăng vui
mừng mà khen ngợi một câu là để làm ǵ vậy?
(Chống
trượng nói): Xuân gieo một hạt thóc, Thu thâu hoạch
muôn hạt.
36)
Há cần bàn Đệ Nhất Nghĩa Đế. Vạn
tượng sâm la nói với nhau. Mưa xô giàn cải rơi
đầy đất. Gió cuốn tơ liễu bay lên trời.
Nếu
luận theo Đệ Nhất Nghĩa, không chỉ sơn
tăng chẳng có pháp ǵ để nói; ngay cả ba đời
chư Phật cũng sẽ treo miệng trên vách! Tuy vậy,
đạo vốn chẳng thể nói, mượn lời nói
để hiển đạo. Lại từ cửa ngơ thứ
hai, trực chỉ con đường hướng thượng.
Nếu sơn tăng chưa thăng ṭa, trước khi duy-na
bạch chùy[40],
triệt để tiến thủ, th́ c̣n lải nhải
đôi chút. Nếu không, đang cưỡi trâu mà t́m trâu, tới
thuở nào mới xong? Mọi người từ sáng đến
tối, cử động, nói năng, đều nương
theo sức oai thần của Đệ Nhất Nghĩa. Do
v́ ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ quá đỗi,
sơn tăng chẳng tiếc lông mày quét đất[41], lại
nêu bày ra. Chuyện này trước nay vốn đă hiện
thành, chẳng ngại nói với các vị. Cây mai trên non, cội bách trước
sân thường hiển lộ, mưa ban đêm, gió mùa Thu tỏ
hiện lẫn nhau. Trên trời mây trắng lững lờ
từng đám, đầu cành chim hót véo von. Nước trôi,
hoa nở đừng bỏ lỡ; áo ấm, cơm thơm
tự hiểu rành. Nhân, nghĩa, lễ, trí ta đều đủ,
mừng, giận, buồn, vui há phải t́nh? Gặp duyên ngộ
cảnh hay tiến thủ, kham báo ơn Phật, độ
chúng sanh. Lại nói một câu cuối cùng để làm ǵ vậy?
(Chống
trượng nói): Đă khí khái rồi càng khí khái. Chẳng
phong lưu cũng vẫn phong lưu!
37)
Đấng pháp trung vương vừa hướng thượng.
Sâm la vạn tượng thảy nêu bày. Mắt thấy căn
trần đều rụng sạch. Vô biên nhiệt năo thảy
thanh lương.
Chuyện
hướng thượng nêu bày như thế nào? Lông rùa ngắn
củn, sừng thỏ dài cả trượng. Chẳng phải
tâm, chẳng phải sắc, lớn tột cùng, cứng tột
bậc. Mảy trần chẳng lập, vạn đức
phô bày trọn vẹn. Núi h́nh[42] chẳng
do đâu mà bí mật, khối uẩn há thể chứa đựng?
Ĺa vọng tướng (tướng hư vọng) huyễn
hóa, trọn chân thường tịch chiếu. Trơ trọi, chẳng cùng vạn
pháp làm bầu bạn. Sống động, riêng chấn hưng
giềng mối to tát của Phật. Như chim bay lượn
trên không, chẳng có chỗ
vướng mắc; giống như nước đổ
vào đồ chứa, sẽ vuông hay tṛn theo [h́nh dạng của đồ
chứa] đó. Có thể làm Phật, có thể làm Tổ, kham làm thánh,
kham thành cuồng. Khởi tâm suy lường, sẽ mau chóng
đánh mất chân giác. Ĺa niệm hay biết, trực tiếp
thấu đạt hiện lượng. Trên noi theo Phật,
Tổ, măi dùng tàu thuyền. Chẳng chấp một pháp, chuyện
ǵ cũng hiển lộ đại ư “đến từ Tây”.
Chẳng bỏ sót một vật, ai nấy đều phô bày
quang cảnh của chính ḿnh. Do vậy, gặp việc nhân bèn
chẳng nhường, dốc cạn sức giúp đỡ.
Chẳng cần dời núi, lấp hang, chẳng cần khoét
thịt tạo thành vết thương. Ngay nơi thân khiến
cho nhận biết, ngay nơi lưỡi khiến biết
nếm vị, khiến cho khắp mọi người theo đường
trở về nhà, đích thân thấy cha mẹ ruột của
chính ḿnh. Như thế nào là cha mẹ ruột của chính
ḿnh vậy?
(Chống
trượng nói): Chống đất, nâng trời, ngang vũ
trụ. Thấy nghe, đường nẻo lộ rành rành.
38)
Chuyện hướng thượng nói như thế nào? Mọi
pháp, mọi chuyện đều hiện tiền. Ngàn sông có
nước, ngàn trăng rọi. Muôn dặm không mây, muôn dặm
trời.
Chuyện
hướng thượng, ngàn thánh chẳng truyền. Bất
sanh, bất diệt, chẳng đổi, chẳng dời.
Ngẩng trông càng thêm cao, dùi mài càng thêm cứng[43]. Phàm chẳng
thể giảm, thánh chẳng thể thêm. Chẳng có mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư, mà mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư nương
theo điều này để nhận biết, vận động.
Chẳng có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà là sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp; do vậy, ứng cơ tùy duyên. Tam thừa,
Thập Địa từ đấy mà ra. Lục Độ
vạn hạnh viên măn nơi Thể. Diệu càng thêm diệu,
huyền càng thêm huyền. Tâm muốn nghĩ mà ư dứt bặt,
miệng toan bàn mà quên bẵng lời. Trí của Thân Tử (Xá
Lợi Phất) chẳng thể biết, tài biện luận
của Măn Từ (Phú Lâu Na) chẳng thể diễn tả.
Chỉ có ông cụ Thích Ca và cư sĩ Duy Ma bi tâm chân thật,
thiết tha, chỉ thẳng nguồn pháp. Chẳng tiếc
lông mày của chính ḿnh quét đất, muốn cho khắp các
quần sanh mũi hỉnh tận trời. Triệt để
hiển thị cho người khác, do lấp miệng mà lặng
im. Nói xem ngậm miệng lặng im lại hiển thị
điều ǵ vậy?
(Chống
trượng nói): Ôi! Một khí vô ngôn dung vạn tượng,
vạn linh không chỗ tuyệt vô tư!
39)
Chuyện hướng thượng mầu nhiệm vô cùng,
liền ĺa các pháp, chẳng “có, không”. Nếu tại đỉnh
đầu mở chánh nhăn; căn cơ nào chẳng phải
tông phong.
Chuyện
hướng thượng chẳng dễ ṃ t́m. Vô tướng,
vô h́nh, khó gọi tên, khó thấu đáo. Hết thảy đều
là nó, mà hết thảy cũng đều chẳng phải.
Hai bên chẳng lập, Trung Đạo chẳng dính mắc.
Vừa nghe nói liền lănh hội ư chỉ, vẫn là độn
căn. Từ ngay một câu nói bèn hiểu rơ tông thú, vẫn
là sai lầm. Ĺa niệm, toàn thể liền hiển lộ;
khởi tâm liền triệt để mai một. Sạch làu
làu, đỏ hon hỏn, tṛn xoe xoe, sáng rực rỡ, tuyên
dương th́ đă
rộng lại càng rộng hơn,
năm thời, tám giáo[44] chẳng
thể tận. Khế chứng th́ đă giản ước
lại càng giản ước hơn; cầm cành hoa, mỉm
cười[45]
liền phó thác. Do vậy, lưu truyền khắp pháp giới,
rộng mở đường cho kẻ hậu học.
Mỗi pháp đều lập ra cương tông để truyền
tâm, cùng thể hiện nơi tay và mắt để tiếp
dẫn chúng sanh. Hoặc nh́n vào vách[46] để
an tâm, hoặc mài ngói[47] để
tháo gỡ trói buộc. Hoặc nhướng mày, chớp mắt,
hoặc giơ nắm tay, dựng thẳng phất trần.
Hoặc hành chánh lệnh bằng một gậy, hoặc chỉ
lối về bằng tiếng hét, ắt đều khiến
cho cái tâm mong ngóng chụp giật [của hành nhân] hết sạch,
pháp tánh sống động. Như vẹt mây mà trăng tỏ
lộ, như trời cao, biển rộng, khôi phục Phật
tánh vốn sẵn có, vĩnh viễn chứng chân giác nơi
tự tánh. Lại nói xem chân giác là như thế nào vậy?
(Chống
trượng nói): Ôi! Chân giác săm soi c̣n chẳng biết.
Thoạt nh́n lại chẳng biết A Nan!
40)
Chuyện hướng thượng pháp giới tôn sùng. Vô
biên pháp tạng tận bao dung. Tam thế chư Phật từ
đấy có. Giáo dưỡng phàm thánh thảy gồm trong.
Chuyện
hướng thượng là cương tông của pháp giới.
Chẳng chân, chẳng vọng, không khởi đầu, không
kết thúc. Công sánh bằng tạo vật, khéo léo ngang hóa công.
Mảy trần chẳng lập, muôn đức thuận
theo, trọn khắp kẻ lanh lợi lẫn ngu xuẩn, bàng
bạc trong ngoài Trung Hoa. Cha con vâng theo đó mà cha từ, con
thảo, vua tôi nhờ đấy mà nhân hậu, trung thành. Ví
như nguyên khí ngập tràn vũ trụ, khác nào thái hư diệt
sạch dị, đồng. Dẫu tích tập Hoặc nghiệp,
ở trong chướng ngại mà chẳng trở ngại.
Đúng là viên thành phước huệ! Tuy ở trong chỗ
thông suốt mà chẳng thông suốt, hết thảy đều chẳng phải là lư ngoài vạn
tượng. Hết thảy đều là trong
lúc khế hợp đạo, tánh và tướng thấu triệt
lẫn nhau, Lư Sự viên dung. Thức chẳng thể hiểu,
trí chẳng thể tột cùng. Đó gọi là “có mà chẳng
có”. Đó gọi là “không mà chẳng không”. Đúng là
khuôn mẫu to lớn để đúc thành Phật quả,
là thần long tuôn mưa pháp. Mê th́ sẽ oan uổng luân hồi
bảy nẻo[48], ngộ
bèn chứng thẳng đại hùng. Mọi người muốn
đạt được điều này, nhận biết
chủ nhân ông trong nhà của chính ḿnh, c̣n ngại ǵ nữa
chăng?
(Chống
trượng nói): Quán kỹ chỗ cúi, ngửa, nghe, nh́n.
Hết thảy v́ ông hiện ngọc dung.
41)
Chuyện hướng thượng xuyên suốt các cơi. Thấu
trời thông đất thật phân minh. Thênh thang giống hệt
đường vua dạo. Cơi thế chẳng ai dám đặt
chân.
Chuyện
hướng thượng ĺa kiến, siêu t́nh, khó nghĩ, khó
bàn, khó h́nh dung, khó gọi tên, chẳng khởi đầu, chẳng
kết thúc, chẳng hoại, chẳng thành. Trước sắc
chẳng phải là sắc, sau tiếng chẳng phải là
tiếng. Sâu thẳm, u viễn không ai đến. Phẳng phiu,
thẳng lối đáng nên liên tục tiến lên. Hoa đàm
Thật Tướng tỏa hương thơm ngát. Chim nói
pháp yếu ḥa giọng thánh thót. Cây mai trên non, cội bách trước
sân thường hiển lộ. Mưa đêm, gió thu tỏ
rạng lẫn nhau. Chạm vào mắt bèn hiểu rơ tông như
nước đổ xuống ghềnh. Qua tai đạt được ư chỉ
như cây cối sum suê. Năng lẫn Sở cùng mất, ba
đời dứt bặt, căn trần vượt thoát,
vạn đức viên minh. Đă đến đứng nơi
đỉnh non chót vót, cần phải hướng đến
đáy biển sâu thẳm. Chẳng rời nơi đang ở,
đến thẳng giác thành. Cảnh và trí ḥa lẫn vào
nhau, chứng Tịch Diệt Nhẫn. Tri kiến đắp
đổi, đạo khế hợp Vô Sanh. Đắc thường,
lạc, ngă, tịnh nơi Phật địa, đủ đức
“nguyên, hanh, lợi, trinh”[49] của
Càn. Do vậy, trên hoằng dương Phật đạo, dưới
tế độ quần manh, khiến cho ai nấy đều
đạt được cái tâm diệu giác vốn có. Từ
đấy, muôn kiếp luôn hưởng thái b́nh. Mọi người
có biết cảnh tượng thái b́nh hay chăng?
(Chống
trượng nói): Cơi bờ pháp giới không ai chiếm. Gió
trăng quê cũ có ai tranh?
42)
Chuyện hướng thượng rời ĺa ngôn thuyết.
Chẳng sanh, chẳng diệt, vốn tự nhiên. Trọn
không một pháp nuôi vạn tượng. Lửa hồng thường
nở đóa sen tươi.
Chuyện
hướng thượng h́nh dung thế nào? Bất sanh, bất
diệt, chẳng phải sắc, chẳng phải không, chẳng
ở chặng giữa, trong, ngoài, không thuộc quá khứ,
hiện tại, vị lai. Sanh tử và Niết Bàn đến
đấy đều là hoa đốm trong hư không. Chúng sanh,
chư Phật, ở đây đều là giả danh. Vắng
lặng, tuy đủ ngũ nhăn mà chẳng có cách ǵ thấy được!
Cao minh thay! Dẫu trọn tứ biện tài, chẳng thể
tuyên dương. Chẳng có h́nh tượng mà đứng đầu
vạn tượng. Chẳng phải pháp mà là cội nguồn
vạn pháp. Thánh do vậy mà thành thánh, hiển các đức
mà chẳng trụ vào đức. Phàm do vậy mà là phàm, tạo
các lỗi mà chẳng nhiễm lỗi. T́nh tưởng chẳng
thể nghĩ; danh từ, ngôn thuyết há thể diễn tả?
Mê th́ trầm luân măi trong biển khổ; ngộ bèn nhanh chóng
lên tánh thiên! Nếu có thể nội chiếu phản quán, ngay
lập tức thấu triệt nguồn tâm, lần lượt
dùng tâm ấn tâm, khiến cho lửa hết mà củi truyền,
tột cùng đời vị lai tiếp nối huệ mạng,
khiến cho khắp muôn loài tận mắt thấy diện
mạo trước khi sanh ra. Lại nói “thấy diện
mạo trước khi sanh ra” là thấy như thế nào
vậy?
(Chống
trượng nói): Ôi! Sáng ra rửa mặt ṃ trúng mũi, hai
lỗ hít thở ngay trên đầu!
43)
Chuyện hướng thượng ĺa chân lẫn vọng.
Phàm t́nh vốn là tạng Như Lai. Đoạn trừ phân
biệt sạch làu làu, liền chứng Tỳ Lô sát trần
tướng.
Chuyện
hướng thượng có tướng trạng ra sao? Chẳng
trược, chẳng thanh, chẳng chân, chẳng vọng.
Ĺa trọn bốn câu, bách phi nào báng? Diệu dụng khó nghĩ,
công huân lạ lùng vô lượng! Không chẳng phải không,
có chẳng phải có. Trái nghịch chẳng trái nghịch,
hướng về chẳng hướng về. Tâm muốn
nghĩ mà quên bặt suy tưởng, miệng toan bàn mà từ
ngữ mất sạch. Chỉ v́ dân chúng sử dụng thường
ngày mà chẳng biết, cho nên cảm chư Phật xứng
tánh diễn nói. Muốn đạt được chỉ
quy, cần phải thân cận bậc thầy. Tâm hăy khéo hiểu
ư chỉ “dựng phất trần, giơ nắm tay”. Đừng
bỏ lỡ nước trôi, hoa rụng. Chạm vào mắt
đều là Bồ Đề, động niệm liền
thành nghiệp chướng, liền đạt được nhất tâm chẳng
sanh, lục căn rỗng tuếch. Thân lẫn thế gian đều
mất, rốt ráo trở về nguồn. Nhân và pháp cùng mất,
triệt để thỏa đáng. Đến đấy
th́ trời cao biển rộng, mây tan, trăng sáng. Niết
Bàn, sanh tử giống hệt như
nhau. Phiền năo, Bồ Đề chẳng hai tướng.
Chứng thường trụ Pháp Thân, dứt trôi lăn trong
luân hồi. Do đă được thiết tha cầu thỉnh,
thấy điều nhân chẳng nhường, mỗi mỗi
đều giăi bày trọn hết, ai nấy đều cúng dường
trọn khắp.
(Chống
trượng nói): Ôi! Đừng bắt chước nuốt
trộng quả táo, nêu bày mùi vị cho người xem.
44)
Chuyện hướng thượng nêu cao chánh lệnh: Dẹp
ma, chế ngoại, hun phàm thánh. Vô thỉ vọng hoặc
tiêu tan sạch, nhanh chóng khôi phục tánh Chân Như.
Chuyện
hướng thượng toàn là nêu chánh lệnh. Diệu dụng
khôi phục rộng lớn, oai lực hùng tráng. Giết, sống
tự tại, như kim cang vương đao. Đẹp,
xấu cách biệt vời vợi,
như ma-ni, gương báu. Mũi nhọn hơi hé lộ, beo
biến h́nh, rồng bay lên. Ánh lửa vừa nhá, chuyển
phàm thành thánh. Khác nào nước chảy thành sông, giống như
búng dây mực [đánh dấu,
thợ cưa liền xẻ] thẳng gỗ.
Nhanh chóng khiến cho vượt thoát căn trần, dường
như không trung sương tan, trời rạng. Định
huệ viên minh, như muôn sông lặng sóng, ánh trăng bèn hiện.
Do vậy, tam thừa an tâm, quần ma xin tha mạng. Trời
đất trong sáng, b́nh yên, nước hưởng ân, dân vui
mừng. Dứt luân hồi huyễn hóa, ĺa hố sâu sanh tử.
Luận về Thể: Chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng
cấu, chẳng tịnh. Tâm hành xứ diệt, ngôn ngữ
dứt sạch. Bao trùm mười pháp giới vẫn c̣n dư,
hết sạch ba đời chẳng thừa sót. Là cương
tông của pháp tạng, là cốt lơi để tu tŕ. Đấy
chính là chân tâm linh tri ly niệm của chính hành nhân, là Phật
tánh tùy duyên bất biến. Chỉ v́ vọng tưởng chấp trước, bao kiếp chẳng
thể đích thân chứng đắc. Hăy nói xem lúc chứng
là như thế nào?
(Chống
trượng nói): Ôi! Biển lặng, trời trong, trăng
rạng ngần. Khắp trời trọn đất đều
thanh tịnh.
46)
Hăng hái tối thắng kim cang tâm. Thọ tŕ Như Lai
kim cang giới. Nhập lưu, quên Sở chứng tịch
diệt. Bao kiếp theo gót Quán Tự Tại.
Như
Lai chế định giới để điều ngự chúng
sanh, làm cầu bến trong biển khổ, là người khéo
hướng dẫn trong đường kinh sợ. Kẻ
tiểu căn nương theo, liền được ĺa ác
đạo, sanh lên trời, chứng Chân Đế, nhập
Niết Bàn. Người đại căn nương theo,
mau chóng khôi phục vạn đức vốn có, diệt vô
minh, thành Phật quả. Lô Xá Na Phật dùng giới làm Thể.
Do không điều ác nào chẳng hết sạch, nên gọi
là Tịnh; không điều thiện nào chẳng trọn vẹn,
nên gọi là Măn[50]. Cần
phải biết Báo Thân viên măn của mười
phương chư Phật đều do nghiêm tŕ tịnh giới
mà quyết chứng. Các ông đă là Phật tử, đă thọ
Phật giới, ắt phải noi theo bậc tiên giác,
nghiêm tịnh Tỳ Ni (Vinaya, giới luật). Thà táng thân mất
mạng, chẳng để hủy phạm đôi chút th́ mới
thanh tịnh ba nghiệp, thành đại pháp khí. Rốt cuộc
sẽ nêu gương rộng lớn cho cả tam giới,
làm bậc đại đạo sư, nắm giữ kim chỉ
nam cho vạn hạnh, đạt được tổng tŕ
của pháp tạng, đoạn phàm t́nh để hiển thánh
trí, báo Phật ân ḥng độ chúng sanh.
(Chống
trượng nói): Nhân giới sanh định, nhân định
phát huệ, tam học viên minh, hai đằng ngát thơm.
46)
Vô thượng Bồ Đề: Giới làm gốc. Tŕ
giới, khối công đức viên thành. Vượt thoát căn
trần chẳng chấp trước. Đó gọi là tŕ Đệ
Nhất Nghĩa.
Đức
Đại Giác Thế Tôn khiến cho khắp các chúng sanh khôi
phục nguồn tâm vốn có, nhập cảnh giới của
Phật. Từ đầu đến cuối, chỉ có Giới để nương
cậy. Nếu chẳng tŕ giới, c̣n chưa thể đạt
được thân hữu lậu bị nghiệp trói buộc
trong đường trời người, huống hồ trọn
đủ các công đức, viên thành Chủng Trí ư? Ví như
muốn trở về cố
hương, chẳng có Giới làm chân, sẽ chẳng thể
đến. Muốn nhặt lấy các thứ báu, không có Giới
làm tay, sẽ chẳng thể thâu hoạch! Giới là thánh dược để khử phiền
hoặc. Giới là toa thuốc tốt lành nhằm diệt huyễn
khổ. Giới đúng là tàu thuyền ḥng thoát biển sanh
tử. Giới là bậc thang để lên núi Niết Bàn. Chẳng tŕ giới mà
tu điều lành, phước hết, vẫn phải đọa
lạc. Có thể tŕ giới để tu thiện; nhân tṛn
vẹn, ắt thành giác đạo. Các ông tu tŕ tịnh giới
của Phật, gặp các cảnh duyên, ắt cần phải
hiểu rơ tam luân thể không, sáu trần chính là giác. Tự
nhiên căn và cảnh chẳng dính mắc, thân tâm vĩnh viễn
thanh tịnh. Gần th́ là ruộng phước tốt lành
cho ba cơi, xa là bậc Điều Ngự của chín pháp giới.
(Chống
trượng nói): Kính tuân lời Phật dạy thanh tịnh,
quyết thoát Sa Bà vượt muôn loài.
47)
Trong đời thanh tịnh như hoa sen. Sanh trong bùn nhơ
chẳng nhiễm trần. Đối cảnh vô tâm, dứt
tỳ vết. Thấy thấu Oai Âm người chốn nào?
Hết
thảy chúng sanh luân hồi lục đạo, sanh tử, tử
sanh, sanh sanh tử tử trải bao kiếp dài lâu chẳng
thể thoát ĺa. Như con thiêu thân gieo ḿnh vào đèn, tự bị
đốt cháy. Như tằm kéo kén, tự khiến bị
trói buộc. Xét đến cái nhân căn bản, đều
do chẳng biết một niệm tâm tánh của chính ḿnh vốn
là Phật. Mê tâm đuổi theo cảnh, trái giác, hợp trần,
dấy tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, đến
nỗi nghiệp chất như núi, biển sanh tử sâu thăm
thẳm! Đức đại giác Thế Tôn đặc biệt
rủ ḷng thương xót, mở ra khuôn mẫu giới
rộng lớn để phổ độ quần manh. Trong
kinh Phạm Vơng, [đức Phật] đă cực lực khuyên
lơn, khen ngợi: “Ông là Phật sẽ thành, ta là Phật
đă thành”. Thường tin như thế,
giới phẩm đă trọn đủ. Các ông đă phát Bồ
Đề tâm, thọ giới cấm của Phật, ắt
đối với căn thân của hữu t́nh, khí giới
của vô t́nh, biết rơ Ngũ Uẩn vốn là không, sáu
trần như huyễn, thoát trọn vẹn mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư, chẳng chấp sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp. Do vậy, một niệm chẳng sanh, ba đời
đoạn dứt, diệt hết
các Hoặc, vạn đức phô bày trọn vẹn.
(Chống
trượng nói): Gió huệ lùa quét sạch trời cao, Phật
nhật nghiễm nhiên chiếu hư không.
48)
Vô thượng Bồ Đề: Giới là gốc. Hoa
Nghiêm đại giáo nói như vậy. Ba nghiệp thanh tịnh
ĺa tỳ vết, như lưu ly sạch đựng trăng
báu.
Đức
đại giác Thế Tôn xuất hiện trong thế gian, thuận
theo căn cơ của chúng sanh, rộng diễn ngôn giáo. Nói
giản ước, chẳng ra khỏi Tam Học. Tam Học
như thế nào? Chính là Giới, Định, Huệ. Giới
có thể nhiếp thân, Định có thể chế tâm. Chiếu
lư phá Hoặc, chỉ có Huệ để nương cậy.
Ba pháp nương tựa lẫn nhau th́ mới đạt được
lợi ích to lớn. Như tay rửa lẫn nhau th́ mới
được thanh tịnh. Bước đầu nhập
môn, Giới trọng
yếu nhất. Dẫu đạt đến rốt ráo, cũng
chẳng ĺa bỏ. Giới là pháp giới, thống nhiếp
các pháp. Do vậy biết: Thiền chính là Giới, Giới chính
là Thiền. Không chỉ phân chẳng thể phân, mà hợp cũng
chẳng thể hợp. V́ thế, kinh Phạm Vơng nói: “Chúng
sanh thọ giới của Phật, liền dự vào địa
vị của chư
Phật”. Các vị đă thọ Phật
giới, ắt phải nghiêm tŕ, hệt như dùng phao nổi
để vượt biển, chẳng dám để hư
hoại chút nào! Thoạt đầu giữ thân chẳng làm;
kế đó, giữ cho tâm chẳng khởi. Do vậy, ba
nghiệp thanh tịnh, ba đức phô bày trọn vẹn,
chứng Vô Sanh Nhẫn, lên địa vị Bất Thoái, mới biết
tự tâm vốn là Phật, chỉ v́ vọng tưởng, chấp trước, trải nhiều
kiếp chẳng thể chứng đắc. Hăy nói khi chứng
đắc th́ sẽ như thế nào?
(Chống
trượng nói): Mây tan, trăng lộ, trời biếc rạng.
Cấu trừ, sáng đến, gương báu ngời!
49)
Thế gian vạn tượng thảy đều không. Diệu
tánh viên minh ĺa đầu cuối. Nghiêm tịnh Tỳ Ni chẳng
hủy khuyết. Kham thừa Phật Tổ cổ gia phong.
Phàm
những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng. Chúng sanh chẳng
hiểu rơ, hư vọng dấy lên chấp trước.
Thuận cảnh th́ tham, nghịch cảnh bèn sân. Trong cảnh
trung dung mà vẫn ngu si. Do tham, sân, si, tạo giết,
trộm, dâm. Hễ mê bèn vĩnh viễn mê từ kiếp này
sang kiếp khác. Luân hồi sáu nẻo, trọn chẳng có
thuở thoát ra. Do bởi duyên ấy, cảm Phật thương
xót, giơ cao lưới
giới, theo chiều dọc dựng trọn khắp pháp tràng,
khiến cho [chúng sanh] giữ miệng,
nhiếp thân, đoan tâm, chánh niệm. Đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều thiện. Lại dạy phản quán
nội chiếu, thấu hiểu tự tánh thấy, nghe,
hay, biết. Sức tột bậc, công tinh thuần, phá
toang phiền hoặc Kiến, Tư, vô minh ch́m đắm,
mới biết Tứ Đại vốn là không, Ngũ Uẩn
chẳng phải có. Ngă c̣n trọn chẳng thể được,
cảnh lại do đâu mà phát sanh? Từ đấy, sáu
căn thanh tịnh, tam đức viên minh. Chẳng chấp
vào hai bên, chẳng ở nơi Trung Đạo. Khế nhập
tánh giới vô tác, chuyển nguyện luân vô trụ, khiến
cho khắp pháp giới hữu t́nh đều cùng lên bờ
kia Tỳ Ni.
(Chống
trượng nói): Siêng thọ Ba La Đề Mộc Xoa, liền
sanh đại giác pháp vương gia.
50)
Túc căn gieo sâu chẳng chuyển dời. Chẳng nhiễm
trần duyên, kết Phật duyên. Giới kiểm nghiêm minh,
chuộng rộng tiến. Khác nào riêng có một tầng trời!
Diệu
tánh viên minh vốn chẳng sanh diệt. Hư linh thấu triệt
rỗng rang, lặng trong, thường hằng. Vốn ĺa danh
xưng “phàm, thánh”, há có chuyện sanh tử? Hiềm rằng
chúng sanh mê trái bổn tâm, hư vọng dấy lên phân biệt.
Do vậy, khởi Hoặc, tạo nghiệp, luân hồi sáu
nẻo. Đại giác Thế Tôn thương xót các hàm thức
ấy đă ôm báu như ư mà cam chịu bần cùng. Do vậy,
vận ḷng từ vô duyên rộng lớn, khởi đại
bi đồng thể, thị hiện sanh trong thế gian,
thành Đẳng Chánh Giác, mở pháp hội Phạm Vơng cao cả,
để nêu ra khuôn phép xuất thế tốt lành. Trên th́
nhiếp thọ thánh nhân tam thừa, dưới nhiếp thọ
lục đạo phàm phu. Bất luận tăng, tục,
nam, nữ, thiên, tiên, quỷ, súc, phàm là kẻ có tín tâm, đều
dạy họ thọ tŕ. Dẫu táng thân mất mạng, chẳng
dám sai phạm chút ít. Thoạt đầu là do ngăn ngừa
sai trái mà cấm ngăn điều ác. Kế đó là đoạn
Hoặc, chứng Chân,
khôi phục cái tâm vốn sẵn thanh tịnh, hoàn phục tánh
diệu giác viên minh. Đó chính là đại ư [v́ sao] đức
Thế Tôn chế giới, Phật tử tŕ giới vậy.
Các ông đă thọ Phật giới, ai nấy hăy gắng lên!
(Chống
trượng nói): Họ là trượng phu, ta cũng thế.
Chẳng nên tự khinh mà thoái khuất.
51)
Giới: Thuyền chở người vượt biển
khổ. Như vượt sóng cả đến bờ kia.
Tam nghiệp tinh thuần chẳng hủy phạm. Siêu phàm
nhập thánh cứ ngao du.
Như
Lai do một đại sự nhân duyên mà xuất hiện
trong cơi đời. Vừa mới thành Chánh Giác, liền chế
giới pháp Ba La Đề Mộc Xoa để hun đúc phàm
thánh, phạm vi bao gồm khắp chín pháp giới, khiến
cho hữu t́nh trong khắp pháp giới cùng thành Vô Thượng
Giác Đạo. Do vậy, kinh Phạm Vơng dạy: “Chúng sanh
thọ giới của Phật, liền dự vào địa
vị của chư
Phật, địa vị đă đồng đại
giác, là Phật tử thật sự”. Do vậy biết
một pháp “giới luật” trên th́ là Tam Hiền, Thập Thánh[51] nương
vào đó để phá sạch vô minh, vào biển trí của Phật;
dưới th́ lục đạo tam đồ nương
vào pháp này để nhanh chóng ĺa quả khổ, vĩnh viễn
dứt cái nhân gây khổ. Đúng là chiếc thuyền từ
trong biển khổ, là bè báu nơi bến mê, là đạo
trọng yếu để thoát sanh tử, là phương kế
to tát để chứng Tịch Diệt. Nếu thân, ư, nghiệp
có thể sạch tợ băng,
sương, hễ đă thọ rồi, vĩnh viễn chẳng
hủy phạm. Lại c̣n thương ḿnh, xót người,
tổn ḿnh, tổn người, phát Tứ Hoằng Nguyện
rộng lớn, tu khắp Lục Độ, cạn khô biển
phiền năo, vào biển trí huệ, ĺa cái thân trói buộc bởi
nghiệp, chứng thân thanh tịnh. Phàm là kẻ có tâm đều
có thể kham làm Phật. Phật tử thọ giới, ai
nấy hăy nên y giáo tu tập.
(Chống
trượng nói): Ḷ luyện to lớn chẳng phí vàng. Thánh
phàm đều khôi phục sơ tâm.
52)
Tội từ tâm khởi, dùng tâm sám. Khi tâm đă diệt,
tội cũng mất. Tâm, tội, cả hai chẳng thể
được. Thấy thấu tự tánh đại pháp vương.
Tâm
vốn thanh tịnh, do mê muội mà ngược ngạo trở
thành nguồn ác. Thân kham chở đạo, do vọng niệm
mà trở thành rừng tội. Do vậy, đối với
sáu trần cảnh, dấy tâm điên đảo, chẳng
hiểu rơ “vốn là không”. Hư vọng sanh tham đắm,
hệt như voi cuồng chẳng câu thúc. Vượn, khỉ
trèo lên cây, nhảy nhót, quăng, bắt, chẳng thể ngăn
cấm được! Đại giác Thế Tôn do bởi
duyên ấy, chế ra giới luật, khiến cho họ thọ
tŕ, sám trừ tội khiên trước kia, như giặt áo
cũ; vun bồi hạt giống trí huệ cho tương
lai, như gieo hạt thóc ngon. Do nhiếp
thân mà dần dần đạt đến lắng ḷng, từ trói buộc
mà chuyển thành giải thoát. Do vậy biết căn và trần
cùng nguồn, trói buộc và giải thoát chẳng hai. Có thể
tŕ giới th́ nơi nơi giải thoát; chẳng tŕ giới
th́ niệm nào cũng bị trói buộc! Trói buộc và giải
thoát đều cùng là sáu căn, chỉ phân thành “mê, ngộ, tŕ,
phạm” đó
thôi! Đó gọi là “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng
sai biệt. Mê và ngộ cách biệt như trời cách biệt
đất”. Bậc có trí lẽ đâu chẳng dùng
Bát Nhă rất sâu, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều
không, ḥng cầu độ tận hết thảy khổ ách,
mau chóng thành vô thượng giác đạo ư?
(Chống
trượng nói): Diễn Nhă[52]
nhanh khỏi bệnh cuồng đầu. Tŕ giới công
đức chẳng thể lường.
53)
Tam giới oai lực há thể lường, hay chuyển
ba độc thành ba đức. Phật trí toàn là tâm chúng
sanh. Ngược gịng bèn độ chẳng cùng cực!
Tâm
tánh của chúng sanh và Phật chẳng hai. Do mê muội nên hư
vọng dấy lên vô minh. Do tham, sân, si, mà tạo giết, trộm,
dâm, trả thù lẫn nhau, trôi lăn trong sanh tử. Thoắt
thăng, thoắt giáng, trồi lên, hụp xuống, đă
trải bao kiếp lâu xa, chẳng thể thoát ĺa. Đức
Phật Thế Tôn ta là đại y vương, trị các
thứ tâm bệnh của trọn khắp chúng sanh. Tâm bệnh
dẫu nhiều, Tam Độc làm gốc. Chỉ có ba giới
này có thể dẹp trừ hết sạch. Thọ Luật Nghi Giới, nghiêm tŕ chẳng
phạm, chế ngự Tam Độc, chẳng
cho chúng dấy lên hiện hành. Chế ngự lâu ngày, cái tâm định,
đạt được Định Cộng Giới. Do định
lực, chế phục Hoặc chẳng khởi. Sức giới
định sâu xa, đắc Đạo Cộng Giới. Đoạn
hoặc chứng Chân, nhập lưu, vong Sở. Từ đó trở
đi, chỉ tiến chẳng
lùi, nhanh chóng khôi phục bổn tâm, viên thành Phật quả.
Đă viên thành Phật
quả, thường hưởng Tam Đức cho đến
cùng tột đời vị lai, vô cùng, vô cực. Tam Độc
hay Tam Đức, chỉ là một cái tâm này. Mê bèn thành độc,
ngộ th́ thành đức. Đạo có cách xa ư? Đụng
chuyện bèn ngộ lẽ chân. Thánh xa vời ư? Thấu
hiểu th́ tâm bèn lănh hội. Nếu các vị có thể như
vậy, khắc cốt minh tâm, chẳng ĺa một niệm
hiện tiền, bèn chứng thân Pháp Vương.
(Chống
trượng nói): Giới kiểm nghiêm tịnh như băng
sương. Vô biên nhiệt năo thảy thanh lương.
54)
Vô thượng Bồ Đề: Giới làm nhân. Hay chuyển
phàm thân thành Phật thân. Tâm, tánh vốn sẵn chẳng hai
thể. Tùy duyên chuyển biến chỉ do người.
Tâm
thuật vô thường, thuận theo hay trái nghịch bất
định. Tập thói ác th́ dễ, tập điều lành
th́ khó. Nhướng mắt dơi trông, toàn là bỏ gốc đuổi
theo ngọn. Giữ ḷng khăng khít, đi ngược gịng
trở về nguồn. V́ thế nói: “Nhân tâm duy nguy, đạo
tâm duy vi” (ḷng người biến đổi vô thường,
đạo tâm nhỏ bé). Chẳng có
khuôn phép để hướng dẫn, uốn nắn, ắt
nhân dục (ḷng ham muốn của con người) ngày càng lừng
lẫy, nguy ngập trọn chẳng thể yên; thiên chân ngày
một tối tăm, đă ít ỏi lại c̣n chẳng ǵn
giữ. V́ thế, đức Phật xuất thế, điều
ngự chúng sanh, dùng giới luật để nhiếp thọ,
ngơ hầu họ sẽ tuân theo quy củ, dùng quả báo
để dạy dỗ, khiến cho họ hướng cát,
tránh hung. Ngũ Giới, Thập Thiện, mở rộng nẻo
nhân thiên. Tứ Hoằng, Lục Độ, mở toang cửa
Niết Bàn. Do vậy biết giới là chỗ y chỉ của
chúng sanh, là tàu thuyền trong biển khổ. Khai, giá, tŕ, phạm,
treo gương sáng trong ruộng tâm. Cử động, nói năng,
giữ ư địa trong ngần! Thường ôm ḷng hổ
thẹn, chẳng tự thụt lùi. Trong th́ tôn trọng linh
tánh của chính ḿnh, ngoài th́ ngưỡng mộ chư thánh.
Từ đó, khôi phục nguồn tâm vốn có, thành vô thượng
đạo. Dùng lợi ích tŕ giới để độ hết
chúng sanh trái nghịch giới. Các ông ai nấy hăy nên tinh tấn,
chẳng phụ cái tâm ban đầu.
(Chống
trượng nói): Phật và chúng sanh vốn y hệt. Do trái
nghịch giới, khác vời vợi!
55)
Vô tác giới thể, sanh, Phật đồng. Phật th́
giác ngộ, chúng sanh mê. Một niệm hiện tiền ĺa Năng Sở, lập
tức viên thành Phật Bồ Đề.
Vô
tác giới thể vi diệu không chi sánh. Tâm chẳng thể
nghĩ, miệng chẳng thể tính. Chứa đựng mười
phương mà vẫn thừa, tột cùng ba đời chẳng
hề sót! Ngước lên nh́n càng thêm cao, chẳng thấy đỉnh.
Thăm ḍ càng thêm sâu, khó lường tận đáy. Giới
là bổn sư của chư Phật, là từ mẫu của
Bồ Tát. Ai nấy đều trọn đủ, ai nấy
đều nương cậy. H́nh tích c̣n chẳng có, há có sanh
tử? Chỉ v́ một niệm thuở đầu bất
giác, đến nỗi bỗng dưng chạy theo cảnh
mê Lư. Do vậy, vọng
tưởng bùng dậy, nhân ngă nhanh chóng dấy lên.
Trong tâm kết tham, sân, si, ái chẳng ngớt, ngoài th́ hành giết,
trộm, dâm, vọng chẳng thẹn. V́ thế, thoắt
thăng, thoắt giáng, luân hồi dài lâu trong sáu nẻo. Thoạt
ch́m, thoạt nổi, trọn chẳng dựa nương.
Như Lai xem các chúng sanh đều như con đỏ, giơ
tay d́u dắt, cứu thoát khỏi nước, lửa, ngơ hầu
họ đoạn ái kiến trần t́nh, nhận lănh khuôn
khổ Tam Quy, Ngũ Giới thơm thảo. Do Giới sanh
Định, do Định phát Huệ. Định Huệ
viên minh, đích thân thấy chính ḿnh. Như thế th́ không
chỉ chẳng cô phụ sự giáo hóa của đức Phật,
mà c̣n chẳng phụ linh tánh của chính ḿnh. Lại c̣n có
thể hướng dẫn chúng sanh, làm sứ giả của
Như Lai. Hăy nói xem: Làm như thế nào để
thấy chính ḿnh?
(Chống
trượng nói): Nơi chốn dương xanh kham buộc
ngựa. Nhà nhà có nẻo thấu Trường An.
56)
Có huệ, không phước, huệ chẳng thật. Có phước,
không huệ, phước chẳng thuần. Phước huệ
đầy đủ thành Chánh Giác. Phước
huệ đều không, măi trầm luân!
Muốn
thành vô thượng giác đạo, ắt phải trọn đủ
phước huệ. Muốn được phước huệ
trọn đủ, ắt cần phải vào căn nhà tịnh
giới đẹp đẽ. Pháp môn vô lượng, chẳng
ra ngoài Lục Độ. Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục,
Tinh Tấn, Thiền Định, năm độ ấy được
gọi là phước đức xuất thế. Một độ
Bát Nhă được gọi là trí huệ xuất thế. Năm
độ như mù, Bát Nhă như người dẫn đường.
Năm độ chẳng có Bát Nhă, sẽ trở thành phước
đức trụ tướng, chỉ đạt được
tiểu quả nhân thiên, chẳng thể rốt ráo đến
bờ kia, chẳng được gọi là Ba La Mật. Bát
Nhă như tâm, năm độ như thân. Bát Nhă chẳng có năm
độ, dẫu có giác chiếu, trọn chẳng thể
thực hiện, cũng chẳng thể rốt ráo đạt
tới bờ kia, chẳng được gọi là Ba La Mật.
Sáu độ giúp lẫn nhau, pháp nào cũng đạt tới
bờ kia. Như hai tay rửa lẫn nhau, mỗi tay đều
được sạch sẽ. Một độ Tŕ Giới,
thông trước, gồm sau, càng thiết yếu! Do chư Phật
có thể tŕ giới, phước huệ trọn đủ,
chứng Niết Bàn rốt ráo. Do lục phàm chẳng tŕ giới,
phước lẫn huệ hoàn toàn chẳng có, trầm luân trong
sanh tử ác đạo. Muốn thoát trần lụy, Giới là bậc nhất.
Phật tử các ông, hăy nên nỗ lực!
(Chống
trượng nói): Phước huệ chưa từng ĺa đương
niệm. Tŕ, phạm vốn chỉ tại nhất tâm.
57)
Tự tâm thanh tịnh trọn vô trần. Phàm càng tăm tối,
thánh càng mới. Nếu chịu nghiêm tŕ giới của Phật.
Mây trôi, sương tan, thấy thiên chân.
Chân
nguyên trong lặng, biển giác lặng trong. Vốn chẳng
có đầu mối Năng và Sở, há có dấu tích phàm
hay thánh? Nhưng bỗng dưng t́nh sanh, ngẫu nhiên thất
niệm, đến nỗi sóng thức dấy trào, rúng động
chân nguyên. Sóng vọng ùa khởi, cuộn trào biển giác. Từ
đó, xuôi theo gịng, quên trở về, trái nghịch trí, rong
ruổi măi, ch́m nổi theo sanh tử, tham nhiễm nơi
thanh sắc. Do hướng về hay trái nghịch sai khác, đến
nỗi có quả báo trong mười pháp giới. Do mê muội
sâu hay cạn, bèn chia thành thăng trầm trong sáu nẻo. Muốn
quay về cội, trở về nguồn, cần phải
chuyên chú chế ngự t́nh, diệt vọng. Phương pháp
chế phục và diệt trừ, không ǵ bằng tŕ giới.
Chẳng tŕ giới, dẫu sẵn có thánh trí, toàn thể biến
thành phàm t́nh. Có thể tŕ giới, sẽ chẳng ĺa phàm t́nh
mà thẳng thừng thành tựu thánh trí. Ví như nước
kết thành băng, băng tan thành nước. Băng và nước
cùng một tánh ướt, nhưng đông cứng hay tuôn chảy
bất đồng, do tùy theo duyên [khác nhau] mà có lạnh hay nóng mỗi thứ
mỗi khác. Hiểu điều này, sẽ nghiêm tŕ tịnh
giới, trái trần, xuôi theo giác, như chôn cất cha mẹ,
như cứu đầu cháy, dẫu ngàn vị thánh cùng nhau
kéo lại, vẫn buông tay
tiến lên trước, chẳng ngó lại. Các Phật tử
thọ giới ai nấy hăy nên nỗ lực.
(Chống
trượng nói): Căng lưới giới làm mẫu
cho đời. Biển khổ vô biên cạn khô sạch!
58)
Tứ Hoằng, Tam Tụ nghĩa vô biên. Nhiếp trọn
pháp môn chẳng thể nói. Tam thế Như Lai từ đó
có. Do tŕ hay phạm, chia thánh, phàm.
Đức
Phật nói hết thảy các pháp để đối
trị hết thảy các tâm. Tâm bệnh của chúng sanh vô
lượng, pháp dược của Như Lai cũng vô lượng.
Nhưng nêu tổng quát đại cương, nói theo lẽ
trọng yếu th́ Tam Tụ Tịnh Giới, Tứ Hoằng
Thệ Nguyện thâu nhiếp không ǵ chẳng tận. Ví như
trăng mọc giữa trời, in khắp muôn sông, Xuân về
trên đại địa, trăm loài cỏ cây đều tươi
tốt. Nay v́ các vị, gộp chung lại để nói rơ
Tam Tụ là ǵ? Thứ nhất là Luật Nghi Giới, không ác nào chẳng đoạn,
tức là hoằng thệ thứ hai, “phiền năo vô tận
thệ nguyện đoạn”. Thứ hai là Nhiếp Thiện
Pháp Giới, không điều thiện nào chẳng tu, tức
hai hoằng thệ thứ ba và thứ tư, tức “pháp
môn vô lượng thệ nguyện học” và “Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Thứ
ba là Nhiếp Chúng Sanh Giới, không chúng sanh nào chẳng độ,
tức hoằng thệ thứ nhất, “chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ”. Chỉ với Tam Tụ và Tứ Hoằng
Thệ ấy, diệu pháp độ sanh của mười
phương ba đời chư Phật không ǵ chẳng lưu
xuất từ pháp giới này, không ǵ chẳng trở về
pháp giới này. Đúng là cương tông của Phật pháp,
là khuôn phép để nhập đạo. Bỏ pháp này th́ thánh
chẳng có phương cách tiếp dẫn, chúng sanh chẳng
thể độ, phàm phu dứt bặt con đường
tu tập, Phật chẳng do đâu mà thành!
(Chống
trượng nói): Thập thánh c̣n tuân nghĩa như thế,
lục phàm dám vượt kế lành ư?
59)
Tŕ giới chắc chắn thoát ṿng khổ. Giống h́nh với bóng chẳng chia
ĺa. Bốn tướng nhân ngă gột trừ sạch. Quyết
chứng chân thường pháp tánh thân.
Giới
chính là nền tảng ban đầu để nhập đạo,
là trận đầu để khử ác, là ŕu sắc để
chặt cây phiền năo, là thần đan chữa lành bệnh
sanh tử. Mười phương chư Phật nương
vào đấy để chứng Bồ Đề. Hết thảy
Bồ Tát do vậy mà được giải thoát. Vô tận
pháp tạng, hễ nêu lên một pháp, sẽ gồm thâu toàn
thể. Thông trên, thấu dưới, khôn sánh, khôn tày. Pháp môn
mầu nhiệm, không chi hơn được. Đó gọi
là “vi trần Phật, một nẻo Niết Bàn môn”. Quá
khứ chư Như Lai do môn này mà thành tựu. Các vị Bồ
Tát trong hiện tại, nay mỗi vị đều nhập
viên minh. Người học đạo trong tương lai,
hăy nên nương vào pháp như thế. Luận khít khao tánh
thể, chúng sanh và Phật vốn đồng, do mê hay ngộ
mà khác biệt, v́ tŕ hay phạm mà phân chia rạch ṛi. Tŕ giới
th́ là thánh, phạm giới th́ là phàm. Đó là v́ chúng sanh hễ
t́nh kiến sanh th́ trí bị ngăn cách, do tưởng biến
đổi mà Thể khác biệt. Bên ngoài th́ hư vọng
thấy núi, sông, đại địa, sáng, tối, sắc,
không. Trong th́ hư vọng thấy Tứ Đại, Ngũ
Uẩn, thấy, nghe, hay, biết. Ví như hễ mắt có
màng mộng, sẽ thấy hoa đốm rơi loạn xạ.
Do chẳng hiểu ngay nơi bản thể chính là Không, cho
nên phải luân chuyển nhiều kiếp dài lâu. Các ông muốn
khôi phục bổn tâm, thẳng thừng khế hợp quả
giác, chỉ nên kính cẩn tuân phụng Tỳ Ni, nghiêm tŕ chẳng
trái phạm. Tự nhiên ṃ được lỗ mũi vốn
có trước khi được mẹ sanh ra. Hăy nói là như
thế nào vậy?
(Chống
trượng nói): Mấy chỗ cùng hô, mấy chỗ ứng.
Một phen gặp gỡ, một phen thân.
60)
Nghiêm tịnh Tỳ Ni, đạo hiếu thịnh. Tâm trí
gieo sâu nơi Phật thừa. Thế gian, xuất thế đều
y chỉ. Muôn vàn sai khác thảy đều thông.
Thế
gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng lấy hiếu làm
gốc. Muốn trọn hết đạo hiếu, ắt
cần phải nghiêm tŕ tịnh giới, bởi đó là đạo
trọng yếu trong đức tột cùng, Nho lẫn Thích
cùng đề cao. Đời này, đời sau, lợi ích khác
biệt. Đoán trước ư để làm vui ḷng cha mẹ,
chăm chút phụng dưỡng, dốc cạn sức ḿnh
khiến cho cha mẹ vui ḷng. Chẳng nhuốm bẩn
bản thân, chẳng nhục lây cha mẹ. Lập thân hành đạo,
nêu danh cho đời sau, ḥng cha mẹ nở mày nở mặt.
Đạo hiếu trong thế gian chỉ là như thế
mà thôi!
Nếu
trong khi chăm chút phụng dưỡng, khéo léo, uyển
chuyển, gợi mở, dẫn dụ tâm ư cha mẹ, khiến
cho họ quy y Tam Bảo, trai giới, niệm Phật. Lúc sống
th́ phụng dưỡng tấm thân ấy, mất rồi bèn
hướng dẫn linh hồn, khiến cho cha mẹ thần
siêu tịnh vực, nghiệp giũ sạch trần lao, nở
hoa sen thượng phẩm, được Phật thọ
kư ngay trong một đời. Đấy chính là ḷng hiếu
thế gian mà kiêm ḷng hiếu xuất thế. Đó chỉ
là luận định hạn cục xét theo lẽ phụng
dưỡng cha mẹ. Nếu có thể thọ tŕ giới
cấm của Phật, kính cẩn vâng giữ chẳng phạm,
đừng làm các điều ác, vâng hành các điều thiện,
nương theo ngôn giáo của Phật, tự hành, dạy người,
khiến cho khắp mọi người đoạn Hoặc,
chứng Chân, siêu phàm nhập thánh. Đó gọi là rốt ráo
hiếu thuận cha mẹ, sư tăng, Tam Bảo, chính là
ḷng hiếu đến tột cùng. Hành hiếu như thế,
sẽ mau chóng thành Phật. Phàm những ai có tâm, ai nấy đều
nên gắng công!
(Chống
trượng nói): Hiếu đạo nếu hay hành như
thế, kham gọi chẳng thẹn đấng sanh ta!
61)
Toàn thể Ngũ Giới là Ngũ Thường, hệt
hai tấm gương chiếu sáng nhau. Tuy nói giáo lư chia thông,
cục, đều dẫn quần mê về cố hương.
Ư
chỉ chánh yếu của Ngũ Giới chẳng khác Ngũ
Thường; nhưng sự chế định của chúng
có thân, sơ, lợi ích có xa gần khác biệt. Nếu gộp
lại để nói th́ không giết là nhân, chẳng trộm
tức là nghĩa, chẳng tà dâm tức là lễ, chẳng
nói dối tức là tín, không uống rượu th́ tâm chẳng
tối tăm, tinh thần sáng suốt, ư chẳng loạn,
chí ngưng lặng, tức là trí. Nếu nói tường tận,
Nho là bậc quân tử thịnh đức, nhưng xa ĺa bếp
núc. Tuy nói “dân là ruột thịt của ta, loài vật và
ta như nhau”, nhưng miệng vẫn thích ăn loài vật,
vẫn thường ăn thịt mà tâm t́nh thoải mái,
chẳng sanh ḷng đau thương. Phật th́ từ lớn
tới bé, hữu h́nh, vô h́nh, phàm những ǵ có tâm đều
khiến cho được sống yên vui. Sống th́ chẳng
nỡ ḷng tổn thương, chết th́ hướng dẫn
sao cho thoát khổ. Xa là tháo gỡ trói buộc của nghiệp
quá khứ, vun bồi sẵn huệ căn cho vị lai. Dạy
người khác tŕ giới, chính là thoạt đầu kiềm
chế cái thân chẳng làm. Kế đó, chế ngự không
cho tâm dấy lên, dần dần đạt tới t́nh kiến
nhân ngă đều không, Năng lẫn Sở cùng diệt, phá
sạch vô minh, khôi phục tâm tánh vốn có, xé rách lưới
trần lao, vào cửa giải thoát. Có thể nói tam giới
đại sư, tứ
sanh từ phụ, thánh trong các thánh, trời trong các trời,
đức vượt càn khôn, ân sâu biển thẳm. Giới
không sát sanh đă là như thế, những giới c̣n lại
có thể suy luận tương tự! Trừ kẻ Nhất
Xiển Đề, có ai nghe thấy mà chẳng tin nhận?
(Chống
trượng nói): Phật ân trải kiếp chẳng tuyên
nói. Dạy sơ đầu mối để thương ḿnh.
62)
Hổ thẹn là mặc áo nhẫn nhục, muốn chứng
Pháp Thân chớ tạm ĺa. Vạn hạnh do đây đều
trọn đủ, chóng thành vô thượng Phật Bồ
Đề.
Tín,
Giới, Văn, Xả, Huệ và Tàm, Quư được gọi
là Thất Thánh Pháp Tài, thật sự thuộc về đạo
trọng yếu để xuất trần. Năm món trước
là Tài, hai món sau là người giữ “tiền tài” ấy. Tài
mà chẳng có người giữ, sẽ lập tức mất
mát. V́ thế, hai pháp Tàm và Quư càng thiết yếu. Tàm chính là
trong tâm tự cảnh giác, kiêng dè, tôn trọng linh tánh của
chính ḿnh. Quư là tuân theo cảnh hạnh bên ngoài để hướng
dẫn ḿnh, ngưỡng mộ chư thánh. Cừ Bá Ngọc
tuổi đă năm mươi, biết bốn mươi
chín năm trước sai trái. Khổng Tử lo lắng chính
ḿnh đức chẳng tu, học chẳng giảng, nghe đạo
nghĩa mà chẳng thể thực hiện, chẳng thể
sửa đổi điều bất thiện. “Bốn điều
đừng” (tứ
vật)[53]
của Nhan Uyên, ba lượt phản tỉnh[54] của
Tăng Tử, Mạnh Tử nói “con người chẳng
thể không hổ thẹn”. Thánh hiền thế gian không
ai chẳng dốc sức nơi đây! Kinh Di Giáo dạy: “Tàm
sỉ chi phục, ư chư trang nghiêm, tối vi đệ
nhất” (Trong các thứ trang nghiêm, áo hổ thẹn là bậc
nhất). Tàm như cái móc sắt, có thể chế ngự điều
phi pháp của con người. V́ thế, thường phải
nên hổ thẹn, chớ nên tạm rời. Nếu ĺa hổ
thẹn, sẽ đánh mất các công đức. Kinh Niết
Bàn dạy: “Thế gian hữu nhị chủng kiện
nhi. Nhất giả, bất tự tác tội; nhị giả,
tác dĩ năng hối” (Thế gian có hai loại người
dũng mănh: Một là chẳng tự ḿnh tạo tội, hai
là đă tạo mà có thể sám hối). Do vậy biết trọn
đủ hổ thẹn th́ phiền năo hoặc nghiệp sẽ
thẳng thừng tiêu trừ, công đức trí huệ mau được
viên măn. Khế nhập giới thể vô tác, chứng thanh tịnh
Pháp Thân. Các ông nếu có thể thường giữ ḷng hổ
thẹn, nghiêm tŕ tịnh giới, th́ lợi ích vô biên sẽ
tự chứng biết.
(Chống
trượng nói): Nhờ Phật giáo hóa, chứng linh tánh.
Toàn nhờ hổ thẹn để nêu gương.
63)
Pháp ngữ thượng đường khi phương
trượng của Bạch Vân Quán ở kinh đô là Cao Nhân
Động[55]
cúng trai tăng một ngàn vị
Tam
giáo vốn cùng một cội nguồn, đừng nên mờ
mịt chỗ căn nguyên. Một vầng trăng sáng chiếu
trời thẳm. Vạn nước ngàn sông, bóng hiện tṛn.
Nay
có vị đạo hữu hộ pháp phương trượng
của Bạch Vân Quán ở kinh đô là ông Cao Nhân Động
lănh thọ chân truyền của ngài Trụ Hạ[56], là lănh
tụ của huyền môn, giữ ngôi phương trượng
của Bạch Vân, là chỗ quy y của giới hoàng quan[57], muốn
tham bái đức Phổ Môn nên đến triều bái danh sơn
bậc nhất. Để rộng
kết các duyên, do vậy, cúng trai tăng một ngàn vị.
Lại do tâm mong đạo lớn, chí tại lợi người,
ân cần thỉnh sơn tăng thăng ṭa thuyết pháp, muốn
khiến cho đại chúng đều biết: Giáo tuy có ba,
đạo vốn chẳng hai. Sơn tăng chẳng khỏi
làm phiền mộc thượng tọa[58] v́ đại
chúng chỉ ra (nâng gậy chống nói): Đại chúng nh́n
xem, vật này là Nho ư, là Đạo ư, là Thích ư? Nếu
có thể ngay lập tức hiểu rơ, Nhân lẫn Ngă đều
cùng trừ sạch, chuyện tham học đă xong! Một
c̣n chẳng thể được, ba lại do đâu mà lập?
Nếu như chưa thấu hiểu, chẳng khỏi dây
cà dây muống một phen. Đạo chẳng có h́nh tướng,
như Xuân về hoa nở trên cành. Người có đây
kia, như gương cổ chứa đựng h́nh tượng.
Tuy vạn tượng đều khác, nhưng vốn đều
được chứa đựng trong một tấm
gương! Dẫu ngàn hoa đua sắc, nhưng vốn do
cùng một khí sanh trưởng. Toàn bộ nhiều chính là một,
toàn thể biệt chính là đồng. Hiểu rơ điều
này, pháp nào cũng
viên thông, chuyện nào cũng đều là đạo. Từ
sáng tới tối, cử động, nói năng, không ǵ chẳng
phải là đạo thường hằng của Lăo Tử,
là đạo chí thành của Khổng Tử, giống như
đạo “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh
thành Phật” của tổ Đạt
Ma đến từ trời Tây. Tuy vậy, ông Cao là bậc đầy
bản lănh đă thông thạo một mối, chẳng ngại
tiến cao hơn một bậc nữa. Hăy nói khi kính rỗng,
hoa rụng th́ sẽ lại như thế nào? Hăy thử nêu
một câu chuyển ngữ xem sao? (Hồi lâu sau mới nói):
Bạch
vân hiện bóng vị tiên nhân. Quạt lụa hồng cầm
che ngang mặt. Gấp nên chú mục nh́n tiên nhân, đừng
ngắm chiếc quạt trong tay Ngài.
64)
Pháp ngữ thượng đường khi ông Thịnh
Cung Bảo cúng trai tăng một ngàn vị (nhằm
cầu thọ)
Thánh
triều ca ngợi bậc hiền thần[59],
lo liệu trong ngoài vận nước yên. Xưa được
Như Lai từng phó chúc, măi v́ phạm vũ giữ yên b́nh.
Nay
có người quê ở vùng… thuộc huyện Vũ Tấn,
phủ Thường Châu, tỉnh Giang Tô, sống tại vùng
miếu… thuộc huyện Thượng Hải, phủ Tùng
Giang của tỉnh nhà, là vị tín chủ quan viên hộ pháp,
[đảm nhiệm chức] nghị ḥa khâm sai đại
thần, trông coi tu bổ đường sắt, tức đại
nhân Hạnh Tôn Thịnh Cung Bảo, đọc sách học đạo,
thường ôm ḷng Y Lữ[60] sâu xa, cai
trị bằng ḷng nhân, tạo lập công nghiệp rộng
lớn như Châu Thiệu[61], ḥa hợp
trong ngoài nước để pḥ tá kim luân, tạo phước
cho dân đen, đốc thúc tu bổ đường sắt.
Đă gieo cội gốc từ xưa, cảm bổng lộc
và chức vị cao quư tột bậc, tiếp tục tu phước
nhân, nguyện tuổi thọ chẳng có hạn lượng,
cầu cho gia đạo được hưởng tốt
lành, chúc nước nhà an khang. V́ thế, sai quư sứ đến
núi dâng hương, cúng dường đức Phổ Môn Đại
Sĩ, trai tăng một ngàn vị tăng già, cung cấp chi
dụng cho trọn khắp
các tĩnh thất, khiến cho ngôi phạm vũ càng được
tỏa sáng rạng ngời. Khẩn khoản thỉnh sơn
tăng thăng ṭa thuyết pháp. Sơn tăng chẳng tránh
khỏi làm phiền mộc thượng tọa thừa dịp
chỉ bày. (Giơ gậy chống nói): “Đă thấy hay chưa?”
(giộng gậy nói): “Đă nghe hay chưa?” Mọi người
nếu đỉnh đầu có mắt, đối với
chuyện này sẽ thấy nghe thân thiết, há chỉ đặc biệt thẳng
thừng khế nhập Phật tâm, mà c̣n tiếp nối huệ
mạng của Phật bao kiếp, nhanh chóng thấu hiểu
tự tánh, hoằng dương Thiền đạo trong tương
lai, mới biết ông Thịnh thọ bằng hư không, xưa
nay luôn thường hằng chẳng diệt, trí vượt
hơn nhật, nguyệt. Hễ hiểu rơ tối tăm, sẽ
chẳng mê muội. Các người cộng sự thân thiết
đều thành nhân tài cho nước nhà, con cháu đều
hành xử làm khuôn mẫu cho cơi đời, lại c̣n khiến
cho dân Trung Hoa và ngoại quốc đều cùng hưởng
nhiều phước, trong ngoài nước cùng thâu nhận
ngàn điều tốt lành. Vương đạo thênh thang,
ai nấy đều tuân hành. Chẳng dấy động can
qua (chẳng phát động chiến tranh), ngồi hưởng
thái b́nh. Hăy nói một câu cuối cùng làm như thế nào đây?
(Chống
trượng nói): Ứng hiện thân tể quan, rộng phát
Bồ Đề tâm. Muốn chứng vô lượng thọ,
hăy nghe ngược Tánh Nghe.
65)
Pháp ngữ thượng đường dành cho Trương
Trấn Đài thuộc huyện sảnh của tỉnh nhà
Nhiều
đời gieo sâu mạ thiện căn, chống đỡ
pháp môn và thánh triều. Nếu hỏi “Tây lai”[62]
Đệ Nhất Nghĩa, xin xem nắng sớm rực mây
hồng.
Nay
có vị quan viên tín chủ hộ pháp thuộc bổn sảnh
là vị Tổng Nhung[63] đại
nhân Trương Liên Thắng và phu nhân Lư Thị, [cùng với]
thiếu gia… đến núi dâng hương, đảnh lễ
Viên Thông Đại Sĩ. Trên là chúc vận mạng quốc
gia hưng thịnh, an lành, khởi lập đạo tràng
Thủy Lục để cầu siêu cho cha, mẹ, họ hàng,
đặc biệt sắm sửa Như Ư Đại Trai cúng
khắp tăng chúng để rộng kết duyên lành. Khẩn
khoản thỉnh sơn tăng thăng ṭa tuyên dương
Đệ Nhất Nghĩa Đế. Sơn tăng chẳng
khỏi tùy cơ chỉ dạy, lên ṭa giảng giải. C̣n
như Tổng Nhung vốn văn thông, vơ giỏi, làm rường
cột bảo vệ, ḷng tinh trung chói ḷa nhật nguyệt,
hạo khí lấp trời đất. Quân oai thấu đến
nơi xa, họa loạn tiêu mất khi chưa manh nha. Hăy nói
xem là sức của ai khiến thành ra như thế? Nếu
có thể nhận biết, th́ người đă khuất mau
lên Tịnh Độ, chính ḿnh phước thọ dài lâu.
Lan quế sum suê dưới thềm, cha con cùng phục vụ
cho minh quân. Dẫu chẳng biết, minh châu vẫn trong chéo
áo y như cũ; thấy sắc, nghe tiếng rơ rành rành. Chống
đất nâng trời ngang vũ trụ, công huân cơi đời
chẳng thể lường. Tuy là như thế, do trai tăng
bèn vui mừng chúc tụng một câu là như thế nào vậy?
(Chống
trượng nói): Thái b́nh vốn do tướng quân định,
vui được tướng quân hưởng thái b́nh.
Xét
ra huyện Định Hải vào đời Thanh được
gọi là Định Hải Sảnh, Phổ Đà Sơn thuộc
vào Định Hải, nên nói “bổn sảnh” tức
là nói về Định Hải vậy (Ngày Ba Mươi
tháng đầu mùa Đông năm Mậu Tuất, Huệ
Dung ghi).
66)
Pháp ngữ thượng đường dành cho Trấn Đài
X… thuộc bổn sảnh.
Thơ
vịnh hộ thành, ngăn kẻ xấu. Oai trấn bốn
phương, giữ nước nhà. Lại c̣n một điều
rất kỳ đặc, ḷng son ủng hộ pháp vương
gia.
Nay
có vị quan viên hộ pháp thuộc bổn sảnh, tức
vị đại nhân X… là Tổng Nhung trong quân đội, trước
kia, do có chuyện đến núi đảnh lễ Phổ Môn
Đại Sĩ, cầu cho bờ
cơi nước nhà an ninh. Lại muốn rộng kết duyên
lành, cúng dường khắp các đại chúng. Do công vụ
chẳng rảnh rỗi, liền ngồi thuyền đi
ngay. Nay phu nhân là bà X…. lại đến dâng hương, đặc
biệt xếp đặt trai soạn để bổ sung
cho nguyện trước. Khẩn khoản thỉnh sơn
tăng thăng ṭa thuyết pháp.
(Giơ
trượng lên, nói): Đây là đao giết người,
là gươm cứu sống người. Quân đội nương
vào sức ấy, thân làm lá chắn, bảo vệ hoàng triều.
Quân oai vang dội thấu nơi xa, tiêu họa loạn khi c̣n
chưa manh nha! Phu nhân nương theo sức ấy, chí ngưỡng
mộ đấng Đại Giác, chuyên dốc tu Tịnh nghiệp,
làm bậc mẫu nghi trong chốn khuê pḥng, làm bậc thầy
khuôn mẫu cho nữ giới. Phật pháp và quân pháp vốn
chẳng hề hai! Thất niệm và đắc niệm, vốn
là nhất tâm. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật,
vọng niệm ngay lập tức diệt trừ, tự nhiên
chẳng vướng bận mảy may, muôn điều lo nghĩ
hoàn toàn tiêu trừ. Ngũ Uẩn không tịch, sáu căn thanh
tịnh, đoạn Tam Hoặc, thành tựu tam-muội, vạn
thiện trọn mà vạn đức phô bày toàn vẹn, cũng
giống như tính toán đúng lẽ, chế ngự địch
đúng cách, quân đội sẽ đao chẳng nhuốm máu,
ngoài đồng chẳng phải đốt lửa truyền
tin. Tự nhiên kẻ đầu sỏ trao đầu, lũ
hùa theo thói ác sẽ quay về nương náu. Toàn thể kẻ
giặc cướp cừu oán đều thành con đỏ,
bọn phản nghịch đều trọn thành dân lành. Pháp chẳng
có tướng nhất định, gặp duyên liền đề
cao. Thấu hiểu th́ chuyện ǵ cũng là đạo, pháp
nào cũng đều thật. Đao giết người,
kiếm cứu người, hai đằng vốn chẳng
mâu thuẫn! Hăy tham cứu cặn kẽ chuyện “nhấc
lên, bỏ xuống”; sắc trước, thanh sau thường
hiển hiện. Tuy vậy, do
trai tăng mà vui mừng khen ngợi một câu là như thế
nào vậy?
(Chống
trượng nói): Tướng quân, chủ soái thường
tỉnh táo. Chẳng động can qua, vững thái b́nh. Can gián,
mưu toan[64]
pḥ thánh chúa. Sẵn sàng ra sức[65]
giúp dân đen!
67)
Pháp ngữ thượng đường dành cho ông Hà
Minh Phủ ở Quang Châu, tỉnh Hà Nam cầu thọ cho cha
mẹ (cha con đều cùng làm Tri Huyện)
Chu
Tứ[66]
nguồn sâu thấu Ngân Hán[67].
Chưa gơ cửa Thiền há tri âm? Tánh và thiên đạo
nơi tiếp xúc, hiếu tâm tha thiết là Phật tâm.
Nay
có vị tín chủ là quan viên hộ pháp là ông Hà, v́ cầu cho
cha là X… và mẹ là Y… núi thọ cao chót vót, biển phước
rộng sâu, tước vị tăng cao, thân tâm khỏe mạnh,
an vui, chẳng ngại trèo núi vượt biển đến
lễ Phổ Môn đại sĩ, chí thành khẩn thiết,
nhiều phen chúc thọ, mong [Tam Bảo] rủ ḷng từ mẫn,
mau được cảm thông. Lại đặc biệt sắp
đặt cỗ chay thơm thảo, rộng kết duyên lành,
khẩn khoản thỉnh sơn tăng thăng ṭa thuyết
pháp. Sơn tăng đẹp ḷng v́ họ hiếu tâm chân thật
thiết tha, chẳng thể không đến đây để
chỉ dẫn lẽ hướng thượng. Hiếu kinh
dạy: “Phù hiếu, thiên chi kinh dă, địa chi nghĩa
dă, dân chi hạnh dă” (hiếu là đạo lư to lớn của
trời, là nghĩa của đất, là hạnh của dân).
Kinh Phạm Vơng dạy: “Hiếu danh vi giới, hiếu danh chế chỉ,
hiếu thuận chí đạo chi pháp” (Hiếu gọi
là giới. Hiếu được gọi là ngăn dứt,
chế ngự. Hiếu thuận là pháp chí đạo). Do vậy
biết một niệm hiếu tâm này thấu suốt xưa
nay, bao trùm hư không, bất sanh, bất diệt, không khởi
đầu, chẳng kết thúc, nơi phàm chẳng giảm,
tại thánh không tăng, mê bèn oan uổng luân hồi trong sáu
nẻo, ngộ th́ mau chóng chứng Viên Thông, có phạm vi bao
trùm trời đất, là hóa công tạo ra vạn tượng.
Nếu có thể hiểu biết, không chỉ đích thân thấy
thọ lượng của cha mẹ dài lâu như trời với
đất, phước trạch của cha mẹ như non
cao, biển rộng, lại c̣n khiến cho tâm pháp của Khổng
Tử muôn đời thường sáng ngời, huệ mạng
của Như Lai trải trần kiếp vĩnh viễn tiếp
nối. Trên là báo trọng ân của vua và cha mẹ, dưới
là mở lối cho dân đen nhiều phước, c̣n ngại
ngần ǵ nữa chăng?
(Chống
trượng nói): Trống rền, chuông vọng, tiếng
inh tai. Nắm tay, dựng phất, ngó chằm chằm. Tâm
pháp Như Lai vốn chẳng ẩn, thấy nghe chồng chất
vốn v́ ông!
Ấn Quang Pháp
Sư Văn Sao Tam Biên (phần bổ sung)
phần 3 hết
[1] Lục Ngoạn (278-341) c̣n có tên là Lục Lưu,
tự là Sĩ Dao, quê ở Ngô
Huyện thuộc Ngô Quận (nay là thành phố Tô Châu tỉnh
Giang Tô), là một nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông
Tấn. Ông là người rộng lượng, nhân hậu,
đă có tiếng tốt từ bé. Về sau, ông làm thuộc
cấp của thừa tướng Tư Mă Duệ; sau đó, thăng lên làm Thị Trung, Lại
Bộ Thượng Thư, Thượng Thư Tả Bộc
Xạ. Khi loạn Tô Tuấn xảy ra, ông cùng với anh là
Lục Diệp thành công khuyên phản tướng quy hàng. Do
vậy, ông được thăng làm Thượng Thư Lệnh
rồi được phong làm Tư Không. Ông khiêm hư, luôn
chú trọng tiến dẫn nhân tài. Chức quan Tư Không được
lập ra dưới thời Tây Châu, là một
trong năm chức quan (Tư
Mă, Tư Khấu, Tư Sĩ, Tư Đồ, và Tư Không)
trực thuộc quyền
quản trị của Lục Khanh (Thái Tể, Thái Tông, Thái
Sử, Thái Chúc, Thái Sĩ, Thái Bộc). Tuy vậy, có người đă căn cứ
theo Châu Lễ, cho rằng Tư Không là một chức vị
thuộc Lục Khanh. Theo họ, Lục Khanh gồm Trủng
Tể, Tư Đồ, Tông Bá, Tư Mă, Tư Khấu, và Tư
Không. Tư Không chưởng quản
công tác thủy lợi, kiến tạo cung điện. Đến
thời Tây Hán, bỏ chức quan này. Tới đời Hán
Thành Đế, vua lại gọi Ngự Sử Đại
Phu là Đại Tư Không. Đời Đông Hán, chức
quan Tư Không lại đảm nhiệm công tác chưởng
quản kiến tạo. Từ đời Minh - Thanh trở
đi, Tư Không là danh xưng để gọi Công Bộ
Thượng Thư.
[2] Gọi là Phật Thất Phổ Thông tức
là chia làm sáu thời niệm Phật, có nghỉ ngơi, có
khai thị, khác với Tinh Tấn Phật
Thất suốt 24 tiếng đồng hồ đều niệm
Phật không gián đoạn, người nào mệt sẽ
lui ra, nghỉ ngơi, hoặc tùy theo ban đă
phân chia mà niệm Phật, nhưng trong
Niệm Phật Đường không lúc nào chẳng có người
niệm Phật.
[3]
Lục Thập Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm bản sáu mươi quyển)
c̣n gọi là Cựu Hoa Nghiêm hoặc Tấn kinh, được
dịch bởi ngài Phật Đà Bạt Đà La vào thời
Đông Tấn. Bát Thập Hoa Nghiêm (bản dịch tám mươi
quyển) c̣n gọi là Tân Hoa Nghiêm hoặc Đường
kinh, do ngài Thật Xoa Nan Đà xứ Vu Điền dịch
vào đời Đường. Tứ Thập Hoa Nghiêm (bản
bốn mươi quyển) tức phẩm Nhập Bất
Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm, do ngài Bát Nhă dịch vào thời Đường
Đức Tông. Bản này c̣n được gọi là Trinh
Nguyên kinh (do dịch trong niên hiệu Trinh Nguyên).
[4] Nam Tạng c̣n gọi là Hồng Vũ Nam Tạng
tức là Đại Tạng Kinh được khắc tại
Nam Kinh theo lệnh của Minh Thái Tổ vào năm Hồng Vũ
thứ năm (1372). Tạng kinh này được giao cho chùa
Tưởng Sơn giảo đính, chủ tŕ, mất 27 năm
mới hoàn thành; chia thành 1.600 bộ kinh, gồm
hơn 7.000 quyển.
Bắc Tạng c̣n gọi là Vĩnh Lạc
Bắc Tạng được khắc in tại Bắc
Kinh. Công tŕnh này bắt đầu từ năm Vĩnh Lạc
19 (1421) đến năm Chánh Thống thứ năm (1440) mới
hoàn thành, gồm 1.621 bộ kinh. Thanh Tạng tức Càn Long Đại
Tạng Kinh, chủ yếu dựa theo Vĩnh Lạc Bắc
Tạng.
Cao Ly Đại Tạng Kinh (c̣n gọi là Bát
Vạn Đại Tạng Kinh) v́ gồm 81.259 khuôn mộc bản.
Đây là Đại Tạng Kinh được khắc vào
năm 1087 khi quân Khiết Đan xâm chiếm vương triều
Cao Câu Ly. Công tŕnh giảo chánh đă tiến hành từ năm
1011. Bản kinh này dựa chủ yếu vào bản Đại
Tạng Kinh đời Bắc Tống. Mộc bản lần
đầu bị quân Mông Cổ thiêu hủy phần lớn
khi họ xâm
lăng Cao Ly vào năm 1232. Cho đến năm Cao Tông thứ
24, vua Cao Ly là Cao Tông đă
cho khắc lại Đại Tạng Kinh, măi cho đến
năm 1249 mới hoàn thành. Đó chính là Bát Vạn Đại
Tạng Kinh hiện thời, được lưu trữ
tại chùa Hải Ấn từ năm 1398, được
coi là quốc bảo của Đại Hàn.
[5] Thư Sách Tạng chính là Đại Tạng Kinh in theo lối sách
vở thế tục, tức là các trang dùng chỉ khâu gáy đóng
thành quyển (thường gọi là Thư Sách, hay Phương Sách), khác với lối Phạm
Sách (tức là kinh trên một trang giấy dài, cuộn thành
trục, hay xếp thành sách, không khâu gáy).
[6] Tổ Ấn Quang có pháp danh là Thánh Lượng,
cho nên đôi khi Ngài tự xưng là Lượng.
[7]
Hải Diêm là một huyện trực thuộc thành phố
Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang.
[8] Đông
Lâm là đạo tràng của Sơ Tổ Huệ Viễn. Chùa
Phạm Thiên tức Phạm Thiên Giảng Tự thuộc Hàng
Châu (tỉnh Chiết Giang) ở phía Đông chân núi Phượng
Hoàng. Chùa được xây trong niên hiệu Càn Đức (963-968)
đời Bắc Tống. Thoạt đầu có tên là chùa
Nam Tháp, đến niên hiệu Trị B́nh (1064-1067) mới đổi
thành Phạm Thiên. Đây là đạo tràng của vị tổ
thứ 11 của Tịnh tông tức ngài Tỉnh Am Thật
Hiền Tư Tề (1686-1734). C̣n một ngôi chùa khác là Phạm
Thiên Thiền Tự ở Hạ Môn (tỉnh Phước Kiến)
được khai sơn trong niên hiệu Khai Hoàng đời
Tùy. Chùa này cũng rất nổi tiếng với các vị
thiền sư như Hoàng Bá, Huệ Nhật, Quán Chí, Vô Vi,
Pháp Tướng, Vô Nghi, cũng như các vị danh tăng
thời cận đại như Hội Tuyền, Ngọc
Cơ, Tánh Nguyện, Hoằng Nhất, Hoằng Thuyền, Ấn
Thuận v.v… nhưng hoàn toàn chẳng liên quan đến Tịnh
Tông.
[9]
Thái Quân là tước hiệu gia phong cho mẹ của các
quan viên. Từ đời Đường, mẹ của
quan viên ngũ phẩm và tứ phẩm được phong
là Thái Quân. Đến đời Tống, tùy theo cấp bậc
của con mà mẹ được phong là Quận Thái Quân
hay Huyện Thái Quân. Sau này, mẹ của những người
có chức có quyền đều được gọi là Thái
Quân. Bà này là mẹ của ông Vương, họ Uông, nên gọi
là Vương mẫu Uông thái quân.
[10] “Cách vật trí tri” theo Tống Nho là thấu
hiểu sự vật để đạt đến sự
thấu hiểu tột cùng, nhưng tổ Ấn Quang lại
giảng là “cách trừ vật dục, phương khả trí tri”, tức là trừ khử ham muốn đối
với vật chất th́ mới đạt đến trí
huệ chân thật.
[11] Lũng Hữu (隴右) có nghĩa là bên phải của rặng
Lũng Sơn (tức Lục Bàn Sơn, 六盤山), c̣n được gọi là Lũng
Tây, v́ người Hán quan niệm phía Nam là chánh diện, nên
phía Đông là trái, phía Tây là phải (nếu đối mặt
với phương Nam). Do vậy, Lũng Hữu và Lũng
Tây có cùng nghĩa. Lũng (隴) là tên gọi tắt của tỉnh Cam Túc. Lũng
Hữu thường được hiểu là danh xưng
chỉ chung toàn thể tỉnh Cam Túc. Ở đây, Lũng
Hữu chỉ nhằm nói đến huyện Lũng Tây,
thuộc thành phố Định Tây, tỉnh Cam Túc. Huyện
này được coi là tỉnh hội của Cam Túc từ
xưa, các tuyến đường hành lang Hà Tây và con đường
tơ lụa thời cổ đều đi ngang khu vực
này.
[12]
Núi Nam Ngũ Đài thuộc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm
Tây, vốn là phần tiếp nối của rặng Chung
Nam Sơn. Do núi này có năm ngọn cao vót là Đại Đảnh,
Thanh Lương, Văn Thù, Linh Ứng, và Quán Âm, nên gọi là
Ngũ Đài. Huyện Diệu ở phía Bắc tỉnh Thiểm
Tây cũng có một rặng núi gồm năm ngọn, nên cũng
gọi là Ngũ Đài. Gọi là Nam Ngũ Đài Sơn nhằm
phân biệt với rặng Ngũ Đài ở huyện Diệu.
[13]
Thư Căn tức là phần giấy trắng ở mỗi
trang sách đối diện với gáy sách. Do sách in theo lối
cổ của Trung Hoa, sẽ in theo từng cột dọc,
từ phải qua trái, phần đối diện với gáy
sách được gọi là Thư Khẩu. Trong mỗi
trang sách, phần trang sách gần Thư Khẩu sẽ được
gọi là Thư Căn. Phần này thường dùng để
in ḍng chữ ghi tên sách, số trang, số quyển, và tên chương
sách.
[14] Nguyên
văn là “bào dữ” tức là nói tắt của thành ngữ
“dân bào, vật dữ”, có nghĩa: Dân chúng là ruột thịt
của ta, loài vật cùng có sanh mạng giống như ta. Thành
ngữ này có hàm nghĩa “yêu thương trọn khắp muôn
loài”.
[15] “Hàm
thức” chính là hữu t́nh chúng
sanh.
[16] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ
là Thỉnh Quán Âm Tiêu Phục Độc Hại Đà La Ni
Chú Kinh, do ngài Trúc Nan Đề dịch vào thời Đông Tấn.
Trong kinh này, ngoài việc xưng
tán danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát, c̣n có nhiều
bài thần chú như Thập Phương Chư Phật Cứu
Hộ Chúng Sanh Thần Chú, Phá Ác Nghiệp Chướng Tiêu Phục
Độc Hại Đà La Ni, Đại Cát Tường Lục
Tự Chương Cú Cứu Khổ Thần Chú v.v… Kinh này được
tông Thiên Thai hết sức coi trọng, Quán Âm Sám Pháp hoàn toàn
dựa vào kinh này. Tổ Trí Giả (Trí Khải đại
sư) đă viết sớ giải cho bộ kinh này. Trong bộ
Ma Ha Chỉ Quán, Tổ c̣n dựa theo kinh này để xiển
minh Phi Hành Phi Tọa tam-muội.
[17] Loạn Hồng Dương tức là loạn
Thái B́nh Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn và Dương Tú Thanh lănh
đạo, nên sử sách thường gọi là loạn Hồng Dương. Hồng
Tú Toàn xuất thân từ thôn Phước Nguyên, huyện Hoa
tỉnh Quảng Châu. V́ nhiều lần đi thi không đậu,
hắn đâm ra bất măn với thời thế và chánh thể
đương thời. Do
đọc sách của hội truyền đạo phương Tây, hắn ta tự tuyên bố ḿnh gặp Thượng
Đế trong mơ, tự xưng được Thượng
Đế khải thị hắn
ta là con thứ hai
của chúa trời, gọi
chúa Jesus bằng anh!
Sẵn tâm trạng bất măn với chế độ khoa
cử và tài khéo ăn nói, hắn lập ra đạo Bái Thượng Đế
để sách động dân chúng làm loạn. Năm 1850, sau khi chiếm được
một số vùng tại Quảng Tây, hắn ta thành lập chính quyền mới, gọi
là Thái B́nh Thiên Quốc, tự xưng là thiên vương.
Chỉ trong nửa năm, quân Thái B́nh
Thiên Quốc chiếm 16 phủ, 600 huyện. Tới năm
1853, chiếm luôn cả Nam Kinh, măi cho đến năm 1864,
Thái B́nh Thiên Quốc mới
bị quân đội Thanh triều dẹp tan. Trong cơn chiến
loạn này, các chùa miếu tại
Hoa Nam bị tổn thất nặng nề do quân Thái B́nh Thiên
Quốc đă phá hủy, cướp bóc.
[18] Tứ Tri là câu nói nổi tiếng của Dương
Chấn được chép trong Hậu Hán Thư. Theo đó,
khi Dương Chấn làm quận thú, đă tiến cử Vương Mật ở Kinh Châu làm ấp lệnh Xương Ấp. Về sau,
Dương Chấn có chuyện đi qua Xương Ấp, Vương
Mật đang đêm t́m đến yết kiến, đem ngàn vàng dâng
biếu ḥng tạ ơn. Dương
Chấn quở trách, Vương Mật cứ nài nỉ, lại
nói: “Đêm khuya không ai hay biết!” Dương Chấn quở: “Trời biết,
đất biết, tôi biết, ông biết, sao lại nói là
không ai hay biết”. Do vậy, “gia phong Tứ Tri” là từ ngữ để
ca ngợi người liêm khiết, chánh trực, không làm chuyện
ǵ đáng phải hổ thẹn.
[19] Tiên khảo, tiên tỷ (先考先妣) là từ ngữ kính xưng để con cái
nói về cha mẹ đă mất.
[20]
Giang Chiết là danh xưng phiếm chỉ vùng đất ở
phía Nam Trường Giang (sông Dương Tử) và phía Bắc
sông Tiền Đường, bao gồm các vùng Hoàn Nam (phía Nam
tỉnh An Huy), Tô Nam (phía Nam tỉnh Giang Tô), Thượng Hải,
Chiết Giang. Đầu đời Thanh, chữ Giang Chiết
dùng để gọi chung hai tỉnh Giang Nam (tức Giang Tô,
Thượng Hải và An Huy ngày nay) và tỉnh Chiết Giang.
[21] Hoạt Phật (Phật sống) là tiếng
người Hoa dùng để dịch chữ Tulku (hóa thân).
Ban Thiền lạt-ma (Panchen Lama) là vị lănh tụ tinh thần
đứng hàng thứ hai sau Đại Lai Lạt Ma của
tông phái Gelugpa tại Tây Tạng. Panchen là từ ngữ do
hai chữ Pandita và Chenpo (vĩ đại) ghép lại, có nghĩa
là “đại học giả”. Vị Ban Thiền Lạt
Ma đầu tiên là Lobsang Chokyi Gyaltsen (1570-1662) vốn là thầy
của Đại Lai Lạt Ma đời thứ năm
(Lobsang Gyatso); nhưng do truy tặng ba đời “hóa thân” trước
đó của Ban Thiền, nên sử Tây Tạng thường
gọi Lobsang Chokyi Gyaltsen là
Ban Thiền Lạt Ma đời thứ tư. Do Đại Lai Lạt Ma thứ năm tự
tuyên bố là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, cho
nên ông
ta tôn xưng thầy ḿnh
(tức Ban Thiền Lạt Ma) là hóa thân của A Di Đà Phật. Đại Lai Lạt
Ma đời thứ năm yêu cầu Ban Thiền chọn
tu viện Tahsilhunpo làm trụ xứ của ḿnh. Từ đó,
các đời Ban Thiền Lạt Ma đều là tu viện trưởng
của tu viện này. Năm 1713, vua Khang Hy nhà Thanh phong tặng
danh hiệu Erdeni (được người Hoa phiên âm là Ngạch Đức Ni, có nghĩa là “báu vật”
trong tiếng Măn Châu). Từ đó, các chiếu chỉ của
Trung Hoa luôn gọi vị này là Ban Thiền Ngạch Đức
Ni Hoạt Phật. Vị Ban Thiền lạt-ma được nói ở đây là Ban Thiền
Lạt Ma đời thứ chín (Thubten Choekyi Nyima), do bất
ḥa với Đại Lai Lạt Ma đời thứ 13 (Ngawang
Lobsang Thupten Gyaltso Jigdral Chokley Namgyal) khi ông này cầm tù các cận
thần của Ban Thiền, hạn chế
quyền lực của Ban Thiền. Ban Thiền Lạt Ma bèn
bỏ trốn sang Mông Cổ, t́m cách cầu viện nhà Thanh
can thiệp. Ông này được bầu làm Ủy Viên trong
Mông Tạng Ủy Viên Hội của chánh quyền Dân Quốc
và mất tại Trung Hoa vào năm 1939.
[22] Bổ Đát Lạc Ca là cách phiên âm khác của
chữ Potalaka (Phổ Đà, Phổ Đà Lạc Già).
[23] Đây là sách dạy gieo quẻ, thường gọi là Quán Âm Linh Thiêm (thường
đọc trại là Quán Âm Linh Xăm) gồm ba mươi
hai quẻ. Tương truyền sách này do ngài Huyền Trang được
đích thân Quán Thế Âm Bồ Tát chỉ dạy để
tiên đoán cát hung, hay thưa hỏi khi có nghi vấn.
[24] “Pháp
ngữ thượng đường” là các lời khai thị trước khi ngồi
thiền, hay một dịp lễ lạc nào đó (chẳng hạn
trai tăng), do vị Trụ Tŕ, hay Viện
Chủ, hay một vị tôn túc được đại
chúng cử ra nói pháp ngữ nhằm nhắc nhở hành nhân
tấn tu, hay trao một đề tài cho hành nhân tham cứu.
Cấu trúc của pháp ngữ thường là mở đầu
bằng một bài kệ bốn câu, những câu nói sau đó,
sẽ triển khai ư chính của bài kệ ấy. Kết thúc
bằng việc người tuyên pháp ngữ giơ cao hay gơ
thiền trượng, kết lại bằng một hai câu
kệ để đại chúng suy gẫm sâu hơn.
[25] Âm thanh thuyết pháp của đức Phật
chỉ dùng một loại tiếng mà tất cả các loài
chúng sanh đều hiểu. Hơn nữa, tùy theo căn tánh
mà mỗi loại chúng sanh đều lănh ngộ khác nhau, đều
đạt được pháp ích. Ngoài ra, mỗi câu mỗi
chữ của Phật đă nói đều chứa đựng
vô lượng ư nghĩa. Do vậy, âm thanh thuyết pháp của
đức Phật được gọi là “viên âm”.
[26] Đây là một thí dụ
trong kinh Pháp Hoa: Đứa con của ông trưởng giả
giàu có bỏ cha trốn đi, lênh đênh nhọc nhằn, khổ sở, làm thuê kiếm sống. Ông trưởng giả
đi kiếm con, trải qua nhiều thành, dừng chân tại một nơi. Đứa
con lưu lạc đến đó, trưởng giả ngầm
nhận biết, thuê nó làm công. Lần hồi từ dọn
phân rồi giao cho nó trông coi gia sản. Tới khi gần chết,
trưởng giả nhóm họp đại chúng và thân quyến,
báo cho mọi người biết
gă nghèo làm công chính là con ḿnh, giao gia sản cho nó.
[27] Nguyên văn “kư ngữ nam tuân chư thượng
sĩ” (nhắn lời đến các bậc thượng
sĩ đang đi về phía Nam): “Đi về phía Nam”
là đi tham học, dựa theo ư Thiện Tài đồng tử
tham bái Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, được Ngài
điểm ngộ, dạy tham học với các vị thiện
tri thức. Vị nào cũng dạy Thiện Tài đi về
phương Nam. Do đó, từ ngữ “nam tuân” được
dùng để chỉ sự tham học với các vị thiện
tri thức.
[28] “Gịng” ở đây là tâm thức chấp
trước. Kinh thường dùng chữ “tuần lưu”
(循流, theo gịng) để nói chúng sanh do một niệm vô minh dấy
lên, chấp trước tác dụng dẫn khởi từ
chân tâm thể hiện qua các căn khi tiếp xúc cảnh, nẩy
sanh chấp trước. Chấp trước càng mê sâu, càng
bị cuốn theo căn, trần, cảnh, nẩy sanh vô
lượng phiền năo.
[29] Dây leo cuốn quanh thân cây cổ thụ sẽ
cao hơn các loài cỏ cây thấp lè tè quanh đó.
[30] Ư
nói: Hành nhân thường thấy kinh văn nói cơi Cực Lạc
cách Sa Bà mười vạn ức cơi Phật, bèn nghi Cực
Lạc quá xa xôi, làm sao có thể văng sanh về đó được,
nhưng nếu so với số lượng giọt mưa
trong suốt một đời người th́ con số giọt
mưa c̣n nhiều hơn khoảng cách ấy rất nhiều.
[31] T́m ṭi, thấu hiểu.
[32] Ư nói các giáo môn khác đều nhằm dẫn
đường cho chúng sanh tiến nhập pháp Tịnh
Độ.
[33] Đây là thí dụ về căn tánh của
chúng sanh được nói trong phẩm Dược Thảo
của kinh Pháp Hoa.
[34] Bá Nha tên thật là Du Thụy, tên tự là Bá
Nha, người nước Sở, nhưng làm quan
Thượng Đại Phu nước Tấn. Ông là người
tài hoa, nổi tiếng về đàn cổ cầm thời ấy,
đến nỗi Tuân Huống ca ngợi: “Cổ nhân
chơi đàn th́ cá cũng phải ngoi lên nghe, Bá Nha chơi
đàn khiến sáu
ngựa ngừng
ăn”. Tử Kỳ
tên thật Chung Huy, tên tự là Tử Kỳ, là một danh
sĩ ẩn dật, sống bằng nghề đốn củi
để nuôi cha mẹ già. Khi phụng chỉ đi sứ
sang nước Sở, trở về ngang qua sông Hàn, gặp
dịp trăng thanh gió mát, Bá Nha gảy đàn th́ dây bị đứt.
Ngờ là thích khách, Bá Nha sai quân truy lùng, bắt được
Tử Kỳ. Tử Kỳ cho biết ḿnh là một tiều
phu, nghe tiếng đàn hay quá, nên dừng chân nghe. Khi Bá Nha đàn,
Tử Kỳ thốt lên: “Nguy nguy hồ nhược cao sơn,
đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Ṿi vọi
thay như núi cao, lưu loát thay như nước chảy).
Hai người bèn kết nghĩa kim lan, hẹn Trung Thu năm
sau sẽ lại gặp gỡ. Đúng hẹn, Bá Nha đến
gặp mặt th́ Tử Kỳ đă chết, Bá Nha bảo
thế gian không có ai tri âm, treo đàn trước mộ Tử
Kỳ, suốt đời không gảy cổ cầm nữa!
[35] Năng tu là người tu tập, hay cái tâm
tu tập. Sở tu là đối tượng được
tu, tức là các pháp do đức Phật dạy, hoặc hiểu
theo nghĩa hẹp
hơn là các hạnh môn trong Phật pháp.
[36] Tức là ngài Quy Sơn Linh Hựu (771-853), người
sáng lập tông Quy Ngưỡng trong nhà Thiền. Ngài họ
Triệu, sống vào đời Đường, quê ở Trường
Khê, Phước Châu, nay là
huyện Hạ Phố thuộc thành phố Ninh Đức,
tỉnh Phước Kiến. Ngài là đệ
tử thủ tọa của tổ
Bách Trượng Hoài Hải. Do Ngài vâng lệnh Tổ sang Đại Quy Sơn khai sơn chùa
Đồng Khánh tại Đàm Châu, nên thường được
gọi là Quy Sơn Linh Hựu, hay Quy Sơn. Đệ tử
xuất sắc của Ngài là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch
hoằng truyền pháp mạch của thầy.
V́ thế, tông phái Thiền này được
gọi là Quy Ngưỡng Tông.
[37] Do câu kinh này quá hàm súc, chúng tôi không biết chuyển
ngữ như thế nào, đành để nguyên và dẫn lời giảng
của pháp sư Tịnh Giới như sau: “Tương
văn tŕ Phật Phật: Chữ Phật thứ nhất là
nói đến mười phương chư Phật, chữ
Phật thứ hai là Phật pháp. Câu này có ư nói quư vị đă
có thể nương vào tánh Nghe trong Nhĩ Căn để
nghe và thọ tŕ pháp môn của mười phương chư
Phật, v́ sao chẳng “tự văn văn”. Chữ Văn
thứ nhất chỉ Nhĩ Căn, chữ thứ hai chỉ
tánh Nghe, tức bổn lai diện mục. Ư nói: V́ sao quư vị
chẳng từ tánh Nghe mà xoay ngược lại nghe nơi
tự tánh. Do đó, câu kế tiếp là nhắc lại biện
pháp tu tập Nhĩ Căn Viên Thông, do xoay lại nghe nơi
tánh Nghe, cho nên
từ ngay nơi cái tánh ấy mà chứng ngộ vô thượng
đạo”.
[38] Theo pháp sư Thánh Nghiêm, “nhập lưu”
chính là tương phản với “xuất lưu”. Xuất
lưu là tâm thức duyên theo thanh trần, hướng ra ngoài
rong ruổi. C̣n Nhập Lưu là chẳng chấp vào Thanh Trần,
mà từ sự cảm nhận Thanh Trần bèn quán ngược
lại để thấy được tánh Nghe. V́ thế,
gọi là Nhập Lưu. Do đối tượng của
tánh Nghe là Thanh Trần chẳng bị chấp trước,
giống như vứt bỏ, lăng quên, nên gọi là Vong Sở
(quên mất đối tượng nhận biết của
tâm tánh).
[39] Nguyên văn “tác tiếp, vi lâm” (作楫爲霖, làm mái chèo, làm mưa dầm) vốn là thành ngữ dùng để ca ngợi
bậc hiền thần có tài giúp vua trị nước an b́nh,
thịnh vượng. Điển tích này xuất phát từ
truyện Phó Duyệt trong sách Thượng Thư. Khi vua Vũ
Đinh nhà Thương t́m được Phó Duyệt, đă
phong ông làm Tể Tướng, căn dặn: “Triêu tịch
nạp hối, dĩ phụ đài đức. Nhược
tế cự xuyên, dụng nhữ tác châu tiếp. Nhược
tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm” (Sáng tối
ta nghe lời ông khuyên răn để giúp tăng phẩm đức
của chính ḿnh. Như vượt sông lớn, dùng ông làm mái
chèo. Nếu gặp năm hạn hán to lớn, dùng ông làm mưa
dầm).
[40] Bạch chùy tức là vị duy-na gơ chuông
hay khánh, nói một bài kệ thỉnh pháp sư thăng ṭa thuyết pháp.
[41] Nguyên văn “bất tiếc mi mao tha địa”.
Đây là một thuật ngữ trong Phật giáo, hàm ư chẳng
màng thân ḿnh bị trừng phạt như thế nào, luôn dốc
sức v́ người khác thuyết pháp. Cổ nhân nói do nhiệt
thành thuyết pháp mà lỡ nói pháp sai lầm, khiến cho kẻ
khác hủy báng pháp, cho nên mắc quả báo lông mày rụng sạch.
[42] Đây là cách nói ví von, núi h́nh (h́nh sơn) tức
thân thể, khối uẩn (uẩn tụ) tức ngũ uẩn.
Ư nói chân tâm chẳng thuộc vào vật chất hay tâm thức.
[43] Đây là lời của học tṛ ca ngợi
đạo của Khổng Tử. Trong thiên Tử Hăn sách Luận
Ngữ, Nhan Uyên nói: “Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên,
chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu” (ngửa
trông lên th́ càng cao, càng dùi th́ càng cứng, mới thấy đằng
trước, bỗng đă ra sau).
[44] Năm thời tức năm giai đoạn
giáo hóa của đức Thế Tôn (theo quan điểm phán
giáo của tông Thiên Thai): Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng,
Bát Nhă, và Pháp Hoa - Niết Bàn. Tám giáo chính là tứ hóa nghi (Đốn,
Tiệm, Bí Mật và Bất Định) và tứ hóa pháp (Tạng,
Thông, Biệt, Viên).
[45] Tức điển tích “niêm hoa vi tiếu”.
Theo kinh Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết
Nghi, Đại Phạm Thiên Vương cúng dường đức
Phật cành hoa Kim Ba La, đức Phật cầm cành hoa giơ
lên, im lặng không nói ǵ. Chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm
cười, Ngài bèn
được đức Phật phó chúc chánh pháp nhăn tàng.
[46] Tức điển tích tổ Đạt Ma
sau khi đối đáp với Lương Vũ Đế
chẳng hợp thời cơ, bèn lên Tung Sơn “cửu niên
diện bích” (chín năm nh́n vào vách) tại chùa Thiếu Lâm.
V́ thế, tông Tào Động của Nhật Bản khi tọa
thiền thường xoay lưng ra ngoài, nh́n vào vách.
[47] Đây là điển cố “ma chuyên thành
kính” (mài ngói thành gương) được chép trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục. Mă Tổ Đạo
Nhất đến nhập chúng tại chùa Bát Nhă ở Nam
Nhạc của ngài Hoài Nhượng, ngày ngày đóng cửa
dụng công. Ngài Hoài Nhượng gơ cửa, Đạo Nhất
không thèm trả lời. Ngài Hoài Nhượng cứ gơ cửa
ầm ầm măi, Đạo Nhất chịu không nổi, phải
mở cửa ra. Hoài Nhượng hỏi: “Đại sư
hằng ngày ngồi chết khô trong ấy, nếu chẳng
có công phu Chỉ Quán, làm sao có thể thành Phật được?”
Mă Tổ không hiểu ư Hoài Nhượng, nẩy sanh phiền
năo, bèn đóng sập cửa, tiếp tục tọa Thiền.
Hoài Nhượng bèn lấy một viên ngói, dùng sức mài cành
cạch trước thảo am của Mă Tổ. Mài suốt
nhiều ngày, âm thanh hết sức chói tai. Mă Tổ chịu
không nổi, bực bội hỏi: “Thiền sư, Ngài mài
ngói để làm ǵ cơ chứ?” “Ta mài ngói muốn làm thành
một tấm gương”. “Mài
ngói làm sao thành gương cho được?” Hoài Nhượng
cười hỏi: “Mài ngói chẳng thành gương, ngồi
Thiền khô khốc làm sao thành Phật cho được?”
Mă Tổ nghe nói, hoát nhiên khai ngộ, theo học với Hoài
Nhượng, rốt cuộc thành bậc tông sư trong nhà
Thiền.
[48] Bảy nẻo (thất thú) chính là lục
thú (lục đạo), do tách thần tiên ra khỏi thiên đạo
và quỷ đạo, nên thành bảy đường.
[49] Nguyên, hanh, lợi, trinh là các phẩm đức
của quẻ Càn theo kinh Dịch. Có nhiều cách giải thích
bất nhất. Thuyết phổ biến nhất là như thiên
Văn Ngôn của sách Dịch Càn viết: “Nguyên là tăng
trưởng điều lành, Hanh là tăng thêm điều tốt
đẹp, Lợi là ḥa hợp đạo nghĩa, Trinh là điều
chủ yếu của sự việc”. Khổng Dĩnh Đạt
chú giải: “Nguyên là khởi đầu, Hanh là thông thuận,
Lợi là ḥa hợp, Trinh là chánh đáng. Ư nói quẻ Càn này có
phẩm đức, tánh chất thuần Dương, tự
nhiên có thể dùng khí Dương để sanh khởi vạn
vật, khởi nguồn hanh thông, có thể khiến cho vạn
vật hài ḥa, mỗi thứ đều được lợi,
lại có thể khiến cho sự vật kiên cố, chắc
chắn”.
[50] Lô Xá Na dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịnh
Măn.
[51] Tam Hiền là ba mươi địa vị
Bồ Tát gồm Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng. Thập Thánh chính là mười địa vị
Bồ Tát từ Sơ Địa cho đến Thập Địa.
[52] Theo kinh Lăng Nghiêm, chàng Diễn Nhă Đạt
Đa soi gương, trông thấy đầu ḿnh bèn sợ hăi phát cuồng!
[53] Theo sách Luận Ngữ, thiên Nhan Uyên có nói: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật
thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”
(điều phi lễ chớ nh́n, chuyện phi lễ chớ
nghe, điều phi lễ chớ nói, chuyện phi lễ chớ
làm).
[54] Thiên Học Nhi trong sách Luận Ngữ chép:
Tăng tử nói “ngô nhật tam tỉnh ngô thân, vị nhân
mưu nhi bất trung hồ? Dữ bằng hữu giao, nhi
bất tín hồ? Truyền bất tập hồ?” (Ta hằng
ngày ba lượt phản tỉnh thân ḿnh, mưu tính cho người
khác có trung thực hay không? Chơi với bạn bè có giữ
chữ tín hay không? Được dạy bảo có tu tập
hay không?)
[55] Cao Nhân Động (?-1907), pháp danh là Minh Động,
tự Vân Khê, hiệu Thọ Sơn Tử, quê ở Tế
Ninh, tỉnh Sơn Đông, là Phương Trượng đời thứ 12 của Bạch
Vân Quán ở Bắc Kinh. Bạch Vân Quán chính
là một trong ba đại tổ đ́nh của Toàn Chân đạo
Long Môn phái (tức chi phái Toàn Chân Giáo do Trường Xuân Tử
Khưu Xứ Cơ sáng lập). Đạo quán này được
thành lập dưới đời Nguyên. Thoạt đầu,
đây là Thiên Trường Quán, do Khưu Xứ Cơ tu ở
đó, nên Thành Cát Tư Hăn hạ chiếu đổi tên thành
Trường Xuân Cung. Sau khi Khưu Xứ Cơ chết, đại
đệ tử là Doăn Chí B́nh kiến lập Bạch Vân Quán
ở phía Đông cung ấy.
[56] Tương truyền, trước khi bỏ
chức quan cưỡi trâu xanh đi về phía Tây, Lăo Tử
giữ chức quan của Trụ Hạ Sứ (柱下使, tức Ngự Sử đại phu), cho nên
Trụ Hạ thường là danh xưng để gọi
Lăo Tử.
[57] Hoàng quan (黄冠)
có nghĩa là cái mũ có màu vàng.
Trong một số nghi lễ
của Đạo giáo, đạo
sĩ phần nhiều đội mũ màu vàng khi cúng bái nên
gọi là “hoàng quan”.
[58] Tức là thiền trượng. V́ khi nói pháp
ngữ, vị thiền chủ thường dùng thiền trượng
để giơ lên hay giộng xuống nhằm biểu thị
thiền ư.
[59] Nguyên văn “ngu đ́nh tăng vịnh cổ
quăng lương”. Vua Ngu Thuấn được coi là
bậc thánh quân đời cổ, do đó chánh quyền của
nhà vua được gọi là Ngu Đ́nh. Về sau, từ
ngữ này được mở rộng thành ư nghĩa “triều
chánh tốt đẹp, thịnh trị, cai trị bằng
nhân ái”. “Cổ quăng lương” là hàng bầy tôi đắc
lực, hiền năng.
[60] Y Lữ tức là hai bậc hiền thần
nổi danh thời cổ, tức Y Doăn đời Thương
và Lữ Thượng (Lă Thượng, Khương Tử
Nha) thời Châu.
[61] Tức Châu Công Đán và Thiệu Công Thích,
hai ông này đều là bậc hiền thần pḥ tá Châu Thành
Vương.
[62] Tức công án nổi tiếng
của nhà Thiền “vân hà tổ sư Tây lai ư” (như thế
nào là ư của tổ sư từ trời Tây đến
Trung Hoa?)
[63] Tổng Nhung (總戎) là danh
xưng chung để gọi người nắm quyền
chỉ huy quân sự tại một địa phương
thời cổ. Đời Đường, Tổng Nhung là
danh xưng chỉ Tiết Độ Sứ (節度使, quyền
oai rất lớn), nhưng đến đời Thanh th́ Tổng
Nhung chỉ là Tổng Binh (總兵,chỉ huy quân sự cấp huyện hoặc
thị sảnh, hoặc hương trấn). Do ở đây,
ông Trương được gọi là Trấn Đài (鎮臺), tức
chỉ là chức quan Tổng Binh của một hương
trấn thuộc huyện Định Hải. Đôi khi Tổng
Nhung chỉ có nghĩa là “chỉ
huy” hoặc “cầm quân”, như trong phần Vũ Đế
Kỷ của sách Châu Thư chép: “Đế tổng nhung
bắc phạt” (vua đích thân cầm quân chinh phạt
phương Bắc).
[64] Nguyên văn “bổ cổn, điều
canh” (補袞調羹): “Bổ cổn”
là can gián khi vua phạm lỗi lầm. “Điều canh”
nghĩa đen là nêm nếm cho canh có vị ngon lành, nghĩa
bóng là châm chước, toan tính sao cho mọi việc êm đẹp,
đúng mực, thích đáng.
[65] Nguyên văn “vi lâm tác tiếp” (爲霖作楫, làm mưa dầm, làm mái chèo) vốn là thành
ngữ dùng để ca ngợi bậc hiền thần có tài
giúp vua trị nước an b́nh, thịnh vượng. Điển
tích này xuất phát từ truyện Phó Duyệt trong sách Thượng
Thư. Khi vua Vũ Đinh nhà Thương chiêu mộ được
Phó Duyệt, đă phong ông làm Tể Tướng, căn dặn:
“Triêu tịch nạp hối, dĩ phụ đài đức.
Nhược tế cự xuyên, dụng nhữ tác châu tiếp.
Nhược tuế đại hạn, dụng nhữ tác lâm”
(Sáng tối ta nghe lời ông khuyên răn để giúp tăng
phẩm đức của chính ḿnh. Như vượt sông lớn,
dùng ông làm mái chèo. Nếu gặp năm hạn hán to lớn,
dùng ông làm mưa dầm).
[66] Chu Tứ tức là Chu Thủy và Tứ Thủy
là hai con sông lớn tỉnh Sơn Đông. Nước Lỗ
xưa thuộc tỉnh Sơn Đông. Hai con sông này bắt
nguồn từ huyện Tứ Thủy chảy lên bắc
liền hợp lưu thành một, đến huyện Khúc
Phụ (quê hương của Khổng Tử) bèn tách thành hai
gịng. V́ thế, cổ nhân hay dùng
chữ Chu Tứ để nói đến Khổng Tử.
[67] Ngân Hán, tức Ngân Hà.