Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 1

占察善惡業報經

隋天竺沙門菩提登譯

夢參老和尚講

(giảng lần thứ ba, năm 2009)

Hán dịch: Thiên Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời Tùy

Chủ giảng: Lăo ḥa thượng Mộng Tham

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo bản đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo - https://www.liaotuo.com)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Ghi chú của người chuyển ngữ

         

          Lăo pháp sư Mộng Tham đă giảng kinh này ba lần, được ghi lại thành các bản giảng kư như sau: Bản thứ nhất mang tựa đề Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Giảng Kư (cư sĩ Ngô Bích Đào chỉnh lư, do Nữu Ước Bồ Đề Tâm Học Hội ấn hành năm 1989). Bản thứ hai ghi là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Tân Giảng (giảng năm 1999 tại chùa Phổ Thọ, núi Ngũ Đài), và bản thứ ba chỉ ghi tựa đề Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (năm 2009). Do bản Giảng Kư đă có người chuyển ngữ sang tiếng Việt từ lâu (không đề tên người dịch), so với lần giảng thứ hai th́ lời giảng lần thứ ba chi tiết hơn, nên chúng tôi chọn chuyển ngữ bản này (và ghi tựa đề là Lược Giảng Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để độc giả khỏi lầm với chánh kinh) nhằm thỏa măn tâm nguyện giới thiệu các bài giảng của Địa Tạng Tam Kinh ḥng khích lệ chính ḿnh cũng như các đồng tu củng cố tín tâm, tin sâu nhân quả, sám trừ nghiệp chướng, phát Bồ Đề tâm, dũng mănh niệm Phật.

 

Tập 1

 

          Chư vị Bồ Tát, chúc mọi người cát tường như ư, thân tâm khỏe mạnh.

          Nay tôi sẽ thưa với mọi người lư do v́ sao phải học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, nói đến nhân duyên lịch sử của bộ kinh này. Bộ kinh này kể từ khi được phiên dịch sang tiếng Hán, không có ai học. Kinh được phiên dịch từ đời Tùy [bởi ngài Bồ Đề Đăng], măi cho đến đời Minh, Ngẫu Ích đại sư dùng thần thông, trí huệ, quan sát Nam Thiệm Bộ Châu, muốn t́m năm vị tỳ-kheo thanh tịnh, nhưng chẳng có! Ngài mong thọ giới, nhưng chẳng thể đắc giới. Do vậy, t́m trong Đại Tạng Kinh làm cách nào th́ mới có thể đạt được giới thanh tịnh. V́ thế, Ngài t́m thấy kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo.

          Bắt đầu từ Ngẫu Ích đại sư, do Ngài chẳng thể chế ra chiêm sát luân tướng theo như lời dạy của Địa Tạng Vương trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo; chẳng có cách nào, bèn dùng giấy để viết thành những lá thăm [thay cho mộc luân]. V́ thế, chẳng có cách nào truyền bá, hoằng dương pháp này. Thế nhưng Ngài đă viết một bản chú giải cho kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, đặt tên là Chiêm Sát Nghĩa Sớ. Sau đấy, pháp này cũng bị đoạn tuyệt, chẳng có ai học. Măi cho đến thời pháp sư Hoằng Nhất, pháp sư Hoằng Nhất cũng chuyên môn hoằng dương pháp môn Địa Tạng, phát nguyện hoằng dương pháp môn Địa Tạng. Pháp sư Hoằng Nhất đă nói với tôi: “Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, kinh Đại Thừa Đại Tập Thập Luân, và kinh Địa Tạng, đều thuộc về hệ thống Hoa Nghiêm”. Có khi chúng ta coi kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo như một thứ bói toán, phê bát tự[1], [cách nh́n ấy] hoàn toàn sai lầm, chẳng phải là ư nghĩa ấy! Hàm nghĩa của kinh này là: Do hiện thời chúng ta đang sống trong thời đại Mạt Pháp, nghiệp chướng sâu nặng, mà cũng chẳng có cách nào liễu giải nhân duyên, cũng chẳng có cách nào liễu giải chính ḿnh. Do vậy, phải dùng phương thức chiêm sát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Cách chiêm sát này là do sức thần thông của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Tuy chúng ta không có thần thông, nhưng chúng ta cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát ban thần thông cho chúng ta, tức là quư vị dùng cách chiêm sát trong kinh Chiêm Sát sẽ có thể biết quá khứ, có thể biết hiện tại, và cũng có thể biết vị lai. Do vậy, pháp sư Hoằng Nhất đề xướng pháp này. Ngài đề xướng, tuy không giảng, nhưng v́ Ngài có kỹ thuật, do Ngài học công nghệ, bèn dựa theo thước tấc lớn nhỏ trong kinh Chiêm Sát để chế tạo Chiêm Sát Luân thành công.

          Đức Phật dạy kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo c̣n có một danh nghĩa khác là “pháp môn Căn Tụ”. “Căn Tụ” (根聚): Căn là sáu căn, cộng thêm sáu trần, cùng với sáu thức, tức là Căn, Trần, Thức, và Căn Bản Vô Minh cùng tụ tập lại. Cho nên pháp môn này được gọi là “pháp môn Căn Tụ”. Sau khi quư vị học pháp môn này, sẽ có thể kiên cố tín tâm của chính ḿnh. V́ hiện thời, tín tâm của chúng ta chẳng trọn đủ. Các đạo hữu đang hiện diện đều là đệ tử Tam Bảo tin Phật; chúng ta thường tự cho rằng chính ḿnh có sự tín ngưỡng, có tín tâm. Nhưng xét theo giáo nghĩa do đức Phật đă dạy, tín tâm của chúng ta chỉ là hân nhạo tâm (欣樂心, tâm ưa thích), chẳng phải là tín tâm! Theo như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đă dạy về tín tâm, th́ tín tâm có tiêu chuẩn nhất định. Mỗi đạo hữu chúng ta hăy tự nhớ lại, suy ngẫm, quư vị có phải là tín tâm trọn đủ hay không? Tiêu chuẩn của Tín tâm trọn đủ là ǵ? Nhận biết niệm trước dấy lên điều ác, bèn ngưng dứt chẳng cho niệm sau dấy lên, th́ coi như là bậc Bồ Tát có tín tâm. Vị Bồ Tát có tín tâm có thể thị hiện thần thông. Hiện thời, chúng ta chẳng có, chẳng thể chế ngự tâm niệm của chính ḿnh, chẳng thể “một ư niệm không đúng, bèn ngay lập tức ngăn dứt, chẳng để cho nó tiếp tục”. Mỗi vị đạo hữu có thể kiểm nghiệm chính ḿnh, [để nhận biết] sức mạnh nơi tín tâm của quư vị như thế nào, có đủ tŕnh độ này hay chưa? Nếu quư vị đủ tŕnh độ này, quư vị thuộc vào địa vị Sơ Trụ, đă viên măn Thập Tín, tiến nhập địa vị Sơ Trụ. Nói theo tiêu chuẩn trong kinh Hoa Nghiêm, địa vị Sơ Trụ sẽ có thể tới một trăm thế giới thị hiện thành Phật, thần thông diệu dụng khá lớn. Vậy nên chúng ta hăy tự kiểm nghiệm chính ḿnh, chúng ta có sức mạnh như thế hay chăng? Chẳng có! Do vậy, tín tâm của chúng ta chẳng trọn đủ! Chúng ta phải khiến cho tín tâm của chính ḿnh kiên định, cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát gia tŕ.

          Nhân duyên phát khởi bộ kinh này là do Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về đức Phật thỉnh cầu, Ngài nói: Trong thời Mạt Pháp, thời gian Mạt Pháp của đức Phật là một vạn năm, hoặc là năm ngàn năm, hoặc ba ngàn năm [tùy theo cách nói khác biệt trong mỗi kinh]. Khi đó, tín tâm của chúng sanh chẳng kiên định. Chẳng kiên định tức là tín tâm thoái thất, chẳng thể nào [tinh tấn tu tŕ] cho đến khi liễu sanh tử, thâm nhập Phật pháp! Tín lực của quư vị chẳng đủ, tức là tín tâm thoái chuyển. Làm thế nào để tín tâm của quư vị có thể kiên định, củng cố tín tâm của quư vị? Đấy chính là nhân duyên phát khởi của bộ kinh này. V́ quư vị có tín tâm th́ thiện căn mới có thể tăng trưởng, mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng, khiến cho thiện nghiệp tăng trưởng, ác nghiệp tiêu mất. Thuở đức Phật tại thế, đă có loại hiện tượng này, huống hồ trong thế gian này, đức Phật đă diệt độ gần ba ngàn năm, tín tâm của chúng ta chẳng thể kiên định, chẳng thể trọn đủ. V́ sao bộ kinh này có nhân duyên tất yếu phải giảng giải, mà vẫn một mực chẳng thể lưu truyền rộng khắp? V́ mọi người đều bị một thái độ thuộc về h́nh thái xă hội quấy phá, coi pháp này như một kiểu bói toán, phê bát tự, xem tướng! Đức Phật ngăn cấm [các h́nh thức ấy], đó là phạm giới. V́ sao khi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh đức Phật dạy, đức Phật chẳng nói với Ngài? V́ đức Phật đă chế giới, không cho xem bói, phê bát tự, mọi người đều biết điều này! Đức Phật bảo Địa Tạng Vương Bồ Tát hăy nói [pháp môn này], Địa Tạng Vương Bồ Tát có phương tiện thiện xảo. Bồ Tát hành hết thảy phương tiện thiện xảo thuộc về Bồ Tát đạo. Hơn nữa, đối với pháp môn này, Bồ Tát hết sức thiện xảo phương tiện, lại c̣n có sức thần thông hết sức rộng lớn. V́ thế, đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát bèn nói ra pháp môn này.

          Pháp môn này từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cộng thêm nhăn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, ba lần sáu mười tám, cộng thêm căn bản vô minh, thành mười chín món. Do vậy, pháp môn Căn Tụ này căn cứ trên sáu căn, sáu thức của quư vị, và cảnh giới sáu trần hợp lại, tụ hợp lại một chỗ. Quư vị chiêm sát nghiệp chướng nào nặng nề? Do tất cả những tâm niệm chúng ta dấy lên sẽ cảm quả, quư vị cũng chẳng có cách nào, cho nên khi dấy lên cái nhân, quư vị hăy chuyển hóa nó, đừng để cho nó cảm vời cái quả. Đó chính là ngay khi quư vị khởi tâm động niệm, sẽ có thể ngăn dứt. V́ thế, bộ kinh này được gọi là pháp môn Căn Tụ, ư nghĩa đại khái là như thế đó.

          Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đại lược chia thành hai quyển thượng và hạ. Quyển thượng nhằm chuẩn bị cho quyển hạ. [Pháp môn này] c̣n được gọi là pháp môn Căn Tụ, c̣n gọi là pháp môn Tâm Địa. Tâm địa trong quyển hạ căn cứ vào quyển thượng: Nghiệp chướng của quư vị đă tiêu, th́ quư vị mới có thể nhập hai thứ quán đạo, cảnh giới Nhất Thật. Cảnh giới Nhất Thật chính là giáo nghĩa Hoa Nghiêm, hai thứ quán đạo là tu Định tu Huệ. Thoạt đầu, quư vị chẳng đạt được lợi ích từ quyển thượng, chẳng thuần thục cách tu hành [được dạy] trong quyển thượng, mà tu ngay vào quyển hạ, sẽ tuyệt đối chẳng thành công! Khi quư vị tu hành mỗi ngày, sáng sớm thức dậy, dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát một phen, [ḥng nhận biết]: Hiện thời, quư vị hăy c̣n nghiệp chướng sâu hay cạn, loại nghiệp chướng nào nặng nề? Hoàn toàn chẳng phải là nghiệp chướng nơi mỗi căn, mỗi môn đều nặng, nó có trọng điểm. Sau khi quư vị học tập pháp môn này, sẽ có thể biết trong thân, miệng, ư, phương diện nào [nghiệp chướng] nặng nhất để sám hối đúng trọng điểm. Cho đến khi quư vị đă học, mỗi sáng sớm thức dậy, bèn chiêm sát một lần. Quư vị hăy chú ư, ngày hôm nay chúng ta nên làm ǵ? Ta làm thế nào để tiêu diệt nghiệp chướng của ta? Hễ nghiệp chướng tiêu mất, trí huệ sẽ tăng trưởng. Trí huệ càng tăng trưởng, nghiệp chướng càng tiêu diệt. Hai điều này giúp nhau thành tựu. Như vậy th́ quư vị đă có trí huệ, tu hành sẽ chẳng bị vướng mắc. Đấy là đại ư tối sơ của kinh này, tôi giới thiệu đại khái đôi chút với mọi người như thế đó.

          Kinh này chỉ có hai quyển, quyển thượng và quyển hạ. Quyển thượng hoàn toàn nhằm phát khởi cho sự tu hành trong quyển hạ. Trước khi chúng ta có căn cơ ấy, quư vị có thể xem xét từng chuyện trong đời sống hằng ngày. Đấy là phương tiện thiện xảo, bổn ư của kinh hoàn toàn là để quư vị sử dụng trong tu hành. Có rất nhiều người thuộc hai chúng đệ tử tại gia (các đạo hữu), trong cuộc sống hằng ngày, quư vị hoặc là buôn bán cũng thế, mà đang truy cầu học vấn cũng thế, quư vị muốn chọn lựa hôm nay ra khỏi cửa có tốt lành hay không, có thể chiêm sát một phen. Sau khi chiêm sát, nếu [Chiêm Sát Luân] bảo quư vị chẳng cát tường. Dẫu chẳng cát tường, nhưng quư vị lại không thể nào chẳng làm, hăy lễ bái Địa Tạng Vương Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát đă dạy quư vị một phương pháp, tức là niệm danh hiệu của Ngài một ngàn câu. Niệm danh hiệu Địa Tạng Vương một ngàn câu xong rồi mới thực hiện, tai nạn ấy sẽ hóa thành cát tường. Do vậy, kinh này cần thiết khẩn yếu đối với chúng ta.

          Cần thiết khẩn yếu th́ lẽ ra phải được hoằng dương phổ biến chứ? Cũng phải có nhân duyên! Các pháp sanh từ nhân duyên; chẳng có duyên th́ sẽ chẳng được! Kể từ lúc dịch ra, kinh chẳng có ai giảng, chỉ có Ngẫu Ích đại sư soạn tác phẩm Nghĩa Sớ, pháp sư Hoằng Nhất chế tạo mộc luân (Chiêm Sát Luân), chẳng có ai chú giải. Pháp sư Hoằng Nhất chẳng giảng, Ngài để cho tôi giảng, nhưng khi Ngài (pháp sư Hoằng Nhất) đă viên tịch, tôi mới bắt đầu giảng. Phải là hữu duyên! Chẳng có duyên, quư vị có muốn giảng cũng chẳng được! Duyên có nghĩa là ǵ? Nghĩa là “thúc đẩy thành tựu”. Tôi giảng lần đầu tại Nữu Ước Bồ Đề Học Hội. Bồ Đề Học Hội là một học hội do chính pháp sư Hoằng Giác kiến lập, [thính chúng] đều là các đạo hữu chúng ta. Người nghe kinh cũng chẳng nhiều, hai ba chục người đến nghe giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Giảng lần thứ nhất vào năm 1989. Lần thứ hai giảng vào năm 1999, đúng mười năm sau, giảng tại chùa Phổ Thọ, Ngũ Đài Sơn. Giảng lần ấy, nhân duyên thù thắng hơn, chỉ riêng chúng xuất gia (đúng dịp kết hạ an cư) đă gần một ngàn vị, lại c̣n rất nhiều vị cư sĩ tại gia. Đấy là lần thứ hai, từ năm 1989 đến năm 1999. Lần này là lần thứ ba, cũng vào năm 2009, đại khái mỗi lần đều cách nhau mười năm. Chẳng phải là tôi lười nhác, mà là v́ chẳng có ai t́m tôi mời giảng. Tôi chẳng thể nói: “Để tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo cho quư vị nhé!” [Nếu nói như vậy], chắc là có người bảo tôi chẳng phải là kẻ khùng, th́ cũng là một gă ngốc! Phật pháp phải do người khác thỉnh th́ quư vị mới có thể nói. Chẳng có ai thỉnh, quư vị giảng cho người ta, họ có nghe quư vị nói hay không? Nhân duyên phát khởi lần này là do pháp sư Hoằng Giác giới thiệu, mà các vị Trần Vân Long, Dương Vận Nghi, cũng như rất nhiều đạo hữu yêu cầu tôi giới thiệu kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo với quư vị.

          Đă là Chiêm Sát th́ Chiêm là “chiêm bốc” (占卜, chiêm nghiệm, bói toán), Sát () là xem xét. Quư vị chiêm bốc rồi xem xét [điều vừa chiêm bốc ấy] có tương ứng với quư vị hay không. Kinh này luôn yêu cầu tương ứng, [giống như] ḍ số có khớp hay không! “Số” ăn khớp th́ mới có hiệu quả. Bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này đại khái chia thành ba phần. Trong lịch sử, đối với kinh điển được phiên dịch sang tiếng Hán, vào đời Tấn, luật sư Đạo An đă chia [kinh văn của] tất cả các kinh điển được phiên dịch thành ba phần: Phần thứ nhất là Tự Thuyết, phần thứ hai là Chánh Tông, tức phần nương theo giáo nghĩa trong kinh này để tu hành; phần thứ ba là Lưu Thông. Mỗi bộ kinh đều được chia như thế. Đó là quy luật mà các pháp sư giảng kinh đều tuân thủ để dựa theo từng kinh mà phán định: Phần nào trong một bộ kinh là Tự Thuyết, phần nào nhằm hiển thị đạo lư trong kinh ấy (Chánh Tông), phần nào nhằm lưu truyền trong vị lai (Lưu Thông), có ư nghĩa như thế. Chắc là mọi người đă nghe nói những điều này rất nhiều rồi, tôi không nói cặn kẽ, chỉ nói đại khái với mọi người đôi chút. Trong bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này, điều được nói đầu tiên là nhân duyên phát khởi. Nhân duyên phát khởi chính là Tự Phần. Nay chúng ta trước hết nói về Tự Phần. Tôi nói về kinh văn, mọi người hăy xem nhé!

 

          (Kinh) Như thị ngă văn, nhất thời Bà Già Bà nhất thiết trí nhân, tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dĩ thần thông lực, thị quảng bác nghiêm tịnh vô ngại đạo tràng, dữ vô lượng vô biên chư đại chúng câu, diễn thuyết thậm thâm Căn Tụ pháp môn.

          ()如是我聞。一時婆伽婆一切智人。在王舍城耆闍崛山中。以神通力。示廣博嚴淨無礙道場。與無量無邊諸大衆俱。演說甚深根聚法門。

          (Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bà Già Bà (Bhagavān, đức Thế Tôn) là đấng Nhất Thiết Trí ngự tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, dùng sức thần thông để hiện bày đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, vô ngại, cùng với vô lượng vô biên các đại chúng nhóm họp, diễn nói pháp môn Căn Tụ rất sâu).

 

          Phần này thường được gọi là Tự Phần, trần thuật bộ kinh này vừa mới khởi đầu nói về điều ǵ. Không chỉ bộ kinh này, hết thảy các kinh vừa mới khởi đầu đều là “như thị ngă văn” (Evaṃ Mayā-śrutam, tôi nghe như thế này). Mỗi bộ kinh đều là như thế. Những lời này là do vị kết tập kinh là tôn giả A Nan khi kết tập kinh điển, điều thứ nhất là khiến cho người khác tin tưởng. Sáu loại [thành tựu bắt buộc phải có trong Tự Phần của mỗi kinh] nhằm khiến cho người ta tin tưởng, “nhất thời”, đức Phật ở nơi nào, nói với người nào… Những điều ấy được gọi là Lục Thành Chứng Tín Tự (六成證信序), [hàm nghĩa] nói sáu loại pháp môn nhằm “thành” () tức thành tựu, chứng minh, chỉ ra pháp này đáng tin. Chứng Tín Tự trong Tự Phần của hết thảy các kinh đều nói như thế. V́ những lời này là do tôn giả A Nan nói khi Ngài kết tập bộ kinh này. “Như thị” là nói đến bộ kinh này, tôi đích thân nghe bộ kinh này, [nói như vậy] nhằm khiến cho mọi người tin tưởng. [Nói như thế với dụng ư]: Thứ nhất là không giả, v́ chính tôi tự ḿnh nghe được. Nghe vào lúc nào, do ai nói? Đức Phật nói.

          Phàm là kinh Phật th́ đều nói “nhất thời”, do nguyên nhân nào? Chẳng có tiêu chuẩn thời gian! “Nhất thời” tức là khi nhân duyên khiến cho người nghe và người nói gặp gỡ. Đức Phật thuyết pháp có lúc ở trên cơi trời, có khi nói trong nhân gian, có lúc nói tại quốc độ này, có khi nói tại quốc độ khác, thời gian đều chẳng giống nhau, chẳng thể dùng [tiêu chuẩn] thời gian nào để xác định thời gian [cụ thể], chỉ có thể dùng cách nói này (“nhất thời”) để ấn định thời gian. Tức là khi nhân duyên khế hợp, có người nói, tức vị pháp chủ, có người nghe (thính chúng), th́ gọi là “nhất thời”; điều kiện thời gian như thế đó!

          Phật là bậc Nhất Thiết Trí, trí huệ hết sức to lớn, trọn đủ hết thảy các trí huệ. Do vậy, Ngài có thể nói hết thảy các pháp, Ngài là người thuyết pháp. Đấy là Nhân [tức Chủ Thành Tựu trong sáu món Chứng Tín Thành Tựu].

          Ở chỗ nào? Tại thành Vương Xá (Rāja-gṛha), trong núi Kỳ Xà Quật (Gṛdhrakūṭa). Chúng ta thường gọi [núi này] là Linh Thứu Sơn (靈鷲山). Chắc là người đă từng triều bái Ấn Độ đều tới Linh Thứu Sơn. Đức Phật dùng sức thần thông trang nghiêm nơi thuyết pháp hết sức hết sức thù thắng, mầu nhiệm, thành một đạo tràng rộng răi, trang nghiêm, thanh tịnh, chẳng có chướng ngại. [Cứ h́nh dung] bao nhiêu người đến nghe, [nơi ấy] đều có thể dung nạp, sẽ có thể h́nh dung mức độ rộng lớn của nó.

          Người nghe nhiều cỡ nào? Vô lượng vô biên các đại chúng cùng nhóm họp.

          Diễn thuyết ǵ vậy? Pháp môn Căn Tụ rất sâu. Đă là rất sâu, th́ sẽ chẳng hời hợt, nông cạn, chẳng phải là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư như chúng ta thường nói. Căn Tụ là lục căn, lục trần, lục thức, mười tám giới; đó gọi là pháp môn Căn Tụ. V́ sao thêm vào chữ “thậm thâm” (甚深, rất sâu)? Thêm vào chữ “thậm thâm” nhằm phân biệt rành rẽ. Có kẻ cho rằng đây là pháp Tiểu Thừa, [nhận định như vậy] tuyệt đối sai lầm; cho nên phải nói pháp môn này “thậm thâm”, lục căn, lục trần, lục thức, mười tám giới tụ tập lại. [Đó chính là] Căn Tụ, thuận theo kinh văn [mà giảng giải như thế] .

          Nhưng đức Phật nói hết thảy các kinh, có khi là trong Tự Phẩm có Thông và Biệt. “Như thị ngă văn” là Thông, “ở trong núi Kỳ Xà Quật, thị hiện vô ngại đạo tràng, diễn thuyết pháp này” là Biệt. V́ nói pháp môn Căn Tụ, chẳng nói pháp nào khác, chẳng phải là nói kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa cũng được nói tại núi Linh Thứu. Đó là Biệt, Biệt chẳng phải là Thông, “như thị ngă văn” là Thông. Phật ngự nơi nào đó, [điều này thuộc về Xứ Thành Tựu] trong Lục Thành Chứng Tín Tự. Sáu loại ấy nhằm chứng minh pháp này đáng tin, chẳng phải là ngụy tạo, chẳng phải là tùy tiện nói ra.

          Do khi đức Phật nhập Niết Bàn, ngài A Nan hỏi đức Phật: “Sau khi đức Phật diệt độ, lúc con kết tập các kinh do đức Phật đă nói, khởi đầu nên nói như thế nào, khi kết thúc nên nói như thế nào, xin Phật quyết định”. Đức Phật bảo: “Khởi đầu th́ nhất định phải nói: Như thị ngă văn, [một thời], Phật tại chỗ nào, có các đại chúng như thế nào tụ họp tại nơi ấy”. Một đằng là thời gian, một đằng là xứ sở, một đằng là nhân sự. Đó chính cách nói theo Thời, Địa, Sự, Vật, nêu rơ pháp ấy đáng tin. Do ngài A Nan thỉnh vấn trước hết, cho nên đức Phật dạy Ngài, đầu các kinh, ông phải nên nói như thế. Nói như thế, sẽ khiến cho người ta tin tưởng. Ông nói như thế, sự tín ngưỡng của người khác sẽ được thành tựu.

          “Như thị” hàm ư: Những lời ấy chẳng phải do tôi nói, tôi chỉ được nghe, tôi chỉ là người kết tập. Ngài A Nan tỏ rơ thái độ, thể hiện lời lẽ của người kết tập kinh điển. [Sở dĩ lập ra] Tín Thành Tựu là v́ các pháp do đức Phật đă nói mênh mông như biển cả; nếu chẳng có một định nghĩa tiêu chuẩn, quư vị phiên dịch như thế nào cũng đều được, miễn sao chẳng ra ngoài biển Phật pháp, có pháp vị là được rồi. Nhưng đức Phật đă quy định, phải tuân theo quy cách ấy, để khiến cho mọi người tin tưởng. Nhất là trong bộ kinh này, bậc đương cơ là Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Phật pháp sâu như biển cả, chỉ Tín có thể nhập! Loại pháp môn Căn Tụ này rất khó khiến cho kẻ khác tin tưởng, cho nên phải nhờ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát làm người phát khởi. [Kiên Tịnh Tín] tức là thanh tịnh tín, khiến cho người khác tin tưởng, tin được! Tin được ǵ vậy? Pháp này chẳng ngụy tạo, do chính đức Phật nói, nhằm thành tựu ḷng tin, cho nên gọi là Tín Thành Tựu.

          Điều thứ hai (“ngă văn”) là đối tượng nghe. Điều thứ hai này được gọi là Văn Thành Tựu, Văn () tức là nói “ai nghe [pháp ấy]?” Pháp này đáng tin, nhưng do ai nghe, “ai nghe” chính là Văn Thành Tựu. Ngài A Nan nói, Văn là do ngài A Nan nói: “Đích thân tôi nghe đức Phật, chính tôi nghe thấy”. “Như thị” là nói pháp này do đức Phật nói, đáng tin, [c̣n “ngă văn”] là ngài A Nan minh thị: Pháp này do tôi đích thân nghe đức Phật nói. Nhưng có một thắc mắc, chẳng hạn như chúng ta nói tới kinh Địa Tạng, ngài A Nan chẳng hiện diện. Rất nhiều bộ kinh ngài A Nan chẳng có mặt tại hiện trường, cớ sao vẫn là “như thị ngă văn”? V́ trong tương lai, kinh điển sẽ được kết tập để lưu truyền cho đời sau, hễ pháp nào do đức Phật đă nói mà ngài A Nan chưa được nghe, đức Phật sẽ nói lại cho Ngài nghe. Chẳng hạn như kinh Địa Tạng, ngài A Nan không hiện diện, nhưng do ngài A Nan kết tập. C̣n có rất nhiều bộ kinh mà ngài A Nan chẳng hiện diện, có kinh là do Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và A Nan cùng kết tập, nhưng thường là do ngài A Nan đóng vai tṛ chủ yếu. Do đó, Văn Thành Tựu biểu thị chính tôi (ngài A Nan) đích thân được nghe pháp do đức Phật đă nói. Điều này thuộc về Tín Thành Tựu và Văn Thành Tựu.

          Thời Thành Tựu: Phàm [thời điểm] của các pháp do đức Phật đă nói đều là “nhất thời”, chẳng có thời gian [cụ thể]! Thời gian trên cơi trời làm sao xác định theo nhân gian cho được? Như kinh Địa Tạng được nói trên cơi trời, quư vị xác định theo thời gian trong nhân gian bằng cách nào? Do vậy, đối với thời gian ấy, chỉ nói là “nhất thời”. “Nhất thời” nhằm nói lên điều ǵ? Nghe và nói. Lúc nghe và nói, tức là thời gian đức Phật thuyết pháp ấy và chúng sanh hữu duyên cảm ứng đạo giao; do vậy, đức Phật mới nói ra pháp ấy. [Những điều vừa nói trên đây] chính là:

          1) Tín Thành Tựu (“như thị”).

          2) Văn Thành Tựu (“ngă văn”).

          3) Thời Thành Tựu (“nhất thời”): Có người nói, có kẻ nghe, có thời gian nhất định.

          Người nói là Chủ, Chủ là nói đến ai? [Kinh] do đức Phật nói, Ngài là Chủ Thành Tựu. [Như vậy là đă có bốn món thành tựu]: Tín Thành Tựu, Văn Thành Tựu, Thời Thành Tựu, và Chủ Thành Tựu. Điều thứ năm là Xứ Thành Tựu, tức là nói ở chỗ nào? Đức Phật thuyết pháp đều có một nơi chốn. Trước mỗi bộ kinh, đều có sáu loại [chứng thực] như thế, gọi là Lục Thành Chứng Tín Tự, pháp ấy có sáu loại thành tựu nên đáng tin! Ở nơi nào? Như kinh này được nói tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật. Đă có thời gian, có địa điểm, có người nghe, có vị thuyết pháp chủ, lại c̣n có đại chúng. Đức Phật thuyết pháp đều có Bồ Tát đại chúng, hoặc là có Thanh Văn đại chúng. Điều này được gọi là Chúng Thành Tựu. Phàm là một pháp hội giảng kinh, đều phải hội đủ các nhân duyên kể trên. Chẳng có sáu loại nhân duyên thành tựu ấy, th́ sẽ không được. Chúng được gọi là Lục Thành Chứng Tín Tự. Đây là tôi nghe như thế, liền nói đúng như tôi đă nghe, người nghe là ngài A Nan, người nói là Thích Ca Mâu Ni Phật, nơi chốn là núi Linh Thứu, c̣n có các Bồ Tát đại chúng; đó là Chúng [Thành Tựu].

          V́ tôi thường giảng ư nghĩa tự tại này, đó cũng là ư nghĩa “thành Phật tự tại”. V́ sao sáu loại được nói trên đây [có khi] không được phiên dịch? V́ sao không phiên dịch? Có khi phiên dịch, có khi không phiên dịch. “Chẳng dịch” là do thuộc loại ư nghĩa gia tŕ: Như Lai vĩnh viễn chẳng thuộc về phiền năo, Ngài chẳng có phiền năo. Ngài tự tại trong hết thảy các pháp, cho nên chẳng dịch. Thứ hai, trí huệ của đức Phật giống như ngọn lửa, có ư nghĩa “hừng hực, có thể nung luyện, đốt sạch hết thảy phiền năo của quư vị”. [Sắc thân của Phật] lại c̣n có ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, [cho nên] có ư nghĩa trang nghiêm. V́ đức Phật đă trọn đủ hết thảy các công đức thù thắng; do trọn đủ viên măn hết thảy các công đức thù thắng, cho nên có khi chẳng dịch. Khi đức Phật tự lợi th́ đă viên măn, đă trọn đủ, các phương tiện huệ mà Ngài dấy lên đều nhằm lợi ích người khác, lợi ích chúng sanh; trong ấy bao hàm rất nhiều ư nghĩa. Trong các kinh luận, có khi nói [về phần Chứng Tín này] rất nhiều, có lúc không nói, có khi nói theo tánh, có lúc nói theo sự tướng. Nếu nói theo tánh thể, th́ thường là giảng cho đại Bồ Tát, giống như cảnh giới được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Chuyên đối ứng với bộ kinh hay một bộ luận nào đó, mỗi thứ đều có cách nói khác nhau. Do ở đây chúng ta nói đại lược, cho nên đối với sáu loại thuộc phần Chứng Tín Tự ở đầu kinh, tôi chỉ nói đại khái đôi chút.

          V́ kinh này nhằm biểu thị những điều sắp được giảng chính là pháp môn Căn Tụ, trong một ngày, chúng ta thường xuyên đem mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhăn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, gom sáu căn, sáu trần, sáu thức, tức mười tám giới, mười tám giới hợp nhất lại được gọi là Căn Tụ. Căn Tụ chính là tụ hợp hết thảy các tướng cảnh giới lại để nói pháp môn này. Mọi người thường cho pháp này là Tiểu Thừa, v́ các điều được nói toàn là hữu tướng. Pháp môn Căn Tụ là hữu tướng, tức Căn, Trần, Thức; nhưng đấy là hàm nghĩa trong nửa bộ trước, nửa bộ sau chẳng như thế, mà sẽ là tách pháp môn Căn Tụ này ra để nói. Mỗi một căn, mỗi một trần, mỗi một thức bao hàm rất nhiều nghĩa lư. Khi tôi giảng đến phần kinh văn tương ứng, mọi người sẽ biết điều này.

          Nói sâu hơn chút nữa th́ là nói đến cái tâm của chúng ta, hàm nghĩa là “tâm có thể chuyển cảnh, sẽ giống như Như Lai”. Trong các pháp môn Căn Tụ, mỗi pháp môn đều là tâm; tâm xoay chuyển tướng cảnh giới bên ngoài th́ sẽ là Phật. Nhưng tâm chúng ta bị căn xoay chuyển, bị trần xoay chuyển, bị thức xoay chuyển. Mười tám giới đều là tâm, nhưng hễ bị chuyển, sẽ chẳng phải là tâm. Đó là mê. Cái tâm bị cảnh chuyển, quư vị thấy núi, sẽ bị chuyển theo núi; thấy nước, sẽ bị chuyển theo nước. Cái tâm không bị cảnh chuyển, mười năm trước thấy núi là núi, thấy nước là nước, mười năm giữa th́ thấy núi chẳng phải là núi, thấy nước chẳng phải là nước, mười năm sau thấy núi vẫn là núi, thấy nước vẫn là nước. Trong ba quá tŕnh ấy, lúc mười năm đầu là phàm phu, mọi người thấy núi và nước là núi và nước. Mười năm giữa, tu đạo đă thành tựu, núi chẳng phải là núi, nước cũng chẳng phải là nước. Đợi cho tới khi đạt đến cảnh giới đại Bồ Tát, đạt tới cảnh giới Phật, núi vẫn là núi, nước vẫn là nước. Đó là ư nghĩa “tùy duyên”, tùy theo hết thảy chúng sanh duyên nói như thế nào, bèn nói theo như thế đó. Pháp môn Căn Tụ có hàm nghĩa ấy. Qua tỷ dụ, mọi người sẽ lư giải hàm nghĩa của pháp môn Căn Tụ.

          Do pháp này, tức là từ pháp hữu tướng chuyển thành pháp vô tướng, từ sự tín giải hữu tướng đạt tới mục đích vô tướng, đừng nên ngờ vực, phải chuyển hóa từng bước một. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là bậc đương cơ, là duyên nhân thỉnh pháp, khiến cho bọn chúng sanh chúng ta trong đời Mạt Pháp có thể cậy vào thần lực của Phật, hoặc nương vào thần lực của Địa Tạng Bồ Tát, sử dụng Chiêm Sát Luân Tướng. Chiêm Sát Luân Tướng hoàn toàn là thần lực của Địa Tạng Bồ Tát, chỉ nương theo phương pháp do Địa Tạng Bồ Tát đă dạy để xử lư. Chúng ta chẳng có sức mạnh ấy, nhưng chúng ta dùng Chiêm Sát Luân, sẽ có thể biết quá khứ, mà cũng có thể biết vị lai. Chúng ta có một chuyện nẩy sanh, hễ chiêm sát, sẽ biết phần nào, đời nào, bộ phận nào nẩy sanh vấn đề, quư vị sẽ có thể biết. Phải giải quyết vấn đề ấy như thế nào, chẳng phải chỉ biết suông mà thôi! Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Địa Tạng Vương Bồ Tát đă dạy: Quư vị muốn chuyển hóa, muốn tu đạo, mong thành tựu, chuyển phàm thành thánh. Chẳng hạn như nói đến chuyện chuyển phàm thành thánh, chúng ta bị bệnh, bệnh viện chữa trị chẳng lành. Gieo Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Bồ Tát dạy đó là do nghiệp chướng, hoặc dạy chúng ta bái sám, hoặc dạy chúng ta niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát bao nhiêu câu đó, quư vị thực hiện đầy đủ, sẽ chuyển được nghiệp ấy. V́ nghiệp đă chuyển, tướng cũng chuyển theo. Khi nghiệp chẳng chuyển, tướng sẽ chẳng chuyển. Nhưng chuyện này phải dựa vào quư vị mà có, điều kiện đầu tiên là quư vị phải có tín tâm quyết định, chớ nên tam tâm nhị ư th́ sẽ chẳng có hiệu quả.

          V́ tâm chúng sanh phiền năo đặc biệt nặng nề, bất luận tin điều ǵ cũng đều chẳng thể kiên định, mà cũng chẳng thể nẩy sanh thanh tịnh. Nay vị đương cơ là ngài Kiên Tịnh Tín; không chỉ kiên tịnh, mà c̣n thanh tịnh, cho nên ngài Kiên Tịnh Tín làm bậc đương cơ. Trong hội nhóm họp của Phật, khi đại chúng tụ tập, ngài Kiên Tịnh Tín là người phát khởi bộ kinh này. Ngài do tâm đại bi, thấy chúng sanh đời Mạt Pháp, đặc biệt là trong đời loạn, điều ǵ cũng chẳng nhận biết rơ ràng. Chúng ta hồ đồ, phiền năo, điều ǵ cũng không biết. Do tâm đại bi, Ngài bèn v́ chúng ta thỉnh cầu, thỉnh cầu “dùng phương pháp ǵ để khiến cho họ (chúng sanh) có thể biết”.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, hội trung hữu Bồ Tát, danh viết Kiên Tịnh Tín, tùng ṭa nhi khởi, chỉnh y phục, thiên đản hữu kiên, hiệp chưởng, bạch Phật ngôn: “Ngă kim ư thử chúng trung, dục hữu sở vấn, tứ thỉnh Thế Tôn, nguyện thùy thỉnh hứa”.

          ()爾時會中有菩薩名曰堅淨信。從座而起。整衣服。偏袒右肩。合掌白佛言。我今於此衆中欲有所問。諮請世尊。願垂聽許。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, trong hội có Bồ Tát tên là Kiên Tịnh Tín, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh đốn y phục, trật vai áo phải, bạch cùng đức Phật rằng: “Con nay ở trong đại chúng này, có điều muốn hỏi, xin đức Thế Tôn rủ ḷng cho phép con hỏi”).

 

          Thuở đức Phật tại thế, muốn thỉnh pháp; trước hết, phải thỉnh cầu Ngài đáp ứng. Nay chúng ta cũng như thế, quư vị muốn thỉnh cầu người khác làm chuyện ǵ, người ta chấp thuận th́ quư vị mới có thể làm. Như người khác muốn tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, tôi nhận lời người đó rồi mới nói. Đấy chính là ư nghĩa của chữ “thính hứa” (聽許) ở đây. Đó là một loại lễ tiết. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thương xót chúng sanh trong đời mai sau, muốn thỉnh đức Phật thuyết pháp, bèn biểu lộ một nghi thức, tức là người xuất gia trật y ca-sa một bên vai, đầu áp sát đất, đảnh lễ đức Phật. Đảnh lễ xong, thưa: “Con mong thỉnh Phật khai thị, xin Ngài rủ ḷng chấp thuận”. Ngài chấp thuận th́ quư vị mới nói; chẳng chấp thuận sẽ không thể nói!

          Vốn là từ trong Vô mà sanh Hữu, những lời này có nghĩa là ǵ? Trong cảnh giới Nhất Thật, chẳng có hết thảy các h́nh tướng, chẳng có ngôn thuyết; nhưng làm thế nào th́ mới có thể đạt tới cảnh giới Nhất Thật? Trước khi đạt tới cảnh giới Nhất Thật, th́ phải có tiền phương tiện. Phương tiện đầu tiên nhất chính là: Quư vị mong đạt tới cảnh giới Nhất Thất, tối thiểu là quư vị phải có tín tâm kiên cố. Đệ tử Tam Bảo chúng ta tin tưởng Tam Bảo, như thế là quư vị có tín tâm. Chúng ta đă có tín tâm, nhưng vẫn chưa kiên cố. Niềm tin của chúng ta, thường nói là phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, nhưng [cái tín tâm ấy] được kiến lập trên hư vọng, chẳng chân thật! V́ tâm chúng ta chẳng biết cảnh giới Nhất Thật; dẫu biết th́ vẫn chẳng biết chứng nhập bằng cách nào! Nếu muốn đạt tới cảnh giới Nhất Thật, cảnh giới Nhất Thật là cảnh giới ǵ vậy? Niềm tin kiên định, thanh tịnh! Cảnh giới Nhất Thật là chẳng có cảnh giới, th́ mới gọi là cảnh giới Nhất Thật. Hễ có tướng cảnh giới, sẽ chẳng phải là Nhất Thật. Đồng thời, chính ḿnh có tín tâm, có thể khiến cho người khác cũng có tín tâm. Chính ḿnh có tín tâm kiên cố, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có tín tâm kiên cố. Đấy mới là Kiên Tịnh Tín.

          Chúng tôi tách ra để giảng và giải thích cặn kẽ. Khi cái tâm chánh tín của quư vị hết sức kiên cố, lại nhờ vào duyên bên ngoài, duyên có thể khiến cho người khác thanh tịnh. Tuy chúng ta phát tâm rất chân thật, [vẫn cần đến] ngoại duyên của quư vị tốt đẹp. Ngoại duyên chẳng tốt đẹp, tâm quư vị sẽ chẳng thể thanh tịnh được! Tâm thanh tịnh là cái nhân, vẫn phải do duyên xúc tiến thành tựu, tức là thúc đẩy cái nhân ấy thành tựu. Chúng ta chia ra như thế này: Quư vị thật sự khởi tâm là Kiên, duyên từ bên ngoài thúc đẩy thành tựu th́ gọi là Tịnh. Tín là hiểu rơ. Liễu nhân là Tín, duyên nhân và liễu nhân là Nhân, tức là cái được duyên giúp sức bèn thành tựu th́ gọi là Nhân. Đấy là chia chẻ cặn kẽ [để giải thích]. Chẳng chia chẻ chi ly th́ gọi là Kiên Tịnh Tín, khiến cho tín tâm của chúng ta có thể kiên cố. Hễ gặp đôi chút hoàn cảnh bèn bị dao động [th́ chẳng phải là Kiên Tịnh Tín], chớ nên dao động!

          Trong cuộc đời của chúng ta, quư vị gặp rất nhiều thử thách. Bất luận vị đạo hữu nào, khi quư vị chưa phát Bồ Đề tâm, khá là thuận lợi. Vừa phát đại tâm, thử thách ngày càng nhiều để khảo nghiệm! Mọi người đều biết chuyện này, “bất thọ ma, bất thành Phật” (chẳng bị ma thử thách, chẳng thể thành Phật). Nói thông thường là như thế đó. Bởi lẽ, quư vị vừa phát tâm, sẽ dẫn khởi hết thảy oán hại của quư vị, khiến cho trong tự tánh bèn nẩy sanh chướng ngại. Chướng ngại là nghiệp chướng. Chúng ta thường nói chướng ngại là nghiệp chướng. Nghiệp chướng tức là những chuyện quư vị đă làm sẽ ngăn trở quư vị mong phát tâm tu đạo trong hiện thời. Mỗi vị đạo hữu đều như thế, chẳng phải là thuận buồm xuôi gió măi cho đến khi thành Phật. Chẳng hề có chuyện như vậy! Bất luận vị Bồ Tát nào, hay vị Phật nào, cũng đều phát ra rất nhiều đại nguyện, lại c̣n “phàm là điều ǵ bất lợi cho chúng sanh, chẳng độ chúng sanh, sẽ chẳng thể thành Phật”. Quư vị tự liễu thoát, tự liễu thoát th́ chỉ có thể là A La Hán. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta, chưa thành Phật quả, trước phải kết duyên với người khác, để ti khi quư vị thành Phật, quư vị sẽ giúp đỡ người kết duyên với chính ḿnh trước. Quư vị chỉ v́ chính ḿnh, chẳng chịu giúp đỡ người khác, tức là chẳng hành Bồ Tát đạo mà lại mong thành Phật, chẳng có lẽ ấy!

          Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă phát Bồ Đề tâm, phát đại bi tâm, v́ Ngài đă từng trải qua như thế, tín tâm chẳng kiên định. Nay Ngài đă có thể kiên định [tín tâm], đă trải qua kinh nghiệm ấy. Giống như kẻ tu đạo chúng ta, lúc quư vị mới phát tâm, thành khẩn, chân thật, trải qua một hai thử thách, quư vị chẳng thể vững vàng nổi, đạo tâm lui sụt, cho đến hết thảy những người tu đạo đều có chướng ngại như thế, ngay như lạy Chiêm Sát Sám cũng bị chướng ngại! Chẳng phải là vừa phát tâm, quư vị liền kiên định. Khắc phục các phiền năo ấy bằng cách nào? Dựa vào sự học tập của quư vị. Quư vị xem kinh luận càng nhiều, đọc càng nhiều, phương pháp đối trị phiền năo, đối trị chướng ngại cũng sẽ càng nhiều hơn. Nếu không, quư vị sẽ chẳng có cách nào khắc phục! Chướng ngại vừa đưa tới, hễ gián đoạn th́ chẳng phải là đôi ba ngày, mà chẳng biết là bao nhiêu năm!    

          Tôi nhớ tôi [bắt đầu] tu vào năm 1937, sau khi đă trải qua rất nhiều tai nạn, cho tới khi sang Mỹ; quư vị nói xem từ 1937 đến 1989, cách nhau bao nhiêu năm? Tôi mới gặp được kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, một nhóm đạo hữu ở Nữu Ước mới yêu cầu tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Giảng xong rồi thôi, tôi vẫn chưa tu [pháp Chiêm Sát trở lại]! Từ lúc đó, lại sau mười năm nữa, tức là từ năm 1989 đến năm 1999, tại chùa Phổ Thọ ở Ngũ Đài Sơn, người ta lại mời tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Có người đề nghị, tôi cũng thỏa nguyện cho họ, tôi cũng mong muốn [giảng kinh ấy]. Đến nay lại là mười năm, tôi vẫn chưa tu trở lại, vẫn chẳng dùng Chiêm Sát Luân. Pháp này phải dùng hằng ngày, hết thảy các pháp quư vị vừa đoạn, sau khi đă đoạn, chúng lại tiếp nối, trở lại từ đầu. Mỗi vị đạo hữu chúng ta, bất luận quư vị tŕ chú nào, hay tu pháp môn nào, hăy chú ư điều gây trở ngại nhất, điều quan trọng nhất, [đó chính là] ngàn vạn phần đừng nên gián đoạn!

 

Tập 2

 

          Lần trước, chúng tôi nói đến chuyện “khéo dùng cái tâm”, tức là học pháp th́ phải khéo học. Thế nào là khéo học pháp? Câu này chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy chúng ta phải khéo dùng cái tâm, tức là khi quư vị học pháp, phải khéo vận dụng cái tâm của chính ḿnh. Hàm nghĩa của khéo vận dụng” là hiện thời quư vị đến đây, mọi người cùng nhau học tập bộ kinh này. Cái thân hiện tại của quư vị chẳng có vấn đề, chẳng có một chút sai lầm nào, nhưng cái tâm dễ nẩy sanh sai lầm. Nay trong lúc quư vị học kinh này, hăy nhất tâm nhất ư, đừng nghĩ tới chuyện khác, ngoại duyên đều buông xuống. Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị phải chế phục cái tâm một chỗ, đó là khéo dùng cái tâm.

          Bản thân của việc “khéo dùng cái tâm” chính là giáo nghĩa Đại Thừa. Theo giáo nghĩa Đại Thừa; trước hết, quư vị phải tu Quán. Khi mọi người tới đây, tôi nghe mọi người nói chuyện bên ngoài, đàm luận với nhau. Khi đă vào giảng đường này, khi nghe giảng, trước hết, quư vị hăy trầm tĩnh đôi chút, hăy quán cái tâm của quư vị, đó là tu Quán. Trước hết là khiến cho cái tâm suốt ngày xáo động bên ngoài của quư vị ngưng lặng. Đó là “nghe pháp”, có nghĩa là hễ vào trong đạo tràng này, trần duyên bên ngoài đều buông xuống. Người nghe pháp là như thế, mà người thuyết pháp cũng như thế. “Pháp sư” tức là dùng pháp làm thầy, chẳng có “ngă, nhân” (ta và người), [tức là chẳng có] Ngă Kiến Ngă Chấp, dùng pháp làm thầy, dùng pháp để chấp. Pháp sư có nói sai hay không? Nếu nói sai, định nghĩa sai một chữ, sẽ là phạm pháp. Theo pháp thế gian, hễ phạm pháp, sẽ có pháp luật quy định [xử phạt]. Nếu pháp sư phạm pháp tới mức độ nào, th́ sẽ chịu báo ứng nhân quả [tương ứng mức độ ấy]. Giảng pháp sai lầm sẽ phải chịu nhân quả báo ứng: “Nói sai một chữ chuyển ngữ, đọa lạc làm thân cáo năm trăm đời”. Để sau này có nhân duyên, tôi sẽ nói với mọi người về câu chuyện ấy. Ư nghĩa hoằng pháp của pháp sư là “tiếp nối hưng thịnh chủng tánh của Phật, kế thừa Phật pháp”. Do vậy, Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta khéo dùng cái tâm để tiếp nối hưng thịnh Phật chủng. Hàm nghĩa của việc thuyết pháp là như thế đó!

          Học pháp th́ sao? Người nói phải khéo nói, chẳng trái nghịch ư Phật. Giảng bộ kinh này, bộ kinh này có ư nghĩa ǵ? Chớ nên trái nghịch ư nghĩa của bộ kinh này! Người nghe pháp phải kiên định tín tâm của chính ḿnh. Tôi nói lời này, chắc là mọi người có chút hoài nghi, sẽ nói: “Chúng tôi đến đây nghe kinh mà c̣n chẳng đạt được tín tâm ư?” Tôi đem tiêu chuẩn của tín tâm thưa với mọi người: “Như thế nào th́ mới được coi là có tín tâm? Cảnh giới cao chúng ta chẳng mong cầu được, cảnh giới thấp th́ sao? Nay trong ṿng một tiếng rưỡi này, chúng ta tạm thời buông xuống ngoại duyên, thanh tịnh đôi chút, mọi người nhất tâm nhất ư cùng nhau học. Tôi không ǵ chẳng nhằm gợi ư cho mọi người, nhưng dụng tâm th́ mọi người vẫn phải tự ḿnh quán chiếu, dụng tâm để học, dụng tâm tương thông với pháp. Khi quần áo chúng ta mặc dính bụi, bẩn thỉu, quư vị cảm thấy chẳng thoải mái. Nếu trong tâm quư vị có trần cấu, chẳng phải là cũng giống như thế hay sao? Khi quư vị học pháp, chẳng dễ học tập để tiến nhập! Hăy hiểu hàm nghĩa này! Do vậy, nay chúng ta bắt đầu học chánh văn trước. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh cầu đức Phật nói bộ kinh này, tức là nói về nghiệp báo thiện ác trong nhân gian.

 

          (Kinh) Phật ngôn: “Thiện nam tử! Tùy nhữ sở vấn, tiện khả thuyết chi”.
         
()佛言。善男子。隨汝所問。便可說之。

          (Kinh: Đức Phật nói: “Này thiện nam tử! Ông muốn hỏi ǵ, hăy cứ nói ra”).

         

          Nay ông thỉnh cầu, ta chấp thuận. Đức Phật khen ngợi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ông muốn hỏi điều ǵ? Ông muốn hỏi ǵ, ta sẽ nói cho ông biết điều đó”. Đức Phật có hỏi, ắt đáp, chẳng cự tuyệt hết thảy câu hỏi.

 

          (Kinh) Kiên Tịnh Tín Bồ Tát ngôn: “Như Phật tiên thuyết, nhược ngă khứ thế, Chánh Pháp diệt hậu, Tượng Pháp hướng tận, cập nhập mạt thế, như thị chi thời, chúng sanh phước bạc, đa chư suy năo, quốc độ sổ loạn, tai hại tần khởi, chủng chủng ách nạn, bố cụ bức nhiễu, ngă chư đệ tử thất kỳ thiện niệm, duy trưởng tham, sân, tật đố, ngă mạn. Thiết hữu tượng tự hành thiện pháp giả, đản cầu thế gian lợi dưỡng, danh xưng, dĩ chi vi chủ, bất năng chuyên tâm tu xuất yếu pháp. Nhĩ thời, chúng sanh đổ thế tai loạn, tâm thường khiếp nhược, ưu úy kỷ thân, cập chư thân thuộc, bất đắc y thực sung dưỡng khu mạng. Dĩ như thử đẳng chúng đa chướng ngại nhân duyên cố, ư Phật pháp trung, độn căn thiểu tín, đắc đạo giả cực thiểu. Năi chí tiệm tiệm ư tam thừa trung, tín tâm thành tựu giả, diệc phục thậm tiển, sở hữu tu học thế gian Thiền Định, phát chư thông nghiệp, tự tri túc mạng giả, thứ chuyển vô hữu. Như thị ư hậu, nhập Mạt Pháp trung kinh cửu, đắc đạo, hoạch tín, Thiền Định, thông nghiệp đẳng, nhất thiết toàn vô”.

          ()堅淨信菩薩言。如佛先說。若我去世。正法滅後。像法向盡。及入末世。如是之時。衆生福薄。多諸衰惱。國土數亂。災害頻起。種種厄難怖懼逼擾。我諸弟子失其善念。唯長貪瞋嫉妒我慢。設有像似行善法者。但求世間利養名稱以之爲主。不能專心修出要法。爾時衆生睹世災亂。心常怯弱。憂畏己身及諸親屬。不得衣食充養軀命。以如此等衆多障礙因緣故。於佛法中鈍根少信。得道者極少。乃至漸漸於三乘中信心成就者亦復甚鮮。所有修學世間禪定發諸通業自知宿命者。次轉無有。如是於後入末法中經久得道獲信禪定通業等一切全無。

          (Kinh: Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: “Như đức Phật đă nói trước kia, nếu ta nhập diệt, sau khi Chánh Pháp đă diệt, Tượng Pháp sắp hết, bước vào đời Mạt Pháp, trong lúc như thế, chúng sanh phước mỏng, có nhiều suy năo, quốc độ nhiều lần loạn lạc, tai họa nhiều lượt dấy lên, các thứ ách nạn kinh sợ, bức bách, nhiễu hại. Các đệ tử của ta đánh mất thiện niệm, chỉ tăng trưởng tham, sân, ganh ghét, ngă mạn. Giả sử có người hành những điều tương tự như thiện pháp th́ chủ yếu chỉ v́ cầu lợi dưỡng, tiếng tăm trong thế gian, chẳng thể chuyên tâm tu pháp xuất yếu. Lúc bấy giờ, chúng sanh thấy cơi đời tai ương, loạn lạc, tâm thường khiếp nhược, lo sợ chính ḿnh và các thân thuộc chẳng có cơm áo để nuôi nấng thân mạng. Do có nhiều nhân duyên chướng ngại như thế, trong Phật pháp, kẻ độn căn, ít tin tưởng [th́ nhiều], người đắc đạo cực ít. Cho đến dần dần trong tam thừa, kẻ tín tâm thành tựu cũng hết sức ít ỏi, tất cả những người tu học Thiền Định thế gian, phát sanh những nghiệp thần thông, tự biết túc mạng, sẽ lần lượt trở thành chẳng c̣n. Sau đó, khi đă bước vào thời Mạt Pháp lâu xa như thế, người đắc đạo, đạt được đức tin, Thiền Định, thần thông v.v… hết thảy hoàn toàn chẳng có”).

 

          “Kiên Tịnh Tín Bồ Tát ngôn” tức là Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thưa: “Như Phật tiên thuyết” (như Phật trước kia đă nói), chẳng phải là trong quá khứ, khi giảng kinh, đức Phật thường nói như thế hay sao? “Nhược ngă khứ thế, Chánh Pháp diệt hậu, Tượng Pháp hướng tận”, [nghĩa là] Chánh Pháp đă chẳng tồn tại; đức Phật nhập diệt, Chánh Pháp chẳng c̣n. Thuở đức Phật tại thế thuyết pháp, Chánh Pháp năm trăm năm, [trong thời gian ấy] người chứng quả, người thành đạo nghe pháp liền khai ngộ, khai ngộ sẽ thành đạo. Tượng Pháp th́ sao? Tuy người chứng đạo ít, người nghe pháp đều kiên định tín tâm. Sau đó, Tượng Pháp cũng sắp tận, Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng Pháp năm trăm năm đều đă tận, tới thời gian cuối, tức là Mạt Pháp. Trong các kinh khác, đức Phật có nói Mạt Pháp là một vạn năm, trong thời gian ấy, Chánh Pháp và Tượng Pháp đều diệt tận, chúng sanh khi ấy phước đức mỏng, phước đức rất mỏng, chúng sanh chẳng có phước. “Đa chư suy năo”: “Suy” () nghĩa là suy bại, làm bất cứ chuyện ǵ, thành công th́ ít, suy bại th́ nhiều. Con người sanh, lăo, bệnh, tử, thậm chí chẳng đợi đến già đă bệnh, người chưa già đă chết rất nhiều. Xă hội trong thế gian có hiện tượng ǵ? “Quốc độ sổ loạn” nghĩa là quốc gia thường xuyên xảy ra tai nạn liên tiếp, quốc độ rất loạn. Các thứ khốn khó, ách nạn chẳng thể nói nổi! Ai nấy đều mang tâm t́nh sợ hăi, bị hết thảy các sự vật bức bách, quấy nhiễu, [dùng những điều ấy] để h́nh dung vào thời Mạt Pháp, xă hội có hiện tượng như thế đó. Chuyện này rất dễ hiểu, ai nấy đều biết!

          Nói chung, khi Phật pháp tiến vào thời Mạt Pháp, hiện thời [đă cách lúc đức Phật nhập diệt] gần ba ngàn năm, đă bước vào thời Mạt Pháp gần hai ngàn năm. Lúc này, ác pháp đă rất thịnh hành, thiện pháp và hành thiện nghiệp đă bị giảm thiểu rất nhiều. Nếu so sánh giữa hai đằng thiện và ác, [sẽ thấy] thiện giảm, ác tăng, ác pháp gia tăng! Nh́n từ các hiện tượng xă hội, mọi người đều có thể lư giải, phiền năo rất nặng nề, bất luận quốc gia nào cũng đều rất bất tường! V́ loạn lạc, bất an, hỏa hoạn, thủy tai, băo tố, động đất, tai họa sanh khởi chẳng ngừng trên quả địa cầu này! Tôi chẳng nói chi tiết về hiện tượng này, ai nấy đều thấy cả rồi!

          “Ngă chư đệ tử thất kỳ thiện niệm” (các đệ tử của ta đánh mất thiện niệm): Lũ đệ tử Tam Bảo chúng ta rất dễ tiêu mất thiện niệm, ác niệm tăng trưởng dễ dàng. Tăng trưởng tham, sân, ganh tỵ, chướng ngại. Cũng có người làm các chuyện tương tự, tức là giống như hành thiện pháp, nghĩa là khi chúng ta làm thiện sự, luôn xen tạp rất nhiều thứ bất thiện! V́ sao? Đều v́ cầu tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, coi cầu được tiếng tăm, lợi dưỡng là chuyện chánh yếu, cho nên việc chuyên tâm tu pháp xuất thế bị giảm thiểu. Tôi nghĩ các vị đạo hữu đều thấy hiện tượng này, tôi chẳng cần phải nói cặn kẽ, v́ các hiện tượng trong xă hội đă cho chúng ta thấy t́nh trạng này.

          Khi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về đức Phật thỉnh cầu, Ngài đă thưa bày: Hiện thời, trên thế giới này, keo kiệt, tham lam, ghen tỵ, ai nấy đều hoài nghi, thậm chí trong ṿng thân nhân, cha con, vợ chồng của chính ḿnh đều hoài nghi lẫn nhau, giữa người với người chẳng có sự tín nhiệm lẫn nhau, tu hành trong lúc ấy hết sức khó khăn. Trong lúc đó, làm thế nào để cái tâm của người tu hành chúng ta liên kết với đại chúng? V́ trong lúc đó, thiện ác chen lẫn, nói theo lối xưa là “phàm thánh giao tham”, lúc ấy, đă chẳng có thánh nhân, chẳng c̣n có thánh nhân sống chung với chúng ta. Đồng thời, trong thời gian ấy, tư tưởng hết sức hỗn loạn, tín niệm th́ sao? Bạ thứ cũng tin, chẳng phải là chân tín, đánh mất chánh tín. Trong tâm mỗi người toàn là tham, sân, si, ghen tỵ, chướng ngại, n mạn, nẩy sanh cái tâm bất lợi cho kẻ khác, tận hết sức nghĩ cách nuốt nhiều, chiếm nhiều. Hiện thời, trên thế giới này, vật chất hữu hạn, quư vị chiếm nhiều hơn, tự nhiên là người khác bị giảm bớt. T́nh huống kiểu này rất nhiều! Mỗi chúng sanh do nghiệp chướng, tánh t́nh rất chẳng an định, hết sức nóng nảy, thô bạo, hễ động tới là nổi giận, thậm chí ra tay đấm đá người khác. V́ sao có hiện tượng kiểu này? Sự tu dưỡng bên trong, tức tu dưỡng nội đức chẳng đủ, chẳng có nội đức. Cho đến kiền thành cúng dường, lễ bái Tam Bảo chẳng nhiều, cầu quỷ thần chẳng ít. Đấy là hiện tượng thật sự, [tu tập, làm thiện sự chi nữa] chuyên v́ để nổi tiếng th́ nhiều, chứ thật sự v́ sanh tử ít lắm!         

          Do vậy, bộ kinh Thiện Ác Nghiệp Báo này phân tích cho chúng ta nhận biết như thế nào là thiện, chân thiện, nhận biết như thế nào là ác; nhưng trước mắt quư vị có thể nhận biết [thiện, ác], th́ đó là đối với chính ḿnh, chẳng phải là hướng ra ngoài, đối với người khác! Quư vị có thể biết nghiệp thiện ác của ḿnh trong quá khứ hay không? Nói đơn giản, trong quá khứ, điều thiện rất dày, thiện nghiệp rất nhiều, trong đời này, quư vị sẽ rất ít tai nạn, cuộc sống rất nhiều hạnh phúc, rất b́nh lặng, rất an tĩnh, luôn được Tam Bảo gia tŕ. Ai nấy đều có thể thấy điều này. Nếu quư vị ác nghiệp nặng nề, thiện nghiệp ít ỏi, mọi chuyện đều chẳng được hài ḷng. Đồng thời, trong tâm quư vị thường có cảm giác sợ sệt, lo được, lo mất, sợ những ǵ ḿnh đang có sẽ bị mất đi. Trên thực tế, cũng rất dễ mất đi! V́ thế, tâm chúng ta hết sức bất tịnh, cho nên kinh khuyên dạy chúng ta phải phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Chúng ta thường nghe các đạo hữu nói với nhau như thế, các vị pháp sư cũng thường tuyên truyền như thế, mong mỏi các đệ tử Tam Bảo đều có thể tăng trưởng thiện tâm sở, giảm bớt ác tâm sở.

          Đồng thời, ở đây đặc biệt nói đến Tăng chúng. Thuở đức Phật tại thế, trong các đại đệ tử của Ngài, có vị phát nguyện chuyên hóa độ kẻ có tiền. V́ sao? Ngài Tu Bồ Đề chuyên t́m những kẻ giàu có, hướng về họ hóa duyên, cho đến khất thực cũng hướng đến kẻ giàu có để khất thực. Có ư nghĩa ǵ? Ngài nói: “Họ giàu có, rất khó đạt được! Nếu họ chẳng vun bồi phước lần nữa, chẳng gieo phước điền lần nữa, sẽ đánh mất phước điền. Trong khi họ sống thoải mái, tâm hoan hỷ; tới ngày nào đó, bị mất đi, sống cuộc đời khốn khó, họ sẽ chẳng có cách nào sống sót!” Đấy là ư niệm của ngài Tu Bồ Đề. Do vậy, Ngài ôm bát khất thực, chuyên t́m đến nhà giàu có để hóa duyên. Tôn giả Ca Diếp tương phản, chuyên t́m người nghèo. Các vị thánh giả ấy hoàn toàn chẳng xuất phát từ chuyện chính ḿnh ăn ngon hay dở, các Ngài khất thực nhằm vun bồi phước cho chúng sanh. V́ ngài Ca Diếp nói: “Chúng sanh trong đời hiện tại chịu khổ, hăy tạo các thứ thiện căn cho họ, để sau này, họ sẽ chẳng phải chịu khổ nữa! Nhưng đức Phật phê b́nh cách làm ấy! Chuyên hóa duyên người giàu có là không đúng, mà chuyên hóa duyên kẻ nghèo nàn cũng trật luôn! [Phải là] hễ gặp duyên ǵ, bèn chọn lựa duyên ấy! Trong khi quư vị tu hành, dụng tâm như thế nào rất quan trọng! Do vậy, chúng tôi thường nói: Khi chúng ta phát tâm, hăy khéo dùng cái tâm”. Phát tâm như thế nào? Phải phát Bồ Đề tâm. Thuở đầu, khi tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, có các đạo hữu, thoạt đầu khi tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo tại Nữu Ước, Hoa Kỳ, vị đệ tử ghi chép lời tôi giảng là Ngô Bích Đào đă nêu ra câu hỏi ấy. Chuyên hóa duyên người giàu, hoặc chuyên hóa duyên kẻ nghèo, tức là có chọn lựa. Đức Phật dạy chúng ta: “Đừng chọn lựa! Gặp được ai bèn kết duyên với người ấy. B́nh đẳng phát tâm, đấy là phát Bồ Đề tâm.

          Bồ Đề tâm, nói thông thường sẽ rất nhiều, nhưng nói theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, sẽ có ba tâm chánh yếu. Ba tâm ấy hợp thành Bồ Đề tâm, tức là trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Trọn đủ ba tâm ấy, trong một niệm, khi quư vị muốn làm chuyện ǵ, phải sử dụng trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Nhưng chẳng phải là tới khi ấy, quư vị làm chuyện ǵ mới phân tích, ta phải như thế này th́ mới là trực tâm, như thế nọ th́ mới là đại bi tâm. Chẳng phải, ở ngay trong một niệm. Đấy là công phu thường ngày của quư vị, chẳng phải là đến khi đối diện với cảnh, [mới vận dụng các tâm ấy]. Hằng ngày quư vị phải thường nghĩ tới trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm. Lúc dụng công thường nhật, phải nghĩ như thế, cho tới khi vận dụng, ba tâm chính là một tâm. Trong ấy có Hiển Giáo và Mật Giáo, cho nên chúng tôi thường nói tới Mật Giáo. Bất luận điều ǵ cũng đều chẳng ĺa khỏi ba tâm này, bất quá danh từ bất đồng [mà thôi]!

          Do đó, Văn Thù Bồ Tát gọi chung [việc vận dụng] những thứ ấy là “khéo dùng cái tâm”, chỉ nói tổng quát là quư vị khéo biết sử dụng cái tâm. Nói theo phía chúng ta, nói theo giáo nghĩa Đại Thừa thông thường, sẽ là chánh niệm, Chân Như. Phàm là người học theo tông Hoa Nghiêm, vừa khởi đầu đă tu phép Quán gọi là Chân Không Tuyệt Tướng Quán, chẳng có hết thảy các tướng, chẳng phải là các danh từ như tôi vừa nói trên đây. Nhưng nay chúng tôi đang giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, có phù hợp hay không? Khi giảng kinh văn, tôi sẽ nói với mọi người. Trực tâm, chánh niệm, Chân Như: Trực tâm là một tí cong vạy đều chẳng có. Thiền Tông nói khi nhất tâm tu Thiền Quán, trực tâm là “chánh niệm, Chân Như”, chẳng nghĩ ǵ khác, nhiếp niệm tưởng, sẽ thẳng thừng đạt tới cảnh giới Như Lai. Nói theo Hiển Giáo th́ là chánh niệm Chân Như, c̣n Thiền Tông nói là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh chính là chánh niệm Chân Như. Chúng ta niệm A Di Đà Phật, người niệm Phật niệm A Di Đà Phật, quư vị dùng tâm ǵ để niệm? Trực tâm, chánh niệm, Chân Như. A Di Đà Phật là chính ta, ta là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là ta. Đấy là trực tâm, chánh niệm, Chân Như. Thâm tâm niệm A Di Đà Phật, tức là tiến hơn bước nữa. “Phật chính là tâm, tâm chính là Phật. Phật chính là tâm ta, tâm ta chính là Phật”, lư giải kiểu này gọi là “thâm tâm”. Thâm tâm tức là hết thảy các thiện pháp ta đă hành đều chẳng có, chỉ là tâm ta biểu hiện. Bất luận đại thiện hay tiểu thiện, đều chẳng ĺa khỏi nhất tâm. Thiện chẳng có lớn, mà cũng không có nhỏ. Bố thí cho người khác một đồng, bố thí cho người ta một vạn, hay một ức tiền, đều b́nh đẳng, chẳng có nhiều, ít, không có lớn, nhỏ. Đấy mới là thâm tâm. Chẳng phân biệt, tâm ta là năng thí (người bố thí) và cái tâm của người nhận bố thí (sở thí) b́nh đẳng, chẳng có người bố thí và kẻ nhận bố thí. Đó là hiển lộ sâu hơn! Trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm: “Đại bi tâm” là từ bi trọn khắp, đem pháp do ta đă tu, pháp do ta đă chứng đắc bố thí cho hết thảy chúng sanh. Chúng sanh có thể đạt được hay không? Chỉ tùy thuộc cái tâm của quư vị. Tâm quư vị bố thí cho chúng sanh, chúng sanh sẽ có thể được gia tŕ.

          Tôi vừa mới nói “phát Bồ Đề tâm”. t cần phải trọn đủ ba loại tâm ấy, ba tâm hợp nhất, th́ mới gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Chúng ta thường nói “phát Bồ Đề tâm”, nói đơn giản th́ là Giác, Bồ Đề (Bodhi) là Giác, tức là cái tâm giác ngộ hiểu rơ. Tâm giác ngộ hiểu rơ th́ ta và người đều cùng có lợi, cho đến vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng, ba tâm ấy trọn đủ trong một niệm. Lúc giảng giải th́ phân tích như thế, nhưng khi quư vị vận dụng, ba tâm chính là một tâm, ở ngay trong một niệm. Lúc b́nh thời, quư vị tu quán tưởng, ba tâm chính là nhất tâm. Khi tôi học tại Tây Tạng, chúng tôi luôn nói theo Mật Tông. [Trong Mật Tông Tây Tạng], tâm thứ nhất được gọi là xuất ly tâm, có cùng một ư nghĩa với trực tâm, chánh niệm, Chân Như. Bất quá, Mật Tông dạy trước hết quư vị phải buông xuống hết thảy, phải xuất ly. Đối với thế gian mà có một chuyện, một vật vướng mắc, quư vị sẽ không thể xuất ly được! Tức là cái tâm xuất ly, hết thảy đều chẳng vướng mắc, chẳng phải chỉ v́ chính ḿnh, mà c̣n khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể xuất ly. Do vậy, v́ sao gọi là Mật? Thâm nghĩa của Mật là chẳng hạn như nói đến tâm xuất ly, sẽ khiến cho hết thảy chúng sanh đều xuất ly. Khi tôi niệm A Di Đà Phật, mong sanh về thế giới Cực Lạc, sẽ mong cho hết thảy chúng sanh đang hứng chịu khổ nạn trong thế giới này và tôi đồng thời sanh về thế giới Cực Lạc. Người đó niệm một câu A Di Đà Phật, chẳng phải v́ mong chính ḿnh sanh về thế giới Cực Lạc, mà là mong tất cả hết thảy những ai đang chịu khổ, chịu nạn đều cùng với tôi đồng thời sanh về thế giới Cực Lạc. Đó là tâm đại bi! Nói theo Mật Tông, tâm thứ nhất là tâm xuất ly, tâm thứ hai là tâm đại bi. Trong Hiển Giáo th́ nói tâm thứ ba là tâm đại bi, khác biệt về thứ tự, v́ Mật Giáo thêm vào tâm Bát Nhă. Tôi được dạy ở Tây Tạng theo kiểu ấy. Tâm xuất ly, tâm đại bi, chính ḿnh trọn đủ tâm xuất ly, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể xuất ly. Hàm nghĩa của ước muốn ấy chính là tâm đại bi. Trong khi chính ḿnh vừa cầu xuất ly, người ấy trọn chẳng nghĩ chính ḿnh xuất ly là xong! Hễ mong xuất ly, bèn mong hết thảy chúng sanh và ta đồng thời xuất ly, khiến cho hết thảy chúng sanh đều xuất ly. Đó là đại bi thật sự. Chúng ta thường nói “đại bi trọn chẳng phải là ái kiến, trọn chẳng phải là cảm t́nh”, mà là pháp giới tâm. Phải hiểu đạo lư này! Chẳng phải là xử sự theo cảm t́nh, chẳng phải là xử sự do ḷng yêu mến si mê. V́ sao? Cái tâm thứ ba là Bát Nhă. Tâm Bát Nhă là trí huệ. Bát Nhă tức là trí huệ, được dịch thành “trí huệ”. Người trọn đủ đại trí huệ sẽ mong mỏi thành tựu hết thảy chúng sanh, mong họ đạt đến bờ kia.

          V́ thế, trọn đủ các loại tâm này, quư vị lại quán tưởng hết thảy các tướng thế gian. Quán tưởng tướng thế gian sẽ chuyển biến thế gian, từ trong tâm của quư vị mà chuyển biến thế gian. Do vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thấy các thứ tai nạn trên thế giới này, bèn nghĩ làm cách nào chuyển biến chúng, khiến cho chúng sanh biết thiện, ác, sau đó sẽ thâm nhập. Trên đây, tôi vừa nói tới mục đích, phần kinh văn kế tiếp nói đến biện pháp, tức là phải dùng biện pháp nào để đạt đến mục đích ấy. V́ thế, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại hướng về đức Phật thưa bày.

          “Nhĩ thời” (爾時,lúc bấy giờ) tức là trong khi thế giới này biến loạn, rung chuyển, bất an, các chúng sanh trông thấy các thứ tai họa, loạn lạc trong thế gian, tâm thường khiếp sợ, trong ḷng có cảm giác hoảng hốt, sầu lo bản thân và hết thảy quyến thuộc của ḿnh ngay cả đối với cơm áo trong cuộc sống cũng chẳng no ấm, chẳng có áo cơm duy tŕ thân mạng. Những nhân duyên chướng ngại của các chúng sanh như thế càng nhiều hơn. Họ c̣n có thể tin tưởng Phật pháp ư? Kẻ độn căn trong Phật pháp ít tin tưởng, tức là nói nghiệp chướng của họ rất nặng, chẳng tin Phật. Ngay cả tin mà cũng chẳng tin, c̣n có thể đắc đạo hay chăng? Kẻ tin Phật ít ỏi, kẻ làm lành sẽ ít đi, kẻ tu đạo sẽ ít đi, người đắc đạo cực ít, thậm chí chẳng có! Đến lúc ấy, trong tam thừa dần dần sẽ là kẻ có tín tâm thành tựu cũng rất ít ỏi. Bất luận Tiểu Thừa, Trung Thừa, hay Đại Thừa, bất luận đối với pháp nào, đều chẳng thể sanh khởi tín niệm. Học Thiền Định thế gian, phát khởi các nghiệp thần thông, tự biết túc mạng, sẽ lần lượt biến thành chẳng c̣n, căn bản là chẳng có. Kẻ đắc thần thông, đắc trí huệ, trong thế gian này đă không có, cho đến người tự biết quá khứ, đắc Túc Mạng Thông, đều chẳng có. Đó gọi là thời Mạt Pháp, người đắc đạo, người tu đạo, tu Thiền Định, tín tâm kiên định, toàn bộ hết thảy đều chẳng có. Đấy là hiện tượng trong thời Mạt Pháp, nay chúng ta đă rất gần [t́nh trạng đó], tuy vẫn c̣n chưa tới [mức độ đó]. [Hiện thời], hăy c̣n có nhiều đạo hữu tin Phật, nhiều người học Phật ngần ấy. Mạt Pháp một vạn năm, nay chúng ta mới là một hai ngàn năm, c̣n chưa lún sâu đến mức độ ấy!

          Vào thời điểm ấy, chẳng biết pháp xuất yếu, tức là chẳng biết đường lối trọng yếu để thoát khỏi ba ác đạo. Học Phật tu hành nhằm thoát khỏi ba ác đạo, chẳng có ai không biết [điều ấy]. Nếu chẳng biết th́ tu bằng cách nào? Chẳng biết, sẽ chẳng tu thành tựu! Người thời ấy (thời Mạt Pháp), căn cơ hết sức chậm lụt, là hạng độn căn. Nói cách khác, chẳng có trí huệ. Đối với Phật pháp chẳng tin, hoặc ít tin tưởng, cho đến chẳng có tăng thượng duyên. Nói cách khác, chẳng có tăng thượng duyên, chẳng gặp đồng tham đạo hữu tốt đẹp, mà cũng chẳng gặp vị thầy nổi tiếng chỉ dạy, chẳng có tăng thượng duyên!

          Không chỉ chẳng có người đạt được Nhất Thừa đạo quả, mà cho đến các đạo quả thuộc ba thừa Tiểu, Trung, Đại, hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Hiện thời có nghe thấy ai đắc đạo hay không? Rất ít nghe! Tôi xuất gia tám mươi năm, tôi gặp người đắc đạo, cho rằng người đắc đạo chẳng nhiều! Trong tâm mục của tôi, các vị đại đức tôi tôn kính đại khái có mười mấy vị; nhưng mười mấy vị ấy cũng chẳng phải là đắc đạo, cũng chẳng nói cho tôi biết đời này họ đă chứng đắc quả A La Hán, cho đến hành Bồ Tát đạo, chứng đắc đạo quả, chỉ là tôi cho rằng [họ đắc đạo] mà thôi! Như chúng ta biết đời Đường có Đạo Tuyên Luật Sư chứng đắc Tứ Quả A La Hán, có vị trời chứng minh, dâng cơm cho Ngài. Vị trời ấy nói Ngài đă chứng đắc Tứ Quả. Nhưng trong thế giới này, vẫn có các vị đại Bồ Tát mà chúng ta chẳng nhận biết. Các Ngài thị hiện chẳng khác chúng ta cho mấy. Trên thực tế, các Ngài khác hẳn chúng ta.

          Trong thời Mạt Pháp, tuy người chứng đạo ít, nhưng các vị Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng, Di Lặc đều ở trong nhân gian, đều chẳng rời khỏi nhân gian. Chúng ta có nhận biết hay không? Chuyện đó tùy thuộc phước đức và trí huệ của mỗi người. Cá nhân quư vị có phước đức và trí huệ, sẽ gặp gỡ. Quư vị chẳng có nhân duyên phước đức và trí huệ, sẽ chẳng nhận biết. V́ ở đây, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói, mục đích chủ yếu của Ngài là mong làm cho chúng ta hiểu rơ thiện, ác, hướng thiện, khử ác. Ngài hướng về đức Phật thỉnh cầu là v́ lư do này. Đức Phật không nói với Ngài, mà bảo Ngài thỉnh vấn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trong phần sau, chúng tôi sẽ lại nói tiếp điều này.

          Trong lời thưa hỏi của Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, [lư do có] đoạn thưa hỏi này là do đức Phật thường nói, kinh Phật thường nhắc đến lúc Mạt Pháp, các hiện tượng ấy là hiện tượng ǵ? Bất quá, Kiên Tịnh Tín nhắc lại những lời đức Phật đă nói để quư vị đừng quên khuấy. Có ư nghĩa như thế đó. Hiện thời, đă đến lúc rồi, hăy nên làm như thế nào để khiến cho những người ấy giác ngộ, có pháp để nương cậy, có pháp để có thể học? Do đó, trong phần trước, tôi đă nêu ra Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta hăy khéo dùng cái tâm. Đấy là tôi dựa theo giáo nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm. Trong phẩm Tịnh Hạnh, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đă nói, chúng ta học pháp th́ phải biết học! Thế nào là biết học, thế nào là chẳng biết học? Đạt tới mức độ như thế nào th́ mới được coi là biết cách học Phật pháp? Đức Phật dạy chúng ta khéo dùng cái tâm, tức là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát truyền dạy chúng ta hăy khéo dùng cái tâm. Nhưng đối với việc dụng tâm, chúng ta không biết dùng. Phải học theo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trong phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Trong ấy, có hơn một trăm loại [hạnh thanh tịnh], quư vị vận dụng cái tâm của chính ḿnh như thế nào th́ sẽ là khéo dùng cái tâm. Nhưng nói và làm rất khó phù hợp. Nếu chúng ta nói và làm, tức ngôn hạnh phù hợp, cho đến tâm có thể hướng dẫn hạnh, hạnh có thể khơi mở cái tâm, sẽ càng khó có hơn nữa!

          Điều thứ nhất, chúng ta phải buông xuống tham, sân, si. Chúng ta niệm hằng ngày, các đạo hữu chúng ta hằng ngày đều phải niệm. Chúng ta chưa buông xuống cái tâm tham được! Bất luận quư vị tham điều ǵ, có tham luyến, từ bên ngoài sẽ chẳng dễ thấy. Trước kia, trong một ngôi chùa, có một vị lăo ḥa thượng tu hành rất tốt đẹp, nh́n bề ngoài th́ thấy Ngài tu hành hết sức tốt đẹp; nhưng tâm tham chẳng bỏ được! Đó là một câu chuyện xưa. Sư tích cóp mấy chục năm, tất cả tiền ky cóp, thuở ấy dùng bạc vụn, Sư cho đúc thành một khối đại nguyên bảo (đĩnh bạc), giắt nơi thắt lưng, đi ngủ cũng chẳng ĺa khỏi. Có lần Sư đi tiểu, hơi vô ư một chút, sợi dây đeo bị đứt đoạn. V́ sư đeo bạc [lâu ngày] mà không thay dây, sợi dây thừng buộc lưng bị đứt. Dây vừa đứt, cả khối bạc nặng chềnh ềnh rơi tơm vào hố xí mất dạng! Trong chùa miếu thuở ấy, nhà vệ sinh là một cái lều tranh lớn, chẳng giống như bồn cầu [nho nhỏ hiện thời]. Bồn cầu [như hiện thời] sẽ chẳng rơi mất được! Bạc đă rơi vào hầm cầu, làm cách nào đây? Vị lăo ḥa thượng ấy chẳng buông xuống được, ky cóp lâu như vậy, chết theo bạc luôn. Sư c̣n có đạo lực, c̣n có công sức tu hành nhất định! Đă chết rồi, bèn biến thành con rùa đen, ḅ vào trong hố phân, ôm đĩnh bạc ấy. Ôm lấy đĩnh bạc đó, sư lại báo mộng cho vị sư tri khách, bảo: “V́ tôi không buông xuống được, v́ tham luyến mà đọa lạc. Nay xin thầy hăy giúp tôi, cứu tôi”. Trong mộng, [vị sư tri khách hỏi]: “Tôi cứu thầy bằng cách nào?” “Xin thầy thuê người vét sạch hố phân đó. Vét xong, lấy đĩnh bạc ấy để trả công, tiền c̣n lại th́ cúng dường trai tăng, sám hối cho tôi”. Vị thầy tri khách liền chiếu theo ư ấy để làm cho ông ta. Làm xong, ông ta được cứu, được giải thoát, nhưng ông ta c̣n có phần nào tu hành. Ngoài tham lam ra, công phu khác vẫn rất tốt đẹp. Nếu chẳng có các công phu khác, sẽ chẳng thể báo mộng cho vị sư tri khách. Đấy là một chuyện cũ.

          Do vậy, khi chúng ta dụng công tu hành, quư vị có thể kiểm nghiệm thân tâm của chính ḿnh có điều ǵ đặc biệt chuyên chú hay không? Tôi kể câu chuyện ấy là v́ lẽ nào? Sự chuyên chú của vị sư ấy, toàn bộ tinh lực đều dùng vào chuyện tích cóp tiền. Nếu đó chẳng phải là điều chuyên chú nhất, chẳng phải là chuyên chú nơi một cảnh, sẽ chẳng có hiện tượng này. Sao chẳng dùng sự chuyên chú một cảnh ấy vào niệm Phật? Chẳng có thiện căn ấy. Mọi người chúng ta đối với sự tu hành, hoặc niệm Phật của chính ḿnh, hoặc là quư vị chuyên tŕ một hạnh, hoặc là tụng kinh, tụng kinh Kim Cang, hằng ngày chẳng gián đoạn, vĩnh viễn như thế. Đó gọi là “công lực”. Thậm chí quư vị tụng một bộ kinh A Di Đà, lâm chung sẽ tuyệt đối được sanh về [Cực Lạc], sợ điều ǵ? Gián đoạn! Tụng niệm gián đoạn. Người tu hành chúng ta, nếu mấy chục năm đều như một ngày, chuyên tŕ một môn đều được! Tôi đă gặp một người, tôi không nêu tên, cũng chẳng nói là ai, là người hiện thời. Đối với Phật, quư vị nói xem ông ta có tin tưởng hay không? Chẳng tin! Quư vị ông ta chẳng tin ư? Ông ta tŕ chú Đại Bi. Tôi nghe ông ta niệm chú Đại Bi, niệm đến mức tôi quáng luôn, chẳng biết ông ta niệm chú Đại Bi chi nữa! Nhưng ông ta niệm mấy chục năm đều như thế, sống đến chín mươi mấy tuổi, vẫn ăn thịt, chẳng ăn chay, nhưng khi ông ta lâm chung, hết sức tỉnh táo, có lẽ ông ta phải chín mươi ba tuổi rồi! Ông ta dặn ḍ con ḿnh viết di chúc: “Cha sắp chết, cha sắp ra đi, cha không ăn nữa. Các con giúp cha mời các vị sư phụ đến niệm kinh. Chỉ niệm chú Đại Bi cho cha, đừng niệm ǵ khác!” Ngoài tin chú Đại Bi ra, thứ ǵ khác ông ta cũng chẳng tin! Ông ta có thể biết trước lúc mất, biết sắp ra đi. Người khác c̣n nói với tôi, khi ông ta mất, hết sức sáng suốt. Ông ta nói Quán Âm Bồ Tát đến dẫn dắt ông ta, đến gọi ông ta theo, tiếp dẫn ông ta đi. Tuy chẳng nói đến thế giới Cực Lạc, nhưng ông ta niệm chú Đại Bi, Quán Âm Bồ Tát bèn cứu ông ta. Quán Âm Bồ Tát dẫn ông ta đi.

          Chúng ta là những người rất tin Phật, tôi cũng rất tin. Đừng quản hết thảy sai lầm khác của ông ta, đừng quan tâm tới! Ông ta niệm chú Đại Bi vài chục năm như một ngày; chỉ cần quư vị pháp môn một hạnh, đó gọi là “công phu”. Chỉ sợ điều ǵ? Hôm nay tu pháp này, mai tu pháp kia, hoặc là gián đoạn, sẽ chẳng có hiệu quả! Trong thời Mạt Pháp ngũ trược ác thế này, chúng ta phải thâm nhập một môn, chẳng cần phải nghiên cứu sâu như thế nào! Quư vị niệm một câu A Di Đà Phật, cho tới hiện thời, chưa hề gián đoạn ngày nào, A Di Đà Phật c̣n chẳng thể tiếp dẫn quư vị ư? Nhưng quư vị phải dựa theo lời dạy của Đại Thế Chí Bồ Tát, chỉ niệm suông không được, “ức Phật, niệm Phật, tất định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật, nhất định thấy Phật). Quư vị miệng niệm, trong tâm c̣n phải tưởng. Tâm tưởng th́ gọi là “ức Phật” (憶佛, nhớ Phật). Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát nói [tu hành như vậy], nhất định có thể thấy Phật. Đấy là trong hai mươi lăm môn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát nói Ngài đă chứng đắc môn [Niệm Phật] Viên Thông, chính là “ức niệm”. Do trong thời Mạt Pháp có các hiện tượng ấy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thấy đời ác này vẫn chưa chấm dứt, một mực tiếp diễn. Ác nghiệp của chúng sanh ngày càng nặng nề, trong lúc ấy mà Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă thấy [như thế], Ngài nói trong tương lai sẽ như thế nào nữa?

 

          (Kinh) Ngă kim vị thử vị lai ác thế Tượng Pháp hướng tận, cập Mạt Pháp trung, hữu vi thiểu thiện căn giả, thỉnh vấn Như Lai, thiết hà phương tiện, khai thị hóa đạo, linh sanh tín tâm, đắc trừ suy năo. Dĩ bỉ chúng sanh tao trị ác thời, đa chướng ngại cố, thoái kỳ thiện tâm. Ư thế gian, xuất thế gian nhân quả pháp trung, sổ khởi nghi hoặc, bất năng kiên tâm chuyên cầu thiện pháp. Như thị chúng sanh khả mẫn, khả cứu. Thế Tôn đại từ, Nhất Thiết Chủng Trí, nguyện hưng phương tiện nhi hiểu dụ chi, linh ly nghi vơng, trừ chư chướng ngại, tín đắc tăng trưởng, tùy ư hà thừa, tốc hoạch bất thoái?

          ()我今爲此未來惡世像法向盡。及末法中有微少善根者。請問如來。設何方便開示化導。令生信心。得除衰惱。以彼衆生遭值惡時。多障礙故。退其善心。於世間出世間因果法中。數起疑惑。不能堅心專求善法。如是衆生可愍可救。世尊大慈。一切種智。願興方便而曉喻之。令離疑網。除諸障礙。信得增長。隨於何乘。速獲不退。

          (Kinh: Con nay v́ những kẻ có chút ít thiện căn trong đời ác khi Tượng Pháp sắp hết và trong đời Mạt Pháp, mà thưa hỏi đức Như Lai lập phương tiện nào để khai thị, giáo hóa, hướng dẫn, khiến cho họ sanh tín tâm, trừ các suy năo. Do các chúng sanh ấy gặp phải thời ác, nhiều chướng ngại, sẽ lui sụt thiện tâm. Đối với pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian, nhiều lượt dấy ḷng ngờ vực, chẳng thể kiên định cái tâm, chuyên cầu thiện pháp. Chúng sanh như thế đáng thương, đáng cứu. Đức Thế Tôn đại từ, là đấng Nhất Thiết Chủng Trí, xin hăy khởi phương tiện dạy bảo, khiến cho họ ĺa lưới nghi, trừ các chướng ngại, tăng trưởng tín tâm, nương theo thừa nào th́ sẽ mau chóng đạt được bất thoái?)

 

          Con nay v́ trong đời ác tương lai, Tượng Pháp sắp tận, thời Tượng Pháp của chúng ta đă hết, chính là Mạt Pháp. “Cập Mạt Pháp trung hữu vi thiểu thiện căn giả” (Và trong đời Mạt Pháp có những người thiện căn ít ỏi): Nay chúng ta cũng đều có thiện căn, nhưng chúng ta đọc tụng kinh điển Đại Thừa, tức là thiện căn rất sâu dày. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh cầu là do ư nghĩa này. Trong thuở ngũ trược ác thế, Tượng Pháp đă hết, tiến vào thời đại Mạt Pháp, hăy c̣n có những kẻ thiện căn ít ỏi, tức là các đạo hữu có thiện căn, phải nên dùng phương tiện như thế nào để giáo hóa, hướng dẫn họ. Ngài mong thỉnh đức Phật thuyết pháp, cũng là thỉnh Phật hăy nói cho mọi người, khiến cho họ sanh tín tâm, có thể khiến cho họ tín tâm kiên định, chẳng có suy bại, ưu năo. V́ các chúng sanh ấy trong lúc đó, gặp phải thuở ác thế trong thời Mạt Pháp, chướng ngại quá nhiều. Do có lắm chướng ngại, dẫu họ phát khởi thiện tâm, họ không chịu nổi vùi dập, sẽ lui sụt thiện tâm.

          Mỗi vị đạo hữu chúng ta hăy tự nhớ lại, chính ḿnh tinh tấn như thế nào, có phải là trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều nghĩ tới sanh tử hay không? Ta chẳng làm như vậy, nhưng mỗi ngày nói chung, ta phải nghĩ tới mấy lượt, chẳng phải là hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều nghĩ, nhưng khi ta ngủ, tuyệt đối nghĩ tưởng: Ngày mai có ḅ dậy nổi hay không, chẳng nhất định! Nói không chừng, ngủ rồi chết luôn, đối với sanh mạng th́ chẳng có ai đảm bảo được! Chỉ nhớ lại đôi chút, ngày hôm nay ta đă làm những chuyện ǵ, đă ĺa khỏi Tam Bảo khá xa, hay là nương cậy Tam Bảo rất gần? Là xa hay gần, chính ḿnh hiểu rất rơ điều ấy! Ngày hôm nay niệm Phật, lễ Phật, niệm kinh, hay là mong giúp đỡ hết thảy chúng sanh, niệm nào cũng đều phát tâm đại từ bi độ chúng sanh, cái tâm ấy là nhiều, hay là dấy lên tham, sân, si, v́ tiếng tăm và lợi dưỡng của chính ḿnh, v́ để thân thể của chính ḿnh khỏe mạnh? Cái tâm nào chiếm phần nhiều?

          Do vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thưa hỏi Như Lai, trong thuở Mạt Pháp, đối với chúng sanh thiện căn ít ỏi, phải nhờ vào phương tiện thiện xảo nào dẫn dụ họ chẳng thoái thất tín tâm, mà cũng chẳng lui sụt thiện tâm. Để đối với pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian, chẳng có chút nghi hoặc nào, có loại pháp nào tiêu trừ nghi hoặc cho họ? V́ họ có nghi hoặc, cho nên chẳng thể kiên định tín tâm, chuyên cầu thiện pháp. Loại chúng sanh này đáng thương xót nhất! Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về đức Phật thỉnh cầu, tạo nhân duyên phát khởi chủ yếu. Điều ấy có nghĩa là bọn chúng sanh trong đời Mạt Pháp chúng ta nghi hoặc, chẳng thể kiên định tín tâm, mà cũng chẳng thể kiên định cầu thiện pháp. Do vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thương xót loại chúng sanh này nhất. V́ thế, Ngài mới hướng về đức Phật thỉnh cầu. Bản thân chúng tôi cảm nhận, mỗi vị đạo hữu đều có thể đối chiếu: Phàm là giảng một bộ kinh nào, nói một pháp nào, đều nhằm khiến cho chúng ta thực hiện, chẳng phải là nói suông mà thôi! Nói suông th́ có lợi ích chi đâu? Nói chúng ta gieo thiện căn, th́ gieo thiện căn chẳng đáng tin tưởng! Tốt nhất là quư vị hăy hành, hành rồi th́ mới có thể đạt được. Người ta nói “một bàn thức ăn này rất ngon lành”, quư vị chẳng ăn, rốt cuộc biết nó là ngon hay dở? Quư vị phải ăn! Quư vị rất đói bụng, lại không chịu ăn, phải nên làm như thế nào đây? Vẫn là chẳng đạt được ǵ hết, đói th́ vẫn cứ đói!

          Nay chúng ta thiện căn giảm thiểu. Có thể là có một số đạo hữu, tôi nghe nói rất nhiều người rất thỏa măn, cho rằng tín tâm của chính ḿnh rất đầy đủ. Tôi phê b́nh họ chẳng đủ! Những lời đức Phật đă nói nhằm dạy chúng ta phương pháp, chẳng phải là chúng tôi tự ḿnh tùy tiện định nghĩa. Chính quư vị có thể dùng Thánh Giáo Lượng, tức là dùng kinh pháp do đức Phật đă nói để đối chiếu một phen, xem thử quư vị đă đạt đến vị trí ấy hay chưa? Chưa đạt tới vị trí ấy, tức là tín tâm của quư vị chưa đủ. Tin hay không? Chẳng tin th́ cứ dùng kinh đối chiếu một phen! Như thế nào th́ mới được coi là có tín tâm thuộc Tín vị Bồ Tát? Có tiêu chuẩn! Nhận biết niệm trước khởi ác, bèn ngưng dứt, chẳng để cho niệm sau dấy lên; điều đó chứng tỏ quư vị đă dự vào Tín vị, là đệ tử thật sự tin Tam Bảo, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Chẳng dự vào Tín vị, vậy th́ quư vị phải vun bồi tín tâm. Nhưng chuyện này có Thánh Giáo Lượng, tức là có hết thảy những lời do đức Phật đă nói để quư vị có thể đối chiếu. Ngay cả Tín vị mà quư vị c̣n chưa trọn đủ, có thể thoát khỏi sanh tử ư? Có thể chẳng luân chuyển trong luân hồi ư? Nói theo kinh Hoa Nghiêm, dự vào Tín vị Bồ Tát, có thể nhận biết ư niệm của ta không đúng, biết niệm trước khởi ác, bèn ngưng dứt chẳng cho niệm sau khởi lên. Nếu tín tâm của ta trọn đủ, tín đă thành tựu! Tín đă thành tựu, dự vào Sơ Trụ là cảnh tượng ǵ vậy? Thần thông quảng đại. Ta có tín tâm hay không? Thần thông quảng đại tới mức độ nào? Có thể tới thị hiện thành Phật trong một trăm thế giới, hóa độ chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm dạy như thế, chẳng phải là tôi tùy tiện nói. Đó gọi là “Thập Tín măn tâm” (đă viên măn các tâm thuộc về địa vị Thập Tín). Nay chúng ta là “hân nhạo tâm” (tâm ưa thích), đối với Phật pháp hết sức tin tưởng, hết sức ưa thích, nhưng chưa thể dự vào Tín vị. Chúng ta chẳng thể niệm trước vừa dấy ác, bèn ngưng dứt nó, không cho niệm sau khởi lên”. Nếu vị đạo hữu nào cảm thấy chính ḿnh không có ác niệm, thuần túy là thiện niệm, một niệm ác tâm chẳng dấy lên, quư vị đă trọn đủ Tín. Nếu chẳng có, đối với ai đó chẳng vui thích, quư vị vẫn nổi cáu. Vậy là không được rồi!

          V́ thế, trong duyên thế gian, trong nỗi khổ sanh, lăo, bệnh, tử, đặc biệt là trong khi bị bệnh, khi bệnh t́nh nghiêm trọng, khi đau khổ tột bậc, quư vị đă sớm quên bẵng Phật, chỉ nghĩ trừ bỏ đau đớn. Quư vị có thể tin tưởng Phật sẽ trừ tai nạn cho quư vị hay không? Phải có tín tâm ấy, giao hết thảy cho Phật, Bồ Tát. Quư vị có tín tâm ấy, bệnh của quư vị chẳng cần phải lo, có hai trường hợp: Một là thọ mạng đă hết, phải chết. Chết rồi, quư vị sẽ sanh vào chốn lành, chẳng đọa vào tam đồ, trọn chẳng đọa trong ba ác đạo. Nay các đệ tử Phật đang hiện diện, đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, chết đi, tuyệt đối sẽ chẳng đọa vào ba đạo! Phải tin điều này, chớ nên nghi hoặc, tín tâm kiên định chẳng nghi, đời đời kiếp kiếp tiến cao hơn. Nhưng nếu quư vị có thể phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, [nhưng muốn] khi lâm chung, quư vị có thể phát ra cái nguyện ấy, th́ lúc b́nh thời, quư vị phải huấn luyện. Phương pháp huấn luyện như thế nào? Buổi tối, khi quư vị sắp ngủ, khi sắp ngủ mà vẫn chưa ngủ, quư vị phải phát nguyện. Điều thứ nhất là quư vị phải đem chuyện đă làm trong ngày hôm nay, chuyện phù hợp Phật giáo, tăng trưởng tín tâm, có lợi ích cho chúng sanh, ta nguyện nó tăng trưởng. Những ǵ hôm nay ta đă làm sai, trong tâm nghĩ sai, nói lời sai trái, ta hướng về Tam Bảo sám hối, sau đó mới ngủ. Tối mỗi ngày, quư vị nhất định phải làm chuyện ấy. Sáng ra, chẳng thể nói chúng ta làm đều như pháp! Ngay cả Tín vị mà chúng ta vẫn chưa nhập, vẫn chưa đạt đến Sơ Trụ, mỗi ngày chớ nên lần khân, hăy sám hối ngay trong ngày, phát nguyện ngay trong ngày hôm đó, nó sẽ dần dần tăng trưởng. Quư vị phát nguyện lâu ngày, tới khi sắp ngủ, tợ hồ mơ hồ phát nguyện. Tôi thường có chuyện ấy, nhưng chẳng phải là tỉnh táo cho lắm, đă quên, nhưng lát sau nghĩ tới, sẽ vội vă phát nguyện, sau đó sẽ chẳng quên nữa. Quư vị bảo đó là giả, nhưng điều này thật hơn bất cứ thứ ǵ khác, c̣n thật hơn cả chuyện ăn cơm, mặc áo, cho đến khi quư vị mạng chung, sẽ có thể đạt được lợi ích to lớn. Hy vọng mọi người đừng quên; đó gọi là “khéo dùng cái tâm”.

          Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thưa cùng đức Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn! Ngài là đấng đại từ, đại bi, Ngài là bậc trọn đủ hết thảy trí huệ, là bậc Nhất Thiết Trí. Ngài có thể hành phương tiện hay không? Nói ra một phương pháp phương tiện thiện xảo, khiến cho mọi người đạt được lợi ích. V́ chúng sanh trong thời Mạt Pháp nghi hoặc quá nhiều, [các mối nghi hoặc được gọi là] “nghi vơng” (疑網, lưới nghi), khiến cho [chúng sanh] ĺa nghi vơng. Nói đơn giản, khi tôi ở núi Ngũ Đài, có rất nhiều người đến núi hỏi tôi: “Sư phụ ơi! Con niệm Phật rất nhiều năm, lâm chung con có thể sanh về thế giới Cực Lạc hay không?” Tôi nói: “V́ sao quư vị hỏi tôi như vậy?” Người đó nói: “Con niệm Phật rất nhiều năm, dường như chẳng có hiệu quả chi hết, cảm ứng ǵ cũng chẳng có. Vậy th́ khi con sắp chết, có thể văng sanh hay không?” Tôi đáp: “Chẳng văng sanh được!” Người đó hỏi: “V́ sao?” Tôi nói: “Ông hỏi tôi có thể văng sanh hay không là do ông có nghi hoặc. Sanh về thế giới Cực Lạc chẳng có nghi hoặc. Nếu vẫn nghi hoặc có thể văng sanh hay không, tức là ông chẳng tin tưởng! Từ nay về sau, ông phải tiêu trừ ư niệm ấy, ‘sanh là quyết định sanh! Ông có nghi hoặc, sẽ thật sự chẳng đến [Cực Lạc] được. Căn bản là ông chẳng hạ quyết tâm! Đối với Phật pháp c̣n hoài nghi th́ làm sao có thể đạt được ǵ nữa?”

          V́ thế, tôi khuyên chư vị đạo hữu: Bất luận quư vị học pháp nào, chớ nên hoài nghi!” Hoài nghi là chướng ngại lớn nhất, luôn hoài nghi chính ḿnh: Công lực của ta không đủ, nghiệp chướng của ta rất nặng!” Tôi thường nghe mỗi vị đạo hữu nói với tôi nghiệp chướng của người ấy rất nặng, [người ấy] tin nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng, chẳng tin Phật tánh của chính ḿnh và Phật tánh của Phật chẳng hai, chẳng khác. V́ sao chẳng tin? Đó là biểu hiện nghiệp chướng nặng nề. Đấy chẳng phải là biểu hiện nghiệp chướng nặng nề ư? Tôi tin các vị đạo hữu, nếu trước kia quư vị c̣n có nghi hoặc ǵ, tôi căn cứ theo lời đức Phật nói, tôi căn cứ theo lời dạy trong kinh Hoa Nghiêm, tôi chẳng lừa dối quư vị. Trước hết, quư vị hăy diệt trừ nghi hoặc. Nghi hoặc là một món trong mười món phiền năo. Đối với Phật pháp, quư vị đừng nên sanh nghi hoặc. Giả sử quư vị có nghi hoặc, học ǵ cũng học chẳng vào, thứ ǵ cũng chẳng đạt được! Nghi là chướng ngại, là nghi hoặc, Hoặc (, phiền năo) và nghiệp của quư vị khiến cho quư vị hoài nghi. Quư vị đă nhập Phật môn, hăy tin tưởng lời đức Phật dạy. Bất luận đức Phật nói câu nào, trong đầu ta, chẳng có ǵ là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, chẳng cần phân biệt điều ấy. Quư vị niệm một câu A Di Đà Phật là Đại Thừa hay Tiểu Thừa? Có kinh dạy quư vị Vô Thượng Thừa. Nếu quư vị niệm nào cũng “A Di Đà Phật là ta, ta là A Di Đà Phật”, quư vị là Vô Thượng Thừa. Tiểu hay Đại không phải là do đức Phật dạy pháp lớn hay nhỏ, mà là do cái tâm của chúng sanh. Đối với Khổ, tức [Khổ trong] Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nếu trong lúc quư vị chịu đựng đôi chút khổ sở v́ tai nạn, ngay trong lúc quư vị đang chịu khổ, ư niệm đầu tiên của quư vị là “do nỗi khổ này của ta, nguyện cho chúng sanh đừng phải chịu loại khổ này”, ư niệm đầu tiên là mong cho chúng sanh [đừng phải hứng chịu nỗi khổ ấy], đó chẳng phải là Tiểu Thừa.

          Khổ, Tập, Diệt, Đạo, ai cũng biết phải không? Đối với Khổ, tuy ở trong nhân gian cũng khổ, nhưng tâm quư vị chuyển hóa nó, đó là Đại Thừa. Người căn cơ viên măn thọ pháp, không pháp nào chẳng viên. Đó là bậc đại căn khí viên măn, người ấy nghe pháp ǵ cũng đều là viên. Nếu tâm địa của quư vị rất hạn hẹp, dẫu là pháp Đại Thừa, quư vị đọc Hoa Nghiêm vẫn chẳng thể liễu sanh tử, ngay cả pháp Tiểu Thừa cũng chẳng phải! Pháp không có cái Thể nhất định. Hết thảy các pháp chẳng phải là Đại, mà cũng chẳng phải là Tiểu; [Đại hay Tiểu] là do cái tâm của chúng sanh. Người căn cơ viên măn thọ pháp, không pháp nào chẳng viên. Quư vị dùng tâm Tiểu Thừa để thọ pháp, pháp nào cũng là Tiểu Thừa! Đối với pháp ǵ, quư vị cũng đều hoài nghi, như thế th́ pháp ǵ quư vị cũng chẳng thể nhập được. Nhất định là chớ nên hoài nghi, “linh ly nghi vơng” (khiến ĺa lưới nghi). Nhưng có một điều phân biệt, hăy tin tưởng lời Phật, chẳng vướng trong lưới nghi, đừng tin tưởng ai khác, phải tin tưởng Phật. Thông thường, các đạo hữu chúng ta học kinh Lăng Nghiêm, do kinh ấy được năm mươi mấy vị chú giải, ai nấy chấp vào kiến giải của chính ḿnh, giữa người học kinh Lăng Nghiêm với nhau [lại vướng vào kiến giải], chính ḿnh lại khiến cho chính ḿnh mờ mịt! Tốt nhất là học theo Phật, đừng để sự nghi hoặc của chính ḿnh gây chướng ngại. Tín tâm tăng trưởng, đối với bất luận một thừa nào, quư vị cũng sẽ đạt được rất nhanh chóng. Đó là [dụng ư] thỉnh Phật của Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Có hay không một phương pháp tốt đẹp như thế, khiến cho hết thảy chúng sanh đều chẳng hoài nghi, khiến cho chướng ngại trong học Phật, chướng ngại trong học pháp, chướng ngại trong tu hành của họ đều bị tiêu trừ, tín tâm vĩnh viễn tăng trưởng, tu bất cứ một thừa nào cũng đều đạt được địa vị Bất Thoái rất nhanh chóng.

          Đấy là nguyện lực của Kiên Tịnh Tín Bồ Tát; mấy câu ấy chính là nguyện lực của Ngài. Ngài mong đức Phật sẽ nói một phương pháp tốt đẹp như vậy, khiến cho chúng sanh bất thoái, đạt được lợi ích. Nhưng đối với chúng tôi th́ cảm nhận về chỗ này, sẽ là như thế này: Mỗi khi tôi nói đến, hoặc nh́n vào chỗ này, [đều nhận thấy] đấy chính là cái tâm đại từ đại bi của Bồ Tát. V́ chúng sanh trong đời Mạt Pháp nghi hoặc đặc biệt nhiều, Bồ Tát mới thỉnh cầu đức Phật dạy một phương pháp khiến cho chúng sanh chẳng nghi hoặc. Phương pháp ấy nhằm tiêu trừ nghiệp chướng của chúng ta, là phương pháp tốt nhất, xin đức Phật nói ra. V́ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thấy bọn chúng sanh chúng ta trong đời Mạt Pháp chuyện ǵ cũng đều hoài nghi, cũng chẳng phải là họ [vốn ưa] hoài nghi, mà là những chuyển biến trong xă hội khiến cho họ hoài nghi. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát vừa thỉnh cầu như vậy, đức Phật liền bảo Bồ Tát.

 

          (Kinh) Phật cáo Kiên Tịnh Tín ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Khoái vấn tư sự, thậm thích ngă ư. Kim thử chúng trung, hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh viết Địa Tạng. Nhữ ưng dĩ thử sự nhi thỉnh vấn chi, bỉ đương vị nhữ kiến lập phương tiện, khai thị, diễn thuyết, thành nhữ sở nguyện”.

          ()佛告堅淨信言。善哉。善哉。快問斯事。深適我意。今此衆中有菩薩摩訶薩。名曰地藏。汝應以此事而請問之。彼當爲汝建立方便。開示演說。成汝所願。

          (Kinh: Đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín rằng: “Lành thay! Lành thay! Khéo hỏi chuyện ấy, rất vừa ư ta. Nay trong đại chúng này, có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Địa Tạng. Ông hăy đem chuyện ấy thưa hỏi Ngài, Ngài sẽ v́ ông kiến lập phương tiện, khai thị, diễn thuyết, thành tựu điều ông mong nguyện”).

 

          “Phật cáo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát” (đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát): Ngài thỉnh cầu, đức Phật bèn trả lời. Không chỉ trả lời, v́ Bồ Tát thỉnh cầu hay quá, cho nên đức Phật mới nói “thiện tai, thiện tai. “Thiện tai” (善哉) có nghĩa là “rất tốt”. Ông hỏi rất đúng, hỏi rất khá, rất hợp tâm ư của ta, rất vừa ư ta, đáng tán thán! Tán thán Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hay lắm. Sau khi đă tán thán, đức Phật phải nên nói. Đức Phật chẳng nói, tán thán xong, Ngài lại chẳng nói. Chẳng nói, mà giới thiệu một vị: - Nay trong đại chúng này có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Địa Tạng. Ông hỏi vấn đề này hết sức hay, hỏi hết sức đúng lúc, nhưng đối với vấn đề ấy, ta giới thiệu một vị sẽ nói cho ông. Trong pháp hội này, có vị đại Bồ Tát tên là Địa Tạng. Ông đem chuyện này hỏi vị ấy, Ngài sẽ dạy cho ông một phương pháp phương tiện thiện xảo lợi ích chúng sanh. Vị ấy sẽ khai thị diễn thuyết, có thể thỏa măn ư nguyện của ông.

          Đấy là nói theo Sự. Nếu nói theo Lư, v́ sao đức Phật chẳng nói, mà lại bảo Địa Tạng Vương Bồ Tát nói? Quư vị phải xem đến phần kinh nghĩa tiếp theo th́ mới biết. Bộ kinh này có tên là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đức Phật đă chế giới, chẳng cho phép đệ tử của Ngài bói toán, xủ quẻ, phê bát tự, nhất loạt chẳng cho phép, đó gọi là “tà mạng”. Bồ Tát hỏi điều này, đức Phật biết vào thời Mạt Pháp, nếu biết đoán mạng, biết phê bát tự, biết đoán quẻ, sẽ rất dễ giúp đỡ người khác, nhưng kẻ khác sẽ dùng chuyện ấy vào tà môn. Đối với pháp mộc luân Chiêm Sát này, đức Phật biết Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất định sẽ nói pháp ấy; cho nên đức Phật nói ngài Kiên Tịnh Tín hỏi rất hay, hỏi rất khéo. Bồ Tát hành phương tiện để độ chúng sanh, chẳng giống như đức Phật đă chế giới th́ Phật chẳng thể nói. Có hàm nghĩa như thế đó. Hàm nghĩa ấy chẳng phải do đức Phật nói, mà do tôi suy đoán. V́ sao đức Phật chẳng nói, mà lại bảo Địa Tạng Vương Bồ Tát nói? Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta chiêm sát mộc luân, sử dụng pháp [chiêm nghiệm] tướng mộc luân. Nói cách khác, trong đó phê bát tự, đoán mạng đều có, trong một trăm tám mươi chín thứ [luân tướng] đều có. Khi giảng đến phần kinh văn tương ứng, tôi sẽ giải thích cho mọi người.

          Vị Bồ Tát ấy có tên là Địa Tạng. Đối với danh hiệu Địa Tạng, ở đây, trước hết chúng tôi phải nói ư nghĩa bao hàm trong danh hiệu ấy, đến khi giảng về kinh văn, sẽ chẳng nói nữa. Địa là đại địa. Chúng ta hiểu rơ đại địa; nói theo Lư th́ là cái tâm của chúng ta, tức là nói theo pháp môn tâm địa. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là pháp môn tâm địa. Kinh Đại Thừa Đại Tập Thập Luân là pháp môn tâm địa, kinh Địa Tạng là pháp môn tâm địa, cả ba kinh ấy đều nhất trí. V́ đại địa bao hàm vô lượng vô biên công đức, các thứ chúng ta ăn mặc, sử dụng, hết thảy cuộc sống và sanh mạng của chúng sanh, toàn bộ xuất phát từ đại địa. Đại địa là cha mẹ lợi ích, nuôi nấng thân thiết nhất của chúng sanh. V́ thế, vị Bồ Tát này có danh hiệu là Địa Tạng. Đại địa chứa đựng vô lượng, tức là ǵ vậy? Cuộc sống và sanh mạng của chúng sanh. Đọa địa ngục, th́ địa ngục này, địa ngục kia, và đại địa có hàm nghĩa giống nhau. Đồng thời, khi giảng kinh Địa Tạng, chúng tôi đă có nói: “Chẳng có địa ngục”. Địa ngục đă là chẳng có, v́ sao đọa địa ngục? Hễ quư vị phạm tội, liền có [địa ngục], tin nổi hay không? Tôi có thể tỷ dụ đơn giản với mọi người như sau: Nhà tù ở Thổ Thành[2] có hay không? Bất luận hỏi ai, họ đều nói là có. Quư vị có ở trong đó hay không? Ai đă từng ở đó? Đối với quư vị th́ chẳng có! Tôi đă đến đó, pháp sư Tịnh Diệu đưa tôi đến đó nói chuyện với tù nhân. Nhà tù ở Thổ Thành, nhà tù ở Đài Trung, tôi đều đă tới, nhưng tôi chẳng bị giam vào ngục, chẳng bị nhốt trong tù, mà là đến thuyết pháp cho họ. Nhân duyên bất đồng! Tuy [các nhà tù ấy] có, nhưng chẳng liên quan ǵ tới chúng ta, th́ cũng như không có! Chúng ta chẳng làm chuyện ǵ sai trái, địa ngục là duy tâm sở hiện. Khi quư vị phạm tội, địa ngục tuyệt đối là có. Quư vị chẳng có chuyện ấy, địa ngục sẽ tuyệt đối chẳng có! Đệ tử Tam Bảo trọn chẳng đọa vào địa ngục, do sức gia tŕ của Tam Bảo; nhưng quư vị phá hoại Tam Bảo, xâm phạm Tam Bảo, trái nghịch Tam Bảo, sẽ phải đọa vào đó.

          Do vậy, bộ kinh này do Địa Tạng Vương Bồ Tát nói, trong kinh Đại Thừa Đại Tập Thập Luân cũng hỏi pháp như vậy. Khi đó, có một vị đại Bồ Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát, vị đại Bồ Tát ấy tên là Hải Huệ Bồ Tát. Ngài thấy hết thảy lũ lụt, tận hư không khắp pháp giới đều là lũ lụt. Đồng thời, sau lũ lụt, hoàn toàn rỗng không. Tất cả lũ lụt trong đại thiên thế giới đều chẳng có, hoàn toàn trống không. V́ sao? Hư Không Tạng Bồ Tát đến. Hư Không Tạng Bồ Tát vừa đến, do thần thông của Ngài hiển hiện, đại địa hoàn toàn trống không. Hải Huệ Bồ Tát đến, toàn thể đại địa là biển, chẳng tổn thương loài người, chẳng nhấn ch́m mọi người. Điều này được h́nh dung bằng chuyện Địa Tạng Bồ Tát đến [núi Khư La Đế Da] th́ các cơi đất tăng cường hưng thịnh, vật chất sung túc. Đó là do oai lực của Bồ Tát. Tôi nói kèm thêm như thế đó!

 

          (Kinh) Thời Kiên Tịnh Tín Bồ Tát phục bạch Phật ngôn: “Như Lai Thế Tôn, vô thượng đại trí, hà ư bất thuyết, năi dục linh bỉ Địa Tạng Bồ Tát nhi diễn thuyết chi?”

          ()時堅淨信菩薩復白佛言。如來世尊無上大智。何意不說。乃欲令彼地藏菩薩而演說之。

          (Kinh: Lúc đó, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại bạch cùng đức Phật: “Như Lai Thế Tôn vô thượng đại trí, do v́ lẽ nào chẳng nói, mà muốn Địa Tạng Bồ Tát diễn nói?”)

 

          Đức Phật bảo ngài Kiên Tịnh Tín hỏi Địa Tạng Bồ Tát, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hoài nghi, chẳng vui thích cho lắm! Ngài nói: “Con vốn thỉnh đức Phật nói. V́ sao đức Phật chẳng nói, lại bảo con đến hỏi Địa Tạng Bồ Tát?” Lúc đó, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại bạch với đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc vô thượng đại trí, do v́ ư ǵ chẳng nói? Do nguyên nhân nào Ngài chẳng nói cho con? Ngài chẳng nói, mà lại giới thiệu con đến xin Địa Tạng Bồ Tát diễn nói, mong Địa Tạng Bồ Tát diễn nói?” Bồ Tát nẩy sanh nghi hoặc. Chúng ta nghe bộ kinh này, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là tín tâm kiên cố, là Bồ Tát Ma Ha Tát, tức bậc đăng địa đại Bồ Tát. Ngài thay mặt chúng sanh thỉnh pháp, v́ Ngài có tâm đại bi, biết hết thảy chúng sanh đều hoài nghi chuyện này, cho nên thay họ thỉnh pháp từ đức Phật. Đức Phật là bậc Nhất Thiết Trí, Ngài chẳng tự nói, mà c̣n dạy con đến hỏi một vị Bồ Tát khác là do ư nghĩa nào? Tức là đă hoài nghi, lại c̣n hoài nghi thêm nữa!

 

          (Kinh) Phật cáo Kiên Tịnh Tín: - Nhữ mạc sanh cao hạ tưởng.

          ()佛告堅淨信。汝莫生高下想。

        (Kinh: Đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín: - Ông đừng sanh ư tưởng cao, thấp).

 

          Đức Phật liền bảo ngài Kiên Tịnh Tín, “Phật cáo Kiên Tịnh Tín: - Mạc sanh cao hạ tưởng”, [nghĩa là] ông chớ nên cho rằng hết thảy các pháp phải do đức Phật nói. Địa Tạng Bồ Tát và ta giống hệt như nhau, chẳng có cao hay thấp. Phật tức là Địa Tạng, Địa Tạng là Bồ Tát. Bởi lẽ, trong phẩm thứ hai của kinh Địa Tạng đă có chép: Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát đă có thể thành Phật từ lâu, nhưng v́ nguyện lực, Ngài muốn độ hết sạch chúng sanh rồi mới chứng Bồ Đề. Mọi người chúng ta đều biết điều này. Trong hội này, đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: “Có phải ông cho rằng ta nói mới đúng, c̣n Địa Tạng Bồ Tát nói sẽ chẳng đúng đó chăng? Sai mất rồi! Địa Tạng Bồ Tát đă ở địa vị Phật, chớ nên sanh ư tưởng cao, thấp!”

          V́ hết thảy chúng sanh chẳng biết sự khác biệt giữa Phật và Bồ Tát, chúng ta cho rằng Phật là cao, Bồ Tát phải thấp hơn một bậc. Đấy là tâm lư phàm phu! Chẳng hạn như chúng ta phải thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát như thế nào? Văn Thù Bồ Tát là thầy của bảy vị Phật, bảy vị Phật đều được Ngài dạy bảo, Bồ Tát làm thầy của các Ngài, Bồ Tát thành Phật đă lâu! Lại c̣n có Quán Thế Âm Bồ Tát, chúng ta thấy Ngài đứng bên cạnh A Di Đà Phật làm thị giả. Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật đă lâu! Đừng sanh ư nghĩ cao, thấp, đừng tưởng Phật là cao, c̣n Bồ Tát là thấp! Đấy là vọng tưởng phân biệt của lũ phàm phu chúng ta, ngay cả Kiên Tịnh Tín Bồ Tát cũng phân biệt kiểu này! [Thật ra], đấy là Ngài thị hiện! Nếu Ngài [thật sự] có phân biệt kiểu đó, há c̣n gọi là Kiên Tịnh Tín ư? Ngài đă thành tựu tín tâm kiên định, làm gương cho phàm phu.

          Nếu như Kiên Tịnh Tín Bồ Tát chẳng hướng về đức Phật thưa với đức Phật như vậy, tâm chúng ta [sẽ thắc mắc]: “V́ sao đức Phật chẳng nói, mà phải t́m một vị Bồ Tát để nói?” Bởi chúng ta cho rằng Phật phải cao hơn Bồ Tát một bậc. V́ chúng ta tu hành phải trải qua các địa vị Bồ Tát th́ mới có thể thành Phật. Do có ư tưởng “cao, thấp” ấy, cho nên có ư tưởng chấp trước cao, thấp. Có đôi khi [các vị Bồ Tát] là “thùy tích”. Thùy tích (垂跡) là thị hiện sự tu hành nơi Tích Môn của Ngài; khi Ngài nói Tích Môn th́ là Bồ Tát, c̣n nơi Bổn Môn th́ đă thành Phật. Do vậy, trong kinh Địa Tạng có chép Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Địa Tạng: “Ta hoàn toàn không chỉ luôn hiện thân Phật thuyết pháp trong thế giới này, ta cũng thị hiện thân Bồ Tát, thị hiện làm chúng sanh. Trong chín pháp giới đều thị hiện”.

          Do vậy, mọi người chúng ta phải có tư tưởng này, như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa hiện thành một con lợn. Chuyện này ở Ngũ Đài Sơn, quư vị xem các câu chuyện về Văn Thù Bồ Tát, có câu chuyện về con lợn. Bồ Tát hóa hiện thành con lợn ấy. V́ sao biết là Văn Thù Bồ Tát hóa hiện thành con lợn ấy? Có một vị lăo tu hành, đến núi triều bái Ngũ Đài Sơn. Khi vị đó sắp xuống núi, bỗng gặp một cụ già chăn dê. Cụ già chăn dê đưa cho ông ta một phong thư, nói: “Ông cầm phong thư này, trên đường th́ giao cho người nọ, chuyển thư giùm tôi”. Người đó nhận lấy thư, tiếp nhận sự nhờ cậy của cụ già. [Cụ già căn dặn]: “Trên đường, ông nhất định sẽ gặp!” Người ấy hỏi địa chỉ, [cụ già bảo] “không có địa chỉ, nghe người ta gọi đúng tên th́ giao cho người ấy”. Sau đó, đưa cho người ấy phong thư, dặn ông ta đến nơi đó v.v… Thật ra, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thị hiện thành một con lợn. Đến nơi ấy, người đó cầm phong thư, nghe chủ nhân của con lợn gọi đúng tên, người ấy thấy đó là một con lợn. Vị lăo ḥa thượng ấy nghĩ: “Mặc kệ nó là lợn hay là người, cứ giao cho nó là được”. Sư giao thư cho con lợn tên Bột Hà ấy, cũng chẳng biết là có đọc hay không. Con lợn liền đứng thẳng lên. Lợn vốn có bốn chân, nó đứng thẳng trên hai chân sau rồi chết. Con lợn ấy là do Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa thân. Lăo ḥa thượng [chăn dê] trên núi cũng là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa thân, [gởi thư] dặn: “Hăy nên trở về”. Người khác mở thư ra xem, chỉ thấy trong thư có bốn chữ “hăy nên trở về”. Con lợn ấy vừa đứng lên liền chết, cho thấy đấy là thánh cảnh. “Thánh cảnh” là cảnh giới do thánh nhân thị hiện. Cảnh ǵ, thân phận ǵ Ngài cũng đều hiện, hóa hiện. Hóa hiện chẳng phải là chân thật; nếu chân thật th́ là [tác dụng của] nghiệp.

          Do vậy, đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Ông đừng nên sanh ư tưởng cao hay thấp”, có nghĩa là các đạo hữu chúng ta chớ nên sanh ư tưởng cao, thấp. Nay tôi giảng kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo, nhưng các đạo hữu ngồi dưới, không chừng c̣n giảng hay hơn tôi rất nhiều. Đừng nên sanh ư tưởng cao, thấp, mà hăy b́nh đẳng.

 

          (Kinh) Thử thiện nam tử phát tâm dĩ lai, quá vô lượng, vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp, cửu dĩ năng độ Tát Bà Nhă hải, công đức măn túc, đản y bổn nguyện tự tại lực cố, quyền xảo hiện hóa, ảnh ứng thập phương.

          ()此善男子發心已來。過無量無邊不可思議阿僧祇劫。久已能度薩婆若海。功德滿足。但依本願自在力故。權巧現化。影應十方。

          (Kinh: Vị thiện nam tử này kể từ phát tâm đến nay, đă trải qua vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, đă có thể vượt biển Nhất Thiết Trí từ lâu, công đức trọn đủ, chỉ do nương vào sức bổn nguyện tự tại, mà quyền xảo hóa hiện, in bóng trong mười phương).

 

          Đức Phật liền bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: - Vị thiện nam tử này, “thiện nam tử” là nói đến ai? Chính là nói Địa Tạng Bồ Tát. Đức Phật giới thiệu Địa Tạng Bồ Tát, bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đừng nên sanh ư tưởng cao, thấp. Ông có biết Địa Tạng Bồ Tát là như thế nào hay không? Vị thiện nam tử ấy kể từ lúc phát Bồ Đề tâm cho tới nay, đă trải qua vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp. Nói “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, lại c̣n thêm “chẳng thể nghĩ bàn”, tức là chẳng có tướng thời gian, lâu xa lắm! Ngài đă có thể vượt biển Tát Bà Nhă (Sarvajña) từ lâu, tức là đă sớm thành Phật. Biển Nhất Thiết Trí, Tát Bà Nhă dịch thành Nhất Thiết Trí. Biển Nhất Thiết Trí, công đức trọn đủ. V́ sao Ngài c̣n chưa thành Phật? Do nương theo sức bổn nguyện, Ngài tự tại. V́ nguyện lực của Ngài là độ hết chúng sanh rồi mới chứng Bồ Đề. Tôi nghĩ các đạo hữu đều nhớ hai câu sau đây: “Địa ngục bất không, thệ bất thành Phật” (Địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật). Hai câu nói ấy, tôi giải thích như thế nào? Mọi người giải thích như thế nào? Tôi giải thích để mọi người xem có đúng hay không nhé! Địa ngục vốn là không, ngài Địa Tạng đă thành Phật từ lâu. Phật, Bồ Tát thị hiện các loại thân; do vậy, Ngài đáng nên dùng thân Bồ Tát để độ, bèn thị hiện làm Bồ Tát. Mọi người thấy hết thảy các vị Bồ Tát, đều mặc y phục tại gia, để tóc, đều đeo chuỗi anh lạc, khắp thân là châu báu, mười phần sang quư. Vị Bồ Tát nào mà chẳng sang quư vẹn mười? Các thứ báu ấy đều là chất báu vô giá, sợ rằng chúng ta có mua cũng chẳng mua nổi, chẳng phải là các thứ báu trong nhân gian!

          V́ sao Địa Tạng Bồ Tát cạo đầu? Trong các vị Bồ Tát, chỉ có Địa Tạng Bồ Tát hiện thân tỳ-kheo, điều này tột bậc đặc thù! Do vậy, đoạn văn này là một chứng cứ rơ rệt. Ngài nương theo sức bổn nguyện mà hóa hiện, đừng coi đó là chân thật! Địa Tạng Bồ Tát từ lúc phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, đă trải qua thời gian chẳng có cách nào tính toán được. A-tăng-kỳ (Asāṃkhya) là Vô Ương Số (無央數), tức là chẳng có con số [nào để tính toán nổi]. Con số không thể tính toán nổi ấy lại trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, sẽ là thời gian chẳng thể nào tính toán được! V́ trong sự thị hiện của hết thảy các vị Bồ Tát, khi thị hiện, mục đích là làm như thế nào để chúng sanh đạt được lợi ích, có thể độ chúng sanh, coi điều đó là chánh yếu. Do vậy, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở Ngũ Đài Sơn thân ǵ cũng đều hiện. Như vừa rồi tôi mới nhắc đến chuyện Ngài hiện làm lợn, đó chẳng phải là người! Ngài cũng có thể hiện làm lợn, hiện làm hết thảy chúng sanh. V́ sao Ngài phải hiện làm lợn? Đương nhiên là có chú giải cho biết: Như tôi vừa mới nói con lợn ấy tên là Bột Hà. Chủ nhân Bột Hà đối với nó đặc biệt, đặc biệt cung kính Bột Hà, chỗ ăn ở đều quét tước sạch sẽ. Người chủ đó nuôi rất nhiều lợn, lợn được nuôi vừa mập lại béo. Muốn giết con lợn nào, Bột Hà liền đi quanh nó một ṿng, con lợn ấy liền bước ra, để cho người ta giết, có thứ tự. Chuyện này chẳng thể nghĩ bàn! Câu chuyện ấy c̣n rất dài, tôi giới thiệu giản lược đôi chút!

 

          (Kinh) Tuy phục phổ du nhất thiết sát độ, thường khởi công nghiệp, nhi ư ngũ trược ác thế, hóa ích thiên hậu, diệc y bổn nguyện lực sở huân tập cố, cập nhân chúng sanh ưng thọ hóa nghiệp cố dă. Bỉ tùng thập nhất kiếp lai, trang nghiêm thử thế giới, thành thục chúng sanh. Thị cố, tại tư hội trung, thân tướng đoan nghiêm, oai đức thù thắng, duy trừ Như Lai, vô năng quá giả. Hựu ư thử thế giới, sở hữu hóa nghiệp, duy trừ Biến Cát, Quán Âm đẳng, chư đại Bồ Tát giai bất năng cập. Dĩ thị Bồ Tát bổn thệ nguyện lực, tốc măn chúng sanh nhất thiết sở cầu, năng diệt chúng sanh nhất thiết trọng tội, trừ chư chướng ngại, hiện đắc an ổn.

          ()雖復普遊一切剎土常起功業。而於五濁惡世化益偏厚。亦依本願力所熏習故。及因衆生應受化業故也。彼從十一劫來。莊嚴此世界。成熟衆生。是故在斯會中。身相端嚴威德殊勝。唯除如來無能過者。又於此世界所有化業。唯除遍吉。觀世音等。諸大菩薩。皆不能及。以是菩薩本誓願力。速滿衆生一切所求。能滅衆生一切重罪。除諸障礙。現得安隱。

          (Kinh: Tuy lại dạo khắp hết thảy các cơi, thường dấy lên công nghiệp, nhưng đặc biệt chú trọng giáo hóa, lợi ích [chúng sanh] trong đời ác ngũ trược, cũng nương theo sức bổn nguyện huân tập, và cũng do nghiệp của chúng sanh đáng tiếp nhận sự giáo hóa, mà từ mười một kiếp đến nay, Ngài trang nghiêm thế giới này, thành thục chúng sanh. Do vậy, trong hội này, Ngài thân tướng đoan nghiêm, oai đức thù thắng, chỉ trừ Như Lai, chẳng có ai hơn được! Lại nữa, sự nghiệp giáo hóa của Ngài trong thế giới này, chỉ trừ các vị như Biến Cát, Quán Âm v.v… chứ các vị đại Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng. Do sức bổn thệ nguyện mà vị Bồ Tát ấy có thể nhanh chóng thỏa măn hết thảy các điều mong cầu của chúng sanh, có thể diệt hết thảy trọng tội của chúng sanh, trừ các chướng ngại, khiến cho họ được an ổn trong hiện tại).

 

          Đức Phật bảo: Tuy Địa Tạng Bồ Tát thị hiện trong hết thảy cơi Phật, dạo khắp hết thảy các cơi nước, thường khởi công nghiệp tức là nói Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện không ngằn mé, không xứ sở. Hay nói cách khác, trong đời ác ngũ trược, Ngài ở trong cơi này, tức thế giới Sa Bà mà chúng ta đang ở, do duyên hóa độ chúng sanh đặc biệt sâu nặng. Nhất là do sức bổn nguyện, sức phát nguyện huân tập của Ngài, bằng ḷng chịu khổ thay cho chúng sanh, thị hiện giống như chúng sanh. V́ thế, chúng ta thấy kinh Địa Tạng nói Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện các thân c̣n nhiều hơn nhân loại trong thế giới này, vô cùng, vô tận. Ngài tới vô lượng thế giới, nhưng do nguyện lực của Ngài huân tập, thị hiện các thứ tướng của các loại chúng sanh, không nhất định đều là tướng Bồ Tát như trong hiện tại. Ngài đến địa ngục liền hiện tướng địa ngục. Ngài cảm ứng đến mức độ nào? Giống như các đạo hữu chúng ta, đối với Địa Tạng Bồ Tát có cảm, hễ cầu bèn có cảm. Tôi kể một câu chuyện cảm ứng từ sách Địa Tạng Cảm Ứng Lục.

          Một người thợ mộc đi đường, thấy trong một cái lều gỗ mục nát có một cây côn, tức là giống như gậy chống. Ông ta nói cây côn này rất lạ, cầm lên nh́n: Đầu cây côn có khắc h́nh tướng, nh́n chẳng ra h́nh tướng ǵ, đen thùi lùi. Ông ta bèn nhặt cây gậy đem về, dựng ở đầu giường. Ông ta xem xét mỗi ngày, cảm t́nh th́ chẳng có cảm t́nh ǵ, mà tôn kính cũng chẳng tôn kính chi cả! Cũng chẳng biết là ǵ, chỉ cảm thấy cây mộc côn ấy khác thường, nhân duyên như thế đó. Ông ta do nghiệp báo bị bệnh ngặt. Bệnh ngặt đại khái là do ác nghiệp trót tạo đă chín muồi, bị bắt xuống địa ngục. Đă xuống địa ngục, ông ta thấy một vị xuất gia, tức ḥa thượng đến đó. Diêm vương gia vừa thấy vị ḥa thượng đó đến, liền xuống khỏi ngai vàng, đảnh lễ vị ḥa thượng ấy. Ông ta thấy vị ḥa thượng ấy dường như rất quen thuộc, nhưng lại không nhận biết, chẳng hiểu là chuyện như thế nào? Lại thấy vị ḥa thượng đó nói với vua Diêm La mấy câu, ḥa thượng rời đi. Diêm vương gia liền bảo ông ta: “Do Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo ta, ông là hộ pháp của Ngài, ta thả ông trở về. Sau này, ông hăy gắng tu hành”. Người ấy giống như nằm mộng. Cho đến khi b́nh phục, ông ta nói: Dường như tôi chưa hề tiếp xúc vị ḥa thượng đó, v́ sao Ngài lại cứu tôi? Bỗng nhiên, ông ta nh́n thấy trên đầu cây gậy ấy có h́nh tướng của vị ḥa thượng đó. Ái chà! Giống hệt như vầy! Lúc đó, ông ta không coi là cây gậy nữa, liền đem thờ phụng. Do ông ta có nhân duyên với Địa Tạng Vương Bồ Tát như vậy, Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu ông ta. Chúng ta ngẫm xem, các đạo hữu chúng ta đọc Địa Tạng Tam Kinh, Địa Tạng Bồ Tát có cứu chúng ta hay không? Trong khi quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, hành theo, quư vị vĩnh viễn nghĩ tới Ngài, sẽ vĩnh viễn chẳng đọa vào tam ác đạo.

 

Tập 3

 

          Có vị đạo hữu hỏi: “Đức Phật từng chế giới, đệ tử Phật không được tập luyện những chuyện bói toán v.v… Cho nên thỉnh Địa Tạng Bồ Tát tuyên nói. Đức Phật cũng chế giới đệ tử không được phô bày thần thông với người khác. Chỉ có kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này, vừa mở đầu, đức Phật dùng sức thần thông, phô bày một đạo tràng rộng răi, trang nghiêm, thanh tịnh, vô ngại. Trong ấy ắt có thâm nghĩa, kính mong lăo pháp sư từ bi khai thị”.

          Trong Địa Tạng Vương Bồ Tát Tam Kinh, toàn bộ đều là hiển lộ thần thông. Mọi người biết khi đức Phật nói kinh Địa Tạng, chẳng phải ở trong nhân gian, mà là tại Đao Lợi Thiên. Hơn nữa, khi đức Phật nói kinh Địa Tạng, không có Thanh Văn, không có La Hán, toàn là đại Bồ Tát. Từ phẩm thứ nhất là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát cho đến phẩm thứ mười ba là Hư Không Tạng Bồ Tát; đấy là kinh Địa Tạng. Kinh ấy toàn là Bồ Tát, chẳng có A La Hán. Đức Phật chế giới là pháp Thanh Văn. Tôi nghĩ mọi người đă đều cùng thọ tam đàn đại giới, cùng thọ một lúc, Bồ Tát Giới dạy chúng ta điều ǵ? Bồ Tát Giới nhằm trị tâm, nhưng chúng ta ở Đông Độ, ở trong quốc độ này, tam đàn đại giới cùng thọ một lúc. Trong tất cả tứ chúng đệ tử chúng ta, có rất nhiều vị đă thọ Bồ Tát Giới, nhưng hằng ngày đều phạm. Chúng ta có tŕ được Bồ Tát Giới hay không? Đó là tâm, tâm giới! Chỉ cần quư vị vừa khởi tâm động niệm là đă phạm giới. Chúng ta lại c̣n thọ đều là mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, tức là giới do Báo Thân Phật nói với Hóa Thân Phật, nói trong Thật Báo Trang Nghiêm Độ. Tỳ Lô Giá Na Phật nói với trăm ngàn vị Thích Ca Phật. Trăm ngàn ức vị Thích Ca lại nói Bồ Tát Giới cho trăm ngàn vị Thích Ca Phật, trăm ngàn ức vị Thích Ca Phật hạ sanh trong nhân gian đều ở trong các quốc độ nói Bồ Tát Giới. Chư vị đạo hữu lư giải điều này như thế nào? V́ thế, đức Phật chế giới chẳng cho phép các đệ tử Phật dùng thần thông hiển lộ cho người khác, đó là giáo nghĩa Tiểu Thừa. Giáo nghĩa Đại Thừa th́ toàn là Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở Ngũ Đài Sơn thường hiện thần thông. Cho nên phải nên dùng tâm Bồ Tát để học pháp Bồ Tát. Đấy là một việc.

          Nhưng do danh tự của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mọi người thấy giống như bói toán, chẳng phải vậy! Chờ cho đến khi chúng tôi giảng giải kinh văn, quư vị sẽ lư giải cặn kẽ. Quư vị phải lạy Chiêm Sát Sám th́ mới có thể dùng Chiêm Sát Luân. Lạy Chiêm Sát Sám tức là lạy mười phương chư Phật, quư vị lạy Chiêm Sát Sám sẽ đạt được luân tướng thanh tịnh. Mục đích của việc sử dụng Chiêm Sát Luân là để đạt được luân tướng thanh tịnh. Đă đạt được luân tướng thanh tịnh, quư vị mới có thể tu hai thứ quán đạo nơi cảnh giới Nhất Thật. Khi quư vị quán Thật Tướng, quán Thật Tướng của các pháp đều là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, nghe danh từ ấy dường như là h́nh tướng chiêm bốc (占卜, bói toán, xủ quẻ), chẳng phải vậy! Sai mất rồi, quư vị đă suy nghĩ sai mất rồi. Quư vị nghe xong kinh Chiêm Sát liền hiểu rơ, phải lạy mười phương chư Phật, lạy mười phương hết thảy các vị Bồ Tát, lạy mười phương tôn pháp, lạy mười phương hết thảy hiền thánh tăng. Đó gọi là Chiêm Sát Sám Pháp. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, chờ cho đến khi quư vị nghe kinh xong, sẽ hiểu, chẳng phải là tùy tiện, chẳng phải là xủ quẻ, phê bát tự, hoàn toàn khác hẳn!  

          Đối với danh từ Chiêm Sát, chiêm sát (占察, chiêm nghiệm, xem xét) ǵ vậy? Nghiệp báo thiện ác. Lại nữa, khi nói pháp này, trong phần trước, mọi người cũng đă nghe một đoạn Tự Phần, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về đức Phật thỉnh cầu, Ngài nói trong thời kỳ Mạt Pháp, tư tưởng [của chúng sanh] hết sức hỗn loạn, tâm chúng sanh hết sức loạn, chẳng biết làm như thế nào cho tốt? Đúng là trong [khi bị vây hăm bởi] nghiệp chướng, bất luận quư vị tu pháp nào, thành tựu cũng đều rất ít. Tôi nói lời này, chẳng phải là tùy tiện nói. Tôi xuất gia đến nay đă tám mươi năm, chính tai nghe thấy “vị này đă đắc đạo, vị kia đă chứng quả” th́ trong thế gian Mạt Pháp này, quả thật chẳng có! Đừng nói là trong thời kỳ hiện tại, ngay trong thời Ngẫu Ích đại sư, tức là cuối đời Minh, mấy trăm năm trước, Ngài muốn thọ giới tỳ-kheo. Ngài quan sát Nam Diêm Phù Đề (thế giới này của chúng ta), muốn thỉnh năm vị tỳ-kheo thanh tịnh để thọ giới tỳ-kheo, chẳng làm được, tuyệt đối chẳng có. V́ thế, Ngài t́m kiếm trong Đại Tạng Kinh cách nào để có thể đạt được giới thanh tịnh, cho nên mới t́m thấy kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Ngẫu Ích đại sư nghiên cứu, học vấn hết sức nghiêm cẩn, lẽ nào Ngài đề xướng bói toán, phê bát tự ư? Chẳng thể nào! Lại nữa, mấy trăm năm sau Ngẫu Ích đại sư, không có ai đề xướng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Pháp sư Hoằng Nhất kế thừa Ngẫu Ích đại sư, hoằng dương kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, v́ Ngẫu Ích đại sư chẳng thể chế ra Chiêm Sát Luân. Ngài không có tài khéo ấy, bèn dùng giấy viết thành các lá thăm để bắt thăm, khác với pháp sư Hoằng Nhất. Pháp sư Hoằng Nhất học nghệ thuật. Do vậy, Ngài làm một bộ Chiêm Sát Luân gồm mười chín thứ nghiệp báo. Mười chín thứ ấy bao gồm căn bản vô minh. Hàng Nhị Thừa có biết đoạn vô minh hay chăng? Chẳng biết! Không chỉ chẳng phải là pháp Tiểu Thừa, mà cũng chẳng phải là pháp Đại Thừa b́nh phàm! Như vậy th́ mọi người sẽ hiểu rơ v́ sao nói kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, khiến cho tín tâm của chúng ta kiên định. Kiên định vẫn chưa được, c̣n phải là thanh tịnh tín. Thanh tịnh tín th́ không chỉ đoạn sạch Kiến Tư phiền năo, mà c̣n là đoạn vô minh. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là bậc đại Bồ Tát trong các vị Bồ Tát. Ngài đoạn dứt vô minh, chẳng phải là Bồ Tát b́nh phàm. V́ thế, các đạo hữu chúng ta học bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này, phải coi đây là pháp Bồ Tát để học. Hơn nữa, [các đại chúng] nghe kinh trong pháp hội này, chẳng có Thanh Văn, chẳng có A La Hán. Mười sáu vị đại đệ tử thường tùy của đức Phật, chẳng hiện diện một vị nào. Trong [đại chúng nghe pháp của] Địa Tạng Tam Kinh, không có A La Hán, toàn là đại Bồ Tát. V́ thế, khi mọi người học, phải sanh khởi cảm giác thù thắng.

          V́ cơi này hoằng dương kinh Địa Tạng, thuở đầu c̣n có quan niệm sai lầm, nói Địa Tạng Bồ Tát là giả, chẳng tin tưởng! Nhưng chúng ta có Cửu Hoa Sơn, Địa Tạng Bồ Tát hiện thân vào đời Đường, chẳng phải giả! Đối với tứ đại danh sơn, đệ tử Phật chúng ta, bất luận tại gia hay xuất gia, đều tột bậc tôn kính. Mọi người đều biết, Cửu Hoa Sơn là nơi Địa Tạng Vương Bồ Tát thị hiện thánh tích. Trên đỉnh Cửu Hoa Sơn là nơi Địa Tạng Vương Bồ Tát lễ kinh Hoa Nghiêm. Tảng đá in hai dấu chân Ngài đứng vẫn c̣n đó, tôi nghĩ ai đă triều bái Cửu Hoa Sơn đều trông thấy. Tôi rất may mắn, năm 1931, khi triều bái Cửu Hoa Sơn, họ mở tháp của Địa Tạng Bồ Tát trên Cửu Hoa Sơn: [Nhục thân của] một vị lăo ḥa thượng đă viên tịch hơn một ngàn năm như vậy, tóc vẫn mọc dài, móng tay vẫn mọc dài. Cứ sáu mươi năm mở tháp một lần, cắt một lần. Mỗi lần cắt là sáu mươi năm, mỗi lần đều đặt tại đó, không có ai dám động vào, chẳng cho phép ai lấy đi. Nhưng khi cắt, sẽ đem kéo cắt móng tay và các dụng cụ chỉnh gọn [râu tóc tai, móng tay, móng chân đă dùng trong lần trước] lấy ra, đổi thành một bộ mới để vào đó. Tôi tự ḿnh thấy như thế đó vào năm 1931. Đợi cho đến năm 1991, tôi lại đến, chẳng mở tháp nữa, [chánh quyền Hoa Lục] không cho mở tháp nữa, phong kín luôn. Đấy đều là sự thật, đó là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát.

          Trong kinh này, khi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát xin đức Phật chỉ dạy, đức Phật lại tán thán Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Đă tán thán xong, đức Phật nên nói, nhưng Ngài chẳng nói. Vừa rồi, có một đạo hữu hỏi tôi “đức Phật chế giới cấm, không cho đệ tử Phật xem quẻ, bói toán, vậy th́ đức Phật lại nói pháp chiên sát sẽ chẳng hợp cho lắm. Bồ Tát th́ có thể, Bồ Tát có thể nói, [Do vậy bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát] ông hăy thỉnh cầu một vị Bồ Tát Ma Ha Tát trong hội này, tức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trong hội này, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi hiện diện, Văn Thù và Phổ Hiền đều hiện diện. V́ sao đức Phật chỉ định Địa Tạng Bồ Tát nói? Mọi người phải tham cứu điều này, tôi không nói cho mọi người. Mỗi người quư vị phải tự ḿnh tham cứu do nguyên nhân ǵ, tôi chỉ giải thích đại lược đôi chút như thế. Hàm nghĩa trong mục đích giải thích tuyệt đối là thù thắng.

          Kinh này được phiên dịch truyền đến Đông Độ [bởi ngài Bồ Đề Đăng[3]], tuy Ngẫu Ích đại sư hoằng dương, Ngài hoàn toàn chẳng giảng, pháp sư Hoằng Nhất cũng chẳng giảng. Ngẫu Ích đại sư viết chú giải cho kinh Chiêm Sát, pháp sư Hoằng Nhất chế tạo Chiêm Sát Luân. Chiêm Sát Luân Tướng gồm mười chín luân tướng do pháp sư Hoằng Nhất làm ra. Pháp sư Hoằng Nhất bảo tôi hăy giảng giải; thoạt đầu, tôi cũng chẳng giảng. Sau khi đến Mỹ, tôi và pháp sư Hoằng Giác hai người chúng tôi đến Mỹ. [Thầy Hoằng Giác nói]: “Thầy giảng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, giảng các bộ đại kinh không có ai nghe. Con nghĩ hăy nên giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo”. Nói đến duyên phận th́ rất tốt. Khi quay về, ở Đài Loan, chúng tôi bắt đầu làm Chiêm Sát luân tướng. Ở Đài Loan, tôi bắt đầu làm Chiêm Sát luân tướng cho cư sĩ Vương Thục Phân ở Phương Quảng, dần dần mới phổ biến rộng khắp. Tôi cũng chẳng giảng được mấy lần! Năm 1989, giảng một lần tại Nữu Ước, năm 1999 giảng một lần tại Ngũ Đài Sơn. Lần này họ mời tôi đến đây giảng, năm nay là năm 2009. Đại khái [mỗi lần giảng] cách nhau mười năm. Cứ mỗi mười năm giảng một lần, cũng chỉ giảng ba lượt. Nhân duyên giống như thế, chính tôi cũng không hiểu. Dẫu sao chẳng có duyên, sẽ chẳng thể thành. Các pháp do nhân duyên sanh, chẳng có duyên khởi, nếu quư vị giảng, ai sẽ nghe quư vị nói? Phật pháp mà không có người thỉnh, sẽ chẳng thể tùy tiện nói. Tôi muốn giảng, quư vị muốn giảng điều ǵ th́ có người thỉnh quư vị hay không? Mọi người hăy ngẫm xem, người ta thỉnh quư vị nói kinh ǵ đó, đấy gọi là “có duyên”, quư vị bèn thuận theo, ứng duyên mà! Cũng có khi có duyên thỉnh, mà chẳng ứng, do cái nhân chẳng chín muồi. Lần này, tôi ở Ngũ Đài Sơn, năm trước bị bệnh rất nặng, thân thể vừa đỡ hơn một chút, tôi đến Thái Nguyên. Đă đến Thái Nguyên, cảm thấy khỏe hơn đôi chút, tôi nói:Hăy nên sang Đài Loan trước!” V́ thế, mới bắt đầu sang Đài Loan. Tôi do bệnh mà sang Đài Loan, gặp mấy vị thỉnh cầu tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, tôi cảm thấy rất thù thắng. V́ chỉ có ở Đài Loan, Chiêm Sát Luân của chúng tôi mới được lưu truyền rất nhiều. Hiện thời, tại Đại Lục cũng rất phổ biến, nhưng chúng tôi khởi xướng bắt đầu từ Đài Loan. Tuy đă giảng tại Nữu Ước, nhưng không làm [luân tướng]. Ở Ngũ Đài Sơn th́ chỉ giới hạn trong chùa Ngũ Đài Phổ Thọ, chẳng tuyên truyền ra ngoài. Đây là lần thứ ba, là lần giảng gần nhất.

          Nay chúng tôi giảng tiếp phần đang nói hôm trước. “Tuy phục phổ du nhất thiết sát độ, thường khởi công nghiệp, nhi ư ngũ trược ác thế, hóa ích thiên hậu, diệc y bổn nguyện lực sở huân tập cố, cập nhân chúng sanh ưng thọ hóa nghiệp cố dă” (Tuy lại dạo khắp hết thảy các cơi, thường dấy lên công nghiệp, nhưng đặc biệt chú trọng giáo hóa, lợi ích trong đời ác ngũ trược, cũng nương theo sức bổn nguyện huân tập, và cũng do nghiệp của chúng sanh đáng tiếp nhận sự giáo hóa). Trong đoạn này, đức Phật hướng về Kiên Tịnh Tín Bồ Tát tán thán Địa Tạng Vương Bồ Tát, nói nguyện lực của Địa Tạng Vương Bồ Tát đặc biệt to lớn. Chúng ta đều biết Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, “nguyện lực lớn” là hóa độ hết thảy chúng sanh, chủ yếu là hóa độ chúng sanh trong địa ngục. “Địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật” chính là nguyện lực to lớn của Ngài, nêu rơ Địa Tạng Vương Bồ Tát ở trong hết thảy các quốc độ, không chỉ trong thế giới Sa Bà này, mà là trong hết thảy các cơi nước của Phật, Ngài đều lợi ích chúng sanh. Ngài không có quan niệm quốc tịch, không có quan niệm địa vực, chẳng phân biệt đối với chúng sanh. Công trạng của Ngài, tức công trạng lợi ích chúng sanh, được gọi là Công. Nghiệp là nói đến Tác Ư của Ngài, v́ Ngài tác ư mà phát khởi hết thảy công đức. Tác ư mong lợi ích hết thảy chúng sanh, làm hết thảy các sự nghiệp cứu độ chúng sanh, kiến lập sự nghiệp cứu độ hết thảy chúng sanh.

          Đặc biệt là trong hiện thời, thế giới này của chúng ta được gọi là “ngũ trược ác thế”, mọi người đều biết chuyện này. Mỗi vị đạo hữu đều cảm nhận hiện thời chúng ta đang ở trong t́nh huống nào! Thân hứng chịu, hoàn cảnh quư vị gặp gỡ là t́nh huống ǵ, đó gọi là “huân tập nghiệp”. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói có hai loại huân tập:

          - Một là thiện huân tập các ác nghiệp của quư vị, chuyển ác nghiệp thành thiện nghiệp.

          - Loại thứ hai là ác nghiệp huân tập thiện nghiệp, thiện đều biến thành ác.

          Tôi chẳng cần nói cặn kẽ điều này, mọi người đều đích thân ở trong ấy, quư vị cảm nhận, tận mắt thấy, chính ḿnh nghe thấy. Hiện thời, thế giới này của chúng ta là thế giới ǵ? Tôi nghĩ quư vị đều biết, tôi chẳng nói cặn kẽ. Thế giới này chính là ngũ trược ác thế, chẳng phải là nơi tốt đẹp. Ở trong thế giới này độ chúng sanh, nguyện lực lớn nhất, mọi người đều biết hai vị đại Bồ Tát đặc biệt nổi bật là Quán Âm và Địa Tạng. Mọi người triều bái Cửu Hoa Sơn, triều bái Ngũ Đài Sơn. Bảy mươi năm trước, hiện tượng tại Cửu Hoa Sơn khi tôi triều bái, chẳng giống như hiện tượng hiện thời! Rặng Cửu Hoa Sơn khởi đầu từ huyện Thanh Nguyên tỉnh An Huy, dọc theo con đường toàn là người tàn phế măi cho đến trên núi, cụt tay, khuyết chân, mù mắt, toàn là sáu căn chẳng vẹn toàn. Khắp cả núi đều là [kẻ tàn phế], chẳng biết v́ sao có hiện tượng ấy! Khi đó, tôi chẳng hiểu Phật pháp, mới xuất gia chưa lâu. Sau đó, lại học Phật pháp, học kinh Địa Tạng mới biết: Đó chính là tướng địa ngục. Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát độ địa ngục chúng sanh, chẳng phải là độ trong địa ngục, mà là địa ngục trong nhân gian! Hiện thời, Cửu Hoa Sơn chẳng có hiện tượng này, đă trừ sạch, chẳng cho phép có hiện tượng ấy. Nhưng sự thật rốt ráo là có, trong cơi đời ác ngũ trược này, Địa Tạng Vương Bồ Tát lần này thị hiện thân này, lần sau thị hiện thân kia, tại Cửu Hoa Sơn [có thể thấy] rất rơ rệt, các hóa thân khác của Địa Tạng Bồ Tát rất nhiều. Các câu chuyện [về những thân thị hiện của Bồ Tát] cũng rất ư là nhiều!

          Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Địa Tạng Vương Bồ Tát từ mười một kiếp đến nay, ở trong thế giới này độ chúng sanh khổ ách, tới trang nghiêm thế giới này, lợi ích chúng sanh, thành thục chúng sanh. Quư vị chẳng thấy, Địa Tạng Bồ Tát ở trong hội này, thân tướng đoan nghiêm, oai đức thù thắng, duy trừ Như Lai, vô năng quá giả” (chỉ trừ Như Lai, không ai có thể hơn được), có nghĩa là trừ có ta (Phật) th́ mới có thể sánh bằng Ngài, mới có thể hơn Ngài được! Chỉ trừ Như Lai, hết thảy các vị Bồ Tát khác đều chẳng có oai đức sâu nặng như Địa Tạng Bồ Tát. [Nói những điều này để] h́nh dung tán thán Địa Tạng Bồ Tát từ nhiều kiếp lâu xa tới nay, trong thế giới này độ chúng sanh chẳng phải là một, hai ngày, Ngài đă độ suốt mười một kiếp. Một kiếp là thời gian dài cỡ nào? Kể từ khi thọ mạng của con người là mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm lại tăng thêm một tuổi, tăng cho đến khi con người sống thọ tám vạn bốn ngàn năm. Trải qua tám vạn bốn ngàn một trăm năm, tức là khi [thọ mạng] đă đạt đến tám vạn bốn ngàn năm, cứ mỗi một trăm năm sau lại giảm bớt một tuổi, giảm cho đến khi thọ mạng của loài người chỉ là mười năm. Chu kỳ một tăng một giảm như vậy được tính là một kiếp. Nguyên gốc trong tiếng Ấn Độ là Kiếp Ba (Kalpa). Kiếp Ba dịch sang tiếng Hán là Thời Phần (時分). Đó là một khoảng thời gian trong gịng thời gian. Khoảng thời gian dài nhất th́ gọi là Kiếp Ba. Thời gian ngắn nhất gọi là sát-na (kṣaṇa), như một cái nháy mắt của chúng ta là chín mươi sát-na. Thời gian trong một cái nháy mắt của chúng ta là chín mươi sát-na, chẳng thể dùng tinh lực để tính toán số lượng được. Do vậy, chu kỳ một tăng một giảm [của thọ mạng con người] được gọi là một Kiếp. Trải qua mười một kiếp, Địa Tạng Bồ Tát ở trong thế giới này hóa độ chúng sanh. Ngài đă trải qua mười một kiếp, khiến cho chúng sanh trong thế giới này đắc độ, thành thục các chúng sanh. Do vậy, thân tướng của Ngài hết sức trang nghiêm, oai đức hết sức thù thắng, chỉ trừ Như Lai, những người khác đều chẳng thể sánh bằng.

          Lại nữa, tất cả hóa nghiệp trong thế giới này, “hóa nghiệp” (化業) chính là sự nghiệp hóa độ chúng sanh. Trong thế giới Sa Bà này, không chỉ ngài Địa Tạng, mà c̣n có các vị đại Bồ Tát khác. “Duy trừ Biến Cát, Quán Âm đẳng” (Chỉ trừ các vị như Biến Cát, Quán Âm v.v…). “Đẳng” () là c̣n có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, c̣n có các vị Bồ Tát khác! Biến Cát (遍吉, Samantabhadra, tốt lành trọn khắp) là Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, cho đến các vị đại Bồ Tát khác th́ mới có thể sánh bằng, ngang hàng với Địa Tạng Bồ Tát. V́ nguyện lực của chính Ngài, Ngài mong độ hết thảy chúng sanh đều thành Phật, Ngài có thể thỏa măn nguyện cầu của hết thảy chúng sanh. Trong thế giới này, chúng sanh thường xuyên gặp tai nạn, cầu Bồ Tát tiêu tai miễn nạn. Cầu hai vị Bồ Tát có hiệu quả tốt nhất, cảm ứng nhanh nhất, chính là cầu Quán Âm và Địa Tạng. Trong phẩm thứ mười hai của kinh Địa Tạng, lúc đức Phật sắp nói xong kinh Địa Tạng, trong phẩm thứ mười hai, đức Phật đă dặn ḍ Quán Thế Âm Bồ Tát, đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát hoằng dương pháp môn Địa Tạng. Mỗi lần tôi niệm đến phẩm thứ mười hai, tâm tôi suy nghĩ: Bản thân Quán Thế Âm Bồ Tát đă giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh trong thế giới này, v́ sao đức Phật c̣n căn dặn Quán Thế Âm Bồ Tát hoằng dương pháp môn Địa Tạng Bồ Tát? Đó là v́ khiến cho chúng sanh trong thế giới này càng thêm tin tưởng công đức của Địa Tạng Bồ Tát. Tôi chỉ cảm nhận, tại Mỹ tôi đă đến một số nơi, có các đạo hữu xin tôi hồi hướng cho họ, tôi nói: “Tôi chẳng có sức. Tôi là một gă phàm phu, có sức mạnh ǵ đâu! Tốt nhất là quư vị niệm Địa Tạng Bồ Tát, niệm kinh Địa Tạng. Tôi cũng giúp quư vị niệm, tôi chỉ có thể làm kẻ phụ giúp. Quư vị đừng mong tôi cầu tiêu tai miễn nạn”. Tôi nói: “Tôi chẳng làm được! Tai nạn của chính tôi c̣n chưa tiêu, tôi có thể giúp quư vị tiêu tai miễn nạn ư? Vậy th́ do quư vị yêu cầu, tôi làm như thế nào đây? Tôi có thể giới thiệu cho quư vị, mọi người chúng ta cùng nhau cầu Địa Tạng Bồ Tát. Tôi nói: “Bất quá tôi tu lâu năm hơn quư vị đôi chút, tôi đă học mấy chục năm rồi, chưa từng gián đoạn”.

          V́ thế mà tán dương công đức của Địa Tạng Bồ Tát. V́ sao đức Phật tán dương công đức của Địa Tạng Bồ Tát như vậy? Khiến cho mọi người tin tưởng, mục đích là như thế đó. Đức Phật tán dương Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho chúng ta khi gặp khó khăn, chúng sanh gặp khó khăn rất nhiều, kinh tế, thói quen trong cuộc sống, bệnh khổ, tai nạn, gặp phải ma quỷ, ma gây nạn, [gặp phải] các vấn đề chẳng thể giải quyết, tốt nhất là quư vị đóng cửa, niệm một vạn câu Địa Tạng Bồ Tát, sẽ có hiệu quả “dựng sào, thấy bóng”. Đấy là lời Phật dạy, chẳng phải là tôi nói bừa với quư vị. Ngài có thể thỏa măn sở cầu của hết thảy chúng sanh, mau chóng thỏa măn sở cầu của hết thảy chúng sanh, hiệu quả hết sức mau chóng. Bọn chúng sanh chúng ta đều có nghiệp; chẳng có nghiệp, sẽ chẳng sanh trong Sa Bà, Ngài có thể tiêu trừ nghiệp chướng của quư vị. [Lễ niệm Địa Tạng Bồ Tát] có thể tiêu trừ trọng tội của quư vị, hiện thời quư vị sẽ được an ổn. Đấy là hiệu quả, tức hiệu quả của Địa Tạng Bồ Tát.

 

          (Kinh) Hựu thị Bồ Tát danh vi Thiện An Ủy Thuyết Giả, sở vị xảo thuyết thâm pháp, năng thiện khai đạo sơ học phát ư cầu Đại Thừa giả, linh bất khiếp nhược.

          ()又是菩薩名爲善安慰說者。所謂巧說深法。能善開導初學發意求大乘者。令不怯弱。

          (Kinh: Lại nữa, vị Bồ Tát ấy có tên là Bậc Khéo Nói An Ủi, tức là Ngài khéo nói pháp sâu, có thể khéo khơi gợi, hướng dẫn kẻ sơ học phát tâm cầu Đại Thừa, khiến cho họ chẳng khiếp nhược).

 

          Lại nữa, đức Phật lại bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Địa Tạng Bồ Tát có tên là Thiện An Ủy Thuyết Giả. Tức là trừ danh hiệu Địa Tạng ra, Ngài c̣n có một danh tự khác, tức là danh xưng về phẩm đức, tức đức hiệu, là Thiện An Ủy Thuyết Giả (善安慰說者, đấng khéo nói an ủi). Thiện An Ủy Thuyết Giả nghĩa là Ngài rất khéo thuyết pháp, có thể hiển thị thiện xảo nghĩa sâu trong Phật pháp, khéo nói pháp sâu! V́ sao ở đây đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là Địa Tạng Bồ Tát khéo nói pháp sâu? Nhằm bảo quư vị: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chẳng phải là niềm tin nông cạn, mà là pháp rất sâu. Pháp rất sâu như thế nào? Chính là nửa bộ sau [nói về] cảnh giới Nhất Thật và hai thứ quán đạo

          Pháp sư Hoằng Nhất đă bảo tôi, Ngài xếp Địa Tạng Tam Kinh vào hệ thống Hoa Nghiêm. V́ sao? Trong Địa Tạng Tam Kinh, chẳng thấy danh tự Thanh Văn, hoặc danh tự vị La Hán nào, chẳng có! Phàm là pháp do Địa Tạng Bồ Tát nói ra, chẳng có hàng Nhị Thừa, c̣n Bồ Tát đều là Đại Thừa Bồ Tát Ma Ha Tát. Ngài có thể khơi gợi, hướng dẫn hết thảy những kẻ vừa mới phát tâm, dạy quư vị cầu Đại Thừa. Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa chúng sanh đều là cầu pháp Đại Thừa măi cho đến khi thành Phật, nhưng tu pháp Đại Thừa mà chẳng phát khởi tâm Bồ Đề. V́ sao? Tu pháp Đại Thừa, quư vị phải lợi ích chúng sanh. Từ khi quư vị bắt đầu phát tâm tu pháp, bèn lợi ích người khác. Khi quư vị học Địa Tạng Tam Kinh, Địa Tạng Bồ Tát dạy quư vị, trước hết là dạy quư vị lợi ích người khác; sau đó, mới nói đến chính ḿnh. Chẳng hạn như đối với kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này, quư vị chiêm sát cho người khác có hiệu quả hết sức tốt đẹp, chiêm sát cho chính ḿnh th́ không nhất định. Hiệu quả sẽ chậm chạp! Quư vị hỏi chuyện ǵ, cầu chuyện ǵ cho chính ḿnh, khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, sẽ có hiệu quả hết sức chậm, một lần chiêm sát chẳng thành, hai lần chiêm sát chẳng thành; nhưng cầu cho người khác, chiêm sát bèn thành! Do vậy, đối với người cầu pháp Đại Thừa, họ đă tin rồi bèn dũng mănh tinh tấn. V́ sao? V́ khi quư vị dùng cách chiêm sát cho người ấy, tâm chẳng khiếp nhược. Gặp hết thảy trắc trở, chẳng hạn như đường đi không thông, quư vị mong được đi thông suốt, cầu khẩn Địa Tạng Vương Bồ Tát, như thế th́ sẽ dấy lên sự biến hóa. Do vậy, khiến cho người phát đại tâm, người tu hành, cảm thấy tiền đồ mờ mịt, tâm chẳng định được, cho nên quư vị mới dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát đôi chút.

          Đồng thời, đối với pháp sâu này, tôi nói với mọi người nhiều hơn đôi chút. Hết thảy những người phát Bồ Đề tâm chúng ta, phàm là người học Địa Tạng Tam Kinh, quư vị nhất định phải tin tưởng chính ḿnh. Tôi thường hỏi các đạo hữu có tín tâm hay không? Thường là các đạo hữu đều lư giải sai lầm. Hễ hỏi họ có tín tâm hay không? Họ lư giải sai lầm, [tưởng tín tâm] là “có tin Tam Bảo hay không?” Chẳng phải hàm nghĩa ấy! “Có tín tâm hay không” tức là nói “quư vị có tin vào cái tâm của chính ḿnh hay không?” Tôi thường hỏi các đạo hữu, họ có phát khởi cái tâm hay không? Có tín tâm hay không? Đạo hữu trả lời: “Có chứ! Tôi tin Phật, tin Pháp, tin Tăng”, đó chẳng phải là tín tâm. Có tín tâm hay không, tức là bản thân quư vị có tin tưởng cái tâm của chính ḿnh hay không? Tin tưởng cái tâm ta là ǵ? Tâm là Phật, tin tâm là Phật, tin tâm thành Phật, tâm chính là Phật, Phật chính là tâm. Đó gọi là “thâm pháp”. Quư vị đối với bất luận kinh Đại Thừa Đại Tập Thập Luân, cho đến kinh Địa Tạng, hay kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Địa Tạng Vương Bồ Tát đều khiến cho quư vị phát khởi thâm tâm, tin chính ḿnh là Phật. Ba bộ kinh ấy đều dạy quư vị thông đạt Thật Tướng. V́ thế, pháp sư Hoằng Nhất bảo tôi: [Địa Tạng] Tam Kinh đều thuộc về hệ thống Hoa Nghiêm”. Khi vận dụng kinh Hoa Nghiêm khiến cho tạp nhiễm chẳng c̣n, sẽ chứng đắc Chân Như Pháp Tánh Nhất Chân pháp giới. Tam kinh của Địa Tạng Bồ Tát đều dạy quư vị đạt tới mục đích cuối cùng là tiến nhập Chân Như Pháp Tánh. Nhưng Bồ Tát dùng phương tiện cực thiện xảo, chẳng hạn như kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo dùng Chiêm Sát Luân để bảo cho quư vị biết thiện ác nhân quả, nhằm mục đích khiến cho quư vị đạt tới thâm pháp, ngơ hầu chính quư vị thành Phật. V́ hễ học kinh Địa Tạng, quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, sợ hăi ǵ cũng đều chẳng có, chẳng có cảm giác kinh hoảng, chẳng có cảm giác sợ hăi, mà cũng chẳng hoảng hốt nữa! Đạo lư ǵ vậy? Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo hóa quỷ. Người sợ quỷ, quư vị niệm kinh Địa Tạng, quỷ trông thấy quư vị sẽ đảnh lễ! Nhục nhăn của quư vị chẳng trông thấy, chứ trong khi quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, khi quư vị niệm Địa Tạng Tam Kinh, chung quanh quư vị có bao nhiêu vị thần hộ pháp. Như Kiên Lao Địa Thần trong kinh Địa Tạng, đại địa đều thuộc về Kiên Lao Địa Thần; các pháp khác Kiên Lao Địa Thần[4] chẳng hộ tŕ. [Đối với pháp môn của] Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, bà ta đều chẳng hộ tŕ, mà chuyên môn hộ tŕ đức Địa Tạng. Do vậy, bà ta được gọi là Kiên Lao Địa (堅牢地, đất cứng chắc). Nếu mọi người đă niệm kinh Địa Tạng th́ phẩm thứ mười một là phẩm Kiên Lao Địa Thần. Bà ta nói khắp cơi đất đều là con cháu của bà ta: “Hễ chỗ nào có đại địa, th́ sẽ có con cháu của ta. Con cháu của ta đều hộ tŕ Địa Tạng Bồ Tát”. Do vậy, tin sâu thâm pháp, tức tự tâm của chúng ta là Phật, “tâm này làm Phật”. Bất quá, chúng ta chẳng có khai quang, chẳng trải qua tu luyện, khai quang chẳng thành. V́ quư vị chẳng tu, làm sao có thể khai quang cho nổi? Trải qua tu luyện, vị Phật của quư vị sẽ phóng quang, cho đến khi quư vị thành tựu th́ sẽ có thể khai quang!

 

          (Kinh) Dĩ như thị đẳng nhân duyên, ư thử thế giới, chúng sanh khát ngưỡng, thọ hóa đắc độ. Thị cố, ngă kim linh bỉ thuyết chi.

          ()以如是等因緣。於此世界。衆生渴仰受化得度。是故我今令彼說之。

          (Kinh: Do các nhân duyên như thế, trong thế giới này, chúng sanh khát ngưỡng, được Ngài giáo hóa bèn đắc độ. V́ thế, nay ta bảo Ngài nói).

 

          V́ vậy, tới cuối cùng, đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: V́ có nhân duyên ấy, có các nhân duyên như thế đó, trong thế giới này, tức thế giới Sa Bà, là cơi giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật, tất cả các chúng sanh đều khát ngưỡng được Ngài giáo hóa đắc độ. Đức Phật hướng về Kiên Tịnh Tín Bồ Tát giới thiệu Địa Tạng Bồ Tát, giới thiệu công đức, trí huệ, và sức mạnh hóa độ chúng sanh của Địa Tạng Bồ Tát. V́ vậy, ông hướng về ta thỉnh cầu thuyết pháp, ta bảo ông hăy đến thỉnh cầu Ngài. Đó chính là mục đích bảo ông thỉnh cầu Ngài. Từ đoạn kinh văn này, tôi thưa với mọi người: Dựa theo lời giới thiệu của đức Phật, ngàn vạn phần đừng coi kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thành bói toán, đoán quẻ. Cách nghĩ ấy tuyệt đối sai lầm. Hiện thời, chẳng ngại nói trước. Quư vị sử dụng Chiêm Sát mộc luân, điều thứ nhất là thân thể thanh tịnh, thay quần áo, súc miệng. Sau đó, lễ bái. Lạy đầu tiên nhất định phải lạy Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát; sau đó, lạy mười phương chư Phật, đều là mười phương: Mười phương tôn pháp, mười phương hiền thánh Tăng, mười phương hết thảy chư tôn Bồ Tát. Sau đó mới có thể sử dụng [Chiêm Sát] luân. Quư vị sử dụng luân mà lần đầu tiên, hoặc dùng lần thứ hai, hoặc dùng từ mười lần trở lên, chẳng tương ứng; “chẳng tương ứng” là chẳng đáp đúng vào điều quư vị hỏi. Đó là v́ quư vị không chí tâm. Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy quư vị: “Tâm vẫn chưa chân thành, chẳng hiện cho quư vị”. Nếu quư vị muốn sử dụng, phải bế quan ba ngày hoặc năm ngày, hoặc từ bảy ngày trở lên, sẽ chiêm sát hằng ngày đều linh. Hễ dùng tới đều linh; quư vị hỏi điều ǵ, [Bồ Tát] sẽ bảo cho quư vị biết điều đó. Hễ hỏi, bảo quư vị “chuyện này chẳng nên làm”, quư vị tuyệt đối chẳng thể làm. [Chiêm Sát Luân dạy] “chuyện này quư vị nên làm”, quư vị thực hiện, tuyệt đối sẽ thành tựu, chẳng có khuyết điểm!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát kư giải Phật ư dĩ, tầm tức khuyến thỉnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện tai! Cứu thế chân sĩ. Thiện tai! Đại trí khai sĩ. Như ngă sở vấn, ác thế chúng sanh dĩ hà phương tiện nhi hóa đạo chi, sử ly chư chướng, đắc kiên cố tín. Như Lai kim giả, vị dục linh nhữ thuyết thị phương tiện, nghi đương tri thời, ai mẫn vị thuyết”.

          ()爾時堅淨信菩薩既解佛意已。尋即勸請地藏菩薩摩訶薩言。善哉救世真士。善哉大智開士。如我所問。惡世衆生以何方便而化導之。使離諸障。得堅固信。如來今者爲欲令汝說是方便。宜當知時。哀愍爲說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă hiểu ư Phật, lập tức khuyến thỉnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Lành thay bậc chân sĩ cứu thế. Lành thay bậc đại trí khai sĩ. Như lời tôi hỏi, dùng phương tiện nào để giáo hóa, hướng dẫn chúng sanh trong đời ác ĺa các chướng, có được niềm tin kiên cố. Nay Như Lai muốn ông nói phương tiện ấy, hăy nên biết thời, xót thương nói cho”).

 

          Hiện thời, đức Phật đă nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát như vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát liền lư giải, chẳng hoài nghi nữa. Trước đó, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát vốn mong thỉnh đức Phật nói cho Ngài. Đức Phật không chỉ chẳng nói, lại c̣n giới thiệu cho Ngài một người khác nói, cho nên hoài nghi, trong ḷng không cam tâm. Đức Phật biết Kiên Tịnh Tín Bồ Tát không ưa thích, cho nên mới giới thiệu công đức của Địa Tạng, khiến cho Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hiểu rơ.

          “Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát kư giải Phật ư dĩ” (lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă hiểu ư Phật rồi), do đă hiểu ư Phật, cho nên Ngài sẽ đến bên ṭa của Địa Tạng Bồ Tát, khuyến thỉnh Địa Tạng Vương Bồ Tát nói. “Thiện tai! Cứu thế chân sĩ” (lành thay bậc chân sĩ cứu đời): Ông là vị đại sĩ chân chánh cứu độ thế gian. Đó là tán thán Địa Tạng Bồ Tát. “Thiện tai, đại trí khai sĩ”: Ông là người có đại trí huệ, khơi mở, hướng dẫn hết thảy chúng sanh. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát tán thán Địa Tạng Bồ Tát. “Như ngă sở vấn” tức là như vừa rồi tôi đă thỉnh vấn đức Phật, ông đă nghe thấy, vào lúc đời ác trong thời Mạt Pháp sau này, đối với các chúng sanh ấy, phải dùng phương pháp phương tiện nào để khiến cho họ ĺa khỏi hết thảy chướng ngại? Mỗi tín chúng, tức là mỗi đệ tử đức Phật, đều có rất nhiều chướng ngại, tín tâm của họ chẳng kiên định, dùng phương pháp nào để khiến cho tín tâm của họ kiên định?

          Ngay cả tín tâm cũng chẳng kiên định, c̣n có thể thành tựu nữa chăng? Tôi thảo luận vấn đề này với mọi người nhiều hơn một chút. Chúng ta đừng tưởng rằng chính ḿnh đă vào cửa Tam Bảo đă mười năm, hoặc hai mươi năm. Hiện thời, đại khái là tôi c̣n nhiều hơn quư vị đôi chút, tôi đă nhập Phật môn, xuất gia tám mươi năm, nay tính lại toàn thể tám mươi năm, tôi cảm thấy chính ḿnh vẫn chưa nhập môn! Tôi nói vậy, chắc là mọi người hoài nghi, chuyện nhập môn này chẳng phải là dễ dăi đâu nhé. Chúng ta có thể nhận biết niệm trước dấy lên ư niệm chẳng tốt, liền cắt đứt ư niệm bất hảo tiếp đó. Khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư) tiếp xúc sáu trần, trong ấy chẳng có phân biệt, có làm được hay không? [Hiện thời, chúng ta đều là sáu căn tiếp xúc sáu trần], sáu thức lập tức phân biệt, tốt, xấu, yêu, ghét. Yêu ghét rành rành, chẳng thích bèn mong né tránh, yêu thích bèn mong đạt được. Tôi nghĩ mọi người đều gần giống như tôi! Đó đều là tín tâm chẳng kiên định, có thể coi là đă nhập môn được chăng? Phải nói thật thà, chẳng nói với người ngoài, tự ḿnh phải nên nói thật với chính ḿnh. V́ sao chúng ta thành đạo khó khăn như vậy? Chúng ta đoạn Kiến Tư Hoặc luôn khó khăn như thế đó, thấy thứ ǵ bèn phân biệt thứ đó. Hễ tốt th́ mong đạt được, xấu th́ mong vứt bỏ, vứt th́ cũng chẳng vứt được! Có muốn đạt được th́ cũng chẳng đạt được! Tạo nghiệp ở trong đó, quư vị mong vứt bỏ th́ trong khi vứt bỏ, sẽ tạo rất nhiều nghiệp. Mọi người có thể cẩn thận ngẫm lại xem!

          Trong đời ác thời Mạt Pháp, dùng phương tiện thiện xảo ǵ th́ mới có thể khiến cho họ an tâm tu hành, chẳng bị chướng ngại, mới có thể khiến cho họ đạt được tín tâm kiên cố bất thoái? Tín bất thoái có sức mạnh rất lớn. Vừa rồi, tôi hướng về đức Phật thỉnh cầu, đức Phật dạy tôi đến hỏi ông, khiến cho ông sẽ nói phương tiện ấy. Vậy th́ ông nên biết là phải lúc, nay đúng là lúc nên nói, ông hăy thương xót chúng sanh mà nói. Khi ấy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về Địa Tạng Bồ Tát thưa bày. Đó là mở đầu phần nhân duyên phát khởi tối sơ. Dưới đây, Địa Tạng Bồ Tát chánh thức nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngữ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện nam tử! Đế thính, đương vị nhữ thuyết”.

          ()爾時地藏菩薩摩訶薩語堅淨信菩薩摩訶薩言。善男子諦聽。當爲汝說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Này thiện nam tử! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông”).

 

          Địa Tạng Bồ Tát liền bảo: “Nay ta có thể nói cho ông”. Chấp thuận nói cho Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Nhưng ông phải khéo nghe, chăm chú nghe đúng như lư. Mỗi dịp thuyết pháp, đức Phật đều bảo các đệ tử phải lắng nghe, “đế thính” (lắng nghe) có nghĩa là quan sát chắc thật, tức là quư vị quan sát kỹ càng, đúng lư, đừng sờ soạng nơi sự tướng. Hàm nghĩa của chữ “đế thính” rất sâu! Do vậy, có lần đức Phật thuyết pháp, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm duy-na. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền xướng một bài kệ: “Pháp diên long tượng chúng” (các vị long tượng trong tiệc pháp). Ư nói: Người nghe pháp, không phải là rồng th́ đều là voi, tức toàn là bậc đại Bồ Tát. “Pháp diên long tượng chúng, đương quán Đệ Nhất Đế”: Các vị đều phải nên quán tưởng Đệ Nhất Nghĩa Đế. “Đế quán pháp vương pháp”: Hăy đúng lư, suy xét, quán chiếu, chẳng dùng ngôn từ, hăy khéo nghe, đúng như lư quán sát [pháp của đấng Pháp Vương]. “Đế quán pháp vương pháp, Pháp Vương pháp như thị” (quán kỹ pháp của Phật, pháp của Phật như thế): Đức Phật liền bước xuống pháp ṭa. Đức Phật đă thuyết pháp xong, chẳng nói một câu nào. Mọi người ngẫm xem: Văn Thù Sư Lợi xướng bài kệ tán ấy, đức Phật đă thuyết pháp xong! C̣n có một lần đức Phật thuyết pháp, cũng chẳng nói ǵ, cầm một đóa hoa, [kinh thường chép là] “niêm hoa” (拈花), tức là cầm một đóa hoa, tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật buông đóa hoa xuống, bước xuống pháp ṭa, đă nói xong! Hàm nghĩa trong hai loại sự kiện ấy, chủ yếu là“thuyết đế thính, đế thính”. Hàm nghĩa của “đế thính” là “hăy nghe như lư, đừng nghe nơi sự tướng”. Như đối với việc nghe kể chuyện th́ hăy nên nghe [bằng tâm thái] như thế đó, đừng suy tưởng nơi sự tướng, hăy quán chiếu nơi Lư, th́ gọi là “ư hội, tâm chiếu” (ư lănh hội, tâm quán chiếu); đó là Đế. “Đế thính” th́ mới nói với quư vị. Quư vị đừng nghe chuyện này rồi coi như xong, đấy chẳng phải là nói với quư vị! Do vậy, mỗi buổi thuyết pháp của đức Phật, đều có rất nhiều vị chứng quả, rất nhiều vị thành đạo, chính là v́ họ đă đế thính, tư duy đúng lư!

 

          (Kinh) Nhược Phật diệt hậu, ác thế chi trung, chư hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, ư thế gian, xuất thế gian nhân quả pháp trung, vị đắc quyết định tín, bất năng tu học vô thường tưởng, khổ tưởng, vô ngă tưởng, bất tịnh tưởng, thành tựu hiện tiền, bất năng cần quán Tứ Thánh Đế pháp, cập thập nhị nhân duyên pháp, diệc bất cần quán Chân Như Thật Tế, vô sanh, vô diệt đẳng pháp. Dĩ bất cần quán như thị pháp cố, bất năng tất cánh bất tác Thập Ác căn bản quá tội, ư Tam Bảo công đức chủng chủng cảnh giới, bất năng chuyên tín, ư tam thừa trung, giai vô định hướng.

          ()若佛滅後惡世之中。諸有比丘比丘尼優婆塞優婆夷。於世間出世間因果法中未得決定信。不能修學無常想苦想無我想不淨想成就現前。不能勤觀四聖諦法。及十二因緣法。亦不勤觀真如實際。無生無滅等法。以不勤觀如是法故。不能畢竟不作十惡根本過罪。於三寶功德種種境界。不能專信。於三乘中皆無定向。

          (Kinh: Nếu sau khi đức Phật nhập diệt, trong đời ác có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đối với pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian, chưa đạt được niềm tin quyết định, chẳng thể tu học vô thường tưởng, khổ tưởng, vô ngă tưởng, bất tịnh tưởng, thành tựu hiện tiền, chẳng thể siêng năng quán pháp Tứ Thánh Đế và pháp thập nhị nhân duyên, cũng chẳng siêng năng quán Chân Như Thật Tế, các pháp vô sanh, vô diệt v.v… Do chẳng siêng năng quán các pháp như thế, chẳng thể rốt ráo không tạo các tội lỗi căn bản thuộc về Thập Ác, đối với các cảnh giới công đức của Tam Bảo chẳng thể chuyên tín, đối với tam thừa đều chẳng có định hướng).

 

          Địa Tạng Bồ Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Sau khi đức Phật diệt độ, “Phật” là nói tới Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt, thế giới này biến thành đời ác, gọi là “ngũ trược ác thế”. Mọi người đều biết [ngũ trược là] Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo Trược, Mạng Trược, và Chúng Sanh Trược. Toàn là ô trược, mê loạn, chẳng rơ ràng; tới khi đó, đức Phật đă nhập diệt. Nay đức Phật nhập diệt đă hơn hai ngàn năm. Lúc đó, đức Phật sắp nhập diệt, nói xong Địa Tạng Tam Kinh, Ngài bèn nhập diệt. Ở trong thế gian này, ngay trong thuở đời ác ngũ trược, muốn tu pháp xuất thế gian; nói cách khác, chúng ta mong đoạn phiền năo, mong liễu sanh tử, chứng đắc quả vị xuất thế gian. Chẳng nói chứng đắc Tứ Quả La Hán, tối thiểu là được “nhập vị”. Nhập vị” sẽ có thể đoạn sanh tử, chưa thể đoạn dứt tám mươi tám món Sử thuộc Kiến Hoặc. Nhưng chúng ta là những người học Đại Thừa không chỉ như thế! Không chỉ Kiến Tư, chúng ta c̣n phải đoạn Trần Sa phiền năo. Nhưng trong thế gian nhằm lúc đời mạt này, ngay cả Kiến Tư phiền năo c̣n chẳng đoạn được. Trong lúc này là hiện tượng ǵ? Thế gian lẫn xuất thế gian, dù là nhân hay là quả, đều chẳng tin tưởng nhân quả. Xă hội hiện tại đă không tin tưởng nhân quả, c̣n cho rằng làm chuyện xấu chẳng bị quả báo, làm chuyện tốt cũng chẳng có quả báo. Họ không tin nhân quả, chẳng hề có tín tâm, khẳng định là chẳng có tín tâm! Các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni đă xuất gia, hoặc tại gia Tam Bảo đệ tử, tức ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, trong lúc này tín tâm chẳng kiên định. Ở đây, Địa Tạng Bồ Tát đă nói, nói ngay trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo: Ngài nói khi đó họ chẳng thể tu hành bốn tịnh pháp, chẳng thể tu học vô thường, cũng chẳng thể tu học khổ, chẳng thể tu học vô ngă, chẳng thể tu bất tịnh. Ngay cả nghĩ mà c̣n chẳng nghĩ tới, há c̣n có thể thành tựu được ư? Chẳng thành tựu được! V́ Khổ, Tập, Diệt, Đạo là pháp Thánh Đế, bốn loại pháp Thánh Đế chính là khởi đầu, cho đến pháp mười hai nhân duyên đều là pháp nhân quả thuộc về thế gian. Trong pháp nhân quả thế gian, Khổ và Tập là nhân quả thế gian. Khổ là cái quả thế gian. Tập là cái nhân thế gian. V́ quư vị triệu tập rất nhiều cái nhân, làm rất nhiều chuyện xấu, đương nhiên là phải chịu khổ, hứng chịu khổ quả. Diệt là xuất thế gian, [cái nhân của] Diệt là Đạo, tu Đạo nhằm thành tựu xuất thế gian. Trong Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Khổ và Tập là nhân quả thế gian, Diệt và Đạo là nhân quả xuất thế gian. Đạo là tu nhân, Tập là có nhân, ắt sẽ có cái quả thành tựu. Nói thông thường, đạt tới Tứ Quả A La Hán, đoạn dứt Kiến Tư phiền năo, th́ Tứ Thánh Đế sẽ thành tựu. V́ thông thường, khi mọi người học Phật pháp, sẽ đều học được [những điều này], chúng tôi không giảng Tứ Thánh Đế làm chi, chủ yếu là giảng chuyện thuộc về Địa Tạng Vương Bồ Tát.

          Cũng “chẳng siêng năng quán Chân Như Thật Tế”, đấy là xét theo Tứ Thánh Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mười hai nhân duyên. Tu pháp mười hai nhân duyên, đó là sự tự tu của bậc La Hán. Ở trong núi tự ngộ, trong lúc chẳng có Phật, vị ấy sẽ tự ḿnh ngộ được. Nương theo pháp Tứ Thánh Đế do đức Phật đă dạy để tu, loại A La Hán ấy gọi là Thanh Văn. Nương theo pháp mười hai nhân duyên để tu th́ gọi là Duyên Giác. Trong các thừa, họ là Nhị Thừa, tu pháp Nhị Thừa. [Trong thời Mạt Pháp], người tu pháp Nhị Thừa rất ít, người tu pháp Đại Thừa càng ít hơn. Do chẳng siêng năng quán Chân Như Thật Tế, đấy là pháp môn duy tâm. Pháp môn duy tâm, quán tâm, đó chính là “minh tâm kiến tánh” như chúng ta thường nói. Nương theo Bồ Tát đạo để hành, theo như kinh Hoa Nghiêm đă dạy, sau khi đă măn tâm Thập Tín, thuộc vào địa vị Tam Hiền Bồ Tát, có thể nhận biết Chân Như, lần lượt chứng nhập và mong cầu, tương tự chứng đắc Chân Như, chẳng phải là thật sự chứng đắc. Đă đạt tới địa vị Sơ Địa Bồ Tát, chứng đắc một phần Pháp Thân, tiêu diệt hết thảy vô minh, từ Sơ Địa tiến tới Thập Địa. Tôi nói những chuyện này đều dựa theo kinh Hoa Nghiêm, v́ đây là Hoa Nghiêm Đại Thừa. Loại [hành nhân tu tập] pháp vô sanh vô diệt này chẳng có, ngay cả người tu Tứ Đế, pháp mười hai nhân duyên đều rất ít, há c̣n có thể tu pháp Đại Thừa ư? Có thể siêng năng quán pháp như thế hay chăng? Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Đều không có”. Tới lúc ấy, tu pháp Tứ Thánh Đế, tu pháp mười hai nhân duyên, thánh nhân Nhị Thừa đă chẳng c̣n, cho đến người tu pháp Bồ Tát càng ít, càng chẳng có! Nếu muốn đoạn tuyệt Thập Ác Nghiệp, há có thể làm được ư? Trong lúc ấy, người tạo tội căn bản thuộc nghiệp Thập Ác khá nhiều. Đó là hiện tượng trong hiện thời của chúng ta.

          Đối với công đức của Tam Bảo, và các thứ cảnh giới, đều chẳng thể chuyên tín, cứ tiến tiến, lùi lùi. Trong lần trước, tôi đă nói với mọi người về tiêu chuẩn của tín tâm. Trong khi quư vị tin Tam Bảo, gặp nhân duyên đoạn mạng, ép cho quư vị chẳng thể tin Tam Bảo, thế mà quư vị có thể tín tâm kiên định, chẳng nghi, ta thà tin Tam Bảo mà chết, chẳng muốn không tin Tam Bảo để được sống. Có thể có nghị lực kiểu ấy hay không? Có thể nhận biết niệm trước khởi ác, biết ư niệm trong tâm chẳng đúng, bèn ngưng dứt ngay, không để cho niệm sau dấy lên, có tín tâm như thế hay không? Đức Phật thuyết pháp chẳng phải là mơ hồ, mà đều là có tiêu chuẩn nhất định. Chính quư vị đoạn khá nhiều Hoặc, sẽ chứng đắc khá nhiều địa vị thanh tịnh, chính quư vị hiểu rất rơ rệt. Quư vị có thể nh́n thấy hết thảy các sắc đều chẳng phân biệt, chẳng dấy lên ư niệm hay không? Quư vị có thể đối với thứ tốt lẫn thứ xấu, chẳng phân biệt là tốt hay xấu hay không? Phân biệt tốt xấu, chẳng phải là đồ ngốc; đừng coi người ấy là kẻ ngốc, kẻ ngốc chẳng thể phân biệt. Ở trong đó, quư vị chẳng chọn lựa, không sanh cái tâm phân biệt tốt, xấu, thiện, ác, đồng thời chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh. Không cầu an vui cho chính ḿnh, c̣n phải làm chuyện tốt để làm ǵ? Chỉ mong cho chúng sanh hạnh phúc. Điều này rất thông thường, đấy là bậc Bồ Tát. Trong lúc này mà nếu có các đạo hữu như vậy, có thể siêng năng quán Chân Như Thật Tế, tức là pháp môn quán tâm, quán cái tâm của chính ḿnh. Chân Như Thật Tế là quán tâm, hết thảy vọng niệm chẳng vướng mắc, hết thảy các pháp sanh diệt cũng chẳng vướng mắc. Quán hết thảy các pháp vô sanh, vô diệt, bất cấu, bất tịnh. Những điều này mọi người đều hiểu, đă đều đọc qua khá nhiều kinh điển Đại Thừa. V́ chẳng thường tu Quán như vậy, chẳng tu hành như vậy, quư vị lại chẳng thể không tạo ác nghiệp. Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Kẻ đó chẳng thể rốt ráo không tạo tội lỗi căn bản thuộc vào Thập Ác, kẻ đó sẽ phạm tội! Bất thiện th́ là ác, chẳng có chuyện lơ lửng được! Chẳng làm chuyện tốt th́ sẽ làm chuyện xấu, có thể ngưng trụ nơi chẳng thiện chẳng ác hay chăng? Chẳng thể được! Do hoàn cảnh bên ngoài, do sự thật khách quan, ép cho kẻ ấy chẳng làm ác bèn là hành thiện. Cũng có một số ít người ở trong khoảng giữa, tức chẳng thiện, chẳng ác. Đó là ngắn ngủi, tạm thời, ai nấy đều có nghiệp thiện ác xen tạp. Đối với công đức và sức mạnh của Phật Pháp Tăng Tam Bảo, kẻ đó chẳng thể chuyên tâm tin tưởng. Chẳng thể chuyên ṛng tin tưởng, sẽ tiến tiến, lùi lùi, lúc th́ tin do phù hợp lợi ích, đạt được an lạc, đạt được sự b́nh lặng bèn tin. Rất tin tưởng, nói là do sức gia tŕ của Phật, Bồ Tát. Hễ bị trắc trở, chẳng tin nữa, [phàn nàn] Tam Bảo chẳng có chút sức gia tŕ nào! Chẳng tin nữa, ôm ḷng oán hận!

          Không chỉ hai chúng tại gia, mà hai chúng xuất gia cũng [có thái độ giống như vậy] rất nhiều. Khi chánh quyền Đại Lục tiêu diệt Phật pháp, mọi người biết là từ năm 1950 cho đến năm 1980, trong suốt ba mươi năm, tự viện bị phá hủy, chẳng cho phép quư vị làm ḥa thượng, không cho phép quư vị xuất gia. Hễ xuất gia là phạm tội. Tin Phật pháp là phạm tội. Trong lúc đó, quư vị có thể kiên tŕ hay không? Chuyện này tùy thuộc quư vị có thể chẳng tạo mười ác nghiệp hay không. Có những người đă hoàn tục th́ chẳng tính. Có kẻ sau khi hoàn tục th́ làm cán bộ, làm cán bộ sẽ tạo mười ác nghiệp. Diệt Phật pháp chính là đệ tử của Phật, v́ họ hiểu rơ nhất, diệt Phật pháp [bằng cách nào] họ cũng hiểu rơ nhất! V́ thế, đấy đều là những nghiệp thuộc về Thập Ác chẳng thể khoan dung được! Đối với công đức và lợi ích của Tam Bảo, họ c̣n có thể tin tưởng hay sao? Chẳng tin. Tiểu, Trung, Đại gọi là “ba thừa”. Trong ba thừa, họ chẳng tin một thừa nào, chẳng có định hướng! Ngay cả tín tâm mà c̣n không có, há c̣n có thể tu hành được ư? Do vậy, khi đó, tôi cảm thấy đối với các thứ cảnh giới thuộc về công đức Tam Bảo đều chẳng có! Lúc đó chính là lúc đặc biệt khảo nghiệm bọn đệ tử Tam Bảo chúng ta. Hàng tại gia chẳng nói, đặc biệt là đối với tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, khảo nghiệm ǵ vậy? [Khảo nghiệm họ có] thật sự nhập đạo, hoặc thật sự tín ngưỡng [hay không]. Khi nói cho êm tai th́ nói ǵ cũng được, khi làm bèn khác hẳn, toàn là nhắm đến lợi ích trong hiện tiền. Trước mắt, quư vị chẳng tin [Phật pháp], th́ sẽ được lợi. Chẳng tin vào Tam Bảo, mà tin vào ǵ? Tin vào chủ thuyết của nhà cầm quyền Hoa Lục, sẽ lập tức đạt được lợi lộc; c̣n tin vào Tam Bảo sẽ bị khốn khổ, bị trừng phạt! Nơi cái ải lợi hại, rất nhiều kẻ đánh mất tín ngưỡng. B́nh thời chẳng có ǵ quan trọng, chẳng thấy được, nhưng trong lúc lợi hại, có liên quan đến lợi ích trong cuộc sống hiện tiền, họ sẽ vứt bỏ tín niệm. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói đến loại chúng sanh ấy, họ hoàn toàn quên bẵng các loại cảnh giới nơi công đức của Tam Bảo. Khi đó, quư vị hăy sử dụng Chiêm Sát Luân. Nếu quư vị chẳng nhận biết họ, [v́ những biểu hiện bề ngoài] đều là giả tướng, quư vị có thể chiêm sát họ, sẽ biết ngay. Địa Tạng Vương sẽ bảo cho quư vị biết.

 

          (Kinh) Như thị đẳng nhân, nhược hữu chủng chủng chư chướng ngại sự, tăng trưởng ưu lự, hoặc nghi, hoặc hối, ư nhất thiết xứ, tâm bất minh liệu, đa cầu, đa năo, chúng sự khiên triền, sở tác bất định, tư tưởng nhiễu loạn, phế tu đạo nghiệp.

          ()如是等人若有種種諸障礙事。增長憂慮。或疑或悔。於一切處心不明瞭。多求多惱。衆事牽纏。所作不定。思想擾亂。廢修道業。

          (Kinh: Những người như thế, nếu có các thứ chuyện gây chướng ngại, tăng trưởng lo sầu, hoặc ngờ vực, hoặc hối hận, trong hết thảy các chỗ, tâm chẳng hiểu rơ, nhiều mong cầu, nhiều khổ năo, các sự trói buộc, việc làm bất định, tư tưởng nhiễu loạn, bỏ tu đạo nghiệp).

 

          “Như thị đẳng nhân” nghĩa là những kẻ như thế đó, trong tu hành, họ có bị chướng ngại hay không? Đủ loại chướng ngại sẽ phát sanh. Trong thời Mạt Pháp, tín tâm chẳng kiên định, đủ loại chướng ngại nẩy sanh. Đồng thời, chỉ có ưu bi, tức ưu sầu, bi ai, lo lắng, ngờ vực. Đối với bất cứ sự vật ǵ, tâm cũng đều chẳng hiểu rơ, chẳng có trí huệ, nhưng mong cầu hết sức nhiều mà chẳng đạt được, do nhiều mong cầu nên lắm khổ năo. Đó gọi là “đạt đến mức vô cầu th́ quư vị chẳng bị năo hại”. Chúng ta luôn mong “cầu nhiều, đạt được nhiều”. Chẳng đạt được bèn phiền năo, đạt được rồi lại sợ mất mát, càng phiền năo hơn! Các sự ấy lôi kéo quư vị. “Sở tác bất định” tức là mong mỏi làm tốt, nhưng làm chẳng nên hồn, tư tưởng nhiễu loạn, tâm chẳng định được, chẳng có chủ ư, chẳng có chủ kiến. C̣n có thể tu đạo hay chăng? Bỏ tu đạo nghiệp, tín tâm đều chẳng thành, c̣n có thể tu đạo nữa chăng? Chẳng thể tu đạo!

          Tôi nói những lời này, nói đến chuyện này, bản thân tôi đă đều đích thân trải qua! So với những chuyện đă trải qua trong ba mươi năm từ năm 1950 đến 1980, so ra, tôi c̣n bị nhiều hơn ba năm, v́ tôi ở trong tù ba mươi ba năm. Các đệ tử Phật ở trong ngục rất nhiều, không chỉ là bọn ḥa thượng xuất gia chúng tôi. Tỳ-kheo-ni rất ít, tỳ-kheo-ni chẳng có ǵ, v́ các bà chẳng có lá gan ấy, cũng chẳng phạm tội, chánh phủ chẳng bó buộc các tỳ-kheo-ni. Nhưng v́ sao? Tôi tự đánh dấu hỏi với chính ḿnh. V́ sao? Những điều chúng tôi nói thường ngày đều là giả, chẳng phải là người tu đạo thật sự. Người tu đạo thật sự sẽ có cảm ứng, đó gọi là tai nạn. Liên tưởng đến chuyện Tam Vũ Diệt Phật trong lịch sử, v́ sao trong các giai đoạn trung gian giữa ba cuộc diệt Phật ấy, toàn là đạo hữu Thiền Tông? Họ chẳng có cách nào, kinh sách bị thiêu hủy, chùa miếu bị hủy hoại, quư vị làm như thế nào đây? Vậy là chỉ có cách tham Thiền, thứ ǵ ta cũng chẳng cần, tu cái tâm là được rồi. Như thế đó, trong suốt ba mươi năm. Năm 1981, tôi được trả tự do, tôi muốn t́m một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, chẳng có! Có rất nhiều vấn đề thấy rất b́nh thường, rất rơ rệt, nhưng cho đến khi sự thật hiện tiền, chẳng có cách nào hết! Chẳng có cách nào, đó là ǵ? Chúng ta thường nói là nghiệp chướng, do nghiệp đă tạo bèn gây thành tất cả chướng nạn!

 

          (Kinh) Hữu như thị đẳng chướng nạn sự giả, đương dụng mộc luân tướng pháp, chiêm sát thiện ác túc thế chi nghiệp, hiện tại khổ, lạc, cát, hung đẳng sự.

          ()有如是等障難事者。當用木輪相法。佔察善惡宿世之業。現在苦樂吉凶等事。

          (Kinh: Có các chuyện chướng nạn như thế, hăy nên dùng cách mộc luân tướng để chiêm nghiệm, suy xét nghiệp thiện ác trong đời trước, các chuyện khổ, lạc, cát, hung v.v… trong hiện tại).

 

          Có các chuyện gây chướng nạn như vậy, tức các chuyện gây chướng nạn giống như tôi đă nói trong phần trước, vậy th́ quư vị hăy dùng mộc tướng luân. Đáng tiếc là lúc đó luân tướng đều chẳng có. Quư vị nghĩ xem, quư vị có dám sử dụng hay không? Đă dùng chẳng được, mà cũng chẳng có, thứ ǵ cũng đều chẳng có. Hiện thời th́ có thể dùng. Có lúc giữa tưởng tượng và sự thật cách biệt ngàn dặm. Thuở ấy, tôi nghĩ thế này: Làm sao các ngươi diệt sạch cho được? Các vùng núi hay biên cương chắc là c̣n có các ngôi chùa nhỏ. Các ngươi nói chung chẳng thể diệt hết sạch được. Sự thật hoàn toàn chẳng phải vậy, chẳng c̣n chi hết. Ai diệt? Chẳng phải chánh phủ, mà là ḥa thượng, cũng như tỳ-kheo-ni. Trong nhà của tại gia cư sĩ, căn bản là cũng chẳng thể cất giấu tượng Phật, mà cũng chẳng thể giấu kinh sách. Có kẻ tại gia nào c̣n có tượng Phật hay không? Vẫn phải có, đặc biệt là tượng Quán Âm Bồ Tát. Đặc biệt là họ chẳng động đến Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà Sơn cũng chẳng bị động đến. Tứ đại danh sơn đến nay vẫn c̣n bảo lưu, chẳng phải là dễ dàng bị diệt sạch! Nhưng rốt cuộc vẫn là chướng nạn. Có các chuyện chướng ngại như thế đó, quư vị hăy dùng pháp mộc luân tướng! Khi đó, tôi thấy điều này, về sau lại giảng điều này, tôi đă thưa với Địa Tạng Vương Bồ Tát, tôi nói: “Bạch Địa Tạng Vương Bồ Tát! Khi đó, con đâu có thể xem kinh Chiêm Sát, đâu có thể dùng Chiêm Sát Luân, thứ ǵ cũng đều chẳng có”. Đó gọi là Nghiệp.

          Quư vị mong chiêm nghiệm, xem xét nghiệp báo thiện ác trong đời trước, hoặc khổ, lạc, cát, hung, nếu muốn chiêm nghiệm, suy xét các điều ấy, hăy dùng phép chiêm sát các tướng. Đối với chuyện chiêm sát này, quư vị phải học cách chiêm sát mộc luân trước đă. Chiêm Sát mộc luân [chia thành ba tiểu loại]:

          1) Loại thứ nhất gồm mười cái luân. Mỗi cái luân không lớn, phải viết chữ lên. Viết ǵ vậy? Thân, khẩu, ư ba nghiệp, chủ yếu là thân, khẩu, ư. Thân, khẩu, ư th́ thân đă phạm giết, trộm, dâm, miệng th́ phạm nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác, ư niệm th́ phạm tham, sân, si. Mười loại này gộp chung lại thành Thập Ác Nghiệp. Khi sử dụng luân tướng, có thể thấy được trong thời gian bao lâu? Dùng mười luân ấy, có thể thấy vô lượng kiếp của quư vị. Quư vị dùng Chiêm Sát Luân, kinh văn cho biết, tất cả thiện nghiệp và ác nghiệp của quư vị từ vô lượng kiếp tới nay đều hiện tiền. Văn tự cho chúng ta biết, từ vô lượng kiếp tới nay chưa hề thanh tịnh, nhưng có quá khứ, “vô lượng kiếp” là nói đến quá khứ, nhưng do hiện tại vẫn tạo, cho nên có hiện tại. Do quư vị hiện tại đang tạo, nên lại dây dưa đến vị lai. Hiện tại quư vị chẳng thể tiêu trừ nghiệp trong quá khứ! Không chỉ chẳng tiêu, mà c̣n đang tạo thêm, cho nên dẫn đến tương lai. Quá khứ, hiện tại, tương lai, lại c̣n thêm căn bản vô minh. Đấy là thập luân [thuộc tiểu loại thứ nhất trong Chiêm Sát Mộc Luân], tức mười cái luân. Ư nghĩa của Luân là giống như bánh xe, dường như vĩnh viễn chẳng ngừng, vĩnh viễn xoay như thế. Trừ phi quư vị dùng mười luân, quư vị tu đạo thành tựu, cái bánh xe ấy sẽ ngừng, chẳng c̣n nữa! Do vậy, bộ luân thứ nhất gồm mười luân.

          2) Các luân thuộc tiểu loại thứ hai là tam nghiệp, chỉ có [ba cái luân là] thân khẩu, ư. Hoàn toàn chẳng phải là thân, khẩu, ư của quư vị đều rất ác, mà cũng chẳng phải là thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp đều b́nh đẳng. Chẳng phải vậy! Có khi thân nghiệp của quư vị đặc biệt nặng nề, có khi khẩu nghiệp hoàn toàn chẳng nặng, hoặc thân lẫn khẩu nghiệp đều chẳng nặng, nhưng ư nghiệp hết sức nghiêm trọng. Do vậy, làm ba cái luân “thân, khẩu, nghiệp” để tương ứng với tam nghiệp, tức thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp. [Trên mỗi mặt của cái luân thuộc loại này c̣n có các vạch dài, ngắn, đậm hay mỏng, biểu thị thiện hay ác, nặng hay nhẹ]. Khẩu nghiệp bao gồm bốn loại, tức nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Thân nghiệp bao gồm giết, trộm, dâm. Ư nghiệp bao gồm tham, sân, si. Chỉ gieo ba luân ấy, tức là thân, khẩu, ư.

          3) Bộ luân thuộc tiểu loại thứ ba, gồm sáu luân. Sáu cái luân này [nơi mỗi mặt của một luân đều] ghi những con số, như một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín [cho đến số mười tám]. Ba con số ấy [tức là gieo sáu cái luân này ba lần, mỗi lần sẽ được các con số hiện ra], khi gieo xong, sẽ cộng lại. Khi chúng tôi giảng đến phần kinh văn tương ứng, sẽ lại giải thích cặn kẽ. Sau đó, sẽ dùng mộc luân làm mẫu cho quư vị thấy.

          Đó gọi là tam luân (ba loại luân). Dùng luân tướng ấy để chiêm sát (chiêm nghiệm, suy xét) điều ǵ? Chiêm sát nghiệp thiện hay ác trong quá khứ của quư vị. Đối với các luân thuộc tiểu loại thứ nhất, hễ chiêm sát sẽ biết thiện nghiệp của ta so với ác nghiệp, cái nào nặng hơn, tức là đỏ nhiều hay đen nhiều? Đen nhiều là ác nghiệp nặng nề. Ba loại luân ấy mà đỏ nhiều tức là thiện nghiệp sâu đậm. Nếu chúng ta thấy đen nhiều th́ phải làm như thế nào? Bái sám. Đó gọi là Chiêm Sát Sám Pháp, phải lạy mỗi ngày. Sáng sớm mỗi ngày đều gieo Chiêm Sát Luân, cái luân ấy sẽ tùy thời biến hóa. Quư vị lạy cho đến khi nào luân gieo ra toàn là đỏ, tức ba nghiệp thanh tịnh. Khi quư vị đă chiêm sát được tam nghiệp thanh tịnh, chẳng đợi đến lúc ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, quư vị nằm mộng đều khác hẳn trước kia. Những giấc mộng đáng sợ trước kia chẳng c̣n nữa! Mộng thấy nghe kinh, hoặc thuyết pháp, hoặc gặp bậc thiện nhân, gặp đạo hữu, vẫn chưa thể mộng thấy Bồ Tát. Đợi cho đến khi gieo mộc luân, ba nghiệp đều thanh tịnh, luân tướng thanh tịnh, quư vị sẽ thường xuyên mộng thấy Bồ Tát. Đấy là chiêm sát tội nghiệp trong đời trước.

 

          (Kinh) Duyên hợp cố hữu, duyên tận tắc diệt, nghiệp tập tùy tâm, tướng hiện quả khởi, bất thất, bất hoại, tương ứng bất sai.

          ()緣合故有。緣盡則滅業集隨心。相現果起。不失不壞。相應不差。

          (Kinh: Do duyên hợp bèn có, duyên tận th́ diệt, nghiệp nhóm họp do tâm. Tướng hiện, quả bèn dấy lên, chẳng mất, chẳng hoại, tương ứng chẳng sai).

 

          Chiêm sát nghiệp trong đời quá khứ, đó là nói tới nhân duyên. V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: “Duyên hợp cố hữu” (do duyên hợp bèn có). Duyên hợp v́ hiện thời quư vị có cái duyên mong cầu, cùng với duyên và nhân trong quá khứ, nhân duyên ḥa hợp, cho nên bèn có tướng. Nếu ta chẳng có duyên, duyên đă không có th́ luân tướng cũng chẳng có, tướng hiện bởi duyên liền diệt. Có duyên bèn hiện, không duyên bèn không. “Nghiệp tập” ở đây chính là khá nhiều các nghiệp đă tích tập trong quá khứ và hiện tại nhóm tụ lại. “Nghiệp tùy tâm tập” nghĩa là tâm quư vị chuốc vời, nghiệp bèn thuận theo cái tâm mà nhóm tụ. Tướng vừa hiện, tức là luân tướng vừa hiện, cái quả bèn dấy khởi, quư vị sẽ thọ báo. “Tướng hiện, quả khởi, bất thất, bất hoại, tương ứng bất sai”: Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Khi dùng luân tướng này, sẽ tuyệt đối tương ứng, chẳng sai sót mảy may! Nhưng đối với quư vị, điều chủ yếu là sám pháp! Nếu quư vị chẳng bái sám, sử dụng ba loại luân [để chiêm sát], sẽ chẳng linh! Quư vị bái sám, hằng ngày đều bái, hằng ngày đều gieo, luân tướng sẽ tùy thời biến hóa. Tuy quư vị hằng ngày đều bái, nhưng cái tâm chẳng chân thành. Trong kinh văn c̣n nói tới chí tâm, [chia thành các loại]: Chẳng chí tâm, hạ chí tâm, trung chí tâm, và thượng chí tâm. Quư vị chế tâm nhất xứ để bái sám rồi gieo Chiêm Sát Luân. “Chế tâm nhất xứ” có nghĩa là tâm vô nhị dụng”, sẽ hiện tướng bất đồng. Quư vị dụng tâm tạp loạn, tưởng Đông, nghĩ Tây, luân tướng bèn cho quư vị biết: Quư vị đừng nên suy nghĩ loạn xạ, chẳng linh nghiệm. Quư vị phải lạy lại từ đầu. Đấy là nói tới pháp Đại Thừa, pháp Đại Thừa nói “nhất tâm” tức là nói đến Chân Như. Chân Như tùy duyên. Chân Như thuận theo các duyên nào vậy? Thuận theo các nghiệp duyên quư vị đă tạo. Quư vị tạo thiện nghiệp, Chân Như sẽ thuận theo thiện nghiệp duyên của quư vị. Quư vị tạo ác nghiệp, Chân Như sẽ thuận theo ác nghiệp duyên của quư vị. Tôi vừa mới nói “mọi người đều là Phật”, [vị Phật ấy] vốn sẵn có, là Lư cụ (理具, trọn đủ về lư); nhưng do nghiệp duyên của quư vị quá nặng, vị Phật ấy chẳng hiện, ẩn mất. Quư vị sám hối trừ sạch các ác nghiệp duyên ấy, [vị Phật sẵn có] lại hiện, tức bổn tánh Phật của quư vị lại hiện. Hết thảy các pháp sanh từ nhân duyên, các pháp sanh từ duyên chẳng trụ trong từng sát-na. Trong một nháy mắt, tâm niệm chúng ta sanh diệt chín mươi lần, niệm này khởi, niệm kia diệt. Một niệm khởi lên trong chín mươi niệm ấy được gọi là sát-na. Trong một sát-na, tức là trong lúc quư vị khởi tâm động niệm, sanh duyên trong suốt một ngày, mỗi niệm đều là sanh duyên. V́ thế, khi quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, trước hết phải nhận biết nó (hiện tướng) là chân thật, hay hư vọng, hay tiêu diệt. Địa Tạng Bồ Tát sẽ cho quư vị biết: Hiện tướng nào là tiêu diệt? Hiện tướng nào là sanh khởi! Thong thả học tới phần kinh văn phía sau, trong kinh văn sẽ cho quư vị biết, quư vị sử dụng Chiêm Sát luân tướng, [những tướng ấy] sẽ hiển hiện. Quư vị có biết nghiệp trong quá khứ của quư vị nặng cỡ nào hay không? Luân tướng sẽ nói cho quư vị biết. Quư vị thường xuyên bái sám, [các nghiệp ấy] sẽ giảm bớt rất nhiều, [luân tướng] cũng nói rất rơ ràng với quư vị. Nhưng giảm thiểu tới [mức độ chỉ c̣n sót lại] căn bản vô minh th́ rất khó. Do đó, quư vị cứ bái sám đi! Khi nào bái tới mức tất cả luân tướng đều là màu đỏ[5]. Bốn mặt của mỗi luân tướng có lúc đỏ, có lúc đen. Vạch đỏ lớn tức là đại thiện, vạch đỏ nhỏ tức là tiểu thiện. Vạch đen lớn tức là điều ác quá nặng. Vạch đen nhỏ là điều ác nhỏ. Sự biến hóa của luân tướng được quyết định bởi sự bái sám của quư vị. Đời người của chúng ta có họa và phước, có thiện và ác. Bất luận kẻ nào cũng chẳng phải là thuần thiện hay thuần ác. Kẻ đó có khi làm chuyện tốt, có lúc làm chuyện xấu, thiện ác xen lẫn. Nhưng khi quư vị đảnh lễ, trong khi quư vị được Địa Tạng Bồ Tát dạy bảo cách tu hành, màu đỏ sẽ dần dần tăng trưởng (tức điều thiện tăng trưởng), điều ác sẽ dần dần tiêu mất. Tuy vậy, chẳng phải là trong một thời gian ngắn. Có người bái sám suốt hai ba năm, có người bái sám sắp tương ứng th́ chướng ngại xuất hiện. Ở Đài Loan, tôi có một tiểu đạo hữu, nó lạy Chiêm Sát Sám hết sức tương ứng, hiện thời th́ sao? Nó hoàn tục. Đó gọi là nghiệp chướng phát hiện, nó chống không nổi nghiệp chướng!

 

          (Kinh) Như thị đế chiêm thiện ác nghiệp báo, hiểu dụ tự tâm, ư sở nghi sự, dĩ thủ quyết chi.

          ()如是諦占善惡業報。曉喻自心。於所疑事以取決了。

          (Kinh: Chiêm sát chắc thật nghiệp báo thiện ác như thế, răn nhủ tự tâm, đối với những chuyện nghi nan, dùng pháp này để quyết đoán).

 

          Do vậy, dùng sự chiêm nghiệm nghiệp báo thiện ác chắc thật như thế. “Đế chiêm” là đúng lư mà chiêm nghiệm, chiêm nghiệm nghiệp báo do thiện nghiệp và ác nghiệp của quư vị. “Hiểu dụ tự tâm”: Khiến cho cái tâm của quư vị hiểu rất rơ điều nào là đúng, điều nào là sai! Quư vị chẳng biết, luân tướng sẽ bảo cho quư vị biết, quư vị có thể chọn lựa. Quư vị sanh cái tâm này chẳng đúng, khi quư vị bái sám chẳng chí tâm, hoặc hạ chí tâm (chí tâm bậc hạ) cũng chẳng có, th́ [khi gieo các luân tướng], hoàn toàn chẳng có hiệu quả. Điều thứ nhất là phải chí tâm, phải chế tâm nhất xứ. Trong kinh văn thuộc phần sau, chúng tôi sẽ lại nói đến chuyện này. Khi “đế chiêm” [th́ việc gieo Chiêm Sát Luân] chẳng phải là Sự (tức là chẳng phải làm một cách hời hợt, mang tính chất cầu hỏi như bói toán, không thật sự dùng như một phương tiện để khích lệ, tự thẩm định việc tu hành của chính ḿnh), chẳng giống như quư vị gieo luân tướng rồi nh́n, [làm như thế] th́ là Sự. “Đế” là tâm phải tương ứng với nó. Tâm là Lư, phải lư chiêm, đừng nên sự chiêm. Nói cách khác, quư vị phải đúng như lư mà chiêm, phải thật sự dụng tâm. [Chiêm sát] chẳng phải là bói toán. Tới chỗ thầy bói để đoán quẻ, phê bát tự, tôi đưa cho quư vị mấy đồng tiền, quư vị tính cho tôi một quẻ là được. [Chỉ hời hợt coi pháp Chiêm Sát như bói toán], há có tác dụng ǵ? Chớ nên! Pháp này phải toàn tâm toàn ư đảnh lễ, bái sám. [Pháp này] vốn là vô tướng, vô tướng biến thành hữu tướng, hữu tướng lại biến thành vô tướng. “Hữu tướng” là hết thảy sự nghiệp tội ác của quư vị đều có tướng. Quư vị lễ lạy là vô tướng, [th́ tội chướng] tiêu mất, sẽ là vô tướng. Quư vị có bất cứ chuyện ngờ vực nào, [hoặc thắc mắc] chuyện ấy nên làm như thế nào, chính ḿnh chẳng thể quyết định được, vậy th́ quư vị hăy thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát! Quư vị thắp hương, đảnh lễ. Đảnh lễ xong, quư vị dùng Chiêm Sát Luân để chiêm nghiệm. [Tuy các luân chỉ có mười chín khối, nhưng từ kết quả phối hợp giữa các mặt trong mỗi luân, kết quả] sẽ có một trăm tám mươi chín loại. V́ sao? Một trăm tám mươi chín loại là v́ tương ứng với lục căn, tức Nhăn Căn, Nhĩ Căn, Tỵ Căn, Thiệt Căn, Thân Căn, Ư Căn là sáu căn, lại thêm Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư sáu thức. Sáu căn, sáu thức, cộng thêm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ba lần sáu là mười tám, mười tám món ấy cộng thêm căn bản vô minh, thành mười chín loại [cho nên có mười chín khối mộc luân]. Trong ấy có sự biến hóa rất lớn. Sự biến hóa ấy từ đâu mà có? Do cái tâm của quư vị. Suốt một ngày, một thoáng chốc này quư vị nghĩ điều này, chốc lát sau nghĩ tới điều khác, luân tướng sẽ tùy thời biến đổi theo. Nhưng khi quư vị bái sám, quư vị nhất tâm nhất ư bái. Nếu hôm nay quư vị bái rất tương ứng, đă tương ứng th́ công lực lễ bái của quư vị sẽ tương ứng với sự dạy bảo của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Khi quư vị bái sám, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất định sẽ đến.

Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, phần 1 hết

 

 



[1] Bát tự tức là giờ, ngày, tháng, năm sanh ra của một người. Do mỗi yếu tố ấy lại phối hợp với Thiên Can (Giáp, Ất…) và Địa Chi (Tư, Sửu, Dần, Mẹo…), nên gọi là Bát Tự. Phê bát tự tức là dựa trên giờ, ngày, tháng, năm sanh (Tứ Trụ) luận định Ngũ Hành, Âm Dương xung khắc để đoán định vận mạng. Hai cách phê bát tự phổ biến nhất là Tử Vi và Tử B́nh.

[2] Thổ Thành là một quận nội thành của thành phố Tân Bắc. Danh xưng này bắt nguồn từ thành lũy đắp bằng đất để pḥng ngự tại khu vực này dưới đời Thanh.

[3] Không có tài liệu nào nói về tiểu sử của vị pháp sư dịch kinh này. Theo Đại Châu San Định Chúng Kinh Mục Lục th́ Ngài đến Trung Hoa vào đời Tùy. Sở dĩ gọi là Đại Châu v́ lúc này Vũ Tắc Thiên cướp ngôi nhà Đường, xưng quốc hiệu là Đại Châu. Sách được biên soạn vào năm Thiên Sách Vạn Tuế nguyên niên (695) nhà Đại Châu của Vũ Tắc Thiên, do một nhóm hơn bảy mươi vị sa-môn, đứng đầu là ngài Minh Thuyên chủ tŕ công tác biên soạn. Sau đó, các vị cao tăng thời ấy như Nghĩa Tịnh, Bồ Đề Lưu Chí v.v… đều tham gia biên tập, nên dữ liệu trong sách khá đáng tin.

[4] Kiên Lao Địa Thần (Prthivi) chính là vị thần đất. Trong Địa Tạng Khoa Chú, ngài Thanh Liên khẳng định bà là nữ thần, hiện thân hộ pháp, chưởng quản tất cả hết thảy địa thần trong thế gian. Theo kinh Quán Phật Tam Muội, khi đức Phật thị hiện thành đạo, Ma Vương tới quấy phá, thách thức Ngài có thể kiếm ai làm chứng cho sự tu hành tinh tấn vượt thời gian và không gian của chính Ngài. Đức Phật bèn dùng tay chạm xuống đất, Kiên Lao Địa Thần bèn xuất hiện, chứng minh: Trong cơi tam thiên đại thiên này, không có nơi nào nhỏ bằng một vi trần, mà không phải là nơi Bồ Tát xả thân cầu pháp, tu hành. Tuy thế, theo Địa Thần Nghi Quỹ Kư, vị này có cả hai thân nam và nữ: “Nam thiên nhục sắc, tả thủ tŕ bát thịnh hoa, hữu thủ chưởng hướng ngoại. Nữ thiên bạch nhục sắc, hữu thủ băo đương tâm, tả thủ diệc băo đương cổ” (Thân nam thiên có màu như da người, tay trái cầm bát đựng hoa, ḷng bàn tay phải hướng ra ngoài. Thân nữ thiên có màu trắng, tay phải úp lên ngực, tay trái úp lên đùi).

[5] V́ mỗi luân tướng có bốn mặt, trên mỗi mặt viết các chữ (chẳng hạn trong tiểu loại thứ nhất, Ỷ Ngữ viết bằng màu đen, Bất Ỷ Ngữ viết bằng màu đỏ), các vạch (trong tiểu loại thứ hai, vạch dài đen đậm tượng trưng cho ác nghiệp nặng), các con số (sẽ có màu đen hay đỏ để biểu thị thiện hay ác).