Lược
giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần
1
占察善惡業報經
隋天竺沙門菩提登譯
夢參老和尚講
(giảng lần
thứ ba, năm 2009)
Hán dịch: Thiên
Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời
Tùy
Chủ giảng: Lăo ḥa
thượng Mộng Tham
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo bản đăng
tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo - https://www.liaotuo.com)
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
Ghi chú của người
chuyển ngữ
Lăo
pháp sư Mộng Tham đă giảng kinh này ba lần, được ghi lại thành các bản giảng kư
như sau: Bản thứ nhất mang tựa đề Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo Kinh Giảng Kư (cư sĩ Ngô Bích Đào chỉnh
lư, do Nữu Ước Bồ Đề Tâm Học Hội ấn
hành năm 1989). Bản thứ
hai ghi là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Tân Giảng (giảng
năm 1999 tại chùa Phổ
Thọ, núi Ngũ Đài), và bản thứ ba chỉ ghi tựa
đề Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh (năm 2009). Do bản Giảng
Kư đă có người chuyển ngữ sang tiếng Việt
từ lâu (không đề tên người dịch), và so với lần giảng thứ hai th́ lời
giảng lần thứ ba chi tiết hơn, nên chúng tôi chọn
chuyển ngữ bản này (và ghi tựa đề là Lược
Giảng Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để độc
giả khỏi lầm với chánh kinh) nhằm thỏa măn tâm nguyện giới
thiệu các bài giảng của Địa Tạng Tam Kinh
ḥng khích lệ chính ḿnh cũng như các đồng tu củng
cố tín tâm, tin sâu nhân quả, sám trừ nghiệp chướng,
phát Bồ Đề tâm, dũng mănh niệm Phật.
Tập 1
Chư
vị Bồ Tát, chúc mọi người cát tường
như ư, thân tâm khỏe mạnh.
Nay
tôi sẽ thưa với mọi người lư do v́ sao phải
học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, và nói đến nhân duyên lịch sử của bộ kinh
này. Bộ kinh này kể từ khi được phiên dịch sang tiếng Hán, không có ai học. Kinh
được phiên dịch từ đời Tùy [bởi
ngài Bồ Đề Đăng], măi cho đến đời
Minh, Ngẫu Ích đại sư dùng thần thông, trí huệ, quan sát Nam
Thiệm Bộ Châu, muốn t́m năm vị tỳ-kheo thanh
tịnh, nhưng chẳng có! Ngài mong thọ giới,
nhưng chẳng thể đắc giới. Do vậy, t́m
trong Đại Tạng Kinh làm cách nào th́ mới có thể
đạt được giới thanh tịnh. V́ thế,
Ngài t́m thấy kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo.
Bắt
đầu từ Ngẫu Ích đại sư, do Ngài chẳng thể chế ra chiêm sát luân tướng theo như lời dạy của
Địa Tạng Vương trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo; chẳng có cách nào, bèn dùng giấy để viết
thành những lá thăm [thay cho mộc luân]. V́ thế, chẳng có cách
nào truyền bá, hoằng dương pháp này. Thế nhưng
Ngài đă viết một bản chú giải cho kinh Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo, đặt tên là Chiêm Sát Nghĩa Sớ.
Sau đấy, pháp này cũng bị đoạn tuyệt, chẳng
có ai học. Măi cho đến thời pháp sư Hoằng Nhất,
pháp sư Hoằng Nhất cũng chuyên môn hoằng
dương pháp môn Địa Tạng, phát nguyện hoằng
dương pháp môn Địa Tạng. Pháp sư Hoằng Nhất
đă nói với tôi: “Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo,
kinh Đại Thừa Đại Tập Thập Luân, và
kinh Địa Tạng, đều thuộc về hệ thống
Hoa Nghiêm”. Có khi chúng ta coi kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo như một thứ bói toán, phê bát tự[1],
[cách nh́n ấy] hoàn toàn sai lầm, chẳng phải là ư
nghĩa ấy! Hàm nghĩa của kinh này là: Do hiện thời
chúng ta đang sống trong thời đại Mạt Pháp,
nghiệp chướng sâu nặng, mà cũng chẳng có cách nào liễu
giải nhân duyên, cũng chẳng có cách nào liễu giải
chính ḿnh. Do vậy, phải dùng phương thức chiêm sát
trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Cách chiêm sát này là do
sức thần thông của Địa Tạng Vương
Bồ Tát. Tuy chúng ta không có thần thông, nhưng chúng ta cầu
Địa Tạng Vương Bồ Tát ban thần thông cho
chúng ta, tức là quư vị dùng cách chiêm sát trong kinh Chiêm Sát sẽ
có thể biết quá khứ, có thể biết hiện tại, và cũng có thể
biết vị lai. Do vậy, pháp sư Hoằng Nhất
đề xướng pháp này. Ngài đề xướng,
tuy không giảng, nhưng v́ Ngài có kỹ thuật, do Ngài học
công nghệ, bèn dựa theo thước tấc lớn nhỏ
trong kinh Chiêm Sát để chế tạo Chiêm Sát Luân thành công.
Đức Phật dạy kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo c̣n có một
danh nghĩa khác là “pháp môn Căn Tụ”. “Căn Tụ”
(根聚): Căn là sáu căn,
cộng thêm sáu trần, cùng với sáu thức, tức là
Căn, Trần, Thức, và Căn Bản
Vô Minh cùng tụ tập lại. Cho nên pháp môn này được
gọi là “pháp môn Căn Tụ”. Sau khi quư vị học
pháp môn này, sẽ có thể kiên cố tín tâm của chính ḿnh.
V́ hiện thời, tín tâm của chúng ta chẳng trọn
đủ. Các đạo hữu đang hiện diện
đều là đệ tử Tam Bảo tin Phật; chúng ta
thường tự cho rằng chính ḿnh có sự tín ngưỡng,
có tín tâm. Nhưng xét theo giáo nghĩa do đức Phật
đă dạy, tín tâm của chúng ta chỉ là “hân nhạo tâm” (欣樂心, tâm ưa thích),
chẳng phải là tín tâm! Theo như Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đă dạy về
tín tâm, th́ tín tâm có tiêu chuẩn nhất định. Mỗi
đạo hữu chúng ta hăy tự nhớ lại, suy ngẫm,
quư vị có phải là tín tâm trọn đủ hay không? Tiêu chuẩn của Tín tâm trọn đủ
là ǵ? Nhận biết niệm trước dấy lên điều
ác, bèn ngưng dứt chẳng cho niệm sau dấy lên, th́
coi như là bậc Bồ Tát có tín tâm. Vị Bồ Tát có tín
tâm có thể thị hiện thần thông. Hiện thời,
chúng ta chẳng có, chẳng thể chế ngự tâm niệm
của chính ḿnh, chẳng thể “một ư niệm không
đúng, bèn ngay lập tức ngăn dứt, chẳng để
cho nó tiếp tục”. Mỗi vị đạo hữu có
thể kiểm nghiệm chính ḿnh, [để nhận biết]
sức mạnh nơi tín tâm của quư vị như thế
nào, có đủ tŕnh độ này hay chưa? Nếu quư vị
đủ tŕnh độ này, quư vị thuộc vào địa
vị Sơ Trụ, đă viên măn Thập Tín, tiến
nhập địa vị Sơ Trụ. Nói theo tiêu chuẩn
trong kinh Hoa Nghiêm, địa vị Sơ Trụ sẽ có thể
tới một trăm
thế giới thị hiện thành Phật, thần thông diệu
dụng khá lớn. Vậy nên chúng ta hăy tự kiểm nghiệm
chính ḿnh, chúng ta có sức mạnh như thế hay chăng?
Chẳng có! Do vậy, tín tâm của chúng ta chẳng trọn
đủ! Chúng ta phải khiến cho tín tâm của chính ḿnh
kiên định, cầu Địa Tạng Vương Bồ
Tát gia tŕ.
Nhân
duyên phát khởi bộ kinh này là do Kiên Tịnh Tín Bồ Tát
hướng về đức Phật thỉnh cầu, Ngài
nói: Trong thời Mạt Pháp, thời gian Mạt Pháp của
đức Phật là một vạn năm, hoặc là
năm ngàn năm, hoặc ba ngàn năm [tùy theo cách
nói khác biệt trong mỗi kinh]. Khi đó, tín tâm của
chúng sanh chẳng kiên định. Chẳng kiên định tức
là tín tâm thoái thất, chẳng thể nào [tinh tấn tu tŕ]
cho đến khi liễu sanh tử, thâm nhập Phật
pháp! Tín lực của quư vị chẳng đủ, tức
là tín tâm thoái chuyển. Làm thế nào để tín tâm của
quư vị có thể kiên định, củng cố tín tâm của
quư vị? Đấy chính là nhân duyên phát khởi của bộ kinh này. V́ quư vị có tín tâm th́ thiện căn mới
có thể tăng trưởng, mới có thể tiêu trừ
nghiệp chướng, khiến cho thiện nghiệp
tăng trưởng, ác nghiệp tiêu mất. Thuở đức
Phật tại thế, đă có loại hiện tượng
này, huống hồ trong thế gian này, đức Phật
đă diệt độ gần ba ngàn năm, tín tâm của
chúng ta chẳng thể kiên định, chẳng thể trọn
đủ. V́ sao bộ kinh này có nhân duyên tất yếu phải
giảng giải, mà vẫn một mực chẳng thể
lưu truyền rộng khắp? V́ mọi người
đều bị một thái độ thuộc về h́nh
thái xă hội quấy phá, coi pháp này như một kiểu
bói toán, phê bát tự, xem tướng! Đức Phật
ngăn cấm [các h́nh thức ấy], đó là phạm giới.
V́ sao khi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh đức Phật
dạy, đức Phật chẳng nói với Ngài? V́ đức
Phật đă chế giới, không cho xem
bói, phê bát tự, mọi người đều biết điều
này! Đức Phật bảo Địa Tạng Vương
Bồ Tát hăy nói [pháp môn này], Địa Tạng Vương Bồ Tát có phương
tiện thiện xảo. Bồ Tát hành hết thảy phương
tiện thiện xảo thuộc về Bồ Tát đạo.
Hơn nữa, đối với pháp môn này, Bồ Tát hết
sức thiện xảo phương tiện, lại c̣n có sức
thần thông hết sức rộng lớn. V́ thế,
đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thưa
hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa
Tạng Vương Bồ Tát bèn nói ra pháp môn này.
Pháp
môn này từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, cộng thêm nhăn thức,
nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức,
ư thức, ba lần sáu mười tám, cộng thêm căn bản
vô minh, thành mười
chín món. Do vậy, pháp môn Căn Tụ này căn cứ trên
sáu căn, sáu thức của quư vị, và cảnh giới
sáu trần hợp lại, tụ hợp lại một chỗ. Quư vị chiêm sát nghiệp
chướng nào nặng nề? Do tất cả những
tâm niệm chúng ta dấy lên sẽ cảm quả, quư vị
cũng chẳng có cách nào, cho nên khi dấy lên cái nhân, quư vị
hăy chuyển hóa nó, đừng để cho nó cảm vời cái quả. Đó chính là ngay khi quư vị
khởi tâm động niệm, sẽ có thể ngăn dứt.
V́ thế, bộ kinh này được gọi là pháp môn
Căn Tụ, ư nghĩa đại khái là như thế
đó.
Kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đại lược chia
thành hai quyển thượng và hạ. Quyển thượng
nhằm chuẩn bị cho quyển hạ. [Pháp môn này] c̣n
được gọi là pháp môn Căn Tụ, c̣n gọi là
pháp môn Tâm Địa. Tâm địa trong quyển hạ
căn cứ vào quyển thượng: Nghiệp chướng
của quư vị đă tiêu, th́ quư vị mới có thể nhập
hai thứ quán đạo, cảnh giới Nhất Thật.
Cảnh giới Nhất Thật chính là giáo nghĩa Hoa
Nghiêm, hai thứ quán đạo là tu Định và tu Huệ. Thoạt đầu, quư vị chẳng đạt được lợi ích từ
quyển thượng, chẳng thuần thục cách tu hành
[được dạy] trong quyển thượng, mà tu ngay vào quyển
hạ, sẽ tuyệt đối chẳng thành công! Khi quư vị tu hành mỗi ngày, sáng sớm thức dậy,
dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát một phen, [ḥng nhận biết]:
Hiện thời, quư vị hăy c̣n nghiệp chướng sâu
hay cạn, loại nghiệp chướng nào nặng nề?
Hoàn toàn chẳng phải là nghiệp chướng nơi mỗi
căn, mỗi môn đều nặng, nó có trọng điểm.
Sau khi quư vị học tập pháp môn này, sẽ có thể biết
trong thân, miệng, ư, phương diện nào [nghiệp
chướng] nặng nhất để sám hối đúng
trọng điểm. Cho đến khi quư vị đă học,
mỗi sáng sớm thức dậy, bèn chiêm sát một lần.
Quư vị hăy chú ư, ngày hôm nay chúng ta nên làm ǵ? Ta làm thế nào
để tiêu diệt nghiệp chướng của ta? Hễ
nghiệp chướng tiêu mất, trí huệ sẽ tăng
trưởng. Trí huệ càng tăng trưởng, nghiệp
chướng càng tiêu diệt. Hai điều này giúp nhau thành
tựu. Như vậy th́ quư vị đă có trí huệ, tu
hành sẽ chẳng bị vướng mắc. Đấy là
đại ư tối sơ của kinh này, tôi giới thiệu
đại khái đôi chút với mọi người như
thế đó.
Kinh
này chỉ có hai quyển, quyển thượng và quyển
hạ. Quyển thượng hoàn toàn nhằm phát khởi
cho sự tu hành trong quyển hạ. Trước khi chúng ta
có căn cơ ấy, quư vị có thể xem xét từng chuyện
trong đời sống hằng ngày. Đấy là
phương tiện thiện xảo, bổn ư của kinh
hoàn toàn là để quư vị sử dụng trong tu hành. Có rất nhiều người thuộc hai
chúng đệ tử tại gia (các đạo hữu),
trong cuộc sống hằng ngày, quư vị hoặc là buôn
bán cũng thế, mà đang truy cầu học vấn
cũng thế, quư vị muốn chọn lựa hôm nay ra khỏi
cửa có tốt lành hay không, có thể chiêm sát một phen.
Sau khi chiêm sát, nếu [Chiêm Sát Luân] bảo quư vị chẳng
cát tường. Dẫu chẳng cát tường, nhưng
quư vị lại không thể nào
chẳng làm, hăy lễ bái Địa Tạng Vương Bồ
Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát đă dạy
quư vị một phương pháp, tức là niệm danh hiệu
của Ngài một ngàn câu. Niệm danh hiệu Địa Tạng
Vương một ngàn câu xong rồi mới thực hiện,
tai nạn ấy sẽ hóa thành cát tường. Do vậy,
kinh này cần thiết khẩn yếu đối với
chúng ta.
Cần
thiết khẩn yếu th́ lẽ ra phải được
hoằng dương phổ biến chứ? Cũng phải
có nhân duyên! Các pháp sanh từ nhân duyên; chẳng có duyên
th́ sẽ chẳng được! Kể từ lúc dịch
ra, kinh chẳng có ai giảng, chỉ có Ngẫu Ích đại
sư soạn tác phẩm Nghĩa Sớ, pháp sư Hoằng
Nhất chế tạo mộc luân (Chiêm Sát Luân), chẳng có
ai chú giải. Pháp sư Hoằng Nhất chẳng giảng,
Ngài để cho tôi giảng, nhưng khi Ngài (pháp sư Hoằng
Nhất) đă viên tịch, tôi mới bắt đầu giảng.
Phải là hữu duyên! Chẳng có duyên, quư vị có muốn
giảng cũng chẳng được! Duyên có nghĩa là
ǵ? Nghĩa là “thúc đẩy thành tựu”. Tôi giảng
lần đầu tại Nữu Ước Bồ Đề
Học Hội. Bồ Đề Học Hội là một học
hội do chính pháp sư Hoằng Giác kiến lập, [thính
chúng] đều là các đạo hữu chúng ta. Người
nghe kinh cũng chẳng nhiều, hai ba chục người
đến nghe giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo.
Giảng lần thứ nhất vào năm 1989. Lần thứ
hai giảng vào năm 1999, đúng mười năm sau, giảng
tại chùa Phổ Thọ, Ngũ Đài Sơn. Giảng lần
ấy, nhân duyên thù thắng hơn, chỉ riêng chúng xuất
gia (đúng dịp kết hạ an cư) đă gần một
ngàn vị, lại c̣n rất nhiều vị cư sĩ tại
gia. Đấy là lần thứ hai, từ năm 1989 đến
năm 1999. Lần này là lần thứ ba, cũng vào năm
2009, đại khái mỗi lần đều cách nhau mười
năm. Chẳng phải là tôi lười nhác, mà là v́ chẳng
có ai t́m tôi mời giảng. Tôi chẳng thể nói: “Để tôi giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo cho quư vị nhé!” [Nếu
nói như vậy], chắc là có người bảo tôi chẳng
phải là kẻ khùng, th́ cũng là một gă ngốc! Phật
pháp phải do người khác thỉnh th́ quư vị mới
có thể nói. Chẳng có ai thỉnh, quư vị giảng cho
người ta, họ có nghe quư vị nói hay không? Nhân duyên
phát khởi lần này là do pháp sư Hoằng Giác giới
thiệu, mà các vị Trần Vân Long, Dương Vận
Nghi, cũng như rất nhiều đạo hữu yêu cầu
tôi giới thiệu kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo với
quư vị.
Đă
là Chiêm Sát th́ Chiêm là “chiêm bốc” (占卜, chiêm nghiệm, bói toán), Sát (察) là xem xét. Quư vị
chiêm bốc rồi xem xét [điều vừa chiêm bốc ấy]
có tương ứng với quư vị hay không. Kinh này luôn yêu cầu tương ứng, [giống như] ḍ số
có khớp hay không! “Số” ăn khớp th́ mới có
hiệu quả. Bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
này đại khái chia thành ba phần. Trong lịch sử,
đối với kinh điển được phiên dịch
sang tiếng Hán, vào đời Tấn, luật sư Đạo
An đă chia [kinh văn của] tất cả các kinh điển
được phiên dịch thành ba phần: Phần thứ
nhất là Tự Thuyết, phần thứ hai là Chánh Tông, tức
phần nương theo giáo nghĩa trong kinh này để
tu hành; phần thứ ba là Lưu Thông. Mỗi bộ kinh
đều được chia như thế. Đó là quy luật
mà các pháp sư giảng kinh đều tuân thủ để
dựa theo từng kinh mà phán định: Phần nào trong một
bộ kinh là Tự Thuyết, phần nào nhằm hiển thị
đạo lư trong kinh ấy (Chánh Tông), phần nào nhằm
lưu truyền trong vị lai (Lưu Thông), có ư nghĩa
như thế. Chắc là mọi người đă nghe nói những điều này rất nhiều rồi, tôi
không nói cặn kẽ, chỉ nói đại khái với mọi
người đôi chút. Trong bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo này, điều được nói đầu
tiên là nhân duyên phát khởi. Nhân duyên phát khởi chính là Tự
Phần. Nay chúng ta trước hết nói về Tự Phần.
Tôi nói về kinh văn, mọi người hăy xem nhé!
(Kinh)
Như thị ngă văn, nhất thời Bà Già Bà nhất thiết
trí nhân, tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn
trung, dĩ thần thông lực, thị quảng bác nghiêm tịnh
vô ngại đạo tràng, dữ vô lượng vô biên chư
đại chúng câu, diễn thuyết thậm thâm Căn Tụ pháp môn.
(經)如是我聞。一時婆伽婆一切智人。在王舍城耆闍崛山中。以神通力。示廣博嚴淨無礙道場。與無量無邊諸大衆俱。演說甚深根聚法門。
(Kinh:
Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bà Già Bà
(Bhagavān, đức Thế
Tôn) là đấng Nhất Thiết Trí ngự tại thành
Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, dùng sức thần
thông để hiện bày đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh,
vô ngại, cùng với vô lượng vô biên các đại
chúng nhóm họp, diễn nói pháp môn Căn Tụ rất sâu).
Phần
này thường được gọi là Tự Phần, trần
thuật bộ kinh này vừa mới khởi đầu nói
về điều ǵ. Không chỉ bộ kinh này, hết thảy
các kinh vừa mới khởi đầu đều là “như
thị ngă văn” (Evaṃ Mayā-śrutam, tôi nghe như thế
này). Mỗi bộ kinh đều là như thế. Những
lời này là do vị kết tập kinh là tôn giả A Nan
khi kết tập kinh điển, điều thứ nhất
là khiến cho người khác tin tưởng. Sáu loại [thành tựu bắt buộc phải có trong Tự Phần
của mỗi kinh] nhằm khiến cho người
ta tin tưởng, “nhất thời”, đức Phật
ở nơi nào, nói với người nào… Những điều
ấy được gọi là Lục Thành Chứng Tín Tự (六成證信序), [hàm nghĩa] nói sáu loại pháp môn nhằm “thành”
(成) tức thành tựu, chứng
minh, chỉ ra pháp này đáng tin. Chứng Tín Tự trong Tự
Phần của hết thảy các kinh đều nói như
thế. V́ những lời này là do tôn giả A Nan nói khi Ngài kết tập bộ kinh này. “Như thị” là
nói đến bộ kinh này, tôi đích thân nghe bộ kinh
này, [nói như vậy] nhằm khiến cho mọi
người tin tưởng. [Nói như thế với dụng
ư]: Thứ nhất là không giả, v́ chính tôi tự ḿnh nghe
được. Nghe vào lúc nào, do ai nói? Đức Phật
nói.
Phàm
là kinh Phật th́ đều nói “nhất thời”, do
nguyên nhân nào? Chẳng có tiêu chuẩn thời gian! “Nhất
thời” tức là khi nhân duyên khiến cho người
nghe và người nói gặp gỡ. Đức Phật thuyết
pháp có lúc ở trên cơi trời, có khi nói trong nhân gian, có lúc nói
tại quốc độ này, có khi nói tại quốc độ
khác, thời gian đều chẳng giống nhau, chẳng
thể dùng [tiêu chuẩn] thời gian nào để xác định
thời gian [cụ thể], chỉ có thể
dùng cách nói này (“nhất thời”) để ấn
định thời gian. Tức là khi nhân duyên khế hợp,
có người nói, tức vị pháp chủ, có người
nghe (thính chúng), th́ gọi là “nhất
thời”; điều kiện thời
gian như thế đó!
Phật
là bậc Nhất Thiết Trí, trí huệ hết sức to lớn,
trọn đủ hết thảy các trí huệ. Do vậy,
Ngài có thể nói hết thảy các pháp, Ngài là người
thuyết pháp. Đấy là Nhân [tức Chủ
Thành Tựu trong sáu món Chứng Tín Thành Tựu].
Ở chỗ nào? Tại thành Vương Xá (Rāja-gṛha), trong núi
Kỳ Xà Quật (Gṛdhrakūṭa). Chúng
ta thường gọi [núi này] là Linh Thứu Sơn (靈鷲山). Chắc
là người đă từng triều bái Ấn Độ đều
tới Linh Thứu Sơn. Đức Phật dùng sức thần
thông trang nghiêm nơi thuyết pháp hết sức hết sức thù thắng, mầu nhiệm, thành một đạo tràng rộng răi, trang
nghiêm, thanh tịnh, chẳng có chướng ngại. [Cứ
h́nh dung] bao nhiêu người đến nghe, [nơi ấy]
đều có thể dung nạp, sẽ có thể h́nh dung mức
độ rộng lớn của nó.
Người
nghe nhiều cỡ nào? Vô lượng vô biên các đại
chúng cùng nhóm họp.
Diễn
thuyết ǵ vậy? Pháp môn Căn Tụ rất sâu. Đă là
rất sâu, th́ sẽ chẳng hời hợt,
nông cạn, chẳng phải là mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư như chúng ta thường nói. Căn Tụ
là lục căn, lục trần, lục thức, mười
tám giới; đó gọi là pháp môn Căn Tụ. V́ sao thêm vào chữ
“thậm thâm” (甚深, rất sâu)?
Thêm vào chữ “thậm thâm” nhằm phân biệt rành rẽ.
Có kẻ cho rằng đây là pháp Tiểu Thừa, [nhận
định như vậy] tuyệt đối là sai lầm; cho nên phải
nói pháp môn này là “thậm thâm”,
lục căn, lục trần, lục thức, mười
tám giới tụ tập lại. [Đó chính là] Căn Tụ,
thuận theo kinh văn [mà giảng giải như thế] .
Nhưng
đức Phật nói hết thảy các kinh, có khi là trong Tự
Phẩm có Thông và Biệt. “Như thị ngă văn” là
Thông, “ở trong núi Kỳ Xà Quật, thị hiện vô ngại
đạo tràng, diễn thuyết pháp này” là Biệt. V́
nói pháp môn Căn Tụ, chẳng nói pháp nào khác, chẳng phải
là nói kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa cũng được
nói tại núi Linh Thứu. Đó là Biệt, Biệt chẳng
phải là Thông, “như thị ngă văn” là Thông. Phật
ngự nơi nào đó, [điều này thuộc về Xứ
Thành Tựu] trong Lục Thành Chứng Tín Tự. Sáu loại
ấy nhằm chứng minh pháp này đáng tin, chẳng phải
là ngụy tạo, chẳng phải là tùy tiện nói ra.
Do
khi đức Phật nhập Niết Bàn, ngài A Nan hỏi
đức Phật: “Sau khi đức Phật diệt
độ, lúc con kết tập các
kinh do đức Phật đă nói, khởi đầu nên
nói như thế nào, khi kết thúc nên nói như thế nào,
xin Phật quyết định”. Đức Phật bảo:
“Khởi đầu th́ nhất định phải nói:
Như thị ngă văn, [một thời],
Phật ở tại chỗ nào, có các đại
chúng như thế nào tụ họp tại nơi ấy”. Một đằng
là thời gian, một đằng là xứ sở, một
đằng là nhân sự. Đó chính là cách nói theo Thời, Địa,
Sự, Vật, nêu rơ pháp ấy đáng tin. Do ngài A Nan thỉnh
vấn trước hết, cho nên đức Phật dạy
Ngài, đầu các kinh, ông phải nên nói như thế. Nói
như thế, sẽ khiến cho người ta tin tưởng.
Ông nói như thế, sự tín ngưỡng của người
khác sẽ được thành tựu.
“Như
thị” hàm ư: Những lời ấy chẳng phải do
tôi nói, tôi chỉ được nghe, tôi chỉ là người
kết tập. Ngài A Nan tỏ rơ thái độ, thể hiện
lời lẽ của người kết tập kinh điển.
[Sở dĩ lập ra] Tín Thành Tựu là v́ các pháp do đức Phật đă nói mênh mông như biển cả; nếu chẳng có một định nghĩa tiêu chuẩn,
quư vị phiên dịch như thế nào cũng đều
được, miễn sao chẳng ra ngoài biển Phật
pháp, có pháp vị là được rồi. Nhưng đức
Phật đă quy định, phải tuân theo quy cách ấy, để khiến cho mọi người tin tưởng.
Nhất là trong bộ kinh này, bậc đương cơ
là Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Phật pháp sâu như biển cả,
chỉ Tín là có thể nhập! Loại pháp môn Căn Tụ này rất
khó khiến cho kẻ khác tin tưởng, cho nên phải nhờ
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát làm người phát khởi. [Kiên Tịnh
Tín] tức là thanh tịnh tín, khiến cho người khác
tin tưởng, tin được! Tin được ǵ vậy?
Pháp này chẳng ngụy tạo, do chính đức Phật
nói, nhằm thành tựu ḷng tin, cho nên gọi là
Tín Thành Tựu.
Điều
thứ hai (“ngă văn”) là đối tượng nghe.
Điều thứ hai này được gọi là Văn
Thành Tựu, Văn (聞) tức là nói “ai
nghe [pháp ấy]?” Pháp này đáng tin, nhưng do ai nghe, “ai nghe” chính là Văn Thành Tựu. Ngài A Nan
nói, Văn là do ngài A Nan nói: “Đích thân tôi nghe đức Phật,
chính tôi nghe thấy”. “Như thị” là nói pháp này
do đức Phật nói, đáng tin, [c̣n “ngă văn”] là
ngài A Nan minh thị: Pháp này do tôi đích thân nghe đức
Phật nói. Nhưng có một thắc mắc, chẳng hạn
như chúng ta nói tới kinh Địa Tạng, ngài A Nan chẳng
hiện diện. Rất nhiều bộ kinh ngài A Nan chẳng
có mặt tại hiện trường, cớ sao vẫn là “như
thị ngă văn”? V́ trong tương lai, kinh điển
sẽ được kết tập để lưu truyền
cho đời sau, hễ pháp nào do đức Phật đă
nói mà ngài A Nan chưa được nghe, đức Phật
sẽ nói lại cho Ngài nghe. Chẳng hạn như kinh
Địa Tạng, ngài A Nan không hiện diện, nhưng
do ngài A Nan kết tập. C̣n có rất nhiều bộ kinh
mà ngài A Nan chẳng hiện diện, có kinh là do Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát và A Nan cùng kết tập, nhưng
thường là do ngài A Nan đóng vai tṛ chủ
yếu. Do đó, Văn Thành Tựu biểu thị chính tôi
(ngài A Nan) đích thân được nghe pháp do đức Phật
đă nói. Điều này thuộc về Tín Thành Tựu và
Văn Thành Tựu.
Thời
Thành Tựu: Phàm [thời điểm] của các pháp do đức
Phật đă nói đều là “nhất thời”, chẳng
có thời gian [cụ thể]! Thời gian trên cơi trời
làm sao xác định theo nhân gian cho được? Như
kinh Địa Tạng được nói trên cơi trời,
quư vị xác định theo thời gian trong nhân gian bằng
cách nào? Do vậy, đối với thời gian ấy, chỉ
nói là “nhất thời”. “Nhất thời” nhằm
nói lên điều ǵ? Nghe và nói. Lúc nghe và nói, tức là thời
gian đức Phật thuyết pháp ấy và chúng sanh hữu
duyên cảm ứng đạo giao; do vậy, đức Phật
mới nói ra pháp ấy. [Những điều vừa nói trên
đây] chính là:
1)
Tín Thành Tựu (“như thị”).
2)
Văn Thành Tựu (“ngă văn”).
3)
Thời Thành Tựu (“nhất thời”): Có người
nói, có kẻ nghe, có thời gian nhất định.
Người
nói là Chủ, Chủ là nói đến ai? [Kinh] do đức
Phật nói, Ngài là Chủ Thành Tựu. [Như vậy là
đă có bốn món thành tựu]: Tín Thành Tựu, Văn Thành
Tựu, Thời Thành Tựu, và Chủ Thành Tựu. Điều
thứ năm là Xứ Thành Tựu, tức là nói ở chỗ
nào? Đức Phật thuyết pháp đều có một
nơi chốn. Trước mỗi bộ kinh, đều
có sáu loại [chứng thực]
như thế, gọi là Lục Thành Chứng Tín Tự,
pháp ấy có sáu loại thành tựu nên đáng tin! Ở
nơi nào? Như kinh này được nói tại thành
Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật. Đă có thời
gian, có địa điểm, có người nghe, có vị thuyết
pháp chủ, lại c̣n có đại chúng. Đức Phật
thuyết pháp đều có Bồ Tát đại chúng, hoặc
là có Thanh Văn đại chúng. Điều này được
gọi là Chúng Thành Tựu. Phàm là một pháp hội giảng
kinh, đều phải hội đủ các nhân duyên kể
trên. Chẳng có sáu loại nhân duyên thành tựu ấy, th́ sẽ
không được. Chúng được gọi là Lục
Thành Chứng Tín Tự. Đây là tôi nghe như thế, liền
nói đúng như tôi đă nghe, người nghe là ngài A Nan,
người nói là Thích Ca Mâu Ni Phật, nơi chốn là núi
Linh Thứu, c̣n có các Bồ Tát đại chúng; đó là Chúng [Thành Tựu].
V́
tôi thường giảng ư nghĩa “tự tại” này, đó cũng là ư nghĩa “thành Phật tự tại”.
V́ sao sáu loại được nói trên đây [có khi] không được phiên dịch? V́ sao không phiên dịch?
Có khi phiên dịch, có khi không phiên dịch. “Chẳng dịch”
là do thuộc loại ư nghĩa gia tŕ: Như Lai vĩnh viễn
chẳng thuộc về phiền năo, Ngài chẳng có phiền
năo. Ngài tự tại trong hết thảy các pháp, cho nên chẳng
dịch. Thứ hai, trí huệ của đức Phật giống
như ngọn lửa, có ư nghĩa “hừng hực, có thể
nung luyện, đốt sạch hết thảy phiền
năo của quư vị”. [Sắc thân của Phật] lại
c̣n có ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo,
[cho nên] có ư nghĩa trang nghiêm.
V́ đức Phật đă trọn đủ hết thảy
các công đức thù thắng; do trọn đủ viên măn hết
thảy các công đức thù thắng, cho nên có khi chẳng
dịch. Khi đức Phật tự lợi th́ đă viên
măn, đă trọn đủ, các phương tiện huệ
mà Ngài dấy lên đều nhằm lợi ích người khác,
lợi ích chúng sanh; trong ấy bao
hàm rất nhiều ư nghĩa. Trong các kinh luận, có khi nói
[về phần Chứng Tín này] rất nhiều, có lúc không
nói, có khi nói theo tánh, có lúc nói theo sự tướng. Nếu
nói theo tánh thể, th́ thường
là giảng cho đại Bồ Tát, giống như cảnh
giới được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Chuyên đối
ứng với bộ kinh hay một bộ luận nào
đó, mỗi thứ đều có cách nói khác nhau. Do ở
đây chúng ta nói đại lược, cho nên đối với
sáu loại thuộc phần Chứng Tín Tự ở đầu
kinh, tôi chỉ nói đại khái đôi chút.
V́
kinh này nhằm biểu thị những điều sắp
được giảng chính là pháp môn Căn Tụ, trong một
ngày, chúng ta thường xuyên đem mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư, sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp, nhăn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, gom sáu căn, sáu trần, sáu thức, tức mười
tám giới, mười tám giới hợp nhất lại
được gọi là Căn Tụ. Căn Tụ chính là
tụ hợp hết thảy các tướng cảnh giới
lại để nói pháp môn này. Mọi người thường
cho pháp này là Tiểu Thừa, v́ các điều
được nói toàn là hữu tướng. Pháp
môn Căn Tụ là hữu tướng, tức Căn, Trần,
Thức; nhưng đấy là hàm nghĩa trong nửa bộ
trước, nửa bộ sau chẳng như thế, mà sẽ
là tách pháp môn Căn Tụ này ra để nói. Mỗi một
căn, mỗi một trần, mỗi một thức bao
hàm rất nhiều nghĩa lư. Khi tôi giảng đến phần
kinh văn tương ứng, mọi người sẽ biết
điều này.
Nói
sâu hơn chút nữa th́ là nói đến cái tâm của chúng
ta, hàm nghĩa là “tâm có thể chuyển cảnh, sẽ giống
như Như Lai”. Trong các pháp môn Căn Tụ, mỗi
pháp môn đều là tâm; tâm xoay chuyển tướng cảnh
giới bên ngoài th́ sẽ là Phật. Nhưng tâm chúng ta bị
căn xoay chuyển, bị trần xoay chuyển, bị thức
xoay chuyển. Mười tám giới đều là tâm,
nhưng hễ bị chuyển, sẽ chẳng phải là
tâm. Đó là mê. Cái tâm bị cảnh chuyển, quư vị thấy
núi, sẽ bị chuyển theo núi; thấy nước, sẽ bị chuyển theo
nước. Cái tâm không bị cảnh chuyển, mười
năm trước thấy núi là núi, thấy nước là
nước, mười năm giữa th́ thấy núi chẳng
phải là núi, thấy nước chẳng phải là nước,
mười năm sau thấy núi vẫn là núi, thấy
nước vẫn là nước. Trong ba quá tŕnh ấy, lúc
mười năm đầu là phàm phu, mọi người
thấy núi và nước là núi và nước. Mười
năm giữa, tu đạo đă thành tựu, núi chẳng
phải là núi, nước cũng chẳng phải là nước.
Đợi cho tới khi đạt đến cảnh giới
đại Bồ Tát, đạt tới cảnh giới Phật,
núi vẫn là núi, nước vẫn là nước. Đó là
ư nghĩa “tùy duyên”, tùy theo hết thảy chúng sanh duyên
nói như thế nào, bèn nói theo như thế đó. Pháp môn
Căn Tụ có hàm nghĩa ấy. Qua tỷ dụ, mọi
người sẽ lư giải hàm nghĩa của pháp môn
Căn Tụ.
Do
pháp này, tức là từ pháp hữu tướng chuyển
thành pháp vô tướng, từ sự tín giải hữu
tướng đạt tới mục đích vô tướng,
đừng nên ngờ vực, phải chuyển hóa từng
bước một. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là bậc
đương cơ, là duyên nhân thỉnh pháp, khiến cho bọn
chúng sanh chúng ta trong đời Mạt Pháp có thể cậy vào
thần lực của Phật, hoặc nương vào thần
lực của Địa Tạng Bồ Tát, sử dụng
Chiêm Sát Luân Tướng. Chiêm Sát Luân Tướng hoàn toàn là thần
lực của Địa Tạng Bồ Tát, chỉ
nương theo phương pháp do Địa Tạng Bồ
Tát đă dạy để xử lư. Chúng ta chẳng có sức
mạnh ấy, nhưng chúng ta dùng Chiêm
Sát Luân, sẽ có thể biết quá khứ, mà cũng có thể
biết vị lai. Chúng ta có một chuyện nẩy sanh, hễ
chiêm sát, sẽ biết
phần nào, đời nào, bộ phận nào nẩy sanh vấn
đề, quư vị sẽ có thể biết. Phải giải
quyết vấn đề ấy như thế nào, chẳng
phải chỉ biết suông mà thôi! Trong kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo, Địa Tạng Vương Bồ Tát
đă dạy: Quư vị muốn chuyển hóa, muốn tu
đạo, mong thành tựu, chuyển phàm thành thánh. Chẳng
hạn như nói đến chuyện chuyển phàm thành
thánh, chúng ta bị bệnh, bệnh viện chữa trị
chẳng lành. Gieo Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Bồ Tát dạy
đó là do nghiệp chướng, hoặc dạy chúng ta bái
sám, hoặc dạy chúng ta niệm thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát bao nhiêu câu đó, quư vị thực hiện đầy
đủ, sẽ chuyển được nghiệp ấy.
V́ nghiệp đă chuyển, tướng cũng chuyển
theo. Khi nghiệp chẳng chuyển, tướng sẽ chẳng
chuyển. Nhưng chuyện này phải dựa vào quư vị
mà có, điều kiện đầu tiên là quư vị phải
có tín tâm quyết định, chớ nên tam tâm nhị ư th́ sẽ
chẳng có hiệu quả.
V́
tâm chúng sanh phiền năo đặc biệt nặng nề, bất
luận tin điều ǵ cũng đều chẳng thể
kiên định, mà cũng chẳng thể nẩy sanh thanh tịnh. Nay vị đương cơ là ngài
Kiên Tịnh Tín; không chỉ kiên tịnh, mà c̣n thanh tịnh,
cho nên ngài Kiên Tịnh Tín làm bậc đương cơ.
Trong hội nhóm họp của Phật, khi đại chúng tụ
tập, ngài Kiên Tịnh Tín là người phát khởi bộ
kinh này. Ngài do tâm đại
bi, thấy chúng sanh đời Mạt Pháp, đặc biệt
là trong đời loạn, điều ǵ cũng chẳng nhận
biết rơ ràng. Chúng ta hồ đồ, phiền năo, điều
ǵ cũng không biết. Do tâm đại bi, Ngài bèn v́ chúng ta
thỉnh cầu, thỉnh cầu “dùng phương pháp ǵ
để khiến cho họ (chúng sanh) có thể biết”.
(Kinh)
Nhĩ thời, hội trung hữu Bồ Tát, danh viết Kiên Tịnh Tín, tùng ṭa
nhi khởi, chỉnh y phục, thiên đản hữu kiên,
hiệp chưởng, bạch Phật ngôn: “Ngă kim ư thử
chúng trung, dục hữu sở vấn, tứ thỉnh Thế
Tôn, nguyện thùy thỉnh hứa”.
(經)爾時會中有菩薩名曰堅淨信。從座而起。整衣服。偏袒右肩。合掌白佛言。我今於此衆中欲有所問。諮請世尊。願垂聽許。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, trong hội có Bồ Tát tên là Kiên Tịnh
Tín, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh
đốn y phục, trật vai áo phải, bạch cùng
đức Phật rằng: “Con nay ở trong đại
chúng này, có điều muốn hỏi, xin đức Thế
Tôn rủ ḷng cho phép con hỏi”).
Thuở
đức Phật tại thế, muốn thỉnh pháp; trước hết, phải thỉnh cầu Ngài
đáp ứng. Nay chúng ta cũng như thế, quư vị muốn
thỉnh cầu người khác làm chuyện ǵ, người
ta chấp thuận th́ quư vị mới có thể làm. Như
người khác muốn tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo, tôi nhận lời người đó rồi mới nói.
Đấy chính là ư nghĩa của chữ “thính hứa”
(聽許) ở đây.
Đó là một loại lễ tiết. Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát thương xót chúng sanh trong đời mai sau, muốn thỉnh
đức Phật thuyết pháp, bèn biểu lộ một
nghi thức, tức là người xuất gia trật y
ca-sa một bên vai, đầu áp sát đất, đảnh
lễ đức Phật. Đảnh lễ xong, thưa:
“Con mong thỉnh Phật khai thị, xin Ngài rủ ḷng chấp
thuận”. Ngài chấp thuận th́ quư vị mới nói; chẳng
chấp thuận sẽ không thể nói!
Vốn
là từ trong Vô mà sanh Hữu, những lời này có nghĩa
là ǵ? Trong cảnh giới Nhất Thật, chẳng có hết
thảy các h́nh tướng, chẳng có ngôn thuyết;
nhưng làm thế nào th́ mới có thể đạt tới
cảnh giới Nhất Thật? Trước khi đạt
tới cảnh giới Nhất Thật, th́ phải có tiền
phương tiện. Phương tiện đầu tiên nhất
chính là: Quư vị mong đạt tới cảnh giới Nhất
Thất, tối thiểu là quư vị phải có tín tâm kiên cố.
Đệ tử Tam Bảo chúng ta tin tưởng Tam Bảo,
như thế là quư vị có tín tâm. Chúng ta đă có tín tâm,
nhưng vẫn chưa kiên cố. Niềm tin của chúng ta,
thường nói là “phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo”, nhưng [cái tín
tâm ấy] được kiến lập trên hư vọng,
chẳng chân thật! V́ tâm chúng ta chẳng biết cảnh
giới Nhất Thật; dẫu có biết th́ vẫn chẳng biết chứng nhập
bằng cách nào! Nếu muốn đạt tới cảnh
giới Nhất Thật, cảnh giới Nhất Thật
là cảnh giới ǵ vậy? Niềm tin kiên định,
thanh tịnh! Cảnh giới Nhất Thật là chẳng có
cảnh giới, th́ mới gọi là cảnh giới Nhất
Thật. Hễ có tướng cảnh giới, sẽ chẳng
phải là Nhất Thật. Đồng thời, chính ḿnh có
tín tâm, có thể khiến cho người khác cũng có tín
tâm. Chính ḿnh có tín
tâm kiên cố, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có tín
tâm kiên cố. Đấy mới là Kiên Tịnh Tín.
Chúng
tôi tách ra để giảng và giải thích cặn kẽ.
Khi cái tâm chánh tín của quư vị hết sức kiên cố,
lại nhờ vào duyên bên ngoài, duyên có thể khiến cho
người khác thanh tịnh. Tuy chúng ta phát tâm rất chân thật,
[vẫn cần đến] ngoại duyên của quư vị tốt
đẹp. Ngoại duyên chẳng tốt đẹp, tâm quư
vị sẽ chẳng thể thanh tịnh được!
Tâm thanh tịnh là cái nhân, vẫn phải do duyên xúc tiến thành tựu, tức
là thúc đẩy cái nhân ấy thành tựu. Chúng ta chia ra
như thế này: Quư vị thật sự khởi tâm là
Kiên, duyên từ bên ngoài thúc đẩy thành tựu th́ gọi
là Tịnh. Tín là hiểu rơ. Liễu nhân là Tín, duyên nhân và liễu nhân là Nhân, tức là
cái được duyên giúp sức bèn thành tựu th́ gọi
là Nhân. Đấy là chia chẻ cặn kẽ [để giải thích]. Chẳng chia chẻ
chi ly th́ gọi là Kiên Tịnh Tín, khiến cho tín tâm của
chúng ta có thể kiên cố. Hễ gặp đôi chút hoàn cảnh
bèn bị dao động [th́ chẳng phải là Kiên Tịnh
Tín], chớ nên dao động!
Trong
cuộc đời của chúng ta, quư vị gặp rất
nhiều thử thách. Bất luận vị đạo hữu
nào, khi quư vị chưa
phát Bồ Đề tâm, khá là thuận lợi. Vừa phát
đại tâm, thử thách ngày càng nhiều để khảo
nghiệm! Mọi người đều biết chuyện
này, “bất thọ ma, bất thành Phật” (chẳng bị
ma thử thách, chẳng thể thành Phật). Nói thông thường
là như thế đó. Bởi lẽ, quư vị vừa phát
tâm, sẽ dẫn khởi hết thảy oán hại của
quư vị, khiến cho trong tự tánh bèn nẩy sanh chướng
ngại. Chướng ngại là nghiệp chướng.
Chúng ta thường nói chướng ngại là nghiệp chướng.
Nghiệp chướng tức là những chuyện quư vị
đă làm sẽ ngăn trở quư vị mong phát tâm tu đạo
trong hiện thời. Mỗi vị đạo hữu đều
như thế, chẳng phải là thuận buồm xuôi gió
măi cho đến khi thành Phật. Chẳng hề có chuyện
như vậy! Bất luận vị Bồ Tát nào, hay vị
Phật nào, cũng đều phát ra rất nhiều đại
nguyện, lại c̣n “phàm là điều ǵ bất lợi
cho chúng sanh, chẳng độ chúng sanh, sẽ chẳng thể
thành Phật”. Quư vị tự liễu thoát, tự liễu
thoát th́ chỉ có thể là A La Hán. Do vậy, đức Phật
dạy chúng ta, chưa thành Phật quả, trước phải
kết duyên với người khác, để tới khi quư vị thành Phật, quư vị sẽ giúp đỡ
người kết duyên với chính ḿnh trước. Quư vị
chỉ v́ chính ḿnh, chẳng chịu giúp đỡ người
khác, tức là chẳng hành Bồ Tát đạo mà lại
mong thành Phật, chẳng có lẽ ấy!
Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát đă phát Bồ Đề tâm, phát
đại bi tâm, v́ Ngài đă từng
trải qua như thế, tín tâm chẳng kiên định.
Nay Ngài đă có thể kiên định [tín tâm], đă trải
qua kinh nghiệm ấy. Giống như kẻ tu đạo
chúng ta, lúc quư vị mới phát tâm, thành khẩn, chân thật,
trải qua một hai thử thách, quư vị chẳng thể
vững vàng nổi, đạo tâm lui sụt, cho đến
hết thảy những người tu đạo đều
có chướng ngại như thế, ngay như lạy Chiêm Sát
Sám cũng bị chướng ngại! Chẳng phải
là vừa phát tâm, quư vị liền kiên định. Khắc
phục các phiền năo ấy bằng cách nào? Dựa vào sự
học tập của quư vị. Quư vị xem kinh luận
càng nhiều, đọc càng nhiều, phương pháp đối
trị phiền năo, đối trị chướng ngại
cũng sẽ càng nhiều
hơn. Nếu không, quư vị sẽ chẳng có cách nào khắc
phục! Chướng ngại vừa đưa tới, hễ
gián đoạn th́ chẳng phải là đôi ba ngày, mà chẳng
biết là bao nhiêu năm!
Tôi
nhớ tôi [bắt đầu] tu vào năm 1937, sau khi đă
trải qua rất nhiều tai nạn, cho tới khi sang Mỹ;
quư vị nói xem từ 1937 đến 1989, cách nhau bao nhiêu
năm? Tôi mới gặp được kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo, một nhóm đạo hữu ở Nữu
Ước mới yêu cầu tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo. Giảng xong rồi thôi, tôi vẫn chưa
tu [pháp Chiêm Sát trở lại]! Từ lúc
đó, lại sau mười năm nữa, tức là từ
năm 1989 đến năm 1999, tại chùa Phổ Thọ ở
Ngũ Đài Sơn, người ta lại mời tôi giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Có người đề
nghị, tôi cũng thỏa nguyện cho họ, tôi cũng
mong muốn [giảng kinh ấy]. Đến nay lại là
mười năm, tôi vẫn chưa tu trở lại, vẫn chẳng
dùng Chiêm Sát Luân. Pháp này phải dùng hằng ngày, hết thảy
các pháp quư vị vừa đoạn, sau khi đă đoạn,
chúng lại tiếp nối, trở lại từ đầu.
Mỗi vị đạo hữu chúng ta, bất luận quư
vị tŕ chú nào, hay tu pháp môn nào, hăy chú ư điều gây trở
ngại nhất, điều quan trọng nhất, [đó
chính là] ngàn vạn phần đừng nên gián đoạn!
Tập 2
Lần
trước, chúng tôi nói đến chuyện “khéo dùng cái
tâm”, tức là học pháp th́ phải khéo học. Thế
nào là “khéo học pháp?” Câu này chính là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy chúng ta phải
khéo dùng cái tâm, tức là khi quư vị học pháp, phải
khéo vận dụng cái tâm của chính ḿnh. Hàm nghĩa của “khéo vận dụng” là hiện thời
quư vị đến đây, mọi người cùng nhau học
tập bộ kinh này. Cái thân hiện tại
của quư vị chẳng có vấn đề, chẳng có một
chút sai lầm nào, nhưng cái tâm dễ nẩy sanh sai lầm.
Nay trong lúc quư vị học kinh này, hăy nhất tâm nhất ư,
đừng nghĩ tới chuyện khác, ngoại duyên đều
buông xuống. Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị
phải chế phục cái tâm một chỗ, đó là khéo
dùng cái tâm.
Bản
thân của việc “khéo dùng cái tâm” chính là giáo nghĩa
Đại Thừa. Theo giáo nghĩa Đại Thừa; trước hết, quư vị phải tu Quán. Khi mọi
người tới đây, tôi nghe mọi người nói
chuyện bên ngoài, đàm luận với nhau. Khi đă vào giảng đường này, khi nghe giảng,
trước hết, quư vị hăy trầm tĩnh đôi
chút, hăy quán cái tâm của quư vị, đó là tu Quán. Trước
hết là khiến cho cái tâm suốt ngày xáo động bên
ngoài của quư vị ngưng lặng. Đó là “nghe
pháp”, có nghĩa là hễ vào trong đạo tràng này, trần duyên bên ngoài đều buông xuống. Người
nghe pháp là như thế, mà người thuyết pháp
cũng như thế. “Pháp sư” tức là dùng pháp làm thầy,
chẳng có “ngă, nhân” (ta và người), [tức là chẳng
có] Ngă Kiến và Ngă Chấp, dùng pháp làm
thầy, dùng pháp để chấp. Pháp sư có nói sai hay
không? Nếu nói sai, định nghĩa sai một chữ, sẽ
là phạm pháp. Theo pháp thế gian, hễ phạm pháp, sẽ
có pháp luật quy định [xử phạt]. Nếu pháp
sư phạm pháp tới mức độ nào, th́ sẽ chịu
báo ứng nhân quả [tương ứng mức độ
ấy]. Giảng pháp sai lầm sẽ phải chịu nhân
quả báo ứng: “Nói sai một chữ chuyển ngữ,
đọa lạc làm thân cáo năm trăm đời”.
Để sau này có nhân duyên, tôi sẽ nói với mọi
người về câu chuyện ấy. Ư nghĩa hoằng
pháp của pháp sư là “tiếp nối hưng thịnh
chủng tánh của Phật, kế thừa Phật pháp”.
Do vậy, Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta khéo dùng cái tâm để tiếp nối
hưng thịnh Phật chủng. Hàm nghĩa của việc
thuyết pháp là như thế đó!
Học
pháp th́ sao? Người nói phải khéo nói, chẳng trái nghịch
ư Phật. Giảng bộ kinh này, bộ kinh này có ư nghĩa
ǵ? Chớ nên trái nghịch
ư nghĩa của bộ kinh này! Người nghe pháp phải
kiên định tín tâm của chính ḿnh. Tôi nói lời này, chắc là mọi người có chút hoài nghi, sẽ
nói: “Chúng tôi đến đây nghe kinh mà c̣n chẳng đạt
được tín tâm ư?” Tôi đem tiêu chuẩn của
tín tâm thưa với mọi người: “Như thế nào th́ mới
được coi là có tín tâm?” Cảnh giới cao
chúng ta chẳng mong cầu
được, cảnh giới thấp th́ sao? Nay trong ṿng
một tiếng rưỡi này, chúng ta tạm thời buông
xuống ngoại duyên, thanh tịnh đôi chút, mọi
người nhất tâm nhất ư cùng nhau học. Tôi không ǵ
chẳng nhằm gợi ư cho mọi người, nhưng dụng
tâm th́ mọi người vẫn phải tự ḿnh quán chiếu,
dụng tâm để học, dụng tâm tương thông với
pháp. Khi quần áo chúng ta mặc dính bụi, bẩn thỉu,
quư vị cảm thấy chẳng thoải mái. Nếu trong
tâm quư vị có trần cấu, chẳng phải là cũng
giống như thế hay sao? Khi quư vị học pháp, chẳng
dễ học tập để tiến nhập! Hăy hiểu
hàm nghĩa này! Do vậy, nay chúng ta bắt đầu học
chánh văn trước. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh cầu
đức Phật nói bộ kinh này, tức là nói về nghiệp
báo thiện ác trong nhân gian.
(Kinh)
Phật ngôn: “Thiện nam tử! Tùy nhữ sở vấn,
tiện khả thuyết chi”.
(經)佛言。善男子。隨汝所問。便可說之。
(Kinh:
Đức Phật nói: “Này thiện nam tử! Ông muốn hỏi
ǵ, hăy cứ nói ra”).
Nay
ông thỉnh cầu, ta chấp thuận. Đức Phật
khen ngợi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Thiện nam tử!
Ông muốn hỏi điều ǵ? Ông muốn hỏi ǵ, ta sẽ
nói cho ông biết điều đó”. Đức Phật có hỏi,
ắt đáp, chẳng cự tuyệt hết thảy câu hỏi.
(Kinh)
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát ngôn: “Như Phật tiên thuyết,
nhược ngă khứ thế, Chánh Pháp diệt hậu,
Tượng Pháp hướng tận, cập nhập mạt
thế, như thị chi thời, chúng sanh phước bạc,
đa chư suy năo, quốc độ sổ loạn, tai hại
tần khởi, chủng chủng ách nạn, bố cụ bức nhiễu, ngă
chư đệ tử thất kỳ thiện niệm, duy
trưởng tham, sân, tật đố, ngă mạn. Thiết
hữu tượng tự hành thiện pháp giả, đản
cầu thế gian lợi dưỡng, danh xưng, dĩ
chi vi chủ, bất năng chuyên tâm tu xuất yếu pháp.
Nhĩ thời, chúng sanh đổ thế tai loạn, tâm
thường khiếp nhược, ưu úy kỷ thân, cập
chư thân thuộc, bất đắc y thực sung dưỡng
khu mạng. Dĩ như thử đẳng chúng đa
chướng ngại nhân duyên cố, ư Phật pháp trung,
độn căn thiểu tín, đắc đạo giả
cực thiểu. Năi chí tiệm tiệm ư tam thừa
trung, tín tâm thành tựu giả, diệc phục
thậm tiển, sở hữu tu học thế gian Thiền
Định, phát chư thông nghiệp, tự tri túc mạng
giả, thứ chuyển vô hữu. Như thị ư hậu,
nhập Mạt Pháp trung kinh cửu, đắc đạo,
hoạch tín, Thiền Định, thông nghiệp đẳng,
nhất thiết toàn vô”.
(經)堅淨信菩薩言。如佛先說。若我去世。正法滅後。像法向盡。及入末世。如是之時。衆生福薄。多諸衰惱。國土數亂。災害頻起。種種厄難怖懼逼擾。我諸弟子失其善念。唯長貪瞋嫉妒我慢。設有像似行善法者。但求世間利養名稱以之爲主。不能專心修出要法。爾時衆生睹世災亂。心常怯弱。憂畏己身及諸親屬。不得衣食充養軀命。以如此等衆多障礙因緣故。於佛法中鈍根少信。得道者極少。乃至漸漸於三乘中信心成就者亦復甚鮮。所有修學世間禪定發諸通業自知宿命者。次轉無有。如是於後入末法中經久得道獲信禪定通業等一切全無。
(Kinh:
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: “Như đức Phật
đă nói trước kia, nếu ta nhập diệt, sau khi
Chánh Pháp đă diệt, Tượng Pháp sắp hết,
bước vào đời Mạt Pháp, trong lúc như thế,
chúng sanh phước mỏng, có nhiều suy năo, quốc
độ nhiều lần loạn lạc, tai họa nhiều
lượt dấy lên, các thứ ách nạn kinh sợ, bức
bách, nhiễu hại. Các đệ tử của ta đánh
mất thiện niệm, chỉ tăng trưởng tham,
sân, ganh ghét, ngă mạn. Giả sử có người hành những
điều tương tự như thiện pháp th́ chủ
yếu chỉ v́ cầu lợi dưỡng, tiếng
tăm trong thế gian, chẳng thể chuyên tâm tu pháp xuất
yếu. Lúc bấy giờ, chúng sanh thấy cơi đời
tai ương, loạn lạc, tâm thường khiếp
nhược, lo sợ chính ḿnh và các thân thuộc chẳng có
cơm áo để nuôi nấng thân mạng. Do có nhiều
nhân duyên chướng ngại như thế, trong Phật
pháp, kẻ độn căn, ít tin tưởng [th́ nhiều],
người đắc đạo cực ít. Cho đến
dần dần trong tam thừa, kẻ tín tâm thành tựu
cũng hết sức ít ỏi, tất cả những
người tu học Thiền Định thế gian, phát
sanh những nghiệp thần thông, tự biết túc mạng,
sẽ lần lượt trở thành chẳng c̣n. Sau
đó, khi đă bước vào thời Mạt Pháp lâu xa
như thế, người đắc đạo, đạt
được đức tin, Thiền Định, thần
thông v.v… hết thảy hoàn toàn chẳng có”).
“Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát ngôn” tức là Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát thưa: “Như Phật tiên thuyết” (như Phật
trước kia đă nói), chẳng phải là trong quá khứ,
khi giảng kinh, đức Phật thường nói như
thế hay sao? “Nhược ngă khứ thế, Chánh Pháp diệt
hậu, Tượng Pháp hướng tận”, [nghĩa
là] Chánh Pháp đă chẳng tồn tại; đức Phật
nhập diệt, Chánh Pháp chẳng c̣n. Thuở đức Phật
tại thế thuyết pháp, Chánh Pháp năm trăm năm,
[trong thời gian ấy] người chứng quả,
người thành đạo nghe pháp liền khai ngộ, khai
ngộ sẽ thành đạo. Tượng Pháp th́ sao? Tuy
người chứng đạo ít, người nghe pháp
đều kiên định tín tâm. Sau đó, Tượng Pháp
cũng sắp tận, Chánh Pháp năm trăm năm, Tượng
Pháp năm trăm năm đều đă tận, tới thời
gian cuối, tức là Mạt Pháp. Trong các kinh khác, đức
Phật có nói Mạt Pháp là một vạn năm, trong thời
gian ấy, Chánh Pháp và Tượng Pháp đều diệt tận,
chúng sanh khi ấy phước đức mỏng, phước
đức rất mỏng, chúng sanh chẳng có phước.
“Đa chư suy năo”: “Suy” (衰) nghĩa là suy bại, làm bất cứ chuyện ǵ,
thành công th́ ít, suy bại th́ nhiều. Con người sanh,
lăo, bệnh, tử, thậm chí chẳng đợi đến
già đă bệnh, người chưa già đă chết rất
nhiều. Xă hội trong thế gian có hiện tượng
ǵ? “Quốc độ sổ loạn” nghĩa là quốc
gia thường xuyên xảy ra tai nạn liên tiếp, quốc
độ rất loạn. Các thứ khốn khó, ách nạn
chẳng thể nói nổi! Ai nấy đều mang tâm t́nh
sợ hăi, bị hết thảy các sự vật bức
bách, quấy nhiễu, [dùng những điều ấy]
để h́nh dung vào thời Mạt Pháp, xă hội có hiện
tượng như thế đó. Chuyện này rất dễ
hiểu, ai nấy đều biết!
Nói
chung, khi Phật pháp tiến vào thời Mạt Pháp, hiện
thời [đă cách lúc đức Phật nhập diệt] gần
ba ngàn năm, đă bước vào thời Mạt Pháp gần
hai ngàn năm. Lúc này, ác pháp đă rất thịnh hành, thiện
pháp và hành thiện nghiệp đă bị giảm thiểu rất
nhiều. Nếu so sánh giữa hai đằng thiện và
ác, [sẽ thấy] thiện giảm, ác tăng, ác pháp gia
tăng! Nh́n từ các hiện tượng xă hội, mọi
người đều có thể lư giải, phiền năo rất
nặng nề, bất luận quốc gia nào cũng đều
rất bất tường! V́ loạn lạc, bất
an, hỏa hoạn, thủy tai, băo tố, động đất,
tai họa sanh khởi chẳng ngừng trên quả địa
cầu này! Tôi chẳng nói chi tiết về hiện tượng này, ai nấy đều
thấy cả rồi!
“Ngă
chư đệ tử thất kỳ thiện niệm”
(các đệ tử của ta đánh mất thiện niệm):
Lũ đệ tử Tam Bảo chúng ta rất dễ tiêu mất
thiện niệm, ác niệm tăng trưởng dễ
dàng. Tăng trưởng tham, sân, ganh tỵ, chướng
ngại. Cũng có người làm các chuyện tương
tự, tức là giống như hành thiện pháp, nghĩa
là khi chúng ta làm thiện sự, luôn xen tạp rất nhiều
thứ bất thiện! V́ sao? Đều v́ cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng thế gian, coi cầu được
tiếng tăm, lợi dưỡng là chuyện chánh yếu,
cho nên việc chuyên tâm tu pháp xuất thế bị giảm
thiểu. Tôi nghĩ các vị đạo hữu đều
thấy hiện tượng này, tôi chẳng cần phải
nói cặn kẽ, v́ các hiện tượng
trong xă hội đă cho chúng ta thấy t́nh trạng này.
Khi
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về đức Phật
thỉnh cầu, Ngài đă thưa bày: Hiện thời, trên
thế giới này, keo kiệt, tham lam, ghen tỵ, ai nấy
đều hoài nghi, thậm chí trong ṿng thân nhân, cha con, vợ
chồng của chính ḿnh đều hoài nghi lẫn nhau, giữa
người với người chẳng có sự tín nhiệm
lẫn nhau, tu hành trong lúc ấy hết sức khó khăn.
Trong lúc đó, làm thế nào để cái tâm của người
tu hành chúng ta liên kết với đại chúng? V́ trong lúc
đó, thiện ác chen lẫn, nói theo lối xưa là “phàm
thánh giao tham”, lúc ấy, đă chẳng có thánh nhân, chẳng
c̣n có thánh nhân sống chung với chúng ta. Đồng thời,
trong thời gian ấy, tư tưởng hết sức hỗn
loạn, tín niệm th́ sao? Bạ thứ ǵ cũng tin, chẳng phải
là chân tín, đánh mất chánh tín. Trong tâm mỗi người
toàn là tham, sân, si, ghen tỵ, chướng ngại, ngă mạn, nẩy sanh cái
tâm bất lợi cho kẻ khác, tận hết sức
nghĩ cách nuốt nhiều,
chiếm nhiều. Hiện thời, trên thế
giới này, vật chất hữu hạn, quư vị chiếm
nhiều hơn, tự nhiên là người khác bị giảm
bớt. T́nh huống kiểu này rất nhiều! Mỗi
chúng sanh do nghiệp chướng,
tánh t́nh rất chẳng an định, hết sức nóng nảy,
thô bạo, hễ động tới là nổi giận, thậm
chí ra tay đấm đá người khác. V́ sao có hiện
tượng kiểu này? Sự tu dưỡng bên trong, tức
tu dưỡng nội đức chẳng đủ, chẳng
có nội đức. Cho đến kiền thành cúng dường,
lễ bái Tam Bảo chẳng nhiều, cầu quỷ thần
chẳng ít. Đấy là hiện tượng thật sự,
[tu tập, làm thiện sự chi nữa] chuyên v́ để
nổi tiếng th́ nhiều, chứ thật sự v́ sanh tử
ít lắm!
Do
vậy, bộ kinh Thiện Ác Nghiệp Báo này phân tích cho
chúng ta nhận biết như thế nào là thiện, chân thiện,
nhận biết như thế nào là ác; nhưng trước
mắt quư vị có thể nhận biết [thiện, ác],
th́ đó là đối với chính ḿnh, chẳng phải là
hướng ra ngoài, đối với người khác! Quư
vị có thể biết nghiệp thiện ác của ḿnh
trong quá khứ hay không? Nói đơn giản, trong quá khứ,
điều thiện rất dày, thiện nghiệp rất
nhiều, trong đời này, quư vị sẽ rất ít tai nạn,
cuộc sống rất nhiều hạnh phúc, rất b́nh lặng,
rất an tĩnh, luôn được Tam Bảo gia tŕ. Ai nấy
đều có thể thấy điều này. Nếu quư vị
ác nghiệp nặng nề, thiện nghiệp ít ỏi, mọi
chuyện đều chẳng được hài ḷng. Đồng
thời, trong tâm quư vị thường có cảm giác sợ
sệt, lo được, lo mất, sợ những ǵ ḿnh
đang có sẽ bị mất đi. Trên thực tế,
cũng rất dễ mất đi! V́ thế, tâm chúng ta hết
sức bất tịnh, cho nên kinh khuyên dạy chúng ta phải
phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Chúng ta thường nghe các đạo hữu nói với nhau
như thế, các vị pháp sư cũng thường tuyên
truyền như thế, mong mỏi các đệ tử Tam
Bảo đều có thể tăng trưởng thiện
tâm sở, giảm bớt ác tâm sở.
Đồng
thời, ở đây đặc biệt nói đến
Tăng chúng. Thuở đức Phật tại thế,
trong các đại đệ tử của Ngài, có vị phát
nguyện chuyên hóa độ kẻ có tiền. V́ sao? Ngài Tu Bồ
Đề chuyên t́m những kẻ giàu có, hướng về
họ hóa duyên, cho đến khất thực cũng hướng
đến kẻ giàu có để khất thực. Có ư
nghĩa ǵ? Ngài nói: “Họ giàu có, rất khó đạt
được! Nếu họ chẳng vun bồi phước
lần nữa, chẳng gieo phước điền lần nữa, sẽ đánh mất
phước điền. Trong khi họ sống
thoải mái, tâm hoan hỷ; tới ngày nào đó, bị mất đi, sống cuộc đời khốn
khó, họ sẽ chẳng có cách nào sống sót!” Đấy
là ư niệm của ngài Tu Bồ Đề. Do vậy, Ngài ôm
bát khất thực, chuyên t́m đến nhà giàu có để
hóa duyên. Tôn giả Ca Diếp tương phản, chuyên t́m
người nghèo. Các vị thánh giả ấy hoàn toàn chẳng
xuất phát từ chuyện chính ḿnh ăn ngon hay dở, các
Ngài khất thực nhằm vun bồi phước cho chúng
sanh. V́ ngài Ca Diếp nói: “Chúng sanh trong đời hiện tại chịu khổ,
hăy tạo các thứ thiện căn cho họ, để
sau này, họ sẽ chẳng phải chịu khổ nữa!” Nhưng đức Phật
phê b́nh cách làm ấy! Chuyên hóa duyên người giàu có là không
đúng, mà chuyên hóa duyên kẻ nghèo nàn cũng trật luôn! [Phải là] hễ gặp
duyên ǵ, bèn chọn lựa
duyên ấy! Trong khi quư vị tu hành, dụng tâm như thế
nào rất quan trọng! Do vậy, chúng tôi thường nói: “Khi chúng ta phát
tâm, hăy khéo dùng cái tâm”. Phát tâm như thế
nào? Phải phát Bồ Đề tâm. Thuở đầu, khi
tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, có các đạo
hữu, thoạt đầu khi tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo tại Nữu Ước, Hoa Kỳ, vị
đệ tử ghi chép lời tôi giảng là Ngô Bích Đào
đă nêu ra câu hỏi ấy. Chuyên hóa duyên người giàu,
hoặc chuyên hóa duyên kẻ nghèo, tức là có chọn lựa.
Đức Phật dạy chúng ta: “Đừng chọn lựa! Gặp được ai
bèn kết duyên với người ấy”. B́nh đẳng phát
tâm, đấy là phát Bồ Đề tâm.
Bồ
Đề tâm, nói thông thường sẽ rất nhiều,
nhưng nói theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, sẽ
có ba tâm chánh yếu. Ba tâm ấy hợp thành Bồ Đề
tâm, tức là trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Trọn
đủ ba tâm ấy, trong một niệm, khi quư vị muốn
làm chuyện ǵ, phải sử dụng trực tâm, thâm tâm,
và đại bi tâm. Nhưng chẳng phải là tới khi ấy,
quư vị làm chuyện ǵ mới phân tích, ta phải như thế
này th́ mới là trực tâm, như thế nọ th́ mới
là đại bi tâm. Chẳng phải, ở ngay trong một
niệm. Đấy là công phu thường ngày của quư vị,
chẳng phải là đến khi đối diện với
cảnh, [mới vận dụng các tâm ấy]. Hằng ngày
quư vị phải thường nghĩ tới trực tâm,
thâm tâm, đại bi tâm. Lúc dụng công thường nhật, phải nghĩ như
thế, cho tới khi vận dụng, ba tâm chính là một
tâm. Trong ấy có Hiển Giáo và Mật Giáo, cho nên chúng tôi
thường nói tới Mật Giáo. Bất luận điều
ǵ cũng đều chẳng ĺa khỏi ba tâm này, bất
quá danh từ bất đồng [mà thôi]!
Do
đó, Văn Thù Bồ Tát gọi chung [việc vận dụng] những thứ ấy
là “khéo dùng cái tâm”, chỉ nói tổng quát là quư vị
khéo biết sử dụng cái tâm. Nói theo phía chúng ta, nói theo
giáo nghĩa Đại Thừa thông thường, sẽ là
chánh niệm, Chân Như. Phàm là người học theo tông
Hoa Nghiêm, vừa khởi đầu đă tu phép Quán gọi
là Chân Không Tuyệt Tướng Quán, chẳng có hết thảy
các tướng, chẳng phải là các danh từ như tôi
vừa nói trên đây. Nhưng nay chúng tôi đang giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, có phù hợp hay không? Khi
giảng kinh văn, tôi sẽ nói với mọi người.
Trực tâm, chánh niệm, Chân Như: Trực tâm là một tí
cong vạy đều chẳng có. Thiền Tông nói khi nhất
tâm tu Thiền Quán, trực tâm là “chánh niệm, Chân Như”,
chẳng nghĩ ǵ khác, nhiếp niệm tưởng, sẽ
thẳng thừng đạt tới cảnh
giới Như Lai. Nói theo Hiển Giáo th́ là “chánh niệm Chân Như”, c̣n Thiền Tông
nói là “minh tâm kiến tánh”. Minh tâm kiến
tánh chính là chánh niệm Chân Như. Chúng ta niệm A Di Đà
Phật, người niệm Phật niệm A Di Đà Phật,
quư vị dùng tâm ǵ để niệm? Trực tâm, chánh niệm,
Chân Như. A Di Đà Phật là chính ta, ta là A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật là ta. Đấy là trực tâm, chánh niệm,
Chân Như. Thâm tâm niệm A Di Đà Phật, tức là tiến
hơn bước nữa. “Phật chính là tâm, tâm chính là Phật.
Phật chính là tâm ta, tâm ta
chính là Phật”, lư giải kiểu này gọi
là “thâm tâm”. Thâm tâm tức là hết thảy các thiện
pháp ta đă hành đều chẳng có, chỉ là tâm ta biểu
hiện. Bất luận đại thiện hay tiểu thiện,
đều chẳng ĺa khỏi nhất
tâm. Thiện chẳng có lớn, mà cũng không có nhỏ. Bố
thí cho người khác một đồng, bố thí cho
người ta một vạn, hay một ức tiền,
đều b́nh đẳng, chẳng có nhiều, ít, không có lớn,
nhỏ. Đấy mới là thâm tâm. Chẳng phân biệt,
tâm ta là năng thí (người bố thí) và cái tâm của
người nhận bố thí (sở thí) b́nh đẳng,
chẳng có người bố thí và kẻ nhận bố
thí. Đó là hiển lộ sâu hơn! Trực tâm, thâm
tâm, đại bi tâm: “Đại bi tâm” là từ bi trọn
khắp, đem pháp do ta đă tu, pháp do ta đă chứng
đắc bố thí cho hết thảy chúng sanh. Chúng sanh có
thể đạt được hay không? Chỉ tùy thuộc
cái tâm của quư vị. Tâm quư vị bố thí cho chúng sanh,
chúng sanh sẽ có thể được gia tŕ.
Tôi
vừa mới nói “phát Bồ Đề tâm”. Ắt cần phải trọn đủ ba loại tâm ấy, ba tâm
hợp nhất, th́ mới gọi là “phát Bồ Đề
tâm”. Chúng ta thường nói “phát Bồ Đề tâm”,
nói đơn giản th́ là Giác, Bồ Đề (Bodhi) là Giác, tức là cái tâm giác ngộ hiểu rơ. Tâm giác ngộ
hiểu rơ th́ ta và người đều cùng có lợi, cho
đến vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh
tướng, vô thọ giả tướng, ba tâm ấy trọn đủ trong một niệm. Lúc giảng giải
th́ phân tích như thế, nhưng khi quư vị vận dụng,
ba tâm chính là một tâm, ở ngay trong một niệm. Lúc
b́nh thời, quư vị tu quán tưởng, ba tâm chính là nhất
tâm. Khi tôi học tại Tây Tạng, chúng tôi luôn nói theo Mật
Tông. [Trong Mật Tông Tây Tạng], tâm thứ nhất
được gọi là xuất ly tâm, có cùng một ư
nghĩa với trực tâm, chánh niệm, Chân Như. Bất
quá, Mật Tông dạy trước hết quư vị phải
buông xuống hết thảy, phải xuất ly. Đối
với thế gian mà có một chuyện, một vật
vướng mắc, quư vị sẽ không thể xuất ly
được! Tức là cái tâm xuất ly, hết thảy
đều chẳng vướng mắc, chẳng phải
chỉ v́ chính ḿnh, mà c̣n khiến cho hết thảy chúng sanh
đều có thể xuất ly. Do vậy, v́ sao gọi là Mật?
Thâm nghĩa của Mật
là chẳng hạn như nói đến tâm xuất ly, sẽ
khiến cho hết thảy chúng sanh đều xuất ly.
Khi tôi niệm A Di Đà Phật, mong sanh về thế giới
Cực Lạc, sẽ mong cho hết thảy chúng sanh
đang hứng chịu khổ nạn trong thế giới
này và tôi đồng thời sanh về thế giới Cực
Lạc. Người đó niệm một câu A Di Đà Phật,
chẳng phải v́ mong chính ḿnh sanh về thế giới Cực
Lạc, mà là mong tất cả hết thảy những ai
đang chịu khổ, chịu nạn đều cùng với
tôi đồng thời sanh về thế giới Cực Lạc.
Đó là tâm đại bi! Nói theo Mật Tông, tâm thứ nhất
là tâm xuất ly, tâm thứ hai là tâm đại bi. Trong Hiển Giáo th́ nói tâm thứ ba là tâm đại
bi, khác biệt về thứ tự, v́ Mật Giáo thêm vào tâm
Bát Nhă. Tôi được dạy ở Tây Tạng theo kiểu
ấy. Tâm xuất ly, tâm đại bi, chính ḿnh trọn
đủ tâm xuất ly, khiến cho hết thảy chúng
sanh đều có thể xuất ly. Hàm nghĩa của ước
muốn ấy chính là tâm đại bi. Trong khi chính ḿnh vừa
cầu xuất ly, người ấy trọn chẳng
nghĩ chính ḿnh xuất ly là xong! Hễ mong xuất ly, bèn
mong hết thảy chúng sanh và ta đồng thời xuất
ly, khiến cho hết thảy chúng sanh đều xuất
ly. Đó là đại bi thật sự. Chúng ta thường
nói “đại bi trọn chẳng phải là ái kiến, trọn
chẳng phải là cảm t́nh”, mà là pháp giới tâm. Phải
hiểu đạo lư này! Chẳng phải là xử sự
theo cảm t́nh, chẳng phải là xử sự do ḷng yêu mến
si mê. V́ sao? Cái tâm thứ ba là Bát Nhă. Tâm Bát Nhă là trí huệ. Bát
Nhă tức là trí huệ, được dịch thành “trí
huệ”. Người trọn đủ đại trí huệ
sẽ mong mỏi thành tựu hết thảy chúng sanh, mong họ
đạt đến bờ kia.
V́
thế, trọn đủ các loại tâm này, quư vị lại
quán tưởng hết thảy các tướng thế gian.
Quán tưởng tướng thế gian sẽ chuyển biến
thế gian, từ trong tâm của quư vị mà chuyển
biến thế gian. Do vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thấy
các thứ tai nạn trên thế giới này, bèn nghĩ làm cách nào chuyển
biến chúng, khiến cho chúng sanh biết thiện, ác, sau
đó sẽ thâm nhập. Trên đây, tôi vừa nói tới mục
đích, phần kinh văn kế tiếp nói đến biện
pháp, tức là phải dùng biện pháp nào để đạt
đến mục đích ấy. V́ thế, Kiên Tịnh Tín
Bồ Tát lại hướng về đức Phật
thưa bày.
“Nhĩ
thời” (爾時,lúc bấy giờ)
tức là trong khi thế giới này biến loạn, rung
chuyển, bất an, các chúng sanh trông thấy các thứ tai họa,
loạn lạc trong thế gian, tâm thường khiếp sợ,
trong ḷng có cảm giác hoảng hốt, sầu lo bản thân
và hết thảy quyến thuộc của ḿnh ngay cả đối
với cơm áo trong cuộc sống cũng chẳng no ấm, chẳng
có áo cơm duy tŕ thân mạng. Những nhân duyên chướng
ngại của các chúng sanh như thế càng
nhiều hơn. Họ c̣n có thể tin tưởng Phật
pháp ư? Kẻ độn căn trong Phật pháp ít tin
tưởng, tức
là nói nghiệp chướng của họ rất
nặng, chẳng tin Phật. Ngay cả tin mà cũng chẳng
tin, c̣n có thể đắc đạo hay chăng? Kẻ tin
Phật ít ỏi, kẻ làm lành sẽ ít đi, kẻ tu
đạo sẽ ít đi, người đắc đạo
cực ít, thậm chí chẳng có! Đến lúc ấy, trong
tam thừa dần dần sẽ là kẻ có tín tâm thành tựu
cũng rất ít ỏi. Bất luận Tiểu Thừa,
Trung Thừa, hay Đại Thừa, bất luận đối
với pháp nào, đều chẳng thể sanh khởi tín niệm.
Học Thiền Định thế gian, phát khởi các nghiệp
thần thông, tự biết túc mạng, sẽ lần
lượt biến thành chẳng c̣n, căn bản là chẳng
có. Kẻ đắc thần thông, đắc trí huệ,
trong thế gian này đă không có, cho đến người tự
biết quá khứ, đắc Túc Mạng Thông, đều
chẳng có. Đó gọi là thời Mạt Pháp, người
đắc đạo, người tu đạo, tu Thiền
Định, tín tâm kiên định, toàn bộ hết thảy
đều chẳng có. Đấy là hiện tượng
trong thời Mạt Pháp, nay chúng ta đă rất gần [t́nh
trạng đó], tuy vẫn c̣n chưa tới [mức độ
đó]. [Hiện thời], hăy c̣n có nhiều
đạo hữu tin Phật, nhiều người học
Phật ngần ấy. Mạt Pháp một vạn năm,
nay chúng ta mới là một hai ngàn năm, c̣n chưa lún sâu
đến mức độ ấy!
Vào
thời điểm ấy, chẳng biết pháp xuất yếu,
tức là chẳng biết đường lối trọng
yếu để thoát khỏi ba ác đạo. Học Phật
tu hành nhằm thoát khỏi ba ác đạo,
chẳng có ai không biết [điều ấy]. Nếu chẳng
biết th́ tu bằng cách nào? Chẳng biết, sẽ chẳng
tu thành tựu! Người thời ấy (thời Mạt Pháp), căn cơ hết sức
chậm lụt, là hạng độn căn. Nói cách khác, chẳng
có trí huệ. Đối với Phật pháp chẳng tin, hoặc
ít tin tưởng, cho đến chẳng có tăng thượng
duyên. Nói cách khác, chẳng có tăng thượng duyên, chẳng
gặp đồng tham đạo hữu tốt đẹp,
mà cũng chẳng gặp vị thầy nổi tiếng chỉ
dạy, chẳng có tăng thượng duyên!
Không
chỉ chẳng có người đạt được
Nhất Thừa đạo quả, mà cho đến các
đạo quả thuộc ba thừa Tiểu, Trung, Đại,
hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Hiện thời có nghe thấy
ai đắc đạo hay không? Rất ít nghe! Tôi xuất
gia tám mươi năm, tôi gặp người đắc
đạo, cho rằng người đắc đạo
chẳng nhiều! Trong tâm mục của tôi, các vị đại
đức tôi tôn kính đại khái có mười mấy vị; nhưng mười mấy vị ấy cũng chẳng
phải là đắc đạo, cũng chẳng nói cho tôi
biết đời này họ đă chứng đắc quả
A La Hán, cho đến hành Bồ Tát đạo, chứng
đắc đạo quả, chỉ là tôi cho rằng [họ
đắc đạo] mà thôi! Như chúng ta biết đời
Đường có Đạo Tuyên Luật Sư chứng
đắc Tứ Quả A La Hán, có vị trời chứng
minh, dâng cơm cho Ngài. Vị trời ấy nói Ngài đă chứng
đắc Tứ Quả. Nhưng trong thế giới này, vẫn
có các vị đại Bồ Tát mà chúng ta chẳng nhận
biết. Các Ngài thị hiện chẳng khác chúng ta cho mấy.
Trên thực tế, các Ngài khác hẳn chúng ta.
Trong
thời Mạt Pháp, tuy người chứng đạo ít,
nhưng các vị Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa
Tạng, Di Lặc đều ở trong nhân gian, đều
chẳng rời khỏi nhân gian. Chúng ta có nhận biết
hay không? Chuyện đó tùy thuộc phước đức
và trí huệ của mỗi người. Cá nhân quư vị có
phước đức và trí huệ, sẽ gặp gỡ.
Quư vị chẳng có nhân duyên phước đức và trí
huệ, sẽ chẳng nhận biết. V́ ở đây,
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói, mục đích chủ yếu của
Ngài là mong làm cho chúng ta hiểu rơ thiện, ác, hướng
thiện, khử ác. Ngài hướng về đức Phật
thỉnh cầu là v́ lư do này. Đức Phật không nói với
Ngài, mà bảo Ngài thỉnh vấn Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Trong phần sau, chúng tôi sẽ lại nói tiếp
điều này.
Trong lời thưa hỏi của
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, [lư do có] đoạn thưa hỏi
này là do đức Phật thường nói, kinh Phật
thường nhắc đến lúc Mạt Pháp, các hiện
tượng ấy là hiện tượng ǵ? Bất quá,
Kiên Tịnh Tín nhắc lại những lời đức Phật
đă nói để quư vị đừng quên khuấy. Có ư
nghĩa như thế đó. Hiện thời, đă đến
lúc rồi, hăy nên làm như thế nào để khiến cho
những người ấy giác ngộ, có pháp để
nương cậy, có pháp để có thể học? Do đó, trong
phần trước, tôi đă nêu ra Văn Thù Bồ Tát dạy
chúng ta “hăy khéo dùng cái
tâm”. Đấy
là tôi dựa theo giáo nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm. Trong phẩm Tịnh
Hạnh, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đă nói, chúng ta học
pháp th́ phải
biết học! Thế nào là biết học, thế nào là
chẳng biết học? Đạt tới mức độ
như thế nào th́ mới được coi là biết
cách học Phật pháp? Đức Phật
dạy chúng ta “khéo dùng cái tâm”, tức là
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát truyền dạy
chúng ta “hăy khéo dùng cái tâm”. Nhưng đối
với việc dụng tâm, chúng ta không biết dùng. Phải
học theo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trong phẩm Tịnh
Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Trong ấy, có hơn một
trăm loại [hạnh thanh
tịnh], quư vị vận dụng cái tâm của chính ḿnh
như thế nào th́ sẽ là khéo dùng cái tâm. Nhưng nói và làm
rất khó phù hợp. Nếu chúng ta nói và làm, tức ngôn hạnh
phù hợp, cho đến tâm có thể hướng dẫn hạnh,
hạnh có thể khơi mở cái tâm, sẽ càng khó có
hơn nữa!
Điều
thứ nhất, chúng ta phải buông xuống tham, sân, si.
Chúng ta niệm hằng ngày, các đạo hữu chúng ta hằng
ngày đều phải niệm. Chúng ta chưa buông xuống
cái tâm tham được! Bất luận quư vị
tham điều ǵ, có tham luyến, từ bên ngoài sẽ chẳng
dễ thấy. Trước kia, trong một ngôi chùa, có một
vị lăo ḥa thượng tu hành rất tốt đẹp,
nh́n bề ngoài th́ thấy Ngài tu hành hết
sức tốt đẹp; nhưng tâm tham chẳng
bỏ được! Đó là một câu chuyện xưa. Sư tích cóp mấy
chục năm, tất cả tiền ky cóp, thuở ấy
dùng bạc vụn, Sư cho đúc thành một khối
đại nguyên bảo (đĩnh bạc), giắt nơi
thắt lưng, đi ngủ cũng chẳng
ĺa khỏi. Có lần Sư đi tiểu,
hơi vô ư một chút, sợi dây đeo bị đứt
đoạn. V́ sư đeo bạc [lâu ngày] mà không thay dây, sợi
dây thừng buộc lưng bị đứt. Dây vừa
đứt, cả khối bạc nặng chềnh ềnh
rơi tơm vào hố xí mất dạng! Trong chùa miếu thuở
ấy, nhà vệ sinh là một cái lều tranh lớn, chẳng giống như bồn cầu [nho
nhỏ hiện thời]. Bồn cầu [như hiện thời] sẽ chẳng
rơi mất được! Bạc đă rơi vào hầm
cầu, làm cách nào đây? Vị lăo ḥa thượng ấy chẳng
buông xuống được, ky cóp lâu như vậy, chết
theo bạc luôn. Sư c̣n có đạo lực, c̣n có công sức
tu hành nhất định! Đă chết rồi, bèn biến thành con rùa đen, ḅ vào trong hố phân, ôm đĩnh bạc ấy. Ôm lấy
đĩnh bạc đó, sư lại báo mộng cho vị
sư tri khách, bảo: “V́ tôi không buông xuống được,
v́ tham luyến mà đọa lạc. Nay xin thầy hăy giúp
tôi, cứu tôi”. Trong mộng, [vị sư tri khách hỏi]:
“Tôi cứu thầy bằng cách nào?” “Xin thầy thuê người
vét sạch hố phân đó. Vét xong, lấy đĩnh bạc
ấy để trả công, tiền c̣n lại th́ cúng
dường trai tăng, sám hối cho tôi”. Vị thầy
tri khách liền chiếu theo ư ấy để làm cho ông ta.
Làm xong, ông ta được cứu, được giải
thoát, nhưng ông ta c̣n có phần nào
tu hành. Ngoài tham lam ra, công phu khác vẫn rất
tốt đẹp. Nếu chẳng có các công phu khác, sẽ
chẳng thể báo mộng cho vị sư tri khách.
Đấy là một chuyện cũ.
Do
vậy, khi chúng ta dụng công tu hành, quư vị có thể kiểm
nghiệm thân tâm của chính ḿnh có điều ǵ đặc
biệt chuyên chú hay không? Tôi kể câu chuyện ấy là v́ lẽ
nào? Sự chuyên chú của vị sư ấy, toàn bộ
tinh lực đều dùng vào chuyện tích cóp tiền.
Nếu đó chẳng phải là điều chuyên chú nhất,
chẳng phải là chuyên chú nơi một cảnh, sẽ chẳng
có hiện tượng này. Sao chẳng dùng sự chuyên chú một
cảnh ấy vào niệm Phật? Chẳng có thiện
căn ấy. Mọi người chúng ta đối với
sự tu hành, hoặc niệm
Phật của chính ḿnh, hoặc là quư vị chuyên tŕ một
hạnh, hoặc là tụng kinh, tụng kinh Kim Cang, hằng
ngày chẳng gián đoạn, vĩnh viễn như thế.
Đó gọi là “công lực”. Thậm chí quư vị tụng
một bộ kinh A Di Đà, lâm chung sẽ tuyệt đối
được sanh về [Cực Lạc], sợ điều
ǵ? Gián đoạn! Tụng niệm gián đoạn. Người
tu hành chúng ta, nếu mấy chục năm đều
như một ngày, chuyên tŕ một môn đều được!
Tôi đă gặp một người, tôi không nêu tên, cũng
chẳng nói là ai, là người hiện thời. Đối
với Phật, quư vị nói xem ông ta có tin tưởng hay
không? Chẳng tin! Quư vị ông ta chẳng tin ư? Ông ta tŕ chú Đại
Bi. Tôi nghe ông ta niệm chú Đại Bi, niệm đến
mức tôi quáng luôn, chẳng biết ông ta niệm chú Đại
Bi chi nữa! Nhưng ông ta niệm mấy chục năm
đều như thế, sống đến chín mươi mấy
tuổi, vẫn ăn thịt, chẳng ăn chay, nhưng
khi ông ta lâm chung, hết sức tỉnh táo, có lẽ ông ta phải
chín mươi ba tuổi rồi! Ông ta dặn ḍ con ḿnh viết
di chúc: “Cha sắp chết, cha sắp ra đi, cha không ăn
nữa. Các con giúp cha mời các vị sư phụ đến
niệm kinh. Chỉ niệm chú Đại
Bi cho cha, đừng niệm ǵ khác!”
Ngoài tin chú Đại Bi ra, thứ ǵ khác ông ta cũng chẳng
tin! Ông ta có thể biết trước lúc mất, biết
sắp ra đi. Người khác c̣n nói với tôi, khi ông ta mất,
hết sức sáng suốt. Ông ta nói Quán Âm Bồ Tát đến
dẫn dắt ông ta, đến gọi ông ta theo, tiếp dẫn
ông ta đi. Tuy chẳng nói đến thế giới Cực
Lạc, nhưng ông ta niệm chú Đại Bi, Quán Âm Bồ
Tát bèn cứu ông ta. Quán Âm Bồ Tát dẫn ông ta đi.
Chúng
ta là những người rất tin Phật, tôi cũng rất
tin. Đừng quản hết thảy sai lầm khác của ông ta, đừng quan tâm tới!
Ông ta niệm chú Đại Bi vài chục năm như một
ngày; chỉ cần quư vị có pháp môn một hạnh,
đó gọi là “công phu”. Chỉ sợ điều ǵ?
Hôm nay tu pháp này, mai tu pháp kia, hoặc là gián đoạn, sẽ
chẳng có hiệu quả! Trong thời Mạt
Pháp ngũ trược ác thế này, chúng ta phải thâm nhập
một môn, chẳng cần phải nghiên cứu sâu như
thế nào! Quư vị niệm một câu A Di Đà Phật,
cho tới hiện thời, chưa hề gián đoạn
ngày nào, A Di Đà Phật c̣n chẳng thể tiếp dẫn
quư vị ư? Nhưng quư vị phải dựa theo lời
dạy của Đại Thế Chí Bồ Tát, chỉ niệm
suông không được, “ức Phật, niệm Phật,
tất định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm
Phật, nhất định thấy Phật). Quư vị miệng
niệm, trong tâm c̣n phải tưởng. Tâm tưởng th́
gọi là “ức Phật” (憶佛, nhớ Phật).
Miệng niệm Phật, tâm tưởng Phật, Đại Thế Chí
Bồ Tát nói [tu hành như vậy], nhất định có thể
thấy Phật. Đấy là trong hai mươi lăm môn
Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ
Tát nói Ngài đă chứng đắc môn [Niệm Phật] Viên Thông, chính là “ức niệm”. Do trong thời Mạt
Pháp có các hiện tượng ấy, Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát thấy đời ác này vẫn chưa chấm dứt,
một mực tiếp diễn. Ác nghiệp của chúng sanh
ngày càng nặng nề, trong lúc ấy mà Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát đă thấy [như thế], Ngài nói trong tương lai
sẽ như thế nào nữa?
(Kinh)
Ngă kim vị thử vị lai ác thế Tượng Pháp
hướng tận, cập Mạt Pháp trung, hữu vi thiểu
thiện căn giả, thỉnh vấn Như Lai, thiết
hà phương tiện, khai thị hóa đạo, linh sanh
tín tâm, đắc trừ suy năo. Dĩ bỉ chúng sanh tao trị
ác thời, đa chướng ngại cố, thoái kỳ
thiện tâm. Ư thế gian, xuất thế gian nhân quả
pháp trung, sổ khởi nghi hoặc, bất năng kiên tâm
chuyên cầu thiện pháp. Như thị chúng sanh khả mẫn,
khả cứu. Thế Tôn đại từ, Nhất Thiết
Chủng Trí, nguyện hưng phương tiện nhi hiểu
dụ chi, linh ly nghi vơng, trừ chư chướng ngại,
tín đắc tăng trưởng, tùy ư hà thừa, tốc
hoạch bất thoái?
(經)我今爲此未來惡世像法向盡。及末法中有微少善根者。請問如來。設何方便開示化導。令生信心。得除衰惱。以彼衆生遭值惡時。多障礙故。退其善心。於世間出世間因果法中。數起疑惑。不能堅心專求善法。如是衆生可愍可救。世尊大慈。一切種智。願興方便而曉喻之。令離疑網。除諸障礙。信得增長。隨於何乘。速獲不退。
(Kinh:
Con nay v́ những kẻ có chút ít thiện căn trong đời
ác khi Tượng Pháp sắp hết và trong đời Mạt
Pháp, mà thưa hỏi
đức Như Lai lập phương tiện nào để
khai thị, giáo hóa, hướng dẫn, khiến cho họ sanh tín tâm, trừ các suy năo. Do
các chúng sanh ấy gặp phải thời ác, nhiều
chướng ngại, sẽ lui sụt thiện tâm. Đối
với pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian, nhiều
lượt dấy ḷng ngờ vực, chẳng thể kiên
định cái tâm, chuyên cầu thiện pháp. Chúng sanh như
thế đáng thương, đáng cứu. Đức Thế
Tôn đại từ, là đấng Nhất Thiết Chủng
Trí, xin hăy khởi phương tiện dạy bảo, khiến
cho họ ĺa lưới nghi, trừ các
chướng ngại, tăng trưởng tín tâm,
nương theo thừa nào th́ sẽ mau chóng đạt
được bất thoái?)
Con
nay v́ trong đời ác tương lai, Tượng Pháp sắp
tận, thời Tượng Pháp của chúng ta đă hết,
chính là Mạt Pháp. “Cập Mạt Pháp trung hữu vi thiểu
thiện căn giả” (Và trong đời Mạt Pháp có
những người thiện căn ít ỏi): Nay chúng ta
cũng đều có thiện căn, nhưng chúng ta đọc
tụng kinh điển Đại Thừa, tức là thiện
căn rất sâu dày. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh cầu
là do ư nghĩa này. Trong thuở ngũ trược ác thế,
Tượng Pháp đă hết, tiến vào thời đại
Mạt Pháp, hăy c̣n có những kẻ thiện căn ít ỏi,
tức là các đạo hữu có thiện căn, phải
nên dùng phương tiện như thế nào để giáo
hóa, hướng dẫn họ. Ngài mong thỉnh đức
Phật thuyết pháp, cũng là thỉnh Phật hăy nói cho mọi
người, khiến cho họ sanh tín tâm, có thể khiến
cho họ tín tâm kiên định, chẳng có suy bại, ưu năo.
V́ các chúng sanh ấy trong lúc đó, gặp phải
thuở ác thế trong thời Mạt Pháp, chướng ngại
quá nhiều. Do có lắm chướng ngại, dẫu họ
phát khởi thiện tâm, họ không chịu nổi vùi dập,
sẽ lui sụt thiện tâm.
Mỗi
vị đạo hữu chúng ta hăy tự nhớ lại,
chính ḿnh tinh tấn như thế nào, có phải là trong hai
mươi bốn tiếng đồng hồ đều
nghĩ tới sanh tử hay không? Ta chẳng làm như vậy,
nhưng mỗi ngày nói chung, ta phải nghĩ tới mấy
lượt, chẳng phải là hai mươi bốn tiếng đồng hồ đều nghĩ,
nhưng khi ta ngủ, tuyệt đối nghĩ tưởng:
Ngày mai có ḅ dậy nổi hay không, chẳng nhất định!
Nói không chừng, ngủ rồi chết luôn, đối với
sanh mạng th́ chẳng có ai
đảm bảo được! Chỉ nhớ lại
đôi chút, ngày hôm nay ta đă làm những chuyện ǵ, đă
ĺa khỏi Tam Bảo khá xa, hay là nương cậy Tam Bảo
rất gần? Là xa hay gần, chính ḿnh hiểu rất rơ
điều ấy! Ngày hôm nay niệm Phật, lễ Phật,
niệm kinh, hay là mong giúp đỡ hết thảy chúng
sanh, niệm nào cũng đều phát tâm đại từ
bi độ chúng sanh, cái tâm ấy là nhiều, hay là dấy
lên tham, sân, si, v́ tiếng tăm và lợi dưỡng của
chính ḿnh, v́ để thân thể của chính ḿnh khỏe mạnh? Cái tâm nào chiếm phần nhiều?
Do
vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thưa hỏi Như Lai,
trong thuở Mạt Pháp, đối với chúng sanh thiện
căn ít ỏi, phải nhờ vào phương tiện thiện
xảo nào dẫn dụ họ chẳng thoái thất tín tâm,
mà cũng chẳng lui sụt thiện tâm. Để đối
với pháp nhân quả thế gian và xuất thế gian, chẳng
có chút nghi hoặc nào, có loại pháp nào tiêu trừ nghi hoặc
cho họ? V́ họ có nghi hoặc, cho nên chẳng thể kiên
định tín tâm, chuyên cầu thiện pháp. Loại chúng
sanh này đáng thương xót nhất! Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát hướng về đức Phật thỉnh
cầu, tạo nhân duyên phát khởi chủ yếu. Điều ấy
có nghĩa là bọn chúng sanh trong đời Mạt Pháp chúng
ta nghi hoặc, chẳng thể kiên định tín tâm, mà
cũng chẳng thể kiên định cầu thiện
pháp. Do vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thương xót loại
chúng sanh này nhất. V́ thế, Ngài mới hướng về
đức Phật thỉnh cầu. Bản thân chúng tôi cảm
nhận, mỗi vị đạo hữu đều có thể
đối chiếu: Phàm là giảng một bộ kinh nào, nói
một pháp nào, đều nhằm khiến cho chúng ta thực
hiện, chẳng phải là nói suông mà thôi! Nói suông th́ có lợi
ích chi đâu? Nói chúng ta gieo thiện căn, th́ gieo thiện căn
chẳng đáng tin tưởng! Tốt nhất là quư vị
hăy hành, hành rồi th́ mới có thể đạt được.
Người ta nói “một bàn thức ăn này rất ngon
lành”, quư vị chẳng ăn, rốt cuộc biết nó là
ngon hay dở? Quư vị phải ăn! Quư vị rất
đói bụng, lại không chịu ăn, phải nên làm
như thế nào đây? Vẫn là chẳng đạt
được ǵ hết, đói th́ vẫn cứ đói!
Nay
chúng ta thiện căn giảm thiểu. Có thể là có một
số đạo hữu, tôi nghe nói rất nhiều người
rất thỏa măn, cho rằng tín tâm của chính ḿnh rất
đầy đủ. Tôi phê b́nh họ chẳng đủ!
Những lời đức Phật đă nói nhằm dạy
chúng ta phương pháp, chẳng phải là chúng tôi tự
ḿnh tùy tiện định nghĩa. Chính quư vị có thể
dùng Thánh Giáo Lượng, tức là dùng kinh pháp do đức Phật
đă nói để đối chiếu một
phen, xem thử quư vị đă đạt đến vị
trí ấy hay chưa? Chưa đạt tới vị trí ấy,
tức là tín tâm của quư vị chưa đủ. Tin hay
không? Chẳng tin th́ cứ dùng kinh đối chiếu một
phen! Như thế nào th́ mới được coi là có tín
tâm thuộc Tín vị Bồ Tát? Có tiêu chuẩn! Nhận biết
niệm trước khởi ác, bèn ngưng dứt, chẳng để cho niệm sau dấy lên; điều
đó chứng tỏ quư vị đă dự vào Tín vị, là
đệ tử thật sự tin Tam Bảo, tin Phật, tin Pháp, tin
Tăng. Chẳng dự vào Tín vị, vậy th́ quư vị phải
vun bồi tín tâm. Nhưng chuyện này có Thánh Giáo Lượng,
tức là có hết thảy những lời do đức Phật
đă nói để quư vị có thể đối chiếu.
Ngay cả Tín vị mà quư vị c̣n chưa trọn đủ,
có thể thoát khỏi sanh tử ư? Có thể chẳng
luân chuyển trong luân hồi ư? Nói theo kinh Hoa Nghiêm, dự
vào Tín vị Bồ Tát, có thể nhận biết ư niệm của
ta không đúng, biết niệm trước khởi ác, bèn
ngưng dứt chẳng cho niệm sau khởi lên. Nếu
tín tâm của ta trọn đủ, tín đă thành tựu! Tín
đă thành tựu, dự vào Sơ Trụ là cảnh tượng
ǵ vậy? Thần thông quảng đại. Ta có tín tâm hay
không? Thần thông quảng đại tới mức độ
nào? Có thể tới thị hiện
thành Phật trong một trăm thế giới, hóa độ
chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm dạy như thế, chẳng phải
là tôi tùy tiện nói. Đó gọi là “Thập Tín măn tâm”
(đă viên măn các tâm thuộc về địa vị Thập
Tín). Nay chúng ta là “hân nhạo tâm” (tâm ưa thích), đối
với Phật pháp hết sức tin tưởng, hết sức
ưa thích, nhưng chưa thể dự vào Tín vị.
Chúng ta chẳng thể “niệm trước
vừa dấy ác, bèn ngưng dứt nó, không cho niệm
sau khởi lên”. Nếu vị
đạo hữu nào cảm thấy chính ḿnh không có ác niệm,
thuần túy là thiện niệm, một niệm ác tâm chẳng
dấy lên, quư vị đă trọn đủ Tín. Nếu chẳng
có, đối với ai đó chẳng vui thích, quư vị vẫn
nổi cáu. Vậy là không được rồi!
V́
thế, trong duyên thế gian, trong nỗi khổ sanh, lăo, bệnh,
tử, đặc biệt là trong khi bị bệnh, khi bệnh
t́nh nghiêm trọng, khi đau khổ tột bậc, quư vị
đă sớm quên bẵng Phật, chỉ nghĩ trừ bỏ đau đớn.
Quư vị có thể tin tưởng Phật sẽ trừ
tai nạn cho quư vị hay không? Phải có tín tâm ấy, giao hết
thảy cho Phật, Bồ Tát. Quư vị có tín tâm ấy, bệnh
của quư vị chẳng cần phải lo, có hai trường
hợp: Một là thọ mạng đă hết, phải chết.
Chết rồi, quư vị sẽ sanh vào chốn lành, chẳng
đọa vào tam đồ, trọn chẳng đọa
trong ba ác đạo. Nay các đệ tử Phật đang
hiện diện, đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới, chết
đi, tuyệt đối sẽ chẳng đọa vào ba
đạo! Phải tin điều này, chớ nên nghi hoặc,
tín tâm kiên định chẳng nghi, đời đời kiếp
kiếp tiến cao hơn. Nhưng nếu quư vị có thể
phát nguyện sanh về thế giới Cực Lạc,
[nhưng muốn] khi lâm chung, quư vị có thể phát ra cái
nguyện ấy, th́ lúc b́nh thời, quư vị phải huấn
luyện. Phương pháp huấn luyện như thế
nào? Buổi tối, khi quư vị sắp ngủ, khi sắp
ngủ mà vẫn chưa ngủ, quư vị phải phát nguyện.
Điều thứ nhất là quư vị phải đem chuyện
đă làm trong ngày hôm nay, chuyện phù hợp Phật giáo,
tăng trưởng tín tâm, có lợi ích cho chúng sanh, ta nguyện
nó tăng trưởng. Những ǵ hôm nay ta đă làm sai,
trong tâm nghĩ sai, nói lời sai trái, ta hướng về Tam Bảo sám hối, sau đó
mới ngủ. Tối mỗi ngày, quư vị nhất định
phải làm chuyện ấy. Sáng ra, chẳng thể nói chúng
ta làm đều như pháp! Ngay cả Tín vị mà chúng ta vẫn
chưa nhập, vẫn chưa đạt đến Sơ
Trụ, mỗi ngày chớ nên lần khân, hăy sám hối
ngay trong ngày, phát nguyện ngay trong ngày hôm đó, nó sẽ dần
dần tăng trưởng. Quư vị phát nguyện lâu ngày,
tới khi sắp ngủ, tợ hồ mơ hồ phát nguyện.
Tôi thường có chuyện ấy, nhưng chẳng phải
là tỉnh táo cho lắm, đă quên, nhưng lát sau nghĩ tới,
sẽ vội vă phát nguyện, sau đó sẽ chẳng quên
nữa. Quư vị bảo đó là giả, nhưng điều
này thật hơn bất cứ thứ ǵ khác, c̣n thật
hơn cả chuyện ăn cơm, mặc áo, cho đến
khi quư vị mạng chung, sẽ có thể đạt
được lợi ích to lớn. Hy vọng mọi
người đừng quên; đó gọi là “khéo dùng cái
tâm”.
Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát thưa cùng đức Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn! Ngài
là đấng đại từ, đại bi, Ngài là bậc
trọn đủ hết thảy trí huệ, là bậc Nhất
Thiết Trí. Ngài có thể hành phương tiện hay không?
Nói ra một
phương pháp phương tiện thiện xảo, khiến cho mọi
người đạt được
lợi ích. V́ chúng sanh trong thời Mạt Pháp nghi hoặc
quá nhiều, [các mối nghi hoặc được gọi
là] “nghi vơng” (疑網, lưới
nghi), khiến cho [chúng sanh] ĺa nghi vơng. Nói
đơn giản, khi tôi ở núi Ngũ Đài, có rất
nhiều người đến núi hỏi tôi: “Sư phụ
ơi! Con niệm Phật rất nhiều năm, lâm chung
con có thể sanh về thế giới Cực Lạc hay
không?” Tôi nói: “V́ sao quư vị hỏi tôi như vậy?”
Người đó nói: “Con niệm Phật rất nhiều
năm, dường như chẳng có hiệu quả chi hết,
cảm ứng ǵ cũng chẳng có. Vậy th́ khi con sắp
chết, có thể văng sanh hay không?” Tôi đáp: “Chẳng văng
sanh được!” Người đó hỏi: “V́ sao?” Tôi
nói: “Ông hỏi tôi ‘có thể văng
sanh hay không’ là do ông có nghi hoặc.
Sanh về thế giới Cực Lạc chẳng có nghi hoặc.
Nếu vẫn nghi hoặc ‘có thể văng sanh hay
không’, tức là ông chẳng
tin tưởng! Từ nay về sau, ông phải tiêu trừ
ư niệm ấy, ‘sanh là quyết định
sanh!’ Ông có nghi hoặc, sẽ thật sự chẳng đến
[Cực Lạc] được. Căn
bản là ông chẳng hạ quyết tâm! Đối với Phật
pháp mà c̣n hoài nghi th́ làm
sao có thể đạt được ǵ nữa?”
V́
thế, tôi khuyên chư vị đạo hữu: “Bất luận quư vị
học pháp nào, chớ nên hoài nghi!” Hoài nghi là chướng
ngại lớn nhất, luôn hoài nghi chính ḿnh: “Công lực của ta
không đủ, nghiệp chướng của ta rất nặng!” Tôi thường nghe mỗi
vị đạo hữu nói với tôi nghiệp chướng
của người ấy rất nặng, [người ấy]
tin nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng,
chẳng tin Phật tánh của chính ḿnh và Phật tánh của
Phật chẳng hai, chẳng khác. V́ sao chẳng tin? Đó
là biểu hiện nghiệp chướng nặng nề.
Đấy chẳng phải là biểu hiện nghiệp
chướng nặng nề ư? Tôi tin các vị đạo
hữu, nếu trước kia quư vị c̣n có nghi hoặc
ǵ, tôi căn cứ theo lời đức Phật nói, tôi
căn cứ theo lời dạy trong kinh Hoa Nghiêm, tôi
chẳng lừa dối quư vị. Trước hết, quư vị
hăy diệt trừ nghi hoặc. Nghi hoặc là một món
trong mười món phiền năo. Đối với Phật
pháp, quư vị đừng nên sanh nghi hoặc. Giả sử
quư vị có nghi hoặc, học ǵ cũng học chẳng
vào, thứ ǵ cũng chẳng đạt được!
Nghi là chướng ngại, là nghi hoặc, Hoặc (惑, phiền năo) và nghiệp
của quư vị khiến cho quư vị hoài nghi. Quư vị đă nhập Phật môn, hăy tin tưởng lời
đức Phật dạy. Bất luận đức Phật
nói câu nào, trong đầu ta,
chẳng có ǵ là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, chẳng
cần phân biệt điều ấy. Quư vị niệm một
câu A Di Đà Phật là Đại Thừa hay Tiểu Thừa?
Có kinh dạy quư vị Vô Thượng Thừa. Nếu quư vị
niệm nào cũng “A Di Đà Phật là ta, ta là A Di Đà
Phật”, quư vị là Vô Thượng Thừa. Tiểu
hay Đại không phải là do đức Phật dạy
pháp lớn hay nhỏ, mà là do cái tâm của chúng sanh. Đối
với Khổ, tức [Khổ trong] Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nếu
trong lúc quư vị chịu đựng đôi chút khổ sở
v́ tai nạn, ngay trong lúc quư vị đang chịu khổ, ư
niệm đầu tiên của quư vị là “do nỗi khổ
này của ta, nguyện cho chúng sanh đừng phải chịu
loại khổ này”, ư niệm đầu tiên là mong cho chúng
sanh [đừng phải hứng chịu nỗi khổ ấy],
đó chẳng phải là Tiểu Thừa.
Khổ,
Tập, Diệt, Đạo, ai cũng biết phải
không? Đối với Khổ, tuy ở trong nhân gian
cũng khổ, nhưng tâm quư vị chuyển hóa nó, đó
là Đại Thừa. Người căn cơ viên măn thọ
pháp, không pháp nào chẳng viên. Đó là bậc đại
căn khí viên măn, người ấy nghe pháp ǵ cũng đều
là viên. Nếu tâm địa của quư vị rất hạn
hẹp, dẫu là pháp Đại Thừa, quư vị đọc
Hoa Nghiêm vẫn chẳng thể liễu sanh tử, ngay cả
pháp Tiểu Thừa cũng chẳng phải! Pháp không có cái
Thể nhất định. Hết thảy các pháp chẳng
phải là Đại, mà cũng chẳng phải là Tiểu;
[Đại hay Tiểu] là do cái tâm của chúng sanh. Người căn cơ viên măn thọ pháp, không pháp
nào chẳng viên. Quư vị dùng tâm Tiểu Thừa để
thọ pháp, pháp nào cũng là Tiểu Thừa! Đối với
pháp ǵ, quư vị cũng đều hoài nghi, như thế
th́ pháp ǵ quư vị cũng chẳng thể nhập
được. Nhất định là chớ nên hoài nghi, “linh
ly nghi vơng” (khiến ĺa lưới nghi). Nhưng có một
điều phân biệt, hăy tin tưởng lời
Phật, chẳng vướng trong lưới nghi, đừng
tin tưởng ai khác, phải tin tưởng Phật. Thông thường, các đạo
hữu chúng ta học kinh Lăng Nghiêm, do kinh ấy
được năm mươi mấy vị chú giải,
ai nấy chấp vào kiến giải của chính ḿnh, giữa
người học kinh Lăng Nghiêm với nhau [lại vướng vào kiến
giải], chính ḿnh lại khiến cho chính
ḿnh mờ mịt! Tốt nhất là học theo Phật, đừng
để sự nghi hoặc của chính ḿnh gây chướng
ngại. Tín tâm tăng trưởng, đối với bất
luận một thừa nào, quư vị cũng sẽ đạt
được rất nhanh chóng. Đó là [dụng ư] thỉnh
Phật của Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Có hay không một
phương pháp tốt đẹp như thế, khiến cho hết thảy
chúng sanh đều chẳng hoài nghi, khiến cho chướng
ngại trong học Phật, chướng ngại trong học
pháp, chướng ngại trong tu hành của họ đều
bị tiêu trừ, tín tâm vĩnh viễn tăng trưởng,
tu bất cứ một thừa nào cũng đều đạt được địa vị
Bất Thoái rất nhanh chóng.
Đấy
là nguyện lực của Kiên Tịnh Tín Bồ Tát; mấy
câu ấy chính là nguyện lực của Ngài. Ngài mong đức
Phật sẽ nói một phương pháp tốt đẹp
như vậy, khiến cho chúng sanh bất thoái, đạt
được lợi ích. Nhưng đối với chúng
tôi th́ cảm nhận về chỗ này, sẽ là như
thế này: Mỗi khi tôi nói đến, hoặc nh́n vào chỗ
này, [đều nhận
thấy] đấy chính
là cái tâm đại từ đại bi của Bồ Tát. V́
chúng sanh trong đời Mạt
Pháp nghi hoặc đặc biệt nhiều, Bồ Tát mới
thỉnh cầu đức Phật dạy một
phương pháp khiến cho chúng sanh chẳng nghi hoặc.
Phương pháp ấy nhằm tiêu trừ nghiệp chướng
của chúng ta, là phương pháp tốt nhất, xin đức
Phật nói ra. V́ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thấy bọn
chúng sanh chúng ta trong đời Mạt Pháp chuyện ǵ
cũng đều hoài nghi, cũng chẳng phải là họ
[vốn ưa] hoài nghi, mà là những chuyển biến trong
xă hội khiến cho họ hoài nghi. Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát vừa thỉnh cầu như vậy, đức Phật
liền bảo Bồ Tát.
(Kinh)
Phật cáo Kiên Tịnh Tín ngôn: “Thiện tai! Thiện tai!
Khoái vấn tư sự, thậm thích ngă ư. Kim thử chúng
trung, hữu Bồ Tát Ma Ha Tát, danh viết Địa Tạng.
Nhữ ưng dĩ thử sự nhi thỉnh vấn chi, bỉ
đương vị nhữ kiến lập phương
tiện, khai thị, diễn thuyết, thành nhữ sở
nguyện”.
(經)佛告堅淨信言。善哉。善哉。快問斯事。深適我意。今此衆中有菩薩摩訶薩。名曰地藏。汝應以此事而請問之。彼當爲汝建立方便。開示演說。成汝所願。
(Kinh:
Đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín rằng: “Lành thay!
Lành thay! Khéo hỏi chuyện ấy, rất vừa ư ta. Nay
trong đại chúng này, có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát,
tên là Địa Tạng. Ông hăy đem chuyện ấy
thưa hỏi Ngài, Ngài sẽ v́ ông kiến lập
phương tiện, khai thị, diễn thuyết, thành tựu
điều ông mong nguyện”).
“Phật
cáo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát” (đức Phật bảo
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát): Ngài thỉnh cầu, đức
Phật bèn trả lời. Không chỉ trả lời, v́ Bồ
Tát thỉnh cầu hay quá, cho nên đức Phật mới
nói “thiện tai, thiện tai”. “Thiện
tai” (善哉) có nghĩa là “rất
tốt”. Ông hỏi rất đúng, hỏi rất khá, rất
hợp tâm ư của ta, rất vừa ư ta, đáng tán thán! Tán
thán Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hay lắm. Sau khi đă tán thán,
đức Phật phải nên nói. Đức Phật chẳng
nói, tán thán xong, Ngài lại chẳng nói. Chẳng nói, mà giới
thiệu một vị: - Nay trong đại chúng
này có một vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Địa Tạng.
Ông hỏi vấn đề này hết sức hay, hỏi hết
sức đúng lúc, nhưng đối với vấn đề
ấy, ta giới thiệu một vị sẽ nói cho ông.
Trong pháp hội này, có vị đại Bồ Tát tên là Địa
Tạng. Ông đem chuyện này hỏi vị ấy, Ngài sẽ
dạy cho ông một phương pháp phương tiện
thiện xảo lợi ích chúng sanh. Vị ấy sẽ khai
thị diễn thuyết, có thể thỏa măn ư nguyện của
ông.
Đấy
là nói theo Sự. Nếu nói theo Lư, v́ sao đức Phật
chẳng nói, mà lại bảo Địa
Tạng Vương Bồ Tát nói? Quư vị phải xem đến
phần kinh nghĩa tiếp theo th́ mới biết. Bộ
kinh này có tên là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đức Phật
đă chế giới, chẳng cho phép đệ tử của
Ngài bói toán, xủ quẻ, phê bát tự,
nhất loạt chẳng cho phép, đó gọi
là “tà mạng”. Bồ Tát hỏi điều này, đức
Phật biết vào thời Mạt Pháp, nếu biết đoán
mạng, biết phê bát tự, biết
đoán quẻ, sẽ rất dễ giúp đỡ người
khác, nhưng kẻ
khác sẽ dùng chuyện ấy vào tà môn. Đối với
pháp mộc luân Chiêm Sát này, đức Phật biết Địa
Tạng Vương Bồ Tát nhất
định sẽ nói pháp ấy; cho nên đức Phật
nói ngài Kiên Tịnh Tín hỏi rất hay, hỏi rất khéo.
Bồ Tát hành phương tiện để độ chúng
sanh, chẳng giống như đức Phật đă chế
giới th́ Phật chẳng thể nói. Có hàm nghĩa như
thế đó. Hàm nghĩa ấy chẳng phải do đức
Phật nói, mà do tôi suy đoán. V́ sao đức Phật chẳng
nói, mà lại bảo Địa Tạng Vương Bồ
Tát nói? Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng
ta chiêm sát mộc luân, sử dụng pháp [chiêm nghiệm]
tướng mộc luân. Nói cách khác, trong đó phê bát tự,
đoán mạng đều có, trong một trăm tám
mươi chín thứ [luân tướng]
đều có. Khi giảng đến phần kinh văn
tương ứng, tôi sẽ giải thích cho mọi người.
Vị
Bồ Tát ấy có tên là Địa Tạng. Đối với
danh hiệu Địa Tạng, ở đây, trước hết
chúng tôi phải nói ư nghĩa bao hàm trong danh hiệu ấy,
đến khi giảng về kinh văn, sẽ chẳng nói
nữa. Địa là đại địa. Chúng ta hiểu rơ đại địa; nói theo Lư
th́ là cái tâm của chúng ta, tức là nói theo pháp môn tâm địa.
Kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là pháp môn tâm địa. Kinh Đại
Thừa Đại Tập Thập Luân là pháp môn tâm
địa, kinh Địa Tạng là pháp môn tâm địa,
cả ba kinh ấy đều nhất trí. V́ đại
địa bao hàm vô lượng vô biên công đức, các thứ
chúng ta ăn mặc, sử dụng, hết thảy cuộc
sống và sanh mạng của chúng sanh, toàn bộ xuất
phát từ đại địa. Đại địa là
cha mẹ lợi ích, nuôi nấng thân thiết nhất của
chúng sanh. V́ thế, vị Bồ Tát này có danh hiệu là
Địa Tạng. Đại địa chứa đựng
vô lượng, tức là ǵ vậy? Cuộc sống và sanh mạng
của chúng sanh. Đọa địa ngục, th́ địa
ngục này, địa ngục kia, và đại địa
có hàm nghĩa giống nhau. Đồng thời, khi giảng
kinh Địa Tạng, chúng tôi đă có nói: “Chẳng có
địa ngục”. Địa ngục đă là chẳng
có, v́ sao đọa địa ngục? Hễ quư vị phạm
tội, liền có [địa ngục], tin nổi hay không?
Tôi có thể tỷ dụ đơn giản với mọi
người như sau: Nhà tù ở Thổ Thành[2]
có hay không? Bất luận hỏi ai, họ đều nói là
có. Quư vị có ở trong đó hay không? Ai đă từng ở
đó? Đối với quư vị th́ chẳng có! Tôi đă
đến đó, pháp sư Tịnh Diệu đưa tôi
đến đó nói chuyện với tù nhân. Nhà tù ở Thổ
Thành, nhà tù ở Đài Trung, tôi đều đă tới,
nhưng tôi chẳng bị giam vào ngục, chẳng bị
nhốt trong tù, mà là đến thuyết pháp cho họ. Nhân
duyên bất đồng! Tuy [các nhà tù ấy] có, nhưng chẳng liên quan ǵ tới chúng ta, th́ cũng như không có! Chúng ta chẳng làm chuyện
ǵ sai trái, địa ngục là “duy tâm sở hiện”. Khi quư vị phạm
tội, địa ngục tuyệt đối là có. Quư vị
chẳng có chuyện ấy, địa ngục sẽ tuyệt
đối chẳng có! Đệ tử Tam Bảo trọn
chẳng đọa vào địa ngục, là do sức gia tŕ của Tam Bảo; nhưng quư vị
phá hoại Tam Bảo, xâm phạm Tam Bảo, trái nghịch Tam Bảo, sẽ phải
đọa vào đó.
Do
vậy, bộ kinh này do Địa Tạng Vương Bồ
Tát nói, trong kinh Đại Thừa Đại Tập Thập
Luân cũng hỏi pháp như vậy. Khi đó, có một vị
đại Bồ Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát, vị
đại Bồ Tát ấy tên là Hải Huệ Bồ Tát.
Ngài thấy hết thảy lũ lụt, tận hư không
khắp pháp giới đều là lũ lụt. Đồng
thời, sau lũ lụt, hoàn toàn rỗng không. Tất cả
lũ lụt trong đại thiên thế giới đều
chẳng có, hoàn toàn trống không. V́ sao? Hư Không Tạng Bồ
Tát đến. Hư Không Tạng Bồ Tát vừa đến,
do thần thông của Ngài hiển hiện, đại địa
hoàn toàn trống không. Hải Huệ Bồ Tát đến,
toàn thể đại địa là biển, chẳng tổn thương loài người,
chẳng nhấn ch́m mọi người. Điều này được
h́nh dung bằng chuyện Địa Tạng
Bồ Tát đến [núi Khư La Đế Da] th́ các cơi đất
tăng cường hưng thịnh, vật chất sung
túc. Đó là do oai lực của Bồ Tát. Tôi nói kèm thêm như thế
đó!
(Kinh)
Thời Kiên Tịnh Tín Bồ Tát phục bạch Phật
ngôn: “Như Lai Thế Tôn, vô thượng đại trí, hà
ư bất thuyết, năi dục linh bỉ Địa Tạng
Bồ Tát nhi diễn thuyết chi?”
(經)時堅淨信菩薩復白佛言。如來世尊無上大智。何意不說。乃欲令彼地藏菩薩而演說之。
(Kinh:
Lúc đó, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại bạch cùng đức
Phật: “Như Lai Thế Tôn vô thượng đại
trí, do v́ lẽ nào chẳng nói, mà muốn Địa Tạng
Bồ Tát diễn nói?”)
Đức
Phật bảo ngài Kiên Tịnh
Tín hỏi Địa Tạng Bồ Tát, Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát hoài nghi, chẳng vui thích cho lắm! Ngài nói: “Con vốn thỉnh
đức Phật nói. V́ sao đức Phật chẳng
nói, lại bảo con đến hỏi Địa Tạng
Bồ Tát?” Lúc đó, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại bạch
với đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ngài
là bậc vô thượng đại trí, do v́ ư ǵ mà chẳng nói? Do nguyên
nhân nào Ngài chẳng nói cho con? Ngài chẳng nói, mà lại giới thiệu
con đến xin Địa Tạng
Bồ Tát diễn nói, mong Địa Tạng Bồ Tát diễn
nói?” Bồ Tát nẩy sanh nghi hoặc. Chúng ta nghe bộ kinh
này, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là tín tâm kiên cố, là Bồ Tát
Ma Ha Tát, tức bậc đăng địa đại Bồ
Tát. Ngài thay mặt chúng sanh thỉnh
pháp, v́ Ngài có tâm đại bi, biết hết thảy chúng
sanh đều hoài nghi chuyện này, cho nên thay họ thỉnh
pháp từ đức Phật. Đức Phật là bậc
Nhất Thiết Trí, Ngài chẳng tự nói, mà c̣n dạy con
đến hỏi một vị Bồ Tát khác là do ư
nghĩa nào? Tức là đă hoài nghi, lại c̣n hoài nghi thêm nữa!
(Kinh)
Phật cáo Kiên Tịnh Tín: - Nhữ mạc sanh cao hạ
tưởng.
(經)佛告堅淨信。汝莫生高下想。
(Kinh: Đức Phật
bảo Kiên Tịnh Tín: - Ông đừng sanh ư tưởng
cao, thấp).
Đức
Phật liền bảo ngài Kiên Tịnh Tín, “Phật cáo
Kiên Tịnh Tín: - Mạc sanh cao hạ tưởng”,
[nghĩa là] ông chớ nên cho rằng hết thảy các pháp
phải do đức Phật nói. Địa Tạng Bồ
Tát và ta giống hệt như nhau, chẳng có cao hay thấp.
Phật tức là Địa Tạng, Địa Tạng là
Bồ Tát. Bởi lẽ, trong phẩm thứ hai của kinh
Địa Tạng đă có chép: Đức Phật bảo
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Địa Tạng Bồ
Tát đă có thể thành Phật từ lâu, nhưng v́ nguyện
lực, Ngài muốn độ hết sạch chúng sanh rồi
mới chứng Bồ Đề. Mọi người chúng
ta đều biết điều này. Trong hội này, đức
Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: “Có phải ông
cho rằng ta nói mới đúng, c̣n Địa Tạng Bồ
Tát nói sẽ chẳng đúng đó chăng? Sai mất rồi! Địa Tạng Bồ Tát đă ở địa vị
Phật, chớ nên sanh ư tưởng cao, thấp!”
V́
hết thảy chúng sanh chẳng biết sự khác biệt
giữa Phật và Bồ Tát, chúng ta cho rằng Phật là
cao, Bồ Tát phải thấp hơn một bậc. Đấy
là tâm lư phàm phu! Chẳng hạn như chúng ta phải thấy
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát như thế nào? Văn Thù Bồ Tát là thầy của bảy
vị Phật, bảy vị Phật đều được
Ngài dạy bảo, Bồ Tát làm thầy của các Ngài, Bồ
Tát thành Phật đă lâu! Lại c̣n có Quán Thế Âm Bồ
Tát, chúng ta thấy Ngài đứng bên cạnh A Di Đà Phật làm thị giả. Quán Thế Âm Bồ Tát thành Phật
đă lâu! Đừng sanh ư nghĩ cao, thấp, đừng
tưởng Phật là cao, c̣n Bồ Tát là thấp! Đấy
là vọng tưởng phân biệt của lũ phàm phu chúng
ta, ngay cả Kiên Tịnh Tín Bồ Tát cũng phân biệt kiểu
này! [Thật ra], đấy là Ngài thị hiện! Nếu
Ngài [thật sự] có phân biệt kiểu đó, há c̣n gọi
là Kiên Tịnh Tín ư? Ngài đă thành tựu tín tâm kiên định,
làm gương cho phàm phu.
Nếu
như Kiên Tịnh Tín Bồ Tát chẳng hướng về
đức Phật thưa với đức Phật
như vậy, tâm chúng ta [sẽ thắc mắc]: “V́ sao đức
Phật chẳng nói, mà phải t́m một vị Bồ Tát
để nói?” Bởi chúng ta cho
rằng Phật phải cao hơn Bồ
Tát một bậc. V́ chúng ta tu hành phải trải qua các
địa vị Bồ Tát th́ mới có thể thành Phật. Do có ư tưởng
“cao, thấp” ấy, cho nên có ư tưởng chấp trước
cao, thấp. Có đôi khi [các vị Bồ Tát] là “thùy tích”.
Thùy tích (垂跡) là thị hiện
sự tu hành nơi Tích Môn của Ngài; khi Ngài nói Tích Môn th́ là
Bồ Tát, c̣n nơi Bổn Môn th́ đă thành Phật. Do vậy,
trong kinh Địa Tạng có chép Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Địa Tạng:
“Ta hoàn toàn không chỉ luôn hiện thân Phật thuyết pháp trong thế giới
này, ta cũng thị hiện thân Bồ Tát, thị hiện
làm chúng sanh. Trong chín pháp giới
đều thị hiện”.
Do
vậy, mọi người chúng ta phải có tư tưởng
này, như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa hiện thành
một con lợn. Chuyện này ở Ngũ Đài Sơn,
quư vị xem các câu chuyện về Văn Thù Bồ Tát, có
câu chuyện về con lợn. Bồ Tát hóa hiện thành con
lợn ấy. V́ sao biết là Văn Thù Bồ Tát hóa hiện
thành con lợn ấy? Có một vị lăo tu hành, đến
núi triều bái Ngũ Đài Sơn. Khi vị đó sắp
xuống núi, bỗng gặp một cụ già chăn dê. Cụ
già chăn dê đưa cho ông ta một phong thư, nói: “Ông cầm
phong thư này, trên đường th́ giao cho người nọ,
chuyển thư giùm tôi”. Người đó nhận lấy
thư, tiếp nhận sự nhờ cậy của cụ
già. [Cụ già căn dặn]: “Trên đường, ông nhất
định sẽ gặp!” Người ấy hỏi địa
chỉ, [cụ già bảo] “không có địa chỉ, nghe người
ta gọi đúng tên th́ giao cho người ấy”. Sau
đó, đưa cho người ấy phong thư, dặn
ông ta đến nơi đó v.v… Thật ra, Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát thị hiện thành một con lợn.
Đến nơi ấy, người đó cầm phong
thư, nghe chủ nhân của con lợn gọi đúng
tên, người ấy thấy đó là một con lợn. Vị
lăo ḥa thượng ấy nghĩ: “Mặc kệ nó là lợn
hay là người, cứ giao cho nó là được”. Sư
giao thư cho con lợn tên Bột Hà ấy, cũng chẳng
biết là có đọc hay không. Con lợn liền đứng
thẳng lên. Lợn vốn có bốn chân, nó đứng thẳng
trên hai chân sau rồi chết. Con lợn ấy là do Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa thân. Lăo ḥa thượng
[chăn dê] trên núi cũng là Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát hóa thân, [gởi thư] dặn: “Hăy nên trở về”.
Người khác mở thư ra xem, chỉ thấy trong
thư có bốn chữ “hăy nên trở về”. Con lợn
ấy vừa đứng lên liền chết, cho thấy
đấy là thánh cảnh. “Thánh cảnh” là cảnh giới
do thánh nhân thị hiện. Cảnh ǵ, thân phận ǵ Ngài
cũng đều hiện, hóa hiện. Hóa hiện chẳng
phải là chân thật; nếu chân thật th́ là [tác dụng
của] nghiệp.
Do
vậy, đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát: “Ông đừng nên sanh ư tưởng cao hay thấp”, có
nghĩa là các đạo hữu chúng ta chớ nên sanh ư
tưởng cao, thấp. Nay tôi giảng kinh Chiêm Sát Nghiệp
Báo, nhưng các đạo hữu ngồi dưới, không
chừng c̣n giảng hay hơn tôi rất nhiều. Đừng
nên sanh ư tưởng cao, thấp, mà hăy b́nh đẳng.
(Kinh)
Thử thiện nam tử phát tâm dĩ lai, quá vô lượng,
vô biên bất khả tư nghị A-tăng-kỳ kiếp,
cửu dĩ năng độ Tát Bà Nhă hải, công đức
măn túc, đản y bổn nguyện tự tại lực cố,
quyền xảo hiện hóa, ảnh ứng thập phương.
(經)此善男子發心已來。過無量無邊不可思議阿僧祇劫。久已能度薩婆若海。功德滿足。但依本願自在力故。權巧現化。影應十方。
(Kinh: Vị
thiện nam tử này kể từ phát tâm đến nay,
đă trải qua vô lượng, vô biên chẳng thể
nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp, đă có thể vượt
biển Nhất Thiết Trí từ lâu, công đức trọn
đủ, chỉ do nương vào sức bổn nguyện
tự tại, mà quyền xảo hóa hiện, in bóng trong
mười phương).
Đức
Phật liền bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: - Vị thiện nam tử
này, “thiện nam tử” là nói đến ai? Chính là nói
Địa Tạng Bồ Tát. Đức Phật giới
thiệu Địa Tạng Bồ Tát, bảo Kiên Tịnh Tín
Bồ Tát đừng nên sanh ư tưởng cao, thấp. Ông có biết
Địa Tạng Bồ Tát là như thế nào hay không? Vị
thiện nam tử ấy kể từ lúc phát Bồ Đề
tâm cho tới nay, đă trải qua vô lượng vô biên chẳng
thể nghĩ bàn A-tăng-kỳ kiếp. Nói “vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, lại c̣n thêm “chẳng
thể nghĩ bàn”, tức là chẳng có tướng thời
gian, lâu xa lắm! Ngài đă có thể vượt biển
Tát Bà Nhă (Sarvajña) từ lâu, tức
là đă sớm thành Phật. Biển Nhất Thiết Trí,
Tát Bà Nhă dịch thành Nhất Thiết Trí. Biển Nhất
Thiết Trí, công đức trọn đủ. V́ sao Ngài c̣n
chưa thành Phật? Do nương theo sức bổn nguyện,
Ngài tự tại. V́ nguyện lực của Ngài là độ
hết chúng sanh rồi mới chứng Bồ Đề.
Tôi nghĩ các đạo hữu đều nhớ hai câu sau
đây: “Địa ngục bất không, thệ bất
thành Phật” (Địa ngục chẳng trống,
thề chẳng thành Phật). Hai câu nói ấy, tôi giải
thích như thế nào? Mọi người giải thích
như thế nào? Tôi giải thích để mọi người
xem có đúng hay không nhé! Địa ngục vốn là không,
ngài Địa Tạng đă thành Phật từ lâu. Phật,
Bồ Tát thị hiện các loại thân; do vậy, Ngài
đáng nên dùng thân Bồ Tát để độ, bèn thị
hiện làm Bồ Tát. Mọi người thấy hết thảy
các vị Bồ Tát, đều mặc y phục tại gia,
để tóc, đều đeo chuỗi anh lạc, khắp
thân là châu báu, mười phần sang quư. Vị Bồ Tát
nào mà chẳng sang quư vẹn mười? Các thứ báu ấy
đều là chất báu vô giá, sợ rằng chúng ta có mua
cũng chẳng mua nổi, chẳng phải là các thứ
báu trong nhân gian!
V́
sao Địa Tạng Bồ Tát cạo đầu? Trong các
vị Bồ Tát, chỉ có Địa Tạng Bồ Tát hiện
thân tỳ-kheo, điều này tột bậc đặc thù!
Do vậy, đoạn văn này là một chứng cứ rơ
rệt. Ngài nương theo sức bổn nguyện mà hóa hiện,
đừng coi đó là chân thật! Địa Tạng Bồ
Tát từ lúc phát Bồ Đề tâm, hành
Bồ Tát đạo, đă trải qua thời gian chẳng
có cách nào tính toán được. A-tăng-kỳ (Asāṃkhya) là Vô
Ương Số (無央數), tức
là “chẳng
có con số [nào để tính toán nổi]”. Con số
không thể tính toán nổi ấy
lại trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp,
sẽ là thời gian chẳng thể nào tính toán được!
V́ trong sự thị hiện của hết thảy các vị
Bồ Tát, khi thị hiện, mục đích là làm như thế nào để chúng sanh đạt được lợi ích, có thể độ chúng
sanh, coi điều đó là chánh yếu. Do vậy, Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát ở Ngũ Đài Sơn thân ǵ
cũng đều hiện. Như vừa rồi tôi mới
nhắc đến chuyện Ngài hiện làm lợn, đó
chẳng phải là người! Ngài cũng có thể hiện
làm lợn, hiện làm hết thảy
chúng sanh. V́ sao Ngài phải hiện làm lợn? Đương nhiên là
có chú giải cho biết: Như tôi vừa mới nói con lợn
ấy tên là Bột Hà. Chủ nhân Bột Hà đối với
nó đặc biệt, đặc biệt cung kính Bột Hà,
chỗ ăn ở đều quét tước sạch sẽ.
Người chủ đó nuôi rất nhiều lợn, lợn
được nuôi vừa mập lại béo. Muốn giết
con lợn nào, Bột Hà liền đi quanh nó một ṿng, con
lợn ấy liền bước ra, để cho người
ta giết, có thứ tự. Chuyện này chẳng thể
nghĩ bàn! Câu chuyện ấy c̣n rất dài, tôi giới thiệu
giản lược đôi chút!
(Kinh)
Tuy phục phổ du nhất thiết sát độ, thường
khởi công nghiệp, nhi ư ngũ trược ác thế,
hóa ích thiên hậu, diệc y bổn nguyện lực sở
huân tập cố, cập nhân chúng sanh ưng thọ hóa nghiệp
cố dă. Bỉ tùng thập nhất kiếp lai, trang nghiêm
thử thế giới, thành thục chúng sanh. Thị cố,
tại tư hội trung, thân tướng đoan nghiêm, oai
đức thù thắng, duy trừ Như Lai, vô năng quá giả.
Hựu ư thử thế giới, sở hữu hóa nghiệp, duy trừ
Biến Cát, Quán Âm đẳng, chư đại Bồ Tát
giai bất năng cập. Dĩ thị Bồ Tát bổn thệ
nguyện lực, tốc măn chúng sanh nhất thiết sở
cầu, năng diệt chúng sanh nhất thiết trọng tội,
trừ chư chướng ngại, hiện đắc an ổn.
(經)雖復普遊一切剎土常起功業。而於五濁惡世化益偏厚。亦依本願力所熏習故。及因衆生應受化業故也。彼從十一劫來。莊嚴此世界。成熟衆生。是故在斯會中。身相端嚴威德殊勝。唯除如來無能過者。又於此世界所有化業。唯除遍吉。觀世音等。諸大菩薩。皆不能及。以是菩薩本誓願力。速滿衆生一切所求。能滅衆生一切重罪。除諸障礙。現得安隱。
(Kinh: Tuy lại
dạo khắp hết thảy các cơi, thường dấy
lên công nghiệp, nhưng đặc biệt chú trọng
giáo hóa, lợi ích [chúng sanh] trong đời ác ngũ trược,
cũng nương theo sức bổn nguyện huân tập,
và cũng do nghiệp của chúng sanh đáng tiếp nhận
sự giáo hóa, mà từ mười một kiếp đến
nay, Ngài trang nghiêm thế giới này, thành thục chúng sanh.
Do vậy, trong hội này, Ngài thân tướng đoan nghiêm,
oai đức thù thắng, chỉ trừ Như Lai, chẳng
có ai hơn được! Lại nữa, sự nghiệp
giáo hóa của Ngài trong thế giới này, chỉ trừ các
vị như Biến Cát, Quán Âm v.v… chứ các vị đại
Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng. Do sức
bổn thệ nguyện mà vị Bồ Tát ấy có thể
nhanh chóng thỏa măn hết thảy các điều mong cầu
của chúng sanh, có thể diệt hết thảy trọng
tội của chúng sanh, trừ các chướng ngại, khiến
cho họ được an ổn trong hiện tại).
Đức
Phật bảo: Tuy Địa Tạng Bồ Tát thị hiện
trong hết thảy cơi Phật, dạo khắp hết thảy
các cơi nước, “thường khởi
công nghiệp” tức là nói
Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện không ngằn mé,
không xứ sở. Hay nói cách khác, trong đời ác ngũ
trược, Ngài ở trong cơi này, tức thế giới Sa
Bà mà chúng ta đang ở, do duyên hóa độ chúng sanh đặc
biệt sâu nặng. Nhất là do sức bổn
nguyện, sức phát nguyện huân tập của Ngài, bằng
ḷng chịu khổ thay cho chúng sanh, thị hiện giống
như chúng sanh. V́ thế, chúng ta thấy kinh Địa Tạng
nói Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện các thân c̣n nhiều
hơn nhân loại trong thế giới này, vô cùng, vô tận. Ngài tới vô lượng thế giới,
nhưng do nguyện lực của Ngài huân tập, thị
hiện các thứ tướng của các loại chúng sanh,
không nhất định đều là tướng Bồ
Tát như trong hiện tại. Ngài đến địa ngục
liền hiện tướng địa ngục. Ngài cảm
ứng đến mức độ nào? Giống như các
đạo hữu chúng ta, đối với Địa Tạng
Bồ Tát có cảm, hễ cầu bèn có cảm. Tôi kể một
câu chuyện cảm ứng từ sách Địa Tạng Cảm
Ứng Lục.
Một
người thợ mộc đi đường, thấy trong một cái lều gỗ mục nát có một
cây côn, tức là giống như gậy chống. Ông ta nói cây côn này rất lạ, cầm lên nh́n: Đầu cây côn có khắc h́nh tướng,
nh́n chẳng ra h́nh tướng ǵ, đen thùi lùi. Ông ta bèn nhặt
cây gậy đem về, dựng ở đầu giường.
Ông ta xem xét mỗi ngày, cảm t́nh th́ chẳng có cảm t́nh
ǵ, mà tôn kính cũng chẳng tôn kính chi cả! Cũng chẳng
biết là ǵ, chỉ cảm thấy cây mộc côn ấy khác thường, nhân duyên như thế đó. Ông ta do
nghiệp báo bị bệnh ngặt. Bệnh ngặt đại
khái là do ác nghiệp trót tạo đă chín muồi, bị
bắt xuống địa ngục. Đă xuống địa ngục, ông ta thấy một vị
xuất gia, tức ḥa thượng đến đó. Diêm vương gia vừa thấy vị ḥa thượng
đó đến, liền xuống khỏi ngai vàng, đảnh
lễ vị ḥa thượng ấy. Ông ta thấy vị
ḥa thượng ấy dường như rất quen thuộc,
nhưng lại không nhận biết, chẳng hiểu rơ là chuyện như thế nào? Lại thấy vị
ḥa thượng đó nói với vua Diêm La mấy câu, ḥa
thượng rời đi. Diêm vương gia liền bảo
ông ta: “Do Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo
ta, ông là hộ pháp của Ngài, ta thả ông trở về.
Sau này, ông hăy gắng tu hành”. Người ấy giống
như nằm mộng. Cho đến khi b́nh phục, ông ta
nói: “Dường như tôi chưa hề tiếp xúc vị
ḥa thượng đó, v́ sao Ngài lại cứu tôi?” Bỗng nhiên, ông ta nh́n thấy trên đầu cây gậy ấy có h́nh tướng của vị ḥa
thượng đó. Ái chà! Giống hệt như vầy!
Lúc đó, ông ta không coi là cây gậy nữa, liền đem thờ phụng. Do ông ta có nhân duyên với
Địa Tạng Vương Bồ Tát như vậy,
Địa Tạng Vương Bồ Tát cứu ông ta. Chúng
ta ngẫm xem, các đạo hữu chúng ta đọc Địa
Tạng Tam Kinh, Địa Tạng Bồ Tát có cứu chúng
ta hay không? Trong khi quư vị niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát, hành theo, quư vị vĩnh viễn
nghĩ tới Ngài, sẽ vĩnh viễn chẳng đọa
vào tam ác đạo.
Tập 3
Có
vị đạo hữu hỏi: “Đức Phật từng
chế giới, đệ tử Phật không được
tập luyện những chuyện bói toán v.v… Cho nên thỉnh
Địa Tạng Bồ Tát tuyên nói. Đức Phật cũng chế giới đệ tử không
được phô bày thần thông với người khác.
Chỉ có kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này, vừa mở
đầu, đức Phật dùng sức thần thông, phô
bày một đạo tràng rộng răi, trang nghiêm, thanh tịnh,
vô ngại. Trong ấy ắt có thâm nghĩa, kính mong lăo pháp
sư từ bi khai thị”.
Trong
Địa Tạng Vương Bồ Tát Tam Kinh, toàn bộ
đều là hiển lộ thần thông. Mọi người
biết khi đức Phật nói kinh Địa Tạng, chẳng
phải ở trong nhân gian, mà là tại Đao Lợi Thiên.
Hơn nữa, khi đức Phật nói kinh Địa Tạng,
không có Thanh Văn, không có La Hán, toàn là đại Bồ Tát.
Từ phẩm thứ nhất là Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát cho đến phẩm thứ mười ba là Hư Không
Tạng Bồ Tát; đấy là kinh Địa Tạng. Kinh
ấy toàn là Bồ Tát, chẳng có A La Hán. Đức Phật
chế giới là pháp Thanh Văn. Tôi nghĩ mọi người
đă đều cùng thọ tam đàn đại giới,
cùng thọ một lúc, Bồ Tát Giới dạy chúng ta
điều ǵ? Bồ Tát Giới nhằm
trị tâm, nhưng chúng ta ở Đông Độ, ở
trong quốc độ này, tam đàn đại giới cùng thọ một
lúc. Trong tất cả tứ chúng đệ tử chúng ta,
có rất nhiều vị đă thọ Bồ Tát Giới,
nhưng hằng ngày đều phạm. Chúng ta có tŕ
được Bồ Tát Giới hay không? Đó là tâm, tâm giới! Chỉ cần quư vị vừa khởi tâm động
niệm là đă phạm giới. Chúng ta lại c̣n thọ
đều là mười giới trọng, bốn
mươi tám giới khinh, tức là giới do Báo Thân Phật
nói với Hóa Thân Phật, nói trong Thật Báo Trang Nghiêm Độ.
Tỳ Lô Giá Na Phật nói với trăm ngàn vị Thích Ca Phật.
Trăm ngàn ức vị Thích Ca lại nói Bồ Tát Giới
cho trăm ngàn vị Thích Ca Phật, trăm ngàn ức vị
Thích Ca Phật hạ sanh trong nhân gian đều ở trong
các quốc độ nói Bồ Tát Giới. Chư vị
đạo hữu lư giải điều này như thế
nào? V́ thế, đức Phật chế giới “chẳng cho phép các
đệ tử Phật dùng thần thông hiển lộ cho
người khác”, đó là giáo
nghĩa Tiểu Thừa. Giáo nghĩa Đại Thừa th́
toàn là Bồ Tát. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở
Ngũ Đài Sơn thường hiện thần thông. Cho
nên phải nên dùng tâm Bồ Tát để học pháp Bồ
Tát. Đấy là một việc.
Nhưng
do danh tự của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mọi
người thấy giống như bói toán, chẳng phải
vậy! Chờ cho đến khi chúng tôi giảng giải
kinh văn, quư vị sẽ lư giải cặn kẽ. Quư vị
phải lạy Chiêm Sát Sám th́ mới có thể dùng Chiêm Sát
Luân. Lạy Chiêm Sát Sám tức là lạy mười
phương chư Phật, quư vị lạy Chiêm Sát Sám sẽ
đạt được luân tướng thanh tịnh. Mục
đích của việc sử dụng Chiêm Sát Luân là để
đạt được luân tướng thanh tịnh.
Đă đạt được luân tướng thanh tịnh,
quư vị mới có thể tu hai thứ quán đạo nơi
cảnh giới Nhất Thật. Khi quư vị quán Thật
Tướng, quán Thật Tướng của các pháp đều
là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo, nghe danh từ ấy dường
như là h́nh tướng chiêm bốc (占卜, bói toán, xủ quẻ), chẳng phải vậy! Sai mất rồi,
quư vị đă suy nghĩ sai mất rồi. Quư vị nghe
xong kinh Chiêm Sát liền hiểu rơ, phải lạy mười
phương chư Phật, lạy mười phương
hết thảy các vị Bồ Tát, lạy mười
phương tôn pháp, lạy mười phương hết
thảy hiền thánh tăng. Đó gọi là Chiêm Sát Sám Pháp.
Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, chờ cho đến khi quư vị
nghe kinh xong, sẽ hiểu, chẳng phải là tùy tiện,
chẳng phải là xủ quẻ, phê bát tự, hoàn toàn khác
hẳn!
Đối
với danh từ Chiêm Sát, chiêm sát (占察, chiêm nghiệm,
xem xét) ǵ vậy? Nghiệp báo thiện ác. Lại nữa, khi
nói pháp này, trong phần trước, mọi người
cũng đă nghe một đoạn Tự Phần, Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát hướng về đức Phật thỉnh
cầu, Ngài nói trong thời
kỳ Mạt Pháp, tư tưởng [của chúng
sanh] hết sức hỗn loạn, tâm chúng sanh hết sức
loạn, chẳng biết làm như thế nào cho tốt?
Đúng là trong [khi bị vây hăm bởi] nghiệp
chướng, bất luận quư vị tu pháp nào, thành tựu
cũng đều rất ít. Tôi nói lời này, chẳng phải
là tùy tiện nói. Tôi xuất gia đến nay đă tám
mươi năm, chính tai nghe thấy “vị này đă đắc
đạo, vị kia đă chứng quả” th́ trong thế
gian Mạt Pháp này, quả thật chẳng có! Đừng
nói là trong thời kỳ hiện tại, ngay trong thời Ngẫu
Ích đại sư, tức là cuối đời Minh, mấy
trăm năm trước, Ngài muốn thọ giới tỳ-kheo.
Ngài quan sát Nam Diêm Phù Đề (thế giới này của
chúng ta), muốn thỉnh năm vị tỳ-kheo thanh tịnh
để thọ giới tỳ-kheo, chẳng làm được,
tuyệt đối chẳng có. V́ thế, Ngài t́m kiếm
trong Đại Tạng Kinh cách nào để có thể đạt
được giới thanh tịnh, cho nên mới t́m thấy
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Ngẫu Ích đại
sư nghiên cứu, học vấn hết sức nghiêm cẩn,
lẽ nào Ngài đề xướng bói toán, phê bát tự
ư? Chẳng thể nào! Lại nữa, mấy trăm
năm sau Ngẫu Ích đại sư, không có ai đề
xướng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Pháp sư
Hoằng Nhất kế thừa Ngẫu Ích đại
sư, hoằng dương kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, v́ Ngẫu Ích đại sư chẳng thể chế ra Chiêm Sát Luân. Ngài không có tài khéo ấy, bèn dùng giấy viết thành
các lá thăm để bắt thăm, khác với pháp sư
Hoằng Nhất. Pháp sư Hoằng Nhất học nghệ
thuật. Do vậy, Ngài làm một bộ Chiêm Sát Luân gồm
mười chín thứ nghiệp báo. Mười chín thứ
ấy bao gồm căn bản vô minh. Hàng Nhị Thừa có
biết đoạn vô minh hay chăng? Chẳng biết!
Không chỉ chẳng phải là pháp Tiểu Thừa, mà
cũng chẳng phải là pháp Đại Thừa b́nh phàm!
Như vậy th́ mọi người sẽ hiểu rơ v́ sao
nói kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, khiến cho tín tâm của
chúng ta kiên định. Kiên định vẫn chưa
được, c̣n phải là thanh tịnh tín. Thanh tịnh
tín th́ không chỉ đoạn sạch Kiến Tư phiền
năo, mà c̣n là đoạn vô minh. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát là bậc
đại Bồ Tát trong các vị Bồ Tát. Ngài đoạn
dứt vô minh, chẳng phải là Bồ Tát b́nh phàm. V́ thế,
các đạo hữu chúng ta học bộ kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo này, phải coi đây là pháp Bồ Tát để
học. Hơn nữa, [các đại chúng] nghe kinh trong pháp
hội này, chẳng có Thanh Văn, chẳng có A La Hán. Mười
sáu vị đại đệ tử thường tùy của
đức Phật, chẳng hiện diện một vị
nào. Trong [đại chúng nghe pháp của] Địa Tạng
Tam Kinh, không có A La Hán, toàn là đại Bồ Tát. V́ thế,
khi mọi người học, phải sanh khởi cảm
giác thù thắng.
V́
cơi này hoằng dương kinh Địa Tạng, thuở
đầu c̣n có quan niệm sai lầm, nói Địa Tạng
Bồ Tát là giả, chẳng tin tưởng! Nhưng chúng
ta có Cửu Hoa Sơn, Địa Tạng Bồ Tát hiện
thân vào đời Đường, chẳng phải giả!
Đối với tứ
đại danh sơn, đệ tử Phật chúng ta, bất
luận tại gia hay xuất gia, đều tột bậc
tôn kính. Mọi người đều biết, Cửu Hoa
Sơn là nơi Địa Tạng Vương Bồ Tát thị
hiện thánh tích. Trên đỉnh Cửu Hoa Sơn là nơi
Địa Tạng Vương Bồ Tát lễ kinh Hoa
Nghiêm. Tảng đá in hai dấu chân Ngài đứng vẫn
c̣n đó, tôi nghĩ ai đă triều bái Cửu Hoa Sơn
đều trông thấy. Tôi rất may mắn, năm 1931,
khi triều bái Cửu Hoa Sơn, họ mở tháp của Địa
Tạng Bồ Tát trên Cửu Hoa Sơn: [Nhục thân của]
một vị lăo ḥa thượng đă viên tịch hơn một
ngàn năm như vậy, tóc vẫn mọc dài, móng tay vẫn
mọc dài. Cứ sáu mươi năm mở tháp một lần,
cắt một lần. Mỗi lần cắt là sáu
mươi năm, mỗi lần đều đặt tại
đó, không có ai dám động vào, chẳng cho phép ai lấy
đi. Nhưng khi cắt, sẽ đem kéo cắt móng tay và
các dụng cụ chỉnh gọn [râu tóc tai, móng tay, móng chân
đă dùng trong lần trước] lấy ra, đổi
thành một bộ mới để vào đó. Tôi tự ḿnh
thấy như thế đó vào năm 1931. Đợi cho
đến năm 1991, tôi lại đến, chẳng mở
tháp nữa, [chánh quyền Hoa Lục] không cho mở
tháp nữa, phong kín luôn. Đấy đều là sự thật,
đó là hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát.
Trong
kinh này, khi Kiên Tịnh Tín Bồ Tát xin đức Phật chỉ
dạy, đức Phật lại tán thán Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát. Đă tán thán xong, đức Phật nên nói, nhưng Ngài
chẳng nói. Vừa rồi, có một đạo hữu hỏi
tôi “đức Phật chế giới cấm, không cho đệ
tử Phật xem quẻ, bói toán”, vậy th́ đức
Phật lại nói pháp chiên sát sẽ chẳng
hợp cho lắm. Bồ Tát th́ có thể, Bồ Tát có thể
nói, [Do vậy bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát] ông hăy thỉnh
cầu một vị Bồ Tát Ma Ha Tát trong hội này, tức
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Trong hội này,
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi hiện diện,
Văn Thù và Phổ Hiền đều hiện diện. V́
sao đức Phật chỉ định Địa Tạng
Bồ Tát nói? Mọi người phải tham cứu điều
này, tôi không nói rơ cho mọi
người. Mỗi người quư vị phải tự
ḿnh tham cứu do nguyên nhân ǵ, tôi chỉ giải thích đại
lược đôi chút như thế. Hàm nghĩa trong mục
đích giải thích tuyệt đối là thù thắng.
Kinh
này được phiên dịch truyền đến Đông
Độ [bởi ngài Bồ Đề Đăng[3]],
tuy Ngẫu Ích đại sư hoằng dương, Ngài
hoàn toàn chẳng giảng, pháp sư Hoằng Nhất
cũng chẳng giảng. Ngẫu Ích đại sư viết
chú giải cho kinh Chiêm Sát, pháp sư Hoằng Nhất chế
tạo Chiêm Sát Luân. Chiêm Sát Luân Tướng gồm mười
chín luân tướng do pháp sư Hoằng Nhất làm ra. Pháp
sư Hoằng Nhất bảo tôi hăy giảng giải;
thoạt đầu, tôi cũng chẳng giảng. Sau khi
đến Mỹ, tôi và pháp sư Hoằng Giác hai người
chúng tôi đến Mỹ. [Thầy Hoằng Giác nói]: “Thầy
giảng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm, giảng các bộ đại kinh không có ai nghe. Con nghĩ hăy nên giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo”. Nói đến duyên phận th́ rất tốt. Khi quay về,
ở Đài Loan, chúng tôi bắt đầu làm Chiêm Sát luân
tướng. Ở Đài Loan, tôi bắt đầu làm Chiêm
Sát luân tướng cho cư sĩ Vương Thục Phân ở
Phương Quảng, dần dần mới phổ biến
rộng khắp. Tôi cũng chẳng giảng được
mấy lần! Năm 1989, giảng một lần tại Nữu
Ước, năm 1999 giảng một lần tại
Ngũ Đài Sơn. Lần này họ mời tôi đến
đây giảng, năm nay là năm 2009. Đại khái [mỗi
lần giảng] cách nhau mười năm. Cứ mỗi
mười năm giảng một lần, cũng chỉ
giảng ba lượt. Nhân duyên giống như thế,
chính tôi cũng không hiểu. Dẫu sao chẳng có duyên, sẽ
chẳng thể thành. Các pháp do nhân duyên sanh, chẳng có duyên
khởi, nếu quư vị giảng, ai sẽ nghe quư vị
nói? Phật pháp mà không có người thỉnh, sẽ chẳng
thể tùy tiện nói. Tôi muốn giảng, quư vị muốn
giảng điều ǵ th́ có người thỉnh quư vị
hay không? Mọi người hăy ngẫm xem, người ta
thỉnh quư vị nói kinh ǵ đó, đấy gọi là “có duyên”,
quư vị bèn thuận theo, ứng duyên mà! Cũng có khi có
duyên thỉnh, mà chẳng ứng, do cái nhân chẳng chín muồi.
Lần này, tôi ở Ngũ Đài Sơn, năm trước
bị bệnh rất nặng, thân thể vừa đỡ
hơn một chút, tôi đến Thái Nguyên. Đă đến
Thái Nguyên, cảm thấy khỏe hơn đôi chút, tôi nói: “Hăy nên sang Đài Loan
trước!” V́ thế, mới
bắt đầu sang Đài Loan. Tôi do bệnh mà
sang Đài Loan, gặp mấy vị thỉnh cầu tôi giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, tôi cảm thấy rất
thù thắng. V́ chỉ có ở Đài Loan, Chiêm Sát Luân của
chúng tôi mới được
lưu truyền rất nhiều. Hiện thời, tại
Đại Lục cũng rất phổ biến, nhưng
chúng tôi khởi xướng bắt
đầu từ Đài Loan. Tuy đă giảng
tại Nữu Ước, nhưng không làm [luân tướng].
Ở Ngũ Đài Sơn th́ chỉ giới hạn
trong chùa Ngũ Đài Phổ Thọ, chẳng tuyên truyền
ra ngoài. Đây là lần thứ ba, là lần giảng gần
nhất.
Nay
chúng tôi giảng tiếp phần đang nói hôm trước.
“Tuy phục phổ du nhất thiết sát độ,
thường khởi công nghiệp, nhi ư ngũ trược
ác thế, hóa ích thiên hậu, diệc y bổn nguyện lực
sở huân tập cố, cập nhân chúng sanh ưng thọ
hóa nghiệp cố dă” (Tuy lại dạo khắp hết
thảy các cơi, thường dấy lên công nghiệp,
nhưng đặc biệt chú trọng giáo hóa, lợi ích
trong đời ác ngũ trược, cũng nương
theo sức bổn nguyện huân tập, và cũng do nghiệp
của chúng sanh đáng tiếp nhận sự giáo hóa). Trong
đoạn này, đức Phật hướng về Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát tán thán Địa Tạng Vương Bồ
Tát, nói nguyện lực của Địa Tạng
Vương Bồ Tát đặc biệt to lớn. Chúng ta
đều biết Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, “nguyện lực lớn” là hóa
độ hết thảy chúng sanh, chủ yếu là hóa
độ chúng sanh trong địa ngục. “Địa ngục
chẳng trống, thề chẳng thành Phật” chính là
nguyện lực to lớn của Ngài, nêu rơ Địa Tạng
Vương Bồ Tát ở trong hết thảy các quốc
độ, không chỉ trong thế giới Sa Bà này, mà là
trong hết thảy các cơi nước của Phật, Ngài
đều lợi ích chúng sanh. Ngài không có quan niệm quốc
tịch, không có quan niệm địa vực, chẳng phân
biệt đối với chúng sanh. Công trạng của
Ngài, tức công trạng lợi ích chúng sanh, được
gọi là Công. Nghiệp là nói đến Tác Ư của Ngài, v́
Ngài tác ư mà phát khởi hết thảy công đức. Tác ư
mong lợi ích hết thảy chúng sanh, làm hết thảy
các sự nghiệp cứu độ chúng sanh, kiến lập
sự nghiệp cứu độ hết thảy chúng sanh.
Đặc
biệt là trong hiện thời, thế giới này của
chúng ta được gọi là “ngũ trược ác thế”,
mọi người đều biết chuyện này. Mỗi vị đạo hữu đều cảm nhận
hiện thời chúng ta đang ở trong
t́nh huống nào! Thân hứng chịu, hoàn cảnh
quư vị gặp gỡ là t́nh huống ǵ, đó gọi là “huân
tập nghiệp”. Luận Đại Thừa Khởi
Tín nói có hai loại huân tập:
-
Một là thiện huân tập các ác nghiệp của quư vị,
chuyển ác nghiệp thành thiện nghiệp.
-
Loại thứ hai là ác nghiệp huân tập thiện nghiệp,
thiện đều biến thành ác.
Tôi
chẳng cần nói cặn kẽ điều này, mọi
người đều đích thân ở
trong ấy, quư vị cảm nhận, tận mắt thấy,
chính ḿnh nghe thấy. Hiện thời, thế giới này của
chúng ta là thế giới ǵ? Tôi nghĩ quư vị đều
biết, tôi chẳng nói cặn kẽ. Thế giới này
chính là ngũ trược ác thế, chẳng phải là
nơi tốt đẹp. Ở trong thế giới này
độ chúng sanh, nguyện lực lớn nhất, mọi
người đều biết hai vị đại Bồ
Tát đặc biệt nổi bật là Quán Âm và Địa
Tạng. Mọi người triều bái Cửu Hoa Sơn,
triều bái Ngũ Đài Sơn. Bảy mươi năm
trước, hiện tượng tại Cửu Hoa Sơn
khi tôi triều bái, chẳng giống như hiện tượng
hiện thời! Rặng Cửu Hoa Sơn khởi đầu
từ huyện Thanh Nguyên tỉnh An Huy, dọc theo con
đường toàn là người tàn phế măi cho đến
trên núi, cụt tay, khuyết chân, mù mắt, toàn là sáu căn chẳng
vẹn toàn. Khắp cả núi đều là [kẻ tàn phế],
chẳng biết v́ sao có hiện tượng ấy! Khi
đó, tôi chẳng hiểu Phật pháp, mới xuất gia
chưa lâu. Sau đó, lại học Phật pháp, học kinh
Địa Tạng mới biết: Đó chính là tướng
địa ngục. Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát
độ địa ngục chúng sanh, chẳng phải là
độ trong địa ngục, mà là địa ngục
trong nhân gian! Hiện thời, Cửu Hoa Sơn chẳng có
hiện tượng này, đă trừ sạch, chẳng cho
phép có hiện tượng ấy. Nhưng sự thật rốt
ráo là có, trong cơi đời ác ngũ trược này, Địa
Tạng Vương Bồ Tát lần này thị hiện thân này, lần sau thị hiện thân kia, tại Cửu
Hoa Sơn [có thể thấy]
rất rơ rệt, các hóa thân khác của Địa Tạng
Bồ Tát rất nhiều. Các câu chuyện
[về những thân thị hiện của Bồ Tát]
cũng rất ư là nhiều!
Thích
Ca Mâu Ni Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Địa
Tạng Vương Bồ Tát từ mười một kiếp
đến nay, ở trong thế giới này độ chúng
sanh khổ ách, tới trang nghiêm thế giới này, lợi
ích chúng sanh, thành thục chúng sanh. Quư vị chẳng thấy,
Địa Tạng Bồ Tát ở trong hội này, thân
tướng đoan nghiêm, oai đức thù thắng, “duy trừ Như Lai, vô năng quá giả” (chỉ trừ Như Lai, không ai có thể hơn
được), có nghĩa là trừ
có ta (Phật) th́ mới có thể sánh bằng Ngài, mới
có thể hơn Ngài được! Chỉ trừ Như
Lai, hết thảy các vị Bồ Tát khác đều chẳng
có oai đức sâu nặng như Địa Tạng Bồ
Tát. [Nói những điều này để] h́nh dung tán thán
Địa Tạng Bồ Tát từ nhiều kiếp lâu xa tới
nay, trong thế giới này độ chúng sanh chẳng phải
là một, hai ngày, Ngài đă độ suốt mười một
kiếp. Một kiếp là thời gian dài cỡ nào? Kể
từ khi thọ mạng của con người là mười
tuổi, cứ mỗi một trăm năm lại tăng
thêm một tuổi, tăng cho đến khi con người sống
thọ tám vạn bốn ngàn năm. Trải qua tám vạn bốn
ngàn một trăm năm, tức là khi [thọ mạng]
đă đạt đến tám vạn bốn ngàn năm, cứ mỗi một trăm
năm sau lại giảm bớt một tuổi, giảm
cho đến khi thọ mạng của loài người chỉ
là mười năm. Chu kỳ một tăng một giảm
như vậy được tính là một kiếp. Nguyên gốc
trong tiếng Ấn Độ là Kiếp Ba (Kalpa). Kiếp
Ba dịch sang tiếng Hán là Thời Phần (時分). Đó là một
khoảng thời gian trong gịng thời
gian. Khoảng thời gian dài nhất th́ gọi là Kiếp
Ba. Thời gian ngắn nhất gọi là sát-na (kṣaṇa), như một cái nháy mắt
của chúng ta là chín mươi sát-na. Thời gian trong một
cái nháy mắt của chúng ta là chín mươi sát-na, chẳng
thể dùng tinh lực để tính toán số lượng
được. Do vậy, chu kỳ một tăng một
giảm [của thọ mạng con người] được
gọi là một Kiếp. Trải qua mười một kiếp,
Địa Tạng Bồ Tát ở trong thế giới này
hóa độ chúng sanh. Ngài đă trải qua mười một
kiếp, khiến cho chúng sanh trong thế giới này đắc
độ, thành thục các chúng sanh. Do vậy, thân tướng
của Ngài hết sức trang nghiêm, oai đức hết sức
thù thắng, chỉ trừ Như Lai, những người
khác đều chẳng thể sánh bằng.
Lại
nữa, tất cả hóa nghiệp trong thế giới này, “hóa
nghiệp” (化業) chính là sự
nghiệp hóa độ chúng sanh. Trong thế giới Sa Bà
này, không chỉ ngài Địa Tạng, mà c̣n có các vị
đại Bồ Tát khác. “Duy trừ Biến Cát, Quán Âm
đẳng” (Chỉ trừ các vị như Biến Cát,
Quán Âm v.v…). “Đẳng” (等) là c̣n có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, c̣n có các vị
Bồ Tát khác! Biến Cát (遍吉, Samantabhadra, tốt lành trọn khắp) là Phổ Hiền Bồ
Tát. Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, cho
đến các vị đại Bồ Tát khác th́ mới có
thể sánh bằng, ngang hàng với Địa Tạng Bồ
Tát. V́ nguyện lực của chính Ngài, Ngài mong độ hết
thảy chúng sanh đều thành Phật, Ngài có thể thỏa
măn nguyện cầu của hết thảy chúng sanh. Trong thế
giới này, chúng sanh thường xuyên gặp tai nạn, cầu
Bồ Tát tiêu tai miễn nạn. Cầu hai vị Bồ Tát
có hiệu quả tốt nhất, cảm ứng nhanh nhất,
chính là cầu Quán Âm và Địa Tạng. Trong phẩm thứ
mười hai của kinh Địa Tạng, lúc đức
Phật sắp nói xong kinh Địa Tạng, trong phẩm thứ mười
hai, đức Phật đă dặn ḍ Quán Thế
Âm Bồ Tát, đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ
Tát hoằng dương pháp môn Địa Tạng. Mỗi lần
tôi niệm đến phẩm thứ mười hai, tâm tôi
suy nghĩ: “Bản thân Quán
Thế Âm Bồ Tát đă giáo hóa vô lượng vô biên chúng
sanh trong thế giới này, v́ sao đức Phật c̣n
căn dặn Quán Thế Âm Bồ Tát hoằng dương
pháp môn Địa Tạng Bồ Tát?” Đó là v́ khiến cho
chúng sanh trong thế giới này càng thêm tin tưởng công
đức của Địa Tạng Bồ Tát. Tôi chỉ
cảm nhận, tại Mỹ tôi đă
đến một số nơi, có các đạo hữu
xin tôi hồi hướng cho họ, tôi nói: “Tôi chẳng có sức.
Tôi là một gă phàm phu, có sức mạnh ǵ đâu! Tốt nhất
là quư vị niệm Địa Tạng Bồ Tát, niệm
kinh Địa Tạng. Tôi cũng giúp quư vị niệm, tôi
chỉ có thể làm kẻ phụ giúp. Quư vị đừng
mong tôi cầu tiêu tai miễn nạn”. Tôi nói: “Tôi chẳng
làm được! Tai nạn của chính tôi c̣n chưa tiêu,
tôi có thể giúp quư vị tiêu tai miễn nạn ư? Vậy
th́ do quư vị yêu cầu,
tôi làm như thế nào đây? Tôi có thể giới thiệu
cho quư vị, mọi người chúng ta cùng nhau cầu
Địa Tạng Bồ Tát”. Tôi nói: “Bất quá tôi tu lâu
năm hơn quư vị đôi chút, tôi đă học mấy
chục năm rồi, chưa từng gián đoạn”.
V́
thế mà tán dương công đức của Địa Tạng
Bồ Tát. V́ sao đức Phật tán dương công đức
của Địa Tạng Bồ Tát như vậy? Khiến
cho mọi người tin tưởng, mục đích là
như thế đó. Đức Phật tán dương
Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho chúng ta khi gặp
khó khăn, chúng sanh gặp khó khăn rất nhiều, kinh tế,
thói quen trong cuộc sống, bệnh khổ, tai nạn, gặp
phải ma quỷ, ma gây nạn, [gặp phải] các vấn đề
chẳng thể giải quyết, tốt nhất là quư vị
đóng cửa, niệm một vạn câu Địa Tạng
Bồ Tát, sẽ có hiệu quả “dựng sào, thấy
bóng”. Đấy là lời Phật dạy, chẳng phải
là tôi nói bừa với quư vị. Ngài có thể thỏa măn sở
cầu của hết thảy chúng sanh, mau chóng thỏa măn sở
cầu của hết thảy chúng sanh, hiệu quả hết
sức mau chóng. Bọn chúng sanh chúng ta đều có nghiệp;
chẳng có nghiệp, sẽ chẳng sanh trong Sa Bà, Ngài có thể tiêu trừ nghiệp chướng của quư
vị. [Lễ niệm Địa Tạng Bồ Tát] có thể
tiêu trừ trọng tội của quư vị, hiện thời
quư vị sẽ được an ổn. Đấy là hiệu
quả, tức là hiệu quả
của Địa Tạng Bồ Tát.
(Kinh)
Hựu thị Bồ Tát danh vi Thiện An Ủy Thuyết Giả, sở vị xảo
thuyết thâm pháp, năng thiện khai đạo sơ học
phát ư cầu Đại Thừa giả, linh bất khiếp
nhược.
(經)又是菩薩名爲善安慰說者。所謂巧說深法。能善開導初學發意求大乘者。令不怯弱。
(Kinh: Lại nữa, vị Bồ Tát
ấy có tên là Bậc Khéo Nói An Ủi,
tức là Ngài khéo nói pháp sâu, có thể khéo khơi gợi, hướng
dẫn kẻ sơ học phát tâm cầu Đại Thừa,
khiến cho họ chẳng khiếp nhược).
Lại
nữa, đức Phật lại bảo Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát: Địa Tạng Bồ Tát có tên là Thiện An Ủy Thuyết Giả. Tức là trừ danh hiệu
Địa Tạng ra, Ngài c̣n có một
danh tự khác, tức là danh
xưng về phẩm đức, tức đức hiệu,
là Thiện An Ủy Thuyết Giả (善安慰說者, đấng khéo nói an ủi). Thiện An Ủy Thuyết Giả nghĩa là Ngài rất
khéo thuyết pháp, có thể hiển thị thiện xảo
nghĩa sâu trong Phật pháp, khéo nói pháp sâu! V́ sao ở
đây đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát
là Địa Tạng Bồ Tát khéo nói pháp sâu? Nhằm bảo
quư vị: Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chẳng phải
là niềm tin nông cạn, mà là pháp rất sâu. Pháp rất sâu
như thế nào? Chính là nửa bộ sau [nói về] cảnh
giới Nhất Thật và hai thứ quán đạo
Pháp
sư Hoằng Nhất đă bảo tôi, Ngài xếp Địa
Tạng Tam Kinh vào hệ thống Hoa Nghiêm. V́ sao? Trong Địa
Tạng Tam Kinh, chẳng thấy danh tự Thanh Văn, hoặc
danh tự vị La Hán nào, chẳng có! Phàm là pháp do Địa
Tạng Bồ Tát nói ra, chẳng có hàng Nhị Thừa, c̣n Bồ
Tát đều là Đại Thừa Bồ Tát Ma Ha Tát. Ngài có
thể khơi gợi, hướng dẫn hết thảy
những kẻ vừa mới phát tâm, dạy quư vị cầu
Đại Thừa. Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa
chúng sanh đều là cầu pháp Đại Thừa măi cho đến khi thành Phật, nhưng tu pháp Đại
Thừa mà chẳng phát khởi tâm Bồ Đề. V́ sao?
Tu pháp Đại Thừa, quư vị phải lợi ích chúng
sanh. Từ khi quư vị bắt đầu phát tâm tu pháp, bèn lợi ích người khác. Khi quư vị học Địa
Tạng Tam Kinh, Địa Tạng Bồ Tát dạy quư vị,
trước hết là dạy quư vị lợi ích người
khác; sau đó, mới nói đến chính ḿnh. Chẳng hạn
như đối với kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo này, quư vị chiêm sát cho người khác có hiệu quả
hết sức tốt đẹp, chiêm sát cho chính ḿnh th́
không nhất định. Hiệu quả sẽ chậm chạp!
Quư vị hỏi chuyện ǵ, cầu chuyện ǵ cho chính
ḿnh, khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, sẽ có hiệu quả hết sức chậm, một
lần chiêm sát chẳng thành, hai lần chiêm sát chẳng
thành; nhưng cầu cho người khác, chiêm sát bèn thành! Do vậy,
đối với người cầu pháp Đại Thừa,
họ đă tin rồi bèn dũng mănh tinh tấn. V́ sao? V́
khi quư vị dùng cách chiêm sát cho người ấy, tâm chẳng
khiếp nhược. Gặp hết thảy trắc trở,
chẳng hạn như đường đi không thông, quư vị
mong được đi thông suốt, cầu khẩn Địa
Tạng Vương Bồ Tát, như thế th́ sẽ dấy
lên sự biến hóa. Do vậy, khiến cho người
phát đại tâm, người tu hành, cảm thấy tiền
đồ mờ mịt, tâm chẳng định được,
cho nên quư vị mới dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát đôi chút.
Đồng
thời, đối với pháp sâu này, tôi nói với mọi
người nhiều hơn đôi chút. Hết thảy những
người phát Bồ Đề tâm chúng ta, phàm là người
học Địa Tạng Tam Kinh, quư vị nhất định
phải tin tưởng chính ḿnh. Tôi thường hỏi các
đạo hữu có tín tâm hay không? Thường là các đạo
hữu đều lư giải sai lầm. Hễ hỏi họ
có tín tâm hay không? Họ lư giải sai lầm, [tưởng
tín tâm] là “có tin Tam Bảo hay không?” Chẳng phải hàm
nghĩa ấy! “Có tín tâm hay không” tức là nói “quư vị có
tin vào cái tâm của chính ḿnh hay không?” Tôi thường hỏi
các đạo hữu, họ có phát khởi cái tâm hay không? Có
tín tâm hay không? Đạo hữu trả lời: “Có chứ!
Tôi tin Phật, tin Pháp, tin Tăng”, đó chẳng phải là
tín tâm. Có tín tâm hay không, tức là bản thân quư vị có tin
tưởng cái tâm của chính ḿnh hay không? Tin tưởng
cái tâm ta là ǵ? Tâm là Phật, tin tâm là Phật, tin tâm thành Phật,
tâm chính là Phật, Phật chính là tâm. Đó gọi là “thâm
pháp”. Quư vị đối với bất luận kinh
Đại Thừa Đại Tập Thập Luân, cho đến
kinh Địa Tạng, hay kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, Địa Tạng Vương Bồ Tát đều khiến
cho quư vị phát khởi thâm tâm, tin chính ḿnh là Phật. Ba bộ
kinh ấy đều dạy quư vị thông đạt Thật
Tướng. V́ thế, pháp sư Hoằng Nhất bảo
tôi: “[Địa Tạng] Tam Kinh đều
thuộc về hệ thống Hoa Nghiêm”. Khi vận dụng
kinh Hoa Nghiêm khiến cho tạp nhiễm chẳng c̣n, sẽ
chứng đắc Chân Như Pháp Tánh Nhất Chân pháp giới.
Tam kinh của Địa Tạng Bồ Tát đều dạy
quư vị đạt tới mục đích cuối cùng là tiến
nhập Chân Như Pháp Tánh. Nhưng Bồ Tát dùng phương
tiện cực thiện xảo, chẳng hạn như kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo dùng Chiêm Sát Luân để bảo
cho quư vị biết thiện ác nhân quả, nhằm mục
đích khiến cho quư vị đạt tới thâm pháp, ngơ
hầu chính quư vị thành Phật. V́ hễ học kinh
Địa Tạng, quư vị niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát, sợ hăi ǵ cũng đều chẳng
có, chẳng có cảm giác kinh hoảng, chẳng có cảm
giác sợ hăi, mà cũng chẳng hoảng hốt nữa! Đạo
lư ǵ vậy? Địa Tạng Vương Bồ Tát giáo
hóa quỷ. Người sợ quỷ, quư vị niệm kinh Địa Tạng,
quỷ trông thấy quư vị sẽ đảnh lễ! Nhục
nhăn của quư vị chẳng trông thấy, chứ trong khi quư vị niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát, khi quư vị niệm Địa Tạng
Tam Kinh, chung quanh quư vị có bao nhiêu vị thần hộ
pháp. Như Kiên Lao Địa Thần trong kinh Địa Tạng,
đại địa đều thuộc về Kiên Lao
Địa Thần; các pháp khác Kiên Lao Địa Thần[4]
chẳng hộ tŕ. [Đối với pháp môn của]
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, bà ta đều chẳng hộ
tŕ, mà chuyên môn hộ tŕ đức Địa Tạng. Do vậy,
bà ta được gọi là Kiên Lao Địa
(堅牢地, đất cứng
chắc). Nếu mọi người đă niệm kinh
Địa Tạng th́ phẩm thứ mười một là
phẩm Kiên Lao Địa Thần. Bà ta nói khắp cơi đất
đều là con cháu của bà ta: “Hễ chỗ nào có
đại địa, th́ sẽ có con cháu của ta. Con cháu
của ta đều hộ tŕ Địa Tạng Bồ
Tát”. Do vậy, tin sâu thâm pháp, tức tự tâm của
chúng ta là Phật, “tâm này làm Phật”. Bất quá, chúng
ta chẳng có khai quang, chẳng trải qua tu luyện, khai
quang chẳng thành. V́ quư vị chẳng tu, làm sao có thể
khai quang cho nổi? Trải qua tu luyện, vị Phật của
quư vị sẽ phóng quang, cho đến khi quư vị thành tựu
th́ sẽ có thể khai quang!
(Kinh)
Dĩ như thị đẳng nhân duyên, ư thử thế
giới, chúng sanh khát ngưỡng, thọ hóa đắc
độ. Thị cố, ngă kim linh bỉ thuyết chi.
(經)以如是等因緣。於此世界。衆生渴仰受化得度。是故我今令彼說之。
(Kinh:
Do các nhân duyên như thế, trong thế giới này, chúng sanh
khát ngưỡng, được Ngài giáo hóa bèn đắc
độ. V́ thế, nay ta bảo Ngài nói).
V́
vậy, tới cuối cùng, đức Phật bảo Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát: V́ có nhân duyên ấy, có các nhân duyên
như thế đó, trong thế giới này, tức thế
giới Sa Bà, là cơi giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật, tất
cả các chúng sanh đều khát ngưỡng được
Ngài giáo hóa đắc độ. Đức Phật hướng
về Kiên Tịnh Tín Bồ Tát giới thiệu Địa
Tạng Bồ Tát, giới thiệu công đức, trí huệ,
và sức mạnh hóa độ chúng sanh của Địa Tạng
Bồ Tát. V́ vậy, ông hướng về ta thỉnh cầu
thuyết pháp, ta bảo ông hăy đến thỉnh cầu
Ngài. Đó chính là mục đích bảo ông thỉnh cầu
Ngài. Từ đoạn kinh văn này, tôi thưa với mọi
người: Dựa theo lời giới thiệu của
đức Phật, ngàn vạn phần đừng coi kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thành bói toán, đoán quẻ.
Cách nghĩ ấy tuyệt đối sai lầm. Hiện thời,
chẳng ngại nói trước. Quư vị sử dụng
Chiêm Sát mộc luân, điều thứ nhất là thân thể
thanh tịnh, thay quần áo, súc miệng. Sau đó, lễ
bái. Lạy đầu tiên nhất định phải lạy
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát; sau đó, lạy mười phương chư Phật, đều
là mười phương: Mười phương tôn pháp,
mười phương hiền thánh Tăng, mười
phương hết thảy chư tôn Bồ Tát. Sau đó mới
có thể sử dụng [Chiêm Sát] luân. Quư vị sử dụng
luân mà lần đầu tiên, hoặc dùng lần thứ hai,
hoặc dùng từ mười lần trở lên, chẳng
tương ứng; “chẳng tương ứng” là chẳng
đáp đúng vào điều quư vị hỏi. Đó là v́
quư vị không chí tâm. Địa Tạng Vương Bồ
Tát dạy quư vị: “Tâm vẫn chưa chân thành, chẳng hiện
cho quư vị”. Nếu quư vị muốn sử dụng, phải
bế quan ba ngày hoặc năm ngày, hoặc từ bảy
ngày trở lên, sẽ chiêm sát hằng ngày đều linh. Hễ
dùng tới đều linh; quư vị hỏi điều ǵ, [Bồ Tát] sẽ bảo cho quư vị biết
điều đó. Hễ hỏi, bảo quư vị “chuyện
này chẳng nên làm”, quư vị tuyệt đối chẳng
thể làm. [Chiêm Sát Luân dạy] “chuyện này quư vị nên
làm”, quư vị thực hiện, tuyệt đối sẽ
thành tựu, chẳng có khuyết điểm!
(Kinh)
Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát kư giải Phật
ư dĩ, tầm tức khuyến thỉnh Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện tai! Cứu thế chân
sĩ. Thiện tai! Đại trí khai sĩ.
Như ngă sở vấn, ác thế chúng sanh dĩ hà
phương tiện nhi hóa đạo chi, sử ly chư
chướng, đắc kiên cố tín. Như Lai kim giả,
vị dục linh nhữ thuyết thị phương tiện,
nghi đương tri thời, ai mẫn vị thuyết”.
(經)爾時堅淨信菩薩既解佛意已。尋即勸請地藏菩薩摩訶薩言。善哉救世真士。善哉大智開士。如我所問。惡世衆生以何方便而化導之。使離諸障。得堅固信。如來今者爲欲令汝說是方便。宜當知時。哀愍爲說。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă hiểu ư
Phật, lập tức khuyến thỉnh Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Lành thay bậc chân sĩ cứu
thế. Lành thay bậc đại trí khai sĩ.
Như lời tôi hỏi, dùng phương tiện nào để
giáo hóa, hướng dẫn chúng sanh trong đời ác ĺa các chướng, có được niềm
tin kiên cố. Nay Như Lai muốn ông nói phương tiện
ấy, hăy nên biết thời, xót thương nói cho”).
Hiện
thời, đức Phật đă nói với Kiên Tịnh Tín
Bồ Tát như vậy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát liền lư
giải, chẳng hoài nghi nữa. Trước đó, Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát vốn mong thỉnh đức Phật nói cho
Ngài. Đức Phật không chỉ chẳng nói, lại c̣n
giới thiệu cho Ngài một người khác nói, cho nên
hoài nghi, trong ḷng không cam tâm. Đức Phật biết Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát không ưa thích, cho nên mới giới
thiệu công đức của Địa Tạng, khiến
cho Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hiểu rơ.
“Nhĩ
thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát kư giải Phật ư
dĩ” (lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát đă
hiểu ư Phật rồi), do đă hiểu ư Phật, cho nên
Ngài sẽ đến bên ṭa của Địa Tạng Bồ
Tát, khuyến thỉnh Địa Tạng Vương Bồ
Tát nói. “Thiện tai! Cứu thế chân sĩ” (lành thay
bậc chân sĩ cứu đời): Ông là vị
đại sĩ chân chánh cứu độ thế gian.
Đó là tán thán Địa Tạng Bồ Tát. “Thiện
tai, đại trí khai sĩ”: Ông là người
có đại trí huệ, khơi mở, hướng dẫn
hết thảy chúng sanh. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát tán thán
Địa Tạng Bồ Tát. “Như ngă sở vấn”
tức là như vừa rồi tôi đă thỉnh vấn
đức Phật, ông đă nghe thấy, vào lúc đời
ác trong thời Mạt Pháp sau này, đối với các chúng
sanh ấy, phải dùng phương pháp phương tiện
nào để khiến cho họ ĺa khỏi hết thảy
chướng ngại? Mỗi tín chúng, tức là mỗi
đệ tử đức Phật, đều có rất
nhiều chướng ngại, tín tâm của họ chẳng
kiên định, dùng phương pháp nào để khiến
cho tín tâm của họ kiên định?
Ngay
cả tín tâm cũng chẳng kiên định, c̣n có thể
thành tựu nữa chăng? Tôi thảo luận vấn
đề này với mọi người nhiều hơn một
chút. Chúng ta đừng tưởng rằng chính ḿnh đă
vào cửa Tam Bảo đă mười năm, hoặc hai
mươi năm. Hiện thời, đại khái là tôi c̣n
nhiều hơn quư vị đôi chút, tôi đă nhập Phật
môn, xuất gia tám mươi năm, nay tính lại toàn thể
tám mươi năm, tôi cảm thấy chính ḿnh vẫn
chưa nhập môn! Tôi nói vậy, chắc là mọi người
hoài nghi, chuyện nhập môn này chẳng phải là dễ
dăi đâu nhé. Chúng ta có thể nhận biết niệm trước
dấy lên ư niệm chẳng tốt, liền cắt đứt
ư niệm bất hảo tiếp đó. Khi sáu căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư) tiếp xúc sáu trần, trong ấy
chẳng có phân biệt, có làm được hay không? [Hiện
thời, chúng ta đều là sáu căn tiếp xúc sáu trần], sáu thức lập tức phân biệt, tốt,
xấu, yêu, ghét. Yêu ghét rành rành, chẳng thích bèn mong né tránh,
yêu thích bèn mong đạt được. Tôi nghĩ mọi
người đều gần giống như tôi! Đó
đều là tín tâm chẳng kiên định, có thể coi là
đă nhập môn được chăng? Phải nói thật
thà, chẳng nói với người ngoài, tự ḿnh phải
nên nói thật với chính ḿnh. V́ sao chúng ta thành đạo
khó khăn như vậy? Chúng ta đoạn Kiến Tư
Hoặc luôn khó khăn như thế đó, thấy thứ
ǵ bèn phân biệt thứ đó. Hễ tốt th́ mong đạt
được, xấu th́ mong vứt bỏ, vứt th́
cũng chẳng vứt được! Có muốn đạt
được th́ cũng chẳng đạt được!
Tạo nghiệp ở trong đó, quư vị mong vứt bỏ
th́ trong khi vứt bỏ, sẽ tạo rất nhiều
nghiệp. Mọi người có thể cẩn thận ngẫm
lại xem!
Trong
đời ác thời Mạt Pháp, dùng phương tiện
thiện xảo ǵ th́ mới có thể khiến cho họ an
tâm tu hành, chẳng bị chướng ngại, mới có thể
khiến cho họ đạt được tín tâm kiên cố
bất thoái? Tín bất thoái có sức mạnh rất lớn.
Vừa rồi, tôi hướng về đức Phật thỉnh
cầu, đức Phật dạy tôi đến hỏi
ông, khiến cho ông sẽ nói phương tiện ấy. Vậy th́ ông nên biết là phải lúc, nay đúng là
lúc nên nói, ông hăy thương xót chúng sanh mà nói. Khi ấy, Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát hướng về Địa Tạng
Bồ Tát thưa bày. Đó là mở đầu phần nhân
duyên phát khởi tối sơ. Dưới
đây, Địa Tạng Bồ Tát chánh thức nói với
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát.
(Kinh)
Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngữ
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện nam tử!
Đế thính, đương vị nhữ thuyết”.
(經)爾時地藏菩薩摩訶薩語堅淨信菩薩摩訶薩言。善男子諦聽。當爲汝說。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Kiên Tịnh Tín
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Này thiện nam tử! Lắng
nghe! Ta sẽ nói cho ông”).
Địa Tạng Bồ Tát liền bảo:
“Nay ta có thể nói cho ông”. Chấp thuận nói cho Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát. Nhưng ông phải khéo nghe, chăm chú nghe
đúng như lư. Mỗi dịp thuyết pháp, đức Phật
đều bảo các đệ tử phải lắng nghe,
“đế thính” (lắng nghe) có nghĩa là quan sát chắc
thật, tức là quư vị quan sát kỹ càng, đúng lư,
đừng sờ soạng nơi sự tướng. Hàm
nghĩa của chữ “đế thính” rất sâu! Do vậy,
có lần đức Phật thuyết pháp, Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát làm duy-na. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
liền xướng một bài kệ: “Pháp diên long tượng
chúng” (các vị long tượng trong tiệc pháp). Ư nói:
Người nghe pháp, không phải là rồng th́ đều
là voi, tức toàn là bậc đại Bồ Tát. “Pháp diên
long tượng chúng, đương quán Đệ Nhất
Đế”: Các vị đều phải nên quán tưởng
Đệ Nhất Nghĩa Đế. “Đế quán pháp
vương pháp”: Hăy đúng lư, suy xét, quán chiếu, chẳng
dùng ngôn từ, hăy khéo nghe, đúng như lư quán sát
[pháp của đấng Pháp Vương]. “Đế quán
pháp vương pháp, Pháp Vương pháp như thị”
(quán kỹ pháp của Phật, pháp của Phật như thế):
Đức Phật liền bước xuống pháp ṭa.
Đức Phật đă thuyết pháp xong, chẳng nói một
câu nào. Mọi người ngẫm xem: Văn Thù Sư Lợi
xướng bài kệ tán ấy, đức Phật đă
thuyết pháp xong! C̣n có một lần đức Phật
thuyết pháp, cũng chẳng nói ǵ, cầm một đóa
hoa, [kinh thường chép là] “niêm hoa” (拈花), tức là cầm
một đóa hoa, tôn giả Ca Diếp mỉm cười.
Đức Phật buông đóa hoa xuống, bước xuống
pháp ṭa, đă nói xong! Hàm nghĩa trong hai loại sự kiện
ấy, chủ yếu
là“thuyết đế thính, đế thính”. Hàm nghĩa của
“đế thính” là “hăy nghe như lư, đừng nghe
nơi sự tướng”. Như đối
với việc nghe kể chuyện th́ hăy nên nghe [bằng
tâm thái] như thế đó, đừng suy tưởng
nơi sự tướng, hăy quán chiếu nơi Lư, th́ gọi
là “ư hội, tâm chiếu” (ư lănh hội, tâm quán chiếu);
đó là Đế. “Đế thính” th́ mới nói với
quư vị. Quư vị đừng nghe chuyện này rồi coi
như xong, đấy chẳng phải là nói với quư vị!
Do vậy, mỗi buổi thuyết pháp của đức
Phật, đều có rất
nhiều vị chứng quả, rất nhiều vị
thành đạo, chính là v́ họ đă đế thính, tư
duy đúng lư!
(Kinh)
Nhược Phật diệt hậu, ác thế chi trung,
chư hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, ư thế gian, xuất thế gian nhân quả
pháp trung, vị đắc quyết định tín, bất
năng tu học vô thường tưởng, khổ tưởng,
vô ngă tưởng, bất tịnh tưởng, thành tựu
hiện tiền, bất năng cần quán Tứ Thánh Đế
pháp, cập thập nhị nhân duyên pháp, diệc bất cần
quán Chân Như Thật Tế, vô sanh, vô diệt đẳng
pháp. Dĩ bất cần quán như thị pháp cố, bất
năng tất cánh bất tác Thập Ác căn bản quá tội,
ư Tam Bảo công đức chủng chủng cảnh giới,
bất năng chuyên tín, ư tam thừa trung, giai vô định
hướng.
(經)若佛滅後惡世之中。諸有比丘比丘尼優婆塞優婆夷。於世間出世間因果法中未得決定信。不能修學無常想苦想無我想不淨想成就現前。不能勤觀四聖諦法。及十二因緣法。亦不勤觀真如實際。無生無滅等法。以不勤觀如是法故。不能畢竟不作十惡根本過罪。於三寶功德種種境界。不能專信。於三乘中皆無定向。
(Kinh:
Nếu sau khi đức Phật nhập diệt, trong đời
ác có các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
đối với pháp nhân quả thế gian và xuất thế
gian, chưa đạt được niềm tin quyết
định, chẳng thể tu học vô thường
tưởng, khổ tưởng, vô ngă tưởng, bất
tịnh tưởng, thành tựu hiện tiền, chẳng
thể siêng năng quán pháp Tứ Thánh Đế và pháp thập
nhị nhân duyên, cũng chẳng siêng năng quán Chân Như
Thật Tế, các pháp vô sanh, vô diệt v.v… Do chẳng siêng
năng quán các pháp như thế, chẳng thể rốt ráo
không tạo các tội lỗi căn bản thuộc về
Thập Ác, đối với các cảnh giới công đức
của Tam Bảo chẳng thể chuyên tín, đối với
tam thừa đều chẳng có định hướng).
Địa Tạng Bồ Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát: Sau khi đức Phật diệt độ, “Phật”
là nói tới Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là sau khi Thích Ca Mâu
Ni Phật nhập diệt, thế giới này biến thành
đời ác, gọi là “ngũ trược ác thế”.
Mọi người đều biết [ngũ trược
là] Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Năo
Trược, Mạng Trược, và Chúng Sanh Trược.
Toàn là ô trược, mê loạn, chẳng rơ ràng; tới khi
đó, đức Phật đă nhập diệt. Nay đức
Phật nhập diệt đă hơn hai ngàn năm. Lúc đó, đức Phật
sắp nhập diệt, nói xong Địa Tạng Tam Kinh,
Ngài bèn nhập diệt. Ở trong thế gian này, ngay trong
thuở đời ác ngũ trược, muốn tu pháp xuất
thế gian; nói cách khác, chúng ta mong đoạn phiền năo,
mong liễu sanh tử, chứng đắc quả vị xuất thế gian. Chẳng nói chứng
đắc Tứ Quả La Hán, tối thiểu là được
“nhập vị”. “Nhập vị” sẽ có thể đoạn
sanh tử, chưa thể đoạn dứt tám mươi
tám món Sử thuộc Kiến Hoặc. Nhưng chúng ta là những
người học Đại Thừa không chỉ như thế!
Không chỉ là Kiến Tư,
chúng ta c̣n phải đoạn Trần Sa phiền năo. Nhưng
trong thế gian nhằm lúc đời mạt này, ngay cả
Kiến Tư phiền năo c̣n chẳng đoạn được.
Trong lúc này là hiện tượng ǵ? Thế gian lẫn xuất
thế gian, dù là nhân hay là quả, đều chẳng tin tưởng nhân quả. Xă hội
hiện tại đă không tin tưởng nhân quả, c̣n cho rằng làm chuyện
xấu chẳng bị quả báo, làm chuyện tốt
cũng chẳng có quả báo. Họ không tin nhân quả, chẳng
hề có tín tâm, khẳng định là chẳng có tín tâm! Các
vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni đă xuất gia, hoặc tại
gia Tam Bảo đệ tử, tức ưu-bà-tắc và
ưu-bà-di, trong lúc này tín tâm chẳng kiên định. Ở
đây, Địa Tạng Bồ Tát đă nói, nói ngay trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo: Ngài nói khi đó
họ chẳng thể tu hành bốn tịnh pháp, chẳng
thể tu học vô thường, cũng chẳng thể tu
học khổ, chẳng thể tu học
vô ngă, chẳng thể tu bất tịnh. Ngay cả nghĩ
mà c̣n chẳng nghĩ tới, há c̣n có thể
thành tựu được ư? Chẳng thành tựu
được! V́ Khổ, Tập, Diệt, Đạo là pháp Thánh Đế,
bốn loại pháp Thánh Đế chính là khởi đầu,
cho đến pháp mười hai nhân duyên đều là pháp
nhân quả thuộc về thế gian. Trong pháp nhân quả
thế gian, Khổ và Tập là nhân quả thế gian. Khổ
là cái quả thế gian. Tập là cái nhân thế gian. V́ quư vị
triệu tập rất nhiều cái nhân, làm rất nhiều
chuyện xấu, đương nhiên là phải chịu khổ,
hứng chịu khổ quả. Diệt là xuất thế
gian, [cái nhân của] Diệt là Đạo, tu Đạo nhằm thành tựu xuất
thế gian. Trong Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Khổ
và Tập là nhân quả thế gian, Diệt và Đạo là
nhân quả xuất thế gian. Đạo là tu nhân, Tập
là có nhân, ắt sẽ có cái quả thành tựu. Nói thông
thường, đạt tới Tứ Quả A La Hán,
đoạn dứt Kiến Tư phiền năo, th́ Tứ
Thánh Đế sẽ thành tựu. V́ thông thường, khi mọi
người học Phật pháp, sẽ đều học
được [những điều này], chúng tôi không giảng
Tứ Thánh Đế làm chi, chủ yếu là giảng chuyện
thuộc về Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Cũng
“chẳng siêng năng quán Chân Như Thật Tế”,
đấy là xét theo Tứ Thánh Đế Khổ, Tập,
Diệt, Đạo, mười hai nhân duyên. Tu pháp mười
hai nhân duyên, đó là sự tự tu của bậc La Hán. Ở
trong núi tự ngộ, trong lúc chẳng có Phật, vị ấy
sẽ tự ḿnh ngộ được. Nương theo
pháp Tứ Thánh Đế do đức Phật đă dạy
để tu, loại A La Hán ấy gọi là Thanh Văn.
Nương theo pháp mười hai nhân duyên để tu th́ gọi
là Duyên Giác. Trong các thừa, họ là Nhị Thừa, tu pháp
Nhị Thừa. [Trong thời Mạt
Pháp], người tu pháp Nhị Thừa rất ít, người
tu pháp Đại Thừa càng ít hơn. Do chẳng siêng
năng quán Chân Như Thật Tế, đấy là pháp môn
duy tâm. Pháp môn duy tâm, quán tâm, đó chính là “minh tâm kiến
tánh” như chúng ta thường nói. Nương theo Bồ
Tát đạo để hành, theo như kinh Hoa Nghiêm đă dạy,
sau khi đă măn tâm Thập Tín, thuộc vào địa vị
Tam Hiền Bồ Tát, có thể nhận biết Chân Như,
lần lượt chứng nhập và mong cầu,
tương tự chứng đắc Chân Như, chẳng
phải là thật sự chứng đắc. Đă đạt
tới địa vị Sơ Địa Bồ Tát, chứng
đắc một phần Pháp Thân, tiêu diệt hết thảy
vô minh, từ Sơ Địa tiến tới Thập Địa.
Tôi nói những chuyện này đều dựa theo kinh Hoa
Nghiêm, v́ đây là Hoa Nghiêm Đại Thừa. Loại [hành
nhân tu tập] pháp vô sanh vô diệt này chẳng có, ngay cả
người tu Tứ Đế, pháp mười hai nhân duyên
đều rất ít, há c̣n có thể tu pháp Đại Thừa
ư? Có thể siêng năng quán pháp như thế hay
chăng? Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát: “Đều không có”. Tới lúc ấy, tu pháp Tứ
Thánh Đế, tu pháp mười hai nhân duyên, thánh nhân Nhị
Thừa đă chẳng c̣n, cho đến người tu pháp
Bồ Tát càng ít, càng chẳng có! Nếu muốn đoạn
tuyệt Thập Ác Nghiệp, há có thể làm được
ư? Trong lúc ấy, người tạo
tội căn bản thuộc nghiệp Thập Ác khá nhiều.
Đó là hiện tượng trong hiện thời của
chúng ta.
Đối
với công đức của Tam Bảo, và các thứ cảnh
giới, đều chẳng thể chuyên tín, cứ tiến tiến, lùi lùi. Trong lần trước, tôi
đă nói với mọi người về tiêu chuẩn của
tín tâm. Trong khi quư vị tin Tam Bảo, gặp nhân duyên đoạn
mạng, ép cho quư vị chẳng thể tin Tam Bảo, thế mà
quư vị có thể tín tâm kiên định, chẳng nghi, ta
thà tin Tam Bảo mà chết, chẳng muốn không tin Tam Bảo
để được sống. Có thể có nghị lực
kiểu ấy hay không? Có thể nhận biết niệm
trước khởi ác, biết ư niệm trong tâm chẳng
đúng, bèn ngưng dứt ngay, không để cho niệm
sau dấy lên, có tín tâm như thế hay không? Đức Phật
thuyết pháp chẳng phải là mơ hồ, mà đều
là có tiêu chuẩn nhất định. Chính quư vị đoạn
khá nhiều Hoặc, sẽ chứng đắc khá nhiều
địa vị thanh tịnh, chính quư vị hiểu rất rơ rệt.
Quư vị có thể nh́n thấy hết thảy các sắc
đều chẳng phân biệt, chẳng dấy lên ư niệm
hay không? Quư vị có thể đối với thứ tốt
lẫn thứ xấu, chẳng phân biệt là tốt hay xấu
hay không? Phân biệt tốt xấu, chẳng phải là
đồ ngốc; đừng coi người ấy là kẻ
ngốc, kẻ ngốc chẳng thể phân biệt. Ở
trong đó, quư vị chẳng chọn lựa, không sanh cái
tâm phân biệt tốt, xấu, thiện, ác, đồng thời
chẳng cầu an lạc cho chính ḿnh. Không cầu an vui cho
chính ḿnh, c̣n phải làm chuyện tốt để làm ǵ? Chỉ
mong cho chúng sanh hạnh phúc. Điều này rất thông
thường, đấy là bậc Bồ Tát. Trong lúc này mà
nếu có các đạo hữu như vậy, có thể
siêng năng quán Chân Như Thật Tế, tức là pháp môn
quán tâm, quán cái tâm của chính ḿnh. Chân Như Thật Tế
là quán tâm, hết thảy vọng niệm chẳng vướng
mắc, hết thảy các pháp sanh diệt cũng chẳng vướng
mắc. Quán hết thảy
các pháp vô sanh, vô diệt, bất cấu, bất
tịnh. Những điều này mọi người đều
hiểu, đă đều đọc qua khá nhiều kinh
điển Đại Thừa. V́ chẳng thường tu
Quán như vậy, chẳng tu hành như vậy, quư vị lại
chẳng thể không tạo ác nghiệp. Địa Tạng
Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Kẻ
đó chẳng thể rốt ráo không tạo tội lỗi
căn bản thuộc vào Thập Ác, kẻ đó sẽ phạm
tội! Bất thiện th́ là ác, chẳng có chuyện lơ lửng được! Chẳng làm chuyện
tốt th́ sẽ làm chuyện xấu, có thể ngưng trụ
nơi chẳng thiện chẳng ác hay chăng? Chẳng thể
được! Do hoàn cảnh bên ngoài, do sự thật
khách quan, ép cho kẻ ấy chẳng làm ác bèn là hành thiện.
Cũng có một số ít người ở trong khoảng giữa, tức chẳng thiện,
chẳng ác. Đó là ngắn ngủi, tạm thời, ai nấy
đều có nghiệp thiện ác xen tạp. Đối với
công đức và sức mạnh của Phật Pháp Tăng
Tam Bảo, kẻ đó chẳng thể chuyên tâm tin tưởng.
Chẳng thể chuyên ṛng tin tưởng, sẽ tiến tiến,
lùi lùi, lúc th́ tin do phù hợp lợi ích, đạt
được an lạc, đạt được sự b́nh lặng bèn
tin. Rất tin tưởng, nói là do sức gia tŕ của Phật,
Bồ Tát. Hễ bị trắc trở, chẳng tin nữa,
[phàn nàn] Tam Bảo chẳng có chút sức gia tŕ nào! Chẳng
tin nữa, ôm ḷng oán hận!
Không
chỉ hai chúng tại gia, mà hai chúng xuất gia cũng [có
thái độ giống như vậy] rất nhiều. Khi
chánh quyền Đại Lục tiêu diệt Phật pháp, mọi
người biết là từ năm 1950 cho đến
năm 1980, trong suốt ba mươi năm, tự viện
bị phá hủy, chẳng cho phép quư vị làm ḥa thượng,
không cho phép quư vị xuất gia. Hễ xuất gia là phạm
tội. Tin Phật pháp là phạm tội. Trong lúc đó, quư
vị có thể kiên tŕ hay không? Chuyện này tùy thuộc quư
vị có thể chẳng tạo mười ác nghiệp hay
không. Có những người đă hoàn tục th́ chẳng
tính. Có kẻ sau khi hoàn tục th́ làm cán bộ, làm cán bộ sẽ tạo mười ác nghiệp. Diệt
Phật pháp chính là đệ tử của Phật, v́ họ
hiểu rơ nhất, diệt Phật pháp [bằng cách nào] họ
cũng hiểu rơ nhất! V́ thế, đấy đều
là những nghiệp thuộc về Thập Ác chẳng thể
khoan dung được! Đối với công đức
và lợi ích của Tam Bảo, họ c̣n có thể tin tưởng
hay sao? Chẳng tin. Tiểu, Trung, Đại gọi là “ba thừa”.
Trong ba thừa, họ chẳng tin một thừa nào, chẳng
có định hướng! Ngay cả tín tâm mà c̣n không có, há
c̣n có thể tu hành được ư? Do vậy, khi
đó, tôi cảm thấy đối với các thứ cảnh
giới thuộc về công đức Tam Bảo đều
chẳng có! Lúc đó chính là lúc đặc biệt khảo
nghiệm bọn đệ tử Tam Bảo chúng ta. Hàng tại
gia chẳng nói, đặc biệt là đối với tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni, khảo nghiệm ǵ vậy? [Khảo nghiệm
họ có] thật sự nhập đạo, hoặc thật
sự tín ngưỡng [hay không]. Khi nói cho êm tai th́ nói ǵ
cũng được, khi làm bèn khác hẳn, toàn là nhắm
đến lợi ích trong hiện tiền. Trước mắt,
quư vị chẳng tin [Phật pháp], th́ sẽ được
lợi. Chẳng tin vào Tam Bảo, mà tin vào ǵ? Tin vào chủ
thuyết của nhà cầm quyền Hoa Lục, sẽ lập
tức đạt được lợi lộc; c̣n tin vào
Tam Bảo sẽ bị khốn khổ, bị trừng phạt!
Nơi cái ải lợi hại, rất nhiều kẻ đánh mất tín ngưỡng. B́nh thời chẳng có
ǵ quan trọng, chẳng thấy được, nhưng
trong lúc lợi hại, có liên quan đến lợi ích trong
cuộc sống hiện tiền, họ sẽ vứt bỏ tín niệm.
Địa Tạng Vương Bồ Tát nói đến loại
chúng sanh ấy, họ hoàn toàn quên bẵng các loại cảnh giới nơi công
đức của Tam Bảo. Khi đó, quư vị hăy sử
dụng Chiêm Sát Luân. Nếu quư vị chẳng nhận biết
họ, [v́ những biểu hiện bề ngoài] đều
là giả tướng, quư vị có thể chiêm sát họ, sẽ
biết ngay. Địa Tạng Vương sẽ bảo
cho quư vị biết.
(Kinh)
Như thị đẳng nhân, nhược
hữu chủng chủng chư chướng ngại sự,
tăng trưởng ưu lự, hoặc nghi, hoặc hối,
ư nhất thiết xứ, tâm bất minh liệu,
đa cầu, đa năo, chúng sự khiên triền, sở tác
bất định, tư tưởng nhiễu loạn, phế
tu đạo nghiệp.
(經)如是等人若有種種諸障礙事。增長憂慮。或疑或悔。於一切處心不明瞭。多求多惱。衆事牽纏。所作不定。思想擾亂。廢修道業。
(Kinh:
Những người như thế, nếu có các thứ
chuyện gây chướng ngại, tăng trưởng lo sầu,
hoặc ngờ vực, hoặc hối hận, trong hết
thảy các chỗ, tâm chẳng hiểu rơ, nhiều mong cầu,
nhiều khổ năo, các sự trói buộc, việc làm bất
định, tư tưởng nhiễu loạn, bỏ tu
đạo nghiệp).
“Như
thị đẳng nhân” nghĩa là những kẻ như
thế đó, trong tu hành, họ có bị chướng ngại
hay không? Đủ loại chướng ngại sẽ phát
sanh. Trong thời Mạt Pháp, tín tâm chẳng kiên định,
đủ loại chướng ngại nẩy sanh. Đồng
thời, chỉ có ưu bi, tức ưu sầu, bi ai, lo lắng,
ngờ vực. Đối với bất cứ sự vật
ǵ, tâm cũng đều chẳng hiểu rơ, chẳng có trí huệ, nhưng mong cầu hết sức
nhiều mà chẳng đạt được, do nhiều
mong cầu nên lắm khổ năo. Đó gọi là “đạt
đến mức vô cầu th́ quư vị chẳng bị năo
hại”. Chúng ta luôn mong “cầu nhiều, đạt
được nhiều”. Chẳng đạt được
bèn phiền năo, đạt được rồi lại sợ
mất mát, càng phiền năo hơn! Các sự ấy lôi kéo quư
vị. “Sở tác bất định” tức là mong mỏi
làm tốt, nhưng làm chẳng nên hồn, tư tưởng
nhiễu loạn, tâm chẳng định được,
chẳng có chủ ư, chẳng có chủ kiến. C̣n có thể
tu đạo hay chăng? Bỏ tu đạo nghiệp, tín
tâm đều chẳng thành,
c̣n có thể tu đạo nữa chăng? Chẳng thể
tu đạo!
Tôi
nói những lời này, nói đến chuyện này, bản
thân tôi đă đều đích thân trải qua! So với những
chuyện đă trải qua trong ba mươi năm từ
năm 1950 đến 1980, so ra, tôi c̣n bị nhiều hơn
ba năm, v́ tôi ở trong tù ba mươi ba năm. Các đệ
tử Phật ở trong ngục rất nhiều, không chỉ
là bọn ḥa thượng xuất gia chúng tôi. Tỳ-kheo-ni rất
ít, tỳ-kheo-ni chẳng có ǵ, v́ các bà chẳng có lá gan ấy,
cũng chẳng phạm tội, chánh phủ chẳng bó buộc
các tỳ-kheo-ni. Nhưng v́ sao? Tôi tự đánh dấu hỏi
với chính ḿnh. V́ sao? Những điều chúng tôi nói
thường ngày đều là giả, chẳng phải là
người tu đạo thật sự. Người tu
đạo thật sự sẽ có cảm ứng, đó gọi
là tai nạn. Liên tưởng đến chuyện Tam Vũ
Diệt Phật trong lịch sử, v́ sao trong các giai đoạn
trung gian giữa ba cuộc diệt Phật ấy, toàn là
đạo hữu Thiền Tông? Họ chẳng có cách nào,
kinh sách bị thiêu hủy, chùa miếu bị hủy hoại,
quư vị làm như thế nào đây? Vậy là chỉ có
cách tham Thiền, thứ ǵ ta cũng chẳng cần, tu cái
tâm là được rồi. Như thế đó, trong suốt
ba mươi năm. Năm 1981, tôi được trả tự
do, tôi muốn t́m một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm, chẳng có! Có rất nhiều vấn đề thấy
rất b́nh thường, rất rơ rệt, nhưng cho đến
khi sự thật hiện tiền, chẳng có cách nào hết! Chẳng có cách nào, đó là ǵ? Chúng ta thường nói
là nghiệp chướng, do nghiệp đă
tạo bèn gây thành tất cả chướng nạn!
(Kinh)
Hữu như thị đẳng chướng nạn sự
giả, đương dụng mộc luân tướng
pháp, chiêm sát thiện ác túc thế chi nghiệp, hiện tại
khổ, lạc, cát, hung đẳng sự.
(經)有如是等障難事者。當用木輪相法。佔察善惡宿世之業。現在苦樂吉凶等事。
(Kinh:
Có các chuyện chướng nạn như thế, hăy nên
dùng cách mộc luân tướng để chiêm nghiệm, suy
xét nghiệp thiện ác trong đời trước, và các chuyện khổ,
lạc, cát, hung v.v… trong hiện tại).
Có
các chuyện gây chướng nạn như vậy, tức các chuyện gây chướng nạn giống như
tôi đă nói trong phần trước, vậy th́ quư vị
hăy dùng mộc tướng luân. Đáng tiếc là lúc đó luân
tướng đều chẳng có. Quư vị nghĩ xem, quư
vị có dám sử dụng hay không? Đă dùng chẳng
được, mà cũng chẳng có, thứ ǵ cũng
đều chẳng có. Hiện thời th́ có thể dùng. Có
lúc giữa tưởng tượng và sự thật cách biệt
ngàn dặm. Thuở ấy, tôi nghĩ thế này: Làm sao các
ngươi diệt sạch cho được? Các vùng núi
hay biên cương chắc là c̣n có các ngôi chùa nhỏ. Các
ngươi nói chung chẳng thể diệt hết sạch
được. Sự thật hoàn toàn chẳng phải vậy,
chẳng c̣n chi hết. Ai diệt? Chẳng phải chánh phủ,
mà là ḥa thượng, cũng như tỳ-kheo-ni. Trong nhà của
tại gia cư sĩ, căn bản là cũng chẳng thể
cất giấu tượng Phật, mà cũng chẳng thể
giấu kinh sách. Có kẻ tại gia nào c̣n có tượng
Phật hay không? Vẫn phải có, đặc biệt là
tượng Quán Âm Bồ Tát. Đặc biệt là họ chẳng
động đến Cửu Hoa Sơn, Phổ Đà
Sơn cũng chẳng bị động đến. Tứ
đại danh sơn đến nay vẫn c̣n bảo
lưu, chẳng phải là dễ dàng bị diệt sạch! Nhưng rốt cuộc vẫn là
chướng nạn. Có các chuyện chướng ngại
như thế đó, quư vị hăy dùng pháp mộc luân tướng!
Khi đó, tôi thấy điều này, về sau lại giảng
điều này, tôi đă thưa với Địa Tạng
Vương Bồ Tát, tôi nói: “Bạch Địa Tạng
Vương Bồ Tát! Khi đó, con đâu có thể xem kinh
Chiêm Sát, đâu có thể dùng Chiêm Sát Luân, thứ ǵ cũng
đều chẳng có”. Đó gọi là Nghiệp.
Quư
vị mong chiêm nghiệm, xem xét nghiệp báo thiện ác trong
đời trước, hoặc khổ, lạc, cát, hung, nếu
muốn chiêm nghiệm, suy xét các điều ấy, hăy dùng
phép chiêm sát các tướng. Đối với chuyện
chiêm sát này, quư vị phải học cách chiêm sát mộc luân
trước đă. Chiêm Sát mộc luân [chia thành ba tiểu loại]:
1)
Loại thứ nhất gồm mười cái luân. Mỗi cái luân
không lớn, phải viết chữ lên. Viết ǵ vậy?
Thân, khẩu, ư ba nghiệp, chủ yếu là thân, khẩu,
ư. Thân, khẩu, ư th́ thân đă phạm giết, trộm, dâm,
miệng th́ phạm nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều,
nói thô ác, ư niệm th́ phạm tham, sân, si. Mười loại
này gộp chung lại thành Thập Ác Nghiệp. Khi sử dụng
luân tướng, có thể thấy được trong thời
gian bao lâu? Dùng mười luân ấy, có thể thấy vô
lượng kiếp của quư vị. Quư vị dùng Chiêm Sát
Luân, kinh văn cho biết, tất cả thiện nghiệp
và ác nghiệp của quư vị từ vô lượng kiếp
tới nay đều hiện tiền. Văn tự cho chúng
ta biết, từ vô lượng kiếp tới nay chưa
hề thanh tịnh, nhưng có quá khứ, “vô lượng
kiếp” là nói đến quá khứ, nhưng do hiện tại
vẫn tạo, cho nên có hiện tại. Do quư vị hiện
tại đang tạo, nên lại dây dưa đến vị
lai. Hiện tại quư vị chẳng thể tiêu trừ
nghiệp trong quá khứ! Không chỉ chẳng tiêu, mà c̣n
đang tạo thêm, cho nên dẫn
đến tương lai. Quá khứ, hiện tại,
tương lai, lại c̣n thêm căn bản vô
minh. Đấy là thập luân [thuộc tiểu
loại thứ nhất trong Chiêm Sát Mộc Luân], tức
mười cái luân. Ư nghĩa của Luân là giống
như bánh xe, dường như vĩnh viễn chẳng ngừng,
vĩnh viễn xoay như thế. Trừ phi quư vị dùng
mười luân, quư vị tu đạo thành tựu, cái bánh
xe ấy sẽ ngừng, chẳng c̣n nữa! Do vậy, bộ
luân thứ nhất gồm mười luân.
2)
Các luân thuộc tiểu loại thứ hai là tam nghiệp,
chỉ có [ba cái luân là] thân khẩu, ư. Hoàn toàn chẳng phải
là thân, khẩu, ư của quư vị đều rất ác, mà
cũng chẳng phải là thân nghiệp, khẩu nghiệp,
và ư nghiệp đều b́nh đẳng. Chẳng phải vậy!
Có khi thân nghiệp của quư vị đặc biệt nặng
nề, có khi khẩu nghiệp hoàn toàn chẳng nặng, hoặc
thân lẫn khẩu nghiệp đều chẳng nặng,
nhưng ư nghiệp hết sức nghiêm trọng. Do vậy,
làm ba cái luân “thân, khẩu, nghiệp” để
tương ứng với tam nghiệp, tức thân nghiệp,
khẩu nghiệp, và ư nghiệp. [Trên mỗi mặt của cái luân thuộc
loại này c̣n có các vạch dài, ngắn, đậm hay mỏng,
biểu thị thiện hay ác, nặng hay nhẹ]. Khẩu nghiệp
bao gồm bốn loại, tức nói dối, nói thêu dệt,
nói đôi chiều, nói thô ác. Thân nghiệp bao gồm giết,
trộm, dâm. Ư nghiệp bao gồm tham, sân, si. Chỉ gieo ba
luân ấy, tức là thân, khẩu, ư.
3)
Bộ luân thuộc tiểu loại thứ ba, gồm sáu
luân. Sáu cái luân này [nơi
mỗi mặt của một luân đều] ghi những con số, như một, hai, ba, bốn,
năm, sáu, bảy, tám, chín [cho đến số mười tám]. Ba con số ấy
[tức là gieo
sáu cái luân này ba lần, mỗi lần sẽ được
các con số hiện ra], khi gieo xong, sẽ cộng lại.
Khi chúng tôi giảng đến phần kinh văn
tương ứng, sẽ lại giải thích cặn kẽ.
Sau đó, sẽ dùng mộc luân làm mẫu cho quư vị thấy.
Đó
gọi là tam luân (ba loại luân). Dùng luân tướng ấy
để chiêm sát (chiêm nghiệm, suy xét) điều ǵ? Chiêm
sát nghiệp thiện hay ác trong quá khứ của quư vị.
Đối với các luân thuộc tiểu loại thứ
nhất, hễ chiêm sát sẽ biết thiện nghiệp của
ta so với ác nghiệp, cái nào nặng hơn, tức là
đỏ nhiều hay đen nhiều? Đen nhiều là ác
nghiệp nặng nề. Ba loại luân ấy mà đỏ
nhiều tức là thiện nghiệp sâu đậm. Nếu
chúng ta thấy đen nhiều th́ phải làm như thế
nào? Bái sám. Đó gọi là Chiêm Sát Sám Pháp, phải lạy mỗi
ngày. Sáng sớm mỗi ngày đều gieo Chiêm Sát Luân, cái luân ấy sẽ tùy thời biến
hóa. Quư vị lạy cho đến khi nào luân gieo ra toàn là
đỏ, tức ba nghiệp thanh tịnh. Khi quư vị
đă chiêm sát được tam nghiệp thanh tịnh, chẳng
đợi đến lúc ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh,
quư vị nằm mộng đều khác hẳn trước
kia. Những giấc mộng đáng sợ trước kia
chẳng c̣n nữa! Mộng thấy nghe kinh, hoặc thuyết
pháp, hoặc gặp bậc thiện nhân, gặp đạo
hữu, vẫn chưa thể mộng thấy Bồ Tát.
Đợi cho đến khi gieo mộc luân, ba nghiệp
đều thanh tịnh, luân tướng thanh tịnh, quư vị
sẽ thường xuyên mộng thấy Bồ Tát. Đấy
là chiêm sát tội nghiệp trong đời trước.
(Kinh)
Duyên hợp cố hữu, duyên tận tắc diệt, nghiệp
tập tùy tâm, tướng hiện quả khởi, bất
thất, bất hoại, tương ứng bất sai.
(經)緣合故有。緣盡則滅。業集隨心。相現果起。不失不壞。相應不差。
(Kinh:
Do duyên hợp bèn có, duyên tận th́ diệt, nghiệp nhóm họp
do tâm. Tướng hiện, quả bèn dấy lên, chẳng mất,
chẳng hoại, tương ứng chẳng sai).
Chiêm
sát nghiệp trong đời quá khứ, đó là nói tới
nhân duyên. V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta: “Duyên hợp cố hữu” (do duyên hợp bèn
có). Duyên hợp v́ hiện thời quư vị có cái duyên mong cầu,
cùng với duyên và nhân trong quá khứ, nhân duyên ḥa hợp, cho
nên bèn có tướng. Nếu ta chẳng có duyên, duyên đă
không có th́ luân tướng cũng chẳng có, tướng
hiện bởi duyên liền diệt. Có duyên bèn hiện, không có duyên bèn không. “Nghiệp
tập” ở đây chính là khá nhiều các nghiệp
đă tích tập trong quá khứ và hiện tại nhóm tụ
lại. “Nghiệp tùy tâm tập” nghĩa là tâm quư vị
chuốc vời, nghiệp bèn thuận theo cái tâm mà nhóm tụ.
Tướng vừa hiện, tức là luân tướng vừa
hiện, cái quả bèn dấy khởi, quư vị sẽ thọ báo. “Tướng
hiện, quả khởi,
bất thất, bất hoại, tương ứng bất
sai”: Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát: Khi dùng luân tướng này, sẽ tuyệt
đối tương ứng, chẳng sai sót
mảy may! Nhưng đối với quư vị, điều chủ yếu là sám pháp! Nếu quư vị
chẳng bái sám, sử dụng ba loại luân [để
chiêm sát], sẽ chẳng linh! Quư vị bái sám, hằng ngày
đều bái, hằng ngày đều gieo, luân tướng sẽ tùy thời biến hóa. Tuy quư vị hằng ngày đều
bái, nhưng cái tâm chẳng
chân thành. Trong kinh văn c̣n nói tới chí tâm, [chia thành các loại]:
Chẳng chí tâm, hạ chí tâm, trung chí tâm, và thượng chí
tâm. Quư vị chế tâm nhất xứ để bái sám rồi
gieo Chiêm Sát Luân. “Chế tâm nhất xứ” có nghĩa
là “tâm vô nhị dụng”, sẽ hiện tướng
bất đồng. Quư vị dụng tâm tạp loạn,
tưởng Đông, nghĩ Tây, luân tướng bèn cho quư vị
biết: Quư vị đừng nên suy nghĩ loạn xạ,
chẳng linh nghiệm. Quư vị phải lạy lại từ
đầu. Đấy là nói tới pháp Đại Thừa,
pháp Đại Thừa nói “nhất tâm” tức là nói
đến Chân Như. Chân Như tùy duyên. Chân Như thuận
theo các duyên nào vậy? Thuận theo
các nghiệp duyên quư vị đă tạo. Quư vị tạo thiện
nghiệp, Chân Như sẽ thuận theo thiện nghiệp duyên
của quư vị. Quư vị tạo ác nghiệp, Chân Như sẽ
thuận theo ác nghiệp duyên của quư vị. Tôi vừa mới
nói “mọi người đều là Phật”, [vị Phật ấy] vốn sẵn có, là Lư
cụ (理具, trọn đủ
về lư); nhưng do nghiệp duyên của quư vị quá nặng,
vị Phật ấy chẳng hiện, ẩn mất. Quư vị
sám hối trừ sạch các ác nghiệp duyên ấy, [vị
Phật sẵn có] lại hiện, tức bổn tánh Phật của quư vị lại hiện. Hết
thảy các pháp sanh từ nhân duyên, các pháp sanh từ duyên chẳng
trụ trong từng sát-na. Trong một nháy mắt, tâm niệm
chúng ta sanh diệt chín mươi lần, niệm này khởi,
niệm kia diệt. Một niệm khởi lên trong chín
mươi niệm ấy được gọi là sát-na.
Trong một sát-na, tức là trong lúc quư vị khởi tâm
động niệm, sanh duyên trong suốt một ngày, mỗi niệm đều là sanh duyên. V́ thế, khi
quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, trước hết phải
nhận biết nó (hiện tướng) là chân thật,
hay hư vọng, hay tiêu diệt. Địa Tạng Bồ
Tát sẽ cho quư vị biết: Hiện tướng nào là
tiêu diệt? Hiện tướng nào
là sanh khởi! Thong thả học tới phần kinh văn phía
sau, trong kinh văn sẽ cho quư vị biết, quư vị sử
dụng Chiêm Sát luân tướng, [những tướng ấy]
sẽ hiển hiện. Quư vị có biết nghiệp trong
quá khứ của quư vị nặng cỡ nào hay không? Luân
tướng sẽ nói cho quư vị biết.
Quư vị thường xuyên bái sám, [các nghiệp ấy] sẽ
giảm bớt rất nhiều, [luân tướng] cũng
nói rất rơ ràng với quư vị. Nhưng giảm thiểu
tới [mức độ chỉ c̣n sót lại] căn bản
vô minh th́ rất khó. Do đó, quư vị cứ bái sám đi! Khi
nào bái tới mức tất cả luân tướng đều
là màu đỏ[5].
Bốn mặt của mỗi luân tướng có lúc đỏ,
có lúc đen. Vạch đỏ lớn tức là đại
thiện, vạch đỏ nhỏ tức là tiểu thiện.
Vạch đen lớn tức là điều ác quá nặng. Vạch
đen nhỏ là điều ác nhỏ. Sự biến hóa của
luân tướng được quyết định bởi
sự bái sám của quư vị. Đời người của
chúng ta có họa và phước, có thiện và ác. Bất luận
kẻ nào cũng chẳng phải là thuần thiện hay
thuần ác. Kẻ đó có khi làm chuyện tốt, có lúc làm
chuyện xấu, thiện ác xen lẫn. Nhưng khi quư vị
đảnh lễ, trong khi quư vị được Địa
Tạng Bồ Tát dạy bảo cách tu hành, màu đỏ sẽ
dần dần tăng trưởng (tức điều thiện
tăng trưởng), điều ác sẽ dần dần
tiêu mất. Tuy vậy, chẳng phải là trong một thời
gian ngắn. Có người bái sám suốt hai ba năm, có
người bái sám sắp tương ứng th́ chướng
ngại xuất hiện. Ở Đài Loan, tôi có một tiểu
đạo hữu, nó lạy Chiêm Sát Sám hết sức
tương ứng, hiện thời th́ sao? Nó hoàn tục. Đó gọi là nghiệp chướng phát hiện, nó chống
không nổi nghiệp chướng!
(Kinh)
Như thị đế chiêm thiện ác nghiệp báo, hiểu
dụ tự tâm, ư sở nghi sự, dĩ thủ quyết
chi.
(經)如是諦占善惡業報。曉喻自心。於所疑事以取決了。
(Kinh: Chiêm
sát chắc thật nghiệp báo thiện ác như thế,
răn nhủ tự tâm, đối với những chuyện
nghi nan, dùng pháp này để quyết đoán).
Do
vậy, dùng sự chiêm nghiệm nghiệp báo thiện ác chắc
thật như thế. “Đế chiêm” là đúng lư mà
chiêm nghiệm, chiêm nghiệm nghiệp báo do thiện nghiệp
và ác nghiệp của quư vị. “Hiểu dụ tự
tâm”: Khiến cho cái tâm của quư vị hiểu rất
rơ điều nào là đúng, điều nào là sai! Quư vị
chẳng biết, luân tướng sẽ bảo cho quư vị
biết, quư vị có thể chọn lựa. Quư vị sanh
cái tâm này chẳng đúng, khi quư vị bái sám chẳng chí
tâm, hoặc hạ chí tâm (chí tâm bậc hạ) cũng chẳng có, th́ [khi gieo các
luân tướng], hoàn toàn chẳng có hiệu quả. Điều
thứ nhất là phải chí tâm, phải chế tâm nhất
xứ. Trong kinh văn thuộc phần sau, chúng tôi sẽ lại
nói đến chuyện này. Khi “đế chiêm” [th́ việc
gieo Chiêm Sát Luân] chẳng phải là Sự (tức là chẳng
phải làm một cách hời hợt, mang tính chất cầu
hỏi như bói toán, không thật sự dùng như một
phương tiện để khích lệ, tự thẩm định việc tu hành của
chính ḿnh), chẳng giống như quư vị gieo luân tướng
rồi nh́n, [làm như thế] th́ là Sự. “Đế”
là tâm phải tương ứng với nó. Tâm là Lư, phải
lư chiêm, đừng nên sự chiêm. Nói cách khác, quư vị phải
đúng như lư mà chiêm, phải
thật sự dụng tâm. [Chiêm sát] chẳng phải là bói
toán. Tới chỗ thầy bói để đoán quẻ, phê
bát tự, tôi đưa cho quư vị mấy đồng tiền,
quư vị tính cho tôi một quẻ là được. [Chỉ
hời hợt coi pháp Chiêm Sát như bói toán], há có tác dụng ǵ? Chớ nên!
Pháp này phải toàn tâm toàn ư đảnh lễ,
bái sám. [Pháp này] vốn là vô tướng, vô tướng biến
thành hữu tướng, hữu tướng lại biến
thành vô tướng. “Hữu tướng” là hết thảy
sự nghiệp tội ác của quư vị đều có
tướng. Quư vị lễ lạy là vô tướng, [th́
tội chướng] tiêu mất, sẽ là vô tướng.
Quư vị có bất cứ chuyện ngờ vực nào, [hoặc
thắc mắc] chuyện ấy nên làm như thế nào,
chính ḿnh chẳng thể quyết định được,
vậy th́ quư vị hăy thưa hỏi Địa Tạng
Vương Bồ Tát! Quư vị thắp hương, đảnh
lễ. Đảnh lễ xong, quư vị dùng Chiêm Sát Luân
để chiêm nghiệm. [Tuy các luân chỉ có mười
chín khối, nhưng từ kết quả phối hợp
giữa các mặt trong mỗi luân, kết quả] sẽ có
một trăm tám mươi chín loại. V́ sao? Một
trăm tám mươi chín loại là v́ tương ứng với
lục căn, tức Nhăn Căn,
Nhĩ Căn, Tỵ Căn, Thiệt Căn, Thân Căn, Ư
Căn là sáu căn, lại thêm Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,
Thân, Ư sáu thức. Sáu căn, sáu thức, cộng thêm sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, ba lần sáu là mười
tám, mười tám món ấy cộng thêm căn bản vô
minh, thành mười chín loại [cho nên có mười chín khối
mộc luân]. Trong ấy có sự biến hóa rất lớn.
Sự biến hóa ấy từ đâu mà có? Do cái tâm của
quư vị. Suốt một ngày, một thoáng chốc này quư vị
nghĩ điều này, chốc lát sau nghĩ tới điều
khác, luân tướng sẽ tùy thời biến đổi
theo. Nhưng khi quư vị bái sám, quư vị nhất tâm nhất
ư bái. Nếu hôm nay quư vị bái rất tương ứng,
đă tương ứng th́ công lực lễ bái của quư
vị sẽ tương ứng với sự dạy bảo
của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Khi
quư vị bái sám, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất
định sẽ đến.
Lược giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, phần 1 hết
[1] Bát tự tức là giờ, ngày,
tháng, năm sanh ra của một người. Do mỗi yếu
tố ấy lại phối hợp với Thiên Can (Giáp, Ất…)
và Địa Chi (Tư, Sửu, Dần, Mẹo…), nên gọi là Bát Tự.
Phê bát tự tức là dựa trên giờ, ngày, tháng, năm
sanh (Tứ Trụ) mà luận định Ngũ Hành, Âm
Dương xung khắc để đoán định vận
mạng. Hai cách phê bát tự phổ biến
nhất là Tử Vi và Tử B́nh.
[2] Thổ Thành là một quận nội
thành của thành phố Tân Bắc. Danh xưng này bắt nguồn
từ thành lũy đắp bằng đất để
pḥng ngự tại khu vực này dưới đời Thanh.
[3] Không có tài liệu nào nói về tiểu
sử của vị pháp sư dịch kinh này. Theo Đại Châu San Định
Chúng Kinh Mục Lục th́ Ngài đến Trung Hoa vào đời Tùy.
Sở dĩ gọi là Đại Châu v́ lúc này Vũ Tắc
Thiên cướp ngôi nhà Đường, xưng quốc hiệu
là Đại Châu. Sách được biên soạn vào năm
Thiên Sách Vạn Tuế nguyên niên (695) nhà Đại Châu của
Vũ Tắc Thiên, do một nhóm hơn bảy mươi vị sa-môn, đứng
đầu là ngài Minh Thuyên chủ tŕ công
tác biên soạn. Sau
đó, các vị cao tăng thời ấy như Nghĩa Tịnh,
Bồ Đề Lưu Chí v.v… đều tham gia biên tập,
nên dữ liệu trong sách khá đáng tin.
[4]
Kiên Lao Địa Thần (Prthivi) chính là vị thần đất.
Trong Địa Tạng Khoa Chú, ngài Thanh Liên khẳng định
bà là nữ thần, hiện thân hộ pháp, chưởng quản
tất cả hết thảy địa thần trong thế
gian. Theo kinh Quán Phật Tam Muội, khi đức Phật thị
hiện thành đạo, Ma Vương tới quấy phá, thách
thức Ngài có thể kiếm ai làm chứng cho sự tu hành
tinh tấn vượt thời gian và không gian của chính Ngài.
Đức Phật bèn dùng tay chạm xuống đất,
Kiên Lao Địa Thần bèn xuất hiện, chứng minh:
Trong cơi tam thiên đại thiên này, không có nơi nào nhỏ bằng
một vi trần, mà không phải là nơi Bồ Tát xả
thân cầu pháp, tu hành. Tuy thế, theo Địa Thần
Nghi Quỹ Kư, vị này có cả hai thân nam và nữ: “Nam
thiên nhục sắc, tả thủ tŕ bát thịnh hoa, hữu
thủ chưởng hướng ngoại. Nữ thiên bạch
nhục sắc, hữu thủ băo đương tâm, tả
thủ diệc băo đương cổ” (Thân nam thiên có
màu như da người, tay trái cầm bát đựng hoa, ḷng
bàn tay phải hướng ra ngoài. Thân nữ thiên có màu trắng,
tay phải úp lên ngực, tay trái úp lên đùi).
[5] V́ mỗi luân tướng có bốn
mặt, trên mỗi mặt viết các chữ (chẳng hạn
trong tiểu loại thứ nhất, Ỷ Ngữ viết
bằng màu đen, Bất Ỷ Ngữ viết bằng màu
đỏ), các vạch (trong tiểu loại thứ hai, vạch
dài đen đậm tượng trưng cho ác nghiệp nặng),
các con số (sẽ có màu đen hay đỏ để biểu
thị thiện hay ác).