Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo
Phần
2
占察善惡業報經
隋天竺沙門菩提登譯
夢參老和尚講
(giảng lần
thứ ba, năm 2009)
Hán dịch: Thiên
Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời
Tùy
Chủ giảng: Lăo ḥa
thượng Mộng Tham
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo phiên bản đăng
tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo
-https://www.liaotuo.com)
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
Tập 4
(Kinh) Nhược Phật
đệ tử đản đương học tập
như thử tướng pháp, chí tâm quy y, sở quán chi sự,
vô bất thành giả.
(經)若佛弟子但當學習如此相法至心歸依。所觀之事無不成者。
(Kinh:
Nếu đệ tử Phật có thể học tập
tướng pháp như thế th́ chuyện được
quán không ǵ chẳng thành tựu).
[“Tướng
pháp” được nói trong chánh kinh] chính là “mộc
luân tướng pháp”. Mộc luân tướng pháp là hữu
tướng, nhưng tâm chí thành là vô tướng. Địa
Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát: Giả sử chúng sanh trong đời vị lai nếu
mong học tập mộc luân tướng pháp th́ phải có
chí tâm. Kinh văn trong phần sau sẽ nói đến ba loại
chí tâm. “Chí tâm” có nghĩa là trực tâm, chẳng có chút
cong vạy nào, tức là không có niệm tâm thứ hai. Chỉ
có một niệm tâm th́ là trực tâm. Trực
tâm có cùng một hàm nghĩa với
chí tâm. Nếu quư vị học tập mộc luân tướng
pháp như thế, chí thành, khẩn thiết tin tưởng
lời dạy bảo của Địa Tạng
Vương Bồ Tát, chiếu theo lời dạy trong kinh văn,
chiếu theo những điều nên làm như trong [mộc luân] tướng pháp đă nói để làm
theo, mọi chuyện quư vị đă quán sẽ đều
đúng lư. “Đúng lư” có nghĩa là mọi chuyện
đều tương ứng với cái tâm, sự và tâm
tương ứng, tâm chính là Lư, Lư có thể thành tựu Sự.
“Lư có thể thành tựu Sự” chính là hết thảy
mọi sự đều có thể thành tựu.
(Kinh)
Bất ưng khí xả như thị chi pháp, nhi phản tùy
trục thế gian bốc phệ chủng chủng chiêm
tướng cát hung đẳng sự, tham trước, nhạo
tập. Nhược nhạo tập
giả, thâm chướng thánh đạo.
(經)不應棄捨如是之法。而返隨逐世間卜筮種種占相吉凶等事。貪着樂習。若樂習者。深障聖道。
(Kinh:
Chớ nên vứt bỏ pháp như thế để ngược
ngạo chạy theo, tham đắm, ưa thích luyện tập
các thứ bói toán cát hung trong thế gian. Nếu ham
thích luyện tập [những thứ ấy] sẽ chướng
ngại thánh đạo sâu xa).
Nếu
chẳng nương theo Chiêm Sát Luân tướng pháp, vứt
bỏ pháp môn này, chẳng hạn như coi vấn đề
ấy như chuyện bói toán, xủ quẻ thế gian
để t́m biết cát, hung, họa, phước,
sẽ hết sức chướng ngại thánh đạo!
V́ nửa đầu của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo là cơ sở của nửa bộ sau. Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát thỉnh cầu do ư nghĩa: “Trong thời kỳ Mạt
Pháp này, đệ
tử Phật tu đạo thành tựu ít ỏi, người
thành đạo hết sức ít, do nguyên nhân ǵ?” Địa
Tạng Vương Bồ Tát nói nguyên nhân chủ yếu là
do chẳng chí tâm. “Chẳng chí tâm”: Tâm không thành khẩn
là “chẳng chí tâm”. Do vậy, ắt cần phải
chí tâm. Trong phần sau, kinh văn sẽ nói cặn kẽ về
chí tâm, sẽ nêu ra ba loại chí tâm, chẳng
phải như chúng ta thường nói “đạt tới
chí tâm”, [“chí tâm” như chúng ta thường nói chính
là] nhờ vào tướng mà sanh tâm. Tâm có thể sanh ra
tướng, đừng nên coi đó như chuyện bói
toán, phê bát tự của thế gian, hoàn toàn khác hẳn! Nếu
vứt bỏ sự học tập mộc luân tướng
pháp này để học tập pháp thế gian, tức các
pháp bói toán, xủ quẻ thuộc về h́nh tướng của thế
gian, th́ không chỉ chẳng thể đạt được
lợi ích, mà trái lại nó c̣n chướng ngại quư vị
tu đạo. Pháp như thế là pháp ǵ vậy? Nói theo h́nh
tướng th́ là mộc luân tướng pháp; nói theo
nghĩa, sẽ là cảnh giới Nhất Thật trong kinh
văn thuộc phần sau [kinh này]. Vứt bỏ tướng
cảnh giới Nhất Thật, chạy theo tướng
thế gian th́ không chỉ chẳng thể thành tựu, mà
c̣n rất chướng ngại thánh đạo. Đến
đoạn kinh văn thuộc phần sau, chúng tôi sẽ giảng,
chỉ giảng về cảnh giới Nhất Thật.
Tướng cảnh giới Nhất Thật ấy cũng
chính là “minh tâm kiến tánh” được nói trong Thiền
Tông. Mộc luân tướng pháp là do nương theo
tướng mà có thể hiểu rơ tâm tánh của chính ḿnh.
Phải học tập mộc luân tướng pháp như thế
nào?
(Kinh)
Thiện nam tử! Dục học mộc luân tướng
giả, tiên đương khắc mộc, như tiểu
chỉ hứa, sử trường đoản giảm ư
nhất thốn. Chánh trung linh kỳ tứ diện
phương b́nh, tự dư hướng lưỡng
đầu, tà tiệm khử chi. Ngưỡng thủ bàng
trịch, linh sử dịch chuyển. Nhân thị nghĩa cố,
thuyết danh vi Luân.
(經)善男子。欲學木輪相者。先當刻木如小指許。使長短減於一寸。正中令其四面方平。自餘向兩頭斜漸去之。仰手傍擲。令使易轉。因是義故。說名爲輪。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Muốn học mộc luân tướng,
trước hết hăy nên khắc gỗ [thành từng khối]
nhỏ chừng bằng ngón út, nhưng giảm kích thước
bớt một tấc. Phần chính giữa [của mỗi
khối] hăy nên chuốt thành bốn mặt vuông vắn (khối lập
phương), phần c̣n lại cho đến hai đầu
th́ vát cho nhỏ dần đi. Ngửa tay mà gieo trên chỗ
thanh tịnh[1], khiến cho các
khối ấy xoay chuyển. Do v́ nghĩa này mà gọi là
Luân).
Này
thiện nam tử! Nếu ông muốn học mộc luân
tướng, ta sẽ nói về ư nghĩa h́nh tướng:
Trước hết, khắc gỗ [thành từng khối], to chừng bằng ngón út, nhưng kích thước giảm
bớt một tấc. Phần chính giữa [của mỗi
khối gỗ ấy] th́ khắc thành bốn mặt
vuông vắn, phần c̣n lại th́ vát xéo cho nhỏ dần
đi. Ngửa tay để gieo xuống vật thanh tịnh,
khiến cho [các khối gỗ ấy] dịch chuyển. Do
v́ nghĩa này, nên gọi [các khối gỗ đă khắc ấy]
là Luân. Nếu mọi người từ xa chẳng thấy
rơ h́nh tướng lắm th́ sau đó có thể chuyền
tay nhau để xem. Đó gọi là “mộc luân” trong
mộc luân tướng pháp.
Kinh
này được dịch ra, lịch đại tổ
sư chẳng làm mộc luân tướng pháp. Măi cho đến
đời Minh, Ngẫu Ích đại sư mong đắc
thanh tịnh giới, Ngài quán khắp Nam Diêm Phù Đề (tức
Nam Thiệm Bộ Châu), mong thỉnh năm vị tỳ-kheo
thanh tịnh để truyền giới tỳ-kheo mà chẳng có. V́ thế, Ngài chẳng có cách nào,
bèn t́m trong Đại Tạng Kinh, t́m được kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Tuy t́m được kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, nhưng Ngài chẳng biết làm
mộc luân, chẳng hiểu h́nh tướng của mộc
luân. Liên quan đến lời mô tả của Địa
Tạng Bồ Tát về kích thước của mộc
luân, “khắc gỗ to bằng ngón út, sao cho kích thước
của nó giảm bớt một tấc, [phần chính giữa]
bốn mặt vuông vức”, mọi người chuyền
tay nhau xem bộ luân tướng này sẽ biết. Khi gieo
th́ ngửa tay lên, bụm luân tướng để gieo. Do
vậy gọi là Luân.
(Kinh)
Hựu y thử tướng, năng phá hoại chúng sanh tà
kiến nghi vơng, chuyển hướng chánh đạo,
đáo an ổn xứ. Thị cố danh Luân.
(經)又依此相能破壞衆生邪見疑網。轉向正道。到安隱處。是故名輪。
(Kinh: Lại do nương
theo tướng này mà có thể phá hoại lưới nghi
tà kiến của chúng sanh, chuyển hướng theo chánh
đạo, tới chỗ an ổn. V́ thế gọi là
Luân).
Nương
theo luân này, sẽ dấy lên tác dụng ǵ? Có thể trừ
sạch lưới nghi tà kiến của chúng sanh. Chúng ta chẳng
thể thành đạo, chẳng thể khai ngộ, [v́] nghi
hoặc quá nhiều. Tà tri tà kiến ấy giống như
cái lưới bắt cá. Nương theo mộc luân ấy,
có thể phá trừ lưới tà kiến, chuyển
hướng chánh đạo, đạt tới chỗ an ổn.
“Luân” (bánh xe) có nghĩa là nghiền
nát, đó là cách nói h́nh dung: Phiền năo, Kiến Tư phiền
năo, Trần Sa, Vô Minh của quư vị đều có thể
bị nghiền nát, phá tan. V́ thế gọi là Luân. V́ sao pháp
do đức Phật đă nói được gọi là “pháp
luân”, [như kinh thường nói] “pháp luân thường
chuyển”? Chính là khiến cho
pháp do đức Phật đă nói vĩnh viễn tồn tại
trên thế gian. Luân ấy hoàn toàn nghiền nát Kiến
Tư, Vô Minh, Trần Sa phiền năo của quư vị, cho nên
gọi là “pháp luân thường chuyển”. Mong mỏi
pháp luân thường chuyển; do vậy gọi là Luân.
(Kinh)
Kỳ luân tướng giả, hữu tam chủng sai biệt.
Hà đẳng vi tam? Nhất giả, luân tướng năng
thị túc thế sở tác thiện ác nghiệp chủng
sai biệt. Kỳ luân hữu thập. Nhị giả, luân
tướng năng thị túc thế tập nghiệp cửu
cận sở tác cường, nhược, đại, tiểu
sai biệt. Kỳ luân hữu tam. Tam giả, luân tướng
năng thị tam thế trung thọ báo sai biệt. Kỳ
luân hữu lục.
(經)其輪相者有三種差別。何等爲三。一者輪相能示宿世所作善惡業種差別。其輪有十。二者輪相能示宿世集業久近所作強弱大小差別。其輪有三。三者輪相能示三世中受報差別。其輪有六。
(Kinh:
Luân tướng ấy có ba loại sai biệt. Những ǵ
là ba? Một là luân tướng có thể chỉ bày các thứ
nghiệp thiện ác sai biệt đă tạo trong đời
trước. Luân loại này có mười cái. Thứ hai là
luân tướng có thể chỉ bày các tập nghiệp
đă lâu hay gần đây, đă tạo nghiệp mạnh,
yếu, lớn, nhỏ sai khác. Luân loại này có ba cái. Thứ
ba là luân tướng có thể chỉ bày sự thọ báo
sai biệt trong ba đời. Loại luân này có sáu cái).
Do
vậy, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói luân
tướng ấy v́ sao phải có sai biệt nhiều ngần
ấy? V́ chúng sanh có ư niệm sai khác nhiều ngần ấy!
Đối với ba loại sai biệt, mọi người
xem kinh văn sẽ biết ba loại ấy. Ba loại
luân tướng, mỗi loại
đều có tác dụng riêng:
-
Loại luân tướng thứ nhất chỉ bày các nghiệp
sai khác trong đời trước. Thiện nghiệp có rất
nhiều sai biệt, ác nghiệp cũng có rất nhiều
sai biệt. Luân loại này có mười cái, tức là loại
luân thứ nhất có mười khối.
-
Loại luân tướng thứ hai chỉ bày nghiệp do
quư vị đă tạo trong đời trước. Tập
nghiệp ấy rất gần đây hay rất lâu. Hiển
thị nghiệp ấy là gần hay xa, [“gần” là] nghiệp mới tạo trong một, hai đời,
[“xa” là] nghiệp đă tạo trong nhiều đời, hoặc
vô lượng đời. Nghiệp lực có mạnh hay yếu.
Lâu xa hay gần đây là một chuyện, mạnh hay yếu
càng có mối quan hệ quan trọng hơn. Mạnh
sẽ chuyển dời trước, tức là nghiệp nào
có sức mạnh mẽ, nghiệp đó sẽ chuyển dời
quư vị theo nó. Tạo nghiệp mạnh hay yếu, tạo
nghiệp lớn hay nhỏ sai khác. Luân loại này có ba khối.
-
Loại luân tướng thứ ba có thể hiển thị
sự thọ báo sai biệt của quư vị trong ba đời
quá khứ, hiện tại, vị lai. Loại luân này có sáu
khối.
Loại
luân thứ nhất gồm mười khối, loại luân
thứ hai gồm ba khối, loại luân thứ ba gồm
sáu khối, [tổng cộng là] mười chín khối. Con
số mười chín do đâu mà có? Do khi chúng ta tạo nghiệp,
sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sáu trần
là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Khi Căn và Trần
tiếp xúc, chúng chẳng có tác dụng [nếu không có thức].
Nhăn Căn đối ứng Sắc Trần mà giữa
đó chẳng có Thức th́ Nhăn Căn và Sắc Trần chẳng có tác dụng. Phân biệt hết thảy
các sắc, xanh, hồng, đỏ, trắng,
đen. Sự phân biệt màu sắc ấy là do Thức phân
định, chẳng do Căn. Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp ở bên ngoài đối ứng với sáu căn mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân. Căn đối ứng Trần
chẳng dấy lên tác dụng; dấy lên tác dụng là do
Thức ở chính giữa. Phân biệt đỏ, hồng,
vàng, đen, trắng, lam là do Thức của quư vị
nhận biết. [Nhăn] Căn đối
Sắc Trần, chính giữa có Nhăn Thức, Nhăn Thức nhận
biết màu sắc. V́ ba loại sáu căn, sáu trần, sáu thức
hợp lại, thành mười tám. Khi chúng ta tạo hết
thảy các nghiệp, sẽ chẳng ra ngoài mười tám
loại ấy, lại c̣n thêm căn bản vô minh, nên thành
mười chín luân. Mười chín luân ấy sẽ tính
toán, hiển hiện các nghiệp quư vị đă tạo trong
quá khứ, hiện tại, và vị lai.
Vị
lai c̣n chưa đến, có thể hiển hiện bằng
cách nào? Những ǵ quư vị đă làm trong đời này.
Nghiệp do quư vị đă làm trong đời này là nhân, vị
lai bèn chịu khổ quả, hoặc hưởng lạc
quả, tùy thuộc quư vị đă tạo nghiệp ǵ, sẽ
phải thọ báo tương ứng. V́ nghiệp do quư vị
đă làm trong quá khứ là nhân, những ǵ đích thân hứng chịu trong hiện tại là quả. Đó gọi
là “tam thế nhân quả”, ba thứ luân tướng ấy
đều có thể hiển hiện. Hễ quư vị vừa
gieo [luân tướng], quư vị có thể khai thần thông.
Thần thông ǵ vậy? Biết trong quá khứ ta đă làm nghiệp
ǵ, đời này phải hứng chịu quả báo ǵ! Hết
thảy các chuyện ta đă làm trong đời này là nhân;
trong vị lai, quư vị nhất định phải thọ
báo. Luân tướng bảo cho quư vị biết điều
ấy. Nếu quư vị muốn biết quả báo cảm
vời do nghiệp thiện hay ác đă tạo trong đời
trước, [hăy nên biết
quả báo] chính là những ǵ quư vị phải hứng chịu
trong đời này. Luân tướng cũng cho quư vị biết
rơ: Quư vị đă tạo
nghiệp ǵ, đời này đạt được quả
báo ấy. Thiện có thiện báo, ác có ác báo. Chưa báo ứng
là v́ chưa đến lúc; đă đến lúc, sẽ có báo
ứng.
Nhưng
trong hết thảy các sự việc chúng ta đă làm, trong
các hoạt động của quư vị, bất luận là
thiện nghiệp hay ác nghiệp, quư vị đều
đang tạo nghiệp. Phàm là những lời lẽ quư vị
thốt ra, những điều tâm suy nghĩ, thân gây tạo [đều là
nghiệp]. Miệng quư vị nói dối, nói thêu dệt, nói
đôi chiều, nói lời thô ác. Chẳng nói dối, chẳng
nói thêu dệt, chẳng nói đôi chiều, chẳng nói lời
thô ác; đấy là thiện. Nói dối, nói thêu dệt, nói đôi
chiều, nói lời thô ác là ác. Thân nghiệp tạo giết,
trộm, dâm, tư tưởng suy nghĩ tham, sân, si. Tất
cả hoạt động trong suốt một ngày của
quư vị, ban đêm, khi quư vị ngủ, bèn có độc
đầu ư thức[2]
vẫn đang tạo nghiệp chẳng ngừng, suốt
ngày đêm chẳng ngừng! V́ căn bản của mười
tám loại ấy là vô minh. Loại vô minh sâu nhất là Nghi.
Nó là Hoặc nghiệp sâu nhất, đều sanh từ vô
minh, cho nên khi muốn nhận ra nó th́ phải dùng mười
chín loại luân tướng, tức là dùng mộc luân tướng
để gieo.
(Kinh)
Nhược dục quán túc thế tác thiện ác nghiệp
sai biệt giả, đương khắc mộc vi thập
luân. Y thử thập luân, thư kư Thập Thiện chi danh,
nhất thiện chủ tại nhất luân, ư nhất
diện kư. Thứ dĩ Thập Ác thư đối Thập
Thiện, linh sử tương đương, diệc các
kư tại nhất diện.
(經)若欲觀宿世作善惡業差別者。當刻木為十輪。依此十輪書記十善之名。一善主在一輪。於一面記。次以十惡書對十善。令使相當。亦各記在一面。
(Kinh:
Nếu muốn quán sự sai biệt của nghiệp thiện
hay ác đă tạo trong đời trước, hăy nên khắc
gỗ thành mười cái luân. Đối với mười
cái luân ấy, bèn ghi tên của Thập Thiện. Mỗi
Luân ghi một điều thiện tại một mặt. Kế
đó, ghi tên của Thập Ác đối ứng với Thập
Thiện, sao cho chúng đối ứng nhau, mỗi điều
cũng đều ghi tại một
mặt [đối diện với mặt ghi điều
thiện] nơi mỗi luân).
Đương
nhiên là quư vị vẫn phải học cách sử dụng
loại luân pháp này. Dựa theo văn tự, sợ rằng
vẫn chưa rơ ràng cho lắm! Tới khi quư chiêm sát, đối
chiếu với lời dạy của Địa Tạng
Vương Bồ Tát [sẽ hiểu rơ hơn]. Quư vị
quán thiện nghiệp và ác nghiệp trong quá khứ, chúng được gọi là “chủng tử”. Quư vị gieo luân tướng, gieo ra điều thiện,
cho biết thiện nghiệp rất nặng, ác nghiệp rất
nhẹ. V́ thế, thấy luân tướng đỏ (luân
tướng hiện mặt chữ có màu đỏ) biểu
thị điều thiện. Ác nghiệp được viết
bằng màu đen, nhằm biểu thị ác nghiệp. C̣n nếu
chẳng thuộc vào thiện mà cũng chẳng rơi vào
ác, mặt luân ấy để trống, chẳng viết chữ. Mỗi luân
tướng [thuộc loại thứ nhất này] có hai mặt
[viết chữ đối diện nhau, nghiệp thiện
viết bằng màu đỏ, nghiệp ác viết bằng
màu đen, hai mặt c̣n lại để trống], tùy thuộc
quư vị có chủng tử thiện hoặc ác hay không.
Loại
luân tướng thứ hai để nhận biết thiện
ác của quư vị là mạnh hay yếu. Trong quá khứ, chúng
ta đă tạo ác nghiệp mạnh mẽ, hay thiện nghiệp
mạnh mẽ. [Ác nghiệp mạnh mẽ] th́ sẽ [biểu
thị bằng một vạch] màu đen, thô, nặng;
luân tướng hiển thị cho quư vị [như thế
đó]. Thiện nghiệp to th́ [được biểu hiện
trên luân tướng] bằng một vạch đỏ rất
dài. [Vạch biểu
thị] thiện nghiệp ngắn tức là thiện nghiệp nhỏ. Tạo thiện nghiệp chẳng
lớn, th́ được biểu hiện bằng vạch
ngắn màu đỏ. Loại luân tướng
thứ hai để quán nghiệp thiện hoặc ác của
quư vị mạnh hay yếu.
Loại
luân tướng thứ ba là quả báo trong ba đời quá
khứ, hiện tại, và vị lai [được biểu
thị trên mỗi luân tướng] bằng các con số, gồm
một trăm sáu mươi con số, tức là quả báo
phải chịu trong hiện tại. Khi quư vị gieo luân
tướng để hỏi chuyện, hoặc là khi quư vị
buôn bán cũng thế, hoặc quư vị hỏi chuyện bệnh
tật sẽ lành hay nặng hơn, chuyện ǵ cũng chẳng
ra ngoài một trăm sáu mươi con số ấy. Có
mười một số thuộc về quá khứ, có
mười tám số thuộc vị lai, tức là hai
mươi chín số thuộc về quá khứ và vị
lai, cộng thêm với một trăm sáu mươi số
[thuộc hiện tại], tổng cộng thành một
trăm tám mươi chín trường hợp. Con số [một
trăm mười chín] được sanh ra như thế
đó. Sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba lần sáu mười
tám, cộng thêm căn bản vô minh thành mười chín món,
hợp thành mười chín cái luân.
Do
một trăm tám mươi chín con số ấy, khi dùng mộc
luân liên quan đến ba đời, quư vị muốn hỏi
điều ǵ, bèn gieo luân tướng thuộc loại ấy,
chẳng phải là nhất loạt đều gieo hết [cả ba loại luân]. Quư vị hỏi
chuyện quá khứ th́ gieo luân thuộc về quá khứ; hỏi
chuyện vị lai th́ gieo luân thuộc vị lai, hỏi
chuyện hiện tại th́ gieo luân thuộc hiện tại.
Cách dùng của ba thứ luân ấy khác nhau; nhưng khi dùng
luân, nhất định phải dựa trên bái sám, cầu
sám hối, bái Chiêm Sát Sám. Kinh Chiêm Sát có Chiêm Sát Sám Pháp và
Tướng Pháp. Quư vị đả thất thanh tịnh,
lạy suốt bảy ngày, dùng Chiêm Sát Luân để chiêm
sát một phen xem thiện nghiệp, ác
nghiệp tồn tại của quư vị lớn, nhỏ, mạnh,
yếu, nhiều, ít, luân tướng đều
cho quư vị biết tường tận. V́ trong một
trăm sáu mươi [con số thuộc hiện tại],
thêm vào mười một số [thuộc quá khứ], thành
một trăm bảy mươi mốt, lại thêm mười
tám số [thuộc vị lai], thành một trăm tám
mươi chín. V́ ba lần sáu thành mười tám, mười
tám nhân với mười thành một trăm tám
mươi, lại thêm quá khứ, hiện tại, vị
lai của đời này, [đời trước, và đời
sau, tức là ba lần ba thành chín], cho nên một trăm tám
mươi cộng thêm chín bằng một trăm tám
mươi chín. Cội nguồn của những con số ấy
là như thế đó. Chúng đều hiển thị cái
nghiệp của quư vị. Do vậy, khi quư vị sám hối,
trọng điểm là phải phát lộ sám hối. Nghiệp
nào nặng bèn sám hối nghiệp ấy, sám hối nghiệp
ấy trước hết.
V́
thế, lúc thoạt đầu, khi quư vị bắt đầu
bái sám, gieo luân tướng, đại khái là Thập Nghiệp
nơi thân, miệng, ư sẽ đen nhiều, đỏ có
thể là không có, hoặc rất ít. Cho đến khi bái sám,
sẽ dần dần chuyển biến. Các vị xem luân
tướng sẽ biết, dần dần chẳng c̣n
đen nữa, biến thành đỏ. “Đỏ” tức
là biến túc thế ác nghiệp thành đỏ (thành thiện).
Ác là ǵ? Đó là nói về các đệ tử Phật chúng
ta. Sau khi quư vị thọ giới cho đến sau khi đă thọ Tam Quy, đó là thiện, thiện
nghiệp sâu nặng, hễ sâu nặng th́ [luân tướng]
sẽ biến thành đỏ. Thiện nghiệp đă sâu nặng
th́ màu đen của ác nghiệp sẽ dần
dần chẳng có. Cho đến khi toàn thể luân tướng
của quư vị đều biến thành đỏ, công
năng sám hối của quư vị đă thành công! Khi đó,
lúc quư vị tu đạo, bất luận quư vị tu Thiền
Định, tu Chỉ Quán, hoặc là bái sám niệm Phật,
luân tướng sẽ cho quư vị biết: Đều biến
thành đỏ th́ chắc chắn sẽ thành tựu.
Sám
pháp thuộc nửa trước của bộ kinh nhằm
mục đích dùng cho nửa bộ sau, chẳng phải là
để hỏi điều thiện, lẽ ác của chúng ta trong nhân gian. Quư vị
có thể hỏi thiện ác trong nhân gian, chủ yếu là
v́ tu đạo. Khi quư vị đả thất, gieo luân
tướng, quư vị sẽ biết nghiệp chướng
của chính ḿnh tiêu trừ đến mức độ nào. Do có phần hạn, sẽ
biết thiện nghiệp của chính ḿnh tăng trưởng
cỡ nào! Nhưng [có khi] thân nghiệp của quư vị chẳng
nặng, hoặc chẳng có, nhưng khẩu nghiệp
đặc biệt nặng nề. Do vậy, quư vị bèn
chuyên sám hối khẩu nghiệp. Vừa sám hối, vừa
hướng về Địa Tạng Vương Bồ
Tát thưa bày. Khi thưa bày, quư vị bái sám đă xong, lúc sắp
hồi hướng, phải thưa rơ, hướng về
Địa Tạng Vương Bồ Tát thưa bày. Đồng
thời, trong khi bái sám, khi tu sám pháp này, lúc dùng luân tướng,
hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát nhất định
sẽ hiện đến. V́ sao? Đối với [các nghiệp]
đỏ và đen của quư vị, nếu Địa Tạng
Vương Bồ Tát chẳng đến, quư vị bái sám
chẳng thành công!
Trong
lúc tu tập, quư vị có thể thí nghiệm đôi chút. Có
rất nhiều đạo hữu tu tập, khi chính tôi lễ
bái cũng làm như thế, khi hắc nghiệp của quư
vị rất nhiều, lúc sám hối, tâm quư vị rất
thành khẩn. Thưa bày trong lúc ấy, đặc biệt
đ̣i hỏi điều ǵ? Chí tâm! Chí tâm chính là thành khẩn.
Kinh văn trong phần sau sẽ nói như thế nào th́ mới
được coi là “chí tâm”, có sơ bộ chí tâm (hạ
chí tâm), chí tâm bậc trung, và chí tâm bậc thượng, phải
chế tâm nhất xứ. Chí tâm ở mức thấp nhất
sẽ chẳng đầy đủ, bái sám chẳng thành tựu.
Bất luận quư vị đảnh lễ nhiều đến
đâu, [do chẳng đủ chí tâm], hiệu quả đều
chẳng to lớn!
(Kinh)
Ngôn Thập Thiện giả, tắc vi nhất thiết
chúng thiện căn bản, năng nhiếp nhất thiết
chư dư thiện pháp. Ngôn Thập Ác giả, diệc vi
nhất thiết chúng ác căn bản, năng nhiếp nhất
thiết chư dư ác pháp.
(經)言十善者。則為一切衆善根本。能攝一切諸余善法。言十惡者。亦為一切衆惡根本。能攝一切諸余惡法。
(Kinh:
Nói Thập Thiện th́ đó là căn bản của hết
thảy các điều thiện, có thể gồm thâu hết
thảy các thiện pháp khác. Nói Thập Ác th́ đó là căn
bản của hết thảy các điều ác, có thể gồm
thâu hết thảy các ác pháp khác).
Do
Thập Thiện là căn bản của hết thảy các
thiện nghiệp, Thập Ác là căn bản của hết
thảy ác nghiệp; cho nên Thập Ác và Thập Thiện là
căn bản sơ bộ để sám hối. Khi sám hối, chính quư vị gieo luân tướng hằng ngày, luân
tướng sẽ cho quư vị biết nghiệp nào đặc
biệt nặng nề, quư vị bèn đặc biệt sám
hối nghiệp ấy. Nghiệp nào nặng nề, tâm quư
vị sẽ chú ư điều ấy. V́ thông thường,
chướng ngại lớn nhất cho sự tu hành của
chúng ta là ǵ? Chẳng phải là tham, sân, si, mà là nghi. Trong khi
quư vị bái sám, điều thứ nhất là quư vị trừ
khử nghi, phải sám hối Nghi trước hết. Nếu
quư vị chẳng tin tưởng kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quư vị c̣n lạy kinh làm ǵ? Chẳng
có hiệu quả! Quư vị hoài nghi Địa Tạng
Vương Bồ Tát có hiển hiện hay không? Hễ
có niệm tâm như thế, đó là nghi! Quư vị đă
hoài nghi th́ c̣n có thể đạt được ư? Hoài
nghi th́ sẽ không đạt được! Càng trọng yếu
hơn là nhất định phải chí thành, khẩn thiết,
ngàn vạn phần chớ nên có chút kiêu mạn nào! Nếu
có mạn tâm, mạn tâm là trợ duyên của tham, sân, si.
Tham tâm và ngu si tâm chính là mạn. Mạn là căn bản [phiền
năo].
Do
vậy, hăy chú ư, trong khi quư vị thành khẩn lễ bái, chẳng
có chút tâm kiêu mạn nào! V́ sao? V́ quư vị hễ tiến vào
sám thất[3],
đối với các phiền năo của quư vị, hăy tự
quán tưởng trước, đoạn phiền năo
trước. Phiền năo, mạn phiền năo, nghi phiền
năo phải đoạn trước. Khi quư vị tiến
vào sám thất để bái sám, chẳng có một tí hoài nghi
nào. Điều thứ nhất phải tin tưởng
Địa Tạng Bồ Tát, điều thứ hai là phải
trừ khử tham. Mạn thuộc vào tham. Tâm tham quá nặng,
ḷng nghi quá nặng; đó là hai điều đại kỵ trong bái sám. Hơn nữa, bái sám th́ ngàn vạn
phần đừng nên có tâm phẫn hận, tâm năo hận,
tâm tổn hại kẻ khác, tâm ganh tỵ. Khi bái sám, bước
vào sám thất, bèn đoạn tham, sân, si. Mạn thuộc về
tham, hoài nghi thuộc về si, mấy loại [tâm sở như] tùy, hại, phẫn, năo đều thuộc
về sân hận, tức tâm sân hận. Trong khi quư vị bái
sám, vừa tiến vào sám thất, hăy giữ sao cho cái tâm
b́nh lặng. Điều thứ nhất là tâm an, người
ta nói “tâm an lư đắc”, tức là tâm quư vị phải
an tịnh th́ mới có thể đạt được!
Chúng
ta đều đă học giáo nghĩa Đại Thừa.
Nếu nói theo giáo nghĩa viên măn, như thế nào th́ mới
được coi là viên dung vô ngại? Chỉ cần một
chữ đă gồm trọn, tức là khi quư vị tiến
vào sám thất, toàn bộ đều buông xuống, sẽ là
thiện. V́ đó là nghiệp báo thiện ác, [chiêm sát luân
tướng nhằm] chiêm sát nghiệp báo thiện ác.
Đương nhiên là nếu quư vị chẳng phát Bồ
Đề tâm, sẽ chẳng tiến vào sám thất,
cũng sẽ chẳng lạy Chiêm Sát Sám. Khi quư vị mong
phát Bồ Đề tâm, tiến vào sám thất, lúc cầu
sám hối, sám hối th́ vô minh phiền năo, tập khí, Kiến
Tư Hoặc trong quá khứ đều phải
đoạn trừ sạch, cho nên mới sám hối. Do trong
lúc thông thường, bản thân chúng ta chẳng
có sức mạnh ấy, v́ sao phải lạy Chiêm Sát Sám? Nhằm
cầu Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ chúng ta, khiến
cho chúng ta có thể sanh thêm sức mạnh. Khi quư vị
đă lạy một ngày, hôm sau khi dùng Chiêm Sát Luân, Địa
Tạng Bồ Tát chẳng hóa thân, lúc ấy, Ngài chẳng
hóa thân, mà tác ư, luân tướng của quư vị sẽ chẳng
thể xác định được. Theo kinh nghiệm của
tôi, luân tướng gieo trong bảy ngày đầu tiên đều
chẳng phải là chân thật, mà
cũng chẳng hiện. Sau bảy ngày [bái sám] dự bị
lần đầu đă xong, quư vị bắt đầu bảy
ngày [bái sám] lần thứ hai, [luân tướng] sẽ linh
nghiệm, hiệu quả sẽ linh nghiệm. Do đó, thị
hiện đỏ hay đen là thị hiện tướng,
cho quư vị biết nghiệp chướng nào trong quá khứ
nặng nề, nghiệp chướng nào rất nhẹ,
đó gọi là “trọng điểm sám hối”. Do hóa
thân của Địa Tạng Bồ Tát ắt hiển hiện,
quư vị sẽ gieo luân tướng thành công. Nếu Địa
Tạng Bồ Tát chẳng hiện thân, hóa thân của Ngài chẳng
đến, luân tướng của quư vị vĩnh viễn
bất định, lời đáp chẳng đúng với lời
hỏi, luân tướng hiển hiện đều chẳng chuẩn xác.
Nhất
định phải chú ư điều này, chú ư ǵ vậy?
Đừng coi giả tướng thành thật. Khi quư vị
bái sám, phải nên chú ư điều này! Quư vị bái sám sẽ
có thể dùng Chiêm Sát Luân. Hôm nay lễ bái suốt một
ngày, hôm nay chẳng gieo [luân tướng]. Hôm nay đă lễ
bái suốt ngày, sáng sớm ngày mai, vừa vào sám thất, bèn dùng Chiêm Sát Luân trước. Chiêm sát xong rồi lại
bái sám. Trong ngày hôm ấy, đừng dùng Chiêm Sát Luân. Bái sám
xong, sáng sớm hôm sau sẽ dùng Chiêm Sát Luân trước
để chiêm sát thâu hoạch của ta trong ngày hôm qua. Sau
khi quư vị đă bái sám bảy ngày lần thứ hai, trong
bảy ngày lần thứ ba, luân tướng sẽ tùy thời
biến đổi. Cho đến khi quư vị đă thực
hiện [bái sám] bốn lần bảy ngày, luân tướng
sẽ trở lại. Trở lại như thế nào? Lúc
đó, màu đỏ [đă thu được do gieo luân
tướng thường được coi là] thanh tịnh
lại chẳng phải là thanh tịnh[4]!
V́ sao? Đó gọi là túc nghiệp phát hiện. Quư vị
đă sám hối thanh tịnh [các nghiệp chủng đang]
hiện hành, túc nghiệp liền đưa đến! Nợ
nần trong hiện tại quư vị vẫn chưa trả
xong, nghiệp quá khứ chẳng hiện. Tới khi [nợ
nần trong] hiện tại đă thanh tịnh, nó (luân tướng)
sẽ quay lại tính toán nghiệp chướng trong quá khứ.
Quư vị phải bái sám gấp bội! Sau khi đă bái sám suốt
ba thất, bốn thất, năm thất, túc nghiệp
cũng dần dần thanh tịnh. Khi đó, tâm địa
quư vị hết sức thanh tịnh, phiền năo nhẹ
nhàng, bái sám rất an tâm. Khi đó, thân tâm sẽ đạt
được cảnh giới khinh an. Quư vị ắt phải
bái sám rồi mới có kinh
nghiệm về chuyện
này, chẳng bái th́ sẽ chẳng có!
(Kinh)
Nhược dục chiêm thử luân tướng giả,
tiên đương học chí tâm tổng lễ thập
phương nhất thiết chư Phật, nhân tức lập
nguyện: “Nguyện linh thập phương nhất thiết
chúng sanh, tốc tật giai đắc thân cận, cúng
dường, tư thọ chánh pháp”. Thứ ưng học
chí tâm kính lễ thập phương nhất thiết pháp tạng.
Nhân tức lập nguyện: “Nguyện linh thập
phương nhất thiết chúng sanh, tốc tật giai
đắc thọ tŕ, độc tụng, như pháp tu hành,
cập vị tha thuyết”. Thứ đương học
chí tâm kính lễ thập phương nhất thiết hiền
thánh, nhân tức lập nguyện: “Nguyện linh thập
phương nhất thiết chúng sanh, tốc tật giai
đắc thân cận, cúng dường, phát Bồ Đề
tâm, chí bất thoái chuyển”. Hậu ưng học chí tâm lễ
ngă Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Nhân tức lập
nguyện: “Nguyện linh thập phương nhất thiết
chúng sanh, tốc đắc trừ diệt ác nghiệp trọng
tội, ly chư chướng ngại, tư sanh chúng cụ
tất giai sung túc”.
(經)若欲占此輪相者。先當學至心總禮十方一切諸佛。因即立願。願令十方一切衆生速疾皆得親近供養諮受正法。次應學至心敬禮十方一切法藏。因即立願。願令十方一切衆生速疾皆得受持讀誦。如法修行。及為他說。次當學至心敬禮十方一切賢聖。因即立願。願令十方一切衆生速疾皆得親近供養。發菩提心至不退轉。後應學至心禮我地藏菩薩摩訶薩。因即立願。願令十方一切衆生速得除滅惡業重罪。離諸障礙。資生衆具悉皆充足。
(Kinh:
Nếu muốn chiêm sát luân tướng này, trước hết, hăy nên học chí tâm lễ chung mười
phương hết thảy chư Phật, do vậy, liền
lập nguyện: “Nguyện cho mười phương hết
thảy chúng sanh đều mau chóng được thân cận,
cúng dường, xin lănh thọ chánh pháp”. Kế đó, nên học
chí tâm kính lễ mười phương hết thảy
pháp tạng. Do vậy, liền lập nguyện: “Nguyện
cho mười phương hết thảy chúng sanh đều
mau chóng được thọ tŕ, đọc tụng,
đúng như pháp tu hành, và v́ người khác nói”. Kế
đó, hăy nên học chí tâm kính lễ mười phương
hết thảy hiền thánh, do vậy, liền lập nguyện:
“Nguyện cho mười phương hết thảy chúng
sanh, đều mau chóng được thân cận, cúng
dường, phát Bồ Đề tâm, cho đến bất
thoái chuyển”. Sau đó, hăy nên học chí tâm lễ ta là
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Do vậy, bèn lập
nguyện: “Nguyện cho mười phương hết thảy
chúng sanh mau được trừ diệt ác nghiệp trọng
tội, ĺa các chướng ngại, các thứ vật dụng
cần thiết cho cuộc sống đều được
sung túc”).
Hoàn
toàn chẳng phải là chúng ta cầm lấy luân tướng
bèn chiêm sát, không thể được! Khi quư vị muốn
chiêm sát luân tướng; trước hết, phải học chí tâm. Điều
đầu tiên là phải học chí tâm. Phàm là người
muốn chiêm sát luân tướng, quư vị muốn tu pháp môn
này, trước hết, hăy nên học chí tâm lễ chung
mười phương hết thảy chư Phật. Khi
lễ mười phương chư Phật, quư vị liền
phát nguyện, [đó là ư nghĩa của câu] “nhân tức lập
nguyện”, nguyện ǵ vậy? Nguyện cho mười
phương hết thảy chúng sanh đều được
mau chóng thân cận, cúng dường, xin lănh thọ chánh pháp.
Nguyện thứ nhất là điều nghĩ đến
đầu tiên. Quư vị mong bái sám, muốn dùng Chiêm Sát Luân
Tướng, th́ trước hết, quư vị phải học
chí tâm. “Chí tâm” là tâm quư vị chí thành, khẩn thiết,
nhiếp tâm quy nhất, đó là “nhất tâm”. Mọi
người bái bất cứ
sám pháp nào, th́ cũng đều là nhất tâm. Tâm của
chúng ta há c̣n có hai cái ư? Khiến cho quư vị nhất tâm
là dạy quư vị trong lúc ấy chẳng có chút vọng
tưởng nào, bất cứ sự vật nào cũng
đều buông xuống. Chí tâm chẳng [đơn giản]
như tôi vừa nói. Trong phần sau, kinh văn sẽ nói chí tâm là
như thế nào, có ba loại chí tâm. Một là chí tâm lễ
mười phương hết thảy chư Phật.
Trong khi lễ Phật, bèn phát nguyện. V́ sao ta phải lễ
mười phương chư Phật? Mục đích của
ta là mong cho mười phương hết thảy chúng sanh
đều có thể thanh tịnh cúng dường pháp. Nói
đến pháp trước hết, [mong cho họ] sẽ “tư
thọ chánh pháp” (xin lănh thọ chánh pháp).
Tiếp
đó là học chí tâm kính lễ mười phương hết
thảy pháp tạng. Do vậy liền lập nguyện,
nguyện cho hết thảy chúng sanh, tức mười
phương chúng sanh đều mau chóng được thọ
tŕ, đọc tụng, đúng như pháp tu hành, thọ tŕ
Đại Thừa. Quư vị thọ tŕ kinh ǵ cũng đều
được. Kinh Kim Cang, Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm, kinh A Di Đà… Hết thảy các kinh đều bao
gồm trong ấy, đều là mười phương
pháp tạng. Nhưng khi quư vị tụng kinh, nhất định
phải phát nguyện. Tôi đă hỏi rất nhiều
đạo hữu, họ cũng đọc tụng Đại
Thừa, nhưng chẳng phát nguyện, mà cũng chả hồi
hướng! Như thế th́ quư vị tụng kinh để
làm ǵ? Chẳng phát nguyện, hiệu quả sẽ chẳng
lớn! Do vậy, trước khi muốn làm chi đó,
đều phải phát nguyện: Quư vị muốn đạt
tới mục đích ǵ? Hy vọng điều
ǵ? Không chỉ là pháp môn Địa Tạng,
các pháp môn khác cũng đều như thế. Điều
trước nhất là kính lễ chư Phật, thứ hai
là kính lễ thập phương pháp, thứ ba là kính lễ
thập phương hiền thánh tăng. Đó
là trước hết bèn lễ kính Tam Bảo, thông thường
đều là như thế.
Nhưng
Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta, quư
vị lễ mười phương hết thảy
chư Phật phải phát nguyện, nguyện cho hết thảy
chúng sanh đều có thể thanh tịnh cúng dường,
cũng như đều tiếp nhận chánh pháp giống hệt quư vị. Hướng về
đức Phật thỉnh pháp, thỉnh Phật thuyết
pháp th́ gọi là “tư thọ chánh pháp”. [Như thế] th́ mới là lễ Phật Bảo. Điều thứ
hai là lễ hết thảy pháp tạng. Quư vị cũng phải
phát nguyện, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều
có thể thọ tŕ, đọc tụng, đúng pháp tu hành,
thọ tŕ giáo nghĩa Đại Thừa của đức
Phật, có thể chiếu theo các điều kinh đă dạy
để hành, chẳng phải chỉ thọ tŕ suông, chỉ
thỉnh đức Phật thuyết pháp rồi thôi, mà c̣n phải
nương theo pháp để tu hành. Kế đó, hăy nên chí
tâm kính lễ mười phương hết thảy hiền
thánh, do đó liền lập nguyện: Nguyện cho mười
phương hết thảy chúng sanh đều nhanh chóng
được thân cận, cúng dường, phát Bồ
Đề tâm, cho đến chẳng thoái chuyển. Thông
thường, viên măn tâm Thập Tín, dự lên địa vị Sơ Trụ th́ sẽ
bất thoái. Đó là [tŕnh tự địa vị của
Viên Giáo Bồ Tát] theo kinh Hoa Nghiêm. Giáo nghĩa Hoa Nghiêm nói
như thế đó. Xét theo ngũ giáo thông thường của
Đại Thừa th́ đạt đến Thất Địa
Bồ Tát mới chẳng thoái chuyển, chứ thông thường,
[các địa vị thấp hơn] vẫn bị thoái chuyển.
Trong kinh Hoa Nghiêm th́ viên măn tâm Thập Tín, dự vào Sơ Trụ
[sẽ chẳng thoái chuyển]. Nói “Trụ” có nghĩa
là “chẳng thoái chuyển”. Lễ Tam Bảo như thế
đó.
Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta, nếu quư vị muốn học
Chiêm Sát Luân, học kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo; trước hết, quư vị
phải chí thành, khẩn thiết lễ kính Tam Bảo,
sau đấy phải phát nguyện, tức là phát nguyện
khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể lễ
kính Tam Bảo. Chẳng phải là một ḿnh ta, mà là mười
phương vô lượng chúng sanh. Lễ Tam Bảo xong
bèn lễ ta, tức Địa Tạng Bồ Tát. Hăy nên học chí tâm lễ Địa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát. Khi lễ Địa Tạng Bồ Tát, quư vị
cũng phải phát nguyện: “Nguyện cho mười
phương hết thảy chúng sanh đều có thể trừ
diệt ác nghiệp trọng tội, ĺa các chướng ngại,
các vật dụng cần thiết cho cuộc sống thảy
đều sung túc”. Lễ kính Tam Bảo, đấy là pháp chủ,
tức pháp chủ của kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo. Như nhân gian khách sáo, chỉ tán thán
Tam Bảo, chẳng nói đến chính ḿnh, Địa Tạng
Vương Bồ Tát chẳng theo thói tục ấy, [Ngài dạy thẳng thừng]: “Quư vị phải
lễ ta, tức Địa Tạng Bồ Tát”. V́ quư vị học pháp Địa Tạng, muốn sử
dụng Chiêm Sát Luân, phải lễ ta, tức lễ Địa
Tạng Bồ Tát. Đồng thời, quư vị cũng phải
phát nguyện, [phạm vi phát nguyện] cũng là mười
phương: “Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều
diệt trừ ác nghiệp, trọng chướng, khiến
cho họ được đầy đủ
các vật dụng cần thiết trong đời sống”.
Nói đơn giản th́ là khiến cho ai nấy đều
có thể phát tài. Phát tài th́ mới có vật dụng cần
thiết cho cuộc sống, chẳng bị thiếu hụt,
thảy đều sung túc, tràn trề!
Đoạn
kinh văn này là lễ kính Tam Bảo, được gọi
là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Trong hết thảy các
kinh, kinh điển Đại Thừa đều trọn
đủ Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Chí tâm là ǵ, trong
phần sau sẽ nói tỉ mỉ, tôi chỉ nói đại
khái. Chí tâm phải đạt tới mức vô ngă tướng,
vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, chẳng có ta là
người lễ, cũng chẳng có Tam Bảo và Bồ
Tát là đối tượng được lễ. Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta trọng thệ như thế
th́ gọi là “chí tâm”. Đó gọi là Vô Tác Tứ Hoằng
Thệ Nguyện, vô tác, vô nguyện. Ở ngay trong nguyện,
nguyện chính là vô nguyện. Vô Tác: Tác chính là vô tác, trong tâm
chớ nên chấp trước. Do vậy, trước hết
khiến cho quư vị chí tâm. Chí tâm là hết thảy đều
buông xuống, một tí chấp trước cũng chẳng
có, quư vị mới có thể đạt tới chí tâm trọn
khắp mười phương. Nếu không, làm sao có thể
trọn khắp mười phương cho được?
Cái tâm của chúng ta rất chấp trước, cho nên quư vị
bước vào sám thất th́ phải buông xuống!
V́
chúng ta đều dùng Chiêm Sát Luân Tướng, thoạt nghe
th́ dường như rất đơn giản! Quư vị
dùng Chiêm Sát Luân Tướng, trước khi chiêm sát luân
tướng, sẽ có một nghi quỹ. Nghi quỹ ấy
chính là lễ kính Tam Bảo. Lễ kính Tam Bảo chẳng
phải là [lễ kính] một hai vị,
mà là vô lượng, vô biên, tận hư không khắp pháp giới
mười phương hết thảy Phật Bảo, tận
hư không khắp pháp giới mười phương hết
thảy Pháp Bảo, tận hư không khắp pháp giới
mười phương hết thảy Tăng Bảo; lại
c̣n phải cúng dường thanh tịnh. Hai chữ này rất
khó! Trong tâm thanh tịnh, chẳng có tạp niệm nào khác,
chúng ta kiên tŕ th́ thỉnh thoảng mới có thể làm
được một lần dễ dàng. Chúng ta có thể
làm được, nhưng chẳng thể giữ cho lâu
dài. Quư vị bước vào sám thất, từ sáng cho đến
tối, đều có thể là cùng một cái tâm ấy hay
chăng? Luôn có thể chẳng dấy lên vọng tưởng
hay chăng? Luôn có thể lễ kính Tam Bảo hay không? Tôi kiểm
điểm chính ḿnh, nhận biết chính ḿnh chẳng thể
làm được. Tôi nghĩ có bậc đại tâm Bồ
Tát đang hiện diện nơi đây có thể làm
được, chuyện này chẳng dễ dàng! Nói tới
phát tâm th́ rất dễ dàng, có thể phát khởi cái tâm dũng
mănh. Vừa nghe th́
tâm sám hối nghiệp chướng rất dễ kích
động phát khởi, nhưng giữ được cái
tâm ấy lâu dài th́ khó lắm! Chúng ta lạy suốt một
ngày, thứ ǵ cũng đều có thể kiên tŕ buông xuống,
ngày thứ hai th́ sao? Ngày thứ ba th́ sao? Tâm dũng mănh dễ
phát khởi, cái tâm giữ vững lâu dài khó sanh! Đó là lư
do v́ sao khi bái sám, trong ba ngày đầu, quư vị sử dụng
Chiêm Sát Luân sẽ thấy hỗn loạn, đơn giản
là chẳng tương ứng! V́ cái tâm của quư vị vẫn
chưa định được, dùng Chiêm Sát Luân cần
phải chí tâm. Chẳng phải giống như tới sạp
của thầy bói, tôi đưa cho quư vị mấy đồng,
quư vị tính cho tôi một quẻ là được rồi.
Đâu có đơn giản như vậy, chẳng hề
đơn giản như thế!
Tôi
thấy các đạo hữu chúng ta đều đă phát Bồ
Đề tâm. Phát tâm dễ dàng, nhưng muốn viên măn cái
tâm ấy, khó lắm! Từ tâm, bi tâm, đại bi tâm, ba tâm
đều trọn đủ th́ mới là “phát Bồ Đề tâm”. Tôi nghĩ trong
số chư vị, có rất nhiều vị đă thọ
Bồ Tát Giới, đều là đại đạo tâm Bồ
Tát. Tôi kể một câu chuyện, tức chuyện về ngài
Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất
tính phát Bồ Đề tâm, ĺa bỏ Thanh Văn. Phát Bồ
Đề tâm th́ phải độ chúng sanh. Ngài vừa mới
phát đại tâm, Đế Thích Thiên đế chúa, chúng ta
thường gọi ông ta là Ngọc Hoàng Đại Đế.
Đó là Bồ Tát hóa thân, chẳng phải là Đế Thích
Thiên b́nh phàm. Khi ngài Xá Lợi Phất vừa phát Bồ Đề tâm trong nhân
gian, Đế Thích Thiên liền đến khảo nghiệm
tôn giả, chờ Ngài ở ngay bên đường. Ngài Xá Lợi Phất đă phát Bồ Đề tâm, Đế
Thích Thiên liền hóa thành một cô bé nghèo khổ, chực sẵn
bên đường, khóc lóc. Ngài Xá Lợi Phất vừa
mới phát tâm, thấy cảnh giới ấy hiện tiền,
bèn hỏi cô bé ấy: “Con khóc v́ lẽ nào? Ta có thể giúp
con hay không?” Cô bé đáp: “Ông không giúp nổi đâu!” Ngài nói:
“Ta có năng lực có thể giúp con, hăy nói xem con cần
ǵ?” Cô bé nói: “Mẹ con bị bệnh sắp chết. Lương y kê toa, cắt thuốc.
Toa thuốc ấy th́ dược liệu rất dễ mua,
chất dẫn thuốc khó t́m!” Ngài Xá Lợi Phất hỏi
cô ta: “Phải dùng thứ ǵ để dẫn thuốc?” Cô
ta nói: “Phải dùng mắt của người sống”. Ngài
Xá Lợi Phất nghe xong, suy nghĩ: “Ta vừa mới
phát Bồ Đề tâm, liền gặp chuyện này. Tướng cảnh giới hiện
thực đưa tới liền!” Ngài suy nghĩ:
“Được rồi, ta thỏa nguyện cho cô bé”, bèn móc
một con mắt cho cô ta. Cô bé kêu lên: “Trật rồi! Ông
móc sai rồi. Tôi cần con mắt bên trái. Ông móc con mắt bên phải,
chẳng được!” Ngài Xá Lợi Phất
đáp: “Sao con không nói sớm?” Đă có chút sai sót rồi, nguyện
lực c̣n khiếm khuyết! Ngài suy nghĩ đôi chút: “Thôi
được! Dẫu sao ta có thiên nhăn, không sao”, móc luôn con
mắt kia cho cô ta. Cô bé cầm lấy, ngửi rồi kêu: “Ối
trời ơi! Tanh thối, ói chết được! Làm
sao có thể cho vào thuốc!” Quăng phẹt xuống đất,
lại c̣n giẫm lên. Ngài Xá Lợi Phất
nói “đại tâm khó phát”, vừa phát Bồ Đề tâm liền
gặp phải cảnh giới như thế. Hai mắt
đều móc ra, thế mà vẫn chẳng măn nguyện!
Đế Thích Thiên liền bảo: “Trả mắt lại
cho ông. Ông chẳng thể phát Bồ Đề tâm”.
Mọi
người nghe câu chuyện này, có cảm tưởng ǵ?
Hiện thời, chúng ta phát Bồ Đề tâm, tôi nghĩ
các đạo hữu chúng ta đều phát Bồ Đề
tâm, nhưng chẳng có ai muốn xin chúng ta mắt, cũng
chẳng có ai muốn xin chúng ta mũi. V́ sao? Chúng ta vẫn
chưa đạt tới tướng cảnh giới ấy,
biết chúng ta là hư vọng. Nếu quư vị nhờ vào
bái sám ḥng chứng thực quư vị phát Bồ Đề
tâm, lại được Địa Tạng Bồ Tát gia
tŕ, quư vị sẽ phát đạo tâm.
(Kinh)
Như thị lễ dĩ, tùy sở hữu hương,
hoa đẳng, đương tu cúng dường.
(經)如是禮已。隨所有香華等當修供養。
(Kinh:
Lễ như thế xong, tùy theo các thứ hương hoa
đă có, hăy nên tu cúng dường).
Lễ
mười phương Tam Bảo xong xuôi, đă lễ
Địa Tạng Bồ Tát xong, hăy tận hết sức
của chính ḿnh. Tùy thuộc những ǵ chính ḿnh có, hương cũng thế, mà
hoa cũng thế, tùy sức của chính
ḿnh để cúng dường chư Phật, đó là “tu
cúng dường”. Lễ kính Tam Bảo xong rồi, phải tu cúng dường, “cúng dường” vẫn
là cúng dường Tam Bảo. Sự cúng dường này tùy
ư. Tốt nhất là dùng sức mạnh to lớn của
quán tưởng để cúng dường. Quư vị chẳng
cần mua mấy đóa hoa, mua một ít trái cây làm chi! Hăy vận
dụng pháp cúng dường. Pháp cúng dường là nói đến
cái tâm; quư vị dùng nguyện lực của cái tâm để
cúng dường. Tôi đă nói với rất nhiều đạo
hữu: Vào lúc sáng sớm, khi muốn cúng dường
chư Phật, quư vị ngồi tại đó, tịnh tâm
quán tưởng. Phàm là những chỗ chợ búa, cửa
hàng bách hóa, tiệm buôn, hay sạp bán trái cây mà quư vị đă
từng tới, hăy quán tưởng dời hết chúng về.
Ở Mỹ cũng thế, Bắc Kinh cũng thế,
Thượng Hải, Đài Bắc, Đài Trung, Đài Nam,
quư vị dùng toàn bộ để cúng dường. Đó gọi
là “ức niệm”. Tôi từng nói với một đạo
hữu như thế, ông ta bảo: “Thầy nói giả
trất!” Tôi bảo: “Đó là thật, giả sao được?
Cúng dường theo kiểu ông nói th́ hai ngày đă hư mất
rồi, c̣n cách cúng dường của tôi vĩnh viễn bất
hoại. Chỉ cần tâm ta bất tử, nguyện lực
tồn tại, [các thứ đă cúng dường bằng
cách quán tưởng ấy] vĩnh viễn thường tồn
tại”. Mọi người đừng nên so đo là giả
hay thật. Thật ra, tất cả toàn là giả, nguyện
lực của quư vị mới là thật! Phát nguyện của
chúng ta đều là giả ư? Chẳng phải vậy!
Đó mới là thật! Giả th́ sẽ hư hoại. Sau
khi đă lư giải như vậy, đấy chỉ là “tu cúng
dường”.
(Kinh)
Tu cúng dường giả, ức niệm nhất thiết
Phật, Pháp, Tăng Bảo, thể thường biến
măn, vô sở bất tại.
(經)修供養者。憶念一切佛法僧寶。體常遍滿。無所不在。
(Kinh:
“Tu cúng dường” là nghĩ nhớ hết thảy Phật,
Pháp, Tăng Bảo, thể thường trọn khắp,
không đâu chẳng tồn tại).
Đă
tu cúng dường xong, quư vị phải tĩnh tư (靜思, lắng ḷng suy
nghĩ). Tức là sau khi quư vị đă tiến vào sám thất
để bái sám, cúng dường Tam Bảo, lễ kính xong
xuôi. Sau đó, hăy ức niệm. Đă cúng dường rồi
c̣n ức niệm, ức niệm ǵ vậy? Cúng dường
xong, bèn ức niệm Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo
trọn khắp hết thảy mọi nơi, không đâu
chẳng tồn tại. Đấy mới là thật. Ngay
trong đạo tràng của chúng ta, mười phương
Tam Bảo đều hiện diện; tâm quư vị chí thành,
khẩn thiết quán tưởng. Kinh Phật thường
dạy: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu,
trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện
căn” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức,
nuôi lớn hết thảy các thiện căn).
Tôi nói điều này chắc quư vị không tin! Ở chỗ
nào? Ở đây há có Tam Bảo? Chúng ta đều là Tam Bảo!
Quư vị đừng hạn chế trong căn nhà này, hăy mở
rộng ra, hăy mở rộng cái tâm. Mở rộng tới mức
độ nào? Tận hư không, trọn khắp pháp giới,
không nơi đâu chẳng phải là thường trụ
Tam Bảo. Tâm quư vị lớn cỡ nào, lượng to cỡ
nào, pháp sẽ to chừng đó. Điều này có mối
liên quan hết sức trọng yếu, chẳng giả;
đấy mới là thật. Những thứ khác đúng là
dễ dàng hư hoại, mà cũng dễ dàng chẳng c̣n! Cái
tâm của quư vị vĩnh viễn bất hoại. Nói
như vậy, ta chết chẳng phải là “đă hoại”
ư? Quư vị chết [là chết nhục thân], chứ cái
tâm của quư vị chẳng chết. Sức mạnh quán
tưởng, sức mạnh tu hành bái sám của quư vị
chẳng tiêu mất chút nào, c̣n y nguyên! Vấn đề là
ǵ? Là do quư vị chẳng tin, xong luôn! Do vậy, quư vị
muốn lạy Chiêm Sát Sám, nhất định phải tin
tưởng Địa Tạng Bồ Tát, tin tưởng
trong khi ta bái sám, Địa Tạng Bồ Tát sẽ chứng
minh cho ta, sẽ gia tŕ ta, tiêu trừ nghiệp chướng
của ta, khiến cho ta có thể thành Phật ngay nơi
thân này, thành Phật mau hơn đôi chút. Nếu quư vị
chẳng có cái tâm ấy, tốt nhất là đừng nên lạy
th́ hơn! Ắt cần phải kiến
lập tín tâm ấy. Do vậy, kinh Chiêm Sát dạy quư vị
nhất định phải chí tâm. Tâm chí thành, khẩn thiết,
chuyện ǵ cũng đều có thể thành tựu. V́ thế
nói: Trong khi quư vị cúng dường, nhất định phải
ức niệm Tam Bảo. Pháp thể của Tam Bảo
thường tồn tại, lại c̣n không chỗ nào chẳng
hiện diện, có mặt khắp nơi! Đừng
nghĩ Địa Tạng Vương Bồ Tát đang ở
trong địa ngục độ chúng sanh! Tận hư
không, khắp pháp giới, không chỗ nào chẳng phải
là Địa Tạng.
(Kinh)
Nguyện linh dĩ thử hương hoa đẳng đồng
pháp tánh, phổ huân nhất thiết chư Phật sát độ,
thi tác Phật sự.
(經)願令以此香華等同法性。普熏一切諸佛刹土。施作佛事。
(Kinh:
Nguyện cho các hương, hoa v.v… ấy bằng
với pháp tánh, xông trọn khắp hết thảy các cơi Phật,
thực hiện Phật sự).
Đồng
thời c̣n phải phát nguyện: Nguyện cho tất cả
hương, hoa ta đă dâng cúng là pháp tánh, bằng với pháp tánh, các thứ ta đă cúng, thứ nào cũng đều là
pháp tánh. Hết thảy các cơi Phật đều có ta ở
trong đó thực
hiện Phật sự. Vậy th́ nếu quư vị mong cầu sanh về thế giới
Cực Lạc sẽ dễ dàng. Quư vị
cúng dường, làm Phật sự ở đó. Thế giới
Cực Lạc, thế giới Lưu Ly ở phương
Đông, thế giới Bất Động ở
phương trên, toàn bộ hết thảy các thế giới
đều có ta cúng dường trong ấy, pháp tánh trọn khắp hết thảy mọi
nơi. Do vậy, mọi người học Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo, hăy mở rộng thật lớn cái tâm. Khi
tiến vào sám thất, quư vị ắt cần phải làm chuyện
ấy! Tôi nghe có người nói với tôi: “Thưa lăo pháp
sư! Thầy đă giảng Hoa Nghiêm, sao lại c̣n giảng
kèm pháp Tiểu Thừa, giảng về Địa Tạng
Vương Bồ Tát?” Ba kinh của Địa Tạng Bồ
Tát đều là Hoa Nghiêm, chớ nên hiểu sai! Mọi
người đă nghe tôi giảng đoạn kinh cúng dường
Tam Bảo này. Tiếp theo đây là chiêm sát luân tướng.
Quư vị hăy mở rộng cái tâm!
(Kinh)
Hựu niệm thập phương nhất thiết cúng cụ,
vô thời bất hữu. Ngă kim đương dĩ thập
phương sở hữu nhất thiết chủng chủng
hương, hoa, anh lạc, tràng, phan, bảo cái, chư trân
diệu sức, chủng chủng âm nhạc, đăng
minh, chúc hỏa, ẩm thực, y phục, ngọa cụ,
thang dược, năi chí tận thập phương sở hữu
nhất thiết chủng chủng trang nghiêm cúng dường
chi cụ.
(經)又念十方一切供具。無時不有。我今當以十方所有一切種種香華璎珞。幢幡寶蓋。諸珍妙飾。種種音樂。燈明燭火。飲食衣服。臥具湯藥。乃至盡十方所有一切種種莊嚴供養之具。
(Kinh:
Lại nghĩ tới hết thảy các vật cúng trong
mười phương, không lúc nào chẳng có. Ta nay sẽ
dùng hết thảy tất cả các thứ hương,
hoa, anh lạc, tràng, phan, lọng báu, các thứ trang hoàng mầu
nhiệm, các thứ âm nhạc, đèn sáng, đuốc, lửa,
thức ăn, y phục, mền đệm, thuốc men
trong mười phương, cho đến hết thảy
tất cả các thứ vật để trang nghiêm cúng dường
trọn khắp mười phương).
Lại
nghĩ tới hết thảy các vật cúng trong mười
phương. Để cúng dường Phật, bèn bày biện
các vật cúng. Quư vị bày một mâm hoa quả làm vật
cúng, hương hoa đều là vật cúng, chẳng có lúc
nào, chẳng có chỗ nào mà chẳng có vật cúng. Chẳng
có lúc nào không có, lúc nào cũng đều có. Ta đem tất
cả hết thảy các thứ hương, hoa, anh lạc
(璎珞, chuỗi ngọc,
hay chuỗi kết bằng các thứ báu), tràng, phan, lọng
báu, hết thảy trân châu, mă năo, hết thảy các vật
trang hoàng mầu nhiệm để trang nghiêm trong mười
phương. Lại c̣n có các thứ âm nhạc, đèn soi
sáng, đuốc, lửa, thức ăn, y phục, mền
đệm, thuốc thang, cho đến trọn hết
mười phương các thứ vật cúng dường
trang nghiêm.
(Kinh)
Ức tưởng dao nghĩ, phổ cộng chúng sanh, phụng
hiến cúng dường, thường niệm nhất thiết
thế giới trung hữu tu cúng dường giả, ngă
kim tùy hỷ. Nhược vị tu cúng dường giả,
nguyện đắc khai đạo, linh tu cúng dường.
(經)憶想遙擬。普共衆生奉獻供養。常念一切世界中有修供養者。我今隨喜。若未修供養者。願得開導令修供養。
(Kinh: Nghĩ
nhớ mong sao trọn khắp chúng sanh đều dâng hiến
cúng dường, thường nghĩ tới trong hết thảy các thế giới có những người tu cúng dường,
ta nay tùy hỷ họ. Nếu kẻ nào chưa tu cúng dường,
nguyện họ sẽ được hướng dẫn,
chỉ bảo để tu cúng dường).
Nghĩ
nhớ mong tưởng, dùng sự suy niệm của ta
để mong cho họ đều cúng dường Địa
Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng
ta cúng dường như thế nào? Chẳng phải là một
ḿnh ta, mà là trọn khắp hết thảy chúng sanh đều
cùng ta cúng dường. Giống như toàn thể đại
chúng đang hiện diện [trong hội
giảng kinh này] đều cùng lúc cúng dường. Chẳng
phải là chúng ta đều mong sanh về thế giới Cực
Lạc ư? Trước hết, hăy cúng dường A Di
Đà Phật. Quư vị vừa tác ư là đă cúng dường.
Quư vị nói xem, đó là thật hay giả? Quư vị mua
mười cân táo, mua mười cân chuối, bày một nhà
đầy hoa, hữu hạn, rất ít! Nếu quư vị mở
rộng tâm lượng, vận tâm cúng dường ra xa th́
sẽ to lớn. Nếu quư vị luôn ức niệm, luôn
cúng dường như thế, ai có thể phá hoại sự
cúng dường của quư vị cho nổi? Ai cũng chẳng
thể phá hoại được! Quư vị mua mấy
đóa hoa thơm, mua một hai cân táo, chúng sẽ hư rất
nhanh, hư nát hết!
Không
riêng ḿnh ta cúng dường như vậy! Hăy thường
nghĩ trong hết thảy các thế giới, người
tu cúng dường rất đông. Họ tu cúng dường
đều có phần của ta. Khi họ tu cúng dường
th́ cũng có ta, ta cũng tham gia cúng dường. Đó là
nguyện “phổ giai hồi hướng” và “tùy hỷ
công đức” trong mười đại nguyện của
đức Phổ Hiền. Trong các thế giới của
chư Phật trong mười phương pháp giới, có
rất nhiều vị đại Bồ Tát đang thỉnh
pháp, cúng dường trong ấy, ta đều tham gia, đều
tùy hỷ. Đó chính là “tùy hỷ công đức” trong
mười đại nguyện của đức Phổ
Hiền, thường nghĩ bất cứ ai tu cúng dường,
ta đều tùy hỷ. Những ai c̣n chưa tu cúng dường,
ta sẽ khuyên họ cùng mọi người tu cúng dường,
khiến cho họ tu cúng dường.
(Kinh)
Hựu nguyện ngă thân tốc năng biến chí nhất
thiết sát độ, ư nhất nhất Phật, Pháp,
Tăng sở, các dĩ nhất thiết chủng trang nghiêm
cúng dường chi cụ, cộng nhất thiết chúng
sanh đẳng tŕ phụng hiến.
(經)又願我身速能遍至一切刹土。於一一佛法僧所。各以一切種莊嚴供養之具。共一切衆生等持奉獻。
(Kinh:
Lại nguyện thân ta có thể nhanh chóng đến trọn
khắp hết thảy các cơi nước, nơi mỗi chỗ
Phật, Pháp, Tăng, đều dùng hết thảy các thứ
vật cúng dường trang nghiêm để cùng với hết
thảy chúng sanh b́nh đẳng cầm dâng hiến).
Trước
khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Vương
Bồ Tát dạy quư vị phải phát nguyện nhiều ngần
ấy, làm nhiều chuyện ngần ấy. Lại c̣n phải
phát nguyện, nguyện ǵ vậy? Có thể mau chóng đến
hết thảy các sát độ, giống như kinh Hoa
Nghiêm nói: “Tận hư không biến pháp giới vi trần
số chư Phật” (chư Phật nhiều như số
vi trần tận hư không khắp pháp giới). Phật
nhiều như vi trần, mỗi vị Phật đều
có một Phật sát (Kṣetra, một
cơi Phật). Các cơi Phật nhiều như số vi trần,
trong mỗi cơi Phật đều có Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, ta
đều dùng hết thảy các vật cúng trang nghiêm trọn
khắp, ta cùng hết thảy chúng sanh đều “đẳng
tŕ” dâng hiến. “Đẳng tŕ” (等持) là b́nh đẳng cầm
vô lượng vật cúng dường.
(Kinh)
Cúng dường nhất thiết chư Phật Pháp Thân, sắc
thân, xá-lợi, h́nh tượng, phù-đồ miếu tháp,
nhất thiết Phật sự, cúng dường nhất
thiết sở hữu pháp tạng, cập thuyết pháp xứ,
cúng dường nhất thiết hiền thánh tăng chúng.
(經)供養一切諸佛法身色身。舍利形像。浮圖廟塔。一切佛事。供養一切所有法藏及說法處。供養一切賢聖僧衆。
(Kinh:
Cúng dường Pháp Thân, sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng,
tháp miếu phù-đồ của hết thảy chư Phật,
hết thảy Phật sự, cúng dường hết thảy
tất cả pháp tạng, và chỗ thuyết pháp, cúng
dường hết thảy hiền thánh tăng chúng).
Cúng
dường tận hư không khắp pháp giới hết
thảy các cơi Phật, cúng dường Pháp Thân, sắc thân,
xá-lợi, và h́nh tượng của hết thảy chư
Phật. Có vị Phật là Pháp Thân Phật, có vị Phật
đang thuyết pháp, hiện báo thân Phật. Có vị Phật
là sắc thân, như Thích Ca Mâu Ni Phật là sắc thân, có vị
Phật nhập Niết Bàn, lưu lại xá-lợi. Cúng
dường tất cả tượng Phật, chùa miếu,
tháp, “phù-đồ”[5]
là tháp miếu. Hết thảy Phật sự là “Phật
tạng, Phật Bảo”. Cúng dường hết thảy
tất cả Pháp Bảo, cũng như chỗ thuyết
pháp. Sự cúng dường ấy bao gồm cả pháp ṭa,
pháp đường để thuyết pháp của chúng ta
trong hiện thời. Chúng ta có thấy người cúng
dường chúng ta, quư vị có
thấy hay không? Chẳng thấy! Bởi lẽ, những
điều ấy đều bao gồm trong sự cúng
dường Địa Tạng Vương Bồ Tát, tùy thuộc quư vị có tin
hay không? Tôi khuyên mọi người hăy tin tưởng. Tất
cả các đạo tràng trong mười phương pháp
giới đều hành cúng dường, tức cúng dường
Phật, cúng dường Phật sự, cúng dường
pháp tạng, cũng như [cúng dường] nơi chốn
thuyết pháp, cúng dường hết thảy hiền thánh
tăng chúng.
Sự
cúng dường Tam Bảo ấy có phạm vi to lớn,
chúng ta chẳng thể tưởng tượng nổi!
Chúng ta mở rộng tâm lượng hơn một chút, chớ
nên hạn cuộc. Các vị có biết đức Phật
có tài sản to lớn cỡ nào hay không, đức Phật
phú quư cỡ nào hay không? Quư vị chẳng đọc kinh
Hoa Nghiêm, sẽ không biết sự phú quư của đức
Phật. Đến khi quư vị đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ
biết sự phú quư của đức Phật là vô hạn,
vô lượng. Trong đoạn kinh này, đức Địa
Tạng đă dạy quư vị cúng dường Tam Bảo
vô cùng, vô tận!
(Kinh)
Nguyện cộng nhất thiết chúng sanh tu hành. Như thị
cúng dường dĩ, tiệm đắc thành tựu Lục
Ba La Mật, tứ vô lượng tâm.
(經)願共一切衆生修行。如是供養已。漸得成就六波羅蜜。四無量心。
(Kinh: Nguyện
cùng hết thảy chúng sanh tu hành. Cúng dường như thế
xong, dần dần thành tựu Lục Ba La Mật và tứ
vô lượng tâm).
Kế
đó là chúng sanh: Nguyện cùng hết thảy chúng sanh, nguyện
cho hết thảy chúng sanh đều giống như ta, làm
ǵ thế? Cúng dường Tam Bảo như vừa nói trên
đây! Cúng dường như thế xong, cúng dường
là có công đức, có phước đức, lại c̣n có
trí huệ. Chẳng có trí huệ, sẽ chẳng thể
hưng khởi sự cúng dường ấy. Sự cúng
dường ấy lại tăng thêm phước huệ và tiêu trừ
nghiệp chướng của quư vị. Quư vị dần dần
thành tựu Lục Ba La Mật và Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm là như mọi người
thường niệm, từ, bi, hỷ,
xả. Sáu loại Ba La Mật, bao gồm Bố Thí, Tŕ Giới,
Nhẫn
Nhục,
Tinh Tấn,
Thiền Định, Trí Huệ,
sáu loại ấy và Tứ Vô Lượng Tâm. Như vậy
th́ quư vị dùng Bố Thí, Tŕ Giới,
Nhẫn
Nhục,
Tinh Tấn,
Thiền Định, Trí Huệ,
cộng thêm từ, bi, hỷ, xả, tức Tứ Vô Lượng Tâm của chính
ḿnh để cúng dường, ngơ hầu từ biển khổ
sanh tử đạt tới bờ kia Niết Bàn! Nói đến
nguyện lực to lớn, th́ quư vị phải như thật
phát nguyện th́ mới gọi là “nguyện lực lớn”,
đưa hết thảy chúng sanh từ biển khổ
sanh tử đến bờ kia Niết Bàn. Trong khoảng ấy,
sẽ hành Lục Ba La Mật, Tứ Vô Lượng Tâm, Thập
Độ. Đó gọi là “pháp cúng dường chư Phật”
(dùng pháp để cúng dường chư Phật). Bố
thí tất cả những ǵ chúng ta có cho chúng sanh. Hơn nữa,
khi cúng dường Tăng bèn thanh tịnh, vô nhiễm. Do loại
cúng dường thanh tịnh ấy, quư vị bèn đạt
tới Giới Ba La Mật. Trong tâm chẳng có tí phiền
năo th́ là Tinh Tấn Ba La Mật.
Hết thảy trần cấu, tạp nhiễm đều
tiêu mất, sẽ tiến nhập Thiền; đó là Thiền
Ba La Mật. Tâm chẳng sân năo là Nhẫn Ba La Mật. Ĺa các
giải đăi là Tinh Tấn Ba La Mật. Chẳng có chút tạp
loạn nào là Tịch Tĩnh Thiền Định Ba La Mật.
Khiến cho hết thảy chúng sanh đều được
vui sướng là đại từ. Từ có thể ban vui,
đều có thể ban vui cho hết
thảy chúng sanh, [khiến cho họ]
đạt được vui sướng, khiến
cho chúng sanh chẳng có khổ năo. Như thế nào th́ sẽ
có thể khiến cho chúng sanh đều chẳng bị khổ
năo? Chính là đại bi, bi có thể dẹp khổ. Từ
có thể ban vui. Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều
được vui sướng, cho nên hoan hỷ vô lượng.
Tâm của quư vị luôn b́nh đẳng, chẳng có sai khác,
đặc biệt là đối đăi b́nh đẳng
đối với chúng sanh đang khổ sở, chẳng
có oán, thân. Đó gọi là Xả Vô Lượng. Từ, bi, hỷ, xả,
Lục Độ, vạn hạnh, Tứ Vô Lượng Tâm.
(Kinh)
Thâm tri nhất thiết pháp bổn lai tịch tĩnh, vô
sanh, vô diệt, nhất vị b́nh đẳng, ly niệm
thanh tịnh, tất cánh viên măn.
(經)深知一切法本來寂靜。無生無滅。一味平等。離念清淨。畢竟圓滿。
(Kinh: Biết
sâu xa hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh, chẳng
sanh, chẳng diệt, một vị b́nh đẳng, ly niệm
thanh tịnh, rốt ráo viên măn).
Đồng
thời phải quán tưởng, ngẫm lại, biết
sâu xa hết thảy các pháp vốn tịch tĩnh. Đây
là dùng sức quán tưởng. Quư vị quán tưởng hết
thảy các pháp chẳng có sanh diệt, vốn tịch tĩnh,
b́nh đẳng, một vị b́nh đẳng, ĺa niệm
thanh tịnh, rốt ráo viên măn. Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng sanh như thế đó. Khi quư vị chưa dùng Chiêm Sát Luân, trước khi chiêm sát, hăy mở rộng
tâm lượng. Mọi người nghe tôi đọc
đoạn kinh này, quư vị nói xem: “Rốt cuộc kinh
Chiêm Sát Nghiệp Báo là Đại Thừa hay Tiểu Thừa?”
Xin các vị hăy tự ḿnh phán đoán tường tận!
(Kinh)
Hựu ưng biệt phục hệ tâm cúng dường ngă
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, dĩ đương
xưng danh. Nhược mặc tụng niệm, nhất
tâm cáo ngôn: “Nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”.
Như thị xưng danh, măn túc chí thiên.
(經)又應別復繫心供養我地藏菩薩摩訶薩。以當稱名。若默誦念。一心告言。南無地藏菩薩摩訶薩。如是稱名滿足至千。
(Kinh: Lại
c̣n điều phục cái tâm, chuyên dốc tâm cúng dường ta, tức Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát, hăy nên xưng danh, hoặc là thầm tụng niệm,
nhất tâm thưa rằng: “Nam-mô Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát”. Xưng danh như thế cho đến đủ
số một ngàn câu).
Lại
nên điều phục cái tâm, tâm khăng khăng chuyên
nghĩ cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị
c̣n phải chí thành, khẩn thiết cúng dường ta, hoặc
xưng danh hiệu của ta, dùng xưng
danh để cúng dường, dùng cách thầm tụng
niệm để niệm Địa Tạng Bồ Tát. Âm thầm tụng
niệm, nhất tâm thưa tŕnh. Quư vị niệm suông, hoặc
cung kính lễ bái suông th́ vẫn chưa được, vẫn
phải hướng đến Địa Tạng Bồ
Tát trần thuật, thưa bày cùng Địa
Tạng Bồ Tát. Sau đó bèn niệm “nam-mô Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát, nam-mô Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát”. Xưng danh tụng niệm đủ một ngàn lần,
đủ số một ngàn câu. Điều này có ư nghĩa
ǵ vậy? Muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, chẳng phải
là lấy mộc luân ra rồi gieo ngay. Chẳng phải là
như đến sạp coi bói, đưa cho thầy bói mấy
đồng, ông ta bèn tính ngay cho quư vị một quẻ!
(Kinh)
Kinh thiên niệm dĩ, nhi tác thị ngôn: “Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát đại từ, đại bi, duy nguyện hộ niệm,
ngă cập nhất thiết chúng sanh, tốc trừ chư
chướng, tăng trưởng tịnh tín, linh kim sở
quán xứng thật tương ứng”.
(經)經千念已。而作是言。地藏菩薩摩訶薩。大慈大悲。惟願護念。我及一切衆生。速除諸障。增長淨信。令今所觀稱實相應。
(Kinh:
Đă niệm đủ số một ngàn lần rồi, bèn nói như
thế này: “Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đại
từ, đại bi,
kính mong hăy hộ niệm cho con và hết thảy chúng sanh
mau trừ các chướng, tăng trưởng ḷng tin thanh
tịnh, khiến cho điều con sẽ thấy
tương xứng với sự thật”).
Sau
khi đă niệm một ngàn câu thánh hiệu Địa Tạng
Vương Bồ Tát, quư vị lại phát nguyện, hướng
về tượng Địa Tạng Bồ Tát thưa bày:
“Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Ngài là đấng
đại từ, đại bi.
Xin Ngài hộ niệm cho con và hết thảy chúng sanh mau trừ
diệt các chướng, khiến cho hết thảy các nhân
duyên chướng đạo của con đều trừ
diệt. Nay tín tâm của con vẫn chưa trọn đủ,
hăy tăng trưởng ḷng tin thanh tịnh cho con”. Đấy chính là lời thỉnh cầu của
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, v́ tín tâm của chúng ta chẳng
đầy đủ, vẫn chưa thể nói là kiên định,
đối với chuyện phát khởi th́ vẫn chưa
phát khởi. Cho nên, “hăy tăng trưởng tín tâm thanh tịnh
của con, khiến cho con gieo luân tướng sẽ
tương ứng với sự thật. Nếu không, Ngài
chẳng từ bi, chẳng chiếu cố con, luân tướng
sẽ chẳng tương ứng”. Đấy là thỉnh
cầu Địa Tạng Bồ Tát từ bi, khiến cho
chuyện ta muốn hỏi sẽ tương ứng, có
nghĩa là “phù hợp”. Ta hỏi chuyện ǵ, luân
tướng sẽ trả lời cho ta chuyện đó, ta
phải nên làm như thế nào. Chúng ta chẳng biết làm
như thế nào th́ mới nên, bèn dùng luân tướng thỉnh
cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ dạy.
Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo quư vị
phải nên làm như thế này, như thế nọ. “Thưa
bày”: Khi ta muốn dùng luân tướng, trước
đó, phải hướng về Địa Tạng
Vương Bồ Tát thưa tŕnh.
(Kinh)
Tác thị ngữ dĩ, nhiên hậu thủ chấp mộc
luân, ư tịnh vật
thượng nhi bàng trịch chi.
(經)作此語已。然後手執木輪於淨物上而傍擲之。
(Kinh:
Nói lời ấy xong, sau đó, tay cầm mộc luân, gieo
lên vật sạch sẽ).
“Tác
thị ngữ dĩ”: Lạy như thế xong, thưa
bày đă xong rồi mới gieo mộc luân. Chẳng phải
là cầm lấy [mộc luân] liền gieo ngay khi đó. Lúc ấy (khi đă lễ bái, phát nguyện
xong) mới cầm lấy mà gieo. Mộc luân có ba loại,
chẳng phải là cùng gieo [cả ba loại] một lúc. Cần
phải gieo vào lúc sáng sớm mỗi ngày th́ sẽ gieo thanh tịnh,
chẳng được gieo gộp chung ba loại cùng một lúc. Luân gieo ra, sẽ có ba trường hợp: Một
là đỏ hoặc đen. Hai là vạch to màu đỏ,
hay vạch to màu đen. Ba là vạch nhỏ màu đỏ,
hay vạch nhỏ màu đen. Khi quư vị bái sám, mỗi ngày
sẽ gieo ba loại luân ấy. Nếu toàn là đỏ, tức
bái sám thanh tịnh. Lúc ấy, quư vị cầu ǵ được
đó. Khi gieo luân tướng, phải đặt một
cái khăn sạch, hoặc miếng vải sạch, hoặc
dùng một miếng plastic [tinh sạch] cũng được,
cốt sao thanh tịnh. [Đó chính là ư nghĩa của câu] “ngưỡng thủ
bàng trịch” (ngửa tay gieo lên một vật sạch sẽ).
(Kinh)
Như thị dục tự quán pháp. Nhược dục
quán tha, giai diệc như thị, ưng tri.
(經)如是欲自觀法。若欲觀他。皆亦如是應知。
(Kinh:
Muốn quán cho chính ḿnh th́ làm theo cách như thế. Nếu
muốn quán cho người khác, hăy nên biết: Cũng đều
nên làm như thế).
Chính
ḿnh có chuyện ǵ th́ sẽ gieo luân tướng để hỏi,
vậy th́ ta gieo thay cho người khác có được
hay không? Giúp người khác cũng được! Chính quư
vị tự quán, hay là muốn quán cho người khác,
đều được! Quán người khác th́ quư vị
quán một người nào đó, hoặc quán một vị
sư phụ nào đó. Nói đơn giản là quư vị coi
Mộng Tham có phải là một ḥa thượng tốt hay
không, quư vị hăy gieo luân tướng một phen, luân tướng
sẽ cho quư vị biết. Tôi sẽ chẳng bảo quư vị
tôi không tốt, tôi vẫn chưa thẳng thắn đối
trước quư vị sám hối như thế được,
chưa thể! Nhưng quư vị có thể hỏi Địa
Tạng Bồ Tát: “Vị ḥa thượng này có được
hay không?” Quư vị gieo luân tướng một phen, Địa
Tạng Bồ Tát sẽ bảo quư vị: “C̣n chấp nhận được, quư vị có thể
tin người đó”. Địa Tạng
Vương Bồ Tát trọn chẳng lừa quư vị.
Ngài nói tốt là tốt, xấu là xấu, quư vị có thể
hỏi Ngài. Nếu quư vị muốn bái một vị nào
đó làm sư phụ, có thể hỏi “con có thể bái
sư hay không”, Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo
cho quư vị biết. Địa Tạng Bồ Tát chẳng
che giấu khuyết điểm, mà cũng chẳng v́
tư lợi, chẳng v́ tôi là kẻ sùng bái Ngài, hoặc do
tôi là đệ tử của Ngài mà Ngài che giấu khuyết
điểm của tôi, chẳng hề! Ngài sẽ nói
đúng như sự thật. Quư vị muốn quán cho chính
ḿnh hoặc quán giùm người khác đều được!
Chúng
ta đông người như thế, khi mọi người
muốn học pháp Chiêm Sát Luân, có rất nhiều đạo
hữu đều hiểu, có thể truyền bá, mọi
người học tập lẫn nhau. Điều thứ
nhất là phải thành khẩn, thành khẩn có nghĩa là “chí
tâm” như kinh này đă nói. Địa Tạng
Vương Bồ Tát đă dạy: Chí tâm th́ có thượng
chí tâm, trung chí tâm, và hạ chí tâm. Thượng chí tâm th́
chúng ta đều chẳng đạt được; thánh
nhân mới có thượng chí tâm; nhưng chúng ta học hạ
chí tâm, chẳng để cho nó tạp loạn, tâm chẳng
tạp loạn. Khi quư vị bước vào sám thất, nhất
định quăng mọi chuyện bên
ngoài ở ngoài cửa sám thất, chớ nên mang chúng vào
trong sám thất! Khi đă vào trong sám thất, tâm chẳng có hai
niệm. Nếu quư vị chẳng thể, th́ hăy “nam-mô
Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Quư vị
tưởng h́nh tướng đức Địa Tạng, miệng
niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát là đủ
rồi. Đó được coi là đă chí tâm, niệm nào
cũng đều chẳng rời Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Quư vị bái sám chẳng đạt
được luân tướng thanh tịnh, nhưng quư vị
niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, lạy
Địa Tạng Vương Bồ Tát, nghiệp chướng
cũng tiêu trừ rất nhiều. Do đă tiêu rất nhiều,
trong khi quư vị nằm mộng, quư vị gặp phải
chuyện ǵ đó chẳng cát tường, hoặc buôn bán
chẳng vừa ư, bất luận bất cứ chuyện
ǵ cũng đều có thể giải quyết. Nhưng bản
thân quư vị ắt phải có tâm chí
thành. Lừa gạt người khác th́ có thể lừa gạt
được, chứ chẳng thể lường gạt
Địa Tạng Vương Bồ Tát đâu nhé! Tôi
nghĩ mọi người đều tin tưởng
điều này! Do vậy, phải chí thành, khẩn thiết thưa bày đúng thật. Quư vị đừng cho rằng đối trước
tượng [Bồ Tát] mà nói sẽ chẳng linh, so với
đối trước người khác nói, sẽ linh
hơn rất nhiều. Chúng ta chẳng có sức mạnh ấy,
tôi chắc chắn chẳng dối gạt quư vị!
Tôi
đă tự ḿnh có kinh nghiệm đối với những
vấn đề này, nhưng nghiệp chướng của
tôi rất nặng. Tôi vừa mới tiễn pháp sư Hoằng
Nhất trở về Hạ Môn, liền bế quan tại
Thanh Đảo[6]
để lạy Chiêm Sát Sám. Đă lạy vài tuần, toàn bộ
luân tướng đều sắp thanh tịnh th́ người Nhật chiếm đóng Thanh Đảo.
Sau biến cố ngày Bảy tháng Bảy[7], quân Nhật đánh
tới Thanh Đảo, chúng tôi phải hoàn toàn ngưng bái sám.
Đó là chướng ngại to lớn. Nhưng kể từ
sau khi tôi bái sám luân tướng chẳng thành công, mấy chục
năm sau đó, rất đau xót, rất khổ sở! Phải cách mấy chục năm sau nữa, vào năm
1989, tôi mới ở Mạn Cáp Đốn (Manhattan) của
Nữu Ước được họ yêu cầu giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mới lại bắt đầu,
chẳng phải là thuận lợi đâu nhé! Sau đấy,
lại sau mười năm nữa, từ năm 1989 đến
năm 1999, lại ở chùa Phổ Thọ tại Ngũ Đài
Sơn giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Sau đó
lại cách mười năm, năm nay là năm 2009, từ
1989 cho đến năm 2009, mới
được thuyết pháp, giảng giải, học tập.
Nhân duyên cùng mọi người học tập là như thế
đó, đều là chẳng thể nghĩ bàn, đều
là chẳng thể tưởng tượng được!
Tôi
đến Đài Loan vốn là muốn rèn luyện thân thể.
Tôi ở Ngũ Đài Sơn không khỏe, vừa mới lành
bệnh đôi chút. Tôi nói ở trên núi, thân thể chẳng
khỏe khoắn, bèn xuống núi đi rèn luyện đôi
chút. Tới Thái Nguyên, ở Thái Nguyên cũng rất tốt.
Tôi nói phải đi xa hơn một tí, lúc ấy mới
nghĩ đến chuyện sang Đài Loan. Vừa nghĩ
bèn linh ứng. Sang Đài Loan, tôi hoàn toàn chẳng mong hoằng
pháp, giảng kinh lần nữa, cảm thấy chính ḿnh chẳng
có sức mạnh ấy. Tuy tôi chưa chịu già, nhưng
quư vị mà chín mươi lăm tuổi th́ rốt cuộc
vẫn là già khọm mất rồi! Chuyện này tột bậc
hiện thực; chẳng phải là do quư vị thừa nhận
hay không. Quư vị thừa nhận cũng thế, mà không thừa
nhận cũng thế, già th́ đă già khọm mất rồi!
Không chỉ già, mà c̣n phải chết.
Chưa chết th́ kể như được Phật, Bồ
Tát gia tŕ, há c̣n nghĩ tới giảng kinh, chẳng có sức
lực ấy! Nay giảng kinh, tôi thấy mọi người
nghe xong c̣n chưa chê trách, phản đối, nhưng khi bắt
đầu giảng, tôi vẫn lo ngại ḿnh có thể giảng
xong hay không? Nay tôi thấy đại khái là chẳng có vấn
đề ǵ, có thể giảng xong!
Chiêm sát nghiệp báo thiện ác, trong tâm mỗi
người chúng ta đều có một cái thước nhỏ.
Tuy thước chẳng dài, nhưng đo [cái tâm của
chính ḿnh] rất rành rẽ! Nghiệp chẳng nặng, chẳng
sanh vào Sa Bà. Nghiệp của chúng ta rất nặng, mới sanh
vào Sa Bà, nhưng chúng ta đều có thể nghe Phật
pháp, lại c̣n có thể được nghe rất nhiều
Phật pháp. Không chỉ được nghe, mà c̣n có thể
làm theo. Đă nghe rồi c̣n có thể Tư, Tư là quán
tưởng. Không chỉ Tư, mà c̣n có thể hành, hành chính
là Tu. Văn Tư Tu tam-muội trọn đủ. Nghe xong
bèn suy xét, ta phải thực hiện. Ta cũng dùng pháp Chiêm
Sát Luân này, tự ḿnh chẳng biết nghiệp chướng
của chính ḿnh to hay nhỏ. Chúng tôi nhận thấy: Phàm là
các đạo hữu đến tham dự pháp hội, nghiệp
chướng của quư vị chẳng to cho lắm. Nếu
to th́ quư vị đă chẳng gặp danh hiệu của
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Chẳng
được nghe danh hiệu này, mà lại c̣n có thể học
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, học kinh Địa Tạng,
chẳng có cửa đâu nhé, chẳng thể nào được!
Mọi người nhất định phải tin tưởng
chuyện này!
Nhưng nghiệp chướng của chúng ta
nhẹ nhàng, lẽ ra phải thành đạo, nhưng trong
khi nghiệp chướng chẳng nặng chẳng nhẹ,
mỗi vị đạo hữu [có thể thành tựu hay
không], tùy thuộc quư vị
nhận biết chính ḿnh, tùy thuộc nỗ lực của
mỗi người như thế nào! Người ta nói “nghiệp
chẳng nặng, chẳng sanh Sa Bà”, tôi nói “có thể
nghe pháp trong Sa Bà th́ nghiệp của quư vị chẳng nặng”.
Sanh vào Sa Bà là nghiệp chướng rất nặng,
nhưng trong thế giới nghiệp chướng nặng
nề này, mà có thể nghe Phật pháp, tức là trong chốn
nghiệp nặng, nghiệp của quư vị chẳng nặng!
Chúng ta cũng đừng nên v́ lăo ḥa thượng nói nghiệp
của ta chẳng nặng mà có thể ăn chơi đàng
điếm, không chuyện ǵ chẳng làm! Nếu như thế
th́ là nghiệp chướng nặng nề, chẳng phải
là không nặng nề! Tôi nói “nghiệp chướng chẳng
nặng” là do quư vị có thể nghe Phật pháp, có thể
hành đúng theo lời dạy, chiếu theo những điều
kinh đă dạy để làm; nhưng cũng đừng
chớ nên đánh giá ḿnh quá cao. V́ sao? Đánh giá chính ḿnh quá
cao, quư vị sẽ chẳng đạt được. Chẳng
đạt được, quư vị sẽ ngă ḷng, dần
dần lui sụt. Có thể nghe [Phật pháp] th́ sau đó tốt
nhất là nếu quư vị mong bái sám, trước hết
hăy niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ
Tát một vạn câu. Mỗi ngày, quư vị chí tâm một
chút th́ niệm một vạn câu rất dễ dàng, niệm
một vạn câu thánh hiệu. Trong kinh Địa Tạng,
Địa Tạng Vương Bồ Tát đă căn dặn
chúng ta: “Quư vị gặp chuyện khó khăn chi đó,
hăy niệm danh hiệu ta một vạn câu”. Khi tôi gặp
khó khăn, tôi tính sang Đài Loan, lần đầu không
đi được, tôi bèn niệm một vạn câu. Vẫn
chẳng được, không xin phép được! Tôi niệm
gấp mười lần, niệm mười vạn câu,
vẫn chẳng được! Tôi hơi cứng đầu,
có rất nhiều chuyện tôi rất cứng đầu,
tôi niệm một trăm vạn câu. Chẳng được,
tôi bèn niệm ngàn vạn câu, một mực niệm miết.
Tôi niệm đến một trăm vạn câu, chính ḿnh cảm
nhận được, thủ tục hộ chiếu
cũng đều làm xong. Đối với hết thảy
các pháp, chúng ta đừng cho là khó, nghe kinh dạy [cảm
thấy] rất khó khăn. [Kinh dạy phải] chí tâm, ta chẳng
chí tâm; không sao hết! Cứ tu đi, rèn luyện đôi
chút sẽ chí tâm!
Tập 5
(Kinh)
Chiêm kỳ luân tướng giả, tùy sở hiện nghiệp,
tất ưng nhất nhất đế quán tư nghiệm,
hoặc thuần cụ Thập Thiện, hoặc thuần
cụ Thập Ác, hoặc thiện ác giao tạp, hoặc
thuần thiện bất cụ, hoặc thuần ác bất
cụ, như thị nghiệp nhân chủng loại bất
đồng. Tập khí quả báo, các các biệt dị, như
Phật Thế Tôn dư xứ quảng thuyết, ưng
đương ức niệm, tư duy, quán sát sở hiện
nghiệp chủng, dữ kim thế quả báo sở kinh khổ,
lạc, cát, hung đẳng sự, cập phiền năo nghiệp
tập, đắc tương đương giả, danh
vi tương ứng. Nhược bất tương
đương giả, vị bất chí tâm, danh hư mậu
dă.
(經)占其輪相者。隨所現業。悉應一一諦觀思驗。或純具十善。或純具十惡。或善惡交雜。或純善不具。或純惡不具。如是業因種類不同。習氣果報各各別異。如佛世尊余處廣說。應當憶念思惟。觀察所現業種。與今世果報所經苦樂吉凶等事。及煩惱業習得相當者。名為相應。若不相當者。謂不至心。名虛謬也。
(Kinh:
Chiêm nghiệm luân tướng, thuận theo các nghiệp
đă hiện [bởi luân tướng], đều nên đối
với mỗi tướng mà quán kỹ càng, suy
nghiệm, hoặc là thuần đủ Thập Thiện,
hoặc thuần đủ Thập Ác, hoặc thiện ác
giao xen, hoặc chẳng trọn đủ thuần thiện,
hoặc chẳng trọn đủ thuần ác, các chủng
loại nghiệp nhân khác nhau như thế, tập khí, quả
báo mỗi thứ đều sai khác, như Phật Thế
Tôn đă nói cặn kẽ trong các chỗ khác (trong các bộ
kinh khác). Hăy nên ức niệm, tư duy, quan sát các nghiệp
chủng đă hiện, nếu chúng tương
đương với các quả báo, các chuyện khổ,
vui, cát, hung v.v… đă trải qua trong đời này, và phiền
năo, nghiệp tập, th́ gọi là “tương ứng”. Nếu
chẳng tương đương th́ là do [hành giả] chẳng chí tâm,
gọi là “hư huyễn, lầm lạc” vậy).
Đoạn
kinh văn này dạy chúng ta: Nếu lúc quư vị muốn sử
dụng Chiêm Sát Luân, Chiêm Sát Luân hiển hiện thiện
nghiệp hay ác nghiệp. Thiện nghiệp là màu đỏ, ác nghiệp màu
đen. Nếu [các nghiệp chủng] đă hiện [bởi
luân tướng] tương ứng với những ǵ quư vị
hứng chịu trong hiện thực, tương ứng với
tất cả các t́nh huống trong cuộc sống th́ là “hợp”,
rất đúng. Nếu chẳng tương ứng, th́ là
phiền năo của quư vị vốn rất nặng
nề, tập khí cũng rất nặng. Chuyện ǵ cũng đều chẳng vừa
ư, cho thấy nghiệp của quư vị rất nặng,
thế mà khi quư vị dùng luân tướng, toàn là hiện
thành màu đỏ tốt lành; đấy là “chẳng tương ứng”. Lời đáp
chẳng đúng với lời hỏi, nên gọi là “chẳng
tương ứng”. Nếu luân tướng hiển hiện
“bất sát”, nói là quư vị chẳng có sát nghiệp,
nhưng quư vị bệnh khổ lâu ngày, tức là luân
tướng chẳng hiển hiện tương ứng!
Luân tướng hiển hiện quư vị chẳng có sát
nghiệp, sát nghiệp trong quá khứ rất nhẹ, vậy
th́ đời này đáng lẽ chẳng bệnh tật, ít
khổ năo, sống lâu, đó mới gọi là “tương
ứng”. “Chẳng tương ứng” có hàm nghĩa là ǵ? Khi quư vị
dùng luân tướng, tâm vẫn chưa chí thành, [cho nên] luân tướng
chẳng hiện. Đó là một loại hiện tượng.
Trong khi quư vị thỉnh cầu, bái sám, muốn dùng luân
tướng, Địa Tạng Vương Bồ Tát không
hiện, luân tướng chẳng tương ứng. Quư vị
cầu một lần, hai lần, ba lần, thậm chí trong
một ngày, mười ngày, từ đầu đến cuối,
luân tướng chẳng tương ứng, v́ cái tâm của
quư vị vẫn chưa chí thành quy y. Cái tâm ấy hư vọng,
cho nên luân tướng chẳng hiện. Một loại khác
là quư vị cảm mà Địa Tạng Vương Bồ
Tát vẫn chẳng ứng. [Bồ Tát] chẳng ứng th́
luân tướng chẳng tương ứng. Do cái nhân trong
quá khứ của chúng ta, các thứ nhân tạo nghiệp và
tập khí trong quá khứ, cũng như quả báo trong đời
này ắt phải tương ứng với những điều
được hiện bởi luân tướng. Đó gọi
là “tương ứng”. [Tương ứng]
như vậy tức là quư vị đă cầu được
Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Điều đó gọi
là “tương ứng”, chứ lời đáp chẳng
phù hợp với lời hỏi th́ gọi là “chẳng
tương ứng”.
[Chánh
kinh] dạy chúng ta: Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, điều đầu
tiên là phải bái sám, luyện tập chí tâm. Trong phần
sau, kinh văn sẽ giảng cặn kẽ về chí tâm:
Thượng thượng chí tâm là ǵ, trung đẳng chí
tâm là ǵ, hạ hạ chí tâm là ǵ? Sẽ giảng cặn kẽ,
rất nhiều! Thông thường, chúng ta cũng chẳng
quan sát điều này. Quư vị cũng chẳng hiểu bản
thân quư vị không chí tâm! [Cứ nghĩ] “dẫu sao ta chẳng
dấy vọng tưởng ǵ cả th́ là chí tâm”, chẳng
phải là thô thiển như thế, [kinh sẽ giảng] rất
tỉ mỉ! Kinh dạy: Khi quư vị chiêm sát luân tướng,
v́ nghiệp nhân khác biệt trong vô lượng
kiếp quá khứ, quư vị sẽ có tập khí biểu hiện
khác biệt trong hiện tại. Mỗi cá nhân đều có
tập khí riêng biệt, mọi người chú tâm [xem xét],
nh́n vào động tác của mỗi người, [sẽ nhận
thấy] mỗi người có động tác riêng, bất
luận là nói năng hay hành động. Đó gọi là tập
khí, mỗi người đều khác biệt! Nếu luân
tuớng hiển hiện chẳng giống tập khí trong
cuộc sống của quư vị, tức là quư vị vẫn chẳng chí tâm. Tâm quư vị vẫn chưa thể đạt tới mức chí tâm. Vậy th́ trước
hết quư vị phải thâu nhiếp cái tâm sao cho đạt
tới chí tâm, sau đó mới chiêm nghiệm luân tướng.
(Kinh)
Nhược chiêm luân tướng, kỳ thiện ác nghiệp
câu bất hiện giả, thử nhân dĩ chứng vô lậu
trí tâm, chuyên cầu xuất ly, bất phục nhạo thọ
thế gian quả báo. Chư hữu lậu nghiệp, triển
chuyển vi nhược, cánh bất tăng trưởng.
Thị cố bất hiện.
(經)若占輪相。其善惡業俱不現者。此人已証無漏智心。專求出離。不復樂受世間果報。諸有漏業。展轉微弱。更不增長。是故不現。
(Kinh:
Nếu chiêm sát luân tướng mà thiện nghiệp lẫn
ác nghiệp đều chẳng hiện, [là do] người
ấy đă chứng vô lậu trí tâm, chuyên cầu xuất
ly, chẳng c̣n ưa thích nhận lănh quả báo thế gian.
Các nghiệp hữu lậu lần lượt chuyển
thành yếu nhỏ, chẳng c̣n
tăng trưởng nữa. V́ thế, chẳng hiện).
Nếu
lúc chiêm sát luân tướng, thiện nghiệp lẫn ác nghiệp
của quư vị hoàn toàn chẳng hiện. Hễ chiêm sát th́
toàn thể đều trống rỗng (tức các luân đều
là mặt trống, không có chữ). Chiêm sát một lần là
như thế, chiêm sát hai lần cũng thế. Chiêm sát
mười lần, tám lần, đều là hoàn toàn chẳng
hiện. Thiện cũng chẳng hiện, mà ác cũng chẳng
hiện. Bản thân quư vị vẫn chẳng biết rơ,
trên thực tế, quư vị đă chứng đắc vô lậu
trí. Tâm quư vị đă chứng đắc vô lậu trí, cho
nên Chiêm Sát Luân chẳng hiện tướng! Chiêm sát luân
tướng là nói đến các chúng sanh hoài nghi, và các chúng
sanh chưa dự vào địa vị, cho nên mới sử
dụng Chiêm Sát Luân. Khi quư vị đă quyết định
tin, đă chứng quả, luân tướng sẽ chẳng
hiện!
C̣n
một loại nữa, chính là kẻ tâm chẳng chí thành, [luân
tướng] sẽ chẳng hiện. C̣n một loại nữa
là quư vị chứng đắc Bát Nhẫn, Bát Trí, chứng
đắc Kiến Địa, kinh Đại Thừa gọi
[địa vị ấy] là Thất Trụ, tức Đại
Thừa Thất Trụ. Kinh Hoa Nghiêm th́ gọi địa vị
ấy là Sơ Trụ. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát th́
tướng ǵ cũng đều chẳng hiện, [bởi
lẽ], trong tam giới, hết thảy Hoặc nghiệp của
quư vị đều chẳng có. Ba nghiệp thân, miệng,
ư của quư vị trong thế giới này đă chuyển,
do đă đoạn Hoặc Chủng phân biệt thuộc
tam giới, cho nên chúng chẳng hiện. V́ sao? Do quư vị
chẳng có nghiệp nhân ấy, chẳng thọ nghiệp
quả ấy, cho nên chẳng hiện. Kinh Chiêm Sát Nghiệp
Báo chủ yếu là khiến cho quư vị tránh khỏi nghiệp
quả trong đời sau. Ta đáng đọa địa ngục,
quư vị đảnh lễ, chiêm sát nghiệp báo thiện
ác, bái sám, sẽ chẳng đọa địa ngục. Nếu
đáng đọa làm ngạ quỷ, [th́ do công đức
bái sám], sẽ chẳng đọa. Quư vị đă hoàn toàn
chẳng có cái nhân ấy, đă đoạn tuyệt, cho nên
nó không hiện ra. Từ hiện tại, quư vị có thể
tu cho đến khi thành Phật. Do vậy, vào lúc này, loại
ấy chẳng hiện. Thuần thiện chẳng hiện,
do quư vị đă đạt tới hoàn cảnh thuần
thiện, [luân tướng] chẳng hiện. Thuần ác th́
do ác tập khí của người ấy quá nặng, quư vị
gieo suốt một hai tháng, luân tướng tuyệt đối
chẳng hiện. V́ sao? Ác nghiệp quá nặng nề, cho
nên chẳng hiện. Vậy th́ quư vị ắt phải lễ bái, lễ
bái cho đến khi luân tướng hiện, nghiệp
chướng sẽ dần dần tiêu mất.
(Kinh)
Hựu thuần thiện bất cụ, thuần ác bất
cụ giả, thử nhị chủng nhân thiện ác chi
nghiệp sở hữu bất hiện giả, giai thị
vi nhược, vị năng khiên quả, thị cố bất
hiện.
(經)又純善不具。純惡不具者。此二種人善惡之業所有不現者。皆是微弱。未能牽果。是故不現。
(Kinh:
Lại nữa, thuần thiện chẳng đủ, hoặc
thuần ác chẳng đủ, hai loại người ấy
tất cả nghiệp thiện ác chẳng hiện đều
là do chúng nó yếu nhỏ, chưa thể
dẫn đến cái quả, cho nên chẳng hiện).
Lại
nữa, “thuần thiện bất cụ túc” tức chẳng
phải là thuần thiện, thuần ác cũng chẳng
đủ, cũng tức
là chẳng phải thuần ác. Đối với loại
chúng sanh thuộc bậc trung, thiện thiện ác ác, ác ác
thiện thiện, luân tướng hết sức linh nghiệm,
tức là khi thiện nghiệp và ác nghiệp đều chẳng
thể quyết định, nó sẽ hiển hiện. Hiển
hiện nhằm mục đích khiến cho quư vị tuân theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
để tu. Nếu quư vị có thể đạt tới
thuần thiện, ác nghiệp sẽ dần dần tiêu mất,
thiện nghiệp dần dần tăng trưởng. Kẻ
thuần thiện chẳng trọn đủ, luân tướng
hết sức linh nghiệm. Kẻ chưa đủ mức
thuần ác, luân tướng hết sức linh nghiệm. Do
vậy, nghiệp thiện hay ác chẳng hiển hiện
đều là do nghiệp của quư vị yếu ớt, nhỏ
nhoi, chẳng thể cảm quả. Thiện nghiệp
cũng rất nhỏ nhoi, yếu ớt, chẳng thể cảm
thiện quả. Ác nghiệp cũng rất nhỏ nhoi, yếu
ớt, chẳng thể cảm ác quả. Do nó
lơ lửng nửa vời như thế, cho nên có khi luân
tướng chẳng hiện. Dẫu quư vị gieo luân
tướng chẳng hiện, nhưng quư vị phải lễ
bái [cho đến khi luân tướng] ứng hiện, hiện
ra để bảo cho quư vị biết. Trong chánh kinh có
nói, v́ [nghiệp chủng] yếu ớt, nhỏ nhoi, cho nên
chẳng thể dẫn đến cái quả. Thiện nghiệp
cũng thế, mà ác nghiệp cũng thế, chẳng dẫn
đến quả báo trong hiện tại, cho nên có lúc chẳng
hiện. Đối với loại chẳng hiện này,
Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta: “Quư
vị phải tu Duy Tâm Thức Quán”. Đó là tướng cảnh
giới trong nửa bộ sau [của kinh này]. Tu Duy Tâm Quán,
hoặc Duy Thức Quán thuộc về nửa sau kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. [Các
phép Quán ấy] được giảng trong nửa bộ
sau. Nếu thiện nghiệp mạnh mẽ, quư vị sẽ
cảm vời cái quả là thiện quả. Ác nghiệp mạnh
mẽ, quư vị sẽ cảm vời ác quả. Hai thứ
nghiệp thiện và ác đều chẳng thể dẫn
đến cái quả cho quư vị tiếp nhận
[th́ luân tướng sẽ chẳng hiện]. Khi quư vị
bái sám, nó sẽ hiện ra, hiện cho quư vị biết phải
nên tu như thế nào!
Ở
đây nói tới nghiệp, “nghiệp” có nghĩa là Dụng
(tác dụng). Thiện th́ thiện nghiệp bèn cảm thiện
quả, ác th́ ác nghiệp cảm ác quả. Đó gọi là “nghiệp
dụng”, giống như hiện thời chúng ta làm một
chuyện chi đó, chuyện ấy được gọi
là “nghiệp”. Quư vị tạo nghiệp ấy, có khi
là thiện nghiệp cảm thiện quả, có khi là ác nghiệp
cảm ác quả. Nếu thiện cũng chẳng mạnh,
mà ác cũng chẳng mạnh, th́ sẽ chẳng cảm quả,
ắt cần phải tăng cường [cái nghiệp ấy
th́ mới cảm quả]. Nghiệp dụng là quư vị tạo
tác. Đó là dùng chữ Dụng để giải thích. Nghiệp
dụng của quư vị áp dụng vào phương diện
nào, tâm quư vị vận dụng vào phương diện nào,
sẽ chịu quả nơi phương diện ấy. V́
chúng ta vừa khởi tâm động niệm, bèn rơi vào
hai đường: Một đằng là thiện, đằng
kia là ác. Khi quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân, vận dụng thiện cũng
thế, mà là ác th́ cũng thế, đều phải
đúng lư quan sát. “Đúng lư quan sát” tức là điều
suy tưởng trong tâm quư vị có phù hợp khít khao với
tướng hiển hiện bởi Chiêm Sát Luân hay không. Nếu
chẳng phù hợp, tức là chẳng tương ứng,
lời đáp chẳng đúng với lời hỏi. Đối
với hai loại ấy, một loại là khi quư vị sử
dụng Chiêm Sát Luân, khi quư vị thỉnh thánh, Địa Tạng
Vương Bồ Tát chẳng hiện. [Bồ Tát] chẳng hiện,
quư vị sẽ chẳng thể chiêm sát được. Tất
cả các cảnh tướng (tướng
cảnh giới) đều là hư vọng. Cho đến
khi quư vị bái sám khẩn thiết, chính quư vị
sẽ biết nghiệp của chính ḿnh. Mỗi người
chúng ta đều biết, quư vị làm chuyện ǵ cũng
đều chẳng thuận ư, mong cầu điều ǵ cũng
đều chẳng đạt được, đều là chuyện trái ư nguyện, toàn là chuyện chẳng vừa
ḷng, phiền năo, chướng năo, chướng ngại,
ngăn chướng, trở ngại, quư vị liền
biết nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng.
Chúng tôi thường nghe các đạo hữu nói nghiệp
của họ rất nặng, tôi không tin, họ chẳng nói
lời chân thật với tôi! Đó chẳng phải là
khách sáo! Nghiệp chướng rất nặng, quư vị sẽ
chẳng được nghe Phật pháp, ngay cả tên kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo c̣n
chẳng nghe thấy. Điều này do Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói, chẳng phải do tôi nói. Quư vị
được nghe tên kinh tức là quư vị hữu duyên với
Địa Tạng Bồ Tát, có duyên với bộ kinh này.
Do
những điều quư vị suy nghĩ thuộc về
tham, sân, si, thân thể tạo giết, trộm, dâm, miệng
nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Nếu
thêm chữ Không vào trước những điều đó, sẽ là Thập Thiện Nghiệp; chẳng có chữ
Không, th́ là Thập Ác Nghiệp. Phàm là nhất cử, nhất
động của quư vị, tâm suy nghĩ, thân tạo tác,
miệng nói năng hằng ngày, đều thuộc trong
mười nghiệp. Chẳng thuộc vào Thập Thiện
Nghiệp, th́ sẽ thuộc vào Thập Ác Nghiệp, quư vị
chẳng thể vượt thoát nổi! Nói đến “vượt
thoát” th́ ta là thánh nhân, chứng Tứ Quả A La Hán, là
người chẳng có Kiến Tư Hoặc, sẽ chiêm
sát luân tướng để làm chi? Luân tướng chẳng
hiện, dẫu chiêm sát cũng chẳng hiện. Ư nghĩa
của việc dùng luân tướng là chúng ta đối với
nghiệp của chính ḿnh, quư vị vẫn hay nói chính ḿnh
nghiệp chướng rất nặng, nhưng nặng
đến mức độ nào, quư vị chẳng biết!
Đấy chẳng phải là một vật có thể lấy
cân để cân, dùng thước
để đo, ḥng biết nó lớn, nhỏ, dài, ngắn,
nặng, nhẹ, nhiều, ít. Quư vị
dùng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
làm thước đo, sẽ biết rốt cuộc thiện
nghiệp của chính ḿnh nặng cỡ nào, công sức tu hành
rốt cuộc đạt đến mức độ nào.
Do vậy, chính quư vị sẽ tự hiểu rơ: Quư vị
hoàn toàn làm chuyện ác, làm trọn các chuyện ác, chẳng
làm tí ti chuyện tốt đẹp nào, hoặc là thuần
làm thiện sự, chẳng có mảy may ác nghiệp nào!
Hai
loại người ấy rất ít, đại đa số
đều là thiện ác xen tạp. Mọi người
trong cuộc sống thường nhật, có lúc trong tâm dấy
lên thiện niệm, có khi trong tâm lại dấy lên ác niệm.
Tứ chúng đệ tử, tức người xuất
gia như tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, [tại gia gồm]
ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, đương nhiên là thiện
nhiều, ác ít. Dẫu có khi tư tưởng dấy lên phiền
năo, nhưng theo giáo nghĩa Tiểu Thừa, những ư niệm
dấy khởi trong tâm th́ chẳng tính, v́ quư vị chẳng
có hành động cụ thể. Theo pháp luật thế
gian, điều ta suy nghĩ trong tâm có thể coi là phạm
tội ư? Chẳng coi là phạm tội! Ngay trong giới
luật do đức Phật chế định, chẳng
hạn như nói tới giới sát sanh;
đối với giới sát sanh th́ phải giết chết
người th́ mới coi là phá giới sát sanh. Lúc đó,
đă giết, nhưng chưa chết; sau đó, đưa
vào bệnh viện rồi mới chết, th́ đó là tội
ở mức độ nhẹ hơn, chẳng hoàn toàn coi
là tội sát nhân, cho phép sám hối. Đă giết kẻ
đó, một hai tháng sau người ấy mới chết,
do thương tích mà chết, xét theo pháp
luật, cũng là v́ bị thương mà chết. Trong lúc
giết, mà [người bị giết] tắt thở, sẽ
coi là sát nghiệp thành tựu. Về sau, [nạn nhân] v́ bị
thương mà chết, th́ quư vị vẫn chưa phạm
tội sát nhân hoàn toàn. Giới luật gọi đó là tội
Tăng Tàn (Saṃghāvaśeṣa), vẫn
chưa phạm tội giết chóc rốt ráo. Đấy chính
là đối với nghiệp dụng bèn phân tích rất cặn kẽ.
Quư
vị dùng Chiêm Sát Luân cũng như thế, cái duyên ấy
có lúc kịp thời được xúc tiến thành tựu.
Như trường hợp sát nhân tôi vừa nêu, [nạn
nhân] chết ngay khi bị giết tức là ác duyên đă chín
muồi. Chẳng giết chết ngay khi ấy, th́ ác duyên vẫn
chưa nặng nề dường ấy! Pháp luật phân
tích rất tỉ mỉ, trong giới luật cũng nói hết
sức nghiêm ngặt, lúc nào sẽ tính là phạm giới! Nếu
là người học giới luật, sẽ biết “bát
duyên thành phạm” (tám duyên tạo thành phạm giới);
tám duyên ấy quư vị đều trọn đủ th́ sẽ
phạm giới điều ấy. Trong tám duyên, quư vị
chỉ phạm bốn duyên, phạm một nửa th́ sám hối
cũng dễ hơn. Chỉ cần thiếu một duyên
trong tám duyên, sẽ chẳng coi là phạm giới. Đấy
chính là nghiệp thiện hay ác yếu ớt, nhỏ nhoi chẳng
thể dẫn khởi cái quả. Quư vị giết chết
người, sẽ dẫn động
cái quả rất dữ dội. Không chỉ phải trả
báo, mà c̣n có hoa báo, quả báo, và dư báo. Trong quá khứ, sát
nghiệp rất nặng, quư vị đă trả nợ mạng,
nhưng đời này quư vị c̣n lắm bệnh, lắm
tai ương; đó gọi là “dư báo”. Chuyện này
nếu học giới luật, sẽ được giảng
giải tỉ mỉ. Mỗi nghiệp có khá nhiều loại
duyên. Trọn đủ các duyên ấy th́ mới tính là phạm
giới. Thiếu một hoặc hai duyên th́ vẫn chưa
rốt ráo phạm tội, tức là khi quư vị sám hối tội lỗi th́ mới phân
biệt. Pháp luật trong xă hội cũng giống như
thế: Quư vị giết chết trong lúc ấy, t́nh huống
sẽ ác liệt khác hẳn! Tội càng nghiêm trọng
hơn. Giết chưa chết, đưa vào bệnh viện
chữa trị, hoặc là sống được một,
hai, ba tháng, đó gọi là “v́ thương tích mà chết”,
t́nh huống bất đồng, tội cũng bất
đồng. Do vậy, đối với thuần ác hay thuần
thiện, đều phải phân biệt tường tận.
Những
điều tôi vừa mới nói ở đây có phạm vi rộng
hơn nhân quả, tức là ngoài nhân quả ra, c̣n có tập
khí. Khi người Nhị Thừa học giới luật,
hoặc là học pháp luật, học kinh điển, tuy họ
đă đoạn nghiệp thiện ác, đă đoạn Kiến
Tư Hoặc, nhưng Vô Minh Hoặc chưa đoạn. Tập
khí của thiện ác nghiệp vẫn chưa đoạn. Chúng ta gồm rất nhiều người, tập khí của
mỗi cá nhân đều khác nhau. Tập khí chẳng phạm
tội, thiện th́ có thiện tập khí, ác th́ có ác tập
khí. Nếu từ tâm quá sâu nặng, ḷng từ rất to, bi
quán rất sâu nặng, trông thấy kẻ khác chịu khổ,
tâm người ấy rất khổ sở; đó gọi
là từ tâm, nhưng nó chẳng thể phát huy tác dụng,
chẳng thể khiến cho người khác tránh khỏi
đau khổ. Chỉ có cái tâm suông, đó chẳng gọi
là “đại bi”. Miễn trừ thống khổ cho
người khác, hoặc chịu thay cho họ, hàng phàm phu
chẳng thể làm nổi chuyện này! V́ quư vị muốn
chịu khổ thay cho người khác chẳng được,
chẳng có bản lănh ấy, nhưng Bồ Tát th́ có thể.
Như vậy th́ quả báo của quư vị đă tiêu mất,
nhưng hăy c̣n có tập khí. Chuyện này đợi cho đến
phần kinh văn ở phía sau sẽ lại nói, v́ c̣n phải
nói tiếp về cách dùng Chiêm Sát Luân.
(Kinh)
Nhược đương lai thế, Phật chư đệ
tử, dĩ chiêm thiện ác quả báo đắc
tương ứng giả, ư ngũ dục chúng cụ, đắc xứng ư thời, vật
đương tự túng, dĩ khởi phóng dật. Tức
ưng tự niệm, do ngă túc thế như thị thiện
nghiệp cố, kim hoạch thử báo. Ngă kim năi khả
chuyển cánh tấn tu, bất ưng hưu chỉ. Nhược
tạo chúng ách, chủng chủng suy năo, bất cát chi sự,
nhiễu loạn ưu bố, bất xứng ư thời,
ưng đương cam thọ, vô linh nghi hối, thoái tu
thiện nghiệp. Tức đương tư niệm:
“Đản do ngă túc thế tạo như thị ác nghiệp
cố, kim hoạch thử báo. Ngă kim ưng đương
hối bỉ ác nghiệp, chuyên tu đối trị, cập
tu dư thiện, vô đắc chỉ trụ, giải
đăi, phóng dật, chuyển cánh tăng tập chủng chủng
khổ tụ”. Thị danh Chiêm Sát sơ luân tướng
pháp.
(經)若當來世佛諸弟子。已占善惡果報得相應者。於五欲眾具得稱意時。勿當自縱以起放逸。即應思念。由我宿世如是善業故。今獲此報。我今乃可轉更進修。不應休止。若遭眾厄種種衰惱不吉之事。擾亂憂怖。不稱意時。應當甘受無令疑悔退修善業。即當思念。但由我宿世造如是惡業故。今獲此報。我今應當悔彼惡業。專修對治及修余善。無得止住懈怠放逸。轉更增集種種苦聚。是名佔察初輪相法。
(Kinh:
Nếu trong đời tương lai, các đệ tử
đức Phật do đă chiêm sát quả báo thiện ác
được tương ứng, đối với các vật
thuộc về ngũ dục đều được vừa
ư, th́ chớ nên buông thả, dấy lên phóng dật, mà hăy liền
suy nghĩ: “Do thiện nghiệp đời trước của
ta như thế, nên nay đạt được quả
báo này. Ta nay càng phải nên tấn tu, chớ nên ngưng nghỉ”.
Nếu lúc nào gặp các tai ách, các thứ suy năo, chuyện chẳng
tốt lành nhiễu loạn, khiến cho lo sầu, sợ
hăi, chẳng vừa ư, hăy nên cam chịu, đừng ngờ
vực, hối hận, thoái thất tu thiện nghiệp.
Hăy nên suy nghĩ: “Chỉ do ta trong đời trước
đă tạo ác nghiệp như thế, nay mắc phải
quả báo này. Ta nay nên sám hối các ác nghiệp đó, chuyên
tu tập để đối trị, và tu các điều
lành khác, chớ nên ngưng nghỉ, lười nhác, buông
lung, chuyển thành tích tập thêm các thứ khổ sở
chất chứa”. Đó gọi là pháp chiêm sát luân tướng
đầu tiên).
Địa
Tạng Bồ Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, nói
đến “đương lai”, tức là nói đến
tương lai, có nghĩa là nói đến thời Mạt
Pháp. Các đệ tử của đức Phật, phàm là
người quy y Tam Bảo, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di; kẻ chẳng thọ Tam Quy th́
không tính. Quư vị đă tin Phật rất nhiều năm,
nhưng chẳng thọ Tam Quy th́ không tính là đệ tử
của Phật môn. Ắt phải thọ Tam Quy th́
mới tính là “nhập Phật môn”. Nếu là Phật tử trong thuở vị lai, tức
trong đời mai sau, đă chiêm sát quả báo thiện ác
được tương ứng, tức là khi quư vị
chiêm sát, những điều kinh điển đă nói
tương ứng với toàn bộ tư tưởng và
hành vi của quư vị, th́ gọi là “tương ứng”.
Đời trước, quư vị sát nghiệp rất nặng;
đời này phải trả báo, hoặc là bệnh tật
lâu ngày, mọi việc chẳng vừa ư, luôn bị
thương tổn, mắc hại. Đó gọi là “tương ứng”.
Đời
trước, thiện nghiệp sâu nặng, chưa hề
sát sanh, đời này cũng chưa từng bị bệnh,
cũng chẳng có kẻ nào tổn thương, làm hại
quư vị. Đối với ngũ dục, mọi vật
đều được thỏa ư, hài ḷng đối với
cảnh giới ngũ dục; khi đó, quư vị
phải chú ư, đừng nên buông lung! Đă được thỏa măn, chớ nên đ̣i
hỏi quá mức. Phải nên suy nghĩ như thế nào?
Đấy là do thiện nghiệp trong quá khứ của ta,
cho nên đời này mới đạt được quả
báo này. Giả sử từ trên cơ sở này, ta lại tấn
tu. “Tấn tu” là dũng mănh tinh tấn toàn làm các thiện
nghiệp, chẳng làm chuyện ác. Điều này mang ư
nghĩa khuyên lơn, khích lệ. Địa Tạng Vương
Bồ Tát khuyên quư vị đừng ngưng nghỉ nơi
hiện tại, chớ nên thỏa măn với hiện tại,
vẫn phải nên ra sức nỗ lực tấn tu, phải
khiến cho nó tốt đẹp hơn!
Nếu
trong đời hiện tại, gặp phải
mọi sự đều chẳng vừa ư, gặp phải
ách nạn, thường luôn gặp chuyện suy
năo, chẳng tốt lành, luôn khiến cho quư vị sợ
hăi, ưu sầu, không vừa ư, chuyện ǵ cũng đều
trái ư, quư vị đối đăi như thế nào? Cam tâm chịu
đựng! Nhẫn nại, tự nhủ đó là nghiệp
chướng của ta trong quá khứ, đừng tạo
tác nữa, nay ta thọ báo, trả báo! Hăy nên cam ḷng chịu
đựng. Chớ nên hoài nghi, chớ nên hối hận!
Điều này hết sức quan trọng. Đặc biệt
là đối với tứ chúng đệ tử của
đức Phật, tức tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trong quá khứ, quư vị làm chuyện
tổn hại người khác. Chuyện tổn hại người
khác là trong quá khứ, toàn gây đau khổ
cho người khác, chẳng khiến cho kẻ khác hoan hỷ,
đời này quư vị hứng chịu, chẳng đạt
được vui sướng, mà cũng chẳng
được hạnh phúc. Như vậy th́ quư vị nên
làm như thế nào? Hăy nên chịu đựng chuyện chẳng
vừa ư, tức là vui vẻ trả nợ. Nếu không, c̣n
phải trả thêm “tiền lời”. Khi quư vị trả nợ,
quư vị mượn tiền kẻ khác, chẳng cần trả
tiền lời ư? Chẳng hạn như giết người
th́ ta đền mạng cho kẻ đó [là xong]. Đâu có
được! Quư vị giết kẻ đó cách nay đă
bao nhiêu năm, cách bao nhiêu kiếp rồi! Vẫn phải
kèm thêm lợi tức. Quư vị phải trả thêm món tiền
lời đó, đó gọi là trong sát nghiệp c̣n có dư
báo. Nếu không, quư vị thấy người ấy sẽ
bực bội, chẳng có tí duyên nào, đó là biểu hiện
của dư báo. Quư vị chẳng có ân oán ǵ với người
ta, chẳng có chuyện chi hết, đi đường gặp
rất nhiều người, mọi người đi qua
đi lại, chẳng có tí ti ảnh hưởng tâm lư ǵ!
Quư vị vô duyên với kẻ đó, nhân duyên ǵ cũng
đều không có. Quư vị thấy người khác bèn rất
hoan hỷ, tức là có chút quan hệ. Quư vị thấy kẻ
đó bèn phiền năo, tức là có chút quan hệ. Đấy
chẳng phải là vô duyên vô cớ mà yêu thương,
cũng chẳng phải vô duyên vô cớ mà hận. Chuyện
này ai nấy đều gặp phải, quư vị có thể
tự suy nghĩ.
Do
trong quá khứ, quư vị đă tạo ác nghiệp, đời
này thân thể quư vị thường bệnh tật, rất nhiều
chuyện chẳng vừa ḷng, vô duyên vô cớ ưu sầu,
vô duyên vô cớ phiền năo. Có hay không? Tôi nghĩ chư vị
đạo hữu đều có, chẳng hiểu sao trong
tâm chẳng thể nín nhịn được, có chuyện ấy
chứ? Người khác thấy quư vị rất tốt, bản
thân quư vị cảm thấy rất phiền năo. Người
khác thấy quư vị hưởng thụ, quư vị cảm
thấy chẳng như ư. Mỗi vị
đạo hữu đều có [cảm nhận như thế],
chẳng hạn như các vị đạo hữu xuất
gia có phiền năo ǵ vậy? Có gánh nặng ǵ? Thế
nhưng bản thân quư vị vô duyên vô cớ dấy lên phiền
năo, chuyện ǵ cũng đều chẳng vừa ḷng, quư vị
biết là túc nghiệp quá khứ phát hiện, đó gọi
là “túc nghiệp phát hiện”. V́ nghiệp quá khứ của
quư vị, v́ nghiệp túc thế, cho nên quư vị nẩy
sanh phiền năo. Quư vị phải nhận biết! Trước
kia chẳng nhận biết, [nay do] học kinh Chiêm Sát, quư vị
bèn nhận biết, hăy nhẫn nại
chịu đựng! Cái tâm nhẫn nại ấy cần phải
có trí huệ, [nhận biết] túc nghiệp trong quá khứ
phát hiện, đó gọi là “tu hành”. Chẳng phải
niệm A Di Đà Phật, bái sám th́ mới là tu hành. Quư vị
có thể nhận biết nghiệp của chính ḿnh, có thể
tu hành như vậy, đó là tu hành chân chánh!
Do
vậy, quư vị suy niệm như thế th́ trên đường
tu đạo, sẽ chẳng giải đăi, mà cũng chẳng
dám buông lung. V́ Kiến Tư Hoặc của chính ḿnh c̣n
chưa đoạn, chưa nói đến Vô Minh phiền
năo, Hoặc ấy c̣n rất nặng! Phải tinh tấn,
khiến cho các thứ thiện nghiệp tăng trưởng.
Đó là yêu cầu cơ bản nhất khi dùng luân tướng
của Chiêm Sát Luân. V́ quư vị không biết, Chiêm Sát Luân liền
bảo cho quư vị biết: Hiện thời, nghiệp nào
của quư vị phát hiện, quư vị ngay lập tức
đột phá nó. V́ sao vô duyên vô cớ phiền năo? Cũng
như có khi vô duyên vô cớ hoa tay, múa chân, chẳng hiểu
v́ sao lại như thế, cao hứng khôn cùng! Chuyện ǵ
khiến cho quư vị cao hứng, quư vị cũng chẳng
t́m được nguyên nhân, trong tâm hết sức hoan hỷ.
Có thể là hôm nay quư vị lên tụng niệm công khóa bèn tụng
niệm tương ứng, hoặc là quư vị cùng đại
chúng tu hành, hoặc hôm nay làm một chuyện tốt, khi quư
vị dùng Chiêm Sát Luân, Chiêm Sát Luân sẽ cho quư vị biết,
sẽ hiển hiện. V́ thế, gọi là Chiêm Sát.
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhược dục chiêm sát quá khứ
văng tích tập nghiệp cửu cận, sở tác cường,
nhược, đại, tiểu sai biệt giả,
đương phục khắc mộc vi tam luân. Dĩ thân,
khẩu, ư, các chủ nhất luân, thư tự kư chi. Hựu
ư luân chánh trung nhất diện thư nhất hoạch,
linh thô trường, sử triệt bạn. Thứ đệ
nhị diện, thư nhất hoạch, linh tế đoản,
sử bất chí bạn. Thứ đệ tam diện, tác
nhất bàng khắc, như hoạch, linh kỳ thô thâm. Thứ
đệ tứ diện, diệc tác bàng khắc, linh sử
tế thiển. Đương tri thiện nghiệp trang
nghiêm, do như họa sức, ác nghiệp suy hại, do
như tổn khắc. Kỳ hoạch trường đại
giả, hiển thị tích thiện lai cửu, hạnh nghiệp
mănh lợi, sở tác tăng thượng. Kỳ hoạch
tế đoản giả, hiển thị tích thiện lai cận,
thỉ tập cơ độn, sở tác vi bạc. Kỳ
khắc thô thâm giả, hiển thị tập ác lai cửu,
sở tác tăng thượng, dư ương diệc hậu.
Kỳ khắc tế thiển giả, hiển thị thoái
thiện lai cận, thỉ tập ác pháp, sở tác chi nghiệp
vị chí tăng thượng. Hoặc tuy khởi trọng
ác, dĩ tằng cải hối, thử vị tiểu ác.
(經)善男子。若欲占察過去往昔集業久近所作強弱大小差別者。當複刻木為三輪。以身口意各主一輪。書字記之。又於輪正中一面書一畫。令粗長使徹畔。次第二面書一畫。令細短。使不至畔。次第三面作一傍刻。如畫。令其粗深。次第四面亦作傍刻。令使細淺。當知善業莊嚴。猶如畫飾。惡業衰害。猶如損刻。其畫長大者。顯示積善來久。行業猛利。所作增上。其畫細短者。顯示積善來近。始習基鈍。所作微薄。其刻粗深者。顯示習惡來久。所作增上。余殃亦厚。其刻細淺者。顯示退善來近。始習惡法。所作之業未至增上。或雖起重惡。已曾改悔。此謂小惡。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát nghiệp
xưa kia đă tích tập trong quá khứ là lâu xa hay gần
đây, mạnh, yếu, lớn, nhỏ, sai khác, hăy nên lại khắc gỗ thành ba
cái luân. Dùng thân, miệng, ư làm chủ mỗi luân, viết chữ
để nhớ [luân nào tương ứng với nghiệp
nào trong ba nghiệp thân, khẩu, ư]. Lại nơi một mặt
[đối diện với mặt có viết chữ], bèn vẽ
một vạch sao cho [vạch ấy] đậm và dài cho
đến giáp mí (chỗ tiếp giáp giữa mặt phẳng
của luân và hai đầu vót nhọn].
Sau đó, nơi mặt thứ hai, bèn vẽ một vạch
mỏng, ngắn, sao cho vạch ấy đừng giáp mí.
Sau đó, nơi mặt thứ ba bèn khắc gần một
cạnh của luân giống như một vạch, sao cho
nét khắc thô và sâu. Sau đó, nơi mặt thứ tư,
cũng khắc một vạch gần với cạnh của
luân sao cho nét khắc nông và nhỏ. Hăy nên biết thiện
nghiệp trang nghiêm ví như nét vẽ trang hoàng, ác nghiệp
suy hại ví như bị khắc lơm. Vạch dài to, hiển
thị tích thiện đă lâu, hạnh nghiệp mạnh mẽ,
nhạy bén, việc làm tăng thượng. Vạch nhỏ
ngắn hiển thị tích thiện gần đây, mới
tu tập, nền tảng chậm lụt, việc làm nhỏ
nhoi, mỏng manh. Vết khắc thô sâu hiển thị hành
ác đă lâu, việc làm tăng thượng, ương họa
c̣n sót lại cũng dày. Vết khắc nhỏ và nông cạn
hiển thị lui sụt điều thiện gần
đây, mới tập hành ác pháp, nghiệp đă làm chưa
đến mức tăng thượng. Hoặc là tuy đă
dấy lên điều ác nặng nề, nhưng đă từng
hối cải, đấy gọi là điều ác nhỏ).
Thiện
nam tử! Nếu muốn chiêm sát các nghiệp xưa kia
đă hành trong quá khứ là lâu xa hay gần đây, nghiệp
đă tạo mạnh, yếu, lớn, nhỏ sai khác. Trong
quá khứ, rốt cuộc ta đă làm những chuyện ǵ,
hiện thời ta cảm cái quả như thế ấy.
Như tứ chúng đệ tử chúng ta, các đệ tử
của đức Phật thuộc hai chúng xuất gia và hai
chúng tại gia, nếu trong quá khứ, quư vị chẳng có
thiện nghiệp nhân, đă tạo cái nghiệp là nhân lành,
đời này quư vị sẽ chẳng gặp gỡ Tam Bảo. Dẫu gặp cũng chẳng tin, v́ chẳng có duyên. Rốt
cuộc ta hành thiện nghiệp lớn hay nhỏ, là lâu xa
hay gần gũi, sức của thiện nghiệp là mạnh
hay yếu, trong tâm chính ḿnh đă có sự nhận biết. Mọi
chuyện đều chẳng vừa
ḷng, dẫu tin tưởng Tam Bảo, dẫu đă tu hành
đôi chút nơi Tam Bảo, nhưng [sự tu hành]
chẳng to lớn, chẳng dũng mănh, sức lực
rất yếu ớt, vậy th́ khi quư vị chiêm sát, Chiêm
Sát Luân sẽ cho quư vị biết: Trong quá khứ, quư vị
đă gieo nhân lành hoàn toàn chẳng to.
Đời này, quư vị phải cấp tốc tu hành; nếu
không, sẽ đánh mất thiện nhân trong đời này.
Hăy làm cho thiện nghiệp của chính ḿnh tăng trưởng,
ác nghiệp tiêu mất, khiến cho thiện nghiệp to, ác
nghiệp bé, thiện nghiệp mạnh, ác nghiệp yếu.
Đó chính là nguyên nhân chủ yếu của việc sử
dụng Chiêm Sát Luân. Trong đó, quư vị nói ác th́ chẳng
có điều ác to tát, thiện th́ cũng chẳng có điều
thiện to lớn, phải nên gia tăng sức mạnh tu
hành của chính ḿnh như thế nào? Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng ta phương pháp; đó chính là khởi nguồn
thật sự của Chiêm Sát Luân.
Hăy
nên khắc gỗ thành ba cái luân, tức là dùng gỗ vót thành
ba cái luân tướng [cũng theo đúng h́nh dạng: Phần chính giữa là khối lập
phương, hai đầu vót nhọn như trong phần
trước]. Ba cái luân ấy, một luân chủ về khẩu
nghiệp, một luân chủ về ư nghiệp, một luân
chủ về thân nghiệp. Tức là mỗi nghiệp trong
ba nghiệp thân, miệng, ư đều có một luân riêng. “Thư
tự kư chi” [nghĩa là] thân nghiệp một luân, khẩu
nghiệp một luân, ư nghiệp một luân, mỗi nghiệp
ứng với một luân (mỗi nghiệp được
viết riêng trên một luân) để chiêm sát nghiệp quư
vị đă tích tụ trong quá khứ. Nghiệp hiện tại
của chúng ta chẳng phải là một đời, hai
đời, mà cũng chẳng phải là mười đời,
tám đời, mà là trăm ngàn vạn ức đời,
tích tụ nơi cái thân hiện tại. Quư vị có biết
là các nghiệp ấy lớn hay nhỏ hay không? Thân quư vị
trọn đủ đại thiện, hoặc trọn
đủ điều thiện không lớn, hoặc là đại
ác, hoặc điều ác chẳng lớn lắm, hoặc
là trọn đủ điều ác rất lớn mà thiện
nhỏ nhoi, hoặc thiện rất lớn mà ác nhỏ
nhoi, hoặc cả hai thứ ngang nhau, cũng chẳng phải
là đại ác mà cũng chẳng phải là đại thiện,
đều ở mức độ vừa phải. Thiện
chẳng phải là một kiếp, hai kiếp, mà là ức
vạn vạn năm đều làm thiện sự. Thiện
nghiệp hết sức mạnh mẽ, nhạy bén, cho nên
đời này luôn gặp gỡ thiện duyên, tâm được
an lạc. Vào Phật môn, thường dũng mănh tinh tấn,
chẳng giải đăi, được Phật, Bồ Tát
gia tŕ, khai trí huệ, đó là “đại thiện”,
thuộc loại đại thiện. Tiểu thiện chẳng
lâu xa, hoặc là mới phát ư, tức là thiện nghiệp rất
mỏng ít. Do vậy, thiện có lớn, có nhỏ, ác
cũng có lớn, có nhỏ, cũng có ác nghiệp tích tập
đă lâu, mà cũng có ác nghiệp hoàn toàn chưa lâu. Điều
ác nhỏ cũng như thế, c̣n chưa đến mức
độ tăng thượng. Bản thân quư vị chớ nên không hiểu rơ đại
thiện và đại ác cho lắm, cần phải chiêm sát
nghiệp báo thiện ác được hiển thị từ
luân tướng.
Luân
ấy được chế tạo như thế nào? Ở
giữa một mặt, bèn ghi một vạch to đậm
và dài, vừa to vừa dài. Vạch ấy được biểu
hiện rất đậm, dài đến tận chỗ mặt
luân tướng giáp với chót đầu [của luân
tướng]. Mặt thứ hai là một vạch nhỏ và
ngắn, thể hiện điều thiện ấy cũng
chẳng lớn, biểu lộ ư nghĩa thiện nghiệp
chẳng lớn, rất nhỏ. Nơi mặt luân thứ
ba th́ khắc một vạch sao cho nó thô hơn một chút,
nhằm biểu lộ [nghiệp ấy] to lớn, sâu đậm,
lâu dài, cho nên phải thô và dài. Một dài, một ngắn, một
lớn, một nhỏ. Thiện nghiệp màu đỏ, ác
nghiệp màu đen. Quư vị xem luân tướng trong hiện
thực sẽ biết. Chẳng hạn như cái luân này có
bốn mặt, hai mặt [có nét vẽ hay nét khắc] màu
đỏ, một vạch đỏ ngắn, một vạch
đỏ dài, một vạch đen dài, một vạch
đen ngắn. Đối với vạch đỏ, chẳng
cần khắc sâu, vẽ lên là được rồi, màu
đen th́ phải khắc sâu. Bốn mặt [của luân
tướng thuộc loại thứ hai] là như thế
đó. Nếu khi muốn chế tạo, phải chiếu
theo kích thước mà làm. Có vấn đề hay không? Sở
dĩ pháp này chẳng thể lưu truyền rất phổ
biến là do chẳng chế được Chiêm Sát Luân,
kinh dạy chẳng rơ ràng cho lắm. Dài, ngắn, vuông, tṛn,
rốt cuộc làm [mộc luân] to hay nhỏ, miễn sao khi
quư vị cầm luân trong tay gieo xuống, nó xoay chuyển là
được rồi!
Vạch
to, dài, được biểu hiện bằng màu đỏ, tức là quư vị tích thiện đă rất lâu. Không chỉ rất lâu, mà c̣n tạo thiện nghiệp
rất mạnh mẽ, nhạy bén. Đó gọi là “tăng
thượng”. Vạch ngắn [và có màu đỏ]
tức là quư vị hành thiện chưa lâu. Vạch vừa
nhỏ vừa ngắn, cho thấy quư vị làm điều
thiện rất mỏng, rất ít, vừa mới chuyển
biến. Hành ác cũng như thế. Hành ác đă lâu th́ nét
khắc vừa dài, vừa sâu, lại có màu đen. Mới hành
ác chưa lâu th́ nét khắc vừa nông vừa nhỏ; nét khắc
màu đen th́ là ác, nhưng nếu chẳng thay đổi,
nét khắc đen ngắn sẽ biến thành dài, [tức là
ác nghiệp] nhẹ lại biến thành nặng. Điều
được hiển thị bởi luân tướng bắt
nguồn từ sự quán tưởng trong tâm quư vị: Tổn
giảm là hắc nghiệp, tăng trưởng là thiện
nghiệp. Đối với thiện nghiệp, tâm quư vị
rất mạnh mẽ; đối với chuyện ác, quư vị
rất kinh sợ, cho thấy thiện căn của quư vị
rất dày.
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhược chiêm sơ luân tướng
giả, đản tri túc thế sở tạo chi nghiệp
thiện ác sai biệt, nhi bất năng tri tích tập cửu
cận, sở tác chi nghiệp cường, nhược,
đại, tiểu. Thị cố tu chiêm đệ nhị
luân tướng.
(經)善男子。若占初輪相者。但知宿世所造之業善惡差別。而不能知積習久近所作之業強弱大小。是故須占第二輪相。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu chiêm sát luân tướng thuộc
loại đầu tiên th́ chỉ biết đời trước
đă tạo nghiệp thiện hay ác sai khác, nhưng chẳng
thể biết nghiệp đă tích tập từ trước
là lâu hay gần, nghiệp đă làm là mạnh, yếu, lớn,
nhỏ. V́ thế, cần phải chiêm sát loại luân tướng
thứ hai).
Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu chiêm sát loại luân
tướng đầu tiên, quư vị sẽ biết ba nghiệp
của chúng ta là thiện hay ác, là nặng hay nhẹ,
nhưng quư vị chẳng biết điều thiện ấy
nặng hay nhẹ cỡ nào, nghiệp đă tích tập từ lâu xa hay gần gũi, là mạnh hay yếu. Khi
đó, phải nên chiêm sát loại luân tướng thứ hai.
(Kinh)
Nhược chiêm đệ nhị luân tướng giả,
đương y sơ luân tướng trung sở hiện
chi nghiệp. Nhược thuộc thân giả, trịch thân
luân tướng. Nhược thuộc khẩu giả, trịch
khẩu luân tướng. Nhược thuộc ư giả, trịch
ư luân tướng. Bất đắc dĩ thử tam luân
chi tướng, nhất trịch thông chiêm. Ưng
đương tùy nghiệp chủ niệm, nhất nhất
thiện ác, y sở thuộc luân, biệt trịch chiêm chi.
(經)若占第二輪相者。當依初輪相中所現之業。若屬身者擲身輪相。若屬口者擲口輪相。若屬意者擲意輪相。不得以此三輪之相一擲通占。應當隨業主念一一善惡依所屬輪別擲占之。
(Kinh:
Nếu chiêm sát loại luân tướng thứ hai, th́ hăy nên
căn cứ theo nghiệp đă hiện trong loại luân
tướng đầu tiên. Nếu [nghiệp đă hiện]
thuộc về thân, hăy gieo luân tướng thuộc về
thân (tức luân tướng có viết chữ Thân). Nếu
thuộc về miệng, hăy gieo luân tướng thuộc về
miệng. Nếu thuộc về ư, hăy gieo luân tướng
thuộc về ư. Chớ nên dùng cả ba luân tướng này
để gieo cùng một lúc ḥng chiêm sát
chung. Hăy nên thuận theo cái nghiệp chủ yếu, đối
với mỗi điều thiện hay ác, bèn dùng cái luân tương ứng để gieo riêng biệt
mà chiêm sát).
Gieo
loại luân tướng thứ hai, chẳng phải là gieo cùng lúc cả ba cái luân. Đối với loại luân đầu
tiên, mười luân thuộc về ba nghiệp thân, miệng,
ư th́ có thể cùng gieo. Gieo xong, quư vị ghi lại. Nếu
là nghiệp thuộc thân th́ chỉ gieo luân tướng thuộc
thân. Thuộc khẩu th́ chỉ gieo luân tướng thuộc
khẩu. Thuộc ư th́ chỉ gieo luân tướng thuộc
ư. Chẳng thể gieo ba luân cùng một lúc! Mặt có vạch
đỏ thuộc về thiện, mặt có vạch
đen thuộc về ác. Nếu thiện nghiệp sâu nặng,
sẽ được hiển hiện bởi cái vạch vừa
dài vừa thô, c̣n thiện nghiệp [mỏng, ít] sẽ
được hiển hiện thành cái vạch vừa ngắn
vừa mỏng, [cả hai loại này] đều có màu
đỏ. Ác nghiệp cũng như thế: Ác nghiệp nặng
nề th́ hiển hiện thành vạch vừa đen vừa
dài, ác nghiệp nhẹ th́ là vạch ngắn và nhỏ. Quư vị
chiêm sát riêng biệt. Ba cái luân này là ba luân tương ứng
với thân, miệng, ư. Trên mỗi luân, nơi bốn mặt,
[mỗi mặt sẽ có một vạch]: Một vạch
đen to, vạch đen nhỏ ngắn, vạch đỏ
to, vạch đỏ nhỏ ngắn. Lại c̣n ghi “thân,
khẩu, ư” [nơi một trong bốn mặt ấy].
Luân thuộc về Khẩu th́ ghi chữ Khẩu, thuộc
về Thân th́ ghi chữ Thân, thuộc về Ư th́ ghi chữ
Ư. Thân mộc luân để chiêm sát thân nghiệp, khẩu mộc
luân để chiêm sát khẩu nghiệp, và ư mộc luân
để chiêm sát ư nghiệp. Tách riêng ba nghiệp để
chiêm sát.
(Kinh)
Phục thứ, nhược chiêm sơ luân tướng
trung, duy đắc thân chi thiện, ư thử đệ
nhị luân tướng trung, đắc thân ác giả, vị
vô chí tâm, bất đắc tương ứng, danh hư mậu
dă. Hựu phục bất tương ứng giả, vị
chiêm sơ luân tướng trung, đắc bất sát nghiệp,
cập đắc thâu đạo nghiệp; ư tiên chủ
quán bất sát nghiệp, nhi ư đệ nhị luân
tướng trung, đắc thân ác giả, danh bất
tương ứng. Phục thứ, nhược quán hiện
tại tùng sanh dĩ lai, bất nhạo sát nghiệp, vô tạo
sát tội, đản ư chủ sát nghiệp, nhi ư thử
đệ nhị luân tướng trung, đắc thân đại
ác giả, vị danh bất tương ứng. Tự
dư khẩu ư trung nghiệp bất tương ứng nghĩa,
diệc như thị ưng tri.
(經)復次。若占初輪相中。唯得身之善。於此第二輪相中得身惡者。謂無至心。不得相應。名虛謬也。又復不相應者。謂占初輪相中得不殺業及得偷盜業。意先主觀不殺業。而於第二輪相中得身惡者。名不相應。復次。若觀現在從生以來不樂殺業。無造殺罪。但意主殺業。而於此第二輪相中得身大惡者。謂名不相應。自餘口意中業不相應義。亦如是應知。
(Kinh:
Lại nữa, nếu chiêm sát loại luân tướng
đầu tiên, chỉ được thân là thiện,
nhưng trong loại luân tướng thứ hai, [gieo ra luân
tướng] thân là ác th́ tức là [người chiêm sát] chẳng
chí tâm, [cho nên] chẳng tương ứng, gọi là hư
huyễn, lầm lạc. Lại nữa, chẳng
tương ứng là khi chiêm sát loại luân tướng thứ
nhất, được chẳng có sát nghiệp và nghiệp
trộm cắp, toan quán nghiệp bất sát trước,
nhưng nơi loại luân tướng thứ hai, lại
được [kết quả] là thân ác, th́ gọi là chẳng
tương ứng. Lại nữa, nếu quán hiện tại
từ khi sanh ra cho đến nay, chẳng thích sát nghiệp,
chẳng tạo tội giết chóc, chỉ có sát nghiệp
nơi ư, nhưng nơi luân tướng thứ hai này, lại
hiện thành “thân đại ác”, th́ gọi là chẳng
tương ứng. Đối với các ư nghĩa chẳng
tương ứng khác nơi khẩu và ư nghiệp, cũng
nên biết là như thế).
Khi quư vị
chiêm sát mười nghiệp bằng loại luân tướng
thứ nhất, thân nghiệp của quư vị toàn là đỏ,
tức là thiện, nhưng đến khi quư vị chiêm sát
bằng loại luân thứ hai, [kết quả hiện ra]
thân là ác, như vậy là không đúng! [Nguyên nhân là do] quư vị
chẳng chí tâm, chẳng thành khẩn. Chẳng chí tâm, tâm
không chân thành, tùy tiện mà gieo, sai mất rồi! Phải
làm như thế nào? Lại lễ bái rồi gieo lại. Có
các đạo hữu chiêm sát lần thứ nhất chẳng
tương ứng, bèn liên tục chiêm sát. Sai mất rồi!
Chẳng thể được! V́ sao? Hăy bái sám một lần
nữa! Quư vị lại chiếu theo nghi quỹ bái sám
để lạy và cầu thỉnh một lần nữa.
Bái sám xong rồi mới gieo lần nữa. Tôi thấy rất
nhiều đạo hữu gieo luân tướng lần thứ
nhất chẳng linh, [bèn nói] “ta gieo lại”. Tôi nói làm
như thế chẳng được! Phải bái sám một
lần nữa rồi mới gieo lại. Thông thường,
ngày hôm nay ta gieo chẳng linh, ngày mai quư vị lại lạy,
hoặc là lại bái sám lần thứ hai. Tôi bảo các
đạo hữu mới học, sáng sớm lạy xong
chiêm sát lần đầu. Chiêm sát xong, nếu chẳng
tương ứng, [tự biết nguyên nhân là do chính ḿnh] chẳng chí tâm,
suốt ngày hôm ấy quư vị niệm thánh hiệu Địa
Tạng, một vạn câu cũng được, hai vạn
câu cũng được. Sáng sớm hôm sau lại lễ
bái, lại sám hối, rồi mới gieo. Có khi một ngày lạy
năm lần, lạy bốn lần, lần đầu tiên
sử dụng Chiêm Sát Luân, lần thứ hai, lần thứ
ba đều chẳng dùng, v́ vẫn chưa dùng được.
Hễ dùng th́ vẫn chẳng linh. Quư vị dành suốt một ngày hôm nay, lạy suốt một ngày,
sáng sớm hôm sau thức dậy bèn chiêm sát trước.
Chiêm sát xong lại bái sám.
Quư vị chiêm
sát loại luân tướng thứ nhất, đạt
được kết quả thân là thiện nghiệp, chiêm
sát loại luân tướng thứ hai th́ thân lại là ác; đó gọi là “chẳng tương ứng”.
Nguyên nhân chẳng tương ứng là do chẳng phù hợp.
V́ sao chẳng phù hợp? Chẳng ăn khớp với kết
quả trước đó, do tâm quư vị chẳng chí thành.
Kinh đă dạy: Địa Tạng Vương Bồ Tát
bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, tâm kẻ đó chẳng
chân thành! Hễ chân thành bèn linh nghiệm, chẳng chân thành sẽ chẳng linh! Nếu quư vị
được kết quả từ loại luân tướng
thứ nhất là “bất sát”, loại luân thứ
hai lại là sát, tức gieo loại luân tướng thứ
hai, [kết quả] lại là sát, chẳng tương ứng!
Gieo loại luân tướng thứ nhất “có trộm cắp”,
gieo loại luân thứ hai hiện ra “chẳng có trộm
cắp” th́ cũng là chẳng tương ứng. Hễ
chẳng đúng th́ gọi là “chẳng tương ứng”,
đáp chẳng đúng điều đă hỏi th́ gọi
là “chẳng tương ứng”. Vậy th́ quư vị
làm như thế nào? Hôm nay quư vị chẳng gieo nữa, lại
bái sám. Hôm nay quư vị lạy năm ba lượt vẫn
chẳng gieo, chờ đến sáng hôm sau, sẽ gieo lần
nữa. Gieo xong rồi lại lạy. Bắt đầu kể
từ khi chính quư vị có thể hiểu Phật pháp, quư vị
chẳng ưa thích sát nghiệp, chưa hề nghĩ giết
chóc, trông thấy loài trùng cũng
chẳng nghĩ tổn thương, làm hại chúng nó. Quư vị
chẳng tạo tội thuộc về sát nghiệp,
nhưng đến khi quư vị gieo luân tướng, thấy
nói là sát nghiệp của quư vị rất nặng, có sát
nghiệp. Điều này tuyệt đối chẳng
tương ứng. Vẫn phải kiểm nghiệm cái
tâm, cho đến khi quư vị gieo loại luân tướng
thứ hai, thấy nói thân quư vị phạm đại ác.
Đó gọi là chẳng tương ứng. Chẳng có, chẳng
tương ứng với sự thật. Đó gọi là chẳng
tương ứng. Khi “tương ứng” và “chẳng
tương ứng” tức là khi quư vị gieo luân tướng,
[kết quả hiển hiện] của loại luân sau chẳng
ăn khớp với loại luân trước. Trong tâm quư vị
chưa hề có ư niệm sát sanh, cho đến khi quư vị
gieo luân tướng, luân tướng nói quư vị có sát nghiệp,
há có thể được hay chăng? Chẳng
xứng hợp th́ gọi là “chẳng tương ứng”.
Đó gọi là hư vọng, chính quư vị phải biết
nghiệm chứng.
V́
Địa Tạng Bồ Tát đă dạy chúng ta ắt cần
phải tương ứng. Địa Tạng Bồ Tát bảo
chúng ta: Quư vị không thích sát nghiệp, nhưng luân tướng
hiện ra sát nghiệp, tức là chẳng tương ứng. Hễ luân tướng
chẳng tương ứng, Ngài dạy quư vị
hăy sám hối lần nữa rồi mới gieo lần nữa.
Có rất nhiều đạo hữu, khi quư vị gieo luân
tướng, hăy đặc biệt chú ư: “Đừng v́ một,
hai ngày chẳng tương ứng mà quư vị ngă ḷng”. Ngă ḷng th́ quư vị sẽ chẳng dùng nữa! Một, hai
ngày, một, hai tuần đều chẳng
tương ứng, cứ mỗi ngày đều lạy. Đă lạy suốt bảy ngày mà quư vị dùng luân tướng
vẫn hoàn toàn chẳng tương ứng. V́ sao? V́ tâm quư vị
vẫn chưa thâu nhiếp được, quư vị vẫn
chưa chí tâm, [cho nên] Bồ Tát chẳng hiển hiện. “Bồ
Tát hiển hiện hay không” hoàn toàn chẳng phải là
chúng ta sẽ thấy h́nh tướng của Địa Tạng
Vương Bồ Tát, chẳng phải như vậy! Mà là
[xét theo] luân tướng có tương ứng hay không. Chẳng
tương ứng th́ Bồ Tát chẳng hiện, hễ
tương ứng th́ Bồ Tát hiện. Quư vị thông qua
bái sám, sau đó niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, bản thân sẽ tiêu nghiệp chướng. Tiêu nghiệp
chướng đến mức độ nào? Tới mức
quư vị có thể chí tâm. Hễ bái sám, trong tâm hết sức
tương ứng với chí thành, khẩn thiết. Có các
đạo hữu bái sám đến nỗi đau ḷng khóc
lóc, nghĩ tới nghiệp của chính ḿnh và các khổ nạn
phải chịu trong đời này, [như thế th́] sẽ
rất dễ tương ứng. Do vậy, coi việc chiêm
sát luân tướng như đoán mạng, phê bát tự th́
không được! [Bói toán] th́ quư vị cho [thầy bói] mấy
đồng, hắn sẽ tính một quẻ cho quư vị.
[Nếu nghĩ chiêm sát luân tướng cũng giống
như thế] th́ không được. Chẳng phải là
quư vị vừa cầu bèn gieo quẻ sẽ linh ứng!
Khi
quư vị dùng Chiêm Sát Luân, hăy nghiệm chứng chính ḿnh. Thoạt
đầu muốn sử dụng [Chiêm Sát Luân], [bái sám] một
hai thất vẫn chẳng thấy tương ứng. Trước
hết, hăy sám hối tội hiện hành của ḿnh. V́ chúng
ta hết sức lao chao, tâm chẳng định được,
làm sao luân tướng tương ứng cho nổi? Cho
đến khi quư vị lạy một thất, hai thất,
người nghiệp chướng nhẹ lạy một
thất rồi sử dụng luân tướng bèn
tương ứng. Nghiệp chướng nặng hơn một
chút, quư vị phải lạy hai thất. Có người lạy
ba thất, tức hai mươi mốt ngày, luân tướng
vẫn khư khư chẳng hiện. Dẫu hiện, cũng chẳng tương
ứng, chẳng hiển hiện phù hợp. Rơ ràng là chẳng
có sát nghiệp, mà luân tướng hiện ra sát nghiệp.
Rơ ràng quư vị chẳng tham, mà luân tướng hiện
tham, hoặc tham, sân, si phiền năo. B́nh thời, quư vị
chưa hề nói dối, luân tướng hiện quư vị
nói dối, tức là chẳng tương ứng! Chẳng
hạn như quư vị thường thích khơi chọc thị
phi, ở chỗ Trương Tam kể tội Lư Tứ, ở
chỗ Lư Tứ nói xấu Trương Tam; nhưng luân
tướng nói quư vị chẳng phạm lỗi nói đôi
chiều. Bản thân quư vị vẫn chẳng hiểu rơ
chính ḿnh suốt ngày nói đôi chiều! Quư vị ắt cần
phải sám hối chuyện tương ứng với luân
tướng th́ mới sanh ra hiệu quả, v́ quư vị sử
dụng luân tướng [để sám hối ḥng tấn tu
đạo nghiệp], chẳng phải là để đoán
mạng, phê bát tự, biết hay không? Đấy là ǵ? Tu
hành! Quư vị tu hành có Địa Tạng Bồ Tát tới
chứng minh. Địa Tạng Bồ Tát chẳng tới
chứng minh, quư vị chiêm sát chẳng tương ứng,
thắc mắc của quư vị toàn là chẳng được
đáp đúng. Đó gọi là “chẳng tương ứng”.
Quư vị chẳng vận dụng chiêm sát luân tướng tốt
đẹp. Chuyện này chẳng phải là “tôi đưa
cho ông mấy đồng th́ sẽ tương ứng”, chẳng
hề!
Bái
sám, quá tŕnh dùng luân tướng chính là quá tŕnh sám hối tội
lỗi. Điều quư vị có thể đạt
được là do luân tướng hiện cho quư vị,
quư vị đă sám hối tội lỗi rất nhiều,
phải hiểu đạo lư này. Trong khi quư vị sám hối
tội lỗi, tăng trưởng trí huệ, tức là tu khai trí huệ.
Cho đến khi trí huệ của quư vị khơi mở,
sẽ biết mức độ sám hối của chính ḿnh:
Quư vị đă vận dụng Chiêm Sát Luân sám pháp, lại c̣n
có một trăm tám mươi chín thứ giải thích [dành cho loại luân tướng thứ ba]. Cho đến
khi quư vị bái sám, [luân tướng] sẽ cho quư vị biết
phải nên làm như thế nào. Trong kinh
văn thuộc phần sau, sẽ giảng giải một
trăm tám mươi chín loại ấy, tức là sáu căn,
sáu trần, sáu thức của quư vị, cộng thêm căn
bản vô minh thành mười chín món, ghép với mười
đời, tức là mười chín nhân với mười
đời. Do đời quá khứ, đời hiện tại,
đời vị lai, mười đời[8],
tạo thành một trăm tám mươi chín thứ ấy.
Bất cứ con số nào của quư vị cũng chẳng
thể vượt ra ngoài một trăm tám mươi chín
thứ ấy. Sáu căn, sáu thức, sáu trần, ba lần
sáu thành mười tám giới, cộng thêm căn bản vô
minh, chẳng có ǵ ra ngoài các thứ ấy. Chiêm sát như thế,
quư vị sẽ thấy được thiện ác của
chính ḿnh từ vô lượng kiếp đến nay. Nghiệp
thiện hay ác đều là do sáu căn, sáu trần, sáu thức,
lại c̣n thêm căn bản phiền năo vô minh tạo thành.
V́ quư vị hằng ngày bái sám để sám trừ tội lỗi,
sám sám tương ứng, nghiệp chướng tiêu mất,
trí huệ tăng trưởng. Luân tướng là trí huệ
của chính quư vị. Trí huệ của quư vị tăng trưởng,
sẽ tự nhiên tương ứng. Quư vị có thể thắc
mắc: Tôi sẽ có thể sanh về thế giới
Cực Lạc hay không, có thể khai đại trí huệ
ngay trong đời này, đời này có thể lễ bái
Chiêm Sát Sám đến mức chứng đắc Tứ Quả
A La Hán, hoặc chứng đắc địa vị Thất
Trụ Bồ Tát hay không? Đợi cho quư vị bái sám
đến mức vô tướng, thành tựu vô tướng,
vô nguyện, sẽ là đại Bồ Tát. Do vậy, khi c̣n
phân biệt, khi dùng luân tướng, khi trí huệ của
quư vị khơi mở, tăng trưởng, trí huệ
đă tăng trưởng, quư vị sẽ biết chính ḿnh
có trí huệ. Không chỉ là đối với lời chỉ
dạy của đức Phật, mà đối với lư
luận do Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ bảo, cũng sẽ có trí huệ.
Khi quư vị xử lư các vấn đề thế gian, sẽ
đều xử lư khá thích đáng. Đối với các vấn
đề trong gia đ́nh, xă hội, kinh doanh, sẽ đều
có trí huệ, sẽ chẳng có chướng ngại. Chúng
ta chưa đắc trí huệ, làm mọi chuyện sẽ
chẳng thích đáng, v́ chẳng có trí huệ. Đối với
một trăm tám mươi chín thứ ấy, quư vị
đều chẳng phù hợp, do chẳng có trí huệ.
Đợi cho đến khi quư vị đă phù hợp, dù là
thiện hay ác cũng vậy, hễ phù hợp bèn mở
mang trí huệ. Đă mở mang trí huệ, quư vị bèn có thể
đạt được lợi ích. Luân tướng chỉ
dạy quư vị điều ấy. Nhưng sử dụng
pháp luân tướng th́ điều thứ nhất là phải
nhẫn nại, đừng nên bộp chộp, lao chao, chẳng
phải là như quư vị làm chuyện thế gian, mong sao
chóng thành tựu. Chẳng hề thành tựu nhanh chóng
được!
(Kinh) Thiện nam tử! Nhược vị
lai thế chư chúng sanh đẳng, dục cầu độ
thoát sanh, lăo, bệnh, tử, thỉ học phát tâm, tu tập
Thiền Định, vô tướng trí huệ giả,
ưng đương tiên quán túc thế sở tác ác nghiệp
đa thiểu, cập dĩ khinh trọng. Nhược ác
nghiệp đa hậu giả, bất đắc tức học
Thiền Định, trí huệ, ưng đương tiên
tu sám hối chi pháp. Sở dĩ giả hà? Thử nhân túc tập
ác tâm mănh lợi cố, ư kim hiện tại, tất
đa tạo ác, hủy phạm trọng cấm. Dĩ phạm
trọng cấm cố, nhược bất sám hối, linh
kỳ thanh tịnh, nhi tu Thiền Định, trí huệ giả,
tắc đa hữu chướng ngại, bất năng
khắc hoạch. Hoặc thất tâm thác loạn, hoặc
ngoại tà sở năo, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng
trưởng ác kiến. Thị cố, đương tiên
tu sám hối pháp. Nhược giới căn thanh tịnh, cập
túc thế trọng tội đắc vi bạc giả, tắc
ly chư chướng.
(經)善男子。若未來世諸衆生等。欲求度脫生老病死。始學發心。修習禪定。無相智慧者。應當先觀宿世所作惡業多少。及以輕重。若惡業多厚者。不得即學禪定智慧。應當先修懺悔之法。所以者何。此人宿習惡心猛利故。於今現在必多造惡。毀犯重禁。以犯重禁故。若不懺悔令其清淨。而修禪定智慧者。則多有障礙。不能克獲。或失心錯亂。或外邪所惱。或納受邪法。增長惡見。是故當先修懺悔法。若戒根清淨及宿世重罪得微薄者。則離諸障。
(Kinh: Này thiện
nam tử! Nếu các hàng chúng sanh trong đời vị lai
muốn cầu độ thoát sanh, lăo, bệnh, tử, mới
học phát tâm, tu tập Thiền Định, vô tướng
trí huệ, trước hết, hăy nên quán ác nghiệp đă
làm trong đời trước nhiều hay ít, và nặng hay
nhẹ. Nếu ác nghiệp nhiều và sâu dày, chớ nên học
ngay Thiền Định và trí huệ, trước hết,
hăy nên tu pháp sám hối. V́ cớ sao vậy? Do người ấy
xưa kia cái tâm hành ác mạnh mẽ, bén nhạy, cho nên trong
hiện tại ắt tạo ác nhiều, hủy phạm trọng
cấm. Do phạm giới trọng, nếu chẳng sám hối
cho thanh tịnh mà tu Thiền Định và trí huệ, sẽ
có nhiều chướng ngại, [khiến cho] chẳng thể
đạt được. Hoặc bị mất trí, lầm
loạn, hoặc bị tà vạy bên ngoài năo loạn, hoặc
tiếp nhận tà pháp, tăng trưởng ác kiến. V́ thế,
phải nêu tu pháp sám hối trước. Nếu giới
căn thanh tịnh và trọng tội trong đời
trước ít mỏng, sẽ ĺa các chướng).
Địa
Tạng Vương Bồ Tát lại bảo Kiên Tịnh Tín
Bồ Tát: - Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh trong đời
vị lai muốn cầu độ thoát sanh, lăo, bệnh, tử, tức là mong liễu thoát sanh, lăo, bệnh, tử,
mong phát tâm học Phật, mong phát tâm tu tập Thiền
Định, tu tập vô tướng trí huệ, trước
hết, hăy nên quán ác nghiệp đă tạo trong đời
trước nhiều hay ít, cho đến là nhẹ hay nặng.
Nếu ác nghiệp nhiều và sâu dày, lúc đó, chớ nên học
tập Thiền Định và trí huệ, v́ tu cũng chẳng
thành tựu, do chính ḿnh có nghiệp chướng rất nặng,
chướng ngại rất nhiều. Vậy th́ nên làm
như thế nào? Trước hết, hăy tu tập pháp sám hối.
Đấy là Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta phải
tu sám hối, đó gọi là “bái sám”. V́ sao chúng ta dùng
Chiêm Sát Luân một lượt chẳng tương ứng,
hai lượt chẳng tương ứng? V́ quư vị có
nghiệp chướng ngăn chướng. Đến khi
nghiệp chướng tiêu mất, sẽ liền
tương ứng. Nghiệp chướng tiêu thất, luân
tướng hiện, cũng chính là trí huệ của quư vị
tăng trưởng, tội nghiệp tiêu mất. Chẳng
phải là tiêu hết, mà là tội nghiệp nhẹ bớt,
trí huệ tăng trưởng. Đối với Chiêm Sát
Luân Tướng, dùng pháp sám hối, quư vị sẽ tiến
nhập, đó gọi là trí huệ. Nhưng nếu quư vị
chẳng nương theo tướng trạng của luân
tướng, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: Nếu
quư vị ác nghiệp rất dày, mà toan tu tập Thiền
Định, học tập trí huệ, sẽ dễ bị
ma dựa, dễ tiến nhập ma cảnh. Thật ra, pháp
sám hối nhằm tiêu trừ ma chướng, ma sẽ chẳng
hiện. Cách này khác với chuyện tu tập Thiền
Định và trí huệ. Chúng ta thường xuyên lao chao,
tâm chẳng thể tĩnh lặng được! Nếu
quư vị tu tập pháp sám hối rồi mới tu Định,
môn Định ấy sẽ chẳng có ma chướng.
Đó là sức gia tŕ của Địa Tạng Vương
Bồ Tát do hành nhân nương theo pháp sám hối; nguyên nhân
dùng pháp Chiêm Sát là như thế đó.
Địa
Tạng Vương Bồ Tát lại nói sâu hơn một tầng
nữa. “Sở dĩ giả hà” nghĩa là “v́ sao phải
nói như thế?” Kẻ ấy trong quá khứ đă quen
thói ác tâm rất mạnh mẽ, bén nhạy. Kẻ ấy
làm ác hết sức mạnh mẽ, căn cội
ác nghiệp trong quá khứ rất nặng, ác tập khí rất
sâu. Do ác nghiệp và ác tập khí trong quá khứ, hiện tại
kẻ ấy nhất định sẽ làm ác lắm nỗi,
tạo ác nhiều. Dẫu xuất gia, cũng sẽ phạm
trọng giới. Trọng giới là bốn căn bản
(giết, trộm, dâm, dối). Giả sử chẳng sám hối
thanh tịnh, tu Thiền Định, tu trí huệ có thể
thành tựu nổi chăng? Kinh Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo chủ yếu là để tu
hành, khiến cho quư vị sám hối tội lỗi trước
đă rồi sau đấy mới tu Thiền Định
và trí huệ, mới có thể chẳng dấy khởi tà
tri tà kiến, mới chẳng
có tà giác tri. Hiểu biết chẳng chánh đáng, liễu giải
chẳng chánh đáng th́ đều là tà tri tà kiến. Như thế th́ sẽ
tăng trưởng ác kiến. Do vậy, nếu muốn
tu hành Định và Huệ, tu hành pháp môn Chỉ Quán, hoặc
là cho đến khi thành Phật, trước hết, phải tu pháp sám hối. Nếu sám hối thanh tịnh,
khi đó, thọ Tam Quy, thọ Ngũ Giới, cho đến
thọ Bát Giới, Bồ Tát giới, giới càng thanh tịnh.
Đă thọ giới, bèn có thể giữ được,
tức là nghiệp chướng quá khứ chẳng quá nặng
nề; hễ tu tập, sẽ chẳng bị chướng
ngại. Nếu chẳng tu sám hối, mà tu Định Huệ
trước, nghiệp chướng của chính ḿnh quá nặng,
tập khí quá sâu, ác tập khí và ác tâm sở quá mănh liệt,
chẳng nói tới quá khứ, mà chính ngay các nghiệp mới
tạo của quư vị trong đời này sẽ là nhân duyên
gây chướng ngại cho tu Định, tu Huệ. Quư vị
không chỉ là tu chẳng thành tựu, mà c̣n bị ma dựa!
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đă thọ
giới mà chẳng tŕ giới, cho đến ngay cả Tam
Quy cũng trái phạm. Tam Quy chính là giới! Đă thọ
Tam Quy rồi mà lại chạy theo tin tưởng Gia Tô giáo (Thiên Chúa giáo)! Rất nhiều kẻ
như vậy, chẳng phải là thiểu số, ngay cả
Tam Quy mà cũng trái phạm. Bản thân của Tam Quy
cũng là giới, như thế th́ sẽ chẳng thể
nào không đọa địa ngục, chắc chắn là
như thế!
Nếu
lại gặp kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, lại bái sám, hối cải rồi lại bái sám.
Tôi vừa mới nói, [bái sám] một, hai thất mà luân
tướng chưa hề xuất hiện, đó là do nghiệp
chướng rất nặng. Nghiệp
do quư vị đă tạo gây chướng ngại cho quư vị,
ngay cả sử dụng pháp này mà cũng chẳng thể dùng được.
Trước hết, ắt phải sám hối các tội nghiệp ấy rồi mới lại dùng Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, sau đó lại sám hối
nghiệp báo. Nói như vậy, chúng ta nhận biết tội
nghiệp như thế nào? Nếu dùng giáo nghĩa Đại
Thừa, “tội tánh vốn không, chỉ do tâm tạo”.
Tâm tạo th́ dùng tâm sám. Tâm nếu diệt th́ tội
cũng mất. Tâm mất và tội diệt, hai đằng
đều không; đó gọi là chân sám hối, quư vị
đă làm được chưa? Đó gọi là vô tướng
sám. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta, quư vị phải
từ hữu tướng đạt đến vô tướng.
Hữu tướng sám mà quư vị làm chẳng được,
há có thể vô tướng sám ư? Do vậy, trong nửa bộ
sau của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo này chẳng phải là như vậy, tu Định
và tu Huệ, hai thứ quán đạo, cảnh giới Nhất
Thật, trực tiếp nhập pháp giới, đó là cảnh
giới Hoa Nghiêm. Mục đích chủ yếu của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là chúng ta
tu thành Phật, tướng thế gian được nói kèm
theo. Quư vị chiêm sát nghiệp chướng của
chính ḿnh nhẹ hay nặng, như thế nào th́ sẽ có thể
tu Thiền Định, như thế nào th́ sẽ có thể
tu trí huệ? Do vậy, quư vị phải lạy Chiêm Sát
Sám. Mục đích dạy chúng ta dùng Chiêm Sát Sám của Địa
Tạng Bồ Tát nằm trong nửa bộ sau. Nửa bộ
đầu [của kinh này] nhằm chuẩn bị, mục
đích là thành Phật, chẳng phải nhằm học phú
quư, tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian.
Đă
hiểu đạo lư này, mọi người biết có kẻ
bảo “Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là giáo nghĩa Tiểu
Thừa, chẳng phải là Đại Thừa”. Trong kinh
này, chẳng có A La
Hán, chỉ có Kiên Tịnh Tín Bồ Tát và Địa Tạng
Bồ Tát thuyết pháp, chẳng có ai khác tham gia. Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát thỉnh, Địa Tạng Bồ Tát nói.
Đồng thời, nửa bộ
sau dạy quư vị, trong nửa bộ đầu, tội
tánh là thực tại, nửa bộ
sau bèn phủ định: “Tội tánh vốn là không, thể
tánh của tội chẳng có, là hư huyễn, chẳng
chân thật”. [Nếu tội tánh là] chân thật, quư vị
sẽ chẳng thể sám được; v́ nó chẳng chân
thật, quư vị mới sám trừ được! Tội
tánh vốn không, chỉ do tâm tạo, nhưng khi tạo, khởi
tâm động niệm, khi tạo tội nghiệp th́ rất
nhanh chóng, rất dễ dàng. Khi sám th́ có thể chẳng dễ,
v́ chúng ta chẳng đạt được nhất tâm. Có
thể đạt tới nhất tâm, đương nhiên
là rất tốt! Nay mọi người đều biết
phát Bồ Đề tâm, nếu cái tâm tương ứng,
chúng ta tu mười đại nguyện vương của
đức Phổ Hiền; đó là pháp môn “duy tâm vô ngại, vô chướng”, quư vị có thể
tương ứng hay không? Lễ khắp mười
phương hết thảy chư Phật: Đại nguyện
thứ nhất là lễ kính mười phương chư
Phật, tâm quư vị có thể đạt tới cảnh
giới ấy hay không? Nếu niệm Địa Tạng,
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, hoặc niệm Phật,
Pháp, Tăng Tam Bảo, niệm nào cũng đều chẳng
ĺa tâm, tâm chính là Tam Bảo. Cái tâm niệm Địa Tạng
Bồ Tát chính là Địa Tạng Bồ Tát, cái tâm niệm
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chính là Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, có làm được hay không? Do vậy, trong khi
quư vị chưa sám trừ hết tội, hăy c̣n thiếu rất nhiều
món nợ quư vị chưa trả xong, nếu muốn phát
tài to lớn, sẽ chẳng làm được! Quư vị
phải trả sạch nợ đă! Trước hết,
hăy trả sạch tội nghiệp!
Mỗi
vị đại Bồ Tát trong khi lợi ích chúng sanh, mục
đích đầu tiên là khiến cho chúng sanh “ĺa khổ,
được vui”. Do mục đích này mà mỗi vị
Bồ Tát và hết thảy các đại Bồ Tát phát tâm.
Các Ngài làm hết thảy đều v́ độ chúng sanh.
Giáo nghĩa Đại Thừa dạy: Khi Bồ Tát hành Bồ
Tát đạo, chẳng v́ mưu cầu hạnh
phúc cho chính ḿnh, chỉ mong chúng sanh được an lạc.
Nguyện hết thảy chúng sanh ĺa khổ, tâm quư vị kết
hợp với tâm của hết thảy chư Phật, Bồ
Tát thành một thể. Tâm phàm phu nhanh chóng trở thành Phật
tâm, chuyển biến ư niệm thành Phật tâm, có thể
làm được hay không? Nếu chẳng làm được,
vậy th́ phát tâm học theo Phật, học theo Bồ Tát,
chuyển biến cái tâm của quư vị trở thành Phật
tâm. Làm chẳng được, quư vị sẽ thuận
theo nghiệp của chính ḿnh. Quư vị tạo nghiệp ǵ,
nó sẽ lôi quư vị đến nơi đó, tức là bị
nghiệp lực xoay chuyển. Các vị đang hiện
diện đều phát tâm học Phật, nói Phật làm
như thế nào, ta bèn làm như thế ấy. Chẳng làm
được! Ngay cả Bồ Tát mà chúng ta cũng đều
chẳng làm được, ngay cả sơ phát ư Bồ Tát
chúng ta cũng chẳng làm được, chỉ xưng là
Bồ Tát! Chúng ta đều
đă thọ Bồ Tát giới. Có người đă thọ
trọn tam đàn đại giới, thử hỏi các vị
xuất gia đạo hữu có phải là Bồ Tát hay
không? Là Bồ Tát! Bồ Tát làm chuyện ǵ, trong tâm Bồ
Tát nghĩ chuyện ǵ, ư niệm của Bồ Tát là ǵ? Nếu quư vị niệm nào cũng đều là tâm Bồ
Tát, nghiệp lực hết sức mạnh mẽ, th́ sẽ
thuận theo Bồ Tát đạo. Quư vị thường nghĩ
đến nghiệp chướng của chúng sanh: Bị bệnh
khổ xảy đến, bị bệnh khổ xoay chuyển.
Nếu thức ăn ngon miệng, sẽ ăn thêm hai miếng.
Chẳng ngon, sẽ chẳng muốn ăn thêm! Trong hết
thảy các chỗ, đều có thể kiểm nghiệm
cái tâm của chúng ta.
Nay
chúng ta có thể cảm nhận “niệm trước vừa
khởi ác, niệm sau chẳng dấy lên”, chẳng cho
nó tiếp tục. Biết nghiệp chướng do chúng ta
đă tạo trong quá khứ, nay thân, khẩu, ư một
đao cắt phăng, có sức mạnh ấy hay chăng?
Thiện Tài đồng tử có [sức mạnh ấy].
Trong kinh Pháp Hoa, long nữ cũng có. Hễ có, bèn thành Phật.
Chẳng có, sẽ chẳng thể tiêu [nghiệp chướng]
một tí nào. Chúng ta chẳng có cái sức ấy, nghiệp
tánh vốn là không, do tâm tạo, nhưng chúng ta chẳng thể
“không” được! Chẳng thể “không”, quả báo sẽ
chẳng mất! Các đạo hữu học giáo nghĩa
Đại Thừa thường nói “nghiệp tánh vốn
không”, quư vị có thể “không” nơi quả báo hay
chăng? Bệnh là giả, chẳng ăn nhằm ǵ! [Thế
nhưng] khi quư vị bệnh nặng chẳng ḅ dậy nổi,
tôi coi quư vị làm như thế nào? Đó là giả, ta hăy choàng dậy đi làm như thường, có làm được
hay không? Ăn nói lớn lối th́ ai cũng đều có thể nói được, nhưng chuyện
lớn chẳng thể làm được! Nói “ta chịu
khổ thay cho chúng sanh”, được lắm! Quư vị
chịu thay đi! Quư vị đến bệnh viện, nói
với tất cả bệnh nhân: “Tôi đều chịu
thay cho quư vị, quư vị hăy xuất viện đi!” Làm
được hay không? Trong khi nghiệp báo hiện tiền,
ăn nói lớn lối vô dụng, thân thể là thân thể,
tâm linh là tâm linh, quư vị có thể tách rời hai đằng
hay chăng? Bác sĩ mổ xẻ, phải chích thuốc mê
cho quư vị. Quư vị nói: “Chẳng cần chích thuốc
mê! Tôi không đau, cứ mổ đi”. Quư vị có bản
lănh ấy hay không? Thân thể quư vị bị bệnh, nói:
“Tâm ta chẳng bệnh, không sao hết!” Làm chẳng
được! Nếu có thể làm được th́ là Bồ
Tát, đó là diệu dụng thần thông của Bồ Tát,
hoàn toàn chẳng phải là ăn nói lớn lối, mà phải
là làm chuyện lớn. Bởi vậy, ắt phải sám hối.
(Kinh)
Thiện nam tử! Dục tu sám hối pháp giả,
đương trụ tĩnh xứ, tùy lực sở
năng trang nghiêm nhất thất, nội trí Phật sự,
cập an kinh pháp, huyền tăng phan cái.
(經)善男子。欲修懺悔法者。當住靜處。隨力所能莊嚴一室。內置佛事及安經法。懸繒幡蓋。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu muốn tu pháp sám hối th́
hăy nên ở chỗ thanh vắng, tùy theo sức ḿnh mà trang
nghiêm một cái thất, trong đó bày tượng và đặt
kinh pháp, treo phan lọng lụa).
Muốn
tu pháp sám hối, quư vị t́m một địa điểm
thanh tịnh, tùy theo sức ḿnh để trang nghiêm thanh tịnh
một cái thất. Trong đó, thờ một bức tượng
Phật, dâng cúng các thứ vật cúng. Lại c̣n có kinh sách
pháp bảo, treo tràng phan, lọng báu.
(Kinh)
Cầu tập hương hoa dĩ tu cúng dường.
(經)求集香華以修供養。
(Kinh:
T́m kiếm, gom góp hương, hoa để tu cúng dường).
Tùy
theo sức ḿnh. Nếu quư vị chẳng có tiền th́ dùng
giấy cắt. Dùng giấy làm thành vật cúng cũng
được, chẳng cần tốn kém rất nhiều.
Cúng dường như thế đó. V́ các đạo hữu
b́nh phàm, chẳng có sức để trang nghiêm một tịnh
thất thờ Phật. Cúng dường bảy món quư, tám
món báu, sẽ lo chẳng xuể! Hăy tùy duyên, chỉ cần
cái tâm chân thật th́ sẽ là thật.
(Kinh)
Tháo dục thân thể, cập tẩy y phục, vật linh
xú uế.
(經)澡浴身體及洗衣服。勿令臭穢。
(Kinh:
Tắm rửa thân thể, và giặt quần áo, đừng
để hôi bẩn).
Đồng
thời, phải tắm rửa thân thể, quần áo phải
giặt sạch sẽ, cho đừng có mùi hôi hám, sau đấy
mới bước vào sám thất.
(Kinh)
Ư trú nhật phần, tại thử thất nội, tam
thời xưng danh, nhất tâm kính lễ quá khứ thất
Phật, cập ngũ thập tam Phật. Thứ tùy thập
phương diện, nhất nhất tổng quy, nghĩ tâm
biến lễ nhất thiết chư Phật sở hữu
sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng, phù-đồ miếu
tháp, nhất thiết Phật sự. Thứ phục tổng
lễ thập phương tam thế sở hữu chư
Phật. Hựu đương nghĩ tâm biến lễ thập
phương nhất thiết pháp tạng. Thứ
đương nghĩ tâm biến lễ thập
phương nhất thiết hiền thánh. Nhiên hậu cánh
biệt xưng danh, lễ ngă Địa Tạng Bồ Tát
Ma Ha Tát. Như thị lễ dĩ, ưng đương
thuyết sở tác tội, nhất tâm ngưỡng cáo, duy
nguyện thập phương chư đại từ tôn,
chứng tri hộ niệm, ngă kim sám hối, bất phục
cánh tạo. Nguyện ngă cập nhất thiết chúng sanh, tốc
đắc trừ diệt vô lượng kiếp lai Thập Ác, Tứ Trọng, Ngũ Nghịch,
điên đảo, báng hủy Tam Bảo Nhất Xiển
Đề tội. Phục ưng tư duy như thị tội
tánh, đản tùng hư vọng điên đảo tâm khởi,
vô hữu định thật nhi khả đắc giả,
bổn duy không tịch, nguyện nhất thiết chúng sanh
tốc đạt tâm bổn, vĩnh diệt tội
căn.
(經)於晝日分在此室內三時稱名。一心敬禮過去七佛及五十三佛。次隨十方面一一總歸。擬心遍禮一切諸佛所有色身。舍利形像。浮圖廟塔。一切佛事。次復總禮十方三世所有諸佛。又當擬心遍禮十方一切法藏。次當擬心遍禮十方一切賢聖。然後更別稱名禮我地藏菩薩摩訶薩。如是禮已。應當說所作罪。一心仰告。惟願十方諸大慈尊。證知護念。我今懺悔。不復更造。願我及一切衆生。速得除滅無量劫來。十惡四重。五逆顛倒。謗毀三寶一闡提罪。復應思惟。如是罪性。但從虛妄顛倒心起。無有定實而可得者。本唯空寂。願一切衆生速達心本。永滅罪根。
(Kinh:
Vào lúc ban ngày, ở trong cái thất ấy, ba thời
xưng danh, nhất tâm kính lễ bảy vị Phật
trong quá khứ và năm mươi ba vị Phật. Kế
đó, đối với mỗi phương trong mười
phương, đều lễ chung, tâm tưởng lễ
trọn khắp tất cả sắc thân, xá-lợi, h́nh
tượng, miếu tháp phù-đồ, và hết thảy Phật
sự của hết thảy chư Phật. Kế đó lại
lễ chung mười phương ba đời tất cả
chư Phật. Tâm lại tưởng lễ trọn khắp
mười phương hết thảy pháp tạng. Kế
đó, tâm tưởng lễ trọn khắp mười
phương hết thảy hiền thánh. Sau đấy, bèn
riêng xưng danh, lễ bái ta, tức Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Lễ như thế xong, hăy nên
nói tội đă làm, nhất tâm bẩm báo, chỉ mong các
đấng đại từ tôn trong mười
phương chứng biết, hộ niệm: “Con nay sám hối,
chẳng c̣n tạo nữa. Nguyện cho con và hết thảy
chúng sanh, mau được trừ diệt muời ác, bốn
tội trọng, năm tội nghịch, điên đảo,
tội Nhất Xiển Đề hủy báng Tam Bảo từ
vô lượng kiếp đến nay”. Lại nên
tư duy: Tánh của các tội như thế chỉ từ
cái tâm hư vọng điên đảo mà khởi, chẳng
chắc thật để có thể đạt được,
vốn chỉ là không tịch. Nguyện cho hết thảy
chúng sanh mau thấu đạt nguồn tâm, vĩnh viễn
diệt trừ tội căn).
“Trú
nhật phần”: Thuở đức Phật tại thế,
thời gian tại Ấn Độ được chia
thành ngày ba thời và đêm ba thời. Ba thời xưng
danh, tụng niệm thánh hiệu Địa Tạng. Sau
đó lại bái sám. Bước vào sám thất, khi tu sám pháp,
nhất tâm kính lễ bảy vị Phật trong quá khứ
và năm mươi ba vị Phật. Tại Ấn Độ
thuở đó, vào thời cổ, ba thời ban ngày là sơ
nhật, trung nhật, và hậu nhật, [ba thời ban
đêm] là sơ dạ, trung dạ, và hậu dạ. Ban ngày
là từ sáng đến chiều, ban đêm là từ sơ dạ,
trung dạ, cho đến hậu dạ, rốt cuộc là
hai mươi bốn tiếng đồng hồ bái sám.
Trong
khi bái sám, trước hết phải đảnh lễ bảy
vị Phật trong quá khứ. Chúng tôi chẳng nói tới từng
vị, mọi người đều biết bảy vị
Phật trong quá khứ. Ba vị Phật trong Trang Nghiêm Kiếp
là Tỳ Bà Thi Phật (Vipaśyin), Thi Khí Phật
((Śikhin), và Tỳ Xá Phù
Phật (Viśvabhū), ba vị ấy. Bảy vị Phật là ba vị
Phật trong Trang Nghiêm Kiếp và bốn vị Phật trong
Hiền Kiếp. Hiện thời chúng ta thuộc Nhân Hiền
Kiếp, bốn vị Phật trong [Nhân] Hiền Kiếp là
Câu Lưu Tôn Phật ( Krakucchanda), Câu Na
Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), Ca Diếp Phật
(Kāśyapa), và
Thích Ca Mâu Ni Phật (Śākyamuni). Trang
Nghiêm Kiếp (Vyūhakalpa) và Nhân
Hiền Kiếp (Bhadrakalpa) gộp chung lại,
ba vị Phật trong Trang Nghiêm Kiếp cộng với bốn
vị Phật thuộc Nhân Hiền Kiếp thành bảy vị
Phật. Trước hết, lạy bảy vị Phật,
sau đó, lại lạy năm mươi ba vị Phật[9].
Đó là những vị Phật ắt phải lạy trước khi sám hối. Lạy xong,
quy kính chung mười phương, tức là kính lễ hết
thảy chư Phật trong mười phương. Nói “tổng”
ở đây chính là bao gồm lễ sắc thân của Phật.
Sắc thân là hóa thân hiện tướng. Hóa thân của Phật
chẳng trụ thế, sẽ lưu lại xá-lợi, có
h́nh tượng Phật, có chùa miếu, có tháp. Những thứ
ấy đều gọi là “Phật sự”, đều
cúng dường, trong tâm ức niệm cúng dường. Quư
vị lạy Chiêm Sát Sám, trong văn tự chỉ có nghi thức
Chiêm Sát Sám, tức Chiêm Sát sám bổn. Sau đấy, lễ chung mười phương ba đời hết
thảy chư Phật, tức cúng dường Phật Bảo.
Lại nên lễ khắp mười phương hết thảy
pháp tạng, tức Pháp Bảo. Cung kính lễ mười
phương hết thảy hiền thánh tăng, là Tăng
Bảo. Lễ mười phương xong, lại riêng
xưng danh, lễ bái Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Đấy là vị Sám Hối Chủ của chúng ta.
Có khi ba lượt xưng danh Địa Tạng Bồ
Tát, lễ ba lạy. Trong kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo, một lễ là được rồi,
nhưng trên thực tế, thường là đối với
vị Sám Hối Chủ, ta đều
xưng danh ba lượt, lễ ba lạy.
Mở
đầu khóa sám hối, trước hết, lễ mười phương chư Phật. Sau
đấy, lại phân biệt mà lễ. Lễ như thế
xong, hăy nên nêu ra tội đă tạo. Quư vị đă trót phạm
sai lầm ǵ, đều nên nói ra. Có những người
ngượng ngùng, không muốn thổ lộ, hăy chọn
lúc không có ai trong Phật đường, đối trước
Phật thưa tŕnh; đối trước Địa Tạng
Vương Bồ Tát thưa bày. Sám hối có nghĩa là biểu
đạt “con chẳng c̣n làm nữa!” Các chuyện ấy
là chuyện xấu, đă sám hối rồi, con sẽ chẳng
làm nữa. Nguyện con cùng hết thảy chúng sanh mau
được tiêu diệt [tội nghiệp] từ vô
lượng kiếp đến nay, đă rất xa! V́ khi
chúng ta tạo tội, từ vô lượng kiếp đến
nay, đă tạo “thập ác, tứ trọng”, tức
mười ác nghiệp và bốn trọng tội, ngũ nghịch,
điên đảo, hủy báng Tam Bảo, tội Nhất Xiển
Đề. Báng Phật th́ không chỉ là chẳng tin. Xiển
Đề là báng Phật. Niệm như thế xong, chính
ḿnh bèn quán tưởng, “tư duy” là quán tưởng,
nói các tội ấy là điên đảo, hư vọng, chẳng
thực tại. Nếu là thực tại th́ sẽ chẳng
thể sám hối được. Do nó chẳng phải là
thực tại, nó có một cái thể tánh thật sự tồn
tại để có thể đạt được hay
chăng? Chẳng có! Chẳng có cái ǵ chắc thật để
có thể đạt được! Tội tánh vốn là
không, không tịch, khiến cho hết thảy chúng sanh thấu
đạt cái tâm, đạt tới tâm lẫn tội đều
sám trừ sạch. Tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có. Nếu
cảnh mất th́ tâm cũng không. Chẳng có cảnh, chẳng
có tâm, diệt tội từ căn bản.
Nhưng
như thế nào th́ mới có thể làm được?
Điều thứ nhất là phải tin sâu nhân quả. Nhân
quả bất diệt, các pháp do duyên sanh. Duyên sanh chẳng
có thể tánh, nhưng nó lại chẳng tiêu mất, vẫn
phải trả báo. Tội chẳng có thể tánh, tâm là vô
sanh, chỉ là do cảnh mà có. Do v́ tướng cảnh giới
mà quư vị phạm tội. Đồng thời, quư vị
c̣n phải tin, tin tưởng nhân quả chẳng mất.
Cái nhân do quư vị đă tạo nhất loạt chẳng mất
đi, một chấm, một giọt cũng chẳng
để sót, chẳng bị mất đi! Do vậy, phải
hổ thẹn. Hễ vào sám thất, phải sanh khởi
ḷng tàm quư (hổ thẹn). Tàm (慚) là thẹn với
chính ḿnh, quư (愧) là hổ với người khác. Chính ḿnh phạm tội
đối với người khác, v́ kẻ khác mà tổn
thương người ta, chẳng lễ độ đối
với người ta, bao gồm rất nhiều trái phạm!
Hai chữ Tàm Quư bao gồm rất nhiều điều, do tổn thương rất
nhiều người từ vô lượng kiếp đến
nay, nhất định sẽ phải hứng chịu quả
báo.
Những
ǵ chúng ta hứng chịu trong hiện tại, rất nhiều
khổ nạn trong cuộc đời, quư vị chẳng phải là đang thọ báo ư? Người
ta nói “giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp
bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự
thọ” (giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp
đă làm chẳng mất, khi nhân duyên hội ngộ, quả
báo vẫn tự chịu). Cho đến khi quư vị phải
trả báo, sẽ cảm thấy khổ lắm! Sanh bệnh,
ngồi tù, tôi đă đều hứng chịu. Đó gọi
là “trả báo”. Không có quả báo, quư vị sẽ chẳng
phải hứng chịu. Quư vị có báo, có nghiệp, th́ phải
hứng chịu; nhưng khi chúng ta tạo tội th́ đều
là tiếp nối, chẳng phải là một đời,
hai đời, mà là liên tục tạo ác. Trẻ nít sanh ra
bèn dấy khởi tâm tham, tức tham, sân, si; đôi chút chẳng
vừa ư liền khóc ̣a. Trẻ nhỏ vừa sanh ra bèn khóc,
một mực cáu giận. Nó chẳng vừa ư bèn khổ,
do khổ sở chẳng có cách nào biểu lộ bèn khóc.
Đó là cái tâm sân hận phát tác. Quá nhỏ, chẳng thể
nói, quư vị đối trước nó hỏi: “Làm ǵ thế?”
Nó lập tức khóc, cái tâm sân hận rất nặng! Vừa
biết nói, thấy ǵ cũng đều chụp lấy,
cho là của nó. Tôi từng biết một đứa trẻ,
nó c̣n chưa đầy một tuổi, chưa biết nói,
cho nó rất nhiều thứ, hai tay nó giữ chặt, chẳng
cho người khác đụng đến! Tập khí ác bẩm
sanh, do quá khứ mà ra. Nói đến tội tánh th́ đó là
tội tánh, đời đời tiếp nối!
Tập 6
(Kinh)
Thứ ưng phục phát khuyến thỉnh chi nguyện,
nguyện linh thập phương nhất thiết Bồ
Tát vị thành Chánh Giác giả, nguyện tốc thành Chánh
Giác. Nhược dĩ thành Chánh Giác giả, nguyện thường
trụ tại thế, chuyển chánh pháp luân, bất nhập
Niết Bàn.
(經)次應復發勸請之願。願令十方一切菩薩未成正覺者願速成正覺。若已成正覺者。願常住在世。轉正法輪。不入涅槃。
(Kinh: Kế đó, lại nên phát nguyện khuyến thỉnh,
nguyện cho mười phương hết thảy các vị
Bồ Tát chưa thành Chánh Giác, nguyện mau thành Chánh Giác. Nếu đă thành Chánh Giác, nguyện
thường trụ trong cơi đời, chuyển chánh pháp
luân, chẳng nhập Niết Bàn).
Địa
Tạng Bồ Tát dạy người muốn sử dụng
Chiêm Sát Luân th́ trước đó phải phát nguyện rồi
mới có thể dùng. Đây là phát nguyện khuyến thỉnh.
Phát ra cái nguyện khuyến thỉnh này, khiến cho hết
thảy chướng ngại của chúng ta có thể tiêu mất.
Nếu chúng ta dùng Chiêm Sát Luân mà bị chướng ngại,
bị chướng ngại th́ quư vị rất khó
tương ứng. Những ǵ luân tướng hiển hiện
cho quư vị chẳng chánh xác. V́ thế, để chánh xác,
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: “Quư vị phải
phát nguyện khuyến thỉnh”. Phát nguyện
đối với mười phương hết thảy
Bồ Tát c̣n chưa thành Phật, bèn nguyện các Ngài sẽ
thành Phật rất nhanh; đă thành Phật th́ nguyện các
Ngài thường ở lâu trong cơi đời. “Trụ thế”
là chuyển pháp luân. Phật trụ thế sẽ thuyết
pháp, thường trụ lâu dài trong cơi đời th́ sẽ chẳng nhập Niết
Bàn quá sớm. Do vậy, nguyện này có thể tiêu trừ
ma chướng khi chúng ta tu hành. V́ khi quư vị có ma chướng,
tu hành sẽ chẳng thành tựu. Đồng thời, có
đạo hữu nói với tôi, mỗi khi có pháp sư giảng
kinh, người ấy cũng muốn đến nghe,
nhưng hễ sắp đi nghe liền xảy ra chướng ngại.
Người ấy ở Thượng Hải bên Đại
Lục, chẳng phải là xe bị trục trặc th́ có
người gọi điện thoại báo có chuyện phải
lo liệu, luôn khiến cho ông ta chẳng thể nghe thành công.
Đó gọi là chướng ngại, là ma chướng. V́
sao chỉ đợi đến khi ông ta sắp đi
nghe kinh, hoặc là muốn tham gia một pháp hội, sẽ
xuất hiện các chướng ngại ấy? Đó gọi
là nghiệp chướng, chúng ta có thể thấy
được! Có những thứ nhằm đúng ngay khi
quư vị làm chuyện tốt, cũng như khi hành Bồ
Tát đạo, ma chướng bèn xuất hiện. Thuở
đức Phật tại thế thuyết pháp, ma
vương Ba Tuần thường gây chướng ngại.
Ba Tuần thường thỉnh đức Phật hăy chóng
nhập diệt. Chuyện này thường phát sanh.
V́
thế, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu
quư vị muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, phải phát
nguyện khuyến thỉnh, cần phải phát nguyện:
Nguyện cho các vị Bồ Tát chưa được thành
Phật sẽ mau được thành Phật. Nguyện các
vị Phật đă thành tựu, khuyến thỉnh các Ngài
đừng nhập Niết Bàn, thường trụ lâu dài
trong cơi đời. Đó gọi là nguyện khuyến thỉnh.
Nguyện khuyến thỉnh có cùng ư nghĩa với việc
khuyến thỉnh
(khuyên mời) thuyết pháp, khuyến thỉnh hết
thảy hăy làm Phật sự. Điều này bao hàm ư
nghĩa “quư vị phải phát thiện tâm”, thiện
tâm ǵ vậy? Thỉnh chư Bồ Tát thuyết pháp. Nếu
bản thân chúng ta ở trong sám thất, hoặc trong Phật
đường, khi chúng ta niệm kinh, kinh văn dạy
quư vị hăy khuyến thỉnh hết thảy chư Phật,
Bồ Tát thuyết pháp. Đó gọi là “đại nguyện
khuyến thỉnh”. C̣n đối với hết thảy
Bồ Tát đang trụ thế, bèn khuyến thỉnh
các Ngài thường trụ thế gian, đừng nên nhập
Niết Bàn. Có phải là phát nguyện khuyến thỉnh sẽ
nhất định sanh ra hiệu quả hay không? Tùy thuộc
vào sự chí tâm của quư vị, mỗi vị đạo
tâm chúng sanh phát ư Bồ Tát, chúng ta thường khuyến thỉnh
chư Phật, Bồ Tát trụ thế. Vậy th́ bản
thân quư vị sẽ đạt được ǵ? Khỏe mạnh,
sống lâu, luôn có thể nghe pháp âm. Nguyện lực ấy
rất quan trọng.
Lại
phải nên phát khởi cái nguyện khuyến thỉnh, khuyến thỉnh mười phương hết thảy
Bồ Tát, v́ nói theo giáo nghĩa trong Phật giáo, khi Bồ Tát dự
vào Đệ Bát Địa, Ngài cho rằng chính ḿnh đă
viên măn, không c̣n phát nguyện tu hành hướng lên cao hơn nữa để độ
chúng sanh, [v́ ngộ nhận] “chính ḿnh đă đoạn hết
các Hoặc nghiệp, sự nghiệp độ sanh đă viên
măn”, v́ Ngài c̣n chưa thấy
được căn bản vô minh của chính ḿnh. Đó là Đệ Bát
Địa Bồ Tát. Do vậy, mười phương
chư Phật đến khuyên vị ấy, khuyên vị ấy
vẫn phải tiếp tục hành Bồ Tát nguyện, bảo
cho vị ấy biết “ông vẫn chưa thành Phật”.
Chúng ta chẳng thấy điều này, mà cũng chẳng
biết vị nào là Bát Địa Bồ Tát, nhưng chúng ta
khuyên hết thảy chúng sanh, hết thảy đạo hữu
hăy trụ thế. Đó là điều đáng nên làm. Chẳng
hạn như gần đây nhất, các vị Bồ Tát
liên tục ra đi. Trong các đại đức hiện
thời, mọi người đều biết pháp sư
Thánh Nghiêm, pháp sư Sám Vân, pháp sư Phật Nguyên tại
Đại Lục, trong ṿng nửa tháng này đều kế
tiếp nhau văng sanh. Chúng ta có thể thấy điều
này. C̣n có mười phương Bồ Tát mà nhục nhăn của
chúng ta chẳng thể trông thấy. Chúng ta hăy nên niệm
nào cũng khuyến thỉnh các Ngài thường trụ dài
lâu trong cơi đời. Đại nguyện ấy nhằm
thỉnh chư Phật, Bồ Tát trụ thế, hy vọng
chư Phật, Bồ Tát gia tŕ chúng ta, để chúng ta có
thể tu thành đạo nghiệp khi c̣n tuổi thọ,
tiêu diệt nghiệp chướng, đạt được
thành tựu. Đó là cái nguyện khuyến thỉnh, khuyến
thỉnh hết thảy chư Bồ Tát, khiến cho các
Ngài thường trụ dài lâu trong cơi đời. Nhục
nhăn của chúng ta chẳng thể trông thấy chuyện
này, có các vị Bồ Tát mà quư vị không thấy, nhưng
phát ra cái nguyện này nhằm ư nghĩa “khiến cho quư vị
sớm có ngày được thân cận bạn lành, thân cận
thiện tri thức”. Do đạo lư này, Địa Tạng
Bồ Tát dạy chúng ta phải nên phát nguyện như thế.
Đă phát xong nguyện này….
(Kinh)
Thứ đương phục phát tùy hỷ chi nguyện,
nguyện ngă cập nhất thiết chúng
sanh, tất cánh vĩnh xả tật đố chi tâm, ư
tam thế trung, nhất thiết sát độ, sở hữu
tu học nhất thiết công đức, cập
thành tựu giả, tất giai tùy hỷ.
(經)次當復發隨喜之願。願我及一切衆生。畢竟永舍嫉妒之心。於三世中一切剎土。所有修學一切功德及成就者。悉皆隨喜。
(Kinh: Kế đó, lại nên phát nguyện
tùy hỷ, nguyện con và hết thảy chúng sanh rốt ráo
vĩnh viễn bỏ tâm ganh ghét, trong ba đời, hết
thảy các cơi nước, đối với tất cả
hết thảy công đức tu học và thành tựu, thảy
đều tùy hỷ).
Thông thường, trong vô lượng đời
quá khứ, khi chúng ta thấy người ta khéo làm thiện
nghiệp, cho đến hết thảy sự nghiệp
trong thế gian tốt đẹp hơn, mạnh mẽ
hơn chúng ta, quư vị bèn nẩy sanh một thứ chướng
ngại, ghen tỵ. Pháp sám này có nguyện tùy hỷ nhằm
tiêu diệt chướng ngại ghen tỵ từ vô lượng đời
trong quá khứ của chúng ta, khiến cho chúng ta trông thấy
người hơn hẳn chúng ta, bất luận tín ngưỡng
Tam Bảo cũng thế, mà hết thảy sự nghiệp
tại gia cũng thế, chúng ta đều tán thán, tùy hỷ.
Đồng thời, nguyện cho hết thảy chúng sanh
đều thành Phật. Sự tùy hỷ này bao trùm mười
pháp giới: Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác,
cho đến lục đạo chúng sanh. Đạo lư này rất
sâu. V́ nhất tâm của chúng ta, tức là một niệm
tâm trong hiện tiền trọn đủ mười pháp
giới. Trong suốt một ngày, quư vị khởi tâm động
niệm, có lúc mong thành Phật. Khi niệm kinh, thấy chư
Phật, Bồ Tát bèn phát nguyện mong chính ḿnh sớm thành
Phật. Niệm ấy của quư vị bèn thuộc vào Phật
pháp giới. Do thấy người khác đau khổ, quư vị
mong cứu độ, hộ tŕ họ, độ họ
thoát khỏi hết thảy các khổ. Do nguyện ấy, quư vị bèn tiến nhập Bồ Tát pháp giới.
Nếu chính quư vị cảm nhận trong cuộc sống, tất
cả mọi chuyện đều chẳng thuận tâm,
nhàm ĺa thế gian, cho đến pháp Khổ, Tập, Diệt,
Đạo, pháp mười hai nhân duyên, đó là tâm Nhị
Thừa. Bồ Tát cũng thế, mà Thanh Văn cũng thế!
Một đằng là nguyện cho hết thảy chúng sanh,
độ hết thảy chúng sanh liễu sanh tử; một
đằng là liễu thoát sanh tử của chính ḿnh. Lại
nữa, đối với tất cả hết thảy thiện
cử (善舉, hành động tốt đẹp) trong nhân gian, hết thảy chúng sanh trong lục
đạo và chúng ta đều là cùng một tâm, một
thể tánh, tức là chính ḿnh chớ nên tham ái hay ghen tỵ đối
với hết thảy chúng sanh. Hăy tiêu trừ cái tâm
ấy! Chỉ cần thấy người khác có một tí
việc thiện, không chỉ chẳng ghen tỵ, mà c̣n phát
nguyện tùy hỷ, tức là nguyện tùy hỷ chúng sanh, ḥng tiêu trừ cái tâm chướng ngại, đố kỵ từ vô
lượng đời trong quá khứ. Hễ thấy
người khác dường như hơn ta, bèn sanh ḷng bất măn, hăy tiêu trừ nghiệp
chướng ấy!
Trong
hết thảy các cơi Phật thuộc quá khứ, hiện
tại, vị lai, xét theo thời gian là ba đời, xét
theo nơi chốn là trọn khắp hết thảy các cơi,
đều có các vị Bồ Tát hành Bồ Tát đạo,
đều có các vị đă viên măn Bồ Tát
đạo thành Phật. Tuy nhục nhăn của chúng ta chẳng
thể trông thấy, nhưng tâm chúng ta tùy hỷ, coi công
đức của người khác như của chính ḿnh mà
tán thán, tùy hỷ, sẽ giống như chính ḿnh đạt
được công đức. Công đức tán thán, tùy hỷ
th́ không chỉ nhục nhăn của
chúng ta chẳng thể trông thấy, tuy nhục nhăn của chúng ta không
trông thấy, nhưng tư tưởng của quư vị có thể
tác ư, nương theo lời dạy của đức Phật.
Cho đến hiện tại, chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo,
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu quư vị
muốn dùng Chiêm Sát Luân, trước hết, phải phát khởi
tùy hỷ. Tùy hỷ công đức thành Phật của
mười phương ba đời hết thảy
chư Phật, tùy hỷ công đức hành Bồ Tát đạo
của mười phương hết thảy Bồ Tát,
cho đến đối với tất cả thiện nghiệp
của hết thảy chúng sanh, quư vị đều tùy hỷ.
Tâm lượng hiện hành ấy, cái tâm hiện tại của
quư vị có thể mở rộng đến mức độ
lớn như vậy, trên là tùy hỷ mười
phương hết thảy chư Phật, dưới là
tùy hỷ hết thảy chúng sanh. Đối với tất
cả các thiện nghiệp dẫu nhỏ nhoi, bé tí, quư vị
đều tùy hỷ tán thán, như thế sẽ tiêu diệt thói
xấu từ vô lượng kiếp đến nay: “Thấy
người khác đạt được điều quư vị
chẳng đạt được, quư vị chẳng sanh
ḷng hoan hỷ, mà c̣n sanh ḷng ghen tỵ”. Sám hối nghiệp
chướng ấy, đó là tùy hỷ công đức. Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Khi phát đại nguyện
này, tức nguyện tùy hỷ công đức, đó chính là cái nguyện
để sám hối nghiệp chướng. Những điều
này thuộc về mười đại nguyện vương.
V́
thế, đừng cho rằng kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là Tiểu Thừa. [Nếu
hiểu như vậy], sẽ là tuyệt đối sai lầm!
Chẳng phải là chúng ta cầm lấy Chiêm Sát Luân rồi
thuận tay gieo liền, chẳng thể được!
Trước hết, quư vị phải phát nguyện. Chẳng phát nguyện sẽ
không thể dùng Chiêm Sát Luân. Mỗi nguyện đều nhất
trí với mười đại nguyện vương của
Phổ Hiền Bồ Tát, mọi người đều
nên hiểu đạo lư này! Chẳng hạn như khi chúng
ta đang đi trong đêm đen, nếu có người
dùng đèn pin soi đường cho chúng ta, chiếu ra ánh sáng,
chúng ta có cảm tạ người ấy hay không? Chúng ta ở
trong tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, và
Vô Sắc Giới, ở trong tam giới th́ là hắc ám. Nếu
có vị Bồ Tát dùng pháp quang minh để dẫn dắt
chúng ta thoát ĺa sự tối tăm của tam giới. Đó chính là “hành Bồ
Tát đạo”. V́ bản thân chúng ta chẳng làm
được, chúng ta bèn tùy hỷ Bồ Tát khác để
làm, như Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, Quán Tự Tại Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát.
Hiện thời, chúng ta học theo Địa Tạng Bồ
Tát. Đối với hết thảy sự nghiệp lợi
ích chúng sanh do năm vị Đại Sĩ đă thực
hiện, chúng ta phát nguyện tùy hỷ sự nghiệp của
các Ngài. Không chỉ năm vị đại Bồ Tát ấy,
mà đối với mười phương chư Phật,
chẳng hạn như A Di Đà Phật đă phát bốn
mươi tám nguyện, chúng ta đều tùy hỷ, tán thán,
học theo Phật để cũng phát đại nguyện
giống như thế. Nguyện chẳng phát ra hư huyễn.
Một niệm tâm hiện tiền của quư vị và tâm A
Di Đà Phật như nhau, Phật tâm tức là cái tâm hiện
tiền của chính ḿnh. Tâm chúng ta chính là Phật tâm, cho
đến tùy hỷ thiện niệm của Bồ Tát, tức
là chúng ta đă hành Bồ Tát đạo. Phàm là đối với
hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, khi họ
c̣n chưa thành Phật, hoặc sắp dự vào địa
vị Phật, nếu người ấy có một thiện
niệm đối với chúng sanh, chúng ta đều thấy
giống như chính ḿnh thực hiện, quư vị đều
tán thán, tùy hỷ. Đó gọi là “trí huệ phương
tiện thiện xảo”. Hăy thường
nên phát ra cái nguyện ấy.
Mỗi
vị đạo hữu hăy đều nên thường
xuyên phát nguyện. Đó chính như trong Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát dạy chúng ta phát Bồ Đề tâm, khéo dùng cái
tâm. Mọi người đă đọc phẩm Tịnh Hạnh
của kinh Hoa Nghiêm, phải tùy thuận lời dạy của
Văn Thù Bồ Tát để phát tâm tán thán, tùy hỷ.
Đó là tâm thanh tịnh. Phật Phật đạo đồng,
phương tiện thiện xảo lợi ích chúng sanh của
mỗi vị Phật bất đồng, nhưng thành Phật
th́ đạo quả như nhau. Mỗi vị Bồ Tát
cũng như thế. V́ chúng ta đối với đúng,
sai, tà, chánh, đều chẳng phân biệt rơ ràng cho lắm,
nếu quư vị học dùng Chiêm Sát Luân, cậy vào sức từ
bi của Địa Tạng Bồ Tát, chúng ta sẽ học
hiểu. Học hiểu ǵ vậy? Khéo dùng cái tâm. Chiêm Sát
Luân chỉ đạo chúng ta khéo dùng cái tâm. Trong khi chúng ta có
chướng ngại, rất nhiều sự việc chẳng
thể quyết định được, hăy dùng Chiêm Sát
Luân! Nói một vấn đề đơn giản, như
khi quư vị mua nhà, căn nhà ấy tốt lành hay không? Mua
nhà có lợi ích hay không? Quư vị cũng có thể dùng Chiêm
Sát Luân, Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo cho quư vị
đúng như thật. Quư vị muốn đầu tư một
món tiền để kinh doanh, quư vị chẳng nắm chắc
đầu tư sẽ lỗ hay lời, cũng có thể
sử dụng Chiêm Sát Luân. Địa Tạng Bồ Tát bảo
quư vị có thể đầu tư th́ sẽ có thể kiếm
lời. Nếu [Chiêm Sát Luân] bảo quư vị chẳng thể
đầu tư, đầu tư sẽ bị lỗ lă,
như vậy th́ chớ nên đầu tư.
Tôi
nói chuyện này dường như chẳng liên quan đến
chuyện tu đạo. Chắc là có đạo hữu ngờ
vực Địa Tạng Vương Bồ Tát có quản
chuyện ấy hay không? Địa Tạng Vương Bồ
Tát từ bi, [loại luân tướng thứ ba trong] Chiêm Sát Luân [hiện ra các con số,
hợp thành] một trăm tám mươi chín trường
hợp, biểu đạt các vấn đề ấy. V́ sao
trong thế gian Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể
giúp đỡ quư vị như vậy?
Khiến cho quư vị tin tưởng Địa Tạng Bồ
Tát, khiến cho quư vị dần dần nhập Phật đạo.
Nếu lúc ban đầu chẳng cho quư vị đôi chút tiện
nghi, quư vị sẽ không tin. Nếu quư vị cầu điều
ǵ, đều cho quư vị biết hết
sức chánh xác, quư vị sẽ nói Địa Tạng Bồ
Tát đúng là tuyệt vời, ta bèn nhất tâm nhất ư tin
tưởng Địa Tạng Bồ Tát. Từ tướng
thế gian, Địa Tạng Bồ Tát dần dần dẫn
quư vị đến xuất thế gian. Từ xuất thế
gian, dần dần chỉ dạy quư vị hành Bồ Tát
đạo. Để thật sự liễu thoát sanh tử,
phải hành Bồ Tát đạo. Tôi mong phát tài, tài sản
thế gian có phát, quư vị cũng chẳng thể đạt
được, chẳng đáng tin cậy. [Do vậy], sẽ
làm cho quư vị phát Tam Bảo tài, phát pháp tài, vĩnh viễn
chẳng mất đi. V́ lẽ đó, “Phật pháp trên thế
gian, chẳng ĺa thế gian giác”, có hàm nghĩa này. Kinh c̣n
có câu như thế này: “Tiên dĩ dục câu khiên, tiệm
linh nhập Phật đạo” (trước hết dùng
dục để lôi kéo, dần dần khiến cho nhập
Phật đạo). Tướng cảnh giới của
chúng sanh ở trong ngũ dục. Nếu quư vị dẫn dụ
họ học hỏi từ ngũ dục, họ sẽ dần
dần nhập Phật đạo. Khi đó, quư vị muốn
dạy họ, họ sẽ tin. Mọi người thấy
trong các thân hóa hiện của Quán Thế Âm Bồ Tát, có một
h́nh tượng Bồ Tát tay nâng giỏ hoa. Câu
chuyện ấy phát sanh như thế nào? Quán Tự Tại
Bồ Tát hóa hiện thành một cô gái bán hoa.
Đương nhiên cô gái bán hoa ấy tướng mạo hết
sức xinh đẹp. Cô xách giỏ hoa đi bán hoa, rất
nhiều người bu theo cô, chẳng phải là để
mua hoa, mà là do tham cầu sắc đẹp của cô. Rất
nhiều người tranh giành, mong lấy cô làm vợ. Quán
Thế Âm Bồ Tát liền nói: “Ai trong số quư vị có thể
thuộc Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm, tôi sẽ gả
cho người đó”. Các vị tú tài có đến mười
người hoặc hai mươi người đều
có thể thuộc ḷng. Cô gái nói: “Các
anh nhiều người như vậy, tôi gả cho ai
đây? Ai trong số các anh trong một ngày có thể thuộc
bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tôi sẽ gả cho người
đó”. Người như vậy rất ít, chỉ có một
học sĩ trong một ngày thuộc trọn bộ kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Anh ta liền kết hôn với cô gái bán hoa. Vừa
kết hôn, vào động pḥng, cô gái ấy chết ngay.
Chàng tú tài đó thấy đúng là vô thường. Vị tú
tài ấy họ Mă, trong câu chuyện này có nêu rơ tên tuổi.
Từ đó, anh ta phát tâm tu đạo. Đó là từ trong
hết thảy các pháp, Phật, Bồ Tát đă trước
hết dùng dục để lôi kéo, dần dần khiến
cho nhập Phật đạo.
V́
thế, thường là các vị đại Bồ Tát tùy hỷ
công đức của chúng sanh, thuận theo nguyện của
họ, thỏa nguyện cho họ. Qua tùy hỷ, sẽ dần
dẫn nhập họ hướng tới Phật đạo.
Do vậy, đại nguyện thứ năm của Địa
Tạng Bồ Tát cũng là đại nguyện thứ năm
của Phổ Hiền Bồ Tát, tức đại nguyện
tùy hỷ công đức. Trong tùy hỷ công đức, tôi lại
nêu một thí dụ. Tôi ở Ngũ Đài Sơn, có rất
nhiều đạo hữu đến Ngũ Đài Sơn
cúng Thiên Tăng Trai (千僧齋, dâng cơm cho một ngàn vị Tăng), cũng có
người tiền bạc chẳng dư dả, chẳng
có tiền. Tỉnh Sơn Tây của chúng ta vốn rất
nghèo túng, đặc biệt là như huyện Phồn Tŕ. Các huyện chung quanh Ngũ Đài Sơn như huyện
Đại, huyện Phồn Tŕ, nông dân hết sức túng
quẫn, há có tiền để cúng Tăng? Ngay cả cuộc sống của chính họ mà c̣n chẳng có cách nào! Tôi liền khuyên họ: “Khi
người ta cúng, quư vị có thể tán thán, tùy hỷ. Quư
vị quán tưởng như chính ḿnh đang cúng, tán thán,
tùy hỷ công đức, quư vị sẽ được một
phần công đức của họ. Tuy quư vị chẳng
bỏ ra một đồng, quư vị tán thán, tùy hỷ th́ có
được hay không?” Đó gọi là nguyện tán thán,
tùy hỷ. Ở đây, khi chúng ta nói tới “tùy hỷ
công đức” trong hạnh nguyện Phổ Hiền,
đó là tùy hỷ tất cả thiện sự của hết
thảy chúng sanh, dẫu chỉ bằng một mảy, một
giọt! Chẳng phải là “v́ sao hắn có lắm tiền
ngần ấy? V́ sao ta túng quẫn thế này?” Đó gọi
là chướng ngại ghen tỵ. Như vậy th́ không chỉ
chẳng có công đức, mà c̣n có tội. Do đó, công
đức tán thán, tùy hỷ trọng yếu dường ấy,
chẳng phải là rất thuận tiện ư? Công đức
thuận tiện nhất là tùy hỷ tán thán. Quư vị thấy
người khác tu hành, dập đầu lễ bái tại
đó, quư vị liền tán thán, tùy hỷ, liền
được nửa phần công đức của
người ấy. Cho nên công đức tán thán, tùy hỷ
chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng chúng sanh th́ ngược
lại, thấy người khác có chuyện tốt, bản
thân họ chẳng làm, lại gây phiền năo, chướng
ngại, phá hoại, phát khởi ác nguyện. Một đằng
thiện, một đằng ác, mọi người có thể
thấy điều này: “Các đệ tử Phật đều
tán thán, tùy hỷ”.
Trong
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo,
đối với những điều Địa Tạng
Bồ Tát dạy chúng ta, quư vị phải tư duy cho nhiều,
phải phát nguyện. Đă phát các nguyện ấy th́ quư vị
mới có thể sử dụng Chiêm Sát Luân. Từ mỗi
nguyện, quư vị hăy ngẫm xem, kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo rốt cuộc là Đại
Thừa hay Tiểu Thừa? Mỗi bộ kinh, bất luận
đức Phật nói bộ kinh nào, cũng đều có Sự
và Lư. Sự tùy thuận nhân gian, Lư khác hẳn, Lư luôn tiến hướng Phật đạo. Chẳng hạn
như Địa Tạng Bồ Tát hóa vô lượng ức
thân, lại c̣n có các thứ cảnh tướng bất
đồng để hóa độ chúng sanh. Nhục nhăn của
bọn phàm phu chúng ta chẳng trông thấy. Quư vị chỉ
phát một nguyện tán thán, tùy hỷ, sẽ được
một phần công đức của Bồ Tát. Địa
Tạng Bồ Tát phát nguyện, quư vị bèn tán thán, tùy hỷ;
Văn Thù Bồ Tát phát nguyện, quư vị bèn tán thán, tùy hỷ.
Quán Âm Bồ Tát phát nguyện, ta bèn tán thán, tùy hỷ. Đối
với tất cả các nguyện của vô lượng
chư đại Bồ Tát và mười phương hết
thảy chư Phật, quư vị đều tán thán, tùy hỷ,
sẽ đạt được khác hẳn! Đó là đại
nguyện tùy hỷ. Thấy người khác có đôi chút tốt
đẹp, quư vị đều tán thán, tùy hỷ, ngàn vạn
phần chớ nên sanh ḷng ghen tỵ, chướng ngại.
Đó gọi là tùy hỷ công đức.
(Kinh)
Thứ đương phục phát hồi hướng chi
nguyện, nguyện ngă sở tu nhất thiết công đức,
tư ích nhất thiết chư chúng sanh đẳng đồng
thú Phật trí, chí Niết Bàn thành.
(經)次當復發迴向之願。願我所修一切功德。資益一切諸衆生等。同趣佛智。至涅槃城。
(Kinh:
Kế đó, hăy lại nên phát nguyện hồi hướng,
nguyện hết thảy công đức do ta đă tu sẽ
giúp cho hết thảy các chúng sanh đều cùng tiến nhập
Phật trí, đến thành Niết Bàn).
Đồng
thời, Địa Tạng Bồ Tát c̣n dạy chúng ta phải
phát nguyện hồi hướng. Nguyện hồi hướng
chính là đem các chuyện tốt đẹp do chính ḿnh
đă làm, lễ bái cũng thế, niệm kinh cũng thế,
nghe kinh thính pháp cũng thế, hết thảy các công đức đều hồi hướng cho hết
thảy chúng sanh, đó gọi là “hạ hóa” (hóa độ
chúng sanh). Ta chẳng có sức mạnh ǵ, liền
đem những ǵ ta đă nghe, đă học, đem các công
đức ấy đều hồi hướng cho chúng
sanh. “Hướng” là đem các công đức ấy
ban cho chúng sanh, chính ḿnh chẳng tham luyến. Chẳng hạn
như ở đây mọi người nghe kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo của Địa Tạng Bồ Tát, công
đức nghe pháp này thù thắng, thù thắng nhất. Ta
đem công đức thù thắng nhất này hồi hướng,
gần là toàn thể Đài Loan, nói rộng
hơn là toàn thể Đại Lục, lớn hơn nữa
là toàn thể thế giới Sa Bà, quư vị có thể tính
toán công đức hồi hướng ấy to hay nhỏ cỡ
nào hay chăng? Vô lượng công đức! Ta đem công
đức ấy giúp đỡ hết thảy chúng sanh,
nguyện cho những ai chưa nghe Phật pháp đều
có thể nghe Phật pháp, nguyện người đă nghe
Phật pháp mà tu hành chẳng đắc lực sẽ đều
có thể tu hành thành tựu. Cuối cùng, nguyện cho hết
thảy chúng sanh đều thành Phật. Chư vị đạo
hữu có phát nguyện này hay không? Nếu chẳng phát; sau
này, bất luận quư vị làm một mảy, một giọt
chuyện tốt
lành, hăy đều hồi hướng. Càng hồi hướng
càng to lớn, hiệu quả vô cùng! Đến khi quư vị
thành Phật, ngẫm lại một phen, sẽ thấy cái
nhân thành Phật của quư vị bắt nguồn từ
chuyện ấy. Đem tất cả hết thảy thiện
nghiệp của chính ḿnh, bản thân ta chẳng tham đắm,
đều hướng tới chúng sanh, đem hết
thảy công đức do ta đă tu tập đều giúp
cho hết thảy chúng sanh, nguyện chúng sanh trong
tương lai sẽ đều có thể thành Phật giống như ta, cùng
hướng tới Phật trí, đến thành Niết Bàn!
Trong
đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ
Tát bảo chúng ta: Quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân để
chiêm sát nghiệp báo thiện ác ư? Quư vị phải phát
các đại nguyện ấy. Sau khi đă phát các đại
nguyện ấy, quư vị mới có thể dùng Chiêm Sát Luân.
Phước báo ấy lớn hay nhỏ do mỗi cá nhân tu.
Chúng ta đừng cho rằng sức của ḿnh chẳng
đủ, chúng ta cũng chẳng có của cải, cuộc
sống của chính ḿnh cũng rất khó khăn, ta
c̣n có sức ǵ để cúng dường chúng sanh, cúng
dường Tam Bảo nữa? Thuở đức Phật
tại thế, có một câu chuyện như thế này: Thuở
đức Phật trụ thế, có một phụ nữ
rất nghèo túng, nghẻo tới mức độ
nào? Ăn mày, đi xin ăn, thứ ǵ cũng đều chẳng
có. Bỗng một hôm, trên đường bà ta nhặt
được một đồng vàng. Khi bà ta nhặt
được đồng tiền ấy, liền suy
nghĩ: “V́ sao ta bần cùng thế này? Hôm nay, ta nhặt
được một đồng vàng, dùng nó để
trang trải cuộc sống của chính ḿnh th́ có thể cầm
cự mấy tháng”. Bà ta chẳng làm vậy, tự hỏi:
“V́ sao ta bần cùng dường ấy? Chính là v́ ta chưa từng
bố thí, chẳng tu phước, cho nên ta mới bần
cùng”. Do vậy, bà ta tính đem đồng tiền vàng ấy
mua dầu [thắp đèn] cúng Phật để vun bồi
phước. Đến tiệm dầu mua dầu, quư vị
phải cầm theo một cái b́nh hay một cái lọ để
đựng. Chủ tiệm hỏi
bà: “Bà muốn mua dầu, lấy thứ ǵ để đựng?”
Người phụ nữ nghèo nói: “Tôi không có ǵ để
đựng”. Chủ tiệm nói:
“Không có ǵ để đựng! Tôi đổ dầu vào
đâu cho bà đây?” Chủ tiệm
bèn hỏi bà ta: “Bà mua dầu để
làm ǵ?” Bà ta nói: “Tôi nghèo quá, nhặt được một
đồng. Từ quá khứ cho tới hiện thời,
tôi chưa từng vun bồi phước đức, nay tôi
tính mua dầu cúng Phật”. Chủ tiệm bị
bà ta cảm động, nói: “Tôi đưa cho bà một
đồ đựng dầu, nhưng một đồng
này không đủ mua dầu đổ đầy được”.
Ông ta vẫn đổ đầy, nói: “Phần dầu thêm
vào cái b́nh này là do tôi cúng dường. Bà cúng dường Phật
coi như là tôi cũng có một phần”. Do vậy,
người phụ nữ nghèo ấy mang dầu đến
tinh xá Kỳ Viên của đức Phật, muốn đổ
thêm vào tất cả các đèn dầu cúng Phật, nhưng
không được, chỉ đủ để thêm vào một
ngọn đèn. Bà ta bèn đổ dầu vào ngọn đèn
cúng Phật. Đồng thời, trong ngày hôm đó, quốc
vương đương thời là Ba Tư Nặc chở
rất nhiều xe dầu đến cúng dường đức
Phật, mọi ngọn đèn đều được
thêm dầu. Sáng sớm ngày hôm sau, trời
đă sáng, phải nên tắt đèn. Ngày hôm đó, vị trực
nhật là tôn giả Mục Kiền Liên. Tôn giả dập
tắt từng ngọn đèn, chỉ có ngọn đèn nhỏ
do người phụ nữ nghèo cúng dường th́ ngài Mục
Kiền Liên không thể dập tắt được. Ngài
Mục Kiền Liên nghĩ “ta không dập tắt ngọn
đèn này được”, bèn dùng sức thần thông để
dập tắt ngọn đèn. Kết quả là không thể
dập tắt, mà quang minh càng thù thắng hơn. Khi đó,
đức Phật đi ra, bảo tôn giả Mục
Kiền Liên: “Thần thông của A La Hán không thể dập
tắt ngọn đèn này được! V́ sao? Bà ta đă dốc
cạn sức bố thí”. “Dốc cạn sức bố
thí” là như thế nào? Dốc sạch tất cả.
Toàn bộ tài sản của bà ta là do nhặt được
một đồng tiền, ngoài ra thứ ǵ cũng
đều chẳng có, đó gọi là ‘kiệt tận
thí’. Kiệt tận thí là thanh tịnh. Bà ta có thể
đem tất cả hết thảy những ǵ chính ḿnh có
đều cúng dường cho Phật. Đó là kiệt tận
thí. Trong tâm của bà ta chỉ có một niệm, niệm ǵ
vậy? Cúng dường Phật: “V́ sao phước báo của
ta trong quá khứ nghèo túng đến thế? Do chưa từng
cúng dường Tam Bảo, nay ta nên cúng dường Phật”.
Đó chỉ là một câu chuyện
xưa. Chúng ta phải hiểu rơ: Khi mọi
người cúng dường, chẳng phải là vật chất
nhiều hay ít, mà là ǵ? Cái tâm của quư vị. Như chư
vị đạo hữu cúng dường hồng bao, quư vị
dùng cái tâm ǵ để cúng dường? Dùng ḷng chí thành, khẩn
thiết để cung kính cúng dường Tam Bảo, chẳng
phân biệt là phàm phu, hay là thánh nhân, hoàn toàn chẳng phân biệt.
Đó gọi là tâm thanh tịnh. Cúng Tăng như cúng Phật,
chẳng có chút tạp niệm nào, dùng cái tâm thanh tịnh
để cúng dường Tam Bảo, phước đức
ấy liền to lớn. Hễ có số lượng, có so
đo, tính toán, công đức ấy bèn nhỏ nhoi. Cúng
dường th́ nhất định phải phát nguyện,
phát nguyện xong c̣n phải hồi hướng. Hăy đặc
biệt ghi nhớ: Phát nguyện, hồi hướng, bất
luận vật chất của quư vị nhiều hay ít, lớn
hay nhỏ, trong khi quư vị làm một chuyện tốt, dẫu
bản thân sức mạnh ấy nhỏ nhoi, nhưng tâm lực
của quư vị to lớn, vật chất bèn biến hóa. Vật
chất thuận theo tâm lượng của quư vị. Tâm to
lớn, số lượng vật chất sẽ to lớn.
Tâm nhỏ, số lượng vật chất sẽ nhỏ.
Vua Ba Tư Nặc cúng dường mười vạn ngọn
đèn, chẳng bằng một ngọn đèn của
người phụ nữ nghèo. Quốc vương không coi
trọng, đến cũng chẳng đến, sai đầy
tớ đến cúng dường là được rồi.
V́ thế, dùng tâm để định lượng!
Chúng
ta tu hành cũng như thế. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân,
trong khi quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ
Tát, quư vị dùng cái tâm ǵ để niệm? Vấn đề
này hết sức nghiêm trọng, nghiêm trọng đến mức
độ nào? Do một niệm tâm của quư vị, quư vị
sẽ cúng dường tận hư không khắp pháp giới,
tâm quư vị tận hư không khắp pháp giới, cúng
dường mười phương chư Phật. Chẳng
hạn như chúng ta niệm A Di Đà Phật, thân quư vị
vẫn ở trong thế giới Sa Bà, nhưng tâm của
quư vị đă đến thế giới Cực Lạc.
Không chỉ là đến thế giới Cực Lạc, mà
thượng phương Bất Động thế giới,
Đông phương Dược Sư Lưu Ly Quang Vương thế giới,
tâm của quư vị đều đă tới, vừa tác ư, vừa
khởi niệm, quư vị đă cúng dường mười
phương chư Phật. Công đức quư vị to tát,
hay công đức do một niệm, một sự cúng
dường là to tát? Sự cúng dường ấy là ǵ? Pháp
cúng dường là tối thắng. Trong hết thảy các
thứ cúng dường, pháp cúng dường tối thắng,
v́ là tâm cúng dường, chẳng phải là h́nh tướng!
Do vậy, trong khi cúng dường, phải đặc biệt
chú ư!
(Kinh)
Như thị phát hồi hướng nguyện dĩ, phục
văng dư tĩnh thất, đoan tọa nhất tâm, nhược
xưng tụng, nhược mặc niệm ngă chi danh hiệu,
đương giảm tỉnh thùy miên. Nhược hôn cái
đa giả, ưng ư đạo tràng thất trung toàn
nhiễu tụng niệm.
(經)如是發回向願已。復往餘靜室。端坐一心。若稱誦。若默念我之名號。當減省睡眠。若惛蓋多者。應於道場室中旋繞誦念。
(Kinh:
Phát nguyện hồi hướng như thế rồi, lại
vào trong tĩnh thất, ngồi ngay ngắn nhất tâm, hoặc
xưng tụng, hoặc thầm niệm danh hiệu của
ta, hăy nên giảm bớt ngủ nghê. Nếu là kẻ nhiều
hôn trầm, hăy nên đi nhiễu quanh và tụng niệm
trong đạo tràng thất).
Địa
Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị làm
các việc như thế xong, phát nguyện hồi hướng
như thế xong, quư vị mới bắt đầu tu
hành, bắt đầu bái sám. Chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là
để quư vị tu hành. Chính quư vị dựng một
căn tĩnh thất, ở trong đó, niệm Địa
Tạng Vương Bồ Tát, chiếu theo lời dạy của
Địa Tạng Vương Bồ Tát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để
bái sám. V́ thế, trước khi quư vị bái sám, ắt phải
phát nguyện, sám hối, lễ bái. Sau khi đă phát
nguyện, hồi hướng như thế, tùy theo sức
của quư vị lớn hay nhỏ, có thể lập một
cái sám thất thanh tịnh. Có sức th́ càng tốt, không có
sức th́ lạy trong pḥng ngủ của chính ḿnh cũng
được. Nếu có sức, hăy nên lập một gian
pḥng sạch sẽ, bày một bàn thờ, thờ tượng
Địa Tạng Bồ Tát, một lư hương
để thắp hương. Tới khi quư vị dùng
cơm th́ trước hết hăy dâng cúng. Quư vị ăn ǵ th́ cúng dường thứ ấy là
được rồi!
Đồng
thời, c̣n phải xưng tụng, hoặc là tụng kinh
Địa Tạng, hay tụng kinh Chiêm Sát đều được.
Nếu kinh bổn cũng chẳng có, vậy th́ niệm
danh hiệu của ta cũng được. Thầm niệm
danh hiệu của ta, niệm Nam-mô Địa Tạng Bồ
Tát. Nhưng Bồ Tát dạy quư vị hăy giảm bớt ngủ
nghỉ, chớ nên “hôn cái” (惛蓋, bị hôn trầm che lấp tánh
giác). “Cái” [ở đây là nói đến] ngủ nghê, do
bị nó che phủ, trí huệ sẽ chẳng hiển lộ,
bị nghiệp chướng che trùm. Nhưng đối với
chuyện chính ḿnh bị hôn trầm, có đạo hữu
nói với tôi: Người ấy chẳng vào sám thất th́
chẳng buồn ngủ tí nào. Hễ vào sám thất, ngồi
xuống liền hôn trầm, liền ngủ gật. Người
ấy hỏi tôi v́ lư do nào? Tôi nói: “Đó là do nghiệp chướng.
Túc nghiệp trong quá khứ của quư vị rất nặng, khiến cho quư vị ngay cả mong bái sám cũng chẳng
thể làm!” Lại c̣n
như trong phần trước đă nói, ma con, ma cháu của
Ba Tuần kéo đến, chúng nó không để
cho quư vị tu hành. Quư vị tu hành tốt đẹp,
vượt thoát ma giới; ma con và ma cháu của hắn sẽ
mất đi một kẻ. Hắn chẳng mong quư vị
thành đạo, nên tạo chướng ngại cho quư vị.
V́ thế, quư vị ĺa khỏi hết thảy quấy nhiễu,
nhất tâm niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát. Khi niệm, trong tâm quư vị bèn quán tưởng, niệm
nào cũng từ tâm khởi, niệm nào cũng chẳng ĺa
tâm. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta niệm
như thế nào? Phải từ tâm niệm, chẳng phải
niệm suông bằng cái miệng, tâm và miệng phải nhất
trí! Khi niệm, mỗi niệm đều
từ nội tâm phát ra. Niệm nào cũng từ tâm khởi,
từng chữ đều rơ ràng, rành mạch. Từ tâm mà
khởi niệm, niệm nào cũng từ tâm khởi, niệm
nào cũng chẳng ĺa tâm, đó là “tâm niệm”. Niệm
niệm liên tục như thế, trong tâm quư vị chẳng
có ư niệm thứ hai, một chút tạp nhiễm chẳng
có. Nhưng ít ngủ nghỉ, chẳng cần ngủ nghê,
ngủ nghê khiến cho trí huệ bị
che lấp. Thùy Miên Cái trong Ngũ Cái, tức tài, sắc, danh vọng,
tiếng tăm, ngủ nghê, năm thứ ấy che lấp
trí huệ của quư vị. Ngủ nghê là một Cái trong
Ngũ Cái, cho nên khi hành Ban Châu tam-muội (Pratyutpanna
Samādhi), chẳng cho quư vị ngủ. Pháp môn ấy chính là
đi nhiễu quanh trong pḥng. Nếu cảm thấy buồn
ngủ quá sức, đừng ngồi xuống, hăy đứng
lên đi lại. Đi mà vẫn ngủ, có khi đang đi
mà người ấy vẫn ngủ, đó là nghiệp
chướng rất nặng. Nghiệp chướng rất
nặng th́ phải nên nhất tâm niệm danh hiệu Địa
Tạng, giảm thiểu ngủ nghê. Lúc ấy, quư vị
ngồi tu Thiền Định, chẳng thể thành công!
Trước
khi bái sám, quư vị vào trong đạo tràng thất, trước
tiên hăy vừa kinh hành vừa niệm trong căn pḥng ấy,
niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, hoặc
là niệm Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Do
giảm thiểu, quư vị bỏ bớt chữ Nam-mô, niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng được.
V́ sao chỉ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát mà có linh cảm? V́ Địa Tạng Bồ Tát đă phát
nguyện, chúng ta kết hợp với nguyện của
Địa Tạng Bồ Tát. Nguyện lực của Ngài là
“hễ có ai niệm danh hiệu của
ta, ta nhất định gia tŕ người đó, giúp
người đó sớm có ngày tiêu trừ nghiệp chướng”. V́ thế, trong khi quư vị niệm danh hiệu,
khi xưng danh hiệu Địa Tạng
Vương Bồ Tát, dựa theo cái nguyện của
quư vị, bản thân quư vị mong cầu điều
ǵ, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất
định thỏa nguyện cho quư vị, nhưng tâm quư vị
phải niệm sao cho giống với tâm của Địa
Tạng Bồ Tát, v́ Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện mong thành thục
hết thảy hữu t́nh. Đó là tâm đại bi của
Ngài. Nếu quư vị kiền thành, khẩn thiết niệm
thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát như vậy,
Địa Tạng Bồ Tát sẽ giáng lâm gia tŕ quư vị:
-
Một là do tâm của quư vị và tâm Địa Tạng Bồ
Tát nhất trí. Quư vị chẳng có niệm
thứ hai, chỉ có một niệm Địa Tạng Bồ
Tát, cho nên b́nh đẳng với Địa Tạng Bồ
Tát. V́ tâm của quư vị và tâm của Địa Tạng Bồ
Tát vốn b́nh đẳng, một đằng là ngộ, một
đằng là mê. Quư vị phải chuyển mê thành ngộ.
Tâm của quư vị cùng với tánh lư và thể tánh khế hợp,
tâm quư vị và tâm Địa Tạng Bồ Tát đă kết
hợp khít khao. Địa Tạng Bồ Tát sẽ gia tŕ quư vị.
-
Ư nghĩa thứ hai là chúng sanh trong thế giới Sa Bà này
có nhân duyên với sáu mươi hai ức Bồ Tát,
nhưng nhân duyên sâu nhất là Quán Thế Âm Bồ Tát, kế
đó là Địa Tạng Vương Bồ Tát. Kinh Địa
Tạng có nói nhân duyên của Địa Tạng Vương
Bồ Tát c̣n sâu hơn Quán Thế Âm Bồ Tát. Trong phẩm
thứ mười hai, tức phẩm Kiến Văn Lợi
Ích của kinh Địa Tạng, đức Phật đă
căn dặn Quán Thế Âm Bồ Tát, yêu cầu Quán Thế
Âm Bồ Tát hoằng dương kinh Địa Tạng. Thật
ra, Quán Âm và Địa Tạng b́nh đẳng, chỉ là nhân duyên sai biệt. Quư vị niệm Địa Tạng Bồ Tát sẽ
đắc độ nhanh chóng, hay niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát đắc độ nhanh chóng, c̣n niệm Bồ Tát khác
th́ phải tùy thuộc cái duyên. Quư vị có duyên sâu đậm
với vị Bồ Tát nào, niệm vị Bồ Tát ấy
sẽ có hiệu quả lớn nhất. V́ thế, chúng ta cầu
sức gia tŕ của Bồ Tát, cũng phải xem có duyên hay
không.
Chính
quư vị có thể cảm nhận, vô duyên th́ quư vị chẳng
gặp gỡ, có gặp th́ quư vị cũng chẳng thể
thâm nhập; v́ mối quan hệ có duyên hay không này hết sức
to lớn. Có duyên quư vị vừa niệm sẽ có thể
thành tựu nhanh chóng. Vô duyên, quư vị vẫn phải kết
duyên trước đă. Đă kết duyên th́ mới có thể
được gia tŕ. V́ thế, do nhân duyên, quư vị niệm
Địa Tạng Bồ Tát, sẽ càng có thể
tương ứng hơn!
(Kinh)
Thứ chí dạ phần thời, nhược hữu
đăng chúc, quang minh sự giả, diệc ưng tam thời
cung kính cúng dường, hối quá, phát nguyện. Nhược
bất năng biện quang minh sự giả, ưng
đương trực tại dư tĩnh thất trung,
nhất tâm tụng niệm.
(經)次至夜分時。若有燈燭光明事者。亦應三時恭敬供養悔過發願。若不能辦光明事者。應當直在餘靜室中。一心誦念。
(Kinh: Kế
đó, vào ban đêm, nếu có các thứ quang minh như
đèn, đuốc, cũng nên ba thời cung kính cúng dường,
hối lỗi, phát nguyện. Nếu chẳng thể lo liệu
ánh sáng, hăy nên ở ngay trong tĩnh thất ấy, nhất
tâm tụng niệm).
Đồng
thời, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị
niệm danh hiệu của ta cho đến đêm. Kế
đó, vào lúc ban đêm, nếu có sức
[lo toan], có đèn đuốc, có ánh sáng, quư vị hăy nên cung
kính sám hối, phát nguyện. Nếu chẳng có sức, rất
nghèo túng, chẳng thể sắp đặt đèn sáng, không
thắp nổi đèn. Trong quá khứ là đèn dầu, hoặc
là đèn điện [như trong hiện thời], đều
phải tốn tiền. Thắp đèn suốt đêm sẽ
tốn tiền! Tùy theo khả năng của quư vị,
nhưng quư vị cúng dường, hối lỗi, phát nguyện
vĩnh viễn chẳng thể ngưng dứt, phải thường
xuyên thực hiện. Nếu quư vị có sức lo liệu
đèn đuốc, ban đêm quư vị phải vào tĩnh thất,
vẫn phải tụng niệm. Nhưng do chẳng thể
nào không ngủ, quư vị phải cân nhắc thời gian của
chính ḿnh, tùy thuộc sức của chính ḿnh để trong
hai mươi bốn tiếng đồng hồ tận hết
sức tŕ niệm danh hiệu. Nhưng thông thường,
chẳng hạn như người xuất gia bọn tôi ở trong thường trụ chẳng
có sức mạnh ấy, mà cũng chẳng có nhân duyên, quư vị
làm như thế nào? Quư vị tâm niệm, chẳng
thương tổn người khác, chẳng quấy nhiễu
kẻ khác. Chẳng hạn như khi chúng ta cùng đại chúng tụng niệm công khóa nơi chánh
điện, hoặc là quá đường
(thọ trai), trong tâm quư vị thầm niệm
Địa Tạng Bồ Tát, ai biết?
Cũng chẳng có ai quấy nhiễu quư vị! Chẳng hạn
như khi chúng ta có lúc phải theo đại chúng, hoặc
khi quư vị đi làm, quư vị có thể niệm Địa
Tạng Bồ Tát hay không? Quư vị có thể niệm thầm
trong tâm, ai cũng chẳng
biết cái tâm của quư vị
được! Sự tu hành của mỗi
cá nhân tùy thuộc quư vị sử dụng
cái tâm như thế nào?
Trong
đầu của chúng ta có rất nhiều chuyện,
chư vị đều có thể cảm nhận được,
thoáng chốc, óc ḿnh tưởng cái này,
nghĩ cái kia. Trong khi quư vị làm việc, năo bộ
cũng suy nghĩ rất nhiều chuyện. Trong khi quư vị
làm việc nhà, chẳng biết trong óc đă khởi lên bao
nhiêu ư niệm, rong ruổi rất nhiều nơi. Quư vị
có thể dùng chuyện niệm Địa Tạng Bồ
Tát làm một tuyến [suy nghĩ], suốt ngày vĩnh viễn
niệm Địa Tạng Bồ Tát. Khi ăn cơm
cũng niệm, mặc quần áo cũng niệm, làm việc
cũng niệm, lâu ngày trở thành tự nhiên. Đó gọi
là phương tiện thiện xảo. Như hiện thời
thân thể chúng ta chẳng khoẻ mạnh như thế,
chẳng thể kiên tŕ được. Đặc biệt
là người có Thùy Miên Cái nặng nề, quư vị liền
nhờ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát
để chuyển biến nghiệp chướng Thùy Miên
Cái. Thoạt đầu, tuần lễ thứ nhất, hoặc
trong tuần lễ thứ hai, quư vị vẫn buồn ngủ
rất nhiều. Chờ tới khi quư vị dụng công ba
tuần, bốn tuần, cho đến năm tuần trở
lên, nghiệp chướng dần dần tiêu mất, chẳng
ngủ nhiều như thế, công lực của quư vị
bèn tăng cường. Thoạt đầu, quư vị chỉ
có thể niệm bốn năm tiếng đồng hồ.
Sau mấy tuần lễ, quư vị có thể niệm tới
tám, chín tiếng đồng hồ. Công phu của quư vị đạt tới mức
độ nhất định, một ngày quư vị có thể
niệm hơn mười mấy tiếng đồng hồ.
Thời gian niệm càng nhiều, phiền năo trong tâm càng nhẹ
bớt. Phiền năo chướng nhẹ nhàng, sức mạnh
dụng công của quư vị càng gia tăng. Khi đó, công lực
của quư vị tăng cường, một ngày quư vị
có thể niệm thánh hiệu từ ba vạn câu trở
lên. Quư vị niệm một hai tuần, sẽ đạt
được cảm ứng, cảm thấy trong tâm hết
sức vui sướng. Đó gọi là “gia tŕ”. Có lẽ
quư vị cũng sẽ thấy thánh tượng, hoặc Địa Tạng
Bồ Tát sẽ hiện tướng. Cũng có thể là trong giấc
mộng, sẽ mộng thấy Địa Tạng Bồ
Tát. Thậm chí, ở trong mộng c̣n trở dậy bái sám.
Đă tỉnh mộng, quư vị có thể vận dụng [sự tu tập] trong khi tỉnh
và mộng y hệt nhau, cho thấy quư vị đă có công phu
đạt đến mức độ nhất định, chứng tỏ
phiền năo hiện hành đă giảm khinh; nhưng quư vị
chớ nên thỏa măn. Trong thời gian ấy, phải đặc
biệt chú ư: Chớ nên sanh tâm kiêu ngạo chút nào! Hễ nẩy
sanh tâm kiêu ngạo, sẽ lui sụt, bị lui sụt lập
tức.
Do
vậy, nếu là người muốn tu Địa
Tạng Sám Pháp, quư vị phải hạ quyết tâm. Trước
hết, đừng tự ấn định quá nhiều. Ấn
định quá nhiều, sẽ gặp
khó khăn! Trước hết, hăy nên ấn định bảy
ngày, mười bốn ngày, hoặc hai mươi mốt
ngày, tùy theo công lực của chính ḿnh. Hoặc là trước
hết ấn định mười ngày, sau đó lại
tăng thêm. Chờ cho tới khi quư vị hành tŕ đă lâu,
công phu vận dụng thành công, quư vị vừa tác ư niệm
Địa Tạng Bồ Tát, quấy nhiễu ǵ cũng
đều chẳng thể gián đoạn quư vị, bèn có
hiệu quả: Nghiệp chướng cũng đă tiêu mất,
hoàn cảnh cũng chuyển biến thuận lợi. Chuyện
dụng công này cá nhân quư vị biết, “ai ăn nấy
no” là ư nghĩa này. Cho đến khi quư vị dụng
công tới một mức nhất định, quư vị sẽ
nẩy sanh kinh nghiệm. Khi đó, quư vị đă có trí huệ.
Trí huệ của quư vị lại hướng dẫn chính
ḿnh, quư vị mong dùng trí huệ lợi ích người
khác, nhưng khi đó, quư vị vẫn chưa làm được,
bèn tạo lợi ích cho chính ḿnh trước đă.
Pháp
môn này của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo rất thuận tiện, v́ sao chẳng được
hoằng dương, mà cũng chẳng
phổ biến tại Trung Hoa? Thứ nhất là v́ chúng ta
chẳng tin, có gặp cũng không tin tưởng! Căn bản
là chẳng gặp được, như kinh Hoa Nghiêm đă
dạy: “Thí như ám thất bảo, vô đăng bất
năng liễu. Phật pháp vô nhân thuyết, tuy huệ bất
năng liễu” (Như báu trong nhà tối, không đèn chẳng
thể rơ, Phật pháp
không ai nói, dẫu trí huệ chẳng hiểu). Phật pháp
là phương pháp giác ngộ, nhưng chẳng có ai giải
thích cho quư vị. Quư vị chẳng biết nhập môn
phương pháp giác ngộ ấy bằng cách nào th́ vẫn
chẳng thể nhập. Khi mới thực hiện, vẫn
chẳng thể vừa học liền
thông đạt, vẫn chưa được! Đợi
cho tới khi quư vị sử dụng đắc lực,
đạt được lợi ích, đạt được
điều tốt đẹp của nó, quư vị sẽ
thông suốt. V́ sao có các đạo hữu vừa nghe pháp liền
khai ngộ? Chúng ta thấy tổ sư thường là vừa
nghe bèn khai ngộ, [thật ra, các Ngài] chẳng
phải chỉ tu trong đời hiện tại, mà là do
đă tu nhiều đời nhiều kiếp. Mọi
người đều biết Lục Tổ đại
sư, Ngài là một gă bán củi, nghe người khác ở
trên lầu niệm kinh Kim Cang. Người niệm kinh ấy vẫn chẳng khai ngộ,
Ngài ở dưới này vừa nghe như thế đă khai
ngộ. Quư vị lư giải như thế nào? Do thiện
căn trong quá khứ của Ngài đă đến lúc thành thục!
Do vậy, chúng ta tu pháp môn sám hối Địa Tạng, quư
vị phải nên biết làm như thế nào! Nay chúng tôi giảng
nghi thức, nếu quư vị muốn tu, trước hết,
phải hiểu nghi quỹ. Những điều trên đây
nhằm dạy cho quư vị biết: Muốn tu pháp môn này,
phải hiểu nghi thức, chiếu theo đó để
làm như vậy.
(Kinh)
Nhật nhật như thị hành sám hối pháp, vật linh
giải phế. Nhược nhân túc thế, viễn hữu
thiện cơ, tạm thời ngộ ác nhân duyên, nhi tạo
ác pháp, tội chướng khinh vi, kỳ tâm mănh lợi, ư lực
cường giả, kinh thất nhật hậu, tức
đắc thanh tịnh, trừ chư chướng ngại.
Như thị chúng sanh đẳng, nghiệp hữu hậu
bạc, chư căn lợi độn, sai biệt vô lượng, hoặc
kinh nhị thất nhật hậu, nhi đắc thanh tịnh,
hoặc kinh tam thất nhật, năi chí hoặc kinh thất
thất nhật hậu, nhi đắc thanh tịnh. Nhược
quá khứ, hiện tại câu hữu tăng thượng
chủng chủng trọng tội giả, hoặc kinh bách
nhật nhi đắc thanh tịnh. Hoặc kinh nhị bách
nhật, năi chí hoặc kinh thiên nhật nhi đắc thanh tịnh.
Nhược cực độn căn, tội chướng
tối trọng giả, đản đương năng
phát dũng mănh chi tâm, bất cố tích thân mạng tưởng,
thường cần xưng niệm, trú dạ toàn nhiễu,
giảm tỉnh thùy miên, lễ sám phát nguyện, lạc tu
cúng dường, bất giải, bất phế, năi chí thất
mạng, yếu bất hưu tức. Như thị tinh tấn,
ư thiên nhật trung, tất hoạch thanh tịnh.
(經)日日如是行懺悔法。勿令懈廢。若人宿世遠有善基。暫時遇惡因緣而造惡法。罪障輕微。其心猛利。意力強者。經七日後即得清淨。除諸障礙。如是衆生等。業有厚薄諸根利鈍差別無量。或經二七日後而得清淨。或經三七日乃至或經七七日後而得清淨。若過去現在俱有增上種種重罪者。或經百日而得清淨。或經二百日乃至或經千日而得清淨。若極鈍根罪障最重者。但當能發勇猛之心。不顧惜身命想。常勤稱念。晝夜旋繞。減省睡眠。禮懺發願。樂修供養。不懈不廢。乃至失命要不休退。如是精進。於千日中必獲清淨。
(Kinh:
Hằng ngày hành pháp sám hối như thế, đừng
lười nhác, buông bỏ. Nếu là người đời
trước đă có nền tảng tốt lành lâu xa, do tạm
thời gặp ác nhân duyên mà tạo ác pháp, tội chướng
nhẹ ít, cái tâm dũng mănh, nhạy bén, ư lực mạnh mẽ,
sau bảy ngày sẽ liền được thanh tịnh,
trừ các chướng ngại. Các chúng sanh như thế,
nghiệp có dày, mỏng, các căn lợi độn sai khác
vô lượng, hoặc là qua mười bốn ngày bèn
được thanh tịnh, hoặc là qua hai mươi mốt
ngày sau, cho đến hoặc tới bốn mươi chín
ngày sau bèn được thanh tịnh. Nếu quá khứ và
hiện tại đều có các thứ trọng tội
tăng thượng, hoặc trải qua một trăm ngày
bèn được thanh tịnh, hoặc trải qua hai trăm
ngày, cho đến một ngàn ngày bèn được thanh tịnh.
Nếu là kẻ cực độn căn, tội chướng
nặng nhất, chỉ nên phát tâm dũng mănh, chẳng có ư
tưởng đoái tiếc thân mạng, thường siêng
xưng niệm, ngày đêm đi kinh hành, giảm bớt ngủ
nghê, lễ sám, phát nguyện, vui vẻ tu cúng dường,
chẳng lười nhác, chẳng buông bỏ, cho đến
chẳng mất mạng sẽ chẳng nghỉ ngơi.
Tinh tấn như thế, trong một ngàn ngày, ắt đạt
được thanh tịnh).
Hằng
ngày hành pháp sám hối như thế, hằng ngày đều
dựa theo sự giáo huấn của Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Ngài dạy sám hối. Sám hối từ
vô lượng kiếp đến nay, chẳng phải là một,
hai chuyện sai lầm nào! Có khi chúng ta làm chuyện sai trái
mà chính ḿnh vẫn chẳng biết. Chuyện sai trái từ
vô lượng kiếp đến nay, sao quư vị biết
nổi? Quư vị chỉ nên sám hối. Ngàn vạn phần
đừng nên giải đăi, chớ biếng trễ, buông
bỏ. Chẳng hạn như chúng ta bái sám, tôi lấy cá
nhân tôi làm thí dụ. Năm 1936-1937, thỉnh pháp sư Hoằng
Nhất đến chùa Trạm Sơn, tôi thỉnh Ngài nói
Chiêm Sát Sám Pháp. Sau khi tiễn Ngài đi, tôi cũng học
đ̣i bế quan tu hành. Khi sắp có chút hơi ấm[10],
Thanh Đảo bị quân Nhật chiếm đóng. Người
Nhật chiếm lănh Thanh Đảo, tôi chẳng học
được nữa! Từ đó đă gián đoạn
bao nhiêu năm? Gần hai mươi năm! Sau hai
mươi năm, lại ngồi tù ba mươi ba năm,
vừa gián đoạn liền gián đoạn hơn
năm mươi năm! Ngay cả kinh bổn cũng chẳng
được rờ đến, hoàn toàn đoạn tuyệt!
Trước kia tu c̣n cảm thấy chút hơi ấm, nay
hơi ấm chẳng c̣n, biến thành mùa Đông trong núi!
Mùa Đông trong núi chẳng có hơi ấm, tợ hồ chẳng
có chút hơi nóng nào, mà cũng chẳng nghe, cũng chẳng
thấy. Cách đây vài chục năm, tới nước Mỹ,
do đạo hữu mời tôi nói về nhân duyên trong
quá khứ, họ mới mời tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Chuyện
ấy đă cách bao nhiêu năm? Giảng ở Nữu Ước
xong, lại cách mười năm, tới chùa Phổ
Thọ, họ thỉnh tôi giảng kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đó là năm một ngàn
chín mươi mấy. Nay lại sau mười năm, [mới
giảng kinh này lần nữa]. Hết thảy các pháp đều
chẳng phải do ư nguyện của chính ḿnh! Quư vị
mong tu học ḥng thoát khỏi nghiệp chướng,
nhưng do ma chướng mà chẳng thể tiếp nối.
Chẳng thể tiếp nối là v́ nghiệp chướng.
Các
vị đạo hữu sau khi nghe pháp, v́ sao chẳng thể
giải thoát? Thuở đức Phật tại thế, hễ
[người nào được] nghe pháp, sẽ đều
giải thoát, thành đạo. Tôi từng nghĩ dông dài về
vấn đề này. Tôi từ lúc xuất gia cho đến
hiện thời, tính tới năm nay đă là tám
mươi năm, coi như thời gian rất dài, nhưng
trong khoảng ấy, nghiệp chướng phát hiện, rất
nhiều nghiệp chướng ngăn trở quư vị.
Chúng ta nghĩ như thế nào? Các đạo hữu chúng
ta ai nấy đều mong thành Phật, nhưng chẳng phải
là quư vị muốn làm liền đạt được!
Trong ấy, có rất nhiều chướng ngại; do vậy,
trước hết quư vị phải sám trừ nghiệp
chướng. Nếu chúng ta tính lái xe trên đường mà
trên xe có nhiều chướng ngại, quư vị có thể
lái nổi hay không? Quư vị phải trừ bỏ chướng
ngại, th́ mới có thể lái nổi! C̣n có một câu tực
ngữ: “Vị thành Phật quả, tiên kết nhân duyên”
(chưa thành Phật quả th́ kết duyên với người
khác trước đă). Nếu quư vị muốn tu đạo
thành Phật, trước hết, phải sám hối nghiệp
chướng. Điều chủ yếu nhất là sám hối nghiệp
chướng. Tiếp đó, Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta: Quư vị hằng ngày đều hành pháp sám hối
như thế, mỗi ngày đều sám hối như thế,
đừng lười nhác, bỏ phế. Nếu quư vị
lười nhác, bỏ phế, chứng tỏ là trong quá khứ
không có thiện căn. Nếu chẳng lười nhác, bỏ
phế, có được nhân duyên tu hành tốt đẹp
này, phước báo của quư vị lớn nhất! Nói
đến phước báo, th́ quư vị tu hành chẳng bị
chướng ngại chính là phước báo lớn nhất.
Chẳng phải là phát tài, chẳng phải là danh lợi trong
thế gian, mà là trong khi quư vị tu hành, do thiện căn
trong quá khứ rất sâu dày, tín niệm Tam Bảo chẳng
ngưng dứt, quư vị sẽ chứng đắc rất
dễ dàng. Nhưng trong khoảng giữa, do gặp ác nhân
duyên, ác pháp và ác nhân duyên là tội,
tội chướng của quư vị phát hiện. Nếu
nhẹ ít th́ quư vị có thể khắc phục, nếu mạnh
mẽ th́ quư vị sẽ chẳng thể khắc phục
nổi! Lại c̣n có một loại cộng nghiệp, cộng
nghiệp sẽ chẳng thể khắc phục được.
Chẳng phải là một hai người, mà là toàn bộ một
vùng, toàn bộ đất
nước, quư vị có thể khắc phục nổi hay chăng? Do đó, sẽ khiến cho đạo
nghiệp của quư vị khó thành tựu. Nếu có thể
ban một nhân duyên rất tốt đẹp cho quư vị,
quư vị có thể dùng bái sám để chiêm sát tướng
trạng, Địa Tạng Bồ Tát nói bảy ngày linh ứng,
luân tướng của quư vị sẽ đạt được tướng thanh tịnh.
Bản
thân tôi cảm thấy nghiệp chướng của chính
ḿnh rất nặng, bảy ngày chẳng được th́
mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày. Nếu
quư vị muốn tiếp tục tu, nhưng chẳng có
cơ hội, đó là đại nạn. Khi Nhật Bản
xâm lược Trung Hoa, đó chẳng phải là [nghiệp
riêng của] một hai người, mà là đại nạn.
Nó gây chướng nạn khiến cho quư vị không có sức
mạnh nào để diệt trừ. Nếu quư vị có sức
diệt trừ các chướng nạn ấy, có thể tu
hành như thế, phải cậy vào phước báo th́ mới
có thể tu hành trong tĩnh thất. Giống như các vị
đạo hữu chúng ta, bất luận quư vị niệm
Phật cũng thế, mà tu pháp môn khác cũng thế,
như các đạo hữu ở Đài Loan thiện
căn đều rất sâu dày, chướng duyên chẳng
nhiều ngần ấy, nhưng chính ḿnh gây
chướng ngại cho ḿnh, có chịu tu hay không? Nghe pháp
th́ đă nghe pháp rất nhiều, có chịu làm hay không? Chẳng
làm, quư vị sẽ chẳng đạt được! Thiện
căn th́ có độn căn, sai khác đặc biệt to
lớn. Như bảy ngày đạt được thanh tịnh,
“đạt
được thanh tịnh” hoàn toàn chẳng phải
là đă thành đạo, mà là đă đạt được
luân tướng thanh tịnh. Sau đó, quư vị tu tập,
sẽ thành đạo hết sức mau chóng, chẳng có
nghiệp chướng. Chúng ta thường nói nghiệp
chướng của chính ḿnh rất nặng, thậm chí
đối với giảng kinh cũng đều có nghiệp
chướng. Quư vị đă muốn đến nghe kinh,
đi được nửa đường bèn xảy ra
chướng ngại, quư vị chẳng thể nghe
được! Chuyện này quư vị có nghĩ tới hay không? Quư vị
chẳng thể nghĩ tới, chẳng biết từ
đâu mà nẩy sanh, cho nên gọi là nghiệp chướng.
Quư
vị đă tạo nghiệp, túc nghiệp phát hiện sẽ
chẳng nhất định. Có người bảy ngày sẽ
đạt được thanh tịnh, có người hai
mươi mốt ngày thanh tịnh, có người bốn
mươi chín ngày sẽ đạt được thanh tịnh,
có người một năm, hai năm, ba năm. Nhưng
Địa Tạng Bồ Tát bảo chúng ta: Nếu quư vị
tu hành ba năm, sẽ tuyệt đối thanh tịnh.
Nhưng trong ba năm ấy c̣n có các chướng ngại
khác, hoặc là v́ quá khứ hay là v́ hiện tại, hoặc
vị lai, quư vị vẫn phạm đủ thứ trọng
tội, sẽ chẳng đạt được thanh tịnh,
phải nói theo tùy t́nh huống. Quư vị lễ Chiêm Sát Sám
đủ bảy ngày, tu bảy ngày sẽ đạt
được luân tướng thanh tịnh. Đó là nghiệp
chướng cực nhẹ ít. Hoặc là trải
qua một trăm ngày bèn đạt được luân
tướng thanh tịnh, hoặc là hai trăm ngày, hoặc
trải qua một ngàn ngày, tức là thời gian ba năm.
Có người căn cơ quá độn, tội nghiệp
rất nặng, nhưng quư vị phải phát tâm dũng
mănh, chẳng đoái tiếc thân mạng, xả bỏ thân
mạng hiện tại để đổi lấy Pháp
Thân tánh mạng.
Nghiệp
chướng nặng th́ làm như thế nào? Địa Tạng
Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị phải nên thường siêng năng xưng niệm,
đừng giải đăi, hăy thường xuyên xưng niệm
danh hiệu của ta. Bất luận ngày hay đêm đều đi nhiễu (kinh hành), đi nhiễu
là đi kinh hành quanh sám thất
của quư vị. Ngồi xuống sẽ buồn ngủ, vậy
th́ quư vị đi lại. Trước kia, ngủ mười
tiếng mới tỉnh, hăy giảm bớt xuống tám tiếng,
hoặc giảm xuống sáu tiếng, hoặc lại giảm
thêm đến ba bốn tiếng, làm như vậy để
sám hối. Lễ sám phát nguyện, càng tu tập càng sanh tâm
hoan hỷ, vui sướng, càng tu càng vui sướng th́ gọi
là “lạc tu”. Sau đấy, c̣n phải cúng dường,
bốn chữ này phải liên kết với nhau, tức “lạc
tu cúng dường”. Hết sức vui sướng cúng
dường Tam Bảo. Chẳng giải đăi, chẳng
buông bỏ như thế, cho đến mất mạng
cũng chẳng lui sụt. Nếu tinh tấn như thế
đó, một ngàn ngày ắt đạt được thanh
tịnh. Địa Tạng Bồ Tát nói thời gian dài nhất
là một ngàn ngày, quư vị nhất định được
thanh tịnh.
Nghi
thức này nhằm dạy chúng ta, mục đích cuối
cùng là đạt tới ba nghiệp thanh tịnh. Quư vị
cầu sanh thế giới Cực Lạc như vậy, chắc
chắn văng sanh. Sanh th́ quyết định sanh, v́ sao?
Đi th́ thật sự chẳng đi. Đức Phật
nói sanh về thế giới Cực Lạc chẳng sai, quyết
định có thể sanh, nhưng đi th́ chẳng đi,
chẳng đi là do người ấy
chẳng mong sanh. Tôi nói câu này có mâu thuẫn hay không? Chẳng
mâu thuẫn tí nào! “Sanh th́ quyết định sanh” là
quư vị đă làm sự nghiệp để văng sanh, điều
đó khiến cho quư vị có thể quyết định
sanh. Quư vị chẳng làm chuyện sanh về thế giới
Cực Lạc, mà toàn làm chuyện thuộc thế giới
Sa Bà, làm sao có thể sanh về thế giới Cực Lạc
cho được? Chẳng thể nào! Tôi thấy rất
nhiều đạo hữu, “A Di Đà Phật, A Di Đà
Phật, A Di Đà Phật”, niệm A Di Đà Phật
khá lắm, nhưng trong tâm nghĩ ǵ, chỉ có chính kẻ
đó mới biết! Có rất nhiều người miệng
niệm A Di Đà, tâm tưởng thế giới Sa Bà trong
hiện tại, làm chuyện thuộc thế giới Sa Bà,
[như thế th́] chẳng thể văng sanh
được. Tuyệt đối chẳng thể văng sanh
được!
Chúng
ta dùng Chiêm Sát Luân Tướng sẽ khác hẳn, khác biệt
như thế nào? Nó cho quư vị biết, quư vị chẳng
thanh tịnh được. Nay quư vị vẫn làm ác, thanh
tịnh bằng cách nào đây? Luân tướng biến
đổi hằng ngày. Hiện tại, ở Ngũ
Đài Sơn, tôi có đệ tử bế quan tu hành, hỏi
tôi: “Thưa sư phụ! Luân tướng của con đều
đỏ, đă thanh tịnh. Sau hai tháng, tại sao lại
bỗng dưng trở thành đen!” Tôi nói: “Ông hỏi tôi,
tôi phải hỏi ngược lại ông. Trong tâm ông nay
đang nghĩ cái ǵ? Tướng từ tâm sanh. Tâm ông
nghĩ ǵ, luân tướng bèn lập tức hiện ra. Tâm
ông nghĩ tới chỗ khác, thân ông vẫn đang lễ
bái, tụng niệm tại đây,
nhưng tâm chẳng để vào đó, luân tướng lập
tức biến hiện”. Mỗi vị đạo hữu
chúng ta phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, quư
vị có thể kiểm điểm chính ḿnh, cái tâm của
quư vị đă biến hóa rất lớn. Từ sáng sớm
đến tối, trong thời gian ngắn ngủi ấy,
người khác chẳng biết, chứ quư vị chẳng
thể dối gạt chính ḿnh được. Quư vị phải
thật thà kiểm điểm cái tâm của chính ḿnh! Giả
sử quư vị chẳng thoái thất, tinh tấn bất
thoái, chẳng giải đăi, chẳng vứt bỏ, trong một
ngàn ngày, sẽ tuyệt đối thanh tịnh. Địa
Tạng Vương Bồ Tát răn dạy chúng ta như thế
đó! Trong bốn mươi chín ngày, quư vị có thể
đạt được thanh tịnh. Hoặc là hai
trăm ngày, hoặc trải qua một ngàn ngày. Quư vị là
căn tánh cực độn, cực ngốc, tội
chướng rất nặng, nhưng chỉ cần quư vị
tu như vậy, phát tâm dũng mănh, ngay cả thân mạng
cũng chẳng đoái hoài, sau một ngàn ngày, sẽ tuyệt
đối thanh tịnh. Hy vọng mọi người
đều tuyệt đối thanh tịnh.
Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo
Phần 2 hết
[1] “Bàng trịch” (傍擲) được giải
thích là cầm luân tướng gần với vật thanh tịnh,
như khăn sạch, vải sạch rồi gieo luân tướng
xuống đó.
[2] Độc đầu ư thức (獨頭意識): Theo Tướng
Tông, thức thứ sáu chia thành bốn loại minh liễu
(tức thức nhận biết khi căn tiếp xúc trần),
định trung (ư thức ở trong định), mộng
trung (ư thức trong giấc mộng)
và độc tán (ư thức khởi lên độc lập).
Ba loại sau do chẳng liên quan với năm thức
trước (nhăn thức, nhĩ thức…), nên được
gọi chung là Độc Đầu Ư Thức.
[3] Sám thất (懺室) là căn pḥng, hoặc gian nhà dành riêng
để lễ bái sám hối.
[4] Do câu này dễ hiểu lầm, nên
chúng tôi xin giải thích rườm rà như sau: Trong chánh
văn, không nói là chữ viết trên loại luân tướng thứ nhất là đỏ hay đen.
Do thuận tiện cho hành nhân, ngài Hoằng Nhất dùng màu
đỏ để chỉ thiện nghiệp, màu đen chỉ
ác nghiệp. Lời giảng của ḥa thượng Mộng Tham chỉ
nhằm nói rơ: Sau khi đă sám hối thanh tịnh cho nghiệp
hiện tại sau bốn tuần, đă gieo được
thuần thiện th́ khi gieo luân tướng sau đó, sẽ
có thể chẳng thấy thuần là đỏ nữa, mà lại xuất hiện màu
đen, như trong các câu kế tiếp, ḥa thượng
đă giải thích, khi hiện nghiệp (nghiệp trong hiện tại) đă sám hối thanh tịnh, ác nghiệp
trong đời trước sẽ hiển hiện, cho nên lại
thấy màu đen hiện ra. Ngài diễn tả chuyện
này bằng cách nói “luân tướng thanh tịnh lại chẳng phải là thanh tịnh”.
[5]
Theo từ điển trực tuyến Baidu, Phù-đồ vốn
là cách phiên âm khác của chữ Buddha. Tháp thờ Phật
được gọi là “Phù-đồ tháp”, nhưng qua thời
gian, chữ “tháp” bị rớt mất, người ta đồng
hóa Phù-đồ với ư nghĩa “tháp thờ”.
[6] Thanh Đảo là một thành phố
thuộc tỉnh Sơn Đông, nằm trên phía Nam bán đảo
Giao Đông.
[7] Nguyên văn “thất thất sự
biến”, c̣n gọi là “Lư Câu Kiều sự biến”,
thường gọi là Marco Polo Bridge Incident trong các sách lịch sử của phương Tây. Đây là cuộc xung đột
giữa quân Nhật và chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vào
ngày 7 tháng 7 năm 1937. Để kiếm cớ gây chiến ḥng chiếm đóng miền
Bắc Trung Hoa, quân Nhật đă khiêu khích, đ̣i lục
soát thành Uyển B́nh v́ một binh nh́ người
Nhật bị mất tích khi họ tập trận tại
đó. Dù sau đó, người lính ấy đă trở về
đội ngũ, người Nhật vẫn tiếp tục
khiêu khích, và đôi bên chạm súng tại Lư Câu Kiều, mở ra cuộc
chiến Trung Nhật lần thứ hai.
[8]
Mỗi đời sẽ đều có quá khứ, hiện tại,
và vị lai của nó, nên ba nhân với ba thành chín, cộng thêm
căn bản vô minh hiện tiền, gọi chung là mười
đời.
[9] Theo kinh Quán Dược Vương
Dược Thượng Bồ Tát và Quán Hư Không Tạng
Bồ Tát, ba ngàn vị Phật trong ba kiếp (Trang Nghiêm, Hiền,
và Tinh Tú) là những vị do nghe danh hiệu của năm
mươi ba vị Phật này bèn thọ tŕ, liền vượt
thoát tội trong vô số kiếp sanh tử. Do vậy, nghi
thức Hồng Danh Bảo Sám đă dùng danh hiệu các vị
Phật này để lạy sám hối v́ các Ngài có nguyện
diệt trừ các tội tứ trọng, ngũ nghịch,
thập ác cho chúng sanh. Đó chính là các vị Phổ Quang, Phổ
Minh, Phổ Tịnh, Đa Ma La Bạt Chiên Đàn
Hương, Chiên Đàn Quang… cho đến Vô Lượng
Âm Thanh Vương, Tài Quang, Kim Hải Quang, Sơn Hải Huệ
Tự Tại Thông Vương, Đại Thông Quang, Nhất
Thiết Pháp Tràng Măn Vương Phật.
[10] Tức là có đôi chút cảm ứng.