Lược
giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần
3
占察善惡業報經
隋天竺沙門菩提登譯
夢參老和尚講
(giảng lần
thứ ba năm 2009)
Hán dịch: Thiên
Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời
Tùy
Chủ giảng: Lăo ḥa
thượng Mộng Tham
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo phiên bản đăng
tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo
-https://www.liaotuo.com)
Giảo chánh: Đức
Phong và Huệ Trang
Tập 7
Các
chúng sanh như thế do nghiệp có dày, mỏng; căn
cơ có lợi, độn, sai biệt vô lượng, hoặc
mười bốn ngày sau bèn được thanh tịnh,
hoặc sau hai mươi mốt ngày, cho đến bốn
mươi chín ngày sau, sẽ được thanh tịnh. Nếu
quá khứ lẫn hiện tại đều có các thứ trọng
tội tăng thượng, sẽ trải qua một
trăm ngày bèn được thanh tịnh. Hoặc là qua hai trăm ngày, cho đến trải qua một ngàn
ngày, bèn được thanh tịnh. Nếu là kẻ căn
cơ cực độn, tội chướng nặng nhất,
chỉ nên phát tâm dũng mănh, chẳng đoái tiếc thân mạng,
thường siêng năng xưng niệm, ngày đêm đi
nhiễu (đi kinh hành), giảm bớt ngủ nghê, lễ
sám, phát nguyện, vui thích tu cúng dường, chẳng lười
nhác, chẳng bỏ phế, cho đến mất mạng vẫn
chẳng thôi nghỉ. Tinh tấn như thế, trong một
ngàn ngày, ắt đạt được thanh tịnh.
Kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo dùng luân tướng thanh tịnh
để chứng minh, v́ bản thân chúng ta chẳng biết
nghiệp chướng của chính ḿnh rốt cuộc là nhẹ
hay nặng. Trước khi quư vị bái sám, đương
nhiên là dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát một phen; sau đấy,
bắt đầu bái sám. Trải qua bảy ngày, vào mỗi
sáng sớm, phải ở trong Phật đường,
trước khi bái sám bèn dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát
xem nghiệp của chính ḿnh là nhẹ hay nặng.
Đương nhiên, thoạt đầu, khi quư vị bắt đầu sử dụng Chiêm Sát
Luân, hằng ngày bái sám, luân tướng sẽ dần dần
dấy lên biến hóa. Cũng có khi trải qua bảy ngày, hoặc mười bốn ngày mà [kết quả
hiện ra nơi luân tướng] chẳng biến hóa to lớn,
cho thấy nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng,
hoặc là do trong khi bái sám, tâm chẳng chí thành. Tâm chẳng chí thành, chẳng thể tiêu tội
nghiệp được! Trong khi bái sám, do trong quá khứ
quư vị đă tạo nghiệp, có nghiệp rất nặng,
có nghiệp rất mỏng, chẳng nặng nề. Căn
cơ của mỗi người th́ cũng có kẻ lợi
căn, kẻ độn căn; v́ độn căn th́ trí huệ rất nông cạn, ít ỏi. Do vậy, khi quư vị bái
sám, rất khó
tương ứng. Nếu càng chẳng tương ứng,
quư vị càng phải nên phát tâm chí thành sám hối gấp bội.
Đă là nghiệp quá khứ rất nặng, do hiệu quả bái sám của
quư vị trong nhất thời th́ vẫn chẳng đạt
được thành quả. Tức là quư vị bái sám, hằng
ngày đều phải dùng Chiêm Sát Luân để chiêm nghiệm
chính ḿnh hiện thời đă sám trừ được
nghiệp chướng hay chưa? Luân tướng sẽ cho
quư vị biết. Nếu quư vị sám hối bảy ngày,
mười bốn ngày mà [kết quả hiện ra bởi]
luân tướng vẫn là như thế, th́ có hai loại t́nh huống:
-
Một là nghiệp chướng nặng nề.
-
Hai là quư vị chẳng chí tâm. Khi bái sám, chẳng thành khẩn!
Khi
quư vị vào sám thất, phải mong liễu sanh tử. Quư
vị phải có cái tâm mong liễu sanh tử
th́ mới có thể thay đổi sanh tử. Nếu tâm coi
thường, tâm ngạo mạn, tợ hồ thuận theo
đại chúng niệm Phật, nhưng tâm chẳng chí
thành, khi gieo luân tướng, quư vị sẽ chẳng đạt
được luân tướng thanh tịnh. V́ căn
cơ của chúng ta có lợi và độn, lợi căn
th́ vừa lạy liền đạt được
tương ứng rất dễ dàng. Độn
căn th́ quư vị lạy bảy ngày, mười bốn
ngày, thậm chí lạy suốt một, hai tháng, vẫn chẳng
đạt được luân tướng thanh tịnh, cho thấy
nghiệp quá khứ rất nặng. Quư vị phải nên bi
ai sám hối, chí thành, khẩn thiết lễ bái. Có vị phải trải
qua hai mươi mốt ngày, hoặc bảy lần
bảy tức bốn
mươi chín ngày mà luân tướng vẫn cho thấy
[nghiệp chướng] rất nặng. Quư vị cứ tiếp
tục lễ bái, v́ chúng ta bái sám nhằm
mục đích tu đạo được thành tựu. Khi
nghiệp chướng của quư vị rất nặng, quư
vị tu Quán hoặc tu Định sẽ chẳng thành tựu.
Quư vị ắt cần phải trong lúc bái sám, biết tội
của chính ḿnh đă thanh tịnh, đó gọi là “nghiệp
chướng tiêu mất”. Sau đấy, quư vị tu
Định, sẽ có thể rất nhanh chóng
đạt được thành tựu.
Địa
Tạng Vương Bồ Tát bảo chúng ta: Đối với
nghiệp đă tạo, có nghiệp rất nặng, rất
dày, có nghiệp chướng rất nhẹ, căn cơ của
người ấy th́ sao? “Căn” tức là sáu căn,
tức mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư, có lợi căn và độn
căn. Lại c̣n có lúc trong khi bái sám, đang lễ bái bèn
ngă bệnh, hoặc phát sanh các thứ bệnh tật, [khiến
cho] quư vị lễ bái chẳng thành công. Trong ấy có rất
nhiều sai biệt, hoàn toàn chẳng phải là ai nấy
đều có thể lễ bái, đều rất thanh tịnh.
Điều này không giống như chúng ta theo đại
chúng niệm Phật, chẳng biểu hiện ra, đợi
cho đến khi chính ḿnh một ḿnh bái sám, sẽ [cảm nhận]
rất rơ ràng. Rất nhiều đạo hữu nói nghiệp
chướng của chính ḿnh rất nặng, “tội của
tôi rất lớn”. Người
đó tự nói th́ được, giả sử người
khác nói “tội của
quư vị rất lớn, nghiệp chướng của quư vị rất nặng”, ngay lập tức,
kẻ đó sẽ bực bội, dấy lên phiền năo
ngay. Người đó tự ḿnh khách sáo, khiêm hư, có ư
nghĩa như thế đó, nhưng luân tướng chẳng
khách sáo đối với quư vị. Nghiệp của quư vị
khá nặng, [luân tướng bèn biểu hiện] khá nặng.
Người ta sám hối bảy ngày bèn thanh tịnh, quư vị
sám hối bảy mươi ngày, nghiệp vẫn bất
động. Đó thật sự gọi là “nghiệp
chướng nặng nề”.
T́nh
huống lúc bái sám khác nhau: Có lúc thời gian [sám hối] ngắn
ngủi mà nghiệp chướng đă thanh tịnh; sau
đó, lại tu Định,
tu Huệ, rất dễ khai trí huệ. Nghiệp chướng nặng
nề th́ sẽ chẳng mở mang trí huệ to lớn, quư
vị bèn tiếp tục lễ bái. Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói quư vị trải qua một
trăm ngày, hai trăm ngày, thậm chí một ngàn ngày mà
vẫn chẳng có luân tướng thanh tịnh. V́ kẻ
đó hết sức độn căn, nhiều đời, nhiều kiếp đều
chẳng được nghe Phật pháp. Do vậy, lần
này quư vị gặp gỡ, tuy gặp gỡ nhưng do nghiệp
chướng trong quá khứ nặng nề, [cho nên] hiện
thời từ đầu đến cuối, chẳng dễ đạt
được luân tướng thanh tịnh. Đấy là kẻ
căn cơ rất độn, nhiều đời bao kiếp vẫn
chưa gặp gỡ Phật pháp, tội chướng nặng
nề nhất. Nếu thuộc vào t́nh huống này, luân
tướng sẽ chẳng hiện, hoặc vẫn hiện
ra tội nghiệp rất
nặng. Quư vị phải phát tâm dũng mănh, liều ḿnh. Liều
ḿnh tranh đấu với tội nghiệp của chính
ḿnh, chẳng đoái tiếc thân mạng mà sám hối
như thế đó. Đồng thời, phải luôn siêng
năng xưng danh, tức là xưng niệm danh hiệu
Địa Tạng Vương Bồ Tát, chẳng phân biệt ngày đêm, ngày lẫn đêm đều
đi kinh hành. Nghiệp chướng càng nặng, quư vị
càng phải giảm bớt ngủ nghê để sám hối
nhiều hơn. Lại c̣n phải tu cúng dường, chớ
nên giải đăi như thế. Chớ nên bỏ phế,
thậm chí dẫu tử vong, từ đầu đến
cuối chẳng ngưng nghỉ, cứ một mực lễ
bái. Tới khi quư vị sắp chết, Địa Tạng
Bồ Tát hiện ra, tiêu trừ nghiệp chướng
cho quư vị. Nếu tinh tấn như vậy trong một
ngàn ngày (đại khái là trong thời gian ba năm), quư vị
nhất định đạt được luân tướng
thanh tịnh.
Trong
đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ
Tát dạy chúng ta phải dũng mănh tinh tấn, đừng
nên thoái thất đạo tâm. Trong khi bái sám, tâm quư vị
bèn phát nguyện, phát nguyện ǵ vậy? Đạt tới
thanh tịnh mới thôi! Nguyện lực của quư vị
là ta phải bái sám sao cho ba nghiệp
thân, khẩu, ư của chính ḿnh đều thanh tịnh.
Đó là thành tựu cơ bản; sau đấy, tu hai loại quán đạo, sẽ nhất định
có thể thành tựu. Nếu trong khi bái sám mà chẳng có
luân tướng thanh tịnh, một mực chẳng thanh tịnh, th́ khi quư vị
tu đạo sẽ chẳng thể thành tựu. V́ thế,
trước hết, quư vị phải sám trừ sạch sẽ
các tội. Trong nửa sau của bộ kinh này, Địa
Tạng Vương Bồ Tát mới dạy quư vị tu
Định như thế nào, tu Huệ như thế nào, tức
là tu hai loại quán đạo nơi cảnh giới Nhất
Thật. Nếu luân tướng chẳng thanh tịnh, khi
quư vị tu đạo, sẽ chẳng thể thành tựu!
C̣n
phải nên chú ư, khi kẻ khác khinh mạn quư vị, hoặc
là nói năng hay hành xử cũng thế, đó chính là diệt tội
cho quư vị, chứng tỏ [tội nghiệp từ đời
trước của quư vị] đă tiêu mất. Càng có nhiều
người khinh miệt quư vị, quư vị có thể nhận
biết: “Do nghiệp chướng của chính ḿnh nặng
nề, cho nên ta chẳng được người khác
cung kính. Chính là lúc ta phải nên sám hối tội lỗi thật
kỹ!” Bởi lẽ, khi nghiệp chướng nặng nề,
phước đức của quư vị chẳng thể hiện
tiền. Chẳng có
phước đức, đương nhiên là người
ta coi thường quư vị. Khi quư vị có phước
đức, người khác sẽ cung kính quư vị. Các
đạo hữu thuộc hai chúng tại gia khi thân cận
các vị sư phụ xuất gia, thường thấy
sư phụ đối với các vị bất đồng,
v́ sư phụ đối với người khác th́ rất
khách sáo, c̣n đối với quư vị th́ có thái độ
hết sức khó chịu. Đương nhiên là quư vị
nẩy sanh phiền năo, v́ cho rằng sư phụ không công
bằng, trong tâm rất bực bội, chẳng hề biết sư phụ
đang tiêu nghiệp chướng cho quư vị. Trong quá khứ,
vào đời Đường, có vị Tể Tướng tên là Ngư Triều Ân. Khi quốc sư
vào hoàng cung thuyết pháp, Ngư Triều Ân[1]
bèn hướng về quốc sư thỉnh pháp. Quốc
sư chẳng đếm xỉa tới ông ta, lại c̣n
phê phán. Ông ta thỉnh pháp ǵ vậy? Ông ta hỏi quốc
sư: “Vô minh do đâu mà khởi?” Quốc sư bảo: “Ngươi là kẻ nô tài mà
c̣n thưa hỏi Phật pháp nỗi ǵ?” Ngư Triều Ân
đùng đùng nổi
giận: “Ta là nô tài của hoàng thượng, chẳng phải
là nô tài của ḥa thượng nhà ngươi! Ta là Tể
Tướng, chỉ ở dưới hoàng thượng,
nhưng trên hết thảy chúng sanh, sao ngươi dám khinh
rẻ ta như vậy?” Ông ta hỏi quốc sư: “Phiền
năo từ đâu sanh khởi? Phiền năo là ǵ?” [Thật ra] ông ta hỏi về “vô minh”, chúng tôi
đổi thành “phiền năo” [cho dễ hiểu]. “Vô
minh từ đâu sanh khởi? Vô minh là ǵ?” Quốc sư
không chỉ chẳng trả lời, mà c̣n quở:
“Ngươi là hạng nô tài mà c̣n muốn thưa hỏi Phật
pháp!” V́ vậy, ông ta nổi cáu. Khi ông ta nổi giận, quốc
sư bèn bảo: “Vô minh sanh khởi từ đó. Đó chính
là vô minh”. Ngư Triều Ân ngay lập tức khai ngộ,
đảnh lễ quốc sư. Đó gọi là “nhân duyên thuyết pháp”, v́ hết thảy
chúng sanh đều tự hướng
về người khác nói: “Tôi nghiệp chướng rất
nặng”. Tôi thường nghe các đạo hữu thổ
lộ: “Tôi nghiệp chướng rất nặng”; chính kẻ đó có thể nói
[như vậy], nhưng nếu quư vị bảo kẻ
đó: “Ngươi nghiệp chướng rất nặng,
c̣n đến học Phật pháp à?” Kẻ đó nhất
định sẽ giận tím mặt; đó là biểu hiện
của nghiệp chướng!
Khi
chúng ta sám hối, bản thân chúng ta bái sám, vị được
bái là Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng
Bồ Tát là sám chủ. Trong khi quư vị sám hối tội lỗi,
khi lạy Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa
Tạng Vương Bồ Tát đă sám hối thay cho quư vị.
Trong khi quư vị lạy Quán Âm để sám hối, Quán Âm
thay quư vị sám hối. Bản thân chúng ta phải nên lư giải:
Phàm là các đạo hữu bái sám, quư vị hướng về
Địa Tạng Bồ Tát cầu sám hối. Địa Tạng Bồ
Tát gia tŕ, giúp quư vị sám hối, khiến cho nghiệp chướng
của quư vị sẽ thanh tịnh rất nhanh chóng. Khi quư
vị sám hối, do chính ḿnh rất nóng ḷng, hận chẳng
thể ngay lập tức sám hối thanh tịnh tội
nghiệp. Địa Tạng Bồ Tát cũng v́ cái nguyện
ấy, nguyện cho hết thảy chúng sanh chẳng có tội
nghiệp. Địa Tạng Bồ Tát cũng giúp quư vị
sám hối, nhưng quư vị phải chẳng đoái tiếc
thân mạng mà sám hối.
Trong
lịch sử, có một người tu
hành, tu hành trong hang động. Ông ta vốn tu hành
trong hang động, do cảm thấy [cứ
tu] như thế th́ cơ hội
thành công quá ít, bèn ra ngoài sơn động, ngồi nơi
vách đá cheo leo. Ở trong hang, Thùy Miên Cái rất
nghiêm trọng, tu hành cứ ngủ gục măi. Ông ta tự
đặt ḿnh vào tử địa, v́ ngồi vách núi ấy
chẳng thể ngủ gật. Hễ ngủ gật, sẽ
té xuống, chẳng phải là ngă chết tươi ư?
Đó là ư nghĩa “đặt ḿnh vào chỗ chết để
sống c̣n!” Ông tĩnh tọa nơi vách núi tu
Tư Duy (tu Thiền Định). Thân thể chẳng thể kiên tŕ lâu được, tĩnh tọa bèn hôn trầm,
rớt lọt khỏi vách đá. Thần hộ pháp liền
lôi ông ta lên. Được thần hộ pháp đỡ
lên, ông ta nói với thần hộ pháp: “Trong Nam Thiệm Bộ
Châu, người tu hành giống như tôi chắc là rất
ít?” Thần hộ pháp bảo: “Người tu hành giống
như ông quá nhiều. Thân ḅ có bao nhiêu lông? Rất nhiều!
Ông đừng sanh kiêu tâm, mạn tâm. Đối với kẻ
có cái tâm [kiêu ngạo] giống như ông, ăn nói [lớn lối]
như ông, trong năm trăm đại kiếp, ta sẽ
chẳng đến hộ pháp cho ông”. Thần hộ pháp bỏ
đi. Vị lăo tu hành ấy suy nghĩ: “Thoạt đầu,
tôi cũng đâu có yêu cầu ông hộ pháp? Ông có che chở hay
không, tôi vẫn cứ tu hành y hệt!” Ông ta lại ngồi,
lại dùng phép Quán để tu hành. Thân thể lại không
thể duy tŕ lâu dài nổi, vừa
tĩnh tọa lại hôn trầm, ông ta lại rơi xuống.
Hộ pháp lại cứu ông ta lên. Ông ta hỏi thần hộ pháp: “Ông nói trong năm
trăm đời chẳng hộ pháp cho tôi, v́ sao lại tới nữa?” Thần nói: “Một niệm
tâm tinh tấn của ông vượt khỏi năm
trăm đại kiếp”, tức là do một niệm tinh
tấn vượt hơn năm trăm đại kiếp
[mà thần hộ pháp cứu ông ta].
Từ
câu chuyện này, chúng ta hiểu rơ: Khi chúng ta tu pháp sám hối,
quư vị phải kiên tŕ, tinh tấn, dũng mănh, v́ hết
thảy các vị thần hộ pháp và Bồ Tát đều
hộ tŕ quư vị, chẳng cần phải băn
khoăn. Sở dĩ Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta xưng niệm danh hiệu của Ngài v́ xưng danh
dễ dàng nhất. Quư vị lạy, đảnh lễ, bái
sám, lại c̣n tụng niệm kinh văn, tức là niệm
danh hiệu Địa Tạng, nhưng quư vị phải
niệm danh hiệu ấy đến mức nhất tâm bất
loạn. Cho tới khi quư vị niệm đến mức
trong tâm hết sức hoan hỷ, niệm tan sạch mệt
mỏi và buồn ngủ, đó là
tương ứng. Tâm của quư vị và tâm của Địa
Tạng Bồ Tát tương ứng, đó là cảm. Hễ cảm, sẽ
được Bồ Tát ứng. Khi chúng ta tu hành, thường
cầu cảm ứng. Chớ nên cầu cảm ứng,
chỉ cầu bản thân quư vị tu
hành dụng công như thế nào? Điều này chính
quư vị rất rơ ràng, v́ công lực sẽ tự nhiên
tương ứng. Quư vị tu hành là cảm; do sức mạnh
của cảm mà Bồ Tát liền tự nhiên ứng. Quư vị
cảm mà không có sức, chỉ cầu suông Bồ Tát ứng
hiện, sẽ chẳng thể được! V́ đây chẳng
phải là chuyện một phía, phải là song phương.
Do vậy, khi quư vị tu đạo, chỉ nên cầu chính
ḿnh. Đừng nên mới vừa tu hành đă mong cầu
được Bồ Tát gia tŕ, cảm ứng, chẳng thể
được! Khi công lực của quư vị đạt
tới một mức độ nào đó, [Bồ Tát] sẽ
ứng với mức độ ấy. Quư vị chẳng
có công lực, sẽ chẳng ứng!
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhược dục đắc tri thanh tịnh
tướng giả, thỉ tùng tu hành quá thất nhật hậu,
đương ưng nhật nhật ư thần triêu
đán, dĩ đệ nhị luân tướng cụ an thủ
trung, tần tam trịch chi. Nhược thân, khẩu, ư giai
thuần thiện giả, danh đắc thanh tịnh.
(經)善男子。若欲得知清淨相者。始從修行過七日後。當應日日於晨朝旦。以第二輪相具安手中。頻三擲之。若身口意皆純善者。名得清淨。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu muốn biết tướng
thanh tịnh, thoạt đầu sau khi đă tu bảy ngày,
hăy nên hằng ngày vào lúc sáng sớm, cầm loại luân
tướng thứ hai trong tay, lần lượt gieo ba lần
[cho mỗi nghiệp]. Nếu thân, miệng, ư đều thuần
thiện, th́ gọi là “đạt được thanh tịnh”).
Địa
Tạng Bồ Tát lại nói: - Thiện nam tử! Nếu
ông mong có được luân tướng thanh tịnh, sau
khi ông đă tu hành, lễ Chiêm Sát Sám bảy ngày, bảy ngày
đầu chớ nên dùng Chiêm Sát Luân. Bảy ngày sau, vào sáng
sớm mỗi ngày, lúc vừa mới vào sám thất, hăy dùng loại
luân tướng thứ hai. Luân tướng có ba loại, loại
luân tướng thứ hai chỉ có ba khối, chỉ nhằm
mục đích biện định thân, khẩu, ư của
quư vị có thanh tịnh hay không? Quư vị dùng ba cái luân này
để gieo, nhằm biện định rơ tam luân thân, khẩu,
ư. Nếu khẩu nghiệp thanh tịnh th́ [luân tướng
đề chữ “khẩu nghiệp”] hiện ra có màu
đỏ. Quư vị xem thân, khẩu, ư của chính ḿnh, nghiệp
nào thanh tịnh, [luân tướng
tương ứng với nghiệp ấy] sẽ hiện ra mặt luân có màu đỏ.
Nếu thân, khẩu, ư đều chẳng thanh tịnh, vẫn
c̣n màu đen, tức là quư vị tu hành vẫn chưa đạt
tới mức chuyển biến được nghiệp,
vẫn chẳng chuyển biến, chẳng lay chuyển
nghiệp được. Do vậy, nghiệp vẫn giống
y hệt như cũ. Nếu quư vị gieo cả ba lượt
(gieo thân luân, khẩu luân, ư luân, mỗi cái luân một lượt),
nếu toàn là màu đỏ, chẳng có màu đen, th́ là thuần
thiện, là thanh tịnh. Nếu có chút đen, [tức là] dẫu một luân tướng có vạch
màu đen nhỏ th́ cũng chẳng tính là thanh tịnh.
Nhưng sáng sớm hôm nay, quư vị đă gieo được
[luân tướng] thanh tịnh, quư vị lại lễ bái
suốt một ngày, sáng sớm hôm sau gieo luân tướng,
nó lại chẳng thanh tịnh, tức là sự thanh tịnh
của quư vị chẳng triệt để. Ắt cần
phải hằng ngày, lúc nào gieo cũng đều thanh tịnh,
đều là màu đỏ, sẽ biết sự tu hành của
quư vị đă thành tựu, sẽ chẳng đọa vào tam
ác đạo. Quư vị mong cầu [văng sanh] thế giới Cực
Lạc, chắc chắn sẽ có thể sanh được!
(Kinh)
Như thị vị lai chư chúng sanh đẳng, năng
tu hành sám hối giả, tùng tiên quá khứ cửu viễn
dĩ lai, ư Phật pháp trung, các tằng tập thiện.
Tùy kỳ sở tu hà đẳng công đức, nghiệp hữu
hậu, bạc, chủng chủng biệt dị. Thị cố
bỉ đẳng đắc thanh tịnh thời, tướng
diệc bất đồng: Hoặc hữu chúng sanh đắc
tam nghiệp thuần thiện thời, tức cánh đắc
chư dư hảo tướng. Hoặc hữu chúng sanh
đắc tam nghiệp thiện tướng thời, ư
nhất nhật, nhất dạ
trung, phục kiến quang minh biến măn kỳ thất. Hoặc
văn thù đặc dị hảo hương khí, thân ư
khoái nhiên. Hoặc tác thiện mộng, mộng kiến Phật
thân lai vị tác chứng, thủ ma kỳ đầu, thán
ngôn: “Thiện tai! Nhữ kim thanh tịnh, ngă lai chứng nhữ”.
Hoặc mộng kiến Bồ Tát thân lai vị tác chứng.
Hoặc mộng kiến Phật h́nh tượng phóng quang
nhi vị tác chứng.
(經)如是未來諸衆生等。能修行懺悔者。從先過去久遠以來。於佛法中各曾習善。隨其所修何等功德。業有厚薄種種別異。是故彼等得清淨時。相亦不同。或有衆生得三業純善時。即更得諸餘好相。或有衆生得三業善相時。於一日一夜中復見光明遍滿其室。或聞殊特異好香氣。身意快然。或作善夢。夢見佛身來爲作證。手摩其頭。嘆言善哉。汝今清淨。我來證汝。或夢見菩薩身來爲作證。或夢見佛形像放光而爲作證。
(Kinh: Các
chúng sanh trong đời vị lai có thể tu hành, sám hối
như thế là do đă tu tập từ quá khứ lâu xa
trước kia đến nay, ai nấy đă từng tu thiện
trong Phật pháp, tùy theo sự tu tập mà đạt
được các công đức như thế nào, nghiệp
có dày hay mỏng đủ loại sai khác. V́ thế, khi họ
đạt được
thanh tịnh, tướng cũng khác nhau. Hoặc là có chúng
sanh khi ba nghiệp được thuần thiện, liền
đạt được
các hảo tướng khác. Hoặc có chúng sanh khi đạt được
thiện tướng nơi tam nghiệp, trong một ngày một
đêm, lại thấy quang minh trọn khắp cả nhà.
Hoặc ngửi thấy mùi thơm đặc biệt lạ
lùng, thân ư vui sướng. Hoặc có giấc mộng tốt
lành, mộng thấy Phật đích thân đến làm chứng,
đưa tay xoa đầu, khen rằng: “Lành thay! Nay ông
thanh tịnh, ta đến làm chứng cho ông”. Hoặc mộng
thấy Bồ Tát đích thân đến làm chứng. Hoặc
mộng thấy h́nh tượng Phật phóng quang để
làm chứng).
Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu các chúng sanh trong vị lai muốn dùng
Chiêm Sát Sám Pháp để tu hành, sám hối, quư vị chẳng
biết các nghiệp đă tồn tại từ trong quá khứ
của chính ḿnh là lâu hay gần, là cạn hay sâu, trong quá khứ
đă tu hành Phật pháp hay chưa, đă nghe pháp rất sâu
hay chưa, đă trọn đủ rất nhiều công
đức trong Phật môn hay chưa, quư vị đều
chẳng biết. Các nghiệp đă tạo nặng hay nhẹ,
dày hay mỏng, đủ loại sai khác. Do vậy, khi quư vị
gieo Chiêm Sát Luân thanh tịnh, cũng hiện tướng bất
đồng. Chẳng hạn như khẩu nghiệp thanh tịnh,
v́ nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, thốt lời
thô ác, toàn bộ [các ác nghiệp ấy đă] chẳng c̣n,
[luân tướng] sẽ hiện vạch đỏ dài và to.
Nếu chỉ là đỏ đôi chút th́ là vừa mới
thanh tịnh, c̣n nhẹ. Nhẹ, nặng, dày, mỏng, đối
với ác nghiệp [củng luận định] như thế!
Khi
quư vị gieo Chiêm Sát Luân, do toàn bộ ba nghiệp thân, miệng,
ư thuần thiện, chẳng có chút tỳ vết nào. “Năi
chí chư dư hảo tướng” (cho đến các
tướng tốt lành khác): Do quư vị đă đạt
được thiện tướng ba nghiệp thanh tịnh,
c̣n có các điều khác
sẽ theo đến. Những điều nào sẽ theo
đến? Ban đêm, quang minh chiếu trọn khắp. Ở
trong sám thất của quư vị toàn là quang minh. Ban đêm vốn
tối tăm, nhưng trong sám thất của
quư vị toàn là quang minh. Đấy là một loại
[tướng hảo]. C̣n có mùi thơm đặc biệt
thù thắng, chẳng phải là mùi thơm như
đốt đàn hương trong nhân gian, ngửi thấy loại hương đặc
biệt. Đồng thời, thân thể của quư vị cảm
thấy hết sức vui sướng. Sự vui sướng ấy
chẳng phải là sự vui sướng thông thường
của chúng ta. Đó gọi là “thiện tướng”.
Hoặc là nằm mộng thấy ở cùng một chỗ
với chư Phật, Bồ Tát, hoặc cùng với các vị
đại Bồ Tát tham gia hội thuyết pháp của một
đức Phật nào đó. Hoặc mộng thấy Phật
tới làm chứng cho quư vị: “Này thiện nam tử! Ông
đă thanh tịnh”. Ngài giơ tay xoa đầu quư vị,
tán thán: “Lành thay! Lành thay! V́ ông nay đă thanh tịnh, ta đến
chứng minh cho ông”. Hoặc mộng thấy Bồ Tát đến
làm chứng, hoặc mộng thấy tượng Phật
phóng quang minh. Tôi nghĩ chư vị đạo hữu là
người tu hành có thể đều
đă trải qua, nhưng đấy có phải là liễu
sanh tử hay không? “Tử” là chuyện nhất thời,
thiện tướng chẳng thể chứng minh [hành giả]
đă liễu sanh tử. Quư vị vẫn phải tiếp
tục tu. Nếu mỗi ngày đều có hiện tượng
này th́ là quyết định. Hoặc trong lúc quư vị bái
sám, có lúc rất tương ứng, có hiện tượng
ấy; sau một khoảng
thời gian, lại chẳng có, do nghiệp phát hiện, vẫn
chưa quyết định. Nói cách khác, quư vị vẫn chưa
dự vào Sơ Trụ, v́ tín tâm của quư vị vẫn
chưa viên măn! Nếu loại hiện tượng này
thường hiện tiền, chứng tỏ tín tâm của
quư vị đă viên măn, ba nghiệp thanh tịnh, tức ba
nghiệp thân, khẩu, ư đều thanh tịnh. Trong khi ấy,
lúc quư vị tu đạo, tu Định bèn đắc Định,
tu Huệ bèn đắc Huệ. Chúng tôi
nêu một thí dụ, hoặc là niệm kinh Pháp Hoa, niệm
kinh Hoa Nghiêm, niệm kinh Lăng Nghiêm, thậm
chí quư vị niệm Tứ A Hàm, b́nh thường quư vị
xem mà chẳng hiểu
nghĩa lư. Cho đến khi quư vị đă lạy được
luân tướng thanh tịnh, không chỉ hiểu toàn bộ,
mà c̣n tiến nhập. Đó gọi là “đă khai huệ”.
(Kinh)
Nhược nhân vị đắc tam nghiệp thiện
tướng, đản tiên kiến văn như thử
chư sự giả, tắc vi hư vọng, cuống hoặc,
trá ngụy, phi thiện tướng dă.
(經)若人未得三業善相。但先見聞如此諸事者。則爲虛妄誑惑詐僞。非善相也。
(Kinh:
Nếu ai chưa đạt được thiện tướng
nơi ba nghiệp, chỉ
là trước đó đă thấy nghe các sự như thế
th́ đó là hư vọng, dối trá, gạt gẫm, trá ngụy,
chẳng phải là thiện tướng).
Nếu
quư vị chẳng được hiện tướng
[thanh tịnh] nơi ba nghiệp, tức là hiện tướng
[thanh tịnh]
nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư, nhưng trước
đó, đă nghe người khác nói, quư vị cũng tự
cho là ḿnh đă đạt được. Đó gọi là
hư vọng, dối trá, gạt gẫm, chẳng thật!
Những thứ đó tuyệt đối chẳng phải
là thiện tướng. Đoạn kinh văn này nhằm dạy
quư vị: Trong khi quư vị bái sám, sẽ có các tướng cảnh giới phát sanh. Ba nghiệp của quư vị chẳng thanh tịnh th́ hễ
có các hiện tượng ấy, chúng sẽ toàn là giả trất, hư dối. Quư vị ắt phải
đạt được luân tướng tương ứng!
V́ sao phải có luân tướng, phải chiêm sát? Hễ luân
tướng tương ứng th́ có người trong mộng
thấy các tướng cảnh giới, đó là chân thật.
[Hoặc là] bỗng dưng
ngửi thấy trong thất của ta có mùi rất thơm,
cho đến thấy sám thất phóng
quang, cho đến nằm mộng rất tốt lành. Thế
nhưng luân tướng của ta chưa thanh tịnh, chứng
tỏ các điều ấy đều là ma, ma tới quấy
nhiễu quư vị. Quư vị ắt cần phải bái sám
cho đến khi luân tướng thanh tịnh; sau đó, gặp
gỡ các thiện sự ấy. Đó gọi là “cảnh giới
thù thắng”. V́ khi chúng ta bái sám, học Chiêm Sát Sám Pháp,
cho đến học Từ Vân Sám Pháp[2],
hoặc học Quán Âm Sám Pháp, sám pháp nào cũng đều
như nhau: Hễ tâm quư vị vẫn chưa thanh tịnh
mà mộng thấy các tướng cảnh giới, th́ chúng
đều là hư dối, gạt gẫm, chẳng phải
là chân thật. Ngàn vạn phần đừng bị ma chuyển,
chớ nên cao hứng. Hễ cao hứng quá sớm, sẽ dễ
nhập ma cảnh!
V́ sao chúng ta dựa theo Chiêm Sát Sám
Pháp để sám hối? Ở đây, Địa Tạng Bồ
Tát sẽ gia tŕ chúng ta, khiến cho quư vị chẳng bị
rơi vào ma cảnh, nương theo pháp để cầu,
nương theo pháp để hiện, tuyệt đối
thanh tịnh, chẳng hư huyễn, lầm lạc. Nếu
chúng ta tu các sám pháp khác, hoặc
tu bằng cách đọc tụng các pháp Đại Thừa
khác, hoặc nằm mộng thấy các tướng cảnh
giới thù thắng, quư vị đừng sanh tâm hoan hỷ,
v́ chẳng thể chứng thực. Quư vị nương theo
sám pháp [trong kinh Chiêm Sát], luân tướng trong sám pháp chính là
sự chứng thực. V́ thường xuyên có kẻ gặp
phải ma nghiệp: Nếu chẳng dựa theo lời dạy
của Phật, mà có các hiện tượng [tốt lành] ấy,
nếu quư vị cao hứng, cho là đă tu thành tựu, sẽ
bị ma dựa! Có chuyện ma hóa hiện [h́nh tướng]
Địa Tạng Bồ Tát hay không? Có chứ! Quư vị
hoàn toàn chẳng tu Địa Tạng Quán, hoặc tu mà
cũng chẳng chân thành chi hết, bỗng dưng Địa
Tạng Bồ Tát hiện thân. Đó chẳng phải là chân
thật. Chẳng hạn như tại hậu sơn của
chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, có một
hành giả tự ḿnh tu hành. Ông ta đă mấy lần gọi
điện thoại cho tôi, [kể lể] ông ta đă thấy
tướng này, tướng nọ. Tôi nói: “Ông hăy dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát đôi chút, v́
Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo cho ông biết là
thật hay giả”. Sau đó, ông ta gọi điện thoại
cho tôi, nói: “Đó là ma, chẳng phải là chân thật. V́ tôi
ngă bệnh, chẳng thể lạy được!” Ông ta hỏi
“làm cách nào?” Tôi nói: “Ông hăy cứ lạy theo lệ thường. Ông
lạy như thế nào th́ vẫn lạy như thế
đó. Cho đến khi ông lạy tiêu mất ma nghiệp ấy,
ông sẽ chẳng bị ma xoay chuyển”. Hoặc là khi quư
vị tu sám pháp, vừa mới tu mà đă có rất nhiều
cảnh tướng (tướng cảnh
giới) ùa tới. Cảnh tướng ùa tới, quư vị phải
đột phá, chúng chẳng chân thật!
Quư
vị nương theo lời dạy của Địa Tạng
Bồ Tát tương ứng với pháp, khi luân tướng
chưa đạt được ba nghiệp thanh tịnh,
bỗng dưng có các thánh cảnh như vậy hiện tiền
quấy nhiễu quư vị bái sám; hoặc ngửi thấy
mùi hương, trong nhà phóng quang, hoặc từ cửa sổ
lọt vào một tia quang minh, quư vị đừng quan tâm tới
nó, vẫn cứ bái sám. Chỉ cần luân tướng hiện
tướng thanh tịnh, đó là thật. V́ sao chúng ta phải
bái sám, mong cầu Bồ Tát chứng minh? Đừng chấp
lấy tướng hư vọng! [Nếu chấp], sẽ
dễ dàng nhập ma. Hăy nương theo lời dạy của
Bồ Tát, hăy nương theo lời dạy trong kinh văn,
như thế th́ sẽ chẳng có ma. V́ ngũ dục ma, tức
là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ,
đều có ma chướng. Điều thứ nhất,
phải phân tích rơ ràng ma và chánh. Nếu không, quư vị tu thân
mà bị hủy diệt!
(Kinh)
Nhược nhân tằng hữu xuất thế thiện
cơ, nhiếp tâm mănh lợi giả, ngă ư nhĩ thời,
tùy sở ưng độ nhi vị hiện thân, phóng đại
từ quang, linh bỉ an ổn, ly chư nghi bố, hoặc
thị thần thông, chủng chủng biến hóa. Hoặc
phục linh bỉ tự ức túc mạng sở kinh chi sự,
sở tác thiện ác, hoặc phục tùy kỳ sở nhạo,
vị thuyết chủng chủng thâm yếu chi pháp. Bỉ
nhân tức thời ư sở hướng thừa, đắc
quyết định tín, hoặc tiệm chứng hoạch Sa-môn đạo
quả.
(經)若人曾有出世善基。攝心猛利者。我於爾時隨所應度而爲現身。放大慈光。令彼安隱。離諸疑怖。或示神通種種變化。或復令彼自憶宿命所經之事所作善惡。或復隨其所樂爲說種種深要之法。彼人即時於所向乘得決定信。或漸證獲沙門道果。
(Kinh:
Nếu ai từng có nền tảng thiện căn xuất
thế, nhiếp tâm mạnh mẽ, nhạy bén, trong lúc ấy,
ta sẽ tùy theo sự đáng độ mà hiện thân, phóng
quang minh từ bi to lớn, khiến cho kẻ đó an ổn,
ĺa các ngờ vực, sợ hăi, hoặc hiển thị thần
thông, đủ loại biến hóa. Hoặc lại
có thể khiến cho họ tự nhớ chuyện đă
trải qua và điều thiện, lẽ ác đă
tạo trong đời trước, hoặc lại thuận
theo sự ưa thích của họ mà nói đủ loại
pháp sâu xa, quan trọng. Kẻ đó ngay lập tức có niềm
tin quyết định đối với thừa mà người
ấy đă hướng về, hoặc dần dần chứng
đắc đạo quả Sa-môn).
Nếu
là người có nền tảng thiện căn xuất thế,
nhiếp tâm nhạy bén, mạnh mẽ, trong lúc đó, ta
(Địa Tạng Bồ Tát) sẽ ứng theo [căn
cơ người ấy] đáng nên dùng thân nào để
đắc độ mà hiện thân ấy, phóng từ quang
to lớn, khiến cho người ấy an ổn, ĺa các ngờ
vực, sợ hăi. Hoặc thị hiện đủ loại
thần thông, hoặc lại khiến cho người ấy
tự nhớ các chuyện đă trải qua và các điều
thiện lẽ ác đă làm trong đời trước. Hoặc
lại tùy ḷng kẻ đó ưa thích, mà nói các thứ pháp sâu
xa, trọng yếu. Người đó ngay lập tức
hướng tới “thừa” mà chính ḿnh đă hướng
về. “Sở hướng thừa” là quư vị tu
Đại Thừa hay Tiểu Thừa, th́ gọi là “sở
hướng thừa”. Sẽ quyết định tin
tưởng cái thừa ấy. “Tiệm chứng hoạch
Sa-môn đạo quả” (Dần dần chứng đắc
đạo quả của Sa-môn): Ở đây là nói đến
đạo quả Sa-môn thông thường, [bao gồm]
Sơ Quả Hướng, Sơ Quả, Nhị Quả
Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả,
Tứ Quả Hướng, và Tứ Quả. Tứ Hướng
Tứ Quả được gọi là đạo quả
đạt được bởi hàng sa-môn.
Địa
Tạng Bồ Tát lại dạy chúng ta: Người có nền
tảng thiện căn xuất thế, do có thiện
căn xuất thế, lại c̣n có thể hướng thiện,
có thể nhiếp tâm nhất trí, vọng tưởng ít, tạp
niệm ít, nhiếp tâm mạnh mẽ, nhạy bén, có thể
hàng phục vọng niệm, có thể nhiếp tâm tới mức
chí tâm. Khi giảng tới [phần kinh văn dạy về]
chí tâm, tôi sẽ nói về vấn đề này. Sau đó,
Địa Tạng Vương Bồ Tát liền hiện
thân, tùy thuận [người ấy] đáng dùng thân nào
để độ, bèn hiện thân ấy, phóng đại
từ quang. Hiện thân th́ cũng có thể là hiện
tướng Bồ Tát, tùy thuộc đáng nên dùng pháp nào
để khiến cho quư vị đắc
độ, Địa Tạng Bồ Tát bèn hiện tướng
ấy đến độ quư vị, khiến cho quư vị
được an ổn, chẳng c̣n sanh ḷng hoài nghi, chẳng c̣n sợ hăi nữa. Đồng thời,
Địa Tạng Bồ Tát c̣n nói: “Ta sẽ thị hiện
đủ loại thần thông, đủ loại biến
hóa, khiến cho hành giả ấy (người bái sám) tự
ḿnh nghĩ nhớ túc mạng trong quá khứ”. “Túc mạng”
(宿命) là tất cả chuyện
tu hành trong vô lượng kiếp thuộc đời quá khứ
của chính ḿnh đều hiện tiền. Trong ấy
cũng có làm thiện nghiệp, mà cũng có làm ác nghiệp,
cũng có tu hành mạnh mẽ, và tu hành chẳng mạnh mẽ.
Tùy theo sự ưa thích của kẻ đó, mà nói các loại
pháp sâu xa, trọng yếu. Tùy thuộc quư vị ưa thích
điều ǵ, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ
tùy thuận cơ nghi, nói cho quư vị nghe pháp ấy. Người
ấy sẽ đối với thừa mà chính ḿnh hướng
đến, hoặc là Đại Thừa, Trung Thừa, hoặc
Tiểu Thừa mà đạt được niềm tin quyết
định, nẩy sanh ḷng tin quyết
định, chẳng c̣n ngờ vực nữa. Như thế
th́ sẽ chứng thực pháp ḿnh đă tu, hoặc sẽ dần
dần chứng đắc đạo quả của Sa-môn.
Địa
Tạng Bồ Tát dạy đoạn này hết sức trọng
yếu! Đặc biệt là chúng ta nương theo kinh
Chiêm Sát để tu pháp sám hối, ḥng tuyệt đối
tiêu trừ ác nghiệp. Đối với tướng cảnh
giới ác, [có khi] chỉ cần
quư vị bái sám một ngày th́ tướng cảnh giới
ác sẽ thuận theo mà biến mất nơi sự hóa hiện
[của luân tướng]. Có khi [phải bái sám trong một]
thời gian dài, cũng có khi thời
gian ngắn. Tôi không có các tướng biến hiện
như Địa Tạng Bồ Tát đă nói, nhưng hồi
tôi ở Nữu Ước, đại khái là chừng ba bốn
tháng, mỗi tối đều nằm mộng. Vừa
đặt đầu lên gối để ngủ liền
nằm mộng cho tới khi tỉnh giấc mới thôi.
Ngày hôm sau, chỉ cần đi ngủ, vừa đặt
đầu xuống gối lại nằm mộng. Đại
khái là hơn một trăm ngày, tức là hiện ra tất
cả những ǵ từng trải trong đời trước.
Có đôi khi tu hành rất tốt đẹp, có lúc tạo
nghiệp, có lúc trả nghiệp rồi lại tu hành, từ
đời này sang đời khác chẳng ngừng. Bản
thân tôi nằm mộng, đại khái là bắt đầu
từ cuối đời Đường, đầu đời
Tống, măi cho đến đời hiện tại, tức
là khoảng thời gian tôi ở nước Mỹ. Tôi
đă kể chuyện này với pháp sư Hoằng Giác,
nhưng trong lúc ấy, chẳng sanh tâm quyết định,
mà cũng chẳng khai trí huệ. Quư vị cũng chẳng
có nghiệp chướng ǵ, tức là đối với hai
đằng thiện ác, trọn chẳng lệch
về thiện, mà cũng chẳng lệch về ác, dường
như là vận chuyển b́nh thường. Đó gọi là
nghiệp trong hiện tại và túc thế, những ǵ
đă làm trong quá khứ thoáng hiện từng đời một
như thế đó!
(Kinh)
Phục thứ, bỉ chư chúng sanh, nhược tuy vị
năng kiến ngă hóa thân chuyển biến thuyết pháp,
đản đương học chí tâm, sử thân, khẩu,
ư đắc thanh tịnh tướng dĩ, ngă diệc hộ
niệm, linh bỉ chúng sanh tốc đắc tiêu diệt
chủng chủng chướng ngại. Thiên ma Ba Tuần bất
lai phá hoại, năi chí cửu thập ngũ chủng ngoại
đạo tà sư, nhất thiết quỷ thần diệc
bất lai loạn. Sở hữu Ngũ Cái triển chuyển
khinh vi, kham năng tu tập chư Thiền, trí huệ.
(經)復次。彼諸衆生。若雖未能見我化身轉變說法。但當學至心。使身口意得清淨相已。我亦護念。令彼衆生速得消滅種種障礙。天魔波旬不來破壞。乃至九十五種外道邪師一切鬼神亦不來亂。所有五蓋展轉輕微。堪能修習諸禪智慧。
(Kinh:
Lại nữa, các chúng sanh ấy tuy chưa thể thấy
ta hóa thân chuyển biến, thuyết pháp, chỉ nên học
chí tâm, khiến cho thân, miệng, ư đă đạt
được tướng thanh tịnh, ta cũng hộ
niệm, khiến cho các chúng sanh ấy mau chóng tiêu diệt
các thứ chướng ngại. Thiên ma Ba Tuần chẳng
tới phá hoại, cho đến tà sư trong chín
mươi lăm loại ngoại đạo và hết thảy
quỷ thần cũng chẳng tới nhiễu loạn. Tất
cả Ngũ Cái lần lượt chuyển thành nhẹ
ít, có thể kham tu tập các môn Thiền và trí huệ).
“Phục
thứ, bỉ chư
chúng sanh” (lại nữa, các chúng sanh ấy) là nói đến những
người tu sám pháp. Kẻ chẳng tu Địa Tạng
Sám, chẳng tu Chiêm Sát Sám th́ chẳng nói tới. “Bỉ chư
chúng sanh” là chuyên nói tới những người
tu sám pháp. Người tu theo sám pháp Chiêm Sát Sám tuy chẳng thể
thấy hóa thân của ta (Địa Tạng Bồ Tát), mà
cũng chẳng nghe hóa thân của ta thuyết pháp, hăy nên học
cái tâm chí thành là được rồi! Người ấy
chỉ cần có thể khiến cho thân, khẩu, ư của
chính ḿnh đạt được tướng thanh tịnh
[khi chiêm sát bằng Chiêm Sát Luân] th́ ta cũng hộ niệm
người đó. Câu này có hàm nghĩa
như thế đó. Có các vị tuy đă bái sám đến
mức thân, khẩu, ư thanh tịnh, nhưng các hiện
tượng đă nói trên đây như “Địa Tạng
Vương Bồ Tát hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc
gia tŕ quư vị” dẫu chẳng có, chẳng trông thấy
hóa thân của ta, cũng chẳng nghe ta thuyết pháp,
người ấy hăy nên học chí tâm (trong phần
sau sẽ giảng về chí tâm), khiến cho thân, khẩu, ư
của người ấy đạt được tướng
thanh tịnh, ta cũng hộ niệm loại chúng sanh ấy.
Hộ niệm người ấy th́ sẽ khiến cho hết
thảy chướng ngại của người ấy
đều tiêu diệt, tu đạo sẽ thành tựu rất
nhanh chóng. “Hộ niệm” có nghĩa là các tà ma như
thiên ma Ba Tuần toan phá hoại sức mạnh tu đạo
của người ấy, sẽ đều chẳng thể
đến gần, tức là [người ấy
đă] được Địa Tạng Vương Bồ
Tát hộ niệm. Cho đến các tà sư thuộc chín
mươi lăm loại ngoại đạo, hết thảy
quỷ thần đều chẳng thể nhiễu loạn
người ấy. Khi đó, tất cả tội nghiệp
Ngũ Cái, Thập Triền, thứ ǵ cũng đều chẳng
có, người ấy có thể tu Thiền Định,
cũng có thể tu trí huệ. Trí huệ là học kinh, học
pháp, Thiền Định là tu tập Định. Hai môn
Định Huệ, một đằng là Chỉ, một
đằng là Quán. Có thể tu Chỉ Quán th́ sẽ có thể
đắc đạo, nhưng đó là người đă
đạt được luân tướng thanh tịnh.
(Kinh)
Phục thứ, nhược vị lai thế chư chúng
sanh đẳng, tuy bất vị cầu Thiền Định,
trí huệ xuất yếu chi đạo, đản tao chủng
chủng chúng ách, bần cùng, khốn khổ, ưu năo bức
bách giả, diệc ưng cung kính, lễ bái, cúng dường,
hối sở tác ác, hằng thường phát nguyện,
ư nhất thiết thời, nhất thiết xứ, cần
tâm xưng tụng ngă chi danh hiệu, linh kỳ chí thành, diệc
đương tốc thoát chủng chủng suy năo, xả
thử mạng dĩ, sanh ư thiện xứ.
(經)復次。若未來世諸衆生等。雖不爲求禪定智慧出要之道。但遭種種衆厄。貧窮困苦憂惱逼迫者。亦應恭敬禮拜供養。悔所作惡。恆常發願。於一切時一切處勤心稱誦我之名號。令其至誠。亦當速脫種種衰惱。舍此命已。生於善處。
(Kinh:
Lại nữa, nếu các chúng sanh trong đời vị lai, tuy chẳng
v́ cầu Thiền Định, trí huệ, đạo xuất
yếu, chỉ gặp đủ loại các thứ ách nạn,
bần cùng, khốn khổ, ưu năo bức bách, cũng nên
cung kính, lễ bái, cúng dường, hối hận các điều
ác đă làm, luôn thường phát nguyện, trong hết thảy
mọi thời, hết thảy mọi chỗ, tâm siêng năng
xưng tụng danh hiệu của ta, sao cho chí thành, th́
cũng sẽ mau chóng thoát khỏi các thứ suy năo. Đă xả
mạng này, sẽ sanh trong chốn lành).
Lại
nữa, hết thảy chúng sanh vào đời Mạt, tuy chẳng v́ cầu Thiền Định, trí huệ,
hay đạo xuất yếu, nhưng khi gặp đủ
loại các thứ ách nạn, bần cùng, khốn khổ,
ưu năo bức bách, trong khi ấy, cũng nên cung kính lễ
bái, cúng dường, sám hối các điều ác đă làm,
sám hối chuyện ác do chính ḿnh đă tạo. “Sám hối điều ác
đă làm” chính là sám hối các chuyện ác đă làm trong
quá khứ và ác nghiệp hiện tiền. Luôn thường
phát nguyện, chính ḿnh thường phát nguyện. Các đạo hữu phải hằng ngày phát cái nguyện ấy, một mặt sám hối, một mặt hồi hướng.
Sám hối th́ hằng ngày đều phải sám hối, phát
nguyện giúp đỡ người khác, lợi ích chúng sanh, đem tất
cả những chuyện tốt đẹp ta đă làm hồi
hướng cho hết thảy chúng sanh đang chịu khổ, chịu
nạn. Sám hối toàn bộ các chuyện sai trái ta đă
làm. Bần cùng, khốn khổ, ưu năo, các thứ bức
bách, gặp phải các tướng cảnh giới ấy hiện
tiền, phải nên cung kính, lễ bái, cúng dường. Các thứ ấy đều là ác nghiệp do ta đă làm
trong quá khứ đến nay hiện tiền, quư vị hăy
nên sám hối, sửa đổi. Niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát để sám hối. Nếu ác nghiệp
ấy phát hiện chẳng quá nghiêm trọng, quư vị làm
như thế nào? Trong hết thảy mọi lúc, hết thảy
mọi nơi, bất luận trong bất cứ t́nh huống nào,
hăy xưng tụng danh hiệu của ta trong hết thảy
thời, hết thảy chốn. Xưng tụng th́ chớ
nên hư t́nh giả ư mà xưng niệm, phải chí thành,
phải khẩn thiết, các thứ suy năo đó sẽ tiêu
mất, xả báo thân này, lại sanh vào chốn lành. Đó
là chưa nói đến cái nguyện [giúp
đỡ chúng sanh] đă phát, nếu quư vị lại c̣n phát
nguyện thêm, cầu sanh về thế giới
Cực Lạc, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ
gia tŕ, khiến cho quư vị được sanh vào thế giới
Cực Lạc.
Lũ
chúng sanh trong đời Mạt Pháp chúng ta thường bị
đủ mọi nhân duyên bức bách trong cuộc sống. Nếu quư vị trông
thấy chùa miếu mà có thể đến chùa miếu lễ
bái, [“miếu” ở đây] chẳng phải là miếu
thờ thiện thần, hay là miếu thờ các loại thần thánh, mà là nói đến chỗ
thờ phụng Phật, Bồ Tát, nhưng [quư vị] chẳng
có tâm xuất ly, mà cũng chẳng cầu Định, cầu
Huệ, cũng chẳng mong học pháp môn xuất yếu.
Rất nhiều đệ tử Phật chẳng mong các thứ
đó, nguyện liễu sanh tử chẳng thiết tha, chẳng
phải là người tin Phật. Đệ tử Tam Bảo
đều phải liễu sanh tử. Chúng ta có thể tự
vấn cái tâm của chính ḿnh: “Có phải là hằng
ngày đều cầu liễu sanh tử hay không?” Khoan nói tới hai chúng tại gia ưu-bà-tắc và
ưu-bà-di, chỉ nói các đạo hữu xuất gia chúng
ta, sáng sớm mỗi ngày lên chánh điện tụng công
khóa, quư vị có phát nguyện mong liễu sanh tử hay không?
Hằng ngày phát nguyện “ta mong liễu sanh tử, ta phải
đoạn phiền năo”, có làm như thế hay không,
chính ḿnh đều hiểu rơ. Người ngoài chẳng hiểu
rơ cho lắm, chỉ có chính ḿnh mới biết rơ! Hằng
ngày có hối cải các điều ác chính ḿnh đă làm hay
chăng? Có đều phát nguyện sám hối hay không? Có thể
thoát khỏi các thứ suy năo, chịu nổi các khảo
nghiệm hay không? Chính ḿnh hiểu
rơ nhất! Người ngoài đều chẳng biết,
người ngoài ai biết nổi trong tâm quư vị đang
nghĩ ǵ? Chẳng hạn như mọi người
thường nghĩ “khi chúng ta sắp mạng chung, A Di Đà Phật và các
vị thánh chúng dùng hương, hoa đến nghênh đón
tôi, khiến cho tâm tôi chẳng điên đảo, có thể
văng sanh thế giới Cực Lạc”; có thể làm
được hay không? Nếu quư vị dùng cái tâm tán loạn
th́ có thể văng sanh hay không? Kinh A Di Đà nói rất rơ ràng:
Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc
bốn ngày, cho đến bảy ngày, quư vị đắc
nhất tâm bất loạn th́ mới có thể văng sanh. Có thể
văng sanh là do đắc nhất tâm bất loạn, chẳng
thể văng sanh là v́ tâm quư vị tản mạn. Bản thân
quư vị có tin tưởng chính ḿnh hay không? Quư vị cho rằng
chính ḿnh có thể văng sanh hay không? Nói “ta chắc chắn có
thể văng sanh v́ tâm chẳng tán loạn, ư không điên đảo”.
Chẳng bị bệnh khổ bức bách, th́ cái nguyện
do quư vị đă phát sẽ có thể đạt được.
Nếu trong lúc tám khổ cùng nung nấu, trong khoảng sanh
tử, trong lúc ấy c̣n có thể [tâm chẳng điên đảo]
như thế hay chăng?
Có
một bài chú để cầu sanh Tịnh Độ là “Ông,
a-mi-rị-đạt đức-kiệt-cát-lạp hồng” (Auṃ amṛta tejehara hūṃ)
gồm mười chữ. Nếu trong lúc ấy, quư vị
vẫn có thể niệm một câu “Ông, a mi rị
đạt đức kiệt cát lạp hồng” như vậy
th́ tuyệt đối sẽ có thể văng sanh. Tới lúc
nghiệp chướng hiện tiền, bài chú ấy chẳng
hiện tiền! Thường ngày, quư vị niệm mười
vạn lần? Chẳng có! Ba vạn lần? Chẳng có! Niệm
một vạn lần? Chẳng có! Thậm chí một ngàn lần,
có niệm một ngàn lần hay không? Chỉ là hằng ngày
niệm “Ông, a mi rị đạt đức kiệt cát
lạp hồng” th́ tuyệt đối có thể văng sanh[3].
Tới lúc đó, nghiệp chướng hiện tiền,
quên tuốt chú ngữ, chẳng niệm được! Quư
vị thường ngày ắt phải dụng
công để tiêu nghiệp chướng! V́ tới khi
đó, nhất niệm tín tâm của quư vị chẳng thay
đổi, dẫu c̣n có nghiệp chướng, nhưng vẫn
c̣n có thần chú của A Di Đà Phật gia tŕ quư vị.
Đó gọi là “đới nghiệp văng sanh”, hoàn toàn
chẳng tiêu mất nghiệp chướng, mang theo nghiệp
sanh về thế giới Cực Lạc. Khi quư vị
đă văng sanh, nghiệp chướng sẽ chẳng c̣n,
nghiệp chướng đă tiêu mất. Do vậy, tín tâm của
chúng ta nhất định phải kiên cố. Bất luận quư vị
học một pháp nào, điều kiện đầu tiên là
tín tâm phải kiên cố. Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta như vậy, cũng là để khiến cho chúng
ta tin tưởng.
(Kinh)
Phục thứ, vị lai chi thời,
nhược tại gia, nhược xuất gia chư chúng
sanh đẳng, dục cầu thọ thanh tịnh diệu
giới, nhi tiên dĩ tác tăng thượng trọng tội
bất đắc thọ giả, diệc đương
như thượng tu sám hối pháp, linh kỳ chí tâm, đắc
thân, khẩu, ư thiện tướng dĩ, tức ưng khả
thọ.
(經)復次。未來之時若在家若出家諸衆生等。欲求受清淨妙戒而先已作增上重罪不得受者。亦當如上修懺悔法。令其至心。得身口意善相已。即應可受。
(Kinh:
Lại nữa, trong thời vị lai, nếu các chúng sanh tại
gia hay xuất gia muốn cầu thọ diệu giới
thanh tịnh, nhưng trước đó đă phạm trọng
tội tăng thượng, cho nên chẳng được
thọ, cũng nên tu pháp sám hối như trên đây, khiến
cho chí tâm, đạt được thiện tướng
nơi thân, miệng, ư rồi th́ cũng đáng được
thọ).
“Phục
thứ vị lai” là Địa Tạng Bồ Tát lại
nhắc nhở chúng ta v́ trong thời Mạt Pháp, tức thời
vị lai, các chúng sanh tại gia hay xuất gia muốn cầu
diệu giới thanh tịnh như Tam Quy, Ngũ Giới,
nhưng trong quá khứ đă phạm rất nhiều tội,
chẳng có cơ hội thọ Tam Quy, Ngũ Giới.
Mười giới, tám giới lại càng chẳng cần phải nói nữa! Tức là chẳng
có cơ hội cho chúng ta được thọ diệu giới
thanh tịnh. Thậm chí để thọ Tam Quy, Ngũ Giới,
cũng phải tiêu diệt trọng tội. Nếu là trọng
tội tăng thượng, quư vị có thể có cơ hội
thọ giới hay không? Chẳng được, chẳng
thọ được! Do quư vị đă tạo trọng tội
tăng thượng, cho nên chẳng thể thọ giới;
nhưng Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy
chúng ta một phương tiện là tu pháp sám hối, ḥng
đạt được chí tâm và thiện tướng
nơi thân, khẩu, ư. Chỉ cần phát xuất từ chí tâm th́ sẽ
đạt được. Hoặc là quư vị niệm Phật,
niệm một câu A Di Đà Phật, quư vị phải chí
tâm niệm. Chẳng chí tâm, sẽ chẳng linh nghiệm. Hễ
đạt tới chí tâm th́ sẽ linh, thọ giới bèn
đắc giới, tiêu tai miễn nạn. Nếu quư vị
đă diệt tội nạn th́ tội nạn cũng tiêu.
(Kinh)
Nhược bỉ chúng sanh dục tập Ma Ha Diễn
đạo, cầu thọ Bồ Tát căn bản trọng
giới, cập nguyện tổng thọ tại gia, xuất
gia, nhất thiết cấm giới, sở vị Nhiếp
Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, Nhiếp
Hóa Chúng Sanh Giới, nhi bất năng đắc thiện hảo
giới sư, quảng giải Bồ Tát pháp tạng, tiên
tu hành giả, ưng đương chí tâm, ư đạo
tràng nội, cung kính cúng dường, ngưỡng cáo thập
phương chư Phật, Bồ Tát, thỉnh vi sư chứng,
nhất tâm lập nguyện, xưng biện giới tướng.
Tiên thuyết thập căn bản trọng giới, thứ
đương tổng cử tam chủng giới tụ, tự
thệ nhi thọ, thử diệc đắc giới.
(經)若彼衆生欲習摩訶衍道。求受菩薩根本重戒。及願總受在家出家一切禁戒。所謂攝律儀戒。攝善法戒。攝化衆生戒。而不能得善好戒師。廣解菩薩法藏。先修行者。應當至心於道場內。恭敬供養。仰告十方諸佛菩薩請爲師證。一心立願。稱辯戒相。先說十根本重戒。次當總舉三種戒聚。自誓而受。此亦得戒。
(Kinh: Nếu các chúng sanh
muốn tu tập đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa),
cầu thọ căn bản trọng giới của Bồ
Tát, và thọ chung hết thảy các giới cấm của
hàng tại gia và xuất gia, tức là Nhiếp Luật Nghi
Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, và Nhiếp Hóa Chúng
Sanh Giới, nhưng chẳng thể có một vị thầy
truyền giới tốt lành, thông hiểu rộng răi Bồ
Tát pháp tạng, th́ người tu hành trước hết
hăy nên chí tâm ở trong đạo tràng, cung kính cúng dường,
bẩm bạch với mười phương chư Phật,
Bồ Tát, thỉnh các Ngài làm thầy chứng minh, nhất
tâm lập nguyện tuyên đọc, biện định giới
tướng. Trước hết, nói mười căn bản
trọng giới; kế đó,
nêu chung ba loại giới tụ, tự thệ thọ tŕ.
Như thế th́ cũng đắc giới).
Nếu
các chúng sanh muốn học đạo Ma Ha
Diễn, Ma Ha Diễn (Mahāyāna) dịch là Đại Thừa
đạo. [Người đó] muốn học kinh điển
Đại Thừa, hay mong thọ trọng giới của
hàng Bồ Tát. Các đạo hữu chúng ta đều đồng
thời thọ Bồ Tát Giới, rất nhiều vị đă
thọ Bồ Tát Giới. Chẳng thể nào không phạm Bồ
Tát Giới! Đặc biệt là đối với mười
giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, quư vị
vừa động niệm đă phạm giới, hoàn toàn khác hẳn giới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Tam
Quy, Ngũ Giới. Tam Quy, Ngũ Giới, cho đến tám
giới, mười giới, tỳ-kheo giới, tỳ-kheo-ni
giới đều xét theo sự
tướng, quư vị có trái phạm [bằng
hành động cụ thể] th́ mới tính là rốt ráo phạm
tội. Bồ Tát Giới khác hẳn! Bồ Tát Giới là Lư, quư
vị vừa động niệm liền phạm giới,
chẳng đợi tạo thành sự thật. V́ đấy
là tâm giới, tâm giới là tâm phạm: Chỉ cần vừa
khởi tâm động niệm, quư vị đă
phạm giới. Bọn phàm phu chúng ta có thể chẳng khởi
tâm động niệm ư? Chẳng làm được! Bất
quá “giới luật” là nói chung, v́ Nhiếp Luật
Nghi Giới là các quy củ về đi, đứng, ngồi,
nằm. Nhiếp Thiện Pháp Giới biện định
thiện pháp hay ác pháp. Giới tụ này sâu hơn v́ ư
nghĩa thiện pháp và ác pháp sâu hơn so với Luật
Nghi Giới. Bồ Tát Giới là Hóa Chúng Sanh Giới (化衆生戒, các giới nhằm
hóa độ chúng sanh), phương tiện thiện xảo
để hóa độ chúng sanh trong ấy khá nhiều,
nhưng quư vị cử tâm động niệm có phù hợp
tâm đại bi, có phù hợp tâm đại từ hay không?
Giới tụ này phân tích, chú trọng chí tâm. “Chí tâm” là quư vị chế
tâm nhất xứ, v́ tâm thành khẩn
chẳng có vọng niệm.
Trong
đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ
Tát dạy chúng ta: Nếu quư vị muốn nhiếp thọ
Bồ Tát Giới, hoặc là đắc thọ căn bản
giới, cho đến Tam Quy, Ngũ Giới, quư vị thỉnh
thầy chứng minh. Thầy là ai? Mười phương
chư Phật, Bồ Tát. Thỉnh mười phương
chư Phật, Bồ Tát tới chứng minh cho
quư vị. Quư vị phải phát nguyện, nhất
tâm lập nguyện, chú trọng nơi nhất tâm. Trong phần
sau, chúng tôi sẽ chuyên nói về nhất tâm. Liễu giải
rơ ràng giới tướng tức là “xưng biện giới
tướng” (稱辯戒相). Trước hết, nói mười giới căn bản
[trong Phạm Vơng Bồ Tát Giới], đó gọi là “trọng
giới”. Sau đó, nói bốn mươi tám giới
khinh, các giới ấy được gọi là “khinh giới”.
Khinh lẫn trọng đều trọn đủ, v́ thân, khẩu,
ư đều trọn đủ, đối trước Phật
chính ḿnh phát nguyện tự thọ. “Tự thệ thọ
giới” là đối
trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ
Tát, hoặc đối trước tượng Địa
Tạng, chẳng có sư phụ truyền giới cho ta. T́m chẳng được một vị thầy truyền
giới cho ta, quư vị đối trước Phật tự
thọ, nhưng phải chí tâm. Địa Tạng
Bồ Tát nói theo phương tiện thiện xảo: Nếu
quư vị có thể chí tâm đối trước Phật thọ
giới th́ cũng đắc giới. Đó là thọ giới
pháp Đại Thừa. Nếu quư vị mong hành
Bồ Tát đạo, ắt cần phải thọ Bồ
Tát Giới. Thân, khẩu, ư tam tụ tịnh giới, tức là Nhiếp Luật
Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, và Nhiêu Ích Hữu
T́nh Giới. Bồ Tát phải thọ Nhiêu Ích Hữu T́nh, tức
là lợi ích chúng sanh. [Giới tụ] lợi ích chúng
sanh có mười giới trọng và bốn mươi tám
giới khinh. Đó gọi là Bồ Tát Giới, chính là các giới lợi ích chúng sanh. Thông thường,
người tại gia có hai tụ tịnh giới, c̣n
người xuất gia là năm tụ tịnh giới.
Phải
chuyên giảng đôi chút về Đại Thừa Ma Ha Diễn.
Chúng ta phát Bồ Đề tâm, muốn hành Bồ Tát đạo. Phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo th́
quư vị phải thọ Bồ Tát Giới. Thọ Bồ Tát giới th́ phải nên thọ căn bản
trọng giới của hàng Bồ Tát. Đă thọ giới
th́ phải tŕ giới, đặc biệt là Nhiếp Thiện
Pháp Giới thâu nhiếp hết thảy các thiện pháp. “Nhiếp”
(攝) có nghĩa là
nhiếp thọ (攝受, gồm thâu, nắm
giữ), bố thí tất cả thiện pháp cho hết thảy
chúng sanh. Đó là nói theo phương diện hành thiện, nói theo phương
diện làm chuyện tốt. Nhưng nếu quư vị muốn
lợi ích hết thảy chúng sanh, điều đầu
tiên là phải [hành tŕ] Nhiếp Luật Nghi Giới. Bồ
Tát có Bồ Tát luật nghi, v́ Nhiếp Luật Nghi Giới
bao gồm hết thảy những quy chế, ngăn cấm
dành cho Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, bao gồm
hết thảy các phương tiện “ngăn ác, làm lành”. Đó là Nhiếp Luật Nghi Giới. Thâu nhiếp hết
thảy thiện pháp, hết thảy các thiện pháp đều
bố thí cho hết thảy chúng sanh [là Nhiếp Thiện
Pháp Giới]. Nhiếp Hóa Chúng Sanh Giới (Nhiêu Ích Hữu
T́nh Giới) tức là mong hóa độ chúng sanh th́ đức
Phật cũng chế định giới luật. Nếu
quư vị muốn độ hết thảy chúng sanh, nguyện
cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật, trước hết, phải trọn đủ
hết thảy các giới.
Chẳng
có một vị giới sư thanh tịnh, [tức là] chẳng
t́m được một vị thầy truyền giới
thanh tịnh. Chẳng hiểu giới pháp, sẽ chẳng
thể truyền trao giới. Đó gọi là vị giới
sư thanh tịnh. Trong giới luật có nói, nếu vị
giới sư chẳng thanh tịnh th́ vị ấy chẳng
được truyền giới, thuyết pháp. Ngẫu Ích
đại sư muốn thọ giới, Ngài quan sát, chẳng
t́m thấy năm vị giới sư thanh tịnh trong Nam
Diêm Phù Đề, chẳng có, chẳng thể được.
Ngài t́m trong Đại Tạng Kinh, mới t́m được
kinh [Chiêm Sát] Thiện Ác Nghiệp Báo. Trước
kia, chẳng có ai nói kinh này, bắt đầu từ Ngẫu
Ích đại sư, Ngài t́m được [kinh này] từ
Đại Tạng Kinh. Đă t́m được, Ngài bèn dựa
theo kinh [Chiêm Sát] Thiện Ác Nghiệp Báo để bái sám, lạy
Chiêm Sát Sám, đạt được luân tướng thanh
tịnh, bèn đắc giới. Nhưng Ngài chẳng biết
cách chế tạo Chiêm Sát Luân. Do đó, pháp này chẳng thể
truyền bá. Măi cho đến thời Hoằng Nhất
đại sư, Hoằng Nhất
đại sư chuyên hoằng dương những giáo
nghĩa của Ngẫu Ích đại sư. Ngài tra cứu
mới chế tạo Chiêm Sát Luân, mới phát nguyện hoằng
dương kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Ngài chế
tạo Chiêm Sát Luân, nhưng chẳng giảng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo. Ngẫu Ích đại sư có soạn một
bộ Chiêm Sát Nghĩa Sớ cho kinh Chiêm Sát. Ngoài bản chú
giải ấy ra, chẳng có bản chú giải nào khác!
Ở
đây, [Bồ Tát] bảo chúng ta: Hành thiện thuộc về
Nhiếp Thiện Pháp Giới, gồm thâu hết thảy
các giới thuộc về thiện pháp. Trong hành thiện,
cũng có quy củ để làm lành. Chúng ta làm chuyện tốt,
phạm sai lầm mà vẫn chẳng biết. Làm chuyện
tốt th́ cũng có quy luật để làm chuyện tốt.
Đó gọi là Nhiếp Thiện Pháp Giới. Trong giới
luật đă nói rất rơ ràng. Khi quư vị hành bố thí,
nhiếp thọ chúng sanh, tâm quư vị có tạp niệm hay
không? Tâm có thanh tịnh hay chăng? Điều này có mối
quan hệ hết sức to lớn; do vậy, ắt cần
phải nghĩ đến. Đồng thời phải hộ
niệm chính ḿnh. Như chúng ta đă vô
duyên vô cớ tổn thương, sát hại chúng sanh, mà chính quư vị chẳng biết. Thí dụ như
sáng dậy, chúng ta vừa bước đi, quư vị biết dưới chân của chính ḿnh đă đạp chết
mấy con trùng nhỏ, nhục nhăn của ta có thấy các
tiểu sanh mạng bé tí hay không? Điều này có nghĩa
là sáng ra, vừa bắt đầu bước đi, quư vị
phải niệm bài kệ: “Tùng triêu Dần đán trực
chí mộ, nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ, nhược
ư túc hạ táng kỳ h́nh, nguyện nhữ tức thời
sanh Tịnh Độ” (từ sáng giờ Dần đến
tối sẫm, hết thảy chúng sanh tự giữ ḿnh, nếu
bị mất mạng dưới chân ta, nguyện
ngươi lập tức sanh Tịnh Độ). Niệm
nào cũng đều quán tưởng đưa các chúng sanh
về thế giới Cực Lạc. V́ quư vị chẳng
biết chính ḿnh có tổn thương chúng nó hay không? Sáng sớm
phải niệm trước bài kệ ấy; sau đó, mới xuống giường, xỏ giày bước đi. Giả sử nói “đă lỡ lầm
đạp chết chúng, bèn đưa chúng nó về thế giới Cực Lạc,
nguyện ngươi lập tức sanh Tịnh Độ”, quư vị có sức
mạnh ấy hay không? Chẳng phải do sức của
quư vị, mà là do sức của hết thảy chư Phật.
Quư vị niệm bài kệ ấy, nhờ vào sức của
chư Phật và Bồ Tát để biểu thị
quư vị niệm nào cũng lợi ích chúng sanh, niệm nào cũng đều chẳng tổn
thương chúng sanh. Do quư vị niệm
bài kệ này, sẽ cảm nhận sức gia tŕ của
chư Phật, Bồ Tát.
Bài
kệ này là do Văn Thù Bồ Tát nói trong phẩm Tịnh Hạnh
của kinh Hoa Nghiêm. Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta: Sáng sớm
quư vị thức dậy, khi xỏ giày sắp bước
đi, ngàn vạn phần phải chú ư, trước hết
hăy niệm bài chú này một lượt, tức bài chú trong kinh ấy, từ sáng sớm măi cho đến
tối, cho đến lúc quư vị lên giường ngủ,
chẳng đi lại nữa mới thôi. “Tùng triêu Dần
đán trực chí mộ, nhất thiết chúng sanh giai hồi
hộ, nhược ư túc hạ táng kỳ h́nh, nguyện
nhữ tức thời sanh Tịnh Độ”. Đó là
đă nguyện, lại c̣n là hạnh. Tịnh Hạnh là
đại nguyện, tức là đại nguyện của
Văn Thù Bồ Tát, gồm tất cả một trăm bốn
mươi điều, quư vị có thể niệm cho đến
khi thành Phật. Thiện Tài đồng tử tham bái Di Lặc
Bồ Tát xong, Di Lặc Bồ Tát lại dạy đồng
tử trở lại tham
yết ngài Văn Thù. Văn Thù Bồ Tát dạy đồng
tử niệm điều này (các nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh) rồi mới
cho phép đến tham bái Phổ Hiền Bồ Tát. Do trong kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có rất nhiều kệ tụng
của Hoa Nghiêm, cho nên pháp sư Hoằng Nhất phán định
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là Đại Thừa, chẳng
phải Tiểu Thừa, chẳng phải là như các thứ bói toán, phê bát tự, xủ quẻ
b́nh phàm! Tuyệt đối chớ nên lầm lẫn, v́
pháp này và các thứ ấy chẳng tương đồng.
Pháp này là tâm pháp, là tâm địa pháp môn v́ khéo dùng cái tâm.
(Kinh) Phục thứ, vị lai thế
chư chúng sanh đẳng, dục cầu xuất gia, cập
dĩ xuất gia, nhược bất năng đắc thiện
hảo giới sư, cập thanh tịnh tăng chúng, kỳ
tâm nghi hoặc, bất đắc như pháp, thọ ư cấm
giới giả, đản năng học phát vô thượng
đạo tâm, diệc linh thân, khẩu, ư đắc thanh tịnh
dĩ, kỳ vị xuất gia giả, ưng
đương thế phát, bị phục pháp y, như
thượng lập nguyện, tự
thệ nhi thọ Bồ Tát luật nghi tam chủng giới
tụ, tắc danh “cụ
hoạch Ba La Đề Mộc Xoa xuất gia chi giới”, danh vi
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tức ưng thôi cầu Thanh Văn
Luật Tạng, cập Bồ Tát sở tập Ma Đức
Lặc Già Tạng thọ tŕ, độc tụng, quán sát, tu hành.
(經)復次。未來世諸衆生等。欲求出家及已出家。若不能得善好戒師。及清淨僧衆。其心疑惑。不得如法受于禁戒者。但能學發無上道心。亦令身口意得清淨已。其未出家者。應當剃髮。被服法衣。如上立願自誓而受菩薩律儀三種戒聚。則名具獲波羅提木叉出家之戒。名爲比丘比丘尼。即應推求聲聞律藏。及菩薩所習摩德勒伽藏。受持讀誦。觀察修行。
(Kinh:
Lại nữa, các hàng chúng sanh trong đời vị lai, muốn
cầu xuất gia, và đă xuất gia, nếu chẳng thể
có được một vị thầy truyền giới tốt
lành và tăng chúng thanh tịnh, tâm ngờ vực [chính ḿnh]
chẳng được thọ giới cấm đúng
như pháp, chỉ nên học phát vô thượng đạo
tâm, cũng như khiến cho thân, miệng, ư đạt
được thanh tịnh rồi, nếu là kẻ
chưa xuất gia, hăy nên xuống tóc, mặc khoác pháp y, giống
như trên mà lập nguyện, tự thệ nhận lănh ba
loại giới tụ trong Bồ Tát luật nghi, th́
được gọi là “thọ trọn
đủ giới Ba La Đề Mộc Xoa xuất gia”, được gọi là tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni.
Hăy nên t́m cầu Thanh Văn Luật Tạng, và Ma Đức
Lặc Già Tạng (Mātṛkā)[4]
do Bồ Tát tu tập để thọ tŕ, đọc
tụng, quán sát tu hành).
Địa
Tạng Bồ Tát lại nói: - Lại nữa, chúng sanh trong
đời mai sau muốn cầu xuất gia, chúng sanh trong vị
lai phát tâm mong rời khỏi trần thế, mong xuất
gia, hoặc là đă xuất gia mà nói: “Bọn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni
chúng ta mong cầu đắc giới, nhưng chẳng có vị
thầy tốt lành thanh tịnh”. Thời Mạt Pháp, tại
Nam Diêm Phù Đề vào đời Minh, Ngẫu Ích đại
sư t́m năm vị tỳ-kheo thanh tịnh mà chẳng có,
tuy thọ giới mà chẳng thành tựu giới. Hiện
thời, khi truyền giới trong thời Mạt Pháp,
cũng có rất nhiều điều chẳng vâng theo chế
định của đức Phật! Đức Phật
quy định “hai mươi tuổi mới có thể thọ
giới”, nhưng chúng ta phương tiện thiện xảo
vẫn có thể cho phép “mượn tuổi” [nếu
xét thấy giới tử đủ tư cách thọ đại
giới]. Chẳng hạn như tôi xuất gia, tôi mới mười
sáu tuổi, thọ giới tỳ-kheo như thế nào?
Đắc giới ḥa thượng cho tôi “mượn” một
tuổi, ḥa thượng truyền giới cho tôi “mượn”
một tuổi nữa, đại sư phụ cho tôi
“mượn” một tuổi nữa, vị lănh đạo
của tôi, tức vị dẫn lễ sư cho tôi “mượn”
một tuổi, liền đầy đủ hai mươi
tuổi! Có thể “mượn” được hay không?
Đó gọi “bịt mũi, bưng mắt” để
mắt khỏi trông thấy, mũi chẳng ngửi thấy
là được rồi. Trên thực tế, chẳng thể
đắc giới! Trong Nam Thiệm Bộ Châu, t́m năm vị
tỳ-kheo thanh tịnh, t́m không ra! Ngẫu Ích đại
sư cũng mong đắc thanh tịnh giới, cho nên Ngài
t́m ṭi trong Đại Tạng Kinh, t́m ra kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo, nương theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo để phát vô thượng đạo tâm, chiêm sát th́
dùng Chiêm Sát Luân để đạt được ba nghiệp
thanh tịnh. Địa Tạng Vương Bồ Tát là
đắc giới ḥa thượng, Địa Tạng Vương Bồ
Tát cũng là dẫn lễ sư. Địa Tạng Bồ
Tát cũng là tam sư, thất chứng[5],
và dẫn lễ
sư, một ḿnh Địa Tạng Bồ Tát đảm
nhiệm. Quư vị niệm Địa Tạng Vương
Bồ Tát, sử dụng chiêm sát luân tướng, Chiêm Sát
Luân thể hiện ba nghiệp thanh tịnh th́ quư vị
đắc giới. Địa Tạng Bồ Tát dạy
như vậy đấy!
Hễ
tâm quư vị có điều nghi hoặc, [lo ngại
chính ḿnh] chẳng thể đúng như pháp thọ giới cấm,
vậy th́ quư vị làm như thế nào? Trước hết,
quư vị học phát vô thượng đạo tâm. Vô
thượng đạo tâm, nói đơn giản là “phát
Bồ Đề tâm”, khiến cho thân, miệng, ư của
quư vị thanh tịnh. Phát Bồ Tát tâm; khi ấy, thân,
miệng, ư thanh tịnh, chưa xuất gia bèn có thể xuống
tóc xuất gia; đă xuất gia th́ quư vị phải lập
nguyện, lập nguyện ǵ vậy? Tự thệ, tức chính ḿnh phát thệ, nguyện nhận lănh Bồ Tát Giới, thọ Tam Tụ Tịnh Giới (Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện
Pháp Giới, Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới). Khi đó, trọn
đủ giới xuất gia Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimokṣa), được
coi như là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. Sau đấy, đă thọ
xong bèn học Tỳ Ni Luật Tạng, và Bồ Tát Ma Đức
Lặc Già Tạng, thọ tŕ, đọc tụng, quan sát,
tu hành. Giới tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni thuộc về
thanh tịnh Tăng, khi thọ giới là tôn quư nhất, vô
thượng nhất, đạt tới mức độ
nào? Là bậc thầy gương mẫu của trời lẫn
người. Cho đến khi quư vị gieo luân tướng,
đạt được luân tướng thanh tịnh,
Địa Tạng Vương Bồ Tát truyền trao tam
đàn đại giới cho quư vị, [tam đàn là các giới
đàn] Sa Di, tỳ-kheo, và Bồ Tát.
Bất
quá, đối với vấn đề này, trong Du Già Sư
Địa Luận cũng nói như vậy. Thời Tượng
Pháp đă qua, trong thời kỳ Mạt Pháp, mong thọ giới
hết sức khó khăn, v́ không có giới sư thanh tịnh,
cho nên quư vị thực hiện vô tác, vô luật, để
thọ lănh vô tác luật nghi. Nhưng trong tâm quư vị chớ
nên hoài nghi. Nếu hoài nghi giới sư tức vị thầy
truyền giới chẳng thanh tịnh, hoài nghi thanh chúng
tham dự truyền giới cho quư vị chẳng thanh tịnh,
quư vị sẽ chẳng thể đắc giới. V́ thế,
Địa Tạng Bồ Tát hành phương tiện
thiện xảo, Ngài lại dạy chúng ta:
Nếu quư vị muốn đắc giới mà chẳng có vị
thầy truyền giới, quư vị làm như thế nào?
Địa Tạng Bồ Tát dạy: Hăy quỳ trước
Phật, lạy Chiêm Sát Sám. Bái sám chẳng tu chi khác, chuyên cầu
đắc giới. Đó gọi là “cầu giới bái” (lạy để cầu giới), chuyên môn cầu đắc giới. Khi đó, phải phát vô thượng
đạo tâm; vô thượng đạo tâm là Bồ Đề
tâm. Vô thượng đạo tâm là phát tâm thành Phật.
Nhưng quư vị gieo luân tướng thuộc về ba nghiệp
thân, miệng, ư, nếu luân tướng của cả ba
nghiệp đều thanh tịnh, ta (Địa Tạng Bồ
Tát) sẽ cho quư vị thọ giới. Địa Tạng
Bồ Tát nói luân tướng nơi ba nghiệp của quư vị
đều đă lạy đến mức thanh tịnh, nếu
chưa xuất gia th́ có thể xuống tóc, có thể khoác
pháp y. Địa Tạng Bồ Tát nhận quư vị làm
đồ đệ, truyền trao tam đàn đại giới
cho quư vị. Thế nhưng chẳng thể giả mạo
luân tướng đă đạt được thanh tịnh,
tuyệt đối phải lạy sao cho ba nghiệp thanh tịnh.
Đó gọi là “tự thọ giới”. Ngẫu Ích
đại sư tự thọ giới như thế, cho
nên Ngài đề xướng Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo. Đó là duyên khởi thọ giới
của Ngài.
(Kinh)
Nhược tuy xuất gia, nhi kỳ
niên vị măn nhị thập giả, ưng đương
tiên thệ nguyện thọ thập căn bản giới,
cập thọ Sa Di, Sa Di Ni sở hữu biệt giới.
Kư thọ giới dĩ, diệc danh Sa Di, Sa Di Ni. Tức
ưng thân cận, cúng dường, cấp thị tiên cựu
xuất gia, học Đại Thừa tâm, cụ thọ giới
giả, cầu vi y chỉ chi sư, thỉnh vấn giáo giới,
tu hành oai nghi, như Sa Di, Sa Di Ni pháp.
(經)若雖出家而其年未滿二十者。應當先誓願受十根本戒。及受沙彌沙彌尼所有別戒。既受戒已。亦名沙彌沙彌尼。即應親近供養給侍先舊出家學大乘心具受戒者。求爲依止之師。請問教戒。修行威儀。如沙彌沙彌尼法。
(Kinh:
Nếu tuy xuất gia mà tuổi chưa tṛn hai mươi,
trước hết, hăy nên thệ
nguyện thọ mười giới căn bản và tất
cả các giới riêng của Sa Di hoặc Sa Di Ni. Đă thọ
giới rồi, hăy nên thân cận, cúng dường, hầu
hạ vị đă xuất gia trước, có tâm học
Đại Thừa, đă thọ giới Cụ Túc, cầu
vị ấy làm thầy y chỉ để thưa hỏi,
ḥng được răn dạy oai nghi tu hành đúng
như pháp của Sa Di và Sa Di Ni).
Nếu
tuy xuất gia, tuy đă xuất
gia rồi, nhưng chưa đầy hai mươi tuổi, vẫn
chưa đến hai mươi tuổi, khi đó, chỉ
có thể phát nguyện, chẳng thể thọ [Cụ Túc]
giới. Trước hết, phát nguyện thọ mười
giới của Sa Di (Śrāmaṇera), gồm mười giới
căn bản, hoặc là thọ giới Sa Di Ni (Śrāmaṇeri). Kinh đặc biệt chỉ ra: Đối với
biệt giới của Sa Di Ni cũng thế, cũng dùng
cách gieo luân tướng để thọ giới Sa Di hoặc
giới Sa Di Ni. Chỉ cần
vâng theo kinh Chiêm Sát để thọ giới th́ cũng
được gọi là Sa Di hay Sa Di Ni. Nhưng phải nên
cúng dường, hầu hạ vị đă xuất gia
trước, tức vị đă thọ Cụ Túc Giới,
có tâm học Đại Thừa. Ở đây nói rất rơ
ràng, “có tâm học Đại Thừa”, chẳng thể
học theo người Tiểu Thừa. Đối với người có tâm học Đại
Thừa sẽ làm ǵ? Chỉ có nương theo vị ấy,
tôn vị ấy làm Y Chỉ Sư cho quư vị. Nếu
quư vị xuất gia mà có Y Chỉ Sư th́ trong ṿng năm
năm, phải nương tựa vị thầy ấy,
chẳng thể rời khỏi thầy, tùy lúc mà xin thầy răn dạy
nghi quỹ tu hành như thế nào, tŕ giới Sa Di hoặc giới Sa Di Ni như thế nào, để thầy tùy
dịp dạy bảo quư vị. Nhưng nương theo
Địa Tạng Vương Bồ Tát để thọ
giới, nếu tuổi chưa tṛn hai mươi, Địa
Tạng Vương Bồ Tát cũng chẳng truyền [giới
Cụ Túc] cho quư vị, quư vị chẳng thể coi là tỳ-kheo
hay tỳ-kheo-ni được! Quư vị ắt phải tṛn hai
mươi tuổi [trở lên]. Trước hết, quư vị
có thể thọ mười giới căn bản, hoặc
biệt giới của Sa Di Ni, có thể thọ Bồ Tát
Giới, nhưng vẫn là Sa Di hay Sa Di Ni. Nếu ta chỉ
thọ Bồ Tát Giới th́ chỉ có thể là tại gia cư sĩ, chứ không thể
coi là người xuất gia được. Chẳng thọ
giới tỳ-kheo, mà thọ Bồ Tát Giới th́ chẳng
thể coi là người xuất gia. Phải thọ giới
tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni th́ mới có thể tính là tỳ-kheo
hay tỳ-kheo-ni. Nếu ta đă xuất gia mà chưa tṛn hai
mươi tuổi, sẽ chẳng thể thọ [Cụ Túc] giới, v́ có thọ giới cũng
chẳng đắc giới! Do đó, đối với vấn
đề xuất gia, thọ giới, và oai nghi, Ngẫu Ích
đại sư hết sức coi trọng.
Đồng
thời, quư vị nương theo kinh luật, nương
theo phương thức này để thọ giới. Để
thọ giới th́ trước hết phải thân cận,
cúng dường Tam Bảo. Trước tiên, quư vị phải
phát đạo tâm, phải t́m một vị thầy học Đại
Thừa, vị ấy đă thọ Cụ Túc
Giới để thân cận, cúng dường. Điều
này có nghĩa là nếu có vị xuất gia sớm hơn
ḿnh, đă [xuất gia] tṛn mười năm, học Đại
Thừa, quư vị có thể tôn người như vậy
làm sư phụ, để thân cận, cúng dường,
theo vị ấy xuất gia. Đừng nương theo
người xuất gia Tiểu Thừa, ba nghiệp thân, khẩu,
ư của quư vị thường cung kính vị ấy. Sự
phát tâm ở đây có sự khác biệt rất lớn, phát
đại đạo tâm và chẳng phát đại đạo
tâm, hai đằng đều có sự khu biệt. Phát Bồ
Đề tâm th́ là Bồ Tát tỳ-kheo. Phát tâm và chẳng
phát tâm, Bồ Tát là ǵ, phàm phu là ǵ, đó là sự khu biệt
nơi phát tâm. Người đă phát Bồ Đề tâm th́
là Bồ Tát. Kẻ chưa phát Bồ Đề tâm th́ là phàm
phu.
Tập 8
(Kinh)
Nhược bất năng trị như thị chi nhân, duy
đương thân cận Bồ Tát sở tu Ma Đức
Lặc Già Tạng, độc tụng, tư duy, quán sát, tu
hành. Ưng cần cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo.
(經)若不能值如是之人。唯當親近菩薩所修摩德勒伽藏。讀誦思惟觀察修行。應勤供養佛法僧寶。
(Kinh: Nếu
chẳng thể gặp người như thế, chỉ
nên thân cận Ma Đức Lặc Già Tạng do Bồ Tát
tu tập để đọc tụng, tư duy, quán sát, tu
hành. Hăy nên siêng cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo)
Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Thời Mạt Pháp, các tỳ-kheo
và tỳ-kheo-ni đều chẳng dựa theo giới luật
để cư xử, v́ người chưa đủ hai
mươi tuổi đă được thọ giới, học
giới! Đă thọ giới rồi lại chẳng hề
đọc Luật Tạng. Theo như tôi biết, từ những
sự từng trải của tôi th́ đại đa số
là như thế đó. Trước khi thọ giới, thậm
chí thọ Sa Di Giới mà chẳng học giới Sa Di, thọ
giới tỳ-kheo mà chẳng học giới tỳ-kheo.
Trước khi quư vị thọ giới tỳ-kheo, không thể xem [giới bổn
của] giới tỳ-kheo, v́ điều này do đức Phật
chế định. Hăy nên xem Luận Tạng và học các bộ
luận, nhưng nếu quư vị đă thọ giới tỳ-kheo
th́ phải nên xem Luật Tạng. Hiện thời, chúng ta bất
luận thọ giới tỳ-kheo hay chưa, các thầy xem
giới luật, đọc Luật Tạng rất ít.
(Kinh)
Nhược Sa Di Ni niên dĩ thập bát giả, diệc
đương tự thệ thọ Tỳ Ni Tạng trung
Thức Xoa Ma Na lục giới chi pháp, cập biến học
tỳ-kheo-ni nhất thiết giới tụ. Kỳ niên
nhược măn nhị thập thời, năi khả như
thượng tổng thọ Bồ Tát tam chủng giới
tụ.
(經)若沙彌尼年已十八者。亦當自誓受毗尼藏中式叉摩那六戒之法。及遍學比丘尼一切戒聚。其年若滿二十時。乃可如上總受菩薩三種戒聚。
(Kinh:
Nếu Sa Di Ni đă mười tám tuổi, cũng nên tự
thệ thọ sáu giới pháp của Thức Xoa Ma Na trong Tỳ
Ni Tạng (Luật Tạng), và học trọn khắp hết
thảy các giới tụ của tỳ-kheo-ni. Khi tuổi
đă tṛn hai mươi, bèn có thể thọ chung ba loại
giới tụ của Bồ Tát như đă nói trên đây).
Địa
Tạng Bồ Tát nói nếu Sa Di, Sa Di Ni đă tṛn mười
tám tuổi, hăy nên học giới Thức Xoa Ma Na (Śikṣamāṇā), tức
là Học Pháp Nữ. Nhưng
do [Sa Di Ni] chỉ thọ giới tỳ-kheo-ni, hăy nên học
giới luật của tỳ-kheo-ni. Thoạt đầu, phải học ba
năm, Sa Di cũng như thế, tỳ-kheo cũng như
thế. Khi đă tṛn hai mươi tuổi, trong nước
ta, trên thế giới này, quư vị tṛn hai mươi tuổi
th́ tam đàn đại giới cùng thọ. Thời đức
Phật chẳng phải là như thế, tṛn hai mươi
tuổi chỉ có thể thọ giới tỳ-kheo, [người
muốn thọ] Bồ Tát Giới th́ chỉ thọ Bồ
Tát Giới.
(Kinh)
Nhiên hậu, đắc danh tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni.
(經)然後得名比丘比丘尼。
(Kinh: Sau đó được gọi
là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni).
Sau
khi quư vị đă thọ giới [Cụ Túc] th́ mới có
thể gọi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. Hiện thời, có
rất nhiều Sa Di xưng bừa là tỳ-kheo, chưa thọ
giới mà đă đắp y, có đại chúng tỳ-kheo
tùy tùng. Có kẻ mạo nhận là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
chẳng thọ giới mà cũng ở chung với Tăng
chúng; đấy là phi pháp. Do vậy, Địa Tạng Bồ
Tát nói tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, Sa Di và Sa Di Ni nếu tṛn
mười tám tuổi th́ hăy nên học pháp. Đặc biệt
là Sa Di Ni, khi tṛn mười tám tuổi, phải học sáu
giới pháp[6] của
Thức Xoa Ma Na. Chưa thọ giới th́ có thể học
nghi quỹ của giới luật, tṛn hai mươi tuổi
mới có thể thọ giới. Hiện thời, chẳng
phải vậy, v́ có rất nhiều điều thực hiện
chẳng đúng pháp. Nếu tṛn hai mươi tuổi, theo
đúng pháp thọ giới, theo đúng pháp học giới,
đó mới được coi là tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni.
Nếu chẳng thọ giới, mà vẫn ở chung với
đại chúng Tăng, đặc biệt là làm Phật sự.
“Phật sự” như chúng tôi nói, thông thường
là bái sám, họ chẳng phân biệt,
cứ trà trộn vào Tăng số. V́ làm Phật sự,
ắt cần phải có bảy vị tỳ-kheo, hoặc tỳ-kheo
ni; do chẳng đủ bảy người, Sa Di, hoặc
Sa Di Ni cũng tham gia làm Phật sự trong ấy. Đó là phi
pháp. Chúng ta biết chuyện này là được rồi.
Khi quư vị học giới th́ được, chứ nếu
nói phổ biến, họ sẽ chẳng tiếp nhận cách nói này của
chúng ta. V́ đấy là lời đức Phật dạy,
chiếu theo quy định trong giới luật th́ phải
nên làm như thế, đa số là chẳng chiếu theo giới
để làm! Do vậy, đức Phật gọi hiện
thời là Mạt Pháp, Địa Tạng Bồ Tát cũng
nói trong thời Mạt Pháp th́ làm như thế.
(Kinh)
Nhược bỉ chúng sanh tuy học sám hối, bất
năng chí tâm, bất hoạch thiện tướng giả,
thiết tác thọ tưởng, bất danh đắc giới.
(經)若彼衆生雖學懺悔。不能至心。不獲善相者。設作受想。不名得戒。
(Kinh: Nếu
các chúng sanh ấy tuy học sám hối, nhưng chẳng thể
chí tâm, chẳng đạt
được tướng lành, dẫu cho là đă thọ
giới, chẳng được gọi là “đắc giới”).
Trong
thời Mạt Pháp, nếu quư vị muốn đắc giới
thanh tịnh, hăy nương theo lời dạy của Địa
Tạng Bồ Tát. Ở đây, chuyên nói về pháp sám
hối do Địa Tạng Bồ Tát đă dạy trong
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đối với người
học pháp sám hối th́ yêu cầu đầu tiên là quư vị
muốn học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là phải chí tâm. Nếu
quư vị chẳng đạt được luân tướng
thanh tịnh, mà cho rằng đă đắc giới th́ là
sai lầm. V́ muốn thọ giới Sa Di, Sa Di Ni, hoặc
là muốn thọ giới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni mà chẳng
có thầy truyền trao, chúng ta bèn nương theo Chiêm Sát
Sám của Địa Tạng Bồ Tát để thọ
th́ cũng được; nhưng ắt cần
phải đạt được luân tướng thanh tịnh.
Chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh,
cứ lạy suông rồi cho là ḿnh đă đắc giới;
như thế th́ cũng chẳng đắc giới!
“Bất
hoạch thiện tướng” (Chẳng đạt
được tướng lành): Nói “ta đă đạt
được thiện tướng”, như thế nào là
đạt được thiện tướng? Nếu quư
vị bái sám, chiếu theo phương pháp do Địa Tạng
Bồ Tát đă dạy, xác thực là đạt được
ba nghiệp đều thanh tịnh. V́ thế, sám tội
thanh tịnh th́ gọi là “thiện tướng”. Khi
nói đến luân tướng th́ sẽ phân biệt rơ ràng
“luân tướng như thế nào là đạt được
thiện tướng? Như thế nào là chẳng đạt
được thiện tướng?” hết sức rơ
ràng! Quư vị chẳng đạt được tướng
ấy, th́ chẳng gọi là “thọ giới”. Ở
đây, chuyên nói tới các tỳ-kheo hoặc tỳ-kheo-ni thọ
giới có đắc giới
hay không. Như các vị sư phụ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni
đă thọ tam đàn đại giới, khi quư vị gieo
Chiêm Sát luân tướng để xem khi ta thọ tam đàn
đại giới có đáng kể hay không? Chẳng có ǵ
đáng kể hết! Một giới cũng chẳng đắc!
[Bởi lẽ], chẳng hợp pháp, chẳng phù hợp giới
pháp. Quư vị dựa vào lạy Chiêm Sát Sám, ta muốn t́m một
vị tỳ-kheo thanh tịnh, hoặc tỳ-kheo-ni thanh tịnh,
hăy dựa theo luân tướng của Chiêm Sát Luân để
quyết định. Ở đây chuyên nói về chuyện
thọ giới.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát vấn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Sở thuyết
chí tâm giả, sai biệt hữu kỷ chủng? Hà đẳng
chí tâm năng hoạch thiện tướng?” Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện nam tử! Ngă sở thuyết
chí tâm giả, lược hữu nhị chủng. Hà đẳng vi nhị? Nhất giả,
sơ thỉ học tập cầu nguyện chí tâm. Nhị
giả, nhiếp ư chuyên tinh, thành tựu
dũng mănh tương ứng chí tâm. Đắc thử
đệ nhị chí tâm giả, năng hoạch thiện
tướng. Thử đệ nhị chí tâm phục hữu
hạ, trung, thượng tam chủng sai biệt. Hà đẳng
vi tam? Nhất giả, nhất tâm. Sở vị hệ
tưởng bất loạn, tâm trụ liễu liễu. Nhị
giả, dũng mănh tâm. Sở vị chuyên cầu bất giải,
bất cố thân mạng. Tam giả, thâm tâm. Sở vị dữ pháp tương ứng,
cứu cánh bất thoái. Nhược nhân tu tập thử
sám hối pháp, năi chí bất đắc hạ chí tâm giả,
chung bất năng hoạch thanh tịnh thiện tướng.
Thị danh thuyết chiêm đệ nhị luân pháp”.
(經)爾時堅淨信菩薩摩訶薩問地藏菩薩摩訶薩言。所說至心者差別有幾種。何等至心能獲善相。地藏菩薩摩訶薩言。善男子。我所說至心者。略有二種。何等爲二。一者初始學習求願至心。二者攝意專精成就勇猛相應至心。得此第二至心者。能獲善相。此第二至心復有下中上三種差別。何等爲三。一者一心。所謂系想不亂。心住了了。二者勇猛心。所謂專求不懈。不顧身命。三者深心。所謂與法相應。究竟不退。若人修習此懺悔法。乃至不得下至心者。終不能獲清淨善相。是名說占第二輪法。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Chí tâm như đă nói th́ có mấy loại
sai biệt? Chí tâm như thế nào th́ sẽ có thể đạt
được tướng lành?” Địa Tạng Bồ
Tát Ma Ha Tát nói: “Này thiện nam tử! Chí tâm như tôi đă
nói, đại lược có hai loại: Một là chí tâm học
tập cầu nguyện thuở đầu. Hai là chí tâm
tương ứng với sự nhiếp ư, chuyên ṛng, thành
tựu dũng mănh. Có được loại chí tâm thứ
hai th́ sẽ có thể đạt được tướng
lành. Loại chí tâm thứ hai lại có ba loại hạ,
trung, thượng sai khác. Những ǵ là ba? Một là nhất
tâm, tức là chú tâm suy tưởng chẳng loạn, tâm trụ
rành rẽ. Hai là tâm dũng mănh, tức là chuyên cầu, chẳng
lười nhác, chẳng đoái hoài thân mạng, Ba là thâm
tâm, tức là tương ứng với pháp, rốt ráo chẳng
thoái chuyển. Nếu ai tu tập pháp sám hối này, cho
đến chẳng đạt được chí tâm bậc
hạ, sẽ trọn chẳng thể đạt được
tướng thanh tịnh. Đó là nói về cách chiêm sát
đối với loại luân tướng thứ hai”).
Lúc
bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Chí tâm như Ngài
đă nói có mấy loại sai biệt? Do loại chí tâm nào
th́ sẽ có thể đạt được
tướng lành?” Địa Tạng Bồ Tát nói: “Khi muốn
lạy Chiêm Sát Sám, ắt phải
có cái tâm chí thành, khẩn thiết”. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát
liền hỏi Địa Tạng Bồ Tát: “Cái tâm chí thành
như Ngài đă nói là như thế nào? Có bao nhiêu loại khác nhau?
Như thế nào th́ mới được coi là tâm chí thành?
Có tâm chí thành th́ mới có thể đạt được
thiện tướng, tức là luân tướng thanh tịnh.
Vậy th́ cái tâm chí thành ấy như thế nào? Như thế
nào th́ mới được coi là tâm chí thành?” Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát hướng về Địa Tạng Bồ
Tát thỉnh cầu, chính là thỉnh cầu thay cho chúng ta:
“Cái tâm chí thành có khác biệt hay chăng? Có bao nhiêu loại
tâm chí thành? Như thế nào th́ mới được coi là
chí thành, mới có thể thấy được tướng
hảo? Như thế nào th́ coi là chẳng chí thành?” Xin Địa
Tạng Bồ Tát hăy giảng cặn kẽ về tâm chí
thành. Cái tâm chí thành ấy, nói đơn giản, sẽ là tư
tưởng thuần tịnh, chẳng có tạp niệm.
Chúng ta thường nói “chí thành khẩn thiết”, tức
là trong tâm cầu Địa Tạng Bồ Tát chẳng có một
tí tạp niệm nào! Khi lạy Chiêm Sát Sám cũng thế,
dùng Chiêm Sát Luân cũng thế, hoặc quư vị tụng kinh Địa Tạng, đều
phải là trong tâm chí thành khẩn thiết mà niệm. Quư vị
thành tâm th́ hiệu quả sẽ to hơn nhiều. Nếu
chẳng thành tâm th́ có công đức, chẳng có trí huệ!
Có trí huệ, chắc chắn sẽ có thể thành tâm. Có
công đức, tuy quư vị chẳng thành tâm, cứ niệm
măi, cũng có thể đạt đến tâm chí thành.
Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát xin Địa Tạng Bồ Tát giảng
về tâm chí thành. Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: -
Thiện nam tử! Tâm chí thành như ta đă nói, đại
lược có hai loại. Những ǵ là hai loại?
1) Một là cái tâm chí thành
khi mới bắt đầu học tập, cầu nguyện. Đó là loại chí tâm thứ nhất.
2) Hai là chí tâm do
tương ứng với sự thâu nhiếp tâm ư, chuyên
ṛng thành tựu dũng mănh.
Có
hai loại tâm ấy th́ sẽ có thể đạt
được thiện tướng. Thoạt đầu,
chúng ta phát tâm phải chí thành th́ quư vị mới học tập.
Chẳng phải là chúng ta thường nói, thường cho
rằng chính ḿnh đă có tâm chí thành ư? Chẳng hề có!
V́ cái tâm ấy chính là hân nhạo tâm (欣樂心, tâm ưa thích), chẳng
phải là tâm chí thành! Ta hoan hỷ mong cầu pháp này. Khi quư
vị muốn dùng Chiêm Sát luân tướng, sẽ có thể
sai khác. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi Địa Tạng
Bồ Tát “như thế nào mới được coi là chí
tâm”, tức là khi quư vị dụng
tâm, phải sử dụng tới mức độ nào th́ mới
được coi là chí tâm?
Địa
Tạng Bồ Tát nói: Cầu nguyện, chính ḿnh phát nguyện,
mong măn nguyện, chí tâm cầu nguyện. Chí tâm tương ứng
với sự chuyên ṛng thành tựu dũng mănh, điều
này rất khó khăn! Chúng ta thường nói “chí tâm cầu
nguyện”, tức là thâu nhiếp cái tâm tán loạn, xáo
động, sao cho chế tâm nhất xứ, lắng ḷng, an
tâm bái sám trong sám thất. Hoặc là an tâm, tĩnh tâm niệm
danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị bái sám
để cầu như thế, th́ mới có thể đạt
được luân tướng thanh tịnh, mới có thể
coi như là người bái
sám [thật sự] cầu sám hối. Loại chí tâm thứ
hai sâu lắm, ắt cần phải tương ứng với
dũng mănh. Loại chí tâm thứ hai lại tách ra: Như thế
nào th́ mới được coi là chí tâm thật sự
dũng mănh, như thế nào th́ vẫn chưa đủ?
Thông thường, sau khi chúng ta tiến vào sám thất bèn hy
vọng [tam nghiệp
thanh tịnh]. Chí tâm chính là hy vọng, tức hy vọng sẽ
đạt được luân tướng thanh tịnh. Khi chúng ta hỏi các chuyện ấy, hy vọng
Bồ Tát sẽ có thể đúng như thật
trả lời cho chúng ta. Đó là [câu hỏi] về sự cần phải có chí tâm.
Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát cảm thấy hai thứ chí tâm như Địa Tạng Bồ
Tát đă nói vẫn c̣n mơ hồ, chúng sanh chẳng thấy
rơ ràng. Do đó, Ngài lại tha thiết thỉnh cầu:
“Như thế nào mới coi là chí tâm? Như thế nào
được coi là chẳng chí tâm?” Cái tâm nguyện cầu
của chúng ta chính là hy vọng. Chúng ta phát nguyện, hy vọng
sử dụng Chiêm Sát Luân, luân tướng sẽ chỉ bảo
chúng ta làm như thế nào? Như thế nào th́ được
coi là chánh xác? Như thế nào là chẳng chánh xác? Đại
khái, thông thường đều là chúng ta đảnh lễ
ba lạy, sau đó dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát, hoặc
là phát nguyện, nhưng vẫn chưa biết chuyên ṛng, nhất
trí! Do đó, Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát: “Ắt cần phải có tâm chí thành, khẩn
thiết!” Chẳng hạn như chúng ta vào Phật
đường, lễ ba lạy, ngồi xuống, hoặc
là bắt đầu bái sám, quỳ xuống, quư vị phải
nên đem hoàn cảnh bên ngoài, các ư nghĩ khác trong
tâm tưởng, bất cứ thứ ǵ cũng đều
buông xuống, chẳng có một niệm xen tạp. Đấy
là chí tâm. Tôi nghĩ các vị đạo hữu có hiện
tượng sau đây: Tôi thấy rất nhiều đạo
hữu khi tới sám thất để bái sám, sau khi đă lắng
ḷng, bèn xúc động thiện căn trong quá khứ. Do thiện
căn phát hiện, cảm thấy các nghiệp do chính ḿnh
đă tạo trong quá khứ rất nghiêm trọng, bèn cảm xúc, đau đớn
khóc ṛng mà lễ bái. Có cảm ắt có ứng, cảm ứng
lẫn nhau, giống như chúng ta thỉnh chuông: Nếu
chúng ta chẳng thỉnh chuông, chuông sẽ không ngân. Quư vị
vừa thỉnh, chuông bèn ngân lên. Quư vị chí thành khẩn
thiết lạy Địa Tạng Bồ Tát như vậy,
chế ngự cái tâm, thâu hồi cái tâm về một
chỗ. “Chuyên” (專) là chẳng tạp, “chuyên” là chuyên tâm, chỉ một
dạ bái sám. Các ư niệm khác hoàn toàn bị đoạn dứt,
chẳng có! Đấy mới là “tinh” (精, ṛng rặt). Tinh ṛng đến mức
thuần thục, tâm lực chế tâm nhất xứ,
dũng mănh tinh tấn. [Đó là] “tinh cần” (精勤, siêng ṛng).
Nếu
quư vị chẳng biết tâm niệm trong khi ấy [là
như thế nào], tôi dùng một tỷ dụ để
nói. Các thứ chúng ta ăn uống sau khi vào dạ dày và ruột
tiêu hóa xong, các cặn bă của thức ăn sẽ đều
bị bài tiết, [cơ thể] hấp thụ dưỡng
chất tinh túy biến thành máu. Tinh túy của các thứ quư
vị ăn vào, bốn mươi giọt tinh chất biến
thành một giọt máu. Máu đó gọi là “hỗn huyết”
(混血, máu lẫn lộn),
chẳng phải là “thanh huyết” (清血, máu trong sạch). Bốn
mươi giọt “hỗn huyết” biến thành một
giọt thanh huyết, máu ấy thanh tịnh. Thường
th́ máu ứa ra khi bị đâm kim là hỗn huyết, chẳng
phải là máu thanh tịnh. Bốn mươi giọt thuần
huyết biến thành một giọt tinh, bốn
mươi giọt tinh biến thành thần khí. Nói ai đó “rất
có tinh thần”, thần khí ấy do đâu mà có? Do tinh biến
ra. Nói một người “thần khí rất
sung túc”, tinh khí rất
đầy đủ, trong sự biến hóa ấy, thoạt
đầu, cái tâm chúng ta rất phập phều, chờ cho
đến khi quư vị tĩnh lặng, đạt tới
cái tâm thuần tịnh. Cái tâm thuần tịnh ấy lại
lần lượt trải qua giai đoạn “tạp kiến ǵ cũng chẳng có”; trong cái tâm ấy chỉ là Địa Tạng Bồ
Tát, chỉ trụ trong sự bái sám. Đó mới gọi là
“chí tâm”.
Chí tâm loại thứ nhất là mới trụ,
ngưng dứt tạp
niệm và vọng niệm. Loại chí tâm thứ hai có hạ,
trung, và thượng:
- Hạ chí tâm có nghĩa là suy nghĩ của quư vị
chẳng loạn, chỉ có một sự này, chẳng bị
rối loạn bởi các sự khác. Cái tâm
của chính ḿnh trụ rành rẽ, rơ ràng phân minh. Đó gọi
là “hạ chí tâm”. Thông thường, chúng ta chỉ dùng
loại chí tâm này, đă cảm thấy rất chí tâm,
chưa được!
- Loại chí tâm thứ hai là tâm dũng mănh,
chuyên cầu, chẳng biếng nhác, chuyên ṛng cầu Địa
Tạng Vương Bồ Tát, trước nay chưa hề
giải đăi. Sự chí tâm này càng sâu hơn, chẳng
đoái tiếc thân mạng, cho đến mất đi thân
mạng cũng đều chẳng động tâm, chuyên môn
niệm Địa Tạng Bồ Tát như thế. Loại
này vẫn chưa đủ sâu.
- Loại tâm thứ ba mới gọi
là thâm tâm, tức là trong hiện thời,
sám pháp mà quư vị đang lạy, Địa Tạng Bồ Tát mà quư vị đang niệm, cũng như cái tâm quư vị kết hợp
với pháp thành một: Tâm chính là pháp,
pháp chính là tâm.
Cái
tâm thứ nhất là tâm bất loạn, tâm đă trụ
rành rành. Tâm thứ hai là dũng mănh tinh tấn, v́ chuyên cầu chẳng lười nhác, thà xả thân
mạng [chẳng xả tu hành]. Chí tâm loại thứ
hai chẳng đoái hoài thân mạng. Loại tâm thứ ba
tương ứng với pháp, cái tâm và sự bái sám của quư vị kết hợp với Địa Tạng
Bồ Tát thành một Thể. Chúng ta nói: Khi chí tâm niệm A Di Đà Phật
th́ A Di Đà Phật là chính ḿnh, chính ḿnh là A Di Đà Phật.
Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng
khác biệt!
Khi
quư vị tu pháp sám hối, tối thiểu là phải có chí
tâm bậc hạ. Quư vị chưa đạt tới mức
chẳng đoái tiếc thân mạng, thứ ǵ cũng đều
nương dựa vào sám pháp ấy, chuyên nhất một
niệm, sử dụng Chiêm Sát Luân sẽ có thể
tương ứng. Nếu ngay cả chí tâm bậc hạ mà
cũng không có, dẫu hằng ngày quư vị vẫn bái sám, quư vị lạy suốt bảy ngày vẫn chẳng
có hiệu quả. Tối thiểu là phải đạt tới
chí tâm. Chúng ta thường nói “tôi nhất tâm bất loạn”,
nhưng chí tâm thuộc loại “nhất
tâm bất loạn” th́ vẫn chưa phải là thâm tâm.
Quư vị chẳng học, sẽ không biết.
Chúng ta nói niệm A Di Đà Phật, thâm tâm niệm A Di
Đà Phật, nhưng hễ có thể đạt tới mức
thâm tâm niệm A Di Đà Phật, th́ chính ḿnh là A Di Đà Phật,
A Di Đà Phật chính là ta, v́ tâm và A Di Đà Phật hợp
nhất. Đó mới là chí tâm, là thật sự niệm A
Di Đà Phật.
Chí
tâm bậc hạ là hết thảy các tạp niệm đều
chẳng có, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, niệm A Di
Đà Phật. Đó chỉ là chí tâm bậc hạ. C̣n như niệm A Di
Đà Phật đến mức chẳng đoái hoài thân mạng,
buông xuống toàn bộ thân tâm của chính ḿnh; đó là loại
chí tâm thứ hai. Niệm đến mức thân và Phật hợp
nhất th́ mới là thâm tâm thật sự. Chẳng hạn
như khi chúng ta bái sám, cầu Địa Tạng Bồ Tát
ứng hiện, tự nghĩ tới tội ác của chính
ḿnh trong quá khứ, cho đến hết thảy tội ác,
hứng chịu oan uổng, hứng chịu hết thảy
bức hại. Nghĩ tới những điều đó,
trong khi quư vị lạy Địa Tạng Bồ Tát, sẽ
có thể cảm ứng đau ḷng, tuôn trào nước
mắt. Chí tâm như vậy vẫn chưa đủ, phải
đạt tới mức “chính ḿnh là Địa Tạng,
Địa Tạng là chính ḿnh”. “Địa” là
tâm địa, tâm địa của chính ḿnh hàm tàng Địa
Tạng Bồ Tát. Tâm địa của Địa Tạng
Bồ Tát bao hàm chúng ta. Hai tâm địa hợp thành một. Địa là
đại địa, Tạng là chứa đựng, đại
địa chứa đựng hết thảy sự vật.
Bản thân chúng ta là Địa Tạng, Địa Tạng
chính là tự thân. Cái thân đang lễ bái và Địa Tạng
hợp nhất, đó là “thâm tâm”. Trong khi quư vị
bái sám tới mức dùng thâm tâm để bái sám, sử dụng
Chiêm Sát Luân sẽ tương ứng. Đă đạt
đến mức độ ấy, cũng chẳng cần
dùng Chiêm Sát Luân nữa, [bởi lẽ], quư vị thấy “hết thảy
các pháp như mộng, huyễn, bọt, bóng, như
sương, như chớp”, c̣n dùng Chiêm Sát
Luân làm ǵ? Chẳng cần! Nhưng quư vị ắt phải
thông qua bái sám th́ mới có thể đạt tới mức
đó, [tức là] dùng Chiêm Sát Luân ḥng đạt tới mức
chẳng cần dùng Chiêm Sát Luân nữa. Đó là yêu cầu của
Địa Tạng Vương Bồ Tát đối với
chúng ta khi vào bái sám trong sám thất, hăy nên tâm tâm niệm niệm,
trụ trong loại chí tâm thứ ba. Tối thiểu th́ quư
vị cũng phải trụ tâm rành rành, tức là nhất
định phải đạt được loại chí
tâm thứ nhất. Khi quư vị lễ bái sám niệm, từng
câu phân minh, từng chữ rành rẽ, niệm đến mức
“vô niệm mà niệm, niệm chính là vô niệm”, đạt
đến mức “tự chính là tha, tha chính là tự”.
Đó mới là chí tâm thật sự.
Chư
vị hăy ngẫm xem: Thông thường chúng ta niệm Phật
cũng thế, mà niệm kinh cũng thế, tu hành bất
cứ loại công lực nào, có đạt tới mức
chí tâm kiểu này hay chăng? Đồng thời, quư vị
gặp pháp sám hối của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, cảm thấy hết sức thù thắng, v́ đây mới
là bảo bối thật sự, là vô thượng chí bảo.
Nói rộng hơn một chút, quư vị đă tin Phật,
tin tưởng lời Phật dạy. Đức Phật
chẳng trụ thế, lời đức Phật dạy
là kinh điển. Tuy đức Phật chẳng trụ thế,
Pháp Bảo c̣n đó, Pháp Bảo là kinh. Quư vị có thể gặp
pháp, gặp gỡ pháp này, gặp được Chiêm Sát Sám
Pháp. Quư vị hăy coi đó là của báu vô giá, sẽ sanh ra sức
mạnh, bản thân sẽ nẩy sanh sức mạnh. Nay
chúng ta thấy Pháp Bảo này, thấy bộ kinh này, kể
từ lúc kinh được dịch ra tại Trung Hoa, hoàn
toàn chẳng có ai chú thích, chẳng được phổ biến
tuyên truyền. Trong Đại Tạng Kinh, có rất nhiều
thứ tương ứng với chúng ta, nhưng quư vị
có duyệt tạng (xem đọc Đại
Tạng Kinh) th́ mới biết được, v́ chẳng có ai giảng,
chẳng ai nói, cho nên quư vị chẳng gặp gỡ. Có những
người cầm kinh sách, cầm lấy Pháp Bảo rất
tùy tiện, chẳng coi trọng chút nào! Tôi thấy có rất
nhiều đạo hữu cầm kinh vung vẩy, chẳng biết
tánh chất nghiêm trọng của Pháp Bảo, chẳng có tí
xíu tâm cung kính nào! Quư vị có thể tiến nhập nổi
không? Ngay cả chí tâm bậc hạ mà c̣n chẳng có, ngay cả cái tâm cung kính cũng
chẳng có, làm sao quư vị có thể tiến nhập Phật pháp
cho nổi? Các đạo hữu vất vả đến
nghe kinh này, chúng tôi chẳng dám nói quư vị chẳng chí tâm, nhưng tôi cảm thấy
chí tâm chưa đủ, v́ quư vị chẳng biết sự
tôn quư của pháp. Quư vị có nghĩ đến điều
này hay không? Hiện thời, kỹ thuật ấn loát phát
triển. Lấy một quyển kinh, bất cứ lúc nào
cũng có thể in ra rất nhiều bản, quư vị có
biết sự khó khăn để có kinh sách [thuở trước]
hay không? Tôi có thể kể đôi chút về chuyện này
cùng quư vị.
Trong
quá khứ, vào đời Đường, các vị sư
phụ người Ấn Độ mang kinh sách đến
Trung Hoa không nhiều. Do đó, vào thời ấy, có các vị
cao tăng đại đức sang Ấn Độ cầu
pháp, như pháp sư Huyền Trang, Tam Tạng pháp sư
Nghĩa Tịnh, pháp sư Pháp Hiển là các vị chúng ta
đều biết, các Ngài đă thành công. Thành công v́ các Ngài
mang về rất nhiều kinh sách, và phiên dịch rất
nhiều kinh sách. C̣n có những vị chết giữa
đường, thậm chí [đă đến Ấn Độ rồi] trở về [Trung Hoa] mà chẳng có thành tựu ǵ, v́ chẳng
học được kinh nào. Các trường hợp
như vậy rất nhiều, ra đi một trăm
người, trở về c̣n chưa đến mười
người. Thời ấy, đi thỉnh kinh rất khó khăn.
Từ Trường An ra đi, mất mấy năm mới
tới được Ấn Độ. Hiện thời,
chúng ta ngồi phi cơ hai ba tiếng đồng hồ
đă tới nơi, nhưng quư vị tuy tới được,
kinh sách chẳng c̣n nữa! Nay quư vị tới Ấn Độ
t́m kinh sách, chẳng bằng sang Trung Hoa để t́m, Ấn
Độ đă chẳng c̣n kinh sách, đă đứt đoạn
rồi!
Khi
đó, thỉnh kinh khó khăn to lớn cỡ nào? Tôi giới
thiệu đơn giản cùng mọi người. Tam Tạng pháp sư Nghĩa
Tịnh có một bài thơ, chuyên nói về sự khó
khăn khi thỉnh kinh. Ngài nói “Tấn, Tống, Tề,
Lương, Đường đại gian” (trong các thời
đại Tấn, Tống[7],
Tề, Lương, Đường), kể từ đời
Tấn măi cho đến đời Đường, có rất
nhiều vị đại đức cảm thấy trong
nước (Trung Hoa) chẳng đủ kinh sách, phải
sang Ấn Độ thỉnh kinh. “Cao tăng cầu pháp
ly Trường An” (cao tăng cầu pháp rời kinh
đô Trường An), nghĩa là có rất nhiều vị
phát tâm sang Ấn Độ thỉnh kinh. “Khứ nhân thành
bách, quy vô thập”: Một trăm người ra đi,
trở về chưa được mười người,
thậm chí mười người trở về, có phiên dịch
nổi hay không? Phiên dịch có măn nguyện của chúng sanh
hay không? Do đó, pháp sư Nghĩa Tịnh mới than thở
rằng: “Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường
đại gian, cao tăng cầu pháp ly Trường An, khứ
nhân thành bách, quy vô thập, hậu giả yên tri tiền giả
nan” (Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường
các đời, cao tăng cầu pháp ĺa Trường An, trăm
người đi, chưa được
mười về, người sau nào biết
nỗi gian nan của người
trước): Các vị hiền nhân đời sau, các đệ tử
tin Phật cầm kinh Phật, họ có biết kinh này do
đâu mà có hay chăng? Họ có biết nỗi gian nan của
các vị đại đức thỉnh kinh hay không? Trong
khi thỉnh kinh, “lộ viễn bích thiên duy lănh kết”
(đường xa, trời biếc, lạnh buốt),
đi qua vùng sa mạc, giữa trưa th́ như trong tháng
Hè, sáng sớm và buổi tối c̣n lạnh hơn mùa
Đông! Cho nên nói “lộ viễn bích thiên duy lănh kết”.
Quư vị đi đến nơi đó, nhằm lúc băo cát hết sức
lớn, gió thổi cát che lấp mặt trời, “sa hà giá
nhật lực b́ đàn” (cát bay che mặt trời, sức
lực kiệt quệ). Thân thể chẳng có tí sức lực
nào, hao hết tinh lực, do vậy bị chết
giữa đường rất nhiều. “Hậu hiền
như vị am tư chỉ” (người đời
sau chẳng am hiểu chuyện ấy): Người sau
đâu có biết bậc tiên hiền thỉnh kinh đă trải
qua rất nhiều khó khăn như thế nào? “Văng văng
tương kinh khinh dị khan” (thường coi rẻ
kinh sách), cầm kinh sách bèn tùy tiện, chẳng coi trọng,
v́ quư vị không biết kinh sách do đâu mà có!
Tôi đọc lại bài thơ này của Tam
Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh lần nữa, hy vọng
mọi người sẽ thường luôn quán tưởng:
“Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường
đại gian, cao tăng cầu pháp ly Trường An, khứ
nhân thành bách, quy vô thập. Hậu giả yên tri tiền giả
nan, lộ viễn bích thiên duy lănh kết. Sa hà giá nhật lực
b́ đàn, hậu hiền như vị am tư chỉ, văng
văng tương kinh khinh dị khan”. Các đạo hữu
đời sau chẳng hiểu rơ [sự gian khổ ấy],
thường dễ bỏ qua, coi rẻ kinh sách, đâu có biết
cổ nhân phiên dịch kinh sách như thế nào? Hơn nữa,
đạo tràng phiên dịch là mấy ngàn người, có vị
nhuận sắc văn tự. V́ nhuận sắc văn tự
th́ phải châm chước từng chữ để quyết
định chữ được dùng có phù hợp với
ư nghĩa [trong nguyên văn tiếng Phạn]
hay không, cho thấy đạo tràng dịch kinh khó khăn dường
nào! Hiện thời, chúng ta xem kinh, do kỹ thuật ấn
loát phát triển, in bao nhiêu bản đều được,
bèn cầm kinh phe phẩy, vung vẩy, chẳng có tâm cung
kính. Do vậy, khai ngộ cũng ít, thành đạo cũng
ít, mà chứng quả càng chẳng có. V́ quư vị phải dốc
ḷng th́ mới được đền đáp. Quư vị
chẳng trải ḷng chi hết, tâm
khinh mạn mà mong thành Phật, mong thành đạo, mong liễu
sanh tử, há dễ dàng như vậy sao? Nghiệp từ vô lượng kiếp
tới nay mà! Do vậy, nay chúng ta được nghe pháp,
đối với pháp, nhất định phải coi trọng
pháp. Nay chúng ta học kinh này, hoằng dương cũng
ít, người sử dụng cũng chẳng nhiều!
Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị ắt cần phải
phát khởi chí tâm. Không chỉ là đối với pháp này,
mà quư vị học bất cứ pháp nào, quư vị ắt phải
chí thành khẩn thiết tiến nhập th́ mới có thâu hoạch.
Đừng nói chúng ta học Phật, mong thành Phật, mong
liễu sanh tử, hăy nh́n trong thế gian: Quư vị mong kiếm
được mấy đồng, học từ Tiểu Học,
Trung Học, cho đến Đại Học, cho đến
học nghiên cứu sinh, học một môn kỹ thuật,
học bản lănh là để kiếm cơm, ḥng có thể ăn
ngon một chút, kiếm nhiều tiền hơn một chút.
Quư vị mong liễu sanh tử, học Phật pháp, đoạn
tuyệt nỗi khốn khổ v́ lưu chuyển từ vô
lượng kiếp, cái giá ấy cao lắm, quư vị phải
trả như thế nào? Chẳng phải là tâm khinh mạn
tùy tiện mà có thể đạt được đâu
nhé! Hăy xem trong quá khứ, các vị tổ sư đă thành tựu
như thế nào?
Nói
đến khai ngộ, mọi người nghe nói “minh tâm
kiến tánh, đốn siêu trực nhập, lập tức
chứng Bồ Đề”, quá thuận tiện! Thiền
môn th́ thắp một nén hương, cắm một nén
hương rồi tĩnh tọa, ngay lập tức khai ngộ. Mọi người
chỉ thấy khi ấy, chứ vị đại đức
Thiền Tông ấy đă tu hành từ vô lượng kiếp
đến nay, quư vị đâu có thấy? Chỉ thấy
Ngài khai ngộ trong hiện thời! “Ngộ” (悟) chỉ là hiểu rơ mà thôi. Nếu vừa ngộ
bèn thành Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ chẳng thọ
kư. Mọi người thấy chỉ có một vị kế
thừa Thích Ca Mâu Ni Phật là Di Lặc Bồ Tát. Thuở
trước, tôi ở Cổ Sơn, Thiền đường và học đường của chúng tôi
thường xuyên tranh căi, đua mồm tranh mép. Thiền
đường nói “chúng ta hễ khai ngộ bèn thành Phật”,
khi nào th́ khai? Họ nói: “Thiền môn thắp một nén
hương, hương cháy hết bèn khai ngộ, đốn
siêu trực nhập, lập tức chứng Bồ Đề”.
Có chuyện tiện nghi như vậy hay không? Nếu [dễ dàng] như vậy th́ [ai nấy] đều thành Phật cả rồi,
thế giới này chẳng c̣n chúng sanh nào cả! Chẳng
phải là như thế! Chỉ là người ấy
đă khai ngộ, hiểu rơ, quư vị
có biết người ấy đă tu hành vô lượng kiếp
trong quá khứ hay không? Quư vị chỉ nh́n vào nhất thời,
không được rồi!
Do
đó, các vị đạo hữu chúng ta khi học kinh Phật,
phải tôn trọng kinh điển. Quư vị tôn kính Tam Bảo,
Phật chẳng trụ thế, Pháp Bảo là Phật, quư vị
có thể coi kinh điển như Phật, sẽ gần với
chuyện “khai ngộ, liễu sanh tử” hơn nhiều.
Quư vị phải cung kính, bất luận bộ kinh nào. Tôi
thấy rất nhiều đạo hữu niệm kinh A Di
Đà, cầm kinh A Di Đà phe phẩy, vung vẩy, chẳng có chút tâm
cung kính nào cả! Như thế th́ có thể sanh về thế
giới Cực Lạc hay không? Tôi nói quyết đoán: “Quư vị chẳng tôn kính kinh A Di Đà, quư vị niệm
Phật hoàn toàn giả trất!” Ắt cần phải có cái tâm thành khẩn.
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhược dục chiêm sát tam thế
trung thọ báo sai biệt giả, đương phục khắc
mộc vi lục luân. Ư thử lục luân, dĩ nhất,
nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập,
thập nhất, thập nhị, thập tam, thập tứ,
thập ngũ, thập lục, thập thất, thập
bát đẳng số, thư tự kư chi. Nhất số chủ
nhất diện, các tam diện, linh số thứ đệ
bất thác, bất loạn.
(經)善男子。若欲占察三世中受報差別者。當復刻木爲六輪。於此六輪。以一二三四五六七八九十十一十二十三十四十五十六十七十八等數書字記之。一數主一面。各三面。令數次第不錯不亂。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát sự thọ
báo sai biệt trong ba đời, hăy nên khắc gỗ làm sáu
cái luân. Đối với sáu cái luân ấy, dùng các con số
một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười,
mười một, mười hai, mười ba, mười
bốn, mười lăm, mười sáu, mười bảy,
mười tám để ghi, mỗi số ghi vào một mặt
luân. Mỗi luân [có bốn mặt], đều ghi số
nơi ba mặt, [mặt c̣n lại để trống] sao
cho thứ tự của các số chẳng sai lầm, chẳng
rối loạn).
Thiện
nam tử! Nếu muốn
chiêm sát sự thọ báo sai khác trong ba đời, ta muốn
quan sát quá khứ. Đối với quá khứ, lại có quá
khứ, hiện tại
và vị lai [của quá khứ]; hiện tại
th́ lại có quá khứ, hiện tại và vị lai [của hiện tại]; vị lai cũng có hiện tại, quá khứ và vị lai [của vị
lai]. Cho nên ba đời bao gồm chín đời, lại cộng thêm căn bản vô minh của quư vị, thành
mười đời. Chúng ta thường nói là “thập
thế” (mười đời). Học kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo th́ trước hết phải biết dùng
Chiêm Sát Luân. Quư vị khắc gỗ thành sáu cái luân. Luân
tướng có tất cả mười chín cái, [loại thứ
nhất là mười cái (tương ứng với ba nghiệp
nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng, và ba nghiệp
nơi ư), loại thứ hai gồm ba cái (tương ứng
thân, khẩu, ư). Ở đây, Bồ
Tát đang nói đến loại luân thứ ba gồm sáu
cái]. Trước hết, đối với loại luân thứ
ba này, [phần chính giữa của mỗi luân] đều
có bốn mặt. Trong bốn mặt ấy, ba mặt viết
chữ số, một mặt để trống. Một mặt
để trống với ư nghĩa: Người ấy
đă vượt ngoài con số, chẳng thuộc trong các
con số nữa. Sáu cái luân ấy, luân thứ nhất khắc
một, hai, ba, luân kế tiếp khắc bốn, năm,
sáu, luân kế tiếp khắc bảy, tám, chín, luân kế tiếp
khắc mười, mười một, mười hai,
luân kế tiếp khắc mười ba, mười bốn,
mười lăm, cái luân thứ sáu khắc mười
sáu, mười bảy, mười tám. V́ sao mỗi luân
đều chừa trống một mặt không khắc? Mặt
ấy biểu thị: Khi sáu cái luân cùng gieo mà đều ra
mặt trống, chẳng có một chữ nào, cho thấy
người ấy đă vượt khỏi tam giới,
đă được thành tựu, chẳng thể dùng con số
để chiêm nghiệm nữa.
Do
luân thuộc về thân, khẩu, ư gồm ba cái, v́ những
con số ấy đều thuộc về thân, khẩu, ư,
gộp chung lại sẽ là mười tám số. Mười tám con số
ấy biểu thị điều ǵ? Biểu thị sáu
căn, sáu trần, sáu thức của quư vị. Quư vị dùng
Chiêm Sát Luân chẳng ĺa khỏi sáu căn, sáu trần, sáu thức,
ba lần sáu là mười tám. Khi quư vị tạo nghiệp,
bất luận tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp, chỉ
cần quư vị vừa tác ư, sẽ chẳng ĺa khỏi
mười tám thứ ấy. Nếu chúng ta muốn hỏi
thiện ác sai biệt trong quá khứ, hiện tại, vị
lai, rốt cuộc là thiện nghiệp hay ác nghiệp, hăy
dùng sáu cái luân ấy để chiêm sát. Chỉ chiêm sát bằng
loại luân này, sẽ cho quư vị biết là thiện nghiệp
trong quá khứ nặng, hay ác nghiệp nặng, hoặc là
nghiệp chẳng nặng. Chẳng nặng, sẽ hiện
ra mặt trống; mặt trống biểu thị nghiệp
chẳng nặng. Cộng các con số ấy lại, nếu
chúng tương ứng với điều đang suy
nghĩ và nghiệp của quư vị, hễ tương ứng
th́ là phù hợp. V́ khi chúng ta tạo
nghiệp, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc,
thanh, hương, vị,
xúc, pháp, nhăn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt
thức, thân thức, ư thức, mười tám món ấy chẳng
thiếu món nào. Hễ ĺa khỏi mười tám món ấy,
sẽ không có. V́ sao có mười chín luân? V́ quư vị có căn
bản vô minh, mười tám thứ ấy đều từ
căn bản vô minh mà khởi.
(Kinh)
Đương tri như thử chư số, giai tùng nhất
số nhi khởi, dĩ nhất vi bổn. Như thị số
tướng giả, hiển thị nhất thiết chúng
sanh lục căn chi tụ, giai tùng Như Lai Tạng tự
tánh thanh tịnh tâm Nhất Thật cảnh giới nhi khởi,
y Nhất Thật cảnh giới dĩ chi vi bổn. Sở
vị y Nhất Thật cảnh giới cố, hữu bỉ
vô minh, bất liễu nhất pháp giới, mậu niệm
tư duy, hiện vọng cảnh giới, phân biệt thủ
trước, tập nghiệp nhân duyên, sanh nhăn, nhĩ, tỵ,
thiệt, thân, ư đẳng lục căn. Dĩ y nội lục
căn cố, đối ngoại sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp đẳng lục trần, khởi nhăn,
nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư đẳng lục thức.
Dĩ y lục thức cố, ư sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp trung, khởi vi tưởng, thuận
tưởng, phi vi phi thuận đẳng tưởng, sanh
thập bát chủng thọ.
(經)當知如此諸數。皆從一數而起。以一爲本。如是數相者。顯示一切衆生六根之聚。皆從如來藏自性清淨心一實境界而起。依一實境界以之爲本。所謂依一實境界故。有彼無明。不了一法界。謬念思惟。現妄境界。分別取着。集業因緣。生眼耳鼻舌身意等六根。以依內六根故。對外色聲香味觸法等六塵。起眼耳鼻舌身意等六識。以依六識故。於色聲香味觸法中。起違想順想非違非順等想。生十八種受。
(Kinh:
Hăy nên biết các con số như thế đều bắt
đầu từ số một, lấy
một làm gốc. Tướng trạng của các con số
ấy đều hiển thị nhóm sáu lục căn của
hết thảy chúng sanh đều từ Như Lai Tạng
tự tánh thanh tịnh tâm Nhất Thật cảnh giới
mà khởi, nương vào cảnh giới Nhất Thật làm
gốc. Tức là do nương vào cảnh giới Nhất
Thật mà có vô minh, chẳng hiểu rơ một pháp giới,
nghĩ ngợi, tư duy sai lầm, hiện ra cảnh giới
hư vọng, phân biệt giữ lấy. Do nhân duyên của
tập nghiệp, sanh ra sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư. Do nương vào sáu căn ở bên trong, đối ứng
với sáu trần, tức sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp ở bên ngoài, dấy lên
sáu thức nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư.
Do nương vào sáu thức, đối với sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, khởi lên ư tưởng
thuận, ư tưởng nghịch, ư tưởng chẳng
thuận chẳng nghịch, sanh ra mười tám thứ cảm
nhận).
Hăy
nên biết các con số như thế đều khởi
đầu từ số một, một là căn bản. Số
tướng pháp ấy hiển thị nhóm sáu căn của
hết thảy chúng sanh. V́ thế, kinh này c̣n gọi là “pháp
môn Căn Tụ”, v́ là pháp môn mà sáu căn và sáu
trần đều tụ tập. Sáu căn và sáu trần ấy
đều do tự tánh thanh tịnh tâm dấy lên, đó gọi
là cảnh giới Nhất Thật, tướng cảnh giới
Nhất Thật. Nửa bộ sau [của kinh này] sẽ giảng
về cảnh giới Nhất Thật. V́ cảnh giới
Nhất Thật là căn bản của chúng ta, nương
vào cảnh giới Nhất Thật mà sanh ra vô minh. Do chúng ta
chẳng biết pháp giới tánh, chẳng hiểu rơ hết
thảy pháp giới, suy niệm, tư duy sai lầm, vọng
tưởng, phân biệt lầm lạc. V́ thế, hiện
ra cảnh giới hư vọng. Do v́ có vọng, nên sanh ra lấy,
bỏ. Tốt th́ muốn giữ lấy, chấp trước
chẳng bỏ. Xấu th́ chẳng muốn dính dáng, chẳng
làm. Đó gọi là “tập nghiệp cảm vời”.
Do nhân duyên quá khứ và nhân duyên hiện tại cảm vời,
sanh ra sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, bên
trong th́ dựa theo sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ư, đối ứng với sáu trần, tức sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp bên ngoài, trong khi Căn
đối ứng với Trần, bèn sanh khởi thức.
Thức là phân biệt, sanh ra sáu thức. Nếu hợp với
cái tâm, thuận theo vọng tưởng của quư vị,
quư vị liền vui thích. Đó gọi là “thuận duyên”.
Chẳng hợp với vọng tưởng của quư vị,
quư vị bèn chán ghét, nhưng chẳng ĺa được,
đó gọi là “vi duyên” (違緣, duyên trái nghịch). Cho đến
chẳng thiện, mà cũng chẳng ác, chẳng thuận
mà cũng chẳng trái nghịch, dấy khởi biến
hóa. Đó gọi là Vô Kư (無記). Vô Kư sanh ra biến
hóa, tổng cộng là mười tám thứ.
Sở
dĩ kinh này được gọi là pháp môn Căn Tụ (根聚) v́ sáu căn, sáu
trần, sáu thức tụ tập, cộng thêm căn bản
vô minh cùng tụ hội. Nhắc lại một lần nữa,
sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sáu trần
là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Căn đối trần
chẳng có tác dụng ǵ, nhưng nếu ở giữa
đó có sáu thức, tức Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ
Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ư Thức, sáu thức
ấy phân biệt giữa Căn và Trần, ưa thích th́
mong đạt được, chẳng ưa thích th́ mong ĺa
bỏ. Mong muốn mà chẳng đạt được,
mong bỏ mà bỏ chẳng được th́ gọi là “phiền
năo”. Do vậy, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo [dạy
về điều này]. Bởi lẽ, nghiệp do quư vị
đă tạo, bất luận là thiện nghiệp cũng
thế, mà ác nghiệp cũng thế, đều chẳng
ĺa khỏi mười tám loại ấy. V́ thế, mười
tám con số ấy, mỗi số chính là Căn và Trần tụ tập. Nó c̣n dấy lên sự
biến hóa, mười tám nhân với mười đời,
thành một trăm tám mươi. Một trăm tám
mươi lại thêm chín cái trong hiện đời, [chỉ
tính] mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp, [và sáu thức], căn bản
vô minh không tính, [nhân với mười đời], cộng
thêm hiện tại, thành một trăm tám mươi chín loại.
Tổng số là do cộng lại như thế đó. Nếu
quư vị muốn học, tôi sẽ cầm luân tướng
làm mẫu cặn kẽ cho quư vị, chứ giảng kinh
th́ chỉ có thể nói đại khái như vậy!
(Kinh)
Nhược vị lai thế, Phật chư đệ tử,
ư tam thế trung, sở thọ quả báo, dục quyết
nghi ư giả, ưng đương tam trịch thử
đệ tam luân tướng, chiêm kế hợp số. Y số
quán chi, dĩ định thiện ác. Như thị sở
quán tam thế quả báo thiện ác chi tướng, hữu
nhất bách bát thập cửu chủng. Hà đẳng vi nhất
bách bát thập cửu chủng?
(經)若未來世佛諸弟子。於三世中所受果報欲決疑意者。應當三擲此第三輪相。佔計合數。依數觀之。以定善惡。如是所觀三世果報善惡之相。有一百八十九種。何等爲一百八十九種。
(Kinh:
Nếu các đệ tử Phật trong đời vị
lai, đối với quả báo phải hứng chịu
trong ba đời, mà muốn dứt ḷng nghi, hăy nên gieo loại
luân tướng thứ ba này ba lượt. Chiêm sát bằng
cách gộp chung các con số đă gieo được. Dựa
theo số đó để xem xét, biện định thiện,
ác. Quán tướng quả báo thiện ác trong ba đời
có một trăm tám mươi chín loại. Những ǵ là một
trăm tám mươi chín loại?)
Địa
Tạng Vương Bồ Tát nói: Các đệ tử Phật
trong đời vị lai, tức hết thảy các đệ
tử đức Phật trong đời mai sau. V́ sao chuyên nói các đệ tử Phật? Pháp môn
Căn Tụ chỉ có đệ tử Phật sử dụng.
Kẻ tại gia mà coi pháp này như h́nh tướng bói toán
để sử dụng, sẽ chẳng linh. Chúng ta sử
dụng nó trong “quan pḥng”, tức là dùng khi đang bế
quan. Kẻ nào dùng luân tướng để đoán mạng
cho người khác, có dùng được hay không? Hễ
dùng [theo kiểu ấy] th́ cũng chẳng có hiệu quả,
mong kiếm tiền sẽ chẳng làm được! Bọn
xuất gia chúng ta mong kiếm tiền, đó gọi là “sống
phi mạng”, “quẻ” cũng chẳng linh, mà
cũng chẳng hiện, chẳng thể chuẩn xác! Nhất
định phải hiểu: Nếu chúng ta dùng chiêm sát luân
tướng th́ phải biết dùng Chiêm Sát Luân. [Nếu]
người khác thỉnh chúng ta, Địa Tạng
Vương Bồ Tát cho phép quư vị làm giùm người
khác. Lợi ích chúng sanh th́ làm, ngàn vạn phần chớ nên
kiếm tiền. Nếu lấy tiền, sẽ chẳng
linh. Khi muốn học pháp này, [người dạy] phải
đặc biệt nói [rơ ràng với người học: “Chẳng thể dùng phép này như một tṛ bói toán kiếm
lợi”]. Trên ṭa giảng chẳng có cách nào giảng cho mọi
người, nói sao cho mọi người đều hiểu
rơ ràng. Quư vị biết ư nghĩa của một trăm tám
mươi chín luân tướng là được rồi!
Trong
đời vị lai, Địa Tạng Vương Bồ
Tát bảo chúng ta: Thời Mạt Pháp, các đệ tử
Phật trong đời vị lai. Ngài nói rất rơ ràng, ắt
phải là đệ tử Phật! Các đệ tử Phật
trong đời vị lai, tối thiểu là quy y Tam Bảo,
bao gồm hai chúng tại gia và hai chúng xuất gia. Đối
với quả báo trong quá khứ, hiện tại, vị
lai, những ǵ cái thân hứng chịu
trong hiện tại, những điều phải hứng
chịu ấy là báo. Quư vị chẳng biết cái nhân v́ sao
thân thể chúng ta chẳng khỏe mạnh như thế này ư? Chúng tôi có một
đạo hữu thân thể rất nhiều bệnh, thân
thể chẳng khỏe khoắn: “Quư vị hỏi v́ sao
ư? Trong quá khứ, sát nghiệp của quư vị rất
nặng”. Thân thể rất mạnh khoẻ, nhưng học chẳng vào, chẳng
có trí huệ, quư vị cũng hỏi v́ sao ư? Trong quá khứ,
quư vị đă tạo rất nhiều nghiệp, đời
này chẳng có trí huệ. Gieo luân tướng, [để cầu biết chính ḿnh] rốt cuộc
đă tạo nghiệp nào? Tức là đối với thân,
khẩu, ư, phương diện nào nặng nề? Đó là
trọng điểm sám hối của quư vị. Quư vị
gieo luân tướng, quán sát tổng số của các con số
hiện ra trong sáu cái luân tướng [thuộc loại thứ
ba này]. Sau khi đă quan sát, sẽ biết rơ điều thiện
và ác của quư vị. Chuyện thuộc loại này rất
nhiều, đáng tiếc là người ấy chẳng biết
dùng luân tướng, cho nên cũng chẳng thể chiêm sát!
Vào
đời Đường, tại chùa Đại Hoa Nghiêm ở Ngũ Đài Sơn, có một vị
sư phụ có ngoại hiệu là Ngưu Si Thiền Sư. V́ sao gọi
là Ngưu Si (牛呞, trâu nhơi)? Mọi
người đều chửi ông ta giống như trâu, v́
đầu óc ông ta chẳng sáng suốt, chỉ có thể nấu
cơm cho đại chúng, làm việc nặng, làm lao động.
Học pháp th́ bất luận niệm Phật, học kinh,
hay bái sám, toàn bộ đều không thể lọt vào đầu
được. Chẳng phải là đần độn
b́nh thường, mà là đần chết luôn! V́ thế, ông
ta sanh khởi tâm hổ thẹn, ven theo núi, triều bái
năm đỉnh núi của Ngũ Đài, mong gặp
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát [để thưa hỏi]:
V́ sao mọi người đều học sẽ thông hiểu
đôi chút, học rồi đều có thành công, c̣n ông ta v́
sao chẳng được? Khi ông ta triều bái Ngũ
Đài, gặp một cụ già chăn trâu. Cụ già này là
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa thân. Cụ già nói với
ông ta: “Sư phụ! Tôi thấy thầy quành qua, quành lại
rất lâu trên núi, thầy làm ǵ vậy?” Ông ta nói: “Tôi mong gặp Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát”. Cụ già nói: “Thầy muốn gặp
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát để làm ǵ?” Ông ta nói:
“Ai nấy đều gọi tôi là trâu, bảo tôi quá đần
độn! Tôi tạo nghiệp ǵ?” Khi ấy, ông ta hiểu
ra, đây là Văn Thù Bồ Tát hiện tiền, liền quỳ
trước Văn Thù Bồ Tát, nhất định cầu
Bồ Tát cứu ông ta. Văn Thù Bồ Tát nói: “Ông muốn
biết nghiệp của chính ḿnh ư?” Văn Thù Bồ Tát
liền đem cái ṿng nơi chiếc y ca-sa đang đắp
đưa vào miệng ông ta thăm ḍ, móc trái tim ông ta ra: “Ông
có thấy trái tim của ông là tim trâu? Người ta gọi
ông là Ngưu Si chẳng sai! Quá
khứ ông là vị pháp sư thuyết pháp, trên pháp ṭa chửi
các vị tỳ-kheo nghe kinh giống như trâu. Đọa
lạc đến hiện thời đă là năm trăm
đời, đời đời kiếp kiếp [chịu
báo như vậy]. Tuy đời này đă xuất gia,
nhưng do cái tâm ấy, ông chẳng có trí huệ. Nay do ông
đă sám hối, ta đổi tim cho ông. Ông sẽ có thể
giảng kinh”. Vừa thay đổi, ông ta liền bắt
đầu có thể giảng kinh cho các tỳ-kheo. Mọi
người đặt cho ông ta ngoại hiệu là “Ngưu
Si pháp sư”, trong lịch sử
có nhân duyên như thế đó.
Nói
một câu sai trái, mắng chửi người khác một
câu, đều có nhân quả, quư vị mong không có chuyện
ǵ, đâu có được! Đặc biệt là đệ
tử Tam Bảo học pháp, mỗi lời nói, mỗi hành
vi, quư vị phải đặc biệt chú ư. Ăn nói tùy tiện,
đă tạo nghiệp mà vẫn chẳng biết. Nếu
chúng ta muốn biết quả báo đang hứng chịu
trong hiện tại [là do cái nhân nào], há có lẽ nào đều
gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo cho quư vị
biết như vậy được? Chẳng gặp
được đâu! Vậy th́ gặp Địa Tạng
Vương Bồ Tát, gặp kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo. Quư vị dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát, Địa Tạng
Vương Bồ Tát sẽ bảo cho quư vị biết,
cũng chẳng cần phải triều sơn (đến
chiêm bái các danh sơn, thánh địa). Quư vị ngồi trong
nhà bái sám là được rồi. Vừa gieo, từ trong một
trăm tám mươi chín loại, quư vị đều có thể
[biết]. Đợi cho tới khi chúng tôi giảng danh
tướng của một trăm tám mươi chín thứ
ấy, quư vị sẽ biết. Có một trăm tám
mươi chín loại, v́ sao chỉ nói con số này? Do
đâu mà có một trăm tám mươi chín loại ấy?
Chỉ cần quư vị nương theo ba nghiệp thân, miệng,
ư, lại thêm căn bản phiền năo thành mười,
mười nhân với mười. Tức là [ba nghiệp]
nhân với ba đời, cộng thêm một căn bản
vô minh thành mười. Ba lần sáu tức mười tám
nghiệp trong hiện tại. [Mười tám nghiệp ấy]
chính là sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba loại ấy,
[mỗi loại có sáu món], ba lần sáu thành mười tám.
Mười tám nhân với mười [nghiệp vừa nói
trên đây] thành một trăm tám mươi, cộng thêm mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư và thân, khẩu, ư trong hiện
tại (là chín món), thành một
trăm tám mươi chín.
[Để
chiêm sát] con số này, ắt phải [gieo toàn bộ sáu cái
luân thuộc loại thứ ba này] ba lượt. Khi gieo luân
tướng, dùng con số từ cái luân thứ sáu do gieo ba
lượt th́ mới đạt được con số
một trăm tám mươi chín. [Các con số nơi] cái
luân thứ nhất là một, hai ba, cho đến cái luân thứ
sáu là mười sáu, mười bảy, mười tám. Cộng
lại các con số từ ba lần gieo, con số (tổng
số) lớn nhất sẽ là một trăm tám
mươi chín. [Sở dĩ] gieo ba lượt là v́ nhân
duyên ba đời, cho nên phải gieo ba lượt. Nếu
quư vị gieo ba lượt [mà các mặt luân ngửa lên]
đều chẳng hiện, tức là các luân đều hiện
mặt trống, tức là mười tám con số (có sáu
cái luân, mỗi luân có ba con số) đều chẳng hiện,
đều là mặt trống (mặt không ghi số), quư vị
đă thành đạo, chẳng thuộc trong con số nữa;
nhưng đạt đến mức độ ấy, quư vị
cũng chẳng thể dùng Chiêm Sát Luân. V́ khi quư vị gieo
ra những con số ấy, trong khi quư vị dùng Chiêm Sát
Luân, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất định
hiện tiền. Địa Tạng Vương Bồ Tát
hiện tiền th́ mỗi lần gieo của quư vị mới
chuẩn xác. Quư vị lạy một thất (bảy ngày),
hai thất (mười bốn ngày), nhưng gieo [luân tướng]
chẳng đúng số, tức là những ǵ quư vị suy
nghĩ trong tâm và con số hiện ra [nơi các luân tướng]
cũng như những điều nói trong kinh Chiêm Sát không phù
hợp, đó gọi là “hư vọng”. Vậy th́ làm
như thế nào? Lạy lần nữa, gieo lại một
lần nữa. Một ngày chẳng tương ứng, hai
ngày chẳng tương ứng, có khi bảy ngày, mười
bốn ngày vẫn đều chẳng tương ứng.
V́ sao? Nghiệp của chúng ta quá nặng. Trước hết,
phải lạy mười bốn hay hai mươi mốt
ngày để tiêu nghiệp rồi mới lại gieo. Chỉ
là hễ tương ứng, th́ hằng ngày sẽ
tương ứng. Quư vị gieo vào sáng sớm mỗi ngày,
sáng sớm mỗi ngày đều tương ứng. Trong một
trăm tám mươi chín con số ấy, mỗi số
đều có biểu thị một ư nghĩa riêng. Dưới
đây, chúng tôi sẽ đọc một trăm tám mươi
chín con số ấy.
(Kinh)
Nhất giả, cầu Thượng Thừa đắc
bất thoái.
(經)一者求上乘得不退。
(Kinh: Một
là cầu Thượng Thừa
được chẳng lui sụt).
Cầu
Thượng Thừa đắc Bất Thoái là con số một.
Khi quư vị dùng sáu cái luân tướng [thuộc loại thứ
ba] để gieo, gieo cả ba lần, chỉ hiện ra số một. Con số một ấy là
ǵ? Cầu Thượng Thừa đă thành tựu,
có thể đạt được quả vị viên măn.
Trong mỗi luân của sáu luân, ba mặt đều có viết
chữ [biểu thị một con số từ một cho
đến mười tám], một mặt bỏ trống.
Sáu cái luân ấy được gieo ba lần, hai lần
đều gieo ra toàn là mặt trắng, một lần gieo
được năm cái luân đều là mặt trắng,
và một cái luân hiện số một. Luân tướng có
nhiều số như vậy, quư vị gieo ba lần chỉ
được con số một. Nếu Địa Tạng
Vương Bồ Tát chẳng đến, hoặc là thần
hộ pháp của Địa Tạng Vương chẳng
đến, quư vị sẽ chẳng gieo được.
Đó là cầu Thượng Thừa, v́ ta phát Bồ
Đề tâm lợi ích chúng sanh. Nói dễ hiểu
hơn là “cầu Thượng Thừa, đắc
Bất Thoái”. Theo kinh Hoa
Nghiêm, hàng Sơ Trụ Bồ Tát, c̣n trong các kinh Đại
Thừa th́ là người đă tiến nhập Thất
Địa Bồ Tát mới có thể nói là “bất thoái”,
cũng như hàng Nhị Thừa mà đă chứng đắc
quả A La Hán th́ mới gọi là “bất thoái”.
(Kinh)
Nhị giả, sở cầu quả hiện
đương chứng.
(經)二者所求果現當證。
(Kinh:
Hai là trong hiện tại sẽ chứng cái quả mong cầu).
Số
hai [biểu thị] cái sẽ chứng cái quả mong cầu
trong hiện tại. Đó chẳng phải là cầu sanh thế
giới Cực Lạc. Hiện thời mong cầu thành tựu,
chứng quả, thành đạo, tức là các phiền năo
đều đoạn, đoạn Kiến Tư Hoặc,
đoạn phiền năo. Quả vị này chẳng nhất
định, hoặc là quư vị cầu Sơ Quả, cầu
Nhị Quả, cầu Tam Quả, hay Tứ Quả, hoặc
là ta cầu Bồ Tát Thừa. Số một và số hai
đại khái là Đại Thừa.
(Kinh)
Tam giả, cầu Trung Thừa đắc
bất thoái.
(經)三者求中乘得不退。
(Kinh: Ba là cầu Trung Thừa bèn
được bất thoái).
Số
ba là do người ấy cầm các luân tướng thuộc
loại này gieo ba lượt, hiện ra con số ba, [biểu
thị] cầu trung thừa đắc Bất Thoái. Trung Thừa là Duyên Giác. Danh
xưng Nhị Thừa là gọi gộp chung hai thừa Tiểu và Trung. Trung Thừa là Duyên Giác, Tiểu
Thừa là Thanh Văn, Đại Thừa là Bồ Tát, hợp
thành Tiểu, Trung, Đại trong
giáo nghĩa.
(Kinh)
Tứ giả, cầu Hạ Thừa đắc
bất thoái.
(經)四者求下乘得不退。
(Kinh: Bốn
là cầu Hạ Thừa đắc bất
thoái).
Con
số Bốn là cầu Hạ Thừa đắc bất
thoái. Hạ Thừa bao gồm nhân thiên. Muốn sanh lên trời,
th́ trong Phật giáo, mong sanh lên trời rất dễ dàng! Quư vị làm đôi chút
thiện nghiệp, thiện nghiệp thành tựu th́ quả
báo là có thể sanh lên trời, đời sau có của cải,
hoặc đời sau giàu có. [Hưởng quả báo tốt
lành] trong nhân thiên khá dễ dàng, chứ chứng quả sẽ
khó khăn. Cầu Hạ Thừa có thể được
bất thoái. Trước hết, trong một trăm tám
mươi chín loại luân tướng, ta gieo ba lần, chỉ
hiện ra con số Bốn cũng chẳng dễ dàng. Nếu
chẳng phải do Địa Tạng Bồ Tát ứng hiện,
[con số ấy] tuyệt đối sẽ chẳng hiện
cho quư vị. Mọi người đă nghe kinh, chẳng phải
là mong dùng Chiêm Sát Luân liền dùng được! Tôi thấy
người dùng rất ít, nhưng khi quư vị sử dụng
th́ phải hiểu: “Ta nhất định phải sanh tín
tâm thanh tịnh kiên định”. Đó là cậy vào Tín th́ mới có thể
thành tựu. Nếu chẳng có tín tâm ấy, các điều
đó sẽ chẳng thể thành tựu. V́ sao? Chẳng
đạt được. Quư vị chẳng thể đạt
được thành tựu. Cầu Hạ Thừa đắc
Bất Thoái, bao gồm chuyện
chúng ta cầu phước báo nhân thiên.
(Kinh)
Ngũ giả, cầu thần thông đắc thành tựu.
(經)五者求神通得成就。
(Kinh:
Năm là cầu thần thông được thành tựu).
Chỉ
mong cầu thần thông, chẳng mong cầu các thứ khác,
sẽ có thể đạt được!
(Kinh)
Lục giả, tu tứ phạm đắc thành tựu.
(經)六者修四梵得成就。
(Kinh:
Sáu là tu bốn loại phạm hạnh bèn được
thành tựu).
Sự
thanh tịnh này dễ dàng, Phạm Thiên thanh tịnh; nhưng
ở đây lại bao hàm một ư nghĩa nữa, bao hàm
điều ǵ vậy? Thanh tịnh chẳng phải là Phạm
trong Phạm Thiên, nó bao gồm ư nghĩa tu Tứ Phạm Hạnh bèn được
thành tựu. Tứ Phạm Hạnh là phạm hạnh
thanh tịnh. Những ǵ là phạm hạnh thanh tịnh? Tứ
Vô Lượng Tâm, tức từ, bi, hỷ,
xả, tứ vô lượng. “Phạm” biểu thị
thanh tịnh, tức là tu từ, bi, hỷ, xả thành tựu.
Cái tâm thường trọn đủ tứ vô lượng
tâm từ, bi, hỷ, xả.
(Kinh)
Thất giả, tu thế Thiền đắc thành tựu.
(經)七者修世禪得成就。
(Kinh:
Bảy là tu Thiền thế gian bèn được thành tựu).
Tu
“thế Thiền” tức là Thiền Định thế
gian, chẳng phải là thoát sanh tử, chẳng phải là
Thiền Định nhằm liễu sanh tử, mà là Định
thuộc vào Tứ Thiền Thiên.
(Kinh)
Bát giả, sở dục thọ đắc diệu giới.
(經)八者所欲受得妙戒。
(Kinh: Tám là
do ḷng mong muốn bèn được thọ giới mầu
nhiệm).
Quư vị bái sám, mục
đích bái sám là mong đạt được luân tướng [thanh tịnh]. Khi đạt
được luân tướng, sẽ đạt
được tướng giới thể. Khi chúng ta cầu
giới, nếu không đắc giới th́ dùng bái sám để
cầu đắc giới, thỉnh Địa Tạng Bồ
Tát truyền trao giới. “Sở dục” nghĩa là ta
cầu giới, mong đắc giới, đạt
được giới thể. “Đắc diệu giới”
là đă đắc giới thể.
(Kinh)
Cửu giả, sở tằng thọ đắc cụ giới.
(經)九者所曾受得戒具。
(Kinh:
Chín là đạt được giới trọn đủ
nơi các giới đă từng thọ).
“Sở
tằng thọ” (Đă từng thọ) là trong quá khứ,
quư vị đă thọ Ngũ Giới, tám giới, Bồ
Tát giới, hoặc là thọ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni giới,
Sa Di, Sa Di Ni giới. Quư vị bái sám với mục đích
cầu đắc giới, luân tướng [sẽ hiện
tướng] cho biết quư vị đă đắc giới.
Đắc thanh tịnh th́ luân tướng bèn hiện số
chín, [tức là] quư vị gieo ba lượt, các con số
gieo được cộng lại sẽ là chín. Ắt cần
phải là [tổng số của các] con số từ ba
lượt gieo, con số hiện ra trong một trăm tám
mươi chín trường hợp là chín. Quư vị gieo ba
lượt, những mặt khác gieo ra là trống, cộng
[những con số từ các mặt có số đă hiện
ra] sẽ là chín, th́ là đúng (tương ứng) với
trường hợp này.
(Kinh)
Thập giả, cầu Thượng Thừa vị trụ
tín.
(經)十者求上乘未住信。
(Kinh: Mười
là cầu Thượng Thừa, nhưng
chưa trụ nơi tín tâm).
Ta
mong cầu pháp Thượng Thừa, chỉ có thể
cầu đắc tín tâm. Đă trụ trong tín tâm tức là
tín thành tựu.
(Kinh)
Thập nhất giả, cầu Trung Thừa vị trụ
tín. Thập nhị giả, cầu Hạ Thừa vị trụ
tín.
(經)十一者求中乘未住信。十二者求下乘未住信。
(Kinh:
Mười một là cầu Trung Thừa nhưng
chưa trụ nơi tín tâm. Mười hai là cầu Hạ
Thừa nhưng chưa trụ nơi tín tâm).
Nay
tín tâm của quư vị vẫn chẳng thành tựu, quư vị
vẫn tiếp tục tu. Bất luận ta tu pháp Tiểu
Thừa, Trung Thừa, Đại Thừa, Thanh Văn, Duyên
Giác, hay Bồ Tát, nay quư vị vẫn chưa có thành tựu,
luân tướng sẽ cho quư vị biết quư vị
chưa tu thành. Khi quư vị hỏi “tôi đắc giới
hay không”, hoặc “tu có thành tựu hay không”, luân
tướng sẽ cho quư vị biết “chưa tu thành!”
(Kinh)
Thập tam giả, sở quán nhân vi thiện hữu.
(經)十三者所觀人爲善友。
(Kinh: Mười
ba: Người được quán là bạn lành).
Người
ấy muốn kết bạn với ta, là người tốt
hay kẻ xấu? Có thể kết
giao với kẻ ấy hay không? Quư vị gieo luân tướng,
cộng các con số từ ba lượt gieo thành con số mười ba, [biểu
thị] quư vị quan sát người ấy là bạn lành,
là người tốt, là thiện nhân.
(Kinh)
Thập tứ giả, tùy sở văn thị chánh pháp.
(經)十四者隨所聞是正法。
(Kinh: Mười
bốn: Điều được nghe là chánh pháp).
Những
điều quư vị nghe hoặc thấy người khác
nói đều là chánh pháp, chẳng sai!
(Kinh)
Thập ngũ giả, sở quán nhân vi ác hữu.
(經)十五者所觀人爲惡友。
(Kinh: Mười
lăm: Kẻ được quán là bạn ác).
Đấy
là xem ta có nên kết bạn với người ấy hay
không? Nếu là bạn lành th́ quư vị có thể kết
giao. Nếu [từ chiêm sát luân tướng, luân tướng
bảo] kẻ đó là người xấu, quư vị chớ
nên làm bạn với kẻ đó. Nếu quư vị muốn
kết giao với ai đó, hăy dùng Chiêm Sát Luân để gieo
luân tướng, xem Địa Tạng Vương Bồ
Tát bảo ta có nên kết giao với kẻ đó hay không?
Địa Tạng Vương Bồ Tát nói kẻ đó là
người tốt th́ có thể kết giao. Nói kẻ
đó là người xấu th́ quư vị chớ nên kết
giao.
(Kinh)
Thập lục giả, tùy sở văn phi chánh giáo.
(經)十六者隨所聞非正教。
(Kinh:
Mười sáu: Điều được nghe chẳng phải
là chánh giáo).
Nếu
quư vị nghe người ta giảng kinh, có nơi nào giảng
kinh mà quư vị muốn nghe. Trước hết, quư vị hăy chiêm sát một phen.
[Luân tướng cho biết] những điều người
ấy giảng chẳng phải là chánh pháp. Những điều
được nghe chẳng phải là chánh giáo, những
điều quư vị nghe người đó nói đều
chẳng phải là chánh pháp.
(Kinh)
Thập thất giả, sở quán nhân hữu thật đức.
(經)十七者所觀人有實德。
(Kinh: Mười
bảy: Người được quán có đức hạnh
thật sự).
Quư
vị thấy người ấy diện mạo chẳng
sáng sủa, tướng mạo cũng chẳng ra làm sao. Vậy
th́ quư vị gieo Chiêm Sát Luân đôi chút. [Luân tướng nói]
người ấy có thật đức; đức chẳng
ở bên ngoài, mà là ở bên trong. Quán người ấy có
thật đức, tức là trong tâm hàm chứa đức.
Chúng ta thường nói là “nội thấu” (內秀, từ trong thấu
lộ ra ngoài, tức nét đẹp nội tâm).
(Kinh)
Thập bát giả, sở quán nhân vô thật đức.
(經)十八者所觀人無實德。
(Kinh: Mười
tám: Người được quán không có thật đức).
Người
ấy chẳng có thật đức, nhưng chẳng phải
là người xấu, tức là người ấy đức
chưa đủ.
(Kinh)
Thập cửu giả, sở quán nghĩa bất thác mậu.
Nhị thập giả, sở quán nghĩa thị thác mậu.
(經)十九者所觀義不錯謬。二十者所觀義是錯謬。
(Kinh:
Mười chín: Nghĩa được quán chẳng
sai lầm. Hai mươi: Nghĩa được quán là sai
lầm).
Đạo
nghĩa được nói trong kinh này, hay trong bộ luận
này là chánh xác hay sai lầm? Chẳng sai lầm th́ là chánh xác.
Nghĩa được quán là sai lầm, quư vị thấy
một quyển sách, quư vị chẳng biết, chẳng thể
phán đoán những điều sách nói có phải là chánh
nghĩa hay không? Vậy th́ quư vị hăy gieo Chiêm Sát Luân, [luân
tướng] sẽ cho quư vị biết.
(Kinh)
Nhị thập nhất giả, hữu sở tụng bất
thác mậu. Nhị thập nhị giả, hữu sở tụng
thị thác mậu.
(經)二十一者有所誦不錯謬。二十二者有所誦是錯謬。
(Kinh: Hai
mươi mốt: Điều đọc tụng chẳng
sai lầm. Hai mươi hai: Điều được
đọc tụng là sai lầm).
Chuyện
này chẳng cần giải thích, v́ ai nấy đều có
thể hiểu.
(Kinh)
Nhị thập tam giả, sở tu hành bất thác mậu.
(經)二十三者所修行不錯謬。
(Kinh:
Hai mươi ba: Điều tu hành chẳng sai lầm).
Điều trước là đọc tụng;
c̣n điều này là hành đạo. Tu
hành, hoặc khi quư vị tu Định, có đúng hay không?
Quư vị tu Định, sợ hành theo tà định, sợ
đi sai đường, hăy dùng Chiêm Sát Luân để chiêm
sát một phen. Chẳng sai lầm th́ quư vị có thể tiếp
tục tu.
(Kinh)
Nhị thập tứ giả, sở kiến văn thị
thiện tướng. Nhị thập ngũ giả, sở
chứng vi chân thật.
(經)二十四者所見聞是善相。二十五者有所證爲真實。
(Kinh: Hai
mươi bốn: Điều thấy nghe là tướng lành. Hai mươi
lăm: Điều đă chứng là chân thật).
Đây
là bản thân đă chứng đắc mà chính ḿnh chẳng
nhận biết, hoặc là đă đoạn phiền năo,
hoặc đă đoạn tập khí, cho đến chính ḿnh
cho rằng bản thân dường như đă khai ngộ,
hoặc hiểu rơ, bèn cầu Địa Tạng
Vương Bồ Tát chứng thực cho quư vị một
phen.
(Kinh)
Nhị thập lục giả, hữu sở học thị
thác mậu.
(經)二十六者有所學是錯謬。
(Kinh: Hai
mươi sáu: Điều đă học là sai lầm).
Quư
vị học điều ấy chẳng chánh xác, chớ
nên học!
(Kinh)
Nhị thập thất giả, sở kiến văn phi thiện
tướng.
(經)二十七者所見聞非善相。
(Kinh: Hai
mươi bảy: Điều
được thấy nghe chẳng phải là tướng
lành).
Những
điều được thấy nghe chẳng phải là
thiện tướng. Điều này bao gồm cả chuyện
quư vị nằm mộng, mộng thấy Bồ Tát hiện
thân! Hoặc là mộng thấy Quán Thế Âm, mộng thấy
Địa Tạng Bồ Tát, hoặc mộng thấy A Di
Đà Phật. Quư vị bèn gieo quẻ, [luân tướng] sẽ
bảo cho quư vị biết đó chẳng phải là thiện
tướng, mà là ma nghiệp.
(Kinh)
Nhị thập bát giả, hữu sở chứng phi chánh
pháp.
(經)二十八者有所證非正法。
(Kinh:
Hai mươi tám: Có những điều đă chứng
đắc chẳng phải
là chánh pháp).
Chính
ḿnh cảm nhận đă chứng đắc, hoặc có thần
thông, [nhưng chiêm sát th́ luân tướng cho biết] đó
là tà môn, chẳng phải là chánh pháp.
(Kinh)
Nhị thập cửu giả, hữu sở hoạch tà thần
tŕ.
(經)二十九者有所獲邪神持。
(Kinh:
Hai mươi chín: Có các điều
đạt được là do tà thần hộ tŕ).
Quư vị cảm
thấy có hộ pháp, hăy gieo Chiêm Sát Luân. Địa Tạng
Bồ Tát cho biết: Đấy là tà thần, chẳng phải
là chánh thần, quư vị phải đoạn tuyệt.
(Kinh)
Tam thập giả, sở năng thuyết tà trí biện.
(經)三十者所能說邪智辯。
(Kinh: Ba
mươi: Điều có thể nói ra là do tà trí
biện luận).
Có
những người ăn nói khéo lắm, giảng giải
rất nhiều thứ. Quư vị hỏi Địa Tạng
Bồ Tát, người ấy có phải là trí huệ thật
sự hay không? Ngài sẽ dạy: Đó chẳng phải là
trí huệ thật sự, mà là tà tri tà kiến. Ngài dạy
quư vị chớ nên thân cận.
(Kinh)
Tam thập nhất giả, sở huyền tri phi nhân lực.
(經)三十一者所玄知非人力。
(Kinh: Ba
mươi mốt: Biết điều huyền diệu chẳng
phải là do sức người).
“Huyền”
có nghĩa là “diệu tướng”, hoặc chuyện
vi diệu. Nói một người làm chuyện huyền diệu
lắm, “huyền diệu” là dường như chẳng
thể nghĩ bàn. Hiện tượng huyền diệu chẳng
phải do sức người mà có thể thực hiện
được, có khi là do tà thần gia tŕ. Đối với
chuyện huyền diệu [được biểu thị
bằng con số này], biết là Phật, Bồ Tát gia tŕ,
v́ đối chiếu với kinh văn trong phần trước
có nói: “Sở kiến văn phi thiện tướng”
(điều thấy nghe chẳng phải là tướng
lành).
(Kinh)
Tam thập nhị giả, ưng tiên tập quán trí đạo.
(經)三十二者應先習觀智道。
(Kinh: Ba
mươi hai: Hăy nên tu tập quán trí đạo trước
đă).
Trong
khi quư vị tu hành, chẳng biết căn cơ của
chính ḿnh học ǵ th́ tốt đẹp. Địa Tạng
Vương Bồ Tát liền bảo cho quư vị biết:
Trước hết, hăy học quán tưởng, tức là
quán trí đạo, do quư vị quán tưởng sẽ phát ra
trí huệ. “Đạo” ở đây là nói tới Bồ
Đề đạo. Do quư vị quán tưởng mới
có thể nhập đạo, mới có thể phát Bồ
Đề tâm, hành Bồ Tát đạo.
(Kinh)
Tam thập tam giả, ưng tiên tập Thiền Định
đạo.
(經)三十三者應先習禪定道。
(Kinh: Ba
mươi ba: Hăy nên tu tập Thiền Định đạo
trước).
Đối
với căn cơ và t́nh huống của quư vị, hăy nên
tu ǵ mới nên. [Gieo luân tướng, hiện ra con số này,
tức là] Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy
quư vị hăy tu Thiền Định trước. Nhưng
các đạo hữu tu Thiền Định, có khi trước
hết phải “luyện bắp đùi”, tức là luyện
xếp chéo chân ngồi kiết già. Chẳng nhất định
phải làm như thế! Khi tập Thiền Định,
có hai loại, một loại là ngồi, loại khác là hành
động. Thiền trong khi hành động là Động.
Quư vị niệm kinh cũng thế, v́ quư vị làm hết
thảy các Phật sự cũng thế, đều có thể
nhập Định. Nhưng điều đầu tiên là phải điều ḥa cái thân, sau đó phải
điều tâm. Đă điều thân và điều tâm rồi
th́ mới có thể tu Định. Phương pháp điều
thân rất nhiều, tùy thuộc quư vị thấy môn nào
thích hợp nhất. Nói đến “đả tọa”
(tĩnh tọa), thân thể của quư vị phải ngồi
sao cho chẳng kḥm về trước, chẳng ngửa ra
sau, phải ngồi cho ngay ngắn. Ở đây, tôi chẳng
cần nói cặn kẽ chuyện này. Khi quư vị muốn
học Thiền Định, trước hết phải
luyện tập, dần dần có thể nhập môn th́ quư
vị mới có thể định. Hoặc là trong khi giải
nói, cũng có thể nhập định; hoặc trong khi hành động, cũng có thể
nhập định. Nhưng trong quốc độ này,
[để tu Thiền Định] thân thể của chúng
ta hăy nên tĩnh tọa. Tĩnh tọa th́ cái tâm của quư vị
mới có thể tương ứng. Đối với
chúng ta, tĩnh trong động chẳng dễ dàng! Hăy nên
tĩnh để tu tập Định.
(Kinh)
Tam thập tứ giả, quán sở học vô chướng
ngại.
(經)三十四者觀所學無障礙。
(Kinh: Ba
mươi bốn: Quán điều đă học chẳng
chướng ngại).
Nếu
ta muốn học tập một pháp môn,
nhưng chính ḿnh chẳng thể quyết đoán được
là đúng hay không, quư vị hăy dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát đôi chút. Địa Tạng
Vương Bồ Tát sẽ dạy quư vị. Ngài nói có thể
học chẳng bị chướng ngại, có thể thành
tựu, quư vị sẽ học.
(Kinh)
Tam thập ngũ giả, quán sở học thị sở
nghi. Tam thập lục giả, quán sở học phi sở
nghi.
(經)三十五者觀所學是所宜。三十六者觀所學非所宜。
(Kinh: Ba mươi
lăm: Quán điều được học là thích hợp.
Ba mươi sáu: Quán điều được học là
chẳng thích hợp).
Điều
quư vị học có thích hợp [căn cơ] hay không? [Chiêm
Sát Luân] sẽ cho quư vị biết có thích hợp hay không.
Không thích hợp th́ quư vị chẳng cần học. Thích hợp
th́ có thể đạt được lợi ích, có thể
tiến nhập, quư vị hăy học.
(Kinh)
Tam thập thất giả, quán sở học thị túc tập.
Tam thập bát giả, quán sở học phi túc tập.
(經)三十七者觀所學是宿習。三十八者觀所學非宿習。
(Kinh: Ba
mươi bảy: Quán điều được học
là pháp đă tu tập từ đời trước. Ba
mươi tám: Quán điều được học chẳng
phải là pháp đă tu tập từ đời trước).
Quan
sát điều quư vị học, v́ trong quá khứ, quư vị
đă từng học tập, [hiện thời], hễ học
liền tiến nhập. Đó là điều đă
được học tập trong đời trước.
Nếu điều quư vị học mà chưa từng học
trong quá khứ, sẽ rất xa lạ. Do vậy, trong khi
quư vị học tập, chẳng biết ta đă từng
học pháp ấy hay chưa. Tương tự, dường
như đă học qua, lại dường như chưa hề
học qua. Chúng ta xuất gia đều có cảm giác ấy,
quư vị cảm giác trong quá khứ chính ḿnh đă xuất
gia, đời trước đă từng xuất gia, hiện
thời quư vị có cảm giác ấy. Khi quư vị dùng Chiêm
Sát Luân, nó sẽ cho quư vị biết trong quá khứ quư vị
là người xuất gia th́ đời này quư vị sẽ
có thể tiến nhập.
(Kinh)
Tam thập cửu giả, quán sở học thiện
tăng trưởng.
(經)三十九者觀所學善增長。
(Kinh: Ba
mươi chín: Quán điều được học sẽ
tăng trưởng điều lành).
Xem
xét quư vị học
[pháp ấy, sẽ] có thể tăng trưởng, [tức là]
tăng trưởng thiện căn, tăng trưởng
đạo hạnh của quư vị.
(Kinh)
Tứ thập giả, quán sở học phương tiện
thiểu. Tứ thập nhất giả, quán sở học
vô tấn thú.
(經)四十者觀所學方便少。四十一者觀所學無進趣。
(Kinh:
Bốn mươi: Quán điều được học
là phương tiện ít. Bốn mươi mốt: Quán
điều được học chẳng tiến nhập).
Quán
điều đă học, phương tiện ít, [tức
là] quư vị học pháp môn này chẳng đủ
phương tiện thiện xảo. Không có phương tiện
thiện xảo, quư vị chẳng thể tiến nhập, hoặc tiến nhập
rất khó khăn. Nếu ta học giới, quư vị gieo
cái luân ấy, vậy th́ trước hết quư vị phải
học. Tŕ giới th́ ắt trước hết cần phải
biết “khai, giá, tŕ, phạm”. Mỗi điều giới
luật đều có rất nhiều khai duyên. Bất luận
giới điều nào, sẽ có tám duyên, hoặc sáu duyên, hoặc
mười duyên. Khi ta tŕ giới gặp chướng ngại,
làm như thế nào? Đức Phật có mấy loại
khai duyên chẳng phạm giới, mỗi giới điều
đều có [các loại khai duyên]. Nếu các đạo hữu
đă xem Giới Tướng Biểu của pháp sư Hoằng
Nhất, quư vị chẳng xem toàn văn giới luật,
chỉ xem Giới Tướng Biểu th́ cũng có thể
hiểu như thế nào là “khai, giá, tŕ, phạm”.
(Kinh)
Tứ thập nhị giả, sở cầu quả hiện
vị đắc.
(經)四十二者所求果現未得。
(Kinh:
Bốn mươi hai: Chưa đạt được cái
quả mong cầu trong hiện tại).
Khi
chúng ta tu hành, mong cầu chứng đắc, tuy hiện tại
chưa đạt được, trong tương lai, quư vị sẽ có thể đạt
được. Chớ nên buông bỏ, cứ kiên tŕ. Nếu quư vị tu pháp
môn này mà trong hiện thời
chưa đạt được, trong tương lai
cũng chẳng đạt được, quư vị c̣n học
pháp ấy để làm ǵ? Có thể buông bỏ
pháp ấy, chẳng cần học nữa!
(Kinh)
Tứ thập tam giả, cầu xuất gia
đương đắc khứ.
(經)四十三者求出家當得去。
(Kinh:
Bốn mươi ba: Cầu xuất gia, sẽ đi xuất gia được).
Tôi
tính phát tâm xuất gia, bèn thỉnh Địa Tạng Bồ
Tát dạy cho biết, có thể xuất gia thành công hay không?
[Luân tướng] cho biết “cầu xuất gia sẽ
được”, quư vị đi xuất gia! Hễ cầu,
liền có thể cầu được!
(Kinh)
Tứ thập tứ giả, cầu văn pháp đắc
giáo thị.
(經)四十四者求聞法得教示。
(Kinh:
Bốn mươi bốn: Cầu nghe pháp sẽ được
dạy bảo).
Cầu
nghe pháp sẽ được dạy bảo, có thể
được nghe.
(Kinh)
Tứ thập ngũ giả, cầu kinh quyển đắc
độc tụng.
(經)四十五者求經卷得讀誦。
(Kinh:
Bốn mươi lăm: Cầu kinh quyển sẽ
được đọc tụng).
Có
thể đạt được kinh tụng, có thể có
được kinh quyển.
(Kinh)
Tứ thập lục giả, quán sở tác thị ma sự.
(經)四十六者觀所作是魔事。
(Kinh:
Bốn mươi sáu: Quán việc làm là ma sự).
Đừng
nên làm, quư vị làm chuyện ấy chẳng liên quan ǵ đến
việc tu hành của chính ḿnh, chẳng ăn nhập ǵ cả,
làm sai mất rồi. Quư vị đừng nên làm, nếu
làm sẽ sanh ma chướng.
(Kinh)
Tứ thập thất giả, quán sở tác sự thành tựu.
Tứ thập bát giả, quán sở tác sự bất thành.
Tứ thập cửu giả, cầu đại phú tài doanh
măn.
(經)四十七者觀所作事成就。四十八者觀所作事不成。四十九者求大富財盈滿。
(Kinh: Bốn
mươi bảy: Quán chuyện làm thành tựu. Bốn
mươi tám: Quán chuyện làm chẳng thành. Bốn
mươi chín: Cầu của cải to lớn bèn
được tràn đầy).
Cầu
của cải to lớn bèn được tràn đầy.
Đây là nói theo phía các đạo hữu tại gia. Quư vị
mong cầu phát tài, [mà gieo luân tướng] được
con số này th́ sẽ có thể phát tài.
(Kinh)
Ngũ thập giả, cầu quan vị, đương
đắc hoạch. Ngũ thập nhất giả, cầu
thọ mạng đắc diên niên. Ngũ thập nhị giả,
cầu thế tiên đương đắc hoạch.
(經)五十者求官位當得獲。五十一者求壽命得延年。五十二者求世仙當得獲。
(Kinh:
Năm mươi: Cầu quan chức sẽ đạt
được. Năm mươi mốt: Cầu thọ mạng,
sẽ được tăng tuổi thọ. Năm
mươi hai: Cầu thành tiên trong cơi đời sẽ
đạt được).
Cầu
quan chức sẽ đạt được, cầu thọ
mạng sẽ được tăng thọ, cầu thành
tiên trong cơi đời sẽ đạt được. Học
Đạo giáo, học thuật tu tiên, học Khí Công, khi quư
vị học những thứ đó, dùng Chiêm Sát Luân để
chiêm sát, [luân tướng] sẽ cho biết quư vị có thể
thành công, nhưng [đạt được các thứ
đó] sẽ chẳng thể liễu sanh tử, chỉ có
thể thành tựu của cải trong thế gian.
(Kinh)
Ngũ thập tam giả, quán học vấn đa sở
đạt. Ngũ thập tứ giả, quán học vấn
thiểu sở đạt. Ngũ thập ngũ giả, cầu
sư hữu đắc như ư. Ngũ thập lục giả,
cầu đệ tử đắc như ư. Ngũ thập
thất giả, cầu phụ mẫu đắc như ư.
Ngũ thập bát giả, cầu nam nữ đắc như
ư. Ngũ thập cửu giả, cầu thê thiếp đắc
như ư. Lục thập giả, cầu đồng bạn
đắc như ư.
(經)五十三者觀學問多所達。五十四者觀學問少所達。五十五者求師友得如意。五十六者求弟子得如意。五十七者求父母得如意。五十八者求男女得如意。五十九者求妻妾得如意。六十者求同伴得如意。
(Kinh:
Năm mươi ba: Quán đạt được nhiều
học vấn. Năm mươi bốn: Quán học vấn
đạt được ít. Năm mươi lăm: Cầu
thầy bạn được như ư. Năm mươi
sáu: Cầu đệ tử được như ư. Năm
mươi bảy: Cầu cha mẹ được như
ư. Năm mươi tám: Cầu con trai, con gái, được
như ư. Năm mươi chín: Cầu thê thiếp
được như ư. Sáu mươi: Cầu đồng bạn được như
ư).
Có
thể thỏa măn ư nguyện tầm
sư học đạo của quư vị. Cầu đệ
tử được như ư, cầu cha mẹ được
như ư, cầu con trai, con gái đều được
như ư, cầu vợ hay chồng đều được
như ư, cầu đồng bạn được như
ư.
(Kinh)
Lục thập nhất giả, quán sở lự đắc
ḥa hợp.
(經)六十一者觀所慮得和合。
(Kinh: Sáu
mươi mốt: Quán thấy điều lo toan được
ứng hợp).
“Sở
lự” (所慮) là ưu lự,
quư vị làm chuyện ǵ mà chẳng quyết
đoán được, rất lo âu. [Luân
tướng] cho biết: Quư vị có thể làm được
chuyện ấy, chẳng cần phải lo rầu, có thể
ḥa hợp (tức là kết quả sẽ thuận theo ḷng
mong muốn).
(Kinh)
Lục thập nhị giả, sở quán nhân tâm hoài khuể.
(經)六十二者所觀人心懷恚。
(Kinh: Sáu
mươi hai: Người được quán ôm ḷng giận
[đối với ta]).
Quư
vị thấy người ấy dường như chẳng
thoải mái, quư vị chiêm sát [để biết] v́ sao?
[Luân tướng] cho biết người đó rất tức giận quư vị, quư vị đừng chọc giận
kẻ đó nữa. Nếu quư vị chọc giận hắn,
không chừng hắn sẽ trả thù, sẽ xa cách người
đó một chút.
(Kinh)
Lục thập tam giả, cầu vô hận đắc hoan
hỷ. Lục thập tứ giả, cầu ḥa hợp đắc
như ư.
(經)六十三者求無恨得歡喜。六十四者求和合得如意。
(Kinh: Sáu
mươi ba: Cầu chẳng hận, được hoan hỷ.
Sáu mươi tư: Cầu ḥa hợp được
như ư).
Xét
mối quan hệ giữa người ấy với ta. Ta,
ngươi, kẻ khác, con người chẳng ĺa mối
quan hệ “ta, ngươi, kẻ khác”. Chẳng có tâm sân
hận th́ người như thế có thể qua lại,
đôi bên có thể nẩy sanh niềm hoan hỷ. Kẻ ôm ḷng giận đối với quư vị sẽ chẳng
qua lại. Bản thân người đó bất măn quư vị,
quư vị vẫn thân cận người
đó, người đó sẽ trả đũa. Điều
này cho thấy chúng ta qua lại với người khác,
thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát có
giao du được hay không. Đây là nói cho quư vị biết
về mối quan hệ giữa con người với
nhau.
(Kinh)
Lục thập ngũ giả, sở quán nhân tâm hoan hỷ.
Lục thập lục giả, sở tư nhân đắc
hội kiến. Lục thập thất giả, sở
tư nhân bất phục hội.
(經)六十五者所觀人心歡喜。六十六者所思人得會見。六十七者所思人不復會。
(Kinh: Sáu
mươi lăm: Tâm người được quán hoan hỷ.
Sáu mươi sáu: Được thấy người mà ta
nghĩ đến. Sáu mươi bảy: Chẳng gặp lại
người ta nghĩ đến).
“Chẳng
gặp nữa” là v́ người đó chẳng c̣n trong cơi đời,
hoặc người ấy đă hết duyên với quư vị!
(Kinh)
Lục thập bát giả, sở thỉnh hoán đắc
lai tập. Lục thập cửu giả, sở tăng ố
đắc ly chi. Thất thập giả, sở ái kính giả
đắc cận chi.
(經)六十八者所請喚得來集。六十九者所憎惡得離之。七十者所愛敬得近之。
(Kinh: Sáu
mươi tám: Người được mời gọi sẽ
nhóm đến. Sáu mươi chín: Được xa ĺa kẻ ta
chán ghét. Bảy mươi: Được thân cận với
người mà ta yêu kính).
“Sở
thỉnh hoán đắc lai tập” là quư vị muốn mời
khách, quư vị chiêm sát để biết có mời
được hay không. Xa ĺa kẻ mà ta chán ghét, được
thân cận người mà ta yêu kính.
(Kinh)
Thất thập nhất giả, quán dục tụ, đắc
ḥa tập. Thất thập nhị giả, quán dục tụ,
bất ḥa tập.
(經)七十一者觀欲聚得和集。七十二者觀欲聚不和集。
(Kinh: Bảy
mươi mốt: Quán người muốn tụ tập sẽ
nhóm tới. Bảy mươi hai: Quán người muốn
tụ tập chẳng nhóm tới).
“Dục
tụ” (muốn tụ tập) là cầu vợ con, cầu
bằng hữu, cầu lục thân quyến thuộc có thể
tụ hội với nhau. Lại quán người mà ta muốn
tụ tập chẳng thể tụ họp, chẳng thể
tới, chẳng tụ
hội với nhau được!
(Kinh)
Thất thập tam giả, sở thỉnh hoán bất đắc
lai. Thất thập tứ giả, sở kỳ nhân tất
đương chí.
(經)七十三者所請喚不得來。七十四者所期人必當至。
(Kinh: Bảy
mươi ba: Người được mời gọi chẳng
tới. Bảy mươi bốn: Người mà ta mong
đợi ắt sẽ đến).
Quư
vị thỉnh người ta, hoặc v́ người ấy
không có thời gian, hay người ta chẳng muốn đến,
chớ nên mời nữa. Những con số này đều
nhằm báo trước, người được quư vị
mời sẽ chẳng đến, quư vị chẳng cần
phải mời nữa. Người mà quư vị mời sẽ
tới ngay lập tức, quư vị cũng chẳng cần
phải chờ đợi. Đây đều là khi quư vị
gặp chuyện gấp rút hay hoài nghi, nóng ruột mà mời
người ta chẳng được, bèn chiêm sát, [người
mà ta mong đợi] có đến hay không? [Luân tướng]
bảo “có thể đến” th́ quư vị đợi thêm một
lát. Nếu [luân tướng] bảo “người được
quư vị mời chẳng thể tới”, quư vị chẳng
cần phải chờ nữa, người ta chẳng tới!
(Kinh)
Thất thập ngũ giả, sở kỳ nhân trụ bất
lai.
(經)七十五者所期人住不來。
(Kinh: Bảy
mươi lăm: Người mà ta mong mỏi tới ở
lại, sẽ chẳng đến).
Người
mà ta mong đợi chẳng thể tới.
Một
trăm tám mươi chín loại này chính là chuyện ǵ
Địa Tạng Bồ Tát cũng bảo cho chúng ta biết.
Người học Chiêm Sát tướng pháp muốn sử
dụng linh nghiệm, chuyện lớn hay nhỏ ǵ cũng
đều phải đến Phật đường hỏi
Địa Tạng Bồ Tát, dâng hương, đảnh lễ
ba lượt, gieo luân tướng để thỉnh thị
Bồ Tát. Chẳng phải là nói quư vị hằng ngày lễ
bái [th́ sử dụng được ngay], mà là cho đến
khi quư vị bái sám viên măn, sau đấy sử dụng Chiêm
Sát Luân tướng pháp này, hễ sử dụng đều
linh.
Tập 9
Nói
tới “tập khí” là nói đến tập khí của
tôi, v́ tôi lên lớp tại Phật Học Viện đă có
thói quen cầm lấy sách giáo khoa rồi lên trước lớp
giảng bài, chẳng có thói quen làm nghi thức [thỉnh pháp
sư, cầu gia bị]. [Thuyết pháp tại đạo tràng]
th́ trước khi thăng ṭa, phải thực hiện nghi
thức này. Trong các năm qua, đại khái là tôi đă giảng
kinh mười mấy năm rồi, do toàn giảng kinh tại
Phật Học Viện, cứ cầm sách đến giảng
đường bèn giảng, chẳng làm một Phật sự
nào, do chẳng có thời gian. Thói quen tạo thành như vậy,
sức mạnh của thói quen mà! Nay chúng ta học Chiêm Sát
Luân v́ muốn thay đổi sức mạnh của thói
quen. Sức mạnh của thói quen chính là sanh tử, chẳng
phải là liễu sanh tử. Chúng ta phải sửa thói quen
sanh tử thành chẳng sanh tử.
Con
số hiện ra bởi luân tướng là v́ trong tâm chúng ta
mong cầu muốn biết điều ǵ. Quư vị muốn
mời một người đến, mời chẳng
được. Mời mọc hoặc kêu gọi một
người, nhưng người ta chẳng đến.
Nhưng quư vị hy vọng người ta sẽ đến,
rất nóng ruột chờ đợi, hăy tới Phật
đường thưa hỏi Địa Tạng Bồ
Tát một phen, thưa: “Con thỉnh người ấy,
sẽ có thể đến hay không?” Ở đây, có mấy
con số; chẳng hạn như bắt đầu từ
số bảy mươi ba, quư vị muốn mời một
người mà người ấy chẳng tới được,
hoặc là quư vị muốn thỉnh một người ấy,
người ấy có thể tới. Có thể tới, nhưng hiện thời
chưa đến. Số bảy mươi lăm là mời
một người có thể ở lại chỗ quư vị,
[người ấy] nhận lời ở lại chỗ
quư vị. Quư vị mời người ta, nhưng người
ta chẳng thể ở lại chỗ quư vị, mà ở
nơi khác. Con số ấy cho chúng ta biết: Chúng ta muốn
mời một người có mối quan hệ rất lớn
đối với chúng ta, có thể giải quyết vấn
đề, cho nên quư vị rất sốt ruột. Vậy
th́ quư vị thưa hỏi Địa Tạng Bồ Tát,
xin Địa Tạng giúp đỡ, quư vị nhất
định muốn mời người
đó, người ta không đến. Quư vị bèn bái sám, hy
vọng Bồ Tát gia tŕ, người ấy sẽ bị
động tâm, sẽ có thể đến!
(Kinh)
Thất thập lục giả, sở quán nhân đắc an
cát. Thất thập thất giả, sở quán nhân bất
an cát.
(經)七十六者所觀人得安吉。七十七者所觀人不安吉。
(Kinh: Bảy
mươi sáu: Người được quán an tường,
tốt lành. Bảy mươi bảy: Người
được quán chẳng an tường, tốt lành).
Thân
nhân của quư vị hiện thời có vấn đề,
chẳng được an tường, tốt lành, quư vị
có thể chiêm sát để thưa hỏi. [Luân tướng]
sẽ cho quư vị biết:
Người được quán (tức người
được hỏi về t́nh h́nh qua luân tướng)
được an b́nh, tốt lành, chẳng cần phải
bận ḷng! Hoặc bảo với quư vị: Người
do quư vị quán chẳng an b́nh, tốt lành, không ổn!
(Kinh)
Thất thập bát giả, sở quán nhân dĩ vô thân.
(經)七十八者所觀人已無身。
(Kinh:
Bảy mươi tám: Người được quán đă
chẳng c̣n thân).
Người
được quư vị quán đă chẳng c̣n thân thể.
Nói đơn giản là đă chết. C̣n có một trường
hợp nữa là người mà quư vị quán đă thành
đạo. Đă thành đạo th́ cũng chẳng có thân.
Đă đoạn phiền năo, chứng đắc Không
Đế, chẳng c̣n nữa, dẫu có thân mà giống
như chẳng có thân. Chẳng hạn như tại Ngũ
Đài Sơn, một tiểu quỷ muốn đến bắt
một vị ḥa thượng. Tiểu quỷ ấy đến
núi t́m vị ḥa thượng ấy mà chẳng trông thấy,
t́m chẳng được, bèn hỏi thổ địa ở
nơi ấy: “Vị sư phụ này vốn ở đây,
cớ sao chẳng có mặt?” Thổ địa nói: “Thầy
ấy đang nhập Định”.
Điều này cho thấy: Khi quư vị tu đạo, lúc nhập
Định, quỷ thần chẳng trông thấy, thấy
trống rỗng. Nếu ai thật sự chứng đắc
Không Định, tuy có nhục thể, quỷ thần đều
chẳng trông thấy, giống như là chẳng có. Cho nên quư
vị quán thấy người ấy không có thân thể.
Trường hợp chết rồi hỏa táng th́ cũng
chẳng có thân thể.
(Kinh)
Thất thập cửu giả, sở vọng kiến
đắc đổ chi. Bát thập giả, sở cầu
mịch đắc kiến chi.
(經)七十九者所望見得睹之。八十者所求覓得見之。
(Kinh:
Bảy mươi chín: Điều mong thấy sẽ
được trông thấy. Tám mươi: Thứ t́m kiếm
sẽ được thấy).
Người
mong trông thấy sẽ có thể nh́n thấy. Quư vị t́m
kiếm ai cũng có thể t́m được. Người
quư vị cầu mà chẳng được thấy, chẳng
trông thấy.
(Kinh)
Bát thập nhất giả, cầu sở văn đắc
cát ngữ. Bát thập nhị giả, sở cầu kiến
bất như ư.
(經)八十一者求所聞得吉語。八十二者所求見不如意。
(Kinh:
Tám mươi mốt: Cầu được nghe, sẽ
được nghe lời tốt lành. Tám mươi hai:
Điều cầu được thấy sẽ chẳng
như ư).
Được
nghe lời lẽ tốt lành, lợi lạc, có lợi cho
quư vị. Quư vị toàn nghe những điều tốt
đẹp từ kinh. Quư vị nghe những lời chẳng
có ích ǵ cho quư vị. Chẳng hạn như hiện thời
quư vị đến nghe kinh, chúng ta cho rằng rất có lợi ích, bèn thưa hỏi
Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng
Vương Bồ Tát dạy: - Quư vị nghe rồi chẳng
hướng ḷng vào đó, chẳng có chút lợi ích nào đối
với quư vị.
(Kinh)
Bát thập tam giả, quán sở nghi tức vi thật.
(經)八十三者觀所疑即為實。
(Kinh:
Tám mươi ba: Quán điều nghi ngờ chính là sự thật).
Nghe
các lời lẽ hữu ích hay vô ích cho quư vị,
v́ quư vị có hoài nghi th́ mới phải hỏi. Khi quư vị
dùng Chiêm Sát Luân, mong thỉnh Địa Tạng Bồ Tát bảo
cho quư vị biết, tức là v́ quư vị có hoài nghi. Quư vị
muốn kết giao với một người sẽ có lợi
hay có hại cho quư vị, hoặc muốn cầu người
ta giúp đỡ chuyện chi đó, người ta có chịu giúp đỡ hay không, quư vị hăy chiêm sát, sẽ
có thể biết.
(Kinh)
Bát thập tứ giả, quán sở nghi vi bất thật.
(經)八十四者觀所疑為不實。
(Kinh:
Tám mươi bốn: Quán điều ta nghi ngờ chẳng
phải là thật).
Đây
là giả sử hoài nghi người khác chẳng phải là
chân thật. Quư vị chẳng cần hoài nghi! Quư vị
hoài nghi hiện tượng được thấy chẳng
phải là chân thật ư? Chẳng cần phải hoài
nghi! Bởi lẽ, quư vị chẳng thể
quyết định được th́ hăy nên dùng Chiêm Sát
Luân. Chiêm Sát Luân sẽ bảo cho quư vị là được
rồi!
(Kinh)
Bát thập ngũ giả, sở quán nhân bất ḥa hợp.
(經)八十五者所觀人不和合。
(Kinh:
Tám mươi lăm: Người được quán chẳng
ḥa hợp).
Quư
vị và người ấy chẳng ḥa hợp.
(Kinh)
Bát thập lục giả, cầu Phật sự
đương đắc hoạch. Bát thập thất giả,
cầu cúng cụ đương đắc hoạch.
(經)八十六者求佛事當得獲。八十七者求供具當得獲。
(Kinh:
Tám mươi sáu: Cầu Phật sự sẽ đạt
được. Tám mươi bảy: Cầu đồ
cúng sẽ đạt được).
Chúng ta làm một
khóa Phật sự, làm Phật sự th́ luôn mong cầu thành
tựu, cho tới mong đạt được pháp ích (lợi
ích nơi pháp). Trước khi làm, quư vị chiêm sát để
hỏi một phen. Địa Tạng Vương Bồ
Tát sẽ bảo cho quư biết: Cầu Phật sự sẽ
đạt được! Hoặc là quư vị bái sám, lễ
Phật, niệm kinh, [Bồ Tát sẽ cho quư vị biết]
có thể thực hiện được, có thể thực
hiện thuận lợi. Lại c̣n mong cầu một loại
vật để cúng dường nào đó th́ vật
cúng dường
mà ta mong cầu sẽ đều có thể đạt
được!
(Kinh)
Bát thập bát giả, cầu tư sanh đắc như ư.
(經)八十八者求資生得如意。
(Kinh:
Tám mươi tám: Cầu những thứ cần dùng cho cuộc
sống được như ư).
Khi
quư vị cầu các vật cần dùng cho cuộc sống,
[luân tướng] sẽ cho biết: Quư vị có thể
đạt được. “Tư sanh chúng cụ” bao gồm
những vật chúng ta dùng để vun đắp cuộc
sống, hoặc là các vật để cúng Phật. [Gieo
luân tướng được con số này th́ có nghĩa
là] quư vị sẽ có thể đạt được
như ư.
(Kinh)
Bát thập cửu giả, cầu tư sanh thiểu đắc
hoạch.
(經)八十九者求資生少得獲。
(Kinh:
Tám mươi chín: Cầu vật cần dùng cho cuộc sống
chỉ được ít phần).
Tuy
đạt được, nhưng rất ít ỏi, quư vị
chẳng măn nguyện.
(Kinh)
Cửu thập giả, hữu sở cầu giai
đương đắc.
(經)九十者有所求皆當得。
(Kinh:
Chín mươi: Có điều mong cầu đều đạt
được).
Quư
vị mong cầu đạt được thứ ǵ
đó, đều có thể đạt được.
(Kinh)
Cửu thập nhất giả, hữu sở cầu giai bất
đắc.
(經)九十一者有所求皆不得。
(Kinh:
Chín mươi mốt: Có điều mong cầu đều
chẳng đạt được).
[Luân
tướng] bảo quư vị: Chẳng đạt
được.
(Kinh)
Cửu thập nhị giả, hữu sở cầu thiểu
đắc hoạch. Cửu thập tam giả, hữu sở
cầu đắc như ư.
(經)九十二者有所求少得獲。九十三者有所求得如意。
(Kinh:
Chín mươi hai: Có điều mong cầu chỉ đạt
được ít phần. Chín mươi ba: Có điều
mong cầu được như ư).
Như
ư th́ rất tốt.
(Kinh)
Cửu thập tứ giả, hữu sở cầu tốc
đương đắc.
(經)九十四者有所求速當得。
(Kinh:
Chín mươi bốn: Có điều mong cầu nhanh chóng
đạt được).
Điều
quư vị mong cầu sẽ đạt được rất
nhanh chóng. Chuyện này bao gồm rất nhiều vấn đề,
quư vị niệm Phật cầu thấy tướng hảo,
hoặc niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực
Lạc, hoặc quư vị niệm kinh có thể đắc
đạo. Hoặc là ta mong có được bộ kinh nào
đó, th́ sẽ có thể đạt được hay không?
Hiện thời, chúng ta ở Đài Loan chẳng có vấn
đề ǵ, quư vị muốn cầu bộ kinh nào cũng
đều đạt được. Hồi tôi ở
Đại Lục, mong có một bản Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm, tôi mới ra khỏi tù, nghĩ chắc
là một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm rất
đơn giản! Tôi t́m suốt hai ba năm, chẳng có,
chẳng t́m được! Đại Lục có kinh sách hay
không? Có chứ, rất nhiều! Nhưng bị niêm phong kín trong
Tàng Kinh Lâu của nhà chùa, chẳng cho ai rớ tới. Ai rớ
tới sẽ phạm pháp, ai dám mở [lầu tàng kinh ra]?
Đều bị niêm phong hết. Muốn cầu một bộ
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm [tưởng chừng] rất
đơn giản, [thế mà vẫn
chẳng được]. Trước các năm 1977, 1978,
1979, tại Đại Lục chẳng cầu được,
tới năm 1980, sau khi [chánh quyền Hoa Lục nới lỏng
sự kiềm chế tôn giáo] th́ mới có thể t́m
được. Chúng ta đừng cho là rất đơn
giản, có khi rất nhiều chuyện mà con người
chẳng thể ngờ được. Khi đó, mong cầu
một bộ Chiêm Sát Luân, tôi c̣n mong học Chiêm Sát Luân,
nhưng chẳng kiếm được bộ nào! Có hay
không? Có chứ! Tất cả đều bị niêm phong kín
trong chùa Khai Nguyên ở huyện Tuyền Châu, tỉnh
Phước Kiến. Tất cả các dụng cụ Phật
giáo của pháp sư Hoằng Nhất trước kia đều
để tại chùa Khai Nguyên, toàn bộ tất cả hết
thảy đồ vật của pháp sư Hoằng Nhất
đều bị “đóng băng”. Thứ ǵ cũng chẳng
rớ vào được. Hễ rớ đến sẽ là
phạm pháp. Tới năm 1980, [chính quyền] “mở cửa”
th́ mới có. Hết thảy sự vật chúng ta thấy rất
đơn giản, tới khi đó, biến thành rất khó
khăn! Khi đó, quư vị muốn gieo luân tướng, th́ ngay cả sách giải
thích ư nghĩa các luân tướng cũng không có. Tôi biết
pháp sư Hoằng Nhất đă làm rất nhiều bộ
luân tướng để chiêm sát thiện ác nghiệp báo,
thuở đó, bị phong kín tại chùa Khai Nguyên, muốn lấy
một bộ cũng chẳng được! Sau đó, tôi
ở nước Mỹ, cậy pháp sư Viên Chuyết[8]
t́m cách lén lấy một bộ từ chùa Khai Nguyên, gởi
sang Mỹ cho tôi. Chuyện thấy rất dễ dàng, nhưng tới khi
đó, quư vị chẳng có nhân duyên đạt được!
Chúng ta thấy pháp bảo rất nhiều, in ra cũng có thể
in [dễ dàng]; tới khi pháp diệt, quư vị mong có
được một bộ kinh, chẳng hề có! Đó
là lẽ tự nhiên! Khi chưa tới lúc ấy, quư vị
sẽ chẳng tin tưởng, [cứ cho rằng]: Hiện
thời, đối với kinh, chúng ta một trăm bộ,
một vạn bộ đều có thể mua được,
quư vị có thể t́m được. Nhưng có khi, ngay cả
một bộ cũng chẳng t́m được. Mọi
người chẳng chấp nhận [sẽ có chuyện
như thế], v́ [hiện thời kinh sách có thể] t́m thấy
quá dễ dàng, lẽ nào [mai sau] chẳng có? Nếu không, tới
lúc đó, quư vị sẽ biết. Qua con số này, Địa
Tạng Vương Bồ Tát dạy: Yêu cầu của quư
vị có thể đạt được.
(Kinh)
Cửu thập ngũ giả, hữu sở cầu cửu
đương đắc.
(經)九十五者有所求久當得。
(Kinh:
Chín mươi lăm: Có điều mong cầu th́ phải sau một thời gian dài mới đạt
được).
Mong
cầu của quư vị phải trải qua một thời
gian rất dài mới đạt được.
(Kinh)
Cửu thập lục giả, hữu sở cầu nhi tổn
thất.
(經)九十六者有所求而損失。
(Kinh: Chín
mươi sáu: Có điều mong cầu bị tổn thất).
Quư
vị không chỉ chẳng đạt
được điều mong cầu, mà c̣n bị tổn
thất.
(Kinh)
Cửu thập thất giả, hữu sở cầu đắc
cát lợi.
(經)九十七者有所求得吉利。
(Kinh:
Chín mươi bảy: Có điều mong cầu được
tốt lành, lợi ích).
Điều
mong cầu của quư vị là cát tường.
(Kinh)
Cửu thập bát giả, hữu sở cầu
nhi thọ khổ.
(經)九十八者有所求而受苦。
(Kinh:
Chín mươi tám: Có khi do điều mong cầu mà chịu
khổ).
Do
điều mong cầu mà quư vị chịu khổ. Quư vị
đừng mong cầu [điều đó], hễ mong cầu
sẽ chịu khổ. Nếu
quư vị muốn cầu vật chi đó, hăy thưa hỏi
Địa Tạng Vương Bồ Tát có cầu
được hay không? Địa Tạng Bồ Tát bảo
quư vị: Không chỉ chẳng
đạt được điều mong cầu, mà c̣n phải
chịu khổ.
(Kinh)
Cửu thập cửu giả, quán sở thất cầu
đương đắc.
(經)九十九者觀所失求當得。
(Kinh:
Chín mươi chín: Quán vật bị mất sẽ t́m lại
được).
Chúng
ta đánh mất đồ vật, muốn t́m lại. Quư vị
quán [luân tướng, gieo được con số này] biết
là có thể cầu được, c̣n t́m được.
(Kinh)
Nhất bách giả, quán sở thất cầu bất đắc.
(經)一百者觀所失求不得。
(Kinh:
Một trăm: Quán vật bị mất, chẳng t́m lại
được).
Hoặc
là vật dụng cũng thế, hoặc là khi quư vị tu
hành, không chỉ chẳng t́m được, mà ngược
lại c̣n mất luôn!
(Kinh)
Nhất bách nhất giả, quán sở thất tự hoàn
đắc.
(經)一百一者觀所失自還得。
(Kinh:
Một trăm lẻ một: Quán vật bị mất
đi, tự có lại).
Tự
nhiên xuất hiện.
(Kinh)
Nhất bách nhị giả, cầu ly ách đắc thoát nạn.
(經)一百二者求離厄得脫難。
(Kinh:
Một trăm lẻ hai: Cầu ĺa tai ách, được
thoát nạn).
Mong
cầu thoát ĺa ách nạn, hoặc là bệnh khổ, hoặc
chịu tai nạn ǵ đó, hoặc là bị kẻ oán hăm hại
chi đó, quư vị chiêm sát thưa hỏi Địa Tạng
Bồ Tát, Ngài sẽ nói “nhanh chóng ĺa thoát, có thể ĺa
thoát được”.
(Kinh)
Nhất bách tam giả, cầu ly bệnh đắc trừ
dũ.
(經)一百三者求離病得除愈。
(Kinh:
Một trăm lẻ ba: Cầu ĺa bệnh, bèn được
lành bệnh).
Cầu
khỏi bệnh do bị bệnh tật triền miên lâu ngày,
hăy hỏi Địa Tạng Bồ Tát! Địa Tạng
Bồ Tát sẽ cho quư vị biết: Bệnh
có thể lành.
(Kinh)
Nhất bách tứ giả, quán sở khứ vô chướng
nạn. Nhất bách ngũ giả, quán sở khứ hữu
chướng nạn.
(經)一百四者觀所去無障難。一百五者觀所去有障難。
(Kinh:
Một trăm lẻ bốn: Quán chỗ đi đến chẳng có chướng nạn. Một trăm
lẻ năm: Quán chỗ đi đến sẽ có chướng nạn).
Quư
vị muốn đến một chỗ nào, trước khi
đi, trước tiên hăy gieo luân tướng xem có đi
được hay không. Quán chỗ đến chẳng có
chướng nạn, hiệu quả là thoạt nh́n có vẻ
là chuyện tuyệt đối chẳng làm được,
nhưng luân tướng cho quư vị biết có thể làm
được, trong tâm quư vị sẽ sáng suốt thực
hiện. Nếu quán chỗ muốn đến có chướng
nạn, bảo cho quư đi đến đó hay thực hiện
[việc dự định] đều chẳng được,
có chướng nạn. Vậy th́ quư vị đột phá
chướng nạn bằng cách nào?
(Kinh)
Nhất bách lục giả, quán sở trụ đắc an
chỉ. Nhất bách thất giả, quán sở trụ bất
đắc an.
(經)一百六者觀所住得安止。一百七者觀所住不得安。
(Kinh:
Một trăm lẻ sáu, quán chỗ ở được
an trụ. Một trăm lẻ bảy: Quán chỗ trụ chẳng
yên).
Rất
nhiều chuyện chẳng phải là chúng ta có thể ngờ
được, ở đây bao gồm những điều
ǵ? Quư vị ở trong ngôi chùa này mà tâm chẳng yên cho lắm,
muốn sang ở ngôi chùa khác. Hoặc là mong đi khắp
nơi triều bái các danh sơn. Khi gieo luân tướng, [Bồ
Tát] bảo quư vị hăy ở yên nơi đây, ngàn vạn
phần đừng ra đi. Nếu quư vị ra ngoài, sẽ
gặp tai nạn, sẽ chẳng được an định.
Quư vị đừng đi, hăy nghe lời Địa Tạng
Bồ Tát. Nếu quư vị ở nơi đây, trong tâm bất
an, hăy thưa hỏi Địa Tạng Bồ Tát, mong ĺa
nơi này, t́m nơi khác tốt đẹp hơn. [Bồ
Tát] bảo quư vị đừng nên rời đi, quư vị
chẳng nên rời đi.
(Kinh)
Nhất bách bát giả, sở hướng xứ đắc
an khoái.
(經)一百八者所向處得安快。
(Kinh:
Một trăm lẻ tám: Chỗ hướng đến
được an vui).
Chỗ
quư vị muốn đến có tốt hay không? Nếu quư vị
gieo luân tướng được con số 108, tức là
[Bồ Tát] bảo quư vị: Chỗ tính đến rất tốt,
đi được! Sẽ được an vui!
(Kinh)
Nhất bách cửu giả, sở hướng xứ hữu
ách nạn.
(經)一百九者所向處有厄難。
(Kinh: Một
trăm lẻ chín: Chỗ muốn đến có ách nạn).
Chỗ
hướng tới có nguy nan, không chỉ chẳng tốt, quư vị tới
đó sẽ bị trắc trở, sẽ phải chịu
khổ, chịu nạn.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập giả, sở hướng xứ
vi ma vơng.
(經)一百一十者所向處為魔網。
(Kinh:
Một trăm mười: Chỗ hướng đến
là lưới ma).
Đừng
tưởng là thánh cảnh.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập nhất giả, sở hướng
xứ nan khai hóa.
(經)一百一十一者所向處難開化。
(Kinh: Một
trăm mười một: Chỗ hướng đến
là nơi khó khai hóa).
Quư
vị mong tới đó lợi ích và giúp đỡ người
khác, chẳng thể được! Đó là chỗ khó khai
hóa, quư vị chớ nên tới đó.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập nhị giả, sở hướng
xứ khả khai hóa.
(經)一百一十二者所向處可開化。
(Kinh:
Một trăm mười hai: Chỗ hướng đến
có thể khai hóa).
Chỗ
đó rất tốt, quư vị đến đó sẽ khá
cát tường.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập tam giả, sở hướng
xứ tự hoạch lợi. Nhất bách nhất thập
tứ giả, sở du lộ vô năo hại. Nhất bách nhất
thập ngũ giả, sở du lộ hữu năo hại. Nhất
bách nhất thập lục giả, quân dân ác, cơ cẩn
khởi.
(經)一百一十三者所向處自獲利。一百一十四者所遊路無惱害。一百一十五者所遊路有惱害。一百一十六者君民惡饑饉起。
(Kinh: Một
trăm mười ba: Chỗ hướng đến sẽ
tự được lợi. Một trăm mười bốn:
Trên đường đi không bị năo hại. Một
trăm mười lăm: Trên đường đi có năo hại.
Một trăm mười sáu: Vua và dân chúng ác, đói kém nổi
lên).
Người
nơi ấy chẳng tốt lành, tâm thuật bất
hảo, bệnh tật rất nhiều. Cho nên sẽ có tai nạn phát sanh. Tai nạn dấy lên, đói kém và bệnh dịch đều là tai nạn.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập thất giả, quân dân ác,
đa tật dịch.
(經)一百一十七者君民惡多疾疫。
(Kinh: Một
trăm mười bảy: Vua và dân ác, nhiều tật dịch).
Người trong quốc gia ấy tâm thuật
bất hảo, bệnh tật rất nhiều.
Nếu quư vị tới nơi ấy, từ người
phụ trách quốc gia cho đến mỗi
vùng đều là tai nạn. Quư vị đừng đến
đó, đến đó sẽ bị khốn đốn, có
thể chẳng rời đi được! Đó là quư vị
dùng Chiêm Sát Luân [để chiêm sát]. Nếu không dùng th́
căn bản là chẳng bận tâm.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập bát giả, quân dân hảo, quốc
phong lạc.
(經)一百一十八者君民好國豐樂。
(Kinh:
Một trăm mười tám: Vua và dân tốt lành, nước
giàu vui).
Vua lẫn dân tốt
đẹp, quốc gia hưng thịnh, giàu có.
(Kinh)
Nhất bách nhất thập cửu giả, quân vô đạo,
quốc tai loạn.
(經)一百一十九者君無道國災亂。
(Kinh: Một
trăm mười chín: Vua vô đạo, nước tai
ương, loạn lạc).
Người
phụ trách chẳng có đạo đức, quốc gia ấy
sẽ phát sanh biến loạn.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập giả, quân tu đức, tai loạn
diệt.
(經)一百二十者君修德災亂滅。
(Kinh: Một
trăm hai mươi: Vua tu đức, tai ương, loạn
lạc tiêu diệt).
Quư
vị thường làm thiện sự, quốc gia ấy
thường có thiện nghiệp phát sanh, tất cả các
chuyện tai nạn đều dầu dần tránh khỏi.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập nhất giả, quân hành ác, quốc
tương phá.
(經)一百二十一者君行惡國將破。
(Kinh: Một
trăm hai mươi mốt: Vua làm ác, nước sắp mất).
Quốc
gia ấy chẳng được an định, sắp gặp
họa mất nước.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập nhị giả, quân tu thiện,
quốc hoàn lập.
(經)一百二十二者君修善國還立。
(Kinh: Một
trăm hai mươi hai: Vua tu thiện, nước tái lập).
Đây
là hỏi về quốc gia. Quư vị muốn tới
đó, bèn gieo luân tướng để hỏi có đến
đó được hay không? Chúng ta muốn du hành, quư vị
bèn hỏi trước.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập tam giả, quán sở
tỵ đắc độ nạn.
(經)一百二十三者觀所避得度難。
(Kinh: Một
trăm hai mươi ba: Quán [chỗ muốn đến] là nơi tránh né, vượt
qua tai nạn được).
Quư
vị nếu muốn tỵ nạn đến nơi
đó, [luân tướng] bảo quư vị có thể đến
đó, có thể tránh né tai nạn.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập tứ giả,
quán sở
tỵ bất thoát nạn.
(經)一百二十四者觀所避不脫難。
(Kinh: Một
trăm hai mươi bốn: Quán chỗ trốn tránh chẳng
thoát nạn).
Quư
vị mong thoát tai nạn, tới nơi ấy sẽ chẳng
thoát được. Tai nạn ấy bao gồm rất nhiều
thứ. Ở nơi đây, cảm thấy chẳng vui
sướng, tu đạo cũng chẳng thành. Đă có
thiên tai, lại có nhân họa, cảm thấy tâm lư bất
an, bèn gieo luân tướng. Đó là một trường hợp.
C̣n có một trường hợp nữa, nếu quư vị
tu đạo t́m được một nơi chốn thiện
lương, giống như chúng ta trước kia sống
trong hang núi, một người sống trong nơi đó,
chung quanh không có ai. Quư vị ở trong động có an
định hay không? Quư vị gieo luân
tướng để hỏi. [Luân tướng] cho biết
rất tốt, vậy th́ quư vị có thể tu đạo ở đó.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập ngũ giả, sở trụ xứ
chúng an ổn.
(經)一百二十五者所住處衆安隱。
(Kinh:
Một trăm hai mươi lăm: Đại chúng ở nơi cư trụ được an ổn).
Ai
ở nơi đó cũng đều rất an ổn, chẳng
có chuyện ǵ.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập lục giả, sở trụ xứ
hữu chướng nạn. Nhất bách nhị thập thất
giả, sở y tụ chúng bất an.
(經)一百二十六者所住處有障難。一百二十七者所依聚衆不安。
(Kinh: Một
trăm hai mươi sáu: Chỗ ở có chướng nạn.
Một trăm hai mươi bảy: Nơi đại chúng nương tựa,
tụ tập chẳng yên).
Mọi
người đều chẳng thể an tâm.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập bát giả, nhàn tĩnh xứ vô
chư nạn.
(經)一百二十八者閑靜處無諸難。
(Kinh:
Một trăm hai mươi tám: Chỗ nhàn tĩnh chẳng
có các nạn).
Rất
thanh tĩnh v́ chẳng có người, chẳng có ǵ quấy
nhiễu, nạn duyên ǵ cũng đều không có.
(Kinh)
Nhất bách nhị thập cửu giả, quán quái dị vô
tổn hại. Nhất bách tam thập giả, quán quái dị
hữu tổn hại.
(經)一百二十九者觀怪異無損害。一百三十者觀怪異有損害。
(Kinh:
Một trăm hai mươi chín: Thấy [chỗ ở
có điều] quái lạ, nhưng chẳng tổn hại.
Một trăm ba mươi: Thấy [chỗ ở] quái lạ
và có tổn hại).
Có
khi tuy cảm thấy rất kỳ quái, rất quái dị, nhưng sống ở nơi ấy, quư vị chẳng
bị tổn hại ǵ. Có những chuyện như quư vị
muốn mua một căn nhà mới, quư vị sống ở
đó thường cảm thấy không yên ḷng, hoặc hàng
xóm hai bên quấy nhiễu, hoặc gia đ́nh của quư vị
bất an. Quư vị bèn thưa hỏi Địa Tạng
Vương Bồ Tát là được. Nếu lại chẳng
dọn nhà được, luân tướng lại cho ra kết
quả không tốt, làm thế nào đây? Quư vị lạy Chiêm
Sát Sám, do lễ bái sẽ chuyển biến, cũng có thể
chẳng phải dọn. Đó là ư nghĩa cầu thần
hộ pháp gia tŕ, cầu Địa Tạng Bồ Tát gia
tŕ. Chúng ta có chuyện ǵ hoài nghi th́ mới hỏi Chiêm Sát
Luân của Địa Tạng Bồ Tát để giúp cho chúng
ta chẳng hoài nghi. Nhưng [mục đích] chủ yếu
của pháp Chiêm Sát là đối với quư vị, phải
như thế nào th́ mới có thể tu đạo, đắc
đạo, đắc định, đắc huệ.
Đối với sự giúp đỡ ấy, kèm theo các
điều thiện, ác, tốt, xấu trong thế gian với
ư nghĩa lợi lạc trọn khắp. Các điều ấy
là kèm theo, chẳng phải là chủ yếu. Mục đích
của việc chiêm sát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo chủ yếu là quư vị cầu định, hoặc cầu
huệ như thế nào th́ sẽ có thể tiến nhập.
Quư vị tu đạo có một nơi chốn, bất luận
là [ở cùng] đại chúng cũng thế, ta ở một
ḿnh cũng thế; sự chiêm sát trong đoạn kinh
văn này nhằm bảo chúng ta: Quư vị tu đạo có
thể thành tựu. Nếu ở nơi đây là nơi chẳng
thể thực hiện thành tựu, th́ không chỉ chẳng
thể thành tựu, mà c̣n rất dễ khiến cho tín tâm của
quư vị bị lui sụt.
(Kinh) Nhất bách tam thập nhất giả,
quán quái dị, tinh tấn an.
(經)一百三十一者觀怪異精進安。
(Kinh: Một
trăm ba mươi mốt: Thấy [chỗ ở] quái lạ,
do tinh tấn mà được an ổn).
C̣n
có trường hợp nơi quư vị ở thường
có hiện tượng quái dị. Chắc là mọi người
chưa trải qua chuyện này, v́ sống ở trong núi th́
hiện tượng này thường có, do có tinh linh quấy
nhiễu. Thông thường, trong núi tinh linh rất nhiều.
Khi quư vị ở nơi thanh vắng, khi quư vị muốn
tu hành, bọn chúng đến quấy nhiễu, khiến cho
quư vị bất an. Chẳng hạn như xưa kia tôi ở
tại Long Hổ Ngu trên núi Thượng Phương (thuộc
Tô Châu, tỉnh Giang Tô), đó là một chỗ nhỏ bé, vốn
có lầu Tàng Kinh, có một bộ Đại Tạng Kinh
để có thể duyệt tạng (閱藏, xem đọc Đại Tạng
Kinh). Đại khái sống ở đó là một người,
chẳng có đến hai người, v́ cứ đến
đêm, khoảng mười hai giờ, tất cả các tủ
đựng kinh đều nghe có tiếng rầm rầm.
Sau đó, tôi hỏi vị lăo ḥa thượng trong chùa, lăo
ḥa thượng bảo tôi: “Có các quỷ thần đến
duyệt tạng, thầy nói với họ một tiếng
là được rồi”. Tôi theo lời Ngài dặn, nói:
“Các vị đừng làm rộn! Quư vị quấy nhiễu
tôi, tôi sẽ dời đơn của các vị, chẳng
cho quư vị xem”. Từ đấy về sau, chẳng c̣n có chuyện ấy nữa. Thật ra, tôi
cũng không ở lâu dài nơi đó, tôi cũng rời
đi. Chuyện kiểu ấy thường có. Con số nơi
luân tướng này nhằm giúp cho người tu đạo
khi quư vị cảm thấy bất an đối với
nơi ḿnh đang ở, hăy hướng về Địa Tạng
Bồ Tát thưa hỏi! Điều này gọi là “nội
chướng” v́ là phiền năo trong tâm của chính ḿnh.
Quư vị tu đạo khởi lên chướng duyên, c̣n có
các chướng duyên ngoại lai nữa. Các đạo hữu
tại gia củng có thể sử dụng, cho đến
xem cho người khác cũng được, lợi lạc
trọn khắp!
(Kinh)
Nhất bách tam thập nhị giả, quán sở mộng vô
tổn hại.
(經)一百三十二者觀所夢無損害。
(Kinh:
Một trăm ba mươi hai: Quán giấc mộng chẳng
có tổn hại).
Mọi
người đều thường nằm mộng, có hảo
mộng, mà cũng có ác mộng. Nằm mộng rồi bèn gieo
luân tướng, [luân tướng] cho biết những
điều quư vị thấy trong mộng chẳng tổn
hại ǵ đối với quư vị, không sao cả!
(Kinh)
Nhất bách tam thập tam giả, quán sở mộng hữu
tổn hại. Nhất bách tam thập tứ giả, quán sở
mộng tinh tấn an. Nhất bách tam thập ngũ giả,
quán sở mộng vi cát lợi.
(經)一百三十三者觀所夢有損害。一百三十四者觀所夢精進安。一百三十五者觀所夢爲吉利。
(Kinh:
Một trăm ba mươi ba: Quán giấc mộng có tổn hại. Một trăm ba
mươi bốn: Quán giấc mộng là tinh tấn, an lạc.
Một trăm ba mươi lăm: Quán giấc
mộng là tốt lành, lợi ích).
Quán
giấc mộng có tổn hại: Giấc mộng ấy
báo trước với quư vị, tai nạn sắp xảy
đến. Giả sử quư vị gieo luân tướng,
được biết giấc mộng của chính ḿnh có tổn
hại, rất đơn giản! Quư vị lễ
bái Địa Tạng Vương Bồ Tát [tai nạn ấy] sẽ tiêu trừ.
Loại tai nạn này rất dễ tiêu trừ. Đoạn
này hoàn toàn là nói thêm mấy câu về giấc mộng. Mỗi
người chúng ta nằm mộng, có mấy loại mộng,
có loại là thị hiện những điều c̣n chưa
xảy đến, báo trước sự việc cho quư vị
sẽ có cảnh giới ǵ sắp xảy ra. C̣n có loại
mộng về chuyện đă qua, mộng về chuyện
quá khứ. Khi quư vị nằm mộng bèn có cảm giác ta
đă làm chuyện sai trái, chẳng nên làm như thế.
Thường có chuyện này! Vậy th́ khi quư vị gieo luân
tướng, cầu Địa Tạng Vương Bồ
Tát ngay lập tức chuyển hóa cho quư vị.
(Kinh)
Nhất bách tam thập lục giả, quán chướng loạn
tốc đắc ly.
(經)一百三十六者觀障亂速得離。
(Kinh: Một
trăm ba mươi sáu: Thấy chướng loạn mau
được ĺa khỏi).
C̣n
nữa, khi chúng ta tu hành, trong tâm bỗng dưng cảm thấy
bất an, sanh phiền bực, dấy lên phiền năo, có vấn
đề! Có vấn đề ǵ vậy? Hoặc là chuyện
tốt. Chuyện tốt là điều vui sướng, chẳng
dấy lên phiền năo. Hễ dấy lên phiền năo th́
đối với quư vị đều có chướng nạn,
quư vị hăy nhanh chóng khẩn cầu Địa
Tạng Bồ Tát! Lễ bái, gieo luân tướng, luân tướng
bèn cho quư vị biết: Sẽ rất nhanh chóng ĺa khỏi
các chướng nạn mà quư vị đang gặp phải
trong hiện tại. Khi chúng ta gặp phải chướng
nạn, cảm thấy tai nạn sắp xảy đến,
điều đầu tiên là hăy sám hối, sẽ có thể
tránh khỏi tai nạn nhỏ. Tai nạn lớn có thể
biến thành tai nạn nhỏ, biến thành chuyện quư vị
có thể khắc phục.
(Kinh)
Nhất bách tam thập thất giả, quán chướng nạn
tiệm đắc ly.
(經)一百三十七者觀障難漸得離。
(Kinh:
Một trăm ba mươi bảy: Quán chướng nạn
sẽ dần dần được rời ĺa).
Quư
vị mong rời ĺa lập tức, chẳng ĺa được,
dần dần rời khỏi.
(Kinh)
Nhất bách tam thập bát giả, quán chướng loạn
bất đắc ly.
(經)一百三十八者觀障亂不得離。
(Kinh:
Một trăm ba mươi tám: Quán chướng loạn chẳng
ĺa được).
Chuyện
này khiến cho quư vị khổ năo, cho nên cần phải
bái sám để ĺa khỏi tai nạn.
(Kinh)
Nhất bách tam thập cửu giả, quán chướng loạn
nhất tâm trừ.
(經)一百三十九者觀障亂一心除。
(Kinh:
Một trăm ba mươi chín: Quán chướng loạn,
nhất tâm trừ diệt).
Điều
này dành cho các vị tu Quán. Tâm quư vị có thể trừ
chướng loạn ấy. Quư vị dùng tu tâm, tu định
lực để trừ diệt. Trong đoạn kinh
văn này, Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ
dạy nhằm khiến cho chúng ta khi tu đạo có thể
an tâm, v́ nếu chính ḿnh không thể an tâm, trong khi bái sám, hăy
thỉnh Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Cho nên chúng ta phải
bái sám.
(Kinh)
Nhất bách tứ thập giả, quán sở nạn tốc
đắc thoát.
(經)一百四十者觀所難速得脫。
(Kinh:
Một trăm bốn mươi: Quán các nạn mau được
thoát khỏi).
Cái
tâm của bọn phàm phu chúng ta rất ít khi an tĩnh. Nói
chung là có các chướng nạn. Do vậy, khi quư
vị bái sám, hăy thỉnh cầu Địa Tạng
Vương Bồ Tát gia tŕ, khiến cho quư
vị mau chóng ĺa khỏi các tai nạn ấy.
(Kinh)
Nhất bách tứ thập nhất giả, quán sở nạn
cửu đắc thoát. Nhất bách tứ thập nhị
giả, quán sở nạn thọ suy năo. Nhất bách tứ
thập tam giả, quán sở nạn tinh tấn thoát. Nhất
bách tứ thập tứ giả, quán sở nạn mạng
đương tận.
(經)一百四十一者觀所難久得脫。一百四十二者觀所難受衰惱。一百四十三者觀所難精進脫。一百四十四者觀所難命當盡。
(Kinh:
Một trăm bốn mươi mốt: Quán tai nạn lâu ngày
mới được thoát. Một trăm bốn mươi hai: Quán do tai nạn mà bị suy vi, phiền năo. Một trăm
bốn mươi ba: Quán
tuy có tai nạn, nhưng
do tinh tấn mà thoát khỏi. Một trăm bốn mươi bốn: Quán do
tai nạn sẽ mất mạng).
Quư
vị lạy ngày đầu tiên, chẳng ĺa khỏi [tai nạn]. Lạy ngày thứ hai, tối
đa là bảy ngày, các tai nạn ấy đều có thể
ĺa khỏi. Có vị hôm nay bái sám xong, gieo luân tướng,
[thấy tai nạn đă] giảm nhẹ, nhưng chẳng
ĺa khỏi. Nhưng qua bảy ngày, tuyệt đối có thể
ĺa khỏi, lấy bảy ngày làm hạn. Trước khi
quư vị bái sám, hăy b́nh lặng, rất tốt, rất an
tĩnh. Nhưng khi quư vị bái sám th́ khác hẳn, trong khi lạy, đôi khi nghiệp quá
khứ hiện ra, có khi nghiệp hiện tại hiện
ra. Nghiệp chướng ấy vốn phải kéo dài đôi ba tháng, hoặc tới năm sau, hoặc năm sau nữa
mới hiện tiền. Do quư vị bái sám, nó bèn hiện ra
sớm. Quư vị mong tiêu diệt nó, nó cũng sẽ hiện
ra sớm. Nhưng tâm quư vị vững vàng, càng là như thế,
quư vị càng sám hối lễ bái nhiều hơn, càng cầu
Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. V́ sao nói là khi bái sám bèn
đau ḷng khóc lóc như thế? Một là để
tiêu tai nạn, hai là cảm tạ Địa Tạng
Vương Bồ Tát, cảm kích Địa Tạng
Vương Bồ Tát khiến cho tai nạn của quư vị
tiêu mất. Một lư do nữa là cuộc sống của
quư vị rất khó khăn, bỗng dưng có được
của cải hoặc thâu nhập ngoài ư muốn. Đó là
chuyện chẳng ngờ tới. Rất nhiều vấn
đề trong khi quư vị bái sám chẳng thể tưởng
tượng được. Nếu không, người ta tu
đạo để làm ǵ? V́ sao phải bái sám? Cầu gia
tŕ ḥng tiêu nghiệp chướng, sẽ có những cảm
nhận bất ngờ. Hễ có các cảm nhận bất
ngờ, cũng đừng nên quá hoan hỷ. Quá hoan hỷ sẽ
lại sanh ra ma chướng. Quư vị đă hoan hỷ, ma
chướng cũng sẽ đưa tới! Hăy nên giữ thái độ b́nh thường.
(Kinh)
Nhất bách tứ thập ngũ giả, quán sở hoạn
đại bất điều.
(經)一百四十五者觀所患大不調。
(Kinh:
Một trăm bốn mươi lăm: Quán thân tâm bất
an do Tứ Đại chẳng điều ḥa).
“Sở
hoạn” (所患) là nói đến
lúc thân tâm bất an, hoặc bị bệnh, hoặc chẳng
bị bệnh. Tuy không có bệnh, nhưng nẩy sanh phiền năo, mỗi vị đạo
hữu chúng ta đều có [lúc cảm nhận như thế].
Quư vị dễ dàng cảm nhận “đại bất điều”,
tức là Tứ Đại [chẳng điều
ḥa]. Thân thể chúng
ta hợp thành bởi Địa, Thủy, Hỏa, Phong,
chúng được gọi là Tứ Đại. Cộng
thêm Không, Căn, và Thức, mở rộng thành Thất
Đại. Bảy đại Địa, Thủy, Hỏa,
Phong, Không, Căn, và Thức chẳng điều ḥa. Vậy
th́ quư vị hăy lễ bái nhiều hơn [để cầu]
Tứ Đại điều ḥa, ḥa hợp.
(Kinh)
Nhất bách tứ thập lục giả, quán sở hoạn
phi nhân năo. Nhất bách tứ thập thất giả, quán sở
hoạn hợp phi nhân.
(經)一百四十六者觀所患非人惱。一百四十七者觀所患合非人。
(Kinh:
Một trăm bốn mươi sáu: Quán thân tâm bất an
chẳng phải do con người năo loạn. Một
trăm bốn mươi bảy: Quán thân tâm bất an là do
phi nhân [gây ra]).
Bỗng
dưng vô duyên vô cớ, quư vị cảm thấy chẳng
thoải mái, hoặc là chẳng cát tường, chẳng phải
đau mà cảm thấy đau, khiến cho sự bái sám của
quư vị nẩy sanh chướng ngại, bị quấy
nhiễu. Chúng ta nói là “ma quấy nhiễu” tức là
thân tâm bất an v́ “phi nhân” quấy nhiễu. “Phi
nhân” tức chẳng phải loài người, đó là quỷ
thần đến quấy nhiễu quư vị. Quư vị cứ
thành tâm tiếp tục lễ bái, lễ bái sẽ tiêu mất.
Một trăm tám mươi chín thứ là do sáu căn, sáu
trần, và sáu thức phát hiện, quư vị cầu Địa
Tạng Bồ Tát, chúng sẽ chuyển hóa rất nhanh chóng.
(Kinh)
Nhất bách tứ thập bát giả, quán sở hoạn khả
liệu trị.
(經)一百四十八者觀所患可療治。
(Kinh:
Một trăm bốn mươi tám: Quán bệnh đang bị
có thể chữa trị).
“Sở
hoạn” ở đây là bệnh tật do Tứ Đại
chẳng điều ḥa, bệnh ấy có thể chữa trị.
(Kinh)
Nhất bách tứ thập cửu giả, quán sở hoạn
nan liệu trị.
(經)一百四十九者觀所患難療治。
(Kinh:
Một trăm bốn mươi chín: Quán căn bệnh đang bị khó thể chữa
trị).
Có
căn bệnh hễ chữa trị bèn lành, có căn bệnh chữa trị rất khó khăn, phải tốn
thời gian rất lâu, quư vị phải sốt sắng bái
sám hơn! Mục đích của Chiêm Sát Luân là khiến cho
chúng ta biết. Sau khi đă biết, sẽ chuyển hóa
như thế nào, hoàn toàn chẳng phải là biết rồi
để đó!
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập giả, quán sở hoạn tinh tấn
sai. Nhất bách ngũ thập nhất giả, quán sở hoạn
cửu trường khổ.
(經)一百五十者觀所患精進差。一百五十一者觀所患久長苦。
(Kinh:
Một trăm năm mươi: Quán bệnh đang bị, sẽ do tinh tấn mà lành. Một trăm năm
mươi mốt: Quán do căn bệnh đang bị, sẽ chịu khổ lâu dài).
Chúng
ta đă biết là bị bệnh, làm thế nào để
không bệnh nữa? Đương nhiên là t́m thầy thuốc
chữa trị. Thầy thuốc trị chẳng lành, v́ có
rất nhiều bệnh phải tốn thời gian rất
dài mới khỏi
được. Sau khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân để
chiêm sát, hăy cầu Địa Tạng Bồ Tát chữa trị
quư vị. Kinh Địa Tạng đă dạy, nếu mạng
một người sắp hết, tuổi thọ đă hết, Địa Tạng
Bồ Tát sẽ tiếp dẫn quư vị đi, bảo cho
quư biết: “Thọ mạng của quư vị đă tận,
đừng chịu khổ ở đây nữa”. Nhục
nhăn của chúng ta thấy người ấy đă chết,
trên thực tế là Địa Tạng Vương Bồ
Tát tiếp dẫn người ấy ra đi; cũng có hiện
tượng này!
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập nhị giả, quán sở hoạn
tự đương sai.
(經)一百五十二者觀所患自當差。
(Kinh:
Một trăm năm mươi hai: Quán căn bệnh
đang bị sẽ tự khỏi).
Hoặc
là chữa trị, hoặc mặc kệ nó, vài ngày sau
cũng lành.
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập tam giả, quán sở hoạn
hướng y kham năng trị.
(經)一百五十三者觀所患向醫堪能治。
(Kinh:
Một trăm năm mươi ba: Quán căn bệnh có thể
t́m thầy thuốc trị liệu).
Quư
vị t́m thầy thuốc, thầy thuốc đến giúp
quư vị trị liệu.
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập tứ giả, quán sở liệu
thị đối trị.
(經)一百五十四者觀所療是對治。
(Kinh:
Một trăm năm mươi bốn: Quán cách chữa trị
là đúng bệnh).
Đây
là nói về pháp. Quư vị gieo Chiêm Sát Luân, [luân tướng]
nói quư vị là tham, nhưng bản thân quư vị chẳng
tham, hăy đối trị nó. Quư vị nói tham dẫn tới
khổ. Tham ăn th́ quư vị hăy bớt ăn. Thức
ăn ngon th́ quư vị cũng đừng ăn quá nhiều!
Ba nghiệp thân, khẩu, ư, tham, sân, si, ăn uống, cư
trụ, đi lại, Chiêm Sát Luân đă báo sẵn cho quư vị
biết, chỉ dạy, răn nhắc, cảnh cáo quư vị.
Quư vị hăy nên pḥng sẵn, th́ sẽ có thể trị liệu.
Có các trường hợp, Địa Tạng Vương Bồ
Tát bảo quư vị t́m thầy thuốc, quư vị t́m thầy
thuốc chữa trị căn bệnh ấy th́ sẽ
lành, thầy thuốc có thể chữa cho quư vị. [Gieo loại
luân tướng thứ ba đuợc tổng số] là một
trăm năm mươi bốn th́ có nghĩa là quư vị
chữa trị đúng cách. Nếu quư vị dấy lên phiền
năo th́ phải dựa vào trí huệ để đối trị:
Phải niệm nhiều kinh điển Đại Thừa,
hoặc là tĩnh tọa để tu Quán. Quán th́ mọi
người đă đều hiểu cả rồi, các
đạo hữu đă đều biết.
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập ngũ giả, sở phục
dược đương đắc lực.
(經)一百五十五者所服藥當得力。
(Kinh:
Một trăm năm mươi lăm: Thuốc uống
vào sẽ có hiệu quả).
Quư
vị uống thuốc ấy lâu một chút, v́ chẳng thể uống thuốc vào sẽ lành bệnh
trong một thời gian ngắn được. Uống lâu
ngày th́ mới có công hiệu.
Hoặc là thuốc dinh dưỡng, hay thuốc bổ, có ư
nghĩa như thế đó.
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập lục giả, quán sở hoạn
đắc trừ dũ. Nhất bách ngũ thập thất
giả, sở hướng y bất năng trị.
(經)一百五十六者觀所患得除愈。一百五十七者所向醫不能治。
(Kinh:
Một trăm năm mươi sáu: Quán căn bệnh
đang bị sẽ được lành. Một trăm
năm mươi bảy: T́m thầy thuốc nhưng chẳng
thể trị được).
“Sở
hướng y bất năng trị” nghĩa là quư vị
t́m thầy thuốc đến chữa trị cho quư vị,
họ chẳng trị được, bác sĩ chẳng thể
chữa trị!
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập bát giả, quán sở liệu phi đối
trị.
(經)一百五十八者觀所療非對治。
(Kinh:
Một trăm năm mươi tám: Chữa trị không
đúng cách).
Cách
chữa trị của quư vị không đúng với căn
bệnh ấy. Đặc biệt là bệnh phiền năo,
v́ trong ấy có rất nhiều bệnh phiền năo. Bác
sĩ chẳng thể chữa bệnh phiền năo, phải
cậy vào chính ḿnh. Chính ḿnh đoạn
phiền năo bằng cách nào? Quư vị phải tu Quán. Phép Quán
tối thượng thượng (最上上觀) đối
trị phiền năo là như thế nào? Trước hết,
quư vị t́m chỗ bắt nguồn của phiền năo. Trong tâm vô duyên
vô cớ phiền bực, mất hứng, thấy ǵ
cũng ngứa mắt, chúng ta thường nói là “nghiệp
chướng phát hiện”, v́ bảy đại Địa,
Thủy, Hỏa, Phong, Không, Căn, Thức bên trong chẳng
điều ḥa. Do bảy đại rối loạn, cho nên chẳng điều
ḥa. Quư vị phải nên đối trị chúng nó. Đối
trị như thế nào? Bác sĩ chẳng có cách nào kê toa
được! Quư vị điều
ḥa cái tâm, chứ uống thuốc chẳng thể khỏi
được!
(Kinh)
Nhất bách ngũ thập cửu giả, sở phục
dược bất đắc lực.
(經)一百五十九者所服藥不得力。
(Kinh:
Một trăm năm mươi chín: Thuốc uống vào chẳng
có hiệu quả).
Thuốc
này chẳng trị lành căn bệnh ấy. Tâm bệnh th́
vẫn phải nên dùng tâm dược để trị. Dùng
cái tâm của chính ḿnh để biến thành thuốc chữa
trị, vậy th́ quư vị hăy tu Quán.
(Kinh)
Nhất bách lục thập giả, quán sở hoạn mạng
đương tận.
(經)一百六十者觀所患命當盡。
(Kinh:
Một trăm sáu mươi: Do bị bệnh mà mạng sẽ
hết).
Không chỉ chẳng trị hết bệnh, thọ mạng của quư vị đă hết, đă tới rồi! Nếu các đạo hữu chúng ta biết chính ḿnh sống thêm một tháng nữa sẽ chết, tôi thấy trong một tháng ấy, quư vị rất tinh tấn, quư vị niệm Phật hoặc tu tập ǵ cũng đều hết sức đắc lực, thứ ǵ cũng chẳng hao phí, do biết chính ḿnh sắp chết. Nhưng nếu vẫn mong sống thêm th́ phải làm như thế nào? Quư vị phải dùng Chiêm Sát Luân, lạy Chiêm Sát Sám, hoặc lễ Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật để kéo dài thọ mạng. Nhưng nói theo tứ chúng đệ tử chúng ta th́ thông thường là chán nhàm thế giới này, [biết chính ḿnh] sắp chết, có người rất cao hứng: “Ta có thể ĺa khỏi!” Có kẻ rất ủ rũ, sợ chết, sợ rất