Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 3

占察善惡業報經

隋天竺沙門菩提登譯

夢參老和尚講

(giảng lần thứ ba năm 2009)

Hán dịch: Thiên Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời Tùy

Chủ giảng: Lăo ḥa thượng Mộng Tham

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo phiên bản đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo -https://www.liaotuo.com)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

Tập 7

 

          Các chúng sanh như thế do nghiệp có dày, mỏng; căn cơ có lợi, độn, sai biệt vô lượng, hoặc mười bốn ngày sau bèn được thanh tịnh, hoặc sau hai mươi mốt ngày, cho đến bốn mươi chín ngày sau, sẽ được thanh tịnh. Nếu quá khứ lẫn hiện tại đều có các thứ trọng tội tăng thượng, sẽ trải qua một trăm ngày bèn được thanh tịnh. Hoặc là qua hai trăm ngày, cho đến trải qua một ngàn ngày, bèn được thanh tịnh. Nếu là kẻ căn cơ cực độn, tội chướng nặng nhất, chỉ nên phát tâm dũng mănh, chẳng đoái tiếc thân mạng, thường siêng năng xưng niệm, ngày đêm đi nhiễu (đi kinh hành), giảm bớt ngủ nghê, lễ sám, phát nguyện, vui thích tu cúng dường, chẳng lười nhác, chẳng bỏ phế, cho đến mất mạng vẫn chẳng thôi nghỉ. Tinh tấn như thế, trong một ngàn ngày, ắt đạt được thanh tịnh.

          Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo dùng luân tướng thanh tịnh để chứng minh, v́ bản thân chúng ta chẳng biết nghiệp chướng của chính ḿnh rốt cuộc là nhẹ hay nặng. Trước khi quư vị bái sám, đương nhiên là dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát một phen; sau đấy, bắt đầu bái sám. Trải qua bảy ngày, vào mỗi sáng sớm, phải ở trong Phật đường, trước khi bái sám bèn dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát xem nghiệp của chính ḿnh là nhẹ hay nặng. Đương nhiên, thoạt đầu, khi quư vị bắt đầu sử dụng Chiêm Sát Luân, hằng ngày bái sám, luân tướng sẽ dần dần dấy lên biến hóa. Cũng có khi trải qua bảy ngày, hoặc mười bốn ngày mà [kết quả hiện ra nơi luân tướng] chẳng biến hóa to lớn, cho thấy nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng, hoặc là do trong khi bái sám, tâm chẳng chí thành. Tâm chẳng chí thành, chẳng thể tiêu tội nghiệp được! Trong khi bái sám, do trong quá khứ quư vị đă tạo nghiệp, có nghiệp rất nặng, có nghiệp rất mỏng, chẳng nặng nề. Căn cơ của mỗi người th́ cũng có kẻ lợi căn, kẻ độn căn; v́ độn căn th́ trí huệ rất nông cạn, ít ỏi. Do vậy, khi quư vị bái sám, rất khó tương ứng. Nếu càng chẳng tương ứng, quư vị càng phải nên phát tâm chí thành sám hối gấp bội. Đă là nghiệp quá khứ rất nặng, do hiệu quả bái sám của quư vị trong nhất thời th́ vẫn chẳng đạt được thành quả. Tức là quư vị bái sám, hằng ngày đều phải dùng Chiêm Sát Luân để chiêm nghiệm chính ḿnh hiện thời đă sám trừ được nghiệp chướng hay chưa? Luân tướng sẽ cho quư vị biết. Nếu quư vị sám hối bảy ngày, mười bốn ngày mà [kết quả hiện ra bởi] luân tướng vẫn là như thế, th́ có hai loại t́nh huống:

          - Một là nghiệp chướng nặng nề.

          - Hai là quư vị chẳng chí tâm. Khi bái sám, chẳng thành khẩn!

          Khi quư vị vào sám thất, phải mong liễu sanh tử. Quư vị phải có cái tâm mong liễu sanh tử th́ mới có thể thay đổi sanh tử. Nếu tâm coi thường, tâm ngạo mạn, tợ hồ thuận theo đại chúng niệm Phật, nhưng tâm chẳng chí thành, khi gieo luân tướng, quư vị sẽ chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh. V́ căn cơ của chúng ta có lợi và độn, lợi căn th́ vừa lạy liền đạt được tương ứng rất dễ dàng. Độn căn th́ quư vị lạy bảy ngày, mười bốn ngày, thậm chí lạy suốt một, hai tháng, vẫn chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh, cho thấy nghiệp quá khứ rất nặng. Quư vị phải nên bi ai sám hối, chí thành, khẩn thiết lễ bái. Có vị phải trải qua hai mươi mốt ngày, hoặc bảy lần bảy tức bốn mươi chín ngày mà luân tướng vẫn cho thấy [nghiệp chướng] rất nặng. Quư vị cứ tiếp tục lễ bái, v́ chúng ta bái sám nhằm mục đích tu đạo được thành tựu. Khi nghiệp chướng của quư vị rất nặng, quư vị tu Quán hoặc tu Định sẽ chẳng thành tựu. Quư vị ắt cần phải trong lúc bái sám, biết tội của chính ḿnh đă thanh tịnh, đó gọi là “nghiệp chướng tiêu mất”. Sau đấy, quư vị tu Định, sẽ có thể rất nhanh chóng đạt được thành tựu.

          Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo chúng ta: Đối với nghiệp đă tạo, có nghiệp rất nặng, rất dày, có nghiệp chướng rất nhẹ, căn cơ của người ấy th́ sao? “Căn” tức là sáu căn, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, có lợi căn và độn căn. Lại c̣n có lúc trong khi bái sám, đang lễ bái bèn ngă bệnh, hoặc phát sanh các thứ bệnh tật, [khiến cho] quư vị lễ bái chẳng thành công. Trong ấy có rất nhiều sai biệt, hoàn toàn chẳng phải là ai nấy đều có thể lễ bái, đều rất thanh tịnh. Điều này không giống như chúng ta theo đại chúng niệm Phật, chẳng biểu hiện ra, đợi cho đến khi chính ḿnh một ḿnh bái sám, sẽ [cảm nhận] rất rơ ràng. Rất nhiều đạo hữu nói nghiệp chướng của chính ḿnh rất nặng, “tội của tôi rất lớn. Người đó tự nói th́ được, giả sử người khác nói tội của quư vị rất lớn, nghiệp chướng của quư vị rất nặng”, ngay lập tức, kẻ đó sẽ bực bội, dấy lên phiền năo ngay. Người đó tự ḿnh khách sáo, khiêm hư, có ư nghĩa như thế đó, nhưng luân tướng chẳng khách sáo đối với quư vị. Nghiệp của quư vị khá nặng, [luân tướng bèn biểu hiện] khá nặng. Người ta sám hối bảy ngày bèn thanh tịnh, quư vị sám hối bảy mươi ngày, nghiệp vẫn bất động. Đó thật sự gọi là “nghiệp chướng nặng nề”.

          T́nh huống lúc bái sám khác nhau: Có lúc thời gian [sám hối] ngắn ngủi mà nghiệp chướng đă thanh tịnh; sau đó, lại tu Định, tu Huệ, rất dễ khai trí huệ. Nghiệp chướng nặng nề th́ sẽ chẳng mở mang trí huệ to lớn, quư vị bèn tiếp tục lễ bái. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói quư vị trải qua một trăm ngày, hai trăm ngày, thậm chí một ngàn ngày mà vẫn chẳng có luân tướng thanh tịnh. V́ kẻ đó hết sức độn căn, nhiều đời, nhiều kiếp đều chẳng được nghe Phật pháp. Do vậy, lần này quư vị gặp gỡ, tuy gặp gỡ nhưng do nghiệp chướng trong quá khứ nặng nề, [cho nên] hiện thời từ đầu đến cuối, chẳng dễ đạt được luân tướng thanh tịnh. Đấy là kẻ căn cơ rất độn, nhiều đời bao kiếp vẫn chưa gặp gỡ Phật pháp, tội chướng nặng nề nhất. Nếu thuộc vào t́nh huống này, luân tướng sẽ chẳng hiện, hoặc vẫn hiện ra tội nghiệp rất nặng. Quư vị phải phát tâm dũng mănh, liều ḿnh. Liều ḿnh tranh đấu với tội nghiệp của chính ḿnh, chẳng đoái tiếc thân mạng mà sám hối như thế đó. Đồng thời, phải luôn siêng năng xưng danh, tức là xưng niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, chẳng phân biệt ngày đêm, ngày lẫn đêm đều đi kinh hành. Nghiệp chướng càng nặng, quư vị càng phải giảm bớt ngủ nghê để sám hối nhiều hơn. Lại c̣n phải tu cúng dường, chớ nên giải đăi như thế. Chớ nên bỏ phế, thậm chí dẫu tử vong, từ đầu đến cuối chẳng ngưng nghỉ, cứ một mực lễ bái. Tới khi quư vị sắp chết, Địa Tạng Bồ Tát hiện ra, tiêu trừ nghiệp chướng cho quư vị. Nếu tinh tấn như vậy trong một ngàn ngày (đại khái là trong thời gian ba năm), quư vị nhất định đạt được luân tướng thanh tịnh.

          Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta phải dũng mănh tinh tấn, đừng nên thoái thất đạo tâm. Trong khi bái sám, tâm quư vị bèn phát nguyện, phát nguyện ǵ vậy? Đạt tới thanh tịnh mới thôi! Nguyện lực của quư vị là ta phải bái sám sao cho ba nghiệp thân, khẩu, ư của chính ḿnh đều thanh tịnh. Đó là thành tựu cơ bản; sau đấy, tu hai loại quán đạo, sẽ nhất định có thể thành tựu. Nếu trong khi bái sám mà chẳng có luân tướng thanh tịnh, một mực chẳng thanh tịnh, th́ khi quư vị tu đạo sẽ chẳng thể thành tựu. V́ thế, trước hết, quư vị phải sám trừ sạch sẽ các tội. Trong nửa sau của bộ kinh này, Địa Tạng Vương Bồ Tát mới dạy quư vị tu Định như thế nào, tu Huệ như thế nào, tức là tu hai loại quán đạo nơi cảnh giới Nhất Thật. Nếu luân tướng chẳng thanh tịnh, khi quư vị tu đạo, sẽ chẳng thể thành tựu!

          C̣n phải nên chú ư, khi kẻ khác khinh mạn quư vị, hoặc là nói năng hay hành xử cũng thế, đó chính là diệt tội cho quư vị, chứng tỏ [tội nghiệp từ đời trước của quư vị] đă tiêu mất. Càng có nhiều người khinh miệt quư vị, quư vị có thể nhận biết: “Do nghiệp chướng của chính ḿnh nặng nề, cho nên ta chẳng được người khác cung kính. Chính là lúc ta phải nên sám hối tội lỗi thật kỹ!” Bởi lẽ, khi nghiệp chướng nặng nề, phước đức của quư vị chẳng thể hiện tiền. Chẳng có phước đức, đương nhiên là người ta coi thường quư vị. Khi quư vị có phước đức, người khác sẽ cung kính quư vị. Các đạo hữu thuộc hai chúng tại gia khi thân cận các vị sư phụ xuất gia, thường thấy sư phụ đối với các vị bất đồng, v́ sư phụ đối với người khác th́ rất khách sáo, c̣n đối với quư vị th́ có thái độ hết sức khó chịu. Đương nhiên là quư vị nẩy sanh phiền năo, v́ cho rằng sư phụ không công bằng, trong tâm rất bực bội, chẳng hề biết sư phụ đang tiêu nghiệp chướng cho quư vị. Trong quá khứ, vào đời Đường, có vị TTướng tên là Ngư Triều Ân. Khi quốc sư vào hoàng cung thuyết pháp, Ngư Triều Ân[1] bèn hướng về quốc sư thỉnh pháp. Quốc sư chẳng đếm xỉa tới ông ta, lại c̣n phê phán. Ông ta thỉnh pháp ǵ vậy? Ông ta hỏi quốc sư: “Vô minh do đâu mà khởi?” Quốc sư bảo: “Ngươi là kẻ nô tài mà c̣n thưa hỏi Phật pháp nỗi ǵ?” Ngư Triều Ân đùng đùng nổi giận: “Ta là nô tài của hoàng thượng, chẳng phải là nô tài của ḥa thượng nhà ngươi! Ta là Tể Tướng, chỉ ở dưới hoàng thượng, nhưng trên hết thảy chúng sanh, sao ngươi dám khinh rẻ ta như vậy?” Ông ta hỏi quốc sư: “Phiền năo từ đâu sanh khởi? Phiền năo là ǵ?” [Thật ra] ông ta hỏi về “vô minh”, chúng tôi đổi thành “phiền năo” [cho dễ hiểu]. “Vô minh từ đâu sanh khởi? Vô minh là ǵ?” Quốc sư không chỉ chẳng trả lời, mà c̣n quở: “Ngươi là hạng nô tài mà c̣n muốn thưa hỏi Phật pháp!” V́ vậy, ông ta nổi cáu. Khi ông ta nổi giận, quốc sư bèn bảo: “Vô minh sanh khởi từ đó. Đó chính là vô minh”. Ngư Triều Ân ngay lập tức khai ngộ, đảnh lễ quốc sư. Đó gọi là nhân duyên thuyết pháp, v́ hết thảy chúng sanh đều tự hướng về người khác nói: “Tôi nghiệp chướng rất nặng”. Tôi thường nghe các đạo hữu thổ lộ: “Tôi nghiệp chướng rất nặng”; chính kẻ đó có thể nói [như vậy], nhưng nếu quư vị bảo kẻ đó: “Ngươi nghiệp chướng rất nặng, c̣n đến học Phật pháp à?” Kẻ đó nhất định sẽ giận tím mặt; đó là biểu hiện của nghiệp chướng!

          Khi chúng ta sám hối, bản thân chúng ta bái sám, vị được bái là Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát là sám chủ. Trong khi quư vị sám hối tội lỗi, khi lạy Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát đă sám hối thay cho quư vị. Trong khi quư vị lạy Quán Âm để sám hối, Quán Âm thay quư vị sám hối. Bản thân chúng ta phải nên lư giải: Phàm là các đạo hữu bái sám, quư vị hướng về Địa Tạng Bồ Tát cầu sám hối. Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ, giúp quư vị sám hối, khiến cho nghiệp chướng của quư vị sẽ thanh tịnh rất nhanh chóng. Khi quư vị sám hối, do chính ḿnh rất nóng ḷng, hận chẳng thể ngay lập tức sám hối thanh tịnh tội nghiệp. Địa Tạng Bồ Tát cũng v́ cái nguyện ấy, nguyện cho hết thảy chúng sanh chẳng có tội nghiệp. Địa Tạng Bồ Tát cũng giúp quư vị sám hối, nhưng quư vị phải chẳng đoái tiếc thân mạng mà sám hối.

          Trong lịch sử, có một người tu hành, tu hành trong hang động. Ông ta vốn tu hành trong hang động, do cảm thấy [cứ tu] như thế th́ cơ hội thành công quá ít, bèn ra ngoài sơn động, ngồi nơi vách đá cheo leo. Ở trong hang, Thùy Miên Cái rất nghiêm trọng, tu hành cứ ngủ gục măi. Ông ta tự đặt ḿnh vào tử địa, v́ ngồi vách núi ấy chẳng thể ngủ gật. Hễ ngủ gật, sẽ té xuống, chẳng phải là ngă chết tươi ư? Đó là ư nghĩa “đặt ḿnh vào chỗ chết để sống c̣n!” Ông tĩnh tọa nơi vách núi tu Tư Duy (tu Thiền Định). Thân thể chẳng thể kiên tŕ lâu được, tĩnh tọa bèn hôn trầm, rớt lọt khỏi vách đá. Thần hộ pháp liền lôi ông ta lên. Được thần hộ pháp đỡ lên, ông ta nói với thần hộ pháp: “Trong Nam Thiệm Bộ Châu, người tu hành giống như tôi chắc là rất ít?” Thần hộ pháp bảo: “Người tu hành giống như ông quá nhiều. Thân ḅ có bao nhiêu lông? Rất nhiều! Ông đừng sanh kiêu tâm, mạn tâm. Đối với kẻ có cái tâm [kiêu ngạo] giống như ông, ăn nói [lớn lối] như ông, trong năm trăm đại kiếp, ta sẽ chẳng đến hộ pháp cho ông”. Thần hộ pháp bỏ đi. Vị lăo tu hành ấy suy nghĩ: “Thoạt đầu, tôi cũng đâu có yêu cầu ông hộ pháp? Ông có che chở hay không, tôi vẫn cứ tu hành y hệt!” Ông ta lại ngồi, lại dùng phép Quán để tu hành. Thân thể lại không thể duy tŕ lâu dài nổi, vừa tĩnh tọa lại hôn trầm, ông ta lại rơi xuống. Hộ pháp lại cứu ông ta lên. Ông ta hỏi thần hộ pháp: “Ông nói trong năm trăm đời chẳng hộ pháp cho tôi, v́ sao lại tới nữa?” Thần nói: “Một niệm tâm tinh tấn của ông vượt khỏi năm trăm đại kiếp”, tức là do một niệm tinh tấn vượt hơn năm trăm đại kiếp [mà thần hộ pháp cứu ông ta].

          Từ câu chuyện này, chúng ta hiểu rơ: Khi chúng ta tu pháp sám hối, quư vị phải kiên tŕ, tinh tấn, dũng mănh, v́ hết thảy các vị thần hộ pháp và Bồ Tát đều hộ tŕ quư vị, chẳng cần phải băn khoăn. Sở dĩ Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta xưng niệm danh hiệu của Ngài v́ xưng danh dễ dàng nhất. Quư vị lạy, đảnh lễ, bái sám, lại c̣n tụng niệm kinh văn, tức là niệm danh hiệu Địa Tạng, nhưng quư vị phải niệm danh hiệu ấy đến mức nhất tâm bất loạn. Cho tới khi quư vị niệm đến mức trong tâm hết sức hoan hỷ, niệm tan sạch mệt mỏi và buồn ngủ, đó là tương ứng. Tâm của quư vị và tâm của Địa Tạng Bồ Tát tương ứng, đó là cảm. Hễ cảm, sẽ được Bồ Tát ứng. Khi chúng ta tu hành, thường cầu cảm ứng. Chớ nên cầu cảm ứng, chỉ cầu bản thân quư vị tu hành dụng công như thế nào? Điều này chính quư vị rất rơ ràng, v́ công lực sẽ tự nhiên tương ứng. Quư vị tu hành là cảm; do sức mạnh của cảm mà Bồ Tát liền tự nhiên ứng. Quư vị cảm mà không có sức, chỉ cầu suông Bồ Tát ứng hiện, sẽ chẳng thể được! V́ đây chẳng phải là chuyện một phía, phải là song phương. Do vậy, khi quư vị tu đạo, chỉ nên cầu chính ḿnh. Đừng nên mới vừa tu hành đă mong cầu được Bồ Tát gia tŕ, cảm ứng, chẳng thể được! Khi công lực của quư vị đạt tới một mức độ nào đó, [Bồ Tát] sẽ ứng với mức độ ấy. Quư vị chẳng có công lực, sẽ chẳng ứng!

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược dục đắc tri thanh tịnh tướng giả, thỉ tùng tu hành quá thất nhật hậu, đương ưng nhật nhật ư thần triêu đán, dĩ đệ nhị luân tướng cụ an thủ trung, tần tam trịch chi. Nhược thân, khẩu, ư giai thuần thiện giả, danh đắc thanh tịnh.

          ()善男子。若欲得知清淨相者。始從修行過七日後。當應日日於晨朝旦。以第二輪相具安手中。頻三擲之。若身口意皆純善者。名得清淨。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu muốn biết tướng thanh tịnh, thoạt đầu sau khi đă tu bảy ngày, hăy nên hằng ngày vào lúc sáng sớm, cầm loại luân tướng thứ hai trong tay, lần lượt gieo ba lần [cho mỗi nghiệp]. Nếu thân, miệng, ư đều thuần thiện, th́ gọi là “đạt được thanh tịnh”).

 

          Địa Tạng Bồ Tát lại nói: - Thiện nam tử! Nếu ông mong có được luân tướng thanh tịnh, sau khi ông đă tu hành, lễ Chiêm Sát Sám bảy ngày, bảy ngày đầu chớ nên dùng Chiêm Sát Luân. Bảy ngày sau, vào sáng sớm mỗi ngày, lúc vừa mới vào sám thất, hăy dùng loại luân tướng thứ hai. Luân tướng có ba loại, loại luân tướng thứ hai chỉ có ba khối, chỉ nhằm mục đích biện định thân, khẩu, ư của quư vị có thanh tịnh hay không? Quư vị dùng ba cái luân này để gieo, nhằm biện định rơ tam luân thân, khẩu, ư. Nếu khẩu nghiệp thanh tịnh th́ [luân tướng đề chữ “khẩu nghiệp”] hiện ra có màu đỏ. Quư vị xem thân, khẩu, ư của chính ḿnh, nghiệp nào thanh tịnh, [luân tướng tương ứng với nghiệp ấy] sẽ hiện ra mặt luân có màu đỏ. Nếu thân, khẩu, ư đều chẳng thanh tịnh, vẫn c̣n màu đen, tức là quư vị tu hành vẫn chưa đạt tới mức chuyển biến được nghiệp, vẫn chẳng chuyển biến, chẳng lay chuyển nghiệp được. Do vậy, nghiệp vẫn giống y hệt như cũ. Nếu quư vị gieo cả ba lượt (gieo thân luân, khẩu luân, ư luân, mỗi cái luân một lượt), nếu toàn là màu đỏ, chẳng có màu đen, th́ là thuần thiện, là thanh tịnh. Nếu có chút đen, [tức là] dẫu một luân tướng có vạch màu đen nhỏ th́ cũng chẳng tính là thanh tịnh. Nhưng sáng sớm hôm nay, quư vị đă gieo được [luân tướng] thanh tịnh, quư vị lại lễ bái suốt một ngày, sáng sớm hôm sau gieo luân tướng, nó lại chẳng thanh tịnh, tức là sự thanh tịnh của quư vị chẳng triệt để. Ắt cần phải hằng ngày, lúc nào gieo cũng đều thanh tịnh, đều là màu đỏ, sẽ biết sự tu hành của quư vị đă thành tựu, sẽ chẳng đọa vào tam ác đạo. Quư vị mong cầu [văng sanh] thế giới Cực Lạc, chắc chắn sẽ có thể sanh được!

 

          (Kinh) Như thị vị lai chư chúng sanh đẳng, năng tu hành sám hối giả, tùng tiên quá khứ cửu viễn dĩ lai, ư Phật pháp trung, các tằng tập thiện. Tùy kỳ sở tu hà đẳng công đức, nghiệp hữu hậu, bạc, chủng chủng biệt dị. Thị cố bỉ đẳng đắc thanh tịnh thời, tướng diệc bất đồng: Hoặc hữu chúng sanh đắc tam nghiệp thuần thiện thời, tức cánh đắc chư dư hảo tướng. Hoặc hữu chúng sanh đắc tam nghiệp thiện tướng thời, ư nhất nhật, nhất dạ trung, phục kiến quang minh biến măn kỳ thất. Hoặc văn thù đặc dị hảo hương khí, thân ư khoái nhiên. Hoặc tác thiện mộng, mộng kiến Phật thân lai vị tác chứng, thủ ma kỳ đầu, thán ngôn: “Thiện tai! Nhữ kim thanh tịnh, ngă lai chứng nhữ”. Hoặc mộng kiến Bồ Tát thân lai vị tác chứng. Hoặc mộng kiến Phật h́nh tượng phóng quang nhi vị tác chứng.

          ()如是未來諸衆生等。能修行懺悔者。從先過去久遠以來。於佛法中各曾習善。隨其所修何等功德。業有厚薄種種別異。是故彼等得清淨時。相亦不同。或有衆生得三業純善時。即更得諸餘好相。或有衆生得三業善相時。於一日一夜中復見光明遍滿其室。或聞殊特異好香氣。身意快然。或作善夢。夢見佛身來爲作證。手摩其頭。嘆言善哉。汝今清淨。我來證汝。或夢見菩薩身來爲作證。或夢見佛形像放光而爲作證。

          (Kinh: Các chúng sanh trong đời vị lai có thể tu hành, sám hối như thế là do đă tu tập từ quá khứ lâu xa trước kia đến nay, ai nấy đă từng tu thiện trong Phật pháp, tùy theo sự tu tập mà đạt được các công đức như thế nào, nghiệp có dày hay mỏng đủ loại sai khác. V́ thế, khi họ đạt được thanh tịnh, tướng cũng khác nhau. Hoặc là có chúng sanh khi ba nghiệp được thuần thiện, liền đạt được các hảo tướng khác. Hoặc có chúng sanh khi đạt được thiện tướng nơi tam nghiệp, trong một ngày một đêm, lại thấy quang minh trọn khắp cả nhà. Hoặc ngửi thấy mùi thơm đặc biệt lạ lùng, thân ư vui sướng. Hoặc có giấc mộng tốt lành, mộng thấy Phật đích thân đến làm chứng, đưa tay xoa đầu, khen rằng: “Lành thay! Nay ông thanh tịnh, ta đến làm chứng cho ông”. Hoặc mộng thấy Bồ Tát đích thân đến làm chứng. Hoặc mộng thấy h́nh tượng Phật phóng quang để làm chứng).

 

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu các chúng sanh trong vị lai muốn dùng Chiêm Sát Sám Pháp để tu hành, sám hối, quư vị chẳng biết các nghiệp đă tồn tại từ trong quá khứ của chính ḿnh là lâu hay gần, là cạn hay sâu, trong quá khứ đă tu hành Phật pháp hay chưa, đă nghe pháp rất sâu hay chưa, đă trọn đủ rất nhiều công đức trong Phật môn hay chưa, quư vị đều chẳng biết. Các nghiệp đă tạo nặng hay nhẹ, dày hay mỏng, đủ loại sai khác. Do vậy, khi quư vị gieo Chiêm Sát Luân thanh tịnh, cũng hiện tướng bất đồng. Chẳng hạn như khẩu nghiệp thanh tịnh, v́ nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, thốt lời thô ác, toàn bộ [các ác nghiệp ấy đă] chẳng c̣n, [luân tướng] sẽ hiện vạch đỏ dài và to. Nếu chỉ là đỏ đôi chút th́ là vừa mới thanh tịnh, c̣n nhẹ. Nhẹ, nặng, dày, mỏng, đối với ác nghiệp [củng luận định] như thế!

          Khi quư vị gieo Chiêm Sát Luân, do toàn bộ ba nghiệp thân, miệng, ư thuần thiện, chẳng có chút tỳ vết nào. “Năi chí chư dư hảo tướng” (cho đến các tướng tốt lành khác): Do quư vị đă đạt được thiện tướng ba nghiệp thanh tịnh, c̣n có các điều khác sẽ theo đến. Những điều nào sẽ theo đến? Ban đêm, quang minh chiếu trọn khắp. Ở trong sám thất của quư vị toàn là quang minh. Ban đêm vốn tối tăm, nhưng trong sám thất của quư vị toàn là quang minh. Đấy là một loại [tướng hảo]. C̣n có mùi thơm đặc biệt thù thắng, chẳng phải là mùi thơm như đốt đàn hương trong nhân gian, ngửi thấy loại hương đặc biệt. Đồng thời, thân thể của quư vị cảm thấy hết sức vui sướng. Sự vui sướng ấy chẳng phải là sự vui sướng thông thường của chúng ta. Đó gọi là “thiện tướng”. Hoặc là nằm mộng thấy ở cùng một chỗ với chư Phật, Bồ Tát, hoặc cùng với các vị đại Bồ Tát tham gia hội thuyết pháp của một đức Phật nào đó. Hoặc mộng thấy Phật tới làm chứng cho quư vị: “Này thiện nam tử! Ông đă thanh tịnh”. Ngài giơ tay xoa đầu quư vị, tán thán: “Lành thay! Lành thay! V́ ông nay đă thanh tịnh, ta đến chứng minh cho ông”. Hoặc mộng thấy Bồ Tát đến làm chứng, hoặc mộng thấy tượng Phật phóng quang minh. Tôi nghĩ chư vị đạo hữu là người tu hành có thể đều đă trải qua, nhưng đấy có phải là liễu sanh tử hay không? “Tử” là chuyện nhất thời, thiện tướng chẳng thể chứng minh [hành giả] đă liễu sanh tử. Quư vị vẫn phải tiếp tục tu. Nếu mỗi ngày đều có hiện tượng này th́ là quyết định. Hoặc trong lúc quư vị bái sám, có lúc rất tương ứng, có hiện tượng ấy; sau một khoảng thời gian, lại chẳng có, do nghiệp phát hiện, vẫn chưa quyết định. Nói cách khác, quư vị vẫn chưa dự vào Sơ Trụ, v́ tín tâm của quư vị vẫn chưa viên măn! Nếu loại hiện tượng này thường hiện tiền, chứng tỏ tín tâm của quư vị đă viên măn, ba nghiệp thanh tịnh, tức ba nghiệp thân, khẩu, ư đều thanh tịnh. Trong khi ấy, lúc quư vị tu đạo, tu Định bèn đắc Định, tu Huệ bèn đắc Huệ. Chúng tôi nêu một thí dụ, hoặc là niệm kinh Pháp Hoa, niệm kinh Hoa Nghiêm, niệm kinh Lăng Nghiêm, thậm chí quư vị niệm Tứ A Hàm, b́nh thường quư vị xem mà chẳng hiểu nghĩa lư. Cho đến khi quư vị đă lạy được luân tướng thanh tịnh, không chỉ hiểu toàn bộ, mà c̣n tiến nhập. Đó gọi là “đă khai huệ”.

 

          (Kinh) Nhược nhân vị đắc tam nghiệp thiện tướng, đản tiên kiến văn như thử chư sự giả, tắc vi hư vọng, cuống hoặc, trá ngụy, phi thiện tướng dă.

          ()若人未得三業善相。但先見聞如此諸事者。則爲虛妄誑惑詐僞。非善相也。

          (Kinh: Nếu ai chưa đạt được thiện tướng nơi ba nghiệp, chỉ là trước đó đă thấy nghe các sự như thế th́ đó là hư vọng, dối trá, gạt gẫm, trá ngụy, chẳng phải là thiện tướng).

 

          Nếu quư vị chẳng được hiện tướng [thanh tịnh] nơi ba nghiệp, tức là hiện tướng [thanh tịnh] nơi ba nghiệp thân, khẩu, ư, nhưng trước đó, đă nghe người khác nói, quư vị cũng tự cho là ḿnh đă đạt được. Đó gọi là hư vọng, dối trá, gạt gẫm, chẳng thật! Những thứ đó tuyệt đối chẳng phải là thiện tướng. Đoạn kinh văn này nhằm dạy quư vị: Trong khi quư vị bái sám, sẽ có các tướng cảnh giới phát sanh. Ba nghiệp của quư vị chẳng thanh tịnh th́ hễ có các hiện tượng ấy, chúng sẽ toàn là giả trất, hư dối. Quư vị ắt phải đạt được luân tướng tương ứng! V́ sao phải có luân tướng, phải chiêm sát? Hễ luân tướng tương ứng th́ có người trong mộng thấy các tướng cảnh giới, đó là chân thật. [Hoặc là] bỗng dưng ngửi thấy trong thất của ta có mùi rất thơm, cho đến thấy sám thất phóng quang, cho đến nằm mộng rất tốt lành. Thế nhưng luân tướng của ta chưa thanh tịnh, chứng tỏ các điều ấy đều là ma, ma tới quấy nhiễu quư vị. Quư vị ắt cần phải bái sám cho đến khi luân tướng thanh tịnh; sau đó, gặp gỡ các thiện sự ấy. Đó gọi là “cảnh giới thù thắng”. V́ khi chúng ta bái sám, học Chiêm Sát Sám Pháp, cho đến học Từ Vân Sám Pháp[2], hoặc học Quán Âm Sám Pháp, sám pháp nào cũng đều như nhau: Hễ tâm quư vị vẫn chưa thanh tịnh mà mộng thấy các tướng cảnh giới, th́ chúng đều là hư dối, gạt gẫm, chẳng phải là chân thật. Ngàn vạn phần đừng bị ma chuyển, chớ nên cao hứng. Hễ cao hứng quá sớm, sẽ dễ nhập ma cảnh!

           V́ sao chúng ta dựa theo Chiêm Sát Sám Pháp để sám hối? Ở đây, Địa Tạng Bồ Tát sẽ gia tŕ chúng ta, khiến cho quư vị chẳng bị rơi vào ma cảnh, nương theo pháp để cầu, nương theo pháp để hiện, tuyệt đối thanh tịnh, chẳng hư huyễn, lầm lạc. Nếu chúng ta tu các sám pháp khác, hoặc tu bằng cách đọc tụng các pháp Đại Thừa khác, hoặc nằm mộng thấy các tướng cảnh giới thù thắng, quư vị đừng sanh tâm hoan hỷ, v́ chẳng thể chứng thực. Quư vị nương theo sám pháp [trong kinh Chiêm Sát], luân tướng trong sám pháp chính là sự chứng thực. V́ thường xuyên có kẻ gặp phải ma nghiệp: Nếu chẳng dựa theo lời dạy của Phật, mà có các hiện tượng [tốt lành] ấy, nếu quư vị cao hứng, cho là đă tu thành tựu, sẽ bị ma dựa! Có chuyện ma hóa hiện [h́nh tướng] Địa Tạng Bồ Tát hay không? Có chứ! Quư vị hoàn toàn chẳng tu Địa Tạng Quán, hoặc tu mà cũng chẳng chân thành chi hết, bỗng dưng Địa Tạng Bồ Tát hiện thân. Đó chẳng phải là chân thật. Chẳng hạn như tại hậu sơn của chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, có một hành giả tự ḿnh tu hành. Ông ta đă mấy lần gọi điện thoại cho tôi, [kể lể] ông ta đă thấy tướng này, tướng nọ. Tôi nói: “Ông hăy dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát đôi chút, v́ Địa Tạng Bồ Tát sẽ bảo cho ông biết là thật hay giả”. Sau đó, ông ta gọi điện thoại cho tôi, nói: “Đó là ma, chẳng phải là chân thật. V́ tôi ngă bệnh, chẳng thể lạy được!” Ông ta hỏi “làm cách nào?” Tôi nói: “Ông hăy cứ lạy theo lệ thường. Ông lạy như thế nào th́ vẫn lạy như thế đó. Cho đến khi ông lạy tiêu mất ma nghiệp ấy, ông sẽ chẳng bị ma xoay chuyển”. Hoặc là khi quư vị tu sám pháp, vừa mới tu mà đă có rất nhiều cảnh tướng (tướng cảnh giới) ùa tới. Cảnh tướng ùa tới, quư vị phải đột phá, chúng chẳng chân thật!

          Quư vị nương theo lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát tương ứng với pháp, khi luân tướng chưa đạt được ba nghiệp thanh tịnh, bỗng dưng có các thánh cảnh như vậy hiện tiền quấy nhiễu quư vị bái sám; hoặc ngửi thấy mùi hương, trong nhà phóng quang, hoặc từ cửa sổ lọt vào một tia quang minh, quư vị đừng quan tâm tới nó, vẫn cứ bái sám. Chỉ cần luân tướng hiện tướng thanh tịnh, đó là thật. V́ sao chúng ta phải bái sám, mong cầu Bồ Tát chứng minh? Đừng chấp lấy tướng hư vọng! [Nếu chấp], sẽ dễ dàng nhập ma. Hăy nương theo lời dạy của Bồ Tát, hăy nương theo lời dạy trong kinh văn, như thế th́ sẽ chẳng có ma. V́ ngũ dục ma, tức là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, đều có ma chướng. Điều thứ nhất, phải phân tích rơ ràng ma và chánh. Nếu không, quư vị tu thân mà bị hủy diệt!

 

          (Kinh) Nhược nhân tằng hữu xuất thế thiện cơ, nhiếp tâm mănh lợi giả, ngă ư nhĩ thời, tùy sở ưng độ nhi vị hiện thân, phóng đại từ quang, linh bỉ an ổn, ly chư nghi bố, hoặc thị thần thông, chủng chủng biến hóa. Hoặc phục linh bỉ tự ức túc mạng sở kinh chi sự, sở tác thiện ác, hoặc phục tùy kỳ sở nhạo, vị thuyết chủng chủng thâm yếu chi pháp. Bỉ nhân tức thời ư sở hướng thừa, đắc quyết định tín, hoặc tiệm chứng hoạch Sa-môn đạo quả.

          ()若人曾有出世善基。攝心猛利者。我於爾時隨所應度而爲現身。放大慈光。令彼安隱。離諸疑怖。或示神通種種變化。或復令彼自憶宿命所經之事所作善惡。或復隨其所樂爲說種種深要之法。彼人即時於所向乘得決定信。或漸證獲沙門道果。

          (Kinh: Nếu ai từng có nền tảng thiện căn xuất thế, nhiếp tâm mạnh mẽ, nhạy bén, trong lúc ấy, ta sẽ tùy theo sự đáng độ mà hiện thân, phóng quang minh từ bi to lớn, khiến cho kẻ đó an ổn, ĺa các ngờ vực, sợ hăi, hoặc hiển thị thần thông, đủ loại biến hóa. Hoặc lại có thể khiến cho họ tự nhớ chuyện đă trải qua và điều thiện, lẽ ác đă tạo trong đời trước, hoặc lại thuận theo sự ưa thích của họ mà nói đủ loại pháp sâu xa, quan trọng. Kẻ đó ngay lập tức có niềm tin quyết định đối với thừa mà người ấy đă hướng về, hoặc dần dần chứng đắc đạo quả Sa-môn).

 

          Nếu là người có nền tảng thiện căn xuất thế, nhiếp tâm nhạy bén, mạnh mẽ, trong lúc đó, ta (Địa Tạng Bồ Tát) sẽ ứng theo [căn cơ người ấy] đáng nên dùng thân nào để đắc độ mà hiện thân ấy, phóng từ quang to lớn, khiến cho người ấy an ổn, ĺa các ngờ vực, sợ hăi. Hoặc thị hiện đủ loại thần thông, hoặc lại khiến cho người ấy tự nhớ các chuyện đă trải qua và các điều thiện lẽ ác đă làm trong đời trước. Hoặc lại tùy ḷng kẻ đó ưa thích, mà nói các thứ pháp sâu xa, trọng yếu. Người đó ngay lập tức hướng tới “thừa” mà chính ḿnh đă hướng về. “Sở hướng thừa” là quư vị tu Đại Thừa hay Tiểu Thừa, th́ gọi là “sở hướng thừa”. Sẽ quyết định tin tưởng cái thừa ấy. “Tiệm chứng hoạch Sa-môn đạo quả” (Dần dần chứng đắc đạo quả của Sa-môn): Ở đây là nói đến đạo quả Sa-môn thông thường, [bao gồm] Sơ Quả Hướng, Sơ Quả, Nhị Quả Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả, Tứ Quả Hướng, và Tứ Quả. Tứ Hướng Tứ Quả được gọi là đạo quả đạt được bởi hàng sa-môn.

          Địa Tạng Bồ Tát lại dạy chúng ta: Người có nền tảng thiện căn xuất thế, do có thiện căn xuất thế, lại c̣n có thể hướng thiện, có thể nhiếp tâm nhất trí, vọng tưởng ít, tạp niệm ít, nhiếp tâm mạnh mẽ, nhạy bén, có thể hàng phục vọng niệm, có thể nhiếp tâm tới mức chí tâm. Khi giảng tới [phần kinh văn dạy về] chí tâm, tôi sẽ nói về vấn đề này. Sau đó, Địa Tạng Vương Bồ Tát liền hiện thân, tùy thuận [người ấy] đáng dùng thân nào để độ, bèn hiện thân ấy, phóng đại từ quang. Hiện thân th́ cũng có thể là hiện tướng Bồ Tát, tùy thuộc đáng nên dùng pháp nào để khiến cho quư vị đắc độ, Địa Tạng Bồ Tát bèn hiện tướng ấy đến độ quư vị, khiến cho quư vị được an ổn, chẳng c̣n sanh ḷng hoài nghi, chẳng c̣n sợ hăi nữa. Đồng thời, Địa Tạng Bồ Tát c̣n nói: “Ta sẽ thị hiện đủ loại thần thông, đủ loại biến hóa, khiến cho hành giả ấy (người bái sám) tự ḿnh nghĩ nhớ túc mạng trong quá khứ”. “Túc mạng” (宿命) là tất cả chuyện tu hành trong vô lượng kiếp thuộc đời quá khứ của chính ḿnh đều hiện tiền. Trong ấy cũng có làm thiện nghiệp, mà cũng có làm ác nghiệp, cũng có tu hành mạnh mẽ, và tu hành chẳng mạnh mẽ. Tùy theo sự ưa thích của kẻ đó, mà nói các loại pháp sâu xa, trọng yếu. Tùy thuộc quư vị ưa thích điều ǵ, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ tùy thuận cơ nghi, nói cho quư vị nghe pháp ấy. Người ấy sẽ đối với thừa mà chính ḿnh hướng đến, hoặc là Đại Thừa, Trung Thừa, hoặc Tiểu Thừa mà đạt được niềm tin quyết định, nẩy sanh ḷng tin quyết định, chẳng c̣n ngờ vực nữa. Như thế th́ sẽ chứng thực pháp ḿnh đă tu, hoặc sẽ dần dần chứng đắc đạo quả của Sa-môn.

          Địa Tạng Bồ Tát dạy đoạn này hết sức trọng yếu! Đặc biệt là chúng ta nương theo kinh Chiêm Sát để tu pháp sám hối, ḥng tuyệt đối tiêu trừ ác nghiệp. Đối với tướng cảnh giới ác, [có khi] chỉ cần quư vị bái sám một ngày th́ tướng cảnh giới ác sẽ thuận theo mà biến mất nơi sự hóa hiện [của luân tướng]. Có khi [phải bái sám trong một] thời gian dài, cũng có khi thời gian ngắn. Tôi không có các tướng biến hiện như Địa Tạng Bồ Tát đă nói, nhưng hồi tôi ở Nữu Ước, đại khái là chừng ba bốn tháng, mỗi tối đều nằm mộng. Vừa đặt đầu lên gối để ngủ liền nằm mộng cho tới khi tỉnh giấc mới thôi. Ngày hôm sau, chỉ cần đi ngủ, vừa đặt đầu xuống gối lại nằm mộng. Đại khái là hơn một trăm ngày, tức là hiện ra tất cả những ǵ từng trải trong đời trước. Có đôi khi tu hành rất tốt đẹp, có lúc tạo nghiệp, có lúc trả nghiệp rồi lại tu hành, từ đời này sang đời khác chẳng ngừng. Bản thân tôi nằm mộng, đại khái là bắt đầu từ cuối đời Đường, đầu đời Tống, măi cho đến đời hiện tại, tức là khoảng thời gian tôi ở nước Mỹ. Tôi đă kể chuyện này với pháp sư Hoằng Giác, nhưng trong lúc ấy, chẳng sanh tâm quyết định, mà cũng chẳng khai trí huệ. Quư vị cũng chẳng có nghiệp chướng ǵ, tức là đối với hai đằng thiện ác, trọn chẳng lệch về thiện, mà cũng chẳng lệch về ác, dường như là vận chuyển b́nh thường. Đó gọi là nghiệp trong hiện tại và túc thế, những ǵ đă làm trong quá khứ thoáng hiện từng đời một như thế đó!

 

          (Kinh) Phục thứ, bỉ chư chúng sanh, nhược tuy vị năng kiến ngă hóa thân chuyển biến thuyết pháp, đản đương học chí tâm, sử thân, khẩu, ư đắc thanh tịnh tướng dĩ, ngă diệc hộ niệm, linh bỉ chúng sanh tốc đắc tiêu diệt chủng chủng chướng ngại. Thiên ma Ba Tuần bất lai phá hoại, năi chí cửu thập ngũ chủng ngoại đạo tà sư, nhất thiết quỷ thần diệc bất lai loạn. Sở hữu Ngũ Cái triển chuyển khinh vi, kham năng tu tập chư Thiền, trí huệ.

          ()復次。彼諸衆生。若雖未能見我化身轉變說法。但當學至心。使身口意得清淨相已。我亦護念。令彼衆生速得消滅種種障礙。天魔波旬不來破壞。乃至九十五種外道邪師一切鬼神亦不來亂。所有五蓋展轉輕微。堪能修習諸禪智慧。

          (Kinh: Lại nữa, các chúng sanh ấy tuy chưa thể thấy ta hóa thân chuyển biến, thuyết pháp, chỉ nên học chí tâm, khiến cho thân, miệng, ư đă đạt được tướng thanh tịnh, ta cũng hộ niệm, khiến cho các chúng sanh ấy mau chóng tiêu diệt các thứ chướng ngại. Thiên ma Ba Tuần chẳng tới phá hoại, cho đến tà sư trong chín mươi lăm loại ngoại đạo và hết thảy quỷ thần cũng chẳng tới nhiễu loạn. Tất cả Ngũ Cái lần lượt chuyển thành nhẹ ít, có thể kham tu tập các môn Thiền và trí huệ).

 

          “Phục thứ, bỉ chư chúng sanh” (lại nữa, các chúng sanh ấy) là nói đến những người tu sám pháp. Kẻ chẳng tu Địa Tạng Sám, chẳng tu Chiêm Sát Sám th́ chẳng nói tới. Bỉ chư chúng sanh” là chuyên nói tới những người tu sám pháp. Người tu theo sám pháp Chiêm Sát Sám tuy chẳng thể thấy hóa thân của ta (Địa Tạng Bồ Tát), mà cũng chẳng nghe hóa thân của ta thuyết pháp, hăy nên học cái tâm chí thành là được rồi! Người ấy chỉ cần có thể khiến cho thân, khẩu, ư của chính ḿnh đạt được tướng thanh tịnh [khi chiêm sát bằng Chiêm Sát Luân] th́ ta cũng hộ niệm người đó. Câu này có hàm nghĩa như thế đó. Có các vị tuy đă bái sám đến mức thân, khẩu, ư thanh tịnh, nhưng các hiện tượng đă nói trên đây như “Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện thân, hoặc thuyết pháp, hoặc gia tŕ quư vị” dẫu chẳng có, chẳng trông thấy hóa thân của ta, cũng chẳng nghe ta thuyết pháp, người ấy hăy nên học chí tâm (trong phần sau sẽ giảng về chí tâm), khiến cho thân, khẩu, ư của người ấy đạt được tướng thanh tịnh, ta cũng hộ niệm loại chúng sanh ấy. Hộ niệm người ấy th́ sẽ khiến cho hết thảy chướng ngại của người ấy đều tiêu diệt, tu đạo sẽ thành tựu rất nhanh chóng. “Hộ niệm” có nghĩa là các tà ma như thiên ma Ba Tuần toan phá hoại sức mạnh tu đạo của người ấy, sẽ đều chẳng thể đến gần, tức là [người ấy đă] được Địa Tạng Vương Bồ Tát hộ niệm. Cho đến các tà sư thuộc chín mươi lăm loại ngoại đạo, hết thảy quỷ thần đều chẳng thể nhiễu loạn người ấy. Khi đó, tất cả tội nghiệp Ngũ Cái, Thập Triền, thứ ǵ cũng đều chẳng có, người ấy có thể tu Thiền Định, cũng có thể tu trí huệ. Trí huệ là học kinh, học pháp, Thiền Định là tu tập Định. Hai môn Định Huệ, một đằng là Chỉ, một đằng là Quán. Có thể tu Chỉ Quán th́ sẽ có thể đắc đạo, nhưng đó là người đă đạt được luân tướng thanh tịnh.

 

          (Kinh) Phục thứ, nhược vị lai thế chư chúng sanh đẳng, tuy bất vị cầu Thiền Định, trí huệ xuất yếu chi đạo, đản tao chủng chủng chúng ách, bần cùng, khốn khổ, ưu năo bức bách giả, diệc ưng cung kính, lễ bái, cúng dường, hối sở tác ác, hằng thường phát nguyện, ư nhất thiết thời, nhất thiết xứ, cần tâm xưng tụng ngă chi danh hiệu, linh kỳ chí thành, diệc đương tốc thoát chủng chủng suy năo, xả thử mạng dĩ, sanh ư thiện xứ.

          ()復次。若未來世諸衆生等。雖不爲求禪定智慧出要之道。但遭種種衆厄。貧窮困苦憂惱逼迫者。亦應恭敬禮拜供養。悔所作惡。恆常發願。於一切時一切處勤心稱誦我之名號。令其至誠。亦當速脫種種衰惱。舍此命已。生於善處。

          (Kinh: Lại nữa, nếu các chúng sanh trong đời vị lai, tuy chẳng v́ cầu Thiền Định, trí huệ, đạo xuất yếu, chỉ gặp đủ loại các thứ ách nạn, bần cùng, khốn khổ, ưu năo bức bách, cũng nên cung kính, lễ bái, cúng dường, hối hận các điều ác đă làm, luôn thường phát nguyện, trong hết thảy mọi thời, hết thảy mọi chỗ, tâm siêng năng xưng tụng danh hiệu của ta, sao cho chí thành, th́ cũng sẽ mau chóng thoát khỏi các thứ suy năo. Đă xả mạng này, sẽ sanh trong chốn lành).

 

          Lại nữa, hết thảy chúng sanh vào đời Mạt, tuy chẳng v́ cầu Thiền Định, trí huệ, hay đạo xuất yếu, nhưng khi gặp đủ loại các thứ ách nạn, bần cùng, khốn khổ, ưu năo bức bách, trong khi ấy, cũng nên cung kính lễ bái, cúng dường, sám hối các điều ác đă làm, sám hối chuyện ác do chính ḿnh đă tạo. “Sám hối điều ác đă làm” chính là sám hối các chuyện ác đă làm trong quá khứ và ác nghiệp hiện tiền. Luôn thường phát nguyện, chính ḿnh thường phát nguyện. Các đạo hữu phải hằng ngày phát cái nguyện ấy, một mặt sám hối, một mặt hồi hướng. Sám hối th́ hằng ngày đều phải sám hối, phát nguyện giúp đỡ người khác, lợi ích chúng sanh, đem tất cả những chuyện tốt đẹp ta đă làm hồi hướng cho hết thảy chúng sanh đang chịu khổ, chịu nạn. Sám hối toàn bộ các chuyện sai trái ta đă làm. Bần cùng, khốn khổ, ưu năo, các thứ bức bách, gặp phải các tướng cảnh giới ấy hiện tiền, phải nên cung kính, lễ bái, cúng dường. Các thứ ấy đều là ác nghiệp do ta đă làm trong quá khứ đến nay hiện tiền, quư vị hăy nên sám hối, sửa đổi. Niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát để sám hối. Nếu ác nghiệp ấy phát hiện chẳng quá nghiêm trọng, quư vị làm như thế nào? Trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, bất luận trong bất cứ t́nh huống nào, hăy xưng tụng danh hiệu của ta trong hết thảy thời, hết thảy chốn. Xưng tụng th́ chớ nên hư t́nh giả ư mà xưng niệm, phải chí thành, phải khẩn thiết, các thứ suy năo đó sẽ tiêu mất, xả báo thân này, lại sanh vào chốn lành. Đó là chưa nói đến cái nguyện [giúp đỡ chúng sanh] đă phát, nếu quư vị lại c̣n phát nguyện thêm, cầu sanh về thế giới Cực Lạc, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ gia tŕ, khiến cho quư vị được sanh vào thế giới Cực Lạc.

          Lũ chúng sanh trong đời Mạt Pháp chúng ta thường bị đủ mọi nhân duyên bức bách trong cuộc sống. Nếu quư vị trông thấy chùa miếu mà có thể đến chùa miếu lễ bái, [“miếu” ở đây] chẳng phải là miếu thờ thiện thần, hay là miếu thờ các loại thần thánh, mà là nói đến chỗ thờ phụng Phật, Bồ Tát, nhưng [quư vị] chẳng có tâm xuất ly, mà cũng chẳng cầu Định, cầu Huệ, cũng chẳng mong học pháp môn xuất yếu. Rất nhiều đệ tử Phật chẳng mong các thứ đó, nguyện liễu sanh tử chẳng thiết tha, chẳng phải là người tin Phật. Đệ tử Tam Bảo đều phải liễu sanh tử. Chúng ta có thể tự vấn cái tâm của chính ḿnh: “Có phải là hằng ngày đều cầu liễu sanh tử hay không? Khoan nói tới hai chúng tại gia ưu-bà-tắc và ưu-bà-di, chỉ nói các đạo hữu xuất gia chúng ta, sáng sớm mỗi ngày lên chánh điện tụng công khóa, quư vị có phát nguyện mong liễu sanh tử hay không? Hằng ngày phát nguyện “ta mong liễu sanh tử, ta phải đoạn phiền năo”, có làm như thế hay không, chính ḿnh đều hiểu rơ. Người ngoài chẳng hiểu rơ cho lắm, chỉ có chính ḿnh mới biết rơ! Hằng ngày có hối cải các điều ác chính ḿnh đă làm hay chăng? Có đều phát nguyện sám hối hay không? Có thể thoát khỏi các thứ suy năo, chịu nổi các khảo nghiệm hay không? Chính ḿnh hiểu rơ nhất! Người ngoài đều chẳng biết, người ngoài ai biết nổi trong tâm quư vị đang nghĩ ǵ? Chẳng hạn như mọi người thường nghĩ khi chúng ta sắp mạng chung, A Di Đà Phật và các vị thánh chúng dùng hương, hoa đến nghênh đón tôi, khiến cho tâm tôi chẳng điên đảo, có thể văng sanh thế giới Cực Lạc; có thể làm được hay không? Nếu quư vị dùng cái tâm tán loạn th́ có thể văng sanh hay không? Kinh A Di Đà nói rất rơ ràng: Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, cho đến bảy ngày, quư vị đắc nhất tâm bất loạn th́ mới có thể văng sanh. Có thể văng sanh là do đắc nhất tâm bất loạn, chẳng thể văng sanh là v́ tâm quư vị tản mạn. Bản thân quư vị có tin tưởng chính ḿnh hay không? Quư vị cho rằng chính ḿnh có thể văng sanh hay không? Nói “ta chắc chắn có thể văng sanh v́ tâm chẳng tán loạn, ư không điên đảo”. Chẳng bị bệnh khổ bức bách, th́ cái nguyện do quư vị đă phát sẽ có thể đạt được. Nếu trong lúc tám khổ cùng nung nấu, trong khoảng sanh tử, trong lúc ấy c̣n có thể [tâm chẳng điên đảo] như thế hay chăng?

          Có một bài chú để cầu sanh Tịnh Độ là “Ông, a-mi-rị-đạt đức-kiệt-cát-lạp hồng” (Auṃ amṛta tejehara hūṃ) gồm mười chữ. Nếu trong lúc ấy, quư vị vẫn có thể niệm một câu “Ông, a mi rị đạt đức kiệt cát lạp hồng” như vậy th́ tuyệt đối sẽ có thể văng sanh. Tới lúc nghiệp chướng hiện tiền, bài chú ấy chẳng hiện tiền! Thường ngày, quư vị niệm mười vạn lần? Chẳng có! Ba vạn lần? Chẳng có! Niệm một vạn lần? Chẳng có! Thậm chí một ngàn lần, có niệm một ngàn lần hay không? Chỉ là hằng ngày niệm “Ông, a mi rị đạt đức kiệt cát lạp hồng” th́ tuyệt đối có thể văng sanh[3]. Tới lúc đó, nghiệp chướng hiện tiền, quên tuốt chú ngữ, chẳng niệm được! Quư vị thường ngày ắt phải dụng công để tiêu nghiệp chướng! V́ tới khi đó, nhất niệm tín tâm của quư vị chẳng thay đổi, dẫu c̣n có nghiệp chướng, nhưng vẫn c̣n có thần chú của A Di Đà Phật gia tŕ quư vị. Đó gọi là “đới nghiệp văng sanh”, hoàn toàn chẳng tiêu mất nghiệp chướng, mang theo nghiệp sanh về thế giới Cực Lạc. Khi quư vị đă văng sanh, nghiệp chướng sẽ chẳng c̣n, nghiệp chướng đă tiêu mất. Do vậy, tín tâm của chúng ta nhất định phải kiên cố. Bất luận quư vị học một pháp nào, điều kiện đầu tiên là tín tâm phải kiên cố. Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta như vậy, cũng là để khiến cho chúng ta tin tưởng.

 

          (Kinh) Phục thứ, vị lai chi thời, nhược tại gia, nhược xuất gia chư chúng sanh đẳng, dục cầu thọ thanh tịnh diệu giới, nhi tiên dĩ tác tăng thượng trọng tội bất đắc thọ giả, diệc đương như thượng tu sám hối pháp, linh kỳ chí tâm, đắc thân, khẩu, ư thiện tướng dĩ, tức ưng khả thọ.

          ()復次。未來之時若在家若出家諸衆生等。欲求受清淨妙戒而先已作增上重罪不得受者。亦當如上修懺悔法。令其至心。得身口意善相已。即應可受。

          (Kinh: Lại nữa, trong thời vị lai, nếu các chúng sanh tại gia hay xuất gia muốn cầu thọ diệu giới thanh tịnh, nhưng trước đó đă phạm trọng tội tăng thượng, cho nên chẳng được thọ, cũng nên tu pháp sám hối như trên đây, khiến cho chí tâm, đạt được thiện tướng nơi thân, miệng, ư rồi th́ cũng đáng được thọ).

 

          “Phục thứ vị lai” là Địa Tạng Bồ Tát lại nhắc nhở chúng ta v́ trong thời Mạt Pháp, tức thời vị lai, các chúng sanh tại gia hay xuất gia muốn cầu diệu giới thanh tịnh như Tam Quy, Ngũ Giới, nhưng trong quá khứ đă phạm rất nhiều tội, chẳng có cơ hội thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Mười giới, tám giới lại càng chẳng cần phải nói nữa! Tức là chẳng có cơ hội cho chúng ta được thọ diệu giới thanh tịnh. Thậm chí để thọ Tam Quy, Ngũ Giới, cũng phải tiêu diệt trọng tội. Nếu là trọng tội tăng thượng, quư vị có thể có cơ hội thọ giới hay không? Chẳng được, chẳng thọ được! Do quư vị đă tạo trọng tội tăng thượng, cho nên chẳng thể thọ giới; nhưng Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta một phương tiện là tu pháp sám hối, ḥng đạt được chí tâm và thiện tướng nơi thân, khẩu, ư. Chỉ cần phát xuất từ chí tâm th́ sẽ đạt được. Hoặc là quư vị niệm Phật, niệm một câu A Di Đà Phật, quư vị phải chí tâm niệm. Chẳng chí tâm, sẽ chẳng linh nghiệm. Hễ đạt tới chí tâm th́ sẽ linh, thọ giới bèn đắc giới, tiêu tai miễn nạn. Nếu quư vị đă diệt tội nạn th́ tội nạn cũng tiêu.

 

          (Kinh) Nhược bỉ chúng sanh dục tập Ma Ha Diễn đạo, cầu thọ Bồ Tát căn bản trọng giới, cập nguyện tổng thọ tại gia, xuất gia, nhất thiết cấm giới, sở vị Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, Nhiếp Hóa Chúng Sanh Giới, nhi bất năng đắc thiện hảo giới sư, quảng giải Bồ Tát pháp tạng, tiên tu hành giả, ưng đương chí tâm, ư đạo tràng nội, cung kính cúng dường, ngưỡng cáo thập phương chư Phật, Bồ Tát, thỉnh vi sư chứng, nhất tâm lập nguyện, xưng biện giới tướng. Tiên thuyết thập căn bản trọng giới, thứ đương tổng cử tam chủng giới tụ, tự thệ nhi thọ, thử diệc đắc giới.

          ()若彼衆生欲習摩訶衍道。求受菩薩根本重戒。及願總受在家出家一切禁戒。所謂攝律儀戒。攝善法戒。攝化衆生戒。而不能得善好戒師。廣解菩薩法藏。先修行者。應當至心於道場內。恭敬供養。仰告十方諸佛菩薩請爲師證。一心立願。稱辯戒相。先說十根本重戒。次當總舉三種戒聚。自誓而受。此亦得戒。

          (Kinh: Nếu các chúng sanh muốn tu tập đạo Ma Ha Diễn (Đại Thừa), cầu thọ căn bản trọng giới của Bồ Tát, và thọ chung hết thảy các giới cấm của hàng tại gia và xuất gia, tức là Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, và Nhiếp Hóa Chúng Sanh Giới, nhưng chẳng thể có một vị thầy truyền giới tốt lành, thông hiểu rộng răi Bồ Tát pháp tạng, th́ người tu hành trước hết hăy nên chí tâm ở trong đạo tràng, cung kính cúng dường, bẩm bạch với mười phương chư Phật, Bồ Tát, thỉnh các Ngài làm thầy chứng minh, nhất tâm lập nguyện tuyên đọc, biện định giới tướng. Trước hết, nói mười căn bản trọng giới; kế đó, nêu chung ba loại giới tụ, tự thệ thọ tŕ. Như thế th́ cũng đắc giới).

 

          Nếu các chúng sanh muốn học đạo Ma Ha Diễn, Ma Ha Diễn (Mahāyāna) dịch là Đại Thừa đạo. [Người đó] muốn học kinh điển Đại Thừa, hay mong thọ trọng giới của hàng Bồ Tát. Các đạo hữu chúng ta đều đồng thời thọ Bồ Tát Giới, rất nhiều vị đă thọ Bồ Tát Giới. Chẳng thể nào không phạm Bồ Tát Giới! Đặc biệt là đối với mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, quư vị vừa động niệm đă phạm giới, hoàn toàn khác hẳn giới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Tam Quy, Ngũ Giới. Tam Quy, Ngũ Giới, cho đến tám giới, mười giới, tỳ-kheo giới, tỳ-kheo-ni giới đều xét theo sự tướng, quư vị có trái phạm [bằng hành động cụ thể] th́ mới tính là rốt ráo phạm tội. Bồ Tát Giới khác hẳn! Bồ Tát Giới là Lư, quư vị vừa động niệm liền phạm giới, chẳng đợi tạo thành sự thật. V́ đấy là tâm giới, tâm giới là tâm phạm: Chỉ cần vừa khởi tâm động niệm, quư vị đă phạm giới. Bọn phàm phu chúng ta có thể chẳng khởi tâm động niệm ư? Chẳng làm được! Bất quá giới luật là nói chung, v́ Nhiếp Luật Nghi Giới là các quy củ về đi, đứng, ngồi, nằm. Nhiếp Thiện Pháp Giới biện định thiện pháp hay ác pháp. Giới tụ này sâu hơn v́ ư nghĩa thiện pháp và ác pháp sâu hơn so với Luật Nghi Giới. Bồ Tát Giới là Hóa Chúng Sanh Giới (化衆生戒, các giới nhằm hóa độ chúng sanh), phương tiện thiện xảo để hóa độ chúng sanh trong ấy khá nhiều, nhưng quư vị cử tâm động niệm có phù hợp tâm đại bi, có phù hợp tâm đại từ hay không? Giới tụ này phân tích, chú trọng chí tâm. Chí tâm là quư vị chế tâm nhất xứ, v́ tâm thành khẩn chẳng có vọng niệm.

          Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta: Nếu quư vị muốn nhiếp thọ Bồ Tát Giới, hoặc là đắc thọ căn bản giới, cho đến Tam Quy, Ngũ Giới, quư vị thỉnh thầy chứng minh. Thầy là ai? Mười phương chư Phật, Bồ Tát. Thỉnh mười phương chư Phật, Bồ Tát tới chứng minh cho quư vị. Quư vị phải phát nguyện, nhất tâm lập nguyện, chú trọng nơi nhất tâm. Trong phần sau, chúng tôi sẽ chuyên nói về nhất tâm. Liễu giải rơ ràng giới tướng tức là “xưng biện giới tướng” (稱辯戒相). Trước hết, nói mười giới căn bản [trong Phạm Vơng Bồ Tát Giới], đó gọi là “trọng giới”. Sau đó, nói bốn mươi tám giới khinh, các giới ấy được gọi là “khinh giới”. Khinh lẫn trọng đều trọn đủ, v́ thân, khẩu, ư đều trọn đủ, đối trước Phật chính ḿnh phát nguyện tự thọ. Tự thệ thọ giới là đối trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ Tát, hoặc đối trước tượng Địa Tạng, chẳng có sư phụ truyền giới cho ta. T́m chẳng được một vị thầy truyền giới cho ta, quư vị đối trước Phật tự thọ, nhưng phải chí tâm. Địa Tạng Bồ Tát nói theo phương tiện thiện xảo: Nếu quư vị có thể chí tâm đối trước Phật thọ giới th́ cũng đắc giới. Đó là thọ giới pháp Đại Thừa. Nếu quư vị mong hành Bồ Tát đạo, ắt cần phải thọ Bồ Tát Giới. Thân, khẩu, ư tam tụ tịnh giới, tức Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, và Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới. Bồ Tát phải thọ Nhiêu Ích Hữu T́nh, tức là lợi ích chúng sanh. [Giới tụ] lợi ích chúng sanh có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Đó gọi là Bồ Tát Giới, chính là các giới lợi ích chúng sanh. Thông thường, người tại gia có hai tụ tịnh giới, c̣n người xuất gia là năm tụ tịnh giới.

          Phải chuyên giảng đôi chút về Đại Thừa Ma Ha Diễn. Chúng ta phát Bồ Đề tâm, muốn hành Bồ Tát đạo. Phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo th́ quư vị phải thọ Bồ Tát Giới. Thọ Bồ Tát giới th́ phải nên thọ căn bản trọng giới của hàng Bồ Tát. Đă thọ giới th́ phải tŕ giới, đặc biệt là Nhiếp Thiện Pháp Giới thâu nhiếp hết thảy các thiện pháp. “Nhiếp” () có nghĩa là nhiếp thọ (攝受, gồm thâu, nắm giữ), bố thí tất cả thiện pháp cho hết thảy chúng sanh. Đó là nói theo phương diện hành thiện, nói theo phương diện làm chuyện tốt. Nhưng nếu quư vị muốn lợi ích hết thảy chúng sanh, điều đầu tiên là phải [hành tŕ] Nhiếp Luật Nghi Giới. Bồ Tát có Bồ Tát luật nghi, v́ Nhiếp Luật Nghi Giới bao gồm hết thảy những quy chế, ngăn cấm dành cho Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa, bao gồm hết thảy các phương tiện ngăn ác, làm lành”. Đó là Nhiếp Luật Nghi Giới. Thâu nhiếp hết thảy thiện pháp, hết thảy các thiện pháp đều bố thí cho hết thảy chúng sanh [là Nhiếp Thiện Pháp Giới]. Nhiếp Hóa Chúng Sanh Giới (Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới) tức là mong hóa độ chúng sanh th́ đức Phật cũng chế định giới luật. Nếu quư vị muốn độ hết thảy chúng sanh, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật, trước hết, phải trọn đủ hết thảy các giới.

          Chẳng có một vị giới sư thanh tịnh, [tức là] chẳng t́m được một vị thầy truyền giới thanh tịnh. Chẳng hiểu giới pháp, sẽ chẳng thể truyền trao giới. Đó gọi là vị giới sư thanh tịnh. Trong giới luật có nói, nếu vị giới sư chẳng thanh tịnh th́ vị ấy chẳng được truyền giới, thuyết pháp. Ngẫu Ích đại sư muốn thọ giới, Ngài quan sát, chẳng t́m thấy năm vị giới sư thanh tịnh trong Nam Diêm Phù Đề, chẳng có, chẳng thể được. Ngài t́m trong Đại Tạng Kinh, mới t́m được kinh [Chiêm Sát] Thiện Ác Nghiệp Báo. Trước kia, chẳng có ai nói kinh này, bắt đầu từ Ngẫu Ích đại sư, Ngài t́m được [kinh này] từ Đại Tạng Kinh. Đă t́m được, Ngài bèn dựa theo kinh [Chiêm Sát] Thiện Ác Nghiệp Báo để bái sám, lạy Chiêm Sát Sám, đạt được luân tướng thanh tịnh, bèn đắc giới. Nhưng Ngài chẳng biết cách chế tạo Chiêm Sát Luân. Do đó, pháp này chẳng thể truyền bá. Măi cho đến thời Hoằng Nhất đại sư, Hoằng Nhất đại sư chuyên hoằng dương những giáo nghĩa của Ngẫu Ích đại sư. Ngài tra cứu mới chế tạo Chiêm Sát Luân, mới phát nguyện hoằng dương kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Ngài chế tạo Chiêm Sát Luân, nhưng chẳng giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Ngẫu Ích đại sư có soạn một bộ Chiêm Sát Nghĩa Sớ cho kinh Chiêm Sát. Ngoài bản chú giải ấy ra, chẳng có bản chú giải nào khác!

          Ở đây, [Bồ Tát] bảo chúng ta: Hành thiện thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới, gồm thâu hết thảy các giới thuộc về thiện pháp. Trong hành thiện, cũng có quy củ để làm lành. Chúng ta làm chuyện tốt, phạm sai lầm mà vẫn chẳng biết. Làm chuyện tốt th́ cũng có quy luật để làm chuyện tốt. Đó gọi là Nhiếp Thiện Pháp Giới. Trong giới luật đă nói rất rơ ràng. Khi quư vị hành bố thí, nhiếp thọ chúng sanh, tâm quư vị có tạp niệm hay không? Tâm có thanh tịnh hay chăng? Điều này có mối quan hệ hết sức to lớn; do vậy, ắt cần phải nghĩ đến. Đồng thời phải hộ niệm chính ḿnh. Như chúng ta đă vô duyên vô cớ tổn thương, sát hại chúng sanh, mà chính quư vị chẳng biết. Thí dụ như sáng dậy, chúng ta vừa bước đi, quư vị biết dưới chân của chính ḿnh đă đạp chết mấy con trùng nhỏ, nhục nhăn của ta có thấy các tiểu sanh mạng bé tí hay không? Điều này có nghĩa là sáng ra, vừa bắt đầu bước đi, quư vị phải niệm bài kệ: “Tùng triêu Dần đán trực chí mộ, nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ, nhược ư túc hạ táng kỳ h́nh, nguyện nhữ tức thời sanh Tịnh Độ” (từ sáng giờ Dần đến tối sẫm, hết thảy chúng sanh tự giữ ḿnh, nếu bị mất mạng dưới chân ta, nguyện ngươi lập tức sanh Tịnh Độ). Niệm nào cũng đều quán tưởng đưa các chúng sanh về thế giới Cực Lạc. V́ quư vị chẳng biết chính ḿnh có tổn thương chúng nó hay không? Sáng sớm phải niệm trước bài kệ ấy; sau đó, mới xuống giường, xỏ giày bước đi. Giả sử nói “đă lỡ lầm đạp chết chúng, bèn đưa chúng nó về thế giới Cực Lạc, nguyện ngươi lập tức sanh Tịnh Độ”, quư vị có sức mạnh ấy hay không? Chẳng phải do sức của quư vị, mà là do sức của hết thảy chư Phật. Quư vị niệm bài kệ ấy, nhờ vào sức của chư Phật và Bồ Tát để biểu thị quư vị niệm nào cũng lợi ích chúng sanh, niệm nào cũng đều chẳng tổn thương chúng sanh. Do quư vị niệm bài kệ này, sẽ cảm nhận sức gia tŕ của chư Phật, Bồ Tát.

          Bài kệ này là do Văn Thù Bồ Tát nói trong phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm. Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta: Sáng sớm quư vị thức dậy, khi xỏ giày sắp bước đi, ngàn vạn phần phải chú ư, trước hết hăy niệm bài chú này một lượt, tức bài chú trong kinh ấy, từ sáng sớm măi cho đến tối, cho đến lúc quư vị lên giường ngủ, chẳng đi lại nữa mới thôi. “Tùng triêu Dần đán trực chí mộ, nhất thiết chúng sanh giai hồi hộ, nhược ư túc hạ táng kỳ h́nh, nguyện nhữ tức thời sanh Tịnh Độ”. Đó là đă nguyện, lại c̣n là hạnh. Tịnh Hạnh là đại nguyện, tức đại nguyện của Văn Thù Bồ Tát, gồm tất cả một trăm bốn mươi điều, quư vị có thể niệm cho đến khi thành Phật. Thiện Tài đồng tử tham bái Di Lặc Bồ Tát xong, Di Lặc Bồ Tát lại dạy đồng tử trở lại tham yết ngài Văn Thù. Văn Thù Bồ Tát dạy đồng tử niệm điều này (các nguyện trong phẩm Tịnh Hạnh) rồi mới cho phép đến tham bái Phổ Hiền Bồ Tát. Do trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có rất nhiều kệ tụng của Hoa Nghiêm, cho nên pháp sư Hoằng Nhất phán định kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là Đại Thừa, chẳng phải Tiểu Thừa, chẳng phải là như các thứ bói toán, phê bát tự, xủ quẻ b́nh phàm! Tuyệt đối chớ nên lầm lẫn, v́ pháp này và các thứ ấy chẳng tương đồng. Pháp này tâm pháp, là tâm địa pháp môn v́ khéo dùng cái tâm.

 

          (Kinh) Phục thứ, vị lai thế chư chúng sanh đẳng, dục cầu xuất gia, cập dĩ xuất gia, nhược bất năng đắc thiện hảo giới sư, cập thanh tịnh tăng chúng, kỳ tâm nghi hoặc, bất đắc như pháp, thọ ư cấm giới giả, đản năng học phát vô thượng đạo tâm, diệc linh thân, khẩu, ư đắc thanh tịnh dĩ, kỳ vị xuất gia giả, ưng đương thế phát, bị phục pháp y, như thượng lập nguyện, tự thệ nhi thọ Bồ Tát luật nghi tam chủng giới tụ, tắc danh cụ hoạch Ba La Đề Mộc Xoa xuất gia chi giới, danh vi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, tức ưng thôi cầu Thanh Văn Luật Tạng, cập Bồ Tát sở tập Ma Đức Lặc Già Tạng thọ tŕ, độc tụng, quán sát, tu hành.

          ()復次。未來世諸衆生等。欲求出家及已出家。若不能得善好戒師。及清淨僧衆。其心疑惑。不得如法受于禁戒者。但能學發無上道心。亦令身口意得清淨已。其未出家者。應當剃髮。被服法衣。如上立願自誓而受菩薩律儀三種戒聚。則名具獲波羅提木叉出家之戒。名爲比丘比丘尼。即應推求聲聞律藏。及菩薩所習摩德勒伽藏。受持讀誦。觀察修行。

          (Kinh: Lại nữa, các hàng chúng sanh trong đời vị lai, muốn cầu xuất gia, và đă xuất gia, nếu chẳng thể có được một vị thầy truyền giới tốt lành và tăng chúng thanh tịnh, tâm ngờ vực [chính ḿnh] chẳng được thọ giới cấm đúng như pháp, chỉ nên học phát vô thượng đạo tâm, cũng như khiến cho thân, miệng, ư đạt được thanh tịnh rồi, nếu là kẻ chưa xuất gia, hăy nên xuống tóc, mặc khoác pháp y, giống như trên mà lập nguyện, tự thệ nhận lănh ba loại giới tụ trong Bồ Tát luật nghi, th́ được gọi là thọ trọn đủ giới Ba La Đề Mộc Xoa xuất gia, được gọi là tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni. Hăy nên t́m cầu Thanh Văn Luật Tạng, và Ma Đức Lặc Già Tạng (Mātṛkā)[4] do Bồ Tát tu tập để thọ tŕ, đọc tụng, quán sát tu hành).

 

          Địa Tạng Bồ Tát lại nói: - Lại nữa, chúng sanh trong đời mai sau muốn cầu xuất gia, chúng sanh trong vị lai phát tâm mong rời khỏi trần thế, mong xuất gia, hoặc là đă xuất gia mà nói: Bọn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni chúng ta mong cầu đắc giới, nhưng chẳng có vị thầy tốt lành thanh tịnh. Thời Mạt Pháp, tại Nam Diêm Phù Đề vào đời Minh, Ngẫu Ích đại sư t́m năm vị tỳ-kheo thanh tịnh mà chẳng có, tuy thọ giới mà chẳng thành tựu giới. Hiện thời, khi truyền giới trong thời Mạt Pháp, cũng có rất nhiều điều chẳng vâng theo chế định của đức Phật! Đức Phật quy định “hai mươi tuổi mới có thể thọ giới”, nhưng chúng ta phương tiện thiện xảo vẫn có thể cho phép “mượn tuổi” [nếu xét thấy giới tử đủ tư cách thọ đại giới]. Chẳng hạn như tôi xuất gia, tôi mới mười sáu tuổi, thọ giới tỳ-kheo như thế nào? Đắc giới ḥa thượng cho tôi “mượn” một tuổi, ḥa thượng truyền giới cho tôi “mượn” một tuổi nữa, đại sư phụ cho tôi “mượn” một tuổi nữa, vị lănh đạo của tôi, tức vị dẫn lễ sư cho tôi “mượn” một tuổi, liền đầy đủ hai mươi tuổi! Có thể “mượn” được hay không? Đó gọi “bịt mũi, bưng mắt” để mắt khỏi trông thấy, mũi chẳng ngửi thấy là được rồi. Trên thực tế, chẳng thể đắc giới! Trong Nam Thiệm Bộ Châu, t́m năm vị tỳ-kheo thanh tịnh, t́m không ra! Ngẫu Ích đại sư cũng mong đắc thanh tịnh giới, cho nên Ngài t́m ṭi trong Đại Tạng Kinh, t́m ra kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, nương theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để phát vô thượng đạo tâm, chiêm sát th́ dùng Chiêm Sát Luân để đạt được ba nghiệp thanh tịnh. Địa Tạng Vương Bồ Tát là đắc giới ḥa thượng, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng là dẫn lễ sư. Địa Tạng Bồ Tát cũng là tam sư, thất chứng[5], dẫn lễ sư, một ḿnh Địa Tạng Bồ Tát đảm nhiệm. Quư vị niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, sử dụng chiêm sát luân tướng, Chiêm Sát Luân thể hiện ba nghiệp thanh tịnh th́ quư vị đắc giới. Địa Tạng Bồ Tát dạy như vậy đấy!

          Hễ tâm quư vị có điều nghi hoặc, [lo ngại chính ḿnh] chẳng thể đúng như pháp thọ giới cấm, vậy th́ quư vị làm như thế nào? Trước hết, quư vị học phát vô thượng đạo tâm. Vô thượng đạo tâm, nói đơn giản là “phát Bồ Đề tâm”, khiến cho thân, miệng, ư của quư vị thanh tịnh. Phát Bồ Tát tâm; khi ấy, thân, miệng, ư thanh tịnh, chưa xuất gia bèn có thể xuống tóc xuất gia; đă xuất gia th́ quư vị phải lập nguyện, lập nguyện ǵ vậy? Tự thệ, tức chính ḿnh phát thệ, nguyện nhận lănh Bồ Tát Giới, thọ Tam TTịnh Giới (Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp Thiện Pháp Giới, Nhiêu Ích Hữu T́nh Giới). Khi đó, trọn đủ giới xuất gia Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimokṣa), được coi như là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. Sau đấy, đă thọ xong bèn học Tỳ Ni Luật Tạng, và Bồ Tát Ma Đức Lặc Già Tạng, thọ tŕ, đọc tụng, quan sát, tu hành. Giới tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni thuộc về thanh tịnh Tăng, khi thọ giới là tôn quư nhất, vô thượng nhất, đạt tới mức độ nào? Là bậc thầy gương mẫu của trời lẫn người. Cho đến khi quư vị gieo luân tướng, đạt được luân tướng thanh tịnh, Địa Tạng Vương Bồ Tát truyền trao tam đàn đại giới cho quư vị, [tam đàn là các giới đàn] Sa Di, tỳ-kheo, và Bồ Tát.

          Bất quá, đối với vấn đề này, trong Du Già Sư Địa Luận cũng nói như vậy. Thời Tượng Pháp đă qua, trong thời kỳ Mạt Pháp, mong thọ giới hết sức khó khăn, v́ không có giới sư thanh tịnh, cho nên quư vị thực hiện vô tác, vô luật, để thọ lănh vô tác luật nghi. Nhưng trong tâm quư vị chớ nên hoài nghi. Nếu hoài nghi giới sư tức vị thầy truyền giới chẳng thanh tịnh, hoài nghi thanh chúng tham dự truyền giới cho quư vị chẳng thanh tịnh, quư vị sẽ chẳng thể đắc giới. V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo, Ngài lại dạy chúng ta: Nếu quư vị muốn đắc giới mà chẳng có vị thầy truyền giới, quư vị làm như thế nào? Địa Tạng Bồ Tát dạy: Hăy quỳ trước Phật, lạy Chiêm Sát Sám. Bái sám chẳng tu chi khác, chuyên cầu đắc giới. Đó gọi là “cầu giới bái (lạy để cầu giới), chuyên môn cầu đắc giới. Khi đó, phải phát vô thượng đạo tâm; vô thượng đạo tâm là Bồ Đề tâm. Vô thượng đạo tâm là phát tâm thành Phật. Nhưng quư vị gieo luân tướng thuộc về ba nghiệp thân, miệng, ư, nếu luân tướng của cả ba nghiệp đều thanh tịnh, ta (Địa Tạng Bồ Tát) sẽ cho quư vị thọ giới. Địa Tạng Bồ Tát nói luân tướng nơi ba nghiệp của quư vị đều đă lạy đến mức thanh tịnh, nếu chưa xuất gia th́ có thể xuống tóc, có thể khoác pháp y. Địa Tạng Bồ Tát nhận quư vị làm đồ đệ, truyền trao tam đàn đại giới cho quư vị. Thế nhưng chẳng thể giả mạo luân tướng đă đạt được thanh tịnh, tuyệt đối phải lạy sao cho ba nghiệp thanh tịnh. Đó gọi là “tự thọ giới”. Ngẫu Ích đại sư tự thọ giới như thế, cho nên Ngài đề xướng Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đó là duyên khởi thọ giới của Ngài.

 

          (Kinh) Nhược tuy xuất gia, nhi kỳ niên vị măn nhị thập giả, ưng đương tiên thệ nguyện thọ thập căn bản giới, cập thọ Sa Di, Sa Di Ni sở hữu biệt giới. Kư thọ giới dĩ, diệc danh Sa Di, Sa Di Ni. Tức ưng thân cận, cúng dường, cấp thị tiên cựu xuất gia, học Đại Thừa tâm, cụ thọ giới giả, cầu vi y chỉ chi sư, thỉnh vấn giáo giới, tu hành oai nghi, như Sa Di, Sa Di Ni pháp.

          ()若雖出家而其年未滿二十者。應當先誓願受十根本戒。及受沙彌沙彌尼所有別戒。既受戒已。亦名沙彌沙彌尼。即應親近供養給侍先舊出家學大乘心具受戒者。求爲依止之師。請問教戒。修行威儀。如沙彌沙彌尼法。

          (Kinh: Nếu tuy xuất gia mà tuổi chưa tṛn hai mươi, trước hết, hăy nên thệ nguyện thọ mười giới căn bản và tất cả các giới riêng của Sa Di hoặc Sa Di Ni. Đă thọ giới rồi, hăy nên thân cận, cúng dường, hầu hạ vị đă xuất gia trước, có tâm học Đại Thừa, đă thọ giới Cụ Túc, cầu vị ấy làm thầy y chỉ để thưa hỏi, ḥng được răn dạy oai nghi tu hành đúng như pháp của Sa Di và Sa Di Ni).

 

          Nếu tuy xuất gia, tuy đă xuất gia rồi, nhưng chưa đầy hai mươi tuổi, vẫn chưa đến hai mươi tuổi, khi đó, chỉ có thể phát nguyện, chẳng thể thọ [Cụ Túc] giới. Trước hết, phát nguyện thọ mười giới của Sa Di (Śrāmaṇera), gồm mười giới căn bản, hoặc là thọ giới Sa Di Ni (Śrāmaṇeri). Kinh đặc biệt chỉ ra: Đối với biệt giới của Sa Di Ni cũng thế, cũng dùng cách gieo luân tướng để thọ giới Sa Di hoặc giới Sa Di Ni. Chỉ cần vâng theo kinh Chiêm Sát để thọ giới th́ cũng được gọi là Sa Di hay Sa Di Ni. Nhưng phải nên cúng dường, hầu hạ vị đă xuất gia trước, tức vị đă thọ Cụ Túc Giới, có tâm học Đại Thừa. Ở đây nói rất rơ ràng, “có tâm học Đại Thừa”, chẳng thể học theo người Tiểu Thừa. Đối với người có tâm học Đại Thừa sẽ làm ǵ? Chỉ có nương theo vị ấy, tôn vị ấy làm Y Chỉ Sư cho quư vị. Nếu quư vị xuất gia mà có Y Chỉ Sư th́ trong ṿng năm năm, phải nương tựa vị thầy ấy, chẳng thể rời khỏi thầy, tùy lúc mà xin thầy răn dạy nghi quỹ tu hành như thế nào, tŕ giới Sa Di hoặc giới Sa Di Ni như thế nào, để thầy tùy dịp dạy bảo quư vị. Nhưng nương theo Địa Tạng Vương Bồ Tát để thọ giới, nếu tuổi chưa tṛn hai mươi, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng chẳng truyền [giới Cụ Túc] cho quư vị, quư vị chẳng thể coi là tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni được! Quư vị ắt phải tṛn hai mươi tuổi [trở lên]. Trước hết, quư vị có thể thọ mười giới căn bản, hoặc biệt giới của Sa Di Ni, có thể thọ Bồ Tát Giới, nhưng vẫn là Sa Di hay Sa Di Ni. Nếu ta chỉ thọ Bồ Tát Giới th́ chỉ có thể là tại gia cư sĩ, chứ không thể coi là người xuất gia được. Chẳng thọ giới tỳ-kheo, mà thọ Bồ Tát Giới th́ chẳng thể coi là người xuất gia. Phải thọ giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni th́ mới có thể tính là tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni. Nếu ta đă xuất gia mà chưa tṛn hai mươi tuổi, sẽ chẳng thể thọ [Cụ Túc] giới, v́ có thọ giới cũng chẳng đắc giới! Do đó, đối với vấn đề xuất gia, thọ giới, và oai nghi, Ngẫu Ích đại sư hết sức coi trọng.

          Đồng thời, quư vị nương theo kinh luật, nương theo phương thức này để thọ giới. Để thọ giới th́ trước hết phải thân cận, cúng dường Tam Bảo. Trước tiên, quư vị phải phát đạo tâm, phải t́m một vị thầy học Đại Thừa, vị ấy đă thọ Cụ Túc Giới để thân cận, cúng dường. Điều này có nghĩa là nếu có vị xuất gia sớm hơn ḿnh, đă [xuất gia] tṛn mười năm, học Đại Thừa, quư vị có thể tôn người như vậy làm sư phụ, để thân cận, cúng dường, theo vị ấy xuất gia. Đừng nương theo người xuất gia Tiểu Thừa, ba nghiệp thân, khẩu, ư của quư vị thường cung kính vị ấy. Sự phát tâm ở đây có sự khác biệt rất lớn, phát đại đạo tâm và chẳng phát đại đạo tâm, hai đằng đều có sự khu biệt. Phát Bồ Đề tâm th́ là Bồ Tát tỳ-kheo. Phát tâm và chẳng phát tâm, Bồ Tát là ǵ, phàm phu là ǵ, đó là sự khu biệt nơi phát tâm. Người đă phát Bồ Đề tâm th́ là Bồ Tát. Kẻ chưa phát Bồ Đề tâm th́ là phàm phu.

 

Tập 8

         

          (Kinh) Nhược bất năng trị như thị chi nhân, duy đương thân cận Bồ Tát sở tu Ma Đức Lặc Già Tạng, độc tụng, tư duy, quán sát, tu hành. Ưng cần cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo.

          ()若不能值如是之人。唯當親近菩薩所修摩德勒伽藏。讀誦思惟觀察修行。應勤供養佛法僧寶。

          (Kinh: Nếu chẳng thể gặp người như thế, chỉ nên thân cận Ma Đức Lặc Già Tạng do Bồ Tát tu tập để đọc tụng, tư duy, quán sát, tu hành. Hăy nên siêng cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo)           

 

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Thời Mạt Pháp, các tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni đều chẳng dựa theo giới luật để xử, v́ người chưa đủ hai mươi tuổi đă được thọ giới, học giới! Đă thọ giới rồi lại chẳng hề đọc Luật Tạng. Theo như tôi biết, từ những sự từng trải của tôi th́ đại đa số là như thế đó. Trước khi thọ giới, thậm chí thọ Sa Di Giới mà chẳng học giới Sa Di, thọ giới tỳ-kheo mà chẳng học giới tỳ-kheo. Trước khi quư vị thọ giới tỳ-kheo, không thể xem [giới bổn của] giới tỳ-kheo, v́ điều này do đức Phật chế định. Hăy nên xem Luận Tạng và học các bộ luận, nhưng nếu quư vị đă thọ giới tỳ-kheo th́ phải nên xem Luật Tạng. Hiện thời, chúng ta bất luận thọ giới tỳ-kheo hay chưa, các thầy xem giới luật, đọc Luật Tạng rất ít.

 

          (Kinh) Nhược Sa Di Ni niên dĩ thập bát giả, diệc đương tự thệ thọ Tỳ Ni Tạng trung Thức Xoa Ma Na lục giới chi pháp, cập biến học tỳ-kheo-ni nhất thiết giới tụ. Kỳ niên nhược măn nhị thập thời, năi khả như thượng tổng thọ Bồ Tát tam chủng giới tụ.

          ()若沙彌尼年已十八者。亦當自誓受毗尼藏中式叉摩那六戒之法。及遍學比丘尼一切戒聚。其年若滿二十時。乃可如上總受菩薩三種戒聚。

          (Kinh: Nếu Sa Di Ni đă mười tám tuổi, cũng nên tự thệ thọ sáu giới pháp của Thức Xoa Ma Na trong Tỳ Ni Tạng (Luật Tạng), và học trọn khắp hết thảy các giới tụ của tỳ-kheo-ni. Khi tuổi đă tṛn hai mươi, bèn có thể thọ chung ba loại giới tụ của Bồ Tát như đă nói trên đây).

 

          Địa Tạng Bồ Tát nói nếu Sa Di, Sa Di Ni đă tṛn mười tám tuổi, hăy nên học giới Thức Xoa Ma Na (Śikṣamāṇā), tức là Học Pháp Nữ. Nhưng do [Sa Di Ni] chỉ thọ giới tỳ-kheo-ni, hăy nên học giới luật của tỳ-kheo-ni. Thoạt đầu, phải học ba năm, Sa Di cũng như thế, tỳ-kheo cũng như thế. Khi đă tṛn hai mươi tuổi, trong nước ta, trên thế giới này, quư vị tṛn hai mươi tuổi th́ tam đàn đại giới cùng thọ. Thời đức Phật chẳng phải là như thế, tṛn hai mươi tuổi chỉ có thể thọ giới tỳ-kheo, [người muốn thọ] Bồ Tát Giới th́ chỉ thọ Bồ Tát Giới.

 

          (Kinh) Nhiên hậu, đắc danh tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni.

          ()然後得名比丘比丘尼。

          (Kinh: Sau đó được gọi là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni).

 

          Sau khi quư vị đă thọ giới [Cụ Túc] th́ mới có thể gọi tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni. Hiện thời, có rất nhiều Sa Di xưng bừa là tỳ-kheo, chưa thọ giới mà đă đắp y, có đại chúng tỳ-kheo tùy tùng. Có kẻ mạo nhận là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, chẳng thọ giới mà cũng ở chung với Tăng chúng; đấy là phi pháp. Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát nói tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni, Sa Di và Sa Di Ni nếu tṛn mười tám tuổi th́ hăy nên học pháp. Đặc biệt là Sa Di Ni, khi tṛn mười tám tuổi, phải học sáu giới pháp[6] của Thức Xoa Ma Na. Chưa thọ giới th́ có thể học nghi quỹ của giới luật, tṛn hai mươi tuổi mới có thể thọ giới. Hiện thời, chẳng phải vậy, v́ có rất nhiều điều thực hiện chẳng đúng pháp. Nếu tṛn hai mươi tuổi, theo đúng pháp thọ giới, theo đúng pháp học giới, đó mới được coi là tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Nếu chẳng thọ giới, mà vẫn ở chung với đại chúng Tăng, đặc biệt là làm Phật sự. “Phật sự” như chúng tôi nói, thông thường là bái sám, họ chẳng phân biệt, cứ trà trộn vào Tăng số. V́ làm Phật sự, ắt cần phải có bảy vị tỳ-kheo, hoặc tỳ-kheo ni; do chẳng đủ bảy người, Sa Di, hoặc Sa Di Ni cũng tham gia làm Phật sự trong ấy. Đó là phi pháp. Chúng ta biết chuyện này là được rồi. Khi quư vị học giới th́ được, chứ nếu nói phổ biến, họ sẽ chẳng tiếp nhận cách nói này của chúng ta. V́ đấy là lời đức Phật dạy, chiếu theo quy định trong giới luật th́ phải nên làm như thế, đa số là chẳng chiếu theo giới để làm! Do vậy, đức Phật gọi hiện thời là Mạt Pháp, Địa Tạng Bồ Tát cũng nói trong thời Mạt Pháp th́ làm như thế.

 

          (Kinh) Nhược bỉ chúng sanh tuy học sám hối, bất năng chí tâm, bất hoạch thiện tướng giả, thiết tác thọ tưởng, bất danh đắc giới.

          ()若彼衆生雖學懺悔。不能至心。不獲善相者。設作受想。不名得戒。

          (Kinh: Nếu các chúng sanh ấy tuy học sám hối, nhưng chẳng thể chí tâm, chẳng đạt được tướng lành, dẫu cho là đă thọ giới, chẳng được gọi là “đắc giới”).

 

          Trong thời Mạt Pháp, nếu quư vị muốn đắc giới thanh tịnh, hăy nương theo lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát. Ở đây, chuyên nói về pháp sám hối do Địa Tạng Bồ Tát đă dạy trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Đối với người học pháp sám hối th́ yêu cầu đầu tiên là quư vị muốn học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo phải chí tâm. Nếu quư vị chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh, mà cho rằng đă đắc giới th́ là sai lầm. V́ muốn thọ giới Sa Di, Sa Di Ni, hoặc là muốn thọ giới tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni mà chẳng có thầy truyền trao, chúng ta bèn nương theo Chiêm Sát Sám của Địa Tạng Bồ Tát để thọ th́ cũng được; nhưng ắt cần phải đạt được luân tướng thanh tịnh. Chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh, cứ lạy suông rồi cho là ḿnh đă đắc giới; như thế th́ cũng chẳng đắc giới!

          “Bất hoạch thiện tướng” (Chẳng đạt được tướng lành): Nói “ta đă đạt được thiện tướng”, như thế nào là đạt được thiện tướng? Nếu quư vị bái sám, chiếu theo phương pháp do Địa Tạng Bồ Tát đă dạy, xác thực là đạt được ba nghiệp đều thanh tịnh. V́ thế, sám tội thanh tịnh th́ gọi là “thiện tướng”. Khi nói đến luân tướng th́ sẽ phân biệt rơ ràng “luân tướng như thế nào là đạt được thiện tướng? Như thế nào là chẳng đạt được thiện tướng?” hết sức rơ ràng! Quư vị chẳng đạt được tướng ấy, th́ chẳng gọi là “thọ giới”. Ở đây, chuyên nói tới các tỳ-kheo hoặc tỳ-kheo-ni thọ giới đắc giới hay không. Như các vị sư phụ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni đă thọ tam đàn đại giới, khi quư vị gieo Chiêm Sát luân tướng để xem khi ta thọ tam đàn đại giới có đáng kể hay không? Chẳng có ǵ đáng kể hết! Một giới cũng chẳng đắc! [Bởi lẽ], chẳng hợp pháp, chẳng phù hợp giới pháp. Quư vị dựa vào lạy Chiêm Sát Sám, ta muốn t́m một vị tỳ-kheo thanh tịnh, hoặc tỳ-kheo-ni thanh tịnh, hăy dựa theo luân tướng của Chiêm Sát Luân để quyết định. Ở đây chuyên nói về chuyện thọ giới.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát vấn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Sở thuyết chí tâm giả, sai biệt hữu kỷ chủng? Hà đẳng chí tâm năng hoạch thiện tướng?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Thiện nam tử! Ngă sở thuyết chí tâm giả, lược hữu nhị chủng. Hà đẳng vi nhị? Nhất giả, sơ thỉ học tập cầu nguyện chí tâm. Nhị giả, nhiếp ư chuyên tinh, thành tựu dũng mănh tương ứng chí tâm. Đắc thử đệ nhị chí tâm giả, năng hoạch thiện tướng. Thử đệ nhị chí tâm phục hữu hạ, trung, thượng tam chủng sai biệt. Hà đẳng vi tam? Nhất giả, nhất tâm. Sở vị hệ tưởng bất loạn, tâm trụ liễu liễu. Nhị giả, dũng mănh tâm. Sở vị chuyên cầu bất giải, bất cố thân mạng. Tam giả, thâm tâm. Sở vị dữ pháp tương ứng, cứu cánh bất thoái. Nhược nhân tu tập thử sám hối pháp, năi chí bất đắc hạ chí tâm giả, chung bất năng hoạch thanh tịnh thiện tướng. Thị danh thuyết chiêm đệ nhị luân pháp”.

          ()爾時堅淨信菩薩摩訶薩問地藏菩薩摩訶薩言。所說至心者差別有幾種。何等至心能獲善相。地藏菩薩摩訶薩言。善男子。我所說至心者。略有二種。何等爲二。一者初始學習求願至心。二者攝意專精成就勇猛相應至心。得此第二至心者。能獲善相。此第二至心復有下中上三種差別。何等爲三。一者一心。所謂系想不亂。心住了了。二者勇猛心。所謂專求不懈。不顧身命。三者深心。所謂與法相應。究竟不退。若人修習此懺悔法。乃至不得下至心者。終不能獲清淨善相。是名說占第二輪法

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Chí tâm như đă nói th́ có mấy loại sai biệt? Chí tâm như thế nào th́ sẽ có thể đạt được tướng lành?” Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: “Này thiện nam tử! Chí tâm như tôi đă nói, đại lược có hai loại: Một là chí tâm học tập cầu nguyện thuở đầu. Hai là chí tâm tương ứng với sự nhiếp ư, chuyên ṛng, thành tựu dũng mănh. Có được loại chí tâm thứ hai th́ sẽ có thể đạt được tướng lành. Loại chí tâm thứ hai lại có ba loại hạ, trung, thượng sai khác. Những ǵ là ba? Một là nhất tâm, tức là chú tâm suy tưởng chẳng loạn, tâm trụ rành rẽ. Hai là tâm dũng mănh, tức là chuyên cầu, chẳng lười nhác, chẳng đoái hoài thân mạng, Ba là thâm tâm, tức là tương ứng với pháp, rốt ráo chẳng thoái chuyển. Nếu ai tu tập pháp sám hối này, cho đến chẳng đạt được chí tâm bậc hạ, sẽ trọn chẳng thể đạt được tướng thanh tịnh. Đó là nói về cách chiêm sát đối với loại luân tướng thứ hai).

 

          Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “Chí tâm như Ngài đă nói có mấy loại sai biệt? Do loại chí tâm nào th́ sẽ có thể đạt được tướng lành?” Địa Tạng Bồ Tát nói: “Khi muốn lạy Chiêm Sát Sám, ắt phải có cái tâm chí thành, khẩn thiết”. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát liền hỏi Địa Tạng Bồ Tát: “Cái tâm chí thành như Ngài đă nói là như thế nào? Có bao nhiêu loại khác nhau? Như thế nào th́ mới được coi là tâm chí thành? Có tâm chí thành th́ mới có thể đạt được thiện tướng, tức là luân tướng thanh tịnh. Vậy th́ cái tâm chí thành ấy như thế nào? Như thế nào th́ mới được coi là tâm chí thành?” Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hướng về Địa Tạng Bồ Tát thỉnh cầu, chính là thỉnh cầu thay cho chúng ta: “Cái tâm chí thành có khác biệt hay chăng? Có bao nhiêu loại tâm chí thành? Như thế nào th́ mới được coi là chí thành, mới có thể thấy được tướng hảo? Như thế nào th́ coi là chẳng chí thành?” Xin Địa Tạng Bồ Tát hăy giảng cặn kẽ về tâm chí thành. Cái tâm chí thành ấy, nói đơn giản, sẽ là tư tưởng thuần tịnh, chẳng có tạp niệm. Chúng ta thường nói “chí thành khẩn thiết”, tức là trong tâm cầu Địa Tạng Bồ Tát chẳng có một tí tạp niệm nào! Khi lạy Chiêm Sát Sám cũng thế, dùng Chiêm Sát Luân cũng thế, hoặc quư vị tụng kinh Địa Tạng, đều phải là trong tâm chí thành khẩn thiết mà niệm. Quư vị thành tâm th́ hiệu quả sẽ to hơn nhiều. Nếu chẳng thành tâm th́ có công đức, chẳng có trí huệ! Có trí huệ, chắc chắn sẽ có thể thành tâm. Có công đức, tuy quư vị chẳng thành tâm, cứ niệm măi, cũng có thể đạt đến tâm chí thành.

          Kiên Tịnh Tín Bồ Tát xin Địa Tạng Bồ Tát giảng về tâm chí thành. Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: - Thiện nam tử! Tâm chí thành như ta đă nói, đại lược có hai loại. Những ǵ là hai loại?

          1) Một là cái tâm chí thành khi mới bắt đầu học tập, cầu nguyện. Đó là loại chí tâm thứ nhất.

          2) Hai là chí tâm do tương ứng với sự thâu nhiếp tâm ư, chuyên ṛng thành tựu dũng mănh.

          Có hai loại tâm ấy th́ sẽ có thể đạt được thiện tướng. Thoạt đầu, chúng ta phát tâm phải chí thành th́ quư vị mới học tập. Chẳng phải là chúng ta thường nói, thường cho rằng chính ḿnh đă có tâm chí thành ư? Chẳng hề có! V́ cái tâm ấy chính là hân nhạo tâm (欣樂心, tâm ưa thích), chẳng phải là tâm chí thành! Ta hoan hỷ mong cầu pháp này. Khi quư vị muốn dùng Chiêm Sát luân tướng, sẽ có thể sai khác. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát “như thế nào mới được coi là chí tâm”, tức là khi quư vị dụng tâm, phải sử dụng tới mức độ nào th́ mới được coi là chí tâm?

          Địa Tạng Bồ Tát nói: Cầu nguyện, chính ḿnh phát nguyện, mong măn nguyện, chí tâm cầu nguyện. Chí tâm tương ứng với sự chuyên ṛng thành tựu dũng mănh, điều này rất khó khăn! Chúng ta thường nói “chí tâm cầu nguyện”, tức là thâu nhiếp cái tâm tán loạn, xáo động, sao cho chế tâm nhất xứ, lắng ḷng, an tâm bái sám trong sám thất. Hoặc là an tâm, tĩnh tâm niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị bái sám để cầu như thế, th́ mới có thể đạt được luân tướng thanh tịnh, mới có thể coi như người bái sám [thật sự] cầu sám hối. Loại chí tâm thứ hai sâu lắm, ắt cần phải tương ứng với dũng mănh. Loại chí tâm thứ hai lại tách ra: Như thế nào th́ mới được coi là chí tâm thật sự dũng mănh, như thế nào th́ vẫn chưa đủ? Thông thường, sau khi chúng ta tiến vào sám thất bèn hy vọng [tam nghiệp thanh tịnh]. Chí tâm chính là hy vọng, tức hy vọng sẽ đạt được luân tướng thanh tịnh. Khi chúng ta hỏi các chuyện ấy, hy vọng Bồ Tát sẽ có thể đúng như thật trả lời cho chúng ta. Đó là [câu hỏi] về sự cần phải có chí tâm.

          Kiên Tịnh Tín Bồ Tát cảm thấy hai thứ chí tâm như Địa Tạng Bồ Tát đă nói vẫn c̣n mơ hồ, chúng sanh chẳng thấy rơ ràng. Do đó, Ngài lại tha thiết thỉnh cầu: “Như thế nào mới coi là chí tâm? Như thế nào được coi là chẳng chí tâm?” Cái tâm nguyện cầu của chúng ta chính là hy vọng. Chúng ta phát nguyện, hy vọng sử dụng Chiêm Sát Luân, luân tướng sẽ chỉ bảo chúng ta làm như thế nào? Như thế nào th́ được coi là chánh xác? Như thế nào là chẳng chánh xác? Đại khái, thông thường đều là chúng ta đảnh lễ ba lạy, sau đó dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát, hoặc là phát nguyện, nhưng vẫn chưa biết chuyên ṛng, nhất trí! Do đó, Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Ắt cần phải có tâm chí thành, khẩn thiết!” Chẳng hạn như chúng ta vào Phật đường, lễ ba lạy, ngồi xuống, hoặc là bắt đầu bái sám, quỳ xuống, quư vị phải nên đem hoàn cảnh bên ngoài, các ư nghĩ khác trong tâm tưởng, bất cứ thứ ǵ cũng đều buông xuống, chẳng có một niệm xen tạp. Đấy là chí tâm. Tôi nghĩ các vị đạo hữu có hiện tượng sau đây: Tôi thấy rất nhiều đạo hữu khi tới sám thất để bái sám, sau khi đă lắng ḷng, bèn xúc động thiện căn trong quá khứ. Do thiện căn phát hiện, cảm thấy các nghiệp do chính ḿnh đă tạo trong quá khứ rất nghiêm trọng, bèn cảm xúc, đau đớn khóc ṛng mà lễ bái. Có cảm ắt có ứng, cảm ứng lẫn nhau, giống như chúng ta thỉnh chuông: Nếu chúng ta chẳng thỉnh chuông, chuông sẽ không ngân. Quư vị vừa thỉnh, chuông bèn ngân lên. Quư vị chí thành khẩn thiết lạy Địa Tạng Bồ Tát như vậy, chế ngự cái tâm, thâu hồi cái tâm về một chỗ. “Chuyên” () là chẳng tạp, chuyên là chuyên tâm, chỉ một dạ bái sám. Các ư niệm khác hoàn toàn bị đoạn dứt, chẳng có! Đấy mới là “tinh” (, ṛng rặt). Tinh ṛng đến mức thuần thục, tâm lực chế tâm nhất xứ, dũng mănh tinh tấn. [Đó là] tinh cần (精勤, siêng ṛng).

          Nếu quư vị chẳng biết tâm niệm trong khi ấy [là như thế nào], tôi dùng một tỷ dụ để nói. Các thứ chúng ta ăn uống sau khi vào dạ dày và ruột tiêu hóa xong, các cặn bă của thức ăn sẽ đều bị bài tiết, [cơ thể] hấp thụ dưỡng chất tinh túy biến thành máu. Tinh túy của các thứ quư vị ăn vào, bốn mươi giọt tinh chất biến thành một giọt máu. Máu đó gọi là “hỗn huyết” (混血, máu lẫn lộn), chẳng phải là “thanh huyết” (清血, máu trong sạch). Bốn mươi giọt “hỗn huyết” biến thành một giọt thanh huyết, máu ấy thanh tịnh. Thường th́ máu ứa ra khi bị đâm kim là hỗn huyết, chẳng phải là máu thanh tịnh. Bốn mươi giọt thuần huyết biến thành một giọt tinh, bốn mươi giọt tinh biến thành thần khí. Nói ai đó “rất có tinh thần”, thần khí ấy do đâu mà có? Do tinh biến ra. Nói một người thần khí rất sung túc, tinh khí rất đầy đủ, trong sự biến hóa ấy, thoạt đầu, cái tâm chúng ta rất phập phều, chờ cho đến khi quư vị tĩnh lặng, đạt tới cái tâm thuần tịnh. Cái tâm thuần tịnh ấy lại lần lượt trải qua giai đoạn tạp kiến ǵ cũng chẳng có; trong cái tâm ấy chỉ là Địa Tạng Bồ Tát, chỉ trụ trong sự bái sám. Đó mới gọi là “chí tâm”.

          Chí tâm loại thứ nhất là mới trụ, ngưng dứt tạp niệm và vọng niệm. Loại chí tâm thứ hai có hạ, trung, và thượng:

          - Hạ chí tâm có nghĩa là suy nghĩ của quư vị chẳng loạn, chỉ có một sự này, chẳng bị rối loạn bởi các sự khác. Cái tâm của chính ḿnh trụ rành rẽ, rơ ràng phân minh. Đó gọi là “hạ chí tâm”. Thông thường, chúng ta chỉ dùng loại chí tâm này, đă cảm thấy rất chí tâm, chưa được!

          - Loại chí tâm thứ hai là tâm dũng mănh, chuyên cầu, chẳng biếng nhác, chuyên ṛng cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát, trước nay chưa hề giải đăi. Sự chí tâm này càng sâu hơn, chẳng đoái tiếc thân mạng, cho đến mất đi thân mạng cũng đều chẳng động tâm, chuyên môn niệm Địa Tạng Bồ Tát như thế. Loại này vẫn chưa đủ sâu.

          - Loại tâm thứ ba mới gọi là thâm tâm, tức là trong hiện thời, sám pháp mà quư vị đang lạy, Địa Tạng Bồ Tát mà quư vị đang niệm, cũng như cái tâm quư vị kết hợp với pháp thành một: Tâm chính là pháp, pháp chính là tâm.

          Cái tâm thứ nhất là tâm bất loạn, tâm đă trụ rành rành. Tâm thứ hai là dũng mănh tinh tấn, v́ chuyên cầu chẳng lười nhác, thà xả thân mạng [chẳng xả tu hành]. Chí tâm loại thứ hai chẳng đoái hoài thân mạng. Loại tâm thứ ba tương ứng với pháp, cái tâm sự bái sám của quư vị kết hợp với Địa Tạng Bồ Tát thành một Thể. Chúng ta nói: Khi chí tâm niệm A Di Đà Phật th́ A Di Đà Phật là chính ḿnh, chính ḿnh là A Di Đà Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng khác biệt!

          Khi quư vị tu pháp sám hối, tối thiểu là phải có chí tâm bậc hạ. Quư vị chưa đạt tới mức chẳng đoái tiếc thân mạng, thứ ǵ cũng đều nương dựa vào sám pháp ấy, chuyên nhất một niệm, sử dụng Chiêm Sát Luân sẽ có thể tương ứng. Nếu ngay cả chí tâm bậc hạ mà cũng không có, dẫu hằng ngày quư vị vẫn bái sám, quư vị lạy suốt bảy ngày vẫn chẳng có hiệu quả. Tối thiểu là phải đạt tới chí tâm. Chúng ta thường nói “tôi nhất tâm bất loạn”, nhưng chí tâm thuộc loại “nhất tâm bất loạn” th́ vẫn chưa phải là thâm tâm. Quư vị chẳng học, sẽ không biết. Chúng ta nói niệm A Di Đà Phật, thâm tâm niệm A Di Đà Phật, nhưng hễ có thể đạt tới mức thâm tâm niệm A Di Đà Phật, th́ chính ḿnh là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là ta, v́ tâm và A Di Đà Phật hợp nhất. Đó mới là chí tâm, là thật sự niệm A Di Đà Phật.

          Chí tâm bậc hạ là hết thảy các tạp niệm đều chẳng có, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật. Đó chỉ là chí tâm bậc hạ. C̣n như niệm A Di Đà Phật đến mức chẳng đoái hoài thân mạng, buông xuống toàn bộ thân tâm của chính ḿnh; đó là loại chí tâm thứ hai. Niệm đến mức thân và Phật hợp nhất th́ mới là thâm tâm thật sự. Chẳng hạn như khi chúng ta bái sám, cầu Địa Tạng Bồ Tát ứng hiện, tự nghĩ tới tội ác của chính ḿnh trong quá khứ, cho đến hết thảy tội ác, hứng chịu oan uổng, hứng chịu hết thảy bức hại. Nghĩ tới những điều đó, trong khi quư vị lạy Địa Tạng Bồ Tát, sẽ có thể cảm ứng đau ḷng, tuôn trào nước mắt. Chí tâm như vậy vẫn chưa đủ, phải đạt tới mức chính ḿnh là Địa Tạng, Địa Tạng là chính ḿnh. “Địa” là tâm địa, tâm địa của chính ḿnh hàm tàng Địa Tạng Bồ Tát. Tâm địa của Địa Tạng Bồ Tát bao hàm chúng ta. Hai tâm địa hợp thành một. Địa là đại địa, Tạng là chứa đựng, đại địa chứa đựng hết thảy sự vật. Bản thân chúng ta là Địa Tạng, Địa Tạng chính là tự thân. Cái thân đang lễ bái và Địa Tạng hợp nhất, đó là “thâm tâm”. Trong khi quư vị bái sám tới mức dùng thâm tâm để bái sám, sử dụng Chiêm Sát Luân sẽ tương ứng. Đă đạt đến mức độ ấy, cũng chẳng cần dùng Chiêm Sát Luân nữa, [bởi lẽ], quư vị thấy hết thảy các pháp như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, như chớp, c̣n dùng Chiêm Sát Luân làm ǵ? Chẳng cần! Nhưng quư vị ắt phải thông qua bái sám th́ mới có thể đạt tới mức đó, [tức là] dùng Chiêm Sát Luân ḥng đạt tới mức chẳng cần dùng Chiêm Sát Luân nữa. Đó là yêu cầu của Địa Tạng Vương Bồ Tát đối với chúng ta khi vào bái sám trong sám thất, hăy nên tâm tâm niệm niệm, trụ trong loại chí tâm thứ ba. Tối thiểu th́ quư vị cũng phải trụ tâm rành rành, tức là nhất định phải đạt được loại chí tâm thứ nhất. Khi quư vị lễ bái sám niệm, từng câu phân minh, từng chữ rành rẽ, niệm đến mức “vô niệm mà niệm, niệm chính là vô niệm”, đạt đến mức “tự chính là tha, tha chính là tự”. Đó mới là chí tâm thật sự.

          Chư vị hăy ngẫm xem: Thông thường chúng ta niệm Phật cũng thế, mà niệm kinh cũng thế, tu hành bất cứ loại công lực nào, có đạt tới mức chí tâm kiểu này hay chăng? Đồng thời, quư vị gặp pháp sám hối của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, cảm thấy hết sức thù thắng, v́ đây mới là bảo bối thật sự, là vô thượng chí bảo. Nói rộng hơn một chút, quư vị đă tin Phật, tin tưởng lời Phật dạy. Đức Phật chẳng trụ thế, lời đức Phật dạy là kinh điển. Tuy đức Phật chẳng trụ thế, Pháp Bảo c̣n đó, Pháp Bảo là kinh. Quư vị có thể gặp pháp, gặp gỡ pháp này, gặp được Chiêm Sát Sám Pháp. Quư vị hăy coi đó là của báu vô giá, sẽ sanh ra sức mạnh, bản thân sẽ nẩy sanh sức mạnh. Nay chúng ta thấy Pháp Bảo này, thấy bộ kinh này, kể từ lúc kinh được dịch ra tại Trung Hoa, hoàn toàn chẳng có ai chú thích, chẳng được phổ biến tuyên truyền. Trong Đại Tạng Kinh, có rất nhiều thứ tương ứng với chúng ta, nhưng quư vị có duyệt tạng (xem đọc Đại Tạng Kinh) th́ mới biết được, v́ chẳng có ai giảng, chẳng ai nói, cho nên quư vị chẳng gặp gỡ. Có những người cầm kinh sách, cầm lấy Pháp Bảo rất tùy tiện, chẳng coi trọng chút nào! Tôi thấy có rất nhiều đạo hữu cầm kinh vung vẩy, chẳng biết tánh chất nghiêm trọng của Pháp Bảo, chẳng có tí xíu tâm cung kính nào! Quư vị có thể tiến nhập nổi không? Ngay cả chí tâm bậc hạ mà c̣n chẳng có, ngay cả cái tâm cung kính cũng chẳng có, làm sao quư vị có thể tiến nhập Phật pháp cho nổi? Các đạo hữu vất vả đến nghe kinh này, chúng tôi chẳng dám nói quư vị chẳng chí tâm, nhưng tôi cảm thấy chí tâm chưa đủ, v́ quư vị chẳng biết sự tôn quư của pháp. Quư vị có nghĩ đến điều này hay không? Hiện thời, kỹ thuật ấn loát phát triển. Lấy một quyển kinh, bất cứ lúc nào cũng có thể in ra rất nhiều bản, quư vị có biết sự khó khăn để có kinh sách [thuở trước] hay không? Tôi có thể kể đôi chút về chuyện này cùng quư vị.

          Trong quá khứ, vào đời Đường, các vị sư phụ người Ấn Độ mang kinh sách đến Trung Hoa không nhiều. Do đó, vào thời ấy, có các vị cao tăng đại đức sang Ấn Độ cầu pháp, như pháp sư Huyền Trang, Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh, pháp sư Pháp Hiển là các vị chúng ta đều biết, các Ngài đă thành công. Thành công v́ các Ngài mang về rất nhiều kinh sách, và phiên dịch rất nhiều kinh sách. C̣n có những vị chết giữa đường, thậm chí [đă đến Ấn Độ rồi] trở về [Trung Hoa] mà chẳng có thành tựu ǵ, v́ chẳng học được kinh nào. Các trường hợp như vậy rất nhiều, ra đi một trăm người, trở về c̣n chưa đến mười người. Thời ấy, đi thỉnh kinh rất khó khăn. Từ Trường An ra đi, mất mấy năm mới tới được Ấn Độ. Hiện thời, chúng ta ngồi phi cơ hai ba tiếng đồng hồ đă tới nơi, nhưng quư vị tuy tới được, kinh sách chẳng c̣n nữa! Nay quư vị tới Ấn Độ t́m kinh sách, chẳng bằng sang Trung Hoa để t́m, Ấn Độ đă chẳng c̣n kinh sách, đă đứt đoạn rồi!    

          Khi đó, thỉnh kinh khó khăn to lớn cỡ nào? Tôi giới thiệu đơn giản cùng mọi người. Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh có một bài thơ, chuyên nói về sự khó khăn khi thỉnh kinh. Ngài nói “Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường đại gian” (trong các thời đại Tấn, Tống[7], Tề, Lương, Đường), kể từ đời Tấn măi cho đến đời Đường, có rất nhiều vị đại đức cảm thấy trong nước (Trung Hoa) chẳng đủ kinh sách, phải sang Ấn Độ thỉnh kinh. “Cao tăng cầu pháp ly Trường An” (cao tăng cầu pháp rời kinh đô Trường An), nghĩa là có rất nhiều vị phát tâm sang Ấn Độ thỉnh kinh. “Khứ nhân thành bách, quy vô thập”: Một trăm người ra đi, trở về chưa được mười người, thậm chí mười người trở về, có phiên dịch nổi hay không? Phiên dịch có măn nguyện của chúng sanh hay không? Do đó, pháp sư Nghĩa Tịnh mới than thở rằng: “Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường đại gian, cao tăng cầu pháp ly Trường An, khứ nhân thành bách, quy vô thập, hậu giả yên tri tiền giả nan” (Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường các đời, cao tăng cầu pháp ĺa Trường An, trăm người đi, chưa được mười về, người sau nào biết nỗi gian nan của người trước): Các vị hiền nhân đời sau, các đệ tử tin Phật cầm kinh Phật, họ có biết kinh này do đâu mà có hay chăng? Họ có biết nỗi gian nan của các vị đại đức thỉnh kinh hay không? Trong khi thỉnh kinh, “lộ viễn bích thiên duy lănh kết” (đường xa, trời biếc, lạnh buốt), đi qua vùng sa mạc, giữa trưa th́ như trong tháng Hè, sáng sớm và buổi tối c̣n lạnh hơn mùa Đông! Cho nên nói “lộ viễn bích thiên duy lănh kết”. Quư vị đi đến nơi đó, nhằm lúc băo cát hết sức lớn, gió thổi cát che lấp mặt trời, “sa hà giá nhật lực b́ đàn” (cát bay che mặt trời, sức lực kiệt quệ). Thân thể chẳng có tí sức lực nào, hao hết tinh lực, do vậy bị chết giữa đường rất nhiều. “Hậu hiền như vị am tư chỉ” (người đời sau chẳng am hiểu chuyện ấy): Người sau đâu có biết bậc tiên hiền thỉnh kinh đă trải qua rất nhiều khó khăn như thế nào? “Văng văng tương kinh khinh dị khan” (thường coi rẻ kinh sách), cầm kinh sách bèn tùy tiện, chẳng coi trọng, v́ quư vị không biết kinh sách do đâu mà có!

          Tôi đọc lại bài thơ này của Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh lần nữa, hy vọng mọi người sẽ thường luôn quán tưởng: “Tấn, Tống, Tề, Lương, Đường đại gian, cao tăng cầu pháp ly Trường An, khứ nhân thành bách, quy vô thập. Hậu giả yên tri tiền giả nan, lộ viễn bích thiên duy lănh kết. Sa hà giá nhật lực b́ đàn, hậu hiền như vị am tư chỉ, văng văng tương kinh khinh dị khan”. Các đạo hữu đời sau chẳng hiểu rơ [sự gian khổ ấy], thường dễ bỏ qua, coi rẻ kinh sách, đâu có biết cổ nhân phiên dịch kinh sách như thế nào? Hơn nữa, đạo tràng phiên dịch là mấy ngàn người, có vị nhuận sắc văn tự. V́ nhuận sắc văn tự th́ phải châm chước từng chữ để quyết định chữ được dùng có phù hợp với ư nghĩa [trong nguyên văn tiếng Phạn] hay không, cho thấy đạo tràng dịch kinh khó khăn dường nào! Hiện thời, chúng ta xem kinh, do kỹ thuật ấn loát phát triển, in bao nhiêu bản đều được, bèn cầm kinh phe phẩy, vung vẩy, chẳng có tâm cung kính. Do vậy, khai ngộ cũng ít, thành đạo cũng ít, mà chứng quả càng chẳng có. V́ quư vị phải dốc ḷng th́ mới được đền đáp. Quư vị chẳng trải ḷng chi hết, tâm khinh mạn mà mong thành Phật, mong thành đạo, mong liễu sanh tử, há dễ dàng như vậy sao? Nghiệp từ vô lượng kiếp tới nay mà! Do vậy, nay chúng ta được nghe pháp, đối với pháp, nhất định phải coi trọng pháp. Nay chúng ta học kinh này, hoằng dương cũng ít, người sử dụng cũng chẳng nhiều!

          Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị ắt cần phải phát khởi chí tâm. Không chỉ là đối với pháp này, mà quư vị học bất cứ pháp nào, quư vị ắt phải chí thành khẩn thiết tiến nhập th́ mới có thâu hoạch. Đừng nói chúng ta học Phật, mong thành Phật, mong liễu sanh tử, hăy nh́n trong thế gian: Quư vị mong kiếm được mấy đồng, học từ Tiểu Học, Trung Học, cho đến Đại Học, cho đến học nghiên cứu sinh, học một môn kỹ thuật, học bản lănh là để kiếm cơm, ḥng có thể ăn ngon một chút, kiếm nhiều tiền hơn một chút. Quư vị mong liễu sanh tử, học Phật pháp, đoạn tuyệt nỗi khốn khổ v́ lưu chuyển từ vô lượng kiếp, cái giá ấy cao lắm, quư vị phải trả như thế nào? Chẳng phải là tâm khinh mạn tùy tiện mà có thể đạt được đâu nhé! Hăy xem trong quá khứ, các vị tổ sư đă thành tựu như thế nào?

          Nói đến khai ngộ, mọi người nghe nói “minh tâm kiến tánh, đốn siêu trực nhập, lập tức chứng Bồ Đề”, quá thuận tiện! Thiền môn th́ thắp một nén hương, cắm một nén hương rồi tĩnh tọa, ngay lập tức khai ngộ. Mọi người chỉ thấy khi ấy, chứ vị đại đức Thiền Tông ấy đă tu hành từ vô lượng kiếp đến nay, quư vị đâu có thấy? Chỉ thấy Ngài khai ngộ trong hiện thời! “Ngộ” () chỉ là hiểu rơ mà thôi. Nếu vừa ngộ bèn thành Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ chẳng thọ kư. Mọi người thấy chỉ có một vị kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật là Di Lặc Bồ Tát. Thuở trước, tôi ở Cổ Sơn, Thiền đường và học đường của chúng tôi thường xuyên tranh căi, đua mồm tranh mép. Thiền đường nói “chúng ta hễ khai ngộ bèn thành Phật”, khi nào th́ khai? Họ nói: “Thiền môn thắp một nén hương, hương cháy hết bèn khai ngộ, đốn siêu trực nhập, lập tức chứng Bồ Đề”. Có chuyện tiện nghi như vậy hay không? Nếu [dễ dàng] như vậy th́ [ai nấy] đều thành Phật cả rồi, thế giới này chẳng c̣n chúng sanh nào cả! Chẳng phải là như thế! Chỉ là người ấy đă khai ngộ, hiểu rơ, quư vị có biết người ấy đă tu hành vô lượng kiếp trong quá khứ hay không? Quư vị chỉ nh́n vào nhất thời, không được rồi!

          Do đó, các vị đạo hữu chúng ta khi học kinh Phật, phải tôn trọng kinh điển. Quư vị tôn kính Tam Bảo, Phật chẳng trụ thế, Pháp Bảo là Phật, quư vị có thể coi kinh điển như Phật, sẽ gần với chuyện khai ngộ, liễu sanh tử hơn nhiều. Quư vị phải cung kính, bất luận bộ kinh nào. Tôi thấy rất nhiều đạo hữu niệm kinh A Di Đà, cầm kinh A Di Đà phe phẩy, vung vẩy, chẳng có chút tâm cung kính nào cả! Như thế th́ có thể sanh về thế giới Cực Lạc hay không? Tôi nói quyết đoán: Quư vị chẳng tôn kính kinh A Di Đà, quư vị niệm Phật hoàn toàn giả trất! Ắt cần phải có cái tâm thành khẩn.

 

          (Kinh) Thiện nam tử! Nhược dục chiêm sát tam thế trung thọ báo sai biệt giả, đương phục khắc mộc vi lục luân. Ư thử lục luân, dĩ nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, thập, thập nhất, thập nhị, thập tam, thập tứ, thập ngũ, thập lục, thập thất, thập bát đẳng số, thư tự kư chi. Nhất số chủ nhất diện, các tam diện, linh số thứ đệ bất thác, bất loạn.

          ()善男子。若欲占察三世中受報差別者。當復刻木爲六輪。於此六輪。以一二三四五六七八九十十一十二十三十四十五十六十七十八等數書字記之。一數主一面。各三面。令數次第不錯不亂。

          (Kinh: Này thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát sự thọ báo sai biệt trong ba đời, hăy nên khắc gỗ làm sáu cái luân. Đối với sáu cái luân ấy, dùng các con số một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm, mười sáu, mười bảy, mười tám để ghi, mỗi số ghi vào một mặt luân. Mỗi luân [có bốn mặt], đều ghi số nơi ba mặt, [mặt c̣n lại để trống] sao cho thứ tự của các số chẳng sai lầm, chẳng rối loạn).

         

          Thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát sự thọ báo sai khác trong ba đời, ta muốn quan sát quá khứ. Đối với quá khứ, lại có quá khứ, hiện tại và vị lai [của quá khứ]; hiện tại th́ lại có quá khứ, hiện tại và vị lai [của hiện tại]; vị lai cũng có hiện tại, quá khứ và vị lai [của vị lai]. Cho nên ba đời bao gồm chín đời, lại cộng thêm căn bản vô minh của quư vị, thành mười đời. Chúng ta thường nói là “thập thế” (mười đời). Học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo th́ trước hết phải biết dùng Chiêm Sát Luân. Quư vị khắc gỗ thành sáu cái luân. Luân tướng có tất cả mười chín cái, [loại thứ nhất là mười cái (tương ứng với ba nghiệp nơi thân, bốn nghiệp nơi miệng, và ba nghiệp nơi ư), loại thứ hai gồm ba cái (tương ứng thân, khẩu, ư). Ở đây, Bồ Tát đang nói đến loại luân thứ ba gồm sáu cái]. Trước hết, đối với loại luân thứ ba này, [phần chính giữa của mỗi luân] đều có bốn mặt. Trong bốn mặt ấy, ba mặt viết chữ số, một mặt để trống. Một mặt để trống với ư nghĩa: Người ấy đă vượt ngoài con số, chẳng thuộc trong các con số nữa. Sáu cái luân ấy, luân thứ nhất khắc một, hai, ba, luân kế tiếp khắc bốn, năm, sáu, luân kế tiếp khắc bảy, tám, chín, luân kế tiếp khắc mười, mười một, mười hai, luân kế tiếp khắc mười ba, mười bốn, mười lăm, cái luân thứ sáu khắc mười sáu, mười bảy, mười tám. V́ sao mỗi luân đều chừa trống một mặt không khắc? Mặt ấy biểu thị: Khi sáu cái luân cùng gieo mà đều ra mặt trống, chẳng có một chữ nào, cho thấy người ấy đă vượt khỏi tam giới, đă được thành tựu, chẳng thể dùng con số để chiêm nghiệm nữa.

          Do luân thuộc về thân, khẩu, ư gồm ba cái, v́ những con số ấy đều thuộc về thân, khẩu, ư, gộp chung lại sẽ là mười tám số. Mười tám con số ấy biểu thị điều ǵ? Biểu thị sáu căn, sáu trần, sáu thức của quư vị. Quư vị dùng Chiêm Sát Luân chẳng ĺa khỏi sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba lần sáu là mười tám. Khi quư vị tạo nghiệp, bất luận tạo thiện nghiệp hay ác nghiệp, chỉ cần quư vị vừa tác ư, sẽ chẳng ĺa khỏi mười tám thứ ấy. Nếu chúng ta muốn hỏi thiện ác sai biệt trong quá khứ, hiện tại, vị lai, rốt cuộc là thiện nghiệp hay ác nghiệp, hăy dùng sáu cái luân ấy để chiêm sát. Chỉ chiêm sát bằng loại luân này, sẽ cho quư vị biết là thiện nghiệp trong quá khứ nặng, hay ác nghiệp nặng, hoặc là nghiệp chẳng nặng. Chẳng nặng, sẽ hiện ra mặt trống; mặt trống biểu thị nghiệp chẳng nặng. Cộng các con số ấy lại, nếu chúng tương ứng với điều đang suy nghĩ và nghiệp của quư vị, hễ tương ứng th́ là phù hợp. V́ khi chúng ta tạo nghiệp, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhăn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức, mười tám món ấy chẳng thiếu món nào. Hễ ĺa khỏi mười tám món ấy, sẽ không có. V́ sao có mười chín luân? V́ quư vị có căn bản vô minh, mười tám thứ ấy đều từ căn bản vô minh mà khởi.

 

          (Kinh) Đương tri như thử chư số, giai tùng nhất số nhi khởi, dĩ nhất vi bổn. Như thị số tướng giả, hiển thị nhất thiết chúng sanh lục căn chi tụ, giai tùng Như Lai Tạng tự tánh thanh tịnh tâm Nhất Thật cảnh giới nhi khởi, y Nhất Thật cảnh giới dĩ chi vi bổn. Sở vị y Nhất Thật cảnh giới cố, hữu bỉ vô minh, bất liễu nhất pháp giới, mậu niệm tư duy, hiện vọng cảnh giới, phân biệt thủ trước, tập nghiệp nhân duyên, sanh nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư đẳng lục căn. Dĩ y nội lục căn cố, đối ngoại sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đẳng lục trần, khởi nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư đẳng lục thức. Dĩ y lục thức cố, ư sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trung, khởi vi tưởng, thuận tưởng, phi vi phi thuận đẳng tưởng, sanh thập bát chủng thọ.

          ()當知如此諸數。皆從一數而起。以一爲本。如是數相者。顯示一切衆生六根之聚。皆從如來藏自性清淨心一實境界而起。依一實境界以之爲本。所謂依一實境界故。有彼無明。不了一法界。謬念思惟。現妄境界。分別取着。集業因緣。生眼耳鼻舌身意等六根。以依內六根故。對外色聲香味觸法等六塵。起眼耳鼻舌身意等六識。以依六識故。於色聲香味觸法中。起違想順想非違非順等想。生十八種受。

          (Kinh: Hăy nên biết các con số như thế đều bắt đầu từ số một, lấy một làm gốc. Tướng trạng của các con số ấy đều hiển thị nhóm sáu lục căn của hết thảy chúng sanh đều từ Như Lai Tạng tự tánh thanh tịnh tâm Nhất Thật cảnh giới mà khởi, nương vào cảnh giới Nhất Thật làm gốc. Tức là do nương vào cảnh giới Nhất Thật mà có vô minh, chẳng hiểu rơ một pháp giới, nghĩ ngợi, tư duy sai lầm, hiện ra cảnh giới hư vọng, phân biệt giữ lấy. Do nhân duyên của tập nghiệp, sanh ra sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Do nương vào sáu căn ở bên trong, đối ứng với sáu trần, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ở bên ngoài, dấy lên sáu thức nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư. Do nương vào sáu thức, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, khởi lên ư tưởng thuận, ư tưởng nghịch, ư tưởng chẳng thuận chẳng nghịch, sanh ra mười tám thứ cảm nhận).

 

          Hăy nên biết các con số như thế đều khởi đầu từ số một, một là căn bản. Số tướng pháp ấy hiển thị nhóm sáu căn của hết thảy chúng sanh. V́ thế, kinh này c̣n gọi là “pháp môn Căn Tụ”, v́ là pháp môn sáu căn và sáu trần đều tụ tập. Sáu căn và sáu trần ấy đều do tự tánh thanh tịnh tâm dấy lên, đó gọi là cảnh giới Nhất Thật, tướng cảnh giới Nhất Thật. Nửa bộ sau [của kinh này] sẽ giảng về cảnh giới Nhất Thật. V́ cảnh giới Nhất Thật là căn bản của chúng ta, nương vào cảnh giới Nhất Thật mà sanh ra vô minh. Do chúng ta chẳng biết pháp giới tánh, chẳng hiểu rơ hết thảy pháp giới, suy niệm, tư duy sai lầm, vọng tưởng, phân biệt lầm lạc. V́ thế, hiện ra cảnh giới hư vọng. Do v́ có vọng, nên sanh ra lấy, bỏ. Tốt th́ muốn giữ lấy, chấp trước chẳng bỏ. Xấu th́ chẳng muốn dính dáng, chẳng làm. Đó gọi là “tập nghiệp cảm vời”. Do nhân duyên quá khứ và nhân duyên hiện tại cảm vời, sanh ra sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư, bên trong th́ dựa theo sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư, đối ứng với sáu trần, tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bên ngoài, trong khi Căn đối ứng với Trần, bèn sanh khởi thức. Thức là phân biệt, sanh ra sáu thức. Nếu hợp với cái tâm, thuận theo vọng tưởng của quư vị, quư vị liền vui thích. Đó gọi là “thuận duyên”. Chẳng hợp với vọng tưởng của quư vị, quư vị bèn chán ghét, nhưng chẳng ĺa được, đó gọi là “vi duyên” (違緣, duyên trái nghịch). Cho đến chẳng thiện, mà cũng chẳng ác, chẳng thuận mà cũng chẳng trái nghịch, dấy khởi biến hóa. Đó gọi là Vô Kư (無記). Vô Kư sanh ra biến hóa, tổng cộng là mười tám thứ.

          Sở dĩ kinh này được gọi là pháp môn Căn Tụ (根聚) v́ sáu căn, sáu trần, sáu thức tụ tập, cộng thêm căn bản vô minh cùng tụ hội. Nhắc lại một lần nữa, sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Căn đối trần chẳng có tác dụng ǵ, nhưng nếu ở giữa đó có sáu thức, tức Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ư Thức, sáu thức ấy phân biệt giữa Căn và Trần, ưa thích th́ mong đạt được, chẳng ưa thích th́ mong ĺa bỏ. Mong muốn mà chẳng đạt được, mong bỏ mà bỏ chẳng được th́ gọi là “phiền năo”. Do vậy, kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo [dạy về điều này]. Bởi lẽ, nghiệp do quư vị đă tạo, bất luận là thiện nghiệp cũng thế, mà ác nghiệp cũng thế, đều chẳng ĺa khỏi mười tám loại ấy. V́ thế, mười tám con số ấy, mỗi số chính là Căn và Trần tụ tập. Nó c̣n dấy lên sự biến hóa, mười tám nhân với mười đời, thành một trăm tám mươi. Một trăm tám mươi lại thêm chín cái trong hiện đời, [chỉ tính] mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, [và sáu thức], căn bản vô minh không tính, [nhân với mười đời], cộng thêm hiện tại, thành một trăm tám mươi chín loại. Tổng số là do cộng lại như thế đó. Nếu quư vị muốn học, tôi sẽ cầm luân tướng làm mẫu cặn kẽ cho quư vị, chứ giảng kinh th́ chỉ có thể nói đại khái như vậy!

 

          (Kinh) Nhược vị lai thế, Phật chư đệ tử, ư tam thế trung, sở thọ quả báo, dục quyết nghi ư giả, ưng đương tam trịch thử đệ tam luân tướng, chiêm kế hợp số. Y số quán chi, dĩ định thiện ác. Như thị sở quán tam thế quả báo thiện ác chi tướng, hữu nhất bách bát thập cửu chủng. Hà đẳng vi nhất bách bát thập cửu chủng?

          ()若未來世佛諸弟子。於三世中所受果報欲決疑意者。應當三擲此第三輪相。佔計合數。依數觀之。以定善惡。如是所觀三世果報善惡之相。有一百八十九種。何等爲一百八十九種。

          (Kinh: Nếu các đệ tử Phật trong đời vị lai, đối với quả báo phải hứng chịu trong ba đời, mà muốn dứt ḷng nghi, hăy nên gieo loại luân tướng thứ ba này ba lượt. Chiêm sát bằng cách gộp chung các con số đă gieo được. Dựa theo số đó để xem xét, biện định thiện, ác. Quán tướng quả báo thiện ác trong ba đời có một trăm tám mươi chín loại. Những ǵ là một trăm tám mươi chín loại?)

 

          Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: Các đệ tử Phật trong đời vị lai, tức hết thảy các đệ tử đức Phật trong đời mai sau. V́ sao chuyên nói các đệ tử Phật? Pháp môn Căn Tụ chỉ có đệ tử Phật sử dụng. Kẻ tại gia mà coi pháp này như h́nh tướng bói toán để sử dụng, sẽ chẳng linh. Chúng ta sử dụng nó trong “quan pḥng”, tức là dùng khi đang bế quan. Kẻ nào dùng luân tướng để đoán mạng cho người khác, có dùng được hay không? Hễ dùng [theo kiểu ấy] th́ cũng chẳng có hiệu quả, mong kiếm tiền sẽ chẳng làm được! Bọn xuất gia chúng ta mong kiếm tiền, đó gọi là “sống phi mạng”, “quẻ” cũng chẳng linh, mà cũng chẳng hiện, chẳng thể chuẩn xác! Nhất định phải hiểu: Nếu chúng ta dùng chiêm sát luân tướng th́ phải biết dùng Chiêm Sát Luân. [Nếu] người khác thỉnh chúng ta, Địa Tạng Vương Bồ Tát cho phép quư vị làm giùm người khác. Lợi ích chúng sanh th́ làm, ngàn vạn phần chớ nên kiếm tiền. Nếu lấy tiền, sẽ chẳng linh. Khi muốn học pháp này, [người dạy] phải đặc biệt nói [rơ ràng với người học: Chẳng thể dùng phép này như một tṛ bói toán kiếm lợi]. Trên ṭa giảng chẳng có cách nào giảng cho mọi người, nói sao cho mọi người đều hiểu rơ ràng. Quư vị biết ư nghĩa của một trăm tám mươi chín luân tướng là được rồi!

          Trong đời vị lai, Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo chúng ta: Thời Mạt Pháp, các đệ tử Phật trong đời vị lai. Ngài nói rất rơ ràng, ắt phải là đệ tử Phật! Các đệ tử Phật trong đời vị lai, tối thiểu là quy y Tam Bảo, bao gồm hai chúng tại gia và hai chúng xuất gia. Đối với quả báo trong quá khứ, hiện tại, vị lai, những ǵ cái thân hứng chịu trong hiện tại, những điều phải hứng chịu ấy là báo. Quư vị chẳng biết cái nhân v́ sao thân thể chúng ta chẳng khỏe mạnh như thế này ư? Chúng tôi có một đạo hữu thân thể rất nhiều bệnh, thân thể chẳng khỏe khoắn: “Quư vị hỏi v́ sao ư? Trong quá khứ, sát nghiệp của quư vị rất nặng”. Thân thể rất mạnh khoẻ, nhưng học chẳng vào, chẳng có trí huệ, quư vị cũng hỏi v́ sao ư? Trong quá khứ, quư vị đă tạo rất nhiều nghiệp, đời này chẳng có trí huệ. Gieo luân tướng, [để cầu biết chính ḿnh] rốt cuộc đă tạo nghiệp nào? Tức là đối với thân, khẩu, ư, phương diện nào nặng nề? Đó là trọng điểm sám hối của quư vị. Quư vị gieo luân tướng, quán sát tổng số của các con số hiện ra trong sáu cái luân tướng [thuộc loại thứ ba này]. Sau khi đă quan sát, sẽ biết rơ điều thiện và ác của quư vị. Chuyện thuộc loại này rất nhiều, đáng tiếc là người ấy chẳng biết dùng luân tướng, cho nên cũng chẳng thể chiêm sát!

          Vào đời Đường, tại chùa Đại Hoa Nghiêm ở Ngũ Đài Sơn, có một vị sư phụ có ngoại hiệu là Ngưu Si Thiền Sư. V́ sao gọi là Ngưu Si (牛呞, trâu nhơi)? Mọi người đều chửi ông ta giống như trâu, v́ đầu óc ông ta chẳng sáng suốt, chỉ có thể nấu cơm cho đại chúng, làm việc nặng, làm lao động. Học pháp th́ bất luận niệm Phật, học kinh, hay bái sám, toàn bộ đều không thể lọt vào đầu được. Chẳng phải là đần độn b́nh thường, mà là đần chết luôn! V́ thế, ông ta sanh khởi tâm hổ thẹn, ven theo núi, triều bái năm đỉnh núi của Ngũ Đài, mong gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát [để thưa hỏi]: V́ sao mọi người đều học sẽ thông hiểu đôi chút, học rồi đều có thành công, c̣n ông ta v́ sao chẳng được? Khi ông ta triều bái Ngũ Đài, gặp một cụ già chăn trâu. Cụ già này là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hóa thân. Cụ già nói với ông ta: “Sư phụ! Tôi thấy thầy quành qua, quành lại rất lâu trên núi, thầy làm ǵ vậy?” Ông ta nói: “Tôi mong gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát”. Cụ già nói: “Thầy muốn gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát để làm ǵ?” Ông ta nói: “Ai nấy đều gọi tôi là trâu, bảo tôi quá đần độn! Tôi tạo nghiệp ǵ?” Khi ấy, ông ta hiểu ra, đây là Văn Thù Bồ Tát hiện tiền, liền quỳ trước Văn Thù Bồ Tát, nhất định cầu Bồ Tát cứu ông ta. Văn Thù Bồ Tát nói: “Ông muốn biết nghiệp của chính ḿnh ư?” Văn Thù Bồ Tát liền đem cái ṿng nơi chiếc y ca-sa đang đắp đưa vào miệng ông ta thăm ḍ, móc trái tim ông ta ra: “Ông có thấy trái tim của ông là tim trâu? Người ta gọi ông là Ngưu Si chẳng sai! Quá khứ ông là vị pháp sư thuyết pháp, trên pháp ṭa chửi các vị tỳ-kheo nghe kinh giống như trâu. Đọa lạc đến hiện thời đă là năm trăm đời, đời đời kiếp kiếp [chịu báo như vậy]. Tuy đời này đă xuất gia, nhưng do cái tâm ấy, ông chẳng có trí huệ. Nay do ông đă sám hối, ta đổi tim cho ông. Ông sẽ có thể giảng kinh”. Vừa thay đổi, ông ta liền bắt đầu có thể giảng kinh cho các tỳ-kheo. Mọi người đặt cho ông ta ngoại hiệu là “Ngưu Si pháp sư”, trong lịch sử có nhân duyên như thế đó.

          Nói một câu sai trái, mắng chửi người khác một câu, đều có nhân quả, quư vị mong không có chuyện ǵ, đâu có được! Đặc biệt là đệ tử Tam Bảo học pháp, mỗi lời nói, mỗi hành vi, quư vị phải đặc biệt chú ư. Ăn nói tùy tiện, đă tạo nghiệp mà vẫn chẳng biết. Nếu chúng ta muốn biết quả báo đang hứng chịu trong hiện tại [là do cái nhân nào], há có lẽ nào đều gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo cho quư vị biết như vậy được? Chẳng gặp được đâu! Vậy th́ gặp Địa Tạng Vương Bồ Tát, gặp kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Quư vị dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ bảo cho quư vị biết, cũng chẳng cần phải triều sơn (đến chiêm bái các danh sơn, thánh địa). Quư vị ngồi trong nhà bái sám là được rồi. Vừa gieo, từ trong một trăm tám mươi chín loại, quư vị đều có thể [biết]. Đợi cho tới khi chúng tôi giảng danh tướng của một trăm tám mươi chín thứ ấy, quư vị sẽ biết. Có một trăm tám mươi chín loại, v́ sao chỉ nói con số này? Do đâu mà có một trăm tám mươi chín loại ấy? Chỉ cần quư vị nương theo ba nghiệp thân, miệng, ư, lại thêm căn bản phiền năo thành mười, mười nhân với mười. Tức là [ba nghiệp] nhân với ba đời, cộng thêm một căn bản vô minh thành mười. Ba lần sáu tức mười tám nghiệp trong hiện tại. [Mười tám nghiệp ấy] chính là sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba loại ấy, [mỗi loại có sáu món], ba lần sáu thành mười tám. Mười tám nhân với mười [nghiệp vừa nói trên đây] thành một trăm tám mươi, cộng thêm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư và thân, khẩu, ư trong hiện tại (là chín món), thành một trăm tám mươi chín.

          [Để chiêm sát] con số này, ắt phải [gieo toàn bộ sáu cái luân thuộc loại thứ ba này] ba lượt. Khi gieo luân tướng, dùng con số từ cái luân thứ sáu do gieo ba lượt th́ mới đạt được con số một trăm tám mươi chín. [Các con số nơi] cái luân thứ nhất là một, hai ba, cho đến cái luân thứ sáu là mười sáu, mười bảy, mười tám. Cộng lại các con số từ ba lần gieo, con số (tổng số) lớn nhất sẽ là một trăm tám mươi chín. [Sở dĩ] gieo ba lượt là v́ nhân duyên ba đời, cho nên phải gieo ba lượt. Nếu quư vị gieo ba lượt [mà các mặt luân ngửa lên] đều chẳng hiện, tức là các luân đều hiện mặt trống, tức là mười tám con số (có sáu cái luân, mỗi luân có ba con số) đều chẳng hiện, đều là mặt trống (mặt không ghi số), quư vị đă thành đạo, chẳng thuộc trong con số nữa; nhưng đạt đến mức độ ấy, quư vị cũng chẳng thể dùng Chiêm Sát Luân. V́ khi quư vị gieo ra những con số ấy, trong khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, Địa Tạng Vương Bồ Tát nhất định hiện tiền. Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện tiền th́ mỗi lần gieo của quư vị mới chuẩn xác. Quư vị lạy một thất (bảy ngày), hai thất (mười bốn ngày), nhưng gieo [luân tướng] chẳng đúng số, tức là những ǵ quư vị suy nghĩ trong tâm và con số hiện ra [nơi các luân tướng] cũng như những điều nói trong kinh Chiêm Sát không phù hợp, đó gọi là “hư vọng”. Vậy th́ làm như thế nào? Lạy lần nữa, gieo lại một lần nữa. Một ngày chẳng tương ứng, hai ngày chẳng tương ứng, có khi bảy ngày, mười bốn ngày vẫn đều chẳng tương ứng. V́ sao? Nghiệp của chúng ta quá nặng. Trước hết, phải lạy mười bốn hay hai mươi mốt ngày để tiêu nghiệp rồi mới lại gieo. Chỉ là hễ tương ứng, th́ hằng ngày sẽ tương ứng. Quư vị gieo vào sáng sớm mỗi ngày, sáng sớm mỗi ngày đều tương ứng. Trong một trăm tám mươi chín con số ấy, mỗi số đều có biểu thị một ư nghĩa riêng. Dưới đây, chúng tôi sẽ đọc một trăm tám mươi chín con số ấy.

 

          (Kinh) Nhất giả, cầu Thượng Thừa đắc bất thoái.

          ()一者求上乘得不退。

          (Kinh: Một là cầu Thượng Thừa được chẳng lui sụt).

 

          Cầu Thượng Thừa đắc Bất Thoái là con số một. Khi quư vị dùng sáu cái luân tướng [thuộc loại thứ ba] để gieo, gieo cả ba lần, chỉ hiện ra số một. Con số một ấy là ǵ? Cầu Thượng Thừa đă thành tựu, có thể đạt được quả vị viên măn. Trong mỗi luân của sáu luân, ba mặt đều có viết chữ [biểu thị một con số từ một cho đến mười tám], một mặt bỏ trống. Sáu cái luân ấy được gieo ba lần, hai lần đều gieo ra toàn là mặt trắng, một lần gieo được năm cái luân đều là mặt trắng, và một cái luân hiện số một. Luân tướng có nhiều số như vậy, quư vị gieo ba lần chỉ được con số một. Nếu Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng đến, hoặc là thần hộ pháp của Địa Tạng Vương chẳng đến, quư vị sẽ chẳng gieo được. Đó là cầu Thượng Thừa, v́ ta phát Bồ Đề tâm lợi ích chúng sanh. Nói dễ hiểu hơn là “cầu Thượng Thừa, đắc Bất Thoái”. Theo kinh Hoa Nghiêm, hàng Sơ Trụ Bồ Tát, c̣n trong các kinh Đại Thừa th́ là người đă tiến nhập Thất Địa Bồ Tát mới có thể nói là “bất thoái”, cũng như hàng Nhị Thừa mà đă chứng đắc quả A La Hán th́ mới gọi là “bất thoái”.

 

          (Kinh) Nhị giả, sở cầu quả hiện đương chứng.

          ()二者所求果現當證。

          (Kinh: Hai là trong hiện tại sẽ chứng cái quả mong cầu).

         

          Số hai [biểu thị] cái sẽ chứng cái quả mong cầu trong hiện tại. Đó chẳng phải là cầu sanh thế giới Cực Lạc. Hiện thời mong cầu thành tựu, chứng quả, thành đạo, tức là các phiền năo đều đoạn, đoạn Kiến Tư Hoặc, đoạn phiền năo. Quả vị này chẳng nhất định, hoặc là quư vị cầu Sơ Quả, cầu Nhị Quả, cầu Tam Quả, hay Tứ Quả, hoặc ta cầu Bồ Tát Thừa. Số một và số hai đại khái là Đại Thừa.

 

          (Kinh) Tam giả, cầu Trung Thừa đắc bất thoái.

          ()三者求中乘得不退。

          (Kinh: Ba là cầu Trung Thừa bèn được bất thoái).

 

          Số ba là do người ấy cầm các luân tướng thuộc loại này gieo ba lượt, hiện ra con số ba, [biểu thị] cầu trung thừa đắc Bất Thoái. Trung Thừa là Duyên Giác. Danh xưng Nhị Thừa là gọi gộp chung hai thừa Tiểu và Trung. Trung Thừa là Duyên Giác, Tiểu Thừa là Thanh Văn, Đại Thừa là Bồ Tát, hợp thành Tiểu, Trung, Đại trong giáo nghĩa.

 

          (Kinh) Tứ giả, cầu HThừa đắc bất thoái.

          ()四者求下乘得不退。

          (Kinh: Bốn là cầu Hạ Thừa đắc bất thoái).

 

          Con số Bốn là cầu Hạ Thừa đắc bất thoái. Hạ Thừa bao gồm nhân thiên. Muốn sanh lên trời, th́ trong Phật giáo, mong sanh lên trời rất dễ dàng! Quư vị làm đôi chút thiện nghiệp, thiện nghiệp thành tựu th́ quả báo là có thể sanh lên trời, đời sau có của cải, hoặc đời sau giàu có. [Hưởng quả báo tốt lành] trong nhân thiên khá dễ dàng, chứ chứng quả sẽ khó khăn. Cầu Hạ Thừa có thể được bất thoái. Trước hết, trong một trăm tám mươi chín loại luân tướng, ta gieo ba lần, chỉ hiện ra con số Bốn cũng chẳng dễ dàng. Nếu chẳng phải do Địa Tạng Bồ Tát ứng hiện, [con số ấy] tuyệt đối sẽ chẳng hiện cho quư vị. Mọi người đă nghe kinh, chẳng phải là mong dùng Chiêm Sát Luân liền dùng được! Tôi thấy người dùng rất ít, nhưng khi quư vị sử dụng th́ phải hiểu: “Ta nhất định phải sanh tín tâm thanh tịnh kiên định”. Đó là cậy vào Tín th́ mới có thể thành tựu. Nếu chẳng có tín tâm ấy, các điều đó sẽ chẳng thể thành tựu. V́ sao? Chẳng đạt được. Quư vị chẳng thể đạt được thành tựu. Cầu Hạ Thừa đắc Bất Thoái, bao gồm chuyện chúng ta cầu phước báo nhân thiên.

 

          (Kinh) Ngũ giả, cầu thần thông đắc thành tựu.

          ()五者求神通得成就。

          (Kinh: Năm là cầu thần thông được thành tựu).

 

          Chỉ mong cầu thần thông, chẳng mong cầu các thứ khác, sẽ có thể đạt được!

 

          (Kinh) Lục giả, tu tứ phạm đắc thành tựu.

          ()六者修四梵得成就。

          (Kinh: Sáu là tu bốn loại phạm hạnh bèn được thành tựu).

 

          Sự thanh tịnh này dễ dàng, Phạm Thiên thanh tịnh; nhưng ở đây lại bao hàm một ư nghĩa nữa, bao hàm điều ǵ vậy? Thanh tịnh chẳng phải là Phạm trong Phạm Thiên, nó bao gồm ư nghĩa tu TPhạm Hạnh bèn được thành tựu. TPhạm Hạnh là phạm hạnh thanh tịnh. Những ǵ là phạm hạnh thanh tịnh? Tứ Vô Lượng Tâm, tức từ, bi, hỷ, xả, tứ vô lượng. “Phạm” biểu thị thanh tịnh, tức là tu từ, bi, hỷ, xả thành tựu. Cái tâm thường trọn đủ tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả.

 

          (Kinh) Thất giả, tu thế Thiền đắc thành tựu.

          ()七者修世禪得成就。

          (Kinh: Bảy là tu Thiền thế gian bèn được thành tựu).

 

          Tu “thế Thiền” tức là Thiền Định thế gian, chẳng phải là thoát sanh tử, chẳng phải là Thiền Định nhằm liễu sanh tử, mà là Định thuộc vào Tứ Thiền Thiên.

 

          (Kinh) Bát giả, sở dục thọ đắc diệu giới.

          ()八者所欲受得妙戒。

          (Kinh: Tám là do ḷng mong muốn bèn được thọ giới mầu nhiệm).

 

          Quư vị bái sám, mục đích bái sám là mong đạt được luân tướng [thanh tịnh]. Khi đạt được luân tướng, sẽ đạt được tướng giới thể. Khi chúng ta cầu giới, nếu không đắc giới th́ dùng bái sám để cầu đắc giới, thỉnh Địa Tạng Bồ Tát truyền trao giới. “Sở dục” nghĩa là ta cầu giới, mong đắc giới, đạt được giới thể. “Đắc diệu giới” là đă đắc giới thể.

 

          (Kinh) Cửu giả, sở tằng thọ đắc cụ giới.

          ()九者所曾受得戒具。

          (Kinh: Chín là đạt được giới trọn đủ nơi các giới đă từng thọ).

 

          “Sở tằng thọ” (Đă từng thọ) là trong quá khứ, quư vị đă thọ Ngũ Giới, tám giới, Bồ Tát giới, hoặc là thọ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni giới, Sa Di, Sa Di Ni giới. Quư vị bái sám với mục đích cầu đắc giới, luân tướng [sẽ hiện tướng] cho biết quư vị đă đắc giới. Đắc thanh tịnh th́ luân tướng bèn hiện số chín, [tức là] quư vị gieo ba lượt, các con số gieo được cộng lại sẽ là chín. Ắt cần phải là [tổng số của các] con số từ ba lượt gieo, con số hiện ra trong một trăm tám mươi chín trường hợp là chín. Quư vị gieo ba lượt, những mặt khác gieo ra là trống, cộng [những con số từ các mặt có số đă hiện ra] sẽ là chín, th́ là đúng (tương ứng) với trường hợp này.

 

          (Kinh) Thập giả, cầu Thượng Thừa vị trụ tín.

          ()十者求上乘未住信。

          (Kinh: Mười là cầu Thượng Thừa, nhưng chưa trụ nơi tín tâm).

 

          Ta mong cầu pháp Thượng Thừa, chỉ có thể cầu đắc tín tâm. Đă trụ trong tín tâm tức là tín thành tựu.

 

          (Kinh) Thập nhất giả, cầu Trung Thừa vị trụ tín. Thập nhị giả, cầu Hạ Thừa vị trụ tín.

          ()十一者求中乘未住信。十二者求下乘未住信。

          (Kinh: Mười một là cầu Trung Thừa nhưng chưa trụ nơi tín tâm. Mười hai là cầu Hạ Thừa nhưng chưa trụ nơi tín tâm).

 

          Nay tín tâm của quư vị vẫn chẳng thành tựu, quư vị vẫn tiếp tục tu. Bất luận ta tu pháp Tiểu Thừa, Trung Thừa, Đại Thừa, Thanh Văn, Duyên Giác, hay Bồ Tát, nay quư vị vẫn chưa có thành tựu, luân tướng sẽ cho quư vị biết quư vị chưa tu thành. Khi quư vị hỏi “tôi đắc giới hay không”, hoặc “tu có thành tựu hay không”, luân tướng sẽ cho quư vị biết “chưa tu thành!”

 

          (Kinh) Thập tam giả, sở quán nhân vi thiện hữu.

          ()十三者所觀人爲善友。

          (Kinh: Mười ba: Người được quán là bạn lành).

 

          Người ấy muốn kết bạn với ta, là người tốt hay kẻ xấu? Có thể kết giao với kẻ ấy hay không? Quư vị gieo luân tướng, cộng các con số từ ba lượt gieo thành con số mười ba, [biểu thị] quư vị quan sát người ấy là bạn lành, là người tốt, là thiện nhân.

 

          (Kinh) Thập tứ giả, tùy sở văn thị chánh pháp.

          ()十四者隨所聞是正法。

          (Kinh: Mười bốn: Điều được nghe là chánh pháp).

 

          Những điều quư vị nghe hoặc thấy người khác nói đều là chánh pháp, chẳng sai!

 

          (Kinh) Thập ngũ giả, sở quán nhân vi ác hữu.

          ()十五者所觀人爲惡友。

          (Kinh: Mười lăm: Kẻ được quán là bạn ác).

 

          Đấy là xem ta có nên kết bạn với người ấy hay không? Nếu là bạn lành th́ quư vị có thể kết giao. Nếu [từ chiêm sát luân tướng, luân tướng bảo] kẻ đó là người xấu, quư vị chớ nên làm bạn với kẻ đó. Nếu quư vị muốn kết giao với ai đó, hăy dùng Chiêm Sát Luân để gieo luân tướng, xem Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo ta có nên kết giao với kẻ đó hay không? Địa Tạng Vương Bồ Tát nói kẻ đó là người tốt th́ có thể kết giao. Nói kẻ đó là người xấu th́ quư vị chớ nên kết giao.

 

          (Kinh) Thập lục giả, tùy sở văn phi chánh giáo.

          ()十六者隨所聞非正教。

          (Kinh: Mười sáu: Điều được nghe chẳng phải là chánh giáo).

 

          Nếu quư vị nghe người ta giảng kinh, có nơi nào giảng kinh quư vị muốn nghe. Trước hết, quư vị hăy chiêm sát một phen. [Luân tướng cho biết] những điều người ấy giảng chẳng phải là chánh pháp. Những điều được nghe chẳng phải là chánh giáo, những điều quư vị nghe người đó nói đều chẳng phải là chánh pháp.

 

          (Kinh) Thập thất giả, sở quán nhân hữu thật đức.

          ()十七者所觀人有實德。

          (Kinh: Mười bảy: Người được quán có đức hạnh thật sự).

 

          Quư vị thấy người ấy diện mạo chẳng sáng sủa, tướng mạo cũng chẳng ra làm sao. Vậy th́ quư vị gieo Chiêm Sát Luân đôi chút. [Luân tướng nói] người ấy có thật đức; đức chẳng ở bên ngoài, mà là ở bên trong. Quán người ấy có thật đức, tức là trong tâm hàm chứa đức. Chúng ta thường nói là “nội thấu” (內秀, từ trong thấu lộ ra ngoài, tức nét đẹp nội tâm).

 

          (Kinh) Thập bát giả, sở quán nhân vô thật đức.

          ()十八者所觀人無實德。

          (Kinh: Mười tám: Người được quán không có thật đức).

 

          Người ấy chẳng có thật đức, nhưng chẳng phải là người xấu, tức là người ấy đức chưa đủ.

 

          (Kinh) Thập cửu giả, sở quán nghĩa bất thác mậu. Nhị thập giả, sở quán nghĩa thị thác mậu.

          ()十九者所觀義不錯謬。二十者所觀義是錯謬

          (Kinh: Mười chín: Nghĩa được quán chẳng sai lầm. Hai mươi: Nghĩa được quán là sai lầm).

 

          Đạo nghĩa được nói trong kinh này, hay trong bộ luận này là chánh xác hay sai lầm? Chẳng sai lầm th́ là chánh xác. Nghĩa được quán là sai lầm, quư vị thấy một quyển sách, quư vị chẳng biết, chẳng thể phán đoán những điều sách nói có phải là chánh nghĩa hay không? Vậy th́ quư vị hăy gieo Chiêm Sát Luân, [luân tướng] sẽ cho quư vị biết.

 

          (Kinh) Nhị thập nhất giả, hữu sở tụng bất thác mậu. Nhị thập nhị giả, hữu sở tụng thị thác mậu.

          ()二十一者有所誦不錯謬。二十二者有所誦是錯謬。

          (Kinh: Hai mươi mốt: Điều đọc tụng chẳng sai lầm. Hai mươi hai: Điều được đọc tụng là sai lầm).

 

          Chuyện này chẳng cần giải thích, v́ ai nấy đều có thể hiểu.

 

          (Kinh) Nhị thập tam giả, sở tu hành bất thác mậu.

          ()二十三者所修行不錯謬。

          (Kinh: Hai mươi ba: Điều tu hành chẳng sai lầm).

         

          Điều trước là đọc tụng; c̣n điều này là hành đạo. Tu hành, hoặc khi quư vị tu Định, có đúng hay không? Quư vị tu Định, sợ hành theo tà định, sợ đi sai đường, hăy dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát một phen. Chẳng sai lầm th́ quư vị có thể tiếp tục tu.

 

          (Kinh) Nhị thập tứ giả, sở kiến văn thị thiện tướng. Nhị thập ngũ giả, sở chứng vi chân thật.

          ()二十四者所見聞是善相。二十五者有所證爲真實。

          (Kinh: Hai mươi bốn: Điều thấy nghe là tướng lành. Hai mươi lăm: Điều đă chứng là chân thật).

 

          Đây là bản thân đă chứng đắc mà chính ḿnh chẳng nhận biết, hoặc là đă đoạn phiền năo, hoặc đă đoạn tập khí, cho đến chính ḿnh cho rằng bản thân dường như đă khai ngộ, hoặc hiểu rơ, bèn cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát chứng thực cho quư vị một phen.

 

          (Kinh) Nhị thập lục giả, hữu sở học thị thác mậu.

          ()二十六者有所學是錯謬。  

          (Kinh: Hai mươi sáu: Điều đă học là sai lầm).

 

          Quư vị học điều ấy chẳng chánh xác, chớ nên học!

 

          (Kinh) Nhị thập thất giả, sở kiến văn phi thiện tướng.

          ()二十七者所見聞非善相。

          (Kinh: Hai mươi bảy: Điều được thấy nghe chẳng phải là tướng lành).

 

          Những điều được thấy nghe chẳng phải là thiện tướng. Điều này bao gồm cả chuyện quư vị nằm mộng, mộng thấy Bồ Tát hiện thân! Hoặc là mộng thấy Quán Thế Âm, mộng thấy Địa Tạng Bồ Tát, hoặc mộng thấy A Di Đà Phật. Quư vị bèn gieo quẻ, [luân tướng] sẽ bảo cho quư vị biết đó chẳng phải là thiện tướng, mà là ma nghiệp.

 

          (Kinh) Nhị thập bát giả, hữu sở chứng phi chánh pháp.

          ()二十八者有所證非正法。

          (Kinh: Hai mươi tám: Có những điều đă chứng đắc chẳng phải là chánh pháp).

 

          Chính ḿnh cảm nhận đă chứng đắc, hoặc có thần thông, [nhưng chiêm sát th́ luân tướng cho biết] đó là tà môn, chẳng phải là chánh pháp.

 

          (Kinh) Nhị thập cửu giả, hữu sở hoạch tà thần tŕ.

          ()二十九者有所獲邪神持。

          (Kinh: Hai mươi chín: Có các điều đạt được là do tà thần hộ tŕ).

 

          Quư vị cảm thấy có hộ pháp, hăy gieo Chiêm Sát Luân. Địa Tạng Bồ Tát cho biết: Đấy là tà thần, chẳng phải là chánh thần, quư vị phải đoạn tuyệt.

 

          (Kinh) Tam thập giả, sở năng thuyết tà trí biện.

          ()三十者所能說邪智辯。
          (Kinh: Ba mươi: Điều có thể nói ra là do tà trí biện luận).

 

          Có những người ăn nói khéo lắm, giảng giải rất nhiều thứ. Quư vị hỏi Địa Tạng Bồ Tát, người ấy có phải là trí huệ thật sự hay không? Ngài sẽ dạy: Đó chẳng phải là trí huệ thật sự, mà là tà tri tà kiến. Ngài dạy quư vị chớ nên thân cận.

 

          (Kinh) Tam thập nhất giả, sở huyền tri phi nhân lực.

          ()三十一者所玄知非人力。

          (Kinh: Ba mươi mốt: Biết điều huyền diệu chẳng phải do sức người).

 

          “Huyền” có nghĩa là “diệu tướng”, hoặc chuyện vi diệu. Nói một người làm chuyện huyền diệu lắm, “huyền diệu” là dường như chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tượng huyền diệu chẳng phải do sức người mà có thể thực hiện được, có khi là do tà thần gia tŕ. Đối với chuyện huyền diệu [được biểu thị bằng con số này], biết là Phật, Bồ Tát gia tŕ, v́ đối chiếu với kinh văn trong phần trước có nói: “Sở kiến văn phi thiện tướng” (điều thấy nghe chẳng phải là tướng lành).

 

          (Kinh) Tam thập nhị giả, ưng tiên tập quán trí đạo.

          ()三十二者應先習觀智道。

          (Kinh: Ba mươi hai: Hăy nên tu tập quán trí đạo trước đă).

 

          Trong khi quư vị tu hành, chẳng biết căn cơ của chính ḿnh học ǵ th́ tốt đẹp. Địa Tạng Vương Bồ Tát liền bảo cho quư vị biết: Trước hết, hăy học quán tưởng, tức là quán trí đạo, do quư vị quán tưởng sẽ phát ra trí huệ. “Đạo” ở đây là nói tới Bồ Đề đạo. Do quư vị quán tưởng mới có thể nhập đạo, mới có thể phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo.

 

          (Kinh) Tam thập tam giả, ưng tiên tập Thiền Định đạo.

          ()三十三者應先習禪定道。

          (Kinh: Ba mươi ba: Hăy nên tu tập Thiền Định đạo trước).

         

          Đối với căn cơ và t́nh huống của quư vị, hăy nên tu ǵ mới nên. [Gieo luân tướng, hiện ra con số này, tức là] Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy quư vị hăy tu Thiền Định trước. Nhưng các đạo hữu tu Thiền Định, có khi trước hết phải “luyện bắp đùi”, tức là luyện xếp chéo chân ngồi kiết già. Chẳng nhất định phải làm như thế! Khi tập Thiền Định, có hai loại, một loại là ngồi, loại khác là hành động. Thiền trong khi hành động là Động. Quư vị niệm kinh cũng thế, v́ quư vị làm hết thảy các Phật sự cũng thế, đều có thể nhập Định. Nhưng điều đầu tiên là phải điều ḥa cái thân, sau đó phải điều tâm. Đă điều thân và điều tâm rồi th́ mới có thể tu Định. Phương pháp điều thân rất nhiều, tùy thuộc quư vị thấy môn nào thích hợp nhất. Nói đến “đả tọa” (tĩnh tọa), thân thể của quư vị phải ngồi sao cho chẳng kḥm về trước, chẳng ngửa ra sau, phải ngồi cho ngay ngắn. Ở đây, tôi chẳng cần nói cặn kẽ chuyện này. Khi quư vị muốn học Thiền Định, trước hết phải luyện tập, dần dần có thể nhập môn th́ quư vị mới có thể định. Hoặc là trong khi giải nói, cũng có thể nhập định; hoặc trong khi hành động, cũng có thể nhập định. Nhưng trong quốc độ này, [để tu Thiền Định] thân thể của chúng ta hăy nên tĩnh tọa. Tĩnh tọa th́ cái tâm của quư vị mới có thể tương ứng. Đối với chúng ta, tĩnh trong động chẳng dễ dàng! Hăy nên tĩnh để tu tập Định.

 

          (Kinh) Tam thập tứ giả, quán sở học vô chướng ngại.

          ()三十四者觀所學無障礙。

          (Kinh: Ba mươi bốn: Quán điều đă học chẳng chướng ngại).

         

          Nếu ta muốn học tập một pháp môn, nhưng chính ḿnh chẳng thể quyết đoán được là đúng hay không, quư vị hăy dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát đôi chút. Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ dạy quư vị. Ngài nói có thể học chẳng bị chướng ngại, có thể thành tựu, quư vị sẽ học.

 

          (Kinh) Tam thập ngũ giả, quán sở học thị sở nghi. Tam thập lục giả, quán sở học phi sở nghi.

          ()三十五者觀所學是所宜。三十六者觀所學非所宜。

          (Kinh: Ba mươi lăm: Quán điều được học là thích hợp. Ba mươi sáu: Quán điều được học là chẳng thích hợp).

 

          Điều quư vị học có thích hợp [căn cơ] hay không? [Chiêm Sát Luân] sẽ cho quư vị biết có thích hợp hay không. Không thích hợp th́ quư vị chẳng cần học. Thích hợp th́ có thể đạt được lợi ích, có thể tiến nhập, quư vị hăy học.

 

          (Kinh) Tam thập thất giả, quán sở học thị túc tập. Tam thập bát giả, quán sở học phi túc tập.

          ()三十七者觀所學是宿習。三十八者觀所學非宿習。

          (Kinh: Ba mươi bảy: Quán điều được học là pháp đă tu tập từ đời trước. Ba mươi tám: Quán điều được học chẳng phải là pháp đă tu tập từ đời trước).

 

          Quan sát điều quư vị học, v́ trong quá khứ, quư vị đă từng học tập, [hiện thời], hễ học liền tiến nhập. Đó là điều đă được học tập trong đời trước. Nếu điều quư vị học mà chưa từng học trong quá khứ, sẽ rất xa lạ. Do vậy, trong khi quư vị học tập, chẳng biết ta đă từng học pháp ấy hay chưa. Tương tự, dường như đă học qua, lại dường như chưa hề học qua. Chúng ta xuất gia đều có cảm giác ấy, quư vị cảm giác trong quá khứ chính ḿnh đă xuất gia, đời trước đă từng xuất gia, hiện thời quư vị có cảm giác ấy. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, nó sẽ cho quư vị biết trong quá khứ quư vị là người xuất gia th́ đời này quư vị sẽ có thể tiến nhập.

 

          (Kinh) Tam thập cửu giả, quán sở học thiện tăng trưởng.

          ()三十九者觀所學善增長。

          (Kinh: Ba mươi chín: Quán điều được học sẽ tăng trưởng điều lành).

 

          Xem xét quư vị học [pháp ấy, sẽ] có thể tăng trưởng, [tức là] tăng trưởng thiện căn, tăng trưởng đạo hạnh của quư vị.

 

          (Kinh) Tứ thập giả, quán sở học phương tiện thiểu. Tứ thập nhất giả, quán sở học vô tấn thú.

          ()四十者觀所學方便少。四十一者觀所學無進趣。

          (Kinh: Bốn mươi: Quán điều được học là phương tiện ít. Bốn mươi mốt: Quán điều được học chẳng tiến nhập).

 

          Quán điều đă học, phương tiện ít, [tức là] quư vị học pháp môn này chẳng đủ phương tiện thiện xảo. Không có phương tiện thiện xảo, quư vị chẳng thể tiến nhập, hoặc tiến nhập rất khó khăn. Nếu ta học giới, quư vị gieo cái luân ấy, vậy th́ trước hết quư vị phải học. Tŕ giới th́ ắt trước hết cần phải biết “khai, giá, tŕ, phạm”. Mỗi điều giới luật đều có rất nhiều khai duyên. Bất luận giới điều nào, sẽ có tám duyên, hoặc sáu duyên, hoặc mười duyên. Khi ta tŕ giới gặp chướng ngại, làm như thế nào? Đức Phật có mấy loại khai duyên chẳng phạm giới, mỗi giới điều đều có [các loại khai duyên]. Nếu các đạo hữu đă xem Giới Tướng Biểu của pháp sư Hoằng Nhất, quư vị chẳng xem toàn văn giới luật, chỉ xem Giới Tướng Biểu th́ cũng có thể hiểu như thế nào là “khai, giá, tŕ, phạm”.

 

          (Kinh) Tứ thập nhị giả, sở cầu quả hiện vị đắc.

          ()四十二者所求果現未得。

          (Kinh: Bốn mươi hai: Chưa đạt được cái quả mong cầu trong hiện tại).

 

          Khi chúng ta tu hành, mong cầu chứng đắc, tuy hiện tại chưa đạt được, trong tương lai, quư vị sẽ có thể đạt được. Chớ nên buông bỏ, cứ kiên tŕ. Nếu quư vị tu pháp môn này trong hiện thời chưa đạt được, trong tương lai cũng chẳng đạt được, quư vị c̣n học pháp ấy để làm ǵ? Có thể buông bỏ pháp ấy, chẳng cần học nữa!

 

          (Kinh) Tứ thập tam giả, cầu xuất gia đương đắc khứ.

          ()四十三者求出家當得去。

          (Kinh: Bốn mươi ba: Cầu xuất gia, sẽ đi xuất gia được).

 

          Tôi tính phát tâm xuất gia, bèn thỉnh Địa Tạng Bồ Tát dạy cho biết, có thể xuất gia thành công hay không? [Luân tướng] cho biết “cầu xuất gia sẽ được”, quư vị đi xuất gia! Hễ cầu, liền có thể cầu được!

 

          (Kinh) Tứ thập tứ giả, cầu văn pháp đắc giáo thị.

          ()四十四者求聞法得教示。

          (Kinh: Bốn mươi bốn: Cầu nghe pháp sẽ được dạy bảo).

 

          Cầu nghe pháp sẽ được dạy bảo, có thể được nghe.

 

          (Kinh) Tứ thập ngũ giả, cầu kinh quyển đắc độc tụng.

          ()四十五者求經卷得讀誦。

          (Kinh: Bốn mươi lăm: Cầu kinh quyển sẽ được đọc tụng).

 

          Có thể đạt được kinh tụng, có thể có được kinh quyển.

 

          (Kinh) Tứ thập lục giả, quán sở tác thị ma sự.

          ()四十六者觀所作是魔事。

          (Kinh: Bốn mươi sáu: Quán việc làm là ma sự).

 

          Đừng nên làm, quư vị làm chuyện ấy chẳng liên quan ǵ đến việc tu hành của chính ḿnh, chẳng ăn nhập ǵ cả, làm sai mất rồi. Quư vị đừng nên làm, nếu làm sẽ sanh ma chướng.

 

          (Kinh) Tứ thập thất giả, quán sở tác sự thành tựu. Tứ thập bát giả, quán sở tác sự bất thành. Tứ thập cửu giả, cầu đại phú tài doanh măn.

          ()四十七者觀所作事成就。四十八者觀所作事不成。四十九者求大富財盈滿。

          (Kinh: Bốn mươi bảy: Quán chuyện làm thành tựu. Bốn mươi tám: Quán chuyện làm chẳng thành. Bốn mươi chín: Cầu của cải to lớn bèn được tràn đầy).

 

          Cầu của cải to lớn bèn được tràn đầy. Đây là nói theo phía các đạo hữu tại gia. Quư vị mong cầu phát tài, [mà gieo luân tướng] được con số này th́ sẽ có thể phát tài.

 

          (Kinh) Ngũ thập giả, cầu quan vị, đương đắc hoạch. Ngũ thập nhất giả, cầu thọ mạng đắc diên niên. Ngũ thập nhị giả, cầu thế tiên đương đắc hoạch.

          ()五十者求官位當得獲。五十一者求壽命得延年。五十二者求世仙當得獲。

          (Kinh: Năm mươi: Cầu quan chức sẽ đạt được. Năm mươi mốt: Cầu thọ mạng, sẽ được tăng tuổi thọ. Năm mươi hai: Cầu thành tiên trong cơi đời sẽ đạt được).

 

          Cầu quan chức sẽ đạt được, cầu thọ mạng sẽ được tăng thọ, cầu thành tiên trong cơi đời sẽ đạt được. Học Đạo giáo, học thuật tu tiên, học Khí Công, khi quư vị học những thứ đó, dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát, [luân tướng] sẽ cho biết quư vị có thể thành công, nhưng [đạt được các thứ đó] sẽ chẳng thể liễu sanh tử, chỉ có thể thành tựu của cải trong thế gian.

 

          (Kinh) Ngũ thập tam giả, quán học vấn đa sở đạt. Ngũ thập tứ giả, quán học vấn thiểu sở đạt. Ngũ thập ngũ giả, cầu sư hữu đắc như ư. Ngũ thập lục giả, cầu đệ tử đắc như ư. Ngũ thập thất giả, cầu phụ mẫu đắc như ư. Ngũ thập bát giả, cầu nam nữ đắc như ư. Ngũ thập cửu giả, cầu thê thiếp đắc như ư. Lục thập giả, cầu đồng bạn đắc như ư.

          ()五十三者觀學問多所達。五十四者觀學問少所達。五十五者求師友得如意。五十六者求弟子得如意。五十七者求父母得如意。五十八者求男女得如意。五十九者求妻妾得如意。六十者求同伴得如意。

          (Kinh: Năm mươi ba: Quán đạt được nhiều học vấn. Năm mươi bốn: Quán học vấn đạt được ít. Năm mươi lăm: Cầu thầy bạn được như ư. Năm mươi sáu: Cầu đệ tử được như ư. Năm mươi bảy: Cầu cha mẹ được như ư. Năm mươi tám: Cầu con trai, con gái, được như ư. Năm mươi chín: Cầu thê thiếp được như ư. Sáu mươi: Cầu đồng bạn được như ư).

 

          Có thể thỏa măn ư nguyện tầm sư học đạo của quư vị. Cầu đệ tử được như ư, cầu cha mẹ được như ư, cầu con trai, con gái đều được như ư, cầu vợ hay chồng đều được như ư, cầu đồng bạn được như ư.

 

          (Kinh) Lục thập nhất giả, quán sở lự đắc ḥa hợp.

          ()六十一者觀所慮得和合。

          (Kinh: Sáu mươi mốt: Quán thấy điều lo toan được ứng hợp).

 

          “Sở lự” (所慮) là ưu lự, quư vị làm chuyện ǵ mà chẳng quyết đoán được, rất lo âu. [Luân tướng] cho biết: Quư vị có thể làm được chuyện ấy, chẳng cần phải lo rầu, có thể ḥa hợp (tức là kết quả sẽ thuận theo ḷng mong muốn).

 

          (Kinh) Lục thập nhị giả, sở quán nhân tâm hoài khuể.

          ()六十二者所觀人心懷恚。

          (Kinh: Sáu mươi hai: Người được quán ôm ḷng giận [đối với ta]).

 

          Quư vị thấy người ấy dường như chẳng thoải mái, quư vị chiêm sát [để biết] v́ sao? [Luân tướng] cho biết người đó rất tức giận quư vị, quư vị đừng chọc giận kẻ đó nữa. Nếu quư vị chọc giận hắn, không chừng hắn sẽ trả thù, sẽ xa cách người đó một chút.

 

          (Kinh) Lục thập tam giả, cầu vô hận đắc hoan hỷ. Lục thập tứ giả, cầu ḥa hợp đắc như ư.

          ()六十三者求無恨得歡喜。六十四者求和合得如意。

          (Kinh: Sáu mươi ba: Cầu chẳng hận, được hoan hỷ. Sáu mươi tư: Cầu ḥa hợp được như ư).

 

          Xét mối quan hệ giữa người ấy với ta. Ta, ngươi, kẻ khác, con người chẳng ĺa mối quan hệ “ta, ngươi, kẻ khác”. Chẳng có tâm sân hận th́ người như thế có thể qua lại, đôi bên có thể nẩy sanh niềm hoan hỷ. Kẻ ôm ḷng giận đối với quư vị sẽ chẳng qua lại. Bản thân người đó bất măn quư vị, quư vị vẫn thân cận người đó, người đó sẽ trả đũa. Điều này cho thấy chúng ta qua lại với người khác, thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát có giao du được hay không. Đây là nói cho quư vị biết về mối quan hệ giữa con người với nhau.

 

          (Kinh) Lục thập ngũ giả, sở quán nhân tâm hoan hỷ. Lục thập lục giả, sở tư nhân đắc hội kiến. Lục thập thất giả, sở tư nhân bất phục hội.

          ()六十五者所觀人心歡喜。六十六者所思人得會見。六十七者所思人不復會。

          (Kinh: Sáu mươi lăm: Tâm người được quán hoan hỷ. Sáu mươi sáu: Được thấy người mà ta nghĩ đến. Sáu mươi bảy: Chẳng gặp lại người ta nghĩ đến).

 

          “Chẳng gặp nữa” là v́ người đó chẳng c̣n trong cơi đời, hoặc người ấy đă hết duyên với quư vị!

 

          (Kinh) Lục thập bát giả, sở thỉnh hoán đắc lai tập. Lục thập cửu giả, sở tăng ố đắc ly chi. Thất thập giả, sở ái kính giả đắc cận chi.

          ()六十八者所請喚得來集。六十九者所憎惡得離之。七十者所愛敬得近之。

          (Kinh: Sáu mươi tám: Người được mời gọi sẽ nhóm đến. Sáu mươi chín: Được xa ĺa kẻ ta chán ghét. Bảy mươi: Được thân cận với người mà ta yêu kính).

 

          “Sở thỉnh hoán đắc lai tập” là quư vị muốn mời khách, quư vị chiêm sát để biết có mời được hay không. Xa ĺa kẻ mà ta chán ghét, được thân cận người mà ta yêu kính.

 

          (Kinh) Thất thập nhất giả, quán dục tụ, đắc ḥa tập. Thất thập nhị giả, quán dục tụ, bất ḥa tập.

          ()七十一者觀欲聚得和集。七十二者觀欲聚不和集。

          (Kinh: Bảy mươi mốt: Quán người muốn tụ tập sẽ nhóm tới. Bảy mươi hai: Quán người muốn tụ tập chẳng nhóm tới).

 

          “Dục tụ” (muốn tụ tập) là cầu vợ con, cầu bằng hữu, cầu lục thân quyến thuộc có thể tụ hội với nhau. Lại quán người mà ta muốn tụ tập chẳng thể tụ họp, chẳng thể tới, chẳng tụ hội với nhau được!

 

          (Kinh) Thất thập tam giả, sở thỉnh hoán bất đắc lai. Thất thập tứ giả, sở kỳ nhân tất đương chí.

          ()七十三者所請喚不得來。七十四者所期人必當至。

          (Kinh: Bảy mươi ba: Người được mời gọi chẳng tới. Bảy mươi bốn: Người mà ta mong đợi ắt sẽ đến).

 

          Quư vị thỉnh người ta, hoặc v́ người ấy không có thời gian, hay người ta chẳng muốn đến, chớ nên mời nữa. Những con số này đều nhằm báo trước, người được quư vị mời sẽ chẳng đến, quư vị chẳng cần phải mời nữa. Người mà quư vị mời sẽ tới ngay lập tức, quư vị cũng chẳng cần phải chờ đợi. Đây đều là khi quư vị gặp chuyện gấp rút hay hoài nghi, nóng ruột mà mời người ta chẳng được, bèn chiêm sát, [người mà ta mong đợi] có đến hay không? [Luân tướng] bảo “có thể đến” th́ quư vị đợi thêm một lát. Nếu [luân tướng] bảo “người được quư vị mời chẳng thể tới”, quư vị chẳng cần phải chờ nữa, người ta chẳng tới!

 

          (Kinh) Thất thập ngũ giả, sở kỳ nhân trụ bất lai.

          ()七十五者所期人住不來。

          (Kinh: Bảy mươi lăm: Người mà ta mong mỏi tới ở lại, sẽ chẳng đến).

 

          Người mà ta mong đợi chẳng thể tới.

          Một trăm tám mươi chín loại này chính là chuyện ǵ Địa Tạng Bồ Tát cũng bảo cho chúng ta biết. Người học Chiêm Sát tướng pháp muốn sử dụng linh nghiệm, chuyện lớn hay nhỏ ǵ cũng đều phải đến Phật đường hỏi Địa Tạng Bồ Tát, dâng hương, đảnh lễ ba lượt, gieo luân tướng để thỉnh thị Bồ Tát. Chẳng phải là nói quư vị hằng ngày lễ bái [th́ sử dụng được ngay], mà là cho đến khi quư vị bái sám viên măn, sau đấy sử dụng Chiêm Sát Luân tướng pháp này, hễ sử dụng đều linh.

 

Tập 9

 

          Nói tới “tập khí” là nói đến tập khí của tôi, v́ tôi lên lớp tại Phật Học Viện đă có thói quen cầm lấy sách giáo khoa rồi lên trước lớp giảng bài, chẳng có thói quen làm nghi thức [thỉnh pháp sư, cầu gia bị]. [Thuyết pháp tại đạo tràng] th́ trước khi thăng ṭa, phải thực hiện nghi thức này. Trong các năm qua, đại khái là tôi đă giảng kinh mười mấy năm rồi, do toàn giảng kinh tại Phật Học Viện, cứ cầm sách đến giảng đường bèn giảng, chẳng làm một Phật sự nào, do chẳng có thời gian. Thói quen tạo thành như vậy, sức mạnh của thói quen mà! Nay chúng ta học Chiêm Sát Luân v́ muốn thay đổi sức mạnh của thói quen. Sức mạnh của thói quen chính là sanh tử, chẳng phải là liễu sanh tử. Chúng ta phải sửa thói quen sanh tử thành chẳng sanh tử.

          Con số hiện ra bởi luân tướng là v́ trong tâm chúng ta mong cầu muốn biết điều ǵ. Quư vị muốn mời một người đến, mời chẳng được. Mời mọc hoặc kêu gọi một người, nhưng người ta chẳng đến. Nhưng quư vị hy vọng người ta sẽ đến, rất nóng ruột chờ đợi, hăy tới Phật đường thưa hỏi Địa Tạng Bồ Tát một phen, thưa: “Con thỉnh người ấy, sẽ có thể đến hay không?” Ở đây, có mấy con số; chẳng hạn như bắt đầu từ số bảy mươi ba, quư vị muốn mời một người mà người ấy chẳng tới được, hoặc là quư vị muốn thỉnh một người ấy, người ấy có thể tới. Có thể tới, nhưng hiện thời chưa đến. Số bảy mươi lăm là mời một người có thể ở lại chỗ quư vị, [người ấy] nhận lời ở lại chỗ quư vị. Quư vị mời người ta, nhưng người ta chẳng thể ở lại chỗ quư vị, mà ở nơi khác. Con số ấy cho chúng ta biết: Chúng ta muốn mời một người có mối quan hệ rất lớn đối với chúng ta, có thể giải quyết vấn đề, cho nên quư vị rất sốt ruột. Vậy th́ quư vị thưa hỏi Địa Tạng Bồ Tát, xin Địa Tạng giúp đỡ, quư vị nhất định muốn mời người đó, người ta không đến. Quư vị bèn bái sám, hy vọng Bồ Tát gia tŕ, người ấy sẽ bị động tâm, sẽ có thể đến!

 

          (Kinh) Thất thập lục giả, sở quán nhân đắc an cát. Thất thập thất giả, sở quán nhân bất an cát.

          ()七十六者所觀人得安吉。七十七者所觀人不安吉。

          (Kinh: Bảy mươi sáu: Người được quán an tường, tốt lành. Bảy mươi bảy: Người được quán chẳng an tường, tốt lành).

 

          Thân nhân của quư vị hiện thời có vấn đề, chẳng được an tường, tốt lành, quư vị có thể chiêm sát để thưa hỏi. [Luân tướng] sẽ cho quư vị biết: Người được quán (tức người được hỏi về t́nh h́nh qua luân tướng) được an b́nh, tốt lành, chẳng cần phải bận ḷng! Hoặc bảo với quư vị: Người do quư vị quán chẳng an b́nh, tốt lành, không ổn!

 

          (Kinh) Thất thập bát giả, sở quán nhân dĩ vô thân.

          ()七十八者所觀人已無身。

          (Kinh: Bảy mươi tám: Người được quán đă chẳng c̣n thân).

 

          Người được quư vị quán đă chẳng c̣n thân thể. Nói đơn giản là đă chết. C̣n có một trường hợp nữa là người mà quư vị quán đă thành đạo. Đă thành đạo th́ cũng chẳng có thân. Đă đoạn phiền năo, chứng đắc Không Đế, chẳng c̣n nữa, dẫu có thân mà giống như chẳng có thân. Chẳng hạn như tại Ngũ Đài Sơn, một tiểu quỷ muốn đến bắt một vị ḥa thượng. Tiểu quỷ ấy đến núi t́m vị ḥa thượng ấy mà chẳng trông thấy, t́m chẳng được, bèn hỏi thổ địa ở nơi ấy: “Vị sư phụ này vốn ở đây, cớ sao chẳng có mặt?” Thổ địa nói: “Thầy ấy đang nhập Định”. Điều này cho thấy: Khi quư vị tu đạo, lúc nhập Định, quỷ thần chẳng trông thấy, thấy trống rỗng. Nếu ai thật sự chứng đắc Không Định, tuy có nhục thể, quỷ thần đều chẳng trông thấy, giống như là chẳng có. Cho nên quư vị quán thấy người ấy không có thân thể. Trường hợp chết rồi hỏa táng th́ cũng chẳng có thân thể.

 

          (Kinh) Thất thập cửu giả, sở vọng kiến đắc đổ chi. Bát thập giả, sở cầu mịch đắc kiến chi.

          ()七十九者所望見得睹之。八十者所求覓得見之。

          (Kinh: Bảy mươi chín: Điều mong thấy sẽ được trông thấy. Tám mươi: Thứ t́m kiếm sẽ được thấy).

 

          Người mong trông thấy sẽ có thể nh́n thấy. Quư vị t́m kiếm ai cũng có thể t́m được. Người quư vị cầu mà chẳng được thấy, chẳng trông thấy.

 

          (Kinh) Bát thập nhất giả, cầu sở văn đắc cát ngữ. Bát thập nhị giả, sở cầu kiến bất như ư.

          ()八十一者求所聞得吉語。八十二者所求見不如意。

          (Kinh: Tám mươi mốt: Cầu được nghe, sẽ được nghe lời tốt lành. Tám mươi hai: Điều cầu được thấy sẽ chẳng như ư).

 

          Được nghe lời lẽ tốt lành, lợi lạc, có lợi cho quư vị. Quư vị toàn nghe những điều tốt đẹp từ kinh. Quư vị nghe những lời chẳng có ích ǵ cho quư vị. Chẳng hạn như hiện thời quư vị đến nghe kinh, chúng ta cho rằng rất có lợi ích, bèn thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy: - Quư vị nghe rồi chẳng hướng ḷng vào đó, chẳng có chút lợi ích nào đối với quư vị.

 

          (Kinh) Bát thập tam giả, quán sở nghi tức vi thật.

          ()八十三者觀所疑即為實。

          (Kinh: Tám mươi ba: Quán điều nghi ngờ chính là sự thật).

 

          Nghe các lời lẽ hữu ích hay ích cho quư vị, v́ quư vị có hoài nghi th́ mới phải hỏi. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, mong thỉnh Địa Tạng Bồ Tát bảo cho quư vị biết, tức là v́ quư vị có hoài nghi. Quư vị muốn kết giao với một người sẽ có lợi hay có hại cho quư vị, hoặc muốn cầu người ta giúp đỡ chuyện chi đó, người ta chịu giúp đỡ hay không, quư vị hăy chiêm sát, sẽ có thể biết.

 

          (Kinh) Bát thập tứ giả, quán sở nghi vi bất thật.

          ()八十四者觀所疑為不實。

          (Kinh: Tám mươi bốn: Quán điều ta nghi ngờ chẳng phải là thật).

 

          Đây là giả sử hoài nghi người khác chẳng phải là chân thật. Quư vị chẳng cần hoài nghi! Quư vị hoài nghi hiện tượng được thấy chẳng phải là chân thật ư? Chẳng cần phải hoài nghi! Bởi lẽ, quư vị chẳng thể quyết định được th́ hăy nên dùng Chiêm Sát Luân. Chiêm Sát Luân sẽ bảo cho quư vị là được rồi!

 

          (Kinh) Bát thập ngũ giả, sở quán nhân bất ḥa hợp.

          ()八十五者所觀人不和合。

          (Kinh: Tám mươi lăm: Người được quán chẳng ḥa hợp).

 

          Quư vị và người ấy chẳng ḥa hợp.

 

          (Kinh) Bát thập lục giả, cầu Phật sự đương đắc hoạch. Bát thập thất giả, cầu cúng cụ đương đắc hoạch.

          ()八十六者求佛事當得獲。八十七者求供具當得獲。

          (Kinh: Tám mươi sáu: Cầu Phật sự sẽ đạt được. Tám mươi bảy: Cầu đồ cúng sẽ đạt được).

 

          Chúng ta làm một khóa Phật sự, làm Phật sự th́ luôn mong cầu thành tựu, cho tới mong đạt được pháp ích (lợi ích nơi pháp). Trước khi làm, quư vị chiêm sát để hỏi một phen. Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ bảo cho quư biết: Cầu Phật sự sẽ đạt được! Hoặc là quư vị bái sám, lễ Phật, niệm kinh, [Bồ Tát sẽ cho quư vị biết] có thể thực hiện được, có thể thực hiện thuận lợi. Lại c̣n mong cầu một loại vật để cúng dường nào đó th́ vật cúng dường mà ta mong cầu sẽ đều có thể đạt được!

 

          (Kinh) Bát thập bát giả, cầu tư sanh đắc như ư.

          ()八十八者求資生得如意。

          (Kinh: Tám mươi tám: Cầu những thứ cần dùng cho cuộc sống được như ư).

 

          Khi quư vị cầu các vật cần dùng cho cuộc sống, [luân tướng] sẽ cho biết: Quư vị có thể đạt được. “Tư sanh chúng cụ” bao gồm những vật chúng ta dùng để vun đắp cuộc sống, hoặc là các vật để cúng Phật. [Gieo luân tướng được con số này th́ có nghĩa là] quư vị sẽ có thể đạt được như ư.

 

          (Kinh) Bát thập cửu giả, cầu tư sanh thiểu đắc hoạch.

          ()八十九者求資生少得獲。

          (Kinh: Tám mươi chín: Cầu vật cần dùng cho cuộc sống chỉ được ít phần).

 

          Tuy đạt được, nhưng rất ít ỏi, quư vị chẳng măn nguyện.

 

          (Kinh) Cửu thập giả, hữu sở cầu giai đương đắc.

          ()九十者有所求皆當得。

          (Kinh: Chín mươi: Có điều mong cầu đều đạt được).

 

          Quư vị mong cầu đạt được thứ ǵ đó, đều có thể đạt được.

 

          (Kinh) Cửu thập nhất giả, hữu sở cầu giai bất đắc.

          ()九十一者有所求皆不得。

          (Kinh: Chín mươi mốt: Có điều mong cầu đều chẳng đạt được).

         

          [Luân tướng] bảo quư vị: Chẳng đạt được.

 

          (Kinh) Cửu thập nhị giả, hữu sở cầu thiểu đắc hoạch. Cửu thập tam giả, hữu sở cầu đắc như ư.

          ()九十二者有所求少得獲。九十三者有所求得如意。

          (Kinh: Chín mươi hai: Có điều mong cầu chỉ đạt được ít phần. Chín mươi ba: Có điều mong cầu được như ư).

 

          Như ư th́ rất tốt.

 

          (Kinh) Cửu thập tứ giả, hữu sở cầu tốc đương đắc.

          ()九十四者有所求速當得。

          (Kinh: Chín mươi bốn: Có điều mong cầu nhanh chóng đạt được).

         

          Điều quư vị mong cầu sẽ đạt được rất nhanh chóng. Chuyện này bao gồm rất nhiều vấn đề, quư vị niệm Phật cầu thấy tướng hảo, hoặc niệm Phật cầu sanh về thế giới Cực Lạc, hoặc quư vị niệm kinh có thể đắc đạo. Hoặc là ta mong có được bộ kinh nào đó, th́ sẽ có thể đạt được hay không? Hiện thời, chúng ta ở Đài Loan chẳng có vấn đề ǵ, quư vị muốn cầu bộ kinh nào cũng đều đạt được. Hồi tôi ở Đại Lục, mong có một bản Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, tôi mới ra khỏi tù, nghĩ chắc là một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm rất đơn giản! Tôi t́m suốt hai ba năm, chẳng có, chẳng t́m được! Đại Lục có kinh sách hay không? Có chứ, rất nhiều! Nhưng bị niêm phong kín trong Tàng Kinh Lâu của nhà chùa, chẳng cho ai rớ tới. Ai rớ tới sẽ phạm pháp, ai dám mở [lầu tàng kinh ra]? Đều bị niêm phong hết. Muốn cầu một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm [tưởng chừng] rất đơn giản, [thế mà vẫn chẳng được]. Trước các năm 1977, 1978, 1979, tại Đại Lục chẳng cầu được, tới năm 1980, sau khi [chánh quyền Hoa Lục nới lỏng sự kiềm chế tôn giáo] th́ mới có thể t́m được. Chúng ta đừng cho là rất đơn giản, có khi rất nhiều chuyện mà con người chẳng thể ngờ được. Khi đó, mong cầu một bộ Chiêm Sát Luân, tôi c̣n mong học Chiêm Sát Luân, nhưng chẳng kiếm được bộ nào! Có hay không? Có chứ! Tất cả đều bị niêm phong kín trong chùa Khai Nguyên ở huyện Tuyền Châu, tỉnh Phước Kiến. Tất cả các dụng cụ Phật giáo của pháp sư Hoằng Nhất trước kia đều để tại chùa Khai Nguyên, toàn bộ tất cả hết thảy đồ vật của pháp sư Hoằng Nhất đều bị “đóng băng”. Thứ ǵ cũng chẳng rớ vào được. Hễ rớ đến sẽ là phạm pháp. Tới năm 1980, [chính quyền] “mở cửa” th́ mới có. Hết thảy sự vật chúng ta thấy rất đơn giản, tới khi đó, biến thành rất khó khăn! Khi đó, quư vị muốn gieo luân tướng, th́ ngay cả sách giải thích ư nghĩa các luân tướng cũng không có. Tôi biết pháp sư Hoằng Nhất đă làm rất nhiều bộ luân tướng để chiêm sát thiện ác nghiệp báo, thuở đó, bị phong kín tại chùa Khai Nguyên, muốn lấy một bộ cũng chẳng được! Sau đó, tôi ở nước Mỹ, cậy pháp sư Viên Chuyết[8] t́m cách lén lấy một bộ từ chùa Khai Nguyên, gởi sang Mỹ cho tôi. Chuyện thấy rất dễ dàng, nhưng tới khi đó, quư vị chẳng có nhân duyên đạt được! Chúng ta thấy pháp bảo rất nhiều, in ra cũng có thể in [dễ dàng]; tới khi pháp diệt, quư vị mong có được một bộ kinh, chẳng hề có! Đó là lẽ tự nhiên! Khi chưa tới lúc ấy, quư vị sẽ chẳng tin tưởng, [cứ cho rằng]: Hiện thời, đối với kinh, chúng ta một trăm bộ, một vạn bộ đều có thể mua được, quư vị có thể t́m được. Nhưng có khi, ngay cả một bộ cũng chẳng t́m được. Mọi người chẳng chấp nhận [sẽ có chuyện như thế], v́ [hiện thời kinh sách có thể] t́m thấy quá dễ dàng, lẽ nào [mai sau] chẳng có? Nếu không, tới lúc đó, quư vị sẽ biết. Qua con số này, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy: Yêu cầu của quư vị có thể đạt được.

 

          (Kinh) Cửu thập ngũ giả, hữu sở cầu cửu đương đắc.

          ()九十五者有所求久當得。

          (Kinh: Chín mươi lăm: Có điều mong cầu th́ phải sau một thời gian dài mới đạt được).

         

          Mong cầu của quư vị phải trải qua một thời gian rất dài mới đạt được.

 

          (Kinh) Cửu thập lục giả, hữu sở cầu nhi tổn thất.

          ()九十六者有所求而損失。

          (Kinh: Chín mươi sáu: Có điều mong cầu bị tổn thất).

 

          Quư vị không chỉ chẳng đạt được điều mong cầu, mà c̣n bị tổn thất.

 

          (Kinh) Cửu thập thất giả, hữu sở cầu đắc cát lợi.

          ()九十七者有所求得吉利。

          (Kinh: Chín mươi bảy: Có điều mong cầu được tốt lành, lợi ích).

 

          Điều mong cầu của quư vị là cát tường.

 

          (Kinh) Cửu thập bát giả, hữu sở cầu nhi thọ khổ.

          ()九十八者有所求而受苦。

          (Kinh: Chín mươi tám: Có khi do điều mong cầu mà chịu khổ).

 

          Do điều mong cầu mà quư vị chịu khổ. Quư vị đừng mong cầu [điều đó], hễ mong cầu sẽ chịu khổ. Nếu quư vị muốn cầu vật chi đó, hăy thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát có cầu được hay không? Địa Tạng Bồ Tát bảo quư vị: Không chỉ chẳng đạt được điều mong cầu, mà c̣n phải chịu khổ.

 

          (Kinh) Cửu thập cửu giả, quán sở thất cầu đương đắc.

          ()九十九者觀所失求當得。

          (Kinh: Chín mươi chín: Quán vật bị mất sẽ t́m lại được).

 

          Chúng ta đánh mất đồ vật, muốn t́m lại. Quư vị quán [luân tướng, gieo được con số này] biết là có thể cầu được, c̣n t́m được.

 

          (Kinh) Nhất bách giả, quán sở thất cầu bất đắc.

          ()一百者觀所失求不得。

          (Kinh: Một trăm: Quán vật bị mất, chẳng t́m lại được).

 

          Hoặc là vật dụng cũng thế, hoặc là khi quư vị tu hành, không chỉ chẳng t́m được, mà ngược lại c̣n mất luôn!

 

          (Kinh) Nhất bách nhất giả, quán sở thất tự hoàn đắc.

          ()一百一者觀所失自還得。

          (Kinh: Một trăm lẻ một: Quán vật bị mất đi, tự có lại).

 

          Tự nhiên xuất hiện.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị giả, cầu ly ách đắc thoát nạn.

          ()一百二者求離厄得脫難。

          (Kinh: Một trăm lẻ hai: Cầu ĺa tai ách, được thoát nạn).

 

          Mong cầu thoát ĺa ách nạn, hoặc là bệnh khổ, hoặc chịu tai nạn ǵ đó, hoặc là bị kẻ oán hăm hại chi đó, quư vị chiêm sát thưa hỏi Địa Tạng Bồ Tát, Ngài sẽ nói “nhanh chóng ĺa thoát, có thể ĺa thoát được”.

 

          (Kinh) Nhất bách tam giả, cầu ly bệnh đắc trừ dũ.

          ()一百三者求離病得除愈。

          (Kinh: Một trăm lẻ ba: Cầu ĺa bệnh, bèn được lành bệnh).

 

          Cầu khỏi bệnh do bị bệnh tật triền miên lâu ngày, hăy hỏi Địa Tạng Bồ Tát! Địa Tạng Bồ Tát sẽ cho quư vị biết: Bệnh có thể lành.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ giả, quán sở khứ vô chướng nạn. Nhất bách ngũ giả, quán sở khứ hữu chướng nạn.   

          ()一百四者觀所去無障難。一百五者觀所去有障難。

          (Kinh: Một trăm lẻ bốn: Quán chỗ đi đến chẳng có chướng nạn. Một trăm lẻ năm: Quán chỗ đi đến sẽ có chướng nạn).

 

          Quư vị muốn đến một chỗ nào, trước khi đi, trước tiên hăy gieo luân tướng xem có đi được hay không. Quán chỗ đến chẳng có chướng nạn, hiệu quả là thoạt nh́n có vẻ là chuyện tuyệt đối chẳng làm được, nhưng luân tướng cho quư vị biết có thể làm được, trong tâm quư vị sẽ sáng suốt thực hiện. Nếu quán chỗ muốn đến có chướng nạn, bảo cho quư đi đến đó hay thực hiện [việc dự định] đều chẳng được, có chướng nạn. Vậy th́ quư vị đột phá chướng nạn bằng cách nào?

 

          (Kinh) Nhất bách lục giả, quán sở trụ đắc an chỉ. Nhất bách thất giả, quán sở trụ bất đắc an.

          ()一百六者觀所住得安止。一百七者觀所住不得安。

          (Kinh: Một trăm lẻ sáu, quán chỗ ở được an trụ. Một trăm lẻ bảy: Quán chỗ trụ chẳng yên).

 

          Rất nhiều chuyện chẳng phải là chúng ta có thể ngờ được, ở đây bao gồm những điều ǵ? Quư vị ở trong ngôi chùa này mà tâm chẳng yên cho lắm, muốn sang ở ngôi chùa khác. Hoặc là mong đi khắp nơi triều bái các danh sơn. Khi gieo luân tướng, [Bồ Tát] bảo quư vị hăy ở yên nơi đây, ngàn vạn phần đừng ra đi. Nếu quư vị ra ngoài, sẽ gặp tai nạn, sẽ chẳng được an định. Quư vị đừng đi, hăy nghe lời Địa Tạng Bồ Tát. Nếu quư vị ở nơi đây, trong tâm bất an, hăy thưa hỏi Địa Tạng Bồ Tát, mong ĺa nơi này, t́m nơi khác tốt đẹp hơn. [Bồ Tát] bảo quư vị đừng nên rời đi, quư vị chẳng nên rời đi.

 

          (Kinh) Nhất bách bát giả, sở hướng xứ đắc an khoái.

          ()一百八者所向處得安快。

          (Kinh: Một trăm lẻ tám: Chỗ hướng đến được an vui).

 

          Chỗ quư vị muốn đến có tốt hay không? Nếu quư vị gieo luân tướng được con số 108, tức là [Bồ Tát] bảo quư vị: Chỗ tính đến rất tốt, đi được! Sẽ được an vui!

 

          (Kinh) Nhất bách cửu giả, sở hướng xứ hữu ách nạn.

          ()一百九者所向處有厄難。

          (Kinh: Một trăm lẻ chín: Chỗ muốn đến có ách nạn).

 

          Chỗ hướng tới có nguy nan, không chỉ chẳng tốt, quư vị tới đó sẽ bị trắc trở, sẽ phải chịu khổ, chịu nạn.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập giả, sở hướng xứ vi ma vơng.

          ()一百一十者所向處為魔網。

          (Kinh: Một trăm mười: Chỗ hướng đến là lưới ma).

 

          Đừng tưởng là thánh cảnh.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập nhất giả, sở hướng xứ nan khai hóa.

          ()一百一十一者所向處難開化。

          (Kinh: Một trăm mười một: Chỗ hướng đến là nơi khó khai hóa).

 

          Quư vị mong tới đó lợi ích và giúp đỡ người khác, chẳng thể được! Đó là chỗ khó khai hóa, quư vị chớ nên tới đó.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập nhị giả, sở hướng xứ khả khai hóa.

          ()一百一十二者所向處可開化。

          (Kinh: Một trăm mười hai: Chỗ hướng đến có thể khai hóa).

 

          Chỗ đó rất tốt, quư vị đến đó sẽ khá cát tường.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập tam giả, sở hướng xứ tự hoạch lợi. Nhất bách nhất thập tứ giả, sở du lộ vô năo hại. Nhất bách nhất thập ngũ giả, sở du lộ hữu năo hại. Nhất bách nhất thập lục giả, quân dân ác, cơ cẩn khởi.

          ()一百一十三者所向處自獲利。一百一十四者所遊路無惱害。一百一十五者所遊路有惱害。一百一十六者君民惡饑饉起。

          (Kinh: Một trăm mười ba: Chỗ hướng đến sẽ tự được lợi. Một trăm mười bốn: Trên đường đi không bị năo hại. Một trăm mười lăm: Trên đường đi có năo hại. Một trăm mười sáu: Vua và dân chúng ác, đói kém nổi lên).

 

          Người nơi ấy chẳng tốt lành, tâm thuật bất hảo, bệnh tật rất nhiều. Cho nên sẽ có tai nạn phát sanh. Tai nạn dấy lên, đói kém bệnh dịch đều là tai nạn.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập thất giả, quân dân ác, đa tật dịch.

          ()一百一十七者君民惡多疾疫。
          (Kinh: Một trăm mười bảy: Vua và dân ác, nhiều tật dịch).

 

          Người trong quốc gia ấy tâm thuật bất hảo, bệnh tật rất nhiều. Nếu quư vị tới nơi ấy, từ người phụ trách quốc gia cho đến mỗi vùng đều là tai nạn. Quư vị đừng đến đó, đến đó sẽ bị khốn đốn, có thể chẳng rời đi được! Đó là quư vị dùng Chiêm Sát Luân [để chiêm sát]. Nếu không dùng th́ căn bản là chẳng bận tâm.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập bát giả, quân dân hảo, quốc phong lạc.

          ()一百一十八者君民好國豐樂。

          (Kinh: Một trăm mười tám: Vua và dân tốt lành, nước giàu vui).

 

          Vua lẫn dân tốt đẹp, quốc gia hưng thịnh, giàu có.

 

          (Kinh) Nhất bách nhất thập cửu giả, quân vô đạo, quốc tai loạn.     

          ()一百一十九者君無道國災亂。

          (Kinh: Một trăm mười chín: Vua vô đạo, nước tai ương, loạn lạc).     

 

          Người phụ trách chẳng có đạo đức, quốc gia ấy sẽ phát sanh biến loạn.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập giả, quân tu đức, tai loạn diệt.

          ()一百二十者君修德災亂滅。

          (Kinh: Một trăm hai mươi: Vua tu đức, tai ương, loạn lạc tiêu diệt).

 

          Quư vị thường làm thiện sự, quốc gia ấy thường có thiện nghiệp phát sanh, tất cả các chuyện tai nạn đều dầu dần tránh khỏi.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập nhất giả, quân hành ác, quốc tương phá.

          ()一百二十一者君行惡國將破。

          (Kinh: Một trăm hai mươi mốt: Vua làm ác, nước sắp mất).

 

          Quốc gia ấy chẳng được an định, sắp gặp họa mất nước.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập nhị giả, quân tu thiện, quốc hoàn lập.

          ()一百二十二者君修善國還立。

          (Kinh: Một trăm hai mươi hai: Vua tu thiện, nước tái lập).

 

          Đây là hỏi về quốc gia. Quư vị muốn tới đó, bèn gieo luân tướng để hỏi có đến đó được hay không? Chúng ta muốn du hành, quư vị bèn hỏi trước.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập tam giả, quán sở tỵ đắc độ nạn.

          ()一百二十三者觀所避得度難。

          (Kinh: Một trăm hai mươi ba: Quán [chỗ muốn đến] là nơi tránh né, vượt qua tai nạn được).

 

          Quư vị nếu muốn tỵ nạn đến nơi đó, [luân tướng] bảo quư vị có thể đến đó, có thể tránh né tai nạn.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập tứ giả, quán sở tỵ bất thoát nạn.

          ()一百二十四者觀所避不脫難。

          (Kinh: Một trăm hai mươi bốn: Quán chỗ trốn tránh chẳng thoát nạn).

 

          Quư vị mong thoát tai nạn, tới nơi ấy sẽ chẳng thoát được. Tai nạn ấy bao gồm rất nhiều thứ. Ở nơi đây, cảm thấy chẳng vui sướng, tu đạo cũng chẳng thành. Đă có thiên tai, lại có nhân họa, cảm thấy tâm lư bất an, bèn gieo luân tướng. Đó là một trường hợp. C̣n có một trường hợp nữa, nếu quư vị tu đạo t́m được một nơi chốn thiện lương, giống như chúng ta trước kia sống trong hang núi, một người sống trong nơi đó, chung quanh không có ai. Quư vị ở trong động có an định hay không? Quư vị gieo luân tướng để hỏi. [Luân tướng] cho biết rất tốt, vậy th́ quư vị có thể tu đạo ở đó.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập ngũ giả, sở trụ xứ chúng an ổn.

          ()一百二十五者所住處衆安隱。

          (Kinh: Một trăm hai mươi lăm: Đại chúng ở nơi cư trụ được an ổn).

 

          Ai ở nơi đó cũng đều rất an ổn, chẳng có chuyện ǵ.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập lục giả, sở trụ xứ hữu chướng nạn. Nhất bách nhị thập thất giả, sở y tụ chúng bất an.

          ()一百二十六者所住處有障難。一百二十七者所依聚衆不安。

          (Kinh: Một trăm hai mươi sáu: Chỗ ở có chướng nạn. Một trăm hai mươi bảy: Nơi đại chúng nương tựa, tụ tập chẳng yên).

 

          Mọi người đều chẳng thể an tâm.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập bát giả, nhàn tĩnh xứ vô chư nạn.

          ()一百二十八者閑靜處無諸難。

          (Kinh: Một trăm hai mươi tám: Chỗ nhàn tĩnh chẳng có các nạn).

           

          Rất thanh tĩnh v́ chẳng có người, chẳng có ǵ quấy nhiễu, nạn duyên ǵ cũng đều không có.

 

          (Kinh) Nhất bách nhị thập cửu giả, quán quái dị vô tổn hại. Nhất bách tam thập giả, quán quái dị hữu tổn hại.

          ()一百二十九者觀怪異無損害。一百三十者觀怪異有損害。

          (Kinh: Một trăm hai mươi chín: Thấy [chỗ ở có điều] quái lạ, nhưng chẳng tổn hại. Một trăm ba mươi: Thấy [chỗ ở] quái lạ và có tổn hại).

 

          Có khi tuy cảm thấy rất kỳ quái, rất quái dị, nhưng sống ở nơi ấy, quư vị chẳng bị tổn hại ǵ. Có những chuyện như quư vị muốn mua một căn nhà mới, quư vị sống ở đó thường cảm thấy không yên ḷng, hoặc hàng xóm hai bên quấy nhiễu, hoặc gia đ́nh của quư vị bất an. Quư vị bèn thưa hỏi Địa Tạng Vương Bồ Tát là được. Nếu lại chẳng dọn nhà được, luân tướng lại cho ra kết quả không tốt, làm thế nào đây? Quư vị lạy Chiêm Sát Sám, do lễ bái sẽ chuyển biến, cũng có thể chẳng phải dọn. Đó là ư nghĩa cầu thần hộ pháp gia tŕ, cầu Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Chúng ta có chuyện ǵ hoài nghi th́ mới hỏi Chiêm Sát Luân của Địa Tạng Bồ Tát để giúp cho chúng ta chẳng hoài nghi. Nhưng [mục đích] chủ yếu của pháp Chiêm Sát là đối với quư vị, phải như thế nào th́ mới có thể tu đạo, đắc đạo, đắc định, đắc huệ. Đối với sự giúp đỡ ấy, kèm theo các điều thiện, ác, tốt, xấu trong thế gian với ư nghĩa lợi lạc trọn khắp. Các điều ấy là kèm theo, chẳng phải là chủ yếu. Mục đích của việc chiêm sát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chủ yếu là quư vị cầu định, hoặc cầu huệ như thế nào th́ sẽ có thể tiến nhập. Quư vị tu đạo có một nơi chốn, bất luận là [ở cùng] đại chúng cũng thế, ta ở một ḿnh cũng thế; sự chiêm sát trong đoạn kinh văn này nhằm bảo chúng ta: Quư vị tu đạo có thể thành tựu. Nếu ở nơi đây là nơi chẳng thể thực hiện thành tựu, th́ không chỉ chẳng thể thành tựu, mà c̣n rất dễ khiến cho tín tâm của quư vị bị lui sụt.

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập nhất giả, quán quái dị, tinh tấn an.

          ()一百三十一者觀怪異精進安。

          (Kinh: Một trăm ba mươi mốt: Thấy [chỗ ở] quái lạ, do tinh tấn mà được an ổn).

 

          C̣n có trường hợp nơi quư vị ở thường có hiện tượng quái dị. Chắc là mọi người chưa trải qua chuyện này, v́ sống ở trong núi th́ hiện tượng này thường có, do có tinh linh quấy nhiễu. Thông thường, trong núi tinh linh rất nhiều. Khi quư vị ở nơi thanh vắng, khi quư vị muốn tu hành, bọn chúng đến quấy nhiễu, khiến cho quư vị bất an. Chẳng hạn như xưa kia tôi ở tại Long Hổ Ngu trên núi Thượng Phương (thuộc Tô Châu, tỉnh Giang Tô), đó là một chỗ nhỏ bé, vốn có lầu Tàng Kinh, có một bộ Đại Tạng Kinh để có thể duyệt tạng (閱藏, xem đọc Đại Tạng Kinh). Đại khái sống ở đó là một người, chẳng có đến hai người, v́ cứ đến đêm, khoảng mười hai giờ, tất cả các tủ đựng kinh đều nghe có tiếng rầm rầm. Sau đó, tôi hỏi vị lăo ḥa thượng trong chùa, lăo ḥa thượng bảo tôi: “Có các quỷ thần đến duyệt tạng, thầy nói với họ một tiếng là được rồi”. Tôi theo lời Ngài dặn, nói: “Các vị đừng làm rộn! Quư vị quấy nhiễu tôi, tôi sẽ dời đơn của các vị, chẳng cho quư vị xem”. Từ đấy về sau, chẳng c̣n có chuyện ấy nữa. Thật ra, tôi cũng không ở lâu dài nơi đó, tôi cũng rời đi. Chuyện kiểu ấy thường có. Con số nơi luân tướng này nhằm giúp cho người tu đạo khi quư vị cảm thấy bất an đối với nơi ḿnh đang ở, hăy hướng về Địa Tạng Bồ Tát thưa hỏi! Điều này gọi là “nội chướng” v́ là phiền năo trong tâm của chính ḿnh. Quư vị tu đạo khởi lên chướng duyên, c̣n có các chướng duyên ngoại lai nữa. Các đạo hữu tại gia củng có thể sử dụng, cho đến xem cho người khác cũng được, lợi lạc trọn khắp!

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập nhị giả, quán sở mộng vô tổn hại.

          ()一百三十二者觀所夢無損害。

          (Kinh: Một trăm ba mươi hai: Quán giấc mộng chẳng có tổn hại).

 

          Mọi người đều thường nằm mộng, có hảo mộng, mà cũng có ác mộng. Nằm mộng rồi bèn gieo luân tướng, [luân tướng] cho biết những điều quư vị thấy trong mộng chẳng tổn hại ǵ đối với quư vị, không sao cả!

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập tam giả, quán sở mộng hữu tổn hại. Nhất bách tam thập tứ giả, quán sở mộng tinh tấn an. Nhất bách tam thập ngũ giả, quán sở mộng vi cát lợi.

          ()一百三十三者觀所夢有損害。一百三十四者觀所夢精進安。一百三十五者觀所夢爲吉利。

          (Kinh: Một trăm ba mươi ba: Quán giấc mộng có tổn hại. Một trăm ba mươi bốn: Quán giấc mộng là tinh tấn, an lạc. Một trăm ba mươi lăm: Quán giấc mộng là tốt lành, lợi ích).

 

          Quán giấc mộng có tổn hại: Giấc mộng ấy báo trước với quư vị, tai nạn sắp xảy đến. Giả sử quư vị gieo luân tướng, được biết giấc mộng của chính ḿnh có tổn hại, rất đơn giản! Quư vị lễ bái Địa Tạng Vương Bồ Tát [tai nạn ấy] sẽ tiêu trừ. Loại tai nạn này rất dễ tiêu trừ. Đoạn này hoàn toàn là nói thêm mấy câu về giấc mộng. Mỗi người chúng ta nằm mộng, có mấy loại mộng, có loại là thị hiện những điều c̣n chưa xảy đến, báo trước sự việc cho quư vị sẽ có cảnh giới ǵ sắp xảy ra. C̣n có loại mộng về chuyện đă qua, mộng về chuyện quá khứ. Khi quư vị nằm mộng bèn có cảm giác ta đă làm chuyện sai trái, chẳng nên làm như thế. Thường có chuyện này! Vậy th́ khi quư vị gieo luân tướng, cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát ngay lập tức chuyển hóa cho quư vị.

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập lục giả, quán chướng loạn tốc đắc ly.

          ()一百三十六者觀障亂速得離。

          (Kinh: Một trăm ba mươi sáu: Thấy chướng loạn mau được ĺa khỏi).

 

          C̣n nữa, khi chúng ta tu hành, trong tâm bỗng dưng cảm thấy bất an, sanh phiền bực, dấy lên phiền năo, có vấn đề! Có vấn đề ǵ vậy? Hoặc là chuyện tốt. Chuyện tốt là điều vui sướng, chẳng dấy lên phiền năo. Hễ dấy lên phiền năo th́ đối với quư vị đều có chướng nạn, quư vị hăy nhanh chóng khẩn cầu Địa Tạng Bồ Tát! Lễ bái, gieo luân tướng, luân tướng bèn cho quư vị biết: Sẽ rất nhanh chóng ĺa khỏi các chướng nạn mà quư vị đang gặp phải trong hiện tại. Khi chúng ta gặp phải chướng nạn, cảm thấy tai nạn sắp xảy đến, điều đầu tiên là hăy sám hối, sẽ có thể tránh khỏi tai nạn nhỏ. Tai nạn lớn có thể biến thành tai nạn nhỏ, biến thành chuyện quư vị có thể khắc phục.

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập thất giả, quán chướng nạn tiệm đắc ly.

          ()一百三十七者觀障難漸得離。

          (Kinh: Một trăm ba mươi bảy: Quán chướng nạn sẽ dần dần được rời ĺa).

 

          Quư vị mong rời ĺa lập tức, chẳng ĺa được, dần dần rời khỏi.

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập bát giả, quán chướng loạn bất đắc ly.

          ()一百三十八者觀障亂不得離。

          (Kinh: Một trăm ba mươi tám: Quán chướng loạn chẳng ĺa được).

 

          Chuyện này khiến cho quư vị khổ năo, cho nên cần phải bái sám để ĺa khỏi tai nạn.

 

          (Kinh) Nhất bách tam thập cửu giả, quán chướng loạn nhất tâm trừ.

          ()一百三十九者觀障亂一心除。

          (Kinh: Một trăm ba mươi chín: Quán chướng loạn, nhất tâm trừ diệt).

 

          Điều này dành cho các vị tu Quán. Tâm quư vị có thể trừ chướng loạn ấy. Quư vị dùng tu tâm, tu định lực để trừ diệt. Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng Vương Bồ Tát chỉ dạy nhằm khiến cho chúng ta khi tu đạo có thể an tâm, v́ nếu chính ḿnh không thể an tâm, trong khi bái sám, hăy thỉnh Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Cho nên chúng ta phải bái sám.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ thập giả, quán sở nạn tốc đắc thoát.

          ()一百四十者觀所難速得脫。

          (Kinh: Một trăm bốn mươi: Quán các nạn mau được thoát khỏi).

 

          Cái tâm của bọn phàm phu chúng ta rất ít khi an tĩnh. Nói chung là có các chướng nạn. Do vậy, khi quư vị bái sám, hăy thỉnh cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát gia tŕ, khiến cho quư vị mau chóng ĺa khỏi các tai nạn ấy.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ thập nhất giả, quán sở nạn cửu đắc thoát. Nhất bách tứ thập nhị giả, quán sở nạn thọ suy năo. Nhất bách tứ thập tam giả, quán sở nạn tinh tấn thoát. Nhất bách tứ thập tứ giả, quán sở nạn mạng đương tận.

          ()一百四十一者觀所難久得脫。一百四十二者觀所難受衰惱。一百四十三者觀所難精進脫。一百四十四者觀所難命當盡。

          (Kinh: Một trăm bốn mươi mốt: Quán tai nạn lâu ngày mới được thoát. Một trăm bốn mươi hai: Quán do tai nạn mà bị suy vi, phiền năo. Một trăm bốn mươi ba: Quán tuy có tai nạn, nhưng do tinh tấn mà thoát khỏi. Một trăm bốn mươi bốn: Quán do tai nạn sẽ mất mạng).

 

          Quư vị lạy ngày đầu tiên, chẳng ĺa khỏi [tai nạn]. Lạy ngày thứ hai, tối đa là bảy ngày, các tai nạn ấy đều có thể ĺa khỏi. Có vị hôm nay bái sám xong, gieo luân tướng, [thấy tai nạn đă] giảm nhẹ, nhưng chẳng ĺa khỏi. Nhưng qua bảy ngày, tuyệt đối có thể ĺa khỏi, lấy bảy ngày làm hạn. Trước khi quư vị bái sám, hăy b́nh lặng, rất tốt, rất an tĩnh. Nhưng khi quư vị bái sám th́ khác hẳn, trong khi lạy, đôi khi nghiệp quá khứ hiện ra, có khi nghiệp hiện tại hiện ra. Nghiệp chướng ấy vốn phải kéo dài đôi ba tháng, hoặc tới năm sau, hoặc năm sau nữa mới hiện tiền. Do quư vị bái sám, nó bèn hiện ra sớm. Quư vị mong tiêu diệt nó, nó cũng sẽ hiện ra sớm. Nhưng tâm quư vị vững vàng, càng là như thế, quư vị càng sám hối lễ bái nhiều hơn, càng cầu Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. V́ sao nói là khi bái sám bèn đau ḷng khóc lóc như thế? Một là để tiêu tai nạn, hai là cảm tạ Địa Tạng Vương Bồ Tát, cảm kích Địa Tạng Vương Bồ Tát khiến cho tai nạn của quư vị tiêu mất. Một lư do nữa là cuộc sống của quư vị rất khó khăn, bỗng dưng có được của cải hoặc thâu nhập ngoài ư muốn. Đó là chuyện chẳng ngờ tới. Rất nhiều vấn đề trong khi quư vị bái sám chẳng thể tưởng tượng được. Nếu không, người ta tu đạo để làm ǵ? V́ sao phải bái sám? Cầu gia tŕ ḥng tiêu nghiệp chướng, sẽ có những cảm nhận bất ngờ. Hễ có các cảm nhận bất ngờ, cũng đừng nên quá hoan hỷ. Quá hoan hỷ sẽ lại sanh ra ma chướng. Quư vị đă hoan hỷ, ma chướng cũng sẽ đưa tới! Hăy nên giữ thái độ b́nh thường.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ thập ngũ giả, quán sở hoạn đại bất điều.

          ()一百四十五者觀所患大不調。

          (Kinh: Một trăm bốn mươi lăm: Quán thân tâm bất an do Tứ Đại chẳng điều ḥa).

         

          “Sở hoạn” (所患) là nói đến lúc thân tâm bất an, hoặc bị bệnh, hoặc chẳng bị bệnh. Tuy không có bệnh, nhưng nẩy sanh phiền năo, mỗi vị đạo hữu chúng ta đều có [lúc cảm nhận như thế]. Quư vị dễ dàng cảm nhận “đại bất điều”, tức là Tứ Đại [chẳng điều ḥa]. Thân thể chúng ta hợp thành bởi Địa, Thủy, Hỏa, Phong, chúng được gọi là Tứ Đại. Cộng thêm Không, Căn, và Thức, mở rộng thành Thất Đại. Bảy đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Căn, và Thức chẳng điều ḥa. Vậy th́ quư vị hăy lễ bái nhiều hơn [để cầu] Tứ Đại điều ḥa, ḥa hợp.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ thập lục giả, quán sở hoạn phi nhân năo. Nhất bách tứ thập thất giả, quán sở hoạn hợp phi nhân.

          ()一百四十六者觀所患非人惱。一百四十七者觀所患合非人。

          (Kinh: Một trăm bốn mươi sáu: Quán thân tâm bất an chẳng phải do con người năo loạn. Một trăm bốn mươi bảy: Quán thân tâm bất an là do phi nhân [gây ra]).

 

          Bỗng dưng vô duyên vô cớ, quư vị cảm thấy chẳng thoải mái, hoặc là chẳng cát tường, chẳng phải đau mà cảm thấy đau, khiến cho sự bái sám của quư vị nẩy sanh chướng ngại, bị quấy nhiễu. Chúng ta nói là “ma quấy nhiễu” tức là thân tâm bất an v́ “phi nhân” quấy nhiễu. “Phi nhân” tức chẳng phải loài người, đó là quỷ thần đến quấy nhiễu quư vị. Quư vị cứ thành tâm tiếp tục lễ bái, lễ bái sẽ tiêu mất. Một trăm tám mươi chín thứ là do sáu căn, sáu trần, và sáu thức phát hiện, quư vị cầu Địa Tạng Bồ Tát, chúng sẽ chuyển hóa rất nhanh chóng.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ thập bát giả, quán sở hoạn khả liệu trị.

          ()一百四十八者觀所患可療治。

          (Kinh: Một trăm bốn mươi tám: Quán bệnh đang bị có thể chữa trị).

 

          “Sở hoạn” ở đây là bệnh tật do Tứ Đại chẳng điều ḥa, bệnh ấy có thể chữa trị.

 

          (Kinh) Nhất bách tứ thập cửu giả, quán sở hoạn nan liệu trị.

          ()一百四十九者觀所患難療治。

          (Kinh: Một trăm bốn mươi chín: Quán căn bệnh đang bị khó thể chữa trị).

 

          căn bệnh hễ chữa trị bèn lành, có căn bệnh chữa trị rất khó khăn, phải tốn thời gian rất lâu, quư vị phải sốt sắng bái sám hơn! Mục đích của Chiêm Sát Luân là khiến cho chúng ta biết. Sau khi đă biết, sẽ chuyển hóa như thế nào, hoàn toàn chẳng phải là biết rồi để đó!

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập giả, quán sở hoạn tinh tấn sai. Nhất bách ngũ thập nhất giả, quán sở hoạn cửu trường khổ.

          ()一百五十者觀所患精進差。一百五十一者觀所患久長苦。

          (Kinh: Một trăm năm mươi: Quán bệnh đang bị, sẽ do tinh tấn mà lành. Một trăm năm mươi mốt: Quán do căn bệnh đang bị, sẽ chịu khổ lâu dài).

 

          Chúng ta đă biết là bị bệnh, làm thế nào để không bệnh nữa? Đương nhiên là t́m thầy thuốc chữa trị. Thầy thuốc trị chẳng lành, v́ có rất nhiều bệnh phải tốn thời gian rất dài mới khỏi được. Sau khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát, hăy cầu Địa Tạng Bồ Tát chữa trị quư vị. Kinh Địa Tạng đă dạy, nếu mạng một người sắp hết, tuổi thọ đă hết, Địa Tạng Bồ Tát sẽ tiếp dẫn quư vị đi, bảo cho quư biết: “Thọ mạng của quư vị đă tận, đừng chịu khổ ở đây nữa”. Nhục nhăn của chúng ta thấy người ấy đă chết, trên thực tế là Địa Tạng Vương Bồ Tát tiếp dẫn người ấy ra đi; cũng có hiện tượng này!

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập nhị giả, quán sở hoạn tự đương sai.

          ()一百五十二者觀所患自當差。

          (Kinh: Một trăm năm mươi hai: Quán căn bệnh đang bị sẽ tự khỏi).

 

          Hoặc là chữa trị, hoặc mặc kệ nó, vài ngày sau cũng lành.

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập tam giả, quán sở hoạn hướng y kham năng trị.

          ()一百五十三者觀所患向醫堪能治。

          (Kinh: Một trăm năm mươi ba: Quán căn bệnh có thể t́m thầy thuốc trị liệu).

 

          Quư vị t́m thầy thuốc, thầy thuốc đến giúp quư vị trị liệu.

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập tứ giả, quán sở liệu thị đối trị.

          ()一百五十四者觀所療是對治。

          (Kinh: Một trăm năm mươi bốn: Quán cách chữa trị là đúng bệnh).

 

          Đây là nói về pháp. Quư vị gieo Chiêm Sát Luân, [luân tướng] nói quư vị là tham, nhưng bản thân quư vị chẳng tham, hăy đối trị nó. Quư vị nói tham dẫn tới khổ. Tham ăn th́ quư vị hăy bớt ăn. Thức ăn ngon th́ quư vị cũng đừng ăn quá nhiều! Ba nghiệp thân, khẩu, ư, tham, sân, si, ăn uống, cư trụ, đi lại, Chiêm Sát Luân đă báo sẵn cho quư vị biết, chỉ dạy, răn nhắc, cảnh cáo quư vị. Quư vị hăy nên pḥng sẵn, th́ sẽ có thể trị liệu. Có các trường hợp, Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo quư vị t́m thầy thuốc, quư vị t́m thầy thuốc chữa trị căn bệnh ấy th́ sẽ lành, thầy thuốc có thể chữa cho quư vị. [Gieo loại luân tướng thứ ba đuợc tổng số] là một trăm năm mươi bốn th́ có nghĩa là quư vị chữa trị đúng cách. Nếu quư vị dấy lên phiền năo th́ phải dựa vào trí huệ để đối trị: Phải niệm nhiều kinh điển Đại Thừa, hoặc là tĩnh tọa để tu Quán. Quán th́ mọi người đă đều hiểu cả rồi, các đạo hữu đă đều biết.

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập ngũ giả, sở phục dược đương đắc lực.

          ()一百五十五者所服藥當得力。

          (Kinh: Một trăm năm mươi lăm: Thuốc uống vào sẽ có hiệu quả).

 

          Quư vị uống thuốc ấy lâu một chút, v́ chẳng thể uống thuốc vào sẽ lành bệnh trong một thời gian ngắn được. Uống lâu ngày th́ mới có công hiệu. Hoặc là thuốc dinh dưỡng, hay thuốc bổ, có ư nghĩa như thế đó.

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập lục giả, quán sở hoạn đắc trừ dũ. Nhất bách ngũ thập thất giả, sở hướng y bất năng trị.

          ()一百五十六者觀所患得除愈。一百五十七者所向醫不能治。

          (Kinh: Một trăm năm mươi sáu: Quán căn bệnh đang bị sẽ được lành. Một trăm năm mươi bảy: T́m thầy thuốc nhưng chẳng thể trị được).

 

          “Sở hướng y bất năng trị” nghĩa là quư vị t́m thầy thuốc đến chữa trị cho quư vị, họ chẳng trị được, bác sĩ chẳng thể chữa trị!

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập bát giả, quán sở liệu phi đối trị.

          ()一百五十八者觀所療非對治。

          (Kinh: Một trăm năm mươi tám: Chữa trị không đúng cách).

 

          Cách chữa trị của quư vị không đúng với căn bệnh ấy. Đặc biệt là bệnh phiền năo, v́ trong ấy có rất nhiều bệnh phiền năo. Bác sĩ chẳng thể chữa bệnh phiền năo, phải cậy vào chính ḿnh. Chính ḿnh đoạn phiền năo bằng cách nào? Quư vị phải tu Quán. Phép Quán tối thượng thượng (最上上觀) đối trị phiền năo là như thế nào? Trước hết, quư vị t́m chỗ bắt nguồn của phiền năo. Trong tâm vô duyên vô cớ phiền bực, mất hứng, thấy ǵ cũng ngứa mắt, chúng ta thường nói là “nghiệp chướng phát hiện”, v́ bảy đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Căn, Thức bên trong chẳng điều ḥa. Do bảy đại rối loạn, cho nên chẳng điều ḥa. Quư vị phải nên đối trị chúng nó. Đối trị như thế nào? Bác sĩ chẳng có cách nào kê toa được! Quư vị điều ḥa cái tâm, chứ uống thuốc chẳng thể khỏi được!

 

          (Kinh) Nhất bách ngũ thập cửu giả, sở phục dược bất đắc lực.

          ()一百五十九者所服藥不得力。

          (Kinh: Một trăm năm mươi chín: Thuốc uống vào chẳng có hiệu quả).

 

          Thuốc này chẳng trị lành căn bệnh ấy. Tâm bệnh th́ vẫn phải nên dùng tâm dược để trị. Dùng cái tâm của chính ḿnh để biến thành thuốc chữa trị, vậy th́ quư vị hăy tu Quán.

 

          (Kinh) Nhất bách lục thập giả, quán sở hoạn mạng đương tận.

          ()一百六十者觀所患命當盡。

          (Kinh: Một trăm sáu mươi: Do bị bệnh mà mạng sẽ hết).

 

          Không chỉ chẳng trị hết bệnh, thọ mạng của quư vị đă hết, đă tới rồi! Nếu các đạo hữu chúng ta biết chính ḿnh sống thêm một tháng nữa sẽ chết, tôi thấy trong một tháng ấy, quư vị rất tinh tấn, quư vị niệm Phật hoặc tu tập ǵ cũng đều hết sức đắc lực, thứ ǵ cũng chẳng hao phí, do biết chính ḿnh sắp chết. Nhưng nếu vẫn mong sống thêm th́ phải làm như thế nào? Quư vị phải dùng Chiêm Sát Luân, lạy Chiêm Sát Sám, hoặc lễ Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật để kéo dài thọ mạng. Nhưng nói theo tứ chúng đệ tử chúng ta th́ thông thường là chán nhàm thế giới này, [biết chính ḿnh] sắp chết, có người rất cao hứng: “Ta có thể ĺa khỏi!” Có kẻ rất ủ rũ, sợ chết, sợ rất