Lược
giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần
4
占察善惡業報經
隋天竺沙門菩提登譯
夢參老和尚講
(giảng
lần thứ ba năm 2009)
Hán dịch:
Thiên Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời
Tùy
Chủ giảng:
Lăo ḥa thượng Mộng Tham
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo phiên bản
đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo
-https://www.liaotuo.com)
Giảo
chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Tập 10
Khi ấy, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi
Địa Tạng Bồ Tát rằng: “Vân hà khai thị cầu
hướng Đại Thừa tấn thú phương tiện?”
(Khai thị phương tiện tiến nhập cho người
mong cầu hướng tới Đại Thừa như thế
nào?) Trong quyển Thượng,
[Bồ Tát] đă dạy chúng ta: “Nếu muốn học pháp
môn Địa Tạng Chiêm Sát, phải nên dùng Chiêm Sát Luân để
chiêm sát”. Tôi đă thưa cùng mọi người, đấy
chẳng phải là bói toán, phê bát tự! Chiêm Sát Luân dùng Chiêm
Sát tướng pháp, tác dụng của nó là ǵ? Chính là v́ khi
chúng ta tu đạo, nói theo Thiền Tông là “minh tâm kiến
tánh”, nếu chúng ta muốn đạt tới minh tâm kiến
tánh, hiểu rơ tâm tánh của chính ḿnh, chẳng phải là vừa
gieo hay vừa tu bèn minh tâm kiến tánh ngay được!
Chẳng dễ dàng như thế đâu nhé! Do vậy, trong
các giáo nghĩa tại Trung Hoa trước kia, Thiền Tông
nói “một nén nhang trong Thiền môn, đốn siêu trực
nhập, lập tức chứng Bồ Đề”. Nói hết
sức dễ dàng, đơn giản, nhưng chẳng làm được!
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị mong minh
tâm, mong kiến tánh, trước hết, phải biết nghiệp
báo thiện ác. Nếu ngay cả nghiệp báo thiện ác của
chính ḿnh mà quư vị chẳng biết, nghiệp của quư vị
ở chỗ nào? Nghiệp nào nặng nề? Nghiệp vốn
chẳng có, do cảnh mà có. V́ quư vị có nhục thể này;
do vậy, phải thọ báo. Có nhục thể, ắt sẽ
mang theo nhân quả báo ứng. Nhân quả báo ứng là ba đời,
mười đời, vô lượng kiếp đến
nay! Nửa bộ đầu [của kinh Chiêm Sát nhằm dạy]
quư vị cách dùng Chiêm Sát tướng pháp. Khấu đầu,
lễ bái, bái sám, sử dụng Chiêm Sát Luân, mục đích là
để quư vị tu tập nửa bộ sau. Chẳng phải
là vừa ngồi xuống, bèn “Thiền môn một nén
nhang, đốn siêu trực nhập, lập tức chứng
Bồ Đề”. Vào thời đó, tại Trung Hoa, luôn
truyền bá kiểu đó. Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta: Trước hết, quư vị phải sám hối nghiệp
thiện ác trước
đă, phải đổ công dốc sức trong ba năm. Nửa
bộ đầu [kinh này] đă nói: Dùng thời gian ba năm
để bái sám. Hàng lợi căn đă bái sám thanh tịnh
rồi mới bắt đầu tu hành. Đă học hiểu
Chiêm Sát Sám Pháp, lễ
Chiêm Sát Sám thanh tịnh
rồi mới tiến hướng Đại Thừa.
Khi đó, theo quyển thượng, khi lạy
Chiêm Sát Sám Pháp, ba
nghiệp thanh tịnh, đă đạt được tướng
thanh tịnh, lúc ấy, phải
nên tu hành như thế nào? V́ thế, Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát hỏi Địa Tạng Bồ Tát: Lúc đó,
người cầu mong, hướng đến Đại
Thừa, chúng ta nói đơn giản là “cầu hướng
đến minh tâm kiến tánh”, th́ tu hành như thế nào?
Chúng ta là độn căn, đă tu sám hối để diệt
trừ chướng ngại, ba nghiệp
đă được thanh tịnh, khi đó mới
có thể tiến hướng Đại Thừa đạo.
Khi quư vị tu Đại Thừa đạo, chuyện trước tiên là cũng
phải có một
phương tiện thiện xảo. Hành phương tiện
thiện xảo ấy như thế nào? Địa Tạng
Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín: “Thiện nam tử!”
Chữ “thiện nam tử” chỉ Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát. Khi đó, chúng sanh muốn tu Đại Thừa, tu pháp Đại
Thừa, hành Bồ Tát đạo, thành Phật. Đó là cái
nghiệp căn bản mà quư vị phải nên biết trước
tiên. Nghiệp căn bản là phương tiện tối
thiểu để quư vị khởi sự tu hành. Nghiệp
căn bản là ǵ? Cảnh giới Nhất Thật. Chúng ta
gọi cảnh giới Nhất Thật là “minh tâm kiến
tánh”, c̣n trong Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, nó được gọi là Thể, là Minh Thể.
Minh Thể là minh tâm. Đối với nghiệp căn bản
tối sơ của quư vị, “nghiệp căn bản”
là nói tới tu hành, chẳng phải là nghiệp trong nghiệp
chướng. Nghiệp căn bản là ǵ? Cảnh giới
Nhất Thật chính là Nhất Chân pháp giới được
nói trong kinh Hoa Nghiêm. Trong các kinh luận khác, nó được
gọi là Chân Như (Tathatā), tiến hướng Chân Như. Chân Như
chính là nghiệp căn bản, tức cảnh giới Nhất
Thật.
Nhưng nếu muốn minh tâm kiến tánh,
cho đến khi thành Phật, trước đó, cũng phải
có một phương tiện, tức tu Tín và tu Giải. Do
tin mà có thể tiến nhập, tin tưởng cái tâm của
chính ḿnh. Cảnh giới Nhất Thật chính là cái nghiệp
căn bản của quư vị. Tin tưởng cái tâm là Phật,
tâm và Phật chẳng hai, chẳng khác. Tâm, chúng sanh, và hết
thảy chư Phật, cả ba là một Thể, cùng một
thứ ǵ vậy? Một cái tâm! Trước
hết, quư vị phải tin. “Tín vi đạo nguyên, công
đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ công
đức), chỉ Tín mới có thể nhập, Giải là
hiểu rơ. Nói đơn giản, Giải là hiểu rơ cái tâm
của chính ḿnh. Giải
ngộ tự tâm: “Tự
tâm là Phật, tâm này là Phật, tâm này thành Phật”. Có tín
tâm như vậy, tin “cái tâm của chính ḿnh là Phật, chẳng
hai, chẳng khác với Phật”. Đó là có chủng tánh
Bồ Tát. Tín tâm ấy cũng chẳng dễ sanh khởi!
Nửa bộ đầu của kinh này là lễ bái, sám hối,
[do sự sám hối ấy] quư vị mới có thể có tín
tâm như thế. Nếu nghiệp chướng của quư
vị chẳng tiêu, vẫn chưa đoạn Kiến
Tư phiền năo, tín tâm của quư
vị sẽ chẳng thể sanh khởi được! Nếu
quư vị muốn đạt được cái căn bản
tối sơ, hăy dựa theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo để tu hành. Địa Tạng Vương Bồ
Tát dạy chúng ta nghiệp căn bản để hành. Cái
nghiệp căn bản ấy, “nghiệp” được
hiểu theo nghĩa “tác” (作, làm, thực
hiện), hăy y chỉ cảnh giới Nhất Thật để
tín giải. [Chỉ có] Tín th́ chưa được, c̣n phải
hiểu rơ, [đó là Giải]. Giải là “giải ngộ”,
tức là thông qua học tập, sau khi đă tín giải th́
mới có thể làm. “Làm”
chính là tu hành; có tu hành th́ mới có thể thành đạo. Trong
nửa bộ đầu, tuy quư vị đă tiêu trừ nghiệp
chướng, nhưng sức tín giải vẫn
chẳng mạnh, vẫn chưa phát nguyện “ta chính
là Phật, Phật là chính ta”. Ắt phải có tín tâm ấy,
tin tưởng chính ḿnh sẽ nhất định có thể
thành Phật. V́ sao? V́ có chủng tử Phật, chỉ cần
phát khởi hiện hành là được rồi!
Đă tín rồi có thể giải, Thiền
Tông gọi Giải là khai ngộ, hoặc minh tâm kiến
tánh. Thiền Tông Trung Hoa nói “khai ngộ bèn thành Phật”.
Đă khai ngộ chỉ là tín giải mà thôi! Nói theo giáo nghĩa,
quư vị khai ngộ, minh tâm, đă minh tâm th́ mới khéo tu hành.
Quư vị vẫn phải tu tập, khi ấy mới có thể
hành Bồ Tát đạo. Nếu nói theo kinh Hoa Nghiêm, địa
vị ấy là Tín Măn (信滿, đă
viên măn tâm Thập Tín), dự vào hàng Sơ Trụ Bồ Tát.
Viên măn tâm Thập Tín bèn dự vào Trụ vị Bồ Tát (các
địa vị Bồ Tát thuộc Thập Trụ). Vị
ấy tin tưởng chính ḿnh và Phật chẳng hai, chẳng
khác. Không chỉ là tín, sau đó c̣n có
thể làm (tu tập). Chư Phật thành Phật như thế
nào? Các Ngài cũng tu như thế, làm như thế, đấy
là sức tín giải mạnh mẽ. Các vị đạo hữu
nói: “Chúng tôi đă
nhập Phật môn, tin tưởng Tam Bảo, thọ Tam
Quy, thậm chí đă xuất gia rất nhiều năm”; giả sử
chúng tôi nói họ chẳng đủ tín tâm, họ sẽ không
chấp nhận! Nhưng nói theo giáo nghĩa, quả thật
là chẳng có tín tâm. Mỗi đạo hữu có thể chiếu
theo lời đức Phật dạy để tư duy, đối
chiếu như thế một phen!
Nay chúng ta vâng theo lời dạy của Địa
Tạng Bồ Tát: “Hăy tăng cường sức tín giải”. Có tăng
cường th́ mới có thể khởi tu. Khởi tu chẳng
phải là trong nửa bộ đầu kinh này! Bái sám, lễ
Địa Tạng Bồ Tát, lễ Phật, cầu tướng
hảo; đấy là tiến
nhập một bước sâu hơn. Tín tâm của quư vị
đă kiên định, chẳng lui sụt, lại thêm mười
nghiệp toàn bộ đều thanh tịnh. Thân, khẩu, ư
nghiệp toàn bộ đều thanh tịnh. Cái tâm phát khởi
trong lúc ấy là nương vào cảnh giới Nhất Thật.
Chúng ta nói cảnh giới Nhất Thật đơn giản
là “minh tâm”. Nếu
chúng ta đă tu tập tín tâm từ đời quá khứ tới
nay, lễ bái Chiêm Sát luân tướng, sẽ khiến cho tín
tâm của chúng ta kiên định. Tŕnh tự tu hành là “tín,
giải, hành, chứng”. Nếu quư vị muốn thành Phật,
ắt phải hành Bồ Đề đạo. Chẳng thuận
theo Bồ Đề đạo, sẽ chẳng thể thành
Phật. Nương theo Bồ Đề đạo; trước
hết, quư vị phải tín giải, phải tu tín giải
trước đă. Nương vào điều ǵ để tu
tín giải? Y chỉ cảnh giới Nhất Thật. Cảnh
giới Nhất Thật là ǵ? Tin tưởng tâm của chính
ḿnh và Phật chẳng hai, chẳng khác. Tâm của chúng sanh trong
mười pháp giới là cùng một tâm. Nhất định
phải tin tưởng điều này, tin tưởng chính
ḿnh trọn đủ tánh thể giống hệt như Phật.
Sau khi đă nẩy sanh ḷng tin, c̣n phải cầu giải,
giải ǵ vậy? Hiểu hết thảy các pháp toàn là sanh
bởi nhân duyên, tánh thể của các pháp sanh khởi bởi
duyên là Không. Do vậy, đối với toàn thể Tam Tạng
mười hai bộ, có thể dùng bốn chữ [để
tóm gọn] là “duyên khởi tánh Không, tánh Không duyên khởi”.
Do tánh Không, nên mới có thể sanh khởi hết thảy các
pháp. Hết thảy các pháp chẳng có bổn thể, do duyên
khởi mà đạt tới tánh Không. Khi dùng “duyên khởi
tánh Không” làm một đề mục; trước kia, chúng tôi đă từng giảng, [bài giảng
ấy được ấn hành] thành một bản lưu
hành riêng về duyên khởi tánh Không. Tôi giảng tại hội
Phật Giáo Tân Gia Ba, đề mục là “duyên khởi tánh
Không, tánh Không duyên khởi”. Ở đây, tôi đă dẫn
chứng đại lược đôi chút, duyên khởi tánh
Không!
Sau khi hết thảy các pháp được
sanh ra, từ Tín mà có
thể nhập, chỉ tín th́ mới có thể nhập, tin
ǵ vậy? Tin hết thảy các pháp duyên khởi tánh Không, tánh
Không duyên khởi. Bất luận bộ kinh điển Đại
Thừa nào, cũng đều là “tánh Không duyên khởi, duyên
khởi tánh Không”. Khi chúng tôi giảng kinh này, cũng là như
thế. Địa Tạng Bồ Tát nói hết thảy các
pháp là duyên khởi, pháp duyên khởi dựa trên tánh Không mà có.
Nếu hiểu đạo lư này th́ gọi là Giải. Tin tự
tâm của chúng ta là Phật. Do tự tâm là Phật, quư vị
mới có thể tu thành Phật. Nếu quư vị chẳng có
tín tâm ấy, sẽ vĩnh viễn chẳng thể thành Phật.
Tin cái tâm là Phật, tin do cái tâm sẽ thành Phật. Tâm, Phật,
chúng sanh, cả ba chẳng khác biệt; tuy ba mà một, tuy một
mà ba. Tôi đă từng nói với rất nhiều đạo
hữu: “Tánh của người và tánh của Phật chẳng
hai, chẳng khác”. Tâm họ đă thông hiểu. Hăy nh́n
loài muỗi, nh́n vào loài kiến, nh́n loài phù du. Phù du (con vờ,
mayfly) là tên của một
loại trùng, h́nh thể nhỏ bé sống trên mặt nước,
sanh ra vào buổi sáng, buổi tối đă chết. Đó là
một đời của nó. Đời người trăm
năm, giống hệt phù du, b́nh đẳng! Phù du có Phật
Tánh, nó có thể thành Phật. Nó do đọa lạc măi, càng
đọa lạc càng bé, càng đọa lạc càng nhỏ
hơn, tới khi nó khôi phục, nó có thể khôi phục thân
người.
Đạo lư này được gọi là Chân
Như. Chân Như do tùy duyên mà sanh khởi hết thảy các
pháp, hết thảy các pháp đều quy về Chân Như. Đại
Thừa Khởi Tín Luận nói “nhất tâm, nhị môn, tam
đại”, [nhị môn] tức là tâm sanh diệt và tâm Chân
Như. Tâm sanh diệt và tâm Chân Như đều từ nhất
tâm mà khởi. [Tam đại] là Thể đại, Tướng
đại, và Dụng đại. Do nhất tâm sanh ra Chân
Như môn và sanh diệt môn. Hai môn chẳng
ra ngoài tam đại, tức Thể, Tướng, Dụng.
Tôi thường nói “kinh Chiêm
Sát là một bộ phận của kinh Hoa Nghiêm”. Đại
Phương Quảng: Đại là Thể, Phương là
Tướng, Quảng là Dụng. Nửa bộ sau của kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói về Thể, Tướng,
Dụng. Đại Phương Quảng là Thể, Tướng,
Dụng. Đại Thừa Khởi Tín Luận nói tâm Chân
Như môn là Thể, tâm sanh diệt môn là Tướng và Dụng,
đều là nhất tâm. Ĺa khỏi tâm, chẳng c̣n hai pháp.
Nếu chúng ta muốn tu hành từ Chân Như môn, sẽ chẳng
dễ tiến nhập. Vậy th́ hăy theo sanh diệt môn mà vào.
Tiến nhập bằng sanh diệt môn như thế nào? Quư
vị hăy từ quán tưởng, giống như trong nửa
đầu của bộ kinh này là bái sám, chiêm sát, ḥng tiêu nghiệp
chướng. Đó gọi là pháp thuộc về sanh diệt
môn. Do vậy, quư vị đă sám hối ba nghiệp thanh tịnh,
Địa Tạng Vương Bồ Tát mới nói hai loại
quán đạo đối với cảnh giới Nhất
Thật.
Cảnh giới Nhất Thật là ǵ? Trước
hết, hăy nói về cảnh giới Nhất Thật, rốt
cuộc cảnh giới Nhất Thật là ǵ? Nếu muốn
giải thích, phải phân tích cái Thể
của cảnh giới Nhất Thật là ǵ? Sau Thể bèn
có Tướng; sau Tướng bèn có Tạng. Vốn là Thể,
Tướng, Dụng, nhưng trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo, nó được gọi là Tạng, Tạng tức
là Dụng. Tạng (藏) có nghĩa là “bao
hàm”, chứa đựng vô lượng diệu dụng.
Sự hàm chứa ấy chính là nói đến Thể, Tướng,
Dụng. Pháp Thân là nói đến Thể, đấy là Phật
Tánh mà hết thảy chúng sanh đều trọn đủ,
chẳng hai, chẳng khác với Phật. Đấy là tổng
thể, đấy là Phật Tánh. Phật Tánh trọn khắp,
cũng chính là cái được gọi là Pháp Thân trong kinh. Chánh nhân
là Phật Tánh. Tướng trong Thể, Tướng, Dụng,
Bát Nhă. Từ chánh nhân Phật Tánh mà gọi là liễu nhân, tức
liễu nhân Phật Tánh. Do quư vị
đă chứng đắc Giải Thoát Đức qua sự
tu hành, liễu nhân Phật Tánh đă đạt đến giải
thoát, thật sự thành tựu. Liễu nhân Phật Tánh được
gọi là Giải Thoát Đức, hoặc nói là Pháp Thân Đức.
Đối với duyên nhân Phật Tánh, hết thảy các
pháp đều sanh bởi nhân duyên. Phật Tánh chẳng có hết
thảy các pháp, pháp được sanh bởi nhân duyên toàn là
nghĩa Không. “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức
thị Không, diệc danh Trung Đạo nghĩa, diệc danh
vi giả danh” (Các pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chúng chính
là Không. Điều đó cũng gọi là nghĩa lư Trung Đạo,
mà cũng gọi là giả danh).
Thật thể của bộ kinh này là ǵ? Là cảnh
giới Nhất Thật, mà cũng là Tam Quán (Không, Giả,
Trung) được nói trong tứ giáo, hay Chân Không Tuyệt
Tướng như kinh Hoa Nghiêm đă dạy, Lư Sự vô ngại,
chứa đựng trọn khắp, đều bao hàm ư nghĩa
Tam Quán. Điều này hễ giải thích sẽ khá nhiều, [trong Đại Tạng
Kinh đă] dùng bao nhiêu
quyển kinh văn để giải thích vấn đề này. Bởi
lẽ, [nội hàm của] cảnh giới Nhất Thật
bao gồm hết sức nhiều. Cảnh
giới ấy được gọi là cảnh giới Nhất
Thật. Lại nói đến Pháp Thân Đức, Bát Nhă
Đức, và Giải Thoát Đức, ba đức là một,
một chính là ba. Một và ba chẳng trở ngại lẫn nhau. Nói gộp
chung lại, sẽ là cảnh giới Nhất Thật. Ở
đây, tôi nói đại lược đôi chút. Cảnh giới
Nhất Thật dẫu giảng mười tiếng đồng
hồ cũng chẳng giảng xong. Ư nghĩa rất sâu!
Trong các kinh như kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm, giảng c̣n rộng
hơn nữa, chúng tôi chỉ đề cập đại
lược cùng mọi người.
(Kinh) Sở ngôn Nhất Thật cảnh
giới giả, vị chúng sanh tâm thể, tùng bổn dĩ
lai, bất sanh, bất diệt. Tự tánh thanh tịnh vô
chướng, vô ngại, do như hư không, ly phân biệt
cố.
(經)所言一實境界者。謂衆生心體。從本以來不生不滅。自性清淨無障無礙。猶如虛空。離分別故。
(Kinh: Nói tới cảnh giới Nhất
Thật là nói tâm thể của chúng sanh vốn bất sanh,
bất diệt. Tự tánh thanh tịnh chẳng chướng,
chẳng ngại, ví như hư không, do ĺa phân biệt).
V́ cảnh giới Nhất Thật là tâm thể
của chúng sanh, bản thể cái tâm của hết thảy
chúng sanh được gọi là cảnh giới Nhất
Thật. Nó vốn chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng
nhơ, chẳng sạch. Bản thể của nó là thanh tịnh
vô nhiễm, chẳng chướng, chẳng ngại. Dùng điều
ǵ để h́nh dung tâm thể? Ví như hư không. Chư Phật
chứng đắc bản thể, chúng sanh mê muội bản
thể. V́ chúng sanh đă mê, cho nên sanh ra vô lượng phân
biệt. Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác được
gọi là “tứ thánh pháp giới”, c̣n trời, người,
A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là lục
đạo. Chúng ta thường nói “lục đạo
luân hồi”. Tứ thánh pháp giới gộp chung với lục đạo luân hồi chúng sanh th́ gọi là “mười
pháp giới”. Mười pháp giới là một Thể, là
nhất tâm. Bất luận một sanh mạng dẫu nhỏ
nhoi tới đâu đi nữa, đều có linh hồn, có
tánh thể, chẳng hai, chẳng khác với chúng ta. Do tạo
nghiệp bất đồng mà đọa lạc vào đường
ấy, nhưng tánh thể của
nó chẳng mất. Thể của nó và Phật chẳng
hai, chẳng khác, là bất sanh, bất diệt, trước
nay chưa từng có tướng sanh diệt. Phải nhớ
bản thể chẳng phải là hiện tướng (現相, tướng
được hóa hiện ra). Bản thể của cái tâm
chúng sanh vốn sẵn bất sanh, bất diệt; bản
thể ấy vĩnh viễn thanh tịnh, chẳng có chướng
ngại. Giống như ǵ? Giống như hư không, chẳng
có phân biệt, rời ĺa phân biệt. Nhưng hễ khởi
tâm động niệm, vừa phân biệt liền đánh
mất bản thể. Hễ đánh mất bản thể,
đă mê, trong khi mê bèn chia cắt. Mê sâu th́ đọa lạc
càng sâu. Mê cạn, trí huệ hăy c̣n! Mười pháp giới do
mê hay ngộ mà chia ra, đều phân giải từ cái bản
thể ấy. Mê muội bản thể đă sâu th́ đọa
lạc càng sâu!
Đấy là nói về cái tâm, [hoặc nói đích
xác là] toàn thể cái tâm, chẳng thể thiếu phần nào.
Cái tâm thể ấy chẳng có đối đăi, chẳng
có tương đối, là tuyệt đăi (絕待, dứt
bặt đối đăi). Quư vị chẳng thể cắt,
xẻ. Hễ có thể cắt, xẻ, sẽ chẳng phải
là tâm thể. Nó cũng
chẳng có phương hướng, chẳng có Đông, Tây,
Nam, Bắc, cũng chẳng có người, chúng sanh, hoặc
mười pháp giới chi hết. Mười pháp giới
chỉ có một tâm thể này, chẳng có cái thứ hai nào
khác, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Đây là nói
về Thể, nơi Phật chẳng tăng, nơi chúng
sanh chẳng giảm, b́nh đẳng phổ biến. Thể
trọn khắp hết thảy mọi nơi,
giống như hư không trọn khắp hết thảy mọi
nơi. Cái tâm thể ấy viên măn mười phương,
rốt ráo nhất tướng, chẳng hai, chẳng khác, chẳng
đổi, chẳng lạ, chẳng tăng, chẳng giảm.
Một niệm tâm thể hiện tiền của hết thảy
chúng sanh chẳng hai, chẳng khác với Phật quả viên
măn do Phật đă chứng đắc. Kinh Hoa Nghiêm thường
dùng cách nói “hoành biến thập phương” (橫遍十方, theo chiều
ngang trọn khắp mười phương) để diễn
tả ư: Nói theo chiều ngang th́ Đông, Tây, Nam, Bắc, chính giữa đều
trọn khắp; nói theo cùng tột chiều dọc th́ trên dưới
vô tận chẳng sai khác. [Tức là nói] “thụ cùng pháp
giới, hoành biến thập phương” (豎窮法界,橫遍十方, theo chiều
dọc cùng tận pháp giới, theo chiều ngang trọn khắp
mười phương), h́nh dung cái tâm này chẳng hạn
cuộc, chính là một niệm hiện tiền của chúng
ta. Mọi người hăy thầm nghĩ, thí nghiệm một
chút. Chỉ cần quư vị nghĩ đến các nơi chính
ḿnh đă đi qua, chúng sẽ nhanh chóng hiện ra. Quư vị
đă đi qua bao nhiêu chỗ, bất luận quư vị tới
Nữu Ước của nước Mỹ, tùy tiện đến
một nơi nào đó trên thế giới này, tùy tiện chỗ
nào quư vị đă đi qua, [hễ nghĩ đến], nó sẽ hiện
ra ngay. Chỉ cần quư vị lắng ḷng, vừa tưởng,
vừa tác ư, nó sẽ hiện ra toàn bộ. Các nơi quư vị
chẳng đi qua, do chẳng biết, sẽ không thể tưởng
tượng ra được! Phàm là các nơi quư vị đă
đến, quư vị vừa tưởng tượng, đều
có thể hiện trọn khắp. Nơi quư vị chẳng
đi qua, cái tâm quư vị có trọn khắp hay không? Tâm trọn
khắp! V́ nay quư vị đang mê; do đă mê cho nên chẳng
trọn khắp. Hiện thời, quư vị sử dụng
Thức, chẳng phải là tâm. V́ hiện thời ngay cả
cái tâm chúng ta cũng chẳng biết, toàn là sử dụng
Thức, chẳng đạt tới tâm. Hễ có thể đạt
thẳng tới tâm thể, quư vị sẽ thành công!
(Kinh) B́nh đẳng phổ biến, vô
sở bất chí, viên măn thập phương, cứu cánh nhất
tướng, vô nhị, vô biệt, bất biến, bất
dị, vô tăng, vô giảm.
(經)平等普遍。無所不至。圓滿十方。究竟一相。無二無別。不變不異。無增無減。
(Kinh: B́nh
đẳng trọn khắp, không đâu chẳng đến,
viên măn mười phương, rốt ráo nhất tướng,
chẳng hai, chẳng khác, chẳng đổi, chẳng lạ,
chẳng tăng, chẳng giảm).
Cái tâm ấy b́nh đẳng phổ biến,
không đâu chẳng đến, viên măn mười
phương, rốt cuộc là tướng ǵ vậy? Nhất
tướng. Nhất tướng là nói tới vô tướng,
chẳng có hai tướng, chẳng có tướng nào khác. Cái
tâm ấy vĩnh viễn chẳng thay đổi, chẳng khác
lạ, nơi Phật chẳng tăng, nơi phàm phu chẳng
giảm. Tâm thể của một niệm hiện tiền
chúng ta, theo chiều dọc cùng tột pháp giới, theo chiều
ngang trọn khắp mười phương. Quư vị chẳng
thể tách biệt, mà cũng chẳng thể nghĩ lường.
Nó có thể trọn khắp căn thân và khí giới của
hết thảy chúng sanh, có ư nghĩa “b́nh đẳng phổ
biến”. Do vậy nói “viên măn thập phương, châu
biến pháp giới” (viên măn mười phương, trọn
khắp pháp giới) chính là một niệm tâm hiện tiền
của chúng ta. Chúng ta vẫn đang mê, vẫn chẳng ngộ,
nhưng do trong nửa bộ đầu [của kinh này], đă
bái sám để sám hối các nghiệp, tam nghiệp đă
thanh tịnh, quư vị tu hành, tu hành pháp môn duy tâm. Nửa
bộ sau của kinh này chính là pháp môn duy tâm. Trước hết,
[chánh kinh] giải thích cái tâm này b́nh đẳng, phổ biến.
(Kinh) Dĩ nhất thiết chúng sanh tâm,
nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật tâm, nhất thiết
Bồ Tát tâm, nhất thiết chư Phật tâm, giai đồng
bất sanh, bất diệt, vô nhiễm, vô tịnh, Chân
Như tướng cố.
(經)以一切衆生心。一切聲聞辟支佛心。一切菩薩心。一切諸佛心。皆同不生不滅。無染無淨。真如相故。
(Kinh: Do tâm
của hết thảy chúng sanh, tâm của hết thảy
Thanh Văn, Bích Chi Phật, tâm của hết thảy Bồ
Tát, tâm của hết thảy chư Phật, đều cùng là chẳng
sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, là
tướng Chân Như).
Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát: - Do cái tâm của hết thảy chúng sanh mê hay
ngộ mà chia ra. Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư
Phật là tứ thánh pháp giới; đó là v́ mê hay ngộ cái
tâm này mà phân biệt thành từng tầng cấp. Tâm chẳng
hai, chẳng khác, do quư vị mê hay ngộ bất đồng
mà chia thành cấp bậc. Nơi chúng sanh chẳng giảm bớt tí nào, nơi
chư Phật chẳng tăng thêm chút nào!
Cái tâm của chúng ta bất sanh, bất diệt, chẳng
tăng, chẳng giảm, chẳng nhiễm, mà cũng chẳng
thanh tịnh. Đó gọi là tướng Chân Như. Trong phần
trước, chúng tôi đă nói “hăy đạt tới tướng
Chân Như”. Tướng Chân Như là ǵ? Giải thích như
thế này: Toàn thể mười pháp giới đều nương
vào tướng Chân Như, từ một tướng Chân
Như mà phân biệt. Cái tâm Chân Như và cái tâm sanh diệt,
tâm Chân Như là bản thể của chúng ta. Chúng ta phải
khôi phục cái bản thể ấy, hết thảy chư
Phật đă thành tựu [Chân Như]. [Tâm Chân Như] khác với
tâm sanh diệt. Đối với cái tâm sanh diệt, Đại
Thừa Khởi Tín Luận nêu ra nghiệp tướng, chuyển
tướng, hiện tướng, trí tướng, tương
tục tướng, chấp thủ tướng, khởi
nghiệp tướng, kế danh tự tướng, nghiệp
hệ khổ. Do nghiệp
ràng buộc quư vị, đối với chuyện ǵ, quư vị cũng đều luôn hồ đồ. Nay
chúng ta từ ngay trong tướng nghiệp hệ khổ (業繫苦, nỗi
khổ do bị nghiệp ràng buộc) mà tiêu diệt tướng
nghiệp hệ khổ, quư vị sẽ dần dần tăng
trưởng, tức là tăng trưởng tịnh, tiêu diệt
nhiễm. Nếu chúng ta muốn tương ứng với Chân
Như th́ phải diệt, điều thứ nhất là phải
thoát ly nghiệp hệ khổ trước đă. Khi chúng ta
lạy Chiêm Sát Sám, đă tiêu diệt tướng nghiệp
hệ khổ, chẳng có ác, đă thuần thiện, ba luân
thân, khẩu, ư, mười nghiệp đều đă thanh
tịnh. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói: Khi ấy,
sau khi chúng sanh đă đạt tướng thanh tịnh [từ
luân tướng] th́ mới có thể bắt đầu tu hành.
Khi chúng ta lễ bái, chiêm sát Chiêm Sát luân tướng, tín tâm đă
đạt đến thanh tịnh, ngay khi đó, dùng cái tâm
thanh tịnh vô nhiễm ấy để bắt đầu
tu hành.
Trong khi quư vị tu hành, ắt cần phải
hiểu rơ cái tâm, hiểu rơ tâm thể trước đă. Nhưng
chẳng thông qua bái sám, chư vị đạo hữu vẫn
chưa từng bái sám, th́ hiện thời tâm chúng
ta vẫn chẳng đạt tới thanh tịnh, vẫn là
thiện và ác xen lẫn, chẳng phải là thuần thiện!
Nhưng trong nửa bộ sau của kinh này, Địa Tạng
Bồ Tát dạy: Khi tu hành, tâm đă thuần thiện, nghiệp
Thập Ác đă hoàn toàn chẳng c̣n. Địa Tạng
Vương Bồ Tát từ bi, nếu quư vị lạy Chiêm
Sát Sám ba năm, đă lạy tṛn ba năm, tuy vẫn chưa
đạt được luân tướng thanh tịnh, nhưng
quư vị có thể tu, tức là có thể tu nửa bộ sau,
có thể tu quán tâm trong nửa sau bộ kinh này. Hết thảy
chư Phật, Bồ Tát, đại A La Hán, tâm đều b́nh
đẳng, chẳng có cấp bậc, chỉ là do mức độ
mê hoặc trong tâm [khác biệt], tâm chẳng thanh tịnh, chẳng
tiêu trừ các món ô nhiễm. Chẳng hạn như nay chúng
ta lạy Chiêm Sát Sám đă đạt được luân tướng
thanh tịnh. Luân tướng thanh tịnh tức là [đă đoạn
trừ] thô Hoặc, chẳng phải là tế Hoặc. [Nói cách
khác], phiền năo tham, sân, si hiện hành nơi thân, khẩu,
ư của quư vị đều chẳng có, đă tiêu trừ các
vật ô nhiễm ấy; nhưng do chỉ là [tiêu trừ]
thô tướng, chưa phải là tế tướng, vẫn
chưa đạt tới địa vị “tâm Phật và
tâm chúng sanh b́nh đẳng”. Nơi [Phật tâm] sẵn có
th́ b́nh đẳng, nhưng trong quá tŕnh tu hành nhằm thanh tịnh
cấu nhiễm, nó vẫn chưa b́nh đẳng. Quư vị
có thể khôi phục b́nh đẳng, khôi phục cái tâm của
chúng ta thành Phật tâm, khôi phục chân tâm vốn sẵn có
của chúng ta. Phật tâm, chúng sanh tâm, chân tâm, cả ba đều
b́nh đẳng. Tâm vốn bất sanh, bất diệt, bất
động, bất tĩnh, bất cấu, bất tịnh,
bất tăng, bất giảm, do phiền năo của chúng
sanh khác biệt. Nếu quư
vị có thể khôi phục sự tịch tĩnh, khôi phục
trực tâm chánh niệm Chân Như, th́ sẽ là khôi phục tâm
thể của chúng ta.
Cái tâm ấy bao trùm mười pháp giới,
tất cả hết thảy các kinh quyển đều nói
về “tam thiên tánh tướng” (ba ngàn tánh tướng)[1]. Đại
Thừa hay Tiểu Thừa, chẳng có một pháp nào ĺa khỏi cái
tâm. Ĺa tâm sẽ chẳng có hết thảy các pháp. Đấy
là tâm thể. V́ dấy lên Hoặc nhiễm, tâm dấy lên phân
biệt. Tuy dấy lên phân biệt, tất
cả vọng tâm phân biệt hoàn toàn là huyễn
hóa, chẳng có chút nào chân thật. Chẳng có chút nào chân thật
là v́ hết thảy các pháp đều từ tâm khởi. Mọi
người đều hiểu điều này: “Tâm sanh th́
đủ mọi pháp sanh; tâm diệt th́ đủ mọi
pháp diệt”. Làm thế nào để khiến cho cái tâm của
chúng ta chẳng sanh? Phàm phu tuyệt đối chẳng làm được
điều này, ngay cả thánh nhân Nhị Thừa, chư Phật,
Bồ Tát cũng có thứ tự. Tâm thể hiện tiền
của chúng ta trong một niệm trọn đủ mười
pháp giới. Trong khi quư vị nhất tâm niệm Phật, lúc
tâm hướng về Phật, quư vị là Phật pháp giới.
Quư vị phát tâm từ bi lợi ích chúng sanh, hành Bồ Tát
đạo, sẽ là Bồ Tát pháp giới. Nếu mong chính
ḿnh tu hành ḥng liễu sanh tử th́ là Thanh Văn, Duyên Giác
pháp giới; cho đến hết thảy các tâm như tâm
tham, tâm kiêu mạn, tâm sân hận… th́ đó là lục phàm pháp
giới. Dựa theo cái tâm phân biệt để xác định
địa vị của quư vị. Hết thảy tâm thể
dấy lên phân biệt, chỉ là tướng cảnh giới
huyễn hóa, chẳng có thứ ǵ là chân thật. Bốn câu
kệ cuối cùng trong kinh Kim Cang: “Nhất thiết hữu
vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc như điển, ưng
tác như thị quán” (hết thảy
pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như
sương, cũng như chớp, hăy nên quán như thế).
Đó cũng là pháp môn quán tâm. Quư vị hăy ngẫm xem: Hết
thảy các pháp, có pháp nào là chân thật? Toàn là huyễn hóa, chẳng
chân thật! Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà quư vị dùng đó, có chân
thật hay không? Tất cả thấy, nghe, hay, biết của quư vị có phải
là chân thật hay không? Đều chẳng phải! Do bên ngoài
có các thứ cảnh mà sanh khởi các thứ tâm. Địa
Tạng Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát: Một niệm tâm thể hiện tiền trọn đủ
Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, trời, người,
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hợp chung lại
thành một niệm tâm hiện tiền. Chúng ta phải lư giải như thế, phải
nhận biết như thế.
(Kinh) Sở dĩ giả hà? Nhất thiết
hữu tâm khởi phân biệt giả, do như huyễn hóa,
vô hữu chân thật. Sở vị Thức, Thọ, Tưởng,
Hành, ức niệm, duyên lự, giác tri đẳng pháp, chủng
chủng tâm số, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, diệc
phi tạp sắc, vô hữu trường, đoản, phương,
viên, đại, tiểu, năi chí tận ư thập phương
hư không nhất thiết thế giới, cầu tâm h́nh
trạng, vô nhất khu phân nhi khả đắc giả, đản
dĩ chúng sanh vô minh, si ám, huân tập nhân duyên, hiện vọng
cảnh giới, linh sanh niệm trước. Sở vị
thử tâm bất năng tự tri, vọng tự vị hữu,
khởi giác tri tưởng, kế ngă, ngă sở, nhi thật
vô hữu giác tri chi tướng. Dĩ thử vọng tâm tất
cánh vô thể, bất khả kiến cố.
(經)所以者何。一切有心起分別者。猶如幻化。無有真實。所謂識受想行。憶念緣慮覺知等法。種種心數。非青非黃。非赤非白。亦非雜色。無有長短方圓大小。乃至盡於十方虛空一切世界。求心形狀。無一區分而可得者。但以衆生無明癡暗熏習因緣。現妄境界。令生念着。所謂此心不能自知。妄自謂有。起覺知想。計我我所。而實無有覺知之相。以此妄心畢竟無體不可見故。
(Kinh: V́ cớ sao vậy? Hết thảy
những ai có tâm dấy lên phân biệt ví như huyễn hóa,
chẳng có chân thật. Các pháp được gọi là Thức,
Thọ, Tưởng, Hành, nghĩ nhớ, duyên lự, hay biết
v.v… các thứ tâm số (tâm sở pháp) chẳng phải xanh,
chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng
phải trắng, mà cũng chẳng phải nhiều màu, chẳng có dài, ngắn, vuông, tṛn, lớn,
nhỏ, cho đến hết thảy
các thế giới cùng tận mười phương hư
không, cầu t́m h́nh dạng của tâm th́ chẳng t́m được
điều ǵ phân biệt riêng lẻ,
chỉ v́ nhân duyên vô minh si ám của chúng sanh huân tập mà hiện
ra cảnh giới hư vọng, khiến cho họ sanh khởi
ư niệm. Đó gọi là cái tâm chẳng thể tự biết,
hư vọng tự cho là có, dấy lên ư tưởng hay biết,
so đo ta và cái thuộc về ta, chứ thật ra chẳng
có tướng hay biết. Bởi lẽ, cái vọng tâm ấy
rốt ráo chẳng có cái Thể, chẳng thể thấy được).
Địa Tạng Vương Bồ Tát vẫn
sợ chúng sanh chẳng lư giải v́ sao Ngài lại nói như
vậy, [cho nên giải thích bằng cách nêu nghi vấn] “sở
dĩ giả hà?” (v́ cớ sao vậy). V́ hết
thảy những kẻ có tâm, hăy chú ư! Hết
thảy kẻ hữu tâm dấy lên phân biệt, nhưng
trong sự phân biệt ấy, tất
cả hết thảy các pháp hữu vi đều là huyễn
hóa, chẳng chân thật, [thế mà] chúng sanh coi thành chân thật.
Cái tâm của chúng sanh có thứ ǵ chân thật để biểu
hiện ra hay không? Có chứ! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức
Phật hỏi vua Ba Tư Nặc (Prasenajit): “Đại
vương! Ngài thấy sông Hằng lúc mấy tuổi?” Vua
Ba Tư Nặc đáp: “Đại khái là lúc ba tuổi! Mẹ
con dẫn con đến sông Hằng, con nhận biết đó
là sông Hằng”. Đức Phật lại hỏi: “Năm
nay nhà vua bao nhiêu tuổi?” Vua đáp: “Sáu mươi hai tuổi”.
Đức Phật nói: “Hiện thời nhà vua thấy sông Hằng
và lúc ba tuổi thấy sông Hằng, có khác biệt hay chăng?” Vua Ba
Tư Nặc đáp: “Lúc ba tuổi con cũng thấy như
vậy, nay cũng vẫn thấy như vậy”. [Đức
Phật dạy]: “Vật chất có sai biệt, ba tuổi
và sáu mươi hai tuổi có sai biệt, sông Hằng tuôn chảy
có sai biệt, cái Thấy của nhà vua chẳng có sai biệt.
Ba tuổi cũng thấy như thế, mà hơn sáu mươi
tuổi vẫn thấy như thế. Tánh Thấy chẳng
sai biệt”. Khi chúng ta thấy hết
thảy các pháp, cái Thấy chẳng sai biệt, nhưng vật
chất có thể biến hóa. Hết thảy các pháp hữu
vi là giả tướng. Giả tướng sẽ tùy thời
biến hóa. Tác dụng thấy của tánh Thấy chẳng
biến hóa. Năng kiến (chủ thể thấy, tác dụng
thấy của tánh Thấy) nh́n vào sở
kiến (cái được trông thấy), sở kiến toàn
là vật chất, là giả, tánh Thấy của
năng kiến (khả năng có thể trông thấy)
là thật. Vạn
pháp do tâm khởi, vạn pháp do tâm diệt. Do cái tâm của quư
vị phân biệt mà trông thấy tướng cảnh giới
huyễn hóa, chẳng có thứ ǵ là thật thể. Bất
cứ sự vật nào cũng đều chẳng có thứ
ǵ là thật thể. Từ chỗ
này, quư vị ngộ được: Quư vị trông thấy
thật thể của vật chất. Tánh Thấy
chẳng phải là cái thấy do con mắt trông thấy, mà là thấy Tánh [của vật chất]. Đă hiểu rơ tánh Thấy, nếu
quư vị tham đắm thế gian, t́m cầu
một vật chân thật, th́ hết
thảy đều chẳng có! Do vậy, kinh Kim Cang dạy: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng,
như sương, cũng như chớp. Hăy nên quán như
thế”. Khi quư vị quán hết thảy các pháp, [sẽ
thấy chúng] toàn là hư vọng, chẳng có thứ ǵ là chân
thật, chẳng có thứ ǵ là bất biến, chẳng có
một pháp nào thường trụ. Quư vị hăy quán cặn
kẽ đi!
Địa Tạng Bồ Tát nói với Kiên Tịnh
Tín những lời ấy nhằm vào ư nghĩa hiển thị
cái tâm: “Tâm bất biến, tâm chẳng chuyển theo cảnh”.
Tâm có thể chuyển cảnh, sẽ giống như Phật,
[kinh thường nói] “tức đồng Như Lai”. Tâm
của quư vị bị tướng
cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, sẽ là phàm phu.
Chuyển biến vào đường nào, sẽ rơi vào đường
đó, tùy thuộc quư vị chuyển biến lớn hay nhỏ.
Chuyện này liên quan tới cuộc sống của chính ḿnh,
quư vị hăy kiểm nghiệm đạo lực của chính
ḿnh. Quư vị xuất gia, dẫu cho ta không xuất gia, nhưng
tin Phật, Phật sẽ dạy chúng ta bằng cách nào? Khiến
cho chúng ta quán hết thảy các pháp sanh, trụ, dị, diệt,
vô thường, biến hóa, chẳng thật sự tồn
tại. V́ chúng là pháp hữu vi. Hết thảy các pháp hữu
vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, quư vị hăy quán đi.
Hăy quán tánh thể. Sở dĩ hết thảy phàm phu và thánh
nhân khác biệt là do “sáng mắt, sáng ḷng” [hay không]. Tâm
mê, mắt cũng chẳng sáng. “Mắt” ở đây
chẳng phải là tṛng mắt, mà là tánh Thấy. Bất quá,
nói thông tục là “sáng mắt, sáng ḷng”, tức là tâm tánh,
[hay nói theo một phương diện hạn hẹp hơn]
là tánh Thấy. [Thật ra], tánh Thấy chính là tâm tánh, tâm tánh
chính là tánh Thấy. Tất cả sắc thân, tất cả
Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nghĩ nhớ, duyên lự[2], hay biết của
chúng ta. Hết thảy các pháp đều là tâm số pháp (tâm
sở pháp, tức các thuộc tánh của tâm tánh, hay nói theo tâm
lư học th́ là “tác dụng
tâm lư”) nhiều
lượt biến chuyển. Chúng tôi chẳng nói đến
Pháp Tướng, [trong Pháp Tướng Duy Thức], tâm có tám
món (tám tâm vương, tức tám thức, từ nhăn thức
tới ư thức, cộng thêm Mạt Na và A Lại Da), tâm sở
(tâm số) th́ có năm mươi mốt món. Các pháp ấy
toàn là tùy duyên mà sanh khởi, là giả, chẳng chân thật.
Điều này cũng mang ư
nghĩa khiến cho chúng ta đừng tham đắm hết
thảy các pháp. Hết thảy các pháp vô ngă, hết thảy
các pháp vô thường, hết thảy các pháp chẳng chân
thật. Đấy là phân tích. Địa Tạng Vương
Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Hết thảy các
pháp hữu vi đều như mộng, huyễn, bọt,
bóng, chẳng chân thật. Chúng sanh chẳng phải là như
vậy, tùy thuộc mức độ nhận biết hết
thảy các pháp của quư vị. Chúng ta thường nói “khán
phá, phóng hạ” (看破,放下, nh́n thấu,
buông xuống). Nói “buông xuống” tức là trong tâm bất
cứ pháp ǵ cũng đều chẳng chấp trước,
đều chẳng khởi tâm động niệm, có thể
làm được hay không? Chính quư vị có thể biết
mức độ của chính ḿnh: Người ta đánh, chửi,
vũ nhục quư vị, trong tâm quư vị chẳng động
niệm mảy may. [Kẻ khác] tán thán, ca
ngợi quư vị cũng thế, hoàn toàn b́nh đẳng. Đối
với bất cứ sự vật ǵ, tâm quư vị cũng
chẳng điên đảo. Tâm chẳng điên đảo
tức là quư vị chánh niệm hiện tiền, quán hết
thảy các pháp đều là Không, đều là vô thường,
vô ngă. Như thế th́ quư vị sẽ thọ dụng,
trong bất cứ lúc nào, trong bất cứ chỗ nào, vẫn
đều là tự tại!
Chúng tôi nêu một ví dụ, chẳng hạn
như nói tới chuyện sanh bệnh.
Khi quư vị sanh bệnh, hăy quán chiếu nhiều hơn. Quán
chiếu ǵ vậy? Căn bệnh ấy do đâu mà có? Bệnh
là ǵ? Giả sử quư vị chẳng có nhục thể, bệnh
sẽ không có chỗ để sanh, sanh ở chỗ nào đây?
Do quư vị có nhục thể, nhục thể ấy là thật
hay giả? Tôi nói lời này, chắc là có người bảo:
“Vị lăo ḥa thượng này đúng là hồ đồ!
Ngay cả thân thể mà c̣n chẳng biết là thật hay giả!”
Tôi chẳng hồ đồ, tôi hiểu rơ, thân thể hoàn
toàn là giả. Kể cả Thức và tâm của chúng ta đang
nói trong hiện thời cũng là giả. Trong khi quư vị bệnh
khổ rất nặng, quư vị có thể tách rời thân và
tâm hay không? Chẳng hạn như chúng ta làm ǵ khi đến
bệnh viện để giải phẫu? Bác sĩ phải
chích thuốc mê để gây tê cho quư vị, khiến cho tâm
và nhục thể của quư vị tách ĺa. Cái Thức đă bị mê th́ mổ xẻ thân thể, quư vị chẳng cảm thấy đau đớn. Khi
thuốc mê đă tan, quư vị tỉnh lại. Nếu chẳng
chích thuốc mê, quư vị sử dụng sức quán tưởng,
khiến cho thức và nhục thể hai đằng tách ĺa,
thân thể chẳng phải là ta, quư vị có một cái Thức
riêng biệt.
Có một người đă từng chết
ba lần, kể với tôi: Khi tâm thức của ông ta tách
khỏi nhục thể, năo bộ giống như bị rách
toạc, đau đớn tới cực điểm. Thần
thức đă ly khai, thứ ǵ cũng đều chẳng
biết. Ông ta thấy mười phương hư không đều
tối om. Ông ta nghĩ: “Ta tới chỗ nào đây?” Ông ta muốn
sờ thân thể của ḿnh, “ta mới vừa bị thương”.
Vừa nghĩ như vậy liền hỏng bét! Vừa nghĩ,
[thần thức] đă ngay lập tức trở lại nhục
thể, đau đớn lại dấy lên! Đau
đến nỗi mê man, thần thức của ông ta lại
rời ĺa, rời ĺa lần thứ hai. Đă rời ĺa, ông
ta lại chẳng thấy đau đớn, dường
như là hư không. Ông ta t́m kiếm một chỗ, tự
nghĩ: “Ta nên tới đâu để trị thương?”
Trong đầu vẫn
biết ḿnh bị thương. Khi vừa nghĩ, thần
thức lại trở về nhục thể. Lần này chẳng
ĺa khỏi nữa, đau thấu trời, nhân viên cấp cứu
mang ông ta đi cứu chữa. Ông ta nói với tôi: “Con suy
nghĩ vấn đề này. Khi chúng ta đau khổ, có thể
làm cho cái thức, đấy vẫn chẳng phải là tâm,
mà là thức, có thể khiến cho cái tâm nhận biết và
xác thân là cái được nhận biết, hai đằng
tách rời. Có thể làm như vậy hay không?”
Lúc thoạt đầu, sẽ làm chẳng được.
Quư vị thường thực hiện là được. Chẳng
cần chích thuốc mê, quư vị có thể tự ḿnh làm chủ.
Có thể làm chủ điều ǵ? Chẳng phải là ta! Sự
đau đớn ấy chẳng phải là ta. V́ thế,
kinh Lăng Nghiêm có nói: “Hữu giác giác thống”, [nghĩa
là] quư vị có tri giác, sẽ cảm nhận đau đớn.
“Vô thống thống giác”, tức là [đau
đớn chỉ là nơi thân xác, chứ cái tâm] cảm nhận
sự đau đớn ấy chẳng hề bị đau[3]. Nếu
chúng ta có thể tách rời thân xác và cảm giác nhận biết,
đương nhiên là lúc thoạt đầu, đối với
công phu ấy, quư vị sẽ chẳng thể thông thạo
cho lắm. Phải vận dụng lâu ngày th́ mới hết
sức thông thạo được. Đương nhiên là quư
vị dùng một, hai năm công phu vẫn chưa đủ,
vẫn có lúc cảm nhận đau đớn. Tới khi quư
vị thật sự vận dụng được, thân xác
chẳng cần chích thuốc tê, cứ mổ là mổ thôi!
Mọi người đă đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa,
[trong ấy
có chép] Quan Vân Trường nạo xương chữa
độc. Ông ta là phàm phu, chưa từng học Phật pháp.
Ông ta vừa đánh cờ, vừa [cho lang y] khoét thịt, [tức
là] khoét chỗ thịt bị trúng độc, khoét đụng
đến xương kêu ken két. Trên dưới
bao nhiêu người nghe âm thanh nạo khoét ấy đều
[cảm thấy] hết sức đau đớn, c̣n ông ta
tiêu dao tự tại. V́ ông ta đă tách ĺa cái tâm và nhục
thể của chính ḿnh. Tôi cảm
thấy như thế đó, tôi đă thí nghiệm. Năm
trước, bệnh khổ rất nhiều, cảm thấy
đau đớn, bèn tu pháp Quán này. Quư vị hăy thí nghiệm
một phen, tối thiểu là giảm bớt nỗi đau
khổ. Đặc biệt là chất xương của tôi
tăng sanh (hyperplasia)[4]; v́ thế, mỗi
ngày mỗi giờ đều bị đày đọa rất
đau đớn. Xương tăng trưởng rất đau.
Rất tự nhiên, có hai loại: Một loại là đau đến
hôn mê luôn. Đă hôn mê th́ sẽ chẳng biết, đương
nhiên cũng chẳng cảm thấy đau khổ. Khi quư vị
cảm thấy rất đau đớn, chịu đựng,
chẳng phải là chúng ta thường nói “tinh thần
chiến thắng vật chất” hay sao? Thân thể là một
loại vật chất, quư vị dùng tinh thần chiến
thắng nó. Có hai loại: Một loại là kẻ đó phiền
năo đặc biệt nặng nề, tâm sân hận hết
sức to lớn, bị người khác đánh đập
liền hận: “Ta nhất định phải trả thù”. Hỏi kẻ
đó: “Đau hay không?” Không đau! Đấy là phiền năo,
chẳng phải là tự tại. Kẻ đó thật sự
đau đớn, bị đánh nặng đến mức
hôn mê luôn. Tôi vừa mới nói người tu đạo chẳng
hôn mê, dẫu đau đớn cách mấy chẳng hôn mê. Dẫu
nhục thể bị tiêu diệt, vẫn chẳng hôn mê. V́
sao người niệm Phật sanh về thế giới Cực
Lạc, hoặc người tu đạo đến lúc mạng
chung có thể tự tại? Đó là do công phu thường
nhật.
Cho đến khi đó, đến lúc đó
mới [tập luyện công phu ấy] sẽ không được!
V́ trong hết thảy các tâm, đă có tâm phân biệt. Nếu
quư vị chẳng có tâm phân biệt, sẽ là “tinh thần
chiến thắng vật chất” như
đă nói. Thân thể của quư vị là vật chất, nó chẳng
thuộc về tinh thần. Nói là “đă già rồi”, tâm
quư vị rất mạnh mẽ, trong tâm trước nay chưa
hề có chữ Già, hăy khắc phục nó. Nếu quư vị
chẳng thể khắc phục, nói “tôi đă già rồi”,
chân cũng chẳng cứng cáp, đầu óc cũng tŕ độn,
tay cũng chẳng nâng nổi. Có thể khắc phục
hay không? Tôi cảm thấy có thể khắc phục, v́ bản
thân tôi đă khắc phục như thế. V́ sao tôi lại
rời Ngũ Đài Sơn? Đó chính là nguyên nhân khắc
phục của tôi! Năm ngoái, trong đêm tối, khoảng
một hai giờ thức dậy muốn đi tiểu, dậy
không nổi! Chẳng thể nhúc nhích cánh tay được!
Tôi nói phen này không xong rồi! Chẳng nâng cánh tay này lên được,
năo chỉ huy không nổi! Năo mất tác dụng chỉ huy,
tinh thần vẫn có thể chỉ huy, muốn nâng cánh tay
lên nhưng không được, ngó sững nó không động
đậy! Tôi nói “cái thứ quỷ
này giở chứng rồi”, lúc đó chẳng phải
là bán thân bất toại, mà là “toàn thân bất toại”.
Tôi tận lực dùng sức chống chọi. Đại
khái là từ một giờ cho đến hơn ba giờ,
dần dần cánh tay có thể hoạt động. Tôi dùng
cánh tay ấy để lay lắc cánh tay kia, dần dần
chúng hoạt động. Đă hoạt động được
rồi, tôi chẳng dám nằm xuống nữa, cũng chẳng
dám ngủ, cứ một mực đi lại. Đại
khái là qua chừng bốn năm tiếng đồng hồ,
mệt quá, đi không nổi nữa, ngồi xuống. Do hoạt
động như vậy bèn linh hoạt, chẳng c̣n bị
lần thứ hai. Giả sử lúc đó, nằm bất động,
chẳng phải là bán thân bất toại, th́ cũng là toàn
thân bất toại, không thể động đậy
được. Quư vị đột phá, cho nên tâm có thể
chuyển biến vật chất. Mọi người hăy tin
tưởng đạo lư này: “Tâm có thể chuyển biến
vật chất”. Tôi lên lớp ở Ngũ Đài Sơn,
nói không ra lời, chẳng dạy được. Giảng
kinh Lăng Nghiêm, giảng đến phen thứ ba trong phần
“thập phiên hiển kiến” (十番顯見, mười
phen chỉ rơ cái Thấy) bèn thấy không xong, đành ngưng
giảng. Tới nay cũng chẳng giảng lại ở
Ngũ Đài Sơn. Tôi nói như vậy là không được,
sống mà chẳng thể dạy th́ c̣n sống
để làm ǵ chớ? Vẫn phải
giảng! Có phải là do tại Ngũ Đài Sơn, ở
trên núi quá lạnh đó chăng? Tôi liền xuống Thái
Nguyên[5]. Tới Thái Nguyên, lại
dấy vọng tưởng, tính qua Đài Loan một phen. Tôi
liền liên lạc với các đạo hữu ở Đài
Loan, cho nên mới đến đây. Đă đến đây,
hiện thời cũng giảng, cũng tốt đẹp!
Xă hội thường nói “tinh thần chiến
thắng vật chất”, c̣n Phật giáo chúng ta nói: “Tâm
sanh, các pháp sanh. Tâm diệt, các pháp diệt”. Chúng
ta có thể chiến thắng thân thể của chính ḿnh. Dùng
ǵ để chiến thắng? Dùng phương pháp do đức
Phật đă dạy “buông xuống,
thấy thấu suốt”, sẽ
tự tại. Nếu quư vị có bệnh th́ ba phần bệnh,
lại thêm bảy phần lo ngại, xong luôn! Quư vị chẳng
thể ḅ dậy nổi! C̣n nói đến chuyện ung thư,
tôi bị ung thư trực tràng[6], chắc là mọi người
biết tôi đă tám mươi tuổi, mổ bỏ khối
u trực tràng. Bác sĩ bảo tôi: “Sư phụ! Thầy b́nh
phục rồi cũng chẳng sống quá năm năm”. V́
tám mươi tuổi mà mổ xẻ, người bị ung
thư trực tràng sống tối đa là năm năm. Nhưng
nay tôi đă sống thêm cả mười lăm năm rồi,
đă vượt mức rồi! Hết thảy mọi sự
đều lấy cái tâm làm chủ đạo, tùy thuộc quư
vị sử dụng cái tâm như thế nào. Tôi nói điều
này với ư nghĩa là hết thảy những ǵ có tâm dấy lên phân biệt,
tức là tâm quư vị dấy lên phân biệt, hăy coi hết
thảy sự vật là huyễn hóa, sanh ḷng hoan hỷ nhiều
hơn, đừng sanh phiền năo. Mỗi ngày quư vị cười
thêm vài lần, bất cứ chuyện phiền năo ǵ xảy
đến với quư vị sẽ đều hóa thành hư
huyễn. Quư vị đừng để sự việc
xoay chuyển, phải xoay chuyển sự vật. Bất
luận chuyện ǵ hiện tiền, quư vị đều xoay
chuyển nó. Dẫu sao thế giới này vô thường,
khổ, không, hư giả, suốt ngày quư vị hăy nghĩ
như thế. Khi quư vị thật sự gặp phiền
năo dấy lên, quư vị hăy nói nó là giả. Tôi nhớ lăo pháp sư
Đế Nhàn có nói một câu như thế. Khi Ngài bị bệnh,
đệ tử của Ngài hỏi: “Thưa lăo pháp sư! Ngài
chẳng tu Quán sao?” Sư đáp: “Quán là giả, đau vẫn
là thật”. Nhưng nhất định phải là “tinh
thần chuyển hóa vật chất”. Vạn pháp từ tâm sanh,
vạn pháp do tâm diệt. Do đó, phàm phu nếu muốn thành
Phật, quư vị phải chuyển hóa hiện thực. Nay
chúng ta đang ở trong phiền năo, toàn thể cuộc sống
đều ở trong phiền năo, tham, sân, si, mạn, nghi,
Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Cấm Kiến, Tà Kiến,
quư vị đă thoát khỏi thứ nào? Phải chuyển hóa
chúng! Quá khứ đừng nghĩ tới, quá khứ đă
đều chẳng c̣n, nghĩ tới nó làm chi? Đấy
là căn bệnh lớn nhất của chúng ta, vẫn cứ
muốn lôi quá khứ tới hiện tại. Suốt ngày chẳng
thể thôi nghĩ tới quá khứ! Quá khứ đă qua đi,
há c̣n có nữa ư? Chẳng thể lôi lại được!
Lại c̣n có kế hoạch cho tương lai cả vạn
vạn năm. Quư vị đặt kế hoạch chi nữa,
thọ mạng được mấy chục năm! “Nhân
vô bách nhật hảo, thường hoài thiên nhật ưu”
(người chẳng có được một trăm ngày
tốt đẹp, cứ thường lo rầu cả ngàn
ngày). Vị lai c̣n chưa tới, đừng bận ḷng! Tới rồi hăy nói.
Quá khứ đă qua đi, quư vị đừng nghĩ tới
nó. Vị lai c̣n chưa xảy đến, cũng chẳng
quan tâm! Hiện tại th́ sao? Hiện tại chẳng ngừng.
Ngày hôm qua chẳng phải là ngày hôm nay. Ngày hôm nay lập tức
giảng xong th́ đợi tới ngày mai lại nói; chẳng
bàn đến chuyện ngày mai nữa! Ngày mai là ngày mai, hiện
tại chẳng trụ! Giả sử quư vị có thể chẳng
nghĩ tới chuyện hôm qua, chuyện hôm nay chẳng trụ,
chuyện ngày mai chưa tới, mặc kệ nó! Quư vị
có thể đạt tới mức độ ấy, tôi nói:
Dẫu quư vị chưa thành đạo, tối thiểu là
chẳng có phiền năo!
Phiền năo của con người sanh khởi
như thế nào? Quư vị tự ḿnh t́m kiếm, suy nghĩ!
Trong quá khứ, vào đời Đường, có một viên
Tể Tướng là Ngư Triều Ân. Hoàng đế thỉnh
quốc sư[7] tới,
đương nhiên là Tể Tướng phải hầu vua.
Ông ta hỏi quốc sư: “Thưa quốc sư! Tôi muốn
hỏi Ngài, phiền năo từ đâu mà dấy lên? Phiền
năo là ǵ?” Quốc sư trợn mắt, nói: “Nô tài nhà ngươi
mà cũng hỏi Phật pháp”. Ông ta nổi cáu liền, đáp:
“Tuy ta là nô tài, nhưng ta là nô tài của hoàng thượng. Ta
là Tể Tướng, ở
trên vạn vạn người. Sao ngươi khinh miệt
ta như vậy?” Nổi trận lôi đ́nh rồi! Quốc
sư nói: “Ông đừng tức giận, phiền năo sanh từ
đó. Đó chính là phiền năo. Đó là vô minh, vô minh dấy
lên từ đó”. Ngay lập tức, Ngư Triều Ân khai
ngộ, dập đầu đảnh lễ, bái tạ quốc
sư. Đó là ứng cơ thuyết pháp. Mọi người
hăy nghĩ xem: Chúng ta cũng có thể khai ngộ như thế
hay chăng? Thường là do một câu nói chạm tới
linh cảm của quư vị, sẽ ngay lập tức khai
ngộ.
Khai ngộ là tích lũy, mọi người
có tin hay chăng? Tôi có thể làm chứng cho quư vị! Tôi
chưa học hết Tiểu Học, không có tŕnh độ
văn hóa, tới Cổ Sơn Phật Học Viện, căn
bản là người ta không nhận tôi. Những người
theo học kinh Hoa Nghiêm đều là sinh viên đại học,
đại học Hoa Nghiêm mà! Nhưng sau hai ba năm v́ sao tôi
có thể vào học? Sau đó, tôi đến Thanh Đảo,
học pháp thế gian, Tứ Thư, Ngũ Kinh ǵ đi nữa,
tôi đều học. Tôi hơn người
khác ở chỗ đầu
óc đặc biệt lanh lẹ, đă học rồi chẳng
quên. Hiện thời, tôi thưa với mọi người,
cho đến xem tiểu thuyết chi nữa, tôi đều
dung hội được. Có lúc tôi kể các câu chuyện xưa,
đặc biệt là nói tới vấn đề nhân quả,
tôi kể cho mọi người nghe truyện Tế Công. Giảng
tại làng quê, rất nhiều đạo hữu đâu có tŕnh
độ văn hóa ǵ! Quư vị phải kể những mẩu
chuyện, họ nghe rất hứng thú, sẽ có thể tiến nhập
trọn vẹn. Nhân quả báo ứng là như thế, họ
sẽ tin tưởng. “Phật pháp tại thế gian, bất
ly thế gian giác” (Phật pháp ở trong thế gian, chẳng
ĺa thế gian để giác ngộ). Chỉ cần quư vị
hiểu rơ pháp thế gian là Phật pháp, tách ĺa cuộc sống
th́ c̣n t́m Phật pháp ở đâu? Tin được không? Trong
cuộc sống hằng ngày, quư vị hăy tùy thời buông xuống
cái tâm phân biệt, quán tưởng các sự vật hiện
tiền, khiến cho chính ḿnh chẳng dấy lên ư niệm phân
biệt. Gặp phiền năo, quư vị buông xuống, chẳng
phiền năo, biết đó là giả. Khi vui thích nhất, quư vị cũng
biết đấy là giả, đừng coi đó thành thật!
Chẳng có ǵ tuyệt diệu hết, hết thảy đều
qua đi. Đặc biệt là quư vị ở trong khổ
nạn, hăy nên thấy hết thảy các pháp như huyễn.
Tôi có thể làm chứng cho mọi người. Tôi ở
trong tù khá lâu, ba mươi ba năm. Rất nhiều người
trẻ tuổi c̣n chưa ở tù lâu bằng tôi, từ năm
1950 tới năm 1982! [Bắt đầu
từ] tháng Giêng năm 1950 [tôi bị
tù], rất đơn giản, quư vị hỏi: “Lăo ḥa
thượng! V́ sao thầy phạm tội?” Tôi đáp: “Tôi
chẳng phạm tội!’ “Chẳng phạm tội, sao lại
ở tù lâu như thế?” “Người ta bắt tôi phải
tin theo đảng Cộng Sản Trung Quốc, tôi không tin.
Vậy là cứ ở tù đi!” Càng ở tù, càng lâu! Cho đến
hiện thời, tôi vẫn là như thế. Ở trong nước
là như thế! Các ngươi nhốt th́ nhốt, giết
th́ giết, chẳng sao cả! Tín ngưỡng của tôi
chẳng thay đổi! Chắc là mọi người
đều biết: Tánh tôi là như vậy đó! Tôi ở Đại
Lục cũng là như thế, hiện thời cũng là
như thế. Trong tương lai, vĩnh viễn là như
thế!
Tin tưởng các pháp do nhân duyên sanh, nhưng
các pháp đă do nhân duyên sanh, nhân duyên cũng có thể diệt
các pháp, các pháp cũng do nhân duyên mà diệt. Hết thảy những
ai có tâm dấy lên phân biệt, huyễn hóa, chẳng thật,
chẳng có thứ ǵ là chân thật, cớ
sao vẫn chẳng nghĩ thông suốt? Hiện thời, có các đạo
hữu ở đây gởi thư cho tôi, [than thở] trong công
việc, trong cuộc sống, trong nỗi hy vọng, có rất
nhiều chuyện chẳng như ư. Mọi chuyện làm sao
có thể đều như ư cho được? Quư vị sanh
vào thế giới Sa Bà, sanh trong [hoàn cảnh] phiền năo này,
trừ phi quư vị học Phật, buông xuống, thấy
thấu suốt, chẳng phiền năo, th́ sẽ được
như ư. Khiến cho kẻ khác vừa ư quư vị ư? Trên
thế giới này, từ kẻ làm Tổng Thống cho đến
một kẻ ăn mày, quư vị hỏi họ, [sẽ thấy]
họ chẳng có lúc nào như ư cả! Trừ phi quư vị
hiểu rơ, đoạn dứt phiền năo, học Phật sâu
xa, lại c̣n có thể thực hành, th́ sẽ được
như ư. Học pháp môn ǵ cũng đều có một tư
tưởng trung tâm. Bất luận bộ kinh nào, cũng đều
có một tư tưởng trung tâm. Tư tưởng trung
tâm là một, chẳng phải là bộ kinh này hay bộ kinh
kia [mỗi kinh có tư tưởng riêng biệt], kinh nào cũng
đều là “vô thường, khổ, không, vô ngă”, nhưng
lại tách ra thành Tiểu Thừa và Đại Thừa. Quư
vị phải hiểu đạo lư này, vận dụng hết
thảy Phật pháp đă học vào trong hành vi, đặc
biệt là vận dụng nơi tư tưởng, th́ sẽ
thành công, tối thiểu là có thể đoạn phiền
năo. Đặc biệt là đối với chuyện chẳng
vừa ḷng, nếu quư vị biết suy tưởng th́ phải
nên tưởng như thế này: “Đời người là
như thế đó, tai nạn là như thế đó”. Có rất
nhiều người hỏi tôi: “Thầy sống sót ba mươi
ba năm trong nhà tù bằng cách nào?” Tôi nói: “Quư vị thấy
hiện thời tôi sống rất tốt. Không chỉ sống
sót, mà c̣n sống thọ nữa”.
Phật pháp nói “vạn pháp duy tâm”, nay chúng
ta đang nói về “vạn
pháp duy tâm”. Tâm này trọn đủ mười pháp giới. Tứ
giáo nói “tam thiên tánh tướng” chính là một niệm
hiện tiền của quư vị, có thể lư giải hay không?
Kinh dạy: Quư vị ắt cần phải dùng đầu óc
suy nghĩ, đấu tranh tư tưởng khá nhiều. Nếu
không, quư vị tiến nhập bằng cách nào? Quư vị đừng
xem [Phật pháp] thành văn
tự, học kinh Phật chẳng phải là học văn
tự, mà phải dốc sức nơi hành động. Tức
là kinh dạy quư vị làm như thế nào, hăy làm như thế
đó! Quư vị thực hiện, hăy thử xem, liễu sanh
tử như thế nào? Bộ kinh nào cũng đều dạy
phải liễu sanh tử, dạy buông xuống, buông xuống
bèn tự tại. Kẻ nào không buông xuống được,
bèn phiền năo. Rất nhiều đạo hữu viết
thư cho tôi, [than thở họ đầy dẫy] phiền năo.
Tôi cũng chẳng thể trực tiếp nói với họ:
“Phiền năo ở chỗ nào? Quư vị lấy ra cho người
khác xem thử!” Quư vị chẳng
lấy ra được! Phiền năo là vô h́nh, vô tướng.
Mọi người rất hiểu Phiền (煩) là rất
không an định, một chốc như thế này, chốc
nọ như thế kia. Thân thể này quư vị [khống
chế] rất dễ dàng, chứ tâm lư chẳng thể khống
chế được! Một chốc chạy đến
chỗ này, thoáng sau tót qua chỗ kia! Nay đang ngồi nghe
giảng ở đây, người đó nghĩ tới xe hơi,
nghĩ tới gia đ́nh ở bên ngoài, đầu óc suy nghĩ
rất nhiều, chẳng thể chuyên tâm nhất ư được,
có thể chẳng khởi phân biệt ư? Phàm là hết
thảy những ǵ có phân biệt, đều là huyễn hóa,
chẳng chân thật! Quư vị hăy quán như thế.
Cái gọi là Thức, Thọ, Tưởng,
Hành, sẽ bao gồm tư tưởng nghĩ nhớ quá
khứ. Quá khứ cũng tạo thành chủ ư trong tư tưởng:
“Ta đă làm sai
chuyện này, ta phải nên sửa chữa như thế nào?” Chuyện đă
qua rồi, quư vị có sửa th́ cũng đă muộn màng!
Đừng nên nghĩ tới nó, hăy buông xuống. Mọi người
rèn luyện, chuyện ngày hôm qua đừng lôi kéo sang hôm nay,
hăy để nó qua đi. Quư vị có thể buông xuống như
thế, tự nhiên sẽ tự tại, sẽ chẳng phân
biệt, v́ toàn là giả! Đạo lư này rành rành ai nấy đều
biết, nhưng chẳng làm được! Đứa trẻ
nào được mẹ sanh ra mà mang theo chút ǵ, nó mang ǵ đến
vậy? Mọi người ngẫm xem, kể cả bản
thân chúng ta, quư vị sanh ra đă mang theo ǵ đến đây?
Thứ ǵ cũng chẳng có! Khi quư vị rời đi, có
thể mang theo thứ ǵ ra đi? Đạo lư rất đơn
giản, ai nấy đều hiểu rơ, nhưng chẳng
buông ḷng tham xuống nổi. Chưa chết th́ c̣n chưa hết
tham. Quư vị tham lam bao nhiêu đi nữa, khi mất cũng
chẳng mang theo được vật ǵ, kể cả thân
thể của chính ḿnh. Quư vị chết rồi, hỏa táng,
biến thành tro bụi. Dẫu xây phần mộ đẹp
đẽ cách mấy, vẫn vô dụng! Hiện thời, tại
Đại Lục có rất nhiều cuộc đất là
chỗ mộ cổ, là các ngôi mộ từ thời Hán đều
bị đào lên hết! Các ngôi mộ gần hai ngàn năm đều
bị đào bới. Hai ngàn năm vẫn là rất ngắn,
quư vị có thể c̣n lại ǵ? Chẳng có! Bất cứ
thứ ǵ cũng chẳng có! Hết thảy các pháp vốn đều
là không, chúng sanh chẳng buông xuống được! Quư vị
chẳng buông xuống được, [vậy th́] có thể
giữ lại ǵ? Chính mắt chúng ta trông thấy, chuyện
trăm năm trước c̣n có thể tồn tại hay không?
Các đạo hữu từ Bắc Kinh tới núi [Ngũ Đài]
thăm tôi, tôi thường bảo họ: Khi tôi tới Bắc
Kinh, Bắc Kinh mới có hai mươi sáu vạn cư dân.
Hiện thời đă hơn một ngàn vạn. Người
thuở ấy đă sớm qua đời hết rồi; họ
làm sao biết tám cửa thành, tám cửa ải của Bắc
Kinh sẽ bị hủy toàn bộ, c̣n ǵ nữa chăng? Mỗi
hiện tượng trong hết thảy các pháp thế gian
và xă hội hằng ngày nhắc nhở chúng ta “như huyễn, như hóa”. Chúng ta
là huyễn hóa khôn cùng, chẳng chân thật.
Cái gọi là Thức, Thọ, Tưởng,
Hành, nghĩ nhớ, duyên lự, hay biết, hết thảy
các pháp, các thứ tâm số, các thứ suy nghĩ nẩy
sanh trong tâm, quư vị nói xem, là xanh, là vàng, là đỏ, hay là
trắng? Chẳng có màu sắc. Màu sắc ǵ cũng đều
chẳng có, tâm chẳng phải là các thứ sắc. Lại
c̣n có dài, ngắn, vuông, tṛn, lớn, nhỏ th́ sao? Vọng tưởng
chấp trước! V́ thế, nói tới hết thảy các
thế giới tận mười phương hư không, quư
vị muốn t́m h́nh dạng của cái tâm, có thể t́m được
hay không? Chẳng có! Hơn nữa, vuông có thể biến thành
tṛn, tṛn lại có thể biến thành vuông, hiện tượng
biến hóa vô cùng. Thế giới đă chẳng phải luôn
[cố định] như vậy, v́ sao phải chấp
trước? V́ vô minh thâm căn cố đế từ quá
khứ. Nói đơn giản, vô minh là về
căn bản, điều ǵ cũng đều chẳng hiểu rơ. Vô minh là không
hiểu rơ. Không hiểu rơ điều ǵ? Không hiểu rơ sanh
tử do đâu mà có, không hiểu rơ khổ là ǵ, lạc là ǵ?
Có tiêu chuẩn hay không? Khổ và lạc vốn chẳng có tiêu
chuẩn, đều là cảnh giới hư vọng. V́ sao
coi cảnh giới hư vọng thành chân thật? Do điên
đảo. V́ thế, gọi là mê; đó là mê; nhưng cái tâm
của chúng ta chẳng biết, chính ḿnh không biết. Ai có
thể biết chính ḿnh? Chẳng hạn như ngày mai sẽ
chết, chẳng có ai biết, luôn nghĩ ngày mai tuyệt đối
chẳng chết. Ngày mai lại c̣n có ngày mai nữa, tuyệt
đối chẳng chết; toàn là nghĩ kiểu đó! Có
biết chuyện đột nhiên nẩy sanh ngoài dự liệu
hay chăng? Thấy hết thảy các pháp hữu vi là hư vọng,
mỗi lúc đều có thể biến diệt. Sở dĩ
quư vị dấy lên cách nghĩ nhận biết rồi so đo
“cái nào
là ta, cái nào là của ta”, xác thực là
cái hay biết ấy chẳng có tướng chân thật, chỉ là vọng
tưởng so đo. Do những ǵ được suy nghĩ
bởi cái tâm vọng tưởng ấy đều chẳng
có thứ ǵ là có thật thể, chẳng thể thấy, đều
có tánh chất “có thể bị hư hoại”. Ai có thể
t́m một thứ bất hoại trong thế giới này, có
hay không? Ai có thể t́m được một thứ bất
hoại? Trong thế giới này chẳng có! Tất cả hết
thảy ngôn thuyết, lấy ngôn ngữ làm tiêu chuẩn. Viết
sách, lập thuyết có thể coi là tiêu chuẩn hay không? Tiền
nhân thực hiện [chuyện viết sách, lập ngôn], hậu
nhân phủ định các thuyết ấy!
Thật sự là chẳng có, do nghiệp chướng
của quư vị từ vô thỉ kiếp đến nay huân
tập mà thành. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận,
nhân duyên huân tập [giống như] quư vị vào trong chỗ
làm nhang, cho nên trên thân quư vị tự nhiên có mùi thơm. Nếu có một ngày,
chẳng hạn như người làm nghề dọn phân tại
Sở Vệ Sinh Bắc Kinh, người ấy suốt ngày
phải đụng chạm với phân người, dẫu
một ngày tắm mấy lượt, vẫn không được!
Người khác vẫn né xa kẻ đó, trên thân kẻ đó
có mùi hôi thối! Tùy thuộc quư vị làm nghề nghiệp
ǵ! Quư vị có thể tự ḿnh chọn lựa nghiệp,
v́ sao chẳng chọn thiện nghiệp, toàn là chọn lấy
ác nghiệp vậy? Chúng ta thường nói đến nghiệp
chướng; đấy là một loại. Một loại
khác là nhân duyên huân tập từ vô thỉ kiếp đến
nay, đă coi hết thảy các thứ hư vọng chẳng
thật là thật sự có. Chẳng hạn như nhục
thể của chúng ta vốn phải hư hoại, nhưng
v́ bảo vệ tấm thân này, chẳng biết đă phải
tốn bao nhiêu trí óc? Bất luận quư vị dùng phương
pháp ǵ đi nữa, đều chẳng thể ǵn giữ,
che chở cảnh giới hư vọng được! Quư
vị phải thấy thấu suốt. Hễ c̣n muốn sống
thêm mấy năm, càng chấp trước, càng sợ,
càng có quỷ! Người ta có câu nói: “Càng sợ, càng có
quỷ!” Càng mong sống thêm mấy năm, thọ mạng
càng ngắn. Càng nói tới các phương
pháp bảo vệ tánh mạng, lại càng chẳng thể duy tŕ được.
Hiện thời, đối với các thứ
bệnh ung thư, vô duyên vô cớ bị bệnh ung thư.
Hễ bị ung thư, sẽ chẳng có cách chi hết, rất
nhiều [trường hợp phải bó tay như vậy].
Có thể do ư chí của quư vị mà chọn lựa hay không?
Thông thường, nếu muốn trường thọ, mà mặt
khác, chuyện xấu ǵ cũng đều làm, khiến cho
nhục thể tiêu hao, há có thể trường thọ được
ư? Do cái tâm vọng tưởng, do cái tâm sanh khởi các
thứ pháp, các thứ pháp lại ảnh hưởng tới
cái tâm của quư vị, khiến cho quư vị trong mỗi niệm
đều chấp trước, chẳng bỏ được.
Điều ǵ vừa ư th́ mong có được, thứ ǵ
không ưa thích th́ mong vứt bỏ. Do v́ cái tâm cầu được
cầu mất ấy, chẳng biết quư vị đă tốn
bao nhiêu đầu óc, vẫn chẳng có cách nào, có bỏ cũng
bỏ chẳng được! Ĺa cũng chẳng ĺa nổi,
mà mong đạt cũng chẳng đạt được.
Cứ mong cầu đạt được, đạt được
rồi th́ vẫn là hư vọng, do nó chẳng có thật
thể. Chỉ v́ nhục nhăn của quư vị chẳng trông
thấy, cái tâm suy tưởng cũng chẳng thể nghĩ
nổi. V́ trong tâm có nhân duyên huân tập, nghiệp chướng
từ vô thỉ đến nay, đó là huân tập. Huân tập
lại phát khởi hiện hành, hiện hành lại tích lũy,
tích lũy rồi lại biến thành chủng tử. Do vậy,
sanh ra đủ loại sai lầm. Nếu mong gột sạch
các sai lầm ấy, hăy niệm Địa Tạng Bồ
Tát cho nhiều!
Tập 11
(Kinh) Nhược vô giác tri năng phân biệt
giả, tắc vô thập phương tam thế nhất
thiết cảnh giới sai biệt chi tướng.
(經)若無覺知能分別者。則無十方三世一切境界差別之相。
(Kinh: Nếu không có giác tri để
có thể phân biệt, sẽ chẳng có hết thảy các
tướng cảnh giới sai biệt trong mười
phương ba đời).
Lần trước, chúng tôi đă nói tới
cái tâm và cảnh giới bên ngoài, cảnh bên ngoài là hư vọng.
Tâm sanh hết thảy các tướng cảnh giới, cho
nên bèn có [các thứ cảnh giới]. Đó gọi là “tâm
sanh th́ các thứ pháp sanh, tâm diệt th́ các thứ pháp diệt”.
Đấy là hoàn toàn nói về cái tâm
của chúng ta, khiến cho chúng ta liễu tri cái tâm hiện tiền của chính ḿnh. Chúng
ta thường nói tới vọng tưởng, vọng tưởng
chẳng phải là chân thật, nó là sự
tưởng tượng hư vọng. Gốc rễ sanh
khởi của sự tưởng tượng hư vọng
ấy rất sâu, vọng sanh khởi từ
đâu? Nương vào Chân mà khởi. V́ hết
thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay, do vô minh si ám
huân tập mà hiện thành tướng cảnh giới. Cái
niệm ấy chính là cái niệm do sự hay biết, là cái
niệm do tư niệm (nghĩ nhớ) của quư vị, tự
nó chẳng biết chính ḿnh. Mỗi vị đều là như
thế, tâm chẳng thể tự biết tâm, hư vọng
cho là có. Khi đó, do cảm nhận dấy lên sự
hay biết, do sự nhận biết sanh ra cách nghĩ,
từ cách suy nghĩ ấy mà chia ra thứ ǵ là ta, thứ ǵ
là của ta. Nói chân thật, các thứ ấy chẳng có tướng
giác ngộ, nhận biết, chẳng hề có tướng.
Do cái tâm hư vọng của chúng ta chẳng có thật thể,
nó biến hóa khôn lường. Chúng ta có thể thấy được
cái tâm của chính ḿnh hay không? Chẳng có vị nào có thể
thấy cái tâm. Thấy được cái tâm
th́ quư vị thành đạo rồi! Đều là do tướng
cảnh giới bên ngoài huân tập mà hiện ra; chúng ta gọi hết thảy các tướng biến
hiện mà quư vị có thể thấy được là “tướng
cảnh giới hư vọng”. Tướng sanh từ tâm.
Trong kinh, đức Phật đă dạy chúng ta, tâm quư vị
sanh th́ các loại pháp mới sanh, tâm diệt th́ các loại pháp
diệt. Các loại pháp đều là nhất tâm. Tướng
cảnh giới bên ngoài rành rành có thể trông thấy; tuy có
thể thấy tướng, trọn chẳng thể đạt
được!
Nhưng những điều được
giảng trong kinh Phật th́ có lúc chuyên bàn về tâm pháp, đoạt hết
thảy các tướng cảnh giới, hết thảy các
tướng cảnh giới là hư vọng. Nếu chúng ta
chỉ bàn về Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỵ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ư Thức, thức
thứ bảy Mạt Na, thức thứ tám
A Lại Da, đó gọi là “tám cái tâm” hay “tám
thức tâm”. Khi cái tâm của quư vị quán hết thảy
các pháp, khi tâm đối trước hết thảy các pháp
thuộc tướng cảnh giới bên ngoài, khi thức tâm
phân biệt hết thảy các pháp, đó gọi là “duyên lự
giác tri”, đều là duyên theo ư niệm
mà sanh khởi. Do vậy, chúng ta thấy hết thảy sự
vật, dài, ngắn, lớn, nhỏ, vuông, tṛn, tất cả
hết thảy các sự
vật, tất cả hết thảy các h́nh tướng,
nói chung đều là sự phân biệt hư vọng của
quư vị, khiến cho chúng ta nhận biết hết thảy
các pháp. Tất cả hết thảy tướng bên ngoài đều
gọi là cảnh giới,
nhưng tướng cảnh giới là phân biệt. Chúng ta khởi
tâm động niệm, sẽ dấy khởi chấp trước.
Chấp trước là đối với cái ǵ tốt th́ chúng
ta mong có được, sẽ chiếm làm của ḿnh; đối
với cái chẳng vừa ư, bèn mong vứt bỏ. Từ trong
ấy mà sanh ra phiền năo, mong đạt được mà
chẳng đạt được, [cái mong vứt] bỏ
mà lại chẳng bỏ được. V́ mong được
mà chẳng được, muốn bỏ mà bỏ chẳng
được; cho nên điều
ấy được gọi là “nghiệp”. “Nghiệp”
có nghĩa là “tạo tác”, do chính ḿnh tạo ra. Vốn
hết thảy đều là tướng hư vọng, chẳng
có; nhưng chúng ta mắc
lừa, ngỡ vọng tâm là chân thật. Đó là cảm
giác và sự phân biệt của quư vị. Tất cả phân
biệt hoàn toàn là giả!
Do vậy, trong kinh văn nói quư vị có thể
hay biết, phân biệt, tức là phân biệt quá khứ, hiện
tại, vị lai trong mười phương. Mười
phương là nơi chốn, “quá khứ, hiện tại,
vị lai” là thời gian. Bất luận nói theo không gian, hay nói theo thời gian, tướng
cảnh giới khác biệt hoàn toàn do tâm khởi. Kinh dạy:
“Tâm sanh th́ các pháp sanh. Tâm diệt, các pháp diệt”. Do chúng
ta có “thấy, nghe, hay, biết”, bèn từ thấy, nghe,
hay, biết mà khởi lên phân biệt: Đối với cái
chính ḿnh ưa thích, bèn mong
đạt được, mong giữ vững, mong nó chẳng
thay đổi, chẳng thể được! Cái quư vị
mong đạt được lại chẳng đạt được.
Cái chẳng mong đạt được là những thứ
khiến cho quư vị không ưa thích, muốn
ĺa bỏ chúng, mà quư
vị lại chẳng tách ĺa chúng được. Khi quư
vị mong đạt được mà chẳng có được,
mong ĺa bỏ mà chẳng tách ĺa được, trong lúc ấy,
sẽ nẩy sanh rất nhiều phiền năo. Mỗi người
hăy nhớ lại đôi chút, những chuyện quư vị
đă từng trải có phải đều là như thế
hay không? Vốn chẳng có, mà do hư vọng, bèn dấy lên
chấp trước, hết thảy các sự vật đều
là giả. Chẳng hạn như chúng ta “làm mậu dịch”,
nói thông thường là “buôn bán”, quư vị buôn bán lỗ
lă, phát tài hay cụt vốn đều do cái tâm quư vị sanh ra. V́ sao lỗ lă, chẳng kiếm
tiền được? Phương pháp chẳng đúng! V́
sao phương pháp không đúng? Quư vị chẳng có trí huệ,
chẳng thấy được! Không chỉ buôn bán, ngay trong
cuộc sống, quư vị làm hết thảy các sự nghiệp đều
là như thế. Chuyện ấy cho thấy [những thứ ấy]
đều là ǵ? Toàn là vọng tưởng, chẳng
có thứ ǵ chân thật. Xét theo quan niệm về kiếp người, quư vị
sanh ra, mang theo thứ ǵ tới đây? Mang theo phiền năo tham,
sân, si tới đây, những thứ khác đều chẳng
có! Có đứa trẻ nào sanh ra chẳng phải là không có chi
hết? Nhưng quư vị chết rồi, khi thọ mạng
này đă hết, bèn mang theo nghiệp chướng đă tạo
trong đời này, chẳng bỏ được. Ngoại
trừ nghiệp chướng, quư vị c̣n có thể đạt
được ǵ? Hỏa thiêu cái thân người ấy là đốt
cháy nhục thể, có thể thiêu nghiệp chướng hay
không? Chẳng thiêu được! Vẫn tiếp tục c̣n
đó!
(Kinh) Dĩ nhất thiết pháp giai bất
năng tự hữu, đản y vọng tâm phân biệt cố
hữu. Sở vị nhất thiết cảnh giới các các
bất tự niệm vi hữu, tri thử vi tự, tri bỉ
vi tha. Thị cố nhất thiết pháp bất năng tự
hữu, tắc vô biệt dị, duy y vọng tâm, bất
tri bất liễu nội tự vô cố. Vị hữu tiền
ngoại sở tri cảnh giới, vọng sanh chủng chủng
pháp tưởng, vị hữu, vị vô, vị bỉ, vị
thử, vị thị, vị phi, vị hảo, vị ác, năi
chí vọng sanh vô lượng vô biên pháp tưởng. Đương
như thị tri, nhất thiết chư pháp giai tùng
vọng tưởng sanh, y vọng tâm vi bổn.
(經)以一切法皆不能自有。但依妄心分別故有。所謂一切境界各各不自念爲有。知此爲自。知彼爲他。是故一切法不能自有。則無別異。唯依妄心。不知不了內自無故。謂有前外所知境界。妄生種種法想。謂有謂無。謂彼謂此。謂是謂非。謂好謂惡。乃至妄生無量無邊法想。當如是知。一切諸法皆從妄想生。依妄心爲本。
(Kinh: Do hết thảy các pháp đều
chẳng thể tự có, chỉ nương vào vọng tâm
phân biệt mà có. Đó gọi là hết thảy cảnh giới,
mỗi mỗi đều chẳng tự nghĩ là có. Biết
cái này là tự, biết cái kia là tha. Do vậy, hết thảy
các pháp đều chẳng thể tự có, cho nên chẳng có
khác biệt. Chỉ nương vào vọng tâm, chẳng biết,
chẳng rơ bên trong chính nó (vọng tâm) chẳng có [hết thảy
các pháp], cho rằng có cảnh giới để biết ở
bên ngoài, lầm lạc sanh ra đủ thứ pháp tưởng,
cho rằng có, cho rằng không, cho rằng đây, cho rằng
kia, cho rằng đúng, cho rằng sai, cho rằng tốt, cho
rằng xấu, cho tới lầm lạc sanh ra vô lượng
vô biên pháp tưởng. Hăy nên biết như thế này: Hết
thảy các pháp đều sanh từ vọng tưởng, nương
vào vọng tâm làm gốc).
V́ thế, trong đoạn kinh văn này, [Địa
Tạng Bồ Tát dạy rơ]: Bản thân của hết thảy
các pháp vốn chẳng phải là Có, mà cũng chẳng phải
là Không Có. Chúng được thành lập do vọng tưởng
phân biệt của chúng sanh. Nương theo cái tâm phân biệt
của chúng sanh mà kiến lập hết thảy các pháp. Tất
cả hết thảy các tướng cảnh giới bên
ngoài toàn là do tâm khởi, hết thảy các pháp đều do
cái tâm của chúng sanh mà khởi. Hết thảy các pháp cũng
do cái tâm của chúng sanh mà diệt. Bản thân của pháp có
cho rằng nó là hữu vi hoặc vô vi
hay không? Nó có biết đây chính là Ngă,
những cái khác chẳng phải là Ngă hay chăng? Chẳng
có sự phân biệt ấy. Bản thân của pháp chẳng
có phân biệt. Quư vị tùy tiện lấy một pháp nào, hết
thảy các pháp đều chẳng thể tự có, mà cũng
chẳng có sai biệt, đều là nương theo vọng
tâm mà định. Do v́ duyên cớ ấy, chẳng biết,
chẳng rơ. Chẳng biết, chẳng rơ điều ǵ? Bên
trong đă tự chẳng có, vốn chẳng có, đều
là hư vọng. V́ sao có khi chúng ta sanh rất nhiều tâm? Mỗi
đạo hữu đều là như vậy, v́ tướng
cảnh giới đối trước các căn được
nhận biết trong hiện tiền, kể cả thân thể
của chúng ta, thân thể
của chúng ta là tướng cảnh giới của cái tâm,
mọi người phải nên quán như vậy, nhận
biết như vậy, đều là các cách nghĩ sanh khởi
từ hư vọng: “Đây là tốt, đây là chẳng tốt,
đây là thiện, đây là ác!” Vốn chẳng có hết thảy
các pháp, [thế
mà] hư vọng sanh khởi hết thảy
các pháp, niệm nào cũng đều chấp trước, phân
biệt chẳng bỏ! Thứ ǵ quư vị chẳng yêu thích,
muốn bỏ đi, muốn bỏ mà chẳng bỏ được!
Chẳng có trong, ngoài, chẳng có dài, ngắn, chẳng có lớn,
nhỏ, chẳng có vuông, tṛn. V́ sao có các vật này nọ? Do
vọng tâm so đo, đều là do tâm hư vọng mà chấp
trước chẳng xả. Hết thảy chúng sanh đều
là như thế; đó là phiền năo. V́ khi quư vị mong có được,
đối với cái tốt đẹp bèn mong có được,
nhưng chẳng đạt được th́ cũng
nẩy
sanh phiền năo. Đối với
cảnh giới chẳng yêu thích, quư vị chẳng muốn
trông thấy, nhưng lại chẳng bỏ được.
Cái quư vị mong có mà chẳng đạt được, cái
mong vứt bỏ chẳng ĺa bỏ được, chẳng
phải là phiền năo ư? Trong hết thảy các pháp, giả
sử quư vị cho rằng chúng nó chẳng thật sự tồn
tại, là hư vọng, chẳng
chân thật, giả trất, do vọng tưởng sanh khởi; đối với
vọng tưởng, chúng ta chẳng có cách nào hết, quư vị
mong đạt được th́ chẳng có, căn bản
là chẳng có chi hết! Quư vị mong bỏ th́ cũng như
thế.
Do đó, dựa theo những điều kinh
văn đă nói, Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Hết thảy các pháp chẳng thể
tự ḿnh có. Nó hiện hữu bằng cách nào? Do nương theo vọng
tâm phân biệt nên mới có, do hư vọng phân biệt nên
mới sanh ra. Tức là hết thảy chấp trước,
hết thảy các tướng cảnh giới, mỗi thứ
đều chẳng thể tự nghĩ là có. Thứ ǵ là
tự? Thứ ǵ là tha? Biết đấy là chấp trước.
Thân thể này gọi là tự, biết cái kia là thân người
khác. Hết thảy các pháp chẳng phải tự ḿnh ấn
định chính ḿnh là có, cũng chẳng có sai biệt, mà cũng
chẳng có bất đồng, nương vào đâu mà sanh
khởi? Đó là vọng tâm. Chẳng biết, chẳng hiểu
rơ bên trong vốn tự chẳng có. Chúng ta chẳng biết
điều này, chẳng thể liễu đạt, chẳng
thể hiểu rơ. Thân thể của chúng ta là chẳng có. Nó là tướng
cảnh giới; tức là hết thảy các tướng cảnh
giới bên ngoài mà ta trông thấy đều là các pháp thuộc vào vọng
tưởng. Do các thứ pháp tưởng (cách suy nghĩ đối
với pháp) được sanh khởi bởi vọng tưởng
mà nói là có, hoặc không, nói cái kia, nói cái này, nói là đúng, là
sai, nói xấu, nói tốt, cho tới lầm lạc sanh khởi
vô lượng vô biên pháp tưởng do nương theo h́nh
tướng của các pháp. Chỉ nên quán
tưởng hết thảy các pháp đều là hư vọng
sanh khởi, chẳng chân thật. Chân thật là chẳng
thay đổi, chẳng hoại, chẳng khác. Hết
thảy các pháp đều chẳng thật sự tồn tại.
Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Nó lấy hư vọng làm căn
bản. Bản thân vọng tưởng chẳng thể được,
[vậy th́] hết thảy các pháp được sanh bởi
vọng tưởng có thể tồn tại hay không? Chúng do hư vọng
sanh ra, thế mà [chúng sanh] vẫn
chấp trước những cái được sanh bởi
hư vọng. Chúng chẳng có, giả danh là “tướng
cảnh giới” mà thôi! Mọi người đặt
cho nó một cái giả danh, chẳng chân thật. V́ hết thảy
các cảnh bên ngoài đều là giả, cho nên cái tâm vọng
tưởng sanh khởi cũng là giả. Tâm sanh ra vạn
pháp, cái tâm vọng tưởng của quư vị sanh ra vạn
pháp. Vạn pháp duy tâm, vẫn là giả. Cái tâm ấy chẳng
phải là chân tâm, mà là tâm vọng tưởng. Chân tâm chẳng
có ngôn thuyết!
(Kinh) Nhiên thử vọng tâm vô tự tướng
cố, diệc y cảnh giới nhi hữu, sở vị
duyên niệm giác tri tiền cảnh giới cố, thuyết
danh vi tâm.
(經)然此妄心無自相故。亦依境界而有。所謂緣念覺知前境界故。說名爲心。
(Kinh: Nhưng do cái vọng tâm ấy chẳng
có tự tướng, cũng nương theo cảnh giới
mà có, tức là duyên theo sự nghĩ tưởng, hay biết
tiền cảnh giới, cho nên gọi là tâm).
Chúng ta có thể t́m thấy tướng của
cái tâm ấy hay không? Bản thân cái tâm chẳng có tướng.
Cái tâm nơi thân thể của chúng ta là “nhục đoàn
tâm” (肉團心, quả
tim thịt), đó chẳng phải là tâm. Quả tim trong nhục
thể của quư vị chẳng phải là tâm, nó là một
h́nh tướng mà thôi, đều nương theo cảnh
giới bên ngoài mà sanh ra hết thảy duyên niệm. Do duyên
niệm mà chứng thực hết thảy các tướng
cảnh giới bên ngoài, bèn đặt tên cho cái phù hiệu ấy
là Tâm. Chẳng hạn như tim, lá lách, phổi,
gan đều là giả danh. Tâm sanh khởi như thế
nào? Do tướng cảnh giới bên ngoài mà có. Do có tướng
cảnh giới, nên mới có tâm. Tâm do cảnh mà sanh. Tâm vốn
là vô sanh, do cảnh mà
có. Do tướng cảnh giới bên ngoài mà sanh ra tâm, có thể
t́m được cái tâm hay không? Cho đến khi quư vị
đă nhận biết cái tâm ấy, đó gọi là “minh tâm
kiến tánh”, cái tâm ấy mới là thật, chẳng thể
diễn tả được, chẳng thể nói ra được.
Cái tâm ấy có h́nh dạng như thế nào? Cái tâm ấy do
chúng ta thành tựu. Nếu quư vị sang Đại Lục,
nh́n xem Thiền đường trong các chùa miếu, [sẽ
thấy] nơi ấy luôn được gọi là Tuyển
Phật Trường (選佛場), hàm ư “tâm
đă Không th́ mới được coi là thi đậu”. Tâm
quư vị phải Không th́ mới thành tựu. Tâm chúng ta có thể
Không hay chăng?
(Kinh) Hựu thử vọng tâm dữ tiền
cảnh giới, tuy câu tương y, khởi vô tiên hậu,
nhi thử vọng tâm năng vi nhất thiết cảnh giới
nguyên chủ. Sở dĩ giả hà? Vị y vọng tâm bất
liễu pháp giới nhất tướng, cố thuyết tâm
hữu vô minh. Y vô minh lực nhân cố, hiện vọng cảnh
giới, diệc y vô minh diệt cố, nhất thiết cảnh
giới diệt. Phi y nhất thiết cảnh giới tự
bất liễu cố, thuyết cảnh giới hữu vô
minh, diệc phi y cảnh giới cố sanh ư vô minh. Dĩ
nhất thiết chư Phật ư nhất thiết cảnh
giới bất sanh vô minh cố. Hựu phục bất y cảnh
giới diệt cố, vô minh tâm diệt. Dĩ nhất thiết
cảnh giới tùng bổn dĩ lai, thể tánh tự diệt,
vị tằng hữu cố. Nhân như thử nghĩa, thị
cố đản thuyết nhất thiết chư pháp y tâm
vi bổn.
(經)又此妄心與前境界。雖俱相依。起無先後。而此妄心能爲一切境界源主。所以者何。謂依妄心不了法界一相。故說心有無明。依無明力因故。現妄境界。亦依無明滅故。一切境界滅。非依一切境界自不了故。說境界有無明。亦非依境界故生於無明。以一切諸佛於一切境界不生無明故。又復不依境界滅故。無明心滅。以一切境界從本已來。體性自滅。未曾有故。因如此義。是故但說一切諸法依心爲本。
(Kinh: Lại nữa, vọng tâm ấy
và tiền cảnh giới (cảnh giới bên ngoài hiện
tiền đối trước
các căn) tuy đều nương vào nhau, nhưng chẳng
thể dấy lên thứ tự trước sau, nhưng vọng
tâm ấy lại có thể là nguyên chủ (cội nguồn)
của hết thảy các cảnh
giới. V́ cớ sao vậy? Chính là do nương theo vọng
tâm, chẳng thể hiểu rơ pháp giới nhất tướng
được! V́ thế nói “tâm có vô minh”. Do nương vào
sức của vô minh làm nhân, hiện ra cảnh giới hư
vọng, chúng cũng nương theo vô minh mà diệt. Hết
thảy cảnh giới diệt, chẳng nương theo hết
thảy cảnh giới th́ sẽ chẳng tự thấu
hiểu thông suốt được. Nói “cảnh giới có
vô minh”, cũng chẳng nương theo cảnh giới mà
sanh ra vô minh. Do hết thảy chư Phật ở trong hết
thảy cảnh giới đều chẳng sanh vô minh, lại
chẳng nương theo cảnh giới mà diệt. Tâm vô
minh diệt, do hết thảy các cảnh giới vốn là
thể tánh tự diệt, chưa từng có. Do nghĩa như
thế, cho nên chỉ nói “hết thảy các pháp nương
vào tâm làm gốc”).
Cái tâm chúng ta sử dụng trong hiện
tiền đều là tướng cảnh giới hư vọng,
chẳng phải là cái tâm [chân thật] của quư vị; nhưng cái vọng
tâm ấy của ta và hết thảy các tướng hiện
ra trước mắt (chánh kinh gọi các tướng ấy
là “tiền cảnh giới”) nương tựa lẫn
nhau. Tâm do cảnh mà khởi, trông thấy ǵ, suy nghĩ ǵ, tâm
bèn sanh. Cảnh do tâm sanh. Tâm sanh th́ đủ mọi pháp
sanh, tâm diệt th́ đủ loại pháp diệt. Cái tâm và tướng
cảnh giới bên ngoài, cái nào có trước? Cái nào có sau? Quư
vị chẳng thể t́m thấy [thứ tự] trước
sau. Khi tâm dấy lên, chẳng có trước sau. Chúng ta cho rằng
vọng tâm là cội nguồn của
hết thảy các tướng cảnh giới. Tâm sanh th́ đủ
mọi pháp sanh. Tâm là chủ. Nếu tâm diệt th́ đủ
mọi pháp diệt. V́ sao phải nói như
vậy? Theo Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm
Kinh, do vọng tâm chẳng thể biết pháp giới nhất
tướng; [cái tâm đang được nói] ở đây
là vọng tâm, nó sẽ chẳng biết là pháp giới nhất
tướng. V́ thế nói “tâm có vô minh”. Chẳng biết
pháp giới nhất tướng th́ gọi là “vô minh”. Nương
theo sức của vô minh mà sanh ra hết thảy các cảnh
giới. Do v́ vô nên mới nói hữu, v́ hữu nên mới nói
vô, hữu và vô đối chiếu lẫn nhau. Hết thảy
các tướng cảnh giới diệt, cảnh giới chẳng
thể tự diệt. Do tâm diệt nên cảnh diệt, do tâm
sanh nên cảnh sanh. Tướng cảnh giới có vô minh, vô
minh có nghĩa là “không hiểu rơ”. Tướng cảnh giới
có vô minh, cái vô minh ấy do cảnh giới mà khởi ư?
Cảnh giới sanh ra vô minh, vô minh lại dấy khởi hết
thảy cảnh giới. Đại Thừa Khởi Tín Luận
nói như thế đó. Đấy là pháp môn tâm địa
trong học Phật.
Mọi người phải kiên nhẫn lắng
nghe, quư vị phải quán chiếu: “Tâm sanh th́ các pháp sanh”.
Quư vị vừa động niệm, hết thảy các
pháp đều sanh khởi. Tâm diệt tức là thứ ǵ quư
vị cũng đều chẳng nghĩ tới; tâm diệt,
hết thảy các pháp đều diệt. Đại Thừa
Khởi Tín Luận giảng về vấn đề này, bao
nhiêu chương sách
[trong bộ luận ấy] đều nhằm thuyết
minh vấn đề này. Một niệm bất giác, thoạt
đầu v́ thất niệm (ư chẳng chánh niệm) trong
một niệm, bất giác mà có vô minh. Do v́ vô minh bèn sanh khởi
nghiệp tướng, chuyển tướng, và hiện
tướng. [Chuyện này thường được diễn
tả là] “nhất niệm bất giác sanh tam tế” (do một niệm
bất giác mà sanh ra ba tế tướng, tức nghiệp
tướng, chuyển tướng, và hiện tướng).
Ba tế tướng ấy là căn bản vô minh. Cho đến
khi đoạn ba tế tướng ấy, Bát Địa Bồ
Tát mới có thể đoạn hiện tướng, Cửu
Địa Bồ Tát mới có thể đoạn chuyển
tướng, Thập Địa Bồ Tát mới có thể
đoạn nghiệp tướng. Đợi cho tới địa
vị thứ mười một, tức là thành Phật, th́
mới có thể trong một niệm đoạn dứt căn
bản vô minh nơi ba tế tướng ấy, thành tựu
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do khi các tướng
ấy sanh khởi, nghiệp tướng sẽ tạo nghiệp.
Trí tướng, tương tục tướng, khởi nghiệp
tướng, nghiệp hệ khổ tướng, mỗi tướng
sau thô hơn tướng trước. Tướng sau thô hơn
tướng trước tức là niệm sau thô hơn niệm
trước. Do niệm sau thô hơn
niệm trước, cảm vời
chúng sanh thuộc địa vị phàm phu tạo nghiệp.
Nghiệp liền trói buộc quư vị (đó là nghiệp hệ
khổ tướng), khiến cho quư vị chẳng thoát ra được; nay chúng ta đều
đang bị nghiệp trói buộc. Khi nhanh chóng đoạn
dứt, sẽ biết nghiệp tánh vốn không, thể tánh
của nghiệp chẳng có, là rỗng không. V́ sao mà có? Do cảnh
mà có, nghiệp tánh vốn là không, do cảnh mà có [nghiệp].
Cảnh chẳng phải là thật, toàn là giả. Nếu lúc
cảnh mất đi, chẳng có hết thảy các tướng
cảnh giới. Cảnh giới đă chẳng có, tâm liền
sáng tỏ. Sự “sáng tỏ” ấy chỉ là đă
tiêu trừ các tướng như nghiệp tướng, chuyển
tướng, tương tục tướng, nghiệp hệ
khổ tướng, khởi nghiệp tướng, nghiệp
sẽ chẳng trói buộc quư vị. Chúng ta bị nghiệp
trói buộc. Thiện nghiệp của quư vị cũng là
nghiệp, mà ác nghiệp cũng là nghiệp. V́ có ác nên phải
tu thiện, đoạn ác, tu thiện. Đoạn ác, ác
đă chẳng c̣n, thiện cũng chẳng lập.
Do vậy, vô minh diệt th́ cảnh giới sẽ
diệt. Cảnh giới diệt th́ hết thảy các tướng
đều diệt. V́ cảnh giới có vô minh; nếu chẳng
có cảnh giới th́ c̣n có thể sanh ra vô minh hay không? Vô
minh sanh trong cảnh giới. Chẳng có cảnh giới, chúng
ta nhận biết hết thảy cảnh giới là hư
vọng. Do đó, kinh Lăng Nghiêm có nói: “nhược kiến
chư tướng phi tướng” (nếu thấy các tướng
chẳng phải là tướng), hết thảy các tướng
cảnh giới đều chẳng thật, chẳng có, “tắc
kiến Như Lai” (bèn thấy Như Lai). Cho đến
khi tu hành đă tới lúc đó, hoàn toàn là pháp môn tâm địa.
Nó sanh khởi như thế nào? Duyên, duyên niệm. Do hết thảy
các duyên bên ngoài sanh khởi mới tăng trưởng, từ
nghiệp tướng mà sanh, do tăng
trưởng mới hiện tướng. Hiện tướng
bèn chấp trước, khăng khăng
chấp trước, chấp
trước lấy bỏ. Hết thảy các pháp chỉ do
một niệm trong tâm. Tất cả hết thảy các pháp,
thường được gọi là “vạn pháp”, muôn
vàn pháp đều có, nương vào cái tâm của quư vị mà
chấp trước. Căn bản của hết thảy vọng
tâm, t́m cầu hết thảy vọng tưởng, căn bản
của hết thảy hết thảy vọng tâm do đâu mà
khởi? Tâm vốn chẳng có, có cảnh giới ǵ bèn hiện
cái tâm ấy. V́ tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có, cảnh có
trước, hay tâm có trước? Quư vị
hăy tự tham cứu vấn đề này! [Đối với vấn nạn] “cảnh
có trước, hay tâm có trước?”, khi cảnh
và tâm sanh khởi, chẳng có trước hay sau. Cảnh có
trước hay tâm có trước ư? Duyên theo cảnh
mà sanh tâm, cảnh nương vào tâm để hiện. Không có tâm,
sẽ chẳng có cảnh. Hết thảy các tướng
cảnh giới về căn bản dấy lên như thế
nào? Đạo lư này nếu nói ra sẽ rất khó hiểu.
Cho đến khi quư vị đă hiểu rơ, sẽ chẳng
thể diễn tả được.
Chẳng thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt,
chỉ có thể dùng tâm ư lănh hội, chẳng thể dùng ngôn
ngữ để truyền
đạt được.
Đặc thù của Thiền Tông Trung Hoa là minh
tâm kiến tánh. Cho đến khi một người đă minh tâm
kiến tánh, bảo người ấy nói minh tâm kiến tánh
là như thế nào? Tâm là ǵ? [Dẫu người ấy có nói
ǵ đi nữa], quư vị có hiểu rơ như thế nào hay
không? Chẳng hề! V́ thế nói là “ngôn ngữ đạo
đoạn” (ngôn ngữ dứt bặt), [tức là] chẳng
có ngôn ngữ, bị đoạn tuyệt. Tâm suy nghĩ th́
sao? “Tâm hành xứ diệt”, chỉ có thể lănh hội
bằng tâm ư, chẳng thể diễn tả,
truyền thuật. Đó là “minh
tâm kiến tánh” của Thiền Tông. Nhưng nói theo giáo
lư, đối với cảnh giới hiện tiền, vọng
tâm của quư vị sanh khởi. Quư vị chẳng có vọng
tâm, sẽ chẳng có cảnh giới hiện tiền; đó
là cảnh nương theo tâm. Nếu tâm chẳng có cảnh,
sao nó lại có thể khởi tâm? Do cảnh mà sanh tâm. Do vậy,
khi nó dấy lên, rốt cuộc là tướng cảnh giới
hư vọng có trước, hay tâm có trước? Hay là tâm
và cảnh hai đằng có sai biệt, nhất định
là hai thứ ư? Chẳng phải là hai thứ, một đằng
là duyên niệm, một đằng là tâm. Khi dấy lên, sẽ
chẳng có cái nào có trước, cái nào sau! Nếu quư vị
có thể t́m ra thứ tự trước sau th́ đó là vọng
tưởng phân biệt, chẳng có trước sau. Nói thông
thường, v́ tâm ta tưởng nên mới có cảnh giới,
do cảnh giới bên ngoài mới sanh khởi cái tâm (vọng
tâm) của quư vị. Cảnh giới là nguồn cội. Nếu
chẳng có cảnh giới ấy, tâm quư vị chẳng sanh
khởi, v́ pháp giới nhất tướng chẳng có tướng. Pháp giới
nhất tướng là vô tướng. Vọng tâm chẳng
biết pháp giới nhất tướng; muốn phân biệt, t́m ṭi cội nguồn của tướng
cảnh giới, sẽ chẳng t́m được! V́ cớ
sao vậy, do nguyên nhân nào? Do chẳng hiểu rơ pháp giới
nhất tướng, có ư nghĩa như thế đó.
Tôi cũng thường nghĩ như thế
này, nghĩ như thế nào? Tôi nêu một thí dụ cho mọi
người nghe, chẳng hạn như nói về Trường
Giang. Chỗ khởi nguồn của Trường Giang, chúng
ta t́m ở vùng thượng
du thuộc tỉnh Thanh Hải. Trong địa phận tỉnh
Thanh Hải, Trường Giang được gọi là sông
Thông Thiên. Sông Thông Thiên ở giữa hai huyện Ngọc Thụ
và Nang Lũng của tỉnh Thanh Hải. Trên bản đồ,
phần thượng du của sông Thông Thiên được
người Thanh Hải gọi là “Niên Sở hà”. Niên Sở
(Nyang Chu tsangpo) là tiếng Tây Tạng, chẳng phải là tiếng
Hán. Khu này là khu vực của dân tộc Tây Tạng, là vùng
sinh sống của dân thiểu số gốc Tây Tạng. Nhưng
sông Niên Sở không có chỗ khởi nguồn, trong phạm
vi hai ba ngàn dặm, nước trào lên. Mọi người
đừng coi đây là nghe kể chuyện, mà hăy
nghĩ là tôi muốn giảng về “tâm nguyên” (nguồn
tâm), cho nên dùng
chuyện này làm thí dụ. Sông Thông Thiên chảy vào địa
phận vùng Tây Khang, nay thuộc địa bàn tỉnh Tứ
Xuyên. Sông Thông Thiên chảy tới huyện Ngọc Thụ của
tỉnh Thanh Hải, không gọi là sông Thông Thiên nữa, mà lại
đổi tên thành Kim Sa Giang. Kim
Sa Giang chảy từ
địa phận tỉnh Tứ Xuyên tới Vân Nam gọi
là Nộ Giang. Khi chảy qua Tứ Xuyên, lại đổi
tên thành sông Gia Lăng. Sông Gia Lăng chảy tới thành phố
Trùng Khánh bèn xuôi gịng, có rất nhiều chi lưu, chẳng
phải chỉ là một gịng, [khi đó, sông được]
gọi là Trường Giang. Sông Trường Giang chảy từ
Nam Kinh trở đi mới được gọi là Dương
Tử Giang. Do vậy, Dương Tử Giang chảy vào
Thượng Hải, từ Thượng Hải đổ
vào biển. Trường Giang kể từ chỗ phát nguyên,
một gịng nước mà có vô lượng tên[8]. Vẫn là một gịng
nước ấy, chỉ là nước
mà thôi, chẳng có địa danh, hễ chảy đến
khu vực nào th́ được đặt tên bởi người
sống tại khu vực ấy. [Dẫu có nhiều tên khác
nhau], nước ấy có khác biệt ǵ? Bản thân nước
có tên ǵ đâu? Có địa khu nào đâu? Hoàn toàn chẳng
có, nó là một gịng nước như thế đó.
Chỗ bắt nguồn của Hoàng Hà khá đơn
giản, ở ngay trong huyện Hoàng Trung tỉnh Thanh Hải,
trong phạm vi khoảng sáu bảy trăm dặm. Nếu muốn
xây đường tại Thanh Hải, vùng đất ấy
bùn lầy, chẳng có cách nào, người
đi bị lún chân, ngựa chạy bị lún vó, làm sao có thể
xây quốc lộ cho được? Làm như thế nào? Dùng
muối từ biển Tinh Tú. Tinh Tú Hải ở vùng núi thuộc
ranh giới huyện Ngọc Thụ và tỉnh lỵ Tây Ninh
của tỉnh Thanh Hải. Trong phạm vi khoảng chừng
một ngàn dặm, có một cái “hải” ở bên trái
và một cái “hải” ở bên phải. V́ sao gọi là
Hải? Vốn là hồ nước nhỏ, nhưng nước
mặn chát, mùa Hạ biến thành nước,
mùa Đông biến thành vũng muối. Vùng Thanh Hải thuộc
Khang Khu Tây Tạng (tức tỉnh Kham cũ của Tây Tạng)
dùng muối ăn từ chỗ này. Mùa Hè th́ hồ là nước,
mùa Đông nước biến thành muối, giống như
cái biển bị sấy khô vậy. Chỗ đó sâu khoảng
chừng năm sáu trượng đều là bùn lỏng, chẳng
có cách nào kiến thiết đường sá, liền đổ
muối vào lấp. Dùng muối đắp vào, xây dựng đường
sá được, nhưng đầu nguồn Hoàng Hà bị
chặt đứt, nước ngầm chẳng thể trào
lên được nữa! Hoàng Hà là do trời mưa tại
vùng núi Thanh Hải và Cam Túc, các con sông nhỏ đổ nước
vào gịng chánh. Nước từ chỗ khởi nguồn của
Hoàng Hà tại Hoàng Trung bị cắt đứt. Chúng tôi nói
hết thảy các tướng cảnh giới ấy theo
diện mạo địa lư, tâm sanh th́ các pháp sanh, hoàn toàn là
tâm sanh. Nếu do sức người sửa đổi, sẽ
chẳng c̣n, bị đoạn tuyệt. Các khu núi bắt
nguồn gịng chảy đều là như thế.
Các pháp nương tựa lẫn nhau. Quư vị
hiểu đạo lư này: Vọng tâm của chúng ta càng ngày càng
hư vọng sâu hơn, tức là càng bị
nhiễm nặng hơn, càng nhiễm càng nặng hơn. V́
thế, Lục
Tổ đại sư nói “nguyên lai vô nhất vật” (vốn chẳng
có một vật), thứ ǵ cũng đều chẳng có,
“hà xứ nhạ trần ai” (chỗ nào nhuốm
bụi trần). Đấy là cội nguồn căn bản;
nhưng do kẻ đó chấp trước, vọng tưởng
vừa dấy lên, chỗ nào cũng đều là chướng
ngại. Người tu đạo dạy quư vị “đả
đắc vọng tưởng tử, hứa nhữ Pháp
Thân hoạt” (đánh chết sạch vọng tưởng,
cho Pháp Thân ngươi sống). Quư vị chẳng đánh
chết vọng tưởng! Quư vị đă có thể đánh
chết vọng tưởng, chẳng dấy lên vọng tưởng,
chân tâm liền hiển
hiện. Nay chúng ta sanh khởi hết thảy các pháp tướng
đều là nương vào sức của vô minh. Vô minh là chẳng
sáng suốt, v́ sao gọi là vô minh? Vốn chẳng sáng suốt,
muốn cầu sáng suốt. “Cầu sáng suốt” là hỏng
rồi, càng ngày càng hồ đồ, càng ngày càng mờ mịt,
dấy khởi hết thảy tướng cảnh giới
tham, sân, si, mạn. Nếu biết hết thảy các pháp chẳng
tự sanh, vô minh sẽ diệt. Vô minh diệt th́ tướng
cảnh giới đều diệt. Do đó, Khởi Tín Luận
nói: “Nhất niệm bất giác sanh tam tế”, tức
là hễ một niệm sai lệch, sẽ sanh ra ba tế tướng
(nghiệp tướng, chuyển tướng, hiện tướng).
“Cảnh giới vi duyên” (cảnh giới làm duyên), tướng
cảnh giới bên ngoài làm duyên cho quư vị, trong tâm quư vị
bèn duyên niệm, “trưởng lục thô” (tăng trưởng
sáu thô tướng), càng ngày càng thô, tức là khởi Hoặc.
Khởi Hoặc bèn tạo nghiệp. Tạo nghiệp th́ nghiệp lại ràng buộc
quư vị. Đă bị nghiệp buộc ràng, quư vị sẽ
chấp trước, chẳng xả được, tức là bị xoay
chuyển trong khuôn khổ. V́ thế, nghiệp sanh từ vô
minh!
Do v́ duyên cớ này, Địa Tạng
Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: “Nhất
thiết chư Phật ư nhất thiết cảnh giới
bất sanh vô minh” (trong hết thảy các cảnh giới,
hết thảy chư Phật chẳng sanh vô minh). Giả sử
chúng ta thuận theo chư Phật chẳng sanh vô minh, tức
là chẳng thuận theo hết thảy các tướng cảnh
giới. Hết thảy các cảnh giới chẳng sanh ra
vô minh. Do vậy chẳng có diệt. Sanh th́ đều là chẳng
có sanh, há c̣n có diệt? Cũng chẳng nương theo tướng
cảnh giới mà diệt, cho nên chẳng sanh diệt. V́ nếu
quư vị diệt cái tâm vô minh th́ cảnh sẽ diệt. Tâm
đă mất, cảnh cũng diệt, cảnh đă tịch
tĩnh, “tâm vong, cảnh tịch, lưỡng câu không”
(tâm mất, cảnh lặng, hai đằng đều là không).
Hai đằng hoàn toàn chẳng có. Vốn chẳng có, tức
là thể tánh của tự thể bất sanh, bất diệt,
trước nay chưa từng có. Đó là pháp vị tằng
hữu (pháp chưa từng có). Dùng đạo lư này để nói hết thảy các pháp nương
vào tâm làm gốc. Do nương vào đạo lư này mới nói:
“Hết thảy các pháp đều dựa vào tâm. Tâm sanh th́
các pháp sanh; tâm diệt, các pháp diệt”. Do vậy, khi tu đạo
trong núi, tướng ǵ cũng chẳng thấy. Quán ǵ vậy?
Quán tâm. Tâm chẳng sanh, pháp liền tịch, tức là pháp cũng
vắng lặng. Do vậy mới nói “tâm sanh th́ các pháp
sanh, tâm diệt cho nên các pháp diệt”. Đạo lư này rất
sâu.
Chẳng hạn như Thiền Tông “chỉ
thẳng vào tâm, kiến tánh thành Phật”. V́ cái tâm của
chúng ta do cảnh mà có. Chẳng hạn như Lục Tổ
đại sư ở trong đạo tràng của Ngũ Tổ,
Ngũ Tổ chuẩn bị giao lại ngôi vị, tuyển
lựa tổ sư, tuyển chọn người kế vị.
Ngài bảo mọi người hăy soạn kệ.
Khi đó, Thần Tú đại sư là Thượng
Thủ
dưới ṭa của Ngũ Tổ, mọi người đều
công nhận Ngài là ḥa thượng giáo thọ, trí huệ to
lớn. Ngũ Tổ bảo mỗi người soạn kệ
để Tổ b́nh luận. Thần Tú đại sư viết:
“Thân thị Bồ Đề thụ, tâm như minh kính đài,
thời thời cần phất thức, vật sử nhạ
trần ai” (Thân là cội Bồ Đề, tâm như đài
gương sáng, luôn luôn siêng quét dọn, đừng để
nhuốm bụi trần). Mọi người đều nói
bài kệ này soạn hay quá: Thân thể chúng ta giống như
cây Bồ Đề, tâm thanh tịnh như đài gương
sáng ngời, sạch bóng. Quư vị
phải thường xuyên lau dọn sạch sẽ, kẻo
bụi bặm phủ lấp cái tâm, sẽ chẳng sáng sạch
nữa. Thường xuyên siêng năng lau quét, ngàn vạn phần
đừng để bụi bặm vùi lấp! Khi ấy, Lục
Tổ đại sư tới đó, Ngài c̣n chưa xuất
gia, ngay cả Sa Di cũng chẳng phải, chưa xuống
tóc, là kẻ tại gia tin Phật. Ngài được giao việc
giă gạo, tức là giă thóc
ra gạo, giă gạo trong pḥng xay giă. Ngài nghe chuyện liền
hỏi, người khác đọc cho Ngài nghe, tán thán Thần
Tú đại sư lỗi lạc lắm! Ngài nói: “Bài kệ
ấy hoàn toàn chẳng hay!” Người khác rất kinh ngạc.
Ngài cũng t́m một vị cư sĩ, bảo “tôi cũng
soạn kệ, ông hăy viết giùm”. Ngài nói: “Bồ Đề
bổn phi thụ, minh kính diệc phi đài, nguyên lai vô nhất
vật, hà xứ nhạ trần ai” (Bồ Đề chẳng
phải cội, gương sáng chẳng phải đài, vốn
chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?)
Vốn chẳng có một vật ǵ nhuốm bụi bặm.
Ngài cũng đề bài kệ
lên. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đại sư vừa trông
thấy, cởi giày chùi đi, nói “chẳng hay, chẳng hay”.
Ban ngày nói “chẳng hay”, tới tối, Tổ đến
chỗ Sư giă gạo, truyền pháp
cho Lục Tổ, bảo: “Ngươi hăy đi ngay lập
tức”. Do mọi người tranh đoạt tổ vị,
sợ sẽ có người thương tổn đại
sư. Đúng như thế, kẻ toan thương tổn
Ngài đuổi theo. Do vậy, Lục Tổ đại
sư sống trong đội ngũ cường đạo
suốt mười lăm năm.
Sau đó, Sư mới tới chùa Quang Hiếu
ở Quảng Châu. Tới chùa Quang Hiếu, có hai vị sư
phụ đang tranh luận. Họ thấy cái phan treo tại
đó bị gió thổi đong đưa. Một vị ḥa
thượng nói là gió động, vị kia nói là phan động.
Hai người tranh chấp không ngớt.
Lục Tổ đại sư bảo hai người bọn
họ: “Chẳng phải là gió động, mà cũng chẳng
phải là phan động, thứ ǵ động? Tâm nhân giả
động”. Nay chúng ta nói điều này là “tâm sanh nên
các loại pháp sanh; tâm diệt, nên các loại pháp diệt”.
Hai vị ḥa thượng ấy nghe xong, rất kinh ngạc,
bèn thưa tŕnh với Phương Trượng
chùa Quang Hiếu: “Có một người như thế tới
đây”. Khi đó, Sư là kẻ tại gia, ḥa thượng
Ấn Tông liền triệu tập mười vị đại
sư [làm
lễ] thế phát và truyền giới cho Sư. Sau
đấy, [ngài Ấn Tông] thỉnh Sư làm Phương
Trượng
chùa Quang Hiếu, để Ngài truyền pháp, giảng kinh.
Nhưng giảng kinh ắt cần phải đọc kinh văn
cho người khác, Lục Tổ không biết
chữ, nhưng có thể giảng kinh, lại c̣n giảng
rất hay, tuy không biết
chữ. Đấy là tuy Căn Bản Trí trọn đủ,
nhưng chẳng có phương tiện thiện xảo. V́
sao Bồ Tát phải học Ngũ Minh, nguyên nhân là do chuyện
này. Căn Bản Trí có thể ngộ đạo. Bồ Tát
từ vô lượng kiếp tới nay đối với mỗi
chuyện thuộc phương tiện thiện xảo
trong sự nghiệp lợi sanh đều học, chẳng
học th́ sẽ không biết!
Hết thảy chư Phật, hết thảy
các tướng cảnh giới chẳng sanh ra Vô Minh Hoặc.
Lại nữa, hết thảy cảnh giới vốn chẳng
có. Nếu
cái tâm vô minh đă diệt, căn bản là hết thảy các
tướng cảnh giới đều chẳng có, chúng tự
nhiên diệt. V́ vậy, do tâm sanh nên các pháp sanh; do tâm diệt,
nên các pháp diệt. Đó gọi là “đốn đoạn
vô minh” (nhanh chóng đoạn dứt vô minh). Thiền Tông
Trung Hoa là “đốn đoạn vô minh”. Tuy đốn đoạn vô minh, vẫn phải
học sự nghiệp lợi sanh. Đó là lư do v́ sao đối
với Ngũ Minh, Bồ Tát phải học Ngũ Minh. Thứ
nào quư vị không học, sẽ chẳng biết. Khi chư
Phật, Bồ Tát lợi ích chúng sanh, phương thức độ
chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát khác nhau, mỗi vị
dùng một pháp môn riêng. Chẳng hạn như chúng ta biết
tứ đại danh sơn, Ngũ Đài Sơn Văn Thù Bồ
Tát lấy đại trí làm chánh yếu. Địa Tạng
Bồ Tát ở Cửu Hoa Sơn dùng đại nguyện làm
điều chánh yếu. Phổ Đà Sơn Quán Thế Âm Bồ
Tát coi đại bi là chánh yếu.
Nga Mi Sơn Phổ Hiền Bồ Tát ở Tứ
Xuyên lấy đại hạnh làm điều chủ yếu.
Mỗi vị Bồ Tát đều có sở trường lợi
sanh, chuyên môn dùng pháp mà Ngài đă chứng đắc để
lợi sanh. Do đạo lư này mà Phật pháp có chỗ là thông,
lại có chỗ là biệt. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo do Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh đức Phật nói,
đức Phật bảo Ngài thỉnh Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói. Nghĩa lư trong nửa bộ sau giống
hệt như [các bộ kinh Đại Thừa khác], giáo nghĩa
Đại Thừa đều là như thế. Bất quá bậc
đương cơ (người
đứng ra thỉnh pháp) [trong mỗi kinh] bất
đồng, h́nh thức ngôn ngữ biểu đạt trong
sự thuyết pháp [của mỗi bộ kinh] khác nhau. Hết
thảy các tướng cảnh giới vốn không có, tâm tịch,
cảnh tịch, hai đằng đều không, đều
đạt tới nghĩa Không. Đấy mới là sám hối
thật sự. Dùng luân tướng để sám hối, nửa
bộ đầu [của kinh này] là phương tiện thiện
xảo, Địa Tạng Bồ Tát nói với Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát: Trong hết thảy các tướng cảnh giới,
hết thảy chư Phật chẳng sanh vô minh. Do v́ các Ngài
chẳng cầu một cái Minh, cho nên chẳng sanh vô minh. V́
chẳng nương theo tướng cảnh giới diệt,
chẳng sanh th́ sẽ chẳng diệt. Các pháp do nhân duyên
sanh, đă do duyên sanh th́ nhất định sẽ do duyên mà
diệt. Các pháp do nhân duyên
mà sanh, đă
do nhân duyên sanh khởi th́ nhất định cũng do nhân
duyên diệt. Chẳng sanh th́ sao? Chẳng sanh th́ chẳng có
diệt. Cái tâm vô minh của quư vị đă diệt, tâm vô
minh đều diệt hết, hết thảy các tướng
cảnh giới cũng diệt. Hết thảy các tướng
cảnh giới đă diệt, hết thảy các pháp nương
theo tâm làm gốc. V́ thế, “tâm duy vạn pháp, vạn pháp
duy tâm”.
(Kinh) Đương tri nhất thiết
chư pháp tất danh vi tâm, dĩ nghĩa thể bất dị,
vi tâm sở nhiếp cố.
(經)當知一切諸法悉名爲心。以義體不異。爲心所攝故。
(Kinh: Hăy nên biết hết thảy các
pháp đều gọi là tâm, do nghĩa
thể chẳng khác, đều được thâu nhiếp
vào tâm).
Địa Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát: “Ông hăy nên
biết”; đây là nói với
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Hết thảy các pháp đều
gọi là tâm. Bởi lẽ, dùng nghĩa lư để nói, Thể
của hết thảy các pháp là tâm. Hết thảy tâm là Thể của
các pháp. Tâm và Thể
chẳng khác. Do dùng đạo lư này để
nói, cho nên mới nói: “Hết thảy các pháp đều do
tâm sanh ra”. Ĺa khỏi tâm, sẽ chẳng có hết thảy
các pháp. Làm thế nào để hiển lộ cái tâm của
chúng ta? Dùng hết thảy các pháp để hiển, tâm duy
vạn pháp, vạn pháp duy tâm. Khi mọi người học
Viên Giáo trong Phật giáo, chắc là cho rằng Viên Giáo của
nhà Phật hết sức mơ hồ, giống như chúng
ta nói “hễ nhổ một túm râu tóc của người Hồ, chẳng
phân biệt được đâu là tóc, đâu là râu”. Thật
ra, giáo nghĩa Viên Giáo phân chia hết sức cặn kẽ!
Mọi người thấy mơ hồ là do trí huệ của quư vị chưa
đạt mức, quư vị học chẳng vào, cho nên chê là
“mơ hồ”. V́ sao kinh nào cũng đều chẳng
có phân lượng to lớn như kinh Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm? Phải biết Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là viên măn nhất, nhưng phương
pháp để quư vị tiến nhập th́ có quá nhiều. Vạn
pháp duy tâm, tâm được hiển lộ ở chỗ nào?
Tâm duy vạn pháp, vạn pháp duy tâm. Quư vị lật ngược
lại: Vạn pháp là tâm, tâm là vạn pháp. Nhưng quư vị
có hiểu rơ hay không? Do vậy, sự tu hành trong Thiền Tông
chẳng có phương tiện thiện xảo nào khác! Trực
tâm, chánh niệm, duy tâm, [rồi lại] trực tâm, chánh niệm,
Chân Như, từ vọng tâm của chúng ta mà trực tiếp
tiến nhập chân tâm.
Do vậy, chúng ta phải tu hành ba đại
kiếp, [hoặc nói theo Viên Giáo sẽ là] vô lượng
ức kiếp. C̣n phải tu tín, c̣n phải cầu giải,
c̣n phải hành, hành rồi mới có thể chứng, [thứ tự tu hành là] “tín, giải,
hành, chứng”. Thiền
môn không cần, Thiền Tông nói: “Thiền môn một nén
hương, đốn siêu trực nhập, lập tức
chứng Bồ Đề”, lập tức là giác ngộ.
Có thể làm được hay không? Kẻ tham Thiền chẳng
ít, có khai ngộ hay không? Thành đạo hay chăng? Người
học Giáo biết “đă khai ngộ” hoàn toàn
chẳng phải là thành đạo, vẫn phải tu. Khi quư
vị thực hiện sự nghiệp lợi sanh, quư vị
ắt phải học. Minh tâm kiến tánh chỉ là quư vị
đă khai ngộ, đă hiểu
rơ cái tâm, nhận biết cái tâm của chính ḿnh, hoàn toàn chưa
có kỹ xảo độ sanh. Kinh Hoa Nghiêm là như thế
đó, quư vị đạt tới một địa vị
nào, bèn có phương pháp lợi sanh [thuộc địa vị
đó]. Mỗi địa vị có phương pháp lợi
sanh riêng, từ Thập Tín cho tới
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng,
Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, [đạt tới Diệu Giác] là đă
đạt tới rốt ráo. Trong t́nh huống ấy, Thiện
Tài đồng tử tham yết Văn Thù Bồ Tát, Văn
Thù Bồ Tát dạy đồng tử tham bái Phổ Hiền
Bồ Tát. Khi tham bái Di Lặc Bồ Tát, đồng tử đă
thành Đẳng Giác, đă đạt tới địa vị thành Phật.
Di Lặc Bồ Tát lại dạy đồng tử trở
về tham bái Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Đó là Căn
Bản Trí. Văn Thù Bồ Tát bảo đồng tử lại đến tham bái Phổ Hiền
Bồ Tát để học
phương tiện thiện xảo. Lợi sanh
chẳng phải dễ dàng như vậy! Do đó, Bồ
Tát phải trải qua bao nhiêu đại kiếp. Chúng ta nói
“ba đại A-tăng-kỳ kiếp”, đó là giáo nghĩa
Trung Thừa,
nếu theo kinh Hoa Nghiêm, sẽ là vô lượng vô lượng
kiếp. V́ trong hết thảy các pháp, môn nào quư vị không
học sẽ không biết, quư vị ắt cần phải
học. Tuy đă ngộ Căn Bản Trí, nhưng chưa thấu
đạt Hậu Đắc Trí.
Trong hết thảy các pháp đều gọi
là tâm. Hết thảy các pháp đều gọi là tâm v́ đă
ngộ cái Thể chẳng
khác biệt, ngộ cái tâm là được rồi. Hết
thảy các pháp duy tâm, v́ sao nói như thế? Hết thảy
các pháp đều quy nhiếp vào tâm, tâm nhiếp hết thảy
các pháp, tức là tâm dung nạp hết thảy các pháp. Hết
thảy các pháp vẫn quy vào tự tâm. Do vạn pháp duy tâm,
c̣n có một cái tâm sanh vạn pháp. Hai câu này
có thể nói đảo
lại, tức “tâm sanh vạn pháp, vạn pháp duy tâm”. Vạn
pháp duy tâm th́ mới có thể “tâm sanh vạn pháp”. Nếu
không, tâm chẳng thể sanh, cho nên hết thảy các pháp đều
gọi là tâm. Do đạo lư này, do nó có nghĩa “Thể là một”, vạn
pháp cũng có cùng một tâm thể ấy, cái sanh ra vạn
pháp là tâm. Tâm thành tựu hết thảy vạn pháp, hoàn toàn
thuộc vào tâm. Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp cũng chẳng
có tâm. Đảo lại như thế đó, quư vị hăy
tham cứu! Trong ấy, chứa đựng vô lượng nghĩa,
chẳng phải chỉ đơn giản như thế!
(Kinh) Hựu nhất thiết chư pháp
tùng tâm sở khởi, dữ tâm tác tướng, ḥa hợp
nhi hữu, cộng sanh, cộng diệt, đồng vô hữu
trụ, dĩ nhất thiết cảnh giới đản
tùy tâm sở duyên. Niệm niệm tương tục cố,
nhi đắc trụ tŕ, tạm thời vi hữu.
(經)又一切諸法從心所起。與心作相。和合而有。共生共滅。同無有住。以一切境界但隨心所緣。念念相續故。而得住持。暫時爲有。
(Kinh: Lại nữa, hết thảy các
pháp đều từ tâm khởi, làm tướng cho tâm, ḥa
hợp mà có, cùng sanh, cùng diệt, cùng “chẳng có trụ”.
Do hết thảy cảnh giới chỉ tùy tâm mà duyên, tiếp
nối trong mỗi niệm mà được trụ tŕ, tạm
thời là có).
V́ hết thảy các pháp đều từ tâm
khởi, cho nên “tâm sanh th́ các pháp sanh”. Tâm sanh khởi hết
thảy các pháp; hết thảy các pháp và tác dụng của
tâm chẳng thể tách rời được. Bất luận
là thiện hay ác hư vọng, rốt cuộc hết thảy
các pháp chẳng ĺa khỏi tâm. Tâm sanh thiện pháp thuận
theo cái Thể
của Chân Như; tâm sanh hết thảy ác pháp th́ nó lại
thuận theo vô minh; ác pháp lấy vô minh làm Thể. Do vậy,
các pháp và tâm ḥa hợp, chẳng phải là hai. Tâm sanh các pháp
sanh; đó là tâm sanh. Tâm diệt, các pháp diệt. [Đó chính
là] tâm và vạn pháp cùng sanh, cùng diệt. Tâm chẳng có, tâm là
không. Do tâm đă là không, há c̣n có ǵ là trụ? Trụ tâm như
thế nào? Chẳng trụ! Về căn bản, chẳng
có tâm, c̣n trụ trong cái tâm nào nữa? Mọi người
đă đọc kinh Kim Cang, thấy ngài Tu Bồ Đề
(Subhūti) thưa
hỏi đức Phật: “Vân hà trụ tâm”, [nghĩa
là] tâm con chẳng trụ được, hàng phục cái tâm
bằng cách nào? Ngài Tu Bồ Đề đă đoạn Kiến
Tư Hoặc, là bậc Đại A La Hán, trí huệ bậc
nhất, cho nên trong kinh Kim Cang, Ngài đại diện
thưa hỏi, hay có thể nói là Ngài thay mặt đại
chúng thưa hỏi. Nói cách khác, tuy Ngài đă đoạn Kiến
Tư Hoặc, nhưng Vô Minh và Trần Sa vẫn chưa đoạn,
tâm Ngài chẳng trụ, cũng chẳng thể hàng phục
cái tâm được. Cho nên Ngài mới thưa hỏi đức
Phật trụ tâm và hàng phục cái tâm bằng cách nào. Đức
Phật dạy: Hết thảy các pháp chẳng có chỗ để
trụ, mà cũng chẳng hàng phục cái tâm. Tâm chẳng trụ vào đâu, hết
thảy các pháp đều từ tâm con người mà khởi.
Do tâm chẳng trụ, cho nên hết
thảy các pháp chẳng trụ. Hết thảy các pháp đều
là tướng ở ngoài tâm. Tâm sanh ra hết thảy các pháp,
hết thảy các pháp là tướng của tâm. Do tâm sanh ra
hết thảy các pháp, cho nên nói: “Vạn
pháp duy tâm. Vạn pháp tức là tâm, tâm là vạn pháp”. Quư
vị hăy tham cứu như thế, quư vị sẽ minh tâm
kiến tánh.
Chúng tôi nói suông, chẳng phải là đă khai
ngộ. Phàm phu có thể nương theo giáo nghĩa để
lư giải, có thể nói là “ngang bằng với Phật, b́nh
đẳng với Phật”, nhưng Kiến Tư phiền
năo đều chẳng đoạn! Phật là đấng
Nhất Thiết Trí. [Những điều chúng tôi tŕnh bày trên
đây] là học đ̣i theo Phật, chỉ học để
nói thôi! Có nghĩa là ǵ? [Có nghĩa là] chưa thể tiến
nhập, chưa thể chứng đắc; nhưng quư vị
thường huân tập như vậy, sẽ dần dần
tiến nhập. Trong kinh này chẳng nói, nhưng Đại
Thừa Khởi Tín Luận bảo có hai loại huân tập.
Quư vị thường xuyên huân tập trong pháp ấy, thường
cùng mọi người học tập pháp ấy, sẽ dần
dần tiến nhập. Đó là “cận châu giả xích, cận
mặc giả hắc” (gần son th́ đỏ, gần
mực th́ đen) như Mạnh Tử đă nói. Quư vị gần
chất màu đen, hay gần mực, sẽ tự nhiên bị
đen. Quư vị thấy ǵ bèn học nấy. Có một loại
huân tập nữa là “bổn tánh cụ” (sẵn có
trong bổn tánh), c̣n loại
kia là “huân tập tu”, tức là hoàn cảnh bên ngoài huân tập
sự tu hành của quư vị. V́ thế, tâm và cảnh là nói
theo kiểu ấy. Bởi lẽ, hết thảy các pháp từ
tâm mà khởi, nó lại tạo thành tướng cho tâm. Hết
thảy các pháp tạo thành cái tướng của tâm, hết
thảy các tướng lại đều là tâm, [cho nên] tâm
và các pháp ḥa hợp. V́ tâm sanh, các pháp sanh; tâm diệt, các pháp
diệt. Đó lại là cùng sanh, [chánh kinh diễn tả điều
này là] “cộng sanh, cộng diệt” (cùng sanh, cùng diệt).
Hết thảy các pháp sanh, tướng cảnh giới của
hết thảy các pháp được duyên bởi tâm. Tâm duyên
hết thảy các pháp, duyên vốn không có tâm. Do tâm khởi
mà có [hết thảy các pháp hiện hữu], cho nên tâm bèn duyên
theo. Duyên ǵ vậy? Duyên theo hết thảy các tướng
cảnh giới. Tâm vốn chẳng sanh, do duyên theo cảnh
mà có. V́ duyên theo hết thảy các tướng cảnh giới
bên ngoài, tâm bèn duyên theo tướng cảnh giới, do cảnh
mà hiển lộ tâm. Duyên chẳng có tự tánh, do đâu mà
dấy lên? Duyên chẳng có tự tánh, do tâm mà khởi. Từ
tâm khởi, lại quy hoàn cái tâm.
V́ thế, người học Phật mà học
giáo nghĩa Viên Giáo, sẽ thấy các lời lẽ đức
Phật dạy bảo chúng ta toàn là viên măn. Quư vị
muốn t́m góc cạnh, sẽ chẳng t́m được,
toàn là viên mà! Đâu là đầu? Đâu là đuôi? Chẳng
có, tṛn xoe! Điều này mọi người phải suy xét,
đừng nghe theo văn tự hoặc ngôn ngữ, sẽ
chẳng được, phải dùng tâm để khế
nhập. Chúng ta thấy vạn pháp, đến cửa hàng bách
hóa, chúng ta tới thành phố Đài Bắc để xem, tâm
quư vị thuận
theo đủ mọi h́nh trạng, cửa hàng
bách hóa cũng thế, nếm các thức ăn nơi chợ
búa cũng thế. Các thứ ấy đều do tâm sanh, tất
cả hết thảy các tướng cảnh giới do tâm duyên theo. Do vậy, nói
“tâm sanh các pháp
sanh; tâm diệt, các
pháp diệt”. Nhưng
cái tâm ấy liên tục
trong mỗi niệm, vĩnh viễn chẳng ngừng, có thể
trụ tŕ chư pháp. Khi nó trụ
tŕ các pháp th́ tạm thời là có.
Đoạn kinh văn này nhằm bảo quư
vị: Từ tâm, dấy khởi hết thảy các pháp, đó
gọi là Tướng Phần của tâm, tức là Tướng
Phần khởi lên bởi cái tâm của chính ḿnh. Hết thảy
các pháp làm tướng cho tâm, tâm vô tướng. [“Tâm” được
nói ở đây] chẳng phải là quả tim thịt (nhục
đoàn tâm) trong lồng ngực chúng ta. Cái tâm ấy (nhục đoàn tâm) chẳng
phải [là chân tâm], nó là giả, sẽ hư hoại. Cho đến
khi nhục thể của chúng ta tiêu vong, cái tâm ấy cũng
tiêu mất theo! [Tâm được nói] ở đây là chân tâm,
chẳng thuận theo Tướng
Phần, thuận
theo Tướng Phần dấy lên mà làm tướng cho cái
tâm ấy. Tâm được hiển lộ như thế nào?
Từ tướng mà hiển lộ cái tâm. Nó duyên xa hơn
một chút, tức là [duyên theo] Tướng Phần. Tâm ấy
và Kiến Phần[9] lại hợp thành
một; do ḥa hợp
bèn có hết thảy các tướng, tức là Thân Sở
Duyên Duyên. Danh từ Phật giáo gọi điều này là Thân
Sở Duyên Duyên. Tâm, Kiến Phần, Tướng Phần hợp
thành một, ḥa hợp mà có hết thảy các tướng.
Tâm và cảnh hợp, cảnh có thể hiển lộ tâm. Tâm
chính là cảnh. Do tâm sanh, cho nên hết thảy các pháp sanh. Do
tâm diệt, nên hết thảy các pháp diệt. Tâm và hết
thảy các pháp cùng sanh, cùng diệt. Đấy là nghĩa “tùy
duyên”. Chớ nên phân
biệt tâm và cảnh có ranh giới ǵ, có giới hạn ǵ!
Chẳng có ǵ hết! Chẳng có ranh giới, là “cùng sanh,
cùng diệt”. Do hết
thảy các tướng cảnh giới được duyên
bởi tâm, cho nên mới nói “do tâm diệt, cho nên các pháp diệt”. Tâm đă
diệt, đương nhiên là cái được duyên bởi
tâm cũng diệt theo. V́ thế nói “tâm sanh, các pháp sanh; tâm
diệt, các pháp diệt”. Hai thứ ấy liên tục
trong mỗi niệm th́ mới có thể trụ tŕ hết thảy
các pháp, “vạn
pháp sanh từ tâm” chính là đạo
lư này. Nhưng đó là tạm thời có, vạn pháp sanh từ
tâm. Sau khi sanh khởi bèn tạm thời là có, nó vẫn phải diệt. Vạn pháp sanh từ tâm, vạn pháp
cũng do tâm mà diệt. Do tâm diệt, cho nên các pháp sẽ diệt!
(Kinh) Như thị sở thuyết tâm nghĩa
giả, hữu nhị chủng tướng. Hà đẳng
vi nhị? Nhất giả, tâm nội tướng. Nhị giả,
tâm ngoại tướng. Tâm nội tướng giả, phục
hữu nhị chủng. Vân hà vi nhị? Nhất giả, chân;
nhị giả, vọng.
(經)如是所說心義者。有二種相。何等爲二。一者心內相。二者心外相。心內相者復有二種。云何爲二。一者真。二者妄。
(Kinh: Nghĩa của tâm như vừa
mới nói có hai loại tướng. Những ǵ là hai? Một
là tâm nội tướng, hai là tâm ngoại tướng. Tâm
nội tướng lại có hai thứ. Thế nào là hai? Một
là chân, hai là vọng).
Ư nghĩa của tâm như ta (Địa Tạng
Bồ Tát) vừa nói đó, có h́nh tướng để có
thể biểu đạt hay không? Có chứ! Có hai loại
tướng. Tâm vốn vô tướng, biểu đạt cái
tâm ấy như thế nào? Dùng tướng để biểu
đạt. Đạo lư hiển thị cái tâm là như thế
nào? Dùng hai loại tướng để biểu đạt.
Có hai loại tướng, những ǵ là hai? Một là tâm nội
tướng, hai là tâm ngoại tướng; tức là tâm có
nội tướng và ngoại tướng. Đại Thừa
Khởi Tín Luận giảng cái tâm này chia thành hai môn: Một
là tâm Chân Như môn, hai là tâm sanh diệt môn. Một tâm chia thành
hai môn. Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, Địa Tạng
Vương Bồ Tát chia cái tâm thành nội tâm tướng
và ngoại tâm tướng, [Ngài gọi chúng là] tâm nội tướng
và tâm ngoại tướng. Nội tâm tướng và ngoại
tâm tướng, [mỗi
loại] cũng chia thành hai loại. Nội tâm tướng
là bất sanh, bất diệt, ngoại tâm tướng là sanh
diệt. Nói theo kiểu như vậy th́ dường như
tâm có trong và ngoài. Nếu hiểu như vậy th́ là sai lầm
mất rồi! Nội tướng thật sự chẳng
phải là nội tướng, tâm chẳng ở trong. Ngoại
tướng cũng chẳng phải là ngoại tướng,
tâm chẳng ở bên ngoài. Chẳng phải trong, chẳng phải
ngoài, mà cũng chẳng ở giữa. V́ lo ngại hết thảy
chúng sanh chấp trước, Địa Tạng
Vương Bồ Tát ngay lập tức
giải thích tâm nội tướng là ǵ? Tâm ngoại tướng
là ǵ? Ngài giải thích từng bước.
Tâm nội tướng cũng chia thành hai thứ,
thế nào là hai? Một là chân, hai là vọng. Tâm nội tướng
là ǵ? Có chân tướng trong tâm và vọng tướng trong
tâm. Một đằng là tâm, một đằng là tâm sở.
Nương vào Lư Thể
của cái tâm mà dấy lên, nó được gọi bằng
danh từ Thật Tướng, chính là “cảnh giới
Nhất Thật” như trong nửa bộ trước đă
nói. Cái Chân ấy
trọn khắp trong ngoài, trọn khắp tâm Chân Như, và cũng
trọn khắp tâm sanh diệt. Tâm sanh diệt cũng là tâm,
tâm Chân Như cũng là tâm. Tâm nội cũng là tâm, tâm ngoại
cũng là tâm. Chúng dấy lên tác dụng khác nhau, có khởi tác
dụng bất đồng.
(Kinh) Sở ngôn chân giả, vị tâm thể
bổn tướng, như như bất dị, thanh tịnh
viên măn, vô chướng, vô ngại, vi mật nan kiến,
dĩ biến nhất thiết xứ, thường hằng
bất hoại, kiến lập sanh trưởng nhất thiết
pháp cố.
(經)所言真者。謂心體本相。如如不異。清淨圓滿。無障無礙。微密難見。以遍一切處常恆不壞。建立生長一切法故。
(Kinh: Cái được gọi là
“chân” chính là nói đến bổn tướng của tâm thể
như như chẳng khác, thanh tịnh viên măn, chẳng
chướng, chẳng ngại, kín nhiệm khó thấy, v́ nó
trọn khắp hết thảy mọi nơi, thường
hằng chẳng hoại, kiến lập, sanh trưởng
hết thảy các pháp).
Chân là ǵ? Vọng là ǵ? “Sở ngôn chân giả”
(cái được gọi là Chân), Địa Tạng
Vương Bồ Tát tự đặt tựa đề
cho lời giải thích của Ngài. Bổn tướng của
tâm thể như như chẳng khác, chỉ là một
tướng. Bổn tướng của tâm thể là tướng
vô tướng! “Như như” có
nghĩa là “bất động, bất biến”. “Bất
dị như như”: Như và Như Thị chẳng
khác. Tướng của tâm thể chẳng khác, nó thanh tịnh,
viên măn, chẳng có chướng ngại, [đó là ư nghĩa
của từ ngữ] “vô chướng, vô ngại”. Quư
vị muốn thấy, vẫn chẳng
thể thấy được, chỉ dùng nghĩa lư để
lư giải, [nghĩa lư] ấy kín nhiệm, khó thấy! Cái tâm
thể ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi.
Nó bất hoại, chẳng đổi, chẳng khác, chẳng
một, chẳng hai. Nói là một th́ chẳng thể được,
[ta thường tưởng lầm] “chẳng phải là một,
th́ là hai”, nhưng nói là hai th́ cũng chẳng thể
được! Chẳng hoại, chẳng biến đổi,
thường luôn là như thế. Có thể sanh ra hết thảy
các pháp, hết thảy các pháp nương vào nó. Có thể
sanh ra hết thảy các pháp, hết thảy các pháp đều
nương vào bổn tướng của tâm thể. Là chỗ
nương tựa của hết thảy các pháp th́ là tướng
ǵ vậy? Ĺa tướng tâm duyên. Dùng tâm duyên để duyên
niệm sẽ chẳng thể được. Ĺa hết
thảy niệm, sẽ chẳng niệm được. Nó ĺa tâm
duyên, ĺa ư niệm. Rốt cuộc nó là h́nh dạng như thế
nào? Hư không có h́nh trạng như thế nào, tướng
ấy (tướng của tâm thể) sẽ có h́nh dạng
như thế đó. Do vậy, nó bằng với hư không
giới, giống như hư không giới, thường trụ,
bất hoại, chẳng thay đổi, bất diệt. V́
nó có thể sanh khởi hết thảy các pháp, hết thảy
các pháp sanh từ đó, điều này được nói là
“do tâm sanh, các pháp sanh”. Hết thảy các pháp từ điều
này mà diệt, [nên nói] “do tâm diệt nên các pháp diệt”.
Đó gọi là tâm sanh diệt. C̣n tâm Chân Như th́ không có lời
lẽ nào để nói. Chân Như là không có ngôn ngữ, ĺa tướng
ngôn ngữ, ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa Nghiệp
Tướng,
ĺa Khởi
Nghiệp
Tướng,
ĺa Khổ Tướng,
thứ ǵ cũng đều chẳng có. Tâm Chân Như chân thật,
bất động, như như bất động, vậy
th́ nó được biểu đạt bằng cách nào? Chính
là bằng cái tâm sanh diệt. Đều là một cái tâm, [nhưng
xét theo Thể hoặc Tướng] th́ bèn thành tâm Chân Như
hay tâm sanh diệt. Dùng ngay cái tâm sanh diệt để biểu
đạt cái tâm Chân
Như.
Do khi giảng giải, Địa Tạng Vương
Bồ Tát nói rất đơn giản; cho nên trong Đại
Thừa Khởi Tín Luận do Mă Minh Bồ Tát trước tác,
Ngài (Mă Minh Bồ Tát) đă
chia thành nhất tâm, nhị môn, và tam đại, tức là từ
một cái tâm [mà chia thành hai môn là] tâm Chân Như môn và tâm sanh
diệt môn, [và tam đại là] Thể, Tướng, Dụng.
Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy đại
lược. Địa Tạng Vương Bồ Tát giảng
về cội gốc của cái tâm, về bổn tướng
của tâm thể. Đó chính là Thể, Tướng, Dụng.
Tôi thường nói kinh Chiêm Sát và kinh Địa Tạng đều
thuộc hệ thống Hoa Nghiêm. Đại Phương Quảng
Hoa Nghiêm Kinh dùng các thí dụ để lănh hội, Đại
là tâm thể, Phương là tâm tướng, Quảng là tâm
dụng. [Nói gộp chung lại], Đại Phương Quảng
là Thể, Tướng, Dụng của chính ḿnh, mà cũng là
Thể, Tướng, Dụng của Phật. Sau đấy,
nói chữ Phật [trong tựa đề kinh Hoa Nghiêm, hàm ư]
Phật được biểu hiện như thế nào? [Bằng
các từ ngữ] Đại Phương Quảng, tức
là Thể, Tướng, Dụng của Phật. V́ thế,
đoạn kinh văn này có ư nghĩa giống nhau, b́nh đẳng
với kinh Hoa Nghiêm.
“Chân” là ǵ? Bổn tướng của cái
tâm. Mỗi người chúng ta đều có, đều sẵn
đủ, nhưng chẳng thể dùng được,
chẳng thấy được, vẫn chẳng lư giải, v́ tự tâm
chẳng nhận biết tự tâm, đă mê rồi! Có thể
lư giải như thế nào? Tôi nêu thí dụ. Khi tôi ở Đại
Lục, thường nhắc tới Trung Quốc Nhân Dân Ngân
Hàng [dùng nó làm tỷ dụ]. Đối với người
Hoa [tại Đại Lục] th́ đó là ngân hàng của họ.
Người Hoa nào có thể đến ngân hàng ấy lấy
được một đồng hay không? Chẳng lấy
được! Ngân hàng là của quư vị, chỉ là quư vị
có phần, nhưng muốn dùng lại chẳng dùng được!
“Thể” giống như vậy đó! Trung Quốc Nhân
Dân Ngân Hàng là của nhân dân Trung Hoa. Nhân dân là chủ nhân, mở
ngân hàng, nhưng quư vị tới ngân hàng để
chi ra một đồng cũng chẳng
được! Chúng ta vốn trọn đủ cái Thể
ấy, giống hệt chư Phật và Bồ Tát. Do chúng ta đă mê,
nên chẳng có quyền [sử dụng]
(tức chẳng thể sử
dụng cái Dụng của Thể), chúng
ta đă tự ḿnh đánh mất. Quư vị
làm thế nào cho nó hiện ra, hăy vận dụng cái Quyền
(Thể) để hiển hiện.
Bản thể của tâm là “như
như bất dị”. Pháp Như vừa
được nhắc đến trong phần trước
là bất động, vĩnh viễn bất biến, vĩnh
viễn chẳng khác, thanh tịnh viên măn, chẳng có chướng,
mà cũng chẳng có trở ngại, kín nhiệm, khó thấy.
Chẳng trông thấy mà có thể thành được ư?
Chẳng trông thấy, chẳng có chút tác dụng nào. Hết
thảy chúng sanh và Phật chẳng hai, chẳng khác. Chúng ta
và chư Phật chẳng khác biệt, như đối với
diệu dụng của chư Phật, chúng ta chẳng có một
thứ nào! Có thể có hay không? Chẳng có! Chư Phật vô
chướng, vô ngại, kín nhiệm khó thấy, trong hết
thảy mọi nơi, hết thảy mọi lúc đều
chẳng đổi, chẳng hoại. Tâm có thể sanh trưởng
hết thảy các pháp, hết thảy các pháp được
sanh bởi tâm. Đó là giác. “Giác” bao gồm hai loại: Một là giác,
hai là bất giác! Đều là giác, cùng một nghĩa giác,
nhưng nó lại có một cái giác và một cái bất giác.
Người đă giác là chư Phật, Bồ Tát, c̣n bất
giác là phàm phu lục đạo chúng sanh. Cùng là một cái
giác mà có giác và bất giác. Nói đến Chân th́ chính là nói đến
ư nghĩa Giác, đă giác ngộ bèn là chư Phật. V́ thế,
tâm, Phật, chúng sanh, cả ba chẳng sai biệt, chỉ là
mê và ngộ. Đă ngộ th́ sẽ b́nh đẳng với chư
Phật, mê rồi th́ là chúng sanh. Đó là thật, chân thật
chẳng sai!
(Kinh) Sở ngôn vọng giả, vị
khởi niệm phân biệt, giác tri, duyên lự, ức tưởng
đẳng sự. Tuy phục tương tục, năng
sanh nhất thiết chủng chủng cảnh giới, nhi
nội hư ngụy, vô hữu chân thật, bất khả
kiến cố.
(經)所言妄者。謂起念分別覺知緣慮憶想等事。雖復相續能生一切種種境界。而內虛僞無有真實。不可見故。
(Kinh: Nói tới vọng là nói tới
các chuyện như khởi niệm phân biệt, hay biết,
duyên lự, nghĩ nhớ v.v… Tuy lại có thể liên tục
sanh ra hết thảy các thứ cảnh giới, nhưng trong
ấy đều là hư ngụy, chẳng chân thật, chẳng
thể thấy).
Đoạn trước nói về giác, c̣n đoạn
này nói về bất giác. Tŕnh tự trong bất giác rất
nhiều, chẳng phải do một hai câu nói mà có thể nói
trọn. Mă Minh Bồ Tát tạo Đại Thừa Khởi
Tín Luận, có nói “nhất niệm bất giác sanh tam tế”,
tức là nói về ba tế tướng, đă phiền năo
rồi! Phiền năo từ vô minh sanh ra. “Một niệm bất
giác” là nói đến vô minh. “Tam tế tướng”
là nghiệp tướng, chuyển tướng, và hiện
tướng. Bọn phàm phu chúng ta khi muốn đoạn ba
thứ tướng ấy th́ phải đạt tới Bát
Địa Bồ Tát sẽ đoạn hiện tướng,
Cửu Địa Bồ Tát đoạn chuyển tướng,
Thập Địa Bồ Tát đoạn nghiệp tướng,
nhưng [để đạt tới các địa vị ấy],
phải trải qua vô lượng kiếp.
Ở đây, [nói tới nội tâm tướng]
rơ ràng
là nói tổng quát, [chỉ nói đơn giản] một
đằng là chân, một đằng là vọng. Khi chúng ta
đối trước hết thảy sự vật, hễ
khởi tâm động niệm, hễ dấy lên phân biệt,
mong biết rơ, tức là đối với vấn đề
quư vị chẳng hiểu rơ, bèn mong biết rơ. Khởi tâm động
niệm là khởi vọng, tức là dấy lên vọng
tưởng, phân biệt, hay biết, duyên ức (緣憶, do một
sự việc, một t́nh huống nào đó bèn nghĩ nhớ),
mong giác ngộ, duyên niệm (nghĩ ngợi tới một
sự việc, t́nh huống nào đó), suy lường. Quư vị
có các sự tướng ấy liên tục chẳng dứt,
càng nghĩ càng thô, càng phân biệt càng thô, cho đến dấy lên nghiệp. Hễ tạo nghiệp, sẽ bị nghiệp ràng buộc.
Thiện nghiệp sẽ ràng buộc quư vị nơi thiện
nghiệp, ác nghiệp sẽ ràng buộc quư vị nơi ác
nghiệp. Phàm là khởi tâm động niệm th́ gọi là
“khởi nghiệp” (dấy lên nghiệp). Cái nghiệp
ấy sẽ nắm giữ quư vị, quư vị chạy chẳng
thoát, muốn đoạn nó khó lắm. V́ sao? Nó càng nhiễm
càng thô, lại chẳng ngừng tạo nghiệp. Khi quư vị
đă tạo nghiệp, mong tái khôi phục, sẽ hết sức
khó khăn. Tạo nghiệp dễ dàng, cho tới khi quư vị
tiêu diệt nghiệp chướng, sẽ phải trả
giá gấp mười, và cũng trả giá gấp trăm,
gấp ngàn lần.
Nay chúng ta muốn gột rửa sạch sẽ,
khôi phục sự thanh tịnh vốn có, v́ nghiệp tập,
nghiệp chướng đă tích lũy nhiều đời,
nhiều kiếp, chúng chướng ngại quư vị thấy
bản tánh Chân Như. Quư vị muốn gột sạch, nhưng
chẳng phải là quư vị đă gây tạo một ngày, một
năm, hai năm, mà là vô lượng kiếp, cho nên quư vị
gột rửa dễ dàng hay không,
tùy thuộc sức lực của quư vị! Như Thiền
Tông “đốn siêu trực nhập, lập tức chứng
Bồ Đề” th́ chẳng phải là thật sự chứng
Bồ Đề. “Lập tức chứng Bồ Đề”
nghĩa là đoạn dứt phiền năo, kiến đạo.
Đă “chứng đắc”, vẫn
phải tu, vẫn phải rèn luyện dần dần! Giống
như chúng ta đă làm sai một chuyện, do vọng tâm của
quư vị mạnh mẽ, nhạy bén, sẽ lập tức
làm ngay. Cho đến khi quư vị dấy lên thiện tâm, muốn
chuyển biến rốt ráo chuyện sai lầm ấy, sẽ
phải trả
giá rất nhiều. [Chúng ta sám hối nghiệp chướng]
có cùng một đạo lư như vậy, khi chúng
ta khởi tâm động niệm tạo nghiệp, càng biến
đổi, càng thô, càng biến đổi sẽ càng thô nặng
hơn!
Thậm chí chúng ta đă hiểu rơ, bắt đầu
học Phật, các đệ tử Phật thông thường
là trước hết phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Chúng ta tự học, đọc rất nhiều kinh luận,
vẫn không thể coi là đệ tử Phật môn, v́ chưa
“quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Phải thọ Tam
Quy, bắt đầu quy y lần nữa! Chúng ta thường
nói theo sự tướng, quy y th́ có tượng Phật, có
tăng nhân, có pháp Tam Quy. Đó
là nói theo sự tướng. Nói theo Lư, Tam Bảo ấy
là tự tánh Tam Bảo, trở về cội nguồn. Khi
quy y Tam Bảo, khôi phục tự tánh Phật Bảo và tự
tánh Tăng Bảo của chính ḿnh. Phật và Tăng ḥa hợp
là Pháp, quy y tự tánh Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Chúng
ta thường nói: “Tôi chỉ cần nương cậy một
vị sư phụ, quy y Tam Bảo là đă nhập Phật
môn”. Vậy là chưa được! Các vị sư phụ
đă xuất gia như chúng tôi, cho tới các vị cư sĩ
đạo hữu tại gia, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc,
ưu-bà-di, tức
tứ chúng đệ tử hằng ngày bắt đầu
niệm kinh, hoặc là quư vị bái sám, vừa mở đầu
bèn “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, chúng ta phải
niệm quy y Tam Bảo. Đó chưa phải là thọ Tam Quy,
quy y Tam Bảo, mà phải là trong mỗi niệm đều
không ngừng quy y Tam Bảo, luôn luôn quy y Tam Bảo. Quư vị
niệm một bộ kinh nào, vừa khai kinh, nhất định
là quy y Tam Bảo. Nếu mọi người niệm kinh Hoa
Nghiêm, chẳng hạn Hoa Nghiêm Phổ Hiền Hạnh Nguyện
Phẩm; trong mười đại nguyện vương, quy
y Tam Bảo đă chiếm ba đại nguyện! Quy y Tam Bảo
là sám hối nghiệp chướng.
Tam Bảo thường hiện hữu, chẳng
phải là trong thời gian ngắn ngủi. V́ sao? Đó gọi
là “giác tri”, hoặc gọi là giác nghĩa. Bản thân chúng
ta giác nghĩa chẳng đủ, sức giác ngộ chẳng
đủ, phải cậy vào Tam Bảo
gia tŕ, niệm nào cũng chẳng quên Tam Bảo. Điều
thứ nhất, niệm Tam Bảo tiêu trừ nghiệp
chướng. Có rất nhiều đệ tử Phật, đă
tin Phật mà c̣n bị ma dựa. Phật đường của
họ c̣n có ma nạn, cảm thấy c̣n có quỷ thần đến.
Chính người ấy chẳng tự biết, [nguyên nhân là
do] quư vị quy y chẳng chân thật. Quư vị trọn chẳng
thật sự quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Quư vị
thật sự quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo, há có các ma
nạn ấy, quỷ thần c̣n đến được
ư? Khi quư vị quy y Tam Bảo, thần hộ pháp đều
ở cạnh quư vị. Chẳng phải là họ hộ tŕ
quư vị, mà là hộ tŕ Tam Bảo. V́ quư vị niệm nào
cũng đều chẳng ngừng nhớ tới Tam Bảo,
th́ niệm nào cũng được Tam Bảo hộ tŕ,
như thế há c̣n quỷ thần quấy nhiễu ư? Rất
nhiều đệ tử Phật nói “bị quỷ mê hoặc”,
Phật đường của họ có quỷ thần xuất
hiện. Vậy th́ phải tự hỏi chính ḿnh: Quư vị
quy y Tam Bảo chẳng chân thật, tối thiểu là phải
đặt ra câu hỏi như thế. Nếu quư vị chân
thật, sao c̣n có hiện
tượng ấy cho được? Quư vị có biết:
Quy y Phật sẽ có khá nhiều vị hộ pháp hay không? Quy
y Pháp có khá nhiều hộ pháp hay không? Quy y Tăng có khá nhiều
hộ pháp hay không? Nếu tâm chân thật, nguyện sẽ
thiết tha. Tâm chẳng chân thật, nguyện chẳng thiết
tha, sức hộ tŕ của Tam Bảo sẽ chẳng gia tŕ
quư vị được! Tam Bảo gia tŕ trọn khắp,
[thế mà] chính ḿnh chẳng cầu Tam Bảo gia tŕ! Quư vị
toàn dấy vọng tưởng. Nếu nói khó nghe hơn một
tí, nói quyết liệt hơn một chút th́ là “lường
gạt Tam Bảo”. Chuyện này mọi người
đều có thể suy nghĩ được, nhưng có
thể giảm thiểu tội chướng hay không? Có phước
báo hay không? Phước báo vẫn có. Chúng ta quy y Tam Bảo,
bất luận quư vị là giả, cho đến quư vị
chỉ thực hiện bề ngoài, phước báo ấy là
phước báo nhân thiên, là phước báo nơi của cải,
trong cuộc sống, là các thứ ấy. Nhưng quư vị
mong liễu đạo, mong thành tựu th́ đối với chuyện
quy y Tam Bảo, cái tâm của quư vị phải cùng với Tam Bảo hợp
thành một!
Tập 12
Nay chúng ta nói đến cái tâm, nói về duy
tâm. Duy tâm cũng chẳng phải là đơn giản như
thế. Muốn hiểu rơ duy tâm rất khó, chẳng hiểu
rơ tới mức độ nào? Nếu quư vị hiểu rơ,
sẽ khai ngộ. Người ta nói “minh tâm kiến tánh”;
hễ đă minh, quư vị sẽ liễu sanh tử. Ở
đây, Địa Tạng Vương Bồ Tát nói tâm chia thành
tâm nội tướng và tâm ngoại tướng, chân tâm, vọng
tâm. Tướng nội tâm lại chia thành hai loại, một
là chân, hai là vọng. Nói đến “chân” th́ là bổn tướng
của tâm thể, chư Phật đă chứng đắc,
hết thảy chúng sanh đều mê. Bổn
tướng của tâm thể là thanh tịnh, là viên măn, là
như như, chẳng đổi khác. Bổn tướng
của tâm thể chẳng có chướng ngại, nhưng
chẳng dễ thấy được, chẳng dễ hiểu
rơ ư nghĩa này, chẳng thể kiến tánh. Cái tâm ấy trọn
khắp hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi,
vốn chẳng có nhiễm cấu, thanh tịnh, viên măn, nhưng
chúng ta chẳng thấy được, nó kín nhiệm khó thấy!
Lại v́ nó thường luôn là như thế, chẳng biến
đổi, chẳng khác, chẳng hoại;
hết thảy các pháp đều sanh từ tâm. Do tâm
sanh, nên pháp sanh. Tâm diệt, pháp cũng diệt. Đó là nói về
tâm thể. Có bổn tướng của tâm thể hay không?
Có chứ! Tướng ǵ vậy? Là như như, chẳng
có chút cấu nhiễm nào, ly niệm. Đó gọi là “ly niệm
Chân Như”. Đấy là nói cái tâm vốn chẳng có thanh
tịnh và hư vọng. Do quư vị động niệm,
khởi tâm động niệm, vừa
dấy lên ư niệm chẳng thanh tịnh, dấy niệm
bèn có phân biệt. Đó gọi là “tướng vốn có của
Bổn Giác”. Hễ khởi tâm động niệm, sẽ
đánh mất tướng sẵn có, từ Bổn Giác nẩy
sanh bất giác. Vốn là bổn tướng thanh tịnh viên
măn, như Tâm Kinh nói bổn tướng của cái tâm là “vô
quái ngại, bất cấu, bất tịnh, bất tăng,
bất giảm” (chẳng vướng mắc, chẳng
dơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm),
chẳng có vọng niệm.
Giả sử vừa dấy lên ư niệm, dấy
lên ư niệm là vọng. Nói tới vọng th́ dấy lên ư niệm
phân biệt, duyên lự, thấy, nghe, hay, biết. Ư niệm
ấy liên tục trong mỗi niệm, vĩnh viễn chẳng
đoạn. Nó sẽ sanh ra hết thảy các tướng cảnh
giới. Thông thường, nói theo giáo nghĩa Đại Thừa,
cái tâm này vốn là như như bất động. Hễ
vừa động niệm th́ sẽ sanh ra ba thứ tế
tướng, lại nhờ vào duyên bên ngoài, cảnh giới
làm duyên, càng tăng trưởng, càng thô, sanh ra sáu loại
thô tướng (trí tướng, tương
tục tướng, chấp thủ tướng, kế danh
tự tướng, khởi nghiệp tướng, nghiệp
hệ khổ tướng). Khi vừa mới
khởi niệm, cái tướng được duyên bởi
tâm bèn chẳng ĺa khỏi tâm, vẫn là chân tâm, nhưng cái Chân
Như ấy được gọi là “ly niệm Chân
Như”. Lúc tâm quư vị vừa động niệm, sẽ
phân biệt vi tế thành nghiệp tướng, chuyển
tướng, và hiện tướng. Đó là “một niệm
bất giác sanh ra ba tế tướng”. Lúc vừa khởi
tâm động niệm, trong ấy chứa đựng ba loại
tướng (ba tế tướng). “Nghiệp” là chúng ta nói tới tám thức.
Khi tướng ban đầu của tám thức vừa chuyển,
chuyển thành hiện tướng. “Hiện” là biểu
hiện, sẽ hiện ra tướng cảnh giới; điều
này rất vi tế. Khởi niệm phân biệt bèn nghĩ
nhớ các chuyện, dần dần sanh ra tướng cảnh
giới. Trong ba tế tướng của cái tâm, chẳng
có tướng cảnh giới. Lúc đoạn, sẽ rất
khó khăn. Khởi lên cảnh như thế: Nghiệp tướng
sanh khởi chuyển tướng, chuyển tướng sanh
khởi hiện tướng. Bát Địa Bồ Tát đoạn
hiện tướng, Cửu Địa Bồ Tát đoạn
chuyển tướng, Thập Địa Bồ Tát đoạn
nghiệp tướng. Chúng ta phải tu đạt
tới công phu Bát Địa, rất khó! Chẳng biết
phải trải qua bao nhiêu ức[10] kiếp! V́ thế,
khi ấy, do càng chuyển càng thô, đă khởi niệm, đă
phân biệt, đă tưởng nhớ, niệm
sẽ tiếp nối chẳng dứt. Cảnh giới ấy
chúng ta vẫn chưa đạt tới.
Nương theo cái tâm Bổn Giác vốn sẵn
có này, sanh khởi hết thảy các tướng, có tế
và thô. [Tướng ấy] mới sanh khởi th́ gọi là
tế, từ tế mà chuyển thành thô. Càng chuyển càng
thô! V́ nó tiếp tục chẳng ngừng duyên lự, nghĩ
nhớ, phân biệt; khi đó, nếu muốn
phân biệt các tướng ấy th́ sẽ có trí tướng,
trí trong “trí huệ”. Phải đạt tới Thất
Địa Bồ Tát th́ mới có thể đạt tới
trí tướng. Hễ khởi lên, tức là hễ có trí tướng
th́ sẽ phân biệt, càng phân biệt càng thô! Sự phân biệt
ấy lại c̣n chẳng ngưng dứt, tiếp nối
không ngừng. Nó được gọi là “tương tục
tướng” (相續相, tướng
liên tục, tướng tiếp nối). Do liên tục, bèn
dấy lên chấp trước. Chấp trước
[thứ chi đó] là tốt th́ sẽ giữ lấy, chấp
trước nó là xấu th́ sẽ
muốn vứt bỏ. Cái tâm
tương tục khởi lên trí tướng và tương
tục tướng. Hễ lấy bỏ bèn dấy lên nghiệp,
tức là tốt th́ lấy, xấu th́ bỏ. Bỏ mà bỏ
chẳng được, ưa thích mong lấy
mà lấy chẳng được. Những điều này đều
thuộc về “thấy, nghe, hay, biết” phân biệt
của ta. Chúng ta nghĩ nhớ, giác ngộ, hiểu
rơ, hoặc mong cầu biết, nhưng cái tâm cầu biết
ấy
có phân biệt, lấy tốt, bỏ xấu. Tâm ấy
càng sanh, càng hư vọng, ĺa chân thật càng xa. Có thấy
th́ cũng chẳng thấy được, toan sờ cũng
chẳng sờ được. Hiện thời, chúng ta vẫn
chưa đạt tới t́nh huống ấy, nhưng do trong
kinh, Phật, Bồ Tát đă dạy, chúng ta biết chính
ḿnh dấy
lên ư niệm đều là phân biệt, là vọng tâm. V́ quư
vị khởi vọng, khởi niệm, niệm lại chấp
vào tướng cảnh giới. Ư niệm hễ sanh, sẽ
tạo thành tướng cảnh giới hiện tiền. Tướng
cảnh giới ấy cũng do nương vào Bổn Giác mà
có. Nương vào Bổn Giác mà có th́ là hư vọng, chẳng
có tự thể của hư vọng, chẳng thấy được,
mà cũng chẳng sờ được. V́ thế, gọi
là “vọng”. Trong lúc ấy, nó vẫn ở trong tâm, chẳng
phải là ngoài tâm. Trong tâm, tự ḿnh sanh ra tướng, tự
ḿnh phân biệt, tự ḿnh duyên lự. Địa Tạng Bồ
Tát bảo tâm tướng của chúng ta chia thành nội và
ngoại. Những điều vừa mới nói trên đây
chính là nội tâm tướng. Ngoại tâm tướng có h́nh
dạng như thế nào?
(Kinh) Sở ngôn tâm ngoại tướng
giả, vị nhất thiết chư pháp chủng chủng
cảnh giới đẳng, tùy hữu sở niệm, cảnh
giới hiện tiền. Cố tri hữu nội tâm cập
nội tâm sai biệt.
(經)所言心外相者。謂一切諸法種種境界等。隨有所念。境界現前。故知有內心及內心差別。
(Kinh: Nói tới “tâm ngoại tướng”
là nói các thứ cảnh giới của hết thảy các
pháp đều do có ư niệm, cho nên cảnh
giới hiện tiền. V́ thế biết có nội tâm và nội
tâm sai biệt).
Nói tới “tâm ngoại tướng” là
nói tới tất cả h́nh tướng được hiện
bởi hết thảy các pháp. Đối với tướng
cảnh giới bên ngoài, quư vị vừa “niệm”, “niệm”
nghĩa là suy nghĩ, vừa suy nghĩ bèn có tướng cảnh
giới bên ngoài. Cái niệm trên đây chính là năng duyên (chủ
thể để duyên theo một đối tượng nào
đó, chẳng hạn cảnh giới bên ngoài). Cái tâm năng
duyên bèn duyên theo sở duyên (đối tượng được
duyên), [hay nói cách khác], cái tâm năng duyên duyên theo tướng
ở bên ngoài cái tâm. “Ngoại tướng” là cảnh
giới. Dấy lên chấp trước đối với tướng
cảnh giới, đó gọi là “tâm ngoại tướng”.
Đă biết sự sai biệt trong nội tâm th́ mới do
nội tâm mà khởi lên ngoại tướng. Ngoại tướng
là duyên phần (tức là đối tượng được
duyên bởi cái tâm, hay c̣n gọi là Tướng Phần). Cái
tâm duyên theo tướng (tức Kiến Phần), trong phần
trên [nó được gọi] là năng duyên, c̣n ở đây
là nói tỉ mỉ. Đối với hết thảy các pháp,
[kinh văn dùng chữ] “hết thảy các pháp” với
ư nghĩa nói đại diện. [Hăy nên hiểu] “hết
thảy các pháp” chính là “hết thảy các tướng
cảnh giới”. Do quư vị chấp trước tướng
cảnh giới hiện tiền, nội tâm liền dấy
lên sự sai biệt.
Do nghiệp tướng, chuyển tướng và hiện tướng
trong phần trước c̣n chưa dấy lên sự sai biệt,
kể từ trí tướng, tương tục tướng
trở đi, sẽ lập tức dấy lên tướng
sai biệt. [Do chấp trước
tướng cảnh giới hiện tiền hay không mà nội
tâm lại chia thành tâm nội tướng và tâm ngoại tướng,
tức là trong nội tâm lại chia thành hai loại sai biệt,
cho nên chánh kinh mới chép “nội tâm và
nội tâm sai biệt”].
(Kinh) Như thị đương tri nội
vọng tướng giả, vi nhân, vi Thể.
Ngoại vọng tướng giả, vi quả, vi Dụng.
Y như thử đẳng nghĩa, thị cố ngă thuyết:
“Nhất thiết chư pháp tất danh vi tâm”.
(經)如是當知內妄相者。爲因爲體。外妄相者爲果爲用。依如此等義是故我說。一切諸法悉名爲心。
(Kinh: Như thế th́ hăy nên biết: Nội
vọng tướng là nhân, là Thể,
c̣n ngoại vọng tướng là quả, là Dụng.
Nương vào các nghĩa như thế, cho nên ta nói: “Hết
thảy các pháp đều gọi là tâm”).
Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy
chúng ta: Quư vị phải biết vọng tướng (妄相, tướng hư vọng) trong nội
tâm của quư vị. Tướng hư vọng trong nội
tâm là vọng tưởng (妄想) trong nội tâm.
Chúng ta thường nói tới vọng tưởng; đó là
cái nhân, là Thể. Tất
cả vọng tưởng của chúng ta, từ vọng
tưởng mà sanh ra rất nhiều sự vật, cho nên nói vọng
tưởng là tâm, là Thể,
nó cũng làm cái nhân cho hết thảy các pháp. Nhân nhất
định cảm quả, cảm khổ báo, lạc báo, thọ
báo, cảm các thứ duyên sai khác. Do vọng tướng (tướng hư vọng) trong nội
tâm mà cảm xúc tướng cảnh giới bên ngoài. Đó
gọi là “vọng tưởng tơi bời”, khởi
lên các thứ tác dụng. Nhưng do các thứ tác dụng chẳng
ĺa khỏi tâm, chúng ta thường nói chuyện này là “vạn
pháp duy tâm”. Nếu nói đảo lại, sẽ là “tâm sanh vạn
pháp, vạn pháp sanh từ tâm, vạn pháp lại trở về
tâm”. Tâm sanh
ra vạn pháp, làm cái Thể cho vạn pháp. Tướng và Dụng
do Thể sanh ra vẫn quy hoàn nhất tâm. Khi sanh khởi th́
gọi là nhân, nhân nhất định cảm quả, nhân ắt
cảm quả, quả là Thể. Thể nhất định
do tâm mà dấy lên tác dụng. Nhân hay quả cũng thế,
Thể hay Dụng cũng thế, chỉ
do một tâm. Ngoài tâm không có pháp, hết thảy các pháp đều
do tâm sanh, trở về cái tâm. Ngoài tâm th́ tướng
ǵ cũng đều chẳng có. Do vậy,
tâm sanh th́ các pháp đều sanh; tâm diệt th́ các pháp đều
diệt.
V́ thế, chúng ta biết: Tướng hư
vọng bên trong là cái nhân sanh khởi của hết thảy
các pháp, là cái Thể
của hết thảy các pháp, sanh ra vọng tưởng ở
bên ngoài. Tướng hư vọng của nội
tâm sanh ra tướng hư vọng ở bên
ngoài, tướng hư vọng ở bên ngoài là Dụng,
là Quả. Nhân ắt cảm quả, Thể ắt có Dụng.
Chúng ta nói “nhân, quả, Thể, Dụng”, trong ấy
bao hàm “khởi Hoặc, tạo nghiệp”. Nói tương
phản th́ nếu chúng ta tu đạo, tiêu diệt Hoặc,
chẳng cho nó tạo nghiệp, quy
hoàn nghiệp đă tạo về cái tâm. Do chúng ta chẳng
thể lư giải ngoại tướng (tướng bên ngoài),
đấy là tác dụng của mê. Đối với ngoại
tướng, quư vị chẳng thể lư giải, chẳng
biết ngoại tướng là duy tâm! Vạn pháp duy tâm mà
khởi, nhưng chúng ta không biết, chẳng thể lư giải.
Do vậy, từ trong tâm nội tướng mà sanh ra tâm ngoại
tướng, nội và ngoại hoàn toàn là một tâm. V́ thế,
Phật giáo thường nói “vạn pháp duy tâm”, nó sanh
khởi từ đó!
(Kinh) Hựu phục đương tri
tâm ngoại tướng giả, như mộng sở kiến,
chủng chủng cảnh giới duy tâm tưởng tác, vô
thật ngoại sự. Nhất thiết cảnh giới, tất
diệc như thị. Dĩ giai y vô minh thức mộng sở
kiến, vọng tưởng tác cố. Phục thứ, ưng
tri nội tâm, niệm niệm bất trụ cố, sở
kiến, sở duyên nhất thiết cảnh giới, diệc
tùy tâm, niệm niệm bất trụ. Sở vị tâm sanh
cố, chủng chủng pháp sanh. Tâm diệt cố, chủng
chủng pháp diệt. Thị sanh diệt tướng, đản
hữu danh tự, thật bất khả đắc. Dĩ
tâm bất văng chí ư cảnh giới, cảnh giới diệc
bất lai chí ư tâm, như kính trung tượng, vô lai, vô
khứ. Thị cố, nhất thiết pháp, cầu sanh diệt
định tướng, liễu bất khả đắc.
Sở vị nhất thiết pháp tất cánh vô thể, bổn
lai thường không, thật bất sanh diệt cố.
(經)又復當知心外相者。如夢所見。種種境界唯心想作。無實外事。一切境界悉亦如是。以皆依無明識夢所見。妄想作故。復次。應知內心念念不住故。所見所緣一切境界。亦隨心念念不住。所謂心生故種種法生。心滅故種種法滅。是生滅相。但有名字。實不可得。以心不往至於境界。境界亦不來至於心。如鏡中像。無來無去。是故一切法。求生滅定相。了不可得。所謂一切法畢竟無體。本來常空。實不生滅故。
(Kinh: Lại nữa, hăy nên biết: “Tâm
ngoại tướng” là như những ǵ thấy trong mộng. Các thứ cảnh
giới chỉ do tâm tưởng tạo ra, chẳng có sự
việc thật sự ở bên ngoài. Hết thảy cảnh
giới cũng đều như thế, do đều nương
theo vô minh và thức như thấy trong mộng, do vọng
tưởng tạo ra. Lại nữa, hăy nên biết nội
tâm trong mỗi niệm cũng đều chẳng trụ, hết
thảy cảnh giới được thấy hoặc được
duyên cũng thuận theo cái tâm mà niệm nào cũng đều
chẳng trụ. Điều này được diễn tả
là “do tâm sanh nên các pháp sanh, do tâm diệt nên các pháp diệt”,
là tướng sanh diệt, chỉ có danh tự, thật sự
chẳng thể được. Do tâm chẳng
đến cảnh giới, cảnh giới cũng chẳng
đến cái tâm, như h́nh tượng trong gương,
chẳng đến, chẳng đi. V́ thế, đối với
hết thảy các pháp mà cầu t́m cái tướng nhất
định của sự sanh diệt, sẽ trọn
chẳng thể được. Đó gọi là hết thảy
các pháp rốt cuộc chẳng có bản thể, do vốn
là thường không, thật sự chẳng sanh diệt).
Địa Tạng Bồ Tát lại nêu một
tỷ dụ để giảng tâm ngoại tướng là
ǵ? Như chúng ta nằm mộng, trông thấy các thứ cảnh
giới, đó là do quư vị tưởng thành. Tức là do
sự tư duy trong nội tâm mà tưởng
thành, hoặc là tất cả sự vật bên ngoài lại
in bóng dáng vào tâm, đều do tâm khởi. V́ thế, ngoài tâm
chẳng có pháp, hết thảy duy tâm. Phật giáo nói “hết
thảy duy tâm” là nói như thế đó. V́ hết
thảy chúng sanh đối với ngoại tướng (tướng bên ngoài) đều
mê, chẳng lư giải, chẳng biết tướng bên ngoài
là do Tâm Sở
sanh ra. V́ thế, Địa Tạng Bồ Tát bảo chúng
ta: Hết thảy các tướng cảnh giới đều
là như thế, đều chỉ là do tâm tưởng tạo
tác, chẳng có hết thảy [cảnh giới] bên ngoài, đều
do nội tâm dấy lên. Nói theo phía chúng ta, hết thảy các
tướng cảnh giới đều do vô minh khởi. Nếu
chúng ta chẳng lư giải vô minh, giống như chúng ta nằm
mộng, ba tướng Nghiệp, Chuyển,
Hiện
là tế tướng, c̣n trí tướng, tương tục
tướng được gọi là Thức, giống như
chúng ta nói đến tri thức, th́ Tri là bản thể, Thức
là tác dụng. Khi đó, sẽ nắm giữ rất nhiều
phân biệt. V́ thế, đấy là duyên khởi của tâm
pháp. Tâm duyên khởi pháp là hết thảy các tướng do
tâm của chúng ta duyên niệm mà dấy lên. Chúng ta biết tất
cả hết thảy các tướng cảnh giới duyên
khởi trọn chẳng phải là chân thật, do tâm sanh. “Sanh”
là do tâm sanh, “diệt” cũng là do tâm diệt. Tâm sanh th́
các pháp sanh, do tâm diệt
th́ các pháp diệt.
Vấn đề này chỉ được nói
đại khái trong phần trước như thế, Địa
Tạng Vương Bồ Tát lại giải thích vấn
đề này. Do vậy, hăy nên biết: Cái tâm của
chúng ta, niệm nào cũng chẳng trụ, chẳng có lúc ngưng
nghỉ. Niệm nào cũng chẳng trụ th́ nói cách khác sẽ
là “niệm nào cũng chẳng ngừng”. Chẳng hạn
như khi chúng ta ngủ, khi chẳng dụng tâm, tâm ta vẫn
hoạt động y hệt, hoàn toàn chẳng ngừng. Sự
diễn biến này do chính quư vị tạo tác. Cái tâm nằm
mộng chẳng ngừng, vọng tâm duyên theo vọng cảnh.
Nội tâm của quư vị niệm niệm chẳng trụ,
hết thảy tâm cảnh mà quư vị trông thấy, duyên tưởng,
và tu tập đều
chẳng ngừng trong mỗi niệm. V́ thế, Phật giáo
nói: “Tâm sanh, các pháp sanh. Tâm diệt, các pháp diệt”. Chúng
ta nói “vạn pháp duy tâm” như thế đó, nhưng đạo
lư này được gọi là “tâm sanh diệt môn”. Đại
Thừa Khởi Tín Luận nói “nhất tâm, tam đại,
nhị môn”, th́ là hai môn nào vậy? Tâm sanh diệt môn và tâm
Chân Như môn. V́ nếu nói tới tướng sanh diệt
th́ tướng sanh diệt chẳng có thật thể, chỉ
có danh tự, chỉ là tên gọi mà thôi. Nếu quư vị t́m
cái thật thể th́ nó chẳng có, thật sự chẳng
thể được!
Trong đoạn kinh văn này, Địa Tạng
Bồ Tát dạy chúng ta: Phải nên biết nội tâm của
quư vị niệm niệm chẳng trụ. Những ǵ quư vị
trông thấy chính là nội tâm trông thấy,
duyên theo hết thảy tướng cảnh giới bên ngoài. Tướng cảnh
giới ấy cũng do cái tâm của quư vị dấy lên.
Nội tâm dấy lên tướng cảnh giới, nội
tâm duyên theo tướng cảnh giới của chính ḿnh, niệm
niệm chẳng trụ. Xét theo nghĩa lư, Địa Tạng
Bồ Tát dạy chúng ta: Hễ quư vị sanh tâm th́ các thứ
pháp bèn sanh. Quư vị chẳng sanh tâm, các thứ
pháp bèn diệt. Nhưng các thứ pháp và sự sanh diệt ấy
chỉ có giả danh. Quư vị t́m thứ ǵ thật sự
tồn tại [trong các thứ pháp và sự sanh diệt ấy], sẽ chẳng
t́m được, chẳng có vật ǵ thật sự tồn
tại, chúng là giả danh mà thôi! Do vậy, tâm quư vị đừng
nên trụ nơi tướng cảnh giới. Tâm chẳng
trụ nơi tướng cảnh giới mà hết thảy
tướng cảnh giới bên ngoài cũng cũng chẳng
đến cái tâm của quư vị. Do đạo lư này rất
khó hiểu, cho nên Địa Tạng Bồ Tát nêu ra một
thí dụ. Chẳng hạn như quư vị soi gương, tướng
trong gương là thật hay giả? Trong gương có tướng
hay không? Chẳng có! Khi quư vị chẳng soi, trong gương
chẳng có tướng. Chẳng đến, chẳng đi!
Trong hết thảy các pháp, t́m một cái tướng nhất
định của sự sanh diệt, chúng ta t́m một tướng
nhất định, thứ ǵ sẽ là tướng nhất
định của sự sanh diệt? Đă thuộc loại
sanh diệt, sẽ chẳng có tướng nhất định
để có thể nói được! Chỉ có danh tự,
thật sự là chẳng thể được, chẳng đạt
được cái chân thật. Tâm chúng ta chẳng trụ nơi
tướng cảnh giới, tướng cảnh giới
cũng chẳng đến nơi tâm. V́ cậy, dùng h́nh tướng
trong gương như thế để h́nh dung. Tướng
cũng chẳng đến trong gương, mà gương
vốn cũng chẳng thể sanh tướng. Quư vị
soi gương, c̣n có ǵ đến đi hay không? Chẳng có!
V́ thế, nếu muốn thật sự cầu t́m cái tướng
sanh diệt trong hết thảy các pháp, t́m một tướng
nhất định của sự sanh diệt, nó sanh khởi
như thế nào, diệt như thế nào, sẽ chẳng
thể được. V́ sao chẳng thể được?
Hết thảy các pháp rốt ráo chẳng có bản thể.
Thể của chúng nó là Không, thường Không. Đă là Không,
há c̣n có sanh diệt ư? Trong Không cũng chẳng có sanh diệt.
(Kinh) Như thị nhất thiết pháp
thật bất sanh diệt giả, tắc vô nhất thiết
cảnh giới sai biệt chi tướng, tịch tĩnh
nhất vị, danh vi Chân Như Đệ Nhất Nghĩa Đế
tự tánh thanh tịnh tâm. Bỉ tự tánh thanh tịnh tâm
trạm nhiên viên măn, dĩ vô phân biệt tướng cố.
(經)如是一切法實不生滅者。則無一切境界差別之相。寂靜一味。名爲真如第一義諦。自性清淨心。彼自性清淨心。湛然圓滿。以無分別相故。
(Kinh: Hết thảy các pháp như thế
thật sự chẳng sanh diệt, cho nên không có
hết thảy tướng cảnh giới sai biệt, tịch
tĩnh một vị, gọi là Chân Như Đệ Nhất
Nghĩa Đế tự tánh thanh tịnh tâm. Cái tâm tự tánh
thanh tịnh ấy trong trẻo, viên măn, v́ chẳng có tướng
phân biệt).
Đoạn này nói về “không
sanh diệt”. Sanh diệt
là tâm, chẳng phải là pháp. Do tâm sanh, nên các pháp sanh; do tâm
diệt nên các pháp diệt. Khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo, giảng điều này cũng rất
ngắn, cũng nói đại lược như vậy thôi!
V́ bậc đương cơ trong khi ấy là Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát nói với
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, Ngài nói như vậy, đương
nhiên biết Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nhất định có
thể lư giải; nhưng bọn chúng sanh chúng ta muốn học
thâm nhập, sẽ chẳng
thể tiến nhập trong một thời gian ngắn ngủi
được! Từ ngôn ngữ cho tới sự tư
duy trong nội tâm, quư vị nhờ vào sự tu chứng để
chứng thực, quan sát tất cả sự sanh diệt trong
tâm quư vị, [quan sát] khởi tâm động niệm trong suốt
một ngày, chúng ta cho rằng tâm lại sanh khởi rồi
lại diệt. Sanh cũng là tâm, mà diệt cũng là tâm. Chúng
ta gọi đó là “tư tưởng”, thường thích
nói tới vấn đề tư tưởng. Vấn đề
tư tưởng là vấn đề sanh diệt, vấn
đề sanh diệt chẳng có tướng sanh diệt. Trên
thực tế, tướng sai biệt của tất cả
hết thảy cảnh giới bên ngoài đều chẳng
có, là tịch tĩnh. Cái tự tánh tâm ấy chẳng có tự
tánh, được đặt tên là “Chân Như
Đệ Nhất Nghĩa Đế tự tánh thanh tịnh
tâm”, bản
tánh thanh tịnh, trong lặng, viên măn, chẳng dấy lên phân
biệt.
(Kinh) Vô phân biệt tướng giả,
ư nhất thiết xứ, vô sở bất tại. Vô sở
bất tại giả, dĩ năng y tŕ, kiến lập nhất
thiết pháp cố.
(經)無分別相者。於一切處無所不在。無所不在者。以能依持建立一切法故。
(Kinh: “Tướng
chẳng phân biệt” trong hết thảy mọi nơi, không
đâu chẳng hiện diện. “Không đâu chẳng tồn tại” là v́ nó
có thể nương giữ, tạo lập hết thảy
các pháp).
V́ hết thảy các pháp vốn chẳng có,
là bất sanh, bất diệt. “Chẳng có sanh
diệt” tức là [hết thảy
các pháp] chẳng có. Đă chẳng có tướng sanh diệt,
làm sao có hết thảy các pháp? Nhưng trong cảnh giới
có sai biệt, trong sự sai biệt ấy, tướng sẽ
quy vào Thể, tướng quy vào tánh. Tướng cảnh
giới sai biệt sẽ chẳng có đến, mà cũng
chẳng có đi. Địa Tạng Bồ Tát nêu ra [thí dụ]
tướng trong gương; quư vị
nói xem, trong gương có tướng hay không? Chẳng có. Khi
người ta không soi vào gương, trong gương có tướng
hay không? Không chỉ nói riêng về người, mà ngay cả
hết thảy các tướng cảnh giới trong gương
đều chẳng có. Bản thể của tướng
chẳng có sai biệt, v́ sao? Rỗng không! Chẳng
thật sự có, mà cũng là một vị, chẳng phân biệt
tướng. Cái tâm của hết thảy bọn chúng sanh chúng
ta là cái tâm thanh tịnh, nơi phàm phu chẳng giảm, tại
chư Phật và thánh nhân cũng chẳng tăng thêm. Cái tâm
ấy là b́nh đẳng, nơi phàm chẳng giảm, tại
thánh không tăng, mà cũng chẳng có tướng đến
đi, vô tướng! Nhưng cái tâm ấy trọn khắp,
giống như hư không, nương giữ nó th́ sẽ có thể
kiến lập hết thảy các pháp.
“Tướng” ấy là nói tới tướng
nào vậy? Tâm tướng. Trong phần trước, Địa
Tạng Vương Bồ Tát đă giảng cái tâm cho Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát, giải thích cái tâm có h́nh dạng ǵ, giải thích tướng
của cái tâm ấy. Tướng
ấy vẫn là tâm, chẳng
có h́nh dạng chi hết. Bất quá, ở đây nói rất
đại lược, v́ Địa Tạng Bồ Tát chẳng
nói với bọn đại chúng chúng ta, mà nói với Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát, nói rất sâu, nhưng đi vào chi tiết th́
rất sơ lược. Chúng ta thường nói theo giáo lư,
hoặc là dựa trên tứ giáo, hoặc nương theo ngũ
giáo, hoặc nương theo Duy Thức, sẽ nói rất nhiều,
từ thô thiển tiến đến thâm nhập. Ở đây
nói bản tâm thanh tịnh chẳng có phân biệt. Chẳng
có phân biệt, há c̣n có luân tướng mộc luân ư? Nửa
bộ đầu [của kinh này] nói về hết thảy phàm
phu, nửa bộ sau nói về hết thảy thánh nhân. Quư vị
muốn tiến nhập pháp này, ắt cần phải tiêu
trừ nghiệp chướng. Do đó, trước hết khiến cho quư vị sám hối tội
lỗi. Tội tiêu rồi mới có thể học tập pháp
môn duy tâm. Nửa bộ sau là pháp môn duy tâm, chỉ nói về cái tâm thanh tịnh. Tâm
thanh tịnh có h́nh dạng như thế nào? Chẳng có phân
biệt, trọn khắp hết thảy mọi nơi. Chỗ
nào cũng đều có tâm, nương vào đó, có thể
kiến lập hết thảy các pháp.
Vạn pháp duy tâm, đó là nói “tâm sanh ra vạn
pháp”. Cái tâm thanh tịnh ấy viên măn, chẳng phân biệt,
chẳng hai, chẳng khác với Phật. Phật là tu hành, c̣n
chúng ta là sẵn có. Nếu chúng ta chẳng vốn sẵn có
cái tâm thanh tịnh ấy, dẫu quư vị tu thế nào đi
nữa, vẫn chẳng thể tu thành Phật được!
Quư vị nhặt vài cục đá, đem nấu thành cơm,
sẽ chẳng làm được. Đá vẫn là đá, đá
không thể biến thành gạo. Cái tâm thanh tịnh chỉ có một
Thể. Hết thảy các thiện pháp nương vào cái tâm
thanh tịnh mà kiến lập; hết thảy ác pháp cũng nương vào cái tâm thanh
tịnh mà kiến lập. Tâm chẳng có thiện hay ác. Nếu
có tánh chất quyết định, quư vị sẽ chẳng
thể đoạn ác được, tu thiện sẽ chẳng
tu thành tựu được! Do nó chẳng phải là quyết
định, hăy nhận thức cái tâm của chúng ta như
thế. Đương nhiên là quư vị phải hiểu rơ điều
này! Quư vị cũng chẳng biết dùng Chiêm Sát Luân, dùng Chiêm
Sát Luân nhằm hiển hiện. Bởi lẽ, trong Phật
pháp giới đều là diệu dụng. Phật lợi ích
chúng sanh toàn là Dụng, từ nơi Dụng mà hiển tướng, hiển tâm. Phật
có vô cùng vô tận diệu dụng, các vị đại Bồ
Tát cũng có vô cùng diệu dụng. Từ Dụng mà hiển
hiện cái tâm, phàm phu từ Thể mà minh tâm.
(Kinh) Phục thứ, bỉ tâm danh Như
Lai Tạng. Sở vị cụ túc vô lượng vô biên bất
khả tư nghị vô lậu thanh tịnh công đức
chi nghiệp.
(經)復次。彼心名如來藏。所謂具足無量無邊不可思議無漏清淨功德之業。
(Kinh: Lại
nữa, cái tâm ấy gọi là Như Lai Tạng, ư nói: Nó trọn
đủ vô lượng vô biên nghiệp công đức
thanh tịnh vô lậu chẳng thể nghĩ bàn).
Do đó, cái tâm này được gọi là
Như Lai Tạng, trọn đủ vô lượng vô biên
nghiệp công đức thanh tịnh vô lậu, chẳng thể
nghĩ bàn. Ở đây, thêm vào chữ Nghiệp. Nghiệp
có nghĩa là “tác dụng”, thể hiện ư nghĩa “tác
dụng là tu hành nhằm hiển hiện”. Do v́ như vậy,
quư vị mới có thể trọn đủ. Nếu chẳng phải
là vốn sẵn có, dẫu quư vị có tu, vẫn tu chẳng
thành. Như trong thí dụ tôi vừa mới nêu, quư vị nấu
đá mà mong nó thành cơm, sẽ chẳng làm được!
V́ nó (cái tâm) sẵn có, cho nên nó có thể
làm được. Cái tâm ấy được gọi là
Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được giải
thích là Chân Như. V́ sao gọi là Như Lai Tạng, chẳng
gọi là Chân Như? V́ có hai loại ư nghĩa bao hàm trong ấy.
Do Chân Như đă ở trong phiền
năo, nên gọi là Như Lai Tạng. Ư nghĩa này được
Đại Thừa Khởi Tín Luận nói như vậy, mà kinh
Hoa Nghiêm cũng nói như vậy. Như Lai Tạng là Chân
Như nơi phàm phu th́ được gọi là Như Lai Tạng.
Nếu Chân Như trừ bỏ phiền năo chứa đựng
trong ấy ra, sẽ chẳng có phiền năo, bèn gọi là Pháp
Thân. Pháp Thân là thanh tịnh.
“Phục thứ, bỉ tâm
danh Như Lai Tạng” (lại nữa,
cái tâm ấy được gọi là Như Lai Tạng): Cái
tâm ấy chính là một niệm tâm hiện tiền của hết
thảy chúng sanh. Một niệm tâm hiện tiền của
mỗi vị đạo hữu chúng ta đều trọn đủ
Như Lai Tạng tánh, là cái Thể của
một niệm tâm chúng ta.
Cái Thể của một niệm tâm trong hiện tiền trọn
đủ và chứa đựng vô lượng công đức
nghiệp dụng, ai nấy đều có thể tu thành Phật.
Do ai nấy đều có Như Lai Tạng Tánh, cho nên có thể
tu thành Phật. Nếu quư vị chẳng có [Như Lai Tạng
Tánh], sẽ tuyệt đối chẳng thể tu thành tựu.
V́ cái tâm hiện tiền của chúng sanh trọn đủ vô
lượng vô biên nghiệp công đức. Quư vị trọn đủ vô lượng
nghiệp công đức trong hiện tiền, cho nên cái tâm ấy được
gọi là Như Lai Tạng. Cái tâm ấy b́nh đẳng với
cái tâm của bậc đă thành tựu. Bậc đă tu thành tựu là
chư Phật đă chứng đắc Pháp Thân ấy, c̣n chúng sanh mê muội
Pháp Thân ấy. Nếu chúng
sanh cũng ngộ th́ sao? Chúng sanh đă ngộ th́ sẽ chẳng
gọi là chúng sanh nữa, mà là Phật.
Đó là nói đến duyên khởi. Duyên khởi chính là tu,
duyên khởi là Như Lai đă tu hết thảy, đă hành rồi
chứng quả, trọn đủ công đức có tánh chất
vô lậu. Hết thảy công đức chẳng thể
nghĩ bàn của Như Lai v́ sao mà có? Do hành mà có. Công đức
của Như Lai là do hành (tu hành) mà có, do tu hành mà chứng đắc.
Giả sử chẳng có nghĩa Không, tức là chẳng có
đạo lư nghĩa Không này, công đức sẽ chẳng
thể kiến lập được! Kiến lập ở
chỗ nào? V́ nương
vào Chân Không mà kiến lập Diệu Hữu, chứa đựng
“Chân Không chẳng phải không, Diệu Hữu chẳng
phải có”. Diệu Hữu chẳng phải là thật sự
có, Chân Không chẳng phải là không. Nó trọn đủ công
đức có tánh chất vô lậu. Diệu Hữu phi hữu
tức là Chân Không!
(Kinh) Dĩ chư Phật Pháp Thân, tùng vô
thỉ bổn tế lai, vô chướng, vô ngại, tự
tại bất diệt. Nhất thiết hiện hóa chủng
chủng công nghiệp, hằng thường xí nhiên, vị tằng
hưu tức. Sở vị biến nhất thiết thế
giới giai thị tác nghiệp chủng chủng hóa ích cố.
Dĩ nhất Phật thân tức thị nhất thiết
chư Phật thân, nhất
thiết chư Phật thân tức thị nhất Phật thân.
Sở hữu tác nghiệp diệc giai cộng nhất. Sở
vị vô phân biệt tướng, bất niệm bỉ thử,
b́nh đẳng vô nhị. Dĩ y nhất pháp tánh, nhi hữu
tác nghiệp, đồng tự nhiên hóa, Thể vô biệt dị
cố.
(經)以諸佛法身。從無始本際來無障無礙自在不滅。一切現化種種功業。恆常熾然。未曾休息。所謂遍一切世界皆示作業種種化益故。以一佛身即是一切諸佛身。一切諸佛身即是一佛身。所有作業亦皆共一。所謂無分別相。不念彼此。平等無二。以依一法性而有作業。同自然化。體無別異故。
(Kinh: Do Pháp Thân của chư Phật
từ cội gốc vô thỉ tới nay chẳng chướng,
chẳng ngại, tự tại bất diệt. Hết thảy
các thứ công nghiệp hiện hóa thường luôn hừng
hực, chưa từng ngưng dứt. Đó gọi là trong
trọn khắp hết thảy các thế giới đều
thị hiện thực hiện đủ loại hóa độ,
tạo lợi ích. Do thân của một vị Phật chính
là thân của hết thảy chư Phật, thân của hết
thảy chư Phật chính là thân của một vị Phật.
Tất cả các nghiệp đă làm cũng đều
cùng là một. Tức là chẳng có tướng phân biệt,
chẳng nghĩ là đây hay kia, b́nh đẳng, bất nhị.
Do nương vào một pháp tánh mà có nghiệp tạo tác, giống
như tự nhiên hóa ra, v́ cái Thể chẳng khác biệt).
Quư vị vừa xem đoạn kinh văn này,
sẽ cảm thấy rất nhiều chỗ chẳng thể
lư giải, chẳng thể tiến nhập được.
Bởi lẽ, nghĩa lư trong đoạn kinh văn này đều
nhằm hiển tánh, chỉ rơ tâm thể của chúng ta, nói
theo Lư. Tiến nhập từ lư tánh rất khó, cho nên phải
mượn sự tướng để tỷ dụ, nhờ
vào tập quán sanh hoạt của chúng ta để ấn chứng.
Nếu quư vị đem các vấn đề này áp dụng vào
cuộc sống để lư giải, quư vị sẽ dần
dần có thể ấn nhập. Ở nơi Thể th́ từ
vô thỉ đến nay, hết thảy chúng sanh và mười
phương hết thảy chư Phật chẳng hai, chẳng
khác, đó là bản thể. Nói theo Lư, vốn chẳng có
chướng ngại. Bản thân cái Thể chẳng có sanh diệt,
nhưng Tướng và Dụng th́ khác hẳn. Trong ấy, chứa
đựng cái nghiệp, Thể tuy là như thế, Tướng
và Dụng th́ khác. V́ sao chẳng giống nhau? Đấy là nói
tới vô ngă. Chúng sanh ngược ngạo mê mất, tức
mê mất cái Thể; do mê cái Thể liền biến hóa, cho nên Dụng sẽ
khác biệt. Thể tuy đồng,
Dụng có sai biệt. Đối với đạo lư này, nói
theo các hiện tượng trong cuộc sống, th́ chúng ta đều
là người, nhưng ai nấy khác biệt to lớn. Loài người có các
chủng loại trắng, đen, vàng, c̣n có da đỏ; đó
là sự bất đồng, nhưng thân thể đều
là người, nhân tánh giống như nhau. Tuy chúng ta và Phật
chẳng hai, chẳng khác, nhưng v́ chấp trước, hết
thảy chúng sanh có Nhân Ngă Chấp, Pháp Ngă Chấp, và vô minh chướng,
đó là sự bất đồng. Các nghiệp cũng trọn
khắp hết thảy mọi nơi, trọn khắp hết
thảy mọi lúc, chúng sanh và chư Phật khác nhau, đó
là báo hóa khác nhau. Chư Phật là “tu thành”, tức đă
tu công đức thành tựu, khôi phục Pháp Thân vốn có,
cho nên xét theo Tu Đức [giữa Phật] và chúng sanh sẽ
khác biệt. Đă tu viên măn, tu đến mức không c̣n có
ǵ để tu, mới biết “vẫn chỉ là khôi phục
cái vốn sẵn có”. Sự nghiệp hóa độ chúng
sanh của mười phương hết thảy chư Phật
đều là độ chúng sanh thành Phật, nhưng nghiệp
dụng khác nhau. A Di Đà Phật thị hiện thế giới
Cực Lạc để độ chúng sanh, Thích Ca Mâu Ni Phật
thị hiện thế giới Sa Bà để hóa độ
chúng sanh. Đó là chỗ khác biệt.
(Kinh) Như thị chư Phật Pháp
Thân biến nhất thiết xứ, viên măn bất động
cố, tùy chư chúng sanh tử thử, sanh bỉ, hằng
vi tác y.
(經)如是諸佛法身遍一切處圓滿不動故。隨諸衆生死此生彼。恆爲作依。
(Kinh: Pháp Thân của chư Phật như
thế trọn khắp hết thảy mọi nơi, do viên
măn bất động, thuận theo các chúng sanh chết đây,
sanh kia, luôn làm chỗ nương về).
Pháp Thân của chư Phật đều như nhau, cũng
đều trọn hết thảy mọi nơi, đều
là “Phật Phật đạo đồng, viên măn bất
động”. Nhưng các Ngài có thể thuận theo duyên của chúng sanh. Mỗi vị Phật
độ mỗi loại chúng sanh đều tùy thuận cái
duyên của chúng sanh. Pháp Thân của chư Phật Như
Lai trọn khắp hết thảy mọi nơi. Mười
pháp giới đều có trọn đủ Phật, cho tới
địa ngục đạo cũng trọn đủ Phật
Tánh. Đó gọi là “Như Lai tùy chúng sanh”, nhưng chúng
sanh lại học Phật bèn dần dần chuyển hóa.
Chúng sanh học Phật cũng có thể thành Phật. Đó
là “lưu chuyển”. Hết thảy chư Phật và
chúng sanh chẳng rời nhau, có cùng một thể tánh. Thể
tánh chẳng tách rời, chư Phật thường luôn làm
chỗ nương cậy cho chúng sanh, chúng sanh nương
theo pháp do đức Phật đă dạy bèn có thể thành
đạo.
(Kinh) Thí như hư không tất năng
dung thọ nhất thiết sắc tướng, chủng
chủng h́nh loại. Dĩ nhất thiết sắc tướng,
chủng chủng h́nh loại, giai y hư không, nhi hữu kiến
lập sanh trưởng, trụ hư không trung, vị hư
không xứ sở nhiếp. Dĩ hư không vi Thể, vô hữu
năng xuất hư không giới phần giả. Đương
tri sắc tướng chi trung, hư không chi giới bất
khả hủy diệt. Sắc tướng hoại thời,
hoàn quy hư không, nhi hư không bổn giới vô tăng, vô
giảm, bất động, bất biến.
(經)譬如虛空悉能容受一切色相種種形類。以一切色相種種形類。皆依虛空而有建立生長住虛空中。爲虛空處所攝。以虛空爲體。無有能出虛空界分者。當知色相之中。虛空之界不可毀滅。色相壞時。還歸虛空。而虛空本界無增無減。不動不變。
(Kinh: Ví như
hư không đều có thể dung chứa hết thảy sắc
tướng, các thứ h́nh loại. Do hết thảy sắc
tướng, các thứ h́nh loại đều nương
vào hư không mà có kiến lập, sanh trưởng, trụ
trong hư không, được gồm thâu trong hư không xứ.
Do hư không làm Thể, chẳng pháp nào có thể vượt
ra ngoài hư không giới. Hăy nên biết: Trong các sắc tướng,
hư không giới chẳng thể hủy diệt. Khi sắc
tướng hoại, trở về hư không, nhưng giới
hạn vốn có của hư không chẳng tăng, chẳng
giảm, bất động, bất biến).
Đối với đạo lư này, Địa
Tạng Vương Bồ Tát nêu ra một
tỷ dụ. Ví như hư không có thể chứa đựng
hết thảy sắc tướng, các thứ h́nh loại.
Hư không chứa đựng hết thảy, sắc tướng
ǵ cũng đều có thể hiện. Hết thảy sắc
tướng khác nhau, các thứ h́nh loại, c̣n bao gồm hết
thảy chúng sanh, súc sanh, cũng như những thứ vô t́nh
như núi, sông, đại địa, chẳng sót một thứ
nào! Nhưng chúng có thể tách ĺa hư không hay chăng? Bất
luận thứ ǵ sanh trưởng đều chẳng ĺa
khỏi hư không, đều cùng ở trong hư không. Hư
không là Tổng, hết thảy các thứ h́nh tướng là
Biệt. Cái Biệt ấy đều ở trong hư không,
được hư không thâu nhiếp. Hư không là cái Thể
của hết thảy vật chất, chúng nương vào hư
không mà kiến lập, chẳng có sự vật nào có thể
rời khỏi hư không để ở riêng một chỗ,
chẳng thể được! Ngoài hư không ra, chẳng
có chỗ nào để quư vị có thể trụ. Hết
thảy sắc tướng ở trong hư không. Hư không
vĩnh viễn chẳng bị hủy diệt; hết thảy
sắc tướng tùy thời biến hóa. Hết
thảy các thứ có h́nh tướng khi tiêu mất, sẽ trở
về hư không. Khi quả địa cầu tiêu mất,
bị hủy diệt, sẽ biến thành các hạt bụi vi tế, các hạt bụi vi tế
lại trở vào hư không. Hư không có bị hủy
diệt hay không? Hư không vĩnh viễn chẳng bị hủy diệt.
Hết thảy các sự vật sanh trưởng và hủy
diệt, sanh trưởng th́ sanh trong hư không, hủy diệt
th́ vẫn ở trong hư không. Nơi hư không chẳng tăng,
chẳng giảm, bất động, bất biến. Đó
là dùng hư không để tỷ dụ. Hư không là cái Thể
của hết thảy chúng sanh, mà cũng là dùng hư không để
h́nh dung Pháp Thân của chư Phật.
(Kinh) Chư Phật Pháp Thân diệc phục
như thị, tất năng dung thọ nhất thiết chúng
sanh chủng chủng quả báo. Dĩ nhất thiết chúng
sanh chủng chủng quả báo, giai y chư Phật Pháp
Thân nhi hữu kiến lập, sanh trưởng, trụ Pháp
Thân trung, vị Pháp Thân xứ sở nhiếp. Dĩ Pháp Thân
vi Thể, vô hữu năng xuất Pháp Thân giới phần
giả, đương tri nhất thiết chúng sanh thân trung,
chư Phật Pháp Thân diệc bất khả hủy diệt.
Nhược phiền năo đoạn hoại
thời, hoàn quy Pháp Thân, nhi Pháp Thân bổn giới vô tăng,
vô giảm, bất động, bất biến.
(經)諸佛法身亦復如是。悉能容受一切衆生種種果報。以一切衆生種種果報。皆依諸佛法身而有建立生長。住法身中。爲法身處所攝。以法身爲體。無有能出法身界分者。當知一切衆生身中。諸佛法身亦不可毀滅。若煩惱斷壞時。還歸法身。而法身本界無增無減。不動不變。
(Kinh: Pháp Thân của chư Phật cũng
giống như thế, đều có thể dung nạp các
thứ quả báo của hết thảy chúng sanh. Do các thứ
quả báo của hết thảy chúng sanh đều nương
vào Pháp Thân của chư Phật để kiến lập,
sanh trưởng, trụ trong Pháp Thân, được Pháp
Thân xứ thâu nhiếp. Lấy Pháp Thân làm thể, chẳng có
ǵ có thể ra khỏi giới hạn của Pháp Thân. Hăy nên
biết trong thân của hết thảy chúng sanh, Pháp Thân của
chư Phật cũng chẳng thể hủy diệt. Nếu
khi đoạn hoại phiền năo, sẽ trở về Pháp
Thân, nhưng phạm vi của Pháp Thân chẳng tăng, chẳng
giảm, bất động, bất biến).
Pháp Thân của chư Phật cũng giống
như thế, giống như hư không có thể chứa
các thứ quả báo của hết thảy chúng sanh. Do quư vị
tạo rất nhiều nhân, nhân nhất định cảm
quả. Chúng sanh hứng chịu các thứ, các loại quả
báo bất đồng. Quả báo của hết thảy chúng
sanh nương vào đâu mà có? Quả báo của hết thảy
chúng sanh đều nương vào Pháp Thân của chư Phật
để kiến lập, sanh trưởng. Pháp Thân của
chư Phật chính là Pháp Thân của chúng sanh. Pháp Thân của
chúng sanh chính là Pháp Thân của chư Phật. Quả báo của
chúng sanh chính là Pháp Thân của chư Phật. Pháp Thân của
chư Phật thâu nhiếp hết thảy chúng sanh. Cái Thể
của Pháp Thân nơi hết thảy chúng sanh và Pháp Thân của
chư Phật chẳng hai, chẳng khác. Chẳng có chúng
sanh nào ra khỏi pháp giới thân, đều thuộc trong pháp
giới. Chẳng phải là chúng ta nói “vạn pháp duy tâm”
đó ư? “Pháp”
là nói đến tâm, pháp chính là tâm. Tâm chính là pháp. Tâm sanh th́ các
thứ pháp sanh; tâm diệt
th́ các thứ pháp diệt, đều thuộc Pháp Thân thâu nhiếp,
chẳng có ǵ ra khỏi giới hạn của Pháp Thân. Hăy nên
biết, đấy là Địa Tạng Vương Bồ
Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Phải biết trong
thân của hết thảy chúng sanh, Pháp Thân của chư Phật
chẳng thể hủy diệt. Tâm của hết thảy
chúng sanh vĩnh viễn chẳng bị hủy diệt. Giả
sử chúng sanh chẳng có hết thảy phiền năo, sau
khi đă đoạn vô minh phiền năo, cũng trở về
Pháp Thân của Phật. Pháp Thân là chẳng tăng, chẳng
giảm, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng thay đổi,
chẳng động. Đó gọi là Pháp Thân.
Đấy là nhờ vào hư không để
tỷ dụ Pháp Thân của chư Phật, tỷ dụ ǵ
vậy? Tỷ dụ quả báo hiện tiền của chúng
ta. Quả báo hiện tại của chúng sanh khác nhau như
vậy, mỗi người có quả báo riêng của người ấy. “Chúng
sanh” ở đây không chỉ bao gồm nhân loại, mà bao
gồm cả súc sanh loại, [hay nói rộng hơn] là các loài
hữu t́nh đều là chúng sanh. Nói theo hàm nghĩa này, thân chúng
sanh chính là Pháp Thân của chư Phật. Pháp Thân của chư
Phật chứa đựng Pháp Thân của hết thảy
chúng sanh. Do vậy, phiền năo của chúng sanh đă hết,
lại trở về bản thể của Pháp Thân. Đó cũng
là chư Phật. Bản thân Pháp Thân chẳng tăng, chẳng
giảm, bất sanh, bất diệt. Chúng sanh đă ngộ,
bèn khôi phục Pháp Thân. Có câu nói như thế này: “Đả
đắc vọng tưởng tử, hứa nhữ Pháp
Thân hoạt” (đánh chết sạch vọng tưởng,
cho Pháp Thân được sống). Nếu quư vị chẳng
có các phân biệt hư vọng, tự nhiên sẽ khôi phục
Pháp Thân của chính ḿnh. Pháp Thân bất sanh, bất diệt,
chẳng hai, chẳng khác với chư Phật. Lục phàm
pháp giới, tức trời, người, địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, [A Tu La], và tứ thánh pháp giới là Phật,
Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, cả mười pháp giới
chỉ có một tâm này. Tứ thánh là ngộ, do mức độ
ngộ sai khác, nên chia thành bốn pháp giới, bốn loại
h́nh tướng. Lục phàm là mê, lục phàm pháp giới mê khác
nhau. Pháp Thân tại phàm phu chẳng hề giảm bớt, nơi
Phật cũng chẳng tăng thêm. Pháp Thân vĩnh viễn
bất động, bất hoại, chẳng tăng, chẳng
giảm như thế. Trong phần trước, tôi đă nói
về ư nghĩa của hư không để h́nh dung Pháp
Thân, tức là dùng hư không sánh ví Pháp Thân. Chỉ có mê hay ngộ
sai khác. Trừ khử vô minh, th́ chẳng phải là hết
thảy phàm phu nữa. Đoạn trừ vô minh, sẽ trở
thành hết thảy thánh nhân; đoạn rốt ráo bèn thành Phật.
(Kinh) Đản tùng vô thỉ thế
lai, dữ vô minh tâm câu, si ám nhân duyên huân tập lực cố,
hiện vọng cảnh giới. Dĩ y vọng cảnh giới
huân tập nhân duyên cố, khởi vọng tương ứng
tâm, kế ngă, ngă sở, tạo tập chư nghiệp, thọ
sanh tử khổ, thuyết bỉ Pháp Thân, danh vi chúng sanh.
(經)但從無始世來。與無明心俱。癡暗因緣熏習力故。現妄境界。以依妄境界熏習因緣故。起妄相應心。計我我所。造集諸業。受生死苦。說彼法身名爲衆生。
(Kinh: Chỉ do từ đời vô thỉ
tới nay, đă chung đụng với cái tâm vô minh, do sức
nhân duyên si ám huân tập, hiện ra cảnh giới hư vọng.
Do nhân duyên nương vào cảnh giới hư vọng huân
tập, dấy lên cái tâm tương ứng với vọng,
so đo ngă và ngă sở (cái thuộc về ta), tạo tập
các nghiệp, chịu khổ sanh tử, cho nên gọi Pháp Thân
ấy là chúng sanh).
Đoạn này nói cái tâm vô minh của quư vị
đă sanh, tức là nghiệp đă dấy lên, bèn tạo nghiệp.
Nương theo cái chân tâm sáng suốt, thanh tịnh, vô nhiễm
mà chính ḿnh sẵn có, bèn dấy lên bất giác. Chân tâm ấy
được gọi là Bổn Giác. Nương vào Bổn
Giác mà dấy lên bất
giác, si tâm vô minh căn bản được sanh khởi. Đạo
lư này rất khó nói minh bạch, chẳng nói rơ ràng được, chỉ
có thể dùng tâm ư thấu hiểu. Chẳng hạn
như trong lịch sử, các vị thiện tri thức
khai ngộ kiểu này rất nhiều. Tôi thường nhắc
tới ông Ngư Triều Ân đời Đường
đă thưa hỏi quốc sư “phiền năo từ
đâu mà khởi?” Hoặc nói: “Vô minh sanh từ đâu? Vô
minh là ǵ?” Quốc sư chẳng trả lời ông ta! Nếu quư vị trả
lời, sẽ chẳng nói rơ được. Quốc sư
dùng tỷ dụ, phương tiện thiện xảo mà!
Sư bảo: “Ngươi là hạng nô tài mà muốn hỏi
Phật pháp”. Sư quở mắng Tể Tướng. Tể
Tướng liền nổi giận, đáp: “Ta là một
đứa nô tài, nhưng là nô tài của hoàng thượng.
Một Tể Tướng c̣n ở trên
vạn vạn người”. Đó là câu trả lời cho ông
ta. Quốc sư bảo ông ta: “Vô minh từ đó mà khởi.
Đó là vô minh”. Chẳng phải là ngươi hỏi ta “vô
minh được sanh ra như thế nào ư? Vô minh là ǵ” ư?
Đó chính là vô minh. Nếu giải thích th́ sẽ chẳng
thể diễn tả rơ ràng được. Chờ đến
khi ông ta nổi giận, dùng ngay sự thật để giải
thích cho ông ta, ông ta ngay lập tức khai ngộ, hiểu rơ.
Trong Thiền Tông có rất nhiều câu “cơ phong chuyển
ngữ”, đối với căn cơ nào bèn nói pháp ấy.
Do vậy, đức Phật giảng hết thảy các
kinh, tám vạn bốn ngàn pháp môn nhằm nói với tám vạn
bốn ngàn căn cơ. Vô minh như nhau. Vô minh là quư vị
bất giác, cái bất
giác ấy sanh từ
đâu? Từ Bổn Giác mà ra, từ giác ngộ mà ra. Giác ngộ
th́ mới có Bất Giác, nói tương đối vậy!
Trong si tâm của quư vị, tâm ngu si chính là cái
tâm hắc ám. Cái tâm hắc ám ấy và bản thể của
Pháp Thân tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh nói
tới Thể, Tướng, Dụng, Thể là Tướng,
Tướng chính là Thể. Thể và Tướng bèn sanh khởi
tác dụng (Dụng). Tác dụng là Thể, Tướng; Thể,
Tướng chính là tác dụng. Cả ba chính là một, tâm thể,
tâm tướng. Do mê cái tâm ấy, cho nên hết thảy tác
dụng là chúng sanh. Ngộ cái tâm ấy th́ là thánh nhân. Do v́
sau khi đă mê cái Thể, bèn dấy
nghiệp; nghiệp
đă dấy bèn chốt chặt quư vị. Đó gọi là
nỗi khổ sanh tử. Quư vị đă khai ngộ, hiểu
rơ, tu hành, khôi phục Bổn Giác của chính ḿnh; đó gọi
là “giải thoát”. Mê th́ vẫn là Pháp Thân này, mà ngộ vẫn
là Pháp Thân này.
Do vậy, trong khi quư vị nhất tâm chấp
trước hết thảy tướng cảnh giới; khi
đó, cái tâm
bị vọng tâm làm chủ. Do hết thảy đều là
hư vọng; thậm chí khi quư vị tu pháp, cho tới khi chúng
ta niệm A Di Đà Phật trong hiện tại, toàn là vọng.
Quư vị tu pháp cũng là pháp
thuộc vọng tâm, nương theo vọng tâm mà tu vọng
pháp (pháp hư vọng). Nhưng trong ấy có chân thật: Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, trời, người,
A Tu La, địa ngục, quỷ, súc sanh, mười pháp
giới có cùng một tâm. Tâm quư vị dấy lên cảnh giới
hư vọng, lấy vọng tâm làm chủ th́ là lục
phàm; lấy cái tâm thanh
tịnh làm chủ để sanh khởi hết thảy các
pháp th́ là tứ thánh. Vọng cũng là cái tâm này, mà chân cũng
là cái tâm này, chịu đựng nỗi khổ trong lục
đạo luân hồi vẫn là cái tâm này, thành Phật, Bồ
Tát, Thanh Văn, Duyên Giác vẫn là cái tâm này. Tùy thuộc
quư vị tương ứng với cái tâm nào th́ thuộc về
pháp giới ấy. Nay quư vị là vọng, có thể đoạn một phần vọng,
giải thoát một phần vọng th́ phiền
năo sẽ nhẹ bớt. Người khác chấp trước,
nẩy sanh phiền năo, quư vị chẳng sanh phiền năo, chẳng
có ư niệm phân biệt. Do đều thuộc trong sự chấp
trước của quư vị, đoạn vô minh, đoạn
phiền năo quyết định vị trí của quư vị,
thánh lẫn phàm đều chẳng có tiêu chuẩn nhất
định. Quư vị chẳng có phiền năo, [chứ nếu] đă đoạn
hết thảy phiền năo, sẽ là thánh nhân. Nếu quư vị
sanh phiền năo th́ là chúng sanh. Phiền năo càng nặng, đọa
càng sâu. Đọa vào địa ngục, đọa vào ngạ
quỷ, đọa vào súc sanh, phiền năo đă đạt
tới đỉnh điểm. Trong nhân loại, tri thức
là sức mạnh, tri thức là trí huệ, là biểu hiện
của đoạn phiền năo. Người có trí huệ, phiền
năo liền nhẹ nhàng; kẻ chẳng có trí huệ, phiền
năo nặng nề. Trong xă hội cũng nói “tri thức là
sức mạnh”. Kẻ
chẳng có tri thức luôn luôn phải phục vụ cho người
có tri thức. Tùy thuộc
tri thức của quư vị lớn hay nhỏ, tri thức càng
lớn th́ địa vị chủ nhân của quư vị càng
cao.
(Kinh) Nhược như thị chúng sanh
trung, Pháp Thân huân tập nhi hữu lực giả, phiền
năo tiệm bạc, năng yếm thế gian, cầu Niết
Bàn đạo, tín quy nhất thật, tu Lục Ba La Mật
đẳng nhất thiết Bồ Đề phần pháp,
danh vi Bồ Tát.
(經)若如是衆生中。法身熏習而有力者。煩惱漸薄。能厭世間。求涅槃道。信歸一實。修六波羅蜜等一切菩提分法。名爲菩薩。
(Kinh: Nếu trong chúng sanh như thế,
do Pháp Thân huân tập mà hữu lực, phiền năo dần dần
mỏng bớt, có thể chán thế gian, cầu Niết
Bàn đạo, ḷng tin quy về nhất thật, tu hết thảy
các pháp thuộc về Bồ Đề phần như Lục
Ba La Mật v.v… th́ được gọi là Bồ Tát).
Đây là lấy tâm thể của Bổn
Giác làm Pháp Thân, nhưng người ấy dùng thiện pháp để
huân tập Chân Như, tăng trưởng hết thảy
thiện nghiệp, phiền năo dần dần nhẹ hơn.
Đối với tiếng tăm, lợi dưỡng trong
thế gian, hết thảy các pháp trong thế
gian đều là pháp sanh diệt, người ấy mong cầu
một pháp chẳng sanh diệt. Giống như các vị đang
hiện diện tại đây, chúng ta đều cầu pháp
chẳng sanh diệt, đều mong đoạn phiền
năo, chứng Bồ Đề, liễu sanh tử. Đó là học
pháp chẳng sanh diệt. Từ “nghe học”, tức
là nghe pháp do đức Phật đă nói, nghe xong bèn tư
duy, tư duy ta làm như thế nào, “làm” là tu hành. Làm xong,
quư vị sẽ thành tựu, thành tựu là đắc đạo.
Đại Thừa Khởi Tín Luận nói có hai loại huân
tập, một là nhiễm huân tịnh, càng huân càng thô. Mỗi
ngày ở chung với kẻ có sát tâm nặng nề, dần
dần sát tâm của quư vị cũng nặng nề! Quư vị
ở với người ḷng tham, tâm tham của quư vị cũng
sanh khởi! V́ sao sẽ sanh khởi ḷng tham? Chẳng có trí
huệ. Đó gọi là vô minh ngu si. Quư vị thấy thấu
suốt một phần, sẽ nhẹ nhàng một phần.
Phương diện này nhẹ, phương diện kia liền
nặng. Tham, sân, si của quư vị nhẹ bớt, Giới,
Định, Huệ sẽ sâu nặng. Tham, sân, si huân Giới,
Định, Huệ; Giới, Định, Huệ liền nhẹ, tham, sân, si
liền nặng!
(Kinh) Nhược như thị Bồ
Tát trung, tu hành nhất thiết thiện pháp măn túc, cứu cánh
đắc ly vô minh thùy giả, chuyển danh vi Phật.
(經)若如是菩薩中。修行一切善法滿足。究竟得離無明睡者。轉名爲佛。
(Kinh: Nếu trong các vị Bồ Tát như
thế, tu hành hết thảy thiện pháp trọn đủ,
rốt ráo được ĺa khỏi
giấc ngủ vô minh, sẽ đổi tên thành Phật).
Phật là ǵ? Chúng sanh là ǵ? Chẳng có tiêu chuẩn; tùy thuộc hành
vi của quư vị để quyết định. Quư vị
tu hết thảy thiện pháp đều thành tựu, đó
gọi là Phật. Quư vị tu tập ác pháp, tục ngữ
Trung Hoa thường nói là “ác quán măn doanh” (tội ác chồng
chất, tràn ngập), kẻ đó chẳng thể nào không đọa
địa ngục, đă tu ác nghiệp quá nhiều! Thiện
pháp viên măn, th́ gọi là Phật. Thiện pháp c̣n chưa trọn đủ viên măn,
so với Phật c̣n kém đôi chút, th́ gọi là Bồ Tát. Đoạn
dứt Kiến Tư Hoặc th́ gọi là Thanh Văn, Duyên
Giác. Mười pháp giới là do Hoặc nghiệp sâu nặng
mà phân định, chẳng có Hoặc nghiệp th́ là tứ
thánh. Đó là dùng thiện ác để phân biệt, hai đường
thiện ác, tùy thuộc quư vị đi theo con đường
nào!
(Kinh) Đương tri như thị chúng
sanh, Bồ Tát, Phật đẳng, đản y thế gian
giả danh ngôn thuyết cố nhi hữu sai biệt, nhi Pháp
Thân chi Thể tất cánh b́nh đẳng, vô hữu dị tướng.
(經)當知如是衆生菩薩佛等。但依世間假名言說故而有差別。而法身之體畢竟平等。無有異相。
(Kinh: Hăy nên biết chúng sanh, Bồ
Tát, Phật v.v… như thế chỉ nương theo ngôn thuyết
giả danh của
thế gian nên có sai biệt, nhưng
cái Thể
của Pháp Thân th́ rốt ráo b́nh
đẳng, chẳng có tướng nào khác).
Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Ông hăy nên biết “chúng sanh, Bồ
Tát, Phật” đều là giả danh trong thế gian. Nương
theo giả danh mà an lập khác biệt. Trong phần trước
đă nói cái Thể của Pháp Thân trọn khắp hết
thảy mọi nơi, trọn khắp hết thảy mọi
lúc, trọn khắp hết thảy hữu t́nh và vô t́nh, cho
nên cái Thể ấy là b́nh đẳng, chẳng có sai khác.
(Kinh) Thiện nam tử! Thị danh lược
thuyết Nhất Thật cảnh giới nghĩa.
(經)善男子。是名略說一實境界義。
(Kinh: Này
thiện nam tử! Đó gọi là nói đại lược
về ư nghĩa của cảnh giới Nhất Thật).
Trên đây là nói về chuyện chứng
đắc cảnh giới Nhất Thật. Cảnh giới
Nhất Thật là ǵ? Là tâm thể. Địa Tạng
Vương Bồ Tát giảng nhiều như vậy, chỉ nhằm
giảng một chữ Tâm. Đấy là Thật Tướng.
Làm thế nào để có thể đạt được
Thật Tướng? Phương tiện tối sơ để
tiến nhập chính là quư vị
tiến hướng điều ǵ, tin tưởng
điều ǵ, muốn làm ǵ, làm đúng rồi th́ sẽ tiến
hướng Phật Thừa, đó là phương tiện tấn
thú. Sau khi quư vị hoàn toàn liễu giải t́nh huống ấy,
quư vị sẽ khai ngộ. Đó gọi là Tích Không (析空, chia chẻ cái
Không), [tức
là] trải qua phân tích dần dần, quư vị sẽ hiểu.
Điều này gọi là Tích Không Quán. Nếu lập tức
ngộ đạo, th́ gọi là Thể Không (體空), tức
là không cần phải phân tích, ngay lập tức ngộ cái
Thể [của hết thảy các pháp] chính là Không. Quư vị nhận biết hết thảy
sự vật đều là Không, vốn thứ ǵ cũng đều
chẳng có, nguyên lai chẳng có một món vật chất nào, nguyên lai chẳng có vật ǵ, thứ
ǵ cũng chẳng có, nguyên lai là rỗng tuếch. Quư vị
tăng thêm rất nhiều phiền năo, đó là chẳng Không.
Do mong đoạn phiền năo, lại tăng thêm một ít thiện
nghiệp, đoạn phiền năo th́ mới chứng Bồ
Đề. Đó là “chẳng
Không”. Thiện
th́ thuận theo nghĩa Không, c̣n ác th́ trái nghịch nghĩa
Không. Do làm thiện sự, tu đạo, sẽ dần dần
có thể đạt tới Lư Không. Làm ác chẳng
dễ dàng, [do nó] trái nghịch Lư Không. Đấy là Địa
Tạng Vương Bồ Tát bảo: Trước hết, giảng
rơ ràng đạo lư ấy chỉ là nhất tâm.
(Kinh) Nhược dục y Nhất Thật
cảnh giới tu tín giải giả, ưng đương
học tập nhị chủng quán đạo. Hà đẳng
vi nhị? Nhất giả, duy tâm thức quán. Nhị giả,
Chân Như thật quán. Học duy tâm thức quán giả, sở
vị ư nhất
thiết thời, nhất thiết xứ, tùy thân, khẩu,
ư hữu sở tác nghiệp.
(經)若欲依一實境界修信解者。應當學習二種觀道。何等爲二。一者唯心識觀。二者真如實觀。學唯心識觀者。所謂於一切時一切處隨身口意有所作業。
(Kinh: Nếu
muốn nương theo cảnh giới Nhất Thật để
tu tín giải, hăy nên học
tập hai thứ quán đạo. Những ǵ là hai? Một là
duy tâm thức quán, hai là Chân Như thật quán. Học duy
tâm thức quán chính là trong hết thảy mọi lúc, hết
thảy mọi nơi, thuận theo các nghiệp đă tạo
tác nơi thân, miệng, ư).
Nếu quư vị tu hành, một là học duy
tâm thức quán, tức quán duy tâm duy thức. Trong hết thảy
mọi lúc, hết thảy mọi nơi, đối với
nghiệp đă tạo nơi thân, miệng, ư, trong hết
thảy các thời, tức suốt hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, ngày đêm hai mươi bốn tiếng
đồng hồ, quư vị ngủ cũng thế, ăn cơm
cũng thế, nằm mộng cũng thế, làm việc cũng
thế, sáu căn của quư vị, tức mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư đă tạo tác, cho đến Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp ở bên ngoài, mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư đối ứng với Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp, trong đó nẩy sanh sự nhận
biết riêng biệt được gọi là nhăn thức, nhĩ
thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, ư thức.
Ba loại [Căn, Trần, Thức] ấy hợp thành mười
tám giới. Trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi
nơi, nghiệp do quư vị đă tạo chẳng rời khỏi
mười tám loại ấy. Mười tám loại ấy
do đâu mà có? Vô minh. Trong phần trước, chúng tôi đă
nói: Chúng nương vào vô minh mà khởi, quư vị hăy nên quan
sát hết thảy các pháp, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư, Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, nhăn thức,
nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức,
ư thức, mười tám loại ấy. Mười tám món ấy,
trong khi quư vị đi, ngồi, đứng, nằm, ngủ
nghê, nói chuyện, ngôn ngữ, bao gồm hết thảy các động
tác, thứ ǵ cũng đều chẳng ĺa khỏi. Quư vị
cũng chẳng ĺa khỏi cảnh giới (Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp)!
(Kinh) Tất đương quán sát, tri
duy thị tâm, năi chí nhất thiết cảnh giới. Nhược
tâm trụ niệm, giai đương sát tri, vật linh sử
tâm vô kư phan duyên, bất tự giác tri. Ư niệm niệm
gian, tất ưng quán sát, tùy tâm hữu sở duyên niệm,
hoàn đương sử tâm tùy trục bỉ niệm, linh
tâm tự tri. Tri kỷ nội tâm tự sanh tưởng niệm,
phi nhất thiết cảnh giới hữu niệm, hữu
phân biệt dă. Sở vị nội tâm tự sanh “trường,
đoản, hảo, ác, thị, phi, đắc, thất, suy,
lợi, hữu, vô” đẳng kiến, vô
lượng chư tưởng, nhi nhất thiết cảnh
giới vị tằng hữu tưởng khởi
ư phân biệt. Đương tri nhất thiết cảnh
giới tự vô phân biệt tưởng cố, tức tự
phi trường, phi đoản, phi hảo, phi ác, năi chí phi
hữu, phi vô, ly nhất thiết tướng, như thị
quán sát. Nhất thiết pháp duy tâm tưởng sanh. Nhược
sử ly tâm, tắc vô nhất pháp, nhất tướng, nhi
năng tự kiến hữu sai biệt dă.
(經)悉當觀察。知唯是心。乃至一切境界。若心住念。皆當察知。勿令使心無記攀緣不自覺知。於念念間悉應觀察。隨心有所緣念。還當使心隨逐彼念令心自知。知己內心自生想念。非一切境界有念有分別也。所謂內心自生長短好惡是非得失衰利有無等見無量諸想。而一切境界未曾有想起於分別。當知一切境界自無分別想故。即自非長非短非好非惡。乃至非有非無。離一切相。如是觀察。一切法唯心想生。若使離心。則無一法一相而能自見有差別也。
(Kinh: Đều
hăy nên quan sát, biết chỉ là tâm, cho đến hết thảy
các cảnh giới, nếu tâm trụ niệm, sẽ đều
quan sát, nhận biết, đừng để cho tâm vô kư nắm
níu, mà chẳng tự hay biết. Trong mỗi niệm, đều
nên quan sát: Hễ tâm có điều ǵ duyên niệm, vẫn nên
khiến cho cái tâm theo dơi cái niệm ấy, để tâm tự
biết. Biết là nội tâm của chính ḿnh tự sanh tưởng
niệm, chẳng phải là hết thảy các cảnh giới
có niệm, có phân biệt. Tức là nội tâm tự sanh trưởng
các cái thấy như dài, ngắn, tốt, xấu, đúng,
sai, được, mất, suy vi, lợi ích, có, không v.v… vô
lượng các tưởng, nhưng
hết thảy cảnh giới chưa từng có ư tưởng dấy
lên phân biệt. Hăy nên biết hết thảy cảnh giới
tự chẳng có ư tưởng phân biệt, tức là tự
nó chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tốt, chẳng
xấu, cho đến chẳng có, chẳng không, ĺa hết
thảy tướng. Quan sát như thế, hết thảy các
pháp chỉ do tâm tưởng sanh ra. Nếu ĺa khỏi tâm th́
không có một pháp, một tướng nào mà có thể tự
thấy sai biệt được).
Đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng, cử động, Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, nhất cử nhất động
của quư vị đều thuộc trong mười hai sự
kiện ấy. Quư vị học hiểu th́ toàn là tâm, toàn là
thức. Quư vị hăy quan sát mười hai loại ấy,
hễ ĺa khỏi tâm, ĺa khỏi thức của ta, thứ
ǵ cũng đều chẳng có, đừng nên dấy lên chấp
trước trong ấy. Phá trừ chúng như thế nào? Chẳng
phải là quư vị mong đoạn trừ phiền năo ư?
Quư vị hăy đổ công dốc sức nơi mười
hai sự kiện này. Quư vị quan sát tất cả hết
thảy hiện tướng (tướng biến hiện,
tướng hiện tiền) bên ngoài, kể cả ngôn ngữ
của quư vị, bao gồm hành động, bao gồm ngôn
ngữ, hành động của hết thảy mọi người,
hết thảy hành vi “đi, đứng,
nằm, ngồi”, bất
cứ ai cũng đều chẳng ĺa khỏi! Mắt quư vị
thấy hết thảy sắc tướng, tai nghe hết
thảy âm thanh, mũi ngửi thơm thối, lưỡi nếm
hương vị, tai nghe âm thanh, trong tâm bèn nhận biết.
Đó đều là pháp.
Hết thảy các sự vật được nhận biết
bởi tâm [năm trần, tức, sắc, thanh, hương,
vị, hiện
bóng trong tâm] th́ đều gọi là Pháp. Trong
mười hai loại sự vật ấy, quư vị
hăy quan sát, có loại nào rời khỏi thức, rời khỏi
tâm của quư vị? Hăy đổ công ở chỗ này! Đổ
công ǵ vậy? Thực hiện công phu tu hành. Ĺa khỏi Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư, há c̣n có vật ǵ nữa chăng? Đă chẳng có, th́ những
thứ ấy đều ngưng dứt. Khi quư vị quán, đă
khiến cho các thứ ấy ngưng dứt, đừng để
cho chúng quấy nhiễu cái tâm của quư vị.
Khi quán bèn có trí huệ, chiếu rơ toàn là hư
vọng, khiến cho cái tâm của quư vị trụ trong tư
duy và khởi tâm động niệm, đối với thứ
tốt đẹp đừng nắm níu (phan duyên, 攀緣), đối với thứ
chẳng tốt th́ cũng đừng mong ĺa bỏ; tức
là chẳng dấy phân biệt, chẳng tham luyến cái tốt
đẹp, chẳng vứt bỏ cái không tốt. Đó gọi
là “nhất tâm vô phân biệt”. Chúng ta luôn có khuynh hướng:
Cái tốt th́ mong đạt được, sanh ḷng mong cầu
đạt được, chuyện chẳng tốt th́ chẳng
muốn nghe nhắc tới, nhưng quư vị chẳng thể
không nghe, v́ cuộc sống mà quư vị bắt buộc phải
làm. Ai bằng ḷng làm cu li? Do chẳng có cách nào, đành phải
kiếm sống thôi! Nếu quư vị xem nhẹ cuộc sống
một chút, dần dần từng bước một, quư vị
sẽ t́m được nguồn, truy tận cội. Trước
hết, hăy bắt đầu từ nội tâm của chính ḿnh.
Tâm chẳng so đo các thứ ấy, đối với thứ
ưa thích th́ chính ḿnh chẳng mong cầu đạt được,
đạt được là họa hại. Đối với
thứ chán ghét, cũng chẳng cầu ĺa bỏ, thích ứng với
mọi t́nh cảnh, gặp cảnh giới ǵ bèn tiếp nhận
cảnh giới đó!
Nhưng phải nhận biết nó, nhận
biết nó như
thế nào? Đó đều là giả, là tạm thời, chẳng
phải là vĩnh cửu. Điều thứ nhất là quán
thân thể này, tối đa là một trăm năm, cũng
có người chẳng sống tới tuổi ấy. Chúng
ta lấy hạn độ lớn nhất là một trăm
năm để ấn định vậy! Chẳng quán chính
ḿnh, hăy quán người khác! Quan sát người đó sanh
ra, quan sát người đó chết đi, sau khi đă chết,
người đó mang theo thứ ǵ ra đi? Lúc sanh ra, mang theo thứ
ǵ đến? Trung Hoa có câu tục ngữ: “Sanh bất đới
lai, tử bất đới khứ” (sanh chẳng mang
theo ǵ đến, chết chẳng mang theo ǵ đi). Nhân loại
đều là như thế đó, có người nhận biết,
có kẻ chẳng nhận biết. Không nhận biết th́
sao? Tham cầu chẳng hề ngưng nghỉ, vĩnh viễn
truy cầu, tạo nghiệp cho đời sau, toàn là như
thế đó, nắm níu khắp nơi. Đó gọi là “phan
duyên tâm”. Khi kẻ ấy phan duyên (nắm níu sự vật),
chính họ vẫn chẳng biết, đang tạo nghiệp,
tức là tạo nghiệp sanh tử!
Trong mỗi niệm, quư vị đều phải
nên quan sát: Những điều tâm quư vị duyên niệm, tưởng
nghĩ, có [ư niệm] “đối với thứ tốt, bèn duyên niệm chẳng
bỏ”, càng nghĩ càng to! Cầu phát tài càng nhiều càng hay,
càng lớn càng hay, chẳng dứt, chẳng xong! Chính
quư vị hiểu rất rơ ràng, tự hiểu rất rơ cái
tâm của chính ḿnh. Đạt được th́ là đạt
được ǵ vậy? Quư vị hăy nói theo quan niệm riêng
của chính ḿnh, quư vị đạt
được th́ rốt cuộc
có thể đạt được ǵ? Cuối cùng là chết
ngóp, vẫn chẳng phải là mất sạch ư? Hết
thảy các tướng
cảnh giới bên ngoài, như của cải chẳng hạn,
rốt cuộc quư vị có đạt được hay không?
Đạt được rồi cũng mất đi! Tới
lúc quư vị chết, chẳng thể mang theo
thứ ǵ cả! Đó là quan sát ở mức độ thô
thiển. Quan sát vi tế, hết thảy các sự có h́nh, có
tướng, có hay biết, hoặc các sự
vô h́nh vô tướng, đều là do tâm của quư vị tưởng
ra. Chúng chính là tâm tướng. Tâm tướng hư vọng,
chẳng có ǵ thật sự tồn tại. Khi đó, quư vị
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, đặc biệt
là niệm Pháp, niệm pháp ǵ vậy? Sanh diệt, vô thường, khổ,
hết thảy các pháp chẳng có ǵ là vui sướng. Chúng
ta tham luyến, hăy nghĩ tới sanh, lăo, bệnh, tử, yêu
thương chia ĺa, oán ghét phải gặp gỡ, Ngũ Uẩn hừng
hực, cầu chẳng được. Tám nỗi khổ
chen nhau nung nấu, quư vị có thể ĺa được thứ
nào? Trong tư tưởng của quư vị bèn suy nghĩ: Tất
cả hết thảy các thứ ấy đều là duy tâm
sở hiện, duy tâm sở biến, chẳng có thứ ǵ
chân thật, bất biến. Nghĩ như thế, chánh niệm
sẽ hiện tiền.
Bất luận dài, ngắn, tốt, xấu,
được, mất… những kiến chấp ấy, vô
lượng cách nghĩ, quư vị hăy tự quan sát: Chúng đều là phân biệt, do cái tâm của chính ḿnh phân
biệt. Sự phân biệt này c̣n có vấn đề. Quư vị
ưa thích cái tốt, muốn đạt được, chiếm
làm của ḿnh. Thứ ǵ quư vị không ưa thích sẽ là chẳng
tốt, muốn bài xích nó. Quư vị ngẫm xem, quư vị lấy
tư tưởng ấy làm sự nhận thức của
chính ḿnh. Cái tâm có các tướng ấy hay không? Quư vị hăy
quan sát cái tâm của chính ḿnh. Nếu các đệ tử học
Phật chúng ta, đă học Phật,
đă nhập
Phật môn, quư vị nghĩ tới Phật, Pháp, Tăng, có
sự duyên niệm ấy! Căn bản
là chẳng được nghe Phật pháp, dẫu có nghe cũng
chẳng tin, kẻ đó có sự duyên niệm ấy hay không?
Kẻ đó duyên niệm xe cộ, tiền tài, làm sao để phát
tài, [nghĩ tới] sắc. Sắc bao gồm hết thảy
những thứ ưa thích, hết thảy vật chất,
cái ưa thích th́ mong đạt được, cái chẳng
ưa th́ mong bỏ đi, cho đến đối với sự
vật [bèn có quan niệm] dài, ngắn,
vuông, tṛn, lớn, nhỏ, tốt, xấu, tâm quư vị hăy thường
nghĩ các thứ đó đều là hư vọng, chẳng
chân thật.
Nội tâm mong chẳng phân biệt những
thứ ấy, ĺa khỏi những thứ ấy. Những
thứ đó chẳng có một tiêu chuẩn nhất định.
Quư vị cho nó là xấu, người khác cho nó là tốt, quư
vị muốn xả, kẻ khác lại tham. V́ sao? Do sức
mạnh của thói quen từ vô thỉ kiếp tới nay.
Cái tâm tạo nghiệp có sức mạnh của thói quen. Rất
nhiều người, như các đệ
tử Phật chúng ta thấy thứ này chẳng đúng, là sai lầm, nhưng sẽ có rất
nhiều kẻ cho đó là đúng, chẳng sai, [đôi bên]
sẽ mâu thuẫn. Có những kẻ thuận theo sanh tử,
tạo nghiệp thuận gịng sanh tử. Có những người
nghịch lại sanh tử, chẳng xuôi theo gịng sanh tử,
đi ngược gịng, giống như các đệ tử
đức Phật bọn ta vậy. Nhưng bất luận
như thế nào, thuận cảnh, nghịch cảnh, tốt,
xấu, đúng, sai, đều do tâm sanh. V́ thế, mọi người
hăy thường nghĩ “tâm sanh, các pháp sanh; tâm diệt, các
pháp diệt”, chẳng có pháp nào ĺa khỏi tâm! Tâm ấy
là vọng, tức vọng tâm. Ĺa khỏi
tâm, có pháp nào có thể tự ḿnh tự lập? Giữa pháp
này với pháp kia, có sai biệt hay không? Chẳng có sai biệt!
Nếu cái tâm của chúng sanh có thể đạt tới mức
ấy, quư vị c̣n có ǵ là thiện, có ǵ là ác
chi nữa! “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị
không” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là không). Phàm là pháp
sanh bởi nhân duyên, thiện pháp cũng là không, mà ác pháp cũng
là không! Quan sát
hết thảy các pháp như thế, chỉ do tâm tưởng
sanh. Nếu ĺa khỏi cái tâm, một pháp, một tướng,
sẽ tự thấy chẳng có sai biệt. Có sai biệt là
do cái tâm của chúng sanh phân biệt, bản thân của pháp
chẳng sai biệt.
Lược
giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần
4
[1] Do
có mười pháp giới (địa ngục, súc sanh, ngạ
quỷ, Tu La, nhân, thiên, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật),
mỗi pháp giới lại có đủ mười pháp giới.
Do vậy, ta có 10x10=100 (thường gọi là bách giới),
mỗi giới lại đều có thập như là tánh,
tướng, thể, lực, tác (tác dụng), nhân, duyên, quả,
báo, bổn mạt cứu cánh, nên 100x10=1.000 (thường gọi
là Thiên Như). Mỗi món trong Thiên Như lại có ba thứ
thế gian là chúng sanh thế gian, quốc độ thế
gian và ngũ ấm thế gian, nên 1.000x3-=3.000, thường
được gọi gộp chung là “tam thiên tánh tướng”,
hoặc “tam thiên thế gian”. Do tất cả những
điều này đều từ một niệm tâm phát khởi,
nên c̣n gọi là “nhất niệm tam thiên”.
[2] Duyên lự (緣慮)
thường được giảng là cái tâm duyên theo cảnh
giới rồi suy nghĩ các sự vật. Chẳng hạn,
như khi chúng ta thấy một đóa hoa, cái tâm bám vào
đó (thường được gọi là “duyên theo”), nẩy sanh đủ mọi ư
nghĩ: Hoa đẹp, xấu, có màu ǵ, có hương thơm hay không, có h́nh dáng ra sao, thuộc giống ǵ,
quư hay không, nẩy sanh ư nghĩ
ưa thích hoặc ghét bỏ… Quá tŕnh từ căn tiếp xúc với cảnh, nẩy sanh đủ mọi ư niệm
suy lường được gọi là Duyên Lự.
[3]
Đây là lời tự thuật của tôn giả Tất
Lăng Già Bà Tha: Khi Ngài nghe đức Phật dạy “thế
gian chẳng có chuyện ǵ đáng vui sướng”, bèn
chú tâm quán tưởng lời dạy ấy ngay trong khi
đi khất thực, đến nỗi không chú ư, đạp
phải rắn độc. Khi bị rắn cắn đau
đớn khôn cùng, Ngài suy nghĩ: “Cái thân ta do có tri giác nên cảm
nhận sự đau đớn, nhưng cái tâm ta có thể
nhận biết sự đau đớn ấy th́ không có nỗi
đau đớn nào bên ngoài làm mất đi khả năng
nhận biết ấy, cũng như không có nỗi đau
nào làm xáo trộn cái tâm được”. Từ đó, Ngài thấy
được chân tâm.
[4] Đây là hiện tượng một
loại tế bào nào tăng trưởng quá mức, sẽ
khiến cho một cơ quan nào đó trên thân thể bị
ph́nh to.
[5]
Thái Nguyên c̣n được gọi là Tấn Dương,
Tinh Châu hoặc Long Thành, là một thành phố lớn của
tỉnh Sơn Tây. Vào thời cổ, nơi đây chính là kinh
đô của nước Triệu thời Chiến Quốc
và các triều đại Tiền Tần, Đông Ngụy, Bắc
Tề, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán,
Bắc Hán v.v… Thoạt đầu, nơi đây là lănh thổ
của sắc dân Xích Địch. Vào năm 541 trước
Công Nguyên, đại tướng Tuân Ngô
đem quân chinh phạt Xích Địch, sát nhập vùng này
vào lănh thổ nước Tấn. Cho đến năm 497,
gia tướng Đổng An Vu của Triệu Giản Tử mới
xây dựng thành tŕ tại đây, đặt tên là Tấn
Dương Thành. Nơi này trở thành kinh đô
của nước Triệu (dưới thời Triệu
Liệt Hầu) khi nước Tấn bị ba nhà quư tộc
Hàn, Triệu, Ngụy chia cắt. Đến đời Hán,
bị đổi thành Tinh Châu. Đời Tùy - Đường,
Tấn Dương là thành thị lớn thứ ba sau Lạc
Dương và Trường An. Tên gọi Thái Nguyên xuất
hiện khi Tần Thủy Hoàng lập quận Thái Nguyên với
Tấn Dương là thủ phủ.
[6] Trực tràng (Rectum, c̣n gọi là quảng
tràng) là phần ruột thẳng đứng cuối ruột
già, nối với hậu môn. Ruột già (đại tràng)
có h́nh giống như chữ U
ngược, được chia thành nhiều phần: Phần
thứ nhất tức cạnh đứng của chữ U
(thông với ruột non), được gọi là thăng
kết tràng (ascending colon). Phần phía dưới của trực
kết tràng lại gọi là manh tràng (cecum). Phần ruột
già tương ứng với đáy chữ U là hoành kết
tràng (transverse colon). Phần ruột già tương ứng với
cạnh c̣n lại của chữ U gọi là giáng kết
tràng (descending colon). Phần nối tiếp giữa giáng kết
tràng và trực tràng được gọi là ất tràng (ất
trạng kết tràng, sigmoid colon).
[7] Vị quốc sư này chính là ngài
Nam Dương Huệ Trung (675-775). Ngài là một trong năm
vị đại đồ đệ của Lục Tổ
Huệ Năng. Ngài đă học Phật từ nhỏ, thông
đạt kinh luật. Ngưỡng mộ Lục Tổ,
Ngài t́m đến Tào Khê cầu pháp, và đắc tâm ấn khi mới mười sáu tuổi.
Sau đó, Ngài tu luyện suốt bốn
mươi năm. Sau đó, cùng với Hà Trạch Thần
Hội, Ngài đă hoằng dương Thiền pháp của
Lục Tổ Huệ Năng ở phương Bắc. Ngài
nổi tiếng với câu chuyện khi ẩn tu tại vùng
núi, có tên cướp kề đao sát bụng uy hiếp, thiền sư Huệ
Trung vẫn lặng lẽ bất động. Ngài
được tôn là quốc sư cả ba đời vua
Huyền Tông, Túc Tông, và Đại Tông. Do Ngài từng làm
trụ tŕ chùa Long Quang ở Nam Dương, nên thường
được gọi là Nam Dương Huệ Trung.
[8]
Trên thực tế, Trường Giang có nhiều tên gọi
hơn nữa. Sông Niên Sở chảy đến
Đương Khúc lại được gọi là Đà
Đà Hà (người Mông Cổ gọi nó là Ulan Moron,
nghĩa là sông đỏ, Đà Đà nghĩa là ḍng sông chảy
chậm) chỉ là một nhánh phát nguồn. Một nhánh nguồn
khác là sông Đương Khúc (tức sông Damchu trong tiếng
Tạng). Đoạn từ Đương Khúc đến
Ngọc Thụ được gọi là Thông Thiên. Từ Ngọc
Thụ đến huyện Nghi Tân được gọi là
Kim Sa Giang. Từ Nghi Tân trở đi được gọi
là Trường Giang. Tùy mỗi khu vực, sông lại có những
tên gọi khác nhau (tuy tên chính vẫn là Trường Giang)
như đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương
được gọi là Xuyên Giang. Đoạn từ Chi
Giang đến Thành Lăng Cơ được gọi là
Kinh Giang. Đoạn sông chảy trong địa phận tỉnh
An Huy lại có tên là Hoàn Giang. Đoạn từ Nam Kinh đến
cửa sông Trường Giang gọi là Dương Tử
Giang. Danh xưng Dương Tử được đặt
từ thời Tùy.
[9] Theo giáo nghĩa của Pháp Tướng
Duy Thức, tác dụng nhận thức của mỗi tâm
vương và tâm sở có bốn phần: Tướng Phần,
Kiến Phần, Tự Chứng Phần, và Chứng Tự
Chứng Phần:
1) Tướng Phần là đối tượng
được nhận thức. Thuật ngữ Duy Thức
Học c̣n gọi là “sở duyên”. Đối tượng của
nhận thức gồm tất cả các cảnh cụ thể
(như sắc, thanh, hương, v.v…) và trừu tượng
(như ảnh tượng, ư tượng, v.v…), luôn luôn có
tướng trạng rơ ràng, cho nên được gọi là
Tướng Phần.
2) Kiến Phần là chủ thể nhận thức,
thuật ngữ Duy Thức Học c̣n gọi là “năng
duyên”. Chủ thể nhận thức bao gồm tất cả
tám thức tâm vương và năm mươi mốt tâm sở.
Duy Thức Học nói rằng, “nhận thức luôn luôn là nhận
thức cái ǵ”. V́ vậy, nếu không có đối tượng
th́ không có nhận thức, và ngược lại, không có chủ
thể nhận thức th́ không có đối tượng. Do vậy, Kiến Phần và Tướng Phần
là hai phần không thể tách rời của tác dụng nhận
thức.
3) Tự Chứng Phần (cũng gọi là “tự thể
phần”) là phần tự thể thâm sâu của tác dụng
nhận thức, tức là tự nó chứng biết hoạt
động nhận thức của chính nó. Khi mắt (kiến
phần) thấy (nhận thức) cuốn sách (tướng
phần) th́ biết rằng mắt thấy cuốn sách (tự
chứng phần).
4) Chứng tự chứng phần là phần sâu hơn
nữa của tác dụng nhận thức, tức chứng
biết một lần nữa về sự chứng biết
của tự chứng phần (theo tự điển online
Chú Thích Phật Học của Pháp Thí Hội).
[10] Ức hiểu theo nghĩa hiện
thời thông dụng tại Hoa Lục, Đài Loan, Nhật
Bản và Đại Hàn hiện thời
th́ Ức là 100.000.000 (một
trăm triệu). Vào thời cổ, Ức chỉ là một
trăm ngàn. Bắt đầu từ thời Hán trở
đi,
chẳng hạn như
theo các điều ghi chép trong Hán Thư, Ức được
coi là một trăm triệu (đôi khi c̣n gọi là vạn
vạn).