Lược giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần 5
占察善惡業報經
隋天竺沙門菩提登譯
夢參老和尚講
(giảng lần
thứ ba năm 2009)
Hán dịch: Thiên
Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời
Tùy
Chủ giảng: Lăo ḥa
thượng Mộng Tham
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo phiên bản
đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo
-https://www.liaotuo.com)
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
Tập 13
(Kinh)
Thường ưng như thị thủ kư nội tâm, tri
duy vọng niệm, vô thật cảnh giới, vật linh
hưu phế. Thị danh tu học Duy Tâm Thức Quán.
Nhược tâm vô kư, bất tri tự tâm niệm giả, tức
vị hữu tiền cảnh giới, bất danh Duy Tâm Thức
Quán. Hựu thủ kư nội tâm giả, tắc tri tham
tưởng, sân tưởng, cập ngu si, tà kiến tưởng, tri thiện,
tri bất thiện, tri vô kư, tri tâm lao lự chủng chủng
chư khổ.
(經)常應如是守記內心。知唯妄念。無實境界。勿令休廢。是名修學唯心識觀。若心無記。不知自心念者。即謂有前境界。不名唯心識觀。又守記內心者。則知貪想瞋想及愚痴邪見想。知善。知不善。知無記。知心勞慮種種諸苦。
(Kinh:
Hăy thường nên ghi nhớ nội tâm như thế, biết
nó chỉ là vọng niệm, chẳng phải là cảnh giới
thật sự, đừng để thôi bỏ. Đó gọi là tu học Duy
Tâm Thức Quán. Nếu tâm vô kư (chẳng thiện, chẳng
ác), chẳng biết tâm niệm của chính ḿnh, bèn cho là có
tiền cảnh giới (cảnh giới đối trước
sáu căn) th́ chẳng gọi là Duy Tâm Thức Quán. Lại nữa,
nhớ kỹ nội tâm, bèn biết tham tưởng, sân
tưởng, và ngu si tà kiến tưởng, biết thiện,
biết bất thiện, biết vô kư, biết các thứ khổ
do tâm nhọc nhằn suy nghĩ).
Trong
lúc chúng ta tu tập, phải nên biết cái tâm của chúng
ta. Trước hết, phải biết tâm tướng: Tâm
đang tư duy điều ǵ, tâm đang tưởng nhớ
điều ǵ, làm thế nào để trừ bỏ tham, sân,
si trong tâm? Làm thế nào để chuyển biến chúng?
Đó chính là tu Duy Tâm Thức Quán. Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng ta: Quư vị phải biết cái tâm, nhận
thức cái tâm của chính ḿnh. Đối với tất cả
hết thảy các tướng cảnh giới bên ngoài, mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ư của chúng ta đối
trước Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp; Sắc,
Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp đều là tướng
cảnh giới (“tiền cảnh giới”). Các tướng
cảnh giới ấy “ly tâm vô tướng”, [tức
là] ĺa khỏi cái tâm của quư vị, sẽ chẳng có
tướng cảnh giới. Quư vị nhận biết nó,
tất cả các tướng cảnh giới đều là
tâm của quư vị. Rời khỏi cái tâm th́ tướng cảnh
giới bên ngoài cũng chẳng c̣n. V́ chúng ta bị xoay chuyển
theo tướng cảnh giới, cái tâm hướng ra ngoài
rong ruổi, nắm níu, thuận theo ư niệm mà cảm nhận,
dấy lên sự hay biết, nhưng chúng ta muốn
ngưng dứt cái tâm, chẳng cho nó dấy lên, chẳng thể
nào được! Điều chúng ta có thể làm
được là khi cái tâm của quư vị cảm nhận
chẳng đúng, nhận biết niệm trước vừa
dấy lên điều ác, liền ngưng dứt niệm kế
tiếp, chẳng cho nó dấy lên, chẳng cho nó (ư niệm
ác ấy) tiếp nối. Quư vị vừa phát giác [tâm ḿnh]
dấy lên ư niệm không đúng, liền lập tức
ngăn dứt, chẳng cho nó tiếp tục. V́ tâm tưởng
và sự tư duy trong tâm của chúng ta
trong suốt một ngày tương ứng với thiện
pháp th́ ít, mà tương ứng với ác pháp thuộc vào
tướng cảnh giới nơi sáu trần th́ nhiều.
Do vậy, hễ quư vị nhận biết ư niệm “tham, sân, si” vừa dấy lên, hăy
ngay lập tức cắt đứt nó.
Đoạn
kinh văn này dạy chúng ta, có thể nhận biết niệm
trước khởi ác, bèn ngưng dứt, chẳng cho niệm
sau dấy lên. Công lực như thế đă rất mạnh
mẽ, khiến cho nó chẳng thể tiếp nối. Nay
chúng ta chưa tu đến mức khởi tâm động
niệm đều là thiện niệm,
vẫn chưa thể làm được như thế;
nhưng điều quư vị có thể làm được
là chúng ta nhận biết trong tâm dấy lên ư niệm chẳng
đúng, chẳng nghĩ ngợi chi nữa, ngay lập tức
chế ngự, chấm dứt nó. V́ những ǵ cái tâm chúng
ta suy tưởng đều là nghiệp bất thiện,
do hiện thời bọn chúng sanh chúng ta chẳng tu tâm, công
phu tu tập chẳng ra hồn! Hễ quư vị biết
chính ḿnh khởi tâm động niệm chẳng đúng, rời
ĺa Tam Bảo, rời ĺa pháp, quư vị có thể chấm dứt
nó. Sức mạnh ấy chính là sức mạnh sanh ra sau khi
nghe Phật pháp. Chúng tôi thường nói “nhận biết
niệm trước khởi ác, có thể ngưng dứt chẳng
cho niệm sau dấy lên, chính là Bồ Tát phát tâm”. Bản
thân chúng ta có cảm thấy b́nh thường chúng ta tu hành
là như thế hay không? Có thể ngưng dứt chẳng
cho tâm niệm dấy lên hay không? Chưa thể được!
Khi ác nghiệp cảm quả, tức là có sự thật;
chẳng tạo thành ác nghiệp thật sự, sẽ chẳng
cảm quả! Quư vị mới vừa dấy niệm, liền
ngưng dứt, sẽ chẳng thể cảm quả!
(Kinh)
Nhược ư tọa thời, tùy tâm sở duyên, niệm
niệm quán tri, duy tâm sanh diệt. Thí như thủy lưu,
đăng diệm, vô tạm thời trụ. Tùng thị
đương đắc Sắc Tịch tam-muội.
(經)若於坐時隨心所緣。念念觀知。唯心生滅。譬如水流燈焰。無暫時住。從是當得色寂三昧。
(Kinh:
Nếu lúc ngồi (tĩnh tọa), tùy theo cái tâm duyên [vào
đâu], trong mỗi niệm đều quán biết chỉ
có cái tâm sanh diệt. Ví như gịng nước,
ánh lửa nơi đèn, chẳng có lúc nào tạm ngưng trụ.
Từ đó, sẽ đắc Sắc Tịch tam-muội).
Khi
chúng ta tu tập tĩnh tọa, khi tu hành, tâm quư vị mong
tu Định, mong ngồi xuống để định,
nhưng quư vị quán chiếu cái tâm của chính ḿnh chẳng
định được, bèn thuận theo các tướng
cảnh giới mà cái tâm đang nghĩ tưởng, bất
luận tướng cảnh giới nào, cho đến cái
tâm duyên theo điều thiện cũng thế, mà duyên theo
ác niệm cũng thế, [những ư niệm ấy] đều
từ trong tâm dấy lên, thuộc về pháp sanh diệt. Nếu
trong khi tĩnh tọa, bất luận tâm duyên vào đâu,
trong mỗi niệm, đều thấy biết [các ư niệm]
đó chỉ do cái tâm sanh diệt. Khi quư vị chẳng
tĩnh tọa, vọng niệm tơi bời, quư vị
đâu có biết! Cho đến khi quư vị mong lắng
ḷng, toan dụng công, khi đó, quư vị dấy lên sự
quán chiếu để quán chiếu ư niệm trong cái tâm của
chính ḿnh toàn là pháp sanh diệt, giống như gịng nước [liên tục chảy], hay ánh lửa nơi ngọn
đèn [liên tục cháy sáng]. Có thể trụ trong vô niệm
hay chăng? Nếu có thể tạm thời khiến cho cái
tâm tĩnh định, tâm tĩnh lặng chẳng sanh ư niệm,
nếu có thể đạt được công phu như thế,
quư vị sẽ đạt được Sắc Tịch
tam-muội.
Địa
Tạng Bồ Tát dạy chúng ta Sắc Tịch tam-muội
là trong hết thảy mọi chỗ, hết thảy mọi
lúc, trong khi quư vị tu hành, khi tu Quán lực, nói thông thường
là khi tu nhập Định, ngay trong lúc quư vị đi,
đứng, ngồi, nằm, khi đi lại, hoặc là
khi chẳng nằm, chỉ ngồi, trong bốn loại
hành động “đi, đứng,
ngồi, nằm”, quư vị đều
có thể tu Quán, đều có thể nhập tịch định,
nhưng lúc ngồi là tốt nhất, sức quán chiếu mạnh
mẽ! Khi nằm, sẽ dần dần rơi vào trạng
thái ngủ thiếp đi. Khi đi lại, cái tâm dễ bị
tản mạn. Ngồi xuống, chính ḿnh quán chiếu cái
tâm, quán chiếu cái tâm của chính ḿnh sanh khởi như thế
nào? Do ư niệm nương theo cảnh giới. Tâm vốn
vô sanh, do cảnh mà có. Tâm niệm của quư vị vốn
là vô sanh, do v́ cảnh giới [mà có ư niệm sanh khởi]. Cảnh
giới trong tâm là do nghĩ tới cảnh giới trong quá
khứ, hay nghĩ tưởng cảnh giới trong vị
lai. “Tâm vốn vô sanh, do cảnh mà có”: Tâm niệm của
quư vị vốn chẳng có, do quư vị
nghĩ tưởng, cảnh giới bèn có. Khi đó, quư vị có thể
khiến cho cái tâm tĩnh lặng, trong tâm chẳng có ư niệm
ǵ, đă chẳng nghĩ ngợi quá khứ, mà cũng chẳng
nghĩ tới hiện tại, lại càng chẳng mơ
tưởng vị lai. Đối với một niệm bất
giác, do trong mỗi niệm, niệm nào cũng đều cảm
nhận đă định, [cho nên] chẳng có niệm nào là
bất giác, chẳng sanh khởi cái tâm bất giác.
Đồng
thời, khi ấy bèn tư duy, khi tĩnh tọa bèn quán
tưởng, quán điều ǵ vậy? Quán hết thảy
các thứ có h́nh tướng đều do tâm thức biến
ra. Khi đó, quán hết thảy các sắc đều chỉ
là tâm, chỉ có sự sanh diệt của
cái tâm. Nói theo các giáo nghĩa Đại Thừa khác, “tâm
sanh th́ các pháp sanh, tâm diệt th́ các pháp diệt”. Hết
thảy các pháp sanh khởi cũng thế, mà khi diệt
cũng thế, toàn là tâm niệm của quư vị. Quán có
nghĩa là Chiếu. Quư vị tĩnh tọa nhằm mong tu
hành. Tu hành là sử dụng trí huệ của quư vị, tức
là dùng tâm niệm để quán chiếu, quán chiếu sao cho
hết thảy các động tác (các ư niệm vận hành
trong tâm) hoàn toàn ngưng lặng,
chẳng tưởng nữa. Quán chiếu khiến cho cái
tâm chẳng khởi niệm, tĩnh lặng. Niệm nào
cũng quán chiếu cái tâm này, [sẽ thấy
cái tâm này] toàn là “một niệm này dấy lên, một niệm kia diệt mất”. Quán sự sanh diệt
trong cái tâm của quư vị để cắt
đứt nó. Dùng sự quán niệm để cắt đứt
[các ư niệm khởi lên hay diệt mất], chẳng c̣n niệm
nữa. Đấy chính là như Thiền Tông thường
nói “đả đắc vọng tưởng tử, hứa
nhữ Pháp Thân hoạt” (đánh chết vọng tưởng
để Pháp Thân được sống). Ư niệm đă
tĩnh, ư niệm đă tịch tĩnh, quư vị bèn
ngộ “niệm vốn là tịch tĩnh”. Khi đă có
thể định như vậy, thời gian định
càng dài càng hay, chẳng khởi tâm động niệm nữa.
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị sẽ
đạt được Sắc Tịch tam-muội; đạt
được ở mức độ ban đầu, quư vị
có thể tu dần dần.
(Kinh)
Đắc thử tam-muội dĩ, thứ ưng học tập
tín Xa-ma-tha quán tâm, cập tín Tỳ-bà-xá-na quán tâm.
(經)得此三昧已。次應學習信奢摩他觀心。及信毗婆舍那觀心。
(Kinh:
Đă đắc môn tam-muội ấy rồi, kế đó,
hăy nên học tập tín tâm đối với môn quán tâm bằng
Xa-ma-tha và tín tâm đối với môn quán tâm bằng Tỳ-bà-xá-na).
Sau
khi đă đắc môn tam-muội ấy, hăy nên học tập,
tin tưởng môn quán tâm bằng Xa-ma-tha. Chúng ta thường
hỏi: “Có tín tâm hay không?” Chẳng
có tín tâm! Đây là dạy chúng ta hăy tu tập tín tâm. Khi quư vị
đă có thể định, quư vị mới quán, quán cái tâm
có thể dần dần lặng dứt. Đấy là khi
Quán bèn có Chỉ, khi Chỉ bèn có Quán; được gọi
là “Chỉ Quán song vận” (止觀雙運, vận dụng cả
Chỉ lẫn Quán). Chúng ta nói “Định Huệ song tu” chính
là hàm nghĩa này. Tu tập tin tưởng pháp quán tâm bằng
Xa-ma-tha, đồng thời cũng tin tưởng pháp quán
tâm bằng Tỳ-bà-xá-na. Điều này có nghĩa là cùng vận
dụng Định và Huệ. Địa Tạng
Vương Bồ Tát dạy chúng ta khi tu Xa-ma-tha tức Chỉ
và tu Tỳ-bà-xá-na tức Quán, tức là khi tu Chỉ Quán, th́
trong khi đó, chúng ta tu tập ǵ vậy? Tín tâm! Chúng ta
thường cho rằng đối với Tam Bảo, chính
ḿnh đă sanh khởi tín lực, đă có sức mạnh
sanh khởi tín tâm rồi. Thật ra, tín lực vẫn
chưa có, tín vẫn chưa “nhập vị” (chưa
đạt đến mức, hoặc chưa dự vào địa vị tối thiểu là Sơ Tín). Tín
c̣n chưa nhập vị, làm sao có thể sanh ra sức mạnh
cho được? Do đó, phải tu tập.
(Kinh)
Tập tín Xa-ma-tha quán tâm giả, tư duy nội tâm bất
khả kiến tướng, viên măn bất động, vô
lai, vô khứ, bổn tánh bất sanh, bất diệt, ly phân
biệt cố.
(經)習信奢摩他觀心者。思惟內心不可見相。圓滿不動。無來無去。本性不生不滅。離分別故。
(Kinh:
Tu tập tín tâm đối với môn quán tâm bằng Xa-ma-tha
là tư duy nội tâm chẳng thể thấy tướng,
viên măn bất động, chẳng đến, chẳng
đi, bổn tánh bất sanh, bất diệt, do ĺa phân biệt).
“Tập
tín Xa-ma-tha quán tâm” là tư duy nội tâm chẳng thể
thấy tướng, viên măn bất động, chẳng
đến, chẳng đi. Cái tánh sẵn có, cái Thể sẵn
có vốn bất sanh, bất diệt, do ĺa phân biệt.
Đó là bước đầu để chúng ta tu tập
Duy Tâm Thức Quán, liễu đạt hết
thảy ngoại cảnh đều chẳng có, chỉ do
tâm thức hiện, chỉ có nội tâm, chẳng có ngoại
cảnh. Chúng ta quan sát tướng của nội tâm là
như thế nào? Mọi người hăy quán tướng của
nội tâm có h́nh dạng ǵ vậy? Trọn chẳng thể
được! Chẳng thể thấy tướng, chẳng
thể thấy tướng của nội tâm được.
Khi quư vị tu hành, mới cảm nhận hết thảy
đều là “nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức
thị Không” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là Không). Chúng
tôi thường nói tu Không Quán chẳng dễ dàng như thế
đó. Ở đây có một đoạn kinh
văn rất dài, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng
ta cách tu Không Quán. Tu Không Quán chỉ là khởi đầu, phải
nên có tín lực như thế, tín tâm sẽ sanh ra sức mạnh.
Đă có tín lực, quư vị suy tưởng “chẳng thấy
tự tâm của chính ḿnh, chẳng thể thấy tướng
của nó được”, nhưng nó là
viên măn, chẳng có khiếm khuyết. Đấy là bổn
tâm. Chân tâm của chúng ta và chân tâm của Phật vốn
chẳng hai, chẳng khác, viên măn, bất động,
cũng chẳng có tướng đến đi, cũng chẳng
có tướng sanh diệt, mà cũng chẳng có tướng
phân biệt. Chúng ta có tin hay không? Địa Tạng
Vương Bồ Tát dạy chúng ta tu hành Tín, tức là tin
vào cái tâm này. Kinh thường nói “có tín tâm hay không?” Chẳng có đạo hữu nào trả lời “tôi chẳng
có tín tâm”, chẳng hề có! Chẳng có tín tâm th́ làm sao có thể
nhập Tam Bảo cho được? Có tín tâm! Trên thực
tế là chưa “nhập vị”, ḷng tin của chúng ta
là “mao đạo” (毛道), [tức là giống
như một sợi lông], gió vừa thổi liền bay tuốt.
Ḷng tin bất định, giống như sợi lông, chẳng
thể chịu nổi gió thổi. Hễ bị thổi bèn
bay mất! Trước hết, phải tu tập tín Định,
tín Huệ, quán cái tâm của quư vị.
(Kinh)
Tập tín Tỳ-bà-xá-na quán tâm giả, tưởng kiến
nội ngoại sắc, tùy tâm sanh, tùy tâm diệt, năi chí tập
tưởng kiến Phật sắc thân, diệc phục
như thị, tùy tâm sanh, tùy tâm diệt,
như huyễn, như hóa, như thủy trung nguyệt, như
kính trung tượng, phi tâm, bất ly tâm, phi lai, phi bất lai, phi khứ, phi bất khứ, phi
sanh, phi bất sanh, phi tác, phi bất tác.
(經)習信毗婆舍那觀心者。想見內外色。隨心生。隨心滅。乃至習想見佛色身。亦復如是。隨心生。隨心滅。如幻如化。如水中月。如鏡中像。非心不離心。非來非不來。非去非不去。非生非不生。非作非不作。
(Kinh:
Tu tập tín tâm đối với môn quán tâm bằng Tỳ-bà-xá-na
là tưởng thấy sắc trong ngoài, tùy theo tâm mà sanh, tùy
thuộc tâm mà diệt, cho đến tu tập, tưởng
thấy sắc thân của Phật cũng giống
như thế, tùy theo tâm mà sanh, tùy
theo tâm mà diệt, như huyễn, như hóa, như trăng
trong nước, như h́nh tượng trong gương, chẳng
phải tâm, chẳng ĺa tâm, chẳng tới, chẳng không tới,
chẳng đi, chẳng không đi, chẳng phải sanh, chẳng
phải không sanh, chẳng phải làm, chẳng phải không
làm).
“Tập
tín Tỳ-bà-xá-na quán tâm”: Tưởng thấy nội ngoại
sắc. Đối với “thấy nội ngoại sắc”
th́ tướng của nội sắc là ǵ? Tướng của ngoại sắc là ǵ?
Thuận theo tâm sanh, thuận theo tâm diệt. Tướng ấy
chẳng thể được! Do tâm khởi, nó
bèn sanh khởi. Tâm diệt, nó cũng chẳng c̣n! Vẫn phải
tu tập, tưởng thấy sắc thân của Phật:
Sắc thân của Phật và sắc thân của chúng sanh giống nhau, cũng là tùy thuộc vào cái tâm
mà sanh khởi, thuận theo cái tâm mà tiêu mất. Tùy tâm sanh khởi,
tùy tâm diệt hoại. Như chúng ta quán sắc tướng
của Phật, quán ba mươi hai tướng [đại nhân] và tám mươi thứ
hảo của Phật, chúng cũng là tùy sanh, tùy diệt y hệt
như vậy: “Tâm sanh, tướng sanh; tâm diệt,
tướng diệt”, đều là huyễn hóa! Bóng
trăng trong nước thoạt nh́n th́ dường như
có, chẳng vớt lấy được. Trên thực tế,
nó chẳng có. H́nh tướng trong gương có hay không?
H́nh tướng trong gương có phải là thật hay
chăng? Ai nấy đều biết nó chẳng phải là
thật. Hết thảy các pháp đều là như thế:
Thuận theo cái tâm quư vị sanh mà pháp sanh. Thuận theo cái
tâm quư vị diệt mà pháp diệt, đều là huyễn
hóa, chẳng phải là chân thật. Cho nên giống như
bóng trăng trong nước, giống h́nh tướng trong
gương, soi vào gương bèn hiện tướng, chẳng
phải tâm, chẳng rời tâm, chẳng đến, chẳng
không đến, chẳng đi, chẳng không đi, chẳng
sanh, chẳng không sanh, chẳng làm, chẳng không làm, hết
thảy các pháp đều như thế. Có hay không? Chẳng
có! Là không ư? Lại chẳng phải là không! Do vậy,
nêu ra nhiều thí dụ như thế, nhằm nói hết
thảy các pháp chỉ là tướng cảnh giới duy
tâm, là cảnh giới được duyên bởi tâm, chỉ
là tâm, ngoài tâm chẳng có pháp! Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta: Trong khi quư vị tu hết thảy các pháp, biết hết
thảy các pháp đều là Không, hết thảy các pháp là
Giả. Không là tu Không Quán; Giả là tu Giả Quán. Giữa
Không và Giả, có cái chẳng phải Không, chẳng phải
Giả, đó gọi là Trung Quán. Nói Không và Giả là nói theo
Sự. Sự đều do Lư mà khởi. Chẳng có Không, chẳng
có Giả, hiển thị “chẳng ra ngoài Trung”. Trung Quán là Lư. Do v́
Trung Quán có thể thành Giả Quán, có thể thành Không Quán. Chẳng
có Trung Quán, sẽ chẳng thành Giả, mà cũng chẳng
thành Không. Lư có thể thành hết thảy các Sự, Sự
có thể hiển Lư.
Chúng
ta chấp trước sắc tướng bên trong; đó gọi
là Nội Sắc. Đoạn này giảng về cảnh giới
duy tâm: Nội Sắc chẳng có, nó do tâm hiện. Sắc
pháp là Sự, nhưng nó có thể hiển Lư. Chẳng có Sự,
sẽ chẳng thể hiển Lư. Quư vị chấp trước
Thọ, Tưởng, Thức, đấy chính là “Sự
cũng là Lư”, nhưng lại có thể thành tựu Sự.
Sự có thể hiển Lư. Đó chỉ là Sắc ở bên trong, được
gọi là Nội Sắc. Vậy th́ Ngoại Sắc
là ǵ? Ngoại Sắc là do thấy Nội Sắc mà sanh khởi.
Nội Sắc tùy tâm sanh. Sắc tướng bên trong là “tâm
sanh th́ pháp sanh; tâm diệt, sắc ấy cũng diệt”. Nội Sắc tùy tâm sanh, mà cũng
tùy tâm diệt. Ngoại Sắc chẳng phải như
vậy. Ngoại Sắc th́ quư vị chẳng tưởng,
nó vẫn tồn tại. Đấy là do chấp trước; nó chẳng quản quư vị chấp trước hay không chấp
trước. Quư vị chấp trước Thọ
và Sắc, hoặc quư vị chẳng chấp trước
Thọ và Sắc. Thọ trong Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức có nghĩa là “lănh nạp”. Bất luận
quư vị chấp trước hay không chấp trước,
nó vẫn tồn tại y hệt. Đó là Ngoại
Sắc. Nội Sắc thuận theo cái tâm mà sanh diệt. Ngoại
Sắc th́ tâm quư vị sanh, nó cũng tồn tại; tâm diệt,
nó vẫn tồn tại!
Nếu
chúng ta mong thấy tướng sanh diệt của Ngoại
Sắc, kinh nêu ra một thí dụ. Đối với sắc
thân của Phật, chúng ta quán tưởng ba mươi hai
tướng và tám mươi thứ hảo của Phật.
Quư vị nói “tâm ta đă diệt, [lẽ
ra] chẳng có Phật tướng”. [Thế
nhưng], tướng nơi Phật tướng vẫn
nghiễm nhiên tồn tại, nó chẳng thuận theo cái tâm
sanh diệt của quư vị [mà sanh hay diệt theo]. Cho
đến đối với Phật, Bồ Tát, La Hán, Thanh
Văn, cho tới trời, người, A Tu La, địa
ngục, quỷ, súc sanh, tất cả hết thảy sắc
tướng trong mười pháp giới, tất cả tướng trạng trong mười pháp giới,
do ai tạo tác? Do tạo tác mà có? Hay chẳng nhờ vào tạo
tác mà vẫn có? Sắc tướng của mười pháp
giới như thế là có hay chẳng có? [Phán định
nó] là hữu, là vô, là phi hữu, phi vô, đều chẳng
đúng! Như thế nào mới là đúng? V́ hết thảy
các pháp vô tánh, chẳng có tánh thể, là duyên khởi, tức là do nhân duyên mà sanh khởi. Vậy th́ chúng sẽ do nhân duyên mà tiêu mất ư? Pháp cũng chẳng tồn tại.
Nó chẳng có nghĩa tạo tác, chẳng có thể tánh, là
các pháp duyên khởi.
Tâm
sanh quán tưởng như vậy để quán hết thảy
các pháp, đó gọi là Nhất Tâm Tam Quán. Tâm nội pháp, tâm
ngoại pháp, cho đến đối với tất cả
các pháp sanh khởi, Không Quán, Giả Quán, Trung Quán, Không Quán vẫn
là tâm, Giả Quán vẫn là tâm, Trung Quán vẫn là tâm. Tâm sanh
th́ các pháp sanh, nếu tâm diệt th́
các pháp diệt. Do vậy, gọi là Nhất
Tâm Tam Quán. Chỉ chẳng rời tâm, mà Quán cũng chẳng
rời tâm, duy tâm mà thôi! Trong đoạn này, đối với Tỳ-bà-xá-na
cũng thế, cho đến khi tu Chỉ, tu Quán, Lô Xá Na
tánh, Tỳ-bà-xá-na, Xa-ma-tha, cả hai đều là [cái tâm của
chúng ta], Chỉ và Quán b́nh đẳng. Lại nữa, nói
đến Quán th́ Quán chính là Chỉ, tức
là “động chính là tĩnh, trong tĩnh có động,
trong động có tĩnh. Khi Chỉ bèn có Quán, khi Quán bèn có
Chỉ. Chỉ Quán cùng vận dụng”. Đó là quán
Không, quán hết thảy các pháp đều là Không, quán hết
thảy các pháp là giả, nhưng chẳng ĺa khỏi
nghĩa Trung Đạo, do Trung mà hiển hiện. Lư giải
như vậy đó!
(Kinh)
Thiện nam tử! Nhược năng tập tín thử nhị
quán tâm giả, tốc đắc thú hội Nhất Thừa
chi đạo.
(經)善男子。若能習信此二觀心者。速得趣會一乘之道。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Nếu có thể tu tập tín tâm
đối với hai thứ quán tâm ấy, sẽ mau chóng tiến
nhập, lănh hội đạo Nhất Thừa).
Đồng
thời, Địa Tạng Bồ Tát c̣n giải thích thêm:
Thiện nam tử! Nếu có thể tu tập tín tâm đối
với hai thứ quán tâm ấy, sẽ mau chóng tiến nhập,
lănh hội đạo Nhất Thừa. Phần kinh văn
đang được giảng ở đây toàn nói về
Tín. Địa Tạng Bồ Tát chỉ muốn cho chúng ta
tin tưởng pháp nghĩa Đại Thừa, hoàn toàn
chưa nói tới chuyện chứng nhập, hăy c̣n cách biệt
rất xa. Chúng ta thường cho rằng chính ḿnh có tín tâm.
Địa Tạng Vương Bồ Tát nói chúng ta chẳng
có tín tâm. Ngài dạy như thế nào mới được
coi là có tín tâm? Quư vị phải tu
hành, phải tu hành trong thời gian dài cỡ nào? Người
nói theo giáo nghĩa sẽ biết là một vạn kiếp.
Nói thông thường, chúng ta quy y Tam Bảo, tín ngưỡng
Phật pháp, chúng ta đă có tín tâm, nhưng tín tâm ấy chẳng
có cội rễ, chẳng nhập vị. Tín,
Tấn, Niệm, Định, Huệ, hễ có tín tâm, sẽ
tinh tấn tu hành, chẳng lười nhác, luôn luôn niệm
Tam Bảo, chẳng đánh mất chánh niệm, huệ tâm
thường chiếu, không để cho ư niệm sai lầm
[tăng trưởng]. Vừa cảm thấy niệm dấy
lên, bèn uốn nắn nó, niệm nào cũng đều trụ
nơi Tam Bảo. Do đó, Địa Tạng Bồ Tát giảng
đi giảng lại vấn đề này để chúng
ta tiến nhập. Tiến nhập ǵ vậy? Tín tâm.
Thiện
nam tử! Để có thể tu tập niềm tin đối
với hai thứ quán tâm này, th́ phải tin tưởng hai
thứ quán đạo và cảnh giới Nhất Thật. [Toàn bộ những điều Bồ Tát đă dạy]
chỉ nhằm khiến cho chúng ta tin tưởng. Đă tin
rồi th́ Ngài mới dạy chúng ta tiến nhập bằng
cách nào, tu như thế nào! Phải tiến nhập hai thứ
quán đạo th́ mới có thể tiến nhập đạo
Nhất Thừa, mới có thể tiến nhập pháp Nhất
Thừa.
(Kinh)
Đương tri như thị Duy Tâm Thức Quán, danh vi tối
thượng trí huệ chi môn, sở vị năng linh kỳ
tâm mănh lợi, trưởng tín giải lực, tật nhập
Không nghĩa, đắc phát vô thượng đại Bồ
Đề tâm cố.
(經)當知如是唯心識觀。名爲最上智慧之門。所謂能令其心猛利。長信解力。疾入空義得發無上大菩提心故。
(Kinh:
Hăy nên biết Duy Tâm Thức Quán như thế được
gọi là môn trí huệ tối thượng, tức là do nó
có thể khiến cho cái tâm nhạy bén, tăng trưởng
sức tín giải, nhanh chóng nhập nghĩa Không, phát khởi
tâm đại Bồ Đề vô thượng).
Đây
gọi là môn Quán ǵ vậy? Duy Tâm Thức Quán. Hăy nên biết
Duy Tâm Thức Quán như thế, vạn pháp duy tâm, vạn
pháp duy thức. Quư vị phải dùng sức quán chiếu
để nhận biết “vạn pháp duy thức” là ǵ, “vạn pháp duy
tâm” là ǵ. Đó là pháp môn trí huệ tối thượng.
V́ học tập pháp môn trí huệ này, sẽ có thể khiến
cho cái tâm của chúng ta bén nhạy. “Mạnh mẽ, nhạy
bén” có nghĩa là giống như chúng ta làm chuyện ǵ rất
mạnh mẽ, lanh lợi, chẳng sợ nguy nan. Đă có
tín tâm ấy, quư vị tu hành trong Phật pháp th́ mới có
thể mạnh mẽ, nhạy bén, mới có thể tăng
trưởng sức tín giải của quư vị. V́ sao chúng
ta tin chẳng sâu? Do quư vị không lư giải! Quư vị không lư giải, ḷng tin sẽ
chẳng sâu. Cho tới khi quư vị hiểu rơ, lư giải, tín lực
tăng trưởng. Đạt tới ǵ vậy? Nhanh chóng
nhập nghĩa Không. Đó chỉ là khúc nhạc dạo
đầu của Không Quán, tức là tiền phương
tiện của tu Không Quán. Chẳng có tiền phương
tiện, quư vị tu Không Quán sẽ chẳng thành. Địa
Tạng Bồ Tát lại bảo chúng ta: Đó là môn trí
huệ, là môn trí huệ tối thượng. Ai ấy đều
mong đắc trí huệ, nhưng chẳng có, vẫn
chưa có cửa nẻo để vào! Quư vị c̣n chẳng
có cửa để vào, tiến nhập trí huệ bằng
cách nào đây? Những ǵ chúng ta đă học là Thế Trí
Biện Thông, chẳng phải là trí huệ. Trí huệ là liễu
sanh tử, chứng Niết Bàn. Chúng ta toàn là Thế Trí Biện
Thông của thế gian. V́ đă có tín tâm, trí huệ đă
tăng trưởng, chúng ta đă có sức, đối với
pháp do đức Phật đă nói, quư vị có thể lư giải,
đó gọi là “tín giải lực”. Chẳng tin th́ làm
sao có thể tín giải cho được? Quư vị đạt
được tín lực trước đă rồi mới
có thể lư giải.
Sự
lư giải của chúng ta là tương tự. Đă có sức
lư giải, do sức tín giải ấy th́ sẽ có thể
lư giải, mới có thể tiến nhập Không. Nhập
nghĩa Không th́ mới có thể phát khởi vô thượng
đại Bồ Đề tâm. Mỗi vị đạo hữu
chúng ta đều biết phát Bồ Đề tâm là căn
bản. Nếu quư vị phê b́nh kẻ nào đó, nói kẻ
đó chẳng phát Bồ Đề tâm, kẻ đó tuyệt
đối chẳng chấp nhận. Nhưng quư vị phải
thâm nhập, nghiên cứu một phen: Như thế nào th́ mới
được coi là phát Bồ Đề tâm? Đạt
được địa vị Thập Tín, đă có sức
tín giải để chứng đắc nghĩa Không. Phát
Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm chẳng phải
là Hữu, mà là Không; từ trong Không sanh ra Hữu. Thật sự
phát đại Bồ Đề tâm, trải qua phân tích, chúng
ta lư giải: Đấy mới là phát đại Bồ Tát
tâm, biết ngoài tâm chẳng có pháp. Tu Định, tu Huệ
như thế được gọi là “Chỉ Quán viên
đốn”; đó mới gọi
là Viên Giáo, Đốn Giáo. Mọi người đều biết
Trí Giả đại sư. Trí Giả đại sư sáng
lập tứ giáo của tông Thiên Thai, tất cả bọn
tăng nhân chúng ta đều thừa nhận trí huệ của
Ngài. Tại gia đệ tử lẫn xuất gia đệ
tử đều thừa nhận trí huệ của Trí Giả
đại sư. Khi Ngài viên tịch, đệ tử hỏi
Ngài: “Thưa sư phụ, nay thầy đă chứng đắc
địa vị ǵ?” Ngài đáp: “Nếu ta chẳng xây chùa,
hoằng pháp lợi ích chúng sanh, ta có thể đạt tới
Sơ Trụ. V́ hoằng pháp lợi sanh, ta chỉ có thể
đạt tới địa vị Ngũ Phẩm”, tức
là địa vị thứ năm trong Tín Vị của Viên
Giáo. Mọi người biết: Xét theo công lực tu tập
Chỉ Quán viên đốn của Trí Giả đại
sư, Ngài đạt tới địa vị Ngũ Phẩm
trong Chỉ Quán viên đốn, tức là vẫn chưa
đạt tới mức sáu căn thanh tịnh. Đạt
tới địa vị sáu căn thanh tịnh th́ mới dự
vào Sơ Trụ trong Viên Giáo. Nói cách khác, vẫn chưa dự
vào địa vị Sơ Trụ. Bồ
Tát đă dự vào địa vị Sơ Trụ, có thể thị hiện
thân Phật tới cúng dường hết thảy chư
Phật trong mười phương pháp giới. Thập
Tín viên măn, dự vào địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo, nhập Đệ Nhất
Nghĩa Không. “Không” là chẳng chướng ngại,
mười phương pháp giới chẳng chướng
ngại. Vị Bồ Tát ấy sẽ vĩnh viễn chẳng
đọa làm phàm phu, mà cũng chẳng đọa vào Nhị
Thừa. Ư nghĩa này hoàn toàn phù hợp với nghĩa lư
trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm nói như thế, sáu căn
thanh tịnh, Đệ Nhất Nghĩa Không, Không th́ mới
thanh tịnh. Chúng ta nói “thanh tịnh” th́ phải là
đă chứng nhập nghĩa Không, chứng nhập
nghĩa Không là đă thanh tịnh rốt ráo. Chúng ta hễ
nghe nói đến Tín vị, cảm thấy Tín vị rất
thấp. [Thật ra], Tín vị cũng rất cao, Tín vị
trong Viên Giáo chẳng dễ dàng đâu nhé! Đối với
Tín vị của Viên Giáo, khi quư vị viên măn Thập Tín, sẽ
vĩnh viễn chẳng đọa làm phàm phu, mà cũng chẳng
đọa vào Nhị Thừa. Khi đó, tiến nhập
địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo, đấy mới
là “phát đại Bồ Đề tâm”. Địa vị
Sơ Trụ trong Viên Giáo là Phát Tâm Trụ, cho nên gọi là “phát
Bồ Đề tâm”.
(Kinh)
Nhược học tập Chân Như Thật Quán giả,
tư duy tâm tánh vô sanh, vô diệt, bất trụ kiến,
văn, giác, tri, vĩnh ly nhất thiết phân biệt chi
tưởng.
(經)若學習真如實觀者。思惟心性。無生無滅。不住見聞覺知。永離一切分別之想。
(Kinh:
Nếu học tập Chân Như Thật Quán th́ hăy tư duy
tâm tánh chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng trụ vào thấy,
nghe, hay biết, vĩnh viễn ĺa khỏi hết thảy
các ư tưởng phân biệt).
Học tập Chân Như Thật
Quán, quán hết thảy các pháp đều là Chân Như,
đều là Thật Tướng; đó gọi là Chân
Như Thật Quán. Tư duy tánh của hết thảy các pháp
chính là tâm tánh vô sanh, vô diệt. Hết thảy các pháp đều
chẳng sanh, chẳng diệt; tâm tánh vô sanh, vô diệt. Chẳng
trụ vào “thấy, nghe, hay, biết”, vĩnh viễn
chẳng có ư niệm phân biệt. Chẳng có ư tưởng
phân biệt, đương nhiên là chẳng có sự thật
[để phân biệt]. Đấy là chân thật tánh môn.
Quán như thế nào? Chính là quán tánh chân thật, tư duy
tưởng tâm tánh vô sanh, vô diệt, chẳng tăng, chẳng
giảm, chẳng nhơ, chẳng sạch. Khi chúng ta đọc
Tâm Kinh, [thấy chép] Quán Tự Tại Bồ Tát tu môn Quán ấy,
Ngài chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không, chẳng
có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, chẳng có Nhăn
Giới, cho đến chẳng có Ư Thức Giới, chẳng
có vô minh, mà cũng chẳng có “hết vô minh”. Đó
chính là tướng cảnh giới trong hiện thời, chẳng
có hết thảy các ư tưởng phân biệt. Trong khi quư vị
quán tưởng Chân Như thật tánh, chẳng trụ vào
thấy, nghe, hay, biết.
(Kinh)
Tiệm tiệm năng quá Không Xứ, Thức Xứ, Vô Thiểu
Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đẳng
định cảnh giới tướng, đắc
Tương Tự Không tam-muội.
(經)漸漸能過空處識處。無少處非想非非想處等定境界相得相似空三昧。
(Kinh:
Dần dần có thể vượt khỏi tướng cảnh
giới của các môn Định như Không Xứ, Thức
Xứ, Vô Thiểu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ, đạt được Tương Tự Không
tam-muội).
Khi đó, dần dần có thể
vượt khỏi tướng cảnh giới của các
môn định Không Xứ, Thức Xứ, Vô Thiểu Xứ,
và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, môn Định ấy
cao lắm. Đạt được Tương Tự
Không tam-muội, chẳng phải là Chân Không, mà là
tương tự tam-muội, vẫn là Tương Tự
Không tam-muội.
(Kinh)
Đắc Tương Tự Không tam-muội thời, Thức,
Tưởng, Thọ, Hành thô phân biệt tướng bất
hiện tại tiền. Tùng thử tu học, vi thiện
tri thức đại từ bi giả thủ hộ,
trưởng dưỡng. Thị cố, ly chư chướng
ngại, cần tu bất phế, triển chuyển
năng nhập Tâm Tịch tam-muội.
(經)得相似空三昧時。識想受行粗分別相不現在前。從此修學。爲善知識大慈悲者守護長養。是故離諸障礙。勤修不廢。展轉能入心寂三昧。
(Kinh: Khi
đạt được Tương Tự Không tam-muội,
tướng thô phân biệt của Thức, Thọ, Tưởng,
Hành chẳng hiện ra trước. Từ đó tu học,
sẽ được bậc thiện tri thức đại
từ bi thủ hộ, trưởng dưỡng. Do vậy,
ĺa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ, lần
lượt có thể nhập Tâm Tịch tam-muội).
Khi đắc Tương Tự
Không tam-muội, thô tướng phân biệt của Thức,
Tưởng, Thọ, Hành chẳng hiện tiền, đối
với hết thảy các pháp chẳng dấy lên tướng
phân biệt; nhưng đấy chỉ là thô phân biệt. Từ
đó trở đi, bắt đầu tu học. Trong khi quư vị tu tập,
có thể được thiện tri thức đại từ
bi thủ hộ, trưởng dưỡng. “Thiện tri
thức” là nói đến bậc đại Bồ Tát. Hết
thảy các vị đại Bồ Tát có thể thủ hộ
quư vị, khiến cho thiện căn của quư vị
tăng trưởng, vun bồi, chẳng bị thoái đọa
nữa. Khi đó, chướng ngại trong tu hành của
quư vị sẽ ít hơn, có thể chẳng gián đoạn,
dũng mănh, siêng ṛng tu tập. Khi đó, có thể nhập
định, môn Định ǵ vậy? Môn Định ấy
có tên là Tâm Tịch tam-muội. Trước đó là Sắc
Tịch tam-muội, ở đây là Tâm Tịch tam-muội.
Đạt được bằng cách nào? V́ quư vị quán
tâm tánh, [nhận biết] “tâm tánh bất sanh, bất diệt”
mà nhập tam-muội, nên gọi là Tâm Tịch tam-muội.
(Kinh)
Đắc thị tam-muội dĩ, tức phục năng
nhập Nhất Hạnh tam-muội. Nhập thị Nhất
Hạnh tam-muội dĩ, kiến Phật vô số, phát thâm
quảng hạnh tâm, trụ kiên tín vị, sở vị
ư Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, nhị chủng quán đạo,
quyết định tín giải, năng quyết định
hướng.
(經)得是三昧已。即復能入一行三昧。入是一行三昧已。見佛無數。發深廣行心。住堅信位。所謂於奢摩他毗婆舍那二種觀道。決定信解。能決定向。
(Kinh:
Đă đắc môn tam-muội ấy, lại liền có thể
nhập Nhất Hạnh tam-muội. Đă nhập môn Nhất
Hạnh tam-muội ấy, sẽ thấy Phật vô số,
phát khởi hạnh tâm sâu rộng, trụ nơi địa
vị tín tâm kiên định, tức là đối với
hai loại quán đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, bèn có tín giải
quyết định, có thể quyết định hướng
theo [Phật đạo]).
Đă
đắc môn tam-muội ấy (Tâm Tịch tam-muội), lại
có thể tiến nhập Nhất Hạnh tam-muội. Do
đă đắc Tâm Tịch tam-muội, cho nên có thể nhập
Nhất Hạnh tam-muội. Đă nhập Nhất Hạnh
tam-muội, sẽ có thể thấy vô số Phật.
Mười phương chư Phật đều có thể
thấy, phát tâm sâu rộng, trụ nơi địa vị
tín tâm kiên định. Tin tưởng kiên định điều
ǵ? Hai loại quán đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na. Không chỉ
tin, mà sau đó c̣n có thể giải; khi ấy, quyết định
hướng theo Phật đạo. “Quyết định
hướng” là quyết định hướng theo Phật
đạo. Đó là địa vị ǵ vậy? Viên măn Thập
Tín. Khi đó mới gọi là “có tín tâm”. Đấy là
bậc tín tâm viên măn, đó là chứng đắc của bậc
tín tâm viên măn. Tin ǵ vậy? Tin vào môn Nhất Hạnh tam-muội
này. Nhất Hạnh tam-muội là do quán tâm của Xa-ma-tha và
Chỉ của Tỳ-bà-xá-na; lúc ấy, có thể thấy vô
số Phật, phát khởi hạnh tâm rộng lớn. Khi
đó, bèn bắt đầu tu tập. Tin Tỳ-bà-xá-na Quán,
tin Xa-ma-tha Chỉ, gọi là “Chỉ Quán song vận”.
Đấy gọi là “Chỉ Quán viên đốn”. Sáu
căn thanh tịnh: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư
là sáu căn thanh tịnh, thuộc vào địa vị tín
tâm kiên định. Khi đó, tín ngưỡng của quư vị
chẳng lui sụt, giải lực cũng chẳng lui sụt,
thành tựu địa vị kiên định. Địa vị
ǵ vậy? Địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo. Khi
đó, lại trụ trong Bồ Đề tâm, hành Bồ
Tát đạo, phát khởi các địa vị thuộc vào
tâm hạnh của bậc Trụ vị Nhất Thừa
đại Bồ Tát trong Viên Giáo, sức tín giải trọn
đủ.
(Kinh)
Tùy sở tu học thế gian chư Thiền tam-muội
chi nghiệp, vô sở nhạo trước, năi chí biến
tu nhất thiết thiện căn Bồ Đề phần
pháp. Ư sanh tử trung, vô sở khiếp úy, bất nhạo
Nhị Thừa.
(經)隨所修學世間諸禪三昧之業。無所樂着。乃至遍修一切善根菩提分法。於生死中無所怯畏。不樂二乘。
(Kinh:
Thuận theo các nghiệp Thiền tam-muội thế gian
đă tu học mà chẳng ưa đắm.
Cho đến tu trọn khắp hết thảy các pháp thiện
căn Bồ Đề phần. Ở trong sanh tử, chẳng
khiếp nhược, sợ hăi, chẳng ưa thích Nhị
Thừa).
Khi
đó, người ấy đă tin tưởng, nhập
Chân Như thật kiến. Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng gồm ba mươi
địa vị. Tuy có ba mươi địa vị, tiến
nhập Sơ Trụ và địa vị cuối cùng là Thập
Hồi Hướng, dẫu có ba mươi địa vị
[như vừa nói], thật ra, [địa vị nào trong Tam
Hiền cũng] đều đă tiến nhập sáu căn
thanh tịnh, tức sáu căn mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư đều thanh tịnh.
(Kinh)
Dĩ y năng tập hướng nhị quán tâm, tối diệu
xảo tiện, chúng trí sở y hành căn bản cố.
(經)以依能習向二觀心。最妙巧便。衆智所依行根本故。
(Kinh:
Do có thể nương vào, hướng đến tu tập
hai môn quán tâm là phương tiện
thiện xảo mầu nhiệm nhất. Đó là căn bản
nương vào để vận dụng các trí).
Khi
tu hai loại quán đạo ấy, trí huệ và phương tiện
thiện xảo của người ấy tăng trưởng.
Hành tŕ pháp ấy (hai loại quán đạo), sẽ
nương vào tương tự Bồ Đề tâm, [cái tâm
ấy] tương tự chân tâm. Ba mươi địa vị
ấy (Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng) đều là tương tự Bồ Đề
tâm. Ǵ mới là chân thật? Dự vào ngôi Sơ Địa,
Bồ Tát sẽ thật sự chứng đắc Bồ
Đề tâm. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi
Hướng đều gọi là địa vị
tương tự. Tuy là Sơ Trụ, cho đến địa
vị thứ mười trong Thập Hồi Hướng,
tuy có tới ba mươi địa vị, nhưng xét theo
Lư, th́ [các địa vị ấy] đều giống nhau. Bất quá, xét đại
lược th́ có cạn hay sâu khác biệt. Khi ấy, hễ
đă trụ trong tín tâm thành tựu viên măn, sẽ giống
như đă thành Chánh Giác, nhưng chỉ là tương tự,
chẳng phải là chân thật. Khi đạt
lên Sơ Địa th́ là chân thật, chứng đắc
một phần Pháp Thân. Khi dự vào ngôi Sơ Trụ th́ là tương
tự chứng Pháp Thân, chẳng phải là thật sự
chứng đắc.
(Kinh)
Phục thứ, tu học như thượng tín giải giả,
nhân hữu nhị chủng. Hà đẳng vi nhị? Nhất
giả, lợi căn. Nhị giả, độn căn. Kỳ
lợi căn giả, tiên dĩ năng tri nhất thiết
ngoại chư cảnh giới, duy tâm sở tác, hư cuống
bất thật, như mộng, như huyễn đẳng,
quyết định vô hữu nghi lự. Ấm cái khinh vi,
tán loạn tâm thiểu. Như thị đẳng nhân, tức
ưng học tập Chân Như Thật Quán. Kỳ độn
căn giả, tiên vị năng tri nhất
thiết ngoại chư cảnh giới, tất duy thị
tâm, hư cuống, bất thật. Cố nhiễm trước
t́nh hậu, cái chướng sổ khởi, tâm nan điều
phục; ưng đương tiên học Duy Tâm Thức
Quán.
(經)復次。修學如上信解者。人有二種。何等爲二。一者利根。二者鈍根。其利根者。先已能知一切外諸境界。唯心所作。虛誑不實。如夢如幻等。決定無有疑慮。陰蓋輕微。散亂心少。如是等人。即應學習真如實觀。其鈍根者。先未能知一切外諸境界。悉唯是心。虛誑不實。故染着情厚。蓋障數起。心難調伏。應當先學唯心識觀。
(Kinh:
Lại nữa, tu học tín giải như trên th́ có hai loại
người. Những ǵ là hai? Một là lợi căn, hai
là độn căn. Kẻ lợi căn trước hết
đă có thể biết hết thảy các cảnh giới
bên ngoài chỉ do tâm tạo, hư dối, chẳng thật,
như mộng, như huyễn v.v… quyết định chẳng
có ngờ lo, ấm cái nhẹ ít, tâm tán loạn ít. Những
người như thế hăy nên học tập ngay Chân
Như Thật Quán. Kẻ độn căn do trước
đó đă không thể biết các cảnh giới bên ngoài
đều chỉ là tâm, là hư dối, chẳng thật.
V́ thế, đắm nhiễm t́nh chấp sâu dày, cái chướng
nhiều lượt dấy lên, tâm khó điều phục.
Trước hết, phải nên học
Duy Tâm Thức Quán).
Đại
khái có hai loại người, hai loại nào vậy? Những
ǵ là hai? Một là kẻ lợi căn, hai là kẻ độn
căn. Cùng học một pháp, mà có lợi căn và độn
căn. Lợi căn là t́nh huống ǵ? Kẻ lợi
căn trước hết đă có thể biết hết
thảy các cảnh giới bên ngoài đều chỉ do tâm
hiện. Khi kẻ lợi căn tu pháp, biết hết thảy
các pháp đều do các tâm sở (các tác dụng tâm lư của
vọng tâm) biến hiện, hết thảy các pháp đều
là hư vọng, chẳng thật, chẳng chân thật,
đều do tâm hiển hiện. Kẻ đó có thể biết
hết thảy các pháp hư vọng chẳng thật, chỉ
do tâm tạo tác. Hết thảy các pháp là tướng cảnh
giới ǵ vậy? Giống như chúng ta nằm mộng, hoặc
các thứ biến đổi huyễn hóa trong tṛ xiếc.
Khi đó, [tâm kẻ ấy] chẳng nghi hoặc,
chẳng suy nghĩ. Đối với hết thảy các
pháp, chúng ta đều có nghi ngờ, có suy nghĩ, [kinh
thường nói là] có “nghi lự” (疑慮). Khi đọc
kinh, đối với những lời dạy trong kinh
đều ôm ḷng hoài nghi, [do những ngờ vực] ấy
nhỏ bé, nên quư vị chẳng thể nhận biết. Hết
thảy các pháp nếu rời ngoài cái tâm th́ sẽ chẳng
có pháp, chỉ do tâm tạo tác, đều là hư vọng,
chẳng thật, giống như quư vị nằm mộng,
hư huyễn chẳng thật. Người vừa mới
chứng đắc địa vị này, vừa viên măn tâm
Thập Tín, sẽ chẳng có ngờ vực, đối với
hết thảy các pháp đều chẳng ngờ vực.
Do
Ấm Cái nhẹ ít, tâm tán loạn cũng ít. Ấm có
năm loại, tức Ngũ Ấm, hay
Ngũ Uẩn. [Cái là] Ngũ Cái (五蓋, năm
thứ che đậy). Nói thông thường, Ngũ Uẩn
là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những
điều ấy được gọi là cảnh giới
Ngũ Uẩn. Uẩn (蘊) là ǵ?
Uẩn có nghĩa là “che lấp, chướng lấp”,
[tức là những thứ] chướng lấp Chân Như
Thật Tánh của quư vị. Các Hoặc nghiệp ấy
che lấp quư vị. Do quư vị dấy lên rất nhiều
phiền năo, các phiền năo ấy ngăn chướng chân
tâm của quư vị. “Cái” là Ngũ Cái, tức các pháp tham dục
cái, sân khuể cái, ngủ nghê, điệu (掉, lao chao), hối
(悔, hối hận),
và nghi. Các pháp ấy được gọi chung là “phiền
năo”, Nghi và Cái là các danh xưng riêng của phiền năo mà thôi, đều
là phiền năo. Quư vị đă phiền năo, khiến
cho cái tâm của quư vị bị che đậy, trói buộc,
chướng ngại, chân tâm chẳng thể hiển hiện
được. Do chẳng hiển hiện được,
cho nên tu hành sẽ chẳng thể đắc lực.
Chẳng có món Cái nào, tu hành sẽ dễ đắc lực.
Khi đó, tu tập, hướng đến hai thứ quán
đạo, tu cái tâm của chính ḿnh, sẽ có thể tu tập,
hướng đến hai thứ quán tâm xảo diệu nhất,
có thể vận dụng phương tiện hay khéo. Đó
là chỗ nương cậy của hết thảy trí huệ,
có thể hành các hạnh căn bản. Đương nhiên
là sức tín giải của người ấy đă viên măn,
dự vào địa vị Sơ Trụ. Tuy chẳng thật
sự minh tâm kiến tánh, [chỉ là] tương tự minh
tâm kiến tánh, thuộc vào địa vị tương tự,
nhưng người ấy đă thông hiểu.
Lại
nữa, người tu học tín giải như trên có hai loại,
một loại là lợi căn, loại kia là độn
căn. Người lợi căn biết hết thảy tất
cả tướng cảnh giới bên ngoài đều do tâm
tạo tác. Ĺa khỏi cái tâm, bên ngoài chẳng có pháp, [thường
nói là] “ngoài tâm chẳng có pháp”. Hết thảy các pháp
đều là tâm, ngoài pháp chẳng có tâm. Hết thảy các
pháp đều là tâm, tâm sanh hết thảy các pháp, ngoài pháp
chẳng có tâm. Ngay trong khi ấy, người lợi
căn có thể hiểu rơ, lư giải, tín giải. Kẻ
độn căn sẽ chẳng thể tín giải. Người
lợi căn chẳng có nghi hoặc, Ngũ Cái và Ngũ Uẩn
đều nhẹ, tâm người ấy thường chẳng
tán loạn, tâm luôn ở trong Định. Định có thể
sanh ra Huệ. Người lợi căn có thể tiến
thêm bước nữa, tu hành Chân Như Thật Quán. V́ sao
Sơ Trụ Bồ Tát tương tự thấy Chân
Như? V́ vị ấy có thể bắt đầu tu Chân
Như Thật Quán. Vị ấy chưa chứng đắc;
tuy chẳng chứng đắc, nhưng vị ấy tin tưởng. Tín tâm của vị ấy
chẳng giống niềm tin của chúng ta. Chánh tri của
vị ấy là do nương
vào Thật Tế Lư Địa mà khởi lên niềm tin. Vị
ấy biết hết thảy các pháp chỉ do tâm hiện.
Hết thảy các pháp là tâm. Đấy là bậc lợi
căn.
Kẻ
độn căn chẳng được như vậy. Đối
với hết thảy cảnh giới bên ngoài, kẻ độn
căn chẳng trọn đủ tín tâm như vậy, chẳng
có ḷng tin ấy. V́ kẻ đó nhiễm đắm tập
khí thế gian rất nặng, Ngũ Cái và Ngũ Chướng
thường dấy lên, trong tâm chẳng khéo điều phục.
Đại khái, [nói “kẻ độn căn”] tức là nói
tới bọn đại chúng chúng ta. Nay chúng ta chẳng
khéo điều phục cái tâm, thường dấy lên Cái, khởi Chướng, vậy th́ phải nên
làm như thế nào? Hăy học Duy Tâm Thức Quán. Địa
Tạng Bồ Tát lại dạy chúng ta một phương
pháp: Tu học Duy Tâm Thức Quán. Nhưng để tín giải
cảnh giới Nhất Thật, chúng ta phải tu hành tín lực
và giải lực, tức là khi tu Duy Tâm Thức Quán đạt
tới mức thật sự tiến nhập, th́ gọi là
Danh Tự Vị (Danh Tự Tức Phật) trong Viên Giáo.
Tin vào cảnh giới Nhất Thật, tu tín, tu giải, gọi
là Danh Tự Vị trong Viên Giáo. V́ thế, chia thành độn
căn và lợi căn. Lợi căn tu hành nhanh chóng hơn
đôi chút, độn căn tu hành chậm trễ hơn một
chút, phương pháp có sai khác đôi chút!
(Kinh)
Nhược nhân tuy học như thị tín giải, nhi thiện
căn nghiệp bạc, vị năng tấn
thú, chư ác phiền năo bất đắc tiệm phục,
kỳ tâm nghi khiếp, úy đọa tam ác đạo, sanh
bát nạn xứ, úy bất thường trị Phật, Bồ
Tát đẳng, bất đắc cúng dường, thính thọ
chánh pháp, úy Bồ Đề hạnh nan khả thành tựu.
Hữu như thử nghi bố cập chủng chủng
chướng ngại đẳng giả.
(經)若人雖學如是信解。而善根業薄。未能進趣。諸惡煩惱不得漸伏。其心疑怯。畏墮三惡道。生八難處。畏不常值佛菩薩等。不得供養聽受正法。畏菩提行難可成就。有如此疑怖及種種障礙等者。
(Kinh: Nếu
người tuy học tín giải như thế, nhưng
nghiệp thiện căn mỏng mảnh, chưa thể tiến
nhập, chẳng thể dần dần chế phục các
phiền năo ác, cái tâm nghi ngờ, khiếp nhược, sợ
đọa vào ba ác đạo, sanh vào chỗ tám nạn, sợ
chẳng thường gặp gỡ các vị Phật, Bồ
Tát, chẳng được cúng dường, nghe nhận
chánh pháp, sợ Bồ Đề hạnh khó thể thành tựu.
Có nỗi ngờ vực, sợ hăi, và các thứ chướng
ngại như thế đó).
Địa
Tạng Vương Bồ Tát dạy: Nếu có người
tuy học tín giải, học tín, học giải như thế,
tuy quư vị học tín giải, nhưng chẳng đủ
thiện căn, ác nghiệp rất nhiều, thiện
căn mỏng yếu. Khi cần tu đạo tiến cao
hơn, tốc độ tiến bộ rất chậm, chẳng
nhanh chóng như người lợi căn. Do vậy, phiền
năo dấy lên, quư vị chẳng thể hàng phục
được. Nay chúng ta chẳng thể hàng phục phiền
năo dấy lên trong tâm, nhưng lại vẫn chẳng nhận
biết phiền năo. Ngay cả phiền năo mà c̣n chẳng nhận
biết, hàng phục nó bằng cách nào đây? Chẳng hạn
như chúng ta cảm thấy không đúng, niệm trước
dấy ác, đừng để cho niệm dấy lên nữa,
phải đoạn dứt nó! Nếu có thể đoạn
th́ là bậc lợi căn, nhận biết niệm trước
khởi ác bèn ngưng dứt, không cho niệm sau dấy lên.
Đấy là “có thiện căn”. Nhận biết niệm trước dấy ác mà cứ
để cho nó tiếp nối, chẳng thể đoạn dứt, hoặc cảm
thấy ư niệm trước vừa dấy lên không
đúng, [ư niệm ấy] xa ĺa đạo liễu sanh tử,
ta lập tức có thể ngưng dứt nó. Khá lắm! Chỉ sợ
là bị chuyển theo nghiệp, thuận theo nó! Đối
với những trường hợp giống như thế,
hăy nên tu tập như thế nào? Hăy hàng phục dần dần,
hàng phục nó từ từ! Nhưng kẻ ấy ôm ḷng nghi
ngờ, khiếp đảm, “khiếp” (怯) là chẳng dũng
mănh. Đồng thời, sợ đọa vào địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh, tức ba ác đạo,
rất sợ hăi ba ác đạo. Giả sử đời
này bị đọa lạc, đọa lạc trong tam ác
đạo th́ lại phải nên làm như thế nào? Hoặc
là sanh vào chỗ tám nạn, tức là sanh vào nơi chẳng
có Phật pháp. Đời này quư vị chẳng gặp gỡ
Phật pháp, chẳng gặp gỡ Phật pháp th́ tương lai sẽ khó
khăn!
Tám
chướng ngại ǵ vậy? Sanh vào địa ngục
đạo, đọa lạc địa ngục đạo
th́ c̣n có thể tu hành hay không? Pháp cũng chẳng được
nghe. Ngạ quỷ, súc sanh, Bắc Câu Lô Châu chẳng nghe Phật
pháp. Trường Thọ Thiên, kẻ đui, điếc,
câm ngọng học Phật pháp bằng cách nào đây? Chẳng
học được! C̣n có một loại rất thông
minh, Thế Trí Biện Thông, tự cho là thông minh, chẳng
tin tưởng Phật pháp. C̣n có kẻ sanh trước Phật,
hoặc sanh sau Phật. Đó gọi là “tám nạn”.
Nay Thích Ca Mâu Ni Phật đă diệt độ, đă là sau
thời Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Phật Di Lặc
c̣n chưa giáng sanh, tức là trước thời Phật
Di Lặc trụ thế, chúng ta thuộc một trong tám nạn,
tức “Phật tiền, Phật hậu”. Nhưng
chúng ta lại có thể nghe Phật pháp, nay chúng ta có thể
học tập kinh Địa Tạng. Đây là một pháp
môn đặc thù, coi như chúng ta tránh khỏi một nửa
nạn này, c̣n có Phật pháp để nghe. Trong t́nh huống
như thế này, được gọi là thời Mạt
Pháp, tâm chúng ta chẳng tinh thuần như vậy, rất
khó hàng phục, nhập đạo, tu đạo, chướng
ngại khá nhiều, rất khó khăn! Chúng ta không thể
tin tưởng cảnh giới Nhất Thật, cái tâm tín
giải chẳng thể dấy lên. Chúng ta cũng chẳng
thể nhập địa vị Danh Tự của Viên Giáo,
chẳng thể xưng là “viên nhân”. Người tin
tưởng pháp Viên Giáo được gọi là “viên
nhân”, viên nhân th́ không điều ǵ chẳng viên măn. Tri kiến
của chúng ta đúng là chẳng viên, méo mó, lệch lạc.
Chướng ngại chủ yếu nhất là ǵ? Thấy
người khác đều chẳng đúng, luôn có cảm
giác chính ḿnh khá lắm. Đấy là [chướng ngại]
chủ yếu nhất. Chướng ngại chủ yếu
nhất là chẳng trống ḷng, chẳng thể tôn trọng
hết thảy các pháp, mà cũng chẳng
thể tôn trọng hết thảy mọi người,
chúng ta làm sao có thể sanh khởi giải
ngộ viên măn cho nổi? Biết hết thảy các cảnh
giới đều là tâm, ngoài tâm chẳng có pháp. Nếu có thể có sức tín ngưỡng ấy th́ sẽ
tuyệt diệu lắm; đó gọi là “viên giải,
viên văn” (hiểu viên măn, nghe viên măn). Nhiễm đắm
t́nh chấp rất sâu như thế th́ lại phải nên
làm như thế nào?
(Kinh)
Ưng ư nhất thiết thời, nhất thiết xứ,
thường cần tụng niệm ngă chi danh tự.
(經)應於一切時一切處。常勤誦念我之名字。
(Kinh: Hăy nên
trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi
nơi, thường siêng năng tụng niệm danh hiệu
của ta).
Cuối
cùng, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị học
ǵ cũng đều chẳng thành, điều ǵ cũng chẳng
có cách nào [thực hiện], vậy th́ tốt
nhất là hăy nên niệm danh hiệu của ta là được. Hăy niệm “Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ
Tát” là được rồi! Trước hết là tiêu
trừ tai nạn, sau đó sẽ tiến nhập. Cuối
cùng, Ngài nói: Nếu người tuy học tín giải
như thế, nghiệp thiện căn mỏng tanh, tức
thiện nghiệp mỏng mảnh, chẳng thể tiến
nhập, hướng tới cao hơn, các ác phiền năo chẳng
thể tiêu mất dần dần,
chẳng thể hàng phục [các phiền năo ấy], tâm hoài
nghi rất nặng. Ôi chao! Phật đạo dài lâu, vừa thấy “hễ nhập vào tín tâm ấy th́ sẽ tốn thời gian tu tập dài ngần ấy”, liền ngă ḷng, khiếp đảm, lại c̣n sợ
hăi, sợ đọa vào ba đường ác, lại sợ
đọa trong tám nạn, nói Bồ Đề đạo
dài xa, chẳng thể thành tựu được! Có đủ
loại kinh sợ, đủ loại chướng ngại
như thế đó, đối với hạng người
như thế ấy, phải làm như thế nào? Hăy nên
trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ,
thường siêng năng tụng niệm danh hiệu của
ta. Chẳng có cách nào khác! Đấy là Địa
Tạng Bồ Tát đưa ra một pháp môn phương tiện,
tu ǵ cũng chẳng thể tiến nhập, được thôi! Quư vị hăy niệm
danh hiệu của ta! Vẫn chẳng thể niệm nổi
ư? Hăy nên trong hết thảy mọi lúc, hết thảy
mọi chỗ, thường siêng năng tụng niệm danh tự
của ta, chỉ cần chẳng gián đoạn. Niệm
danh hiệu của Ngài lâu ngày, Địa Tạng
Vương Bồ Tát gia tŕ quư vị, sẽ khiến cho quư
vị tâm chẳng tán loạn, có thể đắc định.
Định được cái tâm trước đă rồi
mới nói đến bước thứ hai!
(Kinh)
Nhược đắc nhất tâm, thiện căn tăng
trưởng, kỳ ư mănh lợi, đương quán ngă
Pháp Thân, cập nhất thiết chư Phật Pháp Thân, dữ
kỷ tự thân, thể tánh b́nh đẳng, vô nhị, vô
biệt, bất sanh, bất diệt, thường, lạc,
ngă, tịnh, công đức viên măn, thị khả quy y.
(經)若得一心。善根增長。其意猛利。當觀我法身及一切諸佛法身。與己自身。體性平等。無二無別。不生不滅。常樂我淨。功德圓滿。是可歸依。
(Kinh:
Nếu đắc nhất tâm, thiện căn tăng
trưởng, tâm ư mạnh mẽ, nhạy bén, hăy nên quán Pháp
Thân của ta và Pháp Thân của hết thảy chư Phật, cùng với thân của chính ḿnh thể tánh b́nh
đẳng, chẳng hai, chẳng khác, bất sanh, bất
diệt, thường, lạc, ngă, tịnh, công đức
viên măn, đáng để quy y).
Khi
ấy, nếu đắc nhất tâm, tâm niệm đă thuần
thục, niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát,
cậy vào sức gia tŕ của Địa Tạng Bồ Tát,
cái tâm vọng tưởng của quư vị ít đi, chánh niệm
nhiều hơn, thiện căn tăng trưởng, ư niệm
sẽ mạnh mẽ, nhạy bén. Ư niệm đă mạnh mẽ,
nhạy bén, sẽ chẳng xưng niệm suông danh hiệu
của ta, mà c̣n tấn tu thêm bước nữa, sẽ quán
Pháp Thân của ta. Pháp Thân của ta là Pháp Thân của hết
thảy chư Phật, mà cũng chính là Pháp Thân của chính
người tu hành quư vị. Pháp Thân chẳng hai, chẳng
sai khác. Mười phương chư Phật và mười
phương hết thảy chúng sanh có cùng một Pháp Thân.
V́ thể tánh b́nh đẳng, chẳng hai, chẳng khác, bất
sanh, bất diệt, thường, lạc, ngă, tịnh, công
đức viên măn, đáng để quy y. Mọi người
đều hiểu điều này. Do vậy, thường
siêng năng niệm danh hiệu của ta, sẽ có thể
tiêu trừ hôn trầm, tán loạn cho quư vị. V́ quư vị
niệm danh hiệu lâu ngày, sẽ tăng trưởng sức
mạnh của ư căn, sẽ dần dần tương ứng
với cảnh giới Nhất Thật, có thể tin tưởng,
tiến nhập. Nhưng quư vị phải thường
xuyên tưởng niệm, quán sát Địa Tạng Bồ
Tát. Quán sát Địa Tạng Bồ Tát chính là quán sát hết
thảy mười phương chư Phật, v́ tâm Địa
Tạng Bồ Tát là thể tánh của Như Lai, chẳng
hai, chẳng khác với mười phương chư Phật.
Mười phương hết thảy chư Phật và tất
cả hết thảy chúng sanh đều là một cái tâm,
chẳng có hai tâm! Tâm là một, chỉ là mê hay ngộ. Mê và
ngộ có sự khác biệt to lớn. Hết thảy chúng
sanh là mê, mười phương chư Phật là ngộ,
nhưng bổn tánh chẳng khác biệt. Mê vẫn là tánh
này, mà ngộ vẫn là tánh này. Thể tánh ấy từ vô thỉ
đến nay luôn bất sanh, mà cũng là bất sanh, bất
diệt, vĩnh viễn thường trụ. Vĩnh viễn
thường trụ th́ sẽ bất diệt. Chúng ta
cũng trọn đủ, vĩnh viễn bất diệt.
Đó là thường pháp, chẳng có đối đăi, chẳng
có khổ thọ hay lạc thọ
chi cả! Vĩnh viễn là lạc. Thể của chúng sanh
và Thể của chư Phật là thường, lạc,
ngă, tịnh. Khác biệt ở chỗ nào? Hai chữ! Một
đằng là mê, một đằng là ngộ. V́ chúng ta mê,
mê mất điều này; hễ ngộ th́ sẽ khôi phục!
(Kinh)
Hựu phục quán sát kỷ thân tâm tướng, vô thường,
khổ, vô ngă, bất tịnh, như huyễn, như hóa, thị
khả yếm ly.
(經)又復觀察己身心相。無常苦無我不凈。如幻如化。是可厭離。
(Kinh: Lại
c̣n quán sát tướng thân tâm của chính ḿnh là vô thường,
khổ, vô ngă, bất tịnh, như huyễn, như hóa,
đáng nên chán ĺa).
Lại
tiến thêm bước nữa, quán sát thân hoặc tâm của
chính ḿnh, vốn chẳng có khổ hay lạc; nhưng chúng
ta nay trở thành chúng sanh, do đă mê cái tâm
nên khác nhau. Mê th́ có h́nh dáng như thế nào? Thường
tưởng vô thường! Trong khổ nạn c̣n có lạc
hay chăng? Đối với vô ngă, bất tịnh, vô
thường, coi những thứ ấy là sự thật. Chẳng
coi những thứ “khổ, không, vô
thường, vô ngă” ấy như huyễn, như hóa. Phải nên sanh tâm chán
ĺa. Đă sanh tâm chán ĺa th́ sẽ sanh tâm mong cầu, cầu
được thanh tịnh.
(Kinh)
Nhược năng tu học như thị Quán giả, tốc
đắc tăng trưởng tịnh tín chi tâm, sở hữu
chư chướng tiệm tiệm tổn giảm. Hà
dĩ cố? Thử nhân danh vi học tập văn ngă danh
giả, diệc năng học tập văn thập
phương chư Phật danh giả, danh vi học chí tâm
lễ bái, cúng dường ngă giả, diệc năng học
chí tâm lễ bái, cúng dường thập phương
chư Phật giả, danh vi học văn Đại Thừa
thâm kinh giả, danh vi học chấp tŕ, thư tả, cúng
dường, cung kính Đại Thừa thâm kinh giả, danh
vi học thọ tŕ, độc tụng Đại Thừa
thâm kinh giả, danh vi học viễn ly tà kiến, ư thâm
chánh nghĩa trung bất đọa báng giả, danh vi ư
cứu cánh thậm thâm Đệ Nhất Thật Nghĩa
trung học tín giải giả, danh vi năng trừ chư
tội chướng giả, danh vi đương đắc
vô lượng công đức tụ giả. Thử nhân xả
thân, chung bất
đọa ác đạo, bát nạn chi xứ, hoàn văn
chánh pháp, tập tín tu hành, diệc năng tùy nguyện văng
sanh tha phương tịnh Phật quốc độ.
(經)若能修學如是觀者。速得增長淨信之心。所有諸障漸漸損減。何以故。此人名爲學習聞我名者。亦能學習聞十方諸佛名者。名爲學至心禮拜供養我者。亦能學至心禮拜供養十方諸佛者。名爲學聞大乘深經者。名爲學執持書寫供養恭敬大乘深經者。名爲學受持讀誦大乘深經者。名爲學遠離邪見。於深正義中不墮謗者。名爲於究竟甚深第一實義中學信解者。名爲能除諸罪障者。名爲當得無量功德聚者。此人捨身終不墮惡道八難之處。還聞正法。習信修行。亦能隨願往生他方淨佛國土。
(Kinh:
Nếu có thể tu học phép Quán như thế, sẽ mau chóng tăng trưởng tâm tịnh tín,
tất cả các chướng dần dần tổn giảm.
V́ sao vậy? Người ấy được gọi là học
tập nghe tên ta, mà cũng có thể học tập nghe danh
hiệu của mười phương chư Phật, gọi
là học chí tâm lễ bái, cúng dường ta, cũng có thể
học chí tâm lễ bái, cúng dường mười
phương chư Phật, gọi là học nghe kinh Đại
Thừa sâu xa, gọi là học chấp tŕ, biên chép, cúng
dường, cung kính kinh Đại Thừa sâu xa, gọi là
học thọ tŕ, đọc tụng kinh Đại Thừa
sâu xa, gọi là học xa ĺa tà kiến, đối với
chánh nghĩa sâu xa chẳng đọa vào hủy báng, gọi
là học tín giải nơi Đệ Nhất Thật
Nghĩa rất sâu rốt ráo, gọi là có thể trừ các
tội chướng, gọi là có thể đạt
được vô lượng khối công đức.
Người ấy xả thân, trọn chẳng đọa
vào ác đạo và chỗ tám nạn, vẫn nghe chánh pháp, tu
tín, tu hạnh, cũng có thể tùy nguyện văng sanh cơi Phật
thanh tịnh ở phương khác).
Nhưng
tịnh pháp cũng sanh từ một niệm tâm, nhiễm
pháp cũng sanh từ cái tâm của quư vị, đều là
thể tánh hiện tiền của quư vị. Điều
này cổ vũ, khích lệ chúng ta: Chúng ta
và hết thảy chư Phật, Bồ Tát, và Địa Tạng
Vương Bồ Tát, cho đến A Di Đà Phật mà
chúng ta thường niệm, đều có cùng một Thể
với A Di Đà Phật. Bản thể của Pháp Thân là
như nhau, [chỉ là] mê hay ngộ bất đồng. Nếu
chúng ta có thể bỏ mê, bỏ sạch mê, trở về
ngộ là được rồi! Như thế th́ quư vị
phải nên tu hành Chỉ Quán. [Đối với kẻ] nghiệp
chướng nặng nề, chẳng thể tu tập
được, Địa Tạng Bồ Tát có
phương tiện đặc thù “niệm danh hiệu của
Ngài” để tiêu trừ nghiệp chướng.
Tăng trưởng tịnh tín rồi mới tu học Chỉ
Quán. Niệm danh hiệu của Ngài như vậy, hết
thảy chướng ngại sẽ dần dần tiêu diệt,
tổn giảm!
Nếu
có người tu học như vậy th́ do nguyên nhân ǵ mà
người ấy làm như thế? “Hà dĩ cố”
(v́ sao vậy?) Người ấy được gọi là
“học tập nghe danh hiệu của ta”. V́ người
ấy cảm thấy học ǵ khác cũng đều học
không nổi, vậy th́ cứ tu hành [tŕ danh] mà thôi. Nghe danh
hiệu của ta, niệm danh hiệu của ta, đó gọi
là “học tập nghe danh hiệu của ta”. Vỉ sao
nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mà c̣n phải học
tập? Hàm nghĩa ấy sâu lắm. Nếu lư giải
Địa là tâm, Tạng là chứa đựng, cái bao hàm
tâm của hết thảy bọn chúng sanh chúng ta là Địa
Tạng. Địa Tạng chính là cái tâm của chúng sanh.
Tâm địa bao hàm tánh công đức vô lậu, cùng một
Thể, chẳng hai, chẳng khác với chư Phật,
cùng một Thể, chẳng hai, chẳng khác với Địa
Tạng. Cái được tâm địa của chúng ta bao
hàm là Địa Tạng, Địa Tạng chính là cái tâm của
chúng ta. Đó là giáo nghĩa Đại Thừa, nương
theo giáo nghĩa Hoa Nghiêm đều nói như thế. Người
ấy, tức người niệm danh hiệu của Ngài,
được gọi là “học tập nghe danh hiệu
của ta”. Tôi nghĩ mọi người hễ nghe “nam-mô
Địa Tạng Vương Bồ Tát” cũng đều
có thể niệm. Hai loại quán đạo quư vị tu chẳng
thành, hăy niệm “nam-mô Địa Tạng Vương Bồ
Tát”, chẳng nên niệm ư? Niệm lâu ngày, nghiệp
chướng tiêu mất, lại tu hai thứ quán đạo,
hễ học bèn tu thành tựu!
Do
v́ lẽ nào? Người ấy được gọi là học
tập nghe danh hiệu của ta, cũng có thể học tập
nghe danh hiệu của mười phương chư Phật.
Học tập nghe danh hiệu của ta chính là nghe danh hiệu
của mười phương chư Phật. Địa
Tạng chính là mười phương chư Phật;
mười phương chư Phật chính là Địa Tạng.
Chúng ta tu hành kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, hiện thời,
có rất nhiều kẻ phê b́nh chúng ta chẳng học giáo
nghĩa Đại Thừa, mà học pháp Tiểu Thừa.
Mọi người nghe nói [như thế], nhưng đă học
[kinh này] liền biết, đây có phải là pháp Tiểu Thừa
hay không? Kinh này có giáo nghĩa giống hệt như giáo
nghĩa kinh Hoa Nghiêm, giống hệt giáo nghĩa kinh Pháp
Hoa, b́nh đẳng; bất quá nói rất nông cạn. Thậm
chí rất nông cạn dường như là đoán quẻ,
hoặc bói toán. Đó đều là phương tiện thiện
xảo của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nhằm dẫn nhập
chúng ta có thể đạt tới nhất tâm. Tuy là học
nghe danh tự của ta, mà cũng là học tập danh hiệu
của mười phương chư Phật, được
gọi là “học chí tâm lễ bái, cúng dường ta”.
Niệm danh hiệu của ta chính là học tập ǵ vậy?
Học tập chí tâm. Học tập nghe danh hiệu của
ta, niệm danh hiệu của ta th́ là cúng dường ta. Chẳng
cần cúng dường nữa, cứ niệm “nam-mô
Địa Tạng Vương Bồ Tát” th́ là quy y Địa
Tạng Vương Bồ Tát, nam-mô là quy y.
Cũng
có thể học chí tâm lễ bái, cúng dường mười
phương chư Phật. Cúng dường, lễ bái ta
chính là cúng dường mười phương chư Phật.
“Danh vi học văn Đại Thừa thâm kinh giả”:
Chỉ niệm danh hiệu Địa Tạng Vương
Bồ Tát th́ là học kinh điển sâu xa của Đại
Thừa. Lại c̣n gọi là “học chấp tŕ, biên chép,
cúng dường, cung kính kinh Đại Thừa sâu xa”:
Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy chúng ta, bảo
chúng ta niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Quư
vị cúng dường mười phương chư Phật,
cũng là học nghe kinh điển Đại Thừa sâu
xa, cũng là học chấp tŕ, biên chép, cúng dường,
cung kính kinh điển Đại Thừa, gọi là học
thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa,
gọi là học xa ĺa tà kiến, đối với chánh
nghĩa rất sâu chẳng đọa vào hủy báng,
được gọi là học tín giải nơi Đệ
Nhất Thật Nghĩa rốt ráo rất sâu, gọi là có
thể trừ các tội chướng,
gọi là sẽ đạt được vô lượng
khối công đức. Người ấy xả thân, tức
là người niệm danh hiệu của ta, khi Báo Thân
đă hết, trọn chẳng đọa vào ác đạo,
hoặc chỗ tám nạn. Sau khi đă chết, chẳng
đọa vào ba ác đạo, mà cũng chẳng đọa
trong tám nạn. C̣n có thể nghe chánh pháp, tu tập tín tâm tu hành, cũng có thể tùy theo ư nguyện
mà văng sanh các cơi Phật thanh tịnh ở phương khác.
Do niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ
Tát, thuận theo ư nguyện, quư vị sanh vào cơi Phật
thanh tịnh nào cũng đều có thể. Không chỉ là
Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà vô lượng
cơi Phật thanh tịnh trong mười phương, quư vị
niệm thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ
Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ
đưa quư vị tới đó, nhưng quư vị phải
nhất tâm xưng danh, và cũng phải nhất tâm niệm.
Khi
xưng danh, hăy quán sát Pháp Thân của Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Pháp Thân như nhau, đừng nên hư
vọng chấp trước. Phải chán ĺa chấp trước!
Nếu không, làm sao quư vị có thể nghe danh hiệu của
Địa Tạng Bồ Tát cho được? Tất cả
các đạo hữu đang hiện diện hăy nên vui mừng,
chẳng phải là dễ dàng được nghe danh hiệu
của Địa Tạng Bồ Tát đâu nhé! Quư vị có thể
nghe thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, tất
cả các tai nạn đều
tiêu mất. Quư vị có khó khăn ǵ, có nan đề ǵ, đừng
tu các pháp môn khác, hăy niệm Địa Tạng Vương
Bồ Tát là được rồi! Đoạn kinh văn
này dạy chúng ta như thế đó, do chính Địa Tạng
Bồ Tát nói. Chẳng phải vị Phật nào nói, mà do
chính Địa Tạng Bồ Tát nói. Nhưng niệm danh hiệu
của ta cũng chẳng dễ dàng, vẫn phải khéo học,
tức là khéo học danh hiệu Địa Tạng. Tụng
danh hiệu Địa Tạng có thể ĺa hết thảy
chướng duyên, tất cả toàn bộ chướng
duyên đều tiêu mất.
(Kinh) Phục thứ, nhược nhân dục
sanh tha phương hiện tại tịnh quốc giả,
ưng đương tùy bỉ thế giới Phật chi
danh tự, chuyên ư tụng niệm, nhất tâm bất loạn.
Như thượng quán sát giả, quyết định
đắc sanh bỉ Phật tịnh quốc, thiện
căn tăng trưởng, tốc hoạch bất thoái.
(經)復次。若人慾生他方現在淨國者。應當隨彼世界佛之名字。專意誦念。一心不亂。如上觀察者。決定得生彼佛淨國。善根增長。速獲不退。
(Kinh: Lại
nữa, nếu ai muốn sanh vào các cơi tịnh ở
phương khác trong hiện tại, hăy nên thuận theo danh
tự của đức Phật trong thế giới ấy,
chuyên tâm tụng niệm, nhất tâm bất loạn. Quán sát
như trên đây, chắc chắn được sanh vào cơi
Phật thanh tịnh ấy, thiện căn tăng trưởng,
mau chóng đạt được bất thoái).
Lại nữa, “nhược nhân dục
sanh tha phương hiện tại tịnh quốc giả”
(nếu có người muốn sanh vào cơi thanh tịnh ở
phương khác trong hiện tại): Có những người
muốn sanh trong cơi Phật thanh tịnh khác ở mười
phương trong hiện tại, vậy th́ quư vị hăy niệm
danh hiệu của đức Phật trong thế giới ấy.
Đó là nói tách ra: Nếu quư vị muốn sanh vào cơi Phật
thanh tịnh ở phương khác, đức Phật trong
thế giới ấy có thánh hiệu là ǵ, quư vị hăy
chuyên tâm tụng niệm [danh hiệu của] đức
Phật ấy, nhất tâm bất loạn, đức Phật
được niệm ấy sẽ tiếp dẫn quư vị.
Quán sát như trên, chắc chắn sẽ
được sanh về cơi Phật thanh tịnh ấy,
tăng trưởng thiện căn, mau đạt
được bất thoái. Thiện căn tăng trưởng
rất nhanh, chắc chắn chẳng bị thoái đọa.
Địa
Tạng Vương Bồ Tát sợ chúng ta lo lắng, sợ
chúng ta chẳng tin nổi, tín tâm chẳng sanh khởi, lại
một lần nữa bảo chúng ta “chắc chắn bất
thoái”. Người cầu
sanh Tịnh Độ, nếu muốn được sanh
cơi thanh tịnh ở phương khác trong hiện
tại, hoặc người có ước vọng muốn
sanh về cơi Phật thanh tịnh ở phương khác
trong hiện thời, tất cả các cơi Phật, Tây
Phương Cực Lạc thế giới, Đông phương
Dược Sư Lưu Ly Quang thế giới, thượng
phương Bất Động thế giới, đều
là các cơi Phật thanh tịnh. Hăy thuận theo danh tự của
vị Phật trong thế giới ấy mà chuyên dốc tụng
niệm, nhất tâm bất loạn, quán sát như trên, chắc
chắn sẽ được sanh về cơi Phật thanh tịnh,
tuyệt đối được sanh về cơi Phật
thanh tịnh ấy, thiện căn tăng trưởng,
mau chóng đắc bất thoái, quyết định tăng
trưởng thiện căn, chắc chắn có thể văng
sanh.
(Kinh)
Đương tri như thượng nhất tâm hệ niệm
tư duy chư Phật b́nh đẳng Pháp Thân, nhất thiết
thiện căn trung, kỳ nghiệp tối thắng. Sở
vị cần tu tập giả, tiệm tiệm năng
hướng Nhất Hạnh tam-muội. Nhược
đáo Nhất Hạnh tam-muội giả, tắc thành quảng
đại vi diệu hạnh tâm, danh đắc
tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(經)當知如上一心繫念思惟諸佛平等法身。一切善根中其業最勝。所謂勤修習者。漸漸能向一行三昧。若到一行三昧者。則成廣大微妙行心。名得相似無生法忍。
(Kinh:
Hăy nên biết nhất tâm hệ niệm tư duy Pháp Thân
b́nh đẳng của chư Phật như trên, nghiệp ấy
thù thắng nhất trong hết thảy các thiện căn.
Đó gọi là siêng năng tu tập, dần dần có thể
hướng tới Nhất Hạnh tam-muội. Nếu
đạt tới Nhất Hạnh tam-muội, sẽ thành tựu
hạnh tâm vi diệu rộng lớn, được gọi
là đắc tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn).
Hăy nên biết,
nhất tâm dốc ḷng tư duy Pháp Thân b́nh đẳng của
chư Phật như trên, th́ có một yêu cầu, tức là
Địa Tạng Bồ Tát đ̣i hỏi chúng ta: Nếu
quư vị muốn sanh về nơi nào, hăy niệm Pháp Thân
b́nh đẳng của Phật. Pháp Thân ấy vốn b́nh
đẳng, kẻ cầu sanh và sắc thân của đức
Phật trong cơi Tịnh Độ mà ta mong sanh về cách biệt
một trời một vực. Pháp Thân là b́nh đẳng, chẳng
hai, chẳng khác. Trong hết thảy các hạnh nghiệp
tu hành, trong sự tích lũy hết thảy các thiện
căn, pháp môn Niệm Phật thù thắng nhất. Nếu
quư vị cầu sanh về thế giới Cực Lạc,
hăy niệm A Di Đà Phật. Có những kẻ muốn làm
nghề y, mong chữa bệnh cho người khác. Vậy
th́ quư vị hăy niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai. Đó là thế giới Lưu Ly, cũng là cơi thanh tịnh,
cũng thù thắng. Nhưng quư vị phải chuyên tâm, nhất
tâm bất loạn, lại c̣n phải quan sát cơi Phật ấy,
chắc chắn sẽ có thể sanh về.
Chúng
ta niệm kinh Địa Tạng, hoặc niệm Địa
Tạng Vương Bồ Tát, nếu quư vị muốn sanh
về thế giới Cực Lạc, hoặc nếu muốn
sanh về thế giới của Dược Sư Lưu
Ly Quang Phật, Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ
đưa quư vị đi. Trong đoạn kinh văn
trước đó có nói “thập phương tịnh Phật
quốc độ”, quư vị muốn sanh về quốc
độ nào, Địa Tạng Bồ Tát đều có thể
đưa quư vị đến đó. V́ sao? Pháp Thân đồng
thể. Pháp Thân của quư vị và Pháp Thân của chư Phật
b́nh đẳng, nhưng do quư vị có phân biệt, quư vị
ắt cần phải chuyên niệm,
mong sanh về cơi Phật ấy. Phải niệm danh hiệu
của đức Phật ấy, ngày đêm niệm, nhất
tâm chẳng rời, nhất tâm bất loạn, niệm nào
cũng mong sanh về. Đó gọi là “nhất tâm”. Hăy
nên biết: Nhất tâm hệ niệm tư duy Pháp Thân b́nh
đẳng của chư Phật như trên. Đó là bảo
chúng ta, Địa Tạng Bồ Tát bảo ban chúng ta: Quư vị
ắt phải đắc nhất tâm, chú trọng
nơi nhất tâm hệ niệm. Trong mỗi niệm, quư vị
lại tam tâm, nhị ư, tâm chẳng niệm, miệng th́ niệm
A Di Đà Phật, nhưng tâm nghĩ tưởng thế giới
Sa Bà. Một chốc này nghĩ tới Đài Trung, thoáng sau
lại nghĩ tới Cao Hùng, rắc rối rồi, chẳng
đi được, chỗ nào cũng chẳng đến
được. Quư vị vẫn c̣n ở tại Đài
Loan. Giữ sao cho nhất tâm hệ niệm, chẳng có tạp
niệm, rất khó thực hiện điều này!
Niệm
Pháp Thân b́nh đẳng của chư Phật, phép quán tưởng
này khá nhiều đạo hữu rất ít khi tu. Miệng
niệm Di Đà Phật, nhưng chẳng quán tưởng
A Di Đà Phật. Niệm đằng miệng th́ chưa
được, trong tâm phải quán. Quán chẳng phải là
niệm, quán là tưởng, là tư duy, trong tâm tưởng
Pháp Thân b́nh đẳng. Trong khi chúng ta niệm A Di Đà Phật,
rất nhiều đạo hữu chúng ta niệm A Di Đà
Phật, nhưng rất ít người nghĩ “ta, Phật, và A
Di Đà Phật b́nh đẳng”, chẳng có ư niệm ấy.
[Lại c̣n suy nghĩ lầm lẫn]: “B́nh đẳng th́
c̣n sanh về đó làm ǵ? Ở đây là
được rồi!” Chẳng phải là ư nghĩa
đó! Niệm sắc thân của Phật và niệm Pháp Thân
của Phật khác nhau, đă hiểu rơ đạo lư này hay
chưa? Do vậy, Địa Tạng Bồ Tát đặc
biệt nêu ra, hệ niệm Pháp Thân b́nh đẳng của
chư Phật. Nghiệp tối thắng trong hết thảy
các thiện căn, chỉ có pháp môn Niệm Phật thù thắng
nhất. Nếu siêng năng tu tập, đó gọi là Nhất
Hạnh tam-muội. Pháp môn Niệm Phật như Địa
Tạng Vương Bồ Tát đă nói chính là Nhất Hạnh
tam-muội. Người hành môn tam-muội này thành tựu
cái tâm vi diệu rộng lớn, đó gọi là “tâm hạnh”,
được gọi là tương tự Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Tập 14
(Kinh)
Dĩ năng đắc văn ngă danh tự cố, diệc
năng đắc văn thập phương Phật danh tự
cố, dĩ năng chí tâm lễ bái, cúng dường ngă cố,
diệc năng chí tâm lễ bái, cúng dường thập
phương chư Phật cố, dĩ năng đắc
văn Đại Thừa thâm kinh cố, năng chấp
tŕ, thư tả, cúng dường, cung kính Đại Thừa
thâm kinh cố, năng thọ tŕ, độc tụng Đại
Thừa thâm kinh cố, năng ư cứu cánh thậm thâm
Đệ Nhất Thật Nghĩa trung, bất sanh bố
úy, viễn ly phỉ báng, đắc chánh kiến tâm,
năng tín giải cố, quyết định trừ diệt
chư tội chướng cố, hiện chứng vô
lượng công đức tụ cố.
(經)以能得聞我名字故。亦能得聞十方佛名字故。以能至心禮拜供養我故。亦能至心禮拜供養十方諸佛故。以能得聞大乘深經故。能執持書寫供養恭敬大乘深經故。能受持讀誦大乘深經故。能於究竟甚深第一實義中。不生怖畏。遠離誹謗。得正見心。能信解故。決定除滅諸罪障故。現證無量功德聚故。
(Kinh: Do có
thể được nghe danh tự của ta mà cũng có
thể được nghe danh tự của mười phương
Phật. Do có thể chí tâm, lễ bái, cúng dường ta, cho nên cũng có thể chí tâm, lễ bái, cúng dường
mười phương chư Phật. Do có thể được nghe kinh điển Đại
Thừa sâu xa, do có thể chấp tŕ, biên chép, cúng dường,
cung kính kinh điển Đại Thừa sâu xa, do có thể
thọ tŕ, đọc tụng kinh điển Đại Thừa
sâu xa, do có thể chẳng sanh sợ hăi đối với
Đệ Nhất Thật Nghĩa rốt ráo rất sâu, bèn
xa ĺa phỉ báng, đạt được cái tâm chánh kiến.
Do có thể tín giải, quyết định trừ diệt
các tội chướng, sẽ chứng vô lượng khối
công đức trong hiện tại).
Đoạn
kinh văn này nhằm giải thích ư nghĩa: Chúng ta niệm
danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát chính là
niệm danh hiệu của mười phương chư
Phật. Nếu có thể chí tâm cung kính Địa Tạng
Vương Bồ Tát, đối trước tượng
Địa Tạng Bồ Tát, cũng có thể cúng dường
mười phương chư Phật. Do nhân duyên cúng
dường ấy cũng giống như được
nghe kinh điển Đại Thừa, biên chép, niệm tụng,
cho đến dùng hết thảy các vật cúng để
cúng dường hết thảy kinh điển Đại
Thừa. Đối với tất cả hết thảy
tâm, hết thảy hạnh, chỉ cần quư vị niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát, chẳng khác nào
đọc tụng kinh điển Đại Thừa,
tương đương đọc tụng danh hiệu
của mười phương chư Phật, công đức
đều b́nh đẳng. Đoạn kinh văn này khiến
cho chúng ta lư giải sâu sắc: Dùng thân tâm hiện tại của
chúng ta để quán tưởng, đó là Hóa. Hóa
nương vào Báo, Báo nương vào Pháp Thân. Pháp Thân của
hết thảy chúng sanh và Pháp Thân của chư Phật, Bồ
Tát b́nh đẳng. Đó gọi là Nhất Tâm Tam Quán, kinh
Hoa Nghiêm nói đến Nhất Tâm Tam Quán. Đồng thời
nói đến tam-muội, tức Nhất Hạnh tam-muội.
Nếu lúc chúng ta đả Bát Nhă thất, hành Ban Châu tam-muội, Ban Châu tam-muội là Nhất Hạnh tam-muội. Chúng
ta nghe danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, nghe danh hiệu
của mười phương hết thảy chư Phật
đều b́nh đẳng. Đó là “viên nghĩa”.
Do
vậy, đoạn kinh văn cuối cùng này của kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo thuần túy là ư nghĩa trong
Viên Giáo. Do quư vị nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
bèn thấu hiểu viên nghĩa. “Hiểu” có nghĩa là
tưởng pháp nào cũng đều viên. Địa Tạng
Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị có thể chí tâm quy y cho tới
chí tâm lễ kính, cho đến chí tâm xưng tụng danh hiệu;
đấy đều là “viên nghĩa, viên văn, viên
tư, viên tu”, môn Quán Hạnh này được gọi
là Nhất Hạnh tam-muội. Kinh giảng Nhất Hạnh
tam-muội rất sâu; ở đây, Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng ta một pháp gọi là “viên văn, viên
tư, viên tu” để có thể đạt tới Nhất
Hạnh tam-muội. Tu một pháp là [tu tập] hết thảy
các pháp. Tam-muội nói theo ư nghĩa thông thường là
Định, Định trọn đủ Huệ, tức
là Định và Huệ tổng tŕ. Tổng tŕ Định
Huệ gọi là Nhất Hạnh tam-muội. Do vậy, quư
vị niệm một kinh chính là niệm hết thảy các
kinh, niệm danh hiệu của một vị Bồ Tát
chính là niệm danh hiệu của hết thảy chư Phật.
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Trong khi quư vị
niệm danh hiệu của ta, phải quán tưởng, quán
tưởng “nghe danh hiệu của ta là nghe danh hiệu
của mười phương hết thảy chư Phật”.
Đó là ư nghĩa “trọn khắp hết thảy”.
Thành khẩn cúng dường Địa Tạng Bồ Tát tức
là cúng dường mười phương hết thảy
chư Phật. Đó là nói về Phật.
Kế
đó là nói về Pháp. Có thể thọ tŕ, đọc tụng
kinh điển Đại Thừa sâu xa, có thể chẳng
sanh sợ hăi đối với Đệ Nhất Thật
Nghĩa rốt ráo quá sâu. Có các chúng sanh nghe nghĩa sâu của
pháp Đại Thừa, nghe cách nói kiểu ấy, sẽ chẳng
dám đảm đương. Trong kinh Pháp Hoa, Thường
Bất Khinh Bồ Tát trông thấy hết
thảy chúng sanh, Ngài đều
đảnh lễ, thưa “quư vị là vị lai chư
Phật, tôi chẳng dám khinh mạn quư vị”. Chúng sanh
chẳng tiếp nhận, lấy đá phang Ngài, quở Ngài
nói quàng nói xiên. Thật ra, hàm nghĩa [của lời tán thán
ấy] chính là nghĩa sâu trong Viên Giáo. Lời dạy của
Địa Tạng Bồ Tát ở đây cũng có ư
nghĩa ấy! Quư vị nghe một pháp chính là hết thảy
các pháp. Nay chúng ta nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
chính là kinh điển Đại Thừa sâu xa. Nếu có thể thọ tŕ, đọc
tụng kinh điển Đại Thừa sâu xa, có thể nghe
Đệ Nhất Thật Nghĩa sâu xa rốt ráo mà chẳng
sanh ḷng sợ hăi, nghe loại kinh nghĩa (ư
nghĩa trong kinh) như thế này mà chẳng sanh cảm
giác sợ hăi, cũng sanh chẳng ư tưởng kỳ
đặc (đặc biệt lạ lùng), xa ĺa phỉ
báng, đạt được cái tâm chánh kiến, th́ đó gọi là “chánh tri, chánh kiến”. Chẳng phải
như vậy, sẽ chẳng phải là chánh tri chánh kiến.
Như thế là biết “tâm, Phật b́nh đẳng; hết
thảy các pháp đều b́nh đẳng”.
Hiện
thời, đoạn kinh văn này nói về địa vị
Tín Giải, chẳng phải tu, mà cũng chẳng phải
chứng, chỉ là có thể hiểu rơ, liễu giải,
tin tưởng, tức là tin tưởng chính ḿnh và chư
Phật chẳng hai, chẳng khác, tin tưởng hết thảy
các kinh điển Đại Thừa không hai, không khác, tin
tưởng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và hết thảy
các kinh điển Đại Thừa chẳng hai, chẳng
khác. Nhưng có thể sanh sức tín giải như vậy,
nếu chẳng phải là người có thiện căn, sẽ
chẳng thể tin được! Chúng ta có thể tin
tưởng, tín giải kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
th́ cái tâm của quư vị được gọi là chánh kiến,
tâm chánh tri chánh kiến. Chẳng có cái tâm tín niệm chánh tri
chánh kiến, sẽ chẳng tin kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, sẽ chẳng thể tin nổi!
Đồng
thời, Địa Tạng Vương Bồ Tát c̣n bảo
chúng ta: Chắc chắn có thể diệt hết thảy tội
chướng, tất cả tội ác chướng ngại
của quư vị đều có thể tiêu mất. Hết thảy
công năng ấy đều sanh từ sự tín giải của
quư vị, tín tâm kiên định chẳng hoài nghi. Nghe kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, quư vị lại có thể
tụng tŕ, lại có thể học tập, công đức
vô lượng, “hiện thân” (thân hiện tại)
có thể chứng đắc vô lượng công đức.
“Hiện thân” là thân thể đang nghe pháp của quư vị trong hiện thời, có thể đạt
được vô lượng khối công đức, chẳng
phải là một, hai công đức, mà là vô lượng
công đức, các công đức ấy cùng tụ tập.
Do đó, nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo mà chẳng
sanh hoài nghi, chẳng có ư niệm thứ hai, tin tưởng
pháp sâu xa do Địa Tạng Bồ Tát đă truyền dạy.
(Kinh)
Sở dĩ giả hà? Vị vô phân biệt Bồ Đề
tâm, tịch tĩnh trí hiện, khởi phát phương tiện
nghiệp chủng chủng nguyện hạnh cố,
năng văn ngă danh giả, vị đắc quyết
định tín lợi ích hạnh cố, năi chí nhất thiết
sở năng giả, giai đắc bất thoái Nhất Thừa
nhân cố.
(經)所以者何。謂無分別菩提心。寂靜智現。起發方便業種種願行故。能聞我名者。謂得決定信利益行故。乃至一切所能者。皆得不退一乘因故。
(Kinh:
V́ cớ sao vậy? Tức là do tâm Bồ Đề chẳng
phân biệt, trí tịch tĩnh hiện, phát khởi các thứ nguyện hạnh thuộc
về phương tiện nghiệp. Có thể nghe danh hiệu
của ta chính là đạt được tín tâm quyết
định và hạnh lợi ích, cho đến hết thảy
những người có thể [nghe rồi tin tưởng],
sẽ đều được bất thoái nơi cái nhân
của Nhất Thừa).
V́
sao Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta như thế.
“Sở dĩ giả hà?” hàm ư: Do nguyên nhân ǵ mà ta nói
như thế. Ta nói như thế là v́ ta đang nói Bồ
Đề tâm chẳng phân biệt. Đó là ư nghĩa sâu xa của
Đại Thừa Bồ Đề tâm. Chẳng có phân biệt,
nương theo chân tâm, nương vào cái tâm vô phân biệt
mà phát khởi Bồ Đề tâm. Đấy là Chỉ Quán
song vận, trí tịch tĩnh bèn hiện ra. Tịch
tĩnh là Chỉ, trí hiện là Huệ, Định và Huệ
cân bằng, Chỉ Quán song tu. V́ ta nói như vậy chính là
phương tiện thiện xảo, khiến cho hết thảy
chúng sanh có thể phát khởi sự nghiệp phương
tiện thiện xảo. Quư vị tu hành nghiệp ấy,
căn cứ vào nghiệp ấy để phát tâm, ḥng sanh khởi tín giải. V́ đă có tín giải th́ mới
có thể dấy lên nguyện hạnh. Nếu quư vị chẳng
tin, sẽ chẳng thể lư giải, làm sao có thể phát
nguyện tu hành cho được? Nương vào sức tín giải,
quư vị bèn phát nguyện tu hành. Do quư vị tín giải, phát
nguyện tu hành, cho nên mới có thể nghe danh hiệu của
ta. Nói nông cạn, [ở đây] Địa Tạng
Vương Bồ Tát bảo chúng sanh thời Mạt Pháp
trong thuở vị lai: “Nghe danh hiệu của
ta chẳng dễ dàng!” Nếu quư vị có thể nghe danh hiệu
của ta, đó là v́ quư vị đă có các thứ tín nguyện
và có tu tập thiện căn trong đời trước,
đă có tín tâm quyết định, cho nên đời này mới
có thể nghe danh hiệu của ta. Đấy chẳng phải
là tự khen. Địa Tạng Bồ Tát v́ lợi ích chúng
sanh trong thời Mạt Pháp, mà nói: “Các vị chớ nên v́
được nghe danh hiệu của ta mà khởi tâm khinh
mạn”, chớ nên! V́ quư vị sẽ chẳng đạt
được lợi ích. Chớ nên có khinh tâm và mạn
tâm! Quư vị có thể nghe danh hiệu Địa Tạng
Vương Bồ Tát chẳng dễ dàng đâu nhé, chẳng
phải là do thiện căn trong một hai đời.
V́
sao giải thích như thế? Do ḷng tin quyết định
và hạnh lợi ích. Nghe danh hiệu của Ngài, quư vị
lại sanh ra tín lực, rất khó tu được sự
lợi ích do ḷng tin ấy. “Năi chí nhất thiết sở
năng giả, giai đắc bất thoái Nhất Thừa
nhân” (cho đến
hết thảy những ai có thể [nghe rồi tin tưởng],
đều đạt được cái nhân bất thoái nơi
Nhất Thừa): Nghe danh hiệu của ta bèn phát khởi,
tŕ danh cũng thế, lễ bái cũng thế, tu sám hối,
tu Nhất Hạnh quán hạnh, đều là cái nhân của
bất thoái Đại Thừa, là cái nhân của Nhất Thừa.
Hàm nghĩa ở đây là “Bồ Đề tâm chẳng
có phân biệt”. Chúng ta thường nói “phát Bồ
Đề tâm”, phát Bồ Đề tâm th́ cũng phải
có cái tâm phân biệt để phát khởi. Phát Bồ Đề
tâm như thế th́ chẳng có phân biệt, tức là có thể
tin tưởng cảnh giới Nhất Thật, có thể
tín giải cảnh giới Nhất Thật, chẳng cần
nhờ vào cái tâm phân biệt. Hễ có tâm phân biệt, sẽ
chẳng thể tin tưởng, tín tâm chẳng dễ sanh
khởi đâu nhé!
Hơn
nữa, đoạn kinh văn này nói đến “trí tịch
tĩnh hiện”. Trí tịch tĩnh hiện th́ sẽ tin
tưởng môn Xa-ma-tha Chỉ Quán mầu nhiệm. Trong phần
kinh văn trước đó, Địa Tạng Bồ Tát
đă nói hàm nghĩa của Chỉ Quán, nhưng quư vị
hoàn toàn chẳng thể khế nhập, chẳng thể tiến
nhập ngay lập tức. Nếu quư vị phát khởi các
thứ nguyện lực phương tiện thiện xảo
để tu hành, tin tưởng loại quán hạnh Bồ
Đề này, chắc chắn sẽ đạt được
lợi ích. V́ nếu là kẻ trong quá khứ chẳng có sức
tín giải, mà mong được nghe danh hiệu của
Địa Tạng Vương Bồ Tát, th́ sẽ chẳng thể
được, chẳng nghe thấy danh hiệu của
Ngài! Nghe danh hiệu cũng có các thứ sai biệt, phần
kinh văn dưới đây c̣n giải thích
thêm.
(Kinh)
Nhược tạp loạn cấu tâm, tuy phục xưng tụng
ngă chi danh tự, nhi bất danh vi văn, dĩ bất
năng sanh quyết định tín giải, đản hoạch
thế gian thiện báo, bất đắc quảng đại
thâm diệu lợi ích.
(經)若雜亂垢心。雖復稱誦我之名字。而不名爲聞。以不能生決定信解。但獲世間善報。不得廣大深妙利益。
(Kinh:
Nếu tâm tạp loạn, nhơ bẩn, tuy xưng tụng
danh tự của ta mà chẳng được gọi là Nghe,
do chẳng thể sanh ḷng tín giải quyết định,
chỉ đạt được thiện báo trong thế
gian, chẳng đạt được lợi ích rộng
lớn, sâu xa mầu nhiệm).
Nếu
cái tâm tạp loạn, phiền cấu, dẫu nghe danh tự
của ta, chẳng thể gọi là Nghe; đó là sự
phân biệt. Địa Tạng Bồ Tát bảo chúng ta: Nếu
quư vị dùng cái tâm tạp loạn, tán loạn, khinh mạn,
dùng cái tâm cấu nhiễm, tuy hằng ngày niệm tụng
danh hiệu của ta, chẳng thể gọi là Nghe. Trong đoạn này, Ngài cảnh tỉnh
chúng ta: Tuy được nghe danh hiệu Địa Tạng
Vương Bồ Tát chẳng dễ dàng, nhưng khi quư vị
được nghe, chớ nên dùng cái tâm tạp loạn, cấu
nhiễm để nghe. V́ sao? Tâm tạp loạn, cấu nhiễm,
quư vị sẽ chẳng thể tin nổi, niềm tin sẽ
là hời hợt, chẳng thể tin sâu đậm Địa
Tạng Bồ Tát thật sự có thể cứu độ
ta, thật sự có thể khiến cho ta ĺa khổ,
được vui, chẳng thể sanh khởi cái tâm ấy.
Quư vị chẳng thể sanh tín tâm quyết định, chẳng
sanh khởi tín giải quyết định. Tuy quư vị
nghe danh hiệu Địa Tạng mà cũng như chẳng
nghe, giống như chẳng thấy! Vậy th́ có công đức
hay không? Có chứ! Chẳng phải là công đức để
tu đạo, thành đạo, mà là phước đức
thế gian, [nhưng vẫn giúp cho] quư vị chắc chắn
ĺa khỏi tam đồ.
Tuy
do cái tâm tạp loạn, phiền cấu nghe danh hiệu của
ta mà chẳng thể đạt được ḷng tin thanh
tịnh, nhưng có thể đạt được thiện
báo trong thế gian. Thành đạo chẳng dễ dàng,
nhưng có thể đạt được quả báo thế
gian. Chỉ là chẳng thể đạt được lợi
ích sâu xa, mầu nhiệm, chẳng thể thành thánh! Nếu
thiện căn sâu dày, người ấy vừa nghe danh hiệu
Địa Tạng Vương Bồ Tát, sẽ rởn cả
lông tóc, có thể đạt được lợi ích sâu
xa, to lớn, có thể dùng điều ấy để tu
đạo, có thể đoạn Hoặc, có thể chứng
chân lư. Do cái tâm tạp loạn, uế nhiễm, th́ cũng
có thể đạt được phước báo nhân
thiên, nhưng chẳng đạt được thiện
nghiệp xuất thế.
(Kinh)
Như thị tạp loạn cấu tâm, tùy kỳ sở tu
nhất thiết chư thiện, giai bất năng đắc
thâm đại lợi ích.
(經)如是雜亂垢心。隨其所修一切諸善。皆不能得深大利益。
(Kinh: Cái tâm
tạp loạn, cấu nhiễm như thế mà tu hết
thảy các điều thiện, sẽ đều chẳng
thể đạt được lợi ích to lớn, sâu
xa).
Đây
là dạy chúng ta: Khi niệm thánh hiệu Địa Tạng
Vương Bồ Tát, chớ nên khởi tâm tạp loạn,
chớ nên khởi tâm cấu nhiễm. V́ dùng cái tâm cấu
nhiễm, tâm tạp loạn mà mong đạt được
đạo nghiệp thanh tịnh, sẽ chẳng thể
đạt được, chỉ có thể đạt
được lợi ích thế gian. Nếu có thể vừa
nghe liền tin sâu, mở mang tri kiến viên măn, tin tưởng
chính ḿnh và Địa Tạng Vương Bồ Tát chẳng
hai, chẳng khác. Địa Tạng tức là chính ḿnh, chính ḿnh là
Địa Tạng. Đấy là hạng người thuộc
loại viên nhân, do sức tín giải và lư giải như thế,
sẽ có thể đạt được lợi ích to lớn.
Cùng là một niềm tin, tâm tin điều ǵ vậy? Nêu một
thí dụ: Tôi ở Ngũ Đài Sơn, có một người
tin Phật, mong cho công ty của chính ḿnh phát tài, bèn niệm
Địa Tạng Bồ Tát. Ông ta đă phát tài, đầu
tư một món tiền có lời, bèn lên núi cúng dường
trai tăng. Tôi dùng ư nghĩa trong đoạn kinh văn này
để giảng cho ông ta: Đó là lợi ích thế gian,
ông đừng nên v́ danh lợi thế gian, mà hăy làm thiện
nghiệp thanh tịnh xuất thế; đó là chân thật.
Tướng thế gian sẽ biến huyễn bất
cứ lúc nào, có được th́ sẽ lại có mất! Giả sử
dùng cái tâm thật sự liễu sanh tử, cái tâm mong cầu
thành Phật, sẽ gọi là “nghiệp phước
điền thanh tịnh”, sẽ đạt
được bất thoái vĩnh viễn. Phước
đức thế gian có được, có mất, thiện
nghiệp phước đức xuất thế gian chẳng
thể mất đi. Đó gọi là lợi ích sâu xa, to tát!
(Kinh)
Thiện nam tử! Đương tri như thượng cần
tâm tu học Vô Tướng Thiền giả, bất cửu
năng hoạch thâm đại lợi ích, tiệm thứ
tác Phật.
(經)善男子。當知如上勤心修學無相禪者。不久能獲深大利益。漸次作佛。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Hăy nên biết tâm siêng năng tu học
Vô Tướng Thiền như trên, chẳng lâu sau sẽ có
thể đạt được lợi ích to lớn, sâu dầy,
dần dần sẽ thành Phật).
Lợi
ích sâu xa, to lớn là sẽ có thể đạt được
thành quả ǵ? Dần dần thành Phật.
(Kinh)
Thâm đại lợi ích giả, sở vị đắc
nhập Kiên Tín pháp vị,
thành tựu Tín Nhẫn cố. Nhập Kiên Tu vị, thành tựu
Thuận Nhẫn cố. Nhập Chánh Chân vị, thành tựu
Vô Sanh Nhẫn cố.
(經)深大利益者。所謂得入堅信法位。成就信忍故。入堅修位。成就順忍故。入正真位。成就無生忍故。
(Kinh:
“Lợi ích to lớn sâu xa” nghĩa là được nhập
pháp vị tin tưởng kiên định, do thành tựu Tín
Nhẫn. Nhập địa vị tu tập kiên cố, do
thành tựu Thuận Nhẫn. Nhập địa vị
Chánh Chân, do thành tựu Vô Sanh Nhẫn).
Trong
đoạn văn trước, Địa Tạng Bồ Tát
nói: Nếu có thể nghe danh hiệu của ta mà sanh tâm tín
giải, chắc chắn
sẽ có thể dần dần thành Phật. Đồng thời,
Địa Tạng Bồ Tát lại giải đáp [ư nghĩa của] “thâm đại
lợi ích” (lợi ích sâu xa, to lớn). Thâm đại lợi
ích là ǵ? Được dự vào địa vị Kiên Tín,
[chánh kinh gọi địa vị này] là “kiên tín pháp vị”.
Đó là địa vị Kiên Tín, thành tựu Tín Nhẫn, có
thể “nhẫn khả” tín tâm của chính ḿnh. “Nhẫn”
(忍) là “thừa nhận”. “Nhẫn khả” có
nghĩa là tin tưởng chính ḿnh. Tín tâm của chính ḿnh có
thể kiên định, chẳng nghi, tùy thuận pháp tánh,
tùy thuận tâm thể của chính ḿnh, cho nên có thể
thành đạo. Nhập địa vị Chánh Chân, thành tựu
Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đó gọi là địa vị Kiên Tín.
Nói theo sự phát tâm của quư vị, th́ địa vị
Kiên Tín là tin tưởng kiên định chính ḿnh nhất
định có thể thành Phật. Quư vị tin chắc
chính ḿnh có thể thành Phật mà làm Phật sự. Đă có
cái tín tâm ấy, lại đến cầu pháp, hoặc là tụng kinh,
hoặc lễ Phật, sẽ dần dần có thể thành
tựu Pháp Nhẫn, thừa nhận các pháp, bèn có thể thành Phật. Lúc đó mới có thể
phát khởi niềm tin kiên định và thanh tịnh để tu
hành. Chúng ta tu hành toàn là như mảy lông trước gió, ba
ngày tu hành, hai ngày lao chao, chẳng tu
hành chi hết, lúc tiến, lúc lùi, chẳng thể kiên định.
Ắt cần phải luôn kiên định, tu hành rất khó
khăn! Chẳng hạn như khi quư vị bắt đầu
phát tâm, nói tôi mỗi ngày niệm một trăm câu thánh hiệu
A Di Đà Phật. Chẳng nhiều cho mấy, niệm một
trăm câu thôi, chưa đến mười phút, vài phút
đă niệm xong. Nhưng quư vị có thể mỗi ngày tới
đúng giờ đều
niệm, siêng năng chẳng bỏ sót một ngày nào, chuyện
này chẳng dễ dàng đâu nhé! Cái tâm nhất thời dễ
phát, chứ cái tâm lâu dài sẽ khó khăn. Nói chung là sẽ
có khá nhiều chướng ngại, khiến cho quư vị
chẳng tu hành được.
Các
vị đạo hữu hăy ngẫm nghĩ đôi chút, từ
khi quư vị bắt đầu tin Phật, “quy y Phật,
quy theo Pháp, quy y Tăng”, đơn giản thế
đó! Quư vị có thể mỗi ngày sáng sớm thức dậy,
ư niệm đầu tiên là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, sau đấy mới
có thể làm chuyện khác. Mỗi vị đạo hữu
trong tứ chúng, bất luận là xuất gia tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
hay đệ tử tại gia tin Phật, nếu trong ba
trăm sáu mươi ngày, quư vị chẳng gián đoạn
một ngày nào, ấn định
thời gian, ấn định số lượng, một
trăm câu, chẳng nhiều cho mấy, đúng không? Quư vị
ngồi xuống đó niệm vài phút, số
lượng chẳng lớn, nhưng quư vị có thể
trong suốt một năm, siêng gắng, chẳng thiếu
sót một ngày nào. Bất luận
chướng ngại ǵ, cho đến trong khi bệnh khổ
vẫn chẳng gián đoạn. Chẳng cần biết ít
hay nhiều, mỗi ngày đều có thể kiên tŕ chẳng
gián đoạn, chuyện này chẳng dễ dàng!
Đó là tín tâm kiên định, chẳng nghi! Thông thường,
chúng ta tu hành phát tâm, cái tâm dũng mănh dễ phát. Bữa nay, phát tâm dũng mănh rất tinh tấn, rất tu hành; ngày mai, ngày mốt
sẽ dần dần chẳng làm nữa! Một tháng, hai
tháng, tới tháng thứ ba chẳng làm nữa! Mỗi vị
đạo hữu hăy nhớ lại xem, kiên tŕ một hạnh,
lại c̣n là số lượng chẳng lớn, quư vị
ngẫm xem: Mỗi ngày đều chẳng gián đoạn, bất
luận chướng ngại ǵ, điều này khó lắm!
Nếu có thể kiên tín như thế th́ sẽ nhập vị.
Chữ Nhẫn có nghĩa là “thúc đẩy thành tựu”. Nhẫn Khả,
thừa nhận đều thêm vào chữ Nhẫn. Đó là
dự vào địa vị Kiên Tu, do kiên tu mà thành tựu Nhẫn.
Nói theo danh từ pháp số th́ là Vô Sanh Nhẫn.
Bồ Tát thuộc các địa vị của Thập Tín vừa
mới dự vào Tín vị th́ gọi là Tín Nhẫn, cho đến
Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng
th́ gọi là Thuận Nhẫn, do thuận theo pháp tánh.
Đăng địa Bồ Tát (đă chứng từ
Sơ Địa trở lên) được gọi là Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Tu hành như nhau, công phu đúng mức th́ là Vô
Sanh Pháp Nhẫn. Chưa đạt tới th́ là tùy thuận (Thuận Nhẫn). Nay chúng ta trưởng
dưỡng, tu hành trưởng dưỡng, khiến cho
thiện căn ngày càng kiên cố, ngày càng to tát, trưởng
dưỡng nó.
(Kinh) Hựu thành tựu Tín Nhẫn giả, năng
tác Như Lai chủng tánh cố. Thành tựu Thuận Nhẫn giả, năng
giải Như Lai hạnh cố. Thành tựu Vô Sanh Nhẫn giả, đắc
Như Lai nghiệp cố.
(經)又成就信忍者。能作如來種性故。成就順忍者。能解如來行故。成就無生忍者。得如來業故。
(Kinh: Lại thành tựu Tín Nhẫn, do
có thể làm chủng tánh của Như Lai. Thành tựu Thuận
Nhẫn, do có thể hiểu hạnh của Như Lai. Thành
tựu Vô Sanh Nhẫn, do đạt được nghiệp
của Như Lai).
Chúng
ta có thành tựu Tín Nhẫn hay chăng? Nếu tin, mỗi vị
đạo hữu chúng ta đều nói ḿnh tin Tam Bảo, vậy
th́ có đạt tới Tín vị hay không? Có lúc tin, có lúc lại
chẳng tin. Thời gian tin nhiều, thời gian không tin ít; đó là có một chút
đạo hạnh. Trước nay chưa hề mất
ḷng tin, chẳng có niệm nào đánh mất ḷng tin;
đó gọi là “nhập Tín vị”, [tức là] đă nhập
Tín Nhẫn vị. Tín Nhẫn là tín thành tựu, dự vào
địa vị Sơ Trụ trong Thập Trụ, thuộc
vào chủng tánh Như Lai, nhưng chỉ là tương tự,
tức tương tự dự vào chủng tánh Như Lai. Cho tới
khi viên măn ba mươi tâm, tức viên măn ba mươi tâm thuộc
các địa vị Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, dự vào Sơ Địa, sẽ chẳng
phải là tương tự, mà là thật sự nhập chủng
tánh Phật, quyết định có thể thành Phật. V́
sao? Tới lúc đó, sở hành mới có thể chẳng
hai, chẳng khác Phật. Sở hành của Sơ Địa
Bồ Tát chẳng hai, chẳng khác Phật. Mỗi địa
vị đều phải đoạn vô minh, chứng Pháp
Thân. Tam Hiền Bồ Tát (Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng) gọi là Tương Tự,
thuộc địa vị tương tự, tương tự
nhập; thật ra, chưa thật sự nhập. Tín vị
Bồ Tát c̣n có thể lui sụt, Trụ vị Bồ Tát chẳng
lui sụt. Địa vị Thập Tín và phàm phu vẫn
chưa thể coi là thánh. C̣n như chúng ta chưa tiến nhập
Tín vị, vẫn chưa viên măn, tín tâm là tiến tiến,
lùi lùi, chẳng sanh ḷng tin quyết định. Quyết
định tín là đă tiến nhập Sơ Trụ, chẳng
c̣n biến đổi nữa.
Do
vậy, nói theo giáo lư và giáo nghĩa trong kinh, dùng Thánh Giáo
Lượng để suy lường chính ḿnh, quư vị mới
biết chính ḿnh rốt ráo tin Phật và tu hành tới mức
độ nào, chính quư vị mới tự biết. Điều
đó thuộc về phương diện Hành. Tín tâm như
thế th́ mới có thể vĩnh viễn bất thoái, tin
tưởng chính ḿnh chẳng hai, chẳng khác với Phật,
tin tưởng chính ḿnh có Phật Tánh, nhất
định có thể thành Phật. Đó mới gọi là “có
tín tâm”. Như các đạo hữu b́nh phàm, đă nhập
Phật môn, thọ Tam Quy, Ngũ Giới, hoàn toàn chẳng
nghĩ chính ḿnh có thể thành Phật, cũng không mong
tưởng cao như vậy! Thật ra, quư vị vừa
nhập Phật môn, vừa thọ Tam Quy, bèn xưng là “Phật tử”, [được
coi là] đă nhập Phật môn. Phật tử th́ phải
hành Phật sự. Quư vị đă thọ Tam Quy, nhưng vẫn
chẳng thấy hành Phật sự, cứ tiến tiến
lùi lùi. V́ sao phải tu hành vô lượng kiếp? Nguyên nhân ở
ngay chỗ này, cứ tiến tiến
lùi lùi. Đời này quư vị tinh tấn dũng mănh, đời
sau th́ sao? Do vậy, đức Phật dạy chúng ta pháp
môn phương tiện thiện xảo, dạy chúng ta niệm
A Di Đà Phật, sanh về thế
giới Cực Lạc. Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta niệm thánh hiệu Địa Tạng. Kinh này dạy
chúng ta, hết thảy lấy xưng danh làm chủ yếu.
Ngài dạy chúng ta niệm Địa Tạng Vương Bồ
Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát gia tŕ quư vị,
cũng có thể [gia tŕ] măi cho tới khi thành Phật. Dần
dần có thể thành Phật, chẳng phải là ngay lập
tức, cho nên tín tâm của quư vị ắt phải kiên cố,
bất thoái.
Các
vị đạo hữu hăy xét lại chính ḿnh một phen: “Bất luận gặp tai nạn nhiều cỡ nào,
tín tâm bất thoái”. Hàm nghĩa trong ấy
hết sức sâu xa. Tôi ở trong tù, đạo hữu rất
đông, người xuất gia cả đống. Khi
đó, có rất nhiều kẻ oán hận, oán hận
ǵ vậy? Phật chẳng gia tŕ, thần hộ pháp cũng chẳng hộ
tŕ họ! Chẳng phải
là không hộ tŕ quư vị, mà là bản thân quư vị chẳng
tiếp nhận hộ tŕ, đạo tâm lui sụt, quư vị
chẳng tin tưởng. Do vậy, đă tin th́ dẫu gặp
tai nạn, gặp phải ma nạn, hoàn toàn chẳng
phải là “đă tin Phật th́ tai nạn đều hết
sạch”, chẳng thể được! Chúng ta thường
nói “chẳng thể bị ma khảo, chẳng thể
thành Phật”. Đó cũng là khảo nghiệm đối
với sự tu đạo của quư vị. Ma càng nhiều,
chướng ngại càng nhiều. Trên con đường
tu đạo của quư vị, đâu đâu cũng có
chướng ngại! V́ sao? Đáng lẽ phải là chẳng
có chướng ngại trong sự tu đạo chứ?
Trong quá khứ, tôi đă nêu thí dụ sau đây: Trong quá khứ,
một kẻ rất ác, ai cũng chẳng dám động tới
hắn. Hắn thiếu tiền, [chủ nợ] cũng chẳng
dám đ̣i. Nhưng kẻ đó thay đổi, muốn làm
lành, người ta sẽ dám đ̣i quư vị. Khi đó, quư
vị phải nên trả! Dường như
khi chưa phát tâm, chưa tu đạo,
chướng ngại c̣n ít một chút, c̣n khá thuận
lợi. Kẻ đó vừa tin Tam Bảo,
khó khăn ùa đến, nghiệp chướng đều
kéo tới, bệnh tật bất ngờ, cho đến các
nhân duyên chướng đạo toàn bộ kéo tới.
Đó là khảo nghiệm công phu của quư vị. V́ trước
kia, quư vị đă đeo chiêu bài “kẻ ác”, vẫn
đang làm ác, người ta chẳng dám động tới
quư vị. Nay quư vị làm việc thiện, phải nên
đền trả nợ cũ. Do vậy, tứ chúng đệ
tử nhất định phải nhận thức, nhận
thức điều ǵ? Ma nạn! Quư vị thành đạo
chẳng phải là chuyện thuận lợi; đó gọi là mài luyện
coi thử tín tâm của quư vị có kiên định hay không. Càng
mài giũa, càng kiên định, càng mài càng sáng, đó gọi
là “kiên định”. Tín tâm chẳng kiên cố, hễ bị
thử thách liền ngă ḷng, đạo tâm lui sụt. Đặc
biệt là lúc gặp phải tai nạn, quốc gia gặp tai nạn,
toàn bộ tập thể Phật giáo chúng ta bị tai nạn.
Đó chẳng phải là nói suông, mà là thân hứng chịu,
là hành động, khảo nghiệm tín tâm của chúng ta có
kiên cố hay không? Có thể làm theo lời Phật dạy
hay không? Đó gọi là Tín Nhẫn, tức là tín tâm kiên cố.
Chẳng kiên cố, há có thể hành theo lời dạy của
Như Lai hay không?
(Kinh) Tiệm thứ tác Phật giả, lược
thuyết hữu tứ chủng. Hà đẳng vi tứ? Nhất
giả, tín măn pháp cố tác Phật. Sở vị y chủng
tánh địa, quyết định tín chư pháp bất sanh,
bất diệt, thanh tịnh b́nh đẳng, vô khả nguyện
cầu cố. Nhị giả, giải pháp măn cố tác Phật.
Sở vị y giải hạnh địa, thâm giải pháp tánh,
tri Như Lai nghiệp, vô tạo, vô tác, ư sanh tử, Niết
Bàn, bất khởi nhị tưởng, tâm vô sở bố
cố. Tam giả, chứng măn pháp cố tác Phật.
Sở vị y tịnh tâm địa, dĩ đắc vô phân
biệt tịch tĩnh pháp trí, cập bất tư nghị
tự nhiên chi nghiệp, vô cầu tưởng cố. Tứ
giả, nhất thiết công đức hạnh măn túc cố
tác Phật. Sở vị y cứu cánh Bồ Tát địa,
năng trừ nhất thiết chư chướng vô minh mộng
tận cố.
(經)漸次作佛者。略說有四種。何等爲四。一者信滿法故作佛。所謂依種性地。決定信諸法不生不滅。清淨平等。無可願求故。二者解滿法故作佛。所謂依解行地。深解法性。知如來業。無造無作。於生死涅槃。不起二想。心無所怖故。三者證滿法故作佛。所謂依淨心地。以得無分別寂靜法智。及不思議自然之業。無求想故。四者一切功德行滿足故作佛。所謂依究竟菩薩地。能除一切諸障無明夢盡故。
(Kinh:
Dần dần thành Phật th́ nói đại lược có
bốn loại. Những ǵ là bốn? Một là do tín măn pháp
mà làm Phật, tức là nương vào chủng tánh địa,
quyết định tin các pháp bất sanh, bất diệt,
thanh tịnh b́nh đẳng, chẳng có ǵ để có thể
nguyện cầu. Hai là do giải măn pháp mà làm Phật, tức
là nương vào giải hạnh địa để hiểu
sâu xa pháp tánh, biết nghiệp của Như Lai chẳng tạo,
chẳng làm, đối với sanh tử và Niết Bàn chẳng
dấy lên ư tưởng là hai thứ, tâm không sợ hăi. Ba
là do chứng măn pháp mà làm Phật, tức là nương theo
tịnh tâm địa, do đắc pháp trí tịch tĩnh
chẳng phân biệt và các nghiệp tự nhiên chẳng nghĩ bàn, chẳng có ư tưởng
mong cầu. Bốn là do hết thảy công đức hạnh
trọn đủ mà làm Phật, tức là nương vào Bồ
Tát địa rốt ráo, có thể trừ hết
thảy các chướng và giấc mộng vô minh).
Nói
như thế, tín tâm đại lược có bốn loại.
Những ǵ là bốn?
1)
Một là do tín măn pháp (tin vào pháp viên măn) nên làm Phật,
tức là nương vào chủng tánh địa, quyết
định tín giải. Tín giải điều ǵ? Bất sanh, bất
diệt. Tín giải ǵ vậy? Thanh tịnh
b́nh đẳng. Chư Phật và chúng sanh, cùng với một
niệm tâm hiện tiền của chính ḿnh, ba thứ hợp
lại, đó là “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba đều
b́nh đẳng”. Phải phát cái tâm viên măn, tâm Đại
Thừa, phát khởi nghĩa Địa Thừa, không có ǵ
để có thể nguyện cầu. Đó là ư nghĩa măn
pháp. “Măn pháp” có nghĩa là “pháp măn” (pháp viên măn). “Pháp
măn” có hàm nghĩa ǵ vậy? Chính là cảnh giới Nhất
Thật viên măn, chẳng có pháp nào để phân biệt, th́ gọi “măn pháp”. Do măn pháp bèn làm Phật chính
là ư nghĩa này. Do hết thảy đều
tin vào măn pháp nên thành Phật, nhưng “tín măn pháp thành Phật”
tức là chủng tánh của quư vị là Phật. Chủng
tánh của mỗi người và chủng tánh của Phật
không hai, không khác. Lại tin tưởng hết thảy các
pháp là bất sanh, bất diệt.
Chúng ta chẳng dễ ǵ tin được điều này! Rất khó có được tín tâm ấy. Dẫu đă
tin, cũng chẳng kiên cố. Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng ta: “Cái pháp chẳng phân
biệt ấy gọi là cảnh giới
Nhất Thật”. Quư vị tin tưởng
hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, thanh tịnh,
b́nh đẳng, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng
tăng, chẳng giảm. Đấy mới là thuộc vào
Tín vị. Có thể tin tưởng hay không? Chẳng có niệm
nào hoài nghi, thường luôn tin tưởng “ta và Phật chẳng hai, chẳng khác”, [cũng như] chẳng hai, chẳng khác các vị
đại Bồ Tát.
2) Hai là do giải măn pháp mà làm Phật. Đoạn
trước là tín măn pháp làm Phật, c̣n ở đây là giải
măn pháp làm Phật, tiến sâu hơn bước nữa. Giải,
không chỉ là tín (tin tưởng), mà lại c̣n nương theo giáo nghĩa do đức Phật
đă dạy để lư giải sâu đậm hơn. “Pháp”
ở đây là nói tới pháp tánh: Thể tánh của các pháp
rạng ngời; thể tánh của
các pháp chẳng hai, chẳng khác. Hết thảy chúng sanh tu
bao nhiêu kiếp thành Phật, thành Phật rồi mới biết
chẳng có tạo tác, chẳng có tu hành. Thành Phật chẳng
phải là không tu thành, là tiêu mất tội
nghiệp mà thôi. Lư giải điều này rất khó, chẳng
có sự khác biệt giữa sanh tử và Niết
Bàn, phải sanh khởi tín tâm như vậy. V́ sau khi
đă có tín tâm như vậy, trong quá tŕnh quư vị tu luyện
thành Phật, sẽ chẳng có bất cứ cảm giác sợ
hăi, biết hết thảy đều là giả. Trong bổn
tánh chẳng có [những thứ ấy], cho nên nói nó là giả.
3) [Ba là do chứng măn pháp nên làm Phật], hết thảy
chư Phật đă chứng minh cho chúng ta, chứng minh hết
thảy đều là giả, chẳng có thứ ǵ là chân thật!
Trừ thể tánh của tự tánh ra, hết thảy
đều là hư vọng, đều là “trần ảnh”
(bóng dáng của lục trần phản chiếu trong tâm thức).
4) Bốn là do hết thảy công đức hạnh viên
măn bèn thành Phật, tức là nương vào Bồ Tát địa
rốt ráo, có thể trừ hết thảy các chướng,
chấm dứt giấc mộng vô minh. Chúng ta đang nằm
mộng, vô minh là món Hoặc căn bản nhất. Do vô minh
mà dấy lên ba tế tướng. Khởi Tín Luận phân
biệt [“tam tế tướng”] là nghiệp
tướng, chuyển tướng, và hiện tướng,
ba tế tướng ấy. Ba tế tướng đều
là hiện tướng của vô minh. Có thể đoạn
ba tế tướng, sẽ đắc Bát Địa Bồ
Tát. Bát Địa Bồ Tát đoạn hiện tướng,
Cửu Địa Bồ Tát đoạn chuyển tướng,
Thập Địa Bồ Tát mới có thể đoạn
nghiệp tướng. V́ thế, công phu này rất sâu. Nghiệp
chướng tiêu mất, công đức hiện tiền, tất
cả hết thảy các nghiệp đă tạo tác trong tu hành, tất cả các hạnh để tích
lũy công đức đều thực hiện trọn
đủ, bèn thành Phật. Thành Phật là Bồ Tát đạt
đến rốt ráo. Nơi địa vị
Bồ Tát rốt ráo sẽ trừ sạch hết thảy
các chướng ngại và giấc mộng vô minh. Công đức
hạnh viên măn chính là nghiệp chướng tiêu mất,
khôi phục Pháp Thân vốn sẵn thanh tịnh của
quư vị, đă thành Phật rồi.
Tín
thành Phật, hiện thời đối với mọi
người, phải thành tựu niềm tin thứ nhất
là “thành Phật”, tức là tin chính ḿnh là Phật. Để
có được tín tâm như thế ấy, phải tốn
một thời gian khá dài. Giả sử có người hỏi
tôi: “Ngươi có phải là Phật hay không?” Chẳng dám
đảm đương! V́ sao? Sợ người ta
đ̣i tôi phải chứng minh trong hiện tại. [Chẳng hạn
như họ nói]: “Ngươi là Phật, hăy nên bố thí
cho ta đôi chút vật dụng chứ? Bố
thí cánh tay trên thân thể của ngươi cho ta!” Quư vị
chẳng thành Phật, v́ chẳng dám cho kẻ đó. Quư vị
có chịu cho hay không? Bởi lẽ, muốn biến chúng
sanh tâm thành Phật tâm, sự biến hóa ấy sẽ khá
khó khăn! Khó tới mức độ nào? Bao nhiêu đại
kiếp, chẳng phải là trong một thời gian ngắn.
Chúng ta học kinh, chiếu theo lời Phật dạy để
học kinh, đă biết, cũng tin, nhưng chẳng dám
đảm đương. V́ hiện thời, hễ chúng
ta đảm đương, người khác sẽ đ̣i
chúng ta trả giá thật sự. Chúng ta thật sự chẳng
trả giá được, cho nên chẳng dám đảm
đương. Do vậy, chúng ta phải ắt cần phải
rèn luyện cái tâm, rèn luyện ǵ vậy? Phải đảm
đương. Sau khi đă đảm đương, các
sự nghiệp và các công đức do quư vị đă làm
đều có thể thành tựu. Chính ḿnh tin tưởng tự
ḿnh nhất định có thể thành Phật. V́ sao? Vốn
là Phật. Nếu quư vị chẳng có chủng tánh Phật,
chẳng có chủng tử ấy, chẳng phải là Phật,
dù quư vị làm thế nào, vẫn chẳng thể thành Phật
được! Quư vị muốn biến khoai tây thành gạo,
chẳng làm được, chủng tử bất đồng!
Hoặc là biến cải trắng thành bột ḿ, chủng
tử khác nhau, khác hẳn! [Do chúng sanh và Phật] có cùng một
chủng tánh, [chúng sanh] tuyệt đối có thể thành Phật.
Hết thảy chúng sanh chính là Phật, một đằng là
sẵn có, một đằng là tu thành. Chư Phật là hiển
hiện, tức là hiển hiện cái sẵn có (Phật Tánh). Bản thể sẵn có của hết thảy
chúng sanh bị phiền năo, bị vô minh và các thứ chướng
ngại ngăn trở, phải tiêu trừ chúng th́ mới
có thể thành Phật. Nếu mọi người chịu
dùng Phật giáo để phân biệt, nghiên cứu, Trí Giả
đại sư của Thiên Thai Tông
đă nêu ra giáo nghĩa Lục Tức Phật, chúng tôi chẳng
nói cặn kẽ, v́ tốn quá nhiều thời gian. Chúng ta
phải nên liễu giải Lục Tức Phật.
(Kinh)
Phục thứ, đương tri nhược tu học thế
gian hữu tướng Thiền giả, hữu tam chủng.
Hà đẳng vi tam? Nhất giả, vô phương tiện
tín giải lực cố, tham thọ chư Thiền tam-muội
công đức, nhi sanh kiêu mạn, vị Thiền sở
phược, thoái cầu thế gian. Nhị giả, vô
phương tiện tín giải lực cố, y Thiền
phát khởi thiên yếm ly hạnh, bố khiếp sanh tử,
thoái đọa Nhị Thừa. Tam giả, hữu
phương tiện tín giải lực. Sở vị y chỉ
Nhất Thật cảnh giới, tập cận Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na
nhị chủng quán đạo cố, năng tín giải nhất
thiết pháp duy tâm tưởng sanh, như mộng, như
huyễn đẳng. Tuy hoạch thế gian chư Thiền
công đức, nhi bất kiên trước, bất phục
thoái cầu tam hữu chi quả. Hựu tín tri sanh tử tức
Niết Bàn cố, diệc bất bố khiếp, thoái cầu
Nhị Thừa.
(經)復次。當知。若修學世間有相禪者。有三種。何等為三。一者無方便信解力故。貪受諸禪三昧功德。而生憍慢。為禪所縛。退求世間。二者無方便信解力故。依禪發起偏厭離行。怖怯生死。退墮二乘。三者有方便信解力。所謂依止一實境界。習近奢摩他毗婆舍那二種觀道故。能信解一切法唯心想生。如夢如幻等。雖獲世間諸禪功德而不堅著。不復退求三有之果。又信知生死即涅槃故。亦不怖怯。退求二乘。
(Kinh:
Lại nữa, hăy nên biết: Nếu tu học thế gian
hữu tướng Thiền th́ có ba loại. Những ǵ là
ba? Một là do chẳng có sức phương tiện tín giải,
tham hưởng công đức của các Thiền tam-muội,
bèn sanh kiêu mạn, bị Thiền trói buộc mà lui sụt,
trở thành mong cầu thế gian. Hai là do chẳng có sức
phương tiện tín giải, nương theo Thiền mà
phát khởi hạnh thiên về chán ĺa, khiếp sợ sanh tử,
thoái đọa thành Nhị Thừa. Ba là có sức tín giải
phương tiện, tức là y chỉ cảnh giới Nhất
Thật, tu tập, thân cận hai thứ quán
đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bà-xá-na, có thể tin hiểu hết
thảy các pháp chỉ do tâm tưởng sanh, như mộng,
như huyễn v.v… Tuy đạt được công đức
từ các môn Thiền thế gian, nhưng chẳng khăng
khăng chấp trước, chẳng c̣n lui sụt, cầu
quả trong ba cơi. Lại do tin biết sanh tử chính là Niết
Bàn, nên cũng chẳng khiếp sợ, thoái đọa cầu
Nhị Thừa).
Lại nữa, hăy nên biết, chúng ta càng phải
nên liễu
giải sâu hơn bước nữa. Hăy nên biết điều
ǵ? Tu học hữu tướng Thiền của thế
gian, từ khởi đầu, [tức
là] khởi đầu tu Thiền Định. Địa
Tạng Bồ Tát lại dạy chúng ta: Tu tập Thiền
Định hữu tướng của thế gian là như
thế nào? Tu tập Thiền Định xuất thế
gian là như thế nào? Tu hành Thiền Định rốt
ráo thành Phật là như thế nào? Trước hết, nói
về tu Định thế gian. Thiền là “tĩnh lự, tư duy”. Nói
đơn giản th́ là Định. Trong Định có Huệ.
Thế gian Thiền đại lược chia thành ba loại:
1) Một loại là
phương tiện tín giải lực, tức là thế
gian Thiền cũng được gọi là tam-muội, từ
ngữ này có nghĩa là Định. Thế gian
Định là do [đạt được] công đức
của tam-muội, người ấy (người tu Thiền
Định thế gian) bèn sanh ḷng kiêu mạn. Vừa mới
đạt được thanh tịnh đôi chút, bèn nẩy
sanh ḷng kiêu mạn. Nhưng do chẳng có sức
phương tiện tín giải, cho nên mới sanh ḷng kiêu ngạo.
Nếu có sứcphương tiện
tín giải, kẻ đó sẽ
chẳng nẩy sanh kiêu ngạo. Hễ kiêu ngạo, không chỉ
chẳng tu thành Thiền Định, mà c̣n bị Thiền
Định trói buộc. Bị Thiền Định trói buộc,
sẽ chẳng thể giải thoát
được, biến thành Thiền Định thế
gian. Đó là vừa mới tĩnh lặng, vừa mới
thanh tịnh, chẳng phải là Định thật sự.
Thiền Định thế gian có thể chia ra khá nhiều
loại, [thường gọi chung là] Tứ Thiền Bát
Định, Cửu Thứ Đệ Định. Chúng tôi
không nói chi tiết v́ quá dài. Đó là Thiền Định thế
gian.
2) Hai là chẳng có sức phương tiện tín giải.
Từ Sơ Thiền, phát khởi hạnh thiên về chán
ĺa, khiếp sợ sanh tử, thoái
đọa thành Nhị Thừa. Đây là nương theo Thiền
mà sanh khởi cái tâm chán ĺa. Từ cái tâm chán ĺa, dấy lên
hành vi thuộc pháp môn chán ĺa. Loại hành vi ấy chẳng
có sức tín giải, chẳng phải là tin sâu không nghi, chẳng sanh ra sức mạnh tín giải, chỉ
nương vào Thiền Định mà sanh khởi định
lực. V́ hành vi chán ĺa thế gian mà sanh ra, v́ sợ hăi sanh
tử, khiếp sợ sanh tử, chẳng dám cầu Đại
Thừa, [chấp nhận] “vĩnh viễn ĺa sanh tử là
được rồi”. Do vậy, vốn mong tu Đại
Thừa Định, nhưng thoái đọa vào địa
vị Nhị Thừa, [cho rằng] đạt được
liễu sanh tử là xong, chưa phát Bồ Đề tâm.
Nhưng đấy chẳng phải là vĩnh viễn ĺa.
Chẳng thành Phật, tuyệt đối không thể
vĩnh viễn rời ĺa! Tuy đă giải quyết Phần
Đoạn Sanh Tử, nhưng Biến Dịch Sanh Tử vẫn tồn
tại; hàng Nhị Thừa chẳng thể lư giải chuyện
này. Ắt cần phải phát tâm Đại Thừa, đoạn
hai loại sanh tử. Không chỉ đoạn Phần
Đoạn Sanh Tử, mà c̣n phải đoạn Biến Dịch
Sanh Tử. Đó là ư nghĩa do Tiểu mà mê lầm Đại
vậy!
Lại
nữa, giả sử có thể nương theo cảnh giới
Nhất Thật, cảnh giới Nhất Thật đă nói
trong phần trước, thoạt đầu phát tâm như
thế là nương theo cảnh giới Nhất Thật,
môn Thiền Định để tu tập là “Chỉ Quán song vận”. Khi tu Chỉ,
nhất định có sức mạnh trí huệ, có quán lực.
Do có quán lực, biết hết thảy các pháp đều
sanh từ tâm tưởng, chẳng có hết thảy các
pháp. Tâm sanh th́ các pháp sanh, đều là do tưởng mà sanh
khởi. Do tưởng mà sanh khởi th́ chẳng thật sự
tồn tại cụ thể. Do vậy, kinh Kim Cang nói: “Hết
thảy các pháp đều như mộng, như huyễn,
như bọt nước, như ảnh”, v́ Thể của
chúng chẳng thật, chẳng có! Chẳng có một thật
thể chân thật, là hư giả, huyễn hóa. Loại
Thiền Định này chỉ đạt được sự
hưởng thụ nhỏ nhặt trong thế gian, tức
là đă định, chẳng phiền loạn, hoặc giảm
bớt phiền loạn thế gian mà thôi, chẳng thể
liễu sanh tử, mà cũng chẳng thể chứng đắc
Niết Bàn.
(Kinh)
Như thị tu học nhất thiết chư Thiền
tam-muội pháp giả, đương tri hữu thập chủng
thứ đệ tướng môn, cụ túc nhiếp thủ
Thiền Định chi nghiệp, năng linh học giả
thành tựu tương ứng, bất thác, bất mậu.
Hà đẳng vi thập?
(經)如是修學一切諸禪三昧法者。當知有十種次第相門。具足攝取禪定之業。能令學者成就相應。不錯不謬。何等為十。
(Kinh:
Tu học hết thảy các pháp Thiền tam-muội như
thế, hăy nên biết có mười loại tướng
môn theo thứ tự, gồm thâu trọn vẹn các nghiệp
Thiền Định, có thể khiến cho người học
thành tựu tương ứng, chẳng sai, chẳng lầm.
Những ǵ là mười?)
Lại
nữa, Địa Tạng Vương Bồ Tát dạy
chúng ta, Thiền Định loại này có mười thứ tướng. Mười thứ tướng ấy
đều do Thiền Định dấy lên tác dụng, Thiền
Định dấy lên nghiệp dụng. Chúng sanh tu Thiền
Định thế gian tương ứng với nguyện
vọng của họ, Định lực do họ tu phù hợp
với tướng thế gian, chẳng đạt
được [lợi ích] xuất thế gian, chẳng thể
liễu sanh tử được. Thiền Định liễu
sanh tử cũng phải đoạn Kiến Hoặc và
Tư Hoặc, Thiền Định thế gian chẳng thể
đoạn Hoặc. Do vậy, Địa Tạng Bồ
Tát nói chúng sanh muốn tu học hết thảy các pháp Thiền
tam-muội, phải nên biết có mười loại tướng
môn theo thứ tự. Tu Định có thế gian Định
và xuất thế gian Định, có môn tam-muội Định
đốn siêu trực nhập, hoặc tu tập vô tướng
Thiền Định. Thiền Định thế gian là Thiền
Định hữu tướng, nhưng trong loại Thiền
Định này có mười loại tướng môn, thành tựu
sự nghiệp Thiền Định, thành tựu tác dụng
Thiền Định.
Tu
học hết thảy các pháp Thiền tam-muội như thế,
Địa Tạng Vương Bồ Tát nói nếu tu học
hết thảy Thiền Định, tu tập pháp Thiền
Định, hăy nên biết, hăy nên hiểu, biết là có thứ
tự phải nên hiểu rơ. Có bao nhiêu loại theo thứ tự?
Mười loại. Mười loại ấy đều
nhiếp thọ nghiệp dụng tu hành của Thiền
Định. Quư vị nương theo loại nào tu hành, sẽ
tương ứng với loại đó, chẳng sai chạy,
chẳng lầm loạn. Đấy là nói chung, phải ĺa
khỏi tướng thế gian để tu tập Thiền
Định vô tướng, hoặc là nương vào tướng
thế gian để tu tập Thiền Định hữu
tướng. Hữu tướng Thiền Định và vô
tướng Thiền Định đại khái được
chia thành mười loại tướng môn, tức là đối
với Chỉ trong “Chỉ Quán song vận”, có mười
tướng môn tu tập Chỉ. “Chỉ” là Thiền
Định, Thiền Định được nói
đơn giản là Chỉ. Nếu quư vị chẳng dựa
theo quy định của mười môn ấy để
tu hành, thế gian Thiền cũng chẳng thành được,
mà xuất thế gian Thiền càng chẳng thành được!
Mười loại môn ấy có hàm nghĩa là ǵ, dưới
đây sẽ giải thích danh tướng của mười
môn tu Thiền Định ấy.
Sơ
Thiền thế gian cũng chẳng dễ thành tựu.
Chúng ta thường khuyết thiếu Định lực,
làm chuyện ǵ tâm cũng chẳng thể quyết định
được. Do quư vị chẳng định được,
sẽ phán đoán sai lầm: Điều này là đúng hay sai? Làm thế nào mới là đúng, mới có thể thành tựu?
V́ quư vị chẳng định, huệ tâm, tức cái tâm
trí huệ chẳng thể nẩy sanh nổi. Huệ là phân
biệt liễu giải. Quư vị lấy hay bỏ, chẳng
thể quyết định được, v́ chẳng có
định lực. Giống như chúng ta làm một chuyện,
chuyện ấy có làm được hay không? C̣n có người
t́m tới quư vị tính hợp tác buôn bán, quư vị muốn
làm, cũng muốn kiếm tiền, lại sợ bị lỗ
lă, làm như thế nào đây? Chẳng quyết định
được! Vậy th́ quư vị hăy tu đi. Tu như thế
nào? Tu tĩnh lặng. Chẳng hạn như b́nh thường
chúng ta làm chuyện ǵ, có người nói với quư vị,
lúc đó, quư vị chẳng dám quyết định, “đợi
tôi suy nghĩ một lát đă!” “Đợi cho quư vị suy
nghĩ” chính là Định. Đă định sẽ sanh trí
huệ. Suy nghĩ chuyện ấy từ đầu tới
cuối một phen [để quư vị quyết định]
nên làm hay chẳng nên làm. Có thể làm chiếm mấy phần,
không thể làm chiếm mấy phần? [Suy xét thấy
khả năng] có thể làm chiếm sáu phần th́ quư
vị có thể làm. Không thể làm chiếm sáu phần, vậy
th́ quyết định tuyệt đối chớ làm.
Đây là sức phán đoán của chính ḿnh, điều này
vẫn hợp lư. Trong khi chúng ta tu hành, chỉ dựa vào trí
huệ của quư vị để quan sát. Khi quan sát, sẽ
có phương tiện thiện xảo. Trước khi tu tập,
sẽ có hai mươi lăm loại phương tiện,
chúng tôi chẳng giải thích từng điều một.
Đại khái, chỉ giải thích vài trường hợp,
mọi người có thể tự tra cứu. Nói chung th́
có mười loại [tướng môn].
(Kinh)
Nhất giả, nhiếp niệm phương tiện
tướng.
(經)一者摄念方便相。
(Kinh:
Một là tướng phương tiện nhiếp niệm).
Tu
tập Thiền Định th́ quư vị phải khéo thâu nhiếp
ư niệm. Vọng tưởng tơi bời th́ có thể
tu Thiền Định hay không? “Nhiếp niệm” th́ chẳng dễ ǵ có thể ngay lập tức thâu
nhiếp ư niệm. Tưởng Đông, nghĩ Tây, hăy thống
nhất ư niệm lại. Thống nhất bằng cách nào?
Chẳng đơn giản như vậy! Trừ sạch cảnh
giới ngũ dục “tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê”. Quư vị có “tài, sắc, danh vọng, ăn uống,
ngủ nghê” th́ c̣n có thể tu hành hay không? Quở trách
ngũ dục, bỏ Ngũ Cái. “Tài, sắc, danh vọng,
ăn uống, ngủ nghê là năm cội
rễ của địa ngục”, hăy quở
trách, vứt bỏ chúng. Điều phục năm sự,
hành năm pháp. Đó là pháp môn Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật, tu Chỉ
đơn giản.
(Kinh)
Nhị giả, dục trụ cảnh giới tướng.
(經)二者欲住境界相。
(Kinh:
Hai là tướng muốn trụ trong cảnh giới).
Thế
nào là “dục trụ cảnh giới tướng”?
Trong là quán cái tâm của quư vị, cái tâm ấy bất động.
Tâm nhất định duyên theo cảnh giới bên ngoài. Tâm
nào ắt cũng duyên theo cảnh, ngưng lặng hết
thảy cảnh giới, chỉ quán nhất tâm. Nói
đơn giản, quư vị khiến cho tất cả suy
nghĩ trong tâm đều chẳng suy tưởng nữa,
tĩnh lặng nó. Tâm chẳng nắm níu (phan duyên), ngoại
cảnh ǵ cũng đều chẳng nắm níu, thậm
chí ngay cả niệm Phật cũng chẳng niệm. Quư vị
tĩnh, mong tu Định, niệm Phật chẳng định
được. Quư vị chẳng niệm, nhiếp
tĩnh, tu định, chẳng có chút tạp niệm nào.
Đó gọi là “trực tâm chánh niệm Chân Như”. “Chân” là
chân thật, chẳng dối. “Như” là như như
bất động, khôi phục cái tâm vốn sẵn có của quư vị. Hễ có một
niệm, sẽ đều là hư vọng. Cái tâm tĩnh lặng,
ngưng dứt như thế. Mỗi tâm đều có tâm sở,
tâm sở sẽ duyên theo tướng cảnh giới, hăy
đều ngưng dứt chúng. Phương tiện để
nhiếp niệm là như thế đó. Mong trụ trong
tướng cảnh giới, khiến cho tướng cảnh
giới đều tiêu mất. Khi [cái tâm] muốn trụ trong
tướng cảnh giới, hăy khiến cho nó chẳng trụ
trong tướng cảnh giới. Khi chúng ta tu Quán, có rất
nhiều phương tiện. Tu Sổ Tức Quán đếm
số, đếm số sẽ tĩnh lặng, đấy
là phương tiện. Đó là dạy chúng ta trực tâm
chánh niệm Chân Như. Quán pháp Chân Như là chân thật, chẳng
giả, như như bất động, ngưng lặng
các pháp sở duyên.
(Kinh)
Tam giả, sơ trụ cảnh giới phân minh liễu liễu,
tri xuất, tri nhập tướng.
(經)三者初住境界分明了了知出知入相。
(Kinh:
Ba là hiểu rành rẽ phân minh cảnh giới vừa mới
trụ tâm, biết tướng xuất, biết tướng
nhập).
Quán
hơi thở, c̣n gọi là Sổ Tức Quán. Quư vị thở
ra, hít vào, một hơi thở ra, một hơi hít vào; thoạt đầu là nhận biết rành rẽ, phân minh, định
tâm nơi hơi thở ra vào. Đó là phương pháp để
tu tập Định, là phương pháp sơ bộ để
tu tập Định. Đấy chẳng phải là cảnh
giới Đại Thừa, mà là phương tiện thiện
xảo, tức là phương tiện thiện xảo để
tu tập Định. Do sự thiện xảo
ấy, cái tâm quư vị có thể an trụ, có thể khiến
cho cái tâm an trụ. Đó gọi là quán hơi thở, là một
phương pháp tu Định thông thường. Quư vị
chú tâm nơi “xuất nhập tức”, tức là
hơi thở ra vào, quán sát nó, sẽ định, các tạp
niệm khác đều chẳng c̣n nữa. Chỉ có quán
hơi thở ra vào, cái tâm trụ nơi hơi thở ra
vào. Sau khi cái tâm đă định, lại tu Chân Như Thật
Tướng Quán. Chân Như Thật Tướng Quán là
bước đầu để tu Chân Không Tuyệt Tướng
Quán. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói tới Chân Không Tuyệt Tướng
Quán, hết thảy các pháp đều là Không. Cái Không ấy
là Giả Không, Quán là Chân Không tuyệt tướng. Đó là
môn Quán thứ nhất trong Hoa Nghiêm Tam Quán, tức Chân Không Tuyệt
Tướng Quán. Chân Không là chẳng có hết thảy các
tướng. Đem cái tâm trụ vào đâu? Các pháp đều
là Không, trụ nơi Không. Trong quá tŕnh tu hành, tâm quư vị
có thể an trụ nơi Không, dần dần sẽ định.
Chẳng phải là thoạt đầu chúng ta có thể ngay
lập tức trụ tâm nơi Không, quư vị phải rèn
luyện trước nơi hơi thở ra vào, phải hiểu
rơ ràng. Nhưng khi quư vị bắt đầu thực hiện,
niệm nào cũng là niệm sai, niệm nào cũng là thất
niệm, lại phải kéo cái tâm trở lại. Nhất
định phải quán rơ ràng hơi thở ra, hít vào, đợi
cho tới khi đối với bất cứ
niệm nào, hơi thở
ra vào cũng đều chẳng c̣n nữa, sẽ định.
Phương pháp là như thế mà thôi!
(Kinh)
Tứ giả, thiện trụ cảnh giới đắc
kiên cố tướng.
(經)四者善住境界得堅固相。
(Kinh: Bốn là tướng
khéo trụ trong cảnh giới, đạt được
kiên cố).
Tu
quán hơi thở ra vào, khiến cho hết thảy các tâm vọng
tưởng đều chẳng c̣n. Đó là trụ trong
quán hơi thở ra vào.
(Kinh)
Ngũ giả, sở tác tư duy phương tiện
dũng mănh chuyển cầu tấn thú tướng.
(經)五者所作思惟方便勇猛轉求進趣相。
(Kinh:
Năm là tướng tạo các phương tiện tư
duy dũng mănh, cầu tiến nhập cao hơn).
Lại
tu Chân Như Thật Tướng Quán. Hơi thở ra vào chẳng
có, rỗng không. Sau đó, tiến nhập Chân Như Thật
Tướng Quán rồi Chân Không Tuyệt Tướng Quán.
Trong kinh Hoa Nghiêm, tu Chân Không Tuyệt Tướng Quán tức
là hết thảy các pháp chẳng lập, chẳng có. Trong
tâm ư niệm ǵ khác cũng đều chẳng dấy lên, chẳng
tư duy. Nhưng quư vị chẳng thể tiến nhập,
phải tu phương tiện. Tu cách tiến nhập ấy
như thế nào? Tu pháp “an Bát Nhă”.
(Kinh)
Lục giả, tiệm đắc điều thuận xứng
tâm hỷ lạc, trừ nghi hoặc, tín giải tự an ủy
tướng.
(經)六者漸得調順稱心喜樂除疑惑信解自安慰相。
(Kinh:
Sáu là tướng dần dần được điều
thuận, vừa ḷng, vui mừng, trừ
nghi hoặc, tin hiểu, tự an ủi).
“An
Bát Nhă pháp” là phương tiện thiện xảo quán hơi
thở ra vào. Từ phương tiện này mà xúc tiến tới tuyệt tướng (dứt bặt các
tướng). Đă vận dụng xong phương tiện thiện
xảo ấy, chẳng cần tới phương tiện
ấy nữa, trong tâm đă điều thuận. Trên
đây là phương tiện thiện xảo. Tướng
hỷ lạc vừa ḷng, trừ nghi hoặc, tín giải, tự
an ủi, đó là tu Thể Chân Chỉ Quán. Thể Chân Chỉ
[trong Thể Chân Chỉ Quán] tương ứng với
Định: Cái tâm của quư vị thật sự định,
phát sanh sự tịnh minh (sáng suốt thanh tịnh), quư vị
cảm thấy cái tâm của chính ḿnh rất thanh tịnh. Hễ
thanh tịnh bèn phát sanh một loại trí huệ, trí huệ
là Minh, tức chiếu soi. Khi đó, quư vị nhận biết, chiếu
tỏ cái tâm của chính ḿnh, chẳng sanh một
niệm, vạn pháp đều là Không. Cảnh giới ấy
chẳng phải là một hai tháng bèn có thể tu được.
Văn tự chỉ nói đơn giản như thế
đó, khi quư vị tu tập rất khó. Trước hết,
phải chế ngự cái tâm nhất xứ, chiếu hết
thảy mọi nơi, đó gọi là “giác minh”.
“Giác minh” tức là đối với tín giải, nghi hoặc
nào cũng đều chẳng có, đều diệt trừ,
đó là tướng trong sáng. Nhưng khi đạt
được tướng ấy th́ gọi là “định
pháp”. Định pháp ấy có thể nhiếp tŕ cái tâm của
quư vị; tâm chẳng có một tí tán loạn nào, chế ngự
tâm vào một chỗ. Quư vị chế ngự cái tâm vào một
chỗ, đạt tới cảnh giới ấy, khi
đó, quư vị sẽ mở mang trí huệ. Chuyện nào chẳng
hiểu rơ, chẳng lư giải, sẽ ngay lập tức hiểu
rơ. Hiểu rơ tức là trí huệ mở mang, sáng tỏ. Nếu
đối với những nghĩa lư và văn tự thâm áo
trong kinh điển mà chẳng thể tiến nhập ngay
khi ấy, hăy lắng ḷng, buông xuống hết thảy,
tĩnh đến mức thật sự phát sanh sáng suốt,
bèn quay lại soi xét vấn đề. Quư vị sẽ lập
tức có thể hay biết, sẽ hiểu phải lư giải
vấn đề như thế nào. Khi đó gọi là “an
Bát Nhă”. Đó là lợi ích do tu Định.
(Kinh)
Thất giả, khắc hoạch thắng tấn ư sở
chuyên giả, thiểu phần tương ứng giác tri lợi
ích tướng.
(經)七者克獲勝進意所專者少分相應覺知利益相。
(Kinh:
Bảy là tướng có thể đạt được
ư thắng tấn do chuyên chú, có chút phần tương ứng
với lợi ích do hay biết).
Thoạt
khởi đầu, quư vị ắt phải biết rơ ràng từng hơi
thở ra, hít vào; đó là Quán. Cho đến khi hô hấp
đă ngừng, v́ c̣n hô hấp th́ chưa đạt đến
Định. Cho đến khi hô hấp đă ngưng dứt,
đă đạt đến đôi chút Định nhất
định, quư vị bèn hiểu rơ. Đấy vẫn là
tướng thế gian, chưa phải là xuất thế
định. Đă định rồi bèn không, đă Không bèn
sanh ra sự minh tịnh. “Minh tịnh” là cái tâm của chính ḿnh thanh tịnh, hết sức
vui mừng, hết sức sung sướng. Khi đó, sanh ra
các tâm sở toàn là thiện tâm sở, sanh ra trí huệ.
Đó gọi là tri kiến sáng suốt. Trong tâm chẳng có
chút vướng mắc nào, hết sức vui sướng,
đó gọi là giải thoát. Khi ấy, hết thảy các
tướng cảnh giới trong tâm, thứ ǵ cũng đều
chẳng có. Trong tâm điều ḥa, nhu nhuyễn, tịch
tĩnh hiện tiền. Điều này
được gọi là “có chút phần
tương ứng với Định”. Đối với
tướng cảnh giới ấy, dần dần tấn
tu cao hơn th́ mới có thể khởi Quán.
Tôi
vừa mới nói kinh Hoa Nghiêm giảng về Chân Không Tuyệt
Tướng, tướng ǵ cũng đều chẳng có.
Chân Không bất không, Bất Không là ǵ? Thể. Thể là ǵ?
Chân Như, tức là tướng của pháp giới. Thiền
tu trong kinh Hoa Nghiêm thoạt đầu là tưởng
như thế đó, nhưng đó là thế gian. Đă thành
tựu rồi th́ mới có thể đạt tới xuất
thế gian. Từ đó, có thể tiến
nhập hết thảy các pháp Không. Điều này thuộc
về Nhân Không. Đă Nhân Không rồi th́ mới có thể tiến
nhập Pháp Không. Vừa mới tiến nhập Pháp Không, lại
tiếp tục tấn tu, tiếp tục tấn tu cao
hơn; đó là Không nghĩa xuất thế gian. Đạt
được sự thắng tấn do ư chuyên chú, tức
là sự hay biết có chút phần tương ứng với
tướng lợi ích. Mấy câu ấy vừa mới giải
thích điều này.
(Kinh)
Bát giả chuyển tu tăng minh sở tập kiên cố,
đắc thắng công đức, đối trị
thành tựu tướng.
(經)八者轉修增明所習堅固得勝功德對治成就相。
(Kinh:
Tám là tướng tu hành tăng thêm sáng suốt, tu tập
kiên cố, đạt được công đức thù thắng,
đối trị thành tựu).
Lại
tiến nhập, càng thêm tấn tu định lực ấy,
tăng thêm trí huệ của quư vị. Định có thể
sanh ra huệ, huệ có thể chiếu. Khi ấy, sẽ
đạt được công đức. Tướng tu tập
kiên cố, đạt được công đức thù thắng,
có thể đối trị thành tựu. Tướng đối
trị thành tựu là chẳng tham đắm, nhưng vẫn
ở trong tam giới. Đấy là cảnh giới Sơ
Thiền, vẫn chưa phải là Thiền Định xuất
thế gian.
(Kinh)
Cửu giả, tùy tâm hữu sở niệm tác ngoại hiện
công nghiệp như ư tương ứng bất thác, bất
mậu tướng.
(經)九者隨心有所念作外現功業如意相應不錯不謬相。
(Kinh:
Chín là tướng tùy thuộc cái tâm có ư niệm [muốn
làm ǵ], sẽ thực hiện thành các nghiệp công đức
bên ngoài, đều tương ứng như ư, chẳng sai, chẳng lầm).
Do định lực
của quư vị tăng trưởng, trí huệ nơi tâm
bèn tăng trưởng. Đối với định lực
mà quư vị đă tu tập
bèn có thể kiên cố. Bất cứ lúc nào, hễ tĩnh
tọa bèn có thể sanh ra Định lực. Định
th́ có sự chiếu soi sáng suốt. Khi ấy, sẽ sanh khởi
công đức thù thắng có thể đối trị phiền
năo. Đối trị phiền năo chẳng phải là đoạn,
chỉ là đối trị,
tức hàng phục nó. Khi ấy, tất cả những tác
ư trong tâm quư vị đều có thể sanh ra công đức lợi ích. Khi
tác ư (sanh khởi ư niệm), chẳng có ác niệm,
mà cũng chẳng có hết thảy các tướng cảnh
giới, ngay cả thiện cũng chẳng sanh. Thiện
và ác hai đường đều tĩnh lặng,
tương ứng với tư tưởng, ư niệm, và
cái tâm của quư vị đều chẳng sai, chẳng lầm.
Nói theo giáo nghĩa, điều này được gọi là
Cửu Thứ Đệ Định, v́ quư vị từ thế
gian định mới tiến nhập xuất thế gian
định. Xuất thế gian định sâu lắm.
(Kinh)
Thập giả, nhược cánh dị tu, y tiền sở
đắc nhi khởi phương tiện, thứ đệ
thành tựu xuất nhập tùy tâm, siêu việt tự tại
tướng.
(經)十者若更異修依前所得而起方便。次第成就出入隨心超越自在相。
(Kinh:
Mười là tướng nếu lại tu thêm các pháp khác,
nương theo các điều đă đạt được
trước đó để khởi phương tiện,
theo thứ tự thành tựu xuất nhập tùy tâm, siêu việt
tự tại).
Bởi
vậy, nếu muốn tu thêm các pháp khác, hăy nương theo
sức mạnh đă đạt được trước
đó, tức sức mạnh của Định, lại
sanh khởi phương tiện, theo thứ tự thành tựu
tướng xuất nhập tùy tâm, siêu việt tự tại.
Loại cảnh giới này vẫn thuộc vào Tịch
Định của nhân gian, thuộc về Tứ Thiền
Tứ Vô Sắc Định. Dùng quan niệm này để
huân tập hết thảy công phu Thiền Định và
định lực trong nhân gian. Nói theo giáo nghĩa, đó
chính là sức phương tiện của Thiền Định
do Sơ Thiền sanh khởi. Lại tấn tu cao hơn
như thế, theo thứ tự thành tựu; khi đó, cái
tâm xuất nhập dấy lên ư niệm, hay ngưng dứt
ư niệm, tức là khởi tâm động niệm. Lúc ấy,
đối với Hữu và Vô, tức là đối với
có và chẳng có, không và bất không, sẽ chẳng có ư niệm
phân biệt. Tâm niệm chẳng có sự phân biệt ấy.
Khi đó mới có thể tiến hơn bước nữa
là quán sát cái tâm, hết thảy hơi thở ra vào, khởi niệm,
dứt niệm, đều nương theo cái tâm mà tự tại.
Loại tướng thứ mười chính là “thứ
đệ tướng” (tướng theo thứ tự).
(Kinh)
Thị danh thập chủng thứ đệ tướng
môn, nhiếp tu Thiền Định chi nghiệp.
(經)是名十種次第相門。攝修禪定之業。
(Kinh:
Đó gọi là mười thứ tướng môn theo thứ
tự, gồm thâu sự tu tập các nghiệp Thiền
Định).
[Nói tới chuyện] tu nghiệp Thiền
Định này và tác dụng của tu Thiền Định,
dù nói theo Duy Tâm Quán, hoặc tu Chân Như Thật Tướng
Quán, hoặc Thiền Định theo tướng thế
gian, hay xuất thế gian Thiền Định, đều
là từng bước một, từ thế gian Định
đạt tới xuất thế gian Định. Đó là
nói theo thứ tự, chẳng phải là Đốn Siêu. Thiền
Tông chẳng nói theo thứ tự: Đốn siêu trực nhập,
quán thẳng vào tâm tánh, quán duy tâm sở hiện, vạn pháp
duy tâm, tâm tịnh th́ hết thảy các tướng cảnh
giới hoàn toàn diệt mất. “Cảnh diệt, tâm tịnh”, loại Thiền
Định ấy là đại định, đó là xuất
thế gian Thiền Định. Nhưng Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát
như thế này: Phàm phu thoạt đầu khởi sự
tu Thiền Định, từ Sơ Thiền Thiên cho đến
Nhị Thiền Thiên, Tam Thiền Thiên, Tứ Thiền Thiên,
đó là gần gũi, nông cạn. Khi Địa Tạng
Vương nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, trong loại
Thiền Định nông cạn đă hàm nhiếp Thiền
Định rất sâu. Mọi người có hiểu ư
nghĩa này hay không? Điều bất đồng
với những cách tu Thiền Định
nhân gian là ǵ vậy? Môn Thiền Định ấy chẳng
rốt ráo, là môn Thiền Định phương tiện
thiện xảo. V́ thế, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát bèn nẩy
sanh nghi vấn.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát vấn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: “Nhữ vân hà xảo
thuyết thâm pháp, năng linh chúng sanh đắc ly khiếp
nhược?”
(經)爾時堅淨信菩薩摩訶薩問地藏菩薩摩訶薩言。汝云何巧說深法。能令衆生得離怯弱。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát hỏi
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: “V́ sao Ngài khéo nói pháp sâu khiến
cho chúng sanh ĺa khỏi khiếp sợ?”)
Kiên
Tịnh Tín Bồ Tát liền thưa cùng Địa Tạng
Bồ Tát: Ngài nói pháp này chẳng phải là pháp sâu, phải
nên nói pháp rất sâu. Câu “nhữ vân hà xảo thuyết
thâm pháp, năng linh chúng sanh ly khiếp nhược?” Ư nói:
Loại thế gian Thiền Định này chẳng phải
là pháp sâu, vẫn mong Địa Tạng Bồ Tát sẽ
khéo léo nói thêm phương tiện thiện xảo, ḥng khiến cho chúng sanh ĺa khỏi ư tưởng khiếp
nhược. “Khiếp” (怯) là chẳng dám tu, Khiếp đă hàm chứa ư nghĩa Nhược (弱, yếu hèn), chẳng
có sức mạnh. Loại chúng sanh này là chúng sanh độn
căn mong tu Đại Thừa. Tam Quán “Không, Giả,
Trung” là từ tứ giáo [trong tông Thiên Thai] định ra, c̣n
kinh Hoa Nghiêm là Chân Không Tuyệt Tướng Quán, Lư Sự Vô
Ngại Quán, và Châu Biến Hàm Dung Quán. Các loại Quán ấy
chính là Định, Định chính là Quán. Đoạn kinh
văn này mang ư nghĩa: Phải có phương tiện thiện
xảo như thế nào để khiến cho họ có thể
tu quán hạnh Đại Thừa, có thể dấy lên sự
giác ngộ rất sâu. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát nói: Từ
trước đến đây, Ngài toàn nói về Thiền
Định thế gian, đó là pháp chẳng liễu
sanh tử. Mong liễu sanh tử, chứng Niết Bàn, công
phu Thiền Định phương tiện thiện xảo
Đại Thừa, Thiền Định thuộc cảnh
giới Nhất Thật và trí huệ th́ chẳng phải là
như vậy. Chẳng phải là Bồ Tát luôn lo nghĩ chúng sanh ngu độn, chẳng thể đốn nhập
cảnh giới Nhất Thật, mà cũng chẳng thể
lư giải, các phép Quán ấy chẳng phải là quán hạnh
thuộc cảnh giới Nhất Thật ư? V́ thế,
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh Địa Tạng Bồ
Tát hăy nói Chân Như Thật Tướng Quán, Lư Sự Vô Ngại
Quán, và Châu Biến Hàm Dung Quán thuộc cảnh giới Nhất
Thừa. V́ chẳng thể tin cảnh giới Nhất Thật
th́ mới phải cậy vào phương tiện thiện
xảo. Kiên Tịnh Tín Bồ Tát lại thỉnh Địa
Tạng Vương Bồ Tát nói pháp rất sâu, đừng
lo ngại chúng sanh khiếp nhược. “Khiếp nhược”
có nghĩa là chẳng thể tiến nhập pháp Đại
Thừa do căn tánh kém hèn. Lời này có ư nghĩa khuyến
thỉnh, khuyến thỉnh Địa Tạng Bồ Tát
hăy nói thâm Định, nói về trí huệ sâu xa. Địa
Tạng Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo
lại nói với Kiên Tịnh Tín Bồ Tát.
Tập 15
(Kinh)
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ngôn: - Thiện nam tử!
Đương tri sơ học phát ư, cầu hướng
Đại Thừa, vị đắc tín tâm giả, ư vô
thượng đạo thậm thâm chi pháp, hỷ sanh nghi
khiếp, ngă đương dĩ xảo tiện tuyên hiển
Thật Nghĩa, nhi an ủy chi, linh ly khiếp nhược.
Thị cố, hiệu ngă vi Thiện An Ủy Thuyết giả.
Vân hà an ủy? Sở vị độn căn tiểu tâm
chúng sanh, văn vô thượng đạo, tối thắng,
tối diệu, ư tuy tham nhạo, phát tâm nguyện hướng,
nhi phục tư niệm: “Cầu vô
thượng đạo giả, yếu tu tích công quảng
cực, nan hành khổ hạnh, tự độ, độ
tha, kiếp số trường viễn, ư sanh tử
trung, cửu thọ cần khổ, phương năi đắc
hoạch”. Dĩ thị chi cố, tâm sanh khiếp nhược.
(經)地藏菩薩摩訶薩言。善男子。當知初學發意。求向大乘未得信心者。於無上道甚深之法。喜生疑怯。我當以巧便宣顯實義而安慰之。令離怯弱。是故號我為善安慰說者。云何安慰。所謂鈍根小心眾生。聞無上道。最勝最妙。意雖貪樂發心愿向。而復思念。求無上道者。要須積功廣極。難行苦行。自度度他。劫數長遠。於生死中久受勤苦。方乃得獲。以是之故。心生怯弱。
(Kinh:
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: - Này thiện nam tử!
Hăy nên biết kẻ sơ học phát ư cầu hướng
tới Đại Thừa mà chưa đạt được
tín tâm, sẽ đối với pháp vô thượng đạo
rất sâu, ưa sanh ḷng nghi, khiếp hăi. Ta dùng
phương tiện thiện xảo để tuyên
dương, hiển thị thật nghĩa ḥng an ủi họ,
khiến cho họ ĺa khiếp nhược. V́ thế, họ
gọi ta là Đấng Khéo Nói An Ủi. An ủi
như thế nào? Tức là đối với chúng sanh độn
căn, cái tâm nhỏ hẹp,
nghe vô thượng đạo, thù thắng nhất, mầu
nhiệm nhất, ư tuy tham ưa, phát tâm nguyện hướng
về, nhưng lại suy nghĩ: “Để cầu vô
thượng đạo th́ phải tích công lũy đức
rộng lớn cùng cực, hành khổ hạnh khó làm, tự
độ, độ người khác trong kiếp số
dài lâu, chịu đựng siêng khổ dài lâu trong sanh tử
th́ mới đạt được”. Do bởi lẽ ấy,
tâm họ sanh khiếp nhược).
Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói: Thiện nam tử! Hăy nên biết
kẻ sơ học phát ư, cầu hướng tới Đại
Thừa, chưa đạt được tín tâm, đối
với vô thượng đạo quá sâu, sẽ thích sanh ḷng
nghi ngờ, khiếp sợ. Ta sẽ dùng phương tiện
thiện xảo để tuyên nói thật nghĩa. Tuyên nói
thật nghĩa ḥng an ủi, khiến họ ĺa khiếp
nhược. Do vậy, ta được gọi Thiện An Ủy Thuyết Giả (đấng khéo nói an ủi). Đoạn kinh
văn này ư nói: Phương tiện thiện xảo của
Địa Tạng Bồ Tát có thể khiến cho chúng sanh
chẳng có tín tâm sẽ sanh khởi tín tâm. Đó là nói về
các chúng sanh chẳng tin pháp nghĩa Đại Thừa. Các
chúng sanh b́nh phàm phát tâm thành Phật, đó là giáo nghĩa
Đại Thừa. Họ chẳng dám phát cái tâm ấy, cho
nên Địa Tạng Bồ Tát mới khuyên họ phát tâm
thành Phật, dạy họ mong cầu, hướng về
Đại Thừa. Đối với họ mà nói “liễu
sanh tử, đạt được phước báo trong
nhân gian”, các chúng sanh ấy dễ dàng
tiếp nhận. [Bảo
họ] “làm thiện sự, đắc thiện báo”, họ
dễ dàng tiếp nhận. [Nếu bảo họ] “quư vị
hăy tin Phật,
phát tâm thành Phật”, [mà họ tiếp nhận, làm theo], chúng
sanh loại này ít lắm! Có rất nhiều đạo hữu
sau khi đă tin Phật, tôi nghĩ họ chẳng phát tâm
thành Phật, gần giống như đoạn kinh văn
này đă nói. Chúng ta phát tâm liễu sanh tử
đă khá lắm rồi, mong cuộc sống trong hiện thời
sẽ được an ủi, có thể giảm bớt
các tai họa vô duyên vô cớ là đă măn nguyện lắm rồi. C̣n như nói “phát tâm xuất gia”, cho đến
“phát tâm tin Phật, ta v́ thành Phật mới phát tâm tin Phật”,
tôi nghe nói như vậy rất ít. Thật sự là như
thế! Chúng sanh thời Mạt Pháp, kẻ phát tâm vâng theo liễu
nghĩa Đại Thừa ít ỏi, phát tâm “ĺa khổ, được
vui”, cho đến phát tâm ĺa sanh tử cũng ít lắm!
Chứ kẻ phát tâm đạt được một ít
phước báo trong nhân gian, cầu được an ủi
trong đời hiện tại, loại này khá nhiều!
Trong
đoạn kinh văn này, Địa Tạng Bồ Tát bảo
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Giả sử có một loại
chúng sanh mong cầu hướng đến Đại Thừa,
nhưng tín tâm chẳng đủ, cho đến người
đă phát tâm cầu Đại Thừa sẽ dễ dàng lui
sụt. Đối với pháp nghĩa rất sâu này, họ hoài nghi. Họ thấy nói “hết thảy
chúng sanh đều có thể thành Phật”, đối với
lời dạy trong kinh th́ một là không tin, hai là tin nhưng hoài nghi. Đối
với loại chúng sanh ấy, Địa Tạng Bồ
Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Ta dùng phương tiện
thiện xảo để an ủi họ, khiến cho họ
phát Bồ Đề tâm”. Tôi nói trường hợp này
thông tục hơn một chút: Thoạt đầu tin Phật,
bèn phát tâm độ chúng sanh, đấy mới gọi là
tâm Đại Thừa. Đă tin Phật, chẳng v́ cầu
an lạc cho chính ḿnh, mà nguyện cho chúng sanh được
hạnh phúc. Đó gọi là tâm Đại Thừa. Đó là
pháp rất sâu. C̣n như đă phát tâm, tự ḿnh ngờ vực
chính ḿnh có thể làm được hay không? Tôi thường
nghe các đạo hữu nói: “Tôi ngay cả chính ḿnh c̣n chẳng
độ được, tôi c̣n độ người khác
ư?” Người nói kiểu ấy rất nhiều! Rất
nhiều đạo hữu đă từng nghe thấy. Nghe
thấy có người phát tâm Đại Thừa th́ như
thế nào mới được coi là đă phát tâm Đại
Thừa? Từ trước đến giờ, chẳng nói
tới chính ḿnh, toàn là nói làm thế nào để khiến
cho chúng sanh được nghe Phật pháp? Làm thế nào
để khiến cho chúng sanh ĺa khổ, được
vui? Các vị đạo hữu có thể nghe lẫn nhau
nói như vậy. Các đạo hữu
tin Phật chúng ta, chẳng v́ chính ḿnh, chỉ v́ người
khác. Do vậy, nói theo giáo nghĩa trong kinh Đại Thừa,
chẳng v́ cầu an lạc cho chính ḿnh, chỉ mong cho chúng
sanh được hạnh phúc. Đó gọi là ư nghĩa “phát
khởi rất sâu”. V́ sao chẳng thể phát cái tâm
như vậy? Do khiếp nhược. Tự ḿnh suy tưởng:
“Ta có thể liễu sanh tử đă là tuyệt diệu lắm
rồi!” Chỉ có cái tâm cầu xuất ly cho chính ḿnh. Gặp
hạng chúng sanh chẳng phát đại tâm ấy, Địa Tạng Bồ Tát khéo an ủi họ,
khuyên họ phát Bồ Đề tâm, khuyên hành Bồ Tát
đạo. Đó là chuyên nói với hạng chúng sanh chẳng
phát đại tâm.
“Khéo
an ủi” là ǵ? Có thể khuyên chúng sanh phát đại tâm
bằng cách nào? Trừ bỏ cái tâm nhỏ nhoi, khiếp
nhược, trừ bỏ cái tâm chỉ v́ chính ḿnh, an ủi
khiến cho họ phát tâm Đại Thừa. An ủi
như thế nào? Dùng ngôn ngữ để an ủi. Địa
Tạng Bồ Tát thốt ra lời lẽ an ủi. Đối
với chúng sanh có cái tâm nhỏ hẹp, tức là chúng sanh chẳng
phát Bồ Đề tâm, chỉ cầu chính ḿnh an lạc,
bèn nói pháp môn hành Bồ Tát đạo thành Phật có công đức
vi diệu thù thắng. Điều này có nghĩa là: Chẳng
phải chính ḿnh có thể đoạn tham, sân, si là
được rồi, mà c̣n phải khiến cho hết thảy
chúng sanh đều đoạn tham, sân, si. Khiến cho họ
phát tâm, không chỉ là cái tâm cầu xuất ly, mà c̣n là tâm tiến
hướng Đại Thừa, khuyên hết thảy chúng
sanh phát tâm thành Phật, phát nguyện “nguyện hướng
đến Phật thừa, chỉ nghĩ tưởng vô
thượng đạo”. “Vô thượng
đạo” là chuyên nói về Phật Thừa, đạt
đến thành Phật rốt ráo. Nhưng thành Phật
không chỉ đơn giản là một câu, phải rộng
độ hết thảy chúng sanh, viên măn và thành tựu công
đức lợi ích của quư vị và công đức của
chúng sanh. Chuyện này chẳng thể [hoàn thành] trong một
thời gian ngắn, mà là vô lượng ức kiếp, thời
gian tự độ và độ người khác có thể
rất dài. Nếu chỉ v́ chính ḿnh liễu sanh tử,
đoạn dứt phiền năo, cho đến đoạn dứt
Phần Đoạn Sanh Tử, nói theo đạo nghĩa,
nói theo thời gian tu hành th́ c̣n dễ dàng, chứ khiến
cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật [chẳng
dễ dàng đâu nhé]. Đó là cái nguyện của Địa
Tạng Bồ Tát, nguyện cho hết thảy chúng sanh
đều thành Phật. Đó chẳng phải chỉ là
nguyện suông mà thôi! Đă nguyện rồi bèn có hành, hành là
phát Bồ Đề tâm, khuyến hóa hết thảy chúng
sanh th́ là Hành.
Trong
biển khổ sanh tử, chúng ta thường đều
là liễu thoát chính ḿnh. Con người trong khổ nạn
luôn mong làm thế nào để chính ḿnh xuất ly, trọn
chẳng nghĩ đến làm cho chúng sanh đều xuất
ly. Quên bẵng sự thống khổ của chính ḿnh,
[chuyên nghĩ độ chúng sanh thoát khổ], đấy mới
là người phát đại tâm. Địa Tạng Bồ
Tát nói Ngài an ủi những kẻ chẳng phát đạo
tâm, [tức là] những kẻ độn căn. Cái tâm của họ rất nhỏ, phân định
lớn hay nhỏ như thế nào? Cái tâm nhỏ th́ sẽ
là v́ chính ḿnh trước đă, sau đấy mới nói tới chuyện độ người khác. Đại tâm
th́ độ người khác trước đă, chẳng
có chính ḿnh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều
có thể tiến nhập pháp vi diệu rất sâu trong Phật
đạo, phát nguyện tiến hướng thành Phật.
Đồng thời c̣n mong tích lũy hết thảy công
đức, phải hành khổ hạnh khó hành, chính ḿnh có thể làm được các chuyện mà kẻ b́nh phàm chẳng thể làm nổi. Thông thường,
người hành đạo Bồ Tát, cho đến xả
thân mạng để giúp đỡ người khác, chẳng
so đo chuyện được mất đối với
cá nhân ḿnh. Đó mới gọi là “hành Bồ Tát đạo”.
Độ người khác chính là độ chính ḿnh.
Tôi
thường nghĩ như thế này: Trước khi
chúng ta đốt củi, hoặc trong khi đốt củi,
lửa chưa bốc lên, phải dùng một cái que nhỏ
để khơi lửa. Cái que cời lửa ấy sẽ
chọc cho ngọn lửa bốc cao hơn. Củi có không
khí lùa vào th́ mới cháy được. Cái que cời lửa
ấy ví như hành Bồ Tát đạo, độ hết
sạch chúng sanh, nhưng chính ḿnh cũng bị đốt
cháy, có hàm nghĩa giống như thế. Dùng điều này
làm tỷ dụ, trong khi quư vị độ chúng sanh, khiến
cho chúng sanh đoạn phiền năo, phiền năo của chính
quư vị cũng bị đoạn dứt, có hàm nghĩa ấy.
Nhưng phải trải qua một thời gian rất dài,
chẳng phải là một, hai kiếp, mà là nói vô lượng
kiếp, hoặc [tối thiểu là] ba đại kiếp,
tức là nói tới thời gian cực dài!
Bồ
Tát chẳng sợ sanh tử. Quư vị độ chúng sanh, phải ở trong sanh
tử khổ nạn để độ chúng sanh, như
chúng ta phát tâm cầu sanh thế giới Cực Lạc, tới
thế giới Cực Lạc là để quư vị độ
người khác, hay người khác độ quư vị?
Trong thế giới Cực Lạc, quư vị độ ai?
Quư vị có sức mạnh ǵ để độ kẻ
khác hay chăng? Nhưng do cái tâm của chúng ta khiếp
nhược, bèn sanh về thế giới Cực Lạc
để thành đạo rồi mới trở lại Sa
Bà độ chúng sanh. Nếu sanh về thế giới Cực
Lạc th́ phát đại tâm như thế nào? Chúng ta cầu
sanh về thế giới Cực Lạc, giống như
chúng ta đi học bản
lănh để giúp đỡ người khác. Chẳng có bản
lănh mà toan giúp người khác, muốn cho người khác
ĺa khổ, được vui, nhưng chính ḿnh chẳng có
phương pháp. Do vậy, cầu sanh về thế giới
Cực Lạc để đến học tập ở
bên đó, học phương pháp lợi sanh rồi quay trở
lại độ người khác. Nhưng phát tâm cầu
sanh thế giới Cực Lạc, chẳng phải v́ chính
ḿnh, mà là v́ muốn lợi
ích chúng sanh mà phát tâm cầu sanh thế giới Cực Lạc.
Mọi người hăy cân nhắc một phen, hai điều
này như nhau: Một là phát tâm sanh về thế giới Cực
Lạc để chính ḿnh liễu sanh tử, một đằng
là phát tâm tới thế giới Cực Lạc ḥng lợi
ích chúng sanh. Đó gọi là “phát Bồ Đề tâm”.
Nhưng
chúng ta ở trong sanh tử, chịu khá nhiều khổ nạn
trong lục đạo luân hồi, chúng ta không sợ hăi, bao
kiếp dài lâu ở giữa hết thảy chúng sanh khổ
nạn để độ chúng sanh khổ nạn. Quư vị
mong độ chúng sanh, mà chẳng vào giữa chúng sanh, quư vị
có thể độ chúng sanh hay không? Chẳng sợ sanh tử,
chẳng sợ hết thảy khổ nạn, phải
độ tận chúng sanh. V́ chính ḿnh mà cầu giải thoát
th́ khá dễ dàng! Nếu khiến cho hết thảy chúng
sanh đều giải thoát, chuyện này hết sức khó
khăn. Nghĩa Đại Thừa này vừa phát khởi
liền thoái đọa, chẳng dễ phát được!
Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất muốn phát tâm
Bồ Tát độ chúng sanh. Ngài mới vừa phát Bồ
Đề tâm, Đế Thích Thiên liền hóa thành người
để thăm ḍ Ngài một phen, coi xem Ngài phát đại
tâm là thật hay giả. Ông ta liền hóa hiện thành một
cô bé nghèo nàn, khóc ở ven đường. Ngài Xá Lợi Phất
hỏi cô bé: “Con khóc v́ chuyện ǵ?” Cô bé thưa: “Mẹ con
bị bệnh. Thuốc th́ t́m được, nhưng chẳng
có chất dẫn thuốc”. Ngài Xá Lợi Phất hỏi cô
bé: “[Để có được] chất dẫn thuốc ấy, sẽ gặp khó
khăn ǵ?” Cô bé đáp: “Hết sức khó!” Ngài Xá Lợi Phất
hỏi: “Cần chất dẫn thuốc ǵ vậy?” Cô bé
đáp: “Phải t́m mắt của người c̣n sống,
mắt của người đă chết không được!
Phải t́m mắt của người c̣n đang sống”.
Ngài Xá Lợi Phất vừa nghe nói, [suy tưởng]:
“Ta vừa mới phát Bồ Đề tâm đă gặp chuyện
này; có nên xả hay không? Không xả th́ ta đă phát Bồ
Đề tâm. Xả th́ bố thí con mắt rất khó, chẳng
phải là tiền tài!” Ngài vẫn kiên định thí cho cô
ta, liền móc con mắt trái cho cô ta. Cô bé nói: “Ông móc sai mất
rồi! Cháu cần con mắt bên phải!” Ngài Xá Lợi Phất
nói: “Sao cháu không nói sớm?” Trong tâm Ngài c̣n có chút hối hận,
nhưng vẫn chưa hoàn toàn lui sụt hối hận, con
mắt phải cũng móc ra cho cô ta: “Dẫu sao ta có Thiên
Nhăn, không sao! Móc cho cô ta vậy!”
Đứa bé ấy cầm lấy con mắt ngửi, chê
bai: “Tanh hôi phát ói! Dùng làm thuốc uống sao được?”
Vứt đánh phẹt xuống đất, lại c̣n giẫm
nát. Ngài Xá Lợi Phất liền thoái thất đạo
tâm, nói “Bồ Tát đạo khó hành”, chẳng phải
là nói suông rồi thôi!
Như
ngài Xá Lợi Phất, [xét theo] trí huệ và công đức do
Ngài tu được, Kiến Tư Hoặc đều
đoạn dứt, phát đại Bồ Đề tâm, mà
c̣n ngă ḷng! Chúng tôi cũng thường nói: “Nếu cá nhân chúng ta cũng mong học phát Bồ
Đề tâm, giúp đỡ người khác, đợi cho
tới khi chính ḿnh chịu khổ nạn, sẽ nghĩ
ngay cả độ chính ḿnh c̣n khó khăn, làm sao giúp đỡ
người khác!” V́ sao? Trong khổ nạn bèn hoài nghi Phật,
Bồ Tát chẳng linh. [Do ngờ vực] chẳng linh, trong
tâm dấy lên hoài nghi. Tự cho rằng chính ḿnh chẳng có
sai lầm ǵ, cớ sao phải thọ báo? Đó đều
là kẻ độn căn Tiểu Thừa. Nếu là
người phát đại tâm Bồ Đề, phát khởi
cái tâm vô thượng đạo thù thắng nhất,
đúng là rất khó. Đă phát tâm, phát nguyện, chúng ta hằng
ngày đều phát nguyện. Hằng ngày chúng ta đều
xướng bài tán, tức là xướng kệ tụng về
Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ, phiền năo vô tận thệ nguyện
đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Một điều cũng chẳng làm được! Phát
nguyện rỗng tuếch! Hễ cảnh giới hiện
tiền bèn lui sụt. Gặp phải tai nạn, sẽ chẳng
do tai nạn liền giúp đỡ người khác, mà c̣n bỏ
chạy nhanh hơn ai hết! Vậy th́ độ chúng sanh
bằng cách nào?
V́
thế, chúng sanh độn căn, Tiểu Thừa, mong phát
tâm thù thắng, mầu nhiệm, nhưng chẳng làm
được, khổ hạnh khó khăn lắm! Chúng ta
thường nghe nói “chính ḿnh c̣n chẳng độ
được, làm sao độ người khác?” Câu ấy
rất thường nghe nói! Nhưng các đệ tử
đạo hữu đang hiện diện đều hiểu
Phật pháp, quư vị có thể giúp kẻ không tin trở
thành tin Phật pháp, đó là chuyện chẳng dễ dàng.
Chẳng phải là quư vị vừa khuyên lơn, họ sẽ tin, quư vị phải hành khá nhiều
phương tiện. Gặp phải mấy phen thử
thách, quư vị chẳng dám nói nữa. Đặc biệt là
đối với người không tin Phật, quư vị
khuyên họ tin Phật, đó vẫn là chuyện b́nh thường.
Nhưng đặc biệt là trong lúc nguy nan, chính quư vị
c̣n đang ở trong cảnh nguy nan, giả sử như
chúng ta đang ở trong biển khổ sanh tử, chẳng
mong chính ḿnh chịu khổ nạn trong biển khổ, lại
thấy người khác gặp khổ nạn [bèn phát tâm cứu
giúp người đó trước đă]; đấy mới
thật sự là lợi ích chúng sanh. V́ thế, hạnh khổ,
hạnh khó, tự độ, độ người khác, thời
gian dài lâu, chẳng phải là một, hai lượt, một
ngày, một kiếp, hai kiếp, chẳng phải trong thọ
mạng một trăm năm của chúng ta, mà là trong vô lượng,
vô lượng đời. Địa Tạng Bồ Tát
đối với loại chúng sanh này, khéo an ủi, khéo nói
phương tiện. Đấy là chúng tôi nói tới định
nghĩa chân thật của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo. [Thế mà] chúng ta cứ coi kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo giống như một bản kinh tầm thường,
hoặc nghĩ nửa đầu của kinh là kinh điển
Tiểu Thừa, nửa sau hoàn toàn là cảnh giới Hoa
Nghiêm.
(Kinh) Ngă tức vị thuyết chân thật
chi nghĩa, sở vị nhất thiết chư pháp bổn
tánh tự Không, tất
cánh vô ngă, vô tác, vô thọ, vô tự, vô tha, vô hành, vô đáo,
vô hữu phương sở, diệc vô quá khứ, hiện
tại, vị lai, năi chí vị thuyết thập bát Không
đẳng, vô hữu sanh tử, Niết Bàn. Nhất thiết
chư pháp định thật chi tướng nhi khả
đắc giả. Hựu phục vị thuyết nhất
thiết chư pháp như huyễn, như hóa, như thủy
trung nguyệt, như kính trung tượng, như Càn Thát
Bà thành, như không cốc hưởng, như dương
diễm, như bào, như lộ, như đăng, như
mục ế, như mộng, như điện, như vân.
Phiền năo sanh tử tánh thậm vi nhược, dị khả
linh diệt. Hựu phiền năo, sanh tử tất cánh vô thể, cầu
bất khả đắc, bổn lai bất sanh, thật
cánh vô diệt. Tự tánh tịch tĩnh, tức thị Niết
Bàn.
(經)我即爲說真實之義。所謂一切諸法本性自空。畢竟無我無作無受。無自無他。無行無到。無有方所。亦無過去現在未來。乃至爲說十八空等。無有生死涅槃。一切諸法定實之相而可得者。又復爲說。一切諸法如幻如化。如水中月。如鏡中像。如乾闥婆城。如空谷響。如陽焰。如泡。如露。如燈。如目曀。如夢。如電。如雲。煩惱生死性甚微弱。易可令滅。又煩惱生死畢竟無體。求不可得。本來不生。實更無滅。自性寂靜。即是涅槃。
(Kinh:
Ta liền v́ kẻ đó nói nghĩa chân thật, tức là
bổn tánh của hết thảy các pháp tự Không, rốt
ráo vô ngă, vô tác, chẳng lănh thọ, chẳng tự, chẳng
tha, chẳng đi, chẳng đến, chẳng có nơi
chốn, cũng chẳng có quá khứ, hiện tại, vị
lai, cho tới nói mười tám thứ Không v.v… Chẳng có
sanh tử và Niết Bàn, [cũng như chẳng có] tướng
chắc thật của hết thảy các pháp để có
thể đạt được. Lại v́ họ nói hết
thảy các pháp như huyễn, như hóa, như trăng trong
nước, như h́nh tượng trong gương, như
thành Càn Thát Bà, như tiếng vang nơi hang trống,
như ánh nắng gợn, như bọt nước, như
sương, như mắt quáng, như chớp, như mây.
Tánh của phiền năo và sanh tử hết sức yếu
nhỏ, dễ dàng bị diệt mất. Hơn nữa, phiền
năo và sanh tử rốt ráo chẳng có Thể, cầu chẳng
thể được, nó vốn chẳng sanh, lại thật
sự chẳng diệt. Tự tánh tịch tĩnh, tức
là Niết Bàn).
Gặp
loại chúng sanh ấy, Địa Tạng Bồ Tát dùng thiện
xảo phương tiện để nói ư nghĩa chân thật
với họ. “Ư nghĩa chân thật” chính là ư
nghĩa thành Phật. Ư nghĩa chân thật là ǵ? Bổn tánh
của hết thảy các pháp tự là Không; đấy là ư nghĩa chân thật. Quư vị thấy
bất cứ pháp môn nào của Phật, mắt thấy, tai
nghe, tâm nghĩ, sáu căn tiếp xúc, đều là ư
nghĩa chân thật. Trước hết, chính quư vị cần
phải lư giải điều này, v́ nó đều phát sanh từ
tự tánh. Trước hết, lư giải tự tánh vốn
là Không, hết thảy các pháp đều là Không. Tự ḿnh
lư giải, lại c̣n tuyên giảng loại phương pháp
ấy cho hết thảy chúng sanh, nói hết thảy các pháp
vô ngă, vô nhân, chẳng tự, chẳng tha. “Chẳng có hết
thảy các pháp, chúng là Không”. Quư vị tự
ḿnh chứng đắc, sau đó nói cho người khác.
Chính ḿnh chẳng chứng đắc, nhưng tin như thế.
Đó là hàng Bồ Tát thuộc Tín vị. Sau đó, hướng
về người khác tuyên truyền, nói “hết thảy các pháp rốt ráo vô ngă”, liễu đạt các pháp vô ngă. Hết thảy các
kinh điển Đại Thừa đều nói như thế.
Trong vô ngă, khi chính chúng ta quán tưởng: Đấy là Ngă
Chấp, chẳng chấp trước Ngă và Ngă Kiến; đối với hết thảy các vấn
đề mà ta thấy, chẳng dùng Ngă Kiến để
nh́n hết thảy các vấn đề, đạt tới
mức độ “chẳng dùng Ngă Kiến để nh́n
nhận hết thảy các pháp”. Quư vị có nhận biết
hay không? Chẳng có chính ḿnh, mà cũng chẳng có người
khác. Hết thảy các pháp đều là Không. Chẳng hành,
mà cũng chẳng có tu đạo, thành đạo, cũng
chẳng có nơi chốn chi hết, cũng chẳng có ǵ
là quá khứ, hiện tại, vị lai. Đấy là nói “hết
thảy các pháp đều là Không”. Thậm chí v́ họ
nói mười tám món Không, hết thảy các pháp đều
là Không, chẳng có sanh tử và Niết Bàn. Mười tám
món Không sẽ được giảng trong phần sau. Sanh
tử và Niết Bàn là tương đối, hết thảy
các pháp đều là Không. V́ sao? Chẳng có một cái thể tướng chắc thật
để có thể đạt được.
Lại
nói hết thảy các pháp như huyễn, như hóa, đều
là huyễn hóa, chẳng thật. Hết thảy các pháp
như trăng trong nước. Vầng trăng trong nước
chẳng thật, nó là h́nh bóng, mọi người đều
hiểu điều này. Hết thảy các pháp giống
như h́nh tượng trong gương, tướng
được chiếu soi giống hệt [như vật
soi vào gương]. “Như thành Càn Thát Bà”: Các [tỷ dụ]
khác đều dễ hiểu, [nhưng
đối với tỷ dụ này, cần phải giải
thích thêm]. Trong tám bộ quỷ thần chúng, có loại quỷ
thần Càn Thát Bà (Gandharva). [Thành Càn Thát Bà] có lúc hiện ra, có
lúc biến mất. Nếu quư vị ở Sơn Đông, tỉnh Sơn Đông có
Lao Sơn (嶗山), cách Thanh Đảo sáu mươi dặm Tàu[1].
Chúng ta đến Lao Sơn, lúc mặt trời sắp mọc,
đứng trên đỉnh Lao Sơn nh́n ra biển Đông,
nh́n vào biển cả. Khi đó, trong biển có ảnh
tượng dường như là một thành thị. Nếu
thời tiết rất quang đăng, đôi khi quư vị thấy
[ảnh tượng đó] giống như trong nhân gian chúng
ta. Trong đó, rất nhiều người đi, đứng,
ngồi, làm chi đó, đều hoàn toàn có. Mặt trời
vừa mới mọc lên, [huyễn
tượng ấy] chẳng c̣n nữa.
Thành Càn Thát Bà chẳng có, nó chỉ là một h́nh ảnh [hư huyễn]. [Kinh nói] “như
thành Càn Thát Bà” nhằm h́nh dung “chẳng
có, trống không”; nhưng có đôi
khi nó hiện bóng dáng. Tại Lao Sơn, rất nhiều người
trèo lên đỉnh núi Lao Sơn xem “hải thị, thần
lâu” (thành phố trên biển, lâu đài của loài ṣ)[2].
Kinh Phật gọi “hải thị, thần lâu” là “thành Càn Thát
Bà”. Trong tám bộ quỷ thần chúng, có loài Càn Thát Bà. Đó
là thành tŕ của họ, căn bản là chẳng có ṭa thành
của họ, nó chỉ là bóng dáng. Lại c̣n có hang trống.
Quư vị vào hang núi, gào một tiếng,
âm thanh vọng lại gọi là Hưởng (響, tiếng dội, tiếng
vang), chẳng có h́nh mạo! Như ánh nắng gợn (陽焰, dương diệm, mirage, ảo ảnh
trong sa mạc), như bọt trên mặt nước.
Như sương, mặt trời vừa mọc bèn tiêu mất.
Như ngọn đèn, như mắt có màng mộng, như giấc mộng, như
tia chớp, như mây. Đó là các từ ngữ h́nh dung sự
trống không, h́nh dung ư nghĩa rỗng không.
Dùng
những điều ấy để tỷ dụ sanh tử
phiền năo của chúng ta, chúng có hay không? Rỗng tuếch!
Nhưng bọn chúng sanh chúng ta chẳng thể Không được!
Phiền năo xảy tới, bèn ngủ không nổi,
ăn không vào, chẳng thể Không! V́ sao chẳng Không
được? Họ chẳng nhận biết, chấp
trước. Bọt trên mặt nước, sương sớm,
tia chớp, hoa đốm trong mắt, nằm mộng khi ngủ.
Nằm mộng mà có thể là chân thật ư? Nhưng phàm
phu chấp trước, nếu có mộng đẹp, họ
sẽ vui thú suốt ngày. Nếu gặp ác mộng, cả
hai ba ngày vẫn chẳng yên bụng. Vốn chẳng có [mà
cứ chấp trước], đó gọi là “vọng chấp”.
Do đó, quán phiền năo, quán sanh tử như thế
đó. Tánh thể của chúng ta, tức bản thể của
tự tánh chẳng có phiền năo, mà cũng chẳng có sanh
tử. Trong tánh thể, nó chẳng tồn tại, tức
là đối với thọ mạng của mỗi người
chúng ta, đức Phật dạy quư vị tu Quán, bèn nói Giả.
Sau khi sanh, lăo, bệnh, tử hiện tiền, quư vị có
thể quyết đoán là nó giả, sẽ giảm bớt
thống khổ. Nhưng chúng ta chẳng tu được.
Tuy trong sự thật, nó là giả, cái chân thật
sẽ bất hoại. Ai nấy đều cho rằng thân thể
của chính ḿnh là thật, nhưng nó sẽ bị hư hoại.
Từ lúc được cha mẹ sanh ra, rất bé, dần
dần biến thành già, già rồi diệt, diệt th́ chẳng
c̣n nữa. Chúng ta nhận biết như thế đó.
Nhưng cái bị tiêu diệt là h́nh tướng, chẳng
phải là tâm tánh của quư vị. Đối với phiền
năo sanh tử, quư vị phải biết [phiền năo sanh tử]
chẳng có thật thể, là biểu hiện hư giả,
c̣n thật thể th́ bất hoại.
Quư vị mong cầu trường thọ, chẳng thể
được, chẳng thể đạt được!
Nếu quư vị đạt tới bất sanh th́ cũng chẳng
có diệt. Chẳng sanh th́ thật sự cũng chẳng
có diệt. Thể tánh là tịch tĩnh, chúng ta chẳng chứng
đắc điều này. Tuy chẳng chứng đắc,
chúng ta hiểu rơ. Hiểu rơ như thế nào? Đức Phật
dạy chúng ta hiểu rơ. Đức Phật bảo sanh tử
chính là Niết Bàn. Quư vị ở trong sanh tử, có thể
nhận biết, có thể xả sanh tử, chứng đắc
Niết Bàn. Bởi lẽ, sanh tử là giả, quư vị phải
thấy nó là giả, nhận biết nó là giả, sẽ có
thể hữu đạo, tức là tu đắc đạo.
Đấy là hoàn toàn nói về nghĩa Không, Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói chúng ta về Không. Trước hết, “Không” được
quán từ những điều ấy. Hết thảy sự
vật, sanh tử cũng thế, mà Niết Bàn cũng thế,
hết thảy các pháp chẳng có ǵ là chân thật, chẳng
có nhất định. Tướng ấy là giả tướng,
v́ sao? Cái chân thật sẽ bất biến. Mỗi
vị trong chúng ta đều là như thế, đều
đang biến. Biến hóa măi rồi chẳng c̣n nữa,
tiêu mất rồi, chết rồi. Phiền năo, sanh tử,
Niết Bàn, giả danh mà thôi!
(Kinh) Như thử sở thuyết năng
phá nhất thiết chư kiến, tổn tự thân tâm chấp
trước tưởng cố, đắc ly khiếp
nhược.
(經)如此所說能破一切諸見。損自身心執着想故。得離怯弱。
(Kinh: Nói như thế có thể [khiến
cho người nghe] phá hết thảy các kiến, tổn
hoại các ư tưởng chấp trước nơi thân tâm
của chính ḿnh, được ĺa khiếp nhược).
Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta:
Quư vị phải thấy các Kiến của chính ḿnh, “Kiến” (見) là cách
nh́n nhận vấn đề, năng kiến (能見, chủ
thể nh́n, tức cái tâm của ta) nh́n vào sở kiến (所見, đối
tượng, sự vật, các pháp được nh́n nhận).
Năng kiến là tánh của quư vị, c̣n sở kiến là
hết thảy các tướng. Năng Kiến nh́n vào Sở
Kiến, đối với thân thể, đối với cái
tâm, [hay nói chung là] đối với thân tâm của quư vị
chỉ là một thứ
chấp trước mà thôi, chẳng có thật thể.
Nay chúng ta có thân thể, thân thể hư hoại, sẽ tiêu
mất, chẳng phải là vĩnh cửu. Khi quư vị
mười tuổi, th́ thời điểm một hai tuổi
đă mất đi, thời điểm quư vị chín tuổi
đă mất đi, mười tuổi c̣n đó. Khi quư vị
hai mươi tuổi, thời điểm mười tuổi
cũng chẳng c̣n. Đó gọi là pháp sanh diệt, đấy
là chấp trước của chúng ta. Phải phá trừ chấp
trước ấy. Phá trừ hết thảy các kiến,
chúng là vọng kiến. Mọi người đọc kinh Lăng
Nghiêm sẽ biết, mười phen hiển lộ tánh Thấy.
Chấp trước thân tâm nơi thân thể này, chấp
trước nó là Có. Thật ra, nó chẳng có. Nhưng hiện
thời chúng ta có một thân thể, khi có thân thể, có thể
nhận biết thân thể ấy nhất định sẽ
tiêu mất. Đó là điều khẳng định, nhất
định phải đạt tới. Đạt tới
ǵ vậy? Tiêu mất. V́ sao? Hư vọng. Nó chẳng phải
là chân thật. Do vậy, nếu có thể ĺa khỏi quan
điểm như thế, có thể thâm nhập, thứ ǵ
quư vị cũng thấy thấu suốt, đều buông
xuống được. Điều đó khiến cho quư vị
“phá kiến”, [tức là phá trừ] các vọng kiến ấy.
(Kinh)
Phục hữu chúng sanh bất giải Như Lai ngôn thuyết
chỉ ư cố, nhi sanh khiếp nhược.
Đương tri Như Lai ngôn thuyết chỉ ư giả,
sở vị Như Lai kiến bỉ Nhất Thật cảnh
giới cố, cứu cánh đắc ly sanh, lăo, bệnh, tử,
chúng ác chi pháp, chứng bỉ Pháp Thân thường hằng,
thanh lương, bất biến
đẳng, vô lượng công đức tụ. Phục
năng liễu liễu kiến nhất thiết chúng sanh thân
trung, giai hữu như thị chân thật, vi diệu, thanh tịnh công đức,
nhi vị vô minh ám nhiễm chi sở phú chướng.
Trường dạ hằng thọ sanh, lăo, bệnh, tử,
vô lượng chúng khổ, Như Lai ư thử khởi
đại từ bi ư, dục linh nhất thiết chúng sanh
ly ư chúng khổ, đồng hoạch Pháp Thân Đệ
Nhất Nghĩa Lạc, nhi bỉ Pháp Thân thị vô phân biệt
ly niệm chi pháp. Duy hữu năng diệt hư vọng
thức tưởng, bất khởi niệm giả, năi sở
ưng đắc, đản nhất thiết chúng sanh,
thường nhạo phân biệt, thủ trước
chư pháp. Dĩ điên đảo vọng tưởng cố,
nhi thọ sanh tử. Thị cố Như Lai vị dục
linh bỉ ly ư phân biệt, chấp trước tưởng
cố, thuyết nhất thiết thế gian pháp tất
cánh thể Không, vô sở hữu,
năi chí nhất thiết xuất thế gian pháp diệc tất
cánh Thể không, vô sở hữu. Nhược quảng thuyết
giả, như thập bát Không. Như thị hiển thị
nhất thiết chư pháp, giai bất ly Bồ Đề
thể. Bồ Đề thể giả, phi hữu, phi vô,
phi phi hữu, phi phi vô, phi hữu vô câu, phi nhất, phi dị,
phi phi nhất, phi phi dị, phi nhất dị câu, năi chí tất
cánh vô hữu nhất tướng nhi khả đắc giả.
Dĩ ly nhất thiết tướng cố, ly nhất thiết
tướng giả, sở vị bất khả y ngôn thuyết
thủ, dĩ Bồ Đề pháp trung vô hữu thọ
ngôn thuyết giả, cập vô năng ngôn thuyết giả
cố. Hựu bất khả y tâm niệm tri, dĩ Bồ
Đề pháp trung, vô hữu năng thủ, khả thủ,
vô tự, vô tha, ly phân biệt tướng cố. Nhược
hữu phân biệt tưởng giả, tắc vi hư ngụy,
bất danh tương ứng.
(經)復有衆生不解如來言說旨意故而生怯弱。當知如來言說旨意者。所謂如來見彼一實境界故。究竟得離生老病死衆惡之法。證彼法身常恆清涼不變等無量功德聚。復能了了見一切衆生身中。皆有如是真實微妙清淨功德。而爲無明闇染之所覆障。長夜恆受生老病死無量衆苦。如來於此起大慈悲意。欲令一切衆生離於衆苦。同獲法身第一義樂。而彼法身是無分別離念之法。唯有能滅虛妄識想不起念者。乃所應得。但一切衆生。常樂分別取着諸法。以顛倒妄想故而受生死。是故如來爲欲令彼離於分別執着想故。說一切世間法畢竟體空。無所有。乃至一切出世間法亦畢竟體空無所有。若廣說者。如十八空。如是顯示一切諸法。皆不離菩提體。菩提體者。非有非無。非非有非非無。非有無俱。非一非異。非非一非非異。非一異俱。乃至畢竟無有一相而可得者。以離一切相故。離一切相者。所謂不可依言說取。以菩提法中無有受言說者。及無能言說者故。又不可依心念知。以菩提法中無有能取可取。無自無他。離分別相故。若有分別想者。則爲虛僞。不名相應。
(Kinh:
Lại có chúng sanh do chẳng hiểu ư chỉ trong lời
nói của Như Lai, nên sanh khiếp nhược. Hăy nên biết
ư chỉ trong lời nói của Như Lai chính là Như Lai do
thấy cảnh giới Nhất Thật, rốt ráo
được ĺa các ác pháp sanh, lăo, bệnh, tử, chứng
Pháp Thân thường hằng, trong mát, bất biến v.v… vô
lượng khối công đức. Lại có thể thấy
rơ ràng trong thân của hết thảy chúng sanh đều có
công đức thanh tịnh, vi diệu, chân thật như
thế, nhưng bị ám nhiễm vô minh che lấp, luôn ở
trong đêm dài chịu đựng sanh, lăo, bệnh, tử,
vô lượng các khổ. Như Lai do vậy bèn dấy ḷng
đại từ bi, muốn khiến cho hết thảy
chúng sanh đều ĺa các khổ, cùng đạt được
Đệ Nhất Nghĩa Lạc nơi Pháp Thân, nhưng
Pháp Thân là pháp vô phân biệt, ly niệm, chỉ có người
nào có thể diệt cái thức tưởng hư vọng,
chẳng khởi niệm th́ mới đạt được.
Nhưng hết thảy chúng sanh thường chuộng phân
biệt, chấp giữ các pháp. Do vọng tưởng
điên đảo nên hứng chịu sanh tử. V́ thế,
Như Lai v́ muốn cho họ ĺa ư tưởng phân biệt,
chấp trước, nên nói hết thảy pháp thế gian rốt
ráo là Thể không, chẳng sở hữu. Cho đến hết
thảy các pháp xuất thế gian cũng là rốt ráo Thể
Không, vô sở hữu. Nếu nói rộng th́ là như mười
tám món Không. Hiển thị hết thảy các pháp như thế
đều chẳng rời Bồ Đề Thể. Bồ
Đề Thể chẳng có, chẳng không, chẳng phải
là không có, chẳng phải là chẳng không, chẳng phải
là vừa có vừa không, chẳng phải một, chẳng
phải khác, chẳng phải “không là một”, chẳng phải
“không là khác”, chẳng phải là “vừa một vừa
khác”, cho tới rốt ráo chẳng có một tướng
để có thể được, do ĺa hết thảy
các tướng. “Ĺa hết thảy các tướng” tức
là chẳng thể nương theo ngôn thuyết để
giữ lấy, do trong pháp Bồ Đề chẳng có
người nhận lănh ngôn thuyết, mà cũng chẳng có
người nói. Lại chẳng thể nương vào tâm
niệm để biết, do trong pháp Bồ Đề chẳng
có chủ thể giữ lấy và có đối tượng
được giữ lấy, chẳng tự, chẳng
tha, do ĺa tướng phân biệt. Nếu có ư tưởng phân
biệt th́ sẽ là hư ngụy, chẳng gọi là
tương ứng).
Nay
tâm lượng của chúng ta chẳng lớn; do chẳng lớn nên
chẳng dám quán chiếu chính ḿnh như thế, không biết
sự tử vong của chính ḿnh. Cho đến dẫu
biết rơ, cũng chẳng dám thừa nhận! Ai nấy đều
biết chuyện tử vong: Cho tới lúc tử vong, dẫu
quư vị chẳng buông xuống, cũng phải buông xuống,
muốn chấp trước cũng chẳng chấp
trước được, nó tiêu mất. Hăy nên lư giải
như thế. Chớ nên sanh ư tưởng khiếp nhược,
chớ nên sanh ư tưởng dài lâu. Hăy dũng mănh quán các vấn
đề ấy rốt cuộc sẽ diệt mất. Hễ
diệt th́ nhất định sẽ tử vong. Do vậy,
đức Phật bảo chúng ta, sanh, lăo, bệnh, tử,
cho đến Ái Biệt Ly (yêu thương phải chia ĺa),
Oán Tắng Hội (oán ghét mà cứ phải gặp gỡ),
Ngũ Ấm Xí Thịnh (Ngũ Uẩn lừng lẫy), Cầu
Bất Đắc (mong cầu mà chẳng đạt
được), tám loại ấy là khổ nạn. Quư vị
phải thấy thấu suốt, phải nhận thức
chúng: Chúng tùy thuận lẽ Chân mà khởi. Từ trong hư
vọng, hư giả, mà nhận biết một cái “bất
sanh, bất diệt, chẳng đổi, chẳng khác, chân
thật” trong ấy, tức là tánh của chúng ta. Những
điều này gọi là đạt tới cảnh giới
như đă nói trong đoạn kinh văn trước
đó, nay Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta cảnh
giới Nhất Thật. Pháp “cảnh giới
Nhất Thật” ĺa khỏi nỗi
khổ sanh tử, sanh, lăo, bệnh, tử, cho đến
tám khổ, chẳng có các thứ ấy. Đó là tánh thể
vốn sẵn có của chúng ta. Đó là Pháp Thân thanh tịnh,
chẳng hai, chẳng khác với Phật và Địa Tạng
Bồ Tát. Nơi chư Phật, Bồ Tát là công đức,
nơi bọn chúng sanh chúng ta là phiền năo.
Đồng
thời, quư vị quán chiếu, biết rơ chân tánh của
chính ḿnh như thế. Mỗi chúng sanh đều sẵn có
chân tánh, nó ở ngay trong thân thể của chúng sanh, mà
cũng chẳng rời khỏi thân thể. Từ trong thân
thể, quư vị t́m ṭi chân tánh, chẳng có! Cái tâm của
quư vị là thức, là vọng, chẳng phải là thật,
nhưng nó trọn đủ. Chân tâm trọn khắp hết
thảy mọi nơi! Nếu chúng ta chẳng có tri kiến
của Phật, chẳng có phần thật sự nơi Phật,
chúng ta sẽ chẳng thể thành Phật! Chúng ta và Phật
chẳng hai, chẳng khác, có thể thành Phật, nhưng hiện
thời các phiền năo ngăn chướng quư vị.
Đồng
thời, quư vị phải thấy trong thân của hết
thảy chúng sanh đều có công đức chân thật, vi
diệu, thanh tịnh của Như Lai; đó là sẵn có.
Như Lai do sự tu (tu hành bằng sự
tướng) mà phát hiện nó, nêu rơ nó. Sự tu cùng với cái
sẵn có hợp làm một, tất cả vô minh, si ám,
chướng ngại đều bị gột sạch. Giả
sử trên thân hoặc y phục chúng ta nhuốm bẩn, quư
vị gột rửa một lần chẳng sạch, gột
rửa hai lần chẳng sạch, gột rửa ba lần
th́ sẽ sạch. Đó là nói về bổn tánh và tánh thể
của chúng ta, chẳng phải là nhục thể (cái thân
xác thịt), [bổn tánh, tánh thể] chẳng có sanh,
lăo, bệnh, tử, cũng chẳng có khổ.
Đương nhiên là chẳng có khổ, mà cũng chẳng
có lạc, chẳng có hết thảy các pháp tương
đối, chẳng hai, chẳng khác với Phật.
Trong
đoạn văn chương này, Địa Tạng Bồ
Tát dạy chúng ta: “Chúng sanh đều
có thể thành Phật”. Chỉ cần
quư vị chịu tu, chịu nương theo lời dạy
của Địa Tạng Bồ Tát, tức là [hành theo]
phương pháp và cảnh giới Nhất Thật như
Ngài đă dạy trong các đoạn kinh văn trước
đó; quư vị hăy thấu hiểu. Nếu có thể ngộ
cảnh giới Nhất Thật, sẽ rời ĺa sanh, lăo,
bệnh, tử. Sanh, lăo, bệnh, tử là giả tướng,
chẳng chân thật. Loại công phu này bất luận quư vị
có thể tu cũng thế, mà không thể tu cũng thế,
b́nh thời quư vị phải suy nghĩ như vậy. Trong
khi quư vị đau khổ nhất, quư vị có thể thí
nghiệm tách rời các cảm giác đau khổ và nỗi khổ của cái thân đang hứng chịu đau
khổ. Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta, chúng ta có cảm
giác, cái cảm giác ấy có thể cảm nhận, tức
là cảm nhận nỗi đau
khổ mà thân thể đang hứng chịu. Sự nhận
biết của cái tâm cảm nhận ấy sẽ không
đau, tuy nó cảm nhận được sự đau khổ
đang hứng chịu. Đồng thời, tôi nghĩ
như thế này: Khi tôi nằm bệnh viện, cần phải
mổ, trước hết, bác sĩ chích
thuốc tê cho quư vị để làm tê thần kinh. Ông ta mổ
xẻ chi nữa, quư vị chẳng có cảm giác, mà
cũng chẳng đau khổ. Đợi cho đến khi
thuốc tê đă tan, quư vị sẽ cảm thấy đau
khổ. Nếu không chích thuốc tê, chính quư vị có thể
khống chế cái tâm của chính ḿnh, tách ĺa tâm và thân thể của chính ḿnh. Chuyện này cần
phải có công phu trong một thời gian rất dài, chẳng
phải là như tôi vừa mới nói như thế, quư vị vừa
học bèn làm được ngay! Khi sức mạnh cảm
giác của quư vị đạt tới mức độ rất
lớn, chẳng cần chích thuốc mê nữa: Quư vị
thấy xác thân và chính ḿnh chẳng có quan hệ.
Đấy
là vấn đề tâm lực, trong lịch sử, loại
nhân vật này rất nhiều. Mọi người thấy
Quan Vân Trường (Quan Công) nạo
xương trị độc. Hoa Đà[3]
khoét thịt, dùng đao nạo trên xương, người
khác nghe âm thanh ấy đều run lẩy bẩy, Quan Công vẫn
chơi cờ tướng, chẳng có chuyện chi hết.
Điều đó cho thấy tâm lực của ông ta rất
mạnh, cái tâm hàng phục cái thân của ông ta. Khi chúng ta
đau khổ nhất, quư vị tách rời thân và tâm, tâm và
thân trở thành hai chuyện khác nhau. Do vậy, kinh Lăng
Nghiêm dạy chúng ta: “Hữu giác giác thống, vô thống
thống giác” ư nói: Quư vị có cảm giác nhận biết
đau đớn, nhưng cái đau ấy không ảnh hưởng
cái tâm cảm nhận của quư vị. Nhưng do chúng ta chẳng có sức mạnh ấy, cho nên bác
sĩ phải chích thuốc tê. Có trường hợp nào
không chích thuốc tê hay không? Có một vị lăo ḥa thượng
khi vào bệnh viện để mổ, chẳng đồng
ư cho bác sĩ chích thuốc tê. Bác sĩ nói: “Thầy sẽ
đau tới hôn mê luôn”. Sư nói: “Tôi không đau, các ông cứ
mổ đi”. Chuyện này cần phải có công phu, chẳng
phải là một hai ngày [mà đạt
được]! Trong khi quư vị tu, tách rời tinh
thần và vật chất, thân thể là vật chất,
tinh thần chẳng phải là vật chất, sẽ sanh
ra hiệu quả. Tôi đă từng thí nghiệm, cũng sanh
ra [hiệu quả]. Quư vị thấy chuyện này ở rất
nhiều vị tổ sư, người tu đạo có thể
khiến cho [thân và tâm] chia ĺa.
Quư
vị phải đạt được loại nghĩa lạc
này. Như Lai do đó khởi ḷng đại từ bi, muốn
khiến cho hết thảy chúng sanh ĺa khỏi hết thảy
khổ nạn, cùng đạt được Đệ Nhất
Nghĩa Lạc nơi Pháp Thân. Đó chẳng phải là thân
thể. Vừa rồi chúng tôi nói đến thân thể, chứ
Pháp Thân chẳng có phân biệt, chẳng có tạp niệm.
Khi một người muốn đạt tới vô phân biệt,
vô tạp niệm, khi nhất tâm thuần tịnh, ư tưởng
hư vọng chẳng dấy lên, có thể ngưng dứt
hết thảy các niệm, đó gọi là “tương ứng
với đạo”. Khi tu hành đạt tới loại
cảnh giới này, tức là h́nh thái ư thức của quư vị
đă tách rời cái tâm.
Nhưng
hết thảy chúng sanh thường thích phân biệt, chấp
giữ các pháp. Phật chứng đắc “thường, lạc, ngă, tịnh”. Bọn chúng sanh chúng ta th́ phân biệt, đối với
thường lạc bèn phân biệt, chấp giữ hết
thảy các pháp; đó là vọng tưởng điên đảo.
V́ sao họ muốn chấp trước? V́ chẳng thể
buông xuống vọng tưởng; chấp trước
điên đảo, quư vị bèn hứng chịu nỗi khổ
sanh tử. Chư Phật Như Lai đă đoạn dứt,
khi đoạn dứt, các Ngài chẳng có tướng phân biệt,
tức là các Ngài đạt “thường, lạc,
ngă, tịnh”, đă đoạn
dứt các ư tưởng phân biệt, chấp trước.
Chuyện này nhờ vào sức tu hành. Tôi vừa mới nói,
nếu quư vị tu đúng thật trong một thời gian
dài, khiến cho cái tâm và thân thể của quư vị tách ĺa,
tâm chẳng bị thân thể trói buộc, quư vị sẽ
dần dần có thể đạt tới loại cảnh giới
này. Sự trói buộc ấy là chấp trước: Quư vị
ngỡ thân thể là chính ḿnh. Giả sử quư vị ĺa khỏi
thân thể, nó chẳng phải là ta. [Thân thể] chẳng phải
là quư vị, dẫu đau khổ tới mức độ nào đi nữa, cũng chẳng liên can tới quư vị. Công phu này chẳng
phải là một hai ngày liền có thể buông xuống, chẳng
có chấp trước, chẳng cố chấp đâu nhé!
Trong
đoạn kinh văn này, Địa Tạng Bồ Tát dạy
chúng ta, “rốt ráo Thể
không, vô sở hữu”. Nói tới “rốt ráo”, trong bổn thể
của cái tâm chúng ta, chẳng phải là thân thể, hết
thảy đều là Không. Pháp thế gian là Không, pháp xuất
thế gian cũng là Không, rốt ráo là thể Không, hết
thảy vô sở hữu. Nếu nói rộng th́ như trong
kinh thường nói có tất cả mười tám thứ
Không. Ở đây, tôi không nói cặn kẽ, chỉ nêu danh từ
với mọi người. Các tướng cảnh
giới hiển hiện đều là Không. Nội Không, Ngoại
Không, trong lẫn ngoài đều là Không. Nhục thể (xác thân) hoàn toàn là Không, nội
tâm, ngũ tạng, lục phủ đều là Không. Sắc thân bên ngoài
cũng là Không. Bất Không: Bất không th́ sẽ chẳng
hoại; chẳng hoại th́ sẽ không bị diệt mất.
Nhục thể của quư vị
rốt cuộc đều tử vong, ai nấy đều
là như thế. Trong là thân tâm, ngoài là thế giới, toàn
thể thế giới đều đang biến hóa. Thân
tâm của quư vị là Không, h́nh tướng
của thế giới bên ngoài là Không. Cái Không ấy cũng
là không, cái Không ấy cũng bị trừ bỏ không c̣n.
Sau đó, tiến hơn bước nữa, gọi là Đại
Không. Đại Không tiến hơn bước nữa là
Đệ Nhất Nghĩa Không. Đệ Nhất Nghĩa
Không tiến thêm bước nữa là Vô Vi Không, Hữu
Vi Không, Tất Cánh Không, Vô Thỉ Không, Tán Không, Tánh Không, Tự
Tướng Không, Chư Pháp Không, Bất Khả Đắc
Không[4],
không có pháp, hết thảy các pháp đều chẳng có. V́
sao? Rỗng không. Có pháp, hết thảy các hữu pháp cũng đều rỗng
không, hữu vi pháp, vô vi pháp toàn bộ đều không. Tổng
cộng mười tám loại, hiển thị, nói rộng
là mười tám món Không như thế. Ư nghĩa của
mười tám món Không rất nhiều, sách vở chỉ
nói [tổng quát] là Không th́ chỉ có bộ
Kinh này.
Hiển
thị hết thảy các pháp như thế đều chẳng
rời Bồ Đề Thể, hết thảy các pháp
được kiến lập dựa trên Bồ Đề.
Chúng ta phát Bồ Đề tâm, đó là toàn thể. Hết
thảy các pháp đều chẳng rời hết thảy Bồ
Đề. V́ sao nói là Không? Nhằm hiển thị Bồ
Đề. Bồ Đề là ǵ? Giác, tức là giác trong giác
ngộ. Phát Bồ Đề tâm là quư vị phát khởi cái
tâm hiểu rơ, giác ngộ, th́ gọi là “phát Bồ Đề
tâm”. Bồ Đề được dịch thành Giác trong giác ngộ. Giác
là hiểu rơ. Bồ Đề Thể là ǵ? Nó chẳng phải
là có. Chẳng phải là Có th́ là Không, tức là Vô. [Thế
nhưng] nó chẳng phải là Không, chẳng phải là Vô.
Phi hữu phi phi hữu (chẳng phải là có, chẳng phải là không có): Coi nó là có hay không có
đều chẳng đúng, nó là phi phi hữu! Phi vô cũng chẳng đúng, phi phi vô (chẳng phải
là không phải vô). Đối với “hữu vô câu” (vừa
có vừa không) cũng thêm một chữ Phi, tức “phi hữu
vô câu” (chẳng phải là vừa có vừa không). Nói một
chẳng thể được, tức là “phi nhất”.
Nói khác cũng chẳng thể, đó là “phi dị” (chẳng khác). Đối chữ
Phi này, lại thêm một chữ Phi nữa, với dụng
ư trừ bỏ: Phi nhất cũng không đúng, phi dị
cũng sai bét, phi phi hữu, phi phi dị. Nhất và Dị
phải như thế nào th́ mới đúng? “Nhất dị
câu” (vừa một vừa khác) cũng sai luôn! Cho đến
Tất Cánh Vô Hữu (rốt ráo chẳng có). Điều này
hiển thị hàm nghĩa Không; đó là giải thích cái
Không. Chẳng có tướng để có thể đạt
được, chẳng có h́nh để có thể đạt
được. Cử tâm động niệm
toàn bộ đều là Không. Phi! Chẳng có hết thảy
các tướng, hết thảy đều chẳng phải; đấy mới là cái Thể của Bồ Đề.
Trong
phần trước, chúng tôi đă nói về cảnh giới
Nhất Thật, ở đây hiển thị
điều ǵ? Cảnh giới Nhất Thật. [Có thể
tạm hiểu những điều vừa nói trên đây]
là cảnh giới Nhất Thật, nhưng đó vẫn chưa
phải là cảnh giới Nhất Thật, ắt cần phải
khế hợp với cái tâm. [Bởi lẽ, những điều
vừa tŕnh bày trên đây] chỉ có ngôn thuyết, ngôn thuyết
chẳng thể biểu đạt. Dùng ngôn thuyết để
biểu đạt sẽ chẳng có ư nghĩa thật sự.
Chỉ cần có ngôn thuyết th́ sẽ chẳng có nghĩa
chân thật. Bởi lẽ, tự tâm thanh tịnh, ĺa tướng
ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên, ĺa hết thảy các
tướng. Có tướng hay không? Đó gọi là Như
Lai Tạng. Như Lai Tạng chứa đựng hết thảy
các pháp, hàm tàng hết thảy các pháp, kể cả hết
thảy các tịnh pháp của Như Lai. Cái Thể ấy,
tức bản thể của Như Lai Tạng Tánh dù nói là
có hay là không, đều là hư luận. V́ sao? Chẳng phân biệt!
Hễ khởi tâm động niệm, hễ có phân biệt
th́ trật mất rồi! Chỉ có thể thấu hiểu bằng tâm ư, chẳng
thể dùng ngôn ngữ để truyền đạt, quư vị
lănh hội bằng cái tâm. Nói tới khai ngộ, th́ tâm thần
lănh hội, chẳng thể dùng ngôn ngữ để biểu
đạt, ngôn ngữ chẳng thể biểu đạt
được! Chỉ cần có ngôn thuyết th́ đều
chẳng phải là thật nghĩa, cái được biểu đạt
bằng ngôn ngữ th́ chẳng phải là chân thật, chỉ là h́nh dung mà
thôi. Bồ Đề là ĺa hết thảy các tướng.
“Ĺa
hết thảy các tướng” tức là chẳng chấp
trước, chẳng dựa theo ngôn thuyết. Nếu dùng
ngôn ngữ để giữ lấy tướng Bồ
Đề ấy, sẽ chẳng thể giữ
được, [v́] ngôn thuyết chẳng có ư nghĩa chân
thật. Do trong pháp Bồ Đề, chẳng có tướng
ngôn thuyết, chẳng có tướng người tiếp
nhận, chẳng có cái có thể nói
năng, mà cũng chẳng có cái được diễn tả
bằng ngôn thuyết. Trong tâm chẳng có ư niệm,
dựa theo ư niệm trong tâm để biết nó là giả,
là chẳng thật. Pháp Bồ Đề chẳng thể
cái giữ lấy (năng thủ), mà cũng chẳng có cái bị
giữ lấy (sở thủ), chẳng có tự, chẳng
có tha. Phàm là phân biệt, đối đăi, th́ đều chẳng
đúng. Nếu có ư tưởng phân biệt, đó là hư
ngụy, chẳng tương ứng với tâm và Bồ
Đề. Nói đơn giản, cái Thể của Bồ
Đề ĺa hết thảy các tướng, ĺa hết thảy
ngôn thuyết. Dùng ngôn thuyết để giữ lấy cái
Thể của Bồ Đề sẽ chẳng đúng. Dùng
hết thảy tướng để giữ lấy cái Thể
của Bồ Đề cũng trật, do tâm niệm giác
tri của quư vị chẳng đúng. Đó gọi là “ngôn
ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Khi quư vị
quán th́ là quán bằng ư niệm. Khi quán, chẳng phải là
khởi tâm động niệm. Lúc đă đạt tới
vô tâm, vô tâm nếu giải thích theo ư nghĩa trong Thiền
Tông sẽ là “tâm tâm tương khế”. Trong khi ấy,
ngôn ngữ dứt bặt, trong tâm chẳng có tư tưởng
ǵ, [nên gọi là] “tâm hành xứ diệt”. Do vậy, chỉ
có ngôn thuyết, đều là chẳng có “thật
nghĩa” (nghĩa lư chân thật). Ngôn thuyết nhằm
biểu đạt, hiển thị cho quư vị, nhưng [Bồ
Đề Thể] chẳng phải là ngôn thuyết. Nói tới
“tâm” th́ “tâm” ở đây chẳng phải là cái
tâm, mà có nghĩa là “pháp”. Giống như chúng ta nhắc
đến “lửa” th́ “lửa” chẳng phải là lửa
thật sự. Nếu là lửa thật sự, miệng
quư vị sẽ bị đốt cháy. Nói đến “nước”
cũng chẳng phải là nước, chỉ là từ ngữ
mang ư nghĩa biểu đạt!
(Kinh)
Như thị đẳng thuyết, độn căn chúng
sanh bất năng giải giả, vị vô thượng
đạo Như Lai Pháp Thân, đản duy Không pháp, nhất
hướng tất cánh nhi vô sở hữu, kỳ tâm khiếp
nhược, úy đọa vô sở đắc trung, hoặc
sanh đoạn diệt tưởng, tác tăng giảm kiến,
chuyển khởi phỉ báng, tự khinh, khinh tha.
(經)如是等說。鈍根眾生不能解者。謂無上道如來法身。但唯空法。一向畢竟而無所有。其心怯弱。畏墮無所得中。或生斷滅想。作增減見。轉起誹謗。自輕輕他。
(Kinh:
Nói như thế th́ chúng sanh độn căn chẳng thể
hiểu, bèn nói “vô thượng đạo Như Lai Pháp Thân
chỉ là pháp Không, một mực rốt ráo chẳng có ǵ”.
Tâm họ khiếp nhược, sợ đọa vào “không
có ǵ để đạt được”, hoặc sanh ư
tưởng đoạn diệt, dấy lên kiến giải
tăng giảm, đâm ra phỉ
báng, coi rẻ ḿnh lẫn người).
Thuyết
pháp như thế, tức là đối với học thuyết
như thế, chúng sanh căn khí chậm lụt có thể
hiểu hay không? Chẳng thể hiểu. Địa Tạng
Vương Bồ Tát nói thuyết pháp theo kiểu đó, các chúng sanh độn
căn chẳng thể lư giải, cũng chẳng thể
lư giải Pháp Thân của Như Lai, bèn cho rằng: Vô thượng
đạo Như Lai Pháp Thân chỉ là pháp Không. Vô thượng
Pháp Thân của Như Lai là ǵ? Không! Cái Không ấy chẳng
phải là Ngoan Không (cái không trơ trơ), chẳng phải
là cái Không như chúng ta thấy khoảng trống
trong pḥng ốc, chẳng phải là Không kiểu
đó, mà là Pháp Không. Nói đơn giản, đối với
Không, quư vị đừng nên chấp trước là
được rồi, thứ ǵ cũng đều chẳng
chấp trước. Chúng tôi thường nói
“thấy thấu suốt, buông xuống”, quư vị thấy
thấu suốt, buông xuống, sẽ tự tại. Hễ
thấy thấu suốt và buông xuống bèn tự tại.
Chúng sanh độn căn chẳng có cách nào lư giải, chẳng
thể lư giải. Đấy là vô thượng đạo
Như Lai Pháp Thân, tuy là Không pháp, nhưng một mực rốt
ráo vô sở hữu. Muốn đạt được
điều ǵ, cầu có điều ǵ đó [từ Pháp
Thân] đều chẳng có.
Như
thế th́ đối với chúng sanh chẳng có tâm lực
mạnh mẽ, do tâm lực chẳng mạnh mẽ bèn sanh
khiếp nhược. Đă khiếp nhược, Bồ
Đề tâm chẳng thể phát khởi. [Hiểu lầm Pháp Thân là rỗng không] như vậy th́ thứ
ǵ cũng đều không có, ta tu ǵ đây? Há c̣n có ǵ? Đă
chẳng có phiền năo, mà cũng chẳng có Niết Bàn,
cũng chẳng có sanh tử, cũng chẳng có ǵ hết;
đấy chẳng phải là đoạn diệt tưởng
ư? Nó lại chẳng phải là đoạn diệt. Nếu
khởi lên đoạn diệt tưởng, khởi lên ư tưởng tăng giảm, cả hai [ư tưởng]
tăng và diệt đều chẳng thể. Dưới
đây, Địa Tạng Bồ Tát c̣n tự giải thích.
(Kinh)
Ngă tức vị thuyết Như Lai Pháp Thân tự tánh bất
không, hữu chân thật Thể, cụ túc vô lượng
thanh tịnh công nghiệp, tùng vô thỉ thế lai, tự
nhiên viên măn, phi tu, phi tác, năi chí nhất
thiết chúng sanh thân trung diệc giai cụ túc, bất biến, bất dị, vô tăng, vô giảm.
(經)我即為說如來法身自性不空。有真實體。具足無量清淨功業。從無始世來自然圓滿。非修非作。乃至一切眾生身中亦皆具足。不變不異。無增無減。
(Kinh: Ta liền
v́ họ nói tự tánh của Pháp Thân Như Lai chẳng
không, nó có cái Thể chân thật, trọn đủ vô lượng
hạnh nghiệp công đức thanh tịnh. Từ
đời vô thỉ đến nay, [tự tánh ấy]
tự nhiên viên măn, chẳng tu, chẳng tạo tác, cho
đến trong thân của hết thảy chúng sanh cũng
đều trọn đủ, chẳng biến đổi,
chẳng khác, chẳng tăng, chẳng giảm).
Nói
“Pháp Thân của Như Lai bất không”, tức là tự
tánh bất không. Pháp Thân của Như Lai bất không, trừ
khử hết thảy tướng chấp trước. Nếu
quư vị chấp Pháp Thân của Như Lai thành có, sẽ
hoàn toàn là sai lầm! Nó là bất không, bất hữu! Chẳng
phải Không, chẳng phải Sắc để thấy
Như Lai. Chẳng phải là Không, mà cũng chẳng phải
có sắc tướng. Thấy Phật như thế, bất
không bèn có một cái Thể chân thật. Pháp Thân của
Như Lai bất không, có một cái Thể chân thật. Cái
Thể chân thật của Pháp Thân Như Lai là ǵ? Vô lượng
công đức thanh tịnh. Đó là vô lượng công
đức thanh tịnh nơi cái Thể của Pháp Thân
Như Lai. Công đức thanh tịnh có h́nh trạng như
thế nào? Từ vô thỉ đến nay, tự nhiên viên
măn, chẳng phải là tu, mà cũng chẳng phải là tạo
tác, đó là nói tới Pháp Thân. Trong thân của hết thảy
chúng sanh đều trọn đủ, chẳng thay đổi,
chẳng khác. Nơi chư Phật, Bồ Tát chẳng tăng;
nơi hết thảy chúng sanh chẳng giảm. Chẳng phải
là giữa Pháp Thân của chúng sanh và Pháp Thân của chư Phật
c̣n có một cái h́nh tướng đổi khác bất đồng.
Chẳng có! Pháp Thân không có h́nh tướng. Chúng sanh vốn
trọn đủ, chư Phật đă tu thành cái sẵn
đủ ấy, tức là “tu đắc”. Chúng sanh vốn sẵn
mê, nhưng trọn chẳng đánh
mất [Pháp Thân]. Ai nấy đều trọn đủ
Pháp Thân, ai nấy đều có thể thành Phật. Nếu
quư vị đánh mất, sẽ chẳng thể thành Phật.
Chẳng mất, chẳng được! Có mất th́
cũng chẳng mất được; có được
th́ cũng chẳng được! Chỉ có thầm khế
hội, chẳng thể dùng lời lẽ để diễn
tả. Dùng ngôn ngữ để
biểu đạt th́ sẽ chẳng thể biểu đạt được. Lịch
đại tổ sư Thiền Tông chỉ có thể lặng lẽ khế hợp, đều
là ngầm khế hợp. Điều ấy được
gọi là “tố Pháp Thân”. Tố Pháp Thân chẳng do tu
đắc, nó là công đức vốn
sẵn có, nhưng chẳng khác với Pháp Thân được
hiển lộ do tu tập.
(Kinh)
Như thị đẳng thuyết, năng trừ khiếp
nhược, thị danh an ủy.
(經)如是等說。能除怯弱。是名安慰。
(Kinh:
Nói như thế đó, có thể trừ khiếp nhược,
được gọi là “an ủi”).
V́
nói đến cái sẵn đó, đó gọi là “nói an ủi”.
Địa Tạng Bồ Tát dùng cách nói này để diệt
trừ cái tâm khiếp nhược cho chúng sanh, [ḥng khiến
cho chúng sanh] biết chính ḿnh có thể thành Phật, biết
chính ḿnh vốn sẵn có Phật Tánh. Phật Tánh ấy chẳng
hai, chẳng khác với Phật. Chúng ta thường nói tới
“linh tánh”, nhất là người xuất gia, họ hoàn
toàn chẳng trải qua học tập như thế nào,
nhưng họ liễu giải những điều mà kẻ
b́nh phàm chẳng thể liễu giải. Chúng ta nói đến
khai ngộ, sự khai ngộ ấy có đại ngộ,
có tiểu ngộ, có những thứ do đă từng học, từng tu tập trong quá khứ,
nên gọi là “túc tập” (宿習). Gặp gỡ nhân
duyên, nó lại hiển hiện, tự nhiên hiển hiện.
Có những người học mấy chục năm, có
người chẳng học tập mà hiểu toàn bộ. Kẻ
học mấy chục năm vẫn không bằng kẻ chẳng
học tập chi hết! Phải tính thêm đời trước
của người ấy. [Nếu không], sẽ chẳng hiểu
[nguyên nhân]. Quư vị phải biết trong đời trước, hoặc trong vô lượng đời, người ấy
đă sớm tu tập. Do vậy mà nói đến chuyện
này, có trường hợp rất rơ ràng, có trường hợp
chẳng rơ ràng, chẳng biểu hiện rơ ràng ra ngoài.
Như
có những người tu đạo chẳng hề học
tập pháp thế gian, thế mà toàn bộ họ đều
hiểu rơ. Chẳng hạn như tôi có một người
bạn quen biết từ lâu tên là lăo ḥa thượng Thọ
Dă[5].
Chúng tôi ở Mỹ, Ngài trở về nước, về lại Ngũ
Đài Sơn, gặp một
vị lăo đạo hữu, [cũng là một vị lăo ḥa
thượng]. Vị lăo ḥa thượng ấy cũng
đă viên tịch. Vị đạo hữu ấy nói với
Sư: “Thọ Dă ơi! Hôm nào thầy tới Thượng
Hải, khi nào tới đó, người nào ra sân bay đón
thầy, tôi đều thấy hết”. Sư Thọ Dă nói:
“Làm sao thầy thấy vậy?” Ông ta nói: “Tôi thấy bằng
tâm. Khi nào máy bay của thầy đáp xuống, những
đạo hữu nào ra đón thầy”. Ông ta nói hoàn toàn
đúng, nhưng ông ta ở Ngũ Đài Sơn, [chẳng có mặt tại sân bay Thượng Hải]. Điều
đó gọi là Thông. Vị lăo ḥa thượng ấy đă
viên tịch, nói ra không sao hết! Nếu lúc thầy ấy
c̣n tại thế, nói ra, sẽ có rất nhiều người
t́m đến làm phiền. Thầy ấy đă chẳng c̣n
tại thế. Thầy ấy biết rất nhiều
sự vật, biết là Thể. Đă hiểu rơ nó th́ lại như thế nào? Đă biết th́ lại như thế nào? Chẳng có tác dụng,
chẳng dấy lên tác dụng, chẳng sanh ra diệu dụng!
Có thể giống như lúc bậc đại Bồ Tát
sanh ra diệu dụng, diệu dụng là lợi ích chúng
sanh th́ có thể sanh ra diệu dụng. Chỉ là có thể
biết, trong tâm biết, nhưng chẳng thể phát sanh
tác dụng, vẫn chưa tu thành, vẫn chẳng tu tốt
đẹp. Nếu có thể sanh khởi tác dụng, sẽ
là tu thành, có thể sanh ra diệu dụng. Diệu dụng
là chuyện lợi ích chúng sanh.
(Kinh)
Hựu phục ngu si kiên chấp chúng sanh, văn như thị
đẳng thuyết, diệc sanh khiếp nhược,
dĩ thủ Như Lai Pháp Thân bổn lai măn túc, phi tu, phi tác
tướng cố, khởi vô sở đắc tướng,
nhi sanh khiếp nhược, hoặc kế tự nhiên,
đọa tà đảo kiến.
(經)又復愚痴堅執眾生。聞如是等說。亦生怯弱。以取如來法身。本來滿足。非修非作相故。起無所得相而生怯弱。或計自然。墮邪倒見。
(Kinh:
Lại có chúng sanh ngu si, chấp trước kiên cố, nghe
nói như vậy cũng sanh khiếp nhược. Do họ
chấp Pháp Thân của Như Lai vốn sẵn đầy
đủ viên măn, chẳng có tướng tu hay tướng
tạo tác, bèn dấy lên
[chấp
trước đối với] tướng “không có ǵ để
đạt được”, sanh ḷng khiếp
nhược, hoặc chấp là tự nhiên, đọa vào
tà kiến điên đảo).
Địa
Tạng Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Nếu
các chúng sanh ngu si, tức là các chúng sanh chấp trước
chẳng bỏ, khi tâm họ đối với vô thượng
đạo, đối với Pháp Thân của Như Lai, tuy họ vốn cũng trọn đủ [vô thượng đạo, Pháp Thân], nhưng v́ họ
giữ chặt sự ngu si, nên chẳng tin tưởng.
Họ chẳng tin đức thân và Pháp Thân chẳng cần
phải tu tập hay tạo tác mà có. Sau khi [Pháp Thân] hiển
hiện th́ vẫn là vốn sẵn có, trọn chẳng do
chư Phật tu thành mà tăng thêm một phần, chẳng
hề có! Cũng chẳng phải do chúng sanh không tu mà bị
giảm bớt. Chẳng hề có! Tu th́ cũng là b́nh đẳng,
mà không tu vẫn là b́nh đẳng; một đằng
hiện, một đằng chẳng hiện. Đó là ǵ? Vô
sở đắc, nhưng sau khi đă đắc vẫn là
vô sở đắc. Chúng ta căn bản là chẳng đắc,
vốn mê muội, nay chẳng tu, [cho nên] nó (Pháp Thân) chẳng
hiển hiện. Có thật sự bị mất đi hay không? Chẳng
mất! Nó vĩnh viễn tồn tại, tánh trọn khắp.
Đối với loại chúng sanh ấy,
giả sử nói tới tướng “chẳng phải
tu, chẳng phải tạo tác” nơi Pháp Thân Như Lai,
họ sẽ sanh ḷng khiếp nhược đối với
[đặc tánh] vô sở đắc [của Pháp Thân Như
Lai], hoặc chấp đó là tự nhiên, cho rằng
nó tự nhiên mà có, tự nhiên bèn đọa vào tà
tri, tà kiến. Sau khi đă chứng đắc viên măn Bồ
Đề, hoàn toàn chẳng có ǵ để đạt
được. V́ không có ǵ để
đạt được, cho nên mới có thể “không pháp ǵ mà chẳng đạt được”. Chẳng phải là đạt được cái này,
vứt bỏ cái kia. Đạt được viên măn th́ gọi
là “vô đắc”, nó mới khởi đại dụng
hiện tiền. Đó là kinh Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm, từ chứng đắc cái tướng
trọn đủ của Thể mà khởi đại dụng.
Đại dụng là sự nghiệp lợi ích chúng sanh,
trong lúc đó, tự lợi và lợi
tha đều trọn vẹn.
(Kinh)
Ngă tức vị thuyết tu hành nhất thiết thiện
pháp, tăng trưởng măn túc, sanh Như Lai sắc thân,
đắc vô lượng công đức thanh tịnh quả
báo.
(經)我即為說修行一切善法。增長滿足。生如來色身。得無量功德清淨果報。
(Kinh:
Ta liền v́ họ nói tu hành hết thảy các thiện
pháp, tăng trưởng trọn vẹn, sanh ra sắc thân
của Như Lai, đạt được quả báo vô
lượng công đức thanh tịnh).
Ta
nói tu hành hết thảy các thiện pháp; đấy là nói toàn bộ
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Địa Tạng
Vương Bồ Tát bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: Hết
thảy các thiện pháp như ta đă nói trước
đó, đều tăng trưởng trọn đủ,
quư vị hăy trọn vẹn các thiện pháp ấy. Tăng
trưởng thiện pháp th́ có hiện tướng (現相, tướng hiện
ra) là ǵ? Sanh ra sắc thân của Như Lai, đấy là
công đức hiện tướng, tức hiện tướng của hết thảy
các thiện pháp. Quư vị thấy sắc thân tướng hảo
của Phật; đó là tướng công đức. Quả
báo tướng công đức thanh tịnh ấy, bọn
chúng sanh chúng ta tuy sẵn đủ, nhưng chẳng tu tập.
Đó gọi là “tố Pháp Thân”, chẳng có công đức
và tướng hảo. Pháp Thân vốn sẵn có, nhưng vẫn
chẳng thừa nhận. Như rất nhiều đạo
hữu chúng ta, quư vị nói với họ “chúng ta và Phật
chẳng hai, chẳng khác”, họ chẳng thừa nhận,
họ nói “tôi nghiệp chướng rất nặng, tôi cùng
Phật chẳng hai, chẳng khác ư?” Người ta nói
đến cái quư vị sẵn có, chẳng phải là nói về
cái tu tập, có hàm nghĩa như thế đó!
(Kinh)
Như thị đẳng thuyết, linh ly khiếp nhược,
thị danh an ủy.
(經)如此等說。令離怯弱。是名安慰。
(Kinh:
Nói như thế đó, khiến cho họ ĺa khiếp
nhược. Đó gọi là “an ủi”).
Địa
Tạng Bồ Tát nói ta khéo nói như vậy, dùng đủ
mọi phương tiện thiện xảo để nói với
chúng sanh, khiến cho họ tin tưởng.
(Kinh)
Nhi ngă sở thuyết thậm thâm chi nghĩa, chân thật
tương ứng, vô hữu chư quá, dĩ ly
tương vi thuyết cố. Vân hà tri ly tương vi
tướng? Sở vị Như Lai Pháp Thân trung, tuy phục
vô hữu ngôn thuyết cảnh giới, ly tâm tưởng
niệm, phi không, phi bất không, năi chí vô nhất thiết
tướng, bất khả y ngôn thuyết thị, nhi cứ
Thế Đế huyễn hóa nhân duyên giả danh pháp trung,
tương đăi, tương đối, tắc khả
phương tiện hiển thị nhi thuyết, dĩ bỉ
Pháp Thân tánh thật vô phân biệt, ly tự tướng, ly
tha tướng, vô không, vô bất không, năi chí viễn ly nhất
thiết chư tướng cố, thuyết bỉ pháp thể
vi tất cánh không, vô sở hữu, dĩ ly tâm phân biệt,
tưởng niệm tắc tận, vô nhất tướng
nhi năng tự kiến, tự tri vi hữu. Thị cố, Không nghĩa quyết
định chân thật, tương ứng bất mậu.
(經)而我所說甚深之義。真實相應。無有諸過。以離相違說故。雲何知離相違相。所謂如來法身中。雖復無有言說境界。離心想念。非空。非不空。乃至無一切相。不可依言說示。而據世諦幻化因緣假名法中。相待相對。則可方便顯示而說。以彼法身性。實無分別。離自相。離他相。無空。無不空。乃至遠離一切諸相故。說彼法體為畢竟空無所有。以離心分別。想念則盡。無一相而能自見。自知為有。是故空義決定真實。相應不謬。
(Kinh:
Nhưng nghĩa rất sâu do ta đă nói, chân thật
tương ứng, không có các lỗi, do ĺa chẳng mâu thuẫn mà nói. V́ sao biết là nói ĺa mâu thuẫn? Chính là trong Pháp Thân của
Như Lai, tuy lại chẳng có cảnh giới ngôn thuyết,
ĺa tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng
phải bất không, cho đến chẳng có hết thảy
các tướng, chẳng thể dựa trên ngôn
thuyết để diễn tả, chỉ bày,
căn cứ theo các pháp giả danh thuộc nhân duyên huyễn
hóa đối đăi với nhau trong Thế Đế, bèn
có thể phương tiện hiển thị để
nói. Do tánh của Pháp Thân thật sự chẳng phân biệt,
ĺa tự tướng, ĺa tha tướng, chẳng phải
là Không, chẳng phải là Bất Không, cho đến do xa
ĺa hết thảy các tướng, mà nói pháp thể ấy là rốt ráo không, vô sở hữu. Do ĺa tâm phân biệt,
sự suy tưởng, nghĩ ngợi bèn chấm dứt,
chẳng có một tướng để có thể tự
thấy, hoặc tự
biết là có. V́ thế, nghĩa Không quyết định là
chân thật, tương ứng chẳng lầm).
Nhưng
nghĩa rất sâu mà ta đă nói là
chân thật, tương ứng, chẳng có lầm lỗi,
chẳng có các khuyết điểm, ĺa mâu thuẫn
mà nói. Ta nói chẳng hề mâu thuẫn với tánh thể,
đă ĺa mâu thuẫn. “Ĺa mâu thuẫn” là ǵ? Nói tới Pháp Thân của Như Lai, tuy chẳng
có cảnh giới ngôn thuyết, ĺa tâm tưởng niệm,
chẳng phải không, chẳng phải bất không, cho
đến chẳng có hết thảy các tướng, chẳng
thể dựa vào ngôn thuyết để hiển thị, dựa
theo các pháp giả danh thuộc về nhân duyên huyễn hóa đối đăi lẫn nhau trong
Thế Đế để nói, nói như thế đó. Nói
tới cái tướng chân thật ấy, vốn chẳng
có ngôn thuyết, nhưng phải
nương vào ngôn thuyết để hiển thị. Không
có ngôn thuyết th́ hiển thị bằng cách nào? Chúng sanh làm sao lư giải được? Do vậy, phải
nhờ vào ngôn thuyết. Ngôn thuyết là giả, nhằm
để nêu bày. Tôi vừa mới nói với mọi người,
nói “lửa” th́ đó chẳng phải là lửa. Nếu “lửa”
được nói đó là lửa thật sự, nó sẽ
đốt cháy quư vị. Đó là cậy vào ngôn thuyết để
hiển thị. Nếu chẳng nói “lửa” với quư vị,
quư vị chẳng biết lửa là nóng, có ư nghĩa “có thể
đốt cháy”. Nói “nước”, nói “lửa”, nói Không, nói Giả,
tức là dùng ngôn ngữ để biểu đạt, khiến
cho quư vị lănh hội ư nghĩa.
Hết
thảy các pháp, ư tưởng trong tâm, duyên niệm th́ chẳng
thể duyên niệm được. V́ cái tâm của chúng ta
là tâm vọng tưởng, càng niệm càng sai, càng niệm
càng xa. Nói Không hay nói Bất Không với quư vị, nhằm
biểu đạt mà thôi, ḥng khiến cho quư vị lănh hội
ư nghĩa ở ngoài lời lẽ. Cho đến chẳng
có hết thảy các tướng, chẳng thể dùng ngôn
thuyết để hiển thị, dựa trên sự đối
đăi trong các pháp giả danh thuộc về nhân duyên biến
hóa của Thế Đế, đều là giả lập đối
đăi lẫn nhau mà nói như thế. V́ sao? V́ hiển thị
chân nghĩa của pháp. Chẳng nói như thế, làm sao
chúng ta có thể lănh hội phần nào được?
Đều là nhân duyên ḥa hợp. Hết thảy các pháp thuộc
vào nhân duyên đều là giả, là không, ĺa khỏi nhân, ĺa khỏi
duyên, chúng sẽ chẳng có. Do đó, trong các kinh khác, đức
Phật đă dạy: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết
tức thị Không, diệc danh Trung Đạo nghĩa” (pháp
sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là Không, cũng là nghĩa Trung
Đạo). Nay chúng ta đang nói về nghĩa Trung Đạo,
nhưng cũng có thể nói nghĩa Trung Đạo là giả
danh. Lập ra một giả danh để biểu thị
đôi chút, tức là nói “Trung Đạo chẳng phải
là Trung Đạo”, nói “Không chẳng phải là Không”,
phải hiểu hàm nghĩa này. V́ đấy là dựa theo
Thế Đế để nói pháp thế gian. Pháp thế
gian trọn đủ Lư Đế là Lư; nghĩa lư chân thật
của thế gian dựa vào đấy để hiển
thị những ǵ đă nói, nhưng hết thảy các pháp
đều chẳng phải là chân thật, mà là huyễn
hóa. Tôi vừa mới nói với đại chúng, nhắc
đến “lửa”. Nếu đó là lửa thật sự
th́ nó sẽ thiêu đốt quư vị. Đấy một từ
ngữ để biểu thị, nói “lửa” nhằm biểu
thị, hoàn toàn chẳng phải là lửa [thật sự].
Nhưng vừa nói tới “lửa”, quư vị liền
nghĩ ngay tới thiêu đốt, lửa là nóng, khiến
cho quư vị có thể lư giải là được rồi!
Nói sanh tử, nói Niết Bàn, khiến cho quư vị có thể
hiểu rơ sanh tử là huyễn hóa, Niết Bàn là “bất sanh, bất tử”, mà cũng là “bất sanh, bất diệt”. Đó là chân thật.
Chẳng
có cách nào biểu đạt tánh của hết thảy các
Pháp Thân. Nó chẳng phải là phân biệt, ngôn ngữ chẳng
thể biểu đạt được! Nhưng nếu
chẳng có cái để nói, làm sao có thể so sánh cho
được? Do vậy, nói tới Pháp Thân và nhục thân; nay chúng ta là nhục thân, là thân huyễn hóa, là thân hư vọng,
nhưng cái thân hư vọng ấy có Pháp Thân, Pháp Thân trọn
khắp hết thảy mọi nơi. Nếu dùng tánh thể
của Pháp Thân để nói, thật sự là chẳng có
phân biệt, chẳng có ngôn thuyết. Chẳng nói th́ chúng
sanh có thể lănh hội bằng cách nào? Dựa vào ngôn thuyết
để hiển thị mà thôi! Tự thể của Pháp
Thân chẳng có tướng, mà cũng chẳng có tướng nào khác, lấy ǵ để
hiển thị? Nói Không, bất không, chẳng có tướng Không, mà cũng chẳng có
tướng Bất Không, cho đến xa ĺa hết thảy các tướng. Pháp Thân vô tướng, Pháp Thân có h́nh dạng ǵ vậy?
Chẳng có! Pháp Thân vô tướng, v́ nó xa ĺa hết thảy
các tướng. Suy tưởng đều chẳng
đúng. Pháp Thân chẳng thể duyên niệm, quư vị
cũng vốn sẵn có Pháp Thân.
Chẳng
có một tướng để tự thấy,
tự biết là có. Chẳng có một tướng nào tự
biết chính ḿnh đă thấy “cái này là có” hoặc “cái kia chẳng
đúng”, chẳng thể được. Do vậy, nói nghĩa
Không quyết định là chân thật, tương ứng
chẳng sai lầm. V́ thế, thêm vào Không để
hiển lộ: Nghĩa Không quyết
định là chân thật, chẳng phải là hư giả,
chẳng không, chẳng khác, chẳng sai lầm!
(Kinh)
Phục thứ, tức bỉ Không nghĩa trung, dĩ ly
phân biệt, vọng tưởng, tâm niệm cố, tắc
tận tất cánh vô hữu nhất tướng nhi khả
Không giả. Dĩ duy hữu chân thật cố, tức vi bất
không. Sở vị ly thức tưởng cố, vô hữu
nhất thiết hư ngụy chi tướng, tất cánh
thường hằng, bất biến, bất dị, dĩ
cánh vô nhất tướng khả hoại, khả diệt,
ly tăng giảm cố. Hựu bỉ vô phân biệt thật
thể chi xứ, tùng vô thỉ thế lai, cụ vô lượng
công đức tự nhiên chi nghiệp, thành tựu
tương ứng, bất ly, bất thoát cố, thuyết
vi bất không.
(經)復次。即彼空義中。以離分別妄想心念故。則盡畢竟無有一相而可空者。以唯有真實故。即為不空。所謂離識想故。無有一切虛偽之相。畢竟常恆。不變不異。以更無一相可壞可滅。離增減故。又彼無分別實體之處。從無始世來。具無量功德自然之業。成就相應。不離不脫故。說為不空。
(Kinh: Lại
nữa, từ ngay trong cái nghĩa Không ấy, do ĺa tâm niệm
phân biệt, vọng tưởng, cho nên trọn hết rốt
ráo chẳng có một tướng để có thể Không.
Do chỉ có chân thật, nên chính là Bất Không. Tức là do
ĺa thức tưởng, chẳng có hết thảy các
tướng hư ngụy, rốt ráo thường hằng,
chẳng biến đổi, chẳng khác. Do chẳng có một
tướng để có thể hoại hay có thể diệt,
v́ ĺa tăng giảm. Lại nữa, trong chỗ thật thể
vô phân biệt đó, từ đời vô thỉ đến
nay, trọn đủ vô lượng nghiệp công đức
tự nhiên, thành tựu tương ứng. Do chẳng rời,
chẳng thoát, nên nói là Bất Không).
“Phục
thứ”, tức [từ ngữ mở đầu] để
Địa Tạng Vương Bồ Tát giải thích cao
hơn một bước nữa. Trên đây, quư vị vừa
mới nói Không, nay lại nói Bất Không. Nghĩa lư Không là
ǵ vậy? Chính là trong cái nghĩa Không ấy, nói theo đạo
lư Không, cái Không ấy ĺa khỏi phân biệt, ĺa khỏi
vọng tưởng, ĺa khỏi tâm niệm. Phàm là tâm niệm
vọng tưởng, phân biệt, th́ toàn bộ
đều chẳng đúng, cái Không ấy chẳng đúng.
Địa Tạng Bồ Tát nói: Nói chân thật rốt ráo
th́ chẳng có một tướng để có thể Không,
v́ chỉ có chân thật tức là Bất Không. [Nếu chấp
trước] Không, sẽ đọa
lạc trong đoạn diệt. [Chấp vào] Bất Không, bèn đọa lạc
trong tam hữu (tam giới). Do vậy, phương diện
nào cũng đều chẳng thể chấp trước!
Nhưng chẳng nói Không, chẳng nói Bất Không, vậy
th́ sẽ hiển lộ pháp bằng cách nào? Pháp ấy chẳng
hiển lộ được. Những điều đó
đều là giả ngôn thuyết, giả danh tự, ngàn vạn
phần chớ nên chấp trước! Hăy rời ĺa tướng
tâm duyên, rời ĺa tướng phân biệt, rời ĺa
tướng ngôn thuyết. Hễ phân biệt, duyên niệm,
sẽ hoàn toàn chẳng đạt được Chân
Như, chẳng hề thấy, mà cũng chẳng thấy
được nghĩa Không. [Chúng sanh chấp trước]
“Không là đoạn diệt”, đoạt diệt th́ c̣n
tu chi nữa? Bất Không là có. Nếu nói Bất Không th́
chúng sanh chấp trước: “Bất Không tức
là có, vậy th́ thân thể của ta cũng là chân thật,
gia đ́nh của ta cũng là chân thật”. Họ lại
chấp trước Hữu! Vậy th́ phải trừ khử
chấp trước của chúng sanh. V́ bọn chúng sanh chúng
ta dựa vào cái tâm ư thức, do tám thức duyên niệm, những
điều đó đều là tướng hư ngụy.
[Pháp Thân] chân thật, chẳng biến đổi, chẳng
khác, chẳng có một tướng để có thể hoại
hay diệt, chẳng có tăng, mà cũng chẳng có giảm.
Lại
nữa, [nói tới] “chỗ thật thể vô phân biệt”
tức là nói tới Pháp Thân. Trong phần trước đă
nói về thật thể của Pháp Thân: Từ vô thỉ
đến nay, nó tự trọn đủ, bên trong th́ đầy
đủ vô lượng công đức, là tự nhiên, chẳng
nhờ vào tu tập, chẳng nhờ vào tạo tác mà thành tựu,
tương ứng. Nói “tương ứng” th́ có
nghĩa là “phù hợp khít khao”. Ly th́ cũng chẳng
ĺa thoát được. Bất ly, bất thoát, tách ĺa chẳng
đúng, mà không tách ĺa cũng chẳng đúng. Đó chính là “bất
tức, bất ly, bất ly, bất thoát”, Bất Không
được diễn tả như thế đó.
(Kinh)
Như thị thật thể công đức chi tụ, nhất
thiết chúng sanh tuy phục hữu chi, đản vị vô
minh ế phú chướng cố, nhi bất tri kiến, bất
năng khắc hoạch công đức lợi ích, dữ vô
mạc dị thuyết danh vị hữu, dĩ bất tri
kiến bỉ pháp thể sở hữu công đức lợi
ích chi nghiệp, phi bỉ chúng sanh sở năng thọ dụng,
bất danh thuộc bỉ. Duy y biến tu nhất thiết
thiện pháp đối trị chư chướng, kiến
bỉ Pháp Thân. Nhiên hậu năi hoạch công đức, lợi
ích. Thị cố thuyết tu nhất thiết thiện
pháp, sanh Như Lai sắc thân.
(經)如是實體功德之聚。一切眾生雖復有之。但為無明曀覆障故。而不知見不能克獲功德利益。與無莫異說名未有。以不知見彼法體所有功德利益之業。非彼眾生所能受用。不名屬彼。唯依遍修一切善法對治諸障。見彼法身。然后乃獲功德利益。是故說修一切善法。生如來色身。
(Kinh:
Khối công đức thật thể như thế, hết
thảy chúng sanh tuy cũng có, nhưng v́ vô minh che lấp,
chướng ngại, cho nên chẳng thấy biết, chẳng
thể đạt được công đức, lợi ích,
chẳng khác ǵ không có, cho nên nói là “chưa có”. Do chẳng thấy
biết tất cả các nghiệp công đức và lợi
ích của pháp thể ấy, các chúng sanh đó chẳng thể
thọ dụng, [các nghiệp công đức và lợi ích ấy]
chẳng gọi là thuộc về họ. Chỉ dựa vào
tu trọn khắp hết thảy các thiện pháp để
đối trị các chướng ḥng thấy Pháp Thân ấy.
Sau đó, sẽ đạt được công đức,
lợi ích. V́ thế, nói “tu hết thảy các thiện pháp,
sanh ra sắc thân của Như Lai”).
Khối
công đức thật thể như thế, hết thảy
chúng sanh tuy cũng có, nhưng bị vô minh che lấp,
chướng ngại, cho nên chẳng thấy biết. Chúng
sanh đều trọn đủ Pháp Thân, v́ sao Pháp Thân không
thể hiển hiện? Do v́ tri kiến phát xuất từ
vô minh, phiền năo, cho nên bị chướng lấp, dẫu
nh́n cũng chẳng thấy, dẫu nghĩ cũng chẳng
nghĩ ra. Vậy th́ phải tu, phải tiêu trừ các
chướng ngại ấy. Nhưng đối với
chúng ta mà nói, Pháp Thân tuy trọn đủ mà chẳng có. [Bởi lẽ], tuy Pháp Thân trọn
đủ, ai nấy đều có trọn đủ Pháp
Thân, nhưng ai nấy đều chẳng thể hiển
hiện, như thế th́ nói là “chẳng có”. Do chẳng thấy
biết pháp thể của Pháp Thân, bởi có nh́n cũng chẳng
thấy, có nghĩ cũng chẳng suy nghĩ được,
tư duy th́ cũng suy nghĩ chẳng ra, nhưng nó có thể
tạo các nghiệp công đức và lợi ích cho hết
thảy chúng sanh, có tác dụng ấy. Mỗi cá nhân chúng ta
đều nương vào Pháp Thân để tu tập ḥng
tăng tấn, tu tập ḥng khôi phục Pháp Thân. Nó làm
căn bản cho hết thảy các thiện pháp, làm bản
thể cho hết thảy các thiện pháp. Điều
đó có nghĩa là chúng ta hành Bồ Tát đạo, lợi
ích hết thảy chúng sanh; đó là thiện pháp lớn nhất.
Khi quư vị lợi ích chúng sanh, phát Bồ Đề tâm,
đó chính là ḥa hợp với pháp thể. V́ đă phát Bồ
Đề tâm, sẽ có thể chứng đắc cái Thể
của Pháp Thân. Phát Bồ Đề tâm là [phát khởi] giác
tâm. Chúng ta chẳng thể giữ vững giác tâm ấy,
phát rồi lại mê, mê rồi lại phát, tuy đă phát rồi
lại mê! Giả sử bất thoái, như trong phần
trước chúng tôi đă nói “được dự vào
Tín vị”, từ Tín mà nhập Sơ Trụ, tức là
địa vị bất thoái. Vậy th́ tín tâm của quư vị
chẳng c̣n lui sụt nữa, đấy mới là chân thật.
Điều
này được nói rất rơ ràng: Chúng ta đă tự trọn
đủ công đức thật thể nơi Tín, nhưng v́ bị vô minh chướng ngại mà chẳng
thể đạt được, giống như bị mất
đi, thật sự chẳng hề bị mất đi,
mà là bị vô minh chướng ngại. Nhưng nó cũng chẳng
phải là vĩnh viễn mất đi! Khi quư vị phát
tâm, nó dường như lại được khôi phục,
lại phát khởi ra. Quư vị chẳng phát tâm, hoàn toàn bị
vô minh mê muội, tức là đối với bản thể
của Pháp Thân, do chúng ta chẳng học Phật, chẳng
biết bản thể của Pháp Thân. Khi chúng ta đă học
Phật, học giáo nghĩa Đại Thừa, mới hiểu rơ bản thể
của Pháp Thân. Cũng tức là chúng ta làm hết thảy
các công đức, làm hết thảy sự nghiệp, tu
hành hết thảy các thiện pháp, chúng ta sẽ có thể
được thọ dụng. Hết thảy chúng sanh
đều có thể đạt được. Thiện
tâm của quư vị sanh khởi th́ vẫn là từ Pháp Thân mà sanh khởi. V́ nội
tâm quư vị đă sẵn có, đă có loại căn bản
này th́ mới có thể sanh ra các thiện pháp. Thiện pháp
đă sanh khởi, th́ do thiện đă sanh, ác bèn tiêu diệt.
Tuy chúng ta chẳng thể thọ dụng công đức của
Pháp Thân, nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng đánh mất, vẫn
trọn đủ. Do vậy, phải tu trọn khắp hết
thảy các thiện pháp. Thiện pháp là nói đối ứng
với ác pháp, nói theo các chướng ngại nơi Pháp Thân
của quư vị. Quư vị tu hết thảy các thiện
pháp, khiến cho Pháp Thân của quư vị hiện ra một
lần nữa, ḥng đối trị các chướng ngại
ấy. Hễ chẳng có chướng ngại, chẳng có
ǵ che lấp, ngăn chướng, quư vị sẽ có thể
dần dần thấy Pháp Thân.
Dự
vào ngôi Sơ Trụ, chính là tương tự thấy Pháp
Thân, chẳng phải là chân thật. Vị ấy (Sơ Trụ
Bồ Tát) đă hiểu rơ, nhưng chẳng chứng đắc.
Ắt cần phải đợi cho tới khi thật sự chứng
đắc Sơ Địa, vượt khỏi địa
vị Tam Hiền Bồ Tát. Chúng ta hiện thời là cái tâm
hân nhạo (vui thích). Chúng ta phải phát Bồ Đề
tâm, mọi người trước hết phải phát Bồ
Đề tâm, phát sanh giác tâm ấy. Giác tâm ấy do đâu
mà có? Vẫn là sanh từ Pháp Thân mà chính ḿnh vốn sẵn
có. Do cái tâm giác ngộ ấy, dần dần
tu hành, rèn giũa. Rèn giũa để tỏ lộ quang
minh vốn sẵn có, [tức là] rèn giũa khiến cho quang
minh vốn có của Pháp Thân thấu lộ. Do vậy, phải
tu hết thảy các thiện pháp. Đồng thời, chúng
ta phải tu thành Phật, độ chúng sanh, ắt cần phải có sắc thân, tức là
đạt được tướng hảo. Có Phật
Báo Thân, có Phật Hóa Thân. Hóa Thân là do Báo Thân mà ra. Tu hành hết
thảy các thiện nghiệp là Báo Thân của Phật, v́
Báo Thân có thể ḥa hợp với Pháp Thân, sẽ là ba thân
Pháp, Báo, Hóa. Nay chúng ta là Hóa Thân, tức là nghiệp
chướng Hóa Thân, chẳng phải là công đức Hóa
Thân; nhưng chúng ta chuyển biến nghiệp chướng
Hóa Thân thành công đức Hóa Thân. Công đức Hóa Thân do từ
Báo Thân mà đạt được. V́ thế, nay chúng ta
phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, khiến
cho chúng ta tu thành công Báo Đức Pháp Thân.
(Kinh)
Thiện nam tử! Như ngă sở thuyết thậm thâm
chi nghĩa, quyết định chân thật, ly tương
vi quá, đương như thị tri.
(經)善男子。如我所說甚深之義。決定真實。離相違過。當如是知。
(Kinh:
Này thiện nam tử! Như nghĩa rất sâu mà ta đă
nói, quyết định chân thật, ĺa lỗi mâu thuẫn,
hăy nên biết như thế).
Ĺa
hết thảy các tướng,
đừng nên chấp trước. Hễ chấp trước
tướng, sẽ chẳng chân thật. Phải chân thật,
phải ĺa tướng, ǵn giữ như vậy th́ sẽ
giác ngộ như thế đó.
(Kinh)
Nhĩ thời, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát thuyết
như thử đẳng thù thắng phương tiện
thâm yếu pháp môn thời, hữu thập vạn ức
chúng sanh phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
tâm, trụ kiên tín vị. Phục hữu cửu vạn bát thiên Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp
Nhẫn. Nhất thiết đại chúng, các dĩ thiên diệu
hương hoa cúng dường ư Phật, cập Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
(經)爾時地藏菩薩摩訶薩說如此等殊勝方便深要法門時。有十萬億眾生發阿耨多羅三藐三菩提心。住堅信位。復有九萬八千菩薩得無生法忍。一切大眾。各以天妙香華供養於佛及地藏菩薩摩訶薩。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, khi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát
nói pháp môn sâu xa, trọng yếu về phương tiện
thù thắng như thế, có mười vạn ức chúng
sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trụ
trong địa vị Kiên Tín. Lại có chín vạn tám ngàn Bồ
Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hết thảy đại
chúng đều dùng hương hoa mầu nhiệm của
cơi trời để cúng dường đức Phật và
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát).
Lúc
bấy giờ, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nói pháp
môn sâu xa, trọng yếu về phương tiện thù thắng
như thế, có mười vạn ức chúng sanh phát tâm
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mong thành Phật
bèn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trụ
địa vị Kiên Tín, dự vào Sơ Trụ, Thập
Tín viên măn; khi đó, tín tâm trọn đủ, dự vào
địa vị Kiên Tín. Kiên tín th́ sẽ chẳng lui sụt,
dự vào địa vị Sơ Trụ. Lại có chín vạn
tám ngàn Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, hết thảy
đại chúng đều dùng hương hoa mầu nhiệm
cơi trời để cúng dường Phật và Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Kinh)
Nhĩ thời, Phật cáo chư đại chúng ngôn: “Nhữ
đẳng các các ưng đương thọ tŕ thử pháp
môn, tùy sở trụ xứ, quảng linh lưu bố. Sở
dĩ giả hà? Như thử pháp môn, thậm vi nan trị,
năng đại lợi ích. Nhược nhân đắc
văn bỉ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát danh hiệu,
cập tín kỳ sở thuyết giả, đương
tri thị nhân tốc năng đắc ly nhất thiết
sở hữu chư chướng ngại sự, tật
chí vô thượng đạo”. Ư thị, đại
chúng giai đồng phát ngôn: “Ngă đương thọ tŕ,
lưu bố thế gian, bất cảm linh vong”. Nhĩ thời,
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật ngôn: “Thế
Tôn! Như thị sở thuyết Lục Căn Tụ
Tu-đa-la trung, danh hà pháp môn? Thử pháp chân yếu, ngă
đương thọ tŕ, linh mạt thế trung, phổ
giai đắc văn”.
(經)爾時佛告諸大眾言。汝等各各應當受持此法門。隨所住處。廣令流布。所以者何。如此法門。甚為難值。能大利益。若人得聞彼地藏菩薩摩訶薩名號。及信其所說者。當知是人速能得離一切所有諸障礙事。疾至無上道。於是大眾皆同發言。我當受持流布世間。不敢令忘。爾時堅淨信菩薩摩訶薩白佛言。世尊。如是所說六根聚修多羅中。名何法門。此法真要。我當受持。令末世中普皆得聞。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các đại
chúng rằng: “Các ông ai nấy đều phải nên thọ
tŕ pháp môn này, tùy theo chỗ ḿnh ở mà lưu truyền rộng
răi. V́ cớ sao vậy? Pháp môn như thế rất khó gặp
gỡ, có thể tạo lợi ích to lớn. Nếu người
nào được nghe danh hiệu của Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát và tin lời Ngài dạy, hăy nên biết
người ấy có thể mau chóng ĺa khỏi hết thảy
tất cả các sự chướng ngại, mau chóng đạt
đến vô thượng đạo”. Khi đó, đại
chúng đều cùng lên tiếng: “Con sẽ thọ tŕ,
lưu truyền trong thế gian, chẳng dám quên mất”. Lúc
bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát Ma Ha Tát bạch cùng
đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kinh
Tu-đa-la nói về Lục Căn Tụ như thế có
tên là pháp môn ǵ? Pháp này thật sự trọng yếu, con sẽ
thọ tŕ, khiến cho trong đời mạt đều
được nghe trọn khắp”).
Lúc
bấy giờ, Kiên Tịnh Tín Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Trong Tu-đa-la giảng về Lục
Căn Tụ như thế”, tức nói về pháp môn này.
Tu-đa-la (Sūtra) là Khế Kinh,
do phù hợp với tâm lư của chúng sanh, phù hợp diệu
pháp của chư Phật [nên gọi là Khế
Kinh], “danh hà pháp môn” nghĩa là kinh
này có tên gọi là ǵ? Con nên thọ tŕ
như thế nào, khiến cho chúng sanh trong đời Mạt
Pháp đều có thể được nghe.
(Kinh) Phật cáo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Thử
pháp môn danh vi Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, diệc danh
Tiêu Trừ Chư Chướng Tăng Trưởng Tịnh
Tín, diệc danh Khai Thị Cầu Hướng Đại
Thừa Giả Tấn Thú Phương Tiện Hiển Xuất
Thậm Thâm Cứu Cánh Thật Nghĩa, diệc danh Thiện
An Ủy Thuyết Linh Ly Khiếp Nhược, Tốc Nhập
Kiên Tín Quyết Định Pháp Môn. Y như thị danh nghĩa,
nhữ đương thọ tŕ”. Phật thuyết thử
pháp môn dĩ, nhất thiết đại hội tất
giai hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
(經)佛告堅淨信菩薩。此法門名為佔察善惡業報。亦名消除諸障增長淨信。亦名開示求向大乘者進趣方便顯出甚深究竟實義。亦名善安慰說。令離怯弱。速入堅信決定法門。依如是名義。汝當受持。佛說此法門已。一切大會悉皆歡喜。信受奉行。
(Kinh:
Đức Phật bảo Kiên Tịnh Tín Bồ Tát: “Pháp môn
này tên là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, cũng tên là Tiêu Trừ
Các Chướng, Tăng Trưởng Tịnh Tín. Cũng
tên là Khai Thị Cho Người Mong Cầu Hướng
Đến Đại Thừa Phương Tiện Để
Tiến Nhập, Hiển Lộ Thật
Nghĩa Rốt Ráo Rất Sâu. C̣n gọi là Pháp Môn Khéo Nói An Ủi
Khiến Ĺa Khiếp Nhược, Mau Chóng Nhập Niềm
Tin Quyết Định Kiên Cố. Nương theo danh
nghĩa như thế, các ông hăy nên thọ tŕ”. Đức
Phật nói pháp môn này xong, hết thảy đại hội
đều cùng hoan hỷ, tin nhận, phụng hành).
Chúng tôi đă giới
thiệu đơn giản kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo xong. Trong khi giảng, trong khi tôi giải nói, mọi
người sanh tịnh tín, xin đem công đức ấy
hồi hướng cho hết thảy chúng sanh trong thế
giới hiện tiền, khiến cho họ miễn trừ
tai nạn. Nếu tôi nói có chỗ nào sai lầm, xin hướng
về mọi người sám hối. Tôi nói không nhất
định toàn bộ đều đúng; có chỗ nào không
đúng, đều xin sám hối.
Lược giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần 5 hết
[1] Một dặm Tàu (Hoa
Lư) bằng nửa cây số hiện thời. Tương truyền, Lư do Hiên Viên Hoàng Đế chế ra,
và được vua Đại Vũ nhà Hạ chuẩn định. Từ một Lư bằng
405 mét thời nhà Hạ, trải
qua các đời, Lư dài ngắn khác nhau. Đời Đường
chỉ c̣n 323 mét, đến đời Thanh th́ dao động
từ 537 cho đến 645 mét. Từ năm 1984, trở
đi, chánh quyền Hoa Lục quy định một dặm
Tàu là nửa km.
[2]
Thần lâu (蜃樓): Cổ nhân tin
ở ngoài biển có một loài ṣ lớn (Thần, 蜃),
hơi thở của chúng sẽ tạo thành các lầu gác
trên mặt biển. “Hải thị thần lâu” là
từ ngữ để chỉ chung các huyễn cảnh do
khúc xạ ánh sáng. Thậm chí các ảo ảnh như
những vũng nước đọng trên mặt
đường nhựa khi trời nắng gắt cũng
được gọi là “hải thị thần lâu”
hay “dương diệm”.
[3]
Hoa Đà (華陀,
không rơ năm sinh-208), tự là Nguyên Hóa, quê ở huyện
Tiêu, nước Bái thời Đông Hán, là một thầy thuốc
nổi tiếng. Ông cùng với Đổng Phụng và
Trương Trọng Cảnh được hậu
thế xưng tụng là Kiến An Tam Thần Y. Hoa Đà cùng
với Biển Thước, Trương Trọng Cảnh
và Lư Thời Trân, được xưng tụng là tứ
đại danh y của cổ y học Trung Hoa. Về sau,
Tào Tháo do thường bị nhức đầu, đă ép
ông phải làm thầy thuốc riêng cho ḿnh. Do không thích
luồn lọt quyền quư, bị ép bức làm thủ
hạ của Tào Tháo, lại xa quê khá lâu, ông lấy cớ
nhận được thư nhà, xin về thăm quê. Sau
đó, ông cáo bệnh không trở lại. Sau nhiều
lần gọi trở lại mà không được, Tào Tháo
nổi giận, hạ lệnh bắt ông giam cầm trong
ngục. Trong ngục, ông chép lại kiến thức về
y dược của ḿnh thành bộ Thanh Nang Thư tặng
cho người coi ngục để cảm ơn sự
hậu đăi của người ấy, nhưng
người đó sợ oai Tào Tháo đă cự tuyệt
không nhận, ông bèn đốt bỏ tác phẩm ấy.
Về sau, ông chết trong ngục. Đệ tử chân
truyền của ông là Ngô Phổ và Phàn
A. Tương truyền, Phàn A do được Hoa Đà
dạy cho thuật châm cứu và phương thuốc Tất
Diệp Thanh Niêm Tán, nên sống hơn trăm tuổi mà
vẫn mạnh khỏe, tóc không bạc, nhưng toa
thuốc ấy đă thất truyền. Tương
truyền Hoa Đà tinh thông nhiều môn y thuật, dùng thuốc
rất ít mà công hiệu nhanh lẹ. Ông lại không
cần dùng cân mà chỉ dùng tay bốc thuốc vẫn đúng
cân lượng. Căn cứ theo ghi chép, ông đă biết
sử dụng dược liệu hoặc hơ lửa
để sát trùng, chế ra loại rượu gọi là
Ma Phí Tán để gây tê khi cần mổ xẻ. Ông c̣n
dựa theo cử chỉ của cọp, gấu, nai,
vượn và chim để chế ra Ngũ Cầm Hư
như một bài tập dưỡng sinh.
[4] Theo từ điển
Phật Quang Sơn, thứ tự của Thập Bát Không (Astādaśa Śūnyatāh) hơi
khác:
1) Nội Không (Adhyātma-śūnyatā): Sáu nội
xứ thuộc sáu căn đều là vô ngă, vô ngă sở, chẳng
có các pháp như Nhăn, Nhĩ v.v...
2) Ngoại Không (Bahirdhā-śūnyatā): Ngoại xứ
của sáu trần cũng là vô ngă, vô ngă sở,
chẳng có các pháp như Sắc, Thanh v.v…
3) Nội
Ngoại Không (Adhyātma-bahirdhā-śūnyatā): Sáu căn và
sáu cảnh, tức mười hai xứ đều vô ngă, vô
ngă sở, và
cũng chẳng có các pháp ấy.
4) Không Không
(Śūnyatā-śūnyatā): Chẳng chấp
trước ba loại Không trên đây.
5) Đại
Không (Mahā-śūnyatā): Trong mười
phương thế giới, vốn không có một phương
hướng nhất định, đây hay kia.
6) Đệ
Nhất Nghĩa Không (Paramārtha-śūnyatā): C̣n gọi
là Thắng Nghĩa Không, Chân Thật Không, tức là ĺa các
ngoại pháp, sẽ chẳng có tướng Đệ Nhất
Nghĩa Thật Tướng để có thể đạt
được, chẳng chấp
trước Thật Tướng.
7) Hữu
Vi Không (Sajskrta-śūnyatā): Các pháp tập khởi do nhân
duyên và tướng của các pháp nhân duyên đều chẳng
thể đạt được.
8) Vô Vi Không
(Asajskrta-śūnyatā): Ĺa rời sự chấp giữ
đối với Niết Bàn.
9) Tất
Cánh Không (Atyanta-śūnyatā): C̣n gọi là Chí Cánh Không, tức
là dùng Hữu Vi Không và Vô Vi Không để phá hết thảy
các pháp, rốt ráo chẳng c̣n sót thừa.
10) Vô Thỉ
Không (Anavarāgra-śūnyatā): C̣n gọi là Vô Hạn
Không, Vô Tế Không, Vô Tiền Hậu Không, tức là hết
thảy các pháp tuy sanh khởi từ vô thỉ, nhưng xả
ĺa việc chấp tướng đối với pháp ấy.
11) Tán Không
(Anavakāra-śūnyatā): C̣n gọi là Tán Vô Tán Không, Bất
Xả Không, Bất Xả Ly Không, tức là các pháp chỉ do
ḥa hợp mà giả có, cho nên rốt cuộc sẽ là tướng
biệt ly, tan diệt, vô sở hữu.
12) Tánh Không
(Prakrti-śūnyatā): C̣n gọi là
Bổn Tánh Không, Phật Tánh Không, tức là tự tánh Không của
các pháp.
13) Tự
Tướng Không (Svalaksana-śūnyatā): C̣n gọi là Tự
Cộng Tướng Không, Tướng Không, tức các tướng
đồng, dị, tổng, biệt của các pháp đều
chẳng thể được.
14) Chư
Pháp Không (Sarva-dharma-śūnyatā): C̣n gọi là Nhất
Thiết Pháp Không, tức là đối với các pháp thuộc
Uẩn, Xứ, Giới, tự tướng bất định,
ĺa chấp giữ tướng.
15) Bất
Khả Đắc Không (Anupalambha-śūnyatā):
C̣n gọi Vô Sở Hữu Không, tức là trong các pháp nhân
duyên, cầu Ngă và Pháp đều chẳng thể được.
16) Vô Pháp
Không (Abhāva-śūnyatā): C̣n gọi là Vô Tánh Không, Phi Hữu Không,
tức các pháp nếu đă hoại diệt, sẽ chẳng
có tự tánh để có thể đạt được,
pháp vị lai cũng như thế.
17) Hữu
Pháp Không (Svabhāva-śūnyata): C̣n gọi là Tự Tánh Không
hoặc Phi Hữu Tánh Không, tức các pháp chỉ do nhân duyên
mà có, nên cái Có trong hiện tại chẳng phải là thật
sự có.
18) Vô Pháp Hữu
Pháp Không (Abhāva-svabhāva-śūnyatā): C̣n gọi là
Vô Tánh Tự Tánh Không. Món Không này bao hàm hết thảy các pháp
sanh diệt và vô vi trong ba đời, hết thảy đều
chẳng thể được!
Đó là danh
hiệu của các món Không dựa theo các kinh Đại Phẩm
Bát Nhă, Phóng Quang Bát Nhă, Quan Tánh Bát Nhă, Đại Bát Nhă Kinh, và kinh Nhân
Vương Hộ Quốc Bát Nhă Ba La Mật Đa. Các kinh
luận khác do gộp vào hay tách ra các món Không ấy mà thành ra Thập Tam Không, Thập Tứ
Không, Thập Lục Không, Nhị Thập Nhất Không v.v…
[5] Lăo ḥa thượng Thọ Dă (1908-2001) là một vị cao tăng đương đại, quê ở
huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô, họ ngoài đời là
Viên. Năm 1928, Ngài y chỉ ḥa thượng Đức Tùng chùa Phổ Tế ở Thượng
Hải để xuất gia. Năm sau, do giải hạnh tinh nghiêm, được
đặc cách thọ Cụ Túc Giới tại chùa Bảo
Hoa ở Nam Kinh. Sau đấy, Ngài đến chùa Thiên Ninh
ở Thường Châu tham học, cũng như tu
Thiền tại chùa Kim Sơn ở Trấn Giang. Năm
1934, Ngài được cung thỉnh làm trụ tŕ chùa
Phổ Tế, rồi tiếp nhận thêm ngôi trụ tŕ
chùa Bích Vân ở Sơn Tây vào năm sau. Ngài đổi chùa
Phổ Tế thành thập phương tùng lâm, tham bái
khắp nơi để học hỏi về Thiền.
Năm 1936, Sư kết lều tranh bế
quan suốt bốn năm tại chùa Quảng Tế ở
Ngũ Đài Sơn, trích máu chép kinh Hoa Nghiêm. Từ năm
1949 cho đến năm 1972, Ngài chống tích trượng
hoằng pháp tại Việt Nam, Cambodia, Mỹ… Tới đâu, Ngài cũng xướng suất
xây chùa, đúc tượng. Riêng tại Việt Nam, Ngài từng
trụ tích tại các chùa Quán Âm và Bồ
Đề Lan Nhă. Do được cúng đất, Ngài đă xây chùa Hoa
Nghiêm. Ngài đă trích máu chép một bộ Hoa Nghiêm để
thờ trong tháp báu của chùa. Sau đó, Ngài khai sơn chùa
Thiên Vương Cổ Sát tại Đà Lạt (dân
địa phương thường gọi là chùa Tàu, hay
chùa Trầm v́ chánh
điện thờ tượng Tây Phương Tam Thánh
bằng trầm hương chở từ Hương
Cảng sang). Dẫu bận rộn hoằng pháp, Ngài
vẫn tự chép nhiều bộ kinh Hoa Nghiêm (bản 80
quyển). Năm 1969, trước
chiến sự khốc liệt thuở
đó, các môn nhân khẩn khoản cung
thỉnh Ngài trở về Hương Cảng. Năm 1970, Sư định
cư tại New Jersey, sáng lập chùa Quang Minh và Mỹ
Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Hội, kiêm nhiệm
trụ tŕ chùa Đại Thừa ở New York cho
tới năm 1974. Ngài c̣n giúp trùng tu các chùa Định
Huệ và Khai Nguyên ở Vô Tích, giúp xây cất các
viện dưỡng lăo
và nhà trẻ tại quê nhà.