Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo

Phần 6

占察善惡業報經

隋天竺沙門菩提登譯

夢參老和尚講

(giảng lần thứ ba v́ năm 2009)

Hán dịch: Thiên Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời Tùy

Chủ giảng: Lăo ḥa thượng Mộng Tham

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

(theo phiên bản đăng tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo -https://www.liaotuo.com)

Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang

 

Tập 16

 

1. Cách sử dụng Chiêm Sát Luân

 

          Chư vị đạo hữu! Chúng tôi đă giảng xong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo; nhưng cách sử dụng [Chiêm Sát Luân] trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là như thế nào? Làm thế nào để có thể đạt tới cảnh giới Nhất Thật?          Nửa bộ trước của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói về Sự; phần sau toàn là Lư, thuộc về cảnh giới Hoa Nghiêm. Lư sâu này phải từ Sự mà tiến nhập. Chúng ta chẳng có trí huệ to lớn dường ấy, chẳng thể ngộ nhập từ Lư, phải ngộ nhập từ Sự. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có mối quan hệ trọng yếu đối với chúng ta nhất, v́ chúng ta chẳng có trí huệ, mà cũng chẳng có thần thông. Nương theo lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ Tát, chúng ta hành theo phương pháp do Ngài đă nói, sẽ đều có thần thông. Có thần thông ǵ vậy? Quư vị biết đời quá khứ chính ḿnh đă làm chuyện ǵ, là thiện nghiệp hay ác nghiệp, đối chiếu với những ǵ quư vị phải hứng chịu trong đời này, đời này thọ hưởng quả báo của những ǵ đă làm trong đời trước. Trong vị lai, bỏ thân mạng này, trong vị lai quư vị sẽ phải chịu quả báo nào. Đó gọi là “nhân quả ba đời”. Nhưng chúng ta chẳng có loại thần thông ấy, bèn nương vào thần thông do Địa Tạng Bồ Tát truyền dạy. Đấy là nội dung chủ yếu của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Xét theo lư luận, nửa phần sau kinh này là ư nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm. Lư phải dùng Sự trong phần trước để hiển lộ.

          Mọi người biết Chiêm Sát Luân là một pháp môn đặc thù của Địa Tạng Bồ Tát. Bộ kinh này được phát khởi bởi Ngẫu Ích đại sư đời Minh. Ngẫu Ích đại sư muốn đắc giới tỳ-kheo thanh tịnh, trong khắp Nam Diêm Phù Đề, muốn thỉnh năm vị tỳ-kheo thanh tịnh, nhưng chẳng có! Ngài mong t́m nơi pháp, từ trong Đại Tạng Kinh, trông thấy bộ kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo này. Dựa theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo th́ phải làm luân tướng. Đó là dựa theo con số [gieo được bởi luân tướng để biết kết quả] mong cầu. Ngẫu Ích đại sư chẳng biết làm luân tướng, chẳng có cách nào, Ngài viết trên giấy [các con số tương ứng], dùng cách rút thăm, xem rút được lá thăm nào bèn tính theo lá đó. Dùng phương pháp ấy để giải quyết vấn đề. Do vấn đề này, [pháp môn Chiêm Sát] chẳng thể truyền bá, chẳng có cách nào! Măi cho đến thời pháp sư Hoằng Nhất, lăo pháp sư Hoằng Nhất học nghệ thuật, Ngài mong tiếp tục hoằng dương đức tướng và công đức của Địa Tạng Bồ Tát, bèn căn cứ theo sám pháp do Ngẫu Ích đại sư biên soạn, chiếu theo nguyên văn của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để chế tạo Chiêm Sát Luân. Nay tôi tŕnh bày bộ luân tướng ấy là được rồi.

          Chiêm Sát Luân có tất cả mười chín cái. Nhóm thứ nhất gồm mười cái, thuyết minh ba nghiệp nơi thân (giết, trộm, dâm), bốn nghiệp nơi miệng (nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác), và ba nghiệp nơi ư (tham, sân, si). Đấy là mười luân. Nhóm thứ hai gồm ba cái luân. Trong ấy, lại chia thành ba đời là quá khứ, hiện tại, và vị lai. Quá khứ có ba nghiệp thân, miệng, ư của quá khứ, hiện tại có ba nghiệp thân, miệng, ư của hiện tại, vị lai có ba nghiệp thân, miệng, ư của vị lai. Đó là ba cái luân. Nghiệp chướng nơi nghiệp thân, miệng, ư của quư vị nặng nề [được tượng trưng] bằng màu đen, [thể hiện bằng một vạch] sâu và to. Dẫu có ác nghiệp, nhưng nghiệp chướng nhỏ th́ [được biểu thị trên luân tướng bằng] vạch nhẹ và nhỏ. Đó là chia [các nghiệp nơi] thân, miệng, ư thành nặng và nhẹ. Trong cuộc sống hiện thực, chúng ta phải liễu giải cuộc sống của chính ḿnh trong hiện tại. V́ sao có những sự nghiệp ta làm chẳng thành? Hoặc là tu đạo có chướng ngại? Vậy th́ quư vị dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát xem khuyết điểm ở chỗ nào? Sau đó, vâng theo lời dạy của Ngẫu Ích đại sư. Ngài chú giải, giải thích căn cứ trên lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Luân tướng có mười chín cái, v́ sao có mười chín cái luân? Ba nghiệp thân, miệng, ư của chúng ta, cộng thêm căn bản vô minh thành mười. Đối với ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dùng riêng ba cái luân này để gieo cho quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhóm thứ ba gồm sáu cái luân, biểu thị thân, miệng, ư trong đời hiện tại. V́ từ trong ba nghiệp tham, sân, si sẽ bao gồm mười nghiệp, đều có đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, cho nên loại luân này có ba nhóm, tổng cộng là mười chín.

          Pháp sư Hoằng Nhất biết làm luân tướng. Luân tướng trong hiện thời đều [mô phỏng theo] cách chế tạo của pháp sư Hoằng Nhất. Ngài dựa theo lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ Tát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo về kích thước và quy cách, căn cứ theo tiêu chuẩn ấy để làm. Ba loại luân ấy vốn phát xuất từ kinh, pháp sư Hoằng Nhất chế thành ba loại luân tướng này. Mười chín luân tướng là do nghiệp thân, miệng, ư của chúng ta phát sanh, có tất cả mười chín cái, chia thành ba nhóm. Nhưng khi làm luân tướng mộc luân, chất gỗ nhất định phải là gỗ đàn hương. Thật sự chẳng có [loại gỗ ấy], quư vị dùng loại gỗ khác để thay thế, tốt nhất là gỗ thơm, biểu thị ư nghĩa tôn trọng. Mười chín [luân tướng], chia thành ba nhóm. Kích thước lớn nhỏ không được nhỏ hơn một tấc, chính giữa tạc thành h́nh lập phương, hai đầu vạt nhỏ dần đi. Đó là lời chỉ dạy trong kinh.

          Sở dĩ mộc luân để chiêm sát được gọi là Luân là do ư nghĩa “pháp luân thường chuyển”. Luân ấy [được chế tạo] sao cho hễ gieo sẽ gieo dễ dàng. Cầm lắc trong tay là đă có thể xoay chuyển, giống như bánh xe. Luân có ư nghĩa “chuyển động”, cho nên gọi là Luân, biểu hiện pháp [của luân tướng]“pháp luân thường chuyển”, có ư nghĩa “vĩnh viễn chẳng ngừng”. [Luân] có ư nghĩa “chuyển”, tức là “tiêu diệt phiền năo của chúng ta”. Phiền năo của chúng ta chẳng ngưng nghỉ, cái Luân ấy nghiền nát, đoạn dứt phiền năo và tập khí của chúng ta. Giả sử chúng ta có chuyện hoài nghi, chẳng thể quyết định, [ví dụ như] chẳng thể quyết định nổi pháp môn tu hành. Chẳng hạn như sáng sớm hôm nay, ta thức dậy, trong tâm cảm thấy không thoải mái. Dường như hôm nay rất không thuận lợi, quư vị liền gieo Chiêm Sát Luân rồi mới ra đi. Luân tướng có thể bảo cho quư vị biết: Thế nào là chánh đạo? Thế nào là tà đạo? Quư vị có thể làm, hay chẳng thể làm. Mỗi chuyện quư vị đều có thể vận dụng [mộc luân] để thỉnh ư. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, hai tay hợp lại [lay động các luân tướng] để gieo, ngửa tay thả luân xuống một bên. [Chánh kinh] nói “ngưỡng thủ, bàng trịch” (仰手,旁擲, ngửa tay, gieo xuống bên cạnh) là gieo như thế, có ư nghĩa [mô tả] động tác. Khi sử dụng Chiêm Sát Luân, hăy dùng một miếng vải sạch, dùng tay để gieo [luân tướng trên đó].

          Loại mộc luân thứ nhất gồm mười cái, [tương ứng với] mười nghiệp. Con số Mười biểu thị nơi mỗi nghiệp thân, miệng, ư th́ thân ba nghiệp, miệng bốn nghiệp, ư ba nghiệp, tức tham, sân, si, giết, trộm, dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác. Đó là mười luân, trên mỗi luân viết [mỗi điều trong mười nghiệp], tức nói đôi chiều, nói thô ác, tham, sân, si… biểu thị mười nghiệp. Khi gieo nghiệp luân thuộc nhóm thứ nhất, trong đời quá khứ, quư vị rốt cuộc đă tạo nghiệp ǵ, chính ḿnh chẳng biết rơ, bèn dùng mười cái luân ấy để chiêm sát. [Phần chính giữa] luân tướng có bốn mặt, nơi hai mặt [đối diện nhau] có chữ, hai mặt để trống. “Để trống” tức là đối với nghiệp ấy, quư vị chẳng có nghiệp nhẹ, mà cũng chẳng có nghiệp nặng, chẳng nặng, không hiển hiện. Hai mặt ấy của mộc luân biểu hiện chẳng có [nghiệp ấy]. Đối với nghiệp ấy, quư vị chẳng là thiện, mà cũng chẳng phải là ác, tức là vô kư. Mặt để trống biểu thị vô kư. Hai mặt kia đối diện nhau, một mặt là thiện, mặt kia là ác. Mọi người có thể tham khảo bản vẽ do Phương Quảng[1] in, chiếu theo h́nh vẽ ấy để khắc. Bức vẽ ấy do pháp sư Hoằng Nhất vẽ. Chúng ta chiếu theo nguyên bản để làm.

          Nhóm luân thứ hai, tức loại mộc luân thứ hai gồm ba cái. Ba cái luân tướng ấy biểu thị nghiệp báo do quư vị đă tạo trong quá khứ xưa kia là mạnh hay yếu, tạo nghiệp là nặng hay nhẹ. [Vạch khắc có] màu đen, biểu thị quư vị tạo nghiệp rất nặng. [Vạch khắc] màu đỏ biểu thị quư vị không chỉ chẳng có điều ác, mà c̣n có điều thiện. Màu đỏ [tương ứng với điều thiện], đại thiện được biểu thị bằng vạch đỏ rất dài; tiểu thiện th́ là vạch đỏ rất ngắn. Đó là tương phản với ác nghiệp, ác được biểu thị bằng màu đen, c̣n thiện là màu đỏ. Có hai mặt chẳng có con số ǵ, tức là chẳng thiện, chẳng ác, tức là vô kư.

          Luân tướng loại thứ nhất gồm mười cái, loại thứ hai gồm ba cái, loại thứ ba gồm sáu cái. Trong loại thứ ba, ba mặt đều ghi con số, một mặt chẳng có, bỏ trống. Nhưng ắt cần phải gieo ba lượt, tổng số của các con số ấy có thể lên đến một trăm tám mươi chín. Con số một trăm tám mươi chín do đâu mà có? Quả báo trong ba đời, gồm một trăm tám mươi chín loại thiện và ác khác nhau. V́ sao phải gieo ba lượt? V́ một lần sẽ chẳng đủ số. Ba lượt gieo, cộng thành tổng số [tối đa là] một trăm tám mươi chín. Nếu gieo ba lượt mà chẳng hiện con số nào, đều là mặt trống, cho thấy quư vị đă chứng đắc thánh quả, đă thành tựu, đă thanh tịnh. Nhưng điều này rất khó, nhiều con số ngần ấy mà chẳng gieo được con số nào. Gieo ba lượt, đâm ra chẳng có con số nào, biểu thị quư vị đă thanh tịnh, đă chứng đắc A La Hán, chứ Tam Quả thánh nhân th́ vẫn chưa được (tức là chưa thể gieo ra cả ba lần, sáu cái luân đều không có con số nào).         

          Phàm là muốn tu chiêm sát mộc luân, chẳng phải là chúng ta cầm lấy [mộc luân] bèn gieo, sẽ chẳng được! Khi quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, lúc quư vị tu tŕ, mục đích mong cho chúng ta sử dụng Chiêm Sát Luân đều biến thành tướng thanh tịnh. Vậy th́ quư vị hằng ngày bái sám. Nếu tu suốt ba năm mà luân tướng thanh tịnh vẫn chẳng hiện, khi đó, Địa Tạng Bồ Tát sẽ đặc biệt gia tŕ quư vị. Do gia tŕ quư vị, Địa Tạng Bồ Tát sẽ hiện. Nhưng quư vị ắt cần phải bái sám suốt ba năm, chẳng gián đoạn một ngày nào, cầu Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ quư vị. Măn ba năm mà luân tướng thanh tịnh vẫn chẳng hiện; lúc đó, quư vị chỉ niệm thánh hiệu là được rồi! Địa Tạng Bồ Tát sẽ chỉ dạy quư vị. Kinh nói như thế đó, chẳng phải là tôi nói!

          Trong phương pháp tu hành, quư vị mong cầu luân tướng thanh tịnh, hăy liền chiêm sát. [Chiêm sát luân tướng] thuộc nhóm thứ nhất, nhóm thứ hai, và nhóm thứ ba để kiểm chứng quư vị thanh tịnh hay chưa? Luân tướng ấy sẽ hiện tướng thanh tịnh hay tướng chẳng thanh tịnh; khi luân tướng hiển hiện, quư vị sẽ hiểu rơ. Muốn sử dụng luân tướng thanh tịnh, có một nghi quỹ. Địa Tạng Bồ Tát đặt ra nghi quỹ, c̣n nơi chốn tu hành là do Ngẫu Ích đại sư thêm vào. Ở chỗ tu hành, quư vị an trí tượng Địa Tạng Bồ Tát. Các đạo hữu muốn tu Chiêm Sát Sám Pháp, hăy bày một bức tượng Địa Tạng, chí thành, khẩn thiết, đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát lễ bái, cúng dường. Cúng dường tùy theo khả năng lo liệu của quư vị. Nếu nói cúng dường thứ ǵ quư vị cũng chẳng lo nổi, vậy th́ dùng tâm cúng dường là được rồi! Trong tâm quư vị tác ư cúng dường, quán tưởng hương, quán tưởng hoa, quán tưởng vật cúng. Đó là cúng dường bằng ư niệm. Phải năm vóc mọp sát đất chí thành lễ kính; đó là do Ngẫu Ích đại sư thêm vào, do Ngài dựa theo nghi quỹ trong hết thảy các sám pháp. Chúng tôi vừa giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Chiêm Sát, [quư vị thấy chánh kinh] chẳng nói, chỉ nói quư vị chí thành kính lễ mười phương hết thảy chư Phật, chí thành kính lễ mười phương hết thảy các pháp tạng, chí thành kính lễ mười phương hết thảy hiền thánh, chí thành kính lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Đối với mười phương chư Phật lễ một lạy, đối với mười phương pháp lễ một lạy, đối với mười phương hiền thánh tăng lễ một lạy, nhưng đối với Địa Tạng Bồ Tát phải lễ ba lạy. Đó là bước đầu tiên nếu muốn sử dụng Chiêm Sát Luân.

          Bước thứ hai là phải cúng dường. Chúng ta phải dùng hương, hoa để cúng dường mười phương chư Phật, hoặc cúng dường Địa Tạng Vương Bồ Tát. Phải niệm “nghiêm tŕ hương hoa, như pháp cúng dường” (nghiêm trang cầm hương hoa, đúng như pháp cúng dường). Nguyện cho mây hương hoa này trọn khắp mười phương pháp giới, cúng dường hết thảy chư Phật, tôn pháp, các bậc hiền thánh, thọ dụng, thực hiện Phật sự trong vô biên cơi Phật. Niệm một lượt xong rồi đảnh lễ một lạy. Đây là điều thứ hai phải làm.

          Điều thứ ba là phải xưng danh. Khi chúng ta muốn sử dụng Chiêm Sát Luân, hăy quỳ hai gối trước tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát cầu nguyện. Chính ḿnh nguyện rằng: “Đệ tử tên là…”. Như khi tôi bái sám, bèn thưa: “Đệ tử con tên là Mộng Tham, hiện tại là phàm phu sanh tử, tội chướng sâu nặng, chẳng biết nhân duyên nghiệp báo ba đời, ôm nhiều nỗi ngờ vực, chính ḿnh chẳng biết nghiệp chướng nặng hay nhẹ, rất hoài nghi. Kính thỉnh Bồ Tát, kính nương theo ba loại luân tướng do Bồ Tát chỉ dạy”. Muốn sử dụng luân tướng th́ phải hướng về Địa Tạng Bồ Tát thưa bày, đúng pháp chiêm sát, chí tâm kính ngưỡng cầu xin Địa Tạng từ tôn, nguyện Ngài dùng sức đại bi, gia bị, cứu vớt, tiếp dẫn, khiến cho con diệt trừ nghi chướng, dạy cho con biết! Khi ấy, c̣n phải quỳ hai gối sát đất, tức là chúng ta quỳ thẳng, chắp tay niệm Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, phải niệm một ngàn câu. Có rất nhiều đạo hữu khi bái sám chẳng tuân theo nghi quỹ để làm. Không làm theo nghi quỹ, sẽ chẳng có hiệu quả, Chiêm Sát Luân mà quư vị đạt được chẳng đáng tin cậy. Đó là giả, hư vọng. Ắt cần chiếu theo nghi quỹ để làm.

          Làm xong, quư vị mong cầu chuyện ǵ, quư vị cầu điều ǵ, th́ phải thưa cùng Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, đối trước tượng mà thưa. Quư vị chớ hoài nghi Địa Tạng Bồ Tát chẳng nghe thấy, Địa Tạng Bồ Tát cũng chẳng hiện thân th́ chẳng linh. Chẳng hoài nghi chút nào! Trong khi quư vị lạy, cúng dường, kinh Địa Tạng có nói, nhưng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo vẫn chưa nói, [kinh Địa Tạng] nói Địa Tạng Bồ Tát nhất định hiện tiền. Nếu không, quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân sẽ chẳng linh. Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đại từ, đại bi, Ngài sẽ hộ niệm ta, lại c̣n hộ niệm hết thảy chúng sanh. Giả sử quư vị cầu Địa Tạng Bồ Tát chuyện ǵ, trước hết, phải nghĩ tới hết thảy chúng sanh, chẳng phải chỉ có cầu riêng cho chính ḿnh. Địa Tạng Bồ Tát đại từ, đại bi, quư vị ắt phải phát nguyện, ắt phải phát tâm ḥa hợp với Địa Tạng Bồ Tát. Chỉ v́ chính ḿnh th́ không được, nhất định phải hồi hướng cho chúng sanh. Nếu ta nghi hoặc rất nhiều, ta cũng chẳng biết chuyện ấy phải nên làm như thế nào, hăy thỉnh Bồ Tát dạy cho chúng ta biết. Ta gieo luân tướng sẽ tương ứng. Luân tướng do ta gieo và những điều Địa Tạng Bồ Tát đă dạy trong kinh sách ứng hợp, đó gọi là “tương ứng”. Đó gọi là nghi thức. Quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, trước hết, hăy thực hiện nghi thức ấy, sau đó mới có thể dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát. Chẳng phải là cầm lấy [mộc luân] bèn gieo ngay; [nếu gieo ngay] sẽ chẳng linh nghiệm. Phàm điều ǵ quư vị khẩn cầu, cũng có thể đạt được nghiệp quả thuần thiện, mà cũng có thể đạt được ác quả thuần ác, tùy thuộc quư vị cầu chuyện ǵ, luân tướng sẽ hiển hiện.

          Chuyện này giống như đoán quẻ. Lễ bái, cúng dường, xưng danh, khải thỉnh như trên đều đă thực hiện; sau đó, trước hết chiêm sát luân tướng thuộc nhóm đầu tiên. Khi bắt đầu, quư vị vừa tiến vào sám thất, chẳng biết trong mười nghiệp của quư vị, môn nào nặng. Miệng bốn nghiệp, thân ba nghiệp, ư ba nghiệp; trước hết, quư vị hăy dùng mười loại này để chiêm sát. Chiêm sát luân tướng, cái được hiển hiện là Thập Thiện Nghiệp, hay Thập Ác Nghiệp, quư vị trọn đủ những món nào? Căn cứ theo đó, quư vị chiêm sát luân tướng thuộc nhóm thứ hai. Y theo thứ tự, chiêm sát ba nghiệp nơi thân; sau đó chiêm sát bốn nghiệp nơi miệng, sau đó lại chiêm sát ba nghiệp nơi ư. Khi sám hối, những thứ khác sẽ không dùng tới. Nghiệp chướng nào của quư vị nặng nề, chỉ sám hối nghiệp ấy. Sau khi đă lạy bảy ngày th́ mới có thể dùng Chiêm Sát Luân. [Chẳng bái sám] mà dùng ngay, tuyệt đối sẽ không linh nghiệm. Thoạt đầu, phát hiện [luân tướng hiện các vạch] đen thô, đợi sau khi quư vị bái sám một tuần, [nếu là] chúng sanh nghiệp chướng nhẹ th́ sẽ vừa lễ bái, chiêm sát bèn linh nghiệm. Chúng sanh nghiệp chướng nặng, sẽ chẳng linh. Quư vị hăy lạy thêm một tuần nữa. Tối đa là hai mươi mốt ngày lại sử dụng, hiệu quả sẽ linh ứng.

          Luân tướng thuộc nhóm thứ hai phải phối hợp với nhóm thứ nhất, phối hợp với mười nghiệp. Chiêm sát mộc luân thuộc nhóm thứ nhất cho thấy [hành nhân gieo Chiêm Sát Luân] “chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng có dâm nghiệp”. Đó là thiện nghiệp. Tới khi quư vị gieo [luân tướng] thuộc nhóm thứ hai, toàn ra màu đen, tức là ác. Đó gọi là “chẳng tương ứng”. Nhóm thứ nhất ắt phải ứng hợp với nhóm thứ hai. Nhóm thứ nhất là thanh tịnh, nhóm thứ hai cũng phải gieo được thanh tịnh là đúng. Nhóm thứ nhất thanh tịnh, nhóm thứ hai chẳng thanh tịnh, đó là hư vọng, chẳng phải là chân thật. Sau khi đă tương ứng, quư vị sẽ biết trong Thập Thiện và Thập Ác nơi thân, miệng, ư, nghiệp nào nặng. Quư vị sám hối nghiệp nặng trước, chuyên v́ ác nghiệp nơi thân nghiệp mà sám hối. Thân nghiệp đă sám hối thanh tịnh, lại sám các nghiệp khác. Đó gọi là chí tâm sám hối để chiêm sát. Tôi nói đại lược với mọi người như thế đó. Nếu hiểu điều này, những điều khác sẽ hiểu. Nhưng khi quư vị muốn lạy Chiêm Sát Sám, điều đầu tiên là phải biểu thị thân tâm thanh tịnh. Lúc thoạt đầu quư vị mới dùng [Chiêm Sát Luân], phải tắm gội, y phục phải thanh tịnh, tiến vào sám thất. Nếu chẳng có sám thất, th́ ở nơi pḥng ngủ của chính ḿnh, ắt cần phải quét dọn sạch sẽ, thanh tịnh một chút. Trong tâm chớ nên có tạp niệm; khi ấy, cái tâm nhất định phải tĩnh lặng th́ mới có thể thực hiệm sám pháp này. Đó là ư nghĩa đại khái trong việc sử dụng Chiêm Sát Luân.

          Thoạt đầu, khi gieo [các luân tướng thuộc về] mười nghiệp, v́ quư vị chẳng biết nơi thân, miệng, ư, giết, trộm, dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, nói thô ác, tham, sân, si, nghiệp nào nặng, quư vị có thể chiêm sát chung. Sau đó, trọng điểm sám hối. Hằng ngày quư vị sám hối xong, chỉ gieo luân tướng về nghiệp đó, các luân khác đều chẳng gieo. Quư vị phải biết thân, miệng, ư chẳng thanh tịnh th́ Địa Tạng Vương Bồ Tát nói có khi bảy ngày sẽ thanh tịnh, có khi một tháng, có khi ba tháng, có khi nửa năm. Nếu ba năm mà vẫn chẳng thanh tịnh, khi đó, chẳng cần chiêm sát nữa, hăy chuyên môn niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Địa Tạng Bồ Tát sẽ tới gia tŕ quư vị, Địa Tạng Bồ Tát đến tiêu nghiệp chướng cho quư vị. Đó là chuyên tu pháp môn Địa Tạng, đó gọi là chiêm sát thiện ác nghiệp báo. Cái được chiêm sát chính là nghiệp báo thiện hay ác của quư vị.

          V́ sao có một trăm tám mươi chín loại, tôi giải thích đại khái đôi chút với mọi người. Một trăm tám mươi chín tức là chia thành quả báo ba đời: Một trăm sáu mươi loại đầu là đời hiện tại, [những điều thuộc] quá khứ rất nhiều, quá khứ gồm mười một điều, đời vị lai gồm mười tám điều. Đó là nhân duyên quả báo ba đời. Bất luận hiện tại, quá khứ, hay vị lai, điều nào chẳng thanh tịnh, quư vị có thể chuyên môn sám hối. “Chuyên môn sám hối” là khi quư vị bái sám, phải hướng về tượng Bồ Tát bày tỏ “đệ tử có chuyện chi đó, tội nghiệp rất sâu nặng”. V́ quư vị đối trước người khác sẽ ngượng ngùng, đối trước Địa Tạng Bồ Tát sẽ chẳng có ǵ ngượng ngùng. Quư vị một ḿnh bái sám, một ḿnh đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát thưa tŕnh. Quư vị chẳng nói, Địa Tạng Bồ Tát cũng liễu giải, nói ra mang ư nghĩa “phơi bày sám hối”.

          Từ số một đến một trăm sáu mươi, một trăm sáu mươi con số ấy nói về [các chuyện trong] đời hiện tại của quư vị, toàn bộ các nghiệp thiện ác đă làm trong đời hiện tại đều hiển hiện. Từ một trăm sáu mươi mốt cho đến một trăm bảy mươi mốt là để hỏi trong đời quá khứ ta đă làm những ǵ. Nếu quư vị gieo được tổng số một trăm sáu mươi chín, chứng tỏ đời quá khứ quư vị đă cúng dường Phật mà sanh vào đời này. [Gieo được tổng số là] một trăm bảy mươi, tức là cúng dường hết thảy đại chúng hiền thánh tăng mà sanh vào đời này. Một trăm bảy mươi bảy là nghe được pháp sâu. Từ một trăm bảy mươi hai cho tới một trăm tám mươi chín, đó là vị lai. Nay thân thể này xả báo, sẽ đến nơi nào? Loại luân tướng thứ ba có sáu cái luân, quư vị gieo ba lượt, gieo lần đầu tiên, gieo lần thứ hai, gieo lần thứ ba. Tổng số của ba lượt gieo, nếu là một trăm bảy mươi hai th́ có nghĩa là khi quư vị xả thân thể này, sẽ đến nơi nào? Xuống địa ngục. Một trăm bảy mươi ba, xả báo thân này sẽ làm súc sanh. Một trăm bảy mươi bốn, xả thân thể này sẽ là ngạ quỷ. Một trăm bảy mươi lăm, sẽ làm A-tu-la. Một trăm bảy mươi sáu, sanh trong loài người. Một trăm bảy mươi bảy, sanh làm vua trong nhân gian. Một trăm bảy mươi tám, sanh trong thiên đạo. Tiếp tục như thế, cho đến khi quư vị gieo được [tổng số] một trăm tám mươi chín, xả thân thể này, quư vị sẽ thành bậc đại Bồ Tát. Quư vị hăy tự cân nhắc chính ḿnh có chứng quả báo này hay không, hoặc Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, hoặc chứng Bồ Tát Thừa. Quư vị đối chiếu từng con số như vậy.

          Giả sử gieo được con số chẳng tốt, giống như tôi mới vừa nói “gieo ra con số một trăm bảy mươi hai”. Quư vị gieo một lần được con số này, gieo hai lần cũng được con số này. Liên tục bảy ngày, gieo mười lần, hai mươi lần đều là con số này, tuyệt đối chẳng giả! Vậy th́ quư vị hăy sám hối, hoặc là tiếp tục cúng dường đặc biệt, chẳng phải cúng dường mấy thứ trái cây là xong, chẳng được! Sau đó, quư vị suốt ngày đêm chẳng thay đổi, ngày đêm siêng năng chuyên ṛng, chẳng ngủ, Địa Tạng Bồ Tát sẽ có thể cứu quư vị, khiến cho quư vị thoát khỏi địa ngục, chuyển sanh vào nhân đạo. Sau đó, từ nhân đạo lại có thể tiến cao hơn bước nữa là sanh lên trời.

          [Con số] một trăm tám mươi chín ấy là do sáu căn, sáu trần, sáu thức, ba lần sáu mười tám, cộng thêm căn bản vô minh thành mười chín, nhân với mười đời. [Mười đời tức là] quá khứ, hiện tại, vị lai, [mỗi đời lại có ba đời, ba lần ba thành chín, cộng với] một niệm hiện tiền thành mười. Mười nhân với mười tám thành một trăm tám mươi, cộng thêm với quá khứ, hiện tại, vị lai, [mỗi đời lại có ba đời] thành ra chín đời, [cộng chung lại] thành một trăm tám mươi chín. Con số ấy (một trăm tám mươi chín) do như vậy mà có. Chúng ta chẳng có thời gian nói tiếp chuyện này, v́ để học tập th́ ngay cả để giảng cũng tốn thời gian rất dài. Chúng ta phải tốn nhiều tiếng đồng hồ ngần ấy để nói rơ ràng, tôi vẫn chẳng có bản lănh này, chẳng có năng lực này, giới thiệu đại khái với mọi người đôi chút. Khi quư vị mong thâm nhập sử dụng Chiêm Sát Luân, phải luyện tập cho nhiều. Đó gọi là “thần thông”.

          Hoặc là đối với kẻ nào quư vị chẳng tín nhiệm, quư vị gieo Chiêm Sát Luân để xem người ấy như thế nào? Luân tướng sẽ cho quư vị biết: Quư vị chớ nên lui tới với kẻ ấy, đó là người xấu! Quư vị hăy nhanh chóng cự tuyệt. [Luân tướng] nói người ấy là người tốt, vậy th́ quư vị có thể kết giao. Cùng thuộc loại này, đại khái có mười con số. Giả sử ta cầu sống thêm vài năm, ta muốn hỏi về thọ mạng, quư vị có thể gieo. Nếu gieo được con số năm mươi mốt, cầu thọ mạng sẽ được tăng tuổi thọ. Nhưng con số này rất khó, đừng cho rằng con số này dễ dàng, con số này chẳng hư giả. Nếu quư vị gieo ba lượt đều chẳng có con số nào, cho thấy quư vị đă không thuộc vào các con số, tức là không thuộc vào các con số của nhân gian, chẳng ở trong lục đạo. Quư vị vượt thoát lục đạo, [cho nên] chẳng có số. Các con số ấy là pháp môn đặc thù của Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát, từ đâu mà có? Từ Chân Như Thật Tướng được nói trong nửa quyển sau [của chánh kinh], nương vào lẽ Chân mà dấy lên hết thảy các thiện pháp. Một trăm tám mươi chín loại ấy chính là t́nh huống đặc thù của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Mọi người có thể thỉnh bản kinh ấy từ nhà xuất bản Phương Quảng.

          Hành pháp trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, thoạt đầu do Ngẫu Ích đại sư soạn. Sau này, do pháp sư Hoằng Nhất hoàn thành hoằng dương, [cho nên] mới có Chiêm Sát Luân. Khi Ngẫu Ích đại sư mong thọ giới thanh tịnh, t́m trong Đại Tạng Kinh, [t́m thấy bộ kinh này], liền lạy Chiêm Sát Sám. Do lạy Chiêm Sát Sám mà đạt được luân tướng thanh tịnh, Ngài đắc giới. Măi cho đến khi pháp sư Hoằng Nhất tiếp nhận pháp này của Ngẫu Ích đại sư, Sư phát huy, hoằng dương lần nữa. V́ Hoằng Nhất đại sư học nghệ thuật, nên hiểu cách chế tạo Chiêm Sát Luân. Lạy sám pháp này th́ kinh Chiêm Sát hoàn toàn chẳng nói tới. Ngẫu Ích đại sư đă dựa theo các sám pháp khác như Đại Bi Sám do lịch đại tổ sư đă soạn. Ngẫu Ích đại sư soạn Chiêm Sát Sám Pháp, cho đến lời nguyện, tức lời cầu nguyện đều do Ngẫu Ích đại sư viết.

          Đồng thời, Ngài c̣n cho chúng ta biết: Dựa theo phương pháp của hai loại quán đạo để sám hối. Trong kinh Chiêm Sát, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng ta: Các chúng sanh hăy nên học chí tâm, khiến cho thân, miệng, ư đạt được tướng thanh tịnh. Tướng thanh tịnh ấy là nói tới điều ǵ vậy? Chính là tướng thanh tịnh được hiện bởi Chiêm Sát Luân; Địa Tạng Bồ Tát chẳng nói cặn kẽ. Học chí tâm, chí tâm là chí thành, khẩn thiết, tâm chẳng có tạp niệm, tâm tập trung vào bái sám, cho đến mức quư vị niệm Địa Tạng Bồ Tát mà tâm không tạp niệm. [Nếu hành nhân] lạy suốt ba năm, mà vẫn chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh, Địa Tạng Bồ Tát nói Ngài vẫn hộ niệm người ấy. Người ấy đă có công phu ba năm, tuy chẳng đạt được luân tướng thanh tịnh, vẫn đặc biệt được Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ và chiếu cố.

          Giả sử quư vị muốn cầu pháp Đại Thừa, để biết thoạt đầu chính ḿnh hăy c̣n nghiệp chướng nào, biết các nghiệp chướng căn bản nào tồn tại, quư vị hăy dùng Chiêm Sát Luân. Chẳng dùng Chiêm Sát Luân, chính quư vị không biết. Phải biết cái nghiệp căn bản, nghiệp chướng tồn tại mà quư vị không sám hối, cứ cầu Thiền Định, cho đến học hết thảy các pháp, nói đến chuyện liễu sanh tử, th́ hết thảy đều chẳng làm được! Trước hết, quư vị phải tiêu trừ nghiệp chướng. Nghiệp chẳng tiêu, tu các pháp ấy đều chẳng thể thực hiện được. Do vậy, quư vị trước hết phải sám hối nghiệp chướng!

          Khi chúng tôi giảng giải, mọi người đều biết dựa vào cảnh giới Nhất Thật, nội tâm do tin tưởng cảnh giới Nhất Thật mà dấy lên tín giải, học hai loại quán đạo, tức là Chỉ Quán song vận: Một là Duy Tâm Thức Quán, hai là Chân Như Thật Tướng Quán. Sám pháp này giúp chúng ta tu hành, nhưng quư vị tu hành mà bị ngă ḷng. Cớ sao tu một, hai năm, ba năm, mười năm, đều chẳng đạt được chi cả? Ngă ḷng! Hăy dùng Chiêm Sát Luân để nhận biết chướng ngại nào tồn tại. Sau đó, chiếu theo những điều Chiêm Sát Luân chỉ dạy để sám hối. Đă sám hối xong, lại tu cảnh giới Nhất Thật, hai loại quán đạo, sẽ có thể tiến nhập Tâm Tịch tam-muội rất nhanh chóng, cái tâm có thể định được. Nếu chính ḿnh chẳng biết, cứ tu mù luyện đui, tu kiểu nào cũng đều chẳng thể thành tựu! Giống như chúng ta toan biến đá thành cơm, tuyệt đối chẳng thể làm được! Nếu quư vị sám hối hết sạch [các nghiệp chướng ấy] rồi lại tu, hễ tu th́ sẽ đạt được! Đó là v́ chính ḿnh không biết! Muốn có thể biết, trước hết phải bái sám, dùng luân tướng để gieo. Đó là [Địa Tạng Bồ Tát] giúp những kẻ không có thần thông như chúng ta đạt được thần thông. Quư vị muốn biết nghiệp chướng của chính ḿnh nặng hay nhẹ, hăy gieo ba luân tướng thuộc thân, miệng, ư, coi thử là đỏ hay đen. Đen là ác nghiệp nặng, [vạch đen] nhỏ là ác nghiệp nhẹ. [Vạch] đỏ [to đậm] là thiện nghiệp sâu, [vạch đỏ mỏng, ngắn] nhỏ là thiện nghiệp nhẹ. Trước hết, hăy biết nghiệp chướng hay tội ác, biết rơ ràng chuyện ấy để khi quư vị tu tập, sẽ biết làm như thế nào. Nghiệp thanh tịnh, quư vị sẽ tự nhiên tu rất dễ dàng, tu Định đắc Định, tu Huệ đắc Huệ.

          Pháp môn này đặc thù. Địa Tạng Vương Bồ Tát đặc biệt từ bi chỉ dạy chúng ta tu, được gọi là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Dùng cách chiêm sát này để biết quư vị tồn tại thiện nghiệp sâu đậm, hay ác nghiệp nặng nề, trong ḷng quư vị tự biết rơ ràng! Quư vị sám hối th́ phải sám hối vào trọng điểm, chẳng Đông quơ một chặp, Tây chụp một chốc, tu rồi mà chính ḿnh vẫn chẳng thể sám hối được! Quư vị nương theo phương pháp sám hối này, biết chính ḿnh tồn tại nghiệp nào, hằng ngày hướng về Địa Tạng Bồ Tát phát lộ. Hằng ngày, quư vị vào sáng sớm bái sám một lần. Thoạt đầu, tu bảy ngày [như thế], hoặc là lạy hằng ngày. Lạy xong, luân tướng đă thanh tịnh. Quư vị phải ǵn giữ sự thanh tịnh ấy, hoặc là cách ngày tạo nghiệp, cho nên thường dùng luân tướng để răn nhắc. Cho đến khi quư vị vừa đạt được [luân tướng thanh tịnh], cái tâm đă thanh tịnh, đă định, định nơi thiện nghiệp, chẳng bị thoái đọa nữa, tín tâm mới có thể vẹn đủ. Sám pháp ấy chính là một phương tiện giúp cho chúng ta tu hành

          C̣n nữa, trong cuộc sống, các đạo hữu tại gia buôn bán hoặc kinh doanh, đi đường có an toàn hay không, món tiền đem kinh doanh sẽ sanh lợi hay lỗ vốn, trước hết, hăy gieo luân tướng để cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát [chỉ dạy]. Nhưng trước đó, quư vị ắt cần phải đả thất. Chẳng phải là hễ nghĩ đến liền gieo th́ sẽ linh nghiệm đâu nhé! Chẳng linh nghiệm! Trước đó, quư vị đả thất, đă tu hành theo Địa Tạng Bồ Tát, đă có nền tảng đối với chiêm sát luân tướng, thiện nghiệp của chính ḿnh rất tương ứng. Khi quư vị chiêm sát, hễ chiêm sát bèn linh nghiệm, liền thanh tịnh. Nếu chẳng có, quư vị ắt cần phải bái sám trước. Phải trả giá th́ mới có thâu hoạch. Chẳng trả giá, sẽ chẳng có thâu hoạch.

          Cho đến khi quư vị gieo [luân tướng], đạt được đều thuần túy là Thập Thiện Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp hoàn toàn chưa đủ! Thiện kiểu ấy chỉ có thể tiến hành tu đạo, chẳng phải là vô tướng sám, chẳng phải là điều thiện vô tướng. Thoạt đầu, chúng ta tin Phật đều có thiện nghiệp, nhưng quư vị chẳng biết nghiệp nào c̣n tồn tại ẩn sâu trong tư tưởng của chính ḿnh. Nếu quư vị dựa theo Chiêm Sát Luân để liễu giải, sẽ biết trọng điểm. Nếu chẳng thuận theo, khi tu đạo sẽ có chướng ngại, có ma chướng. Quư vị hăy gieo Chiêm Sát Luân, ngưng lại để bái sám. Sau khi quư vị bái sám một thời gian, ác nghiệp và chướng ngại tiêu mất, khi đó, sẽ thuận lợi, thuận lợi tu đạo. Pháp môn đặc thù này của Địa Tạng Bồ Tát chủ yếu là giúp cho quư vị thành tựu đạo nghiệp, thành tựu tín tâm của chính ḿnh. Hiện thời, các đạo hữu tại gia, quư vị muốn cho tín tâm của chính ḿnh bất thoái, hăy thường xuyên chiêm sát đôi chút. Nhưng khi quư vị mới bắt đầu, phải bái sám, hoặc là bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày. Hễ quư vị bái sám, thiện nghiệp và ác nghiệp ổn định, đặt vững nơi thiện nghiệp, tâm chẳng đặt nơi ác. Khi đó, quư vị làm sự nghiệp ǵ cũng đều có thể thuận theo ḷng muốn.

          Thuở ban đầu, tốt nhất là ba người bái sám với nhau, hoặc tối đa là chẳng thể quá mười người. Mọi người bái sám cùng nhau, gia tŕ lẫn nhau. Thậm chí lạy một ḿnh là tốt nhất, do nghiệp của mỗi cá nhân chẳng dính dáng nhau; nhưng một người bái sám th́ sợ lại giải đăi, [cho nên cần có] người nhiều hơn một chút. Do có sức gia tŕ lẫn nhau, quư vị sẽ chẳng giải đăi!

          Nhưng khi dùng Chiêm Sát Sám Pháp, cho đến khi quư vị sám hối xong, đă đạt được luân tướng thanh tịnh, quư vị chiêm sát mỗi ngày. Đối với nhất cử nhất động của chính ḿnh đều chiêm sát, sẽ hết sức linh nghiệm. Do Địa Tạng Bồ Tát chỉ dạy quư vị, lúc gặp khó khăn ǵ, hoặc gặp chuyện ǵ chẳng thuận lợi, quư vị hăy vào Phật đường bái sám, sẽ được Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ. Nhưng nay chúng ta niệm nào cũng niệm Địa Tạng Bồ Tát như thế, tuy có hiệu quả, chỉ là phước đức nhân gian, chẳng dính dáng ǵ tới chuyện xuất thế, mong liễu sanh tử! Nếu mong xuất thế gian, liễu sanh tử, các vị đạo hữu xuất gia ắt cần phải ngưng lại [việc tu tập pháp môn đang muốn tu] để tối thiểu là lễ ba thất, ba thất tức hai mươi mốt ngày. Cho đến khi quư vị bái sám hai mươi mốt ngày xong, tự ḿnh cảm nhận nội tâm rất thanh tịnh. Khi quư vị tọa Thiền hoặc niệm kinh, sẽ có lúc đối với những đạo lư trước kia chẳng thông thuận cho lắm, sau khi quư vị bái sám, sẽ tự ḿnh hiểu rơ. Có rất nhiều đạo hữu bái sám, hành theo mấy vị đệ tử của pháp sư Hoằng Nhất ở Tân Gia Ba và Phi Luật Tân, những người ấy hiện thời chẳng c̣n, đều đă qua đời. Họ đều nương theo pháp môn này tu hành để tiến nhập.

          Khi các đạo hữu xuất gia bái sám, v́ liễu sanh tử, giải thoát, quư vị hăy lạy thử xem. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, hăy đề pḥng mấy chướng ngại. Một là trong tâm phải b́nh lặng, đừng gấp rút cầu thành tựu. Đối với chuyện tiêu nghiệp chướng, chẳng hề có chuyện chiếm tiện nghi, đừng mong vượt đường tắt! Địa Tạng Bồ Tát nói như thế nào, chúng ta hăy hành theo lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát như thế ấy, hiệu quả sẽ rất mạnh mẽ! Chớ nên làm giữa chừng rồi bỏ dở, hoặc là vừa mới đạt được tướng thanh tịnh, hoặc là trong mộng thấy một số cảnh giới, bèn cho rằng chính ḿnh đă đạt được. Sự trắc nghiệm ấy vẫn chưa đủ để đắc định, ắt cần phải đắc định, trong tâm quư vị tự hiểu rất rơ ràng!

          Định là như thế nào? Tâm quư vị xác thực trông thấy. Trong quá khứ, cái tâm sân hận của chính ḿnh rất nặng, ưa nổi cáu. Chuyện chẳng vừa ư đôi chút liền nổi giận đùng đùng, cáu kỉnh! Cho đến khi quư vị bái sám, đă đạt được tướng thanh tịnh, trong tâm b́nh an, gặp chuyện ǵ cũng đều hoan hỷ. Quư vị sẽ biết hiệu quả thật sự nẩy sanh, chính ḿnh có thể khảo nghiệm. Chuyện chẳng buông xuống được trong quá khứ, nay dường như chẳng đáng ǵ, đă buông xuống được, quư vị đă đạt rồi. Trong cuộc sống, trong tu đạo, quá khứ quư vị toàn gặp ác mộng, khi quư vị bái sám, từ đấy trở đi, ác mộng chẳng hiện. Trong mộng, nếu chẳng phải là đạo hữu tụ họp, th́ là tu Phật, tu pháp, chẳng có ác mộng nào khác. Cho đến trong mộng, quư vị có thể làm chủ. Tôi chuyên nói trong mộng, hoặc là khi ngủ, quư vị nhất loạt chẳng thấy các hành vi thuộc về Thập Ác, trái nghịch Thập Thiện Nghiệp! Quư vị biết chính ḿnh thật sự tu tŕ tiến nhập thiện pháp môn; khi đó, tu tập sẽ dễ thành đạo.

          Đoạn phiền năo, tôi nêu một thí dụ: Trong quá khứ, ḷng tham rất nặng, rất mê tiền, rất yêu thích một thứ vật phẩm chi đó. Cho tới khi quư vị bái sám, tu hành một khoảng thời gian, sẽ nghiễm nhiên buông xuống. Trông thấy thứ vật phẩm ấy, trong tâm cũng chẳng động ḷng, đă thành công rồi! Tự quư vị có thể nhận biết, thấu hiểu. Trong quá khứ, phiền năo rất nặng, thậm chí khi tĩnh tọa, chẳng định được. Cho tới khi quư vị đă bái sám một khoảng thời gian, thông thường, quư vị tĩnh tọa một tiếng, nay có thể ngồi hai tiếng, ngồi được ba tiếng. Khi tĩnh tọa, có thể an tĩnh. Đó là một loại. Giống như các đạo hữu tại gia, họ làm bất cứ chuyện ǵ, cũng luôn cảm thấy chẳng hài ḷng, làm chuyện ǵ cũng chẳng thuận lợi. Cho tới khi quư vị lạy được một thất, hai thất, ba thất, chẳng cần dùng Chiêm Sát Luân, từ trong cuộc sống, có thể tự ḿnh thể nghiệm sự biến đổi. Chẳng phải là hoàn cảnh biến đổi, mà là cái tâm của quư vị thay đổi. Tướng cảnh giới bên ngoài vĩnh viễn là như thế đó, nhưng tâm quư vị đă thiện, [hoàn cảnh] liền thay đổi. Tâm quư vị có thể chuyển biến hoàn cảnh hay không, tùy thuộc chính ḿnh có đủ sức hay không. Nếu sức bái sám của quư vị mạnh mẽ, không chỉ chính ḿnh, mà ngay cả gia đ́nh của quư vị, lớn th́ như chùa miếu của các vị sư phụ, cho đến các đạo hữu, đều có thể cùng nhau tu hành, quư vị sẽ biết hiệu quả to lớn. Không chỉ chính ḿnh, mà c̣n ảnh hưởng tới người khác. Chuyện này chẳng cần “gieo quẻ”, quư vị cũng hiểu rơ.

          Nếu gặp chuyện ǵ, bản thân quư vị chẳng thể quyết định, hăy tiến vào sám thất, chiêm sát một phen, Địa Tạng Bồ Tát sẽ quyết định cho quư vị, thử nhiều lần chẳng sai chạy! Như vậy th́ quư vị tu hành có lợi ǵ? Tăng trưởng sức tín niệm, tăng trưởng tín tâm của quư vị. Nếu quư vị niệm kinh Kim Cang, thông thường khi niệm, sẽ chẳng đủ sức lư giải. Sau khi quư vị đă bái sám, sẽ có thể lư giải. Nói “có thể lư giải” rốt cuộc câu ấy có hàm nghĩa là ǵ? Đó là chuyện trong năm 1930 hoặc 1931. Khi lăo ḥa thượng Ấn Thuận ở Cổ Sơn tỉnh Phước Kiến bị thổ huyết, Ngài trở về Phổ Đà Sơn, ở trong một ngôi chùa nhỏ của chính ḿnh để bế quan. Khi bế quan, Ngài duyệt Đại Tạng Kinh. Lúc ở Phước Châu, bác sĩ đoán định Sư chẳng thể sống lâu được! Thổ huyết cả đống không ngừng, Sư bị lao phổi rất nghiêm trọng. Sư duyệt tạng ba năm, lành bệnh, sống đến một trăm tuổi, suốt đời đều ốm đau, suy nhược. Đấy là tuyệt đối có sức gia tŕ. Ở đây, chúng ta nương vào sức gia tŕ của Địa Tạng Vương Bồ Tát, quư vị có thể tùy thời thưa hỏi, tùy thời có thể thỉnh ư, có thể dùng mộc luân, nhưng chuyện này cần phải học. Hôm nay ở nơi đây, tôi chỉ giới thiệu cho mọi người đôi chút. Nếu muốn nói tường tận, học tường tận, mọi người phải tự dụng tâm học tập. Quư vị có thắc mắc ǵ, tôi sẽ lại cùng các đạo hữu trao đổi, uốn nắn các sai lầm.

          Đấy là giống như có một vị thầy, tức Địa Tạng Vương Bồ Tát ở cạnh chúng ta. Có đôi khi đối với luân tướng, Địa Tạng Bồ Tát chẳng hiện, hoặc Ngài chẳng tới hộ pháp, quư vị chẳng gieo [luân tướng] được, từ đầu đến cuối chẳng tương ứng. Chuyện quư vị hỏi và [kết quả] gieo luân tướng hai đằng chẳng ứng hợp, tức là quư vị vẫn chưa đạt tới chí tâm, tức là cái tâm thành khẩn vẫn chưa đủ. Do vậy, khi quư vị bái sám, vẫn chẳng khiến cho chướng ngại và thô chướng hiện hành của quư vị tiêu mất. Tối thiểu là khi quư vị bái sám, thô Hoặc, thô chướng có thể tiêu mất, luân tướng mới hiện ra càng ngày càng tốt đẹp hơn. Hoặc quư vị tồn tại sát nghiệp rất nặng, sát nghiệp thuộc loại sân hận phiền năo, quư vị nghiễm nhiên biến sát nghiệp thành từ bi, cho thấy quư vị đă chuyển hóa. Không chỉ chẳng giết mà c̣n từ bi, chính ḿnh hiểu rất rơ. Do vậy, pháp Chiêm Sát giúp cho chúng ta có thần thông và trí huệ, nhưng phải có ḷng thành. Ư niệm đầu tiên là phải thành tâm, điều thứ hai là chớ nên có tạp niệm.

 

2. Chiêm Sát Sám Pháp

         

          Chúng tôi đă nói xong kinh Chiêm Sát, cũng như giải thích kèm thêm đôi chút cùng mọi người về cách sử dụng Chiêm Sát Luân để chiêm sát. Lại c̣n có sám pháp để bái sám. Sau khi đă bái sám th́ mới có thể sử dụng Chiêm Sát Luân. Chẳng bái sám, làm sao sử dụng Chiêm Sát Luân cho được? Sám pháp để bái sám do Ngẫu Ích đại sư soạn. Ngẫu Ích đại sư vâng theo lời chỉ dạy của Địa Tạng Bồ Tát, Ngài khuyên chúng ta tu tập. Giả sử mong liễu sanh tử, mong tu chánh pháp, quư vị tu hành luôn luôn có chướng ngại, do duyên chẳng trọn đủ. Mỗi đạo hữu chúng ta, kể từ lúc xuất gia, trong quá tŕnh tu hành, quư vị luôn gặp rất nhiều chướng ngại. Các nghịch duyên trái nghịch ư nghĩ của chúng ta th́ chúng ta c̣n có thể miễn cưỡng tiếp nhận, c̣n có thể biết tu hành trong nghịch cảnh hiện tiền; nhưng thuận cảnh hiện tiền th́ quư vị chẳng biết. Chuyện ǵ cũng đều rất thuận lợi, chuyện ǵ cũng đều tốt đẹp, điều này rất nguy hiểm, sẽ gây chướng ngại khiến cho quư vị chẳng thể tu hành. Đó gọi là chướng duyên. Trong chướng duyên, có nghịch và thuận.

          Đời quá khứ, chúng ta đă tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, nghiệp chướng nghiêm trọng nhất rất nặng; đời hiện tại, tu đạo gặp rất nhiều chướng ngại. Nói đơn giản, chúng ta xuất gia thọ giới chẳng đạt được giới thể thanh tịnh. Bốn, năm trăm năm trước, vào đời Minh, Ngẫu Ích đại sư mong t́m được năm vị tỳ-kheo thanh tịnh trong Nam Thiệm Bộ Châu, nhưng chẳng t́m thấy. Ngài có thần thông, huống chi hiện thời, chúng ta lại xa cách nhiều năm ngần ấy, cho nên khi chúng ta bái sám, trong tâm sẽ có ư tưởng cần phải tu pháp sám hối. Hễ bái sám bèn tu sám hối. Từ nay trở đi, nếu chúng ta chẳng tạo ác nữa, sám hối quá khứ, vị lai bèn hối cải, chẳng làm nữa. Đó gọi là “sám hối”. Khi quư vị tu pháp sám hối, số người chớ nên nhiều! Mọi người cùng nhau mong tu hành, tối đa là mười người. Nếu tự ḿnh tu một ḿnh th́ càng tốt hơn. Nhưng phải có một vị thầy; khi quư vị bái sám, xuất hiện rất nhiều vấn đề, phải có một vị minh sư, tức là một vị thầy thông hiểu sám pháp này chỉ vẽ cho quư vị.

          Khi quư vị bái sám, phải dùng Chiêm Sát luân tướng, nhưng để sử dụng Chiêm Sát Luân, chẳng thể có chút giấu giếm nào đối với Địa Tạng Bồ Tát. Ắt cần phải sám hối tội nghiệp của quư vị. Trong tâm quư vị có những điều riêng tư, chẳng nói với ai, nhưng đối trước tượng Địa Tạng Bồ Tát, quư vị nhất định phải nói v́ sao quư vị bái sám, bản thân quư vị đă phạm tội ǵ? Bản thân quư vị cảm thấy trong tâm có bí mật chẳng thể nói với ai khác, hăy đều nên nói với Địa Tạng Bồ Tát.

          Thể hiện sự cung kính trong bái sám th́ nhất định phải tịnh tâm trước đă. Khi lạy, điều đầu tiên là lễ kính mười phương chư Phật; sau đó, phát nguyện, nghiêm trang cầm hương, hoa, chiếu theo phương pháp do Địa Tạng Bồ Tát đă dạy để hành: Phát nguyện, nguyện mây hương, hoa này trọn khắp mười phương pháp giới. Quư vị quán tưởng [như thế đó]. Nếu chẳng làm được, phải nương theo văn tự để niệm. Cúng dường Tam Bảo, cúng dường hết thảy chư Phật, tôn pháp là Pháp Bảo, hiền thánh tăng là Tăng Bảo. Cúng dường hết thảy Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, khiến cho họ đem các vật cúng của quư vị làm Phật sự. Những điều này trong văn sám hối đều có, mọi người có thể chiếu theo văn sám hối để niệm. Sau đó, phải thỉnh thánh. Tiến vào sám thất, trước hết phải thỉnh thánh. Điều đầu tiên trước hết là phải thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tỳ Bà Thi Phật, quá khứ thất Phật, cho đến Phổ Quảng Phật… tức năm mươi ba vị Phật, cho đến tất cả sắc thân, xá-lợi, h́nh tượng, phù đồ tháp miếu, hết thảy Phật sự của hết thảy chư Phật. Sám pháp này do Ngẫu Ích đại sư dựa theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo [để biên soạn]. Hết thảy các sám pháp đều như thế, nhưng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo chẳng nói; đây là Ngẫu Ích đại sư dựa theo hết thảy các sám pháp để bái sám. Cho đến phụng thỉnh mười phương ba đời hết thảy chư Phật, cho đến đặc biệt thêm vào “Nam-mô Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh vi diệu pháp tạng”. Chúng tôi giảng xong kinh này, mọi người đă có ấn tượng: Khi quư vị bái sám, phải thỉnh, thỉnh Pháp Bảo hiện tiền, pháp tánh của Pháp Bảo giống như hư không. Quư vị vừa tác ư bèn hiện tiền, do Không nên mới chẳng có chướng ngại. Sau đó, thỉnh hết thảy hiền thánh tăng. Bộ kinh này do Kiên Tịnh Tín Bồ Tát thỉnh [đức Phật nói]. Chúng ta báo ân Ngài, khi quư vị bái sám, phải nhất tâm phụng thỉnh Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Các kinh khác chẳng có [danh hiệu vị Bồ Tát này], các sám pháp khác vốn chẳng có. Chỉ có khi quư vị lạy Chiêm Sát Sám th́ mới phụng thỉnh Kiên Tịnh Tín Bồ Tát. Phải thỉnh Biến Cát Bồ Tát (Phổ Hiền Bồ Tát) và Quán Thế Âm Bồ Tát. Sau đó, đặc biệt thỉnh vị sám chủ, sám chủ là Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị c̣n phải thỉnh hộ pháp, hộ pháp là Tứ Vương Thiên, Phạm Vương, Đế Thích, chư thiên, thiên long bát bộ. Sau đó c̣n phải tụng bài văn phát nguyện. Trong bản [sám pháp] ấy đều có [những điều vừa nói trên đây], tôi chỉ nhắc tới, mọi người hăy theo đó để thỉnh, để niệm. Chỉ xin đức Thích Ca từ phụ, thất Phật Thế Tôn, năm mươi ba vị Phật, hết thảy các vị giác ngộ [chứng minh, gia tŕ cho hành giả], đều thỉnh các vị Phật ấy. Ta bái sám nơi đây, các vị Phật ấy đều có thần thông, các Ngài sẽ diệu dụng, gia tŕ ta. Lại c̣n phải thỉnh quá khứ thất Phật, Tỳ Bà Thi Phật. Đó là sự phát nguyện khi bái sám, tôi không nói cặn kẽ với mọi người. Mọi người hăy dựa theo văn bản sám pháp này để thỉnh năm mươi ba vị Phật. Đó là khi ở trong sám thất, mới vừa bái sám, sau đó, nhất tâm kính lễ Pháp. Thỉnh Phật xong bèn thỉnh Pháp. Thỉnh Pháp xong, tất cả sắc tướng, xá-lợi, tháp miếu, hết thảy Phật sự đă thực hiện của mười phương chư Phật cũng đều phải thỉnh. Đông, Nam, Tây, Bắc, mười phương chư Phật cũng phải thỉnh. Cuối cùng, thỉnh hết thảy các pháp tạng. Thêm vào đó là thỉnh kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Dựa theo sám bổn của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mọi người có thể thỉnh, chiếu theo sám bổn để niệm, tôi không giới thiệu cặn kẽ.

          Nhưng có một đoạn văn do Ngẫu Ích đại sư biên soạn có hiệu quả rất lớn đối với chúng ta. Phát nguyện, phát nguyện ǵ vậy? Ta cùng hết thảy chúng sanh, từ đời vô thỉ đến nay, ba nghiệp thân, miệng, ư, sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, tạo tội rất nặng. Cho nên chúng ta mới chẳng thấy chư Phật, cũng chẳng được nghe pháp do chư Phật đă nói, lưu chuyển thuận theo sanh tử. Nay chúng ta muốn đoạn dứt, do nay chúng ta được nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, cắt đứt gịng sanh tử. Không chỉ bản thân chúng ta đoạn, mà c̣n nguyện cho hết thảy chúng sanh trong pháp giới cũng đều cùng với chúng ta đoạn, đoạn hết thảy nghiệp chướng, trừ sạch ba chướng, chí tâm sám hối.

          Có một đoạn văn chúng ta phải học niệm: Con cùng với chúng sanh, từ vô thỉ tới nay, do v́ ái kiến, trong th́ so đo “ta, người”, ngoài th́ lại thêm bạn ác, chẳng tùy hỷ mảy may điều thiện của người khác, chỉ trọn khắp ba nghiệp đều rộng tạo các tội. Sự tuy chẳng rộng, ác tâm trọn khắp, ngày đêm liên tục, chẳng hề gián đoạn, che giấu, né tránh lỗi lầm, chẳng muốn người khác biết. Chẳng sợ ác đạo, không hổ, không thẹn, bài bác chẳng có mười loại nhân quả. Nay ở trong sám thất, sám hối trọn hết mười loại ấy. Chuyển đổi thành tin sâu nhân quả, sanh ḷng hổ thẹn to lớn, sanh ḷng sợ hăi lớn lao, phát lộ sám hối, đoạn cái tâm tiếp nối, phát Bồ Đề tâm, đoạn ác, tu thiện, ba nghiệp siêng gắng. Sửa đổi lỗi cũ, tùy hỷ điều thiện của thánh phàm dẫu chỉ một mảy. Đồng thời, nghĩ nhớ mười phương hết thảy chư Phật, phước lẫn huệ của Phật đều trọn đủ viên măn. Chư Phật đều có thể cứu vớt chúng ta, tiêu trừ các tội ác do chúng ta đă tạo từ vô thỉ kiếp tới nay. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo cuối cùng giảng bản tánh là không tịch. Do vậy, dễ sám hối. Nơi tánh thể của chúng ta chẳng có [tội cấu], chỉ là bị che phủ bởi hết thảy phiền năo. Nay đă hiểu rơ, học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, biết [tánh thể] là không tịch, mong cầu Bồ Đề, mong cầu tịch tĩnh, nguyện cho hết thảy chúng sanh đều cùng chúng ta tu hết thảy các thiện nghiệp, đều đoạn ác nghiệp. Đó là khải thỉnh Tam Bảo gia bị.

          Sau đó, chí tâm sám hối, sám hối nghiệp chướng của chúng ta. Đấy là chuyện Ngẫu Ích đại sư đă làm. Ta và hết thảy chúng sanh, tự tánh thanh tịnh, cảnh giới Nhất Thật, chư Phật có cùng một Thể. Do nhân duyên vô minh si ám huân tập, hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến cho chúng ta nẩy sanh chấp trước, vọng niệm. Lại c̣n có tội nặng và tội nhẹ, khiến cho Định và Huệ của chúng ta đều bị chướng ngăn, khiến cho chúng ta luân chuyển lâu dài trong lục đạo, chẳng có thuở thoát ra. Nay chúng ta gặp kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, đó là kỳ hạn để chúng ta thoát ra. Đối với ngoại ma, nội chướng, đều khiến cho chúng bị tiêu mất. Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là đấng khéo nói an ủi, xé toang mây mê, vẹt sạch mây mê, mộng mị cho chúng ta, gột rửa đổi mới cái tâm ta lần nữa. Xót xa cầu sám hối như thế, cầu sám hối như thế đó. Sau đấy, lại khuyến thỉnh chư Phật. Những điều này trong văn sám hối đều có, bất quá, ở đây tôi nói đại lược đôi chút. Sau đó, lại c̣n tùy hỷ công đức. Cuối cùng, quư vị phải chí tâm hồi hướng, hồi hướng công đức do ta đă tu cho hết thảy chúng sanh, sám hối sạch sẽ hết thảy các tội nghiệp của ḿnh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều sám hối sạch sẽ tội nghiệp. Mong mỏi chư Phật gia bị, hồi hướng công đức sám hối và tu hành của chúng ta cho mười phương hết thảy chúng sanh. Sau đó, lại phát nguyện, nguyện Địa Tạng Bồ Tát và mười phương Tam Bảo gia bị chúng ta. Thế giới hiện thực của chúng ta chẳng an định, quốc độ mong manh. Hiện thời, trên thế giới tai nạn nhiều lượt phát sanh, chánh pháp tiêu mất. Chúng ta xoay chuyển, khiến cho tai nạn tiêu trừ, chánh pháp lưu thông, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể sanh tín tâm thanh tịnh, chẳng có chướng ngại. Trong tu đạo chẳng có ma chướng, chẳng có tà kiến, chẳng có tà tri. Cuối cùng, đem công đức học tập, công đức sám hối, hồi hướng cho thế giới Cực Lạc. Ngẫu Ích đại sư suốt đời đều cầu sanh thế giới Cực Lạc. Đây là văn sám hối do Ngài soạn. Không chỉ thân cận Phật Di Đà, sanh về thế giới Cực Lạc để thân cận hết thảy chư Phật, được chư Phật thọ kư rồi lại trở vào trần lao, lại trở về thế giới Sa Bà để độ chúng sanh. Đó gọi là phát nguyện. Cuối cùng, quy kính Tam Bảo. Trong quá tŕnh quư vị sám hối phát nguyện, đây là đoạn cuối cùng trong khi quư vị tới sám thất để sám hối. Điều này giống như quư vị sám hối bèn có thứ tự nhất định.

          Sau khi quư vị đă bước vào sám thất, thoạt đầu, tâm quư vị vẫn chưa định được, nhưng quư vị tiến vào sám thất, có mấy vấn đề trọng yếu nhất: Khi quư vị tiến vào sám thất, thân tâm nhất định phải thanh tịnh. Ngẫu Ích đại sư nói: Khi quư vị vào sám thất, y phục phải sạch sẽ. Khi quư vị vào nhà xí, Ngẫu Ích đại sư yêu cầu: Tốt nhất là phải có y phục dùng riêng trong nhà xí, mặc một cái áo khoác, ra ngoài bèn cởi áo khoác để lại trong nhà xí. Nhất định phải ǵn giữ sự thanh khiết. Chúng ta tiến vào sám thất, hay vào Phật đường, Ngẫu Ích đại sư phê b́nh: [Nếu hành giả] trọn chẳng thanh tịnh, làm sao có thể đạt được thiện quả, được Phật, Bồ Tát gia tŕ cho được? Phật, Bồ Tát từ bi sẽ chẳng so đo, nhưng thần hộ pháp hết sức so đo. Tâm quư vị thanh tịnh, đó là điều chủ yếu. Có các đạo hữu đi tiểu xong, rửa tay xong liền bước ngay vào sám thất, điều này tuyệt đối chẳng thể được! Chúng tôi thấy rất nhiều đạo hữu lên tụng kinh, căn bản là chẳng thanh tịnh mà liền lên chánh điện. Do vậy, Ngẫu Ích đại sư yêu cầu, thân thanh tịnh quư vị mà có thể làm được, th́ tâm cũng sẽ thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh th́ mới có thể đạt được sức gia tŕ.

 

Tập 17

 

          * Hỏi: Con thường nghe nói phát Bồ Đề tâm là nghĩa trọng yếu bậc nhất trong tu học Phật pháp. Phát vô thượng đại tâm có phải chính là tự tánh thanh tịnh tâm, đối với các hành vi, nói năng, im lặng, động, tịnh trong hằng ngày, đi, đứng, ngồi, nằm, phải nên phát như thế nào? An trụ như thế nào? Hộ tŕ như thế nào? Như thế nào th́ biết tự tánh ngay lập tức tương ứng với ư tưởng ấy? Lại nữa, cái tâm bao gồm đại từ, đại bi, đại hạnh, đại nguyện, đại xả như thế nào, ngơ hầu do cái tâm ấy mà toàn thể khởi dụng, toàn tu tại tánh? Mong thầy dạy cặn kẽ cho!           Đáp: Nói đơn giản, vị đạo hữu này hỏi về phát tâm: “Thế nào là phát Bồ Đề tâm?” Đối với Bồ Đề, trước hết phải hiểu Bồ Đề là ǵ? Quư vị ngay cả Bồ Đề mà chưa hiểu rơ, phát tâm bằng cách nào đây? Bồ Đề là giác trong giác ngộ. Bồ Đề là giác, mà cũng là Phật. Ư nghĩa được bao hàm trong phát Bồ Đề tâm“nếu ta muốn thành Phật, quư vị phải phát Bồ Đề tâm”. Phát Bồ Đề tâm: Phát tâm là một chuyện, hành động lại là một chuyện khác! Quư vị đă phát Bồ Đề tâm, sẽ làm như thế nào? Quư vị đă phát Bồ Đề tâm, hăy nương theo cái tâm do chính ḿnh đă phát để làm. Phải làm theo từng bước một. Đương nhiên là quư vị tín ngưỡng Tam Bảo, tín ngưỡng Tam Bảo th́ Phật là Bồ Đề tâm, Pháp vẫn là Bồ Đề tâm, Tăng Bảo vẫn là Bồ Đề tâm. Hằng ngày quư vị niệm Tam Bảo là phát Bồ Đề tâm, nhưng quư vị dùng cái tâm ǵ để niệm? Quư vị phát Bồ Đề tâm, phải dùng phát Bồ Đề tâm để niệm, tức là dùng cái tâm giác ngộ. Quư vị mong cầu giác ngộ, vậy th́ quư vị mỗi ngày phát tâm là một chuyện, hành động lại là một chuyện khác. Quư vị tự ḿnh phát tâm, thân, miệng, ư của quư vị phải nên chiếu theo cái tâm Bồ Đề đă phát để làm. Như thế th́ quư vị mới là thật sự phát Bồ Đề tâm. Như thế th́ sẽ chẳng có vấn đề!

 

          * Hỏi: Xin hỏi dùng Chiêm Sát Luân để bói toán, có cần phải xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng đạt tới định cảnh (nhất tâm bất loạn) th́ mới có thể gọi là “chí thành cảm thông”, lời hỏi mới tương ứng lời đáp hay không?

          Đáp: Khi quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, điều thứ nhất là quư vị phải niệm [thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát] trước đă. Có thể là vị đạo hữu này chưa nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Kinh Chiêm Sát dạy chúng ta: Nếu quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân, điều thứ nhất là phải niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát, hoặc là niệm một vạn câu trước đă. Quư vị c̣n phải bái sám. Quư vị tu bảy ngày th́ mới có thể dùng Chiêm Sát Luân. Chuyện này không thành vấn đề, quư vị ắt cần phải niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát th́ mới có thể dùng Chiêm Sát Luân, nhưng không nhất định sẽ tương ứng. Quư vị nói chỉ mong sao hễ vừa chiêm sát liền tương ứng, chẳng thể được! Quư vị phải vận dụng công phu bảy ngày, chiêm sát vẫn chẳng thấy tương ứng, điều chủ yếu: Trực tâm là đạo tràng. Trong tâm quư vị chẳng có tạp niệm nào khác, đó là nhất tâm.

 

          * Hỏi: Thỉnh giáo lăo ḥa thượng, rốt cuộc phải tu hành và do nhân duyên nào th́ mới có thể khiến cho cái tâm sớm có ngày khai ngộ, giải thoát, tiến tới lợi ích hết thảy các chúng sanh thân tâm đang chịu khổ, và cũng khiến cho họ đạt được giải thoát?

          Đáp: Quư vị hỏi tôi điều này, tôi chẳng có cách nào trả lời! Quư vị phải dùng cái tâm ǵ th́ mới có thể khai ngộ, giải thoát? Mọi người hăy nghe nhé: Người học Phật chúng ta dùng tâm ǵ th́ mới có thể khai ngộ, giải thoát? Quư vị niệm Phật, niệm đến mức nhất tâm th́ cũng có thể khai ngộ, giải thoát. Hoặc bái sám đến mức nhất tâm th́ cũng có thể khai ngộ, giải thoát. Vấn đề là phải đạt tới nhất tâm. Nếu quư vị toàn là dấy vọng tưởng; trước hết, hăy tu nhất tâm. Nhất tâm là chí tâm. Chí tâm có thượng chí tâm, hạ chí tâm, và trung chí tâm. Quư vị có thể đạt được hạ chí tâm đă chẳng dễ dàng, hạ chí tâm là nhất tâm bất loạn. Khi quư vị tu hành, hăy khống chế hết thảy tạp niệm và vọng tưởng, chẳng để cái tâm có tạp niệm hay vọng tưởng. Dùng cái tâm ấy để lạy, để cầu, lúc nào sẽ khai ngộ, lúc nào sẽ giải thoát, tùy thuộc quư vị đổ công dốc sức như thế nào. Nay tôi vẫn chưa khai ngộ, mà cũng chẳng giải thoát, nhưng quư vị muốn đạt tới công phu như tôi phải mất tám mươi năm.

 

          * Hỏi: Tâm thường trụ nơi Phật hiệu, có lúc thanh tịnh, có lúc mê muội, hồ đồ. Nói chung là chẳng có cách nào giữ cho thường hằng, vậy th́ phải làm như thế nào?

          Đáp: [Nói] “tâm thường trụ nơi Phật hiệu” tức là quư vị phải tự ḿnh niệm Phật, chẳng phải “tâm thường ở trong Phật hiệu”, mà là cái tâm quư vị thường niệm Phật hiệu. Quư vị chẳng nói Phật hiệu nào. Quư vị niệm A Di Đà Phật cũng là Phật hiệu, mà niệm Thích Ca Mâu Ni Phật cũng là Phật hiệu, mười phương chư Phật cũng là Phật hiệu. Niệm vị Phật nào cũng đều được. Nay quư vị [thắc mắc niệm Phật] có lúc đạt được thanh tịnh, có lúc mê muội, hồ đồ, chẳng có cách nào giữ cho [sự thanh tịnh] thường hằng, phải làm như thế nào ư? Bất luận quư vị niệm Phật cũng thế, mà tu các pháp khác cũng thế, điều đầu tiên là đạt tới nhất tâm trước đă. Nhất thời thanh tịnh là tạm thời, vẫn chưa được. Hôm nay, lúc này quư vị niệm Phật thanh tịnh, niệm đến mức nhất tâm bất loạn, ngày mai chẳng làm được. Đó chẳng gọi là nhất tâm. Phải lúc nào, niệm nào cũng đều có thể đạt đến thanh tịnh, khi ấy, quư vị mới có thể khai tri kiến, khai ngộ giải, hoặc là cầu văng sanh, mới tính là nhập môn. Chẳng phải là thành công, mà chỉ là “nhập môn”. Nếu có thể nhất tâm thường luôn bất động th́ là thành tựu. Nhất thời thanh tịnh chẳng tính, ai nấy đều có! Vị đạo hữu ấy chỉ cần tin rằng: Hễ là đệ tử Phật, tạm thời có thể thanh tịnh một tiếng đồng hồ hay hai tiếng đồng hồ, hoặc một ngày thanh tịnh, đều có thể đạt được, nhưng cần phải lâu dài. Thành Phật chẳng phải là một ngày. Đạt được thanh tịnh trong một ngày, có nghĩa là phải tu một thời gian dài th́ mới có thể định cái tâm được.

 

          * Hỏi: Tổ sư từng nói “thọ giới dễ dàng, giữ giới khó”. Nhất là trong thời đại Mạt Pháp, giữ giới thanh tịnh quả thật chẳng dễ. Muốn giữ đại giới (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) thanh tịnh lại càng chẳng dễ. Có phải là chúng ta nên giữ Thập Giới là đủ rồi, so ra khó phạm giới hơn?

          Đáp: “Thọ giới dễ, giữ giới khó”, quư vị nói đúng lắm! Trong thời kỳ Mạt Pháp, nếu muốn giữ giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni thanh tịnh càng khó hơn! Quư vị chẳng phải là tỳ-kheo, mà cũng chẳng phải là tỳ-kheo-ni, quư vị nói tới bổn phận của chính ḿnh là được rồi! Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni giữ giới chẳng dễ dàng, vậy th́ quư vị giữ Tam Quy, Ngũ Giới dễ dàng ư? Quư vị đă thọ Tam Quy nhưng đều trái phạm! Hăy nói xem, đă thọ Tam Quy mà có phạm hay không? Rơ ràng là quư vị đă quy y Phật, nhưng đi coi bói, gieo quẻ, hoặc tin vào ngoại đạo. Đài Loan có rất nhiều đạo giáo, vậy là kể như quư vị đă phá Tam Quy. Đă phá Tam Quy, chẳng thể coi là đệ tử Phật được! Hoàn toàn chẳng phải là phá Ngũ Giới, mà là Tam Quy bị phá. Chúng ta có thể tŕ mười giới hay chăng? Tôi thấy quư vị mười giới cũng chẳng tŕ được! Chẳng dễ dàng đâu nhé! Quư vị đă thọ Tam Quy, có thể giữ vững Tam Quy, sẽ chẳng đánh mất phước đức nhân thiên, có biết hay chăng? Đối với mười giới, nh́n quư vị như vậy th́ mười giới vẫn chưa thọ. Thọ rồi hăy nói sau! Quư vị có thể thọ mấy giới bèn tŕ mấy giới, không nhất định hạn lượng trong mười giới. Đối với chuyện khó phạm giới hơn, tôi có cách nh́n tương phản với quư vị, tôi cảm thấy so ra quư vị dễ phạm giới hơn!

 

          * Hỏi: Sám hối tam nghiệp thanh tịnh rồi mới tu hai thứ quán đạo, nhưng nói theo bọn nghiệp chướng phàm phu chúng con, đại khái cần phải bao lâu th́ mới có thể đạt tới cảnh giới Nhất Thật?

          Đáp: Vị đạo hữu này hỏi tôi, “lúc nào th́ mới có thể đạt tới cảnh giới Nhất Thật?” Tôi có thể trả lời rơ ràng với quư vị là đời này chẳng làm được! Đạt tới cảnh giới Nhất Thật là đă thành tựu, chúng ta thường nói là “khai ngộ”. Đă khai ngộ, chẳng đạt tới cảnh giới Nhất Thật, nhưng hiểu rơ cảnh giới Nhất Thật. Chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đă nói rất rơ ràng: Dự vào ngôi Sơ Trụ Bồ Tát. Viên măn Thập Tín, đă dự vào ngôi Sơ Trụ th́ mới có thể coi là tương tự thanh tịnh, chẳng phải là thật sự thanh tịnh. Thật sự thanh tịnh th́ đạt tới Sơ Địa Bồ Tát mới có thể thanh tịnh, chẳng c̣n trái phạm nữa. Có hiểu hay không? Sau khi quư vị đă sám hối tam nghiệp thanh tịnh, khi giảng kinh Chiêm Sát, chúng tôi đă nói rất rơ, quư vị được coi là thuộc vào Tín vị. Ba nghiệp thanh tịnh, đă tin, thật sự tin vào Tam Bảo, thân, miệng, ư chẳng c̣n tạo tội nữa, [tuy vậy], chẳng phải là thanh tịnh rốt ráo. Chỉ có Phật và Phật mới có thể đạt tới thanh tịnh rốt ráo.

 

          * Hỏi: Sử dụng Chiêm Sát Luân, vào sáng sớm mỗi ngày, dùng loại luân tướng thứ hai để chiêm sát thân, miệng, ư. Trong đó liên tục hai ngày, đối với mỗi nghiệp thân, miệng, ư, gieo ba lần đều gieo được thiện tướng. Xin hỏi như thế có được coi là thanh tịnh hay không? Sau đó, phải nên tiếp tục nỗ lực tu học ra sao?

          Đáp: [Cư sĩ hỏi] “sử dụng Chiêm Sát Luân, dùng loại luân tướng thứ hai để chiêm sát thân, miệng, ư, trong đó liên tục hai ngày, đối với ba nghiệp thân, miệng, ư, gieo ba lượt đều được thiện tướng, xin hỏi như thế có tính là thanh tịnh hay không?” Quư vị dùng Chiêm Sát Luân, Chiêm Sát Luân cho biết, quư vị đều là đỏ, chẳng có hắc nghiệp, th́ tính là thanh tịnh. Ba nghiệp đă thanh tịnh tức là chuyển ác theo thiện, chỉ tính là thiện nhân (người lành) mà thôi. Đă có tín tâm ấy, sẽ có thể tăng trưởng tín tâm của quư vị. Hăy nên tiếp tục nỗ lực tu tập là được rồi!

 

          * Hỏi: 1) Con có một người bạn xương sống từng bị thương nặng. Khi bái sám, nếu theo phương thức năm vóc gieo sát đất để quỳ lạy, sợ vết thương cũ tái phát, có thể dùng phương thức khom ḿnh xá để thay cho cách quỳ lạy năm vóc gieo sát đất hay không? Nếu dùng phương thức khom ḿnh để bái sám, có ảnh hưởng đến hiệu quả bái sám hay không?

          2) Con có một người thân thích thân thể suy nhược, sự nghiệp chẳng thuận lợi, chẳng thừa nhận chính ḿnh có nghiệp chướng, chẳng tin tưởng Tam Bảo. Đối với hạng người ấy, dùng phương thức niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát và bái sám để hồi hướng, có khiến cho người ấy sanh ḷng tin đối với Tam Bảo, tiến tới niệm Phật, học Phật, bái Phật hay không? Nếu v́ người ấy niệm Phật hồi hướng, có thể gánh vác nghiệp chướng cho người ấy hay không?

          Đáp: [Quư vị hỏi] “con có một người bạn xương sống từng bị thương nặng. Lúc bái sám, nếu năm vóc đảnh lễ, sợ thương tích sẽ phát sanh trở lại, có thể khom ḿnh hay không?” Quư vị ngồi, tâm bái cũng được. Quư vị cứ ngồi, quán tưởng lạy Phật. Trong tâm quán tưởng đang lạy th́ cũng coi như thanh tịnh, chú trọng cái tâm, chẳng chú trọng h́nh thức, quư vị hiểu chứ? Quư vị lại có một vị thân thích, thân thể suy nhược, sự nghiệp chẳng thuận lợi, việc kinh doanh chẳng sanh lợi, chẳng muốn thừa nhận chính ḿnh có nghiệp chướng, rơ ràng là có nghiệp chướng, nhưng chẳng chịu thừa nhận có nghiệp chướng, chẳng tin tưởng Tam Bảo. Đối với hạng người như thế, dùng phương thức niệm Địa Tạng Bồ Tát và bái sám, có khiến cho người ấy sanh tín tâm đối với Tam Bảo hay không? Điều này chẳng có tiêu chuẩn chi hết. Đối với thắc mắc này, quư vị hăy khuyên nhủ người ấy, làm cho người ấy sanh khởi tín tâm đối với Tam Bảo trước đă. Đức Phật dạy chúng ta rất rơ ràng, Phật pháp sâu như biển cả, chỉ do ḷng tin mà có thể nhập. Kẻ đó chẳng có tín tâm, làm sao có thể tu, cỏn nói ǵ bái sám? Vậy th́ quư vị phải khuyên người đó, cho đến khi nào người ấy thay đổi, có tín tâm. Tín tâm là bước đầu. Nếu muốn đạt tới tín tâm như chúng tôi đă nói trong khi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, khoảng cách rất xa. V́ để tu tín tâm th́ phải mất một vạn kiếp, chúng ta đều là tâm tương tự.

 

          * Hỏi: Xin hỏi tại gia cư sĩ có thể sử dụng luân tướng để chiêm sát thiện ác hay không?

          Đáp: Vị đạo hữu này hỏi tôi: “Tại gia cư sĩ có thể dùng Chiêm Sát Luân hay không?” Quư vị hỏi tôi, tôi giảng bộ kinh Chiêm Sát Luân này hơn một tháng, quư vị có nghe hay không? Nếu quư vị chẳng nghe, sẽ không biết. Nếu quư vị nghe, sẽ biết. Cho nên có thể sử dụng Chiêm Sát Luân hay không, hăy xem lại kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo từ đầu, sẽ thấy. Nếu tôi ở đây giảng lại bộ kinh Chiêm Sát lần nữa, sẽ chẳng có thời gian.

 

          * Hỏi: Đă ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn có bái sám nữa không?

          Đáp: Khoan nói tới nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn, mười phương chư Phật đều đang bái sám, quư vị có hiểu hay không? Mười phương chư Phật lễ mười phương chư Phật.

 

          * Hỏi: Thường nghe “Phật khó độ kẻ vô duyên”, nhưng Bồ Tát lúc tu tŕ nơi nhân địa, công đức của thiện hạnh đều hồi hướng cho hết thảy chúng sanh trong pháp giới, chẳng phải là kết duyên với hết thảy chúng sanh ư? Cớ sao tới khi thành Phật, hăy c̣n chúng sanh vô duyên, chẳng thể độ?

          Đáp: Đạo hữu! Quư vị ra ngoài hỏi những kẻ chẳng tin Phật, tùy tiện hỏi bất cứ ai, hỏi kẻ đó có nhân duyên hay không, xem họ trả lời như thế nào. Nói “Phật pháp khó độ kẻ chẳng có duyên”, họ chẳng tin, chẳng tin th́ quư vị độ bằng cách nào? Tiêu chuẩn của hữu duyên và vô duyên là như thế nào? Có một tiêu chuẩn là tín. Chẳng tin th́ kẻ đó sẽ tuyệt đối chẳng thể nhập; đấy là tiêu chuẩn. Tiên đề là kẻ đó không tin, đó là vô duyên. Vô duyên sẽ chẳng thể độ.

 

          * Hỏi: 1) Có phải là đối với tội lỗi chẳng thể nói cho người khác biết, mỗi lần bái sám đều phải niệm một lần?

          2) Mỗi ngày phải lạy Chiêm Sát Sám mấy lần th́ tam nghiệp mới có thể thanh tịnh?

          3) Tại Đài Bắc có đạo tràng của lăo pháp sư hay không để cộng tu Chiêm Sát Sám?

          Đáp: Tội lỗi chẳng thể nói với người khác th́ quư vị bái sám, hoặc là lạy Địa Tạng Sám, hoặc lạy Quán Âm Sám, Bồ Tát đều biết. Quư vị chẳng nói, Bồ Tát vẫn biết. Khi quư vị hướng về Bồ Tát thổ lộ, đó gọi là “phát lộ sám hối”. Nếu quư vị đă tin tưởng Bồ Tát, chớ nên giấu giếm, Bồ Tát không cần quư vị nói, Ngài vẫn biết! V́ sao c̣n bảo quư vị phát lộ sám hối? Nêu bày cái tâm của quư vị! Giống như chúng ta vứt bỏ một món đồ chi đó, phát lộ sám hối là buông xả, chẳng c̣n tái phạm cái tội ấy nữa, có ư nghĩa như thế đó. Quư vị giấu giếm Bồ Tát ư? Ngay cả đối với quỷ thần mà quư vị c̣n chẳng thể giấu giếm được! Quỷ thần đều có thần thông. Mỗi ngày phải bái mấy lần Chiêm Sát Sám th́ ba nghiệp mới có thể thanh tịnh? Chẳng phải là mỗi ngày quư vị lạy Chiêm Sát Sám mấy lần, mà là quư vị lạy để cầu Chiêm Sát Luân hiện tướng thanh tịnh. Chẳng phải là mỗi ngày mấy lần, mà là hằng ngày đều bái. Chẳng có số lần để trắc nghiệm! Lạy chừng nào quư vị đạt tới thanh tịnh mới thôi. Lăo pháp sư có đạo tràng tại Đài Loan hay không ư? Chẳng có! Có sám thất để tu Chiêm Sát Sám hay không? Chẳng có! Tại Đài Loan, tôi không có đạo tràng.

 

          * Hỏi: Đệ tử lần đầu tiên nghe nói kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và pháp môn bái sám, đối với việc phụng hành sám pháp này, ngoại trừ chí thành tâm và cung kính tâm, chiếu theo hành pháp do Trí Giả đại sư chế định để thực hiện th́ có chỗ nào cần phải chú ư hay không?

          Đáp: Nghe nói kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và pháp môn bái sám, phụng hành sám pháp này, ngoại trừ chí thành tâm và cung kính tâm, chiếu theo hành pháp do Trí Giả đại sư chế định để thực hiện, sẽ giống hệt. [Đối với những điều] chúng tôi đang nói về Chiêm Sát Sám của Địa Tạng Bồ Tát, quư vị hành theo sám pháp của Trí Giả đại sư th́ cũng [phải chú ư] giống như vậy. Đại Bi Sám hay rất nhiều sám pháp đều giống nhau, chỉ cần có tâm chí thành là được rồi. Dùng Chiêm Sát Luân th́ xưng thánh hiệu là điều tất yếu, quư vị ắt cần phải niệm. V́ Địa Tạng Bồ Tát dạy: Khi quư vị muốn sử dụng Chiêm Sát Luân để bái sám, nhất định phải niệm một ngàn câu thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát. Niệm đủ một ngàn câu rồi mới dùng [Chiêm Sát Luân]. Khi sử dụng mà chẳng linh, quư vị lại lạy và niệm. Khi đă linh, linh th́ vẫn chưa phải là kết thúc. Lạy đến mức được linh nghiệm tức là quư vị sử dụng Chiêm Sát tướng pháp sẽ linh nghiệm, có thể tương ứng. Sám pháp nhằm chỉ dạy quư vị sám hối nghiệp ấy đă thanh tịnh hay không. Để sám hối thanh tịnh, quư vị phải lạy, lạy nhằm mong thành đạo. Chẳng sám hối thanh tịnh, lại càng phải sám hối cho thanh tịnh. Nếu thanh tịnh, sẽ chẳng thọ báo, vấn đề là như thế đó. “Tương ứng” có nghĩa những ǵ trong tâm quư vị suy tưởng và lời dạy trong kinh, cách nghĩ của quư vị và tướng trạng nói trong kinh phù hợp khít khao, th́ gọi là “tương ứng”. Quư vị suy tưởng mà chẳng giống như kinh đă dạy th́ gọi là “chẳng tương ứng”. Chẳng tương ứng là ǵ? Chính là tâm quư vị vẫn chưa chí thành. Quư vị hăy tu lần nữa cho đến khi tâm chí thành, sau đó sẽ tương ứng. Tương ứng nhằm bảo cho quư vị biết điều ǵ? Cho thấy quư vị có tội, hăy nên sám hối, có ư nghĩa như thế đó. Sám hối đă thanh tịnh, hoàn toàn chẳng phải là đă thành Phật. Sám hối đă thanh tịnh bèn có thể tu pháp. Tu pháp sẽ có thể thành tựu, học pháp sẽ có thể khai trí huệ, mang ư nghĩa này. Bái sám chỉ là sám hối tội lỗi, là bước đầu tiên để sám hối tội lỗi ḥng tu hành. Chẳng c̣n tội, há chẳng thanh tịnh ư? Chẳng có tội, quư vị tu Quán, quán lực thanh tịnh, tức là lúc có thể học pháp, có thể tiến nhập, khai trí huệ, chính ḿnh xem kinh có thể hiểu. Đắc định, tâm thanh tịnh, có thể đắc Định, có thể nhập Định.

 

          * Hỏi: Có phải là cần niệm trước kinh Chiêm Sát Hành Pháp (tức từ trang bốn mươi chín đến trang năm mươi bảy trong kinh bổn) một lần rồi mới bắt đầu bái sám?

          Đáp: Quư vị hỏi t́nh huống này, tôi chẳng hiểu quư vị hỏi điều ǵ? [Quư vị nói] “từ trang bốn mươi chín đến trang năm mươi bảy trong kinh bổn của Chiêm Sát Hành Pháp phải niệm trước một lần!” Chẳng có cách nói ấy! Khi quư vị bái sám, chính là đối với cái nghiệp [đă hiển thị bởi luân tướng], sám pháp dạy quư vị lễ như thế nào, sắp xếp Phật đường như thế nào? Sắp xếp Phật đường th́ quư vị cứ tuân theo lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát trong Chiêm Sát Sám Pháp, phải lần lượt lạy chư Phật trước; sau đó, lạy Bồ Tát. Lạy xong lại niệm một ngàn câu thánh hiệu của đức Địa Tạng, vâng theo thứ tự ấy để bái sám. Nếu thân thể quư vị chẳng thể lễ lạy sám pháp được, Địa Tạng Bồ Tát tạo phương tiện thuận tiện nhất cho quư vị là mỗi ngày niệm một vạn câu thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, sẽ chẳng khác nào bái sám. Trong khi giảng kinh Chiêm Sát, tôi đă nói rất rơ ràng!

 

          * Hỏi: Xin hỏi phương thức báo đền ân cha mẹ? Tụng kinh ǵ hoặc làm điều chi khác?

          Đáp: Câu hỏi này là đền đáp ân cha mẹ như thế nào? Tụng kinh có thể báo ân cha mẹ hay không, hoặc tu hành những điều khác? Tôi trả lời bằng một chữ, “năng” (có thể).

 

          * Hỏi: Sư phụ A Di Đà Phật, người ta đều nói “vô ngă”, nhưng con tụng kinh thường phát hiện hai cái Ngă. Một là cái Ngă chân thật, và một cái ở trong thân con. Cái Ngă bên trong chẳng bị t́nh tự của cái Ngă bên ngoài dao động, nhưng lại thuận theo cái Ngă ở bên ngoài tụng kinh. Con cũng chẳng nói ra, con cảm thấy đó là tự tánh Ngă, cũng chẳng biết đúng hay không? Người khác nói con “tẩu hỏa nhập ma”, con tự cảm thấy chẳng giống như vậy! Chỉ là đệ tử tu mù luyện đui, cứ thích tụng kinh Địa Tạng, chẳng có thầy chỉ dạy, có lúc thật sự hoảng hốt, sợ hăi. Cảm ơn sư phụ khai thị.

          Đáp: [Ông nói] “sư phụ A Di Đà Phật”, sư phụ chẳng phải là A Di Đà Phật! Mọi người đều nói vô ngă, ai nói? Mọi người đều nói vô ngă, Phật nói, chẳng phải là ai nói. Đức Phật bảo cho chúng ta biết, hết thảy phải nhận biết lời Phật dạy là vô ngă. Nhưng [ông nói] khi tụng kinh, sẽ thường cảm thấy có hai cái Ngă. Tôi thấy không chỉ là hai cái Ngă. Ông có vô lượng Ngă, lúc này có vọng tưởng này, thoáng chốc sau có vọng tưởng khác. [Ông nói] “một cái là chân thật ngă, cái kia là nội tại ngă”, xong luôn! Tâm rất loạn, ngay cả chính ḿnh cũng chẳng nhận biết chính ḿnh. Hai cái Ngă chính là hóa thân của ông. Cái Ngă bên trong sẽ chẳng thuận theo cái Ngă bên ngoài, tôi thấy ông luôn thuận theo bên ngoài. Đó là sai lầm! Làm sao một người có hai cái Ngă cho được? Chẳng có! Chỉ có một Ngă, Ngă là ta. Địa Tạng Bồ Tát trăm ngàn vạn ức hóa thân, chỉ là một. Kinh Địa Tạng Bồ Tát nói: Địa Tạng Bồ Tát lễ Phật xong, đem trăm ngàn vạn ức hóa thân quy vào một thân, tức là một. Đạo hữu ơi! Tư tưởng của ông có vấn đề, chớ nên loạn tưởng như thế! Loạn tưởng sẽ dễ bị ma dựa. Không chỉ tu chẳng thành công, mà c̣n dễ bị ma dựa. Ông lại c̣n [cho rằng] có cái Ngă bên trong thuận theo cái Ngă bên ngoài cùng nhau tụng kinh, đă là chẳng chánh xác. Ông tụng kinh chính là Ngă tụng kinh, há c̣n có một cái Ngă nội tại và một cái Ngă ngoại tại! Người ta nói ông “tẩu hỏa nhập ma” chẳng sai, nói rất đúng! Bản thân ông cảm thấy chẳng phải vậy, chỉ là “đệ tử tu mù luyện đui”. Đă biết chính ḿnh tu mù luyện đui, sao không quay về chánh đạo? [Ông nói] “con thích tụng kinh Địa Tạng, chẳng có thầy chỉ dạy, có khi rất hoảng hốt, sợ hăi”. Khi niệm kinh Địa Tạng, chớ nên sợ hăi. V́ sao? Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ gia tŕ ông, cũng chẳng cần phải sợ hăi. Từ nay về sau, ông chỉ có một người, chẳng có hai người. Ông chẳng hóa thân, hóa thân của ông là ma quỷ, chẳng có thứ ấy! Ông suy nghĩ quàng xiên, vừa tụng kinh, vừa rong ruổi theo chuyện bên ngoài, đó có phải là hai cái Ngă hay không? Chẳng có! Hăy thâu nhiếp cái tâm của ông lại, chỉ nhất tâm nhất ư niệm kinh Địa Tạng, vọng tưởng sẽ tiêu mất. Nếu không, ông sẽ bị ma dựa!

 

          * Hỏi: 1) Kinh văn theo cách nh́n của kẻ phàm phu như con, mỗi bộ kinh đều hết sức thù thắng, phải thường đọc tụng lâu dài. Phàm nhân có khi muốn đọc kinh này, có khi lại muốn đổi sang đọc kinh khác, như thế th́ có tốt hay không? Đối với kinh Dược Sư, nếu như chỉ tụng Dược Sư Tán và niệm danh hiệu Phật Dược Sư, có được hay không?

          2) Để sám hối tiêu nghiệp th́ đọc tụng bộ kinh nào? Hay là tụng kinh Địa Tạng? Cách tụng như thế nào? Hồi hướng như thế nào?

          3) Phải nên niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát, hay là niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát?

          Đáp: [Ông thắc mắc] “kinh văn theo cách nh́n của kẻ phàm phu như con, mỗi bộ kinh đều hết sức thù thắng, phải thường đọc tụng lâu dài. Phàm nhân có khi muốn đọc kinh này, có khi lại muốn đổi sang đọc kinh khác, như thế th́ có tốt hay không?” Chẳng tốt. V́ sao chẳng tốt? Một bộ kinh, bất luận tụng kinh Kim Cang cũng thế, mà đọc kinh Địa Tạng cũng thế, quư vị đọc bộ kinh nào th́ phải thâm nhập. Đọc chẳng phải là niệm văn tự! Kinh luôn có nghĩa lư, dạy quư vị miệng phải ăn nói như thế nào, thân thể làm như thế nào, kinh đặc biệt dạy tâm ta phải suy nghĩ như thế nào. Trong bất cứ bộ kinh nào, cũng đều dạy về ba nghiệp thân, miệng, ư, quư vị hăy nên nhận biết như thế. Quư vị mong đọc một bộ kinh khác, có thể! Quư vị muốn đọc toàn bộ Đại Tạng Kinh cũng được! Nhưng cái tâm của quư vị phải chú trọng, chú trọng điều ǵ vậy? Một điểm thôi, phàm là kinh do đức Phật đă dạy [th́ đọc tụng, tu tập] đều được. Trừ phi quư vị duyệt tạng, phải sống sao cho cái tâm ứng hợp với những điều kinh đă dạy. Bộ kinh nào cũng đều dạy quư vị đoạn tham, sân, si; sanh trưởng Giới, Định, Huệ, tông chỉ là một: Khiến cho quư vị tiêu trừ vọng tưởng, đạt đến chân thật. Hăy miệng tụng, tâm tưởng. Đọc kinh Dược Sư chỉ tụng kinh Dược Sư và niệm thánh hiệu Dược Sư Phật, đúng lắm, rất tốt. Vậy th́ quư vị chuyên đọc kinh Dược Sư, niệm thánh hiệu của Phật Dược Sư; đó gọi là “thâm nhập một môn”. [Ông lại thắc mắc]: “Để tiêu nghiệp chướng th́ sám hối, đọc tụng bộ kinh nào? Kinh Địa Tạng có được hay không? Cách tụng như thế nào? Hồi hướng như thế nào?” Quư vị niệm kinh Địa Tạng, trong kinh Địa Tạng có [đầy đủ các bước để bái sám]. “Tụng” là niệm, niệm kinh Địa Tạng có phần hồi hướng, phần trước nhằm phát khởi cho phần sau, phẩm cuối cùng là hồi hướng. Mỗi bộ kinh, phần đầu là phát khởi tự, phần sau là hồi hướng. Tụng xong bộ kinh ấy, đem công đức do tụng bộ kinh ấy hồi hướng, gồm ba loại:

          1) Một là hồi hướng trí thù thắng của Phật, mong cầu được thành Phật giống như Phật.

          2) Hai là phải hướng về chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật.

          3) Nhưng quan trọng nhất là hồi hướng cho chính quư vị trong đời hiện tại, tiêu trừ tội nghiệp của quư vị trong đời hiện tại.

          [Ông thắc mắc] “hăy nên niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát hay niệm Địa Tạng Vương Bồ Tát?” Hai danh hiệu ấy chẳng có ǵ khác biệt. Niệm Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha dịch nghĩa là Đại, tức là Đại Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Sở dĩ là Bồ Tát Ma Ha Tát, v́ trong các vị Bồ Tát, bậc đại Bồ Tát thêm vào danh xưng Ma Ha Tát, tức là bậc đại Bồ Tát trong các vị Bồ Tát. Cũng giống như chúng ta, người được gọi là “đại nhân”, tức là người có tâm lượng to, phước báo lớn, có hàm nghĩa ấy. Ma Ha Tát bèn dịch là bậc đại Bồ Tát trong số các vị đại Bồ Tát.       

 

          * Hỏi: 1) Khi đệ tử sử dụng Chiêm Sát Luân, mong chiêm sát luân tướng để biết nghiệp thiện ác của chính ḿnh và thay người nhà chiêm sát thưa hỏi các vấn đề, người nhà chẳng nhiệt t́nh, mà cũng chẳng đến nơi để tham dự. Xin hỏi là sau khi chiêm sát, khải thỉnh chư Phật, Bồ Tát, lúc phải niệm thánh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát, có thể niệm hai ngàn câu hay không để hỏi các vấn đề của chính ḿnh và người nhà hay không?

          2) Hay là cần phải chia thành hai lượt nghi quỹ riêng để khải thỉnh, mỗi lần đều là niệm một ngàn câu thánh hiệu để xin chỉ dạy riêng rẽ?

          Đáp: Quư vị hỏi về chuyện dùng Chiêm Sát Luân thay cho người khác, được hết, chẳng có vấn đề ǵ! Quư vị thay người nhà sử dụng Chiêm Sát luân tướng, xem thử nghiệp báo của người ấy nặng hay nhẹ, hoặc là người ấy bị bệnh khổ, muốn chiêm sát khi nào người ấy sẽ lành bệnh, có nghiệp chướng ǵ, quư vị c̣n có thể niệm kinh Địa Tạng tiêu tai cho người đó. Làm như vậy đều đúng. Hoặc là niệm thánh hiệu của chư Phật, Bồ Tát. Nếu niệm thánh hiệu Địa Tạng, có thể niệm hai ngàn câu hay không? Quư vị ấn định niệm một vạn câu, tức là niệm nhiều. Quư vị ấn định hai ngàn câu bèn niệm hai ngàn câu, nhưng mỗi ngày đều phải niệm hai ngàn câu. Đồng thời, quư vị định đả một thất, tức là ấn định trong bảy ngày, hoặc hai thất, tức là ấn định thêm bảy ngày nữa. Trong khi đả thất, [nếu ước định] mỗi ngày đều niệm hai ngàn câu, bèn niệm hai ngàn câu. [Ước định] niệm một vạn câu, bèn niệm một vạn câu. Tùy thuộc thời gian của chính ḿnh, tùy thuộc chính ḿnh phát nguyện, chẳng có yêu cầu nhất định nào! Nhưng khi niệm, chớ nên chỉ niệm danh hiệu suông mà thôi! Miệng niệm, tâm tưởng, [tức là] miệng xưng niệm danh hiệu, tâm quán tưởng thánh tượng của Bồ Tát, tâm và miệng như một. Quư vị miệng niệm suông, hiệu quả của câu niệm sẽ chẳng to, quan trọng nhất là phải quán tưởng.

 

          * Hỏi: 1) Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, ắt cần phải trước hết tu pháp sám hối đúng không? Nếu chẳng tu pháp sám hối, văng sanh có bị chướng ngại hay không?

          2) V́ sao có những người niệm Phật khi lâm chung bèn bị hôn trầm, bất tỉnh? Làm thế nào để tránh t́nh h́nh ấy phát sanh? Hăy nên hỗ trợ niệm Phật cho người bất tỉnh hôn trầm như thế nào?

          Đáp: Quư vị thắc mắc “niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ th́ có cần phải tu pháp sám hối trước hay không ư? Chẳng cần! Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quư vị niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ là được rồi. Nếu quư vị tu pháp sám hối, trong pháp sám hối cũng có niệm Phật, hai đằng chẳng mâu thuẫn, chẳng bị chướng ngại! Sao lại có chướng ngại cho được? Pháp sám hối càng tăng thêm sự thành khẩn niệm Phật của quư vị. Quư vị sám hối, pháp sám hối là sám hối một khoảng thời gian rồi lại niệm Phật như cũ, đă niệm Phật rồi lại khôi phục cách tu sám hối. Hai đằng giúp nhau thành tựu, chẳng hề tổn hại nhau! V́ sao có những kẻ niệm Phật, khi lâm chung hôn trầm, bất tỉnh ư? Đấy là hai việc khác nhau. Hôn trầm, bất tỉnh là một chuyện, hoàn toàn chẳng phải là người ấy niệm Phật chẳng có công đức. Công đức niệm Phật vẫn tồn tại, nhưng người ấy niệm Phật chẳng niệm thành công. Niệm Phật thành công, sẽ chẳng hôn trầm. Nhưng bị bệnh, hoặc tối ngủ th́ sao? Chẳng phải là người niệm Phật không ngủ, người niệm Phật cũng phải ngủ. Ngủ rồi c̣n có thể niệm Phật hay không? Mọi người hăy ngẫm xem, nếu công lực niệm Phật của quư vị rất mạnh, khi ngủ, tâm niệm Phật sẽ chẳng gián đoạn, ư niệm chẳng gián đoạn. Khi nằm mơ có niệm Phật hay không? Tôi thấy rất nhiều người đều có, họ ngày lẫn đêm đều liên tục khởi lên [ư niệm niệm Phật]. Chuyện này phải cậy vào công lực, chẳng phải là kẻ b́nh phàm có thể làm được. Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ không nhất định phải tu pháp sám hối, quư vị niệm A Di Đà Phật là đă sám hối. Các bộ kinh đều nói “đới nghiệp văng sanh”, cách nói ấy rất phổ biến. Chúng ta ở trong thế giới này, ba nghiệp vẫn chẳng thanh tịnh, nhưng niệm Phật rất chuyên tâm, nghiệp chướng trọn chẳng sám trừ sạch sẽ, nhưng niệm Phật liền sanh về thế giới Cực Lạc. Hoàn toàn chẳng phải là tới thế giới Cực Lạc bèn thành Phật, vẫn phải tu hành, đa phần [người văng sanh] đều mang theo nghiệp. Nếu ở trong thế giới này mà chẳng có nghiệp, đă thanh tịnh, đă thành tựu, người ấy sanh về Cực Lạc để làm ǵ nữa chớ? Chính người ấy c̣n sáng tạo một thế giới, mọi người hăy nên hiểu đạo lư này! Niệm Phật mà khi lâm chung bị hôn trầm, hoàn toàn chẳng phải là hễ niệm Phật chuyện ǵ cũng đều có thể giải quyết! Tùy thuộc công lực của quư vị như thế nào! Kẻ đó chẳng đủ công lực, chẳng bị hôn trầm ư? Nếu nói người niệm Phật v́ sao c̣n bị bệnh ư? Tôi nói Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n bị bệnh. Đó là bệnh thế gian, do lục căn chẳng điều ḥa. Thân thể này là tướng thế gian, tinh thần của quư vị là tâm linh, đấy mới là thật. Làm thế nào để tránh khỏi t́nh huống này phát sanh? Như thế nào có thể tránh miễn loại t́nh huống này phát sanh? Vậy th́ lúc quư vị chẳng hôn trầm, hăy khéo dụng công, sẽ có thể tiêu mất hôn trầm. Chúng tôi thấy lúc niệm Phật, có rất nhiều người ngủ gà, ngủ gật. Ở ngay trong Niệm Phật Đường, quư vị thấy khi đả Phật thất, tinh thần kẻ ấy mệt mỏi. Tôi từng ở trong một đạo tràng cùng mọi người niệm Phật, [trông thấy] có kẻ vừa kinh hành niệm Phật theo đại chúng vừa ngủ gật, mà vẫn bước đi. Quư vị đừng thấy kẻ đó đi theo đại chúng [mà tưởng lầm nhé], kẻ đó vẫn đang ngủ. Giống như khi tôi giảng giải, rất nhiều người ngồi nghe, mắt mở trừng trừng, nhưng đang ngủ! Mở to mắt mà vẫn có thể ngủ à? Trong lịch sử, rất nhiều kẻ mở to mắt mà vẫn ngủ. Trương Phi mở to mắt mà ngủ, đúng như thế đó.

 

          * Hỏi: 1) Hiện thời, đệ tử khi mới vừa bắt đầu lạy Địa Tạng Chiêm Sát Sám, có thể đồng thời giúp người nhà cùng lạy hay không? Hoặc là đợi cho đến khi chính ḿnh đă lạy một khoảng thời gian, sẽ giúp người nhà cùng nhau lạy?

          2) Trước khi bái sám, có cần phát nguyện trước: “Đệ tử con tên là… nguyện v́ chính ḿnh và người nhà là… cùng nhau bái Địa Tạng Chiêm Sát Sám” hay không?

          Đáp: [Ông hỏi] vừa mới bắt đầu lạy Địa Tạng Sám, có thể giúp người nhà cùng nhau lạy hay không? Rất tốt! Không chỉ tự độ, mà c̣n có thể độ người khác. Người ta có chịu lạy với quư vị hay không, vấn đề ở chỗ này. Hoặc quư vị là gia chủ, cưỡng bách người khác lạy theo quư vị, hiệu quả sẽ không lớn. Hăy khuyên người nhà, nói với họ lợi ích do lạy Phật. Nếu người ấy kinh doanh mong phát tài, quư vị bảo người ấy lạy Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ phát tài, người ấy sẽ tuyệt đối nghe theo lời quư vị cùng lạy. Người ấy thân thể rất suy yếu, quư vị khuyên người đó “hăy theo tôi bái Phật, thân thể sẽ khỏe mạnh”. Lạy Phật th́ vừa vận động lại c̣n có sức gia tŕ, quả thật có thể đạt hiệu quả rất nhanh chóng. Chuyện này mà c̣n phải hỏi tôi, đáng lẽ phải hiểu rồi chứ! Khi quư vị lạy Phật chính là phát nguyện. Khi quư vị lạy, trước hết phải phát nguyện, sau cùng là hồi hướng. Vị đệ tử nào học điều ǵ, cho tới niệm một câu A Di Đà Phật cũng phải phát nguyện. V́ sao phải niệm Phật? Đơn giản, tối thiểu là muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́ sao phải niệm Phật? V́ được Phật gia tŕ! Gia tŕ quư vị điều ǵ vậy? Quư vị có mong cầu th́ mới niệm. Vấn đề này rất đơn giản, đây là phát nguyện, quư vị hiểu chứ? Quư vị lạy Địa Tạng Sám cũng thế, trước hết, hăy phát nguyện, đă phát nguyện rồi mới bắt đầu tu hành. Tu hành xong lại c̣n hồi hướng. Đấy là ba loại tŕnh tự. Bất luận quư vị niệm kinh ǵ, trước hết đều phải phát nguyện. Phát nguyện rồi tu hành, tu hành xong lại c̣n phải hồi hướng. Sáng sớm quư vị thức dậy, vào Phật đường, điều đầu tiên là phát nguyện, phát nguyện xong bèn tụng công khóa, tụng công khóa xong c̣n phải hồi hướng. Đây là tŕnh tự nhất định, đệ tử Phật đều làm như vậy. Chuyện này mà c̣n đem hỏi tôi có thể hay là không? Tôi trả lời quư vị, có thể! Không chỉ có thể, mà c̣n phải nên như thế!

 

          * Hỏi: Trong kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo quyển hạ, Địa Tạng Bồ Tát bảo hăy y chỉ cảnh giới Nhất Thật để tu tín giải. Nếu là kẻ lợi căn, hăy nên học Chân Như Thật Quán. Kẻ độn căn th́ trước hết phải học Duy Tâm Thức Quán, từ Duy Tâm Thức Quán mà đắc Sắc Tịch tam-muội. Kế đó, hăy nên học tín tâm đối với môn quán tâm bằng Xa Ma Tha và môn quán tâm bằng Tỳ Bát Xá Na. Lại nếu là kẻ thiện căn nghiệp mỏng, tâm nghi ngờ, khiếp sợ, trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi nơi, hăy thường tụng niệm danh hiệu của ta… Nếu đắc nhất tâm, thiện căn tăng trưởng, ư chí mạnh mẽ, nhạy bén, hăy quán Pháp Thân của ta và Pháp Thân của hết thảy chư Phật. Trong kinh nhắc tới Chân Như Thật Quán, tín Xa Ma Tha quán tâm, và quán Pháp Thân của chư Phật, phép Quán ấy và nội dung có phải là có thứ tự cạn sâu khác biệt hay không?

          Đáp: “Trong kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo quyển hạ, Địa Tạng Bồ Tát bảo hăy y chỉ cảnh giới Nhất Thật để tu tín giải. Nếu là kẻ lợi căn, hăy nên học Chân Như Thật Quán. Kẻ độn căn th́ trước hết phải học Duy Tâm Thức Quán, do Duy Tâm Thức Quán mà đắc Sắc Tịch tam-muội. Kế đó, hăy nên học tín tâm đối với môn quán tâm bằng Xa Ma Tha và môn quán tâm bằng Tỳ Bát Xá Na”. Đoạn này quư vị trích dẫn từ kinh văn. “Nếu người ấy thiện căn nghiệp mỏng, cái tâm nghi ngờ, khiếp sợ, trong hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, hăy thường nên tụng niệm danh hiệu của ta”. Đó là nguyên văn lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị tâm nghi ngờ quá nặng, bái sám có thể thành tựu hay không? Bất cứ chuyện ǵ cũng đều chẳng tin tưởng, tuy đă học Phật, tín tâm chẳng trọn đủ. Địa Tạng Bồ Tát nói quư vị chẳng thể làm chi khác, tốt nhất là hăy niệm danh hiệu của Ngài là được rồi. Đó là nói với hạng chúng sanh khiếp nhược. Vậy th́ quư vị có làm như thế hay không? Quư vị sao lục kinh văn đem hỏi tôi. Khi tôi giảng, quư vị đă nghe qua rồi. [Thắc mắc] Chân Như Thật Tướng Quán, Xa Ma Tha quán tâm, quán Pháp Thân của chư Phật; các pháp quán ấy và nội dung của chúng có phải là có thứ tự sâu cạn khác biệt hay không? Quư vị hăy xem lại kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo, tôi đă nói với quư vị rất lâu rồi, chẳng nhắc lại nữa!

 

          * Hỏi: 1) Cầu giải thoát trong cảnh trần lao như thế nào?

          2) Khi tĩnh tọa, ngay khi ấy bèn tê chân, thời gian mỗi lần đều gần giống như nhau, bèn muốn duỗi chân ra ngưng tĩnh tọa. Trong giai đoạn này, con chẳng có cách nào tiến bộ. Cung thỉnh lăo ḥa thượng, con gặp phải bế tắc như thế th́ phải nên làm như thế nào?

          Đáp: Cầu giải thoát trong cảnh trần lao như thế nào? Quư vị là chúng sanh trong trần lao, mong cầu giải thoát. Khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đă nói: Quư vị niệm thánh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát, lạy Chiêm Sát Sám, sẽ có thể giải thoát. C̣n như tĩnh tọa tê chân bèn không muốn ngồi tiếp, vậy th́ quư vị chẳng ngồi. Có khi vừa ngồi bèn suy nghĩ ta v́ chuyện này mà nghỉ ngơi đôi chút, trong giai đoạn này chẳng có tiến bộ, thưa hỏi lăo ḥa thượng, con gặp vướng mắc như thế, hăy nên làm như thế nào? Quư vị ngay cả tu mà c̣n chưa tu, đă đạt tới bế tắc ư? Người ta khi công phu đạt tới mức độ nhất định, tiến tu cao hơn chẳng được. C̣n như quư vị ngay cả ngồi mà c̣n chưa ngồi được, đứng cũng chẳng phải, ngồi cũng chẳng ổn, niệm cũng niệm chẳng thành, hăy khéo an tâm. Tâm quư vị chẳng đặt nơi pháp, cũng chẳng đặt nơi đạo, tức là vẫn chưa tiến nhập tín tâm. Hăy thân cận các đồng tham đạo hữu, hoặc là tại ngôi chùa quư vị thường đến, hoặc là đối với vị sư phụ mà quư vị quy y, xin họ giải thích cho quư vị.

 

          * Hỏi: 1) Khi nghe kinh thính pháp, dễ bị hôn trầm, thường xuyên là như vậy. Xin hỏi đó là nhân duyên ǵ? Đối trị như thế nào?

          2) Khi tĩnh tọa, chẳng dấy lên ư niệm, nhưng h́nh ảnh và âm thanh trong quá khứ vẫn trồi lên, làm như thế nào đây? Đó là do nguyên nhân ǵ?

          Đáp: [Đạo hữu hỏi] “tôi hễ nghe kinh, thính pháp, sẽ thường bị hôn trầm; như thế là do nhân duyên ǵ?” Nhân duyên ǵ cũng chẳng phải, [mà là do] biếng nhác, giải đăi. Quư vị tới đây nghe kinh, phải phát khởi tín tâm, phải có tâm ưa thích, có tâm ĺa khổ, được vui. Nếu quư vị muốn cầu được lợi ích, thăng quan, phát tài trong xă hội, vẫn phải có cái tâm thăng quan, phát tài th́ mới có thể cầu được! Từng có vị đạo hữu nói tôi mong lên chức, niệm Địa Tạng Bồ Tát có linh hay không? Tôi nói “linh chứ! Khá linh. Phát tài cũng linh, tùy thuộc quư vị niệm như thế nào? Niệm như thế nào vậy? Thành khẩn, khẩn thiết mà niệm. Cho đến khi quư vị thành khẩn, khẩn thiết niệm tới mức nhất định, quư vị cũng chẳng mong phát tài, chẳng mong phát tài mà vẫn phát tài, như thế đó! Khi tĩnh tọa, chẳng có ư niệm, nhưng nghe thấy âm thanh trồi lên, làm như thế nào ư? Ngay cả cái tâm tham Thiền, cái tâm mong tu học, quư vị đều chẳng đặt tâm ḿnh nơi đó, làm sao có thể tĩnh tọa cho được! Quư vị có ư niệm là v́ lẽ nào? Quư vị bộp chộp, hời hợt. Chúng ta làm bất cứ chuyện ǵ, đều trước hết phải liễu giải chuyện ấy nên làm như thế nào? Quư vị mong tu hành, nói cách khác, v́ sao quư vị tu hành, trước hết là do quư vị có ư nguyện, chẳng phải là mù quáng. Nếu ngay cả ư nguyện mà quư vị chẳng có, đầu óc mê muội bèn tĩnh tọa, tĩnh tọa để làm ǵ? “Tĩnh tọa nhằm mục đích ǵ?” Trước hết, quư vị phải xác định mục đích. Tĩnh tọa, ta tham học nhằm mong tiến nhập đạo, khiến cho tâm ta đừng bộp chộp, xáo động nữa, sẽ thanh tịnh. V́ sao? Tĩnh lặng th́ mới có trí huệ. Quư vị thấy nước lúc cuộn sóng, cái ǵ cũng chẳng có. Nếu nước thanh tịnh, quư vị đến soi vào nước, bóng dáng liền hiển lộ. Hăy nên hiểu ư nghĩa ấy! Do vậy, nếu quư vị muốn tu hành, trước hết, phải tĩnh cái tâm. Làm như thế nào? Quư vị hỏi tôi làm như thế nào, tôi liền thưa với quư vị: Hăy tĩnh tâm, buông xuống hết thảy sự vụ trong một tiếng đồng hồ hoặc nửa tiếng. Quư vị tĩnh tọa nửa tiếng, dần dần tăng nhiều hơn, cho tới khi quyết định đạt được lợi ích do tĩnh tọa, quư vị sẽ tu hành lâu hơn. Nói chung, phải có mục đích, bất luận làm bất cứ chuyện ǵ, quư vị cũng đều phải có mục đích, phải có mục tiêu. Quư vị mơ hồ, ngay cả mục tiêu cũng chẳng có liền tĩnh tọa, ngồi để làm ǵ? V́ sao tĩnh tọa? Quá mệt mỏi, ngồi xuống nghỉ ngơi cho rồi!

 

          * Hỏi: Năm trước, đệ tử bị bệnh nha chu[2] (chỉ có một cái răng bị bệnh). Năm ngoái, do mệt nhọc đến nỗi bắp thịt ở đùi bị viêm, đều là bệnh chẳng đến nỗi mất mạng, tới nay vẫn chưa khỏi hẳn. Chuyện chẳng lành kéo tới như thế, tuy đă đi khám bệnh, nhưng vẫn chẳng có cách nào chữa lành. Có phải là do duyên nghiệp chướng phát hiện hay không? Có nên siêng cầu sám hối hay không? Nếu tụng kinh sám hối, mà vẫn chẳng thấy chuyển biến tốt đẹp, có phải là v́ nỗ lực chưa đủ hay không?

          Đáp: Năm trước, quư vị bị nha chu; năm ngoái, bắp đùi bị nhiễm trùng, nhưng chẳng đến nỗi là bệnh tật trí mạng. Tuy chẳng nguy hiểm tới tánh mạng, nhưng chẳng lành, một mực dây dưa đến nỗi phải đi khám bệnh, chạy chữa, [quư vị thắc mắc] có phải là nghiệp chướng hay không? Quư vị hỏi tôi, tôi nói cho quư vị biết, quư vị đă nói đúng rồi đấy! Đó gọi là nghiệp chướng phát hiện, đúng là nghiệp chướng. Vậy mà quư vị tụng kinh, sám hối, chẳng thấy chuyển biến tốt đẹp, là v́ công phu không tới. V́ sao tụng kinh, bái sám vẫn chẳng lành? Quư vị chẳng phải là chân tâm tụng kinh, tâm chẳng chí thành, hiệu quả chẳng lớn. Phải chế tâm nhất xứ, cho đến khi quư vị tụng kinh đến nỗi quên sạch bệnh tật, thứ ǵ cũng đều chẳng có, hiệu quả sẽ tốt đẹp. C̣n nữa, quư vị rất coi trọng thân thể này, coi nhẹ tụng kinh, bái sám, niệm Phật, tuyệt đối sẽ vĩnh viễn vô dụng! Quư vị rất coi trọng tụng kinh, bái sám, coi quan trọng hơn thân mạng, bệnh sẽ tuyệt đối tốt hơn. Hăy trao đổi hai đằng một phen, có ư nghĩa như thế đó. Đúng lắm, chính quư vị cũng nói “bản thân nỗ lực chưa đủ”, chuyện này chẳng cần hỏi ư tôi, quư vị hăy nỗ lực. Nỗ lực đủ mức, không bệnh ǵ chẳng lành!

 

          * Hỏi: Năng sở song vong (Năng và Sở cùng mất), như thế nào để quán Năng Quán cũng là Không? Hơn nữa, tông Thiên Thai nói hai tầng Năng và Sở, hăy nên lư giải như thế nào? Chữ “nhậm vận” (任運) trong “nhậm vận hiện tiền” lư giải như thế nào?

          Đáp: Trước hết, phải hiểu rơ Năng và Sở. Năng là ǵ, chính là quán lực của chúng ta. Năng Quán quán Sở Quán. Sở Quán là ǵ vậy? Đế lư! Không, Giả, Trung được gọi là Tam Quán. Chân Đế, Tục Đế, và Trung Đế là Tam Đế. Tam Đế Tam Quán. Quán giống như chúng ta gơ vào đầu vồ của cái vồ, c̣n Đế th́ giống như ta gơ vào cái cán của cái vồ. Đế là cái cán. Vấn đề này xét theo lẽ thường th́ là định lực; khi chúng ta khởi đầu bèn tu tập Định, sẽ có tiền phương tiện. Tiền phương tiện là ǵ? Quư vị tu Chỉ trước. Trước khi quư vị tọa Thiền, hay tu Quán, công phu thứ nhất luyện chân, công phu thứ hai [chế ngự] tâm tán loạn. Quư vị trước hết phải luyện chân [ngồi xếp bằng] cho vững, ngưng dứt cái tâm tán loạn. Đă ngưng dứt rồi mới khởi quán chiếu. Khởi quán chiếu để quán sự vật một phen, hết thảy sự vật thuần túy đều là chẳng tồn tại, là Không. Nhưng trong cuộc sống hiện thực, nó chẳng Không. Chẳng Không th́ là ǵ? Chính là quán lực làm chủ thể quán (năng quán) để quán đối tượng được quán (sở quán), tức tướng cảnh giới. Hết thảy tướng cảnh giới đều chẳng tồn tại. Trong khi quán trí của quư vị đă thành tựu, dùng trí huệ chiếu th́ mới nhận biết “các pháp đều là Không”. V́ sao? Chúng thuộc về sanh diệt, chẳng phải là trường cửu, chẳng phải vĩnh viễn tịch diệt. Nhưng trong ấy có một cái bất sanh bất diệt, có một cái thường hằng. Tức là giữa Không và Giả, có một cái Trung Đế. Tam Đế là Không, Giả, Trung Tam Đế; đấy là [giáo nghĩa] chủ yếu của tông Thiên Thai, tương đương với nhiệm vụ chủ yếu của cả tông Thiên Thai. Không, Giả, Trung Tam Quán. Dùng quán lực ấy để đế quán, tức là quán lực ấy để quán hết thảy các pháp. Quư vị sẽ thấy tất cả hết thảy các pháp chẳng có ǵ là chân thật, toàn là Không. V́ sao nó là Không? Sanh diệt. Cho đến khi pháp sanh diệt đă diệt, pháp sanh diệt chẳng dấy lên, dùng quán lực để quán pháp sanh diệt, bèn biết nó là giả, là Không. Nhưng có lúc tuy pháp sanh diệt là Không, nhưng trong cuộc sống của chúng ta, nó là chẳng Không. Giữa cái Không và Giả ấy, lại có một tánh chân thật. V́ chúng ta cho là Không, tướng được biến hiện bởi Không là Giả, trong Không và Giả có một tánh chân thật. Đó là giáo nghĩa chủ yếu của tông Thiên Thai, đó được gọi là Trung Quán. Không bèn có đạo lư của Không, nói theo Lư th́ đó chính là Đế (chân thật, sự thật), [tức Không Đế]. Giả bèn có đạo lư của Giả, gọi là Giả Đế. Trung Quán có đạo lư của Trung Quán, gọi là Trung Đế. Không, Giả, Trung Tam Quán đối ứng với Chân Quán và Giả Quán, tức là Chân Không Tuyệt Tướng Quán, Lư Sự Vô Ngại Quán, và Châu Biến Hàm Dung Quán. Tam Chỉ, Tam Quán là học giáo nghĩa. Người có thể hỏi về vấn đề này, nhất định là một vị pháp sư, v́ các đạo hữu b́nh phàm sẽ chẳng thể nghĩ đến vấn đề này. Tam Quán và Tam Đế toàn là trí huệ học, trí là căn bản, huệ là liễu đạt, huệ là phân biệt. Trí chiếu Lư, huệ chiếu Sự. Nơi Sự th́ hết thảy khác biệt, hết thảy chuyện ǵ cũng đều là huệ giải. Nơi Lư th́ chẳng phải vậy; nơi Lư th́ là Trí, Trí là chiếu. Trí huệ là chiếu, giống như vầng mặt trời chiếu soi đại địa. Thái dương chẳng phân biệt, cũng chẳng thiên vị, mà là do người tiếp nhận ánh thái dương. Quư vị ở trong nhà, mặt trời có chiếu đến quư vị được không? Quư vị là người tiếp nhận có chướng ngại, chứ thái dương chiếu trọn khắp. Chân Như Thật Tế lư địa ai nấy đều sẵn đủ, b́nh đẳng, nhưng chính quư vị tự có chướng ngại và nghiệp chướng. Nghiệp chướng đă tiêu th́ sẽ chẳng có [chướng ngại]. Tam Quán là Năng, tức là cái có thể quán chiếu Đế, Lư là cái được quán chiếu. Đó là một cặp Năng - Sở. Trong tứ giáo (tông Thiên Thai) th́ là Không, Giả, Trung, c̣n trong ngũ giáo (tông Hoa Nghiêm) th́ là Chân Không Tuyệt Tướng, Lư Sự Vô Ngại, và Châu Biến Hàm Dung. Đấy là những điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm.

          Quư vị dùng trí Năng Quán để quán lư sở quán. Sự có thể hiển Lư; ngược lại, Lư có thể thành tựu Sự. Nhưng Lư và Sự vô ngại, Lư có thể thành tựu Sự, Sự có thể hiển Lư, đó gọi là Lư Sự vô ngại. Cảnh giới này trọn khắp hết thảy mọi chỗ, hết thảy mọi lúc, chứa đựng trọn khắp, hoàn toàn là tánh, thật sự đạt tới nhất tâm. Một đằng là phàm phu, một đằng là thánh nhân. Thoạt đầu, lúc tu Quán Đế, dùng Quán để chiếu đế lư. Đương nhiên, hiện thời chúng ta đều là phàm phu, nhưng chúng ta có thể tu. Điều thứ nhất là chúng ta quán thấy các sự vật trong thế gian đều là vô thường, nhận biết chúng là vô thường. Vô thường rành rành là Không, hết thảy các pháp đều ở trong Không. Tuy có h́nh tướng, nhưng đều là rốt ráo Không. Trong tương lai, nhất định trở về Không. Trí huệ của quư vị quán chiếu hết thảy các pháp đều là Không, chẳng có tham luyến.

          Nhưng thoạt đầu, trong khi quư vị quán, khi nhận biết các pháp, nó chẳng có tướng chân thật, toàn là giả. V́ là giả, cho nên quư vị mới có thể biết nó rốt cuộc là Không, từ trong Không hiện ra h́nh bóng, chẳng phải là sự thật, là giả trất. Một đằng có, một đằng không. Trong cái hữu và vô khi ấy, có Trung Đế. Khi nói theo Lư th́ Trung Đế tùy duyên, cũng là duyên theo cái Không, mà cũng là duyên theo Giả. Đấy là Tam Quán. Nhưng có một trí huệ có thể liễu giải sự vật. Đó gọi là Năng. Có trí huệ ấy là v́ mỗi vị đạo hữu chúng ta, do được Phật dạy bảo, liền sanh ra trí. Trí ấy chẳng phải của chúng ta, mà là do chúng ta vận dụng giáo nghĩa từ kinh điển. Đức Phật dạy chúng ta, nhưng chúng ta có thể vận dụng để thường xuyên tu luyện, tâm hợp với Phật. Năng quán trí có thể sanh ra hiệu quả, quán cái cảnh được quán, đối với hết thảy các cảnh mới nhận biết chúng là giả, biết hết thảy các pháp đều là giả, duyên theo chúng sanh. Đó gọi là nghĩa tùy duyên. “Chân” có nghĩa là “vốn sẵn đủ”, cũng chẳng lệch vào Trung, cũng chẳng lệch vào Giả; đó gọi là Trung Đế. Tông Thiên Thai nói về Tam Đế Tam Quán, Không Giả Trung Tam Quán quán Chân Đế, Giả Đế và Trung Đế.

 

          * Hỏi: Đức Phật cách chúng ta đă hai ngàn năm trăm năm. Do đức Phật đă nói ra kinh điển nhiều ngần ấy đều là chánh pháp, vậy th́ định nghĩa của chánh pháp là ǵ?

          Đáp: Chánh pháp là ǵ? Tà pháp là ǵ? Tà và chánh phân định như thế nào? Ĺa ngoài tâm, ĺa khỏi tâm chúng sanh, ĺa khỏi tâm chư Phật, các pháp ở ngoài tâm, th́ toàn là tà! Nói “vạn pháp từ tâm khởi, vạn pháp theo tâm diệt”, phàm là hết thảy các pháp đều quy về tâm; đấy là giáo nghĩa Đại Thừa. Phàm là do tâm mà có h́nh, có tướng, sẽ hoàn toàn chẳng phải là chân thật. V́ sao đức Phật nói hết thảy giới luật? Quư vị thọ Tam Quy, Tam Quy cũng là giới. Quy y Phật, quư vị chẳng thể quy y tà ma, ngoại đạo. Quy y chánh pháp, chẳng quy y tà thuyết. Hết thảy các tà thuyết cho đến văn tự thế gian đều là tà. Hai đường chánh và tà đều từ tâm khởi, “tâm sanh th́ các thứ pháp sanh, tâm diệt th́ các thứ pháp diệt”. V́ sao kinh điển là chánh pháp? Do từ tâm khởi. Quư vị phải học chánh pháp, trở về với tâm. Chẳng phải là ngoài tâm có pháp, ngoài tâm không có pháp. Các pháp chính là tâm; đó là Chánh. Giữ lấy pháp ngoài tâm th́ gọi là tà. Ngoài tâm chẳng có pháp, quư vị phân định như thế nào? Nói “viên nhân thọ pháp, không pháp nào chẳng viên”: Người đó là viên căn, viên căn th́ thấy hết thảy các pháp do nhân duyên sanh, các pháp do nhân duyên diệt. Phàm là liễu giải nhân duyên th́ đều gọi là chánh pháp. Ĺa khỏi nhân duyên, sẽ toàn là giả, là tà. Nhân duyên là Không, cho nên đức Phật nói “nhân duyên sở sanh pháp, ngă thuyết tức thị Không, diệc danh Trung Đạo nghĩa, diệc danh vi giả danh” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói chính là Không, cũng gọi nghĩa Trung Đạo, cũng gọi là giả danh). Đó đều là giả danh tự, chẳng chân thật. Nhưng nó hiển thị nghĩa Trung Đạo, cho nên “diệc danh Trung Đạo nghĩa, diệc danh vi giả danh”. Đấy là chánh pháp. Lịch đại tổ sư dạy chúng ta “viên nhân thọ pháp, không pháp nào chẳng viên”. Đối với các pháp sư học pháp cũng như vậy. Họ học kinh điển liễu nghĩa, thấy hết thảy các pháp toàn là viên, là các pháp sanh bởi nhân duyên, nương theo viên nghĩa mà sanh khởi, chẳng có pháp nào không viên. Nương theo liễu nghĩa mà đắc các pháp. Hết thảy các pháp đều là liễu nghĩa.

 

Tập 18

 

          Chư vị Bồ Tát từ bi! Chư vị đạo hữu từ bi! Phàm là người phát tâm đến pháp hội này, mọi người đều là Bồ Tát, phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Vốn là trong khi tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, có đạo hữu xin truyền Tam Quy; hôm nay là thời gian chúng tôi ấn định để truyền Tam Quy. Nhưng các đạo hữu thọ Tam Quy lại mong trước khi truyền trao Tam Quy cho các đạo hữu, tôi sẽ giảng giải cho mọi người. Đơn giản là bàn đôi chút về cái tâm, nói mấy câu thôi! Tôi cũng thỏa măn mong cầu của mọi người, không ngờ pháp hội hôm nay thù thắng như vậy, có nhiều đạo hữu tham gia đến thế!

          Trong các đệ tử học Phật, hiện thời mọi người đều là đệ tử Phật, trong cuộc sống hiện tiền của chúng ta, trong hoàn cảnh này, trong h́nh thức này, bản thân chúng tôi cảm thấy chẳng tốt đẹp, tai nạn thường xuyên xảy ra. Các đệ tử Phật chúng ta cầu Phật, Bồ Tát gia bị, hăy nên làm như thế nào để cống hiến cho hết thảy chúng sanh khổ nạn trong hiện thời? “Cống hiến” có nghĩa là thay mọi người chịu khổ, chịu nạn. Tôi vừa mới gọi mọi người đều là Bồ Tát. Bồ Tát là đại đạo tâm chúng sanh. Tiếng Ấn Độ nói là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch sang tiếng Hán là Giác Hữu T́nh, khiến cho hết thảy chúng sanh đang chịu khổ chịu nạn được an lạc, được vui sướng. Trước hết, các đệ tử Phật hăy nên phát Bồ Đề tâm, khiến cho họ miễn trừ đau khổ, ách nạn. Chúng ta đều nương theo lời Phật dạy, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy chúng ta: Đối trước hết thảy tai nạn, trong thời gian Mạt Pháp đau khổ, tai nạn thường xảy ra, làm thế nào để cứu độ họ? Trong phẩm Tịnh Hạnh của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đă dạy “khéo dùng cái tâm”. Hôm nay tôi muốn nói với mọi người về chuyện “khéo dùng cái tâm”.

          Các đệ tử học Phật chúng ta đều hiểu “tâm sanh vạn pháp, vạn pháp duy tâm”. Trong cuộc sống hiện tiền, những khổ nạn mà quư vị thấy, nghe, cho đến suy tưởng là do đâu mà có? Tự làm, tự chịu! Chính ḿnh tạo nghiệp, chính ḿnh chịu báo. Hiện thời, vấn đề lớn nhất trước mặt là vấn đề kinh tế; vấn đề kinh tế là tự làm, tự chịu. Tôi chẳng nói cặn kẽ chuyện này, tôi chẳng phải là kinh tế gia, tôi chỉ dựa theo luật nhân quả của Phật giáo để nói. Người ta nói “thiện có thiện báo, ác có ác báo. Chẳng báo là chưa tới lúc!” Ở nơi nào tạo nghiệp nặng, người nơi đó chịu báo sâu nặng. Các vị đạo hữu Đài Loan có thể suy ngẫm một phen, suy ngẫm ǵ vậy? So sánh đôi chút. So sánh như thế nào? Hăy suy ngẫm trên quả địa cầu này, hiện thời sanh kế khó khăn nhất chẳng phải là Đài Loan. Những nơi khác như Âu Mỹ, Phi Châu, cho đến Úc Châu, đều nghiêm trọng hơn Á Châu. So trong Á Châu, Đài Loan cũng chẳng phải là nghiêm trọng. Rốt cuộc chúng ta đau khổ v́ bị kinh tế đ́nh trệ ảnh hưởng, các đệ tử Phật chúng ta phải nên cầu Phật, Bồ Tát gia tŕ để chuyển biến loại t́nh huống này.

          Chúng ta phải nên làm như thế nào? Văn Thù Bồ Tát dạy chúng ta “khéo dùng cái tâm”. V́ tánh chất của tai nạn toàn là do tâm chúng sanh tạo ra. V́ từ cái tâm mà phát sanh nơi thân và miệng, tức là tham, sân, si trong tâm phát khởi thành giết, trộm, dâm, dối nơi thân, và nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác nơi miệng, tức Thập Ác. Thập Ác Nghiệp trọn khắp toàn thể địa cầu. Bất luận quư vị tới nơi đâu! Hiện thời, trong pháp hội này, tôi cảm thấy các vị đạo hữu đều là thiện lương, đều phát Bồ Đề tâm. Tuy bản thân chúng ta chẳng đích thân bị, nhưng trông thấy chúng sanh đích thân hứng chịu, hăy coi nỗi khổ của chúng sanh giống như bản thân ta đang bị hứng chịu. V́ thế, chúng ta học tập Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trong phẩm Tịnh Hạnh của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Ngài dạy chúng ta hăy chuyển biến ác tâm, ác hạnh, phải tu cái tâm thanh tịnh, cái hạnh thanh tịnh. Ngài dạy chúng ta bốn chữ, bao trùm phẩm Tịnh Hạnh, mà cũng có thể nói là bao trùm cả bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Bốn chữ nào vậy? “Khéo dùng cái tâm”. Tâm chúng ta không ngừng dấy lên tác dụng, không ngừng nghĩ tưởng, không ngừng tư duy. Quư vị phải hướng dẫn cái tâm khéo vận dụng, trước hết, hăy chuyển hóa chính ḿnh, sau đó chuyển hóa những người chung quanh quư vị. Đồng thời phóng xuất sức mạnh ấy ra bốn biển, khiến cho nó sanh ra một sức mạnh nhất định. Trong phẩm Tịnh Hạnh, Trí Thủ Bồ Tát hỏi một trăm mười hạnh, trong ấy bao gồm ách nạn của chúng sanh đang phải hứng chịu trong hiện tại, không chỉ là kinh tế, mà c̣n giết, trộm, dâm, dối. Nếu chúng ta muốn miễn trừ tất cả các tâm gây ra những tai nạn ấy, phải nên làm như thế nào th́ mới có thể miễn trừ các tai nạn ấy? Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy “hăy khéo dùng cái tâm”. Phương pháp để khéo dùng là trong cuộc sống hằng ngày, trong tư tưởng và suy nghĩ, phải luôn luôn là niệm nào cũng đều chẳng ĺa Tam Bảo, tức [chẳng ĺa] Phật, Pháp, Tăng, nương vào sức gia tŕ thanh tịnh của Phật, Pháp, Tăng, chuyển biến hết thảy các hiện tượng trong xă hội.

          Do vậy, kinh Phật dạy “tâm sanh th́ các pháp sanh, tâm diệt th́ các pháp diệt”. Tâm sanh các pháp. Nay trong hội này có hai ba ngàn đạo hữu, mỗi người quư vị chuyển hóa mười người, mười người ấy lại chuyển hóa mười người khác, sức chuyển biến sẽ rất lớn. Các pháp sanh từ tâm, các pháp do tâm diệt, chẳng hạn như mọi người hay nói đến chữ Tham. “Khéo dùng cái tâm” tức là nói quư vị chẳng tham. Nếu chẳng tham, tất cả tài nguyên để nuôi sống nhân dân trong thế giới hiện thời sẽ chẳng có vấn đề. Trời bốn mùa mưa gió trưởng dưỡng chúng sanh, đất sanh trưởng lương thực để trưởng dưỡng chúng sanh, nhưng có những kẻ ác lũng đoạn, khiến cho [lương thực, các vật dụng cần thiết cho cuộc sống] chẳng thể phổ biến. Nơi này không có lương thực, nơi kia chất đống vô lượng lương thực. Lư giải vấn đề đói ăn như thế nào? Có những tai nạn dường như là thiên tai, nhân họa; thật ra, thiên tai do con người tạo ra. Nếu con người chẳng tạo nghiệp, trong trời đất sẽ chẳng có tai họa. Người ở nơi này tạo nghiệp rất ác liệt, trời sẽ giáng xuống tai nạn. Đạo lư này đệ tử Phật chúng ta hoàn toàn hiểu rơ: “Quư vị tạo nghiệp ǵ, sẽ có quả báo đó. Giả sử chúng ta có thể khiến cho ai nấy đều khéo dùng cái tâm, chẳng tạo nghiệp. Chẳng tạo ác nghiệp, thuần là thiện nghiệp. Quư vị dụng tâm như thế, thiên đạo sẽ báo đáp tốt đẹp, thiện tâm ắt có thiện báo. Đáng tiếc là hiện thời, cái tâm như thế quá ít, muốn t́m ư? Chỉ có thể t́m trong các đệ tử Phật! Mọi người không tin, hăy nh́n chung quanh ḿnh, nh́n vào thành phố quư vị đang sống, thậm chí lớn hơn một chút, mở rộng đến tỉnh này của quư vị, cho đến mở rộng thành toàn thể Đài Loan, người khéo dùng cái tâm đông đảo, đều có thể vận dụng cái tâm giác ngộ. Trong phần trên, tôi đă gọi mọi người đều là Bồ Tát. Bồ Tát sẽ hành Bồ Tát đạo, bố thí hết thảy hạnh phúc cho nhân dân. Bồ Tát tự ḿnh gánh vác hết thảy tai nạn, tức là tâm lượng của Ngài to lớn, lại được gọi là Đại Đạo Tâm Chúng Sanh. Giả sử mọi người ở Đài Loan đều có thể làm như vậy, hơn hai vạn người chúng ta sẽ chuyển biến vài tỷ người trên cả thế giới, ai nấy đều hướng thiện, thế giới sẽ chẳng c̣n tai nạn.

          Đáng tiếc là vấn đề này chẳng thể thực hiện được. V́ sao? Ngay cả bản thân chúng ta và chính quốc độ Đài Loan này, đối với người ở nơi đây, chúng ta vẫn chẳng thể khiến cho ai nấy đều hướng thiện, chúng ta làm sao có thể chuyển biến thế giới cho được? Đồng thời, mỗi vị đạo hữu đều mong lục thân quyến thuộc của chính ḿnh, những người quư vị quen biết, những người quư vị đă tiếp xúc, đều khiến cho họ hành Thập Thiện Nghiệp, có thể làm được hay không? Từ cái tâm ấy, chúng ta tận lực thực hiện từ các chúng sanh chung quanh ḿnh, đều khiến cho họ khéo dùng cái tâm, vận dụng cái tâm của chúng ta sao cho toàn là làm chuyện lợi ích người khác. Đó gọi là “hành Bồ Tát đạo”, khiến cho cái tâm của chúng ta thường nghĩ tạo hạnh phúc cho người khác. Trong kinh điển, những lời dạy như thế rất nhiều, các đệ tử Phật của chúng ta đều biết, “chẳng v́ an lạc của chính ḿnh, chỉ mong cho chúng sanh được hạnh phúc”, tôi nghĩ mỗi vị đạo hữu Phật giáo đều biết nói như thế. Nhưng đấy chẳng phải là nói suông, phải thực hiện, thực hiện bằng chuyện thực tại. Chắc là có đạo hữu băn khoăn “ta có thể làm được hay không?” Khiến cho toàn thể thế giới đều hóa thành [thuần hành Thập Thiện Nghiệp] là chuyện chẳng thể thực hiện được, nhưng quư vị có thể thực hiện đôi chút từ những người xung quanh ḿnh, sẽ có ảnh hưởng phổ biến. Chẳng hạn như chúng ta ném đá xuống biển, nước sẽ gợn sóng lan thành từng ṿng tṛn, càng lan càng xa, càng lan ra càng to. Chuyện này có nghĩa là có thể ảnh hưởng thấu đạt. Quư vị có thể khiến cho cái tâm của chính ḿnh thường nghĩ như thế. Đó gọi là “khéo dùng cái tâm”, là “hành Bồ Tát đạo”. Cho đến sẽ từ khéo dùng cái tâm mà tiến măi cho đến khi thành Phật.

          Nếu giải thích cặn kẽ, “khéo dùng cái tâm” bao gồm Tứ Vô Lượng “từ, bi, hỷ, xả”. Nếu mở rộng ra, sẽ là bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, Thiền Định. Lục độ, vạn hạnh mà quư vị thực hiện đều từ cái tâm, tâm sanh vạn pháp. Nếu trong hội hiện tại của chúng ta có hai ba ngàn người chẳng tham, sân, si, mỗi người chúng ta ảnh hưởng mười người, hoặc hai mươi người, chẳng mong cầu quá nhiều! Hai ngàn người chúng ta sẽ ảnh hưởng bao nhiêu vạn người? Chúng ta lần lượt hướng ra ngoài gieo rắc, đều dùng cái tâm ấy để ảnh hưởng người khác, càng ảnh hưởng càng lớn. Sức mạnh từ cái tâm ấy lại phát khởi khiến cho [các nghiệp] nơi thân và miệng, như đối với giết, trộm, dâm nơi thân, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác nơi miệng đều được thêm một chữ Chẳng, tức là chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói lời thô ác, chẳng nói đôi chiều, chẳng dấy lên ư niệm tham, sân, si, chẳng làm chuyện giết, trộm, dâm. Đó gọi là Thập Thiện. Nếu ảnh hưởng lan truyền, tất cả các đạo hữu ở Đài Loan đều có thể ảnh hưởng hơn hai ngàn vạn người. Hơn hai ngàn vạn người sẽ ảnh hưởng mười ba ức người tại Đại Lục. Lại mở rộng hơn một chút, mười ba ức người có thể trọn khắp toàn bộ thế giới. Dân cư trên cả thế giới vẫn là rất ít. Kinh Phật nói “vô lượng ức”, cho nên con số ấy (con số mười ba ức người) vẫn là số ít. Dụng tâm kiểu ấy gọi là “khéo dùng cái tâm”. Đấy là một cách, dùng các thứ phương thức ứng dụng, đều là Thập Thiện Nghiệp.

          Thập Thiện Nghiệp là căn bản để hành Bồ Tát đạo. Thập Thiện Nghiệp hành Bồ Tát đạo; quư vị dùng cái tâm vô lượng đại bi để hành sử. Hành sử bằng cái tâm vô lượng đại từ, vô lượng đại hỷ, vô lượng đại xả; nói gộp chung là “khéo dùng cái tâm”. Các đạo hữu hành Bồ Tát đạo, chẳng phải là tự ḿnh ngồi ở niệm kinh đường niệm mấy bộ kinh, hoặc tĩnh tọa mấy chục lần nơi đó, ta tu quán tưởng, nhập Thiền Định. Bồ Tát chẳng phải là như thế. Bồ Tát là trong mỗi niệm đều lấy hết thảy chúng sanh làm căn bản để hành Bồ Tát đạo, chẳng nghĩ tới chính ḿnh, niệm nào cũng đều chẳng ĺa khỏi chúng sanh. Các vị đạo hữu tại gia, khi quư vị niệm kinh trong Phật đường của chính ḿnh, do sức quán tưởng, có thể quán tưởng những người chung quanh ḿnh, cho đến quán tưởng thôn, trấn, huyện nơi ta cư ngụ, cho tới mở rộng thành một tỉnh. Tùy thuộc tâm lực của quư vị đạt tới mức độ to cỡ nào, quư vị sẽ có thể sử dụng tâm lực to cỡ nào, bèn khuếch tán cái tâm của quư vị to chừng đó. Quư vị khuếch tán tâm lực đến cả thế giới, thế giới này sẽ ảnh hưởng vô lượng vô biên thế giới khác. Có tin hay không? Đó là sự thật. V́ sao tất cả mọi người niệm kinh A Di Đà đều niệm A Di Đà Phật? A Di Đà Phật cách thế giới này của chúng ta khá xa. Giữa thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc cách biệt vô lượng thế giới, mỗi thế giới đều có vô lượng chúng sanh. Thế giới Cực Lạc ảnh hưởng chúng ta. Nói theo ư nghĩa, chỉ cần chư vị đạo hữu chúng ta phát tâm, tâm chân thật, quư vị phát nguyện khẩn thiết, tâm chân, nguyện thiết, sẽ biến thành sự thật.

          V́ cái tâm của chúng ta có rất nhiều Hoặc (cấu chướng phiền năo), quư vị vẫn chẳng thể tin tưởng đạo lư rất sâu. Tôi đă từng hỏi rất nhiều đạo hữu, tôi nói: “Quư vị là vị lai Phật”. Họ trừng mắt, phản đối, chê tôi nói bậy, quở tôi nói móc họ! Rơ ràng là tôi tán thán họ, chân tâm là chuyện như thế đó. Cho đến khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, người ta cho rằng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là Tiểu Thừa. Nay tôi giảng đến nửa bộ sau của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mọi người hăy nghe đôi chút, đó gọi là “pháp môn tâm địa”. Quư vị có thể khéo dùng cái tâm, “khéo dùng”“biết dùng”. Quư vị vận dụng [cái tâm] to hơn một chút. Lúc nào, niệm nào cũng nghĩ cho chúng sanh được an lạc, chẳng nghĩ tới chính ḿnh. Bồ Tát là ǵ? Đại đạo tâm chúng sanh. Khi quư vị khéo dùng cái tâm này, khi dùng cái tâm như vậy, quư vị sẽ đắc thần thông. Thần thông là ǵ? Tôi nghĩ các vị đạo hữu đều mong đắc thần thông, “thần” là ǵ? Chính là tâm! Cái tâm tự nhiên. Mỗi vị đạo hữu chúng ta tâm đều trọn đủ, tâm lượng rất lớn, đáng tiếc là chẳng dùng, đă mê mất cả rồi! “Thần” là tâm, “thông” là tánh. “Thần” gọi là “thiên tâm”, tức là cái tâm tự nhiên mà quư vị vốn sẵn có. “Thông” được gọi là huệ tánh. “Thông” là cái tâm tự nhiên sanh trưởng vô lượng trí huệ, huệ có thể giải quyết hết thảy nên gọi là “thần thông”. Chân tâm huệ tánh quư vị vốn sẵn có, được gọi là “tâm tánh”. Tâm tánh là thần thông. V́ nay chúng ta tu hành chưa đủ sức, sức chẳng to dường ấy, quư vị càng thêm gắng tu, nói ta mong cứu độ sáu mươi bảy ức người trên thế giới, khiến cho họ đều được vui sướng. Quư vị hằng ngày niệm kinh, tĩnh tọa tham Thiền, đều nghĩ như vậy, nghĩ tới người khác và hết thảy chúng sanh. Ư nghĩa này thuộc về ư nghĩa trong Hoa Nghiêm, chẳng phải do chính ḿnh mong đắc môn Định nào, mong đắc môn Huệ nào, mong thành tựu chi đó, đều chẳng phải, mà là ǵ? Khiến cho hết thảy chúng sanh đều được thành tựu, chẳng nghĩ tới chính ḿnh. V́ thế, đại đạo tâm Bồ Tát là như thế. Đấy là cảnh giới cao nhất. Từ nay trở đi, quư vị hăy khéo dùng cái tâm.

          Chúng tôi lại nói hạn cuộc một chút, khi quư vị làm chuyện ǵ tốt đẹp, làm xong hăy đem công đức tốt lành do đă làm chuyện ấy, chính ḿnh chớ tham luyến, đừng chấp trước, hồi hướng cho chúng sanh, khiến cho họ được hạnh phúc. Đương nhiên là cái tâm hồi hướng cho toàn thể nhân loại, toàn thể chúng sanh vẫn chưa thể ngay lập tức đạt được! Trước hết, quư vị hăy bắt đầu từ lục thân quyến thuộc chung quanh ta. Khi họ gặp tai nạn, quư vị phát nguyện bằng ḷng chịu thay cho họ. Quư vị chẳng có sức mạnh ấy, hăy niệm kinh Địa Tạng để kinh Địa Tạng gia bị cho quư vị sức mạnh ấy, hoặc niệm Phổ Hiền Bồ Tát để Phổ Hiền Bồ Tát gia hộ cho quư vị sức mạnh ấy. Niệm phẩm Phổ Môn, tùy tiện niệm bộ kinh nào, nhưng phải niệm chân thật. Tôi nói “niệm chân thật”, có lẽ mọi người nghi hoặc. Chẳng phải là chiếu theo văn tự để niệm, quư vị phải đặc biệt chú ư: Miệng niệm, tâm phải tưởng. Đừng niệm kiểu trả bài, hằng ngày đă niệm làu làu, hằng ngày niệm thuộc nhuyễn nhừ, nhưng chẳng để tâm vào đó. Khi niệm kinh, vừa niệm vừa làm chuyện khác, tâm nghĩ tới chuyện khác, miệng vẫn niệm kinh, hiệu quả sẽ chẳng lớn! Khi quư vị niệm bất luận bộ kinh nào, tâm quư vị bị kinh chuyển hóa. Tôi nói “khéo dùng cái tâm”, tức là cái tâm của quư vị và bản kinh đang niệm giống nhau. Niệm Quán Thế Âm Phổ Môn Phẩm th́ tâm giống như tâm của Quán Thế Âm Bồ Tát, niệm kinh Địa Tạng th́ tâm giống như tâm Địa Tạng Bồ Tát. Trong khi quư vị niệm, cái tâm thật sự tiến nhập, trong mộng hiện ra các tướng cảnh giới, chớ nên kể với người khác! Chỉ có thể tự biết, chẳng thể nói với người khác. Bất luận quư vị cầu một bộ kinh nào, đă được gia tŕ, chớ nên tuyên truyền ra ngoài. Đấy chẳng phải là thứ để tuyên truyền, mà là để quư vị tự thọ dụng. V́ quư vị chẳng biết sức mạnh của đối phương, cũng chẳng biết thiện nghiệp và thiện căn của đối phương, chỉ sợ nói ra sẽ tạo ảnh hưởng khiến cho người ta không tin, hoặc người ta c̣n quở quư vị dùng tà thuyết mê hoặc người khác. Tốt nhất là quư vị ấp ủ trong tâm, khiến cho cái tâm khuếch đại to hơn. Khi quư vị đă niệm một bộ kinh rất lâu, chân tâm và niệm tâm của quư vị ḥa với bản kinh thành một Thể, sẽ nẩy sanh hiệu quả, tự ḿnh chẳng cầu liễu sanh tử, mà sanh tử của quư vị tự liễu! Quư vị chẳng cầu tránh khỏi tai họa, mà tai họa tự nhiên tránh khỏi!

          “Khéo dùng cái tâm” đạt tới mức độ sâu, nay mọi người hăy thử dùng đôi chút. Dùng như thế nào? Tách rời tâm và thân thể; tâm chẳng phải là thân thể, thân thể cũng chẳng phải là tâm. Quan niệm này của chúng ta hết sức nghiêm trọng, thân và tâm hợp thành một th́ là phàm phu. Nếu quư vị có thể tách rời cái tâm và thân thể, sẽ dần dần nhập thánh cảnh. Lúc mới sử dụng th́ một hai năm chẳng có hiệu quả to lớn. Quư vị sử dụng mười năm, tám năm, dùng tới ba mươi năm hoặc năm mươi năm, sẽ sanh ra hiệu quả. Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Hữu giác giác thống, vô thống thống giác”, tức là dạy chúng ta: Quư vị có tri giác, cảm nhận sự điều chi đó không thoải mái, bị thương sẽ đau, nhưng sự đau đớn ấy chẳng ảnh hưởng đến cái Biết, đau đớn chẳng ảnh hưởng tới sự nhận biết ấy. Đau chẳng thấu tới giác. Cái cảm nhận đau đớn là thân thể, chứ cái giác chẳng bị đau. Nếu mỗi vị đạo hữu sử dụng công phu này nhiều hơn đôi chút, trong khi quư vị đau khổ cũng thế, chi thể nào phát sanh vấn đề cũng thế, thoạt đầu đương nhiên là hiệu quả chẳng lớn. Cho tới khi quư vị sử dụng công phu đă lâu, sanh ra hiệu quả, đau chẳng phải là quư vị, chẳng phải là cái tâm của quư vị, mà là thân thể, quư vị có thể cảm thấy cái đau ấy chẳng thể làm đau tánh giác. Nếu quư vị vận dụng cái tâm như thế, sẽ thật sự đạt tới “khéo dùng cái tâm”. Hăy thử xem có thể làm được hay không?

          Trong xă hội, chúng ta thường nghe nói “tinh thần biến đổi vật chất”. Vật chất cũng có thể biến đổi tinh thần, nhưng thường là nói thông dụng như thế này: Chúng ta thấy tinh thần và vật chất chẳng liên quan! Tôi có một người thân thích làm kinh doanh. Có một lần, chở sang Pháp một thuyền hàng hóa, tâm người ấy hoàn toàn chăm chú vào hàng hóa trên chiếc thuyền ấy, v́ đó là toàn bộ tài sản của ông ta. Hàng hóa ấy và tâm ông ta chẳng có mối liên hệ ǵ, mà cũng chẳng liên quan ǵ tới thân thể. Khi hàng hóa [mua được sau khi đă bán hết chuyến hàng sang Pháp] chuyển về Trung Quốc, đột nhiên chiếc thuyền ấy bị ch́m, tất cả hàng hóa đều bị ch́m sạch. Ông ta mới bốn mươi mấy tuổi, chẳng phải là rất già! Vừa nhận được điện báo, ông ta cầm lấy tờ điện báo, vừa xem nội dung, người khác thấy ông ta bỗng dưng bất động, nh́n xem, đă chết mất rồi! Chẳng có bệnh tật chi hết! Chuyện giống như thế, trong lịch sử rất nhiều. Đó là chẳng khéo dùng cái tâm, cái tâm gắn chặt vào vật chất. Thân thể của chúng ta là vật chất, tâm chẳng phải là vật chất. Người chết rồi, thân thể tiêu diệt, tinh thần (tâm) trọn chẳng chết! Nó sẽ chuyển thế, tùy thuộc thiện nghiệp nặng hay ác nghiệp nặng, tùy thuộc nó chuyển thành ǵ, chẳng giống nhau! Đó là vật chất biến đổi tinh thần, tinh thần biến đổi vật chất. Nó có thể biến đổi lẫn nhau, đó là quư vị “khéo dùng cái tâm”.

          Tôi nói đề mục chủ yếu là “khéo dùng cái tâm”, tức là nói khi chúng ta tu hành trong b́nh thời, bất luận quư vị sử dụng pháp môn nào, khi quư vị dụng công, hăy nên học “khéo dùng cái tâm”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dùng bốn chữ ấy để dạy chúng ta, làm thế nào để khiến cho những ǵ chúng ta đă làm đều thanh tịnh? Chính là phẩm Tịnh Hạnh, phẩm Tịnh Hạnh do tâm mà có, quư vị hăy khéo dùng cái tâm. Quư vị khéo dùng cái tâm, biến toàn bộ tịnh hạnh của quư vị trở thành thanh tịnh, miệng thốt lời thanh tịnh, thân thể làm chuyện thanh tịnh, trong tâm suy nghĩ thanh tịnh. Từ phẩm Tịnh Hạnh thanh tịnh này, quư vị lại tiến thêm bước nữa là tu phẩm Phạm Hạnh. Kinh Hoa Nghiêm có thứ tự, thứ tự ấy hết sức nghiêm cẩn. Nếu quư vị chẳng có Tịnh Hạnh Phẩm, mà mong vượt cấp, tu phẩm Phạm Hạnh, tức là nhảy cấp, sẽ chẳng làm được! Điều này khác biệt với những giáo nghĩa khác. Nhưng hễ quư vị đạt được một điều, đă nhập một môn, “một chính là hết thảy, một đă thành th́ hết thảy đều thành”. Nếu quư vị biết sử dụng “khéo dùng cái tâm”, quư vị sẽ thành Phật. Phật tâm là như thế nào, quư vị có thể chiếu theo giáo nghĩa để phán đoán: Tâm ấy là giác, không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng hiểu, chẳng có tai nạn nào không thể miễn trừ, nhưng phải hữu duyên. Phật nói “kẻ vô duyên khó độ”, chẳng hữu duyên sẽ chẳng cứu giúp được!

          Dựa trên đạo lư này, mỗi vị đạo hữu chúng ta nếu muốn kết duyên với chư Phật, Bồ Tát, trước hết, quư vị phải quy y Tam Bảo. Đấy là căn bản. Quư vị chưa thọ Tam Quy, tự ḿnh xem kinh Phật, học như thế nào, học cũng rất khá, chẳng được coi là đệ tử Phật môn. Đệ tử Phật môn th́ khởi đầu tối thiểu là trước hết quư vị quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Thông thường là dùng sự tướng Tam Bảo, tức là chúng ta thấy tượng Phật, kinh sách, và Tăng nhân, th́ gọi là thế gian Tam Bảo. Nhưng khi quư vị quán tưởng, sẽ chẳng phải là thế gian Tam Bảo, rời ĺa thế gian Tam Bảo, cho đến theo thứ tự từ hành tín mà đạt tới rốt ráo, Tam Bảo là nhất thể: Hết thảy chúng sanh đều là Phật, hết thảy các pháp đều là tâm, Phật và Pháp ḥa hợp là Tăng Bảo. Đó là nhất tâm Tam Bảo. Tam Bảo do tôi truyền trao là sự tướng Tam Bảo, khác hẳn. Từ thế gian Tam Bảo, quư vị đạt tới nhất tâm Tam Bảo, nhập thanh tịnh Tam Bảo. Tam Bảo là nhất tâm.

          Trong chốc lát, sẽ có các đạo hữu thọ Tam Quy. Thọ Tam Quy là quy y Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Sau đó, quư vị hăy học khéo dùng cái tâm này, khiến cho cái tâm quư vị được sử dụng giống như tâm Phật, đó là Phật Bảo. Tâm quư vị và giáo pháp do đức Phật đă dạy giống nhau, tức là Pháp Bảo. Tâm chính là Pháp, Pháp chính là tâm. Hết thảy các pháp chính là tâm; tâm và pháp ḥa hợp gởi gắm nơi thân tăng nhân, tức là Tăng Bảo. C̣n có tự tánh của quư vị vốn trọn đủ Tam Bảo. Thể tánh của bản thể quư vị là Phật Bảo. Tất cả tri thức vận dụng là Pháp Bảo, thân thể và h́nh tướng của quư vị là Tăng Bảo. Nhưng chúng ta thọ [Tam Quy] là nương theo người khác để thọ, nương theo thầy truyền dạy, thọ lănh sự tướng Tam Bảo. Dựa theo tượng Phật, và dựa theo giới Tam Quy để thọ. Quy y Phật, quy y theo giới bổn là Pháp, văn bản quy y là Pháp Bảo, vị sư phụ truyền thọ là Tăng Bảo. Nương theo sự thể Tam Bảo, quư vị có thể khéo dùng cái tâm này, biến nó thành tự thể Tam Bảo. Tam Bảo chính là tự thân, tự thân liền trọn đủ Tam Bảo, so ra càng thâm nhập hơn chút nữa. Nhưng quy y th́ quư vị mỗi ngày phải hành. Bất luận quư vị niệm kinh nào, khởi đầu đều phải quy y Tam Bảo, chứng tỏ chúng ta quy y Tam Bảo chẳng phải là một hai lần, mà là vô lượng lần, lúc nào, niệm nào cũng đều quy y Tam Bảo. Đấy chẳng phải là so đo tướng công đức, chẳng phải là so đo tướng lợi ích. Những ǵ chính ḿnh đă tiếp nhận, đă đạt được đều bố thí, bố thí cho ai? Bố thí cho các chúng sanh chẳng thọ Tam Quy, khiến cho họ đều có thể được Tam Bảo gia tŕ, đều có thể quy y Tam Bảo. Đó là khéo dùng cái tâm, mà cũng là một cách vận dụng “khéo dùng cái tâm”. Phương pháp “khéo dùng cái tâm” bao gồm vô lượng vô biên [phương thức], tùy thuộc quư vị suy nghĩ như thế nào.

          Tôi thường hỏi các đệ tử làm kinh doanh, tôi nói: Giả sử Tam Bảo gia tŕ quư vị, khiến cho quư vị kinh doanh nhất định có lời, đạt được lợi ích. Đă đạt được, sẽ làm ǵ? Câu trả lời chánh xác ta đạt được để làm ǵ? Ư niệm đầu tiên là cúng dường Tam Bảo. Cúng dường to lớn chẳng có, tối thiểu là sẽ thắp mấy nén hương, đảnh lễ vài lạy, hoặc là mùng Một, Mười Rằm, khi quư vị dùng cơm, hăy nghĩ tới Phật, Bồ Tát. Trước hết cúng dường Phật, sau đó chính ḿnh mới dùng. Đó gọi là “khéo dùng cái tâm”. Phạm vi “khéo dùng cái tâm” hết sức rộng lớn. Mỗi cử động, mỗi niệm của quư vị đều phải dùng đến, sẽ được long thiên ủng hộ, Tam Bảo gia tŕ, tự nhiên cát tường.

          Mỗi khi gặp nơi nào có tai nạn, hoặc có tai họa chiến tranh, nơi đó có đạo hữu, có đệ tử quy y với tôi, tôi nhất định gọi điện thoại hỏi thăm. Tôi nói: “Các đệ tử Tam Bảo có bị hại nhiều hay không? Quư vị hăy khảo sát xem”. Sau đó, họ trả lời: “Chẳng có đệ tử Tam Bảo”. V́ sao tôi liễu giải điều này? Tôi cũng muốn chứng minh một phen sức gia tŕ của Tam Bảo rốt cuộc to cỡ nào! Nhưng điều này là song phương, chẳng phải là đơn phương. Ṿm trời tuy rộng, chẳng thể nhuần thấm cỏ không rễ. Chẳng có rễ, sẽ chẳng thể gia tŕ được. Nơi nào người ác rất nhiều, ác nghiệp rất nặng, nơi đó mưa rất ít. Đấy là sự thật, quư vị có thể tự điều tra, nghiên cứu. Hiện thời, trong xă hội thường xuyên có tai nạn, bất luận quốc gia nào cũng đều xuất hiện chuyện khác thường. Khác thường là chẳng giống b́nh thường, được gọi là tai nạn. Có nơi về căn bản là chẳng có đệ tử Phật, chẳng có Tam Bảo, các đạo hữu đều có thể lư giải điều này: Các đạo hữu trên toàn cầu chẳng ít, mỗi nơi trên địa cầu tai nạn liên tiếp xảy ra, đệ tử Tam Bảo mắc hại khá ít. Nhưng sau khi quư đă thọ quy y Tam Bảo, phải thật sự thực hiện, sức gia tŕ chẳng phải là vấn đề b́nh an, mà là vấn đề thành đạo.

          Do đó, câu “khéo dùng cái tâm” nếu tách ra để phân tích sẽ quá nhiều. Bất cứ sự vật cũng đều bao hàm trong chuyện quư vị có khéo dùng cái tâm hay không, quư vị dùng cái tâm như thế nào? Tôi nhắc lại lần nữa, “khéo dùng cái tâm” lớn nhất là ǵ? Như thế nào th́ quư vị mới được coi là khéo dùng cái tâm? Quư vị toàn là mong làm cho người khác hạnh phúc, tâm niệm của quư vị luôn nghĩ làm thế nào để hết thảy chúng sanh đều hạnh phúc. Nơi này rất nghèo khổ, rất bần cùng, ta làm thế nào để khiến cho hết thảy các chúng sanh ấy đều có thể hạnh phúc, chẳng bị tai nạn, chẳng nghĩ đến chính ḿnh. Như vậy th́ mới thật sự là “khéo dùng cái tâm”. Tôi hỏi các đệ tử Phật đang hiện diện, đang hiện diện ở đây toàn là đệ tử Phật, hăy đều nên nghĩ đến nỗi đau khổ của hết thảy chúng sanh, đừng cầu chính ḿnh an lạc! Quư vị niệm kinh cũng thế, bất luận làm chuyện ǵ cũng thế, hăy nghĩ tới hết thảy chúng sanh đang đau khổ, nghĩ tới chúng sanh đang bị tai nạn. Như thế là “khéo dùng cái tâm”. Hôm nay tôi cúng dường mọi người, cống hiến mọi người, hy vọng các vị đạo hữu đều có thể khéo dùng cái tâm!

Lược giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo hết

 

Phụ lục

Địa Tạng Bồ Tát Linh Cảm Lục

 

* Chuyện tin Phật cảm ứng của ông Lưu

Châu Dương Huệ Khanh ghi

 

          Ông Lưu Lập Thành cùng quê ở Thụy Kim, quen biết với gia đ́nh tôi nhiều đời. Năm Dân Quốc 37 (1948) tới Đài Loan, dạy học tại trường Tỉnh Lập Thương Nghiệp Chức Nghiệp ở Chương Hóa, trước sau bảy năm. Ngày Mười Ba tháng Mười Một năm Dân Quốc 43 (1954), bỗng bị ói ra máu. Đến Đài Trung chữa trị. Do ói ra máu quá nhiều, bất tỉnh nhân sự, không thể nói năng. Chúng tôi không biết, đến ngày Mười Bảy biết tin, tới thăm, ông ta đă lâm vào t́nh cảnh nguy hiểm. Vợ ông ta và các đồng nghiệp quyết định mổ để mong sao có một phần hy vọng trong vạn phần. Nhưng sau khi mổ, dạ dày và ruột đều tốt, chẳng phát hiện khối u ở đâu. Bất đắc dĩ, phải đem chỗ dạ dày có thể phát sanh u loét cắt đi một phần, buộc chặt một đầu chỗ tĩnh mạch có thể tràn huyết. Chúng tôi ở bên cạnh, niệm thánh hiệu Phật, Bồ Tát và Đại Bi thần chú, cầu cho ông ta an ổn. Tối ngày Mười Tám, khi tôi ở nhà niệm Phật cho ông ta, phảng phất thấy ông Lưu đứng trước mặt. Ngày Mười Chín tới thăm, niệm Phật, tŕ chú cho ông ta. Ông Lưu nhiều lần chăm chú nh́n tôi, sau đó, duỗi tay co chân, hướng về tôi nói: “Tôi muốn ngồi dậy”. Em trai ông ta là Lập Duyên nói: “Đây là câu nói đầu tiên trong mấy ngày qua”. Tôi cho là điều này tương ứng với chuyện ḿnh thấy tối qua, tự cảm thấy vui mừng. Sau đó, thường đem nước Đại Bi cho ông ta uống, lại c̣n bôi [nước Đại Bi] lên đầu, trán, chân, tay ông ta. Đồng thời, bác sĩ dùng nhiều loại phương pháp để trị liệu. Dưới t́nh huống ấy, bệnh t́nh dần dần ổn định, mọi người cho là kỳ tích chưa từng có, nhưng gốc bệnh chưa trừ, vết mổ chưa lành. Bảy tám ngày sau, bụng lại ph́nh to, cứng rắn như cái trống. Do vậy, phải đổi bệnh viện, mổ lần nữa, rút nước ra hơn một vạn cc (cubic centimeter, phân khối). Bác sĩ nói có thể là biến chứng gan bị xơ hóa, nước liên tục tích lại, bụng tiếp tục căng phềnh, đă hết cách chữa trị, bất quá chỉ kéo dài thời gian mà thôi!

          Ông Lưu thần trí tỉnh táo, tự biết nguy hiểm, nói với tôi: “Bác Châu ơi! Xin cứu con. Xin hăy tiếp nhận con như một đứa con của bác”. Tôi nói: “Chúng ta đời đời có giao t́nh, quan hệ chẳng tầm thường. Tôi hằng ngày niệm Phật, tụng chú, hồi hướng cho cậu. Cậu phải tin tưởng Phật pháp, thỉnh Phật, Bồ Tát gia hộ”. Ông ta đáp: “Vâng, con nghe theo bác chỉ dạy”. Ông ta nói với vợ: “Tịnh thủy của bác Châu bôi lên đầu liền thấy thoải mái. Bác vừa đến là tôi cảm thấy dễ chịu! Chúng ta quyết định theo bác Châu tin Phật, người khác nói thế nào đều nhất loạt chẳng quan tâm!” Lại nói với cậu em là Lập Duyên vài lần, và c̣n dặn ḍ: “Sau này các ngươi phải giúp ta chú ư”. V́ ông ta vốn tin theo Thiên Chúa Giáo, có nhiều điều cố kỵ, nay quan niệm chuyển biến to lớn. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện dạy: “Phàm kẻ cung kính Địa Tạng Bồ Tát và niệm tụng kinh này, có thể tiêu trừ bệnh khổ, tăng trưởng thọ mạng”. Gặp đúng dịp chùa Linh Sơn mở Di Đà Phật Thất, tôi nói với ông Lưu và vợ ông ta: “Chờ khi Phật Thất viên măn, tôi định mời vài Phật hữu cùng tới niệm tụng kinh Địa Tạng, cầu cho ông b́nh phục”. Trong lúc Phật Thất, tôi và hai vị cư sĩ Cam Vương Tịnh Vĩnh và Sử Phan Tịnh Ngưng ở trong biển âm thanh niệm Phật, cũng thường hồi hướng cho ông ta. Do đồng nghiệp của ông ta đề nghị đổi sang uống thuốc Bắc, chẳng thể ở trong bệnh viện, bèn từ Đài Trung chuyển về nhà ở Chương Hóa. Lúc quay về, tôi biếu tượng Phật cho vợ ông ta, muốn ông ta lập Phật đường nơi chỗ ở để lễ bái, cúng dường.

          Ngày hôm sau, tức sáng sớm ngày mồng Tám tháng Chạp, cả nhà tràn ngập mùi thơm. Ông ta nói: “Cớ sao có mùi thơm như thế? Đó là mùi đàn hương”. Lại biết tượng Phật vẫn để trên bàn ở pḥng ngoài, liền giục vợ: “Sao vẫn không treo tượng Phật lên? Hăy mau treo lên! Lấy dấu thánh giá xuống!” Treo lên, lễ bái xong, chẳng lâu sau bèn chẳng thể nói năng nữa, đột ngột qua đời. Khi đó, chưa đốt chiên đàn, mà mùi thơm lạ vẫn nồng sực. Bệnh của ông Lưu nhiều người nói chẳng cần phải mổ xẻ. Trước lúc xảy ra chuyện, tôi chưa kịp góp ư. Lúc [bệnh t́nh ông ta] nghiêm trọng, lại sáng chiều tham dự Phật Thất, chưa kịp niệm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện cho ông ta, khôn ngăn tiếc nuối cùng cực! Bất quá, ông Lưu vừa phát Bồ Đề tâm, một niệm chân thành, chuyển biến quan niệm, tín ngưỡng Phật pháp. Khi lâm chung, [mùi hương] chiên đàn tràn ngập cả nhà. Phật, Bồ Tát cảm ứng đạo giao, tiếp dẫn siêu độ, sức oai thần đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Sau khi viên măn Phật Thất, tôi vẫn mời hai vị cư sĩ Cam và Sử ở liên xă v́ ông ta tụng niệm kinh Địa Tạng, ḥng tṛn tâm nguyện, giúp tăng huệ mạng cho ông ta. Toàn thể thầy tṛ trường Thương Chức Chương Hóa làm lễ truy điệu ông ta. Chồng tôi và tôi phúng điếu một đôi câu đối như sau:

          Kư dĩ nhuệ phát tâm âm, hựu phục hải hội Phật âm, văng sanh tự hiển chiên đàn thụy.

          Tuy nan kế tục thân mạng, thượng khả miên diên huệ mạng, hứa nguyện chung hoàn Địa Tạng kinh.

          (Đă dũng mănh phát tâm, lại trong biển âm thanh niệm Phật, văng sanh tự hiển lộ điềm lành hương chiên đàn,

          Tuy khó tiếp nối thân mạng, vẫn có thể kéo dài huệ mạng, hứa nguyện hoàn măn tụng kinh Địa Tạng Bổn Nguyện).

          Một niệm tâm thành, khắp viện tỏa hương, đón về Cực Lạc.

          Bảy năm cảm ứng, cả nhà buồn khóc Định Quân sơn[3].

          V́ chứng minh chí thành tin Phật, chẳng phân chia ranh giới, có cảm liền ứng, ảnh hưởng nhanh chóng. V́ chứng tỏ thân mạng này có phần hạn, huệ mạng có thể kéo dài, đặc biệt ghi đại lược chuyện ông Lưu tin Phật pháp, đạt được cảm ứng như trên.

          Ngày Hai Mươi Mốt tháng Hai năm Dân Quốc 44 (1955).        

          Bài đăng trên tạp chí Bồ Đề Thụ, số mười tám, phát hành trong tháng Ba năm Dân Quốc 44.

 

* Bệnh nặng được cứu giúp

 

          Chàng Vương Phước Sơn là con út của cư sĩ Lâm Quư Ngọc (chủ nhiệm Bồ Đề Học Viện ở Tân Thành, tức Penang), rất hiền đức, hiếu thảo với mẹ. Gần đây, anh ta mắc bệnh nhiệt, sốt rất cao, thuốc thang vô hiệu. Cư sĩ Trí Hải do thấy cư sĩ Quư Ngọc nghe pháp bèn tận lực hành, đối với pháp vụ, thấy chuyện nghĩa bèn dũng mănh làm, dẫu xông vào nơi nước sôi lửa bỏng, vẫn vui vẻ làm quên mệt, hết sức khâm phục, mà cũng hết sức thương xót cứu giúp. Ông tận lực khuyên con bà ta hăy quy y Địa Tạng đại sĩ, ḥng cầu Ngài từ bi gia hộ để cởi gỡ oan khiên đời trước, lại c̣n thay bà báo tin cho lăo pháp sư Hội Tuyền là bậc tinh thông y học. Ở chỗ pháp sư có loại Hầu Táo[4] trị bệnh nhiệt rất hay, Sư bèn tặng cho dùng, liền thấy công hiệu. Uống ba thang, bệnh sốt cao khỏi hẳn, gia đ́nh và thân thuộc của chàng Vương nghe tin, không ai chẳng hoan hỷ, cảm động. Một là cảm Địa Tạng đại sĩ phi thường cảm ứng, hai là cảm mộ ân đức phương tiện từ bi gia hộ của lăo pháp sư và cư sĩ Trí Hải.

 

* Bà Đường Nhược Lan tự thuật chuyện cảm ứng do khắc in kinh Địa Tạng Thập Luân          

         

          Năm Dân Quốc thứ mười (1921), mẹ tôi bị bệnh nguy kịch, nhằm lúc tôi đang làm việc tại trường sư phạm nữ giới Bắc Kinh. Trở về tỉnh nhà chưa được mười ngày, mẹ đă mất, gặp đúng lúc quê nhà loạn lạc, chưa thể cầu siêu được. Năm Dân Quốc 13 (1924), tôi ở trường Tiểu Học Sư Phạm dành cho nữ sinh tại Từ Châu, mộng thấy v́ mẹ cúng chay mà buồn thương. Tính ra, vừa đúng ngày mẹ mất đă ba năm. Năm Dân Quốc 14 (1925), trở về trường Đông Đại chọn lựa kinh Phật để tu tập. Năm Dân Quốc 15 (1926), bèn trường kỳ trai giới. Năm Dân Quốc 16 (1927), tụng kinh Địa Tạng, mộng thấy mẹ bảo bà đă vào Địa Tạng Viện. Năm Dân Quốc 30 (1941), cha mất, tụng kinh [hồi hướng cho cha], lại mộng thấy cha được vào Địa Tạng Viện. Năm Dân Quốc 31 (1942), cha mẹ đều đă tám mươi [nếu c̣n sống], bèn tính cúng trai tăng, vâng theo lời dạy của pháp sư Chánh Cang, bỏ tiền khắc in hai quyển đầu của kinh Thập Luân. 

                   

* Ghi chép về chuyện bệnh liệt mà cảm mộng được ban thuốc

Duệ Tông ghi

 

          Duệ Tông mắc bệnh tê bại đă lâu ngày, có người nói là do bệnh phong thấp, mấy lượt điều trị mà rốt cuộc chẳng thấy hiệu quả. Mỗi khi chuyển mùa, thời tiết biến đổi, bệnh liền phát ra. Tứ chi sưng phồng, không có sức cử động, các đốt xương khắp thân hết sức đau đớn. Duệ Tông cuộc sống gian nan, không nơi nương cậy, nào có tiền bạc dư dả để cầu t́m thuốc hay, nhưng bệnh khổ trói buộc, khó thể chịu đựng. Trong t́nh cảnh muôn phần chẳng biết làm cách nào, bỗng nghĩ chỉ có cầu Phật, Bồ Tát từ bi gia bị, khiến cho nghiệp chướng của Duệ Tông ngầm tiêu, bệnh trầm kha chóng lành. Do vậy, bèn tự ấn định tụng niệm thánh hiệu của hai vị đại sĩ Quán Âm và Địa Tạng, quy định khóa tŕnh mỗi ngày, nhất tâm tŕ niệm, cầu được ngấm ngầm gia hộ. Hơn một tháng, đêm mộng thấy ḿnh tới một nơi có ṭa nhà trệt gồm hai gian, trong ngoài cách biệt. Có hai vị trượng phu to lớn, mỗi người ở trong một gian, Duệ Tông trọn chẳng quen biết, liền vào thẳng gian trong. Một vị trượng phu đứng dậy, dường như đang làm chi đó. Duệ Tông lại gần xem kỹ, vị ấy bèn cười hỏi: “Ngươi bị bệnh ǵ?” Duệ Tông liền thưa sự thật, lại nói: “Tôi chẳng có sức chữa trị”. Vị đó cười chẳng nói. Vị trượng phu ở gian ngoài, ngồi tựa vào ghế, nghiễm nhiên bất động, mắt chẳng nh́n Duệ Tông, dường như chẳng liên quan ǵ. Tới lúc ấy, bỗng nói: “Không uống trà là tốt nhất”. Chỉ một câu ấy, Duệ Tông bèn từ biệt, trở ra. Tỉnh giấc biết là mộng. Mộng là chuyện thường, không cho là lạ, cũng chẳng nhớ tới. Thấm thoát hơn một tháng, vô t́nh bỗng chứng nghiệm. V́ sao nói như vậy? Duệ Tông có tật mê trà, [trà phải pha sao cho] sắc lẫn vị rất đậm đặc. Nay tuy chẳng nhớ lời nói trong mộng, nhưng mỗi khi uống trà xong, lập tức có cảm giác. Trải qua mấy lần kinh nghiệm, cảm thấy lời nói trong mộng đích xác là có ư nghĩa. Mỗi lần uống trà, bệnh liền phát ra. Nếu uống nước sôi, bệnh sẽ giảm nhẹ. Quan sát, chứng nghiệm như thế, rành rành chẳng sai, bèn chẳng dám uống trà nữa, thường uống nước sôi, Chẳng lâu sau, bệnh rốt cuộc bỗng nhiên lành. Từ đấy trở đi, chẳng c̣n phát ra nữa, lạ thay! Kinh dạy: “Thuốc A Già Đà, trị chung vạn bệnh”, quả chẳng phải là lời suông! Ghi lại đại lược, mong báo ân Phật, và giúp cho người đồng bệnh. Tịnh tông học nhân Duệ Tông Phương Thánh kính ghi.

 

* Chuyện linh cảm do trích máu vẽ tượng

Thánh Tử ghi

 

          Cư sĩ Thành Phục Sơ ở huyện Thái An, tỉnh Cam Túc, từ lúc mười sáu tuổi đă chịu ảnh hưởng sai lầm bởi luận thuyết của Tŕnh Châu (Tŕnh Hạo và Châu Đôn Di, tức những người chủ trương học thuyết Tống Nho), tự gánh trách nhiệm bài xích Phật giáo và Lăo giáo. Ông ta ở nơi hẻo lánh, chẳng có bậc cao tăng hoằng pháp để thân cận, bèn coi thuyết của Tŕnh Châu là danh ngôn chí lư. Từ đó liền vâng theo thuyết ấy để bài xích Phật giáo và Đạo giáo, chứ thật ra, đối với duyên do của đạo Phật và đạo Lăo, thật sự trọn chẳng biết ǵ! Năm Dân Quốc 16 (1927), mắt phải kéo màng, chẳng thể thấy rơ mọi vật. Đến năm Dân Quốc 20 (1931), mắt trái cũng thế. Thoạt đầu, ông ta vẫn cho là đạo trời vô tri; sau đó, đại ngộ tri kiến của chính ḿnh sai trái, bèn cùng với con cực lực sám hối, thống thiết sửa đổi lỗi trước, quy y Ấn Quang đại sư, tận lực tu tịnh hạnh, phỏng theo ông Viên Liễu Phàm lập mạng, noi gương ông Du Tịnh Ư sửa tâm. Tuy được tâm địa quang minh, mắt vẫn mù tối như cũ, bèn tự soạn văn phát nguyện sám hối. Con ông ta là cư sĩ Tịnh Niệm (pháp danh Siêu Kiện), trích máu vẽ h́nh Phật, dùng son chép kinh. Kế đó, lại được thượng sư Tŕ Tùng[5] truyền dạy mật chú, sớm chiều tŕ tụng. Tới năm Ất Hợi, tức ngày Mười Bảy tháng Mười Một năm Dân Quốc 24 (1935), sáng dậy, ông dâng hương, niệm tụng. Công khóa vừa xong, trời vừa mới hửng sáng, ông lễ bái các thánh hiệu. Trong lúc lễ tới Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát, vừa nói chữ Bồ, chưa kịp thốt ra chữ Tát, bỗng thấy kim quang trước bàn Phật vụt sáng, giống như tia chớp lóe dài trên hư không. Từ đó trở đi, mắt lại có thể thấy mọi vật.

 

* Địa Tạng Bồ Tát linh cảm kư

Vưu Sư Khang ghi

 

          Cư sĩ Nhạc Sư Húc ở Trung Châu Phật Kinh Lưu Thông Xứ tại Hà Nam, vợ mất sớm, một gái đă lấy chồng, trong nhà chỉ có một mẹ già. Năm Dân Quốc 20 (1931), mẹ bị xe kéo[6] va phải, khiến cho đùi trái bị thương, chữa trị chẳng lành. Suốt ngày cụ nằm trên giường, tiêu tiểu, cho đến ăn uống đều cậy cư sĩ nâng đỡ. Sáng tối hễ mẹ gọi, ông liền chạy đến, chẳng cởi đai áo. Thấm thoát đă mấy năm, vất vả vạn phần, chẳng có cách nào kinh doanh, tiền vốn cũng đă dùng sạch. Ngày Hai Mươi Ba tháng Giêng năm Dân Quốc 23 (1934), Sư Khang dẫn bạn là Trương Khế Chánh đến thăm, thấy t́nh trạng mẹ ông vẫn như cũ. Cư sĩ vẻ mặt tiều tụy, râu tóc bạc trắng. Sư Khang biếu ông năm đồng, ông kiên quyết chẳng nhận, bèn bỏ bên gối của mẹ. Ông cùng Sư Khang bèn phát tâm trong một trăm ngày, mỗi ngày niệm một ngàn câu thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, tính ra được mười vạn biến, ân cần trân trọng hồi hướng cho mẹ, nguyện tiêu trừ trọng tội Thập Ác, ĺa khổ, được vui. Cho tới năm giờ sáng ngày Hai Mươi Chín, mẹ bảo con, thân bỗng nhẹ nhàng, lại c̣n cảm thấy rất đói. Cư sĩ liền dâng một chén ḿ. Cụ ăn xong hoan hỷ, lại đ̣i ăn táo. Cư sĩ vui mừng nói: “Mẹ đă lành bệnh rồi”. Mẹ đáp: “Chẳng phải vậy! Chỉ sợ mẹ con ta phải giă biệt măi măi”. Nói như thế xong, chưa nuốt táo xuống, đột ngột qua đời. Cư sĩ vội gơ khánh, niệm Phật hiệu. Bỗng có ông Châu Đồng Sanh đến nói đêm qua mộng thấy mẹ [của ông Nhạc] hướng về ông cáo biệt: “Sáng mai tôi sẽ đi”. Trong ḷng nghi ngờ, cho nên đến thăm, mới biết cụ đă mất, chắt lưỡi than lạ! Tối ngày Ba Mươi Mốt, đă an táng mẹ xong, cư sĩ đau ḷng v́ mẹ mất, một thân trơ trọi, buồn khóc khan cả tiếng, bỗng nghe có người bảo: “Ông chớ nên khóc mẹ nữa, bà ta đă được Địa Tạng Bồ Tát tiếp dẫn rồi”. Ông trợn mắt nh́n quanh, cửa nẻo đóng chặt, có ai đến nói đâu? Ông nhớ tới chuyện Sư Khang niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát hồi hướng, tin là do oai đức của Địa Tạng đại sĩ gia bị, bèn phát nguyện hằng ngày tụng thánh hiệu Đại Sĩ, hồi hướng cho vong mẫu.

 

* Địa Tạng Quán Âm linh cảm kư

Lâm Giác Hiền ghi

         

          Quán Âm Bồ Tát trọn đủ tâm đại từ bi, thương xót chúng sanh, dùng ba mươi hai ứng thân độ thoát hết thảy hữu t́nh. Ngàn tay, ngàn mắt cứu các khổ ách. Địa Tạng Bồ Tát có đại hoằng nguyện, chúng sanh chưa độ hết, thề chẳng thành Phật. Kể từ khi Giác Hiền quy y Tam Bảo, được nghe đại pháp, biết hai vị Đại Sĩ Quán Âm và Địa Tạng có nhân duyên to lớn không ai hơn đối với chúng sanh trong cơi Sa Bà, có thể làm nơi nương cậy cho hết thảy khổ năo, sanh tử, bệnh tật. Do vậy, đôi khi Giác Hiền tu tŕ thánh hiệu của hai vị Đại Sĩ. Nếu gặp hiểm nạn, đau khổ, tŕ niệm càng thiết tha. Phàm những điều khẩn cầu, không ǵ chẳng ứng nghiệm. Giữa tháng Bảy, tháng Tám năm Dân Quốc 28 (1939), mắc bệnh gần chết. Tiên nghiêm và bào huynh đều tinh thông y thuật, nhưng đều cùng cảm thấy bó tay, lo lắng muôn phần. Người đến thăm bệnh cũng đều lắc đầu than thở, cho là chẳng thể cứu nổi. Giác Hiền tuy bệnh nặng, thần thức vẫn thanh tỉnh, tự biết bệnh này nếu muốn sống mà chẳng cậy vào sự gia bị của chư Phật, Bồ Tát, sẽ không thể được!

          Khi đó, pháp sư Hoằng Nhất và pháp sư Tánh Thường đều trụ tích tại chùa Phổ Tế thuộc làng Liên Hồ trong ấp của tôi. Pháp sư Tánh Thường nghe Giác Hiền ngă bệnh, đích thân đến thăm viếng, an ủi, đưa cho một bó hương nén, bảo: “Đốt hương này, chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu Quán Âm và Địa Tạng, chắc chắn sẽ sớm có ngày chẳng cần thuốc mà bệnh lành”. Giác Hiền bèn càng ngày đêm tín niệm, người nhà cũng luôn luôn trợ niệm, bệnh liền chuyển biến. Cho tới khi thắp hết bó hương, bệnh đă gần như mất hẳn. Trong khi bệnh và sau khi bị bệnh, trong giấc ngủ thường có điều kinh sợ. Chẳng hạn như bỗng thấy núi lớn sụp đổ đè xuống thân. Nếu Giác Hiền niệm to thánh hiệu của Đại Sĩ, liền có một quả núi lớn khác bay tới chặn ngọn núi sắp lở, tiêu tán trong chốc lát! Cảnh tượng như thế, chẳng phải chỉ một. Giác Hiền chẳng có ǵ để báo đáp hồng ân của Đại Sĩ, kính cẩn ghi chép sự tích linh cảm này để dấy khởi tín nguyện [cho người khác].

 

* Địa Tạng Bồ Tát tiếp dẫn phụ nữ tiết hạnh sanh Tây

Trần Bội Ngọc ghi

 

          Người chị dâu đă quá văng của tôi là Trương Thị, húy Thọ Thân, pháp danh Thắng Thọ, là người huyện Tấn Giang, tỉnh Phước Kiến. Bà sanh trưởng trong gia đ́nh hiền thiện, thông minh từ bé. Lúc hơi lớn lên bèn đọc sách Nho, ở nhà trọn hết niềm hiếu đễ. Tới tuổi cài trâm, gả về Giang Hạ (thuộc tỉnh Hồ Bắc), trở thành cháu dâu cả của ông Hựu Đường. Kết hôn mới được bốn mươi chín ngày, chồng đă bị bệnh chết, bà liền tự thệ thủ tiết. Mẹ chồng bị bệnh lâu ngày, thuốc men vô hiệu, bà cắt thịt đùi chế thuốc. Do ḷng hiếu cảm vời, mẹ chồng sống thêm được ba năm. Thân thích trong ngoài tới nay vẫn ca ngợi. Ở nhà, từ em chồng, chị em dâu, các cháu, cho đến tôi tớ, xóm giềng, không ai chẳng ḥa hợp, nhân ái, khen ngợi đức tánh của bà. Có người do đói kém, bệnh tật xin giúp đỡ, dẫu đang trong cảnh khốn khó, bệnh tật, bà vẫn tận lực giúp đỡ, lo toan, chưa từng bỏ sót, nhưng chính ḿnh ăn tiêu đạm bạc, quần áo, thức ăn đều giản dị, sơ sài.

          Tháng Năm năm Dân Quốc 35 (1946), vị đại đức đương thời là pháp sư Hoằng Nhất trụ tích ở Ôn Lăng hoằng dương chánh pháp. Chị dâu vốn khâm ngưỡng khuôn phép đạo hạnh của Ngài từ trước, rủ tôi cùng tới chỗ pháp sư, thọ Tam Quy Y, bèn ăn chay trong các tháng Hai, tháng Sáu, và tháng Chín. Tôi cũng do túc nghiệp, chưa về nhà chồng, chồng đă mất sớm. Vào cửa [nhà chồng] mười mấy năm, sáng tối gắn bó với chị dâu, được chị rủ ḷng yêu thương như chị em ruột.

          Chẳng ngờ căn bệnh ung thư vú từ trước tái phát, ngày càng nguy kịch, giằn vặt mấy tháng, cho đến giờ Tuất ngày mồng Hai tháng Sáu âm lịch năm nay, chị xả báo sanh Tây. Chị mất rồi, tấm thân tàn này từ đây học đạo một ḿnh, không ai bầu bạn. Than ôi, đáng thương thay! Lúc bệnh t́nh của chị mới trở nên nguy kịch, chị liền phát tâm ăn chay trường, buông xuống hết thảy, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Bệnh ngày càng nặng, cả nhà lớn nhỏ mười mấy người, và mời thêm vài phụ nữ ăn chay trường, ngày đêm luân lưu, chia phiên trợ niệm Phật hiệu chẳng ngớt. Anh ruột của chị là cư sĩ Chấn Đ́nh lại nhiều lượt tới khuyên lơn, sách tấn, khiến cho chánh niệm của chị càng rạng ngời.

          Trong lúc chị hấp hối, đứa cháu nội thừa tự tên là Thừa Kinh, trong lúc mọi người đang tụ tập đông đảo, đèn điện chiếu sáng ngời, bỗng hoảng sợ hét ầm lên, sắc mặt tái mét. Mọi người vội an ủi, hỏi han chuyện ǵ. Nó nói: “Sau ṭa của bà nội, chợt thấy h́nh tướng một vị Phật. Thân cao hơn khung cửa, đầu đội măo có góc cạnh, thân khoác y bách nạp, tay cầm gậy, dẫn bà nội ra đi”. Lúc đó, trong nhà có treo thánh tượng Địa Tạng Bồ Tát. Mọi người mới hiểu là do đức dày của chị, đă cảm vời Địa Tạng Bồ Tát đại thánh nhân tới đón tiếp, quyết định sanh về Tây Phương chẳng ngờ chi! Chị đích thân trải qua cảnh giới thù thắng ấy. Hết thảy mọi việc khâm liệm, tống táng đều tuân theo chế định của Phật để xử lư. Năm ngày sau, trà-tỳ (jhāpita, hỏa táng) ở Anh Sơn, chưa đầy hai tiếng, đă cháy sạch. Linh cốt trắng sạch, cứng chắc, bỏ vào hũ sứ, chứa vừa đủ. Nay tạm gởi tại Di Đà Nham ở núi Thanh Nguyên, chờ chọn được ngày lành, sẽ dựng tháp kỷ niệm. Tôi cảm niệm hạnh nghiệp b́nh sanh của chị dâu cả, dẫu văn chương giản dị, quê kệch, thiếu bóng bẩy, vẫn vội ghi đại lược như thế.

          Thanh Nhăn đối với Trương nữ sĩ thẹn được dự vào hàng nhân mạt[7], luôn được nghe nói về phước đức trang nghiêm của bà. Buổi sáng hôm nữ sĩ xả báo, tôi theo ông sui gia là bào huynh Chấn Đ́nh của bà Trương tới nhà bà tùy hỷ niệm Phật, hồi hướng. Lại nghe chuyện Thừa Kinh thấy thánh tượng Địa Tạng, liền gọi Thừa Kinh lại hỏi ḍ, thấy nó nói giống hệt như mọi người đă nói. Đứa bé này tuy mới chín tuổi, thân thể đă khá vạm vỡ, đă đi học mấy năm. Nó thông minh, sáng láng, là một đứa trẻ theo kiểu hiện đại, trọn chẳng tin Phật pháp. Nay bỗng tự nói chính mắt thấy thánh tượng, thần thái khác lạ, có thể biết là do đức dày của bà Trương cảm vời, Địa Tạng Bồ Tát phương tiện ứng hóa chẳng ngờ! Chánh pháp đă vào mùa Thu, quần sanh nghiệp nặng, chướng sâu, được nghe danh hiệu một vị Phật, danh hiệu một vị Bồ Tát c̣n chưa thể được, huống hồ trông thấy Bồ Tát ư? Chẳng nỡ để chuyện này bị vùi lấp, nên kính cẩn biên thêm vài lời thừa thăi vào sau [bài viết của bà Trần Bội Ngọc]. Diệp Thanh Nhăn kính đề.

 

* Nam-mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát

Phùng Huệ Lai ghi

         

          Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ Đề. Địa ngục chẳng trống, thề chẳng thành Phật. Đấy là đại nguyện của Địa Tạng Bồ Tát. Trước kia, tôi đă từng cảm Bồ Tát rủ ḷng từ, đích xác là chẳng thể nghĩ bàn, bèn rửa bút ghi lại. Kể từ khi tôi tin Phật tới nay, thoáng chốc đă mười lăm năm, do thân dự vào trong giới quân đội, chính trường, khổ v́ chẳng có thời gian rảnh rỗi để tu tŕ. Kinh Địa Tạng cũng chưa hề tụng qua. Năm Dân Quốc 32 (1943), tôi phục vụ trong bộ chỉ huy pḥng không ở huyện Hưng Ninh, tỉnh Quảng Đông. Trong các đồng nghiệp có hai vị họ Trần đều thích bắn chim, tôi bèn phát tâm khuyên ngăn, thừa dịp tuyên dương Phật pháp, cực lực tán thán các thứ công đức và oai thần của Địa Tạng Bồ Tát. Hai ông họ Trần và quyến thuộc của họ, và cùng một ông họ Hứa nghiễm nhiên được Phật pháp cảm hóa, ai nấy đều lập đàn, niệm thánh hiệu của Bồ Tát. Nhất là ông Hứa tín tâm kiên cố, tu tŕ tinh tấn.

          Cho tới mùa Thu năm nay, tôi do bị bệnh, bèn xin thôi việc, trở về quê. Ngày nọ, ở nhà, ngẫu nhiên giở kinh Địa Tạng Bổn Nguyện ra xem, chỉ vừa xem đôi ba trang, bỗng mùi hương từ kinh tỏa ra. Trong khoảng sát-na, mùi hương lạ đầy nhà, lúc lâu sau chẳng tan. Khi đó, tôi đang mang bệnh chưa khỏi, do nhà nghèo, không có sức chữa bệnh. Mấy ngày sau, c̣i cảnh báo khẩn cấp vang lên, tôi vội chạy trốn. Vừa mới ra khỏi cửa, máy bay giặc lùn (Nhật) đă đến, ném bom lung tung. Tôi do tấm thân bị bệnh lâu ngày, gặp cơn kinh hăi ấy, hôn mê ngă lăn ra đất, trúng gió mất hồn! Khi đó, người nhà đă chạy vào hào trú ẩn, không ai biết. Tính ra, tôi chết ngất từ ba giờ chiều tới bảy giờ mới tỉnh, đă bốn giờ trôi qua. Lạ nhất là chưa đầy hai ngày, bệnh đă lâu bỗng dưng khỏi hẳn. Đấy hoàn toàn nương vào sức từ bi của Phật, Bồ Tát mà ra, nay nhớ lại thánh ân, đặc biệt đăng lên tạp chí Giác Hữu T́nh[8] để ghi nhớ măi.

 

* Oai thần của Địa Tạng Bồ Tát

Thích Huệ Khánh ghi

 

          Ngu nạp[9] đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, tán thán các thứ công đức cứu độ chúng sanh của Bồ Tát. Do vậy, nhớ lại năm xưa triều bái Cửu Hoa, trên đường đă trải qua hoạn nạn, cảm được Bồ Tát rủ ḷng Từ [cứu độ]. Xin kính cẩn thuật lại như sau:

          Ngày mồng Một tháng Mười Âm lịch năm Dân Quốc 32 (1943), tôi ngồi chuyến xe sáng tới Nam Kinh, nhằm lúc phi cơ màu trắng của nước ta ném bom vùng Hạ Quan, toàn vùng bị giới nghiêm, đến nỗi chuyến xe sang Vu Hồ bị trễ. Tới được Vu Hồ th́ đă nửa đêm, đèn đuốc đă tắt hết, cũng chẳng có ánh sao. Giặc lùn kiểm tra rất ngặt. Trạm xe cách thành phố khoảng một dặm, khách ngồi xe ai nấy tự t́m đường. Chỉ có tôi đi một ḿnh, không đồng bạn, lạ nước, lạ cái, đêm tối lại càng chẳng phân biệt được phương hướng. Đang trong lúc chần chừ, bỗng một vị Tăng đi đến, kéo tôi tiến lên, dẫn đến nhà trọ ngủ nhờ. Tôi ḍ hỏi Sư từ đâu đến và chỗ trụ tích, nhưng Sư niệm Phật một tiếng, vái chào từ biệt. Sau này nghĩ lại, hiển nhiên là Bồ Tát thị hiện. Đó là chuyện thứ nhất.

          Sáng hôm sau, chuyển xe tới Đại Thông, chuyển sang Đồng Phố, lại thuê một chiếc đ̣ nhỏ tới huyện Thanh Dương, đường thủy khoảng sáu mươi dặm. Theo lời phu thuyền: “Thuyền ắt đi qua Hổ Kỳ Sơn, nơi đó có giặc cướp chiếm đóng. Chúng thấy người từ khu tạm chiếm (tức người từ khu vực chiếm đóng bởi người Nhật) đi qua, thường xả súng bắn. Từ hồi chiến tranh tới giờ, người bị chết đông lắm!” Người nghe không ai chẳng sợ hăi, nhưng tôi trọn chẳng để ư, bởi lẽ, tâm thiết tha triều bái Bồ Tát, đă gác hẳn sanh tử ra ngoài. Dẫu có nguy hiểm, ắt được Bồ Tát gia bị. Do vậy, trong tâm b́nh thản. Mặt trời đă lặn về Tây, đêm đen im vắng, gió tuyết rất lạnh. Mười giờ, đ̣ bắt đầu chèo đi. Tôi liền an ủi, bảo bốn lái buôn ngồi cùng đ̣ đừng nên sợ hăi, hăy nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát. Tôi tự ḿnh ngồi ngay ngắn, chắp tay, kiền thành thầm cầu nguyện, suốt bốn tiếng đồng hồ chẳng buông tay. Người cùng ngồi đ̣ cũng im lặng, không thốt ra tiếng, chỉ nghe tiếng nước suối chảy róc rách. Thuyền xuôi theo gịng, hai bờ rừng cây dày đặc, đỉnh núi cao ngất ngưởng. Thú gào, quỷ rú, âm thanh thê lương. Trăng mờ, tuyết quay cuồng, ai nấy đều run sợ. May mắn là chẳng có chuyện ngoài ư muốn nẩy sanh, b́nh yên vượt qua. Đó là chuyện được oai thần của Bồ Tát hộ niệm thứ hai vậy.

          Tới Thanh Dương, mới vừa tảng sáng, tường thành sụp lở, vách nhà nghiêng đổ, hiếm có quán xá nào c̣n nguyên vẹn. Đó là dấu tích trận oanh tạc bừa băi của giặc lùn vào cuối Hạ năm Dân Quốc 31 (1942). Từ đó lên núi, tính ra đường dài một trăm hai mươi dặm, băng tuyết phủ kín đường, người đi đường bó chân! Có chỗ là đường núi suốt mười sáu dặm, càng khó trèo lên. Muốn t́m người dẫn đường mà chẳng thể được! Bỗng gặp một vị Tăng muốn tới chùa Thúy Phong, bèn có bạn đồng hành. Phương tiện khéo phù hợp, khiến cho người ta vui mừng ngoài ḷng mong mỏi. Do loại nhân duyên thù thắng này, lại càng tin sâu đậm Bồ Tát âm thầm gia bị. Đấy là điều thứ ba.

          Chiều hôm ấy, nghỉ tại chùa Thúy Phong. Sáng hôm sau muốn đến Cửu Hoa. Từ chỗ ấy đến Cửu Hoa là tám mươi dặm, đường núi quanh co, gập ghềnh khó đi. Lại thêm tuyết đóng thành băng, đường lối ngoằn ngoèo, trơn trợt, cực khó lên núi. Vị Đương Gia chùa Thúy Phong lưu tâm giữ lại, bảo năm nay rét buốt hiếm thấy trong tám, mười năm qua. Nhưng tôi quyết chí, thề lên núi lễ Phật, nào dám sợ khó khăn chẳng lên đường. Do vậy, bàn bạc với một vị đồng tham: Sáng hôm sau bắt đầu lên núi. Đường núi khúc khuỷu, tuyết đọng cả thước, chẳng nhận được đường nẻo, gió bấc như đao. Vượt qua mấy rặng núi, đường núi càng thêm hiểm trở, gập ghềnh, băng tuyết càng trơn trợt. Đi một bước, ngă một bước, nhiều lượt té rồi đứng dậy, tuyết thấm ướt sũng thân, đau tận cốt tủy. Chỉ cốt chí triều bái Bồ Tát, kiền thành xưng niệm thánh hiệu. Hết thảy khổ sở cũng liền được giải trừ. Lảo đảo vịn nắm, trèo qua một rặng núi, ngước mắt nh́n bốn phía: Tuyết trắng xóa mênh mông không ngằn mé; các rặng núi chẳng thấy rơ h́nh trạng, chỉ thấy các chóp núi cao thấp. Khi đó, tôi đă dốc cạn sức lực đi nửa ngày, vị đồng tham chân tay lạnh cứng, mặt bị gió táp như bị đao khứa, không thể bước nổi nữa. Bốn phía không người, há t́m được chỗ nghỉ chân? Không ngờ, đi mấy bước nữa, nơi sườn núi, phát hiện một túp lều tranh, vừa khéo có thể ẩn náu. Nhóm lửa hơ ấm, hơi cảm thấy ấm áp bèn tiếp tục lên đường. Chiều xuống, khí trời chuyển lạnh, gió tuyết càng dữ dội. Núi cao, đường trơn, dần dần đêm đă xuống, toàn thân run lẩy bẩy, răng va lộp cộp. Thế núi cao thấp quanh co, càng thêm khó đi. Chỉ có nhiếp tâm chánh niệm, dốc hết sức tiến về trước, vừa đi vừa té, ṿng theo đường núi vượt qua ngọn núi. Thấy xa xa phía trước có đỉnh tháp lờ mờ, biết là thánh địa của Bồ Tát đă gần, kinh hỷ quên mệt, bước chân tự nhiên nhẹ nhàng, bèn tới được núi. Nếu chẳng có oai thần của Bồ Tát bảo vệ, gia hộ, ắt tuyết sâu, núi cao chót vót, đông cứng ngă xuống không thể dậy nổi, chắc sẽ táng thân trong băng cốc. Đó là chuyện thứ tư.

          Tới núi, bèn nghỉ tại chùa Quảng Tế, cách bảo tháp chẳng xa. Ngay tối đó bèn đến tháp triều bái, chiêm lễ kim dung nhục thân của Bồ Tát. Canh tháp suốt một đêm, tán thán Bồ Tát công đức như thế, thệ nguyện rộng sâu, khiến cho tôi năm vóc gieo sát đất, cung kính đảnh lễ bốn trăm lạy. Nhớ trong kinh Địa Tạng, đức Thế Tôn đă xưng dương Bồ Tát sức oai thần từ bi to lớn chẳng thể nghĩ bàn trong mười phương thế giới, cứu giúp, che chở hết thảy chúng sanh tội khổ. Kim khẩu của đức Phật đă tuyên nói như thế, khiến cho mọi người cảm động cùng cực, khóc lóc, lễ bái trọn chẳng mệt mỏi. Sáng sớm hôm sau tới khắp các chùa. Danh sơn thánh địa đều có bậc cao tăng đại đức đốt ngón tay, thiêu cánh tay, thắp đèn, đủ mọi cách cúng dường. Nghe phong thái ấy, không ai chẳng tán thán. Tiếc là chiến tranh loạn lạc mấy năm, khách hành hương thưa thớt, chùa miếu tiêu điều. Lại c̣n có mấy ngôi chùa danh tiếng như Đông Nhai, Long Hoa v.v… bị giặc lùn phóng hỏa thiêu hủy. Cái tội hủy hoại tháp miếu, chẳng thể sám hối, tan nhà mất nước, chưa đủ để đền tội vậy!

          Kính xét vùng núi Cửu Hoa là đạo tràng công đức của Địa Tạng Bồ Tát, có chín mươi chín ngọn, chót vót, ngất ngưởng, trèo lên rất khó. Do Bồ Tát thệ nguyện hoằng thâm, có đại nhân duyên với chúng sanh, cho nên trong thuở thái b́nh, khách hành hương tấp nập, đen đặc cả đường, như đi trên đất bằng. Huệ Khánh lần này lên núi chiêm bái, nương theo một niệm chí thành, xưng tụng thánh hiệu của Bồ Tát, trên đường gặp mấy hiểm nạn, đều được chuyển nguy thành an. Nay đặc biệt ghi lại, sao lục đăng trên tạp chí Giác Hữu T́nh, ḥng tuyên dương ân đức của Bồ Tát.

 

* Ghi chép về chuyện Địa Tạng Bồ Tát phóng quang

Dương Đồng Tô ghi

 

          Ngày Rằm tháng Hai năm Dân Quốc 33 (1944), sáng sớm, tôi lên Tán Mỹ Lâu lễ Phật. Tới tám giờ tối, lại ở trong Phật đường, đối trước Quán Âm Đại Sĩ tŕ tụng danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát. Do mong yên tĩnh, bèn tắt đèn, đứng nghiêm trang, chắp tay hướng về Phật, miệng niệm, tâm quán, không nh́n ngó, dứt suy tưởng, tự cảm thấy kiền thành hơn lúc ban ngày. Tiếp đó, tụng thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát một ngàn câu. Lúc sắp tụng đủ số, bỗng thấy ánh sáng chói lọi, to như cái chén, chiếu lóa mắt như đèn, cách tượng Quán Âm Đại Sĩ ba thước về phía trái. Thoạt đầu, tôi nghi là có người cầm đèn đi qua sân, ánh sáng rọi lên vách tường. Nhưng quay đầu nh́n ra ngoài cửa sổ, trăng c̣n chưa mọc, ngoài sân vắng vẻ, trọn chẳng có người qua lại. Kế đó, nghĩ đấy chắc là thị giác sai lầm, liền nh́n chỗ ấy, bỗng [ánh sáng] ẩn mất, chẳng thấy nữa. Bèn trở về chỗ cũ, xưng tụng như cũ, quang minh lại sáng lên, cao hơn chỗ đă hiện đôi chút. Tôi mới nghĩ ra, nơi đó thờ một bức tượng Địa Tạng Bồ Tát đứng, tức là bức vẽ do em trai tôi là Trí Phương vẽ năm trước. Về sau, quyên mộ in ra để tặng cho người trong nước cúng dường rộng răi, bèn đoan chắc là Bồ Tát phóng quang chẳng nghi ngờ. Vội gọi em tôi nh́n để xem có thấy giống như tôi hay không. Cha tôi cũng từ nhà trong chạy tới, cùng xưng thánh hiệu. Quang minh hiện ra mấy phút mới mất.

          Thoạt đầu, mẹ tôi nghe theo lời khuyên của người cùng ấp là cư sĩ Hạng Trí Nguyên, ăn chay trường, thờ Phật suốt mười năm. Cả nhà bị cảm hóa, không ai chẳng sùng tín Tam Bảo. Trước sau, quy y các vị đại sư Ấn Quang, Tŕ Tùng, Diệu Chân. Mấy năm qua, ư nguyện hoằng pháp của anh em tôi càng thêm tha thiết. Đầu tháng Giêng năm nay, mẹ tôi mắc bệnh, cánh tay phải khó thể co duỗi, đi lại khó khăn. Cha tôi th́ bên cạnh vú cũng nổi khối u đang chờ chữa trị. Anh em tôi biết là do túc nghiệp cảm vời, nếu chẳng do Phật lực gia bị, sẽ chẳng có hiệu quả. V́ thế, càng thêm siêng năng niệm Phật.

          Tới đêm Hai Mươi Chín, mẹ bị cứng lưỡi chẳng nói được, giống như bị trúng phong. Anh em tôi bèn phát nguyện: “Ngoài xưng tụng danh hiệu chư Phật ra, c̣n tŕ thêm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, đồng thời v́ mẹ sám hối nghiệp chướng”. Bệnh quả thật bớt dần. Ấy là từ khi song thân bị bệnh tới nay, kiền thành tụng danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát chẳng phải chỉ là một ngày vậy. Vậy th́ đêm qua [Bồ Tát] phóng quang, thật sự là Bồ Tát hiển hiện sự linh dị để kiên cố tín tâm cho anh em tôi. Do vậy, cả nhà hoan hỷ tán thán, đều tin bệnh của song thân nhất định sớm thuyên giảm. Ân đức của Bồ Tát đúng là ghi tâm khắc cốt, cảm kích vô cùng. Kinh Bổn Nguyện dạy: “Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu hiện tại, vị lai bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự, đản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng. Như thị sở nguyện, sở cầu tất giai thành tựu” (Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn trăm ngàn vạn ức các nguyện, trăm ngàn vạn ức các sự trong hiện tại, chỉ nên quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát. Sở nguyện, sở cầu như thế thảy đều thành tựu). Phàm gặp bệnh tật, tai ách, họa hại, nếu có thể kiền thành lễ kính Địa Tạng Bồ Tát, sẽ tự có thể được Bồ Tát rủ ḷng che chở, độ thoát. Công đức quy kính chẳng thể nghĩ bàn, chỉ do người đời phát tâm mà thôi. Ngày hôm sau của ngày Địa Tạng Bồ Tát phóng quang trong tháng Hai năm Giáp Thân (1944), đệ tử Dương Tô Đồng ở Như Cao, pháp danh Nhân Tăng kính thuật.

 

* Địa Tạng Bồ Tát thánh ân kư

Tô Duệ Minh ở Thường Thục ghi

 

          Nhà tôi có mấy người, chỉ có mẹ chồng ăn chay trường, kiền thành tín phụng Phật giáo. Tôi tuy tin có Phật, Bồ Tát, tuy vâng thờ, nhưng không chuyên dốc. Cho đến khi mẹ chồng qua đời, các vị cư sĩ thuộc liên xă ai nấy đều trợ niệm. Tôi tiếp xúc các vị cư sĩ lâu ngày, cũng bèn kiền thành tín phụng Tam Bảo. Pháp sư Chánh Mông thuộc Tịnh Hạnh Liên Xă ở trấn Lộc Uyển tuyên dương Phật giáo, chẳng tiếc sức thừa. Sư càng ưa thích hoằng dương công đức cứu khổ độ nạn của Địa Tạng Bồ Tát, khuyên các xă viên tŕ tụng kinh Địa Tạng, ắt có cảm ứng. Kể từ khi pháp sư xướng suất, hướng dẫn tới nay, không đầy mấy tháng, quả nhiên sự cảm ứng lần lượt hiện ra. Do vậy, tôi đem các sự tích gom lại, ghi lại dưới đây để thành một bài trần thuật sự linh cảm chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát.

          Một, con dâu của tôi sau khi sanh bị nhiễm bệnh, thần chí mơ hồ, nói năng điên rồ. Đă nhiều ngày như thế, chẩn trị bằng thuốc Tây lẫn thuốc Bắc đều chẳng có hiệu quả. Tôi do tin Phật, lại c̣n vâng theo lời chỉ dạy của pháp sư Chánh Mông, bèn mời các vị cư sĩ trong liên xă cùng nhóm lại lễ tụng kinh Địa Tạng. Vừa mới tụng hết quyển Thượng, bệnh t́nh của con dâu bỗng dưng mất hẳn, thần chí nhanh chóng tỉnh táo. Tới khi tụng xong quyển Trung và quyển Hạ, thoải mái ngủ say. Chẳng mấy chốc bèn lành bệnh.

          Hai, người thợ bạc họ Tiền mắc bệnh lạ, cổ sưng phồng, miệng chẳng thể nuốt thức ăn được. Trải qua mấy bữa như thế, đau đớn muôn phần, lại c̣n thường kêu: “Ông X… (là một vị cư sĩ kiền thành tín phụng Phật giáo trong trấn này) đang ở thiên đường, tôi đang ở trong địa ngục. Ông X… hăy mau cứu tôi”. Người nhà bèn tới thỉnh vị cư sĩ ấy, lại thỉnh các đồng đạo tụng kinh Địa Tạng trong liên xă. Đă tụng xong, bệnh nhân bỗng nói: “Vừa rồi có người đến giải thoát cho tôi thoát khỏi cảnh bị treo lơ lửng”. Bệnh khỏi hẳn.

          Ba, bà họ Đỗ bị bệnh thương hàn khá nặng, chữa trị bằng Tây Y lẫn Trung Y, bệnh trạng vẫn như cũ. Cả nhà bà Đỗ vốn tín phụng Phật giáo. Họ ăn chay trường, bèn v́ bà ta phúng tụng kinh Địa Tạng. Vừa mới làm xong, nhiệt độ nhanh chóng giảm xuống, bà ta ngay lập tức lành bệnh.

          Bốn, mẹ tôi lúc bảy mươi chín tuổi, bất ngờ mắc bệnh thống phong, hai chân co quắp, chẳng duỗi ra được, đau đớn chẳng thể nói nổi. Nằm bệnh mấy năm, cụ bỗng qua đời. Về sau, tôi mộng thấy mẹ nói: “Chân đau khó thể chịu đựng”. Tôi nghĩ là do tưởng nhớ mà thành mộng, chẳng để ư tới. Về sau, ở trong Liên Xă nhắc tới chuyện ấy, pháp sư Chánh Mông khuyên tụng kinh Địa Tạng, bảo “nhất định có thể khiến cho người đă mất siêu thoát tội khổ”. Tôi bèn phát tâm, thỉnh một vị đạo lữ cùng tụng. Tụng tới ngày thứ sáu, mộng thấy mẹ đến bảo: “Đă thoát khỏi, trừ hẳn các khổ”. Ngày thứ bảy, tụng xong, hồi hướng, lại mộng thấy mẹ văng sanh Tây Phương, tôi tiễn đi. Ôi! Oai thần của Bồ Tát gia bị chốn u minh, đáng tin lắm thay!

          Năm, trong trấn của tôi có đứa con của ông Đường Nhị Quan và cháu nội của Vương Tam Thư đều mắc bệnh, thuốc men vô hiệu. Do nghe sức oai thần linh cảm của Địa Tạng Bồ Tát, họ liền kiền thành tụng kinh Địa Tạng, con cháu họ đều được lành bệnh.

 

* Địa Tạng Bồ Tát thánh oai kư

Phương Dục Huệ ghi

 

          Mùa Xuân năm Dân Quốc 34 (1945), kẻ địch hoành hành, kẻ bất hiếu này hầu hạ mẹ ở Thượng Hải. Nhà của người chị cũng ở tại đất Hỗ (Thượng Hải), nhưng cha do công chuyện, bị kẹt tại Trấn Giang. Ngày Hai Mươi Tám tháng Tư (tức ngày Mười Bảy tháng Ba âm lịch), được điện báo từ Trấn Giang cho biết cha bỗng bị bệnh nặng. Tôi bàn bạc với mẹ và chị, toan sang đó chăm sóc. Mẹ bảo giao thông không thuận tiện, tiền thuê xe vừa quá mắc vừa khó kiếm, lại c̣n kẻ tiểu nhân ḍm ngó, ngụy ác đa đoan, thân gái yếu đuối không nên khinh suất ra đi, cho nên chẳng đi được. Do lo lắng cho cha già, cơi ḷng rối loạn. Hôm sau, tôi bèn qua nhà chị bàn bạc, do trời đă tối, chị bèn giữ lại ngủ, ở cùng pḥng với cháu gái. Khu vực ấy quản chế đèn lửa rất nghiêm, mười giờ đêm bèn cắt điện, phải đi ngủ trước mười giờ. Kẻ bất hiếu này bận ḷng v́ cha già, trằn trọc chẳng ngủ được. Pḥng ngủ ở trên lầu ba, trước sau đều có cửa sổ.

          Đêm đă khuya. ánh trăng soi rạng ngời, đang trong lúc trầm tư, bỗng thấy có rất nhiều người lũ lượt kéo tới, đứng ở ngoài cửa nhà, chỉ có một người vượt qua mọi người tiến vào, rơ ràng là cha già. Đang trong lúc tôi kinh nghi, cha đă tới đứng trước giường, thê lương kêu nhũ danh của kẻ bất hiếu này, bảo: “Cha đă xong đời rồi, đă đi rồi, con có biết hay không?” Ngay khi ấy, tâm tôi biết là chuyện bất tường, bởi vẻ mặt cha rất thảm năo, chỉ đành nén đau thương, miễn cưỡng an ủi: “Con đă biết rồi, cha đừng buồn bă. Sống chết có số, cái thân máu thịt, ai nấy đều chẳng thể giữ măi. Ngoại trừ Phật lực, chẳng có pháp giải thoát nào khác! Mấy năm qua con dốc sức khuyên cha niệm Phật chính là v́ ngày hôm nay! Tuy cha chưa nghe theo, nhưng cũng v́ đó mà lập nguyện quy y. Do một niệm nhân lành, chưa chắc đă không được hưởng lợi ích. Xin cha rốt cuộc hăy nghe theo”. Cha sắc diện càng buồn thảm hơn, nói: “Không kịp rồi, cha sắp theo họ đi rồi”. Khi nói bèn giơ tay chỉ ra ngoài nhà. Người ở bên ngoài nhà cũng nhiều lượt tḥ đầu ngó vào trong như thể giục giă. Cha quay đầu, nói vọng lại với họ: “Đă cho phép tôi tới đây, xin hăy đợi một chút. Tôi có đôi lời căn dặn con gái của ḿnh”. Cụ xoay lại nói với kẻ bất hiếu này: “Huệ con! Cha cần con niệm Phật để siêu độ, cứu bạt. Hết sức hối hận thường ngày chẳng nghe lời con khuyên”. Nói xong, cụ lại nh́n ra ngoài bảo: “Tôi sẽ đi ngay”. Rồi vỗ về kẻ bất hiếu này, bảo: “Cha đi đây! Hăy nhớ kỹ, siêu bạt cứu độ cho cha”. Sau đó, cụ điềm nhiên giở gót ra đi. Bất hiếu vội hỏi cha c̣n muốn nói ǵ nữa hay không? Cha quay đầu lại, nh́n tôi bảo: “Không có chi nữa. Con chỉ cần nhớ kỹ cha đang đợi con siêu bạt, cứu độ”. Cha giơ tay bưng mặt, dường như giấu nước mắt. Bất hiếu cũng khóc ṛng, không nhịn nổi nữa! Đi tới cửa, cha nh́n lại lần nữa nói: “Ta chờ con siêu độ, cứu bạt”.

          Ra tới bên ngoài, trong đám người ấy có một kẻ tay cầm một vật dài, giống như xích sắt, tṛng lên người cha. Bất hiếu từ xa trông thấy, nóng ruột, giơ tay can ngăn: “Đấy là cha tôi, tôi tin thờ Phật pháp, tự tin là có thể cầu xin Phật lực giải tội cho cha. Cha tôi quyết sẽ chẳng đến nỗi ở lâu trong chốn tối tăm, lấy một tháng làm hạn, thề sẽ siêu độ, cứu bạt. Xin hăy thương t́nh nương tay, ắt sẽ đền đáp đức dày”. Người ấy quả nhiên thu tay, chỉ dẫn mọi người lôi cha tôi đi. Chốc lát, các tướng đều biến mất. Tôi thử gọi các cháu, chúng nó đều đang ngủ say, chưa tỉnh. Rất may là chuyện trong lúc ấy chẳng kinh động mọi người.

          Hơn nữa, chồng chị tôi tánh t́nh nhút nhát, chị lại tự phụ chẳng mê tín, tôi bèn giấu kín [chuyện ấy], chẳng nói. Nhưng biết cha ắt đă tạ thế, suốt đêm chẳng ngủ, thầm niệm Phật hiệu. Sáng ra, trở về trường rất sớm. Đồng nghiệp đưa cho một bức điện báo, nói gởi đến từ tối hôm qua. Nước mắt ràn rụa, tôi biết cha quả nhiên đă qua đời hôm qua. Than ôi, đau đớn thay! Bắt đầu ngay từ ngày hôm ấy, tôi v́ cha niệm Phật. Tuy Dục Huệ đă quy y Phật mấy năm, nhưng trước sau chưa đọc kinh tạng, chỉ biết phụng tŕ danh hiệu. V́ vậy, để cầu xin cho cha, cũng chỉ kiền thành niệm tụng danh hiệu Phật, Bồ Tát, chí tâm đảnh lễ, cầu đảo mà thôi.

          Tới hôm Hai Mươi Lăm tháng Hai, cha đă qua đời tám ngày. Trong đêm, khi tôi mới vừa quỳ tụng, bỗng thấy một luồng Phật quang, chiếu thẳng tới phương Đông Bắc, trải dài như một tấm lụa trắng, cha quỳ lạy trong đó. Từ đó, tôi sáng tối lễ tụng, đều thấy ánh sáng ấy. Thoạt đầu chỉ thấy một ḿnh cha lễ bái trong ánh sáng. Dần dà, quang minh chiếu càng xa hơn, người theo cha đảnh lễ cũng ngày càng đông hơn. Có người khoác áo, đội măo, h́nh dạng như quan phủ, cũng bày hương án lễ lạy trong quang minh. Điều lạ nhất quang minh ấy ắt chỉ thẳng vào góc Đông Bắc, các phương khác chẳng thấy ǵ.

          Cho đến ngày mồng Tám tháng Tư, nhằm ngày khánh đản đức Phật Thích Ca, trong hôm ấy, khi tôi dâng trái cây, lễ bái, tụng niệm, thấy trong quang minh có nhiều người lễ bái, hệt như mấy ngày trước. Tới tối, tụng niệm khóa tụng như thường lệ, liền khấu đầu niệm tụng tôn hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Đột nhiên thấy Bồ Tát hiện h́nh tượng Tăng Già, cầm trượng giộng xuống đất, bèn có kim quang vọt lên, tạo thành một vầng lớn, sức chấn động rất mạnh. Tôi vừa mới nghiêm túc quỳ, chi thể bị chấn động run lật bật, chẳng thể kiềm chế được. Trong quang minh cũng có khá nhiều người hớn hở, hân hoan, tản ra bốn phía. Có mấy người c̣n thong thả vọt lên không, dường như được sanh vào đường lành. Lúc đó, Phật quang chói lọi, chẳng thể nh́n lâu, người [hiện ra trong quang minh] đông đảo. Có người bay lên, có người tản ra bốn phía, có người thong dong, có người gấp gáp, chưa biết rơ rốt cuộc cha là t́nh trạng như thế nào? Tụng tôn hiệu của Địa Tạng Bồ Tát xong, bèn theo thứ tự lễ bái, tŕ niệm tôn hiệu của Phật, Bồ Tát, dồn mắt nh́n kỹ, chẳng c̣n thấy ánh sáng thanh tịnh ở phương Đông Bắc nữa. Tâm trộm cảm thấy an ủi, biết cha tôi ắt nương nhờ Phật ân mà siêu thoát. Tính lại thời gian đă mất hai mươi mốt ngày. Ơn Phật sâu dày, Phật lực to lớn, thật chẳng thể suy lường, buồn vui chen lẫn, lễ bái, cảm tạ không thôi.

          Sáng ngày Mồng Chín thức dậy, theo thường lệ lễ tụng, ngẫu nhiên đưa mắt ngó về phía Tây, bỗng thấy có những căn nhà thâm thấp xúm xít, không ngờ tới một trăm mấy chục nhà. Pḥng ốc đều hẹp nhỏ, nhưng khá ngăn nắp, đẹp đẽ, san sát ngay hàng thẳng lối với nhau, như tạo thành một thôn xóm vậy. Cách thôn xóm ấy dăm ba bước, lại có một ngôi nhà nhỏ xây cất khác lạ, bốn phía không sang cả, hoa lệ, tường vách mới sạch. Cha tôi ở trong đó, đi ṿng quanh nhà chẳng ngừng chân chút nào, dường như nhàm chán, nhưng chẳng có ǵ để tự tiêu khiển. Tôi biết linh hồn cha ắt lẩn quẩn nơi mộ địa. Các ngôi nhà đă thấy chính là khu mộ công cộng thuộc giáo đường. Bởi lẽ, thời cuộc chẳng yên ổn, chẳng dám quàn quan tài tại nhà quàn, cho nên cậy người tới Trấn Giang mua một khu đất, chôn tạm nơi đất khách, chờ tương lai sẽ chuyển về quê. Khu đất gần với một nghĩa địa công cộng của Thiên Chúa Giáo, cho nên thấy như thế.

          Do vậy, tôi kiền thành thầm cầu nguyện, cầu nguyện cho cha, lễ bái, cầu xin ân Phật, [khiến cho cha] tín tâm kiên định măi măi, luôn giữ thiện niệm. Cầu đảo được một lúc, quả nhiên thấy cha phủ phục xuống đất. Sau đó, mỗi lần lễ tụng, liền thấy cha ở phía Tây trong căn nhà nhỏ, mọp lạy làm lễ. Nếu thấy cha xoay vần quẩn quanh, bèn cầu Phật, liền thấy cha lập tức phủ phục xuống đất lễ bái. Cảm ứng nhanh chóng, chẳng khác ǵ đối trước mặt thưa bày. Ôi! Lạ thay! Chín ngày lễ tụng xong xuôi, tôi từng xem bản đồ, mới biết Trấn Giang quả nhiên ở phía Tây của Yết Phố[10], chứng tỏ những điều đă thấy chẳng phải là hư vọng.

          Lại nữa, vào ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba khi mới thấy Phật quang, chỉ giới hạn nơi góc Đông Bắc, khi đó, tôi cũng chẳng hiểu nguyên do. Một hôm, giở xem quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm Lục, có chép chuyện Đốc Bưu Đặng Tông ở Dương Châu vào đời Đường chết đi, được sứ giả cơi âm dẫn ông đi thăm địa ngục, nói là [địa ngục] ở phương Đông Bắc, mới giật ḿnh, hiểu ra nguyên do. Thế tục có thuyết Địa Tạng Bồ Tát dùng trượng đánh vỡ cửa ngục Cửu U, nay do những điều tôi đích thân chứng nghiệm, [mới biết] thuyết ấy cố nhiên là lời thật. Oai thần của Phật pháp đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Tôi bèn kính cẩn dựa theo sự thật mà ghi thuật lại, ḥng có cơ duyên bảo khắp các thiện tín, ngơ hầu hoằng dương chánh pháp, những mong Phật quang soi thấu, rộng cứu bạt những kẻ trầm luân trong tam đồ. Nữ đệ tử Tam Bảo Phương Dục Huệ kính ghi chép lại sau khi cha đă tạ thế hai tháng.

 

* Địa Tạng Bồ Tát thánh đức kư

Khương Trí Thanh ghi

 

          Tháng Bảy mùa Thu năm Bính Tuất, chị tôi mắc bệnh thương hàn nguy kịch, các bác sĩ đều bó tay. Nhằm lúc đó, tôi chăm sóc bên cạnh, mà kinh Địa Tạng Bổn Nguyện đă dạy rơ: Nếu đem tất cả trân bảo, y phục của người bệnh [bán lấy tiền, dùng] để vẽ h́nh tượng Địa Tạng, th́ người ấy do nghiệp báo đáng phải bệnh nặng, nhưng nhờ công đức ấy, sẽ liền được lành bệnh, tuổi thọ tăng thêm. Tôi bèn thay chị phát nguyện thí nhẫn vàng để góp phần chút ít trong việc quyên góp đúc tạo tượng Địa Tạng Bồ Tát bằng đồng ở chùa Quảng Tế tại Cửu Hoa Sơn, và bảo chị cũng cầu nguyện như thế. Trong khoảnh khắc, như buồm căng gió, chị hạ sốt, tỉnh táo, bệnh giảm bảy tám phần mười. Những người chăm sóc chung quanh không ai chẳng chắt lưỡi than lạ.

          Lại nữa, bảy ngày sau đó, vừa mới sáng sớm, chị tôi thấy một vị lăo tăng cầm tích trượng từ pḥng khách thong thả bước vào buồng ngủ, đứng bên cạnh giường, chị tôi chắp tay tỏ ḷng cung kính, chợt chẳng thấy đâu nữa. Từ đó, các chứng bệnh như “chân chẳng có sức, tinh thần uể oải” bỗng nhiên hết sạch. Do vậy, biết Bồ Tát đă rủ ḷng hiện thân trong sáu đường, phổ độ hữu t́nh, thần thông, oai đức chẳng thể nghĩ bàn! Chị tôi sau khi khỏi bệnh, đă lập chí tu tịnh nghiệp, hằng ngày tŕ danh hiệu Phật, mỗi tháng ăn chay sáu ngày, gặp ai cũng khuyên dạy. Lại c̣n bảo tôi thay chị soạn bài ghi chép về sự linh cảm để mong người thấy kẻ nghe rộng khắp cùng sanh chánh tín, cùng gieo tịnh nhân.

 

*Địa Tạng Bồ Tát thánh ân kư

Giác Thuần ghi

         

          Tôi xưa kia do bị bệnh mà xuất gia. Kể từ khi xuất gia tới nay, chưa hề mắc phải bệnh nặng. Đôi khi Tứ Đại chẳng điều ḥa, tu pháp Chỉ Quán, nghỉ ngơi, sẽ lập tức lành bệnh. Mùa Xuân năm nay, tức năm Dân Quốc 36 (1947), tới Hàng Châu dâng hương. Đặc biệt tổ chức thuyền hành hương, trên đường đi mở Phật Thất, biến thuyền thành đạo tràng, ngày đêm niệm Phật chẳng ngừng. Thuyền nhỏ, người đông, ở trong th́ bị nóng, ở ngoài chịu lạnh.

          Trở về đến Vô Tích, liền mệt mỏi, chẳng chú ư. Tới ngày Hai Mươi Ba tháng Tư, phát bệnh nghiêm trọng. Hơn mười ngày, chẳng nuốt nổi hạt gạo, hớp nước! Tới nửa đêm ngày Ba Mươi, đang trong lúc nguy hiểm cùng cực, thấy Địa Tạng Bồ Tát tay trái cầm bát, tay phải cầm trượng, đứng ở trước giường, khuyên nhủ tôi trấn định niệm Phật. Sáng sớm hôm sau, [bệnh t́nh] chuyển thành khá hơn. Ngày mồng Năm tháng Năm, uống được nước cháo. Cho tới hôm tắm Phật th́ b́nh phục như cũ. Nay giao cho Đại Pháp Luân Thư Cục xuất bản một trăm quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Nhân Duyên để báo đáp ân sâu, đặc biệt ghi lại [nguyên do].

          Mười hai câu chuyện trên đây đều trích lục từ nguyệt san Giác Hữu T́nh.

 

* Địa Tạng Bồ Tát linh cảm kư

Ngô Kính Nhân ghi

 

          Cư sĩ Hoàng Đức Xuân người xứ Ninh Ba, ở đường Y Trang tại Châu Phố thuộc khu Phố Đông của Thượng Hải, mở tiệm giấy Di Nguyên đă mấy chục năm. Ông đă quy y với pháp sư Ấn Quang từ lâu, hằng ngày tụng kinh Kim Cang, giữ sáu ngày chay rất nghiêm cẩn. Gần đây, Kính Nhân bận bịu, rất lâu chưa gặp gỡ. Lần này, Châu Phố Liên Xă cử hành Di Đà Phật Thất tới ngày Hai Mươi tháng Mười Một công đức viên măn. Do gởi thư, tôi tới bưu cục. Cục trưởng bảo tôi: “Hoàng cư sĩ ở cách vách, từ mùa Đông năm ngoái cho tới nay, do bị bệnh, đă đem chuyện thọ tŕ kinh Kim Cang và lục trai nhiều năm nhất loạt vứt bỏ, phá giới. Do vậy, hồn dạo trong địa phủ, ngày đêm kêu gào, trải đủ mọi nỗi khổ trong địa ngục, c̣n hiện ra h́nh tướng thọ khổ! [Người nhà] từng mời đạo sĩ tác pháp cầu đảo, vô hiệu! Ông là sư huynh, sư đệ của ông ta, hăy nên đến thăm. Thử coi ông ta c̣n nhận ra ông hay không?”

          V́ thế, Kính Nhân tới tiệm của ông ta, liền nghe tiếng gào thét ầm ĩ. Tới gần giường, liền hỏi: “Ông có nhận ra tôi hay không?” Ông ta liền đáp: “Lăo sư huynh mau cứu tôi. Tôi đă chịu hết các nỗi khổ trong địa ngục rồi”. Khi đó, thần thức của ông ta đă hôn mê, nói năng quàng xiên. Trên bàn, thịt xương bừa băi. Tôi trách ông ta chớ nên ăn những thứ ấy, lại khuyên ông ta nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Kính Nhân giúp ông ta niệm một hồi, chưa thấy hiệu quả to lớn ǵ. Kế đó, nhớ lại lúc mẹ tôi bị bệnh, dường như có oán đối dây dưa, tôi thỉnh tịnh lữ niệm thánh hiệu Địa Tạng và kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, mẹ bèn được thoát khỏi. Tôi bèn khuyên quyến thuộc của ông ta, mau thỉnh tịnh lữ niệm kinh Địa Tạng bảy bộ, và một vạn câu thánh hiệu Địa Tạng, sẽ có thể được Bồ Tát gia bị lành bệnh. Kế đó, tôi khuyên ông ta chuyên niệm thánh hiệu rồi cáo từ.

          Ngày mồng Sáu tháng Mười Hai, nhằm ngày tụ hội của Liên Xă, Kính Nhân lại đến đó dự hội, liền nghe cư sĩ Trần Gia Tuấn nói: “Hoàng cư sĩ đợi ông đă nhiều ngày. Ông ta bị bệnh, đă được Địa Tạng Bồ Tát gia bị, mỗi ngày một khỏe hơn. Hôm trước, đă niệm xong bảy bộ, liền thấy hiệu quả kỳ diệu. Nay hứa nguyện niệm trọn một trăm lẻ tám bộ. Nay tinh thần ông ta ngày một tốt hơn, đă như người thường. Hiện thời, đă đem cái đồng hồ vàng ông ta rất yêu mến bán đi, và để ra một khoản tiền là bao nhiêu đó, chờ ông đến, liền cậy ông thỉnh thánh tượng Địa Tạng Đại Sĩ, cúng vào chùa Vĩnh Định và Châu Phố Liên Xă. Lại c̣n nguyện tùy sức lo liệu, giúp kinh phí cho Ấn lăo pháp sư tôn tạo tháp. Từ đấy, nhất tâm niệm thánh hiệu Phật, Bồ Tát, nay đă tŕ Thập Trai. Dần dần sẽ tiến tới ăn chay trường. Ông ta mong ước ông đến”.

          Tới khi gặp mặt Kính Nhân, ông ta liền chắp tay cảm tạ, và thuật sự linh cảm của Bồ Tát. Từ đấy về sau, tâm nguyện mỗi mỗi đều đúng như ông Trần đă kể chẳng khác. Ông ta lại khẩn khoản cậy tôi viết giùm bài kư ghi lại chuyện linh cảm để hiển thị thánh đức của Bồ Tát. Kính Nhân không giỏi viết lách, chỉ kính cẩn chép lại sự thật như thế đó. Lại nguyện các vị đồng nhân cùng sanh chánh tín, ḥng măn đại nguyện độ hết chúng sanh của Bồ Tát th́ xă hội may mắn lắm thay, pháp môn may mắn lắm thay! (Trích từ Hoằng Hóa Nguyệt San phát hành vào tháng Ba năm Dân Quốc 33 - 1944).

 

* Cầu Địa Tạng Bồ Tát biết được tên họ của cha

Dật Thanh ghi

         

          Tôi ba tuổi từ biệt cha mẹ, đổi họ, làm con nuôi người khác. Tới lúc hai mươi bốn tuổi xuất gia, cha mẹ ruột đă mất sớm. Từ lúc nương náu cửa Phật, thường dấy lên ư niệm cầu siêu [cho cha mẹ], nhưng khổ chẳng biết tên họ cha mẹ, chẳng có cách nào hồi hướng. Gần đây, do thấy Hồng Phiệt Đường ở núi Phổ Đà sẽ có Phật sự Thuyết U Minh Đại Giới vào ngày Mười Tám tháng Tư. Tôi bèn bàn bạc với vị Trụ Tŕ là ngài Chiếu Công. Sư bảo: “Nếu chẳng biết tên họ, sẽ chẳng thể truyền trao”. Tôi nghe nói, trong ḷng càng thêm đau xót, hỏi thêm: “C̣n có cách nào để đắc độ hay không?” Chiếu Công bảo: “Hay là thầy phát tâm khẩn thiết, chí thành, xót xa cầu xin Địa Tạng Bồ Tát dạy cho biết tên họ của cha mẹ th́ sẽ tiện làm. Bỏ cách này, chẳng có cách nào khác!”

          Tôi liền y giáo phụng hành, chí thành, khẩn thiết, đối trước ṭa của Địa Tạng Bồ Tát lễ bái, cầu đảo. Tới khoảng giờ Tư đêm ngày Mười Bảy, trong mộng thấy rơ một tờ giấy viết chữ, ghi tên cha là ba chữ Kim Chung Liên, bất giác vui mừng tột độ, tỉnh giấc. Đợi tới hôm sau, báo cho Chiếu Công, và kể cho chư Tăng trong chùa nghe, họ đều tán thán hy hữu. Bồ Tát đại nguyện, đại lực, tùy nguyện mà thỏa ḷng mong cầu, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Tôi nay thuật lại, chẳng phải để khoe khoang khác lạ, mà v́ sợ người đời có kẻ bi thương giống như tôi, để họ có thể nhất loạt phát tâm mà làm theo.

          Hơn nữa, Bồ Tát ḷng Từ sâu xa, ḷng Bi to lớn, tùy thuận chúng sanh. Ngoại trừ kẻ tâm chẳng dốc hết ḷng thành, làm chuyện trái nghịch Phật, e rằng khó được cảm thông. Nếu chí thành, khẩn thiết cầu đảo, tùy thuận lời đức Phật dạy, chánh tín mong cầu, tự nhiên có cảm liền thông, cảm ứng như dùi gơ xuống mặt trống [liền vang ra tiếng]. V́ thế, ghi lại để mong sao hễ có người mong cầu th́ cũng có thể gián tiếp giúp đỡ được! (Hoằng Hóa Nguyệt San, phát hành vào tháng Bảy năm Dân Quốc 33 -1944).

 

* Ghi chép về sự linh cảm trong pháp hội Địa Tạng tại Lạc Thanh Phật Giáo Cư Sĩ Lâm

1. Phóng quang hiện điềm lành

         

          Ngày Hai Mươi Bốn tháng Bảy năm Kỷ Sửu, lần đầu mở pháp hội Địa Tạng tại Lạc Thanh Hồng Kiều (thuộc tỉnh Chiết Giang), những vị phát khởi là Triệu Thường Hoa, Trương Trọng San, Quư Thạch Thần, Vương Mộng Ngân, Trịnh Kỷ Xuân, Thượng Chí Khoan v.v… Từ sáng hôm ấy, cử hành Địa Tạng Phật Thất. Tông chỉ là cầu an b́nh cho người nơi ấy. Buổi sáng tŕ niệm danh hiệu Địa Tạng, hai giờ chiều th́ mời sĩ Hồ Thiên Bộc tuyên giảng kinh Địa Tạng, chia ra bảy buổi sẽ giảng xong. Mỗi ngày thính chúng hơn ngàn người, long trọng tột bậc một thuở. Tối ngày Hai Mươi Bốn, từ tám giờ cho tới lúc gà gáy sáng mới thôi, cư dân lân cận thấy trên không trung tỏa ra quang minh sáng rực, chiếu thẳng vào nóc đại điện Cư Sĩ Lâm, gần như mười mấy ngọn đèn dầu. Khi đó, có nhân viên tuần tiểu của khu vực đi qua, thấy luồng sáng ấy, nghi trong Cư Sĩ Lâm có chuyện ǵ khác thường, bèn trèo lên tường ḍm vào, chỉ thấy trong Cư Sĩ Lâm vắng lặng, chẳng có tiếng ǵ, chỉ thấy trước bàn Phật thắp đèn có đốm sáng to bằng hạt đậu mà thôi! Nhân viên tuần tra hết sức lấy làm lạ, liên tiếp bốn năm đêm đều phóng quang như thế. Ḷng nghi ngờ của người ấy không tháo gỡ được, trong ṿng bảy ngày, đều sai người ngấm ngầm theo dơi, trọn chẳng thấy hành động nào khác lạ!

          Mồng Một tháng Bảy nhuận, pháp hội chưa giải tán, nhân viên tuần tiễu khu vực tới Cư Sĩ Lâm tra hỏi ngọn nguồn ánh sáng lúc ban đêm, ai nấy đều nói “chẳng biết”. Các cán bộ khu vực trọn chẳng tin tưởng, đi khắp các pḥng truy t́m đèn thắp bằng dầu, quả thật chẳng có đèn! Cư sĩ Trương Vân Lôi bảo: “Đạo tràng phóng quang, đâu đâu cũng có, chưa hề có chi là lạ! Quang minh hiện ra, không ǵ chẳng do Địa Tạng Bồ Tát thị hiện điềm lành”. Các nhân viên khu vực chẳng c̣n truy vấn nữa, đều nắc nỏm khen lạ! Do vậy, sau khi linh ứng, các cư sĩ càng thêm tín tâm kiên cố, hội viên tăng tới hơn ba trăm người. Do đạo tràng phóng quang, mọi người cùng thấy, cùng ḥa hợp. Các làng ở Lạc Đông đồng thời trước sau kiến lập pháp hội Địa Tạng, có tất cả ba chỗ: Một là tại Thọ Xương Cổ Tự làng Đạm Khê; hai là chùa Quảng Ứng tại làng Vọng Hạnh, ba là Địa Tạng Điện thuộc vùng núi Nam Phố. Mỗi nơi đều có một hai trăm người tham dự. Phật pháp vùng Lạc Đông hưng thịnh đều bắt nguồn từ chuyện Địa Tạng Bồ Tát phóng quang.

 

2. Mộng thấy người đ̣i đầu

 

          Trong ấp này, ông Từ Doăn Vượng là tín đồ Thiên Chúa giáo. Mẹ chết, bạn bè khuyên ông tŕ niệm kinh Địa Tạng. Thoạt đầu, ông Từ chẳng cho là đúng, về sau nghĩ tới ơn cha mẹ, chẳng thể không báo đáp, [cảm thấy] Phật giáo nói hết sức đúng, bèn phát nguyện tŕ niệm kinh Địa Tạng. Bản thân ông ta c̣n bị bệnh, suốt mấy năm vẫn chưa lành. Bỗng mộng thấy một ông già bảo hăy uống nước sắc từ dây Lệ Tây Qua[11], bệnh liền khỏi hẳn. Liền cúng gỗ Chương[12] cho chùa Mộc Tiêu để chạm khắc ba bức thánh tượng. Một đêm, lại mộng thấy người đến đ̣i ba cái đầu, ông sợ sẽ gặp họa lạ lùng, sáng chiều bất an. Mấy hôm sau, Tăng sĩ chùa Mộc Tiêu tới báo, tượng Phật đă khắc xong, c̣n thiếu ba cái đầu. Ông Từ mới hiểu ư nghĩa của giấc mộng, lại cúng nốt số gỗ Chương c̣n thừa. Từ đó trở đi, ông chí tâm thờ Phật, tụng niệm chẳng mỏi mệt.

 

3. Bệnh nguy cấp chóng lành

 

          Con của người chủ quản pháp hội ở Nam Phố là cư sĩ Vương Kinh Hoa bị bệnh nguy ngập, mấy tháng chẳng thể rời giường được, thuốc thang, cầu đảo vô hiệu. Trong lúc tổ chức Địa Tạng Thất, ông Vương nhất tâm lo liệu sự vụ trong pháp hội, không về nhà thăm con. Ông đối trước Phật phát nguyện gánh vác trách nhiệm hoằng dương Phật pháp, cầu [Tam Bảo] thầm gia hộ cho con ông khỏi bệnh. Một hôm, hàng xóm tới núi bảo Vương cư sĩ: “Con ông bị bệnh, nay bỗng nhiên khỏi hẳn”. Vương cư sĩ chẳng tin, trở về nhà thăm con. Quả nhiên thấy con đă có thể đi bộ một ḿnh trước sân, nhanh chóng nghĩ tới chuyện ăn uống. Địa Tạng Bồ Tát linh cảm nhanh chóng dường ấy!  

 

4. Cứu người sảy chân nơi vách núi

         

          Mồng Một tháng Bảy nhuận năm ngoái, tại trấn Nam Đăng thuộc Lạc Thanh, người quản sự Địa Tạng Điện tại vùng núi Nam Phố là hai vị cư sĩ Châu Lộc Minh và Châu Văn Thuyên. Do chuyện phóng quang linh dị tại bổn hội (Liên Xă tại Hồng Kiều, Lạc Thanh), họ cũng phát khởi cử hành Địa Tạng Phật Thất, cung thỉnh pháp sư Đế Nhất của bổn hội chủ tŕ Phật Thất, cùng với cư sĩ Lâm Hạo Sĩ đến tuyên giảng kinh Địa Tạng. Thính chúng hơn sáu trăm người. Ngôi điện ấy ở trên đỉnh núi Nam Phố, nước uống phải xuống lưng chừng núi để gánh, đi về hơn sáu trăm bước. Đường núi khúc khuỷu khó đi. Một ông phát nguyện, nước dùng trong bảy ngày pháp hội sẽ do một ḿnh ông ra sức gánh về. Trời nóng, người đông, mỗi ngày dùng tới hai mươi mấy thùng nước. Sáng ngày mồng Hai, gà vừa gáy, ông thức dậy đi gánh nước. Trời mưa, śnh lầy, bước vội sẩy chân, sắp ngă xuống núi, bỗng có người ở bên cạnh xốc nách, hết sức mạnh mẽ. Lúc đó, ông choáng váng, thở ph́ pḥ, bỗng thấy có người nâng đỡ, cứu giúp, liền hô “đa tạ, đa tạ”, chẳng nghe ai ừ hử chi hết! Chăm chú nh́n lại, bốn phía tối đen, chẳng thấy dấu vết ai, chỉ thấy ánh đèn lồng chiếu sáng lờ mờ trên quang gánh. Ông vội trở về, kể cặn kẽ chuyện ấy với mọi người, người nghe không ai chẳng chắt lưỡi! Pháp sư Đế Nhất bảo đại chúng: “May mắn là Địa Tạng Bồ Tát hiển linh cứu tánh mạng cho ông. Nếu không, danh dự của pháp hội bị hao tổn. Ông này phát nguyện, gánh nước cho đại chúng, công đức rất lớn. V́ thế, trong cơn nguy nan, được Bồ Tát cứu giúp”. Chuyện này khiến cho thiện tín trong địa phương bội phần thành kính, phát tâm lợi ích chúng sanh sâu xa. Có mấy tín đồ Thiên Chúa Giáo cũng quy y Phật pháp.

 

5. Mộng thấy Bồ Tát

 

          Vị quản sự của pháp hội Địa Tạng tại trấn này là cư sĩ Quư Thạch Thần luôn làm việc thiện. Một hôm, ông tụng kinh Địa Tạng, biết t́nh trạng khổ sở trong địa ngục, tâm hết sức kinh hoảng. Lại thấy trong kinh có nói, muốn biết chỗ cha mẹ sanh về, có thể tụng kinh Bổn Nguyện của Bồ Tát, sẽ được Bồ Tát chỉ dạy. Do vậy, ông phát nguyện, ăn chay, tụng kinh. Hơn ba mươi ngày, trong giấc mộng, thấy Địa Tạng Bồ Tát ngồi trên ṭa sen, phóng quang minh tốt lành tỏa rạng, chiếu khắp đại địa, pháp tướng trang nghiêm, bảo Quư cư sĩ rằng: “Cha mẹ ông c̣n đang ở trong cơi âm”. Liền dẫn ông tới một nơi, thấy cha mẹ ông đều ngồi trong điện, lần chuỗi niệm Phật. Chưa kịp nói ǵ, gà đă gáy sáng, ông giật ḿnh thức dậy, thắp hương, quỳ trước Bồ Tát, phát đại nguyện lần nữa, nguyện cho cha mẹ sớm sanh về Cực Lạc, suốt đời ăn chay, kiêng giết. Mỗi ngày, dẫu bận trăm công ngàn việc, đều tŕ tụng một biến kinh Địa Tạng, gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật pháp cứu bạt các chúng sanh khổ sở. Mấy năm qua chưa từng mệt mỏi tí nào. Tổ chức pháp hội Địa Tạng, Quư cư sĩ dốc sức phần lớn.

 

6. Đứa con đă chết sanh lên trời

 

          Cư sĩ Triệu Gia Câu là người ở Cự Độ thuộc làng Thiên Thành trong ấp này, tin Phật tột bậc chuyên dốc. Con ông bị bệnh chết sớm, Triệu cư sĩ trong lúc bi thương, phát nguyện cầu cho con được giải thoát. Ông tŕ niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát sắp đủ một vạn biến. Trong lúc hoảng hốt, thấy con từ xác chết ngồi dậy, dần dần thăng lên, khoác áo lông, chân đi hài mây, mắt thấy rơ ràng, ông nh́n sững, nhưng đă chẳng thấy đâu nữa. Triệu cư sĩ thấy tướng trạng lạ lùng ấy, tin là Bồ Tát linh cảm, biết đứa con đă chết được sanh lên trời, không c̣n ngờ chi!

 

7. Mộng thấy pháp tướng

 

          Ông Lâm Hiến Pháp ở phố Đông của trấn này trọn chẳng tin Phật. Một đêm, trong mộng thấy Địa Tạng Bồ Tát từ trời giáng xuống, thân mặc ca-sa, đầu đội măo hoa sen, oai dung chói ngời, chẳng dám ngắm nh́n. Bên cạnh có một đôi câu đối, trong đó có một Khuyển () viết xéo và một chữ Ngôn () ở chính giữa mà ông chẳng nhận ra. Hôm sau hỏi người khác, mới biết là chữ Ngục (), ông có thể nhớ đại lược, đọc nối lại th́ thành các chữ “địa ngục bất không”, mới biết Địa Tạng Bồ Tát hiển thánh. Ông liền phát nguyện niệm Phật, tham gia bổn hội, phụng hành hết sức chuyên dốc.

 

8. Dùng guồng xe nước mà tát ao phóng sanh chẳng cạn

 

          Hồng Kiều Cư Sĩ Lâm cách chùa Tịnh Tông mấy bước. Tăng chúng trong chùa chuyên tu Tịnh Độ, giới hạnh đầy đủ, mọi người kính trọng. Hai vị thượng nhân Huệ Trác và Duy Tây lại càng xuất sắc nhất. Trong chùa có ao phóng sanh, nuôi nhiều loài thủy tộc. Sau khi giải phóng (sau khi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa thành lập), người địa phương dùng xe guồng tháo nước trong ao để bắt cá kiếm lợi. Tăng chúng trong chùa hướng về họ khuyên can, nói đủ điều t́nh lư, họ chẳng nghe, vẫn xúm nhau cùng tát nước. Từ sáng tới tối, chẳng tháo cạn được một thước nước, các guồng nước bị hủy hoại cực nhiều. Mọi người hô to là chuyện lạ: “Nước trong ao dùng xe guồng tát suốt ngày chẳng cạn; trong ấy ắt có duyên cớ!” Họ bèn phá guồng nước, bỏ đi.

 

8. Đoạn trừ ác mộng

 

          Mẹ ông Tiết Kỷ Cao ở trấn này là hàng xóm của cư sĩ Triệu Thường Hoa. Bà cụ Tiết đêm thường bị ác mộng, kêu gào rất to. Hàng xóm bị kinh động, gần như chẳng ngủ yên. Ông Triệu bảo bà cụ: “Kinh Địa Tạng dạy, đêm gặp nhiều ác mộng, hăy tŕ niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến, sẽ chẳng c̣n ác mộng nữa”. Bà cụ nói: “Thật sự có chuyện ấy th́ tôi sẽ thử xem”. Bà cụ bèn ngày đêm tŕ danh hiệu A Di Đà Phật, danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Từ đấy trở đi, chẳng c̣n bị ác mộng nữa.

 

* Địa Tạng Bồ Tát linh cảm kư

Đỗ Huệ Bổn ghi

 

          Mùa Xuân năm Dân Quốc 45 (1956), cư sĩ Lư Văn Khải khuyên tôi tŕ tụng kinh Địa Tạng. Do vậy, bắt đầu từ cuối tháng Ba âm lịch năm nay, vào mỗi sáng sớm, tôi tụng một bộ kinh Địa Tạng, tŕ niệm thánh hiệu mấy trăm câu. Lại tự nghĩ [bản thân] chướng sâu, nghiệp nặng, phước mỏng, huệ cạn, khi niệm tụng, vọng niệm đua nhau nổi lên, chưa thể nhất tâm chuyên niệm. Nhưng trong ṿng hai năm nay, từng mộng thấy vong linh của quyến thuộc và thân hữu, không ai chẳng được Bồ Tát cứu bạt, khiến cho các tiên linh ĺa khổ được vui. Trong đời người, mười chuyện thường là đă hết tám chín chuyện chẳng như ư. Chúng sanh trải bao kiếp đến nay tạo các ác nghiệp do nghiệp lực cảm vời, thành tựu đủ thứ các cảnh giới phiền năo. Kể từ khi tôi tụng kinh tới nay, chuyện chẳng như ư dần dần giảm bớt, đối với các việc đời, thuận theo ḷng mong, nghịch cảnh ít hiển hiện. Có lúc do dùng lư trí vô tự tánh để quán chiếu các pháp sanh bởi nhân duyên, sân tâm dần dần nén xuống. Công sức niệm tụng của tôi nông cạn, mỏng manh, vẫn chưa có sự linh dị đặc biệt thù thắng ǵ, nhưng trong tiểu thiên địa của cá nhân, đă được hưởng phước lợi, thân tâm nhẹ nhàng, an lạc. Đủ thấy ḷng từ bi rộng lớn của Bồ Tát, hộ niệm chúng sanh không điều nhỏ nhặt nào chẳng thấu đến.

          Đức Thích Ca v́ mẹ thuyết pháp trên cung trời Đao Lợi, phát khởi nói bộ kinh Địa Tạng này để tận hiếu. Sự thật chủ yếu trong kinh là các thứ hạnh nguyện tận hiếu cứu mẹ của Địa Tạng Bồ Tát đă hành trong khi tu nhân. Phàm người đọc tụng kinh này, trước hết, hăy nên hiếu kính cha mẹ như Phật sống trong nhà. Nếu cha mẹ đă qua đời, bèn dùng công đức tụng kinh để hồi hướng. Địa Tạng Bồ Tát sẽ khiến cho ĺa khổ được vui. Sách Linh Cảm Lục đều có các sự thật để chứng minh.

          Kinh dạy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu hiện tại, vị lai bách thiên ức đẳng nguyện, bách thiên vạn ức đẳng sự, đản đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, như thị sở nguyện, sở cầu, tất giai thành tựu” (Thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn cầu trăm ngàn ức các nguyện, trăm ngàn ức các sự trong hiện tại và vị lai, chỉ cần quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, sở nguyện như thế, sở cầu thảy đều thành tựu). Kinh lại c̣n dạy: Phân thân của Địa Tạng Bồ Tát trọn khắp trăm ngàn vạn ức hằng sa thế giới. Mỗi thế giới hóa trăm ngàn vạn ức thân, mỗi thân độ trăm ngàn vạn ức người, khiến cho họ quy kính Tam Bảo, vĩnh viễn ĺa khỏi sanh tử, đạt tới niềm vui Niết Bàn. Sự nhiếp hóa ấy to rộng gần như trọn hết hư không giới. Chúng ta đọc tụng tôn kinh, quy kính Địa Tạng Bồ Tát, khẩn cầu được nhiếp nhập trong biển nguyện từ bi của Bồ Tát, đạt được Bát Nhă Ba La Mật Đa, đồng thời phát Bồ Tát tâm, rộng độ chúng sanh. Như thế th́ sẽ có thể độ ḿnh, độ người, viên măn Bồ Đề.

          Trung Hoa Dân Quốc năm 47 (1958), nhằm tiết Xuân, Đỗ Huệ Bổn kính ghi.

 

* Ghi chép các sự linh cảm đích thân từng trải trong bốn mươi năm

Nhiếp Vân Đài ghi

 

          Mùa Đông năm Tuyên Thống nguyên niên (1908) nhà Thanh trước kia, vợ tôi là Tiêu phu nhân mắc chứng tử giản (sản giật)[13], run rẩy, bất tỉnh nhân sự. Sau khi sanh xong, hôn mê chẳng tỉnh, nhắm mắt, cấm khẩu suốt hai ngày đêm. Tôi ngồi canh bên giường, không biết làm cách nào. Bệnh nhân bỗng mở mắt gọi tên tôi và tên đứa con bé: “Mau đảnh lễ Quán Thế Âm Bồ Tát”. Tôi hỏi: “Bồ Tát ở chỗ nào?” Vợ tôi nói: “Ở trên bệ cửa sổ”. Chúng tôi lễ xong, bệnh nhân đă có thể mở mắt, thần trí thanh tỉnh, nói năng như thường. Tôi hỏi: “Bồ Tát mặc y phục ǵ?” Vợ tôi đáp: “Mặc trường bào trắng, thêu chữ Vạn”. Năm sau, vợ tôi đặc biệt may một chiếc trường bào thêu chữ Vạn, tôi đích thân tới Phổ Đà, dâng vào chùa. Khéo sao, có tiến sĩ Ngũ Đ́nh Phương ngồi cùng thuyền. Ông ta cực lực nói về lợi ích của ăn chay. Từ đấy trở đi, tôi không ăn các loại thịt nữa, nhân duyên ấy cũng rất lạ lùng! Vợ tôi vâng theo lời dạy của mẹ tôi, mỗi tháng hễ đến ngày mồng Chín đều tŕ Quán Âm Trai, và dâng hương, lễ bái. Khi mẹ bệnh nguy kịch, [vợ tôi] thường cắt thịt ở cánh tay ḿnh nấu thuốc dâng mẹ, chí tâm chân thành, hiếu thảo. Cho nên trong khi bệnh, cô ta được Đại Sĩ hiển linh cứu bạt, chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên.

          Năm Dân Quốc 13 (1924), tôi do làm ăn thất bại, đóng cửa suy ngẫm lỗi ḿnh. Hằng ngày đọc kinh Kim Cang và Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm. Một ḿnh tôi ở trong căn pḥng nhỏ trên lầu ba, là một căn pḥng tṛn, có đỉnh bằng kiếng, hết sức sáng sủa. Trong căn pḥng ấy chẳng có vật ǵ, chỉ có một bàn đọc sách và một chiếc ghế là chỗ tôi tụng kinh. Một hôm, khi đang tụng phẩm Phổ Môn, bỗng nghe mùi đàn hương, nhưng tôi hoàn toàn chẳng có lư hương. Tụng kinh xong, tới pḥng thờ tổ tiên xem, cũng chẳng có ai thắp hương. Đó là lần đầu tiên ngửi thấy mùi hương.

          Tháng Giêng âm lịch năm Dân Quốc 15 (1926), tôi tới Tô Châu, ở nhà của cư sĩ Lư Bách Nông. Cư sĩ dạy tôi tụng Lăng Nghiêm chú tâm[14] chỉ có bảy câu, ông ta bảo tôi: “Chú này có oai lực vô thường, tụng sẽ có lợi ích to lớn”. Đêm ấy, nhằm tiết Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng), tôi và cư sĩ tới khu đất hoang ở Nam Viên để tản bộ ngắm trăng. Khu đất ấy rất ít người, họ đều sống bằng nghề trồng rau. Đêm xuống, nhà nào cũng đều đóng cửa, vắng lặng, chẳng có tiếng động ǵ. Tôi thầm tụng chú ngữ đă học ban ngày, tới một câu cầu hoang, bỗng nghe mùi hương lạ ngát mũi, trong ṿng trăm bước, hoàn toàn không có nhà nào. Tôi hỏi Lư cư sĩ: “Ông có ngửi thấy mùi hương hay không?” Cư sĩ nói: “Đă ngửi thấy, có phải ông đang tŕ chú hay không?” Mùi hương ấy kỳ diệu, càng thơm hơn trầm đàn, hiển nhiên là do thần chú cảm ứng.

          Năm Dân Quốc 15 (1926), mỗi sáng tôi cùng các vị cư sĩ như Ngô Giác Sơ v.v… đọc một quyển Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Ông Phó Hàn Phi là sinh viên du học đă tốt nghiệp về ngành dệt tại Mỹ, làm việc trong xưởng Hằng Phong. Mỗi sáng cũng đến tụng niệm. Một hôm, vào lúc giữa Đông, nhằm ngay lúc tụng kinh, bỗng nghe mùi hoa quế. Bốn người tụng kinh cùng ngửi thấy. Tụng kinh xong, vào nhà hỏi người khác th́ họ cũng ngửi thấy mùi hương, thật sự chẳng có hết thảy các vật có mùi thơm!

          Năm Dân Quốc 17 (1928), tôi ở nhà chính, đối trước tượng Đại Sĩ lễ bái xong, lên lầu tới pḥng mẹ. Mẹ hỏi: “Hương con vừa đốt có mùi thật dễ chịu, đúng là mùi hương chẳng tầm thường”. Tôi đáp: “Đúng ạ! Trong ấy có trầm hương”. Nhưng sao mẹ lại có thể ngửi thấy? Chuyện này thật lạ, do trong mười mấy năm qua, khứu giác của mẹ chẳng thể phân biệt thơm, thối, dẫu dí sát vào mũi cũng chẳng nhận biết mùi được. Do vậy, hỏi mẹ: “Hôm qua con phối chế hồng linh đan[15] và xạ hương, băng phiến trong pḥng này, mẹ cũng ngửi thấy mùi hương hay không?” Mẹ đáp: “Chẳng ngửi thấy!” Tôi thưa: “Con đối trước Đại Sĩ v́ mẹ ngầm cầu cảm ứng cho mẹ”. Mẹ hết sức hoan hỷ, bởi lẽ, chỗ thắp hương ở dưới nhà cách pḥng mẹ ở trên lầu rất xa, thế mà mẹ có thể ngửi thấy mùi hương rất thơm. Đó chẳng phải là Đại Sĩ thị hiện linh dị th́ là ǵ vậy?

          Năm Dân Quốc 16 (1927), tôi dẫn cư sĩ Quách Hàm Trai ở Tương Âm đi triều bái Phổ Đà. Do vậy, tới chùa Dục Vương lễ xá-lợi. Trước hết, đến chùa Thiên Đồng lễ Phật. Chùa Thiên Đồng là đạo tràng cổ nổi tiếng cách chùa Dục Vương rất gần. Cuối đời Thanh, cao tăng Bát Chỉ Đầu Đà trụ tŕ chùa này. Bát Chỉ Đầu Đà vốn là con em nhà nông. Cha Ngài là tá điền cho nhà của Quách cư sĩ. Cư sĩ lúc bé thường chơi đùa chung với Sư. Về sau, cha của Sư giao Đầu Đà cho vị Sư trong chùa làm đồ đệ. Sư trọn chẳng học hành, do ở trong chùa học khóa tụng, mới tạm biết chữ. Sư coi chuyện thiên tư tối tăm, ngu độn, đối với ư nghĩa trong kinh chẳng thể liễu giải là chuyện đáng tiếc, bèn từ biệt thầy, triều bái Phổ Đà, và tới chùa Dục Vương lễ xá-lợi ḥng mở mang trí huệ. Sư ở chùa Dục Vương mấy năm. Vào ngày Phật đản, Sư đốt hai ngón tay cúng Phật, chỉ c̣n lại tám ngón, nên xưng là Bát Chỉ đầu đà. Năm sau, vẫn tự cảm thấy huệ ngộ vẫn chưa khai, bèn khoét thịt trên lưng, tra bấc, đổ dầu vào để thắp đèn. Trở về Trường Sa, lúc qua hồ Động Đ́nh, lên lầu Nhạc Dương, bỗng nghĩ ra một câu thơ: “Động Đ́nh ba tống nhất tăng lai” (Động Đ́nh sóng tiễn tăng rời bước). Tới Trường Sa, gặp một vị Tăng, có tiếng là thơ hay, bèn đem câu thơ ấy ra hỏi. Tăng nói: “Câu này rất hay. Tương lai ông ắt sẽ thành nhà thơ”. Tăng bèn dạy Sư đọc ba trăm bài thơ Đường, v́ trước kia Sư chưa hề đọc qua bất cứ bài cổ thi nào!

          Sau khi từ chùa Dục Vương quay về, đối với kinh điển bèn có thể hiểu, giải hạnh tương ứng, được Tăng giới tôn sùng, nhưng Đầu Đà vẫn tu tập các thứ khổ hạnh, như cơm thừa trong bát ăn của chó, cơm nhặt trong bếp, Ngài đều lấy ăn. Ngài nổi tiếng với tài làm thơ, đại thi nhân cuối đời Thanh là Vương Nhậm Thu thường xướng họa với Ngài. Về sau, Ngài sang Ninh Ba làm phương trượng chùa Thiên Đồng suốt mười mấy năm mới mất. Tháp (mộ của Tăng lập tháp) ở ngoài chùa Thiên Đồng. Cạnh tháp dựng ngôi miếu ba gian, bên trong thờ tượng vẽ của Đầu Đà. Tôi vào chùa nghe giảng kinh, Quách cư sĩ bèn đến tháp miếu của Đầu Đà niệm Phật hơn hai tiếng đồng hồ, nói là cùng bạn cũ hàn huyên. Vừa mới rời khỏi chùa, trước chùa có rừng cây to, rộng khoảng một dặm, chúng tôi đi trong rừng sâu, kiệu của ông Quách đi phía trước tôi. Đi mấy chục bước, ông Quách ngẩng đầu nh́n về phía sau, hỏi tôi: “Ông có ngửi thấy mùi thơm hay không?” Tôi đáp: “Không ngửi thấy”. Đi thêm mấy chục bước nữa, ông Quách lại hỏi, tôi đều trả lời “không ngửi thấy”. Về sau, ông Quách nói: “Mùi hương xông tận tới chỗ sâu trong rừng mới ngừng”. Hiển nhiên là Đầu Đà thị hiện sự linh cảm.

          Xưa nay, bậc đại đức trong Thiền Tông khai ngộ không thể tính xuể, cũng có vị đắc Văn Tự Bát Nhă (trí huệ). Đầu Đà do tu ṛng khổ hạnh mà mở mang huệ ngộ, là một người chưa hề học làm thơ mà bỗng dưng có thể làm thơ, lại c̣n tài cao tót vời tới mức khó thể nghĩ tưởng! Sau khi Đầu Đà qua đời, thi nhân Trần Tán Nguyên khắc in di tập của Sư. Ông Vương Nhậm Thu viết lời tựa như sau: “Phong cách thơ của Đầu Đà cao vời, có thể sánh bằng vị Tăng…. đời Đường”. Năm sau, lại viết thêm lời tựa, có đoạn ghi: “Năm trước tôi viết lời tựa, nói thơ của Đầu Đà có thể sánh với vị Tăng… đời Đường, nay nghĩ lại nói như thế chẳng thích đáng cho lắm! Bởi lẽ phong cách thơ của Đầu Đà cao vời, vị Tăng nọ chẳng thể sánh bằng!” Hai lời tựa đều được khắc vào tập thơ ấy, đủ thấy sự khâm phục và ngưỡng mộ tột bậc của họ.

          Thơ là đạo, người b́nh phàm chưa dễ liễu giải nổi! Thi cử vào đời Thanh xưa kia, ai nấy đều làm thơ, đến nỗi viện Hàn Lâm đặc biệt coi người có tài khéo làm thơ là trọng yếu. Đại để cái gọi là “khéo”, tức là vần điệu réo rắt, từ ngữ gọt giũa, bóng bảy, nhưng theo cái nh́n của bậc thi nhân, [làm thơ kiểu đó] chỉ đáng để bịt ṿ, chẳng thể đạt tới mức độ đại nhă được! Đầu Đà thoạt đầu chưa đọc cổ thi, mà có thể viết thành lời thơ thanh nhă. Về sau, Sư đương nhiên cũng đọc cổ thi, nhưng đọc sách rất ít, đương nhiên là chẳng thể viết hoa mỹ, bóng bẩy được. Đó chính là chỗ hay đẹp trong thơ Ngài thuần do chất phác, tự nhiên, dùng ngay t́nh cảnh trước mắt để chân thật viết ra. Đồng, lại có phong độ, vần điệu, ư vị tối cao, đó gọi là “ngẫu hứng” (văn học gia theo trào lưu mới là ông Lâm Ngữ Đường tuyển chọn mười tác giả lớn thời Minh – Thanh, đă lấy chuyện ngẫu hứng làm tiêu chuẩn chủ yếu. Chín vị trong đó đều là những người học Phật). Sau khi khai ngộ trong Thiền Tông, có thể mở miệng tự hợp đạo mầu, biện tài vô ngại, cũng như các chuyện thuộc Văn Tự Bát Nhă khác. Do sự thị hiện linh cảm mùi hương này, cũng biết Đầu Đà khai ngộ chứng quả thành tựu rất cao. Lại xét theo các vị đại thi nhân thuộc các triều đại Tấn, Ngụy, Lục Triều, Đường, Tống, trong mười vị th́ tám chín vị là Phật học gia, hoặc được truyền thừa niềm tin Phật pháp, cũng đủ thấy mối quan hệ giữa Phật học và thi ca Trung Quốc, bởi Phật học coi trừ Ngă Chấp là công phu thấu triệt trước sau. Ngă Chấp đă trừ, thiên chân mới hiển lộ.

          Tôi và Quách cư sĩ cùng tới chùa Dục Vương lễ xá-lợi (xá-lợi là thân Phật khi hỏa táng, xương kết thành từng hạt nhỏ long lanh, tṛn xoe). Hai năm trước tôi đă được chiêm lễ một lần. Xá-lợi được cất trong một chiếc tháp nhỏ bằng sắt, bên hông có khe hở để có thể nh́n vào. Xá-lợi to bằng hạt hồ tiêu, dùng một cái cán nhỏ bằng kim loại làm thành cái móc khảm xá-lợi treo lơ lửng, như cái dùi chuông hay khánh. Lần trước, tôi thấy xá-lợi và cái cán treo đều là màu hoàng kim. Lần này, tôi và Quách cư sĩ đều thấy là màu lam ảm đạm, đều nghĩ là bất tường, bèn đối trước Phật sám hối. Ban đêm, mỗi người lễ Phật mười lạy. Sáng sớm hôm sau, lại xin quan sát, hai người thấy đều là kim sắc, giống hệt như tôi đă thấy trong năm trước. Tôi tưởng xá-lợi vốn được thếp vàng bên ngoài, nhưng sao hôm trước lại thấy biến thành màu lam, sáng sớm hôm sau lại biến thành kim sắc. Tăng, ni và cư sĩ các nơi lên núi lễ Phật và lễ xá-lợi mỗi ngày nhiều đến mấy chục người. Sau khi lễ bái, vị Tăng trực nhật trong điện thờ sẽ thỉnh [tháp thờ xá-lợi] từ khám thờ trong điện ra, dẫn [mọi người] vào chỗ giếng trời ở sau điện, quỳ trên bồ đoàn để xem. Người xem mỗi người thấy h́nh sắc mỗi khác, có người thấy màu trắng, có người thấy màu đỏ, hoặc thấy là màu đen, hoặc chẳng thấy ǵ. Tôi đă hỏi nhiều người đều chẳng giống nhau, đó là tùy thuộc nghiệp lực của mỗi người cảm vời.

 

* Địa Tạng Bồ Tát thần thông lực cảm ứng lục

Cố cư sĩ ghi

 

          Mùa Hạ năm nay (năm Dân Quốc 80 -1991), tôi triều bái Cửu Hoa Sơn trở về, trăm mối cảm xúc ngổn ngang. Một hôm, trong Định nghĩ ḿnh đă từng ở Nhục Thân Điện (điện thờ nhục thân của Địa Tạng Bồ Tát), đă từng lễ bái, cầu thỉnh Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát gia tŕ đệ tử có thể tâm sanh chánh niệm, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, phát huy sở trường, lợi ích chúng sanh. Tiến cao hơn là phỏng theo Bổn Tôn phát ra hoằng nguyện, cứu độ chúng sanh, [khiến cho họ] ĺa khổ được vui. Do thoạt đầu tu tập Thiền Định bèn chí thành khát vọng có thể ở trong Định lại lần nữa chiêm ngưỡng, lễ bái Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Do vậy, bèn nương theo hơi thở, nhiều lượt niệm danh hiệu Nam-mô Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Cho tới khi hơi thở thông thuận, bèn vừa quán tưởng h́nh tướng trang nghiêm của phân thân đức Địa Tạng trong Nhục Thân Điện tại Cửu Hoa, vừa thong thả, tâm niệm “Nam-mô đại bi, đại nguyện, đại thánh đại từ bổn tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”, từng lượt một giống như khi nhiễu tháp đă niệm danh hiệu đức Địa Tạng. Bỗng dưng hồn nhiên vong ngă, hết thảy đều không, ngay cả lưỡi đang đè lên ṿm họng, thân, khẩu, ư đều tiêu mất hết, trong ngực có luồng khí lớn xông thẳng lên đỉnh đầu. Tuy kinh ngạc trong chốc lát, nhưng do miệng niệm danh hiệu Địa Tạng, tâm thần nhanh chóng trấn định. Từ ngực cho đến đỉnh đầu, bỗng thấy tia chớp kim quang lóe lên, rỗng rang tợ hồ thần thức du hành trong hư không, khiến cho con người vui sướng chẳng thể nghĩ bàn. Hồi lâu mới như vừa tỉnh mộng, lại trở về thế giới hiện thực, nghe tiếng động chung quanh. Bất quá, sau khi đă có kinh nghiệm thù thắng trong lần ấy, đối đăi với thế gian tợ hồ khoan dung, từ bi, vô ngă hơn. Hy vọng có thể thường giữ được nỗi quan hoài ấy, măi cho tới khi đạt tới cảnh giới Không Huệ Ba La Mật “vô ngă tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng” như kinh Kim Cang đă chép, đạt tới Niết Bàn bất sanh bất diệt th́ mới chẳng phụ Địa Tạng Bồ Tát đă rủ ḷng xót thương.

Hồi hướng

 

          Nếu việc chuyển ngữ này đem lại mảy may lợi lạc nào cho những đồng tu căn cơ kém cỏi, nghiệp chướng sâu nặng như mạt nhân th́ nguyện do công đức này, lịch đại tổ tiên, phụ mẫu, sư trưởng, thiện ác tri thức, lũy thế oán thân trái chủ, cừu gia oán đối, các hành nhân Tịnh nghiệp và mười phương pháp giới chúng sanh đều được thoát khỏi u đồ, xóa bỏ kiến chấp môn đ́nh, pháp môn, văng sanh Cực Lạc, tấn tu đạo nghiệp. Cũng nguyện do công đức này, bệnh dịch Corona mau chóng tiêu trừ để mọi người được an cư lạc nghiệp, các đạo tràng, tự viện khôi phục sinh hoạt b́nh thường để các Phật tử có cơ hội tấn tu, sách tấn lẫn nhau vun bồi thiện duyên, chóng thành Phật quả.



[1] Tức nhà xuất bản Phương Quảng Văn Hóa Sự Nghiệp tại Đài Bắc.

[2] Nha chu (牙周, Periodontitis) là một loại bệnh viêm nhiễm nơi các mô mềm quanh nướu răng. Nếu không chữa trị, mô xương quanh chân răng sẽ bị tiêu giảm, khiến răng lung lay và rụng.

[3] Định Quân Sơn là trận chiến đấu quyết liệt giữa Lưu Bị và Tào Tháo vào năm 219 Công Nguyên, kết thúc chiến dịch tiến chiếm Hán Trung dằng dai giữa Lưu Bị và Hạ Hầu Uyên (tướng của Tào Tháo) suốt một năm. Nhờ chiến thắng trận này, Lưu Bị nắm quyền kiểm soát Hán Trung, đặt cơ sở vững vàng cho nước Thục trong thời Tam Quốc.

[4] Hầu Táo (猴枣) là tên một loại thuốc Đông Y, Tây Y thường gọi là Rhesus Macque Bozoar. Vị thuốc này c̣n có tên là Hầu Tử Táo, Dương Trường Táo, Hầu Đan, hoặc Thân Táo, là một loại sạn lấy từ bao tử của một loài khỉ có tên khoa học là Macaca Mulatta Zimmermann. Thuốc được sản xuất từ Quảng Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Ấn Độ, Mă Lai, có vị đắng, tánh ôn, có công hiệu trừ viêm, giải độc, tiêu thũng, chủ trị các bệnh ho hen viêm nhiệt, động kinh…

[5] Thượng Sư Thích Tŕ Tùng (1894-1972), pháp danh Mật Lâm, tự hiệu Sư Tráng Sa Môn, mật hiệu Nhập Nhập Kim Cang. Sư quê ở Sa Dương, tỉnh Trực Lệ, là bậc cao tăng tinh thông Hiển giáo lẫn Mật giáo, từng sang Nhật học Đông Mật và Thai Mật. Sau khi trở về Trung Hoa, Sư tự gánh vác trách nhiệm phục hưng Mật Tông tại Trung Hoa theo truyền thống do các vị tổ sư Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí đời Đường, gọi truyền thống ấy là Đường Mật.  Sau khi cha mẹ mất, Sư xuất gia tại chùa Thiết Ngưu ở huyện Sa Dương vào năm Tuyên Thống thứ hai (1910), thọ Cụ Túc Giới vào năm 1912 tại chùa Quy Nguyên thuộc Hán Dương, tỉnh Hồ Bắc. Sư từng tốt nghiệp từ Hoa Nghiêm Đại Học của pháp sư Nguyệt Hà, sau đó học giáo nghĩa Thiên Thai với ḥa thượng Tổ Ấn chùa Ngọc Tuyền ở huyện Đương Dương (tỉnh Hồ Bắc); được công nhận là truyền nhân của tông Lâm Tế. Trong thời gian này, Sư cũng chú tâm nghiên cứu giáo nghĩa của các tông Thiên Thai, Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Luật Tông và Tịnh Độ. Năm 1922, sau khi đọc bộ Pháp Luân Bảo Sám, Sư đă có ư nguyện phục hưng Đường Mật. Do nhận thấy truyền thừa Đông Mật vẫn c̣n hưng thịnh tại Nhật Bản, Sư sang chùa Cao Dă (Kōyasan) ở Kỷ Y bán đảo (Kii hanto) theo học với Kim Sơn Mục Thiều A Xà Lê thuộc Cổ Nghĩa Chân Ngôn Tông để học hai bộ quán đảnh Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới. Sau đó, Sư c̣n học Thai Mật (Mật Tông của tông Thiên Thai) tại núi Tỷ Duệ (Hiei). Trở về Trung Hoa, Ngài chú tâm hoằng dương Đông Mật. Ngài ở lại Hoa Lục sau khi chánh quyền Trung Cộng thành lập. Năm 1966, Cách Mạng Văn Hóa nổ ra, Ngài và các môn nhân bị chánh quyền đuổi khỏi chùa Tịnh An. Sư viên tịch năm 1972 tại Thượng Hải.

[6] Đây là loại xe có một thùng xe trải đệm làm chỗ ngồi, phía trước có hai càng gỗ to, do người kéo chạy trên phố, thường gọi là “nhân lực xa”.

[7] Nhân mạt (姻末): Danh xưng để gọi hàng hậu bối đối với bậc trưởng bối trong quan hệ hôn nhân. Ở đây, theo mạch văn, có lẽ bà Thanh Nhăn là chị, em, hay con cháu của con dâu hoặc con rể của ông Chấn Đ́nh (anh trai bà Trương).

[8] Tạp chí Giác Hữu T́nh là tạp chí Phật giáo xuất bản tại Thượng Hải, ra số đầu tiên vào ngày mồng Một tháng Mười năm 1939, do ông Trần Pháp Hương làm chủ biên và phát hành, được xuất bản bởi Thượng Hải Đại Pháp Luân Thư Cục. Thoạt đầu là bán nguyệt san, từ năm 1948 trở đi, đổi thành nguyệt san, đ́nh bản vào tháng Hai năm 1953, phát hành tất cả 236 kỳ.

[9] Do y ca-sa được chằm từ các mụn vải, nên gọi là nạp y (áo chằm ghép), Tăng sĩ cũng được gọi là nạp tăng. Ở đây, sư Huệ Khánh khiêm tốn xưng là “ngu nạp” (ông tăng ngu si).

[10] Yết Phố gọi đầy đủ là Hoàng Yết Phố là một khu vực của Thượng Hải dọc theo bờ sông Hoàng Phố. Danh xưng này bắt nguồn từ truyền thuyết Xuân Thân Quân (Hoàng Yết) nước Sở (làm quan Tả Tư Đồ thời Sở Tương Vương, về sau làm Lệnh Doăn dưới thời Sở Khảo Liệt Vương) đă cho đào con sông này để khai thông thủy lợi, mở mang nông nghiệp. Đất Thượng Hải do vậy gọi là Thân (sông Thân Giang bắt nguồn từ chữ Thân trong phong hiệu Xuân Thân Quân).

[11] Lệ Tây Qua là một giống dưa hấu trái lớn, đặc sản của thành phố Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây. Từ đời Hán, giống dưa này đă là nông sản mỗi năm phải tiến cống lên triều đ́nh.

[12] Chương là một loại cây thuộc họ Long Năo, có tên khoa học là Cinnamomum camphora, thường gọi là Camphor Laurel.

[13] Tử giản chứng (子癇症, Eclampsia) là chứng bệnh co giật, động kinh trong khi thai nghén, hoặc sau khi sanh con. Nguyên nhân là do sản phụ bị huyết áp cao, hay có lượng protein khá cao trong máu, hoặc do các nội tạng bị trục trặc. Thường là sau khi co giật, sản phụ có thể bị hôn mê. Biến chứng do sản giật có thể gây viêm phổi, xuất huyết năo, suy thận, thậm chí ngừng tim.

[14] Lăng Nghiêm Chú Tâm chính là bảy câu cuối của chú Lăng Nghiêm, tức: “Án a na lệ tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà la, báng ni phấn, hổ hồng đô rô úng phấn, sa bà ha” (Auṃ anale, viśade vīra-vajra-dhare, bandha bandhani, vajra-pāniḥ phaṭ hūṃ trūṃ phaṭ svāhā).

[15] Hồng linh đan (紅靈丹), c̣n gọi là Giáng Lôi, Bát Bảo Hồng Linh Tán, là một loại thuốc có nguyên liệu chủ yếu là hùng hoàng (realgar, tức sulfur arsenic), hỏa tiêu (saltpetre), và nhũ hương (frankincense). Các thành phần phụ là nguyệt thạch (borax, c̣n gọi là bằng sa), thanh thê thạch (lapis chloriti), băng phiến (borneol), châu sa (cinabaris, tức sulfur thủy ngân), xạ hương (musk). Trung Y tin loại thuốc này có tác dụng hoạt huyết, chống viêm, tiêu đàm, thường dùng để trị cảm mạo trúng phong, đau răng, ho suyễn, bệnh kinh phong ở trẻ em, hoắc loạn thổ tả v.v…