Lược giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
Phần 6
占察善惡業報經
隋天竺沙門菩提登譯
夢參老和尚講
(giảng lần
thứ ba v́ năm 2009)
Hán dịch: Thiên
Trúc sa-môn Bồ Đề Đăng dịch vào đời
Tùy
Chủ giảng: Lăo ḥa
thượng Mộng Tham
Chuyển ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Ḥa
(theo phiên bản đăng
tải trên trang nhà Hoằng Thiện Phật giáo
-https://www.liaotuo.com)
Giảo chánh:
Đức Phong và Huệ Trang
Tập 16
1. Cách sử dụng
Chiêm Sát Luân
Chư
vị đạo hữu! Chúng tôi đă giảng xong kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo; nhưng cách sử dụng
[Chiêm Sát Luân] trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là
như thế nào? Làm thế nào để có thể đạt
tới cảnh giới Nhất Thật? Nửa bộ trước của
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo nói về Sự; phần
sau toàn là Lư, thuộc về cảnh giới Hoa Nghiêm. Lư sâu
này phải từ Sự mà tiến nhập. Chúng ta chẳng
có trí huệ to lớn dường ấy,
chẳng thể ngộ nhập từ Lư, phải ngộ nhập
từ Sự. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có mối
quan hệ trọng yếu đối với chúng ta nhất,
v́ chúng ta chẳng có trí huệ, mà cũng chẳng có thần
thông. Nương theo lời dạy của Địa Tạng
Vương Bồ Tát, chúng ta hành theo phương pháp do Ngài
đă nói, sẽ đều có thần thông. Có thần thông
ǵ vậy? Quư vị biết đời quá khứ chính ḿnh
đă làm chuyện ǵ, là thiện nghiệp hay ác nghiệp,
đối chiếu với những ǵ quư vị phải hứng
chịu trong đời này, đời này thọ hưởng
quả báo của những ǵ đă làm trong đời
trước. Trong vị lai, bỏ thân mạng này, trong vị
lai quư vị sẽ phải chịu quả báo nào. Đó gọi
là “nhân quả ba đời”. Nhưng chúng ta chẳng
có loại thần thông ấy, bèn nương vào thần
thông do Địa Tạng Bồ Tát truyền dạy. Đấy
là nội dung chủ yếu của kinh Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo. Xét theo lư luận, nửa phần sau kinh này là
ư nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm. Lư phải dùng Sự trong phần
trước để hiển lộ.
Mọi
người biết Chiêm Sát Luân là một pháp môn đặc
thù của Địa Tạng Bồ Tát. Bộ kinh này
được phát khởi bởi Ngẫu Ích đại
sư đời Minh. Ngẫu Ích đại sư muốn
đắc giới tỳ-kheo thanh tịnh, trong khắp Nam
Diêm Phù Đề, muốn thỉnh năm vị tỳ-kheo
thanh tịnh, nhưng chẳng có! Ngài mong t́m nơi pháp, từ
trong Đại Tạng Kinh, trông thấy bộ kinh Chiêm Sát
Thiện Ác Nghiệp Báo này. Dựa theo kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo th́ phải làm luân tướng. Đó là dựa
theo con số [gieo được bởi luân tướng
để biết kết quả] mong cầu. Ngẫu Ích
đại sư chẳng biết làm luân tướng, chẳng
có cách nào, Ngài viết trên giấy [các con số tương ứng],
dùng cách rút thăm, xem rút được lá thăm nào bèn tính
theo lá đó. Dùng phương pháp ấy để
giải quyết vấn đề. Do vấn đề này, [pháp môn Chiêm Sát] chẳng
thể truyền bá, chẳng có cách nào! Măi cho đến thời
pháp sư Hoằng Nhất, lăo pháp sư Hoằng Nhất học
nghệ thuật, Ngài mong tiếp tục hoằng
dương đức tướng và công đức của
Địa Tạng Bồ Tát, bèn căn cứ theo sám pháp do
Ngẫu Ích đại sư biên soạn, chiếu theo nguyên
văn của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo để
chế tạo Chiêm Sát Luân. Nay tôi tŕnh bày bộ luân tướng
ấy là được rồi.
Chiêm
Sát Luân có tất cả mười chín cái. Nhóm thứ nhất
gồm mười cái, thuyết minh ba nghiệp nơi thân
(giết, trộm, dâm), bốn nghiệp nơi miệng (nói
dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói thô ác), và ba
nghiệp nơi ư (tham, sân, si). Đấy là mười
luân. Nhóm thứ hai gồm ba cái luân. Trong ấy, lại chia
thành ba đời là quá khứ, hiện tại, và vị
lai. Quá khứ có ba nghiệp thân, miệng, ư của quá khứ,
hiện tại có ba nghiệp thân, miệng, ư của hiện
tại, vị lai có ba nghiệp thân, miệng, ư của vị
lai. Đó là ba cái luân. Nghiệp chướng nơi nghiệp
thân, miệng, ư của quư vị nặng nề [được
tượng trưng] bằng màu đen, [thể hiện bằng
một vạch] sâu và to. Dẫu có ác nghiệp, nhưng nghiệp
chướng nhỏ th́ [được biểu thị trên
luân tướng bằng] vạch nhẹ và nhỏ. Đó là
chia [các nghiệp nơi] thân, miệng, ư thành nặng và nhẹ.
Trong cuộc sống hiện thực, chúng ta phải liễu
giải cuộc sống của chính ḿnh trong hiện tại.
V́ sao có những sự nghiệp ta làm chẳng thành? Hoặc
là tu đạo có chướng ngại? Vậy th́ quư vị
dùng Chiêm Sát Luân để chiêm sát xem khuyết điểm ở
chỗ nào? Sau đó, vâng theo lời dạy của Ngẫu
Ích đại sư. Ngài chú giải, giải thích căn cứ
trên lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ
Tát. Luân tướng có mười chín cái, v́ sao có mười
chín cái luân? Ba nghiệp thân, miệng, ư của chúng ta, cộng
thêm căn bản vô minh thành mười. Đối với
ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, dùng riêng
ba cái luân này để gieo cho quá khứ, hiện tại, vị
lai. Nhóm thứ ba gồm sáu cái luân, biểu thị thân, miệng,
ư trong đời hiện tại. V́ từ trong ba nghiệp
tham, sân, si sẽ bao gồm mười nghiệp, đều
có đời quá khứ, đời hiện tại, đời
vị lai, cho nên loại luân này có ba nhóm, tổng cộng là
mười chín.
Pháp
sư Hoằng Nhất biết làm luân tướng. Luân
tướng trong hiện thời đều [mô phỏng theo]
cách chế tạo của pháp sư Hoằng Nhất. Ngài dựa
theo lời dạy của Địa Tạng Vương Bồ
Tát trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo về kích thước
và quy cách, căn cứ theo tiêu chuẩn ấy để làm. Ba loại luân ấy vốn phát xuất
từ kinh, pháp sư Hoằng Nhất chế thành ba loại
luân tướng này. Mười chín luân tướng là do
nghiệp thân, miệng, ư của chúng ta phát sanh, có tất cả
mười chín cái, chia thành ba nhóm. Nhưng khi làm luân tướng mộc luân, chất
gỗ nhất định phải là gỗ đàn
hương. Thật sự chẳng có [loại
gỗ ấy], quư vị dùng loại gỗ khác
để thay thế, tốt nhất là gỗ thơm, biểu
thị ư nghĩa tôn trọng. Mười chín [luân tướng],
chia thành ba nhóm. Kích thước lớn nhỏ không
được nhỏ hơn một tấc, chính giữa tạc
thành h́nh lập phương, hai đầu vạt nhỏ dần
đi. Đó là lời chỉ dạy trong kinh.
Sở
dĩ mộc luân để chiêm sát được gọi
là Luân là do ư nghĩa “pháp luân thường chuyển”.
Luân ấy [được chế tạo] sao cho hễ
gieo sẽ gieo dễ dàng. Cầm lắc trong tay là đă có
thể xoay chuyển, giống như bánh xe. Luân có ư nghĩa
“chuyển động”, cho nên gọi là Luân, biểu hiện
pháp [của luân tướng] là “pháp luân thường
chuyển”, có ư nghĩa “vĩnh viễn chẳng ngừng”.
[Luân] có ư nghĩa “chuyển”, tức là “tiêu diệt
phiền năo của chúng ta”. Phiền năo của chúng ta chẳng
ngưng nghỉ, cái Luân ấy nghiền nát, đoạn dứt
phiền năo và tập khí của chúng ta. Giả sử chúng
ta có chuyện hoài nghi, chẳng thể quyết định,
[ví dụ như] chẳng thể quyết
định nổi pháp môn tu hành. Chẳng hạn như sáng
sớm hôm nay, ta thức dậy, trong tâm cảm thấy
không thoải mái. Dường như hôm nay rất không thuận
lợi, quư vị liền gieo Chiêm Sát Luân rồi mới ra
đi. Luân tướng có thể bảo cho quư vị biết:
Thế nào là chánh đạo? Thế nào là tà đạo? Quư
vị có thể làm, hay chẳng thể làm. Mỗi chuyện
quư vị đều có thể vận dụng [mộc luân]
để thỉnh ư. Khi quư vị dùng Chiêm Sát Luân, hai tay hợp
lại [lay động các luân tướng] để gieo,
ngửa tay thả luân xuống một bên. [Chánh kinh] nói “ngưỡng
thủ, bàng trịch” (仰手,旁擲, ngửa tay, gieo xuống bên cạnh) là gieo như thế,
có ư nghĩa [mô tả] động tác. Khi sử dụng Chiêm
Sát Luân, hăy dùng một miếng vải sạch, dùng tay để
gieo [luân tướng trên đó].
Loại
mộc luân thứ nhất gồm mười cái,
[tương ứng với] mười nghiệp. Con số
Mười biểu thị nơi mỗi nghiệp thân, miệng,
ư th́ thân ba nghiệp, miệng bốn nghiệp, ư ba nghiệp,
tức tham, sân, si, giết, trộm, dâm, nói dối, nói thêu dệt,
nói đôi chiều, nói thô ác. Đó là mười luân, trên mỗi
luân viết [mỗi điều trong mười nghiệp],
tức nói đôi chiều, nói thô ác, tham, sân, si… biểu thị
mười nghiệp. Khi gieo nghiệp luân thuộc nhóm thứ
nhất, trong đời quá khứ, quư vị rốt cuộc
đă tạo nghiệp ǵ, chính ḿnh chẳng biết rơ, bèn
dùng mười cái luân ấy để chiêm sát. [Phần
chính giữa] luân tướng có bốn mặt, nơi hai mặt
[đối diện nhau] có chữ, hai mặt để trống.
“Để trống” tức là đối với nghiệp
ấy, quư vị chẳng có nghiệp nhẹ, mà cũng chẳng
có nghiệp nặng, chẳng nặng, không hiển hiện. Hai mặt ấy
của mộc luân biểu hiện chẳng có [nghiệp ấy].
Đối với nghiệp ấy, quư vị chẳng là thiện,
mà cũng chẳng phải là ác, tức là vô kư. Mặt để
trống biểu thị vô kư. Hai mặt kia đối diện
nhau, một mặt là thiện, mặt kia là ác. Mọi
người có thể tham khảo bản vẽ do
Phương Quảng[1]
in, chiếu theo h́nh vẽ ấy để khắc. Bức
vẽ ấy do pháp sư Hoằng Nhất vẽ. Chúng ta chiếu
theo nguyên bản để làm.
Nhóm
luân thứ hai, tức loại mộc luân thứ hai gồm
ba cái. Ba cái luân tướng ấy biểu thị nghiệp
báo do quư vị đă tạo trong quá khứ xưa kia là mạnh
hay yếu, tạo nghiệp là nặng hay nhẹ. [Vạch khắc có] màu đen, biểu
thị quư vị tạo nghiệp rất nặng. [Vạch
khắc] màu đỏ biểu thị quư vị không chỉ
chẳng có điều ác, mà c̣n có điều thiện. Màu
đỏ [tương ứng với điều thiện],
đại thiện được biểu thị bằng
vạch đỏ rất dài; tiểu thiện th́ là vạch
đỏ rất ngắn. Đó là tương phản với
ác nghiệp, ác được biểu thị bằng màu
đen, c̣n thiện là màu đỏ. Có hai mặt chẳng có
con số ǵ, tức là chẳng thiện, chẳng ác, tức là vô kư.
Luân
tướng loại thứ nhất gồm mười cái,
loại thứ hai gồm ba cái, loại thứ ba gồm
sáu cái. Trong loại thứ ba, ba mặt đều ghi con số, một mặt chẳng có, bỏ trống.
Nhưng ắt cần phải gieo ba lượt, tổng số
của các con số ấy có thể lên đến một
trăm tám mươi chín. Con số một trăm tám
mươi chín do đâu mà có? Quả báo trong ba đời, gồm
một trăm tám mươi chín loại thiện và ác khác
nhau. V́ sao phải gieo ba lượt? V́ một lần sẽ
chẳng đủ số. Ba lượt gieo, cộng thành tổng
số [tối đa là] một trăm tám
mươi chín. Nếu gieo ba lượt mà chẳng hiện
con số nào, đều là mặt trống, cho thấy quư vị
đă chứng đắc thánh quả,
đă thành tựu, đă thanh tịnh. Nhưng điều
này rất khó, nhiều con số ngần ấy mà chẳng
gieo được con số nào. Gieo ba lượt,
đâm ra chẳng có con số nào, biểu thị quư vị
đă thanh tịnh, đă chứng đắc A La Hán, chứ
Tam Quả thánh nhân th́ vẫn chưa được (tức
là chưa thể gieo ra cả ba lần, sáu cái luân đều
không có con số nào).
Phàm
là muốn tu chiêm sát mộc luân, chẳng phải là chúng ta cầm
lấy [mộc luân] bèn gieo, sẽ chẳng được!
Khi quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, lúc quư vị tu tŕ, mục
đích mong cho chúng ta sử dụng Chiêm Sát Luân đều
biến thành tướng thanh tịnh. Vậy th́ quư vị
hằng ngày bái sám. Nếu tu suốt ba năm mà luân tướng
thanh tịnh vẫn chẳng hiện, khi đó, Địa
Tạng Bồ Tát sẽ đặc biệt gia tŕ quư vị.
Do gia tŕ quư vị, Địa Tạng Bồ Tát sẽ hiện.
Nhưng quư vị ắt cần phải bái sám suốt ba
năm, chẳng gián đoạn một ngày nào, cầu Địa
Tạng Bồ Tát gia tŕ quư vị. Măn ba năm mà luân tướng
thanh tịnh vẫn chẳng hiện; lúc đó, quư vị chỉ
niệm thánh hiệu là được rồi! Địa Tạng
Bồ Tát sẽ chỉ dạy quư vị. Kinh nói như thế
đó, chẳng phải là tôi nói!
Trong
phương pháp tu hành, quư vị mong cầu luân tướng
thanh tịnh, hăy liền chiêm sát. [Chiêm sát luân tướng] thuộc
nhóm thứ nhất, nhóm thứ hai, và nhóm thứ ba để
kiểm chứng quư vị thanh tịnh hay chưa? Luân
tướng ấy sẽ hiện tướng thanh tịnh
hay tướng chẳng thanh tịnh; khi luân tướng hiển
hiện, quư vị sẽ hiểu rơ. Muốn sử dụng
luân tướng thanh tịnh, có một nghi quỹ. Địa
Tạng Bồ Tát đặt ra nghi quỹ, c̣n nơi chốn
tu hành là do Ngẫu Ích đại sư thêm vào. Ở chỗ
tu hành, quư vị an trí tượng Địa Tạng Bồ
Tát. Các đạo hữu muốn tu Chiêm Sát Sám Pháp, hăy bày một
bức tượng Địa Tạng, chí thành, khẩn thiết, đối trước tượng Địa
Tạng Bồ Tát lễ bái, cúng dường.
Cúng dường tùy theo khả năng lo liệu của quư
vị. Nếu nói cúng dường thứ ǵ quư vị
cũng chẳng lo nổi, vậy th́ dùng tâm cúng dường
là được rồi! Trong tâm quư vị tác ư cúng dường,
quán tưởng hương, quán tưởng hoa, quán tưởng
vật cúng. Đó là cúng dường bằng ư niệm. Phải
năm vóc mọp sát đất chí thành lễ kính; đó là
do Ngẫu Ích đại sư thêm vào, do Ngài dựa theo nghi
quỹ trong hết thảy các sám pháp. Chúng tôi vừa giảng
kinh Địa Tạng Bồ Tát Chiêm Sát, [quư vị thấy
chánh kinh] chẳng nói, chỉ nói quư vị chí thành kính lễ
mười phương hết thảy chư Phật, chí
thành kính lễ mười phương hết thảy các
pháp tạng, chí thành kính lễ mười phương hết
thảy hiền thánh, chí thành kính lễ Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát. Đối với mười
phương chư Phật lễ một lạy, đối
với mười phương pháp lễ một lạy,
đối với mười phương hiền thánh
tăng lễ một lạy, nhưng đối với
Địa Tạng Bồ Tát phải lễ ba lạy.
Đó là bước đầu tiên nếu muốn sử dụng
Chiêm Sát Luân.
Bước
thứ hai là phải cúng dường. Chúng ta phải dùng
hương, hoa để cúng dường mười
phương chư Phật, hoặc cúng dường Địa
Tạng Vương Bồ Tát. Phải niệm “nghiêm tŕ
hương hoa, như pháp cúng dường” (nghiêm trang cầm
hương hoa, đúng như pháp cúng dường). Nguyện
cho mây hương hoa này trọn khắp mười
phương pháp giới, cúng dường hết thảy
chư Phật, tôn pháp, các bậc hiền thánh, thọ dụng,
thực hiện Phật sự trong vô biên cơi Phật. Niệm
một lượt xong rồi đảnh lễ một lạy.
Đây là điều thứ hai phải làm.
Điều
thứ ba là phải xưng danh. Khi chúng ta muốn sử dụng
Chiêm Sát Luân, hăy quỳ hai gối trước tượng
Địa Tạng Vương Bồ Tát cầu nguyện.
Chính ḿnh nguyện rằng: “Đệ tử tên là…”. Như
khi tôi bái sám, bèn thưa:
“Đệ tử con tên là Mộng Tham, hiện tại là
phàm phu sanh tử, tội chướng sâu nặng, chẳng
biết nhân duyên nghiệp báo ba đời, ôm nhiều nỗi
ngờ vực, chính ḿnh chẳng biết nghiệp chướng
nặng hay nhẹ, rất hoài nghi. Kính thỉnh Bồ Tát,
kính nương theo ba loại luân tướng do Bồ Tát
chỉ dạy”. Muốn sử dụng luân tướng th́
phải hướng về Địa Tạng Bồ Tát
thưa bày, đúng pháp chiêm sát, chí tâm kính ngưỡng cầu
xin Địa Tạng từ tôn, nguyện Ngài dùng sức
đại bi, gia bị, cứu vớt, tiếp dẫn, khiến
cho con diệt trừ nghi chướng, dạy cho con biết!
Khi ấy, c̣n phải quỳ hai gối sát đất, tức
là chúng ta quỳ thẳng, chắp tay niệm Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát, phải niệm một ngàn câu. Có rất
nhiều đạo hữu khi bái sám chẳng tuân theo nghi quỹ
để làm. Không làm theo nghi quỹ, sẽ chẳng có hiệu
quả, Chiêm Sát Luân mà quư vị đạt được
chẳng đáng tin cậy. Đó là giả, hư vọng. Ắt
cần chiếu theo nghi quỹ để làm.
Làm
xong, quư vị mong cầu chuyện ǵ, quư vị cầu
điều ǵ, th́ phải
thưa cùng Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, đối
trước tượng mà thưa. Quư vị chớ hoài
nghi Địa Tạng Bồ Tát chẳng nghe thấy, Địa
Tạng Bồ Tát cũng chẳng hiện thân th́ chẳng
linh. Chẳng hoài nghi chút nào! Trong khi quư vị lạy, cúng
dường, kinh Địa Tạng có nói, nhưng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo vẫn chưa nói, [kinh Địa Tạng]
nói Địa Tạng Bồ Tát nhất định hiện
tiền. Nếu không, quư vị sử dụng Chiêm Sát Luân sẽ
chẳng linh. Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đại
từ, đại bi, Ngài sẽ hộ niệm ta, lại
c̣n hộ niệm hết thảy chúng sanh. Giả sử quư
vị cầu Địa Tạng Bồ Tát chuyện ǵ,
trước hết, phải nghĩ tới hết thảy
chúng sanh, chẳng phải chỉ có cầu riêng cho chính ḿnh.
Địa Tạng Bồ Tát đại từ, đại
bi, quư vị ắt phải phát nguyện, ắt phải
phát tâm ḥa hợp với Địa Tạng Bồ Tát. Chỉ
v́ chính ḿnh th́ không được, nhất định phải
hồi hướng cho chúng sanh. Nếu ta nghi hoặc rất
nhiều, ta cũng chẳng biết chuyện ấy phải
nên làm như thế nào, hăy thỉnh Bồ Tát dạy cho
chúng ta biết. Ta gieo luân tướng sẽ tương ứng.
Luân tướng do ta gieo và những điều Địa
Tạng Bồ Tát đă dạy trong kinh sách ứng hợp,
đó gọi là “tương ứng”. Đó gọi là “nghi thức”. Quư vị muốn
dùng Chiêm Sát Luân, trước hết, hăy thực hiện nghi
thức ấy, sau đó mới có thể dùng Chiêm Sát Luân
để chiêm sát. Chẳng phải là cầm lấy [mộc
luân] bèn gieo ngay; [nếu gieo ngay] sẽ chẳng linh nghiệm.
Phàm điều ǵ quư vị khẩn cầu, cũng có thể
đạt được nghiệp quả thuần thiện,
mà cũng có thể đạt được ác quả thuần
ác, tùy thuộc quư vị cầu chuyện ǵ, luân tướng
sẽ hiển hiện.
Chuyện
này giống như đoán quẻ. Lễ bái, cúng dường,
xưng danh, khải thỉnh như trên đều đă thực
hiện; sau đó,
trước hết chiêm sát luân tướng thuộc nhóm
đầu tiên. Khi bắt đầu,
quư vị vừa tiến vào sám thất, chẳng biết
trong mười nghiệp của quư vị, môn nào nặng.
Miệng bốn nghiệp, thân ba nghiệp, ư ba nghiệp;
trước hết, quư vị hăy dùng mười loại
này để chiêm sát. Chiêm sát luân tướng, cái được
hiển hiện là Thập Thiện Nghiệp, hay Thập Ác
Nghiệp, quư vị trọn đủ những món nào?
Căn cứ theo đó, quư vị chiêm sát luân tướng
thuộc nhóm thứ hai. Y theo thứ tự, chiêm sát ba nghiệp
nơi thân; sau đó chiêm
sát bốn nghiệp nơi miệng, sau đó lại chiêm
sát ba nghiệp nơi ư. Khi sám hối, những thứ khác sẽ
không dùng tới. Nghiệp chướng nào của quư vị
nặng nề, chỉ sám hối nghiệp ấy. Sau khi
đă lạy bảy ngày th́ mới có thể dùng Chiêm Sát
Luân. [Chẳng bái sám] mà dùng ngay, tuyệt đối sẽ
không linh nghiệm. Thoạt đầu, phát hiện [luân tướng hiện các vạch] đen
thô, đợi sau khi quư vị bái sám một tuần, [nếu là] chúng sanh nghiệp
chướng nhẹ th́ sẽ vừa lễ bái, chiêm sát bèn linh nghiệm.
Chúng sanh nghiệp chướng nặng, sẽ chẳng
linh. Quư vị hăy lạy thêm một tuần nữa. Tối
đa là hai mươi mốt ngày lại sử dụng, hiệu
quả sẽ linh ứng.
Luân
tướng thuộc nhóm thứ hai phải phối hợp
với nhóm thứ nhất, phối hợp với mười
nghiệp. Chiêm sát mộc luân thuộc nhóm thứ nhất
cho thấy [hành nhân gieo Chiêm Sát Luân] “chẳng sát sanh, chẳng
trộm cắp, chẳng có dâm nghiệp”. Đó là thiện
nghiệp. Tới khi quư vị gieo [luân tướng] thuộc
nhóm thứ hai, toàn ra màu đen, tức là ác. Đó gọi là
“chẳng tương ứng”. Nhóm thứ nhất ắt phải ứng hợp
với nhóm thứ hai. Nhóm thứ nhất là thanh tịnh,
nhóm thứ hai cũng phải gieo được thanh tịnh
là đúng. Nhóm thứ nhất thanh tịnh, nhóm thứ hai chẳng
thanh tịnh, đó là hư vọng, chẳng phải là chân
thật. Sau khi đă tương ứng, quư vị sẽ biết
trong Thập Thiện và Thập Ác nơi thân, miệng, ư,
nghiệp nào nặng. Quư vị sám hối nghiệp nặng
trước, chuyên v́ ác nghiệp nơi thân nghiệp mà sám hối.
Thân nghiệp đă sám hối thanh tịnh, lại sám các
nghiệp khác. Đó gọi là chí tâm sám hối để
chiêm sát. Tôi nói đại lược với mọi người như thế đó. Nếu hiểu
điều này, những điều khác sẽ hiểu.
Nhưng khi quư vị muốn lạy Chiêm Sát Sám, điều
đầu tiên là phải biểu thị thân tâm thanh tịnh.
Lúc thoạt đầu quư vị mới dùng [Chiêm Sát Luân], phải tắm gội, y phục
phải thanh tịnh, tiến vào sám thất. Nếu chẳng
có sám thất, th́ ở nơi pḥng ngủ của chính ḿnh, ắt
cần phải quét dọn sạch sẽ, thanh tịnh một
chút. Trong tâm chớ nên có tạp niệm; khi ấy, cái tâm nhất
định phải tĩnh lặng th́ mới có thể thực
hiệm sám pháp này. Đó là ư nghĩa đại khái trong việc
sử dụng Chiêm Sát Luân.
Thoạt
đầu, khi gieo [các luân tướng thuộc về]
mười nghiệp, v́ quư vị chẳng biết nơi
thân, miệng, ư, giết, trộm, dâm, nói dối, nói đôi
chiều, nói thêu dệt, nói thô ác, tham, sân, si, nghiệp nào nặng,
quư vị có thể chiêm sát chung. Sau đó, trọng điểm
sám hối. Hằng ngày quư vị sám hối xong, chỉ gieo
luân tướng về nghiệp đó, các luân khác đều
chẳng gieo. Quư vị phải biết thân, miệng, ư chẳng
thanh tịnh th́ Địa Tạng Vương Bồ Tát nói
có khi bảy ngày sẽ thanh tịnh, có khi một tháng, có khi
ba tháng, có khi nửa năm. Nếu ba năm mà vẫn chẳng
thanh tịnh, khi đó, chẳng cần chiêm sát nữa, hăy
chuyên môn niệm thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát.
Địa Tạng Bồ Tát sẽ tới gia tŕ quư
vị, Địa Tạng Bồ Tát đến tiêu nghiệp
chướng cho quư vị. Đó là chuyên tu pháp môn Địa
Tạng, đó gọi là chiêm sát thiện ác nghiệp báo. Cái
được chiêm sát chính là nghiệp báo thiện hay ác của
quư vị.
V́
sao có một trăm tám mươi chín loại, tôi giải
thích đại khái đôi chút với mọi người. Một
trăm tám mươi chín tức là chia thành quả báo ba
đời: Một trăm sáu mươi loại đầu
là đời hiện tại, [những điều thuộc]
quá khứ rất nhiều, quá khứ gồm mười một
điều, đời vị lai gồm mười tám
điều. Đó là nhân duyên quả báo ba đời. Bất
luận hiện tại, quá khứ, hay vị lai, điều
nào chẳng thanh tịnh, quư vị có thể chuyên môn sám hối.
“Chuyên môn sám hối” là khi quư vị bái sám, phải
hướng về tượng Bồ Tát bày tỏ “đệ
tử có chuyện chi đó, tội nghiệp rất sâu nặng”.
V́ quư vị đối trước người khác sẽ
ngượng ngùng, đối trước Địa Tạng
Bồ Tát sẽ chẳng có ǵ ngượng ngùng. Quư vị một
ḿnh bái sám, một ḿnh đối trước tượng
Địa Tạng Bồ Tát thưa tŕnh. Quư vị chẳng
nói, Địa Tạng Bồ Tát cũng liễu giải,
nói ra mang ư nghĩa “phơi bày sám hối”.
Từ
số một đến một trăm sáu mươi, một
trăm sáu mươi con số ấy nói về [các chuyện
trong] đời hiện tại của quư vị, toàn bộ
các nghiệp thiện ác đă làm trong đời hiện tại
đều hiển hiện. Từ một trăm sáu
mươi mốt cho đến một trăm bảy
mươi mốt là để hỏi trong đời quá khứ
ta đă làm những ǵ. Nếu quư vị gieo được
tổng số một trăm sáu mươi chín, chứng tỏ
đời quá khứ quư vị đă cúng dường Phật
mà sanh vào đời này. [Gieo được tổng số
là] một trăm bảy mươi, tức là cúng dường
hết thảy đại chúng hiền thánh tăng mà sanh
vào đời này. Một trăm bảy mươi bảy
là nghe được pháp sâu. Từ một trăm bảy
mươi hai cho tới một trăm tám mươi chín,
đó là vị lai. Nay thân thể này xả báo, sẽ đến
nơi nào? Loại luân tướng thứ ba có sáu cái luân,
quư vị gieo ba lượt, gieo lần đầu tiên, gieo
lần thứ hai, gieo lần thứ ba. Tổng số của
ba lượt gieo, nếu là một trăm bảy mươi
hai th́ có nghĩa là khi quư vị xả thân thể này, sẽ
đến nơi nào? Xuống địa ngục. Một
trăm bảy mươi ba, xả báo thân này sẽ làm súc
sanh. Một trăm bảy mươi bốn, xả thân thể
này sẽ là ngạ quỷ. Một trăm bảy
mươi lăm, sẽ làm A-tu-la. Một trăm bảy
mươi sáu, sanh trong loài người. Một trăm bảy
mươi bảy, sanh làm vua trong nhân gian. Một trăm bảy
mươi tám, sanh trong thiên đạo. Tiếp tục
như thế, cho đến khi quư vị gieo được
[tổng số] một trăm tám mươi chín, xả
thân thể này, quư vị sẽ thành bậc đại Bồ
Tát. Quư vị hăy tự cân nhắc chính ḿnh có chứng quả
báo này hay không, hoặc Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả,
Tứ Quả, hoặc chứng Bồ Tát Thừa. Quư vị
đối chiếu từng con số như vậy.
Giả
sử gieo được con số chẳng tốt, giống
như tôi mới vừa nói “gieo ra con số một trăm
bảy mươi hai”. Quư vị gieo một lần
được con số này, gieo hai lần cũng
được con số này. Liên tục bảy ngày, gieo
mười lần, hai mươi lần đều là con số
này, tuyệt đối chẳng giả! Vậy th́ quư vị
hăy sám hối, hoặc là tiếp tục cúng dường
đặc biệt, chẳng phải cúng dường mấy
thứ trái cây là xong, chẳng được! Sau đó, quư
vị suốt ngày đêm chẳng thay đổi, ngày
đêm siêng năng chuyên ṛng, chẳng ngủ, Địa Tạng
Bồ Tát sẽ có thể cứu quư vị, khiến cho quư
vị thoát khỏi địa ngục, chuyển sanh vào nhân
đạo. Sau đó, từ nhân đạo lại có thể
tiến cao hơn bước nữa là sanh lên trời.
[Con
số] một trăm tám mươi chín ấy là do sáu
căn, sáu trần, sáu thức, ba lần sáu mười tám,
cộng thêm căn bản vô minh thành mười chín, nhân với
mười đời. [Mười đời
tức là] quá khứ, hiện
tại, vị lai, [mỗi đời lại có ba đời,
ba lần ba thành chín, cộng với] một niệm hiện
tiền thành mười. Mười nhân với mười
tám thành một trăm tám mươi, cộng thêm với quá
khứ, hiện tại, vị lai, [mỗi
đời lại có ba đời] thành ra chín đời,
[cộng chung lại] thành một trăm tám
mươi chín. Con số ấy (một trăm tám
mươi chín) do như vậy mà có. Chúng ta chẳng có thời
gian nói tiếp chuyện này, v́ để học tập th́
ngay cả để giảng cũng tốn thời gian rất
dài. Chúng ta phải tốn nhiều tiếng
đồng hồ ngần ấy để nói rơ ràng, tôi vẫn
chẳng có bản lănh này, chẳng có năng lực này, giới
thiệu đại khái với mọi người đôi
chút. Khi quư vị
mong thâm nhập sử dụng Chiêm Sát Luân, phải luyện
tập cho nhiều. Đó gọi là “thần thông”.
Hoặc
là đối với kẻ nào quư vị chẳng tín nhiệm,
quư vị gieo Chiêm Sát Luân để xem người ấy như
thế nào? Luân tướng sẽ cho quư vị biết: Quư
vị chớ nên lui tới với kẻ ấy, đó là
người xấu! Quư vị hăy nhanh chóng cự tuyệt.
[Luân tướng] nói người ấy là người tốt,
vậy th́ quư vị có thể kết giao. Cùng thuộc loại
này, đại khái có mười con số. Giả sử
ta cầu sống thêm vài năm, ta muốn hỏi về thọ
mạng, quư vị có thể gieo. Nếu gieo được
con số năm mươi mốt, cầu thọ mạng
sẽ được tăng tuổi thọ. Nhưng con số
này rất khó, đừng cho rằng con số này dễ
dàng, con số này chẳng hư giả. Nếu quư vị
gieo ba lượt đều chẳng có con số nào, cho thấy
quư vị đă không thuộc vào các con số, tức là không
thuộc vào các con số của nhân gian, chẳng ở trong
lục đạo. Quư vị vượt thoát lục đạo,
[cho nên] chẳng có số. Các con số ấy là pháp môn đặc
thù của Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát,
từ đâu mà có? Từ Chân Như Thật Tướng
được nói trong nửa quyển sau [của chánh
kinh], nương vào lẽ Chân mà dấy lên hết thảy
các thiện pháp. Một trăm tám mươi chín loại ấy
chính là t́nh huống đặc thù của kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo. Mọi người có thể thỉnh bản
kinh ấy từ nhà xuất bản Phương Quảng.
Hành
pháp trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, thoạt đầu
do Ngẫu Ích đại sư soạn. Sau này, do pháp sư
Hoằng Nhất hoàn thành và hoằng
dương, [cho nên] mới có Chiêm Sát Luân. Khi Ngẫu Ích
đại sư mong thọ giới thanh tịnh, t́m trong
Đại Tạng Kinh, [t́m thấy bộ
kinh này], liền lạy Chiêm Sát Sám. Do lạy Chiêm Sát Sám mà
đạt được luân tướng thanh tịnh,
Ngài đắc giới. Măi cho đến khi pháp sư Hoằng
Nhất tiếp nhận pháp này của Ngẫu Ích đại
sư, Sư phát huy, hoằng dương lần nữa. V́
Hoằng Nhất đại sư học nghệ thuật,
nên hiểu cách chế tạo Chiêm Sát Luân. Lạy sám pháp này
th́ kinh Chiêm Sát hoàn toàn chẳng nói tới. Ngẫu Ích đại
sư đă dựa theo các sám pháp khác như Đại Bi Sám
do lịch đại tổ sư đă soạn. Ngẫu
Ích đại sư soạn Chiêm Sát Sám Pháp, cho đến lời
nguyện, tức lời cầu nguyện đều do Ngẫu
Ích đại sư viết.
Đồng
thời, Ngài c̣n cho chúng ta biết: Dựa theo phương
pháp của hai loại quán đạo để sám hối.
Trong kinh Chiêm Sát, Địa Tạng Bồ Tát dạy chúng
ta: Các chúng sanh hăy nên học chí tâm, khiến cho thân, miệng,
ư đạt được tướng thanh tịnh.
Tướng thanh tịnh ấy là nói tới điều ǵ
vậy? Chính là tướng thanh tịnh được hiện
bởi Chiêm Sát Luân; Địa Tạng Bồ Tát chẳng nói
cặn kẽ. Học chí tâm, chí tâm là chí thành, khẩn thiết,
tâm chẳng có tạp niệm, tâm tập trung vào bái sám, cho
đến mức quư vị niệm Địa Tạng Bồ
Tát mà tâm không tạp niệm. [Nếu hành nhân] lạy suốt
ba năm, mà vẫn chẳng đạt được luân
tướng thanh tịnh, Địa Tạng Bồ Tát nói
Ngài vẫn hộ niệm người ấy. Người ấy
đă có công phu ba năm, tuy chẳng đạt được
luân tướng thanh tịnh, vẫn đặc biệt
được Địa Tạng Bồ Tát gia tŕ và chiếu
cố.
Giả
sử quư vị muốn cầu pháp Đại Thừa,
để biết thoạt đầu chính ḿnh hăy c̣n nghiệp
chướng nào, biết các nghiệp chướng căn bản
nào tồn tại, quư vị hăy dùng Chiêm Sát Luân. Chẳng dùng
Chiêm Sát Luân, chính quư vị không biết. Phải biết cái
nghiệp căn bản, nghiệp chướng tồn tại
mà quư vị không sám hối, cứ cầu Thiền Định,
cho đến học hết thảy các pháp, nói đến
chuyện liễu sanh tử, th́ hết thảy đều
chẳng làm được! Trước hết, quư vị
phải tiêu trừ nghiệp chướng. Nghiệp chẳng
tiêu, tu các pháp ấy đều chẳng thể thực hiện
được. Do vậy, quư vị trước hết phải
sám hối nghiệp chướng!
Khi
chúng tôi giảng giải, mọi người đều biết
dựa vào cảnh giới Nhất Thật, nội tâm do tin
tưởng cảnh giới Nhất Thật mà dấy lên
tín giải, học hai loại quán đạo, tức là Chỉ
Quán song vận: Một là Duy Tâm Thức Quán, hai là Chân Như
Thật Tướng Quán. Sám pháp này giúp chúng ta tu hành,
nhưng quư vị tu hành mà bị ngă ḷng. Cớ sao tu một,
hai năm, ba năm, mười năm, đều chẳng
đạt được chi cả? Ngă ḷng! Hăy dùng Chiêm Sát
Luân để nhận biết chướng ngại nào tồn
tại. Sau đó, chiếu theo những điều Chiêm Sát
Luân chỉ dạy để sám hối. Đă sám hối
xong, lại tu cảnh giới Nhất Thật, hai loại
quán đạo, sẽ có thể tiến nhập Tâm Tịch
tam-muội rất nhanh chóng, cái tâm có thể định
được. Nếu chính ḿnh chẳng biết, cứ tu
mù luyện đui, tu kiểu nào cũng đều chẳng thể thành tựu! Giống như chúng ta
toan biến đá thành cơm, tuyệt đối chẳng
thể làm được! Nếu quư vị sám hối hết
sạch [các nghiệp chướng ấy] rồi lại
tu, hễ tu th́ sẽ đạt được! Đó là v́
chính ḿnh không biết! Muốn có thể biết, trước
hết phải bái sám, dùng luân tướng để gieo.
Đó là [Địa Tạng Bồ Tát] giúp những kẻ
không có thần thông như chúng ta đạt
được thần thông. Quư vị muốn biết
nghiệp chướng của chính ḿnh nặng hay nhẹ,
hăy gieo ba luân tướng thuộc thân, miệng, ư, coi thử
là đỏ hay đen. Đen là ác nghiệp nặng, [vạch
đen] nhỏ là ác nghiệp nhẹ. [Vạch] đỏ
[to đậm] là thiện nghiệp sâu, [vạch đỏ
mỏng, ngắn] nhỏ là thiện nghiệp nhẹ. Trước
hết, hăy biết nghiệp chướng hay tội ác, biết
rơ ràng chuyện ấy để khi quư vị
tu tập, sẽ biết làm như thế nào. Nghiệp
thanh tịnh, quư vị sẽ tự nhiên tu rất dễ
dàng, tu Định đắc Định, tu Huệ đắc
Huệ.
Pháp
môn này đặc thù. Địa Tạng Vương Bồ
Tát đặc biệt từ bi chỉ dạy chúng ta tu,
được gọi là Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo.
Dùng cách chiêm sát này để biết quư vị tồn tại
thiện nghiệp sâu đậm, hay ác nghiệp nặng
nề, trong ḷng quư vị tự biết rơ ràng! Quư vị sám
hối th́ phải sám hối vào trọng điểm, chẳng
Đông quơ một chặp, Tây chụp một chốc, tu rồi mà
chính ḿnh vẫn chẳng thể sám hối
được! Quư vị
nương theo phương pháp sám hối này, biết chính
ḿnh tồn tại nghiệp nào, hằng ngày hướng về
Địa Tạng Bồ Tát phát lộ. Hằng ngày, quư vị
vào sáng sớm bái sám
một lần. Thoạt đầu, tu bảy ngày [như thế],
hoặc là lạy hằng ngày. Lạy xong, luân tướng
đă thanh tịnh. Quư vị phải ǵn giữ sự thanh
tịnh ấy, hoặc là cách ngày tạo nghiệp, cho nên
thường dùng luân tướng để răn nhắc.
Cho đến khi quư vị vừa đạt được
[luân tướng thanh tịnh], cái tâm đă thanh tịnh,
đă định, định nơi thiện nghiệp, chẳng
bị thoái đọa nữa, tín tâm mới có thể vẹn
đủ. Sám pháp ấy chính là một phương tiện
giúp cho chúng ta tu hành
C̣n
nữa, trong cuộc sống, các đạo hữu tại
gia buôn bán hoặc kinh doanh, đi đường có an toàn
hay không, món tiền đem kinh doanh sẽ sanh lợi hay lỗ
vốn, trước hết, hăy gieo luân
tướng để cầu Địa Tạng
Vương Bồ Tát [chỉ dạy]. Nhưng trước
đó, quư vị ắt cần phải đả
thất. Chẳng phải là hễ nghĩ đến liền
gieo th́ sẽ linh nghiệm đâu nhé! Chẳng linh nghiệm!
Trước đó, quư vị đả thất, đă tu
hành theo Địa Tạng Bồ Tát, đă có nền tảng
đối với chiêm sát luân tướng, thiện nghiệp
của chính ḿnh rất tương ứng. Khi quư vị
chiêm sát, hễ chiêm sát bèn linh nghiệm, liền thanh tịnh.
Nếu chẳng có, quư vị ắt cần phải bái sám
trước. Phải trả giá th́ mới có thâu hoạch.
Chẳng trả giá, sẽ chẳng có thâu hoạch.
Cho
đến khi quư vị gieo [luân tướng], đạt
được đều thuần túy là Thập Thiện
Nghiệp. Thập Thiện Nghiệp hoàn toàn chưa đủ!
Thiện kiểu ấy chỉ có thể tiến hành tu
đạo, chẳng phải là vô tướng sám, chẳng
phải là điều thiện vô tướng. Thoạt đầu,
chúng ta tin Phật đều có thiện nghiệp, nhưng
quư vị chẳng biết nghiệp nào c̣n tồn tại ẩn
sâu trong tư tưởng của chính ḿnh. Nếu quư vị
dựa theo Chiêm Sát Luân để liễu giải, sẽ biết
trọng điểm. Nếu chẳng thuận theo, khi tu
đạo sẽ có chướng ngại, có ma chướng.
Quư vị hăy gieo Chiêm Sát Luân, ngưng lại để bái
sám. Sau khi quư vị bái sám một thời gian, ác nghiệp và
chướng ngại tiêu mất, khi đó, sẽ thuận
lợi, thuận lợi tu đạo. Pháp môn đặc thù
này của Địa Tạng Bồ Tát chủ yếu là
giúp cho quư vị thành tựu đạo nghiệp, thành tựu
tín tâm của chính ḿnh. Hiện thời, các đạo hữu
tại gia, quư vị muốn cho tín tâm của chính ḿnh bất thoái, hăy
thường xuyên chiêm sát đôi chút. Nhưng khi quư vị mới
bắt đầu, phải bái sám, hoặc là bảy ngày,
mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày. Hễ quư
vị bái sám, thiện nghiệp và ác nghiệp ổn định,
đặt vững nơi thiện nghiệp, tâm chẳng
đặt nơi ác. Khi đó, quư vị làm sự nghiệp
ǵ cũng đều có thể thuận theo ḷng muốn.
Thuở
ban đầu, tốt nhất là ba người bái sám với
nhau, hoặc tối đa là chẳng thể quá mười
người. Mọi người bái sám cùng nhau, gia tŕ lẫn
nhau. Thậm chí lạy
một ḿnh là tốt nhất, do nghiệp của mỗi
cá nhân chẳng dính dáng nhau; nhưng một người
bái sám th́ sợ lại giải đăi, [cho nên cần có] người
nhiều hơn một chút. Do có sức gia tŕ lẫn nhau,
quư vị sẽ chẳng giải đăi!
Nhưng
khi dùng Chiêm Sát Sám Pháp, cho đến khi quư vị sám hối
xong, đă đạt được luân tướng thanh tịnh,
quư vị chiêm sát mỗi ngày. Đối với nhất cử
nhất động của chính ḿnh đều chiêm sát, sẽ
hết sức linh nghiệm. Do Địa Tạng Bồ
Tát chỉ dạy quư vị, lúc gặp khó khăn ǵ, hoặc
gặp chuyện ǵ chẳng thuận lợi, quư vị hăy vào Phật đường
bái sám, sẽ được Địa Tạng Bồ Tát
gia tŕ. Nhưng nay chúng ta niệm nào cũng niệm Địa
Tạng Bồ Tát như thế, tuy có hiệu quả, chỉ
là phước đức nhân gian, chẳng dính dáng ǵ tới
chuyện xuất thế, mong liễu sanh tử! Nếu
mong xuất thế gian, liễu sanh tử, các vị đạo
hữu xuất gia ắt cần phải ngưng lại [việc
tu tập pháp môn đang muốn tu] để tối thiểu
là lễ ba thất, ba thất tức hai
mươi mốt ngày. Cho đến khi quư vị bái sám hai
mươi mốt ngày xong, tự ḿnh cảm nhận nội
tâm rất thanh tịnh. Khi quư vị tọa Thiền hoặc
niệm kinh, sẽ có lúc đối với những đạo
lư trước kia chẳng thông thuận
cho lắm, sau khi quư vị bái sám, sẽ tự ḿnh hiểu
rơ. Có rất nhiều đạo hữu bái sám, hành theo mấy
vị đệ tử của pháp sư Hoằng Nhất ở
Tân Gia Ba và Phi Luật Tân, những người ấy hiện
thời chẳng c̣n, đều đă qua đời. Họ
đều nương theo pháp môn này mà tu hành để tiến nhập.
Khi
các đạo hữu xuất gia bái sám, v́ liễu sanh tử,
giải thoát, quư vị hăy lạy thử xem. Khi quư vị
dùng Chiêm Sát Luân, hăy đề pḥng mấy chướng ngại.
Một là trong tâm phải b́nh lặng, đừng gấp
rút cầu thành tựu. Đối với chuyện tiêu nghiệp
chướng, chẳng hề có chuyện chiếm tiện
nghi, đừng mong vượt đường tắt!
Địa Tạng Bồ Tát nói như thế nào, chúng ta hăy
hành theo lời dạy của Địa Tạng Bồ
Tát như thế ấy, hiệu quả sẽ rất mạnh mẽ! Chớ nên làm giữa chừng rồi bỏ dở,
hoặc là vừa mới đạt được tướng
thanh tịnh, hoặc là trong mộng thấy một số
cảnh giới, bèn cho rằng chính ḿnh đă đạt
được. Sự trắc nghiệm ấy vẫn
chưa đủ để đắc định, ắt
cần phải đắc định, trong tâm quư vị tự
hiểu rất rơ ràng!
Định
là như thế nào? Tâm quư vị xác thực trông thấy.
Trong quá khứ, cái tâm sân hận của chính ḿnh rất nặng,
ưa nổi cáu. Chuyện chẳng vừa ư đôi chút liền
nổi giận đùng đùng, cáu kỉnh! Cho đến khi quư vị
bái sám, đă đạt được tướng thanh tịnh,
trong tâm b́nh an, gặp chuyện ǵ cũng đều hoan hỷ.
Quư vị sẽ biết hiệu quả thật sự nẩy
sanh, chính ḿnh có thể khảo nghiệm. Chuyện chẳng
buông xuống được trong quá khứ, nay
dường như chẳng đáng ǵ, đă buông xuống
được, quư vị đă đạt rồi. Trong cuộc
sống, trong tu đạo, quá khứ quư vị toàn gặp
ác mộng, khi quư vị bái sám, từ đấy trở
đi, ác mộng chẳng hiện. Trong mộng, nếu chẳng
phải là đạo hữu tụ họp, th́ là tu Phật,
tu pháp, chẳng có ác mộng nào khác. Cho đến trong mộng,
quư vị có thể làm chủ. Tôi chuyên nói trong mộng, hoặc
là khi ngủ, quư vị nhất loạt chẳng thấy các
hành vi thuộc về Thập Ác, trái nghịch Thập Thiện
Nghiệp! Quư vị biết chính ḿnh thật sự tu tŕ tiến
nhập thiện pháp môn; khi đó, tu tập sẽ dễ
thành đạo.
Đoạn
phiền năo, tôi nêu một thí dụ: Trong quá khứ, ḷng tham
rất nặng, rất mê tiền, rất yêu thích một thứ vật phẩm chi đó. Cho tới
khi quư vị bái sám, tu hành một khoảng thời gian, sẽ
nghiễm nhiên buông xuống. Trông thấy thứ vật phẩm
ấy, trong tâm cũng chẳng động ḷng, đă thành
công rồi! Tự quư vị có thể nhận biết, thấu
hiểu. Trong quá khứ, phiền năo rất nặng, thậm
chí khi tĩnh tọa, chẳng định được.
Cho tới khi quư vị đă bái sám một khoảng thời
gian, thông thường, quư vị tĩnh tọa một tiếng,
nay có thể ngồi hai tiếng, ngồi được ba
tiếng. Khi tĩnh tọa, có thể an tĩnh. Đó là một
loại. Giống như các đạo hữu tại gia, họ
làm bất cứ chuyện ǵ, cũng luôn cảm thấy chẳng
hài ḷng, làm chuyện ǵ cũng chẳng thuận lợi. Cho
tới khi quư vị lạy được một thất,
hai thất, ba thất, chẳng cần dùng Chiêm Sát Luân, từ
trong cuộc sống, có thể tự ḿnh thể nghiệm
sự biến đổi. Chẳng phải là hoàn cảnh biến
đổi, mà là cái tâm của quư vị thay đổi.
Tướng cảnh giới bên ngoài vĩnh viễn là
như thế đó, nhưng tâm quư vị đă thiện,
[hoàn cảnh] liền thay đổi. Tâm quư vị có thể
chuyển biến hoàn cảnh hay không, tùy thuộc chính ḿnh
có đủ sức hay không. Nếu sức bái sám của quư
vị mạnh mẽ, không chỉ chính ḿnh, mà ngay cả gia đ́nh của quư vị, lớn
th́ như chùa miếu của các vị sư phụ, cho
đến các đạo hữu, đều có thể cùng
nhau tu hành, quư vị sẽ biết hiệu quả to lớn.
Không chỉ chính ḿnh, mà c̣n ảnh hưởng tới
người khác. Chuyện này chẳng cần “gieo quẻ”,
quư vị cũng hiểu rơ.
Nếu
gặp chuyện ǵ, bản thân quư vị chẳng thể quyết
định, hăy tiến vào sám thất, chiêm sát một phen,
Địa Tạng Bồ Tát sẽ quyết định cho
quư vị, thử nhiều lần chẳng sai chạy!
Như vậy th́ quư vị tu hành có lợi ǵ? Tăng trưởng
sức tín niệm, tăng trưởng tín tâm của quư vị.
Nếu quư vị niệm kinh Kim Cang, thông thường khi niệm,
sẽ chẳng đủ sức lư giải. Sau khi quư vị
đă bái sám, sẽ có thể lư giải. Nói “có thể lư
giải” rốt cuộc câu ấy có hàm nghĩa là
ǵ? Đó là chuyện trong năm 1930 hoặc 1931. Khi lăo ḥa
thượng Ấn Thuận ở Cổ Sơn tỉnh Phước
Kiến bị thổ huyết, Ngài trở về Phổ
Đà Sơn, ở trong một ngôi chùa nhỏ của chính
ḿnh để bế quan. Khi bế quan, Ngài duyệt Đại
Tạng Kinh. Lúc ở Phước Châu, bác sĩ đoán
định Sư chẳng thể sống lâu
được! Thổ huyết cả đống không ngừng,
Sư bị lao phổi rất nghiêm trọng.
Sư duyệt tạng ba năm, lành bệnh, sống đến
một trăm tuổi, suốt đời đều ốm
đau, suy nhược. Đấy là tuyệt đối có
sức gia tŕ. Ở đây, chúng ta nương vào sức gia
tŕ của Địa Tạng Vương Bồ Tát, quư vị
có thể tùy thời thưa hỏi, tùy thời có thể thỉnh
ư, có thể dùng mộc luân, nhưng chuyện này cần phải
học. Hôm nay ở nơi đây, tôi chỉ giới thiệu
cho mọi người đôi chút. Nếu muốn nói tường
tận, học tường tận, mọi người
phải tự dụng tâm học tập. Quư vị có thắc
mắc ǵ, tôi sẽ lại cùng các đạo hữu trao
đổi, uốn nắn các sai lầm.
Đấy
là giống như có một vị thầy, tức Địa
Tạng Vương Bồ Tát ở cạnh chúng ta. Có
đôi khi đối với luân tướng, Địa Tạng
Bồ Tát chẳng hiện, hoặc Ngài chẳng tới hộ
pháp, quư vị chẳng gieo [luân tướng] được,
từ đầu đến cuối chẳng tương ứng.
Chuyện quư vị hỏi và [kết quả] gieo luân tướng
hai đằng chẳng ứng hợp, tức là quư vị
vẫn chưa đạt tới chí tâm, tức là cái tâm
thành khẩn vẫn chưa đủ. Do vậy, khi quư vị
bái sám, vẫn chẳng khiến cho chướng ngại và
thô chướng hiện hành của quư vị tiêu mất. Tối
thiểu là khi quư vị bái sám, thô Hoặc, thô chướng
có thể tiêu mất, luân tướng mới hiện ra càng
ngày càng tốt đẹp hơn. Hoặc quư vị tồn
tại sát nghiệp rất nặng, sát nghiệp thuộc
loại sân hận phiền năo, quư vị nghiễm nhiên biến
sát nghiệp thành từ bi, cho thấy quư vị đă chuyển
hóa. Không chỉ chẳng giết mà c̣n từ bi, chính ḿnh hiểu
rất rơ. Do vậy, pháp Chiêm Sát giúp cho chúng ta có thần
thông và trí huệ, nhưng phải có ḷng thành. Ư niệm
đầu tiên là phải thành tâm, điều thứ hai là
chớ nên có tạp niệm.
2. Chiêm Sát Sám Pháp
Chúng
tôi đă nói xong kinh Chiêm Sát, cũng như giải thích kèm thêm đôi chút cùng mọi người
về cách sử dụng Chiêm Sát Luân để chiêm sát. Lại
c̣n có sám pháp để bái sám. Sau khi đă bái sám th́ mới có
thể sử dụng Chiêm Sát Luân. Chẳng bái sám, làm sao sử
dụng Chiêm Sát Luân cho được? Sám pháp để bái
sám do Ngẫu Ích đại sư soạn. Ngẫu Ích đại
sư vâng theo lời chỉ dạy của Địa Tạng
Bồ Tát, Ngài khuyên chúng ta tu tập. Giả sử mong liễu
sanh tử, mong tu chánh pháp, quư vị tu hành luôn luôn có chướng
ngại, do duyên chẳng trọn đủ. Mỗi đạo
hữu chúng ta, kể từ lúc xuất gia, trong quá tŕnh tu
hành, quư vị luôn gặp rất nhiều chướng ngại.
Các nghịch duyên trái nghịch ư nghĩ của chúng ta th́
chúng ta c̣n có thể miễn cưỡng tiếp nhận, c̣n
có thể biết tu hành trong nghịch cảnh hiện
tiền; nhưng thuận cảnh hiện tiền th́ quư vị
chẳng biết. Chuyện ǵ cũng đều rất thuận
lợi, chuyện ǵ cũng đều tốt đẹp,
điều này rất nguy hiểm, sẽ gây chướng ngại
khiến cho quư vị chẳng thể tu hành. Đó gọi
là chướng duyên. Trong chướng duyên, có nghịch và
thuận.
Đời
quá khứ, chúng ta đă tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác,
nghiệp chướng nghiêm trọng nhất rất nặng;
đời hiện tại, tu đạo gặp
rất nhiều chướng ngại. Nói đơn giản, chúng ta xuất
gia thọ giới chẳng đạt được giới
thể thanh tịnh. Bốn, năm trăm năm trước,
vào đời Minh, Ngẫu Ích đại sư mong t́m
được năm vị tỳ-kheo thanh tịnh trong Nam
Thiệm Bộ Châu, nhưng chẳng t́m thấy. Ngài có thần
thông, huống chi hiện thời, chúng ta lại xa cách nhiều
năm ngần ấy, cho nên khi chúng ta bái sám, trong tâm sẽ
có ư tưởng cần phải tu pháp sám hối. Hễ bái
sám bèn tu sám hối. Từ nay trở đi, nếu chúng ta chẳng
tạo ác nữa, sám hối quá khứ, vị lai bèn hối
cải, chẳng làm nữa. Đó gọi là “sám hối”.
Khi quư vị tu pháp sám hối, số người chớ nên
nhiều! Mọi người cùng nhau mong tu hành, tối
đa là mười người. Nếu tự ḿnh tu một
ḿnh th́ càng tốt hơn. Nhưng phải có một vị
thầy; khi quư vị bái sám, xuất hiện rất nhiều
vấn đề, phải có một vị minh sư, tức
là một vị thầy thông hiểu sám pháp này chỉ vẽ
cho quư vị.
Khi
quư vị bái sám, phải dùng Chiêm Sát luân tướng,
nhưng để sử dụng Chiêm Sát Luân, chẳng thể
có chút giấu giếm nào đối với Địa Tạng
Bồ Tát. Ắt cần phải sám hối tội nghiệp
của quư vị. Trong tâm quư vị có những điều
riêng tư, chẳng nói với ai, nhưng đối trước
tượng Địa Tạng Bồ Tát, quư vị nhất
định phải nói v́ sao quư vị bái sám, bản thân quư
vị đă phạm tội ǵ? Bản thân quư vị cảm
thấy trong tâm có bí mật chẳng thể nói với ai
khác, hăy đều nên nói với Địa Tạng Bồ
Tát.
Thể
hiện sự cung kính trong bái sám th́ nhất định phải
tịnh tâm trước đă. Khi lạy, điều đầu
tiên là lễ kính mười phương chư Phật; sau
đó, phát nguyện, nghiêm trang cầm hương, hoa, chiếu
theo phương pháp do Địa Tạng Bồ Tát đă dạy
để hành: Phát nguyện, nguyện mây hương, hoa
này trọn khắp mười phương pháp giới. Quư
vị quán tưởng [như thế đó]. Nếu chẳng
làm được, phải nương theo văn tự
để niệm. Cúng dường Tam Bảo, cúng dường
hết thảy chư Phật, tôn pháp là Pháp Bảo, hiền
thánh tăng là Tăng Bảo. Cúng dường hết thảy
Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, khiến cho họ đem
các vật cúng của quư vị làm Phật sự. Những
điều này trong văn sám hối đều có, mọi
người có thể chiếu theo văn sám hối để
niệm. Sau đó, phải thỉnh thánh. Tiến vào sám thất, trước hết phải
thỉnh thánh. Điều đầu tiên trước hết
là phải thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tỳ
Bà Thi Phật, quá khứ thất Phật, cho đến Phổ
Quảng Phật… tức năm mươi ba vị Phật,
cho đến tất cả sắc thân, xá-lợi, h́nh
tượng, phù đồ tháp miếu, hết thảy Phật
sự của hết thảy chư Phật. Sám pháp này do Ngẫu
Ích đại sư dựa theo kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo [để biên soạn]. Hết thảy
các sám pháp đều như thế, nhưng kinh Chiêm Sát Thiện
Ác Nghiệp Báo chẳng nói; đây là Ngẫu Ích đại
sư dựa theo hết thảy các sám pháp để bái sám.
Cho đến phụng thỉnh mười phương ba
đời hết thảy chư Phật, cho đến
đặc biệt thêm vào “Nam-mô Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo Kinh vi diệu pháp tạng”. Chúng tôi giảng xong kinh
này, mọi người đă có ấn tượng: Khi quư vị
bái sám, phải thỉnh, thỉnh Pháp Bảo hiện tiền,
pháp tánh của Pháp Bảo giống như hư không. Quư vị
vừa tác ư bèn hiện tiền, do Không nên mới chẳng
có chướng ngại. Sau đó, thỉnh hết thảy
hiền thánh tăng. Bộ kinh này do Kiên Tịnh Tín Bồ
Tát thỉnh [đức Phật nói]. Chúng ta báo ân Ngài, khi quư
vị bái sám, phải nhất tâm phụng thỉnh Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát. Các kinh khác chẳng có [danh hiệu vị Bồ
Tát này], các sám pháp khác vốn chẳng có. Chỉ có khi quư vị
lạy Chiêm Sát Sám th́ mới phụng thỉnh Kiên Tịnh
Tín Bồ Tát. Phải thỉnh Biến
Cát Bồ Tát (Phổ Hiền Bồ Tát) và Quán Thế Âm Bồ
Tát. Sau đó, đặc biệt thỉnh vị sám chủ,
sám chủ là Địa Tạng Bồ Tát. Quư vị c̣n phải
thỉnh hộ pháp, hộ pháp là Tứ Vương Thiên, Phạm
Vương, Đế Thích, chư thiên, thiên long bát bộ.
Sau đó c̣n phải tụng bài văn phát nguyện. Trong bản [sám pháp] ấy đều có [những điều vừa nói trên đây], tôi chỉ nhắc
tới, mọi người hăy theo đó để thỉnh, để niệm. Chỉ xin đức Thích Ca từ phụ, thất Phật Thế Tôn,
năm mươi ba vị Phật, hết thảy các vị
giác ngộ [chứng minh,
gia tŕ cho hành giả], đều thỉnh
các vị Phật ấy. Ta bái sám nơi đây, các vị Phật
ấy đều có thần thông, các Ngài sẽ diệu dụng,
gia tŕ ta. Lại c̣n phải thỉnh quá khứ thất Phật,
Tỳ Bà Thi Phật. Đó là sự phát nguyện khi bái sám,
tôi không nói cặn kẽ với mọi người. Mọi
người hăy dựa theo văn bản sám pháp này để
thỉnh năm mươi ba vị Phật. Đó là khi ở
trong sám thất, mới vừa bái sám, sau đó, nhất tâm
kính lễ Pháp. Thỉnh Phật xong bèn thỉnh Pháp. Thỉnh
Pháp xong, tất cả sắc tướng, xá-lợi, tháp miếu,
hết thảy Phật sự đă thực hiện của
mười phương chư Phật cũng đều phải
thỉnh. Đông, Nam, Tây, Bắc, mười
phương chư Phật cũng phải thỉnh. Cuối
cùng, thỉnh hết thảy các pháp tạng. Thêm vào đó là
thỉnh kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo. Dựa theo sám
bổn của kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mọi
người có thể thỉnh, chiếu theo sám bổn
để niệm, tôi không giới thiệu cặn kẽ.
Nhưng
có một đoạn văn do Ngẫu Ích đại sư
biên soạn có hiệu quả rất lớn đối với
chúng ta. Phát nguyện, phát nguyện ǵ vậy? Ta cùng hết
thảy chúng sanh, từ đời vô thỉ đến nay,
ba nghiệp thân, miệng, ư, sáu căn mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư, tạo tội rất nặng. Cho nên
chúng ta mới chẳng thấy chư Phật, cũng chẳng
được nghe pháp do chư Phật đă nói, lưu
chuyển thuận theo sanh tử.
Nay chúng ta muốn đoạn dứt, do nay chúng ta được
nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, cắt đứt
gịng sanh tử. Không chỉ bản thân chúng ta đoạn,
mà c̣n nguyện cho hết thảy chúng sanh trong pháp giới
cũng đều cùng với chúng ta đoạn, đoạn
hết thảy nghiệp chướng, trừ sạch ba
chướng, chí tâm sám hối.
Có
một đoạn văn chúng ta phải học niệm:
Con cùng với chúng sanh, từ vô thỉ tới nay, do v́ ái kiến,
trong th́ so đo “ta, người”, ngoài th́ lại thêm bạn ác, chẳng
tùy hỷ mảy may điều thiện của người
khác, chỉ trọn khắp ba nghiệp đều rộng
tạo các tội. Sự tuy chẳng rộng, ác tâm trọn
khắp, ngày đêm liên tục, chẳng hề gián đoạn,
che giấu, né tránh lỗi lầm, chẳng muốn người
khác biết. Chẳng sợ ác đạo, không hổ, không
thẹn, bài bác chẳng có mười loại nhân quả.
Nay ở trong sám thất, sám hối trọn hết mười
loại ấy. Chuyển đổi thành tin sâu nhân quả,
sanh ḷng hổ thẹn to lớn, sanh ḷng sợ hăi lớn
lao, phát lộ sám hối, đoạn cái tâm tiếp nối,
phát Bồ Đề tâm, đoạn ác, tu thiện, ba nghiệp
siêng gắng. Sửa đổi lỗi cũ, tùy hỷ
điều thiện của thánh phàm dẫu chỉ một
mảy. Đồng thời, nghĩ nhớ mười
phương hết thảy chư Phật, phước lẫn
huệ của Phật đều trọn đủ viên
măn. Chư Phật đều có thể cứu vớt chúng
ta, tiêu trừ các tội ác do chúng ta đă tạo từ vô
thỉ kiếp tới nay. Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo cuối cùng giảng “bản tánh là không tịch”. Do vậy, dễ sám hối.
Nơi tánh thể của chúng ta chẳng có [tội cấu],
chỉ là bị che phủ bởi hết thảy phiền
năo. Nay đă hiểu rơ, học kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo, biết [tánh thể] là không tịch, mong cầu Bồ
Đề, mong cầu tịch tĩnh, nguyện cho hết
thảy chúng sanh đều cùng chúng ta tu hết thảy các
thiện nghiệp, đều đoạn ác nghiệp.
Đó là khải thỉnh Tam Bảo gia bị.
Sau
đó, chí tâm sám hối, sám hối nghiệp chướng của
chúng ta. Đấy là chuyện Ngẫu Ích đại sư
đă làm. Ta và hết thảy chúng sanh, tự tánh thanh tịnh,
cảnh giới Nhất Thật, chư Phật có cùng một
Thể. Do nhân duyên vô minh si ám huân tập, hiện ra cảnh giới
hư vọng, khiến cho chúng ta nẩy sanh chấp trước,
vọng niệm. Lại c̣n có tội nặng và tội nhẹ,
khiến cho Định và Huệ của chúng ta đều
bị chướng ngăn, khiến cho chúng ta luân chuyển
lâu dài trong lục đạo, chẳng có thuở thoát ra. Nay
chúng ta gặp kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, đó là kỳ
hạn để chúng ta thoát ra. Đối với ngoại
ma, nội chướng, đều khiến cho chúng bị
tiêu mất. Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát là đấng
khéo nói an ủi, xé toang mây mê, vẹt sạch mây mê, mộng
mị cho chúng ta, gột rửa đổi mới cái tâm ta
lần nữa. Xót xa cầu sám hối như thế, cầu
sám hối như thế đó. Sau đấy, lại khuyến
thỉnh chư Phật. Những điều này trong văn
sám hối đều có, bất quá, ở đây tôi nói đại
lược đôi chút. Sau đó, lại c̣n tùy hỷ công
đức. Cuối cùng, quư vị phải chí tâm hồi
hướng, hồi hướng công đức do ta đă
tu cho hết thảy chúng sanh, sám hối sạch sẽ hết
thảy các tội nghiệp của ḿnh, khiến cho hết
thảy chúng sanh đều sám hối sạch sẽ tội
nghiệp. Mong mỏi chư Phật gia bị, hồi
hướng công đức sám hối và tu hành của chúng
ta cho mười phương hết thảy chúng sanh. Sau
đó, lại phát nguyện, nguyện Địa Tạng Bồ
Tát và mười phương Tam Bảo gia bị chúng ta. Thế
giới hiện thực của chúng ta chẳng an định,
quốc độ mong manh. Hiện thời, trên thế giới
tai nạn nhiều lượt phát sanh, chánh pháp tiêu mất.
Chúng ta xoay chuyển, khiến cho tai nạn tiêu trừ, chánh
pháp lưu thông, khiến cho hết thảy chúng sanh đều
có thể sanh tín tâm thanh tịnh, chẳng có chướng ngại.
Trong tu đạo chẳng có ma chướng, chẳng có tà
kiến, chẳng có tà tri. Cuối cùng, đem công đức
học tập, công đức sám hối, hồi hướng
cho thế giới Cực Lạc. Ngẫu Ích đại
sư suốt đời đều cầu sanh thế giới
Cực Lạc. Đây là văn sám hối do Ngài soạn.
Không chỉ thân cận Phật Di Đà, sanh về thế
giới Cực Lạc để thân cận hết thảy
chư Phật, được chư Phật thọ kư rồi
lại trở vào trần lao, lại trở về thế
giới Sa Bà để độ chúng sanh. Đó gọi là “phát nguyện”. Cuối cùng, quy kính Tam Bảo. Trong quá tŕnh quư vị sám hối phát
nguyện, đây là đoạn cuối cùng trong khi quư vị
tới sám thất để sám hối. Điều này giống
như quư vị sám hối bèn có thứ tự nhất định.
Sau
khi quư vị đă bước vào sám thất, thoạt đầu,
tâm quư vị vẫn chưa định được,
nhưng quư vị tiến vào sám thất, có mấy vấn
đề trọng yếu nhất: “Khi quư vị tiến
vào sám thất, thân tâm nhất định phải thanh tịnh”. Ngẫu Ích đại sư nói: Khi quư vị vào sám thất, y phục phải
sạch sẽ. Khi quư vị vào nhà xí, Ngẫu Ích đại
sư yêu cầu: Tốt nhất là phải có y phục
dùng riêng trong nhà xí, mặc một cái áo khoác, ra ngoài bèn cởi
áo khoác để lại trong nhà xí. Nhất định phải
ǵn giữ sự thanh khiết. Chúng ta tiến vào sám thất,
hay vào Phật đường, Ngẫu Ích đại sư
phê b́nh: [Nếu hành giả] trọn chẳng thanh tịnh, làm
sao có thể đạt được thiện quả, được Phật,
Bồ Tát gia tŕ cho được? Phật, Bồ Tát từ
bi sẽ chẳng so đo, nhưng thần hộ pháp hết
sức so đo. Tâm quư vị thanh tịnh, đó là điều
chủ yếu. Có các đạo hữu đi tiểu xong, rửa
tay xong liền bước ngay vào sám thất, điều
này tuyệt đối chẳng thể được!
Chúng tôi thấy rất nhiều đạo hữu lên tụng
kinh, căn bản là chẳng thanh tịnh mà liền lên
chánh điện. Do vậy, Ngẫu Ích đại sư yêu
cầu, thân thanh tịnh quư vị mà có thể làm được,
th́ tâm cũng sẽ thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh th́ mới
có thể đạt được sức gia tŕ.
Tập 17
*
Hỏi: Con thường nghe nói phát Bồ Đề tâm là
nghĩa trọng yếu bậc nhất trong tu học Phật pháp. Phát vô thượng
đại tâm có phải chính là tự tánh thanh tịnh tâm,
đối với các hành vi, nói năng, im lặng, động, tịnh
trong hằng ngày, đi, đứng, ngồi, nằm, phải
nên phát như thế nào? An trụ như thế nào? Hộ
tŕ như thế nào? Như thế nào th́ biết tự tánh
ngay lập tức tương ứng với ư tưởng
ấy? Lại nữa, cái tâm bao gồm đại từ,
đại bi, đại hạnh, đại nguyện,
đại xả như thế nào, ngơ hầu do cái tâm ấy
mà toàn thể khởi dụng, toàn tu tại tánh? Mong thầy
dạy cặn kẽ cho! Đáp:
Nói đơn giản, vị đạo hữu này hỏi về
phát tâm: “Thế nào là phát Bồ Đề tâm?” Đối với
Bồ Đề, trước hết phải hiểu rơ Bồ Đề
là ǵ? Quư vị ngay cả Bồ Đề mà chưa hiểu
rơ, phát tâm bằng cách nào đây? Bồ Đề là giác trong
giác ngộ. Bồ Đề là giác, mà cũng là Phật. Ư
nghĩa được bao hàm trong “phát Bồ
Đề tâm” là “nếu
ta muốn thành Phật, quư vị phải phát Bồ Đề
tâm”. Phát Bồ Đề tâm: Phát tâm là một chuyện,
hành động lại là một chuyện khác! Quư vị
đă phát Bồ
Đề tâm, sẽ làm như thế nào? Quư vị đă
phát Bồ Đề tâm, hăy nương theo cái tâm do chính ḿnh
đă phát để làm. Phải làm theo từng bước
một. Đương nhiên là quư vị tín ngưỡng Tam
Bảo, tín ngưỡng Tam Bảo th́ Phật là Bồ
Đề tâm, Pháp vẫn là Bồ Đề tâm, Tăng Bảo
vẫn là Bồ Đề tâm. Hằng ngày quư vị niệm
Tam Bảo là phát Bồ Đề tâm, nhưng quư vị dùng
cái tâm ǵ để niệm? Quư vị phát Bồ Đề
tâm, phải dùng phát Bồ
Đề tâm để niệm, tức là dùng cái tâm giác ngộ.
Quư vị mong cầu giác ngộ, vậy th́ quư vị mỗi
ngày phát tâm là một chuyện, hành động lại là một
chuyện khác. Quư vị tự ḿnh phát tâm, thân, miệng, ư của
quư vị phải nên chiếu theo cái tâm Bồ Đề đă
phát để làm. Như thế th́ quư vị mới là thật
sự phát Bồ Đề tâm. Như thế th́ sẽ
chẳng có vấn đề!
*
Hỏi: Xin hỏi dùng Chiêm Sát Luân để bói toán, có cần
phải xưng niệm thánh hiệu Địa Tạng
đạt tới định cảnh (nhất tâm bất
loạn) th́ mới có thể gọi là “chí thành cảm
thông”, lời hỏi mới tương ứng lời
đáp hay không?
Đáp:
Khi quư vị muốn dùng Chiêm Sát Luân, điều thứ nhất
là quư vị phải niệm [thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát] trước đă. Có thể là vị
đạo hữu này chưa nghe kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp
Báo. Kinh Chiêm Sát dạy chúng ta: Nếu quư vị sử dụng
Chiêm Sát Luân, điều thứ nhất là phải niệm
Địa Tạng Vương Bồ Tát, hoặc là niệm
một vạn câu trước đă. Quư vị c̣n phải
bái sám. Quư vị tu bảy ngày th́ mới có thể dùng Chiêm
Sát Luân. Chuyện này không thành vấn đề, quư vị ắt cần phải niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát th́ mới có thể dùng Chiêm Sát Luân,
nhưng không nhất định sẽ tương ứng.
Quư vị nói chỉ mong sao hễ vừa chiêm sát liền
tương ứng, chẳng thể được! Quư vị
phải vận dụng công phu bảy ngày, chiêm sát vẫn chẳng
thấy tương ứng, điều chủ yếu: “Trực tâm là đạo tràng”. Trong tâm quư vị
chẳng có tạp niệm nào khác, đó là nhất tâm.
*
Hỏi: Thỉnh giáo lăo ḥa thượng, rốt cuộc phải
tu hành và do nhân duyên nào th́ mới có thể khiến cho cái tâm
sớm có ngày khai ngộ, giải thoát, tiến tới lợi
ích hết thảy các chúng sanh thân tâm đang chịu khổ,
và cũng khiến cho họ đạt được giải
thoát?
Đáp:
Quư vị hỏi tôi điều này, tôi chẳng có cách nào trả
lời! Quư vị phải dùng cái tâm ǵ th́ mới có thể
khai ngộ, giải thoát? Mọi người hăy nghe nhé:
Người học Phật chúng ta dùng tâm ǵ th́ mới có thể
khai ngộ, giải thoát? Quư vị niệm Phật, niệm đến
mức nhất tâm th́ cũng có thể khai ngộ, giải thoát. Hoặc bái sám đến mức nhất
tâm th́ cũng có thể khai ngộ, giải thoát. Vấn
đề là phải đạt tới nhất tâm. Nếu
quư vị toàn là dấy vọng tưởng; trước hết, hăy tu nhất tâm. Nhất tâm là
chí tâm. Chí tâm có thượng chí tâm, hạ chí tâm, và trung chí
tâm. Quư vị có thể đạt được hạ chí
tâm đă chẳng dễ dàng, hạ chí tâm là nhất tâm bất
loạn. Khi quư vị tu hành, hăy khống chế hết thảy
tạp niệm và vọng tưởng, chẳng để
cái tâm có tạp niệm hay vọng tưởng. Dùng cái tâm ấy
để lạy, để cầu, lúc nào sẽ khai ngộ,
lúc nào sẽ giải thoát, tùy thuộc quư vị đổ
công dốc sức như thế nào. Nay tôi vẫn chưa
khai ngộ, mà cũng chẳng giải thoát, nhưng quư vị
muốn đạt tới công phu như tôi phải mất
tám mươi năm.
*
Hỏi: Tâm thường trụ nơi Phật hiệu, có
lúc thanh tịnh, có lúc mê muội, hồ đồ. Nói chung
là chẳng có cách nào giữ cho thường hằng, vậy
th́ phải làm như thế nào?
Đáp:
[Nói] “tâm thường trụ nơi Phật hiệu” tức
là quư vị phải tự ḿnh niệm Phật, chẳng phải
“tâm thường ở trong Phật hiệu”, mà là cái
tâm quư vị thường niệm Phật hiệu. Quư vị
chẳng nói Phật hiệu nào. Quư vị niệm A Di Đà
Phật cũng là Phật hiệu, mà niệm Thích Ca Mâu Ni Phật
cũng là Phật hiệu, mười phương chư
Phật cũng là Phật hiệu. Niệm vị Phật
nào cũng đều được. Nay quư vị [thắc
mắc niệm Phật] “có lúc đạt
được thanh tịnh, có lúc mê muội, hồ đồ,
chẳng có cách nào giữ cho [sự thanh tịnh] thường
hằng, phải làm như thế nào ư?” Bất luận quư vị
niệm Phật cũng thế, mà tu các pháp khác cũng thế,
điều đầu tiên là đạt tới nhất tâm trước đă. Nhất thời
thanh tịnh là tạm thời, vẫn chưa được.
Hôm nay, lúc này quư vị niệm Phật thanh tịnh, niệm
đến mức nhất tâm bất loạn, ngày mai chẳng
làm được. Đó chẳng gọi là nhất tâm. Phải
lúc nào, niệm nào cũng đều có thể đạt
đến thanh tịnh, khi ấy, quư vị mới có thể
khai tri kiến, khai ngộ giải, hoặc là cầu văng
sanh, mới tính là nhập môn. Chẳng phải là thành công,
mà chỉ là “nhập môn”. Nếu có thể nhất tâm
thường luôn bất động th́ là thành tựu. Nhất
thời thanh tịnh chẳng tính, ai nấy đều có! Vị
đạo hữu ấy chỉ cần tin rằng: Hễ
là đệ tử Phật, tạm thời có thể thanh tịnh
một tiếng đồng hồ hay hai tiếng đồng
hồ, hoặc một ngày thanh tịnh, đều có thể
đạt được, nhưng cần phải lâu dài.
Thành Phật chẳng phải là một ngày. Đạt
được thanh tịnh trong một ngày, có nghĩa là phải
tu một thời gian dài th́ mới có thể định cái
tâm được.
*
Hỏi: Tổ sư từng nói “thọ giới dễ
dàng, giữ giới khó”. Nhất là trong thời đại
Mạt Pháp, giữ giới thanh tịnh quả thật chẳng
dễ. Muốn giữ đại giới (tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni)
thanh tịnh lại càng chẳng dễ. Có phải là chúng ta
nên giữ Thập Giới là đủ rồi, so ra khó phạm
giới hơn?
Đáp:
“Thọ giới dễ, giữ giới khó”, quư vị
nói đúng lắm! Trong thời kỳ Mạt Pháp, nếu muốn
giữ giới tỳ-kheo hay tỳ-kheo-ni thanh tịnh càng
khó hơn! Quư vị chẳng phải là tỳ-kheo, mà cũng
chẳng phải là tỳ-kheo-ni, quư vị nói tới bổn
phận của chính ḿnh là được rồi! Tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni giữ giới chẳng dễ dàng, vậy th́
quư vị giữ Tam Quy, Ngũ Giới dễ dàng ư? Quư vị
đă thọ Tam Quy nhưng đều trái phạm! Hăy nói xem, đă thọ
Tam Quy mà có phạm hay không? Rơ ràng là quư vị đă quy y Phật,
nhưng đi coi bói, gieo quẻ, hoặc tin vào ngoại
đạo. Đài Loan có rất nhiều đạo giáo, vậy
là kể như quư vị đă phá Tam Quy. Đă phá Tam Quy, chẳng
thể coi là đệ tử Phật được! Hoàn
toàn chẳng phải là phá Ngũ Giới, mà là Tam Quy bị
phá. Chúng ta có thể tŕ mười giới hay chăng? Tôi
thấy quư vị mười giới cũng chẳng tŕ
được! Chẳng dễ dàng đâu nhé! Quư vị
đă thọ Tam Quy, có thể giữ vững Tam Quy, sẽ
chẳng đánh mất phước đức nhân thiên, có
biết hay chăng? Đối với mười giới,
nh́n quư vị như vậy th́ mười giới vẫn
chưa thọ. Thọ rồi hăy nói sau! Quư vị có thể
thọ mấy giới bèn tŕ mấy giới, không nhất
định hạn lượng trong mười giới.
Đối với chuyện khó phạm giới hơn, tôi
có cách nh́n tương phản với quư vị, tôi cảm
thấy so ra quư vị dễ phạm giới hơn!
*
Hỏi: Sám hối tam nghiệp thanh tịnh rồi mới
tu hai thứ quán đạo, nhưng nói theo bọn nghiệp
chướng phàm phu chúng con, đại khái cần phải
bao lâu th́ mới có thể đạt tới cảnh giới
Nhất Thật?
Đáp:
Vị đạo hữu này hỏi tôi, “lúc nào th́ mới có
thể đạt tới cảnh giới Nhất Thật?”
Tôi có thể trả lời rơ ràng với quư vị là đời
này chẳng làm được! Đạt tới cảnh
giới Nhất Thật là đă thành tựu, chúng ta thường
nói là “khai ngộ”. Đă khai ngộ, chẳng đạt
tới cảnh giới Nhất Thật, nhưng hiểu rơ
cảnh giới Nhất Thật. Chúng tôi giảng kinh Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo đă nói rất rơ ràng: Dự vào
ngôi Sơ Trụ Bồ Tát. Viên măn Thập Tín, đă dự
vào ngôi Sơ Trụ th́ mới có thể coi là tương tự
thanh tịnh, chẳng phải là thật sự thanh tịnh.
Thật sự thanh tịnh th́ đạt tới Sơ
Địa Bồ Tát mới có thể thanh tịnh, chẳng
c̣n trái phạm nữa. Có hiểu hay không? Sau khi quư vị đă sám hối tam nghiệp thanh tịnh, khi giảng
kinh Chiêm Sát, chúng tôi đă nói rất rơ, quư vị được
coi là thuộc vào Tín vị. Ba nghiệp thanh tịnh, đă
tin, thật sự tin vào Tam Bảo, thân, miệng, ư chẳng
c̣n tạo tội nữa, [tuy vậy], chẳng phải là
thanh tịnh rốt ráo. Chỉ có Phật và Phật mới
có thể đạt tới thanh tịnh rốt ráo.
*
Hỏi: Sử dụng Chiêm Sát Luân, vào sáng sớm mỗi
ngày, dùng loại luân tướng thứ hai để chiêm sát
thân, miệng, ư. Trong đó liên tục hai ngày, đối với
mỗi nghiệp thân, miệng, ư, gieo ba lần đều gieo
được thiện tướng. Xin hỏi như thế
có được coi là thanh tịnh hay không? Sau đó, phải
nên tiếp tục nỗ lực tu học ra sao?
Đáp:
[Cư sĩ hỏi] “sử dụng Chiêm Sát Luân, dùng loại
luân tướng thứ hai để chiêm sát thân, miệng,
ư, trong đó liên tục hai ngày, đối với ba nghiệp
thân, miệng, ư, gieo ba lượt đều được
thiện tướng, xin hỏi như thế có tính là thanh
tịnh hay không?” Quư vị dùng Chiêm Sát Luân, Chiêm Sát Luân cho biết,
quư vị đều là đỏ, chẳng có hắc nghiệp,
th́ tính là thanh tịnh. Ba nghiệp đă thanh tịnh tức
là chuyển ác theo thiện, chỉ tính là thiện nhân (người lành) mà thôi. Đă có
tín tâm ấy, sẽ có thể tăng trưởng tín tâm của
quư vị. Hăy nên tiếp tục nỗ lực tu tập là
được rồi!
*
Hỏi: 1) Con có một người bạn xương sống
từng bị thương nặng. Khi bái sám, nếu theo
phương thức năm vóc gieo sát đất để
quỳ lạy, sợ vết thương cũ tái phát, có
thể dùng phương thức khom ḿnh xá để thay cho
cách quỳ lạy năm vóc gieo sát đất hay không? Nếu
dùng phương thức khom ḿnh để bái sám, có ảnh
hưởng đến hiệu quả bái sám hay không?
2)
Con có một người thân thích thân thể suy nhược,
sự nghiệp chẳng thuận lợi, chẳng thừa
nhận chính ḿnh có nghiệp chướng, chẳng tin
tưởng Tam Bảo. Đối với hạng người
ấy, dùng phương thức niệm thánh hiệu Địa
Tạng Bồ Tát và bái sám để hồi hướng, có
khiến cho người ấy sanh ḷng tin đối với
Tam Bảo, tiến tới niệm Phật, học Phật,
bái Phật hay không? Nếu v́ người ấy niệm Phật
hồi hướng, có thể gánh vác nghiệp chướng
cho người ấy hay không?
Đáp:
[Quư vị hỏi] “con có một người bạn
xương sống từng bị thương nặng. Lúc
bái sám, nếu năm vóc đảnh lễ, sợ
thương tích sẽ phát sanh trở lại, có thể khom
ḿnh hay không?” Quư vị ngồi, tâm bái cũng được.
Quư vị cứ ngồi, quán tưởng lạy Phật.
Trong tâm quán tưởng đang lạy th́ cũng coi như
thanh tịnh, chú trọng cái tâm, chẳng chú trọng h́nh thức,
quư vị hiểu chứ? Quư vị lại có một vị thân thích, thân thể suy nhược, sự nghiệp
chẳng thuận lợi, việc kinh doanh chẳng sanh lợi,
chẳng muốn thừa nhận chính ḿnh có nghiệp
chướng, rơ ràng là có nghiệp chướng, nhưng chẳng
chịu thừa nhận có nghiệp chướng, chẳng
tin tưởng Tam Bảo. Đối với hạng người như thế, dùng
phương thức niệm Địa Tạng Bồ Tát
và bái sám, có khiến cho người ấy sanh tín tâm đối
với Tam Bảo hay không? Điều này chẳng có tiêu chuẩn
chi hết. Đối với thắc mắc này, quư vị
hăy khuyên nhủ người ấy, làm cho người ấy
sanh khởi tín tâm đối với Tam Bảo trước
đă. Đức Phật dạy chúng ta rất rơ ràng, Phật
pháp sâu như biển cả, chỉ do ḷng tin mà có thể nhập.
Kẻ đó chẳng có tín tâm, làm sao có thể tu, cỏn nói
ǵ bái sám? Vậy th́ quư vị phải khuyên người
đó, cho đến khi nào người ấy thay đổi,
có tín tâm. Tín tâm là bước đầu. Nếu muốn đạt
tới tín tâm như chúng tôi đă nói trong khi giảng kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, khoảng cách rất xa. V́
để tu tín tâm th́ phải mất một vạn kiếp,
chúng ta đều là tâm tương tự.
*
Hỏi: Xin hỏi tại gia cư sĩ có thể sử dụng
luân tướng để chiêm sát thiện ác hay không?
Đáp:
Vị đạo hữu này hỏi tôi: “Tại gia cư
sĩ có thể dùng Chiêm Sát Luân hay không?” Quư vị hỏi
tôi, tôi giảng bộ kinh Chiêm Sát Luân này hơn một tháng,
quư vị có nghe hay không? Nếu quư vị chẳng nghe, sẽ
không biết. Nếu quư vị nghe, sẽ biết. Cho nên có
thể sử dụng Chiêm Sát Luân hay không, hăy xem lại kinh
Chiêm Sát Nghiệp Báo từ đầu, sẽ thấy. Nếu
tôi ở đây giảng lại bộ kinh Chiêm Sát lần nữa,
sẽ chẳng có thời gian.
*
Hỏi: Đă ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn có bái sám nữa
không?
Đáp:
Khoan nói tới nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn, mười
phương chư Phật đều đang bái sám, quư vị
có hiểu hay không? Mười phương chư Phật lễ
mười phương chư Phật.
*
Hỏi: Thường nghe “Phật khó độ kẻ vô
duyên”, nhưng Bồ Tát lúc tu tŕ nơi nhân địa,
công đức của thiện hạnh đều hồi
hướng cho hết thảy chúng sanh trong pháp giới, chẳng
phải là kết duyên với hết thảy chúng sanh ư?
Cớ sao tới khi thành Phật, hăy c̣n có chúng sanh vô duyên,
chẳng thể độ?
Đáp:
Đạo hữu! Quư vị ra ngoài hỏi những kẻ
chẳng tin Phật, tùy tiện hỏi bất cứ ai, hỏi
kẻ đó có nhân duyên hay không, xem họ trả lời như
thế nào. Nói “Phật pháp khó độ kẻ chẳng
có duyên”, họ chẳng tin, chẳng tin th́ quư vị
độ bằng cách nào? Tiêu chuẩn của hữu duyên
và vô duyên là như thế nào? Có một tiêu chuẩn là tín. Chẳng
tin th́ kẻ đó sẽ tuyệt đối chẳng thể
nhập; đấy là tiêu chuẩn. Tiên đề là kẻ
đó không tin, đó là vô duyên. Vô duyên sẽ chẳng thể
độ.
*
Hỏi: 1) Có phải là đối với tội lỗi chẳng
thể nói cho người khác biết, mỗi lần bái sám
đều phải niệm một lần?
2)
Mỗi ngày phải lạy Chiêm Sát Sám mấy lần th́ tam
nghiệp mới có thể thanh tịnh?
3)
Tại Đài Bắc có đạo tràng của lăo pháp sư
hay không để cộng tu Chiêm Sát Sám?
Đáp:
Tội lỗi chẳng thể nói với
người khác th́ quư vị bái sám, hoặc là lạy Địa
Tạng Sám, hoặc lạy Quán Âm Sám, Bồ Tát đều
biết. Quư vị chẳng nói, Bồ Tát vẫn biết. Khi
quư vị hướng về Bồ Tát thổ lộ, đó
gọi là “phát lộ sám hối”. Nếu quư vị
đă tin tưởng Bồ Tát, chớ nên giấu giếm,
Bồ Tát không cần quư vị nói, Ngài vẫn biết! V́
sao c̣n bảo quư vị phát lộ sám hối? Nêu bày cái tâm của
quư vị! Giống như chúng ta vứt bỏ một món
đồ chi đó, phát lộ sám hối là buông xả, chẳng
c̣n tái phạm cái tội ấy nữa, có ư nghĩa như
thế đó. Quư vị giấu giếm Bồ Tát ư? Ngay
cả đối với quỷ thần mà quư vị c̣n chẳng
thể giấu giếm được! Quỷ thần đều
có thần thông. Mỗi ngày phải bái mấy lần Chiêm
Sát Sám th́ ba nghiệp mới có thể thanh tịnh? Chẳng
phải là mỗi ngày quư vị lạy Chiêm Sát Sám mấy lần,
mà là quư vị lạy để cầu Chiêm Sát Luân hiện
tướng thanh tịnh. Chẳng phải là mỗi ngày mấy
lần, mà là hằng ngày đều bái. Chẳng có số lần
để trắc nghiệm! Lạy chừng nào quư vị
đạt tới thanh tịnh mới thôi. “Lăo pháp sư có đạo
tràng tại Đài Loan hay không ư?” Chẳng có! Có sám thất
để tu Chiêm Sát Sám hay không? Chẳng có! Tại Đài
Loan, tôi không có đạo tràng.
*
Hỏi: Đệ tử lần đầu tiên nghe nói kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và pháp môn bái sám, đối với
việc phụng hành sám pháp này, ngoại trừ chí thành tâm
và cung kính tâm, chiếu theo hành pháp do Trí Giả đại
sư chế định để thực hiện th́ có chỗ
nào cần phải chú ư hay không?
Đáp:
Nghe nói kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo và pháp môn bái sám, phụng
hành sám pháp này, ngoại trừ chí thành tâm và cung kính tâm, chiếu
theo hành pháp do Trí Giả đại sư chế định
để thực hiện, sẽ giống hệt. [Đối
với những điều] chúng tôi đang nói về Chiêm
Sát Sám của Địa Tạng Bồ Tát, quư vị hành
theo sám pháp của Trí Giả đại sư th́ cũng [phải
chú ư] giống như vậy. Đại Bi Sám hay rất nhiều
sám pháp đều giống nhau, chỉ cần có tâm chí thành
là được rồi. Dùng Chiêm Sát Luân th́ xưng thánh hiệu
là điều tất yếu, quư vị ắt cần phải niệm. V́ Địa Tạng Bồ Tát dạy:
Khi quư vị muốn sử dụng Chiêm Sát Luân để
bái sám, nhất định phải niệm một ngàn câu
thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát. Niệm
đủ một ngàn câu rồi mới dùng [Chiêm Sát Luân]. Khi
sử dụng mà chẳng linh, quư vị lại lạy và niệm.
Khi đă linh, linh th́ vẫn chưa phải là kết thúc. Lạy
đến mức được linh nghiệm tức là
quư vị sử dụng Chiêm Sát tướng pháp sẽ linh
nghiệm, có thể tương ứng. Sám pháp nhằm chỉ
dạy quư vị sám hối nghiệp ấy đă thanh tịnh
hay không. Để sám hối thanh tịnh, quư vị phải
lạy, lạy nhằm mong thành đạo. Chẳng sám hối thanh tịnh, lại càng phải sám hối cho thanh tịnh.
Nếu thanh tịnh, sẽ chẳng thọ báo, vấn
đề là như thế đó. “Tương ứng”
có nghĩa những ǵ trong tâm quư vị suy tưởng và lời
dạy trong kinh, cách nghĩ của quư vị và tướng
trạng nói trong kinh phù hợp khít khao, th́ gọi là “tương
ứng”. Quư vị suy tưởng mà chẳng giống
như kinh đă dạy th́ gọi là “chẳng
tương ứng”. Chẳng tương ứng là ǵ?
Chính là tâm quư vị vẫn chưa chí thành. Quư vị hăy tu lần
nữa cho đến khi tâm chí thành, sau đó sẽ
tương ứng. Tương ứng nhằm bảo cho
quư vị biết điều ǵ? Cho thấy quư vị có tội,
hăy nên sám hối, có ư nghĩa như thế đó. Sám hối
đă thanh tịnh, hoàn toàn chẳng phải là đă thành Phật.
Sám hối đă thanh tịnh bèn có thể tu pháp. Tu pháp sẽ
có thể thành tựu, học pháp sẽ có thể khai trí huệ,
mang ư nghĩa này. Bái sám chỉ là sám hối tội lỗi,
là bước đầu tiên để sám hối tội lỗi
ḥng tu hành. Chẳng c̣n tội, há chẳng thanh tịnh ư? Chẳng có tội, quư vị
tu Quán, quán lực thanh tịnh, tức là lúc có thể học
pháp, có thể tiến nhập, khai trí huệ, chính ḿnh xem
kinh có thể hiểu. Đắc định, tâm thanh tịnh,
có thể đắc Định, có thể nhập Định.
*
Hỏi: Có phải là cần niệm trước kinh Chiêm
Sát Hành Pháp (tức từ trang bốn mươi chín đến
trang năm mươi bảy trong kinh bổn) một lần
rồi mới bắt đầu bái sám?
Đáp:
Quư vị hỏi t́nh huống này, tôi chẳng hiểu quư vị
hỏi điều ǵ? [Quư vị nói] “từ trang bốn
mươi chín đến trang năm mươi bảy
trong kinh bổn của Chiêm Sát Hành Pháp phải niệm
trước một lần!” Chẳng có cách nói ấy! Khi
quư vị bái sám, chính là đối với cái nghiệp
[đă hiển thị bởi luân tướng], sám pháp dạy
quư vị lễ như thế nào, sắp xếp Phật
đường như thế nào? Sắp xếp Phật
đường th́ quư vị cứ tuân theo lời dạy của
Địa Tạng Bồ Tát trong Chiêm Sát Sám Pháp, phải lần
lượt lạy chư Phật trước; sau đó, lạy Bồ Tát. Lạy xong lại niệm
một ngàn câu thánh hiệu của đức Địa Tạng,
vâng theo thứ tự ấy để bái sám. Nếu thân thể
quư vị chẳng thể lễ lạy sám pháp được,
Địa Tạng Bồ Tát tạo phương tiện
thuận tiện nhất cho quư vị là mỗi ngày niệm
một vạn câu thánh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, sẽ chẳng
khác nào bái sám. Trong khi giảng kinh Chiêm Sát, tôi đă nói rất
rơ ràng!
*
Hỏi: Xin hỏi phương thức báo đền ân cha
mẹ? Tụng kinh ǵ hoặc làm điều chi khác?
Đáp:
Câu hỏi này là “đền
đáp ân cha mẹ như thế nào? Tụng kinh có thể
báo ân cha mẹ hay không, hoặc tu hành những điều
khác?” Tôi trả lời
bằng một chữ, “năng” (có thể).
*
Hỏi: Sư phụ A Di Đà Phật, người ta
đều nói “vô ngă”, nhưng con tụng kinh thường
phát hiện hai cái Ngă. Một là cái Ngă chân thật, và một
cái ở trong thân con. Cái Ngă bên trong chẳng bị t́nh tự
của cái Ngă bên ngoài dao động, nhưng lại thuận
theo cái Ngă ở bên ngoài mà tụng kinh. Con cũng chẳng nói ra, con cảm thấy
đó là tự tánh Ngă, cũng chẳng biết đúng hay
không? Người khác nói con “tẩu hỏa nhập ma”,
con tự cảm thấy chẳng giống như vậy!
Chỉ là đệ tử tu mù luyện đui, cứ thích
tụng kinh Địa Tạng, chẳng có thầy chỉ
dạy, có lúc thật sự hoảng hốt, sợ hăi. Cảm
ơn sư phụ khai thị.
Đáp:
[Ông nói] “sư phụ A Di Đà Phật”, sư phụ
chẳng phải là A Di Đà Phật! “Mọi người đều nói vô ngă”, ai nói? Mọi người đều nói vô ngă, Phật
nói, chẳng phải là ai nói. Đức Phật bảo cho
chúng ta biết, hết thảy phải nhận biết lời
Phật dạy là vô ngă. Nhưng [ông nói] khi tụng kinh, sẽ
thường cảm thấy có hai cái Ngă. Tôi thấy không chỉ
là hai cái Ngă. Ông có vô lượng
Ngă, lúc này có vọng tưởng này, thoáng chốc sau có vọng
tưởng khác. [Ông nói] “một cái là chân thật ngă, cái kia
là nội tại ngă”, xong luôn! Tâm rất loạn, ngay cả
chính ḿnh cũng chẳng nhận biết chính ḿnh. Hai cái Ngă chính là hóa thân của ông. Cái Ngă bên trong sẽ
chẳng thuận theo cái Ngă bên ngoài, tôi thấy
ông luôn thuận
theo bên ngoài. Đó là sai lầm! Làm sao một người có
hai cái Ngă cho được? Chẳng có! Chỉ có một Ngă, Ngă là ta. Địa Tạng Bồ Tát trăm ngàn vạn
ức hóa thân, chỉ là một. Kinh Địa Tạng Bồ
Tát nói: Địa Tạng Bồ Tát lễ Phật xong,
đem trăm ngàn vạn ức hóa thân quy vào một thân, tức
là một. Đạo hữu ơi! Tư tưởng của ông có vấn đề,
chớ nên loạn tưởng như thế! Loạn tưởng sẽ dễ bị ma dựa.
Không chỉ tu chẳng thành công, mà c̣n dễ bị ma dựa.
Ông lại c̣n [cho rằng] có cái Ngă bên trong thuận
theo cái Ngă bên ngoài cùng nhau tụng kinh, đă là chẳng chánh
xác. Ông tụng kinh chính là Ngă tụng kinh,
há c̣n có một cái Ngă nội tại
và một cái Ngă ngoại tại!
Người ta nói ông “tẩu hỏa nhập ma” chẳng
sai, nói rất đúng! Bản thân ông cảm thấy chẳng phải vậy,
chỉ là “đệ tử tu mù luyện đui”.
Đă biết chính ḿnh tu mù luyện đui, sao không quay về
chánh đạo? [Ông nói] “con thích tụng kinh Địa Tạng,
chẳng có thầy chỉ dạy, có khi rất hoảng hốt,
sợ hăi”. Khi niệm kinh Địa Tạng, chớ nên sợ
hăi. V́ sao? Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ
gia tŕ ông, cũng chẳng cần phải sợ hăi. Từ nay về
sau, ông chỉ có một
người, chẳng có hai người. Ông chẳng hóa
thân, hóa thân của ông là ma quỷ, chẳng
có thứ ấy! Ông suy nghĩ quàng
xiên, vừa tụng kinh, vừa rong ruổi
theo chuyện bên ngoài, đó có phải là hai cái Ngă hay không? Chẳng có! Hăy thâu nhiếp cái tâm của ông lại, chỉ nhất
tâm nhất ư niệm kinh Địa Tạng, vọng tưởng
sẽ tiêu mất. Nếu
không, ông sẽ bị ma
dựa!
*
Hỏi: 1) Kinh văn theo cách nh́n của kẻ phàm phu như
con, mỗi bộ kinh đều hết sức thù thắng,
phải thường đọc tụng lâu dài. Phàm nhân có
khi muốn đọc kinh này, có khi lại muốn đổi
sang đọc kinh khác, như thế th́ có tốt hay không?
Đối với kinh Dược Sư, nếu như chỉ
tụng Dược Sư Tán và niệm danh hiệu Phật
Dược Sư, có được hay không?
2)
Để sám hối tiêu nghiệp th́ đọc tụng bộ
kinh nào? Hay là tụng kinh Địa Tạng? Cách tụng
như thế nào? Hồi hướng như thế nào?
3)
Phải nên niệm Địa Tạng Vương Bồ
Tát Ma Ha Tát, hay là niệm Địa Tạng Vương Bồ
Tát?
Đáp:
[Ông thắc mắc] “kinh văn theo cách nh́n của kẻ
phàm phu như con, mỗi bộ kinh đều hết sức
thù thắng, phải thường đọc tụng lâu
dài. Phàm nhân có khi muốn đọc kinh này, có khi lại muốn
đổi sang đọc kinh khác, như thế th́ có tốt
hay không?” Chẳng tốt. V́ sao chẳng tốt? Một bộ
kinh, bất luận tụng kinh Kim Cang cũng thế, mà
đọc kinh Địa Tạng cũng thế, quư vị
đọc bộ kinh nào th́ phải thâm nhập. Đọc
chẳng phải là niệm văn tự! Kinh luôn có nghĩa
lư, dạy quư vị miệng phải ăn nói như thế
nào, thân thể làm như thế nào, kinh đặc biệt
dạy tâm ta phải suy nghĩ như thế nào. Trong bất
cứ bộ kinh nào, cũng đều dạy về ba nghiệp
thân, miệng, ư, quư vị hăy nên nhận biết như thế.
Quư vị mong đọc một bộ kinh khác, có thể!
Quư vị muốn đọc toàn bộ Đại Tạng
Kinh cũng được! Nhưng cái tâm của quư vị
phải chú trọng, chú trọng điều ǵ vậy? Một
điểm thôi, phàm là kinh do đức Phật đă dạy
[th́ đọc tụng, tu tập] đều
được. Trừ phi quư vị duyệt tạng, phải
sống sao cho cái tâm ứng hợp với những điều
kinh đă dạy. Bộ kinh nào cũng đều dạy
quư vị “đoạn tham,
sân, si; sanh trưởng
Giới, Định, Huệ”, tông chỉ là một:
“Khiến cho quư vị tiêu trừ vọng tưởng,
đạt đến chân thật”. Hăy miệng tụng,
tâm tưởng. Đọc kinh Dược Sư chỉ tụng
kinh Dược Sư và niệm thánh hiệu Dược
Sư Phật, đúng lắm, rất tốt. Vậy th́ quư
vị chuyên đọc kinh Dược Sư, niệm thánh
hiệu của Phật Dược Sư; đó gọi là “thâm
nhập một môn”. [Ông lại thắc mắc]: “Để
tiêu nghiệp chướng th́ sám hối, đọc tụng
bộ kinh nào? Kinh Địa Tạng có được hay
không? Cách tụng như thế nào? Hồi hướng
như thế nào?” Quư vị niệm kinh Địa Tạng,
trong kinh Địa Tạng có [đầy đủ các
bước để bái sám]. “Tụng” là niệm, niệm kinh Địa Tạng có phần hồi
hướng, phần trước nhằm phát khởi
cho phần sau, phẩm cuối cùng là hồi hướng. Mỗi
bộ kinh, phần đầu là phát khởi tự, phần
sau là hồi hướng. Tụng xong bộ kinh ấy,
đem công đức do tụng bộ kinh ấy hồi
hướng, gồm ba loại:
1)
Một là hồi hướng trí thù thắng của Phật,
mong cầu được thành Phật giống như Phật.
2)
Hai là phải hướng về chúng sanh, khiến cho hết
thảy chúng sanh đều có thể thành Phật.
3)
Nhưng quan trọng nhất là hồi hướng cho chính
quư vị trong đời hiện tại, tiêu trừ tội
nghiệp của quư vị trong đời hiện tại.
[Ông
thắc mắc] “hăy nên niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát Ma Ha Tát hay niệm Địa Tạng
Vương Bồ Tát?” Hai danh hiệu ấy chẳng có ǵ
khác biệt. Niệm Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát,
Ma Ha dịch nghĩa là Đại, tức là Đại
Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Sở
dĩ là Bồ Tát Ma Ha Tát, v́ trong các vị Bồ Tát, bậc
đại Bồ Tát thêm vào danh xưng Ma Ha Tát, tức là bậc
đại Bồ Tát trong các vị Bồ Tát. Cũng giống
như chúng ta, người được gọi là “đại
nhân”, tức là người có tâm lượng to, phước
báo lớn, có hàm nghĩa ấy. Ma Ha Tát bèn dịch là bậc
đại Bồ Tát trong số các vị đại Bồ
Tát.
*
Hỏi: 1) Khi đệ tử sử dụng
Chiêm Sát Luân, mong chiêm sát luân tướng để biết
nghiệp thiện ác của chính ḿnh và thay người nhà
chiêm sát thưa hỏi
các vấn đề, người nhà chẳng nhiệt t́nh,
mà cũng chẳng đến nơi để tham dự. Xin
hỏi là sau khi chiêm sát, khải thỉnh chư Phật, Bồ
Tát, lúc phải niệm thánh hiệu của Địa Tạng
Bồ Tát, có thể niệm hai ngàn câu hay không để hỏi
các vấn đề của chính ḿnh và người nhà hay
không?
2) Hay là cần phải chia thành hai lượt
nghi quỹ riêng để khải thỉnh, mỗi lần
đều là niệm một ngàn câu thánh hiệu để
xin chỉ dạy riêng rẽ?
Đáp:
Quư vị hỏi về chuyện dùng Chiêm Sát Luân thay cho
người khác, được hết, chẳng có vấn
đề ǵ! Quư vị thay người nhà sử dụng
Chiêm Sát luân tướng, xem thử nghiệp báo của
người ấy nặng hay nhẹ, hoặc là người
ấy bị bệnh khổ, muốn chiêm sát khi nào người
ấy sẽ lành bệnh, có nghiệp chướng ǵ, quư vị
c̣n có thể niệm kinh Địa Tạng tiêu tai cho người
đó. Làm như vậy đều đúng. Hoặc là niệm
thánh hiệu của chư Phật, Bồ Tát. Nếu niệm
thánh hiệu Địa Tạng, có thể niệm hai ngàn
câu hay không? Quư vị ấn định niệm một vạn
câu, tức là niệm nhiều. Quư vị ấn định
hai ngàn câu bèn niệm hai ngàn câu, nhưng mỗi ngày đều
phải niệm hai ngàn câu. Đồng thời, quư vị
định đả một thất, tức là ấn
định trong bảy ngày, hoặc hai thất, tức là ấn
định thêm bảy ngày nữa. Trong khi đả thất,
[nếu ước định] mỗi ngày đều niệm
hai ngàn câu, bèn niệm hai ngàn câu. [Ước định] niệm
một vạn câu, bèn niệm một vạn câu. Tùy thuộc
thời gian của chính ḿnh, tùy thuộc chính ḿnh phát nguyện,
chẳng có yêu cầu nhất định nào! Nhưng khi niệm,
chớ nên chỉ niệm danh hiệu suông mà thôi! Miệng
niệm, tâm tưởng, [tức là] miệng xưng niệm
danh hiệu, tâm quán tưởng thánh tượng của Bồ
Tát, tâm và miệng như một. Quư vị miệng niệm
suông, hiệu quả của câu niệm sẽ chẳng to,
quan trọng nhất là phải quán tưởng.
*
Hỏi: 1) Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, ắt
cần phải trước hết tu pháp sám hối đúng
không? Nếu chẳng tu pháp sám hối, văng sanh có bị
chướng ngại hay không?
2)
V́ sao có những người niệm Phật khi lâm chung bèn
bị hôn trầm, bất tỉnh? Làm thế nào để
tránh t́nh h́nh ấy phát sanh? Hăy nên hỗ trợ niệm Phật
cho người bất tỉnh hôn trầm như thế
nào?
Đáp: Quư vị thắc mắc “niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ th́ có cần phải tu pháp sám
hối trước hay không” ư? Chẳng
cần! Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quư vị
niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ là
được rồi. Nếu quư vị tu pháp sám hối,
trong pháp sám hối cũng có niệm Phật, hai đằng
chẳng mâu thuẫn, chẳng bị chướng ngại!
Sao lại có chướng ngại cho được? Pháp
sám hối càng tăng thêm sự thành khẩn niệm Phật
của quư vị. Quư vị sám hối, pháp sám hối là sám hối
một khoảng thời gian rồi lại niệm Phật
như cũ, đă niệm Phật rồi lại khôi phục
cách tu sám hối. Hai đằng giúp nhau thành tựu, chẳng
hề tổn hại nhau! V́ sao có những kẻ niệm Phật,
khi lâm chung hôn trầm, bất tỉnh
ư? Đấy là hai việc khác nhau. Hôn trầm, bất tỉnh
là một chuyện, hoàn toàn chẳng phải là người
ấy niệm Phật chẳng có công đức. Công đức
niệm Phật vẫn tồn tại, nhưng người
ấy niệm Phật chẳng niệm thành công. Niệm Phật
thành công, sẽ chẳng hôn trầm. Nhưng bị bệnh, hoặc
tối ngủ th́ sao? Chẳng phải là người niệm
Phật không ngủ, người niệm Phật cũng phải
ngủ. Ngủ rồi c̣n có thể niệm Phật hay
không? Mọi người hăy ngẫm xem, nếu công lực
niệm Phật của quư vị rất mạnh, khi ngủ,
tâm niệm Phật sẽ chẳng gián đoạn, ư niệm chẳng gián đoạn. Khi nằm
mơ có niệm Phật hay không? Tôi thấy rất nhiều
người đều có, họ ngày lẫn đêm đều
liên tục khởi lên [ư niệm niệm Phật]. Chuyện
này phải cậy vào công lực, chẳng phải là kẻ
b́nh phàm có thể làm được. Niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ không nhất định phải tu
pháp sám hối, quư vị niệm A Di Đà Phật là đă
sám hối. Các bộ kinh đều nói “đới nghiệp
văng sanh”, cách nói ấy rất phổ biến. Chúng ta ở
trong thế giới này, ba nghiệp vẫn chẳng thanh tịnh,
nhưng niệm Phật rất chuyên tâm, nghiệp chướng
trọn chẳng sám trừ sạch sẽ,
nhưng niệm Phật liền sanh về thế giới
Cực Lạc. Hoàn toàn chẳng phải là tới thế giới
Cực Lạc bèn thành Phật, vẫn phải tu hành, đa
phần [người văng sanh] đều mang theo nghiệp.
Nếu ở trong thế giới này mà chẳng có nghiệp,
đă thanh tịnh, đă thành tựu, người ấy sanh
về Cực Lạc để làm ǵ nữa chớ? Chính
người ấy c̣n sáng tạo một thế giới, mọi
người hăy nên hiểu đạo lư này! Niệm Phật
mà khi lâm chung bị hôn trầm, hoàn toàn chẳng phải là hễ
niệm Phật chuyện ǵ cũng đều có thể giải
quyết! Tùy thuộc công lực của quư vị như thế
nào! Kẻ đó chẳng đủ công lực, chẳng bị
hôn trầm ư? Nếu nói người niệm Phật v́
sao c̣n bị bệnh ư? Tôi nói Thích Ca Mâu Ni Phật c̣n bị
bệnh. Đó là bệnh thế gian, do lục căn chẳng
điều ḥa. Thân thể này là tướng thế gian,
tinh thần của quư vị là tâm linh, đấy mới là
thật. Làm thế nào để tránh khỏi t́nh huống
này phát sanh? Như thế nào có thể tránh miễn loại
t́nh huống này phát sanh? Vậy th́ lúc quư vị chẳng hôn
trầm, hăy khéo dụng công, sẽ có thể tiêu mất hôn
trầm. Chúng tôi thấy lúc niệm Phật,
có rất nhiều người ngủ gà, ngủ gật. Ở
ngay trong Niệm Phật Đường, quư vị thấy
khi đả Phật thất, tinh thần kẻ ấy mệt
mỏi. Tôi từng ở trong một đạo tràng cùng mọi
người niệm Phật, [trông thấy] có kẻ vừa
kinh hành niệm Phật theo đại chúng vừa ngủ gật,
mà vẫn bước đi. Quư vị đừng thấy kẻ
đó đi theo đại chúng [mà tưởng lầm nhé], kẻ đó vẫn
đang ngủ. Giống như khi tôi giảng giải, rất
nhiều người ngồi nghe, mắt mở trừng trừng,
nhưng đang ngủ! Mở to mắt mà vẫn có thể
ngủ à? Trong lịch sử, rất nhiều kẻ mở
to mắt mà vẫn ngủ. Trương Phi mở to mắt
mà ngủ, đúng như thế đó.
*
Hỏi: 1) Hiện thời, đệ tử khi mới vừa
bắt đầu lạy Địa Tạng Chiêm Sát Sám, có
thể đồng thời giúp người nhà cùng lạy
hay không? Hoặc là đợi cho đến khi chính ḿnh
đă lạy một khoảng thời gian, sẽ giúp
người nhà cùng nhau lạy?
2)
Trước khi bái sám, có cần phát nguyện trước:
“Đệ tử con tên là… nguyện v́ chính ḿnh và người
nhà là… cùng nhau bái Địa Tạng Chiêm Sát Sám” hay không?
Đáp:
[Ông hỏi] vừa mới bắt đầu lạy Địa
Tạng Sám, có thể giúp người nhà cùng nhau lạy hay
không? Rất tốt! Không chỉ tự độ, mà c̣n có
thể độ người khác. Người ta có chịu
lạy với quư vị hay không, vấn đề ở chỗ
này. Hoặc quư vị là gia chủ, cưỡng bách người
khác lạy theo quư vị, hiệu quả sẽ không lớn.
Hăy khuyên người nhà, nói với họ lợi ích do lạy
Phật. Nếu người ấy kinh doanh mong phát tài, quư vị
bảo người ấy lạy Địa Tạng
Vương Bồ Tát sẽ phát tài, người ấy sẽ
tuyệt đối nghe theo lời quư vị cùng lạy.
Người ấy thân thể rất suy yếu, quư vị
khuyên người đó “hăy theo tôi bái Phật, thân thể sẽ
khỏe mạnh”. Lạy Phật th́ vừa vận động
lại c̣n có sức gia tŕ, quả thật có thể đạt
hiệu quả rất nhanh chóng. Chuyện này mà
c̣n phải hỏi tôi, đáng lẽ phải hiểu rồi
chứ! Khi quư vị lạy Phật chính là phát nguyện. Khi
quư vị lạy, trước hết phải phát nguyện,
sau cùng là hồi hướng. Vị đệ tử nào học
điều ǵ, cho tới niệm một
câu A Di Đà Phật cũng phải phát nguyện. V́ sao phải
niệm Phật? Đơn giản, tối thiểu là muốn
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. V́
sao phải niệm Phật? V́ được Phật gia
tŕ! Gia tŕ quư vị điều ǵ vậy? Quư vị có mong cầu
th́ mới niệm. Vấn đề này rất đơn
giản, đây là phát nguyện, quư vị hiểu chứ?
Quư vị lạy Địa Tạng Sám cũng thế,
trước hết, hăy phát nguyện,
đă phát nguyện rồi mới bắt đầu tu hành.
Tu hành xong lại c̣n hồi hướng. Đấy là ba loại
tŕnh tự. Bất luận quư vị niệm kinh ǵ, trước
hết đều phải phát nguyện. Phát nguyện rồi
tu hành, tu hành xong lại c̣n phải hồi hướng. Sáng
sớm quư vị thức dậy, vào Phật đường,
điều đầu tiên là phát nguyện, phát nguyện
xong bèn tụng công khóa, tụng công khóa xong c̣n phải hồi
hướng. Đây là tŕnh tự nhất định, đệ
tử Phật đều làm như vậy. Chuyện này mà
c̣n đem hỏi tôi có thể hay là không? Tôi trả lời
quư vị, có thể! Không chỉ có thể, mà c̣n phải nên
như thế!
*
Hỏi: Trong kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo quyển hạ, Địa
Tạng Bồ Tát bảo hăy y chỉ cảnh giới Nhất
Thật để tu tín giải. Nếu là kẻ lợi
căn, hăy nên học Chân Như Thật Quán. Kẻ độn
căn th́ trước hết phải học Duy Tâm Thức
Quán, từ Duy Tâm Thức Quán mà đắc Sắc Tịch
tam-muội. Kế đó, hăy nên học tín tâm đối với
môn quán tâm bằng Xa Ma Tha và môn quán tâm bằng Tỳ Bát Xá
Na. Lại nếu là kẻ thiện căn nghiệp mỏng,
tâm nghi ngờ, khiếp sợ, trong hết thảy mọi
lúc, hết thảy mọi nơi, hăy thường tụng
niệm danh hiệu của ta… Nếu đắc nhất tâm,
thiện căn tăng trưởng, ư chí mạnh mẽ, nhạy
bén, hăy quán Pháp Thân của ta và Pháp Thân của hết thảy
chư Phật. Trong kinh nhắc tới Chân Như Thật
Quán, tín Xa Ma Tha quán tâm, và quán Pháp Thân của chư Phật,
phép Quán ấy và nội dung có phải là có thứ tự cạn
sâu khác biệt hay không?
Đáp:
“Trong kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo quyển hạ, Địa Tạng
Bồ Tát bảo hăy y chỉ cảnh giới Nhất Thật
để tu tín giải. Nếu là kẻ lợi căn, hăy
nên học Chân Như Thật Quán. Kẻ độn căn
th́ trước hết phải học Duy Tâm Thức Quán, do
Duy Tâm Thức Quán mà đắc Sắc Tịch tam-muội. Kế đó, hăy nên học tín tâm
đối với môn quán tâm bằng Xa Ma Tha và môn quán tâm bằng
Tỳ Bát Xá Na”. Đoạn này quư vị trích dẫn từ kinh
văn. “Nếu người ấy thiện căn nghiệp
mỏng, cái tâm nghi ngờ, khiếp sợ, trong hết thảy
mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, hăy thường
nên tụng niệm danh hiệu của ta”. Đó là nguyên
văn lời dạy của Địa Tạng Bồ Tát.
Quư vị tâm nghi ngờ quá nặng, bái sám có thể thành tựu
hay không? Bất cứ chuyện ǵ cũng đều chẳng
tin tưởng, tuy đă học Phật, tín tâm chẳng trọn
đủ. Địa Tạng Bồ Tát nói quư vị chẳng
thể làm chi khác, tốt nhất là hăy niệm danh hiệu
của Ngài là được
rồi. Đó là nói với hạng chúng sanh khiếp nhược.
Vậy th́ quư vị có làm như thế hay không? Quư vị
sao lục kinh văn đem hỏi tôi. Khi tôi giảng, quư vị
đă nghe qua rồi. [Thắc mắc] Chân Như Thật
Tướng Quán, Xa Ma Tha quán tâm, quán Pháp Thân của chư Phật;
các pháp quán ấy và nội dung của chúng có phải là có thứ
tự sâu cạn khác biệt hay không? Quư vị hăy xem lại
kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo, tôi đă nói với quư vị rất
lâu rồi, chẳng nhắc lại nữa!
*
Hỏi: 1) Cầu giải thoát trong cảnh trần lao
như thế nào?
2)
Khi tĩnh tọa, ngay khi ấy bèn tê chân, thời gian mỗi
lần đều gần giống như nhau, bèn muốn duỗi chân ra ngưng tĩnh tọa. Trong giai
đoạn này, con chẳng có cách nào tiến bộ. Cung thỉnh lăo ḥa
thượng, con gặp phải bế tắc như thế
th́ phải nên làm như thế nào?
Đáp:
Cầu giải thoát trong cảnh trần lao như thế
nào? Quư vị là chúng sanh trong trần lao, mong cầu giải
thoát. Khi chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo
đă nói: “Quư vị niệm
thánh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ
Tát, lạy Chiêm Sát Sám, sẽ có thể
giải thoát”. C̣n như
tĩnh tọa tê chân bèn không muốn ngồi tiếp, vậy
th́ quư vị chẳng ngồi. Có khi vừa ngồi bèn suy
nghĩ “ta v́ chuyện
này mà nghỉ ngơi đôi chút, trong giai đoạn
này chẳng có tiến bộ”, thưa hỏi lăo ḥa
thượng, “con gặp vướng
mắc như thế, hăy nên làm như thế nào?” Quư vị ngay cả tu
mà c̣n chưa tu, đă đạt tới bế tắc
ư? Người ta khi công phu đạt tới mức
độ nhất định, tiến tu cao hơn chẳng
được. C̣n như quư vị ngay cả ngồi mà c̣n
chưa ngồi được, đứng cũng chẳng
phải, ngồi cũng chẳng ổn, niệm cũng niệm
chẳng thành, hăy khéo an tâm. Tâm quư vị chẳng đặt
nơi pháp, cũng chẳng đặt nơi đạo, tức
là vẫn chưa tiến nhập tín tâm. Hăy thân cận các
đồng tham đạo hữu, hoặc là tại ngôi
chùa quư vị thường đến, hoặc là đối
với vị sư phụ mà quư vị quy y, xin họ giải
thích cho quư vị.
*
Hỏi: 1) Khi nghe kinh thính pháp, dễ bị hôn trầm,
thường xuyên là như vậy. Xin hỏi đó là nhân
duyên ǵ? Đối trị
như thế nào?
2)
Khi tĩnh tọa, chẳng dấy lên ư niệm, nhưng h́nh
ảnh và âm thanh trong quá khứ vẫn trồi lên, làm như
thế nào đây? Đó là do nguyên nhân ǵ?
Đáp:
[Đạo hữu hỏi] “tôi hễ nghe kinh, thính
pháp, sẽ thường bị hôn trầm; như thế là do nhân duyên ǵ?” Nhân duyên ǵ cũng chẳng
phải, [mà là do] biếng nhác, giải đăi. Quư vị tới
đây nghe kinh, phải phát khởi tín tâm, phải có tâm
ưa thích, có tâm ĺa khổ, được vui. Nếu quư vị
muốn cầu được lợi ích, thăng quan, phát
tài trong xă hội, vẫn phải có cái tâm thăng quan, phát
tài th́ mới có thể cầu được! Từng có vị
đạo hữu nói “tôi mong lên chức,
niệm Địa Tạng Bồ Tát có linh hay không?” Tôi nói “linh chứ! Khá linh”. Phát tài cũng linh, tùy thuộc quư vị niệm
như thế nào? Niệm như thế nào vậy? Thành khẩn,
khẩn thiết mà niệm. Cho đến khi quư vị thành
khẩn, khẩn thiết niệm tới mức nhất
định, quư vị cũng chẳng mong phát tài, chẳng
mong phát tài mà vẫn phát tài, như thế đó! Khi tĩnh
tọa, chẳng có ư niệm, nhưng nghe thấy âm thanh trồi
lên, làm như thế nào ư? Ngay cả cái tâm tham Thiền,
cái tâm mong tu học, quư vị đều chẳng đặt
tâm ḿnh nơi đó, làm sao có thể tĩnh tọa cho
được! Quư vị có ư niệm là v́ lẽ nào? Quư vị
bộp chộp, hời hợt. Chúng ta làm bất cứ chuyện
ǵ, đều trước hết phải liễu giải
chuyện ấy nên làm như thế nào? Quư vị mong tu
hành, nói cách khác, v́ sao quư vị tu hành, trước hết là
do quư vị có ư nguyện, chẳng phải là mù quáng. Nếu
ngay cả ư nguyện mà quư vị chẳng có, đầu óc
mê muội bèn tĩnh tọa, tĩnh tọa để làm
ǵ? “Tĩnh tọa nhằm mục đích ǵ?” Trước hết,
quư vị phải xác định mục đích. Tĩnh tọa,
ta tham học nhằm mong tiến nhập
đạo, khiến cho tâm ta đừng bộp chộp,
xáo động nữa, sẽ thanh tịnh. V́ sao? Tĩnh lặng
th́ mới có trí huệ. Quư vị thấy nước lúc cuộn
sóng, cái ǵ cũng chẳng có. Nếu nước thanh tịnh,
quư vị đến soi vào nước, bóng dáng liền hiển
lộ. Hăy nên hiểu ư nghĩa ấy! Do vậy, nếu quư
vị muốn tu hành, trước hết, phải tĩnh
cái tâm. Làm như thế nào? Quư vị hỏi tôi làm như thế
nào, tôi liền thưa với quư vị: Hăy tĩnh tâm, buông
xuống hết thảy sự vụ trong một tiếng
đồng hồ hoặc nửa tiếng. Quư vị
tĩnh tọa nửa tiếng, dần dần tăng nhiều
hơn, cho tới khi quyết định đạt được lợi
ích do tĩnh tọa, quư vị sẽ tu hành lâu hơn. Nói
chung, phải có mục đích, bất luận làm bất cứ chuyện ǵ, quư vị cũng đều
phải có mục đích, phải có mục tiêu. Quư vị
mơ hồ, ngay cả mục tiêu cũng chẳng có liền
tĩnh tọa, ngồi để làm ǵ? V́ sao tĩnh tọa?
Quá mệt mỏi, ngồi xuống nghỉ ngơi cho rồi!
*
Hỏi: Năm trước, đệ tử bị bệnh
nha chu[2]
(chỉ có một cái răng bị bệnh). Năm ngoái, do
mệt nhọc đến nỗi bắp thịt ở
đùi bị viêm, đều là bệnh chẳng đến
nỗi mất mạng, tới nay vẫn chưa khỏi hẳn.
Chuyện chẳng lành kéo tới như thế, tuy đă
đi khám bệnh, nhưng vẫn chẳng có cách nào chữa
lành. Có phải là do duyên nghiệp chướng phát hiện
hay không? Có nên siêng cầu sám hối hay không? Nếu tụng
kinh sám hối, mà vẫn chẳng thấy chuyển biến
tốt đẹp, có phải là v́ nỗ lực chưa
đủ hay không?
Đáp:
Năm trước, quư vị bị nha chu; năm ngoái, bắp
đùi bị nhiễm trùng, nhưng chẳng đến nỗi
là bệnh tật trí mạng. Tuy chẳng nguy hiểm tới
tánh mạng, nhưng chẳng lành, một mực dây dưa
đến nỗi phải đi khám bệnh, chạy chữa,
[quư vị thắc mắc] có phải là nghiệp chướng
hay không? Quư vị hỏi tôi, tôi nói cho quư vị biết, quư
vị đă nói đúng rồi đấy! Đó gọi là
nghiệp chướng phát hiện, đúng là nghiệp
chướng. Vậy mà quư vị tụng kinh, sám hối, chẳng
thấy chuyển biến tốt đẹp, là v́ công phu không
tới. V́ sao tụng kinh, bái sám mà vẫn chẳng lành?
Quư vị chẳng phải là chân tâm tụng kinh, tâm chẳng
chí thành, hiệu quả chẳng lớn. Phải chế tâm
nhất xứ, cho đến khi quư vị tụng kinh đến
nỗi quên sạch bệnh tật, thứ ǵ cũng đều
chẳng có, hiệu quả sẽ tốt đẹp. C̣n nữa,
quư vị rất coi trọng thân thể này, coi nhẹ tụng
kinh, bái sám, niệm Phật, tuyệt đối sẽ
vĩnh viễn vô dụng! Quư vị rất coi trọng tụng
kinh, bái sám, coi quan trọng hơn thân mạng, bệnh sẽ
tuyệt đối tốt hơn. Hăy trao đổi hai
đằng một phen, có ư nghĩa như thế đó.
Đúng lắm, chính quư vị cũng nói “bản thân nỗ
lực chưa đủ”, chuyện này chẳng cần hỏi
ư tôi, quư vị hăy nỗ lực. Nỗ lực đủ mức,
không bệnh ǵ chẳng lành!
*
Hỏi: Năng sở song vong (Năng và Sở cùng mất),
như thế nào để quán Năng Quán cũng là Không?
Hơn nữa, tông Thiên Thai nói hai tầng Năng và Sở,
hăy nên lư giải như thế nào? Chữ “nhậm vận”
(任運) trong “nhậm
vận hiện tiền” lư giải như thế nào?
Đáp:
Trước hết, phải hiểu rơ Năng và Sở.
Năng là ǵ, chính là quán lực của chúng ta. Năng Quán
quán Sở Quán. Sở Quán là ǵ vậy? Đế lư! Không, Giả,
Trung được gọi là Tam Quán. Chân Đế, Tục
Đế, và Trung Đế là Tam Đế. Tam Đế
Tam Quán. Quán giống
như chúng ta gơ vào đầu vồ của cái vồ, c̣n Đế
th́ giống như ta gơ vào cái cán của cái vồ. Đế
là cái cán. Vấn đề này xét theo lẽ thường th́ là
định lực; khi chúng ta khởi đầu bèn tu tập Định,
sẽ có tiền
phương tiện. Tiền phương tiện là ǵ? Quư
vị tu Chỉ trước. Trước khi quư vị tọa
Thiền, hay tu Quán, công phu thứ nhất là luyện chân, công phu thứ
hai là [chế ngự]
tâm tán loạn. Quư vị trước hết phải luyện
chân [ngồi xếp bằng] cho vững, ngưng dứt cái
tâm tán loạn. Đă ngưng
dứt rồi mới khởi quán chiếu. Khởi quán chiếu
để quán sự vật một phen, hết thảy sự
vật thuần túy đều là chẳng tồn tại, là
Không. Nhưng trong cuộc sống hiện thực, nó chẳng
Không. Chẳng Không th́ là ǵ? Chính là quán lực làm chủ thể
quán (năng quán) để quán đối tượng
được quán (sở quán), tức tướng cảnh
giới. Hết thảy tướng cảnh giới đều
chẳng tồn tại. Trong khi quán trí của quư vị
đă thành tựu, dùng trí huệ chiếu th́ mới nhận
biết “các pháp đều là Không”. V́ sao? Chúng thuộc về
sanh diệt, chẳng phải là trường cửu, chẳng
phải vĩnh viễn tịch diệt. Nhưng trong ấy
có một cái bất sanh bất diệt, có một cái thường
hằng. Tức là giữa Không và Giả, có một cái Trung
Đế. Tam Đế là Không, Giả, Trung Tam Đế;
đấy là [giáo nghĩa] chủ yếu của tông Thiên
Thai, tương đương với nhiệm vụ chủ
yếu của cả tông Thiên Thai. Không, Giả, Trung Tam Quán.
Dùng quán lực ấy để đế quán, tức là
quán lực ấy để quán hết thảy các pháp. Quư vị
sẽ thấy tất cả hết thảy các pháp chẳng
có ǵ là chân thật, toàn là Không. V́ sao nó là Không? Sanh diệt.
Cho đến khi pháp sanh diệt đă diệt, pháp sanh diệt
chẳng dấy lên, dùng quán lực để quán pháp sanh diệt, bèn biết nó là giả, là Không. Nhưng có lúc tuy pháp
sanh diệt là Không, nhưng trong cuộc sống của
chúng ta, nó là chẳng Không. Giữa cái Không và Giả ấy,
lại có một tánh chân thật. V́ chúng ta cho là Không, tướng
được biến hiện bởi Không là Giả, trong
Không và Giả có một tánh chân thật. Đó là giáo
nghĩa chủ yếu của tông Thiên Thai, đó được
gọi là Trung Quán. Không bèn có đạo lư của Không, nói
theo Lư th́ đó chính là Đế (chân thật, sự thật),
[tức Không Đế]. Giả bèn có đạo lư của
Giả, gọi là Giả Đế. Trung Quán có đạo
lư của Trung Quán, gọi là Trung Đế. Không, Giả,
Trung Tam Quán đối ứng với Chân Quán và Giả Quán,
tức là Chân Không Tuyệt Tướng Quán, Lư Sự Vô Ngại
Quán, và Châu Biến Hàm Dung Quán. Tam Chỉ, Tam Quán là học giáo
nghĩa. Người có thể hỏi về vấn đề
này, nhất định là một vị pháp sư, v́ các đạo hữu b́nh
phàm sẽ chẳng thể nghĩ đến vấn đề
này. Tam Quán và Tam Đế toàn là trí huệ học, trí là căn
bản, huệ là liễu đạt, huệ là phân biệt.
Trí chiếu Lư, huệ chiếu Sự. Nơi Sự th́ hết
thảy khác biệt, hết thảy chuyện ǵ cũng
đều là huệ giải. Nơi Lư th́ chẳng phải vậy; nơi Lư th́ là Trí, Trí là chiếu. Trí
huệ là chiếu, giống như vầng mặt trời
chiếu soi đại địa. Thái dương chẳng phân biệt,
cũng chẳng thiên vị, mà là do người tiếp nhận
ánh thái dương. Quư vị ở trong nhà, mặt trời
có chiếu đến quư vị được không? Quư vị
là người tiếp nhận có chướng ngại, chứ
thái dương chiếu trọn khắp. Chân Như Thật
Tế lư địa ai nấy đều sẵn đủ,
b́nh đẳng, nhưng chính quư vị tự có chướng
ngại và nghiệp chướng. Nghiệp chướng
đă tiêu th́ sẽ chẳng có [chướng ngại]. Tam Quán
là Năng, tức là cái có thể quán chiếu Đế, Lư
là cái được quán chiếu. Đó là một cặp
Năng - Sở. Trong tứ
giáo (tông Thiên Thai) th́ là Không, Giả, Trung, c̣n trong ngũ giáo
(tông Hoa Nghiêm) th́ là Chân Không Tuyệt Tướng, Lư Sự
Vô Ngại, và Châu Biến Hàm Dung. Đấy là những
điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm.
Quư
vị dùng trí Năng Quán để quán lư sở quán. Sự
có thể hiển Lư; ngược lại, Lư có thể thành tựu
Sự. Nhưng Lư và Sự vô ngại, Lư có thể thành tựu
Sự, Sự có thể hiển Lư, đó gọi là Lư Sự
vô ngại. Cảnh giới này trọn khắp hết thảy
mọi chỗ, hết thảy mọi lúc, chứa đựng
trọn khắp, hoàn toàn là tánh, thật sự đạt tới
nhất tâm. Một đằng là phàm phu, một đằng
là thánh nhân. Thoạt đầu, lúc tu Quán Đế, dùng Quán
để chiếu đế lư. Đương nhiên, hiện
thời chúng ta đều là phàm phu, nhưng chúng ta có thể
tu. Điều thứ nhất là chúng ta quán thấy các sự
vật trong thế gian đều là vô thường, nhận
biết chúng là vô thường. Vô thường rành rành là Không, hết
thảy các pháp đều ở trong Không. Tuy có h́nh tướng, nhưng đều
là rốt ráo Không. Trong tương lai, nhất định trở về
Không. Trí huệ của quư vị quán chiếu hết thảy
các pháp đều là Không, chẳng có tham luyến.
Nhưng
thoạt đầu, trong khi quư vị quán, khi nhận biết
các pháp, nó chẳng có tướng chân thật, toàn là giả.
V́ là giả, cho nên quư vị mới có
thể biết nó rốt cuộc là Không, từ trong Không hiện
ra h́nh bóng, chẳng phải là sự thật, là giả trất.
Một đằng có, một đằng không. Trong cái hữu
và vô khi ấy, có Trung Đế. Khi nói theo Lư th́ Trung Đế
tùy duyên, cũng là duyên theo cái Không, mà cũng là duyên theo Giả. Đấy là Tam Quán.
Nhưng có một trí huệ có thể liễu giải sự
vật. Đó gọi là Năng. Có trí huệ ấy là v́ mỗi
vị đạo hữu chúng ta, do được Phật
dạy bảo, liền sanh ra trí. Trí ấy chẳng phải
của chúng ta, mà là do chúng ta vận dụng giáo nghĩa từ
kinh điển. Đức Phật dạy chúng ta, nhưng
chúng ta có thể vận dụng để thường
xuyên tu luyện, tâm hợp với Phật. Năng quán trí có
thể sanh ra hiệu quả, quán cái cảnh được
quán, đối với hết thảy các cảnh mới
nhận biết chúng là giả, biết hết thảy các
pháp đều là giả, duyên theo chúng sanh. Đó gọi là
nghĩa tùy duyên. “Chân” có nghĩa là “vốn sẵn
đủ”, cũng chẳng lệch vào Trung, cũng chẳng
lệch vào Giả; đó gọi là
Trung Đế. Tông Thiên Thai nói về Tam Đế Tam Quán,
Không Giả Trung Tam Quán quán Chân Đế, Giả Đế
và Trung Đế.
*
Hỏi: Đức Phật cách chúng ta đă hai ngàn năm
trăm năm. Do đức Phật đă nói ra kinh điển
nhiều ngần ấy đều là chánh pháp, vậy th́
định nghĩa của chánh pháp là ǵ?
Đáp:
Chánh pháp là ǵ? Tà pháp là ǵ? Tà và chánh phân định như thế
nào? Ĺa ngoài tâm, ĺa khỏi tâm chúng sanh, ĺa khỏi tâm chư
Phật, các pháp ở ngoài tâm, th́ toàn là tà! Nói “vạn pháp
từ tâm khởi, vạn pháp theo tâm diệt”, phàm là hết
thảy các pháp đều quy về tâm; đấy là giáo
nghĩa Đại Thừa. Phàm là do tâm mà có h́nh, có tướng,
sẽ hoàn toàn chẳng phải là chân thật. V́ sao đức
Phật nói hết thảy giới luật? Quư vị thọ
Tam Quy, Tam Quy cũng là giới. Quy y Phật, quư vị chẳng
thể quy y tà ma, ngoại đạo. Quy y chánh pháp, chẳng
quy y tà thuyết. Hết thảy các tà thuyết cho đến
văn tự thế gian đều là tà. Hai đường
chánh và tà đều từ tâm khởi, “tâm sanh th́ các thứ
pháp sanh, tâm diệt th́ các thứ pháp diệt”. V́ sao kinh
điển là chánh pháp? Do từ tâm khởi. Quư vị phải
học chánh pháp, trở về với tâm. Chẳng phải
là ngoài tâm có pháp, ngoài tâm không có pháp. Các pháp chính là tâm;
đó là Chánh. Giữ lấy pháp ngoài tâm th́ gọi là tà. Ngoài
tâm chẳng có pháp, quư vị phân định như thế
nào? Nói “viên nhân thọ pháp, không pháp nào chẳng viên”:
Người đó là viên căn, viên căn th́ thấy hết
thảy các pháp do nhân duyên sanh, các pháp do nhân duyên diệt. Phàm
là liễu giải nhân duyên th́ đều gọi là chánh pháp.
Ĺa khỏi nhân duyên, sẽ toàn là giả, là tà. Nhân duyên là
Không, cho nên đức Phật nói “nhân duyên sở sanh pháp,
ngă thuyết tức thị Không, diệc danh Trung Đạo
nghĩa, diệc danh vi giả danh” (pháp sanh bởi nhân
duyên, ta nói chính là Không, cũng gọi nghĩa Trung Đạo,
cũng gọi là giả danh). Đó đều là giả
danh tự, chẳng chân thật. Nhưng nó hiển thị
nghĩa Trung Đạo, cho nên “diệc danh Trung Đạo
nghĩa, diệc danh vi giả danh”. Đấy là chánh
pháp. Lịch đại tổ sư dạy chúng ta “viên
nhân thọ pháp, không pháp nào chẳng viên”. Đối với
các pháp sư học pháp cũng như vậy. Họ học
kinh điển liễu nghĩa, thấy hết thảy các
pháp toàn là viên, là các pháp sanh bởi nhân duyên, nương theo
viên nghĩa mà sanh khởi, chẳng có pháp nào không viên.
Nương theo liễu nghĩa mà đắc các pháp. Hết
thảy các pháp đều là liễu nghĩa.
Tập 18
Chư vị Bồ Tát từ bi! Chư vị
đạo hữu từ bi! Phàm là người phát tâm đến
pháp hội này, mọi người đều là Bồ Tát,
phát Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Vốn là
trong khi tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, có
đạo hữu xin truyền Tam Quy; hôm nay là thời gian
chúng tôi ấn định để truyền Tam Quy.
Nhưng các đạo hữu thọ Tam Quy lại mong
trước khi truyền trao Tam Quy cho các đạo hữu,
tôi sẽ giảng giải cho mọi người.
Đơn giản là bàn đôi chút về cái tâm, nói mấy
câu thôi! Tôi cũng thỏa măn mong cầu của mọi
người, không ngờ pháp hội hôm nay thù thắng
như vậy, có nhiều đạo hữu tham gia đến
thế!
Trong
các đệ tử học Phật, hiện thời mọi
người đều là đệ tử Phật, trong cuộc
sống hiện tiền của chúng ta, trong hoàn cảnh này,
trong h́nh thức này, bản thân chúng tôi cảm thấy chẳng
tốt đẹp, tai nạn thường xuyên xảy ra.
Các đệ tử Phật chúng ta cầu Phật, Bồ
Tát gia bị, hăy nên làm như thế nào để cống
hiến cho hết thảy chúng sanh khổ nạn trong hiện
thời? “Cống hiến” có nghĩa là thay mọi
người chịu khổ, chịu nạn. Tôi vừa mới
gọi mọi người đều là Bồ Tát. Bồ
Tát là đại đạo tâm chúng sanh. Tiếng Ấn
Độ nói là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch sang
tiếng Hán là Giác Hữu T́nh, khiến cho hết thảy
chúng sanh đang chịu khổ chịu nạn được
an lạc, được vui sướng. Trước hết,
các đệ tử Phật hăy nên phát Bồ Đề tâm, khiến cho họ miễn trừ
đau khổ, ách nạn. Chúng ta đều nương theo
lời Phật dạy, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát dạy
chúng ta: Đối trước hết thảy tai nạn,
trong thời gian Mạt Pháp đau khổ, tai nạn thường
xảy ra, làm thế nào để cứu độ họ?
Trong phẩm Tịnh Hạnh của Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát đă dạy “khéo dùng cái tâm”. Hôm nay tôi
muốn nói với mọi người về chuyện “khéo
dùng cái tâm”.
Các
đệ tử học Phật chúng ta đều hiểu “tâm
sanh vạn pháp, vạn pháp duy tâm”. Trong cuộc sống
hiện tiền, những khổ nạn mà quư vị thấy,
nghe, cho đến suy tưởng là do đâu mà có? Tự
làm, tự chịu! Chính ḿnh tạo nghiệp, chính ḿnh chịu
báo. Hiện thời, vấn đề lớn nhất
trước mặt là vấn đề kinh tế; vấn
đề kinh tế là tự làm, tự chịu. Tôi chẳng
nói cặn kẽ chuyện này, tôi chẳng phải là kinh tế
gia, tôi chỉ dựa theo luật nhân quả của Phật
giáo để nói. Người ta nói “thiện có thiện
báo, ác có ác báo. Chẳng báo là chưa tới lúc!” Ở
nơi nào tạo nghiệp nặng, người nơi
đó chịu báo sâu nặng. Các vị đạo hữu
Đài Loan có thể suy ngẫm một phen, suy ngẫm ǵ vậy?
So sánh đôi chút. So sánh như thế nào? Hăy suy ngẫm trên
quả địa cầu này, hiện thời sanh kế khó
khăn nhất chẳng phải là Đài Loan. Những nơi khác
như Âu Mỹ, Phi Châu, cho đến Úc Châu, đều
nghiêm trọng hơn Á Châu. So trong Á Châu, Đài Loan cũng chẳng
phải là nghiêm trọng. Rốt cuộc chúng ta đau khổ
v́ bị kinh tế đ́nh trệ ảnh hưởng, các
đệ tử Phật chúng ta phải nên cầu Phật,
Bồ Tát gia tŕ để chuyển biến loại t́nh huống
này.
Chúng
ta phải nên làm như thế nào? Văn Thù Bồ Tát dạy
chúng ta “khéo dùng cái tâm”. V́ tánh chất của tai nạn
toàn là do tâm chúng sanh tạo ra. V́ từ cái tâm mà phát sanh
nơi thân và miệng, tức là tham, sân, si trong tâm phát khởi
thành giết, trộm, dâm, dối nơi thân, và nói dối,
nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lời thô ác nơi miệng,
tức Thập Ác. Thập Ác Nghiệp trọn khắp toàn
thể địa cầu. Bất luận quư vị tới
nơi đâu! Hiện thời, trong pháp hội này, tôi cảm
thấy các vị đạo hữu đều là thiện
lương, đều phát Bồ Đề tâm. Tuy bản
thân chúng ta chẳng đích thân bị, nhưng trông thấy chúng sanh
đích thân hứng chịu, hăy coi nỗi khổ của
chúng sanh giống như bản thân ta đang bị hứng
chịu. V́ thế, chúng ta học tập Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát trong phẩm Tịnh Hạnh của Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Ngài dạy chúng ta hăy
chuyển biến ác tâm, ác hạnh, phải tu cái tâm thanh tịnh,
cái hạnh thanh tịnh. Ngài dạy chúng ta bốn chữ, bao
trùm phẩm Tịnh Hạnh, mà cũng có thể nói là bao
trùm cả bộ Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh. Bốn chữ nào vậy? “Khéo dùng cái tâm”.
Tâm chúng ta không ngừng dấy lên tác dụng, không ngừng
nghĩ tưởng, không ngừng tư duy. Quư vị phải
hướng dẫn cái tâm khéo vận dụng, trước
hết, hăy chuyển hóa
chính ḿnh, sau đó chuyển hóa những người chung
quanh quư vị. Đồng thời phóng xuất sức mạnh
ấy ra bốn biển, khiến cho nó sanh ra một sức
mạnh nhất định. Trong phẩm Tịnh Hạnh,
Trí Thủ Bồ Tát hỏi một trăm mười hạnh,
trong ấy bao gồm ách nạn của chúng sanh đang phải hứng chịu trong hiện tại, không chỉ
là kinh tế, mà c̣n giết, trộm, dâm, dối. Nếu
chúng ta muốn miễn trừ tất cả các tâm gây ra những
tai nạn ấy, phải nên làm như thế nào th́ mới
có thể miễn trừ các tai nạn ấy? Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát dạy “hăy khéo dùng cái tâm”.
Phương pháp để khéo dùng là trong cuộc sống hằng
ngày, trong tư tưởng và suy nghĩ, phải luôn luôn là
niệm nào cũng đều chẳng ĺa Tam Bảo, tức
[chẳng ĺa] Phật, Pháp, Tăng, nương vào sức
gia tŕ thanh tịnh của Phật, Pháp, Tăng, chuyển biến
hết thảy các hiện tượng trong xă hội.
Do
vậy, kinh Phật dạy “tâm sanh th́ các
pháp sanh, tâm diệt th́ các pháp diệt”. Tâm sanh các pháp.
Nay trong hội này có hai ba ngàn đạo hữu, mỗi người quư vị chuyển hóa
mười người, mười người ấy lại
chuyển hóa mười người khác, sức chuyển
biến sẽ rất lớn. Các pháp sanh từ tâm, các pháp do tâm diệt, chẳng hạn như mọi người
hay nói đến chữ Tham. “Khéo dùng cái tâm” tức là
nói quư vị chẳng tham. Nếu chẳng tham, tất cả
tài nguyên để nuôi sống nhân dân trong thế giới hiện
thời sẽ chẳng có vấn đề. Trời bốn
mùa mưa gió trưởng dưỡng chúng sanh, đất sanh trưởng lương thực để
trưởng dưỡng chúng sanh, nhưng có những kẻ
ác lũng đoạn, khiến cho [lương thực, các
vật dụng cần thiết cho cuộc sống] chẳng
thể phổ biến. Nơi này không có lương thực,
nơi kia chất đống vô lượng lương thực.
Lư giải vấn đề đói ăn như thế nào?
Có những tai nạn dường như là thiên tai, nhân họa;
thật ra, thiên tai do con người tạo ra. Nếu con
người chẳng tạo nghiệp, trong trời đất
sẽ chẳng có tai họa. Người ở nơi này tạo
nghiệp rất ác liệt, trời sẽ giáng xuống tai
nạn. Đạo lư này đệ tử Phật chúng ta hoàn toàn hiểu
rơ: “Quư vị tạo
nghiệp ǵ, sẽ có quả
báo đó”. Giả sử
chúng ta có thể khiến cho ai nấy đều khéo
dùng cái tâm, chẳng tạo nghiệp. Chẳng tạo ác nghiệp,
thuần là thiện nghiệp. Quư vị dụng
tâm như thế, thiên đạo sẽ báo đáp tốt
đẹp, thiện tâm ắt có thiện báo. Đáng tiếc
là hiện thời, cái tâm như thế quá ít, muốn t́m
ư? Chỉ có thể t́m trong các đệ tử Phật! Mọi người không tin, hăy nh́n chung quanh ḿnh, nh́n vào thành phố quư vị
đang sống, thậm chí lớn hơn một
chút, mở rộng đến tỉnh này của quư vị, cho
đến mở rộng thành toàn thể Đài Loan, người
khéo dùng cái tâm đông đảo, đều có thể vận
dụng cái tâm giác ngộ. Trong phần trên, tôi đă gọi
mọi người đều là Bồ Tát. Bồ Tát sẽ
hành Bồ Tát đạo, bố thí hết thảy hạnh
phúc cho nhân dân. Bồ Tát tự
ḿnh gánh vác hết thảy tai nạn, tức là tâm lượng
của Ngài to lớn, lại được gọi là Đại
Đạo Tâm Chúng Sanh. Giả sử mọi người ở
Đài Loan đều có thể làm như vậy, hơn hai
vạn người chúng ta sẽ chuyển biến vài tỷ
người trên cả thế giới, ai nấy đều
hướng thiện, thế giới sẽ chẳng c̣n tai
nạn.
Đáng
tiếc là vấn đề này chẳng thể thực hiện
được. V́ sao? Ngay cả bản thân chúng ta và chính quốc
độ Đài Loan này, đối với người ở
nơi đây, chúng ta vẫn chẳng thể khiến cho ai
nấy đều hướng thiện, chúng ta làm sao có thể
chuyển biến thế giới cho được? Đồng
thời, mỗi vị đạo hữu đều mong lục
thân quyến thuộc của chính ḿnh, những người
quư vị quen biết, những người quư vị đă
tiếp xúc, đều khiến cho họ hành Thập Thiện
Nghiệp, có thể làm được hay không? Từ cái tâm ấy, chúng ta tận lực
thực hiện từ các chúng sanh chung quanh ḿnh, đều
khiến cho họ khéo dùng cái tâm, vận dụng cái tâm của
chúng ta sao cho toàn là làm chuyện lợi ích người khác.
Đó gọi là “hành Bồ Tát đạo”, khiến cho
cái tâm của chúng ta thường nghĩ tạo
hạnh phúc cho người khác. Trong kinh điển, những
lời dạy như thế rất nhiều, các đệ
tử Phật của chúng ta đều biết, “chẳng
v́ an lạc của chính ḿnh, chỉ mong cho chúng sanh
được hạnh phúc”, tôi nghĩ mỗi vị
đạo hữu Phật giáo đều biết nói như
thế. Nhưng đấy chẳng phải là nói suông, phải
thực hiện, thực hiện bằng chuyện thực
tại. Chắc là có đạo hữu băn
khoăn “ta có thể làm được hay không?” Khiến cho
toàn thể thế giới đều hóa thành [thuần hành
Thập Thiện Nghiệp] là chuyện chẳng thể thực
hiện được, nhưng quư vị có thể thực
hiện đôi chút từ những người xung quanh ḿnh,
sẽ có ảnh hưởng phổ biến. Chẳng hạn
như chúng ta ném đá xuống biển, nước sẽ
gợn sóng lan thành từng ṿng tṛn, càng lan càng xa, càng lan ra
càng to. Chuyện này có nghĩa là có thể ảnh hưởng
thấu đạt. Quư vị có thể khiến cho cái tâm của
chính ḿnh thường nghĩ như thế. Đó gọi là
“khéo dùng cái tâm”, là “hành Bồ Tát đạo”. Cho
đến sẽ từ khéo dùng cái tâm mà tiến măi cho đến
khi thành Phật.
Nếu
giải thích cặn kẽ, “khéo dùng cái tâm” bao gồm Tứ
Vô Lượng “từ, bi, hỷ, xả”. Nếu mở
rộng ra, sẽ là bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục,
Thiền Định. Lục độ, vạn hạnh mà quư
vị thực hiện đều từ cái tâm, tâm sanh vạn
pháp. Nếu trong hội hiện tại của chúng ta có hai
ba ngàn người chẳng tham, sân, si, mỗi người
chúng ta ảnh hưởng mười người, hoặc
hai mươi người, chẳng mong cầu quá nhiều!
Hai ngàn người chúng ta sẽ ảnh hưởng bao
nhiêu vạn người? Chúng ta lần lượt hướng
ra ngoài gieo rắc, đều dùng cái tâm ấy để ảnh
hưởng người khác, càng ảnh hưởng càng lớn.
Sức mạnh từ cái tâm ấy lại phát khởi khiến
cho [các nghiệp] nơi thân và miệng, như đối với
giết, trộm, dâm nơi thân, nói dối, nói thêu dệt,
nói đôi chiều, nói lời thô ác nơi miệng đều
được thêm một chữ Chẳng, tức là chẳng
nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói lời thô
ác, chẳng nói đôi chiều, chẳng dấy lên ư niệm
tham, sân, si, chẳng làm chuyện giết, trộm, dâm.
Đó gọi là Thập Thiện. Nếu ảnh hưởng
lan truyền, tất cả các đạo hữu ở
Đài Loan đều có thể ảnh hưởng hơn
hai ngàn vạn người. Hơn hai ngàn vạn người
sẽ ảnh hưởng mười ba ức người
tại Đại Lục. Lại mở rộng hơn một
chút, mười ba ức người có thể trọn khắp
toàn bộ thế giới. Dân cư trên cả thế giới
vẫn là rất ít. Kinh Phật nói “vô lượng ức”,
cho nên con số ấy (con số mười ba ức
người) vẫn là số ít. Dụng tâm kiểu ấy
gọi là “khéo dùng cái tâm”. Đấy là một cách, dùng
các thứ phương thức ứng dụng, đều
là Thập Thiện Nghiệp.
Thập
Thiện Nghiệp là căn bản để hành Bồ Tát
đạo. Thập Thiện Nghiệp hành Bồ Tát đạo;
quư vị dùng cái tâm vô lượng đại bi để
hành sử. Hành sử bằng cái tâm vô lượng đại
từ, vô lượng đại hỷ, vô lượng
đại xả; nói gộp chung là “khéo dùng cái tâm”. Các
đạo hữu hành Bồ Tát đạo, chẳng phải
là tự ḿnh ngồi ở niệm kinh đường niệm mấy bộ kinh, hoặc tĩnh tọa mấy
chục lần nơi đó, ta tu quán tưởng, nhập
Thiền Định. Bồ Tát chẳng phải là như thế.
Bồ Tát là trong mỗi niệm đều lấy hết
thảy chúng sanh làm căn bản để hành Bồ Tát
đạo, chẳng nghĩ tới chính ḿnh, niệm nào
cũng đều chẳng ĺa khỏi chúng sanh. Các vị
đạo hữu tại gia, khi quư vị niệm kinh trong
Phật đường của chính ḿnh, do sức quán
tưởng, có thể quán tưởng những người
chung quanh ḿnh, cho đến quán tưởng thôn, trấn,
huyện nơi ta cư ngụ, cho tới mở rộng
thành một tỉnh. Tùy thuộc tâm lực của quư vị
đạt tới mức độ to cỡ nào, quư vị
sẽ có thể sử dụng tâm lực to cỡ nào, bèn
khuếch tán cái tâm của quư vị to chừng đó. Quư vị
khuếch tán tâm lực đến cả thế giới, thế
giới này sẽ ảnh hưởng vô lượng vô biên
thế giới khác. Có tin hay không? Đó là sự thật. V́
sao tất cả mọi người niệm kinh A Di Đà
đều niệm A Di Đà Phật? A Di Đà Phật cách
thế giới này của chúng ta khá xa. Giữa thế giới
Sa Bà và thế giới Cực Lạc cách biệt vô lượng
thế giới, mỗi thế giới đều có vô
lượng chúng sanh. Thế giới Cực Lạc ảnh
hưởng chúng ta. Nói theo ư nghĩa, chỉ cần chư
vị đạo hữu chúng ta phát tâm, tâm chân thật, quư vị
phát nguyện khẩn thiết, tâm chân, nguyện thiết, sẽ
biến thành sự thật.
V́
cái tâm của chúng ta có rất nhiều Hoặc (cấu
chướng phiền năo), quư vị vẫn chẳng thể
tin tưởng đạo lư rất sâu. Tôi đă từng hỏi
rất nhiều đạo hữu, tôi nói: “Quư vị là vị
lai Phật”. Họ trừng mắt, phản đối, chê
tôi nói bậy, quở tôi nói móc họ! Rơ ràng là tôi tán thán họ,
chân tâm là chuyện như thế đó. Cho đến khi
chúng tôi giảng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, người
ta cho rằng kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo là Tiểu
Thừa. Nay tôi giảng đến nửa bộ sau của
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo, mọi người hăy
nghe đôi chút, đó gọi là “pháp môn tâm địa”.
Quư vị có thể khéo dùng cái tâm, “khéo dùng” là “biết
dùng”. Quư vị vận dụng [cái tâm] to hơn một
chút. Lúc nào, niệm nào cũng nghĩ cho chúng sanh được
an lạc, chẳng nghĩ tới chính ḿnh. Bồ Tát là ǵ?
Đại đạo tâm chúng sanh. Khi quư vị khéo dùng cái
tâm này, khi dùng cái tâm như vậy, quư vị sẽ đắc
thần thông. Thần thông là ǵ? Tôi nghĩ các vị đạo
hữu đều mong đắc thần thông, “thần”
là ǵ? Chính là tâm! Cái tâm tự nhiên. Mỗi vị đạo
hữu chúng ta tâm đều trọn đủ, tâm lượng
rất lớn, đáng tiếc là chẳng dùng,
đă mê mất cả rồi! “Thần” là tâm, “thông”
là tánh. “Thần” gọi là “thiên tâm”, tức là cái
tâm tự nhiên mà quư vị vốn sẵn có. “Thông”
được gọi là huệ tánh. “Thông” là cái tâm tự
nhiên sanh trưởng vô lượng trí huệ, huệ có thể
giải quyết hết thảy nên gọi là “thần
thông”. Chân tâm huệ tánh quư vị vốn sẵn có,
được gọi là “tâm tánh”. Tâm tánh là thần
thông. V́ nay chúng ta tu hành chưa đủ sức, sức chẳng
to dường ấy, quư vị càng thêm gắng tu, nói ta mong
cứu độ sáu
mươi bảy ức người trên thế giới, khiến
cho họ đều được vui sướng. Quư vị
hằng ngày niệm kinh, tĩnh tọa tham Thiền, đều
nghĩ như vậy, nghĩ tới người khác và hết
thảy chúng sanh. Ư nghĩa này thuộc về ư nghĩa trong Hoa Nghiêm, chẳng phải
do chính ḿnh mong đắc môn Định nào, mong đắc
môn Huệ nào, mong thành tựu chi đó, đều chẳng
phải, mà là ǵ? Khiến cho hết thảy chúng sanh đều
được thành tựu, chẳng nghĩ tới chính
ḿnh. V́ thế, đại đạo tâm Bồ Tát là như
thế. Đấy là cảnh giới cao nhất. Từ nay
trở đi, quư vị hăy khéo dùng cái tâm.
Chúng
tôi lại nói hạn cuộc một chút, khi quư vị làm
chuyện ǵ tốt đẹp, làm xong hăy đem công đức
tốt lành do đă làm chuyện ấy, chính ḿnh chớ tham
luyến, đừng chấp trước, hồi hướng
cho chúng sanh, khiến cho họ được hạnh phúc.
Đương nhiên là cái tâm hồi hướng cho toàn thể
nhân loại, toàn thể chúng sanh vẫn chưa thể ngay lập
tức đạt được! Trước hết, quư
vị hăy bắt đầu từ lục thân quyến thuộc
chung quanh ta. Khi họ gặp tai nạn, quư vị phát nguyện
bằng ḷng chịu thay cho họ. Quư vị chẳng có sức
mạnh ấy, hăy niệm kinh Địa Tạng
để kinh Địa Tạng gia bị cho quư vị sức
mạnh ấy, hoặc niệm Phổ Hiền Bồ Tát
để Phổ Hiền Bồ Tát gia hộ cho quư vị sức
mạnh ấy. Niệm phẩm Phổ Môn, tùy tiện niệm
bộ kinh nào, nhưng phải niệm chân thật. Tôi nói “niệm
chân thật”, có lẽ mọi người nghi hoặc.
Chẳng phải là chiếu theo văn tự để niệm,
quư vị phải đặc biệt chú ư: Miệng niệm,
tâm phải tưởng. Đừng niệm kiểu trả
bài, hằng ngày đă niệm làu làu, hằng ngày niệm thuộc
nhuyễn nhừ, nhưng chẳng để tâm vào đó.
Khi niệm kinh, vừa niệm vừa làm chuyện khác, tâm
nghĩ tới chuyện khác, miệng vẫn niệm kinh,
hiệu quả sẽ chẳng lớn! Khi quư vị niệm
bất luận bộ kinh nào, tâm quư vị bị kinh chuyển
hóa. Tôi nói “khéo dùng cái tâm”, tức là cái tâm của quư vị
và bản kinh đang niệm giống nhau. Niệm Quán Thế
Âm Phổ Môn Phẩm th́ tâm giống như tâm của Quán Thế
Âm Bồ Tát, niệm kinh Địa Tạng th́ tâm giống
như tâm Địa Tạng Bồ Tát. Trong khi quư vị niệm,
cái tâm thật sự tiến nhập, trong mộng hiện
ra các tướng cảnh giới, chớ nên kể với
người khác! Chỉ có thể tự biết, chẳng
thể nói với người khác. Bất luận quư vị
cầu một bộ kinh nào, đă được gia tŕ, chớ
nên tuyên truyền ra ngoài. Đấy chẳng phải là thứ
để tuyên truyền, mà là để quư vị tự thọ
dụng. V́ quư vị chẳng biết sức mạnh của
đối phương, cũng chẳng biết thiện
nghiệp và thiện căn của đối phương,
chỉ sợ nói ra sẽ tạo ảnh hưởng khiến
cho người ta không tin, hoặc người ta c̣n quở
quư vị dùng tà thuyết mê hoặc người khác. Tốt
nhất là quư vị ấp ủ trong tâm, khiến cho cái tâm
khuếch đại to hơn. Khi quư vị đă niệm một
bộ kinh rất lâu, chân tâm và niệm tâm của quư vị
ḥa với bản kinh thành một Thể, sẽ nẩy sanh
hiệu quả, tự ḿnh chẳng cầu liễu sanh tử,
mà sanh tử của quư vị tự liễu! Quư vị chẳng
cầu tránh khỏi tai họa, mà tai họa tự nhiên tránh
khỏi!
“Khéo
dùng cái tâm” đạt tới mức độ sâu, nay mọi
người hăy thử dùng đôi chút. Dùng như thế nào?
Tách rời tâm và thân thể; tâm chẳng phải là thân thể,
thân thể cũng chẳng phải là tâm. Quan niệm này của
chúng ta hết sức nghiêm trọng, thân và tâm hợp thành một
th́ là phàm phu. Nếu quư vị có thể tách rời cái tâm và
thân thể, sẽ dần dần nhập thánh cảnh. Lúc mới
sử dụng th́ một hai năm chẳng có hiệu quả
to lớn. Quư vị sử dụng mười năm, tám
năm, dùng tới ba mươi năm hoặc năm
mươi năm, sẽ sanh ra hiệu quả. Như kinh
Lăng Nghiêm nói: “Hữu giác giác thống, vô thống thống
giác”, tức là dạy chúng ta: Quư vị có tri giác, cảm
nhận sự điều chi đó không thoải mái, bị
thương sẽ đau, nhưng sự đau đớn
ấy chẳng ảnh hưởng đến cái Biết,
đau đớn chẳng ảnh hưởng tới sự
nhận biết ấy. Đau chẳng thấu tới giác.
Cái cảm nhận đau đớn là thân thể, chứ
cái giác chẳng bị đau. Nếu mỗi vị đạo
hữu sử dụng công phu này nhiều hơn đôi chút,
trong khi quư vị đau khổ cũng thế, chi thể
nào phát sanh vấn đề cũng thế, thoạt đầu
đương nhiên là hiệu quả chẳng lớn. Cho tới
khi quư vị sử dụng công phu đă lâu, sanh ra hiệu
quả, đau chẳng phải là quư vị, chẳng phải
là cái tâm của quư vị, mà là thân thể, quư vị có thể
cảm thấy cái đau ấy chẳng thể làm đau
tánh giác. Nếu quư vị vận dụng cái tâm như thế,
sẽ thật sự đạt tới “khéo dùng cái tâm”.
Hăy thử xem có thể làm được hay không?
Trong
xă hội, chúng ta thường nghe nói “tinh thần biến
đổi vật chất”. Vật chất cũng có thể
biến đổi tinh thần, nhưng thường là nói
thông dụng như thế này: Chúng ta thấy tinh thần và
vật chất chẳng liên quan! Tôi có một người
thân thích làm kinh doanh. Có một lần, chở sang Pháp một
thuyền hàng hóa, tâm người ấy hoàn toàn chăm chú
vào hàng hóa trên chiếc thuyền ấy, v́ đó là toàn bộ
tài sản của ông ta. Hàng hóa ấy và tâm ông ta chẳng có
mối liên hệ ǵ, mà cũng chẳng liên quan ǵ tới
thân thể. Khi hàng hóa [mua được
sau khi đă bán hết chuyến hàng sang Pháp] chuyển về
Trung Quốc, đột nhiên chiếc thuyền ấy bị
ch́m, tất cả hàng hóa đều bị ch́m sạch. Ông
ta mới bốn mươi mấy tuổi, chẳng phải
là rất già! Vừa nhận được điện
báo, ông ta cầm lấy tờ điện báo, vừa xem nội
dung, người khác thấy ông ta bỗng dưng
bất động, nh́n xem, đă chết mất rồi!
Chẳng có bệnh tật chi hết! Chuyện giống
như thế, trong lịch sử rất nhiều. Đó là
chẳng khéo dùng cái tâm, cái tâm gắn chặt vào vật chất.
Thân thể của chúng ta là vật chất, tâm chẳng phải
là vật chất. Người chết rồi, thân thể
tiêu diệt, tinh thần (tâm) trọn chẳng chết! Nó sẽ
chuyển thế, tùy thuộc thiện nghiệp nặng hay
ác nghiệp nặng, tùy thuộc nó chuyển thành ǵ, chẳng
giống nhau! Đó là vật chất biến đổi tinh
thần, tinh thần biến đổi vật chất. Nó
có thể biến đổi lẫn nhau, đó là quư vị “khéo
dùng cái tâm”.
Tôi
nói đề mục chủ yếu là “khéo dùng cái tâm”,
tức là nói khi chúng ta tu hành trong b́nh thời, bất luận
quư vị sử dụng pháp môn nào, khi quư vị dụng công,
hăy nên học “khéo dùng cái tâm”. Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát dùng bốn chữ ấy để dạy chúng ta, làm thế
nào để khiến cho những ǵ chúng ta đă làm đều
thanh tịnh? Chính là phẩm Tịnh Hạnh, phẩm Tịnh
Hạnh do tâm mà có, quư vị hăy khéo dùng cái tâm. Quư vị khéo
dùng cái tâm, biến toàn bộ tịnh hạnh của quư vị
trở thành thanh tịnh, miệng thốt lời thanh tịnh,
thân thể làm chuyện thanh tịnh, trong tâm suy nghĩ thanh
tịnh. Từ phẩm Tịnh Hạnh thanh tịnh này, quư
vị lại tiến thêm bước nữa là tu phẩm
Phạm Hạnh. Kinh Hoa Nghiêm có thứ tự, thứ tự
ấy hết sức nghiêm cẩn. Nếu quư vị chẳng
có Tịnh Hạnh Phẩm, mà mong vượt cấp, tu phẩm
Phạm Hạnh, tức là nhảy cấp, sẽ chẳng
làm được! Điều này khác biệt với những
giáo nghĩa khác. Nhưng hễ quư vị đạt
được một điều, đă nhập một
môn, “một chính là hết thảy, một đă thành th́ hết
thảy đều thành”. Nếu quư vị biết sử
dụng “khéo dùng cái tâm”, quư vị sẽ thành Phật.
Phật tâm là như thế nào, quư vị có thể chiếu
theo giáo nghĩa để phán đoán: Tâm ấy là giác, không
ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng hiểu, chẳng có tai
nạn nào không thể miễn trừ, nhưng phải hữu
duyên. Phật nói “kẻ vô duyên khó độ”, chẳng
hữu duyên sẽ chẳng cứu giúp được!
Dựa
trên đạo lư này, mỗi vị đạo hữu chúng
ta nếu muốn kết duyên với chư Phật, Bồ
Tát, trước hết, quư vị phải quy y Tam Bảo.
Đấy là căn bản. Quư vị chưa thọ Tam Quy,
tự ḿnh xem kinh Phật, học như thế nào, học
cũng rất khá, chẳng được coi là đệ tử Phật môn. Đệ tử Phật môn th́ khởi đầu
tối thiểu là trước hết quư vị quy y Phật,
quy y Pháp, quy y Tăng. Thông thường là dùng sự tướng
Tam Bảo, tức là chúng ta thấy tượng
Phật, kinh sách, và Tăng nhân, th́ gọi là thế gian Tam Bảo.
Nhưng khi quư vị quán tưởng, sẽ chẳng phải
là thế gian Tam Bảo, rời ĺa thế gian Tam Bảo,
cho đến theo thứ tự từ hành tín mà đạt tới
rốt ráo, Tam Bảo là nhất thể: Hết thảy
chúng sanh đều là Phật, hết thảy các pháp đều
là tâm, Phật và Pháp ḥa hợp là Tăng Bảo. Đó là nhất
tâm Tam Bảo. Tam Bảo do tôi truyền trao là sự tướng
Tam Bảo, khác hẳn. Từ thế gian Tam Bảo, quư vị
đạt tới nhất tâm Tam Bảo, nhập thanh tịnh
Tam Bảo. Tam Bảo là nhất tâm.
Trong
chốc lát, sẽ có các đạo hữu thọ Tam Quy. Thọ
Tam Quy là quy y Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo. Sau đó, quư vị
hăy học khéo dùng cái tâm này, khiến cho cái tâm quư vị
được sử dụng giống như tâm Phật,
đó là Phật Bảo. Tâm quư vị và giáo pháp do đức
Phật đă dạy giống nhau, tức là Pháp Bảo. Tâm
chính là Pháp, Pháp chính là tâm. Hết thảy các pháp chính là tâm;
tâm và pháp ḥa hợp gởi gắm nơi thân tăng nhân, tức
là Tăng Bảo. C̣n có tự tánh của quư vị vốn
trọn đủ Tam Bảo. Thể tánh của bản thể
quư vị là Phật Bảo. Tất cả tri thức vận
dụng là Pháp Bảo, thân thể và h́nh tướng của
quư vị là Tăng Bảo. Nhưng chúng ta thọ [Tam Quy] là
nương theo người khác để thọ,
nương theo thầy truyền dạy, thọ lănh sự
tướng Tam Bảo. Dựa theo tượng Phật, và
dựa theo giới Tam Quy để thọ. Quy y Phật, quy
y theo giới bổn là Pháp, văn bản quy y là Pháp Bảo,
vị sư phụ truyền thọ là Tăng Bảo.
Nương theo sự thể Tam Bảo, quư vị có thể
khéo dùng cái tâm này, biến nó thành tự thể Tam Bảo.
Tam Bảo chính là tự thân, tự thân liền trọn
đủ Tam Bảo, so ra càng thâm nhập hơn chút nữa.
Nhưng quy y th́ quư vị mỗi ngày phải hành. Bất luận
quư vị niệm kinh nào, khởi đầu đều phải
quy y Tam Bảo, chứng tỏ chúng ta quy y Tam Bảo chẳng
phải là một hai lần, mà là vô lượng lần, lúc
nào, niệm nào cũng đều quy y Tam Bảo. Đấy
chẳng phải là so đo tướng công đức, chẳng
phải là so đo tướng lợi ích. Những ǵ chính
ḿnh đă tiếp nhận, đă đạt được
đều bố thí, bố thí cho ai? Bố thí cho các chúng
sanh chẳng thọ Tam Quy, khiến cho họ đều có
thể được Tam Bảo gia tŕ, đều có thể
quy y Tam Bảo. Đó là khéo dùng cái tâm, mà cũng là một
cách vận dụng “khéo dùng cái tâm”. Phương pháp “khéo
dùng cái tâm” bao gồm vô lượng vô biên [phương
thức], tùy thuộc quư vị suy nghĩ như thế nào.
Tôi
thường hỏi các đệ tử làm kinh doanh, tôi nói:
Giả sử Tam Bảo gia tŕ quư vị, khiến cho quư vị
kinh doanh nhất định có lời, đạt được
lợi ích. Đă đạt được, sẽ làm ǵ?
Câu trả lời chánh xác là ta đạt
được để làm ǵ? Ư niệm đầu tiên là
cúng dường Tam Bảo. Cúng dường to lớn chẳng
có, tối thiểu là sẽ thắp mấy nén hương,
đảnh lễ vài lạy, hoặc là mùng Một, Mười
Rằm, khi quư vị dùng cơm, hăy nghĩ tới Phật,
Bồ Tát. Trước hết cúng dường Phật, sau
đó chính ḿnh mới dùng. Đó gọi là “khéo dùng cái tâm”.
Phạm vi “khéo dùng cái tâm” hết sức rộng lớn.
Mỗi cử động, mỗi niệm của quư vị
đều phải dùng đến, sẽ được
long thiên ủng hộ, Tam Bảo gia tŕ, tự nhiên cát
tường.
Mỗi
khi gặp nơi nào có tai nạn, hoặc có tai họa chiến
tranh, nơi đó có đạo hữu, có đệ tử
quy y với tôi, tôi nhất định gọi điện
thoại hỏi thăm. Tôi nói: “Các đệ tử Tam Bảo
có bị hại nhiều hay không? Quư vị hăy khảo sát
xem”. Sau đó, họ trả lời: “Chẳng có đệ
tử Tam Bảo”. V́ sao tôi liễu giải điều này?
Tôi cũng muốn chứng minh một phen sức gia tŕ của
Tam Bảo rốt cuộc to cỡ nào! Nhưng điều
này là song phương, chẳng phải là đơn
phương. Ṿm trời tuy rộng, chẳng thể nhuần
thấm cỏ không rễ. Chẳng có rễ, sẽ chẳng
thể gia tŕ được. Nơi nào người ác rất
nhiều, ác nghiệp rất nặng, nơi đó mưa rất
ít. Đấy là sự thật, quư vị có thể tự
điều tra, nghiên cứu. Hiện thời, trong xă hội
thường xuyên có tai nạn, bất luận quốc gia
nào cũng đều xuất hiện chuyện khác thường.
Khác thường là chẳng giống b́nh thường,
được gọi là “tai nạn”. Có nơi về
căn bản là chẳng có đệ tử Phật, chẳng
có Tam Bảo, các đạo hữu đều có thể lư
giải điều này: Các đạo hữu trên toàn cầu
chẳng ít, mỗi nơi trên địa cầu tai nạn
liên tiếp xảy ra, đệ tử Tam Bảo mắc hại
khá ít. Nhưng sau khi quư đă thọ quy y Tam Bảo, phải
thật sự thực hiện, sức gia tŕ chẳng phải
là vấn đề b́nh an, mà là vấn đề thành đạo.
Do
đó, câu “khéo dùng cái tâm” nếu tách ra để phân
tích sẽ quá nhiều. Bất cứ sự vật cũng
đều bao hàm trong chuyện quư vị có khéo dùng cái tâm hay
không, quư vị dùng cái tâm như thế nào? Tôi nhắc lại lần
nữa, “khéo dùng cái tâm” lớn nhất là ǵ? Như thế
nào th́ quư vị mới được coi là khéo dùng cái tâm?
Quư vị toàn là mong làm cho người khác hạnh phúc, tâm niệm
của quư vị luôn nghĩ làm thế nào để hết
thảy chúng sanh đều hạnh phúc. Nơi này rất
nghèo khổ, rất bần cùng, ta làm thế nào để
khiến cho hết thảy các chúng sanh ấy đều có thể hạnh
phúc, chẳng bị tai nạn, chẳng nghĩ đến
chính ḿnh. Như vậy th́ mới thật sự là “khéo
dùng cái tâm”. Tôi hỏi các đệ tử Phật
đang hiện diện, đang hiện diện ở
đây toàn là đệ tử Phật, hăy đều nên
nghĩ đến nỗi đau khổ của hết thảy
chúng sanh, đừng cầu chính ḿnh an lạc! Quư vị niệm
kinh cũng thế, bất luận làm chuyện ǵ cũng thế,
hăy nghĩ tới hết thảy chúng sanh đang đau khổ,
nghĩ tới chúng sanh đang bị tai nạn. Như thế
là “khéo dùng cái tâm”. Hôm nay tôi cúng dường mọi người,
cống hiến mọi người, hy vọng các vị
đạo hữu đều có thể khéo dùng cái tâm!
Lược giảng
kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo hết
Phụ lục
Địa Tạng
Bồ Tát Linh Cảm Lục
* Chuyện tin Phật
cảm ứng của ông Lưu
Châu Dương Huệ Khanh ghi
Ông
Lưu Lập Thành cùng quê ở Thụy Kim, quen biết với
gia đ́nh tôi nhiều đời. Năm Dân Quốc 37 (1948)
tới Đài Loan, dạy học tại trường Tỉnh
Lập Thương Nghiệp Chức Nghiệp ở
Chương Hóa, trước sau bảy năm. Ngày Mười
Ba tháng Mười Một năm Dân Quốc 43 (1954), bỗng
bị ói ra máu. Đến Đài Trung chữa trị. Do ói
ra máu quá nhiều, bất tỉnh nhân sự, không thể nói
năng. Chúng tôi không biết, đến ngày Mười Bảy
biết tin, tới thăm, ông ta đă lâm vào t́nh cảnh
nguy hiểm. Vợ ông ta và các đồng nghiệp quyết
định mổ để mong sao có một phần hy vọng
trong vạn phần. Nhưng sau khi mổ, dạ dày và ruột
đều tốt, chẳng phát hiện khối u ở
đâu. Bất đắc dĩ, phải đem chỗ dạ
dày có thể phát sanh u loét cắt đi một phần, buộc
chặt một đầu chỗ tĩnh mạch có thể
tràn huyết. Chúng tôi ở bên cạnh, niệm thánh hiệu
Phật, Bồ Tát và Đại Bi thần chú, cầu cho ông
ta an ổn. Tối ngày Mười Tám, khi tôi ở nhà niệm
Phật cho ông ta, phảng phất thấy ông Lưu đứng
trước mặt. Ngày Mười Chín tới thăm, niệm
Phật, tŕ chú cho ông ta. Ông Lưu nhiều lần chăm
chú nh́n tôi, sau đó, duỗi tay co chân, hướng về
tôi nói: “Tôi muốn ngồi dậy”. Em trai ông ta là Lập
Duyên nói: “Đây là câu nói đầu tiên trong mấy ngày qua”.
Tôi cho là điều này tương ứng với chuyện
ḿnh thấy tối qua, tự cảm thấy vui mừng.
Sau đó, thường đem nước Đại Bi cho
ông ta uống, lại c̣n bôi [nước Đại
Bi] lên đầu, trán, chân, tay ông ta. Đồng thời, bác sĩ dùng nhiều loại
phương pháp để trị liệu. Dưới t́nh
huống ấy, bệnh t́nh dần dần ổn định,
mọi người cho là kỳ tích chưa từng có,
nhưng gốc bệnh chưa trừ, vết mổ
chưa lành. Bảy tám ngày sau, bụng lại ph́nh to, cứng
rắn như cái trống. Do vậy, phải đổi bệnh
viện, mổ lần nữa, rút nước ra hơn một
vạn cc (cubic centimeter, phân khối). Bác sĩ
nói có thể là biến chứng gan bị xơ hóa, nước
liên tục tích lại, bụng tiếp tục căng phềnh,
đă hết cách chữa trị, bất quá chỉ kéo dài thời
gian mà thôi!
Ông
Lưu thần trí tỉnh táo, tự biết nguy hiểm,
nói với tôi: “Bác Châu ơi! Xin cứu con. Xin hăy tiếp nhận
con như một đứa con của bác”. Tôi nói: “Chúng ta
đời đời có giao t́nh, quan hệ chẳng tầm
thường. Tôi hằng ngày niệm Phật, tụng chú, hồi
hướng cho cậu. Cậu phải tin tưởng Phật
pháp, thỉnh Phật, Bồ Tát gia hộ”. Ông ta đáp:
“Vâng, con nghe theo bác chỉ dạy”. Ông ta nói với vợ:
“Tịnh thủy của bác Châu bôi lên đầu liền thấy
thoải mái. Bác vừa đến là tôi cảm thấy dễ
chịu! Chúng ta quyết định theo bác Châu tin Phật,
người khác nói thế nào đều nhất loạt chẳng
quan tâm!” Lại nói với cậu em là Lập Duyên vài lần,
và c̣n dặn ḍ: “Sau này các ngươi phải giúp ta chú ư”. V́
ông ta vốn tin theo Thiên Chúa Giáo, có nhiều điều cố
kỵ, nay quan niệm chuyển biến to lớn. Kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện dạy: “Phàm kẻ
cung kính Địa Tạng Bồ Tát và niệm tụng kinh
này, có thể tiêu trừ bệnh khổ, tăng trưởng
thọ mạng”. Gặp đúng dịp chùa Linh Sơn mở
Di Đà Phật Thất, tôi nói với ông Lưu và vợ
ông ta: “Chờ khi Phật Thất viên măn, tôi định mời
vài Phật hữu cùng tới niệm tụng kinh Địa
Tạng, cầu cho ông b́nh phục”. Trong lúc Phật Thất,
tôi và hai vị cư sĩ Cam Vương Tịnh Vĩnh và
Sử Phan Tịnh Ngưng ở trong biển âm thanh niệm
Phật, cũng thường hồi hướng cho ông ta.
Do đồng nghiệp của ông ta đề nghị
đổi sang uống thuốc Bắc, chẳng thể ở
trong bệnh viện, bèn từ Đài Trung chuyển về
nhà ở Chương Hóa. Lúc quay về, tôi biếu tượng
Phật cho vợ ông ta, muốn ông ta lập Phật
đường nơi chỗ ở để lễ bái, cúng
dường.
Ngày
hôm sau, tức sáng sớm ngày mồng Tám tháng Chạp, cả
nhà tràn ngập mùi thơm. Ông ta nói: “Cớ sao có mùi thơm
như thế? Đó là mùi đàn hương”. Lại biết
tượng Phật vẫn để trên bàn ở pḥng
ngoài, liền giục vợ: “Sao vẫn không treo tượng
Phật lên? Hăy mau treo lên! Lấy dấu thánh giá xuống!”
Treo lên, lễ bái xong, chẳng lâu sau bèn chẳng thể nói
năng nữa, đột ngột qua đời. Khi đó,
chưa đốt chiên đàn, mà mùi thơm lạ vẫn nồng
sực. Bệnh của ông Lưu nhiều người nói
chẳng cần phải mổ xẻ. Trước lúc xảy
ra chuyện, tôi chưa kịp góp ư. Lúc [bệnh t́nh ông ta]
nghiêm trọng, lại sáng chiều tham dự Phật Thất,
chưa kịp niệm kinh Địa Tạng Bổn Nguyện
cho ông ta, khôn ngăn tiếc nuối cùng cực! Bất quá,
ông Lưu vừa phát Bồ Đề tâm, một niệm
chân thành, chuyển biến quan niệm, tín ngưỡng Phật
pháp. Khi lâm chung, [mùi hương] chiên đàn tràn ngập cả
nhà. Phật, Bồ Tát cảm ứng đạo giao, tiếp
dẫn siêu độ, sức oai thần đúng là chẳng
thể nghĩ bàn. Sau khi viên măn Phật Thất, tôi vẫn
mời hai vị cư sĩ Cam và Sử ở liên xă v́ ông
ta tụng niệm kinh Địa Tạng, ḥng tṛn tâm nguyện,
giúp tăng huệ mạng cho ông ta. Toàn thể thầy tṛ
trường Thương Chức Chương Hóa làm lễ
truy điệu ông ta. Chồng tôi và tôi phúng điếu một
đôi câu đối như sau:
Kư
dĩ nhuệ phát tâm âm, hựu phục hải hội Phật
âm, văng sanh tự hiển chiên đàn thụy.
Tuy
nan kế tục thân mạng, thượng khả miên diên
huệ mạng, hứa nguyện chung hoàn Địa Tạng
kinh.
(Đă
dũng mănh phát tâm, lại trong biển âm thanh niệm Phật,
văng sanh tự hiển lộ điềm lành hương
chiên đàn,
Tuy
khó tiếp nối thân mạng, vẫn có thể kéo dài huệ
mạng, hứa nguyện hoàn măn tụng kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện).
Một
niệm tâm thành, khắp viện tỏa hương, đón
về Cực Lạc.
Bảy
năm cảm ứng, cả nhà buồn khóc Định Quân
sơn[3].
V́
chứng minh chí thành tin Phật, chẳng phân chia ranh giới,
có cảm liền ứng, ảnh hưởng nhanh chóng. V́
chứng tỏ thân mạng này có phần hạn, huệ mạng
có thể kéo dài, đặc biệt ghi đại lược
chuyện ông Lưu tin Phật pháp, đạt được
cảm ứng như trên.
Ngày
Hai Mươi Mốt tháng Hai năm Dân Quốc 44 (1955).
Bài
đăng trên tạp chí Bồ Đề Thụ, số
mười tám, phát hành trong tháng Ba năm Dân Quốc 44.
* Bệnh nặng
được cứu giúp
Chàng
Vương Phước Sơn là con út của cư sĩ
Lâm Quư Ngọc (chủ nhiệm Bồ Đề Học Viện
ở Tân Thành, tức Penang), rất hiền
đức, hiếu thảo với mẹ. Gần đây,
anh ta mắc bệnh nhiệt, sốt rất cao, thuốc
thang vô hiệu. Cư sĩ Trí Hải do thấy cư
sĩ Quư Ngọc nghe pháp bèn tận lực hành, đối với
pháp vụ, thấy chuyện nghĩa bèn dũng mănh làm, dẫu
xông vào nơi nước sôi lửa bỏng, vẫn vui vẻ
làm quên mệt, hết sức khâm phục, mà cũng hết
sức thương xót cứu giúp. Ông tận lực khuyên con
bà ta hăy quy y Địa Tạng đại sĩ, ḥng cầu
Ngài từ bi gia hộ để cởi gỡ oan khiên đời
trước, lại c̣n thay bà báo tin cho lăo pháp sư Hội
Tuyền là bậc tinh thông y học. Ở chỗ pháp sư
có loại Hầu Táo[4]
trị bệnh nhiệt rất hay, Sư bèn tặng cho
dùng, liền thấy công hiệu. Uống ba thang, bệnh sốt
cao khỏi hẳn, gia đ́nh và thân thuộc của chàng
Vương nghe tin, không ai chẳng hoan hỷ, cảm động.
Một là cảm Địa Tạng đại sĩ phi
thường cảm ứng, hai là cảm mộ ân đức
phương tiện từ bi gia hộ của lăo pháp sư
và cư sĩ Trí Hải.
* Bà Đường
Nhược Lan tự thuật chuyện cảm ứng do
khắc in kinh Địa Tạng Thập Luân
Năm
Dân Quốc thứ mười (1921), mẹ tôi bị bệnh
nguy kịch, nhằm lúc tôi đang làm việc tại trường
sư phạm nữ giới Bắc Kinh. Trở về tỉnh
nhà chưa được mười ngày, mẹ đă mất,
gặp đúng lúc quê nhà loạn lạc, chưa thể cầu
siêu được. Năm Dân Quốc 13 (1924), tôi ở
trường Tiểu Học Sư Phạm dành cho nữ
sinh tại Từ Châu, mộng thấy v́ mẹ cúng chay mà buồn
thương. Tính ra, vừa đúng ngày mẹ mất đă
ba năm. Năm Dân Quốc 14 (1925), trở về trường
Đông Đại chọn lựa kinh Phật để tu tập. Năm Dân Quốc
15 (1926), bèn trường kỳ trai giới. Năm Dân Quốc
16 (1927), tụng kinh Địa Tạng, mộng thấy mẹ
bảo bà đă vào Địa Tạng Viện. Năm Dân Quốc
30 (1941), cha mất, tụng kinh [hồi hướng cho cha],
lại mộng thấy cha được vào Địa Tạng
Viện. Năm Dân Quốc 31 (1942), cha mẹ đều
đă tám mươi [nếu c̣n sống], bèn tính cúng trai
tăng, vâng theo lời dạy của pháp sư Chánh Cang, bỏ
tiền khắc in hai quyển đầu của kinh Thập
Luân.
* Ghi chép về chuyện
bệnh liệt mà cảm mộng được ban thuốc
Duệ Tông ghi
Duệ
Tông mắc bệnh tê bại đă lâu ngày, có người
nói là do bệnh phong thấp, mấy lượt điều
trị mà rốt cuộc chẳng thấy hiệu quả.
Mỗi khi chuyển mùa, thời tiết biến đổi,
bệnh liền phát ra. Tứ chi sưng phồng, không có sức
cử động, các đốt xương khắp thân hết
sức đau đớn. Duệ Tông cuộc sống gian
nan, không nơi nương cậy, nào có tiền bạc
dư dả để cầu t́m thuốc hay, nhưng bệnh
khổ trói buộc, khó thể chịu đựng. Trong t́nh cảnh
muôn phần chẳng biết làm cách nào, bỗng
nghĩ chỉ có cầu Phật, Bồ Tát từ bi gia bị,
khiến cho nghiệp chướng của Duệ Tông ngầm
tiêu, bệnh trầm kha chóng lành. Do vậy, bèn tự ấn
định tụng niệm thánh hiệu của hai vị
đại sĩ Quán Âm và Địa Tạng, quy định
khóa tŕnh mỗi ngày, nhất tâm tŕ niệm, cầu
được ngấm ngầm gia hộ. Hơn một tháng,
đêm mộng thấy ḿnh tới một nơi có ṭa nhà trệt
gồm hai gian, trong ngoài cách biệt. Có hai vị trượng
phu to lớn, mỗi người ở trong một gian, Duệ
Tông trọn chẳng quen biết, liền vào thẳng gian
trong. Một vị trượng phu đứng dậy,
dường như đang làm chi đó. Duệ Tông lại gần
xem kỹ, vị ấy bèn cười hỏi: “Ngươi
bị bệnh ǵ?” Duệ Tông liền thưa sự thật,
lại nói: “Tôi chẳng có sức chữa trị”. Vị
đó cười chẳng nói. Vị trượng phu ở
gian ngoài, ngồi tựa vào ghế, nghiễm nhiên bất
động, mắt chẳng nh́n Duệ Tông, dường
như chẳng liên quan ǵ. Tới lúc ấy, bỗng
nói: “Không uống trà là tốt nhất”. Chỉ một câu ấy,
Duệ Tông bèn từ biệt, trở ra. Tỉnh giấc biết
là mộng. Mộng là chuyện thường, không cho là lạ,
cũng chẳng nhớ tới. Thấm thoát hơn một
tháng, vô t́nh bỗng chứng nghiệm. V́ sao nói như vậy?
Duệ Tông có tật mê trà, [trà phải pha sao cho] sắc lẫn
vị rất đậm đặc. Nay
tuy chẳng nhớ lời nói trong mộng, nhưng mỗi
khi uống trà xong, lập tức có cảm giác. Trải qua
mấy lần kinh nghiệm, cảm thấy lời nói trong
mộng đích xác là có ư nghĩa. Mỗi lần uống
trà, bệnh liền phát ra. Nếu uống nước sôi, bệnh
sẽ giảm nhẹ. Quan sát, chứng nghiệm như thế,
rành rành chẳng sai, bèn chẳng dám uống trà nữa,
thường uống nước sôi, Chẳng lâu sau, bệnh
rốt cuộc bỗng nhiên lành. Từ đấy trở
đi, chẳng c̣n phát ra nữa, lạ thay! Kinh dạy: “Thuốc
A Già Đà, trị chung vạn bệnh”, quả chẳng
phải là lời suông! Ghi lại đại lược,
mong báo ân Phật, và giúp cho người đồng bệnh.
Tịnh tông học nhân Duệ Tông Phương Thánh kính ghi.
* Chuyện linh cảm
do trích máu vẽ tượng
Thánh Tử ghi
Cư
sĩ Thành Phục Sơ ở huyện Thái An, tỉnh Cam
Túc, từ lúc mười sáu tuổi đă chịu ảnh
hưởng sai lầm bởi luận thuyết của
Tŕnh Châu (Tŕnh Hạo và Châu Đôn Di, tức những người
chủ trương học thuyết Tống Nho), tự
gánh trách nhiệm bài xích Phật giáo và Lăo giáo. Ông ta ở
nơi hẻo lánh, chẳng có bậc cao tăng hoằng
pháp để thân cận, bèn coi thuyết của Tŕnh Châu là
danh ngôn chí lư. Từ đó liền vâng theo thuyết ấy để bài xích Phật giáo
và Đạo giáo, chứ thật ra, đối với
duyên do của đạo Phật và đạo Lăo, thật sự trọn chẳng biết ǵ! Năm Dân
Quốc 16 (1927), mắt phải kéo màng, chẳng thể thấy
rơ mọi vật. Đến năm Dân
Quốc 20 (1931), mắt
trái cũng thế. Thoạt đầu, ông ta vẫn
cho là đạo trời vô tri; sau
đó, đại ngộ
tri kiến của chính ḿnh sai trái, bèn cùng với con cực
lực sám hối, thống thiết sửa đổi lỗi
trước, quy y Ấn Quang đại sư, tận lực
tu tịnh hạnh, phỏng theo ông Viên Liễu Phàm lập mạng, noi
gương ông Du Tịnh Ư sửa tâm. Tuy được tâm
địa quang minh, mắt vẫn mù tối như cũ,
bèn tự soạn văn phát nguyện sám hối. Con ông ta là
cư sĩ Tịnh Niệm (pháp danh Siêu Kiện), trích máu vẽ
h́nh Phật, dùng son chép kinh. Kế đó, lại được
thượng sư Tŕ Tùng[5]
truyền dạy mật chú, sớm chiều tŕ tụng. Tới
năm Ất Hợi, tức ngày Mười Bảy tháng
Mười Một năm Dân Quốc 24
(1935), sáng dậy, ông dâng hương,
niệm tụng. Công khóa vừa xong, trời vừa mới
hửng sáng, ông lễ bái các thánh hiệu. Trong lúc lễ tới
Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát, vừa
nói chữ Bồ, chưa kịp thốt ra chữ Tát, bỗng
thấy kim quang trước bàn Phật vụt sáng, giống
như tia chớp lóe dài trên hư không. Từ đó trở
đi, mắt lại có thể thấy mọi vật.
* Địa Tạng Bồ
Tát linh cảm kư
Vưu Sư Khang ghi
Cư
sĩ Nhạc Sư Húc ở Trung Châu Phật Kinh Lưu
Thông Xứ tại Hà Nam, vợ mất sớm, một gái
đă lấy chồng, trong nhà chỉ có một mẹ già. Năm
Dân Quốc 20 (1931), mẹ bị xe kéo[6]
va phải, khiến cho đùi trái bị thương, chữa
trị chẳng lành. Suốt ngày cụ nằm trên giường,
tiêu tiểu, cho đến ăn uống đều cậy
cư sĩ nâng đỡ. Sáng tối hễ mẹ gọi, ông liền chạy đến, chẳng cởi đai
áo. Thấm thoát đă mấy năm, vất vả vạn
phần, chẳng có cách nào kinh doanh, tiền vốn cũng
đă dùng sạch. Ngày Hai Mươi Ba tháng Giêng năm Dân Quốc
23 (1934), Sư Khang dẫn bạn là Trương Khế
Chánh đến thăm, thấy t́nh trạng mẹ ông vẫn
như cũ. Cư sĩ vẻ mặt tiều tụy, râu
tóc bạc trắng. Sư Khang biếu ông năm đồng,
ông kiên quyết chẳng nhận, bèn bỏ bên gối của
mẹ. Ông cùng Sư Khang bèn phát tâm trong một trăm ngày, mỗi
ngày niệm một ngàn câu thánh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát, tính ra được mười vạn biến, ân cần
trân trọng hồi hướng cho mẹ, nguyện tiêu trừ
trọng tội Thập Ác, ĺa khổ, được vui. Cho tới năm giờ sáng ngày
Hai Mươi Chín, mẹ bảo con, thân bỗng nhẹ
nhàng, lại c̣n cảm thấy
rất đói. Cư sĩ liền dâng một chén ḿ. Cụ
ăn xong hoan hỷ, lại đ̣i ăn táo. Cư sĩ vui
mừng nói: “Mẹ đă lành bệnh rồi”. Mẹ đáp:
“Chẳng phải vậy! Chỉ sợ mẹ con ta phải
giă biệt măi măi”. Nói như thế xong, chưa nuốt táo
xuống, đột ngột qua đời. Cư sĩ vội
gơ khánh, niệm Phật hiệu. Bỗng có ông Châu Đồng
Sanh đến nói đêm qua mộng thấy mẹ [của
ông Nhạc] hướng về ông cáo biệt: “Sáng mai tôi sẽ đi”. Trong ḷng nghi ngờ, cho nên đến
thăm, mới biết cụ đă mất, chắt lưỡi
than lạ! Tối ngày Ba Mươi Mốt, đă an táng mẹ
xong, cư sĩ đau ḷng v́ mẹ mất, một thân
trơ trọi, buồn khóc khan cả tiếng, bỗng nghe
có người bảo: “Ông chớ nên khóc mẹ nữa, bà
ta đă được Địa Tạng Bồ Tát tiếp
dẫn rồi”. Ông trợn mắt
nh́n quanh, cửa nẻo đóng chặt, có ai đến nói
đâu? Ông nhớ tới chuyện Sư Khang niệm danh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát hồi hướng, tin là do
oai đức của Địa Tạng đại sĩ
gia bị, bèn phát nguyện hằng ngày tụng thánh hiệu
Đại Sĩ, hồi hướng cho vong mẫu.
* Địa Tạng
Quán Âm linh cảm kư
Lâm Giác Hiền ghi
Quán
Âm Bồ Tát trọn đủ tâm đại từ bi,
thương xót chúng sanh, dùng ba mươi hai ứng thân
độ thoát hết thảy hữu t́nh. Ngàn tay, ngàn mắt
cứu các khổ ách. Địa Tạng Bồ Tát có đại
hoằng nguyện, chúng sanh chưa độ hết, thề
chẳng thành Phật. Kể từ khi Giác Hiền quy y Tam Bảo,
được nghe đại pháp, biết hai vị Đại
Sĩ Quán Âm và Địa Tạng có nhân duyên to lớn không
ai hơn đối với chúng sanh trong cơi Sa Bà, có thể
làm nơi nương cậy cho hết thảy khổ năo,
sanh tử, bệnh tật. Do vậy, đôi khi Giác Hiền
tu tŕ thánh hiệu của hai vị Đại Sĩ. Nếu
gặp hiểm nạn, đau khổ, tŕ niệm càng thiết
tha. Phàm những điều khẩn cầu, không ǵ chẳng
ứng nghiệm. Giữa tháng Bảy, tháng Tám năm Dân Quốc
28 (1939), mắc bệnh gần chết. Tiên nghiêm và bào huynh
đều tinh thông y thuật, nhưng đều cùng cảm thấy bó tay, lo lắng
muôn phần. Người đến thăm bệnh cũng
đều lắc đầu than thở, cho là chẳng thể cứu nổi. Giác Hiền tuy bệnh
nặng, thần thức vẫn thanh tỉnh, tự biết
bệnh này nếu muốn sống mà chẳng cậy vào sự
gia bị của chư Phật, Bồ Tát, sẽ không thể
được!
Khi
đó, pháp sư Hoằng Nhất và pháp sư Tánh Thường
đều trụ tích tại chùa Phổ Tế thuộc
làng Liên Hồ trong ấp của tôi. Pháp sư Tánh Thường
nghe Giác Hiền ngă bệnh, đích thân đến thăm viếng,
an ủi, đưa cho một bó hương nén, bảo:
“Đốt hương này, chí thành khẩn thiết niệm
thánh hiệu Quán Âm và Địa Tạng, chắc chắn sẽ
sớm có ngày chẳng cần thuốc mà bệnh lành”. Giác
Hiền bèn càng ngày đêm tín niệm, người nhà
cũng luôn luôn trợ niệm, bệnh liền chuyển biến.
Cho tới khi thắp hết bó hương, bệnh đă gần
như mất hẳn. Trong khi bệnh và sau khi bị bệnh,
trong giấc ngủ thường có điều kinh sợ.
Chẳng hạn như bỗng thấy núi lớn sụp
đổ đè xuống thân. Nếu Giác Hiền niệm to
thánh hiệu của Đại Sĩ, liền có một quả
núi lớn khác bay tới chặn ngọn núi sắp lở,
tiêu tán trong chốc lát! Cảnh tượng như thế,
chẳng phải chỉ một. Giác Hiền chẳng có ǵ
để báo đáp hồng ân của Đại Sĩ, kính
cẩn ghi chép sự tích linh cảm này để dấy khởi
tín nguyện [cho người khác].
* Địa Tạng Bồ
Tát tiếp dẫn phụ nữ tiết hạnh sanh Tây
Trần Bội Ngọc ghi
Người chị
dâu đă quá văng của tôi là Trương Thị, húy Thọ
Thân, pháp danh Thắng Thọ, là người huyện Tấn
Giang, tỉnh Phước Kiến. Bà sanh trưởng trong
gia đ́nh hiền thiện, thông minh từ bé. Lúc hơi lớn
lên bèn đọc sách Nho, ở nhà trọn hết niềm hiếu
đễ. Tới tuổi cài trâm, gả về Giang Hạ
(thuộc tỉnh Hồ Bắc), trở thành cháu dâu cả
của ông Hựu Đường. Kết hôn mới
được bốn mươi chín ngày, chồng đă bị
bệnh chết, bà liền tự thệ thủ tiết. Mẹ
chồng bị bệnh lâu ngày, thuốc men vô hiệu, bà cắt
thịt đùi chế thuốc. Do ḷng hiếu cảm vời,
mẹ chồng sống thêm được ba năm. Thân
thích trong ngoài tới nay vẫn ca ngợi. Ở
nhà, từ em chồng, chị em dâu, các cháu, cho đến
tôi tớ, xóm giềng, không ai chẳng ḥa hợp, nhân ái,
khen ngợi đức tánh của bà. Có người do
đói kém, bệnh tật xin giúp đỡ, dẫu đang
trong cảnh khốn khó, bệnh tật, bà vẫn tận lực
giúp đỡ, lo toan, chưa từng bỏ sót, nhưng chính
ḿnh ăn tiêu đạm bạc, quần áo, thức ăn
đều giản dị, sơ sài.
Tháng
Năm năm Dân Quốc 35 (1946), vị đại đức
đương thời là pháp sư Hoằng Nhất trụ
tích ở Ôn Lăng hoằng dương chánh pháp. Chị dâu
vốn khâm ngưỡng khuôn phép đạo hạnh của
Ngài từ trước, rủ tôi cùng tới chỗ pháp
sư, thọ Tam Quy Y, bèn ăn chay trong các tháng Hai, tháng Sáu,
và tháng Chín. Tôi cũng do túc nghiệp, chưa về nhà chồng,
chồng đă mất sớm. Vào cửa [nhà chồng]
mười mấy năm, sáng tối gắn bó với chị
dâu, được chị rủ ḷng yêu thương như
chị em ruột.
Chẳng
ngờ căn bệnh ung thư vú từ trước tái
phát, ngày càng nguy kịch, giằn vặt mấy tháng, cho
đến giờ Tuất ngày mồng Hai tháng Sáu âm lịch
năm nay, chị xả báo sanh Tây. Chị mất rồi, tấm
thân tàn này từ đây học đạo một ḿnh, không
ai bầu bạn. Than ôi, đáng
thương thay! Lúc bệnh t́nh của chị mới trở
nên nguy kịch, chị liền phát tâm ăn chay trường,
buông xuống hết thảy, niệm Phật cầu sanh
Tây Phương. Bệnh ngày càng nặng, cả nhà lớn
nhỏ mười mấy người, và mời thêm vài phụ
nữ ăn chay trường, ngày đêm luân lưu, chia
phiên trợ niệm Phật hiệu chẳng ngớt. Anh ruột
của chị là cư sĩ Chấn Đ́nh lại nhiều
lượt tới khuyên lơn, sách tấn, khiến cho
chánh niệm của chị càng rạng ngời.
Trong
lúc chị hấp hối, đứa cháu nội thừa tự
tên là Thừa Kinh, trong lúc mọi người đang tụ
tập đông đảo, đèn điện chiếu sáng
ngời, bỗng hoảng sợ hét ầm lên, sắc mặt
tái mét. Mọi người vội an ủi, hỏi han chuyện
ǵ. Nó nói: “Sau ṭa của bà nội, chợt thấy h́nh tướng
một vị Phật. Thân cao hơn khung cửa, đầu
đội măo có góc cạnh, thân khoác y bách nạp, tay cầm
gậy, dẫn bà nội ra đi”. Lúc đó, trong nhà có treo thánh tượng
Địa Tạng Bồ Tát. Mọi người mới hiểu
là do đức dày của chị, đă cảm vời
Địa Tạng Bồ Tát đại thánh nhân tới
đón tiếp, quyết định sanh về Tây Phương chẳng ngờ chi! Chị
đích thân trải qua cảnh giới thù thắng ấy. Hết
thảy mọi việc khâm liệm, tống táng đều
tuân theo chế định của Phật để xử
lư. Năm ngày sau, trà-tỳ (jhāpita,
hỏa táng) ở Anh Sơn, chưa đầy hai tiếng, đă
cháy sạch. Linh cốt trắng sạch, cứng chắc,
bỏ vào hũ sứ, chứa vừa đủ. Nay tạm
gởi tại Di Đà Nham ở núi Thanh Nguyên, chờ chọn
được ngày lành, sẽ dựng
tháp kỷ niệm. Tôi cảm niệm hạnh nghiệp b́nh
sanh của chị dâu cả, dẫu văn chương giản
dị, quê kệch, thiếu bóng bẩy, vẫn vội ghi
đại lược như thế.
Thanh
Nhăn đối với Trương nữ sĩ thẹn
được dự vào hàng nhân mạt[7],
luôn được nghe nói về phước đức trang
nghiêm của bà. Buổi sáng hôm nữ sĩ xả báo, tôi
theo ông sui gia là bào huynh Chấn Đ́nh của bà
Trương tới nhà bà tùy hỷ niệm Phật, hồi
hướng. Lại nghe chuyện Thừa Kinh thấy thánh
tượng Địa Tạng, liền gọi Thừa
Kinh lại hỏi ḍ, thấy nó nói giống hệt như mọi
người đă nói. Đứa bé này tuy mới chín tuổi,
thân thể đă khá vạm vỡ, đă đi học mấy
năm. Nó thông minh, sáng láng, là một đứa trẻ theo
kiểu hiện đại, trọn chẳng tin Phật
pháp. Nay bỗng tự nói chính mắt thấy thánh tượng,
thần thái khác lạ, có thể biết là do đức dày
của bà Trương cảm vời, Địa Tạng Bồ
Tát phương tiện ứng hóa chẳng ngờ! Chánh pháp
đă vào mùa Thu, quần sanh nghiệp nặng, chướng
sâu, được nghe danh hiệu một vị Phật,
danh hiệu một vị Bồ Tát c̣n chưa thể
được, huống hồ trông thấy Bồ Tát ư? Chẳng nỡ để chuyện này bị vùi lấp,
nên kính cẩn biên thêm vài lời thừa thăi vào sau [bài viết
của bà Trần Bội Ngọc]. Diệp Thanh Nhăn kính
đề.
* Nam-mô đại nguyện
Địa Tạng Vương Bồ Tát
Phùng Huệ Lai ghi
“Chúng sanh độ hết, mới chứng Bồ
Đề. Địa ngục chẳng trống, thề chẳng
thành Phật”. Đấy là
đại nguyện của Địa Tạng Bồ Tát. Trước
kia, tôi đă từng cảm Bồ Tát rủ ḷng từ,
đích xác là chẳng thể nghĩ bàn, bèn rửa bút ghi lại.
Kể từ khi tôi tin Phật tới nay, thoáng chốc
đă mười lăm năm, do thân dự vào trong giới
quân đội, chính trường, khổ v́ chẳng có thời
gian rảnh rỗi để tu tŕ. Kinh Địa Tạng
cũng chưa hề tụng qua. Năm Dân Quốc 32 (1943),
tôi phục vụ trong bộ chỉ huy pḥng không ở huyện
Hưng Ninh, tỉnh Quảng Đông. Trong các đồng
nghiệp có hai vị họ Trần đều thích bắn
chim, tôi bèn phát tâm khuyên ngăn, thừa dịp tuyên
dương Phật pháp, cực lực tán thán các thứ
công đức và oai thần của Địa Tạng Bồ
Tát. Hai ông họ Trần và quyến thuộc của họ,
và cùng một ông họ Hứa nghiễm nhiên được
Phật pháp cảm hóa, ai nấy đều lập đàn, niệm
thánh hiệu của Bồ Tát. Nhất là ông Hứa tín tâm
kiên cố, tu tŕ tinh tấn.
Cho
tới mùa Thu năm nay, tôi do bị bệnh,
bèn xin thôi việc, trở về quê. Ngày nọ, ở nhà, ngẫu
nhiên giở kinh Địa Tạng Bổn Nguyện ra xem,
chỉ vừa xem đôi ba trang, bỗng mùi hương từ
kinh tỏa ra. Trong khoảng sát-na, mùi hương lạ
đầy nhà, lúc lâu sau chẳng tan. Khi đó, tôi đang
mang bệnh chưa khỏi, do nhà nghèo, không có sức chữa
bệnh. Mấy ngày sau, c̣i cảnh báo khẩn cấp vang lên, tôi vội
chạy trốn. Vừa mới ra khỏi cửa, máy bay giặc
lùn (Nhật) đă đến, ném bom lung tung. Tôi do tấm
thân bị bệnh lâu ngày, gặp cơn kinh hăi ấy, hôn mê
ngă lăn ra đất, trúng gió mất hồn! Khi đó,
người nhà đă chạy vào hào trú ẩn, không ai biết.
Tính ra, tôi chết ngất từ ba giờ chiều tới
bảy giờ mới tỉnh, đă bốn giờ trôi qua.
Lạ nhất là chưa đầy hai ngày, bệnh đă
lâu bỗng dưng khỏi hẳn. Đấy hoàn toàn
nương vào sức từ bi của Phật, Bồ Tát mà
ra, nay nhớ lại thánh ân, đặc biệt đăng
lên tạp chí Giác Hữu T́nh[8]
để ghi nhớ măi.
* Oai thần của
Địa Tạng Bồ Tát
Thích Huệ Khánh ghi
Ngu
nạp[9]
đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện,
tán thán các thứ công đức cứu độ chúng sanh của
Bồ Tát. Do vậy, nhớ lại năm xưa triều
bái Cửu Hoa, trên đường đă trải qua hoạn
nạn, cảm được Bồ Tát rủ ḷng Từ
[cứu độ]. Xin kính cẩn thuật lại như
sau:
Ngày
mồng Một tháng Mười Âm lịch năm Dân Quốc 32 (1943), tôi ngồi chuyến xe sáng tới
Nam Kinh, nhằm lúc phi cơ màu trắng của nước
ta ném bom vùng Hạ Quan, toàn vùng bị
giới nghiêm, đến nỗi chuyến xe sang Vu Hồ bị
trễ. Tới được Vu Hồ th́ đă nửa đêm,
đèn đuốc đă tắt hết, cũng chẳng có
ánh sao. Giặc lùn kiểm tra rất ngặt. Trạm xe cách
thành phố khoảng một dặm, khách ngồi xe ai nấy
tự t́m đường. Chỉ có tôi đi một ḿnh, không đồng bạn, lạ nước, lạ
cái, đêm tối lại càng chẳng phân biệt được
phương hướng. Đang trong lúc chần chừ, bỗng
một vị Tăng đi đến, kéo tôi tiến lên, dẫn
đến nhà trọ ngủ nhờ. Tôi ḍ hỏi Sư từ
đâu đến và chỗ trụ tích, nhưng Sư niệm
Phật một tiếng, vái chào từ biệt. Sau này
nghĩ lại, hiển nhiên là Bồ Tát thị hiện.
Đó là chuyện thứ nhất.
Sáng
hôm sau, chuyển xe tới Đại Thông, chuyển sang
Đồng Phố, lại thuê một chiếc đ̣ nhỏ
tới huyện Thanh Dương, đường thủy
khoảng sáu mươi dặm. Theo lời phu thuyền:
“Thuyền ắt đi qua Hổ Kỳ Sơn, nơi đó
có giặc cướp chiếm đóng. Chúng thấy người
từ khu tạm chiếm (tức người từ khu vực
chiếm đóng bởi người Nhật) đi qua,
thường xả súng bắn. Từ hồi chiến tranh
tới giờ, người bị chết đông lắm!”
Người
nghe không ai chẳng sợ hăi, nhưng tôi
trọn chẳng để ư, bởi lẽ, tâm thiết tha triều bái Bồ Tát, đă gác hẳn
sanh tử ra ngoài. Dẫu có nguy hiểm, ắt được
Bồ Tát gia bị. Do vậy, trong tâm b́nh thản. Mặt
trời đă lặn về Tây, đêm đen
im vắng, gió tuyết rất lạnh. Mười giờ,
đ̣ bắt đầu chèo đi. Tôi liền an ủi, bảo
bốn lái buôn ngồi cùng đ̣ đừng nên sợ hăi,
hăy nhất tâm xưng niệm thánh hiệu Bồ Tát. Tôi tự
ḿnh ngồi ngay ngắn, chắp tay, kiền thành thầm cầu
nguyện, suốt bốn tiếng đồng
hồ chẳng buông tay. Người cùng ngồi đ̣
cũng im lặng, không thốt ra tiếng, chỉ nghe tiếng
nước suối chảy róc rách. Thuyền xuôi theo gịng,
hai bờ rừng cây dày đặc, đỉnh núi cao ngất
ngưởng. Thú gào, quỷ rú, âm thanh thê lương.
Trăng mờ, tuyết quay cuồng, ai nấy đều
run sợ. May mắn là chẳng có chuyện ngoài ư muốn nẩy
sanh, b́nh yên vượt qua. Đó là chuyện được
oai thần của Bồ Tát hộ niệm thứ hai vậy.
Tới
Thanh Dương, mới vừa tảng sáng, tường
thành sụp lở, vách nhà nghiêng đổ, hiếm có quán xá
nào c̣n nguyên vẹn. Đó là dấu tích trận oanh tạc bừa
băi của giặc lùn vào cuối Hạ năm Dân Quốc 31
(1942). Từ đó lên núi, tính ra đường dài một
trăm hai mươi dặm, băng tuyết phủ kín
đường, người đi đường bó chân!
Có chỗ là đường núi suốt mười sáu dặm,
càng khó trèo lên. Muốn t́m người
dẫn đường mà chẳng thể được! Bỗng gặp
một vị Tăng muốn tới chùa Thúy Phong, bèn có bạn đồng hành. Phương tiện
khéo phù hợp, khiến cho người ta vui mừng ngoài
ḷng mong mỏi. Do loại nhân duyên thù thắng này, lại
càng tin sâu đậm Bồ Tát âm thầm gia bị. Đấy
là điều thứ ba.
Chiều
hôm ấy, nghỉ tại chùa Thúy Phong. Sáng hôm sau muốn
đến Cửu Hoa. Từ chỗ ấy đến Cửu
Hoa là tám mươi dặm, đường núi quanh co, gập
ghềnh khó đi. Lại thêm tuyết đóng thành băng,
đường lối ngoằn
ngoèo, trơn trợt, cực khó lên núi. Vị Đương
Gia chùa Thúy Phong lưu tâm giữ lại, bảo năm nay
rét buốt hiếm thấy trong tám, mười năm qua.
Nhưng tôi quyết chí, thề lên núi lễ Phật, nào dám
sợ khó khăn chẳng lên đường. Do vậy, bàn
bạc với một vị đồng tham: Sáng hôm sau bắt
đầu lên núi. Đường núi khúc khuỷu, tuyết
đọng cả thước, chẳng nhận được
đường nẻo, gió bấc
như đao. Vượt qua mấy rặng núi, đường
núi càng thêm hiểm trở, gập ghềnh, băng tuyết
càng trơn trợt. Đi một bước, ngă một bước, nhiều lượt té rồi
đứng dậy, tuyết thấm ướt sũng
thân, đau tận cốt tủy. Chỉ cốt chí triều
bái Bồ Tát, kiền thành xưng niệm thánh hiệu. Hết
thảy khổ sở cũng liền được giải
trừ. Lảo đảo vịn nắm, trèo qua một rặng
núi, ngước mắt nh́n bốn phía: Tuyết trắng xóa mênh mông không ngằn mé; các rặng núi chẳng thấy
rơ h́nh trạng, chỉ thấy các chóp núi cao thấp. Khi
đó, tôi đă dốc cạn sức lực đi nửa
ngày, vị đồng tham chân tay lạnh cứng, mặt bị
gió táp như bị đao khứa, không thể bước
nổi nữa. Bốn phía không
người, há t́m được chỗ nghỉ chân? Không ngờ,
đi mấy bước nữa, nơi sườn núi, phát
hiện một túp lều tranh, vừa khéo có thể ẩn náu. Nhóm lửa hơ ấm, hơi cảm thấy ấm
áp bèn tiếp tục lên đường. Chiều xuống,
khí trời chuyển lạnh, gió tuyết càng dữ dội.
Núi cao, đường trơn, dần dần đêm đă
xuống, toàn thân run lẩy bẩy, răng va lộp cộp.
Thế núi cao thấp quanh co, càng thêm khó đi. Chỉ có nhiếp
tâm chánh niệm, dốc hết sức tiến về
trước, vừa đi vừa té, ṿng theo đường
núi vượt qua ngọn núi. Thấy xa xa
phía trước có đỉnh tháp lờ mờ, biết là thánh
địa của Bồ Tát đă gần, kinh hỷ quên mệt,
bước chân tự nhiên nhẹ nhàng, bèn tới được
núi. Nếu chẳng có oai thần của Bồ Tát bảo vệ,
gia hộ, ắt tuyết sâu, núi cao chót vót, đông cứng
ngă xuống không thể dậy nổi, chắc sẽ táng
thân trong băng cốc. Đó là chuyện thứ tư.
Tới
núi, bèn nghỉ tại chùa Quảng Tế, cách bảo tháp chẳng
xa. Ngay tối đó bèn đến tháp triều bái, chiêm lễ
kim dung nhục thân của Bồ Tát. Canh tháp suốt một
đêm, tán thán Bồ Tát công đức như thế, thệ
nguyện rộng sâu, khiến cho tôi năm vóc gieo sát đất,
cung kính đảnh lễ bốn trăm lạy. Nhớ
trong kinh Địa Tạng, đức Thế Tôn đă
xưng dương Bồ Tát có sức oai thần
từ bi to lớn chẳng thể nghĩ bàn trong mười
phương thế giới, cứu giúp, che chở hết
thảy chúng sanh tội khổ. Kim khẩu của đức
Phật đă tuyên nói như thế, khiến cho mọi
người cảm động cùng cực, khóc lóc, lễ
bái trọn chẳng mệt mỏi. Sáng sớm hôm sau tới khắp
các chùa. Danh sơn thánh địa đều có bậc cao
tăng đại đức đốt ngón tay, thiêu cánh
tay, thắp đèn, đủ mọi cách cúng dường.
Nghe phong thái ấy, không ai chẳng tán thán. Tiếc là chiến
tranh loạn lạc mấy năm, khách hành hương
thưa thớt, chùa miếu tiêu điều. Lại c̣n có mấy
ngôi chùa danh tiếng như Đông Nhai, Long Hoa v.v… bị giặc lùn phóng hỏa thiêu hủy. Cái tội hủy
hoại tháp miếu, chẳng thể sám hối, tan nhà mất
nước, chưa đủ để đền tội
vậy!
Kính
xét vùng núi Cửu Hoa là đạo tràng công đức của
Địa Tạng Bồ Tát, có chín mươi chín ngọn,
chót vót, ngất ngưởng, trèo lên rất khó. Do Bồ Tát
thệ nguyện hoằng thâm, có đại nhân duyên với
chúng sanh, cho nên trong thuở thái b́nh, khách hành hương tấp nập,
đen đặc cả đường, như đi trên
đất bằng. Huệ Khánh lần này lên núi chiêm bái, nương
theo một niệm chí thành, xưng tụng thánh hiệu của
Bồ Tát, trên đường gặp mấy hiểm nạn,
đều được chuyển nguy thành an. Nay đặc
biệt ghi lại, sao lục đăng trên tạp chí Giác
Hữu T́nh, ḥng tuyên dương ân đức của Bồ
Tát.
* Ghi chép về chuyện
Địa Tạng Bồ Tát phóng quang
Dương Đồng Tô ghi
Ngày Rằm tháng Hai năm Dân Quốc 33 (1944),
sáng sớm, tôi lên Tán Mỹ Lâu lễ Phật. Tới tám giờ
tối, lại ở trong Phật đường, đối
trước Quán Âm Đại Sĩ tŕ tụng danh hiệu
của chư Phật, Bồ Tát. Do mong yên tĩnh, bèn tắt
đèn, đứng nghiêm trang, chắp tay hướng về
Phật, miệng niệm, tâm quán, không nh́n ngó, dứt suy
tưởng, tự cảm thấy kiền thành hơn lúc
ban ngày. Tiếp đó, tụng thánh hiệu Địa Tạng
Bồ Tát một ngàn câu. Lúc sắp tụng đủ số,
bỗng thấy ánh sáng chói lọi, to như cái chén, chiếu
lóa mắt như đèn, cách tượng Quán Âm Đại
Sĩ ba thước về phía trái. Thoạt đầu, tôi
nghi là có người cầm đèn đi qua sân, ánh
sáng rọi lên vách tường. Nhưng quay đầu nh́n
ra ngoài cửa sổ, trăng c̣n chưa mọc, ngoài sân vắng
vẻ, trọn chẳng có người qua lại. Kế
đó, nghĩ đấy chắc là thị giác sai lầm,
liền nh́n chỗ ấy, bỗng [ánh sáng] ẩn mất,
chẳng thấy nữa. Bèn trở về chỗ cũ,
xưng tụng như cũ, quang minh lại sáng lên, cao
hơn chỗ đă hiện đôi chút. Tôi mới
nghĩ ra, nơi đó thờ một bức tượng
Địa Tạng Bồ Tát đứng, tức là bức
vẽ do em trai tôi là Trí Phương vẽ năm trước.
Về sau, quyên mộ in ra để tặng cho người
trong nước cúng dường rộng răi, bèn đoan chắc
là Bồ Tát phóng quang chẳng nghi ngờ. Vội gọi em
tôi nh́n để xem có thấy giống như tôi hay không.
Cha tôi cũng từ nhà trong chạy tới, cùng xưng thánh
hiệu. Quang minh hiện ra mấy phút mới mất.
Thoạt
đầu, mẹ tôi nghe theo lời khuyên của người
cùng ấp là cư sĩ Hạng Trí Nguyên, ăn chay trường,
thờ Phật suốt mười năm. Cả nhà bị
cảm hóa, không ai chẳng sùng tín Tam Bảo. Trước
sau, quy y các vị đại sư Ấn Quang, Tŕ Tùng, Diệu
Chân. Mấy năm qua, ư nguyện hoằng pháp của anh em
tôi càng thêm tha thiết. Đầu tháng Giêng năm nay, mẹ
tôi mắc bệnh, cánh tay phải khó thể co duỗi,
đi lại khó khăn. Cha tôi th́ bên cạnh vú cũng nổi
khối u đang chờ chữa trị. Anh em tôi biết là
do túc nghiệp cảm vời, nếu chẳng do Phật lực
gia bị, sẽ chẳng có hiệu quả. V́ thế, càng
thêm siêng năng niệm Phật.
Tới
đêm Hai Mươi Chín, mẹ bị cứng lưỡi
chẳng nói được, giống như bị trúng
phong. Anh em tôi bèn phát nguyện: “Ngoài xưng tụng danh hiệu
chư Phật ra, c̣n tŕ thêm kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện, đồng thời v́ mẹ sám hối nghiệp
chướng”. Bệnh quả thật bớt dần. Ấy là từ khi song thân bị bệnh tới nay,
kiền thành tụng danh hiệu Địa Tạng Bồ
Tát chẳng phải chỉ là một ngày vậy. Vậy th́
đêm qua [Bồ Tát] phóng quang, thật sự là Bồ Tát hiển
hiện sự linh dị để kiên cố tín tâm cho anh
em tôi. Do vậy, cả nhà hoan hỷ tán thán, đều tin bệnh
của song thân nhất định sớm thuyên giảm. Ân
đức của Bồ Tát đúng là ghi tâm khắc cốt, cảm kích vô cùng. Kinh Bổn Nguyện
dạy: “Nhược vị lai thế, hữu thiện
nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu hiện tại,
vị lai bách thiên vạn ức đẳng nguyện, bách
thiên vạn ức đẳng sự, đản
đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán
Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng. Như thị
sở nguyện, sở cầu tất giai thành tựu”
(Nếu trong đời vị lai, có thiện nam tử, thiện
nữ nhân, muốn trăm ngàn vạn ức các nguyện,
trăm ngàn vạn ức các sự trong hiện tại, chỉ
nên quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán h́nh tượng
Địa Tạng Bồ Tát. Sở nguyện, sở cầu
như thế thảy đều thành tựu). Phàm gặp bệnh
tật, tai ách, họa hại, nếu có thể kiền
thành lễ kính Địa Tạng Bồ Tát, sẽ tự
có thể được Bồ Tát rủ ḷng che chở,
độ thoát. Công đức quy kính chẳng
thể nghĩ bàn, chỉ do người đời phát tâm
mà thôi. Ngày hôm sau của ngày Địa Tạng Bồ Tát
phóng quang trong tháng Hai năm Giáp Thân (1944), đệ tử
Dương Tô Đồng ở Như Cao, pháp danh Nhân
Tăng kính thuật.
* Địa Tạng Bồ
Tát thánh ân kư
Tô Duệ Minh ở Thường Thục
ghi
Nhà
tôi có mấy người, chỉ có mẹ chồng ăn
chay trường, kiền thành tín phụng Phật giáo. Tôi
tuy tin có Phật, Bồ Tát, tuy vâng thờ, nhưng không
chuyên dốc. Cho đến khi mẹ chồng qua đời,
các vị cư sĩ thuộc liên xă ai nấy đều trợ
niệm. Tôi tiếp xúc các vị cư sĩ lâu ngày, cũng
bèn kiền thành tín phụng Tam Bảo. Pháp sư Chánh Mông thuộc
Tịnh Hạnh Liên Xă ở trấn Lộc Uyển tuyên dương
Phật giáo, chẳng tiếc sức thừa. Sư càng
ưa thích hoằng dương công đức cứu khổ
độ nạn của Địa Tạng Bồ Tát,
khuyên các xă viên tŕ tụng kinh Địa Tạng, ắt có cảm
ứng. Kể từ khi pháp sư xướng suất,
hướng dẫn tới nay, không đầy mấy tháng,
quả nhiên sự cảm ứng lần lượt hiện
ra. Do vậy, tôi đem các sự tích gom lại, ghi lại
dưới đây để thành một bài trần thuật
sự linh cảm chẳng thể nghĩ bàn của Bồ
Tát.
Một,
con dâu của tôi sau khi sanh bị nhiễm bệnh, thần
chí mơ hồ, nói năng điên rồ. Đă nhiều ngày
như thế, chẩn trị bằng thuốc Tây lẫn
thuốc Bắc đều chẳng có hiệu quả. Tôi
do tin Phật, lại c̣n vâng theo lời chỉ dạy của
pháp sư Chánh Mông, bèn mời các vị cư sĩ trong liên
xă cùng nhóm lại lễ tụng kinh
Địa Tạng. Vừa mới
tụng hết quyển Thượng, bệnh t́nh của
con dâu bỗng dưng mất hẳn, thần chí nhanh chóng tỉnh
táo. Tới khi tụng xong quyển Trung và quyển Hạ, nó thoải mái ngủ say. Chẳng mấy chốc bèn lành
bệnh.
Hai,
người thợ bạc họ Tiền mắc bệnh lạ,
cổ sưng phồng, miệng chẳng thể nuốt thức
ăn được. Trải qua mấy bữa như thế,
đau đớn muôn phần, lại c̣n thường kêu:
“Ông X… (là một vị cư sĩ kiền thành tín phụng
Phật giáo trong trấn này) đang ở thiên đường,
tôi đang ở trong địa ngục. Ông X… hăy mau cứu
tôi”. Người nhà bèn tới thỉnh vị cư sĩ ấy,
lại thỉnh các đồng đạo tụng kinh Địa
Tạng trong liên xă. Đă tụng xong, bệnh nhân bỗng
nói: “Vừa rồi có người đến giải thoát
cho tôi thoát khỏi cảnh bị treo lơ lửng”. Bệnh
khỏi hẳn.
Ba,
bà họ Đỗ bị bệnh thương hàn khá nặng,
chữa trị bằng Tây Y lẫn Trung Y, bệnh trạng
vẫn như cũ. Cả nhà bà Đỗ vốn tín phụng
Phật giáo. Họ ăn chay trường, bèn v́ bà ta phúng tụng
kinh Địa Tạng. Vừa mới làm xong, nhiệt
độ nhanh chóng giảm xuống, bà ta ngay lập tức
lành bệnh.
Bốn,
mẹ tôi lúc bảy mươi chín tuổi, bất ngờ
mắc bệnh thống phong, hai chân co quắp, chẳng duỗi
ra được, đau đớn chẳng thể nói nổi.
Nằm bệnh mấy năm, cụ bỗng qua đời.
Về sau, tôi mộng thấy mẹ nói: “Chân đau khó thể
chịu đựng”. Tôi nghĩ là do tưởng nhớ mà
thành mộng, chẳng để ư tới. Về sau, ở
trong Liên Xă nhắc tới chuyện ấy, pháp sư Chánh
Mông khuyên tụng kinh Địa Tạng, bảo “nhất
định có thể khiến cho người đă mất
siêu thoát tội khổ”. Tôi bèn phát tâm, thỉnh một vị
đạo lữ cùng tụng. Tụng tới ngày thứ
sáu, mộng thấy mẹ đến bảo: “Đă thoát khỏi,
trừ hẳn các khổ”. Ngày thứ bảy, tụng xong,
hồi hướng, lại mộng thấy mẹ văng sanh
Tây Phương, tôi tiễn đi. Ôi! Oai thần của Bồ
Tát gia bị chốn u minh, đáng tin lắm thay!
Năm,
trong trấn của tôi có đứa con của ông Đường
Nhị Quan và cháu nội của Vương Tam Thư đều
mắc bệnh, thuốc men vô hiệu. Do nghe sức oai thần
linh cảm của Địa Tạng Bồ Tát, họ liền
kiền thành tụng kinh Địa Tạng, con cháu họ
đều được lành bệnh.
* Địa Tạng Bồ
Tát thánh oai kư
Phương Dục Huệ ghi
Mùa Xuân năm Dân Quốc 34 (1945), kẻ địch
hoành hành, kẻ bất hiếu này hầu hạ mẹ ở
Thượng Hải. Nhà của người chị cũng
ở tại đất Hỗ (Thượng Hải), nhưng
cha do công chuyện, bị kẹt tại Trấn Giang. Ngày
Hai Mươi Tám tháng Tư (tức ngày Mười Bảy
tháng Ba âm lịch), được điện báo từ Trấn
Giang cho biết cha bỗng bị bệnh
nặng. Tôi bàn bạc với mẹ và chị, toan sang
đó chăm sóc. Mẹ bảo giao thông không thuận tiện,
tiền thuê xe vừa quá mắc vừa
khó kiếm, lại c̣n kẻ tiểu nhân ḍm ngó, ngụy ác
đa đoan, thân gái yếu đuối không nên khinh suất
ra đi, cho nên chẳng đi được. Do lo lắng
cho cha già, cơi
ḷng rối loạn. Hôm sau, tôi bèn qua nhà chị
bàn bạc, do trời đă tối, chị bèn giữ lại
ngủ, ở cùng pḥng với cháu gái. Khu vực ấy quản
chế đèn lửa rất nghiêm, mười giờ
đêm bèn cắt điện, phải đi ngủ trước
mười giờ. Kẻ bất hiếu này bận ḷng v́
cha già, trằn trọc chẳng ngủ được.
Pḥng ngủ ở trên lầu ba, trước sau đều
có cửa sổ.
Đêm
đă khuya. ánh trăng soi rạng ngời, đang trong lúc trầm
tư, bỗng thấy có rất nhiều người
lũ lượt kéo tới, đứng ở ngoài cửa
nhà, chỉ có một người vượt qua mọi
người tiến vào, rơ ràng là cha già. Đang trong lúc tôi
kinh nghi, cha đă tới đứng trước giường,
thê lương kêu nhũ danh của kẻ bất hiếu
này, bảo: “Cha đă xong đời rồi, đă đi rồi,
con có biết hay không?” Ngay khi ấy, tâm tôi biết là chuyện
bất tường, bởi vẻ mặt cha rất thảm
năo, chỉ đành nén đau thương, miễn cưỡng
an ủi: “Con đă biết rồi, cha đừng buồn
bă. Sống chết có số, cái thân máu thịt, ai nấy
đều chẳng thể giữ măi. Ngoại trừ Phật
lực, chẳng có pháp giải thoát nào khác! Mấy năm qua con dốc sức khuyên cha niệm
Phật chính là v́ ngày hôm nay! Tuy cha chưa nghe theo, nhưng
cũng v́ đó mà lập nguyện quy y. Do một niệm
nhân lành, chưa chắc đă không được hưởng
lợi ích. Xin cha rốt cuộc hăy nghe theo”. Cha sắc diện
càng buồn thảm hơn, nói: “Không kịp
rồi, cha sắp theo họ đi rồi”. Khi nói bèn giơ
tay chỉ ra ngoài nhà. Người ở bên ngoài nhà cũng
nhiều lượt tḥ đầu ngó vào trong như thể
giục giă. Cha quay đầu, nói vọng lại với họ:
“Đă cho phép tôi tới đây, xin hăy đợi một
chút. Tôi có đôi lời căn dặn con gái của ḿnh”. Cụ
xoay lại nói với kẻ bất hiếu này: “Huệ con!
Cha cần con niệm Phật để siêu độ, cứu
bạt. Hết sức hối hận thường ngày chẳng
nghe lời con khuyên”. Nói xong, cụ lại nh́n ra ngoài bảo:
“Tôi sẽ đi ngay”. Rồi vỗ về kẻ bất hiếu
này, bảo: “Cha đi đây! Hăy nhớ kỹ, siêu bạt cứu
độ cho cha”. Sau đó, cụ điềm nhiên giở
gót ra đi. Bất hiếu vội hỏi cha c̣n muốn nói
ǵ nữa hay không? Cha quay đầu lại, nh́n tôi bảo:
“Không có chi nữa. Con chỉ cần nhớ kỹ cha
đang đợi con siêu bạt, cứu độ”. Cha
giơ tay bưng mặt, dường như giấu nước
mắt. Bất hiếu cũng khóc ṛng, không nhịn nổi
nữa! Đi tới cửa, cha nh́n lại lần nữa
nói: “Ta chờ con siêu độ, cứu bạt”.
Ra
tới bên ngoài, trong đám người ấy có một kẻ tay cầm một vật dài, giống như xích sắt,
tṛng lên người cha. Bất hiếu từ xa trông thấy,
nóng ruột, giơ tay can ngăn: “Đấy là cha tôi, tôi
tin thờ Phật pháp, tự tin là có thể cầu xin Phật
lực giải tội cho cha. Cha tôi quyết sẽ chẳng
đến nỗi ở lâu trong chốn tối tăm, lấy
một tháng làm hạn, thề sẽ siêu độ, cứu
bạt. Xin hăy thương t́nh nương tay, ắt sẽ
đền đáp đức dày”. Người ấy quả
nhiên thu tay, chỉ dẫn mọi người lôi cha tôi
đi. Chốc lát, các tướng đều biến
mất. Tôi thử gọi các cháu, chúng nó đều đang
ngủ say, chưa tỉnh. Rất may là chuyện trong lúc ấy
chẳng kinh động mọi người.
Hơn
nữa, chồng chị tôi tánh t́nh nhút nhát, chị lại tự
phụ chẳng mê tín, tôi bèn giấu kín [chuyện ấy], chẳng nói. Nhưng
biết cha ắt đă tạ thế, suốt đêm chẳng
ngủ, thầm niệm Phật hiệu. Sáng ra, trở về
trường rất sớm. Đồng nghiệp đưa
cho một bức điện báo, nói gởi đến từ
tối hôm qua. Nước mắt ràn rụa, tôi biết cha
quả nhiên đă qua đời hôm qua. Than ôi, đau đớn
thay! Bắt đầu ngay từ ngày hôm ấy, tôi v́ cha niệm
Phật. Tuy Dục Huệ đă quy y Phật mấy
năm, nhưng trước sau chưa đọc kinh tạng,
chỉ biết phụng tŕ danh hiệu. V́ vậy, để
cầu xin cho cha, cũng chỉ kiền thành niệm tụng
danh hiệu Phật, Bồ Tát, chí tâm đảnh lễ, cầu
đảo mà thôi.
Tới
hôm Hai Mươi Lăm tháng Hai, cha đă qua đời tám
ngày. Trong đêm, khi tôi mới vừa quỳ tụng, bỗng
thấy một luồng Phật quang, chiếu thẳng tới
phương Đông Bắc, trải dài như một tấm
lụa trắng, cha quỳ lạy
trong đó. Từ đó, tôi sáng tối lễ tụng, đều
thấy ánh sáng ấy. Thoạt đầu chỉ thấy một
ḿnh cha lễ bái trong ánh sáng. Dần dà, quang minh chiếu càng
xa hơn, người theo cha đảnh lễ cũng ngày
càng đông hơn. Có người khoác áo, đội măo, h́nh
dạng như quan phủ, cũng bày hương án lễ lạy
trong quang minh. Điều lạ nhất quang minh ấy ắt
chỉ thẳng vào góc Đông Bắc, các phương khác chẳng
thấy ǵ.
Cho
đến ngày mồng Tám tháng Tư, nhằm ngày khánh đản
đức Phật Thích Ca, trong hôm ấy, khi tôi dâng trái cây,
lễ bái, tụng niệm, thấy trong quang minh có nhiều
người lễ bái, hệt như mấy ngày trước.
Tới tối, tụng niệm khóa tụng như thường
lệ, liền khấu đầu niệm tụng tôn hiệu
Địa Tạng Bồ Tát. Đột nhiên thấy Bồ
Tát hiện h́nh tượng Tăng Già, cầm trượng
giộng xuống đất, bèn có kim quang vọt lên, tạo
thành một vầng lớn, sức chấn động rất
mạnh. Tôi vừa mới nghiêm túc quỳ, chi thể bị
chấn động run lật bật, chẳng thể kiềm
chế được. Trong quang minh cũng có khá nhiều
người hớn hở, hân hoan, tản ra bốn phía. Có
mấy người c̣n thong thả vọt lên không, dường
như được sanh vào đường lành. Lúc đó,
Phật quang chói lọi, chẳng thể nh́n lâu, người
[hiện ra trong quang minh] đông đảo. Có người
bay lên, có người tản ra bốn phía, có người
thong dong, có người gấp gáp, chưa biết rơ rốt
cuộc cha là t́nh trạng như thế nào? Tụng tôn hiệu
của Địa Tạng Bồ Tát xong, bèn theo thứ tự
lễ bái, tŕ niệm tôn hiệu của Phật, Bồ Tát,
dồn mắt nh́n kỹ, chẳng c̣n thấy ánh sáng thanh tịnh
ở phương Đông Bắc nữa. Tâm trộm cảm
thấy an ủi, biết cha tôi ắt nương nhờ
Phật ân mà siêu thoát. Tính lại thời gian đă mất
hai mươi mốt ngày. Ơn Phật sâu dày, Phật lực
to lớn, thật chẳng thể suy lường, buồn
vui chen lẫn, lễ bái, cảm tạ không thôi.
Sáng
ngày Mồng Chín thức dậy, theo thường lệ lễ
tụng, ngẫu nhiên đưa mắt ngó về phía Tây, bỗng
thấy có những căn nhà thâm thấp xúm xít, không ngờ
tới một trăm mấy chục nhà. Pḥng ốc đều
hẹp nhỏ, nhưng khá ngăn nắp, đẹp đẽ,
san sát ngay hàng thẳng lối với nhau, như tạo
thành một thôn xóm vậy. Cách thôn xóm ấy dăm ba bước,
lại có một ngôi nhà nhỏ xây cất khác lạ, bốn
phía không sang cả, hoa lệ, tường vách mới sạch.
Cha tôi ở trong đó, đi ṿng quanh nhà chẳng ngừng
chân chút nào, dường như nhàm chán, nhưng chẳng có ǵ
để tự tiêu khiển. Tôi biết linh hồn cha ắt lẩn quẩn nơi mộ địa. Các ngôi nhà
đă thấy chính là khu mộ công cộng thuộc giáo
đường. Bởi lẽ, thời cuộc chẳng
yên ổn, chẳng dám quàn quan tài tại nhà quàn, cho nên cậy
người tới Trấn Giang mua một khu đất,
chôn tạm nơi đất khách, chờ tương lai sẽ
chuyển về quê. Khu đất gần với một nghĩa
địa công cộng của Thiên Chúa Giáo, cho nên thấy
như thế.
Do
vậy, tôi kiền thành thầm cầu nguyện, cầu nguyện
cho cha, lễ bái, cầu xin ân Phật, [khiến cho cha] tín
tâm kiên định măi măi, luôn giữ thiện niệm. Cầu
đảo được một lúc, quả nhiên thấy
cha phủ phục xuống đất. Sau đó, mỗi lần
lễ tụng, liền thấy cha ở phía Tây trong căn
nhà nhỏ, mọp lạy làm lễ. Nếu thấy cha xoay
vần quẩn quanh, bèn cầu Phật, liền thấy cha
lập tức phủ phục xuống đất lễ
bái. Cảm ứng nhanh chóng, chẳng khác ǵ đối
trước mặt thưa bày. Ôi! Lạ thay! Chín ngày lễ
tụng xong xuôi, tôi từng xem bản đồ, mới biết
Trấn Giang quả nhiên ở phía Tây của Yết Phố[10],
chứng tỏ những điều đă thấy chẳng
phải là hư vọng.
Lại
nữa, vào ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba khi mới thấy
Phật quang, chỉ giới hạn nơi góc Đông Bắc,
khi đó, tôi cũng chẳng hiểu nguyên do. Một hôm, giở
xem quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích Linh Cảm
Lục, có chép chuyện Đốc Bưu Đặng Tông ở Dương Châu vào đời
Đường chết đi, được sứ giả
cơi âm dẫn ông đi thăm địa ngục, nói là
[địa ngục] ở phương Đông Bắc, mới
giật ḿnh, hiểu ra nguyên do. Thế tục
có thuyết Địa Tạng Bồ Tát dùng trượng
đánh vỡ cửa ngục Cửu U, nay do những điều
tôi đích thân chứng nghiệm, [mới biết] thuyết
ấy cố nhiên là lời thật. Oai thần của Phật
pháp đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Tôi bèn kính cẩn dựa
theo sự thật mà ghi thuật lại, ḥng có cơ duyên bảo khắp
các thiện tín, ngơ hầu hoằng dương chánh pháp, những mong Phật quang soi thấu, rộng cứu
bạt những kẻ trầm luân trong tam đồ. Nữ
đệ tử Tam Bảo Phương Dục Huệ kính
ghi chép lại sau khi cha đă tạ thế hai tháng.
* Địa Tạng Bồ
Tát thánh đức kư
Khương Trí Thanh ghi
Tháng
Bảy mùa Thu năm Bính Tuất, chị tôi mắc bệnh
thương hàn nguy kịch, các bác sĩ đều bó tay. Nhằm
lúc đó, tôi chăm sóc bên cạnh, mà kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện đă dạy rơ: Nếu đem tất cả
trân bảo, y phục của người bệnh [bán lấy
tiền, dùng] để vẽ h́nh tượng Địa Tạng,
th́ người ấy do nghiệp báo đáng phải bệnh
nặng, nhưng nhờ công đức ấy, sẽ liền
được lành bệnh, tuổi thọ tăng thêm. Tôi
bèn thay chị phát nguyện thí nhẫn vàng để góp phần
chút ít trong việc quyên góp đúc tạo tượng Địa
Tạng Bồ Tát bằng đồng ở chùa Quảng Tế tại Cửu Hoa Sơn, và bảo
chị cũng cầu nguyện như thế. Trong khoảnh
khắc, như buồm căng gió, chị hạ sốt, tỉnh
táo, bệnh giảm bảy tám phần mười. Những
người chăm sóc chung quanh không ai chẳng chắt
lưỡi than lạ.
Lại
nữa, bảy ngày sau đó, vừa mới sáng sớm, chị
tôi thấy một vị lăo tăng cầm tích trượng
từ pḥng khách thong thả bước vào buồng ngủ,
đứng bên cạnh giường, chị tôi chắp tay
tỏ ḷng cung kính, chợt chẳng thấy đâu nữa.
Từ đó, các chứng bệnh như “chân chẳng có sức,
tinh thần uể oải” bỗng nhiên hết sạch. Do vậy,
biết Bồ Tát đă rủ ḷng hiện thân trong sáu
đường, phổ độ hữu t́nh, thần
thông, oai đức chẳng thể nghĩ bàn! Chị tôi
sau khi khỏi bệnh, đă lập chí tu tịnh nghiệp,
hằng ngày tŕ danh hiệu Phật, mỗi tháng ăn chay
sáu ngày, gặp ai cũng khuyên dạy. Lại c̣n bảo tôi
thay chị soạn bài ghi chép về sự linh cảm để
mong người thấy kẻ nghe rộng khắp cùng sanh
chánh tín, cùng gieo tịnh nhân.
*Địa Tạng Bồ
Tát thánh ân kư
Giác Thuần ghi
Tôi
xưa kia do bị bệnh mà xuất gia. Kể từ khi xuất
gia tới nay, chưa hề mắc phải bệnh nặng.
Đôi khi Tứ Đại chẳng điều ḥa, tu pháp
Chỉ Quán, nghỉ ngơi, sẽ lập tức lành bệnh.
Mùa Xuân năm nay, tức năm Dân Quốc 36 (1947), tới
Hàng Châu dâng hương. Đặc biệt tổ chức
thuyền hành hương, trên đường đi mở
Phật Thất, biến thuyền thành đạo tràng, ngày
đêm niệm Phật chẳng ngừng. Thuyền nhỏ,
người đông, ở trong th́ bị nóng, ở ngoài chịu
lạnh.
Trở
về đến Vô Tích, liền mệt mỏi, chẳng
chú ư. Tới ngày Hai Mươi Ba tháng Tư, phát bệnh
nghiêm trọng. Hơn mười ngày, chẳng nuốt nổi
hạt gạo, hớp nước! Tới nửa đêm
ngày Ba Mươi, đang trong lúc nguy hiểm cùng cực, thấy
Địa Tạng Bồ Tát tay trái cầm bát, tay phải cầm
trượng, đứng ở trước giường,
khuyên nhủ tôi trấn định niệm Phật. Sáng sớm
hôm sau, [bệnh t́nh] chuyển thành khá hơn. Ngày mồng
Năm tháng Năm, uống được nước cháo.
Cho tới hôm tắm Phật th́ b́nh phục như cũ.
Nay giao cho Đại Pháp Luân Thư Cục xuất bản một
trăm quyển Địa Tạng Bồ Tát Bổn Tích
Nhân Duyên để báo đáp ân sâu, đặc biệt ghi lại
[nguyên do].
Mười
hai câu chuyện trên đây đều trích lục từ nguyệt
san Giác Hữu T́nh.
* Địa Tạng Bồ Tát linh
cảm kư
Ngô Kính Nhân ghi
Cư
sĩ Hoàng Đức Xuân người xứ Ninh Ba, ở
đường Y Trang tại Châu Phố thuộc khu Phố Đông của Thượng
Hải, mở tiệm giấy Di Nguyên đă mấy chục
năm. Ông đă quy y với pháp sư Ấn Quang từ lâu,
hằng ngày tụng kinh Kim Cang, giữ sáu ngày chay rất
nghiêm cẩn. Gần đây, Kính Nhân bận bịu, rất
lâu chưa gặp gỡ. Lần này, Châu Phố Liên Xă cử
hành Di Đà Phật Thất tới ngày Hai Mươi tháng
Mười Một công đức viên măn. Do gởi thư,
tôi tới bưu cục. Cục trưởng bảo tôi:
“Hoàng cư sĩ ở cách vách, từ mùa Đông năm ngoái
cho tới nay, do bị bệnh, đă đem chuyện thọ
tŕ kinh Kim Cang và lục trai nhiều năm nhất loạt
vứt bỏ, phá giới. Do vậy, hồn dạo trong
địa phủ, ngày đêm kêu gào, trải đủ mọi
nỗi khổ trong địa ngục, c̣n hiện ra h́nh
tướng thọ khổ! [Người nhà] từng mời
đạo sĩ tác pháp cầu đảo, vô hiệu! Ông là
sư huynh, sư đệ của ông ta, hăy nên đến
thăm. Thử coi ông ta c̣n nhận ra ông hay không?”
V́
thế, Kính Nhân tới tiệm của ông ta, liền nghe tiếng
gào thét ầm ĩ. Tới gần giường, liền hỏi:
“Ông có nhận ra tôi hay không?” Ông ta liền đáp: “Lăo sư huynh mau cứu tôi. Tôi đă chịu hết
các nỗi khổ trong địa ngục rồi”. Khi
đó, thần thức của ông ta đă hôn mê, nói năng
quàng xiên. Trên bàn, thịt xương bừa băi. Tôi trách ông
ta chớ nên ăn những thứ ấy, lại khuyên ông
ta nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương.
Kính Nhân giúp ông ta niệm một hồi, chưa thấy hiệu
quả to lớn ǵ. Kế đó, nhớ lại lúc mẹ
tôi bị bệnh, dường như có oán đối dây
dưa, tôi thỉnh tịnh lữ niệm thánh hiệu
Địa Tạng và kinh Địa Tạng Bổn Nguyện,
mẹ bèn được thoát khỏi. Tôi bèn khuyên quyến
thuộc của ông ta, mau thỉnh tịnh lữ niệm
kinh Địa Tạng bảy bộ, và một vạn câu
thánh hiệu Địa Tạng, sẽ có thể được
Bồ Tát gia bị lành bệnh. Kế đó, tôi khuyên ông ta
chuyên niệm thánh hiệu rồi cáo từ.
Ngày
mồng Sáu tháng Mười Hai, nhằm ngày tụ hội của
Liên Xă, Kính Nhân lại đến đó dự hội, liền
nghe cư sĩ Trần Gia Tuấn nói: “Hoàng cư sĩ
đợi ông đă nhiều ngày. Ông ta bị bệnh,
đă được Địa Tạng Bồ Tát gia bị,
mỗi ngày một khỏe hơn. Hôm trước, đă niệm
xong bảy bộ, liền thấy hiệu quả kỳ diệu.
Nay hứa nguyện niệm trọn một trăm lẻ
tám bộ. Nay tinh thần ông ta ngày một tốt hơn,
đă như người thường. Hiện thời,
đă đem cái đồng hồ vàng ông ta rất yêu mến
bán đi, và để ra một khoản tiền là bao nhiêu
đó, chờ ông đến, liền cậy ông thỉnh
thánh tượng Địa Tạng Đại Sĩ, cúng
vào chùa Vĩnh Định và Châu Phố Liên Xă. Lại c̣n
nguyện tùy sức lo liệu, giúp kinh phí cho Ấn lăo pháp
sư tôn tạo tháp. Từ đấy, nhất tâm niệm
thánh hiệu Phật, Bồ Tát, nay đă tŕ Thập Trai. Dần
dần sẽ tiến tới ăn chay trường. Ông ta
mong ước ông đến”.
Tới
khi gặp mặt Kính Nhân, ông ta liền chắp tay cảm tạ,
và thuật sự linh cảm của Bồ Tát. Từ đấy
về sau, tâm nguyện mỗi mỗi đều đúng
như ông Trần đă kể chẳng
khác. Ông ta lại khẩn khoản cậy tôi viết giùm bài
kư ghi lại chuyện linh cảm để hiển thị
thánh đức của Bồ Tát. Kính Nhân không giỏi viết
lách, chỉ kính cẩn chép lại sự thật như thế
đó. Lại nguyện các vị đồng nhân cùng sanh
chánh tín, ḥng măn đại nguyện độ hết chúng
sanh của Bồ Tát th́ xă hội may mắn lắm thay, pháp
môn may mắn lắm thay! (Trích từ Hoằng Hóa Nguyệt
San phát hành vào tháng
Ba năm Dân Quốc 33 - 1944).
* Cầu Địa Tạng
Bồ Tát biết được tên họ của cha
Dật Thanh ghi
Tôi
ba tuổi từ biệt cha mẹ, đổi họ, làm
con nuôi người khác. Tới lúc hai mươi bốn tuổi
xuất gia, cha mẹ ruột đă mất sớm. Từ
lúc nương náu cửa Phật, thường dấy lên ư
niệm cầu siêu [cho cha mẹ], nhưng khổ chẳng
biết tên họ cha mẹ, chẳng có cách nào hồi hướng.
Gần đây, do thấy Hồng Phiệt
Đường ở núi Phổ Đà sẽ có Phật sự Thuyết U Minh
Đại Giới vào ngày Mười Tám tháng Tư. Tôi bèn
bàn bạc với vị Trụ Tŕ là ngài Chiếu Công.
Sư bảo: “Nếu chẳng biết tên họ, sẽ chẳng
thể truyền trao”. Tôi nghe nói, trong ḷng càng thêm đau xót,
hỏi thêm: “C̣n có cách nào để đắc độ hay
không?” Chiếu Công bảo: “Hay là thầy phát tâm khẩn thiết,
chí thành, xót xa cầu xin Địa Tạng Bồ Tát dạy cho biết
tên họ của cha mẹ th́ sẽ tiện làm. Bỏ cách
này, chẳng có cách nào khác!”
Tôi
liền y giáo phụng hành, chí thành, khẩn thiết, đối
trước ṭa của Địa Tạng Bồ Tát lễ
bái, cầu đảo. Tới khoảng giờ Tư đêm
ngày Mười Bảy, trong mộng thấy rơ một tờ
giấy viết chữ, ghi tên cha là ba chữ Kim Chung Liên, bất
giác vui mừng tột độ, tỉnh giấc. Đợi
tới hôm sau, báo cho Chiếu Công, và kể cho chư Tăng
trong chùa nghe, họ đều tán thán hy hữu. Bồ Tát
đại nguyện, đại lực, tùy nguyện mà thỏa
ḷng mong cầu, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Tôi nay
thuật lại, chẳng phải để khoe khoang khác lạ,
mà v́ sợ người đời có kẻ bi thương
giống như tôi, để họ có thể nhất loạt
phát tâm mà làm theo.
Hơn
nữa, Bồ Tát ḷng Từ sâu xa, ḷng Bi to lớn, tùy thuận
chúng sanh. Ngoại trừ kẻ tâm chẳng dốc
hết ḷng thành, làm chuyện trái nghịch Phật, e rằng
khó được cảm thông. Nếu chí thành, khẩn thiết
cầu đảo, tùy thuận lời đức Phật dạy,
chánh tín mong cầu, tự nhiên có cảm liền thông, cảm
ứng như dùi gơ xuống mặt trống [liền vang ra
tiếng]. V́ thế, ghi lại để mong sao hễ có
người mong cầu th́ cũng có thể gián tiếp giúp
đỡ được! (Hoằng Hóa Nguyệt San, phát hành vào tháng Bảy
năm Dân Quốc 33 -1944).
* Ghi chép về sự
linh cảm trong pháp hội Địa Tạng tại Lạc
Thanh Phật Giáo Cư Sĩ Lâm
1. Phóng quang hiện
điềm lành
Ngày
Hai Mươi Bốn tháng Bảy năm Kỷ Sửu, lần
đầu mở pháp hội Địa Tạng tại Lạc
Thanh Hồng Kiều (thuộc tỉnh Chiết Giang), những
vị phát khởi là Triệu Thường Hoa, Trương
Trọng San, Quư Thạch Thần, Vương Mộng Ngân,
Trịnh Kỷ Xuân, Thượng Chí Khoan v.v… Từ sáng hôm ấy,
cử hành Địa Tạng Phật Thất. Tông chỉ
là cầu an b́nh cho người nơi ấy. Buổi sáng
tŕ niệm danh hiệu Địa Tạng, hai giờ chiều
th́ mời cư sĩ Hồ Thiên Bộc tuyên giảng kinh Địa
Tạng, chia ra bảy buổi sẽ giảng xong. Mỗi ngày
thính chúng hơn ngàn người, long trọng tột bậc
một thuở. Tối ngày Hai Mươi Bốn, từ tám
giờ cho tới lúc gà gáy sáng mới thôi, cư dân lân cận
thấy trên không trung tỏa ra quang minh sáng rực, chiếu
thẳng vào nóc đại điện Cư Sĩ Lâm, gần
như mười mấy ngọn đèn dầu. Khi đó,
có nhân viên tuần tiểu của khu vực đi qua, thấy
luồng sáng ấy, nghi trong Cư Sĩ Lâm có chuyện ǵ khác
thường, bèn trèo lên tường ḍm vào, chỉ thấy
trong Cư Sĩ Lâm vắng lặng, chẳng có tiếng
ǵ, chỉ thấy trước bàn Phật thắp đèn có
đốm sáng to bằng hạt đậu
mà thôi! Nhân viên tuần tra hết sức lấy làm lạ,
liên tiếp bốn năm đêm đều phóng quang như
thế. Ḷng nghi ngờ của người ấy không tháo gỡ
được, trong ṿng bảy ngày, đều sai người
ngấm ngầm theo dơi, trọn chẳng thấy hành động
nào khác lạ!
Mồng
Một tháng Bảy nhuận, pháp hội chưa giải tán,
nhân viên tuần tiễu khu vực tới Cư Sĩ Lâm tra
hỏi ngọn nguồn ánh sáng lúc ban đêm, ai nấy đều
nói “chẳng biết”. Các cán bộ khu vực trọn chẳng
tin tưởng, đi khắp các pḥng truy t́m đèn thắp
bằng dầu, quả thật chẳng có đèn! Cư
sĩ Trương Vân Lôi bảo: “Đạo tràng phóng quang,
đâu đâu cũng có, chưa hề có chi là lạ! Quang
minh hiện ra, không ǵ chẳng do Địa Tạng Bồ
Tát thị hiện điềm lành”. Các nhân viên khu vực chẳng
c̣n truy vấn nữa, đều nắc nỏm khen lạ!
Do vậy, sau khi linh ứng, các cư sĩ càng thêm tín tâm
kiên cố, hội viên tăng tới hơn ba trăm
người. Do đạo tràng phóng quang, mọi người
cùng thấy, cùng ḥa hợp. Các làng ở Lạc Đông
đồng thời trước sau kiến lập pháp hội
Địa Tạng, có tất cả ba chỗ: Một là tại
Thọ Xương Cổ Tự làng Đạm Khê; hai là
chùa Quảng Ứng tại làng Vọng Hạnh, ba là Địa
Tạng Điện thuộc vùng núi Nam Phố. Mỗi
nơi đều có một hai trăm người tham dự.
Phật pháp vùng Lạc Đông hưng thịnh đều bắt
nguồn từ chuyện Địa Tạng Bồ Tát phóng
quang.
2. Mộng thấy người
đ̣i đầu
Trong
ấp này, ông Từ Doăn Vượng là tín đồ Thiên
Chúa giáo. Mẹ chết, bạn bè khuyên ông tŕ niệm kinh
Địa Tạng. Thoạt đầu, ông Từ chẳng
cho là đúng, về sau nghĩ tới ơn cha mẹ, chẳng
thể không báo đáp, [cảm thấy] Phật giáo nói hết sức
đúng, bèn phát nguyện tŕ niệm kinh Địa Tạng.
Bản thân ông ta c̣n bị bệnh,
suốt mấy năm vẫn chưa lành. Bỗng mộng thấy một ông già bảo hăy uống
nước sắc từ dây Lệ Tây Qua[11],
bệnh liền khỏi hẳn. Liền cúng gỗ Chương[12]
cho chùa Mộc Tiêu để chạm khắc ba bức thánh
tượng. Một đêm, lại mộng thấy người
đến đ̣i ba cái đầu, ông sợ sẽ gặp
họa lạ lùng, sáng chiều bất an. Mấy hôm sau,
Tăng sĩ chùa Mộc Tiêu tới báo, tượng Phật
đă khắc xong, c̣n thiếu ba cái đầu. Ông Từ mới
hiểu ư nghĩa của giấc mộng, lại cúng nốt
số gỗ Chương c̣n thừa. Từ đó trở
đi, ông chí tâm thờ Phật, tụng niệm chẳng mỏi
mệt.
3. Bệnh nguy cấp
chóng lành
Con
của người chủ quản pháp
hội ở Nam Phố là cư sĩ Vương Kinh Hoa bị
bệnh nguy ngập, mấy tháng chẳng thể rời giường
được, thuốc thang, cầu đảo vô hiệu.
Trong lúc tổ chức Địa Tạng Thất, ông Vương nhất tâm
lo liệu sự vụ trong pháp hội, không về
nhà thăm con. Ông đối trước Phật phát nguyện
gánh vác trách nhiệm hoằng dương Phật pháp, cầu
[Tam Bảo] thầm gia hộ cho con ông khỏi bệnh. Một
hôm, hàng xóm tới núi bảo Vương cư sĩ: “Con ông
bị bệnh, nay bỗng nhiên khỏi hẳn”.
Vương cư sĩ chẳng tin,
trở về nhà thăm con. Quả nhiên thấy con đă có thể
đi bộ một ḿnh trước sân, nhanh chóng nghĩ tới
chuyện ăn uống. Địa Tạng Bồ Tát linh cảm
nhanh chóng dường ấy!
4. Cứu người
sảy chân nơi vách núi
Mồng Một tháng Bảy nhuận năm
ngoái, tại trấn Nam Đăng thuộc
Lạc Thanh, người quản sự Địa Tạng
Điện tại vùng núi Nam Phố là hai vị cư sĩ
Châu Lộc Minh và Châu Văn Thuyên. Do chuyện phóng quang linh dị
tại bổn hội (Liên Xă tại Hồng Kiều, Lạc
Thanh), họ cũng phát khởi cử hành Địa Tạng
Phật Thất, cung thỉnh pháp sư Đế Nhất của
bổn hội chủ tŕ Phật Thất, cùng với cư
sĩ Lâm Hạo Sĩ đến tuyên giảng kinh Địa
Tạng. Thính chúng hơn sáu trăm người. Ngôi điện
ấy ở trên đỉnh núi Nam Phố, nước uống
phải xuống lưng chừng núi để gánh, đi về
hơn sáu trăm bước. Đường núi khúc khuỷu
khó đi. Một ông phát nguyện, nước dùng trong bảy
ngày pháp hội sẽ do một ḿnh ông ra sức gánh về.
Trời nóng, người đông, mỗi ngày dùng tới hai
mươi mấy thùng nước. Sáng ngày mồng Hai, gà vừa
gáy, ông thức dậy đi gánh nước. Trời mưa, śnh lầy, bước vội sẩy chân, sắp ngă
xuống núi, bỗng có người ở bên cạnh xốc
nách, hết sức mạnh mẽ. Lúc đó, ông choáng váng, thở
ph́ pḥ, bỗng thấy có người nâng đỡ, cứu
giúp, liền hô “đa tạ, đa tạ”, chẳng
nghe ai ừ hử chi hết! Chăm chú nh́n lại, bốn
phía tối đen, chẳng thấy dấu vết ai, chỉ
thấy ánh đèn lồng chiếu sáng lờ mờ trên
quang gánh. Ông vội trở về, kể cặn kẽ chuyện
ấy với mọi người, người nghe không ai chẳng
chắt lưỡi! Pháp sư Đế Nhất bảo đại
chúng: “May mắn là Địa Tạng Bồ Tát hiển
linh cứu tánh mạng cho ông. Nếu không, danh dự của
pháp hội bị hao tổn. Ông này phát nguyện, gánh nước cho đại chúng, công
đức rất lớn. V́ thế, trong cơn nguy nan,
được Bồ Tát cứu giúp”. Chuyện này khiến
cho thiện tín trong địa phương bội phần
thành kính, phát tâm lợi ích chúng sanh sâu xa. Có mấy tín đồ
Thiên Chúa Giáo cũng quy y Phật pháp.
5. Mộng thấy Bồ
Tát
Vị
quản sự của pháp hội Địa Tạng tại
trấn này là cư sĩ Quư Thạch Thần luôn làm việc
thiện. Một hôm, ông tụng kinh Địa Tạng, biết
t́nh trạng khổ sở trong địa ngục, tâm hết
sức kinh hoảng. Lại thấy trong kinh có nói, muốn
biết chỗ cha mẹ sanh về, có thể tụng kinh Bổn
Nguyện của Bồ Tát, sẽ được Bồ Tát
chỉ dạy. Do vậy, ông phát nguyện, ăn chay, tụng
kinh. Hơn ba mươi ngày, trong giấc mộng, thấy
Địa Tạng Bồ Tát ngồi trên ṭa sen, phóng quang
minh tốt lành tỏa rạng, chiếu khắp đại
địa, pháp tướng trang nghiêm, bảo Quư cư
sĩ rằng: “Cha mẹ ông c̣n đang ở trong cơi âm”. Liền
dẫn ông tới một nơi, thấy cha mẹ ông đều
ngồi trong điện, lần chuỗi niệm Phật.
Chưa kịp nói ǵ, gà đă gáy sáng, ông giật ḿnh thức
dậy, thắp hương, quỳ trước Bồ Tát,
phát đại nguyện lần nữa, nguyện cho cha mẹ
sớm sanh về Cực Lạc, suốt đời ăn
chay, kiêng giết. Mỗi ngày, dẫu bận trăm công ngàn
việc, đều tŕ tụng một biến kinh Địa
Tạng, gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật
pháp cứu bạt các chúng sanh khổ sở. Mấy năm
qua chưa từng mệt mỏi tí nào. Tổ chức pháp hội
Địa Tạng, Quư cư sĩ dốc sức phần lớn.
6. Đứa con đă
chết sanh lên trời
Cư
sĩ Triệu Gia Câu là người ở Cự Độ
thuộc làng Thiên Thành trong ấp này, tin Phật tột bậc
chuyên dốc. Con ông bị bệnh chết sớm, Triệu
cư sĩ trong lúc bi thương, phát nguyện cầu cho
con được giải thoát. Ông tŕ niệm thánh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát sắp đủ một vạn
biến. Trong lúc hoảng hốt, thấy con từ xác chết
ngồi dậy, dần dần thăng lên, khoác áo lông, chân
đi hài mây, mắt thấy rơ ràng, ông nh́n sững,
nhưng đă chẳng thấy đâu nữa.
Triệu cư sĩ thấy tướng trạng lạ lùng ấy, tin là Bồ
Tát linh cảm, biết đứa con đă chết
được sanh lên trời, không c̣n ngờ chi!
7. Mộng thấy pháp
tướng
Ông
Lâm Hiến Pháp ở phố Đông của trấn này trọn
chẳng tin Phật. Một đêm, trong mộng thấy
Địa Tạng Bồ Tát từ trời giáng xuống,
thân mặc ca-sa, đầu đội măo hoa sen, oai dung chói
ngời, chẳng dám ngắm nh́n. Bên cạnh có một
đôi câu đối, trong đó có một Khuyển (犬) viết xéo và một
chữ Ngôn (言) ở chính giữa
mà ông chẳng nhận ra. Hôm sau hỏi người khác, mới
biết là chữ Ngục (獄), ông có thể nhớ đại lược, đọc
nối lại th́ thành các chữ “địa ngục bất
không”, mới biết Địa Tạng Bồ Tát hiển
thánh. Ông liền phát nguyện niệm Phật, tham gia bổn
hội, phụng hành hết sức chuyên dốc.
8. Dùng guồng xe nước
mà tát ao phóng sanh chẳng cạn
Hồng
Kiều Cư Sĩ Lâm cách chùa Tịnh Tông mấy bước.
Tăng chúng trong chùa chuyên tu Tịnh Độ, giới hạnh
đầy đủ, mọi người kính trọng. Hai
vị thượng nhân Huệ Trác và Duy Tây lại càng xuất
sắc nhất. Trong chùa có ao phóng sanh, nuôi nhiều loài thủy
tộc. Sau khi giải phóng (sau khi Cộng Ḥa Nhân
Dân Trung Hoa thành lập), người địa
phương dùng xe guồng tháo nước trong ao để
bắt cá kiếm lợi. Tăng chúng trong chùa hướng
về họ khuyên can, nói đủ điều t́nh lư, họ
chẳng nghe, vẫn xúm nhau cùng tát nước. Từ sáng tới
tối, chẳng tháo cạn được một thước
nước, các guồng nước bị hủy hoại
cực nhiều. Mọi người hô to là chuyện lạ:
“Nước trong ao dùng xe guồng tát suốt ngày chẳng cạn;
trong ấy ắt có duyên cớ!” Họ bèn phá guồng nước, bỏ đi.
8. Đoạn trừ
ác mộng
Mẹ
ông Tiết Kỷ Cao ở trấn này là hàng xóm của
cư sĩ Triệu Thường Hoa. Bà cụ Tiết
đêm thường bị ác mộng, kêu gào rất to. Hàng
xóm bị kinh động, gần như chẳng ngủ
yên. Ông Triệu bảo bà cụ: “Kinh Địa Tạng dạy,
đêm gặp nhiều ác mộng, hăy tŕ niệm danh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát đủ một vạn biến,
sẽ chẳng c̣n ác mộng nữa”. Bà cụ nói: “Thật
sự có chuyện ấy th́ tôi sẽ thử xem”. Bà cụ
bèn ngày đêm tŕ danh hiệu A Di Đà Phật, danh hiệu
Địa Tạng Bồ Tát. Từ đấy trở
đi, chẳng c̣n bị ác mộng nữa.
* Địa Tạng Bồ
Tát linh cảm kư
Đỗ Huệ Bổn ghi
Mùa
Xuân năm Dân Quốc 45 (1956), cư sĩ Lư Văn Khải
khuyên tôi tŕ tụng kinh Địa Tạng. Do vậy, bắt
đầu từ cuối tháng Ba âm lịch năm nay, vào mỗi
sáng sớm, tôi tụng một bộ kinh Địa Tạng,
tŕ niệm thánh hiệu mấy trăm câu. Lại tự
nghĩ [bản thân] chướng sâu,
nghiệp nặng, phước mỏng, huệ cạn, khi niệm
tụng, vọng niệm đua nhau nổi
lên, chưa thể nhất tâm chuyên niệm. Nhưng trong
ṿng hai năm nay, từng mộng thấy vong linh của quyến
thuộc và thân hữu, không ai chẳng được Bồ
Tát cứu bạt, khiến cho các tiên linh ĺa khổ
được vui. Trong đời người, mười
chuyện thường
là đă hết tám chín chuyện chẳng như ư. Chúng sanh
trải bao kiếp đến nay tạo các ác nghiệp do
nghiệp lực cảm vời, thành tựu đủ thứ
các cảnh giới phiền năo. Kể từ khi tôi tụng
kinh tới nay, chuyện chẳng như ư dần dần giảm
bớt, đối với các việc đời, thuận
theo ḷng mong, nghịch cảnh ít hiển hiện. Có lúc do dùng
lư trí vô tự tánh để quán chiếu các pháp sanh bởi
nhân duyên, sân tâm dần dần nén xuống. Công sức niệm
tụng của tôi nông cạn, mỏng manh, vẫn chưa
có sự linh dị đặc biệt thù thắng ǵ, nhưng trong
tiểu thiên địa của cá nhân, đă được
hưởng phước lợi, thân tâm nhẹ nhàng, an lạc.
Đủ thấy ḷng từ bi rộng lớn của Bồ
Tát, hộ niệm chúng sanh không điều nhỏ nhặt
nào chẳng thấu đến.
Đức
Thích Ca v́ mẹ thuyết pháp trên cung trời Đao Lợi,
phát khởi nói bộ kinh Địa Tạng này để tận
hiếu. Sự thật chủ yếu trong kinh là các thứ
hạnh nguyện tận hiếu cứu mẹ của
Địa Tạng Bồ Tát đă hành trong khi tu nhân. Phàm
người đọc tụng kinh này, trước hết,
hăy nên hiếu kính cha mẹ như Phật sống trong nhà.
Nếu cha mẹ đă qua đời, bèn dùng công đức
tụng kinh để hồi hướng. Địa Tạng
Bồ Tát sẽ khiến cho ĺa khổ được vui.
Sách Linh Cảm Lục đều có các sự thật để
chứng minh.
Kinh
dạy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân, dục cầu
hiện tại, vị lai bách thiên ức đẳng nguyện,
bách thiên vạn ức đẳng sự, đản
đương quy y, chiêm lễ, cúng dường, tán thán
Địa Tạng Bồ Tát h́nh tượng, như thị
sở nguyện, sở cầu, tất giai thành tựu” (Thiện
nam tử, thiện nữ nhân, muốn cầu trăm ngàn ức
các nguyện, trăm ngàn ức các sự trong hiện tại
và vị lai, chỉ cần quy y, chiêm lễ, cúng dường,
tán thán h́nh tượng Địa Tạng Bồ Tát, sở
nguyện như thế, sở cầu thảy đều
thành tựu). Kinh lại c̣n dạy: Phân thân của Địa
Tạng Bồ Tát trọn khắp trăm ngàn vạn ức
hằng sa thế giới. Mỗi thế giới hóa
trăm ngàn vạn ức thân, mỗi thân độ trăm
ngàn vạn ức người, khiến cho họ quy kính Tam
Bảo, vĩnh viễn ĺa khỏi sanh tử, đạt tới
niềm vui Niết Bàn. Sự nhiếp hóa ấy to rộng
gần như trọn hết hư không giới. Chúng ta
đọc tụng tôn kinh, quy kính Địa Tạng Bồ
Tát, khẩn cầu được nhiếp nhập trong biển
nguyện từ bi của Bồ Tát, đạt được
Bát Nhă Ba La Mật Đa, đồng thời phát Bồ Tát
tâm, rộng độ chúng sanh. Như thế th́ sẽ có thể
độ ḿnh, độ người, viên măn Bồ Đề.
Trung
Hoa Dân Quốc năm 47 (1958), nhằm tiết Xuân, Đỗ
Huệ Bổn kính ghi.
* Ghi chép các sự linh cảm
đích thân từng trải trong bốn mươi năm
Nhiếp Vân Đài ghi
Mùa
Đông năm Tuyên Thống nguyên niên (1908) nhà Thanh trước
kia, vợ tôi là Tiêu phu nhân mắc chứng tử giản (sản
giật)[13],
run rẩy, bất tỉnh nhân sự. Sau khi sanh xong, hôn mê chẳng
tỉnh, nhắm mắt, cấm khẩu suốt hai ngày
đêm. Tôi ngồi canh bên giường, không biết làm cách
nào. Bệnh nhân bỗng mở mắt gọi tên tôi và tên
đứa con bé: “Mau đảnh lễ Quán Thế Âm Bồ
Tát”. Tôi hỏi: “Bồ Tát ở chỗ nào?” Vợ tôi nói: “Ở
trên bệ cửa sổ”. Chúng tôi lễ xong, bệnh nhân
đă có thể mở mắt, thần trí thanh tỉnh, nói
năng như thường. Tôi hỏi: “Bồ Tát mặc y
phục ǵ?” Vợ tôi đáp: “Mặc trường bào trắng,
thêu chữ Vạn”. Năm sau, vợ tôi đặc biệt
may một chiếc trường bào thêu chữ Vạn, tôi
đích thân tới Phổ Đà, dâng vào chùa. Khéo sao, có tiến
sĩ Ngũ Đ́nh Phương ngồi cùng thuyền. Ông
ta cực lực nói về lợi ích của ăn chay. Từ đấy
trở đi, tôi không ăn các loại thịt nữa, nhân
duyên ấy cũng rất lạ lùng! Vợ tôi vâng theo lời
dạy của mẹ tôi, mỗi tháng hễ đến ngày mồng Chín đều
tŕ Quán Âm Trai, và dâng hương, lễ bái. Khi mẹ bệnh
nguy kịch, [vợ tôi] thường cắt thịt ở
cánh tay ḿnh nấu thuốc
dâng mẹ, chí tâm chân thành, hiếu thảo. Cho nên trong khi bệnh,
cô ta được Đại Sĩ hiển linh cứu bạt,
chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên.
Năm
Dân Quốc 13 (1924), tôi do làm ăn thất bại, đóng cửa
suy ngẫm lỗi ḿnh. Hằng ngày đọc kinh Kim Cang và
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm. Một ḿnh tôi ở
trong căn pḥng nhỏ trên lầu ba, là một căn pḥng
tṛn, có đỉnh bằng kiếng, hết sức sáng sủa.
Trong căn pḥng ấy chẳng có vật ǵ, chỉ có một
bàn đọc sách và một chiếc ghế là chỗ tôi tụng
kinh. Một hôm, khi đang tụng phẩm Phổ Môn, bỗng
nghe mùi đàn hương, nhưng tôi hoàn toàn chẳng có
lư hương. Tụng kinh xong, tới pḥng thờ tổ
tiên xem, cũng chẳng có ai thắp hương. Đó là lần
đầu tiên ngửi thấy mùi hương.
Tháng
Giêng âm lịch năm Dân Quốc 15 (1926), tôi tới Tô Châu, ở
nhà của cư sĩ Lư Bách Nông. Cư sĩ dạy tôi tụng
Lăng Nghiêm chú tâm[14]
chỉ có bảy câu, ông ta bảo tôi: “Chú này có oai lực vô
thường, tụng sẽ có lợi ích to lớn”. Đêm
ấy, nhằm tiết Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng), tôi và
cư sĩ tới khu đất hoang ở Nam Viên để
tản bộ ngắm trăng. Khu đất ấy rất
ít người, họ đều sống bằng nghề
trồng rau. Đêm xuống, nhà nào cũng đều đóng
cửa, vắng lặng, chẳng có tiếng động
ǵ. Tôi thầm tụng chú ngữ đă học ban ngày, tới
một câu cầu hoang, bỗng nghe mùi hương lạ
ngát mũi, trong ṿng trăm bước, hoàn toàn không có nhà nào.
Tôi hỏi Lư cư sĩ: “Ông có ngửi thấy mùi
hương hay không?” Cư sĩ nói: “Đă ngửi thấy,
có phải ông đang tŕ chú hay không?” Mùi hương ấy kỳ
diệu, càng thơm hơn trầm đàn, hiển nhiên là do
thần chú cảm ứng.
Năm
Dân Quốc 15 (1926), mỗi sáng tôi cùng các vị cư sĩ
như Ngô Giác Sơ v.v… đọc một quyển Hoa Nghiêm
Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Ông Phó Hàn Phi
là sinh viên du học đă tốt nghiệp về ngành dệt
tại Mỹ, làm việc trong xưởng Hằng Phong. Mỗi
sáng cũng đến tụng niệm. Một hôm, vào lúc giữa
Đông, nhằm ngay lúc tụng kinh, bỗng nghe mùi hoa quế.
Bốn người tụng kinh cùng ngửi thấy. Tụng
kinh xong, vào nhà hỏi người khác th́ họ cũng ngửi
thấy mùi hương, thật sự chẳng có hết thảy
các vật có mùi thơm!
Năm
Dân Quốc 17 (1928), tôi ở nhà chính, đối trước
tượng Đại Sĩ lễ bái xong, lên lầu tới
pḥng mẹ. Mẹ hỏi: “Hương con vừa đốt
có mùi thật dễ chịu, đúng là mùi hương chẳng
tầm thường”. Tôi đáp: “Đúng ạ! Trong ấy
có trầm hương”. Nhưng sao mẹ lại có thể
ngửi thấy? Chuyện này thật lạ, do trong mười mấy năm
qua, khứu giác của mẹ chẳng thể phân biệt
thơm, thối, dẫu dí sát vào mũi cũng chẳng nhận
biết mùi được. Do vậy, hỏi mẹ: “Hôm qua
con phối chế hồng linh đan[15]
và xạ hương, băng phiến trong pḥng này, mẹ
cũng ngửi thấy mùi hương hay không?” Mẹ
đáp: “Chẳng ngửi thấy!” Tôi thưa: “Con đối
trước Đại Sĩ v́ mẹ ngầm cầu cảm
ứng cho mẹ”. Mẹ hết sức hoan hỷ, bởi lẽ, chỗ thắp
hương ở dưới nhà cách pḥng mẹ ở trên lầu
rất xa, thế mà mẹ có thể ngửi
thấy mùi hương rất thơm. Đó chẳng phải
là Đại Sĩ thị hiện linh dị th́ là ǵ vậy?
Năm
Dân Quốc 16 (1927), tôi dẫn cư sĩ Quách Hàm Trai ở Tương Âm đi triều bái
Phổ Đà. Do vậy, tới chùa Dục Vương lễ
xá-lợi. Trước hết, đến chùa Thiên Đồng
lễ Phật. Chùa Thiên Đồng là đạo tràng cổ
nổi tiếng cách chùa Dục Vương rất gần.
Cuối đời Thanh, cao tăng Bát Chỉ Đầu
Đà trụ tŕ chùa này. Bát Chỉ Đầu Đà vốn
là con em nhà nông. Cha Ngài là tá điền cho nhà của Quách
cư sĩ. Cư sĩ lúc bé thường chơi đùa
chung với Sư. Về sau, cha của Sư giao Đầu
Đà cho vị Sư trong chùa làm
đồ đệ. Sư trọn chẳng học hành, do ở
trong chùa học khóa tụng, mới tạm biết chữ.
Sư coi chuyện thiên tư tối tăm, ngu độn, đối với ư
nghĩa trong kinh chẳng thể liễu giải là chuyện
đáng tiếc, bèn từ biệt thầy, triều bái Phổ
Đà, và tới chùa Dục Vương lễ xá-lợi ḥng
mở mang trí huệ. Sư ở chùa Dục Vương mấy
năm. Vào ngày Phật đản, Sư đốt hai ngón
tay cúng Phật, chỉ c̣n lại tám ngón, nên xưng là Bát Chỉ
đầu đà. Năm sau, vẫn tự cảm thấy
huệ ngộ vẫn chưa khai, bèn khoét thịt trên
lưng, tra bấc, đổ dầu
vào để thắp đèn. Trở về Trường
Sa, lúc qua hồ Động Đ́nh, lên lầu Nhạc
Dương, Sư bỗng nghĩ
ra một câu thơ: “Động Đ́nh ba tống nhất
tăng lai” (Động Đ́nh sóng tiễn tăng rời
bước). Tới Trường Sa, gặp một vị
Tăng, có tiếng là thơ hay, bèn đem câu thơ ấy
ra hỏi. Tăng nói: “Câu này rất hay. Tương lai ông ắt
sẽ thành nhà thơ”. Tăng bèn dạy Sư đọc ba
trăm bài thơ Đường, v́ trước kia Sư
chưa hề đọc qua bất cứ bài cổ thi nào!
Sau
khi từ chùa Dục Vương quay về, Sư đối với
kinh điển bèn có thể hiểu, giải hạnh
tương ứng, được Tăng giới tôn sùng,
nhưng Đầu Đà vẫn tu tập các thứ khổ
hạnh, như cơm thừa trong bát ăn của chó,
cơm nhặt trong bếp, Ngài đều lấy ăn.
Ngài nổi tiếng với tài làm thơ, đại thi nhân
cuối đời Thanh là Vương Nhậm Thu thường
xướng họa với Ngài. Về sau, Ngài sang Ninh Ba làm
phương trượng chùa Thiên Đồng suốt
mười mấy năm mới mất. Tháp (mộ của
Tăng lập tháp) ở ngoài chùa Thiên Đồng. Cạnh
tháp dựng ngôi miếu ba gian, bên trong thờ tượng vẽ
của Đầu Đà. Tôi vào chùa nghe giảng kinh, Quách
cư sĩ bèn đến tháp miếu của Đầu
Đà niệm Phật hơn hai tiếng đồng hồ,
nói là cùng bạn cũ hàn huyên. Vừa mới rời khỏi
chùa, trước chùa có rừng cây to, rộng khoảng một
dặm, chúng tôi đi trong rừng sâu, kiệu của
ông Quách đi phía trước tôi. Đi mấy chục
bước, ông Quách ngẩng đầu nh́n về phía sau, hỏi
tôi: “Ông có ngửi thấy mùi thơm hay không?” Tôi đáp:
“Không ngửi thấy”. Đi thêm mấy chục bước
nữa, ông Quách lại hỏi, tôi đều trả lời
“không ngửi thấy”. Về sau, ông Quách nói: “Mùi
hương xông tận tới chỗ sâu trong rừng mới
ngừng”. Hiển nhiên là Đầu Đà thị hiện sự
linh cảm.
Xưa
nay, bậc đại đức trong Thiền Tông khai ngộ
không thể tính xuể, cũng có vị đắc Văn Tự
Bát Nhă (trí huệ). Đầu Đà do tu ṛng khổ hạnh
mà mở mang huệ ngộ, là một người chưa hề
học làm thơ mà bỗng dưng có thể làm thơ, lại
c̣n tài cao tót vời tới mức khó thể nghĩ tưởng!
Sau khi Đầu Đà qua đời, thi nhân Trần Tán
Nguyên khắc in di tập của Sư. Ông Vương Nhậm
Thu viết lời tựa như sau: “Phong cách thơ của
Đầu Đà cao vời, có thể sánh bằng vị
Tăng…. đời Đường”. Năm sau, lại
viết thêm lời tựa, có đoạn ghi: “Năm
trước tôi viết lời tựa, nói thơ của
Đầu Đà có thể sánh với vị Tăng… đời
Đường, nay nghĩ lại nói như thế chẳng
thích đáng cho lắm! Bởi lẽ phong cách thơ của
Đầu Đà cao vời, vị Tăng nọ chẳng
thể sánh bằng!” Hai lời tựa đều
được khắc vào tập thơ ấy, đủ
thấy sự khâm phục và ngưỡng mộ tột bậc
của họ.
Thơ
là đạo, người b́nh phàm chưa dễ liễu giải
nổi! Thi cử vào đời Thanh xưa kia, ai nấy
đều làm thơ, đến nỗi viện Hàn Lâm đặc
biệt coi người có tài khéo làm thơ là trọng yếu.
Đại để cái gọi là “khéo”, tức là vần
điệu réo rắt, từ ngữ gọt giũa, bóng bảy,
nhưng theo cái nh́n của bậc thi nhân, [làm thơ kiểu
đó] chỉ đáng để bịt ṿ, chẳng thể
đạt tới mức độ đại nhă
được! Đầu Đà thoạt đầu
chưa đọc cổ thi, mà có thể viết thành lời
thơ thanh nhă. Về sau, Sư đương nhiên cũng
đọc cổ thi, nhưng đọc sách rất ít,
đương nhiên là chẳng thể viết hoa mỹ,
bóng bẩy được. Đó chính là chỗ hay đẹp
trong thơ Ngài thuần do chất phác, tự nhiên, dùng ngay
t́nh cảnh trước mắt để chân thật viết
ra. Đồng, lại có phong độ, vần điệu, ư vị tối cao,
đó gọi là “ngẫu hứng” (văn học gia
theo trào lưu mới là ông Lâm Ngữ Đường tuyển
chọn mười tác giả lớn thời Minh – Thanh,
đă lấy chuyện ngẫu hứng làm tiêu chuẩn chủ
yếu. Chín vị trong đó đều là những người
học Phật). Sau khi khai ngộ trong Thiền Tông, có thể
mở miệng tự hợp đạo mầu, biện
tài vô ngại, cũng như các chuyện thuộc Văn Tự
Bát Nhă khác. Do sự thị hiện linh cảm mùi
hương này, cũng biết Đầu Đà khai ngộ
chứng quả thành tựu rất cao. Lại xét theo các vị
đại thi nhân thuộc các triều đại Tấn,
Ngụy, Lục Triều, Đường, Tống, trong
mười vị th́ tám chín vị là Phật học gia, hoặc
được truyền thừa niềm tin Phật pháp,
cũng đủ thấy mối quan hệ giữa Phật
học và thi ca Trung Quốc, bởi Phật học coi trừ
Ngă Chấp là công phu thấu triệt trước sau. Ngă Chấp
đă trừ, thiên chân mới hiển lộ.
Tôi
và Quách cư sĩ cùng tới chùa Dục Vương lễ
xá-lợi (xá-lợi là thân Phật khi hỏa táng,
xương kết thành từng hạt nhỏ long lanh, tṛn
xoe). Hai năm trước tôi đă được chiêm lễ
một lần. Xá-lợi được cất trong một
chiếc tháp nhỏ bằng sắt, bên hông có khe hở để
có thể nh́n vào. Xá-lợi to bằng hạt hồ tiêu, dùng
một cái cán nhỏ bằng kim loại làm thành cái móc khảm
xá-lợi treo lơ lửng, như cái dùi chuông hay khánh. Lần
trước, tôi thấy xá-lợi và cái cán treo đều là
màu hoàng kim. Lần này, tôi và Quách cư sĩ đều thấy
là màu lam ảm đạm, đều nghĩ là bất
tường, bèn đối trước Phật sám hối.
Ban đêm, mỗi người lễ Phật mười lạy.
Sáng sớm hôm sau, lại xin quan sát, hai người thấy
đều là kim sắc, giống hệt như tôi đă thấy
trong năm trước. Tôi tưởng xá-lợi vốn
được thếp vàng bên ngoài, nhưng sao hôm trước
lại thấy biến thành màu lam, sáng sớm hôm sau lại
biến thành kim sắc. Tăng, ni và cư sĩ các nơi
lên núi lễ Phật và lễ xá-lợi mỗi ngày nhiều
đến mấy chục người. Sau khi lễ bái, vị
Tăng trực nhật trong điện thờ sẽ thỉnh
[tháp thờ xá-lợi] từ khám thờ trong điện ra,
dẫn [mọi người] vào chỗ giếng trời
ở sau điện, quỳ trên bồ đoàn để
xem. Người xem mỗi người thấy h́nh sắc
mỗi khác, có người thấy màu trắng, có người
thấy màu đỏ, hoặc thấy là màu đen, hoặc
chẳng thấy ǵ. Tôi đă hỏi nhiều người
đều chẳng giống nhau, đó là tùy thuộc nghiệp
lực của mỗi người cảm vời.
* Địa Tạng Bồ
Tát thần thông lực cảm ứng lục
Cố cư sĩ ghi
Mùa
Hạ năm nay (năm Dân Quốc 80 -1991), tôi triều bái Cửu
Hoa Sơn trở về, trăm mối cảm xúc ngổn
ngang. Một hôm, trong Định nghĩ ḿnh đă từng ở
Nhục Thân Điện (điện thờ nhục thân của
Địa Tạng Bồ Tát), đă từng lễ bái, cầu
thỉnh Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát gia
tŕ đệ tử có thể tâm sanh chánh niệm, vĩnh viễn
chẳng thoái chuyển, phát huy sở trường, lợi
ích chúng sanh. Tiến cao hơn là phỏng theo Bổn Tôn phát
ra hoằng nguyện, cứu độ chúng sanh, [khiến
cho họ] ĺa khổ được vui. Do thoạt đầu
tu tập Thiền Định bèn chí thành khát vọng có thể
ở trong Định lại lần nữa chiêm ngưỡng,
lễ bái Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Do
vậy, bèn nương theo hơi thở, nhiều lượt
niệm danh hiệu Nam-mô Bổn Tôn Địa Tạng
Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. Cho
tới khi hơi thở thông thuận, bèn vừa quán tưởng
h́nh tướng trang nghiêm của phân thân đức
Địa Tạng trong Nhục Thân Điện tại Cửu
Hoa, vừa thong thả, tâm niệm “Nam-mô đại bi,
đại nguyện, đại thánh đại từ bổn
tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”, từng lượt
một giống như khi nhiễu tháp đă niệm danh hiệu
đức Địa Tạng. Bỗng dưng hồn nhiên
vong ngă, hết thảy đều không, ngay cả lưỡi
đang đè lên ṿm họng, thân, khẩu, ư đều tiêu mất
hết, trong ngực có luồng khí lớn xông thẳng lên
đỉnh đầu. Tuy kinh ngạc trong chốc lát,
nhưng do miệng niệm danh hiệu Địa Tạng,
tâm thần nhanh chóng trấn định. Từ ngực cho
đến đỉnh đầu, bỗng thấy tia chớp
kim quang lóe lên, rỗng rang tợ hồ thần thức du
hành trong hư không, khiến cho con người vui sướng
chẳng thể nghĩ bàn. Hồi lâu mới như vừa
tỉnh mộng, lại trở về thế giới hiện
thực, nghe tiếng động chung quanh. Bất quá, sau
khi đă có kinh nghiệm thù thắng trong lần ấy,
đối đăi với thế gian tợ hồ khoan dung,
từ bi, vô ngă hơn. Hy vọng có thể thường giữ
được nỗi quan hoài ấy, măi cho tới khi đạt
tới cảnh giới Không Huệ Ba La Mật “vô ngă
tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô
thọ giả tướng” như kinh Kim Cang đă chép,
đạt tới Niết Bàn bất sanh bất diệt th́
mới chẳng phụ Địa Tạng Bồ Tát đă
rủ ḷng xót thương.
Hồi hướng
Nếu
việc chuyển ngữ này đem lại mảy may lợi
lạc nào cho những đồng tu căn cơ kém cỏi,
nghiệp chướng sâu nặng như mạt nhân th́ nguyện
do công đức này, lịch đại tổ tiên, phụ
mẫu, sư trưởng, thiện ác tri thức, lũy
thế oán thân trái chủ, cừu gia oán đối, các hành
nhân Tịnh nghiệp và mười phương pháp giới
chúng sanh đều được thoát khỏi u đồ,
xóa bỏ kiến chấp môn đ́nh, pháp môn, văng sanh Cực
Lạc, tấn tu đạo nghiệp. Cũng nguyện do
công đức này, bệnh dịch Corona mau chóng tiêu trừ
để mọi người được an cư lạc
nghiệp, các đạo tràng, tự viện khôi phục
sinh hoạt b́nh thường để các Phật tử có
cơ hội tấn tu, sách tấn lẫn nhau vun bồi thiện
duyên, chóng thành Phật quả.
[1] Tức
nhà xuất bản Phương Quảng Văn Hóa Sự
Nghiệp tại Đài Bắc.
[2] Nha chu (牙周, Periodontitis) là một loại bệnh viêm nhiễm
nơi các mô mềm quanh nướu răng. Nếu không chữa
trị, mô xương quanh chân răng sẽ bị tiêu giảm,
khiến răng lung lay và rụng.
[3] Định Quân Sơn là trận chiến
đấu quyết liệt giữa Lưu Bị và Tào Tháo
vào năm 219 Công Nguyên, kết thúc chiến dịch tiến chiếm
Hán Trung dằng dai giữa Lưu Bị và Hạ Hầu
Uyên (tướng của Tào Tháo) suốt một năm. Nhờ
chiến thắng trận này, Lưu Bị nắm quyền
kiểm soát Hán Trung, đặt cơ sở vững vàng cho
nước Thục trong thời Tam Quốc.
[4] Hầu Táo (猴枣) là tên một loại thuốc
Đông Y, Tây Y thường gọi là Rhesus Macque Bozoar. Vị
thuốc này c̣n có tên là Hầu Tử Táo, Dương Trường
Táo, Hầu Đan, hoặc Thân Táo, là một loại sạn
lấy từ bao tử của một loài khỉ có tên khoa
học là Macaca Mulatta
Zimmermann. Thuốc được sản xuất từ Quảng
Đông, Hà Nam, Hà Bắc, Ấn Độ, Mă Lai, có vị đắng, tánh ôn, có công
hiệu trừ viêm, giải độc, tiêu thũng, chủ
trị các bệnh ho hen viêm nhiệt, động kinh…
[5] Thượng Sư Thích Tŕ Tùng (1894-1972),
pháp danh Mật Lâm, tự hiệu Sư Tráng Sa Môn, mật hiệu
Nhập Nhập Kim Cang. Sư quê ở Sa Dương, tỉnh
Trực Lệ, là bậc cao tăng tinh thông Hiển giáo lẫn
Mật giáo, từng sang Nhật học
Đông Mật và Thai Mật. Sau khi trở về Trung Hoa,
Sư tự gánh vác trách nhiệm phục hưng Mật Tông tại Trung
Hoa theo truyền thống do các vị tổ sư Thiện
Vô Úy và Kim Cang Trí đời Đường, gọi truyền thống ấy
là Đường Mật. Sau khi cha mẹ mất, Sư xuất
gia tại chùa Thiết Ngưu ở huyện Sa Dương
vào năm Tuyên Thống thứ hai (1910), thọ Cụ Túc Giới
vào năm 1912 tại chùa Quy Nguyên thuộc Hán Dương, tỉnh
Hồ Bắc. Sư từng tốt nghiệp từ Hoa
Nghiêm Đại Học của pháp sư Nguyệt Hà, sau
đó học giáo nghĩa Thiên Thai với ḥa thượng Tổ
Ấn chùa Ngọc Tuyền ở huyện Đương
Dương (tỉnh Hồ Bắc); được công nhận
là truyền nhân của tông Lâm Tế. Trong thời gian này,
Sư cũng chú tâm nghiên cứu giáo nghĩa của các tông
Thiên Thai, Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Tam Luận, Luật Tông
và Tịnh Độ. Năm 1922, sau khi đọc bộ
Pháp Luân Bảo Sám, Sư đă có ư nguyện phục hưng
Đường Mật. Do nhận thấy truyền thừa
Đông Mật vẫn c̣n hưng thịnh tại Nhật Bản,
Sư sang chùa Cao Dă (Kōyasan)
ở Kỷ Y bán đảo (Kii hanto) theo học với
Kim Sơn Mục Thiều A Xà Lê thuộc Cổ Nghĩa Chân
Ngôn Tông để học hai bộ quán đảnh Kim Cang Giới
và Thai Tạng Giới. Sau đó, Sư c̣n học Thai Mật
(Mật Tông của tông Thiên Thai) tại núi Tỷ Duệ
(Hiei). Trở về Trung Hoa, Ngài chú tâm hoằng dương
Đông Mật. Ngài ở lại Hoa Lục sau khi chánh quyền
Trung Cộng thành lập. Năm 1966, Cách Mạng Văn Hóa nổ
ra, Ngài và các môn nhân bị chánh quyền đuổi khỏi
chùa Tịnh An. Sư viên tịch năm 1972 tại Thượng
Hải.
[6] Đây
là loại xe có một thùng xe trải đệm làm chỗ
ngồi, phía trước có hai càng gỗ to, do người
kéo chạy trên phố, thường gọi là “nhân lực
xa”.
[7] Nhân mạt (姻末): Danh xưng để gọi hàng hậu
bối đối với bậc trưởng bối trong
quan hệ hôn nhân. Ở đây, theo mạch văn, có lẽ
bà Thanh Nhăn là chị, em, hay con cháu của con dâu hoặc con rể
của ông Chấn Đ́nh (anh trai bà Trương).
[8] Tạp chí Giác Hữu T́nh là tạp
chí Phật giáo xuất bản tại Thượng Hải,
ra số đầu tiên vào ngày mồng Một tháng Mười
năm 1939, do ông Trần Pháp Hương làm chủ biên và
phát hành, được xuất bản bởi Thượng
Hải Đại Pháp Luân Thư Cục. Thoạt đầu
là bán nguyệt san, từ năm 1948 trở đi, đổi thành nguyệt san,
đ́nh bản vào tháng Hai năm 1953, phát hành tất cả
236 kỳ.
[9] Do y ca-sa được chằm từ
các mụn vải, nên gọi là nạp y (áo chằm ghép),
Tăng sĩ cũng được gọi là nạp
tăng. Ở đây, sư Huệ Khánh khiêm tốn xưng
là “ngu nạp” (ông tăng ngu si).
[10] Yết Phố gọi đầy
đủ là Hoàng Yết Phố là một khu vực của
Thượng Hải dọc theo bờ sông Hoàng Phố. Danh
xưng này bắt nguồn từ truyền thuyết Xuân
Thân Quân (Hoàng Yết) nước Sở (làm quan Tả Tư
Đồ thời Sở Tương Vương, về sau
làm Lệnh Doăn dưới thời Sở Khảo Liệt
Vương) đă cho đào con sông này để khai thông thủy
lợi, mở mang nông nghiệp. Đất Thượng Hải
do vậy gọi là Thân (sông Thân Giang bắt nguồn từ
chữ Thân trong phong hiệu Xuân Thân Quân).
[11] Lệ Tây Qua là một giống
dưa hấu trái lớn, đặc sản của thành phố
Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây. Từ đời Hán, giống
dưa này đă là nông sản mỗi năm phải tiến
cống lên triều đ́nh.
[12] Chương là một loại cây
thuộc họ Long Năo, có tên khoa học là Cinnamomum camphora, thường gọi là Camphor
Laurel.
[13] Tử giản chứng (子癇症, Eclampsia) là chứng bệnh co giật,
động kinh trong khi thai nghén, hoặc sau khi sanh con. Nguyên
nhân là do sản phụ bị huyết áp cao, hay có lượng
protein khá cao trong máu, hoặc do các nội tạng bị trục
trặc. Thường là sau khi co giật, sản phụ có
thể bị hôn mê. Biến chứng do sản giật có thể
gây viêm phổi, xuất huyết năo, suy thận, thậm chí
ngừng tim.
[14] Lăng Nghiêm Chú Tâm chính là bảy câu
cuối của chú Lăng Nghiêm, tức: “Án a na lệ tỳ
xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn
đà nễ, bạt xà la, báng ni phấn, hổ hồng
đô rô úng phấn, sa bà ha” (Auṃ
anale, viśade vīra-vajra-dhare, bandha bandhani, vajra-pāniḥ
phaṭ hūṃ trūṃ phaṭ svāhā).
[15] Hồng linh đan (紅靈丹), c̣n gọi là Giáng Lôi, Bát Bảo Hồng
Linh Tán, là một loại thuốc có nguyên liệu chủ yếu
là hùng hoàng (realgar, tức sulfur arsenic), hỏa tiêu (saltpetre), và nhũ hương (frankincense). Các thành phần phụ là nguyệt
thạch (borax, c̣n gọi là bằng sa), thanh thê thạch
(lapis chloriti), băng phiến (borneol), châu sa (cinabaris, tức
sulfur thủy ngân), và xạ hương
(musk). Trung Y tin loại thuốc này có tác dụng hoạt huyết,
chống viêm, tiêu đàm, thường dùng để trị
cảm mạo trúng phong, đau răng, ho suyễn, bệnh
kinh phong ở trẻ em, hoắc loạn thổ tả v.v…