Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần một

大毘盧遮那成佛經疏

Đại Đường Thiên Trúc Tam Tạng Thiện Vô Úy, sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh

大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

* Thay lời dẫn nhập

 

          Kinh Đại Nhật (tên gọi đầy đủ là Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Kinh, Mahāvairocanābhi-saṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtren-drarāja-nāmadharma-paryāya) cùng với kinh Kim Cang Đảnh là hai bộ kinh trọng yếu trong Đông Mật. Từ các giáo nghĩa trong kinh Đại Nhật mà lưu xuất Thai Tạng Mạn Đà La. Do không tu tập Mật Tông, đối với giáo nghĩa của Mật Tông, mạt nhân chỉ hiểu biết sơ sài về mặt văn tự, lại không có cơ duyên t́m học và lănh hội Mật Tông. Do vậy, mạt nhân rất ngần ngại khi phải chuyển ngữ các tác phẩm liên quan đến Mật Tông. Chỉ v́ trước kia do ḷng tham pháp mà đua đ̣i chuyển ngữ, lại được một số đạo hữu lầm tin tưởng, chẳng chấp nhặt văn từ vụng dại, chữ nghĩa quê kệch, cứ cổ vũ mạt nhân tiếp tục làm chuyện quá sức ḿnh, đến nỗi một người bạn đạo vong niên cũng lầm tưởng mạt nhân đủ khả năng, nhiều lần yêu cầu dịch bộ chú giải kinh Đại Nhật này. Anh nói: “Kinh Mật Tông đă được dịch rất nhiều, nhưng không hiểu v́ sao không ai dịch các tác phẩm chú giải, chú hăy giúp anh được đọc chú giải của bộ kinh này trước khi nhắm mắt xuôi tay”. Mạt nhân cũng thử t́m kiếm trên Internet, chắc là do quá low-tech, chưa t́m thấy bản dịch nào. Do cả nể và từ chối măi chẳng được, cũng như thấy vị đạo huynh ấy tuổi ngày một cao, đành phải cắn răng làm liều, dùng kiến thức chấp vá, văn phong quê kệch để chuyển ngữ tác phẩm trọng yếu này cho xong trách nhiệm.

          Xét trong Đại Tạng Kinh và Tục Tạng Kinh, ngài Nhất Hạnh để lại hai tác phẩm: Một là Đại Nhật Kinh Sớ (gồm 20 quyển), và một phiên bản khác là Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Kinh Nghĩa Thích (14 quyển), mạt nhân chọn bản dài hơn (tức bản Đại Nhật Kinh Sớ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, phiên bản điện tử của CBETA). Ngoài ra, do lời Sớ chỉ trích dẫn đại lược các đoạn chánh kinh, chúng tôi cũng dựa theo chánh kinh trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh để trích dẫn nguyên văn các đoạn kinh được giảng giải ngơ hầu người đọc dễ đối chiếu lời chú giải với chánh kinh. Đối với những chữ sai khác đôi chút giữa bản chú giải và chánh kinh, chúng tôi sửa theo chữ ghi trong bản chú giải của ngài Nhất Hạnh. Hơn nữa, tuy bản chú giải chia thành hai mươi quyển, nhưng do thấy nhiều khi chưa giảng hết ư trong một đoạn mà đă sang quyển khác, chúng tôi lược đi, không chia thành quyển để mạch văn được liên tục. Kính mong Tam Bảo từ bi gia hộ, khiến cho con không đến nỗi chuyển ngữ sai lạc ư Phật, ư Tổ, cũng như mong rằng bản dịch quê kệch này sẽ phần nào hữu ích đối với các hành nhân sơ cơ có dịp hiểu đôi chút về giáo nghĩa Mật Tông. Nếu có chút công đức nào, đều xin hồi hướng về pháp giới chúng sanh, lịch đại tổ tiên, oán thân trái chủ, hiện tiền và quá khứ phụ mẫu, sư trưởng, thiện ác tri thức cũng như mười phương chúng sanh đều cùng sanh về Cực Lạc, diện kiến A Di Đà Phật, cùng nghe pháp, tấn tu, cùng chứng Bồ Đề.

Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa đê đầu kính bạch

 

* Đôi nét về sa-môn Nhất Hạnh

 

          Sa-môn Nhất Hạnh (683-727), c̣n gọi là Nhất Hạnh A-xà-lê, pháp hiệu Kính Hiền, là một vị cao tăng Mật giáo, đồng thời là một nhà thiên văn kiêm lịch pháp gia lỗi lạc thời Đường. Ngài được tôn là một trong năm vị tổ của Đông Mật (Long Thọ, Kim Cang Trí, Thiện Vô Úy, Bất Không, và Nhất Hạnh). Ngài quê ở Cự Lộc (nay là huyện Cự Lộc tỉnh Hà Bắc. Có sách chép Ngài quê ở Xương Lạc thuộc Ngụy Châu, nay là huyện Lạc thuộc tỉnh Hà Nam), họ ngoài đời là Trương, tên Toại. Xuất thân từ một gia tộc hiển hách, oai quyền (Ngài là hậu duệ của công thần Trương Công Cẩn thời Sơ Đường, nhưng đến thời ông nội Ngài là Trương Đại Tố, đang làm Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá Nhân th́ do phạm lỗi, bị biếm làm Trưởng Sử ở Hoài Châu, gia đạo bắt đầu suy vi). Lúc mười hai tuổi, Ngài đă làu thông kinh sử, nổi tiếng nhớ dai, bất cứ sách vở nào hễ đọc qua một lượt đều nhớ kỹ không sai. Năm hai mươi tuổi, Ngài đă tinh thông các học thuyết lịch tượng, âm dương, ngũ hành. Sau khi đọc bộ Thái Huyền Kinh của Dương Hùng, Ngài đă biên soạn hai tác phẩm Đại Diễn Đồ Quyết và Nghĩa Quyết trong ṿng mấy ngày, được các bậc hành gia đương thời đánh giá rất cao.

          Khi đó, Vũ Tam Tư (cháu của Vũ Tắc Thiên) đang thao túng triều chánh, nhiều lượt toan kết giao với Ngài để tăng thêm thanh thế. Thấy vậy, Ngài lánh về phương Nam, và bắt đầu chú ư đến Phật pháp. Sau khi song thân đều mất, Ngài gặp Hoằng Cảnh Thiền Sư ở chùa Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu (lúc đó Ngài hai mươi mốt tuổi) giảng pháp, bèn manh nha ư niệm xuất gia. Về sau, do theo học Thiền với ngài Tung Sơn Phổ Tịch, bèn xuất gia làm Tăng (lúc đó Ngài khoảng hai mươi bốn tuổi). Do Ngài thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, thầy liền ban pháp danh là Nhất Hạnh. Sư lại c̣n theo ngài Đương Dương Ngộ Chân học Luật. Ngài từng thâu thập những điều trọng yếu trong luật tạng và kinh tạng, soạn thành bộ sách Nhiếp Điều Phục Tạng gồm mười quyển, được đánh giá rất cao. Năm Khai Nguyên thứ năm (717), dưới sự khẩn khoản yêu cầu của chú ruột đang làm Lễ Bộ Lang Trung trong triều, Ngài nhập cung, chuẩn bị giúp ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Mật giáo. Đồng thời, Ngài cũng theo học Mật pháp với cả hai vị cao tăng Mật Tông thuở đó là Thiện Vô Úy và Kim Cang Trí, được thọ quán đảnh.

          Ngoài ra, Ngài cũng tinh thông Đạo giáo, toán học, lịch pháp, đặc biệt là Phạn văn và toán pháp của Ấn Độ. Năm Khai Nguyên thứ chín (721), Ngài vâng sắc chỉ của Đường Huyền Tông, đính chánh lịch pháp, biên soạn bộ Đại Diễn Lịch Pháp gồm năm mươi hai quyển (hoàn thành vào năm Khai Nguyên thứ 15, tức năm 727). Để giúp các nhà lịch pháp đương thời tính toán lịch pháp dễ dàng hơn, Ngài soạn các bộ Lịch Nghị (mười quyển), Lịch Lập Thành (mười hai quyển), Lịch Thảo (hai mươi bốn quyển), Thất Chánh Trường Lịch (ba quyển) để thuyết minh các nguyên tắc tính toán lịch số. Ngài lại cùng với Binh Tào Tham Quân Lương Linh Toản chế ra dụng cụ Hoàng Đạo Du Nghi để tính toán vị trí chánh xác của một trăm năm mươi mấy hằng tinh, đo lường chánh xác độ dài của kinh tuyến trái đất, khảo sát sự vận hành của mặt trăng v.v… Từ các kết quả trắc lượng, Ngài vẽ thành ba mươi sáu bộ bản đồ tinh tú. Ngài và các cộng sự như Lương Linh Toản chế ra Hỗn Thiên Nghi là dụng cụ trọng yếu để nghiên cứu thiên văn của cổ Trung Hoa, tính toán chuẩn xác quỹ đạo của các tinh tú.

          Ngài lại ghi chép những điều do ngài Thiện Vô Úy giảng về kinh Đại Nhật thành bộ Đại Nhật Kinh Sớ (gồm hai mươi quyển), cũng như vận dụng rất nhiều kinh sách khác để giảng rộng ư nghĩa chánh kinh. Có lẽ do quá lao lực, Ngài qua đời khi mới bốn mươi lăm tuổi, thụy hiệu là Đại Huệ Thiền Sư. Ngài để lại một số trước tác như Tú Diệu Nghi Quỹ, Phạm Thiên Hỏa La Nghi Quỹ, Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tiêu Tai Trừ Nạn Niệm Tụng Nghi Quỹ, Hoa Nghiêm Kinh Hải Ấn Đạo Tràng Sám Nghi (bốn mươi hai quyển, soạn chung với đệ tử là Huệ Giác), Thích Thị Hệ Lục (một quyển), Đại Tỳ Lô Giá Na Phật Nhăn Tu Hành Nghi Quỹ, Mạn Thù Thất Lợi Diễm Mạn Đức Ca Niệm Tụng Nghi Quỹ, Bắc Đẩu Tinh Quân Hộ Ma Pháp...

          Trong đó, theo ghi chép, sau khi bộ Đại Nhật Kinh được dịch xong vào năm Khai Nguyên 12 (724), ngài Nhất Hạnh cung thỉnh ngài Thiện Vô Úy giảng giải nghĩa lư trọng yếu, chép lại những điều trọng yếu gọi là Nghĩa Thích (gồm mười bốn quyển). Hiện thời, có các phiên bản gồm bảy quyển, mười quyển, mười một quyển, mười bốn quyển và hai mươi quyển, nội dung cũng sai khác đôi chút.

          Ngoài ra, theo các sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục và Tục Cổ Kim Dịch Kinh Đồ Kỷ, ngài Nhất Hạnh đă cung thỉnh A-xà-lê Kim Cang Trí dịch Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược Xuất Niệm Tụng Pháp (bốn quyển), Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Minh Đà La Ni Kinh (một quyển) và được thọ quán đảnh. Do vậy, Ngài là bậc A-xà-lê hoằng truyền của hai bộ Thai Tạng Giới và Kim Cang Giới Mạn Đà La.

 

Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

 

1. Phẩm thứ nhất: Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm (Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm phẩm đệ nhất, 入真言門住心品第一)

1.1. Lược giải tựa đề kinh

 

           “Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ”: Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) theo âm tiếng Phạn là tên gọi khác của mặt trời, tức là ư nghĩa “trừ tối tăm, sáng sủa trọn khắp”. Nhưng mặt trời trong thế gian có nơi chốn, giới hạn. Nếu chiếu bên ngoài, sẽ chẳng thể chiếu bên trong, chiếu sáng tại một bên này, sẽ chẳng chiếu sáng bên kia. Lại chỉ chiếu sáng ban ngày, chẳng soi sáng ban đêm. Ánh sáng từ vầng mặt trời trí huệ của Như Lai chẳng giống như vậy, trọn khắp hết thảy mọi nơi đều chiếu sáng bừng, chẳng có nơi chốn trong, ngoài, hay đêm, ngày sai khác.

          Lại nữa, mặt trời vận hành trong cơi Diêm Phù Đề, hết thảy cỏ cây, rừng lùm, tùy theo tánh chất của chúng đều được tăng trưởng, các sự việc trong thế gian bởi đó mà được hoàn thành. Ánh sáng từ vầng mặt trời Như Lai chiếu trọn khắp pháp giới, cũng có thể b́nh đẳng khai phát các thứ thiện căn của vô lượng chúng sanh, cho đến sự nghiệp thù thắng trong thế gian và xuất thế gian, không ǵ chẳng do vậy mà được hoàn thành. Lại như lúc mây mù âm u che lấp mặt trời, nó cũng chẳng bị hoại diệt; gió mạnh thổi tan mây, ánh mặt trời chiếu rạng, cũng chẳng phải là [tới lúc đó, mặt trời] mới sanh. Vầng mặt trời Phật tâm cũng giống như thế, tuy bị mây dày vô minh, phiền năo, hư luận chướng lấp, nhưng nó chẳng giảm. Trong các pháp, Thật Tướng tam-muội viên minh rốt ráo không ngằn mé, nó chẳng tăng! Do các nhân duyên như thế, mặt trời của thế gian chẳng thể sánh ví [vầng mặt trời nơi Phật tâm], chỉ lấy chút phần tương tự. V́ thế, thêm vào đó chữ Đại, mà nói là Ma Ha Tỳ Lô Giá Na vậy!

          “Thành Phật”: Nói đầy đủ theo âm tiếng Phạn sẽ là “thành Tam Bồ Đề”, [Tam Bồ Đề] có nghĩa là Chánh Giác Chánh Tri, tức là dùng Như Thật Trí để biết quá khứ, vị lai, hiện tại, chúng sanh số, phi chúng sanh số, hữu thường, vô thường v.v… hết thảy các pháp đều hiểu biết rành rành, v́ thế gọi là Giác. Nhưng Phật chính là Giác Giả (đấng giác ngộ); do nói tỉnh lược, chỉ nói là “thành Phật”.

           “Thần biến gia tŕ”: Dịch theo lối cũ, sẽ là Thần Lực Sở Tŕ, hoặc Phật Sở Hộ Niệm. Nhưng sự tự chứng Tam Bồ Đề này vượt ngoài hết thảy các tâm địa, hiện tiền giác ngộ các pháp từ thoạt đầu vốn bất sanh, tức là ngôn ngữ đều dứt bặt, tâm hạnh cũng vắng lặng. Nếu ĺa khỏi sức oai thần của Như Lai, dẫu bậc Thập Địa Bồ Tát c̣n chưa thuộc vào cảnh giới ấy, huống hồ những kẻ khác c̣n đang ở trong sanh tử ư? Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn do nguyện đại bi từ xưa kia, nghĩ như thế này: “Nếu ta chỉ trụ trong cảnh giới như thế này, các hữu t́nh sẽ chẳng thể do vậy mà đạt được lợi ích”. V́ thế, Ngài trụ trong tam-muội được gia tŕ bởi thần lực tự tại, v́ khắp hết thảy các chúng sanh, nêu bày đủ loại thân tướng mà [chúng sanh trong] các đường thích thấy, nói đủ loại pháp đáng nên nghe ứng hợp với căn tánh và ḷng ưa thích [của từng loại chúng sanh], tùy thuận các thứ tâm hạnh mà mở ra môn quán chiếu. Nhưng sự ứng hóa ấy chẳng sanh từ thân, ngữ, hoặc ư của đức Tỳ Lô Giá Na. Trong hết thảy thời, xứ, khởi lên, hay diệt mất, đều chẳng thể t́m được ngằn mé! Ví như huyễn sư (người thực hiện huyễn thuật, ảo thuật gia) do sức chú thuật gia tŕ dược thảo, có thể hiển hiện đủ mọi chuyện chưa từng có, ứng với ngũ t́nh[1], khiến đại chúng đẹp ḷng. Nếu rời bỏ sự gia tŕ, sau đó [các huyễn sự ấy] sẽ ẩn mất. Kim cang huyễn của Như Lai cũng giống như thế, hễ duyên hết bèn diệt, cơ duyên hưng khởi bèn sanh, mọi chuyện hễ tiếp xúc đều là chân thật, chẳng có cùng tận. V́ thế nói là Thần Lực Gia Tŕ Kinh. Nếu xét theo Phạn bổn, tựa đề đầy đủ phải là Đại Quảng Bác Kinh Nhân Đà La Vương. Nhân Đà La Vương chính là Đế Thích. Ư nói kinh này là tạng bí yếu của hết thảy các đức Như Lai, oai đức đặc biệt tôn quư trong các giáo thuộc Đại Thừa, ví như Thiên Mục là chúa trời Đế Thích. Nay sợ tựa đề kinh rộng lớn, cho nên chẳng gọi đủ [theo danh xưng ấy]!

 

1.2. Lược giải tên phẩm

 

          Đối với phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm, bản tiếng Phạn có hai tựa đề:

          - Một là Tu Chân Ngôn Hạnh Phẩm.

          - Hai là Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm Phẩm.

          Tôi trộm cho rằng ư nghĩa của chữ Nhập Trụ đă kèm thêm ư Tu Hành, cho nên bỏ lối nói rườm rà, chỉ chọn lấy một tựa đề.

          Chân Ngôn tiếng Phạn là Mạn-đát-la (Mantra), tức là chân ngữ, như ngữ (lời nói đúng như sự thật), là tiếng chẳng quên, chẳng khác. Thích Luận[2] của ngài Long Thọ gọi đấy là “phù hiệu bí mật”, dịch theo lối cũ là Chú (); đó chẳng phải là cách dịch chánh xác. Phẩm này luận định chung đại ư của kinh, tức là nói: “Tự tâm của chúng sanh chính là trí Nhất Thiết Trí”. Hiểu rơ đúng như thật th́ gọi là Nhất Thiết Trí. V́ thế, kinh này dạy các Bồ Tát lấy chân ngữ làm môn, tự tâm phát Bồ Đề chính là “tâm trọn đủ muôn hạnh, thấy Chánh Đẳng Giác trong tâm, chứng Đại Niết Bàn trong tâm, phát khởi phương tiện nơi tâm, trang nghiêm thanh tịnh cơi Phật trong tâm”. Từ nhân tới quả, đều dùng “vô sở trụ” (không trụ vào đâu) để trụ cái tâm. V́ thế nói là phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm.

          Nhập Chân Ngôn môn, đại lược có ba sự:

          - Một là thân mật môn.

          - Hai là ngữ mật môn.

          - Ba là tâm mật môn, trong phần sau sẽ nói cặn kẽ điều này.

          Hành giả dùng ba phương tiện ấy để tự tịnh hóa ba nghiệp, tức là được tam mật của Như Lai gia tŕ, cho đến trong đời này có thể trọn vẹn Địa Ba La Mật, chẳng c̣n phải trải qua nhiều kiếp tu trọn các hạnh đối trị. V́ thế, kinh Đại Phẩm [Bát Nhă] nói: “Hoặc hữu Bồ Tát sơ phát tâm thời, tức thượng Bồ Tát vị, đắc bất thoái chuyển. Hoặc hữu sơ phát tâm thời, tức đắc Vô Thượng Bồ Đề, tiện chuyển pháp luân “ (Có Bồ Tát khi sơ phát tâm, liền dự vào địa vị Bồ Tát bậc thượng, đạt được bất thoái chuyển. Hoặc có vị khi mới phát tâm, liền đắc Vô Thượng Bồ Đề, liền chuyển pháp luân). Ngài Long Thọ bảo là như đi xa, nếu cưỡi dê th́ lâu thật lâu mới đến. Ngựa th́ nhanh hơn một tí. Nếu nương vào người có thần thông, trong khoảng vừa dấy lên ư niệm là đă đến nơi, chẳng thể nói “trong khoảng dấy lên một ư niệm, sao có thể đến được?” Thần thông giống như thế đó, chớ nên sanh nghi! Đấy chính là ư chỉ sâu xa của kinh này vậy.

 

1.3. Giải thích kinh văn

 

          (Kinh) Như thị ngă văn: Nhất thời, Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia tŕ quảng đại kim cang pháp giới cung. Nhất thiết tŕ kim cang giả giai tất tập hội.

          ()如是我聞一時薄伽梵住如來加持廣大金剛法界宮。一切持金剛者皆悉集會

          (Kinh: Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bạc Già Phạm trụ trong Như Lai gia tŕ kim cang pháp giới cung rộng lớn. Hết thảy các vị tŕ kim cang thảy đều nhóm họp).

         

          Khởi đầu của một bộ kinh luôn có năm nghĩa như Đại Trí Độ Luận đă nói cặn kẽ, nhưng bản tiếng Phạn của kinh này thiếu phần Thông Tự. A-xà-lê (tức ngài Thiện Vô Úy) nói: “Tỳ Lô Giá Na đại bổn có mười vạn bài kệ, do to rộng khó tŕ, bậc thánh nhân truyền pháp chọn lấy phần tông yếu gồm hơn ba ngàn bài tụng. Tuy văn, nghĩa của chân ngôn và hành pháp nói chung là trọn vẹn, nhưng do không phải là bản gốc của đại kinh, cho nên thiếu phần Thông Tự “. Nay theo lệ, thêm vào th́ ư nghĩa cũng chẳng bị ảnh hưởng ǵ.

          Bạc Già Phạm (Bhagavān) theo giải thích của bậc luận sư th́ có sáu nghĩa. Nay dựa theo điều được đề cao trong kinh này, th́ Bạc Già Phạm có nghĩa là Năng Phá (có thể phá trừ), như người cầm vũ khí sắc bén, sẽ dẹp yên được nhiều [oán địch]! Đầu đuôi của danh xưng ấy là do thế gian bàn luận, xem xét sự tích, cho nên gọi người ấy là Năng Phá Giả (người có thể phá). Đức Thế Tôn cũng thế, dùng ánh sáng đại trí phá hết thảy vô minh phiền năo trong thức tâm. Các thứ vô minh vốn tự vô sanh mà cũng chẳng có tướng mạo, nhưng mặt trời trí huệ vừa mọc th́ tối tăm, mê hoặc tự trừ. Do vậy, dựa theo ư nghĩa ấy mà gọi là Phá. Thích Luận cũng nói: “Bà Già là Phá, Bà là có thể phá. Có thể phá dâm, giận, si, nên gọi là Bà Già Bà. Nhị Thừa tuy phá Tam Độc, nhưng trọn chẳng sạch hết, như đồ đựng hương vẫn c̣n sót lại mùi hương. Lại như thảo mộc đem đốt, do sức lửa yếu, tro than chẳng hết. Như Lai như lửa lúc kiếp thiêu, [vạn vật] thảy đều cháy hết sạch chẳng có khói, chẳng c̣n than! V́ thế, gọi là Bà Già Bà”.

          Lại nữa, Thanh Luận của Đế Thích nói nữ nhân là Bạc Già, tức là ư nghĩa “mong cầu nhân duyên để có thể dứt phiền năo”. Lại c̣n có nghĩa là “sở tùng sanh (được sanh bởi), tông chỉ của kinh Kim Cang Đảnh chính là được dịch theo nghĩa này. Nói “nữ nhân” th́ tức là Bát Nhă Phật Mẫu[3], là bậc tri kiến vô ngại, thảy đều từ đó mà sanh. Do dốc chí mong cầu nhân duyên, sẽ được tương ứng, phiền năo và hư luận thảy đều vĩnh viễn dứt bặt, chẳng như sức nóng dục vọng của thế gian tuy tạm ngưng dứt, mà thật ra càng tăng trưởng! Do Mật Giáo không thể nói thẳng, có nhiều khi giống như ẩn ngữ, người học hễ tiếp xúc phải suy tưởng.

          Hơn nữa, Bạc Già Phạm tức là “có thanh danh”, như người có nhiều tài vật được gọi là Tŕ Tư Tài Giả (người nắm giữ tài vật), do có vàng nên gọi là Tŕ Kim Giả. Do Như Lai trọn đủ đức hạnh thù thắng, nên gọi là Tŕ Chúng Đức Giả (người nắm giữ các đức). Thích Luận cũng nói: “Bà Già là đức, Bà là Có, tức [Bà Già Bà] là Có Đức. Bà Già là thanh danh, Bà là có, [Bà Già Bà] tức là người có thanh danh”. Hết thảy thế gian, chẳng ai có thanh danh, đức hạnh như Phật; đó chính là ư nghĩa này vậy. Trong kinh, [từ ngữ này] phần nhiều được dịch thành Thế Tôn, tức là danh xưng chung để tán thán phẩm đức. Trong cách nói của phương Tây (Ấn Độ), hễ nói đến bậc tôn quư, chẳng dám réo thẳng tên, ắt là phải trước đó tán thán công đức của vị ấy, như nói Đại Trí Xá Lợi Phất, Thần Thông Mục Kiền Liên, Đầu Đà Đại Ca Diếp, Tŕ Luật Ưu Bà Ly v.v… V́ vậy, trong kinh, theo lệ ấy, bèn nói Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na. Nay thuận theo cách hành văn của phương này, có thể dùng Thế Tôn trong các phần sau vậy.

          Kinh nói “Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia tŕ”, Bạc Già Phạm tức là bổn địa Pháp Thân của Tỳ Lô Giá Na Phật. Kế đó, nói Như Lai, tức là thân gia tŕ của Phật. Trụ xứ ấy được gọi là Thọ Dụng Thân của Phật. Tức là dùng thân ấy làm trụ xứ được Phật gia tŕ. Đối với Như Lai tâm vương, chư Phật hễ trụ bèn trụ trong đó. Từ đó, sanh ra sức gia tŕ trọn khắp hết thảy mọi nơi, tức là chẳng hai, chẳng khác với vô tướng Pháp Thân, nhưng do thần lực tự tại, khiến cho hết thảy chúng sanh trông thấy sắc tướng nơi Thân Mật, nghe âm thanh của Ngữ Mật, ngộ pháp nơi Ư Mật, tùy thuộc căn tánh của họ mà chia thành đủ loại bất đồng, tức là chỗ để trụ ấy được gọi là “gia tŕ xứ “.

          Kế đó, lại nhằm giải thích, tán thán trụ xứ được gia tŕ, bèn nói là “quảng đại kim cang pháp giới cung”. “Đại” là chẳng có ngằn mé. “Quảng” là chẳng thể tính đếm. “Kim cang” là sánh ví trí Thật Tướng, vượt khỏi hết thảy các phương cách diễn tả, suy lường của ngôn ngữ và tâm hạnh, tương ứng với “chẳng nương tựa vào đâu”, chẳng chỉ bày các pháp, chẳng có đầu, giữa, sau, chẳng tận, chẳng hoại, ĺa các tội lỗi, chẳng thể biến đổi, chẳng thể phá hủy, nên gọi là Kim Cang. Như chất báu kim cang trong thế gian có ba sự tối thắng: Một là chẳng thể phá hoại, hai là bậc thượng trong các báu, ba là thù thắng trong các khí cụ để chiến đấu. Điều này đại lược tương đồng với ư nghĩa của thí dụ sánh ví ba loại Kim Cang tam-muội trong Thích Luận.

           “Pháp giới” chính là cái Thể của trí kim cang rộng lớn. Trí thể ấy được gọi là trí thân Thật Tướng của Như Lai. Do được gia tŕ, nó chính là chỗ được trang nghiêm bởi công đức chân thật, là cảnh diệu trụ, là cốt lơi của tâm vương; v́ thế nói là Cung. Cung ấy chính là chỗ cổ Phật thành Bồ Đề, được gọi là Ma Hê Thủ La Thiên Cung. Thích Luận nói: “Năm loại trụ xứ của A Na Hàm thuộc Đệ Tứ Thiền Thiên gọi là Tịnh Cư Thiên. Qua khỏi nơi đó, có trụ xứ của bậc Thập Trụ Bồ Tát, cũng gọi là Tịnh Cư, hiệu là Đại Tự Tại Thiên Vương”. Nay ư nghĩa được đề cao, nêu tỏ ở đây là “dùng cái tâm thần diệu gia tŕ tự tại để làm chỗ cư trụ”, bèn gọi là Tự Tại Thiên Vương Cung. Ư nói: Hễ chỗ nào Như Lai đáng nên ngự th́ không ǵ chẳng phải là cung điện ấy, chẳng phải chỉ biểu thị riêng [một nơi chốn nhất định] trong tam giới.

           “Nhất thiết Tŕ Kim Cang giả giai tất tập hội” (hết thảy các vị Tŕ Kim Cang thảy đều nhóm họp): Kế đó, nói về quyến thuộc mầu nhiệm. Như Lai ngự trong cung ấy là ở một ḿnh, hay là có quyến thuộc? V́ thế, bèn nói trong ấy có vô biên quyến thuộc thường nhóm họp, tức là các vị như Chấp Kim Cang v.v… [Chấp Kim Cang trong] tiếng Phạn là Phạt Chiết La Đà La (Vajradhara), Phạt Chiết La (Vajra) tức là kim cang chử (chày kim cang), c̣n Đà La (Dhara) nghĩa là “chấp tŕ” (nắm giữ). V́ thế, lối xưa dịch [danh hiệu này] thành Chấp Kim Cang, nay nói là Tŕ Kim Cang. Giải thích theo hai lối cạn và sâu, xét về ư nghĩa [th́ cách dịch mới] thù thắng hơn, cho nên trong kinh văn sẽ tùy thuộc thuận tiện mà sử dụng lẫn nhau. Nếu biểu thị theo lối thông thường trong Thế Đế, th́ sẽ nói “sanh thân của Phật thường có năm trăm vị Chấp Kim Cang Thần chầu hầu, bảo vệ”. Nhưng [xét theo] mật ư được đề cao ở đây th́ Phạt Chiết La là Kim Cang Trí Ấn[4] của Như Lai. Trí ấn như thế số nhiều vô lượng, người có thể tŕ ấn ấy cũng là vô biên! V́ cớ sao vậy? Chỗ trụ của tâm vương ắt có tâm số (tâm sở) nhiều như cát bụi làm quyến thuộc. Nay tâm vương Tỳ Lô Giá Na thành tựu tự nhiên giác, lúc bấy giờ, hết thảy tâm số không ǵ chẳng vào trong kim cang giới, thành trí ấn nội chứng công đức sai biệt của Như Lai. Trí ấn như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể nắm giữ. Xét theo ư nghĩa Bồ Đề, tức là có vô lượng vô biên kim cang ấn. Xét theo ư nghĩa Phật Đà, sẽ có vô lượng vô biên vị Tŕ Kim Cang. Do các đức đều là một tướng, một vị, quy vào Thật Tế, nên gọi là “tập hội” (nhóm họp). Nếu có chút phần chẳng bằng, hoặc một pháp chưa viên măn, sẽ chẳng gọi là “nhất thiết tập hội” (hết thảy nhóm họp). Nhưng do dùng thần lực tự tại gia tŕ, từ tâm vương Tỳ Lô Giá Na bèn hiện ra thân gia tŕ tôn quư, đặc biệt. Lúc đó, vô lượng pháp môn quyến thuộc, mỗi mỗi đều hiện thân Chấp Kim Cang, ḥng hiển lộ, phát khởi thế lực to lớn oai mănh của Như Lai, ví như Đế Thích tay cầm chày kim cang phá quân Tu La. Nay các vị Chấp Kim Cang ở đây cũng giống như thế, mỗi vị đều từ một môn, cầm vũ khí Đại Không[5] có thể phá hoại phiền năo vô tướng của chúng sanh. V́ thế, dùng h́nh tướng ấy để sánh ví.

 

          (Kinh) Như Lai tín giải du hư thần biến sanh đại lâu các bảo vương, cao vô trung biên, chư đại diệu bảo vương chủng chủng gián sức, Bồ Tát chi thân vi sư tử ṭa.

          ()如來信解遊戲神變生大樓閣寶王高無中邊諸大妙寶王種種間飾菩薩之身為師子座

          (Kinh: Do thần biến du hư tín giải của Như Lai, sanh ra lầu gác lớn là vua trong các báu, cao vời, chẳng có chặng giữa hay ngằn mé, các loại vua chất báu mầu nhiệm quư nhất [dùng để] xen kẽ trang hoàng, dùng thân của Bồ Tát làm ṭa sư tử).

 

          Đại chúng đă nhóm họp, phải nên có chỗ thuyết pháp. V́ thế, kế đó nói đến lầu gác để trụ và ṭa sư tử. “Tín giải”: Bắt đầu từ thật sự phát tâm cho đến khi thành Phật, trong khoảng giữa đó, gọi chung là Tín Giải Địa (địa vị tín giải). [Tín Giải trong] tiếng Phạn là Vi Cật Rị Nê Đa (Vikriḍita), có nghĩa là “hăng hái, du hư, thần biến”, ư nói: Từ sơ phát tâm cho tới nay, đă gieo sâu căn lành, dấy lên các thứ nguyện hạnh để trang nghiêm cơi Phật, thành tựu chúng sanh, luôn tiến lên thù thắng, chẳng ngưng nghỉ, tức là ư nghĩa “siêu thăng, vọt lên”. Như người được thúc đẩy, cổ vũ, có thể dùng ba nghiệp thiện xảo khiến cho trọn khắp mọi người đều đẹp dạ. V́ vậy, “vọt lên” bèn được gọi là “du hư”. Du hư như thế chính là thần thông tự tại của Bồ Tát. [Chánh kinh có ư] nói đức Tỳ Lô Giá Na khi hành Bồ Tát đạo, đă dùng Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội, cúng dường vô lượng thiện tri thức, hành trọn khắp vô lượng các Độ môn (các Ba La Mật môn), pháp tự lợi và lợi tha đều trọn đủ, có thể đạt được điện đài pháp giới bí mật trang nghiêm do các chất báu trí huệ của Như Lai hợp thành như thế, là cao tột bậc nhất trong hết thảy các thứ được sanh bởi Thật Báo, ví như Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ư Bảo Châu) là vua của các chất báu. V́ thế nói là “du hư thần biến sanh đại lâu các bảo vương”. Điện đường ấy cao vô cùng, phải biết là nó cũng rộng không ngằn mé, do chẳng thể t́m được giới hạn. Cũng lại không có trung gian, do là chỗ trụ của thân trong hết thảy các xứ. Hăy nên biết: Điện đường như thế cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi.

          Kế đó, nói về tướng trạng trang nghiêm của điện đường: Giống như có người dùng đủ loại kim cang nhiều màu để trang nghiêm kim cang, nhưng thể tánh của chúng chẳng có sai biệt. Nay ở đây cũng như thế: Lại dùng các thứ công đức bảo vương của Như Lai để xen kẽ trang hoàng lâu các bảo vương. V́ sao vậy? Chẳng có pháp nào khác xuất sanh tánh báu như thế. Nhưng tướng tịch diệt bậc nhất ấy, do được thần lực của Như Lai gia tŕ, khiến cho người đáng được độ sẽ tùy theo các biểu tượng của các pháp môn, nếu có thể thấy, nghe, tiếp xúc, liền dùng môn ấy để nhập pháp giới, như nhân duyên Thiện Tài đồng tử vào cung điện của ngài Di Lặc.

          Ở đây, phải nên nói cặn kẽ về chuyện dùng thân Bồ Tát làm ṭa sư tử: “Kim cang pháp giới cung” vừa nói trên đây chính là thân của Như Lai. Kế đó, nói tới đại lâu các bảo vương, đấy cũng chính là thân của Như Lai. Nay nói “ṭa sư tử”, hăy nên biết cũng như thế. Sở dĩ nói “thân của Bồ Tát” tức là nói khi hành Bồ Tát đạo, lần lượt tu hành Ba La Mật thuộc mỗi địa vị, cho đến địa vị thứ mười một. Hăy nên biết: Địa vị sau dùng địa vị trước làm nền tảng. V́ thế nói “Như Lai dùng thân Bồ Tát làm ṭa sư tử”. Thích Luận viết: “Ví như sư tử là vua trong các loài thú, đi một ḿnh chẳng sợ hăi. Phật cũng giống như thế, trong chín mươi sáu loại ngoại đạo, hàng phục hết thảy vô úy. V́ thế, gọi là ‘nhân trung sư tử’ (sư tử trong loài người). Chỗ Ngài ngồi, dù là giường hay mặt đất, đều gọi là sư tử ṭa”. Đối với ư nghĩa được đề cao, nêu tỏ ở đây, nói “sư tử” tức là nói tới tâm Bồ Đề dũng kiện. Từ sơ phát ư tới nay, đạt được thế lực tinh tấn to lớn, chẳng hề khiếp nhược, giống như sư tử tùy ư bắt giữ, ắt đều đạt được chẳng sót, tức là ư nghĩa “tự tại độ người khác chẳng bỏ sót” vậy! Nếu giải thích nông cạn, đại lược, sẽ là có ư nói các Bồ Tát thâm tâm kính pháp, cho đến dùng thân để gánh đội ṭa sư tử của Phật. V́ thế nói: “Thân Bồ Tát làm ṭa sư tử”.

 

          (Kinh) Kỳ kim cang danh viết Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Như thị thượng thủ, thập Phật sát vi trần số đẳng Tŕ Kim Cang chúng câu, cập Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát đẳng, chư đại Bồ Tát tiền hậu vi nhiễu, nhi diễn thuyết pháp.

          ()其金剛名曰虛空無垢執金剛虛空遊步執金剛虛空生執金剛被雜色衣執金剛善行步執金剛住一切法平等執金剛哀愍無量眾生界執金剛那羅延力執金剛大那羅延力執金剛妙執金剛勝迅執金剛無垢執金剛刃迅執金剛如來甲執金剛如來句生執金剛住無戲論執金剛如來十力生執金剛無垢眼執金剛金剛手祕密主如是上首十佛剎微塵數等持金剛眾俱及普賢菩薩慈氏菩薩妙吉祥菩薩除一切蓋障菩薩等諸大菩薩前後圍繞而演說法

           (Kinh: Danh hiệu kim cang của các vị ấy là: Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang, Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang, Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ. Các vị thượng thủ như thế, các vị Tŕ Kim Cang nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật nhóm đến, và Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát v.v… Các vị đại Bồ Tát trước sau vây quanh, diễn nói pháp).

 

          Kế đó, nói về đại chúng cùng nghe pháp.

          Hỏi: Đức Phật nói kinh, v́ lẽ ǵ mà nói trụ xứ và quyến thuộc trước hết?

          Đáp: Ví như quốc vương, nếu có chánh lệnh, ắt trước hết công bố tới các khu vực quản lư để chế định, quyết đoán h́nh phạt, và tưởng thưởng. Khi đó, sử quan sẽ chép: “Vào lúc nào đó, vua ở chỗ nào đó, cùng với các đại thần nào đó tụ tập, bàn bạc, có mạng lệnh như thế này…” muốn khiến cho [toàn dân] trong nước tin phục, thực hiện theo, chẳng c̣n nghi ngờ! Pháp vương cũng thế, sắp nói đại pháp, ắt ngự trong đại quyến thuộc là các vị Bồ Tát để họ chứng minh. Do bởi nhân duyên ấy, người nghe sẽ sanh ḷng tin. Do tín tâm, sẽ có thể từ trong pháp như thế mà tu hành, chứng đắc, tín tâm càng nẩy sanh gấp bội. V́ thế, trước hết liệt kê đại chúng.

          Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimalākāśa-vajradhāra) tức là tâm thể Bồ Đề ĺa hết thảy chấp trước, tranh căi, hư luận, như hư không thanh tịnh chẳng có chướng ngại, ngăn lấp, vô cấu, vô nhiễm, mà cũng chẳng phân biệt. Cái tâm như thế chính là Kim Cang trí ấn. Có thể nắm giữ cái ấn như thế, th́ gọi là Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang.

          Kế đó, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang (Ākāśavicaraṇa-vajradhāra). “Du bộ” (Vicaraṇa) có nghĩa là “chẳng trụ, tiến lên thù thắng, thần biến”. Do tâm Bồ Đề thanh tịnh đối với hết thảy các pháp đều chẳng trụ, thường tấn tu vạn hạnh, khởi đại thần thông. V́ thế, nói là Hư Không Du Bộ. Lại nữa, Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang, tức là chủng tử b́nh đẳng của môn chữ A[6], tu vô trụ hạnh, ví như phương tiện gieo trồng th́ rễ, mầm dần dần nẩy sanh. V́ thế, kế đó nói tới chuyện phát khởi, thực hiện kim cang ấn.

          Vị thứ ba là Hư Không Sanh Chấp Kim Cang (Ākāśasaṃbhava-vajradhāra). Như mầm mộng đă nẩy sanh, Tứ Đại và thời tiết làm duyên, hư không vô ngại vun quén trong mỗi niệm. Tâm Bồ Đề cũng giống như thế, dùng “vô sở đắc” làm phương tiện, vạn hạnh làm duyên, đạt được sự sanh khởi chân thật. Đó gọi là Đại Không Sanh; v́ thế gọi là Hư Không Sanh.

          Vị thứ tư là Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang (Citravasadhṛk-vajradhāra), như mầm mộng tăng trưởng, thân, lá, hoa, quả lần lượt trổ sum suê. Bồ Đề tâm thụ vương vạn đức nở x̣e cũng giống như thế. V́ thế nói là “đầy đủ các thứ sắc”. Lại dùng các thứ pháp giới sắc để nhuộm tâm Bồ Đề vô cấu này thành Đại Bi Mạn-đồ-la; nên gọi là Bị Tạp Sắc Y (mặc áo nhiều màu).

          Vị thứ năm là Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang (Vicitracaraṇa-vajradhāra). Chữ Thiện này trong tiếng Phạn là Tỳ Chất Đa La (Vicitra), có nghĩa là “đoan nghiêm, chủng tử. Ví như đă có được quả, hạt, lại c̣n là chủng tử. Thiện Hành Bộ tức là oai nghi của chư Phật, tức là khéo biết các thứ “thông, tắc” như “có thể độ, không thể độ” v.v… Dùng phương tiện nơi thân miệng, ư ứng hợp các căn cơ, khéo léo uốn nắn, khiến cho họ đều thành tựu Phật sự. V́ thế, dùng đó để đặt tên.

          Vị thứ sáu là Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng Chấp Kim Cang (Sarva-dharma-samatasthita-vajradhāra), tức là trụ trong tánh b́nh đẳng của hết thảy chư Phật, ư nói hết thảy các pháp như nhân, quả, tự, tha, hữu vi, vô vi v.v… nhập trong Như Thật Trí ấy, rốt ráo b́nh đẳng, cùng là một Thật Tế. Do có thể nắm giữ trí ấn ấy, nên dùng đó để đặt tên.

          Nhưng cả năm câu trên đây cũng đều là công đức chân thật của Như Lai, chẳng có cạn hay sâu sai khác; chỉ v́ muốn phân biệt cho dễ hiểu mà nói theo thứ tự vậy.

          Vị thứ bảy là Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp Kim Cang (Apramana-sattvadhat-vonukampana-vajradhāra). Ai Mẫn (xót thương) ở đây c̣n gọi là Cứu Độ, ư nói đă trụ trong pháp tánh b́nh đẳng, tự nhiên phát khởi cái tâm đồng thể bi mẫn đối với hết thảy chúng sanh. Do các chúng sanh giới vô lượng, đại bi như thế cũng chẳng có hạn lượng! Đấy là một công đức của Như Lai; v́ thế, người có thể tŕ [công đức ấy] bèn lấy đó làm tên.

          Vị thứ tám là Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Nārāyaṇabala-vajradhāra). Đă phát tâm thương xót, nếu có oai thế lớn, sẽ có thể cứu vớt, che chở; do vậy, kế tiếp bèn nói đến [điều này]. Trong kinh đă so lường, sức của sáu mươi con voi không bằng sức của một hương tượng, cho đến cuối cùng, sức của Na La Diên là tối thắng. Mỗi lỗ chân lông nơi sanh thân của đức Phật đều có sức bằng Na La Diên. V́ thế, dùng sức Na La Diên để sánh ví pháp giới thân.

          Vị thứ chín là Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Mahānārāyaṇabala-vajradhāra), ư nói vị này nắm giữ sức thần thông bí mật. Như Nhất Xiển Đề (Icchāntika)[7] là căn bệnh ắt phải chết, hàng Nhị Thừa dùng Thật Tế để xác chứng người ấy đă chết, chư Phật y vương do thấy [kẻ đó có] Như Lai tánh, bèn có thể thực hiện sư tử hống nhất định, đối với nhân duyên cứu chữa, tâm chẳng khiếp nhược. Các vị Bồ Tát c̣n chẳng thể làm như thế, cho nên lại nói sức bất cộng của hết thảy Ma Ha Na La Diên.

          Vị thứ mười là Diệu Chấp Kim Cang (Su-vajradhāra). Diệu nghĩa là “không có ǵ sánh bằng, không có ǵ hơn được”, giống như đề hồ đă tinh luyện mầu nhiệm tối cực, chẳng thể tăng thêm nữa, thường chẳng biến đổi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp. Như Lai cũng thế, hết thảy các công đức đều không sánh bằng, vô thượng, tất cả các việc làm cũng đều chỉ v́ một đại sự nhân duyên. V́ thế, gọi là Diệu Chấp Kim Cang.

          Vị thứ mười một là Thắng Tấn Chấp Kim Cang (Paramavega-vajradhāra), Thắng là nói tới Đại Không, Đại Không trọn khắp hết thảy mọi nơi. V́ thế, có thể khởi lên thần thông nhanh chóng. Trụ trong thừa ấy, lúc mới phát tâm, liền thành Chánh Giác, bất động sanh tử mà đạt tới Niết Bàn. V́ thế, gọi là Thắng Tấn.

          Vị thứ mười hai là Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimala-vajradhāra), tức là tâm Bồ Đề ĺa hết thảy các chướng. Ví như vàng ṛng, thể tánh thuần tịnh, nếu nung luyện đủ mọi cách, dùng các thứ báu mài bóng, sẽ rạng ngời gấp bội, sẽ biết thoạt đầu thể chất của vàng c̣n lẫn các chất nhơ nhỏ nhiệm. Do có thể tŕ kim cang ấn rốt ráo thanh tịnh ấy, nên lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười ba là Nhận Tấn Chấp Kim Cang (Balavega-vajradhāra). Chữ Nhận này, bản tiếng Phạn ghi là Phẫn như trong phẫn nộ, hàm nghĩa “sắc bén nhất trong các thứ sắc bén”, có nghĩa là giống như mũi đao bén. Tŕ Kim Cang lợi trí này, hết thảy các chỗ khó đoạn đều đoạn, chỗ khó diệt đều diệt. V́ thế, lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười bốn là Như Lai Giáp Chấp Kim Cang (Tathāgatakavaca-vajradhāra). Áo giáp của Như Lai chính là đại từ. Do dùng đó để trang nghiêm thân, nhiếp thủ, bảo vệ chúng sanh thực hiện Phật sự, chẳng bị hết thảy phiền năo gây thương tổn, chẳng thể bị chúng nó (các phiền năo) hàng phục, ngăn trở, phá hoại, nên dùng đó làm tên.

          Vị thứ mười lăm là Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang (Tathāgatapādobhava-vajradhāra). “Cú” là trụ xứ, tức Đại Không Sanh. Công đức tự chứng của chư Phật sanh từ Như Lai tánh. Thân gia tŕ ấy sanh từ công đức tự chứng của Như Lai. Do chẳng ĺa môn chữ A, nên gọi là Như Lai Cú Sanh.

          Vị thứ mười sáu là Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang (Niḥprapanca-pratiṣṭha-vajradhāra), tức là trụ trong Đại Không huệ. Ư nói quán duyên khởi Thật Tướng, vô sanh, vô diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, cũng chẳng phải là “đến, đi, một, khác”, tức là ở trong sự dứt bặt các hư luận, pháp như Niết Bàn. Tŕ trí ấn như thế, nên có thể lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười bảy là Như Lai Thập Lực Sanh Chấp Kim Cang (Tathāgata-daśabalodbhava-vajradhāra), tức là phương tiện trí của Phật. Sự quyền xảo khéo léo như thế sanh từ chỗ nào? Chính là sanh từ mười trí lực của Như Lai. Tŕ cái ấn như thế, cho nên có thể lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười tám là Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang (Vimalanetra-vajradhāra). Ngũ nhăn của Như Lai do Bồ Tát tâm rốt ráo thanh tịnh, dùmg hết thảy các phép Quán để quán hết thảy các pháp; thấy, nghe, hay, biết rành rành, chẳng hề vướng mắc. Có thể tŕ kim cang ấn như thế, cho nên lấy đó làm tên.

          Vị thứ mười chín là Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ (Vajrapāṇi Guhyanātha). Bá Ni (Pāṇi) trong tiếng Phạn là bàn tay. “Chưởng tŕ kim cang” (bàn tay nắm giữ chày kim cang) có nghĩa tương đồng với “thủ chấp” (tay cầm). V́ thế, kinh dùng lẫn lộn hai danh xưng ấy. Phương Tây coi Dạ Xoa là bí mật, do thân, miệng, ư của chúng nhanh chóng, bí ẩn, khó biết rơ! Dịch theo lối xưa, sẽ là Mật Tích (密迹). Nếu nói theo ư nghĩa nông cạn, sơ lược, th́ Bí Mật Chủ chính là Dạ Xoa vương. Vị này thường cầm chày kim cang, theo hầu cận, bảo vệ đức Phật. Do vậy, gọi là Kim Cang Thủ. Nhưng [xét theo] ư nghĩa sâu xa ở đây, nói Dạ Xoa tức là thân ngữ ư mật của Như Lai, chỉ có Phật và Phật mới có thể biết. Thậm chí các vị như Di Lặc Bồ Tát v.v… đối với sức thần thông bí mật như thế, vẫn chẳng thể biết. Bí mật nhất trong các điều bí mật, đó gọi là điều chủ yếu trong tâm mật; v́ thế nói là Bí Mật Chủ. Có thể tŕ cái ấn ấy, nên nói là Chấp Kim Cang.

           “Như thị thượng thủ, thập Phật sát vi trần số đẳng Tŕ Kim Cang chúng câu” (Các vị thượng thủ như thế, các vị Kim Cang chúng nhiều như số lượng vi trần trong mười cơi Phật cùng nhóm họp): Nếu xét theo bản tiếng Phạn đầy đủ, đối với mỗi danh xưng được liệt kê, đều có chữ Đa (nhiều), phải nên nói “Hư Không Cấu đẳng, Hư Không Du Bộ đẳng” (các vị Hư Không Vô Cấu, các vị Hư Không Du Bộ), cho đến “Bí Mật Chủ đẳng”. V́ lẽ nào vậy? Các vị thượng thủ Chấp Kim Cang ấy, mỗi mỗi đều có vô lượng quyến thuộc bộ loại, Đại Bổn th́ ghi trọn vẹn, [bản này] chỉ nêu ra những nét cương yếu, th́ cành, nhánh đều thuận theo. Đối với tác dụng đề xướng nói chung, chẳng đáng coi là thiếu khuyết. Nói “thập Phật sát vi trần số”, tức là Như Lai trí ấn sai biệt, số nhiều vô lượng, chẳng thể dùng toán, số, thí dụ mà ḥng biết được. Lại do mười loại trí lực của Như Lai, mỗi trí đều đối ứng với số lượng vi trần trong một cơi Phật để biểu thị số lượng trong chúng hội, mang ư nghĩa thế giới hải, thế giới tánh và một Phật sát, như trong Thích Luận đă nói cặn kẽ. Nhưng các đức nội chứng của Tỳ Lô Giá Na này, do được gia tŕ, từ mỗi một trí ấn, đều hiện ra thân Chấp Kim Cang, h́nh sắc, tánh loại đều có biểu tượng, mỗi vị đều thuận theo tánh bổn duyên, ḥng dẫn dụ, nhiếp thọ chúng sanh. Nếu các hành nhân ân cần tu tập, sẽ có thể khiến cho ba nghiệp cùng quy vào Bổn Tôn, từ một môn mà nhập pháp giới, tức là nhập trọn khắp hết thảy các pháp giới môn.

          Kế đó, liệt kê các vị Bồ Tát, lấy bốn vị thánh nhân làm thượng thủ. Các vị Chấp Kim Cang được nói trước đó, nhất loạt là trí ấn của Như Lai. Nay các vị Bồ Tát này có ư nghĩa vừa là Định, Huệ, lại vừa là từ bi. V́ thế, nhận lấy các danh hiệu sai biệt, nhưng vẫn là công đức nội chứng của Tỳ Lô Giá Na. Như các vị Chấp Kim Cang nhiều bằng số lượng vi trần trong mười cơi Phật, hăy nên biết là đối ứng với các pháp môn của các vị Bồ Tát, cũng có số lượng bằng số vi trần trong mười cơi Phật. Do được gia tŕ, mỗi vị đều từ một môn pháp giới mà hiện ra thân một vị thiện tri thức. Theo Bát Nhă Thích Luận, khi Sanh Thân Phật (tức thân Phật Thích Ca trong thế giới Sa Bà này) thành đạo, A Nan, Mật Tích Lực Sĩ v.v… được gọi là “nội quyến thuộc”, c̣n các vị thánh nhân như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… và các vị A-tỳ-bạt-trí (Bất Thoái Chuyển) Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát như Di Lặc, Văn Thù v.v… th́ được gọi là “đại quyến thuộc”. Nay nói thân gia tŕ của Phật cũng giống như thế. Các vị Chấp Kim Cang ai nấy tŕ mật ấn của Như Lai th́ được gọi là “nội quyến thuộc”, các vị Bồ Tát dùng phương tiện đại bi phổ môn nhiếp thọ vô lượng chúng sanh, phù tá đấng pháp vương hành Như Lai sự, gọi là “đại quyến thuộc”. V́ thế, Đại Phẩm [Bát Nhă] nói: “Dục vi chư Phật nội quyến thuộc, dục đắc đại quyến thuộc giả, đương học Bát Nhă Ba La Mật dă” (Muốn làm nội quyến thuộc của chư Phật, muốn có đại quyến thuộc, hăy nên học Bát Nhă Ba La Mật).

           “Phổ Hiền Bồ Tát”: Phổ có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”; Hiền nghĩa là “điều thiện mầu nhiệm nhất”, tức là do tâm Bồ Đề khởi lên nguyện hạnh và thân, khẩu, ư, thảy đều b́nh đẳng trọn khắp hết thảy mọi nơi, diệu thiện thuần nhất trọn đủ các đức. Do vậy, đặt tên như thế.

           “Từ Thị Bồ Tát”: Ư nói trong Tứ Vô Lượng Tâm của Phật, nay xưng tụng Từ làm đầu. Ḷng Từ ấy sanh từ chủng tánh Như Lai, có thể khiến cho hết thảy thế gian chẳng đoạn Phật gia, nên nói là Từ Thị. Phổ Hiền được nói trong phần trước là đức tự chứng, bổn nguyện đă măn. Do muốn giáo hóa chúng sanh khiến cho họ đắc đạo ấy, nên kế đó nói đến Từ.

           “Diệu Cát Tường Bồ Tát” (Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát): “Diệu” là vô thượng huệ của Phật, giống như đề-hồ thuần tịnh bậc nhất. Chữ Thất Lợi (Śrī) [trong tiếng Phạn] được dịch nghĩa thành Cát Tường, tức là ư nghĩa “trọn đủ các đức “. Hoặc dịch là Diệu Đức, và cũng dịch là Diệu Âm. Ư nói: Do sức đại từ bi, diễn nói pháp âm mầu nhiệm, khiến cho hết thảy đều nghe. Cho nên Ngài được nêu ra kế tiếp Di Lặc Bồ Tát.

           “Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát” (Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin): Nói Chướng là nói đến các thứ tâm cấu của chúng sanh, chúng có thể che lấp, khiến cho tịnh nhăn của Như Lai chẳng thể mở sáng. Nếu dùng pháp vô phân biệt để diệt các hư luận, như mây mù tiêu trừ, vầng mặt trời chiếu rạng. V́ thế nói là Trừ Cái Chướng. Tất cả việc làm của Như Lai thảy đều v́ một đại sự nhân duyên này. Do vậy, vị Bồ Tát này được kể tên sau ngài Diệu Âm. Hơn nữa, hành nhân tuy học Bát Nhă Ba La Mật, nhưng nếu chẳng có Thiền Định, sẽ giống như kẻ mù, tuy gặp ánh sáng mặt trời, chẳng thể làm được ǵ. V́ thế, sau diệu huệ của ngài Văn Thù, bèn nói Trừ Cái Chướng tam-muội.

          Bốn vị Bồ Tát này chính là Tứ Đức nơi thân Phật, hễ thiếu khuyết đức nào, sẽ chẳng thể thành Vô Thượng Bồ Đề. Do vậy, xếp các Ngài thành bậc thượng thủ, để thống lănh các đức nhiều như cát bụi. “Chư đại Bồ Tát”: Nói đầy đủ theo tiếng Phạn th́ phải là Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa (Mahabodhisattva). Thích Luận nói: “Bồ Đề là đạo của chư Phật, Tát Đỏa là chúng sanh, hoặc là tâm dũng mănh. Người ấy muốn đắc trọn hết công đức của chư Phật, tâm người ấy chẳng thể đoạn, chẳng thể phá, như núi kim cang, được gọi là Tát Đỏa. Lại nữa, tâm người ấy có thể làm đại sự, chẳng lui sụt, chẳng chuyển, do tâm đại dũng mănh. Trong nhiều chúng sanh, [người ấy] khởi đại từ bi, thành lập Đại Thừa, có thể hành đại đạo, đạt được chỗ lớn nhất. V́ thế, ắt có thể thuyết pháp, phá các thứ phiền năo như tâm đại tà kiến, đại ái, đại ngă v.v… của hết thảy chúng sanh. V́ thế gọi là Ma Ha Tát Đỏa”.

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu xét theo chánh nghĩa, phải nói là Bồ Đề Sách Đá. Sách Đá ở đây có nghĩa là nhẫn lạc tu hành, giữ vững, chẳng xả”. Nhưng Thanh Minh[8] có pháp tắc như thế này, nếu luận theo văn tự, nghĩa ấy tuy đúng, nhưng nếu âm vận không trôi chảy, liền sử dụng cách nói thuận tiện. V́ thế, các luận sư trong cơi đời nói là Tát Đỏa, người lưu truyền, tu tập cũng thuận dùng từ ngữ ấy. Theo Du Già Tông, Tát Đỏa đại lược có ba loại:

          - Một, ngu đồng Tát Đỏa (chúng sanh giống như trẻ thơ ngu muội), tức là lục đạo phàm phu, chẳng biết nhân quả nơi Thật Đế, tâm hành tà đạo, tu tập khổ nhân (cái nhân gây tạo nỗi khổ), luyến đắm tam giới, chấp trước chặt chẽ chẳng xả. V́ thế gọi tên như thế.

          - Hai là hữu thức Tát Đỏa, tức Nhị Thừa, vừa mới nhận biết lỗi hại của sanh tử, tự cầu xuất ly để đạt tới Niết Bàn, chấp trước “hóa thành”[9], khởi lên ư tưởng diệt độ. Đối với công đức của Như Lai, chưa sanh tâm mong muốn, ưa thích.

          - Ba là Bồ Đề Tát Đỏa. Vô Thượng Bồ Đề vượt khỏi hết thảy các thứ lỗi lầm như suy đoán, hư luận, có ư nghĩa “một mực thuần thiện, trắng sạch, vi diệu”, chẳng thể dùng thí dụ để sánh ví tương tự được! Đấy chính là cái tâm bổn tánh chẳng thể nghĩ bàn của chúng sanh. Có thể nhẫn chuyện thành đạo như thế, mong cầu, nguyện vui thích tu hành kiên cố bất động, cho nên gọi là Bồ Đề Sách Đá (Bồ Tát). Người như thế công nghiệp lớn nhất, kham có thể chuyển giao [pháp vi diệu của Phật] cho hết thảy chúng sanh, nên gọi là Ma Ha Tát Đỏa.

          Các đại chúng như thế trước sau vây quanh Đại Nhật Thế Tôn, tức là dùng vô lượng thân, khẩu, ư để cúng dường, cung kính v́ nghe pháp vậy!

 

          (Kinh) Sở vị việt tam thời Như Lai chi nhật gia tŕ cố, thân, ngữ, ư b́nh đẳng cú pháp môn.

          ()所謂越三時如來之日加持故身語意平等句法門

          (Kinh: Tức là pháp môn “câu thân ngữ ư b́nh đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia tŕ).

         

          Kế đó, nói về các căn cơ cùng nghe pháp trong hội tốt đẹp ấy, tức là như kinh nói “việt tam thời Như Lai chi nhật gia tŕ cố, thân, ngữ, ư tam cú b́nh đẳng cú pháp môn” (pháp môn “câu thân, ngữ, ư b́nh đẳng” do được mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia tŕ). Kinh này được lưu truyền trong Diêm Phù Đề, đại lược có mười vạn kệ[10]. Nếu đại chúng nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật, ai nấy đều rộng diễn pháp môn sai biệt nơi thân, khẩu, ư, sẽ là chẳng có hạn lượng, Khi thuyết pháp ấy, lại nên như thế nào? V́ thế, người kết tập nói: “Nhĩ thời, trụ ư Phật nhật, nhi diễn thuyết pháp” (lúc bấy giờ, trụ nơi Phật nhật mà diễn nói pháp). Như thời phần (từng phân đoạn thời gian) trong thế gian, ắt có quá khứ, vị lai, hiện tại, số lượng kiếp dài, ngắn, các thứ bất đồng. Lại xét theo mặt trời đi quanh tứ thiên hạ một ṿng, trong một ngày đêm bèn có sơ phần, trung phần, hậu phần, cho đến ba mươi thời v.v… Chẳng trụ trong sát-na nào, đắp đổi, thúc đẩy nhau. Dùng mắt thanh tịnh để xem, [sẽ thấy] tướng của ba đời trọn chẳng thể được! Không khởi đầu, không kết thúc, mà cũng chẳng đến, chẳng đi. Tức vầng mặt trời Thật Tướng ấy viên minh, thường trụ, tĩnh lặng như hư không, chẳng có thời phần dài, ngắn sai khác! Nhưng do thần lực của Phật, khiến cho hành giả Du Già coi vô lượng kiếp như trong khoảng một bữa ăn, hoặc kéo dài [thời gian] một bữa ăn thành vô lượng kiếp. Kéo dài hay rút gọn tự tại, đều phù hợp các căn cơ, chẳng có tướng nhất định để có thể đạt được. V́ thế nói là “Như Lai nhật” (vầng mặt trời Như Lai). Trong thời gian như thế, đức Phật nói pháp ǵ? Chính là pháp môn câu “thân, ngữ, ư b́nh đẳng “. Nói tới các thứ ba nghiệp của Như Lai th́ đều là đạt tới cảnh Đệ Nhất Thật Tế mầu nhiệm tột bậc. Thân bằng với ngữ, ngữ bằng với tâm, khác nào biển cả trọn hết thảy mọi nơi đều có cùng một vị mặn. V́ thế nói là “b́nh đẳng”.     

          “Cú (câu) trong tiếng Phạn là Bát-đàm (Pāda), dịch sát nghĩa là Túc (chân). Nếu luận định theo Thanh Minh, sẽ có nghĩa “tiến hành, trụ xứ”. Như người tiến bước, chỗ giở chân, hạ chân in dấu được gọi là Bát-đàm. Mỗi câu trong ngôn từ cũng có ư nghĩa tương ứng như thế; v́ thế, được gọi bằng cùng một danh xưng. Nay xét theo điều được đề cao ở đây, sẽ có nghĩa là tu theo “đạo tích” (dấu vết đạo, ư nói: Tŕnh tự tu tập) như thế, lần lượt tấn tu, sẽ trụ trong ba chỗ b́nh đẳng, nên gọi là Cú. Tức là dùng thân khẩu ư gia tŕ bí mật b́nh đẳng để làm chỗ nhập môn, nghĩa là dùng mật ấn nơi thân b́nh đẳng, chân ngôn nơi ngữ b́nh đẳng, và diệu quán nơi tâm b́nh đẳng làm phương tiện ḥng thấy được Gia Tŕ Thọ Dụng Thân. Gia Tŕ Thọ Dụng Thân như thế chính là thân trọn khắp hết thảy của Tỳ Lô Giá Na Phật. Thân trọn khắp hết thảy chính là trí thân b́nh đẳng của hành giả. V́ thế, người trụ trong thừa ấy, do chẳng hành mà hành, do chẳng đến mà đến, nên gọi là “b́nh đẳng cú” (câu b́nh đẳng). Hết thảy chúng sanh đều nhập vào trong ấy, nhưng thật ra chẳng thể nhập, không có chỗ để nhập, nên gọi là “b́nh đẳng”. Pháp môn b́nh đẳng chính là đại ư của kinh này vậy!

 

          (Kinh) Thời bỉ Bồ Tát, Phổ Hiền vi thượng thủ, chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ. Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia tŕ cố, phấn tấn thị hiện thân vô tận trang nghiêm tạng, như thị phấn tấn thị hiện ngữ ư b́nh đẳng vô tận trang nghiêm tạng, phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ư sanh, nhất thiết xứ khởi diệt biên tế bất khả đắc, nhi Tỳ Lô Giá Na nhất thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ư nghiệp, nhất thiết xứ, nhất thiết thời, ư hữu t́nh giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp. Hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm, năi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh măn túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng, hữu t́nh loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu nha chủng sanh khởi.

          ()時彼菩薩普賢為上首諸執金剛祕密主為上首毘盧遮那如來加持故奮迅示現身無盡莊嚴藏如是奮迅示現語意平等無盡莊嚴藏非從毘盧遮那佛身或語或意生一切處起滅邊際不可得而毘盧遮那一切身業一切語業一切意業一切處一切時於有情界宣說真言道句法又現執金剛普賢蓮華手菩薩等像貌普於十方宣說真言道清淨句法所謂初發心乃至十地次第此生滿足緣業生增長有情類業壽種除復有牙種生起

          (Kinh: Khi ấy, Phổ Hiền làm thượng thủ của các vị Bồ Tát ấy, Bí Mật Chủ làm thượng thủ của các vị Chấp Kim Cang. Do Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia tŕ, bèn dũng mănh thị hiện tạng vô tận trang nghiêm nơi thân, dũng mănh thị hiện tạng vô tận trang nghiêm b́nh đẳng nơi ngữ và ư như thế, chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ư của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ nghiệp, hết thảy ư nghiệp của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy thời, trong hữu t́nh giới, tuyên nói cú pháp của đạo chân ngôn. Lại hiện các h́nh tướng như Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v… để trọn khắp mười phương tuyên nói cú pháp chân ngôn đạo thanh tịnh, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt được trọn đủ [các địa vị ấy] trong đời này, đoạn trừ nghiệp và thọ mạng do nương theo nghiệp mà sanh khởi và tăng trưởng nghiệp của các loài hữu t́nh, lại c̣n sanh khởi mầm mống [giải thoát]).

         

          Do sắp nói pháp môn b́nh đẳng này, trước hết, dùng tự tại gia tŕ để cảm động đại chúng, đều hiện cảnh giới Phổ Môn bí mật trang nghiêm, và chuyện chưa từng có, chẳng thể nghĩ bàn. Do họ nghi vấn mà [đức Phật] diễn nói, khiến cho người nghe tin ưa gấp bội, thâm nhập ư nghĩa nơi ngôn từ, như các nhân duyên trong Tự Phần và phẩm Tùng Địa Dũng Xuất của kinh Pháp Hoa; ở đây sẽ nói rộng. Lại nữa, các vị nhân giả thượng thủ như Phổ Hiền, Bí Mật Chủ v.v… chính là trí thân sai biệt của đức Tỳ Lô Giá Na, đă thông đạt cảnh giới như thế từ lâu. Nhưng các vị thiện tri thức hiển hiện trong các môn giải thoát ấy, mỗi vị đều dẫn dắt vô lượng người đương cơ cùng nhập pháp giới Mạn-đồ-la. V́ tạo lợi ích cho các Bồ Tát bắt đầu nhập pháp môn, thật sự tu hành, được Như Lai gia tŕ, mà dũng mănh thị hiện sức đại thần thông. Như sư tử chúa sắp rống vang, ắt trước hết sẽ vươn duỗi thân ḿnh, thể hiện năng lực, sau đó mới phát ra tiếng. Như Lai cũng thế, do sắp nhất định sư tử hống để tuyên nói hết thảy trí môn, trước hết bèn dũng mănh thị hiện vô tận trang nghiêm tạng. Nói “trang nghiêm” chính là nói từ một thân b́nh đẳng mà hiện trọn khắp hết thảy các oai nghi. Các oai nghi như thế, không ǵ chẳng phải là mật ấn. Từ một b́nh đẳng ngữ, hiện trọn khắp hết thảy các âm thanh. Các âm thanh như thế, không ǵ chẳng phải là chân ngôn. Từ một tâm b́nh đẳng, hiện trọn khắp hết thảy Bổn Tôn. Các vị Bổn Tôn như thế, không ǵ chẳng phải là tam-muội. Nhưng mỗi một tướng sai biệt trong ba nghiệp đều là không có ngằn mé, chẳng thể đo lường, nên gọi là “vô tận trang nghiêm”.

          Kinh Như Lai Bí Mật Huệ chép: “Trừ Cái Chướng Bồ Tát ư pháp hội trung, dục tri Phật thân lượng cố, lệnh Đại Mục Kiền Liên tầm chi. Mục Liên thượng chí Phạm cung, do đổ Như Lai nhược đối mục tiền. Phật thân oai nghi, thuyết pháp âm thanh, dữ bổn vô dị, năi chí tận kỳ thần lực, văng nghệ tha phương Phật độ, diệc bất dị Phạm cung. Nhĩ thời, Trừ Cái Chướng Bồ Tát cập dĩ Mục Liên bất năng trắc cố, tự văng quán sát, quá thập phương các như Hằng hà sa thế giới, giai kiến Như Lai bất khởi vu ṭa, nhi diễn thuyết pháp. Năi chí châu cực thập phương, tận kỳ thần thông thế lực, diệc phục như thị. Nhiên hậu hoàn quy, phương kiến Trừ Nghi thiên nữ khứ Phật bất viễn, kiến nhập ư tam-muội, tiện tác thị niệm: ‘Ngă văn thử thiên nữ, thông đạt vô lượng tam-muội môn. Ngă đương quán chi, kim trụ hà định dă’. Hựu tận tâm lực quán chi, bất trắc kỳ tâm sở hành chi xứ, tụ tập vô lượng thiên cổ, nhất nhất giai như Tu Di sơn vương, dĩ thần lực đồng thời phát thanh, dục linh xuất định, nhi bất năng đắc, năi chí Phật ngôn: - Ngă vị phát Bồ Đề tâm thời, thị thiên nữ dĩ năng trụ thử tam-muội” (Trừ Cái Chướng Bồ Tát ở trong pháp hội, muốn biết thân lượng của đức Phật, bèn sai Đại Mục Kiền Liên t́m kiếm. Ngài Mục Liên lên tới cung điện của Phạm vương, vẫn thấy Như Lai như ở ngay trước mắt. Oai nghi nơi thân Phật, âm thanh thuyết pháp chẳng khác ǵ ở ngay nơi đây. Cho đến trọn hết thần lực, qua tới cơi Phật ở phương khác, cũng chẳng khác ǵ nơi cung điện Phạm vương. Lúc bấy giờ, Trừ Cái Chướng Bồ Tát do thấy Mục Liên chẳng thể đo lường, bèn tự đi quán sát, qua khỏi các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mỗi phương thuộc mười phương, đều thấy Như Lai chẳng rời khỏi ṭa mà diễn nói pháp. Thậm chí trọn khắp cùng cực mười phương, trọn hết thế lực thần thông của chính ḿnh, cũng vẫn là như thế. Sau đó, Ngài trở về, mới thấy thiên nữ Trừ Nghi ở cách đức Phật chẳng xa, thấy cô ta đang nhập tam-muội, liền nghĩ thế này: ‘Ta nghe nói vị thiên nữ này thông đạt vô lượng tam-muội, ta hăy nên quán xem cô ta đang trụ trong môn Định nào’. Lại tận hết tâm lực để quán, chẳng thể ḍ lường chỗ tâm hạnh của cô ta, bèn tụ tập vô lượng trống trời. Mỗi cái trống đều to như núi chúa Tu Di, dùng thần lực khiến trống cùng lúc phát ra tiếng, toan ép cho cô ta xuất định, nhưng chẳng thể được. Cho đến khi đức Phật nói: - Khi ta chưa phát Bồ Đề tâm, vị thiên nữ này đă có thể trụ trong môn tam-muội ấy). Đấy chính là ư nghĩa “vô biên tế “ (không có ngằn mé vậy).

          Đức Tỳ Lô Giá Na nhập trọn khắp hết thảy các thế giới trong mười phương như thế, mỗi mỗi đều hiện thân gia tŕ của Phật. Mỗi thân ấy đều có đại chúng Bồ Tát và Kim Cang nhiều bằng số vi trần trong mười cơi Phật. Các căn và tướng hảo của đại chúng cũng lại vô biên, như dầu mè đầy khắp pháp giới. Trong ấy, chẳng có khe hở nào! Lại như quốc vương có kho tàng lớn, nếu cần phô bày cho người khác thấy, sẽ tự tại mở toang để phô bày. V́ thế nói là “trang nghiêm tạng”.      

          Lại nữa, các đại chúng ấy chỉ do sức oai thần của Phật mà được thấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn như thế. Nếu Như Lai chẳng gia tŕ, sẽ chẳng hiện tiền, [cảnh giới ấy] chẳng thuộc vào hạn lượng mà tự tâm có thể biết được! Như hành giả trong th́ tu tập Ban Châu tam-muội, ngoài th́ được thần lực hộ tŕ, sẽ có thể từ cái thân do cha mẹ sanh ra mà thấy mười phương chư Phật, như đêm quang đăng, không mây, ngửa mặt lên, trông thấy các ngôi sao, lắng nghe pháp âm, rành rẽ vô ngại. Nhưng cảnh giới ấy sanh từ tâm thanh tịnh của hành giả ư? Hay do Phật gia hộ mà sanh ra ư? Nếu do nội tâm [của hành giả], tức là sanh từ tự tánh. Nếu từ Phật lực, tức là sanh từ tha tánh. [Nếu vậy] sẽ đều chẳng khác luận nghĩa của ngoại đạo! Do tự lẫn tha đều không có, ḥa hợp cũng không có. Lại chẳng phải là không có nhân duyên mà được thành tựu. V́ lẽ nào? Hễ nội nhân và ngoại duyên có đằng nào thiếu khuyết, sẽ chẳng hiện tiền. Hăy nên biết tướng trang nghiêm như thế, khi hiển hiện th́ chẳng từ đâu tới, lúc ẩn th́ cũng chẳng đi về đâu, do rốt ráo b́nh đẳng chẳng ra ngoài Như! Kinh dạy: “Phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc ngữ, hoặc ư sanh, nhất thiết xứ khởi diệt biên tế bất khả đắc. Nhi Tỳ Lô Giá Na nhất thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp, nhất thiết ư nghiệp, nhất thiết xứ, nhất thiết thời, ư hữu t́nh giới, tuyên thuyết chân ngôn đạo cú pháp” (Chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ư của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ nghiệp, hết thảy ư nghiệp của Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy thời, trong hữu t́nh giới, tuyên nói cú pháp của đạo chân thật). Đấy là lần lượt giải thích v́ sao tạng trang nghiêm của Phật vô tận, chẳng có ngằn mé, do chẳng khác thân thường trụ bất diệt, trọn khắp hết thảy mọi chỗ của Như Lai. Tuy thường chẳng khởi lên hay diệt mất, nhưng có thể dùng hết thảy ba nghiệp để trong trọn khắp mười phương ba đời, hết thảy thời, hết thảy xứ, nói đạo tối chân thật ḥng giáo hóa quần sanh, uốn nắn tâm họ cho tới khi đạt đến Phật đạo.

          Kinh lại nói “hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm năi chí Thập Địa, thứ đệ thử sanh măn túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng hữu t́nh loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu nha chủng sanh khởi” (lại hiện tướng mạo của Chấp Kim Cang Thủ, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v… để trọn khắp mười phương tuyên nói pháp chân ngôn đạo thanh tịnh cú, tức là từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần lượt viên măn [các địa vị ấy] ngay trong một đời này, đoạn trừ nghiệp, thọ mạng do duyên theo nghiệp mà sanh khởi, tăng trưởng của các loài hữu t́nh, lại có mầm mống sanh khởi [đạo giải thoát]) chính là nói rộng tướng trên đây. [Đoạn kinh văn trên đây] ư nói không chỉ thị hiện thân Phật đầy khắp hết thảy các thế giới trong mười phương, mà c̣n hiện thân Kim Cang, Bồ Tát v.v… cũng lại trọn khắp hết thảy mọi nơi. Hơn nữa, các vị Chấp Kim Cang, Bồ Tát v.v… nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật, thân khẩu tâm ấn sai biệt bất đồng. Tướng loại, quyến thuộc của các Bổn Tôn như thế, đều như đức Tỳ Lô Giá Na đầy khắp hết thảy các thế giới trong mười phương, như lưới Nhân Đà La (lưới bảo châu của Đế Thích, các viên châu soi bóng lẫn nhau) chẳng trở ngại nhau. Nay nêu đại lược ba vị thánh (Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ), gọi là các vị cầm đầu. Chấp Kim Cang tương ứng với Kim Cang trí huệ môn, là phương tiện hàng phục. Phổ Hiền tương ứng Pháp Thân môn Như Như, là phương tiện dứt trừ tai ương. Quán Âm (Liên Hoa Thủ) tương ứng với Liên Hoa tam-muội môn, là phương tiện tăng ích. Nêu ra ba điểm ấy, vô lượng diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn đều được thâu nhiếp trong ấy. V́ thế, đặc biệt nhắc đến.

          Nói là “đẳng”, tức là cho đến chư thiên, tám bộ, ngũ thông thần tiên, các điều được biểu thị bằng Mạn-đồ-la hiện ra bên ngoài, cũng chuẩn theo đó mà suy ra. Các thứ nhân duyên, vô số phương tiện phổ môn ứng hiện nhằm giáo hóa quần sanh như thế, tuy sâu hay cạn khác nhau, thô hay tế khác biệt, nhưng xét theo sự thật, không ǵ chẳng phải là được bí mật gia tŕ, mỗi mỗi đều có thể khai thị tri kiến thanh tịnh của Như Lai. Nếu ĺa khỏi ấn Thật Tướng như thế, các thứ khác đều do ái kiến sanh ra, là bè lũ của thiên ma ngoại đạo, há đáng gọi là “câu nghĩa thanh tịnh” ư? Kế đó, lại giải thích rằng: Cái gọi là “thanh tịnh cú” (câu thanh tịnh) chính là “đốn giác thành Phật thần thông thừa. Nếu Bồ Tát thuộc các thừa khác, chí cầu Vô Thượng Bồ Đề, siêng khổ đủ mọi lẽ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vô số A-tăng-kỳ kiếp, nhưng có vị thành Phật, có vị chẳng thành! Nay Bồ Tát thuộc Chân Ngôn môn, nếu có thể tu hành chẳng thiếu khuyết pháp tắc, phương tiện, thậm chí ngay trong một đời này, sẽ thấy cảnh giới gia tŕ vô tận trang nghiêm, không chỉ là hiện tiền mà thôi! Nếu muốn siêu thăng lên địa vị Phật, giống như Đại Nhật Như Lai, th́ cũng có thể đạt đến.

          Hơn nữa, hành giả lúc sơ phát tâm, được nhập môn chữ A (), chính là từ kim cang tánh của Như Lai mà nẩy mầm. Hăy nên biết khi cái mầm ấy vừa sanh, sẽ có ư nghĩa “lần lượt tăng tấn, chẳng c̣n lui sụt”, cho đến khi thành Bồ Đề, không có hạnh nào để tăng thêm. Sau đấy mới dừng nghỉ, nên nói là “thứ đệ thử sanh măn túc” (lần lượt viên măn [các địa vị ấy] trong một đời này). Chữ “thứ đệ” ở đây trong tiếng Phạn có các ư nghĩa “chẳng trụ, tinh tấn, hành trọn khắp”. Tức là nói sơ phát tâm do muốn nhập địa vị Bồ Tát, đối với pháp yếu và phương tiện chân ngôn này bèn tu hành, đạt tới Sơ Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái tâm vô sở trụ tăng tấn chẳng ngưng nghỉ để viên măn Đệ Nhị Địa. Lại nương vào pháp yếu và phương tiện của chân ngôn để tu hành, đạt tới Đệ Tam Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái tâm vô sở trụ tăng tấn không ngừng để viên măn Đệ Tứ Địa, lại nương vào pháp yếu và phương tiện của chân ngôn, được nhập Ngũ Địa. Theo thứ tự như thế, cho đến viên măn Thập Địa, chỉ dùng một hạnh, một đạo để thành Chánh Giác. Nếu đối với phương tiện môn khác mà khai hiển mật ư, cũng đều chẳng ĺa thừa báu như thế.

           “Duyên nghiệp sanh” tức là nói tới nhân duyên si ái của hữu t́nh, tạo thành các thứ nghiệp chẳng thanh tịnh, hư vọng nơi thân, khẩu, ư. Nương vào các nghiệp như thế mà sanh làm các thân trong sáu đường, tăng trưởng luân hồi, hứng chịu đủ mọi nỗi khổ! Nay tu tam nghiệp thanh tịnh b́nh đẳng huệ môn, hết thảy các chủng tử của nghiệp và thọ mạng trong Uẩn A Lại Da Thức đều bị đốt sạch, trừ diệt, đạt được hư không vô cấu đại Bồ Đề tâm. Chủng tử b́nh đẳng của hết thảy Như Lai từ trong bi tạng sẽ nẩy sanh mầm pháp tánh, cho đến thân, lá, hoa, quả trọn khắp các pháp giới, trở thành Bồ Đề thụ vương vạn đức nở x̣e. Nhưng dùng nghĩa Tứ Bất Sanh để quán, sẽ đều là “chẳng có ǵ khởi lên” mà cũng “chẳng có chỗ để khởi lên”. Hăy nên biết cái Sanh ấy chính là Đại Không Sanh. V́ thế nói: Chủng tử của nghiệp và thọ mạng của loài hữu t́nh đă trừ diệt, lại có mầm mộng [pháp tánh giải thoát] sanh khởi.

          Lại nữa, các vị thiện tri thức và pháp giới môn nhiều như số vi trần trong mười cơi Phật do Như Lai đă hiện, nếu theo thứ tự xem nghe, sẽ là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp chẳng thể [thấy, nghe] trọn khắp được! Do Phật nhật gia tŕ, trong khoảnh khắc ngồi nơi pháp hội mà thảy đều hiện tiền. Tức là khi sắp nói kinh này, bèn phơi bày thụy tướng thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Như ngài Văn Thù Sư Lợi thấy [quang minh phát ra từ tướng] bạch hào [của đức Phật] chiếu thấu các thứ nhân duyên của các vị Bồ Tát trong một vạn tám ngàn cơi đều là hành Bồ Tát đạo, liền biết rơ chư Phật sắp khai Quyền hiển Thật, nói kinh Pháp Hoa. Hăy nên biết các vị như Kim Cang Thủ v.v… cũng giống như thế, thấy thế giới được gia tŕ trọn khắp, chỉ nói pháp môn b́nh đẳng, liền biết Như Lai sắp diễn nói giáo pháp tự tâm thành Phật trọn khắp hết thảy các thừa. V́ thế, lời thưa hỏi trong phần kinh văn tiếp theo chính là dựa theo đấy mà sanh khởi vậy.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, ư bỉ chúng hội trung tọa, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí trí? Bỉ đắc Nhất Thiết Trí trí, vị vô lượng chúng sanh, quảng diễn phân bố, tùy chủng chủng thú, chủng chủng tánh dục, chủng chủng phương tiện đạo, tuyên thuyết Nhất Thiết Trí trí, hoặc Thanh Văn thừa đạo, hoặc Duyên Giác thừa đạo, hoặc Đại Thừa đạo, hoặc ngũ thông trí đạo, hoặc nguyện sanh thiên, hoặc sanh nhân trung, cập long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, năi chí thuyết sanh Ma Hầu La Già pháp. Nhược hữu chúng sanh ưng Phật độ giả, tức hiện Phật thân, hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc hiện Duyên Giác thân, hoặc Bồ Tát thân, hoặc Phạm thiên thân, hoặc Na La Diên, Tỳ Sa Môn thân, năi chí Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân đẳng thân, các các đồng bỉ ngôn âm, trụ chủng chủng oai nghi, nhi thử Nhất Thiết Trí trí đạo nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị.

          ()爾時執金剛祕密主於彼眾會中坐白佛言世尊云何如來應供正遍知得一切智智彼得一切智智為無量眾生廣演分布隨種種趣種種性欲種種方便道宣說一切智智或聲聞乘道或緣覺乘道或大乘道或五通智道或願生天或生人中及龍夜叉乾闥婆乃至說生摩睺羅伽法若有眾生應佛度者即現佛身或現聲聞身或現緣覺身或菩薩身或梵天身或那羅延毘沙門身乃至摩睺羅伽人非人等身各各同彼言音住種種威儀而此一切智智道一味所謂如來解脫味

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngồi ở trong chúng hội ấy bạch cùng đức Phật rằng: - Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào? Đă đắc trí Nhất Thiết Trí, v́ vô lượng chúng sanh rộng diễn, lưu truyền, tùy theo các loại đường [thọ sanh], các loại tánh t́nh ưa thích, các thứ phương tiện đạo mà tuyên nói trí Nhất Thiết Trí, hoặc đạo Thanh Văn thừa, hoặc đạo Duyên Giác thừa, hoặc đạo Đại Thừa, hoặc đạo ngũ thông trí, hoặc nguyện sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, và rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cho đến nói pháp sanh làm Ma Hầu La Già. Nếu có chúng sanh đáng nên dùng [thân] Phật để độ, liền hiện thân Phật, hoặc hiện thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc thân Bồ Tát, hoặc thân Phạm Thiên, hoặc thân Na La Diên, Tỳ Sa Môn, cho đến các thân Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… Mỗi thân đều giống với ngôn âm của từng loài, trụ trong các thứ oai nghi, nhưng đạo trí Nhất Thiết Trí ấy chỉ có một vị, tức là vị giải thoát của Như Lai).    

 

          Trí do Như Lai tự chứng, dẫu dùng thần lực gia tŕ, vẫn chẳng thể chỉ bày cho kẻ khác. Phần trước đă nói “dũng mănh thị hiện vô tận trang nghiêm tạng” đều là dấu tích thuộc tác dụng bên ngoài mà thôi! Người trí trông thấy các cành nhánh ấy, liền biết đó là để sánh ví điều cốt lơi. Như nh́n vào dấu chân voi vượt trội các loài thú khác, [do thấy] vết giẫm đạp sâu rộng gấp bội, tuy chẳng thấy h́nh vóc của nó, vẫn biết con voi ấy ắt có sức mạnh to lớn. Lại như sấm rền, tuôn mưa, có thể khiến cho chim, thú bị chấn động mà chết, trăm sông ồ ạt chảy, núi vỡ nghiêng sụp. Tuy chẳng ḍ lường cội gốc, vẫn biết oai thế của con rồng [tuôn mưa] ấy ắt to lớn. Nay các đại chúng cũng giống như thế, do quán thân, khẩu, ư vô tận của Như Lai có thể cùng lúc ứng hiện trọn khắp các chúng sanh trong pháp giới, khéo phù hợp căn tánh, cơ nghi, uyển chuyển thành tựu Phật sự, sẽ biết trí lực của Như Lai ắt trong một niệm xét soi trọn khắp nhân duyên gốc ngọn của các căn cơ rốt ráo vô ngại. Quyền xảo chiếu Tục Đế mà c̣n như thế, vậy th́ cảnh giới khế Thật sẽ là như thế nào? Nếu pháp chẳng vậy, ắt sẽ có dấu vết nhỏ nhiệm để ḍ t́m. Tôi đă nh́n trọn hết, nhưng chẳng biết pháp ấy do đâu mà đạt được! V́ thế, do chúng hội có ḷng nghi, ngài Chấp Kim Cang Thủ bèn hỏi đức Phật rằng: “Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất Thiết Trí trí?” (Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào?)

          Bản tiếng Phạn ghi [Như Lai] là Đát Tha Yết Đa (Tathāgata), Đát Tha (Tathā) nghĩa là Như, Yết Đa (Gata) nghĩa là Lai (đến), nghĩa là “hiểu biết, nói, đi”. Như chư Phật nương vào đạo Như Thật mà đến thành Chánh Giác, nay đức Phật cũng đến như thế, nên gọi là Như Lai. Hết thảy chư Phật đều đă hiểu biết đúng như Thật Tướng của các pháp, lại cũng đúng như Thật Tướng của các pháp mà nói cho chúng sanh. Nay đức Phật cũng như thế, nên gọi là Như Thật Tri Giả (đấng biết đúng như thật), cũng gọi là Như Thật Thuyết Giả (đấng nói đúng như sự thật). Hết thảy chư Phật đạt được tánh an lạc như thế, măi cho đến khi nhập Niết Bàn, nay đức Phật [Thích Ca] cũng đi như thế, cho nên gọi là Như Khứ. Thích Luận nêu trọn đủ bốn nghĩa, nhưng các bản dịch theo lối cổ phần nhiều nói là Như Lai. Giới bổn của Hữu Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ) th́ ghi là Như Khứ. Theo ư của A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) th́ giữ thêm các ư nghĩa Như Khứ, Như Thuyết. Nay tôi vẫn thuận theo cách ghi của cổ nhân vậy.

          Bản tiếng Phạn ghi [Ứng Cúng] là A La Ha (Arhat), A La là phiền năo, Ha nghĩa là “làm hại, trừ bỏ”. Thích Luận giảng [A La Ha] là Sát Tặc (giết giặc). Phật dùng áo giáp Nhẫn, Tấn (nhẫn nhục và tinh tấn), cưỡi ngựa TGiới, cầm cung Định, tên Huệ, ngoài là phá quân ma vương, trong là diệt giặc phiền năo. Do vậy, có tên như thế. Lại nữa, A là Bất, La Ha là Sanh. Ư nói: Chủng tử trong Phật tâm chẳng sanh trong ruộng đời sau[11], do đă tróc vỏ trấu vô minh. Lại nữa, A La Ha có nghĩa là “đáng nhận cúng dường” (do vậy, dịch là Ứng Cúng). Do có công đức như thế, đáng nhận sự cúng dường tối thượng của trời, người. V́ vậy, có tên như thế.

          Bản tiếng Phạn ghi [Chánh Biến Tri] là Tam Miệu Tam Phật Đà (Samyak-saṃbuddha), Tam Miệu (Samyak) là Chánh, Tam (Sa) là Biến (trọn khắp), Phật Đà (Buddha) là Tri. V́ thế nói là Chánh Biến Tri. Thích Luận nói: “Nếu có người nói v́ cớ sao chỉ có Phật là như thật nói như lai, như khứ, đáng nhận cúng dường tối thượng? Do Phật đắc chánh biến trí huệ. Chánh tức là tướng bất hoại, bất động của các pháp. Biến là do chẳng là một hoặc hai pháp, mà là đều biết trọn khắp hết thảy các pháp chẳng sót, nên gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà”. Nhưng điều được đề cao ở đây, Phật Đà là giác, có nghĩa là “khai phu” (nở x̣e), ư nói: Do trí huệ tự nhiên mà giác ngộ trọn khắp hết thảy các pháp, như hoa sen nở rộ, chẳng có chút nhuốm bẩn nào, và cũng có thể khiến cho [hoa giác ngộ của] hết thảy chúng sanh x̣e nở. V́ thế, gọi là Phật.

          Tiếng Phạn là Tát Bà Nhă Na (Sarvajña), tức là trí Nhất Thiết Trí. Thích Luận giảng: “Tát Bà Nhă Na tức là Nhất Thiết Trí. Nhất Thiết tức là nói vô lượng pháp môn như danh, sắc v.v… Mỗi môn đều thâu nhiếp hết thảy các pháp. Như thế vô lượng ba, bốn, năm, sáu v.v… cho đến A-tăng-kỳ pháp môn đều thâu nhiếp hết thảy các pháp. Trong hết thảy các pháp ấy, đối với nhất tướng, dị tướng, lậu tướng, phi lậu tướng, tác tướng, phi tác tướng v.v… mỗi một tướng, mỗi một lực, mỗi một nhân duyên, mỗi một quả báo, mỗi mỗi tánh, mỗi mỗi ưu khuyết của từng pháp, do sức của Nhất Thiết Trí Huệ, đều hiểu biết cùng tận trọn khắp hết thảy các đời, hết thảy các loại. Đó gọi là Tát Bà Nhă”. Nay nói “trí Nhất Thiết Trí”, tức là trí cao tột nhất trong các trí. Không chỉ do hết thảy các loại mà biết trọn khắp hết thảy các pháp, mà c̣n biết tướng thường, rốt ráo bất hoại Thật Tế của các pháp ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, giống như kim cang. Đối với cảnh tự chứng như thế, người nói sẽ không có ngôn từ [nào để diễn tả được], người quán chẳng thấy, chẳng giống như quả Am Ma Lặc (Āmalakī)[12] trong tay có thể chuyển giao cho người khác được! Nếu có thể dùng ngôn ngữ để trao truyền cho người khác, khi Thích Ca Bồ Tát được Phật Định Quang (Nhiên Đăng Phật) thọ kư, phải nên lập tức thành Phật. V́ sao phải tu đủ mọi phương tiện, phải đợi tới khi “không thầy mà tự giác ngộ” mới gọi là Phật ư? Lại như mắt thấy người đời bị đao, gậy gây thương tổn, tuy vẫn tin họ chịu khổ chẳng c̣n ngờ vực, nhưng dẫu nói đủ mọi cách, [tự thân người nghe nói hay chứng kiến] trọn chẳng chứng biết [nỗi đau khổ ấy]! Nếu tự thân tiếp xúc, hứng chịu, sẽ hiểu rơ ngay!

          Ư của lời hỏi là: Làm thế nào để chúng con cũng sẽ đạt được trí huệ tự giác như thế? Làm thế nào để đắc huệ ấy rồi, sẽ có thể v́ vô lượng chúng sanh rộng diễn nói, lưu truyền, tùy thuộc các thứ căn tánhư thích của [chúng sanh trong] các đường, mà dùng đủ loại phương tiện để tuyên nói trí Nhất Thiết Trí. Đó gọi là “an lập vô lượng thừa, thị hiện vô lượng thân”, mỗi thân có cùng ngôn âm với họ (chúng sanh được hóa độ), trụ trong oai nghi của họ, nhưng đạo Nhất Thiết Trí ấy vẫn có cùng một vị, tức là vị giải thoát của Như Lai. Phương tiện mầu nhiệm ấy lại làm như thế nào để có thể đạt được? Các loại đường trong ấy, tiếng Phạn là Na Diễn, cũng gọi là Hành, hoặc gọi là Đạo. Kế đó nói Đại Thừa đạo v.v… có ư nghĩa tương đồng. Luận Tỳ Bà Sa nói có năm đạo, người theo Ma Ha Diễn (Đại Thừa) phần nhiều nói là lục đạo. Rộng diễn nói như thế, cho đến trong thế giới này, đă có ba mươi sáu câu-chi các đường chúng sanh, huống hồ mười phương thế giới ư?

           “Tánh dục”: Dục là tin ưa, yêu thích. Như Tôn Đà La Nan Đà yêu thích ngũ dục, Đề Bà Đạt Đa chuộng tiếng tăm v.v… Cho đến những người đắc đạo, ai nấy cũng đều có ưa thích riêng: Ngài Đại Ca Diếp chuộng hạnh Đầu Đà, ngài Xá Lợi Phất ưa thích trí huệ, ngài Ly Ba Đa chuộng tọa Thiền, ngài Ưu Bà Ly thích Tỳ Ni (giới luật), A Nan chuộng đa văn v.v… hăy nên nói rộng. Tánh là “tích tập”. Tướng sanh từ tánh, Dục là thuận theo tánh mà thực hiện hạnh. Hoặc có lúc thuận theo dục là tánh, hoặc do thói quen ưa chuộng mà thành tánh. Tánh [ở đây] là tâm ô nhiễm. Cái tâm ô nhiễm v́ sự ưa chuộng nơi mặt Sự th́ gọi là “tùy duyên khởi” (thuận theo duyên mà dấy lên). Trong Thích Luận đă nói cặn kẽ chuyện này.

           “Chủng chủng phương tiện đạo” (Các thứ đạo phương tiện): Ngài Long Thọ nói: “Bát Nhă và phương tiện có cùng một bản thể, nhưng tác dụng sai khác. Ví như thợ kim hoàn do phương tiện khéo, dùng vàng chế thành đủ mọi vật khác nhau, tuy đều là vàng mà mỗi món có tên gọi khác biệt”. Nay đức Tỳ Lô Giá Na cũng lại như thế, có thể trong hết thảy mọi nơi, dùng vàng trí thể để tạo đủ mọi thừa.

          Lại nữa, trong ư hỏi ở đây chính là nhằm phát khởi Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la. Trong tâm địa Tát Bà Nhă b́nh đẳng, vẽ thành bốn loại pháp giới viên đàn của chư Phật, Bồ Tát, cho tới Nhị Thừa, tám bộ v.v… Thân, ngữ, tâm ấn của mỗi vị Bổn Tôn ấy đều là một loại thừa sai biệt. Lại như có người chí cầu ngũ thông trí đạo, liền từ Đại Bi Thai Tạng hiện h́nh tướng Vi Đà phạm chí[13], v́ người đó nói chân ngôn và hành pháp của các vị như Cù Đàm Tiên[14] v.v… Hành giả siêng ṛng chẳng lâu bèn thành thân vị tiên ấy, lại chuyển phương tiện, liền thành thân Tỳ Lô Giá Na. Như thế th́ hoặc là hiện thân Phật để nói các thứ thừa, cho đến hiện thân phi nhân để nói các thứ thừa. Tùy từng loại mà h́nh tướng và âm thanh đều là chân ngôn, mật ấn, hoặc đă lâu, hoặc gần đây, không ǵ chẳng phải là “nhân duyên cái trống bôi thuốc độc”[15]. V́ thế, kinh dạy: “Giai đồng nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị” (đều cùng một vị, chính là vị giải thoát của Như Lai). V́ lẽ nào vậy? Sắc, tâm, Thật Tướng của hết thảy chúng sanh từ Bổn Tế đến nay, thường luôn là trí thân b́nh đẳng của Tỳ Lô Giá Na Phật, chẳng phải là khi đắc Bồ Đề sẽ cưỡng ép các pháp đều là Không mà thành pháp giới! Phật từ tâm địa b́nh đẳng để khai phát vô tận trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la rồi, lại c̣n dùng đó để khai phát sự diệu cảm, diệu ứng trong vô tận trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la nơi tâm địa b́nh đẳng của chúng sanh, đều không ra ngoài môn chữ A. Hăy nên biết phương tiện được sanh khởi bởi nhân duyên cảm ứng cũng chẳng vượt ngoài môn chữ A. Ví như trong biển cả, sóng ṃi va đụng lẫn nhau, lần lượt làm năng và sở, nhưng vẫn là cùng một vị, tức là vị mặn vậy!

 

          (Kinh) Thế Tôn! Thí như hư không giới, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất Thiết Trí trí ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Thế Tôn! Thí như đại địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y. Thế Tôn! Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân vô yếm túc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân vô yếm túc. Thế Tôn! Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử nhất thiết chư phiền năo trần. Thế Tôn! Dụ như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên, thế nhân lợi lạc. Thế Tôn! Như thị trí huệ, dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà cứu cánh?

          ()世尊譬如虛空界離一切分別無分別無無分別如是一切智智離一切分別無分別無無分別世尊譬如大地一切眾生依如是一切智智阿脩羅依世尊譬如火界燒一切薪無厭足如是一切智智燒一切無智薪無厭足世尊譬如風界除一切塵如是一切智智除去一切諸煩惱塵世尊喻如水界一切眾生依之歡樂如是一切智智為諸天世人利樂世尊如是智慧以何為因云何為根云何究竟

          (Kinh: Bạch Thế Tôn! Ví như hư không giới, ĺa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, ĺa hết thảy phân biệt, không phân biệt, chẳng không phân biệt. Bạch Thế Tôn! Ví như đại địa, hết thảy chúng sanh nương vào. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương vào. Bạch Thế Tôn! Ví như hỏa giới, đốt hết thảy củi không chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí chẳng chán đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như phong giới trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền năo. Bạch Thế Tôn! Ví như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người đời. Bạch Thế Tôn! Trí huệ như thế lấy ǵ làm nhân? Ǵ là căn? Ǵ là rốt ráo?)

 

          Lại nữa, ngài Chấp Kim Cang nương vào thần lực của Phật, v́ muốn phát khởi phương tiện bí mật trong Đại Bi Thai Tạng, lại nói năm loại thí dụ, tức là hư không, đất, nước, lửa, và gió. Câu thứ nhất nói “thí như hư không giới, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị Nhất Thiết Trí trí, ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt” (ví như hư không giới ĺa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, ĺa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng không phân biệt). Như thế chính là nghĩa lư theo Tỳ Bà Sa, hư không chẳng có lầm lỗi, chẳng có đức. Nay trí thân của Như Lai ĺa hết thảy lỗi, thành tựu vạn đức, sao lại dùng hư không để sánh ví? Chỉ là lấy chút phần tương tự để mường tượng Đại Không đó thôi! Trong sự sánh ví tương tự ấy, có ba nghĩa:

          - Một, do hư không rốt ráo thanh tịnh.

          - Hai, do hư không chẳng có ngằn mé.

          - Ba, do [hư không] vô phân biệt.

          Tâm tánh Nhất Thiết Trí cũng giống như thế; v́ thế, dùng hư không mà thế gian dễ hiểu để sánh ví cái Không khó hiểu. Trước hết, nói “ĺa hết thảy phân biệt, tiếng Phạn là Kiếp-bả (Vikalpa). Kế đó là “vô phân biệt”, tiếng Phạn là Kiếp-bả-dạ-đế (Kalpa-kapayati). Sở dĩ nói lặp lại, là v́ trên phân biệt lại nẩy sanh ư nghĩa phân biệt. Chẳng hạn như Tầm Tứ, khi nh́n đại lược th́ là Tầm, khi suy xét kỹ càng th́ là Tứ. Lại như khi nhăn thức sanh khởi bèn có thô phân biệt. Kế đó, ư thức sanh khởi th́ là tế phân biệt. Dịch theo lối cũ, có khi dịch Kiếp-bả là “vọng chấp” (chấp trước hư vọng). Thí dụ ấy mang ư nghĩa: Giống như hư không chẳng hư vọng chấp trước, phân biệt, cho nên vô phân biệt mà cũng chẳng có vô phân biệt. Lại như hư không ĺa các thứ sắc tướng, h́nh dạng hiển hiện, chẳng có tạo tác, mà có thể chứa đựng muôn vàn h́nh tượng, hết thảy thảo mộc nhờ đó mà sanh trưởng, sự nghiệp của hữu t́nh nương vào đó mà được hoàn thành. Hư không Phật trí cũng lại như thế, tuy ĺa hết thảy các tướng, thường vô phân biệt khởi tác dụng, nhưng vô lượng Độ môn, các thứ diệu nghiệp đều được hoàn thành. V́ thế, dùng đó để thí dụ.

          Câu thứ hai là “thí như đại địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y” (ví như đại địa, hết thảy chúng sanh nương vào đó. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La nương vào). Như trăm loại hạt lương thực, các thứ cỏ thuốc, thảo mộc, rừng lùm trong thế gian, tùy theo tánh chất vô lượng sai biệt, đều từ đại địa mà trổ mầm, đâm rễ, cho đến thân, lá, hoa, quả, lần lượt thành tựu. [Đại địa] làm chỗ nương cậy cho hết thảy chúng sanh, nuôi nấng họ, nhưng vẫn chẳng nghĩ thế này: “Ta nay gánh vác hết thảy thế gian. Chẳng nghĩ tới ân đức, chẳng hề mệt nhọc, tăng cũng chẳng mừng, giảm cũng chẳng sầu, sâu rộng khó lường, chẳng thể khuynh động. Đất Nhất Thiết Trí cũng lại như thế. Đại Bi Mạn-đồ-la là nơi hết thảy chủng tử xuất sanh, tức là chỗ y chỉ của vô lượng sự nghiệp trong các thừa, ở trong sanh tử và Niết Bàn, cái tâm b́nh đẳng. Tám gió thế gian chẳng thể dao động. Do có chút phần tương tự như thế, dùng đất làm thí dụ.

          Câu thứ ba nói: “Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết tân, vô hữu yếm túc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân, vô yếm túc” (ví như hỏa giới, đốt hết thảy củi chẳng hề chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí chẳng chán đủ). Ví như hỏa chủng, giả sử tích tụ củi đầy khắp thế giới, đều to như núi chúa Tu Di, lửa sẽ lần lượt đốt sạch, chẳng hề khiếp nhược, chẳng khởi lên ư niệm này: “Ta đốt củi như thế này, chẳng đốt củi như thế kia”. Hừng hực chẳng ngừng, mạnh mẽ tiến cao hơn chẳng chán nhàm, phải là thứ bị đốt đă hết sạch rồi th́ sau đó lửa mới diệt theo. Trí hỏa của Như Lai cũng giống như thế, đốt hết sạch củi hư luận, phiền năo, cho tới khi các duyên đối đăi đều tận, tức là huệ quang ấy cũng không có chỗ nương. Lại như lửa trong thế gian, sang hèn đều cùng sử dụng, có thể chiếu sáng trong đêm tối, kẻ rơi vào mê hoặc điên đảo đều t́m được đường ngay, lại đều có thể thành tựu hết thảy các vật. Lửa Nhất Thiết Trí như thế, bậc thánh và dị sanh (phàm phu) đều b́nh đẳng cùng có, từ trong đêm sâu vô thỉ khiến cho các hành nhân thấy đạo như thật, lần lượt thành tựu hết thảy Phật pháp. V́ thế, dùng nó làm thí dụ.

          Câu thứ tư là nói: “Thí như phong giới, trừ nhất thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử nhất thiết chư phiền năo trần” (Ví như phong giới, trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền năo). Như lúc gió to bốc lên, khói, mây, bụi mù, hết thảy đều tiêu trừ. Thái hư tĩnh lặng, mênh mông, tam thần (mặt trời, mặt trăng, tinh tú) hiện ra rạng rỡ, chúng sanh bị bứt rứt v́ nóng bức đều được mát mẻ, có thể khiến cho thảo mộc, rừng lùm đều tăng trưởng sum suê, và cũng có thể phá tan hết thảy muôn vật. Lại như tánh của gió là trọn khắp, không chỗ nương, tự tại xoay vần, chẳng bị vướng mắc. Huệ phong của Như Lai cũng lại như thế, quét sạch hết thảy vẩn bụi phiền năo ngăn che, khiến cho [chúng sanh] chứng pháp tánh Niết Bàn mát mẻ. Lại có thể khiến cho hết thảy thiện pháp thế gian và xuất thế gian tăng trưởng, đập tan cây to vô minh, nhổ bật gốc rễ của nó; nhưng sức vô chướng ngại ấy chẳng nương vào đâu. V́ thế, dùng nó để sánh ví.

          Câu thứ năm là nói “thí như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên thế nhân lợi lạc” (ví như thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người đời). Như Thủy Đại từ trên cao chảy xuống thấp, tạo nhiều lợi ích, có thể tươi nhuận thảo mộc, sanh ra hoa quả. Lại nữa, bản tánh của nước là thanh khiết, không chất nhơ, không vẩn đục, đều có thể khiến cho chúng sanh đói khát được no đủ, gột bỏ các cặn nhơ, trừ sạch nhiệt năo, lặng trong, sâu thẳm khó nhập, chẳng thể ḍ lường. Nơi chỗ hầm hố, tánh nước đều b́nh đẳng. Trí thủy của Như Lai cũng lại giống như thế, từ chân pháp giới tuôn nhập thế gian, tươi nhuận các Đẳng Tŕ, sanh khởi các pháp trợ đạo, thành tựu quả hạt to lớn lợi ích quần sanh. Do bản thể của nó chẳng có phiền năo, nên thanh khiết. Do có thể ĺa các Hoặc, nên vô cấu. Do là một tướng, chẳng khác, nên không nhơ bẩn. Hễ ai đạt được [trí thủy ấy], th́ các tư duy đều dứt sạch, đạt được thanh lương định, gột trừ trần lao, lặng trong khó nghĩ tưởng, chứng tánh b́nh đẳng. V́ thế, dùng nước để thí dụ.

          Lại nữa, ngài Kim Cang Thủ nói năm thí dụ, nhằm phát khởi năm tự nghĩa (năm ư nghĩa của các chữ thường dùng trong chân ngôn) trong phần sau:

          - Môn chữ A () là đất.

          - Môn chữ Phược (, Va) là nước.

          - Môn chữ La (, Ra) là lửa.

          - Môn chữ Ha (, Ha) là gió.

          - Môn chữ Khư (, Kha)[16] là hư không.

          Lại như chủng tử trong thế gian, đất, nước, lửa, gió làm duyên, hư không vô ngại, sau đấy mới được sanh trưởng. Hễ thiếu một duyên, trọn chẳng thể tăng trưởng. Chủng tử Như Lai trong hết thảy trí tánh cũng giống như thế, sử dụng năm nghĩa trong hết thảy trí môn để làm các duyên, sẽ có thể đạt tới diệu quả Bồ Đề thường trụ. Đó gọi là nhân duyên bất sanh, bất diệt chẳng thể nghĩ bàn. Ngài Kim Cang Thủ quán biết tướng gia tŕ pháp giới độc nhất của Như Lai, tâm suy nghĩ, ắt biết [đức Phật] sẽ nói pháp môn như thế. V́ thế, trước đó, Ngài sánh ví công đức ấy để phát khởi cơ duyên sanh giải cho chúng hội, sau đấy mới hỏi đức Phật: “Như thị trí huệ dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà vi cứu cánh?” (Trí huệ như thế, lấy ǵ làm nhân? Lấy ǵ làm căn? Lấy ǵ làm rốt ráo?) Từ đấy trở đi, Như Lai trí ấn khiến cái tâm đă định, sẽ rộng nói phân biệt. Chẳng hạn như Di Lặc Bồ Tát trông thấy các tướng lành do thần thông của đức Phật, tâm liền bồi hồi suy tưởng: “Đấy là đức Phật sẽ v́ đại chúng nói pháp đạt được nơi đạo tràng, hay là thọ kư Bồ Đề? Ngài Văn Thù nêu rơ danh thể (bản thể của danh xưng), chỉ ra [đức Thế Tôn] sẽ nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Sau đấy, Như Lai mới dùng Thật Tướng để ấn khả, thừa dịp diễn nói, khiến cho các đồ đệ v́ chấp trước mà dấy lên nghi hoặc sẽ ĺa khỏi lưới nghi. Ví như khởi đầu tiết Xuân, hạt giống nứt mầm, do sấm, gió thôi thúc, mưa đúng thời tưới đẫm, mầm cây sẽ được thoát khỏi vỏ bọc mà nẩy sanh. Nếu chẳng có căn cơ phù hợp, dẫu được gặp gỡ, chẳng thể phát khởi lợi ích sâu thẳm được!

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Phật tức cáo Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai! Thiện tai! Chấp Kim Cang! Thiện tai, Kim Cang Thủ! Nhữ vấn ngô như thị nghĩa. Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ư, ngô kim thuyết chi”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: - Bồ Đề tâm vi nhân, Bi vi căn bản, phương tiện vi cứu cánh. Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự tâm. Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, năi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc. Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề, vô tri giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố. Bí Mật Chủ! Chư pháp vô tướng, vị hư không tướng!

          ()如是說已毘盧遮那佛告持金剛祕密主言善哉善哉執金剛善哉金剛手汝問吾如是義汝當諦聽極善作意吾今說之金剛手言如是世尊願樂欲聞佛言菩提心為因悲為根本方便為究竟祕密主云何菩提謂如實知自心祕密主是阿耨多羅三藐三菩提乃至彼法少分無有可得何以故虛空相是菩提無知解者亦無開曉何以故菩提無相故祕密主諸法無相謂虛空相

          (Kinh: Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Phật liền bảo Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Chấp Kim Cang! Lành thay Kim Cang Thủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế, ông hăy nên lắng nghe, cực khéo tác ư, nay ta sẽ nói”. Kim Cang Thủ nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con nguyện vui thích mong được nghe”. Đức Phật dạy: - Bồ Đề tâm làm nhân, Bi là căn bản, phương tiện là rốt ráo. Bí Mật Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Chính là nói như thật biết tự tâm. Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho đến chút phần của pháp ấy, chẳng có ǵ để có thể đạt được. V́ cớ sao? Tướng của hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng khai hiểu, v́ cớ sao? Do Bồ Đề vô tướng. Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng, tức là tướng hư không).

 

          Do ngài Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đoán biết thâm ư gia tŕ của Như Lai, lại có thể phát khởi làm nhân duyên tạo sự thấu hiểu cho đại chúng thuở ấy, đoán biết thánh tâm [mà kịp thời thưa hỏi], chẳng bỏ lỡ cơ hội. V́ thế, [đức Phật] lặp lại “thiện tai, thiện tai!”, [hàm ư] ta quán trời, người, sa-môn, bà-la-môn, cho đến các vị Bồ Tát hạnh cạn, không ai có thể đối trước đức Thế Tôn nêu câu hỏi như thế. V́ cớ sao vậy? Do ba cú nghĩa ấy đều thâu nhiếp hết thảy các sự rất sâu trong thần lực bí mật của Phật pháp. V́ thế, [đức Phật] lại tán thán rằng: “Thiện tai Kim Cang Thủ! Nhữ năng vấn ngô như thị nghĩa dă” (Lành thay Kim Cang Thủ! Ông có thể hỏi ta nghĩa như thế). Do âm thanh [tán thán] “lành thay” của Như Lai gia tŕ, lúc bấy giờ, vô lượng công đức của Kim Cang Thủ tăng lên gấp bội, lại hiểu rơ pháp được trao truyền, trọn chẳng để sơ sót, mất đi.

          Kế đó, đức Phật răn bảo: “Nhữ đương đế thính, cực thiện tác ư, ngô kim thuyết chi” (Ông nên lắng nghe, cực khéo tác ư, ta nay sẽ nói). Đấy cũng v́ hàng đệ tử vị lai mà nêu rơ lời căn dặn như thế, tức là nghi thức thâm tâm thọ pháp vậy. Do đó, Thích Luận viết: “Nếu ai thiện tâm, ḷng tin chất trực, người ấy có thể nghe pháp. Nếu chẳng có tướng ấy, sẽ chẳng thể hiểu!” Như nói kệ rằng: “Thính giả đoan thân như khát ẩm, nhất tâm nhập ư ngữ nghĩa trung, dũng dược văn pháp tâm bi hỷ, như thị chi nhân ưng vị thuyết” (Người nghe đoan chánh cái thân như khát bèn uống nước, nhất tâm nhập vào trong ư nghĩa của lời nói. Hớn hở nghe pháp tâm buồn vui xen lẫn, người như thế mới nên v́ họ thuyết pháp), và như kinh Vô Tận Ư có hai mươi ba câu nói cặn kẽ về công đức do dụng tâm nghe pháp.

          Kinh dạy: “Phật cáo Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm vi nhân, bi vi căn, phương tiện vi cứu cánh” (Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm là nhân, bi là căn, phương tiện là rốt ráo). Giống như chủng tử trong thế gian, nhờ vào các duyên Tứ Đại, cho nên theo thứ tự như thế ấy mà mọc rễ, cho đến khi quả hạt chín muồi th́ gọi là rốt ráo. Nhưng dùng Trung Trí để quán, [sẽ thấy là] rốt ráo bất sanh, bất diệt. Do đó, nghĩa nhân quả được thành. Nếu pháp chẳng phải vậy, sẽ có tướng “sanh, diệt, đoạn, thường”, sẽ đọa vào hư luận, đều có thể phá, nghĩa nhân quả sẽ chẳng thành! Nay hành giả quán Thật Tướng của cái tâm cũng lại như thế, vượt ngoài hết thảy các hư luận, như hư không thanh tịnh. Trong việc hành nội chứng, đạt được tín lực sâu đậm, tâm Tát Bà Nhă kiên cố, bất động, ĺa nghiệp thọ sanh, thành tựu chân tánh sanh. Từ đấy trở đi, vạn hạnh công đức tăng trưởng. V́ thế nói: “Bồ Đề tâm làm nhân”. Cái tâm Bồ Đề ấy làm nhân cho hai câu sau đó. Nếu đối ứng với thiện căn được gieo trong sanh tử th́ gọi là quả, do thấy tiền tướng trong Phật pháp. Ví như có người nghe thiện tri thức nói: “Nay trong nhà ông có kho báu vô tận, hăy nên tự siêng tu phương tiện để khai quật, sẽ có thể châu cấp cho cả một nước mà thường chẳng thiếu hụt”. Người đó nghe xong, sanh ḷng tin chắc chắn, hành đúng như lời dạy, cho đến dốc sức không ngừng, sẽ dần dần thấy tiền tướng. Lúc bấy giờ, đối với công đức của kho báu, ĺa tâm nghi hoặc, có thể kham phát khởi gia hạnh thù thắng. V́ thế, Bồ Đề tâm có nghĩa là “tín tâm trắng sạch”. Thích Luận cũng nói: “Biển cả Phật pháp, do tín có thể nhập”. Như khi Phạm thiên vương thỉnh chuyển pháp luân, đức Phật đă nói kệ rằng: “Ngă kim khai cam lộ vị môn, nhược hữu sanh tín giả đắc hoan hỷ (Ta nay mở cửa cam lộ vị, nếu ai tin tưởng, sẽ hoan hỷ). Trong lời kệ ấy, chẳng nói người hành Thí, Giới, Đa Văn, Nhẫn, Tấn, Thiền, Huệ có thể đạt được hoan hỷ, chỉ nói riêng người tin tưởng. Ư Phật là như thế này: Pháp của ta vi diệu, rất sâu bậc nhất, vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn, là pháp bất động, không dựa dẫm, chẳng dính mắc, vô sở đắc, chẳng phải là người Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể hiểu. V́ thế, lấy tín lực làm đầu, chẳng do các môn như Huệ v.v… mà thoạt đầu có thể tiến nhập Phật pháp, v́ khiến cho tín tâm thanh tịnh như thế được kiên cố, tăng trưởng.

          Tiếp đó, kinh nói đại bi làm căn. “Căn” có nghĩa là “có thể chấp tŕ”. Giống như rễ cây duy tŕ thân, lá, hoa, quả, khiến cho cây chẳng bị nghiêng đổ, trốc gốc. Bi trong tiếng Phạn là Ca Lô Noa (Karuṇā), Ca có nghĩa là Khổ, Lô Noa nghĩa là “cắt bỏ”. Từ như gieo trồng mạ tốt rộng khắp, Bi như cuốc bỏ cỏ dại. V́ thế, Bi được nói ở đây có kèm theo ư nghĩa “đại từ. Lại như khi hành giả tu cúng dường, nếu dâng một đóa hoa, hoặc hương bôi v.v… tức là trọn khắp hết thảy mọi nơi đều dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh để dấy mây cúng dường, thực hiện Phật sự trọn khắp, phát khởi bi nguyện hồi hướng quần sanh, dẹp trừ hết thảy khổ, thí vô lượng lạc. Do thiện căn của chính ḿnh và sức gia tŕ pháp giới của Như Lai, các diệu nghiệp thực hiện đều được thành tựu. Tức là trong trọn khắp hết thảy các trí địa, cho đến vô dư hữu t́nh giới, thảy đều “mọc rễ”. Tùy thuộc hành giả dùng cái tâm vô trụ để tu vạn hạnh; tức là do được đại bi địa giới chấp tŕ, đại bi hỏa giới ủ ấm, đại bi thủy giới nhuần thấm, đại bi phong giới khai phát sanh trưởng, đại bi hư không chẳng chướng ngại. Lúc bấy giờ, vô lượng Độ môn tùy ư khai phát, giống như rễ, cành, lá theo thứ tự trang nghiêm, tức là ư nghĩa “trọn đủ nhân duyên” trong hết thảy các tâm pháp.

           “Phương tiện là rốt ráo tức vạn hạnh viên măn cùng cực, chẳng thể tăng thêm. Quyền xảo ứng hợp chúng sanh xét đến tận cùng chuyện có thể thực hiện chính là nguồn cội của diệu quả Tam Mật đề-hồ. Lại nữa, Bồ Đề tâm thanh tịnh giống như vàng ṛng, bản tánh sáng sạch, ĺa các lầm lỗi. Đại bi như học tập nghề khéo, dùng các thứ thuốc, các thứ nung luyện, cho đến [vàng được tinh luyện] thấu triệt như gương, mềm mại, co duỗi tự tại. Phương tiện như nghề khéo đă thành tựu, tất cả các tạo tác đều tùy ư mà thành, từ trong quy chế mà quyền biến lưu xuất các tài khéo. Sự hay khéo đắc ư ấy khó thể truyền cho người khác được. Như Ma Ha Bát Nhă giảng về Lục Độ, mười tám môn Không, các môn tam-muội, đạo phẩm, tổng tŕ v.v… đều thuộc vào câu “đại bi”, tức là cái quả của trí Nhất Thiết Trí do vạn hạnh tạo thành, được gọi là “phương tiện”, v́ trong đó có đủ các phương tiện. Nghiệp của phương tiện là lợi tha, do Ổ-ba-da (Upāya, phương tiện) trong tiếng Phạn cũng là “phát khởi”. Như từ chủng tử sanh ra quả, quả lại trở thành hạt giống; v́ thế, dùng đó để đặt tên.

          Kinh dạy “Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự tâm” (Bí Mật Chủ! Thế nào là Bồ Đề? Tức là như thật biết tự tâm), tức là khai thị chỗ có chất báu công đức của Như Lai. Như người tuy nghe nói kho báu, khởi ư niệm siêng năng mong cầu, nếu chẳng biết nó ở đâu, sẽ không cách nào đến được. V́ thế, lại chỉ rơ pháp vi diệu rất sâu bậc nhất như đă nói trên đây, cho đến nói “chẳng phải là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể hiểu. Pháp ấy từ nơi nào mà đắc? Chính là từ tự tâm của hành giả. Nếu có thể như thật quán sát, chứng biết rành rành, th́ gọi là “thành Bồ Đề”; thật ra, chẳng do người khác mà ngộ, chẳng từ điều ǵ khác mà đạt được!

          Hỏi rằng: Nếu ngay nơi cái tâm chính là đạo, v́ sao chúng sanh luân hồi sanh tử, chẳng được thành Phật?

          Đáp: Do chẳng biết đúng như thật! Đó gọi là ngu đồng phàm phu (愚童凡夫, phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội). Nếu nghe pháp này, ít kẻ có thể tin tưởng. Thức tánh Nhị Thừa tuy tự quán sát, nhưng chưa biết đúng như thật. Nếu tự biết đúng như thật, tức là lúc sơ phát tâm liền thành Chánh Giác. Ví như đứa con nghèo túng của ông trưởng giả [được nói trong phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa], nếu khi đă nhận biết cha, há có c̣n là người khách nghèo hèn nữa chăng? Lúc ấy, hành giả do thật sự biết Thật Tướng của cái tâm, thấy hết thảy các pháp đều là rất sâu, vi diệu, vô lượng, vô số chẳng thể nghĩ bàn, bất động, chẳng dựa dẫm, chẳng chấp trước, đều là vô sở đắc, rốt ráo như tướng Bồ Đề.

          Kinh lại nói “Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, năi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc” (Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, dẫu chỉ chút phần của pháp ấy cũng chẳng có thể đạt được). Ư nghĩa của Vô Thượng Chánh Biến Tri đă được nói trong phần trước. Ở đây nói chút phần. A Nậu (Anu, cực vi trần) trong tiếng Phạn chính là do bảy vi trần hợp thành, là phần nhỏ nhất của Sắc sanh từ các duyên, cho nên dùng nó làm thí dụ. Nói “bỉ pháp” (pháp đó) tức là ĺa ngoài vô tướng Bồ Đề tâm ấy ra, chẳng có một pháp nào nữa!

          Kế đó, trong kinh nói đến nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không tướng thị Bồ Đề, vô tri giải giả diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố” (V́ sao vậy? Tướng hư không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết cũng chẳng thấu hiểu. V́ sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng). Thí như hư không trọn khắp hết thảy mọi nơi, rốt ráo thanh tịnh, ĺa hết thảy các tướng, bất động, vô phân biệt, chẳng thể thay đổi, chẳng thể phá hoại. Do có chút phần tương tự như thế, bèn dùng nó để sánh ví Bồ Đề tâm. Nhưng trong ấy lại có vô lượng vô biên chuyện bí mật rất sâu, thật sự chẳng thể dùng hư không trong thế gian để thí dụ trọn khắp được, chỉ mong người học lănh hội được ư mà quên lời vậy! Lại như hư không xa ĺa hư luận, phân biệt, nên chẳng có tướng hiểu biết, chẳng có tướng vỡ lẽ. Chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề (Chánh Giác), hăy nên biết cũng thế, chỉ là tâm tự chứng tâm, tâm tự giác tâm. Trong ấy, không có pháp để hiểu biết, mà cũng chẳng có người hiểu biết, chẳng phải là mới thấu hiểu, mà cũng chẳng phải là không thấu hiểu. Nếu phân biệt chút phần năng sở chừng bằng vi trần, tức là chấp lấy tướng “pháp, phi pháp”, chẳng ĺa “ta, người, chúng sanh, thọ mạng”, há có thể đáng gọi là Kim Cang Huệ ư?

          Kinh lại c̣n tự giải thích rằng: “Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng cố(V́ sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng). Như Thích Luận nói: “Do trí huệ của Phật thanh tịnh, vượt ngoài các phép Quán, chẳng quán tướng thường, tướng vô thường của các pháp, tướng hữu biên, tướng vô biên, tướng có đi, tướng chẳng đi, hữu tướng, vô tướng, tướng hữu lậu, tướng vô lậu, tướng hữu vi, tướng vô vi, tướng sanh diệt, tướng chẳng sanh diệt, tướng không, tướng bất không, thường thanh tịnh, vô lượng như hư không. Do vậy, Phật trí vô ngại”. Nếu quán sanh diệt, sẽ chẳng thể quán không sanh diệt. Quán không sanh diệt, sẽ chẳng thể quán sanh diệt. Nếu sanh diệt là thật, th́ “chẳng sanh diệt” sẽ không thật. Nếu “chẳng sanh diệt” là thật, sanh diệt sẽ chẳng thật! Các phép Quán như vậy đều như thế đó. Dùng cái tâm Bồ Đề thanh tịnh như thế, do vượt khỏi các cách Quán, ĺa các tướng, sẽ được chẳng vướng mắc nơi hết thảy các pháp. Ví như do tướng của hư không cũng là vô tướng, muôn h́nh tượng đều nương vào hư không, nhưng hư không chẳng nương tựa vào đâu! Vạn pháp như thế đều nương vào tịnh tâm, nhưng tịnh tâm trọn chẳng nương tựa. Đấy chính là các pháp ấy cũng như tướng Bồ Đề, tức là tướng hư không thanh tịnh. V́ thế, kinh lại nói: “Bí Mật Chủ! Chư pháp vô tướng, vị hư không tướng” (Bí Mật Chủ! Các pháp vô tướng, tức là tướng hư không).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thùy tầm cầu Nhất Thiết Trí? Thùy vị Bồ Đề thành Chánh Giác giả? Thùy phát khởi bỉ Nhất Thiết Trí trí? Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố, tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ.

          ()爾時金剛手復白佛言世尊誰尋求一切智誰為菩提成正覺者誰發起彼一切智智佛言祕密主自心尋求菩提及一切智何以故本性清淨故心不在內不在外及兩中間心不可得祕密主如來正等覺非青非黃非赤非白非紅紫非水精色非長非短非圓非方非明非暗非男非女非不男女

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ai t́m cầu Nhất Thiết Trí? Ai v́ Bồ Đề mà thành Chánh Giác? Ai phát khởi trí Nhất Thiết Trí ấy?” Đức Phật nói: - Bí Mật Chủ! Tự tâm t́m cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí. V́ sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa hai chỗ đó, tâm đều chẳng thể được. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay tím, chẳng phải là màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tṛn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ, chẳng phải không nam nữ).

 

          Khi đó, ngài Chấp Kim Cang nghe nghĩa lư do đức Phật nói, “trí huệ Tát Bà Nhă chỉ là tự tâm”, cho đến “chẳng có chút pháp nào ra ngoài cái tâm ấy”, v́ đoạn nghi hoặc cho chúng sanh trong vị lai, nên Ngài hỏi đức Phật rằng: “Bồ Đề tâm gọi là một mực dốc chí để cầu trí Nhất Thiết Trí. Nếu trí Nhất Thiết Trí chính là Bồ Đề tâm th́ trong ấy, ai là người cầu? Ǵ là pháp được cầu? Ai có thể giác? Ai là người được giác? Lại nữa, ĺa ngoài tâm, đều chẳng có một pháp nào; ai có thể phát khởi cái tâm ấy để đạt tới diệu quả? Nếu pháp chẳng có nhân duyên mà được thành tựu, hết thảy chúng sanh đáng lẽ cũng chẳng cần nhờ vào phương tiện mà tự nhiên thành Phật”.

          V́ thế, đức Phật trả lời: “Bí Mật Chủ! Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố” (Bí Mật Chủ! Tự tâm t́m cầu Bồ Đề và Nhất Thiết Trí. V́ sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh). Tuy Thật Tướng nơi tự tâm của chúng sanh chính là Bồ Đề, dẫu có Phật hay không có Phật, nó vẫn thường nghiêm tịnh, nhưng chẳng tự biết đúng như thật. Do vậy, nó chính là vô minh. Do vô minh điên đảo chấp tướng, bèn sanh ra các phiền năo như Ái v.v… Do phiền năo mà dấy đủ loại nghiệp, nhập đủ loại đạo, đạt được đủ loại thân, thọ đủ loại khổ, lạc. Như tằm nhả tơ chẳng có nguyên nhân, do chính ḿnh đă nhả tơ ra mà bị quấn bó, hứng chịu nỗi khổ bị đốt nấu! Ví như nước sạch trong nhân gian, tùy thuộc cái tâm của chư thiên hay quỷ mà thấy là của báu, hoặc coi là lửa, tự tâm tự thấy khổ hay lạc! Do vậy, biết rằng: Ĺa ngoài tâm, sẽ chẳng có pháp! Nếu hành nhân Du Già chánh quán Thật Tướng của ba pháp, tức là thấy Thật Tướng của tâm. Thật Tướng của tâm chính là Vô Tướng Bồ Đề, cũng gọi là trí Nhất Thiết Trí. Tuy lại ĺa các nhân duyên, cũng chẳng phải là không có nhân mà được thành tựu. Lại nữa, đức Thế Tôn muốn khiến cho chúng sanh như thật biết tự tâm, lại dùng phương tiện để phân biệt, diễn nói. Do nguyên do nào? Nếu chỉ nói “tự tâm bất sanh, bất diệt”, do chẳng có nhân, [chúng sanh] sẽ khó hiểu ư nghĩa đó. V́ thế, trước hết, Ngài chỉ bày chỗ căn cứ [để nói như thế].

          Kinh dạy: “Tâm bất tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc “ (Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và giữa hai chỗ đó, tâm chẳng thể được). Như Ma Ha Bát Nhă dùng vô lượng môn để nhập Thật Tướng của các pháp. Nay muốn nêu ra điều tông yếu, chỉ quán mười hai xứ trong và ngoài, là đă thâu tóm hết thảy các pháp. Từ vô thỉ tới nay, tâm hành giả phần nhiều chấp trước tâm tướng của nội pháp. V́ thế, trước hết đối với sáu chỗ bên trong, liền dùng các phương tiện như ly tướng v.v… để mỗi mỗi quán kỹ “tâm chẳng thể được, vô sanh, vô tướng, chẳng có xứ sở”, mà nghĩ như thế này: “Có lẽ tâm này ở ngoài đấy chăng?” [Do vậy], lại đối với sáu chỗ bên ngoài, bèn quán như thật: Tâm cũng chẳng có sanh tướng, chẳng có xứ sở. Do sợ lầm lạc, bèn gộp lại để quán, đối với chặng giữa của hai thứ đó (trong và ngoài) cũng chẳng thể được, tức là ngộ thật tánh của cái tâm này vốn tự vô sanh, vô diệt, rốt ráo thường tịnh, nhưng bị mây hư luận phủ lấp. như do sức của [thủy thanh] châu khiến cho nước trong; do nước trong nên châu hiện ra. Chắc chắn chẳng do từ nơi nào khác mà có!

          Kinh dạy: “Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ” (Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải hồng hay tía, chẳng phải là màu thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tṛn, chẳng vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ, chẳng phải là không nam nữ). Trong phần trước, đă dựa theo hết thảy các pháp để nói rơ Thật Tướng của cái tâm. Nay lại xét theo chân ngă để nêu tỏ Thật Tướng của cái tâm. Ư nghĩa được đề cao biện định ở đây chính là coi tâm là Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác; đó gọi là “đại ngă” trong nội tâm. Như có một loại ngoại đạo, do chẳng liễu giải tự tâm, bèn nói như thế này: “Ta quán chân ngă có màu xanh biếc, người khác chẳng thể thấy!” Hoặc nói là màu vàng tươi, màu đỏ tươi, hoặc nói như màu yên chi[17], nay nói theo ư nghĩa [trong kinh này] là như màu hồng tía. Hoặc nói “ta thấy chân ngă có tướng cực dài hay cực ngắn”, cho đến “như tướng nam tử v.v... Chỉ có đấy là thật, những thứ khác đều là nói dối”. Nhưng các tướng ấy đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh, sao có thể gọi là cái Ngă chân thật cho được? Đối với các thứ chấp trước ấy, đức Phật nói “Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải là màu xanh” v.v… V́ cớ sao vậy? Do tướng xanh ấy rốt ráo chẳng sanh, cho nên chẳng phải là xanh. Do Thật Tướng của màu xanh bất hoại, nên cũng chẳng phải không là xanh. Hăy nên biết Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác không có tướng nhất định để có thể nói, và cũng chẳng ĺa các tướng như thế. Như có ngoại đạo A-xà-lê trong ban đêm của hắc nguyệt[18], dẫn các đệ tử tới trước con voi to mà bảo như thế này: “Ta nay chỉ chân ngă cho các ngươi”. Khi ấy, bọn họ hoặc dùng mắt nh́n, hoặc dùng thân chạm. Người thấy h́nh dáng [con voi] bèn nói: “Ta nay đă biết chân ngă, sắc nó rất trắng, to lớn cồng kềnh”. Người sờ ngà nói: “Chân ngă như cây giáo”. Người sờ tai nói giống như cái ky, người sờ chân nói giống như cây cột, người sờ đuôi nói giống như sợi thừng. Ai nấy đều dựa theo t́nh kiến chấp trước do tiếp xúc bất đồng. Dẫu tranh căi đúng sai với nhau, trọn chẳng thể biết chân thể của voi! Nếu lúc hành giả Du Già khai phát cái tâm, hiểu rơ đạo, chiếu kiến Như Lai trong tâm vương, như trong chỗ sáng bừng, mắt thấy các sắc, sẽ chẳng nẩy sanh tranh luận như thế.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân thú đồng tánh.

          ()祕密主心非欲界同性非色界同性非無色界同性非天龍夜叉乾闥婆阿脩羅迦樓羅緊那羅摩睺羅伽人非人趣同性

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng phải cùng một tánh với các đường trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân).

 

          Kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, năi chí nhân phi nhân thú đồng tánh” (Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng cùng tánh với đường trời, rồng, Dạ Xoa, cho đến nhân phi nhân) cũng nhằm đối trị các chấp trước hư vọng, hiển thị tự tâm không thay đổi. V́ thế nói cái tâm chẳng cùng một tánh với tam giới. Có các ngoại đạo chấp ngă có cùng một tánh với Dục Giới, hoặc cùng một tánh với Sắc Giới và Vô Sắc Giới, cho đến cho rằng Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ là Niết Bàn. Hoặc nói Phạm Vương, Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) v.v… sanh ra hết thảy các pháp. Nhưng tam giới này thảy đều từ các duyên mà sanh, cầu tự tánh của chúng chẳng thể được, huống hồ khiến cho tâm tánh có cùng một tánh với các tánh ấy ư? Kế đó, rộng phân biệt vô lượng các đường chúng sanh, mỗi mỗi đều chỉ ra, [tánh của mỗi đường ấy] đều chẳng giống với tâm tánh. Ví như hư không mưa nước tám công đức, một vị thuần tịnh, tùy thuộc vào đồ đựng đủ mọi sai biệt mà hoặc cay, hoặc chua, hoặc ấm, hoặc đục, nhưng tánh tám công đức chẳng giống như chúng nó. Khi hết nóng, hết đục, th́ trong mát như cũ, chưa từng đổi khác!

          Lại như Chân Đà Ma Ni (Như Ư Bảo Châu) vốn chẳng có tướng nhất định, gặp vật nào liền có cùng màu với vật ấy, nhưng tánh của báu ấy chẳng giống như các vật đó. Nếu cùng một tánh, do khi sắc ấy thuận theo duyên mà sanh diệt, tánh của chất báu cũng phải nên sanh diệt. Lại nữa, do đức Thế Tôn sắp khai thị Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la, trước hết bèn khai thị môn Thật Tướng của tâm. V́ sao vậy? Như trong Bổn Tôn tam-muội của hành giả nói có hiển hiện h́nh tướng nam, nữ v.v… và phổ môn thị hiện thân trong sáu đường, sợ các hành nhân chẳng liễu giải “tâm do duyên mà sanh”, đối với chân tánh của bảo vương sẽ nẩy sanh hư luận. V́ thế, đức Phật nói Như Lai chẳng phải là xanh, vàng, cho đến tâm chẳng có cùng một tánh với sáu đường trong tam giới. Nếu có thể quan sát như thế, sẽ chẳng ngăn chướng Bồ Đề tâm.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Tâm bất trụ nhăn giới, bất trụ nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư giới, phi kiến, phi hiển hiện. Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly chư phân biệt, vô phân biệt. Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm. Tánh đồng ư tâm, tức đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, phương tiện Ba La Mật măn túc.

          ()祕密主心不住眼界不住耳鼻舌身意界非見非顯現何以故虛空相心離諸分別無分別所以者何性同虛空即同於心性同於心即同菩提如是祕密主虛空界菩提三種無二此等悲為根本方便波羅蜜滿足

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng trụ trong nhăn giới, chẳng trụ trong nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư giới, chẳng thấy, chẳng hiển hiện. V́ sao vậy? Tâm có tướng như hư không ĺa các phân biệt, chẳng phân biệt. V́ lẽ nào vậy? Tánh giống như hư không, tức là giống tâm. Tánh giống tâm tức là giống Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, phương tiện Ba La Mật trọn đủ).

 

          Trong phần trên đă nói không trụ trong ba chỗ (trong, ngoài, chặng giữa), đă gồm thâu hết thảy các pháp; v́ người chưa ngộ mà lại phân biệt rành rẽ từng pháp. [Do có kẻ đă nghe các nghĩa trên đây, cho rằng]: Nếu tâm chẳng có cùng một tánh với các đường, nó sẽ trụ trong nhăn giới ư? Cho đến trụ trong ư giới ư? [Phá chấp trước ấy như sau]: Nếu tâm trụ trong nhăn giới, do mắt sanh từ các duyên, tánh tướng tự không, chẳng có trụ xứ, há Thật Tướng của tâm lại ở trong mắt ư? Giống như nhăn giới, [từ nhĩ giới, tỵ giới v.v…] cho tới các pháp Ấm, Nhập, đều nên rộng nói như thế.

          Lại nữa, trong phần trên đă phá các loại ngoại đạo, nay nói chẳng trụ vào các pháp, nhằm phá Biên Kiến của Thanh Văn. Như trong Độc Tử A Tỳ Đàm (A Tỳ Đàm Luận của Độc Tử Bộ) nói: “Ví như Tứ Đại ḥa hợp mà có nhăn pháp, cũng như thế, ngũ tượng do ḥa hợp mà có nhân và pháp, tức là nhân và pháp thuộc vào bất khả thuyết tạng”. Người tu theo Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ nói: “Thần và người trong hết thảy các pháp môn đều chẳng thể cầu được! Như sừng thỏ, lông rùa vô thường, mà Ấm, Giới, Nhập thật sự có tự tánh”. Do các pháp hư luận như thế, chẳng biết cái tâm. Nếu có thể quán tâm chẳng trụ trong các pháp, tâm sẽ chẳng có hành xứ, hư luận đều hết sạch.

          “Phi kiến, phi hiển hiện” (chẳng thấy, chẳng hiển hiện): Như có người nói: “Hết thảy chúng sanh vốn có tánh tri kiến của Phật, nhưng khi màng mộng vô minh trừ khử, sẽ tự có thể thấy Lư”. Hoặc có người nói: “Thường lư như thế chẳng thể tạo tác, nhưng khi trừ khử mây mù triền cái, vầng mặt trời sẽ tự hiện”. Đấy đều là lời lẽ của Thế Đế. Nếu Bồ Đề tâm thanh tịnh là pháp có thể thấy, có thể hiện, th́ tức là có tướng. Phàm những ǵ có tướng, đều là hư vọng! Sao có thể thấy Vô Thượng Bồ Đề? Hơn nữa, trong kinh tự nói nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không tướng tâm ly chư vọng chấp, diệc vô phân biệt, do như hư không tất cánh tịnh pháp. Nhất thiết sắc tượng vô năng nhiễm ô chi giả, tâm tánh diệc nhĩ, nhất thiết phân biệt vô năng nhiễm ô chi giả” (V́ lẽ nào? Tâm có tướng như hư không ĺa các vọng chấp, cũng chẳng phân biệt, giống như hư không là pháp rốt ráo thanh tịnh, hết thảy h́nh sắc chẳng thể nhiễm ô. Tâm tánh cũng thế, hết thảy phân biệt chẳng thể nhiễm ô [tâm tánh]). Nếu vô phân biệt, tức là ĺa hết thảy các tướng.

          Kinh dạy: “Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm, tánh đồng ư tâm tức đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, Phương Tiện Ba La Mật măn túc” (V́ sao vậy? Tánh giống như hư không tức là giống như tâm, tánh giống như tâm tức giống như Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, Phương Tiện Ba La Mật trang nghiêm trọn đủ): Nhập các môn thanh tịnh như trên đều v́ nêu tỏ ư nghĩa “tự tâm cầu Bồ Đề”. Nay lại kết luận rằng hư không vô cấu chính là tâm, tâm tức là Bồ Đề, tướng vốn là cùng một tướng, mà có ba tên gọi. Từ ngay nơi cái tâm pháp giới này, tuy nhân duyên rốt ráo chẳng sanh, nhưng chẳng hoại nhân duyên Thật Tướng. Do bất sanh, cho nên chẳng có năng và sở sai khác. Do bất hoại, nên cũng lấy Bi làm căn bản, Phương Tiện Ba La Mật trọn đủ, tức là ư nghĩa Trung Đạo rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn!

 

          (Kinh) Thị cố Bí Mật Chủ! Ngă thuyết chư pháp như thị, linh bỉ chư Bồ Tát chúng Bồ Đề tâm thanh tịnh, tri thức kỳ tâm. Bí Mật Chủ! Nhược tộc tánh nam, tộc tánh nữ dục thức tri Bồ Đề, đương như thị thức tri tự tâm.

          ()是故祕密主我說諸法如是令彼諸菩薩眾菩提心清淨知識其心祕密主若族姓男族姓女欲識知菩提當如是識知自心

          (Kinh: thế, Bí Mật Chủ! Ta nói các pháp như thế, khiến cho Bồ Đề tâm của các Bồ Tát đó thanh tịnh, hiểu biết cái tâm. Bí Mật Chủ! Nếu tộc tánh nam, tộc tánh nữ muốn hiểu biết Bồ Đề, hăy nên hiểu biết tự tâm như thế).

 

          Đức Phật đă khai thị Bồ Đề thanh tịnh, nêu ra cốt lơi chánh yếu của ba câu xong, liền kết lại: Toàn bộ vô lượng phương tiện từ đầu đến cuối đều nhằm khiến cho Bồ Đề tâm của các vị Bồ Tát thanh tịnh, nhận biết cái tâm ấy. Giống như trong kinh này, hăy nên biết hết thảy Tu Đa La đều có cùng ư nghĩa này. Như pháp do Thích Ca Như Lai đă nói, hăy nên biết các thứ pháp do mười phương ba đời hết thảy Như Lai tùy thuận cơ nghi và nhân duyên đă nói, không ǵ chẳng là ba câu pháp môn ấy, rốt ráo đồng quy về gốc, chẳng có đường lối nào khác! V́ thế nói “ngă thuyết chư pháp như thị, năi chí tri thức kỳ tâm” (ta nói các pháp như thế… hiểu biết cái tâm).

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà tự tri tâm? Vị nhược phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc h́nh sắc, hoặc cảnh giới, nhược sắc, nhược thọ, tưởng, hành, thức, nhược ngă, nhược ngă sở, nhược năng chấp, nhược sở chấp, nhược thanh tịnh, nhược giới, nhược xứ, năi chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc.

          ()祕密主云何自知心謂若分段或顯色或形色或境界若色若受想行識若我若我所若能執若所執若清淨若界若處乃至一切分段中求不可得

          (Kinh: Này Bí Mật Chủ! Tự biết cái tâm như thế nào? Tức là dù phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc h́nh sắc, hoặc cảnh giới, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngă, hoặc ngă sở, hoặc chủ thể chấp trước, hoặc đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh, hoặc giới, hoặc xứ, cho đến trong hết thảy các phần đoạn, đều chẳng thể cầu được).

 

          Trong phần trên, đức Thế Tôn đă rộng nói tướng như thật của Bồ Đề tâm thanh tịnh. Do chúng sanh chưa thể thấu hiểu ư, lănh ngộ, Ngài lại phương tiện nói môn đốn giác nhập Thật Tướng của Phật tâm này, cũng v́ quyết liễu[19] pháp của mười phương ba đời hết thảy chư Phật. Như trong hết thảy các kinh, hoặc nói “trong các Uẩn ḥa hợp, ngă chẳng thể được”, hoặc nói “các pháp sanh từ duyên đều không có tự tánh”, đều là các môn lần lượt khơi mở Thật Tướng. Thật Tướng của các pháp được nói trong các kinh ấy chính là Thật Tướng của cái tâm trong kinh này. Thật Tướng của tâm tức là Bồ Đề, trọn chẳng có lư nào khác. Chỉ v́ chúng sanh phước mỏng, chẳng thể tin chính ḿnh sẽ thành Phật, cho rằng “chính ḿnh thành Phật” là chuyện rất khó đạt được. V́ thế, đức Thế Tôn dạy họ ĺa các cấu chướng, thủ hộ cái tâm, phải giữ sao cho thời và nghĩa khế hợp, sau đấy mới nói ấn “tức tâm”. Nay kinh này chẳng phải vậy, thẳng thừng dựa trên các pháp khiến cho họ biết cái tâm. Do vậy là tạng bí yếu! Câu thứ nhất nói “dù là phần đoạn tức là nêu chung “pháp sanh từ nhân duyên”. Do pháp phải nhờ vào nhân duyên mới thành, ắt có tướng sai biệt. Hành giả hăy nên biết quán sát như thế! Nay trong sự phần đoạn ấy, cái ǵ là tâm? Cho đến phân tích, suy cầu, đều chẳng thể được! Tức là biết tâm này vượt ngoài các tướng, ĺa các nhân duyên. Do biết tâm tánh thường như thế, lúc bấy giờ, hết thảy các pháp tự nhiên chẳng khác với tâm!

           “Hiển sắc” là xanh, vàng v.v… “H́nh sắc” là như vuông, tṛn v.v… Cảnh giới, tức là cái đối ứng với sáu t́nh (sáu căn), tức sáu trần. V́ để cho kẻ khác dễ hiểu, lại lần lượt quan sát các pháp. Nay trong các thứ hiển sắc và h́nh sắc đó, ǵ là tâm? Sắc vốn chẳng phải là t́nh, chẳng có tướng hay biết, huống là có tâm trong ấy để có thể đạt được ư? Giống như hiển sắc và h́nh sắc, hăy nên biết hết thảy các sắc trần cũng như thế. Giống như sắc trần, cho đến thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều như thế. Hành giả chẳng thể t́m được tâm trong ngoại trần, lại quán Ngũ Uẩn trong nội thân cũng như bọt nước, bong bóng, ngọn lửa, cây chuối huyễn hóa, tự cầu tánh thật [trong ấy] c̣n chẳng thể được, huống hồ có được tâm trong đó ư? Như thế từ thô tới tế, bỏ rộng theo lược, cho đến khi một niệm thức trong hiện tại cũng chẳng trụ. Lại do từ các duyên mà sanh, tức Không, tức Giả, tức Trung, xa ĺa hết thảy hư luận, cho tới ngằn mé vốn chẳng sanh. “Ngằn mé vốn chẳng sanh” chính là tự tánh thanh tịnh tâm, tự tánh thanh tịnh tâm tức là môn chữ A. Do dùng tâm để nhập môn chữ A, hăy nên biết hết thảy các pháp đều vào trong môn chữ A.

          Đă nói quán Thật Tướng của các pháp; kế đó, nói về quán ngă tướng, cho nên nói “nhược ngă, nhược ngă sở, nhược năng chấp, nhược sở chấp, nhược thanh tịnh” (hoặc là ngă, hoặc là cái của ta, hoặc là chủ thể chấp trước, hoặc là đối tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh). Như trong các Ấm thuộc phần trước, các thứ phương tiện quán tâm đều chẳng thể được, huống hồ các pháp “ta, người, thọ giả” v.v… vốn chỉ giả danh, trong ấy há có tâm để đạt được hay chăng? “Thanh tịnh” tức là chỗ tối cực thanh tịnh mà ngoại đạo chấp trước, ngỡ đó là Niết Bàn. Như Trường Trảo Phạm Chí chẳng thọ hết thảy các pháp, mà lại chấp nhận cách nh́n ấy. Nay cũng giống như thế, do chấp trước trí huệ quán Không, mà sanh khởi ư tưởng ngỡ là thanh tịnh ấy, liền từ trong tâm tưởng như thế để chánh quán tự tâm “chẳng có chỗ sanh”, liền được nhập Bồ Đề tâm chân tịnh.

          Trên đây đă rộng đối ứng với Ngũ Ấm [để phá các chấp trước đối với ngă]; kế đó, lại nói mười tám giới, mười hai xứ, cho đến trong hết thảy các phần đoạn đều chẳng thể cầu được. Ư nghĩa của Ấm, Giới, Nhập th́ như trong A Tỳ Đàm đă giảng cặn kẽ. Ba pháp ấy (Ấm, Giới, Xứ) đă thâu nhiếp hết thảy các pháp. Lại nói “năi chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc” (cho đến trong hết thảy phần đoạn đều chẳng thể cầu được), tức là như trong kinh Ma Ha Bát Nhă đă lần lượt nói rộng các pháp. Như đối với Ấm, Giới, Nhập mà phân tích, t́m cầu cái tâm, sẽ chẳng thể t́m được tâm. Hăy nên biết từ lục độ vạn hạnh, cho tới trong hết thảy các môn tổng tŕ tam-muội, dùng đủ mọi cách cầu tâm, đều chẳng thể được. Do tâm chẳng thể được, tướng thường, lạc, ngă, tịnh, hoặc tướng chẳng phải thường, lạc, ngă, tịnh v.v… của cái tâm ấy cũng giống như thế, đều là chẳng thể được!

          Lại nữa, như hàng Thanh Văn khi mới quán Ấm, Nhập, Giới, liền từ Ấm mà cầu ngă, hoặc ĺa Ấm để cầu ngă, đều chẳng thể được. Dùng cả hai cách, cũng đều chẳng thể được. Lúc ấy, từ trong Bát Trực Đạo (Bát Chánh Đạo), viễn trần ly cấu, chánh pháp nhăn sanh khởi. Bồ Tát trong Chân Ngôn Môn cũng giống như thế, khi mới quán Ấm, Giới, Nhập, do từ Ấm mà cầu tâm, và ĺa Ấm để cầu tâm đều không thể được, [vận dụng cả] đôi bên cũng chẳng được, cho nên ngay lập tức liễu ngộ ngằn mé bất sanh của tự tâm, từ trong đại Bồ Đề đạo thuộc tri kiến của Như Lai, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhăn tịnh. Nếu chẳng tạo phương tiện như thế, trước hết từ chấp vào nơi chốn để quán, chỉ nói là “tâm trọn hết thảy mọi nơi, rốt ráo vô tướng”, chúng sanh sẽ chẳng thể do đâu mà ngộ nhập. Hăy nên biết cách Quán này là một pháp môn bí yếu nhất. Như các Bồ Tát vận dụng các phương tiện viễn ly khác, lần lượt tu tập Giới, Định, trí huệ trong vô lượng kiếp, dùng đủ mọi môn để quán Nhân Không và Pháp Không, vẫn chưa thể xa ĺa h́nh bóng [của nhân pháp ngă pháp] trong tâm. Nay hành giả Chân Ngôn khi sơ phát tâm, quán thẳng vào Thật Tướng của tự tâm, biết rơ nó vốn bất sanh, ngay lập tức các hư luận về nhân và pháp đều trừ sạch như hư không, thành tựu tự nhiên giác, chẳng do điều ǵ khác mà giác ngộ. Hăy nên biết pháp quán này lại là đạo pháp minh (hiểu rơ đạo, giác ngộ pháp), là pháp môn đốn ngộ vậy!

         

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Thử Bồ Tát tịnh Bồ Đề tâm môn, danh sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ thử tu học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nhược đắc thử giả, tắc dữ chư Phật, Bồ Tát đồng đẳng trụ, đương phát ngũ thần thông, hoạch vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, tri chúng sanh tâm hạnh, chư Phật hộ tŕ, tuy xử sanh tử, nhi vô nhiễm trước, vị pháp giới chúng sanh bất từ lao quyện, thành tựu trụ vô vi giới, ly ư tà kiến, thông đạt chánh kiến.

          ()祕密主此菩薩淨菩提心門名初法明道菩薩住此修學不久勤苦便得除一切蓋障三昧若得此者則與諸佛菩薩同等住當發五神通獲無量語言音陀羅尼知眾生心行諸佛護持雖處生死而無染著為法界眾生不辭勞倦成就住無為戒離於邪見通達正見      

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Môn Bồ Đề tâm thanh tịnh của Bồ Tát này gọi là sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ vào đấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, sẽ đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Nếu đắc môn ấy, sẽ cùng trụ giống như chư Phật, Bồ Tát, sẽ phát sanh năm món thần thông, đạt được vô lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, biết tâm hạnh của chúng sanh, được chư Phật hộ tŕ, tuy ở trong sanh tử mà chẳng nhiễm đắm, v́ pháp giới chúng sanh chẳng nề hà mệt nhọc, thành tựu trụ trong vô vi giới, ĺa tà kiến, thông đạt chánh kiến).

 

          Để nhập trí huệ của Phật, có vô lượng môn phương tiện; nay tông này dùng ngay Bồ Đề tâm thanh tịnh làm môn. Nếu nhập môn này, tức là sơ nhập cảnh giới của hết thảy Như Lai. Ví như [trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm], ngài Di Lặc mở cửa lâu các, từ trong đó, Thiện Tài thấy trọn vô lượng chuyện chẳng nghĩ bàn, khó thể diễn nói được, chỉ có người nhập tự biết mà thôi!

          “Pháp minh”: Do giác ngộ ngằn mé bất sanh của cái tâm, tâm ấy tịnh trụ, sanh ra đại huệ quang minh, chiếu khắp vô lượng pháp tánh, thấy đạo do chư Phật hành. V́ thế nói là “pháp minh đạo”. Khi Bồ Tát trụ trong đạo ấy, tất cả phiền năo nghiệp khổ sanh từ nhân duyên vọng tưởng thảy đều trừ diệt thanh tịnh. Ví như có người ở trong chỗ tối, bị chất báu sắc bén gây thương tổn, cho là rắn độc. Do nghĩ là độc, nên cái tâm chấp trước ấy liền trở thành khí độc lan khắp chi thể. Khi người ấy sắp mạng chung, có lương y chẩn đoán, hiểu rơ đầu đuôi, lập tức dẫn [kẻ đó] đến chỗ bị thương, dùng đèn sáng để soi, vẫn thấy chất báu gây nên thương tổn hăy c̣n vết máu hoen ố. Người ấy biết rơ chẳng phải là độc, độc khí cũng trừ, phân biệt vật đẹp đẽ đáng ưa chuộng mà sanh ḷng vui sướng. Hành nhân cũng lại giống như thế, do Bồ Đề tâm thanh tịnh chiếu sáng các pháp, tốn ít công sức mà đạt được Trừ Cái Chướng tam-muội, thấy Thật Tướng của tám vạn bốn ngàn phiền năo thành tám vạn bốn ngàn môn khối báu. V́ thế, kế đó, kinh nói: “Bồ Tát trụ thử tu học, bất cửu cần khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội” (Bồ Tát trụ trong ấy tu học, siêng khổ chẳng bao lâu, liền đạt được Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội). Nếu đắc môn ấy, sẽ b́nh đẳng trụ cùng chư Phật Bồ Tát. Trong ấy, có năm loại chướng:

          - Một là phiền năo chướng, tức từ căn bản phiền năo cho đến tám vạn bốn ngàn thượng, trung, hạ phẩm chướng che lấp tịnh tâm, và do tập khí đă quen từ đời trước, gây trở ngại đạo cơ (cơ duyên chứng đạo), chẳng nhập Phật pháp.

          - Hai là nghiệp chướng, tức là do trong đời quá khứ và hiện tại đă tạo các tội nặng, cho đến báng bổ kinh Phương Đẳng, người ấy tuy có nhân duyên đắc đạo, nhưng do nghiệp chướng cũ chưa trừ, bị các thứ gây chướng nạn, chẳng nhập Phật pháp.

          - Ba là sanh chướng, tức là người đă được sanh vào chỗ thắng thượng, không hoạn nạn, ắt sẽ ngộ đạo, nhưng do nghiệp trước mà thọ thân không rảnh rỗi, coi báo sanh là chướng, chẳng nhập Phật pháp.

          - Bốn là pháp chướng, tức là người đă được sanh vào chỗ không chướng ngại, lại có cơ duyên ngộ đạo, do đời trước đă từng có duyên gây chướng ngại pháp, bèn chẳng gặp thiện hữu, chẳng nghe chánh pháp.

          - Năm là sở tri chướng, tức là người ấy đă gặp thiện tri thức, được nghe chánh pháp, nhưng có các thứ nhân duyên khiến cho đôi bên chẳng ḥa hợp, trở ngại tu Bát Nhă Ba La Mật, như kinh Đại Phẩm [Bát Nhă] đă nói cặn kẽ về ma sự, chắc cũng do đời trước đă từng cố ư khiến cho đạo cơ của người khác bị sai lệch, cho nên sanh ra món chướng này.

          Hành giả đă trừ sạch năm món gây chướng ngại cho tam-muội, lúc bấy giờ, trong tự tâm thường thấy diệu tướng tĩnh lặng của mười phương hết thảy chư Phật như nh́n vào gương sáng, cho đến đối với các oai nghi đi, lại, ngủ, thức, đều chẳng ĺa nhân duyên [trông thấy] chúng hội của chư Phật như thế. Khi đó, các vị thánh thường dùng phương tiện thù thắng nhiệm mầu để khơi gợi tâm giác ngộ của người ấy, dùng Phạm âm an ủi, khuyên dụ, khiến cho [người ấy] dứt trừ lưới nghi. Hành giả vừa nghe liền tùy hỷ, ngộ nhập, lưới chướng liền trừ, chẳng lâu sau sẽ thành tựu hết thảy Phật pháp. V́ thế nói: “Nếu đạt được môn tam-muội này, sẽ b́nh đẳng trụ với Phật, Bồ Tát”. Hăy nên biết hành nhân có địa vị giống như bậc Đại Giác. Do cái tâm tự giác mà được gọi là Phật, nhưng chẳng phải là địa vị Đại Mâu Ni diệu giác rốt ráo. Ví như mặt trăng thanh tịnh, bản thể tuy chẳng tăng, giảm, nhưng cũng rơ ràng là dần dần tăng, cho tới ngày Rằm th́ mới có thể ảnh hưởng đến thủy triều nơi biển cả.

          Lại nữa, hành giả do cùng trụ b́nh đẳng với Như Lai, tức là có thể dùng sức phương tiện khởi năm món thần thông, chẳng động bổn tâm mà dạo các cơi Phật, hiện các thứ thân, ngữ, ư, dấy lên các thứ mây cúng dường, dùng vô tận đại nguyện để rộng tu các Đ (Ba La Mật). Lại do ư căn thanh tịnh; kế đó, đắc Giải Vô Lượng Ngữ Ngôn Âm Thanh Đà-la-ni, như ba mươi sáu câu-chi đường [thọ sanh] trong thế gian, tùy theo chủng loại, căn tánh của họ là thượng, trung, hạ, đối với bao nhiêu phong tục, ngôn ngữ địa phương, mỗi mỗi đều sai biệt, đều hiểu rơ chỉ thú, đáng nên dùng âm thanh theo từng loại [để thuyết pháp giáo hóa họ]. Như trong một thế giới, hết thảy các thế giới cũng đều là như thế. Trong bản tiếng Phạn, Rô Đa (Ruta) là tiếng lớn, La Vĩ Đa (Ravita) là tiếng nhỏ, Niết Cù Sam (Dīrghāghoṣa) âm dài, lại c̣n có nghĩa là nhiều âm. Do vậy, nói đầy đủ, muốn hiển thị cảnh giới tổng tŕ, không ǵ chẳng hiểu rơ, đối với ngôn ngữ của phương này (Trung Hoa), khó thể phiên dịch trọn hết. Do đắc đà-la-ni, nên có thể biết tâm hạnh của hết thảy chúng sanh, tức là chúng sanh như thế này sân hạnh đặc biệt nhiều, nhưng tánh tham mỏng ít, hoặc chúng sanh như thế kia tánh tham đặc biệt nhiều, mà tánh sân mỏng ít. Cho đến tướng “thông, tắc” vô lượng sai biệt, như phần Đạo Chủng Trí trong Thích Luận đă nói cặn kẽ. Vị Bồ Tát ấy không chỉ là biết bằng ư căn, mà thậm chí [các giác quan để] thấy, nghe, ngửi, chạm, cũng đều có thể dùng lẫn nhau vô ngại. Lại có thể quán căn duyên của họ để trừ cái chướng cho họ, dùng đủ mọi phương tiện để thành thục chúng sanh, trang nghiêm cơi Phật, hành Như Lai sự. Hăy nên biết hành giả Chân Ngôn thậm chí có thể hoàn thành ngay trong một đời.

          Lại nữa, các công đức như đă nói trên, hết thảy chúng sanh thảy đều đúng như bổn tánh mà b́nh đẳng cùng có. Chỉ v́ vô minh chướng lấp nên chẳng tự biết rơ, chưa thể khởi phát sức thần thông bí mật như thế. Nay các Bồ Tát tu hành Chân Ngôn môn này, do thấy pháp, hiểu rơ đạo, ngay trong đời này đạt được Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội. Do đắc môn tam-muội ấy, có thể cùng ở với chư Phật, Bồ Tát, phát khởi năm món thần thông. Do năm thần thông, nên đắc Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn đà-la-ni. Do đạt được môn đà-la-ni ấy, có thể biết tâm hạnh của hết thảy chúng sanh để làm Phật sự. Do có thể rộng làm Phật sự, chẳng đoạn ḍng giống Như Lai, cho nên trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, thường được mười phương chư Phật hộ tŕ. Giống như trẻ thơ vừa mới sanh ra, cha mẹ cưng chiều, thường chẳng ĺa bỏ. Hăy nên biết các câu như thế, đều theo thứ tự mà giải thích lẫn nhau.

          Lại nữa, hành giả do bên trong có đủ công đức như trên, ngoài th́ được chư Phật hộ tŕ. V́ thế, ở trong sanh tử mà chẳng đắm nhiễm, giống như hoa sen nổi vượt khỏi mặt nước, chẳng bị bùn lầy nhuốm bẩn. Thường dùng phương tiện Tứ Nhiếp để dẹp khổ cho chúng sanh, cho đến trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp thường ở trong địa ngục Vô Gián, thân tâm tinh tấn, hừng hực chẳng ngơi, chẳng lui sụt, chẳng nài mệt nhọc. V́ cớ sao? Tánh của Bồ Đề tâm thanh tịnh vốn sẵn như kim cang. Tánh cực kiên cố như thế chẳng do thầy mà đạt được! Trụ trong vô vi giới, vô cấu, vô trược, chẳng thể phá hoại, tổn thương. Giới trong tiếng Phạn là Thi La (Śīla), có nghĩa là “trong trẻo, mát lạnh”. Ví như tánh nước thường lạnh, dẫu gặp nhân duyên củi lửa bèn có thể nấu nát nhừ các vật, nhưng tự tánh của nó trọn chẳng thể đổi dời. Nếu rút củi, dập lửa, tự nhiên nước sẽ trong mát như cũ. Hành giả Chân Ngôn cũng giống như thế, khi đạt được Trừ Cái Chướng tam-muội, bổn tánh của cái tâm chính là Thi La, chẳng phải là pháp tạo tác, chẳng do ǵ khác mà đạt được. V́ thế nói là “trụ vô vi giới”. Như tịnh giới của Thanh Văn phải do bạch tứ yết-ma[20] và các duyên trọn đủ th́ mới sanh khởi, lại cần phải phương tiện thủ hộ như ngăn ngừa gai nhọn, tới khi tuổi thọ của một đời người đă hết, giới ấy cũng mất theo. C̣n giới ở đây chẳng phải là như thế, đời đời kiếp kiếp thường cùng sanh theo, chẳng cần phải thọ tŕ, thường chẳng bị mất mát, vi phạm. Lại do trụ trong giới ấy, thật trí sáng thêm, được thấy duyên khởi Trung Đạo rất sâu chẳng thể nghĩ bàn, ngăn chặn tám món điên đảo, xa ĺa nhị biên. V́ thế, tiếp đó, kinh nói: “Viễn ly tà kiến, thông đạt chánh kiến” (xa ĺa tà kiến, thông đạt chánh kiến). [Trong kinh Pháp Hoa], ngài Ca Diếp cũng nói: “Tự thử dĩ tiền, ngă đẳng giai danh tà kiến nhân “ (từ trước đến nay, chúng con đều đáng gọi là kẻ tà kiến). Do huệ trong ấy bất chánh, nên nói là “tà kiến”.

 

          (Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, tín giải lực cố, bất cửu cần tu, măn túc nhất thiết Phật pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, thị thiện nam tử, thiện nữ nhân vô lượng công đức giai đắc thành tựu.

          ()復次祕密主住此除一切蓋障菩薩信解力故不久勤修滿足一切佛法祕密主以要言之是善男子善女人無量功德皆得成就

          (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị Bồ Tát trụ trong Trừ Nhất Thiết Cái Chướng này, do sức tín giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ viên măn hết thảy Phật pháp. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại, thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vô lượng công đức đều được thành tựu).

 

          Do phàm phu và Nhị Thừa chẳng thể quyết trạch, biết chánh đáng Thật Tướng của tự tâm, đối với lư đế thật, thậm chí đối với Không mà nói là chẳng Không, đối với chẳng Không mà nói là Không, chẳng thấy con đường đại Bồ Đề do chư Phật đă hành. Nay các vị Bồ Tát này, do chiếu kiến cái tâm, hiểu rơ đạo, ngay lập tức vô ngại trí phát sanh. Trong hết thảy các pháp, thảy đều hiện tiền thông đạt, chẳng sai lệch, giống như người sáng mắt do ánh sáng mặt trời mà thấy các thứ sắc. Tuy vô lượng thiên ma đều hóa thành thân Phật, đều nói tương tự Ba La Mật, trọn chẳng thể lay động chút phần lưới nghi trong tâm họ. V́ thế, kinh nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát tín giải lực cố, bất cửu cần tu, măn túc nhất thiết Phật pháp” (Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát trụ trong tam-muội Trừ Nhất Thiết Cái Chướng ấy, do sức tín giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ trọn đủ hết thảy Phật pháp). Do chánh kiến như thế ví như Kim Cang, tức là sức tín giải kiên tŕ tối thượng, nương theo đó mà tấn tu Như Thật Xảo Độ, cho nên đạt được Chư Phật Lực Vô Sở Úy Giải Thoát tam-muội, và vô lượng Phật pháp khác thảy đều thành tựu. Ngài Long Th bảo: Ví như người nung luyện, dùng các thứ phương tiện để làm tan chảy khoáng thạch, sau đó thành vàng. Giống như người có thần thông, có thể khiến cho các loài đất, gỗ đều thành chất vàng. V́ thế nói “siêng tu chẳng bao lâu, liền được viên măn hết thảy Phật pháp”. Do vậy, Bồ Tát khi mới phát tâm, liền được gọi là Phật. Công đức chân thật không thể đo lường, giả sử Như Lai trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phân biệt diễn nói, vẫn chẳng thể cùng tận!

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục dĩ kệ vấn Phật: - Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ Đề sanh? Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm? Nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết, Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh. Tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn. Công đức tụ diệc nhiên, cập bỉ hành tu hạnh, tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni thuyết.

          ()爾時執金剛祕密主復以偈問佛:云何世尊說,此心菩提生?復以云何相知發菩提心?願識心心勝,自然智生說,大勤勇幾何,次第心續生,心諸相與時,願佛廣開演。功德聚亦然,及彼行修行,心心有殊異,惟大牟尼說。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ lại dùng kệ hỏi đức Phật: - Cớ sao Thế Tôn nói, tâm này Bồ Đề sanh? Lại do tướng thế nào, biết phát Bồ Đề tâm? Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi. Thưa đấng Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào? Các tâm tướng và thời, nguyện Phật rộng khai diễn. Khối công đức cũng thế, và hành hạnh tu hành, mỗi tâm đều mỗi khác, mong Đại Mâu Ni nói).

 

          Như trong phần trên, đức Phật đă nói ư chỉ đại cương của bộ kinh này, môn Thật Tướng của cái tâm đă được [nêu bày] đại lược trọn vẹn. Khi đó, ngài Kim Cang Thủ v́ khiến cho chúng sanh trong vị lai sẽ được trọn đủ phương tiện, chẳng c̣n nghi nữa, nên dùng kệ để hỏi đức Phật, thỉnh cầu đức Thế Tôn rộng diễn nghĩa ấy. Trong ấy, đại lược có chín câu hỏi. “Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ Đề sanh?” (V́ sao đức Thế Tôn nói, Bồ Đề sanh từ cái tâm này?) tức là [thắc mắc chuyện làm thế nào để] sanh khởi Bồ Đề tâm. Trong các kinh như Hoa Nghiêm [chẳng hạn], đă tán thán cặn kẽ công đức phát Bồ Đề tâm; nay ở đây, hỏi thẳng về mật ấn của tâm. Làm thế nào để biết rơ chủng tử Bồ Đề phát sanh từ tâm này? Nếu đă phát sanh th́ tánh của nó như thế nào?

          Câu thứ hai: “Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề tâm?” (lại do tướng như thế nào mà biết là phát Bồ Đề tâm): “Tướng” là do tánh đă thành tựu bên trong, ắt sẽ có tướng biểu lộ ra ngoài, như trong Bát Nhă đă nói cặn kẽ tướng mạo của A-tỳ-bạt-trí (Avaivarti, bất thoái chuyển), nay ở đây cũng hỏi “tâm Bồ Đề đă sanh th́ có tướng mạo ǵ?”

          Kinh nói “nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết” (Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi): Đúng như thật tán thán công đức của Phật, xin Ngài hăy phô diễn ư nghĩa của hai câu trước đó. Đầu tiên nói đến “thức tâm” tức là cái trí tự giác trong tâm. Kế đó lại nói “tâm” tức là Thật Tướng của cái tâm. Ư nói: Cảnh và trí đều diệu, chẳng hai, chẳng khác, cho nên lặp lại. “Tự nhiên trí” là thường trí của Như Lai, chỉ là tâm tự chứng tâm, chẳng do ai khác mà ngộ! Ư nói: Phật đă là người hiểu cái tâm bậc nhất, ắt có thể biết Bồ Đề tâm phát sanh và tướng vi tế của nó, kính mong đức Phật hăy nói.    

          Câu thứ ba “Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục sanh” (Thưa đấng Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự thế nào?): Đại Cần Dũng (bậc siêng năng mạnh mẽ to lớn) chính là tên gọi khác của đức Phật. Tán thán phẩm đức rồi lại thưa hỏi: “Do có mấy tâm theo thứ tự mà đạt được cái tâm ấy?”

          Câu thứ tư và câu thứ năm là “tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn “ (các tướng tâm và thời, nguyện Phật rộng khai diễn), nhằm hỏi về các tướng sai biệt của tâm và sự thắng tấn (tiến cao hơn) liên tục, phải trải qua bao lâu th́ mới rốt ráo đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?

          Câu thứ sáu “công đức tụ diệc nhiên” (khối công đức cũng thế), nói về công đức vi diệu của cái tâm này, cũng mong đức Thế Tôn sẽ rộng khai diễn. V́ thế nói “diệc nhiên” (cũng thế).

          Câu thứ bảy là “cập bỉ hành tu hạnh” (và hành hạnh tu đó), tức là kế đó, hỏi nên dùng hạnh nào? Tu hành như thế nào để có đạt được Vô Thượng Tất Địa (thành tựu vô thượng)? Cũng có thể chia đoạn này thành hai câu.

          Câu thứ tám và câu thứ chín “tâm tâm hữu thù dị, duy Đại Mâu Ni thuyết” (mỗi tâm mỗi khác biệt, mong Đại Mâu Ni nói), tức là cũng mong đức Thế Tôn nói cặn kẽ về tâm thức dị thục của chúng sanh và tâm thức đặc biệt khác lạ của hành giả Du Già. Mâu Ni có nghĩa là Tịch Mặc, ư nói: Thân, ngữ, tâm của đức Phật đều rốt ráo tịch diệt, vượt ngoài khả năng diễn tả của ngôn ngữ. Do sự tịch diệt nhỏ nhoi của Tiểu Thừa chẳng thể sánh ví, cho nên nói là Đại Mâu Ni.

          [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Chín câu như thế hoặc có thể chia thành mười câu. Từ đây trở đi cho đến hết kinh, đều mang ư nghĩa Như Lai đối ứng chín câu hỏi ấy mà nói phân biệt cặn kẽ. Nhưng đức Phật quán chúng hội thuở ấy, chú trọng khiến cho họ lănh hội ư, t́m cầu điều cốt lơi, cho nên có thể là đáp trước, hỏi sau, kinh văn không có tiêu chuẩn nhất định. Kế đó, hoặc chuyển thành sanh khởi nghi vấn để [giải đáp] cùng tận các chi tiết. Như kinh văn trong phần sau nói về nhập Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la v.v… tức là trả lời câu hỏi về tu hành. Phần nói về cái quả của một trăm chữ v.v… chính là giải đáp câu hỏi về tâm đặc biệt khác lạ và công đức. Các đoạn khác đều có chỗ tương ứng (tức là nhằm giải đáp các nghi vấn), đều có thể theo từng loại mà xét, ư nghĩa dễ thấy”.

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích, thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngă kim tất khai thị, nhất tâm ưng đế thính.

          ()如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:善哉佛真子,廣大心利益。勝上大乘句,心續生之相,諸佛大祕密, 外道不能識;我今悉開示,一心應諦聽。

          (Kinh: Nói như thế xong, đức Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi ích rộng lớn, câu Đại Thừa thắng thượng, tướng tâm liên tục sanh, chư Phật bí mật lớn, ngoại đạo chẳng thể biết. Ta nay đều chỉ bày, nên nhất tâm lắng nghe).

 

          Kế đó, trong phần kệ giải đáp cho Kim Cang Thủ của Như Lai, “thiện tai Phật chân tử, quảng đại tâm lợi ích” (lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi ích rộng lớn): Do sanh từ chủng tánh của Như Lai, do sanh từ thân, ngữ, tâm của Phật, nên gọi là “chân tử” (con thật sự). Như trong phần trước, Đại Nhật Thế Tôn hiện cảnh giới gia tŕ rộng lớn, nay Bí Mật Chủ cũng muốn v́ trọn khắp vô lượng chúng sanh đáng độ như thế, khiến cho họ nhanh chóng thành tựu đại hạnh, xé rách lưới nghi to lớn, cùng đạt được ba câu b́nh đẳng vô tận trang nghiêm, cho nên đức Phật tán thán rằng: “Lành thay Phật tử! Nay ông có thể dùng cái tâm rộng lớn để tạo lợi ích cho vô lượng chúng sanh, mà thốt ra lời hỏi như thế”.

          Tiếp đó, Ngài nói: “Thắng thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức “ (Câu Đại Thừa thắng thượng, tướng liên tục sanh của tâm, là bí mật to lớn của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết). Nói đại lược th́ do có bảy nghĩa nên gọi là Đại Thừa:

          - Một, do pháp to lớn, tức là tạng bí mật rộng lớn rất sâu của chư Phật được bậc đại nhân là Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi nơi vận dụng.

          - Hai, do phát tâm to lớn, tức là một mực dốc chí mong cầu đại huệ b́nh đẳng, khởi bi nguyện vô tận, thề sẽ truyền trao trọn khắp pháp giới chúng sanh.

          - Ba, do tín giải to lớn, tức là khi mới thấy tâm, hiểu đạo, trọn đủ vô lượng công đức, có thể tới trọn khắp các cơi Phật nhiều như cát sông Hằng, dùng đại sự nhân duyên thành tựu chúng sanh.

          - Bốn, do tánh to lớn, tức là tự tánh thanh tịnh tâm kim cang bảo tạng chẳng hề khuyết giảm, hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng cùng có.

          - Năm, do y chỉ to lớn, tức là diệu thừa như thế chính là chỗ y chỉ to lớn của pháp giới chúng sanh, giống như trăm sông đổ vào biển, cỏ cây nương vào đất mà sanh.

          - Sáu, do thời to lớn, tức là thọ lượng dài lâu vượt ngoài ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai), tác dụng sư tử phấn tấn bí mật thần thông chưa từng ngưng nghỉ.

          - Bảy, do trí to lớn, tức là do các pháp vô biên, tự tâm giống như hư không, tự nhiên diệu huệ cũng lại là vô biên, cùng tột nguồn cội Thật Tướng, ví như nắp khít với hộp.

          Do bảy nhân duyên như thế, trong các pháp môn, Đại Thừa giống như đề hồ thuần vị bậc nhất. V́ thế gọi là “Đại Thừa tối thắng”. Thừa là “tiến nhập, Cú là “chỗ ngưng nghỉ”. V́ thế nói là “Đại Thừa cú” (câu Đại Thừa). “Tâm tục sanh chi tướng” (tướng sanh liên tục nơi tâm): Tuy tâm ấy rốt ráo thường tịnh, ví như hư không ĺa hết thảy các tướng, cũng từ nhân duyên dấy lên mà có tâm tướng sanh ra. Ví như sóng ṃi trong biển cả, chẳng phải là thường có, mà cũng chẳng phải là thường không. Nếu là thường có, chẳng nên khi gió lặng, sóng bèn ngưng lặng, yên tĩnh. Nếu là thường không, chẳng nên gió mạnh vừa thổi, biển sẽ liên tục sóng trào. Hăy nên biết tâm thuận theo duyên khởi, tức là chẳng sanh mà sanh, sanh mà chẳng sanh, là tướng vô tướng, tướng thường vô tướng, rất sâu vi diệu, khó thể biết rơ. Ấn bí mật của chư Phật chẳng thể tuyên bày bừa băi; v́ thế, hai loại phàm phu và ngoại đạo không chỉ chẳng biết tâm vô sanh diệt”, mà cũng chẳng biết tâm sanh diệt. V́ thế nói: “Chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức. Ngă kim tất khai thị, nhất tâm ưng đế thính” (Đại bí mật của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết, ta nay đều chỉ bày, hăy nhất tâm lắng nghe).

 

          (Kinh) Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức. Kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, bất nhiễm ô thường trụ. Chư pháp bất năng động, bổn lai tịch vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm.

          ()越百六十心,生廣大功德,其性常堅固,知彼菩提生。無量如虛空,不染污常住,諸法不能動,本來寂無相。無量智成就,正等覺顯現,供養行修行,從是初發心。

          (Kinh: Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh công đức rộng lớn. Tánh luôn thường kiên cố, nhận biết Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, chẳng nhiễm ô thường trụ. Các pháp chẳng thể động, vốn sẵn tịch, vô tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng dường tu hành hạnh, từ đấy sơ phát tâm).

 

         

          Bài kệ kế tiếp nói: “Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại công đức, kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh” (Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh công đức rộng lớn, tánh nó thường kiên cố, biết là Bồ Đề sanh) nhằm giải đáp câu hỏi thứ nhất: “V́ sao biết là Bồ Đề tâm đă sanh?” Nay đức Phật bảo rằng: “Vượt ngoài một trăm sáu mươi cái tâm liên tục th́ chính là Bồ Đề tâm thanh tịnh”. Như có người hỏi: V́ sao biết là đề hồ sanh từ sữa này? Đáp rằng: Nếu các tướng thô trược, đổi khác của sữa, lạc, sanh tô, và thục tô đều đă thuần nhất, chẳng c̣n cặn nhơ, sẽ biết là đề hồ đă sanh. Hành giả thoạt đầu khi khai phát tạng báu kim cang, thấy tâm tánh thanh tịnh như hư không, vượt ngoài số lượng; khi đó, ĺa nghiệp sanh bởi cái nhân, cây Phật nẩy mầm. Khi cái mầm ấy đă sanh, sẽ trọn khắp pháp giới, huống hồ lá, hoa, quả? V́ thế nói là “sanh quảng đại công đức” (sanh công đức rộng lớn). Do vượt ngoài hư luận nơi tâm hạnh, sẽ chẳng thể phá, chẳng thể chuyển, giống như vàng Diêm Phù Đàn, chẳng thể nói lỗi ác (khuyết điểm) của nó được! V́ thế nói “kỳ tánh thường kiên cố” (tánh nó thường kiên cố). Nếu biết tự tâm có ấn như thế, hăy nên biết đó là Bồ Đề sanh.

          Kế đó là một bài kệ rưỡi, giải đáp đại lược tướng mạo của Bồ Đề tâm. Do thế gian trọn chẳng có pháp nào để có thể biểu thị tướng của Bồ Đề tâm thanh tịnh, chỉ trừ đại hư không có chút phần tương tự, nên nói “vô lượng như hư không”. Thí như hư không chẳng bị khói, mây, bụi bặm, sương mù ô nhiễm, tánh nó thường trụ, ĺa các nhân duyên. Giả sử gió to từ tám phương thổi cùng tận thế giới, vẫn chẳng thể lay động [hư không] được! Từ bổn sơ cho tới nay, nó thường tự tịch diệt, vô tướng, chẳng phải đến nay mới vậy! Tâm tướng cũng thế, từ vô thỉ tới nay vốn tự bất sanh. Do vốn bất sanh, chẳng có một pháp nào có thể ô nhiễm, dao động. Nó thường trụ, bất biến, vĩnh viễn tịch tĩnh, vô tướng. V́ thế nói: “Chẳng ô nhiễm, thường trụ, các pháp chẳng thể động, vốn tịch tĩnh, vô tướng”. Lúc bấy giờ, hành nhân do được tịch quang ấy chiếu soi, vô lượng tri kiến tự nhiên khai phát, như hoa sen nở x̣e. V́ thế nói “vô lượng trí thành tựu”. Trí ấy thành tựu chính là Tỳ Lô Giá Na tâm Phật hiện tiền. Do vậy nói “Chánh Đẳng Giác hiển hiện”. Bản tiếng Phạn ghi là “Tam Miệu Tam Phật Đà Bồ Đề hiện”. Đức Phật đă nói đại lược ấn Thật Tướng của cái tâm như thế, nếu hành giả tương ứng với nó, hăy nên biết là đă trọn đủ tín lực kiên cố. Nhưng tín lực ấy, vốn do đúng như lời dạy mà tu hành nghi quỹ hành pháp cúng dường trong Chân Ngôn môn, đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh, cho nên nói: “Cúng dường hành tu hnh, tùng thị sơ phát tâm “ (cúng dường, hành hạnh tu hành, từ đấy sơ phát tâm). Nhưng sự cúng dường ấy có hai thứ: Một là ngoại cúng dường, hai là nội cúng dường, trong kinh văn thuộc phần sau sẽ nói [chi tiết hơn].

          Có lẽ sẽ có người nói rằng: “Chỉ quán tâm tánh vô tướng, vô vi, chẳng nên dùng các thứ hành động lăng xăng để hành Bồ Tát đạo!” Cách nói ấy không đúng! Như dùng bốn loại bất sanh để quán tánh của vàng trong quặng. Tuy dù là nhân hay quả, [tánh của vàng] đều là thường tự “chẳng giảm, chẳng tăng”, nhưng nếu chẳng dùng phương tiện để tiêu trừ chất cặn nhơ, sẽ chẳng có cách nào đạt được chất vàng bất sanh ấy! Hành nhân cũng giống như thế, nếu chẳng dùng ba loại phương tiện hạnh môn bí mật cúng dường để tiêu trừ chất nhơ “một trăm sáu mươi tâm” nơi khoáng thạch, sẽ do ǵ mà đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?

          Trong Trung Đạo Chánh Quán của Long Thọ A-xà-lê, [Ngài đă nói] chính là do từ duyên khởi mà nghĩa Vô Sanh được thành, nhưng quư vị cho rằng “lông rùa, sừng thỏ là Vô Sanh” sẽ phạm lỗi! Lại như người đời thấy vàng ṛng tinh luyện trăm lần chẳng thay đổi, ngỡ đó là diệu tánh cùng cực. Nhưng ngũ thông tiên nhân dùng các thứ dược vật, đủ cách nung luyện, sẽ có thể hóa các thứ như đất, đá v.v… đều thành chất vàng báu. Nếu có ai ăn vào, sẽ thọ dài lâu, thần thông biến hóa không ngằn mé! Hăy nên biết trong tánh chân thật của vàng, luôn có lực dụng như thế, nhưng người đời do chẳng có phương tiện bí mật, chẳng thể đạt được như thế! Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại như thế: Nếu dùng đại bi vạn hạnh nung luyện đủ mọi cách, sẽ thành tựu nghiệp thần biến gia tŕ chẳng thể nghĩ bàn! V́ thế, chớ nên chưa đắc mà nói là đă đắc, giữ khư khư sơ tâm, ngỡ đó là cực quả!

           

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Vô thỉ sanh tử ngu đồng phàm phu chấp trước ngă danh, ngă hữu, phân biệt vô lượng ngă phần. Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất quán ngă chi tự tánh, tắc ngă, ngă sở sanh. Dư phục kế hữu thời, địa đẳng biến hóa. Du Già ngă kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh, nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời, nhược tôn quư, nhược tự nhiên, nhược nội ngă, nhược nhân lượng, nhược biến nghiêm, nhược thọ giả, nhược Bổ Đặc Già La, nhược thức, nhược A Lại Da, tri giả, kiến giả, năng chấp, sở chấp, nội tri, ngoại tri, Xă Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, thanh, phi thanh.

          ()祕密主!無始生死愚童凡夫執著我名我有,分別無量我分。祕密主!若彼不觀我之自性,則我我所生。餘復計有時地等變化,瑜伽我建立淨、不建立無淨,若自在天、若流出及時、若尊貴、若自然、若內我、若人量、若遍嚴、若壽者、若補特伽羅、若識、若阿賴耶、知者見者、能執所執、內知外知、社怛梵、摩奴闍摩納婆、常定生、聲非聲。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Phàm phu ngu muội như trẻ nhỏ sanh tử từ vô thỉ chấp trước danh xưng Ta, ta có, phân biệt vô lượng điều thuộc về ngă. Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngă, th́ ngă và ngă sở (cái thuộc về ta) sẽ sanh ra. Ngoài ra c̣n chấp trước có thời, địa v.v… biến hóa, Du Già ngă, kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh, hoặc [chấp trước ngă là] Tự Tại Thiên, hoặc ngă là lưu xuất và thời, hoặc là tôn quư, hoặc [cho rằng các pháp là] tự nhiên, hoặc là chấp nội ngă, chấp [ngă có] phân lượng tùy thuộc thân người, hoặc chấp ngă trang nghiêm trọn khắp, hoặc chấp ngă là thọ giả, chp ngă là Bổ Đặc Già La, hoặc chấp ngă là thức, hoặc chấp ngă là A Lại Da, hoặc là cái có thể biết, có thể thấy, là cái có thể chấp trước, hoặc là cái bị chấp trước, nội tri (nhận biết các pháp trong thân tâm), ngoại tri (nhận biết ngoại cảnh), là Xă Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, là âm thanh, hoặc chẳng phải âm thanh).

 

          Kế đó, giải đáp ư nghĩa “tâm tương tục”. Muốn giảng rơ nguyên do sanh khởi tối sơ của tịnh tâm, trước hết bèn nói về cái tâm trái nghịch lư của phàm phu giống như trẻ nít ngu muội! Đối với “vô thỉ sanh tử”, Trí Độ Luận nói: “Thế gian dù chúng sanh hay pháp, đều chẳng có khởi đầu”. Trong kinh, đức Phật dạy: - Vô minh phú ái sở hệ, văng lai sanh tử, thỉ bất khả đắc, năi chí Bồ Tát quán vô thỉ diệc Không, nhi bất đọa hữu thỉ kiến trung (Vô minh che lấp, ái ràng buộc, qua lại sanh tử, chẳng thể t́m được chỗ khởi đầu, cho đến Bồ Tát quán vô thỉ cũng là Không, chẳng đọa trong kiến chấp có khởi đầu). Từ ngữ “ngu đồng” (trẻ nít ngu muội) như trong phần trên đă nói. Từ ngữ “phàm phu” dịch sát nghĩa th́ phải là “dị sanh”, ư nói: Do vô minh bèn theo nghiệp thọ báo, chẳng được tự tại, đọa trong đủ mọi đường, h́nh dạng, sắc tâm mỗi mỗi đều sai khác. V́ thế nói là “dị sanh”. Cái Ngă được chấp trước ấy chỉ là ngôn ngữ, chẳng có sự thật; v́ thế nói là “chấp trước ngă danh”. Nói “ngă hữu” (ta có) tức là “ngă sở” (cái thuộc về ta). Đối với cái Ngă như thế, các điều chấp trước bởi ngă, như mười sáu món tri kiến v.v… theo từng sự mà sai biệt vô lượng bất đồng; do vậy, gọi là “phần”.

          Kế đó, giải thích nguyên do của phân biệt hư vọng, cho nên nói: “Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất quán ngă chi tự tánh, tắc ngă, ngă sở sanh” (Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngă, th́ ngă và ngă sở sẽ nẩy sanh). Nếu họ quan sát các Uẩn thảy đều từ các duyên mà sanh, trong ấy ǵ là ngă? Ngă trụ ở chỗ nào? Chính là ở nơi uẩn khác với uẩn tướng ư? Nếu có thể t́m cầu kỹ càng, cặn kẽ như thế, sẽ đắc chánh nhăn. Nhưng họ chẳng tự quan sát, chỉ lần lượt truyền bảo nhau, từ lâu xa đến nay đă quen vâng theo cách nh́n ấy, cho rằng Ngă ở trong thân, có thể tạo tác và trưởng dưỡng, thành tựu các căn, [chấp chặt rằng]: Chỉ có như thế mới là đạo rốt ráo, những điều khác đều là vọng ngữ! Do bởi lẽ này, họ được gọi là “ngu đồng” (trẻ nít ngu muội).

          Kinh nói “phục kế hữu thời” (lại chấp trước có thời gian), ư nói: Hết thảy các thứ tốt xấu trong trời đất đều lấy thời làm nhân. Như có bài kệ rằng: “Thời lai chúng sanh thục, thời chí tắc thôi xúc, thời năng giác ngộ nhân, thị cố thời vi nhân” (thời đến [căn cơ của] chúng sanh sẽ chín muồi, thời tới liền thúc giục, thời có thể giác ngộ con người, v́ thế thời làm nhân). Cũng có kẻ nói: “Tuy hết thảy người và vật chẳng phải do thời tạo ra, nhưng thời là cái nhân bất biến, là pháp thật sự có, do vi tế nên chẳng thể thấy. Do có cái quả như hoa, trái v.v… mà có thể biết là có thời. V́ lẽ nào? Do thấy quả, liền biết là có nhân. Do thời pháp bất hoại, nên nó là thường”. Đó cũng là do chẳng quán tự tánh của Thời mà sanh chấp trước hư vọng như thế.

          Kinh nói “địa đẳng biến hóa” (các thứ như đất, nước v.v… biến hóa), tức là đối với đất, nước, lửa, gió, hư không, mỗi mỗi đều chấp là chân thật. Hoặc nói đất là cái nhân của vạn vật, do hết thảy chúng sanh và vạn vật nương vào đất mà sanh thành. Do chẳng quán tự tánh của đất chỉ từ các duyên ḥa hợp mà có, nên sanh ra kiến chấp ấy, tưởng rằng cúng dường đất, sẽ được giải thoát. Kế đó, có người chấp nước có thể sanh ra vạn vật, đối với gió và lửa cũng thế. Hoặc chấp vạn vật sanh từ hư không, cho rằng hư không là nhân của sự giải thoát thật sự, phải nên cúng dường, thừa sự. [Đối với mỗi loại kiến chấp như thế], đều phải nên nói rộng [như trong phần biện định về kiến chấp đối với đất].

          Kinh nói “Du Già ngă” tức là nói về người học Định chấp trước “lư tương ứng với nội tâm là chân ngă. Chân tánh lặng trong, thường trụ bất động. Chỉ có điều này mới là đạo rốt ráo ĺa khỏi nhân quả”. Do chẳng quán tự tánh của tự tâm, mới sanh kiến chấp như thế, ngỡ đó là chân ngă, [khăng khăng cho rằng] chỉ trụ trong lư ấy th́ gọi là giải thoát!

          Kinh nói “kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh” (kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh) tức là trong ấy có hai thứ so đo:

          - Câu trước có ư nói kiến lập hết thảy các pháp, nương vào đó tu hành th́ gọi là “tịnh”.

          - Câu sau ư nói kiến lập pháp chẳng rốt ráo. Nếu chẳng kiến lập cái được gọi là “vô vi” th́ gọi là chân ngă, cũng tức ĺa khỏi cái “tịnh” được tu tập trong câu trước, cho nên nói là bất tịnh”.

          Đó cũng là do chẳng quán tự tánh của ngă, mà sanh kiến giải như thế, nói rộng th́ như trong phần trên.

          Kinh nói “nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất cập thời” (hoặc chấp Tự Tại Thiên là chân ngă, hoặc chấp lưu xuất và thời [là chân ngă]), ư nói: Có một loại ngoại đạo chấp trước Tự Tại Thiên là thường, là đấng tự tại có thể sanh ra vạn vật. Như trong Thập Nhị Môn Luận gạn rằng: “Nếu chúng sanh là con của Tự Tại Thiên, [Tự Tại Thiên] sẽ chỉ nên dùng lạc để ngăn chặn khổ [cho chúng sanh], chẳng nên ban cho khổ, và cũng phải là chỉ cần cúng dường Tự Tại Thiên th́ sẽ diệt khổ, được vui. Nhưng thật ra chẳng phải vậy, chỉ do chính ḿnh tự tạo nhân duyên khổ lạc mà tự thọ báo, chẳng phải do Tự Tại Thiên tạo ra. Lại nữa, nếu Tự Tại Thiên tạo ra chúng sanh, ai sẽ lại tạo ra Tự Tại Thiên? Nếu Tự Tại Thiên tự tạo th́ chẳng đúng, như các vật chẳng thể tự tạo. Nếu lại có người tạo ra [Tự Tại Thiên] th́ [vị trời ấy] chẳng phải là Tự Tại nữa!” Như luận ấy đă nói cặn kẽ [để đả phá kiến chấp ấy]. Chấp trước “lưu xuất” đại lược giống như [chấp trước] kiến lập. “Kiến lập”do tâm mà tạo thành hết thảy các pháp, c̣n “lưu xuất” ở đây th́ giống như do sức thực hiện mà xuất hiện hết thảy các pháp. Ví như thợ gốm nặn đắp không ngừng mà sanh ra đủ loại h́nh tướng sai biệt. Kế đó nói về thời, sai khác chút ít với “thời” được ngoại đạo đề cao, chấp trước trong phần trên. [Để đả [phá các kiến chấp này, đều có thể luận định] giống như [phần bác bỏ kiến chấp về] Đại Tự Tại Thiên.

          Kinh nói “tôn quư”, đó là nói về Na La Diên Thiên (Nārāyaa, tức thần Viṣṇu). Ngoại đạo chấp trước vị trời này tĩnh lặng, thường trụ, bất động, nhưng có kẻ phù tá, tạo thành muôn vật, ví như vị quốc vương “vô vi nhi trị”, quan lại vâng mạng mà hành xử. Do [ngoại đạo tin vị trời này] là vị chủ tể có thể tạo tác, không ai tôn quư hơn được, nên gọi là “tôn quư”. Lại nữa, trong loại kiến chấp đề cao này, “tôn quư” bao gồm trọn khắp đất, nước, gió, lửa, hư không. Xưa kia, có vị luận sư muốn khuất phục kẻ chấp trước, đề cao kiểu này, bèn đến miếu thờ vị trời ấy, ngồi trên thân của tượng vị trời ấy mà ăn uống. Phương Tây (Ấn Độ) coi thức ăn c̣n sót lại là thứ bất tịnh nhất, [các tín đồ] đều cùng phẫn nộ. Luận sư nói: “Đấng được các vị tôn sùng há chẳng phải trọn khắp các tướng đất, nước, gió, lửa, hư không ư?” Họ đáp: “Đúng như vậy”. Luận sư nói: “Ngài chính là đất, nước, gió, lửa, tôi cũng như thế. Nhập vào lẫn nhau, có ǵ chẳng thể mà lại phẫn nộ vậy?” Bọn họ nín lặng, chẳng thể đáp ǵ được nữa! [Kiến chấp ấy] cũng do chẳng quán tự tánh của ngă, cho nên sanh ra chấp trước hư vọng như thế.

          Kinh nói “tự nhiên”, tức là có một loại ngoại đạo chấp trước “hết thảy các pháp đều tự nhiên mà có, chẳng có người tạo tác”. Như hoa sen sanh ra màu sắc tươi sạch là do ai nhuộm màu? Gai góc nhọn đầu, do ai vạt đẽo? V́ thế biết các pháp đều tự như thế. Có vị thầy vặn rằng: “Nay mắt thấy người đời tạo tác các thứ tàu, thuyền, nhà cửa v.v… đều từ các duyên mà có, chẳng do tự nhiên mà thành, sao lại nói tự sẵn như thế? Nếu bảo là ‘tuy có, nhưng chưa rơ ràng, cho nên cần phải có sức người phát khởi’ th́ cũng chẳng đúng! Đă cần sức người phát khởi, tức là [được tạo thành] bởi các duyên, chẳng phải là tự nhiên mà có!”

          Kinh nói “nội ngă” tức là có kẻ chấp trong thân, ngoài tâm ra, c̣n có riêng một ngă tánh, có thể vận động cái thân này, tạo tác các sự nghiệp. Vặn rằng: “Nếu là như thế, ngă tức là vô thường. V́ sao vậy? Nếu pháp là nhân và từ nhân mà sanh, th́ đều là vô thường. Nếu ngă vô thường, th́ tội phước, quả báo thảy đều đoạn diệt”. Các luận nghĩa như thế tới phần So Lường sẽ nói cặn kẽ!

          Kinh nói “nhân lượng” tức là nói về kẻ chấp trước lượng của thần ngă to bằng thân người. Thân nhỏ th́ [thần ngă] cũng nhỏ, thân lớn th́ thần ngă cũng lớn. Trí Độ Luận nói: “Có kẻ chấp trước thần ngă lớn hay nhỏ tùy theo thân người, lúc chết đi th́ thần ngă cũng xuất ra trước”, tức là tương đồng với chấp trước ở đây. Nhưng bọn họ đề cao ngă là pháp tự tại thường trụ, nay đă tùy theo cái thân mà lớn hay nhỏ, tức [ngă kiểu đó] là vô thường. V́ thế biết chẳng đúng!

          Kinh nói “biến nghiêm” (trang nghiêm trọn khắp) tức là nói về kẻ chấp trước thần ngă có thể tạo các pháp, nhưng các sự trong thế gian được trang nghiêm tôn quư, thù thắng trọn khắp là do ngă tạo ra, cũng chỉ hơi khác đôi chút với kiến chấp về Tự Tại Thiên! Như trong luận đă phá [chấp trước về] Tự Tại Thiên rằng: “V́ sao Tự Tại Thiên chẳng khiến cho con người đều vui hết, hoặc đều khổ hết, mà có kẻ khổ, người vui? Hăy nên biết đó là do yêu ghét mà sanh, nên chẳng tự tại”. Nay [chấp rằng] “trang nghiêm trọn khắp”, [vậy th́ thần ngă] đă có thể tạo ra các phước lạc, nhưng chẳng thể dùng lạc để ngăn khổ, sao có thể gọi là “tự tại trọn khắp” cho được?

          Kinh nói “nhược thọ” (hoặc chấp vào thọ mạng) tức là có ngoại đạo chấp trước: “Hết thảy các pháp cho đến Tứ Đại, cỏ cây v.v… đều có thọ mạng. Như cỏ cây chặt rồi lại mọc, hăy nên biết là có mạng. Lại nữa, cỏ cây ban đêm bèn khép cuộn [lá], cũng nên biết chúng cũng có t́nh thức, do chúng ngủ nghê vậy. Vặn rằng: “Nếu thấy đẵn chặt rồi lại mọc, cho là [thảo mộc] có mạng. Con người hễ bị chặt một chi, sẽ chẳng mọc lại nữa, há có phải là vô mạng ư? Như [cho rằng] cây xếp lá ban tối là có ngủ nghê, vậy th́ nước chảy suốt đêm há là thường thức giấc ư?” Đều do chẳng quán tự tánh của ngă, cho nên nẩy sanh đủ mọi kiến chấp hư vọng!

          Kinh nói Bổ Đặc Già La (Pudgala), tức là có kẻ chấp trước cho rằng “hễ có Sổ Thủ Thú Giả[21] th́ đều là một ngă, chỉ là tùy theo sự việc mà tên gọi khác nhau. Nếu có từ kiếp này sanh sang đời sau, tức thức thần là thường”. [Vặn rằng]: Nếu thức thần là thường, sao lại có tử sanh? Tử là từ chỗ này diệt, sanh là xuất hiện tại chỗ kia, cho nên chẳng thể nói thần thức là thường được! Nếu vô thường th́ sẽ chẳng có ngă. Như người theo bộ phái Độc Tử[22] và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ trong Phật pháp, hai bộ phái ấy chấp có pháp tam thế. Nếu chắc chắn có quá khứ, vị lai và hiện tại, th́ sẽ giống như kẻ [chấp trước] Sổ Thủ Thú Giả [là thường hằng], đánh mất ba loại pháp ấn của Phật. Các vị Bồ Tát ở phương Tây đă lập ra các thứ lượng luận để phá các chấp trước ấy!

          Kinh nói “nhược thức” là nói có kẻ chấp trước “thức trọn khắp hết thảy mọi nơi, cho đến đất, nước, lửa, gió, hư không giới, thức đều trọn khắp trong đó”. Điều này cũng chẳng đúng. Nếu thức thần thường hằng, trọn khắp, nó có thể tự ḿnh thấy, nghe, hay, biết; nhưng nay cần phải do căn và trần ḥa hợp th́ mới có thức sanh, tức là thần thức của ông vô dụng! Lại nữa, nếu thức thần trọn khắp trong năm đường, sao lại có sống chết vậy? V́ thế, biết chẳng phải là như thế!

          Kinh nói “A Lại Da” tức là có nghĩa “chấp tŕ, chứa đựng”, mà cũng có nghĩa là “pḥng ở”. Có kẻ đề xướng “A Lại Da có thể duy tŕ cái thân này, có thể tạo tác, chứa đựng muôn vàn h́nh tượng, thâu lại th́ chẳng có ǵ, tỏa ra th́ đầy ắp thế gian”, chẳng giống ư nghĩa của thức thứ tám trong Phật pháp. Nhưng đối với mật ư của đức Thế Tôn nói “Như Lai Tạng là A Lại Da”, nếu trong Phật pháp mà chẳng quán Thật Tướng của tự tâm, cứ phân biệt, chấp trước th́ cũng giống như ngă kiến vậy!

          Kinh nói “tri giả, kiến giả” tức là nói có ngoại đạo chấptrong thân có cái thấy, cái biết, có thể biết các chuyện khổ, lạc v.v… Lại có kẻ chấp “cái có thể thấy th́ chính là chân ngă”. Luận Trí Độ nói: “Mắt thấy sắc là thấy, năm thức nhận biết là biết, đều chấp đó là ngă, tùy theo sự việc mà có tên gọi khác nhau”. Vặn rằng: “Ông nói ‘có thể thấy’ là ngă, vậy th́ có thể nghe, có thể chạm, có thể biết, có phải là ngă hay không? Nếu đều là ngă, cảnh giới của sáu căn chẳng hề biết lẫn nhau. Một chẳng thể thành sáu, sáu chẳng thể gộp thành một. Nếu có phi ngă th́ cũng ngờ giống như thế. V́ thế biết: Do căn và trần ḥa hợp mà có cái được thấy biết, chẳng phải là có một cái ngă khác nữa!”

          Kinh nói “năng chấp, sở chấp” tức là có ngoại đạo nói: “Trong thân, ngoài thức tâm, riêng có một cái có thể chấp, đó chính là chân ngă, có thể vận động thân, khẩu, ư, tạo tác các sự nghiệp”. Hoặc có kẻ nói: “Cái có thể chấp chỉ là thức tâm, cảnh giới được chấp mới là chân ngă. Cái ngă ấy trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Nhưng “trong, ngoài, thân, thọ, tâm, pháp”, tánh của chúng đều do duyên sanh, chẳng có tự tánh. Năng chấp và sở chấp trong ấy c̣n chẳng thể chấp, huống hồ có ngă ư? Cũng do chẳng quán tự tánh của ngă nên nói như thế.

          Kinh nói “nội tri, ngoại tri” cũng chính tên khác của “tri giả” (có thể biết) mà chia thành hai thứ chấp trước:

          - Có kẻ chấp nội tri là ngă, tức trong thân riêng có cái nội chứng, đó là chân ngă.

          - Hoặc coi ngoại tri là ngă, tức là cái có thể biết cảnh giới ngoại trần chính là chân ngă.

          Kinh nói Xă Đát Phạm (Jatāvat) tức là gần giống như ngoại đạo chấp trước tri giả, chỉ là do bộ phái nên khác biệt. V́ thế, đặc biệt nêu ra đó thôi.

          Kinh nói “nhược Ma Nô Xà” (hoặc chấp Ma Nô Xà, Mānusa), Trí Độ Luận dịch là Nhân, tức là chấp trước về con người, nếu dịch đầy đủ phải là Nhân Sanh. Đây là một bộ phái ngoại đạo tôn sùng Tự Tại Thiên, chấp trước con người do con người sanh ra, cho nên lấy đó làm tên. Đường Tam Tạng dịch thành Ư Sanh, chẳng đúng. Mạt Na (Manas) là Ư; ở đây nói Mạt Nô, âm thanh khác th́ nghĩa cũng khác, do lầm lẫn [mà dịch như thế]!

          Kinh nói Ma Nạp Bà” (Mānava), tức là thuộc bộ loại ngoại đạo tôn sùng Tỳ Nữu Thiên, dịch nghĩa chánh xác th́ phải là Thắng Ngă, ư nói ngă thù thắng nhiệm mầu nhất trong thân tâm. Họ thường quán trong tâm, ngă to chừng một tấc. Trí Độ Luận cũng nói: “Có kẻ chấp thần ngă ở trong tâm, vi tế bằng hạt cải, thanh tịnh nên gọi là tịnh sắc, hoặc to bằng hạt đậu, hạt lúa mạch, cho đến chừng một tấc. Khi mới thọ thân, liền thọ ngă trước hết, ví như khung đỡ của cái tượng vậy. Tới khi thành thân, như tượng đă được trang hoàng”. Đường Tam Tạng dịch là Nho Đồng (儒童) cũng là sai. Nho Đồng trong tiếng Phạn là Ma Noa Bà, ở đây là Nạp, nghĩa khác hẳn, lầm mất rồi! (Hai danh hiệu này đều do Bồ Đề xà-lê (ngài Kim Cang Trí) giảng).

          Kinh nói “thường định sanh” tức ngoại đạo chấp ngă là thường trụ, chẳng thể phá hoại, tự nhiên thường sanh, chẳng có lại sanh nữa; cho nên lấy đó làm tên.   Kinh nói “thanh, phi thanh”, Thanh tức là Thanh Luận ngoại đạo. Nếu âm thanh hiển hiện, họ chấp Thể của âm thanh vốn sẵn có, đợi duyên bèn hiển lộ, thể tánh thường trụ. Nếu thanh sanh khởi th́ chấp thanh vốn sanh sẵn, đợi duyên mới sanh (hiển hiện), đă sanh bèn thường trụ. Bọn họ lại tự chia thành chấp trước khác biệt, như các kinh luận khác đă nói rộng. “Phi thanh” khác với chấp trước trên đây. Loại trước th́ chấp thanh là thường hằng, trọn khắp, c̣n loại này đề xướng, bác bỏ thanh là không có, đọa vào [tà kiến] “chẳng có pháp thiện hay ác”, cũng coi “chẳng có âm thanh hay từ ngữ” là chân thật.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị đẳng ngă phần, tự tích dĩ lai, phân biệt tương ứng, hy cầu thuận lư giải thoát. Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do như đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp tưởng sanh, sở vị tŕ trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh. Phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị nha chủng. Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng. Phục dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng. Phục dĩ thử thí hoan hỷ, thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng, cập hiến tôn túc, thị đệ ngũ phu hoa. Phục dĩ thử thí phát thân ái tâm, nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành quả. Phục thứ Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử.

          ()祕密主!如是等我分,自昔以來分別相應,希求順理解脫。祕密主!愚童凡夫類猶如羝羊,或時有一法想生,所謂持齋。彼思惟此少分,發起歡喜,數數修習。祕密主!是初種子善業發生,復以此為因,於六齋日施與父母男女親戚,是第二牙種。復以此施授與非親識者,是第三疱種。復以此施與器量高德者,是第四葉種。復以此施歡喜授與伎樂人等及獻尊宿,是第五敷華。復以此施發親愛心而供養之,是第六成果。復次祕密主!彼護戒生天,是第七受用種子。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Các thứ kiến chấp thuộc về ngă như thế từ xưa tới nay, phân biệt tương ứng, mong cầu thuận lư giải thoát. Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội giống như con dê đực, hoặc là có lúc nẩy sanh một pháp suy tưởng, tức là tŕ trai. Họ tư duy pháp ấy chút phần, phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó là chủng tử thiện nghiệp ban sơ phát sanh. Lại dùng đấy làm nhân, trong sáu ngày trai, bố thí cho cha mẹ, nam nữ thân thích. Đó là thuộc loại thứ hai, tức nẩy mầm. Lại dùng đó để thí cho người chẳng phải là thân thích, quen biết, đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ. Lại dùng đó để thí cho bậc có khí lượng cao cả, đức hạnh, th́ đó là loại thứ tư, tức mọc lá. Lại dùng đó để thí cho người hoan hỷ, tấu nhạc v.v…và dâng lên bậc tôn túc, th́ là loại thứ năm, tức trổ hoa. Lại dùng đó để thí cho người mà [chính ḿnh] phát sanh tâm thân ái cúng dường, đấy là loại thứ sáu, tức kết quả. Lại này Bí Mật Chủ! Người giữ giới ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy: Thọ dụng chủng tử).

 

          Trong kinh, nêu đại lược ba mươi sự, nếu [luận định cặn kẽ] theo từng loại sai biệt, ắt có vô lượng vô biên. Như người tĩnh tọa đắc Tứ Thiền, bèn chấp trước pháp ấy là thường lư chân thật, hoặc nẩy sanh ư niệm: “Ta là người đắc Thiền”. [Các chấp trước] như thế đều tương ứng với ngă phần, cứ theo đó mà suy, đều do chẳng quán Thật Tướng của ngă. Chỉ do từ lâu xa tới nay đă quen vâng theo kiến chấp ấy, ai nấy đều tự nói là có bậc đại sư Bạc Già Phạm, thấy biết hết thảy, do khéo tu Du Già mà nay giác ngộ pháp ấy, bèn v́ thế gian mà nói. Chỉ có đạo này là rốt ráo, chẳng có đạo nào khác nữa! Như lúc kiếp sơ, riêng có một vị trời sanh trước hết vào Phạm giới (các tầng trời thuộc Phạm thiên), bèn nghĩ thế này: “Nếu có chúng sanh nào khác đến ở cùng ta, chẳng phải là tốt lắm ư?” Khi đó, có các vị trời ở cơi trên mạng chung, sanh vào cơi trời ấy. Vị đă sanh trước bèn bảo họ: “Do niệm lực của ta, ngươi được sanh vào nơi đây. Ngươi chính là do ta sanh ra”. Nhưng các vị trời kia cũng nghĩ thế này: “Vị này có thể sanh ra chúng ta”, liền tùy thuận, chấp là tối sơ có ngă. Từ đó trở đi, cho rằng Phạm thiên vương có thể tạo ra thế gian, lần lượt như thế sanh ra dị kiến, không thể ghi trọn. “Hy cầu thuận lư giải thoát”: Thuận lư theo âm tiếng Phạn là Du Kỳ (Yogi), tức là hành giả tu Du Già xưa kia, cho rằng người ấy đạt được chân giải thoát, là cốt lơi của vạn vật. Nay thuận theo đó để mong cầu giải thoát, cho nên nói như thế.

          Trên đây đều nhằm phá hoại các tâm trái nghịch lư đối với nhân quả trong và ngoài. Kế đó, nói đến cái tâm thuận lư tối sơ. Thuận thiện (điều thiện thuận theo chánh lư) tức là tám cái tâm của thế gian.

          Kinh nói “Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp tưởng sanh, sở vị tŕ trai, bỉ tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp phát sanh” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội, giống như con dê đực có thể làlúc nẩy sanh một pháp, tức là tŕ trai. Họ tư duy pháp ấy đôi chút, phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó chính là chủng tử thiện nghiệp ban đầu phát sanh). “Đê dương” (羝羊, con dê đực) là loài súc sanh có bẩm tánh hèn kém nhất, chỉ nghĩ tới cỏ, nước, và chuyện dâm dục, ngoài ra chẳng biết ǵ nữa! V́ thế, thuận theo cách nói của phương Tây (Ấn Độ), dùng nó để sánh ví ngu đồng phàm phu (phàm phu như trẻ nít ngu muội) chẳng biết thiện ác nhân quả. Thế gian từ lâu xa tới nay đă lần lượt truyền thừa danh tự thiện pháp, nhưng do cái tâm trái lư, dẫu đủ cách truy cầu mà vẫn chẳng thể đạt được. Sau đó, bỗng dưng nẩy sanh ư niệm: “Ta nay bớt ăn, tŕ trai”, tức là thiện pháp, nhưng vẫn chưa phải là Bát Quan Trai Giới trong Phật pháp. Họ do bớt ăn, tự răn dè, cảm thấy duyên vụ giảm ít, khiến cho ta ăn uống dễ no đủ, chẳng sanh tâm nhọc nhằn truy cầu. Lúc bấy giờ, họ liền sanh chút phần tâm chẳng chấp trước, cơi ḷng hoan hỷ, đạt được an ổn. Do thấy lợi ích ấy, bèn nhiều lượt tu tập, tức là thoạt ban sơ, hơi biết thiện ác nhân quả. V́ thế gọi là “chủng tử tâm”.

          Kinh nói “phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật, thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ nhị nha chủng” (Lại dùng điều ấy làm nhân, trong sáu ngày trai, thí cho cha mẹ và nam nữ thân thích, đó là loại thứ hai, tức nẩy mầm). “Lục trai nhật” tức là như Trí Độ Luận nói: “Ngũ thông tiên nhân thuở trước khuyên nhịn ăn trong những ngày đó, vừa thuận theo thiện pháp, lại tránh khỏi quỷ thần gây tai ương bất ngờ”, như trong luận ấy đă nói cặn kẽ! Do thấy ngưng dứt tham cầu, trong tâm đạt được lợi lạc, muốn tu tập pháp ấy cho được tăng trưởng, trong ngày tŕ trai bèn xả tài vật của chính ḿnh để thí cho lục thân, tự nghĩ: “Ta chẳng c̣n lo âu ǵn giữ, khiến cho người khác yêu kính, đạt được tiếng thơm hiếu nghĩa”. Do thấy nhân quả ấy, sanh ra hoan hỷ, thiện tâm tăng thêm đôi chút, giống như từ hạt giống nẩy mầm vậy.

          Kinh dạy: “Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng” (lại dùng các thứ ấy để thí cho người chẳng phải thân thích, quen biết. Đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ), ư nói muốn thành tựu thiện pháp vâng giữ trai giới ấy, bèn tu tập tâm vô tham, huệ xả. Do nhiều lượt tu tập, thiện tâm dần dần tăng trưởng, lại có thể thí cho người chẳng phải là thân thuộc, quen biết. Do thấy lợi ích công đức của tâm bố thí b́nh đẳng, lúc bấy giờ, mầm thiện lại tăng rộng gấp bội, giống như khi nhánh mầm tươi tốt, nhưng chưa sanh trưởng. V́ thế gọi là “pháo chủng”.

          Kinh dạy “phục dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng” (lại dùng đó để thí cho bậc độ lượng, cao đức, tức là loại thứ tư, tức mọc lá), nghĩa là đă có thể tu tập huệ xả, nhờ vào cái nhân ấy, dần dần có thể thật sự chọn lựa cảnh bố thí: “Người như thế đức hạnh cao thắng, ta nay hăy nên thân cận để cúng dường”, tức là huệ tánh dần dần mở mang, dần dần gặp thiện tri thức vậy!

          Kinh dạy “phục dĩ thử thí, hoan hỷ thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng cập hiến tôn túc” (lại dùng sự bố thí ấy, hoan hỷ trao cho người tấu nhạc v.v… và dâng hiến bậc tôn túc), tức là huệ tánh dần dần mở mang, lại soi xét, biện định cảnh để thí, thấy lợi ích do lợi tha, người tấu nhạc có thể khuyến hóa đại chúng, nhằm khiến cho họ hoan hỷ, bèn thưởng công cho họ. Phàm các loại như thế nhiều lắm, cho nên nói là “đẳng”. Bậc tôn túc kỳ cựu, học rộng nghe nhiều, học hạnh cao thượng, xứng làm bậc thầy khuôn mẫu cho cơi đời, do có nhiều lợi ích đáng tuân phụng, bèn thúc giục cái tâm hoan hỷ bố thí, cũng do điều này khiến cho khi ta bố thí, tâm sanh hoan hỷ gấp bội. Đấy chính là loại “đơm hoa”.

           Kinh nói “phục dĩ thử thí, phát thân ái tâm, nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành quả” (Lại dùng sự bố thí ấy, phát sanh tâm thân ái để cúng dường, đó là loại thứ sáu, tức kết thành quả): Tu tập thuần thục, không chỉ là hoan hỷ mà thôi, lại c̣n có thể dùng cái tâm thân ái để tôn kính, thực hiện bố thí cho người khác. Lại do nhân duyên bố thí trước đó, được nghe lợi ích bởi pháp, biết người ấy vốn sẵn có đức thù thắng, tức là có thể thoát ĺa dục v.v… bèn thân cận để cúng dường. So với chủng tử ban đầu th́ đây chính là cái tâm đă kết quả.

          “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ thất thọ dụng chủng tử” (Lại nữa, Bí Mật Chủ! Người thủ hộ giới ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy, thọ dụng chủng tử), tức là đă có thể tŕ trai, bố thí, thấy lợi ích đó, liền biết tam nghiệp bất thiện đều là nhân duyên gây suy năo, ta hăy nên bỏ đi, trụ trong việc thủ hộ giới. Do thủ hộ giới, đời này đạt được các thiện lợi, có tiếng tốt to lớn, thân tâm an lạc, hiền thiện tăng trưởng gấp bội. Mạng chung, được sanh lên trời. Ví như trồng quả đă thành công, bèn hưởng thụ kết quả; v́ thế gọi là “thọ dụng chủng tử”. Lại nói từ một hạt giống mà sanh thành trăm ngàn quả, hạt; mỗi quả, hạt lại sanh ra ngần đó [quả, hạt], lần lượt vun bồi chẳng thể kể xiết. Cái tâm thọ dụng quả trong hiện thời lại thành chủng tử cho tâm sau cũng giống như thế. V́ thế nói là “thọ dụng chủng tử”.

 

           (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ thử tâm sanh tử lưu chuyển, ư thiện hữu sở, văn như thị ngôn: ‘Thử thị thiên đại thiên, năng dữ nhất thiết lạc giả. Nhược kiền thành cúng dường, nhất thiết sở nguyện giai măn, sở vị Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn đẳng, cập Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca, Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, thế sở tông phụng Hỏa Thiên, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Ḥa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên, Câu Lư Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà đẳng long, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, các các ưng thiện cúng dường. Bỉ văn như thị, tâm hoài khánh duyệt, ân trọng cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Thị danh ngu đồng dị sanh sanh tử lưu chuyển vô úy, y đệ bát anh đồng tâm.

          ()復次祕密主!以此心生死流轉,於善友所聞如是言:此是天大天,與一切樂者。若虔誠供養,一切所願皆滿。所謂自在天、梵天、那羅延天、商羯羅天、黑天、自在子天、日天、月天、龍尊等,及俱吠濫、毘沙門、釋迦、毘樓博叉、毘首羯磨天,閻魔閻魔后、梵天后,世所宗奉火天、迦樓羅子天、自在天后、波頭摩、德叉迦龍、和修吉、商佉、羯句劍、大蓮俱里劍、摩訶泮尼、阿地提婆、薩陀難陀等龍,或天仙、大圍陀論師,各各應善供養。彼聞如是,心懷慶悅,殷重恭敬隨順修行。祕密主!是名愚童異生生死流轉無畏依第八嬰童心。

          (Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Do cái tâm ấy, sanh tử lưu chuyển, từ nơi bạn lành, nghe nói như thế này: “Các vị trời này to lớn trong các vị trời, có thể ban cho hết thảy sung sướng. Nếu kiền thành cúng dường, hết thảy điều ước nguyện sẽ đều thỏa, tức là nói tới Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn v.v… và Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca (Đế Thích), Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, Hỏa Thiên được cơi đời tôn thờ, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma, Đức Xoa Ca Long, Ḥa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú Trích Kiếm, Đại Liên Câu Lư Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà v.v… các rồng, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, đối với mỗi vị ấy đều nên khéo cúng dường”. Người ấy nghe như thế, ôm ḷng vui mừng, trân trọng, cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Đó gọi là cái tâm trẻ thơ thứ tám nương cậy vô úy của dị sanh như trẻ nhỏ ngu muội đang lưu chuyển trong sanh tử).

 

          Đă biết bậc đức hạnh tôn quư, đáng nên thân cận, cúng dường, lại thấy tŕ giới có thể sanh ra lợi lành, tức là dần dần biết nhân quả. Nay lại nghe thiện tri thức nói có vị đại thiên có thể ban cho hết thảy vui sướng, nếu kiền thành cúng dường, sở nguyện đều được măn, ắt sẽ có thể khởi tâm quy y. Dẫu chưa nghe Phật pháp, nhưng biết các vị trời ấy do tu thiện hạnh mà đạt được thiện báo ấy. Lại dần dần tín giải, biện định tường tận phước đức thù thắng, lại nghe Phật pháp đặc biệt nhiệm mầu, ắt có thể quy y, tin nhận, cho nên là cái tâm tối thượng trong thế gian.

          Hỏi: Trong phần trước đă nói “Tự Tại Thiên đều là chấp trước tà vạy”, nay lại nói “quy y họ (các vị trời ấy) chính là cái tâm thế gian thù thắng”, có ǵ khác trước hay không?

          Đáp: Trước đó là tâm chẳng biết nhân quả, chỉ chấp trước các pháp do Tự Tại Thiên v.v… tạo tác. Nay do thiện căn chín muồi, ở trong sanh tử lưu chuyển mà cầu nương cậy, không sợ hăi, muốn phỏng theo hạnh nhân của họ (chư thiên) để cầu thành tựu cái quả thù thắng, cho nên chẳng giống [loại người] chấp trước trong phần trước.

          Thương Yết La (Śaṃkara) là tên gọi khác của Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara). Hắc Thiên (Mahākāla) có tên trong tiếng Phạn là Lỗ Nại La (Rudra), là quyến thuộc của Tự Tại Thiên. Long Tôn là các đại long. Câu Phệ Lạm (Kubera, Đa Văn thiên vương) v.v… đều là các vị đại thiên được thế gian tôn thờ. Phạm Thiên Hậu (vợ của Phạm Thiên) là tôn thần được thế gian tôn thờ. Nhưng trong Phật pháp, Phạm vương ly dục, chẳng có hậu phi. Từ Ba Đầu Ma (Padma) trở đi, tức là rồng Đắc Xoa Ca (Takṣaka), và rồng Ḥa Tu Cát (Vāṣuki), rồng Thương Khư (Śaṅkha), rồng Yết Cú Trích Kiếm (Karkoṭaka), rồng Đại Liên Hoa (Mahāpadma), rồng Câu Lư Kiếm (Kulika), rồng Ma Ha Phán Ni (Mahāphaṇi), rồng A Địa Đề Bà (Ādideva), rồng Tát Đà, rồng Nan Đà v.v… đều là các tôn thần được thế gian thờ phụng. “Thiên tiên” là nói ngũ thông thần tiên, số nhiều vô lượng, do vậy chẳng kể tên. Vi Đà (Vedas) là bốn loại minh luận do Phạm vương diễn nói. Đại Vi Đà Luận Sư là người thọ tŕ các kinh đó, có thể dạy bảo, do có thể khai thị hạnh xuất dục. V́ thế đáng nên quy y. Trong các bộ loại ấy, Phạm vương giống như Phật, bốn kinh Vi Đà giống như mười hai bộ kinh, người truyền pháp ấy giống như ḥa hợp tăng. Khi đó, họ nghe thế gian Tam Bảo như thế đó, hoan hỷ quy y, tùy thuận tu hành. Đó là tám chỗ quy y vô úy của phàm phu sanh tử vậy.

          Kinh nói “Bí Mật Chủ! Phục thứ, thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu giải thoát huệ sanh” (Bí Mật Chủ! Lại nữa, đối với hạnh thù thắng, thuận theo lời nói ấy trụ trong thù thắng, sanh trí huệ cầu giải thoát) v.v… Tức là trong loại quy y vô úy thứ tám ấy, lại có tâm thù thắng. Đă nghe nói các loại Bạc Già Phạm thế gian như đă nói trên đây đáng nên cúng dường, quy y; sau đó, [người ấy] bèn sanh tâm: “Trong các loại Tam Bảo ấy, loại nào là tối thắng? Ta sẽ chọn đấng tốt lành để tùy thuận tu hành”. Do sức thiện căn trước đó, sẽ thuận theo pháp do họ đă nói mà trụ trong sự thù thắng, sanh trí huệ cầu giải thoát. Nhưng do chưa biết pháp duyên khởi, tất cả trí huệ quán Không đều chẳng rời khỏi đoạn và thường. V́ thế nói là “thường, vô thường, không”, chỉ tùy thuận lời nói như thế mà siêng năng tu học. Trong ấy, lại hai thứ:

          - Nếu cầu sanh trí giải thoát th́ gọi là tâm thù thắng.

          - Đă chứng pháp Không th́ gọi là tâm quyết định.

          Nếu tách ra để nói, gộp chung với các điều trước đó, sẽ thành mười tâm. Đức Thế Tôn muốn đối ứng với các điều đó để nói rơ trí huệ quán Không xuất thế, cho nên kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải Không, phi Không nghĩa, liễu tri đoạn thường, tuy tác phi hữu phi vô b́nh đẳng quán, tuyệt chư hư luận, nhiên diệc bất năng song ly thị kiến, do bỉ vị giải chánh nhân duyên cố” (Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó đă hiểu biết nghĩa “Không, phi Không”, biết rơ đoạn và thường, tuy đă quán “chẳng phải có, chẳng phải không, b́nh đẳng, dứt bặt các hư luận”, nhưng vẫn chẳng thể cùng ĺa kiến giải ấy, do chưa thật hiểu nhân duyên chánh yếu). Nhưng trong Phật pháp, do biết có nhân duyên, nên ĺa khỏi cái thấy “không có”. Do quán tự tánh là Không, cho nên chẳng sanh khởi cái thấy Có. Nếu ai ĺa khỏi cái thấy “có, không”, tức là chẳng đọa trong “đoạn, thường”. Nếu chẳng liễu đạt nghĩa Không như thế, dẫu chẳng chấp trước “có, không”, ĺa ngôn tuyệt tướng, rốt cuộc vẫn ngỡ phân biệt là cái tâm “chẳng phân biệt”! Giống như Trường Trảo Phạm Chí quán Thật Tướng của các pháp, chẳng thọ hết thảy các pháp, mà chấp nhận kiến chấp ấy. Chân Không ĺa phân biệt, sao lại phân biệt Không? Nếu chẳng hiểu nghĩa Không, dẫu nhất tâm tinh tấn siêng cầu giải thoát, kẻ đó chẳng thể biết Niết Bàn! V́ thế, đức Phật nói: “Nhữ dục cầu Niết Bàn giả, ưng liễu tri duyên khởi chi Không, ly ư đoạn thường” (Ông muốn cầu Niết Bàn, hăy nên biết rơ cái Không trong duyên khởi, ĺa khỏi đoạn và thường). Do cái tâm chủng tử ban sơ của người đó giảm bớt chút phần tham cấu (bụi nhơ do tham lam), tức là tùy thuận chút phần tịnh tâm. Từ đấy trở đi, trai giới và bố thí dần dần tăng thêm, tức là thế lực của tịnh tâm dần dần nẩy nở. Do sự huân tập ấy, sẽ có thể thật sự chọn lựa, biện định chỗ quy y, sanh khởi trí huệ cầu giải thoát. Nếu chẳng gặp thiện duyên, lại từ đoạn thường Không, lui vào tà kiến! Nhưng chủng tử của tám tâm ấy trọn chẳng hư mất! Nếu nghe Phật pháp, chỉ đối với đoạn thường Không, [nhằm đối trị], bèn dạy họ quán duyên khởi Không, liền nhập chánh đạo. Nếu là người chưa sanh chủng tử, chẳng có căn cơ, dẫu nói đủ mọi cách, kẻ đó trọn chẳng thể tin hiểu.

          Lại như hành giả đối với cái tâm thứ tám, khi cầu quy y chỗ chẳng sợ hăi trong sanh tử, nếu gặp thiện tri thức v́ họ nói chỗ quy y Tam Bảo chân thật, do kẻ ấy dần dần biết nhân quả trong hiện đời, liền có thể tin nhận. Để chuyện ấy li đó, như khi người ấy tu trai giới, nếu gặp thiện tri thức bảo rằng: “Ngươi do thấy điều lợi nào thực hiện trai giới, bố thí?” Người ấy liền trả lời: “V́ tôi quán do nhân duyên tham cầu, ǵn giữ, mà có các thứ ưu khổ. Hễ thiểu dục hành thí, sẽ được trụ trong hoan hỷ, an lạc”. Khi đó, thiện tri thức bảo rằng: “Lành thay, thiện nam tử! Như đức Phật đă nói, chúng sanh do keo tham mà trong đời hiện tại có đủ mọi nỗi ưu khổ. Mạng chung, do nhân duyên ấy, đọa vào đường ác. Do tâm ĺa khỏi cấu nhơ keo tham, hiện đời an lạc, có thanh danh to lớn, mạng chung sanh lên trời, về sau đắc Niết Bàn. V́ thế, ngươi nay càng phải nên dùng cái tâm thắng thượng để thọ pháp Bát Quan Trai”. Người đó nghe xong, liền tin nhận, tu hành đúng như lời dạy. Nếu là kẻ chẳng có cơ duyên, chỉ nói khổ hay lạc trong thế gian đều do Tự Tại Thiên tạo, hoặc từ các thứ như đất v.v… biến hóa, coi thời là nhân, nghe chút phần an tịnh của Bát Quan Trai Giới c̣n chẳng thể tin, huống hồ các chuyện sâu xa khác ư?

          Hỏi: Chủng tử tối sơ của tám cái tâm như thế lại dùng ǵ làm nhân?

          Đáp: Do thế gian từ lâu xa đến nay có danh xưng thiện ác, chủng tử từ đó mà sanh. Như chúng sanh trong thuở kiếp sơ tham ăn chất béo nơi đất. Lúc bấy giờ, nếu nghĩ ăn nhiều là bất thiện, ăn ít là thiện, hoặc thấy do nhân duyên ăn nhiều mà dấy lên lầm lỗi, liền nghĩ thế này: “Ta nay ít ăn vị này, thường tự ngăn dè, cũng chẳng phải là tốt lắm hay sao?” Nhưng chúng sanh ấy cũng chẳng biết nhân quả và hậu thế báo, chỉ lần lượt truyền dạy, coi nhân, nghĩa, hổ thẹn v.v… là các thứ thiện pháp. Hành giả có thể hành như thế, sẽ được thế gian cùng khen ngợi.

          Lại như lúc tiểu kiếp sắp chấm dứt, chúng sanh bỗng dưng phát tâm, biết lỗi hại của ác pháp thế gian, bèn khuyên bảo lẫn nhau cùng làm thiện sự. Lúc bấy giờ, cũng chẳng có thiện tri thức khuyên dạy khiến họ làm như thế! Hăy nên biết đó đều là v́ sức nhân duyên do Thật Tướng của tự tâm huân tập. Như tối sơ chủng tử, khi ĺa tâm cấu chừng bằng vi trần, liền hiển lộ thế lực của tịnh tâm như vi trần. Tuy nói là “sanh chủng tử thiện”, thật ra, chính là chẳng sanh mà sanh, do nó có tánh kiên cố, vẫn ở trong tâm thức của chúng sanh, trọn chẳng hư mất, chưa đạt tới khoảng giữa của đại kim cang luân nơi Thật Tế của tự tâm, lại chẳng có chỗ trụ. Ĺa quả lại trở thành hạt, lần lượt vun bồi lẫn nhau, nhưng chẳng ra ngoài môn chữ A. V́ thế “tối thượng Đại Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng. Chư Phật đại bí mật, ngoại đạo bất năng tri” (câu tối thượng Đại Thừa, tướng tương sanh của tâm, là đại bí mật của chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết). Phẩm Dược Thảo Dụ trong kinh Pháp Hoa cũng có ư nghĩa này.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Phục thứ thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu giải thoát huệ sanh, sở vị thường, vô thường, Không, tùy thuận như thị thuyết. Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải không, phi không, thường, đoạn, phi hữu, phi vô, câu bỉ phân biệt. Vô phân biệt, vân hà phân biệt Không? Bất tri chư Không, phi bỉ năng tri Niết Bàn. Thị cố, ưng liễu tri Không, ly ư đoạn thường.

          ()祕密主!復次殊勝行,隨彼所說中殊勝住求解脫慧生,所謂常無常空,隨順如是說。祕密主!非彼知解空非空、常斷、非有非無,俱彼分別。無分別云何分別空?不知諸空,非彼能知涅槃。是故應了知空離於斷常。

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Lại nữa, hạnh thù thắng thuận theo lời người đó nói mà trụ thù thắng, cầu sanh trí huệ giải thoát, tức là nói thường, vô thường, Không, tùy thuận lời nói như thế. Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó hiểu không, phi không, thường, đoạn, chẳng phải có, chẳng phải không, mà đều là phân biệt. Vô phân biệt th́ sao có thể phân biệt Không? Chẳng biết các thứ Không, sẽ chẳng thể biết Niết Bàn. V́ thế, phải nên hiểu rơ ĺa đoạn, thường).

 

          Lại nữa, hành giả quy y Tam Bảo, tùy thuận luật nghi của Như Lai, thọ pháp Bát Quan Trai Giới trong một ngày, do được thánh giới che chở, bèn tịch tĩnh, an lạc. Do an lạc, bèn tin vào hạnh của hiền thánh, nhiều lượt tu tập, gọi là “sơ chủng tử”. V́ khiến cho chủng tử ấy tăng trưởng mà tu các điều thiện, cho đến do giới thuần tịnh mà quyết định sanh thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, được gọi là “thọ dụng chủng tử”. Lại do thân cận thiện tri thức, được lợi ích do nghe chánh pháp, chẳng khởi tâm quy y chi khác, sẽ là chỗ quy y chân thật vô úy thứ tám của phàm phu đang lưu chuyển trong sanh tử. Lại trụ trong sự thù thắng ấy, sanh trí huệ cầu giải thoát, quan sát, sanh ư tưởng quyết định. Từ đấy trở đi, liền phát khởi tâm sơ chủng tử của Thanh Văn Bồ Đề, đều nên nói theo phần phân biệt cặn kẽ đă nói trong phần trước. Cho đến tam thừa, mỗi địa đều trọn đủ mười tâm, đạt đến Đệ Thập Địa cũng trọn đủ chủng tử mầm, vỏ, lá, hoa quả v.v… sanh trí huệ cầu Phật địa, quán Tất Cánh Không, đạt tới kim cang tế.

Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần một hết

 

 



[1] Ngũ t́nh là năm thứ t́nh cảm, tức mừng, giận, buồn, vui, oán. Ngũ T́nh cũng là cách dịch xưa của chữ Ngũ Căn.

[2] Thích Luận nếu hiểu thông thường sẽ là Đại Trí Độ Luận, tức chú giải của kinh Đại Bát Nhă, nhưng trong Mật giáo, khi nói đến Thích Luận th́ đa phần là nói đến bộ Thích Ma Ha Diễn Luận do ngài Long Thọ biên soạn. Hơn nữa, trong tác phẩm chú giải này, khi trích dẫn Đại Trí Độ Luận, ngài Nhất Hạnh luôn nói rơ là Trí Độ Luận; do vậy, Thích Luận chỉ có thể hiểu là Thích Ma Ha Diễn Luận. Bộ luận này được dịch sang tiếng Hán bởi ngài Phạt Đề Ma Đa vào đời Diêu Tần (tức năm Hoằng Thỉ thứ ba, 401), gồm mười quyển. Đây là bản chú giải của Đại Thừa Khởi Tín Luận. Chân Ngôn Tông (Shingon-shū) Nhật Bản coi đây là một tác phẩm trọng yếu bắt buộc phải học tập của các hành giả Mật Tông.

[3] Theo lư, do chứng ngộ Bát Nhă mà Bồ Tát thành Phật, tức là giống như Phật quả được sanh bởi Bát Nhă, nên Bát Nhă được gọi là mẹ của chư Phật. Theo phương diện Sự, do Quán Thế Âm Bồ Tát tuyên giảng Bát Nhă Tâm Kinh, Ngài hóa hiện thân Bát Nhă Ba La Mật Bồ Tát. Vị Bồ Tát này c̣n được gọi là Bát Nhă Quán Âm, Bát Nhă Phật Mẫu, Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Đa Bồ Tát, hoặc Đệ Nhất Ba La Mật Bồ Tát. Ngài được tạc tượng có một mặt, sáu tay hoặc bốn tay, diện mạo xinh đẹp, yểu điệu, thân h́nh nẩy nở, mặc khôi giáp, hai tay chắp lại trước ngực, hoặc kết ấn Thí Vô Úy, hay Thiền Định ấn. Các tay khác lần lượt cầm kinh Bát Nhă, và xâu chuỗi hoặc kim cang chử trên đó đeo xâu chuỗi. Ngài đứng hoặc tọa Thiền trên hoa sen trong ṿng lửa (lửa biểu thị phiền năo, hoa sen biểu thị giác ngộ). Nếu tượng sáu tay th́ ngoài hai tay chắp trước ngực, các tay kia lần lượt cầm kinh Bát Nhă, xâu chuỗi, kim cang chử và hoa sen xanh. Hoặc có khi thay hoa sen xanh bằng bảo kiếm. Đôi khi, Ngài được tạc tượng hoặc vẽ chung với Văn Thù Bồ Tát (đại biểu trí huệ), Hư Không Tạng Bồ Tát (đại biểu kư ức), gọi là Trí Huệ Tam Tôn. Nếu vẽ riêng th́ thường là vây quanh Bồ Tát có bốn vị thần hộ pháp dưới dạng thiên nữ, có tên gọi lần lượt là Nặc Da, Vi Nặc Da, A Nhĩ Đa, và A Ba La Nhĩ Đa, biểu thị thường, lạc, ngă, tịnh.

[4] Theo Phật Học Đại Từ Điển, như người có ấn sẽ có thể vào một quốc gia. Hành giả dùng trí Bát Nhă làm ấn, sẽ có thể nhập lư Thật Tướng, nên gọi là Trí Ấn. Lại như dùng ấn khế để biện định một văn kiện hay một vật là chân hay ngụy; cũng giống như vậy, dùng trí để biện định chân, ngụy v.v… th́ gọi là Trí Ấn.

[5] Đại Không: Có ba cách hiểu:

- Đây là Không rốt ráo trong Đại Thừa, tức Niết Bàn, chính là vượt ngoài chấp trước Hữu và Không, ngay cả Không cũng là Không, nên gọi là Không Không. Chứng nhập Không Không th́ gọi là Đại Không.

- Trong mười tám món Không của Đại Bát Nhă, không có các phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc v.v… th́ gọi là Đại Không.

- Trong Mật Giáo, liễu ngộ lư bất sanh trong môn chữ A th́ cũng gọi là Đại Không.

Ngu ư cho rằng Đại Không ở đây phải hiểu theo cách thứ nhất và thứ ba.

[6] Trong văn tự Tất Đàm (Siddam), A là chữ căn bản, có nghĩa là “không, bất sanh”, nên A được coi là tượng trưng cho tánh Không, là căn bản của Bát Nhă và các pháp môn trong Phật giáo. Trong Mật giáo, mỗi vị tôn thánh được biểu thị bằng một chữ (gọi là chủng tử, như A Di Đà Phật có chủng tử là Hrih). Chữ A được coi là thống nhiếp các chủng tự. A là chủng tử của Thai Tạng Mạn-đồ-la. Trong ba bộ của Thai Tạng th́ A là chủng tử của Phật Bộ, trong tam thân, A là chủng tử của Pháp Thân (do vậy, trong các bức vẽ Phật xưa kia, hay đề ba chữ Phạn Om, A, Hồng phía trên đức Phật, biểu thị tam thân của Phật), trong Nhân, Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện th́ A là chủng tử của Nhân, trong Lục Đại th́ A là chủng tử của địa đại v.v…

[7] Nhất Xiển Đề có nghĩa là “không có tánh thành Phật”. C̣n dịch là Bất Tín, tức không tin Phật pháp. Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển mười chín nói: “Nhất Xiển Đề là chẳng tin nhân quả, chẳng có hổ thẹn, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy đời hiện tại và vị lai, chẳng thân cận thiện hữu, chẳng thuận theo lời răn dạy do chư Phật đă nói. Người như thế gọi là Nhất Xiển Đề, chư Phật chẳng thể đối trị”.

[8] Thanh Minh (Sabda-vidyà) ở đây là một môn trong Ngũ Minh, tức là môn học về ngôn ngữ, văn tự, về âm thanh và văn học.

[9] Đây là một thí dụ trong phẩm Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa. Có một người dẫn đường biết chỗ dẫn tới của báu, nhưng người đi theo ông ta thấy đường xa mỏi mệt, muốn lui về. Người dẫn đường có phương tiện thiện xảo, bèn hóa ra một cái thành to lớn để họ nghỉ ngơi. Khi họ đă nghỉ khỏe, người ấy bèn diệt hóa thành, thúc giục họ tiếp tục tiến lên. Đức Phật dùng thí dụ này để sánh ví các pháp trước thời Pháp Hoa cũng giống như hóa thành, chỉ là pháp phương tiện, chứ Nhất Thừa mới là pháp chân thật.

[10] Kệ ở đây là cách tính độ dài của một văn bản trong tiếng Phạn. Cứ bốn câu là một kệ, bất luận số chữ nhiều ít, có vần hay không vần.

[11] Ư nói chẳng c̣n phải tái sanh do lưu chuyển theo nghiệp.

[12] Am Ma Lặc là một loại trái nhỏ thuộc giống cây gọi là Emblic Myrobalan (có tên khoa học là Phyllanthus Emblica, tên tiếng Việt là chùm ruột núi, me mận, mắc kham), c̣n gọi là Indian gooseberry, thường mọc nhiều ở Ấn Độ. Cây này có thể cao tới 8 m, hoa có màu xanh pha vàng. Trái h́nh cầu, to khoảng 26 mm, có sáu vết khía nổi quanh trái, khiến trái trông như gồm sáu múi. Trái có màu vàng hơi pha sắc xanh, nhẵn nhụi và cứng, có hột cứng ở giữa. Trái này có vị đắng và hơi chua, có nhiều xơ. Trái có thể ăn sống, làm nước ép, hay ngâm đường rồi xên thành mứt, hoặc làm gia vị để nấu món súp cá Holat tại Indonesia. Trái này được coi là có tác dụng chữa bệnh.

[13] Phạm chí có nghĩa là người có chí hướng cầu sanh lên Phạm thiên, là danh xưng để gọi những tu sĩ Bà-la-môn. Vi Đà phạm chí là các phạm chí tinh thông bốn bộ Vi Đà (Vedas, Phệ Đà) của Bà La Môn giáo.

[14] Cù Đàm Tiên (Gotama) c̣n gọi là Kiều Đáp Ma Tiên là một vị trong bảy vị đại tiên nhân thời cổ. Tương truyền vị tiên nhân này giỏi chú thuật, từng soạn Minh Luận. Vị tiên nhân này muốn bay lên hư không, bị hai giọt nước làm bẩn, rơi xuống đất, được ánh mặt trời chiếu vào, biến thành thân sắc vàng. Con ông ta về sau là thỉ tổ của ḍng họ Thích Ca.

[15] Đây là một thí dụ được nhắc tới trong các kinh Hoa Nghiêm và Niết Bàn, như mặt trống được bôi thuốc độc, khi đánh lên, âm thanh ấy có thể làm chết người. Dùng điều này để sánh ví âm thanh thuyết pháp của đức Phật có thể giết sạch ngũ nghịch, Thập Ác, các phiền năo trong tâm của chúng sanh.

[16] Do không có font chữ Siddam, chúng tôi tạm sử dụng font Devanāgarī (Thiên Thành tự thể) để ghi các chữ Sankrit được chép trong lời Sớ.

[17] Yên Chi là màu son hồng, vốn là một thứ màu nhuộm thiên nhiên có màu sắc đỏ hồng tươi tắn. Thời cổ, nữ nhân dùng nó ḥa vào bột phấn để làm hồng da mặt hay dùng như son để nhuộm cho môi đỏ tươi, nên Yên Chi hiểu theo nghĩa rộng chính là các thứ để trang điểm của phụ nữ.

[18] Hắc nguyệt (Kṛṣṇapakṣa) tức là nửa tháng sau của âm lịch. Tây Vực Kư ghi: “Từ trăng khuyết [sau ngày trăng tṛn] cho đến lúc không trăng là hắc nguyệt”. Đây là cách phân định thời gian trong một tháng của lịch pháp Ấn Độ thời cổ.

[19] Theo Phật Học Đại Từ Điển của Đinh Phước Bảo, quyết liễu khiến cho người nghe quyết định hiểu rơ ràng, rành mạch một nghĩa lư nào đó.

[20] Bạch Tứ Yết-ma (Jñapticaturtha-karman), c̣n gọi là Tứ Bạch, Bạch Tứ Pháp, hoặc Nhất Bạch Tam Yết-ma. Bạch tức là thưa bày rơ, Yết-ma nghĩa là nghiệp, tác pháp v.v… Tức là như khi truyền thọ Cụ Túc Giới chẳng hạn, vị thầy Yết Ma trong Tam Sư của giới đàn, hướng về Tăng chúng, thưa tŕnh “có người này, người kia muốn cầu xuất gia”. Đó là Bạch. Kế đó, ba lượt hỏi Tăng chúng có tán thành hay không, chuyện này được gọi là Tam Yết-ma. Nếu không ai có ư kiến phản đối, sẽ chấp thuận cho những người ấy được làm Tăng. Đối với các pháp sự khác như sám hối tội trọng, trị phạt, quở trách người phạm lỗi, can gián, chấm dứt tranh căi v.v… cũng dùng phương cách này để đạt tới sự đồng thuận trong Tăng chúng.

[21] Sổ Thủ Thú Giả là cách dịch khác của chữ Bổ Đặc Già La (hữu t́nh). Do hữu t́nh nhiều lượt (sổ) sanh vào các đường khác nhau (thủ thú) nên gọi như vậy.

[22] Độc Tử Bộ (Vātsīputrīya) c̣n gọi là Khả Trụ Tử Bộ, Bạt Thứ Tử Bộ, Bạt Tư Phất Đa La Khả Trụ Tử Bộ, Bà Duy Tử Bộ, là một trong các bộ phái thời kỳ sơ khởi của Phật giáo, vốn là một phân chi của Thượng Tọa Bộ. Bộ phái này được h́nh thành hai trăm năm sau khi đức Phật nhập diệt, giáo nghĩa gần tương tự Nhất Thiết Hữu Bộ, chỉ có đôi chút sai khác như chấp cái Thể của Bổ Đặc Già La là thật sự có, Niết Bàn có ba loại là hữu học, vô học và phi hữu phi vô học v.v…