Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần một
大毘盧遮那成佛經疏
Đại Đường Thiên Trúc Tam Tạng Thiện
Vô Úy, sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh
大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯經
Đường sa-môn
Nhất Hạnh A-xà-lê kư
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức
Phong và Huệ Trang
* Thay lời dẫn nhập
Kinh Đại Nhật (tên gọi đầy đủ
là Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia
Tŕ Kinh, Mahāvairocanābhi-saṃbodhi-vikurvitādhiṣṭhāna-vaipulya-sūtren-drarāja-nāmadharma-paryāya) cùng với kinh Kim Cang Đảnh là hai bộ kinh trọng
yếu trong Đông Mật. Từ các giáo nghĩa trong kinh
Đại Nhật mà lưu xuất Thai Tạng Mạn
Đà La. Do không tu tập Mật Tông, đối với giáo
nghĩa của Mật Tông, mạt nhân chỉ hiểu biết
sơ sài về mặt văn tự, lại không có cơ
duyên t́m học và lănh hội Mật Tông. Do vậy, mạt
nhân rất ngần ngại khi phải chuyển ngữ các
tác phẩm liên quan đến Mật Tông. Chỉ v́ trước kia do ḷng tham pháp mà đua đ̣i chuyển ngữ, lại
được một số đạo hữu lầm tin
tưởng, chẳng chấp nhặt văn từ vụng
dại, chữ nghĩa quê kệch, cứ cổ vũ mạt
nhân tiếp tục làm chuyện quá sức ḿnh, đến nỗi
một người bạn đạo vong niên cũng lầm tưởng mạt nhân đủ khả năng, nhiều lần
yêu cầu dịch bộ chú giải kinh Đại Nhật
này. Anh nói: “Kinh Mật Tông đă được dịch rất
nhiều, nhưng không hiểu v́ sao không ai dịch các tác phẩm
chú giải, chú hăy giúp anh được đọc chú giải
của bộ kinh này trước khi nhắm mắt xuôi
tay”. Mạt nhân cũng thử t́m kiếm trên Internet, chắc
là do quá low-tech, chưa t́m thấy bản dịch nào. Do cả
nể và từ chối măi chẳng được, cũng
như thấy vị đạo huynh ấy tuổi ngày một
cao, đành phải cắn răng làm liều, dùng kiến
thức chấp vá, văn phong quê kệch để chuyển
ngữ tác phẩm trọng yếu này cho xong trách nhiệm.
Xét trong Đại Tạng
Kinh và Tục Tạng Kinh, ngài Nhất Hạnh để lại
hai tác phẩm: Một là Đại Nhật Kinh Sớ (gồm
20 quyển), và một phiên bản khác là Đại Tỳ
Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Tŕ Kinh Nghĩa Thích
(14 quyển), mạt nhân chọn bản dài hơn (tức bản
Đại Nhật Kinh Sớ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,
phiên bản điện tử của CBETA). Ngoài ra, do lời Sớ chỉ trích dẫn đại
lược các đoạn chánh kinh, chúng tôi cũng dựa
theo chánh kinh trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng
Kinh để trích dẫn nguyên văn các đoạn kinh
được giảng giải ngơ hầu người
đọc dễ đối chiếu lời chú giải với
chánh kinh. Đối với những chữ sai khác đôi
chút giữa bản chú giải và chánh kinh, chúng tôi sửa theo chữ ghi trong bản
chú giải của ngài Nhất Hạnh. Hơn nữa, tuy bản
chú giải chia thành hai mươi quyển, nhưng do thấy
nhiều khi chưa giảng hết ư trong một đoạn
mà đă sang quyển khác, chúng tôi lược đi, không chia
thành quyển để mạch văn được liên tục.
Kính mong Tam Bảo từ bi gia hộ, khiến cho con không
đến nỗi chuyển ngữ sai lạc ư Phật, ư Tổ,
cũng như mong rằng bản dịch quê kệch này sẽ
phần nào hữu ích đối với các hành nhân sơ
cơ có dịp hiểu đôi chút về giáo nghĩa Mật
Tông. Nếu có chút công đức nào, đều xin hồi
hướng về pháp giới chúng sanh, lịch đại tổ tiên, oán
thân trái chủ, hiện tiền và quá khứ phụ mẫu,
sư trưởng, thiện ác tri thức cũng như mười
phương chúng sanh đều cùng sanh về Cực Lạc,
diện kiến A Di Đà Phật, cùng nghe pháp, tấn tu,
cùng chứng Bồ Đề.
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa đê
đầu kính bạch
* Đôi nét về sa-môn Nhất Hạnh
Sa-môn Nhất Hạnh
(683-727), c̣n gọi là Nhất Hạnh A-xà-lê, pháp hiệu Kính
Hiền, là một vị cao tăng Mật giáo, đồng
thời là một nhà thiên văn kiêm lịch pháp gia lỗi lạc thời
Đường. Ngài được tôn là một trong
năm vị tổ của Đông Mật (Long Thọ, Kim
Cang Trí, Thiện Vô Úy, Bất Không, và Nhất Hạnh).
Ngài quê ở Cự Lộc (nay là huyện Cự Lộc tỉnh
Hà Bắc. Có sách chép Ngài quê ở Xương Lạc thuộc
Ngụy Châu, nay là huyện Lạc thuộc tỉnh
Hà Nam), họ ngoài đời là Trương, tên Toại. Xuất
thân từ một gia tộc hiển hách, oai quyền (Ngài là
hậu duệ của công thần Trương Công Cẩn
thời Sơ Đường, nhưng đến thời
ông nội Ngài là Trương Đại Tố, đang làm
Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá Nhân th́ do phạm lỗi,
bị biếm làm Trưởng Sử ở Hoài Châu, gia
đạo bắt đầu suy vi). Lúc mười hai tuổi,
Ngài đă làu thông kinh sử, nổi tiếng nhớ
dai, bất cứ
sách vở nào hễ đọc qua một lượt
đều nhớ kỹ không sai. Năm hai mươi tuổi,
Ngài đă tinh thông các học thuyết lịch tượng,
âm dương, ngũ hành. Sau khi đọc bộ Thái Huyền
Kinh của Dương Hùng, Ngài đă biên soạn hai tác phẩm
Đại Diễn Đồ Quyết và Nghĩa Quyết
trong ṿng mấy ngày, được các bậc hành gia
đương thời đánh giá rất cao.
Khi đó, Vũ Tam
Tư (cháu của Vũ Tắc Thiên) đang thao túng
triều chánh, nhiều lượt toan kết giao với
Ngài để tăng thêm thanh thế.
Thấy vậy, Ngài lánh về phương
Nam, và bắt đầu chú ư đến Phật pháp.
Sau khi song thân đều mất, Ngài gặp Hoằng Cảnh
Thiền Sư ở chùa Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu
(lúc đó Ngài hai mươi mốt tuổi) giảng pháp,
bèn manh nha ư niệm xuất gia. Về sau, do theo học
Thiền
với ngài Tung Sơn Phổ Tịch, Sư bèn xuất
gia làm Tăng (lúc đó Ngài khoảng hai mươi bốn
tuổi). Do Ngài thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, thầy
liền ban pháp danh là Nhất Hạnh. Sư
lại c̣n theo ngài Đương Dương Ngộ
Chân học Luật. Ngài từng thâu thập những điều
trọng yếu trong luật tạng và kinh tạng, soạn
thành bộ sách Nhiếp Điều Phục Tạng gồm
mười quyển, được đánh giá rất cao.
Năm Khai Nguyên thứ năm (717), dưới sự khẩn
khoản yêu cầu của chú ruột đang làm Lễ Bộ
Lang Trung trong triều, Ngài nhập cung, chuẩn bị giúp
ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Mật giáo. Đồng thời,
Ngài cũng theo học Mật pháp với cả hai vị
cao tăng Mật Tông thuở đó là Thiện Vô Úy và Kim
Cang Trí, được thọ quán đảnh.
Ngoài ra, Ngài cũng
tinh thông Đạo giáo, toán học, lịch pháp, đặc
biệt là Phạn văn và toán pháp của Ấn Độ.
Năm Khai Nguyên thứ chín (721), Ngài vâng sắc chỉ của
Đường Huyền Tông, đính chánh lịch pháp, biên
soạn bộ Đại Diễn Lịch Pháp gồm
năm mươi hai quyển (hoàn thành vào năm Khai Nguyên thứ
15, tức năm 727). Để giúp các nhà lịch pháp
đương thời tính toán lịch
pháp dễ dàng hơn, Ngài soạn các bộ Lịch Nghị
(mười quyển), Lịch Lập Thành (mười hai
quyển), Lịch Thảo (hai mươi bốn quyển),
Thất Chánh Trường Lịch (ba quyển) để
thuyết minh các nguyên tắc tính toán lịch số. Ngài lại
cùng với Binh Tào Tham Quân Lương Linh Toản chế ra dụng cụ Hoàng Đạo Du Nghi
để tính toán vị trí chánh xác của một trăm
năm mươi mấy hằng tinh, đo lường
chánh xác độ dài của kinh tuyến trái đất, khảo
sát sự vận hành của mặt trăng v.v… Từ các kết
quả trắc lượng, Ngài vẽ thành ba mươi
sáu bộ bản đồ tinh tú. Ngài và các cộng sự
như Lương Linh Toản chế ra Hỗn Thiên Nghi là dụng
cụ trọng yếu để nghiên cứu thiên văn của
cổ Trung Hoa, tính toán chuẩn xác quỹ đạo của
các tinh tú.
Ngài lại ghi chép
những điều do ngài Thiện Vô Úy giảng về kinh
Đại Nhật thành bộ Đại Nhật Kinh Sớ
(gồm hai mươi quyển), cũng như vận dụng
rất nhiều kinh sách khác để giảng rộng ư
nghĩa chánh kinh. Có lẽ do quá lao lực, Ngài qua đời khi mới bốn
mươi lăm tuổi, thụy hiệu là Đại Huệ
Thiền Sư. Ngài để lại một số trước
tác như Tú Diệu Nghi Quỹ, Phạm Thiên Hỏa La Nghi
Quỹ, Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp, Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tiêu Tai Trừ Nạn Niệm
Tụng Nghi Quỹ, Hoa Nghiêm Kinh Hải Ấn Đạo
Tràng Sám Nghi (bốn mươi hai quyển, soạn chung với
đệ tử là Huệ Giác), Thích Thị Hệ Lục
(một quyển), Đại Tỳ Lô Giá Na Phật Nhăn Tu
Hành Nghi Quỹ, Mạn Thù Thất Lợi Diễm Mạn
Đức Ca Niệm Tụng Nghi Quỹ, Bắc Đẩu
Tinh Quân Hộ Ma Pháp...
Trong đó, theo ghi
chép, sau khi bộ Đại Nhật Kinh được dịch
xong vào năm Khai Nguyên 12 (724), ngài Nhất Hạnh cung thỉnh
ngài Thiện Vô Úy giảng giải nghĩa lư trọng yếu,
chép lại những điều trọng yếu gọi là
Nghĩa Thích (gồm mười bốn quyển). Hiện
thời, có các phiên bản gồm bảy quyển, mười
quyển, mười một quyển, mười bốn
quyển và hai mươi quyển, nội dung cũng sai
khác đôi chút.
Ngoài ra, theo các sách
Khai Nguyên Thích Giáo Lục và Tục Cổ Kim Dịch Kinh
Đồ Kỷ, ngài Nhất Hạnh đă cung thỉnh
A-xà-lê Kim Cang Trí dịch Kim Cang Đảnh Du Già Trung Lược
Xuất Niệm Tụng Pháp (bốn quyển), Phật Thuyết
Thất Câu Chi Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại
Minh Đà La Ni Kinh (một quyển) và được thọ
quán đảnh. Do vậy, Ngài là bậc A-xà-lê hoằng truyền
của hai bộ Thai Tạng Giới và Kim Cang Giới Mạn
Đà La.
Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
1. Phẩm thứ nhất: Nhập
Chân Ngôn Môn Trụ Tâm (Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm phẩm
đệ nhất, 入真言門住心品第一)
1.1. Lược giải tựa đề
kinh
“Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật
Thần Biến Gia Tŕ”: Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) theo âm tiếng
Phạn là tên gọi khác của mặt trời, tức là ư
nghĩa “trừ tối tăm, sáng sủa trọn khắp”.
Nhưng mặt trời trong thế gian có nơi chốn, giới hạn. Nếu chiếu bên ngoài, sẽ chẳng
thể chiếu bên trong, chiếu sáng tại một bên này, sẽ
chẳng chiếu sáng bên kia. Lại chỉ chiếu sáng ban
ngày, chẳng soi sáng ban đêm. Ánh sáng từ vầng mặt
trời trí huệ của Như Lai chẳng giống
như vậy, trọn khắp hết thảy mọi
nơi đều chiếu sáng bừng, chẳng có nơi chốn
“trong, ngoài”, hay đêm,
ngày sai khác.
Lại nữa, mặt
trời vận hành trong cơi Diêm Phù Đề, hết thảy
cỏ cây, rừng lùm, tùy theo
tánh chất của chúng đều được tăng
trưởng, các sự việc trong thế gian bởi
đó mà được hoàn thành. Ánh sáng từ vầng mặt
trời Như Lai chiếu trọn khắp pháp giới,
cũng có thể b́nh đẳng khai phát các thứ thiện
căn của vô lượng chúng sanh, cho đến sự
nghiệp thù thắng trong thế gian và xuất thế gian,
không ǵ chẳng do vậy mà được hoàn thành. Lại
như lúc mây mù âm u che lấp mặt trời, nó cũng chẳng
bị hoại diệt; gió mạnh thổi tan mây, ánh mặt
trời chiếu rạng, cũng chẳng phải là [tới
lúc đó, mặt trời] mới sanh. Vầng mặt trời
Phật tâm cũng giống như thế, tuy bị mây dày
vô minh, phiền năo, hư luận chướng lấp, nhưng nó chẳng giảm. Trong các
pháp, Thật Tướng tam-muội viên minh rốt ráo không
ngằn mé, nó chẳng tăng! Do các nhân duyên như thế,
mặt trời của thế gian chẳng thể sánh ví [vầng
mặt trời nơi Phật tâm], chỉ lấy chút phần
tương tự. V́ thế, thêm vào đó chữ Đại,
mà nói là Ma Ha Tỳ Lô Giá Na vậy!
“Thành Phật”:
Nói đầy đủ theo âm tiếng
Phạn sẽ là “thành Tam Bồ Đề”, [Tam Bồ Đề] có nghĩa là Chánh Giác
Chánh Tri, tức là dùng Như Thật Trí để biết
quá khứ, vị lai, hiện tại, chúng sanh số, phi
chúng sanh số, hữu thường, vô thường v.v… hết
thảy các pháp đều hiểu biết rành rành, v́ thế
gọi là Giác. Nhưng Phật chính là Giác Giả (đấng
giác ngộ); do nói tỉnh lược, chỉ nói là “thành
Phật”.
“Thần biến gia tŕ”: Dịch
theo lối cũ, sẽ là Thần Lực Sở Tŕ, hoặc
Phật Sở Hộ Niệm. Nhưng sự tự chứng
Tam Bồ Đề này vượt ngoài hết thảy các
tâm địa, hiện tiền giác ngộ các pháp từ thoạt
đầu vốn bất sanh, tức là ngôn ngữ đều
dứt bặt, tâm hạnh cũng vắng lặng. Nếu
ĺa khỏi sức oai thần của Như Lai, dẫu bậc
Thập Địa Bồ Tát c̣n chưa thuộc vào cảnh
giới ấy, huống hồ những kẻ khác c̣n
đang ở trong sanh tử ư? Lúc bấy giờ, đức
Thế Tôn do nguyện đại bi từ xưa kia,
nghĩ như thế này: “Nếu ta chỉ trụ trong cảnh
giới như thế này, các hữu t́nh sẽ chẳng thể
do vậy mà đạt được lợi ích”. V́ thế,
Ngài trụ trong tam-muội được gia tŕ bởi thần
lực tự tại, v́ khắp hết thảy các chúng
sanh, nêu bày đủ loại
thân tướng mà [chúng sanh trong] các đường
thích thấy, nói đủ loại
pháp đáng nên nghe ứng
hợp với căn tánh và ḷng ưa thích [của từng loại chúng sanh], tùy thuận
các thứ tâm hạnh mà mở ra môn quán chiếu. Nhưng sự
ứng hóa ấy chẳng sanh từ thân, ngữ, hoặc ư
của đức Tỳ Lô Giá Na. Trong hết thảy thời,
xứ, khởi lên, hay diệt mất, đều chẳng
thể t́m được ngằn mé! Ví như huyễn
sư (người thực hiện huyễn thuật, ảo
thuật gia) do sức chú thuật gia tŕ dược thảo,
có thể hiển hiện đủ mọi chuyện
chưa từng có, ứng với ngũ t́nh[1],
khiến đại chúng đẹp ḷng. Nếu rời bỏ
sự gia tŕ, sau đó [các huyễn sự ấy] sẽ ẩn
mất. Kim cang huyễn của Như Lai cũng giống
như thế, hễ duyên hết bèn diệt, cơ duyên
hưng khởi bèn sanh, mọi chuyện hễ tiếp xúc
đều là chân thật, chẳng có cùng tận. V́ thế
nói là Thần Lực Gia Tŕ Kinh. Nếu xét theo Phạn bổn,
tựa đề đầy đủ phải là Đại
Quảng Bác Kinh Nhân Đà La Vương. Nhân Đà La
Vương chính là Đế Thích. Ư nói kinh này là tạng bí yếu
của hết thảy các đức Như Lai, oai đức
đặc biệt tôn quư trong các giáo thuộc Đại Thừa,
ví như Thiên Mục là chúa trời Đế Thích. Nay sợ
tựa đề kinh rộng lớn, cho nên chẳng
gọi đủ [theo danh xưng ấy]!
1.2. Lược giải tên phẩm
Đối với
phẩm Nhập Chân Ngôn Môn Trụ Tâm, bản tiếng Phạn
có hai tựa đề:
- Một là Tu Chân
Ngôn Hạnh Phẩm.
- Hai là Nhập Chân
Ngôn Môn Trụ Tâm Phẩm.
Tôi trộm cho rằng
ư nghĩa của chữ Nhập Trụ đă kèm thêm ư Tu
Hành, cho nên bỏ lối nói rườm rà, chỉ chọn lấy
một tựa đề.
Chân Ngôn tiếng Phạn
là Mạn-đát-la (Mantra), tức là chân ngữ, như ngữ
(lời nói đúng như sự thật), là tiếng chẳng
quên, chẳng khác. Thích Luận[2]
của ngài Long Thọ gọi đấy là “phù hiệu bí
mật”, dịch theo lối cũ là Chú (呪); đó chẳng phải là cách
dịch chánh xác. Phẩm này luận định chung đại
ư của kinh, tức là nói: “Tự tâm của chúng sanh chính
là trí Nhất Thiết Trí”. Hiểu rơ đúng như thật th́ gọi là Nhất
Thiết Trí. V́ thế, kinh này dạy các Bồ Tát lấy
chân ngữ làm môn, tự tâm phát Bồ Đề chính là “tâm
trọn đủ muôn hạnh, thấy Chánh Đẳng Giác
trong tâm, chứng Đại Niết Bàn trong tâm, phát khởi
phương tiện nơi tâm, trang nghiêm thanh tịnh cơi Phật
trong tâm”. Từ nhân tới quả, đều dùng “vô sở trụ” (không trụ vào
đâu) để trụ cái tâm. V́ thế nói là phẩm Nhập
Chân Ngôn Môn Trụ Tâm.
Nhập
Chân Ngôn môn, đại lược có ba sự:
-
Một là thân mật môn.
-
Hai là ngữ mật môn.
-
Ba là tâm mật môn, trong phần sau sẽ nói cặn kẽ
điều này.
Hành
giả dùng ba phương tiện ấy để tự tịnh
hóa ba nghiệp, tức là được tam mật của
Như Lai gia tŕ, cho đến trong đời này có thể
trọn vẹn Địa Ba La Mật, chẳng c̣n phải
trải qua nhiều kiếp tu trọn các hạnh đối
trị. V́ thế, kinh Đại Phẩm [Bát Nhă] nói: “Hoặc hữu Bồ
Tát sơ phát tâm thời, tức thượng Bồ Tát vị,
đắc bất thoái chuyển. Hoặc hữu sơ phát
tâm thời, tức đắc Vô Thượng Bồ Đề,
tiện chuyển pháp luân “ (Có Bồ Tát khi sơ phát tâm,
liền dự vào địa vị Bồ Tát bậc thượng,
đạt được bất thoái chuyển. Hoặc có
vị khi mới phát tâm, liền đắc Vô Thượng
Bồ Đề, liền chuyển pháp luân). Ngài Long Thọ
bảo là như đi xa, nếu cưỡi dê th́ lâu thật
lâu mới đến. Ngựa th́ nhanh hơn một tí. Nếu
nương vào người có thần thông, trong khoảng vừa
dấy lên ư niệm là đă đến nơi, chẳng thể
nói “trong khoảng dấy lên một ư niệm, sao có thể đến được?”
Thần thông giống như thế đó, chớ nên sanh
nghi! Đấy chính là ư chỉ sâu xa của kinh này vậy.
1.3. Giải thích kinh
văn
(Kinh)
Như thị ngă văn: Nhất thời, Bạc Già Phạm
trụ Như Lai gia tŕ quảng đại kim cang pháp giới
cung. Nhất thiết tŕ kim cang giả giai tất tập hội.
(經)如是我聞:一時薄伽梵住如來加持廣大金剛法界宮。一切持金剛者皆悉集會。
(Kinh:
Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bạc
Già Phạm trụ trong Như Lai gia tŕ kim cang pháp giới
cung rộng lớn. Hết thảy các vị tŕ kim cang thảy
đều nhóm họp).
Khởi
đầu của một bộ kinh luôn có năm nghĩa
như Đại Trí Độ Luận đă nói cặn kẽ,
nhưng bản tiếng Phạn của kinh này thiếu phần
Thông Tự. A-xà-lê (tức ngài Thiện Vô Úy) nói: “Tỳ Lô
Giá Na đại bổn có mười vạn bài kệ, do
to rộng khó tŕ, bậc thánh nhân truyền pháp chọn lấy
phần tông yếu gồm hơn ba ngàn bài tụng. Tuy
văn, nghĩa của chân ngôn và hành pháp nói chung là trọn vẹn,
nhưng do không phải là bản gốc của đại
kinh, cho nên thiếu phần Thông Tự “. Nay theo lệ,
thêm vào th́ ư nghĩa cũng chẳng bị
ảnh hưởng ǵ.
Bạc
Già Phạm (Bhagavān) theo giải thích của bậc luận sư th́ có
sáu nghĩa. Nay dựa theo điều được đề
cao trong kinh này, th́ Bạc Già Phạm có nghĩa là Năng Phá (có thể phá trừ), như người cầm vũ khí sắc bén, sẽ
dẹp yên được nhiều [oán địch]! Đầu
đuôi của danh xưng ấy là do thế gian bàn luận,
xem xét sự tích, cho nên gọi người ấy là Năng
Phá Giả (người có thể phá). Đức Thế Tôn
cũng thế, dùng ánh sáng đại trí phá hết thảy
vô minh phiền năo trong thức tâm. Các thứ vô minh vốn tự
vô sanh mà cũng chẳng có tướng mạo, nhưng mặt
trời trí huệ vừa mọc th́ tối tăm, mê hoặc
tự trừ. Do vậy, dựa theo ư nghĩa ấy mà gọi
là Phá. Thích Luận cũng nói: “Bà Già là Phá, Bà là có thể
phá. Có thể phá dâm, giận, si, nên gọi là Bà Già Bà. Nhị
Thừa tuy phá Tam Độc, nhưng trọn chẳng sạch hết,
như đồ đựng hương vẫn c̣n sót lại
mùi hương. Lại như thảo mộc đem đốt,
do sức lửa yếu, tro than chẳng hết. Như Lai
như lửa lúc kiếp thiêu, [vạn vật] thảy
đều cháy hết sạch chẳng có khói, chẳng c̣n
than! V́ thế, gọi là Bà Già Bà”.
Lại
nữa, Thanh Luận của Đế Thích nói nữ nhân là Bạc Già, tức là ư nghĩa “mong
cầu nhân duyên để có thể dứt phiền năo”.
Lại c̣n có nghĩa là “sở tùng sanh” (được sanh bởi), tông chỉ của kinh Kim Cang Đảnh chính là được dịch theo nghĩa này. Nói “nữ
nhân” th́ tức là Bát Nhă Phật Mẫu[3],
là bậc tri kiến vô ngại, thảy đều từ
đó mà sanh. Do dốc chí mong cầu nhân duyên, sẽ
được tương ứng, phiền năo và hư luận
thảy đều vĩnh viễn dứt bặt, chẳng
như sức nóng dục vọng của thế gian tuy tạm
ngưng dứt, mà thật ra càng tăng trưởng! Do Mật Giáo
không thể nói thẳng, có nhiều khi giống như ẩn
ngữ, người học hễ tiếp xúc phải suy
tưởng.
Hơn
nữa, Bạc Già Phạm tức là “có thanh danh”,
như người có nhiều tài vật được gọi
là Tŕ Tư Tài Giả (người nắm giữ tài vật),
do có vàng nên gọi là Tŕ Kim Giả. Do Như Lai trọn
đủ đức hạnh thù thắng, nên gọi là Tŕ
Chúng Đức Giả (người nắm giữ các đức).
Thích Luận cũng nói: “Bà Già là đức, Bà là Có, tức
[Bà Già Bà] là Có Đức. Bà Già là thanh danh, Bà là có, [Bà Già Bà] tức
là người có thanh danh”. Hết thảy thế gian, chẳng
ai có thanh danh, đức hạnh như Phật; đó
chính là ư nghĩa này vậy. Trong kinh, [từ ngữ này] phần
nhiều được dịch thành Thế Tôn, tức là
danh xưng chung để tán thán phẩm đức. Trong cách nói của phương Tây (Ấn
Độ), hễ nói đến bậc tôn quư, chẳng dám
réo thẳng tên, ắt là phải trước đó tán thán
công đức của vị ấy, như nói Đại
Trí Xá Lợi Phất, Thần Thông Mục Kiền Liên, Đầu
Đà Đại Ca Diếp, Tŕ Luật Ưu Bà Ly v.v… V́ vậy,
trong kinh, theo lệ ấy, bèn nói Bạc Già Phạm Tỳ Lô
Giá Na. Nay thuận theo cách hành văn của phương này,
có thể dùng Thế Tôn trong các phần sau vậy.
Kinh
nói “Bạc Già Phạm trụ Như Lai gia tŕ”, Bạc
Già Phạm tức là bổn địa Pháp Thân của Tỳ
Lô Giá Na Phật. Kế đó, nói Như Lai, tức là thân gia
tŕ của Phật. Trụ xứ ấy được gọi
là Thọ Dụng Thân của Phật. Tức là dùng thân ấy
làm trụ xứ được Phật gia tŕ. Đối
với Như Lai tâm vương, chư Phật hễ trụ
bèn trụ trong đó. Từ đó, sanh ra sức gia tŕ trọn
khắp hết thảy mọi nơi, tức là chẳng
hai, chẳng khác với vô tướng Pháp Thân, nhưng do thần
lực tự tại, khiến cho hết thảy chúng sanh
trông thấy sắc tướng nơi Thân Mật, nghe âm
thanh của Ngữ Mật, ngộ pháp nơi Ư Mật, tùy
thuộc căn tánh của họ mà chia thành đủ loại
bất đồng, tức là chỗ để trụ ấy
được gọi là “gia tŕ xứ “.
Kế
đó, lại nhằm giải thích, tán thán trụ xứ
được gia tŕ, bèn nói là “quảng đại kim
cang pháp giới cung”. “Đại” là chẳng có ngằn
mé. “Quảng” là chẳng thể tính đếm. “Kim
cang” là sánh ví trí Thật Tướng, vượt khỏi
hết thảy các phương cách diễn tả, suy
lường của ngôn ngữ và tâm hạnh, tương ứng
với “chẳng nương tựa vào đâu”, chẳng
chỉ bày các pháp, chẳng có đầu, giữa, sau, chẳng
tận, chẳng hoại, ĺa các tội lỗi, chẳng thể
biến đổi, chẳng thể phá hủy, nên gọi
là Kim Cang. Như chất báu kim cang trong thế gian có ba sự
tối thắng: Một là chẳng thể phá hoại, hai
là bậc thượng trong các báu, ba là thù thắng trong các
khí cụ để chiến đấu. Điều này
đại lược tương đồng với ư
nghĩa của thí dụ sánh ví ba loại Kim Cang tam-muội
trong Thích Luận.
“Pháp giới” chính là cái Thể của trí kim cang rộng lớn. Trí thể ấy được gọi là trí thân Thật
Tướng của Như Lai. Do được gia tŕ, nó
chính là chỗ được trang nghiêm bởi công đức
chân thật, là cảnh diệu trụ, là cốt lơi của
tâm vương; v́ thế nói là Cung. Cung ấy chính
là chỗ cổ Phật thành Bồ Đề, được
gọi là Ma Hê Thủ La Thiên Cung. Thích Luận nói: “Năm
loại trụ xứ của A Na Hàm thuộc Đệ Tứ
Thiền Thiên gọi là Tịnh Cư Thiên. Qua khỏi
nơi đó, có trụ xứ của bậc Thập Trụ
Bồ Tát, cũng gọi là Tịnh Cư, hiệu là Đại
Tự Tại Thiên Vương”. Nay ư nghĩa được
đề cao, nêu tỏ ở đây là “dùng cái tâm thần diệu gia tŕ tự tại để làm
chỗ cư trụ”, bèn gọi
là Tự Tại Thiên Vương Cung. Ư nói: Hễ chỗ nào
Như Lai đáng nên ngự th́ không ǵ chẳng phải là
cung điện ấy, chẳng phải chỉ biểu thị
riêng [một nơi chốn nhất định] trong tam giới.
“Nhất thiết Tŕ Kim Cang giả
giai tất tập hội” (hết thảy các vị Tŕ
Kim Cang thảy đều nhóm họp): Kế đó, nói về
quyến thuộc mầu nhiệm. Như Lai ngự trong
cung ấy là ở một ḿnh, hay là có quyến thuộc? V́
thế, bèn nói trong ấy có vô biên quyến thuộc thường
nhóm họp, tức là các vị như Chấp Kim Cang v.v… [Chấp
Kim Cang trong] tiếng Phạn là Phạt Chiết La Đà La
(Vajradhara), Phạt Chiết La (Vajra) tức là kim cang chử (chày kim cang), c̣n Đà La (Dhara) nghĩa là “chấp tŕ” (nắm
giữ). V́ thế, lối xưa dịch [danh hiệu này]
thành Chấp Kim Cang, nay nói là Tŕ Kim Cang. Giải thích theo hai lối
cạn và sâu, xét về ư nghĩa [th́ cách dịch mới] thù
thắng hơn, cho nên trong kinh văn sẽ tùy thuộc thuận
tiện mà sử dụng lẫn nhau. Nếu biểu thị
theo lối thông thường trong Thế Đế, th́ sẽ
nói “sanh thân của Phật thường có năm trăm
vị Chấp Kim Cang Thần chầu hầu, bảo vệ”.
Nhưng [xét theo] mật ư được đề cao ở
đây th́ Phạt Chiết La là Kim Cang Trí Ấn[4]
của Như Lai. Trí ấn như thế số nhiều vô
lượng, người có thể tŕ ấn ấy cũng
là vô biên! V́ cớ sao vậy? Chỗ trụ của tâm
vương ắt có tâm số (tâm sở) nhiều như cát bụi
làm quyến thuộc. Nay tâm vương Tỳ Lô Giá Na thành tựu
tự nhiên giác, lúc bấy giờ, hết thảy tâm số
không ǵ chẳng vào trong kim cang giới, thành trí ấn nội
chứng công đức sai biệt của Như Lai. Trí ấn
như thế chỉ có Phật và Phật mới có thể
nắm giữ. Xét theo ư nghĩa Bồ Đề, tức là
có vô lượng vô biên kim cang ấn. Xét theo ư nghĩa Phật
Đà, sẽ có vô lượng vô biên vị Tŕ Kim Cang. Do các
đức đều là một tướng, một vị,
quy vào Thật Tế, nên gọi là “tập hội” (nhóm
họp). Nếu có chút phần chẳng bằng, hoặc một
pháp chưa viên măn, sẽ chẳng gọi là “nhất thiết
tập hội” (hết thảy nhóm họp).
Nhưng do dùng thần lực tự tại gia tŕ,
từ tâm vương Tỳ Lô Giá Na bèn hiện ra thân gia tŕ
tôn quư, đặc biệt. Lúc đó, vô lượng pháp môn
quyến thuộc, mỗi mỗi đều hiện thân Chấp
Kim Cang, ḥng hiển lộ, phát khởi thế lực to lớn
oai mănh của Như Lai, ví như Đế Thích tay cầm
chày kim cang phá quân Tu La. Nay các vị Chấp Kim Cang ở
đây cũng giống như thế, mỗi vị đều
từ một môn, cầm vũ khí Đại Không[5]
có thể phá hoại phiền năo vô tướng của chúng
sanh. V́ thế, dùng h́nh tướng ấy để sánh ví.
(Kinh)
Như Lai tín giải du hư thần biến sanh đại lâu
các bảo vương, cao vô trung biên, chư đại diệu
bảo vương chủng chủng gián sức, Bồ Tát
chi thân vi sư tử ṭa.
(經)如來信解遊戲神變生大樓閣寶王,高無中邊,諸大妙寶王種種間飾,菩薩之身為師子座。
(Kinh: Do thần biến du hư tín giải của Như
Lai, sanh ra lầu gác lớn
là vua trong các báu, cao vời,
chẳng có chặng giữa hay ngằn mé, các loại vua chất báu mầu nhiệm quư nhất [dùng để] xen kẽ trang hoàng, dùng thân của Bồ Tát làm ṭa
sư tử).
Đại
chúng đă nhóm họp, phải nên có chỗ thuyết pháp. V́
thế, kế đó nói đến lầu gác để trụ
và ṭa sư tử. “Tín giải”: Bắt đầu từ
thật sự phát tâm cho đến khi thành Phật, trong khoảng
giữa đó, gọi chung là Tín Giải Địa (địa
vị tín giải). [Tín
Giải trong] tiếng Phạn là
Vi Cật Rị Nê Đa (Vikriḍita), có nghĩa là “hăng hái, du hư, thần biến”,
ư nói: Từ sơ phát tâm cho tới nay, đă gieo sâu căn
lành, dấy lên các thứ nguyện hạnh để trang
nghiêm cơi Phật, thành tựu chúng sanh, luôn tiến lên thù thắng,
chẳng ngưng nghỉ, tức là ư nghĩa “siêu
thăng, vọt lên”. Như người được
thúc đẩy, cổ vũ, có thể dùng ba nghiệp thiện
xảo khiến cho trọn khắp mọi người
đều đẹp dạ. V́ vậy, “vọt lên”
bèn được gọi là “du hư”. Du hư như thế
chính là thần thông tự tại của Bồ Tát. [Chánh
kinh có ư] nói đức Tỳ Lô Giá Na khi hành Bồ Tát đạo,
đă dùng Nhất Thể Tốc Tật Lực tam-muội,
cúng dường vô lượng thiện tri thức, hành trọn
khắp vô lượng các Độ môn (các Ba La Mật môn),
pháp tự lợi và lợi tha đều trọn đủ,
có thể đạt được điện đài pháp
giới bí mật trang nghiêm do các chất báu trí huệ của
Như Lai hợp thành như thế, là cao tột bậc nhất
trong hết thảy các thứ được sanh bởi Thật
Báo, ví như Chân Đà Ma Ni (Cintāmaṇi, Như Ư Bảo Châu) là vua của các chất báu. V́ thế
nói là “du hư thần biến sanh đại lâu các bảo
vương”. Điện đường ấy cao vô
cùng, phải biết là nó cũng rộng không ngằn mé, do
chẳng thể t́m được giới hạn. Cũng
lại không có trung gian, do là chỗ trụ của thân trong hết
thảy các xứ. Hăy nên biết: Điện đường như thế
cũng trọn khắp hết thảy mọi nơi.
Kế
đó, nói về tướng trạng trang nghiêm của
điện đường: Giống như có người dùng đủ
loại kim cang nhiều màu để trang
nghiêm kim cang, nhưng thể tánh của chúng chẳng có sai
biệt. Nay ở đây cũng như thế: Lại dùng các thứ
công đức bảo vương của Như Lai để
xen kẽ trang hoàng lâu các bảo vương. V́ sao vậy? Chẳng có pháp nào khác xuất sanh tánh báu
như thế. Nhưng tướng tịch diệt bậc
nhất ấy, do được thần lực của
Như Lai gia tŕ, khiến cho người đáng được
độ sẽ tùy theo các biểu tượng của các
pháp môn, nếu có thể thấy, nghe, tiếp xúc, liền dùng môn ấy để nhập pháp giới, như
nhân duyên Thiện Tài đồng tử vào cung điện của
ngài Di Lặc.
Ở
đây, phải nên nói cặn kẽ về chuyện dùng thân
Bồ Tát làm ṭa sư tử: “Kim cang pháp giới cung” vừa
nói trên đây chính là thân của Như Lai. Kế đó, nói tới
“đại lâu các bảo vương”, đấy cũng chính là thân của
Như Lai. Nay nói “ṭa sư tử”, hăy nên biết
cũng như thế. Sở dĩ nói “thân của Bồ
Tát” tức là nói khi hành Bồ Tát đạo, lần
lượt tu hành Ba La Mật thuộc mỗi địa vị,
cho đến địa vị thứ mười một.
Hăy nên biết: Địa vị sau dùng địa vị
trước làm nền tảng. V́ thế nói “Như Lai
dùng thân Bồ Tát làm ṭa sư tử”. Thích Luận viết:
“Ví như sư tử là vua trong các loài thú, đi một
ḿnh chẳng sợ hăi. Phật cũng giống như thế,
trong chín mươi sáu loại ngoại đạo, hàng phục
hết thảy vô úy. V́ thế, gọi là ‘nhân trung sư tử’
(sư tử trong loài người). Chỗ Ngài ngồi, dù
là giường hay mặt đất, đều gọi là
sư tử ṭa”. Đối với ư nghĩa được
đề cao, nêu tỏ ở đây, nói “sư tử”
tức là nói tới tâm Bồ Đề dũng kiện. Từ
sơ phát ư tới nay, đạt được thế lực
tinh tấn to lớn, chẳng hề khiếp nhược,
giống như sư tử tùy ư bắt giữ, ắt đều đạt được chẳng sót, tức
là ư nghĩa “tự tại độ người khác chẳng
bỏ sót” vậy! Nếu giải thích nông cạn, đại
lược, sẽ là có ư nói các Bồ Tát thâm tâm kính pháp, cho
đến dùng thân để gánh đội ṭa sư tử
của Phật. V́ thế nói: “Thân Bồ Tát làm ṭa sư tử”.
(Kinh)
Kỳ kim cang danh viết Hư Không Vô Cấu Chấp Kim
Cang, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp
Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành
Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng
Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp
Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực
Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp
Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim
Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp
Kim Cang, Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập
Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang, Kim
Cang Thủ Bí Mật Chủ. Như thị thượng thủ,
thập Phật sát vi trần số đẳng Tŕ Kim Cang
chúng câu, cập Phổ Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ
Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết
Cái Chướng Bồ Tát đẳng, chư đại Bồ
Tát tiền hậu vi nhiễu, nhi diễn thuyết pháp.
(經)其金剛名曰:虛空無垢執金剛、虛空遊步執金剛、虛空生執金剛、被雜色衣執金剛、善行步執金剛、住一切法平等執金剛、哀愍無量眾生界執金剛、那羅延力執金剛、大那羅延力執金剛、妙執金剛、勝迅執金剛、無垢執金剛、刃迅執金剛、如來甲執金剛、如來句生執金剛、住無戲論執金剛、如來十力生執金剛、無垢眼執金剛、金剛手祕密主,如是上首,十佛剎微塵數等持金剛眾俱,及普賢菩薩、慈氏菩薩、妙吉祥菩薩、除一切蓋障菩薩等諸大菩薩,前後圍繞而演說法。
(Kinh: Danh hiệu kim cang của
các vị ấy là: Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cang,
Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang, Hư Không Sanh Chấp
Kim Cang, Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang, Thiện Hành
Bộ Chấp Kim Cang, Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng
Chấp Kim Cang, Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới Chấp
Kim Cang, Na La Diên Lực Chấp Kim Cang, Đại Na La Diên Lực
Chấp Kim Cang, Diệu Chấp Kim Cang, Thắng Tấn Chấp
Kim Cang, Vô Cấu Chấp Kim Cang, Nhận Tấn Chấp Kim
Cang, Như Lai Giáp Chấp Kim Cang, Như Lai Cú Sanh Chấp
Kim Cang, Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang, Như Lai Thập
Lực Sanh Chấp Kim Cang, Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang, Kim
Cang Thủ Bí Mật Chủ. Các vị thượng thủ
như thế, các vị Tŕ Kim Cang nhiều như số vi
trần trong mười cơi Phật nhóm đến, và Phổ
Hiền Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát, Diệu Cát
Tường Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng
Bồ Tát v.v… Các vị đại Bồ Tát trước sau
vây quanh, diễn nói pháp).
Kế
đó, nói về đại chúng cùng nghe pháp.
Hỏi:
Đức Phật nói kinh, v́ lẽ ǵ mà nói trụ xứ và
quyến thuộc trước hết?
Đáp:
Ví như quốc vương, nếu có chánh lệnh, ắt
trước hết công bố tới các khu vực quản
lư để chế định, quyết đoán h́nh phạt,
và tưởng thưởng. Khi đó, sử quan sẽ chép: “Vào
lúc nào đó, vua ở chỗ nào đó, cùng với các đại
thần nào đó tụ tập, bàn bạc, có mạng lệnh như thế này…” muốn khiến cho [toàn dân] trong nước tin phục, thực
hiện theo, chẳng c̣n nghi ngờ! Pháp vương cũng
thế, sắp nói đại pháp, ắt ngự trong đại
quyến thuộc là các vị Bồ Tát để họ chứng
minh. Do bởi nhân duyên ấy, người nghe sẽ sanh
ḷng tin. Do tín tâm, sẽ có thể từ trong pháp như thế
mà tu hành, chứng đắc, tín tâm càng nẩy sanh gấp bội.
V́ thế, trước hết liệt kê đại chúng.
Hư
Không Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimalākāśa-vajradhāra) tức là tâm thể Bồ Đề ĺa hết thảy
chấp trước, tranh căi, hư luận, như hư không
thanh tịnh chẳng có chướng ngại, ngăn lấp,
vô cấu, vô nhiễm, mà cũng chẳng phân biệt. Cái tâm
như thế chính là Kim Cang trí ấn. Có thể nắm giữ
cái ấn như thế, th́ gọi là Hư Không Vô Cấu Chấp
Kim Cang.
Kế
đó, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cang (Ākāśavicaraṇa-vajradhāra). “Du bộ” (Vicaraṇa) có nghĩa là “chẳng
trụ, tiến lên thù thắng, thần biến”. Do tâm Bồ
Đề thanh tịnh đối với hết thảy
các pháp đều chẳng trụ, thường tấn tu vạn
hạnh, khởi đại thần thông. V́ thế, nói là
Hư Không Du Bộ. Lại nữa, Hư Không Vô Cấu Chấp
Kim Cang, tức là chủng tử b́nh đẳng của
môn chữ A[6], tu vô trụ hạnh,
ví như phương tiện gieo trồng th́ rễ, mầm
dần dần nẩy sanh. V́ thế, kế đó nói tới chuyện
phát khởi, thực hiện kim cang ấn.
Vị
thứ ba là Hư Không Sanh Chấp Kim Cang (Ākāśasaṃbhava-vajradhāra). Như mầm mộng đă nẩy sanh, Tứ Đại
và thời tiết làm duyên, hư không vô ngại vun quén trong
mỗi niệm. Tâm Bồ Đề cũng giống như
thế, dùng “vô sở đắc” làm phương tiện,
vạn hạnh làm duyên, đạt được sự
sanh khởi chân thật. Đó gọi là Đại Không
Sanh; v́ thế gọi là Hư Không Sanh.
Vị
thứ tư là Bị Tạp Sắc Y Chấp Kim Cang (Citravasadhṛk-vajradhāra), như mầm mộng tăng trưởng, thân, lá,
hoa, quả lần lượt trổ sum suê. Bồ
Đề tâm thụ vương vạn đức nở x̣e
cũng giống như thế. V́ thế nói là “đầy
đủ các thứ sắc”. Lại dùng các thứ pháp
giới sắc để nhuộm tâm Bồ Đề vô cấu này thành Đại Bi Mạn-đồ-la; nên gọi là Bị Tạp Sắc Y (mặc áo nhiều
màu).
Vị
thứ năm là Thiện Hành Bộ Chấp Kim Cang (Vicitracaraṇa-vajradhāra). Chữ Thiện này trong tiếng Phạn là Tỳ Chất
Đa La (Vicitra), có nghĩa là “đoan nghiêm, chủng tử”. Ví như đă có được quả,
hạt, lại c̣n là chủng tử. Thiện Hành Bộ tức
là oai nghi của chư Phật, tức là khéo biết các thứ
“thông, tắc” như “có thể độ, không thể
độ” v.v… Dùng phương tiện nơi thân miệng,
ư ứng hợp các căn cơ, khéo léo uốn nắn, khiến
cho họ đều thành tựu Phật sự. V́ thế,
dùng đó để đặt tên.
Vị
thứ sáu là Trụ Nhất Thiết Pháp B́nh Đẳng Chấp
Kim Cang (Sarva-dharma-samatasthita-vajradhāra), tức là trụ trong tánh b́nh đẳng của hết
thảy chư Phật, ư nói hết thảy các pháp như
nhân, quả, tự, tha, hữu vi, vô vi v.v… nhập trong
Như Thật Trí ấy, rốt ráo b́nh đẳng, cùng là một
Thật Tế. Do có thể nắm giữ trí ấn ấy,
nên dùng đó để đặt tên.
Nhưng
cả năm câu trên đây cũng đều là công đức
chân thật của Như Lai, chẳng có cạn hay sâu sai
khác; chỉ v́ muốn phân biệt cho dễ hiểu mà nói
theo thứ tự vậy.
Vị
thứ bảy là Ai Mẫn Vô Lượng Chúng Sanh Giới
Chấp Kim Cang (Apramana-sattvadhat-vonukampana-vajradhāra). Ai Mẫn (xót thương) ở đây c̣n gọi là
Cứu Độ, ư nói đă trụ trong pháp tánh b́nh đẳng,
tự nhiên phát khởi cái tâm đồng thể bi mẫn
đối với hết thảy chúng sanh. Do các chúng sanh giới
vô lượng, đại bi như thế cũng chẳng
có hạn lượng! Đấy là một công đức
của Như Lai; v́ thế, người có thể tŕ [công
đức ấy] bèn lấy đó làm tên.
Vị
thứ tám là Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Nārāyaṇabala-vajradhāra). Đă phát tâm thương xót, nếu có oai thế lớn,
sẽ có thể cứu vớt, che chở; do vậy, kế
tiếp bèn nói đến [điều này]. Trong kinh đă so
lường, sức của sáu mươi con voi không bằng
sức của một hương tượng, cho đến
cuối cùng, sức của Na La Diên là tối thắng. Mỗi
lỗ chân lông nơi sanh thân của đức Phật
đều có sức bằng Na La Diên. V́ thế, dùng sức
Na La Diên để sánh ví pháp giới thân.
Vị
thứ chín là Đại Na La Diên Lực Chấp Kim Cang (Mahānārāyaṇabala-vajradhāra), ư nói vị này nắm giữ sức thần thông bí
mật. Như Nhất Xiển Đề (Icchāntika)[7] là căn bệnh ắt phải
chết, hàng Nhị Thừa dùng Thật Tế để
xác chứng người ấy đă chết, chư Phật
y vương do thấy [kẻ đó có] Như Lai tánh, bèn có
thể thực hiện sư tử hống nhất định,
đối với nhân duyên cứu chữa, tâm chẳng khiếp
nhược. Các vị Bồ Tát c̣n chẳng thể làm
như thế, cho nên lại nói sức bất cộng của
hết thảy Ma Ha Na La Diên.
Vị
thứ mười là Diệu Chấp Kim Cang (Su-vajradhāra). Diệu nghĩa là “không có ǵ sánh bằng, không có ǵ
hơn được”, giống như đề hồ
đă tinh luyện mầu nhiệm tối cực, chẳng
thể tăng thêm nữa, thường chẳng biến
đổi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp.
Như Lai cũng thế, hết thảy các công đức đều không sánh bằng, vô thượng,
tất cả các việc làm cũng đều chỉ v́ một
đại sự nhân duyên. V́ thế, gọi là Diệu Chấp
Kim Cang.
Vị
thứ mười một là Thắng Tấn Chấp Kim
Cang (Paramavega-vajradhāra), Thắng là nói tới Đại Không, Đại
Không trọn khắp hết thảy mọi nơi. V́ thế,
có thể khởi lên thần thông nhanh chóng. Trụ trong thừa
ấy, lúc mới phát tâm, liền thành Chánh Giác, bất động sanh tử mà
đạt tới Niết Bàn. V́ thế, gọi là Thắng
Tấn.
Vị
thứ mười hai là Vô Cấu Chấp Kim Cang (Vimala-vajradhāra), tức là tâm Bồ Đề ĺa hết thảy các
chướng. Ví như vàng ṛng, thể tánh thuần tịnh,
nếu nung luyện đủ
mọi cách, dùng các thứ báu mài bóng, sẽ rạng
ngời gấp bội, sẽ biết thoạt đầu
thể chất của vàng c̣n lẫn các chất nhơ nhỏ
nhiệm. Do có thể tŕ kim cang ấn rốt ráo thanh tịnh
ấy, nên lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười ba là Nhận Tấn Chấp Kim Cang (Balavega-vajradhāra). Chữ Nhận này, bản tiếng Phạn ghi là Phẫn
như trong phẫn nộ, hàm nghĩa “sắc bén nhất
trong các thứ sắc bén”, có nghĩa là giống như
mũi đao bén. Tŕ Kim Cang lợi trí này, hết thảy các
chỗ khó đoạn đều đoạn, chỗ khó diệt
đều diệt. V́ thế, lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười bốn là Như Lai Giáp Chấp Kim Cang (Tathāgatakavaca-vajradhāra). Áo giáp của Như Lai chính là đại từ. Do
dùng đó để trang nghiêm thân, nhiếp thủ, bảo
vệ chúng sanh thực hiện Phật sự, chẳng bị
hết thảy phiền năo gây thương tổn, chẳng
thể bị chúng nó (các phiền năo) hàng phục, ngăn trở,
phá hoại, nên dùng đó làm tên.
Vị
thứ mười lăm là Như Lai Cú Sanh Chấp Kim Cang
(Tathāgatapādobhava-vajradhāra). “Cú” là trụ xứ, tức Đại Không
Sanh. Công đức tự chứng của chư Phật
sanh từ Như Lai tánh. Thân gia tŕ ấy sanh từ công
đức tự chứng của Như Lai. Do chẳng ĺa
môn chữ A, nên gọi là Như Lai Cú Sanh.
Vị
thứ mười sáu là Trụ Vô Hư Luận Chấp Kim Cang
(Niḥprapanca-pratiṣṭha-vajradhāra), tức là trụ trong Đại Không huệ. Ư nói quán duyên khởi Thật
Tướng, vô sanh, vô diệt, chẳng đoạn, chẳng
thường, cũng chẳng phải là “đến,
đi, một, khác”, tức là ở trong sự dứt bặt
các hư luận, pháp như Niết Bàn. Tŕ trí ấn như thế,
nên có thể lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười bảy là Như Lai Thập Lực Sanh
Chấp Kim Cang (Tathāgata-daśabalodbhava-vajradhāra), tức là phương tiện trí của Phật. Sự
quyền xảo khéo léo như thế sanh từ chỗ nào?
Chính là sanh từ mười trí lực của Như Lai.
Tŕ cái ấn như thế, cho nên có thể lấy đó làm
tên.
Vị
thứ mười tám là Vô Cấu Nhăn Chấp Kim Cang (Vimalanetra-vajradhāra). Ngũ nhăn của Như Lai do Bồ Tát tâm rốt ráo
thanh tịnh, dùmg hết thảy các phép Quán để quán hết
thảy các pháp; thấy, nghe, hay, biết rành rành, chẳng
hề vướng mắc. Có thể tŕ kim cang ấn
như thế, cho nên lấy đó làm tên.
Vị
thứ mười chín là Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ (Vajrapāṇi Guhyanātha). Bá Ni (Pāṇi) trong tiếng Phạn là bàn tay. “Chưởng tŕ kim
cang” (bàn tay nắm giữ chày kim cang) có nghĩa
tương đồng với “thủ chấp” (tay cầm).
V́ thế, kinh dùng lẫn lộn hai danh xưng ấy.
Phương Tây coi Dạ Xoa là bí mật, do thân, miệng, ư
của chúng nhanh chóng, bí ẩn, khó biết rơ! Dịch theo lối xưa, sẽ là Mật Tích (密迹). Nếu nói theo ư
nghĩa nông cạn, sơ lược, th́ Bí Mật Chủ
chính là Dạ Xoa vương. Vị này thường cầm
chày kim cang, theo hầu cận, bảo vệ đức Phật. Do vậy, gọi là Kim Cang Thủ. Nhưng [xét theo] ư
nghĩa sâu xa ở đây, nói Dạ Xoa tức là thân ngữ
ư mật của Như Lai, chỉ có Phật và Phật mới
có thể biết. Thậm chí các vị như Di Lặc Bồ
Tát v.v… đối với sức thần thông bí mật
như thế, vẫn chẳng thể biết. Bí mật nhất
trong các điều bí mật, đó gọi là điều chủ
yếu trong tâm mật; v́ thế nói là Bí Mật Chủ. Có
thể tŕ cái ấn ấy, nên nói là Chấp Kim Cang.
“Như thị thượng thủ,
thập Phật sát vi trần số đẳng Tŕ Kim Cang
chúng câu” (Các vị thượng thủ như thế,
các vị Kim Cang chúng nhiều như số lượng vi
trần trong mười cơi Phật cùng nhóm họp): Nếu
xét theo bản tiếng Phạn đầy đủ, đối
với mỗi danh xưng được liệt kê, đều có chữ Đa (nhiều), phải nên nói “Hư
Không Cấu đẳng, Hư Không Du Bộ đẳng” (các
vị Hư Không Vô Cấu, các vị Hư Không Du Bộ),
cho đến “Bí Mật Chủ đẳng”. V́ lẽ
nào vậy? Các vị thượng thủ Chấp Kim Cang ấy,
mỗi mỗi đều có vô lượng quyến thuộc
bộ loại, Đại Bổn th́ ghi trọn vẹn, [bản
này] chỉ nêu ra những nét cương yếu, th́ cành,
nhánh đều thuận theo. Đối với tác dụng
đề xướng nói chung, chẳng đáng coi là thiếu
khuyết. Nói “thập Phật sát vi trần số”, tức
là Như Lai trí ấn sai biệt, số nhiều vô lượng,
chẳng thể dùng toán, số, thí dụ mà ḥng biết
được. Lại do mười loại trí lực của Như Lai, mỗi
trí đều đối ứng với số lượng
vi trần trong một cơi Phật để biểu thị
số lượng trong chúng hội, mang ư nghĩa thế giới
hải, thế giới tánh và một Phật sát, như
trong Thích Luận đă nói cặn kẽ. Nhưng các đức
nội chứng của Tỳ Lô Giá Na này, do được
gia tŕ, từ mỗi một trí ấn, đều hiện
ra thân Chấp Kim Cang, h́nh sắc, tánh loại đều có
biểu tượng, mỗi vị đều thuận theo
tánh bổn duyên, ḥng dẫn dụ, nhiếp thọ chúng
sanh. Nếu các hành nhân ân cần tu tập, sẽ có thể
khiến cho ba nghiệp cùng quy vào Bổn Tôn, từ một
môn mà nhập pháp giới, tức là nhập trọn khắp
hết thảy các pháp giới môn.
Kế
đó, liệt kê các vị Bồ Tát, lấy bốn vị
thánh nhân làm thượng thủ. Các vị Chấp Kim Cang
được nói trước đó, nhất loạt là trí
ấn của Như Lai. Nay các vị Bồ Tát này có ư
nghĩa vừa là Định, Huệ, lại vừa là từ
bi. V́ thế, nhận lấy các danh hiệu sai biệt,
nhưng vẫn là công đức nội chứng của Tỳ
Lô Giá Na. Như các vị Chấp Kim Cang nhiều bằng số
lượng vi trần trong mười cơi Phật, hăy nên biết
là đối ứng với các pháp môn của các vị Bồ
Tát, cũng có số lượng bằng số vi trần
trong mười cơi Phật. Do được gia tŕ, mỗi
vị đều từ một môn pháp giới mà hiện ra
thân một vị thiện tri thức. Theo Bát Nhă Thích Luận,
khi Sanh Thân Phật (tức thân Phật Thích Ca trong thế giới Sa Bà
này) thành đạo, A Nan, Mật Tích Lực
Sĩ v.v… được gọi là “nội quyến thuộc”,
c̣n các vị thánh nhân như Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên v.v… và các vị A-tỳ-bạt-trí (Bất Thoái Chuyển)
Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát như Di Lặc, Văn
Thù v.v… th́ được gọi là “đại quyến
thuộc”. Nay nói thân gia tŕ của Phật cũng giống
như thế. Các vị Chấp Kim Cang ai nấy tŕ mật
ấn của Như Lai th́ được gọi là “nội
quyến thuộc”, các vị Bồ Tát dùng phương
tiện đại bi phổ môn nhiếp thọ vô lượng
chúng sanh, phù tá đấng pháp vương hành Như Lai sự,
gọi là “đại quyến thuộc”. V́ thế,
Đại Phẩm [Bát Nhă] nói: “Dục vi chư Phật nội
quyến thuộc, dục đắc đại quyến
thuộc giả, đương học Bát Nhă Ba La Mật
dă” (Muốn làm nội quyến thuộc của chư Phật,
muốn có đại quyến thuộc, hăy nên học Bát Nhă
Ba La Mật).
“Phổ Hiền Bồ Tát”: Phổ
có nghĩa là “trọn khắp hết thảy mọi
nơi”; Hiền nghĩa là “điều thiện mầu
nhiệm nhất”, tức là do tâm Bồ Đề khởi
lên nguyện hạnh và thân, khẩu, ư, thảy đều
b́nh đẳng trọn khắp hết thảy mọi
nơi, diệu thiện thuần nhất trọn đủ
các đức. Do vậy, đặt tên như thế.
“Từ Thị Bồ Tát”: Ư nói
trong Tứ Vô Lượng Tâm của Phật, nay xưng tụng Từ làm đầu. Ḷng Từ ấy sanh từ chủng
tánh Như Lai, có thể khiến cho hết thảy thế
gian chẳng đoạn Phật gia, nên nói là Từ Thị.
Phổ Hiền được nói trong phần trước
là đức tự chứng, bổn nguyện đă măn. Do muốn giáo hóa chúng sanh khiến cho họ đắc
đạo ấy, nên kế đó nói đến Từ.
“Diệu Cát Tường Bồ Tát” (Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát): “Diệu” là vô thượng huệ
của Phật, giống như đề-hồ
thuần tịnh bậc nhất. Chữ Thất Lợi (Śrī) [trong tiếng Phạn] được dịch nghĩa thành Cát Tường, tức là ư nghĩa “trọn
đủ các đức “. Hoặc dịch là Diệu
Đức, và cũng dịch là Diệu Âm. Ư nói: Do sức
đại từ bi, diễn nói pháp âm mầu nhiệm, khiến
cho hết thảy đều nghe. Cho nên Ngài được
nêu ra kế tiếp Di Lặc Bồ Tát.
“Trừ Nhất Thiết Cái Chướng
Bồ Tát” (Sarvanīvaraṇa-viṣkaṃbhin): Nói Chướng là nói đến các thứ tâm cấu
của chúng sanh, chúng có thể che lấp, khiến cho tịnh nhăn của Như Lai chẳng thể
mở sáng. Nếu dùng pháp vô phân biệt để diệt
các hư luận, như mây mù tiêu trừ, vầng mặt trời
chiếu rạng. V́ thế nói là Trừ Cái Chướng. Tất
cả việc làm của Như Lai thảy đều v́ một
đại sự nhân duyên này. Do vậy,
vị Bồ Tát này được kể
tên sau ngài Diệu Âm. Hơn nữa, hành nhân tuy học Bát Nhă
Ba La Mật, nhưng nếu chẳng có Thiền Định,
sẽ giống như kẻ mù, tuy gặp ánh sáng mặt trời,
chẳng thể làm được ǵ. V́ thế, sau diệu
huệ của ngài Văn Thù, bèn nói Trừ Cái Chướng
tam-muội.
Bốn
vị Bồ Tát này chính là Tứ Đức nơi thân Phật,
hễ thiếu khuyết đức nào, sẽ
chẳng thể thành Vô Thượng Bồ Đề. Do vậy,
xếp các Ngài thành bậc thượng thủ, để
thống lănh các đức nhiều như cát bụi. “Chư
đại Bồ Tát”: Nói đầy đủ theo tiếng
Phạn th́ phải là Ma Ha Bồ Đề Tát Đỏa
(Mahabodhisattva). Thích Luận nói: “Bồ Đề là đạo
của chư Phật, Tát Đỏa là chúng sanh, hoặc là
tâm dũng mănh. Người ấy muốn đắc trọn
hết công đức của chư Phật, tâm người
ấy chẳng thể đoạn, chẳng thể phá,
như núi kim cang, được gọi là Tát Đỏa. Lại
nữa, tâm người ấy có thể làm đại sự,
chẳng lui sụt, chẳng chuyển, do tâm đại dũng mănh. Trong
nhiều chúng sanh, [người ấy] khởi đại từ
bi, thành lập Đại Thừa, có thể hành đại
đạo, đạt được chỗ lớn nhất.
V́ thế, ắt có thể thuyết pháp, phá các thứ phiền năo như tâm đại tà kiến,
đại ái, đại ngă v.v… của hết thảy chúng
sanh. V́ thế gọi là Ma Ha Tát Đỏa”.
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Nếu xét theo chánh
nghĩa, phải nói là Bồ Đề Sách Đá. Sách Đá
ở đây có nghĩa là nhẫn lạc tu hành, giữ vững, chẳng xả”.
Nhưng Thanh Minh[8]
có pháp tắc như thế này, nếu luận
theo văn tự, nghĩa ấy tuy đúng, nhưng nếu
âm vận không trôi chảy, liền sử dụng cách nói thuận
tiện. V́ thế, các luận sư trong cơi đời nói
là Tát Đỏa, người
lưu truyền, tu tập cũng thuận dùng từ ngữ ấy. Theo Du Già Tông, Tát Đỏa đại
lược có ba loại:
-
Một, ngu đồng Tát Đỏa (chúng sanh giống
như trẻ thơ ngu muội), tức là lục đạo
phàm phu, chẳng biết nhân quả nơi Thật Đế,
tâm hành tà đạo, tu tập khổ nhân (cái nhân gây tạo
nỗi khổ), luyến đắm tam giới, chấp
trước chặt chẽ chẳng xả. V́ thế gọi
tên như thế.
-
Hai là hữu thức Tát Đỏa, tức Nhị Thừa,
vừa mới nhận biết lỗi hại
của sanh tử, tự cầu xuất ly để đạt
tới Niết Bàn, chấp trước “hóa thành”[9],
khởi lên ư tưởng diệt độ. Đối với
công đức của Như Lai, chưa sanh tâm mong muốn,
ưa thích.
-
Ba là Bồ Đề Tát Đỏa. Vô Thượng Bồ
Đề vượt khỏi hết thảy các thứ lỗi
lầm như suy đoán, hư luận, có ư nghĩa “một
mực thuần thiện, trắng sạch, vi diệu”,
chẳng thể dùng thí dụ để sánh ví tương tự
được! Đấy chính là cái tâm bổn tánh chẳng
thể nghĩ bàn của chúng sanh. Có thể nhẫn chuyện
thành đạo như thế, mong cầu, nguyện vui thích
tu hành kiên cố bất động, cho nên gọi là Bồ
Đề Sách Đá (Bồ Tát). Người như thế
công nghiệp lớn nhất, kham có thể chuyển giao
[pháp vi diệu của Phật] cho hết thảy chúng sanh,
nên gọi là Ma Ha Tát
Đỏa.
Các
đại chúng như thế trước sau vây quanh Đại
Nhật Thế Tôn, tức là dùng vô lượng thân, khẩu,
ư để cúng dường, cung kính v́ nghe pháp vậy!
(Kinh)
Sở vị việt tam thời Như Lai chi nhật gia tŕ
cố, thân, ngữ, ư b́nh đẳng cú pháp môn.
(經)所謂越三時如來之日加持故,身語意平等句法門。
(Kinh: Tức là pháp môn “câu thân ngữ ư b́nh đẳng”
do được mặt trời Như Lai vượt khỏi
ba thời gia tŕ).
Kế
đó, nói về các căn cơ cùng nghe pháp trong hội tốt
đẹp ấy, tức là như kinh nói “việt tam thời
Như Lai chi nhật gia tŕ cố, thân, ngữ, ư tam cú b́nh
đẳng cú pháp môn” (pháp môn “câu thân, ngữ, ư b́nh đẳng” do được
mặt trời Như Lai vượt khỏi ba thời gia
tŕ). Kinh này được lưu truyền trong Diêm Phù Đề,
đại lược có mười vạn kệ[10].
Nếu đại chúng nhiều như số vi trần
trong mười cơi Phật, ai nấy đều rộng diễn
pháp môn sai biệt nơi thân, khẩu, ư, sẽ là chẳng
có hạn lượng, Khi thuyết pháp ấy, lại nên
như thế nào? V́ thế, người kết tập nói:
“Nhĩ thời, trụ ư Phật nhật, nhi diễn thuyết pháp” (lúc bấy giờ, trụ nơi Phật nhật mà
diễn nói pháp). Như thời phần (từng phân đoạn thời gian) trong thế gian, ắt có quá khứ, vị
lai, hiện tại, số lượng kiếp dài, ngắn,
các thứ bất đồng. Lại xét theo mặt trời
đi quanh tứ thiên hạ một ṿng, trong một ngày đêm
bèn có sơ phần, trung phần, hậu phần, cho đến
ba mươi thời v.v… Chẳng trụ trong sát-na nào,
đắp đổi, thúc đẩy nhau. Dùng mắt thanh tịnh để
xem, [sẽ thấy] tướng của ba đời trọn
chẳng thể được! Không khởi đầu,
không kết thúc, mà cũng chẳng đến, chẳng
đi. Tức vầng mặt trời Thật Tướng ấy
viên minh, thường trụ, tĩnh lặng như hư
không, chẳng có thời phần dài, ngắn sai khác!
Nhưng do thần lực của Phật, khiến cho hành
giả Du Già coi vô lượng kiếp như trong khoảng
một bữa ăn, hoặc kéo dài [thời gian] một bữa
ăn thành vô lượng kiếp. Kéo dài hay rút
gọn tự tại, đều phù hợp các căn cơ, chẳng có
tướng nhất định để có thể đạt
được. V́ thế nói là “Như Lai nhật” (vầng
mặt trời Như Lai). Trong thời gian như thế,
đức Phật nói pháp ǵ? Chính là pháp môn câu “thân, ngữ,
ư b́nh đẳng “. Nói tới các thứ ba nghiệp của
Như Lai th́ đều là đạt tới cảnh Đệ
Nhất Thật Tế mầu nhiệm tột bậc. Thân
bằng với ngữ, ngữ bằng với tâm, khác nào biển
cả trọn hết thảy mọi nơi đều có
cùng một vị mặn. V́ thế nói là “b́nh đẳng”.
“Cú” (câu) trong tiếng Phạn là Bát-đàm (Pāda), dịch sát nghĩa là Túc (chân). Nếu luận
định theo Thanh Minh, sẽ có nghĩa là “tiến hành, trụ
xứ”. Như người tiến bước, chỗ
giở chân, hạ chân in dấu được gọi là
Bát-đàm. Mỗi câu trong ngôn từ cũng có ư nghĩa
tương ứng như thế; v́ thế, được
gọi bằng cùng một danh xưng. Nay xét theo điều
được đề cao ở đây, sẽ có nghĩa
là tu theo “đạo tích” (dấu vết đạo, ư
nói: Tŕnh tự tu tập) như thế, lần lượt
tấn tu, sẽ trụ trong ba chỗ b́nh đẳng, nên gọi
là Cú. Tức là dùng thân khẩu ư gia tŕ bí mật b́nh đẳng
để làm chỗ nhập môn, nghĩa là dùng mật ấn nơi thân
b́nh đẳng, chân ngôn nơi ngữ b́nh đẳng, và diệu
quán nơi tâm b́nh đẳng làm phương tiện ḥng thấy
được Gia Tŕ Thọ Dụng Thân. Gia Tŕ Thọ Dụng
Thân như thế chính là thân trọn khắp hết thảy
của Tỳ Lô Giá Na Phật. Thân trọn khắp hết
thảy chính là trí thân b́nh đẳng của hành giả. V́
thế, người trụ trong thừa ấy, do chẳng
hành mà hành, do chẳng đến mà đến, nên gọi là
“b́nh đẳng cú” (câu b́nh đẳng). Hết thảy
chúng sanh đều nhập vào trong ấy, nhưng thật
ra chẳng thể nhập, không có chỗ để nhập,
nên gọi là “b́nh đẳng”. Pháp môn b́nh đẳng
chính là đại ư của kinh này vậy!
(Kinh)
Thời bỉ Bồ Tát, Phổ Hiền vi thượng thủ,
chư Chấp Kim Cang, Bí Mật Chủ vi thượng thủ.
Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia tŕ cố, phấn tấn thị
hiện thân vô tận trang nghiêm tạng, như thị phấn
tấn thị hiện ngữ ư b́nh đẳng vô tận
trang nghiêm tạng, phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật thân, hoặc
ngữ, hoặc ư sanh, nhất thiết xứ khởi diệt
biên tế bất khả đắc, nhi Tỳ Lô Giá Na nhất
thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp,
nhất thiết ư nghiệp, nhất thiết xứ, nhất
thiết thời, ư hữu t́nh giới, tuyên thuyết
chân ngôn đạo cú pháp. Hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ
Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo,
phổ ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm, năi chí Thập Địa, thứ đệ thử
sanh măn túc, duyên nghiệp sanh tăng trưởng, hữu
t́nh loại nghiệp thọ chủng trừ, phục hữu
nha chủng sanh khởi.
(經)時彼菩薩,普賢為上首;諸執金剛,祕密主為上首。毘盧遮那如來加持故,奮迅示現身無盡莊嚴藏,如是奮迅示現語意平等無盡莊嚴藏,非從毘盧遮那佛身或語或意生,一切處起滅邊際不可得。而毘盧遮那一切身業、一切語業、一切意業,一切處、一切時,於有情界宣說真言道句法。又現執金剛、普賢、蓮華手菩薩等像貌,普於十方宣說真言道清淨句法。所謂初發心乃至十地次第此生滿足,緣業生增長有情類業壽種除,復有牙種生起。
(Kinh: Khi ấy, Phổ Hiền làm thượng
thủ của các vị Bồ Tát ấy, Bí Mật Chủ
làm thượng thủ của các vị Chấp Kim Cang. Do
Tỳ Lô Giá Na Như Lai gia tŕ, bèn dũng mănh thị hiện
tạng vô tận trang nghiêm nơi thân, dũng mănh thị hiện
tạng vô tận trang nghiêm b́nh đẳng nơi ngữ và
ư như thế, chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc
ư của Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt
trong hết thảy các chỗ đều chẳng thể
được, nhưng hết thảy thân nghiệp, hết
thảy ngữ nghiệp, hết thảy ư nghiệp của
Tỳ Lô Giá Na Phật, đều trong hết thảy chỗ,
hết thảy thời, trong hữu t́nh giới, tuyên nói cú
pháp của đạo chân ngôn. Lại hiện các h́nh tướng
như Chấp Kim Cang, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ
Tát v.v… để trọn khắp mười phương
tuyên nói cú pháp chân ngôn đạo thanh tịnh, tức là từ sơ phát tâm cho đến
Thập Địa, lần lượt được trọn
đủ [các địa vị ấy] trong đời này,
đoạn trừ nghiệp và thọ mạng do
nương theo nghiệp mà sanh khởi và tăng trưởng
nghiệp của các loài hữu t́nh, lại c̣n sanh khởi mầm
mống [giải thoát]).
Do sắp nói pháp môn b́nh đẳng
này, trước hết, dùng tự tại gia tŕ để cảm động
đại chúng, đều hiện cảnh giới Phổ
Môn bí mật trang nghiêm, và chuyện chưa từng có, chẳng
thể nghĩ bàn. Do họ nghi vấn mà [đức Phật]
diễn nói, khiến cho người nghe tin ưa gấp bội,
thâm nhập ư nghĩa nơi ngôn từ, như các nhân duyên
trong Tự Phần và phẩm Tùng Địa Dũng Xuất
của kinh Pháp Hoa; ở đây sẽ nói rộng. Lại nữa,
các vị nhân giả thượng thủ như Phổ Hiền,
Bí Mật Chủ v.v… chính là trí thân sai biệt của đức
Tỳ Lô Giá Na, đă thông đạt cảnh giới như
thế từ lâu. Nhưng các vị thiện tri thức hiển
hiện trong các môn giải thoát ấy, mỗi vị đều
dẫn dắt vô lượng người đương
cơ cùng nhập pháp giới Mạn-đồ-la. V́ tạo
lợi ích cho các Bồ Tát bắt đầu nhập pháp
môn, thật sự tu hành, được Như Lai gia tŕ, mà
dũng mănh thị hiện sức đại thần thông.
Như sư tử chúa sắp rống vang, ắt trước
hết sẽ vươn duỗi thân ḿnh, thể hiện
năng lực, sau đó mới phát ra
tiếng. Như Lai cũng thế, do sắp nhất định
sư tử hống để tuyên nói hết thảy trí
môn, trước hết bèn dũng mănh thị hiện vô tận
trang nghiêm tạng. Nói “trang nghiêm” chính là nói từ một
thân b́nh đẳng mà hiện trọn khắp hết thảy
các oai nghi. Các oai nghi như thế, không ǵ chẳng phải
là mật ấn. Từ một b́nh đẳng ngữ, hiện
trọn khắp hết thảy các âm thanh. Các âm thanh như
thế, không ǵ chẳng phải là chân ngôn. Từ một tâm
b́nh đẳng, hiện trọn khắp hết thảy Bổn
Tôn. Các vị Bổn Tôn như thế, không ǵ chẳng
phải là tam-muội. Nhưng mỗi một tướng
sai biệt trong ba nghiệp đều là không có ngằn mé,
chẳng thể đo lường, nên gọi là “vô tận
trang nghiêm”.
Kinh
Như Lai Bí Mật Huệ chép: “Trừ Cái Chướng Bồ
Tát ư pháp hội trung, dục tri Phật thân lượng
cố, lệnh Đại Mục Kiền Liên tầm chi. Mục
Liên thượng chí Phạm cung, do đổ Như Lai
nhược đối mục tiền. Phật thân oai nghi,
thuyết pháp âm thanh, dữ bổn vô dị, năi chí tận kỳ thần lực,
văng nghệ tha phương Phật độ, diệc bất
dị Phạm cung. Nhĩ thời, Trừ Cái Chướng
Bồ Tát cập dĩ Mục Liên bất năng trắc cố,
tự văng quán sát, quá thập phương các như Hằng
hà sa thế giới, giai kiến Như Lai bất khởi
vu ṭa, nhi diễn thuyết pháp. Năi chí châu cực thập
phương, tận kỳ thần thông thế lực, diệc
phục như thị. Nhiên hậu hoàn quy, phương kiến
Trừ Nghi thiên nữ khứ Phật bất viễn, kiến
nhập ư tam-muội, tiện tác thị niệm: ‘Ngă
văn thử thiên nữ, thông đạt vô lượng
tam-muội môn. Ngă đương quán chi, kim trụ hà định
dă’. Hựu tận tâm lực quán chi, bất trắc kỳ
tâm sở hành chi xứ, tụ tập vô lượng thiên cổ,
nhất nhất giai như Tu Di sơn vương, dĩ thần
lực đồng thời phát thanh, dục linh xuất
định, nhi bất năng đắc, năi chí Phật
ngôn: - Ngă vị phát Bồ Đề tâm thời, thị
thiên nữ dĩ năng trụ thử tam-muội” (Trừ Cái Chướng Bồ Tát ở trong pháp hội,
muốn biết thân lượng của đức Phật,
bèn sai Đại Mục Kiền Liên t́m kiếm. Ngài Mục
Liên lên tới cung điện của Phạm vương, vẫn
thấy Như Lai như ở ngay trước mắt. Oai
nghi nơi thân Phật, âm thanh thuyết pháp chẳng khác ǵ ở
ngay nơi đây. Cho đến trọn hết thần lực,
qua tới cơi Phật ở phương khác, cũng chẳng
khác ǵ nơi cung điện Phạm vương. Lúc bấy
giờ, Trừ Cái Chướng Bồ Tát do thấy Mục
Liên chẳng thể đo lường, bèn tự đi quán
sát, qua khỏi các thế giới nhiều như cát sông Hằng
trong mỗi phương thuộc mười phương,
đều thấy Như Lai chẳng rời khỏi ṭa mà
diễn nói pháp. Thậm chí trọn khắp cùng cực
mười phương, trọn hết thế lực thần
thông của chính ḿnh, cũng vẫn là như thế. Sau
đó, Ngài trở về, mới thấy thiên nữ Trừ
Nghi ở cách đức Phật chẳng xa, thấy cô ta
đang nhập tam-muội, liền nghĩ thế này: ‘Ta
nghe nói vị thiên nữ này thông đạt vô lượng
tam-muội, ta hăy nên quán xem cô ta đang trụ trong môn Định
nào’. Lại tận hết tâm lực để quán, chẳng
thể ḍ lường chỗ tâm hạnh của cô ta, bèn tụ
tập vô lượng trống trời. Mỗi cái trống
đều to như núi chúa Tu Di, dùng thần lực khiến
trống cùng lúc phát ra tiếng, toan ép cho cô ta xuất định,
nhưng chẳng thể được. Cho đến khi
đức Phật nói: - Khi ta chưa phát Bồ Đề
tâm, vị thiên nữ này đă có thể trụ trong môn
tam-muội ấy). Đấy chính là ư nghĩa “vô biên tế
“ (không có ngằn mé vậy).
Đức
Tỳ Lô Giá Na nhập trọn khắp hết thảy các thế
giới trong mười phương như thế, mỗi
mỗi đều hiện thân gia tŕ của Phật. Mỗi
thân ấy đều có đại chúng Bồ Tát và Kim Cang
nhiều bằng số vi trần trong mười cơi Phật.
Các căn và tướng hảo của đại chúng
cũng lại vô biên, như dầu mè đầy khắp
pháp giới. Trong ấy, chẳng có khe hở nào! Lại
như quốc vương có kho tàng lớn, nếu cần
phô bày cho người khác thấy, sẽ tự tại mở
toang để phô bày. V́ thế nói là “trang nghiêm tạng”.
Lại
nữa, các đại chúng ấy chỉ do sức oai thần
của Phật mà được thấy cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn như thế. Nếu Như Lai
chẳng gia tŕ, sẽ chẳng hiện tiền, [v́ cảnh giới ấy] chẳng thuộc vào hạn
lượng mà tự tâm có thể biết được!
Như hành giả trong th́ tu tập Ban Châu tam-muội, ngoài
th́ được thần lực hộ tŕ, sẽ có thể
từ cái thân do cha mẹ sanh ra mà thấy mười
phương chư Phật, như đêm quang đăng, không
mây, ngửa mặt lên, trông thấy các ngôi sao, lắng nghe
pháp âm, rành rẽ vô ngại. Nhưng cảnh giới ấy
sanh từ tâm thanh tịnh của hành giả ư? Hay do Phật
gia hộ mà sanh ra ư? Nếu do nội tâm [của hành giả],
tức là sanh từ tự tánh. Nếu từ Phật lực,
tức là sanh từ tha tánh. [Nếu vậy] sẽ đều chẳng khác luận nghĩa của ngoại
đạo! Do tự lẫn tha đều
không có, ḥa hợp cũng không có. Lại chẳng phải là
không có nhân duyên mà được thành tựu. V́ lẽ
nào? Hễ nội nhân và ngoại duyên có đằng nào thiếu
khuyết, sẽ chẳng hiện tiền. Hăy nên biết
tướng trang nghiêm như thế, khi hiển hiện th́
chẳng từ đâu tới, lúc ẩn th́ cũng chẳng
đi về đâu, do rốt ráo b́nh đẳng chẳng ra
ngoài Như! Kinh dạy: “Phi tùng Tỳ Lô Giá Na Phật
thân, hoặc ngữ, hoặc ư sanh, nhất thiết xứ
khởi diệt biên tế bất khả đắc. Nhi Tỳ Lô Giá Na
nhất thiết thân nghiệp, nhất thiết ngữ nghiệp,
nhất thiết ư nghiệp, nhất thiết xứ, nhất
thiết thời, ư hữu t́nh giới, tuyên thuyết
chân ngôn đạo cú pháp” (Chẳng sanh từ thân, hoặc ngữ, hoặc ư của
Tỳ Lô Giá Na Phật, ngằn mé khởi diệt trong hết
thảy các chỗ đều chẳng thể được,
nhưng hết thảy thân nghiệp, hết thảy ngữ
nghiệp, hết thảy ư nghiệp của Tỳ Lô Giá Na
Phật, đều trong hết thảy chỗ, hết thảy
thời, trong hữu t́nh giới, tuyên nói cú pháp của đạo chân
thật). Đấy là lần lượt giải thích v́
sao tạng trang nghiêm của Phật vô tận, chẳng có
ngằn mé, do chẳng khác thân thường trụ bất
diệt, trọn khắp hết thảy mọi chỗ của
Như Lai. Tuy thường chẳng khởi lên hay diệt mất,
nhưng có thể dùng hết thảy ba nghiệp để
trong trọn khắp mười phương ba đời,
hết thảy thời, hết thảy xứ, nói đạo tối chân thật ḥng giáo hóa quần
sanh, uốn nắn tâm họ cho tới khi đạt
đến Phật đạo.
Kinh
lại nói “hựu hiện Chấp Kim Cang, Phổ Hiền,
Liên Hoa Thủ Bồ Tát đẳng tượng mạo, phổ
ư thập phương, tuyên thuyết chân ngôn đạo
thanh tịnh cú pháp, sở vị sơ phát tâm năi chí Thập
Địa, thứ đệ thử sanh măn túc, duyên nghiệp
sanh tăng trưởng hữu t́nh loại nghiệp thọ
chủng trừ, phục hữu nha chủng sanh khởi” (lại hiện tướng mạo của Chấp
Kim Cang Thủ, Phổ Hiền, Liên Hoa Thủ Bồ Tát v.v…
để trọn khắp mười phương tuyên nói
pháp chân ngôn đạo thanh tịnh cú, tức là từ
sơ phát tâm cho đến Thập Địa, lần
lượt viên măn [các địa vị ấy] ngay trong một
đời này, đoạn trừ nghiệp, thọ mạng
do duyên theo nghiệp mà sanh khởi, tăng trưởng của
các loài hữu t́nh, lại có mầm mống sanh khởi
[đạo giải thoát]) chính là nói rộng tướng
trên đây. [Đoạn kinh văn trên đây] ư nói không chỉ
thị hiện thân Phật đầy khắp hết thảy
các thế giới trong mười phương, mà c̣n hiện thân Kim Cang, Bồ Tát v.v… cũng lại trọn khắp hết
thảy mọi nơi. Hơn nữa, các vị Chấp Kim
Cang, Bồ Tát v.v… nhiều như số vi trần trong
mười cơi Phật, thân khẩu tâm ấn sai biệt bất
đồng. Tướng loại, quyến thuộc của
các Bổn Tôn như thế, đều như đức Tỳ
Lô Giá Na đầy khắp hết thảy các thế giới
trong mười phương, như lưới Nhân Đà
La (lưới bảo châu của Đế Thích, các viên châu
soi bóng lẫn nhau) chẳng trở ngại nhau. Nay nêu đại
lược ba vị thánh (Chấp Kim Cang, Phổ Hiền,
Liên Hoa Thủ), gọi là các vị cầm đầu. Chấp Kim Cang tương ứng
với Kim Cang trí huệ môn, là phương tiện hàng phục.
Phổ Hiền tương ứng Pháp Thân môn Như
Như, là phương tiện dứt trừ
tai ương. Quán Âm (Liên Hoa Thủ) tương ứng với
Liên Hoa tam-muội môn, là phương tiện tăng ích. Nêu
ra ba điểm ấy, vô lượng diệu dụng chẳng
thể nghĩ bàn đều được thâu nhiếp
trong ấy. V́ thế, đặc biệt nhắc đến.
Nói
là “đẳng”, tức là cho đến chư thiên,
tám bộ, ngũ thông thần tiên, các điều được
biểu thị bằng Mạn-đồ-la hiện ra bên ngoài, cũng chuẩn theo đó mà suy ra. Các thứ
nhân duyên, vô số phương tiện phổ môn ứng hiện
nhằm giáo hóa quần sanh như thế, tuy sâu hay cạn
khác nhau, thô hay tế khác biệt, nhưng xét theo sự thật,
không ǵ chẳng phải là được bí mật gia tŕ, mỗi
mỗi đều có thể khai thị tri kiến thanh tịnh
của Như Lai. Nếu ĺa khỏi ấn Thật Tướng
như thế, các thứ khác đều do ái kiến sanh ra,
là bè lũ của thiên ma ngoại đạo, há đáng gọi
là “câu nghĩa thanh tịnh” ư? Kế đó, lại
giải thích rằng: Cái gọi là “thanh tịnh cú” (câu
thanh tịnh) chính là “đốn giác thành Phật thần
thông thừa”. Nếu
Bồ Tát thuộc các thừa khác, chí cầu Vô Thượng
Bồ Đề, siêng khổ đủ mọi lẽ, chẳng
tiếc thân mạng, trải qua vô số A-tăng-kỳ kiếp,
nhưng có vị thành Phật, có vị chẳng thành! Nay Bồ
Tát thuộc Chân Ngôn môn, nếu có thể tu hành chẳng thiếu
khuyết pháp tắc, phương tiện, thậm chí ngay
trong một đời này, sẽ thấy cảnh giới
gia tŕ vô tận trang nghiêm, không chỉ là hiện tiền mà
thôi! Nếu muốn siêu thăng lên địa vị Phật,
giống như Đại Nhật Như Lai, th́ cũng có
thể đạt đến.
Hơn
nữa, hành giả lúc sơ phát tâm, được nhập
môn chữ A (अ), chính là từ kim cang tánh của Như Lai mà nẩy mầm.
Hăy nên biết khi cái mầm ấy vừa sanh, sẽ có ư
nghĩa “lần lượt tăng tấn, chẳng c̣n lui
sụt”, cho đến khi thành Bồ Đề, không có hạnh
nào để tăng thêm. Sau đấy mới dừng nghỉ,
nên nói là “thứ đệ thử sanh măn túc” (lần
lượt viên măn [các địa vị ấy] trong một
đời này). Chữ “thứ đệ” ở
đây trong tiếng Phạn có các ư nghĩa “chẳng trụ, tinh tấn, hành trọn khắp”. Tức là nói sơ phát tâm do muốn nhập địa
vị Bồ Tát, đối với pháp yếu và
phương tiện chân ngôn này bèn tu hành, đạt tới
Sơ Địa. Lúc bấy giờ, dùng cái tâm vô sở trụ
tăng tấn chẳng ngưng nghỉ để viên măn
Đệ Nhị Địa. Lại nương vào pháp yếu
và phương tiện của chân ngôn để tu hành,
đạt tới Đệ Tam Địa. Lúc bấy giờ,
dùng cái tâm vô sở trụ tăng tấn không ngừng để
viên măn Đệ Tứ Địa, lại nương vào
pháp yếu và phương tiện của chân ngôn, được
nhập Ngũ Địa. Theo thứ tự như thế,
cho đến viên măn Thập Địa, chỉ dùng một
hạnh, một đạo để thành Chánh Giác. Nếu
đối với phương tiện môn khác mà khai hiển
mật ư, cũng đều chẳng ĺa thừa báu như
thế.
“Duyên nghiệp sanh” tức là nói tới nhân duyên si ái của hữu t́nh, tạo
thành các thứ nghiệp chẳng thanh tịnh, hư vọng
nơi thân, khẩu, ư. Nương vào các nghiệp như thế
mà sanh làm các thân trong sáu đường, tăng
trưởng luân hồi, hứng chịu đủ mọi
nỗi khổ! Nay tu tam nghiệp thanh tịnh b́nh đẳng
huệ môn, hết thảy các chủng tử của nghiệp
và thọ mạng trong Uẩn A Lại Da Thức đều bị đốt sạch,
trừ diệt, đạt được hư không vô cấu
đại Bồ Đề tâm. Chủng tử b́nh đẳng
của hết thảy Như Lai từ trong bi tạng sẽ
nẩy sanh mầm pháp tánh, cho đến thân, lá, hoa, quả
trọn khắp các pháp giới, trở thành Bồ Đề
thụ vương vạn đức nở x̣e. Nhưng
dùng nghĩa Tứ Bất Sanh để quán, sẽ đều
là “chẳng có ǵ khởi lên” mà cũng “chẳng có chỗ
để khởi lên”. Hăy nên biết cái Sanh ấy chính là
Đại Không Sanh. V́ thế nói: Chủng tử của nghiệp và thọ
mạng của loài hữu t́nh đă trừ diệt, lại
có mầm mộng [pháp tánh giải thoát] sanh khởi.
Lại
nữa, các vị thiện tri thức và pháp giới môn nhiều
như số vi trần trong mười cơi Phật do
Như Lai đă hiện, nếu theo thứ tự xem nghe, sẽ
là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp chẳng thể
[thấy, nghe] trọn khắp được! Do Phật nhật
gia tŕ, trong khoảnh khắc ngồi nơi pháp hội mà thảy
đều hiện tiền. Tức là khi sắp nói kinh này,
bèn phơi bày thụy tướng thần thông chẳng thể
nghĩ bàn. Như ngài Văn Thù Sư Lợi thấy [quang
minh phát ra từ tướng] bạch hào [của đức
Phật] chiếu thấu các thứ nhân duyên của các vị
Bồ Tát trong một vạn tám ngàn cơi đều là hành Bồ Tát đạo, liền
biết rơ chư Phật sắp khai Quyền hiển Thật,
nói kinh Pháp Hoa. Hăy nên biết các vị như Kim Cang Thủ
v.v… cũng giống như thế, thấy thế giới
được gia tŕ trọn khắp, chỉ nói pháp môn b́nh
đẳng, liền biết Như Lai sắp diễn nói
giáo pháp “tự tâm thành Phật” trọn khắp hết
thảy các thừa. V́ thế, lời
thưa hỏi trong phần kinh văn tiếp theo chính là dựa
theo đấy mà sanh khởi vậy.
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ, ư bỉ
chúng hội trung tọa, bạch Phật ngôn: - Thế Tôn!
Vân hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đắc Nhất
Thiết Trí trí? Bỉ đắc Nhất Thiết Trí trí, vị
vô lượng chúng sanh, quảng diễn phân bố, tùy chủng
chủng thú, chủng chủng tánh dục, chủng chủng
phương tiện đạo, tuyên thuyết Nhất Thiết
Trí trí, hoặc Thanh Văn thừa đạo, hoặc Duyên
Giác thừa đạo, hoặc Đại Thừa đạo,
hoặc ngũ thông trí đạo, hoặc nguyện sanh
thiên, hoặc sanh nhân trung, cập long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà,
năi chí thuyết sanh Ma Hầu La Già pháp. Nhược hữu
chúng sanh ưng Phật độ giả, tức hiện Phật
thân, hoặc hiện Thanh Văn thân, hoặc hiện Duyên
Giác thân, hoặc Bồ Tát thân, hoặc Phạm thiên thân, hoặc
Na La Diên, Tỳ Sa Môn thân, năi chí Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân
đẳng thân, các các đồng bỉ ngôn âm, trụ chủng
chủng oai nghi, nhi thử Nhất Thiết Trí trí đạo
nhất vị, sở vị Như Lai giải thoát vị.
(經)爾時執金剛祕密主於彼眾會中坐,白佛言:世尊!云何如來、應供、正遍知得一切智智?彼得一切智智,為無量眾生廣演分布,隨種種趣、種種性欲、種種方便道宣說一切智智,或聲聞乘道、或緣覺乘道、或大乘道、或五通智道,或願生天、或生人中,及龍、夜叉、乾闥婆,乃至說生摩睺羅伽法。若有眾生應佛度者,即現佛身、或現聲聞身、或現緣覺身、或菩薩身、或梵天身、或那羅延毘沙門身,乃至摩睺羅伽人非人等身,各各同彼言音,住種種威儀。而此一切智智道一味,所謂如來解脫味。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngồi ở
trong chúng hội ấy bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào? Đă
đắc trí Nhất Thiết Trí, v́ vô lượng chúng sanh
rộng diễn, lưu truyền, tùy theo các loại
đường [thọ sanh], các loại tánh t́nh ưa thích,
các thứ phương tiện đạo mà tuyên nói trí Nhất
Thiết Trí, hoặc đạo Thanh Văn thừa, hoặc
đạo Duyên Giác thừa, hoặc đạo Đại
Thừa, hoặc đạo ngũ thông trí, hoặc nguyện
sanh lên trời, hoặc sanh trong loài người, và rồng,
Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cho đến nói pháp sanh làm Ma Hầu La
Già. Nếu có chúng sanh đáng nên dùng [thân] Phật để
độ, liền hiện thân Phật, hoặc hiện
thân Thanh Văn, hoặc hiện thân Duyên Giác, hoặc thân Bồ
Tát, hoặc thân Phạm Thiên, hoặc thân Na La Diên, Tỳ Sa
Môn, cho đến các thân Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân v.v… Mỗi
thân đều giống với ngôn âm của từng loài, trụ
trong các thứ oai nghi, nhưng đạo trí Nhất Thiết
Trí ấy chỉ có một vị, tức là vị giải
thoát của Như Lai).
Trí
do Như Lai tự chứng, dẫu dùng thần lực gia
tŕ, vẫn chẳng thể chỉ bày cho kẻ khác. Phần
trước đă nói “dũng mănh thị hiện vô tận
trang nghiêm tạng” đều là dấu tích thuộc tác dụng
bên ngoài mà thôi! Người trí trông thấy các cành nhánh ấy, liền
biết đó là để
sánh ví điều cốt lơi. Như
nh́n vào dấu chân voi vượt trội các loài thú khác, [do thấy] vết giẫm đạp sâu rộng gấp bội,
tuy chẳng thấy h́nh vóc của nó, vẫn biết con voi ấy
ắt có sức mạnh to lớn. Lại như sấm rền,
tuôn mưa, có thể khiến cho chim, thú bị chấn
động mà chết, trăm sông ồ ạt chảy, núi
vỡ nghiêng sụp. Tuy chẳng ḍ lường cội gốc,
vẫn biết oai thế của con rồng [tuôn mưa] ấy ắt to lớn. Nay các đại chúng cũng giống
như thế, do quán thân, khẩu, ư vô tận của Như
Lai có thể cùng lúc ứng hiện trọn khắp các chúng sanh trong pháp giới, khéo phù hợp căn tánh,
cơ nghi, uyển chuyển thành tựu Phật sự, sẽ
biết trí lực của Như Lai ắt trong một niệm
xét soi trọn khắp nhân duyên gốc ngọn của các
căn cơ rốt ráo vô ngại. Quyền xảo chiếu
Tục Đế mà c̣n như thế, vậy th́ cảnh giới
khế Thật sẽ là như thế nào? Nếu pháp chẳng
vậy, ắt sẽ có dấu vết nhỏ nhiệm
để ḍ t́m. Tôi đă nh́n trọn hết, nhưng chẳng biết
pháp ấy do đâu
mà đạt được! V́ thế, do chúng hội có
ḷng nghi, ngài Chấp
Kim Cang Thủ bèn hỏi đức Phật rằng: “Vân
hà Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri đắc Nhất Thiết Trí trí?” (Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến
Tri đắc trí Nhất Thiết Trí như thế nào?)
Bản
tiếng Phạn ghi [Như Lai] là Đát Tha Yết Đa (Tathāgata), Đát Tha (Tathā) nghĩa
là Như, Yết Đa (Gata)
nghĩa là Lai (đến), nghĩa
là “hiểu biết, nói, đi”. Như chư Phật
nương vào đạo Như Thật mà đến thành
Chánh Giác, nay đức Phật cũng đến như thế, nên gọi là
Như Lai. Hết thảy chư Phật đều đă
hiểu biết đúng như Thật Tướng của
các pháp, lại cũng đúng như Thật Tướng của
các pháp mà nói cho chúng sanh. Nay đức Phật cũng
như thế, nên gọi là Như Thật Tri Giả
(đấng biết đúng như thật), cũng gọi
là Như Thật Thuyết Giả
(đấng nói đúng như sự thật). Hết thảy
chư Phật đạt được tánh an lạc
như thế, măi cho đến khi nhập Niết Bàn, nay đức Phật [Thích Ca] cũng đi như
thế, cho nên gọi là Như Khứ. Thích Luận nêu trọn
đủ bốn nghĩa, nhưng các bản dịch theo lối
cổ phần nhiều nói là Như Lai. Giới bổn của
Hữu Bộ (Nhất Thiết Hữu Bộ) th́ ghi là
Như Khứ. Theo ư của A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) th́ giữ
thêm các ư nghĩa Như Khứ, Như Thuyết. Nay tôi vẫn
thuận theo cách ghi của cổ nhân vậy.
Bản
tiếng Phạn ghi [Ứng Cúng] là A La Ha (Arhat), A La là phiền
năo, Ha nghĩa là “làm hại, trừ bỏ”. Thích Luận
giảng [A La Ha] là Sát Tặc (giết giặc). Phật
dùng áo giáp Nhẫn, Tấn (nhẫn nhục và tinh tấn),
cưỡi ngựa Tŕ Giới, cầm cung Định, tên Huệ, ngoài là phá
quân ma vương, trong là diệt giặc phiền năo. Do vậy,
có tên như thế. Lại nữa, A là Bất, La Ha là Sanh.
Ư nói: Chủng tử trong Phật tâm chẳng sanh trong ruộng
đời sau[11],
do đă tróc vỏ trấu vô minh. Lại nữa, A La Ha có
nghĩa là “đáng nhận cúng dường” (do vậy,
dịch là Ứng Cúng). Do có công đức như thế,
đáng nhận sự cúng dường tối thượng
của trời, người. V́ vậy, có tên như thế.
Bản
tiếng Phạn ghi [Chánh Biến Tri] là Tam Miệu Tam Phật
Đà (Samyak-saṃbuddha), Tam Miệu (Samyak)
là Chánh, Tam (Saṃ) là Biến (trọn khắp), Phật Đà (Buddha) là Tri. V́ thế nói là Chánh Biến Tri. Thích Luận nói: “Nếu
có người nói v́ cớ sao chỉ có Phật là như thật
nói như lai, như khứ, đáng nhận cúng dường
tối thượng? Do Phật đắc chánh biến trí
huệ. Chánh tức là tướng bất hoại, bất
động của các pháp. Biến là do chẳng là một
hoặc hai pháp, mà là đều biết trọn khắp hết
thảy các pháp chẳng sót, nên gọi là Tam Miệu Tam Phật
Đà”. Nhưng điều được đề cao
ở đây, Phật Đà là giác, có nghĩa là “khai phu” (nở
x̣e), ư nói: Do trí huệ tự nhiên mà giác ngộ trọn khắp
hết thảy các pháp, như hoa sen nở rộ, chẳng
có chút nhuốm bẩn nào, và cũng có thể khiến cho
[hoa giác ngộ của] hết thảy chúng sanh x̣e nở. V́
thế, gọi là Phật.
Tiếng
Phạn là Tát Bà Nhă Na (Sarvajña), tức là trí Nhất Thiết Trí. Thích Luận giảng:
“Tát Bà Nhă Na tức là Nhất Thiết Trí. Nhất Thiết
tức là nói vô lượng pháp môn như danh, sắc v.v… Mỗi môn đều thâu nhiếp hết thảy các
pháp. Như thế vô lượng ba, bốn, năm, sáu v.v…
cho đến A-tăng-kỳ pháp môn đều thâu nhiếp
hết thảy các pháp. Trong hết thảy các pháp ấy,
đối với nhất tướng, dị tướng,
lậu tướng, phi lậu tướng, tác tướng,
phi tác tướng v.v… mỗi một tướng, mỗi một lực, mỗi
một nhân duyên, mỗi một quả
báo, mỗi mỗi tánh, mỗi mỗi
ưu khuyết của từng pháp, do sức của Nhất Thiết Trí Huệ,
đều hiểu biết cùng tận trọn khắp hết
thảy các đời, hết thảy các loại. Đó gọi
là Tát Bà Nhă”. Nay nói “trí Nhất
Thiết Trí”, tức là trí cao tột nhất trong các trí.
Không chỉ do hết thảy các loại mà biết trọn
khắp hết thảy các pháp, mà c̣n là biết tướng thường, rốt ráo bất hoại Thật Tế của các
pháp ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, giống
như kim cang. Đối với
cảnh tự chứng như thế,
người nói sẽ không có ngôn từ [nào để diễn
tả được], người quán chẳng thấy,
chẳng giống như quả Am Ma Lặc (Āmalakī)[12] trong tay có thể chuyển giao cho người khác
được! Nếu có thể dùng ngôn ngữ để
trao truyền cho người khác, khi Thích Ca Bồ Tát
được Phật Định Quang (Nhiên Đăng Phật)
thọ kư, phải nên lập tức thành Phật. V́ sao phải
tu đủ mọi phương tiện, phải đợi
tới khi “không thầy mà tự giác ngộ” mới gọi
là Phật ư? Lại như mắt thấy người
đời bị đao, gậy gây thương tổn, tuy
vẫn tin họ chịu khổ chẳng c̣n ngờ vực,
nhưng dẫu nói đủ mọi cách, [tự thân người nghe nói hay chứng kiến]
trọn chẳng chứng biết [nỗi đau khổ ấy]!
Nếu tự thân tiếp xúc, hứng chịu, sẽ hiểu
rơ ngay!
Ư
của lời hỏi là: Làm thế nào để chúng con
cũng sẽ đạt được trí huệ tự
giác như thế? Làm thế nào để đắc huệ
ấy rồi, sẽ có thể v́ vô lượng chúng sanh rộng
diễn nói, lưu truyền, tùy thuộc các thứ căn
tánh và ư thích của [chúng sanh trong] các đường, mà dùng đủ
loại phương tiện để tuyên
nói trí Nhất Thiết Trí. Đó gọi là “an lập vô
lượng thừa, thị hiện vô lượng thân”,
mỗi thân có cùng ngôn âm với họ (chúng sanh được
hóa độ), trụ trong oai nghi của họ, nhưng
đạo Nhất Thiết Trí ấy vẫn có cùng một
vị, tức là vị giải thoát của Như Lai.
Phương tiện mầu nhiệm ấy lại làm
như thế nào để có thể đạt được?
Các loại đường trong ấy, tiếng Phạn là
Na Diễn, cũng gọi là Hành, hoặc gọi là Đạo.
Kế đó nói Đại Thừa đạo v.v… có ư
nghĩa tương đồng. Luận Tỳ Bà Sa nói có năm đạo, người theo Ma
Ha Diễn (Đại Thừa) phần nhiều nói là “lục
đạo”. Rộng
diễn nói như thế, cho đến trong thế giới
này, đă có ba mươi sáu câu-chi các đường chúng
sanh, huống hồ mười phương thế giới
ư?
“Tánh dục”: “Dục” là tin ưa, yêu thích. Như Tôn Đà
La Nan Đà yêu thích ngũ dục, Đề Bà Đạt
Đa chuộng tiếng tăm v.v… Cho đến những
người đắc đạo, ai nấy cũng đều có
ưa thích riêng: Ngài Đại Ca Diếp chuộng hạnh
Đầu Đà, ngài Xá Lợi Phất ưa thích trí huệ,
ngài Ly Ba Đa chuộng tọa Thiền, ngài Ưu Bà Ly thích
Tỳ Ni (giới luật), A Nan chuộng đa văn v.v…
hăy nên nói rộng. Tánh là “tích tập”. Tướng sanh
từ tánh, Dục là thuận theo tánh mà thực hiện hạnh.
Hoặc có lúc thuận theo dục là tánh, hoặc do thói quen
ưa chuộng mà thành tánh. Tánh [ở đây] là tâm ô nhiễm. Cái tâm ô nhiễm v́ sự ưa chuộng
nơi mặt Sự th́ gọi là “tùy duyên khởi” (thuận
theo duyên mà dấy lên). Trong Thích Luận đă nói cặn kẽ
chuyện này.
“Chủng chủng phương tiện
đạo” (Các thứ đạo phương tiện):
Ngài Long Thọ nói: “Bát Nhă và phương tiện có cùng một
bản thể, nhưng tác dụng sai khác. Ví như thợ
kim hoàn do phương tiện khéo, dùng vàng chế thành đủ
mọi vật khác nhau, tuy đều là vàng mà mỗi món có
tên gọi khác biệt”. Nay đức Tỳ Lô Giá Na
cũng lại như thế, có thể trong hết thảy
mọi nơi, dùng vàng “trí thể” để tạo đủ mọi thừa.
Lại
nữa, trong ư hỏi ở đây chính là nhằm phát khởi
Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la. Trong tâm địa
Tát Bà Nhă b́nh đẳng, vẽ thành bốn loại pháp giới viên đàn của chư Phật, Bồ
Tát, cho tới Nhị Thừa, tám bộ v.v… Thân, ngữ, tâm
ấn của mỗi vị Bổn Tôn ấy đều là
một loại thừa sai biệt. Lại như có người
chí cầu ngũ thông trí đạo, liền từ Đại
Bi Thai Tạng mà hiện h́nh tướng Vi Đà phạm
chí[13],
v́ người đó nói chân ngôn và hành pháp của các vị
như Cù Đàm Tiên[14]
v.v… Hành giả siêng ṛng chẳng lâu bèn thành thân vị tiên ấy,
lại chuyển phương tiện, liền thành thân Tỳ
Lô Giá Na. Như thế th́ hoặc là hiện thân Phật
để nói các thứ thừa, cho đến hiện thân
phi nhân để nói các thứ thừa. Tùy từng loại
mà h́nh tướng và âm thanh đều là chân ngôn, mật ấn,
hoặc đă lâu, hoặc gần đây, không ǵ chẳng phải
là “nhân duyên cái trống bôi thuốc độc”[15].
V́ thế, kinh dạy: “Giai đồng nhất vị, sở
vị Như Lai giải thoát vị” (đều cùng một
vị, chính là vị giải thoát của Như Lai). V́ lẽ
nào vậy? Sắc, tâm, Thật Tướng của hết
thảy chúng sanh từ Bổn Tế đến nay, thường
luôn là trí thân b́nh đẳng của Tỳ Lô Giá Na Phật,
chẳng phải là khi đắc Bồ Đề sẽ
cưỡng ép các pháp đều là Không mà thành pháp giới!
Phật từ tâm địa b́nh đẳng để khai
phát vô tận trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la
rồi, lại c̣n dùng đó để khai
phát sự diệu cảm, diệu ứng trong vô tận
trang nghiêm tạng đại Mạn-đồ-la nơi tâm
địa b́nh đẳng của chúng sanh, đều không
ra ngoài môn chữ A. Hăy nên biết phương tiện
được sanh khởi bởi nhân duyên cảm ứng
cũng chẳng vượt ngoài môn chữ A. Ví như trong
biển cả, sóng ṃi va đụng lẫn nhau, lần
lượt làm năng và sở, nhưng vẫn là cùng một
vị, tức là vị mặn vậy!
(Kinh) Thế Tôn! Thí như hư không giới, ly nhất thiết
phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt. Như thị
Nhất Thiết Trí trí ly nhất thiết phân biệt, vô
phân biệt, vô vô phân biệt. Thế Tôn! Thí như đại
địa, nhất thiết chúng sanh y. Như thị Nhất
Thiết Trí trí, thiên, nhân, A Tu La y. Thế Tôn! Thí như hỏa
giới, thiêu nhất thiết tân vô yếm túc. Như thị
Nhất Thiết Trí trí, thiêu nhất thiết vô trí tân vô yếm
túc. Thế Tôn! Thí như phong giới, trừ nhất thiết
trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ khử
nhất thiết chư phiền năo trần. Thế Tôn! Dụ
như thủy giới, nhất thiết chúng sanh y chi hoan lạc.
Như thị Nhất Thiết Trí trí, vi chư thiên, thế
nhân lợi lạc. Thế Tôn! Như thị trí huệ,
dĩ hà vi nhân? Vân hà vi căn? Vân hà cứu cánh?
(經)世尊!譬如虛空界,離一切分別,無分別、無無分別。如是一切智智,離一切分別,無分別、無無分別。世尊!譬如大地,一切眾生依。如是一切智智,天、人、阿脩羅依。世尊!譬如火界,燒一切薪無厭足。如是一切智智,燒一切無智薪無厭足。世尊!譬如風界,除一切塵。如是一切智智,除去一切諸煩惱塵。世尊!喻如水界,一切眾生依之歡樂。如是一切智智,為諸天世人利樂。世尊!如是智慧,以何為因?云何為根?云何究竟?
(Kinh:
Bạch Thế Tôn! Ví như hư
không giới, ĺa hết thảy phân biệt, vô phân biệt,
chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, ĺa hết thảy phân biệt, không phân biệt, chẳng
không phân biệt. Bạch Thế Tôn! Ví như đại
địa, hết thảy chúng sanh nương vào. Trí Nhất
Thiết Trí giống
như thế, được trời,
người, A Tu La nương vào. Bạch Thế Tôn! Ví
như hỏa giới, đốt hết thảy củi
không chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí
chẳng chán đủ. Bạch Thế Tôn! Ví như phong giới
trừ hết thảy bụi. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi phiền năo.
Bạch Thế Tôn! Ví như thủy giới, hết thảy
chúng sanh nương vào đó mà vui sướng. Trí Nhất
Thiết Trí giống
như thế, lợi lạc chư thiên và người đời.
Bạch Thế Tôn! Trí huệ như thế lấy ǵ làm
nhân? Ǵ là căn? Ǵ là rốt ráo?)
Lại
nữa, ngài Chấp Kim Cang nương vào thần lực của
Phật, v́ muốn phát khởi phương tiện bí mật
trong Đại Bi Thai Tạng, lại nói năm loại thí
dụ, tức là hư không, đất, nước, lửa,
và gió. Câu thứ nhất nói “thí như hư không giới,
ly nhất thiết phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt.
Như thị Nhất Thiết Trí trí, ly nhất thiết
phân biệt, vô phân biệt, vô vô phân biệt” (ví như
hư không giới ĺa hết thảy phân biệt, vô phân biệt,
chẳng không phân biệt. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, ĺa hết thảy phân biệt, vô phân biệt, chẳng
không phân biệt). Như thế chính là nghĩa lư theo Tỳ
Bà Sa, hư không chẳng có lầm lỗi, chẳng có đức.
Nay trí thân của Như Lai ĺa hết thảy lỗi, thành tựu
vạn đức, sao lại dùng hư không để sánh
ví? Chỉ là lấy chút phần tương tự để
mường tượng Đại Không đó thôi! Trong sự
sánh ví tương tự ấy, có ba nghĩa:
-
Một, do hư không rốt ráo thanh tịnh.
-
Hai, do hư không chẳng có ngằn mé.
-
Ba, do [hư không] vô phân biệt.
Tâm
tánh Nhất Thiết Trí cũng giống như thế; v́ thế,
dùng hư không mà thế gian dễ hiểu để sánh ví cái Không khó hiểu. Trước hết, nói “ĺa hết
thảy phân biệt”, tiếng Phạn là Kiếp-bả
(Vikalpa). Kế đó là “vô phân biệt”, tiếng Phạn
là Kiếp-bả-dạ-đế (Kalpa-kapayati). Sở dĩ nói lặp lại, là v́ trên phân biệt lại
nẩy sanh ư nghĩa phân biệt. Chẳng hạn như Tầm
Tứ, khi nh́n đại lược th́ là Tầm, khi suy xét
kỹ càng th́ là Tứ. Lại như khi nhăn thức sanh khởi
bèn có thô phân biệt. Kế đó, ư thức sanh khởi th́
là tế phân biệt. Dịch theo lối cũ, có khi dịch
Kiếp-bả là “vọng chấp” (chấp trước
hư vọng). Thí dụ ấy mang ư nghĩa: Giống
như hư không chẳng hư vọng chấp trước,
phân biệt, cho nên vô phân biệt mà cũng chẳng có vô phân
biệt. Lại như hư không ĺa các thứ sắc
tướng, h́nh dạng hiển hiện, chẳng có tạo
tác, mà có thể chứa đựng muôn vàn h́nh tượng,
hết thảy thảo mộc nhờ đó mà sanh trưởng,
sự nghiệp của hữu t́nh nương vào đó mà
được hoàn thành. Hư không Phật trí cũng lại
như thế, tuy ĺa hết thảy các tướng, thường
vô phân biệt khởi tác dụng, nhưng vô lượng
Độ môn, các thứ diệu nghiệp đều
được hoàn thành. V́ thế, dùng đó để thí dụ.
Câu
thứ hai là “thí như đại địa, nhất thiết
chúng sanh y. Như thị Nhất Thiết Trí trí, thiên, nhân, A
Tu La y” (ví như đại địa, hết thảy
chúng sanh nương vào đó. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, được trời, người, A Tu La
nương vào). Như trăm loại hạt lương
thực, các thứ cỏ thuốc, thảo mộc, rừng
lùm trong thế gian, tùy
theo tánh chất vô lượng sai biệt, đều từ
đại địa mà trổ mầm, đâm rễ, cho
đến thân, lá, hoa, quả, lần lượt thành tựu.
[Đại địa] làm chỗ nương cậy cho hết
thảy chúng sanh, nuôi nấng họ, nhưng vẫn chẳng
nghĩ thế này: “Ta nay gánh vác hết thảy thế
gian”. Chẳng nghĩ tới ân đức,
chẳng hề mệt nhọc, tăng cũng chẳng mừng,
giảm cũng chẳng sầu, sâu rộng khó lường,
chẳng thể khuynh động. Đất Nhất Thiết
Trí cũng lại như thế. Đại Bi Mạn-đồ-la
là nơi hết thảy chủng tử xuất sanh, tức
là chỗ y chỉ của vô lượng sự nghiệp
trong các thừa, ở trong sanh tử và Niết Bàn, cái tâm
b́nh đẳng. Tám gió thế gian chẳng thể dao động.
Do có chút phần tương tự như thế, dùng đất
làm thí dụ.
Câu
thứ ba nói: “Thí như hỏa giới, thiêu nhất thiết
tân, vô hữu yếm túc. Như thị Nhất Thiết Trí
trí, thiêu nhất thiết vô trí tân, vô yếm túc” (ví
như hỏa giới, đốt hết thảy củi chẳng
hề chán đủ. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, đốt hết thảy củi vô trí
chẳng chán đủ). Ví như hỏa chủng, giả sử
tích tụ củi đầy khắp thế giới, đều
to như núi chúa Tu Di, lửa sẽ lần lượt đốt
sạch, chẳng hề khiếp nhược, chẳng khởi
lên ư niệm này: “Ta đốt củi như thế này, chẳng
đốt củi như thế kia”. Hừng hực chẳng
ngừng, mạnh mẽ tiến cao hơn chẳng chán nhàm,
phải là thứ bị đốt đă hết sạch rồi
th́ sau đó lửa mới diệt theo. Trí hỏa của
Như Lai cũng giống như thế, đốt hết
sạch củi hư luận, phiền năo, cho tới khi các
duyên đối đăi đều
tận, tức là huệ quang ấy cũng không có chỗ
nương. Lại như lửa trong thế gian, sang hèn
đều cùng sử dụng, có thể chiếu sáng trong
đêm tối, kẻ rơi
vào mê hoặc điên đảo đều
t́m được đường ngay, lại đều
có thể thành tựu hết thảy các vật. Lửa Nhất
Thiết Trí như thế, bậc thánh và dị sanh (phàm phu) đều b́nh đẳng cùng có, từ trong đêm
sâu vô thỉ khiến cho các hành nhân thấy đạo
như thật, lần lượt thành tựu hết thảy
Phật pháp. V́ thế, dùng nó làm thí dụ.
Câu
thứ tư là nói: “Thí như phong giới, trừ nhất
thiết trần. Như thị Nhất Thiết Trí trí, trừ
khử nhất thiết chư phiền năo trần” (Ví
như phong giới, trừ hết thảy bụi. Trí Nhất
Thiết Trí giống như thế, trừ khử hết thảy các bụi
phiền năo). Như lúc gió to bốc lên, khói, mây, bụi mù, hết
thảy đều tiêu trừ. Thái hư tĩnh lặng,
mênh mông, tam thần (mặt trời, mặt trăng, tinh tú)
hiện ra rạng rỡ, chúng sanh bị bứt rứt v́
nóng bức đều được mát mẻ, có thể
khiến cho thảo mộc, rừng lùm đều tăng
trưởng sum suê, và cũng có thể phá tan hết thảy
muôn vật. Lại như tánh của gió là trọn khắp,
không chỗ nương, tự tại xoay vần, chẳng
bị vướng mắc. Huệ phong của Như Lai
cũng lại như thế, quét sạch hết thảy vẩn
bụi phiền năo ngăn che, khiến cho [chúng sanh] chứng
pháp tánh Niết Bàn mát mẻ. Lại có thể khiến cho hết
thảy thiện pháp thế gian và xuất thế gian
tăng trưởng, đập tan cây to vô minh, nhổ bật
gốc rễ của nó; nhưng sức vô chướng ngại
ấy chẳng nương vào đâu. V́ thế, dùng nó để
sánh ví.
Câu
thứ năm là nói “thí như thủy giới, nhất
thiết chúng sanh y chi hoan lạc. Như thị Nhất Thiết
Trí trí, vi chư thiên thế nhân lợi lạc” (ví như
thủy giới, hết thảy chúng sanh nương vào
đó mà vui sướng. Trí Nhất Thiết Trí giống như thế, lợi lạc chư thiên và người
đời). Như Thủy Đại từ trên cao chảy
xuống thấp, tạo nhiều lợi ích, có thể
tươi nhuận thảo mộc, sanh ra hoa quả. Lại
nữa, bản tánh của nước là thanh khiết, không
chất nhơ, không vẩn đục, đều có thể
khiến cho chúng sanh đói khát được no đủ,
gột bỏ các cặn nhơ, trừ sạch nhiệt
năo, lặng trong, sâu thẳm khó nhập, chẳng thể ḍ
lường. Nơi chỗ hầm hố, tánh nước đều b́nh đẳng. Trí thủy của Như
Lai cũng lại giống như thế, từ chân pháp giới
tuôn nhập thế gian, tươi nhuận các Đẳng Tŕ, sanh khởi các pháp trợ đạo, thành tựu quả hạt to lớn lợi ích quần
sanh. Do bản thể của nó chẳng có phiền năo, nên
thanh khiết. Do có thể ĺa các Hoặc, nên vô cấu. Do là một tướng, chẳng khác, nên không nhơ bẩn.
Hễ ai đạt được [trí thủy ấy], th́ các
tư duy đều dứt sạch, đạt được
thanh lương định, gột trừ trần lao, lặng
trong khó nghĩ tưởng, chứng tánh b́nh đẳng. V́
thế, dùng nước để thí dụ.
Lại
nữa, ngài Kim Cang Thủ nói năm thí dụ, nhằm phát
khởi năm tự nghĩa (năm ư nghĩa của các chữ
thường dùng trong chân ngôn) trong phần sau:
- Môn chữ A (अ) là đất.
- Môn chữ Phược (व, Va) là nước.
- Môn chữ La (र, Ra) là lửa.
- Môn chữ Ha (ह, Ha) là gió.
- Môn chữ Khư (ख, Kha)[16] là
hư không.
Lại
như chủng tử trong thế gian, đất, nước,
lửa, gió làm duyên, hư không vô ngại, sau đấy mới
được sanh trưởng. Hễ thiếu một
duyên, trọn chẳng thể tăng trưởng. Chủng
tử Như Lai trong hết thảy trí tánh cũng giống
như thế, sử dụng năm nghĩa trong hết thảy
trí môn để làm các duyên, sẽ có thể đạt tới
diệu quả Bồ Đề thường trụ.
Đó gọi là “nhân duyên bất sanh, bất diệt chẳng thể
nghĩ bàn”. Ngài Kim Cang Thủ quán biết tướng
gia tŕ pháp giới độc nhất của Như Lai, tâm
suy nghĩ, ắt biết [đức Phật] sẽ
nói pháp môn như thế. V́ thế, trước đó, Ngài
sánh ví công đức ấy để phát khởi cơ
duyên sanh giải cho chúng hội, sau đấy mới hỏi
đức Phật: “Như thị trí huệ dĩ hà vi
nhân? Vân hà vi căn? Vân hà vi cứu cánh?” (Trí huệ
như thế, lấy ǵ làm nhân? Lấy ǵ làm căn? Lấy
ǵ làm rốt ráo?) Từ đấy trở đi, Như Lai
trí ấn khiến cái tâm đă định, sẽ rộng nói phân biệt. Chẳng hạn
như Di Lặc Bồ Tát trông thấy các tướng lành
do thần thông của đức Phật, tâm liền bồi
hồi suy tưởng:
“Đấy là đức Phật sẽ v́
đại chúng nói pháp đạt được nơi
đạo tràng, hay là thọ kư Bồ Đề?” Ngài
Văn Thù nêu rơ danh thể (bản thể của danh
xưng), chỉ ra [đức Thế Tôn] sẽ nói kinh Diệu
Pháp Liên Hoa. Sau đấy, Như Lai mới dùng Thật
Tướng để ấn khả, thừa dịp diễn
nói, khiến cho các đồ đệ v́ chấp trước
mà dấy lên nghi hoặc sẽ ĺa khỏi lưới nghi.
Ví như khởi đầu tiết Xuân, hạt giống nứt
mầm, do sấm, gió thôi thúc, mưa đúng thời tưới đẫm,
mầm cây sẽ được thoát khỏi vỏ bọc
mà nẩy sanh. Nếu chẳng có căn cơ phù hợp, dẫu
được gặp gỡ, chẳng thể phát khởi
lợi ích sâu thẳm được!
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Tỳ Lô Giá Na Phật tức
cáo Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai! Thiện
tai! Chấp Kim Cang! Thiện tai, Kim Cang Thủ! Nhữ vấn
ngô như thị nghĩa. Nhữ đương đế
thính, cực thiện tác ư, ngô kim thuyết chi”. Kim Cang Thủ
ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục
văn”. Phật ngôn: - Bồ Đề tâm vi nhân, Bi vi
căn bản, phương tiện vi cứu cánh. Bí Mật
Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị như thật tri tự
tâm. Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ Đề, năi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu
khả đắc. Hà dĩ cố? Hư không tướng
thị Bồ Đề, vô tri giải giả diệc vô
khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô tướng
cố. Bí Mật Chủ! Chư pháp vô tướng, vị
hư không tướng!
(經)如是說已,毘盧遮那佛即告持金剛祕密主言:善哉善哉!執金剛!善哉金剛手!汝問吾如是義。汝當諦聽,極善作意,吾今說之。金剛手言:如是,世尊!願樂欲聞。佛言:菩提心為因,悲為根本,方便為究竟。祕密主!云何菩提?謂如實知自心。祕密主!是阿耨多羅三藐三菩提乃至彼法少分,無有可得。何以故?虛空相是菩提,無知解者亦無開曉。何以故?菩提無相故。祕密主!諸法無相,謂虛空相。
(Kinh:
Nói như thế xong, Tỳ Lô Giá Na Phật liền bảo
Tŕ Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Chấp
Kim Cang! Lành thay Kim Cang Thủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế,
ông hăy nên lắng nghe, cực khéo tác ư, nay ta sẽ nói”. Kim
Cang Thủ nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn!
Con nguyện vui thích mong được nghe”. Đức Phật
dạy: - Bồ Đề tâm làm nhân, Bi là căn bản,
phương tiện là rốt ráo. Bí Mật Chủ! Thế
nào là Bồ Đề? Chính là nói như thật biết tự
tâm. Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, cho đến chút phần của pháp ấy, chẳng
có ǵ để có thể đạt được. V́ cớ
sao? Tướng của hư không là Bồ Đề, kẻ
chẳng hiểu biết cũng chẳng khai hiểu, v́ cớ
sao? Do Bồ Đề vô tướng. Bí Mật Chủ! Các
pháp vô tướng, tức là tướng hư không).
Do
ngài Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ đoán biết
thâm ư gia tŕ của Như Lai, lại có thể phát khởi
làm nhân duyên tạo sự thấu hiểu cho đại
chúng thuở ấy, đoán biết thánh tâm [mà kịp thời
thưa hỏi], chẳng bỏ lỡ cơ hội. V́ thế,
[đức Phật] lặp lại “thiện tai, thiện
tai!”, [hàm ư] ta quán trời, người, sa-môn, bà-la-môn, cho
đến các vị Bồ Tát hạnh cạn, không ai có thể đối trước đức Thế Tôn
nêu câu hỏi như thế. V́ cớ sao vậy? Do ba cú
nghĩa ấy đều thâu nhiếp hết thảy các sự
rất sâu trong thần lực bí mật của Phật
pháp. V́ thế, [đức Phật] lại tán thán rằng: “Thiện
tai Kim Cang Thủ! Nhữ năng vấn ngô như thị
nghĩa dă” (Lành thay Kim Cang Thủ! Ông có thể hỏi ta
nghĩa như thế). Do âm thanh [tán thán] “lành thay” của
Như Lai gia tŕ, lúc bấy giờ, vô lượng công đức
của Kim Cang Thủ tăng lên gấp bội, lại hiểu
rơ pháp được trao truyền, trọn chẳng để
sơ sót, mất đi.
Kế
đó, đức Phật răn bảo: “Nhữ
đương đế thính, cực thiện tác ư, ngô kim
thuyết chi” (Ông nên lắng nghe, cực khéo tác ư, ta nay sẽ
nói). Đấy cũng là v́ hàng đệ tử vị lai mà nêu rơ lời căn
dặn như thế, tức là nghi thức thâm tâm thọ
pháp vậy. Do đó, Thích Luận viết: “Nếu ai thiện
tâm, ḷng tin chất trực, người ấy có thể
nghe pháp. Nếu chẳng có tướng ấy, sẽ chẳng
thể hiểu!” Như nói kệ rằng: “Thính giả
đoan thân như khát ẩm, nhất tâm nhập ư ngữ
nghĩa trung, dũng dược văn pháp tâm bi hỷ,
như thị chi nhân ưng vị thuyết” (Người
nghe đoan chánh cái thân như khát bèn uống nước, nhất
tâm nhập vào trong ư nghĩa của lời nói. Hớn hở
nghe pháp tâm buồn vui xen lẫn, người như thế
mới nên v́ họ thuyết pháp), và như kinh Vô Tận Ư
có hai mươi ba câu nói cặn kẽ về công đức
do dụng tâm nghe pháp.
Kinh
dạy: “Phật cáo Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm
vi nhân, bi vi căn, phương tiện vi cứu cánh” (Đức
Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: - Bồ Đề tâm là
nhân, bi là căn, phương tiện là rốt ráo). Giống
như chủng tử trong thế gian, nhờ vào các duyên Tứ
Đại, cho nên theo thứ tự như thế ấy mà
mọc rễ, cho đến khi quả hạt chín muồi
th́ gọi là “rốt ráo”. Nhưng dùng Trung Trí để quán, [sẽ thấy là]
rốt ráo bất sanh, bất diệt. Do đó, nghĩa nhân
quả được thành. Nếu pháp chẳng phải vậy,
sẽ có tướng “sanh, diệt, đoạn, thường”,
sẽ đọa vào hư luận, đều có thể phá,
nghĩa nhân quả sẽ chẳng thành! Nay hành giả quán
Thật Tướng của cái tâm cũng lại như thế,
vượt ngoài hết thảy các hư luận, như hư không thanh tịnh. Trong việc hành nội chứng, đạt được tín lực sâu đậm,
tâm Tát Bà Nhă kiên cố, bất động, ĺa nghiệp thọ
sanh, thành tựu chân tánh sanh. Từ đấy trở
đi, vạn hạnh công đức tăng trưởng.
V́ thế nói: “Bồ Đề tâm làm nhân”. Cái tâm Bồ
Đề ấy làm nhân cho hai câu sau đó. Nếu đối
ứng với thiện căn được gieo trong sanh tử
th́ gọi là quả, do thấy tiền tướng trong Phật
pháp. Ví như có người nghe thiện tri thức nói: “Nay
trong nhà ông có kho báu vô tận, hăy nên tự siêng tu
phương tiện để khai quật, sẽ có thể
châu cấp cho cả một nước mà thường chẳng
thiếu hụt”. Người đó nghe xong, sanh ḷng tin chắc
chắn, hành đúng như lời dạy, cho đến dốc
sức không ngừng, sẽ dần dần thấy tiền
tướng. Lúc bấy giờ, đối với công đức
của kho báu, ĺa tâm nghi hoặc, có thể kham phát khởi
gia hạnh thù thắng. V́ thế, Bồ Đề tâm có
nghĩa là “tín tâm trắng sạch”. Thích Luận
cũng nói: “Biển cả Phật pháp, do tín có thể nhập”.
Như khi Phạm thiên vương thỉnh chuyển pháp
luân, đức Phật đă nói kệ rằng: “Ngă kim
khai cam lộ vị môn, nhược hữu sanh tín giả
đắc hoan hỷ” (Ta nay mở cửa cam lộ vị, nếu ai tin tưởng, sẽ hoan
hỷ). Trong lời kệ ấy, chẳng nói người
hành Thí, Giới, Đa Văn, Nhẫn, Tấn, Thiền, Huệ
có thể đạt được hoan hỷ, chỉ nói
riêng người tin tưởng. Ư Phật là như thế
này: Pháp của ta vi diệu, rất sâu bậc nhất, vô
lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn, là pháp bất
động, không dựa dẫm, chẳng dính mắc, vô sở
đắc, chẳng phải là người Nhất Thiết
Trí, sẽ chẳng thể hiểu. V́ thế,
lấy tín lực làm đầu, chẳng do các môn như Huệ
v.v… mà thoạt đầu có thể tiến nhập Phật
pháp, v́ khiến cho tín tâm thanh tịnh như thế
được kiên cố, tăng trưởng.
Tiếp
đó, kinh nói “đại bi làm căn”. “Căn”
có nghĩa là “có thể chấp tŕ”. Giống như rễ
cây duy tŕ thân, lá, hoa, quả, khiến cho cây chẳng bị
nghiêng đổ, trốc gốc. Bi trong tiếng Phạn là
Ca Lô Noa (Karuṇā), Ca có nghĩa là Khổ, Lô Noa nghĩa là “cắt bỏ”.
Từ như gieo trồng mạ tốt rộng khắp, Bi
như cuốc bỏ cỏ dại. V́ thế, Bi được
nói ở đây có kèm theo ư nghĩa “đại từ”. Lại như khi hành giả tu cúng
dường, nếu dâng một đóa hoa, hoặc
hương bôi v.v… tức là trọn khắp hết thảy
mọi nơi đều dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh
để dấy mây cúng dường, thực hiện Phật
sự trọn khắp, phát khởi bi nguyện hồi
hướng quần sanh, dẹp trừ hết thảy khổ,
thí vô lượng lạc. Do thiện căn của chính ḿnh và sức gia tŕ pháp giới của Như Lai, các diệu
nghiệp thực hiện đều được thành tựu.
Tức là trong trọn khắp hết thảy các trí địa, cho
đến vô dư hữu t́nh giới, thảy đều “mọc rễ”. Tùy thuộc
hành giả dùng cái tâm vô trụ để tu vạn hạnh;
tức là do được đại bi địa giới
chấp tŕ, đại bi hỏa giới ủ ấm, đại
bi thủy giới nhuần thấm, đại bi phong giới
khai phát sanh trưởng, đại bi hư không chẳng
chướng ngại. Lúc bấy giờ, vô lượng
Độ môn tùy ư khai phát, giống như rễ, cành, lá theo
thứ tự trang nghiêm, tức là ư nghĩa “trọn đủ
nhân duyên” trong hết thảy các tâm pháp.
“Phương tiện là rốt ráo” tức vạn hạnh viên măn cùng cực, chẳng thể tăng thêm. Quyền
xảo ứng hợp chúng sanh xét đến tận cùng chuyện
có thể thực hiện chính là nguồn cội của diệu
quả Tam Mật đề-hồ. Lại nữa, Bồ
Đề tâm thanh tịnh giống như vàng ṛng, bản
tánh sáng sạch, ĺa các lầm lỗi. Đại bi như học
tập nghề khéo, dùng các thứ thuốc, các thứ nung
luyện, cho đến [vàng được tinh luyện] thấu
triệt như gương, mềm mại, co duỗi tự
tại. Phương tiện như nghề khéo đă thành tựu,
tất cả các tạo tác đều tùy ư mà thành, từ trong quy chế
mà quyền biến lưu xuất các tài khéo. Sự hay khéo
đắc ư ấy khó thể truyền cho người khác
được. Như Ma Ha Bát Nhă giảng về Lục
Độ, mười tám môn Không, các môn tam-muội, đạo
phẩm, tổng tŕ v.v… đều thuộc vào câu “đại
bi”, tức là cái quả của trí Nhất Thiết Trí do
vạn hạnh tạo thành, được gọi là “phương tiện”,
v́ trong đó có đủ các phương tiện. Nghiệp
của phương tiện là lợi tha, do Ổ-ba-da (Upāya,
phương tiện) trong tiếng Phạn cũng là “phát khởi”.
Như từ chủng tử sanh ra quả, quả lại
trở thành hạt giống; v́ thế, dùng đó để
đặt tên.
Kinh
dạy “Bí Mật Chủ! Vân hà Bồ Đề? Vị
như thật tri tự tâm” (Bí Mật Chủ! Thế
nào là Bồ Đề? Tức là như thật biết tự
tâm), tức là khai thị chỗ có chất báu công đức
của Như Lai. Như người tuy nghe nói kho báu, khởi
ư niệm siêng năng mong cầu, nếu chẳng biết
nó ở đâu, sẽ không có cách nào đến được. V́
thế, lại chỉ rơ pháp vi diệu rất sâu bậc nhất
như đă nói trên đây, cho đến nói “chẳng phải
là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể hiểu”. Pháp ấy từ nơi nào mà đắc?
Chính là từ tự tâm của hành giả. Nếu có thể
như thật quán sát, chứng biết rành rành, th́ gọi
là “thành Bồ Đề”; thật ra, chẳng do
người khác mà ngộ, chẳng từ điều ǵ khác mà đạt được!
Hỏi
rằng: Nếu ngay nơi cái tâm chính là đạo, v́ sao
chúng sanh luân hồi sanh tử, chẳng được thành
Phật?
Đáp:
Do chẳng biết đúng như thật! Đó gọi là “ngu đồng phàm phu” (愚童凡夫, phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội).
Nếu nghe pháp này, ít kẻ có thể tin tưởng. Thức tánh Nhị Thừa tuy tự quán sát, nhưng chưa biết
đúng như thật. Nếu tự biết đúng như
thật, tức là lúc sơ phát tâm liền thành Chánh Giác. Ví
như đứa con nghèo túng của ông trưởng giả [được nói trong phẩm
Tín Giải của kinh Pháp Hoa], nếu khi đă nhận biết cha, há có c̣n là người
khách nghèo hèn nữa chăng? Lúc ấy, hành giả do thật
sự biết Thật Tướng của cái tâm, thấy hết
thảy các pháp đều là rất sâu, vi diệu, vô lượng, vô số chẳng thể nghĩ
bàn, bất động, chẳng dựa dẫm, chẳng chấp
trước, đều là vô sở đắc, rốt ráo
như tướng Bồ Đề.
Kinh
lại nói “Bí Mật Chủ! Thị A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề, năi chí bỉ pháp thiểu phần, vô hữu khả đắc” (Bí Mật Chủ! Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, dẫu chỉ chút phần của pháp ấy
cũng chẳng có thể đạt được). Ư
nghĩa của Vô Thượng Chánh Biến Tri đă
được nói trong phần trước. Ở đây
nói chút phần. A Nậu (Anu, cực vi trần) trong tiếng
Phạn chính là do bảy vi trần hợp thành, là phần
nhỏ nhất của Sắc sanh từ các duyên, cho nên dùng
nó làm thí dụ. Nói “bỉ pháp” (pháp đó) tức là ĺa
ngoài vô tướng Bồ Đề tâm ấy ra, chẳng
có một pháp nào nữa!
Kế
đó, trong kinh nói đến nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư
không tướng thị Bồ Đề, vô tri giải giả
diệc vô khai hiểu. Hà dĩ cố? Bồ Đề vô
tướng cố” (V́ sao vậy? Tướng hư
không là Bồ Đề, kẻ chẳng hiểu biết
cũng chẳng thấu hiểu. V́ sao vậy? Do Bồ
Đề vô tướng). Thí như hư không trọn khắp
hết thảy mọi nơi, rốt ráo thanh tịnh, ĺa hết
thảy các tướng, bất động, vô
phân biệt, chẳng thể thay đổi, chẳng thể
phá hoại. Do có chút phần tương tự như thế,
bèn dùng nó để sánh ví Bồ Đề
tâm. Nhưng trong ấy lại có vô lượng vô biên chuyện
bí mật rất sâu, thật sự chẳng thể dùng
hư không trong thế gian để thí dụ trọn khắp
được, chỉ mong người học lănh hội
được ư mà quên lời vậy! Lại như hư
không xa ĺa hư luận, phân biệt, nên chẳng có tướng
hiểu biết, chẳng có tướng vỡ lẽ.
Chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề (Chánh
Giác), hăy nên biết cũng thế, chỉ là tâm tự chứng
tâm, tâm tự giác tâm. Trong ấy, không có pháp để hiểu
biết, mà cũng chẳng có người hiểu biết,
chẳng phải là mới thấu hiểu, mà
cũng chẳng phải là không thấu hiểu. Nếu phân
biệt chút phần năng sở chừng bằng vi trần,
tức là chấp lấy tướng “pháp, phi pháp”, chẳng
ĺa “ta, người, chúng sanh, thọ mạng”, há có thể
đáng gọi là Kim Cang Huệ ư?
Kinh
lại c̣n tự giải thích rằng: “Hà dĩ cố? Bồ
Đề vô tướng cố” (V́ sao vậy? Do Bồ Đề vô tướng).
Như Thích Luận nói: “Do trí huệ của Phật thanh
tịnh, vượt ngoài các phép Quán, chẳng quán tướng
thường, tướng vô thường của các pháp,
tướng hữu biên, tướng vô biên, tướng có
đi, tướng chẳng đi, hữu tướng, vô
tướng, tướng hữu lậu, tướng vô lậu,
tướng hữu vi, tướng vô vi, tướng sanh diệt,
tướng chẳng sanh diệt, tướng không, tướng
bất không, thường thanh tịnh, vô lượng
như hư không. Do vậy, Phật trí vô ngại”. Nếu
quán sanh diệt, sẽ chẳng thể quán không sanh diệt.
Quán không sanh diệt, sẽ chẳng thể quán sanh diệt.
Nếu sanh diệt là thật, th́ “chẳng sanh diệt” sẽ
không thật. Nếu “chẳng sanh diệt” là thật, sanh
diệt sẽ chẳng thật! Các phép Quán như vậy
đều như thế đó. Dùng cái tâm Bồ Đề
thanh tịnh như thế, do vượt khỏi các cách
Quán, ĺa các tướng, sẽ được chẳng
vướng mắc nơi hết thảy các pháp. Ví như
do tướng của hư không cũng là vô tướng,
muôn h́nh tượng đều nương vào hư không,
nhưng hư không chẳng nương tựa vào đâu! Vạn
pháp như thế đều nương vào tịnh tâm,
nhưng tịnh tâm trọn chẳng nương tựa.
Đấy chính là các pháp ấy cũng như tướng Bồ
Đề, tức là tướng hư không thanh tịnh. V́
thế, kinh lại nói: “Bí Mật Chủ! Chư pháp vô
tướng, vị hư không tướng” (Bí Mật Chủ!
Các pháp vô tướng, tức là tướng hư không).
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Thùy tầm cầu Nhất Thiết Trí? Thùy vị
Bồ Đề thành Chánh Giác giả? Thùy phát khởi bỉ
Nhất Thiết Trí trí? Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Tự
tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất Thiết
Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố, tâm bất
tại nội, bất tại ngoại, cập lưỡng
trung gian, tâm bất khả đắc. Bí Mật Chủ!
Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác, phi thanh, phi hoàng, phi
xích, phi bạch, phi hồng tử, phi thủy tinh sắc,
phi trường, phi đoản, phi viên, phi phương, phi
minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất nam nữ.
(經)爾時金剛手復白佛言:世尊!誰尋求一切智?誰為菩提成正覺者?誰發起彼一切智智?佛言:祕密主!自心尋求菩提及一切智。何以故?本性清淨故。心不在內、不在外及兩中間,心不可得。祕密主!如來、應、正等覺,非青非黃、非赤非白、非紅紫非水精色、非長非短、非圓非方、非明非暗、非男非女非不男女。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Kim Cang Thủ lại bạch cùng đức
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Ai t́m cầu Nhất
Thiết Trí? Ai v́ Bồ Đề mà thành Chánh Giác? Ai phát khởi
trí Nhất Thiết Trí ấy?” Đức Phật nói: - Bí Mật
Chủ! Tự tâm t́m cầu Bồ Đề và Nhất Thiết
Trí. V́ sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh, tâm chẳng ở
trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở
giữa hai chỗ đó, tâm đều chẳng thể
được. Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh
Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng,
chẳng phải đỏ, chẳng
phải trắng, chẳng phải hồng hay tím, chẳng phải là màu
thủy tinh, chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tṛn, chẳng
vuông, chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ,
chẳng phải không nam nữ).
Khi
đó, ngài Chấp Kim Cang nghe nghĩa lư do đức
Phật nói, “trí huệ Tát Bà Nhă chỉ là tự tâm”,
cho đến “chẳng có chút pháp nào ra ngoài cái tâm ấy”,
v́ đoạn nghi hoặc cho chúng sanh trong vị lai, nên Ngài hỏi đức Phật rằng: “Bồ Đề
tâm gọi là một mực dốc chí để cầu trí
Nhất Thiết Trí. Nếu trí Nhất Thiết Trí chính là Bồ
Đề tâm th́ trong ấy, ai là người cầu? Ǵ là
pháp được cầu? Ai có thể giác? Ai là người
được giác? Lại nữa, ĺa ngoài tâm, đều
chẳng có một pháp nào; ai có thể phát khởi cái tâm ấy
để đạt tới diệu quả? Nếu pháp chẳng
có nhân duyên mà được thành tựu, hết thảy
chúng sanh đáng lẽ cũng chẳng cần nhờ vào
phương tiện mà tự nhiên thành Phật”.
V́
thế, đức Phật trả lời: “Bí Mật Chủ!
Tự tâm tầm cầu Bồ Đề cập Nhất
Thiết Trí. Hà dĩ cố? Bổn tánh thanh tịnh cố”
(Bí Mật Chủ! Tự tâm t́m cầu Bồ Đề và
Nhất Thiết Trí. V́
sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh). Tuy Thật
Tướng nơi tự tâm của chúng sanh chính là Bồ
Đề, dẫu có Phật hay không có Phật, nó vẫn
thường nghiêm tịnh, nhưng chẳng tự biết
đúng như thật. Do vậy, nó chính là vô minh. Do vô minh
điên đảo chấp tướng, bèn sanh ra các phiền
năo như Ái v.v… Do phiền năo mà dấy đủ
loại nghiệp, nhập đủ
loại đạo, đạt được
đủ loại thân, thọ
đủ loại khổ,
lạc. Như tằm nhả tơ chẳng có nguyên nhân, do
chính ḿnh đă nhả tơ ra mà bị quấn bó, hứng chịu nỗi khổ bị đốt nấu! Ví như nước sạch trong
nhân gian, tùy thuộc cái tâm của chư thiên hay quỷ mà thấy
là của báu, hoặc coi là lửa, tự tâm tự thấy
khổ hay lạc! Do vậy, biết rằng: “Ĺa ngoài tâm, sẽ chẳng có pháp!” Nếu hành nhân Du Già chánh quán Thật Tướng của
ba pháp, tức là thấy Thật Tướng của tâm. Thật
Tướng của tâm chính là Vô Tướng Bồ Đề,
cũng gọi là trí Nhất Thiết Trí. Tuy lại ĺa các
nhân duyên, cũng chẳng phải là không có nhân mà được
thành tựu. Lại nữa, đức Thế Tôn muốn
khiến cho chúng sanh như thật biết tự tâm, lại
dùng phương tiện để phân biệt, diễn nói.
Do nguyên do nào? Nếu chỉ nói “tự tâm bất sanh, bất
diệt”, do chẳng có nhân, [chúng sanh] sẽ khó hiểu ư
nghĩa đó. V́ thế, trước hết, Ngài chỉ bày chỗ căn cứ [để nói như
thế].
Kinh
dạy: “Tâm bất tại nội, bất tại ngoại,
cập lưỡng trung gian, tâm bất khả đắc “ (Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và giữa
hai chỗ đó, tâm chẳng thể được).
Như Ma Ha Bát Nhă dùng vô lượng môn để nhập Thật
Tướng của các pháp. Nay muốn nêu ra điều tông
yếu, chỉ quán mười hai xứ trong và ngoài, là
đă thâu tóm hết thảy các pháp. Từ vô thỉ tới
nay, tâm hành giả phần nhiều chấp
trước tâm tướng của nội pháp. V́ thế,
trước hết đối với sáu chỗ bên trong, liền
dùng các phương tiện như ly tướng v.v… để
mỗi mỗi quán kỹ “tâm chẳng thể được,
vô sanh, vô tướng, chẳng có xứ sở”, mà
nghĩ như thế này: “Có lẽ tâm này ở ngoài đấy
chăng?” [Do vậy], lại đối với sáu chỗ
bên ngoài, bèn quán như thật: Tâm cũng chẳng có sanh
tướng, chẳng có xứ sở. Do sợ lầm lạc,
bèn gộp lại để quán, đối với chặng
giữa của hai thứ đó (trong và ngoài) cũng chẳng
thể được, tức là ngộ thật tánh của
cái tâm này vốn tự vô sanh, vô diệt, rốt ráo thường
tịnh, nhưng bị mây hư luận phủ lấp. Ví như do sức của [thủy thanh] châu khiến cho
nước trong; do nước trong nên châu hiện ra. Chắc
chắn chẳng
do từ nơi nào khác mà có!
Kinh
dạy: “Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng
Giác, phi thanh, phi hoàng, phi xích, phi bạch, phi hồng tử,
phi thủy tinh sắc, phi trường, phi đoản, phi
viên, phi phương, phi minh, phi ám, phi nam, phi nữ, phi bất
nam nữ” (Bí Mật Chủ! Như Lai, Ứng, Chánh
Đẳng Giác chẳng phải xanh, chẳng phải vàng,
chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng
phải hồng hay tía, chẳng phải là màu thủy tinh,
chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng tṛn, chẳng vuông,
chẳng sáng, chẳng tối, chẳng nam, chẳng nữ,
chẳng phải là không nam nữ). Trong phần trước,
đă dựa theo hết thảy các pháp để nói rơ Thật
Tướng của cái tâm. Nay lại xét theo chân ngă để
nêu tỏ Thật Tướng của cái tâm. Ư nghĩa
được đề cao biện định ở
đây chính là coi tâm là Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng
Giác; đó gọi là “đại ngă” trong nội tâm.
Như có một loại ngoại đạo, do chẳng liễu
giải tự tâm, bèn nói như thế này: “Ta quán chân ngă có
màu xanh biếc, người khác chẳng thể thấy!”
Hoặc nói là màu vàng tươi, màu đỏ tươi, hoặc
nói như màu yên chi[17],
nay nói theo ư nghĩa [trong kinh này] là như màu hồng tía. Hoặc
nói “ta thấy chân ngă có tướng cực dài hay cực ngắn”,
cho đến “như tướng nam tử v.v... Chỉ có đấy là thật, những thứ khác
đều là nói dối”. Nhưng các tướng ấy
đều từ duyên sanh, chẳng có tự tánh, sao có thể
gọi là cái Ngă chân thật cho được? Đối với
các thứ chấp trước ấy, đức Phật
nói “Như Lai, Ứng, Chánh Đẳng Giác chẳng phải
là màu xanh” v.v… V́ cớ sao vậy? Do tướng xanh ấy
rốt ráo chẳng sanh, cho nên chẳng phải là xanh. Do Thật
Tướng của màu xanh bất hoại, nên cũng chẳng
phải không là xanh. Hăy nên biết Như Lai, Ứng, Chánh
Đẳng Giác không có tướng nhất định
để có thể nói, và cũng chẳng ĺa các tướng
như thế. Như có ngoại đạo A-xà-lê trong ban đêm của hắc nguyệt[18],
dẫn các đệ tử tới trước con voi to mà bảo như thế này: “Ta nay chỉ chân ngă cho các
ngươi”. Khi ấy, bọn họ hoặc dùng mắt
nh́n, hoặc dùng thân chạm. Người thấy h́nh dáng
[con voi] bèn nói: “Ta nay đă biết chân ngă, sắc nó rất
trắng, to lớn cồng kềnh”. Người sờ ngà
nói: “Chân ngă như cây giáo”. Người sờ tai nói giống
như cái ky, người sờ chân nói giống như cây cột,
người sờ đuôi nói giống như sợi thừng.
Ai nấy đều dựa theo t́nh kiến chấp trước
do tiếp xúc bất đồng. Dẫu tranh căi đúng sai
với nhau, trọn chẳng thể biết chân thể của
voi! Nếu lúc hành giả Du Già khai phát cái tâm, hiểu rơ
đạo, chiếu kiến Như Lai trong tâm vương,
như trong chỗ sáng bừng, mắt thấy các sắc, sẽ
chẳng nẩy sanh tranh luận như thế.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới đồng
tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc Giới
đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca
Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân phi nhân thú đồng
tánh.
(經)祕密主!心非欲界同性、非色界同性、非無色界同性,非天龍、夜叉、乾闥婆、阿脩羅、迦樓羅、緊那羅、摩睺羅伽、人非人趣同性。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng cùng một tánh với Dục
Giới, chẳng cùng một tánh với Sắc Giới, chẳng
cùng một tánh với Vô Sắc Giới, chẳng phải
cùng một tánh với các đường trời, rồng,
Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu
La Già, nhân, phi nhân).
Kế đó nói: “Bí Mật Chủ! Tâm phi Dục Giới
đồng tánh, phi Sắc Giới đồng tánh, phi Vô Sắc
Giới đồng tánh, phi thiên, long, Dạ Xoa, năi chí nhân
phi nhân thú đồng tánh” (Bí Mật Chủ! Tâm chẳng
cùng một tánh với Dục Giới, chẳng cùng một
tánh với Sắc Giới, chẳng cùng một tánh với
Vô Sắc Giới, chẳng cùng tánh với đường
trời, rồng, Dạ Xoa, cho đến nhân phi nhân)
cũng nhằm đối trị các chấp trước
hư vọng, hiển thị tự tâm không thay đổi.
V́ thế nói cái tâm chẳng có cùng một tánh với tam giới. Có các ngoại đạo
chấp ngă có cùng một tánh với Dục Giới, hoặc cùng một
tánh với Sắc Giới và Vô Sắc Giới, cho đến
cho rằng Phi Tưởng Phi Tưởng Xứ là Niết
Bàn. Hoặc nói Phạm Vương, Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) v.v… sanh ra hết thảy các pháp. Nhưng tam giới này thảy đều từ các duyên mà sanh, cầu tự
tánh của chúng chẳng thể được, huống hồ
khiến cho tâm tánh có cùng một tánh với các tánh ấy
ư? Kế đó, rộng phân biệt vô lượng các
đường chúng sanh, mỗi mỗi đều chỉ ra, [tánh của mỗi đường ấy] đều
chẳng giống với tâm tánh. Ví như hư không mưa
nước tám công đức, một vị thuần tịnh,
tùy thuộc vào đồ đựng đủ mọi sai
biệt mà hoặc cay, hoặc chua, hoặc ấm, hoặc
đục, nhưng tánh tám công đức chẳng giống
như chúng nó. Khi hết nóng, hết đục, th́ trong mát
như cũ, chưa từng đổi khác!
Lại như Chân Đà Ma Ni (Như Ư Bảo Châu) vốn
chẳng có tướng nhất định, gặp vật
nào liền có cùng màu với vật ấy, nhưng tánh của
báu ấy chẳng giống như các vật đó. Nếu
cùng một tánh, do khi sắc ấy thuận theo duyên mà
sanh diệt, tánh của chất báu cũng phải nên sanh diệt.
Lại nữa, do đức Thế Tôn sắp khai thị
Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la, trước
hết bèn khai thị môn Thật Tướng của tâm. V́
sao vậy? Như trong Bổn Tôn tam-muội của hành giả
nói có hiển hiện h́nh tướng nam, nữ v.v… và phổ
môn thị hiện thân trong sáu đường, sợ các
hành nhân chẳng liễu giải “tâm do duyên mà sanh”,
đối với chân tánh của bảo vương sẽ
nẩy sanh hư luận. V́ thế, đức Phật nói
Như Lai chẳng phải là xanh, vàng, cho đến tâm chẳng
có cùng một tánh với sáu đường trong tam giới.
Nếu có thể quan sát như thế, sẽ chẳng
ngăn chướng Bồ Đề tâm.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Tâm bất trụ nhăn giới, bất
trụ nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư giới, phi kiến,
phi hiển hiện. Hà dĩ cố? Hư không tướng
tâm ly chư phân biệt, vô phân biệt. Sở dĩ giả
hà? Tánh đồng hư không tức đồng ư tâm.
Tánh đồng ư tâm, tức đồng Bồ Đề.
Như thị Bí Mật Chủ! Tâm, hư không giới, Bồ
Đề, tam chủng vô nhị. Thử đẳng Bi vi căn bản, phương tiện Ba La Mật măn
túc.
(經)祕密主!心不住眼界、不住耳鼻舌身意界,非見非顯現。何以故?虛空相心離諸分別,無分別。所以者何?性同虛空即同於心,性同於心即同菩提。如是祕密主!心、虛空界、菩提,三種無二。此等悲為根本,方便波羅蜜滿足。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Tâm chẳng trụ trong nhăn giới,
chẳng trụ trong nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư giới,
chẳng thấy, chẳng hiển hiện. V́ sao vậy?
Tâm có tướng như hư không ĺa các phân biệt, chẳng
phân biệt. V́ lẽ nào vậy? Tánh giống như hư
không, tức là giống tâm. Tánh giống tâm tức là giống
Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ! Ba
thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng
hai. Bi là căn bản của các thứ ấy,
phương tiện Ba La Mật trọn đủ).
Trong phần
trên đă nói không trụ trong ba chỗ (trong, ngoài, chặng
giữa), đă gồm thâu hết thảy
các pháp; v́ người chưa ngộ mà lại phân biệt
rành rẽ từng pháp. [Do có kẻ đă nghe các nghĩa trên
đây, cho rằng]: Nếu tâm chẳng có cùng một tánh với
các đường, nó sẽ trụ trong nhăn giới ư?
Cho đến trụ trong ư giới ư? [Phá chấp
trước ấy như sau]: Nếu tâm trụ trong nhăn giới,
do mắt sanh từ các duyên, tánh tướng tự không, chẳng
có trụ xứ, há Thật Tướng của tâm lại ở
trong mắt ư? Giống như nhăn giới, [từ
nhĩ giới, tỵ giới v.v…] cho tới các pháp Ấm, Nhập,
đều nên rộng nói như thế.
Lại
nữa, trong phần trên đă phá các loại ngoại đạo,
nay nói chẳng trụ vào các pháp, nhằm phá Biên Kiến của
Thanh Văn. Như trong Độc Tử A Tỳ Đàm (A Tỳ
Đàm Luận của Độc Tử Bộ) nói: “Ví
như Tứ Đại ḥa hợp mà có nhăn pháp, cũng như thế, ngũ tượng do ḥa hợp mà có nhân và pháp, tức là
nhân và pháp thuộc vào bất khả thuyết tạng”. Người tu theo Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ nói: “Thần và người trong hết thảy các
pháp môn đều chẳng thể cầu được!
Như sừng thỏ, lông rùa vô thường, mà Ấm, Giới,
Nhập thật sự có tự tánh”. Do các pháp hư luận
như thế, chẳng biết cái tâm. Nếu có thể quán
tâm chẳng trụ trong các pháp, tâm sẽ chẳng có hành xứ,
hư luận đều hết sạch.
“Phi
kiến, phi hiển hiện” (chẳng thấy, chẳng
hiển hiện): Như có người nói: “Hết thảy
chúng sanh vốn có tánh tri kiến của Phật, nhưng
khi màng mộng vô minh trừ khử, sẽ tự có thể
thấy Lư”. Hoặc có người nói: “Thường lư
như thế chẳng thể tạo tác, nhưng khi trừ
khử mây mù triền cái, vầng mặt trời sẽ tự
hiện”. Đấy đều là lời lẽ của Thế
Đế. Nếu Bồ Đề tâm thanh tịnh là pháp có
thể thấy, có thể hiện, th́ tức là có tướng. Phàm những
ǵ có tướng, đều là hư vọng! Sao có thể
thấy Vô Thượng Bồ Đề? Hơn nữa,
trong kinh tự nói nhân duyên: “Hà dĩ cố? Hư không
tướng tâm ly chư vọng chấp, diệc vô phân biệt,
do như hư không tất cánh tịnh pháp. Nhất thiết
sắc tượng vô năng nhiễm ô chi giả, tâm tánh
diệc nhĩ, nhất thiết phân biệt vô năng nhiễm
ô chi giả” (V́ lẽ nào? Tâm có tướng như hư
không ĺa các vọng chấp, cũng chẳng phân biệt, giống
như hư không là pháp rốt ráo thanh tịnh, hết thảy
h́nh sắc chẳng thể nhiễm ô. Tâm tánh cũng thế,
hết thảy phân biệt chẳng thể nhiễm ô [tâm
tánh]). Nếu vô phân biệt, tức là ĺa hết thảy các tướng.
Kinh
dạy: “Sở dĩ giả hà? Tánh đồng hư
không tức đồng ư tâm, tánh đồng ư tâm tức
đồng Bồ Đề. Như thị Bí Mật Chủ!
Tâm, hư không giới, Bồ Đề, tam chủng vô nhị.
Thử đẳng Bi vi căn bản, Phương Tiện Ba La Mật măn túc” (V́ sao vậy? Tánh giống như hư không tức là
giống như tâm, tánh giống như tâm tức giống
như Bồ Đề. Như thế đó, Bí Mật Chủ!
Ba thứ tâm, hư không giới, và Bồ Đề chẳng
hai. Bi là căn bản của các thứ ấy, Phương
Tiện
Ba La Mật trang nghiêm trọn đủ): Nhập các môn
thanh tịnh như trên đều v́ nêu tỏ ư nghĩa “tự
tâm cầu Bồ Đề”. Nay lại kết luận rằng
hư không vô cấu chính là tâm, tâm tức là Bồ Đề, tướng vốn
là cùng một tướng, mà có ba tên gọi. Từ ngay
nơi cái tâm pháp giới này, tuy nhân duyên rốt ráo chẳng
sanh, nhưng chẳng hoại nhân duyên Thật Tướng.
Do bất sanh, cho nên chẳng có năng và sở sai
khác. Do bất hoại, nên cũng lấy Bi làm căn bản, Phương
Tiện
Ba La Mật trọn đủ, tức là ư nghĩa Trung
Đạo rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn!
(Kinh) Thị cố Bí Mật Chủ! Ngă thuyết chư
pháp như thị, linh bỉ chư Bồ Tát chúng Bồ
Đề tâm thanh tịnh, tri thức kỳ tâm. Bí Mật
Chủ! Nhược tộc tánh nam, tộc tánh nữ dục
thức tri Bồ Đề, đương như thị
thức tri tự tâm.
(經)是故祕密主!我說諸法如是,令彼諸菩薩眾菩提心清淨,知識其心。祕密主!若族姓男族姓女欲識知菩提,當如是識知自心。
(Kinh:
V́ thế, Bí Mật Chủ! Ta nói các
pháp như thế, khiến cho Bồ Đề tâm của
các Bồ Tát đó thanh tịnh, hiểu biết cái tâm. Bí Mật
Chủ! Nếu tộc tánh nam, tộc tánh nữ muốn hiểu
biết Bồ Đề, hăy nên hiểu biết tự tâm
như thế).
Đức
Phật đă khai thị Bồ Đề thanh tịnh, nêu ra cốt lơi chánh yếu của ba
câu xong, liền kết lại: Toàn bộ vô lượng phương tiện từ
đầu đến cuối đều nhằm khiến
cho Bồ Đề tâm của các vị Bồ Tát thanh tịnh,
nhận biết cái tâm ấy. Giống như trong kinh này,
hăy nên biết hết thảy Tu Đa La đều có cùng ư nghĩa này.
Như pháp do Thích Ca Như Lai đă nói, hăy nên biết các thứ
pháp do mười phương ba đời hết thảy
Như Lai tùy thuận cơ nghi và nhân duyên đă nói, không ǵ chẳng là ba câu pháp môn ấy,
rốt ráo đồng quy về gốc, chẳng có
đường lối nào khác! V́ thế nói “ngă thuyết
chư pháp như thị, năi chí tri thức kỳ tâm” (ta
nói các pháp như thế… hiểu biết cái tâm).
(Kinh) Bí Mật Chủ! Vân hà tự tri tâm? Vị nhược
phần đoạn, hoặc hiển sắc, hoặc h́nh sắc,
hoặc cảnh giới, nhược sắc, nhược
thọ, tưởng, hành, thức, nhược ngă, nhược
ngă sở, nhược năng chấp, nhược sở
chấp, nhược thanh tịnh, nhược giới,
nhược xứ, năi chí nhất thiết phần đoạn
trung, cầu bất khả đắc.
(經)祕密主!云何自知心?謂若分段,或顯色、或形色、或境界,若色若受想行識,若我若我所,若能執若所執,若清淨若界若處,乃至一切分段中求不可得。
(Kinh: Này Bí Mật Chủ! Tự biết cái tâm như thế
nào? Tức là dù phần đoạn, hoặc hiển sắc,
hoặc h́nh sắc, hoặc cảnh giới, hoặc sắc,
hoặc thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngă, hoặc
ngă sở, hoặc chủ thể chấp trước, hoặc
đối tượng bị chấp trước, hoặc
thanh tịnh, hoặc giới, hoặc xứ, cho đến
trong hết thảy các phần đoạn, đều chẳng
thể cầu được).
Trong phần trên, đức Thế Tôn đă rộng
nói tướng như thật của Bồ Đề tâm thanh tịnh. Do chúng sanh chưa thể thấu hiểu ư, lănh ngộ,
Ngài lại phương tiện nói môn đốn giác nhập
Thật Tướng của Phật tâm này, cũng v́ quyết
liễu[19] pháp của mười
phương ba đời hết thảy chư Phật.
Như trong hết thảy các kinh, hoặc nói “trong các Uẩn
ḥa hợp, ngă chẳng thể được”, hoặc
nói “các pháp sanh từ duyên đều không có tự tánh”,
đều là các môn lần lượt khơi mở Thật
Tướng. Thật Tướng của các pháp được
nói trong các kinh ấy chính là Thật Tướng của cái
tâm trong kinh này. “Thật Tướng của tâm” tức là Bồ Đề, trọn chẳng có lư nào
khác. Chỉ v́ chúng sanh phước mỏng, chẳng thể
tin chính ḿnh sẽ thành Phật, cho rằng “chính ḿnh thành Phật”
là chuyện rất khó đạt được. V́ thế,
đức Thế Tôn dạy họ ĺa các cấu chướng,
thủ hộ cái tâm, phải giữ sao cho thời và nghĩa khế hợp, sau đấy
mới nói ấn “tức tâm”. Nay kinh này chẳng phải
vậy, thẳng thừng dựa trên các pháp khiến cho họ
biết cái tâm. Do vậy là tạng bí yếu! Câu thứ nhất
nói “dù là phần đoạn” tức là nêu chung “pháp sanh từ
nhân duyên”. Do pháp phải nhờ vào nhân duyên mới thành, ắt
có tướng sai biệt. Hành giả hăy nên biết quán sát
như thế! Nay trong sự phần đoạn ấy, cái ǵ là tâm? Cho
đến phân tích, suy cầu, đều chẳng thể
được! Tức là biết tâm này vượt ngoài các
tướng, ĺa các nhân duyên. Do biết tâm tánh thường
như thế, lúc bấy giờ, hết thảy các pháp tự
nhiên chẳng khác với tâm!
“Hiển sắc” là xanh, vàng v.v… “H́nh
sắc” là như vuông, tṛn v.v… Cảnh giới, tức là
cái đối ứng với sáu t́nh (sáu căn), tức sáu
trần. V́ để cho kẻ khác dễ hiểu, lại lần
lượt quan sát các pháp. Nay trong các thứ hiển sắc
và h́nh sắc đó, ǵ là tâm? Sắc vốn chẳng phải
là t́nh, chẳng có tướng hay biết, huống là có tâm
trong ấy để có thể đạt được
ư? Giống như hiển sắc và h́nh sắc, hăy nên biết
hết thảy các sắc trần cũng như thế. Giống
như sắc trần, cho đến thanh, hương, vị,
xúc, pháp cũng đều như thế. Hành giả chẳng
thể t́m được tâm trong ngoại trần, lại
quán Ngũ Uẩn trong nội thân cũng như bọt
nước, bong bóng, ngọn lửa, cây chuối huyễn hóa, tự cầu tánh thật [trong ấy] c̣n chẳng thể được, huống
hồ có được tâm trong đó ư? Như thế từ
thô tới tế, bỏ rộng theo lược, cho đến
khi một niệm thức trong hiện tại cũng chẳng
trụ. Lại do từ các duyên mà sanh, tức Không, tức
Giả, tức Trung, xa ĺa hết thảy hư luận, cho tới ngằn mé vốn chẳng sanh. “Ngằn mé vốn chẳng
sanh” chính là tự tánh thanh tịnh tâm, tự tánh thanh tịnh
tâm tức là môn chữ A. Do dùng tâm để nhập môn chữ
A, hăy nên biết hết thảy các pháp đều vào trong
môn chữ A.
Đă
nói quán Thật Tướng của các pháp; kế đó, nói về quán ngă tướng, cho nên
nói “nhược ngă, nhược ngă sở, nhược
năng chấp, nhược sở chấp, nhược
thanh tịnh” (hoặc là ngă, hoặc là cái của ta, hoặc
là chủ thể chấp trước, hoặc là đối
tượng bị chấp trước, hoặc thanh tịnh).
Như trong các Ấm thuộc phần trước, các thứ
phương tiện quán tâm đều chẳng thể
được, huống hồ các pháp “ta, người,
thọ giả” v.v… vốn chỉ có giả danh, trong ấy há có tâm để đạt
được hay chăng? “Thanh tịnh”
tức là chỗ tối cực thanh tịnh mà ngoại đạo chấp trước, ngỡ đó là Niết Bàn.
Như Trường Trảo Phạm Chí chẳng thọ hết
thảy các pháp, mà lại chấp nhận cách nh́n ấy.
Nay cũng giống như thế, do chấp trước
trí huệ quán Không, mà sanh khởi ư tưởng ngỡ là
thanh tịnh ấy, liền từ trong tâm tưởng
như thế để chánh quán tự tâm “chẳng có chỗ
sanh”, liền được nhập Bồ Đề
tâm chân tịnh.
Trên
đây đă rộng đối ứng với Ngũ Ấm
[để phá các chấp trước đối với
ngă]; kế đó, lại nói mười tám giới, mười hai xứ,
cho đến trong hết thảy các phần đoạn
đều chẳng thể cầu được. Ư
nghĩa của Ấm, Giới, Nhập th́ như trong A Tỳ
Đàm đă giảng cặn kẽ. Ba pháp ấy (Ấm, Giới,
Xứ) đă thâu nhiếp hết thảy các pháp. Lại nói “năi
chí nhất thiết phần đoạn trung, cầu bất khả đắc” (cho đến trong hết thảy phần đoạn
đều chẳng thể cầu được), tức
là như trong kinh Ma Ha Bát Nhă đă lần lượt nói rộng các
pháp. Như đối với Ấm, Giới, Nhập mà
phân tích, t́m cầu cái tâm, sẽ chẳng thể t́m
được tâm. Hăy nên biết từ lục độ vạn hạnh,
cho tới trong hết thảy các môn tổng tŕ tam-muội,
dùng đủ mọi cách cầu tâm, đều chẳng thể được. Do tâm chẳng
thể được, tướng thường, lạc,
ngă, tịnh, hoặc tướng chẳng phải thường, lạc,
ngă, tịnh v.v… của cái tâm ấy cũng giống như thế,
đều là chẳng thể được!
Lại
nữa, như hàng Thanh Văn khi mới quán Ấm, Nhập,
Giới, liền từ Ấm mà cầu ngă, hoặc ĺa Ấm
để cầu ngă, đều chẳng thể được.
Dùng cả hai cách, cũng đều chẳng thể
được. Lúc ấy, từ trong Bát Trực Đạo
(Bát Chánh Đạo), viễn trần ly cấu, chánh pháp nhăn sanh khởi. Bồ Tát trong Chân Ngôn Môn cũng giống
như thế, khi mới quán Ấm, Giới, Nhập, do từ
Ấm mà cầu tâm, và ĺa Ấm để cầu tâm đều
không thể được, [vận dụng cả] đôi
bên cũng chẳng được, cho nên ngay lập tức
liễu ngộ “ngằn mé bất sanh” của tự tâm, từ trong đại
Bồ Đề đạo thuộc tri kiến của
Như Lai, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhăn tịnh.
Nếu chẳng tạo phương tiện như thế,
trước hết từ chấp vào nơi chốn để
quán, chỉ nói là “tâm trọn hết thảy mọi
nơi, rốt ráo vô tướng”, chúng sanh sẽ chẳng
thể do đâu mà ngộ nhập. Hăy nên biết cách Quán này
là một pháp môn bí yếu nhất. Như các Bồ
Tát vận dụng các phương tiện viễn ly khác, lần
lượt tu tập Giới, Định, trí huệ trong
vô lượng kiếp, dùng đủ mọi môn để
quán Nhân Không và Pháp Không, vẫn chưa thể xa ĺa h́nh bóng
[của nhân pháp và ngă pháp] trong tâm. Nay hành giả Chân
Ngôn khi sơ phát tâm, quán thẳng vào Thật Tướng của
tự tâm, biết rơ nó vốn bất sanh, ngay lập tức
các hư luận về nhân và pháp đều trừ sạch như
hư không, thành tựu tự nhiên giác, chẳng do điều
ǵ khác mà giác ngộ. Hăy nên biết pháp quán này lại là đạo
pháp minh (hiểu rơ đạo, giác ngộ pháp), là pháp môn
đốn ngộ vậy!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Thử Bồ Tát tịnh Bồ
Đề tâm môn, danh sơ pháp minh đạo. Bồ Tát trụ
thử tu học, bất cửu cần khổ, tiện
đắc Trừ Nhất Thiết Cái Chướng tam-muội.
Nhược đắc thử giả, tắc dữ
chư Phật, Bồ Tát đồng đẳng trụ,
đương phát ngũ thần thông, hoạch vô lượng
ngữ ngôn âm đà-la-ni, tri chúng sanh tâm hạnh, chư Phật
hộ tŕ, tuy xử sanh tử, nhi vô nhiễm trước,
vị pháp giới chúng sanh bất từ lao quyện, thành tựu
trụ vô vi giới, ly ư tà kiến, thông đạt chánh
kiến.
(經)祕密主!此菩薩淨菩提心門,名初法明道。菩薩住此修學,不久勤苦,便得除一切蓋障三昧。若得此者,則與諸佛菩薩同等住,當發五神通,獲無量語言音陀羅尼,知眾生心行,諸佛護持。雖處生死而無染著,為法界眾生不辭勞倦,成就住無為戒,離於邪見通達正見。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Môn Bồ Đề
tâm thanh tịnh của Bồ Tát này gọi là sơ pháp minh
đạo. Bồ Tát trụ vào đấy tu học, siêng
khổ chẳng bao lâu, sẽ đắc Trừ Nhất Thiết
Cái Chướng tam-muội. Nếu đắc môn ấy, sẽ
cùng trụ giống như chư Phật, Bồ Tát, sẽ
phát sanh năm món thần thông, đạt được vô
lượng ngữ ngôn âm đà-la-ni, biết tâm hạnh của
chúng sanh, được chư Phật hộ tŕ, tuy ở
trong sanh tử mà chẳng nhiễm đắm, v́ pháp giới
chúng sanh chẳng nề hà mệt nhọc, thành tựu trụ
trong vô vi giới, ĺa tà kiến, thông đạt chánh kiến).
Để
nhập trí huệ của Phật, có vô lượng môn phương tiện; nay tông
này dùng ngay Bồ Đề tâm thanh tịnh làm môn. Nếu nhập
môn này, tức
là sơ nhập cảnh giới của hết thảy
Như Lai. Ví như
[trong phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm], ngài Di Lặc mở cửa lâu các, từ trong đó,
Thiện Tài thấy trọn vô lượng chuyện chẳng
nghĩ bàn, khó thể diễn nói được, chỉ có
người nhập tự biết mà thôi!
“Pháp
minh”: Do giác ngộ “ngằn mé bất sanh” của cái tâm, tâm ấy tịnh trụ,
sanh ra đại huệ quang minh, chiếu khắp vô lượng
pháp tánh, thấy đạo do chư Phật hành. V́ thế
nói là “pháp minh đạo”. Khi Bồ Tát trụ trong
đạo ấy, tất cả phiền năo nghiệp khổ
sanh từ nhân duyên vọng tưởng thảy đều
trừ diệt thanh tịnh. Ví như có người ở
trong chỗ tối, bị chất báu sắc bén gây
thương tổn, cho là rắn độc. Do nghĩ là
độc, nên cái tâm chấp trước ấy liền trở
thành khí độc lan khắp chi thể. Khi người ấy
sắp mạng chung, có lương y chẩn đoán, hiểu
rơ đầu đuôi, lập tức dẫn [kẻ đó]
đến chỗ bị thương, dùng đèn sáng để
soi, vẫn thấy chất báu gây nên thương tổn hăy c̣n vết máu hoen ố. Người ấy biết rơ
chẳng phải là độc, độc khí cũng trừ,
phân biệt vật đẹp đẽ đáng ưa chuộng mà sanh ḷng vui sướng. Hành nhân cũng lại
giống như thế, do Bồ Đề tâm thanh tịnh
chiếu sáng các pháp, tốn ít công sức mà đạt
được Trừ Cái Chướng tam-muội, thấy
Thật Tướng của tám vạn bốn ngàn phiền
năo thành tám vạn bốn ngàn môn khối báu. V́ thế, kế
đó, kinh
nói: “Bồ Tát trụ thử tu học, bất cửu cần
khổ, tiện đắc Trừ Nhất Thiết Cái
Chướng tam-muội” (Bồ Tát trụ trong ấy tu
học, siêng khổ chẳng bao lâu, liền đạt
được Trừ Nhất Thiết Cái Chướng
tam-muội). Nếu đắc môn ấy, sẽ b́nh đẳng
trụ cùng chư Phật Bồ Tát. Trong ấy, có năm loại
chướng:
-
Một là phiền năo chướng, tức từ căn bản
phiền năo cho đến tám vạn bốn ngàn thượng,
trung, hạ phẩm chướng che lấp tịnh tâm, và
do tập khí đă quen từ đời trước, gây trở
ngại đạo cơ (cơ duyên chứng đạo),
chẳng nhập Phật pháp.
-
Hai là nghiệp chướng, tức là do trong đời quá
khứ và hiện tại đă tạo các tội nặng,
cho đến báng bổ kinh Phương Đẳng,
người ấy tuy có nhân duyên đắc đạo,
nhưng do nghiệp chướng cũ chưa trừ, bị các thứ gây chướng nạn, chẳng nhập Phật
pháp.
-
Ba là sanh chướng, tức là người đă
được sanh vào chỗ thắng thượng, không hoạn
nạn, ắt sẽ ngộ đạo, nhưng do nghiệp
trước mà thọ thân không rảnh rỗi, coi báo sanh là
chướng, chẳng nhập Phật pháp.
-
Bốn là pháp chướng, tức là người đă
được sanh vào chỗ không chướng ngại, lại
có cơ duyên ngộ đạo, do đời trước
đă từng có duyên gây chướng ngại pháp, bèn chẳng
gặp thiện hữu, chẳng nghe chánh pháp.
-
Năm là sở tri chướng, tức là người ấy
đă gặp thiện tri thức, được nghe chánh
pháp, nhưng có các thứ nhân duyên khiến cho đôi bên chẳng
ḥa hợp, trở ngại tu Bát Nhă Ba La Mật, như kinh
Đại Phẩm [Bát Nhă] đă nói cặn kẽ về ma
sự, chắc là cũng do đời trước đă từng cố
ư khiến cho đạo cơ của người khác bị
sai lệch, cho nên sanh ra món chướng này.
Hành
giả đă trừ sạch năm món gây chướng ngại
cho tam-muội, lúc bấy giờ, trong tự tâm thường thấy diệu tướng
tĩnh lặng của mười phương hết thảy
chư Phật như nh́n vào gương sáng, cho đến
đối với các oai nghi đi, lại, ngủ, thức, đều chẳng ĺa nhân duyên [trông thấy] chúng hội
của chư Phật như thế. Khi đó, các vị thánh thường
dùng phương tiện thù thắng nhiệm mầu để
khơi gợi tâm giác ngộ của người ấy,
dùng Phạm âm an ủi, khuyên dụ, khiến cho [người ấy] dứt trừ lưới nghi.
Hành giả vừa nghe liền tùy hỷ, ngộ nhập,
lưới chướng liền trừ, chẳng lâu sau sẽ
thành tựu hết thảy Phật pháp. V́ thế nói: “Nếu đạt
được môn tam-muội này, sẽ b́nh đẳng trụ
với Phật, Bồ Tát”. Hăy nên biết hành nhân có địa
vị giống như bậc Đại Giác. Do cái tâm tự
giác mà được gọi là Phật, nhưng chẳng phải
là địa vị Đại Mâu Ni diệu giác rốt ráo. Ví như mặt
trăng thanh tịnh, bản thể tuy chẳng tăng, giảm,
nhưng cũng rơ ràng là dần dần tăng, cho tới
ngày Rằm th́ mới có thể ảnh hưởng đến
thủy triều nơi biển cả.
Lại
nữa, hành giả do cùng trụ b́nh đẳng với Như Lai, tức là có thể dùng sức phương tiện
khởi năm món thần thông, chẳng động bổn
tâm mà dạo các cơi Phật, hiện các thứ thân, ngữ,
ư, dấy lên các thứ mây cúng dường, dùng vô tận
đại nguyện để rộng tu các Độ (Ba La Mật). Lại
do ư căn thanh tịnh; kế đó, đắc Giải Vô Lượng Ngữ Ngôn Âm Thanh
Đà-la-ni, như ba mươi sáu câu-chi đường [thọ
sanh] trong thế gian, tùy theo chủng loại, căn
tánh của họ là thượng, trung, hạ, đối với
bao nhiêu phong tục, ngôn ngữ địa phương, mỗi
mỗi đều sai biệt, đều hiểu rơ chỉ
thú, đáng nên dùng âm thanh theo từng loại [để thuyết
pháp giáo hóa họ].
Như trong một thế giới, hết thảy các thế
giới cũng đều là như thế. Trong bản tiếng Phạn, Rô Đa (Ruta) là tiếng lớn, La Vĩ Đa (Ravita) là tiếng nhỏ, Niết Cù Sam (Dīrghāghoṣa) là “âm dài”, lại c̣n có nghĩa là “nhiều âm”. Do vậy, nói đầy đủ,
muốn hiển thị cảnh giới tổng tŕ, không ǵ
chẳng hiểu rơ, đối với ngôn ngữ của
phương này (Trung Hoa), khó thể phiên dịch trọn hết.
Do đắc đà-la-ni, nên có thể biết tâm hạnh của
hết thảy chúng sanh, tức là chúng sanh như thế này
sân hạnh đặc biệt nhiều, nhưng tánh tham mỏng
ít, hoặc chúng sanh như thế kia tánh tham đặc biệt
nhiều, mà tánh sân mỏng ít. Cho đến tướng “thông,
tắc” vô lượng sai biệt, như phần Đạo
Chủng Trí trong Thích Luận đă nói cặn kẽ. Vị
Bồ Tát ấy không chỉ là biết bằng ư căn, mà
thậm chí [các giác quan để] thấy, nghe, ngửi, chạm, cũng đều có thể dùng lẫn nhau vô ngại.
Lại có thể quán căn duyên của họ để trừ
cái chướng cho họ, dùng đủ mọi
phương tiện để thành thục chúng sanh, trang
nghiêm cơi Phật, hành Như Lai sự. Hăy nên biết hành giả
Chân Ngôn thậm chí có thể hoàn thành ngay trong một đời.
Lại
nữa, các công đức như đă nói trên, hết thảy
chúng sanh thảy đều đúng như bổn tánh mà b́nh
đẳng cùng có. Chỉ v́ vô minh chướng lấp nên
chẳng tự biết rơ, chưa thể khởi phát sức
thần thông bí mật như thế. Nay các Bồ Tát tu hành
Chân Ngôn môn này, do thấy pháp, hiểu
rơ đạo, ngay trong đời này
đạt được Trừ Nhất Thiết Cái
Chướng tam-muội. Do đắc môn tam-muội ấy,
có thể cùng ở với chư Phật, Bồ Tát, phát khởi
năm món thần thông. Do năm thần thông, nên
đắc Nhất Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn đà-la-ni. Do
đạt được môn đà-la-ni ấy, có thể biết
tâm hạnh của hết thảy chúng sanh để làm Phật
sự. Do có thể rộng làm Phật sự, chẳng
đoạn ḍng giống Như Lai, cho nên trong hết thảy
thời, hết thảy chỗ, thường được
mười phương chư Phật hộ tŕ. Giống
như trẻ thơ vừa mới sanh ra, cha mẹ cưng
chiều, thường chẳng ĺa bỏ. Hăy nên biết các
câu như thế, đều theo thứ tự mà giải
thích lẫn nhau.
Lại
nữa, hành giả do bên trong có đủ công đức
như trên, ngoài th́ được chư Phật hộ tŕ.
V́ thế, ở trong sanh tử mà chẳng đắm nhiễm,
giống như hoa sen nổi vượt khỏi mặt
nước, chẳng bị bùn lầy nhuốm bẩn.
Thường dùng phương tiện Tứ Nhiếp để
dẹp khổ cho chúng sanh, cho đến trong vô lượng
vô biên A-tăng-kỳ kiếp thường ở trong địa
ngục Vô Gián, thân tâm tinh tấn, hừng hực chẳng ngơi, chẳng lui sụt,
chẳng nài mệt nhọc. V́ cớ sao? Tánh của Bồ
Đề tâm thanh tịnh vốn sẵn như kim cang. Tánh
cực kiên cố như thế chẳng do thầy mà đạt
được! Trụ trong vô vi giới, vô cấu, vô
trược, chẳng thể phá hoại, tổn
thương. Giới trong tiếng Phạn là Thi La (Śīla), có nghĩa là “trong trẻo, mát lạnh”. Ví
như tánh nước thường lạnh, dẫu gặp
nhân duyên củi lửa bèn có thể nấu nát nhừ các vật,
nhưng tự tánh của nó trọn chẳng thể đổi
dời. Nếu rút củi, dập lửa, tự nhiên nước
sẽ trong mát như cũ. Hành giả Chân Ngôn cũng giống
như thế, khi đạt được Trừ Cái
Chướng tam-muội, bổn tánh của cái tâm chính là Thi
La, chẳng phải là pháp tạo tác, chẳng do ǵ khác mà
đạt được. V́ thế nói là “trụ vô vi giới”.
Như tịnh giới của Thanh Văn phải do bạch
tứ yết-ma[20]
và các duyên trọn đủ th́ mới sanh khởi, lại
cần phải phương tiện thủ hộ như
ngăn ngừa gai nhọn, tới khi tuổi thọ của
một đời người đă hết, giới ấy cũng mất theo. C̣n giới ở đây chẳng phải
là như thế, đời đời kiếp kiếp
thường cùng sanh theo, chẳng cần phải thọ
tŕ, thường chẳng bị mất mát, vi phạm. Lại
do trụ trong giới ấy, thật trí sáng thêm, được
thấy duyên khởi Trung Đạo rất sâu chẳng thể
nghĩ bàn, ngăn chặn tám món điên đảo, xa ĺa nhị
biên. V́ thế, tiếp đó, kinh nói: “Viễn ly tà kiến,
thông đạt chánh kiến” (xa ĺa tà kiến, thông đạt
chánh kiến). [Trong kinh Pháp Hoa], ngài Ca Diếp cũng nói: “Tự
thử dĩ tiền, ngă đẳng giai danh tà kiến nhân
“ (từ trước đến nay, chúng con đều
đáng gọi là kẻ tà kiến). Do huệ trong ấy bất
chánh, nên nói là “tà kiến”.
(Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Trụ thử Trừ
Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, tín giải lực
cố, bất cửu cần tu, măn túc nhất thiết Phật
pháp. Bí Mật Chủ! Dĩ yếu ngôn chi, thị thiện
nam tử, thiện nữ nhân vô lượng công đức
giai đắc thành tựu.
(經)復次祕密主!住此除一切蓋障菩薩,信解力故,不久勤修,滿足一切佛法。祕密主!以要言之,是善男子善女人,無量功德皆得成就。
(Kinh:
Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị
Bồ Tát trụ trong Trừ Nhất Thiết Cái Chướng
này, do sức tín giải, siêng tu chẳng bao lâu, sẽ viên
măn hết thảy Phật pháp. Bí Mật Chủ! Nói tóm lại,
thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vô lượng
công đức đều được thành tựu).
Do
phàm phu và Nhị Thừa chẳng thể quyết trạch,
biết chánh đáng Thật Tướng của tự tâm,
đối với lư đế thật, thậm chí đối
với Không mà nói là chẳng Không, đối với chẳng
Không mà nói là Không, chẳng thấy con đường đại
Bồ Đề do chư Phật
đă hành. Nay các vị Bồ Tát này, do chiếu kiến cái
tâm, hiểu rơ đạo, ngay lập tức vô ngại trí
phát sanh. Trong hết thảy các pháp, thảy đều hiện tiền thông đạt,
chẳng sai lệch, giống như người sáng mắt
do ánh sáng mặt trời mà thấy các thứ sắc. Tuy vô
lượng thiên ma đều hóa thành thân Phật, đều
nói tương tự Ba La Mật, trọn chẳng thể
lay động chút phần lưới nghi trong tâm họ. V́
thế, kinh nói: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Trụ
thử Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát
tín giải lực cố, bất cửu cần tu, măn túc nhất
thiết Phật pháp” (Lại này Bí Mật Chủ! Bồ
Tát trụ trong tam-muội Trừ Nhất Thiết Cái
Chướng ấy, do sức tín giải, siêng tu chẳng
bao lâu, sẽ trọn đủ hết thảy Phật
pháp). Do chánh kiến như thế ví như Kim Cang, tức
là sức tín giải kiên tŕ tối thượng,
nương theo đó mà tấn tu Như Thật Xảo
Độ, cho nên đạt được Chư Phật
Lực Vô Sở Úy Giải Thoát tam-muội, và vô lượng
Phật pháp khác thảy đều thành tựu. Ngài Long Thọ bảo: Ví như người
nung luyện, dùng các thứ phương tiện để
làm tan chảy khoáng thạch, sau đó thành vàng. Giống
như người có thần thông, có thể khiến cho các
loài đất, gỗ đều thành chất vàng. V́ thế
nói “siêng tu chẳng bao lâu, liền được viên măn
hết thảy Phật pháp”. Do vậy, Bồ Tát khi mới
phát tâm, liền được gọi là Phật. Công đức
chân thật không thể đo lường, giả sử
Như Lai trong vô lượng vô biên A-tăng-kỳ phân biệt
diễn nói, vẫn chẳng thể cùng tận!
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ phục
dĩ kệ vấn Phật: - Vân hà Thế Tôn thuyết, thử tâm Bồ Đề
sanh? Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ Đề
tâm? Nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh thuyết,
Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ đệ tâm tục
sanh. Tâm chư tướng dữ thời, nguyện Phật
quảng khai diễn. Công đức tụ diệc nhiên, cập
bỉ hành tu hạnh, tâm tâm hữu thù dị, duy Đại
Mâu Ni thuyết.
(經)爾時執金剛祕密主復以偈問佛:云何世尊說,此心菩提生?復以云何相知發菩提心?願識心心勝,自然智生說,大勤勇幾何,次第心續生,心諸相與時,願佛廣開演。功德聚亦然,及彼行修行,心心有殊異,惟大牟尼說。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ lại dùng kệ hỏi đức Phật: - Cớ sao Thế Tôn nói, tâm này Bồ Đề sanh? Lại
do tướng thế nào, biết phát Bồ Đề tâm?
Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật Tướng thù
thắng, tự nhiên trí sanh khởi. Thưa đấng
Đại Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi,
theo thứ tự thế nào? Các tâm tướng và thời,
nguyện Phật rộng khai diễn. Khối công đức
cũng thế, và hành hạnh tu hành, mỗi tâm đều mỗi
khác, mong Đại Mâu Ni nói).
Như
trong phần trên, đức Phật đă nói ư chỉ đại
cương của bộ kinh này, môn Thật Tướng của
cái tâm đă được [nêu bày] đại lược
trọn vẹn. Khi đó, ngài Kim Cang Thủ v́ khiến cho
chúng sanh trong vị lai sẽ
được trọn đủ
phương tiện, chẳng c̣n nghi nữa, nên dùng kệ
để hỏi đức Phật, thỉnh cầu đức
Thế Tôn rộng diễn nghĩa ấy. Trong ấy, đại
lược có chín câu hỏi. “Vân hà Thế Tôn thuyết,
thử tâm Bồ Đề sanh?” (V́ sao đức Thế
Tôn nói, Bồ Đề sanh từ cái tâm này?) tức là [thắc
mắc chuyện làm thế nào để] sanh khởi Bồ
Đề tâm. Trong các kinh như Hoa Nghiêm [chẳng hạn], đă
tán thán cặn kẽ công đức phát Bồ Đề tâm; nay ở
đây, hỏi thẳng về mật ấn của tâm. Làm
thế nào để biết rơ chủng tử Bồ Đề
phát sanh từ tâm này? Nếu đă phát sanh th́ tánh của nó là như thế nào?
Câu
thứ hai: “Phục dĩ vân hà tướng, tri phát Bồ
Đề tâm?” (lại do tướng như thế nào
mà biết là phát Bồ Đề tâm): “Tướng” là
do tánh đă thành tựu bên trong, ắt sẽ có tướng
biểu lộ ra ngoài, như trong Bát Nhă đă nói cặn kẽ
tướng mạo của A-tỳ-bạt-trí (Avaivarti, bất
thoái chuyển), nay ở đây cũng hỏi “tâm Bồ
Đề đă sanh th́ có tướng mạo ǵ?”
Kinh
nói “nguyện thức tâm, tâm thắng, tự nhiên trí sanh
thuyết” (Nguyện nói về thức tâm, tâm Thật
Tướng thù thắng, tự nhiên trí sanh khởi):
Đúng như thật tán thán công đức của Phật,
xin Ngài hăy phô diễn ư nghĩa của hai câu trước
đó. Đầu tiên nói đến “thức tâm” tức
là cái trí tự giác trong tâm. Kế đó lại nói “tâm”
tức là Thật Tướng của cái tâm. Ư nói: Cảnh
và trí đều diệu, chẳng hai, chẳng khác, cho nên lặp
lại. “Tự nhiên trí” là thường trí của
Như Lai, chỉ là tâm tự chứng tâm, chẳng do ai khác
mà ngộ! Ư nói: Phật đă là người hiểu cái tâm bậc
nhất, ắt có thể biết Bồ Đề tâm phát
sanh và tướng vi tế của nó, kính mong đức Phật
hăy nói.
Câu
thứ ba “Đại Cần Dũng kỷ hà, thứ
đệ tâm tục sanh” (Thưa đấng Đại
Cần Dũng, tâm tiếp nối sanh khởi, theo thứ tự
thế nào?): Đại Cần Dũng (bậc siêng năng
mạnh mẽ to lớn) chính là tên gọi khác của đức
Phật. Tán thán phẩm đức rồi lại thưa hỏi:
“Do có mấy tâm theo thứ tự mà đạt được
cái tâm ấy?”
Câu
thứ tư và câu thứ năm là “tâm chư tướng
dữ thời, nguyện Phật quảng khai diễn “
(các tướng tâm và thời, nguyện Phật rộng
khai diễn), nhằm hỏi về các tướng sai biệt
của tâm và sự thắng tấn (tiến cao hơn) liên
tục, phải trải qua bao lâu th́ mới rốt ráo đạt
được Bồ Đề tâm thanh tịnh?
Câu
thứ sáu “công đức tụ diệc nhiên” (khối
công đức cũng thế), nói về công đức vi
diệu của cái tâm này, cũng mong đức Thế Tôn sẽ
rộng khai diễn. V́ thế nói “diệc nhiên”
(cũng thế).
Câu
thứ bảy là “cập bỉ hành tu hạnh” (và hành
hạnh tu đó), tức là kế đó, hỏi nên dùng hạnh
nào? Tu hành như thế nào để có đạt
được Vô Thượng Tất Địa (thành tựu
vô thượng)? Cũng có thể chia đoạn này thành
hai câu.
Câu
thứ tám và câu thứ chín “tâm tâm hữu thù dị, duy
Đại Mâu Ni thuyết” (mỗi tâm mỗi khác biệt,
mong Đại Mâu Ni nói), tức là cũng mong đức Thế
Tôn nói cặn kẽ về tâm thức dị thục của
chúng sanh và tâm thức đặc biệt khác lạ của
hành giả Du Già. Mâu Ni có nghĩa là Tịch Mặc, ư nói:
Thân, ngữ, tâm của đức Phật đều rốt
ráo tịch diệt, vượt ngoài khả năng diễn
tả của ngôn ngữ. Do sự tịch diệt nhỏ
nhoi của Tiểu Thừa chẳng thể sánh ví, cho nên nói
là Đại Mâu Ni.
[Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Chín câu như thế hoặc
có thể chia thành mười câu. Từ đây trở
đi cho đến hết kinh, đều mang ư nghĩa
Như Lai đối ứng chín câu hỏi ấy mà nói phân
biệt cặn kẽ. Nhưng đức Phật quán chúng
hội thuở ấy, chú trọng khiến cho họ lănh hội
ư, t́m cầu điều cốt lơi, cho nên có thể là
đáp trước, hỏi sau, kinh văn không có tiêu chuẩn
nhất định. Kế đó, hoặc chuyển thành
sanh khởi nghi vấn để [giải đáp] cùng tận
các chi tiết. Như kinh văn trong phần sau nói về nhập
Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la v.v… tức là trả
lời câu hỏi về tu hành. Phần nói về cái quả
của một trăm chữ
v.v… chính là giải đáp câu hỏi về tâm đặc biệt
khác lạ và công đức. Các đoạn khác đều
có chỗ tương ứng (tức là nhằm giải
đáp các nghi vấn), đều có thể theo từng loại
mà xét, ư nghĩa dễ thấy”.
(Kinh) Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế
Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai Phật chân tử, quảng
đại tâm lợi ích, thắng thượng Đại
Thừa cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật
đại bí mật, ngoại đạo bất năng thức.
Ngă kim tất khai thị, nhất tâm ưng đế thính.
(經)如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:善哉佛真子,廣大心利益。勝上大乘句,心續生之相,諸佛大祕密, 外道不能識;我今悉開示,一心應諦聽。
(Kinh: Nói như thế xong, đức Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế
Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay, Phật chân tử!
Tâm lợi ích rộng lớn, câu Đại Thừa thắng
thượng, tướng tâm liên tục sanh, chư Phật
bí mật lớn, ngoại đạo chẳng thể biết.
Ta nay đều chỉ bày, nên nhất tâm lắng nghe).
Kế
đó, trong phần kệ giải đáp cho Kim Cang Thủ của
Như Lai, “thiện tai Phật chân tử, quảng đại
tâm lợi ích” (lành thay, Phật chân tử! Tâm lợi ích
rộng lớn): Do sanh từ chủng tánh của Như
Lai, do sanh từ thân, ngữ, tâm của Phật, nên gọi
là “chân tử” (con thật sự). Như trong phần
trước, Đại Nhật Thế Tôn hiện cảnh
giới gia tŕ rộng lớn, nay Bí Mật Chủ cũng
muốn v́ trọn khắp vô lượng chúng sanh đáng
độ như thế, khiến cho họ nhanh chóng thành tựu
đại hạnh, xé rách lưới nghi to lớn, cùng
đạt được ba câu b́nh đẳng vô tận
trang nghiêm, cho nên đức Phật tán thán rằng: “Lành
thay Phật tử! Nay ông có thể dùng cái tâm rộng lớn
để tạo lợi ích cho vô lượng chúng sanh, mà thốt
ra lời hỏi như thế”.
Tiếp
đó, Ngài nói: “Thắng thượng Đại Thừa
cú, tâm tục sanh chi tướng, chư Phật đại
bí mật, ngoại đạo bất năng thức “
(Câu Đại Thừa thắng thượng, tướng
liên tục sanh của tâm, là bí mật to lớn của
chư Phật, ngoại đạo chẳng thể biết).
Nói đại lược th́ do có bảy nghĩa nên gọi
là Đại Thừa:
-
Một, do pháp to lớn, tức là tạng bí mật rộng
lớn rất sâu của chư Phật được bậc
đại nhân là Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy
mọi nơi vận dụng.
-
Hai, do phát tâm to lớn, tức là một mực dốc chí mong cầu đại huệ
b́nh đẳng, khởi bi nguyện vô tận, thề sẽ
truyền trao trọn khắp pháp giới chúng sanh.
-
Ba, do tín giải to lớn, tức là khi mới thấy tâm,
hiểu đạo, trọn đủ vô lượng công
đức, có thể tới trọn khắp các cơi Phật
nhiều như cát sông Hằng, dùng đại sự nhân
duyên thành tựu chúng sanh.
-
Bốn, do tánh to lớn, tức là tự tánh thanh tịnh
tâm kim cang bảo tạng chẳng hề khuyết giảm,
hết thảy chúng sanh đều b́nh đẳng cùng có.
-
Năm, do y chỉ to lớn, tức là diệu thừa
như thế chính là chỗ y chỉ to lớn của pháp
giới chúng sanh, giống như trăm sông đổ vào biển,
cỏ cây nương vào đất mà sanh.
-
Sáu, do thời to lớn, tức là thọ lượng dài
lâu vượt ngoài ba thời (quá khứ, hiện tại, vị
lai), tác dụng sư tử phấn tấn bí mật thần
thông chưa từng ngưng nghỉ.
-
Bảy, do trí to lớn, tức là do các pháp vô biên, tự tâm
giống như hư không, tự nhiên diệu huệ
cũng lại là vô biên, cùng tột nguồn cội Thật
Tướng, ví như nắp khít với hộp.
Do
bảy nhân duyên như thế, trong các pháp môn, Đại Thừa
giống như đề hồ thuần vị bậc nhất.
V́ thế gọi là “Đại
Thừa tối thắng”. Thừa là “tiến nhập”, Cú là “chỗ ngưng nghỉ”. V́ thế nói là “Đại Thừa cú” (câu Đại
Thừa). “Tâm tục sanh chi tướng” (tướng
sanh liên tục nơi tâm): Tuy tâm ấy rốt ráo thường
tịnh, ví như hư không ĺa hết thảy các tướng,
cũng từ nhân duyên dấy lên mà có tâm tướng sanh ra.
Ví như sóng ṃi trong biển cả, chẳng phải là
thường có, mà cũng chẳng phải là thường
không. Nếu là thường có, chẳng nên khi gió lặng, sóng bèn ngưng lặng, yên tĩnh. Nếu là thường
không, chẳng nên gió mạnh vừa thổi, biển sẽ liên tục sóng trào. Hăy nên
biết tâm thuận theo duyên mà khởi, tức là chẳng sanh mà sanh,
sanh mà chẳng sanh, là tướng vô tướng, tướng
thường vô tướng, rất sâu vi diệu, khó thể
biết rơ. Ấn bí mật của chư Phật chẳng
thể tuyên bày bừa băi; v́ thế, hai loại phàm phu và ngoại
đạo không chỉ chẳng biết “tâm vô sanh diệt”, mà
cũng chẳng biết tâm sanh diệt. V́ thế nói: “Chư
Phật đại bí mật, ngoại đạo bất
năng thức. Ngă kim tất khai thị, nhất tâm ưng
đế thính” (Đại bí mật của chư Phật,
ngoại đạo chẳng thể biết, ta nay đều
chỉ bày, hăy nhất tâm lắng nghe).
(Kinh) Việt bách lục thập tâm, sanh quảng đại
công đức. Kỳ tánh thường kiên cố, tri bỉ
Bồ Đề sanh, vô lượng như hư không, bất
nhiễm ô thường trụ. Chư pháp bất năng
động, bổn lai tịch vô tướng, vô lượng
trí thành tựu, Chánh Đẳng Giác hiển hiện, cúng
dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm.
(經)越百六十心,生廣大功德,其性常堅固,知彼菩提生。無量如虛空,不染污常住,諸法不能動,本來寂無相。無量智成就,正等覺顯現,供養行修行,從是初發心。
(Kinh: Vượt trăm sáu mươi tâm, sanh công đức
rộng lớn. Tánh luôn thường kiên cố, nhận biết Bồ Đề sanh, vô lượng như
hư không, chẳng nhiễm ô thường trụ. Các pháp
chẳng thể động, vốn sẵn tịch, vô
tướng, vô lượng trí thành tựu, Chánh Đẳng
Giác hiển hiện, cúng dường tu hành hạnh, từ
đấy sơ phát tâm).
Bài
kệ kế tiếp nói: “Việt bách lục thập tâm,
sanh quảng đại công đức, kỳ tánh thường
kiên cố, tri bỉ Bồ Đề sanh” (Vượt
trăm sáu mươi tâm, sanh công đức rộng lớn,
tánh nó thường kiên cố, biết là Bồ Đề
sanh) nhằm giải đáp câu hỏi thứ nhất: “V́
sao biết là Bồ Đề tâm đă sanh?” Nay đức
Phật bảo rằng: “Vượt ngoài một trăm sáu
mươi cái tâm liên tục th́ chính là Bồ Đề tâm
thanh tịnh”. Như có người hỏi: “V́ sao biết là đề hồ sanh từ sữa này?” Đáp rằng: Nếu các tướng thô trược,
đổi khác của sữa, lạc, sanh tô, và thục tô
đều đă thuần nhất, chẳng c̣n cặn
nhơ, sẽ biết là đề hồ đă sanh. Hành giả
thoạt đầu khi khai phát tạng báu kim cang, thấy
tâm tánh thanh tịnh như hư không, vượt ngoài số
lượng; khi đó, ĺa nghiệp sanh bởi cái nhân, cây Phật
nẩy mầm. Khi cái mầm ấy đă sanh, sẽ trọn
khắp pháp giới, huống hồ lá, hoa, quả? V́ thế
nói là “sanh quảng đại công đức” (sanh công
đức rộng lớn). Do vượt ngoài hư luận
nơi tâm hạnh, sẽ chẳng thể phá, chẳng thể
chuyển, giống như vàng Diêm Phù Đàn, chẳng thể
nói lỗi ác (khuyết điểm) của nó được!
V́ thế nói “kỳ tánh thường kiên cố” (tánh
nó thường kiên cố). Nếu biết tự tâm có ấn
như thế, hăy nên biết đó là Bồ Đề sanh.
Kế
đó là một bài kệ rưỡi, giải đáp đại
lược tướng mạo của Bồ Đề
tâm. Do thế gian trọn chẳng có pháp nào để có thể
biểu thị tướng của Bồ Đề tâm
thanh tịnh, chỉ trừ đại hư không có chút phần
tương tự, nên nói “vô lượng như hư
không”. Thí như hư không chẳng bị khói, mây, bụi
bặm, sương mù ô nhiễm, tánh nó thường trụ,
ĺa các nhân duyên. Giả sử gió to từ tám phương thổi
cùng tận thế giới, vẫn chẳng thể lay động
[hư không] được! Từ bổn sơ cho tới
nay, nó thường tự tịch diệt, vô tướng,
chẳng phải đến nay mới vậy! Tâm tướng
cũng thế, từ vô thỉ tới nay vốn tự bất
sanh. Do vốn bất sanh, chẳng có một pháp nào có thể
ô nhiễm, dao động. Nó thường trụ, bất biến,
vĩnh viễn tịch tĩnh, vô tướng. V́ thế
nói: “Chẳng ô nhiễm, thường trụ, các pháp chẳng
thể động, vốn tịch tĩnh, vô tướng”.
Lúc bấy giờ, hành nhân do được tịch quang ấy
chiếu soi, vô lượng tri kiến tự nhiên khai phát,
như hoa sen nở x̣e. V́ thế nói “vô lượng trí
thành tựu”. Trí ấy thành tựu chính là Tỳ Lô Giá Na
tâm Phật hiện tiền. Do vậy nói “Chánh Đẳng
Giác hiển hiện”. Bản tiếng Phạn ghi là “Tam
Miệu Tam Phật Đà Bồ Đề hiện”.
Đức Phật đă nói đại lược ấn
Thật Tướng của cái tâm như thế, nếu
hành giả tương ứng với nó, hăy nên biết là
đă trọn đủ tín lực kiên cố. Nhưng tín lực
ấy, vốn do đúng như lời dạy mà tu hành nghi
quỹ hành pháp cúng dường trong Chân Ngôn môn, đạt
được Bồ Đề tâm thanh tịnh, cho nên nói: “Cúng
dường hành tu hạnh, tùng thị sơ phát tâm “ (cúng dường, hành hạnh tu hành, từ đấy
sơ phát tâm). Nhưng sự cúng dường ấy có hai thứ:
Một là ngoại cúng dường, hai là nội cúng dường,
trong kinh văn thuộc phần sau sẽ nói [chi tiết hơn].
Có
lẽ sẽ có người nói rằng: “Chỉ quán tâm tánh
vô tướng, vô vi, chẳng nên dùng các thứ hành động
lăng xăng để hành Bồ Tát đạo!” Cách nói ấy
không đúng! Như dùng bốn loại bất sanh để
quán tánh của vàng trong quặng. Tuy dù là nhân hay quả, [tánh
của vàng] đều là thường tự “chẳng giảm,
chẳng tăng”, nhưng nếu chẳng dùng phương
tiện để tiêu trừ chất cặn nhơ, sẽ
chẳng có cách nào đạt được chất vàng bất
sanh ấy! Hành nhân cũng giống như thế, nếu chẳng
dùng ba loại phương tiện hạnh môn bí mật cúng
dường để tiêu trừ chất nhơ “một
trăm sáu mươi tâm” nơi khoáng thạch, sẽ do
ǵ mà đạt được Bồ Đề tâm thanh tịnh?
Trong Trung Đạo Chánh Quán của Long Thọ A-xà-lê, [Ngài đă nói] chính là
do từ duyên khởi mà nghĩa Vô Sanh được thành,
nhưng quư vị cho rằng “lông rùa, sừng thỏ là Vô
Sanh” sẽ phạm lỗi! Lại như người
đời thấy vàng ṛng tinh luyện trăm lần chẳng
thay đổi, ngỡ đó là diệu tánh cùng cực.
Nhưng ngũ thông tiên nhân dùng các thứ dược vật,
đủ cách nung luyện, sẽ có thể hóa các thứ
như đất, đá v.v… đều thành chất vàng báu.
Nếu có ai ăn vào, sẽ thọ dài lâu, thần thông biến
hóa không ngằn mé! Hăy nên biết trong tánh chân thật của
vàng, luôn có lực dụng như thế, nhưng người
đời do chẳng có phương tiện bí mật, chẳng
thể đạt được như thế! Bồ
Đề tâm thanh tịnh cũng lại như thế: Nếu
dùng đại bi vạn hạnh nung luyện đủ mọi
cách, sẽ thành tựu nghiệp thần biến gia tŕ chẳng
thể nghĩ bàn! V́ thế, chớ nên chưa đắc
mà nói là đă đắc, giữ khư khư sơ tâm, ngỡ
đó là cực quả!
(Kinh) Bí Mật Chủ! Vô thỉ sanh tử ngu đồng
phàm phu chấp trước ngă danh, ngă hữu, phân biệt
vô lượng ngă phần. Bí Mật Chủ! Nhược bỉ
bất quán ngă chi tự tánh, tắc ngă, ngă sở sanh. Dư
phục kế hữu thời, địa đẳng biến
hóa. Du Già ngă kiến lập tịnh, bất kiến lập
vô tịnh, nhược Tự Tại Thiên, nhược
lưu xuất cập thời, nhược tôn quư, nhược
tự nhiên, nhược nội ngă, nhược nhân lượng,
nhược biến nghiêm, nhược thọ giả,
nhược Bổ Đặc Già La, nhược thức,
nhược A Lại Da, tri giả, kiến giả, năng
chấp, sở chấp, nội tri, ngoại tri, Xă Đát Phạm,
Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định Sanh, thanh, phi
thanh.
(經)祕密主!無始生死愚童凡夫執著我名我有,分別無量我分。祕密主!若彼不觀我之自性,則我我所生。餘復計有時地等變化,瑜伽我建立淨、不建立無淨,若自在天、若流出及時、若尊貴、若自然、若內我、若人量、若遍嚴、若壽者、若補特伽羅、若識、若阿賴耶、知者見者、能執所執、內知外知、社怛梵、摩奴闍、摩納婆、常定生、聲非聲。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Phàm phu ngu muội như trẻ nhỏ sanh tử từ
vô thỉ chấp trước danh xưng Ta, ta có, phân biệt vô lượng điều
thuộc về ngă. Bí Mật Chủ! Nếu họ chẳng
quán tự tánh của ngă, th́ ngă và ngă sở (cái thuộc về
ta) sẽ sanh ra. Ngoài ra c̣n chấp trước có thời,
địa v.v… biến hóa, Du Già ngă, kiến lập tịnh,
chẳng kiến lập vô tịnh, hoặc [chấp trước
ngă là] Tự Tại Thiên, hoặc ngă là lưu xuất và
thời, hoặc là tôn quư, hoặc [cho rằng các pháp là] tự nhiên, hoặc là chấp nội ngă, chấp
[ngă có] phân lượng tùy thuộc thân người, hoặc
chấp ngă trang nghiêm trọn khắp, hoặc chấp ngă là
thọ giả, chấp ngă là Bổ Đặc Già La, hoặc chấp ngă là thức,
hoặc chấp ngă là A Lại Da, hoặc là cái có thể biết,
có thể thấy, là cái có thể chấp trước, hoặc
là cái bị chấp trước, nội tri (nhận biết
các pháp trong thân tâm), ngoại tri (nhận biết ngoại cảnh),
là Xă Đát Phạm, Ma Nô Xà, Ma Nạp Bà, Thường Định
Sanh, là âm thanh, hoặc chẳng phải âm thanh).
Kế đó, giải đáp ư nghĩa “tâm
tương tục”. Muốn giảng rơ nguyên do sanh khởi tối sơ của
tịnh tâm, trước hết bèn nói về cái tâm trái nghịch
lư của phàm phu giống như trẻ nít ngu muội! Đối
với “vô thỉ sanh tử”, Trí Độ Luận
nói: “Thế gian dù chúng sanh hay pháp, đều chẳng có
khởi đầu”. Trong kinh, đức Phật dạy:
- Vô minh phú ái sở hệ, văng lai sanh tử, thỉ bất
khả đắc, năi chí Bồ Tát quán vô thỉ diệc Không, nhi bất đọa hữu thỉ kiến trung” (Vô minh che lấp, ái ràng buộc, qua
lại sanh tử, chẳng thể t́m được chỗ
khởi đầu, cho đến Bồ Tát quán vô thỉ
cũng là Không, chẳng đọa trong kiến
chấp có khởi đầu). Từ ngữ “ngu đồng”
(trẻ nít ngu muội) như trong phần trên đă nói. Từ
ngữ “phàm phu” dịch sát nghĩa th́ phải là “dị
sanh”, ư nói: Do vô minh bèn theo nghiệp thọ báo, chẳng
được tự tại, đọa trong đủ mọi
đường, h́nh dạng, sắc tâm mỗi mỗi
đều sai khác. V́ thế nói là “dị sanh”. Cái Ngă
được chấp trước ấy chỉ là ngôn ngữ,
chẳng có sự thật; v́ thế nói là “chấp trước
ngă danh”. Nói “ngă hữu” (ta có) tức là “ngă sở”
(cái thuộc về ta). Đối với cái Ngă như thế,
các điều chấp trước bởi ngă, như mười
sáu món tri kiến v.v… theo từng sự mà sai biệt vô
lượng bất đồng; do vậy, gọi là “phần”.
Kế
đó, giải thích nguyên do của phân biệt hư vọng,
cho nên nói: “Bí Mật Chủ! Nhược bỉ bất
quán ngă chi tự tánh, tắc ngă, ngă sở sanh” (Bí Mật
Chủ! Nếu họ chẳng quán tự tánh của ngă, th́
ngă và ngă sở sẽ nẩy sanh). Nếu họ quan
sát các Uẩn thảy đều từ các duyên mà sanh, trong ấy
ǵ là ngă? Ngă trụ ở chỗ nào? Chính là ở nơi uẩn
khác với uẩn tướng ư? Nếu có thể t́m cầu kỹ càng, cặn kẽ
như thế, sẽ đắc chánh nhăn. Nhưng họ chẳng
tự quan sát, chỉ lần lượt truyền bảo
nhau, từ lâu xa đến nay đă quen vâng theo cách nh́n ấy, cho rằng Ngă ở trong thân, có thể
tạo tác và trưởng dưỡng, thành tựu các
căn, [chấp chặt rằng]: “Chỉ có như thế mới là đạo
rốt ráo, những điều khác
đều là vọng ngữ!” Do bởi lẽ này, họ
được gọi là “ngu đồng” (trẻ
nít ngu muội).
Kinh
nói “phục kế hữu thời” (lại chấp
trước có thời gian), ư nói: Hết thảy các thứ tốt xấu
trong trời đất đều lấy thời làm nhân.
Như có bài kệ rằng: “Thời lai chúng sanh thục,
thời chí tắc thôi xúc, thời năng giác ngộ nhân, thị
cố thời vi nhân” (thời đến [căn cơ của]
chúng sanh sẽ chín muồi, thời tới liền thúc giục, thời
có thể giác ngộ con người, v́ thế thời làm
nhân). Cũng có kẻ nói: “Tuy hết thảy người và
vật chẳng phải do thời tạo ra, nhưng thời
là cái nhân bất biến, là pháp thật sự có, do vi tế
nên chẳng thể thấy. Do có cái quả như hoa, trái
v.v… mà có thể biết là có thời. V́ lẽ nào? Do thấy
quả, liền
biết là có nhân. Do thời pháp bất hoại, nên nó
là thường”. Đó cũng là do chẳng quán tự tánh của
Thời mà sanh chấp trước hư vọng như thế.
Kinh
nói “địa đẳng biến hóa” (các thứ
như đất, nước v.v… biến hóa), tức là
đối với đất, nước, lửa, gió,
hư không, mỗi mỗi đều chấp là chân thật.
Hoặc nói đất là cái nhân của vạn vật, do hết
thảy chúng sanh và vạn vật nương vào đất
mà sanh thành. Do chẳng quán tự tánh của đất chỉ
từ các duyên ḥa hợp mà có, nên sanh ra kiến chấp ấy, tưởng rằng “cúng dường đất, sẽ được
giải thoát”. Kế đó, có người chấp nước có thể
sanh ra vạn vật, đối với gió và lửa
cũng thế. Hoặc chấp “vạn vật sanh từ hư không”, cho rằng
hư không là nhân của sự giải thoát thật sự,
phải nên cúng dường, thừa sự. [Đối với
mỗi loại kiến chấp như thế], đều
phải nên nói rộng [như trong phần biện định
về kiến chấp đối với đất].
Kinh
nói “Du Già ngă” tức là nói về người học
Định chấp trước “lư tương ứng với
nội tâm là chân ngă. Chân tánh lặng trong, thường trụ bất động.
Chỉ có điều này mới là đạo rốt ráo ĺa
khỏi nhân quả”. Do chẳng quán tự tánh của tự
tâm, mới sanh kiến chấp như thế, ngỡ đó
là chân ngă, [khăng khăng cho rằng] chỉ trụ trong
lư ấy th́ gọi là giải thoát!
Kinh
nói “kiến lập tịnh, bất kiến lập vô tịnh”
(kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh)
tức là trong ấy có hai thứ so
đo:
-
Câu trước có ư nói kiến lập hết thảy các
pháp, nương vào đó tu hành th́ gọi là “tịnh”.
-
Câu sau ư nói “kiến lập pháp chẳng rốt
ráo”. Nếu chẳng kiến lập cái
được gọi là “vô vi” th́ gọi
là chân ngă, cũng tức ĺa khỏi cái
“tịnh” được tu tập trong câu trước, cho
nên nói là “bất tịnh”.
Đó
cũng là do chẳng quán tự tánh của ngă, mà sanh kiến
giải như thế, nói rộng th́ như trong phần
trên.
Kinh
nói “nhược Tự Tại Thiên, nhược lưu xuất
cập thời” (hoặc chấp Tự Tại Thiên là
chân ngă, hoặc chấp lưu xuất và thời [là chân
ngă]), ư nói: Có một loại ngoại
đạo chấp trước Tự Tại
Thiên là thường, là đấng tự tại có thể
sanh ra vạn vật. Như trong Thập Nhị Môn Luận gạn rằng: “Nếu chúng sanh là con của Tự
Tại Thiên, [Tự Tại Thiên] sẽ chỉ nên dùng lạc để ngăn chặn
khổ [cho chúng sanh], chẳng
nên ban cho khổ, và cũng phải là chỉ cần cúng
dường Tự Tại Thiên th́ sẽ diệt khổ,
được vui. Nhưng thật ra chẳng phải vậy,
chỉ do chính ḿnh tự tạo nhân duyên khổ lạc mà tự
thọ báo, chẳng phải do Tự Tại Thiên tạo ra.
Lại nữa, nếu Tự Tại Thiên tạo ra chúng
sanh, ai sẽ lại tạo ra Tự Tại Thiên? Nếu Tự
Tại Thiên tự tạo th́ chẳng đúng, như các vật
chẳng thể tự tạo. Nếu lại có người
tạo ra [Tự Tại Thiên] th́ [vị
trời ấy] chẳng
phải là Tự Tại nữa!” Như luận ấy đă nói cặn kẽ [để
đả phá kiến chấp ấy]. Chấp trước “lưu
xuất” đại lược giống như [chấp
trước] kiến lập. “Kiến lập” là do tâm mà
tạo thành hết thảy các pháp, c̣n “lưu xuất”
ở đây th́ giống như do sức thực hiện mà xuất
hiện hết thảy các pháp. Ví như thợ gốm nặn
đắp không ngừng mà sanh ra đủ loại h́nh tướng sai biệt. Kế đó nói về “thời”, sai
khác chút ít với “thời” được ngoại đạo
đề cao, chấp trước trong phần trên. [Để
đả [phá các kiến chấp này, đều có thể
luận định] giống như [phần bác bỏ kiến
chấp về] Đại Tự Tại Thiên.
Kinh nói “tôn quư”,
đó là nói về Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa, tức
thần Viṣṇu). Ngoại đạo
chấp trước vị trời này tĩnh lặng,
thường trụ, bất động, nhưng có kẻ phù tá, tạo
thành muôn vật, ví như vị quốc vương “vô vi
nhi trị”, quan lại vâng mạng mà hành xử. Do [ngoại
đạo tin vị trời này] là vị chủ tể có
thể tạo tác, không ai tôn quư hơn được, nên gọi
là “tôn quư”. Lại nữa, trong loại kiến chấp
đề cao này, “tôn quư” bao gồm trọn khắp
đất, nước, gió, lửa, hư không. Xưa kia,
có vị luận sư muốn khuất phục kẻ chấp
trước, đề cao kiểu này, bèn đến miếu thờ vị trời
ấy, ngồi trên thân của tượng vị
trời ấy mà ăn uống. Phương Tây (Ấn
Độ) coi thức ăn c̣n sót lại là thứ bất
tịnh nhất, [các tín đồ] đều cùng phẫn
nộ. Luận sư nói:
“Đấng được các vị tôn sùng há chẳng phải là trọn khắp các tướng đất,
nước, gió, lửa, hư không ư?” Họ đáp:
“Đúng như vậy”. Luận sư nói: “Ngài chính là đất,
nước, gió, lửa, tôi cũng như thế. Nhập
vào lẫn nhau, có ǵ chẳng thể mà lại phẫn nộ
vậy?” Bọn họ nín lặng, chẳng thể đáp
ǵ được nữa! [Kiến chấp ấy] cũng
do chẳng quán tự tánh của ngă, cho nên sanh ra chấp
trước hư vọng như thế.
Kinh nói “tự
nhiên”, tức là có một loại ngoại đạo chấp
trước “hết thảy các pháp đều tự nhiên
mà có, chẳng có người tạo tác”. Như hoa sen sanh ra
màu sắc tươi sạch là do ai nhuộm màu? Gai góc nhọn
đầu, do ai vạt đẽo? V́ thế biết các
pháp đều tự như thế. Có vị thầy vặn
rằng: “Nay mắt thấy người đời tạo
tác các thứ tàu, thuyền, nhà cửa v.v… đều từ
các duyên mà có, chẳng do tự nhiên mà thành, sao lại nói tự
sẵn như thế? Nếu bảo là ‘tuy có, nhưng
chưa rơ ràng, cho nên cần phải
có sức
người phát khởi’ th́ cũng chẳng đúng! Đă
cần sức người phát khởi, tức là
[được tạo thành] bởi các duyên, chẳng phải
là tự nhiên mà có!”
Kinh nói “nội ngă” tức
là có kẻ chấp trong thân, ngoài tâm ra, c̣n có riêng một ngă
tánh, có thể vận động cái thân này, tạo tác các sự nghiệp. Vặn rằng: “Nếu
là như thế, ngă tức là vô thường. V́ sao vậy? Nếu pháp
là nhân và từ nhân mà sanh, th́ đều là vô thường. Nếu
ngă vô thường, th́ tội phước, quả báo thảy
đều đoạn diệt”. Các luận nghĩa như
thế tới phần So Lường sẽ nói cặn kẽ!
Kinh
nói “nhân lượng” tức là nói về kẻ chấp
trước lượng của thần ngă to bằng thân
người. Thân nhỏ th́ [thần ngă] cũng nhỏ, thân
lớn th́ thần ngă cũng lớn. Trí Độ Luận
nói: “Có kẻ chấp trước thần ngă lớn hay
nhỏ tùy theo thân người, lúc chết đi th́ thần
ngă cũng xuất ra trước”, tức là tương
đồng với chấp trước ở đây.
Nhưng bọn họ đề cao ngă là pháp tự tại
thường trụ, nay đă tùy theo cái thân mà lớn hay nhỏ,
tức [ngă kiểu đó] là vô thường. V́ thế biết
chẳng đúng!
Kinh
nói “biến nghiêm” (trang nghiêm trọn khắp) tức
là nói về kẻ
chấp trước “thần
ngă có thể tạo các pháp, nhưng
các sự trong thế gian được trang nghiêm tôn quư,
thù thắng trọn khắp là do ngă tạo ra”, cũng chỉ
hơi khác đôi chút với kiến chấp về Tự
Tại Thiên! Như trong luận đă phá [chấp trước
về] Tự Tại Thiên rằng: “V́ sao Tự Tại
Thiên chẳng khiến cho con người đều vui hết,
hoặc đều khổ hết, mà có kẻ khổ,
người vui? Hăy nên biết đó là do yêu ghét mà sanh, nên chẳng
tự tại”. Nay [chấp rằng]
“trang nghiêm trọn khắp”, [vậy th́ thần ngă]
đă có thể tạo ra các phước lạc, nhưng chẳng
thể dùng lạc để ngăn khổ, sao có thể gọi
là “tự tại trọn khắp” cho được?
Kinh
nói “nhược thọ” (hoặc chấp vào thọ mạng)
tức là có ngoại đạo chấp trước: “Hết
thảy các pháp cho đến Tứ Đại, cỏ cây
v.v… đều có thọ mạng. Như cỏ cây chặt rồi
lại mọc, hăy nên biết là có mạng. Lại nữa,
cỏ cây ban đêm bèn khép cuộn [lá], cũng nên biết
chúng cũng có t́nh thức, do chúng ngủ nghê vậy”. Vặn rằng: “Nếu
thấy đẵn chặt rồi
lại mọc, cho là [thảo mộc] có mạng. Con người
hễ bị chặt một chi, sẽ chẳng mọc lại nữa,
há có phải là vô mạng ư? Như [cho rằng] cây xếp
lá ban tối là có ngủ nghê, vậy th́ nước chảy
suốt đêm há là thường thức giấc ư?”
Đều do chẳng quán tự tánh của ngă, cho nên nẩy
sanh đủ mọi kiến chấp hư vọng!
Kinh
nói Bổ Đặc Già La (Pudgala), tức là có kẻ chấp
trước cho rằng “hễ có Sổ Thủ Thú Giả[21]
th́ đều là một ngă, chỉ là tùy theo sự việc
mà tên gọi khác nhau. Nếu có từ kiếp
này sanh sang đời sau, tức thức thần là thường”.
[Vặn rằng]: Nếu thức thần là thường, sao lại có tử sanh? Tử là từ chỗ này diệt, sanh
là xuất hiện tại chỗ kia, cho nên chẳng thể
nói thần thức là thường được! Nếu là vô thường th́ sẽ chẳng có ngă. Như người
theo bộ phái Độc Tử[22]
và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ trong Phật
pháp, hai bộ phái ấy chấp có pháp tam thế. Nếu chắc
chắn có quá khứ, vị lai và hiện tại, th́ sẽ
giống như kẻ [chấp trước] Sổ Thủ
Thú Giả [là thường hằng], đánh mất ba loại pháp ấn của Phật. Các vị Bồ Tát ở
phương Tây đă lập ra các thứ lượng luận
để phá các chấp trước ấy!
Kinh
nói “nhược thức” là nói có kẻ chấp trước
“thức trọn khắp hết thảy mọi nơi, cho
đến đất, nước, lửa, gió, hư không
giới, thức đều trọn khắp trong đó”.
Điều này cũng chẳng đúng. Nếu thức thần thường hằng, trọn khắp, nó có thể tự
ḿnh thấy, nghe, hay, biết; nhưng nay cần phải do
căn và trần ḥa hợp th́ mới có thức sanh, tức
là thần thức của ông vô dụng! Lại nữa, nếu
thức thần trọn khắp trong năm đường,
sao lại có sống chết vậy? V́ thế, biết chẳng
phải là như thế!
Kinh
nói “A Lại Da” tức là có
nghĩa “chấp tŕ, chứa đựng”, mà cũng có
nghĩa là “pḥng ở”. Có kẻ đề xướng “A Lại
Da có thể duy tŕ cái thân này, có thể tạo tác, chứa
đựng muôn vàn h́nh tượng, thâu lại th́ chẳng
có ǵ, tỏa ra th́ đầy ắp thế gian”, chẳng giống
ư nghĩa của thức
thứ tám trong Phật pháp. Nhưng đối với mật
ư của đức Thế Tôn nói “Như Lai Tạng là A Lại
Da”, nếu trong Phật pháp mà chẳng quán Thật Tướng
của tự tâm, cứ phân biệt, chấp trước
th́ cũng giống như ngă kiến vậy!
Kinh nói “tri giả, kiến giả” tức
là nói có ngoại đạo chấp “trong thân có cái thấy, cái biết, có
thể biết các chuyện khổ, lạc v.v…” Lại
có kẻ chấp “cái có thể thấy th́ chính là chân ngă”. Luận
Trí Độ nói: “Mắt thấy sắc là thấy,
năm thức nhận biết là biết, đều chấp
đó là ngă, tùy theo sự việc mà có tên gọi khác nhau”.
Vặn rằng: “Ông nói ‘có thể thấy’ là ngă, vậy
th́ có thể nghe, có thể chạm, có thể biết, có phải
là ngă hay không? Nếu đều là ngă, cảnh giới của
sáu căn chẳng hề biết lẫn nhau. Một chẳng
thể thành sáu, sáu chẳng thể gộp thành một. Nếu
có phi ngă th́ cũng ngờ
giống như thế. V́ thế biết:
Do căn và trần ḥa hợp mà có cái được thấy
biết, chẳng phải là có một cái ngă khác nữa!”
Kinh
nói “năng chấp, sở chấp” tức là có ngoại
đạo nói: “Trong thân, ngoài thức tâm, riêng có một cái có thể chấp, đó chính là chân ngă, có thể vận
động thân, khẩu, ư, tạo tác các sự nghiệp”. Hoặc
có kẻ nói: “Cái có thể chấp chỉ là thức tâm, cảnh
giới được chấp mới là chân ngă. Cái ngă ấy
trọn khắp hết thảy mọi nơi”. Nhưng
“trong, ngoài, thân, thọ, tâm, pháp”, tánh của
chúng đều do duyên sanh, chẳng có tự tánh. Năng chấp
và sở chấp trong ấy c̣n chẳng thể chấp, huống
hồ có ngă ư? Cũng do chẳng quán tự tánh của
ngă nên nói như thế.
Kinh
nói “nội tri, ngoại tri” cũng chính tên khác của “tri
giả” (có thể biết) mà chia thành hai thứ chấp
trước:
- Có
kẻ chấp nội tri là ngă, tức trong thân riêng có cái nội
chứng, đó là chân ngă.
- Hoặc
coi ngoại tri là ngă, tức là cái có thể biết cảnh
giới ngoại trần chính là chân ngă.
Kinh
nói Xă Đát Phạm (Jatāvat) tức
là gần giống như ngoại đạo chấp
trước tri giả, chỉ là do bộ phái nên khác biệt.
V́ thế, đặc biệt nêu ra đó thôi.
Kinh nói “nhược
Ma Nô Xà” (hoặc chấp Ma Nô Xà, Mānusa), Trí
Độ Luận dịch là Nhân, tức là chấp trước
về con người, nếu dịch đầy đủ
phải là Nhân Sanh. Đây là một bộ phái ngoại đạo tôn
sùng Tự Tại Thiên, chấp trước con người
do con người sanh ra, cho nên lấy đó làm tên.
Đường Tam Tạng dịch thành Ư Sanh, chẳng
đúng. Mạt Na (Manas) là Ư; ở đây nói Mạt Nô, âm thanh khác th́ nghĩa
cũng khác, do lầm lẫn [mà dịch như thế]!
Kinh
nói “Ma Nạp Bà” (Mānava), tức là thuộc bộ loại ngoại đạo
tôn sùng Tỳ Nữu Thiên, dịch nghĩa chánh xác th́ phải
là Thắng Ngă, ư nói “ngă thù
thắng nhiệm mầu nhất trong thân tâm”. Họ thường quán trong tâm, ngă to chừng một
tấc. Trí Độ Luận cũng nói: “Có kẻ chấp
thần ngă ở trong tâm, vi tế bằng hạt cải,
thanh tịnh nên gọi là tịnh sắc, hoặc to bằng
hạt đậu, hạt lúa mạch, cho đến chừng một
tấc. Khi mới thọ thân, liền thọ ngă trước
hết, ví như khung đỡ của cái tượng vậy.
Tới khi thành thân, như tượng đă được
trang hoàng”. Đường Tam Tạng dịch là
Nho Đồng (儒童) cũng
là sai. Nho Đồng trong tiếng Phạn là Ma Noa
Bà, ở đây là Nạp, nghĩa khác hẳn, lầm mất
rồi! (Hai danh hiệu này đều do Bồ Đề
xà-lê (ngài Kim Cang Trí) giảng).
Kinh
nói “thường định sanh” tức ngoại
đạo chấp ngă là thường trụ, chẳng thể
phá hoại, tự nhiên thường sanh, chẳng có lại
sanh nữa;
cho nên lấy đó làm tên. Kinh
nói “thanh, phi thanh”, Thanh tức là Thanh Luận ngoại
đạo. Nếu âm thanh hiển hiện, họ chấp
Thể của âm thanh vốn sẵn có, đợi duyên bèn
hiển lộ, thể tánh thường trụ. Nếu
thanh sanh khởi th́ chấp thanh vốn sanh sẵn, đợi
duyên mới sanh (hiển hiện), đă sanh bèn thường
trụ. Bọn họ lại tự chia thành chấp trước
khác biệt, như các kinh luận khác đă nói rộng. “Phi
thanh” khác với chấp trước trên đây. Loại
trước
th́ chấp thanh là thường hằng,
trọn khắp, c̣n loại này đề xướng, bác bỏ
thanh là không có, đọa vào [tà kiến] “chẳng có pháp thiện
hay ác”, cũng coi “chẳng có âm thanh hay từ ngữ” là chân
thật.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Như thị đẳng ngă phần,
tự tích dĩ lai, phân biệt tương ứng, hy cầu
thuận lư giải thoát. Bí Mật Chủ! Ngu đồng
phàm phu loại do như đê dương, hoặc thời
hữu nhất pháp tưởng sanh, sở vị tŕ trai, bỉ
tư duy thử thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ
sổ tu tập. Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử
thiện nghiệp phát sanh. Phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật,
thí dữ phụ mẫu, nam nữ thân thích, thị đệ
nhị nha chủng. Phục dĩ thử thí thọ dữ
phi thân thức giả, thị đệ tam pháo chủng. Phục
dĩ thử thí dữ khí lượng cao đức giả,
thị đệ tứ diệp chủng. Phục dĩ thử
thí hoan hỷ, thọ dữ kỹ nhạc nhân đẳng,
cập hiến tôn túc, thị đệ ngũ phu hoa. Phục
dĩ thử thí phát thân ái tâm, nhi cúng dường
chi, thị đệ lục thành quả. Phục thứ Bí
Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị đệ
thất thọ dụng chủng tử.
(經)祕密主!如是等我分,自昔以來分別相應,希求順理解脫。祕密主!愚童凡夫類猶如羝羊,或時有一法想生,所謂持齋。彼思惟此少分,發起歡喜,數數修習。祕密主!是初種子善業發生,復以此為因,於六齋日施與父母男女親戚,是第二牙種。復以此施授與非親識者,是第三疱種。復以此施與器量高德者,是第四葉種。復以此施歡喜授與伎樂人等及獻尊宿,是第五敷華。復以此施發親愛心而供養之,是第六成果。復次祕密主!彼護戒生天,是第七受用種子。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Các thứ kiến chấp thuộc về
ngă như thế từ xưa tới nay, phân biệt
tương ứng, mong cầu thuận lư giải thoát. Bí Mật
Chủ! Phàm phu như trẻ nhỏ ngu muội giống
như con dê đực, hoặc là có lúc nẩy sanh một pháp suy tưởng, tức là tŕ
trai. Họ tư duy pháp ấy chút phần, phát khởi hoan
hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật Chủ! Đó là chủng tử
thiện nghiệp ban sơ phát sanh. Lại dùng đấy
làm nhân, trong sáu ngày trai, bố thí cho cha mẹ, nam nữ thân
thích. Đó là thuộc loại thứ hai, tức nẩy mầm. Lại dùng đó để thí
cho người chẳng phải là thân thích, quen biết,
đó là loại thứ ba, tức nứt vỏ. Lại dùng
đó để thí cho bậc có khí lượng cao cả,
đức hạnh, th́ đó là loại thứ tư, tức mọc lá. Lại dùng đó để thí cho
người hoan hỷ, tấu nhạc v.v…và dâng lên bậc
tôn túc, th́ là loại thứ năm, tức trổ hoa. Lại dùng đó
để thí cho người mà [chính ḿnh] phát sanh tâm thân ái
cúng dường, đấy là loại thứ sáu, tức kết
quả. Lại này Bí Mật Chủ! Người giữ giới
ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy: Thọ
dụng chủng tử).
Trong
kinh, nêu đại lược ba mươi sự, nếu
[luận định cặn kẽ] theo từng loại sai
biệt, ắt có vô lượng vô biên. Như người
tĩnh tọa đắc Tứ Thiền, bèn chấp
trước pháp ấy là thường lư chân thật, hoặc
nẩy
sanh ư niệm: “Ta là người đắc Thiền”.
[Các chấp trước] như thế đều
tương ứng với ngă phần, cứ theo đó mà
suy, đều do chẳng quán Thật Tướng của
ngă. Chỉ do từ lâu xa tới nay đă quen vâng
theo kiến chấp ấy, ai nấy đều tự nói
là “có bậc đại
sư Bạc Già Phạm, thấy
biết hết
thảy, do khéo tu Du Già mà nay giác ngộ pháp ấy,
bèn v́ thế gian mà nói. Chỉ có đạo này là rốt ráo,
chẳng có đạo nào khác nữa!”
Như lúc kiếp sơ, riêng có một vị trời sanh
trước hết vào Phạm giới (các tầng trời
thuộc Phạm thiên), bèn nghĩ thế này: “Nếu có chúng
sanh nào khác đến ở cùng ta, chẳng phải là tốt
lắm ư?” Khi đó, có các vị trời ở cơi trên mạng
chung, sanh vào cơi trời ấy. Vị đă sanh trước
bèn bảo họ: “Do niệm lực của ta, ngươi
được sanh vào nơi đây. Ngươi chính là do ta
sanh ra”. Nhưng các vị trời kia cũng nghĩ thế
này: “Vị này có thể sanh ra chúng ta”, liền tùy thuận,
chấp là tối sơ có ngă. Từ đó trở đi, cho rằng Phạm thiên vương có
thể tạo ra thế gian, lần
lượt như thế sanh ra dị kiến, không thể
ghi trọn. “Hy cầu thuận lư giải thoát”: Thuận
lư theo âm tiếng Phạn là Du Kỳ
(Yogi), tức là hành giả tu Du Già xưa
kia, cho rằng người ấy đạt được
chân giải thoát, là cốt lơi của vạn vật. Nay thuận
theo đó để mong cầu giải thoát, cho nên nói
như thế.
Trên
đây đều nhằm phá hoại các tâm trái nghịch lư
đối với nhân quả trong và ngoài. Kế đó, nói
đến cái tâm thuận lư tối sơ. Thuận thiện
(điều thiện thuận theo chánh lư) tức là tám cái
tâm của thế gian.
Kinh
nói “Bí Mật Chủ! Ngu đồng phàm phu loại do
đê dương, hoặc thời hữu nhất pháp
tưởng sanh, sở vị tŕ trai, bỉ tư duy thử
thiểu phần, phát khởi hoan hỷ, sổ sổ tu tập.
Bí Mật Chủ! Thị sơ chủng tử thiện nghiệp
phát sanh” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội,
giống như con dê đực có thể là có lúc nẩy sanh một
pháp, tức là tŕ trai. Họ tư duy pháp ấy đôi chút,
phát khởi hoan hỷ, nhiều lượt tu tập. Bí Mật
Chủ! Đó chính là chủng tử thiện nghiệp ban
đầu phát sanh). “Đê dương” (羝羊,
con dê đực) là loài súc sanh có bẩm
tánh hèn kém nhất, chỉ nghĩ tới cỏ, nước,
và chuyện dâm dục, ngoài ra chẳng biết ǵ nữa!
V́ thế, thuận theo cách nói của phương Tây (Ấn Độ),
dùng nó để sánh ví “ngu
đồng phàm phu” (phàm phu như trẻ nít ngu muội)
chẳng biết thiện ác nhân quả. Thế gian từ
lâu xa tới nay đă lần lượt truyền thừa
danh tự thiện pháp, nhưng do cái tâm trái lư, dẫu đủ
cách truy cầu mà vẫn chẳng thể đạt
được.
Sau đó, bỗng dưng nẩy sanh ư niệm:
“Ta nay bớt ăn, tŕ trai”, tức là thiện pháp, nhưng
vẫn chưa phải là Bát Quan Trai Giới trong Phật
pháp. Họ do bớt ăn, tự răn dè, cảm thấy
duyên vụ giảm ít, khiến cho ta ăn uống dễ no đủ,
chẳng sanh tâm nhọc nhằn truy cầu. Lúc bấy giờ,
họ liền sanh chút phần tâm chẳng chấp trước,
cơi ḷng hoan hỷ, đạt được an ổn. Do thấy
lợi ích ấy, bèn nhiều lượt tu tập, tức
là thoạt ban sơ, hơi biết thiện ác nhân quả.
V́ thế gọi là “chủng tử tâm”.
Kinh
nói “phục dĩ thử vi nhân, ư lục trai nhật,
thí dữ phụ mẫu, nam
nữ thân thích, thị đệ nhị nha
chủng” (Lại dùng điều ấy làm nhân,
trong sáu ngày trai, thí cho cha mẹ và nam
nữ thân thích, đó là loại thứ hai, tức nẩy mầm).
“Lục trai nhật” tức là như Trí Độ Luận
nói: “Ngũ thông tiên nhân thuở trước khuyên nhịn
ăn trong những ngày đó, vừa thuận theo thiện
pháp, lại tránh khỏi quỷ thần gây tai ương bất
ngờ”, như trong luận ấy đă nói cặn kẽ!
Do thấy ngưng dứt tham cầu, trong tâm đạt
được lợi lạc, muốn tu tập pháp ấy
cho được tăng trưởng, trong ngày tŕ trai bèn xả
tài vật của chính ḿnh để thí cho lục thân, tự
nghĩ: “Ta chẳng c̣n lo âu ǵn giữ, khiến cho người
khác yêu kính, đạt được tiếng thơm hiếu
nghĩa”. Do thấy nhân quả ấy, sanh ra hoan hỷ, thiện
tâm tăng thêm đôi chút, giống như từ hạt giống
nẩy mầm vậy.
Kinh
dạy: “Phục dĩ thử thí thọ dữ phi thân thức
giả, thị đệ tam pháo chủng” (lại dùng các thứ ấy để thí
cho người chẳng phải thân thích, quen biết.
Đó là loại thứ ba, tức
nứt vỏ), ư nói muốn thành tựu thiện pháp mà vâng giữ trai giới
ấy, bèn tu tập tâm vô tham, huệ xả. Do nhiều
lượt tu tập, thiện tâm dần dần tăng
trưởng, lại có thể thí cho người chẳng
phải là thân thuộc, quen biết. Do thấy lợi ích
công đức của tâm bố thí b́nh đẳng, lúc bấy
giờ, mầm thiện lại tăng rộng gấp bội,
giống như khi nhánh
mầm tươi tốt, nhưng
chưa sanh trưởng. V́ thế gọi
là “pháo chủng”.
Kinh
dạy “phục dĩ thử thí dữ khí lượng
cao đức giả, thị đệ tứ diệp chủng”
(lại dùng đó để thí cho bậc
độ lượng, cao đức, tức là loại thứ
tư, tức mọc lá),
nghĩa là đă có thể tu tập huệ xả, nhờ
vào cái nhân ấy, dần dần có thể thật sự chọn
lựa cảnh bố thí: “Người như thế đức
hạnh cao thắng, ta nay hăy nên thân cận để cúng
dường”, tức là huệ tánh dần dần mở mang, dần
dần gặp thiện tri thức vậy!
Kinh
dạy “phục dĩ thử thí, hoan hỷ thọ dữ
kỹ nhạc nhân đẳng cập hiến tôn túc” (lại
dùng sự bố thí ấy, hoan hỷ trao cho người tấu
nhạc v.v… và dâng hiến bậc tôn túc), tức là huệ
tánh dần dần
mở mang, lại soi xét, biện định cảnh
để thí, thấy lợi ích do lợi tha, v́ người tấu
nhạc có thể khuyến hóa đại chúng, nhằm khiến
cho họ hoan hỷ,
bèn thưởng công cho họ. Phàm các loại như thế
nhiều lắm, cho nên nói là “đẳng”. Bậc tôn túc kỳ
cựu, học rộng nghe nhiều, học hạnh cao
thượng, xứng làm bậc
thầy khuôn mẫu cho cơi đời, do có nhiều
lợi ích đáng tuân phụng,
bèn thúc giục cái tâm hoan hỷ bố thí, cũng do điều
này khiến cho khi ta bố thí, tâm sanh hoan hỷ gấp bội.
Đấy chính là loại “đơm hoa”.
Kinh nói “phục dĩ thử thí,
phát thân ái tâm,
nhi cúng dường chi, thị đệ lục thành quả”
(Lại dùng sự bố thí ấy, phát sanh tâm thân ái để
cúng dường, đó là loại thứ sáu, tức kết
thành quả): Tu tập thuần thục, không chỉ là hoan
hỷ mà thôi, lại c̣n có thể dùng cái tâm thân ái để
tôn kính, thực hiện bố thí cho người khác. Lại
do nhân duyên bố thí trước đó, được nghe
lợi ích bởi pháp, biết người ấy vốn sẵn
có đức thù thắng, tức là có thể thoát ĺa dục
v.v… bèn thân cận để cúng dường. So với chủng
tử ban đầu th́ đây chính là cái tâm đă kết quả.
“Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ hộ giới sanh thiên, thị
đệ thất thọ dụng chủng tử” (Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Người thủ hộ giới
ấy sanh lên trời, tức là loại thứ bảy, thọ
dụng chủng tử), tức là đă có thể tŕ trai, bố
thí, thấy lợi ích đó, liền biết tam nghiệp bất
thiện đều là nhân duyên gây suy năo, ta hăy nên bỏ
đi, trụ trong việc thủ hộ giới. Do thủ
hộ giới, đời này đạt được các
thiện lợi, có tiếng tốt to lớn, thân tâm an lạc,
hiền thiện tăng trưởng gấp bội. Mạng
chung, được sanh lên trời. Ví như trồng quả
đă thành công, bèn hưởng thụ kết quả; v́ thế
gọi là “thọ dụng chủng tử”. Lại nói
từ một hạt giống mà sanh thành trăm ngàn quả,
hạt; mỗi quả, hạt lại sanh ra ngần đó
[quả, hạt], lần lượt vun bồi chẳng thể
kể xiết. Cái tâm thọ dụng quả trong hiện thời
lại thành chủng tử cho tâm sau
cũng giống như thế. V́ thế
nói là “thọ dụng chủng tử”.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ thử tâm sanh tử lưu
chuyển, ư thiện hữu sở, văn như thị
ngôn: ‘Thử thị thiên đại thiên, năng dữ nhất
thiết lạc giả. Nhược kiền thành cúng dường,
nhất thiết sở nguyện giai măn, sở vị Tự
Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La Diên Thiên, Thương Yết
La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại Tử Thiên, Nhật Thiên,
Nguyệt Thiên, Long Tôn đẳng, cập Câu Phệ Lạm,
Tỳ Sa Môn, Thích Ca, Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm
Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu, thế sở tông phụng Hỏa
Thiên, Ca Lâu La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu
Ma, Đức Xoa Ca Long, Ḥa Tu Cát, Thương Khư, Yết
Cú Trích Kiếm, Đại Liên, Câu Lư Kiếm, Ma Ha
Phán Ni, A Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà đẳng
long, hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, các
các ưng thiện cúng dường”. Bỉ văn như thị, tâm hoài khánh duyệt, ân
trọng cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ! Thị
danh ngu đồng dị sanh sanh tử lưu chuyển vô
úy, y đệ bát anh đồng tâm.
(經)復次祕密主!以此心生死流轉,於善友所聞如是言:此是天大天,與一切樂者。若虔誠供養,一切所願皆滿。所謂自在天、梵天、那羅延天、商羯羅天、黑天、自在子天、日天、月天、龍尊等,及俱吠濫、毘沙門、釋迦、毘樓博叉、毘首羯磨天,閻魔閻魔后、梵天后,世所宗奉火天、迦樓羅子天、自在天后、波頭摩、德叉迦龍、和修吉、商佉、羯句擿劍、大蓮俱里劍、摩訶泮尼、阿地提婆、薩陀難陀等龍,或天仙、大圍陀論師,各各應善供養。彼聞如是,心懷慶悅,殷重恭敬隨順修行。祕密主!是名愚童異生生死流轉無畏依第八嬰童心。
(Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Do cái tâm ấy, sanh tử
lưu chuyển, từ nơi bạn lành, nghe nói như thế
này: “Các vị trời này to lớn trong các vị trời,
có thể ban cho hết thảy sung sướng. Nếu kiền
thành cúng dường, hết thảy điều ước nguyện sẽ đều thỏa,
tức là nói tới Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Na La
Diên Thiên, Thương Yết La Thiên, Hắc Thiên, Tự Tại
Tử Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Long Tôn v.v… và Câu Phệ Lạm, Tỳ Sa Môn, Thích Ca (Đế Thích), Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Thủ
Yết Ma Thiên, Diễm Ma, Diễm Ma Hậu, Phạm Thiên Hậu,
Hỏa Thiên được cơi đời tôn thờ, Ca Lâu
La Tử Thiên, Tự Tại Thiên Hậu, Ba Đầu Ma,
Đức Xoa Ca Long, Ḥa Tu Cát, Thương Khư, Yết Cú
Trích Kiếm, Đại Liên Câu Lư Kiếm, Ma Ha Phán Ni, A
Địa Đề Bà, Tát Đà, Nan Đà v.v… các rồng,
hoặc thiên tiên, đại Vi Đà luận sư, đối
với mỗi vị ấy đều nên khéo cúng dường”.
Người ấy nghe như thế, ôm ḷng vui mừng, trân
trọng, cung kính, tùy thuận tu hành. Bí Mật Chủ!
Đó gọi là cái tâm trẻ thơ thứ tám nương cậy
vô úy của dị sanh như trẻ nhỏ ngu muội
đang lưu chuyển trong sanh tử).
Đă
biết bậc đức hạnh tôn quư, đáng nên thân cận,
cúng dường, lại thấy tŕ giới có thể sanh ra
lợi lành, tức là dần dần
biết nhân quả. Nay lại nghe thiện tri thức nói có
vị đại thiên có thể ban cho hết thảy vui
sướng, nếu kiền thành cúng dường, sở
nguyện đều được măn, ắt sẽ có thể khởi
tâm quy y. Dẫu chưa nghe Phật pháp, nhưng biết các
vị trời ấy do tu thiện hạnh mà đạt
được thiện báo ấy. Lại dần dần
tín giải, biện định tường tận phước
đức thù thắng, lại nghe Phật pháp đặc
biệt nhiệm mầu, ắt có thể quy y, tin nhận,
cho nên là cái tâm tối
thượng trong thế gian.
Hỏi:
Trong phần trước đă nói “Tự Tại Thiên
đều là chấp trước tà vạy”, nay lại
nói “quy y họ (các vị trời
ấy) chính là cái tâm thế gian thù thắng”,
có ǵ khác trước hay không?
Đáp:
Trước đó là tâm chẳng biết nhân quả, chỉ
chấp trước các pháp do Tự Tại Thiên v.v… tạo
tác. Nay do thiện căn chín muồi, ở trong sanh tử
lưu chuyển mà cầu nương cậy, không sợ
hăi, muốn phỏng theo hạnh nhân của họ (chư thiên)
để cầu thành tựu cái quả
thù thắng, cho nên chẳng giống [loại người]
chấp trước trong phần trước.
Thương
Yết La (Śaṃkara) là tên gọi khác của Ma Hê Thủ La Thiên (Maheśvara). Hắc Thiên (Mahākāla) có tên trong tiếng Phạn là Lỗ Nại La (Rudra), là quyến
thuộc của Tự Tại Thiên. Long Tôn là các đại
long. Câu Phệ Lạm (Kubera, Đa Văn thiên vương) v.v… đều là các vị đại thiên được
thế gian tôn thờ. Phạm Thiên Hậu (vợ của Phạm
Thiên) là tôn thần được thế gian
tôn thờ. Nhưng trong Phật pháp, Phạm vương ly
dục, chẳng có hậu phi. Từ Ba Đầu Ma (Padma)
trở đi, tức là rồng Đắc Xoa Ca (Takṣaka),
và rồng Ḥa Tu Cát (Vāṣuki), rồng
Thương Khư (Śaṅkha), rồng Yết Cú
Trích Kiếm (Karkoṭaka),
rồng Đại Liên Hoa (Mahāpadma), rồng Câu Lư Kiếm
(Kulika), rồng Ma Ha Phán Ni (Mahāphaṇi), rồng A Địa
Đề Bà (Ādideva),
rồng Tát Đà, rồng Nan Đà v.v… đều là các tôn
thần được thế gian thờ phụng. “Thiên
tiên” là nói ngũ thông thần tiên, số nhiều vô
lượng, do vậy chẳng kể tên. Vi Đà (Vedas) là
bốn loại minh luận do Phạm vương diễn
nói. Đại Vi Đà Luận Sư là người thọ
tŕ các kinh đó, có thể dạy bảo, do có thể khai thị
hạnh xuất dục. V́ thế đáng nên quy y. Trong các bộ
loại ấy, Phạm vương giống như Phật,
bốn kinh Vi Đà giống như mười hai bộ
kinh, người truyền pháp ấy giống như ḥa hợp
tăng. Khi đó, họ nghe thế gian Tam Bảo như thế đó, hoan hỷ quy y, tùy
thuận tu hành. Đó là tám chỗ quy y vô úy của phàm phu
sanh tử vậy.
Kinh nói “Bí Mật Chủ! Phục thứ,
thù thắng hạnh, tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng
trụ, cầu giải thoát huệ sanh” (Bí Mật Chủ!
Lại nữa, đối với hạnh thù thắng, thuận
theo lời nói ấy trụ trong thù thắng, sanh trí huệ
cầu giải thoát) v.v… Tức là trong loại quy y vô úy thứ
tám ấy, lại có tâm thù thắng. Đă nghe nói các loại
Bạc Già Phạm thế gian như đă nói trên đây đáng nên cúng dường, quy y; sau đó, [người ấy] bèn sanh tâm: “Trong các loại
Tam Bảo ấy, loại nào là tối thắng? Ta sẽ chọn
đấng tốt lành để tùy thuận tu hành”. Do sức
thiện căn trước đó, sẽ thuận theo pháp
do họ đă nói mà trụ trong sự thù thắng, sanh trí
huệ cầu giải thoát. Nhưng do chưa biết pháp
duyên khởi, tất cả trí huệ quán Không đều chẳng
rời khỏi đoạn và thường. V́ thế nói là “thường,
vô thường, không”, chỉ tùy thuận lời nói
như thế mà siêng năng tu học. Trong ấy, lại
hai thứ:
- Nếu
cầu sanh trí giải thoát th́ gọi là tâm thù thắng.
-
Đă chứng pháp Không th́ gọi là tâm quyết định.
Nếu
tách ra để nói, gộp chung với các điều
trước đó, sẽ thành mười tâm. Đức Thế
Tôn muốn đối ứng với các điều đó
để nói rơ trí huệ quán Không xuất thế, cho nên kế
đó nói: “Bí Mật Chủ! Phi bỉ tri giải Không, phi
Không nghĩa, liễu tri đoạn thường, tuy tác phi
hữu phi vô b́nh đẳng quán, tuyệt chư hư luận,
nhiên diệc bất năng song ly thị kiến,
do bỉ vị giải chánh nhân duyên cố”
(Bí Mật Chủ! Chẳng phải là người đó
đă hiểu biết nghĩa “Không, phi Không”, biết rơ
đoạn và thường, tuy đă quán “chẳng phải
có, chẳng phải không, b́nh đẳng, dứt bặt các
hư luận”, nhưng vẫn
chẳng thể cùng ĺa kiến giải ấy, do chưa thật hiểu nhân duyên chánh yếu).
Nhưng trong Phật pháp, do biết có nhân duyên, nên ĺa khỏi cái thấy
“không có”. Do quán tự tánh là Không, cho nên chẳng sanh khởi
cái thấy Có. Nếu ai ĺa khỏi cái thấy “có, không”, tức
là chẳng đọa trong “đoạn, thường”. Nếu
chẳng liễu đạt nghĩa Không như thế, dẫu
chẳng chấp trước “có, không”, ĺa ngôn tuyệt
tướng, rốt cuộc vẫn ngỡ phân biệt là
cái tâm “chẳng phân biệt”! Giống như Trường
Trảo Phạm Chí quán Thật Tướng của các pháp,
chẳng thọ hết thảy các pháp, mà chấp nhận
kiến chấp ấy. Chân Không ĺa phân biệt, sao lại
phân biệt Không? Nếu chẳng hiểu nghĩa Không, dẫu
nhất tâm tinh tấn siêng cầu giải thoát, kẻ đó chẳng
thể biết Niết Bàn!
V́ thế, đức Phật nói: “Nhữ dục cầu
Niết Bàn giả, ưng liễu tri duyên khởi chi Không,
ly ư đoạn thường” (Ông muốn cầu Niết
Bàn, hăy nên biết rơ cái Không trong duyên khởi, ĺa khỏi
đoạn và thường). Do cái tâm chủng tử ban
sơ của người đó giảm bớt chút phần
tham cấu (bụi nhơ do tham lam), tức là tùy thuận
chút phần tịnh tâm. Từ đấy trở đi, trai
giới và bố thí dần dần tăng thêm, tức là thế
lực của tịnh tâm dần dần nẩy nở. Do sự
huân tập ấy, sẽ có thể thật sự chọn lựa, biện
định chỗ quy y, sanh khởi trí huệ cầu giải
thoát. Nếu chẳng gặp thiện duyên, lại từ
đoạn thường Không, lui vào tà kiến! Nhưng chủng
tử của tám tâm ấy trọn chẳng hư mất! Nếu
nghe Phật pháp, chỉ đối với đoạn
thường Không, [nhằm đối trị], bèn dạy họ
quán duyên khởi Không, liền nhập chánh đạo. Nếu
là người chưa sanh chủng tử, chẳng có
căn cơ, dẫu nói đủ mọi cách, kẻ đó
trọn chẳng thể tin hiểu.
Lại
như hành giả đối với cái tâm thứ tám, khi cầu
quy y chỗ chẳng sợ hăi trong sanh tử, nếu gặp
thiện tri thức v́ họ nói chỗ quy y Tam Bảo chân
thật, do kẻ ấy dần dần biết nhân quả
trong hiện đời, liền có thể tin nhận. Để
chuyện ấy lại
đó, như khi người ấy tu trai giới, nếu gặp
thiện tri thức bảo rằng: “Ngươi do thấy
điều lợi nào mà
thực hiện trai giới, bố thí?” Người ấy
liền trả lời: “V́ tôi quán do nhân duyên tham cầu, ǵn
giữ, mà có các thứ
ưu khổ. Hễ
thiểu dục hành thí, sẽ
được trụ trong hoan hỷ, an lạc”. Khi đó,
thiện tri thức bảo rằng: “Lành thay, thiện nam tử!
Như đức Phật đă nói, chúng sanh do keo tham mà trong
đời hiện tại có đủ mọi nỗi
ưu khổ. Mạng chung, do nhân duyên ấy, đọa vào
đường ác. Do tâm ĺa khỏi cấu nhơ keo tham, hiện
đời an lạc, có thanh danh to lớn, mạng chung sanh
lên trời, về sau đắc Niết Bàn. V́ thế,
ngươi nay càng phải nên dùng cái tâm thắng thượng
để thọ pháp Bát Quan Trai”. Người đó nghe
xong, liền tin nhận, tu hành đúng như lời dạy.
Nếu là kẻ chẳng có cơ duyên, chỉ nói khổ hay
lạc trong thế gian đều do Tự Tại Thiên tạo,
hoặc từ các thứ như đất v.v… biến hóa,
coi thời là nhân, nghe chút phần an tịnh của Bát Quan
Trai Giới c̣n chẳng thể tin, huống hồ các chuyện
sâu xa khác ư?
Hỏi:
Chủng tử tối sơ của tám cái tâm như thế
lại dùng ǵ làm nhân?
Đáp:
Do thế gian từ lâu xa đến nay có danh xưng thiện
ác, chủng tử từ đó mà sanh. Như chúng sanh trong
thuở kiếp sơ tham ăn chất béo nơi đất.
Lúc bấy giờ, nếu nghĩ ăn nhiều là bất
thiện, ăn ít là thiện, hoặc thấy do nhân duyên
ăn nhiều mà dấy lên lầm lỗi, liền nghĩ
thế này: “Ta nay ít ăn vị này, thường tự
ngăn dè, cũng chẳng phải là tốt lắm hay sao?”
Nhưng chúng sanh ấy cũng chẳng biết nhân quả
và hậu thế báo, chỉ lần lượt truyền dạy,
coi nhân, nghĩa, hổ thẹn v.v… là các thứ thiện
pháp. Hành giả có thể hành như thế, sẽ
được thế gian cùng khen ngợi.
Lại
như lúc tiểu kiếp sắp chấm dứt, chúng sanh bỗng
dưng phát tâm, biết lỗi hại của
ác
pháp thế gian, bèn khuyên
bảo lẫn nhau cùng làm thiện sự. Lúc bấy giờ,
cũng chẳng có thiện tri thức khuyên dạy khiến
họ làm như thế! Hăy nên biết đó đều là
v́ sức nhân duyên do Thật Tướng của tự tâm
huân tập. Như tối sơ chủng tử, khi ĺa tâm cấu
chừng bằng vi trần, liền hiển lộ thế
lực của tịnh tâm như vi trần. Tuy nói là “sanh
chủng tử thiện”, thật ra, chính là chẳng sanh
mà sanh, do nó có tánh kiên cố, vẫn ở trong tâm thức của
chúng sanh, trọn chẳng hư mất, chưa đạt
tới khoảng giữa của đại kim cang luân
nơi Thật Tế của tự tâm, lại chẳng
có chỗ trụ. Ĺa quả lại trở thành hạt, lần
lượt vun bồi lẫn nhau, nhưng chẳng ra ngoài
môn chữ A. V́ thế “tối thượng Đại Thừa
cú, tâm tục sanh chi tướng. Chư Phật đại
bí mật, ngoại đạo bất năng tri” (câu tối
thượng Đại Thừa, tướng tương
sanh của tâm, là đại bí mật của chư Phật,
ngoại đạo chẳng thể biết). Phẩm
Dược Thảo Dụ trong kinh Pháp Hoa cũng có ư
nghĩa này.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Phục thứ thù thắng hạnh,
tùy bỉ sở thuyết trung thù thắng trụ, cầu
giải thoát huệ sanh, sở vị thường, vô
thường, Không, tùy thuận như thị thuyết. Bí Mật Chủ!
Phi bỉ tri giải không, phi không, thường, đoạn,
phi hữu, phi vô, câu bỉ phân biệt. Vô phân biệt, vân hà phân biệt Không? Bất tri chư Không, phi bỉ năng tri Niết Bàn. Thị cố,
ưng liễu tri Không, ly ư đoạn thường.
(經)祕密主!復次殊勝行,隨彼所說中殊勝住求解脫慧生,所謂常無常空,隨順如是說。祕密主!非彼知解空非空、常斷、非有非無,俱彼分別。無分別云何分別空?不知諸空,非彼能知涅槃。是故應了知空離於斷常。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Lại nữa, hạnh thù thắng là thuận theo lời người đó nói mà trụ
thù thắng, cầu sanh trí huệ giải thoát, tức là
nói thường, vô thường, Không, tùy thuận lời
nói như thế. Bí Mật Chủ! Chẳng phải là
người đó hiểu không, phi không, thường,
đoạn, chẳng phải có, chẳng phải không, mà
đều là phân biệt. Vô phân biệt th́ sao có thể phân biệt Không? Chẳng biết các thứ
Không, sẽ chẳng thể biết
Niết Bàn. V́ thế, phải nên hiểu rơ ĺa đoạn,
thường).
Lại
nữa, hành giả quy y Tam Bảo, tùy thuận luật nghi
của Như Lai, thọ pháp Bát Quan Trai Giới trong một
ngày, do được thánh giới che chở, bèn tịch
tĩnh, an lạc. Do an lạc, bèn tin vào hạnh của hiền
thánh, nhiều lượt tu tập, gọi là “sơ chủng
tử”. V́ khiến cho chủng tử ấy tăng
trưởng mà tu các điều thiện, cho đến do
giới thuần tịnh mà quyết định sanh thiên.
Sau đó, đạt tới Niết Bàn, được gọi
là “thọ dụng chủng tử”. Lại do thân cận
thiện tri thức, được lợi ích do nghe chánh
pháp, chẳng khởi tâm quy y chi khác, sẽ là chỗ quy y
chân thật vô úy thứ tám của phàm phu đang lưu chuyển
trong sanh tử. Lại trụ trong sự thù thắng ấy,
sanh trí huệ cầu giải thoát, quan sát, sanh ư tưởng
quyết định. Từ đấy trở đi, liền
phát khởi tâm sơ chủng tử của Thanh Văn Bồ
Đề, đều nên nói theo phần phân biệt cặn
kẽ đă nói trong phần trước. Cho đến tam
thừa, mỗi địa đều trọn đủ
mười tâm, đạt đến Đệ Thập
Địa cũng trọn đủ chủng tử mầm,
vỏ, lá, hoa quả v.v… sanh trí huệ cầu Phật địa,
quán Tất Cánh Không, đạt tới kim cang tế.
Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần một hết
[1] Ngũ t́nh là năm thứ t́nh cảm,
tức mừng, giận, buồn, vui, oán. Ngũ T́nh cũng là cách dịch
xưa của chữ Ngũ Căn.
[2] Thích Luận nếu hiểu thông
thường sẽ là Đại Trí Độ Luận, tức
chú giải của kinh Đại Bát Nhă, nhưng trong Mật
giáo, khi nói đến Thích Luận th́ đa phần là nói đến bộ Thích Ma Ha Diễn
Luận do ngài Long Thọ biên soạn. Hơn nữa, trong
tác phẩm chú giải này, khi trích dẫn Đại Trí
Độ Luận, ngài Nhất Hạnh luôn nói rơ là Trí Độ
Luận; do vậy, Thích
Luận chỉ có thể hiểu là Thích Ma Ha Diễn Luận.
Bộ luận này được dịch sang tiếng Hán bởi
ngài Phạt Đề Ma Đa vào đời Diêu Tần (tức
năm Hoằng Thỉ thứ ba, 401), gồm mười
quyển. Đây là bản chú giải của Đại Thừa
Khởi Tín Luận. Chân Ngôn Tông (Shingon-shū) Nhật Bản coi
đây là một tác phẩm trọng yếu bắt buộc
phải học tập của các hành giả Mật Tông.
[3] Theo lư, do chứng ngộ Bát Nhă mà Bồ
Tát thành Phật, tức là giống như Phật quả
được sanh bởi Bát Nhă, nên Bát Nhă được gọi
là “mẹ của chư Phật”. Theo phương diện Sự,
do Quán Thế Âm Bồ Tát tuyên giảng Bát Nhă Tâm Kinh, Ngài hóa
hiện thân Bát Nhă Ba La Mật Bồ Tát. Vị Bồ Tát này
c̣n được gọi là Bát Nhă Quán Âm, Bát Nhă Phật Mẫu,
Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật Đa Bồ Tát, hoặc Đệ Nhất Ba La Mật Bồ
Tát. Ngài được tạc tượng có một mặt,
sáu tay hoặc bốn tay, diện mạo xinh đẹp, yểu điệu, thân h́nh nẩy
nở, mặc khôi giáp, hai tay chắp lại trước ngực,
hoặc kết ấn Thí Vô Úy, hay Thiền Định ấn. Các tay khác lần lượt cầm kinh Bát Nhă, và xâu chuỗi
hoặc kim cang chử trên đó đeo xâu chuỗi. Ngài
đứng hoặc tọa Thiền trên hoa sen trong ṿng lửa
(lửa biểu thị phiền năo, hoa sen biểu thị
giác ngộ). Nếu tượng sáu tay th́ ngoài hai tay chắp
trước ngực, các tay kia lần lượt cầm
kinh Bát Nhă, xâu chuỗi, kim cang chử và hoa sen xanh. Hoặc
có khi thay hoa sen xanh bằng bảo kiếm. Đôi khi, Ngài được tạc tượng
hoặc vẽ chung với Văn Thù Bồ Tát (đại
biểu trí huệ), Hư Không Tạng Bồ Tát (đại
biểu kư ức), gọi là Trí Huệ Tam Tôn. Nếu vẽ
riêng th́ thường là vây quanh Bồ Tát có bốn vị thần hộ pháp
dưới dạng thiên nữ, có tên gọi lần lượt
là Nặc Da, Vi Nặc Da, A Nhĩ Đa, và A Ba La Nhĩ Đa, biểu thị thường, lạc,
ngă, tịnh.
[4] Theo Phật Học
Đại Từ Điển, như người có ấn
sẽ có thể vào một quốc gia. Hành giả dùng trí Bát
Nhă làm ấn, sẽ có thể nhập lư Thật Tướng,
nên gọi là Trí Ấn. Lại như dùng ấn khế
để biện định một văn kiện hay một
vật là chân hay ngụy; cũng giống như vậy,
dùng trí để biện định chân, ngụy v.v… th́ gọi
là Trí Ấn.
[5] Đại
Không: Có ba cách hiểu:
- Đây là Không rốt ráo
trong Đại Thừa, tức Niết Bàn, chính là vượt
ngoài chấp trước Hữu và Không, ngay cả Không
cũng là Không, nên gọi là Không Không. Chứng nhập Không
Không th́ gọi là Đại Không.
- Trong mười tám món
Không của Đại Bát Nhă, không có các phương vị
Đông, Tây, Nam, Bắc v.v… th́ gọi là Đại Không.
- Trong Mật Giáo, liễu
ngộ lư bất sanh trong môn chữ A th́ cũng gọi là
Đại Không.
Ngu ư cho rằng Đại
Không ở đây phải hiểu theo cách thứ nhất và
thứ ba.
[6] Trong văn tự
Tất Đàm (Siddam), A là chữ căn bản, có nghĩa
là “không, bất sanh”, nên A được coi là tượng
trưng cho tánh Không, là căn bản của Bát Nhă và các pháp
môn trong Phật giáo. Trong Mật giáo, mỗi vị tôn thánh
được biểu thị bằng một chữ (gọi
là chủng tử, như A Di Đà Phật có chủng tử
là Hrih). Chữ A được coi là thống nhiếp các
chủng tự. A là chủng tử của Thai Tạng Mạn-đồ-la.
Trong ba bộ của Thai Tạng th́ A là chủng tử của
Phật Bộ, trong tam thân, A là chủng tử của Pháp
Thân (do vậy, trong các bức vẽ Phật xưa kia, hay
đề ba chữ Phạn Om, A, Hồng phía trên đức
Phật, biểu thị tam thân của Phật), trong Nhân,
Hành, Chứng, Nhập, Phương Tiện th́ A là chủng
tử của Nhân, trong Lục Đại th́ A là chủng tử
của địa đại v.v…
[7] Nhất Xiển
Đề có nghĩa là “không có tánh thành Phật”. C̣n dịch
là Bất Tín, tức không tin Phật pháp. Kinh Đại Bát
Niết Bàn quyển mười chín nói: “Nhất Xiển
Đề là chẳng tin nhân quả, chẳng có hổ thẹn,
chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy đời hiện
tại và vị lai, chẳng thân cận thiện hữu,
chẳng thuận theo lời răn dạy do chư Phật
đă nói. Người như thế gọi là Nhất Xiển
Đề, chư Phật chẳng thể đối trị”.
[8] Thanh Minh (Sabda-vidyà) ở đây là một môn trong Ngũ Minh, tức là môn học
về ngôn ngữ, văn tự, về âm thanh và văn học.
[9] Đây là một thí dụ trong phẩm
Hóa Thành Dụ của kinh Pháp Hoa. Có một người dẫn
đường biết chỗ dẫn tới của báu,
nhưng người đi theo ông ta thấy đường
xa mỏi mệt, muốn lui về. Người dẫn
đường có phương tiện thiện xảo, bèn hóa ra một cái thành to lớn
để họ nghỉ ngơi. Khi họ đă nghỉ khỏe, người ấy
bèn diệt hóa thành, thúc giục họ tiếp
tục tiến lên. Đức Phật dùng thí dụ này
để sánh ví các pháp trước thời Pháp Hoa cũng
giống như hóa thành, chỉ là pháp phương tiện,
chứ Nhất Thừa mới là pháp chân thật.
[10] Kệ ở
đây là cách tính độ dài của một văn bản
trong tiếng Phạn. Cứ bốn câu là một kệ, bất
luận số chữ nhiều ít, có vần hay không vần.
[11] Ư nói chẳng c̣n phải tái sanh do
lưu chuyển theo nghiệp.
[12] Am Ma Lặc
là một loại trái nhỏ thuộc giống cây gọi là
Emblic Myrobalan (có tên khoa học là Phyllanthus Emblica, tên tiếng
Việt là chùm ruột núi, me mận, mắc kham), c̣n gọi
là Indian gooseberry, thường mọc nhiều ở Ấn
Độ. Cây này có thể cao tới 8 m,
hoa có màu xanh pha vàng. Trái h́nh cầu, to khoảng 26 mm, có sáu vết
khía nổi quanh trái, khiến trái trông như gồm sáu múi.
Trái có màu vàng hơi pha sắc xanh, nhẵn nhụi và cứng,
có hột cứng ở giữa. Trái này có vị đắng
và hơi chua, có nhiều xơ. Trái có thể ăn sống,
làm nước ép, hay ngâm đường rồi xên thành mứt,
hoặc làm gia vị để nấu món súp cá Holat tại
Indonesia. Trái này được coi là có tác dụng chữa
bệnh.
[13] Phạm chí có
nghĩa là người có chí hướng cầu sanh lên Phạm
thiên, là danh xưng để gọi những tu sĩ
Bà-la-môn. Vi Đà phạm chí là các phạm chí tinh thông bốn
bộ Vi Đà (Vedas, Phệ Đà) của Bà La Môn giáo.
[14] Cù Đàm Tiên
(Gotama) c̣n gọi là Kiều Đáp Ma Tiên là một vị
trong bảy vị đại tiên nhân thời cổ.
Tương truyền vị tiên nhân này giỏi chú thuật,
từng soạn Minh Luận. Vị tiên nhân này muốn bay
lên hư không, bị hai giọt nước làm bẩn,
rơi xuống đất, được ánh mặt trời
chiếu vào, biến thành thân sắc vàng. Con ông ta về sau
là thỉ tổ của ḍng họ Thích Ca.
[15] Đây là một thí dụ được
nhắc tới trong các kinh Hoa Nghiêm và Niết Bàn, như mặt
trống được bôi thuốc độc, khi đánh
lên, âm thanh ấy có thể làm chết người. Dùng
điều này để sánh ví âm thanh thuyết pháp của
đức Phật có thể giết sạch ngũ nghịch,
Thập Ác, các phiền năo trong tâm của chúng sanh.
[16] Do không có font
chữ Siddam, chúng tôi tạm sử dụng
font Devanāgarī
(Thiên Thành tự thể) để ghi các chữ Sankrit
được chép trong lời Sớ.
[17] Yên Chi là màu son hồng, vốn là một
thứ màu nhuộm thiên nhiên có màu sắc đỏ hồng
tươi tắn. Thời cổ, nữ nhân dùng nó ḥa vào bột
phấn để làm hồng da mặt hay dùng như son
để nhuộm cho môi đỏ tươi, nên Yên Chi hiểu
theo nghĩa rộng chính là các thứ để trang điểm
của phụ nữ.
[18] Hắc nguyệt (Kṛṣṇapakṣa) tức là nửa tháng sau của âm lịch. Tây Vực
Kư ghi: “Từ trăng khuyết [sau ngày trăng tṛn] cho
đến lúc không trăng là hắc nguyệt”. Đây là
cách phân định thời gian trong một tháng của lịch
pháp Ấn Độ thời cổ.
[19] Theo Phật Học Đại Từ
Điển của Đinh Phước Bảo, “quyết liễu” là khiến cho người nghe quyết định hiểu
rơ ràng, rành mạch một nghĩa lư nào đó.
[20] Bạch Tứ
Yết-ma (Jñapticaturtha-karman),
c̣n gọi là Tứ Bạch, Bạch Tứ Pháp, hoặc Nhất
Bạch Tam Yết-ma. Bạch tức là thưa bày rơ, Yết-ma
nghĩa là nghiệp, tác pháp v.v… Tức là như khi truyền
thọ Cụ Túc Giới chẳng hạn, vị thầy Yết
Ma trong Tam Sư của giới đàn, hướng về
Tăng chúng, thưa tŕnh “có người này, người kia
muốn cầu xuất gia”. Đó là Bạch. Kế đó,
ba lượt hỏi Tăng chúng có tán thành hay không, chuyện
này được gọi là Tam Yết-ma. Nếu không ai có ư
kiến phản đối, sẽ chấp thuận cho những
người ấy được làm Tăng. Đối với
các pháp sự khác như sám hối tội trọng, trị
phạt, quở trách người phạm lỗi, can gián, chấm
dứt tranh căi v.v… cũng dùng phương cách này để
đạt tới sự đồng thuận trong Tăng
chúng.
[21] Sổ Thủ Thú Giả là cách dịch
khác của chữ Bổ Đặc Già La (hữu t́nh). Do hữu
t́nh nhiều lượt (sổ) sanh vào các đường
khác nhau (thủ thú) nên gọi như vậy.
[22] Độc Tử
Bộ (Vātsīputrīya)
c̣n gọi là Khả Trụ Tử Bộ, Bạt Thứ Tử
Bộ, Bạt Tư Phất Đa La Khả Trụ Tử
Bộ, Bà Duy Tử Bộ, là một trong các bộ phái thời
kỳ sơ khởi của Phật giáo, vốn là một
phân chi của Thượng Tọa Bộ. Bộ phái này
được h́nh thành hai trăm năm sau khi đức
Phật nhập diệt, giáo nghĩa gần tương tự
Nhất Thiết Hữu Bộ, chỉ có đôi chút sai khác
như chấp cái Thể của Bổ
Đặc Già La là thật sự có, Niết Bàn có ba loại
là hữu học, vô học và phi hữu phi vô học v.v…