Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần mười

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Mạn-đồ-la hà tiên? Duy Đại Mâu Ni thuyết. A-xà-lê hữu kỷ? Đệ tử phục kỷ chủng? Vân hà tri địa tướng? Vân hà nhi trạch trị? Vân hà đương tác tịnh? Vân hà bỉ kiên trụ, cập tịnh chư đệ tử? Duy nguyện đạo sư thuyết. Vân hà dĩ tịnh tướng? Dĩ hà nhi tác hộ? Vân hà gia tŕ địa? Sự nghiệp thùy vi sơ? Tu Đa La hữu kỷ? Vân hà tác địa phần? Kỷ chủng tu cúng dường? Vân hà hoa hương đẳng? Thử hoa đương hiến thùy? Hương diệc phục như thị, vân hà nhi phụng hiến? Ưng dĩ hà hoa hương? Chư thực dữ hộ-ma, các dĩ hà quỹ nghi? Cập chư thánh, thiên ṭa, nguyện thuyết thử giáo pháp. Thân tướng hiển h́nh sắc, duy thứ đệ khai diễn, sở tôn chi mật ấn, cập dữ tự phu ṭa?

          ()曼荼羅何先?惟大牟尼說。阿闍梨有幾?弟子復幾種?云何知地相?云何而擇治?云何當作淨?云何彼堅住,及淨諸弟子?惟願導師說。云何已淨相?以何而作護?云何加持地?事業誰為初?修多羅有幾?云何作地分?幾種修供養?云何花香等,此華當獻誰?香亦復如是,云何而奉獻?應以何花香?諸食與護摩,各以何軌儀?及諸聖天座,願說此教法。身相顯形色,唯次第開演。所尊之密印,及與自敷座。   

          (Kinh: Mạn-đồ-la ǵ trước? Nguyện Đại Mâu Ni nói: A-xà-lê mấy loại? Đệ tử lại mấy loại? Biết tướng đất thế nào? Chọn, trị địa ra sao? Tác tịnh như thế nào? Khiến nó được trụ chắc, tịnh đệ tử ra sao? Kính mong đạo sư nói. Tướng đă tịnh thế nào? Làm thủ hộ ra sao? Gia tŕ đất thế nào? Sự nghiệp nào đầu tiên? Tu Đa La mấy thứ? Tạo địa phần ra sao? Mấy cách tu cúng dường? Hoa, hương… như thế nào? Hoa ấy nên cúng ai? Hương cũng giống như thế, dâng hiến như thế nào? Nên dùng hoa, hương nào? Thức ăn và hộ-ma, nghi quỹ cho mỗi thứ? Và ṭa chư thánh, trời, xin nói giáo pháp ấy. Thân tướng hiển h́nh sắc, mong thứ tự khai diễn, mật ấn của chư tôn, tự trải ṭa thế nào?)

 

          [Ngài Kim Cang Thủ] lại dùng kệ để theo thứ tự hỏi đức Phật. Nay sẽ theo thứ tự, nêu ra [ư nghĩa của từng câu hỏi], chưa có câu kết lại bài kệ. [Ngài Kim Cang Thủ hỏi]: Trong Mạn-đồ-la th́ nên làm ǵ trước? (Ư nói: Mạn-đồ-la có khá nhiều sự, hăy nên làm ǵ trước, tức là nên làm chuyện nào trước tiên?) A-xà-lê có mấy loại (xin cũng nói ra). Đệ tử có bao nhiêu loại, ([kính xin] đấng Đại Mâu Ni cũng nói)? Biết thế đất như thế nào? [Tức là] hỏi cuộc đất tốt, xấu (tức là chọn cuộc đất tốt, [phân định] sự thành tựu thượng, trung, hạ nơi đất v.v…) Chọn lựa cuộc đất như thế nào? Đă chọn [cuộc đất] rồi, hăy nên tác tịnh như thế nào? Đă tác tịnh rồi th́ an trụ như thế nào? (Tuy đă tác tịnh, lại sợ bị kẻ gây chướng tạo khổ năo. V́ thế, hỏi an trụ như thế nào?) Lại có ba câu hỏi, hỏi tác tịnh cho đệ tử ra sao, nguyện đức Phật nói cho (trước đó là hỏi có mấy loại đệ tử. Nay đă có đệ tử rồi, bèn hỏi làm chuyện ǵ trước hết?) Tướng [cuộc đất] đă được tịnh trị lại là như thế nào? (Ở đây là hỏi về thầy, hỏi về đất, hỏi về đệ tử. Ba chuyện ấy là ba câu hỏi). Hỏi dùng ǵ để thủ hộ? Hộ tŕ cuộc đất lại như thế nào? (Cũng hỏi thầy tự làm pháp thủ hộ, thủ hộ cơi đất, và thủ hộ đệ tử, tức là ba chuyện ấy tương ứng với ba câu hỏi).

          Lại gia tŕ cuộc đất như thế nào? Kết hộ tŕ v.v… có nhiều nghĩa, cũng hỏi ba sự. Tác dụng đầu tiên là ǵ? (Tức là đất đă được thủ hộ, tịnh hóa xong, bèn dựa vào cái đàn ấy để làm chuyện đáng nên làm. Trong ấy, có hai chuyện được thực hiện: Chuyện làm bên ngoài tức là các chuyện thuộc về phương diện tạo đàn; chuyện được làm bên trong tức là thầy tu pháp Du Già, tự quán thân ḿnh giống như Đại Nhật Như Lai v.v…). Dùng các pháp chân ngôn v.v… nào? Thực hiện thủ hộ trước, hay tịnh trừ trước? Tức là hỏi thứ tự trước sau của mỗi chuyện trên đây. Hai chuyện ấy đều là tác dụng. Dây chỉ [để kết giới thủ hộ đàn tràng] có mấy thứ? Lại đo lường đất như thế nào? (Tức là dùng chỉ để đo đất và buộc dây chỉ)? Đó là dùng chỉ để hoạch định giới hạn [của đàn tràng].

          Cúng dường lại có mấy thứ? Những ǵ là hoa, hương? (Trong ấy lại có hương bôi, đèn v.v… Và lưới báu, lầu báu, cây cối v.v… tức là các thứ vật cúng. Chuẩn theo lệ mà làm, cho nên nói là “đẳng”. “Đẳng” có nghĩa là nhiều thứ). Hỏi dâng hương, hoa bằng cách nào? Hoa nên dâng cúng cho ai? (Tức là hoa có bao nhiêu loại, đáng nên dâng loại hoa nào cho vị tôn thánh nào, cũng có sai khác. Cúng Phật nên dùng loại hoa nào? Cúng Bồ Tát và chư thiên v.v… dùng loại hoa nào?) Các thứ như hương v.v… cũng thế (Chuẩn theo cách dùng mà hỏi). Hiến thức ăn (thức ăn có thượng, trung, hạ sai biệt). Làm hộ-ma như thế nào? Hỏi hộ-ma và cúng Phật có thứ tự như thế nào? Nêu ra pháp tắc tức là nói đến thứ tự. Đấy là nói chung.

          Dâng tọa vị cho các tôn thánh như thế nào? (Ṭa của Phật, Bồ Tát, tám bộ, hăy nên làm ṭa bằng vật ǵ? Dâng cúng như thế nào?) Pháp giáo, pháp tắc, phương pháp, thứ tự, nghi quỹ đều hiển lộ h́nh sắc v.v… (“hiển” có nghĩa là chư tôn có màu xanh, vàng, đỏ, trắng… “H́nh” là nói đến chuyện tọa vị lớn, nhỏ. “Sắc” là tướng mạo, tức là cười hoan hỷ, phẫn nộ, hay trụ trong tịch tĩnh). Đó là ba câu hỏi, xin hăy lần lượt nói. [C̣n những điều] chẳng tương ứng với pháp tắc như ấn của chư tôn và tự ṭa (tức ṭa để [A-xà-lê] thường tự ngồi niệm tụng, tức là đệm bằng cỏ tranh v.v… Xin đạo sư hăy nói).

 

          (Kinh) Hà cố danh vi ấn? Thị ấn tùng hà sanh? Quán đảnh phục kỷ chủng? Tam-ma-da hữu kỷ? Chân Ngôn giả kỷ thời, cần tu Chân Ngôn hạnh, đương cụ Bồ Tát đạo? Vân hà kiến Chân Đế? Tất Địa hữu kỷ chủng? Cập dữ thành tựu thời, vân hà thăng Đại Không? Vân hà thân bí mật, bất xả ư thử thân, nhi đắc thành thiên thân? Chủng chủng chư biến hóa, bỉ phục tùng hà sanh? Nhật, nguyệt, hỏa phương đẳng, diệu, tú, tinh, thời phần, sở hiện chư bất tường, sanh tử thọ chúng khổ, vân hà linh bất khởi? Sở khởi tận diệt trừ, nhi đắc thường thân cận, chư Phật Lưỡng Túc Tôn? Kỷ chủng hộ-ma hỏa, kỷ sự nhi tăng oai? Chư Phật sai biệt tánh, duy nguyện Đạo Sư thuyết. Vô dư chư thế giới, cập dữ xuất thế gian, bỉ quả cập số lượng, thù thắng Tam-ma-địa, thành thục tại hà sở? Vị thành thục vân hà? Phục tễ ư kỷ thời, nghiệp sanh đắc giải thoát?

          ()何故名為印?是印從何生?灌頂復幾種?三摩耶有幾?真言者幾時,修真言行,當具菩薩道?云何見真諦?悉地有幾種?及與成就時,云何昇大空?云何身祕密,不捨於此身,而得成天身?種種諸變化,彼復從何生?日月火方等,曜宿星時分,所現諸不祥,生死受眾苦,云何令不起,所起盡除滅,而得常親近,諸佛兩足尊?幾種護摩火,幾事而增威?諸佛差別性,唯願導師說。無餘諸世界,及與出世間,彼果及數量,殊勝三摩地,成熟在何所?未成熟云何?復劑於幾時,業生得解脫?

          (Kinh: V́ sao gọi là ấn? Ấn ấy sanh từ đâu? Quán đảnh lại mấy thứ? Mấy loại tam-ma-da? Bậc Chân Ngôn mấy thời, siêng tu hạnh Chân Ngôn, sẽ trọn Bồ Tát đạo? Thấy Chân Đế ra sao? Tất Địa có mấy loại? Và đến lúc thành tựu, thăng lên không thế nào? Thân bí mật ra sao? Chẳng xả tấm thân này, mà được thành thân trời? Đủ các loại biến hóa, lại từ đâu sanh ra? Các phương nhật, nguyệt, hỏa, các tinh tú, thời phần, hiện các điềm bất tường, sanh tử chịu các khổ, sao khiến chẳng dấy lên? Đă khởi, diệt trừ hết? Lại được thường thân cận, chư Phật Lưỡng Túc Tôn? Lửa hộ-ma mấy thứ? Mấy sự tăng oai thế? Chư Phật tánh sai biệt, kính mong Đạo Sư nói. Các thế giới chẳng sót, cùng với xuất thế gian, quả ấy và số lượng. Tam-ma-địa thù thắng, v́ sao chưa thành thục? Lại gồm trong mấy thời, được giải thoát nghiệp sanh?)

 

          Ấn lại sanh từ nơi nào? Nói các ấn ấy lại dùng để làm ǵ? (Như thế gian tạo ra ấn để [đóng trên công văn ghi mệnh lệnh của] các bậc như vua chúa, khiến cho người khác tin tưởng, chẳng ngờ vực sự chân, ngụy. Nay ấn của Như Lai lại là như thế nào?) [Con muốn biết] danh hiệu của các ấn ấy; lại do v́ sao mà gọi là “ấn”? (mong được biết nguyên do). Có mấy loại quán đảnh? (mong được hiểu biết). Có mấy loại tam-muội-da? Người tŕ tụng chia thành mấy thời (xét ra, có ba câu hỏi)? Người tŕ tụng siêng tu môn Chân Ngôn, khi nào sẽ thành tựu Bồ Tát đạo? Nguyện đấng Nhất Thiết Trí hăy nói. Bao lâu sẽ kiến Đế (tức là đạt được tri kiến như thật trong Chân Ngôn môn. Ư nghĩa chánh yếu là khi nào sẽ đạt được?) Có mấy loại Tất Địa? (muốn được hiểu biết). Khi nào Tất Địa sanh? Và nói từng thời điểm của Tất Địa (tức là gồm ba câu hỏi). Thế nào để thăng lên thái hư không? Thế nào là thân bí mật? (Xét ra, gồm hai câu hỏi). V́ sao chẳng bỏ thân này mà thành được thân thiên tiên? Đă thành tựu th́ các thứ biến hóa sẽ sanh khởi như thế nào? (Tức là hết thảy các sự đều thuận theo ư niệm mà được thành, chuyện ấy sanh từ chỗ nào? Từ tự tâm ư? Hay từ nơi nào khác?) Các thứ biến hóa do ai sanh? Các thứ ấy lại do đâu mà có thể sanh?

          Trừ khử các điềm xấu nơi mặt trời, mặt trăng, chỗ có hỏa tai, các tinh tú trực nhật, thời phần v.v… bằng cách nào? (Mặt trời, mặt trăng biến hóa, dấy lên hỏa tai, hoặc nơi chốn có chuyện quái dị. “Tú” là Nhị Thập Bát Tú, “tinh” là các ngôi sao). Và các thứ sanh tử thọ khổ dấy lên, làm thế nào để đều trừ diệt? “Chẳng có” nghĩa là “trừ diệt”. Làm thế nào để hành giả thường với chư Phật ở cùng một chỗ? Có mấy loại hộ-ma? Ở đây hỏi khi hộ-ma cần dùng mấy loại lửa, mong được biết! “Tăng oai thế trong lửa” tức là pháp Tăng Ích [bằng cách hộ-ma]. Lại có mấy loại tăng oai thế? Các thứ như hoa, hương v.v… sử dụng trong hết thảy các chỗ [như thế nào?] Do tánh chất của các vị tôn thánh khác biệt (như Phật, Bồ Tát, tám bộ có h́nh sắc và tánh loại khác nhau), cần phải biết bổn tánh của các vị [tôn thánh] ấy là phẫn nộ, tịch tịch, hay hoan hỷ v.v… Kính mong đấng Đạo Sư dạy cho.

          Các thế giới chẳng thừa sót và quả xuất thế gian gồm mấy loại? Số lượng như thế nào? (Xuất thế là Phật, Bồ Tát; “thế gian” là tám bộ. Thời lượng sẽ thành tựu, quả vị và số lượng là như thế nào? Phần này bao gồm sáu câu hỏi). Lại hỏi tam-muội thế gian và xuất thế gian là như thế nào? [Mỗi môn tam-muội] đều có Định thù thắng. [Phần này] hợp với các câu trước thành tám câu hỏi. Tác nghiệp thành tựu ở chỗ nào? [Có nghĩa là] hỏi về sự thành tựu, nhận lănh cái quả [thành tựu] th́ ở phương vị, nơi chốn nào? Đối với người chưa thành tựu cũng thế, hỏi [v́ sao] họ chẳng thành tựu? Lại hỏi khi nào có thể ĺa nghiệp sanh (tức các quả sanh khởi bởi nghiệp đă tạo) để được giải thoát?

          Khi đó, ngài Kim Cang Tạng nương theo oai thần của mười phương chư Phật, nói kệ hỏi đức Phật; [bởi lẽ], các vị Bồ Tát Chân Ngôn hạnh có những điều thiếu khuyết, và phương tiện pháp yếu chưa được trọn vẹn, nên cần được giải đáp.

 

          (Kinh) Chánh Giác Nhất Thiết Trí, ly nhiệt năo Thế Tôn, cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Thiện tai, Đại Cần Dũng! Bí mật Mạn-đồ-la, quyết định thánh thiên vị, đại bi căn bản sanh, vô thượng Ma Ha Diễn, chư Phật tối bí mật. Như nhữ chi sở vấn, đại lực Tŕ Kim Cang, ngă kim lược tuyên thuyết. Mạn-đồ-la sơ nghiệp, Phật tử ưng đế thính. Thập nhị chi cú sanh, đại lực tŕ Minh Vương, sở ưng tối tiên tác. Trụ ư bổn tam-muội, giải liễu Du Già đạo, nhi tác chúng sự nghiệp.

          ()正覺一切智,離熱惱世尊,告金剛手言:善哉大勤勇,祕密漫荼羅,決定聖天位,大悲根本生,無上摩訶衍,諸佛最祕密,如汝之所問。大力持金剛,我今略宣說,漫荼羅初業,佛子應諦聽。十二支句生,大力持明王,所應最先作。住於本三昧,解了瑜伽道,而作眾事業。

          (Kinh: Chánh Giác Nhất Thiết Trí, Thế Tôn ĺa nhiệt năo, bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lành thay, Đại Cần Dũng! Mạn-đồ-la bí mật, thánh thiên vị quyết định, đại bi căn bản sanh, là Đại Thừa vô thượng, bí mật nhất của Phật. Như lời ông đă hỏi, đại lực Tŕ Kim Cang, ta nay nói đại lược. Sơ nghiệp Mạn-đồ-la, Phật tử nên lắng nghe. Câu mười hai chi sanh, đại lực tŕ Minh Vương, nên thực hiện trước hết. Trụ trong bổn tam-muội, thấu hiểu đạo Du Già, để làm các sự nghiệp).

 

          Khi đó, đức Nhất Thiết Trí Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn [là đấng] ĺa các nhiệt năo, nghe [Kim Cang Thủ] Bồ Tát hỏi các chuyện bí yếu, bèn tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay! Bậc đại tâm siêng năng, dũng mănh, (tức là người trong hết thảy các thời đều to lớn, có đại tâm, đại nguyện, đại hạnh v.v…) “Mạn-đồ-la bí mật phối ứng với các tôn vị quyết định” (đó là ư nghĩa của câu “thánh thiên vị quyết định” trong chánh kinh): Các tọa vị của các vị tôn thánh đă được sắp xếp [theo các vị trí] nhất định [trong Mạn-đồ-la]. “Bí mật” chính là tạng bí áo của Như Lai. Ngài thầm lặng suy nghĩ đă lâu, giống như hoa Ưu Đàm, đúng thời mới nói ra. Nếu chẳng đúng người, sẽ chẳng tùy tiện truyền trao, chẳng giống như các giáo pháp thông thường được hiển lộ. Mạn-đồ-la có nghĩa là “trọn đủ các đức”, tức là đức bí mật của Như Lai. Các đức bí mật như thế giống như hoa sen x̣e nở, tự trang nghiêm. “Phối ứng tôn vị quyết định” có nghĩa là chọn lựa dứt khoát. Tạng liên hoa bí mật như thế, phân biệt các thứ phần vị, các chuyện đáng nên làm đều “quyết trạch” (chọn lựa dứt khoát). “Quyết” có nghĩa là “nhất định”.

          Cội nguồn đại bi được sanh khởi từ căn bản đại bi. [Đức Phật nói] “Đại Thừa vô thượng là điều bí mật nhất của chư Phật” chính là nói: Mạn-đồ-la này chính là căn nguyên của vô thượng Đại Thừa. Có nghĩa là tâm Bồ Đề dùng đại bi làm căn bản, cũng giống như thai tạng. V́ thế nói là “căn bản”. “Thừa” là chuyện [cần phải làm] của Bồ Tát tu Chân Ngôn hạnh. Do trọn đủ phương tiện ấy, sẽ đi trên con đường to lớn, thẳng thừng, một mực chẳng vướng chướng nạn, đạt tới chân thật. Giống như ngồi cỗ xe êm ả, mát mẻ, đi trên con đường to lớn, thẳng thớm, tới được ṭa thành to lớn. Đấy chính là pháp bí yếu tối thượng của chư Phật. Nếu nói rộng th́ cho tới hết kiếp vị lai, vẫn chẳng thể cùng tận. Hiện thời, chỉ dùng phương tiện để nói đại lược! Nay th́ trong một lời mà trọn đủ hết thảy các nghĩa vị; v́ thế gọi là “lược thuyết” (nói đại lược). Ông có thể hỏi mật sự ấy của Phật, ta nay sẽ nói đại lược. Trước hết là tán thán pháp, hứa sẽ nói đại lược; sau đó, thuận theo lời hỏi ấy mà giải đáp theo thứ tự.

          Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: “Lắng nghe Minh Vương được sanh bởi câu gồm mười hai chi trong Đại Lực Mạn-đồ-la”, đó là trước hết giải đáp [câu hỏi về] nghiệp đầu tiên [phải thực hiện] của Đại Lực Mạn-đồ-la. Trước hết, hăy nên làm điều ấy. Đó chính là “câu gồm mười hai chi” như đă nói trong phần trước (từ câu mười hai chi ấy mà sanh ra Đại Lực Minh Vương này), sanh ra mười hai câu pháp giới thể. Trước hết, hăy nên “làm” (tức tŕ tụng, quán tưởng] Minh Vương ấy. Do Minh Vương ấy thâu nhiếp trọn hết thảy tất cả thế gian và xuất thế gian, lúc mới làm đàn, trước hết hăy nên trụ trong Minh Vương tam-muội ấy. “Vương” là nói đến đức Đại Nhật. Đấy chính là nói nơi tâm đặt chữ tối sơ thuộc mười hai chữ (tức mười hai chữ của Đại Chân Ngôn Vương trong phần trước là āṃ, khāṃ, aṃ, aḥ, saṃ, saḥ, haṃ, haḥ, raṃ, raḥ, va, vaḥ). Dùng chữ tối sơ để tŕ thân, Chân Ngôn đều được nhiếp trọn hết trong ấy. Muốn làm Mạn-đồ-la, cần phải tụng [Minh Vương này] trước. Tức là khi sắp tạo Mạn-đồ-la, cần phải tụng trước; sau đó mới trụ trong Du Già. Du Già chính là hạnh ứng với lư của Minh Vương này. Đă trụ trong Du Già, hăy nên chánh quán sát: Nay đối với chuyện muốn làm, hăy nên làm chuyện ǵ? Tức là tùy thuộc năm bộ sử dụng sự sai khác năm chữ (a, ra, va, ha, kha) đă nói trên đây, [đàn tràng] hoặc vuông, hoặc tṛn, hoặc tam giác, bán nguyệt các loại, và đàn thượng, trung, hạ dùng để làm ǵ? Căn tánh của đệ tử như thế nào? Các loại như thế đó đều đă biết th́ mới có thể làm. Nhưng trong Chân Ngôn Vương ở đây, đối với việc phân biệt các thứ chuyện sai biệt mà vẫn chưa hiểu rơ th́ phải hỏi han. Lại nữa, “biết trước” có hai loại:

          - Do vị thầy (A-xà-lê) đă kiến Đế, có thể từ trong Chân Ngôn Vương như thế mà thấy hết thảy các căn duyên, thông đạt chẳng chướng ngại.

          - Nếu thầy chưa kiến Đế, cần phải vâng theo giáo pháp, lời thầy ḿnh truyền dạy, và chỉ thú được truyền dạy để quán sát. Đó cũng là loại thứ hai.

          Đă quán sát biết rồi, tùy theo chuyện đáng nên làm mà làm. V́ thế, trước hết cần đến Chân Ngôn Vương này. Dùng bổn tam-muội để ǵn giữ thân xong, trước hết là hiểu biết đạo Du Già, sau đấy mới tùy ư làm các sự nghiệp.

          Giải thích theo ư nghĩa bí mật, Chân Ngôn Vương mười hai câu này chính là Kim Cang tam-muội, Bồ Tát ắt phải ngồi đạo tràng, nhập kim cang giới, sẽ được mười phương chư Phật đồng thời quán đảnh, cùng gia tŕ, được nhập Phật vị. “Nhập Phật vị” chính là ư nghĩa “rốt ráo thành tựu Đại Bi Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la”. Ngài Kim Cang Thủ do nhập Chân Ngôn Vương này, cho nên cũng ở trong kinh này, được mười phương chư Phật cùng nhau gia tŕ, nay lại quyết trạch tạng Đại Bi. Nếu chẳng phải như vậy, há có thể được chư Phật quán đảnh giống như địa vị Như Lai pháp vương ư? Nhưng trong cách tạo Mạn-đồ-la, trước tiên là cần phải có A-xà-lê. Do vậy, kế đó [đức Phật] giải đáp [lời hỏi về A-xà-lê].

 

          (Kinh) A-xà-lê hữu nhị, thông đạt ấn chân ngôn, bỉ tướng diệc như thị. Thâm bí, hiển lược phân, năng tri thâm quảng nghĩa, khả truyền giả phương thọ. Chánh Giác chi trưởng tử, viễn ly ư thế lạc. Đệ nhị cầu hiện pháp, thâm trước si phan duyên, thế gian Mạn-đồ-la, nhất thiết vị tư tác.

          ()阿闍梨有二,通達印真言,彼相亦如是,深祕顯略分。能知深廣義,可傳者方授,正覺之長子,遠離於世樂。第二求現法,深著癡攀緣,世間漫荼羅,一切為斯作。

          (Kinh: A-xà-lê hai loại. Thông đạt ấn, chân ngôn, tướng ấy cũng như thế. Sâu mật và sơ sài. Người hiểu nghĩa sâu rộng, kẻ đáng truyền mới dạy. Con trưởng đấng Chánh Giác, xa ĺa vui thế gian. Thứ hai, cầu hiện pháp, chấp sâu, nắm níu si, thế gian Mạn-đồ-la, hết thảy v́ đó làm).

 

          Hăy nên biết thầy có hai loại:

          1) Phàm người thuộc địa vị làm thầy, cần phải hiểu trọn vẹn chân ngôn, ấn, và h́nh tướng của Bổn Tôn. Đối với mỗi điều trong ấy đều liễu đạt, chẳng nghi, biết rơ tướng sai biệt của pháp thượng, trung, hạ. Nhưng [loại A-xà-lê này] lại chia thành hai loại. Lại chia thành hai loại như sau: Một là thông hiểu sâu xa, bí mật; hai là người hiểu biết thông thường, đại lược. Nói “sâu” tức là có thể biết rơ sâu rộng, tức là đối với tam-muội trong Chân Ngôn hạnh, khéo hiểu biết lư thú, hiểu sâu rộng Đại Thừa, có thể kham tiếp nhận sự ủy thác, phó chúc. “Kham tiếp nhận ủy thác, phó chúc” ở đây chính là [A-xà-lê] khéo biết thời nghi, liễu giải căn tánh [của người cầu pháp, biết kẻ ấy là kẻ đáng] kham truyền thọ, bèn làm bạn chẳng thỉnh, khiến cho kẻ ấy chẳng bỏ lỡ đại sự nhân duyên. Đối với kẻ chưa kham, bèn thủ hộ tâm ư họ, chỉ dạy pháp sâu khác, khiến cho họ được lợi ích, hoan hỷ. V́ thế, gọi là “kham ủy thác, giao phó”. Hăy nên biết [vị A-xà-lê như vậy] chính là trưởng tử của Phật. Do kiến Đế nên thấy pháp, tức là thấy quả báo trong đời hiện tại, cho nên chẳng chấp tướng của các pháp. Ĺa cảnh tâm lượng phân biệt, nên gọi là Ly. Tức là ĺa lợi lộc trong đời hiện tại, thẳng thừng cầu Phật đạo. Hăy nên biết vị thầy ấy được mười phương chư Phật hiện tiền, mỗi vị đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu sư, dùng pháp quán đảnh để giao phó pháp tạng.

          2) Loại thầy thứ hai, chỉ đạt được lợi ích trong pháp hiện tại, và lợi ích thành tựu trong thế gian. Đối với câu “si” (tức câu “thân trước si phan duyên” (thân chấp trước, nắm níu các si) trong chánh kinh), lại có kèm thêm“duyên niệm”. [Vị thầy ấy] v́ người khác mà tạo đàn, nhưng cũng hiểu biết các thứ phương tiện tạo tác Mạn-đồ-la v.v… chẳng phạm sai lầm. Kể từ khi được thầy quán đảnh, cũng có thể gọi là “vị thầy có hạnh sâu”, được quán đảnh dự vào địa vị A-xà-lê, cũng được gọi “được Phật ấn khả”. Do vị ấy từ trong Mạn-đồ-la, đích thân đối trước chư tôn mà tiếp nhận quán đảnh, dự vào ngôi vị thầy, cho nên được ấn khả.

          Hăy nên biết người được Phật quán đảnh ở đây chính là vị thầy sâu xa, bí mật, c̣n người được vị thầy thế gian trao truyền th́ là hạng A-xà-lê sơ sài, đại lược. Lời hỏi của ngài Kim Cang Tạng đều dựa theo những điều cần thiết trong Mạn-đồ-la, đức Phật cũng theo thứ tự dùng kệ để giải đáp. Nay lời kệ chưa trọn hết ư, trong phần sau sẽ có kinh văn giải thích thêm. Đức Phật đáp [câu hỏi về] thầy xong; kế đó, sẽ đáp về tướng đệ tử. V́ sao vậy? Nếu chỉ có thầy mà chẳng có đệ tử, sẽ thiếu khuyết cái duyên truyền pháp, khiến cho Phật chủng chẳng được tiếp nối!

 

          (Kinh) Chư Phật Nhị Túc Tôn, quán đảnh truyền giáo giả, thuyết tứ chủng đệ tử, thời, phi thời sai biệt. Nhất giả, thời niệm tụng. Phi thời, câu, phi câu. Cụ hữu nhất thiết tướng, Phật thuyết thân đệ tử.

          ()諸佛二足尊,灌頂傳教者,說四種弟子,時非時差別。一者時念誦,非時俱非俱,具有一切相,佛說親弟子。

          (Kinh: Chư Phật Nhị Túc Tôn, bậc quán đảnh truyền giáo, nói bốn loại đệ tử, thời, phi thời sai khác. Một là thời niệm tụng. Phi thời, đều đúng thời, cùng với đều phi thời. Trọn đủ hết thảy tướng, Phật gọi “thân đệ tử”).

 

          Kế đó, phân biệt tướng đệ tử, có bốn loại: Một là thời niệm tụng đệ tử, hai là phi thời, ba là vừa là thời vừa phi thời, bốn là chẳng phải thời mà cũng chẳng phải là phi thời. Đó là bốn loại:

          1) Nói “thời”, tức là như đệ tử cầu A-xà-lê, thỉnh hành pháp Chân Ngôn. Nếu thầy là bậc kiến Đế, sẽ tự soi rơ cảnh duyên của người ấy, biết người ấy kham đảm nhiệm chuyện này, bèn truyền trao hành pháp, dạy tṛ niệm tụng, hạn định chừng bao lâu đó sẽ được thành tựu. Nếu là bậc thầy thế gian, tuy chẳng thể soi xét căn cơ từ trước [của đệ tử], chỉ vâng theo lời dạy mà làm, dạy đệ tử niệm tụng, cầu mong tướng cảnh giới giao cảm. Thầy cũng tự niệm tụng, nếu tương ứng, đệ tử đạt được cảnh giới kham tiếp nhận pháp, th́ khi đó, thầy cũng sẽ tự biết. Đă được tương ứng để tiếp nhận pháp hạnh này, thầy cũng dạy tṛ niệm tụng như trên. Trong trường hợp này, cũng có phương quỹ (phương cách, khuôn khổ, lề luật).

          2) “Phi thời” là cũng theo cách như trên, dạy họ tu hạnh Chân Ngôn, hạn định sẽ được thành tựu vào lúc nào đó. Nếu đến lúc đó, pháp nghiệm chẳng thành, cần phải tăng thêm gia hạnh, nên gọi là “phi thời”.      

          3) “Thời phi thời câu” (vừa là thời, vừa là phi thời): Tuy tṛ tiếp nhận ngôn giáo của thầy giống như trên, nhưng chưa thể vâng theo hành tŕ đúng như pháp, chưa đạt tới lúc thành tựu. Loại này chẳng thuộc thời mà cũng chẳng thuộc phi thời, nhưng vẫn thuộc vào địa vị tu học, nên gọi là “câu” (đều cùng).

          4) “Câu phi” (chẳng phải là thời, mà cũng chẳng phải là phi thời): [Đệ tử] chỉ phát tâm quy y, nhưng hoàn toàn chưa có thứ tự (chưa hề được truyền dạy cách tu tập). Tuy thầy đă nhiếp thủ, nhưng đợi thời, đợi duyên đều chưa trọn vẹn, [do vậy], chưa thể trao truyền pháp yếu chân ngôn cho người ấy được!

          Lại nữa, người “trọn đủ các tướng”, tướng cũng có hai loại:

          - Một ngoại tướng, tức là các chi phần đều chẳng khuyết giảm, như trong phần trước đă nói cặn kẽ.

          - Hai là nội giáo, mỗi điều đều có thể tu hành đúng như pháp, đúng như Phật đă giáo sắc, chẳng dám trái nghịch. Như thế th́ đều là nội tướng (hăy nên biết “Phật giáo sắc” chính là lời thầy dạy, do thầy vâng theo lời Phật dạy mà hành).

          Nhưng bốn loại người ấy đều thuộc địa vị đang tu học, chưa được viên măn.

 

          (Kinh) Tối sơ tri địa tướng, tức sở vị tâm địa, ngă dĩ thuyết tác tịnh, như tiền tu sự nghiệp. Nhược ly ư quá hoạn, tâm địa vô sở úy, đương đắc thành chân tịnh, ly nhất thiết chư quá. Kiên trụ như thị tri, kiến tự tam Bồ Đề. Nhược dị ư thử giả, phi năng thanh tịnh địa. Nhược trụ vọng phân biệt, hành giả tịnh kỳ địa, Bí Mật Chủ phi tịnh, dĩ ly Bồ Đề tâm, cố ưng xả phân biệt, tịnh trừ nhất thiết địa.

          ()最初知地相,即所謂心地,我已說作淨,如前修事業。若離於過患,心地無所畏,當得成真淨,離一切諸過。堅住如是知,見自三菩提,若異於此者,非能清淨地。若住妄分別,行者淨其地,祕密主非淨,以離菩提心,故應捨分別,淨除一切地。 (Kinh: Thoạt đầu, biết tướng đất, tức là nói tâm địa. Ta đă nói tác tịnh, như trước tu sự nghiệp. Nếu ĺa các lỗi họa, tâm địa chẳng sợ hăi, sẽ được thành chân tịnh, ĺa hết thảy các lỗi. Trụ vững, biết như thế, thấy tự Tam Bồ Đề. Nếu khác với điều này, chẳng thể thanh tịnh đất. Nếu trụ vọng phân biệt, hành giả tịnh cuộc đất, Bí Mật Chủ chẳng tịnh, do ĺa Bồ Đề tâm. Vậy nên xả phân biệt, tịnh trừ hết thảy đất).

         

          Đă có đệ tử, điều trước hết là biết tướng đất. Kế đó, hăy nên theo thứ tự nói về tướng đất, tức là nói tới tâm địa. Biết tướng cuộc đất nào đáng nên tạo Mạn-đồ-la. Để tạo Mạn-đồ-la, cần phải chọn cuộc đất trước. Nói tới “đất” th́ đó chính là Bồ Đề tâm. Trước hết, tịnh trị cái tâm này, tức là trước hết bèn “tác tịnh”. Trong phần trước đă nói [cách tịnh trị cái tâm], tức tâm có [hoa sen] tám cánh v.v… [Hăy theo đúng cách tịnh trị cuộc đất] như trong phần trước mà làm. Trước hết, tịnh hóa cuộc đất, tức là các phương tiện để tịnh hóa Bồ Đề tâm như đă nói trong phần trước, nghĩa là quán hoa sen tám cánh. Trên đài hoa, quán chữ A, cho đến thường đặt chữ Ám trên đỉnh đầu. Nơi mắt, cũng đặt chữ Lam để quán cái tâm này, cổ đừng cúi xuống quá thấp, hoặc giữ quá thẳng v.v… Những điều ấy đều là phương tiện để tịnh hóa tâm địa. Đă tịnh tâm địa; kế đó, đặt chữ Ra nơi hai mắt để quán, tức là chọn lựa tâm địa, trừ bỏ các cấu uế. Phương tiện này đă được nói cặn kẽ trong phần trước, hăy nên hành theo đó. [Chánh kinh] nói “nếu ĺa lỗi, tâm địa chẳng sợ hăi”, tức là có thể dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh để ĺa các tướng, nghĩa là ĺa các ái kiến Hoặc như phiền năo, tùy phiền năo v.v… nên nói là “ĺa các lỗi”. Do ĺa các thứ đường ác chẳng an ổn, phiền năo, hiểm trở, đáng sợ hăi như thế, mà đạt được tánh an lạc, nên nói là “vô úy”. Khi đạt được thanh tịnh, sẽ ĺa hết thảy các lỗi. Đă đạt được hết thảy thanh tịnh, do ĺa các lỗi, tâm không sợ hăi, cho nên Bồ Đề tâm có thể rốt ráo thanh tịnh. Nếu đă trụ vững nơi tịnh địa như thế, sẽ thấy Tam Bồ Đề. “Biết” là biết như thế đó. Biết như thế bèn thấy Phật xứ. Trụ vững trong đó, chính là đă ĺa hết thảy các lỗi, chẳng bị ô nhiễm bởi tạp nhiễm phân biệt, hăy nên giữ [cái tâm Bồ Đề] bất động, chớ để lui mất, nhất định sẽ có thể đạt tới Vô Thượng Bồ Đề. Nhưng thấy Bồ Đề tâm thanh tịnh như thế, rốt ráo vô dư, tức là thành tựu trí Nhất Thiết Trí. Nếu khác với điều này, sẽ chẳng thể tịnh địa!

          Nếu phân biệt, sẽ là trụ trong “chẳng phải tịnh địa”: Nếu khác với điều này, sẽ chẳng thể tịnh trị cuộc đất, nghĩa là nếu A-xà-lê chẳng phải làm như thế để tự tịnh trị cuộc đất của Đại Bi Thai Tạng Mạn-đồ-la, sẽ chẳng gọi là “chọn lựa cuộc đất thanh tịnh”. Do chẳng thể ĺa vọng tưởng, phân biệt huyễn hoặc, luôn ở trong các lỗi, chẳng thể tránh khỏi sợ hăi, suy năo, sao có thể gọi là “khéo tịnh hóa cuộc đất Mạn-đồ-la” cho được? V́ thế, kinh dạy: “Nhược tŕ tụng giả trụ tại phân biệt, nhược tác tịnh địa giả, phi tịnh. Bí Mật Chủ! Ly Bồ Đề tâm cố” (nếu người tŕ tụng trụ trong phân biệt mà tịnh hóa cơi đất th́ [cơi đất ấy] chẳng thanh tịnh. Bí Mật Chủ! Do [người ấy đă] ĺa Bồ Đề tâm). Hai loại thầy đều cần phải trụ trong Bồ Đề tâm, hễ phân biệt th́ chẳng phải là tịnh địa.

          Như phần tạo đàn thuộc chương trước đă nói, phân định [đàn tràng to] một khủy tay, tuy trị địa đúng pháp, nhưng đất vẫn chẳng thành! Vẫn cần phải trụ trong Bồ Đề tâm một thời gian ngắn; hễ ĺa khỏi điều này, sẽ chẳng thành. Đào bỏ đất xấu, lựa bỏ các thứ cát, sỏi, lông, tóc, ngói, đá. Nếu là những thứ uế ác nhỏ nhặt, sẽ không có cách nào loại bỏ trọn hết từng thứ được. Lại nữa, trong khoảng đất to một khủy tay tuy tịnh, nhưng nếu ngoài một khủy tay có các thứ vật xấu ác, cũng chẳng thể chọn [cuộc đất ấy]. Làm như thế nào để khiến cho Mạn-đồ-la ấy đạt được thanh tịnh rốt ráo? V́ thế, hăy nên biết: Nếu có thể tịnh cái tâm Bồ Đề, ĺa bỏ hết thảy phân nhơ luận và phân biệt, tịnh hóa cuộc đất tự giác, hăy nên biết đó gọi là “thiện tu kỳ địa” (khéo tu sửa cuộc đất ấy). Nếu thầy hiểu theo [văn tự trong] kinh văn, chỉ tuân theo thứ tự của pháp dụng đă nói trong các phần trước để làm theo từng sự, hăy nên biết người ấy (vị thầy ấy) thuộc địa vị phàm ngu, chẳng thể liễu đạt tác dụng bí mật. Hăy nên biết: Hiểu như thế, tức chẳng phải [chân nghĩa của] bậc Nhất Thiết Trí đă nói. V́ lẽ nào vậy? Nếu chẳng thể tịnh hóa tâm địa, do có phân biệt, vọng tưởng, sẽ chẳng thể ĺa bỏ cái nhân gây khổ. V́ thế, chẳng phải là điều bậc Đẳng Chánh Giác đă nói. Trong, ngoài đều do tâm; do tâm tịnh nên cơi đất tịnh. V́ thế, cần phải nên bỏ phân biệt, ḥng tịnh trừ hết thảy cuộc đất. Đáp chung các chuyện về đất đă xong.

 

          (Kinh) Ngă quảng thuyết pháp giáo, sở hữu Mạn-đồ-la, thị trung sở tiên sự, ngu si bất tri giải, phi danh thế gian giác, diệc phi Nhất Thiết Trí. Năi chí bất năng xả, phân biệt chư khổ nhân. Ưng đương vị đệ tử, nhi tịnh Bồ Đề tâm. Hộ dĩ Bất Động Tôn, hoặc dụng Hàng Tam Thế. Nhược đệ tử bất v, vọng chấp chi sở động, đương thành Tối Chánh Giác, vô cấu dụ hư không. Sơ gia tŕ thị địa, y ư chư Phật giáo, đệ nhị tâm tự tại. Duy thử phi dư giáo.

          ()我廣說法教,所有漫荼羅,是中所先事,愚癡不知解,非名世間覺,亦非一切智,乃至不能捨,分別諸苦因。應當為弟子,而淨菩提心。護以不動尊,或用降三世。若弟子不為,妄執之所動,當成最正覺,無垢喻虛空。初加持是地,依於諸佛教,第二心自在,唯此非餘教。       

          (Kinh: Ta rộng nói pháp giáo, tất cả Mạn-đồ-la. Chuyện trước hết trong ấy, ngu si chẳng biết hiểu. Chẳng gọi thế gian giác, chẳng phải Nhất Thiết Trí. Cho đến chẳng thể xả, các khổ nhân phân biệt. Hăy nên v́ đệ tử, mà tịnh Bồ Đề tâm. Hộ bằng Bất Động Tôn, hoặc dùng Hàng Tam Thế. Nếu đệ tử chẳng bị, lay động bởi vọng chấp, sẽ thành Tối Chánh Giác, vô cấu dường hư không. Trước gia tŕ đất ấy, nương lời chư Phật dạy. Thứ hai, tâm tự tại. Chỉ giáo này chẳng khác).

         

           Đă tịnh Bồ Đề tâm xong, hăy nên dùng Đại Bi Thai Tạng để trưởng dưỡng. Sợ các đàn tràng đă nói bị thiếu khuyết pháp tắc, ta sẽ theo thứ tự rộng nói (“thứ tự” ở đây chính là vâng theo pháp). Kẻ chẳng biết chuyện nào đáng nên làm trước là do ngu si nên chẳng hiểu (chỉ quan tâm cái quả thượng, trung, hạ, chẳng biết trụ trong tâm địa). Nếu chẳng trụ tâm mà toan cầu vị Phật vô thượng trong thế gian, chẳng có lẽ ấy! Cũng chẳng thể gọi là Nhất Thiết Trí, thậm chí chẳng thể xả cái nhân phân biệt gây nên nỗi khổ ấy! Sợ họ thoái thất; v́ thế, cần phải kết hộ. Do vậy, kế đó, kinh dạy: “Dĩ Bất Động Tôn nhi thủ hộ chi” (Dùng [minh chú của] Bất Động Tôn để thủ hộ), [Bất Động Tôn] tức là Bất Động Minh Vương. Hăy nên dùng Bất Động chân ngôn tâm để thanh tịnh Bồ Đề tâm. “Vi” tức là thực hiện các chuyện. Khuyên đệ tử phát tâm như thế tức là trụ trong Bồ Đề tâm. Thủ hộ đệ tử, tức là bất động. Chính là dùng môn chữ Ha (), v́ Ha có nghĩa là cái nhân. Nói “tịnh Bồ Đề tâm” tức là hết thảy; trước hết, trụ trong Bồ Đề tâm. Thầy và tṛ cùng trụ rồi sau đó mới dùng hai vị tôn thánh ấy (Bất Động và Hàng Tam Thế) để thủ hộ. Đó là cái nhân của trí Nhất Thiết Trí. Bên cạnh [chữ Ha] có chữ A âm dài (ā) là hạnh, phía trên [chữ Ha] có chấm tṛn, có nghĩa là “chứng Đại Không”. Dùng diệu nhân ấy để khởi chánh hạnh, hạnh bằng với hư không. Dùng ba pháp ấy để thủ hộ cái tâm, khiến cho nó rốt ráo chẳng thể dời chuyển hay bị đoạt mất.

          Nếu chẳng dùng [chân ngôn của ngài] Bất Động để thủ hộ, th́ dùng [chân ngôn của] Hàng Tam Thế Minh Vương cũng được. “Thế” là nói tới Tam Độc; do Ngài hàng phục Tam Độc, được đại tự tại trong thế gian, nên gọi là Tam Thế Thắng. Ở đây, cũng có phương tiện, cần phải tra cứu thêm. Nếu đệ tử có thể thành tựu chuyện này, sẽ chẳng bị si nhiếp phục. “Si” là chấp trước. Hễ có chấp trước, sẽ chẳng thể trụ trong “ly si”. “Ly si” tức là bất động. Hễ có cái để quán, có cái để đạt được, th́ đều là Si. [Ly si] tức là chẳng bị dao động bởi chấp trước hư vọng, nhất định thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, thanh tịnh vô cấu giống như hư không. Hư không chẳng có ǵ có thể dao động, rộng lớn không ngn mé, mà có thể dung chứa hết thảy sắc tượng. Hăy nên biết cái tâm Nhất Thiết Trí cũng lại giống như thế.

          Kế đó, [chánh kinh nói] “lại gia tŕ đất” là nói tới môn chữ A. Hăy nên dùng chữ A để gia tŕ. Đó là lời dạy của chư Phật. Hết thảy Như Lai xưa kia do môn này mà thành Chánh Giác, dùng môn này để thủ hộ cái tâm. Hoặc lại thêm chữ Ám trên đỉnh đầu và thêm chữ Ra nơi mắt v.v… nhằm kiên cố Bồ Đề tâm. V́ thế, nghiệp tự tại được thành. Nếu làm khác đi, sẽ chẳng đạt được tâm tự tại; v́ thế nói: “Chẳng phải điều ǵ khác”. “Chẳng phải điều ǵ khác” tức là nói hết thảy Như Lai thành Phật, chẳng có con đường nào khác, chỉ có một môn này. Đầu tiên là gia tŕ cơi đất, nương theo lời đức Phật dạy, “Phật” là nói đến chữ A. Thứ hai là tâm tự tại, tức là đặt cái chấm [Đại Không trên chữ A]. Cái chấm đó chính là tam-muội. Do Định và Huệ b́nh đẳng, hết thảy tự tại. Lại càng chẳng nên làm khác với lời dạy này. Đầu tiên là nương theo lời Phật dạy để phát tâm, tức là chữ A. Sau đó, thành Phật, bằng với Phật, cũng tức là chữ A. Bồ Đề tâm nương vào Phật mà khởi; do vậy, trừ hết thảy phân biệt. Tuy chưa thành Phật, nhưng đă là chủng tử vô duyên. Trên đây là hỏi đáp [về chuyện] gia tŕ đất!

 

          (Kinh) Tứ chủng Tô Đa La, vị bạch, hoàng, xích, hắc. Đệ ngũ sở ưng niệm, sở vị hư không sắc. Không trung nhi đẳng tŕ, ấn định Mạn-đồ-la. Đệ nhị tŕ diên kinh, trí ư đạo tràng địa. Nhất thiết Như Lai ṭa, cập chư Phật trí tử, duyệt ư diệu liên hoa, thế gian xưng cát tường. Duyên Giác, chư Thanh Văn. Sở vị biên trí giả. Đương tri sở phu ṭa, chi hà thanh liên diệp. Thế giới chư thiên thần, Phạm chúng dĩ vi sơ. Xích sắc Bát Đàm hoa, bỉ xưng vi ṭa vương. Giáng thử như sở ưng, niệm cư kỳ địa phần.

          ()四種蘇多羅,謂白黃赤黑,第五所應念,所謂虛空色,空中而等持,印定漫荼羅。第二持綖經,置於道場地,一切如來座,及諸佛智子,悅意妙蓮華,世間稱吉祥;緣覺諸聲聞,所謂邊智者,當知所敷座,芰荷青蓮葉;世界諸天神,梵眾以為初,赤色鉢曇華,彼稱為座王;降此如所應,念居其地分。

          (Kinh: Bốn loại Tô Đa la, là trắng, vàng, đỏ, đen. Màu thứ năm nên nghĩ, chính là màu hư không. Cầm chỉ trong không trung, ấn định Mạn-đồ-la. Thứ hai, cầm chỉ căng, đặt nơi đất đạo tràng. Hết thảy ṭa Như Lai, con trí của chư Phật. Diệu liên hoa đẹp dạ, thế gian gọi cát tường”. Duyên Giác, các Thanh Văn. Gọi là bậc biên trí”[1]. Nên biết cách trải ṭa, lá non, cánh xen sanh. Các thiên thần thế gian, Phạm chúng là đầu tiên. Hoa Bát Đàm sắc đỏ, được gọi là ṭa vương”. Các vị thần thấp hơn, hăy nên theo đúng lẽ, nghĩ đặt đúng nơi chốn).

 

          Đă gia tŕ đất xong. Kế đó, cần dùng chỉ để ấn định các vị trí trong Mạn-đồ-la. Tiếng Phạn gọi chỉ căng là Tô Đát Lăm (chánh kinh phiên âm là Tô Đa La, tức Sūtra), [do chỉ có công năng] liên kết, duy tŕ các đức chẳng bị tản mát. V́ thế gọi là Diên (, chỉ căng). Có bốn loại chỉ, tức là [chỉ có các màu] trắng, vàng, đỏ, đen. “Niệm” [trong câu “đệ ngũ sở ưng niệm” (điều thứ năm hăy nên nghĩ nhớ)] ở đây có nghĩa là “hăy nên nghĩ nhớ”. [Hàm ư: Chỉ để căng làm ranh giới của Mạn-đồ-la ngoài bốn màu trên đây], lại c̣n có thêm một loại, tức là màu của hư không. Hư không có thể chứa đựng hết thảy các sắc tượng, tức là trọn đủ hết thảy các màu. Nếu chỉ nương vào màu của hư không [khi từ dưới đất nh́n lên bầu trời], sẽ là màu xanh nhạt, tức là màu của cây cỏ. Trắng có nghĩa là Tín, vàng là Tinh Tấn, đỏ là Niệm, đen là Định, màu của Định có cùng màu với Niết Bàn. Huệ tức là Đại Không. Đại Không trọn đủ hết thảy tướng, nhưng chẳng có tướng; v́ thế là hết thảy các màu.

          Phàm khi xe chỉ, nếu mỗi mỗi đều vâng theo pháp, hăy nên tạo riêng một Mạn-đồ-la. [Trong đó], xếp đặt b́nh báu, hương, hoa, hương bôi, đèn v.v… và các thứ thức ăn, thực hiện đủ loại cúng dường (cần phải hỏi về phương pháp). Sau đấy, sai bé gái xe chỉ. Hăy nên trước hết cho nó thọ tám giới, mặc áo mới sạch, tắm gội bằng nước thơm, khiến cho trong ngoài đều thanh tịnh, ngồi trong đàn tràng mà xe. Cách xe chỉ th́ trước đó sắp đặt sẵn các sợi tơ mịn, sao cho tột bậc đều nhau, lớn, nhỏ, căng hay chùng, đều sao cho thích đáng. Lại chẳng được đứt nối, hay nối mối giữa chừng. Khi xe chỉ, lại dùng lụa che miệng. Mỗi thứ tơ [có cùng một] màu th́ ghép chín sợi tơ lại để xe thành một sợi. Mỗi sợi tơ chỉ có một đầu xoắn lại, phần giữa không được nối (tức không phải là sợ tơ bị đứt, đem nối thành một sợi dài). Mỗi sợi [do chín sợi nhỏ xe lại] là một màu. [Các sợi tơ ấy], cứ năm màu xe chung thành một sợi dây. Nếu xe dây mà chùng, căng, thô, tế không đều, lại không tận tâm để làm, rơ ràng sẽ sanh ra pháp chướng, tổn hại thầy, mà cũng tổn hại đệ tử, hoặc khiến cho họ phát chứng cuồng loạn v.v… Chớ nên không cẩn thận! Tôi cho rằng “đồng nữ” (bé gái) là tam-muội. Do tam-muội được điều ḥa tột bậc cân bằng, sẽ tạo thành NLực, NCăn. Do căn và lực có thể liên kết mà duy tŕ các hạnh.

          “Hư không trung đẳng tŕ” có hai loại, [tức hai ư nghĩa]:

          - Nếu là bậc thâm hạnh A-xà-lê, khi muốn làm đàn, đă tịnh Bồ Đề tâm địa xong, ở trong Du Già, v́ độ đệ tử, chánh quán phương vị gia tŕ trong Thai Tạng Đại Mạn-đồ-la, hết thảy các phần vị đều hiểu rơ rành mạch. Như hư không có thể b́nh đẳng duy tŕ, “đẳng” nghĩa là “phổ biến”. “Tŕ” là nên làm như thế. “Làm” nghĩa là “biết thứ tự”. Trước là Định đă không, th́ các tôn vị cân bằng.

          - Thứ hai là dùng dây căng trên cuộc đất [sẽ làm] Mạn-đồ-la như đối trước mắt. Sau đó, độ người thuận theo Thế Đế, xếp đặt các phương vị trên cuộc đất làm đàn tràng. Sau đó, ở trên đó, dùng chỉ ngũ sắc để lượng định phương vị.

          Nếu là bậc thâm hạnh A-xà-lê, cũng nên trước hết dùng loại chỉ này để hoạch định phương vị. Định phương vị xong, hăy nên nhất nhất dụng tâm xếp đặt, cũng khiến cho [trong tâm A-xà-lê nghĩ tưởng] tất cả các phương vị [rành rẽ] như đối trước mắt. Hoặc có thể dùng giấy bút để ghi chép; khi làm, bèn xếp đặt theo đó, chớ nên để gặp lúc đụng chuyện bèn ngờ vực, lầm lẫn. “Không trung” ở đây là như trong phần trước đă nói: Trước hết, [A-xà-lê] cùng đệ tử đứng đối diện, kéo chỉ căng ra để định phương vị, đừng để chỉ thơng xuống đất. Trước là đối diện nhau, căng chỉ ở trên không trung, mỗi người đều giữ cho chỉ nằm ngang ngay tim, theo thứ tự mà xoay chuyển giáp ṿng. Nếu chẳng có đệ tử trọn pháp (tức đệ tử thông thạo cách làm đàn, đă được quán đảnh trước đó) chưa thể kham cùng thầy tạo đàn, cũng có thể cắm cọc ở chỗ đệ tử để làm [mốc ḥng căng chỉ kết giới đàn tràng]. Đă định như thế xong, liền vận tâm sắp xếp các tọa vị. Sau đấy mới thắt chỉ để vẽ từng chỗ. Nếu là bậc Du Già A-xà-lê cũng ở trong ấy mà tạo các phương vị, sẽ thấy chư Phật, Bồ Tát, thiên thần v.v… rành rành tại các phương vị, [nhưng vẫn] thuận theo pháp thế gian mà cũng thắt dây để xác định các tọa vị, xác định các h́nh sắc [của các vị tôn thánh] để biểu lộ. Hăy nên biết đấy chính là tọa vị tối thượng.

          “Nhất thiết chư Phật trí” [tức câu “nhất thiết Như Lai ṭa, cập chư Phật trí tử” (ṭa của hết thảy các đức Như Lai, và con trí huệ của chư Phật): Các Phật tử tán thán Bồ Tát trọn đủ trí huệ. Duyệt ư diệu liên hoa, thế gian xưng cát tường (hoa sen mầu nhiệm đẹp ư, được thế gian ca ngợi là cát tường): Cơi đời ca ngợi, coi đó là cát tường. Đây chính là lời giải đáp [cho câu hỏi] về biểu tượng của các tọa vị. Như người đời coi hoa sen là cát tường, thanh tịnh, có thể đẹp ư mọi người. Nay trong bí tạng, cũng coi diệu pháp liên hoa trong Đại Bi Thai Tạng là cát tường sâu xa, bí mật nhất, hết thảy các thân pháp môn gia tŕ đều ngồi trên đài hoa ấy. Nhưng hoa sen thế gian cũng có vô lượng sai khác, như là lớn, nhỏ, nở, búp, sắc tướng đậm nhạt, mỗi mỗi khác nhau. Hoa đài nơi tâm địa cũng giống như thế, cũng có Quyền, Thật, tách ra, gộp lại v.v… sai khác. V́ thế nói “người trí phải nên biết”.

          Nếu là Phật, th́ sẽ là hoa Phân Đà Lợi (Puṇḍarīka) tám cánh, tức hoa sen trắng. Hoa ấy nở x̣e bốn phía. Nếu là Bồ Tát, cũng sẽ ngồi trên hoa ấy, nhưng hoa nở một nửa, sao cho đừng nở bung (hoa ấy hoặc trắng, hoặc vàng, hoặc là hoa sen báu đều được, nhưng hoa màu đỏ là hoa thế gian, thuộc bậc hạ). Nếu là Duyên Giác hoặc Thanh Văn, sẽ ngồi trên hoa đài, hoặc ngồi trên cánh của hoa Câu Vật Đầu (Kumuda). Kẻ thức cạn th́ là trí chấp vào một bên. Câu Vật Đầu là hoa sen xanh. Đấy chỉ là hoa sen có màu xanh, nhưng lại có sai biệt là hoa sen xanh, ngồi trên cánh sen non, hoặc sanh từ cánh hoa sen, chẳng thuộc loại này. Nếu là Tịnh Cư Thiên cho đến Sơ Thiền Phạm Thiên v.v… [tức các vị trời] được thế gian xưng hiệu là Phạm, sẽ đều ngồi trên hoa sen đỏ. “Niệm” là “nghĩ nhớ chẳng quên”. Sắc hoa thuần đỏ, thế gian gọi nó là “ṭa vương”. Nếu là Dục Giới Thiên và Địa Cư Thiên v.v… đều tùy theo phương vị của họ mà biểu thị. Như đối với h́nh tượng của Đế Thích, bèn vẽ núi chúa Tu Di, sơn thần ngồi trên núi, thủy thần ngồi trên mặt nước, thụ thần ngồi trên cây, thành thần ngồi trên ṭa thành. [Các cách biểu thị dựa theo danh hiệu] như thế rất nhiều, hăy nên dùng ư để suy ra. Kế đó, chư thiên chia đất làm ṭa, tức các vị thuộc Dục Giới Thiên hoặc ngồi trên cỏ, hoặc ngồi trên lá khô v.v… “Niệm” là suy niệm.

          Lại nữa, ngài Tam Tạng nói: “Hoa sen ở phương Tây có nhiều loại, một là Bát Đầu Ma (Padma, lại có hai loại, một là màu đỏ, tức hoa sen ở phương này. Hai là màu trắng. Nay phương này có hoa sen trắng, chẳng phải là Phân Đà Lợi), Ưu Bát La (Utpala, cũng có hai màu trắng và đỏ. Lại có thứ chẳng trắng, chẳng đỏ, giống như hoa Nê Lô Bát La - Nīla-utpala), Câu Vật Đầu (Kumuda, có hai loại đỏ và xanh. Lại nói Câu Vật Đầu là hoa sen màu xanh), Nê Lô Bát La (hoa này sanh từ phân ḅ, cực thơm, ngài Văn Thù cầm hoa này. [Kinh nói] “mục như thanh liên” (mắt như sen xanh) cũng là nói về loại hoa này. Cũng có hoa Tô Kiện Tha Ca (Saugandhika) cũng tương tự, nhưng hoa nhỏ hơn), Phân Đồ Lợi Ca (Puṇḍarīka, hoa có thể trăm cánh. Mỗi cánh nâng đỡ nhau, tṛn trặn đáng yêu. Ngoài cùng cực trắng, hướng dần vào trong, màu sắc vàng dần. Cho đến phần trong cùng nhất, có màu gần như giống như màu của đài hoa. Hoa này cực thơm. Xưa kia, khi vua Lưu Ly (Virūḍhaka)[2] hại các cô gái thuộc ḍng họ Thích, ngài Đại Ca Diếp lấy hoa này từ ao A Nậu Đạt (Anavatapta) đựng nước tám công đức rảy lên họ. Thân tâm các cô liền được an lạc, mạng chung, sanh lên trời. Do vậy, Ngài bèn ném hoa vào trong ao, bèn mọc thành giống hoa ấy, tới nay vẫn c̣n. Hoa to lớn, đáng yêu, đường kính hơn một thước, rất đáng yêu thích. [Hoa sen trong tựa đề kinh] Pháp Hoa chính là dẫn khởi từ loại hoa này. Đó chính là hoa tám cánh trong Mạn-đồ-la vậy”.

 

          (Kinh) Cúng dường hữu tứ chủng, vị tác lễ, hiệp chưởng, tịnh cập từ bi đẳng. Thế gian dữ hoa, hương. Tùng thủ phát sanh hoa, phụng chư cứu thế giả. Kết Chi Phần Sanh Ấn, nhi quán Bồ Đề tâm. Các các chư Như Lai, bỉ sở sanh tử đẳng. Dĩ thị vô quá hoa, phân diệu, phục quang hiển, pháp giới vi thụ vương, cúng dường Nhân Trung Tôn. Chân ngữ dĩ gia tŕ, tam-muội tự tại chuyển. Thắng diệu quảng đại vân, pháp giới trung xuất sanh. Tùng bỉ vũ chúng hoa, thường biến chư Phật tiền. Kỳ dư thế thiên đẳng, diệc đương tán thử hoa. Phụng hiến tùy tương ứng, bổn chân ngôn tánh loại. Như thị đồ hương đẳng, diệc tùy kỳ sở ưng. Không, Thủy luân tương tŕ, thị vị Cát Tường ấn. Bỉ sở phụng hoa đẳng, đương tự tâm hiến chi. Nhược chư thế thiên thần, ưng tri tại tề vị, hoặc Kim Cang Quyền ấn. Nhược phục Liên Hoa Man, nhi tại không trung hiến. Đạo sư cứu thế giả, năi chí chư thế thiên, các như kỳ thứ đệ.

          ()供養有四種,謂作禮合掌,并及慈悲等。世間與華香,從手發生花,奉諸救世者,結支分生印,而觀菩提心。各各諸如來,彼所生子等,以是無過花,芬妙復光顯。法界為樹王,供養仁中尊,真語以加持,三昧自在轉,勝妙廣大雲,法界中出生。從彼雨眾花,常遍諸佛前,其餘世天等,亦當散此華。奉獻隨相應,本真言性類,如是塗香等,亦隨其所應。空水輪相持,是謂吉祥印,彼所奉花等,當自心獻之。若諸世天神,應知在臍位,或金剛拳印,若復蓮華鬘,而在空中獻,導師救世者,乃至諸世天,各如其次第。

          (Kinh: Cúng dường có bốn thứ, là làm lễ, chắp tay, cùng với từ bi thảy. Hoa, hương từ thế gian, và hoa sanh từ tay. Cúng các đấng cứu thế. Kết Chi Phần Sanh Ấn, mà quán Bồ Đề tâm. Và mỗi một người con, sanh từ các Như Lai. Dùng hoa không hơn đó, thơm đẹp lại rạng rỡ, pháp giới làm cây chúa, cúng dường Nhân Trung Tôn. Dùng chân ngữ gia tŕ, tam-muội tự tại chuyển. Mây thắng diệu rộng lớn, xuất sanh từ pháp giới. Từ đó, mưa các hoa, thường khắp trước chư Phật. Các trời thế gian khác, cũng sẽ rải hoa này. Dâng hiến thuận tương ứng, tánh loại của chân ngôn. Hương bôi như thế thảy, cũng theo lẽ đáng nên. Ngón cái bấm áp út, đó là ấn Cát Tường. Khi dâng hương, hoa thảy, nên tự tâm hiến dâng. Nếu thiên thần thế gian, nên kết ấn ngang rốn, hoặc ấn Kim Cang Quyền, hoặc là Liên Hoa Man, dâng hiến ở trên không. Đấng Đạo Sư cứu đời, cho đến thế gian thiên, đều theo đúng thứ tự).

 

          Kế đó, giải đáp ư nghĩa cúng dường. Tuy trong lời giải đáp chẳng thuận theo thứ tự thưa hỏi, nhưng [lời đáp] luôn dựa theo các nghĩa đă hỏi, chẳng trái lư, hăy nên dùng trí để lănh hội. Hăy nên biết cúng dường đại lược có bốn loại:

          - Một là cúng dường hoa, hương v.v… (và hương bôi, đèn v.v… cho đến thức ăn. Đó là sự cúng dường thế gian, chỉ dùng vật chất để dâng hiến).

          - Hai là chắp tay (tức là lễ kính; đấy là ấn).

          - Ba là từ bi.

          - Bốn là vận tâm, tức là tưởng hương, hoa trọn khắp pháp giới.

          Đă “vận tâm” liền dùng Hiệp Chưởng Ấn, và ba sự như từ bi đều vận tâm. Tuy trong kinh chẳng nói [cúng dường] hương, hoa v.v… [th́ phải vận tâm], nhưng xét theo ư nghĩa th́ ắt phải nên có. [Chánh kinh nói] “hoa thủ” nhằm nhắc lại Hiệp Chưởng Ấn. Hoa ấy sanh từ tay. Phát Sanh: Dâng hiến Nhất Thiết Chi Phần Sanh Ấn. Quán Bồ Đề tâm, hoa thủ phát sanh chính là kết ấn, kết ấn xong bèn vận tâm cúng dường. Đối với Nhất Thiết Chi Phần Sanh Ấn[3], trong phần trước đă có chân ngôn, nhưng chẳng nhắc tới ấn, hăy nên kiểm xem. Dùng ấn gia tŕ như thế xong, hăy nghĩ tới Bồ Đề tâm, tưởng thấy hoa sanh ra từ tay. Dùng hoa đó để cúng dường.

          “Các các nhất thiết” tức là vận tâm. Đối với chư Phật và các con sanh bởi các Ngài (các vị Bồ Tát), đều ân cần dùng hoa không chi hơn, đẹp đẽ, thơm tho, rạng rỡ, dùng pháp giới làm cây chúa (thụ vương), tưởng cây ấy trọn khắp pháp giới, sanh ra hoa để cúng dường Phật. Cúng dường th́ dùng chân ngôn để gia tŕ thù thắng, nhiệm mầu. Lại c̣n có nhiều vầng mây to sanh từ pháp giới. Từ các vầng mây ấy, tuôn ra mưa hoa trước chư Phật, tức là từ chư Phật, Bồ Tát, cho đến Nhị Thừa, tám bộ, mỗi mỗi đều nương vào bổn chân ngôn và ấn (chân ngôn và ấn tương ứng của từng vị) để gia tŕ vật cúng dường mà cúng dường. Khi hành giả cúng dường hương, hoa, hăy nên dùng chân ngôn. Như khi cúng dường hoa, bèn dùng Hoa chân ngôn v.v… Nếu tâm chẳng trụ Định, sẽ do đâu mà được như thế? V́ thế nói “tam-muội tự tại chuyển”, và ấn gia tŕ, sau đó mới vận tâm. Hoa ấy thơm, đẹp, chẳng có các khuyết điểm. Nguyện sanh ra điều thù thắng, nhiệm mầu lại càng nhiều hơn nữa, ví như mây to sanh từ pháp giới. Từ đó mà mưa hoa, tức là sanh từ pháp giới, thường trọn khắp trước chư Phật, sanh ra đủ loại quang minh. Lại do các thứ hoa ấy trọn khắp pháp giới, biến thành một cây to chẳng khác Thiên Ư Thụ[4], mưa các thứ mây hoa, hương hoa, tràng phan v.v… và các thức ăn, vô lượng vô biên chẳng thể cùng tận, trọn khắp trước hết thảy các đức Như Lai, đủ loại cúng dường, đều khiến cho mỗi mỗi đều trọn khắp. Vận tâm như thế, liền dùng chân ngôn để gia tŕ. Tức là để cúng dường mỗi vị tôn thánh, đều dùng chân ngôn và ấn của Bổn Tôn để gia tŕ [các vật cúng]. Lại nữa, kém hơn các vị ấy tức là [chư thiên, chư thần thuộc] tám bộ, cũng có khi tùy theo từng loại mà dùng chân ngôn và ấn của họ; nhưng các vị tôn thánh ấy lại kém hơn các thiên thần.

          Nay kế đó nói về chư thiên, như trong bổn Du Già, mỗi mỗi đều tương ứng, tức là tương ứng với Bổn Tôn, như [để cúng dường các vị trời thuộc loại] phẫn nộ th́ dùng màu đỏ v.v… Nếu như trong kinh có chép chân ngôn và ấn [của vị trời đó th́ sử dụng chân ngôn và ấn ấy]. Nếu thiếu khuyết, th́ có riêng một loại ấn Cát Tường phổ thông. Giống như hoa, [để cúng dường] hương bôi v.v… th́ cũng đúng như lư tương ứng mà niệm. [Để kết ấn Cát Tường Phổ Thông], hăy nên dùng hai ngón cái và ngón áp út bấm vào nhau, ba ngón kia đều duỗi ra, rời nhau. Dùng ấn này để gia tŕ các vật, cho đến hết thảy các vật cúng dường trong đàn, đều nên dùng [ấn ấy] để gia tŕ, sẽ đều được thành tựu. Nếu Bổn Tôn có ấn riêng, nhưng đến lúc đó (khi tác pháp cúng dường), cũng dùng ấn Phổ Thông để gia tŕ th́ cũng được. Chân ngôn hương, hoa v.v… [được nhắc tới ở đây] chính là các chân ngôn hương, hoa, đèn v.v… đă nói trong phần trước, đều tùy theo từng loại [mà sử dụng tương ứng]. Như kinh Bát Nhă đă nói, nếu muốn dùng một bông hoa cúng dường trọn khắp hết thảy chư Phật, hăy nên tu Bát Nhă Ba La Mật. Ở đây, chỉ vận tâm dùng một nén hương hay bông hoa, do gia tŕ tam-muội, liền có thể cúng dường trọn khắp hết thảy các vị hiền thánh trong khắp pháp giới, khiến cho thiện căn ấy chẳng thể cùng tận! Nếu chẳng kết Phổ Thông Cát Tường Ấn, bèn có Kim Cang Quyền Ấn, hoặc Liên Hoa Ấn, hoặc Quán Âm Ấn, nhưng kết bằng tay phải. Chỉ có [ấn để cúng dường] Tịnh Cư Thiên là nên kết ấn bằng tay trái, nhưng sợ rằng tay trái cần cầm nắm, làm chi đó, nếu dùng tay phải để kết ấn gia tŕ vật [cúng dường] th́ cũng được!

          Nhưng khi cúng dường, trước hết là dùng ấn để gia tŕ xong, liền nên nâng [vật cúng dường] lên để biểu thị dùng tâm phụng hiến rồi mới đặt ở chỗ chư tôn. Nếu là hương bôi th́ hoặc dùng làm hương để bôi lên thân tôn thánh, hoặc đặt nơi chỗ trang nghiêm, hoặc đặt trước mặt các vị ấy. Khi dâng hoa v.v… cũng có cao thấp khác biệt. Nếu cúng Phật th́ nên dâng cao ngang đầu hoặc đỉnh đầu. Cúng Bồ Tát th́ đặt ngang từ tim trở lên, cúng Nhị Thừa th́ ở phía trên rốn. Tịnh tŕ (kết ấn để tịnh hóa vật cúng dường) Phật, Bồ Tát th́ [đặt ấn] tại tim, đối với các vị trời thuộc thế gian th́ tại rốn. Đó là nhất định. Đối với các vị Địa Cư Thiên th́ từ rốn trở xuống. [Các vị kém hơn] th́ thấp hơn. Kết ấn xong, hướng ấn lên không trung để cúng Phật, cho đến các vị như Địa Cư Thiên th́ chuyển ấn xuống phía dưới. Như trên đă nói, các tôn thánh có bốn hạng từ thân Phật lưu xuất, nay dâng cúng hoa cho những vị [được lưu xuất từ] phần dưới [của thân Phật], cũng chuẩn theo phần trước mà kết ấn phía dưới rốn, ḥng phối ứng với vị trí trong Mạn-đồ-la. Nhưng có hai loại thầy, nếu là bậc đă thành tựu Du Già, do chỉ dùng tam-muội, tâm bèn tự tại, đă thông đạt Chân Ngôn môn, hễ tùy tâm thực hiện liền thành, chẳng cần đợi sự pháp (tác pháp theo sự tướng) mà cũng được thành. Nếu là loại thầy thứ hai, tức là thầy trong thế gian (tức các vị chưa thành tựu Du Già, chỉ thông hiểu thứ tự tác pháp), ắt cần phải nương theo sự pháp, dùng chân ngôn và ấn để gia tŕ th́ mới có thể thành được!

 

          (Kinh) Hộ-ma hữu nhị chủng, sở vị nội cập ngoại. Nghiệp sanh đắc giải thoát, phục hữu nha chủng sanh, dĩ năng thiêu nghiệp cố, thuyết vi nội hộ-ma. Ngoại dụng hữu tam vị, tam vị tam trung trụ, thành tựu tam nghiệp đạo, thế gian thắng hộ-ma. Nhược dị thử tác giả, bất giải hộ-ma nghiệp. Bỉ si bất đắc quả, xả ly Chân Ngôn trí.

          ()護摩有二種,所謂內及外。業生得解脫,復有芽種生,以能燒業故,說為內護摩。外用有三位,三位三中住,成就三業道,世間勝護摩。若異此作者,不解護摩業,彼癡不得果,捨離真言智。

(Kinh: Hộ-ma có hai loại, tức là nội và ngoại. Giải thoát khỏi quả báo, do các nghiệp sanh ra. Lại c̣n nẩy mầm mộng. Do có thể thiêu nghiệp, nói là nội hộ-ma. Ngoại dụng có ba vị, ba vị trụ trong ba, thành tựu ba nghiệp đạo. Thế gian, hộ-ma diệu. Nếu làm khác cách này, chẳng hiểu nghiệp hộ-ma! Kẻ si chẳng đắc quả, ĺa bỏ trí Chân Ngôn).

 

          Kế đó, giải đáp ư nghĩa hộ-ma. Hăy nên biết hộ-ma có hai loại: Một là nội, hai là ngoại, được gọi là “nội phần”“ngoại phần”, “phần” chính là khác biệt. Hộ-ma (Homa) có nghĩa là “thiêu”; do hộ-ma có thể thiêu trừ các nghiệp. Do hết thảy chúng sanh đều từ nghiệp mà sanh, do sanh mà chuyển nghiệp, luân hồi chẳng thôi! Do trừ nghiệp, nên sanh cũng được trừ, tức là được giải thoát. Nếu có thể thiêu nghiệp th́ gọi là “nội hộ-ma”. Từ chỗ nào mà được giải thoát vậy? Chính là từ phiền năo nghiệp khổ mà được giải thoát. Đă ĺa thế gian liền sanh ra chủng tử [giải thoát], được gọi là “bạch tịnh Bồ Đề tâm”. Như lửa trong thế gian, nếu đă thiêu vật th́ chỉ thành tro tàn. Nay [hộ-ma trong Mật pháp] chẳng phải vậy, đă thiêu hết thảy các phiền năo, như kiếp hỏa đốt sạch chẳng c̣n sót; nhưng cũng chính từ đó, lại có mầm nẩy sanh, tức là mầm Bồ Đề. Cái có thể thiêu trong ấy chính là Trí. Như trong phần trên đă nói, quán chữ Ram (रं) có tràng lửa vây quanh, hăy tưởng chữ ấy trọn khắp thân ḿnh. Thân ấy lại cầm đao và dây trói. Do dùng môn chữ Ra () ấy, được hết sạch các nghiệp, tịnh trừ các chướng. Nghiệp chướng đă tịnh trừ, sẽ sanh ra chủng tử thanh tịnh. V́ vậy, kế đó quán Bồ Đề tâm. Hăy nên biết Bồ Đề tâm sanh ra chủng tử. Khi quán như thế, hăy tưởng chữ Phạ (Va, ​) trọn khắp hết thảy các thân phần. Từ lỗ chân lông, tuôn ra cam lộ màu trắng trọn khắp mười phương để rưới thân của hết thảy chúng sanh. Do cái nhân ấy, sẽ có thể khiến cho chủng tử lần lượt tăng trưởng. Do vậy gọi là “nội hộ-ma”.

          Kế đó, giải thích “ngoại hộ-ma”, có ba loại: Một là Bổn Tôn, hai là chân ngôn, ba là ấn,

          1) Bổn Tôn (đối với Bổn Tôn, do cúng dường mà đặt [tọa vị của Ngài]. Tùy theo pháp môn nào ḿnh tôn phụng mà đặt [vị tôn thánh chủ yếu của pháp môn ấy], hoặc trong lửa có thể đặt tọa vị của Mạn-đồ-la).

          2) Chân ngôn (chính là Ḷ, tức nơi đặt lửa; đấy chính là chân ngôn. Trong lửa bèn có [tác dụng thiêu đốt giống như chân ngôn (thần chú, đà-la-ni) có thể thiêu trừ phiền năo của hành nhân]).

          3) Ấn ([ở đây phải hiểu, “ấn”] chính là chỗ ngồi của A-xà-lê. Tự thân chính là ấn)[5].

          Khi làm ngoại hộ-ma, phải [xếp đặt] sao cho ba vị trí ấy thẳng hàng. Ba thứ ấy cũng là ư nghĩa “tịnh tam nghiệp”. Ba vị trí căn bản chính là thân, ḷ, và Bổn Tôn, mỗi vị lại đều có ba thứ là Bổn Tôn, chân ngôn và ấn [Đó chính là ư nghĩa của đoạn kệ: “Ngoại dụng hữu tam vị, tam vị tam trung trụ” (ngoại dụng có ba vị, ba vị trụ trong ba)]. Tịnh ba nghiệp sẽ thành tựu ba sự (ư nói Tức Tai v.v…). Bổn Tôn là ư nghiệp, chân ngôn là khẩu nghiệp, ấn nơi thân của thầy chính là thân nghiệp. Do nhân duyên ấy, có thể tịnh ba nghiệp, thành tựu ba sự, tức là Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục.

          “Tam nghiệp đạo”: “Đạo” nghĩa là dung hội, ư nói: Do đồng một lư nên có thể dung hội. Do “đồng” nên dung hội. Các ông hành Bồ Tát đạo, tức là ba đạo cùng quy vào nhất trí. Lại nữa, ba sự th́ mỗi sự quán chữ khác nhau. Nếu làm pháp Tức Tai th́ quán chữ Ram (रं), trên đó (trên chữ Ra) có thêm cái chấm màu trắng [thành chữ Ram]. Tăng Ích th́ quán chữ Lam có màu vàng, Hàng Phục th́ tưởng chữ Ám có màu đen hoặc đỏ. Giống như chữ, màu của Bổn Tôn và thân của chính ḿnh cũng tùy theo ba sự như thế mà tương ứng để được thành. Trong đó, lại có thượng, trung, hạ sai khác, tức là Tức Tai là thượng, Tăng Ích là trung, Hàng Phục là hạ. Làm như thế th́ gọi là ngoại hộ-ma.

          Hăy nên biết nội và ngoại hộ-ma đều gọi là “thù thắng”. Nếu chẳng tương ứng với điều ấy, th́ chỉ uổng công làm, vô ích. Do làm ngoại hộ-ma, có thể dẫn nhập nội hộ-ma. Nhưng lư của nội và ngoại vốn chẳng sai biệt, v́ kẻ cầu thành tựu thế gian mà phân biệt như thế, khiến cho họ làm ngoại hộ-ma. Nếu làm khác với lư ấy, th́ gọi là “chẳng nương theo phương quỹ đă nói”. Hăy nên biết người chẳng hiểu biết, uổng phí công lao, chẳng có quả báo ǵ! Do ĺa trí Chân Ngôn, thuận theo cái tâm vô minh của chính ḿnh mà làm bừa, trọn chẳng thể đạt được cái quả Tất Địa thế gian và xuất thế gian. V́ thế, chẳng đắc quả!

 

          (Kinh) Như Lai Bộ chân ngôn, cập chư Chánh Giác thuyết. Đương tri bạch dữ hoàng, Kim Cang cụ chúng sắc. Quán Tự Tại chân ngôn, thuần tố, tùy sự thiên.

          ()如來部真言,及諸正覺說,當知白與黃,金剛具眾色。觀自在真言,純素隨事遷。

          (Kinh: Chân ngôn Như Lai Bộ, và do Chánh Giác nói, hăy biết trắng và vàng, Kim Cang đủ các màu. Chân ngôn Quán Tự Tại, thuần trắng, theo sự đổi).

 

          Kế đó, giải đáp [câu hỏi] về màu sắc và h́nh loại. Đại lược có ba bộ: Tỳ Lô Giá Na là Phật Bộ, tức là thân pháp giới của Như Lai, màu trắng. Kế đó, Quán Thế Âm [thuộc về] A Di Đà Phật Bộ, thân màu vàng. Kế đó, Kim Cang Tạng thuộc về Thích Ca Mâu Ni Bộ, thân sắc đỏ pha vàng (tức là nhiều màu). Chân ngôn do đức Phật nói và do chư Phật nói [thuộc về Như Lai Bộ], chữ “Phật” được nói trên đây nhằm chỉ chung các chân ngôn thuộc Phật Như Lai bộ. “Bộ” hàm nghĩa “từ Phật sanh ra”. Cho tới [chân ngôn do] chư thần nói, hễ được Phật hứa khả, sẽ đều thuộc về Phật Bộ. Trong phần sau nói “chư Phật” th́ là [các chân ngôn] do đức Phật trực tiếp nói, chẳng bao gồm [chân ngôn của] các vị Bồ Tát trở xuống. Hai loại này đều trọn đủ hai loại màu, tức là trắng và vàng. Trong các bộ, hễ nói chân ngôn do chư Phật nói th́ đều là do đức Tỳ Lô Giá Na nói. Hăy nên biết tương ứng theo thứ tự. Kim Cang Thủ gồm nhiều loại, các chân ngôn của Quán Tự Tại th́ trắng.

          “Tùy sự phân định”: Ở đây chỉ nói: Hăy nên biết dùng màu trắng và vàng ḥa hợp, tức là không quá vàng, quá trắng. “Nhiều màu” tức là đủ cả năm màu, cũng tùy theo từng sự để phân biệt mà dùng. Phật Bộ th́ một mực Tức Tai dùng màu trắng, tùy theo từng sự nghiệp mà phân định. Quán Âm thuần trắng, nhưng trong bộ ấy, lại tùy theo từng sự nghiệp mà biến chuyển, hăy nên là màu trắng. Liên Hoa Bộ một mực dùng vào pháp Tăng Ích, màu vàng. Kim Cang Bộ một mực dùng làm Hàng Phục, có nhiều màu. Cũng tùy thuộc trong một bộ mà có ba sự phân biệt. Như trong Phật Bộ có Tức Tai, Tăng Ích và Hàng Phục. Nếu Tức Tai, hăy dựa theo bổn pháp mà làm màu trắng. Nếu lúc làm Tăng Ích trong Phật Bộ, chỉ nên dựa theo pháp ấy mà làm màu vàng. Nếu là Hàng Phục trong Phật Bộ, chỉ dựa theo pháp ấy mà chuyển thành nhiều màu. Giống như Phật bộ, hăy nên suy ra Liên Hoa Bộ và Kim Cang Bộ tương tự. Nói “phân định theo từng sự” là tùy theo màu sắc, thể loại mà chia ra từng sự. Như [câu cuối trong đoạn kệ nói về] các chân ngôn của ngài Quán Tự Tại, đối với các âm thanh [trong chân ngôn ấy, chỉ] nêu ra Liên Hoa Bộ [làm thí dụ, v́ Liên Hoa Bộ vốn màu vàng, nhưng Quán Âm th́ màu trắng, lại tùy theo từng sự, mà quán màu sắc thích hợp], để [hành giả đối với các chân ngôn thuộc] Phật Bộ và Kim Cang Bộ có thể phỏng theo [mà phân định]!

 

          (Kinh) Tứ phương tương trọng phổ, luân viên như thứ đệ, tam ngung bán nguyệt luân. Nhi thuyết h́nh diệc nhiên.

          ()四方相重普,輪圓如次第,三隅半月輪,而說形亦然。    

          (Kinh: Bốn phương nên vuông vắn, tṛn trặn theo thứ tự, ba góc, h́nh bán nguyệt, nói h́nh thể cũng thế).

 

          Kế đó, nói về h́nh tướng của Mạn-đồ-la. Đúng ra phải nói đến phép Tức Tai trước hết, nhưng nay do âm thanh thuận tiện và thuận tiện theo mặt Sự mà nói về pháp Tăng Ích trước. Các Mạn-đồ-la trong pháp Tăng Ích th́ là đàn vuông, màu vàng. Đàn Tức Tai th́ h́nh tṛn sắc trắng. Đàn Hàng Phục th́ h́nh tam giác, màu đen. Đàn Nhiếp Triệu h́nh bán nguyệt, nhiều màu. Nhiếp Triệu tức là gom nhiều vật, kêu gọi triệu tập v.v… Kinh nói “tứ phương phổ” tức là nêu ra một trường hợp để nói khái quát [cả bốn loại đàn]. [Hàm nghĩa]: Nếu như bên trong đàn là h́nh vuông, [phần trung ương] đă là h́nh vuông th́ trọn khắp [các tầng của Mạn-đồ-la] đều là h́nh vuông. Là đàn tṛn th́ cũng theo thứ tự như thế. Đàn tam giác cũng như thế, cho đến [nếu trung đàn là vuông] th́ ngoại viện cũng là vuông. Nếu chính giữa là tṛn th́ các tầng ngoài theo thứ tự cũng đều tṛn. Làm ḷ để hộ-ma cũng thế. Nếu như đàn [Mạn-đồ-la] h́nh vuông th́ hỏa đàn (đàn để làm hộ-ma) cũng h́nh vuông. Những điều khác cứ theo đó mà suy!

 

          (Kinh) Sơ ưng tri sắc tượng, sở vị nam nữ thân, hoặc phục nhất thiết xứ. Tùy kỳ loại h́nh sắc, bất tư nghị trí sanh. Thị cố, bất tư nghị. Ứng vật hữu thù dị, trí trí chứng thường nhất. Năi chí tâm quảng bác, đương tri thị kỳ lượng. Ṭa ấn diệc như thị, dĩ cập chư thiên thần, như chư Phật sở sanh, ấn đẳng đồng bỉ sanh.

          ()初應知色像,所謂男女身,或復一切處,隨其類形色,不思議智生,是故不思議。應物有殊異,智智證常一,乃至心廣博,當知是其量。座印亦如是,以及諸天神,如諸佛所生,印等同彼生。

          (Kinh: Trước nên biết sắc tượng, tức là thân nam, nữ, hoặc là hết thảy chỗ. H́nh sắc tùy từng loại, trí chẳng nghĩ bàn sanh. V́ thế, chẳng nghĩ bàn. Ứng chúng sanh sai khác, trí, trí chng thường một. Cho đến tâm rộng lớn, hăy nên biết lượng ấy. Ṭa, ấn cũng như thế, cùng với các thiên thần, như do chư Phật sanh, các ấn sanh cũng thế).

 

          Kế đó, nói các h́nh tượng. Hăy nên lấy tướng mạo làm chánh nghĩa, cũng có thể nói là “sắc tượng” (màu sắc, h́nh dạng). Kệ nói “sơ ưng tri sắc tượng” (trước hết, hăy nên biết màu sắc và h́nh tượng [của các vị tôn thánh]), “sơ” [là từ ngữ mở đầu], có nghĩa là “ta nay sẽ nói”. “Sắc loại”: Chư tôn thánh có h́nh sắc theo từng loại khác nhau. Nói khái quát, đại lược th́ có hai loại, tức là nam và nữ. Nam là trí huệ, nên đứng đầu; nữ làm tam-muội nên kế đó. Hoặc “h́nh sắc tùy thuộc hết thảy các chỗ”: Như trong kinh này nói [một vị] tôn thánh có h́nh sắc như thế, hoặc trong kinh khác [h́nh tướng của Ngài lại khác biệt], hoặc tùy thuộc một nơi mà hiển lộ h́nh sắc [sai khác]; đó chính là tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thị hiện h́nh sắc bất định. V́ thế gọi là “chẳng thể nghĩ bàn”. Do mỗi mỗi đều bất đồng, bèn dựa theo bộ loại để chế định. Nếu nói làm [thân sắc của Bổn Tôn] màu trắng, tức là dùng cho pháp Tức Tai, vàng tức là Tăng Ích, những điều khác có thể suy ra mà biết! Thấy nam nữ khác biệt và sắc mạo, sẽ biết chỗ sử dụng.

          “Bất tư nghị trí sanh” ([h́nh tướng của tôn thánh] sanh từ cái trí chẳng thể nghĩ bàn): Như Bổn Tôn đáng lẽ phải có màu trắng, nhưng do cần làm chuyện Tăng Ích, tâm hành giả bèn quán [thân sắc của] Ngài màu vàng, liền có tác dụng Tăng Ích. Thuận theo tâm mà chuyển, nhưng các việc đă làm đều chân thật, chẳng hư dối. Do đạt được bởi trí bất tư nghị giới mà thành ra như thế. Nay nói đến màu của pháp giới, trong một sắc chính là hết thảy các sắc. Cái trí có thể quán cũng tương ứng với cảnh; v́ vậy, có thể sử dụng tự tại như vậy đó! V́ trừ khử vô trí, mà có đủ loại trí sanh. Tuy biết là vô lượng, nhưng thật ra chỉ là một trí. “Trí” được nói trong phần trước chính là Nhất Thiết Trí, dùng một trí để hiện Nhất Thiết Trí. Trước đó, [ngài Kim Cang Thủ] đă hỏi h́nh tướng Bổn Tôn có kích thước lớn, nhỏ; ở đây, [đức Phật] bèn giải đáp. Nhưng Phật là phổ môn thị hiện, đều v́ thuận ứng các căn cơ. Căn cơ đă là muôn vàn sai khác, hăy nên biết là thuận ḷng ứng hiện dấu tích cũng sẽ lớn hay nhỏ bất định! Nói về h́nh tướng của mỗi vị Bổn Tôn, không vị nào chẳng lượng đồng pháp giới, chẳng có ngằn mé, mà cũng chẳng có khởi đầu hay kết thúc. Do trí [của hành nhân] có cạn hay sâu, lượng [của h́nh tướng Bổn Tôn] có lớn hay nhỏ, nên các thân được thấy mỗi mỗi sai khác. V́ thế, hăy nên biết: Trông thấy Bổn Tôn, tùy tâm hành giả lớn hay nhỏ mà [thân lượng của vị ấy] chẳng có phân lượng nhất định (hăy nên xem phần Tam Mật Sự trong kinh Mật Tích). Nói “chứng trí” th́ chính là Phật. Dùng trí vô tận để chứng cảnh vô tận, như hộp to th́ nắp cũng to! Trong phần trên đă hỏi kích thước thân h́nh Bổn Tôn, và cũng [hỏi] kèm thêm về ṭa và ấn của các Ngài, nay cũng giải đáp. Thân đă không có phân lượng nhất định, hăy nên biết ṭa và ấn cũng giống như thế. Thậm chí, tâm rộng th́ ṭa cũng có kích thước tương đồng. Ấn cũng giống như thế, đúng theo thứ tự, tức là tùy thuộc vào đó mà lớn hay nhỏ! Hơn nữa, lần lượt dựa theo Phật, khiến cho Bổn Tôn và ṭa của Ngài tương xứng, cho đến chư thiên cũng thế!

 

          (Kinh) Dĩ thử pháp sanh ấn, ấn tŕ chư đệ tử. Cố lược thuyết pháp giới, dụng thị vi tiêu xí.

          ()以此法生印,印持諸弟子,故略說法界,用是為幖幟。

          (Kinh: Dùng pháp sanh ấn ấy, ấn tŕ các đệ tử. Nên lược nói pháp giới, dùng đó làm biểu trưng).

 

          Kế đó, giải đáp [câu hỏi] “ấn sanh từ nơi đâu?” Đức Phật bảo: “Như chỗ sanh của Phật, ấn cũng giống như thế, sanh từ nơi đó”. V́ cớ sao vậy? Hết thảy Như Lai đều sanh từ Phật tánh chủng tử Bồ Đề tâm; hăy nên biết hết thảy các ấn cũng sanh từ Bồ Đề tâm. Dùng ấn sanh từ pháp giới để in lên các đệ tử, như vua dùng ấn để đóng ấn, hết thảy đều tin chịu. Nay dùng cái ấn sanh từ hết thảy các pháp giới để đóng ấn, tức là pháp ấn, chính là đại nhân tướng ấn.

          Kế đó, giải đáp “ấn dùng để làm ǵ?” Đáp rằng: Dùng pháp giới ấn ấy để in các đệ tử. Ấn có nghĩa là “chẳng thể trái vượt”, do chính ḿnh lẫn người khác đều chẳng thể trái vượt. Tức là khởi đầu từ Bồ Đề tâm cho đến tột cùng là Phật huệ; trong khoảng giữa ấy, chẳng lùi, chẳng chuyển. V́ vậy, thế gian gọi là Bồ Đề Tát Đỏa. Do ấn ấy, trụ trong Bồ Đề tâm chẳng c̣n thoái chuyển; v́ thế, gọi là “chẳng trái vượt”. Ấn ấy chính là phong kín cửa sanh tử, mở đường pháp giới. Nói đại lược là “ấn ấy lượng đồng pháp giới”. Do dùng pháp giới ấn để ấn, khiến cho người ấy đă có vật biểu trưng cho pháp giới, có thân phổ môn đồng pháp giới. V́ thế, gọi là “ấn vào các đệ tử”. Do pháp giới ấn là đại lược, tức là dùng một pháp ấn. Nếu nói rộng, sẽ chẳng thể lường. Đấy chính là tướng “tiêu xí” của bậc đại nhân vậy!

 

          (Kinh) Quán đảnh hữu tam chủng, Phật tử chí tâm thính. Nhược bí ấn phương tiện, tắc ly ư tác nghiệp. Thị danh sơ thắng pháp, Như Lai sở quán đảnh. Sở vị đệ nhị giả, linh khởi tác chúng sự. Đệ tam dĩ tâm thọ, tất ly ư thời phương, linh tôn hoan hỷ cố. Như sở thuyết ưng tác, hiện tiền Phật quán đảnh, thị tắc tối thù thắng.

          ()灌頂有三種,佛子至心聽。若祕印方便,則離於作業,是名初勝法,如來所灌頂;所謂第二者,令起作眾事;第三以心授,悉離於時方。令尊歡喜故,如所說應作,現前佛灌頂,是則最殊勝。

          (Kinh: Quán đảnh có ba loại, Phật tử chí tâm nghe. Nếu phương tiện bí ấn, ắt ĺa khỏi tác nghiệp. Là thắng pháp đầu tiên, do Như Lai quán đảnh. Nói tới pháp thứ hai, dạy khởi làm các sự. Thứ ba là tâm trao, đều ĺa các thời, phương, khiến chư tôn hoan hỷ. Nên làm đúng lời dạy, hiện tiền Phật quán đảnh. Đó là thù thắng nhất).

 

          Trong phần trước đă hỏi có mấy loại quán đảnh, ở đây liền giải đáp. “Phật tử thiện thính” (Phật tử khéo nghe): Nếu xét theo bản tiếng Phạn, dịch sát nghĩa th́ sẽ là “hăy nên dốc trọn ḷng ân cần lắng nghe”. V́ sao [giải đáp] các câu hỏi trước đó chẳng nói “thiện thính” mà tới đây mới nói? Các pháp khác nếu chẳng nghe kỹ, dẫn tới sai lầm th́ lỗi ấy c̣n nhỏ; chứ nếu quán đảnh chẳng thành, sẽ chẳng phù hợp để nghe chân ngôn và ấn v.v…, ngày hôm nay sẽ không thực hiện được, lỗi ấy khá lớn! V́ thế, [đức Phật] ân cần răn nhắc. Ví như chủng tánh Sát-lợi trong thế gian, nếu muốn [đích tử] nối ngôi, khiến cho ḍng dơi nhà vua chẳng đoạn mất, sẽ làm quán đảnh cho đích tử. Lấy nước từ bốn biển, dùng bốn cái b́nh báu để đựng, trang hoàng đủ mọi thứ. Lại c̣n trang nghiêm thân thể đứa con, các vật đều đầy đủ. Lại trang hoàng con voi to, đặt b́nh lên lưng voi, bảo Thái Tử ngồi ở trong đàn. Các quần thần đều tụ tập, hứng lấy nước tưới trên ngà voi để xối lên đỉnh đầu Thái Tử. Xối nước ấy xong, lớn tiếng xướng ba lần: “Các ngươi nên biết, Thái Tử đă tiếp nhận ngôi vị xong. Từ nay trở đi, tất cả các mệnh lệnh [của Thái Tử] đều nên phụng hành”. Nay Như Lai pháp vương cũng giống như thế, v́ muốn cho Phật chủng chẳng đoạn dứt, dùng cam lộ pháp thủy để rưới lên đỉnh đầu Phật tử, khiến cho họ cầu Phật chủng chẳng đoạn dứt. V́ tùy thuận pháp thế gian mà có pháp phương tiện ấn tŕ này. Từ đấy trở đi, được hết thảy các thánh chúng đều cùng kính ngưỡng, cũng biết là người ấy rốt ráo chẳng thoái thất Vô Thượng Bồ Đề, chắc chắn kế tục ngôi vị pháp vương. Trong các hành vi, đối với các nghiệp chân ngôn, thân ấn, Du Già đă làm v.v… đều chẳng dám trái vượt.

          Nhưng quán đảnh có ba loại:

          - Một là chỉ dùng ấn pháp để làm, ĺa các tác nghiệp. Đấy là nhập Bí Mật Mạn-đồ-la, tức là có đệ tử thành tâm, ân cần, trân trọng, yêu thích sâu xa hạnh Chân Ngôn, chí cầu Đại Thừa, nhưng tài lực thiếu khuyết. Nếu bảo người ấy mỗi mỗi lo đủ các sự, đâm ra sẽ có trở ngại nơi đạo. Đối với người như thế, thầy hăy nên khởi từ tâm sâu xa, quán tâm hạnh của người đó để mà nhiếp thọ, tiếp dẫn. Nhưng chỉ được phép v́ người như thế mà làm, đừng nên v́ nhiều người mà làm! V́ sao vậy? Sợ kẻ có đủ tài lực để lo liệu sẽ sanh tâm giải đăi, khinh mạn, chẳng tận tâm, tổn hại cái gốc của các đức. Khi làm, hăy tùy sức để bảo người ấy lo liệu đôi chút để cúng dường Tam Bảo. Đó là tối thắng bậc nhất, tức ba thứ thân, ngữ, ư của Bổn Tôn kết hợp thành một, cả ba thứ đều tịnh, dùng ấn ấy để ấn. Đó là tối thắng. Thầy ngầm trao truyền các thứ như chân ngôn, thủ ấn.

          - Hai là dùng thực hiện sự nghiệp để quán đảnh, tức là thầy và đệ tử đều làm sự nghiệp trước đó. Có nghĩa là giống như trong phần trước [đă nói], thầy dạy đệ tử trong bảy ngày thành tâm lễ bái, sám hối. Thầy cũng trong bảy ngày v́ tṛ tŕ tụng, ngầm cầu sự cảm ứng, và bảo tṛ sắm sửa các thứ vật cúng dường như hương, hoa v.v... Tùy theo các thứ cần dùng cho đàn tràng mà mỗi mỗi đều thực hiện. Nhưng quán đảnh theo kiểu này chẳng khác với cách quán đảnh trên đây, chỉ là do [đệ tử] có tài lực, nên dạy tṛ tận lực dùng những ǵ họ có để thực hiện vô tận cúng dường trong hải hội của chư Phật. Do nhân duyên ấy, cái quả phước thí chẳng thể cùng tận. V́ thế, cần phải khuyên họ thực hiện đầy đủ.

          - Ba là chỉ dùng tâm mà quán đảnh. Quán đảnh như thế chẳng chọn thời điểm, chẳng chọn nơi chốn, tức là đặt vị trí [quán đảnh] ở phương Đông hoặc phương Nam v.v… đều được. Do người đệ tử ấy đă tu Chân Ngôn hạnh, có thể kham nhậm tạng bí mật, khiến cho thầy đẹp ḷng. Đấy lại là tối thắng. Thầy và đệ tử đều đắc Du Già, dùng tâm quán đảnh, giống như “xoa đầu thọ kư”. [Đệ tử] lại có thể tận hết tâm lực phụng sự thầy, đối với các loại thiện sự đều chẳng hề trái vượt. Do nhân duyên ấy, khiến cho chư tôn hoan hỷ. V́ vậy, có thể dùng tâm tưởng để quán đảnh.

          Đó là pháp quán đảnh. Du Già A-xà-lê trước hết nhập tịnh thất, trụ trong tam-muội, đúng như trên đă nói mà dùng bốn phần nơi thân để làm các phương vị trong Mạn-đồ-la bốn tầng, cũng như các phương vị do đức Tỳ Lô Giá Na đă hiện, mỗi mỗi đều chẳng khác. Làm như thế xong, do bí mật gia tŕ, bảo người đệ tử ấy ở ngoài đợi lệnh, tự nhiên được oai thần của ngài Kim Cang Thủ gia tŕ, dẫn vào đàn, cũng tự nhiên biết kết ấn v.v… mỗi mỗi đều đúng như pháp. Đă nhập thất, do được ngài Kim Cang Thủ gia tŕ, sẽ thấy các tôn vị trong Mạn-đồ-la hiện tiền rành rành. Tôn h́nh của mỗi vị Bổn Tôn và ấn, chữ v.v… cũng đều rơ rệt. Lúc bấy giờ, hành giả lại do sức gia tŕ, trong tay tự nhiên được trao cho diệu hoa, dùng đó để [rải hoa] cúng dường đại chúng (các vị tôn thánh trong Mạn-đồ-la). Tùy theo [hoa] rơi vào chỗ vị Bổn Tôn nào, vị ấy liền đứng dậy, dùng âm thanh nhiệm mầu để an ủi, nhiếp thọ. Lúc bấy giờ, Bổn Tôn lấy nước cam lộ tam-muội nơi chỗ chư tôn trong mỗi đại hội, hiện tiền quán đảnh cho đệ tử đó. Lúc bấy giờ, A-xà-lê chỉ ngồi một chỗ, nhập tam-muội, lặng lẽ, bất động, mà có thể thành tựu chuyện thù thắng như thế, khiến cho tôn thánh hoan hỷ tương ứng, tức là thừa sự Bổn Tôn, Bổn Tôn hoan hỷ. Do hành giả được hiện tiền quán đảnh, do số lượt [tụng niệm] và tu tập được thực hiện trọn đủ, thừa sự, niệm tụng, khiến cho tôn thánh hoan hỷ, Ngài sẽ hiện tiền thuyết pháp. Hăy làm theo đúng lời dạy, phỏng theo phần trước mà làm. Nếu như đệ tử có thể phụng sự khiến cho thầy hoan hỷ, thầy sẽ v́ tṛ mà quán đảnh, dạy bảo!

 

          (Kinh) Chánh Đẳng Giác lược thuyết, ngũ chủng tam-muội-da, sơ kiến Mạn-đồ-la, cụ túc tam-muội-da, vị truyền chân thật ngữ, bất thọ bỉ mật ấn. Đệ nhị tam-muội-da, nhập đổ thánh thiên hội. Đệ tam cụ đàn ấn, tùy giáo tu diệu nghiệp. Phục thứ hứa truyền giáo, thuyết cụ tam-muội-da. Tuy cụ ấn đàn vị, như giáo chi sở thuyết, vị đăi tâm quán đảnh, bí mật huệ bất sanh. Thị cố, Chân Ngôn giả, bí mật đạo tràng trung, cụ đệ ngũ yếu thệ, tùy pháp ưng quán đảnh, đương tri dị thử giả, phi danh tam-muội-da.

          ()正等覺略說,五種三昧耶,初見漫荼羅,具足三昧耶,未傳真實語,不授彼密印。第二三昧耶,入覩聖天會。第三具壇印,隨教修妙業,復次許傳教,說具三昧耶。雖具印壇位,如教之所說,未逮心灌頂,祕密慧不生。是故真言者,祕密道場中,具第五要誓,隨法應灌頂,當知異此者,非名三昧耶。

          (Kinh: Chánh Đẳng Giác lược nói, năm thứ tam-muội-da, trước thấy Mạn-đồ-la, trọn đủ tam-muội-da, chưa truyền lời chân thật, chẳng trao truyền mật ấn. Tam-muội-da thứ hai, vào thấy thánh thiên hội. Thứ ba, đủ đàn ấn. Vâng giáo, tu diệu nghiệp. Lại nữa, hứa truyền giáo, trọn đủ tam-muội-da. Tuy đủ đàn, ấn, vị, đúng như giáo đă nói, chưa được tâm quán đảnh, huệ bí mật chẳng sanh. V́ thế, bậc Chân Ngôn, trong đạo tràng bí mật, đủ yếu thệ thứ năm, theo pháp mà quán đảnh. Nên biết, khác với đó, chẳng gọi tam-muội-da).

 

          Kế đó, giải đáp tam-muội-da có mấy loại. Nay đức Thế Tôn đáp đại lược có năm thứ. Tam-muội-da (Samaya) là như có người ở chỗ khá nhiều vị đáng tôn trọng như quốc vương, đại thần tụ tập, mà tự thốt lời thệ nguyện rất trọng yếu rằng: “Tôi nay sẽ vĩnh viễn chẳng làm chuyện như thế này, sẽ vâng làm chuyện như thế nọ”. Dùng chuyện tự ḿnh đối trước những người đáng tin như thế mà thốt lời thành thật. Nếu trái phạm, sẽ mắc trọng tội. V́ thế, tam-muội-da nghĩa là “chẳng thể trái vượt”; nói đại lược th́ có nghĩa là Giới.

          1) Trong năm loại ở đây, loại thứ nhất chỉ thấy Mạn-đồ-la từ xa, nghĩa là như khi tạo Mạn-đồ-la, đă thấy Mạn-đồ-la trọn vẹn, chợt có những người thiện tâm tùy hỷ, muốn xin được lễ bái, cúng dường. Lúc bấy giờ, A-xà-lê chấp thuận, dẫn họ vào phía ngoài đàn, để họ được lễ bái từ xa, dùng hương, hoa v.v… từ xa rải vào đạo tràng để cúng dường, được thấy pháp hội như thế. Do vậy, vô lượng tội nghiệp đều được diệt trừ, nhưng [người ấy] chưa phù hợp để truyền trao chân ngôn và ấn. Đó là loại thứ nhất.

          2) Loại thứ hai là người thấy các tọa vị trong Mạn-đồ-la, tức là được dẫn vào đàn, lễ bái cúng dường, gieo hoa rơi vào bổn vị (tọa vị của một vị tôn thánh nào đó). Thầy bảo người ấy: “Hoa của con rơi vào tọa vị của vị tôn thánh X….” V́ người ấy mà nói danh hiệu của Bổn Tôn, [người ấy] cũng được vào trong cửa đàn, đều thấy các tọa vị. Người như vậy được gọi là [thuộc loại] tam-muội-da thứ hai. Nếu [người ấy] cầu xin chân ngôn và ấn, cũng được thuận theo lẽ đáng nên mà truyền trao.

          3) Loại thứ ba là người đă thấy Mạn-đồ-la, ấn, tọa vị, và cũng làm các sự, tức là A-xà-lê từ đầu đến cuối v́ người ấy mà tạo Mạn-đồ-la, cho đến [danh hiệu của] các vị tôn thánh và ấn v.v… mỗi mỗi đều dạy bảo, lại truyền trao chân ngôn, thủ ấn. Mỗi mỗi hành pháp đều truyền dạy. Đó là loại thứ ba.

          4) Loại thứ tư là người đă có thể nương theo Chân Ngôn môn để tu hành, tất cả các pháp tắc, ngôn từ, mỗi mỗi đều thông hiểu, biết trọn vẹn các phương tiện, các nghề khéo cần dùng cho đàn tràng, kham có thể dự vào địa vị làm thầy, khiến cho thầy đẹp ư. Thầy liền v́ người ấy làm Truyền Giáo Mạn-đồ-la, bảo rằng: “Ông từ nay trở đi, cũng giống như ta chẳng khác, tạo Mạn-đồ-la độ các đệ tử, khiến cho pháp trụ thế lâu dài, Phật chủng chẳng đoạn”. Đấy là loại thứ .

          5) Loại thứ năm chính là Bí Mật tam-muội-da. Ấn, đàn, phương vị tương ứng như trong giáo pháp đă nói đều thấy, nhưng nếu chẳng từng nhập đàn ấy, trí bí mật sẽ chẳng sanh. V́ thế, cần phải ở trong đàn bí mật, đúng như pháp quán đảnh. Đó gọi là loại thứ năm, bậc trí hăy nên biết.

          Nếu khác với các điều này, sẽ chẳng gọi là tam-muội-da, tức là nhập [đàn tràng] thuộc loại quán đảnh thứ ba như trong phần trên đă nói. Nếu khác với năm chuyện này, chẳng gọi là “khéo làm tam-muội-da”. Nhưng Bí Mật Mạn-đồ-la lại có năm loại:

          - Một là từ nơi thầy mà được truyền thọ chân ngôn, pháp ấn, vâng theo lời dạy tu hành, được tương ứng với Du Già, ở trong Định được thấy chư tôn đại hội, nhưng chưa được dẫn nhập [đàn tràng] (trường hợp này ví như người thuộc loại thứ nhất [trên đây]).

          - Loại người thứ hai đă được dẫn vào đàn tràng bí mật, được lễ bái và cúng dường trọn khắp, nhưng chưa được tôn thánh hiện ra quán đảnh cho người ấy v.v…

          - Loại người thứ ba là đă được dẫn vào giữa các vị đại thánh chúng, từ đầu đến cuối, mỗi hạnh bí mật đều được thánh giả phương tiện dạy bảo. Loại người này giống như loại thứ ba [trong đoạn trước].

          - Loại người thứ tư là do khéo tu đạo bí yếu, hiện thời được chư tôn thực hiện bí mật truyền giáo tam-muội-da, tức là được Như Lai sai khiến hành Như Lai sự.

          - Loại người thứ năm đă trọn đủ các sự trên đây, lại thấy thân ḿnh ở trong đại hội, tự làm A-xà-lê sư, tức là người nhập địa. Người này vừa mới nhập tam-muội, liền thấy hết thảy các Phật hội, cho đến các đại hội nhiều như số vi trần trong mười thế giới đều có thể nhóm họp, ở trong ấy có cùng tôn vị với các Ngài.

 

          (Kinh) Thiện trụ nhược quán ư, Chân Ngôn giả giác tâm, bất đắc ư tam xứ, thuyết bỉ vi Bồ Tát. Đắc vô duyên quán hạnh, phương tiện lợi chúng sanh, vị thực chúng thiện bổn. Cố hiệu Nhân Trung Tôn.

          ()善住若觀意,真言者覺心,不得於三處,說彼為菩薩。得無緣觀行,方便利眾生,為植眾善本,故號仁中尊。

          (Kinh: Nếu khéo trụ, quán ư, bậc Chân Ngôn giác tâm, chẳng đạt nơi ba chỗ, nói đó là Bồ Tát. Đạt vô duyên quán hạnh, phương tiện lợi chúng sanh, v́ gieo các cội lành, nên hiệu Nhân Trung Tôn).

 

          [Chánh kinh nói] “nếu quan sát ư mà khéo trụ” chính là nói với ngài Kim Cang Thủ. Bậc hành tŕ Chân Ngôn đă giác cái tâm chẳng chấp vào ba chỗ, được gọi là Bồ Tát, tức là do [xét theo] ư nghĩa mà có tên gọi ấy. Do chính ḿnh đă giác ngộ, chẳng chấp vào ba chỗ (tâm quán Bổn Tôn, miệng niệm chân ngôn, tay kết pháp ấn), tức là khi pháp quán của chính ḿnh được thành tựu. Nếu chấp trước ba thứ ấy, sẽ chẳng gọi là “giác tâm”. Do ba thứ ấy đều là vô sở đắc (chẳng đạt được) mà gọi là Bồ Tát. Ư nghĩa “Bồ Tát” được nói trong phần trước là dựa theo pháp tướng mà nói, c̣n nay ở đây [do dựa theo] nghĩa này mà gọi như thế!

          Trong phần trước, ngài Kim Cang Thủ đă hỏi khi nào th́ được gọi là Bồ Tát, đoạn kệ này chính là lời đáp. Nếu quán ư, tâm giác, khéo trụ trong ba chỗ, chẳng thể tŕ tụng, th́ gọi là Quán, tức là thoạt đầu, từ nơi thầy, lănh thọ pháp Du Già, đại lược có ba chuyện, tức là tâm quán Bổn Tôn, miệng niệm chân ngôn, thân có pháp ấn; ông hăy nên quán như thế. Đă thọ pháp rồi, tu hành đúng theo điều đă được nghe, hiểu thấu suốt, rành rẽ, giống như từ nơi cái gương mà thấy vẻ mặt. Đó là Quán. “Giác” là hiểu rơ pháp chân thật trong cảnh giới nơi tự tâm. “Thiện trụ” (khéo trụ) là nói ngài Kim Cang Thủ; đức Phật thuyết pháp rồi đặt hiệu cho Bồ Tát để bảo ban. Hoặc có thể là những người cùng tu hành với Bồ Tát, do đă hiểu rơ tự tâm, đạt được “vô sở trụ mà trụ”; cho nên gọi là “thiện trụ”. Đă được tương ứng với pháp như thế, được thấy vô lượng cảnh giới rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn của Bổn Tôn. Khi đó, hành giả liền dùng “vô sở đắc” làm phương tiện, dùng trí huệ quán sát: Các pháp như thế sanh ra từ bên trong ư? Từ bên ngoài tới ư? Từ trong và ngoài kết hợp mà sanh ra ư?

          Thân tâm của chính hành giả th́ gọi là “nội”, cảnh giới của Bổn Tôn là cái cảnh đối ứng [với tự tâm của hành giả], nên gọi là “ngoại”. Do hai thứ duyên ấy kết hợp th́ gọi là “trung gian”. Quán sát như thế, biết rơ đủ loại cảnh chẳng thể nghĩ bàn của pháp ấy, chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài tới, cũng chẳng phải là do trong ngoài ḥa hợp mà có trung gian. Hăy nên biết vốn sẵn thanh tịnh, rốt ráo chẳng có ǵ để đạt được, chẳng có ǵ được sanh ra (ngoại cảnh, nội tâm, và dùng thân tâm ấy để quán chiếu; đó là trung gian). Ba sự ấy đều trừ, tức là vốn sẵn thanh tịnh, một tướng b́nh đẳng. V́ lẽ nào vậy? Do nội tâm của hành giả, ngoại cảnh và tâm duyên ḥa hợp, khi chánh quán sát, ba sự ấy ḥa hợp chính là quán cảnh chẳng thể nghĩ bàn hiện tiền. Do ba sự ḥa hợp, từ duyên mà khởi; hăy nên biết đó chính là vô sanh, vô tánh, chẳng thể được!

          Lại nữa, hành giả thân có bí ấn, miệng có chân ngôn, tâm có cảnh giới của Bổn Tôn để quán, do ba sự rốt ráo vô sanh, tức là tam luân thanh tịnh, nhất tướng b́nh đẳng. Do hành giả ĺa ba thứ chấp, thanh tịnh tam luân mà ĺa bốn tướng; kể từ đó trở đi, liền được gọi là Bồ Tát (“bốn tướng” ta, người, chúng sanh, thọ giảnhư trong kinh Kim Cang đă phân biệt). Nhưng khi hành giả quán “vô sanh, vô tánh” như thế, tâm vô sở đắc, chẳng chấp vào tướng trong hay ngoài, tức là các pháp rốt ráo đều là Không, đều chẳng thể được! Nhưng kể từ khi phát tâm, đă tu hành đủ loại phước nghiệp, và tu vạn hạnh nhằm lợi ích chúng sanh, làm thế nào để có thể trụ trong Tất Cánh Không, chẳng đọa vào đoạn diệt? Do hành giả có sức phương tiện, chẳng đọa vào lỗi lầm như thế. V́ cớ sao vậy? Như khi hành giả mới quán, các thứ cảnh hữu tướng chính là pháp từ duyên mà sanh khởi. Do từ duyên mà sanh khởi, chẳng phải là tự sanh, chẳng phải là tha sanh (do pháp khác mà sanh), chẳng phải là cộng sanh (do tự và tha ḥa hợp mà sanh), chẳng phải là không có nhân. V́ thế, thường vô sanh! Nếu là vô sanh, pháp nhân duyên ấy tức là duyên giống như pháp tánh, lặng trong, thanh tịnh, trọn đủ hết thảy các công đức chẳng thể nghĩ bàn do tánh khởi lên, tùy theo cơ duyên mà khởi, ví như bóng trong gương, trăng trong nước, tuy có mà chẳng có, tuy chẳng có mà khởi. Tuy sanh từ duyên mà chẳng đọa vào hai bên. V́ thế, tuy là rốt ráo không, nhưng có thể thành tựu các thứ công đức, lợi ích trọn khắp hết thảy chúng sanh. Đại bi giáo hóa muôn vật, mà chẳng đọa vào Thật Tế. V́ thế, kinh dạy: “Dĩ phương tiện cố, nhi vị chúng sanh tác Bồ Đề chi chủng” (Do phương tiện mà v́ chúng sanh tạo tác chủng tử Bồ Đề).

          Đối với bậc trí giả hành vô duyên quán, hăy nên biết vị nhân giả ấy đă thành tựu Bồ Đề. Vô duyên quán chính là Trung Đạo, có ư nghĩa giống như Phật. Pháp nghiệm là bất tư nghị quán. Phật đă ĺa hết thảy chấp trước, v́ độ người khác [mà thị hiện các phương tiện]. “Chủng” là gieo trồng. Đă thành Phật th́ giống như là vô duyên giác, từ trong pháp vốn vắng lặng mà dấy lên phương tiện lợi tha, dùng phương tiện để lợi ích chúng sanh. Dùng phương tiện nào vậy? Nếu trụ trong “bổn tịch” (vốn sẵn vắng lặng) th́ chính là trái nghịch bổn thệ! V́ thế, dùng phương tiện v́ chúng sanh gieo trồng Bồ Đề. Lợi ích của cái nhân ấy được gọi bằng danh xưng khác là “độ người”, biến ư nghĩa “vô duyên” thành “hữu duyên”. “Nhân giả” (người có tâm nhân từ): Phật được gọi là Việt Chúng Sanh, có nghĩa là vượt hơn hẳn mọi người. “Nhân giả” chính là [bậc đă] đạt được tịch căn (các căn vắng lặng) thù thắng.

 

          (Kinh) Ư chư pháp bổn tịch, thường vô tự tánh trung, an trụ như Tu Di, thị danh vi kiến Đế. Thử Không tức Thật Tế, phi hư vọng ngôn thuyết. Sở kiến do như Phật, tiên Phật như thị kiến, đăi đắc Bồ Đề tâm.

          ()於諸法本寂,常無自性中,安住如須彌,是名為見諦。此空即實際,非虛妄言說,所見猶如佛,先佛如是見。逮得菩提心。

          (Kinh: Nơi các pháp bổn tịch, thường trong vô tự tánh, an trụ như Tu Di, đó gọi là “kiến Đế”. Không ấy là Thật Tế, chẳng phải nói hư vọng. Cổ Phật thấy như thế, bèn đắc Bồ Đề tâm).

 

          Trong phần trước, [ngài Kim Cang Thủ] đă hỏi “thế nào là Kiến Đế?” Nay [đức Phật] theo thứ tự giải đáp. Pháp “bổn tịch” (vốn tịch tĩnh), chẳng có tự tánh. An trụ nơi tâm “giống như núi Di Lô” trong pháp bổn tịch. Những người tu hành trong các đạo ấy, do biết “pháp vốn tịch tĩnh, vô tánh, bất động như Tu Di”, th́ gọi là Kiến Đế. Được gọi là Kiến Đế th́ như trên đă nói, trước hết là từ thầy được truyền trao phương tiện chân ngôn quán hạnh, được tương ứng với tam-muội, hiện tiền rành rẽ. Kế đó, đúng như thật chánh quán ba sự, đều là “vô sanh, vô diệt, tánh bất khả đắc”. Do nhân duyên ấy, liền có thể hiện tướng giác ngộ “hết thảy các pháp vốn sẵn thường tịch diệt”. Ở đây nói “bỉ chư pháp” (các pháp đó) tức là nói đến các cảnh được quán chiếu trong phần trên. Từ ngay trong đó mà biết rơ bổn tịch, trụ trong lư tự chứng. Đă được an trụ trong pháp thể như thế, trong trí huệ chân thật, nghi hối vĩnh viễn trừ diệt, ví như núi chúa Tu Di chẳng bị lay động. Tu Di Lô (Sumeru) có nghĩa là chẳng thể lay động. Do trụ trong cái danh ấy, kể từ đó, được gọi là Kiến Đế. Do sự chân thật ấy như Không, Thật chính là Không, giống như Không. Vô tự tánh th́ gọi là Thật, Thật chính là như Không. “Thật” [có nghĩa] là “chẳng phải vọng ngữ”!

          Kế đó, nói “dĩ thị sở kiến do như Phật” (do thấy được điều ấy, bèn giống như Phật). Cổ Phật cũng thấy như thế, ta cũng thấy như thế, v́ thế nói là “cập” (và). Thật và Không chẳng phải là vọng ngữ, và sở kiến giống như Phật. [Chánh kinh nói] “như thị tiên Phật” (các vị Phật trước kia [cũng đă thấy giống như thế]) nhằm giải thích ư nghĩa kiến Đế. “Kiến trụ” tức là an trụ trong trí huệ chân thật, nên gọi là Thật. Ví như đă giác bản tánh của vô tánh Không là thanh tịnh, hăy nên biết các pháp đều là Không. Không có nghĩa là “ĺa hư vọng, phân biệt, mà trụ trong Đế”, đều là Thật. Người thấy lư ấy tức là thấy đạo do cổ Phật đă thấy, giải ngộ u huyền giống hệt như chư Phật. Các đức Như Lai xưa kia cũng đi theo con đường này mà đạt thành Chánh Giác. Đă đạt được trí tự nhiên như thế, lại sẽ truyền trao cho chúng sanh. Nay tôi cũng đạt được như thế, chẳng khác ǵ; v́ thế gọi là Thật. “Thật” có nghĩa là chẳng hư huyễn!

 

          (Kinh) Tất Địa tối vô thượng, tùng thử hữu ngũ chủng, chư Tất Địa sai biệt. Sở vị: Nhập tu hành, cập thắng tấn chư địa, thế gian ngũ thần thông, chư Phật, Duyên Giác đẳng.

          ()悉地最無上。從此有五種,諸悉地差別。所謂入修行,及勝進諸地,世間五神通,諸佛緣覺等。

          (Kinh: Tất Địa vô thượng nhất, từ đấy có năm thứ, tức là: Nhập tu hành, và thắng tấn các địa, năm thần thông thế gian, chư Phật và Duyên Giác).

 

          Trong phần trước đă hỏi về những người đắc Bồ Đề tâm, Tất Địa của họ lại càng không có ǵ hơn được! Ngoài ra, c̣n có năm loại Tất Địa. Kế đó, Ngài hỏi v́ sao gọi là Tất Địa? Lại có mấy thứ? Nay trước hết, [đức Phật] đáp về cái quả. Hễ nói “thành tựu Tất Địa” tức là “trụ trong Bồ Đề tâm”. Bồ Đề tâm tức là Tối Chánh Giác được thành tựu bởi đệ thập nhất địa (Đẳng Giác). Trong các địa, Tất Địa như thế là tối thượng. V́ thế, kinh nói “Tất Địa không chi hơn được”! Kế đó, giải đáp chuyện tiến nhập, tu hành, tức là trụ trong địa vị Tín Hạnh. Kế đó, thăng lên địa vị, tức là vượt khỏi năm món thần thông thế gian. Tất Địa của Phật và Duyên Giác có mấy thứ? Tức là nói: Trước Vô Thượng Tất Địa, đại lược có năm loại Tất Địa: Một là tín, hai là nhập địa, ba là ngũ thông, bốn là Nhị Thừa, năm là thành Phật. Đó là năm loại Tất Địa:

          1) Đầu tiên là Tín, tức tùy theo năng lực mà tịnh hóa phần nào các căn, tin sâu bí tạng của Như Lai, quyết định chẳng nghi ngờ. Tin Phật có phương tiện như thế, nếu vâng theo đó để làm, ắt sẽ thành Bồ Đề. Đấy chính là tín hạnh của bậc Địa Tiền (các địa vị Bồ Tát trước khi chứng Sơ Địa).

          2) Kế đó là nhập Địa, tức là đă nhập Sơ Hoan Hỷ Địa, nếu so với pháp Thanh Văn th́ giống như bậc đă kiến Đế.

          3) Thứ ba là ngũ thông, tức là biết rơ cảnh ngũ thông thế gian, ví như huyễn mộng, trăng trong nước, chẳng thể chấp lấy. Lúc bấy giờ, sẽ là địa vị độ ngũ thông tiên nhân, gọi là địa vị thứ ba.

          4) Thứ tư là Nhị Thừa, tức quán sát cảnh giới của Nhị Thừa, tâm chẳng chấp trước, tâm chẳng đọa vào Thật Tế. Khi đó, đă vượt khỏi cảnh giới Nhị Thừa. Lúc bấy giờ, đă đạt đến Đệ Bát Địa.

          5) Thứ năm là từ Đệ Cửu Địa tu hành đạo Bồ Đề hạnh, xoay chuyển thắng tấn, thành tựu địa vị Như Lai. Nhưng trong các kinh luận và các đại sư đều chỉ nói đại lược như thế mà thôi. Nếu xét theo ư nghĩa trong bí tạng lại khác, tức là: Đầu tiên là Hoan Hỷ Địa từ mười tâm, từ sơ tâm cho đến đệ tứ tâm, đạt được cảnh giới vượt khỏi ngũ thông. Từ đệ ngũ đến đệ bát tâm, vượt khỏi cảnh giới của Thanh Văn và Duyên Giác. Từ đệ cửu tâm, một mực tu hành đạo Bồ Tát. Đạt tới đệ thập tâm th́ gọi là “thành Phật”. Phật là giác, ư nói: Giác tự tâm tánh tịnh, vốn là tướng thường tịch diệt. Nhưng trong mười tâm ấy, từ tâm thứ nhất cho tới tâm thứ tám là Kiến Đạo. Từ tâm thứ chín tới tâm thứ mười th́ gọi là Quán Đạo. “Kiến” tức là thấy đế lư. Tấn tu Quán chính là một mực quán công đức thuộc cảnh giới bí mật chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Cảnh bí mật như thế chẳng phải là pháp được thấy, v́ nó vượt ngoài tâm lượng. Do vậy, gọi riêng là “quán đạo”. Giác có nghĩa là “nhận biết”, đă vượt khỏi cảnh giới Nhị Thừa, biết rơ tâm Nhị Thừa khác với Bồ Đề. Nếu lúc nhập Đệ Nhị Địa, cũng đạt tới đệ tứ tâm, vượt khỏi ngũ thông, đệ bát tâm vượt khỏi Nhị Thừa, đệ thập tâm là thành Phật. Chuẩn theo đó, do có ḷng tin nhận mà được gọi là “nhập vị”, chẳng khác mười tâm của Sơ Địa, nhưng mười tâm ấy lại rạng rỡ, ly cấu. Cho tới Đệ Thập Địa, cũng có mười tâm, tức là có một trăm tâm, mỗi mỗi tâm lần lượt thù thắng hơn, như thí dụ vàng ṛng trong kinh Hoa Nghiêm, có thể chuẩn theo đó mà biết! Trọn vẹn mười tâm của Sơ Địa, sẽ có thể phân thân trong một trăm cơi Phật, có thể dựa theo kinh đó (kinh Hoa Nghiêm) mà biết. Nhưng “một trăm tâm thành Phật” là do kinh Bảo Cự Đà La Ni nói, rất sâu, vi tế, kinh này chưa được truyền tới Trung Hoa.

 

          (Kinh) Tu nghiệp vô gián tức, năi chí tâm tục tịnh, vị thục linh thành thục. Nhĩ thời, Tất Địa thành. Ư bỉ nhất thời khoảnh, tịnh nghiệp tâm câu đẳng, Chân Ngôn giả đương đắc, Tất Địa tùy ư sanh.

          ()修業無間息,乃至心續淨,未熟令成熟,爾時悉地成。於彼一時頃,淨業心俱等,真言者當得,悉地隨意生。

          (Kinh: Tu nghiệp chẳng ngừng nghỉ, sao cho tâm luôn tịnh, chưa thuần khiến thành thục. Bấy giờ, Tất Địa thành. Trong một khoảnh khắc ấy, tịnh nghiệp tâm b́nh đẳng, bậc Chân Ngôn sẽ đắc, Tất Địa tùy ư sanh).

 

          Tu Thật chẳng ngừng, khiến cho mỗi tâm đều tịnh. Kế đó, giải đáp về sự nghiệp tu hành chẳng ngừng khiến cho tâm liên tục thanh tịnh. “Tâm liên tục tịnh” tức là không ngừng dụng công, thành thục như thế (tức là chưa thành thục bèn khiến cho thành thục, sẽ đạt được Tất Địa). Cũng có thể nói là người ấy sẽ đắc Tất Địa. Khi nào th́ Tất Địa sẽ sanh? Kinh dạy: “Thế thế sanh sanh năi chí nghiệp nghiệp bất trừ, quả linh thành thục, bỉ thời Tất Địa thành” (Đời đời kiếp kiếp cho tới khi nghiệp nào cũng chẳng trừ, quả sẽ thành thc, khi đó, Tất Địa thành tựu), khiến cho nghiệp phát sanh trong một lúc tồn tại nơi thân, người tŕ tụng đạt được Tất Địa thuận theo ư mà sanh. “Thế thế sanh sanh” ở đây có ư nghĩa như thế đó.

          Chữ Tán Đả Na trong tiếng Phạn có nghĩa là Thức, tức là trong nội tâm. Ví như chúng sanh trong thế gian tạo đủ loại nghiệp, do nghiệp ấy mà phải hứng chịu quả báo, hoặc một đời, hoặc trăm ngàn vạn đời, nghiệp ấy chẳng mất. Hễ [nghiệp ấy] chín muồi bèn thọ báo. Nay giải đáp về sự sanh khởi Tất Địa cũng giống như thế: Như hành nhân tùy theo ước nguyện thượng, trung, hạ, nương vào pháp Chân Ngôn muốn tu hành, được thành tựu Tất Địa. Do Tất Địa ở nơi thân, cho đến đời đời kiếp kiếp thường ở nơi thân của hành nhân, ví như nghiệp quả, tuy vẫn sanh từ các duyên, mà thường tự không tịch, chẳng có, chẳng không, mà cũng chẳng bại, chẳng mất. Kể từ sau khi Tất Địa ấy đă thành, sẽ đời đời thọ quả chẳng mất đi, hay suy bại. Nương theo nghiệp Tất Địa mà thọ cái quả ấy, gọi là “sanh Tất Địa gia” (sanh trong nhà Tất Địa). Đă sanh trong nhà Tất Địa, cho tới khi thành Phật, trọn chẳng mất mát, hư hoại. V́ thế, nói “nghiệp chẳng thể trừ” [trong câu kinh văn trích dẫn trên đây]. Kinh nói “thục (chín muồi) th́ “thục” tức là quả. “Khiến cho thành thục” có nghĩa là “thọ dụng cái quả”. “Nhất thời” nghĩa là trong một lúc, tức là hành giả vâng theo pháp tŕ tụng, đă đạt được cảnh giới, hạn định kỳ hạn để tác pháp thành tựu, liền ngay trong đêm ấy, đạt được Tất Địa. Do đă tu tập trong một khoảng thời gian, [Tất Địa] tồn tại lâu dài nơi thân, chẳng mất mát, hư hoại. Ví như bỏ chất độc vào trong sữa, thậm chí đề hồ [tinh luyện từ sữa có chất độc ấy] cũng có thể giết người! Như người tạo cái nghiệp “thọ quả trong cơi trời”, đă được hưởng báo trong cơi trời, hễ nghĩ tới liền đạt được, chẳng đổ công sức mà hễ nghĩ tới liền thành. Tất Địa ở đây cũng thế, trong hết thảy các kiếp sống, trong khoảng thời gian ấy, người tŕ tụng khi tịnh nghiệp do tu các điều thiện sanh khởi, sẽ kế đó đạt được “Tất Địa tùy ư sanh khởi”, tịnh nghiệp và cái tâm sanh khởi đều b́nh đẳng, chẳng phân biệt. Nghiệp sanh, tâm b́nh đẳng; trong lúc ấy, Tất Địa thành tựu, thường được tùy ư mà sanh. V́ thế nói là “tùy ư sanh”.

 

          (Kinh) Tất Địa thăng không giới, như huyễn vô úy giả, chú thuật vơng sở hoặc, đồng như Đế Thích vơng, như Càn Thát Bà thành, sở hữu chư nhân dân. Thân bí mật như thị. Phi thân, diệc phi thức. Hựu như ư thụy mộng, nhi du chư thiên cung, bất xả ư thử thân, diệc bất chí ư bỉ.

          ()悉地昇空界,如幻無畏者,呪術網所惑,同於帝釋網,如乾闥婆城,所有諸人民。身祕密如是,非身亦非識,又如於睡夢,而遊諸天宮,不捨於此身,亦不至於彼。

          (Kinh: Tất Địa lên hư không, như kẻ chẳng sợ huyễn, lưới chú thuật mê hoặc. Giống như lưới Đế Thích, như tất cả nhân dân, trong thành Càn Thát Bà. Thân bí mật giống thế, chẳng thân, cũng chẳng thức. Lại như khi nằm mộng, dạo chơi các thiên cung, chẳng hề xả thân này, mà cũng chẳng tới đó).

 

          Kế đó, giải đáp thế nào để thăng lên hư không giới, ư nói hành giả nương vào sức của Tất Địa, đi lại trên hư không tự tại vô ngại, ví như người đạt được không sợ hăi trong huyễn pháp. “Không sợ hăi” tức là đối với pháp tắc, phương quỹ của huyễn pháp mà có thể biết rơ, chẳng có nghi nan, muốn ǵ cũng đều được thành tựu. Như huyễn sư hóa hiện đủ loại cảnh giới, có thể thuận theo ḷng mong muốn của kẻ khác mà thị hiện, nhưng vị huyễn sư ấy thật sự chẳng dao động, mà cũng chẳng đổi khác, chỉ do nhân duyên chân ngôn hoặc dược vật mà mê hoặc tâm mọi người đó thôi! Nay Tất Địa ở đây cũng thế, chẳng xả thân này mà đều thành Tất Địa. Chân ngôn như huyễn, giống như cái lưới của Đế Thích, bước đi trên hư không giới, dạo chơi các cơi nước, đủ cách tự tại, nhưng cũng chưa hề dao động! Chỉ do chân ngôn huyễn tác mà được như thế đó thôi! Chân ngôn của huyễn sư được gọi là “lưới của Đế Thích”, ví như trong cái lưới ấy, hiển thị tướng trạng của hết thảy mọi sự, hiện ra đủ loại tướng, nhưng thật sự chẳng có một chuyện nào là thật. V́ thế, gọi là “lưới Đế Thích”. Đây chính là chân ngôn của huyễn nhân trong thế gian. Mượn chuyện đó để thí dụ, ḥng sánh ví chân ngôn xuất thế là huyễn (lại nói “lưới” có nghĩa là “chẳng đoạn tuyệt”. Nếu dùng lưới để bẫy người th́ kẻ khác sẽ mờ mịt, chẳng thể tự thoát. Cái lưới chân ngôn này giăng bẫy ḷng người, cũng khiến cho họ mông muội, thấy hư vọng, nên gọi là “lưới”).

          Kế đó, đáp rằng “thân bí mật như thành Càn Thát Bà”. Tất cả mọi người trụ trong thành ấy, chẳng phải là thân, mà cũng chẳng phải là thức. Cớ sao nói là thân bí mật? Ư nói: Người thành tựu Tất Địa ấy chẳng xả thân này, chẳng xả thức này, mà có thể khiến cho cái thân bí mật. Giống như thành Càn Thát Bà, từ trong đó, thấy đủ loại tướng cung điện, nhân dân, và các vật, tuy dường như là có, nhưng thật sự chẳng có, cũng là “tuy chẳng có mà có”, hoặc lúc th́ có thể thấy, có lúc th́ không. Thân bí mật của hành nhân cũng giống như thành Càn Thát Bà, chỉ từ các duyên mà sanh. Thật ra, nó chẳng thật, hoặc ẩn kín, hoặc hiển hiện. Do các nhân duyên của Chân Ngôn quán hạnh mà khiến cho thân ấy tùy duyên sanh diệt cũng giống như thế. Lại nữa, như trong mộng, mộng lên Tam Thập Tam Thiên, hưởng đủ thứ vui sướng mầu nhiệm trong cơi trời. Ví như người nằm mộng thấy dạo các cung trời, chẳng xả thân này, mà cũng chẳng đến đó. Hành giả Du Già ngủ trong Chân Ngôn cũng giống như thế, trụ trong Chân Ngôn hạnh, thân này như cầu vồng, qua khỏi một kiếp tới khi tỉnh giấc, chỉ là khoảng chốc lát đó thôi! Người ấy chẳng xả thân này, chẳng lên tầng trời đó, nhưng do cái tâm ngủ nghê mà có chuyện chẳng thể nghĩ bàn ấy, chẳng thể dùng tâm thức để có thể suy lường nguyên do được! Nay người thành tựu Tất Địa dạo trong các thế giới cũng giống như thế, chỉ do nhân duyên Du Già mộng mà có chuyện ấy. Thành tựu đủ loại sự, rành rành chẳng không, nhưng biết chúng đều như mười thí dụ [duyên sanh đă nói trong các phẩm trước], chẳng sanh chấp trước!

 

          (Kinh) Như thị Du Già mộng, trụ Chân Ngôn hành giả, sở sanh công đức nghiệp, thân tướng do hồng nghê. Chân ngôn Như Ư Châu, xuất sanh ư, ngữ, thân. Tùy niệm vũ chúng vật, nhi vô phân biệt tưởng. Do thập phương hư không, ly chư hữu vi hạnh, Chân Ngôn giả bất nhiễm, nhất thiết phân biệt hạnh, giải liễu duy hữu tưởng, như thị biến quán sát. Nhĩ thời, chân ngữ giả, chư Phật đồng tùy hỷ.

          ()如是瑜伽夢,住真言行者,所生功德業,身相猶虹霓。真言如意珠,出生意語身,隨念雨眾物,而無分別想。猶十方虛空,離諸有為行,真言者不染,一切分別行,解了唯有想,如是遍觀察,爾時真語者,諸佛同隨喜。

          (Kinh: Hành giả trụ Chân Ngôn, mộng Du Già như thế, sanh ra nghiệp công đức, thân tướng như cầu vồng. Chân ngôn Như Ư Châu, xuất sanh ư ngữ thân. Tùy niệm tuôn các vật, chẳng suy tưởng phân biệt. Như mười phương hư không, ĺa các hạnh hữu vi. Bậc Chân Ngôn chẳng nhiễm, hết thảy hạnh phân biệt, hiểu rơ chỉ có tưởng, quán sát trọn như thế. Lúc bấy giờ chư Phật, cùng tùy hỷ hành giả).

 

          Do thân tịnh nên có Tất Địa, giống như cầu vồng. Chân ngôn giống như Như Ư Châu, do gia tŕ công đức nghiệp mà có Tất Địa ấy. Cầu vồng ở trên trời, chẳng biết từ đâu mà có, có thể thấy các sắc. Chân ngôn như Như Ư Châu, tùy thuộc các loại thân, ngữ, ư mà sanh. Theo ư niệm mà tuôn ra các vật dụng, tuy sanh nhưng vô phân biệt, tuy vô phân biệt mà sanh. Đắc Tất Địa cũng giống như thế. Lại như cầu vồng ở trên trời, năm sắc rực rỡ có thể trông thấy rành rành. Nay quán chuyện ấy, do hư không mà có ư? Từ hơi đất mà sanh ư? Nếu từ hư không mà sanh, hư không vốn chẳng có pháp, sao có thể có các màu sắc như thế cho được? Nếu sanh từ đất, th́ cũng chẳng thể được! Nhưng có chuyện này đẹp ḷng mọi người. Hăy nên quán biết pháp ấy chẳng do tự sanh, chẳng do pháp nào khác mà sanh, chẳng do tự và tha cùng sanh, chẳng phải là không có cái nhân, chỉ là do các duyên ḥa hợp đó thôi! Nay thân Tất Địa cũng giống như thế, do sức công đức bởi tŕ tụng chân ngôn mà có tác dụng thần biến đủ loại chẳng nghĩ bàn như thế, cũng giống như cầu vồng vậy!

          Lại phải giải trừ nghi vấn. Như có người nói: “Do pháp sự tướng chân ngôn ấy, sao có thể thành tựu pháp vô tướng kiến Đế chân thật?” [Đáp rằng]: Pháp chân thật ấy thật sự chẳng ĺa nhân duyên, tức là quán cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của duyên sanh Thật Tướng ấy. Như châu Như Ư đặt trên đầu tràng, có thể thỏa măn nguyện của hết thảy mọi người, tùy theo ḷng mong muốn mà những điều tâm họ mong cầu đều được thỏa. Nay quán sát những điều ấy do châu mà sanh ư? Sanh từ ḷng người ư? Nếu từ châu mà ra, v́ sao trong hết thảy các thời chẳng tuôn ra, phải đợi ḷng người mong cầu rồi mới tuôn ra? Nếu từ ḷng người mà ra, cớ sao chẳng tự cầu nơi tâm người mà phải đợi có châu? Hăy nên biết là chẳng từ châu mà có, chẳng từ ḷng người mà có, chẳng phải do châu và ḷng người kết hợp mà cùng có, chẳng phải là không có nhân duyên, chỉ là ḥa hợp mà có đấy thôi! Nay thần biến (sự biến hóa thần diệu) chẳng nghĩ bàn của Tất Địa cũng giống như thế, chỉ do các duyên “chân ngôn, quán Bổn Tôn, thân ấn” v.v… mà thành Tất Địa. Do chân ngôn nên khẩu nghiệp tịnh, do quán Bổn Tôn nên ư nghiệp tịnh, do ấn nên thân nghiệp tịnh. Do ba sự b́nh đẳng, tự nhiên mà có nghiệp chẳng nghĩ bàn; nhưng cũng chẳng thể phân biệt, không suy nghĩ, không làm. Nếu đă là như vậy, đă giống như Như Ư Châu, hăy nên biết là pháp hữu tướng ư? V́ trừ chỗ thấy đó, bèn nói thí dụ về thái hư không. Ví như hư không vô tướng, vô phân biệt, nhưng các thứ nghiệp tạo tác “đến, đi, hành sử của hết thảy hữu t́nh đều do hư không mà được thành tựu. Đủ loại muôn vật, hết thảy các sắc tướng cũng do hư không mà được hiển hiện, nhưng tánh của hư không thường vô phân biệt, chẳng có tướng sanh khởi!

          Chân ngôn cũng giống như thế, bản tánh thường tịnh, giống như hư không, hết thảy hữu vi chẳng thể nhuốm bẩn, mà cũng có thể thành tựu đủ loại nghiệp tạo tác, biến hóa trọn khắp chẳng thể nghĩ bàn, sao là hữu tướng ư? Hăy biết các loại pháp hữu tướng trong thế gian, chấp lấy h́nh tướng ấy th́ gọi là Tướng. V́ đó mà phân biệt, đặt ra danh xưng, gọi đó là Danh. Pháp danh tướng như thế đều giống như mười thí dụ, chỉ từ nhân duyên mà có, do điên đảo mà sanh, chứ nói thật ra th́ vô sanh, vô tánh, tức là giống như tánh Như Như của pháp giới vậy. Nếu có thể quán như thế, tức là cùng với hết thảy Như Lai hội họp một chỗ, người ấy tuy chưa thể đạt đến Phật huệ rốt ráo, nhưng sự hiểu biết đă giống như chư Phật! Do tương ứng với pháp mà nói là “giống như Phật”, tức là cùng chư Phật tụ tập một chỗ. Nhằm nêu rơ “mười phương là Không”, ví như dùng hư không để chỉ rơ “mười phương là không”. Ĺa hết thảy các hạnh hữu vi chẳng nhiễm, người tu Chân Ngôn chẳng nhuốm bẩn hết thảy các hạnh phân biệt. Nếu quán sát như thế, liễu giải chỉ là tưởng. Khi người tu Chân Ngôn quán sát như thế, chư Phật đều cùng tùy hỷ.

 

          (Kinh) Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn, thuyết nhị chủng hộ-ma, sở vị nội cập ngoại. Tăng oai diệc như thị, chư tôn thù loại tánh, đương quán sát chứng tri.

          ()正覺兩足尊,說二種護摩,所謂內及外,增威亦如是。諸尊殊類性,觀察當證知。

          (Kinh: Chánh Giác Lưỡng Túc Tôn, nói hai loại hộ-ma, tức là nội và ngoại. Tăng oai cũng như thế, chư tôn tánh loại khác, hăy quán sát, chứng biết).

 

          Hộ-ma có hai loại. Trong phần trước, đă nói đại lược tướng hộ-ma. Nay lại phân biệt nội và ngoại hộ-ma. Như đấng Lưỡng Túc Tôn nói hộ-ma có hai loại:      

          - Ngoại hộ-ma là tác pháp, trừ các chướng thuộc phiền năo và tùy phiền năo.

          - Loại thứ hai là nội hộ-ma.      

          Tức là chư Phật Lưỡng Túc Tôn nói có hai loại hộ-ma, nói “nội”“ngoại”, [mục đích là] ngưng dứt các cảnh giới, mười hai duyên sanh v.v… Nhưng ngoại hộ-ma làm phương tiện cho nội hộ-ma, tức là cái nhân của nó. Có kẻ bắt bẻ rằng: “Nay thực hiện pháp hộ-ma này để cầu cái quả, tức là có mong mỏi, há có thể trở thành chân lư ư?” Đáp: Ta nay chẳng mong cầu!

          Hỏi: “Nếu là như thế, sao không vâng theo thường pháp của Đàn Na để thí trọn khắp hết thảy kẻ nghèo khổ, lại làm chuyện rỗng tuếch này, [đem các vật cúng] thiêu đốt hết sạch, có ư nghĩa ǵ đâu?” Đáp: Kẻ phàm phu, nếu có vật được thí, sẽ có người nhận, tức là có cái tâm mong mỏi, hoặc cầu được báo đền, hoặc mong cái quả của sự bố thí. Do nhân duyên ấy, chẳng thể đối trị cái tâm mong cầu. Do chẳng thể trị, nên chẳng thể tuyệt dứt nguồn tham ái. Do nhân duyên ấy, chẳng thể làm nhân duyên cho nội hộ-ma. Nay thiêu những vật để thí ấy chính là để đoạn tuyệt khuyết điểm đó, tác quán đối trị, tạo cái nhân trí huệ chẳng chấp trước, ḥng làm phương tiện cho nội hộ-ma. Do vậy mà làm như thế. Ví như cầm các vật cúng ấy dâng lên Bổn Tôn, liền biết cái tâm mong cầu cũng giống như vật ấy chẳng khác, hết thảy đều như “củi hết, lửa tắt”, chẳng thể chấp lấy, chẳng có nơi chốn. V́ thế, có thể làm duyên cho nội hộ-ma.

          Thâm hạnh th́ trong khi làm pháp sự tăng ích, sẽ tăng thêm oai thế, như khi cúng hoa, trước tiên là trừ cấu uế, tức tăng thêm oai quang rồi mới cúng dường. [Cúng dường] đă là như thế, hộ-ma cũng thế, A-xà-lê liền làm nội hộ-ma. Nếu là hành giả hạnh cạn, liền làm ngoại pháp, nhưng rốt cuộc là cái nhân của nội pháp.

 

          (Kinh) Thế gian chư chân ngôn, kim thuyết bỉ hạn lượng, phước đức Tự Tại đẳng, chúng tri thức thiên thần. Bỉ sở thuyết minh chú, cập dữ đại lực ấn, bỉ giai hiện thế quả. Cố thuyết hữu phân lượng. Tuy thành, bất kiên trụ, tất thị sanh diệt pháp. Xuất thế gian chân ngôn, vô tác, bổn bất sanh, nghiệp sanh tất dĩ đoạn. Chiến thắng ly tam quá, lân giác vô sư giả, cập Phật, Thanh Văn chúng, Bồ Tát chư chân ngôn. Bỉ lượng ngă đương thuyết: Siêu việt ư tam thời, chúng duyên sở sanh khởi. Khả kiến phi kiến quả. Tùng ư ngữ thân sanh. Thế gian chi sở truyền, quả số kinh nhất kiếp. Đẳng Chánh Giác sở thuyết, chân ngôn quá kiếp số.

          ()世間諸真言,今說彼限量。福德自在等,眾知識天神,彼所說明呪,及與大力印,彼皆現世果,故說有分量,雖成不堅住,悉是生滅法,出世間真言,無作本不生。業生悉已斷,戰勝離三過,麟角無師者,及佛聲聞眾,菩薩諸真言,彼量我當說。超越於三時,眾緣所生起,可見非見果,從意語身生。世間之所傳,果數經一劫,等正覺所說,真言過劫數。

          (Kinh: Các chân ngôn thế gian, nay nói hạn lượng đó. Phước đức tự tại thảy, chư thiên mọi người biết. Minh chú do họ nói, cùng với đại lực ấn, đều thuộc quả hiện đời. Nên nói có phân lượng. Tuy thành, chẳng lâu bền, đều là pháp sanh diệt! Chân ngôn xuất thế gian, vô tác, vốn bất sanh, nghiệp sanh đều đă đoạn. Chiến thắng ĺa ba lỗi, bậc Lân Giác vô sư, và Phật, các Thanh Văn, Bồ Tát nói chân ngôn. Ta sẽ nói lượng ấy, siêu việt ngoài ba thời, sanh khởi bởi các duyên. Hay thấy quả chẳng thấy, sanh từ ư, ngữ, thân. Chân ngôn thế gian truyền, quả tồn tại một kiếp. Chân ngôn do Phật nói, tồn tại ngoài kiếp số).

 

          Lại nữa, cần phải chứng biết bản tánh nơi biệt tướng của chư tôn, tức là Phật, Bồ Tát, Nhị Thừa, thiên thần thượng, trung, hạ, quán sát h́nh tướng, màu sắc v.v… của các Ngài sẽ có thể biết ngay. Tu hành Chân Ngôn lại có đủ loại sai biệt, nay sẽ liệu giản. Nếu người thế gian, nương theo vị tôn thánh thuộc bổn bộ mà tu Chân Ngôn hạnh, tức là như [nương theo] Đại Tự Tại Thiên v.v… [để tu Mật pháp] sẽ có vô lượng chủng loại, mỗi mỗi bất đồng, chẳng thể ghi trọn! Kinh chỉ nêu ra một khía cạnh, dùng Đại Tự Tại Thiên làm đầu mối [để so sánh]. Nhưng khi họ tác pháp, cúng dường, ai nấy đều mong thành tựu cái quả của vị Bổn Tôn thuộc bộ của chính ḿnh. Tùy theo tánh chất, phương vị sai biệt bất đồng của mỗi vị, mà đều ôm ḷng mong mỏi thành tựu cái quả đó.

          Tâm có hạn lượng, các quả cũng thế. Nói tới lượng của các chân ngôn thế gian, th́ đối với những vị [tôn thánh mà] người đời hay biết, tức các vị trời tự tại phước đức, th́ chân ngôn và đại lực ấn do họ đă nói thảy đều là cái quả trong hiện đời. V́ thế nói lượng có chút sai khác, tức là [các quả thành tựu đó] là pháp sanh diệt, chẳng vững bền, nghĩa là trong đời tương lai sẽ chẳng có! Nói tới lượng, đức Phật bảo các cái quả thành tựu [bởi chân ngôn thế gian] là pháp có hạn lượng, Ngài nói như thế đó. Tuy vậy, chẳng giống như pháp tu hành hộ-ma do Như Lai đă dạy trong phần trước. Bởi lẽ, người đời chỉ muốn thuận theo quả báo của vị thiên thần mà họ tôn phụng, để mong cầu chứng [cái quả ấy], đức Phật cũng tạo ra pháp hộ-ma xuất thế để đối trị. V́ thế, có pháp hộ-ma thuộc Chân Ngôn Hạnh. Đối với vị được người đời tôn sùng, nếu xét tới chỗ tột cùng rốt ráo của pháp ấy, [th́ hành nhân sau khi đắc Tất Địa] sẽ giống như vị Bổn Tôn ấy, chẳng thể vượt hơn được! Chân ngôn và ấn của họ cũng thế, chỉ tùy thuộc thế lực kham nổi do vị tôn thánh ấy đă gieo phước sâu hay cạn mà nói chân ngôn, thủ ấn, Bổn Tôn v.v… Tùy theo thế lực của vị ấy, chỉ được thành tựu cái quả của vị Bổn Tôn ấy. Lại chỉ có thể thành tựu cái quả trong đời hiện tại, đạt được thành tựu thế gian, trọn chẳng thể thành tựu cái quả xuất thế gian. Khéo tu chân ngôn, ấn v.v… của Như Lai th́ chẳng phải vậy, [hễ thành tựu Tất Địa] sẽ vĩnh viễn chẳng cạn kiệt, mất đi, hay hư hoại! Đó là điểm khác biệt.

          Như nước đọng trong dấu chân trâu, nếu để cho nước lưu tại đó, khi thế lực của nó đạt tới cùng cực, sẽ tự khô cạn. Nếu có người đem nước ấy bỏ vào biển cả, sẽ chẳng có lẽ nào cạn kiệt. V́ sao vậy? Do cùng với tánh của hết thảy các loại nước ḥa hợp thành cùng một vị; do vậy, chẳng thể tận! Người tu chân ngôn hạnh của Như Lai cũng giống như thế, cho tới khi thành Phật, đời đời hưởng cái quả Tất Địa ấy, trọn chẳng thể cùng tận. Rốt cuộc nương vào sức ấy mà đắc Bồ Đề. V́ lẽ nào vậy? Do chính ḿnh và biển cả hết thảy Như Lai có cùng một vị! Các chân ngôn xuất thế, bổn sơ là bất sanh, vô tác, các nghiệp sanh đều đoạn, ĺa lỗi nơi ba nghiệp thân, miệng, ư mà thành Phật. Chân ngôn xuất thế gian từ khởi thỉ vốn bất tác, bất sanh, nhưng đối với [chân ngôn của] các vị tôn thánh trong thế gian thuộc địa vị Độc Giác (kinh bổn chép là “tê giác”, hoặc như Luận nói là “lân giác”, tức sừng con kỳ lân), và chân ngôn của chư Phật, Thanh Văn, Bồ Tát v.v… Ta nay sẽ nói lượng đó. Chân ngôn do các vị như chư thiên v. v… đă nói đều là pháp hữu tác, do sanh từ vị tôn thánh ấy. Chân ngôn xuất thế gian siêu việt ba thời, từ duyên mà sanh khởi, cũng có thể dùng chữ Giai (đều) để nói [tức là] “đều có thể thấy cái quả chẳng thể thấy”, [các chân ngôn sanh từ] thân, ngữ, ư sẽ chẳng giống như thế. [Tất Địa của các chân ngôn xuất thế gian ấy] chẳng phải do Như Lai tự làm, mà cũng chẳng phải do chư Phật xưa kia đă làm. Cái quả của [các chân ngôn] do thế gian xưng nói chỉ lâu chừng một kiếp, c̣n cái quả của chân ngôn do bậc Đẳng Chánh Giác đă nói th́ vượt ngoài kiếp số. V́ thế, hăy nên biết: Chân ngôn, ấn v.v… từ nơi bổn tế Như Lai pháp tánh vốn sẵn tự nhiên là như vậy, chẳng phải là có sanh khởi hay tạo tác.

          Hỏi: Nếu nói vô tác, chẳng có sanh, nay thấy mọi người v́ cầu cái quả Tất Địa mà siêng hành phương tiện ḥng được thành tựu cái quả ấy. Đă là hữu sanh, hữu quả, sẽ là có làm, sao lại là bất sanh?

          Đáp: Nghĩa ấy chẳng phải vậy. Tánh của chân ngôn, thủ ấn và người tŕ tụng, Thể đồng hư không, sanh ra cái quả cũng giống như thế. Do nhân duyên b́nh đẳng của ba chuyện “chân ngôn, thủ ấn, và Bổn Tôn”, sẽ có thể tịnh ba chướng; từ đấy, sanh ra cái quả chẳng nghĩ bàn. V́ thế, lượng của cái quả chẳng thể nghĩ bàn ấy sẽ chẳng thể được! Như chân ngôn, ấn v.v… bằng với hư không, hăy nên biết cái quả ấy cũng giống như hư không. Cho tới tất cả chân ngôn của Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát v.v… cũng có cùng cái lượng ấy, đều vượt ngoài ba thời. “Ba thời” tức là quá khứ, hiện tại, và vị lai. Do ĺa ba thời, nương vào cái quả Tất Địa ấy, vĩnh viễn chẳng mất đi, chẳng hư hoại, rốt ráo thành Vô Thượng Bồ Đề. Quả duyên sanh khởi tức là duyên theo các duyên như chân ngôn, thủ ấn, Bổn Tôn v.v… trọn đủ, cho nên đạt được thành tựu. Do vậy, lượng ấy chính là Thật Tướng của Trung Đạo b́nh đẳng. Quả có hai loại:

          - Một là pháp có thể thấy, tức là được thành tựu trong đời hiện tại.

          - Hai là pháp chẳng thể thấy, tức là quả báo trong tương lai vĩnh viễn vô tận, đời đời thọ quả, lần lượt thắng tấn măi cho tới khi thành Phật. Nhưng chẳng phải là biểu nghiệp[6], chẳng phải là sắc, chẳng phải là tâm pháp, chẳng có, chẳng mất, nhưng chẳng hư mất. Do nhân duyên thân, ư, nghiệp thanh tịnh mà sanh khởi vô sanh vô tánh ấy (Trên đây là giải đáp nhiều điều, hăy nên kiểm chánh kinh để đối chiếu).

          Kế đó, đáp về quả số (thời hạn của cái quả), thọ lượng [của các Tất Địa] là mấy thời? Thế lực của tất cả chân ngôn của các vị được cơi đời tôn phụng, tột bậc th́ chẳng quá một kiếp. [Tất Địa của chân ngôn] do đức Phật nói vượt ngoài hạn lượng một kiếp, tức là vượt khỏi kiếp này vượt hơn kiếp khác, vô lượng như thế cho tới khi thành Phật. V́ thế, Tất Địa, thọ lượng và cái quả mà người đời đạt được là có ngằn hạn, chẳng vượt khỏi một kiếp. Nay th́ [Tất Địa của chân ngôn xuất thế gian] chẳng mất, thọ lượng vô tận, vượt khỏi hạn lượng một kiếp. Nếu giải thích theo mặt Sự, chỉ tùy sức mà có thể vượt qua chừng ấy kiếp, hoặc trải qua vô lượng kiếp, thọ lượng bất tận, cũng vượt quá các vị trời trong thế gian. V́ thế nói là “siêu kiếp”; đấy chính là lời nói chung, hàm ư bất định. Luận định thọ lượng khít khao sự thật, do vượt ngoài kiếp số thọ báo th́ cũng là chẳng có hạn lượng!

 

          (Kinh) Đại tiên Chánh Đẳng Giác, Phật tử chúng tam-muội, thanh tịnh ly ư tưởng, hữu tưởng vi thế gian, tùng nghiệp nhi hoạch quả, hữu thành thục thục thời. Nhược đắc thành Tất Địa, tự tại chuyển chư nghiệp, tâm vô tự tánh cố, viễn ly ư nhân quả, giải thoát ư nghiệp sanh, sanh đẳng đồng hư không.

          ()大仙正等覺,佛子眾三昧,清淨離於想,有想為世間,從業而獲果,有成熟熟時。若得成悉地,自在轉諸業,心無自性故,遠離於因果,解脫於業生,生等同虛空。

          (Kinh: Các tam-muội của đại tiên, Chánh Đẳng Giác, Phật tử, thanh tịnh, ĺa khỏi tưởng. Hữu tưởng là thế gian, do nghiệp mà đắc quả, có chín muồi, lúc chín. Nếu được thành Tất Địa, tự tại chuyển các nghiệp, do tâm tự tánh, xa ĺa khỏi nhân quả, giải thoát khỏi nghiệp sanh, sanh bằng với hư không).

 

          Kế đó, đáp về tam-muội (Samādhi, Tam Ma Địa), đại lược có nhiều loại. Nếu là tam-muội của các vị Phật, Phật tử (Bồ Tát), chư Phật là bậc đại tiên, th́ đều thanh tịnh, ĺa các tưởng. Hữu tưởng là thế gian, Nhị Thừa th́ là ĺa tưởng. Nếu tam-muội là Du Già trong thế gian, sẽ gọi là hữu tướng tam-muội. Tam Ma ở đây có nghĩa là “đẳng”, c̣n Địa nghĩa là Huệ. Dùng huệ để quán chiếu ba sự như trên đây đều là Không, dùng ba sự có bản thể là Không để b́nh đẳng hợp thành một. Đó gọi là Tam-ma-địa. Nhưng tam-muội của Phật và Bồ Tát đều là ĺa tưởng, thanh tịnh. Dùng tam-muội ấy để chánh quán ba sự đều b́nh đẳng, lại chẳng phân biệt, do ĺa các tưởng, bản tánh thuần bạch, ĺa các ô nhiễm. Do vậy gọi là “thanh tịnh”. Nếu có tưởng, sẽ là hết thảy các tam-muội thuộc thế gian, tức là tùy thuộc cái quả để tu hành. Do mong cái quả mà tu nhân, do có điều mong mỏi, [cho nên] tột bậc là đạt đến Tứ Thiền, Bát Định, chẳng thể cao hơn được nữa! Do vậy, chẳng thanh tịnh. Thanh Văn, Duyên Giác tuy đạt được thanh tịnh, nhưng chưa thể hết thảy đều thanh tịnh, do chưa biết trọn khắp Phiền Năo Chướng và Sở Tri Chướng. Do vậy, chưa thuần tịnh.

          Tam-muội thế gian lại có hai thứ: Một là Đoạn Kiến, hai là Thường Kiến. Nếu là Đoạn Kiến th́ chẳng phân biệt, Thường Kiến sẽ có đôi chút phân biệt. Từ nghiệp đắc quả là có sự thành thục và lúc nào sẽ thành thục, [do vậy, chánh kinh nói “hữu thành thục, thục thời” (có sự thành thục và lúc nghiệp chín muồi)]. Nếu đắc Tất Địa” là đối với nghiệp bèn tự tại xoay chuyển, cần phải thọ cũng được, mà chẳng thọ cũng được! Do tâm vô tự tánh, tâm tánh ĺa nhân quả. Nói “không” tức là “chẳng có”. Đối với tướng giải thoát, nghiệp sanh, sanh v.v… đều như hư không. Khi nghiệp thành tựu và chín muồi, sẽ đắc quả. Nếu đạt được Tất Địa, từ ngay nơi nghiệp mà xoay cái tâm vào vô tánh, quả nhân (cái nhân sanh khởi cái quả) cũng ĺa, giải thoát khỏi nghiệp sanh. “Sanh như hư không” tức là hữu tướng tam-muội trong thế gian giống như là có nghiệp, do ước theo quả báo mà tu, nên gọi là thành tựu. “Đắc” là thành thục, được gọi là Tất Địa. Nếu dùng Thế Gian Không để hồi hướng vô tự tánh nơi cái tâm này, Thể đă là vô tướng, giống như hư không chẳng có ngằn mé. Do vậy, công đức đạt được cũng rộng lớn. Xoay về vô tự tánh nơi cái tâm này, tâm được gọi là Chất Đa (Citta). Chất Đa là giống như các màu sắc trang nghiêm tích tụ, được gọi là Chất Đa. Ví như do các màu tạo thành, tức là chẳng có tự tánh. Đấy chính là cái nhân. Bổn nhân đă là vô tự tánh, hăy nên biết cái quả sanh khởi [bởi cái nhân ấy] cũng là vô tự tánh. V́ lẽ nào vậy? Nếu nhân có sanh, quả sẽ có thể sanh. Nay nhân c̣n phải đợi duyên mà thành, vô sanh, vô tánh, hăy nên biết là “sanh chẳng thể được!” Do nhân lẫn quả đều là như thế, cho nên được giải thoát khỏi nghiệp. Hoặc có người nói rằng: “Nếu là như thế, đó là vô nhân, vô quả, đọa vào Đoạn Diệt Kiến”. Chẳng phải vậy! Chỉ ĺa tánh “sanh bởi nghiệp”! Đă ĺa khỏi sự sanh bởi nghiệp, tức là có sự sanh khởi do pháp tánh bằng với hư không. Do hư không vô biên, hăy nên biết chuyện công đức lợi ích chúng sanh cũng thành tựu vô biên, vô tận. V́ thế, chẳng phải là Đoạn. Trên đây, [đức Phật] dùng kệ để đại lược giải đáp các điều thưa hỏi của ngài Kim Cang Thủ, [tiếp đó], Ngài lại dùng Trường Hàng để nói.

 

          (Kinh) “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Đế thính bỉ mật ấn, h́nh tướng, phu trí thánh thiên chi vị, oai nghiệm hiện tiền, tam-muội sở thú. Như thị ngũ giả, văng tích chư Phật thành Bồ Đề, pháp giới hư không hạnh, bổn sở thệ nguyện độ thoát vô dư chúng sanh giới, vị dục lợi ích an lạc bỉ Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát cố”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”.

          ()復次祕密主諦聽彼密印形相敷置聖天之位威驗現前三昧所趣如是五者往昔諸佛成菩提法界虛空行本所誓願度脫無餘眾生界為欲利益安樂彼真言門修菩薩行諸菩薩故金剛手言如是世尊願樂欲聞

          (Kinh: Lại này Bí Mật Chủ! Hăy lắng nghe mật ấn, h́nh tướng, sự xếp đặt tọa vị của chư thánh, chư thiên [trong Mạn-đồ-la], oai thần, pháp nghiệm hiện tiền, mục tiêu hướng đến của tam-muội. Năm điều như thế là hạnh pháp giới hư không, là bổn thệ nguyện độ thoát chúng sanh giới chẳng sót của chư Phật xưa kia để thành tựu Bồ Đề, v́ muốn lợi ích an lạc các Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát trong Chân Ngôn môn”. Ngài Kim Cang Thủ nói: “Đúng như thế đó, bạch Thế Tôn! Con nguyện ưa thích muốn nghe”).

         

          Nói “phục thứ” (lại này) là do những điều đă nói trước đây có chỗ chưa trọn hết, nay lại tiếp tục nói rơ thêm. V́ thế, bảo là “phục thứ”. “Đế thính” (Lắng nghe) là do pháp này càng sâu dần, là ư chỉ trọng yếu, bí mật, nên lại răn nhắc hăy nghe kỹ. Trong đoạn này, nói đại lược năm sự, tức ấn, sắc, tôn vị, trụ, và tam-muội. “Ấn” là thủ ấn, khế ấn, [ở đây] đổi thành [ư nghĩa] “h́nh tướng”. “Sắc” tức sắp đặt h́nh tướng, phần đoạn sai biệt của Bổn Tôn, chính là vuông, tṛn, bán nguyệt, tam giác v.v… “Tôn vị” là mỗi chỗ thuộc phương vị để trụ [của chư tôn thánh] trong Mạn-đồ-la (tức là thứ tự xếp đặt các vị tôn thánh). “Trụ” là nói tới h́nh tượng của Bổn Tôn. Không chỉ là h́nh vẽ, mà c̣n do chân ngôn, ấn v.v… dẫn khởi, tới ngự nơi bổn tọa (tọa vị của tôn thánh ấy trong Mạn-đồ-la) để tăng thêm oai thần [cho đàn tràng] mà trụ, hiện ra oai thần để chứng nghiệm. “Tam-muội” tức là tùy theo các tướng mạo, oai nghi thượng, trung, hạ, phẫn nộ hay tịch tĩnh, giận dữ hay vui sướng. Thỉnh Bổn Tôn đúng như pháp, đó là dựa vào ấn và h́nh tướng (tức hai thứ “ấn” và “sắc”). Phối trí tôn vị, oai thần linh nghiệm hiện tiền, trụ nơi tam-muội sẽ hướng đến (chính là trụ xứ của mỗi vị). Chỗ để trụ được gọi là “thú”, ư nói “tam-muội thú” (三昧趣, mục tiêu mà tam-muội hướng đến). Phải nói cặn kẽ năm duyên này. C̣n như nói “ngũ thú” th́ Thú () có nghĩa [mỗi đường] khác biệt. Do năm duyên ấy sai khác, cho nên nói là “năm”. Do trọn đủ năm thứ ấy, đối với tất cả các Mạn-đồ-la thế gian và xuất thế gian, đều có thể thông hiểu. Nhưng năm sự ấy chính là do cổ Phật đă thành tối Chánh Giác, các vị Phật thuở trước đă thành Tam Bồ Đề (tức các Phật pháp), là pháp giới hư không hạnh.

          “Pháp giới hư không hạnh” do Thể đồng pháp giới mà thành hạnh Như Lai. Chư Phật nói “bổn nguyện độ hữu t́nh trong các giới chẳng sót” như thế, v́ lợi ích, an lạc các Bồ Tát tu Chân Ngôn môn nên diễn nói. Do vậy, [đức Thế Tôn] răn dạy hăy nên ân cần, chân thật nhận lănh. Ngài Kim Cang Thủ thưa: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Thưa vâng, chúng con muốn được nghe”, tức là đại chúng gồm các vị như ngài Kim Cang Thủ nhiều như số vi trần trong mười thế giới, và các vị như ngài Phổ Hiền nhiều như số vi trần trong mười thế giới được đức Phật răn truyền, đều cùng đồng thanh bạch rằng: “Dụy nhiên, Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. V́ thế, đức Phật lại nói pháp Bí Mật Mạn-đồ-la.

 

          (Kinh) Tối sơ Chánh Đẳng Giác, phu trí Mạn-đồ-la, mật trung chi bí mật, Đại Bi Thai Tạng Sanh, cập vô lượng thế gian, xuất thế Mạn-đồ-la, bỉ sở hữu đồ tượng, thứ đệ thuyết, đương thính.

          ()最初正等覺,敷置漫荼羅,密中之祕密,大悲胎藏生,及無量世間,出世漫荼羅,彼所有圖像,次第說當聽。

          (Kinh: Tối sơ Chánh Đẳng Giác, xếp đặt Mạn-đồ-la, bí mật trong bí mật, Đại Bi Thai Tạng Sanh, và vô lượng thế gian, xuất thế Mạn-đồ-la, tất cả các đồ tượng, thứ tự nói, hăy nghe).

 

          Đức Phật nói: Có Chánh Đẳng Giác Mạn-đồ-la, được xếp vào loại bí mật trong các bí mật, được gọi bằng các danh xưng như Vô Thượng Đại Bi Tạng v.v… Nói “giống như vô lượng Mạn-đồ-la thế gian và xuất thế gian” tức là nói đến Tối Chánh Giác rốt ráo của Như Lai. Nhưng Đại Bi Tạng Sanh này đă được nói trong phần trước, v́ sao nay lại nói? Có khác biệt ǵ chăng? Trong phần trước, tuy nói là “bí mật”, nay lại có “bí mật trong các bí mật”. Nếu chẳng nói pháp này, dẫu thông đạt pháp trước, cũng chẳng thể thành tựu. V́ thế, [pháp này] bí yếu nhất. Nếu hiểu pháp này, hết thảy các Mạn-đồ-la trong thế gian thảy đều sẽ có cùng công dụng, không ǵ chẳng nhập.

 

          (Kinh) Tứ phương phổ châu táp, nhất môn cập thông đạo, Kim Cang ấn biến nghiêm, trung Yết-ma kim cang. Kỳ thượng diệu liên hoa, khai phu hàm quả thật. Ư bỉ đại liên ấn, Đại Không điểm trang nghiêm, bát diệp tất viên chánh. Thiện hảo cụ tu nhụy, thập nhị chi sanh cú, phổ biến hoa đài trung. Kỳ thượng Lưỡng Túc Tôn, đạo sư thành Chánh Giác. Dĩ nhập Mạn-đồ-la, quyến thuộc tự vi nhiễu. Đương tri thử tối sơ, Bi Sanh Mạn-đồ-la, tùng thử lưu chư đàn, các như kỳ bổn giáo, sự nghiệp h́nh Tất Địa, an trí chư Phật tử.

          ()四方普周匝,一門及通道,金剛印遍嚴,中羯磨金剛。其上妙蓮華,開敷含果實,於彼大蓮印,大空點莊嚴。八葉悉圓正,善好具鬚蘂,十二支生句,普遍華臺中。其上兩足尊,導師成正覺,以入漫荼羅,眷屬自圍繞。當知此最初,悲生漫荼羅,從此流諸壇,各如其本教,事業形悉地,安置諸佛子。

          (Kinh: Bốn phía vây trọn khắp, một cửa, đường thông vào. Ấn Kim Cang trọn khắp. Giữa: Yết Ma Kim Cang. Trên đó, hoa sen đẹp, nở x̣e chi chít hạt. Trong ấn sen lớn ấy, chấm Đại Không trang nghiêm, tám cánh ngay, vẹn toàn. Hay khéo đủ tua nhụy. Câu mười hai chi sanh, trọn khắp trong đài hoa. Trên ngự Lưỡng Túc Tôn, đạo sư thành Chánh Giác. Do nhập Mạn-đồ-la, quyến thuộc tự vây quanh. Hăy nên biết tối sơ, Bi Sanh Mạn-đồ-la, từ đấy ra các đàn, mỗi đều như bổn giáo. Sự nghiệp h́nh Tất Địa, xếp đặt các Phật tử).

 

          Để làm pháp này th́ trước hết là làm Mạn-đồ-la h́nh vuông, ranh giới chỉ dùng Yết Ma kim cang trí ấn (chày kim cang kép) để xếp liên tiếp ṿng quanh làm đường ranh, chỉ mở một cửa. Nơi đường thập tự (tức chỗ chính giữa đàn, giao điểm của đường chữ thập) lại đặt thập tự kim cang ấn (chày kim cang kép). Ấn làm giống như trước, chỉ có h́nh chữ thập là khác. Trên kim cang ấn chữ thập ấy, đặt hoa sen ngửa lên, nở một nửa, khiến cho chữ Thập có h́nh dạng như hoa. Trên hoa, lại đặt đóa hoa tám cánh, tức là giống như phương vị của năm vị Phật và bốn vị Bồ Tát trong phần trước (tức năm vị Phật và bốn vị Bồ Tát trong Trung Đài Bát Diệp). Hăy nên dùng tâm để tưởng, ḥng đặt chín điểm, tức là trên đài hoa và tám cánh, mỗi nơi đều tưởng có một chấm. Cái chấm ấy chính là chứng Đại Không. Đó là ư nghĩa “thành Chánh Giác”. Ở trong tám cánh ấy và chính giữa, hăy nên làm Mạn-đồ-la vuông và tṛn, vẽ h́nh tượng Bổn Tôn. Đàn của Phật h́nh vuông, đàn của Bồ Tát h́nh tṛn. Đấy chỉ là hành nhân tự ḿnh làm, không cho người khác thấy.

          Nếu lúc tác pháp, tự ḿnh ngồi ở cửa đàn, tự thực hiện các pháp như quán đảnh v.v… Sau đấy mới có thể làm hết thảy các pháp sự. Chuyện này rất bí mật, chỉ lắng ḷng là làm, chẳng thể diễn tả bằng bút mực được. Lại c̣n ở trên đài, tưởng như Chân Ngôn Vương mười hai chữ trong phần trên, khiến cho các chữ ấy mỗi mỗi đều phân biệt đặt trên đàn. Lại hỏi: “Đặt liên hoàn ư? Theo thứ tự nào?” Lại nói: “Đặt chữ ở trong hoa, tức là vẽ thành hạt sen, hoặc mười, hoặc nhiều hơn, hoặc ít hơn, không sao cả!

          Kinh nói “lưu xuất” [trong câu “tùng thử lưu chư đàn” (từ đấy lưu xuất các đàn)] tức là người liễu giải pháp bí mật này, hết thảy các đàn thế gian và xuất thế gian đều lưu xuất từ đó, thuận theo nghĩa tương ứng bèn có thể hiểu được. Đại lược có bốn loại pháp tạo tác bí mật, chính là “sự nghiệp” (tức là từ đầu tới cuối, thực hiện các thứ sự nghiệp đáng nên làm nơi đàn), “h́nh” (tức là phần đoạn h́nh tướng hiển hiện của Bổn Tôn), Tất Địa (tức là cái quả sẽ thành tựu), “xếp đặt tọa vị” (tức là phương vị để xếp đặt Bổn Tôn). Liễu giải bốn pháp ấy, sẽ thông đạt hết thảy các pháp được lưu xuất. Từ đàn này lưu xuất các đàn, đều nương theo những điều được nói trong bổn giáo (giáo pháp tương ứng với mỗi đàn ấy). [Nói] “Phật tử” nhằm bảo ban các vị ấy, tức là các vị Kim Cang. [“Phật tử”] lại là bốn vị Bồ Tát, tức Phổ Hiền ở phương Tốn (Đông Nam), Văn Thù ở phương Khôn (Tây Nam), Từ Thị (Di Lặc) ở phương Càn (Nam)[7], Quán Âm ở phương Cấn (Tây Bắc). Đó là vị trí của các Ngài. Trong phần duyên khởi xếp đặt các thánh chúng thuộc phần trước, có thể đem ngài Trừ Cái Chướng thay cho đức Quán Âm, hoặc dùng ngài Trừ Nhất Thiết Ác Thú thay thế Văn Thù, ư nghĩa cũng khác, tùy theo công khóa mà dùng theo một cách cũng được. Ở đây, dùng ngài Quán Âm làm chánh yếu. Trên đây là Mạn-đồ-la của đức Tỳ Lô Giá Na đă xong.        

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như Lai Mạn-đồ-la, do như tịnh viên nguyệt, nội hiện thương-khư sắc. Nhất thiết Phật tam giác, tại ư bạch liên hoa, Không điểm vi tiêu xí. Kim cang ấn vi nhiễu, tùng bỉ Chân Ngôn Chủ, châu táp phóng quang minh, dĩ vô nghi lự tâm, phổ biến nhi lưu xuất.

          ()復次祕密主!如來漫荼羅,猶如淨圓月,內現商佉色。一切佛三角,在於白蓮華,空點為幖幟,金剛印圍繞。從彼真言主,周匝放光明,以無疑慮心,普遍而流出。

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như Lai Mạn-đồ-la, dường như trăng tṛn sạch, trong hiện sắc thương-khư. Tam giác hết thảy Phật, ở trên hoa sen trắng. Chấm Đại Không tiêu biểu, kim cang ấn vây quanh. Từ vị Chân Ngôn Chủ, tỏa quang minh trọn khắp. Dùng tâm chẳng lo ngờ, lưu xuất đều trọn khắp).

 

          Kế đó, đầu tiên là Chánh Giác, được nói đầu tiên. Nói về Mạn-đồ-la của chư Phật, tức là Phật Bộ. Làm Phật Bộ Mạn-đồ-la là làm Mạn-đồ-la h́nh tṛn. H́nh tṛn ấy giống như mặt trăng, ở giữa là màu trắng như vỏ ṣ. Trong ṿng tṛn, trước hết, vẽ hoa sen trắng. Trên hoa có h́nh tam giác. Tam giác ấy có màu đỏ, trong đó vẽ tượng Phật (cần phải xét xem là vẽ vị Phật nào). Vẽ chày kim cang vây quanh h́nh tam giác, như trong đồ h́nh.

          Quanh h́nh tam giác, vẽ các chấm để biểu thị. Phía ngoài, vẽ quang minh như tư thế chống cự địch nhân. Ngoài ṿng tṛn, vẽ các chấm quanh ṿng tṛn (ngờ rằng mỗi điểm ấy đều là tọa vị của Bổn Tôn, phải hỏi thêm. Hoặc có thể đặt chữ). Quang minh đều tuôn ra ngoài, tức là quang minh từ trong thân Phật lưu xuất, dần dần truyền ra ngoài h́nh tam giác. Chân Ngôn Chủ chính là Bổn Tôn, khắp thân Ngài có quang minh lưu xuất. Trong đại đàn thuộc phần trước, cũng có ấn tam giác, nhưng cách sử dụng khác với chỗ này. Trong phần trước, chỉ là ấn, ở đây là đặt Phật hoặc đặt ấn [trong h́nh tam giác], tác pháp trọn vẹn hơn đàn trước.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Quán Thế Tự Tại giả, Bí Mật Mạn-đồ-la, Phật tử nhất tâm thính. Phổ biến tứ phương tướng, trung cát tường thương-khư, xuất sanh Bát Đàm hoa, khai phu hàm quả thật. Thượng biểu Kim Cang Huệ, thừa dĩ đại liên ấn. Bố nhất thiết chủng tử, thiện xảo dĩ vi chủng. Đa La, Tỳ Câu Tri, cập dữ Bạch Xứ Tôn, Minh Phi Tư Tài Chủ, cập dữ Đại Thế Chí, chư cát tường thọ giáo, giai tại Mạn-đồ-la, đắc tự tại giả ấn, thù diệu tác tiêu tướng. Hà Da Yết Rị Bà, như pháp trụ tam giác, Mạn-đồ-la vi nhiễu, nghiêm hảo sơ nhật huy, đương tại Minh Vương biên, xảo huệ giả an lập.

          ()復次祕密主!觀世自在者,祕密漫荼羅,佛子一心聽。普遍四方相,中吉祥商佉,出生鉢曇華,開敷含果實。上表金剛慧,承以大蓮印,布一切種子,善巧以為種。多羅毘俱知,及與白處尊,明妃資財主,及與大勢至,諸吉祥受教,皆在漫荼羅,得自在者印,殊妙作標相。何耶揭哩婆,如法住三角,漫荼羅圍繞,嚴好初日暉,當在明王邊,巧慧者安立。

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bí Mật Mạn-đồ-la, của Quán Thế Tự Tại, Phật tử nhất tâm nghe. Tướng phổ biến bốn phương, giữa thương-khư cát tường. Xuất sanh hoa Bát Đàm, nở x̣e chứa quả hạt. Trên đặt kim cang huệ, nâng đỡ ấn sen lớn. Đặt hết thảy chủng tử, thiện xảo làm chủng tử. Đa La, Tỳ Câu Tri, cùng với Bạch Xứ Tôn, Minh Phi Tư Tài Chủ, cùng với Đại Thế Chí, các thọ giáo cát tường, đều trong Mạn-đồ-la, đạt được ấn tự tại, thù diệu để biểu lộ. Hà Da Yết Rị Bà, như pháp trụ tam giác. Vây quanh Mạn-đồ-la, mặt trời mọc nghiêm hảo, ở bên cạnh Minh Vương, bậc xảo huệ an lập).

 

          Kế đó là Liên Hoa Bộ. Làm Mạn-đồ-la h́nh vuông; trong đó, vẽ thương-khư (vỏ ốc lớn). Trên thương-khư có hoa sen, trên hoa sen có chày kim cang. Trên chày kim cang lại có hoa sen. Trên hoa sen, đặt Quán Âm Bồ Tát. Hoặc có thể đặt ấn, hoặc đặt chữ. Trên các ấn, đều đặt chữ chủng tử, tức là trên thương-khư, chày kim cang, và trên hoa. Viện kế tiếp đặt [các vị] như Đại Thế Chí v.v… Vẽ quang minh trọn khắp, đừng sanh ngờ lo. Dùng chủng tử của mỗi vị để khéo xếp đặt ḥng làm chủng tử. Nơi chỗ trống, hăy nên đặt bảy thứ cát tường màu trắng, mỗi mỗi [vị tôn thánh] đều có hai sứ giả. Kinh này chỉ nói đại lược, [chi tiết] được chép riêng đầy đủ trong Quán Âm Bộ Pháp, hăy nên kiểm chứng tường tận riêng. Minh Phi Tư Tài Chủ (Vidyārājñī Bhogavatī) là người có thể tự tại ban cho điều mong cầu. C̣n như các vị Đại Thế Chí v.v…, hăy đúng như pháp mà làm. Vẽ h́nh đức Tự Tại tay cầm ấn để biểu thị tướng đặc trưng. Hăy nên vẽ đặc biệt đẹp đẽ th́ gọi là “đúng như pháp mà làm”. Ngài Mă Đầu (Hayagrīva: Hà Da Yết Rị Bà) trụ trong h́nh tam giác, chỗ thích hợp là vẽ ở trong đàn. Các vị tôn thánh khác cũng là mỗi vị đều có h́nh sắc khác biệt, [và đàn có] h́nh vuông, tṛn, bán nguyệt, tam giác v.v… đều tương xứng, đều như trong Quảng Bổn [đă nói].

          Trong phần trước đă nói cần phải bao gồm năm sự, tức h́nh, sắc, khế ấn, Bổn Tôn và phương vị, chính là những chuyện y. Như vẽ Bổn Tôn, phải nên vẽ Ngài có màu ǵ, h́nh tượng [như thế nào] v.v… Mỗi vị đều có ấn. Đại Bi Tạng Sanh trong phần trước là Gia Hội Đàn (嘉會壇, đàn hội họp tốt lành, tức chư tôn thuộc các bộ được vẽ chung trong một đàn), c̣n đàn ở đây th́ mỗi bộ trong ba bộ đều là đàn riêng. Như đàn của Liên Hoa Bộ ở đây, trung thai là cát tường đàn, lấy đức Quán Âm làm chủ. Phía ngoài phần trung thai chừa chỗ trống, ở phía ngoài chỗ trống, chính là tọa vị thứ hai, đều đặt chư tôn thuộc Quán Âm Bộ. Những nơi khác đều làm như cách tạo Đại Đàn. Nơi chỗ trống cũng đặt mười phương Phật. Nơi tọa vị thứ ba, cũng đặt [các vị tôn thánh thuộc] tám bộ, chuẩn theo phần trước đă nói để biết. Trong h́nh tam giác, giống như ánh sáng lúc mặt trời mọc, tức là khi mặt trời mới mọc, có sắc đỏ pha vàng. “Bên cạnh Minh Vương” [tức là] ở bên cạnh ngài Đại Thế Chí. Kế đó, lại vẽ Mạn-đồ-la của ngài Mă Đầu, đặt trong h́nh tam giác. Ba tầng bên ngoài Mạn-đồ-la cũng đều vẽ h́nh tam giác. Khi làm, ngài Ha Da (Mă Đầu) ở giữa, tức là dời ngài Quán Âm thế chỗ đức Thế Chí, các quyến thuộc khác đều vây quanh. Các vị khác đều hỗ tương thay thế như vậy, có thể suy ra mà biết!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Kim thuyết đệ nhị đàn, chánh đẳng tứ phương tướng, kim cang ấn vi nhiễu, nhất thiết diệu kim sắc, nội tâm liên hoa phu. Đài hiện ca la xa, quang sắc như tịnh nguyệt, diệc dĩ Đại Không điểm, châu táp tự trang nghiêm. Thượng biểu đại phong ấn, ái đăi do huyền vân. Cổ động tràng phan tướng, Không điểm vi tiêu xí. Kỳ thượng sanh mănh diễm, đồng ư kiếp tai hỏa, nhi tác tam giác h́nh. Tam giác dĩ vi chi, quang man tướng châu phổ. Thần triêu nhật huy sắc. Thị trung Bát Đầu Ma, châu chẩn do kiếp hỏa. Bỉ thượng kim cang ấn, lưu tán phát diễm huy. Tŕ dĩ Hồng tự thanh, thắng diệu chủng tử tự. Tiên Phật thuyết thị pháp. Cần Dũng Mạn-đồ-la, Bộ Mẫu, Thương Khế La, cập Kim Cang Bộ Chủ, Kim Cang Câu Sách Chi, đại đức tŕ Minh Vương, nhất thiết giai ư thử, đại Mạn-đồ-la trung, ấn đàn chư Phật tử, h́nh sắc các như thứ, tùy loại nhi tương ứng, chư nghiệp thiện thành tựu.

          ()復次祕密主!今說第二壇。正等四方相,金剛印圍繞,一切妙金色,內心蓮華敷。臺現迦羅奢,光色如淨月,亦以大空點,周匝自莊嚴。上表大風印,靉靆猶玄雲,鼓動幢旛相,空點為幖幟。其上生猛焰,同於劫災火,而作三角形,三角以圍之。光鬘相周普,晨朝日暉色,是中鉢頭摩,朱黰猶劫火。彼上金剛印,流散發焰暉,持以字聲,勝妙種子字。先佛說是法,勤勇漫荼羅,部母商憩羅,及金剛部主,金剛鉤索支,大德持明王,一切皆於此,大漫荼羅中。印壇諸佛子,形色各如次,隨類而相應,諸業善成就。

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Nay nói đàn thứ hai, tướng vuông vắn bốn cạnh. Ấn kim cang vây quanh, hết thảy sắc vàng tốt, chính giữa sen nở x̣e. Trên đài đặt một b́nh, quang sắc như trăng sạch, cũng dùng chấm Đại Không, giáp ṿng tự trang nghiêm. Trên vẽ ấn đại phong, như mây đen nặng dày, tướng tràng phan lay động. Chấm Đại Không tiêu biểu. Trên ấy sanh lửa mạnh, giống như lửa kiếp tai, vẽ trong h́nh tam giác. Vây quanh tướng tam giác, tướng lửa sáng trọn khắp, sắc mặt trời mới mọc. Trong ấy, Bát Đầu Ma (Padma: Hoa sen đỏ), đỏ rực như kiếp hỏa. Trên đó, ấn kim cang, tỏa ra ánh lửa rực. Tiếng chữ Hồng duy tŕ, chữ chủng tử thắng diệu. Cổ Phật nói pháp này. Cần Dũng Mạn-đồ-la, Bộ Mẫu (Māmakī, Mang Măng Kê), Thương Khế La (Vajraśṛṅkhalā)[8], và Kim Cang Bộ Chủ, Kim Cang Câu (Vajrāṅkuśī), Sách Chi (Vajrasūcī, Kim Cang Châm), đại đức tŕ Minh Vương, hết thảy đều trong y. Trong đại Mạn-đồ-la, ấn, đàn, các h́nh sắc, của Phật tử như thế, tùy loại mà tương ứng, các nghiệp khéo thành tựu).

 

          Kế đó, làm Mạn-đồ-la thứ hai, tức là tính từ Liên Hoa Bộ, Liên Hoa Bộ là thứ nhất, tức Kim Cang Bộ là bộ thứ hai. “Ngă chánh tuyên thuyết chi” (ta nay chánh tuyên nói) tức là khéo nói, chẳng trước, chẳng sau, nói theo thứ tự, tức là bộ thứ hai. Mạn-đồ-la này làm thành h́nh vuông, đều dùng chày kim cang [vây quanh], tức là dùng [chày kim cang] ba nhánh đặt liên tiếp vây quanh để làm ranh giới. Trong ṿng vây có màu vàng, chính giữa đặt hoa sen. Trên hoa có cái b́nh. B́nh [có sắc] trắng như ánh trăng. Hoặc dùng chày kim cang đặt vây quanh, hoặc dùng vật khác vây quanh (tức là tùy theo ấn của Bổn Tôn lần lượt đặt chính giữa) th́ cũng vây quanh [ấn ấy] bằng các vật giống như ấn ấy). Trên b́nh có [biểu tượng của] “đại phong”, tức là h́nh bán nguyệt. H́nh ấy như dạng mây đen (như khi mưa, mây giăng bủa, sà xuống thấp, đen ng̣m), có h́nh dạng rủ xuống như lá phan, dáng vẻ như bị gió lớn thổi lay động. Trong h́nh bán nguyệt, vẽ h́nh tam giác như ngọn lửa cháy hừng hực. H́nh tam giác ấy cũng dùng chày kim cang vây quanh. Trong tam giác có màu đỏ như màu mặt trời mới mọc. Trong ấy, vẽ h́nh hoa sen. Sen cực đỏ như màu đại hỏa lúc kiếp tai (tức là màu đỏ đậm, hoặc có thể là đỏ pha sắc đen). Trên hoa, vẽ kim cang (tức là hoặc vẽ h́nh Bổn Tôn, hoặc vẽ h́nh chày kim cang năm nhánh, hoặc vẽ chữ). Từ kim cang ấy, lưu xuất đủ loại quang minh sáng rực như lửa.

          Nếu vẽ h́nh [tôn thánh] th́ nơi tâm [của vị tôn thánh ấy], đặt chữ chủng tử, tức là chữ Hồng. Nếu vẽ ấn (tức vật biểu trưng của vị tôn thánh ấy, như chày kim cang chẳng hạn) th́ tưởng chữ Hồng để tụng gia tŕ. Trên ấn đặt chữ. “Đấy là Mạn-đồ-la của ông”, Phật đích thân nói với ngài Kim Cang Thủ. V́ thế bảo là “Mạn-đồ-la của ông”. Chư Phật thuở trước đều nói, ta cũng nói giống như thế. Các Minh Vương đều được vẽ dựa theo [vị trí của] ṭa ngồi, h́nh, sắc của các Ngài, tức là Kim Cang Mẫu, Kim Cang Châm, Kim Cang Tỏa v.v… Rất nhiều vị Kim Cang quyến thuộc đều dựa theo h́nh sắc Bổn Tôn sai biệt mà hoặc vẽ h́nh, hoặc vẽ ấn, hoặc đặt chữ chủng tử. Mỗi vị đều dựa theo thứ tự tương ứng trong pháp ấy, tức là nhằm thành tựu Tất Địa mầu nhiệm. Đặt ngài Kim Cang Thủ ở trung đài, các [vị tôn thánh trong cùng] bộ loại thuộc viện thứ hai. Ở đây luôn nói là “trung đài”, chuyển thành vô lượng đàn: Vị được nói trước th́ đặt bên phải, vị được nói sau th́ đặt bên trái, tùy theo phương hướng mở cửa [của đàn tràng] để phân định trái và phải.

 

          (Kinh) Phục thứ ngă sở thuyết, Kim Cang Tự Tại giả, vị Hư Không Vô Cấu, Kim Cang Luân cập Nha, Diệu Trụ dữ Danh Xưng, Đại Phẫn cập Tấn Lợi, Tịch Nhiên Đại Kim Cang, tịnh cập Thanh Kim Cang, Liên Hoa cập Quảng Nhăn, Diệu Kim Cang Kim Cang, cập Trụ Vô Hư Luận, Vô Lượng Hư Không Bộ. Thị đẳng Mạn-đồ-la, sở thuyết bạch, hoàng, xích, năi chí hắc sắc đẳng, ấn h́nh cập sở dư, tam kích, nhất cổ ấn. Nhị thủ giai ngũ phong, hoặc chấp kim cang man, tùy sắc loại khu biệt, nhất thiết tác chủng tử. Đại Phước Đức đương tri, Bất Động Mạn-đồ-la, phong luân dữ hỏa câu. Y Niết Rị Để phương, Đại Nhật Như Lai hạ, cập chủng tử vi nhiễu, vi diệu đại huệ đao, hoặc phục quyến sách ấn, cụ huệ giả an bố. Hàng Tam Thế thù dị, vị tại phong luân trung, nhiễu dĩ kim cang ấn, nhi trụ ư tam xứ.

          ()復次我所,金剛自在者,謂虛空無垢,金剛輪及牙,妙住與名稱,大忿及迅利,寂然大金剛,并及青金剛,蓮華及廣眼,妙金剛金剛,及住無戲論,無量虛空步,是等漫荼羅,所說白黃赤,乃至黑色等,印形及所餘,三戟一股印,二首皆五峯,或執金剛鬘,隨色類區別,一切作種子。大福德當知。不動漫荼羅,風輪與火俱,依涅哩底方,大日如來下,及種子圍繞,微妙大慧刀,或復羂索印,具慧者安布。降三世殊異,謂在風輪中,繞以金剛印,而住於三處。

          (Kinh: Lại nữa, ta sẽ nói, đấng Kim Cang Tự Tại, là Hư Không Vô Cấu (Gaganāmala), Kim Cang Luân (Vajracakra) và Nha (Vajradaṃṣṭra), Diệu Trụ (Sūrata) với Danh Xưng (Vikhyāta), Đại Phẫn (Mahābhāga) và Tấn Lợi (Vajrāgra), Tịch Nhiên (Śivavajra), Đại Kim Cang (Mahāvajra), cùng với Thanh Kim Cang (Nīlavajra), Liên Hoa (Vajrapadma) cùng Quảng Nhăn (Viśālanetra), Diệu Kim Cang (Suvajradhara), Kim Cang (Vajra), và Trụ Vô Hư Luận (Aprapañcavihārin), Vô Lượng Hư Không Bộ (Gaganānantavikrama). Các Mạn-đồ-la ấy, nói là trắng, vàng, đỏ, cho đến sắc đen thảy. Ấn, h́nh, các thứ khác, tam kích, chày một nhánh. Hai đầu đều năm nhánh, hoặc cầm tràng kim cang. Tùy sắc loại sai biệt, hết thảy vẽ chủng tử. Đại Phước Đức nên biết: Bất Động Mạn-đồ-la, phong luân cùng hỏa luân. Ở phương Niết Rị Để (Tây Nam), dưới Đại Nhật Như Lai, có chủng tử vây quanh, đại huệ đao vi diệu, hoặc là ấn dây trói, bậc huệ trọn an bài. Hàng Tam Thế khác lạ, ngự ở trong phong luân, ấn kim cang vây quanh, trụ ở trong ba chỗ).

 

          Lại nữa, trong phần trước ta đă nói nhiều danh hiệu khác biệt của các vị Kim Cang. “Tự tại” là đạt được tự tại nơi kim cang. Lại nữa, ở đây nói “ta là Kim Cang Chấp Tự Tại”, như trong Đại Bi Tạng đại hội thuộc phần trước, phía dưới đức Tỳ Lô Giá Na là Bất Động và Hàng Tam Thế, chính giữa [hai vị ấy] vẽ các vị Kim Cang, đều không nêu tên, nay mới liệt kê. V́ thế nói là “phục thứ” (lại nói), [các vị ấy] chính là Hư Không Vô Cấu Kim Cang, Kim Cang Luân, Kim Cang Nha, Tô Lạt Đa Kim Cang (Sūrata, tức Diệu Trụ, hàm nghĩa cùng trụ nơi an ổn), Danh Xưng Kim Cang Đại Phần[9] (ư nói là phần lớn, tức là thể phần của bậc đại tâm chúng sanh), Kim Cang Lợi ([chánh kinh] dịch danh hiệu vị này là Tấn Lợi], nghĩa là ca ngợi Ngài cực bén nhạy). Đàn này đều dùng ấn để làm. Tịch Nhiên Kim Cang (có nghĩa là tịch tĩnh, có ư nghĩa như Niết Bàn), Đại Kim Cang (đây là danh xưng của một vị Kim Cang), Thanh Kim Cang, Liên Hoa Kim Cang, Quảng Nhăn Kim Cang, Chấp Diệu Kim Cang (Suvajradhara), Kim Cang Kim Cang (Vajravajra, trí huệ chỉ dùng kim cang làm danh xưng), Vô Trụ Hư Luận Kim Cang (chánh kinh ghi tên vị này là Trụ Vô Hư Luận), Hư Không Vô Biên Du Bộ Kim Cang (chánh kinh ghi tên vị này Vô Lượng Hư Không Bộ. Trên đây là liệt kê danh xưng. Mỗi vị đều được an trí nơi đại đàn). Các đàn vuông hay tṛn như thế giống như trong phần trên, thuận theo h́nh sắc cũng giống như thế. Dựa theo danh xưng mà vẽ theo thứ tự, hết một ṿng lại trở về khởi đầu. “Bạch, hoàng, xích, hắc v.v…” (trắng, vàng, đỏ, đen) tức là thuận theo thứ tự [được nói trong kinh văn], đầu tiên là màu trắng, kế đó là vàng, kế đó là đỏ, kế đó là đen, theo thứ tự như thế. Và những chỗ không nói, hăy chuẩn theo lệ này để hiểu, tùy theo h́nh sắc từng loại của các Ngài mà làm. Các vị Kim Cang ấy số nhiều vi trần trong mười cơi nước. Trong phần trước, khi nói về các Ngài, có khi nêu ra, có khi không nhắc tới, hoặc là đoạn này có, đoạn kia không có, có thể biết [như vậy].

          Lại nữa, ấn (tức các pháp khí) do các vị Kim Cang ấy cầm, hoặc là [chày kim cang] ba nhánh, hoặc một nhánh (tức kim cang châm), chuẩn theo thứ tự trong phần trước. Đầu tiên là ba nhánh, [vị kế đó là một nhánh], giáp ṿng trở lại từ đầu. Hoặc là [chày kim cang] hai đầu, “hai đầu” tức là [chày] năm nhánh. Ấn này giáp ṿng như h́nh bốn lưỡi liềm, như bốn chày kim cang. Trong đó, có một cái h́nh dạng như chày năm nhánh, nhưng không tách ra. Hoặc là nói “man” (tràng hoa), hoặc là cầm kim cang man. Các vị Kim Cang ấy, mỗi vị đều dùng tên của chính ḿnh làm chân ngôn, tức là dùng chữ tối thượng trong tên gọi ấy làm chữ chủng tử. Kế đó, tùy theo từng chữ riêng hay dùng chung mà đều đặt chữ Hồng nơi tim [các vị Kim Cang]. Thủ ấn của các Ngài th́ thông dụng là Ngũ Cổ Kim Cang Ấn. Bất Động Tôn Mạn-đồ-la th́ phong và hỏa đều có, “phong” là h́nh bán nguyệt, “hỏa” là tam giác. Tức là trong đàn bán nguyệt, vẽ h́nh tam giác. Trong h́nh tam giác, vẽ Bất Động Tôn. Ở phương Nê Lư Để (Niết Rị Để, Nairṛti), tức là vẽ ở phương Tây Nam của đức Tỳ Lô Giá Na Phật. Hoặc “tam thế thắng dị”, tức là [ngài Hàng Tam Thế ngự] ở phương Phong (Tây Bắc), coi đó là chỗ khác biệt, những điều khác đều giống như ngài Bất Động. Ba chỗ đều dùng chày kim cang vây quanh (tức là ấn được [các vị tôn thánh] cầm). “Ba chỗ” tức là hoặc vẽ h́nh, hoặc vẽ ấn, hoặc vẽ chữ, nhưng nếu Bất Động Tôn Mạn-đồ-la được vẽ riêng th́ ngài Bất Động ở chính giữa, đức Tỳ Lô ở phương Đông của trung viện, các vị Kim Cang quyến thuộc khác đều vây quanh trọn khắp.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tiên thuyết Mạn-đồ-la, chư Phật, Bồ Tát mẫu, an trí đàn h́nh tượng, phương chánh, chân kim sắc, kim cang ấn vi nhiễu, tối thắng Mạn-đồ-la, kim đương thị tôn tướng. Bỉ trung đại liên hoa, huy diễm biến hoàng sắc, trung trí Như Lai Đảnh, siêu việt ư trung phần. Nhi chí tam phần vị, ưng tác Như Lai Nhăn, tự trụ quang diễm trung. Biến bố bỉ chủng tử. Thứ nhất thiết Bồ Tát, Đại Như Ư Bảo Tôn, vị bỉ Mạn-đồ-la, viên bạch nhi tứ xuất, biến tịch cực thanh tịnh, măn nhất thiết hy nguyện.

          ()復次祕密主!先說漫荼羅,諸佛菩薩母,安置壇形像。方正真金色,金剛印圍繞,最勝漫荼羅,今當示尊相。彼中大蓮華,暉焰遍黃色,中置如來頂,超越於中分。而至三分位,應作如來眼,自住光焰中,遍布彼種子。次一切菩薩,大如意寶尊,謂彼漫荼羅,圓白而四出,遍寂極清淨,滿一切希願。

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Trước nói Mạn-đồ-la, chư Phật, Bồ Tát mẫu, xếp đặt đàn, h́nh tượng, vuông vắn, màu vàng ṛng, ấn kim cang vây quanh. Mạn-đồ-la tối thắng, nay chỉ bày tôn tướng: Hoa sen to trong ấy, sáng rực, khắp sắc vàng. Giữa đặt Như Lai Đảnh. Vượt khỏi các phần giữa, đến phần vị thứ ba, nên vẽ Như Lai Nhăn, trụ trong vầng lửa sáng. Xếp chủng tử trọn khắp. Kế, hết thảy Bồ Tát, Đại Như Ư Bảo Tôn, tức Mạn-đồ-la ấy, tṛn trắng mà tứ xuất, trọn thanh tịnh tột bậc, thỏa hết thảy mong nguyện).

 

          Kế đó, nói đến Phật Mẫu Mạn-đồ-la. Trong phần trước, sắp xếp mạn-đồ-la, đă biết các vị này kim sắc, chỉ nêu tên, chứ chưa biện định h́nh dạng và ấn, nay nêu ra. Trước hết, kinh dạy tạo Mạn-đồ-la kim sắc, bốn phía dùng chày kim cang vây quanh làm ranh giới. “Tối thượng” ở đây có nghĩa là so sánh với các h́nh dạng của các vị tôn thánh trước đó, tức là sẽ nói từ điều này [để so sánh], chính là Phật Mẫu Mạn-đồ-la thắng thượng nhất trong các đàn. Kế đó, trong Mạn-đồ-la vẽ hoa sen màu vàng có ngọn lửa. Trên sen, vẽ h́nh Phật Đảnh Ấn. Ấn ấy có h́nh như búi tóc trên đỉnh đầu đức Phật, vẽ sao cho đỉnh đầu cao trội. Bên cạnh đó, vẽ h́nh hai con mắt. Nếu vẽ h́nh Phật Mẫu, th́ hăy nên vẽ h́nh Ngài như thiên nữ, nơi tim [của Phật Mẫu] đặt chữ chủng tử. Hoặc có thể chỉ vẽ ấn (tức là h́nh búi tóc trên đỉnh đầu), hoặc chỉ viết chữ cũng được. Nếu Phật Đảnh được xếp ở trung thai, các vị quyến thuộc như Phật Nhăn v.v… vây quanh. Phật luôn ngự trong vầng lửa sáng rực, các chữ chủng tử xếp quanh. Tức là ấn ấy đặt trong lửa rực, ở giữa đặt chủng tử là được. “Xả tam phần vị” tức là [từ tọa vị của Phật Mẫu], bỏ qua ba tọa vị để đặt Phật Nhăn. Trong phần trước đă nói xếp đặt trọn khắp các chữ trong Bồ Tát Bộ, tức là xếp trọn khắp trong đàn. Những điều chưa nói, nay sẽ nói. Phàm là các vị Bồ Tát ấy, đều nên tạo Mạn-đồ-la. Hăy nên tạo h́nh tượng viên minh, sao cho cực trắng sạch. Trong ấy, tạo đài chữ thập. Trên đài là Đại Chân Đà Mạt Ni (Đại Như Ư Bảo Châu), hăy nên đặt các cọc như thể chúng nâng đỡ viên châu. Trên đầu [các cọc ấy], đều đặt Như Ư Châu, đều có quang minh sáng rực như lửa. Vị Bổn Tôn Bồ Tát đặt ở chính giữa chữ thập, các vị Bồ Tát khác được xếp đặt theo thứ tự trong viện kế tiếp. Phía ngoài đặt tám bộ. Cực trắng là màu tịch tĩnh, hăy nên làm sao cho sáng sạch, vắng lặng mà trụ. Các vị Bồ Tát này đều có thể ban cho hết thảy các nguyện.

 

          (Kinh) Phục thứ, ưng đế thính. Thích Ca sư tử đàn, vị Đại Nhân Đà La, diệu thiện chân kim sắc, tứ phương tương quân đẳng, như tiền kim cang ấn. Thượng hiện Ba Đầu Ma, châu biến giai hoàng huy. Đại bát cụ quang diễm, kim cang ấn vi nhiễu. Ca Sa, Tích Trượng đẳng, trí chi như thứ đệ. Ngũ chủng Như Lai đảnh, đế thính kim đương thuyết. Bạch Tán dĩ tán ấn. Cụ huệ giả Thắng Đảnh, vi dĩ đại huệ đao, phổ biến giai lưu quang. Tối Thắng Đảnh luân ấn. Trừ Chướng Đảnh câu ấn. Đại sĩ đảnh kế tướng. Thị danh Hỏa Tụ Ấn. Quảng Sanh Bạt-chiết-la, Phát Sanh dĩ liên hoa, Vô Lượng Thanh thương-khư, quán sát tri tượng loại. Hào tướng Ma-ni châu, Phật Nhăn thứ đương thính. Đảnh kế biến hoàng sắc, vi dĩ Bạt-chiết-la. Vô Năng Thắng Phi ấn, dĩ thủ tŕ liên hoa. Vô Năng Thắng đại khẩu, nhi tại hắc liên thượng.

          ()復次應諦聽,釋迦師子壇。謂大因陀羅,妙善真金色,四方相均等,如前金剛印。上現波頭摩,周遍皆黃暉,大鉢具光焰,金剛印圍繞。袈裟錫杖等,置之如次第,五種如來頂,諦聽今當。白傘以傘印,具慧者勝頂,圍以大慧刀,普遍皆流光。最勝頂輪印,除障頂鉤印,大士頂髻相,是名火聚印。廣生跋折羅,發生以蓮華,無量聲商佉,觀察知像類。毫相摩尼珠,佛眼次當聽,頂髻遍黃色,圍以拔折羅。無能勝妃印,以手持蓮華,無能勝大口,而在黑蓮上。

          (Kinh: Lại nữa, nên lắng nghe! Đàn Thích Ca sư tử, tức Đại Nhân Đà La, khéo đẹp, sắc vàng ṛng. Vuông vắn bốn phương đều, như ấn kim cang trước. Trên vẽ Ba Đầu Ma, sắc vàng chói trọn khắp. Bát to, quang minh rực, kim cang ấn vây quanh. Ca Sa, Tích Trượng thảy, xếp đặt theo thứ tự. Năm loại Như Lai Đảnh, lắng nghe, nay sẽ nói: Bạch Tán dùng ấn lọng. Thắng Đảnh bậc đủ huệ, đao đại huệ vây quanh, tỏa quang minh trọn khắp. Tối Thắng Đảnh: Luân ấn. Trừ Chướng Đảnh: Ấn móc. Búi tóc của đại sĩ, là ấn Hỏa Tụ Đảnh. Quảng Sanh: Chày kim cang. Phát Sanh: Dùng liên hoa. Vô Lượng Thanh: Thương-khư. Quán sát biết h́nh tượng. Hào tướng, Ma-ni châu, Phật Nhăn kế nên nghe. Búi tóc sắc vàng trọn, chày kim cang vây quanh. Ấn Vô Năng Thắng Phi, là tay cầm hoa sen. Vô Năng Thắng: Miệng rộng, ở trên hoa sen đen).

 

          Kế đó, làm Thích Sư Tử Mạn-đồ-la (tức là [Mạn-đồ-la của] Phật Thích Ca, các Phật tử hăy lắng nghe). Hăy nên làm đàn kim cang bốn cạnh sao cho vuông vắn (“kim cang” ở đây chính là kim cang luân đàn h́nh vuông trong ngũ luân được nói ở phần trên, “phổ” () có nghĩa là “vuông vắn”). Đàn ấy màu vàng, hăy làm sao cho tột bậc tươi đẹp. Trong ấy, vẽ chày kim cang (ba nhánh); trên chày đặt hoa sen. Hoa sen màu vàng. Trên hoa đặt bát. Bốn phía của bát đều có quang minh h́nh ngọn lửa. Nếu vẽ h́nh Phật th́ nên vẽ Phật Thích Ca cầm bát, lại vẽ chày kim cang vây quanh. Bên phải đặt ca-sa (tức áo tăng-già-lê), bên trái đặt tích trượng.

          Kế đó là năm vị Phật Đảnh: Đặt ṭa của Bạch Tán Phật Đảnh (Sitātapatra), trên ṭa đặt ấn. Lại dựa theo bổn bộ, giống như Phật Bộ trong hết thảy các phương; hoặc dựa theo sự, tức là như Tức Tai th́ làm đàn h́nh tṛn v.v… Dùng lọng làm ấn (vẽ h́nh) [của Bạch Tán Phật Đảnh]. Thắng Phật Đảnh (Jayoṣṇīṣa) th́ dùng đao vây quanh bốn phía [để làm ấn]. Nếu chỗ nào (kinh điển khác) có nói [cặn kẽ hơn] th́ hăy y theo kinh văn [của bản kinh đó mà vẽ vời]. Quang minh đều túa ra ngoài, ví như sắt nung có ánh lửa chói rực (tức là có ánh sáng nóng đỏ). Tối Thắng Phật Đảnh (Vijayoṣṇīṣa) dùng luân (bánh xe) làm ấn. Trừ Chướng Phật Đảnh (Vikiraṇoṣṇīṣa) dùng cái móc làm ấn ([hàm ư] đập tan). Hỏa Tụ Phật Đảnh (Tejorāśi, vị này đôi khi được phiên âm là Đế Thù La Thí) th́ vẽ h́nh búi tóc trên đỉnh đầu Phật (Đại sĩ hiệu là Kim Cang) [để làm ấn]. Hội Thông Đại Phật Đảnh (Mahodgata) dùng chày kim cang làm ấn, [vị này] chính là A Tỳ Phát Sanh Phật Đảnh. Yết Đa Phật Đảnh (Abhyudgata, có nghĩa là “tối thắng, siêu việt hết thảy”) dùng hoa sen làm ấn. Vô Lượng Âm Phật Đảnh (Anantasvaraghoṣa) dùng kha bối (tức là thương-khư) [làm ấn]. Hăy nên xem xét để biết sắc và loại (tức là như trong phần trước đă nói). Phật Hào Tướng (Ūrṇā) dùng Như Ư Châu làm ấn. Đó gọi là Ấn Mạn-đồ-la.

          Các ấn pháp ấy, quán đảnh, các vật dùng để thành tựu, tức tai v.v… sẽ tùy theo h́nh sắc mà chuyển biến, chẳng được dùng ở đây. Thành tựu th́ đều là dựa theo Bổn Tôn để quan sát h́nh sắc, tánh loại, tức là các màu trắng, vàng, đỏ v.v… Đối với Phật Nhăn, hăy nên làm [ấn tượng trưng cho Ngài] có h́nh búi tóc trên đỉnh đầu đức Phật, hai bên vẽ mắt. Vị Phật Đảnh ấy có màu vàng, dùng chày kim cang vây quanh. Ấn của Vô Năng Thắng Minh Phi (Aparājitā) là “cầm hoa sen” (tức dùng ngón cái và ngón trỏ để nắm lấy hoa, các ngón khác duỗi ra, hai ngón chụm vào nhau nắm hoa th́ đặt trước ngực). Nếu các vị tôn thánh có ấn riêng, hăy theo đúng kinh văn mà vẽ. Nếu kinh văn chẳng nói, hăy dùng ấn chánh yếu của bổn bộ (bộ của vị tôn thánh đó, [chẳng hạn Đại Thế Chí Bồ Tát thuộc Liên Hoa Bộ]), đặt chữ chủng tử trong ấn ấy. Vô Năng Thắng Minh Vương (Aparājita) th́ vẽ ấn là cái miệng đặt trên hoa sen màu đen, tức là vẽ cái miệng có dáng vẻ phẫn nộ, có hai răng nanh chĩa lên. Đối với các vị ấy, nếu đặt Phật Thích Ca ở giữa, các vị như Phật Đảnh v.v… sẽ đặt ở viện kế tiếp. Nếu đối với mỗi vị Bổn Tôn, hễ chọn một vị làm Mạn-đồ-la chủ th́ dời Phật Thích Ca ra ngoài. Những trường hợp khác có thể phỏng theo đó mà biết.

 

          (Kinh) Tịnh cảnh giới chi hạnh, sở vị Tịnh Cư Thiên, trí bỉ chư ấn tướng, Phật tử ưng đế thính. Sở vị Tư Duy Thủ, Thiện Thủ, cập Tiếu Thủ, Hoa Thủ, Hư Không Thủ, họa chi như pháp tắc.

          ()淨境界之行,所謂淨居天,置彼諸印相,佛子應諦聽。所謂思惟手,善手及笑手,華手虛空手,畫之如法則。

          (Kinh: Hạnh cảnh giới thanh tịnh, tức là Tịnh Cư Thiên, đặt ấn tướng của họ. Phật tử nên lắng nghe. Chính là Tư Duy Thủ, Thiện Thủ, và Tiếu Thủ, Hoa Thủ, Hư Không Thủ, vẽ theo đúng pháp tắc).

 

          Lại theo thứ tự nói ấn của Tịnh Cư Thiên (Śuddhāvāsa). Kinh nói “tịnh cảnh hạnh” (hạnh cảnh giới thanh tịnh) tức là dùng Thiền Định làm vị, dùng tịnh làm hạnh. Nay theo thứ tự, liệt kê các ấn:

          - Tư Duy Thủ tức là hơi cong ngón út và ngón áp út hướng vào ḷng bàn tay, ba ngón kia duỗi x̣e ra, theo thế dựa nhau, hơi nghiêng đầu. Co tay hướng vào phía trong, dùng ngón trỏ chỉ vào má.

          - Thiện Thủ th́ [kết ấn] Thí Vô Úy, dùng tay phải hay trái đều được, có ư nghĩa diệu hảo.

          - Tiếu Thủ tức là xoay ấn Tư Duy Thủ trong phần trước đặt trước tim, sao cho ba ngón hướng lên trên.

          - Hoa Thủ: Dùng ngón trỏ bấm lấy ngón cái như cầm hoa, duỗi ba ngón kia. Ba ngón ấy hoặc ngửa ḷng bàn tay duỗi ra, hoặc dựng bàn tay hướng thẳng lên đều được.       

          - Hư Không Chưởng (tức Hư Không Thủ trong chánh kinh) th́ nghiêng tay phải, x̣e các ngón ra hướng lên không trung.

          Pháp tắc để vẽ là dựa theo cách [được nói] ở đây để vẽ. Các vị trời vẽ thành dáng vẻ tươi cười hoặc suy nghĩ, hoặc [trong tư thế] ban cho các ước nguyện đều được!

 

          (Kinh) Địa Thần ca la xa, viên bạch kim cang vi. Thỉnh triệu Hỏa Thiên ấn, đương dĩ Đại Tiên Thủ. Ca Nhiếp, Kiều Đáp Ma, Mạt Kiến Noa, Kiệt Già, Bà Tư, Nghê Lạt Bà, các như kỳ thứ đệ. Ưng họa Vi Đà thủ, nhi cư hỏa đàn nội. Diễm Ma Đản Trà ấn, thường xử phong luân trung. Một Lật Để linh ấn. Hắc Dạ kế-đô ấn, Lạo Đạt La thâu-la, Đại Phạm Phi liên hoa, Câu Ma Lợi thước-để, Tỳ Sắt Nữ luân ấn. Đương tri Diễm Ma Hậu, dĩ một-yết-la ấn. Kiều Phệ Ly Da Hậu, dụng kiếp-bạt-la ấn. Như thị đẳng giai tại, Phong Mạn-đồ-la trung. Ô, thứu, cập Bà Thê, dă can đẳng vi nhiễu. Nhược dục thành Tất Địa, y pháp dĩ đồ chi. Niết Rị Để đại đao, Tỳ Nữu thắng diệu luân, Cưu Ma La thước-để, Nan Đồ, Bạt Nan Đà, mật vân dữ điện câu, giai cụ thanh đàm sắc, giáp phụ môn sương vệ, tại Thích Sư Tử đàn. Thương Yết La tam kích, Phi tác bát chi ấn. Nguyệt Thiên ca la xa, tịnh bạch liên hoa phu. Nhật Thiên kim cang luân, biểu dĩ dư lộ tượng. Xă Da, Tỳ Xă Da, đương tri đại lực giả, câu dĩ đại cung ấn, tại Nhân Đà La luân. Phong phương phong tràng ấn. Diệu Âm nhạc khí ấn. Phược Rô Noa quyến sách, nhi tại viên đàn trung. Nhữ Đại Ngă ưng tri, chủng tử tự hoàn nhiễu. Như thị đẳng tiêu chí, như thứ Mạn-đồ-la, Thích Sư Tử quyến thuộc, kim dĩ lược tuyên thuyết.

          ()地神迦羅奢,圓白金剛圍,請召火天印,當以大仙手。迦攝驕答摩,末建拏竭伽,婆私倪剌婆,各如其次第。應畫韋陀手,而居火壇。閻摩但茶印,常處風輪中。沒栗底鈴印,黑夜計都印,澇達羅輸羅,大梵妃蓮華。俱摩利鑠底,毘瑟女輪印,當知焰摩后,以沒揭羅印。嬌吠離耶后,用劫跋羅印。如是等皆在,風漫茶羅中,烏鷲及婆栖,野干等圍繞。若欲成悉地,依法以圖之,涅哩底大刀,毘紐勝妙輪。鳩摩羅爍底,難徒跋難陀,密雲與電俱,皆具清潭色,夾輔門廂衛,在釋師子壇。商羯羅三戟,妃作鉢胝印。月天迦羅奢,淨白蓮華敷。日天金剛輪,表以輿輅像。社耶毘社耶,當知大力者,俱以大弓印。在因陀羅輪,風方風幢印,妙音樂器印,縛嚕拏羂索,而在圓壇中。汝大我應知,種子字環繞,如是等標誌,如次漫荼羅,釋師子眷屬,今已略宣

    (Kinh: Địa Thần: B́nh làm ấn, trắng, sạch, kim cang quanh. Ấn thỉnh vời Hỏa Thiên, nên dùng tay Đại Tiên. Ca Nhiếp (Kāśyapa), Kiều Đáp Ma (Gautama), Mạt Kiến Noa (Mārkaṇḍa), Kiệt Già (Garga), Bà Tư (Vasiṣṭha), Nghê Lạt Bà (Aṅgira), đều theo đúng thứ tự. Nên vẽ tay Vi Đà (Veda), đều ở trong đàn lửa. Diễm Ma: Ấn Đản Trà (daṇḍa: gậy), thường ở trong phong luân. Một Lật Để (Mṛtyu): Linh ấn. Hắc Dạ (Kālarātri): Tràng làm ấn. Lao Đạt La (Rudra): Thâu-la (śūla: chĩa ba), Đại Phạm Phi (Brahmāṇī): Hoa sen. Câu Ma Lợi (Kaumārī): Thước-để (śakti: giáo), Tỳ Sắt Nữ (Vaiṣṇavī): Luân ấn. Nên biết Diễm Ma Hậu (Yamī), dùng ấn một-yết-la (mudgara, chùy). Kiều Phệ Ly Da Hậu (Kauberī), dùng ấn kiếp bạt la (kapāla: Chén làm bằng xương đầu lâu). Như thế đều ngự tại, trong Phong Mạn-đồ-la. Quạ, ưng và kên kên, chó rừng thảy vây quanh. Nếu muốn thành Tất Địa, theo đúng pháp vẽ vời. Niết Rị Để (Nairṛti): Đao lớn. Tỳ Nữu (Viṣṇu): Luân thắng diệu. Cưu Ma La (Kumāra): Thước-để. Nan Đồ, Bạt Nan Đà (Nanda, Upananda): Mây dầy cùng tia chớp. Thân đều màu đầm trong. Canh giữ bên cạnh cửa, trong đàn Thích Sư Tử. Thương Yết La (Śaṃkara): Tam kích. Phi hậu: n Bát Chi (paṭṭiśa, cái giáo có ba mũi nhọn). Nguyệt Thiên (Candra) dùng cái b́nh, sen trắng sạch nở x̣e. Nhật Thiên (Āditya): Kim cang luân, biểu thị bằng xe cộ. Xă Da, Tỳ Xă Da (Jayā, Vijayā), hăy biết bậc đại lực, dùng cung to làm ấn, trong Nhân Đà La luân. Phương Phong (Tây Bắc): Ấn tràng gió. Diệu Âm (Sarasvatī): Nhạc khí ấn. Phược Rô Noa (Varuṇa): Dây trói, ở trong đàn h́nh tṛn. Đại Ngă, ông nên biết: Chữ chủng tử vờn quanh. Các tiêu chí như thế, thứ tự Mạn-đồ-la, quyến thuộc Thích Sư Tử, đă tuyên nói đại lược).

 

    Kế đó là ấn của Địa Thần, làm b́nh báu, đặt trong ṿng tṛn màu trắng. B́nh ấy cắm các thứ báu, hạt lương thực, hoa, quả v.v… để trang nghiêm, vẽ chày kim cang vây quanh. Ấn thỉnh triệu Hỏa Thiên th́ nên duỗi nghiêng tay phải, đốt thứ ba của ngón trỏ hơi cong, lại cong đốt trên cùng của ngón cái hướng vào ḷng bàn tay. Nếu trước là để thẳng rồi gập ngón th́ là Thỉnh Triệu. Nếu trước đó là cong gập, sau đó bèn duỗi thẳng, tức là Tống Tiễn. Hăy nên vẽ các vị đại tiên vây quanh, tức là như Ca Diếp, Cù Đàm Tiên v.v… đều vẽ kế đó, đều thuộc vào Hỏa Viện. Hỏa Viện chính là đàn tam giác, phía trong là màu đỏ, c̣n gọi là Xích Viện (viện màu đỏ). Ấn ấy giống như trong phần trước khi nói đến ngũ thông tiên nhân có nhắc tới Tứ Vi Đà ấn. Đấy là ghi chép bí mật của bậc phạm hạnh. Nếu người tụng Vi Đà thấy thủ ấn đó, sẽ biết là luận nào, bộ nào v.v…

          Cù Đàm Tiên (hành dục trong hư không, có hai giọt tinh [rơi xuống] làm bẩn đất, sanh ra hai con là Địa Cam Giá (Ikṣvāku) và Nhật Chích (Sūryavaṁśa), tức là [thủy tổ] của hoàng tộc họ Thích Ca). Mạt Kiến Noa (vị này tọa Thiền, kiến làm tổ bên thân. Sợ tổn thương kiến, lại nhập Định). Kiệt Già Tiên (tên núi, do dựa theo chỗ ở mà thành tên). Phạ Tư Tiên (Vasiṣṭha, chánh kinh phiên là Bà Tư, tức Bà Tẩu tiên nhân trong các bản dịch cũ), Ương Kiệt La Tư (Aṅgira, chánh kinh phiên âm là Nghê Lạt Bà, có nghĩa là “mồ hôi nơi thân”. Vị tiên này chẳng sanh bằng bào thai, mà sanh từ mồ hôi, nên có tên gọi như vậy). Diêm Ma Vương ở phương Nam, hăy nên làm phong đàn. Trong đàn, vẽ Đản Đồ ấn (Daṇḍa, như đối với ấn, đàn ấy, một góc hướng về thân [của vị A-xà-lê], một góc hướng ra ngoài, hoặc thuận tiện cho vị ấy mà xếp đặt). Bên phải của nhà vua, vẽ Tử Hậu (Mṛtyu), dùng linh (chuông lắc) làm ấn. Nếu vẽ h́nh th́ [hăy vẽ tay vị ấy] cầm linh. Bên trái, vẽ Hắc Ám Hậu (Kālarātri), dùng tràng làm ấn. “Tràng” trong tiếng Phạn là Kế Đô (ketu, cũng là một loại cờ).

          Đại Tự Tại Phẫn Nộ th́ vẽ ấn thâu-la (śūla: chĩa ba). Phía sau Đại Tự Tại Tử, vẽ thước-để ấn. Đại Phạm Thiên Minh Phi Ấn th́ cầm ấn hoa sen, tức là búp sen chưa nở. Na La Diên th́ là luân ấn (bánh xe). Thất Mẫu cùng dùng Một Nghiệt La ấn. Ấn này chính là [ấn Một-yết-la (Mudgaram, chùy) được nói trong chánh kinh]. Câu Phệ Ly Da có ấn là miếng xương h́nh vuông trên đỉnh đầu Tỳ Sa Môn. Đối với miếng xương đầu ấy, dùng dáng vẻ của Tiếu Thủ để giữ (tức là cong các ngón áp út và ngón út vào ḷng bàn tay, duỗi ba ngón kia như h́nh dạng của Tiếu Thủ Ấn để cầm mảnh xương đầu, như dáng vẻ đang cầm bát). Quyến thuộc của Thất Mẫu là chim kên kên, cáo, và quạ Bà Thê (Bhāsa, giống như chim Chí (diều hâu), màu đất vàng nhạt, mỏ cũng vàng, thuộc loài Kên Kên. Loại chim này có pháp ẩn thân). Bọn chúng đều ở trong phong luân, vây quanh Thất Mẫu (Phàm thuộc bộ loại Diêm Vương th́ đều ở trong phong luân). Nếu cầm hoa [tán rải để cúng dường Bổn Tôn mà hoa rơi trúng] các loài chim ấy th́ cũng tŕ chân ngôn của Thất Mẫu. Các vị này đều có pháp tŕ tụng riêng, nay vào trong hội Mạn-đồ-la này, cố nhiên đều dùng để trang nghiêm.

          Ở phương Nê Rị Để (Niết Rị Để: Tây Nam), hăy nên vẽ đại đao ấn. Na La Diên Thiên (Tỳ Nữu Thiên) th́ vẽ luân ấn (giống như trên). Câu Ma La th́ vẽ Thước Để ấn (vị này là con của Đại Tự Tại Thiên). Anh em rồng Nan Đà th́ vẽ vân ấn (ấn có h́nh đám mây, trong mây có tia chớp, lại có h́nh nước. Họ đều ở bên cạnh cửa đàn). Thương Yết La [th́ ấn] là tam kích (cái kích có ba nhánh). Thương Yết La Hậu có ấn là bát-trí (paṭṭiśa, cái giáo có ba mũi nhọn). Nguyệt Thiên th́ ấn là cái b́nh trắng có cắm hoa sen. Nhật Thiên th́ ấn là cỗ xe, ở trong kim luân (tức là cái đàn h́nh vuông). Xă Da và Tỳ Xă Da, vẽ ấn là cái cung (cũng ở trong kim cang luân. Bên cạnh cung phải có mũi tên). Phong Thiên th́ vẽ ấn là phong tràng. Diệu Âm Thiên th́ vẽ ấn là đàn tỳ bà. Rồng Phạ Rô (Varuṇa) th́ ấn là dây trói. Giống như trên, làm Mạn-đồ-la, dùng chủng tử của chính vị tôn thánh ấy vây quanh. “Đại Ngă” tức là [danh xưng đức Phật dùng để] gọi ngài Chấp Kim Cang vậy. Trên đây là nêu đại lược các ấn kư. Nếu thực hiện đầy đủ th́ như trong pháp đă nói, tức là mỗi vị đều có chân ngôn và hành pháp riêng. Trên đây là hành pháp thuộc bộ loại Thích Ca đă xong.

 

          (Kinh) Phật tử thứ đế thính, Thí Nguyện Kim Cang đàn, tứ phương tương quân phổ, vệ dĩ kim cang ấn. Đương ư bỉ trung tác, Hỏa Sanh Mạn-đồ-la. Nội tâm phục an trí, diệu thiện thanh liên ấn, trí giả Mạn Thù Âm, bổn chân ngôn vi chi, như pháp bố chủng tử, nhi dĩ vi chủng tử. Phục ư kỳ tứ ng, nghiêm sức dĩ thanh liên, đồ tác Cần Dũng chúng, các như kỳ thứ đệ. Quang Vơng dĩ câu ấn. Bảo Quan tŕ bảo ấn. Vô Cấu Quang đồng tử, thanh liên nhi vị phu, Diệu Âm cụ đại huệ. Sở thuyết chư sứ giả, đương tri bỉ mật ấn. Các như kỳ sở ưng. Kế Thiết Ni đao ấn, Ưu Ba thâu-la ấn. Chất Đát La trượng ấn, Địa Huệ dĩ tràng ấn. Bỉ chiêu triệu sứ giả, dĩ ương-câu-thi ấn. Nhất thiết như thị tác, vi dĩ thanh liên hoa. Sở hữu chư phụng giáo, giai Khương Yết Lê ấn.

          ()佛子次諦聽,施願金剛壇,四方相均普,衛以金剛印。當於彼中作,火生漫荼羅,內心復安置,妙善青蓮印。智者曼殊音,本真言圍之,如法布種子,而以為種子。復於其四傍,嚴飾以青蓮,圖作勤勇眾,各如其次第。光網以鉤印,寶冠持寶印,無垢光童子,青蓮而未敷。妙音具大慧,所說諸使者,當知彼密印,各如其所應。髻設尼刀印,優波輸羅印,質怛羅杖印,地慧以幢印,彼招召使者,以鴦俱尸印,一切如是作,圍以青蓮華。所有諸奉教,皆羗揭梨印。

          (Kinh: Phật tử! Kế lắng nghe, đàn Thí Nguyện Kim Cang: Bốn phía đều vuông vắn. Chày kim cang bảo vệ. Hăy nên làm trong ấy, Hỏa Sanh Mạn-đồ-la. Chính giữa lại xếp đặt, hoa sen xanh đẹp khéo. Trí giả Mạn Thù Âm (Mañjughoṣa), chân ngôn Ngài vây quanh, đúng pháp xếp chủng tử, dùng để làm chủng tử. Lại ở khắp bốn mặt, dùng sen xanh trang hoàng. Vẽ các vị Cần Dũng, đều theo đúng thứ tự: Quang Vơng ấn là móc, Bảo Quan cầm ấn báu. Vô Cấu Quang đồng tử, sen xanh c̣n chưa nở. Diệu Âm đủ đại huệ. Nói tới các sứ giả, nên biết ấn của họ, mỗi mỗi đều đúng lẽ. Kế Thiết Ni: Đao ấn, Ưu Ba: Thâu-la ấn. Chất Đát La: Trượng ấn, Địa Huệ: Tràng làm ấn. Vị Chiêu Triệu Sứ Giả, dùng móc câu làm ấn. Làm hết thảy như thế, đều dùng hoa sen xanh. Tất cả các phụng giáo, ấn là Khương Yết Lê[10]).

 

          Tiếp đó, nói về Bồ Tát Mạn-đồ-la (Đây là các tọa vị Bồ Tát thuộc tầng thứ hai của đại đàn). Văn Thù Mạn-đồ-la h́nh vuông, dùng chày kim cang vây quanh giống như trên (túa ra lửa). Ở bên trong là h́nh tam giác. Trong h́nh tam giác, vẽ ấn hoa sen xanh, có chữ chủng tử. Tụng niệm, tưởng chữ trọn khắp trong đó. Đặt chữ chân ngôn trong ấy (chẳng phải chỉ là đặt bên trong, mà c̣n đặt ở bốn bên). Phía bên trong h́nh tam giác, gần ŕa của đàn, vẽ hoa sen xanh nhạt giáp ṿng để bao quanh ấn hoa sen xanh to. Sở dĩ vẽ ấn là để biết nghĩa thú nơi pháp môn của vị tôn thánh ấy, đều tùy theo h́nh sắc của mỗi ấn mà quán, ḥng biết ư nghĩa bí mật. Đúng như pháp, chọn lấy chữ chủng tử để làm chủng tử, tức là xếp đặt các chữ ấy để làm chữ chủng tử. Ở trong ấy (tức chính giữa các chữ chủng tử tương ứng), vẽ ấn đó. Theo thứ tự mà lần lượt vẽ. Cần Dũng tức là Văn Thù (chánh kinh nói “Cần Dũng chúng” tức là các quyến thuộc của ngài Văn Thù, như Quang Vơng đồng tử, Bảo Quan đồng tử, Vô Cấu Quang đồng tử, sứ giả Kế Thiết Ni v.v…), nói là “thanh liên chủng tử” v.v… theo đúng pháp mà lần lượt làm, đều tùy theo h́nh sắc mà quán, ḥng biết ư nghĩa bí mật.

          Quang Vơng đồng tử (Jālinīprabha) th́ vẽ ấn là cái móc (nếu vẽ h́nh tượng của Ngài, th́ vẽ tay Ngài cầm cái móc). Bảo Quan đồng tử (Ratnamukuṭa) cầm báu làm ấn. Vô Cấu Quang đồng tử (Vimalaprabha) cầm hoa sen xanh chưa nở. “Sở thuyết sứ giả” tức là [nhắc đến] các vị sứ giả được nói trong Văn Thù Bộ. Người tŕ tụng hăy tương ứng mà biết ấn của mỗi vị ấy. Dùng pháp tương ứng để làm, tức là [nói các Ngài có h́nh dạng như] đồng nữ trong phần sau. “Trí giả” tức là bản thân ngài Văn Thù, cũng có thể gọi là “bậc đủ đức”. Kế Thiết Ni (Keśinī) dùng đại đao làm ấn. Tiểu Kế Thiết Ni (tức Ưu Ba Kế Thiết Ni, Upakeśinī) th́ ấn là Thâu-la (śūla, chĩa ba). Tạp Sắc Sứ Giả (Citrā, chánh kinh phiên âm là Chất Đát La) dùng trượng làm ấn. Địa Huệ (Vasumatī) dùng tràng làm ấn. Chiêu Triệu Sứ Giả (Ākarṣaṇī) dùng cái móc làm ấn. Trên đây đều [vẽ h́nh dạng các ngài] như đồng nữ (bé gái). Các vị phụng giáo sứ giả đều vẽ ấn là tiểu đao (như trong kinh nói và đồ h́nh). Đao ấy vẽ thành h́nh răng cưa; nói là “tiểu đao” th́ chẳng phải là dịch sát nghĩa. Những vị được vẽ trên đây đều được vẽ ấn trong cái đàn h́nh vuông, dùng hoa sen xanh vây quanh. Trên đây là quyến thuộc của bộ loại Văn Thù thuộc phương Đông. Nếu ngài Văn Thù ở trung thai, các vị Bồ Tát khác sẽ ở tầng thứ hai, bát bộ thuộc tầng thứ ba; những điều khác đều phỏng theo lệ này.

 

          (Kinh) Phục thứ, Nam phương ấn, Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, đại tinh tấn chủng tử, vị Chân Đà Ma Ni, trụ ư hỏa luân trung, dực tùng đoan nghiêm chúng. Đương tri bỉ quyến thuộc, bí mật chi tiêu chí. Thứ đệ ưng đồ họa, ngă kim quảng tuyên thuyết. Trừ Nghi dĩ bảo b́nh, trí nhất cổ kim cang. Thánh giả Thí Vô Úy, tác Thí Vô Úy thủ. Trừ Nhất Thiết Ác Thú, phát khởi thủ vi tướng. Cứu Ư Huệ Bồ Tát, bi thủ thường tại tâm. Đại Từ Sanh Bồ Tát, ưng dĩ chấp hoa thủ, Bi Niệm tại tâm thượng, thùy khuất hỏa luân thủ. Trừ Nhất Thiết Nhiệt Năo, tác thí chư nguyện thủ. Cam lộ thủy lưu chú, biến tại chư chỉ đoan, cụ bất tư nghị huệ, tŕ Như Ư Châu thủ, giai trụ liên hoa thượng, tại Mạn-đồ-la trung.     

          ()復次南方印,除一切蓋障,大精進種子,謂真陀摩尼,住於火輪中,翼從端嚴眾,當知彼眷屬,祕密之標誌。次第應圖畫,我今廣宣。除疑以寶瓶,置一股金剛,聖者施無畏,作施無畏手,除一切惡趣,發起手為相。救意慧菩薩,悲手常在心。大慈生菩薩,應以執華手,悲念在心上,垂屈火輪手;除一切熱惱,作施諸願手,甘露水流注,遍在諸指端;具不思議慧,持如意珠手,皆住蓮華上,在漫荼羅中。

          (Kinh: Lại ấn ở phương Nam. Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, chủng tử đại tinh tấn, là Chân Đà Ma Ni, trụ ở trong ṿng lửa. Chúng đoan nghiêm chầu hầu. Nên biết các biểu trưng, bí mật quyến thuộc Ngài. Thứ tự nên vẽ theo, ta nay rộng tuyên nói. Trừ Nghi dùng b́nh báu, cắm kim cang một nhánh. Thánh giả Thí Vô Úy, kết ấn Thí Vô Úy. Trừ Nhất Thiết Ác Thú: Dùng tướng tay phát khởi. Cứu Ư Huệ Bồ Tát, tay Bi thường tại tim. Đại Từ Sanh Bồ Tát, nên dùng tay cầm hoa. Bi Niệm tay nơi tim, rủ cong gập ngón giữa. Trừ Nhất Thiết Nhiệt Năo, kết ấn Thí Chư Nguyện. Nước cam lộ tuôn rót, trọn khắp các đầu ngón. Đủ huệ chẳng nghĩ bàn, tay cầm Như Ư Châu, đều ở trên hoa sen, ngự trong Mạn-đồ-la).

 

          Phương Nam là Trừ Cái Chướng Bồ Tát, dùng châu Như Ư làm ấn, cũng làm kim cang luân h́nh vuông. Trong đó, lại làm đàn h́nh tam giác (bèn gọi là “hỏa luân”), nói là tương đương báu Như Ư. “Tận đại tinh tấn” (trọn hết sự tinh tấn to lớn) là chủng tử. Đă nói là “báu Như Ư” th́ hăy nên trong h́nh tam giác, vẽ Như Ư Châu, quyến thuộc vây quanh. Đối với các vị Bồ Tát dưới đây, đều nên dùng quyến thuộc để vây quanh, hăy nên biết ấn tướng của họ. Nay nói rộng về các quyến thuộc. Đối với các vị quyến thuộc trong ấy, hăy nên vẽ ấn của các Ngài theo thứ tự th́ sẽ đúng pháp.

          Ấn của Trừ Nghi Quái Bồ Tát (tức Kiều Đô, Kautūhala) là kim cang ấn (tức chày kim cang), nói “b́nh” tức là vẽ cái b́nh, trên có cắm chày kim cang một nhánh, một nửa chày ở trong b́nh. Vô Úy Thí Bồ Tát (Abhayaṃdada) th́ kết Thí Vô Úy ấn (giống như ấn của Phật Thích Ca trong Du Già). Trừ Ác Thú Bồ Tát (Sarvāpāyaṃjaha) th́ vẽ tay Phát Khởi (tức là duỗi tay, ngửa ḷng bàn tay hướng xuống dưới, nâng cánh tay lên). Cứu Ư Huệ Bồ Tát (Paritrāṇāśayamati) th́ vẽ Bi thủ đặt ở nơi tim, tức là ngón áp út bấm vào ngón cái, đặt ngang tim. Các ngón khác x̣e ra, hai ngón bấm vào nhau th́ hướng vào tim). Đại Từ Bi Khởi Bồ Tát (Mahāmaitryabhyudgata) th́ vẽ Chấp Hoa Ấn (tức là ngón cái bấm vào ngón trỏ như đang cầm hoa, các ngón khác duỗi ra dựng lên). Bi Niệm Bồ Tát (Karuṇām-ṛḍita), gập ngón giữa hướng vào tim, các ngón khác đều x̣e ra). “Tri giả” là nói tới danh xưng của vị Bồ Tát này. Trừ Nhiệt Năo Bồ Tát (Sarvadāhapraśāmin) kết Dữ Nguyện Ấn (duỗi tay cho ḷng bàn tay ngửa lên, đưa tay hướng xuống dưới, tuôn rót nước cam lộ. Nói “chỉ đẳng” tức là các ngón tay). Bất Tư Nghị Cụ Huệ Giả Bồ Tát (Acintyamati) kết Tư Duy Ấn (giống như thế tay của Như Ư Luân Bồ Tát, cũng giống như ấn [Tư Duy Thủ] của Tịnh Cư Thiên trong phần trước), trọn đủ trí huệ chẳng thể nghĩ bàn! Trên đây đều làm thành đàn vuông, đặt trên hoa sen (tức là vẽ các thủ ấn ấy [đều ở trên hoa sen]). Đó là quyến thuộc của ngài Trừ Cái Chướng, các nghĩa khác như đă nói trong đàn Văn Thù.

 

          (Kinh) Bắc phương Địa Tạng Tôn, mật ấn thứ đương thuyết. Tiên tác trang nghiêm ṭa, tại Nhân Đà La đàn, đại liên phát quang diễm, gián thác bị chúng sắc. Ư bỉ kiến đại tràng, đại bảo tại kỳ đoan. Thị danh vi tối thắng. Mật ấn chi h́nh tượng. Phục đương ân cần tác, thượng thủ chư quyến thuộc, vô lượng vô số chúng, bỉ chư Mộ Đạt La. Bảo Tác ư bảo thượng, tam cổ kim cang ấn. Bảo Chưởng ư bảo thượng, nhất cổ kim cang ấn. Tŕ Địa ư bảo thượng, nhị thủ kim cang ấn. Bảo Ấn Thủ bảo thượng, ngũ cổ kim cang ấn. Kiên Ư ư bảo thượng, Yết Ma kim cang ấn. Nhất thiết giai ưng trụ.

          ()北方地藏尊,密印次當,先作莊嚴座,在因陀羅壇,大蓮發光焰,間錯備眾色。於彼建大幢,大寶在其端,是名為最勝,密印之形像。復當慇懃作,上首諸眷屬,無量無數眾,彼諸慕達羅。寶作於寶上,三股金剛印;寶掌於寶上,一股金剛印;持地於寶上,二首金剛印;寶印手寶上,五股金剛印;堅意於寶上,羯麼金剛印;一切皆應住。

    (Kinh: Phương Bắc Địa Tạng Tôn, mật ấn kế sẽ nói. Trước làm ṭa trang nghiêm, trong Nhân Đà La đàn[11], sen to tỏa sáng rực, nhiều màu sắc xen kẽ. Trong đó, dựng tràng lớn, báu lớn đặt đầu tràng. Đó gọi là “tối thắng”. H́nh tượng của mật ấn. Lại nên ân cần làm, các quyến thuộc thượng thủ, vô lượng vô số chúng, Mộ Đạt La (mudra: Thủ ấn) của họ: Bảo Tác ngự trên báu, ấn kim cang ba nhánh. Bảo Chưởng ngự trên báu, ấn kim cang một nhánh. Tŕ Địa ở trên báu, ấn kim cang hai đầu. Bảo Ấn Thủ trên báu, chày kim cang năm nhánh. Kiên Ư ở trên báu, ấn chày kim cang kép. Hết thảy đều nên trụ).

 

    Ấn của Địa Tạng Bồ Tát ở phương Bắc, ở trong Nhân Đà La Luân. Trong kim cang luân, vẽ báu, đó gọi là “trước hết đặt ṭa ở trong ấy”. Trang nghiêm mặt đất. Trên mặt đất, vẽ hoa sen có đủ màu sắc. Trên hoa, vẽ tràng, đầu tràng đặt báu. Chẳng vẽ h́nh tướng, chỉ vẽ tràng. Nếu vẽ ấn này, [hăy vẽ sao cho] màu sắc đẹp đẽ nhất. Đó là h́nh tướng, được gọi là “tối thượng h́nh”, đáng tán thán. Trong các ấn, đó là tối thượng thù thắng, mầu nhiệm nhất. Vị Bồ Tát này có vô lượng quyến thuộc, nay nói đại lược các vị thượng thủ của Ngài. Như phía bên trái là ấn của Bảo Tác Bồ Tát (Ratnākara), vẽ ấn trong ấy, hết sức trân trọng mà vẽ chày kim cang ba nhánh nằm ở phía trên bảo châu. Chỉ vẽ ấn trên đất báu. Nếu vẽ h́nh tượng [toàn thân Bồ Tát] th́ cũng là ngồi trên hoa sen, giống như cách vẽ Địa Tạng Bồ Tát. Bảo Chưởng Bồ Tát (Ratnapāṇi) th́ vẽ chày kim cang một nhánh. Đặt chày kim cang ấy ở phía trên bảo châu. Tŕ Địa Bồ Tát (Dharaṇiṃdhara) th́ vẽ chày kim cang hai đầu đặt trên bảo châu (trong mỗi đầu lại có năm nhánh, h́nh dạng như ấn trước). Bảo Ấn Thủ Bồ Tát (Ratnamudrāhasta) th́ vẽ ấn là chày kim cang năm nhánh, đặt trên bảo châu (tức là chày kim cang Ngũ Phật). Kiên Ư Bồ Tát (Dṛḍhādhyāśaya) th́ là chày kim cang chữ thập (tức Yết Ma Kim Cang, chày kim cang kép). Hết thảy các vị trên đây đều được an trí trong Mạn-đồ-la ấy, đều là ở trong phạm vi của h́nh vuông, vẽ đất báu. Trên mặt đất, đặt bảo châu, trên bảo châu có ấn vậy!

 

          (Kinh) Bỉ Mạn-đồ-la trung, Tây phương Hư Không Tạng, viên bạch, duyệt ư đàn, đại bạch liên hoa ṭa, trí đại huệ đao ấn. Như thị kiên lợi nhẫn, phong nhuệ do băng sương, tự chủng tử vi chủng, trí giả đương an bố, cập họa chư quyến thuộc. Ấn h́nh như pháp giáo, Hư Không Vô Cấu Tôn, ưng đương dĩ luân ấn. Luân tượng tự vi nhiễu, cụ túc tại phong đàn. Hư Không Huệ thương-khư, tại Phong Mạn-đồ-la. Thanh Tịnh Huệ bạch liên, tại Phong Mạn-đồ-la. Hạnh Huệ chi ấn tướng, đương dĩ xa cừ b́nh, thượng sáp thanh liên hoa, tại Phong Mạn-đồ-la, An Huệ kim cang liên, tại Phong Mạn-đồ-la. Lược thuyết Phật bí tạng, chư tôn mật ấn cánh.

          ()彼漫荼羅中。西方虛空藏,圓白悅意壇,大白蓮華座,置大慧刀印。如是堅利刃,鋒銳猶氷霜,自種子為種,智者當安布,及畫諸眷屬,印形如法教。虛空無垢尊,應當以輪印,輪像自圍繞,具足在風壇;虛空慧商佉,在風漫荼羅;清淨慧白蓮,在風漫荼羅;行慧之印相,當以車𤦲瓶,上插青蓮華,在風漫荼羅;安慧金剛蓮,在風漫荼羅。略說佛祕藏。諸尊密印竟。

    (Kinh: Trong Mạn-đồ-la ấy, phương Tây, Hư Không Tạng, đàn tṛn trắng, đẹp ư. Ṭa hoa sen trắng to, đặt ấn đại huệ đao. Mũi cứng bén như thế, nhọn sắc như băng, sương. Chủng tự Ngài làm chủng, người trí nên xếp đặt. H́nh ấn như pháp dạy, và vẽ các quyến thuộc. Ấn h́nh như pháp giáo, Hư Không Vô Cấu Tôn, nên dùng luân làm ấn. H́nh luân tự vây quanh. Trọn đủ trong phong đàn, Hư Không Huệ: Thương-khư, trong Phong Mạn-đồ-la. Thanh Tịnh Huệ: Sen trắng, trong Phong Mạn-đồ-la. Ấn tướng của Hạnh Huệ, nên là b́nh xa cừ, trên cắm hoa sen xanh, trong Phong Mạn-đồ-la. An Huệ: Sen kim cang, trong Phong Mạn-đồ-la. Lược nói Phật bí tạng, mật ấn chư tôn xong).

 

          Kế đó, Hư Không Tạng Bồ Tát ở phương Tây, tức là Bộ Chủ ở phương Tây của hội Văn Thù. Làm đàn tṛn, sao cho sáng sạch, tươi tắn. [Hư Không Tạng Bồ Tát] ngồi trên sen trắng, tay cầm đao. Nếu không vẽ h́nh Bồ Tát th́ chỉ vẽ đao, đao ấy cực bén như sương. Nói “hựu như thị” (lại như thế) tức là nói “cứng chắc, bén nhọn như thế”. Lại c̣n kiên cố, dùng chữ chủng tử để vây quanh [đao ấy]. Trí giả dùng chữ chủng tử để làm chủng tử, tức là xếp đặt chữ chủng tử gốc. Kế đó, liệt kê các vị thượng thủ Bồ Tát quyến thuộc, tức là vẽ h́nh ấn của các Ngài đúng như trong pháp giáo, tức là đều theo đúng lời dạy mà làm.

          Hư Không Vô Cấu Bồ Tát (Gaganāmala) cũng dùng “bổn” vây quanh, lại dùng “luân” để vây quanh. “Bổn” tức là chính ḿnh. Ấn vẽ thành luân (tức là ṿng tṛn do bốn lưỡi đao ghép thành), dùng luân vây quanh [các chữ]. Ở trong phong đàn là ấn của Hư Không Huệ Bồ Tát (Gaganamati), tức là đặt thương-khư trong phong đàn (tức cái đàn có h́nh bán nguyệt). Thanh Tịnh Huệ Bồ Tát (Viśuddhamati), th́ vẽ ấn là hoa sen trắng, đặt ở trong phong đàn. Kế đó là ấn của Hạnh Huệ Bồ Tát (Cāritramati), trong phong luân đặt thương-khư, trong thương-khư cắm hoa sen xanh. Ấn của An Huệ Bồ Tát (Sthiramati) th́ trong phong luân vẽ hoa, trên hoa đặt chày kim cang,

          Các vị này đều ở trong Đại Bi Tạng Đại Đàn. Hội Văn Thù gồm bốn vị Bồ Tát, tùy ư dùng vị Bồ Tát nào làm chủ để đặt trong trung đàn [cũng được]. Các vị khác sẽ dựa theo phương vị mà xếp ở viện thứ hai, c̣n viện thứ ba th́ đặt tám bộ. Lại nữa, nếu là viện thứ hai trong Đại Bi, giả sử lấy Quán Âm làm Bộ Chủ th́ Kim Cang Bộ và Phật Đảnh đều dựa theo phương vị mà xếp vào viện thứ hai. Kế đó, hăy nên biết, viện thứ ba để đặt tám bộ, chớ nên đặt các vị Bồ Tát thuộc hội Văn Thù tại đó. Nếu là hội Thích Ca th́ giống như trên đă nói. Các điều đă nói này chính là ư nghĩa nhất định, chuyện này lại cần phải thẩm định. Phẩm Bí Mật Mạn-đồ-la đă xong.

          Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần mười hết

 



[1] Trí chấp vào một bên, hoặc hai bên, rơi vào nhị biên (có, không, thật, giả, tốt, xấu…) nên gọi là Biên Trí.

[2] Vua Tỳ Lưu Ly là con trai của vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La (Kośala). Vua Ba Tư Nặc xin ḍng họ Thích Ca gả cho ḿnh một hoàng nữ làm vợ. Hoàng tộc Thích Ca cho rằng vua Ba Tư Nặc không xứng với họ, bèn chọn một cô nữ tỳ xinh đẹp, đặt tên là Phược Sa Bà Sát Lợi (Vāsabhakhattiyā, có thuyết nói bà này tên là Mạt Lợi - Mallika), nói dối đó là con gái của hoàng tử Ma Ha Nam (vị này là anh trai của ngài A Nậu Lâu Đà, và là vị vua cuối cùng của ḍng họ Thích Ca). Khi c̣n bé, Tỳ Lưu Ly về thăm quê ngoại, bị đám vương tôn trong ḍng họ Thích Ca dè bỉu, khinh bỉ là con của tỳ nữ, là hạng hạ tiện. Tỳ Lưu Ly căm tức, thề khi làm vua, sẽ tuyệt diệt toàn bộ ḍng Thích Ca để trả hận. Khi tṛn hai mươi tuổi, ông ta đă đảo chánh, đuổi vua cha lưu vong, giết chết anh là thái tử Kỳ Đà để lên ngôi vua, phát động chiến tranh, tấn công Ca Tỳ La Vệ, tiêu diệt ḍng họ Thích Ca. Sau đó, Tỳ Lưu Ly đắm say tửu sắc, say rượu ngủ mê bên bờ sông (có thuyết nói là đang ngủ trên du thuyền) th́ bị mưa băo nhấn ch́m. Từ đó, nước Kiều Tát La bị vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà xóa tên trên bản đồ.

[3] Theo Phật Quang Sơn Đại Từ Điển, ấn này có tên gọi đầy đủ là Như Lai Nhất Thiết Chi Phần Sanh Ấn. Ấn này cũng chính là ấn của Phổ Hiền Bồ Tát. Chi Phần Sanh có nghĩa là sanh từ thân thể của chư Phật, tức là nói đến Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền chính là nội đức của Bồ Tát tâm, là trưởng tử của Như Lai, nên Ngài được gọi là Chi Phần Sanh. Ấn này có h́nh dạng như đóa sen nở x̣e, tức là chắp hai tay lại, dùng hai ngón tay cái duỗi ra, dựng lên, đầu ngón hơi cong. Chân ngôn của ấn này là: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám ác sa ha”. Đây cũng là ấn thứ năm được nói trong phẩm Bí Mật Bát Ấn của kinh này.

[4] Theo sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, trên cơi trời có cây Như Ư, thuận theo ư muốn của chư thiên mà khiến họ thỏa nguyện. Do vậy, cây này được gọi là Thiên Ư Thụ.

[5] Do chỗ này hơi khó hiểu, xin mạn phép giải thích như sau: Trong ngoại hộ-ma (tức là hộ-ma thuộc về sự tướng) sẽ gồm có ba yếu tố cấu thành: Bổn Tôn (tức đối tượng mà hành nhân sẽ dâng cúng), chân ngôn (phải hiểu là ḷ lửa dùng để hộ-ma), và ấn (chỗ ngồi của vị A-xà-lê thực hiện pháp hộ-ma). Chứ không phải là chân ngôn và ấn theo nghĩa thông thường. Chánh kinh gọi ba thứ ấy là “tam vị”. Mỗi vị trong tam vị, lại có ba thứ là Bổn Tôn, chân ngôn và ấn (trong trường hợp này, chân ngôn và ấn lại hiểu theo nghĩa thông thường, tức là minh chú và thủ ấn).

[6] Biểu nghiệp là nghiệp có thể biểu thị ra ngoài, như những động tác nơi thân, người khác có thể trông thấy, nhận biết, đó là thân biểu nghiệp. Những lời lẽ thốt ra rơ ràng khiến cho người khác nghe thấy, đó là ngữ biểu nghiệp. Câu Xá Tông cho rằng chỉ có hai loại biểu nghiệp nơi thân và ngữ, nhưng Đại Thừa Pháp Tướng Tông cho rằng ư cũng có biểu nghiệp, tuy người khác không thể thấy khởi tâm động niệm của ta, nhưng do những ư niệm đó hiển hiện rành rẽ trong tự tâm nên cũng gọi là ư biểu nghiệp.

[7] E rằng đây là sai sót trong khi khắc ván, v́ bốn vị Bồ Tát nằm ở bốn góc, chứ không ở chính phương (tức các phương Đông, Tây, Nam, Bắc). Do ba vị kia đă lần lượt ở ba góc Đông Nam, Tây Nam, và Tây Bắc, Di Lặc Bồ Tát chỉ có thể ở góc Đông Bắc, tức tương ứng với phương Chấn trong Hậu Thiên Bát Quái.

[8] Kim Cang Thương Khế La tức là Kim Cang Tỏa. Đây là một vị nữ Bồ Tát hóa thân của Bất Không Thành Tựu Phật. Thân Ngài có màu xanh, có tám tay và ba mặt. Mặt chính giữa tươi cười, mặt bên phải có màu nâu, mặt bên trái có màu đỏ thể hiện vẻ phẫn nộ. Các tay Ngài lần lượt cầm dây xích có hai đầu là h́nh chày kim cang, kết ấn TVô Úy, chày kim cang, mũi tên, chén kappala (chén làm bằng xương đầu lâu chứa đầy máu), dây tḥng lọng, và cây cung.

[9] Chánh kinh gọi vị này là Đại Phẫn.

[10] Khương Yết La (khaṅgari) là một loại dao. Trong Mật giáo, loại dao này được vẽ hoặc tạc thành h́nh dạng có cán là chày kim cang, lưỡi to, cong ṿng như h́nh trăng khuyết.

[11] Nhân Đà La Đàn là đàn tràng h́nh vuông.