Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần 12

大毘盧遮那成佛經疏

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          “Nhược thời Bồ Tát khởi tham tâm nhi thủ chi, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hữu thoái Bồ Đề phần, ư vô vi pháp Tỳ Ni hữu quá dă” (Nếu lúc Bồ Tát phát khởi tâm tham mà lấy, này Bí Mật Chủ! Bồ Tát sẽ thoái thất Bồ Đề phần, phạm lỗi đối với pháp Tỳ Ni vô vi): Bồ Tát phát khởi tâm tham mà lấy, tức là [phạm] giới thứ hai (giới “chẳng cho mà lấy”). Đối với hết thảy các vật thuộc về người khác, ư nghĩa [phạm giới] như trong Tỳ Ni đă rộng nói. Cho đến chẳng sanh một niệm tâm chạm vào hay lấy, thậm chí đối với Bồ Đề c̣n chẳng sanh tâm ham muốn, huống hồ tạo phương tiện để đụng chạm hay giữ lấy [vật dụng của người khác] ư? Nhưng Bồ Tát có phương tiện đụng chạm hay lấy [vật thuộc về người khác], tức là thấy có chúng sanh chẳng tin nhân quả, chẳng chịu xả thí, đối với tất cả mọi vật đều khăng khăng giữ chặt, chẳng thể tự ĺa, lại c̣n sanh tâm như thế này: “Chỗ nào mà có phước bố thí chớ!” Do v́ như vậy, [Bồ Tát dùng] đủ loại phương tiện để hướng dẫn, khuyến hóa [kẻ ấy hành bố thí], mà đều chẳng thể được. Lúc đó, Bồ Tát dùng phương tiện, lấy trộm các vật ấy, cũng chẳng sanh tâm gom [các thứ ấy] về ḿnh, chỉ v́ kẻ đó mà [dùng những món vật ấy để] làm đủ loại phước sự, dùng phương tiện để chèo kéo, khiến cho kẻ đó trông thấy, khiến cho kẻ đó phát tâm hy hữu: “Vị đại sĩ này chẳng tiếc nuối các món vật, có thể đem cho người khác. Ta tự xét ḿnh chẳng sánh bằng!” Dần dần như thế, Bồ Tát lại phương tiện nói lợi ích do bố thí cho chúng sanh, có quả báo như thế này, như thế nọ. Kẻ đó dần dần có thể tin phục, cũng đối với vật mà chính ḿnh chẳng thể xả [mà khởi tâm bố thí]. Sau đó, Bồ Tát xét thấy tâm kẻ đó đă dần dần thông thái, bèn đúng như pháp, bảo rằng: “Vật trước kia ta dùng để bố thí chính là vật của ông! Do ông chẳng thể tự dùng, giống như thâu hoạch ngũ cốc mà chẳng gieo trồng nữa, ắt sẽ dẫn đến túng thiếu. Phước trước đă hết, lại chẳng có ǵ để trông mong, cho nên ta v́ ông mà sử dụng. Nay phước do bố thí trước kia đều là của ông. Như cổ Phật đă nói: ‘Hễ thí, sẽ đạt được các thứ lợi ích to lớn như sắc, lực mầu nhiệm, an ổn, vô ngại biện tài v.v…’ Chớ bảo là vô phước!” Do nhân duyên ấy, khiến cho người đó thoát khỏi nạn ngạ quỷ, ác đạo, tạo thành cái nhân Bồ Đề.

          Hăy nên biết: Bồ Tát do trọn đủ huệ phương tiện, có thể làm chuyện ấy, chứ Nhị Thừa và ngoại đạo chẳng có! “Tùy loại” là có một loại chúng sanh như thế, hăy nên dùng cách ấy để giáo hóa. Lại c̣n tùy theo từng loại, không chỉ là phương tiện ấy, mà cũng có phương tiện vô ngại hay khéo. Nói tóm lại, do có thể khai tri kiến của Phật cho họ mà có sự hướng dẫn, chứ chẳng v́ chuyện ǵ khác. Tướng này rất nhiều, chẳng thể nói trọn! Hăy nên dựa theo trường hợp này để suy ra, nêu lên một trường hợp để đại diện cho nhiều trường hợp; [từ đó], sẽ có thể suy ra các trường hợp tương tự.

          “Bồ Tát hại kỳ xan” (Bồ Tát hại ḷng keo tham của kẻ ấy): “Hại” có nghĩa là “đối trị”, như nói “vĩnh hại tùy miên” (vĩnh viễn trừ khử tùy miên)[1]. Nay cũng giống như thế, “hại” ḷng keo kiệt của kẻ đó. Nhưng vị Bồ Tát y thật sự chẳng sanh tâm tham vật, tự lấy. Nếu lấy, tức là gây hại cho chi phần Bồ Đề. Do tâm tham ấy, gây hại cho cái duyên thành Chánh Giác, khiến cho các chi phần chẳng trọn đủ. V́ thế nói là “hại”. Đó là “vượt Tỳ Nại Da của Bồ Tát” vậy! Tỳ-kheo Thảo Kết[2] nói: “Giới do đức Phật chế, ta chẳng dám tháo lỏng”. Hữu vi giới là phương tiện tu hành, nên nói là “hữu vi giới”, nhưng vô vi giới chính là bản tánh giới, chẳng phải do tu thành! Do đối ứng với phương tiện có tạo tác ấy, nên gọi là hữu vi, nhưng quán sâu xa th́ sẽ giống như vô vi giới, do chẳng ĺa môn chữ A.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tŕ bất tà dâm giới, nhược tha sở nhiếp, tự thê, tự chủng tộc tiêu tướng sở hộ, bất phát tham tâm, huống phục phi đạo nhị thân giao hội, hữu dư phương tiện, tùy sở ưng độ, nhiếp hộ chúng sanh.

          ()復次祕密主菩薩持不邪婬戒若他所攝自妻自種族標相所護不發貪心況復非道二身交會有餘方便隨所應度攝護眾生

    (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới chẳng tà dâm, nếu là người thuộc sở hữu của người khác, vợ của chính ḿnh, người được thủ hộ bởi chủng tộc của chính ḿnh, hay có dấu hiệu thủ hộ, bèn chẳng khởi tâm tham, huống hồ lại c̣n đôi bên ăn nằm trái đạo! Nhưng cũng có các phương tiện khác, do thuận theo lẽ đáng độ mà nhiếp thọ, thủ hộ chúng sanh).

         

          Kế đó, giới “bất tịnh hạnh”, tức là Bồ Tát tŕ giới “chẳng tà hạnh” (trong ấy có phạm tội trọng, đều là có ư nghĩa “giữ ǵn chẳng phạm”. Do chẳng khác, nên chẳng chú thích). Đối với kẻ thuộc về người khác, người được chủng tộc của chính ḿnh thủ hộ, hoặc đặt dấu hiệu thủ hộ (tức là như ni chúng chính là những người được chủng tộc của chính ḿnh thủ hộ), chẳng sanh ḷng tự tham (đó là nói chuyện trong tâm), huống hồ hai thân ḥa hợp (ăn nằm) trái đạo ư? Có phương tiện lạ thuộc về chuyện h́nh sắc, chủng loại, chuẩn theo cách nói trong phần trên [đối với các giới kia], cũng như cách đối đăi với các loại sắc tướng khác như nhị h́nh (người có hai căn). Đây là giới thứ ba.

          [Giải thích cặn kẽ th́] “tha sở nhiếp” (thuộc về người khác) tức là như tất cả vợ, con gái, chị em gái của người khác, như mười loại thủ hộ[3] được nói trong Luật v.v… Nhưng Bồ Tát có hai thứ: Nếu là người xuất gia, hết thảy dục tâm c̣n chẳng được sanh khởi, c̣n bàn ǵ đến [các trường hợp] được người khác thủ hộ và phi thời[4] v.v… Nhưng cũng v́ để hiểu rơ giới tướng, nên luật nói cặn kẽ. Nếu là tại gia Bồ Tát, đối với vợ của chính ḿnh mà [ăn nằm] phi thời, liền gọi là “tà hạnh”, trong phần Thi La Ba La Mật của Trí Độ Luận đă nói cặn kẽ.

          Lại nữa, “phi thời, phi xứ” (chẳng đúng lúc, chẳng đúng chỗ) là như [hành dâm ở] gần tháp, hoặc chỗ của bậc đáng tôn trọng, chỗ lộ rơ th́ đều là [“phi xứ”]. Do ở chỗ sáng rơ chính là đối trước thiên thần v.v… Do vậy, cũng ngăn cấm. “Tự chủng tộc” tức là cùng họ th́ chẳng lấy nhau v.v… Lại nữa, Tộc (, Zú) đọc như âm Sở (, Chǔ), cũng có nghĩa là “tiêu xí” (標幟, biểu tượng, tượng trưng, cờ quạt). Như trong pháp của phương Tây (Ấn Độ), nếu người nữ buôn bán nữ sắc, do được quan chức chấp thuận, có người cho kẻ đó ngần ấy vật dụng, [ước hẹn] chừng bao lâu đó, cô ta sẽ thuộc về người đó. Khi cô ta đă có người [đặt mua rồi], liền đặt biển hiệu nơi cửa nhà cho người khác biết. Người khác trông thấy, liền biết cô ta đă có người che chở. Nếu cố ư xâm phạm, sẽ giống như tà hạnh. [Trường hợp này được chánh kinh gọi là “tiêu tướng”]. “Tự chẳng phát ḷng tham” nghĩa là chẳng nên tương ứng với ư niệm tham nhiễm, huống hồ hành dâm trái đạo, khác hẳn chuyện ḥa hợp chánh đáng [giữa vợ chồng] ư?

          Nhưng có phương tiện lạ nhằm thành tựu cái nhân Đại Bồ Đề cho người khác, bèn có ư nghĩa “phạm giới”, chẳng giống với Thanh Văn. Như Đại Bổn Bồ Tát Giới nói có Bồ Tát từ lúc sanh ra đă hành hạnh Đồng Chân, chưa từng trông thấy nữ sắc mà sanh tâm chấp trước, tu đạo trong núi rừng. Mười tám năm sau, do Ngài vào thôn khất thực, có đứa bé gái trông thấy vị ấy đoan nghiêm, đẹp đẽ, sanh dục tâm, bảo rằng: “Tôi sanh ḷng ham muốn sâu đậm đối với nhân giả. Nhân giả hành diệu hạnh chính v́ lợi ích hết thảy. Nếu tôi chẳng được thỏa nguyện, sợ rằng sẽ đến nỗi mất mạng, tức là trái bổn nguyện của nhân giả, làm hại chúng sanh vậy”. Vị Bồ Tát ấy quở trách đủ mọi lỗi hại của dục, cô ta trọn chẳng bỏ [ư niệm ấy]. Do chẳng được thỏa nguyện, cô ta bèn chết ngất. Khi đó, thân thuộc của cô ta nghĩ rằng: “Gă này ắt là Dạ Xoa, tướng mạo khác người, con gái ta trông thấy liền ngă lăn ra đất, chẳng phải là hắn đoạt mất tinh khí của nó ư?” Họ cùng cầm đao, gậy bắt trói, sắp làm hại [vị Bồ Tát tỳ-kheo ấy]. Cô gái chốc lát tỉnh lại, thấy vậy, thưa với cha mẹ trọn đủ nhân duyên. Họ nói: “Là lỗi của con gái, chẳng phải là tội của tỳ-kheo”. Họ liền thả tỳ-kheo đi. Cô gái lại truy đuổi không ngừng. Tỳ-kheo nghĩ rằng: “Nếu cô ta không được thỏa mong cầu, ắt sẽ tự táng mạng mà đọa ác đạo”. Liền thuận theo ư nguyện của cô ta, dành nhiều thời gian ḥa hợp. T́m lúc cô ta ít ham muốn, bèn dùng pháp để khuyên lơn, dẫn dắt, thuyết pháp nhằm tạo lợi ích cho cô gái đó. Do yêu kính [tỳ-kheo] sâu xa, [cô ta] liền vâng mạng, cùng tu phạm hạnh, thành tựu pháp lợi to lớn.

          Vị Bồ Tát ấy chỉ v́ phương tiện đại bi, có thể nhẫn nại sự hèn kém ấy, chẳng phải do tham dục lôi kéo mà làm hạnh phi pháp. Nếu chẳng do đại bi, chỉ dùng tâm dục tà hạnh để làm, sẽ chính là phạm giới này. [Bồ Tát có thể hành phương tiện như thế] tức là do trọn đủ phương tiện trí. “Tùy loại” tức là nói tới nghĩa trước, giống như giới trộm cắp, cho nên chẳng nói rộng, cứ phỏng theo đó mà biết. Như kinh nói: “Quần tặc tróc đắc Khẩn Na La nữ thí Bồ Tát, thọ chi, nhân thử đắc tài, vô lượng thời hành thí” (Lũ giặc bắt được Khẩn Na La nữ, thí cho Bồ Tát, [Bồ Tát] nhận lấy. Do vậy, được tài vật, trong vô lượng thời hành bố thí). Lại như Mỹ Phát Bồ Tát (Bồ Tát tóc đẹp) khất thực, nữ nhân trông thấy ngất xỉu, v́ bảo vệ người nữ đó (trong trường hợp trước là do cái nhân bị nghi là Dược Xoa, c̣n ở đây là do nghĩ tới Bồ Đề tâm, chẳng xả chúng sanh), sợ [cô ta] ĺa Bồ Đề tâm, bèn nhận cô ta làm vợ. Lâu sau, khuyên dạy [cô ta] cùng phát đạo tâm, quyến thuộc cũng phát tâm sanh lên trời (đó là hạnh phương tiện thiện xảo để diệt tội).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tận h́nh thọ tŕ bất vọng ngữ giới, thiết vị hoạt mạng nhân duyên, bất ưng vọng ngữ, tức vị khi cuống chư Phật Bồ Đề. Bí Mật Chủ! Thị danh Bồ Tát trụ ư tối thượng Đại Thừa. Nhược vọng ngữ giả, việt thất Phật Bồ Đề pháp. Thị cố, Bí Mật Chủ! Ư thử pháp môn, ưng như thị tri, xả ly bất chân thật ngữ.

          ()復次祕密主菩薩盡形壽持不妄語戒設為活命因緣不應妄語即為欺誑諸佛菩提祕密主是名菩薩住於最上大乘若妄語者越失佛菩提法是故祕密主於此法門應如是知捨離不真實語

    (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát trọn hết tuổi thọ giữ giới “chẳng nói dối”, dẫu v́ nhân duyên để sống sót, chớ nên nói dối. [V́ nói dối] chính là lừa dối Bồ Đề của chư Phật. Bí Mật Chủ! Đó gọi là Bồ Tát trụ trong Đại Thừa tối thượng. Nếu nói dối sẽ là trái vượt, đánh mất pháp Bồ Đề của Phật. V́ thế, Bí Mật Chủ! Trong pháp môn này, hăy nên biết như thế, bỏ ĺa lời chẳng chân thật).

 

          Kế đó, tŕ giới “chẳng nói dối”. Cho đến hết tuổi thọ, chẳng v́ giữ mạng mà nói dối. Tŕ giới “chẳng nói dối” hăy nên là giữ cho đến hết tuổi thọ. Dẫu v́ để sống sót, vẫn chớ nên nói dối, [v́ nói dối] sẽ trở thành lừa dối Phật Bồ Đề. Bí Mật Chủ! Đó gọi là Bồ Tát trụ trong Đại Thừa tối thượng. Nếu nói dối, tức là trái vượt Bồ Đề của Phật. Do vậy, Bí Mật Chủ! Hăy nên biết pháp môn này như thế. Xả nghiệp vọng ngữ, chớ nên làm! [V́ nếu nói dối], sẽ lừa dối Bồ Đề của chư Phật. Bí Mật Chủ! Đại Thừa tối thượng của Bồ Tát, nếu nói dối, sẽ là vượt khỏi, đánh mất Bồ Đề của Phật. Này Bí Mật Chủ! Hăy nên biết pháp môn như thế, chớ bỏ lời thật! Đó là giới thứ tư.

          “Hoạt mạng nhân” (cái nhân để sống c̣n) chính là các sự như danh lợi v.v… Hoặc do các điều khác như thức ăn, y phục, tù tội, khổ ách v.v… như thế đó. [Trong các trường hợp đó], nếu nói dối, sẽ giữ được thân mạng. Chẳng nói dối, có thể là thân h́nh chẳng tồn tại được! V́ thế gọi là “hoạt mạng duyên” (cái duyên để sống sót). Bồ Tát có nhân duyên như thế, lúc đó, c̣n chẳng sanh một niệm muốn dối gạt người khác, huống hồ khởi phương tiện ư? Nhưng nói đại lược, có tám lời nói chẳng phải thánh ngữ, và tám lời nói hiền thánh. Tức là: Chẳng thấy nói thấy, chẳng “nghe, chạm, biết” mà nói là “nghe, chạm, biết”, thấy mà nói là chẳng thấy, và “nghe, chạm, biết” mà nói không nghe, không chạm, không biết. Đó là tám lời nói chẳng phải thánh ngữ. Tương phản với các điều này, được gọi là tám lời hiền thánh, tức là “thấy bèn nói thấy”, ba điều kia cũng thế, như đă nói trong năm phần của giới “đại vọng ngữ” thuộc Tỳ Ni. Nếu Bồ Tát phạm như thế tức là báng Bồ Đề của Phật. V́ sao vậy? Bồ Đề có nghĩa là “một mực chân thật”, mà nay lại tạo cái nhân nói dối ấy, hoàn toàn trái nghịch với Bồ Đề. V́ thế gọi là “phá Bồ Đề”.

          Lại nữa, Như Lai trong vô lượng kiếp tu chân thành, lời Ngài nói ra, ai nấy đều tin nhận. Thậm chí Ngài nói pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là tâm lượng sở hành của họ, khó tin, khó hiểu, nhưng do Phật vô lượng kiếp thành thật, người khác vẫn tin tưởng. Nay nếu Bồ Tát lừa dối chúng sanh, tức là sanh khởi nhân duyên lừa gạt pháp cho họ, cũng là phá Bồ Đề. V́ thế, Bồ Tát trụ trong hạnh chân ngôn tối thượng Đại Thừa địa này, chẳng được sanh một niệm tâm lừa gạt người khác, và các thứ duyên [dối gạt] như trong Luật đă nói cặn kẽ. Nếu vi phạm, tức là trái vượt Phật, Bồ Tát.

          Ở đây, cũng phải nên có phương tiện ngữ theo từng loài, nhưng kinh văn chẳng nói là v́ lược đi. Như trong Bồ Tát Giới Đại Bổn có nói: Có một nữ nhân giết hại cha mẹ. Đă tạo nghiệp vô gián ấy, tự nghĩ: “Ta do ác nghiệp này, chắc chắn đọa vào địa ngục Vô Gián. Điều cực ác đă thành, c̣n có thiện pháp nào tới gần ta nữa ư?” Do nhân duyên ấy, cô ta chẳng sửa lỗi tu thiện, cứ lặng lẽ khoanh tay đợi tội. Bồ Tát dùng đủ mọi cách khuyên lơn để bà ta sám hối, tu thiện; thậm chí bảo rằng: “Trong pháp Đại Thừa có phương tiện có thể diệt tội ấy”. Bà ta trọn chẳng tin nhận. Bồ Tát sanh tâm đại bi, lại hóa thành một người đàn bà tới nương nhờ chỗ bà ta; do vậy, tự nói: “Tôi cũng tạo nghiệp như thế”. Bà kia tự nghĩ: “Cũng có kẻ khác làm chuyện này ư? Ta nay có bạn, có thể cùng ở với nhau”. Thời gian lâu sau, hóa nhân ấy dần dần dùng phương tiện, muốn cùng nhau hối cải, làm lành. Bà ta chẳng nghe theo lời người ấy nói, bảo: “Bà cứ muốn làm th́ cứ làm đi, tôi tự nghĩ rốt cuộc vô ích”. Hóa nhân liền ở chung với bà ta, thị hiện làm thiện sự, dần dần đạt được pháp lợi, trọn đủ đại thần thông cho bà ta thấy, bảo rằng: “Tôi nay làm việc thiện, tội trước đă diệt, nay đắc pháp này. Nếu pháp chẳng diệt tội, do đâu mà có thể đạt được chuyện như thế?” Bà ta sanh tâm hy hữu, nói: “Bà ta và ḿnh cùng phạm tội. Bà ta c̣n có thể trừ tội, sao ta không làm?” Do vậy, cùng hành theo. Bồ Tát dùng huệ phương tiện của Bồ Tát, có thể tŕ giới như thế, bất cộng với Nhị Thừa và người đời!

           Kinh Tăng Già Trá[5] lại nói: Có một thầy thuốc. Vợ ông ta diễm lệ, xinh xắn, [nên ông ta] yêu thương rất sâu đậm. Về sau, bà ta qua đời, ông ta chẳng buông được, luôn cơng xác mà đi. Thậm chí xác đă khô mục mà chẳng chịu vứt bỏ. Bồ Tát giáo hóa không được; do vậy, hóa thành một phụ nữ, cũng cơng xác chồng, bảo: “Ta yêu mến người này, nhưng chàng đă chết, chẳng nỡ ḷng bỏ, cho nên luôn cơng theo”. Thầy thuốc bèn nghĩ: “Đây chính là đồng bạn của ta, đồng sự với ta”. V́ thế, ở chung. Về sau, Bồ Tát t́m lúc thuận tiện, vứt cả hai cái xác xuống nước sông Hằng. Người đàn bà đó và ông ta cùng t́m xác, bỗng đều chẳng t́m thấy, liền than oán rằng: “Chúng ta cơng xác họ cho tới khi xác khô mục. Nay họ thấy bạn khác, liền kết ái với nhau, vứt bỏ chúng ta. Do vậy biết t́nh cảm chẳng thể giữ măi. Quỷ c̣n như thế, huống là kẻ c̣n sống ư!” Người đó (ông thầy thuốc) thấy chuyện này, tâm luyến ái nhanh chóng dứt hẳn, liền phát tâm chán dục, tu đạo. Bồ Tát do có phương tiện huệ ấy bèn dối gạt kẻ cuồng, chẳng phải là do ác tâm mà làm!

         

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ bất thô ác mạ giới, ưng đương dĩ nhu nhuyễn tâm ngữ, tùy loại ngôn từ, nhiếp thọ chư chúng sanh đẳng. Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Bồ Đề Tát Đỏa sơ hạnh, lợi lạc chúng sanh, hoặc dư Bồ Tát kiến trụ ác thú nhân giả, vi chiết phục chi, nhi hiện thô ngữ.

          ()復次祕密主菩薩受持不麁惡罵戒應當以柔軟心語隨類言辭攝受諸眾生等何以故祕密主菩提薩埵初行利樂眾生或餘菩薩見住惡趣因者為折伏之而現麁語

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ giới chẳng chửi mắng thô ác. Hăy nên dùng lời thốt từ tấm ḷng mềm mỏng, tùy theo ngôn từ của từng loại để nhiếp thọ các chúng sanh. V́ sao vậy? Bí Mật Chủ! Sơ hạnh của Bồ Đề Tát Đỏa là lợi lạc chúng sanh, hoặc các Bồ Tát khác do thấy chúng sanh trụ trong cái nhân dẫn đến đường ác, v́ chiết phục họ mà hiện lời thô ác).

 

          Kế đó là giới về lời thô ác. Bồ Tát tâm mềm mỏng, tinh tế, tin nhận, nhiếp thọ chúng sanh. “Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát do tŕ giới chẳng mắng chửi thô ác, hăy nên dùng cái tâm nhu nhuyễn để nhiếp thọ các chúng sanh. Tùy theo ngôn ngữ của từng loại (đây là cách nói để liên tưởng các ư nghĩa trong phần trước, tức là lời tùy thuận). Bí Mật Chủ! Sơ hạnh của Bồ Tát chính là tạo nghĩa lợi cho chúng sanh (hạnh này đứng đầu)”. Hoặc các Bồ Tát khác trụ trong đường ác, do chúng sanh mà nói lời thô ác tùy theo ngôn ngữ của từng loài [để chiết phục họ ĺa ác]. V́ lẽ nào vậy? Đấy là sơ hạnh của Bồ Tát. V́ chúng sanh, Bồ Tát có thể ở trong đường ác, v́ chúng sanh mà nói lời thô ác. Đây là giới thứ năm. “Thô” là lời nói thốt ra có thể khiến cho kẻ khác trái ư, khiến cho họ sanh tâm bất thiện, hoặc nói năng rổn rảng, thường nói là thô tháp, hung hăng; đó đều là như các tướng được nói trong Tỳ Ni. Bồ Tát thường nên nhu ḥa, thiện thuận, chẳng bộp chộp, hung hăng, tuyên nói điều ǵ cũng đều đẹp ḷng người đối diện. Do nhân duyên ấy, có thể dần dần nhiếp thọ họ, khiến cho họ nhập Phật đạo. Nhưng nay kẻ [nói lời thô ác] gây ra cái nhân trái nghịch, phiền năo, tức là trái nghịch phương tiện Tứ Nhiếp, cho nên phạm tội.

          Nhưng cũng có phương tiện mà nói lời thô ác. Như Bồ Tát Giới Đại Bổn có nói: Có một người thường nói lời thô ác đă thành thói quen, hết thảy mọi người đều chẳng thể uốn nắn hắn được. Bồ Tát liền hóa thành một người làm chuyện hung hiểm, táo bạo, độc ác hơn gă đó vô lượng lần! Gă đó thấy vậy, hoan hỷ: “Người này cái nết c̣n vượt xa ta, ta phải tự nói là không thể sánh bằng được. Chuyện người ấy làm đáng làm thầy của ta”. Do vậy, thỉnh rằng: “Xin làm đệ tử của ông”. Đồng sự đă lâu, Bồ Tát dần dần thị hiện chán ĺa, hơi ca ngợi hạnh nhu thuận, quở trách chuyện thô bạo. Sau đó, tự sửa đổi, khuyên hắn ta sửa đổi, nhưng hắn vẫn chẳng nghe theo. Về sau, Bồ Tát thị hiện: Do bỏ ác hạnh, tự tu đạo đôi chút, liền đạt được pháp lợi to lớn, thị hiện thần thông. Gă đó phát tâm hy hữu: “Người này hành vi trước kia vượt xa ta, c̣n có thể tự sửa đổi để đạt được pháp này. Sao ta chẳng làm?” Lại tôn người ấy làm thầy để nhập pháp lợi. Tức là Bồ Tát do huệ phương tiện mà thị hiện thô ác vậy.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ bất lưỡng thiệt ngữ giới, ly gián khích ngữ, ly năo hại ngữ. Phạm giả, phi danh Bồ Tát. Bất ư chúng sanh khởi ly xích chi tâm. Hữu dị phương tiện, nhược bỉ chúng sanh tùy sở kiến xứ sanh trước, như kỳ tượng loại, thuyết ly gián ngôn ngữ, linh trụ ư nhất đạo, sở vị Nhất Thiết Trí trí đạo.

          ()復次祕密主菩薩受持不兩舌語戒離間隙語離惱害語犯者非名菩薩不於眾生起離坼之心有異方便若彼眾生隨所見處生著如其像類說離間言語令住於一道所謂一切智智道

    (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ giới chẳng nói lời đôi chiều, ĺa lời ly gián, khích bác, ĺa lời năo hại. Kẻ phạm [lỗi này], sẽ chẳng gọi là Bồ Tát. Chẳng đối với chúng sanh mà khởi tâm chia rẽ. Nhưng có phương tiện lạ, nếu chúng sanh nẩy sanh chấp trước đối với chỗ thấy, [Bồ Tát] sẽ [thị hiện] giống như họ mà nói lời ly gián, khiến cho họ trụ trong nhất đạo, tức là đạo trí Nhất Thiết Trí).

 

          Kế đó, không nói đôi chiều. Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên giữ giới không nói đôi chiều, ĺa lời ly gián, ĺa lời năo hại. Nếu phạm phải, sẽ chẳng gọi là Bồ Tát. Bồ Tát chẳng sanh tâm ly gián chúng sanh. Hoặc có phương tiện lạ khác, [tức là] thấy có chúng sanh thuận theo chỗ thấy mà sanh chấp trước, sẽ thuận theo chủng loại của họ mà nói lời ly gián, khiến cho người ấy trụ trong nhất đạo. Đó gọi là “trụ trong đạo Nhất Thiết Trí”. Bồ Tát chẳng nói lời ly gián, chẳng nói lời năo loạn; hễ phạm, sẽ chẳng phải là hạnh Bồ Tát. Đối với các chúng sanh, chẳng sanh tâm chia rẽ. Nếu hữu t́nh thuận theo chỗ thấy mà nẩy sanh chấp trước Chúng Sanh Kiến, Bồ Tát sẽ tùy theo từng loài mà thốt lời ly gián, khiến cho chúng sanh trụ trong một đạo, tức là trụ trong đạo Nhất Thiết Trí. Đây là giới thứ sáu. Tướng “nói đôi chiều” như trong Tỳ Ni đă nói cặn kẽ, cho tới nhân duyên làm chó rừng, sư tử v.v… Nhưng Bồ Tát thường tu hạnh chẳng năo hại, tùy theo từng loại thượng, trung hạ, đều khiến cho họ hoan hỷ, ḥa hợp, chẳng tạo nhân duyên khác lạ cho họ.

           Nhưng do thấy chúng sanh có đủ loại dị kiến, ai nấy đều chấp chặt điều họ tôn sùng, chẳng thể tự thoát, do nhân duyên này mà chịu khổ to lớn. Lúc bấy giờ, Bồ Tát v́ dẫn dắt, khiến cho họ bỏ ác tri thức, mà thốt lời ly gián. Như quá khứ có vị thầy ngoại đạo, suất lănh đồ chúng cả ngàn người, nói pháp tà đạo. Bồ Tát quán người ấy có nhân duyên kham hóa độ, bèn gia nhập pháp của người ấy để làm đệ tử. Học pháp chẳng lâu đă thấu đạt chỗ uyên áo, huệ ngộ tuyệt luân. Vị thầy ấy tán thán “kẻ này đă hoàn toàn truyền pháp của ta”, bèn chia năm trăm đồ chúng cho vị ấy suất lănh. Khi đó, Bồ Tát dần dần dùng phương tiện, dựa theo kiến giải của họ mà hóa độ đôi chút. Lâu sau, do biết họ đă sanh ḷng tin phục sâu đậm, bèn dần dần dạy pháp sâu. Khi đó, năm trăm đệ tử tâm kiến giải dần dần chánh đáng, thành tựu huệ tánh. Bấy giờ, thầy nghe [tṛ truyền dạy] pháp khác lạ, đến xem xét, nghe giảng. Nhân đó, Bồ Tát khai thị đủ mọi cách, thầy cũng giải ngộ. Ngay lập tức, năm trăm người cũng tôn Bồ Tát làm thầy, tiếp nhận tân pháp. Do vậy, một ngàn người đều nhập chánh pháp. Các [phương tiện] giống như thế chính là phương tiện để phá sự ḥa hợp của họ. Bồ Tát hạnh rất rộng, chẳng thể nói trọn. Nêu ra một trường hợp để suy ra nhiều trường hợp tùy theo từng loại.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tŕ bất ỷ ngữ giới, dĩ tùy loại ngôn từ, thời phương ḥa hợp, xuất sanh nghĩa lợi, linh nhất thiết chúng sanh phát hoan hỷ tâm, tịnh nhĩ căn đạo. Hà dĩ cố? Bồ Tát hữu sai biệt ngữ cố, hoặc dư Bồ Tát dĩ hư tiếu vi tiên, phát khởi chúng sanh dục lạc, linh trụ Phật pháp, tuy cụ xuất vô nghĩa lợi ngữ, như thị Bồ Tát bất trước sanh tử lưu chuyển.

          ()復次祕密主菩薩持不綺語戒以隨類言辭時方和合出生義利令一切眾生發歡喜心淨耳根道何以故菩薩有差別語故或餘菩薩以戲笑為先發起眾生欲樂令住佛法雖具出無義利語如是菩薩不著生死流轉

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới chẳng nói thêu dệt, dùng ngôn từ tùy theo từng loại, thời gian, nơi chốn ḥa hợp, mà xuất sanh nghĩa lợi, khiến cho hết thảy chúng sanh phát tâm hoan hỷ, thanh tịnh nhĩ căn. V́ sao vậy? Do Bồ Tát có cách nói sai biệt, hoặc các Bồ Tát dùng cười đùa để trước hết phát khởi dục lạc cho chúng sanh, khiến cho họ trụ trong Phật pháp. Tuy nói trọn các lời chẳng có nghĩa lợi, Bồ Tát như thế chẳng chấp vào sanh tử lưu chuyển).

 

          Kế đó là giới “nói thêu dệt”. Kinh nói: Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới chẳng nói thêu dệt. Tùy theo ngôn ngữ của từng loại, thời gian, nơi chốn ḥa hợp, hăy nên tŕ giới “chẳng nói thêu dệt”. Nói năng thuận theo ngôn ngữ của từng loại, [phù hợp] thời điểm và nơi chốn th́ mới có lợi ích. [Chẳng hạn như] ở nơi kia có lời đáng nên nói, những lời trái luật chớ nên nói, bèn thuận theo nơi ấy mà ḥa hợp tương ứng. “Xuất kỳ nghĩa lợi” tức là khiến cho họ đạt được nghĩa lợi. “Xuất” có nghĩa là “làm”, tức là thực hiện sự nghĩa lợi ấy. Tùy nơi chốn, tùy thời điểm mà thực hiện, khiến cho hết thảy chúng sanh tâm đều hoan hỷ, thanh tịnh “nhĩ đạo”, tức là nhĩ căn thanh tịnh. V́ sao vậy? Bồ Tát có lời khác lạ, tức đủ loại lời nói sai khác thuận theo ư của kẻ khác. Bồ Tát có phương tiện lạ: Chú trọng cười đùa, v́ muốn khiến cho chúng sanh hoan hỷ trụ trong Phật pháp. Do v́ chúng sanh, tuy thốt lời chẳng lợi ích, ở trong sanh tử để tạo lợi ích cho chúng sanh. Tức là [Bồ Tát] lưu chuyển trọn khắp trong sanh tử, nhưng chẳng chấp trước. Ḥa hợp tạo lợi ích, khiến cho tâm hết thảy hữu t́nh vui sướng, nhĩ căn được tịnh hóa. V́ sao vậy? Do có lời lẽ khác lạ. Có Bồ Tát dùng sự cười cợt, trước là khiến cho chúng sanh sanh ḷng hoan hỷ, an trụ trong Phật pháp, ngơ hầu họ sẽ trừ bỏ lời vô ích, chẳng thốt ra! Bồ Tát lưu chuyển trong sanh tử như thế đó. Đấy là giới thứ bảy.

          “Ỷ ngữ” tức là các sự nói năng vô ích trong thế gian. Như trong Tỳ Ni đă nói các loại vương luận, tặc luận, do kiếm sống mà vào biển, nữ nhân giữ thân nghiêm cẩn v.v… Hoặc chuyện thị phi trong thành, ấp, nước nhà, phê b́nh chuyện thế gian. Nói tóm lại, hết thảy các pháp tùy thuận thế gian đều là nhân duyên khiến cho [hành nhân] chẳng xuất ly th́ đều là “ỷ ngữ”, nhưng Bồ Tát phải nên thốt lời ḥa hợp lợi ích phù hợp với thời điểm và nơi chốn. Nói “thời” tức là tuy muốn hướng dẫn họ, nhưng do họ đều chưa có cơ duyên tín nhập, niềm vui chân thành chưa phát sanh, nếu vội vàng nói, sẽ khiến cho họ chẳng tin, khinh mạn, hủy báng, th́ cũng chẳng hóa độ được. Đó tức là “phi thời”. Tương phản với điều này th́ là “thời ngữ” (lời nói đúng thời). Hoặc ở chỗ đại chúng náo nhiệt, rộn ràng, đông đảo, cái tâm chẳng tĩnh, mà bảo ban cặn kẽ, sẽ chẳng lọt vào tâm họ được. Do đánh mất đạo duyên, cũng chẳng phải là “đúng thời”. “Phương” là nói [đến nơi chốn. Khi thuyết pháp phải chú ư tránh nơi] chẳng phải là nơi chốn [thích hợp], tức là ngay trong khi họ đang làm ác, [nếu không suy xét], liền ở ngay chỗ họ đang làm ác mà thuyết pháp cho họ. Do họ chấp vào chuyện đang làm tại đó, đâm ra nẩy sanh tâm ngang bướng, chống trái. Bởi đó, khiến cho họ nẩy sanh tâm bất thiện. Tương phản với điều ấy th́ gọi là “tùy phương ngữ” (lời phù hợp nơi chốn). “Lợi” là nói [lời lẽ của Bồ Tát] một mực không có các điều bất lợi, khiến cho họ tu thiện, thuận theo t́nh kiến, căn cơ của họ mà nói năng. Nếu Bồ Tát hành như thế, sẽ có thể khiến cho hữu t́nh hoan hỷ, tin phục, lợi ích chính ḿnh lẫn người khác. Do họ nghe mà chính họ được lợi, chính ḿnh cũng chẳng uổng phí công sức.

          Nhưng Bồ Tát có “sự khác lạ” (tức là phương tiện khác lạ, hàm nghĩa “khác với những điều trên đây”), tức là khởi đầu bằng cười đùa. Như cười đùa, cho đến đàm luận tuồng tích, ca múa, âm nhạc, nghệ thuật, tức là các thứ vốn có trong thế gian như phần trên đă nói. Bồ Tát v́ khiến cho họ hoan hỷ, [bèn cười giỡn, bàn luận những chuyện ấy]. Họ đă hoan hỷ, sẽ khéo thuận theo, vui sướng. Do vậy, [Bồ Tát] khéo léo dựa theo t́nh kiến của họ mà phương tiện dẫn dắt, khiến cho họ an trụ trong Phật huệ. Tuy biết rơ [những đàm luận kiểu ấy] là vô ích, tâm chẳng sanh chấp trước, nhưng do xét theo thời, xét theo nơi chốn, xét theo nghĩa lợi, mà làm như thế. Tuy làm điều chẳng có lợi ích, nhưng do vô lợi ích mà trừ khử chuyện vô ích ấy. Do họ khi trước đă tạo ác, ác tương phản với đạo, nếu thẳng thừng gác bỏ phương tiện mà gấp gáp giữ giới, đâm ra họ sẽ kinh sợ, chống đối. V́ thế, dùng phương tiện đồng sự với họ; sau đó, sẽ khiến cho họ nhập Phật đạo. Do vậy, chuyện vô lợi ích ấy chính là cái nhân để tạo ra lợi ích, như đại lương y biến chất độc thành thuốc. Nếu làm như thế, chính là cái nhân để Bồ Tát thoát khỏi lưu chuyển sanh tử, đừng nên như Thanh Văn không có phương tiện huệ, luôn luôn câu nệ, hạn cuộc, chỉ ngăn che các lỗi, chẳng có hạnh khai thông. V́ thế, huệ chẳng đầy đủ.

          [Bồ Tát] tự thoát khỏi lưu chuyển, và cũng khiến cho người khác thoát ra. V́ thế gọi là “ĺa lưu chuyển”. Như người nữ tên Thiện Kiến được nói trong kinh Hoa Nghiêm là một trường hợp. V́ muốn dẫn dắt, nhiếp thọ chúng sanh, cô ta sanh trong nhà dâm nữ, làm thượng thủ của năm trăm dâm nữ, mỹ lệ tuyệt luân, trọn đủ các phẩm đức của nữ giới, sáu mươi bốn tư thái, hết thảy phương tiện diệu xảo, thảy đều trọn đủ. Do nữ nhân bổn tánh khéo thu hút ḷng người, mà cô gái này lại không ǵ chẳng trọn đủ. Do nhân duyên ấy, người hướng đến rất đông. Bồ Tát trước hết dùng sức phương tiện, cùng có nhân duyên tà hạnh với họ, khiến họ sanh ḷng ái niệm tột bậc, cô ta nói năng ǵ cũng không ai trái nghịch. Cô quán t́nh kiến, căn cơ của họ để tùy duyên khơi gợi, hướng dẫn, khiến cho họ thấy thật tánh của dục, liền từ ngay môn ấy mà nhập Phật huệ. Khi đó, những kẻ ấy do tin yêu cô ta, liền có thể tin nhận chắc thật lời đó. Do nhân duyên ấy, lợi lạc người khác vô lượng. Tuy ở trong [hoàn cảnh] chẳng có lợi ích, mà có thể thành tựu đại lợi ấy, tức là trọn đủ huệ phương tiện tŕ giới. Loại này được nói rất rộng trong kinh.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng đương tŕ bất tham giới, ư bỉ thọ dụng tha vật trung, bất khởi nhiễm tư. Hà dĩ cố? Vô hữu Bồ Tát sanh trước tâm cố. Nhược Bồ Tát tâm hữu nhiễm tư, bỉ ư Nhất Thiết Trí môn vô lực, nhi đọa nhất biên. Hựu Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng phát khởi hoan hỷ, sanh như thị tâm: Ngă sở ưng tác, linh bỉ tự nhiên nhi sanh, cực vi thiện tai! Sổ tự khánh ủy, vật linh bỉ chư chúng sanh tổn thất tư tài cố.     

          ()復次祕密主菩薩應當持不貪戒於彼受用他物中不起染思何以故無有菩薩生著心故若菩薩心有染思彼於一切智門無力而墮一邊又祕密主菩薩應發起歡喜生如是心我所應作令彼自然而生極為善哉數自慶慰勿令彼諸眾生損失資財故

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng tham. Đối với các vật thuộc sự thọ dụng của người khác, chẳng dấy lên ư tưởng đắm nhiễm. V́ sao vậy? Do chẳng có Bồ Tát nào sanh tâm chấp trước. Nếu Bồ Tát tâm có ư niệm ô nhiễm, kẻ đó sẽ không có sức nơi Nhất Thiết Trí môn, đọa vào một bên. Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên phát khởi ḷng hoan hỷ, sanh tâm như thế này: Ta hăy nên làm chuyện khiến cho người khác tự nhiên mà sanh, đó là tốt lành tột bậc. Nhiều lượt tự vui vẻ an ủi, đừng khiến cho chúng sanh bị hao tổn mất mát của cải).

 

          Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng tham. Đối với các vật thuộc quyền thọ dụng của người khác, chẳng khởi ư nghĩ đắm nhiễm. V́ sao vậy? Bồ Tát hăy nên thường giữ tâm chẳng chấp trước. Nếu Bồ Tát có cái tâm [tham chấp] ấy, sẽ vô lực đối với Nhất Thiết Trí. “Vô lực” tức là “lui dứt”. Do pháp ấy, vô lực đối với Nhất Thiết Trí, trụ vào một bên; tức là ư nghĩa “chẳng đầy đủ”. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên phát tâm hoan hỷ, hăy sanh tâm như thế ấy. Ở đây, cũng giống như thế, ta nay cũng nên tự nhiên sanh khởi [tâm hoan hỷ chẳng tham], lành thay, cực thiện, nhiều lượt tu phương tiện khác, chẳng khiến cho các chúng sanh bị tổn thất tài vật, tŕ giới chẳng tham.

          Lại này, Bí Mật Chủ! Tŕ giới chẳng tham, đối với vật thuộc sự thọ dụng của người khác, chẳng dấy lên ư niệm ô nhiễm. V́ sao vậy? Bồ Tát chẳng có tâm hưởng thụ. Hễ Bồ Tát có tâm ô nhiễm, sẽ vô lực đối với Nhất Thiết Trí, sẽ trụ một bên. Cũng vậy, Bí Mật Chủ! Bồ Tát khởi hoan hỷ và phát tâm như thế. Nếu ta tự nhiên mà sanh tâm như thế, điều thiện ấy sẽ là cực thiện, nhiều lượt hoan hỷ, chẳng khiến cho các chúng sanh bị tổn thất tài vật. Đấy là giới thứ tám. Trong phần trước là nói về giới thuộc khẩu; nay tiếp theo, một mực nói về giới nơi tâm. Đây chính là tâm sanh khởi ḷng tham.

          Nếu Bồ Tát thấy người khác có các chuyện thù thắng, tức là sắc lực, của cải, có vô lượng môn, Bồ Tát chẳng nẩy sanh ư niệm: “Kẻ đó có các sự như thế mà ta chẳng có”. Do nhân duyên ấy, sanh ḷng hâm mộ, ham muốn, tham chấp, t́m cầu, th́ cũng đều thuộc vào phạm vi của giới này. Do nghĩ các điều ấy, sẽ là cái nhân để lại hứng chịu khổ năo trong đời sau. V́ thế, chẳng làm! Bồ Tát chớ nên như thế. Nếu có kẻ vô lực, ví như có người trọn đủ vô lượng phương tiện, tài nghệ, kỹ năng, nhưng gặp khi bệnh hoạn th́ sẽ chẳng thể làm được. Bồ Tát cũng thế, nếu do tham ái mà cái tâm bị bệnh, khiến cho vô lượng sức lực, oai thế của Bồ Đề tâm đều trở thành vô lực. Nhất Thiết Trí nghĩa là vạn đức đều trọn đủ, chẳng bị khuyết giảm. Do khởi tâm ấy, khiến cho các chi phần nơi cái Thể vạn đức vốn chẳng thiếu khuyết trở thành chẳng đầy đủ. V́ vậy, vô lực đối với hết thảy các trí môn. Nhưng Bồ Tát thấy người khác có đủ loại sự hơn ḿnh, hăy nên tự vui mừng, nghĩ như thế này: “Ta vốn lập đại thệ nguyện, v́ hết thảy chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, đều khiến cho họ vạn đức kiêm trọn. Nếu bọn họ bị thiếu khuyết, ta c̣n mong chẳng tiếc thân mạng để thực hiện hạnh khó, hạnh khổ ḥng tạo lợi lạc, mà nay họ có thể tự thực hiện, tức là điều lợi to lớn của ta, thật đáng nên vui mừng!” Bồ Tát dùng điều này để tự an ủi cái tâm, chuyện ta đáng nên làm đă tự nhiên đạt được; v́ thế hoan hỷ. Ta v́ chúng sanh, c̣n muốn dùng vô số tinh tấn để cầu tác dụng tự nhiên của hiền b́nh hoặc kiếp thụ, ḥng phá cái nghiệp nghèo túng của họ. Huống hồ họ có thể tự đạt được, mà ta lại tổn hại họ để tự lợi chính ḿnh ư?” Do ngộ tâm ấy, chẳng c̣n sanh chấp trước; đó chính là tướng tŕ giới.

          Như kinh Trường A Hàm nói: Trong quá khứ, vào thời Câu Lưu Tôn Phật, quốc vương xứ Ba La Nại tên là Tư Lợi (hoặc dịch là Tư Ích), do thường nghĩ lợi ích hết thảy. V́ thế, có tên như thế. Khi đó, có năm trăm đại thần tâu vua rằng: “Nay quốc độ tột bậc giàu vui, ḷng người rộng răi, không có tâm lo lắng hoạn nạn, sợ chẳng thể chống lại kẻ đối địch được. Bệ hạ hăy nên dùng chuyện [gian khổ] để dạy bảo, để họ tập quen với lao khổ, sẽ có thể ngăn nạn, bảo vệ đất nước của vua”. Khi đó, vua Tư Ích nhân từ, hết sức từ nhẫn, nghĩ như thế này: “V́ sao ta đem chuyện phi thời áp đặt lên người khác vậy? Trái nghịch bổn tâm ta, chẳng có lư ấy”. Khi đó, quần thần biết ư vua, đều chẳng vừa ư. Đế Thích nhận biết, nghĩ như thế này: “Vị vua này hành Bồ Tát đạo, chẳng biết có kiên cố hay không? Ta có thể thử xem”. Do vậy, bảo vua nước lân cận là Trường Thủ, sai khiến ông ta chinh phạt nước ấy. Chỗ vua Trường Thủ cai trị c̣n gọi là Ngũ Chi Thành, do phạm vi thống nhiếp của xứ ấy chỉ có năm ṭa thành, là một nước nhỏ.

          Vua đó nghe Đế Thích nói, nghĩ như thế này: “Ta nghe nói đàn bà nhân từ, chẳng biết lo xa. Nay vị vua này quá mức nhân ái, giống như đàn bà, nay ta thôn tính, chiếm lấy”. Liền dấy bốn đội binh đi chinh phạt nước đó. Các đại thần tâu với vua Tư Ích rằng: “Trước kia bọn thần do ḷng trung mà can gián, bệ hạ không chấp thuận. Nay người dân chẳng tập vũ nghệ, lại chẳng chuẩn bị, tai nạn xảy ra bất ngờ, sẽ làm như thế nào đây?” Vua liền tư duy, đáp rằng: “Hắn ta muốn có được đất nước và kho tàng, ta chẳng tranh chấp với hắn, sẽ chẳng có hại cho nhân dân. Các khanh đừng lo!” Vua liền náu ḿnh ra khỏi cung, vào trong núi sâu tu phạm hạnh. Khi đó, Trường Thủ chẳng tốn xương máu mà có được nước ấy. Trải qua một thời gian dài, [Trường Thủ] treo thưởng t́m bắt vua Tư Ích mà chẳng thể được!

          Lúc ấy, ở phương Nam có phạm hạnh Bà-la-môn do gia sản đời trước để lại tột bậc túng thiếu, chẳng có ǵ để phụng dưỡng cha mẹ, sư trưởng, nghe nói vua Tư Ích chuộng bố thí rộng răi; v́ thế, t́m đến nhà vua xin giúp đỡ. Ông ta đi sang nước đó, tới chốn núi rừng, gặp được vị vua cũ nơi vua tu đạo. Khi đó, vua Tư Ích trước hết hỏi han, sắp đặt chỗ nghỉ ngơi cho ông ta, cấp cho thức ăn, ôn tồn thăm hỏi nỗi nhọc nhằn: “Nay ông v́ sao mà đến đây?” Vị phạm hạnh ấy đáp cặn kẽ nguyên do. Vị vua cũ nghe xong, thương xót, không vui: “Khi ta làm vua, thế lực tự tại, có thể tùy ư ban cấp cho người khác. Nay thân nghèo, mất nước, sao có thể măn nguyện cho người này được!” Nghĩ ngợi như thế xong; nhân đó, bảo Bà La Môn: “Ta chính là vua Tư Ích, nay đă mất nước, nên ở tại nơi đây”. Khi đó, Bà La Môn ngất đi hồi lâu, nghĩ rằng: “Ta do bạc phước, đi xa mong thỏa nguyện, nay lại gặp gỡ [như thế này], há chẳng phải là bất hạnh ư?” Lúc ấy, vua an ủi rằng: “Ông đừng quá lo buồn! Ta có phương tiện có thể thu xếp. Vua kia coi ta là oán địch, thường treo giải bắt ta: ‘Nếu ai lấy được đầu hắn, sẽ ban thưởng trọng hậu’. Ông nay có thể đem đầu ta đi, ắt sẽ được ban thưởng to lớn”. Ông ta đáp: “Tôi là người tịnh hạnh, sao lại giết người? Hết sức chẳng thể!” Vua nói: “Nếu vậy, chỉ lấy dây trói ta dẫn đi, sẽ chẳng trái lư!”

          Khi đó, ông ta liền trói [vua Tư Ích], dẫn tới cửa cung. Lúc bấy giờ, các vị cựu thần trông thấy, đều cùng ghét bỏ, quở trách Bà La Môn: “Ngươi là bậc tịnh hạnh, chẳng nên mưu hại bậc hiền vương để cầu lợi ích cho chính ḿnh, hết sức trái đạo. Đă phá tịnh pháp rồi, c̣n có đạo chi nữa!” Ông ta bèn đáp cặn kẽ: “Chẳng phải là lỗi của tôi. Vị đại vương này hành Bồ Tát đạo, sai tôi làm như thế”. Các quan vào tâu với vua. Vua [Trường Thủ] vừa nghe nói, hết sức kinh hăi, tưởng cựu vương đến đoạt lại nước. Tới khi nghe tâu từ đầu đến cuối, sanh tâm hổ thẹn, khâm phục: “Người hành Bồ Tát đạo như thế, mà ta đoạt nước của ông ta, có điểm nào hơn người để làm vua thiên hạ ư?” Do vậy, bảo vua Tư Ích: “Nhà vua có thể trở lại ngôi, tự tại hành bố thí lợi ích, an vui vạn người. Ta sẽ quay về nước cũ, ai nấy ở yên, chẳng xâm hại lẫn nhau”. Khi ấy, hai nước giao hảo, chẳng c̣n nỗi lo oán địch. Những điều như thế trong kinh Bổn Sanh đă rộng nói. Đấy chính là nhân duyên chẳng tham vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng đương tŕ bất sân giới, biến nhất thiết xứ thường tu an nhẫn, bất trước sân hỷ, ư oán cập thân, kỳ tâm b́nh đẳng nhi chuyển. Hà dĩ cố? Phi Bồ Đề Tát Đỏa nhi hoài ác ư. Sở dĩ giả hà? Dĩ Bồ Tát bổn tánh thanh tịnh cố. Thị cố Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng tŕ bất sân khuể giới.

          ()復次祕密主菩薩應當持不瞋戒遍一切處常修安忍不著瞋喜於怨及親其心平等而轉何以故非菩提薩埵而懷惡意所以者何以菩薩本性清淨故是故祕密主菩薩應持不瞋恚戒

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng sân. Trọn khắp hết thảy mọi chỗ, thường tu an nhẫn, chẳng chấp trước giận hay mừng. Đối với kẻ oán và người thân, tâm đều b́nh đẳng mà chuyển. V́ sao vậy? Chẳng phải là Bồ Đề Tát Đỏa th́ mới ôm ác ư. V́ cớ sao vậy? Do Bồ Tát bổn tánh thanh tịnh. Do vậy, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng sân khuể).

 

          Kế đó là giới chẳng sân. Bí Mật Chủ! Bồ Tát tŕ giới chẳng sân. “Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng sân. Trong hết thảy chỗ, hăy thường nên an nhẫn, chẳng chấp trước đối với giận hay mừng, tâm b́nh đẳng, coi bạn và người oán b́nh đẳng như nhau mà chuyển”. V́ sao vậy? Bồ Tát chớ nên nghĩ nhớ ác ư, tức là công đức nơi thân, gọi là “tam ma da phược yết đa”. Câu “đại đức tồn niệm” (đại đức nghĩ nhớ) trong Luật cũng có ư nghĩa tương đồng. V́ sao vậy? Do Bồ Tát bản tánh thanh tịnh. Bản tánh [giới] được nói trong phần trước là giới đạt được nơi tánh. Phần sau nói tới cái tâm th́ là pháp biến hiện từ cái tâm. Do trong bản tánh thường thanh tịnh; bởi đó, Bồ Tát thường nên tŕ giới chẳng sân. Vị ấy nhẫn trong trọn khắp hết thảy, thường chẳng chấp trước đối với mừng và giận, tâm b́nh đẳng, đối xử với bạn bè và kẻ oán như nhau. V́ sao vậy? Bồ Tát chẳng có ư niệm ác. Do vậy, Bồ Tát tŕ giới chẳng sân. Đấy là giới thứ chín.

          “Sân” tức là đối với hết thảy chúng sanh phát khởi cái tâm làm hại, từ tâm dấy lên hạnh chẳng tạo lợi ích. Sở dĩ tŕ giới này là nếu có kẻ đến dùng đủ mọi cách để gia hại Bồ Tát, thậm chí cắt đứt các chi phần, [Bồ Tát] vẫn chẳng sanh tâm hại kẻ đó, huống hồ coi rẻ ư? Nếu chẳng phải vậy, sẽ chẳng phải là Bồ Tát. Hăy nên trong hết thảy mọi nơi mà hành đại nhẫn. Nếu lúc kẻ khác gia hại đủ mọi cách, hăy nên tự nghĩ: “Đời trước ta do nhân duyên vô minh, mà sanh ra cái thân vướng phải hoạn nạn này. Lại từ vô lượng đời tới nay, thường năo hại kẻ đó, nay nghiệp đă chín muồi, phải chịu báo này, liên can ǵ đến kẻ này mà oán hận ư?” Chánh quán đủ mọi cách như thế. Lại nghĩ thân này từ duyên mà sanh, chẳng có tự tánh, chẳng có ta, người, ai hại? Ai hứng chịu? Do quán Thật Tướng như vậy, chẳng sanh tâm hại kẻ đó. Ư niệm sân phẫn ấy chính là công cụ của mọi điều ác. Do có thể hoan hỷ như vậy, tâm thường vui sướng, tốt lành, vắng lặng, từ bi, nhẫn nại, chẳng chấp các pháp nhân ngă, thường b́nh đẳng. Sự b́nh đẳng ấy chính là oán thân chẳng hai, đối với hết thảy các thứ như “hữu ích, vô ích, nhẹ, nặng”, tâm b́nh đẳng, chẳng có tăng, giảm, chẳng sanh tâm tạo các vật dụng ác, thường hành hạnh lợi ích người khác, b́nh đẳng quán thế gian ví như con một, do Bồ Tát chánh quán Thật Tướng, chiếu tỏ bổn tánh của cái tâm này là thanh tịnh.     

          Như kinh nói: Trong đời quá khứ, tại phương Nam, có vua tên là Sư Tử. Thành tên là Phong Lạc. Vua dùng chánh pháp cai trị đất nước, chẳng hại người khác. Do phép nước, vua ra khỏi thành săn bắn nhằm th hiện sự oai vũ. Tuy không có ư hại người, v́ thủ hộ quốc độ, an vạn người, muốn khiến cho nước lân cận ngưỡng mộ đức, sợ oai. Khi đó, vua săn bắn, thấy có con nai đang rảo chạy bèn tự đuổi theo, noi theo đường hiểm núi thẳm, sắp đuổi kịp nó. Do không có tâm làm hại, khi đuổi kịp, lấy roi quất vào sừng nó liền thả đi. V́ sao? Muốn phô bày vơ nghệ để lập oai với vạn người. Đă vào núi sâu, chỗ không có người, do người hầu theo không kịp, vua nghỉ mệt trong núi. Có con sư tử cái, thấy vua tướng mạo khác người, nẩy sanh dục tâm. Do vậy, nó ép vua thị hiện dục tướng. Vua do sợ nó, liền ăn nằm với nó. Khi đó, lúc kiếp sơ, loài thú cũng hiểu tiếng người. Nhưng tánh của thú vật cái là nếu có trí huệ, khi thọ thai liền có thể biết rơ; do vậy, bảo vua rằng: “Ta đă hoài thai con vua. Sau này nếu sanh ra, sẽ nên làm như thế nào?” Vua để lại chiếc ấn đang cầm trong tay, bảo rằng: “Nếu sanh con, có thể buộc ấn này, đặt bên cạnh cửa [cung điện] của ta”.

          Về sau, [sư tử] sanh con, thân thể, diện mạo [đứa bé] giống người, nhưng hết sức mạnh mẽ, kiên nghị, lại c̣n có thú tánh. Mẹ nó theo ước hẹn trước đó, ban đêm vượt qua tường thành, đặt con bên cửa cung điện của nhà vua rồi đi. Sáng hôm sau, người canh cửa trông thấy, tâm lấy làm lạ: “Cớ sao giống như người mà lại hơi khác? Ta nên tâu vua”. Tâu xong, vua im lặng suy nghĩ, chẳng nói với ai. Nhân đó, sắc truyền coi đứa trẻ như con của chính ḿnh, đặt tên nó là Sư Tử Thiện Nô. Về sau, vua chán cai trị đất nước, do vậy, sai con nhiếp chánh đất nước.

          Do bản tánh, [thái tử] thích ăn thịt tươi. Có một lúc, vua đ̣i ăn gấp, đầu bếp t́m thịt chẳng ra, gặp đứa trẻ vừa mới chết, liền dùng làm thức ăn để dâng lên… [Chi tiết] như kinh Hiền Ngu và Trí Độ Luận đă nói. Thậm chí, [nhà vua] hằng ngày đ̣i ăn thịt người, đă ăn trẻ nhỏ hơn năm trăm đứa. Trong thành, cùng bảo nhau rằng: “Ắt có Dạ Xoa vào đất nước, phải nên bảo vệ cẩn thận trẻ nhỏ”. Trời chưa đến tối, [mọi người] đều đưa trẻ vào pḥng, canh giữ rất nghiêm. Đầu bếp bắt chẳng được, lại tới nhà các đại thần bắt trẻ, lại mất năm trăm đứa nữa. Về sau, lúc hắn bắt giết một đứa nhỏ, lấy ṿng tay của nó đeo trên cánh tay, do gặp người khác trông thấy, nhận biết, bắt trói hắn, [tra vấn]: “Ai sai khiến ngươi? Gă này bắt trộm trẻ nhỏ, chắc chắn là trẻ nhỏ mất tích từ trước tới nay ắt do gă này làm”. Do vậy, hắn phủ phục thưa: “Do lỗi của vua, chẳng phải do tôi”. Quần thần tâu chuyện ấy với vua cha: “Nay thái tử c̣n có thú tánh. Có thú tánh th́ chẳng thể làm chủ. Xin vua tự xử lư quốc chánh”. Vua nói: “Ta đă quán đảnh trao ngôi vị cho nó, sao lại đoạt lấy?” Chẳng nghe theo lời thỉnh cầu!

          Quần thần bèn mưu tính làm hại [thái tử]. Do vậy, thái tử bèn cầm đao bén, trốn vào trong núi. Thoạt đầu, lấy xác chết nướng ăn. Sau dần dần ăn thịt người, cho đến bắt cóc năm trăm vương tử, thường t́m thịt để nuôi họ ḥng dần dần sẽ bắt họ đem ăn. Khi đó, người trong nước lập em hắn làm vua, đặt tên là Thiện Nô. [Thiện Nô] nhân từ đối với mọi người, rộng răi, nhu ḥa, dùng chánh pháp để giáo hóa. Về sau, có bốn người phạm hạnh cầu pháp thượng thiện. Vua nghĩ rằng: “Những người này làm lợi cho ta không ít, phải nên báo đáp trọng hậu”. Chưa kịp ban thưởng cho họ mà đă phải đi săn. Quần thần can gián: “Vua loài thú sống gần trong núi, có thể gây hại, bệ hạ chớ đi”. Vua nghĩ rằng: “Ta muốn lợi lạc hết thảy, chẳng yêu mến tấm thân này. Nay nếu hắn bắt ta ăn thịt, tức là bổn nguyện của ta được măn”. Vua bèn rời cung vào rừng.

          Thú vương nghe em trai ra khỏi cung, liền đến bắt. Do hắn dũng mănh, các thể nữ đều chạy tứ tán, những kẻ bị hắn bắt được đều buồn khóc như trong Trí Độ Luận đă nói. Do có ư niệm chưa báo đáp các vị phạm hạnh, vua bèn ước hẹn với thú vương, xin tha về. Vua nói: “Lửa của ông chưa cháy hết, tôi ắt sẽ quay lại” (do thú vương trước đó đă đốt củi, đợi hết khói mới nướng người để ăn). Thú vương nghĩ: “Do bởi pháp nào mà có thể khiến cho hắn chẳng tiếc thân mạng, đến phó thác tánh mạng [vào tay ta]?” Do vậy hỏi han, vua liền dùng các pháp như hạnh chẳng giết v.v… để rộng nói. Thú vương tuy hung tợn, dũng mănh, nhưng có huệ tánh, nghe xong liền được ngộ giải điều chưa từng có, nghĩ rằng: “Ngươi là thầy của ta, muốn thỏa ước nguyện ǵ?” Vua nói: “Nay ông ở trong rừng hoang giống như mănh thú, sao có thể măn nguyện của tôi được?” Thú vương đáp: “Ta do nghĩ tới ơn thầy, hễ [điều ǵ ta] có thể báo đáp, ắt thầy có thể nói ra”. Vua nói: “Nếu xét đến ước nguyện, điều ta ấp ủ chỉ là chẳng giết chóc, sở nguyện là đấy”. Thú vương bèn hứa, thề chẳng hại mạng. Lại thả năm trăm vương tử để tu thiện pháp. Thả xong, theo vua trở về. Vua biết hắn đă làm thiện hạnh, lại lập hắn làm vua, bảo hắn dùng chánh pháp giáo hóa cơi đời, chính ḿnh th́ xuất gia. Hăy nên biết Bồ Tát trong sự kinh hăi như thế, vẫn chẳng sanh ḷng sân, mà c̣n tạo hạnh lợi ích, huống hồ trong các chuyện khác! Chuyện như thế trong các kinh như Bổn Sanh v.v… đă nói rộng.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng đương xả ly tà kiến, hành ư chánh kiến, bố úy tha thế, vô hại, vô khúc, vô siểm, kỳ tâm đoan trực, ư Phật, Pháp, Tăng, tâm đắc quyết định. Thị cố, Bí Mật Chủ! Tà kiến tối vi cực đại quá thất, năng đoạn Bồ Tát nhất thiết thiện căn, thị vi nhất thiết chư bất thiện pháp chi mẫu. Thị cố, Bí Mật Chủ! Hạ chí hư tiếu, diệc đương bất khởi tà kiến nhân duyên.

          ()復次祕密主菩薩應當捨離邪見行於正見怖畏他世無害無曲無諂其心端直於佛法僧心得決定是故祕密主邪見最為極大過失能斷菩薩一切善根是為一切諸不善法之母是故祕密主下至戲笑亦當不起邪見因緣

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên ĺa bỏ tà kiến, hành chánh kiến, sợ hăi đời khác, chẳng hại, chẳng cong vạy, chẳng siểm nịnh, cái tâm ngay thẳng, đối với Phật, Pháp, Tăng, tâm được quyết định. V́ vậy, Bí Mật Chủ! Tà kiến là lầm lỗi to lớn bậc nhất, có thể đoạn hết thảy thiện căn của Bồ Tát, là mẹ của hết thảy các pháp bất thiện. Do vậy, Bí Mật Chủ! Dẫu là cười đùa, cũng chớ nên khởi duyên của tà kiến).

   

          Giới thứ mười là giới tà kiến. Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên bỏ ĺa tà kiến, trụ trong chánh kiến, quán đời mai sau mà sanh ḷng sợ hăi. Hăy nên không có, trừ khử món tùy phiền năo này, [tức là đừng] hỏi Đông mà đáp Tây, hỏi Tây nói Đông. Hăy kiểm điểm, tự vấn, đừng cong vạy, đừng siểm nịnh, cái tâm ngay thẳng, đối với Phật, Pháp, Tăng, tâm được quyết định, cho đến quy mạng Tam Bảo. V́ thế, Bí Mật Chủ! Tà kiến là lỗi họa to lớn bậc nhất, có thể đoạn hết thảy các thiện căn của Bồ Tát, là mẹ của các pháp bất thiện. Như mẫu tự Tất Đàm có thể sanh ra các chữ; tà kiến cũng thế, có thể sanh hết thảy các pháp bất thiện. V́ thế, Bí Mật Chủ! Cho tới nhân duyên cười nói, hăy nên đừng dấy tâm tà kiến. Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát xả ĺa tà kiến, có chánh kiến, thấy biết đời khác, chẳng có tâm gây hại, chẳng cong vạy, chẳng hư huyễn, mà ngay thẳng. Tâm quyết định đối với Phật, Pháp, Tăng. V́ thế, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ĺa các lỗi tà kiến, v́ nó đoạn hết thảy thiện căn, là mẹ của các pháp bất thiện như thế. Do vậy, Bí Mật Chủ! Thậm chí cười đùa, xem ngó, cũng chẳng dấy lên tà kiến. Đó là giới tướng thứ mười. Kinh dạy tŕ giới “chẳng tà kiến”, do tà kiến là cội gốc của bất thiện, tức là do trừ khử tà kiến ấy mà tŕ giới. V́ thế nói là “tŕ giới chẳng tà kiến”. Chín giới trước đó cũng phỏng theo đấy mà biết [mục đích v́ sao tŕ giới]. Hăy nên nói là tŕ giới “bất sát” cho đến “tŕ sát giới” [cũng là để trừ khử tâm sát hại mà tŕ giới], cũng chuẩn theo đấy mà nói.

          Tà kiến là đối với mỗi pháp, thấy lư bất chánh, thuận theo tà đạo. Đấy là gây hại cho căn bản của điều lành trong ba đời, tức là do hạnh nghiệp quá khứ mà có cái quả y chỉ vào Ngũ Ấm trong đời này. Lại do hạnh nghiệp trong đời này mà có quả báo trong vị lai. Do trước đó đă hiểu rơ pháp nhân duyên này, mà được nhập các môn như vô thường, vô ngă v.v… Từ cái trí vô thường, vô ngă ấy, được nhập pháp Không, đúng như Thật Tướng. Hăy nên biết ĺa ngoài nhân quả thế gian chân chánh ấy, sẽ chẳng có chánh kiến, chánh huệ nào khác. Nếu nói là “chẳng có quả, chẳng có nhân” sẽ là hoại Tam Bảo và pháp Tứ Đế. Do hoại Tam Bảo và pháp Tứ Đế, chẳng có tứ sa-môn quả v.v… [cũng như chẳng có] hết thảy các thánh pháp và thiện pháp thế gian lẫn xuất thế gian. Nay bác bỏ hết sạch các sự ấy, chính là điều đề cao, chấp trước của ngoại đạo. Hăy nên trụ trong chánh kiến, tức là sửa đổi lỗi sai trước đó, quyết định chánh tín nhân quả và pháp “đế thật” (chân thật). “Đế” tức là câu chân thật của Như Lai; nếu báng bổ điều này, chính là gây hại hết thảy các điều thiện. “Hại” trong “vô hại” nghĩa là phiền năo chi phần. Do điều ấy nên có thể chướng hết thảy các thiện. Do chướng ngại hết thảy các điều thiện, nên gọi là “hại”.

          Kế đó, lần lượt giải thích “vô hại” là như thế nào? Tức là chẳng siểm khúc. “Khúc” tức là tà kiến, giống như rắn chưa vào trong ống tre, sẽ ḅ ngoằn ngoèo. Thấy cái tâm cũng thế. Nếu chưa vào trong đạo Thật Tướng của các pháp, sẽ là cong vạy, bất chánh. Kế đó, lần lượt giải thích “chẳng siểm khúc” là thế nào? Tức là giống như huyễn v.v… Quán Thật Tướng của cái tâm này từ duyên mà sanh, giống như huyễn. Do liễu đạt Thật nên ĺa cười đùa, ĺa cười đùa tức là vô huyễn. Nếu như thế, tức là trụ trong cái tâm ngay thẳng, đối với cảnh giới Tam Bảo, tâm thường quyết định. Do nhập đạo ngay thẳng của Thật Tướng, tức là thường đạt được tánh quyết định trong Tam Bảo. V́ thế, khuyên các Bồ Tát ĺa căn bản của các lỗi, do “bất thiện” được gọi là căn bản có thể hại hết thảy các thiện pháp. Do “thiện”, Bồ Tát tŕ giới sẽ ĺa lỗi ác ấy. “Chuyển” là dời ác thành thiện, như kinh nói “nếu vô minh chuyển” tức là biến thành minh. Nay tà kiến cũng như thế, toàn thể chính là huệ tánh, tức là nếu chuyển thành ngay thẳng th́ chính là chánh kiến, chẳng giống như Thanh Văn chán ngán các phiền năo, riêng cầu thánh pháp.

          Bất thiện cũng thế, chuyển thiện tánh thành bất thiện, như nước đông thành băng, chẳng có tánh riêng. “Mẫu” có nghĩa là “có thể sanh ra”. Ư nói tà kiến có thể sanh ra hết thảy các pháp bất thiện, giống như mẹ vậy. Do bởi nghĩa này, Bồ Tát ngay cả cười đùa, xem ngó, cũng chẳng sanh tà kiến. Nói tóm lại, chẳng sanh một niệm tâm phạm giới tà kiến ấy, huống hồ nhiều [tâm niệm] ư? Như trong kinh Thanh Văn, nói đùa, cười giỡn v.v… chẳng tự phạm Học Xứ. Ở đây, chẳng giống như vậy, thậm chí làm chuyện tà kiến trong khi cười đùa v.v… cũng chẳng được, huống hồ cố ư thực hiện nghiệp ấy ư? Nhưng Bồ Tát có huệ phương tiện, tức là có thể bất động đối với các kiến, tu ba mươi bảy đạo phẩm, tức là từ tà tướng mà nhập chánh tướng. V́ sao vậy? Do chúng sanh từ vô thỉ tới nay, đă quá quen với pháp này, rất khó trở thành chánh. Như vị lương y kia, trước hết có cùng sự nghiệp với họ, sau đoạt lấy quyền, như kinh Niết Bàn đă nói.

          Lại như trong Bồ Tát Tạng Bổn Sanh có nói: Trong đời quá khứ, có thành tên Ba La Nại, vua tên là Phạm Thí. Đây chính là chuyện lâu xa kia, mà tên thành hiện thời chính là đất cũ xưa kia. Hăy nên biết trong thế gian có rất nhiều nơi vẫn ở nơi chốn cũ mà giữ được tên xưa. Thành Ba La Nại được nhắc tới trong thời gần đây, vua cũng tên là Phạm Thí, tức là một trong các trường hợp trùng tên với thuở trước. Khi đó, vị Bà La Môn là đại thần của nhà vua ấy sanh được một trai. Khi đứa con đó sanh ra, bốn phương trên không trung, mây có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, mỗi thứ bao phủ rực rỡ ở một phương, cho đến tuôn mưa trọn khắp Diêm Phù Đề. Theo pháp Bà La Môn, nếu lúc sanh con, ắt thỉnh bậc thiên tiên thánh trí xem tướng trước rồi mới đặt tên. Khi đó, đại thần cầu được một vị tiên đến xem tướng đứa con ấy. Vị tiên hỏi khi đứa con sanh ra có thụy tướng ǵ, sẽ dựa theo đó mà đặt tên. Cha kể lại chuyện trước đó, tiên nhân nói: “Trong kinh điển Vi Đà của ta, nếu lúc sanh mà có tướng ấy, ắt sẽ thông suốt kinh điển Tứ Vi Đà, lưu diễn ân trạch pháp thí trọn khắp bốn phương”. Do vậy, đặt tên là Khánh Vân. Nhưng chủng tộc của đại thần học tập kinh điển Tứ Vi Đà thuộc về tông Ma Nạp Bà (Mānava)[6]; do vậy, nương theo bổn tông mà đặt tên là Ma Nạp Bà.

          Đứa trẻ ấy tuổi dần khôn lớn, chuyên học tập môn ấy, đối với tông chỉ của Tứ Vi Đà không ǵ chẳng hiểu thấu suốt, nhưng nghĩ như thế này: “Chẳng chỉ do thông hiểu mà sẽ đạt được nghĩa lợi, hăy nên suy nghĩ, chọn lựa để hành, truy t́m tông chỉ trước sau của kinh văn để nương theo pháp nào mà được thoát ly”. V́ sao vậy? Do đứa trẻ ấy đời trước đă gieo cội đức, vun bồi huệ tánh đă lâu, tuy sanh trong tông phái tôn sùng dị kiến, mà có thể tự sanh khởi cái tâm giác ngộ ấy. Nhưng nghiên cứu mỗi điều được kinh [Vedas] đề cao, chỉ là sanh vào Phạm Thiên, chẳng có đạo xuất thế, liền thưa với cha rằng: “Nay trong những điều con học tập, chẳng có đạo xuất thế, c̣n có pháp ǵ tăng thượng hơn chăng?” Cha nói: “Ta được truyền thừa từ tổ tông, chỉ có pháp này là mầu nhiệm nhất. Lại là pháp do Phạm Vương nói, chỉ nên tuân hành, há nên cầu pháp thù thắng hơn ư?” Con lại nghĩ rằng: “Nay con sở học chưa hoàn tất, lẽ nào giải đăi? Ắt phải nên cầu huệ thù thắng”. Cha nói: “Ta nghe nói trong Tuyết Sơn có đại tiên nhân, ngoài Tứ Vi Đà, riêng có nghĩa sâu quyết trạch, tên là Kế Trách Bà (tên này có nghĩa là Vấn Đáp Tùy Tâm). Ngài dùng pháp ấy để dạy, nên vị tiên này được gọi là Kế Trách Bà Tiên”. “Con nay sẽ đến hỏi Ngài”. Cha nói: “Vị tiên ấy trụ trong chỗ hiểm trở, cách tuyệt, không dấu chân người lui tới, sao con có thể đến đó được?” Khi đó, [đứa trẻ ấy] chẳng nguôi ư định ra đi, liền tới đó. Khi ấy, các thiên thần thấy đứa trẻ này ắt có thể tạo lợi ích cho mọi người; do vậy, cùng gia hộ, khiến cho nó đến được chỗ của tiên nhân. Vị tiên ấy thấy đứa trẻ này dung mạo kỳ đặc, biểu hiện hơn người, liền hỏi han, [cho nó] ngồi gần nơi ngài.

          Khi đó, vị tiên ấy có năm ngàn tiên nhân, Ngài làm thượng thủ, thường diễn pháp sâu, liền hỏi đồng tử: “V́ sao đến tận nơi đây?” Đồng tử thưa cặn kẽ chuyện trên đây; nhân đó, bạch đại tiên: “Con ở trong nhân gian, học bốn thánh điển, sợ có chỗ hiểu sai lệch, chẳng phù hợp ư chỉ vốn có của kinh. Xin tiên nhân hăy giảng dạy”. Đại tiên hứa khả: “Được!” Đồng tử lập tức trần thuật cặn kẽ kiến giải. Đại tiên than rằng: “Đứa trẻ này huệ ngộ hơn người. Ta chẳng hiểu bằng nó được! Nhưng đứa trẻ này nói đến đạo xuất thế, th́ ta đích thân nghe Phạm Vương nói, sẽ có bậc đại tiên xuất thế, hiệu là Nhất Thiết Trí Giả Kiến Giả, chỉ người ấy mới có thể diễn pháp này, chí hướng của bọn ta chẳng thể sánh bằng được”. Lại tùy theo những ư chỉ ḿnh hiểu biết, phân biệt mà dạy bảo đầy đủ. Khi đó, đồng tử do thiện căn đời trước, nay nghe danh hiệu Nhất Thiết Trí đạt được điều chưa từng có; do vậy, đội ân thầy sâu xa, nghĩ muốn báo ân. Nhưng cách báo đáp thầy của Phạm Chí th́ cần phải dùng áo bằng da nai, dùng chỉ màu vàng làm thành h́nh Phạm Thiên và Na La Diên, và năm trăm đồng vàng. Nghĩ xong, muốn t́m cầu.

          Nghe nói phương Nam có vị vua sắp lên ngôi, muốn phô bày oai đức, tiếp nhận địa vị Quán Đảnh, rộng thí cho bậc phạm hạnh, liền muốn tới đó cầu xin. Nhưng trước đó, đă có các Phạm Chí bảo vua chuẩn bị dê, ngựa, và người, mỗi loại một ngàn đem giết để thị uy, dùng làm lễ Quán Đảnh, mong được danh tiếng lan xa. Sau đó, đồng tử t́m tới. Khi ấy, nhà vua nghe tên đồng tử, hết sức hoan hỷ: “Ta sắp lên ngôi mà cảm được vị hiền nhân này, tức là đại cát tường”. Liền mời làm khách quư, truyền cùng bàn định nghi lễ, pháp tắc [trong lễ Quán Đảnh]. Đồng tử triệu tập các Bà La Môn, đối với mỗi người đều truy hỏi: “Nay chuyện sát sanh để cúng tế căn cứ từ kinh văn nào?” Truy t́m ráo riết, bọn họ đều đuối lư. Do vậy, đồng tử bảo vua rằng: “Quán đảnh kiểu này chẳng phải là chân đạo. Vua hăy nên trong một ngày, ở bốn cửa thành, sắp đặt hết thảy các vật cúng, hễ có ai xin, đều ban cho. Phước ấy vô lượng, thanh danh cũng lan xa”. Vua cũng có thiện căn từ trước, nghe nói liền ngộ giải, kính vâng theo lời dạy, tạ lễ trọng hậu. Đồng tử chỉ lấy năm trăm đồng vàng, da nai và chỉ thêu rồi rời đi.

          Giữa đường, đến thành Bảo Định (thành này gần biên giới của nước Kiện Đà La). Vua tên là Quân Thắng (do [nhà vua] hễ giao chiến, ắt thắng trận, nên đặt tên như thế), do Nhiên Đăng Phật vừa mới xuất thế, bèn trang hoàng thành ấp, mong nghênh tiếp, dọn sạch sẽ đường phố, xếp đặt đủ loại hoa, hương khác lạ thường nhật. Đồng tử thấy vậy, hỏi người khác: “V́ sao như thế? Do tôi đến thành này ư? Hay là v́ duyên nào khác?” (Khi đó, tiếng tăm của đồng tử lan xa, ở nơi đâu cũng được tiếp đại trọng hậu, tôn kính. V́ thế, tự nghi). Người trong thành đáp rằng: “Có Phật xuất thế, hiệu là Nhiên Đăng. Vua muốn nghênh tiếp Phật”. Đồng tử nghe danh hiệu Phật, bỗng dưng hết sức mừng rỡ: “Nay danh hiệu này vượt ngoài kinh điển, chẳng phải là vị mà đại tiên đă nhắc tới ư?” Do vậy, dùng vật có được để sắm sửa vật cúng, muốn tới dâng lên Phật.

          Khi đó, thiên ma thấy tâm đồng tử to lớn, sợ sẽ dẫn dắt vô lượng chúng sanh vượt khỏi cơi ḿnh, bèn phủ lấp hết thảy mọi người, [khiến cho đồng tử thấy] chẳng có vật nào có thể mua được. Khi đó, có nữ nhân do phước đời trước, có nhân duyên lâu xa với đồng tử, ma chẳng thể che lấp được. Đồng tử muốn mua hoa từ chỗ cô, cô ta đáp rằng: “Tôi muốn dâng lên đức Phật. Dẫu dùng một trăm đồng vàng mua một bông, tôi cũng chẳng bán”. Đồng tử nói: “Cô đă ước định bán rồi”. Liền dùng một trăm đồng để mua một bông, cho đến năm cành, tốn năm trăm đồng tiền vàng. Cô gái liền đ̣i hỏi: “Ta chẳng cho ngươi; nếu ngươi có thể đời đời làm chồng ta th́ sẽ được [hoa này]!” Đồng tử suy nghĩ sâu xa: “Nữ nhân phương hại Bồ Tát đạo, ta thà chẳng mua hoa này”. Liền muốn bỏ đi. Cô gái nói: “Ta muốn đời đời giúp đỡ nhau thành chân đạo, trọn chẳng trở ngại nhau…” như trong kinh luật đă nói. [Đồng tử liền chấp thuận] và cầm hoa đến chỗ Phật, rải lên để cúng dường. Hoa ở trong hư không, kết thành cái lọng, theo Phật vào thành. Đồng tử đạt được điều chưa từng có. Đức Phật v́ đồng tử thuyết pháp, đồng tử đạt được pháp lợi sâu xa.

          Lại ở chỗ bùn lầy trên đường, [đồng tử] muốn trải áo da nai để Phật bước qua. Ma vương năm lượt quăng đi, bảo đồng tử rằng: “Đồng tử! Ngươi hành chân đạo, trong hết thảy các thế gian, ngươi là tối thượng, sao lại tự vứt bỏ chân đạo để học theo pháp tà đạo của sa-môn vậy?” Đồng tử trọn chẳng để ư tới hắn. Phía trước có con đường hẹp bùn lầy, Phật ắt sẽ theo đó mà đi qua. Do vậy, [đồng tử] chờ đến lúc ấy, bèn trải áo và tóc để lót cho Phật đi qua. Kế đó, đệ tử muốn theo Phật bước qua, đức Phật bảo: “Đừng nên! Đối với bậc đại tâm này, nếu các thầy đạp lên, sẽ bị tổn phước to lớn”. Nhân đó, đức Phật xoa đỉnh đầu đồng tử thọ kư. Ngay trong lúc ấy, đồng tử liền thấy mười phương các cơi Phật nhiều như cát sông Hằng, đều xoa đỉnh đầu đồng tử mà thọ kư. Đồng tử liền dự vào hàng Đệ Cửu Địa Bồ Tát. Khi đó, vô lượng trăm ngàn chúng trời, người, do nhân duyên của vị đại sĩ ấy, đều bỏ tà kiến, nhập chánh đạo. Đó chính là thị hiện huệ phương tiện của Bồ Tát: Trước hết, nhập tà đạo, thấu đạt tận cùng tông chỉ của họ, tạo phương tiện khiến cho họ hồi tâm để có thể dẫn dắt vô lượng người cùng hàng. V́ thế, gọi là huệ phương tiện trọn đủ”. Hăy nên kiểm trong kinh có nói cặn kẽ chuyện này[7].

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Thế Tôn! Nguyện thuyết thập thiện đạo giới, đoạn cực căn đoạn. Vân hà Bồ Tát vương vị tự tại, xử ư cung điện, phụ mẫu, thê tử, quyến thuộc vi nhiễu, thọ thiên diệu lạc, nhi bất sanh quá?

          ()爾時執金剛祕密主白佛言世尊願說十善道戒斷極根斷云何菩薩王位自在處於宮殿父母妻子眷屬圍繞受天妙樂而不生過

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Xin hăy nói thập thiện đạo giới, đoạn trừ tột cùng cội rễ [của mười điều bất thiện]. Bồ Tát như thế nào mà tự tại nơi ngôi vua, ở trong cung điện, cha mẹ, vợ con, quyến thuộc vây quanh, hưởng niềm vui mầu nhiệm cơi trời, mà chẳng sanh lầm lỗi?)

 

          Tức là như cắt trụi cỏ, nó lại sanh ra; c̣n như chặt cụt cây Đa La, nó sẽ chẳng mọc lại nữa, đó gọi là “cực đoạn”. Ở đây nói về công lực của giới. Bồ Tát làm thế nào để tự tại nơi vương vị, ngự trong cung điện, cha mẹ, thân thích vây quanh, hưởng niềm vui mầu nhiệm của cơi trời mà chẳng sanh lầm lỗi?

 

          (Kinh) Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Chấp Kim Cang ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế thính, thiện tư niệm chi. Ngô kim diễn thuyết Bồ Tát Tỳ Ni quyết định thiện xảo. Bí Mật Chủ! Ưng tri Bồ Tát hữu nhị chủng, vân hà vi nhị? Sở vị tại gia, xuất gia. Bí Mật Chủ! Bỉ tại gia Bồ Tát thọ tŕ ngũ giới cú, thế vị tự tại, dĩ chủng chủng phương tiện đạo, tùy thuận thời phương, tự tại nhiếp thọ, cầu Nhất Thiết Trí. Sở vị cụ túc phương tiện, thị lư vũ kỹ, thiên từ chủ đẳng, chủng chủng nghệ xứ, tùy bỉ phương tiện, dĩ Tứ Nhiếp Pháp nhiếp thủ chúng sanh, giai sử chí cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị tŕ bất đoạt sanh mạng giới, cập bất dữ thủ, hư vọng ngữ, dục tà hạnh, tà kiến đẳng. Thị danh tại gia ngũ giới cú. Bồ Tát thọ tŕ như sở thuyết thiện giới, ưng cụ đế tín, đương cần tu học, tùy thuận văng tích chư Như Lai Học Xứ, trụ hữu vi giới, cụ túc trí huệ phương tiện, đắc chí Như Lai vô thượng cát tường vô vi giới uẩn.

          ()如是佛告執金剛言善哉善哉祕密主汝當諦聽善思念之吾今演說菩薩毘尼決定善巧祕密主應知菩薩有二種云何為二所謂在家出家祕密主彼在家菩薩受持五戒句勢位自在以種種方便道隨順時方自在攝受求一切智所謂具足方便示理舞伎天祠主等種種藝處隨彼方便以四攝法攝取眾生皆使志求阿耨多羅三藐三菩提謂持不奪生命戒及不與取虛妄語欲邪行邪見等是名在家五戒句菩薩受持如所善戒應具諦信當勤修學隨順往昔諸如來學處住有為戒具足智慧方便得至如來無上吉祥無為戒蘊

    (Kinh: Nói như thế xong, đức Phật bảo ngài Chấp Kim Cang rằng: - Lành thay! Lành thay! Bí Mật Chủ! Ông nên lắng nghe, khéo suy nghĩ lấy. Ta nay diễn nói thiện xảo quyết định trong Tỳ Ni của Bồ Tát. Bí Mật Chủ! Hăy nên biết Bồ Tát có hai loại, thế nào là hai? Tức là tại gia và xuất gia. Bí Mật Chủ! Hàng tại gia Bồ Tát thọ tŕ câu ngũ giới, oai thế, địa vị tự tại, dùng đủ loại đạo phương tiện, tùy thuận thời điểm và nơi chốn, tự tại nhiếp thọ, cầu Nhất Thiết Trí, tức là trọn đủ phương tiện, phô bày các thứ nghệ thuật của các vũ công hoặc chủ các đền thờ trời v.v… Thuận theo phương tiện ấy, dùng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ đều dốc chí mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là giữ giới chẳng tước đoạt sanh mạng, và giới chẳng cho mà lấy, nói lời hư vọng, làm hạnh tà dục, tà kiến v.v… Đó gọi là câu Ngũ Giới của tại gia. Bồ Tát thọ tŕ thiện giới như vừa nói đó, hăy nên giữ trọn ḷng tin chắc thật, nên siêng tu học, tùy Học Xứ của các vị Như Lai xưa kia, trụ trong hữu vi giới, trọn đủ phương tiện trí huệ, đạt được giới uẩn vô vi cát tường vô thượng của Như Lai).

 

          Nói như thế xong, đức Phật bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay, Bí Mật Chủ! Hăy nên lắng nghe, cực khéo suy nghĩ. Ta sẽ diễn nói thiện xảo quyết định của Bồ Tát Tỳ Nại Da (giới luật của hàng Bồ Tát). Bí Mật Chủ! Hăy nên biết có hai loại Bồ Tát, những ǵ là hai? Đó là tại gia và xuất gia. Bí Mật Chủ! Tại gia Bồ Tát thọ nhận lănh câu Ngũ Giới, tự tại nơi vương vị, trọn đủ phương tiện đạo, tùy theo thời và nơi chốn mà tự tại nhiếp thọ (tùy theo nơi chốn và thời gian mà tự tại làm, như chỉ bày tà kiến để đối trị đại tà v.v…), cầu Nhất Thiết Trí. Đó gọi là “trọn đủ phương tiện”, thị hiện các loại nghệ thuật của các vũ công, chủ các đền thờ trời v.v… Thuận theo phương tiện ấy, dùng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ dốc chí cầu Vô Thượng Bồ Đề. Người ấy tŕ giới “chẳng giết hại sanh mạng, chẳng cho mà lấy, nói dối, hạnh dục tà, tà kiến” v.v… Đó gọi là câu tại gia Ngũ Giới. Bồ Tát thọ tŕ thiện giới như đă nói, hăy khéo nên tu học, hăy nên tin tưởng trọn vẹn, tùy thuận Học Xứ của chư Phật xưa kia, tức là thuận theo chư cổ Phật mà học. Do trụ trong hữu vi, trọn đủ huệ phương tiện, sẽ có thể đạt được giới uẩn vô vi cát tường vô thượng của Như Lai. Người học do suy nghĩ, học tập mà đạt được.

          [Khi đức Phật] đă nói mười giới tướng xong, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật: “Xin hăy nói Thập Thiện Nghiệp Đạo giới đoạn trừ tột cùng tận cội rễ [của các pháp bất thiện]. Bồ Tát làm thế nào để tự tại nơi vương vị, ngự trong cung điện, nam nữ thân thuộc, cha mẹ vây quanh, hưởng niềm vui mầu nhiệm cơi trời, chẳng nẩy sanh lầm lỗi?” Ư hỏi ở đây là: Có pháp nào có thể trừ khử tận cội gốc [các điều bị răn cấm] trong các giới y, khiến cho thiện pháp chẳng sanh hay không?[8] “Cực” có nghĩa là hại trọn hết thảy các điều thiện. Hàm ư: Làm thế nào để ở trong pháp thế gian mà chẳng bị nhiễm ô? Bồ Tát v́ chúng sanh mà thường cần phải ở trong thế gian, ắt phải có giới phương tiện, ngơ hầu chẳng làm hại các điều thiện. Đức Phật khen ngợi xong, dạy [ngài Kim Cang Thủ] hăy lắng nghe, Ngài liền nói “quyết định thiện xảo điều phục của Bồ Tát”. Quyết định tức là tự “hại (đoạn trừ) hết thảy các điều ác, hết thảy các điều thiện đều do đó mà sanh, tức là các điều thiện trong tự tánh.

          Bồ Tát có hai loại là tại gia và xuất gia. Nếu là tại gia, nhận lănh câu Ngũ Giới, sẽ giống như trên, tự tại nơi ngôi vua, chẳng trở ngại hành Bồ Tát đạo nhờ vào năm sự ấy. Các thứ phương tiện đạo, nhiếp thọ tự tại trong các thời điểm và nơi chốn, cầu Nhất Thiết Trí, tức là phương tiện trọn đủ, thị hiện đủ loại nghệ thuật của các vũ công, chủ các đền thờ trời v.v… chính là thuận theo phương tiện của họ mà dùng Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp thủ chúng sanh. Kinh văn dạy như thế. “Thời” tức là quán đúng thời hay phi thời, chẳng chần chờ, chẳng lỡ dịp, [mà đúng thời] như sóng biển. “Phương” là nói đến nơi chốn. Đáng nên dùng pháp nào để nhập đạo, tức là tùy thuận Thế Giới Tất Đàn. Do trọn đủ phương tiện huệ, đủ loại thực hiện tự tại, nhiếp thủ chúng sanh, đặt họ trong Nhất Thiết Trí. Chẳng giống như Ngũ Giới [theo Nhị Thừa] chẳng có phương tiện, chỉ tự câu nệ, hạn cuộc, dốc chí cầu thủ hộ chính ḿnh. Do quán lợi ích nhiếp hết thảy, vào đủ loại đạo, cho đến người hay ta vào miếu thờ trời, thị hiện cùng học giống như họ, dần dần dùng chánh kiến để hướng dẫn họ. Dùng các phương tiện vô biên như thế đó, lợi ích vô hạn, dùng Tứ Nhiếp Pháp để dẫn dắt họ nhập Phật đạo. Tứ Nhiếp th́ như trong Bảo Vân Bồ Tát Tạng v.v… đă nói cặn kẽ. Nếu tại gia Bồ Tát tŕ năm giới như thế, tức là chẳng “giết, trộm, dâm, dối, tà kiến”, trong năm giới ấy, dùng phương tiện để tŕ, hết thảy các điều khác vô ngại, chủ yếu nhằm dẫn nhập Phật đạo đó thôi! Dùng năm giới ấy làm đầu, sẽ có thể thành tựu Nhất Thiết Trí Địa, tức địa vị Như Lai; do vậy nói là “được thành tựu vô lậu tánh giới”. Do trụ trong phương tiện trọn đủ huệ này, tức là Học Xứ. Đấy là giới trọn đủ thuộc vạn đức trong bản tánh, tức là vô vi giới. Lại giải thích thêm (chẳng khác với phần trước, đă giảng xong rồi lại nhắc lại, v́ trong phần trước chưa nói rơ). Trong phần trước đă nói có hai loại Bồ Tát, tức tại gia và xuất gia. Câu ngũ giới này chính là pháp để hàng tại gia Bồ Tát hành tŕ. Do trong thế gian có đủ loại sự vụ, do tŕ câu ngũ giới này, do giới ấy mà có thể trọn đủ huệ phương tiện, các phiền năo ác nghiệp chẳng thể làm hại. Do nhân duyên ấy mà được thành Phật. V́ thế, kinh nói: “Như thị thiện giới, thiện tu học cụ tín” (Thiện giới như thế hăy nên khéo tu học, tin tưởng trọn đủ). Đấy là khuyên tŕ. Đối với ư “khuyến tŕ”, đức Phật dẫn cổ Phật làm chứng. Quá khứ chư Phật do tŕ năm giới này, ở trong thế gian, cùng làmn đủ loại sự nghiệp giống như chúng sanh để nhiếp thủ họ, nhưng chẳng trở ngại tự hạnh. Do vậy, [các Ngài] được thành Phật, vạn đức đầy đủ trọn vẹn. Vô lậu tự tánh giới cũng do vậy mà sanh.

          “Phương tiện trí đầy đủ”: Phương tiện ấy chính là thân kết ấn, miệng niệm chân ngôn, tâm quán Bổn Tôn tam-muội; dùng đó làm phương tiện, lại có diệu huệ. Do quán ba sự ấy đều sanh từ duyên, bèn nhập vào Thật Tướng. vậy, vạn hạnh nhanh chóng trọn đủ, được thành Phật. Trong kinh Thanh Văn, sở dĩ tục nhân tŕ ngũ giới là để pḥng hộ thân khẩu, ḥng nhập kiến Đế. Nay ở đây cũng thế, dùng câu ngũ giới này làm phương tiện để pḥng hộ, khiến cho hạnh chân ngôn được thành tựu kiến Đế. Không chỉ tại gia Bồ Tát, mà người xuất gia cũng đều cùng hành năm câu này.

 

          (Kinh) Hữu tứ chủng căn bản tội, năi chí hoạt mạng nhân duyên, diệc bất ưng phạm. Vân hà vi tứ? Vị báng chư pháp, xả ly Bồ Đề tâm, xan lận, năo hại chúng sanh. Sở dĩ giả hà? Thử tánh thị nhiễm, phi tŕ Bồ Tát giới. Hà dĩ cố? Quá khứ chư Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại Nhân Trung Tôn, cụ túc trí phương tiện, tu hành Vô Thượng Giác, đắc vô lậu Tất Địa, diệc thuyết dư Học Xứ, ly ư phương tiện trí, đương tri Đại Cần Dũng, dụ tấn chư Thanh Văn.

          ()有四種根本罪,乃至活命因緣亦不應犯。云何為四?謂謗諸法、捨離菩提心、慳悋、惱害眾生。所以者何?此性是染,非持菩薩戒。何以故?過去諸正覺,及與未來世,現在仁中尊,具足智方便,修行無上覺,得無漏悉地,亦說餘學處,離於方便智。當知大勤勇,誘進諸聲聞。

          (Kinh: Có bốn loại tội căn bản, thậm chí dù v́ nhân duyên sống sót, cũng chớ nên phạm! Những ǵ là bốn? Tức là báng các pháp, xả ĺa Bồ Đề tâm, keo kiệt, năo hại chúng sanh. V́ sao vậy? Tánh của chúng là nhiễm, [hễ phạm bốn tội ấy], sẽ chẳng phải là tŕ Bồ Tát giới. V́ sao? Quá khứ các Chánh Giác, cùng với đời vị lai, hiện tại Nhân Trung Tôn, trọn đủ trí phương tiện, tu hành Vô Thượng Giác, đắc vô lậu Tất Địa, cũng nói Học Xứ khác, ĺa khỏi trí phương tiện, hăy biết Đại Cần Dũng, khuyên, sách tấn Thanh Văn).

 

          Lại có bốn căn bản trọng nghiệp, hành giả tu Chân Ngôn dẫu gặp cái nhân mất mạng, cũng chớ nên phạm! Những ǵ là bốn? Tức: Một là báng các pháp, hai là xả ly Bồ Đề tâm, ba là keo kiệt, bốn là năo hại chúng sanh. V́ sao vậy? Do tánh của bốn tội ấy là nhiễm; đấy chẳng phải là Bồ Tát giới. Phần kệ tiếp đó nói: “Phi tŕ Bồ Tát giới, thử tánh thị nhiễm” (Chẳng phải là tŕ Bồ Tát giới, v́ tánh của bốn món ấy là nhiễm). Bồ Tát Chân Ngôn hạnh nếu phạm bốn trọng cấm ấy, sẽ giống như Thanh Văn phạm bốn tội căn bản. Nếu phạm các tội ấy, chính là đoạn căn bản thiện nghiệp, hết thảy công đức đều chẳng thể sanh, như các thí dụ về cây Đa La[9] v.v… trong kinh Thanh Văn. Nhưng trong Đại Thừa, chẳng có ư nghĩa [thiện căn] “vĩnh viễn đoạn dứt”! Hễ chịu tự sửa đổi, [thiện căn] sẽ liền sanh. Nếu phạm các tội ấy, sẽ chẳng phải là Bồ Tát, giống như Thanh Văn phạm trọng giới, sẽ chẳng phải là tỳ-kheo! V́ lẽ nào vậy? Do trong pháp Bồ Tát, bốn sự ấy có tánh gây nhiễm, có thể chướng ngại hết thảy các công đức, khiến cho chúng chẳng thể sanh. Dẫu gặp nhân duyên mất mạng, cũng chớ nên hủy phạm [bốn trọng giới ấy]. Kế đó, đức Phật lại dẫn chứng: Do quá khứ, vị lai, hiện tại hết thảy chư Phật đều v́ trọn đủ huệ phương tiện, do tu hành giới này mà được tu học Vô Thượng Bồ Đề, đắc đại Tất Địa. Đại Tất Địa tức là cái quả của diệu hạnh, tức là thành Bồ Đề.

          “Vô hữu lậu” tức là tánh giới. Phương tiện ly trí Học Xứ cũng là nói về Thanh Văn. Kinh văn nói “Bậc đại dũng đó” ngụ ư: Đức Phật v́ hàng Thanh Văn cũng nói giới cụ túc và tứ trọng v.v…, nhưng các pháp ấy nhằm thâu nhiếp một loại tiểu căn tánh, quyền biến mà nói như thế, chưa phải là rốt ráo! Do vậy, giới này ĺa phương tiện, phương tiện và trí đều chưa trọn đủ. Nếu có thể hướng theo Đại Thừa, học thêm diệu giới, bèn có thể trọn đủ Bồ Tát giới vậy! [Kinh nói] bậc Đại Dũng là chỉ ngài Kim Cang Thủ để bảo ban. Đức Phật do thấy hữu t́nh hèn kém, chẳng có chí nguyện Đại Thừa, muốn thâu nhiếp họ vào nhà của bậc trưởng giả, chẳng để họ ở trong xóm nghèo, phí công nhọc nhằn, khổ sở mà chẳng đạt được ǵ. V́ thế, thâu nhiếp vào trong pháp này, chẳng phải là bổn ư xuất thế của Phật. V́ vậy, giới này chẳng phải là giới vô lậu chẳng nghĩ bàn thuộc Phật huệ. Nếu đă nhập trí vô lậu của Phật, sẽ tự chứng biết!

 

19. Phẩm thứ mười chín: Sanh ra trăm chữ (Bách tự sanh phẩm đệ thập cửu, 百字生品第十九)

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát chư đại hội chúng, thuyết bất không giáo, tùy lạc dục, thành tựu nhất thiết chân ngôn tự tại, chân ngôn chi vương, chân ngôn đạo sư, đại oai đức giả, an trụ tam tam-muội-da, viên măn tam pháp cố, dĩ diệu âm thanh, cáo Đại Lực Kim Cang Thủ ngôn: “Cần Dũng Sĩ! Nhất tâm đế thính chư chân ngôn, chân ngôn đạo sư”. Tức thời, trụ ư Trí Sanh tam-muội, nhi thuyết Xuất Sanh Chủng Chủng Xảo Trí Bách Quang Biến Chiếu chân ngôn viết: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám”.

          ()爾時毘盧遮那世尊觀察諸大會眾說不空教,樂欲成就一切真言自在真言之王真言導師大威德者安住三三昧耶圓滿三法故以妙音聲告大力金剛手言勤勇士一心諦聽諸真言真言導師即時住於智生三昧說出生種種巧智百光遍照真言曰南麼三曼多勃馱喃

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát các đại chúng trong hội, nói giáo pháp bất không, thuận theo sự ưa muốn [của đại chúng] mong thành tựu hết thảy chân ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo sư, bậc đại oai đức an trụ trong ba món tam-muội-da, do viên măn ba pháp, dùng âm thanh mầu nhiệm bảo Đại Lực Kim Cang Thủ rằng: “Cần Dũng Sĩ! Hăy nhất tâm lắng nghe chân ngôn đạo sư của các chân ngôn”. Ngay lập tức, đức Phật trụ trong Trí Sanh tam-muội, bèn nói chân ngôn Sanh Ra Đủ Loại Trí Khéo, Trăm Quang Minh Chiếu Trọn Khắp rằng: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm, ám - Namaḥ samanta-buddhānāṃ, aṃ”).

 

          Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát các đại chúng hội, dạy về Bất Không Tất Địa, nói giáo pháp bất không, tùy ḷng ưa muốn [của thính chúng] mà thành tựu hết thảy. Chân ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo sư trọn đủ oai đức to lớn, an trụ trong ba món tam-muội-da, do viên măn ba pháp (địa vị an trụ này như ngồi, nằm, hoặc đứng trên cỗ xe vậy), dùng âm thanh mỹ diệu, bảo Đại Lực Kim Cang Thủ rằng: “Cần Dũng Sĩ! Hăy nhất tâm lắng nghe chân ngôn đạo sư của hết thảy các chân ngôn”. Ngay lập tức, đức Phật trụ trong Trí Sanh tam-muội, thuận theo sự ưa thích [của hết thảy đại chúng trong pháp hội], nói hết thảy chân ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo sư đại oai đức do viên măn ba món tam-muội-da mà bảo ban. Trên đây là [tóm lược ư] của chánh kinh. Trong các phần trước, tuy đă nói đủ loại phương tiện của chân ngôn, nhưng vẫn chưa trọn đủ, nên lại nói thêm. Do vậy, đức Phật quán sát đại hội, soi rơ tâm cơ của họ, [biết rơ] trọn khắp đại chúng trong ấy đều là chân thật, kham làm pháp khí, Ngài lại v́ họ nói. Lại c̣n dùng thần lực chẳng thể nghĩ bàn để gia tŕ họ, khiến cho họ đắc pháp lực, kham nghe diệu pháp này. V́ thế, quán sát họ.

          Các chân ngôn như trong các phần trước đă rộng nói. Ở đây là chữ Ám (a), tức tâm chú của hết thảy các chân ngôn, là thượng thủ bậc nhất trong hết thảy các chân ngôn. Hăy nên biết đấy chính là chân ngôn thuộc giáo pháp Bất Không. Bất Không là hết thảy chúng sanh hễ thấy, nghe, tiếp xúc, hay biết, không ai bỏ lỡ, mà đều sẽ nhất định trụ trong Vô Thượng Bồ Đề. V́ thế, gọi là Bất Không. Lại nữa, thuận theo thiện nguyện của họ mà đều được trọn đủ, cho đến đại Bồ Đề nguyện của chúng sanh cũng có thể thỏa măn, như đại bảo vương ở trên tràng cao, trọn đủ hết thảy. V́ thế, gọi là Bất Không.

          “Nhất thiết chân ngôn tự tại” (tự tại trong hết thảy các chân ngôn): Giống như Như Lai là vua của các pháp, tự tại trong các pháp. Nay chân ngôn này cũng giống như thế, được tự tại trong hết thảy các chân ngôn. Do nhân duyên này, lại được gọi là Chân Ngôn Vương. Lại gọi là Chân Ngôn Đạo Sư, như nhiều người vào biển nương theo vị đạo sư (người hướng dẫn), thậm chí có người đến được [chỗ có của báu], đạt được khối báu lớn đem về thọ dụng. Chân ngôn vương này cũng giống như thế, là đạo sư của hết thảy các chân ngôn. Chân ngôn đạo sư tức là đấng cứu thế. Ư nói: Chân ngôn này giống như Phật. Lại c̣n trọn đủ đại oai đức, sức thần thông bí mật tự tại của Như Lai đều do đây mà sanh ra. Nếu hành giả có thể hành đúng như pháp, tức là cũng giống như chân ngôn này mà đạt được như thế.

          “Tam tam-muội-da ṭa” tức là ba môn tam-muội-da thuộc thân, khẩu, ư. Miệng niệm chân ngôn, thân kết pháp ấn, tâm quán Bổn Tôn, nay tức là kim cang ṭa. Ba pháp viên măn tức là lư, hạnh, quả. Giáo tức là những điều đă nói trong phần trước. Nay từ trong giáo, viên măn ba pháp này, rốt ráo chẳng thừa sót. Đức Phật phát ra diệu âm, bảo ngài Kim Cang Thủ: “Ta nói pháp này, ông là bậc dũng sĩ đại lực, hăy nhất tâm nghe kỹ”. Đáng lẽ phải nói trong các phẩm chân ngôn trước, sao lại chẳng nói? Cho tới tận đây mới nói, [dụng ư là] khiến cho người câu nệ kinh văn bị u mê vậy. Đức Phật sẵn ḷng đại bi, sao không nói rơ mà mê hoặc chúng sanh vậy? Đáp rằng: Chẳng phải là keo tiếc! Chỉ v́ trong thế gian có các luận sư, tự cậy lợi căn mà phân biệt, dùng trí lực để nói các pháp tướng, do thông đạt văn tự, do tâm kiêu mạn nên chẳng thuận theo thầy, tự tiện t́m ṭi trong kinh liền muốn tự hành. Nhưng pháp này vi diệu, nếu chẳng nương theo bậc đạo sư sáng suốt, sẽ trọn chẳng thể thành. Lại sợ họ vọng động hành tŕ, tự tổn, tổn người. Nếu ẩn tàng phần kinh văn này, khiến cho họ dùng trí lực của ḿnh chẳng thấu hiểu được, sẽ bỏ ḷng kiêu mạn mà nương theo thầy. Do nhân duyên này, sẽ chẳng sanh nhân duyên phá pháp; do vậy, cần phải như thế đó!

          Đức Phật sắp nói chân ngôn đạo sư này, liền trụ trong Xảo Trí Sanh tam-muội, tức là tam-muội này có thể sanh ra trí phổ môn thiện xảo của Như Lai, cho nên gọi tên như thế. “Nói Bách Quang Biến Chiếu chân ngôn” tức là từ một ch mà tỏa ra quang minh trăm pháp chiếu tỏa trọn khắp. Chữ này nếu dịch là Biến (: trọn khắp), cũng chẳng đúng lư cho lắm. Nếu dịch là Phóng Quang, th́ ư nghĩa Phóng Quang cũng chưa trọn hết, phần lớn là ư nghĩa “tỏa ra trọn khắp”. Ánh sáng trăm oai đức này cũng từ đó mà ra. Trong chân ngôn này, trước hết là quy mạng hết thảy chư Phật rồi mới nói. Chân ngôn này của Kim Cang Thủ là bậc chân ngôn cứu thế, oai đức to lớn. Phật chính là đấng Mâu Ni tự tại trong hết thảy các pháp!

 

          (Kinh) Phật cáo Kim Cang Thủ: - Thử nhất thiết chân ngôn, chân vương cứu thế giả, thành tựu đại oai đức, tức thị Chánh Đẳng Giác, pháp tự tại Mâu Ni, phá chư vô trí ám, như nhật luân phổ hiện, thị ngă chi tự thể. Đại Mâu Ni gia tŕ, lợi ích chúng sanh cố, ứng hóa tác thần biến, năi chí linh nhất thiết, tùy tư nguyện sanh khởi, tất năng vi thi tác, thần biến vô thượng cú. Cố đương nhất thiết chủng, tịnh thân ly chư cấu, ứng lư thường cần tu, chí nguyện Phật Bồ Đề.

          ()佛告金剛手:此一切真言,真王救世者,成就大威德,即是正等覺,法自在牟尼。破諸無智暗,如日輪普現,是我之自體,大牟尼加持,利益眾生故,應化作神變。乃至令一切,隨思願生起,悉能為施作,神變無上句。故當一切種,淨身離諸垢,應理常勤修,志願佛菩提。

          (Kinh: Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: - Chân ngôn vương cứu đời, trong hết thảy chân ngôn, thành tựu oai đức lớn, tức là Chánh Đẳng Giác, pháp tự tại Mâu Ni, phá các tối vô trí, như mặt trời hiện khắp, là tự thể của ta. Đại Mâu Ni gia tŕ, v́ lợi ích chúng sanh, ứng hóa, hiện thần biến, cho tới khiến hết thảy, theo tưởng nguyện sanh khởi, đều có thể thực hiện, câu thần biến vô thượng. Vậy nên, hết thảy loài, tịnh thân, ĺa các cấu, ứng lư, thường siêng tu, chí nguyện Phật Bồ Đề).

 

          Đức Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: “Trong hết thảy các chân ngôn, chân ngôn cứu thế này thành tựu oai đức to lớn, tức là Đẳng Chánh Giác, là đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp (tức là “tự tại trong hết thảy các pháp”), phá tan các tối tăm do vô trí, như vầng mặt trời hiện khắp, tức là do được tự thể Đại Mâu Ni của ta gia tŕ, ứng hiện tạo thần biến (kinh văn ở đây nói là “biến hóa”, tức là thực hiện sự biến hóa), thuận theo ḷng mong muốn mà lợi ích chúng sanh, cho đến hết thảy đều thuận theo “tư nguyện” mà sanh khởi, tức là thuận theo tâm họ suy nghĩ, mong nguyện, liền được sanh khởi, đều có thể thực hiện câu vô thượng thần biến ấy. Do vậy, trong hết thảy các điều thù thắng (tức là trong hết thảy các mong muốn, trong các điều ước muốn), trong hết thảy các sự, không ǵ bằng cầu “câu Chánh Giác” này. V́ thế, trong hết thảy các loại thân thanh tịnh ĺa các chướng, theo đúng lư, thường siêng tu, cầu câu Chánh Đẳng Giác. Thân thanh tịnh, ĺa chướng, tức là hành giả tự tịnh hóa thân ḿnh, khiến cho ĺa hết thảy các chướng mà tu hành. “Nhất thiết chủng” tức là tu trong hết thảy các phương tiện, sắc loại. Phá tan hết thảy tối tăm vô trí, cùng thấy vầng mặt trời hiện ra; đấy chính là do ta gia tŕ. Đại Mâu Ni thực hiện biến hóa nhằm lợi ích chúng sanh, cho đến đối với các tâm tư khởi lên của các chúng sanh ấy, khiến cho nó phát sanh, thường v́ họ thực hiện câu biến hóa tối thượng này. Do vậy, siêng tu hết thảy các loại phương tiện dục, theo đúng lư hăy nên thanh tịnh ta. Trên đây là [đại lược ư nghĩa của] phần kinh văn. Chân ngôn này giống như bậc cứu thế, tức là Phật. Nó có oai đức to lớn, tức là oai thần của Như Lai. Chân ngôn này chính là đấng Mâu Ni tự tại trong hết thảy các pháp; đấy chính là biệt danh của đức Tỳ Lô Giá Na. Ánh sáng từ huệ phương tiện của chân ngôn này có thể phá hết thảy tối tăm do vô trí, giống như khi vầng mặt trời to lớn hiện ra, các tối tăm tự diệt, v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh nhanh chóng trừ diệt hết thảy tối tăm vô minh. Hăy nên biết chữ này do chính ta gia tŕ, tức là giống như ta, chẳng khác ǵ ta. “Ta” tức là tự thể của Phật. Ta do môn Chân Ngôn này, tùy loại hiện trọn khắp các sắc thân. Hết thảy các loài chúng sanh trong khắp pháp giới, tùy theo các loại thân mà họ thích thấy, sẽ có thể cùng lúc hiện trọn khắp các thân ấy, thuận theo tâm họ mong muốn mà v́ họ thị hiện. Không chỉ hiện thân mà thôi, mà c̣n do [chúng sanh] tâm nguyện, suy tưởng vô lượng khác biệt, cho đến trong khoảnh khắc có vô lượng mong muốn, ưa thích, thảy đều có thể thỏa nguyện cho họ. V́ thế nói là “tư phát trí” (trí sanh khởi do suy nghĩ). Lại c̣n phát khởi cơ duyên nhập đạo cho họ, cho nên nói là “phát trí”. “Trụ vị” là trụ trong câu tối thượng này. Do vậy, đối với đủ loại câu phương tiện ấy, hăy nên siêng tu học. Nếu tu, sẽ thanh tịnh ta, tức là Tỳ Lô Giá Na.

          Nhưng trong tự luân, ở phần trong cùng nhất, đặt chân ngôn vương này. Luân kế đó ở bên ngoài gồm mười hai chữ, tức là từ chữ Y (ī) tới chữ Áo (au), gồm mười hai âm tam-muội. Kế đó, ở ngoài xếp một trăm chữ, trước tiên là từ chữ Ca (, Ka) v.v… gồm hai mươi lăm chữ. Kế đó là chữ Kā (का) v.v… hai mươi lăm chữ, rồi đến chữ Kaṃ (कं) v.v… gồm hai mươi lăm chữ. Trong ấy, các chữ Nga, Nhă, Noa, Na, Ma có cái chấm Đại Không trọn khắp hết thảy mọi nơi. V́ thế, cùng được xếp đặt (lại có cách giải thích khác như sau: Năm chữ ấy được xếp ṿng quanh ở ngoài hai mươi lăm chữ). Nếu xếp thành năm tầng th́ hai mươi lăm chữ từ chữ Ka là tầng thứ nhất, các chữ như Kā là tầng thứ hai, các chữ như Kaṃ là tầng thứ ba. Các chữ như Kaḥ là tầng thứ tư cũng được (cần phải hỏi thêm v́ ư chưa trọn hết). Thứ tự xếp đặt các chữ xoay theo bên phải, tức chiều xoay của mặt trời. Phẩm kế tiếp sẽ nói về cái quả của Chân Ngôn Vương này.

 

20. Phẩm thứ hai mươi: Cái quả tương ứng của trăm chữ (Bách tự quả tương ứng phẩm đệ nhị thập, 百字果相應品第二十)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Nhược nhập Đại Giác Thế Tôn đại trí quán đảnh địa, tự kiến trụ ư tam tam-muội-da cú. Bí Mật Chủ! Nhập Bạc Già Phạm đại trí quán đảnh, tức dĩ đà la ni h́nh thị hiện Phật sự”. Nhĩ thời, Đại Giác Thế Tôn tùy trụ nhất thiết chư chúng sanh tiền, thi tác Phật sự, diễn thuyết tam tam-muội-da cú.     ()爾時毘盧遮那世尊告執金剛祕密主言祕密主若入大覺世尊大智灌頂地自見住於三三昧耶句祕密主入薄伽梵大智灌頂即以陀羅尼形示現佛事爾時大覺世尊隨住一切諸眾生前施作佛事說三三昧耶

    (Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật Chủ! Nếu nhập địa vị đại trí quán đảnh của Đại Giác Thế Tôn, sẽ tự thấy tr trong câu ba môn tam-muội-da. Bí Mật Chủ! Nhập đại trí quán đảnh của Bạc Già Phạm, liền dùng thân đà la ni để thị hiện Phật sự”. Khi đó, đức Đại Giác Thế Tôn tùy ư ở trước hết thảy các chúng sanh, thực hiện Phật sự, diễn nói câu ba môn tam-muội-da).

 

          Địa vị đại trí quán đảnh chính là địa vị Như Lai đệ thập nhất. Do trụ trong địa vị đệ thập nhất này, nhập đại trí quán đảnh, bèn có thể thực hiện Như Lai sự. V́ thế, dịch đại trí địa này là “đà la ni h́nh thi tác Phật sự” (dùng thân đà la ni để làm Phật sự). Do vậy, có thể v́ hết thảy chúng sanh mà làm Phật sự. “Đà la ni h́nh” tức là gom chung các chân ngôn luân để làm thân, liền thành thân phổ môn. Do trụ nơi thân tổng tŕ ấy, đối trước hết thảy chúng sanh mà thị hiện thân họ thích thấy, thuyết pháp tương ứng căn cơ, chẳng hề sai lầm, [khiến cho họ] cùng nhập Phật trí. Lúc bấy giờ, Thế Tôn, chúng sanh, các Phật sự, ba câu tam-muội-da đều tuyên nói, tùy trụ.

 

          (Kinh) Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Quán ngă ngữ luân cảnh giới quảng trường, biến chí vô lượng thế giới thanh tịnh môn, như kỳ bổn tánh biểu thị, tùy loại pháp giới môn, linh nhất thiết chúng sanh, giai đắc hoan hỷ. Diệc như kim giả Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, lưu biến vô tận hư không giới, ư chư sát độ, cần tác Phật sự. Bí Mật Chủ! Phi chư hữu t́nh năng tri Thế Tôn thị ngữ luân tướng lưu xuất Chánh Giác diệu âm trang nghiêm anh lạc, tùng thai tạng sanh Phật chi ảnh tượng, tùy chúng sanh tánh dục, linh phát hoan hỷ.

          ()佛言祕密主觀我語輪境界廣長遍至無量世界清淨門如其本性表示隨類法界門令一切眾生皆得歡喜亦如今者釋迦牟尼世尊流遍無盡虛空界於諸剎土勤作佛祕密主非諸有情能知世尊是語輪相流出正覺妙音莊嚴瓔珞從胎藏生佛之影像隨眾生性欲令發歡喜

    (Kinh: Đức Phật nói: - Bí Mật Chủ! Quán môn cảnh giới ngữ luân thanh tịnh rộng dài của ta đến trọn khắp vô lượng thế giới, đúng như bổn tánh mà biểu thị, tùy theo từng loại pháp giới môn, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được hoan hỷ. Cũng như ngày nay, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hiển hiện trọn khắp trong vô tận hư không giới, ở trong các cơi nước, siêng năng làm Phật sự. Bí Mật Chủ! Các hữu t́nh chẳng thể biết tướng ngữ luân này của đức Thế Tôn, tuôn ra diệu âm Chánh Giác như các chuỗi anh lạc trang nghiêm, từ thai tạng sanh ra h́nh bóng của Phật, thuận theo tánh ưa muốn của chúng sanh mà khiến cho họ sanh khởi ḷng hoan hỷ).

 

          Đức Phật tuyên nói như thế xong; kế đó, bảo ngài Kim Cang Thủ: “Ông có thể quán ngữ luân của ta, tức là quán cảnh giới tự luân nơi thân đà la ni của Phật”. Đức Phật dùng thần lực gia tŕ đại hội. Không chỉ nay Bí Mật Chủ quán cảnh giới rộng lớn nơi ngữ luân của ta, mà là đến trọn khắp các môn thanh tịnh trong vô lượng thế giới. Đúng như bổn tánh của hết thảy chúng sanh mà biểu thị pháp giới môn tùy từng loại, khiến cho họ sanh ḷng hoan hỷ. Cũng như hiện thời, Thích Ca Mâu Ni lưu xuất trọn khắp vô tận pháp giới, trong các cơi nước, siêng năng làm Phật sự. Ngài Kim Cang Thủ quán hết thảy các đại hội ấy, cũng được cùng quán cảnh thần diệu chẳng thể nghĩ bàn ấy. V́ cớ sao vậy? Thân đại trí ấy thường trụ tịch diệt, ĺa các nhân duyên, chẳng phải là cảnh hữu tâm. Ĺa khỏi sự gia tŕ của Phật thần lực, hết thảy các Bồ Tát sẽ chẳng thuộc vào cảnh giới ấy.

          Đức Phật đă chỉ bày xong, bảo rằng: “Các ông hăy nên quán cảnh giới rộng dài vô lượng nơi tự luân của ta”. “Dài” tức là người khác chẳng sánh bằng. Tôi cho rằng đây chính là nói [cảnh giới ấy] “như thế nào”. “Rộng” là theo chiều ngang, trọn khắp hết thảy các chúng sanh giới, c̣n dài là theo chiều dọc, tột cùng Phật giới. V́ thế nói là “rộng dài”. Thân rộng dài như thế, ứng hiện trọn khắp hết thảy, từ đâu mà có? Chính là từ một chữ Chân Ngôn Vương mà hiện chuyện ấy. Do một chân ngôn in vào thân mà thị hiện hết thảy các thân. Do âm thanh của một chữ chân ngôn mà phát ra âm thanh mầu nhiệm trọn khắp pháp giới. Do tâm của Bổn Tôn trong một chân ngôn mà phô bày trọn khắp hết thảy các cảnh trí huệ. Thích Ca Mâu Ni Phật chính là thân bất không ấy vào khắp các thế gian mà làm Phật sự. Do vậy, điều được phô bày chính là thân Mâu Ni. Đức Phật làm Phật sự, tức là Phật Thích Ca từ tự luân của đức Tỳ Lô Giá Na mà xuất hiện, nhưng [hai vị Phật ấy] chẳng hai, chẳng khác, đều trọn khắp hết thảy mọi nơi. Do một chữ này giống như Đại Không, v́ vốn bất sanh. Hăy nên biết: Thân trăm chữ cũng giống như thế. Điểm khác biệt là thân ba môn tam-muội-da của Như Lai lưu xuất khắp thế giới, và mười phương hư không đều trọn khắp, chẳng có hư không nào mà chẳng trọn khắp. Hăy nên biết hư không chẳng thể lường, thân cũng như thế! Bí Mật Chủ! Các hữu t́nh chẳng thể biết Thế Tôn. Đó là sự lưu xuất của ngữ luân, cũng nên kiểm phần nói về tâm ngă trong kinh Hoa Nghiêm. Diệu âm sanh ra diệu âm Đẳng Chánh Giác của chư Phật, các thứ anh lạc trang nghiêm đều từ ảnh tượng (h́nh tướng) trang nghiêm của Phật sanh từ Thai Tạng, tức là dùng ngôn ngữ để trang nghiêm tướng ấy. Từ thai tạng nơi tâm mà sanh ra h́nh tướng Phật rộng dài không ngằn mé để làm Phật sự. Điều chúng sanh chẳng biết chính là tự luân này của đức Phật; đó cũng chẳng phải là cảnh giới của Bồ Tát. Nếu ĺa thần lực, sẽ chẳng thể quán, có chúng sanh nào biết đến sự lợi ích ấy ư? Trong các ngôn âm, Phật là tối thượng, các thứ trang nghiêm suất lănh các thứ. Nói tóm lại, dùng vô tướng để trang nghiêm. Từ tâm mà hiện ra thân chúng sanh hay thân Phật theo từng loại. Do trụ trong Diệu Âm tam-muội, hiện trọn khắp trước họ, thuận theo bản tánh của họ, khiến cho họ được hoan hỷ tín giải.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn ư vô lượng thế giới hải môn biến pháp giới, ân cần khuyến phát thành tựu Bồ Đề, xuất sanh Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện. Ư thử diệu hoa bố địa Thai Tạng trang nghiêm thế giới chủng tánh hải trung thọ sanh, dĩ chủng chủng tánh thanh tịnh môn tịnh trừ Phật sát, hiện Bồ Đề tràng nhi trụ Phật sự. Thứ phục chí cầu Tam Miệu Tam Bồ Đề cú, dĩ tri tâm vô lượng cố, tri thân vô lượng. Tri thân vô lượng cố, tri trí vô lượng. Tri trí vô lượng cố, tức tri chúng sanh vô lượng. Tri chúng sanh vô lượng cố, tức tri hư không giới vô lượng. Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng cố, đắc tứ chủng vô lượng. Đắc dĩ, thành tối Chánh Giác, cụ thập trí lực, hàng phục tứ ma, dĩ vô sở úy nhi sư tử hống. Phật thuyết kệ ngôn: - Cần Dũng thử nhất thiết, vô thượng giác giả cú, ư bách môn Học Xứ, chư Phật sở thuyết tâm.

            ()爾時世尊於無量世界海門遍法界慇懃勸發成就菩提出生普賢菩薩行願於此妙華布地胎藏莊嚴世界種性海中受生以種種性清淨門淨除佛現菩提場而住佛事次復志求三藐三菩提句以知心無量故知身無量知身無量故知智無量知智無量故即知眾生無量知眾生無量故即知虛空界無量祕密主由心無量故得四種無量得已成最正覺具十智力降伏四魔以無所畏而師子吼說偈言:勤勇此一切,無上覺者句,於百門學處,諸佛所說心

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trong vô lượng môn thế giới hải, trọn khắp pháp giới, ân cần khuyên lơn, phát khởi [chúng sanh] thành tựu Bồ Đề, xuất sanh hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát, thọ sanh trong tánh hải nơi thế giới chủng trang nghiêm Thai Tạng hoa mầu nhiệm rải đất, dùng đủ loại môn thuộc tánh thanh tịnh để tịnh hóa các cơi Phật, hiện Bồ Đề tràng để trụ trong Phật sự. Kế đó, lại dốc chí cầu câu Chánh Đẳng Chánh Giác, do biết tâm là vô lượng mà biết thân vô lượng. Do biết thân vô lượng mà biết trí vô lượng. Do biết trí vô lượng, liền biết chúng sanh vô lượng. Do biết chúng sanh vô lượng, liền biết hư không giới vô lượng. Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng, đạt được bốn loại vô lượng. Đă đạt được rồi, thành Tối Chánh Giác, trọn đủ mười trí lực, hàng phục tứ ma, do chẳng sợ hăi mà sư tử hống. Đức Phật nói kệ rằng: - Cần Dũng! Hết thảy câu, vô thượng giác ngộ này, trong trăm môn Học Xứ, tâm do chư Phật nói).

 

          “Chỗ sanh” chính là cảnh đạt đến hay cảnh để trụ? Sau đó, “vi diệu âm trang nghiêm thai tạng” tức là từ một chữ mà sanh ra th́ gọi là Thai Tạng. Từ một chữ mà sanh ra là Thai. Từ đó sanh ra th́ là ảnh tượng (h́nh ảnh, bóng dáng, sắc tướng), như một tấm gương tṛn sạch đối diện các sắc [sẽ chiếu soi h́nh bóng]. Cảnh đă chẳng vào trong gương, gương cũng chẳng tới cảnh, chỉ do nhân duyên ḥa hợp, h́nh bóng sẽ rành rành, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi, chẳng thường, chẳng đoạn, tức là đồng thể chẳng thể nghĩ bàn! H́nh bóng của Như Lai cũng lại như thế, chẳng suy tưởng, chẳng tạo tác mà ứng hiện hết thảy, đều thuận theo cái tâm của chúng sanh mà khiến cho họ hoan hỷ, hiện làm Phật sự cho chúng sanh. Tức là dùng một ngôn âm của Phật mà có thể sanh ra hết thảy các Phật sự. Như trong phẩm Lục Căn Tịnh, [Bồ Tát] c̣n có thể dùng một diệu âm [vang vọng] trọn khắp cơi tam thiên, huống hồ đức Như Lai là đấng sáu căn thanh tịnh viên măn tột cùng ư? Khi đó, Ngài thành Bồ Đề trong các pháp giới thuộc vô lượng thế gian hải môn ([“môn”] cũng có nghĩa là “miệng”), siêng tu hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Bồ Tát dùng hoa trải đất, sanh từ biển chủng tánh trong thế giới Thai Tạng, thọ các thứ môn thanh tịnh nơi tánh, tịnh hóa cơi Phật, hiện ṭa Bồ Đề, trụ trong Phật sự. Trên đây là [tóm lược nội dung] kinh văn. Do đại trí quán đảnh vô lượng thế giới hải môn ấy, “môn” có nghĩa là “chỗ để tiến nhập”. Vô lượng thế giới hải khẩu ấn, tức là nói đến cửa ngơ để các ḍng nước xuôi đến, đổ vào [biển cả][10]. Do biết vô lượng thế giới hải môn ấy, bèn siêng tu Bồ Đề, nhưng Bồ Đề này chẳng phải là Bồ Đề kia, cho đến Bồ Đề trọn khắp pháp giới. Do chúng sanh vô lượng, nên pháp giới vô lượng; nay đều khiến cho họ được thành tựu trọn khắp.

          Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự trong các pháp giới thuộc vô lượng thế giới hải môn, ân cần khuyên lơn, phát khởi thành tựu Bồ Đề, trọn đủ viên măn hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát (Phổ Hiền tức là công đức của Như Lai), xuất sanh hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Do gia tŕ nên hiện tướng như sau: Ở trong thế giới Thai Tạng này, hoa mầu nhiệm phủ kín mặt đất. Nói “này” tức là thế giới Tố Ha (Saha, Sa Bà) này. Thọ sanh trong chủng tánh hải (“chủng tánh” là nói chỗ thọ sanh, “hải” (biển) hàm nghĩa “rộng nhiều chẳng gián đoạn”), dùng các thứ tánh thanh tịnh để tịnh trừ cơi Phật (tức là gia tŕ, thực hiện Phật sự, không ǵ chẳng trọn khắp). Lại nữa, Bồ Đề chẳng khác như trên, cùng nhập pháp giới. Đấy chính là hạnh đại Bồ Đề. Nếu phát khởi hạnh như thế, sẽ chính là hạnh Phổ Hiền. Khởi nguyện như thế, sẽ chính là nguyện Phổ Hiền. Bồ Tát v́ chuyện như thế; do vậy, sơ phát tâm. “Hoa địa” (đất phủ hoa) là như tịnh trị cho đất phẳng phiu, quét tước thanh tịnh, rải rắc đủ thứ hoa có sắc, hương, vị, xúc đáng yêu, đoan nghiêm trọn khắp rồi ngồi lên đó. Nay tâm địa Đại Bi Thai Tạng này cũng giống như thế. “Thai” là sơ khởi, tức là chỗ phát khởi Như Lai. Do sanh từ Như Lai tánh, mà Như Lai tánh sanh khởi do chữ [trong chân ngôn] sanh ra. Phát tâm như thế tức là địa vị sơ khởi. “Hải” là biển chủng tánh của Như Lai. Từ Thật Tánh ấy mà sanh ra hết thảy công đức của Như Lai.

          “Thai” là dùng điều đó để làm căn bản. Do ngài Phổ Hiền hành Như Lai hạnh, từ trong Thai Tạng nơi tánh hải của Như Lai, dần dần trọn đủ các chi phần thuộc lục căn của hết thảy các Như Lai. Thân phổ môn ấy tùy thuộc các thứ tâm hạnh sai biệt của chúng sanh, tánh ưa muốn mỗi người mỗi khác, tức là dùng diệu môn thanh tịnh để thanh tịnh cái tâm, không ǵ chẳng được rốt ráo. Thanh tịnh cái tâm như thế chính là trang nghiêm hết thảy các cơi. Khi hành giả trụ trong Bồ Tát địa như thế, liền có thể thấy trọn khắp thế giới, hiện thân Như Lai ngồi nơi đạo tràng mà tịnh hóa pháp giới luân. Tức là có thể biết trọn khắp hết thảy các câu, nghĩa là thành Phật. Cũng có thể thuận theo ḷng ưa thích [của chúng sanh] mà măn nguyện cho họ, chẳng để luống qua! V́ thế, kế đó kinh nói: “Phục thứ, Chánh Biến Tri cú cầu giả, nhạo dục tâm vô lượng, tri thân vô lượng, chứng thân vô lượng, tri trí vô lượng chứng. Phục thứ nhạo cầu giả, hoàn tu Bồ Tát đạo dă” (lại nữa, cầu câu Chánh Biến Tri, tâm ưa thích vô lượng, biết thân vô lượng, chứng thân vô lượng, chứng biết trí vô lượng, Lại nữa, đă yêu thích mong cầu, lại c̣n tu đạo Bồ Tát). Đấy chính là Phật sự. Chúng sanh do thấy đạo ấy, liền khuyên họ phát tâm học đạo. Lại c̣n yêu thích, siêng cầu câu Chánh Biến Tri, biết tâm vô lượng tức là biết thân vô lượng, biết thân vô lượng liền thành trí vô lượng, biết trí vô lượng, biết chúng sanh vô lượng chứng, do chúng sanh vô lượng mà chứng biết hư không vô lượng, đạt được những điều ấy.

          Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng mà đạt được bốn thứ vô lượng, [tức là] đă thành Chánh Đẳng Giác, liền biết chúng sanh vô lượng, biết chúng sanh vô lượng tức là biết hư không giới vô lượng. Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng mà đắc bốn loại vô lượng, tức là trừ tâm ra, các thứ khác là thân, trí, chúng sanh, và hư không. Đă được thành Tối Chánh Giác, trọn đủ mười loại lực, hàng phục tứ ma, thực hiện sư tử hống v.v… Đấy là trăm môn Học Xứ tối thượng nơi trí cú (câu trí huệ) của hết thảy bậc Dũng Sĩ được nói nơi tâm của chư Phật. Trên đây là [tóm lược nội dung của] kinh văn, có ư nói: Do nhập đại trí quán đảnh môn này, trụ trong chủng tánh Bồ Tát, liền biết tâm là vô lượng. Do biết tâm là vô lượng, liền biết hết thảy thân là vô lượng. Do biết thân là vô lượng, liền biết trí là vô lượng. Do biết trí là vô lượng, liền biết hư không vô lượng. V́ lẽ nào vậy? Hết thảy các pháp do tâm mà có. Liễu đạt điều này th́ chính là pháp vô lượng, liền biết thân vô lượng. Cái thân do duyên sanh mà thấy bèn tương ứng với căn cơ, trí thuộc Độ môn tương ứng với điều đó liền khởi, cũng lại là vô lượng, mỗi mỗi đều bằng với hư không. Do thân, trí, chúng sanh, và hư không vô lượng, nên gọi là “tứ vô lượng”. Do các thứ vô lượng ấy từ tâm mà sanh, nên gọi là “tứ vô lượng tâm”.

          Nếu đắc tứ vô lượng tâm ấy, sẽ chính là thành Chánh Giác, tức là trọn đủ mười lực, [có thể] hàng phục tứ ma, có thể vô úy sư tử hống. Các chuyện như thế đều do trụ trong tứ vô lượng tâm ấy, trụ trong câu “hết thảy các pháp tối thượng” mà được thành tựu, nên gọi chữ Aṃ (अं) là cái quả của Tất Địa. Trăm môn này không chỉ do ta tự nói, mà hết thảy chư Phật cũng đều nói như thế. Đấy là nói về các công đức như Thập Lực v.v… trên đây. Dũng Sĩ chính là Bí Mật Chủ. Bậc Dũng Sĩ siêng học câu tối thượng giác như thế, tức là điều cốt lơi trong trăm môn Học Xứ do chư Phật đă nói (ư nói: Sở dĩ thành Phật là do học “tâm” (tức điều cốt lơi) của trăm môn này). Trên đây là phẩm Bách Tự Quả Thọ Dụng, tức là tùy theo mỗi môn mà có sự thọ dụng tương ứng [với cái quả của mỗi môn trong môn Trăm Chữ này].

 

21. Phẩm thứ hai mươi mốt: Thành tựu địa vị trăm chữ (Bách tự vị thành phẩm đệ thập nhị nhất, 百字位成品第二十一)

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đắc vị tằng hữu, nhi thuyết kệ ngôn: - Phật thuyết chân ngôn cứu thế giả, năng sanh nhất thiết chư chân ngôn, Ma Ha Mâu Ni vân hà tri? Thùy năng tri thử tùng hà xứ? Thùy sanh như thị chư chân ngôn? Sanh giả vị thùy duy diễn thuyết? Đại Cần Dũng Sĩ thuyết trung thượng, như thử nhất thiết nguyện khai thị.

          ()爾時執金剛祕密主得未曾有,而說偈言:佛真言救世者,能生一切諸真言。摩訶牟尼云何知,誰能知此從何處?誰生如是諸真言?生者為誰惟演?大勤勇士說中上,如此一切願開示。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đạt được điều chưa từng có, bèn nói kệ rằng: - Phật: Đấng cứu đời nói chân ngôn, hay sanh ra hết thảy chân ngôn. Ma Ha Mâu Ni v́ sao biết? Ai biết chân ngôn từ nơi đâu? Ai sanh ra chân ngôn như thế? Người sanh sẽ v́ ai diễn nói? Bậc Đại Cần Dũng tối thượng thuyết, hết thảy như thế nguyện khai thị).

 

          Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Hy hữu Thế Tôn!” Kế đó, nói kệ. “Chân ngôn cứu thế giả” (ư nói môn trăm chữ trên đây) có thể sanh ra các chân ngôn. “Chân ngôn cứu thế”: Làm sao biết các chân ngôn sanh khởi? Ai có thể biết? Ở nơi nào? Ai sanh ra các chân ngôn của đấng Đại Mâu Ni? V́ ai mà nói? Do hết thảy các vị Đại Dũng Sĩ nói, nói với người ước nguyện. Đó là [các ư chánh yếu] trong kinh văn. Khi đó, ngài Bí Mật Chủ nghe đức Phật nói [môn trăm chữ xong], đạt được điều chưa từng có, bạch rằng: “Đức Thế Tôn hy hữu đă nói bậc chân ngôn cứu thế này. “Bậc cứu thế” chính là Phật. Như Phật trong hết thảy chúng sanh là chỗ đại quy y, cứu vớt, che chở, chân ngôn này cũng thế, trong hết thảy các chân ngôn, giống như đấng cứu thế, là chỗ cứu giúp, che chở của các chân ngôn. Như Phật là chỗ để hết thảy quy hướng; chân ngôn này cũng thế, là chỗ quy hướng của hết thảy các chân ngôn. Bậc đại thánh giả nghe đức Phật nói, liền do một chữ mà có thể sanh ra vô lượng chân ngôn, thân, miệng, ư sai biệt, tùy theo tánh của chúng sanh mà phô bày các loại thân, nói đủ loại pháp, hiện đủ loại thần biến. Do vậy, [ngài Kim Cang Thủ] hỏi chân ngôn này sanh như thế nào? Lại do ai chứng biết? Sanh ở nơi đâu? Ngài hỏi ba sự ấy.

          Đại Mâu Ni là [từ ngữ để] tán thán [đức Phật]. [Lời hỏi của ngài Kim Cang Thủ lại gồm bốn ư]: Một, biết như thế nào? Hai, người biết là ai? Ba, [sanh] ở nơi nào, hàm ư từ chỗ nào mà có được kinh này? Bốn, ai sanh ra các chân ngôn? Trước là hỏi ai được biết? C̣n bốn điều sau nhằm hỏi người sanh là ai? Đại Dũng Sĩ [trong lời kệ của ngài Kim Cang Thủ] chính là Phật. Hết thảy [các điều con đă thắc mắc ấy] đều xin [đức Thế Tôn] nói, nói cho bậc trung thượng. Nguyện đấng Nhất Thiết Trí là đấng Dữ Nguyện (ban cho ước nguyện) hăy nói. Đấy là tán thán Phật đức (công đức của Phật), [Ngài là đấng] có thể thỏa măn hết thảy các nguyện. Do vậy, gọi Ngài là Dữ Nguyện. Bởi đó, thỉnh đức Phật nói. Phật là bậc Đại Mâu Ni tự tại viên măn trong các pháp.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm, pháp tự tại Mâu Ni, viên măn phổ châu biến, tất biến chư thế giới, nhất thiết trí huệ giả, Đại Nhật Tôn cáo ngôn: - Thiện tai Ma Ha Tát, đại đức Kim Cang Thủ! Ngô đương nhất thiết thuyết, vi mật tối hy hữu, chư Phật chi bí yếu, ngoại đạo bất năng tri. Nhược Bi Sanh Mạn Đồ, đắc Đại Thừa quán đảnh, điều nhu, cụ thiện hạnh, thường bi, lợi tha giả. Hữu duyên quán Bồ Đề, thường sở bất năng kiến.

          ()爾時薄伽梵,法自在牟尼,圓滿普周遍,悉遍諸世界,一切智慧者,大日尊告言:善哉摩訶薩,大德金剛手!吾當一切,微密最希有,諸佛之祕要,外道不能知。若悲生漫荼,得大乘灌頂,調柔具善行,常悲利他者,有緣觀菩提,常所不能見。

    (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm là đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp, là đấng viên măn trọn khắp, trong trọn khắp các thế giới, Ngài là bậc trọn đủ hết thảy trí huệ, chính là đức Đại Nhật bảo rằng: - Lành thay, Ma Ha Tát, đại đức Kim Cang Thủ! Ta sẽ nói hết thảy, bí yếu của chư Phật, kín nhiệm, hiếm có nhất, ngoại đạo chẳng thể biết. Nếu quán đảnh Đại Thừa, trong Bi Sanh Mạn Đồ, thuần dịu, đủ thiện hạnh, tâm thường bi, lợi người. Hữu duyên quán Bồ Đề, sẽ thường chẳng thể thấy).

 

    Nói như thế xong, đức Thế Tôn là bậc đại Mâu Ni tự tại trong các pháp, trọn khắp Nhất Thiết Trí của các vị Tỳ Lô Giá Na trong các thế giới bèn bảo rằng: -Lành thay! Lành thay, Bậc Ma Ha Tát Kim Cang Thủ trọn đủ đức. Ta sẽ nói hết thảy (tức là v́ các ông) điều bí mật trọng yếu, hy hữu, bí mật nhất của chư Phật mà hết thảy các ngoại đạo chẳng thể biết. Đó là các Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la trong Quán Đảnh của Đại Thừa (từ đây trở đi là Sanh Đàn Quán Đảnh). “Điều nhu cụ thiện hạnh, thường bi lợi tha giả, hữu duyên quán Bồ Đề, bỉ thường bất năng kiến” (Kẻ tâm tánh điều thuận, nhu ḥa, trọn đủ các hạnh lành, thường có tâm bi, lợi ích người khác, hữu duyên quán Bồ Đề, sẽ chẳng thể thường trông thấy). “Phổ biến” là trong thế gian đều trọn khắp. Khi đó, đức Phật v́ muốn nói tâm pháp chân ngôn này, liền dùng thần lực gia tŕ, khiến cho trọn khắp pháp giới đều có âm thanh ấy nói với ngài Kim Cang Thủ. Đấng Nhất Thiết Trí Tỳ Lô Giá Na bảo: “Lành thay, lành thay, bậc đại chúng sanh là đại đức Kim Cang Thủ! Ta sẽ nói pháp bí mật hy hữu bậc nhất trong hết thảy các pháp bí mật nhất của chư Phật, hết thảy các ngoại đạo chẳng biết!” Trên đây là [các ư chánh trong] kinh văn. Đức Phật tán thán ngài Kim Cang Thủ: “Lành thay! Lành thay! Bậc đại đức Chấp Kim Cang”. “Đại đức”: Trọn đủ vạn đức. Pháp này chính là bí mật nhất trong hết thảy các bí mật của Như Lai, tối thượng trong các bí tạng, cùng được thủ hộ, chẳng hư vọng truyền cho người khác, là pháp khó có hy hữu bậc nhất. Nay pháp bí mật nhất trong các pháp này, hết thảy ngoại đạo đều chẳng thể hay biết. Nhưng ngoại đạo có hai thứ: Một là các loại ngoại đạo thế gian, hai là trong Phật pháp có các ngoại đạo. [Sở dĩ có loại thứ hai là] do họ tuy đă nhập Phật pháp, nhưng chưa thể biết bí mật của Như Lai, vẫn là tâm tà kiến, hành đạo ở ngoài lư. V́ thế, cũng gọi là Ngoại. Hai loại ngoại đạo ấy đều không thể biết pháp này. “Ngoại đạo trong Phật pháp” tức là hàng Nhị Thừa. Phật chẳng tùy tiện trao [pháp này] cho người khác, do Ngài thầm suy nghĩ đă lâu, đợi đúng căn cơ mà trao.

          Nay người nào thích hợp nghe pháp này? V́ thế, kế đó [chánh kinh] nói nếu ai được nhập pháp Đại Bi Sanh Quán Đảnh trong Đại Thừa, sẽ thích hợp để nghe. Nếu không, sẽ chẳng được [nghe pháp này]. Kế đó lại hỏi, cần phải xem xét người như thế nào th́ mới có thể dẫn nhập [đàn tràng, tiếp nhận] quán đảnh? Nếu người nào tánh điều phục, mềm mỏng, chất trực, đầy đủ các thiện hạnh; người như thế mới có thể dẫn nhập pháp quán đảnh. Lại phải có tâm thường bi th́ mới thích hợp dẫn nhập Mạn-đồ-la. [Chánh kinh nói] thường bi” [nhằm phân định rơ]: Nếu như có ai trong lúc này th́ có ḷng Bi, lúc khác chẳng có, hoặc ở nơi này th́ có, nơi khác th́ không, hoặc có ḷng Bi đối với người thân, chẳng có ḷng Bi đối với kẻ oán. Nay [người thường bi] th́ chẳng phải là như vậy, trong hết thảy các thời, các chốn, đều thường có bi tâm. Lại c̣n [là bi tâm] b́nh đẳng rộng lớn trọn khắp. Người như thế mới thích hợp dẫn nhập quán đảnh. Đă được quán đảnh mới thích hợp nghe pháp này, chẳng phải như các kinh thường lưu truyền. Bài kệ biện định [người căn cơ thích hợp để nghe, học, tu tập] trong kinh Pháp Hoa cũng có thể dẫn dụng [nhằm nêu rơ ư nghĩa] liệu giản căn cơ [ở đây].

          Lại nữa, nếu là người hữu duyên quán th́ cũng chẳng thích hợp nghe pháp này. Phật pháp ĺa hết thảy các tướng, ĺa hết thảy các duyên. Nếu có tướng, có duyên, tức chẳng ĺa Đoạn Kiến và Thường Kiến, cho nên không được nghe pháp này. Nay nói “vô duyên”, há có phải là bài bác hết thảy các pháp đều là không, là vô sở hữu ư? Chẳng phải như vậy! Phật pháp tuy ĺa duyên, ĺa tướng, nhưng do phương tiện trọn đủ hết thảy các thứ cảnh giới công đức và thần lực tốt lành chẳng thể nghĩ bàn, từ ngay nơi tướng mà vô tướng, từ ngay vô tướng mà trọn đủ hết thảy các tướng, là duyên mà vô duyên, tuy vô duyên mà trọn đủ hết thảy các duyên, chẳng phải chỉ là rỗng tuếch, vô sở hữu mà thôi! Ư chánh yếu là người trọn đủ đại hạnh, đại nguyện Bồ Tát, phát khởi đại tâm, đối với người như thế th́ mới có thể nói.

 

          (Kinh) Bỉ năng hữu tri thử, nội tâm chi Đại Ngă, tùy kỳ tự tâm vị, đạo sư sở trụ xứ, bát diệp tùng ư sanh, liên hoa cực nghiêm lệ, viên măn nguyệt luân trung, vô cấu do tịnh kính. Ư bỉ thường an trụ, chân ngôn cứu thế tôn, kim sắc cụ quang diễm, trụ tam-muội hại độc, như nhật nan khả quán, chư chúng sanh diệc nhiên.

    ()彼能有知此,內心之大我,隨其自心位,導師所住處,八葉從意生,蓮華極嚴麗。圓滿月輪中,無垢猶淨鏡,於彼常安住,真言救世尊。金色具光焰,住三昧害毒,如日難可觀,諸眾生亦然。

    (Kinh: Người ấy sẽ biết được, Đại Ngă trong nội tâm, tọa vị trong tự tâm, là chỗ đạo sư trụ. Đóa sen sanh từ ư, tám cánh cực nghiêm, đẹp. Trụ vầng trăng viên măn, vô cấu như gương sạch. Thường an trụ trong ấy, đấng cứu thế chân ngôn, sắc vàng, lửa rực sáng, trụ tam-muội, hại độc, như mặt trời khó nh́n, các chúng sanh cũng thế).

 

          Trong phần trước đă hỏi “từ điều ǵ mà sanh?”, nay đáp “từ Phật tâm mà sanh”. “Đạo sư” tức là Phật. Nếu thuận theo chỗ trụ của đấng đạo sư, sẽ có thể biết được chân ngôn này. [Nói] “nội tâm chi Đại Ngă” (Đại Ngă trong nội tâm) chính là tán thán cái tâm này. Thuận theo đó mà sanh, tức là từ hết thảy các chi phần mà sanh. “Tùy kỳ tự tâm vị, đạo sư sở trụ xứ, bát diệp tùng ư sanh, liên hoa cực đoan nghiêm. Viên măn nguyệt luân trung, vô cấu đồng ư kính, ư bỉ thường an trụ, chân ngôn cứu thế tôn, hoàng sắc cụ quang viêm, hại độc trụ tam-muội, như nhật nan khả quán” (Thuận theo các vị trong tự tâm, đó là chỗ trụ của bậc đạo sư. Từ ư sanh ra đóa sen tám cánh tột bậc trang nghiêm, đẹp đẽ. Ở trong vầng trăng viên măn, vô cấu giống như gương, bậc chân ngôn cứu đời sắc vàng, trọn đủ các tia sáng tỏa ra như ngọn lửa, trừ phiền năo, trụ trong tam-muội, như vầng mặt trời khó thể thấy được): Hết thảy các chúng sanh ấy đều giống như đóa sen tám cánh sanh từ ư, tột bậc đoan nghiêm như thế, ở trong vầng trăng tṛn, giống như tấm gương vô cấu. Bậc đại đức chân ngôn cứu thế thường trụ trong ấy, [thân Ngài] kim sắc, trọn đủ các tia sáng như ngọn lửa mà trụ, tức là hoa đài ấy sanh từ tâm ư. Đó chính là quán đóa sen tám cánh trong tự tâm. Hoa ấy chẳng sanh từ nơi khác, mà sanh từ ư. Ư chính là hoa, chẳng hai, chẳng khác. Hoa đài ấy tṛn sáng như mặt trăng, thanh tịnh, vô cấu, giống như tấm gương tṛn, chẳng vật nào trong thế gian có thể sánh ví, chỉ tấm gương tṛn là có thể sánh ví [phần nào], khiến cho người nghe hiểu ư quên lời. Nhưng thật ra, [cái tâm ấy sáng sạch hơn tấm gương] gấp trăm ngàn vạn lần, chẳng thể thí dụ được! Nay ngự trong vầng tṛn sáng ấy, có đấng chân ngôn cứu thế, trọn đủ công to lớn, màu vàng ṛng, có quang minh như ngọn lửa. Ngài trụ trong tam-muội tịch nhiên để trụ nơi đó.

          Hăy nên quán chân ngôn vương một chữ. Từ chân ngôn vương ấy, liền quán Bổn Tôn, hoặc quán đức Đại Tỳ Lô Giá Na như trong pháp Du Già đă nói trước kia. Do nói chưa phân minh, hăy nên tra cứu thêm; nhưng phần kinh văn trên đây đă đủ để dẫn chứng ḥng kiểm nghiệm. “Hại” có nghĩa là “hết thảy các phiền năo thảy đều bị đoạn trừ”. Oai quang ấy giống như ḥa hợp trăm ngàn mặt trời! Oai quang mạnh mẽ, hừng hực, [khiến cho các chúng sanh] giống như đứa trẻ mới sanh bảy ngày chẳng thể ngửa nh́n mặt trời chói chang để thấy được ánh sáng của nó. Nay quang minh này cũng giống như thế.

 

          (Kinh) Thường hằng ư nội ngoại, phổ châu biến gia tŕ, dĩ như thị huệ nhăn, liễu tri ư minh kính. Chân Ngôn giả huệ nhăn, quán thị viên kính cố, đương kiến tự h́nh sắc, tịch nhiên Chánh Giác tướng. Thân sanh thân ảnh tượng, ư tùng ư sở sanh, thường xuất sanh thanh tịnh, chủng chủng tự tác nghiệp. Thứ ư bỉ quang hiện, viên chiếu như điện diễm. Chân Ngôn giả năng tác, nhất thiết chư Phật sự. Nhược kiến thành thanh tịnh, văn đẳng diệc phục nhiên, như ư sở tư niệm, năng tác chư sự nghiệp.

    ()常恒於內外,普周遍加持,以如是慧眼,了知意明鏡。真言者慧眼,觀是圓鏡故,當見自形色,寂然正覺相。身生身影像,意從意所生,常出生清淨,種種自作業。次於彼光現,圓照如電焰,真言者能作,一切諸佛事。若見成清淨,聞等亦復然,如意所思念,能作諸事業。

    (Kinh: Thường luôn ở trong ngoài, gia tŕ trọn khắp cả. Do huệ nhăn như thế, biết rơ gương ư sáng. Mắt huệ bậc Chân Ngôn, do quán gương tṛn ấy, sẽ thấy h́nh sắc ḿnh, tướng Chánh Giác vắng lặng. Thân sanh ra h́nh bóng, ư từ ư mà sanh, thường xuất sanh thanh tịnh, đủ loại nghiệp tự làm. Kế đó, trong quang hiện, chiếu trọn như ánh chớp. Bậc Chân Ngôn hay làm, hết thảy các Phật sự. Nếu thấy, thành thanh tịnh, hễ nghe th́ cũng vậy. Đúng như ư suy nghĩ, hay làm các sự nghiệp).

 

          “Thường hằng ư nội ngoại, phổ châu biến gia tŕ. Dĩ như thị huệ nhăn, nhi tri ư ư kính” (Thường luôn ở trong ngoài mà gia tŕ trọn khắp. Dùng huệ nhăn như thế để biết được tấm gương ư): Hiểu [“ư kính”] là tâm kính cũng được. Huệ nhăn của hành giả Chân Ngôn quán tấm gương tṛn ấy, sẽ thấy h́nh sắc của chính ḿnh (tự thấy thân ḿnh) là tướng Chánh Giác vắng lặng. Thân và h́nh bóng sanh bởi thân, [chánh kinh gọi là] “thân, thân sở sanh tượng”, chữ “thân” trước là [nói về] thân hữu vi, hữu lậu; chữ “thân” sau là thân vô vi. Tâm sanh ra tâm (tức là câu “ư tùng ư sở sanh” nghĩa là “ư sanh từ ư”, lời sớ diễn giải thành “tâm sanh ra tâm”) tức là từ cấu tâm sanh ra tịnh tâm. “Thường xuất sanh thanh tịnh, chủng chủng tự tác nghiệp” (thường sanh ra đủ loại nghiệp tự tạo thanh tịnh), [tức là] nghiệp trong A Lại Da Thức ô nhiễm có thể sanh ra tịnh nghiệp. Trừ khử bất tịnh nghiệp, tịnh nghiệp sẽ hiện. Trừ khử nghiệp bất tịnh, tịnh nghiệp sẽ hiện. Tịnh nghiệp đă hiện, sẽ sanh ra quang minh giống như tia chớp chiếu soi trọn khắp. [Đó chính là ư nghĩa của hai câu] “thứ đương bỉ quang hiện, viên chiếu như điện diễm” (kế đó, quang minh ấy sẽ hiện, chiếu trọn khắp như ánh chớp) [trong chánh kinh]. Cũng chẳng chấp vào ư nghĩa của chớp; chỉ dùng ư nghĩa ánh sáng đủ loại màu viên măn, ánh sáng đủ màu viên măn chiếu soi. [Nhờ đó], “Chân Ngôn giả năng tác, nhất thiết chư Phật sự” (người tŕ chân ngôn có thể làm hết thảy các Phật sự).

          Hăy nên biết “trọn khắp trong ngoài” có ư nói về gương. Gương chính là hoa đài viên minh. Hăy nên biết gương ấy chính là ư. Hăy nên biết gương ấy chính là tự tâm. Dùng phương tiện nào để quán biết? Chính là phương tiện như trên: Nơi hai mắt, đặt chữ Ra (). Dùng huệ nhăn ấy để quán cái tâm Thật Tướng như tấm gương tṛn sáng. V́ thế, được hiểu rơ hiện tiền. Ai có thể quán? Chính là hành nhân Chân Ngôn. Vị hành nhân ấy dùng mắt chữ Ra diệu huệ quang minh để quán tấm gương nơi hoa đài. Thoạt đầu là quán bên ngoài ư, quán rành rẽ, rơ ràng: Như Lai ở trong vầng tṛn sáng ấy, cho đến âm thanh, sắc tướng, thảy đều vô biên. Đă hiểu rành rẽ như thế rồi, liền dẫn khởi những điều ấy thành nội thân, tức là thân Tỳ Lô Giá Na đă quán trên đây vắng lặng, chánh thọ, oai quang không ngằn mé, quán đó là thân của chính ḿnh, tức là khiến cho thân chính ḿnh giống như thân Ngài, vắng lặng mà trụ trong vầng tṛn sáng, giống hệt như đức Phật ấy. Do ĺa hết thảy các tướng mà hiện bày tướng ấy, bèn gọi là “tướng chân thật”. V́ sao vậy? Hoa sen ấy sanh từ ư, tức là trước đó dùng chữ Ra đặt nơi mắt để quán tấm gương trên hoa đài nơi tâm. Đó chính là “thấy bên ngoài”. Từ cái thấy bên ngoài trở thành cái thấy bên trong, tức là tự hiểu rơ cái tâm. Do đó, kinh nói về huệ nhăn như thế. “Huệ nhăn tŕ tụng”: Từ nơi gương, trông thấy h́nh sắc của chính ḿnh và Phật tướng vắng lặng. Thân (thân hữu lậu), thân sanh (cái thân sanh bởi thân hữu lậu, tức thân vô lậu) duyên theo ư tâm mà sanh ra, thường tịnh hóa các loại nghiệp của chính ḿnh. Kế đó, do quang minh [sanh ra từ tịnh nghiệp] như ánh chớp sáng ḷa, chiếu quanh khắp người tŕ chân ngôn, người ấy sẽ có thể làm hết thảy các Phật sự. Cũng có thể nói “kiến nhược tịnh ngă” (như thấy cái ngă trong sạch) có nghĩa là “làm hết thảy các sự”.

          Nói “sanh” tức là thân ngữ ư sanh. Trước là quán h́nh tượng Phật viên minh, sắc vàng v.v… Hăy nên biết các điều ấy sanh từ ư, liền từ [h́nh tướng] bên ngoài mà dẫn khởi vào trong (tức là biến h́nh tướng, ngôn ngữ v.v… ấy thành ba nghiệp của chính ḿnh), như thân ḿnh giống như thân ấn của Phật, tiếng nói của ḿnh giống như âm thanh nơi chân ngôn của Phật, tâm đồng Phật tâm. “Sanh” đều là từ ư mà sanh. Tức là do sanh ra sự “sanh” ấy, có thể tịnh hóa hết thảy các nghiệp. V́ thế nói là “thường tịnh chủng chủng tự nghiệp” (thường tịnh hóa các thứ nghiệp của chính ḿnh), tức là ĺa hết thảy các nghiệp. Nếu ĺa hết thảy các nghiệp, bèn gọi là chư Phật. Nếu giác tri như thế, sẽ có thể dùng viên quang để chiếu trọn khắp. “Biến chiếu” (chiếu trọn khắp) chính là làm Phật sự. Do thân, khẩu, ư trang nghiêm chiếu trọn khắp, sẽ làm hết thảy các Phật sự, tức là giống như đức Tỳ Lô Giá Na. Ai có thể thực hiện Phật sự ấy? Chính là người tŕ chân ngôn. Đấy đều là đức Phật trả lời ngài Kim Cang Thủ [câu hỏi về] chỗ sanh của chân ngôn. Tức là chân ngôn ấy sanh từ thân, khẩu, ư của hành giả. Nếu biết như thế, tức là trong ngoài đều thanh tịnh mà làm Phật sự. Kinh nói “tự nghiệp” tức là Phật sự, nghĩa là hiện trọn khắp sắc thân, hoặc hiện bày hành Bồ Tát đạo khắp chốn, tám tướng thành Phật, các sự nghiệp bổn sanh vô lượng vô biên. Nói tóm lại, đều là tự nghiệp của Như Lai. Nếu có thể biết như thế, chính là thành Phật. Người tŕ chân ngôn do trụ trong phương tiện, quán theo thứ tự trên đây, hạnh chân ngôn ấy chính là thân hữu duyên khởi lên, chẳng có ǵ khác biệt với Phật. V́ thế kinh nói: “Nhược kiến thành thanh tịnh, văn đẳng diệc phục nhiên” (nếu thấy th́ sẽ thành thanh tịnh. Nghe, biết v.v… th́ cũng giống như thế). Người thấy, nghe, chạm, biết đều được thanh tịnh. Chữ “năng” ở đây chứa đựng nhiều ư nghĩa. “Như ư sở tư niệm, năng tác nhất thiết sự” (Đúng như ư niệm suy nghĩ mà có thể làm hết thảy các sự): Kế đó, quang minh giống như ánh chớp vây quanh người tŕ chân ngôn để làm hết thảy các Phật sự. Như cái ngă thanh tịnh cũng nói là “làm hết thảy các Phật sự”, ư nghĩa cũng giống như thế.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát như thị tự thân ảnh tượng sanh khởi vô hữu thù thắng quá Tam Bồ Đề, như nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư đẳng, tứ đại chủng nhiếp tŕ, tập tụ, bỉ như thị tự tánh Không, duy hữu danh tự sở chấp, do như hư không, vô sở chấp trước, đẳng ư ảnh tượng. Bỉ Như Lai thành Chánh Giác, hỗ tương duyên khởi, vô hữu gián tuyệt. Nhược tùng duyên sanh, bỉ tức như ảnh tượng sanh. Thị cố, chư Bổn Tôn tức ngă, ngă tức Bổn Tôn, hỗ tương phát khởi thân sở sanh thân, tôn h́nh tượng sanh. Bí Mật Chủ! Quán thị pháp duyên thông đạt huệ, thông đạt huệ duyên pháp, bỉ đẳng đệ vi tác nghiệp, vô trụ tánh Không.

          ()復次祕密主真言門修菩薩行諸菩薩如是自身影像生起無有殊勝過三菩提如眼耳鼻舌身意等四大種攝持集聚彼如是自性空唯有名字所執猶如虛空無所執著等於影像彼如來成正覺互相緣起無有間若從緣生彼即如影像生是故諸本尊即我我即本尊互相發起身所生身尊形像生祕密主觀是法緣通達慧通達慧緣法彼等遞為作業無住性空

    (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, h́nh bóng của tự thân sanh khởi như thế, chẳng có ǵ hơn được Chánh Giác, như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư do bốn đại chủng nhiếp tŕ, tụ tập, tự tánh Không như thế chỉ có chấp trước danh tự, giống như hư không chẳng bị chấp trước, giống như h́nh bóng. Đức Như Lai thành Chánh Giác, duyên khởi lẫn nhau, chẳng có gián đoạn, cách tuyệt. Nếu sanh từ duyên, sẽ giống như sanh ra ảnh tượng. V́ thế, các Bổn Tôn chính là ta, ta chính là Bổn Tôn, hỗ tương phát khởi cái thân sanh bởi thân, sanh ra h́nh tượng chư tôn. Bí Mật Chủ! Quán pháp duyên này thông đạt huệ, thông đạt pháp duyên nơi huệ, lần lượt thực hiện các nghiệp ấy, là tánh Không vô trụ).

 

          Bí Mật Chủ! Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, trong tâm sanh duyên khởi như thế, không có ǵ thù thắng như Phật. Trên đây là kinh văn. Thầy nói chưa phân minh, hăy nên hỏi thêm (có thể suy nghĩ nghĩa này, theo thứ tự phối ứng với h́nh tượng). H́nh tượng cũng là duyên khởi, tức là quán đóa hoa tám cánh nơi tâm, trên hoa có vầng tṛn sáng, giống như một tấm gương thanh tịnh. Thoạt đầu, chưa sáng tỏ ngay, do dùng phương tiện huệ nhăn chữ Ra, nên dần dần biết rơ, cho đến từ trong tấm gương tṛn, thấy thân chính ḿnh bằng với hết thảy chư Phật. Pháp sanh như thế chính là từ nhân duyên mà khởi. Nếu từ duyên khởi, quán môn Bất Sanh này liền nhập thể tánh của pháp giới. Lấy huệ nhăn làm nhân, cảnh thanh tịnh làm cái để duyên theo, vô lượng Phật sự thuộc tự nghiệp sẽ từ nhân duyên mà sanh, nhưng thật sự chẳng phải là tự sanh, chẳng phải là tha sanh, chẳng phải là cộng sanh (tự và tha cùng sanh), chẳng phải là không có nhân, như Trung Luận v.v… đă nói. Pháp này thù thắng, không chi hơn được! Như trong phần trước luôn nói “ĺa hết thảy các tướng, chẳng đối đăi, vô duyên”, mà nay lại thực hiện các pháp Quán này, há chẳng phải là mâu thuẫn ư? Như từ chữ A sanh ra hết thảy các chữ. Khi sanh hết thảy các chữ th́ chính là ư nghĩa “vốn chẳng sanh”. Ở đây, cũng giống như thế, Phật do dùng sức phương tiện, cho nên trong pháp vô tướng tịch diệt mà thực hiện hạnh Du Già này, từ trong vô tướng mà nói các tướng, từ ngay nơi các tướng ấy mà chính là vô tướng. Cái gọi là “tướng” chính là pháp sanh bởi duyên, nhưng thật ra chẳng phải là tự sanh, chẳng phải là tha sanh, ĺa “bát bất”[11], tức là vô tướng bậc nhất, chẳng ĺa tướng mà nói riêng có vô tướng! Nếu riêng lập ra cách nói ấy, tức là giống như Đoạn Không của ngoại đạo! Nhưng có kẻ gạn rằng: Nay lại quán các thứ cảnh giới thân, ngữ, ư của Bổn Tôn, [há chẳng phải là mâu thuẫn ư?].

          Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Chân Ngôn môn, h́nh ảnh sanh từ thân, tức là h́nh ảnh sanh khởi từ nơi thân. “Thân” là cấu thân, “ảnh” là tịnh thân. Các thứ khởi lên ấy không ǵ hơn Phật được. Ư nói: Sự thù thắng do h́nh ảnh khởi lên không ǵ hơn Phật được. Như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư chấp giữ như thế, tự tánh ấy rỗng không, chỉ có danh tự; điều được chấp trước giống như hư không! Chẳng chấp trước do nhân nghiệp mà sanh. “Giống như h́nh ảnh” tức là tướng. Tướng chính là pháp thế gian. Nay đức Phật nói “hạnh chân ngôn thành Phật”, chính là nói về pháp tam muội hữu tướng trong thế gian. V́ sao? Do đó, kế tiếp, đức Phật bèn dẫn thí dụ để giảng rơ. Như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân v.v… do tứ đại chủng nhiếp thủ như thế, tự tánh của chúng là Không, chỉ có danh tự. Hăy nên biết sở chấp (những điều bị chấp trước) giống như hư không, không có cái để chấp giữ, từ nhân nghiệp (nghiệp thuộc về nhân, hay cái nghiệp tạo thành cái nhân) mà sanh ra h́nh ảnh. Kinh văn nói như thế đó. Cái nhân như gương, nghiệp như thân, giống như đối trước gương mà ảnh hiện. Như hành giả trước là quán tấm gương sáng nơi cái tâm ngoại duyên, dẫn nhập [các ngoại duyên ấy trở thành] thân ḿnh. Nếu tự và tha b́nh đẳng chẳng hai, tức là Du Già đă thành. Thân chính ḿnh làm nhân, những cái được duyên theo làm duyên. Do nhân duyên ḥa hợp mà có h́nh ảnh sanh ra. Nếu hiểu rơ nhân duyên ấy, liền thành Đẳng Chánh Giác. Ai thành Chánh Giác? Chính là hành nhân Chân Ngôn. Ư này giống như ngũ căn trong thế gian, từ nhân duyên Tứ Đại mà sanh, từ các thứ như nghiệp v.v… mà sanh. Tuy hữu tướng, hữu duyên, nhưng tự tánh là Không, tức là giống như pháp vô tướng bậc nhất. Nay Du Già này cũng thế, tuy dường như có tướng, nhưng từ duyên sanh. Thật Tướng của duyên sanh chính là cái thể pháp giới của chữ A; sao có thể bắt bẻ là hữu tướng được ư? Nếu liễu đạt ư nghĩa như thế, tức là thành Chánh Giác. V́ thế, kinh nói “như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư do tứ đại chủng nhiếp thủ, nhưng tự tánh của chúng là Không. Cái tên rỗng không như thế, chỉ là chấp trước”.

          Hư không giống như chẳng chấp trước, do nghiệp mà sanh ra h́nh ảnh v.v… Như Lai thành Chánh Giác, làm duyên khởi lẫn nhau, trong sự liên tục chẳng gián đoạn như duyên sanh. Đó là sanh ra ảnh tượng. V́ thế, chư thần, chư tôn chính là ta, ta chính là chư thần, chư tôn, phát khởi lẫn nhau. Thân của chư tôn sanh từ thân ta, giống như sanh ra h́nh tượng của chư thiên. Kinh văn nói như thế đó! Cái được ta dấy lên (h́nh tượng của chư tôn thánh) giống như lúc do tấm gương tṛn, nh́n vào tấm gương sáng đó, [sẽ thấy] h́nh bóng của thân chính ḿnh hiện ra. Do chưa thấy viên minh, sẽ chẳng có ảnh tượng. Như Lai thành Chánh Giác, duyên khởi lẫn nhau, như trong gương sanh ra h́nh ảnh, h́nh ảnh sanh ra lẫn nhau. Trong nhân duyên chẳng đoạn, từ nơi cấu thân của chính ḿnh sanh ra tịnh thân, [cấu thân và tịnh thân] sanh ra lẫn nhau chẳng gián đoạn. Sự liên tục trong gián đoạn chính là chẳng gián đoạn. Nếu từ duyên sanh, đó chính là như sự sanh khởi của các h́nh bóng. Điều này hiển thị “chẳng ĺa nhân duyên”. V́ thế, chư tôn chính là ta, ta chính là Bổn Tôn, phát khởi lẫn nhau. Do sanh ra lẫn nhau, từ thân sanh ra thân (tức là [từ cấu thân của ta] sanh ra tịnh thân [của chư tôn thánh]). H́nh tượng của chư tôn được sanh ra như thế đó! Thân sanh từ nơi thân, tức là cấu thân sanh ra tịnh thân, tịnh thân tức là h́nh tượng của Phật, Bổn Tôn. Hăy nên hiểu như thế! Thân tâm của chính ḿnh, thân của chính ḿnh đă tịnh, lại giống như thế đó, duyên khởi lẫn nhau chẳng có gián đoạn. V́ thế nói “duyên sanh chính là h́nh ảnh sanh”. Do trong và ngoài làm nhân cho nhau, Tướng Phần phát khởi, lần lượt thấy lẫn nhau, chư tôn chính là ta, ta cũng chính là chư tôn, Phật tức là ta, ta tức là Phật. “Thân sanh, h́nh tướng sanh” tức là sanh từ thân chính ḿnh vậy! Này Bí Mật Chủ! Đă quán như thế rồi, pháp duyên theo trí huệ thông đạt, trí huệ thông đạt duyên theo pháp, đôi bên tạo thành nghiệp cho nhau, chẳng trụ trong tánh Không.

 

          (Kinh) “Bí Mật Chủ! Vân hà tùng ư sanh? Ư năng sanh ảnh tượng. Bí Mật Chủ! Thí như nhược bạch, nhược hoàng, nhược xích, tác ư giả tác thời, nhiễm trước ư sanh, bỉ đồng loại như thị thân chuyển. Bí Mật Chủ! Hựu như nội quán ư trung Mạn-đồ-la liệu trị nhiệt bệnh, bỉ chúng sanh nhiệt bệnh tức thời trừ dũ, vô hữu nghi hoặc. Phi Mạn-đồ-la dị ư, phi ư dị Mạn-đồ-la. Hà dĩ cố? Bỉ Mạn-đồ-la nhất tướng cố. Bí Mật Chủ! Hựu như huyễn giả huyễn tác nam tử, nhi bỉ nam tử hựu phục tác hóa. Bí Mật Chủ! Ư ư vân hà? Bỉ hà giả vi thắng?” Thời Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử nhị nhân giả, vô tương dị dă. Hà dĩ cố? Thế Tôn! Phi thật sanh cố. Thị nhị nam tử bổn tánh Không cố, đẳng đồng ư huyễn”. “Như thị Bí Mật Chủ! Ư sanh chúng sự cập ư sở sanh, như thị câu Không, vô nhị, vô biệt”.

          ()祕密主云何從意生意能生影像祕密主譬如若白若黃若赤作意者作時染著意生彼同類如是身轉祕密主又如內觀意中漫荼羅療治熱病彼眾生熱病即時除愈無有疑惑非漫荼羅異意非意異漫荼羅何以故彼漫荼羅一相故祕密主又如幻者幻作男子而彼男子又復作化祕密主於意云何彼何者為勝時金剛手白佛言世尊此二人者無相異也何以故世尊非實生故是二男子本性空故等同於幻如是祕密主意生眾事及意所生如是俱空無二無別

    (Kinh: “Bí Mật Chủ! Thế nào là từ ư mà sanh? Ư có thể sanh ra h́nh ảnh. Bí Mật Chủ! Ví như là trắng, hay vàng, hay đỏ, hễ tác ư khởi lên, ư đắm nhiễm sẽ sanh, chuyển thân cũng có một nguyên tắc như thế đó. Bí Mật Chủ! Lại như nội quán Mạn-đồ-la trong ư để chữa trị bệnh nhiệt, bệnh nhiệt của chúng sanh ấy lập tức khỏi hẳn, chẳng có nghi hoặc. Chẳng phải là Mạn-đồ-la khác ư, chẳng phải là ư khác Mạn-đồ-la. V́ sao vậy? Do ư ấy và Mạn-đồ-la cùng một tướng. Bí Mật Chủ! Lại như huyễn nhân huyễn hóa một nam tử, nam tử ấy lại biến hóa. Bí Mật Chủ! Ư ông nghĩ sao? Trong bọn họ, ai hay hơn?” Khi đó, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Hai người ấy chẳng khác nhau. V́ sao vậy? Bạch Thế Tôn! Do họ chẳng thật sanh. Do hai người nam ấy tánh vốn là Không, do đều giống như huyễn”. “Đúng như vậy, Bí Mật Chủ! Ư sanh ra các việc và những thứ được sanh bởi ư, hai đằng đều là không, chẳng hai, chẳng khác).

 

          Bí Mật Chủ! Thế nào là ư và ư sanh? Do h́nh ảnh có thể sanh! “Thông đạt” nghĩa là “chứng quả”, đạt tới chỗ sẽ đạt đến. Hăy nên nói sự thông đạt ấy là “chứng”. Bí Mật Chủ quán điều này, giống như thí dụ về cái gương trong phần trước. Khi gương sáng trong tâm hiện h́nh bóng, chẳng có phân biệt, [bởi các h́nh tượng ấy] chỉ từ duyên khởi. Nay quán pháp ấy, từ gương sanh ra ư? Hay từ mặt sanh ra? T́m ṭi như thế, [sẽ thấy các h́nh tượng ấy] đều chẳng có thật xứ (chẳng có thực chất). Nếu do gương mà có, dẫu không có mặt, [h́nh bóng] vẫn nên thường có. Nếu từ mặt mà có, dẫu không có gương, cũng phải nên là chẳng không có [h́nh bóng]. Nhưng chúng đều chẳng thể được; v́ thế biết chỉ do duyên mà có, nhưng thật sự thường không. Đấy là pháp. Do quán pháp này mà được thành tựu “chứng huệ”, nhưng huệ ấy vĩnh viễn dứt bặt hư luận, chẳng thể phô bày, bàn nói. Nếu chẳng nói, chẳng độ người khác, lại là trái nghịch bổn nguyện. [Do vậy], lại từ chứng trí, vẫn sanh ra pháp duyên, từ Phật nhân mà thấy pháp thành Phật. Đă thành Phật rồi lại thuyết pháp, cũng có thể từ cái duyên sanh này mà lại thành pháp.

          “Ví như trắng, vàng, đỏ, khi khởi lên ư niệm th́ ư đắm nhiễm cũng nẩy sanh, thân cũng chuyển theo cùng một nguyên tắc ấy”, ư nói: Ngài Bí Mật Chủ quán pháp, quán tướng không tịch của pháp tánh. Do vậy, duyên theo tướng ấy, dùng huệ để có thể thông đạt. “Pháp” là pháp ĺa các tướng, pháp chính là duyên. Do quán điều này, nhập pháp tánh mà thông đạt pháp. Nếu thông đạt pháp, tức là thấu đạt duyên. Thấu đạt duyên tức là thấu đạt pháp, phát khởi lẫn nhau, cùng biết pháp không tịch chính là thấu đạt pháp. Do có phân biệt dấy lên, biết pháp là không, vô trí duyên, duyên nương vào pháp, pháp nương vào duyên, duyên khởi lẫn nhau. Đó gọi là “các pháp tánh Không”. Nếu pháp là tánh Không như thế, cớ sao từ ư sanh khởi nguyện? Theo kinh văn, chúng đều chẳng trụ trong tánh Không”.

          Bí Mật Chủ! V́ sao ư có thể sanh ra ảnh tượng? Bí Mật Chủ! Ví như nếu suy nghĩ [một vật nào đó] là trắng, là vàng, hoặc đỏ; đấy chính là nêu thí dụ. Như người lúc mắt mới thấy màu trắng th́ không biết rơ. Kế đó, liền sanh tâm phân biệt; đấy có phải là duyên hay chăng? Trong phần trước không hỏi, chẳng phải là ngài Kim Cang Thủ không biết, chỉ v́ chúng sanh mà Ngài thốt lên lời nghi vấn. Nếu là như thế, ư ấy sanh từ tâm, ai có thể biết? Đức Phật bèn nói thí dụ, ví như màu trắng. Do v́ lẽ nào? Do nó khác với các màu xanh, vàng v.v… Tâm sanh ra sự hiểu biết ấy, đó chính là khởi [tâm động niệm], từ tâm mà sanh ra tâm. Thế gian c̣n là như thế; hăy nên biết từ nhiễm tâm sanh ra tịnh tâm cũng như thế. Ư đắm nhiễm sanh khởi là như khi thấy màu trắng, tâm hiểu là màu trắng; do màu trắng ấy, khiến cho tâm cũng trắng. Như tỳ-kheo quán màu trắng, thấy hết thảy cũng trắng. Thấy màu xanh th́ hết thảy cũng đều xanh. Khi tưởng th́ th́ đối với màu trắng bèn tưởng [hết thảy đều là] màu trắng, do ư thành tựu vậy. Thức tâm sanh từ cái tâm trắng, chẳng từ bên ngoài dấy lên. Như người khi quán màu trắng, sẽ thấy hết thảy là trắng. Như kinh Nguyệt Đăng Tam Muội[12] nói: “Như nữ nhân hảo tự trang nghiêm, chiếu kính tự kiến, hoàn tự sanh ái trước. Nhược trí giả quán thử tùng hà sanh? Hà lai xứ? Nhất nhất quán chi, bất khả đắc dă” (Như người nữ thích tự trang điểm, soi gương để tự thấy, vẫn là tự sanh ḷng yêu đắm [đối với h́nh bóng của chính ḿnh trong gương]. Nếu bậc trí nh́n vào đó, sẽ thấy [h́nh bóng trong gương] từ ǵ mà sanh? Từ nơi nào đến? Quán mỗi mỗi điều đều là chẳng thể được!) Do vậy nói: “H́nh ảnh sanh từ tâm vẫn tự nhiễm”. Nếu biết rơ đấy chỉ là từ duyên sanh, ắt chẳng đắm nhiễm. Dùng đó để chứng chính ḿnh th́ là “tự tâm sanh từ tâm”. “Chuyển thân” giống như thế (tức là từ các pháp quán tưởng mà thấy h́nh tướng chư tôn, rồi từ các h́nh tướng ấy lại quán tự thân ḿnh chính là bổn tôn), đó gọi là “đồng nữ tự thấy thân ḿnh”. Nếu nhiễm th́ tức là sanh tử; nếu tương xứng với “chỉ từ duyên sanh, chẳng có tự tánh” th́ chính là Niết Bàn. V́ thế nói “thân đồng loại chuyển” (chuyển biến cái thân cũng theo cùng một loại, tức là theo cùng một nguyên tắc).

          Từ câu “nội quán ư trung” (nội quán từ trong ư) trở đi là phần kệ tụng. Bí Mật Chủ! Lại như nội quán Mạn-đồ-la trong ư để trị bệnh nhiệt. Bệnh nhiệt của các chúng sanh ấy liền trừ, tức là trong khoảng một sát-na [liền lành bệnh]. [Nơi hội Pháp Hoa], trong sát-na [long nữ phát Bồ Đề tâm, thành Phật], [đại chúng đối với] Đề Bà Đạt Đa chẳng c̣n nghi nữa. Chẳng phải là ư khác Mạn-đồ-la, chẳng phải là Mạn-đồ-la khác ư. V́ lẽ nào vậy? Ư đó và Mạn-đồ-la là một tướng!“Tác ư” (khởi lên ư niệm) là như quán xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Như tu Thập Biến Xứ[13] v.v… khi tưởng màu xanh, hết thảy đều xanh. Màu xanh ấy chỉ do tâm mà sanh. Do tác ư lâu ngày, ư sẽ có thể sanh, sắc ấy tùy tâm mà hiện. Tâm đă có thể duyên, có thể sanh ra loại ấy. “Nhiễm” có nghĩa là “chấp thủ”. Hăy nên biết ư sanh từ tâm, có cùng loại với nó. Tâm đă là như thế, thân và ngữ cũng thế.

          Kế đó, lại dẫn thí dụ. Lại như Mạn-đồ-la được khởi lập trong ư, tưởng nó có h́nh tam giác v.v… giống như trong phần trên đă nói. Lại như phương tiện để trừ nhiệt th́ làm Mạn-đồ-la h́nh tṛn, màu trắng. Trong ấy có chữ Văm, hoặc trên chữ chủng tử đặt cái chấm. Những điều khác có thể hiểu tương tự. Cái chấm ấy chính là trừ nhiệt năo, là cam lộ vị. Do làm pháp này, do từ tâm mà làm, nên có thể trừ nhiệt. Cho đến trong khoảng sát-na, bệnh ấy liền trừ, do nó từ tâm mà khởi! Hăy nên biết cái tâm ấy chẳng khác Mạn-đồ-la, Mạn-đồ-la chẳng khác tâm. V́ chúng là một tướng! Nói “Mạn-đồ-la ấy và tâm chẳng hai, chẳng khác”, nay pháp này cũng có thể hiểu như thế.

          Kế đó, đức Phật lại dẫn thí dụ: “Như huyễn hóa thành nam tử”. Bí Mật Chủ! Lại như những người ảo thuật biến hóa ra nam tử. Kế đó, huyễn nam tử lại biến hóa. “Ư ông nghĩ sao? Này Bí Mật Chủ! Ai giỏi hơn?” Ngài Kim Cang Thủ thưa: “Hai người ấy chẳng khác nhau. Do v́ lẽ nào vậy? Bạch Thế Tôn! Do họ chẳng thật sự sanh. Hai người nam ấy bổn tánh là Không, cùng giống như huyễn”. [Đức Phật bảo]: Đúng như thế đó, Bí Mật Chủ! “Sự” là các việc như Tất Địa v.v… “Đẳng” có nghĩa là nhiều. Ư nói: Các sự được sanh bởi ư đều do ư mà sanh, tánh của hai đằng đều là Không, chẳng phân biệt (tức là chẳng hai, chẳng khác). Do ư và cái được sanh bởi ư, cả hai đều là Không, chẳng hai, chẳng khác. Hóa nhân lại biến hóa, trong hai thứ huyễn như thế, thứ ǵ cao hơn? Thứ nào trội? Thứ nào kém? Thứ nào dài? Thứ nào ngắn? Thứ nào đẹp? Thứ nào xấu? Kinh nói “thùy thắng” (ai hơn?) tức là hỏi trong hai thứ huyễn ấy, thứ nào tôn thắng? Câu trả lời là “cả hai thứ ấy chẳng khác nhau!” V́ cớ sao vậy? Do chúng đều từ chẳng thật sanh! Bản tánh của cả hai đều là Không. Phàm do huyễn mà biến hiện huyễn, vậy th́ huyễn nhân biến hiện huyễn sự và người biến ra huyễn nhân ấy có sai khác ǵ? Do vậy, đức Phật bảo rằng: “Ông hăy nên quán pháp này, như từ tấm gương tṛn sanh nơi tâm. Tâm chính là gương, gương chính là tâm, chẳng hai, chẳng khác, chẳng thể luận định tướng sai biệt được!” Nếu nhiễm tâm (tâm đắm trước vào tướng sanh bởi tâm) th́ chính là thế gian. Nếu tâm ĺa nhiễm th́ chính là tâm xuất thế gian.

          Trên đây là phẩm Địa Vị Của Trăm Chữ. Do nói chưa rơ ràng, nên cần phải hỏi thêm. Nhưng đại ư của phẩm này là: Trước tiên, do tu Du Già nên thành tựu, cho đến phổ biến rộng khắp cực đại. Nhưng nếu chẳng dùng huệ phương tiện để quán Thật Tướng của Không nhằm gột rửa cái tâm, th́ vẫn là pháp thế gian. V́ thế, cần phải tu quán hạnh này, khiến cho [hành nhân] nhập Thật Tướng của Mạn-đồ-la, trở thành đàn tràng Đại Không, không ǵ chẳng có, thường hằng rốt ráo thanh tịnh. Đấy chính là đại lược [nội dung của phẩm này] vậy!

 

22. Phẩm thứ hai mươi hai: Bách tự thành tựu tŕ tụng (Bách tự thành tựu tŕ tụng phẩm đệ nhị thập nhị, 百字成就持誦品第二十二)      

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Bí Mật Chủ! Chân ngôn cứu thế giả, thân thân vô hữu dị phần, ư tùng ư sanh, linh thiện tịnh trừ, phổ giai hữu quang. Bỉ xứ lưu xuất, tương ứng nhi khởi, biến chư chi phần. Bỉ ngu phu loại thường sở bất tri, bất đạt thử đạo. Năi chí thân sở sanh phần, vô lượng chủng cố, như thị chân ngôn cứu thế giả phần thuyết diệc vô lượng. Thí như cát tường chân-đà-ma-ni, tùy chư lạc dục, nhi tác nhiêu ích. Như thị thế gian chiếu thế giả thân, nhất thiết nghĩa lợi, vô sở bất thành. Bí Mật Chủ! Vân hà vô phân biệt pháp giới, nhất thiết tác nghiệp tùy chuyển? Bí Mật Chủ! Diệc như hư không giới, phi chúng sanh, phi thọ giả, phi Ma Nô Xà, phi Ma Nạp Bà, phi tác giả, phi Phệ Đà, phi năng chấp, phi sở chấp, ly nhất thiết phân biệt, cập vô phân biệt, nhi bỉ vô tận chúng sanh giới nhất thiết khứ lai, chư hữu sở tác, bất sanh nghi tâm. Như thị vô phân biệt Nhất Thiết Trí trí đẳng đồng hư không, ư nhất thiết chúng sanh, nội ngoại nhi chuyển.

          ()爾時世尊告執金剛祕密主言諦聽祕密主真言救世者身身無有異分意從意生令善淨除普皆有光彼處流出相應而起遍諸支分彼愚夫類常所不知不達此道乃至身所生分無量種故如是真言救世者分說亦無量譬如吉祥真陀摩尼隨諸樂欲而作饒益如是世間照世者身一切義利無所不成祕密主云何無分別法界一切作業隨轉祕密主亦如虛空界非眾生非壽者非摩奴闍非摩納婆非作者非吠陀非能執非所執離一切分別及無分別而彼無盡眾生界一切去來諸有所作不生疑心如是無分別一切智智等同虛空於一切眾生內外而

    (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hăy lắng nghe! Chân ngôn cứu thế là thân [của chân ngôn] và thân [của hành giả] chẳng có chỗ khác biệt. Ư sanh từ ư khiến cho khéo tịnh trừ, sẽ đều có quang minh trọn khắp. [Quang minh ấy] từ các chỗ đó mà tuôn ra, tương ứng để dấy khởi trọn khắp các chi phần. Các loài ngu phu đó thường chẳng hay biết, chẳng thấu đạt đạo này. Cho tới các phần được sanh bởi thân có vô lượng loại, cũng nói các phần của chân ngôn cứu đời như thế là vô lượng. Ví như chân-đà-ma-ni (Như Ư Bảo Châu) cát tường, thuận theo sự ưa thích [của chúng sanh] mà tạo lợi ích. Do thân của [chân ngôn] chiếu soi cơi đời như thế mà hết thảy các nghĩa lợi, không ǵ chẳng thành tựu. Bí Mật Chủ! Trong pháp giới vô phân biệt, hết thảy nghiệp được tạo tác sẽ xoay chuyển như thế nào? Bí Mật Chủ! Cũng giống như hư không giới, chẳng phải là chúng sanh, chẳng phải là thọ giả, chẳng phải là Ma Nô Xà (Manuja: con người), chẳng phải là Ma Nạp Bà (Mānava: nhân loại), chẳng phải là kẻ tạo tác, chẳng phải là Phệ Đà (Vedaka: kẻ nhận biết), chẳng phải là chủ thể chấp trước, chẳng phải là đối tượng bị chấp trước, ĺa hết thảy phân biệt và vô phân biệt, nhưng chẳng sanh tâm nghi đối với hết thảy các việc làm, đến, đi trong vô tận chúng sanh giới. Trí Nhất Thiết Trí vô phân biệt như thế giống như hư không, chuyển trong ngoài hết thảy các chúng sanh).

 

          Kinh nói: “Đế thính, Bí Mật Chủ! Chân ngôn cứu thế giả, thân thân vô hữu dị phần” (Bí Mật Chủ! Hăy lắng nghe, đối với chân ngôn cứu thế, thân và thân chẳng có chỗ khác nhau) tức là thân [của hành giả] chẳng khác với thân ấy (thân của chân ngôn, tức thân do tŕ tụng chân ngôn và quán tưởng mà thành thân Bổn Tôn trong tâm của hành giả). Đó gọi là từ trong tâm mà vận dụng cái thân chân ngôn ấy. “Ư tùng ư sanh” (ư sanh từ ư): Chữ Ư trước là ư có thể sanh, c̣n chữ Ư sau là “tịnh ư”, có thể khiến cho ư được tịnh trừ. “Phổ giai hữu quang bỉ xứ lưu xuất” (Đều trọn khắp có quang minh từ chỗ ấy tuôn ra): Từ tịnh tâm mà lưu xuất [quang minh]. Nói “bỉ” tức là chỉ “ư” trong phần trước (tức “ư” trong câu ư tùng ư sanh”). Quang minh và Du Già tương ứng mà sanh. Do tương ứng với Du Già, từ cái tâm ấy mà sanh ra quang minh đó. Nói “ngu phu thường sở bất năng tri” tức là ngu phu chẳng thể biết, chẳng thể liễu đạt đạo này! Cho đến các phần sanh từ nơi thân, phần chẳng khác với thân, cũng là những cái thân được sanh bởi thân [của hành giả]. Thân được sanh từ bản thân cũng nhiều tới vô lượng loại. Thân đă là vô lượng, [cho nên] ngôn thuyết nơi chân ngôn như thế cũng có vô lượng. Như báu Như Ư, được gọi là “cát tường như ư châu”, tùy theo mong muốn [của chúng sanh] mà tạo lợi ích thành tựu. Thân của đấng chiếu thế trong thế gian như thế, thành tựu hết thảy các điều lợi. Bí Mật Chủ! Hết thảy các việc làm trong pháp giới vô phân biệt sẽ được chuyển như thế nào? Bí Mật Chủ! Lại giống như hư không giới v.v...

          Đức Phật bảo ngài Bí Mật Chủ hăy lắng nghe. Chân ngôn cứu thế, mỗi thân chẳng khác. Ư sanh khởi từ ư, được khéo tịnh trừ. Do từ nơi ấy lưu xuất, đều có quang minh tương ứng với các chi phần. Ngu phu chẳng biết đạo này, cho đến [chẳng biết] các phần được sanh bởi thân nhiều vô lượng loại. Đó là [ư nghĩa chánh yếu trong] kinh văn. Ví như do tŕ chân ngôn, sẽ có khác biệt: Hễ có thể khéo tịnh trừ cái ư được sanh bởi ư (tâm) th́ pháp được lưu xuất bởi đó chính là cái thân này (thân của hành giả tŕ chân ngôn) chẳng khác với cái thân được sanh ra từ tự thân (cái thân được sanh ra từ bản thân chính là thân thanh tịnh sanh khởi bởi quán tưởng các pháp tịnh diệu bên ngoài, rồi biến cái thân tịnh diệu ấy đồng nhất với thân ḿnh), tức là từ ư mà sanh. Do tịnh trừ các cấu, hết thảy các sự được thành tựu. Do có đức ấy, tùy theo các chi phần mà lưu xuất quang minh để làm Phật sự. Các chuyện như thế, phàm ngu chẳng thể biết! Do không biết đạo này, nên gọi là “ngu phu”. Đạo ấy chính là chân ngôn hạnh, do thành tựu chân ngôn, sẽ đạt được Tất Địa. Từ thân này lại có thân sanh, tức là như [các thân trong] Dục Giới, Sắc Giới v.v… rất nhiều loại, đều do một chân ngôn mà sanh ra vô lượng thân, miệng, ư, như trong phần trước đă nói từ các phần thượng, trung, hạ nơi thân Phật mà sanh ra vô lượng thân [của Phật, Bồ Tát, tôn thánh v.v…]. Hành nhân này cũng như thế, có thể tùy theo thân phần thượng, trung, hạ, hoặc hiện ra bốn vị Phật, bốn vị Bồ Tát, cho đến tám bộ v.v… giống như trong Đại Bi Tạng đă nói, số ấy vô lượng!

          Lại có kẻ ngờ vực, gạn rằng: “Trong phần trên đă nói chân ngôn vô tướng, vô duyên, giống như thái hư, chẳng thể phân biệt, v́ sao có các sự ấy?” Đáp: Ví như Như Ư Châu thỏa măn hết thảy các nguyện, cho đến ba sự cũng có thể tịnh hóa, [tức là]: Nếu ai muốn tịnh cái thân này, do sức của châu, khiến cho thân này như lưu ly. Nếu muốn ngữ và ư thanh tịnh, cũng tùy theo ư phần mà thanh tịnh. Pháp thế gian mà c̣n như thế, huống hồ Như Lai như ư châu diệu bảo mà chẳng thể làm chuyện như thế ư? Châu như thế, tuy làm đủ mọi sự, thỏa măn đủ mọi nguyện, nhưng vắng lặng, bất động, chẳng suy nghĩ, vô vi, chẳng đến, chẳng đi, thành tựu hết thảy, huống hồ Như Lai đại bảo ư? Do vậy, pháp giới chẳng phân biệt, như rồng lớn ở trong cung, chẳng khởi tâm động niệm, mà thuận theo nghiệp lực, tuôn xuống [những cơn mưa có] các vị sai biệt. Do bởi nghĩa này, trong vô tướng Không mà hiện vô lượng chuyện phổ môn nơi thân, khẩu, ư, từ ngay nơi thân mà có thể đạt được, chớ nên nghi! Lại ví như hư không chẳng thuộc vào chúng sanh số, mà là chỗ để chúng sanh nương tựa. Chẳng phải thân thọ, chẳng phải Ma Nạp Bà, tác giả, thọ giả v.v… Hết thảy các vọng tưởng đều trừ, đều ĺa phân biệt, chẳng đến, chẳng đi, nhưng chẳng khác chúng sanh giới. Hết thảy chúng sanh y chỉ và tác nghiệp đều do đó mà thành, lợi ích chúng sanh, thành tựu đủ mọi sự. Chẳng thể do hư không có thể thành tựu hết thảy các sự, mà bảo hư không là hữu vi, hữu tướng! Nay Đại Không Mạn-đồ-la này cũng như thế, rốt ráo thanh tịnh, nhưng không ǵ chẳng làm, thường trụ vắng lặng, nhưng không ǵ chẳng thành tựu. V́ thế, kinh khuyên hăy nên tin tưởng mà nói: “Đương như thị tri, vật sanh nghi hoặc” (Hăy nên biết như thế, chớ sanh ḷng ngờ vực).

         

          (Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục tuyên thuyết tịnh trừ vô tận chúng sanh giới cú, lưu xuất tam-muội cú, bất tư nghị cú, chuyển tha môn cú: - Nhược bổn vô sở hữu, tùy thuận thế gian sanh, vân hà liễu tri Không, sanh thử Du Già giả? Nhược tự tánh như thị, giác danh bất khả đắc. Đương đẳng không tâm sanh, sở vị Bồ Đề tâm. Ưng phát khởi từ bi, tùy thuận chư thế gian, trụ ư duy tưởng hạnh. Thị tức danh chư Phật. Đương tri tưởng tạo lập, quán thử vi không không. Như hạ số pháp chuyển, tăng nhất nhi phân dị, cần dũng không diệc nhiên. Tăng trưởng tùy thứ đệ, tức thử A tự đẳng, tự nhiên trí gia tŕ.

          ()爾時世尊又復宣說淨除無盡眾生界句、流出三昧句、不思議句、轉他門句:若本無所有,隨順世間生,云何了知空,生此瑜伽者?若自性如是,覺名不可得,當等空心生,所謂菩提心。應發起慈悲,隨順諸世間,住於唯想行,是即名諸佛。當知想造立,觀此為空空,如下數法轉,增一而分異。勤勇空亦然,增長隨次第,即此阿字等,自然加持。

          (Kinh: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại tuyên nói câu tịnh trừ vô tận chúng sanh giới, câu lưu xuất tam-muội, câu chẳng nghĩ bàn, câu thuộc các môn chuyển biến người khác: - Nếu vốn vô sở hữu, tùy thuận thế gian sanh, làm sao biết rơ Không, sanh ra Du Già này? Nếu tự tánh như thế, giác là chẳng thể được! Tâm sanh như hư không, đó gọi Bồ Đề tâm. Nên phát khởi từ bi, tùy thuận các thế gian, chỉ trụ nơi tưởng hạnh. Đó gọi là chư Phật. Nên biết: Tưởng tạo lập, quán đó là Không Không. Như đặt số tính đếm, thêm một mà khác đi. Cần Dũng Không cũng thế, tăng trưởng theo thứ tự, tức từ chữ A thảy, trí tự nhiên gia tŕ).

 

          Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại tuyên nói câu tịnh trừ vô tận chúng sanh giới, câu từ tam-muội lưu xuất, câu chẳng nghĩ bàn, câu thuộc môn chuyển biến người khác. Nếu sanh đă vốn là vô sở hữu, tùy thuận pháp thế gian, hăy nên biết Không sanh ra người tu hành như thế nào? Nếu tự tánh là như thế, giác chẳng thể được, tâm hăy nên như hư không, sanh ra sự sanh khởi của Bồ Đề. Hăy nên phát sanh ḷng Bi, tùy thuận hết thảy thế gian. Trên đây là [các ư chính trong] kinh văn. Trụ trong sự tịnh trừ chúng sanh giới vô tận, tức là vốn đă lập thệ nguyện, v́ muốn tịnh trừ hết thảy chúng sanh trong vô tận thế giới. Do chúng sanh có cấu, chẳng thể tự độ, nay muốn khai trọn khắp tri kiến của Như Lai cho họ, khiến cho họ thanh tịnh, khiến cho thân, khẩu, ư địa của họ đều được thanh tịnh, chẳng có cấu uế. Hăy nên biết câu “tịnh trừ vô tận chúng sanh” chính là câu lưu xuất từ tam-muội. Câu lưu xuất từ tam-muội là câu chẳng thể nghĩ bàn. Câu chẳng thể nghĩ bàn chính là câu “chuyển tha môn” (câu thuộc về môn chuyển biến người khác). Chuyển các món hữu cấu khác thành tự tánh thanh tịnh, chuyển kẻ khác từ vô minh thành sự sáng suốt của Như Lai. V́ thế, gọi là “chuyển tha môn cú”. “Tha” (người khác) là nói về chúng sanh. Do chuyển uế thành tịnh mà nói pháp môn này. “Bổn sanh vô sở hữu”: Nếu vốn là vô sở hữu, tùy thuận thế gian mà sanh, làm thế nào để biết Không? Nói “nên như thế nào” tức là “[làm thế nào] để biết các pháp là Không”.

           “Sanh thử Du Già” (sanh ra môn Du Già này): Trong phần kệ có hỏi về điều này, tức là nương vào thần lực của Phật mà có câu hỏi này. Nếu nói “sanh vốn vô sở hữu, Có là tùy thuận thế gian”, người tu hành sẽ làm như thế nào để khiến cho người tu hành sanh cái Không ấy, tức là môn Không thanh tịnh. Nếu nói là “chẳng có”, làm thế nào để sanh trong môn Không thanh tịnh ấy? Nếu vốn là vô sở hữu, cái Sanh ấy cũng thuận theo cái “vốn là Không”, tức là “vốn bất sanh”. Du Già là như thế nào? Nhận biết Không như thế nào? Cái Không ấy chính là tánh của chân ngôn. Thế nào là “sanh Du Già”? Nếu tự tánh là như thế, danh xưng Giác cũng chẳng thể được, tức là quán danh tự c̣n chẳng thể được. Hễ phù hợp th́ là quán. Quán và giác như nhau. “Đương đẳng không tâm sanh” (hăy nên sanh tâm như hư không), tức là Bồ Đề tâm sanh, đấy chính là dẫn mười thí dụ được nói trong phần trước. Do giác “vốn bất sanh”, vô tướng, chẳng thể được, nên đạt được cái tâm như hư không. Thanh tịnh, vô phân biệt v.v… như trên, th́ chẳng chỉ là Không, mà c̣n có trí sanh, tức là Bồ Đề.

          “Ưng phát khởi từ bi, tùy thuận chư thế gian, trụ ư duy tưởng hạnh, tức danh vi chư Phật” (hăy nên phát khởi ḷng từ bi, tùy thuận các thế gian, trụ trong hạnh chỉ tưởng, th́ gọi là chư Phật), tức là Như Lai liễu đạt các pháp vốn tự bất sanh, vốn vô sở hữu, do tùy thuận pháp thế gian để độ chúng sanh mà có. “Có” tức là phổ môn thị hiện đủ loại các phương tiện để làm chuyện lợi ích chúng sanh. Do nhân duyên cơ cảm mà có, nhưng vốn vô sở hữu. Bản tánh của tánh chúng sanh là vô sở hữu, do tu hành mà biết bản tánh nơi tánh của chúng sanh là không tịch, do giác tri tánh ấy là Không, chỉ có danh tự, chẳng thể được! Nói “tánh Không Không chỉ có danh tự, rốt ráo cầu chẳng thể được” th́ đấy chính là Bất Khả Đắc Không. Chẳng như người huệ kém cỏi, chấp tánh Không ấy là thật sự có! Quán chúng sanh giống như hư không. Bản tánh của hư không ĺa khỏi quán chiếu, ĺa hết thảy vọng niệm, hư luận. Do biết rơ hư không như thế, liền biết lư chân thật, chẳng nên chấp lấy pháp Không ấy. Do hư không ấy chẳng thể được, chẳng phải là đều vô sở hữu, mà là thật sự có tự tánh. Cái gọi là tự tánh của Không tức là bất không. Hăy nên biết cái Bất Không ấy chính là tâm giống như hư không. Tâm giống như hư không chính là Bồ Đề thanh tịnh. Từ cái tâm Bồ Đề thanh tịnh ấy, sanh ra tâm đại bi. V́ lẽ nào vậy? Hành nhân đă hiểu rơ cái tâm Bồ Đề ấy, bèn nghĩ thế này: “Hết thảy chúng sanh thảy đều như thế, sẵn có kho báu Như Lai mà chẳng tự hay biết! Do nhân duyên ấy, uổng công chịu khổ nhọc mà chẳng có lợi ích”. Bồ Tát do bốn duyên ấy, dấy khởi tâm đại bi. Do [chúng sanh] chẳng biết rơ tâm ấy, liền luân hồi trong sanh tử mênh mông không ngớt! Hễ biết rơ th́ tức là Bồ Tát. Bồ Tát do hết thảy chúng sanh đều sẵn có tánh có thể giác, nhưng chẳng thể tự ngộ, v́ chuyện này mà các vị Bồ Tát sanh ḷng đại bi, sẽ nói phương tiện để cứu vớt, thủ hộ. Tức là dùng ḷng đại bi ấy, v́ trừ cấu cho vô tận chúng sanh, tùy thuận thế gian mà lập phương tiện. Do chủng loại trong chúng sanh giới vô tận, tánh dục, căn duyên lần lượt sai biệt ngần ấy, Bồ Tát thuận theo đó mà giáo hóa, hướng dẫn. V́ thế nói là “tùy thuận thế gian”. “Tưởng duy tâm trụ” liền gọi là chư Phật. Hăy nên biết từ trong tưởng mà tạo lập sanh. Cái gọi là Không được kiến lập từ nơi tưởng. Đă trụ trong duy tâm, lại c̣n do đă đắc duy tâm mà kiến lập hết thảy các pháp. “Quán thử vi Không Không” (quán điều đó là Không Không), ư nói cái danh hiệu Không Không là do quán mà có, cũng chỉ có tên gọi, Không từ tâm mà sanh.

          Như sự chuyển biến trong cách tính đếm, từ một, hai, ba mà chia thành khác biệt (nói “một, hai” ở đây là nói tới sự khác biệt). Cần Dũng! Cái Không ấy cũng giống như thế đó, cho đến tăng trưởng theo thứ tự, tức là các chữ A v.v… [cho đến toàn bộ các chữ trong bốn mươi hai mẫu tự Tất Đàm]. “Tưởng” là nói theo ư nghĩa “chỉ có tưởng”. Chữ A như đă nói trên chính là Tưởng, mà tự nhiên trí cũng là Phật, tức là được Phật gia tŕ. Nếu tạo lập tưởng Không và Bất Không, quán sát các pháp lần lượt được tính đếm sau đó, sẽ từ một, hai, ba mà bắt đầu tách ra khác nhau. Như bậc dũng sĩ từ nơi cái Không đó mà tăng trưởng thuận theo thứ tự, khởi đầu từ chữ A, tương ứng gia tŕ tự nhiên trí. Kinh văn nói như thế đó.

          Trước hết là nói “đạt được cái tâm hư không”, tức là Bồ Đề tâm sanh. Bồ Đề là giác, cái tâm ấy há chẳng phải là Không ư? Nhưng [Bồ Đề] thật sự trọn đủ công đức nhiều như cát sông Hằng. Tuy trọn đủ vô lượng công đức của Như Lai, nhưng vô tướng, vô danh, chẳng thể hiển thị. Như tông Pháp Tướng nói mười sáu loại Không, kinh Đại Bát Nhă nói mười tám loại Không v.v… đều nhằm giảng rơ ư nghĩa này. Nếu tánh chỉ là Không, trọn chẳng có ǵ, làm sao có thể thành tựu đức thần biến chẳng thể nghĩ bàn như thế để độ chúng sanh? Hăy nên biết cái Không ấy chính là lư tự chứng. Tưởng đă là Không, vô sở hữu, th́ danh cũng như thế. Chỗ này chẳng thể chỉ bày, tướng ngôn từ tịch diệt. Nếu dùng pháp tự chứng như thế để nói với phàm ngu, sẽ trọn chẳng thể được! Hăy nên biết nó chỉ có cái tên suông, trong mười tám món Không, nó là tối thượng, tức là Đại Không của chư Phật, thật sự chẳng hư dối! Toán số, thí dụ ở đây vẫn giống như cách tính toán thấp kém của người thế gian, thoạt đầu là vạch con số một để làm cơ sở (phép tính toán của phương Tây (Ấn Độ) đều là vạch nơi đất…), cho đến ức, tải[14], A-tăng-kỳ v.v… đều sanh từ đó; nhưng thoạt đầu, khi chưa tính toán, vốn chẳng có con số ấy. Từ nơi đất trống vốn chẳng có con số để tính toán, mà bèn tính toán một, hai, ba, cho tới vô lượng. Tính toán xong, bèn bỏ các vị trí (các vạch đánh dấu con số tính toán), vẫn là trở về cái gốc rỗng không, nhưng tâm người tính toán tự biết được kết quả đă tính, rành rành chẳng mất. Tuy từ gốc, vốn chẳng có ǵ mà lập ra con số, nay [tính toán xong] đă [thành không có ǵ] như cũ, thật sự chẳng có con số nào, nhưng kết quả ghi nhớ trong tâm chẳng mất đi. Tức là chẳng có mà có, tuy có mà chẳng có. Nay môn chữ A này cũng giống như thế, từ trong cái gốc vốn bất sanh, do tùy thuận thế gian, theo thứ tự xuất hiện vô lượng pháp môn. Tuy xuất hiện vô lượng phương tiện, nhưng vẫn chẳng khác ư nghĩa bản tánh“bất sanh” của chữ A, giống như các con số ấy chẳng hề ĺa một. Do thoạt đầu tính toán bắt đầu từ một, cách tính hết thảy các con số đều chẳng ĺa một, cho tới một vạn cũng là “một và vạn chẳng thể tách rời nhau!” Hết thảy các số khác đều có thể [suy theo đó] biết. Nay hết thảy các pháp đều chẳng thể ĺa chữ A, cũng do lẽ ấy.

          Nhưng có luận sư lại dẫn thí dụ, giống con trùng ḅ. Do có vô lượng trùng nối theo nhau chẳng dứt mà thành đường hướng dẫn, hoặc có đủ loại tướng như vuông, tṛn, quanh co v.v… Nếu ĺa khác đó, mỗi mỗi đều là một con trùng, chẳng c̣n các tướng cong, thẳng, dài, ngắn v.v… Nay pháp này cũng thế, trong Không pháp tự chứng rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn mà trọn đủ hết thảy các công đức. Nhưng do duyên sanh, chẳng có bổn sanh, chẳng ĺa cái lư “là một, vốn bất sanh” vậy! Chữ A đứng đầu, tương ứng gia tŕ tự nhiên trí. Do tự nhiên trí gia tŕ tự môn này, sanh ra vô lượng ngữ. Mỗi ngữ có vô lượng thanh, mỗi thanh có vô lượng lư, tức là giống như các con số kia, trong mỗi mỗi đều trọn khắp hết thảy. Đại Không cũng thế, đủ hết thảy các pháp, trọn khắp hết thảy các pháp. Chữ A này cũng như thế! Hết thảy các chân ngôn môn đều từ chữ A mà có, giống như muôn h́nh tượng từ Không mà có, không chỉ sanh ra hết thảy các chữ. Đấy chính là trong mỗi môn được sanh bởi chữ, liền hiển thị lư bất sanh!

 

          (Kinh) A phạ, ca khư nga già, giá xa nhă xă, trá trá noa đồ, đa tha na đà, ba phả ma bà, dă ra la phạ, xa sa sa ha, ngưỡng nhưỡng noa nẵng măng. Bí Mật Chủ! Quán thử không trung lưu tán giả lập, A tự chi sở gia tŕ, thành tựu tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Như thị A tự, trụ ư chủng chủng trang nghiêm, bố liệt đồ vị, dĩ nhất thiết pháp bổn bất sanh cố, hiển thị tự h́nh, hoặc dĩ bất khả đắc nghĩa, hiện Phạ tự h́nh. Hoặc chư pháp viễn ly tạo tác cố, hiện Ca tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp, đẳng hư không cố, hiện Khư tự h́nh. Hoặc hạnh bất khả đắc cố, hiện Nga tự h́nh. Hoặc chư pháp nhất hợp tướng bất khả đắc cố, hiện Già tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly sanh diệt cố, hiện Giá tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp vô ảnh tượng cố, hiện Xa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp sanh bất khả đắc cố, hiện Nhă tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly chiến địch cố, hiện Xă tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly ngă mạn cố, hiện Trá tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly dưỡng dục cố, hiện Trá tự h́nh. Hoặc hiện nhất thiết pháp ly oán đối cố, hiện Noa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly tai biến cố, hiện Đồ tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly Như Như cố, hiện Đa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly trụ xứ cố, hiện Tha tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp, ly thí cố, hiện Na tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp giới bất khả đắc cố, hiện Đà tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp Thắng Nghĩa Đế bất khả đắc cố, hiện Ba tự h́nh. Hoặc chư pháp bất kiên như tụ mạt cố, hiện Phả tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly hệ phược cố, hiện Ma tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp chư quán bất khả đắc cố, hiện Bà tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp chư thừa bất khả đắc cố, hiện Dă tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly nhất thiết trần cố, hiện Ra tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp vô tướng cố, hiện La tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly tịch cố, hiện Xa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp bổn tánh độn cố, hiện Sa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp đế bất khả đắc cố, hiện Sa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly nhân cố, hiện Ha tự h́nh.

          ()阿嚩。迦佉哦伽。遮車若社。吒咤拏荼。多他娜馱。波頗摩婆。野囉邏嚩。奢沙娑訶。仰壤拏曩莽。祕密主!觀此空中流散假立,阿字之所加持,成就三昧道。祕密主!如是阿字,住於種種莊嚴,布列圖位。以一切法本不生故,顯示自形。或以不可得義,現嚩字形。或諸法遠離造作故,現迦字形。或一切法等虛空故,現佉字形。或行不可得故,現誐字形。或諸法一合相不可得故,現伽字形。或一切法離生滅故,現遮字形。或一切法無影像故,現車字形。或一切法生不可得故,現若字形。或一切法離戰敵故,現社字形。或一切法離我慢故,現吒字形。或一切法離養育故,現咤字形。或一切法離怨對故,現拏字形。或一切法離災變故,現荼字形。或一切法離如如故,現多字形。或一切法離住處故,現他字形。或一切法離施故,現那字形。或一切法界不可得故,現馱字形。或一切法勝義諦不可得故,現波字形。或諸法不堅如聚沫故,現頗字形。或一切法離繫縛故,現麼字形。或一切法諸觀不可得故,現婆字形。或一切法諸乘不可得故,現也字形。或一切法離一切塵故,現囉字形。或一切法無相故,現邏字形。或一切法離寂故,現奢字形。或一切法本性鈍故,現沙字形。或一切法諦不可得故,現娑字形。或一切法離因故,現訶字形。

          (Kinh: A Va, Ka Kha Ga Gha, Ca Cha Ja Jha, Ṭa Ṭha Ḍa Ḍha, Ta Tha Da Dha, Pa Pha Ba Bha, Ya Ra La Va, Śa Ṣa Sa Ha, Ṅa Ña Ṇa Na Ma. Bí Mật Chủ! Quán các chữ ấy trôi nổi, giả lập trong hư không, được chữ A gia tŕ, thành tựu tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Chữ A như thế, trụ trong các loại trang nghiêm, xếp đặt theo vị trí trong đồ h́nh. Do hết thảy các pháp vốn bất sanh, hiển thị h́nh chữ: Hoặc do nghĩa “chẳng thể được” mà hiện h́nh thể chữ Phạ (, Va). Hoặc do các pháp xa ĺa tạo tác mà hiện h́nh thể chữ Ca (, Ka). Hoặc do hết thảy các pháp bằng với hư không, mà hiện h́nh thể chữ Khư (, Kha). Hoặc do hạnh chẳng thể được, mà hiện h́nh thể chữ Nga (, Ga). Hoặc do một hợp tướng của các pháp chẳng thể được, mà hiện h́nh thể chữ Già (, Gha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa sanh diệt mà hiện h́nh thể chữ Giá (, Ca). Hoặc do hết thảy các pháp chẳng có h́nh bóng, mà hiện h́nh thể chữ Xa (, Cha). Hoặc do hết thảy các pháp, sanh chẳng thể được, mà hiện h́nh thể chữ Nhă (, Ja). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa đối địch mà hiện h́nh thể chữ Xă (, Jha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa ngă mạn mà hiện h́nh thể chữ Trá (, Ṭa). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa dưỡng dục mà hiện h́nh thể chữ Trá (, Ṭha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa oán đối mà hiện h́nh thể chữ Noa (, Ḍa). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa tai biến cố, mà hiện h́nh thể chữ Đồ (, Ḍha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa Như Như, mà hiện h́nh thể chữ Đa (, Ta). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa trụ xứ mà hiện h́nh thể chữ Tha (, Tha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa thí mà hiện h́nh thể chữ Na (, Da). Hoặc do hết thảy pháp giới đều chẳng thể được mà hiện h́nh thể chữ Đà (, Dha). Hoặc do Thắng Nghĩa Đế của hết thảy các pháp chẳng thể được, mà hiện h́nh thể chữ Ba (, Pa). Hoặc do các pháp chẳng kiên cố như bọt nước, mà hiện h́nh thể chữ Phả (, Pha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa trói buộc mà hiện h́nh thể chữ Ma (, Ba). Hoặc do hết thảy các pháp, các quán chẳng thể được, mà hiện h́nh thể chữ Bà (, Bha). Hoặc do hết thảy các pháp các thừa chẳng thể được mà hiện h́nh thể chữ Dă (, Ya). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa hết thảy trần, mà hiện h́nh thể chữ Ra (). Hoặc do hết thảy các pháp vô tướng mà hiện h́nh thể chữ La (). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa tịch, mà hiện h́nh thể chữ Xa (, śa). Hoặc do tánh của hết thảy các pháp vốn là độn mà hiện h́nh thể chữ Sa (, Ṣa). Hoặc do Đế nơi hết thảy các pháp chẳng thể được, mà hiện h́nh thể chữ Sa (). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa nhân mà hiện h́nh thể chữ Ha - ).

 

          “Trí vị” (đặt đúng vị trí) tức là các thứ trang nghiêm. “Quán” là bảo Bí Mật Chủ hăy quán điều ấy. Tức là trụ trong đủ loại h́nh tượng trang nghiêm, phân biệt các vị trí. Do các pháp vốn bất sanh, hiển thị h́nh tượng của chính ḿnh. H́nh tượng của chính ḿnh tức là chữ A. Từ trong h́nh tượng của chính ḿnh hiển thị “vốn bất sanh”. Chữ A là như thế đó. Này Bí Mật Chủ! Các thứ vị trí xếp đặt xen kẽ, ta quán trụ trong bất sanh, h́nh tướng của các pháp được hiển thị. Đó là [đại ư của] kinh văn. Quán chữ A này từ trong hư không lưu xuất muôn vàn h́nh tượng trong thế gian, hết thảy thế gian đều sanh từ đó, nhưng [chữ A] vốn bất sanh! Chữ A giả lập, gia tŕ tam-muội thành tựu, chứng tam-muội trọn đủ Bát Nhă, thành tựu vạn hạnh đều do chữ A này, đạt được phước huệ viên măn đều từ môn chữ A này. Chữ này có thể sanh ra đủ loại sắc, tức là xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, cho đến xen kẽ có vô lượng thứ, và đủ loại h́nh, tức là các thứ như tam giác, vuông, tṛn, bán nguyệt, và các vị Bổn Tôn vô lượng bất đồng. Nếu hiểu nghĩa chân thật trong ấy, không ǵ chẳng phải là toàn thể vào trong môn chữ A, giống như đức Tỳ Lô Giá Na. Môn chữ A được nói trên đây, tức là hiển thị thân ta, tức là bản thân ta vốn bất sanh mà cũng bất diệt. “Bất sanh, bất diệt” chính là thân Như Lai, hăy nên quán sát như thế. V́ thế nói chữ A dùng h́nh tướng của chính ḿnh để hiển thị đức ấy.

          Kế đó, hoặc là ư nghĩa “vô sở đắc”. Từ h́nh tướng của chữ Phạ (Va), hiển thị ư nghĩa “bất khả đắc”, do chữ Phạ này chứng “vốn bất sanh”. H́nh tượng của chữ Phạ hiện ra, tức là ư nghĩa “ngôn ngữ dứt bặt” trong đoạn sau. Điều này minh thị ư nghĩa ǵ? Đức Phật bảo: “Chữ A có đủ hết thảy các công đức”, hoặc trực tiếp từ môn chữ A để nói rơ “vốn bất sanh”. Hoặc từ môn khác mà hiển thị, tức là dùng các môn như chữ Phạ v.v… để nói rơ. Ư nghĩa tuy khác, môn cũng khác biệt, nhưng ư nghĩa “vốn bất sanh” được hiển thị bởi thân của chính ḿnh chẳng khác! Nếu pháp có một thứ ǵ đó là sanh, sẽ chính là tướng có thể nói, chẳng phải là pháp dứt bặt ngôn ngữ! Do chữ Phạ là “ngôn ngữ dứt, tâm hạnh diệt”, nên vào trong môn chữ A. Do chữ A mà biết chữ Phạ chẳng thể nói bày được!

          Tiếp đó đều là tướng trạng của các dị môn (các tự môn khác với chữ A): Hoặc trong hết thảy các pháp, do ĺa tạo tác, h́nh thể chữ Ca hiện ra. Đây vẫn là nói về môn chữ A, nhưng muốn nêu rơ hết thảy các pháp vốn vô tác, nên hiện chữ Ca này. Chữ Ca này nhằm nêu rơ ư nghĩa của chữ A. Nhưng chữ Ca (), nếu chẳng đặt nét ngang, sẽ chẳng thành âm Ca. Sở dĩ chẳng thành là do trong chữ Ca khuyết âm A. Trên đầu chữ Ca có h́nh thể chữ A, hăy nên biết một trăm chữ đều là như thế; những điều sau đó phỏng theo đó mà hiểu. Nếu không có âm A trong ấy, sẽ chẳng thể mở miệng, mà cũng tự chẳng có âm thanh. Hoặc do hết thảy các pháp bằng với hư không, h́nh thể chữ Kha () hiện ra. Hoặc do hành bất khả đắc, nên h́nh thể chữ Nga (, Ga) hiện ra. Hoặc do nhất hợp tướng chẳng thể được, h́nh thể chữ Già hiện ra (, gha): A Lại Da chứa đựng hết thảy chủng tử nhiễm và tịnh, là ư nghĩa hàm tàng. Hoặc do các pháp ĺa sanh diệt, h́nh thể chữ Giá (, ca) hiện ra. Chữ này dịch sát nghĩa là “chết mất”. Hoặc do các pháp không có h́nh bóng, mà h́nh thể chữ Xa (, cha) hiện ra, như pháp thế gian, do mặt trời và cây ḥa hợp mà có bóng cây sanh ra. Hoặc do hết thảy các pháp ly sanh, bất khả đắc, mà h́nh thể chữ Nhă (, Ja) hiện ra. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa đối địch, mà h́nh thể chữ Xă (, Jha) hiện ra. Đây chính là ư nghĩa “có cái này, có cái kia”. Có đây và kia tức là có đối địch. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa thấp hèn, h́nh thể chữ Trá (, ṭa) hiện ra. Trá có nghĩa là ngă mạn tự cao. Đối ứng với điều này bèn có thấp hèn. Nếu có ngă mạn, có thấp hèn, tức là có ư nghĩa “sanh diệt”, chẳng tương ứng với chữ A. Do có âm A trong ấy, tức là nêu rơ “chẳng có ư nghĩa ty, mạn. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa dưỡng dục, h́nh thể chữ Trá (, ṭha) hiện ra. Đấy là ư nghĩa ‘vun bồi, thành lập’, như điều ḥa nước, đất v.v… để vun quén cây cối được sum suê. Hết thảy các pháp vào trong chữ A. Hoặc do ĺa oán, mà h́nh thể chữ Noa (, ḍa) hiện ra (“oán” là tự thân một mực ở trong hết thảy các chỗ mà làm ác, tức là đối lập với chỗ chẳng ác, trở thành hai đằng). Hoặc do ĺa tai biến, mà h́nh thể chữ Đồ (, ḍha) hiện ra. Đây là ư nghĩa “tai biến”, tức là các hiện tượng lạ như châu chấu, tai nạn nước, lửa, đạo tặc xâm hại. Hoặc do các pháp ĺa Như Như, h́nh thể chữ Đa (, Ta) hiện ra. Nếu quán có Như Như, tức là có cái bị quán. Có cái bị quán tức là có sanh, có diệt, tức là chẳng tương ứng với chữ A! V́ thế, cũng cần phải ĺa Như Như. Hoặc do các pháp ĺa trụ xứ, h́nh thể chữ Tha (, Tha) hiện ra (nếu có thị xứ, phi xứ, tức là có tâm thị phi sanh ra, chẳng tương ứng với chữ A. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa thí, h́nh thể chữ Na (, Da) hiện ra. Nếu có “đây, kia, vật được thí” v.v… tức là chẳng tương ứng với đạo, như kinh Bát Nhă đă nói. Hoặc do hết thảy các pháp giới chẳng thể đắc, h́nh thể chữ Đà (, Dha) hiện ra. “Giới () có nghĩa là mỗi pháp đặt đúng bổn vị. Các pháp giới h́nh tượng muôn mối. Giới hàm ư có nhiều h́nh tượng trong ấy. Giới ấy chẳng thể được. Hoặc do hết thảy các pháp, Đế chẳng thể được, mà h́nh thể chữ Ba (, Pa) hiện ra. Đệ Nhất Nghĩa Đế cũng chẳng thể được. Hoặc do hết thảy các pháp giống như bọt nước, chẳng cứng chắc, h́nh thể chữ Phả (, Pha) hiện ra. “Bọt” có nghĩa là không cứng chắc”. Do ĺa chẳng cứng chắc, tức là đức của chữ A. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa trói buộc, h́nh thể chữ Ma (, Ba) hiện ra. Nếu thấy trói buộc và tháo gỡ, tức là có tâm chấp trước. Nhập chữ A tức là không trói buộc, không giải thoát, do bất sanh. Hoặc do hết thảy các pháp quán vô sở đắc, h́nh thể chữ Bà (, Bha) hiện ra. Quán” tức là quán chiếu. Do quán chiếu thành, tức là có chỗ thọ sanh. Nếu hiểu [chỗ thọ sanh ấy] vốn là không, tức là vô sanh, vô quán. Cách giải thích chữ Bà ở đây không thích hợp để giải thích chữ Ma. Đây là cách giải thích khác của nghĩa Không, văn sai lầm vậy. Hoặc do các thừa chẳng thể đạt được hết thảy các pháp, mà h́nh thể chữ Dă (, Ya) hiện ra. “Thừa” là tam thừa. Phàm ngồi thuyền, xe, đều có chỗ để đạt đến, đều là ư nghĩa ấy. Nếu có cái để ngồi, tức là có sở đắc. Hoặc do hết thảy các pháp ly trần, h́nh thể chữ Ra () hiện ra. Ra có nghĩa là “nhiễm”. Nhiễm ô tức là khiến cho sắc thanh tịnh bị nhuốm bẩn; đấy chính là trần nhiễm. Các pháp ĺa hết thảy cấu. Hoặc do hết thảy các pháp vô tướng, h́nh thể chữ La () hiện ra. Nếu có tướng tức là đối lập với vô tướng, chẳng tương ứng với chữ A. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa ngôn thuyết, h́nh thể chữ Phạ (, Va) hiện ra. Hoặc do hết thảy các pháp ly tịch, h́nh thể chữ Xa (, śa) hiện ra. Xa có nghĩa là vắng lặng. Nếu có vắng lặng, liền có tán loạn. Chẳng tịch, chẳng loạn, pháp thể là như thế đó. Hoặc do bản tánh ngu độn của hết thảy các pháp, h́nh thể chữ Sa (, ṣa) hiện ra. Sa có nghĩa là kẻ ngu, chẳng hiểu biết. Ngu trí là sai lầm, chẳng tương ứng với bản thể. Hoặc là Đế chẳng thể được, h́nh thể chữ Sa (, Sa) hiện ra. Đế ấy có nghĩa là chân thật. Đế và phi đế là hai, tức là pháp thế gian. Đó là hiện h́nh thể của chữ. Nói “hiện chữ” (công đức của hết thảy các pháp đều ở trong ấy. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa nhân, mà h́nh thể chữ Ha () hiện ra. Ha có nghĩa là “nhân”. Nếu có nhân, liền có quả, tức là pháp sanh diệt. Nhập môn Bất Sanh tức là vô nhân, vô quả. Các điều khác phỏng theo đây.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Tùy nhập thử đẳng nhất nhất tam-muội môn, Bí Mật Chủ! Quán thị năi chí tam thập nhị đại nhân tướng đẳng, giai tùng thử trung xuất. Ngưỡng, nhưỡng, noa, nẵng, măng đẳng ư nhất thiết pháp tự tại nhi chuyển. Thử đẳng tùy hiện, thành tựu Tam Miệu Tam Phật Đà tùy h́nh hảo.

          ()祕密主隨入此等一一三昧門祕密主觀是乃至三十二大人相等皆從此中出仰壤拏曩莽等於一切法自在而轉此等隨現成就三藐三佛陀隨形好

     (Kinh: Này Bí Mật Chủ! Thuận nhập mỗi một môn tam-muội ấy. Bí Mật Chủ! Quán pháp ấy cho tới ba mươi hai tướng đại nhân v.v… đều từ trong ấy mà ra. [Các chữ] Ṅa, Ña, Ṇa, Na, Ma tự tại chuyển trong hết thảy các pháp. Các chữ ấy hễ hiện ra, sẽ thành tựu tùy h́nh hảo của đấng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 

          Tức là trong mỗi chữ ấy có ba mươi hai môn tam-muội. Ba mươi hai môn ấy nhập lẫn nhau, có thể tạo thành ba mươi hai tướng, tức là hai mươi chữ như Ca v.v.. trên đây, như tám chữ Ra v.v… và bốn chữ này, cùng hợp thành ba mươi hai. Tam-muội trong mỗi chữ đều trọn đủ ba mươi hai tướng. Kế đó, năm chữ Ṅa, Ña, Ṇa, Na, Ma tự tại xoay chuyển trong hết thảy các pháp. Các chữ ấy thành tựu tùy h́nh hảo của đấng Đẳng Chánh Giác, tùy ư hiện thành kinh văn. Năm chữ ấy trọn khắp trong Định, Huệ, cũng có thể thành tam-muội, cũng có thể thành trí huệ, có thể thành trọn khắp tám mươi tùy h́nh hảo của Như Lai. V́ thế, hành giả tu Chân Ngôn hăy nên biết ư nghĩa của các chữ này. Nếu trong chân ngôn có các chữ ấy, tùy theo nghĩa tương ứng mà liền biết ư nghĩa, hiểu rơ chuyện như thế. Do hiểu rơ chuyện như thế, liền biết chân ngôn này có công đức lực dụng như thế đó. Ở đây có một bài kệ, từ Bí Mật Chủ, các Bồ Tát thuộc Chân Ngôn môn, cho đến một trăm môn tam-muội-da sanh từ trăm chữ, là kinh văn thuộc phần khác, chẳng nên ghép vào đây. Đó là kinh văn bị chép lầm vậy. Cũng có thể hiểu đây là chư Phật rộng giải về cái Ngă, cũng được thành đấng Nhân Trung Tôn trong hết thảy chư Phật. Ba mươi hai tướng, tùy h́nh hảo v.v.., hết thảy cái nhân thành Phật, hết thảy công đức như trên đều do rộng hành pháp này mà được thành tựu. Hết thảy chư Phật do hạnh này mà được thành Thiên Nhân Trung Tôn. Nếu hành giả hành như thế, cũng sẽ được thành Nhân Trung Tôn. Trên đây là phẩm Bách Tự Thành Tựu Tŕ Tụng đă xong.

 

23. Phẩm thứ hai mươi ba: Bách Tự Chân Ngôn Pháp (Bách Tự Chân Ngôn Pháp phẩm đệ nhị thập tam, 百字真言法品第二十三)

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Ư thử tam-muội môn, dĩ Không gia tŕ, ư nhất thiết pháp tự tại, thành tựu Tối Chánh Giác. Thị cố, thử tự tức vi Bổn Tôn. Nhi thuyết kệ ngôn: - Bí Mật Chủ đương tri, A tự đệ nhất cú, minh pháp phổ châu biến, tự luân dĩ vi nhiễu. Bỉ tôn vô hữu tướng, viễn ly chư kiến tướng. Vô tướng chúng thánh tôn, nhi hiện tướng trung lai. Thanh tùng ư tự xuất, tự sanh ư chân ngôn, chân ngôn thành lập quả, chư cứu thế tôn thuyết. Đương tri thanh tánh Không, tức Không sở tạo tác. Nhất thiết chúng sanh loại, như ngôn nhi vọng chấp, phi Không, diệc phi thanh, vị tu hành giả thuyết, nhập ư thanh giải thoát, tức chứng tam-ma-địa, y pháp bố tương ứng, dĩ tự vi chiếu minh. Cố A tự đẳng loại, vô lượng chân ngôn tưởng.

          ()復次祕密主於此三昧門以空加持於一切法自在成就最正覺是故此字即為本尊說偈祕密主當知,阿字第一句,明法普周遍,字輪以圍繞。彼尊無有相,遠離諸見相,無相眾聖尊,而現相中來。聲從於字出,字生於真言,真言成立果,諸救世尊。當知聲性空,即空所造作,一切眾生類,如言而妄執;非空亦非聲,為修行者,入於聲解,即證三摩地。依法布相應,以字為照明,故阿字等類,無量真言想。

     (Kinh: “Lại này, Bí Mật Chủ! Trong môn tam-muội này, dùng Không để gia tŕ mà tự tại trong hết thảy các pháp, thành tựu Tối Chánh Giác. V́ thế, chữ này (chữ A) chính là Bổn Tôn”. Bèn nói kệ rằng: - Bí Mật Chủ nên biết, câu chữ A bậc nhất, pháp minh chú trọn khắp, tự luân đều vây quanh. Chư tôn chẳng có tướng, xa ĺa tướng được thấy. Các tôn thánh vô tướng, mà từ trong tướng hiện. Thanh phát xuất từ chữ, chữ sanh trong chân ngôn, chân ngôn thành lập quả, các đấng cứu đời nói. Nên biết thanh tánh Không, chính do Không tạo tác. Hết thảy loài chúng sanh, hư vọng chấp ngôn từ, chẳng Không, cũng chẳng tiếng, v́ người tu hành nói, nhập trong tiếng giải thoát, liền chứng tam-ma-địa, theo pháp xếp tương ứng, dùng chữ để chiếu tỏ. Nên các chữ như A, tưởng vô lượng chân ngôn).

 

          Lại này, Bí Mật Chủ! Câu tam-muội môn ở trong Không, gia tŕ hết thảy các pháp tự tại. Do Phật đạt được điều này, nên chữ là Bổn Tôn. “A tự đệ nhất cú, minh pháp phổ châu biến, dĩ tự nhi vi nhiễu, bỉ tôn vô hữu tướng, viễn ly ư kiến tướng, vô tướng chư thánh tôn, nhi hiện tướng trung lai” (Câu chữ A bậc nhất, pháp minh chú trọn khắp. Dùng chữ để vây quanh. Tôn thánh chẳng có tướng, xa ĺa tướng được thấy. Các đức thánh vô tướng, mà từ tướng hiện ra): Chữ A là câu đầu tiên, các pháp thuộc minh chú đều vây quanh trọn khắp. Vị tôn thánh ấy vô tướng, hiện ly tướng. Bậc vô tướng như thế lại từ trong [các tướng] mà đến. Đức Phật v́ muốn cho hành giả tu Chân Ngôn được măn nguyện mà nói câu tam-muội này. Ở đây, Không là chữ A. Chữ A tức là “vốn bất sanh, bất khả đắc Không”. Do cái Không “rốt ráo chẳng thể được này” trọn đủ các đức, nhiếp trọn khắp hết thảy các Phật pháp. “Nhiếp” ở đây chính là chữ Nhiếp trong Nhiếp Thủ (攝取, Parigraha) của tiếng Phạn, như “nhiếp thủ các vật” khiến cho chúng thuộc về chính ḿnh. Do sức gia tŕ của môn Không này, có thể thâu nhiếp hết thảy các pháp thành Phật. Tự tại ở đây khác với tự tại trong Quán Tự Tại của tiếng Phạn. Ở đây có nghĩa là “nhiếp thủ”, tức là có thể nhiếp thủ hết thảy các pháp. Như bậc vương giả ở trong lănh địa của chính ḿnh, tùy ư nhiếp thủ đều được tự tại. Như Lai pháp vương tự tại trong hết thảy các pháp cũng giống như thế. Do vậy, chữ này tôn quư nhất. Nói chữ này chính là tôn quư, tức là [giống như] trời, hay thần. Trời là người đứng đầu đại chúng, chữ này cũng như thế. Trong hết thảy các pháp, tôn quư nhất, ví như trong các bậc Địa Cư của thế gian, Đế Thích là bậc nhất. Trong các bậc tiên thánh thế gian, Phạm Vương là bậc nhất. Trong các bậc thánh trí, Phật là bậc nhất. Trong các môn chân ngôn, chữ A này là bậc nhất. Do một chữ này mà thành vô lượng công đức, cho nên là vô thượng. “Minh” chính là tên gọi khác của chân ngôn. “Minh pháp phổ giai tự vi nhiễu” (pháp thuộc về minh chú đều là được các chữ [chân ngôn] vây quanh) tức là từ một chữ cũng có vô lượng chữ sanh ra. Vô lượng minh chú giáp ṿng, vây quanh, giống như tự luân được nói trong phần trước. Tuy có [các tự luân của minh chú] vây quanh như thế, nhưng Thể chính là vô tướng vắng lặng. Trong vô tướng mà thấy tướng, tức là từ trong tướng ấy mà ĺa tướng. Lại từ trong vô tướng mà hiện ra có các chuyện đến, đi v.v… ứng hiện trọn khắp thế gian. Hăy nên biết đó đều là sức gia tŕ chẳng nghĩ bàn của chân ngôn. Do dùng chữ A gia tŕ tự thân, nên tự thân giống như hư không, mà thành tựu hết thảy các Phật pháp. Giống như vạn vật trong thế gian do Không mà được thành, nhưng bản thể của Không là vô tướng. Từ trong vô tướng, hiện đủ loại h́nh sắc, âm thanh. “Tôn” là nghĩa, chữ là tướng, tức có cùng ư nghĩa với phẩm trước.

          “Thanh tùng ư tự xuất, tự sanh ư chân ngôn, chân ngôn thành quả lập, chư cứu thế tôn thuyết” (Tiếng phát xuất từ chữ, chữ sanh trong chân ngôn, chân ngôn thành quả lập, do đấng cứu thế nói): Âm thanh từ chữ phát ra, chữ sanh ra từ chân ngôn, chân ngôn thành lập quả, [chân ngôn lại] do các đấng cứu thế nói. Hăy nên biết tánh của âm thanh là Không, tức là do Không tạo tác. Hết thảy các loại chúng sanh, thuận theo ngôn từ mà chấp trước hư vọng. [V́ để phá sự hư vọng ấy, bèn nói] chẳng phải là Không, chẳng phải là âm thanh, [đó là] v́ người tu hành mà nói Không. Biết Không tạo tác hết thảy mọi thứ trong thế gian, nhưng tùy theo từng loại như thế mà chấp trước hư vọng. “Phi không, diệc phi thanh, vị tu hành giả thuyết” (Chẳng phải là Không, mà cũng chẳng phải âm thanh, v́ người tu hành mà nói [như thế]): Do thông đạt âm thanh mà nhập, tức là chứng tam-muội. Nương theo pháp, xếp đặt chữ tương ứng [đúng với từng vị trí trong Mạn-đồ-la, hay nơi các chi phần như các phẩm trước đă dạy]. Chiếu theo câu chữ A, có nhiều loại tướng chân ngôn. Kinh văn nói như thế đó. Nương theo chữ A giống như hư không, hăy nên biết nó vốn ĺa các tướng. Tuy ĺa tướng mà có đến tướng đến, đi, từ chữ A bèn có âm thanh sanh ra. Chữ A vốn đă là Không [nhưng lại có các tướng, các âm thanh như vậy] là v́ lẽ nào? Âm thanh ấy do các duyên mà có, tức là do các duyên như họng, lưỡi, ṿm họng v.v… tiếp xúc mà có âm thanh sanh ra, [âm thanh ấy] chỉ thuộc vào các duyên, chẳng có tự tánh. Nhưng các duyên có thể sanh [ra âm thanh] ấy cũng từ duyên, hăy nên biết là “vốn bất sanh”. Nhưng do nhân duyên mà có chân ngôn sanh, có chân ngôn tức là có cái quả thành tựu. [Chân ngôn, âm thanh, quả thành tựu] như thế chính là do đấng cứu thế nói. Nếu biết âm thanh ấy chính là Không v.v… Từ Không mà có, âm thanh được biểu thị bằng chữ, âm thanh và Không nương vào nhau. Nếu biết điều này, tướng trạng của sự nghiệp được thực hiện trong thế gian muôn mối, đều chẳng ra ngoài môn chữ A. Do tùy thuận thế gian mà có phân biệt khởi lên. Chẳng hiểu th́ nương theo đó, sanh ra đủ loại tâm suy tưởng, chấp giữ. Nhưng thật ra, do hư không và âm thanh cả hai đằng đều ĺa, tức là do hành giả Chân Ngôn nói. Nếu hiểu rơ điều này, bài kệ này chính là giải thích lẫn nhau, liền nhập vào sự giải thoát [khỏi sự chấp trước của] âm thanh. Đó gọi là được tự tại nơi âm thanh, biết rơ bản tánh là Không, liền chứng tam-muội. Dùng âm thanh để biểu thị Không, Không nêu bày duyên, giải thích lẫn nhau. Nay khiến cho nhập cả hai đều là Không, âm thanh và tai là Không, từ ngay trong lư ấy mà có đủ vạn đức. Do hiểu biết Không, âm thanh v.v… mà nhập lư chân tánh. Nhập chân tánh chính là trụ trong tam-muội, tương ứng với tam-muội chính là pháp. Tuy vốn bất sanh mà sanh ra hết thảy các pháp, tức đủ loại màu xanh, vàng v.v…, đủ loại h́nh vuông, tṛn, tam giác v.v… của bách tự luân, cho tới vô lượng chẳng thể nói các tướng sai biệt, nương theo đó mà chiếu sáng. Tự lẫn tha đều là Không, từ Không mà nhập Lư, đều là tác dụng gia tŕ. “Tiến nhập” là thông đạt. Do trụ trong lư ấy chính là trụ trong tam-muội. Chứng điều đó, nương theo pháp để xếp đặt tương ứng, do sự tương ứng mà cũng đạt được ḥa hợp. Nói “trí” (, xếp đặt) cũng giống như “bố” (, sắp xếp) vậy. Các chữ ấy chiếu sáng, “chiếu sáng” là thành tựu đức.

          Lại nữa, nói “giống như chữ A”, hàm ư phỏng theo đó để hiểu ư nghĩa của hết thảy các chữ. “Nhiều loại chân ngôn tưởng”: Tưởng nghĩa là “có phân biệt”. Phỏng theo một chữ này (chữ A), sẽ hiểu tương xứng với ư nghĩa của hết thảy các chân ngôn. “Tưởng” đổi thành “phân biệt” đủ loại danh tự chân ngôn, tức là do từ trong một chữ mà hiện vô lượng nghĩa, hiện vô lượng thuyết. Trong hết thảy các loài chúng sanh, đều hiện vô lượng ngôn ngữ, đều sanh từ một chữ ấy, ở trong ấy, lập ra khá nhiều danh từ chân ngôn. Hiện chứng lư ấy, nương theo pháp mà đặt chữ tương ứng, tức là trong một chữ trên đây, đặt vô lượng chữ, h́nh sắc mỗi chữ mỗi khác, giống như bách tự luân đều nương theo đy mà hiện. Hăy nên chiếu biết như thế để quan sát.

          Hăy nên biết chữ A có vô lượng nghĩa; vô lượng đủ loại chân ngôn sai biệt cũng giống như thế. Ư nghĩa của chữ ấy từ ban đầu cho đến hiện thời, Phật Phật đều giống nhau, có ư nghĩa của chữ nơi chân lư ấy và thành tựu các hạnh diệu môn chân ngôn thuộc tự nhiên huệ, chẳng do người thế gian lập ra. Đấy chính là trí môn tự nhiên của Như Lai, chẳng phải do điều ǵ khác khởi lên, cũng chẳng phải do Như Lai v́ một loại chúng sanh mà sáng lập, mà là pháp lập thường trụ, mỗi vị Phật đều giống nhau! Tuy do vốn tự thành, cũng cần phải có nhân duyên và phương tiện th́ mới có thể hiển hiện minh bạch. Ở đây, chỉ nêu lên một chữ, nhưng pháp môn trăm chữ đều có thể biết. V́ thế nói là Bách Tự Môn, tức là nêu lên một chữ th́ cả một trăm chữ đều có thể biết. Phẩm Bách Tự Pháp đă xong (“pháp” có nghĩa là rất nhiều, chẳng phải là pháp trong từ ngữ Đạt Ma (Dharma), tức là ư nghĩa của nghi quỹ Bách Tự. Các thứ công đức sanh từ một trăm chữ ấy được gọi là Pháp. Quyển cuối cùng và Hoằng Kư quyển thứ hai có liên quan đôi chút với phẩm đầu tiên của kinh).

Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần 12 hết

 



[1] Tùy Miên (Anuśaya), c̣n gọi là Sử, hoặc Sử Phiền Năo, nhưng giới hạn trong hiện hành phiền năo, nó ẩn ngầm trong nội tâm như bóng theo theo h́nh, nhỏ nhiệm khó nhận biết như “đang ngủ say”. Do vậy gọi là Tùy Miên, gồm ba loại là Tham Tùy Miên, Sân Tùy Miên và Si Tùy Miên. Tức là tập tánh trong ư thức. Nói đại lược th́ là Thập Sử (tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến), c̣n nếu phân tích tỉ mỉ th́ gồm hai loại lớn là Phiền Năo Tùy Miên và Hiện Hành Tùy Miên, mỗi loại lại có hai mươi tiểu loại như Hiển Dương Thánh Giáo Luận đă nói.

[2] Vị này c̣n được gọi là Thảo Hệ tỳ-kheo (Kusavandhana). Theo Đại Trang Nghiêm Kinh Luận quyển ba, có tỳ-kheo gặp phải đạo tặc, đạo tặc liền dùng cỏ tươi trói lại. Do sợ làm hại sanh mạng của cỏ, tỳ-kheo chẳng dám tự cởi trói. Kinh thường dẫn chuyện này để ca ngợi người nghiêm tŕ giới cấm, như quyển hạ của kinh Phạm Vơng có câu: “Nhược Phật tử hộ tŕ cấm giới, hành, trụ, tọa, ngọa, nhật dạ lục thời độc tụng thị giới, do như kim cang, như đới tŕ phù nang dục độ đại hải, như thảo hệ tỳ-kheo” (Nếu Phật tử hộ tŕ giới cấm, đi, đứng, nằm, ngồi, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới này, ví như kim cang, như đeo phao nổi muốn vượt biển cả, như tỳ-kheo bị cỏ trói).

[3] Theo Tứ Phần Luật, mười loại nữ nhân được thủ hộ là mẫu hộ (được mẹ bảo vệ), phụ hộ (được cha bảo vệ), phụ mẫu hộ (cha mẹ bảo vệ), huynh hộ (anh bảo vệ), tỷ hộ (chị bảo vệ), huynh tỷ hộ, tự hộ, pháp hộ, tánh hộ, tông thân hộ. Hai loại đầu là khi cha mất, mẹ c̣n, hoặc ngược lại. Loại thứ ba là cha mẹ c̣n đầy đủ. Ba loại kế đó là khi cha mẹ đă mất, cô gái được anh, chị bảo bọc. Tự hộ là không có thầy bạn, nhưng tánh t́nh đoan trinh, không bị nhuốm bẩn. Pháp hộ là được thủ hộ bởi luật pháp như các quy định của quốc gia nghiêm cấm xâm phạm gái góa, gái độc thân, nữ tu v.v… Tánh hộ là các cô gái xuất thân từ thế gia vọng tộc, được ḍng họ bo vệ. Tông thân hộ là như khi cha mẹ, anh chị không c̣n, sẽ được họ hàng bảo vệ.

[4] Phi thời là như vợ chồng ăn nằm không đúng lúc, đúng chỗ như đang ngày giỗ, đang lúc bệnh tật, vợ đang có kinh nguyệt, đang lúc có tang, nhằm ngày vía của Phật, Bồ Tát, hoặc nhằm lúc trai giới, lúc kết thất tu tập, tụng giới, đang trong lúc cử hành pháp hội v.v…

[5] Kinh Tăng Già Trá (Ārya Saṃghāṭa sūtra) do vương tử nước Ưu Thiền Ni (Ujjeni) là ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upaśūna) dịch. Đây là bản dịch khác của Đại Tập Hội Chánh Pháp Kinh (bản này do ngài Thí Hộ (Danāpāla) dịch). Kinh chép các câu chuyện thực hiện Bồ Tát đạo và hồi hướng công đức do hành Bồ Tát đạo ḥng thành tựu Phật quả.

[6] Ma Nạp Bà dịch nghĩa là Thắn Ngă, tức là một tông phái Bà La Môn đặc biệt tôn sùng thần Tỳ Sắt Nữu (Vishnu), cho rằng trong thân người tồn tại một chân ngă thắng diệu, là một điểm linh quanh tách ra từ Đại Ngă.

[7] Đây chính là chuyện tiền thân của Phật Thích Ca. Ma Nạp Bà dịch nghĩa là Nho Đồng (đứa bé trẻ tuổi thông minh), do dâng hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng mà được thọ kư sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

[8] Câu này hơi khó hiểu, theo ngu ư, ngài Nhất Hạnh muốn nói: Ngài Kim Cang Thủ muốn hỏi pháp nào để có thể giữ giới mà chẳng nẩy sanh sự chấp trước vào các thiện pháp.

[9] Tức là thí dụ cây Đa La bị chặt cụt sẽ không thể mọc lại.

[10] Do chỗ này hơi khó hiểu, ngu ư cho rằng: Các thế gian nhiều đến vô lượng, nên gọi là “thế giới hải” (biển thế giới) để h́nh dung. Do thế giới vô lượng, chúng sanh giới vô lượng, nói đại lược th́ là mười pháp giới. Do vậy, pháp giới cũng là vô lượng. Các pháp môn để tiến nhập, chứng đạt các pháp giới b́nh đẳng được h́nh dung như cửa biển tức chỗ để các con sông đổ vào biển, nên gọi theo lối tỷ dụ là “hải khẩu” hoặc “hải môn”.

[11] Bát Bất là tám chữ do đại sư Long Thọ dùng để tóm gọn ư nghĩa của tánh Không trong kinh Đại Bát Nhă khi soạn bộ Trung Luận: Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ. Khi truyền sang Trung Hoa, Bát Bất trở thành giáo nghĩa trọng yếu của Tam Luận Tông. Nguyên văn bài kệ trong Trung Luận như sau: “Bất diệt diệc bất khởi, bất sanh diệc bất diệt, bất đoạn diệc bất thường, bất thường diệc bất đoạn. Phi nhất, phi chủng chủng, bất nhất diệc bất dị. Bất lai diệc bất khứ, bất lai diệc bất xuất” (Chẳng diệt cũng chẳng khởi, chẳng sanh cũng chẳng diệt. Chẳng đoạn cũng chẳng thường, chẳng thường cũng chẳng đoạn. Chẳng một, chẳng các thứ, chẳng một cũng chẳng khác. Chẳng đến cũng chẳng đi, chẳng đến cũng chẳng ra).

[12] Nguyệt Đăng Tam Muội Kinh (Candrapradīpasamādhi sūtra) c̣n có tên gọi là Tam Ma Địa Vương Kinh, được xếp vào Đại Tập Bộ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Trong kinh này, đức Phật v́ Nguyệt Quang đồng tử (Candraprabha Kumāra) dạy môn tam-muội Nhất Thiết Chư Pháp Thể Tánh B́nh Đẳng Vô Hư Luận. Kinh này sau khi được dịch ra tiếng Hán không được phổ biến tại Trung Hoa và Nhật Bản cho lắm, nhưng tại Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, kinh này được coi là tài liệu trọng yếu để nghiên cứu Trung Quán, và được trích dẫn rất nhiều bởi các vị luận sư như Nguyệt Xứng (Chamndarkirti), Tịch Thiên (Shantideva). Phái Kargyupa của Tây Tạng coi kinh này là cơ sở cho phép tu Đại Thủ Ấn của họ. Kinh này được dịch sang tiếng Hán bởi các vị Na Liên Đề Da Xá (Narendrayaśas) và Đạt Ma Xà Na (Dharmajñāna) vào năm Thiên Bảo thứ tám (557) nhà Cao Tề.

[13] Thập Biến Xứ (Daśakrtsnāyatanāni) c̣n gọi là Thập Nhất Thiết Nhập, Thập Nhất Thiết Xứ, Thập Biến Nhập, Thập Biến Xứ Định, tức là nương theo thắng giải mà tác ư, quán mười pháp như sắc v.v… đều trọn khắp hết thảy các nơi, chẳng hề có kẽ hở. Mười pháp tức là đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng, không và thức. Pháp quán này nhằm giúp cho các hành giả tu bát giải thoát, bát thắng xứ, sẽ đạt được tướng thanh tịnh đối với các pháp như sắc v.v…

[14] Trong cách tính đếm của cổ Trung Hoa, những con số lớn là vạn, ức, triệu, kinh, cai, tỷ, nhương, câu, giản, tải. Trong đó, vạn là mười ngàn, ức là trăm ngàn, cho đến con số lớn cuối cùng là Tải (tức là sau số 1 có mười bốn con số không).