Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần 12
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn
Nhất Hạnh A-xà-lê kư
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
“Nhược thời
Bồ
Tát khởi tham tâm nhi thủ chi, Bí Mật Chủ! Bồ Tát
hữu thoái Bồ Đề phần, ư vô vi pháp Tỳ
Ni hữu quá dă” (Nếu lúc Bồ Tát phát khởi tâm
tham mà lấy, này Bí Mật Chủ! Bồ Tát sẽ thoái thất
Bồ Đề phần, phạm lỗi đối với
pháp Tỳ Ni vô vi): Bồ Tát phát khởi tâm tham mà lấy, tức là [phạm]
giới thứ hai (giới “chẳng cho mà lấy”).
Đối với hết thảy các vật thuộc về
người khác, ư nghĩa [phạm giới] như trong Tỳ Ni đă rộng
nói. Cho đến chẳng sanh một niệm tâm chạm
vào hay lấy, thậm chí đối với Bồ Đề
c̣n chẳng sanh tâm ham muốn, huống hồ tạo
phương tiện để đụng chạm hay giữ
lấy [vật dụng của
người khác] ư? Nhưng Bồ Tát có phương tiện đụng
chạm hay lấy [vật thuộc về người
khác], tức là thấy có chúng sanh chẳng tin nhân quả, chẳng
chịu xả thí, đối với tất cả mọi
vật đều khăng khăng giữ chặt, chẳng
thể tự ĺa, lại c̣n sanh tâm như thế này: “Chỗ
nào mà có phước bố thí chớ!” Do v́ như vậy,
[Bồ Tát dùng] đủ loại phương tiện để
hướng dẫn, khuyến hóa [kẻ ấy hành bố
thí], mà đều chẳng
thể được. Lúc đó, Bồ Tát dùng phương
tiện, lấy trộm các vật ấy, cũng chẳng
sanh tâm gom [các thứ ấy] về ḿnh, chỉ v́ kẻ
đó mà [dùng những món vật ấy để] làm đủ loại
phước sự, dùng phương tiện để chèo
kéo, khiến cho kẻ đó trông thấy, khiến cho kẻ
đó phát tâm hy hữu: “Vị đại sĩ này chẳng
tiếc nuối các món vật, có thể đem cho người
khác. Ta tự xét ḿnh chẳng sánh bằng!” Dần dần
như thế, Bồ Tát lại phương tiện nói lợi
ích do bố thí cho chúng sanh, có quả báo như thế này,
như thế nọ. Kẻ đó dần dần có thể
tin phục, cũng đối với vật mà chính ḿnh chẳng
thể xả [mà khởi tâm bố thí]. Sau đó, Bồ Tát
xét thấy tâm kẻ đó đă dần dần thông
thái, bèn đúng như pháp, bảo rằng: “Vật trước
kia ta dùng để bố thí chính là vật của ông! Do ông
chẳng thể tự dùng, giống như thâu hoạch
ngũ cốc mà chẳng gieo trồng nữa, ắt sẽ
dẫn đến túng thiếu. Phước trước
đă hết, lại chẳng có ǵ để trông mong, cho
nên ta v́ ông mà sử dụng. Nay phước do bố thí
trước kia đều là của ông. Như cổ Phật
đă nói: ‘Hễ thí, sẽ
đạt được các thứ lợi ích to lớn
như sắc, lực mầu nhiệm, an ổn, vô ngại
biện tài v.v…’ Chớ bảo là vô
phước!” Do nhân duyên ấy, khiến cho người
đó thoát khỏi nạn ngạ quỷ, ác đạo, tạo
thành cái nhân Bồ Đề.
Hăy
nên biết: Bồ Tát do trọn đủ huệ
phương tiện, có thể làm chuyện ấy, chứ
Nhị Thừa và ngoại đạo chẳng có! “Tùy loại”
là có một
loại chúng sanh như thế, hăy nên
dùng cách ấy để giáo hóa. Lại c̣n tùy theo từng loại,
không chỉ là phương tiện ấy, mà cũng có
phương tiện vô ngại hay khéo. Nói tóm lại, do có thể
khai tri kiến của Phật cho họ mà có sự hướng
dẫn, chứ chẳng v́ chuyện ǵ khác. Tướng này
rất nhiều, chẳng thể nói trọn! Hăy nên dựa
theo trường hợp này để suy ra, nêu lên một
trường hợp để đại diện cho nhiều
trường hợp;
[từ đó], sẽ có thể suy ra các trường hợp
tương tự.
“Bồ
Tát hại kỳ xan” (Bồ Tát hại ḷng keo tham của
kẻ ấy): “Hại” có nghĩa là “đối trị”,
như nói “vĩnh hại tùy miên” (vĩnh viễn trừ
khử tùy miên)[1].
Nay cũng giống như thế, “hại” ḷng keo kiệt
của kẻ đó. Nhưng vị Bồ Tát ấy
thật sự chẳng sanh tâm tham vật, tự lấy. Nếu
lấy, tức là gây hại cho chi phần Bồ Đề.
Do tâm tham ấy, gây hại cho cái duyên thành Chánh Giác, khiến
cho các chi phần chẳng trọn đủ. V́ thế nói
là “hại”. Đó là “vượt Tỳ Nại Da của
Bồ Tát” vậy! Tỳ-kheo Thảo Kết[2]
nói: “Giới do đức Phật chế, ta chẳng dám
tháo lỏng”. Hữu vi giới là phương tiện tu
hành, nên nói là “hữu vi giới”, nhưng vô vi giới
chính là bản tánh giới, chẳng phải do tu thành! Do
đối ứng với phương tiện có tạo tác
ấy, nên gọi là hữu vi, nhưng quán sâu xa th́ sẽ giống
như vô vi giới, do chẳng ĺa môn chữ A.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tŕ bất tà dâm
giới, nhược tha sở nhiếp, tự thê, tự
chủng tộc tiêu tướng sở hộ, bất phát
tham tâm, huống phục phi đạo nhị thân giao hội,
hữu dư phương tiện, tùy sở ưng độ,
nhiếp hộ chúng sanh.
(經)復次祕密主!菩薩持不邪婬戒,若他所攝,自妻、自種族標相所護,不發貪心,況復非道二身交會。有餘方便,隨所應度攝護眾生。
(Kinh: Lại nữa,
Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới chẳng tà dâm, nếu
là người thuộc sở hữu của người
khác, vợ của chính ḿnh, người
được thủ hộ bởi chủng tộc của
chính ḿnh, hay có dấu hiệu thủ hộ, bèn chẳng khởi
tâm tham, huống hồ lại c̣n
đôi bên ăn nằm trái đạo!
Nhưng cũng có các phương tiện khác, do thuận
theo lẽ đáng độ mà nhiếp thọ, thủ hộ
chúng sanh).
Kế đó, giới “bất tịnh hạnh”,
tức là Bồ Tát tŕ giới “chẳng tà hạnh”
(trong ấy có phạm tội trọng, đều là có ư
nghĩa “giữ ǵn chẳng phạm”. Do chẳng khác,
nên chẳng chú thích). Đối với kẻ thuộc về
người khác, người được chủng tộc
của chính ḿnh thủ hộ, hoặc đặt dấu hiệu
thủ hộ (tức là như ni chúng chính là
những người được chủng
tộc của chính ḿnh thủ hộ), chẳng
sanh ḷng tự
tham (đó là nói chuyện trong tâm),
huống hồ hai thân ḥa hợp (ăn nằm) trái đạo
ư? Có phương tiện lạ thuộc về chuyện
h́nh sắc, chủng loại,
chuẩn theo cách nói trong phần trên [đối với các
giới kia], cũng như cách đối đăi với các
loại sắc tướng khác như nhị h́nh (người
có hai căn). Đây là giới thứ ba.
[Giải
thích cặn kẽ th́] “tha sở nhiếp” (thuộc về
người khác) tức là như tất cả vợ, con
gái, chị em gái của người khác, như mười
loại thủ hộ[3]
được nói trong Luật v.v… Nhưng Bồ Tát có hai
thứ: Nếu là người xuất gia, hết thảy dục
tâm c̣n chẳng được sanh khởi, c̣n bàn ǵ đến
[các trường hợp] được người khác thủ
hộ và phi thời[4]
v.v… Nhưng cũng v́ để hiểu rơ giới tướng, nên luật nói cặn
kẽ. Nếu là tại gia Bồ Tát, đối
với vợ của chính ḿnh mà [ăn nằm] phi thời,
liền gọi là “tà hạnh”, trong phần Thi La Ba La Mật
của Trí Độ Luận đă nói cặn kẽ.
Lại nữa, “phi thời, phi xứ” (chẳng
đúng lúc, chẳng đúng chỗ) là như [hành dâm ở]
gần tháp, hoặc chỗ của bậc đáng tôn trọng, ở chỗ lộ rơ th́ đều là [“phi xứ”]. Do
ở chỗ sáng rơ chính là đối trước thiên thần
v.v… Do vậy, cũng ngăn cấm. “Tự chủng tộc”
tức là cùng họ th́ chẳng lấy nhau v.v… Lại nữa,
Tộc (族, Zú) đọc như âm Sở (楚, Chǔ), cũng có nghĩa là “tiêu xí” (標幟, biểu tượng, tượng trưng, cờ quạt).
Như trong pháp của phương Tây (Ấn Độ), nếu
người nữ buôn bán nữ sắc, do được
quan chức chấp thuận, có người cho kẻ
đó ngần ấy vật dụng, [ước hẹn] chừng
bao lâu đó, cô ta sẽ thuộc về người đó. Khi cô ta đă có người [đặt mua rồi], liền
đặt biển hiệu nơi cửa nhà cho người
khác biết. Người khác trông thấy, liền biết
cô ta đă có người che chở. Nếu
cố ư xâm phạm, sẽ giống như tà hạnh.
[Trường hợp này được chánh kinh gọi là “tiêu
tướng”]. “Tự chẳng phát ḷng tham” nghĩa
là chẳng nên tương ứng với ư niệm tham nhiễm,
huống hồ hành dâm trái đạo, khác hẳn chuyện
ḥa hợp chánh đáng [giữa vợ chồng] ư?
Nhưng
có phương tiện lạ nhằm thành tựu cái nhân Đại
Bồ Đề cho người khác,
bèn có ư nghĩa “phạm giới”, chẳng giống với
Thanh Văn. Như Đại Bổn Bồ Tát Giới nói
có Bồ Tát từ lúc sanh ra đă hành hạnh Đồng
Chân, chưa từng trông thấy nữ sắc mà sanh tâm chấp
trước, tu đạo trong núi rừng. Mười tám
năm sau, do Ngài vào thôn khất thực, có đứa bé gái
trông thấy vị ấy đoan nghiêm, đẹp đẽ,
sanh dục tâm, bảo rằng: “Tôi sanh ḷng ham muốn
sâu đậm đối với nhân giả. Nhân giả hành
diệu hạnh chính v́ lợi ích hết thảy. Nếu
tôi chẳng được thỏa nguyện, sợ rằng
sẽ đến nỗi mất mạng, tức là trái bổn
nguyện của nhân giả, làm hại chúng sanh vậy”. Vị
Bồ Tát ấy quở trách đủ mọi lỗi hại
của dục, cô ta trọn chẳng bỏ [ư niệm ấy].
Do chẳng được thỏa nguyện, cô ta bèn chết
ngất. Khi đó, thân thuộc của cô ta nghĩ rằng:
“Gă này ắt là Dạ Xoa, tướng mạo khác người,
con gái ta trông thấy liền ngă
lăn ra đất, chẳng phải là hắn đoạt
mất tinh khí của nó ư?” Họ cùng cầm đao, gậy
bắt trói, sắp làm hại [vị Bồ Tát tỳ-kheo ấy].
Cô gái chốc lát tỉnh lại, thấy vậy, thưa với
cha mẹ trọn đủ nhân duyên. Họ nói: “Là lỗi của
con gái, chẳng phải là tội của tỳ-kheo”. Họ
liền thả tỳ-kheo đi. Cô gái lại truy đuổi
không ngừng. Tỳ-kheo
nghĩ rằng: “Nếu cô ta không được thỏa
mong cầu, ắt sẽ tự táng mạng mà đọa ác
đạo”. Liền thuận theo ư nguyện của cô ta,
dành nhiều thời gian ḥa hợp. T́m lúc cô ta ít ham muốn,
bèn dùng pháp để
khuyên lơn, dẫn dắt,
thuyết pháp nhằm tạo lợi ích cho cô gái đó. Do yêu
kính [tỳ-kheo]
sâu xa, [cô ta] liền vâng mạng, cùng tu
phạm hạnh, thành tựu pháp lợi to lớn.
Vị
Bồ Tát ấy chỉ v́ phương tiện đại
bi, có thể nhẫn nại sự hèn kém ấy, chẳng phải
do tham dục lôi kéo mà làm hạnh phi pháp. Nếu chẳng do
đại bi, chỉ dùng tâm dục tà hạnh để
làm, sẽ chính là phạm giới này. [Bồ Tát có thể
hành phương tiện như thế] tức là do trọn
đủ phương tiện trí. “Tùy loại” tức
là nói tới nghĩa trước, giống như giới
trộm cắp, cho nên
chẳng nói rộng, cứ phỏng theo đó mà biết.
Như kinh nói: “Quần tặc tróc đắc Khẩn Na
La nữ thí Bồ Tát, thọ chi, nhân thử đắc tài,
vô lượng thời hành thí” (Lũ giặc bắt
được Khẩn Na La nữ, thí cho Bồ Tát, [Bồ
Tát] nhận lấy. Do vậy, được tài vật,
trong vô lượng thời hành bố thí). Lại như Mỹ
Phát Bồ Tát (Bồ Tát tóc đẹp) khất thực, nữ
nhân trông thấy ngất xỉu, v́ bảo vệ người
nữ đó (trong trường hợp trước là do cái
nhân bị nghi là Dược Xoa, c̣n ở đây là do nghĩ
tới Bồ Đề tâm, chẳng xả chúng sanh), sợ
[cô ta] ĺa Bồ Đề tâm, bèn nhận cô ta làm vợ. Lâu
sau, khuyên dạy [cô ta] cùng phát đạo tâm, quyến thuộc
cũng phát tâm sanh lên trời (đó là hạnh phương
tiện thiện xảo để diệt tội).
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tận h́nh thọ
tŕ bất vọng ngữ giới, thiết vị hoạt
mạng nhân duyên, bất ưng vọng ngữ, tức vị
khi cuống chư Phật Bồ Đề. Bí Mật Chủ!
Thị danh Bồ Tát trụ ư tối thượng Đại
Thừa. Nhược vọng ngữ giả, việt thất
Phật Bồ Đề pháp. Thị cố, Bí Mật Chủ!
Ư thử pháp môn, ưng như thị tri, xả ly bất
chân thật ngữ.
(經)復次祕密主!菩薩盡形壽持不妄語戒,設為活命因緣,不應妄語,即為欺誑諸佛菩提。祕密主!是名菩薩住於最上大乘。若妄語者,越失佛菩提法。是故祕密主!於此法門應如是知,捨離不真實語。
(Kinh: Lại nữa,
Bí Mật Chủ! Bồ Tát trọn hết tuổi thọ
giữ giới “chẳng nói dối”, dẫu v́ nhân duyên
để sống sót, chớ nên nói dối. [V́ nói dối]
chính là lừa dối Bồ Đề của chư Phật.
Bí Mật Chủ! Đó gọi là Bồ Tát trụ trong
Đại Thừa tối thượng. Nếu nói dối
sẽ là trái vượt, đánh mất pháp Bồ Đề
của Phật. V́ thế, Bí Mật Chủ! Trong pháp môn này,
hăy nên biết như thế, bỏ ĺa lời chẳng chân
thật).
Kế
đó, tŕ giới “chẳng nói dối”. Cho đến
hết tuổi thọ, chẳng v́ giữ mạng mà nói dối.
Tŕ giới “chẳng nói dối” hăy nên là giữ cho
đến hết tuổi thọ. Dẫu v́ để sống
sót, vẫn chớ nên nói dối, [v́ nói dối] sẽ trở
thành lừa dối Phật Bồ Đề. Bí Mật Chủ!
Đó gọi là Bồ Tát trụ trong Đại Thừa tối
thượng. Nếu nói dối, tức là trái vượt Bồ
Đề của Phật. Do vậy, Bí Mật Chủ! Hăy
nên biết pháp môn này như thế. Xả nghiệp vọng
ngữ, chớ nên làm! [V́ nếu nói dối], sẽ là lừa
dối Bồ Đề của chư Phật. Bí Mật Chủ!
Đại Thừa tối thượng của Bồ Tát, nếu
nói dối, sẽ là vượt khỏi, đánh mất Bồ
Đề của Phật. Này Bí Mật Chủ! Hăy nên biết
pháp môn như thế, chớ bỏ lời thật! Đó
là giới thứ tư.
“Hoạt
mạng nhân” (cái nhân để sống
c̣n) chính là các sự như danh lợi v.v… Hoặc do các
điều khác như thức ăn, y phục, tù tội,
khổ ách v.v… như thế đó. [Trong các trường hợp
đó], nếu nói dối, sẽ giữ được thân
mạng. Chẳng nói dối, có thể là thân h́nh chẳng tồn
tại được! V́ thế gọi là “hoạt mạng
duyên” (cái duyên để sống sót). Bồ Tát có nhân duyên
như thế, lúc đó, c̣n chẳng sanh một niệm muốn
dối gạt người khác, huống hồ khởi
phương tiện ư? Nhưng nói đại lược,
có tám lời nói chẳng phải thánh ngữ, và tám lời
nói hiền thánh. Tức là: Chẳng thấy nói thấy, chẳng
“nghe, chạm, biết” mà nói là “nghe, chạm, biết”, thấy
mà nói là chẳng thấy, và “nghe, chạm, biết” mà nói
không nghe, không chạm, không biết. Đó là tám lời nói chẳng
phải thánh ngữ. Tương phản với các điều
này, được gọi là tám lời hiền thánh, tức
là “thấy bèn nói thấy”, ba điều kia cũng thế,
như đă nói trong năm phần của giới “đại
vọng ngữ” thuộc Tỳ Ni. Nếu Bồ Tát phạm
như thế tức là báng Bồ Đề của Phật.
V́ sao vậy? Bồ Đề có nghĩa là “một mực
chân thật”, mà nay lại tạo cái nhân nói dối ấy,
hoàn toàn trái nghịch với Bồ Đề. V́ thế gọi
là “phá Bồ Đề”.
Lại
nữa, Như Lai trong vô lượng kiếp tu chân thành, lời
Ngài nói ra, ai nấy đều tin nhận. Thậm chí Ngài
nói pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là tâm
lượng sở hành của họ, khó tin, khó hiểu,
nhưng do Phật vô lượng kiếp thành thật,
người khác vẫn tin tưởng. Nay nếu Bồ
Tát lừa dối chúng sanh, tức là sanh khởi nhân duyên lừa
gạt pháp cho họ, cũng là phá Bồ Đề. V́ thế,
Bồ Tát trụ trong hạnh chân ngôn tối thượng
Đại Thừa địa này, chẳng được
sanh một niệm tâm lừa gạt người khác, và các thứ
duyên [dối gạt] như trong Luật đă nói cặn kẽ.
Nếu vi phạm, tức là trái vượt Phật, Bồ
Tát.
Ở
đây, cũng phải nên có phương tiện ngữ
theo từng loài, nhưng kinh văn chẳng nói là v́ lược
đi. Như trong Bồ Tát Giới Đại Bổn có
nói: Có một nữ nhân giết hại cha mẹ. Đă tạo
nghiệp vô gián ấy, tự nghĩ: “Ta do ác nghiệp này,
chắc chắn đọa vào địa ngục Vô Gián.
Điều cực ác đă thành, c̣n có thiện pháp nào tới gần
ta nữa ư?” Do nhân duyên ấy, cô ta chẳng sửa lỗi
tu thiện, cứ lặng lẽ khoanh tay đợi tội.
Bồ Tát dùng đủ mọi cách khuyên lơn để bà
ta sám hối, tu thiện; thậm chí bảo rằng: “Trong
pháp Đại Thừa có phương tiện có thể diệt
tội ấy”. Bà ta trọn chẳng tin nhận. Bồ Tát
sanh tâm đại bi, lại hóa thành một người
đàn bà tới nương nhờ chỗ bà ta; do vậy,
tự nói: “Tôi cũng tạo nghiệp như thế”. Bà kia
tự nghĩ: “Cũng có kẻ khác làm chuyện này ư? Ta
nay có bạn, có thể cùng ở với nhau”. Thời gian
lâu sau, hóa nhân ấy dần dần dùng phương tiện,
muốn cùng nhau hối cải, làm lành. Bà ta chẳng nghe theo lời người
ấy nói, bảo: “Bà cứ muốn làm th́ cứ
làm đi, tôi tự nghĩ rốt cuộc vô ích”. Hóa nhân liền
ở chung với bà ta, thị hiện làm thiện sự, dần dần
đạt được pháp lợi, trọn đủ
đại thần thông cho bà ta thấy, bảo rằng:
“Tôi nay làm việc thiện, tội trước đă diệt,
nay đắc pháp này. Nếu pháp chẳng diệt tội,
do đâu mà có thể đạt được chuyện
như thế?” Bà ta sanh tâm hy hữu, nói: “Bà ta và ḿnh cùng phạm
tội. Bà ta c̣n có thể trừ tội, sao ta không làm?” Do vậy,
cùng hành theo. Bồ Tát dùng huệ phương tiện của
Bồ Tát, có thể tŕ giới như thế, bất cộng
với Nhị Thừa và người đời!
Kinh Tăng Già Trá[5]
lại nói: Có một thầy thuốc. Vợ ông ta diễm
lệ, xinh xắn, [nên ông ta] yêu
thương rất sâu đậm. Về sau, bà ta qua đời,
ông ta chẳng buông được, luôn cơng xác mà đi. Thậm
chí xác đă khô mục mà chẳng chịu vứt bỏ. Bồ
Tát giáo hóa không được; do vậy, hóa thành một phụ
nữ, cũng cơng xác chồng, bảo: “Ta yêu mến người
này, nhưng chàng đă chết, chẳng nỡ ḷng bỏ,
cho nên luôn cơng theo”. Thầy thuốc bèn nghĩ: “Đây chính
là đồng bạn của ta, đồng sự với
ta”. V́ thế, ở chung. Về sau, Bồ Tát t́m lúc thuận
tiện, vứt cả hai
cái xác xuống nước sông Hằng. Người đàn
bà đó và ông ta cùng t́m xác, bỗng đều chẳng t́m thấy,
liền than oán rằng: “Chúng ta cơng xác họ cho tới khi
xác khô mục. Nay họ thấy bạn khác, liền kết
ái với nhau, vứt bỏ chúng ta. Do vậy biết t́nh cảm
chẳng thể giữ măi. Quỷ c̣n như thế, huống
là kẻ c̣n sống ư!” Người đó (ông thầy thuốc)
thấy chuyện này, tâm luyến ái
nhanh chóng dứt hẳn, liền phát tâm chán dục, tu đạo.
Bồ Tát do có phương tiện huệ ấy bèn dối
gạt kẻ cuồng, chẳng phải là do ác tâm mà làm!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ bất
thô ác mạ giới, ưng đương dĩ nhu nhuyễn
tâm ngữ, tùy loại ngôn từ, nhiếp thọ chư
chúng sanh đẳng. Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Bồ
Đề Tát Đỏa sơ hạnh, lợi lạc chúng
sanh, hoặc dư Bồ Tát kiến trụ
ác thú nhân giả, vi chiết phục chi, nhi hiện thô ngữ.
(經)復次祕密主!菩薩受持不麁惡罵戒,應當以柔軟心語、隨類言辭攝受諸眾生等。何以故?祕密主!菩提薩埵初行,利樂眾生。或餘菩薩見住惡趣因者,為折伏之而現麁語。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ giới chẳng
chửi mắng thô ác. Hăy nên dùng lời thốt từ tấm
ḷng mềm mỏng, tùy theo ngôn từ của từng loại
để nhiếp thọ các chúng sanh. V́ sao vậy? Bí Mật
Chủ! Sơ hạnh của Bồ Đề Tát Đỏa
là lợi lạc chúng sanh, hoặc các Bồ Tát khác do thấy
chúng sanh trụ trong cái nhân dẫn
đến đường ác, v́
chiết phục họ mà hiện lời thô ác).
Kế
đó là
giới về lời thô ác. Bồ
Tát tâm mềm mỏng, tinh tế, tin nhận, nhiếp thọ
chúng sanh. “Lại này Bí Mật Chủ! Bồ Tát do tŕ giới
chẳng mắng chửi thô ác, hăy nên dùng cái tâm nhu nhuyễn
để nhiếp thọ các chúng sanh. Tùy theo ngôn ngữ của
từng loại (đây là cách nói để liên tưởng
các ư nghĩa trong phần trước, tức là lời tùy
thuận). Bí Mật Chủ! Sơ hạnh của Bồ Tát
chính là tạo nghĩa lợi cho chúng sanh (hạnh này đứng
đầu)”. Hoặc các Bồ Tát khác trụ trong
đường ác, do chúng sanh mà nói lời thô ác tùy theo ngôn
ngữ của từng loài
[để chiết phục họ ĺa ác].
V́ lẽ nào vậy? Đấy là sơ hạnh của Bồ
Tát. V́ chúng sanh, Bồ Tát
có thể ở trong đường ác, v́ chúng sanh mà nói lời
thô ác. Đây là giới thứ năm. “Thô” là lời
nói thốt ra có thể khiến cho kẻ khác trái ư, khiến
cho họ sanh tâm bất thiện, hoặc nói năng rổn
rảng, thường nói là thô tháp, hung hăng; đó đều
là như các tướng được nói trong Tỳ Ni. Bồ
Tát thường nên nhu ḥa, thiện thuận, chẳng bộp
chộp, hung hăng, tuyên nói điều ǵ cũng đều
đẹp ḷng người đối diện. Do nhân duyên ấy,
có thể dần dần nhiếp thọ họ, khiến
cho họ nhập Phật đạo. Nhưng nay kẻ [nói lời thô ác] gây
ra
cái nhân trái nghịch, phiền năo, tức
là trái nghịch phương tiện Tứ Nhiếp, cho nên
phạm tội.
Nhưng
cũng có phương tiện mà nói lời thô ác. Như Bồ
Tát Giới Đại Bổn có nói: Có một người
thường nói lời thô ác đă thành thói quen, hết thảy
mọi người đều chẳng thể uốn nắn
hắn được. Bồ Tát liền hóa thành một
người làm chuyện hung hiểm, táo bạo, độc
ác hơn gă đó vô lượng lần! Gă đó thấy vậy,
hoan hỷ: “Người này cái nết c̣n vượt xa ta,
ta phải tự nói là không thể sánh bằng được.
Chuyện người ấy làm đáng làm thầy của
ta”. Do vậy, thỉnh rằng: “Xin làm đệ tử của
ông”. Đồng sự đă lâu, Bồ Tát dần dần thị
hiện chán ĺa, hơi ca ngợi hạnh nhu thuận, quở
trách chuyện thô bạo. Sau đó, tự sửa đổi,
khuyên hắn ta sửa đổi, nhưng hắn vẫn chẳng
nghe theo. Về sau, Bồ Tát thị hiện: Do bỏ ác hạnh,
tự tu đạo đôi chút, liền đạt
được pháp lợi to lớn, thị hiện thần
thông. Gă đó phát tâm hy hữu: “Người này hành vi trước
kia vượt xa ta, c̣n có thể tự sửa đổi
để đạt được pháp này. Sao ta chẳng
làm?” Lại tôn người ấy làm thầy để nhập
pháp lợi. Tức là Bồ Tát do huệ phương tiện
mà thị hiện thô ác vậy.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ bất
lưỡng thiệt ngữ giới, ly gián khích ngữ, ly
năo hại ngữ. Phạm giả, phi danh Bồ Tát. Bất
ư chúng sanh khởi ly xích chi tâm. Hữu
dị phương tiện, nhược bỉ chúng sanh tùy
sở kiến xứ sanh trước, như kỳ tượng
loại, thuyết ly gián ngôn ngữ, linh trụ ư nhất đạo, sở vị
Nhất Thiết Trí trí đạo.
(經)復次祕密主!菩薩受持不兩舌語戒,離間隙語、離惱害語,犯者非名菩薩。不於眾生起離坼之心,有異方便,若彼眾生隨所見處生著,如其像類說離間言語令住於一道,所謂一切智智道。
(Kinh:
Lại nữa, Bí Mật Chủ! Bồ Tát thọ tŕ giới
chẳng nói lời đôi chiều, ĺa lời ly gián, khích
bác, ĺa lời năo hại. Kẻ phạm [lỗi này], sẽ
chẳng gọi là Bồ Tát. Chẳng đối với
chúng sanh mà khởi tâm
chia rẽ. Nhưng có phương tiện lạ, nếu
chúng sanh nẩy sanh chấp trước đối với
chỗ thấy, [Bồ Tát] sẽ [thị hiện]
giống như họ mà nói lời ly gián,
khiến cho họ trụ trong nhất đạo, tức
là đạo trí Nhất Thiết Trí).
Kế
đó, không nói đôi chiều. Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên giữ “giới
không nói đôi chiều”,
ĺa lời ly gián, ĺa lời năo hại. Nếu phạm phải,
sẽ chẳng gọi là Bồ Tát. Bồ Tát chẳng sanh
tâm ly gián chúng sanh. Hoặc có phương tiện lạ
khác, [tức là] thấy có chúng sanh thuận theo chỗ thấy
mà sanh chấp trước, sẽ thuận theo chủng loại
của họ mà nói lời ly gián, khiến cho người ấy
trụ trong nhất đạo. Đó gọi là “trụ
trong đạo Nhất Thiết Trí”. Bồ Tát chẳng
nói lời ly gián, chẳng nói lời năo loạn; hễ phạm,
sẽ chẳng phải là hạnh Bồ Tát. Đối với
các
chúng sanh, chẳng sanh tâm chia rẽ. Nếu
hữu t́nh thuận theo chỗ thấy mà nẩy sanh chấp
trước Chúng Sanh Kiến, Bồ Tát sẽ tùy theo từng
loài mà thốt lời ly gián, khiến cho chúng sanh trụ
trong một đạo, tức là trụ trong đạo Nhất
Thiết Trí. Đây là giới thứ sáu. Tướng “nói
đôi chiều” như trong Tỳ Ni đă nói cặn kẽ,
cho tới nhân duyên làm chó rừng, sư tử v.v… Nhưng Bồ
Tát thường tu hạnh chẳng năo hại, tùy theo từng
loại thượng, trung hạ, đều khiến cho họ
hoan hỷ, ḥa hợp, chẳng tạo nhân duyên khác lạ
cho họ.
Nhưng do
thấy chúng sanh có đủ loại dị
kiến, ai nấy đều chấp chặt điều họ
tôn sùng, chẳng thể tự thoát, do nhân duyên này mà chịu
khổ to lớn. Lúc bấy giờ, Bồ Tát v́ dẫn dắt, khiến cho họ
bỏ ác tri thức,
mà thốt lời ly gián. Như quá khứ có vị thầy
ngoại đạo, suất lănh đồ chúng cả ngàn
người, nói pháp tà đạo. Bồ Tát quán người
ấy có nhân duyên kham hóa độ, bèn gia nhập pháp của
người ấy để làm đệ tử. Học pháp chẳng
lâu đă thấu đạt chỗ uyên áo, huệ ngộ
tuyệt luân. Vị thầy ấy tán thán “kẻ này đă
hoàn toàn truyền pháp của ta”, bèn chia năm trăm đồ
chúng cho vị ấy suất lănh. Khi đó, Bồ Tát dần
dần dùng phương tiện, dựa theo kiến giải
của họ mà hóa độ đôi chút. Lâu sau, do biết họ
đă sanh ḷng tin phục sâu đậm, bèn dần dần dạy
pháp sâu. Khi đó, năm trăm đệ tử tâm kiến
giải dần dần chánh đáng, thành tựu huệ tánh.
Bấy giờ, thầy nghe [tṛ truyền dạy] pháp khác lạ,
đến xem xét, nghe giảng. Nhân đó, Bồ Tát khai thị
đủ mọi
cách, thầy cũng giải ngộ.
Ngay lập tức, năm trăm người cũng tôn Bồ
Tát làm thầy, tiếp nhận tân pháp. Do vậy, một
ngàn người đều nhập chánh pháp. Các
[phương tiện] giống như thế chính là
phương tiện để phá sự ḥa hợp của
họ. Bồ Tát hạnh rất rộng, chẳng thể
nói trọn. Nêu ra một trường hợp để suy
ra nhiều trường hợp tùy theo từng loại.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tŕ bất ỷ
ngữ giới, dĩ tùy loại ngôn từ, thời
phương ḥa hợp, xuất sanh nghĩa lợi, linh nhất
thiết chúng sanh phát hoan hỷ tâm, tịnh nhĩ căn
đạo. Hà dĩ cố? Bồ Tát hữu sai biệt ngữ
cố, hoặc dư Bồ Tát dĩ hư tiếu vi tiên, phát
khởi chúng sanh dục lạc, linh trụ Phật pháp, tuy
cụ xuất vô nghĩa lợi ngữ, như thị Bồ
Tát bất trước sanh tử lưu chuyển.
(經)復次祕密主!菩薩持不綺語戒,以隨類言辭時方和合出生義利,令一切眾生發歡喜心、淨耳根道。何以故?菩薩有差別語故。或餘菩薩以戲笑為先,發起眾生欲樂,令住佛法。雖具出無義利語,如是菩薩不著生死流轉。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát giữ giới “chẳng
nói thêu dệt”,
dùng ngôn từ tùy theo từng loại, thời gian, nơi chốn
ḥa hợp, mà xuất sanh nghĩa lợi, khiến cho hết
thảy chúng sanh phát tâm hoan hỷ, thanh tịnh nhĩ
căn. V́ sao vậy? Do Bồ Tát có cách nói sai biệt, hoặc
các Bồ Tát dùng cười đùa để trước hết
phát khởi dục lạc cho chúng sanh, khiến cho họ trụ
trong Phật pháp. Tuy nói trọn các lời chẳng có
nghĩa lợi, Bồ Tát như thế chẳng chấp
vào sanh tử lưu chuyển).
Kế
đó là giới “nói thêu dệt”. Kinh nói: Bí Mật Chủ!
Bồ Tát giữ giới chẳng nói thêu dệt. Tùy theo ngôn
ngữ của từng loại, thời gian, nơi chốn
ḥa hợp, hăy nên tŕ giới “chẳng nói thêu dệt”.
Nói năng thuận theo ngôn ngữ của từng loại,
[phù hợp] thời điểm và nơi chốn th́ mới
có lợi ích. [Chẳng hạn như] ở nơi kia có lời
đáng nên nói, những lời trái luật chớ nên nói, bèn
thuận theo nơi ấy mà ḥa hợp tương ứng. “Xuất
kỳ nghĩa lợi” tức là khiến cho họ đạt
được nghĩa lợi. “Xuất” có nghĩa là
“làm”, tức là thực hiện sự nghĩa lợi ấy.
Tùy nơi chốn, tùy thời điểm mà thực hiện,
khiến cho hết thảy chúng
sanh tâm đều hoan hỷ, thanh tịnh “nhĩ đạo”,
tức là nhĩ căn thanh tịnh. V́ sao vậy? Bồ Tát
có lời khác lạ, tức đủ loại lời nói
sai khác thuận theo ư của kẻ khác. Bồ Tát có
phương tiện lạ: Chú trọng cười đùa,
v́ muốn khiến
cho chúng sanh hoan hỷ trụ trong Phật pháp. Do v́ chúng sanh, tuy thốt
lời chẳng lợi ích, ở trong sanh tử để
tạo lợi ích cho chúng sanh. Tức
là [Bồ Tát] lưu chuyển trọn khắp trong sanh tử,
nhưng chẳng chấp trước. Ḥa hợp tạo lợi
ích, khiến cho tâm hết thảy hữu t́nh vui sướng,
nhĩ căn được tịnh hóa. V́ sao vậy? Do có
lời lẽ khác lạ. Có Bồ Tát dùng sự cười
cợt, trước là khiến cho chúng sanh sanh ḷng hoan hỷ, an trụ trong Phật
pháp, ngơ hầu họ sẽ trừ bỏ lời vô ích, chẳng
thốt ra! Bồ Tát lưu chuyển trong sanh tử như
thế đó. Đấy là
giới thứ bảy.
“Ỷ
ngữ” tức là các sự nói năng vô ích trong thế
gian. Như trong Tỳ Ni đă nói các loại vương luận,
tặc luận, do kiếm sống mà vào biển, nữ nhân
giữ thân nghiêm cẩn v.v… Hoặc chuyện thị phi
trong thành, ấp, nước nhà, phê b́nh chuyện thế
gian. Nói tóm lại, hết thảy các pháp tùy thuận thế
gian đều là nhân duyên khiến cho [hành nhân] chẳng xuất
ly th́ đều là “ỷ ngữ”, nhưng
Bồ Tát phải nên thốt lời ḥa hợp lợi ích
phù hợp với thời điểm và nơi chốn. Nói “thời”
tức là tuy muốn hướng dẫn họ, nhưng do họ đều
chưa có cơ duyên tín nhập, niềm vui chân thành chưa
phát sanh, nếu vội vàng nói, sẽ khiến cho họ chẳng
tin, khinh mạn, hủy báng, th́ cũng chẳng hóa độ
được. Đó tức là “phi thời”.
Tương phản với điều này th́ là “thời
ngữ” (lời nói đúng thời). Hoặc ở chỗ
đại chúng náo nhiệt, rộn ràng, đông đảo,
cái tâm chẳng tĩnh, mà bảo ban cặn kẽ, sẽ chẳng
lọt vào tâm họ được. Do
đánh mất đạo duyên, cũng chẳng phải là “đúng
thời”. “Phương” là nói [đến nơi chốn.
Khi thuyết pháp phải chú ư tránh nơi] chẳng phải
là nơi chốn [thích hợp], tức là ngay trong khi họ
đang làm ác, [nếu không suy xét],
liền ở ngay chỗ họ đang làm
ác mà thuyết pháp cho họ. Do họ chấp
vào chuyện đang làm tại đó, đâm ra nẩy sanh
tâm ngang bướng, chống trái. Bởi đó, khiến
cho họ nẩy sanh tâm bất thiện. Tương phản
với điều ấy th́ gọi là “tùy phương ngữ”
(lời phù hợp nơi chốn). “Lợi” là nói [lời lẽ của Bồ Tát] một
mực không có các điều bất lợi, khiến cho họ
tu thiện, thuận theo t́nh kiến, căn cơ của họ
mà nói năng. Nếu Bồ Tát hành như thế, sẽ có
thể khiến cho hữu t́nh hoan hỷ, tin phục, lợi
ích chính ḿnh lẫn người khác. Do họ nghe mà chính họ
được lợi, chính ḿnh cũng chẳng uổng phí
công sức.
Nhưng
Bồ Tát có “sự khác lạ” (tức là phương
tiện khác lạ, hàm nghĩa “khác với những điều
trên đây”), tức là khởi đầu bằng cười
đùa. Như cười đùa, cho đến đàm luận
tuồng tích, ca múa, âm nhạc, nghệ thuật, tức là
các thứ vốn có trong thế gian như phần trên
đă nói. Bồ Tát v́ khiến cho họ
hoan hỷ,
[bèn cười giỡn, bàn luận những chuyện ấy].
Họ đă hoan hỷ, sẽ khéo thuận theo, vui sướng.
Do vậy, [Bồ Tát] khéo léo dựa theo t́nh kiến của
họ mà phương tiện dẫn dắt, khiến cho họ
an trụ trong Phật huệ. Tuy biết rơ [những
đàm luận kiểu ấy] là vô ích, tâm chẳng sanh chấp
trước, nhưng do xét theo thời, xét theo nơi chốn,
xét theo nghĩa lợi, mà làm như thế. Tuy làm điều
chẳng có lợi ích, nhưng do vô lợi ích mà trừ khử
chuyện vô ích ấy. Do họ khi trước
đă tạo ác, ác tương phản với đạo, nếu
thẳng thừng gác bỏ phương tiện mà gấp
gáp giữ giới, đâm ra họ sẽ kinh sợ, chống
đối. V́ thế, dùng phương tiện đồng
sự với họ; sau đó, sẽ khiến cho họ nhập
Phật đạo. Do vậy, chuyện vô lợi ích ấy
chính là cái nhân để tạo ra lợi ích, như đại
lương y biến chất độc thành thuốc. Nếu
làm như thế, chính là cái nhân để Bồ Tát thoát khỏi
lưu chuyển sanh tử, đừng nên như
Thanh Văn không có phương tiện huệ, luôn luôn câu nệ,
hạn cuộc, chỉ ngăn che các lỗi, chẳng có hạnh
khai thông. V́ thế, huệ chẳng đầy đủ.
[Bồ
Tát] tự thoát khỏi lưu chuyển, và cũng khiến
cho người khác thoát ra. V́ thế gọi là “ĺa lưu
chuyển”. Như người nữ tên Thiện Kiến
được nói trong kinh Hoa Nghiêm là một trường hợp.
V́ muốn dẫn dắt, nhiếp thọ chúng sanh, cô ta sanh
trong nhà dâm nữ, làm thượng thủ của năm
trăm dâm nữ, mỹ lệ tuyệt luân, trọn đủ
các phẩm đức của nữ giới, sáu mươi
bốn tư thái, hết thảy phương tiện diệu
xảo, thảy đều
trọn đủ. Do nữ nhân bổn tánh khéo thu hút ḷng
người, mà cô gái này lại không ǵ chẳng trọn
đủ. Do nhân duyên ấy, người hướng đến
rất đông. Bồ Tát trước hết dùng sức
phương tiện, cùng có nhân duyên tà hạnh với họ,
khiến họ sanh ḷng ái niệm tột bậc, cô ta
nói năng ǵ cũng không ai trái nghịch. Cô quán t́nh kiến,
căn cơ của họ để tùy duyên khơi gợi,
hướng dẫn, khiến cho họ thấy thật tánh
của dục, liền từ ngay môn ấy mà nhập Phật
huệ. Khi đó, những kẻ ấy do tin yêu cô ta, liền
có thể tin nhận chắc thật lời đó. Do nhân
duyên ấy, lợi lạc người khác vô lượng.
Tuy ở trong [hoàn cảnh] chẳng có lợi ích, mà có thể
thành tựu đại lợi ấy, tức là trọn
đủ huệ phương tiện tŕ giới. Loại
này được nói rất rộng trong kinh.
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ
Tát ưng đương tŕ bất tham giới, ư bỉ
thọ dụng tha vật trung, bất khởi nhiễm
tư. Hà dĩ cố? Vô hữu Bồ Tát sanh trước
tâm cố. Nhược Bồ Tát tâm hữu nhiễm tư,
bỉ ư Nhất Thiết Trí môn vô lực, nhi đọa
nhất biên. Hựu Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng phát
khởi hoan hỷ, sanh như thị tâm: Ngă sở ưng
tác, linh bỉ tự nhiên nhi sanh, cực vi thiện tai! Sổ
tự khánh ủy, vật linh bỉ chư chúng sanh tổn
thất tư tài cố.
(經)復次祕密主!菩薩應當持不貪戒,於彼受用他物中不起染思。何以故?無有菩薩生著心故。若菩薩心有染思,彼於一切智門無力而墮一邊。又祕密主!菩薩應發起歡喜,生如是心:我所應作。令彼自然而生。極為善哉。數自慶慰,勿令彼諸眾生損失資財故。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng
tham. Đối với các vật thuộc sự thọ dụng
của người khác, chẳng dấy lên ư tưởng
đắm nhiễm. V́ sao vậy? Do chẳng có Bồ Tát
nào sanh tâm chấp trước. Nếu Bồ Tát tâm có ư niệm
ô nhiễm, kẻ đó sẽ không có sức nơi Nhất
Thiết Trí môn, đọa vào một bên. Lại này, Bí Mật
Chủ! Bồ Tát hăy nên phát khởi ḷng hoan hỷ, sanh tâm
như thế này: “Ta hăy nên làm chuyện
khiến cho người khác tự nhiên mà sanh, đó là tốt
lành tột bậc”. Nhiều lượt
tự vui vẻ an ủi, đừng khiến cho chúng sanh bị
hao tổn mất mát của cải).
Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới “chẳng
tham”.
Đối với các vật thuộc quyền thọ dụng
của người khác, chẳng khởi ư nghĩ đắm
nhiễm. V́ sao vậy? Bồ Tát hăy nên thường giữ
tâm chẳng chấp trước.
Nếu Bồ Tát có cái tâm [tham
chấp] ấy, sẽ vô lực đối với
Nhất Thiết Trí. “Vô lực” tức là “lui dứt”.
Do pháp ấy, vô lực đối với Nhất Thiết
Trí, trụ vào một bên; tức là ư nghĩa “chẳng
đầy đủ”. Lại nữa, Bí Mật Chủ!
Bồ Tát hăy nên phát tâm hoan hỷ, hăy sanh tâm như thế
ấy. Ở đây,
cũng giống như thế, ta nay cũng nên tự nhiên
sanh khởi [tâm hoan hỷ chẳng tham], lành thay, cực thiện,
nhiều lượt tu phương tiện khác, chẳng
khiến cho các chúng sanh bị tổn thất tài vật, tŕ
giới chẳng tham.
Lại
này, Bí Mật Chủ! Tŕ giới chẳng tham, đối với
vật thuộc sự thọ dụng của người khác, chẳng dấy lên
ư niệm ô nhiễm. V́ sao vậy? Bồ Tát chẳng có tâm
hưởng thụ. Hễ Bồ Tát có tâm ô nhiễm, sẽ
vô lực đối với Nhất Thiết Trí, sẽ trụ
một bên. Cũng vậy, Bí Mật Chủ! Bồ Tát khởi
hoan hỷ và phát tâm như thế. Nếu ta tự nhiên mà
sanh tâm như thế, điều thiện ấy sẽ là cực
thiện, nhiều lượt hoan hỷ, chẳng khiến
cho các chúng sanh bị tổn thất tài vật. Đấy
là giới thứ tám. Trong phần trước là nói về
giới thuộc khẩu; nay tiếp theo, một mực nói
về giới nơi tâm. Đây chính là tâm sanh khởi ḷng
tham.
Nếu
Bồ Tát thấy người khác có các chuyện thù thắng,
tức là sắc lực, của cải, có vô lượng
môn, Bồ Tát chẳng nẩy sanh ư niệm: “Kẻ đó có
các sự như thế mà ta chẳng có”. Do nhân duyên ấy,
sanh ḷng hâm mộ, ham muốn, tham chấp, t́m cầu, th́
cũng đều thuộc vào phạm vi của giới này.
Do nghĩ các điều ấy, sẽ là cái
nhân để lại hứng chịu khổ năo trong đời
sau. V́ thế, chẳng làm! Bồ Tát chớ nên như thế.
Nếu có kẻ vô lực, ví như có người trọn
đủ vô lượng phương tiện, tài nghệ,
kỹ năng, nhưng gặp khi bệnh hoạn th́ sẽ
chẳng thể làm được. Bồ Tát cũng thế,
nếu do tham ái mà cái tâm bị bệnh, khiến cho vô lượng
sức lực, oai thế của Bồ Đề tâm đều
trở thành vô lực. Nhất Thiết Trí nghĩa là vạn
đức đều trọn đủ, chẳng bị khuyết giảm.
Do khởi tâm ấy, khiến cho các chi phần nơi cái Thể
vạn đức vốn chẳng thiếu khuyết trở
thành chẳng đầy đủ. V́
vậy, vô lực đối với hết
thảy các trí môn. Nhưng Bồ Tát thấy người khác có đủ loại
sự hơn ḿnh, hăy nên tự vui mừng, nghĩ như thế
này: “Ta vốn lập đại thệ nguyện, v́ hết
thảy chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, đều khiến
cho họ vạn đức kiêm trọn. Nếu bọn họ
bị thiếu khuyết, ta c̣n mong chẳng tiếc thân mạng
để thực hiện hạnh khó, hạnh khổ ḥng tạo
lợi lạc, mà nay họ có thể tự thực hiện,
tức là điều lợi to lớn của ta, thật
đáng nên vui mừng!” Bồ Tát dùng điều này để
tự an ủi cái tâm, chuyện ta đáng nên làm đă tự
nhiên đạt được; v́ thế hoan hỷ. Ta v́
chúng sanh, c̣n muốn dùng vô số tinh tấn để cầu
tác dụng tự nhiên của hiền b́nh hoặc kiếp
thụ, ḥng phá cái nghiệp nghèo túng của họ. Huống
hồ họ có thể tự đạt được, mà
ta lại tổn hại họ để tự lợi
chính ḿnh ư?” Do ngộ tâm ấy, chẳng c̣n sanh chấp
trước;
đó chính là tướng tŕ giới.
Như
kinh Trường A Hàm nói: Trong quá khứ, vào thời Câu
Lưu Tôn Phật, quốc vương xứ Ba La Nại
tên là Tư Lợi (hoặc dịch là Tư Ích), do thường
nghĩ lợi ích hết thảy. V́ thế, có tên như thế.
Khi đó, có năm trăm đại thần tâu vua rằng:
“Nay quốc độ tột bậc giàu vui, ḷng người
rộng răi, không có tâm lo lắng hoạn nạn, sợ chẳng
thể chống lại kẻ đối địch
được. Bệ hạ hăy nên dùng chuyện [gian khổ] để
dạy bảo, để họ tập quen với lao khổ,
sẽ có thể ngăn nạn, bảo vệ đất
nước của vua”. Khi đó, vua Tư Ích nhân từ, hết
sức từ nhẫn,
nghĩ như thế này: “V́ sao ta đem chuyện phi thời
áp đặt lên người khác vậy? Trái nghịch bổn
tâm ta, chẳng có lư ấy”. Khi đó, quần thần biết
ư vua, đều chẳng vừa ư. Đế Thích nhận
biết, nghĩ như thế này: “Vị vua này hành Bồ
Tát đạo, chẳng biết có kiên cố hay không? Ta có thể
thử xem”. Do vậy, bảo vua nước lân cận là
Trường Thủ, sai khiến ông ta chinh
phạt nước ấy. Chỗ vua Trường Thủ
cai trị c̣n gọi là Ngũ Chi Thành, do phạm vi thống
nhiếp của xứ ấy chỉ có năm ṭa thành, là một
nước nhỏ.
Vua
đó nghe Đế Thích nói, nghĩ như thế này: “Ta
nghe nói đàn bà nhân từ, chẳng biết lo xa. Nay vị
vua này quá mức nhân ái, giống như đàn bà, nay ta thôn
tính, chiếm lấy”. Liền dấy bốn đội
binh đi chinh phạt nước đó. Các đại thần
tâu với vua Tư Ích rằng: “Trước kia bọn thần
do ḷng trung mà can gián, bệ hạ không chấp thuận. Nay
người dân chẳng tập vũ nghệ, lại chẳng
chuẩn bị, tai nạn xảy ra bất ngờ, sẽ
làm như thế nào đây?” Vua liền tư duy, đáp rằng:
“Hắn ta muốn có được đất nước
và kho tàng, ta chẳng tranh chấp với hắn, sẽ chẳng
có hại cho nhân dân. Các khanh đừng lo!” Vua liền náu
ḿnh ra khỏi cung, vào trong núi sâu tu phạm hạnh. Khi
đó, Trường Thủ chẳng tốn
xương máu mà có được nước ấy. Trải
qua một thời gian dài, [Trường Thủ] treo thưởng
t́m bắt vua Tư Ích mà chẳng thể được!
Lúc ấy,
ở phương Nam có phạm hạnh Bà-la-môn do gia sản
đời trước để lại tột bậc
túng thiếu, chẳng có ǵ để phụng dưỡng
cha mẹ, sư trưởng, nghe nói vua Tư Ích chuộng
bố thí rộng răi;
v́ thế, t́m đến nhà vua xin giúp đỡ. Ông ta đi
sang nước đó, tới chốn núi rừng, gặp
được vị vua cũ nơi vua
tu đạo. Khi đó, vua Tư Ích trước hết hỏi
han, sắp đặt chỗ nghỉ ngơi cho ông ta, cấp
cho thức ăn, ôn tồn thăm hỏi nỗi nhọc
nhằn: “Nay ông v́ sao mà đến đây?” Vị phạm hạnh
ấy đáp cặn kẽ nguyên do. Vị vua cũ nghe xong,
thương xót, không vui: “Khi ta làm vua, thế lực tự
tại, có thể tùy ư ban cấp cho người khác. Nay thân
nghèo, mất nước, sao có thể măn nguyện cho
người này được!” Nghĩ ngợi như thế
xong; nhân đó, bảo
Bà La Môn: “Ta chính là vua Tư Ích, nay đă mất nước,
nên ở tại nơi đây”. Khi đó, Bà La Môn ngất
đi hồi lâu, nghĩ rằng: “Ta do bạc phước,
đi xa mong thỏa nguyện, nay lại gặp gỡ
[như thế này], há chẳng phải là bất hạnh
ư?” Lúc ấy, vua an ủi rằng: “Ông đừng quá lo
buồn! Ta có phương tiện có thể thu xếp. Vua
kia coi ta là oán địch, thường treo giải bắt
ta: ‘Nếu ai lấy được đầu hắn, sẽ
ban thưởng trọng hậu’. Ông nay có thể đem
đầu ta đi, ắt sẽ được ban thưởng
to lớn”. Ông ta đáp: “Tôi là người tịnh hạnh,
sao lại giết người? Hết sức chẳng thể!”
Vua nói: “Nếu vậy, chỉ lấy dây trói ta dẫn
đi, sẽ chẳng trái lư!”
Khi
đó, ông ta liền
trói [vua Tư Ích], dẫn tới cửa
cung. Lúc bấy giờ, các vị cựu thần trông thấy,
đều cùng ghét bỏ, quở trách Bà La Môn: “Ngươi
là bậc tịnh hạnh, chẳng nên mưu hại bậc
hiền vương để cầu lợi ích cho chính
ḿnh, hết sức trái đạo.
Đă phá tịnh pháp rồi, c̣n có đạo
chi nữa!” Ông ta bèn đáp cặn
kẽ: “Chẳng phải là lỗi của
tôi. Vị đại vương này hành Bồ Tát đạo,
sai tôi làm như thế”. Các quan vào tâu với vua. Vua [Trường Thủ] vừa
nghe nói, hết sức kinh hăi, tưởng cựu
vương đến đoạt lại nước. Tới
khi nghe tâu từ đầu đến cuối, sanh tâm hổ
thẹn, khâm phục: “Người hành Bồ Tát đạo
như thế, mà ta đoạt nước của ông ta, có
điểm nào hơn người để làm vua thiên hạ
ư?” Do vậy, bảo vua Tư Ích: “Nhà vua có thể trở
lại ngôi, tự tại hành bố
thí lợi ích, an vui vạn người. Ta sẽ quay về
nước cũ, ai nấy ở yên, chẳng xâm hại lẫn
nhau”. Khi ấy, hai nước giao hảo, chẳng c̣n nỗi
lo oán địch. Những điều như thế trong
kinh Bổn Sanh đă rộng nói. Đấy chính là nhân duyên
chẳng tham vậy!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng
đương tŕ bất sân giới, biến nhất thiết
xứ thường tu an nhẫn, bất trước sân hỷ,
ư oán cập thân, kỳ tâm b́nh đẳng nhi chuyển.
Hà dĩ cố? Phi Bồ Đề Tát Đỏa nhi hoài ác
ư.
Sở dĩ giả hà? Dĩ Bồ Tát
bổn tánh thanh tịnh cố. Thị cố Bí Mật Chủ!
Bồ Tát ưng tŕ bất sân khuể giới.
(經)復次祕密主!菩薩應當持不瞋戒,遍一切處常修安忍、不著瞋喜,於怨及親其心平等而轉。何以故?非菩提薩埵而懷惡意。所以者何?以菩薩本性清淨故。是故祕密主!菩薩應持不瞋恚戒。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng
sân. Trọn khắp hết thảy mọi chỗ, thường tu an
nhẫn, chẳng chấp trước giận hay mừng.
Đối với kẻ oán và người thân, tâm đều
b́nh đẳng mà chuyển. V́ sao vậy? Chẳng phải
là Bồ Đề Tát Đỏa th́ mới ôm ác ư. V́ cớ
sao vậy? Do Bồ Tát bổn tánh thanh tịnh. Do vậy,
Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng sân khuể).
Kế
đó là giới “chẳng
sân”.
Bí Mật Chủ! Bồ Tát tŕ giới chẳng sân. “Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên tŕ giới chẳng
sân. Trong hết thảy chỗ, hăy thường nên an nhẫn,
chẳng chấp trước đối với giận hay
mừng, tâm b́nh đẳng, coi bạn và người oán
b́nh đẳng như nhau
mà chuyển”. V́ sao vậy? Bồ
Tát chớ nên nghĩ nhớ ác ư, tức là công đức
nơi thân, gọi là “tam ma da phược yết đa”.
Câu “đại đức tồn niệm” (đại
đức nghĩ nhớ) trong Luật cũng có ư nghĩa
tương đồng. V́ sao vậy? Do Bồ Tát bản
tánh thanh tịnh. Bản tánh [giới] được nói
trong phần trước là giới đạt được
nơi tánh. Phần sau nói tới cái tâm th́ là pháp biến hiện
từ cái tâm. Do trong bản tánh thường thanh tịnh; bởi
đó, Bồ Tát thường nên tŕ giới chẳng sân. Vị
ấy nhẫn trong trọn khắp hết thảy, thường
chẳng chấp trước đối với mừng và
giận, tâm b́nh đẳng, đối xử với bạn
bè và kẻ oán như nhau. V́ sao vậy? Bồ Tát chẳng có
ư niệm ác. Do vậy, Bồ Tát tŕ giới chẳng sân.
Đấy là giới thứ chín.
“Sân”
tức là đối với hết thảy chúng sanh phát khởi
cái tâm làm hại, từ tâm dấy lên hạnh chẳng tạo
lợi ích. Sở dĩ tŕ giới này là nếu có kẻ
đến dùng đủ mọi cách để gia hại Bồ
Tát, thậm chí cắt đứt các chi phần, [Bồ Tát]
vẫn chẳng sanh tâm hại kẻ đó, huống hồ
coi rẻ ư? Nếu chẳng phải vậy, sẽ chẳng
phải là Bồ Tát. Hăy nên trong hết thảy mọi
nơi mà hành đại nhẫn. Nếu lúc kẻ khác gia hại
đủ mọi cách, hăy nên tự nghĩ: “Đời
trước ta do nhân duyên vô minh, mà sanh ra cái thân vướng
phải
hoạn nạn này. Lại từ vô
lượng đời tới nay, thường năo hại
kẻ đó, nay nghiệp đă chín muồi, phải chịu
báo này, liên can ǵ đến kẻ này mà oán hận ư?”
Chánh quán đủ mọi cách như thế. Lại nghĩ
thân này từ duyên mà sanh, chẳng có tự tánh, chẳng có
ta, người, ai hại? Ai hứng chịu? Do quán Thật
Tướng như vậy, chẳng sanh tâm hại kẻ
đó. Ư niệm sân phẫn ấy chính là công cụ của
mọi điều ác. Do có thể hoan hỷ như vậy,
tâm thường vui sướng, tốt lành, vắng lặng,
từ bi, nhẫn nại, chẳng chấp các pháp nhân ngă,
thường b́nh đẳng. Sự b́nh đẳng ấy
chính là oán thân chẳng hai, đối với hết thảy
các thứ như “hữu ích, vô ích, nhẹ, nặng”,
tâm b́nh đẳng, chẳng có tăng, giảm, chẳng
sanh tâm tạo các vật dụng
ác, thường hành hạnh lợi ích người khác, b́nh
đẳng quán thế gian ví như con một, do Bồ Tát
chánh quán Thật Tướng, chiếu tỏ bổn tánh của
cái tâm này là thanh tịnh.
Như
kinh nói: Trong đời quá khứ, tại phương Nam,
có vua tên là Sư Tử. Thành tên là Phong Lạc. Vua dùng chánh
pháp cai trị đất nước, chẳng hại
người khác. Do phép nước, vua ra khỏi thành
săn bắn nhằm thể
hiện sự oai vũ. Tuy không có ư hại người, v́
thủ hộ quốc độ, an vạn người, muốn
khiến cho nước lân cận ngưỡng mộ đức,
sợ oai. Khi đó, vua săn bắn, thấy có con nai
đang rảo chạy bèn tự đuổi theo, noi theo
đường hiểm núi thẳm, sắp đuổi kịp
nó. Do không có tâm làm hại, khi đuổi kịp, lấy roi
quất vào sừng nó liền thả đi. V́ sao? Muốn
phô bày vơ nghệ để lập oai với vạn người.
Đă vào núi sâu, chỗ không có người, do người hầu
theo không kịp, vua nghỉ mệt trong núi. Có con sư tử
cái, thấy vua tướng mạo khác người, nẩy
sanh dục tâm. Do vậy, nó ép vua thị hiện dục
tướng. Vua do sợ nó, liền ăn nằm với
nó. Khi đó, lúc kiếp sơ, loài thú cũng hiểu tiếng
người. Nhưng tánh của thú vật cái là nếu có
trí huệ, khi thọ thai liền có thể biết rơ; do vậy,
bảo vua rằng: “Ta đă hoài thai con vua. Sau này nếu sanh
ra, sẽ nên làm như thế nào?” Vua để lại chiếc
ấn đang cầm trong tay, bảo rằng: “Nếu sanh
con, có thể buộc ấn này, đặt bên cạnh cửa
[cung điện] của ta”.
Về
sau, [sư tử] sanh con, thân thể, diện mạo [đứa
bé] giống người, nhưng hết sức mạnh mẽ,
kiên nghị, lại c̣n có thú tánh. Mẹ nó theo ước hẹn
trước đó, ban đêm vượt qua tường
thành, đặt con bên cửa cung điện của nhà vua
rồi đi. Sáng hôm sau, người canh cửa trông thấy,
tâm lấy làm lạ: “Cớ sao giống như người
mà lại hơi khác? Ta nên tâu vua”. Tâu xong, vua im lặng suy
nghĩ, chẳng nói với ai. Nhân đó, sắc truyền
coi đứa trẻ như con của chính ḿnh, đặt
tên nó là Sư Tử Thiện Nô. Về sau, vua chán cai trị
đất nước, do vậy, sai con nhiếp chánh đất
nước.
Do bản
tánh, [thái tử] thích ăn thịt tươi. Có một
lúc, vua đ̣i ăn gấp, đầu bếp t́m thịt chẳng
ra, gặp đứa trẻ vừa mới chết, liền
dùng làm thức ăn để dâng lên… [Chi tiết] như
kinh Hiền Ngu và Trí Độ Luận đă nói. Thậm
chí, [nhà vua] hằng ngày đ̣i ăn thịt người,
đă ăn trẻ nhỏ hơn năm trăm đứa.
Trong thành, cùng bảo nhau rằng: “Ắt có Dạ Xoa vào đất nước,
phải nên bảo vệ cẩn thận trẻ nhỏ”. Trời
chưa đến tối, [mọi người] đều
đưa trẻ vào pḥng, canh giữ rất nghiêm. Đầu
bếp bắt chẳng được, lại tới nhà
các đại thần bắt trẻ, lại mất năm
trăm đứa nữa. Về sau, lúc
hắn bắt giết một đứa
nhỏ, lấy ṿng tay của nó đeo trên cánh tay, do gặp
người khác trông thấy, nhận biết, bắt trói hắn,
[tra vấn]: “Ai sai khiến ngươi? Gă này bắt trộm
trẻ nhỏ, chắc chắn là trẻ nhỏ mất
tích từ trước tới nay ắt do gă này làm”. Do vậy,
hắn phủ phục thưa: “Do lỗi của vua, chẳng
phải do tôi”. Quần thần tâu chuyện ấy với
vua cha: “Nay thái tử c̣n có thú tánh. Có thú tánh th́ chẳng thể
làm chủ. Xin vua tự xử lư quốc chánh”. Vua nói: “Ta
đă quán đảnh trao ngôi vị cho nó, sao lại đoạt
lấy?” Chẳng nghe theo lời thỉnh cầu!
Quần
thần bèn mưu tính làm hại [thái tử]. Do vậy, thái
tử bèn cầm đao bén, trốn vào trong núi. Thoạt
đầu, lấy xác chết nướng ăn. Sau dần
dần ăn thịt người, cho đến bắt cóc năm trăm
vương tử, thường t́m thịt để nuôi họ ḥng dần
dần sẽ bắt
họ đem ăn.
Khi đó, người trong nước lập em hắn làm
vua, đặt tên là Thiện Nô. [Thiện Nô] nhân từ
đối với mọi người, rộng răi, nhu ḥa,
dùng chánh pháp để giáo hóa. Về sau, có bốn người
phạm hạnh cầu pháp thượng thiện. Vua
nghĩ rằng: “Những người này làm lợi cho ta
không ít, phải nên báo đáp trọng hậu”. Chưa kịp
ban thưởng cho họ mà đă
phải đi săn. Quần thần can gián:
“Vua loài thú sống gần trong núi, có thể gây hại, bệ
hạ chớ đi”. Vua nghĩ rằng: “Ta muốn lợi
lạc hết thảy, chẳng yêu mến tấm thân này.
Nay nếu hắn bắt ta ăn thịt, tức là bổn
nguyện của ta được măn”. Vua bèn rời cung vào
rừng.
Thú
vương nghe em trai ra khỏi cung, liền đến bắt.
Do hắn dũng mănh, các thể nữ đều chạy tứ
tán, những kẻ bị hắn bắt được
đều buồn khóc như trong Trí Độ Luận
đă nói. Do có ư niệm chưa báo đáp các vị phạm
hạnh, vua bèn ước hẹn với thú vương, xin
tha về. Vua nói: “Lửa của ông chưa cháy hết, tôi ắt sẽ
quay lại” (do thú vương trước đó đă đốt
củi, đợi hết khói mới nướng người
để ăn). Thú vương nghĩ: “Do bởi pháp nào
mà có thể khiến cho hắn
chẳng tiếc thân mạng, đến phó thác tánh mạng
[vào tay ta]?” Do vậy hỏi han, vua liền dùng các pháp
như hạnh chẳng giết v.v… để rộng nói.
Thú vương tuy hung tợn, dũng mănh, nhưng có huệ
tánh, nghe xong liền được ngộ giải điều
chưa từng có, nghĩ rằng: “Ngươi là thầy của
ta, muốn thỏa ước nguyện ǵ?” Vua nói: “Nay ông ở
trong rừng hoang giống như mănh thú, sao có thể măn nguyện
của tôi được?” Thú vương đáp: “Ta do
nghĩ tới ơn thầy, hễ [điều ǵ ta] có thể
báo đáp, ắt thầy có thể nói ra”. Vua nói: “Nếu xét
đến ước nguyện, điều ta ấp ủ
chỉ là chẳng giết chóc, sở nguyện là đấy”.
Thú vương bèn hứa, thề chẳng hại mạng.
Lại thả năm trăm vương tử để
tu thiện pháp. Thả xong, theo vua trở về. Vua biết
hắn đă làm thiện hạnh, lại lập hắn làm
vua, bảo hắn dùng chánh pháp giáo hóa cơi đời, chính
ḿnh th́ xuất gia. Hăy nên biết Bồ Tát trong sự kinh
hăi như thế, vẫn chẳng sanh ḷng sân, mà c̣n tạo hạnh
lợi ích, huống hồ trong các chuyện khác! Chuyện
như thế trong các kinh như Bổn Sanh v.v… đă nói rộng.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bồ Tát ưng
đương xả ly tà kiến, hành ư chánh kiến, bố
úy tha thế, vô hại, vô khúc, vô siểm, kỳ tâm đoan
trực, ư Phật, Pháp, Tăng, tâm đắc quyết
định. Thị cố, Bí Mật Chủ! Tà kiến tối
vi cực đại quá thất, năng đoạn Bồ
Tát nhất thiết thiện căn, thị vi nhất thiết
chư bất thiện pháp chi mẫu. Thị cố, Bí Mật
Chủ! Hạ chí hư tiếu, diệc đương bất
khởi tà kiến nhân duyên.
(經)復次祕密主!菩薩應當捨離邪見、行於正見,怖畏他世,無害無曲無諂,其心端直,於佛法僧心得決定。是故祕密主!邪見最為極大過失,能斷菩薩一切善根,是為一切諸不善法之母。是故祕密主!下至戲笑,亦當不起邪見因緣。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên ĺa bỏ tà kiến,
hành chánh kiến, sợ hăi đời khác, chẳng hại,
chẳng cong vạy, chẳng siểm nịnh, cái tâm ngay thẳng,
đối với Phật, Pháp, Tăng, tâm được
quyết định. V́ vậy, Bí Mật Chủ! Tà kiến
là lầm lỗi to lớn bậc nhất, có thể đoạn
hết thảy thiện căn của Bồ Tát, là mẹ của
hết thảy các pháp bất thiện. Do vậy, Bí Mật
Chủ! Dẫu là cười đùa, cũng chớ nên khởi
duyên của tà kiến).
Giới
thứ mười là giới tà kiến.
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát hăy nên bỏ ĺa tà kiến,
trụ trong chánh kiến, quán đời mai sau mà sanh ḷng sợ
hăi. Hăy nên không có, trừ khử món tùy phiền năo này, [tức
là đừng] hỏi Đông mà đáp Tây, hỏi Tây nói
Đông. Hăy kiểm điểm, tự vấn, đừng
cong vạy, đừng siểm nịnh, cái tâm ngay thẳng,
đối với Phật, Pháp, Tăng, tâm được
quyết định, cho đến quy mạng Tam Bảo.
V́ thế, Bí Mật Chủ! Tà kiến là lỗi họa to lớn
bậc nhất, có thể đoạn hết thảy các thiện
căn của Bồ Tát, là mẹ của các pháp bất thiện.
Như mẫu
tự Tất Đàm có thể sanh ra các chữ;
tà kiến cũng thế, có thể sanh hết thảy các
pháp bất thiện. V́ thế, Bí Mật Chủ! Cho tới
nhân duyên cười nói, hăy nên đừng dấy tâm tà kiến.
Lại này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát xả ĺa tà kiến,
có chánh kiến, thấy biết đời khác, chẳng có
tâm gây hại, chẳng cong vạy, chẳng hư huyễn,
mà ngay thẳng. Tâm quyết định đối với
Phật, Pháp, Tăng. V́ thế, Bí Mật Chủ! Bồ Tát
ĺa các lỗi tà kiến, v́ nó đoạn hết thảy thiện
căn, là mẹ của các pháp bất thiện như thế.
Do vậy, Bí Mật Chủ! Thậm chí cười đùa,
xem ngó, cũng chẳng dấy lên tà kiến. Đó là giới
tướng thứ mười. Kinh
dạy tŕ giới “chẳng tà kiến”, do tà kiến là cội
gốc của bất thiện, tức là do trừ khử
tà kiến ấy mà tŕ giới.
V́ thế nói là “tŕ giới chẳng tà kiến”. Chín giới
trước đó cũng phỏng
theo đấy mà biết [mục đích v́ sao tŕ giới].
Hăy nên nói là tŕ giới “bất sát” cho đến “tŕ sát giới”
[cũng là để trừ khử tâm sát hại mà tŕ giới],
cũng chuẩn theo đấy mà nói.
Tà
kiến là đối với mỗi pháp, thấy lư bất
chánh, thuận theo tà đạo. Đấy là gây hại cho
căn bản của điều lành trong ba đời, tức
là do hạnh nghiệp quá khứ mà có cái quả y chỉ vào
Ngũ Ấm trong đời này. Lại do hạnh nghiệp
trong đời này mà có quả báo trong vị lai. Do trước
đó đă hiểu rơ pháp nhân duyên này,
mà được nhập các môn như vô thường, vô
ngă v.v… Từ cái trí vô thường, vô ngă ấy, được
nhập pháp Không, đúng như Thật Tướng. Hăy nên
biết ĺa ngoài nhân quả thế gian chân chánh ấy, sẽ
chẳng có chánh kiến, chánh huệ nào khác. Nếu nói là “chẳng
có quả, chẳng có nhân” sẽ là hoại Tam Bảo và
pháp Tứ Đế. Do hoại Tam Bảo và pháp Tứ
Đế, chẳng có tứ sa-môn quả v.v… [cũng như chẳng có] hết
thảy các thánh pháp và thiện pháp thế gian lẫn xuất
thế gian. Nay bác bỏ hết sạch các sự ấy,
chính là điều đề cao, chấp trước của
ngoại đạo. Hăy nên trụ trong chánh kiến, tức
là sửa đổi lỗi sai trước đó, quyết
định chánh tín nhân quả và pháp “đế
thật” (chân thật). “Đế”
tức là câu chân thật của Như Lai; nếu báng bổ
điều này,
chính là gây hại hết thảy các điều thiện. “Hại”
trong “vô hại” nghĩa là phiền năo chi phần. Do
điều ấy nên có thể chướng hết thảy
các thiện. Do chướng ngại hết thảy các
điều thiện, nên gọi là “hại”.
Kế
đó, lần lượt giải thích “vô hại” là
như thế nào? Tức là chẳng siểm khúc. “Khúc”
tức là tà kiến, giống như rắn chưa vào trong ống
tre, sẽ ḅ ngoằn ngoèo. Thấy cái tâm cũng thế. Nếu
chưa vào trong đạo Thật Tướng của các
pháp, sẽ là cong vạy, bất chánh. Kế đó, lần
lượt giải thích “chẳng siểm khúc” là thế
nào? Tức là giống như huyễn v.v… Quán Thật Tướng
của cái tâm này từ duyên mà sanh, giống như huyễn.
Do liễu đạt Thật nên ĺa cười đùa, ĺa
cười đùa tức là vô huyễn. Nếu như thế,
tức là trụ trong cái tâm ngay thẳng, đối với
cảnh giới Tam Bảo, tâm thường quyết định.
Do nhập đạo ngay thẳng của Thật Tướng,
tức là thường
đạt được tánh quyết
định trong Tam Bảo. V́ thế, khuyên các Bồ Tát ĺa
căn bản của các lỗi, do “bất thiện”
được gọi là căn bản có thể hại hết
thảy các thiện pháp. Do “thiện”, Bồ Tát tŕ giới
sẽ ĺa lỗi ác ấy. “Chuyển” là dời ác thành
thiện, như kinh nói “nếu vô minh chuyển” tức
là biến thành minh. Nay tà kiến cũng như thế, toàn
thể chính là huệ tánh, tức là nếu chuyển thành
ngay thẳng th́ chính là chánh kiến, chẳng giống
như Thanh Văn chán ngán các phiền năo, riêng cầu thánh
pháp.
Bất
thiện cũng thế, chuyển thiện tánh thành bất
thiện, như nước đông thành băng, chẳng có
tánh riêng. “Mẫu” có nghĩa là “có thể sanh ra”.
Ư nói tà kiến có thể sanh ra hết thảy các pháp bất
thiện, giống như mẹ vậy. Do bởi nghĩa
này, Bồ Tát ngay cả cười đùa, xem ngó, cũng chẳng
sanh tà kiến. Nói tóm lại, chẳng sanh một niệm
tâm phạm giới tà kiến ấy, huống hồ nhiều
[tâm niệm] ư? Như trong kinh Thanh Văn, nói đùa,
cười giỡn v.v… chẳng tự phạm Học Xứ.
Ở đây,
chẳng giống như vậy, thậm chí làm chuyện tà
kiến trong khi cười đùa v.v… cũng chẳng
được, huống hồ cố ư thực hiện
nghiệp ấy ư? Nhưng Bồ Tát có huệ
phương tiện, tức là có thể bất động
đối với các kiến, tu ba mươi bảy đạo
phẩm, tức là từ tà tướng mà nhập chánh
tướng. V́ sao vậy? Do chúng sanh từ vô thỉ tới
nay, đă quá quen với pháp này, rất khó trở thành chánh.
Như vị lương y kia, trước hết có cùng sự
nghiệp với họ, sau đoạt lấy quyền,
như kinh Niết Bàn đă nói.
Lại
như trong Bồ Tát Tạng Bổn Sanh có nói: Trong đời
quá khứ, có thành tên Ba La Nại, vua tên là Phạm Thí.
Đây chính là chuyện lâu xa kia, mà tên thành hiện thời
chính là đất cũ xưa kia. Hăy nên biết trong thế
gian có rất nhiều nơi vẫn ở nơi chốn
cũ mà giữ được tên xưa. Thành Ba La Nại
được nhắc tới trong thời gần đây,
vua cũng tên là Phạm Thí, tức là một trong các trường
hợp trùng tên với thuở trước. Khi đó, vị
Bà La Môn là đại thần của nhà vua ấy sanh
được một trai. Khi đứa con đó sanh ra, bốn
phương trên không trung, mây có màu xanh, vàng, đỏ, trắng,
mỗi thứ bao phủ rực rỡ ở một
phương, cho đến tuôn mưa trọn khắp Diêm
Phù Đề. Theo pháp Bà La Môn, nếu lúc sanh con, ắt thỉnh
bậc thiên tiên thánh trí xem tướng trước rồi
mới đặt tên. Khi đó, đại thần cầu
được một vị tiên đến xem tướng
đứa con ấy. Vị tiên hỏi khi đứa con
sanh ra có thụy tướng ǵ, sẽ dựa theo đó mà
đặt tên. Cha kể lại chuyện trước
đó, tiên nhân nói: “Trong kinh điển Vi Đà của ta, nếu
lúc sanh mà có tướng ấy, ắt sẽ thông suốt
kinh điển Tứ Vi Đà, lưu diễn ân trạch pháp thí trọn khắp bốn
phương”. Do vậy, đặt tên là Khánh Vân. Nhưng chủng
tộc của đại thần học tập kinh điển
Tứ Vi Đà thuộc về tông Ma Nạp Bà (Mānava)[6]; do vậy,
nương theo bổn tông mà đặt
tên là Ma Nạp Bà.
Đứa
trẻ ấy tuổi dần khôn lớn, chuyên học tập
môn ấy, đối với tông chỉ của Tứ Vi
Đà không ǵ chẳng hiểu thấu suốt, nhưng
nghĩ như thế này: “Chẳng chỉ do thông hiểu mà
sẽ đạt được nghĩa lợi, hăy nên suy
nghĩ, chọn lựa để hành, truy t́m tông chỉ
trước sau của kinh văn để nương theo
pháp nào mà được thoát ly”. V́ sao vậy? Do đứa
trẻ ấy đời trước đă gieo cội
đức, vun bồi huệ tánh đă lâu, tuy sanh trong tông
phái tôn sùng dị kiến, mà có thể tự sanh khởi cái
tâm giác ngộ ấy. Nhưng nghiên cứu mỗi điều
được kinh [Vedas] đề
cao, chỉ là sanh vào Phạm Thiên, chẳng có đạo xuất
thế, liền thưa với cha rằng: “Nay trong những
điều con học tập, chẳng có đạo xuất
thế, c̣n có pháp ǵ tăng thượng hơn chăng?” Cha
nói: “Ta được truyền thừa từ tổ tông,
chỉ có pháp này là mầu nhiệm nhất. Lại là pháp do
Phạm Vương nói, chỉ nên tuân hành, há nên cầu pháp
thù thắng hơn ư?” Con lại nghĩ rằng: “Nay con
sở học chưa hoàn tất, lẽ nào giải đăi? Ắt
phải nên cầu huệ thù thắng”. Cha nói: “Ta nghe nói
trong Tuyết Sơn có đại tiên nhân, ngoài Tứ Vi
Đà, riêng có nghĩa sâu quyết
trạch, tên là Kế Trách Bà (tên này có nghĩa là Vấn
Đáp Tùy Tâm). Ngài dùng pháp ấy để dạy, nên vị
tiên này được gọi là Kế Trách Bà Tiên”. “Con nay sẽ
đến hỏi Ngài”. Cha nói: “Vị tiên ấy trụ
trong chỗ hiểm trở, cách tuyệt, không dấu chân
người lui tới, sao con có thể đến đó
được?” Khi đó, [đứa trẻ ấy] chẳng
nguôi ư định ra đi, liền tới đó. Khi ấy,
các thiên thần thấy đứa trẻ này ắt có thể
tạo lợi ích cho mọi người; do vậy, cùng gia
hộ, khiến cho nó đến được chỗ của
tiên nhân. Vị tiên ấy thấy đứa trẻ này dung
mạo kỳ đặc, biểu hiện hơn người,
liền hỏi han, [cho nó] ngồi gần nơi ngài.
Khi
đó, vị tiên ấy có năm ngàn tiên nhân, Ngài làm thượng
thủ, thường diễn pháp sâu, liền hỏi đồng
tử: “V́ sao đến tận nơi đây?” Đồng
tử thưa cặn kẽ chuyện trên đây; nhân đó, bạch
đại tiên: “Con ở trong nhân gian, học bốn thánh
điển, sợ có chỗ hiểu sai lệch, chẳng
phù hợp ư chỉ vốn có của kinh. Xin tiên nhân hăy giảng
dạy”. Đại tiên hứa khả: “Được!”
Đồng tử lập tức trần thuật cặn kẽ
kiến giải. Đại tiên than rằng: “Đứa trẻ
này huệ ngộ hơn người. Ta chẳng hiểu bằng
nó được! Nhưng đứa trẻ này nói đến
đạo xuất thế, th́ ta đích thân nghe Phạm
Vương nói, sẽ có bậc đại tiên xuất thế,
hiệu là Nhất Thiết Trí Giả Kiến Giả, chỉ
người ấy mới có thể diễn pháp này, chí hướng của
bọn ta chẳng thể sánh bằng được”.
Lại tùy theo những ư chỉ ḿnh hiểu biết, phân biệt
mà dạy bảo đầy đủ. Khi đó, đồng
tử do thiện căn đời trước, nay nghe danh
hiệu Nhất Thiết Trí đạt được
điều chưa từng có; do vậy, đội ân thầy
sâu xa, nghĩ muốn báo ân. Nhưng cách báo đáp thầy của
Phạm Chí th́ cần phải dùng áo bằng da nai, dùng chỉ
màu vàng làm thành h́nh Phạm Thiên và Na La Diên, và năm trăm
đồng vàng. Nghĩ xong, muốn t́m
cầu.
Nghe
nói phương Nam có vị vua sắp lên ngôi, muốn phô bày
oai đức, tiếp nhận địa vị Quán Đảnh,
rộng thí cho bậc phạm hạnh, liền muốn tới
đó cầu xin. Nhưng trước đó, đă có các Phạm
Chí bảo vua chuẩn bị dê, ngựa, và người, mỗi
loại một ngàn đem giết để thị uy, dùng
làm lễ Quán Đảnh, mong được danh tiếng
lan xa. Sau đó, đồng tử t́m tới. Khi ấy, nhà
vua nghe tên đồng tử, hết
sức hoan hỷ: “Ta sắp lên ngôi mà cảm được
vị hiền nhân này, tức là đại cát tường”.
Liền mời làm khách quư, truyền cùng bàn định nghi
lễ, pháp tắc [trong lễ Quán Đảnh]. Đồng
tử triệu tập các Bà La Môn, đối với mỗi
người đều truy hỏi: “Nay chuyện sát sanh
để cúng tế căn cứ từ kinh văn nào?” Truy
t́m ráo riết, bọn họ đều đuối lư. Do vậy,
đồng tử bảo vua rằng: “Quán đảnh kiểu
này chẳng phải là chân đạo. Vua hăy nên trong một
ngày, ở bốn cửa thành, sắp đặt hết thảy
các vật cúng, hễ có ai xin,
đều ban cho. Phước ấy vô lượng, thanh
danh cũng lan xa”. Vua cũng có thiện căn từ trước,
nghe nói liền ngộ giải, kính vâng theo lời dạy, tạ
lễ trọng hậu. Đồng tử chỉ lấy
năm trăm đồng vàng, da nai và chỉ thêu rồi
rời đi.
Giữa
đường, đến thành Bảo Định (thành
này gần biên giới của nước Kiện Đà La).
Vua tên là Quân Thắng (do [nhà vua] hễ giao chiến, ắt
thắng trận, nên đặt tên như thế), do Nhiên
Đăng Phật vừa mới xuất thế, bèn trang
hoàng thành ấp, mong nghênh tiếp, dọn sạch sẽ
đường phố, xếp đặt đủ loại
hoa, hương khác lạ thường nhật. Đồng
tử thấy vậy, hỏi người khác: “V́ sao
như thế? Do tôi đến thành này ư? Hay là v́ duyên nào
khác?” (Khi đó, tiếng tăm của đồng tử
lan xa, ở nơi đâu cũng được tiếp
đại trọng hậu, tôn kính. V́ thế, tự nghi).
Người trong thành đáp rằng: “Có Phật xuất thế,
hiệu là Nhiên Đăng. Vua muốn nghênh tiếp Phật”.
Đồng tử nghe danh hiệu Phật, bỗng dưng
hết sức mừng rỡ: “Nay danh hiệu này vượt
ngoài kinh điển, chẳng phải là vị mà đại
tiên đă nhắc tới ư?” Do vậy, dùng vật có
được để sắm sửa vật cúng, muốn
tới dâng lên Phật.
Khi
đó, thiên ma thấy tâm đồng tử to lớn, sợ
sẽ dẫn dắt vô lượng chúng sanh vượt khỏi
cơi ḿnh, bèn phủ lấp hết thảy mọi người,
[khiến cho đồng tử thấy] chẳng có vật
nào có thể mua được. Khi đó, có nữ nhân do
phước đời trước, có nhân duyên lâu xa với
đồng tử, ma chẳng thể che lấp được.
Đồng tử muốn mua hoa từ chỗ cô, cô ta
đáp rằng: “Tôi muốn dâng lên đức Phật. Dẫu
dùng một trăm đồng vàng mua một bông, tôi cũng
chẳng bán”. Đồng tử nói: “Cô đă ước
định bán rồi”. Liền dùng một trăm đồng
để mua một bông, cho đến năm cành, tốn
năm trăm đồng tiền vàng.
Cô gái liền đ̣i hỏi: “Ta chẳng cho ngươi; nếu
ngươi có thể đời đời làm chồng ta
th́ sẽ được [hoa này]!” Đồng tử suy
nghĩ sâu xa: “Nữ nhân phương hại Bồ Tát đạo,
ta thà chẳng mua hoa này”. Liền muốn bỏ đi. Cô gái
nói: “Ta muốn đời đời giúp đỡ
nhau thành chân đạo, trọn chẳng
trở ngại nhau…” như trong kinh luật đă nói. [Đồng tử
liền chấp thuận] và cầm hoa đến
chỗ Phật, rải lên để cúng dường. Hoa ở
trong hư không, kết thành cái lọng, theo Phật vào thành.
Đồng tử đạt được điều
chưa từng có. Đức Phật v́ đồng tử
thuyết pháp, đồng tử đạt được
pháp lợi sâu xa.
Lại
ở chỗ bùn lầy trên đường, [đồng tử]
muốn trải áo da nai để Phật bước qua.
Ma vương năm lượt quăng đi, bảo
đồng tử rằng: “Đồng tử! Ngươi
hành chân đạo, trong hết thảy các thế gian,
ngươi là tối thượng, sao lại tự vứt
bỏ chân đạo để học theo pháp tà đạo
của sa-môn vậy?” Đồng tử trọn chẳng
để ư tới hắn. Phía trước có con đường
hẹp bùn lầy, Phật ắt sẽ theo đó mà đi
qua. Do vậy, [đồng tử] chờ đến lúc ấy,
bèn trải áo và tóc để lót cho Phật đi qua. Kế
đó, đệ tử muốn theo Phật bước qua,
đức Phật bảo: “Đừng nên! Đối với
bậc đại tâm này, nếu các thầy đạp lên,
sẽ bị tổn phước to lớn”. Nhân đó,
đức Phật xoa đỉnh đầu đồng tử
thọ kư. Ngay trong lúc ấy, đồng tử liền thấy
mười phương các cơi Phật nhiều như cát
sông Hằng, đều xoa đỉnh đầu đồng
tử mà thọ kư. Đồng tử liền dự vào hàng
Đệ Cửu Địa Bồ Tát. Khi đó, vô lượng
trăm ngàn chúng trời, người, do nhân duyên của vị
đại sĩ ấy, đều bỏ tà kiến, nhập
chánh đạo. Đó chính là thị hiện huệ
phương tiện của Bồ Tát: Trước hết,
nhập tà đạo, thấu đạt tận cùng tông chỉ
của họ, tạo phương tiện khiến cho họ
hồi tâm để có thể dẫn dắt
vô lượng người cùng hàng. V́ thế, gọi là “huệ phương
tiện trọn đủ”. Hăy nên
kiểm trong kinh có nói cặn kẽ chuyện này[7].
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật
ngôn: - Thế Tôn! Nguyện thuyết thập thiện đạo
giới, đoạn cực căn đoạn. Vân hà Bồ
Tát vương vị tự tại, xử ư cung điện,
phụ mẫu, thê tử, quyến thuộc vi nhiễu, thọ
thiên diệu lạc, nhi bất sanh quá?
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:世尊!願說十善道戒,斷極根斷。云何菩薩王位自在、處於宮殿,父母妻子眷屬圍繞,受天妙樂而不生過?
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch
Phật rằng: - Bạch đức Thế Tôn! Xin hăy nói
thập thiện đạo giới, đoạn trừ tột
cùng cội rễ [của mười
điều bất thiện]. Bồ Tát như thế nào mà
tự tại nơi ngôi vua, ở trong cung điện, cha mẹ,
vợ con, quyến thuộc vây quanh, hưởng niềm
vui mầu nhiệm cơi trời, mà chẳng sanh lầm lỗi?)
Tức
là như cắt trụi cỏ, nó lại sanh ra;
c̣n như chặt cụt cây Đa La, nó sẽ chẳng mọc
lại nữa, đó gọi là “cực đoạn”. Ở
đây nói về công lực của giới. Bồ Tát làm thế
nào để tự tại nơi vương vị, ngự
trong cung điện, cha mẹ, thân thích vây quanh, hưởng
niềm vui mầu nhiệm của cơi trời mà chẳng
sanh lầm lỗi?
(Kinh)
Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Chấp Kim Cang
ngôn: - Thiện tai, thiện tai! Bí Mật Chủ! Nhữ
đương đế thính, thiện tư niệm chi.
Ngô kim diễn thuyết Bồ Tát Tỳ Ni quyết định
thiện xảo. Bí Mật Chủ! Ưng tri Bồ Tát hữu
nhị chủng, vân hà vi nhị? Sở vị tại gia, xuất
gia. Bí Mật Chủ! Bỉ tại gia Bồ Tát thọ tŕ
ngũ giới cú, thế vị tự tại, dĩ chủng
chủng phương tiện đạo, tùy thuận thời
phương, tự tại nhiếp thọ, cầu Nhất
Thiết Trí. Sở vị cụ túc phương tiện, thị
lư vũ kỹ, thiên từ chủ đẳng, chủng chủng
nghệ xứ, tùy bỉ phương tiện, dĩ Tứ
Nhiếp Pháp nhiếp thủ chúng sanh, giai sử chí cầu
A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, vị tŕ
bất đoạt sanh mạng giới, cập bất dữ
thủ, hư vọng ngữ, dục tà hạnh, tà kiến
đẳng. Thị danh tại gia ngũ giới cú. Bồ
Tát thọ tŕ như sở thuyết thiện giới,
ưng cụ đế tín, đương cần tu học,
tùy thuận văng tích chư Như Lai Học Xứ, trụ hữu
vi giới, cụ túc trí huệ phương tiện, đắc
chí Như Lai vô thượng cát tường vô vi giới uẩn.
(經)如是說已,佛告執金剛言:善哉善哉!祕密主!汝當諦聽,善思念之,吾今演說菩薩毘尼決定善巧。祕密主!應知菩薩有二種。云何為二?所謂在家、出家。祕密主!彼在家菩薩受持五戒句,勢位自在,以種種方便道隨順時方自在攝受求一切智,所謂具足方便示理舞伎天祠主等種種藝處,隨彼方便以四攝法攝取眾生,皆使志求阿耨多羅三藐三菩提。謂持不奪生命戒及不與取、虛妄語、欲邪行、邪見等,是名在家五戒句。菩薩受持如所說善戒,應具諦信當勤修學,隨順往昔諸如來學處,住有為戒,具足智慧方便,得至如來無上吉祥無為戒蘊。
(Kinh: Nói như
thế xong, đức Phật bảo ngài Chấp Kim Cang rằng:
- Lành thay! Lành thay! Bí Mật Chủ! Ông nên lắng nghe, khéo
suy nghĩ lấy. Ta nay diễn nói thiện xảo quyết
định trong Tỳ Ni của Bồ Tát. Bí Mật Chủ!
Hăy nên biết Bồ Tát có hai loại, thế nào là hai? Tức
là tại gia và xuất gia. Bí Mật Chủ! Hàng tại gia
Bồ Tát thọ tŕ câu ngũ giới, oai thế, địa
vị tự tại, dùng đủ loại đạo
phương tiện, tùy thuận thời điểm và
nơi chốn, tự tại nhiếp thọ, cầu Nhất
Thiết Trí, tức là trọn đủ phương tiện,
phô bày các thứ nghệ thuật của các vũ công hoặc
chủ các đền thờ trời v.v… Thuận theo
phương tiện ấy,
dùng Tứ Nhiếp Pháp để
nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ đều dốc
chí mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức
là giữ giới chẳng tước đoạt sanh mạng,
và giới chẳng cho mà lấy, nói lời hư vọng,
làm hạnh tà dục, tà kiến v.v… Đó gọi là câu
Ngũ Giới của tại gia. Bồ Tát thọ tŕ thiện
giới như vừa nói đó, hăy nên giữ trọn ḷng
tin chắc thật, nên siêng tu học, tùy Học Xứ của
các vị Như Lai xưa kia, trụ trong hữu vi giới,
trọn đủ phương tiện trí huệ, đạt
được giới uẩn vô vi cát tường vô
thượng của Như Lai).
Nói
như thế xong, đức Phật bảo Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lành thay! Lành thay, Bí Mật Chủ!
Hăy nên lắng nghe, cực khéo suy nghĩ. Ta sẽ diễn
nói thiện xảo quyết định của Bồ Tát Tỳ
Nại Da (giới luật của hàng Bồ Tát). Bí Mật
Chủ! Hăy nên biết có hai loại Bồ Tát, những ǵ là
hai? Đó là tại gia và xuất gia. Bí Mật Chủ! Tại
gia Bồ Tát thọ nhận lănh câu Ngũ Giới, tự tại
nơi vương vị, trọn đủ phương tiện
đạo, tùy theo thời và nơi chốn mà tự tại
nhiếp thọ (tùy theo nơi chốn và thời gian mà tự
tại làm, như chỉ bày tà kiến để đối
trị đại tà v.v…), cầu Nhất Thiết Trí.
Đó gọi là “trọn đủ phương tiện”,
thị hiện các loại nghệ thuật của các
vũ công, chủ các đền thờ trời v.v… Thuận
theo phương tiện ấy, dùng Tứ Nhiếp Pháp
để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ dốc
chí cầu Vô Thượng Bồ Đề. Người ấy
tŕ giới “chẳng giết
hại sanh mạng, chẳng cho mà lấy,
nói dối, hạnh dục tà, tà kiến”
v.v… Đó gọi là câu tại gia Ngũ Giới. Bồ Tát
thọ tŕ thiện giới như đă nói, hăy khéo nên tu học,
hăy nên tin tưởng trọn vẹn, tùy thuận Học Xứ
của chư Phật xưa kia, tức là thuận theo chư cổ
Phật mà học. Do trụ trong hữu vi, trọn đủ
huệ phương tiện, sẽ có thể đạt
được giới uẩn vô vi cát tường vô
thượng của Như Lai. Người học do suy
nghĩ, học tập mà đạt được.
[Khi
đức Phật] đă nói mười giới tướng
xong,
ngài Kim Cang Thủ bạch Phật: “Xin
hăy nói Thập Thiện Nghiệp Đạo giới đoạn
trừ tột cùng tận cội rễ [của các pháp bất
thiện]. Bồ Tát làm thế nào để tự tại
nơi vương vị, ngự trong cung điện, nam nữ
thân thuộc, cha mẹ vây quanh, hưởng niềm vui mầu
nhiệm cơi trời, chẳng nẩy sanh lầm lỗi?” Ư
hỏi ở đây là: Có pháp nào có thể trừ khử tận
cội gốc [các điều bị răn cấm] trong các giới
ấy,
khiến cho thiện pháp chẳng sanh hay không?[8]
“Cực” có nghĩa là “hại” trọn hết thảy
các điều thiện. Hàm ư: Làm thế nào để ở
trong pháp thế gian mà chẳng bị nhiễm ô? Bồ Tát
v́ chúng sanh mà thường cần phải ở trong thế
gian, ắt phải có giới phương tiện, ngơ hầu chẳng
làm hại các điều thiện. Đức Phật khen
ngợi xong, dạy [ngài Kim Cang Thủ] hăy lắng nghe, Ngài
liền nói “quyết định thiện xảo điều
phục của Bồ Tát”. “Quyết
định” tức là tự
“hại”
(đoạn trừ) hết thảy các điều ác, hết
thảy các điều thiện đều do đó mà sanh, tức
là các điều thiện trong tự tánh.
Bồ
Tát có hai loại là tại gia và xuất gia. Nếu là tại
gia, nhận lănh câu Ngũ Giới, sẽ giống như
trên, tự tại nơi ngôi vua, chẳng trở ngại
hành Bồ Tát đạo nhờ vào năm sự ấy. Các
thứ phương tiện đạo, nhiếp thọ tự
tại trong các thời điểm và nơi chốn, cầu
Nhất Thiết Trí, tức là phương tiện trọn
đủ, thị hiện đủ loại nghệ thuật
của các vũ công, chủ các đền
thờ trời v.v… chính là thuận
theo phương tiện của họ mà dùng Tứ Nhiếp
Pháp để nhiếp thủ chúng sanh. Kinh văn dạy
như thế. “Thời” tức là quán đúng thời
hay phi thời, chẳng chần chờ, chẳng lỡ dịp,
[mà đúng thời] như sóng biển. “Phương”
là nói đến nơi chốn. Đáng nên dùng pháp nào để
nhập đạo, tức là tùy thuận Thế Giới Tất
Đàn. Do trọn đủ phương tiện huệ,
đủ loại thực hiện tự tại, nhiếp
thủ chúng sanh, đặt họ trong Nhất Thiết Trí.
Chẳng giống như Ngũ Giới [theo Nhị Thừa]
chẳng có phương tiện, chỉ tự câu nệ, hạn
cuộc, dốc chí cầu thủ hộ chính ḿnh. Do quán lợi
ích nhiếp hết thảy, vào đủ loại đạo,
cho đến người hay ta vào miếu thờ trời,
thị hiện cùng học giống như họ, dần dần
dùng chánh kiến để hướng dẫn họ. Dùng
các phương tiện vô biên như thế đó, lợi
ích vô hạn, dùng Tứ Nhiếp Pháp để dẫn dắt
họ nhập Phật đạo. Tứ Nhiếp th́
như trong Bảo Vân Bồ Tát Tạng v.v…
đă nói cặn kẽ. Nếu tại gia Bồ Tát tŕ
năm giới như thế, tức là chẳng “giết,
trộm, dâm, dối, tà kiến”, trong
năm giới ấy, dùng phương tiện để
tŕ, hết thảy các điều khác vô ngại, chủ yếu
nhằm dẫn nhập Phật đạo đó thôi! Dùng
năm giới ấy làm đầu, sẽ có thể thành tựu
Nhất Thiết Trí Địa, tức địa vị
Như Lai; do vậy nói là “được thành tựu vô lậu
tánh giới”. Do trụ trong phương tiện trọn
đủ huệ này, tức là Học Xứ. Đấy là
giới trọn đủ thuộc vạn đức trong bản
tánh, tức là vô vi giới. Lại giải
thích thêm (chẳng khác với phần trước, đă giảng
xong rồi lại nhắc lại, v́ trong phần trước
chưa nói rơ). Trong phần trước đă nói có hai loại
Bồ Tát, tức tại gia và xuất gia. Câu ngũ giới
này chính là pháp để hàng tại gia Bồ Tát hành tŕ. Do
trong thế gian có đủ loại sự vụ, do tŕ câu
ngũ giới này, do giới ấy mà có thể trọn
đủ huệ phương tiện, các phiền năo ác
nghiệp chẳng thể làm hại. Do
nhân duyên ấy mà được thành Phật. V́ thế,
kinh nói: “Như thị thiện giới,
thiện tu học cụ tín”
(Thiện giới như thế hăy nên khéo tu học, tin
tưởng trọn đủ). Đấy là khuyên tŕ.
Đối với ư “khuyến tŕ”, đức Phật
dẫn cổ Phật làm chứng. Quá khứ chư Phật
do tŕ năm giới này, ở trong thế gian, cùng làmn
đủ loại sự nghiệp giống như chúng sanh để nhiếp
thủ họ, nhưng chẳng trở
ngại tự hạnh. Do vậy, [các Ngài] được
thành Phật, vạn đức đầy đủ trọn
vẹn. Vô lậu tự tánh giới cũng do vậy mà
sanh.
“Phương
tiện trí đầy đủ”: Phương tiện ấy
chính là thân kết ấn,
miệng niệm chân ngôn, tâm quán Bổn Tôn tam-muội; dùng
đó làm phương tiện, lại có diệu huệ. Do
quán ba sự ấy đều sanh từ duyên, bèn nhập
vào Thật Tướng. V́ vậy,
vạn hạnh nhanh chóng trọn đủ, được
thành Phật. Trong kinh Thanh Văn, sở dĩ tục nhân
tŕ ngũ giới là để pḥng hộ thân khẩu, ḥng nhập kiến
Đế. Nay ở đây cũng thế, dùng câu ngũ giới
này làm phương tiện để pḥng hộ, khiến
cho hạnh chân ngôn được thành tựu mà kiến Đế.
Không chỉ là tại
gia Bồ Tát, mà người xuất gia
cũng đều cùng hành năm câu này.
(Kinh)
Hữu tứ chủng căn bản tội, năi chí hoạt
mạng nhân duyên, diệc bất ưng phạm. Vân hà vi tứ?
Vị báng chư pháp, xả ly Bồ Đề tâm, xan lận,
năo hại chúng sanh. Sở dĩ giả hà? Thử tánh thị
nhiễm, phi tŕ Bồ Tát giới. Hà dĩ cố? Quá khứ
chư Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại
Nhân Trung Tôn, cụ túc trí phương tiện, tu hành Vô
Thượng Giác, đắc vô lậu Tất Địa,
diệc thuyết dư Học Xứ, ly ư phương
tiện trí, đương tri Đại Cần Dũng, dụ
tấn chư Thanh Văn.
(經)有四種根本罪,乃至活命因緣亦不應犯。云何為四?謂謗諸法、捨離菩提心、慳悋、惱害眾生。所以者何?此性是染,非持菩薩戒。何以故?過去諸正覺,及與未來世,現在仁中尊,具足智方便,修行無上覺,得無漏悉地,亦說餘學處,離於方便智。當知大勤勇,誘進諸聲聞。
(Kinh:
Có bốn loại tội căn bản, thậm chí dù v́ nhân
duyên sống sót, cũng chớ nên phạm! Những ǵ là bốn?
Tức là báng các pháp, xả ĺa Bồ Đề tâm, keo kiệt,
năo hại chúng sanh. V́ sao vậy? Tánh của chúng là nhiễm,
[hễ phạm bốn tội ấy], sẽ chẳng phải
là tŕ Bồ Tát giới. V́ sao? Quá khứ các Chánh Giác, cùng với
đời vị lai, hiện tại Nhân Trung Tôn, trọn
đủ trí phương tiện, tu hành Vô Thượng
Giác, đắc vô lậu Tất Địa, cũng nói Học
Xứ khác, ĺa khỏi trí phương tiện, hăy biết
Đại Cần Dũng, khuyên, sách tấn Thanh Văn).
Lại
có bốn căn bản trọng nghiệp, hành giả tu
Chân Ngôn dẫu gặp cái nhân mất mạng, cũng chớ
nên phạm! Những ǵ là bốn? Tức: Một là báng các
pháp, hai là xả ly Bồ Đề tâm, ba là keo kiệt, bốn
là năo hại chúng sanh. V́ sao vậy? Do tánh của bốn tội
ấy là nhiễm; đấy chẳng phải là Bồ Tát
giới. Phần kệ tiếp đó nói: “Phi tŕ Bồ
Tát giới, thử tánh thị nhiễm” (Chẳng phải
là tŕ Bồ Tát giới, v́ tánh của bốn món ấy là nhiễm).
Bồ Tát Chân Ngôn hạnh nếu phạm bốn trọng cấm
ấy, sẽ giống như Thanh Văn phạm bốn tội
căn bản. Nếu phạm các tội ấy, chính là
đoạn căn bản thiện nghiệp, hết thảy
công đức đều chẳng thể sanh, như các thí
dụ về cây Đa La[9]
v.v… trong kinh Thanh Văn. Nhưng trong Đại Thừa, chẳng
có ư nghĩa [thiện căn] “vĩnh viễn đoạn
dứt”! Hễ chịu tự sửa đổi, [thiện
căn] sẽ liền sanh. Nếu phạm các tội ấy,
sẽ chẳng phải là Bồ Tát, giống như Thanh
Văn phạm trọng giới, sẽ chẳng phải là
tỳ-kheo! V́ lẽ nào vậy? Do trong pháp Bồ Tát, bốn
sự ấy có tánh
gây nhiễm, có thể chướng ngại
hết thảy các công đức, khiến cho chúng chẳng
thể sanh. Dẫu gặp nhân duyên mất mạng, cũng
chớ nên hủy phạm [bốn trọng giới ấy].
Kế đó, đức Phật lại dẫn chứng: Do
quá khứ, vị lai, hiện tại hết thảy chư
Phật đều v́ trọn đủ huệ
phương tiện, do tu
hành giới này mà được tu học Vô Thượng Bồ
Đề, đắc đại Tất Địa. Đại
Tất Địa tức là cái quả của diệu hạnh,
tức là thành Bồ Đề.
“Vô
hữu lậu” tức là tánh giới. Phương tiện
ly trí Học Xứ cũng là nói về Thanh Văn. Kinh
văn nói “Bậc đại dũng đó” ngụ ư:
Đức Phật v́ hàng Thanh Văn cũng nói giới cụ
túc và tứ trọng v.v…,
nhưng các pháp ấy nhằm thâu nhiếp
một loại tiểu căn tánh, quyền biến mà nói
như thế, chưa phải là rốt ráo! Do vậy, giới
này ĺa phương tiện, phương tiện và trí đều
chưa trọn đủ. Nếu có thể hướng
theo Đại Thừa, học thêm diệu giới, bèn có thể
trọn đủ Bồ Tát giới vậy! [Kinh nói] bậc
Đại Dũng là chỉ ngài
Kim Cang Thủ để bảo
ban. Đức Phật do thấy hữu
t́nh hèn kém, chẳng có chí nguyện Đại Thừa, muốn
thâu nhiếp họ vào nhà của bậc trưởng giả,
chẳng để họ ở trong xóm nghèo, phí công nhọc
nhằn, khổ sở
mà chẳng đạt được ǵ. V́ thế, thâu nhiếp
vào trong pháp này, chẳng phải là bổn ư xuất thế
của Phật. V́ vậy, giới này chẳng phải là giới
vô lậu chẳng nghĩ bàn thuộc Phật huệ. Nếu
đă nhập trí vô lậu của Phật, sẽ tự chứng
biết!
19. Phẩm thứ
mười chín: Sanh ra trăm chữ (Bách tự sanh phẩm
đệ thập cửu, 百字生品第十九)
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát chư đại
hội chúng, thuyết bất không giáo, tùy lạc dục,
thành tựu nhất thiết chân ngôn tự tại, chân ngôn
chi vương, chân ngôn đạo sư, đại oai
đức giả, an trụ tam tam-muội-da, viên măn tam pháp
cố, dĩ diệu âm thanh, cáo Đại Lực Kim Cang Thủ
ngôn: “Cần Dũng Sĩ! Nhất tâm đế thính chư
chân ngôn, chân ngôn đạo sư”. Tức thời, trụ
ư Trí Sanh tam-muội, nhi thuyết Xuất Sanh Chủng Chủng
Xảo Trí Bách Quang Biến Chiếu chân ngôn viết: “Nam ma
tam mạn đa bột đà nẫm, ám”.
(經)爾時毘盧遮那世尊觀察諸大會眾,說不空教,隨樂欲成就一切真言自在、真言之王、真言導師、大威德者、安住三三昧耶,圓滿三法故、以妙音聲告大力金剛手言:勤勇士一心諦聽諸真言、真言導師。即時住於智生三昧,而說出生種種巧智百光遍照真言曰:南麼三曼多勃馱喃。暗。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát các đại chúng
trong hội, nói giáo pháp bất không, thuận theo sự
ưa muốn [của đại chúng] mong thành tựu hết
thảy chân ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn
đạo sư, bậc đại oai đức an trụ
trong ba món tam-muội-da, do viên măn ba pháp, dùng âm thanh mầu
nhiệm bảo Đại Lực Kim Cang Thủ rằng:
“Cần Dũng Sĩ! Hăy nhất tâm lắng nghe chân ngôn
đạo sư của các chân ngôn”. Ngay lập tức, đức
Phật trụ trong Trí Sanh tam-muội, bèn nói chân ngôn Sanh Ra
Đủ Loại Trí Khéo,
Trăm Quang Minh Chiếu Trọn Khắp rằng: “Nam ma tam
mạn đa bột đà nẫm, ám - Namaḥ
samanta-buddhānāṃ, aṃ”).
Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn quán sát các đại chúng hội,
dạy về Bất Không Tất Địa, nói giáo pháp bất
không, tùy ḷng ưa muốn [của
thính chúng] mà thành tựu hết thảy. Chân ngôn
tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo sư
trọn đủ oai đức to lớn, an trụ trong ba
món tam-muội-da, do viên măn ba pháp (địa vị an trụ
này như ngồi, nằm, hoặc đứng trên cỗ xe
vậy), dùng âm thanh mỹ diệu, bảo Đại Lực
Kim Cang Thủ rằng: “Cần Dũng Sĩ! Hăy nhất
tâm lắng nghe chân ngôn đạo sư của hết thảy
các chân ngôn”. Ngay lập tức, đức Phật trụ
trong Trí Sanh tam-muội, thuận theo sự ưa thích [của
hết thảy đại chúng trong pháp hội], nói hết thảy chân
ngôn tự tại, chân ngôn vương, chân ngôn đạo
sư đại oai đức do viên măn ba món tam-muội-da
mà bảo ban. Trên đây là [tóm
lược ư] của chánh kinh. Trong các phần trước,
tuy đă nói đủ loại phương tiện của
chân ngôn, nhưng vẫn chưa trọn đủ, nên lại
nói thêm. Do vậy, đức Phật quán sát đại hội,
soi rơ tâm cơ của họ, [biết rơ] trọn khắp
đại chúng trong ấy đều là chân thật, kham làm
pháp khí, Ngài lại v́ họ nói.
Lại c̣n dùng thần lực chẳng thể nghĩ bàn
để gia tŕ họ,
khiến cho họ đắc pháp lực, kham nghe diệu
pháp này. V́ thế, quán sát họ.
Các
chân ngôn như trong các phần trước đă rộng
nói. Ở đây là chữ Ám (aṃ), tức tâm chú của hết
thảy các chân ngôn, là thượng thủ bậc nhất
trong hết thảy các chân ngôn. Hăy nên biết đấy
chính là chân ngôn thuộc giáo pháp Bất Không. Bất Không là hết
thảy chúng sanh hễ thấy, nghe, tiếp xúc, hay biết,
không ai bỏ lỡ, mà đều sẽ nhất định
trụ trong Vô Thượng Bồ Đề. V́ thế, gọi
là Bất Không. Lại nữa, thuận theo thiện nguyện
của họ mà đều được trọn đủ,
cho đến đại Bồ Đề nguyện của
chúng sanh cũng có thể thỏa măn, như đại bảo
vương ở trên tràng cao, trọn đủ hết thảy.
V́ thế, gọi là Bất Không.
“Nhất
thiết chân ngôn tự tại”
(tự tại trong hết thảy các chân ngôn):
Giống như Như Lai là vua của các pháp, tự tại
trong các pháp. Nay chân ngôn này cũng giống như thế,
được tự tại trong hết thảy các chân
ngôn. Do nhân duyên này, lại được gọi là Chân Ngôn
Vương. Lại gọi là Chân Ngôn Đạo Sư,
như nhiều người vào biển nương theo vị
đạo sư (người hướng dẫn), thậm
chí có người đến được [chỗ có của
báu], đạt được khối báu lớn đem về
thọ dụng. Chân ngôn vương này cũng giống
như thế, là đạo sư của hết thảy
các chân ngôn. Chân ngôn đạo sư tức là đấng cứu
thế. Ư nói: Chân ngôn này giống như Phật. Lại c̣n
trọn đủ đại
oai đức, sức thần thông bí mật tự tại
của Như Lai đều do đây mà sanh ra. Nếu hành giả
có thể hành đúng như pháp, tức là cũng giống
như chân ngôn này mà đạt được như thế.
“Tam
tam-muội-da ṭa” tức là ba môn tam-muội-da thuộc thân, khẩu,
ư. Miệng niệm chân ngôn, thân kết pháp ấn, tâm quán Bổn
Tôn, nay tức là kim cang ṭa. Ba pháp viên măn tức là lư, hạnh,
quả. Giáo tức là những điều đă nói trong phần
trước. Nay từ trong giáo, viên măn ba pháp này, rốt ráo
chẳng thừa sót. Đức Phật phát ra diệu âm, bảo
ngài Kim Cang Thủ: “Ta nói pháp này, ông là bậc dũng
sĩ
đại lực, hăy nhất tâm nghe
kỹ”. Đáng lẽ phải nói trong các phẩm
chân ngôn trước, sao lại chẳng nói? Cho tới tận
đây mới nói, [dụng ư là] khiến
cho người câu nệ kinh văn bị u mê vậy. Đức
Phật sẵn ḷng đại bi, sao không nói rơ mà mê hoặc
chúng sanh vậy? Đáp rằng: Chẳng phải là keo tiếc!
Chỉ v́ trong thế gian có các luận sư, tự cậy
lợi căn mà phân biệt, dùng trí lực để nói các
pháp tướng, do thông đạt văn tự, do tâm kiêu mạn
nên chẳng thuận
theo thầy, tự tiện t́m ṭi trong kinh liền muốn tự
hành. Nhưng pháp này vi diệu, nếu chẳng nương
theo bậc đạo sư sáng suốt, sẽ trọn chẳng
thể thành. Lại sợ họ vọng động hành
tŕ, tự tổn, tổn người. Nếu ẩn tàng phần
kinh văn này, khiến cho họ dùng trí lực của ḿnh
chẳng thấu hiểu được, sẽ bỏ ḷng
kiêu mạn mà nương theo thầy. Do nhân duyên này, sẽ
chẳng sanh nhân duyên phá pháp; do vậy, cần phải
như thế đó!
Đức
Phật sắp nói chân ngôn đạo sư này, liền trụ
trong Xảo Trí Sanh tam-muội, tức là tam-muội này có thể
sanh ra trí phổ môn thiện xảo của Như Lai, cho nên
gọi tên như thế. “Nói Bách Quang Biến Chiếu
chân ngôn” tức là từ một chữ
mà tỏa ra quang minh trăm pháp chiếu
tỏa trọn khắp. Chữ này nếu dịch
là Biến (遍: trọn khắp), cũng chẳng
đúng lư cho lắm. Nếu dịch là Phóng Quang, th́ ư nghĩa Phóng Quang
cũng chưa trọn hết, phần lớn là ư nghĩa “tỏa
ra trọn khắp”. Ánh sáng trăm oai đức này
cũng từ đó mà ra. Trong chân ngôn này, trước hết
là quy mạng hết thảy chư Phật rồi mới
nói. Chân ngôn này của Kim Cang Thủ là bậc chân ngôn cứu thế,
oai đức to lớn. Phật chính là đấng Mâu Ni tự
tại trong hết thảy các pháp!
(Kinh)
Phật cáo Kim Cang Thủ: - Thử nhất thiết chân
ngôn, chân vương cứu thế giả, thành tựu
đại oai đức, tức thị Chánh Đẳng
Giác, pháp tự tại Mâu Ni, phá chư vô trí ám, như nhật
luân phổ hiện, thị ngă chi tự thể. Đại
Mâu Ni gia tŕ, lợi ích chúng sanh cố, ứng hóa tác thần
biến, năi chí linh nhất thiết, tùy tư nguyện sanh
khởi, tất năng vi thi tác, thần biến vô thượng
cú. Cố đương nhất thiết chủng, tịnh
thân ly chư cấu, ứng lư thường cần tu, chí
nguyện Phật Bồ Đề.
(經)佛告金剛手:此一切真言,真王救世者,成就大威德,即是正等覺,法自在牟尼。破諸無智暗,如日輪普現,是我之自體,大牟尼加持,利益眾生故,應化作神變。乃至令一切,隨思願生起,悉能為施作,神變無上句。故當一切種,淨身離諸垢,應理常勤修,志願佛菩提。
(Kinh:
Đức Phật bảo
ngài Kim Cang Thủ: - Chân ngôn vương cứu đời,
trong hết thảy chân ngôn, thành tựu oai đức lớn,
tức là Chánh Đẳng Giác, pháp tự tại Mâu Ni, phá
các tối vô trí, như mặt trời hiện khắp, là tự
thể của ta. Đại Mâu Ni gia tŕ, v́ lợi ích chúng
sanh, ứng hóa, hiện thần biến, cho tới khiến
hết thảy, theo tưởng nguyện sanh khởi,
đều có thể thực hiện, câu thần biến vô
thượng. Vậy nên, hết thảy loài, tịnh thân,
ĺa các cấu, ứng
lư, thường siêng tu, chí nguyện Phật Bồ Đề).
Đức
Phật bảo ngài Kim Cang Thủ: “Trong hết thảy các
chân ngôn, chân ngôn cứu thế này thành tựu oai đức
to lớn, tức là Đẳng Chánh Giác, là đấng Mâu
Ni tự tại trong các pháp (tức là “tự tại trong
hết thảy các pháp”), phá tan
các tối tăm do vô trí, như vầng mặt trời hiện
khắp, tức là do được tự thể Đại
Mâu Ni của ta gia tŕ, ứng hiện tạo thần biến
(kinh văn ở đây nói là “biến hóa”, tức là thực
hiện sự biến hóa), thuận theo ḷng mong muốn mà lợi
ích chúng sanh, cho đến hết thảy đều thuận
theo “tư nguyện” mà sanh khởi, tức là thuận
theo tâm họ suy nghĩ, mong nguyện, liền được
sanh khởi, đều có thể thực hiện câu vô
thượng thần biến ấy. Do vậy, trong hết
thảy các điều thù thắng
(tức là trong hết thảy các mong muốn, trong các điều
ước muốn), trong hết thảy các sự, không ǵ bằng
cầu “câu Chánh Giác”
này. V́ thế, trong hết thảy các loại thân thanh tịnh
ĺa các chướng, theo đúng lư,
thường siêng tu, cầu câu Chánh Đẳng Giác. Thân
thanh tịnh, ĺa chướng, tức là hành giả tự tịnh
hóa thân ḿnh, khiến cho ĺa hết thảy các chướng
mà tu hành. “Nhất thiết chủng” tức là tu trong hết
thảy các phương tiện, sắc loại. Phá tan hết
thảy tối tăm vô trí, cùng thấy vầng mặt trời
hiện ra; đấy chính là do ta gia tŕ. Đại Mâu Ni thực
hiện biến hóa nhằm lợi ích chúng sanh, cho đến
đối với các tâm tư khởi lên
của các chúng sanh ấy, khiến cho nó phát sanh, thường
v́ họ thực hiện câu biến hóa tối thượng
này. Do vậy, siêng tu hết thảy các loại
phương tiện dục, theo đúng lư hăy nên thanh tịnh
ta. Trên đây là [đại lược ư nghĩa của] phần
kinh văn. Chân ngôn này giống như bậc cứu thế,
tức là Phật. Nó có oai đức to lớn, tức là
oai thần của Như Lai. Chân ngôn này chính là đấng
Mâu Ni tự tại trong hết thảy các pháp; đấy
chính là biệt danh của đức Tỳ Lô Giá Na. Ánh sáng
từ huệ phương tiện của chân ngôn này có thể
phá hết thảy tối tăm do vô trí, giống như khi
vầng mặt trời to lớn hiện ra, các tối
tăm tự diệt, v́ trọn khắp hết thảy
chúng sanh mà nhanh chóng trừ diệt
hết thảy tối tăm vô minh. Hăy nên biết chữ
này do chính ta gia tŕ, tức là giống như ta, chẳng khác
ǵ ta. “Ta” tức là tự thể của Phật. Ta do
môn Chân Ngôn này, tùy loại hiện trọn khắp các sắc
thân. Hết thảy các loài chúng sanh trong khắp pháp giới,
tùy theo các loại thân mà họ thích thấy, sẽ có thể
cùng lúc hiện trọn khắp các thân ấy, thuận theo
tâm họ mong muốn mà v́ họ thị hiện. Không chỉ
hiện thân mà thôi, mà c̣n do [chúng sanh] tâm nguyện, suy tưởng
vô lượng khác biệt, cho đến trong khoảnh khắc
có vô lượng mong muốn, ưa thích, thảy đều
có thể thỏa nguyện cho họ. V́ thế nói là “tư
phát trí” (trí sanh khởi do suy nghĩ). Lại c̣n phát
khởi cơ duyên nhập đạo cho họ, cho nên nói là
“phát trí”. “Trụ vị” là trụ trong câu tối
thượng này. Do vậy, đối
với đủ loại câu phương tiện
ấy, hăy nên siêng tu học.
Nếu tu, sẽ thanh tịnh ta, tức là Tỳ Lô Giá Na.
Nhưng
trong tự luân, ở phần trong cùng nhất, đặt
chân ngôn vương này. Luân kế đó ở bên ngoài gồm
mười hai chữ, tức là từ chữ Y (ī) tới
chữ Áo (au), gồm mười hai âm tam-muội. Kế
đó, ở ngoài xếp một trăm chữ, trước
tiên là từ chữ Ca (क, Ka)
v.v… gồm hai mươi lăm chữ. Kế đó là chữ
Kā
(का)
v.v… hai mươi lăm chữ, rồi đến chữ Kaṃ
(कं) v.v…
gồm hai mươi lăm chữ. Trong ấy, các chữ
Nga, Nhă, Noa, Na, Ma có cái chấm Đại Không trọn khắp
hết thảy mọi nơi. V́ thế, cùng được
xếp đặt (lại có cách giải thích khác như sau:
Năm chữ ấy được xếp ṿng quanh ở
ngoài hai mươi lăm chữ). Nếu xếp thành
năm tầng th́ hai mươi lăm chữ từ chữ
Ka là tầng thứ nhất, các chữ như Kā là tầng
thứ hai, các chữ như Kaṃ là tầng thứ ba. Các
chữ như Kaḥ là tầng thứ tư cũng được
(cần phải hỏi thêm v́ ư chưa trọn hết).
Thứ tự xếp đặt các chữ xoay theo bên phải,
tức chiều xoay của mặt trời. Phẩm kế
tiếp sẽ nói về cái quả của Chân Ngôn
Vương này.
20. Phẩm
thứ hai mươi: Cái quả tương ứng của
trăm chữ (Bách tự quả tương ứng phẩm
đệ nhị thập, 百字果相應品第二十)
(Kinh)
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ ngôn: “Bí Mật Chủ! Nhược nhập
Đại Giác Thế Tôn đại trí quán đảnh
địa, tự kiến trụ ư tam tam-muội-da cú.
Bí Mật Chủ! Nhập Bạc Già Phạm đại trí
quán đảnh, tức dĩ đà la ni h́nh thị hiện
Phật sự”. Nhĩ thời, Đại Giác Thế Tôn
tùy trụ nhất thiết chư chúng sanh tiền, thi tác Phật
sự, diễn thuyết tam tam-muội-da cú. (經)爾時毘盧遮那世尊告執金剛祕密主言:祕密主!若入大覺世尊大智灌頂地,自見住於三三昧耶句。祕密主!入薄伽梵大智灌頂,即以陀羅尼形示現佛事。爾時大覺世尊隨住一切諸眾生前施作佛事,演說三三昧耶句。
(Kinh: Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Bí Mật
Chủ! Nếu nhập địa vị đại trí quán
đảnh của Đại Giác Thế Tôn, sẽ tự
thấy trụ trong câu ‘ba môn tam-muội-da’. Bí Mật Chủ! Nhập
đại trí quán đảnh của Bạc Già Phạm, liền
dùng thân đà la ni để thị hiện Phật sự”.
Khi đó, đức Đại Giác Thế Tôn tùy ư ở
trước hết thảy các chúng sanh, thực hiện Phật
sự, diễn nói câu “ba
môn tam-muội-da”).
Địa
vị đại trí quán đảnh chính là địa vị
Như Lai đệ thập nhất. Do trụ trong địa
vị đệ thập nhất này, nhập đại trí
quán đảnh, bèn có thể thực hiện Như Lai sự.
V́ thế, dịch đại trí địa này là “đà
la ni h́nh thi tác Phật sự” (dùng thân đà la ni để
làm Phật sự). Do vậy, có thể v́ hết thảy
chúng sanh mà làm Phật sự. “Đà la ni h́nh” tức là
gom chung các chân ngôn luân để làm thân,
liền thành thân phổ môn. Do trụ nơi thân tổng tŕ ấy,
đối trước hết thảy
chúng sanh mà thị hiện thân họ thích thấy, thuyết
pháp tương ứng căn cơ, chẳng hề sai lầm,
[khiến cho họ] cùng nhập Phật trí. Lúc bấy giờ,
Thế Tôn, chúng sanh, các Phật sự, ba câu
tam-muội-da đều tuyên nói, tùy trụ.
(Kinh)
Phật ngôn: - Bí Mật Chủ! Quán ngă ngữ luân cảnh
giới quảng trường, biến chí vô lượng thế
giới thanh tịnh môn, như kỳ bổn tánh biểu thị,
tùy loại pháp giới môn, linh nhất thiết chúng sanh,
giai đắc hoan hỷ. Diệc như kim giả Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn, lưu biến vô tận hư không giới,
ư chư sát độ, cần tác Phật sự. Bí Mật
Chủ! Phi chư hữu t́nh năng tri Thế Tôn thị ngữ
luân tướng lưu xuất Chánh Giác diệu âm trang nghiêm
anh lạc, tùng thai tạng sanh Phật chi ảnh tượng,
tùy chúng sanh tánh dục, linh phát hoan hỷ.
(經)佛言:祕密主!觀我語輪境界廣長遍至無量世界清淨門,如其本性表示,隨類法界門令一切眾生皆得歡喜。亦如今者釋迦牟尼世尊,流遍無盡虛空界,於諸剎土勤作佛事。祕密主!非諸有情能知世尊是語輪相流出正覺妙音莊嚴瓔珞,從胎藏生佛之影像,隨眾生性欲令發歡喜。
(Kinh: Đức
Phật nói: - Bí Mật Chủ! Quán môn cảnh giới ngữ
luân thanh tịnh rộng dài của ta đến trọn khắp
vô lượng thế giới, đúng như bổn tánh mà
biểu thị, tùy theo từng loại pháp giới môn, khiến
cho hết thảy chúng sanh đều được hoan hỷ.
Cũng như ngày nay, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hiển hiện
trọn khắp trong vô tận hư không giới, ở
trong các cơi nước, siêng năng làm Phật sự. Bí Mật
Chủ! Các hữu t́nh chẳng thể biết tướng
ngữ luân này của đức Thế Tôn, tuôn ra diệu
âm Chánh Giác như các chuỗi anh lạc trang nghiêm, từ
thai tạng sanh ra h́nh bóng của Phật, thuận theo tánh
ưa muốn của chúng sanh mà khiến cho họ sanh khởi
ḷng hoan hỷ).
Đức
Phật tuyên nói như thế xong; kế đó, bảo ngài
Kim Cang Thủ: “Ông có thể quán ngữ luân của ta, tức
là quán cảnh giới tự luân nơi thân đà la ni của
Phật”. Đức Phật
dùng thần lực gia tŕ đại hội. Không chỉ nay
Bí Mật
Chủ quán cảnh giới
rộng lớn nơi ngữ luân của ta, mà là đến
trọn khắp các môn thanh tịnh trong vô lượng thế
giới. Đúng như bổn tánh của hết thảy
chúng sanh mà biểu thị pháp giới môn tùy từng loại,
khiến cho họ sanh ḷng hoan hỷ. Cũng như hiện
thời, Thích Ca Mâu Ni lưu xuất trọn khắp vô tận
pháp giới, trong các cơi nước,
siêng năng làm Phật sự. Ngài Kim Cang Thủ quán hết
thảy các đại hội ấy, cũng được
cùng quán cảnh thần diệu chẳng thể nghĩ bàn ấy.
V́ cớ sao vậy? Thân đại trí ấy thường
trụ tịch diệt, ĺa các nhân duyên, chẳng phải là
cảnh hữu tâm. Ĺa khỏi sự gia tŕ của Phật
thần lực, hết thảy các Bồ Tát sẽ chẳng
thuộc vào cảnh giới ấy.
Đức
Phật đă chỉ bày xong, bảo rằng: “Các ông hăy
nên quán cảnh giới rộng dài vô lượng nơi tự
luân của ta”. “Dài” tức là người khác chẳng
sánh bằng. Tôi cho rằng đây chính là nói [cảnh giới
ấy] “như thế nào”. “Rộng” là theo chiều
ngang, trọn khắp hết thảy các chúng sanh giới,
c̣n “dài”
là theo chiều dọc, tột cùng Phật giới. V́ thế
nói là “rộng dài”. Thân rộng dài như thế, ứng
hiện trọn khắp hết thảy, từ đâu mà có?
Chính là từ một chữ Chân Ngôn Vương mà hiện
chuyện ấy. Do một chân ngôn in vào thân mà thị hiện
hết thảy các thân. Do âm thanh của một chữ chân
ngôn mà phát ra âm thanh mầu nhiệm trọn khắp pháp giới.
Do tâm của Bổn Tôn trong một chân ngôn mà phô bày trọn
khắp hết thảy các cảnh trí huệ. Thích Ca Mâu Ni
Phật chính là thân bất không ấy vào khắp các thế
gian mà làm Phật sự. Do vậy, điều được
phô bày chính là thân Mâu Ni. Đức Phật làm Phật sự,
tức là Phật Thích Ca từ tự luân của đức
Tỳ Lô Giá Na mà xuất hiện, nhưng [hai vị Phật
ấy] chẳng hai, chẳng khác, đều trọn khắp
hết thảy mọi nơi. Do một chữ này giống
như Đại Không, v́ vốn bất sanh. Hăy nên biết:
Thân trăm chữ cũng giống như thế. Điểm
khác biệt là thân ba môn tam-muội-da của Như Lai
lưu xuất khắp thế giới, và mười
phương hư không đều trọn khắp, chẳng
có hư không nào mà chẳng trọn khắp. Hăy nên biết
hư không chẳng thể lường, thân cũng như
thế! Bí Mật Chủ! Các hữu t́nh chẳng thể biết
Thế Tôn. Đó là sự lưu xuất của ngữ
luân, cũng nên kiểm phần nói về tâm ngă trong kinh Hoa
Nghiêm. Diệu âm sanh ra diệu âm Đẳng Chánh Giác của
chư Phật, các thứ anh lạc trang nghiêm đều từ
ảnh tượng (h́nh tướng) trang nghiêm của Phật
sanh từ Thai Tạng, tức là dùng ngôn ngữ để
trang nghiêm tướng ấy. Từ thai tạng nơi tâm
mà sanh ra h́nh tướng Phật rộng dài không ngằn mé
để làm Phật sự. Điều chúng sanh chẳng
biết chính là tự luân này của đức Phật;
đó cũng chẳng phải là cảnh giới của Bồ
Tát. Nếu ĺa thần lực, sẽ chẳng thể quán,
có chúng sanh nào biết đến sự lợi ích ấy
ư? Trong các ngôn âm, Phật là tối thượng, các thứ
trang nghiêm suất lănh các thứ. Nói tóm lại, dùng vô tướng
để trang nghiêm. Từ tâm mà hiện ra thân chúng sanh hay
thân Phật theo từng loại. Do trụ trong Diệu Âm
tam-muội, hiện trọn khắp trước họ, thuận
theo bản tánh của họ, khiến cho họ được
hoan hỷ tín giải.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn ư vô lượng thế giới
hải môn biến pháp giới, ân cần khuyến phát thành
tựu Bồ Đề, xuất sanh Phổ Hiền Bồ
Tát hạnh nguyện. Ư thử diệu hoa bố địa
Thai Tạng trang nghiêm thế giới chủng tánh hải
trung thọ sanh, dĩ chủng chủng tánh thanh tịnh môn
tịnh trừ Phật sát, hiện Bồ Đề tràng nhi
trụ Phật sự. Thứ phục chí cầu Tam Miệu
Tam Bồ Đề cú, dĩ tri tâm vô lượng cố,
tri thân vô lượng. Tri thân vô lượng cố, tri trí vô
lượng. Tri trí vô lượng cố, tức tri chúng
sanh vô lượng. Tri chúng sanh vô lượng cố, tức
tri hư không giới vô lượng. Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng cố, đắc tứ
chủng vô lượng. Đắc dĩ, thành tối Chánh
Giác, cụ thập trí lực, hàng phục tứ ma, dĩ
vô sở úy nhi sư tử hống. Phật thuyết kệ
ngôn: - Cần Dũng thử nhất thiết, vô thượng
giác giả cú, ư bách môn Học Xứ, chư Phật sở
thuyết tâm.
(經)爾時世尊於無量世界海門遍法界慇懃勸發成就菩提,出生普賢菩薩行願。於此妙華布地胎藏莊嚴世界種性海中受生,以種種性清淨門淨除佛剎、現菩提場而住佛事。次復志求三藐三菩提句,以知心無量故,知身無量。知身無量故,知智無量。知智無量故,即知眾生無量。知眾生無量故,即知虛空界無量。祕密主!由心無量故,得四種無量。得已,成最正覺,具十智力,降伏四魔,以無所畏而師子吼。佛說偈言:勤勇此一切,無上覺者句,於百門學處,諸佛所說心。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn trong vô lượng
môn thế giới hải, trọn khắp pháp giới, ân cần
khuyên lơn, phát khởi [chúng sanh] thành tựu Bồ Đề,
xuất sanh hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ
Tát, thọ sanh trong tánh hải nơi
thế giới chủng trang nghiêm Thai
Tạng hoa mầu nhiệm rải đất, dùng đủ
loại môn thuộc tánh thanh tịnh để tịnh hóa
các cơi Phật, hiện Bồ Đề tràng để trụ
trong Phật sự. Kế đó, lại dốc chí cầu
câu Chánh Đẳng Chánh Giác, do biết tâm là vô lượng
mà biết thân vô lượng. Do biết thân vô lượng
mà biết trí vô lượng. Do biết trí vô lượng,
liền biết chúng sanh vô lượng. Do biết chúng sanh
vô lượng, liền biết hư không giới vô lượng.
Bí Mật Chủ! Do tâm vô lượng, đạt được
bốn loại vô lượng. Đă đạt được
rồi, thành Tối Chánh Giác, trọn đủ mười
trí lực, hàng phục tứ ma, do chẳng sợ hăi mà
sư tử hống. Đức Phật nói kệ rằng:
- Cần Dũng! Hết thảy câu, vô thượng giác ngộ
này, trong trăm môn Học Xứ, tâm do chư Phật nói).
“Chỗ
sanh” chính là cảnh đạt đến hay cảnh
để trụ? Sau đó, “vi diệu âm trang nghiêm thai tạng”
tức là từ một chữ mà sanh ra th́ gọi là Thai Tạng.
Từ một chữ mà sanh ra là Thai. Từ đó sanh ra th́
là ảnh tượng (h́nh ảnh, bóng dáng, sắc tướng),
như một tấm gương tṛn sạch đối diện
các sắc [sẽ chiếu soi h́nh bóng]. Cảnh đă chẳng
vào trong gương, gương cũng chẳng tới cảnh,
chỉ do nhân duyên ḥa hợp, h́nh bóng sẽ rành rành, chẳng
sanh, chẳng diệt, chẳng một, chẳng khác, chẳng
đến, chẳng đi, chẳng thường, chẳng
đoạn, tức là đồng thể chẳng thể
nghĩ bàn! H́nh bóng của Như Lai cũng lại như thế,
chẳng suy tưởng, chẳng tạo tác mà ứng hiện
hết thảy, đều thuận theo cái tâm của chúng
sanh mà khiến cho họ hoan hỷ, hiện làm Phật sự
cho chúng sanh. Tức là dùng một ngôn âm của Phật mà có
thể sanh ra hết thảy các Phật sự. Như trong
phẩm Lục Căn Tịnh, [Bồ Tát] c̣n có thể dùng
một diệu âm [vang vọng] trọn khắp cơi tam thiên,
huống hồ đức Như Lai là đấng sáu
căn thanh tịnh viên măn tột cùng ư? Khi đó, Ngài
thành Bồ Đề trong các pháp giới thuộc vô lượng
thế gian hải môn ([“môn”] cũng
có nghĩa là “miệng”), siêng tu hạnh nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát. Bồ Tát dùng hoa trải đất,
sanh từ biển chủng tánh trong thế giới Thai Tạng,
thọ các thứ môn thanh tịnh nơi tánh, tịnh hóa cơi
Phật, hiện ṭa Bồ Đề, trụ trong Phật sự.
Trên đây là [tóm lược nội dung] kinh văn. Do đại
trí quán đảnh vô lượng thế giới hải môn
ấy, “môn” có nghĩa là “chỗ để tiến
nhập”. Vô lượng thế giới hải khẩu ấn,
tức là nói đến cửa ngơ để các ḍng nước
xuôi đến, đổ vào [biển cả][10].
Do biết vô lượng thế giới hải môn ấy,
bèn siêng tu Bồ Đề, nhưng Bồ Đề này chẳng
phải là Bồ Đề kia, cho đến Bồ Đề
trọn khắp pháp giới. Do chúng sanh vô lượng, nên pháp giới vô
lượng;
nay đều khiến cho họ được thành tựu
trọn khắp.
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn ngự trong các pháp giới
thuộc vô lượng thế giới hải môn, ân cần khuyên lơn, phát khởi
thành tựu Bồ Đề, trọn
đủ viên măn hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ
Tát (Phổ Hiền tức là công
đức của Như Lai), xuất
sanh hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát. Do
gia tŕ nên hiện tướng như sau: Ở trong thế
giới Thai Tạng này, hoa mầu nhiệm phủ kín mặt
đất. Nói “này” tức là thế giới Tố Ha
(Saha, Sa Bà) này. Thọ sanh trong chủng tánh hải (“chủng
tánh” là nói chỗ thọ sanh, “hải” (biển) hàm
nghĩa “rộng nhiều chẳng gián đoạn”), dùng các
thứ tánh thanh tịnh để tịnh trừ cơi Phật
(tức là gia tŕ, thực hiện Phật sự, không ǵ chẳng
trọn khắp). Lại nữa, Bồ Đề chẳng
khác như trên, cùng nhập pháp giới. Đấy chính là hạnh
đại Bồ Đề. Nếu phát khởi hạnh
như thế, sẽ chính là hạnh Phổ Hiền. Khởi
nguyện như thế, sẽ chính là nguyện
Phổ Hiền. Bồ Tát v́ chuyện như thế; do vậy,
sơ phát tâm. “Hoa địa” (đất phủ hoa) là
như tịnh trị cho đất phẳng phiu, quét tước
thanh tịnh, rải rắc đủ thứ hoa có sắc,
hương, vị, xúc đáng yêu, đoan nghiêm trọn khắp
rồi ngồi lên đó. Nay tâm địa Đại Bi Thai
Tạng này cũng giống như thế. “Thai” là
sơ khởi, tức là chỗ phát khởi Như Lai. Do
sanh từ Như Lai tánh, mà Như Lai tánh sanh khởi là do chữ [trong chân ngôn]
sanh ra. Phát tâm như thế tức là địa vị
sơ khởi. “Hải” là biển chủng tánh của
Như Lai. Từ Thật Tánh ấy mà sanh ra hết thảy
công đức của Như Lai.
“Thai”
là dùng điều đó để làm căn bản. Do ngài
Phổ Hiền hành Như Lai hạnh, từ trong Thai Tạng
nơi tánh hải của Như Lai, dần dần trọn
đủ các chi phần thuộc lục căn của hết
thảy các Như Lai. Thân phổ môn ấy tùy thuộc các thứ
tâm hạnh sai biệt của chúng sanh, tánh ưa muốn mỗi
người mỗi khác, tức là dùng diệu môn thanh tịnh
để thanh
tịnh cái tâm, không ǵ chẳng được
rốt ráo. Thanh tịnh cái tâm như thế chính là trang
nghiêm hết thảy các cơi. Khi hành giả trụ trong Bồ
Tát địa như thế, liền có thể thấy trọn
khắp thế giới, hiện thân Như Lai ngồi
nơi đạo tràng mà tịnh hóa pháp giới luân. Tức
là có thể biết trọn khắp hết thảy các câu,
nghĩa là thành Phật. Cũng có thể thuận theo ḷng
ưa thích [của chúng sanh]
mà măn nguyện cho họ, chẳng để luống qua! V́
thế, kế đó kinh nói: “Phục thứ, Chánh Biến
Tri cú cầu giả, nhạo dục tâm vô lượng, tri
thân vô lượng, chứng thân vô lượng, tri trí vô
lượng chứng. Phục thứ nhạo cầu giả,
hoàn tu Bồ Tát đạo
dă” (lại nữa, cầu câu Chánh Biến
Tri, tâm ưa thích vô
lượng, biết thân vô lượng, chứng thân vô
lượng, chứng biết trí vô lượng, Lại nữa,
đă yêu thích mong cầu, lại c̣n tu đạo Bồ Tát). Đấy
chính là Phật sự. Chúng sanh do thấy đạo ấy,
liền khuyên họ phát tâm học đạo. Lại c̣n yêu
thích, siêng cầu câu Chánh Biến Tri, biết tâm vô lượng
tức là biết thân vô lượng, biết thân vô lượng
liền thành trí vô lượng, biết trí vô lượng,
biết chúng sanh vô lượng chứng, do chúng sanh vô lượng
mà chứng biết hư không vô lượng, đạt
được những điều ấy.
Bí Mật
Chủ! Do tâm vô lượng mà đạt được bốn
thứ vô lượng, [tức là] đă thành Chánh Đẳng
Giác, liền biết
chúng sanh vô lượng, biết chúng sanh vô lượng tức
là biết hư không giới vô lượng. Bí Mật Chủ!
Do tâm vô lượng mà đắc bốn loại vô lượng,
tức là trừ tâm ra, các thứ khác là thân, trí, chúng sanh, và
hư không. Đă được thành Tối Chánh Giác, trọn
đủ mười loại lực, hàng phục tứ
ma, thực hiện sư tử hống v.v… Đấy là
trăm môn Học Xứ tối thượng nơi “trí
cú”
(câu trí huệ) của hết thảy bậc Dũng Sĩ
được nói nơi tâm của chư Phật. Trên
đây là [tóm lược nội dung của] kinh văn, có ư
nói: Do nhập đại trí quán đảnh môn này, trụ
trong chủng tánh Bồ Tát, liền biết tâm là vô lượng.
Do biết tâm là vô lượng, liền biết hết thảy
thân là vô lượng. Do biết thân là vô lượng, liền
biết trí là vô lượng. Do biết trí là vô lượng,
liền biết hư không vô lượng. V́ lẽ nào vậy?
Hết thảy các pháp do tâm mà có. Liễu đạt điều
này th́ chính là pháp vô lượng, liền biết thân vô
lượng. Cái thân do duyên sanh mà thấy bèn tương ứng
với căn cơ, trí thuộc Độ môn tương ứng
với điều đó liền
khởi, cũng lại là vô lượng, mỗi mỗi
đều bằng với hư không. Do thân, trí, chúng sanh, và
hư không vô lượng, nên gọi là “tứ vô lượng”.
Do các thứ vô lượng ấy từ tâm mà sanh, nên gọi
là “tứ vô lượng tâm”.
Nếu
đắc tứ vô lượng tâm ấy, sẽ chính là
thành Chánh Giác, tức là trọn đủ mười lực,
[có thể] hàng phục tứ ma, có thể vô úy sư tử
hống. Các chuyện như thế đều do trụ
trong tứ vô lượng tâm ấy, trụ trong câu “hết
thảy các pháp tối thượng” mà được
thành tựu, nên gọi chữ Aṃ (अं)
là cái quả của Tất Địa. Trăm môn này không chỉ
do ta tự nói, mà hết thảy chư Phật cũng
đều nói như thế. Đấy là nói về các công
đức như Thập Lực v.v… trên đây. Dũng
Sĩ chính là Bí Mật Chủ. Bậc Dũng Sĩ siêng học
câu tối thượng giác như thế, tức là điều
cốt lơi trong trăm môn Học Xứ do chư Phật đă nói (ư nói: Sở dĩ thành Phật
là do học “tâm” (tức điều cốt lơi) của
trăm môn này). Trên đây là phẩm Bách Tự Quả Thọ
Dụng, tức là tùy theo mỗi môn mà có sự thọ dụng
tương ứng [với cái quả của mỗi
môn trong môn Trăm Chữ này].
21. Phẩm thứ hai mươi mốt:
Thành tựu địa vị trăm chữ (Bách tự vị
thành phẩm đệ thập nhị nhất, 百字位成品第二十一)
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ đắc vị tằng hữu,
nhi thuyết kệ ngôn: - Phật thuyết chân ngôn cứu
thế giả, năng sanh nhất thiết chư chân ngôn,
Ma Ha Mâu Ni vân hà tri? Thùy năng tri thử
tùng hà xứ? Thùy sanh như thị chư chân ngôn? Sanh giả
vị thùy duy diễn thuyết? Đại Cần Dũng
Sĩ thuyết trung thượng, như thử nhất thiết
nguyện khai thị.
(經)爾時執金剛祕密主得未曾有,而說偈言:佛說真言救世者,能生一切諸真言。摩訶牟尼云何知,誰能知此從何處?誰生如是諸真言?生者為誰惟演說?大勤勇士說中上,如此一切願開示。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ đạt được
điều chưa từng có, bèn nói kệ rằng: - Phật:
Đấng cứu đời nói chân ngôn, hay sanh ra hết
thảy chân ngôn. Ma Ha Mâu Ni v́ sao biết? Ai biết chân ngôn từ nơi
đâu? Ai sanh ra chân ngôn như thế? Người sanh sẽ
v́ ai diễn nói? Bậc
Đại Cần Dũng tối thượng thuyết, hết
thảy như thế nguyện khai thị).
Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang
Thủ Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Hy hữu
Thế Tôn!” Kế đó, nói kệ. “Chân ngôn cứu thế
giả” (ư nói môn trăm chữ trên đây) có thể sanh
ra các chân ngôn. “Chân ngôn cứu thế”: Làm sao biết
các chân ngôn sanh khởi? Ai có thể biết? Ở nơi
nào? Ai sanh ra các chân ngôn của đấng Đại Mâu Ni?
V́ ai mà nói? Do hết thảy các vị Đại Dũng Sĩ nói, nói
với người ước nguyện. Đó là [các ư chánh
yếu] trong kinh văn. Khi đó, ngài Bí Mật Chủ nghe
đức Phật nói [môn trăm chữ xong], đạt
được điều chưa từng có, bạch rằng:
“Đức Thế Tôn hy hữu đă nói bậc
chân ngôn cứu
thế này. “Bậc cứu thế” chính là Phật.
Như Phật trong hết thảy chúng sanh là chỗ đại
quy y, cứu vớt, che chở, chân ngôn này cũng thế,
trong hết thảy các chân ngôn, giống
như đấng cứu thế, là chỗ cứu giúp, che
chở của các chân ngôn. Như Phật là chỗ để
hết thảy quy hướng; chân ngôn này cũng thế,
là chỗ quy hướng của hết thảy các chân ngôn.
Bậc đại thánh giả nghe đức Phật nói, liền
do một chữ mà có thể sanh ra vô lượng chân ngôn,
thân, miệng, ư sai biệt, tùy theo tánh của chúng sanh mà phô
bày các loại thân, nói đủ loại pháp, hiện đủ
loại thần biến. Do vậy, [ngài Kim Cang Thủ] hỏi
chân ngôn này sanh như thế nào? Lại do ai chứng biết?
Sanh ở nơi đâu? Ngài hỏi ba sự ấy.
Đại Mâu Ni là [từ ngữ để] tán thán [đức
Phật]. [Lời hỏi của ngài Kim Cang Thủ lại gồm
bốn ư]: Một, biết như thế nào? Hai, người
biết là ai? Ba, [sanh] ở nơi nào, hàm ư từ chỗ nào
mà có được kinh này? Bốn, ai sanh ra các chân ngôn?
Trước là hỏi ai được biết? C̣n bốn
điều sau nhằm hỏi người sanh là ai? Đại
Dũng Sĩ [trong lời kệ của
ngài Kim Cang Thủ] chính là Phật. Hết thảy [các
điều con đă thắc mắc ấy] đều
xin [đức
Thế Tôn] nói, nói
cho bậc trung thượng. Nguyện đấng Nhất Thiết
Trí là đấng Dữ
Nguyện (ban
cho ước nguyện) hăy
nói. Đấy
là tán thán Phật đức (công đức của Phật),
[Ngài là đấng] có thể thỏa măn hết thảy các
nguyện. Do vậy, gọi
Ngài là Dữ Nguyện. Bởi đó, thỉnh đức Phật nói. Phật
là bậc Đại Mâu Ni tự tại viên măn trong các pháp.
(Kinh) Nhĩ thời, Bạc
Già Phạm, pháp tự tại Mâu Ni, viên măn phổ châu biến,
tất biến chư thế giới, nhất thiết trí
huệ giả, Đại Nhật Tôn cáo ngôn: - Thiện tai
Ma Ha Tát, đại đức Kim Cang Thủ! Ngô
đương nhất thiết thuyết, vi mật tối
hy hữu, chư Phật chi bí yếu, ngoại đạo
bất năng tri. Nhược Bi Sanh Mạn Đồ,
đắc Đại Thừa quán đảnh, điều
nhu, cụ thiện hạnh, thường bi, lợi tha giả.
Hữu duyên quán Bồ Đề, thường sở bất
năng kiến.
(經)爾時薄伽梵,法自在牟尼,圓滿普周遍,悉遍諸世界,一切智慧者,大日尊告言:善哉摩訶薩,大德金剛手!吾當一切說,微密最希有,諸佛之祕要,外道不能知。若悲生漫荼,得大乘灌頂,調柔具善行,常悲利他者,有緣觀菩提,常所不能見。
(Kinh: Lúc bấy giờ, đức Bạc Già Phạm
là đấng Mâu Ni tự tại trong các pháp, là đấng
viên măn trọn khắp, trong trọn khắp các thế giới,
Ngài là bậc trọn đủ hết thảy trí huệ,
chính là đức Đại Nhật bảo rằng: - Lành
thay, Ma Ha Tát, đại đức Kim Cang Thủ! Ta sẽ
nói hết thảy, bí yếu của chư Phật, kín
nhiệm, hiếm có nhất, ngoại đạo chẳng
thể biết. Nếu quán đảnh Đại Thừa,
trong Bi Sanh Mạn Đồ, thuần dịu, đủ thiện
hạnh, tâm
thường bi, lợi người. Hữu
duyên
quán Bồ Đề, sẽ thường chẳng thể
thấy).
Nói như thế xong, đức Thế Tôn là bậc
đại Mâu Ni tự tại trong các pháp, trọn khắp
Nhất Thiết Trí của các vị Tỳ Lô Giá Na trong các
thế giới bèn bảo rằng: -Lành thay! Lành thay, Bậc
Ma Ha Tát Kim Cang Thủ trọn đủ đức. Ta sẽ
nói hết thảy (tức
là v́ các ông) điều bí mật trọng yếu, hy hữu, bí mật nhất của
chư Phật mà hết thảy các ngoại đạo chẳng
thể biết. Đó là các Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la
trong Quán Đảnh của Đại Thừa (từ
đây trở đi là Sanh Đàn Quán Đảnh). “Điều
nhu cụ thiện hạnh, thường bi lợi tha giả,
hữu duyên quán Bồ Đề, bỉ thường bất
năng kiến” (Kẻ tâm tánh điều thuận, nhu
ḥa, trọn đủ các hạnh lành, thường có tâm bi,
lợi ích người khác, hữu duyên quán Bồ Đề,
sẽ chẳng thể thường trông thấy). “Phổ biến”
là trong thế gian đều trọn khắp. Khi đó,
đức Phật v́ muốn nói tâm pháp chân ngôn này, liền
dùng thần lực gia tŕ, khiến cho trọn khắp pháp
giới đều có âm thanh ấy nói với ngài Kim Cang Thủ.
Đấng
Nhất
Thiết Trí Tỳ Lô Giá Na bảo: “Lành thay, lành thay, bậc
đại chúng sanh là đại đức Kim Cang Thủ!
Ta sẽ nói pháp bí mật hy hữu bậc nhất trong hết
thảy các pháp bí mật nhất của chư Phật,
hết thảy các ngoại đạo chẳng biết!”
Trên đây là [các ư chánh trong] kinh văn. Đức Phật
tán thán ngài Kim Cang Thủ: “Lành thay! Lành thay! Bậc đại
đức Chấp Kim Cang”. “Đại đức”: Trọn
đủ vạn đức. Pháp này chính là bí mật nhất
trong hết thảy các bí mật của Như Lai, tối
thượng trong các bí tạng, cùng được thủ
hộ, chẳng hư vọng truyền cho người
khác, là pháp khó
có hy hữu
bậc nhất. Nay pháp bí mật nhất trong các pháp này, hết
thảy ngoại đạo đều chẳng thể hay
biết. Nhưng ngoại đạo có hai thứ: Một
là các loại ngoại đạo thế gian, hai là trong Phật
pháp có các ngoại đạo. [Sở dĩ có loại thứ
hai là] do họ tuy đă nhập Phật pháp, nhưng chưa thể biết bí mật
của Như Lai, vẫn là tâm tà kiến, hành đạo ở ngoài
lư. V́ thế, cũng gọi là Ngoại. Hai loại ngoại
đạo ấy đều không thể biết pháp này. “Ngoại
đạo trong Phật pháp” tức là hàng Nhị Thừa. Phật
chẳng tùy tiện trao [pháp này] cho người khác, do Ngài
thầm suy nghĩ đă lâu, đợi đúng căn cơ
mà trao.
Nay
người nào thích hợp nghe pháp này? V́ thế, kế
đó [chánh kinh] nói nếu ai được nhập pháp
Đại Bi Sanh Quán Đảnh trong Đại Thừa, sẽ
thích hợp để nghe. Nếu không, sẽ chẳng
được [nghe pháp này]. Kế đó lại hỏi, cần
phải xem xét người như thế nào th́ mới có thể
dẫn nhập [đàn tràng, tiếp nhận] quán đảnh?
Nếu người nào tánh điều phục, mềm mỏng,
chất trực, đầy đủ các thiện hạnh;
người như thế mới có thể dẫn nhập
pháp quán đảnh. Lại phải có tâm thường bi th́
mới thích hợp dẫn nhập Mạn-đồ-la.
[Chánh kinh nói] “thường bi” [nhằm phân định
rơ]: Nếu như có ai trong lúc này th́ có ḷng Bi, lúc khác chẳng
có, hoặc ở nơi này th́ có, nơi khác th́ không, hoặc
có ḷng Bi đối với người thân, chẳng có ḷng
Bi đối với kẻ oán. Nay [người thường
bi] th́ chẳng phải là như vậy, trong hết thảy
các thời, các chốn, đều thường có bi tâm. Lại
c̣n [là bi tâm] b́nh đẳng rộng lớn trọn khắp.
Người như thế mới thích hợp dẫn nhập
quán đảnh. Đă được quán đảnh mới
thích hợp nghe pháp này, chẳng phải như các kinh
thường lưu truyền. Bài kệ biện định
[người căn cơ thích hợp để nghe, học,
tu tập] trong kinh Pháp Hoa cũng có thể dẫn
dụng [nhằm nêu rơ ư
nghĩa] liệu giản
căn cơ [ở đây].
Lại
nữa, nếu là người hữu duyên quán th́ cũng chẳng
thích hợp nghe pháp này. Phật pháp ĺa hết thảy các
tướng, ĺa hết thảy các duyên.
Nếu có tướng, có duyên, tức chẳng ĺa Đoạn
Kiến và Thường Kiến, cho nên không được
nghe pháp này. Nay nói “vô duyên”, há có phải là bài bác hết
thảy các pháp đều là không, là vô sở hữu ư?
Chẳng phải như vậy! Phật pháp tuy ĺa duyên, ĺa
tướng, nhưng do phương tiện trọn đủ
hết thảy các thứ cảnh giới công đức và
thần lực tốt lành chẳng thể nghĩ bàn, từ
ngay nơi tướng mà vô tướng, từ
ngay vô tướng mà trọn đủ hết
thảy các tướng, là duyên mà vô duyên, tuy vô duyên mà trọn
đủ hết thảy các duyên, chẳng phải chỉ
là rỗng tuếch, vô sở hữu mà thôi! Ư chánh yếu là
người trọn đủ đại hạnh, đại
nguyện Bồ Tát, phát khởi đại tâm, đối với
người như thế th́ mới có thể nói.
(Kinh)
Bỉ
năng hữu tri thử, nội tâm chi Đại Ngă, tùy kỳ
tự tâm vị, đạo sư sở trụ xứ, bát
diệp tùng ư sanh, liên hoa cực nghiêm lệ, viên măn nguyệt
luân trung, vô cấu do tịnh kính. Ư bỉ thường
an trụ, chân ngôn cứu thế tôn, kim sắc cụ
quang diễm, trụ tam-muội hại độc, như
nhật nan khả quán, chư chúng sanh diệc nhiên.
(經)彼能有知此,內心之大我,隨其自心位,導師所住處,八葉從意生,蓮華極嚴麗。圓滿月輪中,無垢猶淨鏡,於彼常安住,真言救世尊。金色具光焰,住三昧害毒,如日難可觀,諸眾生亦然。
(Kinh: Người ấy sẽ biết
được,
Đại Ngă trong nội tâm, tọa vị trong tự tâm,
là chỗ đạo sư trụ. Đóa sen sanh từ ư,
tám cánh cực nghiêm, đẹp. Trụ vầng trăng viên
măn, vô cấu như gương sạch. Thường an trụ
trong ấy, đấng cứu thế chân ngôn, sắc vàng,
lửa rực sáng, trụ tam-muội, hại độc,
như mặt trời khó nh́n, các chúng sanh cũng thế).
Trong
phần trước đă hỏi “từ điều ǵ
mà sanh?”, nay đáp “từ Phật tâm mà sanh”. “Đạo
sư” tức là Phật. Nếu thuận theo chỗ trụ
của đấng đạo sư, sẽ có thể biết
được chân ngôn này. [Nói] “nội tâm chi Đại
Ngă” (Đại Ngă trong nội tâm) chính là tán thán cái tâm
này. Thuận theo đó mà sanh, tức là từ hết thảy
các chi phần mà sanh. “Tùy kỳ tự tâm vị, đạo
sư sở trụ xứ, bát diệp tùng ư sanh, liên hoa cực
đoan nghiêm. Viên măn nguyệt luân trung, vô cấu đồng
ư kính, ư bỉ thường an trụ, chân ngôn cứu
thế tôn, hoàng sắc cụ quang viêm, hại độc trụ
tam-muội, như nhật nan khả quán” (Thuận theo
các vị trong tự tâm, đó là chỗ trụ của bậc
đạo sư. Từ ư sanh ra đóa sen tám cánh tột bậc
trang nghiêm, đẹp đẽ. Ở trong vầng trăng
viên măn, vô cấu giống như gương, bậc chân
ngôn cứu đời sắc vàng, trọn đủ các tia
sáng tỏa ra như ngọn lửa, trừ phiền năo, trụ
trong tam-muội, như vầng mặt trời khó thể thấy
được): Hết thảy các chúng sanh ấy đều
giống như đóa sen tám cánh sanh từ ư, tột bậc
đoan nghiêm như thế, ở trong vầng trăng tṛn,
giống như tấm gương vô cấu. Bậc đại
đức chân ngôn cứu thế thường trụ trong ấy,
[thân Ngài] kim sắc, trọn
đủ các tia sáng như ngọn lửa mà trụ, tức
là hoa đài ấy sanh từ tâm ư. Đó chính là quán đóa
sen tám cánh trong tự tâm. Hoa ấy chẳng sanh từ
nơi khác, mà sanh từ ư. Ư chính là hoa, chẳng hai, chẳng
khác. Hoa đài ấy tṛn sáng như mặt trăng, thanh tịnh,
vô cấu, giống như tấm gương tṛn, chẳng
vật nào trong thế gian có thể sánh ví, chỉ tấm
gương tṛn là có thể sánh ví [phần nào], khiến cho
người nghe hiểu ư quên lời. Nhưng thật ra,
[cái tâm ấy sáng sạch hơn tấm gương] gấp
trăm ngàn vạn lần, chẳng thể thí dụ
được! Nay ngự trong vầng tṛn sáng ấy, có
đấng chân ngôn cứu thế, trọn đủ công to
lớn, màu vàng ṛng, có quang minh như ngọn lửa. Ngài trụ
trong tam-muội tịch nhiên để trụ nơi đó.
Hăy
nên quán chân ngôn vương một chữ. Từ chân ngôn
vương ấy, liền quán Bổn Tôn, hoặc quán đức
Đại Tỳ Lô Giá Na như trong pháp Du Già đă nói
trước kia. Do nói chưa phân minh, hăy nên tra cứu thêm;
nhưng phần kinh văn trên đây đă đủ để
dẫn chứng ḥng kiểm nghiệm. “Hại” có
nghĩa là “hết thảy các phiền năo thảy đều
bị đoạn trừ”. Oai quang ấy giống như
ḥa hợp trăm ngàn mặt trời! Oai quang mạnh mẽ,
hừng hực, [khiến cho các chúng sanh] giống như
đứa trẻ mới sanh bảy ngày chẳng thể ngửa
nh́n mặt trời chói chang để thấy được
ánh sáng của nó. Nay quang minh này cũng giống như thế.
(Kinh)
Thường
hằng ư nội ngoại, phổ châu biến gia tŕ,
dĩ như thị huệ nhăn, liễu tri ư minh kính. Chân
Ngôn giả huệ nhăn, quán thị viên kính cố,
đương kiến tự h́nh sắc, tịch nhiên Chánh
Giác tướng. Thân sanh thân ảnh tượng, ư tùng ư sở
sanh, thường xuất sanh thanh tịnh, chủng chủng
tự tác nghiệp. Thứ ư bỉ quang hiện, viên chiếu
như điện diễm. Chân Ngôn giả năng tác, nhất
thiết chư Phật sự. Nhược kiến thành
thanh tịnh, văn đẳng diệc phục nhiên,
như ư sở tư niệm, năng tác chư sự nghiệp.
(經)常恒於內外,普周遍加持,以如是慧眼,了知意明鏡。真言者慧眼,觀是圓鏡故,當見自形色,寂然正覺相。身生身影像,意從意所生,常出生清淨,種種自作業。次於彼光現,圓照如電焰,真言者能作,一切諸佛事。若見成清淨,聞等亦復然,如意所思念,能作諸事業。
(Kinh:
Thường luôn ở trong ngoài, gia tŕ trọn khắp cả.
Do huệ nhăn như thế, biết rơ gương ư
sáng. Mắt huệ bậc Chân
Ngôn, do quán gương tṛn ấy, sẽ thấy h́nh sắc
ḿnh, tướng Chánh Giác vắng lặng. Thân sanh ra h́nh
bóng, ư từ ư mà sanh, thường xuất sanh thanh tịnh,
đủ loại nghiệp tự làm. Kế đó, trong
quang hiện, chiếu trọn như ánh chớp. Bậc
Chân Ngôn hay làm, hết thảy các Phật sự. Nếu thấy,
thành thanh tịnh, hễ nghe th́ cũng vậy. Đúng
như ư suy nghĩ, hay làm các sự nghiệp).
“Thường
hằng ư nội ngoại, phổ châu biến gia tŕ.
Dĩ như thị huệ nhăn, nhi tri ư ư kính” (Thường
luôn ở trong ngoài mà gia tŕ trọn khắp. Dùng huệ nhăn
như thế để biết được tấm
gương ư): Hiểu [“ư kính”] là tâm kính cũng
được. Huệ nhăn của hành giả Chân Ngôn quán tấm
gương tṛn ấy, sẽ thấy h́nh sắc của
chính ḿnh (tự thấy thân ḿnh) là tướng Chánh Giác vắng
lặng. Thân và h́nh bóng sanh bởi thân, [chánh kinh gọi
là] “thân, thân sở sanh tượng”, chữ “thân”
trước là [nói về] thân
hữu vi, hữu lậu; chữ
“thân” sau là thân vô vi. Tâm sanh ra tâm (tức
là câu “ư tùng ư sở sanh” nghĩa là “ư sanh từ ư”,
lời sớ diễn giải thành “tâm sanh ra tâm”) tức
là từ cấu
tâm sanh ra tịnh tâm. “Thường
xuất sanh thanh tịnh, chủng chủng tự tác nghiệp”
(thường sanh ra đủ loại nghiệp tự tạo
thanh tịnh), [tức là] nghiệp trong A Lại Da Thức
ô nhiễm có thể sanh ra tịnh nghiệp. Trừ khử
bất tịnh nghiệp, tịnh nghiệp sẽ hiện.
Trừ khử nghiệp bất tịnh,
tịnh nghiệp sẽ
hiện. Tịnh nghiệp đă hiện, sẽ
sanh ra quang minh giống như tia chớp chiếu soi trọn
khắp. [Đó chính là ư nghĩa của hai câu] “thứ
đương bỉ quang hiện, viên chiếu như
điện diễm” (kế đó,
quang minh ấy sẽ hiện, chiếu trọn khắp
như ánh chớp) [trong chánh kinh].
Cũng chẳng chấp vào ư nghĩa của chớp; chỉ
dùng ư nghĩa ánh sáng đủ loại màu viên măn, ánh sáng
đủ màu viên măn chiếu soi. [Nhờ đó], “Chân Ngôn
giả năng tác, nhất thiết chư Phật sự”
(người tŕ chân ngôn có thể làm hết thảy các Phật
sự).
Hăy
nên biết “trọn khắp trong ngoài” có ư nói về gương. “Gương” chính là hoa đài
viên minh. Hăy nên biết gương ấy chính là ư. Hăy nên biết
gương ấy chính là tự tâm. Dùng phương tiện
nào để quán biết? Chính là phương tiện
như trên: Nơi hai mắt, đặt chữ Ra (र).
Dùng huệ nhăn ấy để quán cái tâm Thật Tướng
như tấm gương tṛn sáng. V́ thế, được
hiểu rơ hiện tiền. Ai có thể quán? Chính là hành nhân
Chân Ngôn. Vị hành nhân ấy dùng mắt chữ Ra diệu
huệ quang minh để quán tấm gương nơi hoa
đài. Thoạt đầu là quán bên ngoài ư, quán rành rẽ,
rơ ràng: Như Lai ở trong vầng tṛn sáng
ấy, cho đến âm
thanh, sắc tướng, thảy đều vô biên. Đă hiểu rành rẽ
như thế rồi, liền dẫn khởi những
điều ấy thành nội thân, tức là thân Tỳ Lô
Giá Na đă quán trên đây vắng lặng, chánh thọ, oai
quang không ngằn mé, quán đó là thân của chính ḿnh, tức là
khiến cho thân chính ḿnh giống như thân Ngài, vắng lặng
mà trụ trong vầng tṛn sáng, giống hệt như đức
Phật ấy. Do ĺa hết thảy các tướng mà hiện bày
tướng ấy, bèn gọi là “tướng chân thật”.
V́ sao vậy? Hoa sen ấy sanh từ ư, tức là trước
đó dùng chữ Ra đặt nơi mắt để quán
tấm gương trên hoa đài nơi tâm. Đó chính là “thấy
bên ngoài”. Từ cái thấy bên ngoài trở thành cái thấy
bên trong, tức là tự hiểu rơ cái tâm. Do đó, kinh nói về
huệ nhăn như thế. “Huệ nhăn tŕ tụng”: Từ
nơi gương, trông thấy h́nh sắc của chính ḿnh
và Phật tướng vắng lặng. Thân (thân hữu lậu),
thân sanh (cái thân sanh bởi thân hữu lậu, tức thân vô
lậu) duyên theo ư tâm mà sanh ra, thường tịnh hóa các loại
nghiệp của chính ḿnh. Kế đó, do quang minh [sanh ra từ
tịnh nghiệp] như ánh chớp sáng ḷa, chiếu quanh khắp
người tŕ chân ngôn, người ấy sẽ có thể
làm hết thảy các Phật sự. Cũng có thể nói “kiến
nhược tịnh ngă” (như thấy cái ngă trong sạch)
có nghĩa là “làm hết thảy các sự”.
Nói “sanh”
tức là thân ngữ ư sanh. Trước là quán h́nh tượng
Phật viên minh, sắc vàng v.v… Hăy nên biết các điều
ấy sanh từ ư, liền từ [h́nh tướng] bên ngoài
mà dẫn khởi vào trong (tức là biến h́nh tướng,
ngôn ngữ v.v… ấy thành ba nghiệp của chính ḿnh),
như thân ḿnh giống như thân ấn của Phật, tiếng
nói của ḿnh giống như âm thanh nơi chân ngôn của
Phật, tâm đồng Phật tâm. “Sanh” đều là
từ ư mà sanh. Tức là do sanh ra sự “sanh” ấy, có
thể tịnh hóa hết thảy các nghiệp. V́ thế
nói là “thường tịnh chủng chủng tự nghiệp”
(thường tịnh hóa các thứ nghiệp của chính
ḿnh), tức là ĺa hết thảy các nghiệp. Nếu ĺa hết
thảy các nghiệp, bèn gọi là “chư
Phật”. Nếu
giác tri như thế, sẽ có thể dùng viên quang để
chiếu trọn khắp. “Biến chiếu” (chiếu trọn khắp)
chính là làm Phật sự.
Do thân, khẩu, ư trang nghiêm chiếu trọn khắp, sẽ
làm hết thảy các Phật sự, tức là giống
như đức Tỳ Lô Giá Na. Ai có thể thực hiện
Phật sự ấy? Chính là người tŕ chân ngôn. Đấy
đều là đức Phật trả lời ngài Kim Cang
Thủ [câu hỏi về] chỗ sanh của chân ngôn. Tức
là chân ngôn ấy sanh từ thân, khẩu, ư của hành giả.
Nếu biết như thế, tức là trong ngoài đều
thanh tịnh mà làm Phật sự. Kinh nói “tự nghiệp”
tức là Phật sự, nghĩa là hiện trọn khắp
sắc thân, hoặc hiện bày hành Bồ Tát đạo khắp
chốn, tám tướng thành Phật, các sự nghiệp bổn
sanh vô lượng vô biên. Nói tóm lại, đều là tự
nghiệp của Như Lai. Nếu có thể biết như
thế, chính là thành Phật. Người tŕ chân ngôn do trụ
trong phương tiện, quán theo thứ tự trên đây,
hạnh chân ngôn ấy chính là thân hữu duyên khởi lên, chẳng
có ǵ khác biệt với Phật. V́ thế kinh nói: “Nhược
kiến thành thanh tịnh, văn đẳng diệc phục
nhiên” (nếu thấy th́ sẽ thành thanh tịnh. Nghe, biết
v.v… th́ cũng giống như thế). Người thấy,
nghe, chạm, biết đều được thanh tịnh.
Chữ “năng” ở đây chứa đựng nhiều
ư nghĩa. “Như ư sở tư niệm, năng tác nhất
thiết sự” (Đúng như ư niệm suy nghĩ mà có
thể làm hết thảy các sự): Kế đó, quang minh
giống như ánh chớp vây quanh người tŕ chân ngôn
để làm hết thảy các Phật sự. Như cái
ngă thanh tịnh cũng nói là “làm hết thảy các Phật
sự”, ư nghĩa cũng giống như thế.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Chân ngôn môn tu Bồ Tát hạnh
chư Bồ Tát như thị tự thân ảnh tượng
sanh khởi vô hữu thù thắng quá Tam Bồ Đề,
như nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư đẳng, tứ
đại chủng nhiếp tŕ, tập tụ, bỉ
như thị tự tánh Không, duy hữu danh tự sở chấp,
do như hư không, vô sở chấp trước, đẳng
ư ảnh tượng. Bỉ Như Lai thành Chánh Giác, hỗ
tương duyên khởi, vô hữu gián tuyệt. Nhược
tùng duyên sanh, bỉ tức như ảnh tượng sanh.
Thị cố, chư Bổn Tôn tức ngă, ngă tức Bổn
Tôn, hỗ tương phát khởi thân sở sanh thân, tôn h́nh
tượng sanh. Bí Mật Chủ! Quán thị pháp duyên thông
đạt huệ, thông đạt huệ duyên pháp, bỉ
đẳng đệ vi tác nghiệp, vô trụ tánh Không.
(經)復次祕密主!真言門修菩薩行諸菩薩如是自身影像生起無有殊勝過三菩提,如眼耳鼻舌身意等四大種攝持集聚,彼如是自性空,唯有名字所執,猶如虛空,無所執著,等於影像。彼如來成正覺,互相緣起無有間絕。若從緣生,彼即如影像生。是故諸本尊即我、我即本尊,互相發起身所生身尊形像生。祕密主!觀是法緣通達慧、通達慧緣法,彼等遞為作業,無住性空。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn, h́nh
bóng của tự thân sanh khởi như thế, chẳng có
ǵ hơn được Chánh Giác, như mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ư do bốn đại chủng nhiếp
tŕ, tụ tập, tự tánh Không như thế chỉ có chấp
trước danh tự,
giống như hư không chẳng bị chấp trước,
giống như h́nh bóng. Đức Như Lai thành Chánh Giác,
duyên khởi lẫn nhau, chẳng có gián đoạn, cách tuyệt.
Nếu sanh từ duyên, sẽ giống như sanh ra ảnh
tượng. V́ thế, các Bổn Tôn chính là ta, ta chính là Bổn
Tôn, hỗ tương phát khởi cái thân sanh bởi thân,
sanh ra h́nh tượng chư tôn. Bí Mật Chủ! Quán pháp
duyên này thông đạt huệ, thông đạt pháp duyên
nơi huệ, lần lượt thực hiện các nghiệp
ấy, là tánh Không vô trụ).
Bí Mật
Chủ! Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, trong
tâm sanh duyên khởi như thế, không có ǵ thù thắng
như Phật. Trên đây là kinh văn. Thầy nói chưa
phân minh, hăy nên hỏi thêm (có thể suy nghĩ nghĩa này,
theo thứ tự phối ứng với h́nh tượng).
H́nh tượng cũng là duyên khởi, tức là quán đóa
hoa tám cánh nơi tâm, trên hoa có vầng tṛn sáng, giống
như một tấm gương thanh tịnh. Thoạt
đầu, chưa sáng tỏ ngay, do dùng phương tiện
huệ nhăn chữ Ra,
nên dần dần biết rơ, cho đến từ trong tấm
gương tṛn, thấy thân chính ḿnh bằng với hết
thảy chư Phật. Pháp sanh như thế chính là từ
nhân duyên mà khởi. Nếu từ duyên khởi, quán môn Bất
Sanh này liền nhập thể tánh của pháp giới. Lấy
huệ nhăn làm nhân, cảnh thanh tịnh làm cái để
duyên theo, vô lượng Phật sự thuộc tự nghiệp
sẽ từ nhân duyên mà sanh, nhưng thật sự chẳng
phải là tự sanh, chẳng phải là tha sanh, chẳng phải
là cộng sanh (tự và tha cùng sanh), chẳng phải là không
có nhân, như Trung Luận v.v… đă nói. Pháp này thù thắng,
không chi hơn được! Như trong phần trước
luôn nói “ĺa hết thảy
các tướng, chẳng đối đăi,
vô duyên”, mà nay lại thực hiện các pháp
Quán này, há chẳng phải là mâu thuẫn ư? Như từ
chữ A sanh ra hết thảy các chữ. Khi sanh hết thảy
các chữ th́ chính là
ư nghĩa “vốn chẳng sanh”. Ở đây, cũng
giống như thế, Phật do dùng sức phương
tiện, cho nên trong pháp vô tướng tịch diệt mà thực
hiện hạnh Du Già này, từ trong vô tướng mà nói các
tướng, từ ngay nơi các tướng ấy mà chính
là vô tướng. Cái gọi là “tướng” chính là
pháp sanh bởi duyên, nhưng thật ra chẳng phải là tự
sanh, chẳng phải là tha sanh, ĺa “bát bất”[11],
tức là vô tướng bậc nhất, chẳng ĺa tướng
mà nói riêng có vô tướng! Nếu riêng
lập ra cách nói ấy, tức là giống
như Đoạn Không của ngoại đạo! Nhưng
có kẻ gạn rằng: Nay lại quán các thứ cảnh
giới thân, ngữ, ư của Bổn Tôn, [há chẳng phải
là mâu thuẫn ư?].
Lại
này, Bí Mật Chủ! Bồ Tát tu Chân Ngôn môn, h́nh ảnh sanh
từ thân, tức là h́nh ảnh sanh khởi từ
nơi thân. “Thân” là cấu thân, “ảnh” là tịnh
thân. Các thứ khởi lên ấy không ǵ hơn Phật
được. Ư nói: Sự thù thắng do h́nh ảnh khởi
lên không ǵ hơn Phật được. Như mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ư chấp giữ như thế, tự
tánh ấy rỗng không, chỉ có danh tự; điều
được chấp trước giống như hư
không! Chẳng chấp trước do nhân nghiệp mà sanh. “Giống
như h́nh ảnh” tức là tướng. “Tướng” chính là pháp thế
gian. Nay đức Phật nói “hạnh chân ngôn thành Phật”,
chính là nói về pháp tam muội hữu tướng trong thế
gian. V́ sao? Do đó, kế tiếp, đức Phật bèn dẫn
thí dụ để giảng rơ. Như mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân v.v… do tứ đại chủng nhiếp
thủ như thế,
tự tánh của chúng là Không, chỉ có danh tự. Hăy nên biết
sở chấp (những điều bị chấp trước)
giống như hư không, không có cái để chấp giữ,
từ nhân nghiệp (nghiệp thuộc
về nhân, hay cái nghiệp tạo thành cái nhân)
mà sanh ra h́nh ảnh. Kinh văn nói như thế đó. Cái
nhân như gương, nghiệp như thân, giống như
đối trước gương mà ảnh hiện.
Như hành giả trước là quán tấm gương sáng
nơi cái tâm ngoại duyên, dẫn nhập [các ngoại duyên
ấy trở thành] thân ḿnh. Nếu tự và tha b́nh đẳng
chẳng hai, tức là Du Già đă thành. Thân chính ḿnh làm nhân,
những cái được duyên theo làm duyên. Do nhân duyên ḥa hợp
mà có h́nh ảnh sanh ra. Nếu hiểu rơ nhân duyên ấy, liền
thành Đẳng Chánh Giác. Ai thành Chánh Giác? Chính là hành nhân Chân
Ngôn. Ư này giống như ngũ căn trong thế gian, từ
nhân duyên Tứ Đại mà sanh, từ các thứ như
nghiệp v.v… mà sanh. Tuy hữu tướng, hữu duyên,
nhưng tự tánh là Không, tức
là giống như pháp vô tướng bậc
nhất. Nay Du Già này cũng thế, tuy dường như
có tướng, nhưng từ duyên sanh. Thật Tướng
của duyên sanh chính là cái thể pháp giới của chữ
A; sao có thể bắt bẻ là hữu tướng
được ư? Nếu liễu đạt ư nghĩa
như thế, tức là thành Chánh Giác. V́ thế, kinh nói “như
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư do tứ đại
chủng nhiếp thủ, nhưng tự tánh của chúng là
Không. Cái tên rỗng không như thế, chỉ là chấp
trước”.
Hư
không giống như chẳng chấp trước, do nghiệp
mà sanh ra h́nh ảnh v.v… Như Lai thành Chánh Giác, làm duyên khởi
lẫn nhau, trong sự liên tục chẳng gián đoạn
như duyên sanh. Đó là sanh ra ảnh tượng. V́ thế,
chư thần, chư tôn chính là ta, ta chính là chư thần,
chư tôn, phát khởi lẫn nhau. Thân của chư tôn sanh
từ thân ta, giống như sanh ra h́nh tượng của
chư thiên. Kinh văn nói như thế đó! Cái được
ta dấy lên (h́nh tượng của chư tôn thánh) giống
như lúc do tấm gương tṛn, nh́n vào tấm
gương sáng đó, [sẽ thấy] h́nh bóng của thân
chính ḿnh hiện ra. Do chưa thấy viên minh, sẽ chẳng
có ảnh tượng. Như Lai thành Chánh Giác, duyên khởi
lẫn nhau, như trong gương sanh ra h́nh ảnh, h́nh ảnh
sanh ra lẫn nhau. Trong nhân duyên chẳng đoạn, từ
nơi cấu thân của chính ḿnh sanh ra tịnh thân, [cấu
thân và tịnh thân] sanh ra lẫn nhau chẳng gián đoạn.
Sự liên tục trong gián đoạn chính là chẳng gián
đoạn. Nếu từ duyên sanh, đó chính là như sự
sanh khởi của các h́nh bóng. Điều này hiển thị
“chẳng ĺa nhân duyên”. V́ thế, chư tôn chính là ta, ta
chính là Bổn Tôn, phát khởi lẫn nhau. Do sanh ra lẫn
nhau, từ thân sanh ra thân (tức là [từ cấu thân của
ta] sanh ra tịnh thân [của chư tôn thánh]). H́nh tượng
của chư tôn được sanh ra như thế đó!
Thân sanh từ nơi thân, tức là cấu thân sanh ra tịnh
thân, tịnh thân tức là h́nh tượng của Phật,
Bổn Tôn. Hăy nên hiểu như thế! Thân tâm của chính
ḿnh, thân của chính ḿnh đă tịnh, lại giống
như thế đó, duyên khởi lẫn nhau chẳng có gián
đoạn. V́ thế nói “duyên sanh chính là h́nh ảnh sanh”.
Do trong và ngoài làm nhân cho nhau, Tướng
Phần phát khởi,
lần lượt thấy lẫn nhau, chư tôn chính là ta,
ta cũng chính là
chư tôn, Phật tức là ta, ta tức là Phật. “Thân
sanh, h́nh tướng sanh” tức là sanh từ thân chính
ḿnh vậy! Này Bí Mật Chủ! Đă quán như thế rồi,
pháp duyên theo trí huệ thông đạt, trí huệ thông đạt
duyên theo pháp, đôi bên tạo thành nghiệp cho nhau, chẳng
trụ trong tánh Không.
(Kinh)
“Bí Mật Chủ! Vân hà tùng ư sanh? Ư năng sanh ảnh tượng.
Bí Mật Chủ! Thí như nhược bạch, nhược
hoàng, nhược xích, tác ư giả tác thời, nhiễm
trước ư sanh, bỉ đồng loại như thị
thân chuyển. Bí Mật Chủ! Hựu như nội quán ư
trung Mạn-đồ-la liệu trị nhiệt bệnh, bỉ
chúng sanh nhiệt bệnh tức thời trừ dũ, vô hữu
nghi hoặc. Phi Mạn-đồ-la dị ư, phi ư dị Mạn-đồ-la.
Hà dĩ cố? Bỉ Mạn-đồ-la nhất tướng
cố. Bí Mật Chủ! Hựu như huyễn giả huyễn
tác nam tử, nhi bỉ nam tử hựu phục tác hóa. Bí Mật
Chủ! Ư ư vân hà? Bỉ hà giả vi thắng?” Thời
Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử nhị
nhân giả, vô tương dị dă. Hà dĩ cố? Thế
Tôn! Phi thật sanh cố. Thị nhị nam tử bổn
tánh Không cố, đẳng đồng ư huyễn”.
“Như thị Bí Mật Chủ! Ư sanh chúng sự cập ư sở
sanh, như thị câu Không, vô nhị, vô biệt”.
(經)祕密主!云何從意生?意能生影像。祕密主!譬如若白若黃若赤,作意者作時染著意生,彼同類如是身轉。祕密主!又如內觀意中漫荼羅療治熱病,彼眾生熱病即時除愈無有疑惑。非漫荼羅異意,非意異漫荼羅。何以故?彼漫荼羅一相故。祕密主!又如幻者幻作男子,而彼男子又復作化。祕密主!於意云何?彼何者為勝?時金剛手白佛言:世尊!此二人者,無相異也。何以故?世尊!非實生故。是二男子本性空故,等同於幻。如是祕密主,意生眾事及意所生,如是俱空,無二無別。
(Kinh: “Bí Mật
Chủ! Thế nào là từ ư mà sanh? Ư có thể sanh ra h́nh ảnh.
Bí Mật Chủ! Ví như là trắng, hay vàng, hay đỏ,
hễ tác ư khởi lên, ư
đắm nhiễm sẽ sanh, chuyển thân cũng có một
nguyên tắc như thế đó. Bí Mật Chủ! Lại
như nội quán Mạn-đồ-la trong ư để chữa
trị bệnh nhiệt, bệnh nhiệt của chúng sanh ấy
lập tức khỏi hẳn, chẳng có nghi hoặc. Chẳng
phải là Mạn-đồ-la khác
ư, chẳng phải là ư khác Mạn-đồ-la.
V́ sao vậy? Do ư ấy và Mạn-đồ-la cùng một
tướng. Bí Mật Chủ! Lại như huyễn nhân
huyễn hóa một nam tử, nam tử ấy lại biến
hóa. Bí Mật Chủ! Ư ông nghĩ sao? Trong bọn họ, ai
hay hơn?” Khi đó, ngài Kim Cang Thủ bạch Phật rằng:
“Bạch Thế Tôn! Hai người ấy chẳng khác nhau.
V́ sao vậy? Bạch Thế Tôn! Do họ chẳng thật
sanh. Do hai người nam ấy tánh vốn là Không, do đều
giống như huyễn”. “Đúng như vậy, Bí Mật
Chủ! Ư sanh ra các việc và những thứ được
sanh bởi ư, hai đằng đều là không, chẳng hai,
chẳng khác”).
Bí Mật Chủ! Thế nào là ư và ư
sanh? Do h́nh ảnh có thể sanh! “Thông
đạt” nghĩa là “chứng quả”, đạt
tới chỗ sẽ đạt đến. Hăy nên nói sự
thông đạt ấy là “chứng”. Bí Mật Chủ
quán điều này, giống như thí dụ về cái
gương trong phần trước. Khi gương sáng
trong tâm hiện h́nh bóng, chẳng có phân biệt, [bởi các
h́nh tượng ấy] chỉ từ duyên khởi. Nay quán
pháp ấy, từ gương sanh ra ư? Hay từ mặt
sanh ra? T́m ṭi như thế, [sẽ thấy các h́nh tượng
ấy] đều chẳng có thật xứ (chẳng có thực
chất). Nếu do gương mà có, dẫu không có mặt,
[h́nh bóng] vẫn nên thường có. Nếu từ mặt mà
có, dẫu không có gương, cũng phải nên là chẳng
không có [h́nh bóng]. Nhưng chúng đều chẳng thể
được; v́ thế biết chỉ do
duyên mà có, nhưng thật sự thường không. Đấy
là pháp. Do quán pháp này mà được thành tựu “chứng
huệ”, nhưng huệ ấy vĩnh viễn dứt bặt
hư luận, chẳng thể phô bày, bàn nói. Nếu chẳng
nói, chẳng độ người khác, lại
là trái nghịch bổn nguyện. [Do vậy], lại từ
chứng trí, vẫn sanh ra pháp duyên, từ Phật nhân mà thấy
pháp thành Phật. Đă thành Phật rồi lại thuyết
pháp, cũng có thể từ cái duyên sanh này mà lại thành pháp.
“Ví
như trắng, vàng, đỏ, khi khởi lên ư niệm th́
ư đắm nhiễm cũng nẩy sanh, thân cũng chuyển
theo cùng một nguyên tắc ấy”, ư nói: Ngài Bí Mật Chủ
quán pháp, quán tướng không tịch của pháp tánh. Do vậy, duyên theo
tướng ấy, dùng huệ để có thể thông
đạt. “Pháp” là pháp ĺa các tướng, pháp chính là
duyên. Do quán điều này, nhập pháp tánh mà thông đạt
pháp. Nếu thông đạt pháp, tức
là thấu đạt duyên. Thấu đạt duyên tức
là thấu đạt pháp, phát khởi lẫn nhau, cùng biết
pháp không tịch chính là thấu đạt pháp. Do có phân biệt
dấy lên, biết pháp là không, vô trí duyên, duyên nương
vào pháp, pháp nương vào duyên, duyên khởi lẫn nhau.
Đó gọi là “các pháp tánh Không”. Nếu pháp là tánh Không
như thế, cớ sao từ ư sanh khởi nguyện? Theo kinh văn, “chúng đều chẳng
trụ trong tánh Không”.
Bí Mật
Chủ! V́ sao ư có thể sanh ra ảnh tượng? Bí Mật
Chủ! Ví như nếu suy nghĩ [một vật nào
đó] là trắng, là vàng, hoặc đỏ; đấy
chính là nêu thí dụ. Như người lúc mắt mới thấy
màu trắng th́ không biết rơ. Kế đó, liền sanh tâm
phân biệt; đấy có phải là duyên hay chăng? Trong phần
trước không hỏi, chẳng phải là ngài Kim Cang Thủ
không biết, chỉ v́ chúng sanh mà Ngài thốt lên lời nghi
vấn. Nếu là như thế, ư ấy sanh từ tâm, ai có
thể biết? Đức Phật bèn nói thí dụ, ví
như màu trắng. Do v́ lẽ nào? Do nó khác với các màu
xanh, vàng v.v… Tâm sanh ra sự hiểu biết ấy, đó
chính là khởi [tâm động niệm], từ tâm mà sanh ra
tâm. Thế gian c̣n là như thế; hăy nên biết từ nhiễm
tâm sanh ra tịnh tâm cũng như thế. “Ư đắm nhiễm
sanh khởi”
là như khi thấy màu trắng, tâm hiểu là màu trắng;
do màu trắng ấy, khiến cho tâm cũng trắng.
Như tỳ-kheo quán màu trắng, thấy hết thảy
cũng là trắng. Thấy
màu xanh th́ hết thảy cũng đều xanh. Khi tưởng
th́ th́ đối với màu trắng bèn tưởng [hết
thảy đều là] màu trắng, do ư thành tựu vậy.
Thức tâm sanh từ cái tâm trắng, chẳng từ bên
ngoài dấy lên. Như người khi quán màu trắng, sẽ
thấy hết thảy là trắng. Như kinh Nguyệt
Đăng Tam Muội[12]
nói: “Như nữ nhân hảo tự trang nghiêm, chiếu
kính tự kiến, hoàn tự sanh ái trước. Nhược
trí giả quán thử tùng hà sanh? Hà lai xứ? Nhất nhất
quán chi, bất khả đắc dă” (Như người
nữ thích tự trang điểm, soi gương để
tự thấy, vẫn là tự sanh ḷng
yêu đắm [đối với h́nh bóng của chính ḿnh
trong gương]. Nếu bậc trí nh́n vào đó, sẽ thấy
[h́nh bóng trong gương] từ ǵ mà sanh? Từ nơi nào
đến? Quán mỗi mỗi điều đều là chẳng
thể được!) Do vậy nói: “H́nh ảnh sanh từ
tâm vẫn tự nhiễm”. Nếu biết rơ đấy
chỉ là từ duyên sanh, ắt chẳng đắm nhiễm.
Dùng đó để chứng chính ḿnh th́ là “tự tâm sanh
từ tâm”. “Chuyển thân” giống như thế (tức
là từ các pháp quán tưởng mà thấy h́nh tướng
chư tôn, rồi từ các h́nh tướng ấy lại
quán tự thân ḿnh chính là bổn tôn), đó gọi là “đồng
nữ tự thấy thân ḿnh”. Nếu nhiễm th́ tức
là sanh tử; nếu tương xứng
với “chỉ từ duyên
sanh, chẳng có tự tánh” th́
chính là Niết Bàn. V́ thế nói “thân đồng loại
chuyển” (chuyển biến cái thân cũng theo cùng một
loại, tức là theo cùng một nguyên tắc).
Từ
câu “nội quán ư trung” (nội quán từ trong ư) trở
đi là phần kệ tụng. Bí Mật Chủ! Lại
như nội quán Mạn-đồ-la trong ư để trị
bệnh nhiệt. Bệnh nhiệt của các chúng sanh ấy
liền trừ, tức là trong khoảng một sát-na [liền
lành bệnh]. [Nơi
hội Pháp Hoa], trong sát-na [long nữ
phát Bồ Đề tâm, thành Phật], [đại chúng
đối với] Đề Bà Đạt Đa chẳng
c̣n nghi nữa. Chẳng phải là ư
khác Mạn-đồ-la, chẳng phải là Mạn-đồ-la
khác ư. V́ lẽ nào vậy? Ư đó và Mạn-đồ-la là một
tướng!“Tác ư” (khởi lên ư niệm) là như quán
xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Như tu Thập Biến Xứ[13]
v.v… khi tưởng màu xanh, hết thảy đều xanh.
Màu xanh ấy chỉ do tâm mà sanh. Do tác ư lâu ngày, ư sẽ có thể
sanh, sắc ấy tùy tâm mà hiện. Tâm đă có thể duyên,
có thể sanh ra loại ấy. “Nhiễm” có nghĩa là
“chấp thủ”. Hăy nên biết ư sanh từ tâm, có cùng
loại với nó. Tâm đă là như thế, thân và ngữ
cũng thế.
Kế
đó, lại dẫn thí dụ. Lại như Mạn-đồ-la
được khởi lập trong ư, tưởng nó có h́nh
tam giác v.v… giống như trong phần trên đă nói. Lại
như phương tiện để trừ nhiệt th́
làm Mạn-đồ-la h́nh tṛn, màu trắng. Trong ấy có chữ
Văm, hoặc trên chữ chủng tử đặt cái chấm.
Những điều khác có thể hiểu tương tự. Cái chấm ấy
chính là trừ nhiệt năo, là cam lộ vị. Do làm pháp này,
do từ tâm mà làm, nên có thể trừ nhiệt. Cho đến
trong khoảng sát-na, bệnh ấy liền trừ, do nó từ
tâm mà khởi! Hăy nên biết cái tâm ấy chẳng khác Mạn-đồ-la,
Mạn-đồ-la chẳng khác tâm. V́ chúng là một tướng!
Nói “Mạn-đồ-la ấy và tâm chẳng hai, chẳng
khác”, nay pháp này cũng có thể hiểu như thế.
Kế
đó, đức Phật lại dẫn thí dụ: “Như
huyễn hóa thành nam tử”. Bí Mật Chủ! Lại
như những người ảo thuật biến hóa ra
nam tử. Kế đó, huyễn nam tử lại biến
hóa. “Ư ông nghĩ sao? Này Bí Mật Chủ! Ai giỏi hơn?”
Ngài Kim Cang Thủ thưa: “Hai người ấy chẳng
khác nhau. Do v́ lẽ nào vậy? Bạch Thế Tôn! Do họ
chẳng thật sự sanh. Hai người nam ấy bổn
tánh là Không, cùng giống như huyễn”. [Đức Phật
bảo]: Đúng như thế đó, Bí Mật Chủ! “Sự”
là các việc như Tất Địa v.v… “Đẳng”
có nghĩa là nhiều. Ư nói: Các sự được sanh bởi
ư đều do ư mà sanh, tánh của hai đằng đều
là Không, chẳng phân biệt (tức là chẳng hai, chẳng
khác). Do ư và cái được sanh bởi ư, cả hai đều
là Không, chẳng hai, chẳng khác. Hóa nhân lại biến hóa,
trong hai thứ huyễn như thế, thứ ǵ cao hơn?
Thứ nào trội? Thứ nào kém? Thứ nào dài? Thứ nào
ngắn? Thứ nào đẹp? Thứ nào xấu? Kinh nói “thùy
thắng” (ai hơn?) tức là hỏi trong hai thứ huyễn
ấy, thứ nào tôn thắng? Câu trả lời là “cả
hai thứ ấy chẳng khác nhau!”
V́ cớ sao vậy? Do chúng đều từ
chẳng thật mà
sanh! Bản tánh của cả hai đều
là Không. Phàm do huyễn mà biến hiện huyễn, vậy
th́ huyễn nhân biến hiện huyễn sự và người
biến ra huyễn nhân ấy có sai khác ǵ? Do vậy, đức
Phật bảo rằng: “Ông hăy nên quán pháp này, như từ
tấm gương tṛn sanh nơi tâm. Tâm chính là gương,
gương chính là tâm, chẳng hai, chẳng khác, chẳng thể
luận định tướng sai biệt được!”
Nếu nhiễm tâm (tâm đắm trước vào tướng
sanh bởi tâm) th́ chính là thế gian. Nếu tâm ĺa nhiễm
th́ chính là tâm xuất thế gian.
Trên
đây là phẩm Địa Vị Của Trăm Chữ.
Do nói chưa rơ ràng, nên cần phải hỏi thêm. Nhưng
đại ư của phẩm này là: Trước tiên, do tu Du
Già nên thành tựu, cho đến phổ biến rộng khắp
cực đại. Nhưng nếu chẳng dùng huệ
phương tiện để quán Thật Tướng của
Không nhằm gột rửa cái tâm, th́ vẫn là pháp thế
gian. V́ thế, cần phải tu quán hạnh này, khiến
cho [hành nhân] nhập Thật Tướng của Mạn-đồ-la,
trở thành đàn tràng Đại Không, không ǵ chẳng có,
thường hằng rốt ráo thanh tịnh. Đấy
chính là đại lược [nội dung của phẩm
này] vậy!
22. Phẩm thứ hai
mươi hai: Bách tự thành tựu tŕ tụng (Bách tự
thành tựu tŕ tụng phẩm đệ nhị thập nhị,
百字成就持誦品第二十二)
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
ngôn: - Đế thính, Bí Mật Chủ! Chân ngôn cứu thế
giả, thân thân vô hữu dị phần, ư tùng ư sanh, linh thiện
tịnh trừ, phổ giai hữu quang. Bỉ xứ
lưu xuất, tương ứng nhi khởi, biến
chư chi phần. Bỉ ngu phu loại thường sở
bất tri, bất đạt thử đạo. Năi chí thân
sở sanh phần, vô lượng chủng cố, như thị
chân ngôn cứu thế giả phần thuyết diệc vô
lượng. Thí như cát tường chân-đà-ma-ni, tùy
chư lạc dục, nhi tác nhiêu ích. Như thị thế
gian chiếu thế giả thân, nhất thiết nghĩa lợi,
vô sở bất thành. Bí Mật Chủ! Vân hà vô phân biệt
pháp giới, nhất thiết tác nghiệp tùy chuyển? Bí Mật
Chủ! Diệc như hư không giới, phi chúng sanh, phi thọ
giả, phi Ma Nô Xà, phi Ma Nạp Bà, phi tác giả, phi Phệ
Đà, phi năng chấp, phi sở chấp, ly nhất thiết
phân biệt, cập vô phân biệt, nhi bỉ vô tận chúng
sanh giới nhất thiết khứ lai, chư hữu sở
tác, bất sanh nghi tâm. Như thị vô phân biệt Nhất
Thiết Trí trí đẳng đồng hư không, ư nhất
thiết chúng sanh, nội
ngoại nhi chuyển.
(經)爾時世尊告執金剛祕密主言:諦聽。祕密主!真言救世者,身身無有異分。意從意生,令善淨除,普皆有光。彼處流出,相應而起遍諸支分。彼愚夫類常所不知,不達此道。乃至身所生分,無量種故,如是真言救世者分說亦無量。譬如吉祥真陀摩尼,隨諸樂欲而作饒益。如是世間照世者身,一切義利無所不成。祕密主!云何無分別法界,一切作業隨轉?祕密主!亦如虛空界,非眾生、非壽者、非摩奴闍、非摩納婆、非作者、非吠陀、非能執、非所執,離一切分別及無分別,而彼無盡眾生界一切去來諸有所作,不生疑心。如是無分別一切智智等同虛空,於一切眾生內外而轉。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hăy lắng
nghe! Chân ngôn cứu thế là thân [của chân ngôn] và thân [của
hành giả] chẳng có chỗ khác biệt. Ư sanh từ ư khiến
cho khéo tịnh trừ, sẽ đều có quang minh trọn
khắp. [Quang minh ấy] từ
các chỗ đó mà tuôn ra, tương ứng để dấy
khởi trọn khắp các chi phần. Các loài ngu phu đó thường
chẳng hay biết, chẳng thấu đạt đạo
này. Cho tới các phần được sanh bởi thân có
vô lượng loại, cũng nói các phần của chân
ngôn cứu đời như thế là vô lượng. Ví
như chân-đà-ma-ni (Như Ư Bảo Châu) cát tường,
thuận theo sự ưa thích [của chúng sanh] mà tạo lợi
ích. Do thân của [chân ngôn] chiếu soi cơi đời như
thế mà hết thảy các nghĩa lợi,
không ǵ chẳng thành tựu. Bí
Mật Chủ! Trong pháp giới vô phân biệt, hết thảy
nghiệp được tạo tác sẽ xoay chuyển
như thế nào? Bí Mật Chủ! Cũng giống như
hư không giới, chẳng phải là chúng sanh, chẳng phải
là thọ giả, chẳng phải là Ma Nô Xà (Manuja: con
người), chẳng phải là Ma Nạp Bà (Mānava: nhân loại), chẳng
phải là kẻ tạo tác, chẳng phải là Phệ
Đà (Vedaka: kẻ nhận biết), chẳng phải là chủ
thể chấp trước, chẳng phải là đối
tượng bị chấp trước, ĺa hết thảy
phân biệt và vô phân biệt, nhưng chẳng sanh tâm nghi
đối với hết thảy các việc làm, đến,
đi trong vô tận chúng sanh giới. Trí Nhất Thiết
Trí vô phân biệt như thế giống như hư không,
chuyển trong ngoài hết thảy các chúng sanh).
Kinh
nói: “Đế thính, Bí Mật Chủ! Chân ngôn cứu thế
giả, thân thân vô hữu dị phần” (Bí Mật Chủ!
Hăy lắng nghe, đối với chân ngôn cứu thế,
thân và thân chẳng có chỗ khác nhau) tức là thân [của
hành giả] chẳng khác với thân ấy (thân của chân
ngôn, tức thân do tŕ tụng chân ngôn và quán tưởng mà
thành thân Bổn Tôn trong tâm của hành giả). Đó gọi
là từ trong tâm mà vận dụng cái thân chân ngôn ấy. “Ư
tùng ư sanh” (ư sanh từ ư): Chữ Ư trước là ư có thể
sanh, c̣n chữ Ư sau là “tịnh ư”, có thể khiến
cho ư được tịnh trừ. “Phổ giai hữu
quang bỉ xứ lưu xuất” (Đều
trọn khắp có quang minh từ chỗ
ấy tuôn ra): Từ tịnh tâm mà lưu xuất [quang minh]. Nói “bỉ”
tức là chỉ “ư” trong phần trước (tức “ư”
trong câu “ư
tùng ư sanh”). Quang minh và Du Già tương ứng
mà sanh. Do tương ứng với Du Già, từ cái tâm ấy
mà sanh ra quang minh đó. Nói “ngu phu thường
sở bất năng tri” tức
là ngu phu chẳng thể biết, chẳng thể liễu
đạt đạo này! Cho đến các phần sanh từ
nơi thân, phần chẳng khác với thân, cũng là những
cái thân được sanh bởi thân [của hành giả].
Thân được sanh từ bản thân cũng nhiều tới
vô lượng loại. Thân đă là vô lượng, [cho nên]
ngôn thuyết nơi chân ngôn
như thế cũng có vô lượng.
Như báu Như Ư, được gọi là “cát tường
như ư châu”, tùy theo mong muốn [của chúng sanh] mà tạo
lợi ích thành tựu. Thân của đấng chiếu thế
trong thế gian như thế, thành tựu hết thảy
các điều lợi. Bí Mật Chủ!
Hết thảy các việc làm trong pháp
giới vô phân biệt sẽ được chuyển
như thế nào? Bí Mật Chủ! Lại giống như
hư không giới v.v...
Đức
Phật bảo ngài Bí Mật Chủ hăy lắng nghe. Chân ngôn
cứu thế, mỗi thân chẳng khác. Ư sanh khởi từ
ư, được khéo tịnh trừ. Do từ nơi ấy
lưu xuất, đều có quang minh tương ứng với
các chi phần. Ngu phu chẳng biết đạo này, cho đến [chẳng biết] các
phần được sanh bởi thân nhiều vô lượng
loại. Đó là [ư nghĩa chánh yếu trong]
kinh văn. Ví như do tŕ chân ngôn, sẽ có khác biệt: Hễ
có thể khéo tịnh trừ cái ư được sanh bởi
ư (tâm) th́ pháp được lưu xuất bởi đó
chính là cái thân này (thân của hành giả tŕ chân ngôn) chẳng
khác với cái thân được sanh ra từ tự
thân (cái thân được sanh ra từ bản thân chính là
thân thanh tịnh sanh khởi bởi quán tưởng các pháp
tịnh diệu bên ngoài, rồi biến cái thân tịnh diệu
ấy đồng nhất với thân ḿnh), tức là từ ư mà sanh.
Do tịnh trừ các cấu, hết
thảy các sự được thành tựu. Do có đức
ấy, tùy theo các chi phần mà lưu xuất quang minh để
làm Phật sự. Các chuyện như thế, phàm ngu chẳng
thể biết!
Do không biết đạo này, nên gọi là “ngu phu”.
Đạo ấy chính là chân ngôn hạnh, do thành tựu chân
ngôn, sẽ đạt được Tất Địa. Từ
thân này lại có thân sanh, tức là như [các thân trong] Dục
Giới, Sắc Giới v.v… rất nhiều loại, đều
do một chân ngôn mà sanh ra vô lượng thân, miệng, ư,
như trong phần trước đă nói từ các phần
thượng, trung, hạ nơi thân Phật mà sanh ra vô
lượng thân [của Phật, Bồ Tát, tôn thánh v.v…].
Hành nhân này cũng như thế, có thể tùy theo thân phần
thượng, trung, hạ, hoặc hiện ra bốn vị
Phật, bốn vị Bồ Tát, cho đến tám bộ
v.v… giống như trong Đại Bi Tạng đă nói, số
ấy vô lượng!
Lại
có kẻ ngờ vực, gạn rằng: “Trong phần trên
đă nói chân ngôn vô tướng, vô
duyên, giống như thái hư, chẳng thể
phân biệt, v́ sao có các sự ấy?” Đáp: Ví như
Như Ư Châu thỏa măn hết thảy các nguyện, cho
đến ba sự cũng có thể tịnh hóa, [tức
là]: Nếu ai muốn tịnh cái thân này, do sức của
châu, khiến cho thân này như lưu ly. Nếu muốn ngữ
và ư thanh tịnh, cũng tùy theo ư
phần mà thanh tịnh. Pháp thế gian mà c̣n
như thế, huống hồ Như Lai như ư châu diệu
bảo mà chẳng thể làm chuyện như thế ư?
Châu như thế, tuy làm đủ mọi sự, thỏa
măn đủ mọi nguyện, nhưng vắng lặng, bất
động, chẳng suy nghĩ, vô vi, chẳng đến,
chẳng đi, thành tựu hết thảy, huống hồ
Như Lai đại bảo ư? Do vậy, pháp giới chẳng
phân biệt, như rồng lớn ở trong cung, chẳng
khởi tâm động niệm, mà thuận theo nghiệp lực,
tuôn xuống [những cơn mưa có] các vị sai biệt.
Do bởi nghĩa này, trong vô tướng Không mà hiện vô
lượng chuyện
phổ môn nơi thân, khẩu, ư, từ ngay nơi thân mà có
thể đạt được, chớ nên nghi! Lại ví
như hư không chẳng thuộc vào chúng sanh số, mà là
chỗ để chúng
sanh nương tựa. Chẳng phải thân thọ, chẳng
phải Ma Nạp Bà, tác giả, thọ giả v.v… Hết
thảy các vọng tưởng đều trừ, đều
ĺa phân biệt, chẳng đến, chẳng đi,
nhưng chẳng khác chúng sanh giới. Hết thảy chúng
sanh y chỉ và tác nghiệp đều do đó mà thành, lợi
ích chúng sanh, thành tựu đủ mọi sự. Chẳng
thể do hư không có thể thành tựu hết thảy
các sự, mà bảo hư không là hữu vi, hữu tướng!
Nay Đại Không Mạn-đồ-la này cũng như thế,
rốt ráo thanh tịnh, nhưng không ǵ chẳng làm, thường
trụ vắng lặng, nhưng không
ǵ chẳng thành tựu. V́ thế, kinh khuyên hăy nên tin tưởng
mà nói: “Đương như thị tri, vật sanh nghi hoặc”
(Hăy nên biết như thế, chớ sanh ḷng ngờ vực).
(Kinh) Nhĩ thời, Thế Tôn phục tuyên
thuyết tịnh trừ vô tận chúng sanh giới cú,
lưu xuất tam-muội cú, bất tư nghị cú, chuyển
tha môn cú: - Nhược bổn vô sở hữu, tùy thuận
thế gian sanh, vân hà liễu tri Không, sanh thử Du Già giả?
Nhược tự tánh như thị, giác danh bất khả
đắc. Đương đẳng không tâm sanh, sở vị
Bồ Đề tâm. Ưng phát khởi từ bi, tùy thuận
chư thế gian, trụ ư duy tưởng hạnh. Thị
tức danh chư Phật. Đương tri tưởng tạo
lập, quán thử vi không không. Như hạ số pháp chuyển,
tăng nhất nhi phân dị, cần dũng không diệc
nhiên. Tăng trưởng tùy thứ đệ, tức thử
A tự đẳng, tự nhiên trí gia tŕ.
(經)爾時世尊又復宣說淨除無盡眾生界句、流出三昧句、不思議句、轉他門句:若本無所有,隨順世間生,云何了知空,生此瑜伽者?若自性如是,覺名不可得,當等空心生,所謂菩提心。應發起慈悲,隨順諸世間,住於唯想行,是即名諸佛。當知想造立,觀此為空空,如下數法轉,增一而分異。勤勇空亦然,增長隨次第,即此阿字等,自然智加持。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại tuyên nói câu tịnh
trừ vô tận chúng sanh giới, câu lưu xuất tam-muội,
câu chẳng nghĩ bàn, câu thuộc các môn chuyển biến
người khác: - Nếu vốn vô sở hữu, tùy thuận
thế gian sanh, làm sao biết rơ Không, sanh ra Du Già này? Nếu
tự tánh như thế, giác là chẳng thể được!
Tâm sanh như hư không, đó gọi Bồ Đề tâm.
Nên phát khởi từ bi, tùy thuận các thế gian, chỉ
trụ nơi tưởng hạnh. Đó gọi là chư
Phật. Nên biết: Tưởng tạo lập, quán đó
là Không Không. Như đặt số tính đếm, thêm một
mà khác đi. Cần Dũng Không cũng thế, tăng
trưởng theo thứ tự, tức từ chữ A thảy,
trí tự nhiên gia tŕ).
Lúc
bấy giờ, đức Thế Tôn lại tuyên nói câu tịnh
trừ vô tận chúng sanh giới, câu từ tam-muội
lưu xuất, câu chẳng nghĩ bàn, câu thuộc môn chuyển
biến người khác. Nếu “sanh” đă vốn là vô sở
hữu, tùy thuận pháp thế gian, hăy nên biết Không sanh
ra người tu
hành như thế nào? Nếu tự tánh là như thế,
giác chẳng thể được, tâm hăy nên như hư
không, sanh ra sự sanh khởi của Bồ Đề. Hăy
nên phát sanh ḷng Bi,
tùy thuận hết thảy thế gian. Trên đây là [các ư
chính trong] kinh văn. Trụ trong sự tịnh trừ chúng
sanh giới vô tận, tức là vốn
đă lập thệ nguyện, v́ muốn tịnh trừ hết
thảy chúng sanh trong vô tận thế giới. Do chúng sanh có
cấu, chẳng thể tự độ, nay muốn khai trọn
khắp tri kiến của Như Lai cho họ, khiến cho
họ thanh tịnh, khiến cho thân, khẩu, ư địa của
họ đều được thanh tịnh, chẳng có cấu
uế. Hăy nên biết câu “tịnh trừ vô tận chúng
sanh” chính là câu lưu xuất từ tam-muội. Câu
lưu xuất từ tam-muội là câu chẳng thể
nghĩ bàn. Câu chẳng thể nghĩ bàn chính là câu “chuyển
tha môn” (câu thuộc về môn chuyển
biến người khác). Chuyển các món hữu cấu khác thành tự tánh thanh
tịnh, chuyển kẻ khác từ vô minh thành sự sáng suốt
của Như Lai. V́ thế, gọi là “chuyển tha môn
cú”. “Tha” (người khác) là nói về chúng sanh. Do chuyển
uế thành tịnh mà nói pháp môn này. “Bổn sanh vô sở hữu”:
Nếu vốn là vô sở hữu, tùy thuận thế gian mà
sanh, làm thế nào để biết Không? Nói “nên như thế
nào” tức là “[làm thế nào] để biết các pháp là
Không”.
“Sanh thử Du Già” (sanh ra môn Du Già
này): Trong phần kệ có hỏi về
điều này, tức là nương vào thần lực của
Phật mà có câu hỏi này. Nếu nói “sanh vốn vô sở
hữu, Có là tùy thuận thế gian”, người tu hành
sẽ làm như thế nào
để khiến cho người tu hành sanh cái Không ấy,
tức là môn Không thanh tịnh. Nếu nói là “chẳng có”,
làm thế nào để sanh trong môn Không thanh tịnh ấy?
Nếu vốn là vô sở hữu, cái Sanh ấy cũng thuận
theo cái “vốn là Không”, tức
là “vốn bất sanh”. Du Già là như thế nào? Nhận
biết Không như thế nào? Cái Không ấy chính là tánh của
chân ngôn. Thế nào là “sanh Du Già”? Nếu tự tánh là
như thế, danh xưng Giác cũng chẳng
thể được, tức là quán danh tự c̣n chẳng
thể được. Hễ phù hợp th́ là quán. Quán và
giác như nhau. “Đương đẳng không tâm sanh”
(hăy nên sanh tâm như hư không), tức là Bồ Đề
tâm sanh, đấy chính là dẫn mười thí dụ
được nói trong phần trước. Do giác “vốn
bất sanh”, vô tướng, chẳng thể được,
nên đạt được cái tâm như hư không. Thanh tịnh,
vô phân biệt v.v… như trên, th́ chẳng chỉ là Không, mà
c̣n có trí sanh, tức là Bồ Đề.
“Ưng
phát khởi từ bi, tùy thuận chư thế gian, trụ
ư duy tưởng hạnh, tức danh vi chư Phật”
(hăy nên phát khởi ḷng từ bi, tùy thuận các thế gian,
trụ trong hạnh “chỉ
tưởng”,
th́ gọi là chư Phật), tức là Như Lai liễu
đạt các pháp vốn tự bất sanh, vốn vô sở
hữu, do tùy thuận pháp thế gian để độ
chúng sanh mà có. “Có” tức là phổ môn thị hiện
đủ loại các phương tiện để làm chuyện
lợi ích chúng sanh. Do nhân duyên cơ cảm mà có, nhưng vốn
vô sở hữu. Bản tánh của tánh chúng sanh là vô sở
hữu, do tu hành mà biết bản tánh nơi tánh của
chúng sanh là không tịch, do giác tri tánh ấy là Không, chỉ
có danh tự, chẳng thể được! Nói “tánh
Không Không chỉ có danh tự, rốt ráo cầu chẳng thể
được” th́ đấy chính là Bất Khả
Đắc Không. Chẳng như người huệ kém cỏi, chấp
tánh Không ấy là thật sự có!
Quán chúng sanh giống như hư không. Bản tánh của
hư không ĺa khỏi quán chiếu, ĺa hết thảy vọng
niệm, hư luận. Do biết rơ hư không như thế,
liền biết lư chân thật, chẳng nên chấp lấy
pháp Không ấy. Do hư không ấy chẳng thể
được, chẳng phải là đều vô sở hữu,
mà là thật sự có tự tánh. Cái gọi là tự tánh của
Không tức là bất
không. Hăy nên biết cái Bất Không ấy chính là tâm
giống như hư không. Tâm giống như hư không
chính là Bồ Đề thanh tịnh. Từ cái tâm Bồ
Đề thanh tịnh ấy, sanh ra tâm đại bi. V́ lẽ
nào vậy? Hành nhân đă
hiểu rơ cái tâm Bồ Đề ấy, bèn nghĩ thế
này: “Hết thảy chúng sanh thảy đều như thế,
sẵn
có kho báu Như Lai mà chẳng tự hay
biết! Do nhân duyên ấy, uổng công chịu khổ nhọc
mà chẳng có lợi ích”. Bồ
Tát do bốn duyên ấy, dấy khởi tâm đại bi. Do
[chúng sanh] chẳng
biết rơ tâm ấy, liền luân hồi trong sanh tử mênh mông không ngớt!
Hễ biết rơ th́ tức là Bồ Tát. Bồ Tát do hết
thảy chúng sanh đều sẵn có tánh “có
thể giác”, nhưng chẳng
thể tự ngộ, v́ chuyện này mà các vị Bồ Tát
sanh ḷng đại bi, sẽ nói phương tiện để
cứu vớt, thủ hộ. Tức là dùng ḷng đại
bi ấy, v́ trừ cấu cho vô tận chúng sanh, tùy thuận
thế gian mà lập phương tiện. Do chủng loại
trong chúng sanh giới vô tận, tánh dục, căn duyên lần
lượt sai biệt ngần ấy, Bồ Tát thuận
theo đó mà giáo hóa, hướng dẫn. V́ thế nói là “tùy
thuận thế gian”. “Tưởng duy tâm trụ” liền
gọi là chư Phật. Hăy nên biết từ trong tưởng
mà tạo lập sanh. Cái gọi là Không được kiến
lập từ nơi tưởng. Đă trụ trong duy tâm,
lại c̣n do đă đắc duy tâm mà kiến lập hết
thảy các pháp. “Quán thử vi Không Không” (quán điều
đó là Không Không), ư nói cái danh hiệu Không Không là do quán mà
có, cũng chỉ có tên gọi, Không từ tâm mà sanh.
Như sự chuyển biến
trong cách tính đếm, từ một, hai, ba mà chia thành khác biệt
(nói “một, hai” ở đây là nói tới sự khác biệt).
Cần Dũng! Cái Không ấy cũng giống như thế
đó, cho đến tăng trưởng theo thứ tự,
tức là các chữ A v.v… [cho đến toàn
bộ các chữ trong bốn mươi hai mẫu
tự Tất Đàm]. “Tưởng” là nói theo ư
nghĩa “chỉ có tưởng”. Chữ A như đă nói
trên chính là Tưởng, mà tự nhiên trí cũng là Phật,
tức là được Phật gia tŕ. Nếu tạo lập
tưởng Không và Bất Không, quán sát các pháp lần lượt
được tính đếm sau đó, sẽ từ một,
hai, ba mà bắt đầu tách ra khác nhau. Như bậc
dũng sĩ từ nơi cái Không đó mà tăng trưởng
thuận theo thứ tự, khởi đầu từ chữ
A, tương ứng gia tŕ tự nhiên
trí. Kinh văn nói như thế
đó.
Trước
hết là nói “đạt được cái tâm hư
không”, tức là Bồ Đề tâm sanh. Bồ Đề
là giác, cái tâm ấy há chẳng phải là Không ư? Nhưng
[Bồ Đề] thật sự trọn đủ công
đức nhiều như cát sông Hằng. Tuy trọn đủ
vô lượng công đức của Như Lai, nhưng vô
tướng, vô danh, chẳng thể hiển thị. Như
tông Pháp Tướng nói mười sáu loại Không, kinh
Đại Bát Nhă nói mười tám loại Không v.v… đều
nhằm giảng rơ ư nghĩa này. Nếu tánh chỉ là Không,
trọn chẳng có ǵ, làm sao có thể thành tựu đức
thần biến chẳng thể nghĩ bàn như thế
để độ chúng sanh? Hăy nên biết cái Không ấy chính là lư
tự chứng. Tưởng đă là Không, vô sở hữu,
th́ danh cũng như thế. Chỗ này chẳng thể chỉ
bày, tướng ngôn từ tịch diệt. Nếu dùng pháp
tự chứng như thế để nói với phàm ngu, sẽ
trọn chẳng thể được! Hăy nên biết nó chỉ
có cái tên suông, trong mười tám món Không, nó là tối thượng,
tức là Đại Không của chư Phật, thật sự
chẳng hư dối! Toán số, thí dụ ở đây vẫn
giống như cách tính toán thấp kém của người
thế gian, thoạt đầu là vạch con số một
để làm cơ sở (phép tính toán của phương
Tây (Ấn Độ) đều là vạch nơi đất…),
cho đến ức, tải[14],
A-tăng-kỳ v.v… đều sanh từ đó; nhưng thoạt
đầu, khi chưa tính toán, vốn chẳng có con số ấy.
Từ nơi đất trống vốn chẳng có con số
để tính toán, mà bèn tính toán một, hai, ba, cho tới vô
lượng. Tính toán xong, bèn bỏ các vị trí (các vạch
đánh dấu con số tính toán), vẫn là trở về
cái gốc rỗng không, nhưng tâm người tính toán tự
biết được kết quả đă tính, rành rành chẳng
mất. Tuy từ gốc, vốn chẳng có ǵ mà lập ra
con số, nay [tính toán xong] đă [thành không có ǵ] như
cũ, thật sự chẳng có con số nào, nhưng kết
quả ghi nhớ trong tâm chẳng mất đi. Tức là
chẳng có mà có, tuy có mà chẳng có. Nay môn chữ A này
cũng giống như thế, từ trong cái gốc “vốn bất sanh”,
do tùy thuận thế gian, theo thứ tự xuất hiện
vô lượng pháp môn. Tuy xuất hiện vô lượng
phương tiện, nhưng vẫn chẳng khác ư nghĩa
bản tánh“bất
sanh” của chữ A, giống như các
con số ấy chẳng hề ĺa một. Do thoạt đầu
tính toán bắt đầu từ một, cách tính hết thảy
các con số đều chẳng ĺa một, cho tới một
vạn cũng là “một và vạn chẳng thể tách
rời nhau!” Hết thảy các số
khác đều có thể [suy theo đó] mà
biết. Nay hết thảy các pháp
đều chẳng thể ĺa chữ
A, cũng do lẽ ấy.
Nhưng
có luận sư lại dẫn thí dụ, giống con trùng
ḅ. Do có vô lượng trùng nối theo nhau chẳng dứt
mà thành đường hướng dẫn,
hoặc có đủ loại
tướng như vuông, tṛn, quanh co v.v… Nếu ĺa khác
đó, mỗi mỗi đều là một con trùng, chẳng
c̣n các tướng cong, thẳng, dài, ngắn v.v… Nay pháp này
cũng thế, trong Không pháp tự chứng rốt ráo chẳng
thể nghĩ bàn mà trọn đủ hết thảy các
công đức. Nhưng do duyên sanh, chẳng có bổn sanh,
chẳng ĺa cái lư “là một, vốn
bất sanh” vậy! Chữ A đứng
đầu, tương ứng gia tŕ tự nhiên trí. Do tự nhiên trí gia
tŕ tự môn này, sanh ra vô lượng ngữ. Mỗi ngữ có vô
lượng thanh, mỗi thanh có vô lượng lư, tức là
giống như các con số kia, trong mỗi mỗi đều
trọn khắp hết thảy. Đại Không cũng thế, có đủ hết
thảy các pháp, trọn khắp hết
thảy các pháp. Chữ A này cũng
như thế! Hết thảy các chân ngôn môn đều từ
chữ A mà có, giống như muôn
h́nh tượng từ Không mà có, không chỉ sanh ra hết
thảy các chữ. Đấy chính là trong mỗi môn
được sanh bởi chữ, liền hiển thị
lư bất sanh!
(Kinh)
A phạ, ca khư nga già, giá xa nhă xă, trá trá noa đồ,
đa tha na đà, ba phả ma bà, dă ra la phạ, xa sa sa ha,
ngưỡng nhưỡng noa nẵng măng. Bí Mật Chủ!
Quán thử không trung lưu tán giả lập, A tự chi sở
gia tŕ, thành tựu tam-muội đạo. Bí Mật Chủ!
Như thị A tự, trụ ư chủng chủng trang
nghiêm, bố liệt đồ vị, dĩ nhất thiết
pháp bổn bất sanh cố, hiển thị tự h́nh, hoặc
dĩ bất khả đắc nghĩa, hiện Phạ tự
h́nh. Hoặc chư pháp viễn ly tạo tác cố, hiện
Ca tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp, đẳng
hư không cố, hiện Khư tự h́nh. Hoặc hạnh
bất khả đắc cố, hiện Nga tự h́nh. Hoặc
chư pháp nhất hợp tướng bất khả đắc
cố, hiện Già tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp
ly sanh diệt cố, hiện Giá tự h́nh. Hoặc nhất
thiết pháp vô ảnh tượng cố, hiện Xa tự
h́nh. Hoặc nhất thiết pháp sanh bất khả đắc
cố, hiện Nhă tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp
ly chiến địch cố, hiện Xă tự h́nh. Hoặc
nhất thiết pháp ly ngă mạn cố, hiện Trá tự
h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly dưỡng dục cố,
hiện Trá tự h́nh. Hoặc hiện nhất thiết pháp
ly oán đối cố, hiện Noa tự h́nh. Hoặc nhất
thiết pháp ly tai biến cố, hiện Đồ tự
h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly Như Như cố, hiện
Đa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly trụ xứ
cố, hiện Tha tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp,
ly thí cố, hiện Na tự h́nh. Hoặc nhất thiết
pháp giới bất khả đắc cố, hiện Đà
tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp Thắng
Nghĩa Đế bất khả đắc cố, hiện
Ba tự h́nh. Hoặc chư pháp bất kiên như tụ mạt
cố, hiện Phả tự h́nh. Hoặc nhất thiết
pháp ly hệ phược cố, hiện Ma tự h́nh. Hoặc
nhất thiết pháp chư quán bất khả đắc cố,
hiện Bà tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp chư thừa
bất khả đắc cố, hiện Dă tự h́nh. Hoặc
nhất thiết pháp ly nhất thiết trần cố, hiện
Ra tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp vô tướng cố,
hiện La tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly tịch
cố, hiện Xa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp bổn
tánh độn cố, hiện Sa tự h́nh. Hoặc nhất
thiết pháp đế bất khả đắc cố, hiện
Sa tự h́nh. Hoặc nhất thiết pháp ly nhân cố, hiện
Ha tự h́nh.
(經)阿嚩。迦佉哦伽。遮車若社。吒咤拏荼。多他娜馱。波頗摩婆。野囉邏嚩。奢沙娑訶。仰壤拏曩莽。祕密主!觀此空中流散假立,阿字之所加持,成就三昧道。祕密主!如是阿字,住於種種莊嚴,布列圖位。以一切法本不生故,顯示自形。或以不可得義,現嚩字形。或諸法遠離造作故,現迦字形。或一切法等虛空故,現佉字形。或行不可得故,現誐字形。或諸法一合相不可得故,現伽字形。或一切法離生滅故,現遮字形。或一切法無影像故,現車字形。或一切法生不可得故,現若字形。或一切法離戰敵故,現社字形。或一切法離我慢故,現吒字形。或一切法離養育故,現咤字形。或一切法離怨對故,現拏字形。或一切法離災變故,現荼字形。或一切法離如如故,現多字形。或一切法離住處故,現他字形。或一切法離施故,現那字形。或一切法界不可得故,現馱字形。或一切法勝義諦不可得故,現波字形。或諸法不堅如聚沫故,現頗字形。或一切法離繫縛故,現麼字形。或一切法諸觀不可得故,現婆字形。或一切法諸乘不可得故,現也字形。或一切法離一切塵故,現囉字形。或一切法無相故,現邏字形。或一切法離寂故,現奢字形。或一切法本性鈍故,現沙字形。或一切法諦不可得故,現娑字形。或一切法離因故,現訶字形。
(Kinh:
A Va, Ka Kha Ga Gha, Ca Cha Ja
Jha, Ṭa Ṭha Ḍa Ḍha, Ta Tha Da Dha, Pa Pha Ba Bha, Ya Ra
La Va, Śa Ṣa Sa Ha, Ṅa Ña Ṇa Na Ma.
Bí Mật Chủ! Quán các chữ ấy trôi nổi, giả lập
trong hư không, được chữ A gia tŕ, thành tựu
tam-muội đạo. Bí Mật Chủ! Chữ A như thế,
trụ trong các loại trang nghiêm, xếp đặt theo vị
trí trong đồ h́nh. Do hết thảy các pháp vốn bất
sanh, hiển thị h́nh chữ: Hoặc do nghĩa “chẳng
thể được” mà hiện h́nh thể chữ Phạ (व, Va). Hoặc
do các pháp xa ĺa tạo tác mà hiện h́nh thể chữ Ca (क,
Ka). Hoặc do hết thảy các pháp bằng với hư
không, mà hiện h́nh thể chữ Khư (ख,
Kha). Hoặc do hạnh chẳng thể được, mà
hiện h́nh thể chữ Nga (ग,
Ga). Hoặc do một hợp tướng của các pháp chẳng
thể được, mà hiện h́nh thể chữ Già (ङ,
Gha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa sanh diệt mà hiện
h́nh thể chữ Giá (च,
Ca). Hoặc do hết thảy các pháp chẳng có h́nh bóng, mà
hiện h́nh thể chữ Xa (छ,
Cha). Hoặc do hết thảy các pháp, sanh chẳng thể
được, mà hiện h́nh thể chữ Nhă (ज,
Ja). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa đối địch
mà hiện h́nh thể chữ Xă (झ,
Jha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa ngă mạn mà hiện
h́nh thể chữ Trá (ट, Ṭa).
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa dưỡng dục mà
hiện h́nh thể chữ Trá (ठ, Ṭha).
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa oán đối mà hiện
h́nh thể chữ Noa (ड, Ḍa).
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa tai biến cố, mà hiện
h́nh thể chữ Đồ (ढ, Ḍha).
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa Như Như, mà hiện
h́nh thể chữ Đa (त,
Ta). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa trụ xứ mà hiện
h́nh thể chữ Tha (थ,
Tha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa thí mà hiện h́nh thể
chữ Na (द, Da).
Hoặc do hết thảy pháp giới đều chẳng
thể được mà hiện h́nh thể chữ Đà (ध, Dha).
Hoặc do Thắng Nghĩa Đế của hết
thảy các pháp chẳng thể được, mà hiện
h́nh thể chữ Ba (प,
Pa). Hoặc do các pháp chẳng kiên cố như bọt
nước, mà hiện h́nh thể chữ Phả (फ,
Pha). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa trói buộc mà hiện
h́nh thể chữ Ma (ब,
Ba). Hoặc do hết thảy các pháp, các quán chẳng thể
được, mà hiện h́nh thể chữ Bà (भ,
Bha). Hoặc do hết thảy các pháp các thừa chẳng thể
được mà hiện h́nh thể chữ Dă (य,
Ya). Hoặc do hết thảy các pháp ĺa hết thảy trần,
mà hiện h́nh thể chữ Ra (र).
Hoặc do hết thảy các pháp vô tướng mà hiện
h́nh thể chữ La (ल).
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa tịch, mà hiện h́nh
thể chữ Xa (श, śa).
Hoặc do tánh của hết thảy các pháp vốn là độn
mà hiện h́nh thể chữ Sa (ष, Ṣa).
Hoặc do Đế
nơi hết thảy các pháp chẳng thể được,
mà hiện h́nh thể chữ Sa (स).
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa nhân mà hiện h́nh thể
chữ Ha - ह).
“Trí
vị” (đặt đúng vị trí) tức là các thứ
trang nghiêm. “Quán” là bảo Bí Mật Chủ hăy quán
điều ấy. Tức là trụ trong đủ loại
h́nh tượng trang nghiêm, phân biệt các vị trí. Do các
pháp vốn bất sanh, hiển thị h́nh tượng của
chính ḿnh. H́nh tượng của chính ḿnh tức là chữ
A. Từ trong h́nh tượng của chính ḿnh hiển thị
“vốn bất sanh”. Chữ A là như thế đó.
Này Bí Mật Chủ! Các thứ vị trí xếp đặt
xen kẽ, ta quán “trụ
trong bất sanh”,
h́nh tướng của các pháp được hiển thị.
Đó là [đại ư của] kinh văn. Quán chữ A này từ
trong hư không lưu xuất muôn vàn h́nh tượng trong thế
gian, hết thảy thế gian đều sanh từ đó,
nhưng [chữ A] vốn bất sanh! Chữ A giả lập,
gia tŕ tam-muội thành tựu, chứng tam-muội trọn
đủ Bát Nhă, thành tựu vạn hạnh đều do
chữ A này, đạt được phước huệ
viên măn đều từ môn chữ A này. Chữ này có thể
sanh ra đủ loại sắc, tức là xanh, vàng, đỏ,
trắng, đen, cho đến
xen kẽ có vô lượng thứ, và đủ loại
h́nh, tức là các thứ như tam giác, vuông, tṛn, bán nguyệt,
và các vị Bổn Tôn vô lượng bất đồng. Nếu
hiểu nghĩa chân thật trong ấy,
không ǵ chẳng phải là toàn thể vào trong môn chữ A, giống
như đức Tỳ Lô Giá Na. Môn chữ A được
nói trên đây, tức là hiển thị thân ta, tức là bản
thân ta vốn bất sanh mà cũng bất diệt. “Bất
sanh, bất diệt” chính là thân Như Lai, hăy nên quán sát
như thế. V́ thế nói chữ A dùng h́nh tướng của
chính ḿnh để hiển thị đức ấy.
Kế
đó, hoặc là ư nghĩa “vô sở đắc”. Từ
h́nh tướng của chữ Phạ (Va), hiển thị
ư nghĩa “bất khả đắc”, do chữ Phạ
này chứng “vốn bất sanh”. H́nh tượng của
chữ Phạ hiện ra, tức là ư nghĩa “ngôn ngữ
dứt bặt” trong đoạn sau. Điều này minh thị
ư nghĩa ǵ? Đức Phật bảo: “Chữ A có đủ
hết thảy các công đức”, hoặc trực tiếp
từ môn chữ A để nói rơ “vốn bất sanh”.
Hoặc từ môn khác mà hiển thị, tức là dùng các môn
như chữ Phạ v.v… để nói rơ. Ư nghĩa tuy khác,
môn cũng khác biệt, nhưng ư nghĩa “vốn bất
sanh” được hiển thị bởi thân của
chính ḿnh chẳng khác! Nếu pháp có một thứ ǵ đó
là sanh, sẽ chính là tướng có thể nói, chẳng phải
là pháp dứt bặt ngôn ngữ! Do chữ Phạ là “ngôn
ngữ dứt, tâm hạnh diệt”, nên vào trong môn chữ
A. Do chữ A mà biết chữ Phạ chẳng thể nói
bày được!
Tiếp
đó đều là tướng trạng của các dị
môn (các tự môn khác với chữ A):
Hoặc trong hết thảy các pháp, do ĺa tạo tác, h́nh thể
chữ Ca hiện ra. Đây vẫn là nói về môn chữ A,
nhưng muốn nêu rơ hết thảy các pháp vốn vô tác,
nên hiện chữ Ca này. Chữ Ca này nhằm nêu rơ ư
nghĩa của chữ A. Nhưng chữ Ca (क),
nếu chẳng đặt nét ngang, sẽ chẳng thành âm
Ca. Sở dĩ chẳng thành là do trong chữ Ca khuyết âm
A. Trên đầu chữ Ca có h́nh thể chữ A, hăy nên biết
một trăm chữ đều là như thế; những điều
sau đó phỏng theo đó mà hiểu. Nếu không có âm A
trong ấy, sẽ chẳng thể mở miệng, mà
cũng tự chẳng có âm thanh. Hoặc do hết thảy
các pháp bằng với
hư không, h́nh thể chữ Kha
(ख)
hiện ra. Hoặc do hành bất khả đắc, nên h́nh
thể chữ Nga (ग, Ga)
hiện ra. Hoặc do nhất hợp tướng chẳng
thể được, h́nh thể chữ Già hiện ra (घ, gha): A Lại Da chứa
đựng hết thảy chủng tử nhiễm và tịnh, là ư nghĩa “hàm
tàng”.
Hoặc do các pháp ĺa sanh diệt, h́nh thể chữ Giá (च, ca) hiện ra. Chữ
này dịch sát nghĩa là “chết mất”. Hoặc do các pháp
không có h́nh bóng, mà h́nh thể chữ Xa (छ, cha) hiện ra, như pháp thế
gian, do mặt trời và cây ḥa hợp mà có bóng cây sanh ra. Hoặc
do hết thảy các pháp ly sanh, bất khả đắc,
mà h́nh thể chữ Nhă (ज, Ja) hiện ra. Hoặc
do hết thảy các pháp ĺa đối địch, mà h́nh thể
chữ Xă (झ, Jha)
hiện ra. Đây chính là ư
nghĩa “có cái này, có cái kia”. Có đây và kia tức là có đối
địch. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa thấp
hèn, h́nh thể chữ Trá (ट, ṭa) hiện ra. Trá có nghĩa là ngă mạn
tự cao. Đối ứng với điều này bèn có thấp
hèn. Nếu có ngă mạn, có thấp hèn, tức là có ư
nghĩa “sanh diệt”, chẳng tương ứng với
chữ A. Do có âm A trong ấy, tức là nêu rơ “chẳng có ư
nghĩa ty, mạn”.
Hoặc do hết thảy các pháp ĺa dưỡng dục,
h́nh thể chữ Trá (ठ, ṭha) hiện ra. Đấy là ư nghĩa
‘vun bồi, thành lập’, như điều ḥa nước,
đất v.v… để vun quén cây cối được
sum suê. Hết thảy các pháp vào trong chữ A. Hoặc do ĺa
oán, mà h́nh thể chữ Noa (ड, ḍa) hiện ra
(“oán” là tự thân một mực ở trong hết thảy
các chỗ mà làm ác, tức là đối lập với chỗ
chẳng ác, trở thành hai đằng). Hoặc do ĺa tai biến,
mà h́nh thể chữ Đồ (ढ, ḍha) hiện ra. Đây là ư nghĩa “tai biến”,
tức là các hiện tượng lạ như châu chấu,
tai nạn nước, lửa, đạo tặc xâm hại.
Hoặc do các pháp ĺa Như Như, h́nh thể chữ Đa
(त, Ta)
hiện ra. Nếu quán có Như
Như, tức là có cái bị
quán. Có cái bị quán tức là có sanh, có diệt, tức là chẳng
tương ứng với chữ A! V́ thế, cũng cần
phải ĺa Như Như. Hoặc do các pháp ĺa trụ xứ,
h́nh thể chữ Tha (थ, Tha) hiện ra (nếu
có thị xứ, có phi
xứ, tức là có tâm thị
phi sanh ra, chẳng
tương ứng với chữ A. Hoặc do hết thảy
các pháp ĺa thí, h́nh thể chữ Na (द, Da) hiện ra. Nếu có “đây,
kia, vật được thí” v.v… tức là chẳng
tương ứng với đạo,
như kinh Bát Nhă đă nói. Hoặc do hết
thảy các pháp giới chẳng thể đắc, h́nh thể
chữ Đà (ध, Dha) hiện ra. “Giới” (界) có nghĩa là mỗi
pháp đặt đúng bổn vị. Các pháp giới h́nh
tượng muôn mối. “Giới”
hàm ư có nhiều h́nh tượng trong ấy. Giới ấy
chẳng thể được. Hoặc do hết thảy
các pháp, Đế chẳng thể được, mà h́nh thể
chữ Ba (प, Pa)
hiện ra. Đệ Nhất
Nghĩa Đế cũng chẳng thể được.
Hoặc do hết thảy các pháp giống như bọt
nước, chẳng cứng chắc, h́nh thể chữ Phả
(फ, Pha)
hiện ra. “Bọt” có nghĩa
là “không cứng chắc”.
Do ĺa chẳng cứng chắc, tức là đức của
chữ A. Hoặc do hết thảy các pháp ĺa trói buộc,
h́nh thể chữ Ma (ब, Ba) hiện ra. Nếu thấy trói
buộc và tháo gỡ, tức là có tâm chấp trước.
Nhập chữ A tức là không trói buộc, không giải
thoát, do bất sanh. Hoặc do hết thảy các pháp quán vô sở
đắc, h́nh thể chữ Bà (भ, Bha) hiện ra. “Quán” tức
là quán chiếu. Do quán chiếu thành, tức là có chỗ thọ
sanh. Nếu hiểu [chỗ thọ
sanh ấy] vốn là không, tức là vô sanh, vô quán.
Cách giải thích chữ Bà ở đây không
thích hợp để giải thích chữ Ma. Đây là cách
giải thích khác của nghĩa Không, văn sai lầm vậy.
Hoặc do các thừa chẳng thể đạt được
hết thảy các pháp, mà h́nh thể chữ Dă (य, Ya) hiện ra. “Thừa”
là tam thừa. Phàm ngồi thuyền, xe, đều có chỗ
để đạt đến, đều là ư nghĩa ấy.
Nếu có cái để ngồi, tức là có sở đắc.
Hoặc do hết thảy các pháp ly trần, h́nh thể chữ
Ra (र) hiện ra. Ra có nghĩa là “nhiễm”.
Nhiễm ô tức là khiến cho sắc thanh tịnh bị
nhuốm bẩn; đấy chính là trần nhiễm. Các pháp
ĺa hết thảy cấu. Hoặc do hết thảy các pháp
vô tướng, h́nh thể chữ La (ल) hiện
ra. Nếu có tướng
tức là đối lập với vô tướng, chẳng
tương ứng với chữ A. Hoặc do hết thảy
các pháp ĺa ngôn thuyết, h́nh thể chữ Phạ (व, Va) hiện ra. Hoặc
do hết thảy các pháp ly tịch, h́nh thể chữ Xa (श, śa) hiện ra. Xa có nghĩa là “vắng lặng”. Nếu có vắng
lặng, liền có tán loạn. Chẳng tịch, chẳng
loạn, pháp thể là như thế đó. Hoặc do bản
tánh ngu độn của hết thảy các pháp, h́nh thể
chữ Sa (ष, ṣa)
hiện ra. Sa có nghĩa là kẻ
ngu, chẳng hiểu biết. Ngu trí là sai
lầm, chẳng tương ứng với bản
thể. Hoặc là Đế chẳng thể được,
h́nh thể chữ Sa (स, Sa) hiện ra. Đế ấy có
nghĩa là “chân thật”. Đế và phi
đế là hai, tức là pháp thế gian. Đó là hiện h́nh thể của chữ. Nói “hiện chữ”
(công đức của hết thảy các pháp đều ở
trong ấy. Hoặc do hết thảy
các pháp ĺa nhân, mà h́nh thể chữ Ha (ह) hiện
ra. Ha có nghĩa là “nhân”.
Nếu có nhân, liền có quả, tức là pháp sanh diệt.
Nhập môn Bất Sanh tức là vô nhân, vô quả. Các điều khác phỏng
theo đây.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Tùy nhập thử đẳng nhất nhất
tam-muội môn, Bí Mật Chủ! Quán thị năi chí tam thập
nhị đại nhân tướng đẳng, giai tùng thử
trung xuất. Ngưỡng, nhưỡng, noa, nẵng, măng
đẳng ư nhất thiết pháp tự tại nhi chuyển.
Thử đẳng tùy hiện, thành tựu Tam Miệu Tam Phật
Đà tùy h́nh hảo.
(經)祕密主!隨入此等一一三昧門,祕密主!觀是乃至三十二大人相等皆從此中出,仰壤拏曩莽等於一切法自在而轉。此等隨現,成就三藐三佛陀隨形好。
(Kinh:
Này Bí Mật Chủ! Thuận nhập mỗi một môn
tam-muội ấy. Bí Mật Chủ! Quán pháp ấy cho tới
ba mươi hai tướng đại nhân v.v… đều
từ trong ấy mà ra. [Các chữ] Ṅa, Ña, Ṇa, Na, Ma tự tại
chuyển trong hết thảy các pháp. Các chữ ấy hễ
hiện ra, sẽ thành tựu tùy h́nh hảo của đấng
Chánh Đẳng Chánh Giác).
Tức
là trong mỗi chữ ấy có ba mươi hai môn tam-muội.
Ba mươi hai môn ấy nhập lẫn nhau, có thể tạo
thành ba mươi hai tướng, tức là hai mươi
chữ như Ca v.v.. trên đây, như tám chữ Ra v.v… và bốn
chữ này, cùng hợp thành ba mươi hai. Tam-muội trong
mỗi chữ đều trọn đủ ba mươi
hai tướng. Kế đó, năm chữ Ṅa, Ña, Ṇa, Na, Ma tự
tại xoay chuyển trong hết thảy các pháp. Các chữ ấy
thành tựu tùy h́nh hảo của đấng Đẳng
Chánh Giác, tùy ư hiện thành kinh văn. Năm chữ ấy
trọn khắp trong Định, Huệ, cũng có thể
thành tam-muội, cũng có thể thành trí huệ, có thể
thành trọn khắp tám mươi tùy h́nh hảo của
Như Lai. V́ thế, hành giả tu Chân Ngôn hăy nên biết ư
nghĩa của các chữ này. Nếu trong chân ngôn có các chữ
ấy, tùy theo nghĩa
tương ứng mà liền biết ư nghĩa, hiểu rơ
chuyện như thế. Do hiểu rơ chuyện như thế,
liền biết chân ngôn này có công đức lực dụng
như thế đó. Ở đây có một
bài kệ, từ Bí Mật Chủ, các Bồ Tát thuộc
Chân Ngôn môn, cho đến một trăm môn tam-muội-da
sanh từ trăm chữ, là kinh văn thuộc phần
khác, chẳng nên ghép vào đây. Đó là kinh văn bị chép
lầm vậy. Cũng có thể hiểu đây là chư Phật
rộng giải về cái Ngă, cũng được thành
đấng Nhân Trung Tôn trong hết thảy chư Phật.
Ba mươi hai tướng, tùy h́nh hảo v.v.., hết thảy cái nhân thành Phật,
hết thảy công đức như trên đều
do rộng hành pháp này mà được thành tựu. Hết thảy
chư Phật do hạnh này mà
được thành Thiên Nhân Trung Tôn. Nếu hành giả hành
như thế, cũng sẽ được thành Nhân Trung
Tôn. Trên đây là phẩm Bách Tự Thành Tựu Tŕ Tụng
đă xong.
23. Phẩm thứ hai
mươi ba: Bách Tự Chân Ngôn Pháp (Bách Tự Chân Ngôn Pháp
phẩm đệ nhị thập tam, 百字真言法品第二十三)
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Ư thử tam-muội
môn, dĩ Không gia tŕ, ư nhất thiết pháp tự tại,
thành tựu Tối Chánh Giác. Thị cố, thử tự tức vi Bổn
Tôn. Nhi thuyết kệ ngôn: - Bí Mật Chủ
đương tri, A tự đệ nhất cú, minh pháp phổ
châu biến, tự luân dĩ vi nhiễu. Bỉ tôn vô hữu
tướng, viễn ly chư kiến tướng. Vô
tướng chúng thánh tôn, nhi hiện tướng trung lai.
Thanh tùng ư tự xuất, tự sanh ư chân ngôn, chân
ngôn thành lập quả, chư cứu thế tôn thuyết.
Đương tri thanh tánh Không, tức Không sở tạo
tác. Nhất thiết chúng sanh loại, như ngôn nhi vọng
chấp, phi Không, diệc phi thanh, vị tu hành giả thuyết,
nhập ư thanh giải thoát, tức chứng tam-ma-địa,
y pháp bố tương ứng, dĩ tự vi chiếu
minh. Cố A tự đẳng loại, vô lượng chân
ngôn tưởng.
(經)復次祕密主!於此三昧門,以空加持,於一切法自在成就最正覺,是故此字即為本尊。而說偈言:祕密主當知,阿字第一句,明法普周遍,字輪以圍繞。彼尊無有相,遠離諸見相,無相眾聖尊,而現相中來。聲從於字出,字生於真言,真言成立果,諸救世尊說。當知聲性空,即空所造作,一切眾生類,如言而妄執;非空亦非聲,為修行者說,入於聲解脫,即證三摩地。依法布相應,以字為照明,故阿字等類,無量真言想。
(Kinh:
“Lại này, Bí Mật Chủ! Trong môn
tam-muội này, dùng Không để gia tŕ mà tự tại
trong hết thảy các pháp, thành tựu Tối Chánh Giác. V́
thế, chữ này (chữ A) chính là Bổn Tôn”. Bèn nói kệ
rằng: - Bí Mật Chủ nên biết, câu chữ A bậc
nhất, pháp minh chú trọn khắp, tự luân đều
vây quanh. Chư tôn chẳng có tướng, xa ĺa tướng
được thấy. Các tôn thánh vô tướng, mà từ
trong tướng hiện. Thanh phát xuất từ chữ, chữ
sanh trong chân ngôn, chân ngôn thành lập quả, các đấng
cứu đời nói. Nên biết thanh tánh Không, chính do Không tạo
tác. Hết thảy loài chúng sanh, hư vọng chấp ngôn từ,
chẳng Không, cũng chẳng tiếng, v́ người tu
hành nói, nhập trong tiếng giải thoát, liền chứng
tam-ma-địa, theo pháp xếp tương ứng, dùng chữ
để chiếu tỏ. Nên các chữ như A, tưởng
vô lượng chân ngôn).
Lại
này, Bí Mật Chủ! Câu tam-muội môn ở trong Không, gia
tŕ hết thảy các pháp tự tại. Do Phật đạt
được điều này, nên chữ là Bổn Tôn. “A
tự đệ nhất cú, minh pháp phổ châu biến,
dĩ tự nhi vi nhiễu, bỉ tôn vô hữu tướng,
viễn ly ư kiến tướng, vô tướng chư
thánh tôn, nhi hiện tướng trung lai” (Câu chữ A bậc
nhất, pháp minh chú trọn khắp. Dùng chữ để
vây quanh. Tôn thánh chẳng có tướng, xa ĺa tướng
được thấy. Các đức thánh vô tướng,
mà từ tướng hiện ra): Chữ A là câu đầu
tiên, các pháp thuộc minh chú đều vây
quanh trọn khắp. Vị tôn thánh ấy vô tướng,
hiện ly tướng. Bậc vô tướng như thế
lại từ trong [các tướng] mà đến. Đức Phật
v́ muốn cho hành giả tu Chân Ngôn được măn nguyện
mà nói câu tam-muội này. Ở đây, Không là chữ A. Chữ
A tức là “vốn bất sanh, bất khả
đắc Không”.
Do cái Không “rốt ráo chẳng thể được này”
trọn đủ các đức, nhiếp trọn khắp
hết thảy các Phật pháp. “Nhiếp” ở đây
chính là chữ Nhiếp trong Nhiếp Thủ (攝取, Parigraha) của
tiếng Phạn, như “nhiếp thủ các vật”
khiến cho chúng thuộc về chính ḿnh. Do sức gia tŕ của
môn Không này, có thể thâu nhiếp hết thảy các pháp
thành Phật. Tự tại ở đây khác với tự tại
trong Quán Tự Tại của tiếng Phạn. Ở
đây có nghĩa là “nhiếp thủ”, tức là có thể
nhiếp thủ hết thảy các pháp. Như bậc
vương giả ở trong lănh địa của chính
ḿnh, tùy ư nhiếp thủ đều được tự
tại. Như Lai pháp vương tự tại trong hết
thảy các pháp cũng giống như thế. Do vậy, chữ
này tôn quư nhất. Nói chữ này chính là tôn quư, tức là [giống như] trời,
hay thần. Trời là người đứng đầu
đại chúng, chữ này cũng như thế. Trong hết
thảy các pháp, tôn quư nhất, ví
như trong các bậc Địa Cư
của thế gian, Đế Thích là bậc nhất. Trong
các bậc tiên thánh thế gian, Phạm Vương là bậc
nhất. Trong các bậc thánh trí, Phật là bậc nhất.
Trong các môn chân ngôn, chữ A này là bậc nhất. Do một
chữ này mà thành vô lượng công đức, cho nên là vô
thượng. “Minh” chính là tên gọi khác của chân
ngôn. “Minh pháp phổ giai tự vi nhiễu” (pháp thuộc về
minh chú đều là được các chữ [chân ngôn] vây
quanh) tức là từ một chữ cũng
có vô lượng chữ sanh ra. Vô lượng minh chú giáp
ṿng, vây quanh, giống như tự luân được nói
trong phần trước. Tuy có [các tự luân của minh
chú] vây quanh như thế, nhưng Thể chính là vô tướng
vắng lặng. Trong vô tướng mà thấy tướng,
tức là từ trong tướng ấy mà ĺa tướng.
Lại từ trong vô tướng mà hiện ra có các chuyện
đến, đi v.v… ứng hiện trọn khắp thế
gian. Hăy nên biết đó đều là sức gia tŕ chẳng
nghĩ bàn của chân ngôn. Do dùng chữ A gia tŕ tự thân,
nên tự thân giống như hư không, mà thành tựu hết
thảy các Phật pháp. Giống như vạn vật trong
thế gian do Không mà được thành, nhưng bản thể
của Không là vô tướng. Từ trong vô tướng, hiện
đủ loại h́nh sắc, âm thanh. “Tôn” là nghĩa,
chữ là tướng, tức có cùng ư nghĩa với phẩm
trước.
“Thanh
tùng ư tự xuất, tự sanh ư chân ngôn, chân ngôn
thành quả lập, chư cứu thế tôn thuyết”
(Tiếng phát xuất từ chữ, chữ sanh trong chân
ngôn, chân ngôn thành quả lập, do đấng cứu thế
nói): Âm thanh từ chữ phát ra, chữ sanh ra từ chân
ngôn, chân ngôn thành lập
quả, [chân ngôn lại] do các đấng cứu thế
nói. Hăy nên biết tánh của âm thanh là Không, tức là do Không
tạo tác. Hết thảy các loại chúng sanh, thuận theo
ngôn từ mà chấp trước hư vọng. [V́ để
phá sự hư vọng ấy, bèn nói] “chẳng
phải là Không,
chẳng phải là âm thanh”,
[đó là] v́ người tu hành mà nói Không. Biết Không tạo
tác hết thảy mọi thứ trong thế gian, nhưng
tùy theo từng loại như thế mà
chấp trước hư vọng. “Phi không, diệc phi thanh, vị tu hành giả thuyết” (Chẳng phải là
Không, mà cũng chẳng phải là âm thanh, v́ người
tu hành mà nói [như thế]): Do thông đạt âm thanh mà nhập,
tức là chứng tam-muội. Nương theo pháp, xếp
đặt chữ tương ứng [đúng với từng
vị trí trong Mạn-đồ-la, hay nơi các chi phần
như các phẩm trước đă dạy]. Chiếu theo
câu chữ A, có nhiều loại tướng chân ngôn. Kinh
văn nói như thế đó. Nương theo chữ A giống
như hư không, hăy nên biết nó vốn ĺa các tướng.
Tuy ĺa tướng mà có đến tướng đến,
đi, từ chữ A bèn có âm thanh sanh ra. Chữ A vốn
đă là Không [nhưng lại có các tướng, các âm thanh
như vậy] là v́ lẽ nào? Âm thanh ấy do các duyên mà có, tức
là do các duyên
như họng, lưỡi, ṿm họng v.v…
tiếp xúc mà có âm thanh sanh ra, [âm thanh ấy] chỉ thuộc
vào các duyên, chẳng có tự tánh. Nhưng các duyên có thể
sanh [ra âm thanh] ấy cũng là từ duyên, hăy nên
biết là “vốn bất sanh”. Nhưng do nhân duyên mà có
chân ngôn sanh, có chân ngôn tức là có cái quả thành tựu.
[Chân ngôn, âm thanh, quả thành tựu] như thế chính là do
đấng cứu thế nói. Nếu biết âm thanh ấy
chính là Không v.v… Từ Không mà có, âm thanh được biểu
thị bằng chữ, âm thanh và Không nương vào nhau. Nếu
biết điều này, tướng trạng của sự
nghiệp được thực hiện trong thế gian
muôn mối, đều chẳng ra ngoài môn chữ A. Do tùy thuận
thế gian mà có phân biệt khởi lên. Chẳng hiểu th́
nương theo đó, sanh ra đủ loại tâm suy tưởng,
chấp giữ. Nhưng thật ra, do hư không và âm thanh cả
hai đằng đều ĺa, tức là do hành giả Chân
Ngôn nói. Nếu hiểu rơ điều này, bài kệ này chính
là giải thích lẫn nhau, liền nhập vào sự giải
thoát [khỏi sự chấp trước của] âm thanh.
Đó gọi là được tự tại nơi âm thanh,
biết rơ bản tánh là Không, liền chứng tam-muội.
Dùng âm thanh để biểu thị Không, Không nêu bày duyên, giải
thích lẫn nhau. Nay khiến cho nhập cả hai đều
là Không, âm thanh và tai là Không, từ ngay trong lư ấy mà có
đủ vạn đức. Do hiểu biết Không, âm
thanh v.v… mà nhập lư chân tánh. “Nhập chân tánh”
chính là trụ trong tam-muội, tương ứng với
tam-muội chính là pháp. Tuy vốn bất sanh mà sanh ra hết
thảy các pháp, tức đủ loại màu xanh, vàng v.v…,
đủ loại h́nh vuông, tṛn, tam giác v.v… của bách tự
luân, cho tới vô lượng chẳng thể nói các tướng
sai biệt, nương theo đó mà chiếu sáng. Tự lẫn
tha đều là Không, từ Không mà nhập Lư, đều là
tác dụng gia tŕ. “Tiến nhập” là thông đạt.
Do trụ trong lư ấy chính là trụ trong tam-muội. Chứng
điều đó, nương theo pháp để xếp
đặt tương ứng, do sự tương ứng
mà cũng đạt được ḥa hợp. Nói “trí”
(置, xếp
đặt) cũng giống như “bố” (布, sắp xếp)
vậy. Các chữ ấy chiếu sáng, “chiếu sáng” là thành
tựu đức.
Lại
nữa, nói “giống như chữ A”, hàm ư phỏng
theo đó để hiểu ư nghĩa của hết thảy
các chữ. “Nhiều loại chân ngôn tưởng”:
Tưởng nghĩa là “có phân biệt”. Phỏng theo một chữ này (chữ A),
sẽ hiểu tương xứng với ư nghĩa của
hết thảy các chân ngôn. “Tưởng” đổi
thành “phân biệt” đủ loại danh tự chân
ngôn, tức là do từ trong một chữ mà hiện vô
lượng nghĩa, hiện vô lượng thuyết. Trong
hết thảy các loài chúng sanh, đều hiện vô lượng
ngôn ngữ, đều sanh từ một chữ ấy, ở
trong ấy, lập ra khá nhiều danh từ chân ngôn. Hiện
chứng lư ấy, nương theo pháp mà đặt chữ
tương ứng, tức là trong một chữ trên
đây, đặt vô lượng chữ, h́nh sắc mỗi
chữ mỗi khác, giống như bách tự luân đều
nương theo đấy
mà hiện. Hăy nên chiếu biết như thế để
quan sát.
Hăy
nên biết chữ A có vô lượng nghĩa; vô lượng
đủ loại chân ngôn sai biệt cũng giống
như thế. Ư nghĩa của chữ ấy từ ban
đầu cho đến hiện thời, Phật Phật
đều giống nhau, có ư nghĩa của chữ nơi
chân lư ấy và thành tựu các hạnh diệu
môn chân ngôn thuộc tự nhiên huệ, chẳng
do người thế gian lập ra. Đấy chính là trí
môn tự nhiên của Như Lai, chẳng phải do điều
ǵ khác khởi lên, cũng chẳng phải do Như Lai v́ một
loại chúng sanh mà sáng lập, mà là pháp lập thường
trụ, mỗi vị Phật đều giống nhau! Tuy
do vốn tự thành, cũng cần phải có nhân duyên và
phương tiện th́ mới có thể hiển hiện
minh bạch. Ở đây, chỉ nêu
lên một chữ, nhưng pháp môn trăm
chữ đều có thể biết. V́ thế nói là Bách Tự
Môn, tức là nêu lên một chữ th́ cả một trăm
chữ đều có
thể biết. Phẩm Bách Tự Pháp đă
xong (“pháp” có nghĩa là rất nhiều, chẳng phải
là pháp trong từ ngữ Đạt Ma
(Dharma), tức là ư nghĩa của nghi quỹ
Bách Tự. Các thứ công đức sanh từ một
trăm chữ ấy được gọi là Pháp. Quyển
cuối cùng và Hoằng Kư quyển thứ hai có liên quan
đôi chút với phẩm đầu tiên của kinh).
Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần 12 hết
[1] Tùy Miên (Anuśaya), c̣n gọi là Sử,
hoặc Sử Phiền Năo, nhưng giới hạn trong hiện
hành phiền năo, nó ẩn ngầm trong nội tâm như bóng
theo theo h́nh, nhỏ nhiệm khó nhận biết như
“đang ngủ say”. Do vậy gọi là Tùy Miên, gồm ba loại
là Tham Tùy Miên, Sân Tùy Miên và Si Tùy Miên. Tức là tập tánh
trong ư thức. Nói đại lược th́ là Thập Sử
(tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến,
kiến thủ kiến, giới thủ kiến), c̣n nếu
phân tích tỉ mỉ th́ gồm hai loại lớn là Phiền
Năo Tùy Miên và Hiện Hành Tùy Miên, mỗi loại lại có hai
mươi tiểu loại như Hiển Dương Thánh
Giáo Luận đă nói.
[2] Vị này c̣n được gọi
là Thảo Hệ tỳ-kheo (Kusavandhana). Theo Đại Trang
Nghiêm Kinh Luận quyển ba, có tỳ-kheo gặp
phải đạo tặc, đạo tặc liền dùng cỏ
tươi trói lại. Do sợ làm hại sanh mạng của cỏ, tỳ-kheo chẳng dám tự cởi
trói. Kinh thường dẫn chuyện này để ca ngợi
người nghiêm tŕ giới cấm, như quyển hạ
của kinh Phạm Vơng có câu: “Nhược Phật tử
hộ tŕ cấm giới, hành, trụ, tọa, ngọa, nhật
dạ lục thời độc tụng thị giới,
do như kim cang, như đới tŕ phù nang dục độ
đại hải, như thảo hệ tỳ-kheo” (Nếu
Phật tử hộ tŕ giới cấm, đi, đứng,
nằm, ngồi, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới này, ví như kim cang, như
đeo phao nổi muốn vượt biển cả,
như tỳ-kheo bị
cỏ trói).
[3] Theo Tứ Phần Luật, mười
loại nữ nhân được thủ hộ là mẫu hộ
(được mẹ bảo vệ), phụ hộ
(được cha bảo vệ), phụ mẫu hộ
(cha mẹ bảo vệ), huynh hộ (anh bảo vệ), tỷ
hộ (chị bảo vệ), huynh tỷ hộ, tự hộ,
pháp hộ, tánh hộ, tông thân hộ. Hai loại đầu
là khi cha mất, mẹ c̣n, hoặc ngược lại. Loại
thứ ba là cha mẹ c̣n đầy đủ. Ba loại kế
đó là khi cha mẹ đă mất, cô gái được anh,
chị bảo bọc. Tự hộ là không có thầy bạn,
nhưng tánh t́nh đoan trinh, không bị nhuốm bẩn.
Pháp hộ là được thủ hộ bởi luật
pháp như các quy định của quốc gia nghiêm cấm
xâm phạm gái góa, gái độc thân, nữ tu v.v… Tánh hộ
là các cô gái xuất thân từ thế gia vọng tộc,
được ḍng họ bảo vệ. Tông thân hộ
là như khi cha mẹ, anh chị không c̣n, sẽ được
họ hàng bảo vệ.
[4] Phi thời là như vợ chồng
ăn nằm không đúng lúc, đúng chỗ như đang
ngày giỗ, đang
lúc bệnh tật, vợ đang có kinh nguyệt, đang lúc có tang, nhằm ngày vía của Phật, Bồ Tát, hoặc
nhằm lúc trai giới, lúc kết thất tu tập, tụng giới,
đang trong lúc cử hành pháp hội v.v…
[5] Kinh Tăng Già Trá (Ārya
Saṃghāṭa sūtra) do
vương tử nước Ưu Thiền Ni (Ujjeni) là
ngài Nguyệt Bà Thủ Na (Upaśūna)
dịch. Đây là bản dịch khác của Đại Tập
Hội Chánh Pháp Kinh (bản này do ngài Thí Hộ (Danāpāla) dịch). Kinh chép các
câu chuyện thực hiện Bồ Tát đạo và hồi
hướng công đức do hành Bồ Tát đạo ḥng
thành tựu Phật quả.
[6] Ma Nạp Bà dịch
nghĩa là Thắn Ngă, tức là một tông phái Bà La Môn đặc
biệt tôn sùng thần Tỳ Sắt Nữu (Vishnu), cho rằng
trong thân người tồn tại một chân ngă thắng
diệu, là một điểm linh quanh tách ra từ Đại
Ngă.
[7] Đây chính là chuyện tiền thân
của Phật Thích Ca. Ma Nạp Bà dịch nghĩa là Nho
Đồng (đứa bé trẻ tuổi thông minh), do dâng
hoa cúng dường Phật Nhiên Đăng mà được
thọ kư sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
[8] Câu này hơi khó hiểu, theo ngu ư,
ngài Nhất Hạnh muốn nói: Ngài Kim Cang Thủ muốn hỏi
pháp nào để có thể giữ giới mà chẳng nẩy
sanh sự chấp trước vào các thiện pháp.
[9] Tức là thí dụ cây Đa La bị
chặt cụt sẽ không thể mọc lại.
[10] Do chỗ này hơi khó hiểu, ngu ư
cho rằng: Các thế gian nhiều đến vô lượng,
nên gọi là “thế giới hải” (biển thế
giới) để h́nh dung. Do thế giới vô lượng,
chúng sanh giới vô lượng, nói đại lược
th́ là mười pháp giới. Do vậy, pháp giới
cũng là vô lượng. Các pháp môn để tiến nhập,
chứng đạt các pháp giới b́nh đẳng
được h́nh dung như cửa biển tức chỗ
để các con sông đổ vào biển, nên gọi theo lối
tỷ dụ là “hải khẩu” hoặc “hải môn”.
[11] Bát Bất là
tám chữ do đại sư Long Thọ dùng để tóm gọn
ư nghĩa của tánh Không trong kinh Đại Bát Nhă khi soạn
bộ Trung Luận: Bất sanh, bất diệt, bất
thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị,
bất lai, bất khứ. Khi truyền sang Trung Hoa, Bát Bất
trở thành giáo nghĩa trọng yếu của Tam Luận
Tông. Nguyên văn bài kệ trong Trung Luận như sau: “Bất
diệt diệc bất khởi, bất sanh diệc bất
diệt, bất đoạn diệc bất thường, bất
thường diệc bất đoạn. Phi nhất, phi chủng
chủng, bất nhất diệc bất dị. Bất lai
diệc bất khứ, bất lai diệc bất xuất”
(Chẳng diệt cũng chẳng khởi, chẳng sanh
cũng chẳng diệt. Chẳng đoạn cũng chẳng
thường, chẳng thường cũng chẳng đoạn.
Chẳng một, chẳng các thứ, chẳng một
cũng chẳng khác. Chẳng đến cũng chẳng
đi, chẳng đến cũng chẳng ra).
[12] Nguyệt
Đăng Tam Muội Kinh (Candrapradīpasamādhi
sūtra) c̣n có tên gọi là Tam Ma Địa
Vương Kinh, được xếp vào Đại Tập
Bộ trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.
Trong kinh này, đức Phật v́ Nguyệt Quang đồng
tử (Candraprabha
Kumāra) dạy môn tam-muội Nhất Thiết
Chư Pháp Thể Tánh B́nh Đẳng Vô Hư Luận. Kinh này
sau khi được dịch ra tiếng Hán không được
phổ biến tại Trung Hoa và Nhật Bản cho lắm,
nhưng tại Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, kinh này
được coi là tài liệu trọng yếu để
nghiên cứu Trung Quán, và được trích dẫn rất
nhiều bởi các vị luận sư như Nguyệt Xứng
(Chamndarkirti), Tịch Thiên (Shantideva). Phái Kargyupa của Tây Tạng
coi kinh này là cơ sở cho phép tu Đại Thủ Ấn
của họ. Kinh này được dịch sang tiếng
Hán bởi các vị Na Liên Đề Da Xá (Narendrayaśas) và Đạt Ma
Xà Na (Dharmajñāna) vào năm Thiên Bảo thứ tám (557) nhà
Cao Tề.
[13] Thập Biến Xứ (Daśakrtsnāyatanāni) c̣n gọi là Thập Nhất Thiết
Nhập, Thập Nhất Thiết Xứ, Thập Biến
Nhập, Thập Biến Xứ Định, tức là
nương theo thắng giải mà tác ư, quán mười pháp
như sắc v.v… đều trọn khắp hết thảy
các nơi, chẳng hề có kẽ hở. Mười pháp tức
là đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ,
trắng, không và thức. Pháp quán này nhằm giúp cho các hành giả
tu bát giải thoát, bát thắng xứ, sẽ đạt
được tướng thanh tịnh đối với
các pháp như sắc v.v…
[14] Trong cách tính đếm của cổ
Trung Hoa, những con số lớn là vạn, ức, triệu,
kinh, cai, tỷ, nhương, câu, giản, tải. Trong
đó, vạn là mười ngàn, ức là trăm ngàn, cho
đến con số lớn cuối cùng là Tải (tức
là sau số 1 có mười bốn con số không).