Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần 13
大毘盧遮那成佛經疏
Đường sa-môn
Nhất Hạnh A-xà-lê kư
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
24. Phẩm thứ hai
mươi bốn: Nói về tánh Bồ Đề (Thuyết
Bồ Đề tánh phẩm đệ nhị thập tứ,
說菩提性品第二十四)
(Kinh)
Thí như thập phương hư không tướng,
thường biến nhất thiết vô sở y. Như thị
chân ngôn cứu thế giả, ư nhất thiết pháp vô
sở y. Hựu như không trung chư sắc tượng,
tuy khả hiện kiến vô y xứ, chân ngôn cứu thế
giả diệc nhiên, phi bỉ chư pháp sở y xứ. Thế
gian thành lập hư không lượng, viễn ly khứ
lai hiện tại thế. Nhược kiến chân ngôn cứu
thế giả, diệc phục xuất quá tam thế pháp.
(經)譬如十方虛空相,常遍一切無所依,如是真言救世者,於一切法無所依。又如空中諸色像,雖可現見無依處,真言救世者亦然,非彼諸法所依處。世間成立虛空量,遠離去來現在世,若見真言救世者,亦復出過三世法。
(Kinh:
Ví như tướng hư không mười phương,
thường trọn hết thảy không nương tựa.
Pháp chân ngôn cứu đời cũng thế, trong hết thảy
pháp chẳng nương tựa. Lại như không trung các sắc tượng,
tuy hiện thấy được, không chỗ
nương. Chân ngôn cứu thế cũng giống vậy,
chẳng phải chỗ nương của các pháp. Thế
gian thành lập hư không lượng, xa ĺa đời
xưa, nay, vị lai. Nếu thấy bậc chân ngôn cứu
đời, cũng lại vượt ngoài pháp ba đời).
Kế đó nói phẩm Bồ
Đề Tánh, tức là dựa theo nghĩa lư trong phẩm
Bách Tự Pháp (tức phẩm Bách Tự Chân Ngôn Pháp) để
nói thí dụ. V́ thế, kinh nói “như hư không trong
mười phương”. Giống như hư không, hết
thảy các phương thường trọn khắp chẳng
nương tựa. Hết thảy các pháp chân ngôn cứu
đời [cũng giống như thế], thường trọn
khắp hết thảy, không nương tựa. Chân ngôn cứu
đời trong hết thảy các pháp không nương tựa,
giống như vật trong hư không (tức là khói, mây
v.v…), tuy
thấy chẳng nương tựa (tức là như hư
không, tuy thấy hết thảy mặt trời, mặt
trăng, khói, mây v.v… nhưng hư không chẳng nương
vào đâu!),
các vật chẳng nương vào
hư không. Chân ngôn cứu thế cũng vậy, chẳng
phải là chỗ nương tựa cho các thứ đó,
như giáo pháp đă nói về cái thành tựu tột bậc
trong cơi đời vậy. Hư không xa ĺa ba đời,
chân ngôn cứu đời cũng ĺa ba đời. Chân ngôn cứu
đời giống như hư không, đều b́nh đẳng
ĺa khỏi ba đời. Đó là các ư chánh trong kinh văn.
Giống như hư không trọn khắp hết thảy
các nơi chốn, hết thảy vạn hữu đều
nương vào đó mà được thành lập, nhưng
hư không chẳng nương vào đâu! Hết thảy
chân ngôn như thế đều nương vào chân ngôn cứu
thế này. Cái Thấy ấy chính là hiện kiến, hiện
lượng.
Thấy khói v.v… chẳng nhuốm bẩn
hư không cũng thế.
(Kinh)
Duy trụ ư danh thú, viễn ly tác giả đẳng,
hư không chúng giả danh, đạo sư sở tuyên thuyết.
Danh tự vô sở y, diệc phục như hư không. Chân
ngôn tự tại nhiên, hiện kiến ly ngôn thuyết. Phi
hỏa, thủy, phong đẳng, phi địa, phi nhật
quang, phi nguyệt đẳng chúng diệu, phi trú diệc
phi dạ, phi sanh, phi lăo bệnh, phi tử, phi tổn
thương, phi sát-na, thời phần, diệc phi niên tuế
đẳng, diệc phi hữu thành hoại, kiếp số
bất khả đắc, phi tịnh nhiễm thọ sanh,
hoặc quả diệc bất sanh. Nhược vô như thị
đẳng, chủng chủng thế phân biệt. Ư bỉ
thường cần tu, cầu Nhất Thiết Trí cú.
(經)唯住於名趣,遠離作者等,虛空眾假名,導師所宣說。名字無所依,亦復如虛空,真言自在然,現見離言說。非火水風等,非地非日光,非月等眾曜,非晝亦非夜,非生非老病,非死非損傷,非剎那時分,亦非年歲等,亦非有成壞,劫數不可得,非淨染受生,或果亦不生。若無如是等,種種世分別,於彼常勤修,求一切智句。
(Kinh:
Chỉ trụ trong danh nghĩa, xa ĺa người tạo
tác, hư không,
các giả danh, do đạo sư tuyên nói. Danh tự không
nương cậy, cũng lại như hư không. Chân
ngôn vốn tự tại, hiện hữu, ĺa ngôn thuyết.
Chẳng phải lửa, nước, gió, chẳng đất,
chẳng ánh nắng, chẳng mặt trăng, tinh tú. Chẳng
ngày, cũng chẳng đêm. Chẳng sanh, chẳng già, bệnh.
Chẳng chết, chẳng tổn thương, chẳng
sát-na, thời phần, cũng chẳng phải năm tháng.
Cũng chẳng có thành, hoại, kiếp số chẳng thể
được. Chẳng tịnh, nhiễm, thọ sanh, hoặc
quả cũng chẳng sanh. Nếu chẳng có như thế,
các thứ đời phân biệt, thường siêng tu
nơi
đó, cầu câu Nhất Thiết Trí).
Trụ nơi “duy” gọi
là hạnh, xa ĺa tác giả (chủ thể tạo tác) v.v… “Hư
không giả danh đẳng” (các thứ giả danh
như hư không v.v…): “Đẳng” tức là có đủ
loại giả danh, nghĩa
là người đời nói là “hư không”, đó
chỉ là giả danh! “Đạo sư sở tuyên thuyết”
(được đấng đạo sư tuyên nói): Cái Thể
của chân ngôn ấy vốn bất sanh, Giáo
không có chỗ để nương vào, giống như
hư không trọn khắp hết thảy mọi nơi. Lại
như thế gian nh́n vào hư không, cho là có cái để
trông thấy, nhưng thật sự quán hư không th́ hết
thảy các phép Quán đều chẳng đối ứng với
mắt. Xét theo phương diện “hư không trọn
đủ hết thảy các tướng”, cái hư không
“trọn đủ hết thảy các tướng” ấy
cũng chẳng nhập vào các tướng đó, tự và
tha đều ĺa. Hăy nên biết chân ngôn cứu đời
này cũng giống như thế, chẳng khác hư không.
Tuy không ǵ chẳng có, nhưng cái Thể rốt ráo thanh tịnh
giống như hư không. Tuy giống như
hư không rốt ráo thanh tịnh, không
có pháp nào để có thể đạt được,
nhưng không ǵ chẳng có, không ǵ chẳng thành. Lại
như hư không ĺa khỏi ba đời, tức là [ĺa khỏi]
quá khứ, vị lai, hiện tại. Chân ngôn cũng thế,
do tùy thuận thế gian mà nói có
ba đời, tức là sẽ tu, đă tu, và đang tu, sẽ
chứng, đă chứng, và đang chứng. Nhưng cái Thể
của chân ngôn vượt ngoài ba đời, giống
như hư không, lại c̣n tùy thuận người đời
mà nói là “ba đời” đó thôi! “Cứu thế”
tức các loại pháp phân biệt Không kiến. Pháp ấy
đă sanh từ cái “vốn chẳng sanh”, hăy nên biết
cái Thể của nó cũng giống như căn bản,
cũng chỉ gọi là hạnh, các tác giả, b́nh đẳng ĺa
khỏi danh từ giả danh của hư không v.v… “Tuyên
thuyết đạo sư phi danh y sở hữu” (tức
là câu chánh kinh “đạo sư sở tuyên thuyết. Danh
tự vô sở y” nghĩa là “do
đấng đạo sư tuyên nói,
danh tự không nương
cậy vào đâu”):
Như hư không,
chân ngôn cũng thế. Như hư không chỉ
trụ nơi danh và hạnh, hạnh ấy cũng có thể
hướng về, tức là “hữu danh thú” (有名趣) nghĩa là “con
đường chỉ có tên gọi”, chỉ gọi là Thú
(đường nẻo). “Con đường chỉ có
tên gọi ấy” cũng đáng nên nói theo ư nghĩa ngôn
ngữ.
“Hư
không giả danh đẳng” (các thứ giả danh
như hư không v.v…): “Đẳng” ở đây là thuận
theo thế gian mà lập ra danh xưng ấy, tức giả
đặt bày. Bài kệ trước nói “hư không chỉ
có tên gọi”, bài kệ sau ư nói: Cái tên gọi ấy
cũng giống như hư không, đều là chẳng thể
được! Chỉ có danh tự mà chẳng thể
được, ĺa tác giả! Như người thế
gian do tướng phân biệt, hư luận, chấp lấy
tướng Không ấy, cho nó là có thật, sanh ra đủ
loại so đo hư vọng. Hoặc nói “hư không là
thường”; hoặc nói nó bị vây hăm trong các sắc,
hoặc nói “ở trong lỗ huyệt là hư không”
v.v… Hoặc nói “cái Không ấy nương vào chỗ của
tác giả mà sanh”. Các kiến chấp ấy vô lượng,
vô biên, như kinh luận đă rộng nói. Nói tóm lại,
đều chẳng ĺa khỏi Đoạn Kiến và
Thường Kiến. Thậm chí các vị thầy Tiểu
Thừa trong thế gian cũng coi pháp Không là thật sự
có! Do nhân duyên ấy mà có vô lượng lầm lỗi. Danh
cũng là vô sở hữu, cũng giống như hư
không. Chân ngôn chủ cũng thế, trụ vào giả danh, tức
là vô lượng giả lập vậy. Các điều “chẳng
phải” [được nói trong chánh kinh như “phi hỏa,
thủy, phong” v.v…] chẳng phải là tịnh, uế, thọ
sanh, hoặc quả
cũng chẳng thể sanh. Đấy hoặc là có nhiều
loại nghĩa, các quả cũng chẳng sanh. Nếu
không có các thứ phân biệt thuộc thế gian như vậy; đối
với đó mà thường siêng tu, cầu câu Nhất Thiết
Trí, tức là dốc chí cầu điều ấy. Nay “hư
không” được nói
ở đây chính là Bất Khả Đắc Không, tức
là Đại Không Không. Lại c̣n là cái Không chỉ có danh tự,
nhưng thật thể chính là Bất Không, ĺa tướng
Không và Bất Không! Đạo sư do phương tiện mà
giả dùng ngôn thuyết để khai ngộ chúng sanh,
nhưng danh xưng Không cũng là chẳng thể được.
Nếu có danh tồn tại th́ tức là hữu tướng.
Hữu tướng chính là tâm sanh diệt, chẳng nhập
Thật Trí, sao có thể gọi là “trí Thật Tướng
thuộc huệ tự nhiên trong
chữ A” cho được? Như hư không chẳng
nương tựa, hăy nên biết chân ngôn cũng như thế,
rốt ráo chẳng nương vào đâu! Đức Phật
dùng phương tiện, muốn khiến cho trọn khắp
chúng sanh nhập
Phật huệ, từ Không lập Giả,
khiến cho họ nương vào cái Giả ấy mà đạt tới
lư. Bản
thể của Không đă là vô sanh, vậy th́ cái Giả vốn
nương vào Không lại do đâu mà có? Hăy nên biết là
sanh thật kiến. Tri kiến như thế
chính là tánh Bồ Đề, tánh Bồ Đề chẳng
ĺa chân ngôn. Ư nghĩa của chân ngôn ấy chính là Bồ
Đề. Ĺa ngoài điều đó mà riêng có Bồ Đề,
chẳng có lẽ ấy!
Chẳng phải
lửa, nước, gió, đất, chẳng phải mặt
trời, mặt trăng các ngôi sao, chẳng phải ngày
đêm, chẳng phải sanh tử, chẳng phải tổn
thương, chẳng phải sát-na, mâu-hô-lật-đa (muhūrta), chẳng phải năm tháng, chẳng phải kiếp
số thành hoại, chẳng tịnh, chẳng phải bất
tịnh, [chẳng phải] thọ sanh quả, hoặc cũng chẳng sanh. Nếu chẳng có các thứ
phân biệt trong thế gian như thế, siêng tu nơi
đó, sẽ là sự vui sướng nơi câu Nhất Thiết
Trí. Đó là chánh ư của kinh văn. Nói về tánh của
chân ngôn th́ chẳng phải là đất, nước, lửa,
gió, như hư không trọn khắp trong đất, nước,
lửa, gió. Tứ Đại
nương vào hư không mà thành tựu hết thảy các sự,
nhưng hư không chẳng nương tựa. Trong chân ngôn
này, tác dụng của đất, nước, lửa, gió
chẳng nghĩ bàn, nương vào môn chữ A, nhưng chữ
A ấy chẳng phải là các câu “đất, nước,
lửa, gió”.
“Chẳng
phải mặt trời, chẳng phải mặt trăng”,
tức là chín tinh tú chấp diệu, đều do người
đời lập ra, chẳng chân thật. Nay tánh Bồ
Đề này, chẳng có sự sai biệt sáng và không sáng,
sao có ngày đêm khác biệt cho được? Ĺa nhân duyên
Thật Tướng thường trụ, tức là cái Thể
của Đại Nhật Như Lai, lẽ nào chẳng ĺa
sanh tử ử? “Hại” có nghĩa là tổn
thương, cũng có nghĩa là “suy hao”. Nhưng tánh của
chân ngôn là thường hằng, chẳng biến đổi,
ĺa rời các chuyện suy năo, biến đổi,
hư hao, chẳng có các tướng “thời
phần, kiếp số thành hoại”. Hăy nên chánh quán tánh
chân ngôn như thế, chẳng nương vào vọng chấp.
Cho đến lúc kiếp sơ chẳng thành, lúc kiếp tận
chẳng hoại, cái gốc không khởi đầu, cái ngọn
không kết thúc. Do ĺa kiếp số, thời phần v.v…,
do không ǵ chẳng có, cho nên chẳng phải là tịnh, rốt
ráo không. V́ thế, chẳng phải là chẳng tịnh.
Hết thảy chúng sanh do chữ A này mà trọn đủ
hết thảy các pháp cấu uế. Như Lai do dùng pháp này
mà thành tựu hết thảy các công đức. Do vậy,
chẳng tịnh, chẳng phải là bất
tịnh. Nếu nói “từ quán mà sanh”, do có cái
được quán, cái được thành, theo hành mà thọ
sanh, chân ngôn đều ĺa khỏi các điều ấy. Cho
đến từ công đức của tịnh quán, từ
vô lượng công đức mà lănh nhận Ư Sanh Thân,
cũng lại đều là không. V́ thế, chẳng có cái
quả thọ sanh. Do những điều này đều là
các pháp có sở đắc, Thật Trí tự nhiên nơi
tánh của chân ngôn trong hết thảy các pháp đều là
vô sở đắc. Hăy nên biết các thứ phân biệt
như trên đây chẳng phải là chân thật kiến, số
tới vô lượng. Nói tóm lại, tánh của chân ngôn
đều ĺa các kiến giải phân biệt của thế
gian như vậy. Nếu biết rơ điều này, tu hạnh
Chân Ngôn như thế, tức là câu Nhất Thiết Trí. “Lạc
dục” là tùy ư liền thành. “Câu” có nghĩa là trụ
xứ, tức trụ xứ của Nhất Thiết Trí, tức
là Phật trụ. Hăy nên biết:
Tánh Bồ Đề bằng với
hư không, hư không bằng với tánh Bồ Đề.
Tánh của Bồ Đề chính là câu Nhất Thiết Trí
trong môn chữ A!
25. Phẩm thứ
hai mươi lăm: Hạnh thuộc ba môn tam-muội-da
(Tam tam-muội-da hạnh phẩm đệ nhị thập
ngũ, 三三昧耶行品第二十五)
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật
ngôn: “Thế Tôn sở thuyết tam tam-muội-da, vân hà thuyết
thử pháp vi tam tam-muội-da?” Như thị ngôn dĩ, Thế
Tôn cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai, thiện
tai! Bí Mật Chủ! Nhữ vấn ngô như thị
nghĩa, Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế
thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết”.
Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị, Thế Tôn! Nguyện nhạo
dục văn”.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:世尊所說三三昧耶,云何說此法為三三昧耶?如是言已,世尊告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝問吾如是義。祕密主!汝當諦聽,善思念之,吾今演說。金剛手言:如是。世尊!願樂欲聞。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch
đức Phật rằng: “Đức Thế Tôn nói ba môn
tam-muội-da, v́ sao nói các pháp ấy là ba môn tam-muội-da?”
Nói như thế xong, đức Thế Tôn bảo ngài Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành thay! Bí Mật
Chủ! Ông hỏi ta nghĩa như thế. Bí Mật Chủ!
Ông hăy nên lắng nghe, ta nay sẽ diễn thuyết”. Kim Cang
Thủ nói: “Đúng như thế, bạch Thế Tôn! Con
mong ưa thích được nghe”).
Trong
phần trước đă nói, nhưng chưa trọn hết,
[nay ngài Chấp Kim Cang] nương theo ư trên mà thưa hỏi,
cho nên nói lời ấy. Ư của lời hỏi là: “Đối
với ba môn tam-muội-da, những pháp ǵ là ba môn tam-muội-da?”
Phật coi lời hỏi này là đại sự nhân duyên;
do vậy, tán thán xong, bèn răn bảo [ngài
Chấp Kim Cang] hăy tiếp nhận cẩn
thận, cho đến [ngài Bí Mật Chủ] thưa vâng,
lănh nhận, kinh văn dễ hiểu!
(Kinh)
Phật ngôn: - Hữu tam chủng pháp tương tục trừ
chướng tương ứng sanh, danh tam tam-muội-da. Vân
hà bỉ pháp tương tục sanh? Sở vị sơ tâm
bất quán tự tánh, tùng thử phát huệ, như thật
trí sanh, ly vô tận phân biệt vơng. Thị danh đệ nhị
tâm Bồ Đề vô phân biệt Chánh
Đẳng
Giác
cú. Bí Mật Chủ! Bỉ như thật kiến dĩ,
quán sát vô tận chúng sanh giới, bi tự tại chuyển
vô duyên quán, Bồ Đề tâm sanh, sở vị ly nhất
thiết hư luận, an trí chúng sanh,
giai linh trụ ư vô tướng Bồ Đề. Thị
danh tam tam-muội-da cú.
(經)佛言:有三種法相續除障相應生,名三三昧耶。云何彼法相續生?所謂初心不觀自性,從此發慧,如實智生,離無盡分別網,是名第二心菩提無分別正等覺句。祕密主!彼如實見已,觀察無盡眾生界,悲自在轉無緣觀,菩提心生。所謂離一切戲論,安置眾生皆令住於無相菩提。是名三三昧耶句。
(Kinh: Đức
Phật nói: - Có ba loại
pháp liên tục mà sanh, tương ứng với sự trừ
chướng, được gọi là ba môn tam-muội-da.
Các pháp ấy nối
tiếp nhau sanh khởi như thế nào? Chính là sơ tâm chẳng
quán tự tánh. Từ đó, phát sanh huệ, trí như thật
sanh ra, ĺa khỏi lưới vô tận phân biệt. Đó gọi
là câu “tâm Bồ Đề vô phân biệt, Chánh Đẳng
Giác” thứ hai. Này Bí
Mật Chủ! Người ấy đă thấy như thật
rồi, quán sát vô tận chúng sanh giới, ḷng bi tự tại,
chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm phát sanh. Đó gọi
là ĺa hết thảy các hư luận, đặt yên chúng sanh,
khiến cho họ đều trụ trong vô tướng Bồ
Đề. Đó gọi là câu “ba môn tam-muội-da”).
Ba
môn tam-muội-da ấy, trong Đại Bổn giải thích
cặn kẽ có đến một ngàn hai trăm bài kệ.
Ở đây, chỉ nêu đại lược ư chánh yếu,
các nghĩa khác không ra ngoài ư nghĩa chánh yếu ấy.
Đức Phật nói có ba loại pháp liên tục (“liên tục”
là “sanh”)
trừ khử các
thứ gây chướng, khiến cho tương
ứng với vô chướng. Nói “trừ chướng”
tức là sanh khởi tương ứng với
vô chướng,
gọi đó là “ba môn tam-muội-da”
(do Du Già tương ứng với vô chướng, nên chính
là ba môn tam-muội-da). Các pháp ấy liên tục như thế
nào? Kế đó, trong lời giải đáp, đức Phật
dạy: Trước
hết, ba pháp liên tục chẳng gián đoạn
chính là ư nghĩa của
tam-muội-da. Nhưng trong tiếng Phạn, “liên tục”
(nirvataya) có ư
nghĩa giống như “chướng” (nīvaraṇa), cũng có thể
bao gồm cả hai ư nghĩa ấy. Do liên tục mà nếu
có gián đoạn th́ chẳng phải là tam-muội-da; đấy
chính là “chướng sanh”. Do vậy, kiêm cả hai
nghĩa. Cái được gọi là “vô gián tương tục”
(liên tục không gián đoạn) chính là ngôn hạnh liên tục,
tâm và miệng tương ứng. Hễ đă phát tâm th́
thân, miệng, việc làm đều chẳng dám trái vượt,
miệng thốt thệ nguyện, tâm hạnh cũng tu như
thế; đó gọi là tam-muội-da.
Kinh
dạy “sơ tâm bất quán tự tánh, tùng thử phát huệ”
(hàng sơ tâm chẳng quán tự tánh, từ đó phát sanh
trí huệ). Kế đó, trí như thật sanh khởi, ĺa
khỏi lưới phân biệt vô tận. Đó là tướng
thứ hai của Bồ Đề tâm. Chẳng phân biệt
Phật cú, như thật quán
thấy chúng sanh giới vô tận. Bí Mật Chủ! Ḷng bi
tự tại, chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm phát
sanh, tức ĺa hết thảy hư luận, đặt yên
chúng sanh trụ trong vô tướng Bồ Đề tâm.
Đó là ba môn tam-muội-da. Đấy là các ư chánh trong kinh
văn. Sơ tâm chẳng quán tự tánh (“bổn tánh” cũng
là sơ khởi); từ
đấy, phát sanh trí huệ,
trí như thật sanh khởi. Tức là hiểu rơ Thật
Tướng, “hiểu rơ” là trí vậy. “Ĺa lưới
phân biệt vô tận” gọi là “cái tâm thứ hai”. Câu “Bồ
Đề tướng vô phân biệt Tam Bồ Đề:
Bí Mật Chủ! Người ấy đă thấy như
thật rồi, quán chúng sanh giới vô tận, ḷng Bi tự
tại, chuyển vô duyên quán, Bồ Đề tâm sanh khởi.
Nói “ĺa hết thảy hư luận, đặt yên chúng sanh đều trụ
trong vô tướng Bồ
Đề”, đấy chính là
đại bi nguyện. Đó gọi là câu “ba môn tam-muội-da”.
Trong ba
câu ấy, [hành
nhân] thoạt đầu chỉ có thể
phát tâm thề mong thành Phật, nhưng chưa thể chánh
quán công đức của Như Lai, chẳng thể biết
rơ dùng pháp ǵ để được thành Phật, chẳng
thể có trí huệ quán chiếu toàn vẹn, chỉ
có tâm cầu Phật, chưa
thể liễu đạt bổn tánh nơi thân chính ḿnh có
công đức ǵ! [Người
ấy] chỉ có huệ tánh ấy, có thể ở
trong sanh tử, tối sơ phát tâm cầu Phật quả.
Đó là tam-muội-da thứ nhất. Do cái tâm ấy, đạt
được trí như thật phát sanh, tức là có thể
dùng huệ để quyết trạch[1],
biết rơ điều này là công đức, điều kia
chẳng phải là công đức, thị xứ, phi xứ,
biết tướng tà chánh. Do đạt được
trí như thật, có thể ĺa lưới phân biệt, kiến
chấp hư vọng, khéo diệt các hư luận, an trụ
trong tướng chân thật; nhưng thật trí ấy
chính là Bồ Đề tâm. Tam-muội-da (Samaya)
có nghĩa là “b́nh
đẳng”.
Tâm b́nh đẳng đă phát, được gọi
là tam-muội-da. Sơ tâm tuy chưa trọn đủ Thật
Trí, nhưng vẫn thề thành Phật độ người
khác; đó chính là cái tâm b́nh đẳng. V́ thế, cũng
được gọi là tam-muội-da.
Từ
cái tâm liên tục thứ hai này, do chẳng gián đoạn,
chẳng chướng ngại, kế đó, từ trong câu
chân thật, đă hiểu rơ chân và giả, từ trong hết
thảy vô tận chúng sanh, khởi tâm đại bi, đó
tam-muội-da thứ ba. Do hết thảy chúng sanh đều
cùng có tánh này, nhưng chẳng thể tự hiểu rơ, đành phải
chịu luân hồi sanh tử chẳng ngằn mé. Nay ta
đă tự giác liễu, hăy nên khai trọn khắp quang minh
trí huệ của Phật, khiến cho [hết thảy chúng
sanh] thảy đều như ta. Đó tức là đại
bi. Do thấy thật, “chẳng thật” sẽ tự trừ,
chẳng phải từ bên ngoài có pháp vào trong thân! Khi vọng
trừ,
th́ Thật Tướng tự hiện. Trong phần trên
đă nói kinh này có ba cú nghĩa: “Bồ Đề tâm làm chủng
tử” là câu đầu tiên, “đại bi làm căn”
chính là câu thứ hai. Trước đó đă lấy đại
bi làm căn, nay điều ǵ thuộc vào câu thứ ba? Ở
đây, lấy Chiếu Liễu (hiểu biết thấu triệt)
làm căn. Do có thể chiếu liễu
đúng sai th́ mới có thể sanh ra
Bi, nghĩa tướng đă thành. Thứ ba là “phương
tiện làm rốt ráo”. Ở đây nói là đại bi,
cũng được thành tựu. Do hưng khởi đại
bi mà thực hiện phương tiện ḥng nhiếp thọ
hết thảy. Ba chuyện ấy từ đầu tới
cuối liên tục, chẳng gián đoạn, được
gọi là “ba môn tam-muội-da”. Do trụ chân, liễu vọng,
v́ chúng sanh mà dấy ḷng đại bi, trừ hết thảy
hư luận của chúng sanh. Từ đấy trở đi,
liền dùng phương tiện để làm Phật sự.
“Hư
luận” là như người đời dùng
cái tâm tán loạn biểu hiện thành các hoạt động
nơi thân và miệng, chỉ khiến cho họ thỏa ư,
nhưng chẳng có thật nghĩa! Nay cái thấy hư vọng
và việc được thực hiện cũng đều
như thế, nên gọi là “hư luận”. “Khiến cho chúng
sanh trụ trong Bồ Đề” tức là khiến cho
chúng sanh trụ trong pháp ấy, chẳng khác ǵ ta, tức là
ư nghĩa “an trụ trong tạng bí mật của các con [đức Thế
Tôn]”.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Hữu tam tam-muội-da,
tối sơ Chánh Giác tâm, đệ nhị danh vi pháp, bỉ
tâm tương tục sanh, sở vị ḥa hợp Tăng.
Thử tam tam-muội-da, chư Phật đạo sư
thuyết. Nhược trụ thử tam đẳng, tu hành
Bồ Đề hạnh, chư đạo
môn thượng thủ, vị lợi chư chúng sanh,
đương đắc thành Bồ Đề. Tam thân tự
tại luân.
(經)復次祕密主!有三三昧耶,最初正覺心,第二名為法,彼心相續生,所謂和合僧,此三三昧耶,諸佛導師說。若住此三等,修行菩提行,諸導門上首,為利諸眾生,當得成菩提,三身自在輪。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Có ba tam-muội-da,
đầu tiên: Tâm Chánh Giác. Thứ hai gọi là pháp. Tâm ấy
liên tục sanh, gọi là “ḥa hợp Tăng”. Ba tam-muội-da ấy, chư Phật đạo
sư nói. Nếu trụ ba món ấy, tu hành hạnh Bồ
Đề, thượng thủ các đạo môn, v́ lợi
các chúng sanh, sẽ được thành Bồ Đề, tam
thân tự tại luân).
Kế
đó, lại có ba môn tam-muội-da. Thoạt đầu
đă dùng phương tiện đại bi để thành Phật rồi, lại này Bí Mật Chủ! Thế
nào là ba môn tam-muội-da? Điều đầu tiên gọi
là Phật. [Chánh kinh nói] tâm đầu tiên là Đẳng
Chánh Giác, thứ hai là pháp. Kế đó [môn thứ ba] là tâm
liên tục sanh,
gọi đó là “ḥa hợp Tăng”.
Ba môn tam-muội-da ấy do đạo sư nói như thế
đó. Trụ trong ba môn ấy, tu hành hạnh Bồ Đề.
Kế đó là các loại “đạo thủ” (tức
là rộng truyền bá các môn
hướng dẫn). V́ lợi ích các chúng sanh, sẽ
được thành Bồ Đề, tam thân tự tại
chuyển. Lại nữa, từ Phật mà có pháp. Kế
đó, từ pháp mà có tăng. Ba điều ấy tức
là một Thể; thật sự
chẳng có hai tánh. Do bởi các điều ấy mà gọi
là “tam-muội-da” (trước đó, đă có lúc giải
rằng: [Trong chữ tam-muội-da (samaya)], Sa là Phật, Ma
là pháp, Dă Da nghĩa là Tăng).
Lại
nữa, ba môn tam-muội-da chính là trụ
trong tam-muội-da này, liền thành Bồ Đề. Do trụ
Bồ Đề v́ chúng sanh, hiện đủ loại sắc,
nói đủ loại đạo.
Hăy nên biết:
Dùng cái tâm ấy có thể nhiếp ba
thân; đó là ư nghĩa
tam-muội-da. Như trên đă nói, Tam Bảo là ba môn tam-muội-da.
Tam-muội-da nghĩa là “b́nh đẳng”, tức là Tam
Bảo b́nh đẳng, gọi là “ba môn tam-muội-da”.
Từ ba môn tam-muội-da ấy; kế
đó, trọn đủ ba thân, cũng gọi là “ba môn
tam-muội-da”. Do trụ trong tam thân, có chuyện lợi
ích. Những lợi ích ǵ vậy? Chính là lợi ích chúng sanh.
Trụ trong tam thân, thị hiện các loại đạo,
cũng nhiếp thủ chúng sanh. “Nhiếp” có nghĩa
là “tự tại nhiếp thủ”. Bí Mật Chủ!
Chánh giáo của Phật được biểu thị bằng
một thân gia tŕ, tức đầu tiên là Hóa Thân. “Giáo”
là mười hai phần giáo, và các loại phương tiện
trong ấy.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Tam Miệu Tam Phật Đà an lập giáo
cố, dĩ nhất thân gia tŕ, sở vị sơ biến
hóa thân. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thứ ư nhất
thân,
thị hiện tam chủng, sở vị Phật, Pháp,
Tăng. Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tùng thử thành lập
thuyết tam chủng thừa, quảng tác Phật sự,
hiện Bát Niết Bàn, thành thục chúng sanh. Bí Mật Chủ!
Quán bỉ chư Chân Ngôn môn tu Bồ Đề hạnh
chư Bồ Tát, nhược giải tam đẳng, ư
chân ngôn pháp tắc, nhi tác thành tựu, bỉ bất trước
nhất thiết vọng chấp, vô năng vi chướng
ngại giả, trừ bất nhạo dục,
giải đăi, vô lợi đàm thoại, bất sanh tín tâm,
tích tập tư tài giả. Phục ưng bất tác nhị
sự, vị ẩm chư tửu, cập tẩm sàng
thượng.
(經)祕密主!三藐三佛陀安立教故,以一身加持,所謂初變化身。復次祕密主!次於一身示現三種,所謂佛、法、僧。復次祕密主!從此成立說三種乘,廣作佛事,現般涅槃,成熟眾生。祕密主!觀彼諸真言門修菩提行諸菩薩,若解三等,於真言法則而作成就。彼不著一切妄執,無能為障礙者,除不樂欲、懈怠、無利談話、不生信心、積集資財者。復應不作二事,謂飲諸酒及寢床上。
(Kinh: Bí Mật
Chủ! Đức Chánh Đẳng Chánh Giác do an lập
giáo, dùng một thân gia tŕ, tức là: Đầu tiên là Biến
Hóa Thân. Lại nữa Bí Mật Chủ! Kế đó từ
một thân thị hiện ba thứ, tức là Phật,
Pháp, Tăng. Lại này, Bí Mật Chủ! Từ đó thành
lập, nói ba loại thừa, rộng làm Phật sự, hiện
Bát Niết Bàn, thành thục chúng sanh. Bí Mật Chủ! Quán
các vị Bồ Tát tu Bồ Đề hạnh trong Chân Ngôn
môn, nếu hiểu ba loại b́nh đẳng, thực hiện
thành tựu các pháp tắc chân ngôn, chẳng chấp trước
hết thảy vọng chấp, không ai có thể chướng
ngại được, trừ kẻ chẳng ưa thích,
biếng nhác, nói lời vô ích, chẳng sanh tín tâm, tích cóp của
cải. Lại chớ nên làm hai chuyện, tức là uống
các thứ rượu và
ngủ trên giường).
Bí Mật
Chủ! Do Tam Miệu Tam Phật Đà (Chánh Đẳng
Chánh Giác) an lập giáo; dùng một thân gia tŕ, đó
gọi là “sơ
biến hóa thân” (thân biến hóa đầu tiên).
Lại này, Bí Mật Chủ! Kế đó, từ trong một
thân thị hiện ba loại, tức
là Phật, Pháp, Tăng. Lại này, Bí Mật
Chủ! Từ đó thành lập, nói ba loại thừa, rộng
làm các Phật sự, hiện bát Niết Bàn. Thành tựu
chúng sanh, lợi ích chúng sanh, đều do một thân nhiếp
tŕ. Đó gọi là Biến Hóa Thân. Ví như do trụ trong
tam-muội-da, nên có lợi ích như thế. Kế đó, từ
trong một thân, thị hiện ba thân, tức là Phật,
Pháp, Tăng, tức là Nhất Thể
Tam Bảo. Hăy nên biết đó đều là từ trong một
thân mà dấy lên. Ba
môn tam-muội-da ở trong ấy, đều
là nối tiếp cái trước làm nhân mà sanh ra cái sau. Kế
đó, tiếp nối cái được sanh ra trên đây, tức
là chỉ dạy, diễn nói ba thừa, rộng
làm Phật sự để hướng dẫn chúng sanh.
Các việc đă làm đều quy vào Niết Bàn. Sau khi
đă Niết Bàn, lại thành tựu vô lượng chúng
sanh. Nói đến một loại chúng sanh, tức là người
trong đời Mạt chưa thể phát tâm, do đức
Phật diệt độ [mà phát tâm], hoặc sẽ thành
tựu trong đời Tượng Pháp, đều là hạng
người ấy. Bí Mật Chủ! Quán ba môn tam-muội-da
ấy, biết các môn Chân Ngôn. Bí Mật Chủ! Do quán và hiểu
rơ ba môn tam-muội-da ấy, các vị Bồ Tát tu Bồ
Đề hạnh trong Chân Ngôn môn bèn thực hiện thành tựu
các pháp tắc Chân Ngôn. Họ chẳng chấp vào hết thảy
các vọng chấp, chẳng ai có thể gây chướng ngại
được! Điều này có tên gọi khác, tức là
trừ những thứ chẳng đáng ưa muốn, giải
đăi, các thứ nói năng vô lợi ích, chớ nên sanh tâm
bất tín, hoặc tích tụ của cải. Lại chớ
nên làm hai chuyện, tức là uống các loại rượu
và nằm trên giường. Bậc Bồ Tát tu hành, đối
với pháp tắc tŕ tụng chân ngôn, chẳng chấp
trước hết thảy các vọng
chấp, trụ trong “chẳng bị chướng ngại”.
Đó là các ư chánh yếu trong kinh văn. Đức Phật
bảo ngài Kim Cang Thủ, quán những điều
được nói trên đây, đều là do trụ trong ba
môn tam-muội-da. Do trụ trong tam-muội-da ấy, đúng
pháp tŕ tụng, tâm tâm chẳng gián đoạn, th́ gọi là
“chẳng chấp trước hết thảy vọng chấp”.
Do vọng chấp mà các chướng sanh khởi. Nếu trụ
trong Tam B́nh Đẳng, tức là chẳng chấp hết
thảy vọng chấp. Tam b́nh đẳng ấy chính là Bồ
Đề, các chướng sẽ do đâu mà sanh khởi
được? Đấy chính là ư chỉ chánh yếu
để ĺa hết thảy các chướng!
Lại
có nguyên do sanh ra các thứ chướng khác, chính là chẳng
mong muốn, tức là đối với hạnh Chân Ngôn ấy
mà có chướng ngại, ngay khi đó, sẽ không do
đâu mà yêu thích được. Hoặc do tâm chẳng mong
muốn nẩy sanh mà chướng ngại
thừa dịp sấn
vào! “Chẳng mong muốn” tức là chẳng mong cầu.
“Giải đăi”: Do chẳng siêng năng tấn tu,
như dùi lửa, gỗ chưa nóng mà đă nhiều lượt
ngưng nghỉ, chướng bèn xuất hiện. Lại
c̣n đàm luận vô ích, đối với hạnh Chân Ngôn,
chẳng niệm tụng, chẳng siêng năng tu hành,
cũng do phí uổng thời gian nên các chướng
thừa dịp
[gây trở ngại]. “Bất tín”:
Do chẳng tin nên chướng thừa dịp. Lại rộng
tom góp của cải, do lúc cầu mong th́ tâm bực tức,
xáo động, [lúc có được
bèn] nhọc nhằn ǵn giữ, lúc mất
đi th́ bị khổ sở. Do các thứ nhân duyên như
thế, khiến cho hành giả bị chướng ngại thừa
dịp chen vào. Trên
đây đều là các duyên sanh chướng!
Lại
có hai loại [hành
vi phải tránh làm], tức [chuyện thứ
nhất] là không được uống rượu. Rượu
là duyên sanh chướng; đó là điều thứ nhất.
Do uống rượu, các điều bất thiện phát
sanh. Lại chẳng nằm trên giường; đây là
điều thứ hai. Do ngủ yên trên giường, sẽ
sanh ra đủ loại dục, tâm tưởng buông lung; v́
thế chớ nên! Hăy nên trải chiếu cỏ. Người
tŕ tụng ở phương Tây (Ấn Độ) phần
nhiều dùng cỏ cát tường[2]
làm chiếu. Loại cỏ này có nhiều lợi ích:
- Một
là do khi Như Lai thành đạo đă ngồi [trên cỏ ấy].
- Do
hết thảy thế gian coi cỏ ấy là cát tường,
nên người tŕ tụng nhờ vào đó để chẳng
sanh các chướng.
- Lại
nữa, các loài trùng độc, nếu trải cỏ này, sẽ
đều chẳng thể bén mảng
tới.
-
Tánh của cỏ này lại rất thơm sạch.
- Loại
cỏ này lại cực bén, đụng vào liền rách da, [mỗi lá có] có
h́nh dáng như hai lưỡi đao bén. Hành nhân ngoài lúc tŕ tụng,
khi rảnh rỗi, hoặc lúc nghỉ ngơi, ngủ trên
chiếu cỏ này, nếu phóng dật, buông thả sẽ
liền bị thương. V́ thế, chẳng dám phóng túng,
ngạo mạn.
- Lại
c̣n do đức Phật tự nhờ vào loại cỏ này
mà trừ tâm kiêu mạn thế gian. Khi làm Thái Tử, buông
lung đủ mọi lẽ, ngồi, nằm giường
báu, ghế báu đỡ chân. Nếu xuất gia mà vẫn
quen làm như thế, có khác ǵ tại gia? Do có thể bỏ
sự như thế, ngồi trên chiếu cỏ, hết thảy
trời, người đều sanh tâm kính ngưỡng,
cũng phỏng theo Ngài, trừ mạn tâm, nhập chánh
pháp. Phật c̣n như thế, huống hồ chúng ta ư?
Do quán công đức như thế nên tu hành.
26. Phẩm thứ hai
mươi sáu: Thuyết Như Lai (Thuyết Như Lai phẩm
đệ nhị thập lục, 說如來品第二十六)
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Thế
Tôn ngôn: “Vân hà vi Như Lai? Vân hà Nhân Trung Tôn? Vân hà danh Bồ
Tát? Vân hà vi Chánh Giác? Đạo sư Đại Mâu Ni, nguyện
đoạn ngă sở nghi. Bồ Tát đại danh xưng,
khí xả nghi lự tâm, đương tu Ma Ha Diễn, hạnh
vương vô hữu thượng!” Nhĩ thời, Bạc
Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát chư đại hội
chúng, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Thiện tai!
Thiện tai! Kim Cang Thủ! Năng vấn ngô như thị
nghĩa. Bí Mật Chủ! Nhữ đương đế
thính, thiện tư niệm chi, ngô kim diễn thuyết Ma
Ha Diễn đạo.
(經)爾時執金剛祕密主白世尊言:云何為如來?云何人中尊?云何名菩薩?云何為正覺?導師大牟尼,願斷我所疑。菩薩大名稱,棄捨疑慮心,當修摩訶衍,行王無有上。爾時薄伽梵毘盧遮那觀察諸大會眾,告執金剛祕密主言:善哉善哉!金剛手!能問吾如是義。祕密主!汝當諦聽,善思念之,吾今演說摩訶衍道。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch
với đức Thế Tôn rằng: “Thế nào là Như
Lai? Nhân Trung Tôn thế nào? Sao gọi là Bồ Tát? Chánh Giác là
thế nào? Đạo sư Đại Mâu Ni, nguyện
đoạn nghi cho con. Bồ Tát thanh danh lớn, vứt bỏ
tâm lo ngờ, hăy nên tu Đại Thừa, hạnh
vương không chi hơn!” Lúc bấy giờ, đức Bạc
Già Phạm Tỳ Lô Giá Na quán sát mọi người trong
đại hội, bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ
rằng: - Lành thay! Lành thay! Kim Cang Thủ! Có thể hỏi
ta nghĩa như thế. Bí Mật Chủ! Ông hăy nên lắng
nghe, khéo suy nghĩ lấy, ta nay diễn nói đạo Đại
Thừa).
Tướng
Bồ Đề hư
không ĺa hết thảy phân biệt. Người
thích cầu Bồ Đề th́ gọi là Bồ Đề
Tát Đỏa (Boddhisattva, Bồ Tát). Thành tựu [các địa
vị như] Thập Địa v.v…, tự tại khéo
thông đạt các pháp là Không, như huyễn, biết hết
thảy các pháp ấy đều như vậy. Biết chỗ
quy thú của các thế gian, nên nói là Phật Đà. Pháp
như tướng hư không, là tướng bất nhị,
duy nhất. Đấng Chánh Giác trọn đủ Thập
Lực, gọi là Tam Bồ Đề (Saṃbodhi,
Chánh Giác). Chỉ dùng trí huệ để
trừ vô minh, chỉ chú trọng thực hiện điều
ấy để chứng đắc, nên nói là “dĩ huệ
hại phiền năo” (dùng trí huệ để trừ khử
phiền năo). Tự tánh chẳng có ngôn thuyết, trí huệ
do tự chứng, nên nói là Như Lai. Thế nào là giác? Con
nghi điều này, xin đấng Đạo Sư trừ
nghi,
xin đấng Đại Mâu Ni trừ bỏ
tâm ngờ lo. Hàng Bồ Tát thanh danh to lớn, sẽ hành hạnh
vương Đại Thừa không chi hơn được.
Trên đây là những điều thưa hỏi, hàm ư: Trong
phần trước, đức Phật thuyết pháp xong,
chỗ nào cũng đều nói là Phật hoặc Bồ
Tát. Nhưng con chỉ nghe các danh xưng ấy, c̣n chưa
được quyết trạch tướng danh nghĩa
đó. Do v́ nghĩa ǵ mà được gọi là Bồ Tát,
là Phật, là Như Lai, là Nhân Trung Tôn? Kể từ khi
được cha mẹ sanh ra đă có danh hiệu ấy
ư? Hay v́ đức thành
tựu, hạnh viên măn th́ mới có được danh hiệu
ấy? “Đại Thừa hạnh vương vô hữu
thượng” (hạnh vương Đại Thừa
không có ǵ hơn được) là tán thán “Phật đức”
(công đức, phẩm đức của Phật) rồi
mới thưa hỏi. Kế đó, đức Phật tán
thán “lành thay”, cho đến sắc truyền lắng
nghe, đó là lời giải đáp.
(Kinh)
Tụng viết: - Bồ Đề hư không tướng,
ly nhất thiết phân biệt, nhạo cầu bỉ Bồ
Đề, danh Bồ Đề Tát Đỏa. Thành tựu
Thập Địa đẳng, tự tại thiện thông
đạt. Chư pháp không, như huyễn, tri thử nhất
thiết đồng, giải chư thế gian thú. Cố
danh vi Chánh Giác. Pháp như hư không tướng, vô nhị,
duy nhất tướng. Thành Phật thập trí lực, cố
hiệu Tam Bồ Đề. Duy huệ hại vô minh, tự
tánh ly ngôn thuyết, tự chứng chi trí huệ, cố
thuyết danh Như Lai.
(經)頌曰:菩提虛空相,離一切分別,樂求彼菩提,名菩提薩埵。成就十地等,自在善通達,諸法空如幻,知此一切同,解諸世間趣,故名為正覺。法如虛空相,無二惟一相,成佛十智力,故號三菩提。唯慧害無明,自性離言說,自證之智慧,故說名如來。
(Kinh:
Kệ tụng
rằng: - Bồ Đề tướng hư không, ĺa hết
thảy phân biệt. Thích cầu đạo Bồ Đề,
gọi Bồ Đề Tát Đỏa. Thành tựu Thập
Địa thảy, tự tại, khéo thông đạt, các
pháp Không, như huyễn. Biết đều giống
như vậy, hiểu các đường thế gian. Nên gọi
là Chánh Giác. Pháp như tướng hư không, chẳng hai,
tướng duy nhất. Thành mười trí lực Phật,
nên hiệu là Chánh Giác. Dùng huệ trừ vô minh, tự tánh
ĺa ngôn thuyết, tự chứng đắc trí huệ, nên
nói là Như Lai).
Hư
không Bồ Đề trong đạo Đại Thừa ĺa
hết thảy các phân biệt. Nếu ai thích cầu Bồ
Đề th́ gọi là Bồ Tát. Đấy là giải
đáp danh hiệu Bồ Tát. Hư không chẳng có tướng,
Bồ Đề cũng như thế, giống như
hư không vô tướng, vô phân biệt. Lại nữa,
hư không vô tướng mà các đức nương vào, muôn hiện
tượng nương vào đó mà thành lập.
Bồ Đề cũng như thế, rốt ráo vô tướng,
vô phân biệt, nhưng trọn đủ hết thảy
công đức. Muốn cầu chứng đạt tướng
như thật th́ gọi là Bồ
Đề.
Kế
đó, giải thích ư nghĩa của Phật. Đă thành tựu
Thập Địa, tự tại khéo thông đạt, biết
pháp là Không, như huyễn. Đó là hạnh đồng quy
của hết thảy, biết hết thảy thế gian,
[người như thế] được gọi là Phật.
Đấy là giải đáp ư nghĩa của [danh xưng]
Phật. Tức là viên măn Thập Địa, tự tại
thông đạt. Trong mỗi địa vị, đều
khéo thông đạt, đạt được tự tại,
biết rơ các pháp đều là Không, như huyễn. Lại
biết chỗ tiến hướng nơi sở hành trong
thâm tâm của mỗi chúng sanh. Do có các đức ấy, hết
thảy thế gian gọi Ngài là Phật. Danh hiệu Phật
ấy do đó mà khởi lên.
Pháp
hư không tướng chẳng hai, là tướng duy nhất.
Thập Lực Phật là danh, Chánh Giác là hiệu. Đó
cũng là giải thích ư nghĩa Phật. Trước
đó, chỉ nói “biết
pháp là Không, như huyễn”,
nay nói “pháp hư không là một
tướng, vô tướng”, tức
là do liễu đạt điều ấy, do Thập Lực
mà biết trọn khắp hết thảy các pháp, không ǵ chẳng
biết. Như trong kinh Bồ Tát Tạng đă nói mười
lực sâu rộng. Bồ Đề như hư không, chẳng
có hai tướng; đối với nhất tướng,
tâm chẳng trụ.
Do vậy, đạt được Thập Lực của
Phật. Do chánh trụ trong Thập Lực ấy,
được gọi là Chánh Đẳng Giác. Phật và
Chánh Giác, danh hiệu tuy khác mà Thể là một. Do khéo điều
phục thân, miệng, ư, nhiếp phục tự tại, có
thể hàng phục các ma. Không chỉ hàng phục ngoại
đạo và ma, mà trọn khắp nội chướng
cũng đều hàng phục, được tôn quư trong thế
gian và xuất thế gian. V́
thế, lại có hiệu
là Nhân Trung Tôn. Kinh văn thiếu phần giải thích ư
nghĩa này. Các phần kinh văn khác cũng có thể hiểu
như thế.
Dùng
trí huệ “hại” vô minh, vô
ngôn thuyết, tức là nói đến tự chứng trí của
tự tánh, gọi đó là Như Lai. Đấy là giải
đáp về danh hiệu Như Lai vậy. Trí huệ ấy
có thể trừ bỏ vô minh, cho nên nói là “huệ hại”.
Tuy [chánh kinh] chẳng nói rơ là “vô minh”, nhưng cái bị
hại chính là vô minh, nghĩa ấy tự hiển lộ. Cảnh
giới tự chứng ấy vượt ngoài ngôn ngữ,
do biết tự chứng chẳng thể tuyên nói, ḥng trao truyền
cho người khác. Do trụ trong trí ấy, được
gọi là Như Lai. Lại như đối với Phật
lư, tự nhiên chứng biết, được gọi là
Như Lai. Lại nữa, đạo do chư Phật
đă hành là chỗ tự nhiên chứng, ta cũng đi
như thế, cho nên gọi là Như Khứ. Trong Đại
Bổn có chép đầy đủ lời đáp, mỗi
điều có hơn một trăm bài kệ, người
truyền pháp chỉ
tóm lược những điều cốt
lơi, mỗi điều đều dùng một bài kệ
để đáp, nhưng đại ư vẫn đầy
đủ.
27. Phẩm thứ hai
mươi bảy: Hộ-ma thế gian và xuất thế
gian (Thế xuất thế hộ-ma phẩm đệ nhị
thập thất, 世出世護摩品第二十七)
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Văng tích nhất thời,
ngă vi Bồ Tát, hành Bồ Tát hạnh, trụ ư Phạm
Thế. Thời hữu Phạm thiên lai vấn ngă ngôn: -
Đại Phạm! Ngă đẳng dục tri hỏa hữu
kỷ chủng?
(經)復次祕密主!往昔一時我為菩薩,行菩薩行住於梵世,時有梵天來問我言:大梵!我等欲知火有幾種?
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Xưa kia, có một lúc ta là Bồ Tát,
hành Bồ Tát hạnh, trụ trong cơi trời Phạm Thế[3].
Khi đó, có Phạm thiên tới hỏi ta rằng: - Thưa
Đại Phạm! Chúng tôi muốn biết có mấy loại
lửa?)
Trong Tịnh Hạnh Vi Đà Luận thuộc
kinh điển của ngoại đạo, có phương
pháp cúng tế bằng lửa, nhưng trong Chân Ngôn môn của
Đại Thừa cũng có hỏa pháp. V́ lẽ nào vậy?
V́ nhiếp phục một loại [chúng sanh], dùng chuyện
thuộc pháp Vi Đà để nhiếp phục họ.
Nhưng nghĩa thú của chúng
(nghĩa thú của Vi Đà hỏa pháp và nghĩa thú của
hỏa pháp trong Chân Ngôn môn) giống như trời
và đất,
chẳng thể đặt cùng một chỗ! Nay muốn
phân biệt tướng “tà, chánh” ấy, khiến cho hành giả chẳng c̣n ngờ vực
chi khác! V́ thế, trong phẩm này, người truyền
pháp đă nêu rộng duyên khởi. Đức Phật muốn
trừ tâm ngă mạn cho những người tịnh hạnh
trong đời vị lai, tự nói bản thân Ngài khi làm Phạm
Vương, diễn bày pháp của Vi Đà ngoại đạo,
khiến cho những
kẻ thuộc tà tông tâm phục; sau
đấy mới nói chánh hạnh thuộc Chân Ngôn môn.
(Kinh)
Thời ngă như thị đáp ngôn: - Sở vị Đại
Phạm Thiên, danh Ngă Mạn Tự Nhiên. Thứ Đại
Phạm thiên tử, bỉ danh Bả Phạ Cú, thế gian
chi hỏa sơ. Kỳ tử danh Phạm Phạn, tử
danh Tất Đát Ra, Phệ Thấp Bà Nại La. Phục
sanh Ha Phạ Nô, Hợp Tỳ Phạ Ha Na, Bả Thuyết
Tam Tỵ Đổ, cập A Thát Mạt Noa. Bỉ tử
Bát Thể Đa, Bổ Sắc Ca Lộ Đào. Như thị
chư hỏa thiên, thứ đệ dĩ tương sanh.
(經)時我如是答言:所謂大梵天,名我慢自然,次大梵天子,彼名簸嚩句。世間之火初,其子名梵飯,子名畢怛囉,吠濕婆捺羅。復生訶嚩奴,合毘嚩訶那,簸說三鼻覩,及阿闥末拏。彼子鉢體多,補色迦路陶,如是諸火天,次第以相生。
(Kinh:
Khi đó, ta đáp như thế này: - Nói tới Đại
Phạm Thiên, tên Ngă Mạn Tự Nhiên. Kế đó, con
Đại Phạm, tên là Bả Phạ Cú, khởi đầu
lửa thế gian. Con hắn tên Phạm Phạn, sanh con Tất
Đát Ra, Phệ Thấp Bà Nại La. Lại sanh Ha Phạ
Nô, Hợp Tỳ Phạ Ha Na, Bả Thuyết Tam Tỵ
Đổ, và A Thát Mạt Noa. Con hắn Bát Thể Đa, Bổ Sắc
Ca Lộ Đào. Các hỏa thiên như thế, lần lượt
sanh ra nhau).
“Thời ngă như thị
thuyết ngôn” (Khi đó, ta nói như thế này) tức
là đối với vị ấy (vị Phạm Thiên
thưa hỏi có mấy loại lửa) mà nói như thế
này. Lửa [bắt nguồn từ vị Đại Phạm
Thiên] có tên là Ngă Mạn Tự Nhiên (Abhimānin-svayaṃbhū).
Kế đó, con của vị Phạm Thiên ấy sanh ra lửa
tên là Bả Phạ Cú (Pāvaka), đó chính là lửa tối
sơ của thế gian. Tức là đời trước, khi ta hành Bồ Tát đạo,
thị hiện làm Phạm vương. Lúc bấy giờ,
có các
học nhân Phạm hạnh tới hỏi
ta: “Trong pháp cúng tế lửa, có mấy loại lửa?” Ta
nói cặn kẽ. Nay thành Chánh Giác, bèn chứng biết lời
nói trước kia là sai, lời nói hiện thời là
đúng. V́ thế, hành giả hăy nên vâng theo hỏa pháp thuộc
chánh hạnh trong hiện thời, chớ nên dùng pháp bất
chánh, hư vọng trước kia. Kế đó, liệt kê
pháp cúng tế lửa thuộc tà tông, đều là những
điều được nói trong kinh điển Vi Đà (Vedas). Trước hết,
nói đến cái gốc của hỏa thần. Tối
sơ là Đại Phạm vương, do ông ta chấp
trước như thế này: “Hết thảy đều
sanh từ ta”, có ḷng ngă mạn như thế đó. Lại
c̣n chấp trước nói “ta là thường hằng”,
nên có tên là Ngă Mạn (Abhimānin), và hiệu là Tự
Nhiên (Svayaṃbhū).
Đó chính là Đại Phạm Vương. Kế đó là
con của Phạm Thiên, tức là Phạm Vương mang ư
niệm muốn có chúng sanh, họ bèn ứng theo ư niệm ấy mà sanh.
Phạm Vương cho đó là con do chính ḿnh sanh ra. Đó là
lửa tối sơ của vị trời ấy,
được sanh ra tự nhiên.
Kế
đó, từ chữ “Đại Phạm Thiên tử”
trở đi là kệ tụng. “Sở sanh Bả Phạ
Cú” (Sanh ra Bả Phạ Cú), đó là tên của lửa
trong thế gian. Từ đó trở đi lần lượt
sanh ra nhau, đều là các Hỏa Thần trong pháp ấy
(pháp Vi Đà), nhưng cúng dường họ vô ích! Phạm Phạn Tử
(Brahmodana)
là tên của Hỏa Thiên, tức là con của Phạm Tử
(tức là con của
Bả Phạ Cú). Tất Đát Ra (Pitara) lại là con của
vị ấy. Phệ Thuế Bà Nang Ra (Vaiśvānara, chánh
kinh phiên âm tên vị này là Phệ Thấp Bà Nại La) lại
là con của vị ấy. Ha Phạ Nô (Havana) lại là con của
vị ấy. Hợp Tỳ Phạ Ha Nang (Havyavāhana, chánh
kinh phiên âm là Hợp Tỳ Phạ Ha Na) lại là con của
vị ấy. Bả Thuyết Tam Tỵ Đổ (Pārśvasaṃvīta) lại là con của
vị ấy. A Thát Mạt Noa (Atharvaṇa) lại là con của vị
ấy. Bát Thể Đa (Prathita) lại là con của vị ấy.
Bổ Sắc Ca Lộ Đào (Puṣkaroda) lại là con của
vị ấy. Trên đây đều là những vị
được
[các Bà La Môn] thờ phụng.
(Kinh)
Phục thứ trí thai tạng, dụng Mang Lộ Đa hỏa.
Dục hậu táo quán thân, Phạ Ha Mang Nang hỏa. Dục
thê chi sở dụng, dĩ Mông
Nghiệt Lô hỏa. Nhược sanh tử chi hậu, dụng
Bát Già Bổ hỏa. Vị tử
sơ lập danh, dụng Bả Thể Vô hỏa. Ẩm thực
thời sở dụng, đương tri Thú Chỉ hỏa.
Vị tử tác kế thời, ưng dụng Sát Tỳ hỏa.
Thứ thọ cấm giới thời, Tam Mô Bà Phạ hỏa.
Cấm măn thí ngưu thời, dụng Tố Rị Da hỏa.
Đồng tử hôn cấu thời, dĩ Du Giả Ca hỏa.
(經)復次置胎藏,用忙路多火;欲後澡盥身,嚩訶忙囊火;浴妻之所用,以瞢蘖盧火;若生子之後,用鉢伽蒲火;為子初立名,用簸體無火;飲食時所用,當知戍脂火;為子作髻時,應用殺毘火;次受禁戒時,三謨婆嚩火;禁滿施牛時,用素哩耶火;童子婚媾時,以瑜赭迦火。
(Kinh:
Lại nữa, khi có thai, dùng lửa Mang Lộ Đa (Māruta). Sau đó, muốn tắm
rửa, lửa Phạ Ha Mang Nang (Vahamāna). Để tắm gội
cho vợ, dùng lửa Mông Nghiệt Lô (Maṅgala). Sau khi đă sanh con, dùng lửa
Bát Già Bổ (Pragalbha). Để đặt tên cho con, dùng lửa Bả
Thể Vô (Pārthiva).
Để dùng khi ăn uống, nên biết lửa Thú Chỉ
(Śuci). Lúc búi tóc cho
con, nên dùng lửa Sát Tỳ (Śadbhi).
Khi lănh nhận cấm giới, lửa Tam Mô Bà Phạ (Samudbhava). Giới măn, lúc thí ḅ, dùng lửa
Tố Rị
Da (Sūrya).
Khi con trai kết hôn, dùng lửa Du Giả Ca - Yojaka).
Khi
có thai th́ sử dụng (tức là bậc tịnh hạnh
lúc cưới vợ, khi vợ có nghén, dùng hỏa thần
Mang Lộ Đa, tức là dùng tên của hỏa thần
để gia tŕ [trong khi làm hộ-ma trong pháp Vi Đà]. Tên của
hỏa thần [được nói] trong kinh [Vi Đà của
ngoại đạo]; ở đây [kinh Đại Nhật]
không nêu ra, phần dưới cũng vậy). Khi đă có
thai, lúc tắm gội (tức là khi đă mang thai sáu tháng, chồng
tắm cho vợ, [tắm xong] búi
tóc [cho vợ], dùng tên và chân ngôn của hỏa thần, tức
là hỏa thần Phạ
Ha Mang Nang để gia tŕ). Lúc tắm cho vợ [sau khi sanh],
dùng tên hỏa thần Mông
Nghiệt Lô (sanh
con được bảy ngày, tắm cho vợ. Mẹ lại
tháo búi tóc, dùng vị hỏa thần ấy [để gia
tŕ], [tức là dùng danh hiệu và chân ngôn của hỏa thần]
Bát Già Bổ). Khi đặt tên cho con (con đă sanh ra, khi thỉnh
tiên nhân tác pháp đặt tên, th́ dùng hỏa thần Bả
Thể Vô). Khi ăn th́ dùng vị thần lửa ấy (tức
là khi con có thể tự ăn, cha mẹ trước hết
dùng chú của hỏa thần để gia tŕ các chất tô
v.v… rồi mới cho trẻ ăn. Trong pháp Vi Đà, mỗi
mỗi đều có cách sử dụng.
[Trong trường hợp này], dùng hỏa
thần Thú Chỉ). Khi cắt tóc cho con (tức là khi con lớn
dần, cạo tóc máu[4],
để lại chùm tóc Châu Đồ[5],
dùng vị hỏa thần này, tức hỏa thần Sát Tỳ).
Khi thọ
giới cấm (tức là khi trẻ trai lớn dần, cho
trẻ giữ giới của tộc ḿnh. Có loại cỏ
Văn Đồ (Muñja),
tương tự trúc Phật Tiễn ở phương
này, bện thành dây, dùng ba sợi buộc quanh lưng, cầm
gậy cong, tức loại gậy ba chạc[6]
thời cổ, dùng hỏa thần Tam Mô Bà Phạ), [cầm
b́nh] Quân Tŕ, khoác da nai, nương theo
đó tuân giữ giới. Tŕ giới suốt
mười hai năm thường khất thực, cầm
bát bằng đồng đỏ để khất thực.
Nói như thế này: “Có người thí th́ đứng lại”.
Trong chốc lát, nếu chẳng được [ai bố
thí], liền rời
đi. [Khất thực xong], trở
về chỗ ḷ lửa, chia thức ăn [đă xin
được] ra làm ba phần. Tự tắm gội xong,
lấy một phần thức ăn cúng dường lửa,
dùng tro chấm lên ba chỗ. Tới gặp cha mẹ và thầy
xong, dùng một phần thức ăn dâng cho họ, tùy ư họ
ăn hay không; sau đấy mới tự ăn phần của
ḿnh. Trong mười hai năm, siêng khổ học pháp Vi
Đà. Tṛn mười hai năm rồi mới thoát khỏi
Phạm chủng, tức là cưới vợ.
Khi giới
cấm đă măn, thí trâu ḅ, tức là khi đă [hành phạm hạnh]
đủ mười hai năm, nhằm
báo ân thầy, cũng dùng vật để báo đền,
và đem con bê hay con nghé
biếu thầy. Thầy đă nhận rồi, lại bảo
người ấy kết hôn, v́ thế nói nhân duyên cưới
xin. Bảo rằng: “Trong kiếp sơ thời quá khứ,
Sách Lư Da Hỏa đại phạm vương, giáng hạ
thế gian, dùng h́nh thể con trâu để làm chuyện dâm
dục; nhờ đó, sanh ra các chủng loại. Do vậy,
có chủng tánh Bà La Môn. Con nghé này chính là di thể của
Ngài, ngươi nên gắng sức nối tiếp khiến
cho Phạm chủng tồn tại”. Cho tới nói rộng
[các chi tiết về nguồn gốc các chủng tánh]. Lúc bấy
giờ, [thầy] dùng lửa để gia hộ người
ấy, đều là tên của các Hỏa Thần. Khi chàng
trai trẻ kết hôn, nhưng trong pháp tắc hôn nhân của
họ, khi cưới vợ th́ tụng chú của Hỏa
Thần và Phạm Thiên, nói đại ư về bổn ư của
Phạm Thiên v.v… cho tới chuyện [Phạm Thiên] hành
ngưu hạnh ([tức Phạm Thiên hiện thân ḅ vừa
nói trên đây], dùng [danh hiệu và
chân ngôn của] hỏa thần Du Giả
Ca).
(Kinh)
Tạo tác chúng sự nghiệp, Bạt Na Dịch Ca hỏa.
Cúng dường chư thiên thần, dĩ Bả Phạ Cú
hỏa. Tạo pḥng dĩ Phạm hỏa. Huệ thí Phiến
Đô hỏa. Phược dương chi sở dụng, A
Phược Hạ Ninh hỏa. Xúc uế chi sở dụng,
dĩ Vi Phệ Chỉ hỏa. Thục thực chi sở dụng,
dĩ Sa Ha Sa hỏa. Bái Nhật Thiên thời dụng, Hợp
Vi Thệ Da hỏa. Bái Nguyệt Thiên thời dụng, sở
vị Nhĩ Địa hỏa. Măn thiêu chi sở dụng,
A Mật Lật Đa hỏa. Bỉ ư tức tai thời,
dụng Na Rô Noa hỏa. Tác Tăng Ích pháp thời, Ngật Lật
Đán Đa hỏa. Hàng phục oán đối thời,
đương dĩ Phẫn Nộ hỏa. Triệu nhiếp
chư tư tài, dụng Ca Ma Nô hỏa. Nhược phần
thiêu lâm mộc, ưng dụng Sứ Giả hỏa. Sở
thực linh tiêu hóa, dụng Xă Trá Lộ hỏa. Nhược
thọ chư hỏa thời, sở vị Bạc Xoa hỏa.
Hải trung hữu hỏa danh, Phược Noa Bà Mục
Khư. Kiếp thiêu tận thời hỏa, danh viết Du
Càn Đa. Vị nhữ chư nhân giả, dĩ lược
thuyết chư hỏa. Tu tập Vi Đà giả, Phạm
hạnh sở truyền độc. Thử tứ thập
tứ chủng, nhĩ thời ngă tuyên thuyết.
(經)造作眾事業,跋那易迦火;供養諸天神,以簸嚩句火;造房以梵火,惠施扇都火;縛羊之所用,阿縛賀寧火;觸穢之所用,以微吠脂火;熟食之所用,以娑訶娑火;拜日天時用,合微誓耶火;拜月天時用,所謂爾地火;滿燒之所用,阿密栗多火;彼於息災時,用那嚕拏火;作增益法時,訖栗旦多火;降伏怨對時,當以忿怒火;召攝諸資財,用迦摩奴火;若焚燒林木,應用使者火;所食令消化,用社咤路火;若授諸火時,所謂薄叉火;海中有火名,縛拏婆目佉;劫燒盡時火,名曰瑜乾多。為汝諸仁者,已略說諸火,修習韋陀者,梵行所傳讀。此四十四種,爾時我宣說。
(Kinh:
Tạo tác các sự nghiệp, lửa Bạt Na Dịch Ca (Upanāyika).
Cúng dường các thiên thần, dùng lửa Bả Phạ
Cú (Pāvaka).
Xây nhà dùng lửa Phạm (Brahmā).
Bố thí: Lửa
Phiến Đô (Śānta). Sử dụng khi
trói dê, lửa A Phược Hạ Ninh (Avahanika).
Sử dụng khi chạm uế, dùng lửa Vi Phệ Chỉ
(Viveci). Sử dụng khi nấu ăn, dùng lửa Sa Ha Sa (Sāhasa).
Lúc lạy Nhật Thiên dùng, lửa Hợp Vi Thệ Da (Haviṣya).
Lúc lạy Nguyệt Thiên dùng, chính là lửa Nhĩ Địa
(Nidhi). Lửa dùng thiêu đầy muỗng, là A Mật Lật
Đa (Amṛta).
C̣n trong lúc Tức Tai, dùng lửa Na Rô Noa (Dāruṇa).
Khi làm pháp Tăng Ích, lửa Ngật Lật Đán Đa (Kṛtānta).
Khi hàng phục oán đối, nên dùng lửa Phẫn Nộ
(Krodha). Triệu vời các tài vật, dùng lửa Ca Ma Nô (Kāmada).
Nếu đốt gỗ trong rừng, nên dùng lửa Sứ
Giả (Parivara). Khiến thức
ăn tiêu hóa, dùng lửa Xă Trá Lộ (Jaṭhara).
Nếu lúc nhận các lửa, dùng loại lửa Bạc Xoa
(Bhakṣa).
Trong biển có lửa tên, Phược Noa Bà Mục Khư (Vaḍabāmukha).
Lửa lúc kiếp thiêu sạch, tên là Du Càn Đa (Yugānta).
V́ nhân giả các ngài, nói đại lược các lửa.
Người tu tập Vi Đà, Phạm hạnh được
truyền đọc. Khi đó, ta tuyên nói, bốn
mươi bốn loại ấy).
Khi
tạo tác, tức là các sự nghiệp như cúng dường
v.v… trong phần sau. Khi mới thọ pháp này, tên của hỏa
thần khác biệt. Sau đó, tạo tác, lại tùy theo từng
sự mà có chú riêng của từng hỏa thần. Dùng lửa
Ổ Ba Na Ca (Upanāyika,
tức Bạt Na Dịch Ca trong chánh kinh) để
cúng dường thiên thần. Nhưng khi cúng dường
theo pháp ấy (pháp Vi Đà của Bà La Môn), dùng đồng
làm thành cái chén có cán, lấy hoa, quả, lá, và các thứ thức
ăn chứa đầy trong đó. Pháp ấy nói: “Hết
thảy thiên thần đều cùng cúng dường”.
Dùng lửa Bả Phạ Cú, tức là như trong nhà: [Đối
với mỗi chỗ như] giếng, bếp ḷ, cửa nẻo,
pḥng ốc, mỗi mỗi đều [cúng dường] trọn
khắp. Mỗi chỗ đều cầm một nắm thức
ăn để thí, tụng thần chú của vị thần
đó. Cho tới thí thực ở trong nhà cửa đă xong,
thức ăn c̣n dư th́ đặt trên nóc nhà để
thí cho tổ tiên và các ngạ quỷ. Kế đó, tạo
nhà cửa, dùng Phạm hỏa (tạo lập pḥng v.v…
cũng cần), [sử dụng] lửa Bát La La. Dùng pháp gia
tŕ khiến cho [nhà cửa, pḥng ốc ấy] trở thành tịnh
pháp. Nếu không, sẽ là bất tịnh. Khi hành huệ thí (bố thí rộng răi),
liền thí cho “bổn loại” (những người
cùng chủng tánh với ḿnh), [tức là] người tịnh
hạnh ấy chẳng nói với ba chủng tánh kia,
cũng chẳng thí cho đồ vật,
chỉ hành bố thí trong chủng loại của chính ḿnh.
Khi thí, xưng tên vị Hỏa Thần ấy, dùng chú để
gia tŕ. Bổn ư là nói dùng lửa Phiến Đô, do vật ấy
từ Phạm Thiên mà có, nay lại thí ngược cho Phạm
Thiên, “ngươi cũng thí cho Phạm Thiên”. Câu kế
tiếp cũng nói là Sa Ha.
Khi trói dê (tức là [thời
gian giữ] giới đă măn, đă ra khỏi Phạm chủng
(tức là thôi
tu khổ hạnh, trở về với đời
thường), tứ tánh đă đầy đủ,
được quyền giết dê để ăn. Pháp ấy
nói: Do Phạm Thiên sanh ra tứ chủng, nên cưới vợ,
lấy con gái thuộc bốn chủng tánh, mỗi mỗi
đều sanh con, tức là Phạm Thiên sanh ra bốn chủng
tánh, sử dụng lửa A Phược Hà Ninh. Sanh con có
hơn, kém. Khi giết dê, con của chủng tánh Thủ
Đà (Śūdra) chầu hầu, con
của chủng tánh Sát Lợi (Kṣatriya,
Sát Đế Lợi) giết dê, con của chủng tánh Tỳ
Xá (Vaiśya)
xẻ thịt.
Con của chủng tánh Bà La Môn ăn. Trong khi đó, cũng
dùng chân ngôn để gia tŕ. Đấy chính là pháp do Bà Tẩu
(Vasu)
tiên nhân
lập ra). Khi xúc uế (chạm phải đồ dơ),
tức là pháp khiến cho [người tu tịnh hạnh]
đánh mất thanh tịnh, như sa-môn phạm giới. Hoặc
là có lúc buông lung mà chẳng hay biết, bị người
khác cắt tóc, hoặc dây đeo quanh thân bị đứt,
hoặc gậy ba nhánh bị gẫy, hoặc trong khi ăn
bị chủng tánh Thủ Đà chạm vào v.v… Muốn sám
hối tự phạt, bèn nhóm họp hai, ba trăm người
cùng chủng tánh, ở giữa đại chúng, dùng lửa
Vi Tiếu Chí (Viveci, chánh kinh phiên âm là Vi Phệ Chỉ)
để tự sám hối. Lúc bấy giờ, các vị tịnh
hạnh đồng thanh nói: “Nhật, nguyệt, chư
thiên chứng biết người này, từ nay trở
đi, lại thanh tịnh như cũ”. Khi đó,
người sám hối dùng lửa cúng dường họ.
Lúc bấy giờ, dùng thần chú của vị Hỏa Thiên
ấy (Viveci) để làm pháp gia tŕ.
Khi nấu chín thức ăn
(pháp của họ là hễ muốn nấu thức ăn,
trước hết, phải đem rau, thức ăn v.v…
c̣n sống, dùng tên và thần chú của vị Hỏa Thiên ấy
để gia tŕ cho thanh tịnh rồi mới nấu. Nếu
lầm lẫn chẳng làm, sẽ thành trái pháp, chẳng
thành thức ăn thanh tịnh. Dùng lửa Sa Ha Sa để
làm). Lễ bái Nhật Thiên (trong pháp Phạm Hạnh, lúc mặt
trời chưa mọc th́ chắp tay hướng về
phương Đông chờ mặt trời. Khi mặt trời
mọc, liền lễ bái, đọc kệ, tụng chú,
dùng pháp của vị Hỏa Thần này để làm, tức
là dùng lửa Hợp Vi Thệ Da. Tới khi mặt trời
sắp lặn, lại hướng về phương Tây
đưa tiễn, pháp giống như trên. Mỗi ngày đều
làm như thế. Lại có khi tụ tập nhiều
người để cùng làm). Lễ bái Nguyệt Thiên, trở
về xong, tới khi mặt trăng mọc, lại ở
nhà đón trăng, lễ kính, sử dụng thần chú
cũng khác biệt. Dùng lửa Nễ Địa (chánh kinh
phiên âm là Nhĩ Địa) để thiêu trọn (Đấy
là pháp thí thực bằng lửa. Lấy thức ăn chứa
đầy trong đồ đựng, thiêu trong ḷ. Dùng lửa
A Mật Lật Đa).
Tức Tai (dứt trừ tai
nạn. Hễ muốn dứt trừ chuyện tai nạn,
dùng thần chú của vị hỏa thần này, tức là
dùng lửa Na Rô Noa). Tăng Ích (dùng các thần chú tức tai
v.v… Ư nói oai mănh như lửa lúc kiếp tai, thế lực
oai mănh. Dùng lửa Ngật Lật Đán
Đa, tức là dùng chân ngôn và danh hiệu của hỏa thần).
Trừ Chướng (tức hàng phục. Dùng lửa Nhật
Phẫn Nộ. Nhật Phẫn Nộ là tên của hỏa
thần). Nhiếp Triệu (tức là phàm chuyện mong cầu
muốn thành tựu, và khiến cho người khác hoan hỷ
v.v… dùng lửa Ca Ma Nô). Đốt rừng cây (trong pháp ấy,
không được đốt rừng. Nhưng có khi rừng
rậm tàn rụi, muốn thiêu rừng để cây mới
mọc lên th́ dùng pháp này, dùng lửa Sứ Giả). Ấm bụng
(tức là đă ăn xong, Hỏa Đại trong thân tiêu
hóa thức ăn ấy để vô bệnh v.v… Chân ngôn dùng
lửa Xă Trá Lộ. Ư nói: Dùng để duy tŕ thân ta, nếu
từ thân ta mà ra, tức là con của ta). Kế đó là lửa
Bạc Xoa, liền trao cho các thứ hỏa thực mà sử
dụng. Kế đó là lửa trong biển, gọi là
Phược Noa Bà Mục Khư. Lửa lúc kiếp hoại
tên là Du Càn Đa. Chỉ nêu ra tên gọi, không có cách dùng (tịnh
hạnh có tại gia và xuất gia. Nếu sanh con, từ lúc
thơ ấu đă vào núi học đạo, cho đến
khi đắc Ngũ Thông, không có các pháp như cưới vợ
v.v…) Trên đây đều là các pháp tà hộ-ma của hàng phạm
hạnh thờ lửa. Đức Phật “vị nhữ
chư nhân giả, dĩ lược thuyết chư hỏa,
tu hành Phệ Đà giả, Phạm hạnh sở truyền
độc. Thử tứ thập tứ chủng, ngă
nhĩ thời sở tuyên thuyết” (v́ hàng nhân giả
các vị, ta đă nói đại lược các thứ lửa
mà hàng tu hành theo pháp Vệ Đà đă được truyền
đọc theo phạm hạnh. Lúc ấy, ta đă tuyên nói bốn
mươi bốn loại lửa ấy). Do hiển chánh mà
nêu ra phương cách để biện định
chân pháp.
(Kinh)
Phục thứ Bí Mật Chủ! Ngă
ư văng tích thời, bất tri chư hỏa tánh, tác
chư hộ-ma sự. Bỉ phi hộ-ma hạnh, phi
năng thành nghiệp quả. Ngă phục thành Bồ Đề,
diễn thuyết thập nhị hỏa.
(經)復次祕密主!我於往昔時,不知諸火性,作諸護摩事,彼非護摩行,非能成業果。我復成菩提,演說十二火。
(Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Ta trong thuở
xưa kia, chẳng biết
tánh các lửa, làm các chuyện hộ ma, chẳng phải hạnh
hộ-ma, chẳng thể thành nghiệp quả. Ta lại
thành Bồ Đề, diễn nói mười hai lửa).
Ta
trong lúc ấy, chẳng biết tánh của các thứ lửa
ấy, làm các hộ-ma, cũng chẳng phải là hạnh hộ-ma.
Kế đó là phần kệ tụng ([cho biết: Do làm các
hạnh tà hộ-ma ấy], chẳng đạt được
nghiệp quả). Mười hai loại lửa sau đó
được lần lượt nói ra. “Ngă phục thành
Bồ Đề, thuyết thập nhị chủng hỏa”
(ta lại thành Bồ Đề, nói mười hai loại
lửa). Lại nói như thế nào? “Trí hỏa tối
vi sơ, danh Đại Nhân Đà La” (loại lửa trí
huệ đầu tiên nhất, tên là Đại Nhân Đà
La). Ư đức Phật là: Thuở đó, ta làm Đại
Phạm Vương, do các Phạm chúng tới hỏi kinh
điển Vi Đà, bèn diễn nói, khiến
cho họ nương theo đó tu hành, đạt được
các chuyện như Ngũ Thông trong thế gian. Nhưng ta
thuở đó chưa
hiểu rơ tự tánh của lửa và
nghiệp dụng của nó. Do chẳng biết, các chuyện
thực hiện thuở đó chẳng gọi là “khéo
làm”, mà cũng chẳng được gọi là hộ-ma,
chẳng phải hạnh, chẳng phải nghiệp, mà
cũng chẳng đạt được cái quả ấy.
Tới khi ta thành Bồ Đề, mới thấu hiểu
tự tánh của lửa, và các phương tiện để
đạt được cái quả v.v… Nói “tự tánh của
lửa” tức là quang minh Nhất Thiết Trí của
Như Lai. Sở dĩ đức Phật nói như vậy
là v́ muốn chiết phục các ngoại đạo, phân biệt
tà,
chánh, khiến cho họ biết có pháp hộ-ma thật sự.
Bởi lẽ, các hàng tịnh hạnh đối với
kinh điển Vi Đà mà họ
tôn sùng, tự cho là bí mật, sanh tâm ngạo
mạn. Nay đức Phật tự nói cội gốc
nguyên thủy của Vi Đà, từ trong đó mà hiển lộ pháp hộ-ma
chân thật, đúng chánh lư. Hăy nên biết Vi Đà của Phật
chính là tạng bí mật tột bậc đệ nhất.
Họ nghe xong, sanh tâm hy hữu, liền sanh tín giải. Ta
trước kia chưa thành Chánh Giác, chẳng hiểu biết,
bèn nói đại lược bốn mươi bốn loại
hỏa pháp như trên, nói rộng ra th́ là vô lượng,
như trong kinh điển Vi Đà đă nói cặn kẽ.
Nay thành Chánh Giác, lại nói mười hai pháp nơi lửa
chân huệ, có thể thành tựu đại sự, trừ
sạch hết thảy các tối tăm cấu chướng,
thành tựu đại sự, chẳng giống hạnh tà
đạo phi pháp xưa kia!
(Kinh)
Trí Hỏa tối vi sơ, danh Hỏa Nhân Đà La. Đoan
nghiêm tịnh kim tướng, tăng ích thí oai lực, diễm
man trụ tam-muội. Đương tri trí viên măn.
(經)智火最為初,名火因陀羅,端嚴淨金相,增益施威力,焰鬘住三昧,當知智圓滿。
(Kinh:
Lửa trí huệ đầu tiên, tên Hỏa Nhân Đà La.
Đoan nghiêm tướng vàng sạch, tăng ích, ban oai lực,
rực lửa trụ tam-muội. Nên biết trí viên măn).
[Loại
lửa] thứ nhất tên là Trí Hỏa, có tên ứng với
h́nh vuông (Đại Nhân Đà La), màu vàng, đoan nghiêm,
tăng thêm oai lực, ứng với Hỏa Quang Diễm
tam-muội, trụ trong trí viên măn. Loại lửa tối
sơ ở đây chính là huệ quang của Bồ Đề
tâm. H́nh vuông, màu vàng, tức là biểu thị kim cang ṭa. “Đoan
nghiêm” là nội trang nghiêm. Ư nói loại lửa trí huệ
này, có h́nh tượng Bổn Tôn, trọn đủ hết
thảy các công đức của Phật. Tăng thêm oai
đức là chuyện bên ngoài, tức là các tác dụng của
Thập Lực v.v…. Tánh của trí hỏa ấy là như thế
đó, công đức trong ngoài trang nghiêm viên măn, có thể
ban cho sức mạnh, nên gọi là Tăng Oai. Do biết lửa
này, đốt củi vô minh tích tụ từ vô thỉ
đến nay chẳng c̣n thừa sót, như lửa lúc kiếp
thiêu, tro lửa đều hết sạch, chẳng c̣n
nhơ bẩn, hết thảy công đức của Như
Lai tự nhiên thành tựu. Vị hỏa
thần này tên là Trí, h́nh tướng đoan nghiêm, màu kim
cang, tự vây quanh bằng quang minh viên măn sáng rực như
lửa. Ngài ở trong quang minh ấy, vắng lặng chánh
thọ tam-muội. Do trụ trong tam-muội ấy, trí tánh
trọn đủ. Trí quang ấy chính là biệt danh của
đức Tỳ Lô Giá Na, tức là dùng vị tôn thánh này
để biểu thị trí đó. Nếu lúc mới quán
th́ quán vị hỏa thần này, sẽ có thể thành tựu
hết thảy các sự. Nếu thấu hiểu sâu xa tánh ấy,
sẽ giống như trên đă nói. Cái đàn h́nh vuông ở
đây có tên trong tiếng Phạn là Ma Ha Nhân Đà La
(Mahendra), đó chính là biệt danh của Đế Thích, lại
c̣n là tên gọi khác của kim cang luân.
Trí là nội chứng, sự biểu lộ ra ngoài là h́nh
chày kim cang, tương tự với h́nh thể của ṭa
vuông. Nhưng chỉ quán bốn góc đàn có Bổn Tôn là
được rồi (đầu chày ấy có h́nh tứ
giác).
Trong
phần trên có nói “tăng oai”. Nếu luận định
về h́nh tượng biểu thị, tức là nói h́nh thể
viên măn, trọn đủ. Nói theo lư th́ chính là tâm pháp môn.
Nhưng hỏa có hai pháp:
- Nếu
là người có thể tu Du Già, chỉ quán tướng
được biểu thị bởi vị tôn thánh ấy,
tụng chân ngôn (tên của Ngài chính là chân ngôn vậy), liền
gọi là “nội tâm hỏa pháp”.
- Nếu
do thuận nhiếp thế gian mà làm đàn, hăy nên làm ḷ h́nh
vuông, có quang minh như h́nh ngọn lửa
vây quanh. Bản thân [người tác pháp]
cũng mặc áo màu vàng. Tưởng lửa trong ḷ có vị
tôn thần ấy, trụ trong tam-muội như trên. Sau
đấy, thực hiện pháp sự thành tựu. Nếu
không, sẽ chẳng thành.
Pháp
này tương ứng với pháp Tức Tai, là pháp kiên cố.
Pháp này tương ứng với môn chữ A của sơ
Bồ Đề tâm;
do nhân duyên này, trí trọn đủ!
(Kinh)
Đệ nhị danh Hạnh Măn, phổ quang thu nguyệt
hoa. Cát tường viên luân trung, châu man tiễn bạch y.
(經)第二名行滿,普光秋月花,吉祥圓輪中,珠鬘鮮白衣。
(Kinh: Thứ
hai, tên Hạnh Măn, sáng
khắp, hoa trăng thu. Trong vầng tṛn cát tường, chuỗi
ngọc, áo trắng tinh).
Loại
lửa thứ hai tên là Hạnh Măn (Pratipatti-saṃpad), tức là dựa theo danh mà biểu
thị ư nghĩa. Tên trong tiếng Phạn của loại lửa
này cũng chính là chân ngôn. Sơ phát Bồ Đề tâm, kế
đó tu nơi hạnh. Hạnh ấy viên măn liền gọi là
Phật. Vị này tức là “đại bi làm căn, Bồ
Đề tâm làm chủng tử”. H́nh tượng vị
này như trăng đêm Thu, quang minh tỏa sáng rạng ngời
trọn khắp bốn phía. Thân Ngài mặc áo trắng, có
đủ loại đức (tức là thân đoan nghiêm,
tṛn đầy, đáng ưa). Tay phải cầm xâu chuỗi,
tay trái nắm b́nh Quân Tŕ, giống như trụ trong nguyệt
luân. Như trong phần trước đă nói, đó chính là
ư nghĩa “tâm tánh viên minh thanh tịnh”. Dùng lửa diệu
hạnh này để đốt củi hư luận trong cái
tâm nhơ bẩn. Nếu khi tác quán, đó là quán sự viên
minh ấy là h́nh tượng của Bổn Tôn. Kinh văn
trong phần trên đă nói “đều thấu hiểu
đức nội chứng của Như Lai”, nay tiếp
đó là ngoại đức. V́ thế, dùng pháp môn để
biểu thị vậy. Nếu thực hiện bên ngoài th́
làm ḷ h́nh tṛn, dùng bạch đàn bôi trát, dùng hoa trắng v.v…
để cúng dường. Chính ḿnh mặc áo trắng.
Đó là pháp Tức Tai.
Tai
họa có vô lượng, các thứ thuộc thế gian bên
ngoài như nước, lửa, côn trùng, sương
rơi, châu chấu v.v… các thứ hao tổn, và hết thảy
các loại bệnh gây năo hại nơi thân, muôn h́nh vạn
trạng, nơi thân chính ḿnh và thân người khác, đều có thể
trừ sạch [các tai ương ấy]. Lại từ vô
thỉ tới nay có tâm nghi, tức là đối với pháp
sâu mà sanh ḷng do dự, chẳng có ḷng tin quyết định;
đấy chính là chướng. Lửa này có thể tịnh
trừ chướng ấy, cũng có ư nghĩa “tức
tai” (dứt trừ tai nạn). Tức Tai hộ-ma cũng
có hai loại: Chỉ là Du Già tương ứng mà niệm
tụng, hoặc là ngoại hộ-ma mà thực hiện hỏa
pháp. Nhưng nếu là người có thể lo liệu vật
cúng, sẽ có thể kiêm làm [cả hai]. Nếu chẳng lo
liệu nổi, tâm tưởng là được! Có vật
dụng để có thể làm mà không làm, chỉ dùng tâm
tưởng th́ chẳng đúng pháp!
(Kinh)
Đệ tam Ma Rô Đa, hắc sắc, phong táo h́nh.
(經)第三摩嚕多,黑色風燥形。
(Kinh:
Thứ ba,
Ma Rô Đa (Māruta),
sắc đen, thân khô khan).
Vị hỏa tôn thứ ba tên là Phong Táo (bị hun khô bởi
gió). Do sanh từ gió, là con của gió, h́nh dạng khô khan,
đen đúa. Đấy chính là: Trong là sắc đen, ngoài th́ thêm h́nh
thể khô khan, như bôi than tro vậy. Vị tôn thần
này ngự trong phong luân, tức h́nh bán nguyệt; cũng vẽ
Ngài ngồi đoan nghiêm trong tư thế tam-muội, tức
là hành nhân sơ phát Bồ Đề tâm tuy muốn hành tŕ để
tiến cao hơn, nhưng do căn bản vọng Hoặc phiền năo từ vô thỉ chưa trừ,
chúng sẽ nhiều lượt lôi kéo, phá hoại quán tâm,
khiến cho [cái tâm của hành nhân] càng bị tối tăm, che lấp,
[đức Phật] bèn bảo hăy hành pháp này. Gió có nghĩa
là “chẳng trụ”. Lại như gió trong thế gian
có thể xua tan mây dày. Lửa “chẳng trụ” này
cũng giống như thế, có thể tan hoại các
chướng. Vị tôn thánh này ngự trong phong đàn, tay cầm
lụa, giơ khỏi đầu chừng dăm ba tấc,
nắm hai đầu dải lụa, như dáng vẻ
[đang cầm áo trời], thân sắc Ngài màu xanh (đấy
là biểu thị ư nghĩa của gió). Đó là pháp A Tỳ Xà Rô Ca (Abhicāraka, điều phục, hàng
phục), cũng có
hai pháp nội và ngoại.
(Kinh)
Đệ tứ Lô Hế Đa, sắc như triêu nhật
huy.
(經)第四盧醯多,色如朝日暉。
(Kinh: Thứ
tư, Lô Hế Đa (Rohita), sắc
như nắng ban mai).
Vị thứ
tư màu đỏ như mặt trời mọc, trụ
trong h́nh tam giác. Tay phải cầm đao,
ngồi đoan nghiêm. Đao biểu thị trí huệ nhạy
bén, đoạn kết sử. Như mặt trời trong thế
gian lúc mới mọc, đêm tan, ngày hiện, tối hết,
ánh sáng hiện ra. V́ thế, dùng màu sắc ấy [để
biểu thị]. Hỏa thần có h́nh sắc như thế,
quang minh sáng rực như lửa cũng thế. Thân tướng
đoan nghiêm, viên măn. Giống như trên,
trụ trong tam-muội, hiện h́nh dạng hơi phẫn
nộ.
(Kinh) Đệ ngũ Một Lật Noa, đa thử,
thiển hoàng sắc, tu cảnh, đại oai quang. Biến nhất thiết ai mẫn.
(經)第五沒栗拏,多髭淺黃色,脩頸大威光,遍一切哀愍。
(Kinh: Thứ năm, Một Lật Noa (Mṛḍa), râu nhiều, màu vàng nhạt, cổ dài, oai quang lớn,
thương xót khắp hết thảy).
Vị thứ năm là Một Lật Noa, nghĩa là “ḥa
hợp”. Vị tôn thánh này màu vàng nhạt, tức
là màu vàng có sắc lửa. “Ḥa
hợp” là kiêm hai pháp. H́nh tượng Ngài th́ bên trái có
dáng vẻ giận dữ, bên phải là dáng điệu vui vẻ,
mỉm cười, mỗi dáng điệu chiếm nửa
người. Mỉm cười là chẳng sân, chẳng quá
mừng, trụ trong tĩnh lặng.
Trên thân có lông, tức các loại râu ria, tóc mai, và tóc khá nhiều,
nhưng không thể quá nhiều. Nếu
quá nhiều, sẽ chẳng đoan nghiêm. Cổ Ngài dài, có
oai quang to lớn. Màu sắc nơi thân th́ một bên đỏ,
một bên vàng (bên giận phải nên là màu đỏ). Ṭa ngồi của Ngài cũng là phía bên phải là vuông
(nửa ṭa kim cang), bên trái là tam giác (nửa hỏa ṭa). Tay
trái cầm đao, tay phải cầm bạt-chiết-la (vajra, chày kim cang). Có hai pháp nội và ngoại, phỏng theo lệ
trên đây. Vị [hỏa thiên] ḥa hợp này có thể triệu
vời và tức tai trọn khắp, đều
thành tựu. Nội dụng chính là trí quang, phiền năo liền
diệt, chẳng sanh. Nếu lúc thực hiện bên ngoài,
th́ hương, hoa, y phục nơi thân cũng cần phải
có hai loại, khi niệm tụng cũng làm h́nh tượng
giống như Bổn Tôn, vẫn là một mắt giận,
mắt kia tĩnh lặng. Tai trừ, nguyện măn, cùng lúc
được thành tựu. Dùng cái lư trọn khắp ấy
để có tác dụng như thế, chẳng giống
giáo pháp thiên lệch một bên!
(Kinh) Đệ lục danh Phẫn Nộ, diểu
mục, phi yên sắc. Tủng phát nhi chấn hống, đại
lực hiện tứ nha.
(經)第六名忿怒,眇目霏烟色,聳髮而震吼,大力現四牙。
(Kinh:
Thứ sáu tên Phẫn Nộ (Krodha), nheo mắt, màu khói cuộn.
Tóc dựng, rống vang rền. Đại lực, hiện
bốn nanh).
Vị
hỏa thần thứ sáu tên là Phẫn Nộ, tức là
dùng danh nghĩa ấy để làm chân ngôn giống như
trong phần trên. Thân Ngài màu khói, tức là chẳng phải
rất sẫm màu, chẳng phải rất trắng. Nhắm
một mắt (giống như ngài Bất Động Minh
Vương), tóc tán loạn, tua tủa như vẻ đầu
tóc rối bù, hiện dáng vẻ rống lớn, tức là
như đang há miệng để rống to. Miệng có bốn
răng nanh, đều ch́a ra
ngoài, hai nanh chĩa lên, hai nanh quặp xuống. Pháp này
cũng gồm hai sự: Một là lửa, hai là gió.
(Kinh) Đệ thất Xà Trá La, tấn tật
bị chúng thái.
(經)第七闍吒羅,迅疾備眾綵。
(Kinh:
Thứ bảy, Xà Trá La (Jaṭhara), nhanh chóng, đủ
các màu).
Vị
thứ bảy tên là Ôn Phúc (溫腹, ấm bụng). Như lửa trên
thế gian, tức là lửa trong thân có thể tiêu hóa thức
ăn để nuôi thân. Trong chánh pháp, ư nghĩa chẳng phải
vậy. “Lửa trong bụng” chính là trí nội chứng.
“Tấn tật” (nhanh chóng) nghĩa là vị này h́nh
tướng càng thêm phẫn nộ, c̣n hơn vị trước
đó. Cực phẫn nộ, tức là chữ Á (आः, Aḥ).
Có đủ loại màu, tức h́nh tướng trọn
đủ năm màu. Ư nghĩa chuẩn theo phần trước.
(Kinh)
Đệ bát Cật Sái Da, do như điện quang tụ.
(經)第八迄灑耶,猶如電光聚。
(Kinh: Thứ
tám, Cật Sái Da (Kṣaya), ví như ánh chớp
tụ).
Vị thứ
tám tên là Phí Hao (費耗, dịch nghĩa của chữ Cật Sái Da), nghĩa là “trừ bỏ”, tức là khiến
cho hết thảy các nghiệp cấu chẳng c̣n sót. Vị
này có thể trừ hết thảy các chướng nơi
thân, tức loài Tỳ Na Dă Ca (Vināyaka) v.v… cũng đều khiến cho tiêu mất. Màu sắc
của Ngài giống như tụ tập nhiều ánh chớp, chẳng thể
nh́n ngắm được! Vị này cũng thuộc loại
kim cang luân.
(Kinh) Đệ cửu danh Ư Sanh, đại
thế xảo sắc thân.
(經)第九名意生,大勢巧色身。
(Kinh: Thứ chín tên Ư Sanh (Manomaya), thế
lớn, thân sắc khéo).
Vị
thứ chín tên là Ư Sanh, tức là pháp được sanh bởi
ư, tùy ư mà thành. Các thứ h́nh dạng đều có, sở niệm (những
điều nghĩ tưởng) đều có thể thành tựu. “Xảo” (hay
khéo) là như Tỳ Thủ Yết Ma (Vishvakarman)[7], tức là ư nghĩa “tùy loại hiện thân, thành tựu
trọn khắp, huệ tự tại, hễ làm ǵ cũng
đều thành”. Vị này có đại lực.
(Kinh) Đệ thập Yết La Vi, xích sắc
Án tự ấn.
(經)第十羯攞微,赤黑唵字印。
(Kinh: Thứ
mười, Yết La Vi (Kravyāda), ấn chữ Án
(Aum, ॐ)
sắc đỏ).
Vị thứ mười
tiếp nhận hỏa thực tên là Kiếp Vi (tức Yết
La Vi như trong chánh kinh phiên âm), có nghĩa là khi hỏa thí
th́ sẽ tiếp nhận thức ăn. “Thọ thực”
nghĩa là khi hỏa thí thức ăn th́ vị này sẽ nhận
lấy mà ăn. Vị này tŕ ấn chữ Án, tức là nghi
pháp của phạm chí. Bậc tịnh hạnh hễ có nói
năng, đều nghiêng tay phải, kết h́nh ấn rồi
nâng tay lên, dùng âm chữ Án để tạo tư thế vậy.
(Kinh) Đệ thập nhất hỏa thần
(Phạn bổn khuyết kỳ danh). Thập nhị Mô Hạ
Na, chúng sanh sở mê hoặc.
(經)第十一火神(梵本闕其名)。十二謨賀那,眾生所迷惑。
(Kinh:
Hỏa thần thứ mười một (bản Phạn
thiếu tên Ngài). Mười hai: Mô Hạ Na (Mohana), chúng sanh
bị mê hoặc).
Vị
thứ mười một bị thiếu bài kệ. Vị
thứ mười hai tên là Tất Thành (悉成
(đều thành tựu), dịch nghĩa của chữ
Mohana), tức là “có thể đều thành tựu hết
thảy”, nghĩa là “việc
làm đă xong”,
ngự nơi Tịch Diệt Đạo Tràng để chế
phục ma. Lại như có một loại chúng sanh làm ác chẳng
thể ngăn dứt;
giả sử khuyên dạy, họ càng tăng thêm sự ác.
Nếu mặc kệ, họ sẽ lại tiến hướng
ác đạo. Do phương tiện nên hàng phục thân họ,
khiến cho đều nhắm mắt chẳng hay biết
ǵ; bởi nhân duyên ấy, thiện lẫn ác đều chẳng
thể tạo. Kế đó, hướng dẫn dần dần,
khiến cho họ nhập chánh pháp như kinh Kim Cang Đảnh
[đă dạy]. Lại nữa, ư
nghĩa ngài Kim Cang Thủ hàng phục Đại Tự Tại
Thiên
được nói như trên đây. Đấy đều
là trụ trong phương tiện đạo để
làm.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Thử đẳng, hỏa sắc chi sở
tŕ, tùy kỳ tự h́nh sắc, dược vật đẳng
đồng bỉ, nhi tác ngoại hộ-ma, tùy ư thành Tất
Địa. Phục thứ ư nội tâm, nhất tánh nhi
cụ tam, tam xứ hợp vi nhất. Du Kỳ nội hộ-ma,
đại từ đại bi tâm, thị vị Tức Tai
pháp. Bỉ kiêm cụ ư hỷ, thị vi Tăng Ích pháp.
Phẫn nộ tùng thai tạng, nhi tạo chúng sự nghiệp.
Hựu bỉ Bí Mật Chủ! Như kỳ sở thuyết
xứ, tùy tương ứng sự nghiệp, tùy tín giải
phần thiêu.
(經)祕密主此等,火色之所持,隨其自形色,藥物等同彼,而作外護摩,隨意成悉地。復次於內心,一性而具三,三處合為一,瑜祇內護摩。大慈大悲心,是謂息災法,彼兼具於喜,是為增益法,忿怒從胎藏,而造眾事業。又彼祕密主!如其所說處,隨相應事業,隨信解焚燒。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Bọn họ, duy tŕ các màu lửa, tùy h́nh
sắc chính ḿnh, dược vật thảy giống vậy,
để làm ngoại hộ-ma, tùy ư thành Tất Địa.
Lại c̣n trong nội tâm, một tánh đủ ba thứ,
ba chỗ hợp thành một. Du Kỳ nội hộ-ma,
đại từ đại bi tâm, chính là pháp Tức Tai.
Pháp kiêm thêm hoan hỷ, sẽ là pháp Tăng Ích. Từ Thai Tạng
phẫn nộ, để tạo các sự nghiệp. Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Đúng như chỗ đă nói,
tùy sự nghiệp tương ứng, theo tín giải mà
thiêu).
Bí Mật
Chủ! Màu sắc được duy tŕ bởi các thứ lửa
ấy tùy thuộc màu sắc của hỏa thần. Dược
vật (các thứ dùng để hộ-ma,
cũng như các vật được
dùng để làm pháp thành tựu) v.v… cũng giống
như thế, tức là thuận theo sắc loại của
vị hỏa thần ấy [mà chọn lựa các vật
để đốt và vật được thành tựu
có màu sắc tương ứng]. Kệ lại nói “nhi tác
ngoại hộ-ma, tùy ư thành Tất Địa” (để
thực hiện pháp ngoại hộ-ma ḥng tùy ư thành tựu Tất
Địa). Lại này, Bí Mật Chủ! Kế đó, nói về
nội pháp:
“Nhất
tánh nhi cụ tam, tam xứ hợp vi nhất, Du Kỳ nội
hộ-ma. Đại từ đại bi tâm, thị vi Tức
Tai pháp. Bỉ kiêm cụ ư hỷ, thị vi Tăng
Ích pháp. Phẫn nộ tùng thai tạng, nhi tạo chúng sự
nghiệp. Hựu bỉ Bí Mật Chủ! Như kỳ sở
thuyết xứ, tùy tương ứng sự nghiệp, tùy
tín giải phần thiêu” (một tánh mà trọn đủ
ba thứ, ba chỗ hợp thành một. Trong pháp nội hộ-ma
của Du Kỳ (Yogi), nếu dùng tâm đại từ đại
bi th́ đó là pháp Tức Tai. Nếu pháp ấy kiêm thêm ḷng
hoan hỷ th́ là pháp Tăng Ích. Nếu do ḷng phẫn nộ
phát xuất từ Đại Bi Thai Tạng để tạo
tác các sự nghiệp [th́ là pháp Hàng Phục]. Lại này, Bí
Mật Chủ! Theo đúng như những điều
đă nói, tùy theo tương ứng với sự nghiệp
nào, vận dụng ḷng tín giải để thực hiện
hộ-ma): Chính là nói về sắc của chính ḿnh (tức
màu sắc của vị Hỏa Thiên) và màu sắc của
dược vật, giống như ngoại hộ-ma. “Tác
thử Tất Địa tùy ư”
(tùy ư thực hiện môn Tất Địa ấy):
Nói đến mười hai loại h́nh sắc và các vật
được cầm (được sử dụng để
làm hộ-ma), nhận biết tánh chất của chúng. Trong
phần trước là luận định gộp chung nội
và ngoại, nay nói về ngoại. “Tam ḥa hợp” tức
là lửa chẳng khác thần, thần chẳng khác tự
thân. “Đồng” tức là ta lẫn người đều như
nhau. “Nội tác” (thực hiện nội hộ-ma) th́
Bổn Tôn chính là lửa, lửa chính là tự thân. Nay giải
thích theo lư, th́ Bổn Tôn chính
là đức
Tỳ Lô Giá Na. Tỳ Lô Giá Na chẳng
khác huệ hỏa tự nhiên. Lửa ấy chẳng
khác thân ta, tức là dùng một tự tánh mà có ba thứ ḥa
hợp, gọi là nội hộ-ma. “Ḥa hợp” th́ Bổn
Tôn chính là lửa, lửa giống như chính ḿnh, ba sự
b́nh đẳng. “Như ư Tất Địa” trong phần
kinh văn trước đó, tùy thuộc chuyện thượng,
trung, hạ trong thế gian, tùy ư liền thành. Nếu chẳng
hiểu hỏa pháp này, không do đâu mà thành được!
Nội
pháp cũng giống như thế đó. Nếu hiểu rơ
huệ hỏa này, tùy theo chuyện xuất thế thượng,
trung, hạ, tùy tâm liền
thành tựu. Lại nữa, “tam ḥa hợp” tức là
thân, khẩu, ư, thân kết ấn, miệng tụng chân ngôn,
tâm tưởng Bổn Tôn. Ba sự ấy ḥa hợp rốt
ráo b́nh đẳng, đó là “tam ḥa hợp”. Nếu có
thể quán Bổn Tôn th́ tự thân sẽ dần dần tịnh.
Hễ tịnh, liền giống với Bổn Tôn. Nếu
thấy một tánh th́ ba sự đều tịnh, đều
là b́nh đẳng.
Kế
đó, nói về pháp nội hộ-ma, tức là đối với
ba sự b́nh đẳng ấy, làm Tức Tai th́ dùng tâm
đại từ đại bi. Trong ba thứ b́nh đẳng
ấy, khi đại từ đại bi ḥa hợp, hết
thảy các vị tôn thánh thuộc
Tức Tai là đệ nhất bi. Nếu làm Tăng Ích, th́
dùng bi và đại hỷ ḥa hợp. Nếu phẫn nộ,
dùng hỏa làm “thai” để thực hiện, “thai” tức
là tâm. Có nghĩa là có nhân duyên cần phải làm chuyện phẫn
nộ để hàng phục kẻ khác, liền từ trong
nội tâm khởi phẫn nộ. Sự phẫn nộ ấy
chẳng giống với sự phẫn nộ của thế
gian, tức là từ trong tâm đại bi chiếu tỏ thật
tánh của phẫn, dùng phương tiện để khởi
lên, dùng đó để hàng phục ác pháp. Như thế th́
chỉ làm nội hộ-ma liền có thể hoàn tất các
sự. V́ thế, ư nghĩa của hộ ma là dùng huệ hỏa để
đốt củi phiền năo sao cho hết sạch, chẳng
c̣n sót. Nhưng ở đây, nói đại
lược các vị hỏa thần được
sử dụng và các tướng [hộ-ma]
nội ngoại, hăy nên biết trong các
giáo pháp khác, đều có hỏa pháp, tùy theo sự nào
đáng nên làm, đều chuẩn theo pháp ấy, trụ
trong tam-muội, tùy theo lẽ tương ứng mà thực
hiện,
liền được thành tựu. Nếu chẳng như
thế, chỉ là đốt
củi gỗ suông để thiêu
sạch vật cúng dường. Nếu
không, xen lạm pháp của ngoại đạo, lại càng
chẳng thể thành tựu. Lại nữa, kinh nói “các vật”
tức là các thứ như củi, chất tô, thức
ăn, các vật dụng được dùng trong hỏa
pháp.
(Kinh)
Nhĩ thời, Kim Cang Thủ bạch Phật ngôn: - Thế
Tôn! Vân hà hỏa lô tam-ma-địa? Vân hà nhi dụng tán sái?
Vân hà thuận phu cát tường thảo? Vân hà cụ duyên
chúng vật?
(經)爾時金剛手白佛言:世尊!云何火爐三摩地?云何而用散灑?云何順敷吉祥草?云何具緣眾物?
(Kinh: Lúc bấy
giờ, ngài Kim Cang Thủ bạch cùng đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là hỏa lô tam-ma-địa?
Dùng cách tưới rảy như thế nào? Trải cỏ
cát tường theo chiều thuận như thế nào? Thế
nào là các vật đầy đủ duyên?)
Trên
đây, ngài Kim Cang Thủ đă hỏi Phật, trước
đó, đức Phật đă nhiều lượt nói hỏa
pháp này, nhưng con vẫn chưa biết chắc: Nên đặt
lửa ở nơi nào? Đặt ḷ ở chỗ nào v.v… Lại
c̣n có pháp nào, tức là tưới rảy, trải cỏ,
và các vật [dùng để hộ-ma] v.v… đều thưa
hỏi Phật.
(Kinh)
Phật cáo Bí Mật Chủ, Tŕ Kim Cang Giả ngôn: - Hỏa
lô như trửu lượng, tứ phương
tương quân đẳng, tứ tiết vi duyên giới,
châu táp kim cang ấn. Tịch
chi dĩ sanh mao,
nhiễu lô nhi hữu toàn. Bất dĩ mạt gia bổn.
Ưng dĩ bổn gia mạt. Thứ tŕ cát tường thảo,
y pháp nhi hữu sái. Dĩ đồ hương, hoa,
đăng, thứ hiến ư hỏa thiên. Hành nhân dĩ
nhất hoa, cúng dường Một Lật Đồ, an trí
ư ṭa vị. Phục đương dụng quán sái,
ưng đương tác măn thí. Tŕ dĩ bổn chân ngôn. Thứ
Tức Tai hộ-ma, hoặc dĩ Tăng Ích pháp, như thị
thế hộ-ma, thuyết danh vi ngoại sự.
(經)佛告祕密主,持金剛者言:火爐如肘量,四方相均等,四節為緣界,周匝金剛印。藉之以生茅,繞爐而右旋,不以末加本,應以本加末。次持吉祥草,依法而右灑,以塗香華燈,次獻於火天。行人以一華,供養沒栗荼,安置於座位,復當用灌灑。應當作滿施,持以本真言,次息災護摩,或以增益法。如是世護摩,說名為外事。
(Kinh: Đức
Phật bảo Bí Mật Chủ, Tŕ Kim Cang Giả rằng:
- Ḷ lửa bằng khủy tay, bốn phía vuông bằng nhau.
Đường gờ rộng bốn lóng. Chày kim cang xếp
quanh. Dùng cỏ tươi để trải, quanh ḷ theo chiều
phải. Đừng đè ngọn lên gốc, nên dùng gốc
đè ngọn. Kế, cầm cỏ cát tường, theo
pháp rải bên phải. Dùng hương bôi, hoa, đèn, dâng
cúng cho hỏa thiên. Hành nhân dùng một hoa, cúng dường Một
Lật Đồ (Mṛḍa), xếp đặt
nơi ṭa vị. Lại nên dùng tưới rảy, hăy nên
thí đầy muỗng. Tŕ chân ngôn hỏa thần. Kế, Tức
Tai hộ-ma, hoặc làm pháp Tăng Ích, như hộ-ma trong
đời, gọi đó là ngoại sự).
Kế đó, đức Phật bảo
ngài Chấp Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật
Chủ! Ḷ lửa ấy to bằng khủy tay, bốn cạnh
vuông vắn đều nhau. Đường ranh (đường
gờ ở miệng ḷ) to bốn ngón, dùng h́nh chày kim cang vây
quanh. Kế đó là hai bài kệ; chính
là tiếp đó đức Phật giải
đáp. Ḷ ấy to bằng khủy tay, đường ranh rộng bốn
ngón, dùng chày kim cang vây quanh [trên đường ranh ấy].
Tức là tùy theo chỗ trụ, đào sâu xuống một
khủy tay, [bốn phía] vuông vắn [cũng có kích thước]
như vậy. Trên miệng ḷ, lập đường gờ,
[đường gờ ấy] cao rộng bốn ngón. Dùng
ngón cái [của chính hành nhân] để [làm mẫu] đo
lường. Quanh đường gờ, dùng chày kim cang vây
quanh. Bốn mặt tiếp giáp nhau, giống như đă
nói trong phần tám ấn trên đây. “Đẳng” tức
là độ sâu [của ḷ] và [ḷ có h́nh dáng] vuông, tṛn v.v… [tùy
theo pháp sự sẽ làm, như Tăng Ích, Tức Tai v.v…]
Như ḷ vuông, và ḷ tam giác, bán nguyệt, ḷ tṛn, đều to
như nhau, có thể suy ra mà biết. Kệ ghi: “Tịch
chi dĩ sanh mao,
nhiễu lô nhi hữu toàn, vật dĩ mạt gia bổn,
ưng dĩ bổn gia mạt”
(Dùng cỏ tươi để trải, quanh ḷ theo chiều
phải. Đừng dùng ngọn đè gốc, nên xếp gốc
đè ngọn), tức là chớ [xếp các nhánh cỏ Cát
Tường] ngọn đè lên gốc, hăy nên xếp cỏ
sao cho gốc [của ngọn cỏ
này] đè lên ngọn
cỏ kia. Xếp cỏ tranh xong, tán sái theo chiều
phải, pháp giáo phải nên như thế. Dâng hương
bôi, hoa, đèn. Hăy nên cúng cho Hỏa Thiên Một Lật Noa,
dùng một đóa hoa để cúng dường ở chỗ
đặt ṭa. Xếp đặt xong, người tŕ chân
ngôn lại sái tịnh. Bậc trí dùng chân ngôn của vị
hỏa thiên ấy để “măn thí” (tức là dùng muỗng
to múc đầy ắp vật cúng đổ vào lửa).
“Thứ
Tức Tai hộ-ma, hoặc dĩ Tăng Ích pháp, như thị
thế hộ-ma, thuyết danh vi ngoại sự. Phục thứ,
nội hộ-ma, diệt trừ ư nghiệp sanh” (Kế
đó, thực hiện pháp Tức Tai hộ-ma, hoặc làm
pháp Tăng Ích. Như pháp hộ-ma trong cơi đời,
được gọi là ngoại sự (tức ngoại hộ-ma).
Lại nữa, thực hiện pháp nội hộ-ma để
diệt trừ các thứ sanh bởi nghiệp): Tức là
tướng nghiệp sanh diệt. Biết rơ Mạt Na tức
là [hiểu rơ] Ư (Mạt Na thức). Xa ĺa sắc, thanh v.v… Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ngữ, ư v.v… [v́ các trần và
các căn] thảy đều từ tâm khởi,
nương tựa nơi tâm
vương. “Cỏ cát tường” ngụ ư hiển
lộ rơ ràng. “Trải cỏ theo chiều phải” tức
là cách xếp cỏ trên đường gờ quanh miệng
ḷ. Hăy nên xếp sao cho gốc [của nhánh cỏ này] đè
lên ngọn
[của nhánh
cỏ kế tiếp]. “Ngọn” tức
là phần chót lá xanh của cỏ. Giả sử khi trải
cỏ ở phương Đông th́ gốc ở
phương Bắc, ngọn ở phương Nam, vẫn
[là gốc] đè lên ngọn. Kế đó, cái gốc ở
phương Nam, chẳng được dùng gốc đè
lên ngọn[8].
Theo thứ tự rải ṿng quanh, tới phương Nam, tức
là gốc ở phương Đông, đầu cỏ
hướng về Tây. Cho tới phương Bắc, thứ
tự đều chuẩn theo đó.
“Sái
thủy” (rưới nước) tức là nước Át-già
(Argha).
Át-già có pháp tắc riêng như trong phần Tất Địa
đă nói, nhưng rưới nước có hai cách: Nếu
dùng cỏ để kết thành một bó nhỏ, đặt
trong chén đựng Át-già để vẩy. Khi vẩy th́ vẩy
[ṿng quanh đàn tràng hoặc vật được sái tịnh]
thuận theo chiều phải, hoặc trực tiếp dùng
tay để rưới cũng được. Nhưng “rải theo chiều
thuận” lại có hai loại:
- Nếu
lúc mới tịnh hỏa th́ thuận theo chiều phải
mà rưới.
- Nếu
là lúc sái tịnh để cúng dường, hăy nên rảy thẳng,
chẳng cần xoay ṿng quanh, như trong phần
Tất Địa đă biện định.
Nhưng
khi chưa rảy, để thỉnh hỏa tôn, bèn có chân
ngôn và ấn như trong phẩm trước đă nói, chính
là để sử dụng ở đây. Rảy xong, dâng
cúng hoa, theo thứ tự cúng dường các vật. Lúc bấy
giờ, hăy nên quán h́nh tượng Bổn Tôn ở trong ḷ ấy,
dùng chân ngôn trong phần trước để tưới
rải trọn khắp. “Măn thí” là dùng muỗng múc vật
phẩm đổ vào trong lửa. Muỗng có hai loại:
- Loại
thứ nhất là muỗng to, gọi là Măn Thí. Hăy nên múc
đầy muỗng rồi
đổ vào trong lửa.
- Kế
đó là muỗng nhỏ, tức là liên tục đổ
[các vật phẩm cúng như tô, sữa, bột thơm
v.v…] vào trong lửa, cũng cần phải múc đầy.
Có
pháp riêng, cũng như trong Tất Địa đă chỉ
bày đại lược. Đối với ba sự Tức
Tai, Tăng Ích, Chiết Phục, hăy nên biết hết thảy
các sự đều chuẩn theo đây mà làm. Lại nữa,
nội hộ-ma [trừ diệt] nghiệp sanh diệt, “biết
rơ ư ấy” tức là muốn
hiểu ư th́ phải nên ĺa cảnh. Đă ĺa cảnh,
cũng biết ĺa căn. Nhưng ngữ thuộc về
lưỡi, thân và ư từ tâm sanh, nương vào tâm
vương mà khởi. Mắt, tai v.v… do phân biệt mà sanh,
và cảnh giới như sắc v.v… do lúc huệ chưa
sanh, bèn nương vào tâm vương mà có hư vọng! Muốn
dứt bặt những điều ấy, hăy dùng lửa
gió khô nóng để diệt, tức là dùng “trí phong hỏa” (lửa sanh khởi
từ gió trí) để đốt. Thiêu trừ vọng chấp,
khiến cho [hành nhân] đạt được Bồ Đề
tâm thanh tịnh, sẽ có tịnh ngữ. V́ thế, pháp này
được gọi là “nội hộ-ma”, v́ các Bồ
Tát mà nói. Do huệ là lửa sanh bởi gió,
huệ là Chỉ, tịnh tâm là Quán. Từ trên tới
đây là nói về chuyện thế gian.
(Kinh)
Phục thứ nội hộ-ma, diệt
trừ ư nghiệp sanh, liễu tri tự mạt-na, viễn
ly sắc thanh đẳng, nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt,
thân, cập dữ ngữ, ư nghiệp, giai tất tùng tâm khởi,
y chỉ ư tâm vương. Nhăn đẳng phân biệt
sanh, cập sắc đẳng cảnh giới. Trí huệ
vị sanh chướng, phong táo hỏa năng diệt,
thiêu trừ vọng phân biệt, thành tịnh Bồ Đề
tâm. Thử danh nội hộ-ma, vị chư Bồ Tát thuyết.
(經)復次內護摩,滅除於業生,了知自末那,遠離色聲等。眼耳鼻舌身,及與語意業,皆悉從心起,依止於心王,眼等分別生,及色等境界,智慧未生障,風燥火能滅。燒除妄分別,成淨菩提心,此名內護摩,為諸菩薩說。
(Kinh:
Tiếp đó, nội hộ-ma, diệt trừ
sanh bởi nghiệp, thấu hiểu tự mạt-na, xa
ĺa sắc, thanh thảy, mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, cùng với ngữ, ư nghiệp, thảy đều từ
tâm khởi, y chỉ nơi tâm vương. Mắt thảy
sanh phân biệt, và cảnh giới sắc thảy. Chướng
v́ huệ chưa sanh, lửa gió khô trừ diệt, đốt
sạch vọng phân biệt, thành Bồ Đề tâm tịnh.
Đó gọi nội hộ-ma, v́
các Bồ Tát nói).
Nay
kế đó, nói về chuyện xuất thế trong nội
hộ-ma, tức là dùng trí hỏa để trừ các thứ
sanh bởi nghiệp v.v… Từ nghiệp mà thọ sanh, từ
sanh lại tạo nghiệp, luân chuyển chẳng ngơi!
Nay nói hộ-ma chính là để tịnh
trừ nghiệp ấy, khiến cho pháp thanh tịnh
được sanh khởi. Nghiệp sanh đă trừ rồi,
sau đấy dụng ư sanh, ư tức là tên gọi khác của
tâm. Pháp sanh từ cái tâm ấy, ĺa sắc, thanh,
hương, vị, xúc, ĺa mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư. Các thứ ấy đều lấy tâm làm chủ, do
tâm vương ấy mà sanh phân biệt. Hăy nên dùng huệ để
tịnh hóa tâm vương này, tức là hết thảy các
pháp đều tịnh. Nhưng lúc huệ chưa sanh, bị
chướng pháp dao động, bèn dùng lửa gió hun để
đốt trừ.
Đó chính là thâm ư trong cách sử dụng [pháp ngoại hộ-ma] của
phần kinh văn trên đây. Do thâm huệ chưa sanh mà có
phân biệt. Do phân biệt, nên có các cấu chướng
như căn, cảnh v.v… Nay dùng lửa gió khô nóng để
tịnh trừ, lửa ấy chính là tên gọi khác của
Bồ Đề tâm. Lửa Bồ Đề tâm ấy thiêu
đốt các sự như vọng tưởng v.v… khiến
cho thảy đều trừ sạch. Đó là ư nghĩa của
nội hộ-ma. Bậc trí như thế mới đáng gọi
là Bồ Tát. Nói “thế xuất thế” tức là hai
pháp Lư và Sự. Sự chính là lửa được gia tŕ bởi
phương tiện. Xuất thế chính là lửa thuộc
huệ tánh. Phẩm Thế Xuất Thế Hỏa đă
xong. Nếu luận về các vị hỏa thiên của thế
gian, [các vị ấy] có h́nh dáng Phạm Thiên. Nay hỏa thần
thuộc nội pháp có h́nh dạng tam-ma-địa, vắng
lặng trụ trong tam-muội.
28. Phẩm thứ hai
mươi tám: Nói về Bổn Tôn tam-muội (Thuyết Bổn
Tôn tam-muội phẩm đệ nhị thập bát, 說本尊三昧品第二十八)
(Kinh)
Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật
ngôn: “Thế Tôn! Nguyện thuyết chư tôn sắc tượng,
oai nghiệm hiện tiền, linh Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh
chư Bồ Tát quán duyên Bổn Tôn h́nh cố, tức Bổn
Tôn thân dĩ vi tự thân, vô hữu nghi hoặc, nhi đắc
Tất Địa”. Như thị thuyết dĩ, Phật
cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Thiện tai! Thiện
tai! Bí Mật Chủ! Nhữ năng vấn ngô như thị
nghĩa, thiện tai, đế thính! Cực thiện tác ư,
ngô kim diễn thuyết”. Kim Cang Thủ ngôn: “Như thị,
Thế Tôn! Nguyện nhạo dục văn”. Phật ngôn: -
Bí Mật Chủ! Chư tôn hữu tam chủng thân, sở vị
tự, ấn, h́nh tượng. Bỉ tự hữu nhị
chủng, vị thanh cập Bồ Đề tâm. Ấn hữu
nhị chủng, sở vị hữu h́nh, vô h́nh. Bổn Tôn
chi thân,
diệc hữu nhị chủng, sở vị thanh tịnh,
phi thanh tịnh. Bỉ chứng tịnh thân, ly nhất thiết
tướng, phi tịnh hữu tưởng chi thân tắc
hữu hiển h́nh, chúng sắc. Bỉ nhị chủng tôn
h́nh, thành tựu nhị chủng sự: Hữu tưởng
cố thành tựu hữu tưởng Tất Địa,
vô tưởng cố tùy sanh vô tướng Tất Địa.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:世尊!願說諸尊色像威驗現前,令真言門修菩薩行諸菩薩觀緣本尊形故,即本尊身以為自身,無有疑惑而得悉地。如是說已,佛告執金剛祕密主言:善哉善哉!祕密主!汝能問吾如是義。善哉諦聽,極善作意,吾今演說。金剛手言:如是。世尊!願樂欲聞。佛言:祕密主!諸尊有三種身,所謂字、印、形像。彼字有二種,謂聲及菩提心。印有二種,所謂有形、無形。本尊之身亦有二種,所謂清淨、非清淨。彼證淨身離一切相,非淨有想之身則有顯形眾色。彼二種尊形,成就二種事:有想故成就有相悉地,無想故隨生無相悉地。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức
Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Xin hăy nói h́nh sắc và
oai thần linh nghiệm hiện tiền của các vị
tôn thánh, khiến cho các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong
Chân Ngôn môn do nương theo h́nh tượng của Bổn
Tôn để quán, liền biến thân Bổn Tôn thành thân của chính
ḿnh, chẳng có ngờ vực, đạt được Tất
Địa”. Nói như thế xong, đức Phật bảo
ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lành thay! Lành
thay! Bí Mật Chủ! Ông có thể hỏi ta nghĩa như
thế. Lành thay! Lắng nghe, hăy cực khéo suy nghĩ, ta nay
diễn nói”. Kim Cang Thủ thưa: “Đúng như thế, bạch
Thế Tôn! Con nguyện ưa thích, muốn được
nghe”. Đức Phật dạy: - Bí Mật Chủ! Chư
tôn có ba loại thân, tức là chữ, ấn, và h́nh tượng.
Chữ có hai loại, tức là thanh và Bồ Đề tâm. Ấn
có hai loại, tức là hữu h́nh và vô h́nh. Thân Bổn Tôn
cũng có hai loại, tức là thanh tịnh và chẳng thanh
tịnh. Các vị ấy đă chứng thân thanh tịnh,
ĺa hết thảy các tướng. Thân chẳng tịnh,
có tưởng th́ sẽ hiển lộ h́nh tướng, các
sắc. Hai loại h́nh tượng tôn thánh thành tựu hai
loại sự: Do hữu tưởng nên thành tựu hữu
tưởng Tất Địa. Do vô tưởng nên thuận
theo đó mà sanh ra vô tướng Tất Địa).
Lúc
bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ bạch
Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Xin hăy nói
về oai thần linh nghiệm
của Bổn Tôn, khiến cho các
Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn quán tưởng
h́nh tượng Bổn Tôn”.
Đức Phật dạy:
- Này Bí Mật Chủ! Chư tôn có ba loại h́nh, tức là
chữ, ấn và h́nh mạo. Chữ có hai loại là âm thanh
và Bồ Đề tâm. Kế đó, ấn cũng có hai loại, tức là hữu
tướng và vô tướng. Tướng có nghĩa là sắc,
tức là có h́nh tượng
và không h́nh tượng.
H́nh tượng của Bổn Tôn cũng gồm hai loại
là tịnh và chẳng thanh tịnh. Các Ngài chứng h́nh sắc
thanh tịnh, “h́nh sắc” tức là thân, Thể như
hư không, ĺa hết thảy các tướng. Thân chẳng
thanh tịnh, hữu tưởng, tức là có các h́nh sắc
hiển lộ. Hai loại h́nh tướng của chư
tôn tạo thành hai loại sự:
- Do
hữu tướng mà thành hữu tướng Tất Địa.
- Do
chẳng phải tướng nên thành phi tướng Tất
Địa.
[Phần chánh kinh] trên
đây cũng đă kể ra.
(Kinh)
Nhi thuyết kệ ngôn: - Phật thuyết hữu tưởng
cố, lạc dục thành hữu tướng, dĩ trụ
vô tưởng cố, hoạch vô tướng Tất Địa.
Thị cố nhất thiết chủng, đương trụ
ư phi tưởng.
(經)而說偈言:佛說有想故,樂欲成有相;以住無想故,獲無相悉地。是故一切種,當住於非想。
(Kinh:
Bèn nói kệ rằng: - Do Phật nói hữu tưởng, lạc
dục thành hữu tướng. Do trụ trong vô tưởng,
đắc vô tướng Tất Địa. V́ thế, hết
thảy loại, nên trụ trong phi tưởng).
Kế
đó, dẫn Phật làm chứng. Do hữu tướng, nên thành hữu
tướng [Tất Địa]. Đức Phật thường
nói như thế. Nếu tâm trụ vào phi tưởng, sẽ
thành phi tưởng [Tất Địa]. Đức Phật
trước hết nêu ra như thế. Do vậy, để
thành hết thảy các loại, hăy nên trụ trong bi
tưởng. Do nói “sự tùy tâm”, hăy nên cầu xuất
thế. Đă quán h́nh tượng Bổn Tôn rồi, sẽ
đạt được Tất Địa chẳng ngờ chi.
Trên đây là lời hỏi của ngài Kim Cang Thủ.
Bổn
Tôn trong tiếng Phạn là Sa Dă Địa Đề Phạ
Đa (Sveṣṭa-devatā).
Nếu chỉ nói là Đề Phạ Đa (Devatā) th́
ư nghĩa trực tiếp là Tôn. Tôn cũng nói là “tự
tôn”, tức là vị tôn thánh [của thần chú, hay pháp
môn] mà chính ḿnh đang tŕ.
Hành giả do thân ấn, chân ngôn và quán Bổn Tôn, ba sự ấy ḥa
hợp, Bổn Tôn liền tự giáng lâm đạo tràng
để gia bị. Nhưng chuyện này đối với
hành giả khi mới hành, vẫn là phàm phu tự chẳng
có đức lực, sao có thể cảm Phật, Bồ
Tát ứng hiện như thế cho được? Chỉ
v́ các vị Phật, Bồ Tát trước kia đă lập
đại thệ nguyện, lời lẽ chân thành: “Nếu
có chúng sanh vâng theo pháp này của ta mà tu hành, chẳng thiếu
sót pháp tắc, ta ắt ngầm ứng, hoặc tuy chẳng
đến mà gia hộ từ xa. Nếu hành nhân thực hiện
pháp tắc đúng pháp, mà chẳng cảm ứng, chính là
trái nghịch bổn nguyện”. V́ thế, chẳng thể
không ứng! Như [cầm] Phương
Chư[9]
hướng về mặt trăng,
bèn có nước tuôn ra;
gương tṛn hướng về mặt trời, bèn sanh
ra lửa. Nhân duyên tương ứng, chẳng suy nghĩ,
[mà có lửa, hay nước sanh ra], các pháp ấy cũng có
thể dùng để sánh ví. Trọn chẳng phải là
chư Phật có tâm hạnh ứng phó giống như phàm
phu. Nếu tâm chẳng tương ứng, sự duyên khuyết
thiếu, ắt Bổn Tôn sẽ chẳng gia tŕ, hộ niệm.
V́ thế, chẳng ứng nghiệm, chẳng phải là lỗi
của các vị Phật, Bồ Tát!
Nhưng hành giả do v́ chuyện này, cần phải nên
chánh quán thân thanh tịnh của Bổn Tôn. Nếu đă thấy
thân thanh tịnh, liền dùng thân chính ḿnh làm thân Bổn Tôn.
Chẳng lo ngờ như thế, Tất Địa mong cầu
không ǵ chẳng thành tựu cái quả! Kinh nói “duyên” tức
là nếu hành giả nương theo Bổn Tôn mà quán như
thế,
“vô nghi”
là do tương ứng với Bổn Tôn, chẳng c̣n có tâm
nghi nan. V́ thế, chuyện
tu tập ắt thành. Trên đây,
phần thưa hỏi đă xong.
Đức
Phật bảo: “Lành thay! Lành thay! Bí Mật Chủ! Ông có
thể hỏi ta chuyện như thế. Do vậy, Kim Cang
Thủ! Hăy cực khéo suy nghĩ, ta sẽ nói” cho đến
[ngài Kim Cang Thủ thưa] “con
nguyện ưa thích muốn nghe”.
Do ngài Kim Cang Thủ có thể khéo léo theo thứ tự nêu ra
nghi vấn, nhằm khuyên các vị Bồ Tát thuộc Chân
Ngôn hạnh trong vị lai, lại c̣n an ủi, răn dạy,
khuyên nhủ. Kế đó, đức Phật nói: “Bí Mật
Chủ! H́nh tướng Bổn Tôn có ba chuyện là chữ,
ấn và h́nh”. H́nh chính là “tôn h́nh” (h́nh sắc của
Bổn Tôn). Chữ có hai loại là âm thanh và Bồ Đề
tâm. Tức là hành giả
thoạt đầu tu hành nơi chữ, đại lược
có hai loại quán tự nghĩa:
- Nếu
chỉ
quán Bồ Đề tâm, Bồ Đề
tâm chính là chữ, tức các chữ như A, Ca, Giá, Trá,
Đa, Bà v.v… chỉ nêu ra các chữ đứng đầu.
Tuy các chữ đều như vậy, nhưng lấy [các
chữ trên đây] làm đầu tiên, nên nói
là Bồ Đề tâm.
- Hoặc
quán tự luân, tức là tưởng chân ngôn ḿnh đă tŕ tụng
tạo thành h́nh như ṿng tṛn nhập vào thân, như phẩm
Tŕ Tụng trong phần trước đă nói, hoặc quán
chữ chủng tử cũng đều là như thế.
Hoặc chẳng quán chữ, chỉ niệm âm thanh, tức
là quán âm thanh ấy như tiếng chuông, khánh, theo thứ tự
chẳng dứt, và dùng âm thanh ấy để điều
ḥa hơi thở ra vào.
Những
điều vừa nói trên đây đều là quán tự
nghĩa. Nói
về Chữ đă xong.
Ấn
h́nh cũng có hai thứ, tức là hữu h́nh và vô h́nh. “H́nh”
tức là các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Hoặc
h́nh thể vuông, tṛn, tam giác v.v… Hoặc các tướng
như co,
duỗi, ngồi, đứng và chỗ trụ.
“Ấn” tức là các thứ pháp khí được
[chư tôn] cầm, như đao, bánh xe, dây trói, chày kim cang…
Sơ tâm th́ duyên theo từng điều riêng biệt để
quán, tức là trước hết quán h́nh vẽ của tôn
thánh. Ước theo đó mà quán
th́ gọi là “hữu h́nh”. Về
sau, dần dần thuần thục, lại do sức gia
tŕ, tự nhiên mà hiện tương ứng với tâm. Lúc
bấy giờ, vị Bổn Tôn ấy chỉ từ tâm hiện,
chẳng do ngoại duyên nào khác, cho nên nói là “vô h́nh”. Tôi
cho rằng: Có thể là thoạt đầu đạt
được tam-muội thế gian, thấy Bổn Tôn có
h́nh thể như thế, sắc như thế, trụ xứ
như thế, đứng ngồi như thế, ở
trong Mạn-đồ-la tŕ ấn như thế v.v… Do có các
tướng ấy, nên gọi là “hữu h́nh”. Về
sau, chuyển chân ngôn, thấy trực tiếp rành rành, giống
như h́nh bóng trong gương, chẳng nghĩ mà thấy,
nên gọi là “vô h́nh”.
Kế
đó, Bổn Tôn h́nh có hai loại, tức là thanh tịnh và
chẳng thanh tịnh. Ư nói: Thoạt đầu hành giả
do từ hữu tướng mà dẫn nhập vô
tướng.
Trước hết,
quán trong vầng tṛn sáng có ấn và
thân của Phật, Bồ Tát. Thoạt
đầu quán sẽ chẳng thấy, phải nhờ vào
tượng vẽ v.v...
để quán. Dần dần được pháp lực gia
bị, sẽ dần dần thấy rơ, nhưng vẫn c̣n
bị ngăn chướng, nhắm mắt liền thấy,
mở mắt chẳng thấy. Kế đó là dần dần
nhắm mắt hay mở mắt đều thấy rơ. Dần
dần không cần tác ư vẫn thấy, cho đến đụng
chạm thân cũng vô ngại, ví như tận mắt nh́n
thấy người đời vậy. Do từ hữu
tướng dần dần dẫn vào chỗ thanh tịnh,
v́ hữu tướng nên gọi là “phi tịnh”. Do
Tam-ma-hế-đa b́nh đẳng dẫn khởi, trụ
trong chỗ thanh tịnh, vắng lặng, vô tướng,
nên gọi là Tịnh. Tịnh là quả, phi tịnh là nhân. “Phi
tịnh” tức là h́nh, sắc, ấn, h́nh tượng…
Do phi tịnh dẫn khởi mà thành tịnh, do cái nhân vô
thường mà đạt tới cái quả thường hằng.
Tôi cho rằng ba chuyện này, mỗi thứ đều có
hai loại, liền hành theo thứ
tự. Quán tŕ chân ngôn th́ quán nơi chữ; kế đó, quán
âm thanh dần dần vi tế. Kế đó, quán h́nh sắc
của Bổn Tôn lại vi tế hơn. Kế đó, chẳng
do duyên nào khác mà quán càng vi tế hơn. Kế đó, do vô
duyên mà lại có tịnh, bất tịnh,
và thuần tịnh. Hoặc có thể nói theo chiều ngang,
ba chuyện ấy mỗi chuyện đều có
phương tiện thế gian và xuất thế gian, cho
nên đều có hai vậy!
Kinh
nói “bỉ nhị chủng” (hai loại ấy), “nhị” tức
là ba sự trên đây, mỗi sự đều có hai loại.
Trong hai loại ấy, mỗi loại lại có hai thứ
sự, [tức là] do thành tựu hữu tưởng nên hữu
tưởng, do phi tưởng nên phi tưởng, Tất
Địa thuận theo đó mà sanh. Nghĩa là nếu dùng
chuyện hữu tưởng để quán thấy, sẽ
được thành tựu nơi hữu tướng. Nếu
là vô tướng th́ cũng đạt được vô
tướng Tất Địa thành tựu. Lại nói: Trong
hai loại thuộc ba chuyện ấy, tùy ư dùng một chuyện,
sẽ đều đạt tới thành tựu, nhưng
đều có thành tựu thế gian
và xuất thế gian, cũng như sự
thành và lư thành. V́ thế, trong ba loại trên đây, mỗi
thứ đều có hai loại thành tựu. Kinh nói do hữu
tưởng th́ sẽ thành tựu hữu tưởng, nếu
trụ trong phi tưởng sẽ có phi tưởng thành tựu.
V́ thế, để thành
tựu một loại sự, hăy nên trụ trong phi tưởng.
Đó là khuyên ĺa hết thảy các tưởng, trụ
trong phi tưởng, nhằm kết lại lời khuyên. Do
trụ trong phi tưởng, sẽ là lư thành tựu. Hết
thảy các thần biến chẳng thể nghĩ bàn, chẳng
kèm thêm tâm tưởng mà tự nhiên thành tựu diệu nghiệp.
Chẳng giống như
thành tựu thế gian, do thuộc trong tâm hạnh sanh diệt
mà sức hữu hạn, lại chẳng rốt ráo! V́ thế,
khuyên [hành
nhân hăy nên] chọn lấy điều thù thắng.
Tôi cho rằng trong các kinh như Đại Bát Nhă đă nói cặn
kẽ chuyện quán
tưởng nhằm gột rửa cái tâm, nhưng cần
phải có gốc. Nay hành nhân trước hết từ
duyên mà khởi quán, cho
đến thấy trọn khắp các thứ cảnh giới
nơi các thế giới trong mười phương Phật
hội, coi đó là Tất
Địa. Sau đấy, tịnh trừ gột rửa bằng
Bát Nhă, liền trở thành đại dụng chẳng
nghĩ bàn, nhanh chóng nhập Phật quả. Nếu chẳng
biết hành theo thứ tự, chỉ xem kinh văn, chẳng
nhập chỗ sâu xa, bí mật, sẽ phần nhiều dẫn
đến chuyện hiểu sai ư kinh, bỗng dưng nhập
Không, đánh mất đạo viên đốn. V́ vậy,
đối với hai phẩm này, cần phải quán chắc chắn tột
bậc
ư nghĩa.
29. Phẩm thứ
hai mươi chín: Nói về vô tướng tam-muội (Thuyết
vô tướng tam-muội phẩm đệ nhị thập
cửu, 說無相三昧品第二十九)
(Kinh)
Phục thứ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na cáo Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Bí Mật Chủ! Bỉ Chân
Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát nhạo dục
thành tựu vô tướng tam-muội, đương
như thị tư duy: Tưởng tùng hà sanh? Vi tự thân
da? Tự tâm ư da? Nhược tùng thân sanh, thân như thảo,
mộc, ngơa, thạch! Tự tánh như thị, ly ư tạo
tác, vô sở thức tri, nhân nghiệp sở sanh, ưng
đương đẳng quán, đồng ư ngoại sự.
Hựu như tạo lập h́nh tượng, phi hỏa,
phi thủy, phi nhẫn, phi độc, phi kim cang đẳng
chi sở thương hoại, hoặc phẫn khuể, thô
ngữ, nhi năng thiểu phần linh kỳ động
tác. Nhược dĩ ẩm thực, y phục, đồ
hương, hoa man, hoặc dĩ đồ hương,
chiên đàn, long năo, như thị đẳng loại chủng chủng thù thắng thọ dụng
chi cụ, chư thiên thế nhân phụng sự, cung cấp,
diệc bất sanh hỷ. Hà dĩ cố? Ngu đồng
phàm phu ư tự tánh Không h́nh tượng, tự ngă phân
sanh, điên đảo bất thật, khởi chư phân
biệt, hoặc phục cúng dường, hoặc gia hủy
hoại. Bí Mật Chủ! Đương như thị trụ
tu thân niệm, quán sát tánh Không.
(經)復次薄伽梵毘盧遮那告執金剛祕密主言:祕密主!彼真言門修菩薩行諸菩薩樂欲成就無相三昧,當如是思惟。想從何生?為自身耶?自心意耶?若從身生,身如草木瓦石。自性如是,離於造作、無所識知、因業所生,應當等觀同於外事。又如造立形像,非火非水、非刃非毒、非金剛等之所傷壞,或忿恚麁語而能少分令其動作。若以飲食衣服塗香華鬘、或以塗香旃檀龍腦如是等類種種殊勝受用之具,諸天世人奉事供給,亦不生喜。何以故?愚童凡夫於自性空形像自我分生,顛倒不實起諸分別,或復供養或加毀害。祕密主!當如是住修身念,觀察性空。
(Kinh:
Lại nữa, đức Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na
bảo ngài Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật
Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát trong Chân Ngôn môn
ưa muốn thành tựu vô tướng tam-muội, hăy nên
tư duy như thế này: Tưởng
sanh từ đâu? Từ tự thân ư? Hay từ tâm ư? Nếu
từ thân sanh th́ thân như cỏ, cây, ngói, đá. Tự
tánh như thế, ĺa tạo tác, không hay biết, do nghiệp
sanh ra, hăy nên b́nh đẳng quán giống như chuyện
bên ngoài. Lại như tạo lập h́nh tượng, chẳng
phải do lửa, chẳng phải do nước, chẳng
phải do đao bén, chẳng phải do chất độc,
chẳng phải do kim cang v.v… gây nên tổn hoại, hoặc
sự nóng giận, lời thô tháp có thể khiến cho [hành
nhân] bị lay động chút nào. Nếu được
chư thiên hay người đời dùng thức ăn, quần
áo, hương bôi, tràng hoa, hoặc dùng hương bôi, chiên
đàn, long năo v.v… các loại vật thọ dụng thù thắng
như thế để phụng sự, cung cấp,
cũng chẳng sanh vui mừng. V́ sao vậy? Phàm phu ngu muội
như trẻ nít, đối với các h́nh
tượng có tự
tánh là Không, nẩy
sanh phân chia tự ngă, điên đảo, chẳng thật,
dấy lên các phân biệt, hoặc lại cúng dường,
hoặc là hủy hoại. Bí Mật Chủ! Hăy nên trụ
như thế, trụ trong tu thân niệm, quán sát tánh Không).
Tự
tánh của cái thân sanh bởi nghiệp cũng giống
như thế, trơ trơ như gỗ, đá. “Nghiệp
sanh” có nghĩa là từ đó (từ nghiệp) mà khởi
lên. Quán là hữu tưởng. Hữu tưởng th́ là “bên
ngoài”. “Bên ngoài” bao gồm thân, ngữ v.v… Quán như thế
đó! Trơ trơ như cỏ cây, tánh ĺa khỏi tạo
tác th́ gọi là “nghiệp
nhân sanh”. Từ
nhân nghiệp (cái nghiệp làm nhân)
mà sanh ra [quả báo] th́ là “nội”.
“Ngoại sanh” là như được tạo lập bởi
gỗ, đá v.v... Đó chính là “ngoại”.
Trong phẩm kế tiếp, đức Phật bảo ngài
Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ: - Hễ
mong muốn thành tựu phi tưởng
tam-muội, các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân
Ngôn môn hăy tư duy như thế này: Tưởng sanh từ
nơi đâu? [Nếu sanh] từ tâm ư của chính ḿnh, tức
là người tu Du Già đă có thể quán Bổn Tôn v.v…. Cho
đến hiện tại, tuy đă đạt được
đủ loại cảnh kỳ diệu, nhưng vẫn
thuộc loại tam-muội thế gian, chưa đạt
được b́nh đẳng huệ, nay lại phải
nên khai thị “nhập tam b́nh đẳng quán”. Nếu
hiểu rơ Quán, thấu hiểu Thật Tướng nơi
thân, miệng, ư của chính ḿnh, liền nhập sơ pháp
minh môn thuộc tịnh Bồ Đề tâm. Trên đây là
địa vị Bồ Tát. Điều này có nhiều
cách giải thích,
nhưng đại ư là như thế.
Trước
hết, nói về quán Thật Tướng nơi thân, tức
là quán cái thân sanh bởi nghiệp,
có tánh giống như cỏ cây, ngói, gốm v.v… Quán rời
ĺa như thế, trơ trơ như ngoại tác (sự tạo
tác do sự vật bên ngoài). Hoặc do nghiệp sanh, như
thấy hay tạo tác h́nh tượng, [đại ư của]
kinh văn là như thế. Trong phần trước đă
nói: Hăy nên trụ trong phi
tưởng v.v… Nay trong phẩm này, nếu hành giả tu
Chân Ngôn muốn được thành tựu phi tưởng
tam-muội, hăy nên quán niệm như thế đó. Kinh dạy
“tự thân, tự
tâm ư”, tức là từ trong tâm có suy nghĩ
nẩy sanh. “Tâm” là thanh tịnh tâm, “ư” là phân biệt.
Nhưng thân này giống như gỗ, đá, tánh nó trơ
trơ, ngu độn, có nghĩa là nếu Tứ Đại
ĺa khỏi tâm, sẽ giống như gỗ, đá. Như
phần Quán Thân Tâm Xứ trong kinh Đại Bát Nhă đă
nói: Như người sáng mắt, tự thấy các loại
thóc, lúa mạch v.v… trong kho vựa. Thân này cũng như thế,
khi quán thân niệm xứ rành rẽ, tự thấy ba
mươi sáu vật [bất tịnh trong thân], mỗi vật
có tướng khác
nhau. Lúc bấy giờ, thân tướng liền trừ,
như mở kho, thấy thóc, lúa mạch, th́ cái tên “kho
vựa” bị
mất đi! Cho tới mỗi mỗi thứ đều
là duyên sanh, theo thứ tự mà nói sâu hơn. Kế đó, lại
nói “thân giống như
tượng”.
Như tạo tượng th́ dùng đất, gỗ, các vật
ḥa hợp thành bức tượng, hoặc tượng Phật,
hoặc tượng
trời, hoặc những vị khác
như h́nh tướng cha mẹ v.v… Do chẳng khéo quán, liền
sanh ư tưởng tôn trọng, yêu mến. Nhưng quán kỹ
mỗi thứ, [sẽ thấy rơ] chúng chỉ là các duyên hợp
hội, đều chẳng có tự tánh. Nay thân ta cũng
thế, các duyên giả hợp, do tự ḿnh chẳng hiểu
rơ, nên sanh ra Thân Kiến. Nếu lúc quán kỹ, sẽ đều
là vô tự tánh, chỉ từ duyên mà có, như các huyễn cảnh
từ duyên mà sanh, thật sự chẳng thể được!
Hơn
nữa thân này, do tâm mà có h́nh dạng, dường như sáu
căn có hay biết, nhưng thật sự chẳng phải
vậy. Như tâm người hễ quán sát
th́ có cái
để trụ vào. Dẫu
nhật nguyệt soi sáng, nhưng vẫn có khi chẳng
trông thấy, [cũng như] có lúc chẳng nghe âm vang của sấm,
sét. Lại như trong quá khứ, một vị tỳ-kheo
nhất tâm Thiền Quán, thậm chí trên đường có
đại quân kéo qua mà chẳng thấy. Hăy nên biết: Nếu
ĺa tâm, thân này, tuy đầy đủ các căn như mắt,
tai v.v… mà
vẫn giống như gỗ, đá,
chẳng hay biết ǵ!
Lại
như thí dụ về cái tượng, nếu các tượng
gỗ, đá v.v… hoặc bị lửa đốt, nước
ngâm hư hoại, đao chặt sứt sẹo, bị kim
cang phá nát, hoặc dùng lời phẫn nộ, thô ác mắng
nhiếc, chẳng
thể khiến cho tượng ấy dấy
động đôi chút tâm tưởng, sanh ḷng chẳng vui!
Hoặc cúng dường đủ thứ, khoác phủ áo
đẹp nhất, dâng món ăn ngon nhất, bôi
hương quư nhất, khiến cho tượng
rực rỡ, thậm chí các vật cúng của trời,
người bày đầy ắp trước mặt,
tượng cũng chẳng sanh ḷng mừng. Hăy nên biết
bản tánh của tượng tự Không, do tâm ta phân biệt
mà sanh tăng giảm, hoặc hủy hoại, hoặc cúng
bái, đều là điên đảo, chẳng thật! Giống
như quán tượng bên ngoài, dùng cách quán ấy để
quán tự thân;
lúc đó, sẽ chẳng thấy thân tướng, ĺa phân biệt.
Quán sát thân này như thế, thấy Thật Tướng của
thân, liền chứng vô tướng tam-muội. Khi quán sát
mà thấy, tức là cái duyên cho
xúc tướng và hữu tướng, dần
dần thâm nhập tự nhiên, từ ngay nơi tướng
mà vô tướng, từ ngay duyên mà vô duyên. Nếu chẳng
đạt được phương tiện này, chỉ
trực tiếp quán Không, chẳng biết do nhân duyên ǵ mà thành Không,
sẽ chấp trước pháp Không ấy, sanh ra nhiều dị
kiến. V́ vậy, đối với thứ
tự tu hành, cần
phải có chỉ dẫn thích đáng. V́ sao vậy? Do phàm
phu ngu muội như trẻ nít, đối với
h́nh tượng tánh Không của chính ḿnh mà nẩy sanh phân biệt
tự ngă, tức là từ tự thân mà sanh
ra sự phân biệt đối với
Ngă. V́ thế, điên đảo, chẳng thật, nẩy
sanh các phân biệt, hoặc cúng dường, hoặc bài bác
cúng dường v.v… hoặc hủy báng,
chửi bới, đoạn trừ, [các thứ chấp
trước điên đảo ấy] đều
nên
trừ xả.
Quán thân rồi, kế
đó phải nên có ngữ quán (quán sát ngữ
nghiệp). Ngữ quán do được gom chung vào thân quán,
nên chẳng nói riêng. Nay nói rạch ṛi đại lược,
tức là gộp chung lại
để luận. Nay ngôn ngữ do đâu mà có? Chính là từ
răng, họng, môi, lưỡi,
bụng v.v… làm các duyên, tâm động gió, ma sát lẫn nhau
mà có âm thanh ấy. Ví như tiếng vọng từ hang trống,
đều chẳng có tự tánh. Phàm phu do chẳng hiểu,
nên nghe tiếng hay đẹp, liền sanh ḷng vui sướng,
nghe tiếng trái ư liền sanh giận dữ. Nay thấy Thật
Tướng của âm thanh như thế, biết âm thanh ấy
chẳng sanh, chẳng diệt, giống như Thật
Tướng, là âm thanh có tánh chất b́nh đẳng. Kế
đó liền quán tâm, do pháp chẳng có h́nh tướng, thấy,
nghe, hay, biết, trước là quán sát từ cái thô thiển,
hiểu thân này b́nh đẳng, ngữ b́nh đẳng, sẽ
tự biết thâm nhập!
(Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Tâm vô
tự tánh, ly nhất thiết tưởng cố,
đương tư duy tánh Không. Bí Mật Chủ! Tâm ư
tam thời, cầu bất khả đắc, dĩ quá tam
thế cố, như thị tự tánh viễn ly chư
tướng. Bí Mật Chủ! Hữu tâm tưởng giả,
tức thị ngu đồng phàm phu chi sở phân biệt,
do bất liễu tri, hữu như thị đẳng
hư vọng hoành kế. Như bỉ bất thật, bất
sanh, đương như thị tư niệm. Bí Mật
Chủ! Thử Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ
Tát chứng đắc vô tướng tam-muội. Do trụ
vô tướng tam-muội cố, Như Lai sở thuyết
chân ngữ thân đối kỳ nhân, thường hiện
tại tiền.
(經)復次祕密主!心無自性,離一切想故,當思惟性空。祕密主!心於三時求不可得,以過三世故,如是自性遠離諸相。祕密主!有心想者即是愚童凡夫之所分別,由不了知,有如是等虛妄橫計。如彼不實不生,當如是思念。祕密主!此真言門修菩薩行諸菩薩證得無相三昧,由住無相三昧故,如來所說真語親對其人常現在前。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Tâm chẳng có tự tánh, do ĺa hết
thảy tưởng. Hăy nên tư duy tánh Không. Bí Mật Chủ!
Tâm trong ba thời, cầu chẳng thể được,
do vượt ngoài ba đời. Tự tánh như thế xa
ĺa các tướng. Bí Mật Chủ! Tâm hữu tưởng
chính là do phàm phu ngu muội như trẻ nít phân biệt, do
chẳng biết rơ mà có các so đo ngược ngạo
hư vọng như thế. Các so đo ấy chẳng thật,
chẳng sanh, hăy nên nghĩ nhớ như thế. Bí Mật
Chủ! Các vị Bồ Tát ấy tu Bồ Tát hạnh trong
Chân Ngôn môn, chứng đắc vô tướng
tam-muội. Do trụ trong vô tướng tam-muội, chân ngữ
do Như Lai đă nói luôn thường đích thân hiện ra
trước mặt người ấy).
Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Tâm tánh ĺa hết thảy các
tướng, tư duy tánh Không th́ hăy nên tư duy
điều này. Bí Mật Chủ! Tâm trong ba thời, cầu
chẳng thể được, ĺa ngoài
ba đời. Tánh ấy như thế,
hăy nên tư niệm mà ĺa tướng. Lại này, Bí Mật
Chủ! Cũng tự nên quán sát. Hành giả khi đó đă
quán ngoại tướng, kế đó, hiểu rơ nội
tâm cũng là Không. Cái tâm ấy ĺa hết thảy các tướng,
trong ba đời đều chẳng thể cầu
được. Như hư không ĺa ba đời, tâm
cũng như thế, vượt khỏi ba đời,
vượt khỏi pháp trụ diệt, nhưng phàm ngu chẳng
hiểu thật tánh của cái tâm. Lại này, Bí Mật Chủ!
Có tâm tưởng chính là sự phân biệt của phàm phu
ngu muội như trẻ nít, tức là tâm chấp tướng
mà chẳng thể biết rơ, dấy lên hư vọng chẳng
thật,
bèn có cách nói như thế đó! Họ chẳng
biết như thật, tức là do có vọng chấp ấy,
chẳng thể biết như thật. Suy nghĩ như thế,
chính là phàm phu dấy lên sự tư duy ấy. Nói “như
thế” tức là phàm phu có sự phân biệt ấy. Trên
đây thuộc về tâm cú.
Lại
này, Bí Mật Chủ! Do các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn nói tướng để dẫn khởi vô
tướng, hăy nên thấu hiểu hữu tướng
để khởi vô tướng, tức là các Bồ Tát
tư duy như thế, đạt được Vô Tướng
tam-muội. Do trụ trong Vô Tướng
tam-muội, này Bí Mật Chủ! Người đó sẽ
được chứng. Do trừ vọng, thật thể
nơi Thật Tướng của Chân Ngôn hiện tiền,
đi, đứng, ngồi, nằm, đều thường
hiện tiền. Đối với chân ngôn do Như Lai
đă nói, người ấy thường đích thân đối
trước đó mà tự trụ, do biết cái Thể của
chân ngôn như trong mười thí dụ ở phần trên,
tức là tướng Tất Địa. Vọng là tâm ta: “Ta ngu, ta trí, ta thuận,
ta chống”, tự
sanh đủ thứ tưởng chấp trước. Do sự
hư vọng trên đây, tất cả thân khẩu cũng
đều là hư vọng. V́ thế, chẳng biết là
chuyện như thế nào? Chính là chẳng thấy chân thật, Do chẳng thấy
chân thật, do giống như trẻ
nít chẳng hiểu biết ǵ! Nếu lúc thấy Thật
Tướng của cái tâm, tự nhiên ĺa hết thảy các
hư luận phân biệt như thế. Do chẳng biết Thật
Tướng của tâm, nên sanh vọng chấp,
gọi là “phàm ngu”. Nếu biết rơ,
liền gọi là chư Phật.
Tiếp
đó, kinh nói: “Bí Mật Chủ! Chân ngôn hạnh Bồ
Tát chứng đắc vô tướng định, như vô
tướng định trụ, đắc Như Lai sở
thuyết chân ngôn thân đối, nhi bỉ thường trụ”
(Bí Mật Chủ! Bồ Tát thuộc Chân Ngôn hạnh chứng
đắc vô tướng định, nếu trụ trong
vô tướng định, sẽ được đích
thân đối trước chân ngôn do Như Lai đă nói
để thường trụ trong đó). Ư nói: Chân ngôn hạnh
Bồ Tát khi ĺa tướng tu hành như thế, gọi là “trụ
vô tướng định”. Do trụ trong vô tướng
tam-muội ấy, hết thảy các chân ngôn do Như Lai
đă nói đều hiện tiền mà chứng, nên gọi
là “thân đối” (đích thân đối trước).
Khi chứng lư như thế, liền gọi là “thường
trụ”. “Trụ” tức là trụ giống như Phật.
Phẩm này đáng nên gộp chung với phần mười
tâm để nói, nhưng theo thứ tự ư nghĩa, nói
trước phần đó th́ chẳng tiện; do
vậy, đem nói trong phần kết hội này. Tôi cho rằng
các phần kinh văn trên đây, đại ư chẳng
vượt ngoài hạnh này, tức là “miệng niệm
chân ngôn, thân kết pháp ấn, ư quán Phật”. Nhưng ba
sự này đều là pháp sanh
bởi các duyên. Duyên
ḥa hợp th́ có, đều là vô tự tánh, chẳng sanh, chẳng
diệt, tức là môn chữ A, là tánh pháp giới. Phàm phu chẳng
biết, làm sao nhập được? V́ thế, đức
Phật trước hết nói ba môn chân ngôn này, [khiến
cho chúng sanh] dần dần đạt được tam-muội,
cho đến [khi họ] đích thân trông thấy Bổn
Tôn, thấy đủ loại cảnh thần biến, do
v́ cái tâm chấp trước
ấy, chẳng đạt
được tam b́nh đẳng trụ. Nay nói pháp môn nhập
tam b́nh đẳng, nếu hành giả từ trong tâm Du Già mà
lại có thể quán sát như thế, ĺa phân biệt hư luận nơi
thân, miệng, ư, liền được hiện tiền chứng
Thật Tướng của chân ngôn, trụ giống như
Phật. Tự thể thường trụ, giống
như Như Lai!
30. Phẩm thứ
ba mươi: Tŕ tụng thế gian và xuất thế gian
(Thế xuất thế tŕ tụng phẩm đệ tam thập, 世出世持誦品第三十)
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Kim thuyết bí mật tŕ
chân ngôn pháp. Nhất nhất chư chân ngôn, tác tâm ư niệm
tụng, xuất nhập tức vi nhị, thường
đệ nhất tương ứng. Dị thử nhi thọ
tŕ, chân ngôn khuyết chi phần. Nội dữ ngoại
tương ứng, ngă thuyết hữu tứ chủng. Bỉ
thế gian niệm tụng, hữu sở duyên tương
tục, trụ chủng tử tự cú, hoặc tâm tùy Bổn
Tôn. Cố thuyết hữu phan duyên, xuất nhập tức
vi thượng. Đương tri xuất thế tâm, viễn
ly ư chư tự, tự tôn vi nhất tướng, vô nhị,
vô thủ trước, bất hoại ư sắc tượng,
vật dị ư pháp tắc. Sở thuyết tam lạc-xoa,
đa chủng tŕ chân ngôn, năi chí chúng tội trừ, chân ngôn
giả thanh tịnh, như niệm tụng số lượng,
vật dị như thị giáo.
(經)復次祕密主!今說祕密持真言法。一一諸真言,作心意念誦,出入息為二,常第一相應,異此而受持,真言闕支分。內與外相應,我說有四種,彼世間念誦,有所緣相續,住種子字句,或心隨本尊,故說有攀緣,出入息為上。當知出世心,遠離於諸字,自尊為一相,無二無取著,不壞意色像,勿異於法則。所說三落叉,多種持真言,乃至眾罪除,真言者清淨,如念誦數量,勿異如是教。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Nay nói cách tŕ chân ngôn bí mật:
- Đối
với mỗi chân ngôn, khởi tâm ư niệm tụng. [Đó
là cách thứ nhất], theo hơi thở niệm tụng.
Đó là cách thứ hai. Thường đệ nhất
tương ứng. Thọ tŕ khác cách ấy, chân ngôn thiếu
chi phần. Trong và ngoài tương ứng, ta nói có bốn
loại. Cách niệm tụng thế gian, có duyên theo liên tục,
trụ chủng tử, câu, chữ, hoặc tâm nương
Bổn Tôn, nên
nói “có phan duyên”. Theo
hơi thở bậc thượng. Nên biết tâm xuất
thế, xa ĺa ngoài các chữ. Chữ, tôn thánh một tướng,
chẳng hai, chẳng chấp lấy. Chẳng hoại ư sắc
tượng, chẳng khác với pháp tắc. Nói là ba lạc-xoa,
nhiều loại tŕ chân ngôn, cho đến trừ các tội.
Bậc chân ngôn thanh tịnh, niệm tụng đúng số
lượng, đừng khác với lời dạy).
Lại
này, Bí Mật Chủ! Nói pháp niệm tụng bí mật,
cũng khiến cho đối với mỗi chân ngôn
được tụng, Phật, Bồ Tát riêng nói. Ư nói:
Trong các chân ngôn ấy, chọn lấy một thứ nào
đó, bèn nói là “mỗi mỗi”. Trong các chân ngôn, hễ
chọn một thứ nào đó, đều riêng niệm
tụng trong tâm. [Đó là cách thứ nhất]. Cách thứ
hai là niệm tụng theo hơi thở ra vào. Hai cách [niệm tụng] ấy
tương ứng bậc nhất. Hăy nên thực hiện
hai pháp ấy như thế; đó gọi là cách niệm tụng
bậc nhất. Nếu khác với cách này, việc niệm
tụng sẽ có thiếu khuyết, do chi phần chẳng
đầy đủ. Nhưng do tương ứng với
nội và ngoại, [từ hai pháp nói
trên đây] chia ra thành bốn, ta trước
đó đă nói, nay tiếp đây lại nói. “Thế gian”
là có cái để phan duyên, tức là trong ba thứ,
chỉ quán một thứ trong
chữ, ấn, hoặc
thân. Quán xong bèn biết bản
tánh của chúng, như ấn chính là chữ, chữ chính là
thân, tâm vô ngại, lặng trong; đó là niệm tụng. Nếu
dùng chữ [trong chân ngôn] để làm hơi thở ra vào,
biết chữ chính là cái Thể của chân ngôn. Do sức
giúp đỡ của [hơi thở] ra vào, nên gọi là “xuất
nhập tức” (thở ra, hít vào). Trong hai cách này, do
hơi thở ra vào c̣n có chút phan duyên, cho nên biết “ư niệm
tụng” (niệm tụng bằng tâm tưởng) chính
là tối thượng. Chữ, ấn, và
bổn tôn chẳng phân biệt, thở
hít cũng thế. Phẩm Thế Xuất Thế Gian Tŕ Tụng
này chính là đại ư của cả bộ kinh, chỉ là
phương pháp nhập đạo để các vị Bồ
Tát tu Chân
Ngôn
hạnh thực hiện sự tŕ tụng. Do phẩm này
được chuyên gọi như thế, liền biết
yếu chỉ của cả bộ kinh.
Đầu
bộ kinh, ngài Kim Cang Thủ đă từng hỏi đức
Phật cách thức tŕ tụng, trong các phần trước
cũng có chỗ giải đáp đại lược,
nhưng chưa tường tận. Nay v́ quyết trạch,
lại phân biệt cặn kẽ hạnh tông yếu ấy.
“Bí mật”: Những điều được nói
trong các phẩm trước chẳng phải là không bí mật,
nhưng điều tông yếu ở đây chính là bí mật
nhất trong các bí mật. Mỗi một cách niệm tụng,
hoặc là dùng ư thanh[10]
để niệm tụng, hoặc niệm tụng theo
hơi thở ra vào, đều là nêu rơ hành pháp sai biệt
khác nhau! Mỗi một cách niệm tụng, tức là chuyên
tâm hay miệng tụng chân ngôn,
khi âm thanh chân ngôn phát ra, âm thanh của mỗi
chữ đều chắc thật, chẳng gián đoạn.
Hễ đoạn tức là phan duyên! “Tác ư” tức là
thẳng thừng dùng tâm để tŕ, chỉ dùng tâm tưởng
để niệm tụng, không phát ra tiếng. “Niệm
tụng theo hơi thở ra vào” tức là như trong phần
trên đă nói “nuốt
gió” vậy. “Hai
tương ứng” là trong ba loại niệm tụng,
th́ tác ư và hơi thở ra vào là [cách niệm tụng] tương ứng bậc
nhất.
“Đương
vật dị” (Đừng nên khác
đi): Hăy thường nên dựa theo đó để làm,
đừng dị duyên, dị tưởng. Nếu chẳng
phải vậy, chỉ là dụng
công vô ích! Người tŕ chân ngôn dụng công thiếu
khuyết chi phần, tức là đối
với chữ có chấm, nhưng chẳng
nói (phát âm đúng theo chữ đó), hoặc là thiếu chữ,
hoặc đáng lẽ đọc âm dài mà lại đọc
thành âm ngắn. Các trường hợp [sai sót] như thế
rất nhiều, đều gọi là “khuyết chi phần
niệm tụng”. Đối với hai cách trên đây, hễ
có nội ngoại tương ứng, sẽ hợp thành bốn
loại niệm tụng (tức bốn màu). Nói “thế
gian hữu duyên tương tục” là nói tới tự
cú (chữ và câu chân ngôn). “Cú” (câu) [hàm nghĩa] “giở
chân, cất bước”, tức là quán chữ
ấy như từng bước chân, “chữ” chính là
chữ chủng tử.
Kế
đó, trong phần Thế Xuất Thế Niệm Tụng
trên đây, thân, chữ, và ấn hợp thành một là
được! Nay cách niệm tụng trong thế gian có
khác, hoặc quán chữ, hoặc quán Bổn Tôn, hoặc quán
ấn. Có nghĩa là: Câu chính là Bổn Tôn; đó là cách niệm
tụng theo thế gian. [Trong cách niệm tụng theo thế
gian], niệm theo hơi thở ra vào là tối thượng.
Pháp dùng hơi thở ra vào [để niệm tụng] trong
phần trước [được coi] là tối thượng,
tức là đối với hơi thở ra vào, biến chữ
thành hơi thở ra vào. Nay trong cách niệm tụng thế
gian, [hành nhân] thấy trong hơi thở ra vào có chữ rành
rẽ, phân minh; đó là có phân biệt, c̣n trong pháp xuất
thế gian trên đây, chẳng dấy lên phân biệt
như thế!
Trong chân ngôn, hễ phân biệt th́ là hai, chính là cách tŕ tụng
thế gian. Cách ấy có duyên theo tướng, duyên theo chữ, hoặc câu chữ.
Đối với câu chữ, từ trong đó, chọn lấy
một chữ để duyên theo, hoặc lấy một
câu, tưởng [câu ấy] ở
nơi tâm của Bổn Tôn, như trong phần trước
đă nói cặn kẽ. Đó là ngoại niệm tụng.
“Lấy
một chữ” tức là chữ chủng tử, hoặc
chữ đầu tiên của chân ngôn. Nếu chân ngôn ngắn,
có thể tưởng trọn cả câu. Như trong phần
trước đă nói, [xếp các chữ ấy] liên hoàn,
đặt trong vầng tṛn sáng nơi tâm Bổn Tôn. Hai loại
ấy, hoặc chữ hay câu, thuận theo hơi thở ra
vào chẳng dứt, chẳng gián đoạn. Khi sắp tụng
bèn nhiễu quanh. Kinh có nói rơ nghĩa này, như nh́n vào h́nh
bóng trong gương, bèn thấy phân minh. Nay quán chữ, thấy
chữ, quán ấn và Bổn Tôn liền thấy [ấn và Bổn
Tôn]. Đó tức là hữu tướng. Nếu lúc hành giả
thấy tướng chân thật ấy, liền chẳng trụ
vào hữu tướng, nhưng c̣n chưa
nhập vô tướng. Nếu quán Bồ Đề tâm, tức
là một mực vô tướng. Tâm ấy chính là Phật,
Phật chính là tự thân. Tự thân liền thành Phật;
do thành Phật nên một tướng chẳng khác. V́ vậy,
gọi là vô tướng. “Tùy” nghĩa là đến hoặc
đi tùy tâm. Trong cách
niệm tụng thế gian,
coi [niệm tụng theo] hơi
thở ra vào là cao. Hăy nên biết trong cách
niệm tụng xuất thế gian,
niệm tụng bằng ư xa ĺa các chữ, chữ
và Bổn Tôn là nhất hiệp tướng. “Bất hoại”
tức là chẳng tách thành hai đằng
để chấp giữ, [hai đằng] tức
là phân biệt và chấp trước
đối với tướng. “Nhất
hiệp tướng” tức là hợp thành một
để khỏi chấp trước, nhưng chẳng hoại
tướng ấy. Chẳng hoại ư sắc tướng,
h́nh tượng và tâm chẳng khác nhau. V́ thế nói là “bất
hoại”. “Vật dị pháp tắc” (đừng khác pháp
tắc) tức là giáo pháp như thế,
[hăy vâng theo đó, đừng làm khác đi].
Trụ
trong pháp như vậy, bèn tụng ba lạc-xoa. Như trong
phần trước, ta đă nói nhiều loại niệm tụng,
tức là số lượt,
thời tiết, hiện tướng, tăng ích v.v… “Ba lạc-xoa”
là con số, “số” là thế gian (tức hiểu lạc-xoa theo ư
nghĩa số lượng th́ là cách hiểu chấp trước
của thế gian). Lạc-xoa trong xuất
thế gian là thấy tam tướng, tức là đối với “chữ,
ấn, Bổn Tôn”, tùy chọn mỗi tướng thích hợp. “Chữ,
ấn, Bổn Tôn, thân, ngữ, tâm” gọi là Kiến, cho
đến có thể khiến cho người tŕ tụng
thanh tịnh, khiến cho hết thảy các tội trừ
diệt. Nếu chẳng tịnh, lại [tu tập] thêm một
tháng, một năm v.v…. như trong phần trước
đă nói. Nay nói con số niệm tụng nhằm
nhắc lại kinh văn trong phần trước: ‘Chẳng
nên khác với pháp tắc ấy!’ Do
vậy, nay tai nghe thở ra th́ chữ phát ra, khi hít vào th́ chữ
sẽ theo hơi thở mà ra vào. Nay nói “cách tụng kinh của
tông Thiên Thai là pháp Sổ Tức của tông viên đốn”
chính do ư này. Nay do dùng chữ ấy để duyên theo
hơi thở ra vào, tự nhiên cái tâm niệm niệm liên tục,
chẳng tán loạn, điềm nhiên, dễ nhập tam-muội.
Đấy là cách niệm tụng tối thượng trong
thế gian vậy!
Lại nữa, trong phần trên nói về tôn
thần, có nói pháp niệm tụng theo câu, chữ này, chư tôn đều như thế. Trên là
từ Phật Bộ cho đến dưới là tám bộ,
hễ có niệm tụng, đều nên làm như thế.
Cách niệm tụng theo hơi thở ra vào này, cũng tùy
theo pháp của Bổn Tôn mà mỗi mỗi có hành pháp này. Hăy
nên biết: [Cách niệm tụng thù thắng
trong] xuất thế gian là pháp niệm tụng
theo ư, ĺa khỏi văn tự, há có phải là bác bỏ các
chữ chân ngôn trên đây th́ mới gọi là “ĺa văn tự”
ư? Chẳng phải vậy, mà là có thể thông đạt
bản tánh của chữ chính là viên minh. Hăy nên trụ trong
cái “bất sanh sẵn có” tức là cái tâm. Thể tánh của
cái tâm viên minh thanh tịnh, trọn đủ các đức
mà chẳng phân biệt. Hăy nên quán chữ như thế. “Chữ”
ấy lại chính là chữ chân ngôn và
câu của Bổn Tôn trong phần trước. Chỉ biết
rơ chữ ấy từ tâm mà sanh. Tâm đă viên minh, trạm tịch,
tánh của chữ sanh từ tâm cũng như thế. Nói “ĺa
chữ, thanh” v.v… tức là ĺa cái tâm phân biệt duyên niệm
và thanh tưởng v.v… Nhưng tŕ tụng th́ có tụng và
quán, hoặc có thể quán hạnh, hoặc có thể kiêm
hành, hoặc chỉ tu Quán Chiếu.
“Tụng” là như trên duyên theo âm thanh, chữ, hoặc
hơi thở ra vào. “Chiếu” là quán thể tánh của
chữ
ấy.
Nhưng lúc mới quán, sẽ thường có tướng.
Nếu quán sự viên minh của
một chữ chủng tử th́ thoạt đầu
quán nhỏ. Nếu quán trọn cả câu, sẽ tưởng
vầng tṛn sáng to lớn, có h́nh dạng như mắt xích.
Dùng tâm quán chiếu, khiến cho rơ ràng, phân minh; sau đấy,
từ đó mà quán tánh của nó. Đối với tướng
của Bổn Tôn, chẳng hoại mà cũng chẳng lấy,
ư chẳng hoại h́nh.
“Vật dị pháp tắc”
(đừng khác pháp tắc): [Để
quán tưởng] Bổn Tôn chính là thoạt đầu
quán chữ trong vầng tṛn sáng. Kế đó là quán Bổn
Tôn, như trên đă nói. “Nhất tướng” chính là
thân, khẩu, ư. Quán vầng tṛn sáng trên tâm Bổn Tôn chính là
tâm, thân ấn của Ngài
chính là thân. Các chữ chân ngôn chính là ngữ. Nay đă thấy
rơ Bổn Tôn, quán ba sự của Bổn Tôn là một tướng
b́nh đẳng giống như Thật Tướng. Lại
quán Bổn Tôn, ba sự b́nh đẳng một
tướng, liền giống như ta. Ba tướng của
ta cũng lại là một tướng b́nh đẳng, chẳng
khác Bổn Tôn. Tánh viên minh ấy chẳng khác Bồ Đề
tâm, Bồ Đề tâm chẳng khác Bổn Tôn, tự và tha
b́nh đẳng.
Lại
nữa, tuy chữ được quán khác nhau, nhưng đều
là tam-muội môn. Nếu hiểu tánh và tướng của
một chữ, liền hiểu tánh và tướng của hết
thảy các chữ. Chữ tức là Bổn Tôn, Bổn Tôn tức
là tâm, tâm tức là thể tánh của pháp giới. V́ thế,
chữ A này chính là chữ chẳng thể nghĩ bàn.
Như chữ A, hết thảy cũng như thế. Giống
như chữ, ấn và Bổn Tôn cũng như thế.
Trong ba tướng chẳng nghĩ bàn ấy, tức là
tướng chữ chân ngôn, tướng thân ấn, và tâm
tướng của Bổn Tôn, chẳng trừ bỏ, chẳng
lập, chẳng tăng thêm, chẳng giảm bớt. Hăy
nên quán là tướng hết thảy b́nh đẳng, thấu
đạt hết thảy các pháp,
thành Nhất Thiết Trí. Hăy nên nương theo pháp tắc ấy để thực
hiện, đừng khác với điều
đó. Đấy chính là ư nghĩa của “tam lạc-xoa”. Lạc-xoa
là tiếng Phạn, nghĩa là “tướng”, mà
cũng có nghĩa là “thấy”.
Trong
các thứ kinh giáo, hễ có chỗ tương ứng với
tŕ tụng, ta phần nhiều nói “tụng một lạc-xoa”,
hay “ba lạc-xoa” v.v… Hoặc nói “v́ trừ tội
chướng nên tụng một lạc-xoa. Kẻ tội
chướng cực trọng chẳng vượt quá ba lạc-xoa
liền được tội nghiệp thanh tịnh”.
Nhưng nghĩa này có dư thừa, nay hăy nên quyết trạch.
Nói “lạc-xoa” là nói đến tướng. Nếu
đạt được ba tướng, sẽ là tội
được trừ:
-
Trước là nói về thân tướng, tức thân thể
trước kia thô nặng, nay được khinh an, thậm
chí đi trăm dặm, ngàn dặm, sẽ nhanh chóng vượt
qua, chẳng cảm thấy mỏi mệt, nhanh lẹ dị
thường! Trước kia tĩnh tọa chú tâm vào một
duyên, phần nhiều bị tiểu trùng, muỗi ṃng quấy
rối, nay [các chướng năo ấy] đều chẳng
sanh, chẳng c̣n tướng bẩn thỉu đáng ghét, rộng
như trong Đại Phẩm đă nói. Đấy là thân
tướng.
- Khẩu
tướng là hễ có tụng niệm, khi vừa tạm
phát ra âm thanh, Bổn Tôn liền đến. Lại như
Đại Phẩm đă nói cặn kẽ: Miệng
thốt ra lời chân thành, phi nhân chẳng quấy nhiễu
người ấy. Đó đều là tướng ngữ
nghiệp thanh tịnh.
- Ư
cũng có tướng lạ thù thắng, tức là phát sanh
vô lượng huệ giải. Như trải qua một
tháng, bốn tháng phân biệt chẳng hết. Hoặc khi
trước ham thích vị thức ăn như thế này,
như thế nọ, nếu chẳng được, thân
liền bất an. Nay th́ vắng lặng, chẳng c̣n
nghĩ tới nữa. Thậm chí nhiều ngày chẳng
ăn, vẫn điềm nhiên, đạt được vị
ngon hỷ duyệt, chẳng c̣n nghĩ muốn ăn chi
khác, thân cũng chẳng đói khát. Hoặc trước kia
lắm thứ phiền năo, nay đều dứt sạch.
Đó đều là tướng ư thanh tịnh.
Do có đủ ba thứ tịnh
tướng ấy, gọi là “ba lạc-xoa”. Nếu chẳng
phải vậy, miệng chỉ tụng số lượt
tŕ niệm suông, chẳng có ích ǵ! Đă đạt
được ba tướng ấy, hăy nên càng tu thêm hạnh
thù thắng. Hoặc có lúc chư thiên bát bộ phi hành trong
không trung, chẳng dám dẫm đạp lên bóng người
ấy, hoặc sẽ đến kính lễ, hỏi han. Các
đồng tử cơi trời làm người hầu hạ,
hỏi han những thứ [người ấy] cần dùng.
Những điều như thế ai biết? Chỉ
người tụng tŕ tự biết đó thôi! Đấy
cũng là tướng trừ sạch tội.
Trong phần trên
th́ nói “ĺa
hết thảy các tướng”,
nay nói ba tướng, làm thế nào tương ứng với
điều này? Nay đáp: Do ba tướng ấy dùng
chữ A. Ba chữ ấy chính là một tướng,
cũng chẳng phải là một, mà cũng chẳng phải
là khác, như tông Thiên Thai đă giải thích, đại
lược tương đồng với điều này,
tức là một tướng là
hết thảy các tướng, chẳng phải một, chẳng
phải hết thảy, từ ngay nơi tướng mà
chính là vô tướng, từ ngay phi tướng mà chẳng
phải là vô tướng; đấy đều là ư này! Ba
tướng như thế b́nh đẳng trụ trong Thật
Tướng, đó là ư nghĩa của “ba lạc-xoa”.
Thật Tướng của thân là một lạc-xoa, trừ
hết thảy thân cấu. Tướng của ngữ chân
ngôn là hai lạc-xoa, trừ hết thảy ngữ cấu.
Thật Tướng của ư là lạc-xoa thứ ba, trừ
hết thảy tâm cấu. Tam cấu đă trừ, ba công
đức sanh, tức là phần chứng công đức của
Như Lai.
Lại
nữa, lạc-xoa có nghĩa là “đích
ngắm”, tức là ư nghĩa
“mục tiêu”.
Như trong kinh Văn Thù nói về chuyện học bắn,
thoạt đầu bắn vào đích ở xa, sau dần dần
tới gần, cho đến tùy ư đều trúng đích.
Thủ Lăng Nghiêm tam-muội cũng thế, do nhân duyên ấy
mà gọi là lạc-xoa. Lại nữa, thân kết ấn, miệng
tụng chân ngôn, ư quán Bổn Tôn, tức là ba hạnh sai biệt
bất đồng, tức là tam tướng. Do ba tướng
ấy, nhập môn chữ A, ĺa khỏi tam tướng, nhất
tướng b́nh đẳng. Chiếu kiến như thế
chính là ư nghĩa của ba “lạc-xoa”.
Lạc-xoa
nghĩa là “thấy”; v́ thế nói “vật dị”
(đừng khác), tức chớ quán chi khác! Lại nữa,
trước đó đă nói ba cú nghĩa, tức “Bồ
Đề làm tâm chủng tử” chính là nhân, “đại
bi làm căn, phương tiện làm rốt ráo”. Từ
đầu tới cuối đều nói về ba sự ấy,
hoặc tự hiển lộ ba đức ấy, hoặc
nhằm thành tựu ba hạnh ấy. Nói “ba lạc-xoa”
chính là nhằm tương ứng với điều ấy.
Tức là hành giả thoạt đầu cần phải
tương ứng với Bồ Đề tâm; đó là cái
nhân của hết thảy Phật pháp. Nếu chẳng phát
tâm, liền ĺa diệu nhân, há có thể tiến hành ư?
Tuy đă có tâm, nếu chỉ ngóng nh́n đường mà chẳng
cất bước, có nguyện mà chẳng hành, há có thành tựu
hết thảy các thân công đức sanh bởi Đại
Bi Thai Tạng được ư? Hoặc tuy có thể tiến
hành, nhưng v́ ĺa phương tiện, nên có nghi tâm. Do nghi
tâm nên hết thảy chẳng thể thành, cũng chẳng
thể nhập Thật Tướng. V́ thế, đức
Phật răn dạy các hành nhân: - Ắt
cần phải nương theo thầy mà học,
chẳng được tự chuyên.
Đừng cậy vào sức phân biệt lợi
căn của chính ḿnh, tự tiện nương theo kinh
văn để tự hành, vừa nghe liền áp dụng,
chẳng vào Mạn-đồ-la, chẳng thọ giới
tam b́nh đẳng, chẳng thể thông hiểu trọn vẹn
phương quỹ. Do chẳng hiểu biết, dẫu
phát tâm tu hành dũng mănh tinh tấn, nhưng do phương
tiện sai lầm, việc làm sẽ chẳng thành. Bởi
đó, nẩy sanh tâm nghi. Do tâm nghi nên hủy báng tạng bí
mật của Như Lai, là cái nhân của ngũ vô gián,
hướng vào đường ngũ vô gián. Do nhân duyên ấy,
cần phải trọn đủ ba cú nghĩa, chẳng
được khuyết thiếu. Đó là ư nghĩa của
“ba lạc-xoa”. Do chuyện này đă xong, trong phẩm
Phó Chúc tiếp theo, lại nói rơ về tướng trạng
chọn lựa đệ tử, văn tướng hô ứng
nhau. Phẩm tiếp theo là quán sát, căn dặn, tuy kinh chẳng
nói, nhưng ư nghĩa là như thế đó.
31. Phẩm thứ ba
mươi mốt: Chúc Lụy (Chúc lụy phẩm đệ
tam thập nhất, 囑累品第三十一 )
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn cáo nhất thiết chúng hội
ngôn: - Nhữ kim ưng đương trụ bất phóng dật.
Ư thử pháp môn, nhược bất tri căn tánh, bất
ưng thọ dữ tha nhân, trừ ngă đệ tử cụ
tiêu tướng giả. Ngă kim diễn thuyết, nhữ
đẳng đương nhất tâm thính. Nhược
ư cát tường chấp túc thời sanh, chí cầu thắng
sự, hữu vi tế huệ, thường niệm ân
đức, sanh khát ngưỡng tâm, văn pháp hoan hỷ
nhi trụ, kỳ tướng thanh bạch, hoặc bạch
sắc, quảng thủ, trường cảnh, ngạch quảng,
b́nh chánh. Kỳ tỵ tu trực, diện phủ viên măn,
đoan nghiêm tương xứng. Như thị Phật tử,
ưng đương ân cần nhi giáo thọ chi.
(經)爾時世尊告一切眾會言:汝今應當住不放逸。於此法門,若不知根性,不應授與他人,除我弟子具標相者。我今演說,汝等當一心聽。若於吉祥執宿時生、志求勝事、有微細慧、常念恩德、生渴仰心、聞法歡喜而住,其相青白或白色、廣首長頸、額廣平正、其鼻脩直面䩉圓滿、端嚴相稱,如是佛子應當殷勤而教授之。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo hết thảy
chúng hội rằng: - Các ông nay hăy nên trụ trong chẳng
buông lung. Đối với
pháp môn này, nếu chẳng biết căn
tánh, chớ nên trao cho người khác, trừ các đệ
tử trọn đủ tướng tiêu biểu của
ta. Ta nay diễn nói [các tướng ấy], các ông hăy nên nhất
tâm lắng nghe. Nếu người ấy sanh nhằm lúc có
tinh tú tốt lành, chí cầu sự thù thắng, có huệ vi
tế, thường nghĩ ân đức, sanh ḷng khát
ngưỡng, nghe pháp hoan hỷ mà trụ. Có tướng
xanh trắng hay màu trắng, đầu rộng, cổ cao,
trán rộng, ngay ngắn. Mũi cao thẳng, khuôn mặt
đầy đặn, đoan nghiêm tương xứng. Hăy
nên ân cần dạy bảo Phật tử như thế).
Kế
đó, đức Phật bảo đại hội, tức
là các vị Kim Cang Bồ Tát nhiều như số vi trần
trong mười thế giới được nói ở
đầu chánh kinh. Nay sắp nói kinh xong, v́ thế, thêm phần
dặn ḍ. “Nhữ đẳng ưng trụ bất phóng
dật” (Các ông hăy nên trụ trong chẳng buông lung), tức
là câu nối tiếp phần kinh văn trước đó.
Đại Thừa Mật giáo hăy nên truyền thừa
pháp như thế. Nếu dạy bảo chẳng thỏa
đáng, đó chính là bộp chộp, luông tuồng, trái
vượt pháp tắc; v́ thế nói là “trụ bất
phóng dật”. Lại nữa, ba cú nghĩa như trên chính là
hạnh tự lợi, lợi tha, các ông hăy nên trụ trong
bí mật giáo thuộc nghĩa chữ A để
làm Phật sự. Nếu chẳng tùy thuận theo đó, tức
là trụ trong phóng dật. Truyền trao sai căn cơ, sẽ
có thể tổn hại thiện căn của người
đó (người được truyền pháp).
V́ thế kinh nói: “Hữu trí nhược văn tức
năng tín giải, vô trí nghi hối tức vi vĩnh thất”
(Kẻ có trí nếu nghe sẽ có thể tin hiểu. Kẻ
vô trí [nếu nghe pháp ấy] sẽ ngờ vực, hối hận,
tức là bị mất mát vĩnh viễn). Nếu Bồ
Tát chẳng quán sâu xa nhân duyên từ
đầu đến cuối,
chủng tướng, và thể tánh của
chúng sanh, cứ bộp chộp truyền pháp, sẽ chính là
kẻ oán của trời, người, hành đại phóng
dật! V́ thế, kế
đó nói: “Nhược bất tri bỉ căn, bất
đắc thọ dữ” (nếu chẳng biết
căn cơ của kẻ đó, chẳng được
trao truyền). “Căn” tức là tướng ngũ
căn lợi độn, tức Tín v.v…
“Trừ
ngă đệ tử” (trừ đệ
tử của ta) tức là người đă nương
theo giáo pháp của ta mà trụ, tâm tin hiểu th́ mới có
thể kham tiếp nhận. Nếu là các loại ngoại
đạo thế gian khác, chưa nhập chánh pháp,
tín tâm chưa vững,
hăy nên chỉ dạy,
khiến cho họ đạt được thiện lợi
trong các pháp sâu khác, chớ nên bộp
chộp nói [pháp này]. Nếu Bồ Tát soi tỏ
căn cơ, cố nhiên tự do trí lực của chính ḿnh
[mà lựa chọn đệ tử truyền pháp]. Nay v́
người truyền pháp trong đời Mạt, [đức
Phật] lại nói rơ tướng trạng thuộc dấu
vết bên ngoài [của hàng đệ tử] có thể truyền
pháp. Trước đó, phần đầu kinh đă nói rơ
tướng chọn lựa đệ tử. Nay lại
nói, nhưng đều là nêu đại lược các
điều chánh yếu, trong Đại Bổn đă nói cặn
kẽ. “Lương thần sanh” (sanh vào ngày giờ tốt
đẹp): Trong Đại Bổn đă nói cặn kẽ
các tinh ṭa như thế, chấp diệu, thời tiết
như thế mà sanh, có căn tánh như thế, tướng
mạo như thế, hăy nên trao truyền pháp giáo như thế,
nói rất sâu. Lại nữa, mỗi điều đều
có hai thuyết nông cạn sơ sài và bí mật, sâu xa. Nay ở
đây, [chánh kinh]
chỉ nêu ra cương mục. “Cầu thắng thượng
sự” (Cầu chuyện thắng thượng) tức
là phát Bồ Đề tâm, chỉ cầu hạnh cụ túc
đạo của Như Lai. Phàm mọi chuyện tạo
tác, chẳng cầu chuyện khác, sở hành rộng răi, mầu
nhiệm trọn khắp. “Vi tế” tức là nghe một
chữ, một câu, liền có thể dùng trí lực của
chính ḿnh để rộng hiểu
vô lượng nghĩa thú, rộng diễn không sai lạc. “Tư niệm ân đức”
(nghĩ nhớ ân đức): Cho đến nghe ư nghĩa của
một câu từ thầy, thậm chí tới khi thành Phật,
vẫn chẳng quên báo đáp, thường biết ân, báo
ân. “Khát ngưỡng” là tâm ân cần mong cầu, mong cầu
pháp thù thắng, giống như ngài Tát Đà Ba Luân[11] chẳng hạn, th́ mới có thể nói. “Hoan hỷ
trụ” là nghe diệu pháp, tâm vui mừng, hớn hở
trọn khắp thân tâm. “Bất cầu bỉ pháp” (chẳng
cầu pháp khác): Thậm chí chẳng
tiếp nhận một chữ của kinh khác.
Kế
đó, lại biện định tướng bên ngoài.
Lược nói sắc tướng ấy, nghĩa là [chánh
kinh nói] “thanh bạch” (xanh, trắng), tức là chẳng
trắng, lại chẳng quá đen, là sắc cát tường.
Đại Bổn nói cặn kẽ, nay ở đây chỉ
nêu một phần mà thôi! Đầu rộng là như ngài La
Vân (La Hầu La), đỉnh đầu như tàn lọng; nhưng không quá rộng,
lại chẳng nên nhỏ, phải thẳng thớm, đầy
đặn, thon thả vừa phải. “Cao cảnh” tức
là cổ chẳng quá dài, lại chẳng quá ngắn. Nói tóm
lại, vừa vặn, thẳng vừa phải, chớ nên
quá mức. Trán rộng mà trang nghiêm,
cũng là đừng rộng quá mức. Lại cần phải
trọn đủ tướng đoan nghiêm. “Tỵ tu”
tức mũi chẳng quá cao, chẳng quá tẹt. Hăy nên
như đĩnh vàng. Nói đại lược là thân tâm
kham làm tướng đạo khí. Người như thế
mới kham truyền dạy tu tập. Người trọn
đủ tướng tức là Phật tử, người
như thế mới nên trao truyền, ân cần nhiếp thọ,
dạy bảo, [những điều này] được nói
trong phần Thập Địa của luận Du Già. Lại
khuyên dặn ắt là đối với kẻ kham kế tục,
truyền thừa [pháp này], hăy nên khuyên dạy, truyền
trao, đừng để lỡ thời.
(Kinh)
Nhĩ thời, nhất thiết cụ oai đức
giả hàm hoài khánh duyệt, văn dĩ đảnh thọ,
nhất tâm phụng tŕ. Thị chư chúng hội, dĩ chủng
chủng trang nghiêm quảng đại cúng dường
dĩ, khể thủ Phật túc, cung kính hiệp chưởng,
nhi thuyết thị ngôn: - Duy nguyện ư thử pháp giáo,
diễn thuyết cứu thế gia tŕ cú, linh pháp nhăn đạo
biến nhất thiết xứ, cửu trụ thế gian.
(經)爾時一切具威德者咸懷慶悅,聞已頂受,一心奉持。是諸眾會,以種種莊嚴廣大供養已,稽首佛足,恭敬合掌而說是言:唯願於此法教演說救世加持句,令法眼道遍一切處久住世間。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, hết thảy các vị trọn đủ
oai đức đều ôm ḷng vui mừng, nghe xong, cung kính
tiếp nhận, nhất tâm vâng giữ. Các đại chúng
trong hội ấy dùng các thứ trang nghiêm rộng lớn
cúng dường xong, đảnh lễ dưới chân Phật,
mà nói lời này: - Kính mong hăy trong pháp giáo này, diễn nói câu
gia tŕ cứu đời, khiến cho đạo pháp nhăn trọn
khắp hết thảy mọi nơi, trụ lâu trong thế
gian).
Khi
đó, các bậc trọn đức như ngài Kim Cang Thủ
(tức là các đại chúng trong hội trên đây), các
thính chúng ấy lúc đó nghe nói như vậy, đối với
các giáo pháp do các vị Bổn Tôn đă nói, “con đă kính vâng
thọ tŕ”, nghĩa là giống như tiếp nhận lệnh
vua, phụng hành, lưu truyền, hăy nên cúng dường.
Khi đó, đại chúng lại đứng lên lễ Phật,
v́ pháp trụ lâu dài, thỉnh Phật gia tŕ. Nghe đức
Phật dạy, họ bèn
cung kính tiếp nhận, vâng giữ, đảnh lễ
đấng Nhất Thiết Trí, thỉnh Như Lai gia hộ.
V́ lẽ nào vậy? Đức Phật đă phó chúc bí tạng
như thế, do gánh vác tránh nhiệm nặng nề, hành
Như Lai sự, chức trách ấy chẳng nhẹ.
Nhưng diệu pháp này, lúc đức Như Lai c̣n tại
thế đă có lắm kẻ oán ghét, huống hồ trong ác
thế đời Mạt! Nhưng chúng con đă phát nguyện
chân thành, muốn khiến cho bộ kinh như thế này
được lưu truyền rộng răi. V́ thế, thỉnh
đức Phật dùng thần lực tự
tại gia hộ chúng con, khiến cho sở
nguyện được thành tựu. Pháp nhăn đạo trụ
lâu nơi đời, trọn khắp hết thảy, tức
là nguyện hoằng kinh. Do Phật gia tŕ, nguyện khiến
cho pháp nhăn lưu hành dài lâu trong đời. Đấy là
đại huệ đạo “khai Phật tri kiến”,
là con đường do hết
thảy chư Phật đều đi. V́ thế nói là “pháp
nhăn đạo”. Hăy nên khiến cho đạo này trụ
lâu trong cơi đời tột cùng chúng sanh tế, lại theo
chiều ngang trọn khắp thế giới, không đâu chẳng
lưu thông. Đấy chính là như [trong
kinh Pháp Hoa], các vị Thượng Hạnh Bồ Tát v.v…
đă nói: “Tùy Phật hữu tích chi xứ, ngă giai thệ
truyền thử pháp” (hễ chỗ
nào có dấu tích của Phật, con đều thề truyền
pháp này). Đó là chính ư nghĩa của việc thưa hỏi
chuyện hoằng kinh vậy.
(Kinh)
Nhĩ thời, Thế Tôn ư thử pháp môn, thuyết gia
tŕ cú chân ngôn viết: “Nam ma tam mạn đa bột đà nẫm,
tát bà tha thắng thắng, đát lăng đát lăng,
ngung ngung, đạt lân đạt lân, sa tha bả dă sa tha bả
dă. Bột đà tát để dă phạ, đạt ma tát
để dă phạ,
tăng già tát để dă phạ, hồng
hồng, phệ na vĩ phệ, sa ha”. Thời Phật thuyết
thử kinh dĩ, nhất thiết Kim Cang giả, cập Phổ
Hiền đẳng thượng thủ chư Bồ Tát,
văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ,
tín thọ phụng hành.
(經)爾時世尊於此法門說加持句真言曰:南麼三曼多勃馱喃。薩婆他勝勝。怛稜怛稜。顒顒。達隣達隣。娑他跛也娑他跛也。勃馱薩底也嚩。達摩薩底也嚩。僧伽薩底也嚩。吽吽。吠娜尾吠。莎訶。時佛說此經已,一切持金剛者及普賢等上首諸菩薩,聞佛所說,皆大歡喜,信受奉行。
(Kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đối với
pháp môn này, nói câu gia tŕ chân ngôn rằng: “Namaḥ samantabuddhānāṃ,
sarvathā śiṃ śiṃ, triṃ triṃ, guṃ
guṃ, dhariṃ dhariṃ, sthāpaya sthāpaya, buddhasatya
vā, dharmasatya vā, saṅghasatya vā, hūṃ hūṃ,
vedavide, svāhā.”. Khi ấy, đức
Phật nói kinh này xong, hết thảy các vị Kim Cang, và
các vị thượng thủ Bồ Tát như Phổ Hiền
v.v… nghe lời Phật dạy, đều hết sức
hoan hỷ, tin nhận, phụng hành).
Khi
đó, do đức Phật chấp thuận lời thỉnh
ấy, liền dùng chân ngôn gia tŕ pháp này như kinh đă nói
(chưa nói ư nghĩa của từng câu, cần phải hỏi
thêm). Khi đó, các vị thượng thủ nghe đức
Phật nói rồi, cung kính tiếp nhận, thọ tŕ.
Đă rộng nói kinh Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thành Bồ Đề
Gia Tŕ Thần Biến xong.
Hỏi
ba câu trước: “Một, Bồ Đề tâm là chủng
tử. Hai, đại bi là căn. Ba, phương tiện
là cuối cùng”. Nay nói theo Đại Bi Tạng Mạn-đồ-la,
lấy trung đài làm Bồ Đề tâm. Kế đó, tám
cánh là Đại Bi. Ba viện ở phía ngoài là phương
tiện.
Đáp
rằng: Ở đây có hai loại. Tức là đối với
người tu hành mà nói theo cái nhân, hai là dựa theo quả địa Như
Lai để nói. Như các vị
trời trong thế gian thuộc bát bộ
ở viện ngoài cùng, chính là trước kia đă từ
trong tám tâm, thoạt đầu
hiểu biết, giữ trai giới trở
đi cho đến khi hưởng thọ dụng quả.
Nhưng có thiện căn khai phát tương ứng với
chánh đạo, tức là cái nhân nơi hoa đài trong Đại
Bi Thai Tạng. Như Lai
dùng sức phương tiện để hướng dẫn,
cho đến khiến cho [hành nhân] thành tựu tám tâm thế
gian trở đi, chính là các vị trí thuộc ngoại viện.
Kế đó, dần dần hướng vào trong, và Nhị
Thừa cũng thuộc trong ấy. Lại như biết
có pháp thù thắng vô thượng tâm, dẫn nhập đôi
chút vào [tầng viện] thứ hai và thứ ba [của Mạn-đồ-la],
đều là câu “đại bi”. Kế đó, thành Phật
quả, nhập Trung Thai, tức là câu “phương tiện”.
Nhưng năm vị Phật, bốn vị Bồ Tát thuộc
tám cánh [hoa sen] ở Trung Thai, há có phải là thân khác ư?
Chính là một vị
Tỳ Lô Giá Na vậy! V́ muốn phân biệt
đức nội chứng của Như Lai mà biểu thị ra
ngoài, cho nên trong một pháp giới mà phân biệt nói thành tám
cánh.
Như bốn vị
Bồ Tát,
ngài Phổ Hiền ở Đông Nam là
như thế nào? Phổ Hiền là Bồ Đề tâm. Nếu
chẳng có cái nhân mầu nhiệm ấy, trọn chẳng
thể đạt tới vô thượng đại quả;
v́ thế, Ngài được nêu tên đầu tiên. Kế
đó, Văn Thù Sư Lợi là đại trí huệ.
Trước là phát Bồ Đề tâm thanh tịnh, như
thứ tự [đă nói trong] Phổ Hiền Quán Kinh, cho
đến Tỳ Lô Giá Na trọn khắp hết thảy mọi
nơi, thường lạc ngă tịnh,
Ba La Mật thâu nhiếp, thành tựu, đều là tâm Bồ
Đề thanh tịnh. Kế đó, liền
nói Đệ Nhất Nghĩa Không: “Tâm ta tự không, thiện
ác vô chủ”. Quán tâm vô tâm, pháp chẳng trụ pháp v.v… tức
là diệu huệ. Dùng diệu huệ trong Đệ Nhất
Nghĩa Không để tịnh hóa Bồ Đề tâm trọn
khắp hết thảy mọi nơi, lưỡi đao
bén b́nh đẳng huệ cắt đứt cội
rễ vô minh vô thỉ, liền nhập chánh vị của Bồ
Tát. V́ thế, dẫu có Bồ Đề tâm mà chẳng có huệ
hạnh, sẽ chẳng thể thành tựu cái quả. V́ thế,
kế đó nói đến ngài Văn Thù. Tiếp đó, ở
phương Tây Bắc là ngài Di Lặc, tức là đại
từ đại bi, đều là ư nghĩa trong câu thứ
hai (tức câu thứ hai trong ba
câu “Bồ Đề tâm làm chủng tử, đại bi
làm căn, phương tiện làm rốt ráo”). Dùng đại
bi tạng ấy để tăng trưởng, thành tựu cành,
nhánh, hoa, lá của cây Bồ Đề mầu nhiệm. V́
thế, kế đó nói tới ngài Di Lặc. Nếu huệ
mà chẳng có bi, phương tiện sẽ chẳng trọn
đủ, sẽ chẳng thể thành Bồ Đề, chẳng
thể trọn đủ Lục Độ ḥng nhiếp thụ
chúng sanh. Kế đó, Quán Âm ở Đông Bắc, tức là
chứng. “Chứng” tức là nguyện
hạnh thành tựu viên măn, được nhập Hoa
Đài tam-muội. Nếu quán theo lúc chưa thành quả th́
có thứ tự cạn sâu sai khác.
Nay dùng b́nh đẳng huệ của Như Lai để
quán, từ nhân tới quả chỉ là một thân, một
trí hạnh của
Như Lai đó thôi! V́ thế, tám cánh đều là một
thể của Đại Nhật Như Lai.
Nếu
Như Lai chỉ trụ trong pháp tự chứng, sẽ chẳng
thể độ người. V́ lẽ nào vậy? Chỗ ấy
vi diệu, tịch tuyệt, vượt ngoài tâm lượng,
c̣n nói tới chỉ bày hoặc nhập chi nữa? V́ thế,
lần lượt lưu xuất, lần lượt nhập
viện thứ nhất, kế đó tới viện thứ
hai, rồi đến viện thứ ba. Tuy thực hiện
lưu xuất như thế, vẫn chẳng ĺa thân phổ
môn. Đại chúng trong tám bộ ấy đều là cảnh
giới phổ hiện sắc thân. Nếu nói theo t́nh kiến,
căn cơ, th́ ba tầng đàn từ sâu tới cạn,
cho đến chân ngôn của các vị trời trong thế
gian có ư nghĩa cạn, chỉ là Ứng Thân Đạo,
phương tiện chưa rốt ráo. Nếu khai Thật
Tánh, sẽ chính là chân ngôn của các vị trời trong thế
gian có khác ǵ Đại Nhật Như Lai? Từ phía Như
Lai, sẽ là từ sâu tới cạn, từ trong hướng
dần ra ngoài mà thành ba tầng đàn. Từ phía chúng sanh, sẽ
từ cạn đến sâu, từ ngoài dần dần vào
trong mà thành ba tầng đàn.
Lại
như ư nghĩa của chữ, tức là thứ tự ấy.
Thoạt đầu là chữ A (अ) ở
phương Đông, như chữ A trong tiếng Phạn
có ư nghĩa “khởi đầu”. Do thuận theo pháp thế
gian, coi phương Đông đứng đầu trong các
phương, ví như Bồ Đề tâm là khởi đầu
trước hết của vạn hạnh, được
gọi là Bảo Tràng Phật (Ratnaketu Buddha). Kế đến
chữ A (आ, Ā) là hạnh. Nếu
chỉ có Bồ Đề tâm, mà chẳng tu trọn đủ
vạn hạnh, sẽ trọn chẳng thể đắc
quả, chẳng khác với ư nghĩa của bốn vị
Bồ Tát trên đây. Vị Phật ấy chính là Hoa Khai Phu
(Khai Phu Hoa Vương Như Lai - Saṃkusumitarāja).
Kế đó là chữ Ám (अं,
Aṃ), tức Tam Bồ Đề (Chánh Giác). Do vạn hạnh
nên thành Chánh Giác, vị Phật này tên là A Di Đà, tức
phương Tây. Tiếp đó, Cổ Âm (Thiên Cổ Lôi Âm
Như Lai - Divyadundubhimeghanirghoṣa)
tức là Đại Niết Bàn. Chữ
Á (अः,
aḥ) chính cái quả Chánh Đẳng Giác; do là quả nên
nói kế tiếp. Kế đó là nhập chữ Á (आः,
āḥ), tức là
phương tiện. Đấy chính là bổn địa
thân hoa đài thể của Tỳ Lô Giá Na Phật, vượt
ngoài tám cánh, dứt bặt nơi chốn, chẳng phải
là cảnh giới hữu tâm, chỉ Phật và Phật mới
có thể biết! V́ nghĩ tới bổn thệ mà khai thị
Đại Bi Tạng, dẫn dắt trọn khắp chúng
sanh nhập Phật huệ. Lại dùng thần lực gia
tŕ, hiện trọn khắp thân, miệng, ư trong đường
sanh tử, hăy nên biết đấy chính là phương tiện.
Nếu ĺa phương tiện, Như Lai bổn địa
c̣n chẳng thể nói, huống hồ chỉ bày cho người
khác ư? Chẳng thể nói cho các vị thượng thủ
Bồ Tát, huống hồ [chỉ dạy] kẻ đang
lưu nhập sanh tử ư? Do phương tiện này giống
như Đại Không hiển hiện các h́nh tượng,
hăy nên biết hết thảy các đại hội Mạn-đồ-la
đều là một thân, chẳng có thân nào khác, tức là phổ
môn thân, tức là pháp giới thân, tức là kim cang giới
thân.
Lại
nữa, Bồ Đề hoàng sắc là kim cang tánh. Kế
đó, hạnh là màu đỏ, nghĩa là lửa, tức là
cùng ư nghĩa với ngài Văn Thù. Vạn hạnh dùng diệu
huệ để hướng dẫn, chẳng thể ĺa
huệ mà có tạo tác. Kế đó là thành Bồ Đề
màu trắng, tức là ư nghĩa “viên minh tột bậc”,
lại có nghĩa là “nước”.
Như nguyện xưa kia của ta, nay đă thỏa măn,
hóa độ hết thảy chúng sanh,
khiến cho họ đều nhập
Phật đạo. Do
v́ chuyện ấy, v́ khởi đại bi vậy. Kế
đó là Đại Niết Bàn, Tích đă cùng cực,
bèn trở về Bổn. Củi chúng sanh hữu
duyên đă tận, lửa phương tiện của
Như Lai bèn tắt. Do
vậy, nhập Niết Bàn. Vầng Phật nhật đă ẩn
nơi núi Niết Bàn, cho nên sắc đen. Trung là tâm không, trọn
đủ hết thảy các sắc, tức là gia tŕ hội
Thế Giới Mạn-đồ-la Phổ Môn rốt ráo thanh tịnh, không ǵ chẳng có!
Bách tự luân ấy sở dĩ từ ngoài hướng
vào trong cũng do nghĩa này.
Như
trung đài, hết thảy Bổn Tôn cũng nói như thế.
Như chữ chủng tử của ngài Kim Cang Thủ là Phạ
(व, Va), Phạ liền
thành năm sự. Phạ là Bồ Đề tâm, वा (vā)
là hạnh, वं
(vaṃ) là Tam Bồ Đề, वः
(vaḥ) là Niết Bàn, वाः
(vāḥ) là phương tiện. Do vậy nói “phương
tiện là sau cùng”, chính v́ nghĩa này. Như Liên Hoa Tôn
cũng có năm sự, स
(sa) là Bồ Đề tâm, सा
(sā) là hành, सं
(saṃ) là thành Bồ Đề, सः
(saḥ) là Niết Bàn, साः
(sāḥ) là phương tiện. Như ngài Văn Thù lấy
chữ Ma (म) làm chủng tử,
cũng có năm nghĩa: Ma là Bồ Đề tâm, मा
(mā) là hạnh, मं
(maṃ) là thành Bồ Đề, मः
(maḥ) Niết Bàn, माः
(māḥ) là phương tiện. Các chữ chủng tử
của hết thảy các vị tôn thánh khác cũng đều
nói rộng như thế. Do bởi nghĩa này, Kim Cang Thủ
chính là Đại Nhật Như Lai, Quán Thế Âm cũng là
Đại Nhật Như Lai. Văn Thù Sư Lợi
cũng là Đại Nhật Như Lai. Cho tới quỷ thần
tám bộ mỗi vị cũng đều có ư nghĩa này,
cũng tức là thành Đại Nhật Như Lai. Thể
tuy là một, mà mỗi nghĩa mỗi khác.
Do vậy,
trong Du Già có nói “Tỳ Lô Giá Na ngôn: - Ngă tức thị
Văn Thù, Quán Âm đẳng. Ngă tức thị thiên, tức
thị nhân, tức thị quỷ thần, tức thị
long điểu. Như thị đẳng, vô bất tức
thị” (Đức Tỳ Lô Giá Na nói: - Ta chính là Văn
Thù, Quán Âm v.v… Ta chính là trời, chính là người, chính là
quỷ thần, chính là rồng, chim. Các loài như thế,
không ǵ chẳng phải) là do bởi nghĩa này. Lại nói:
“Thử Đại Bi Tạng Bổn Tôn vị thứ
đẳng, cập h́nh sắc các thù, vị vị thâm nhập
Du Già giả sơ học chi thời, bất chánh quán Bổn
Tôn, cố Phật dĩ phương tiện thị thử,
linh tâm hữu sở duyên nhĩ. Cập quán thành thời,
dĩ pháp lực sở gia tŕ cố, tự nhiên hằng dữ
Phật hội tương ứng. Thiết bất tác niệm, do tự minh liễu,
huống gia quán da? Như thị thời, tự nhiên chân kiến
Mạn-đồ-la dă. Thử địa giả, tức thị
tịnh Bồ Đề tâm thị. Dĩ thượng sở
biểu, giai thị Đại Nhật Như Lai Pháp Thân diệu
trang nghiêm chi tướng dă. Hựu Quán Âm, Văn Thù, Phổ
Hiền, Di Lặc dĩ tại bát diệp trung, tức
Đại Nhật Như Lai đại Pháp Thân dă. Vị
độ nhân cố, tiệm xuất vu ngoại, cố thứ
đồ trung phục hữu Văn Thù, Quán Âm đẳng,
dĩ loại khả giải dă”
(Ngôi vị của các vị Bổn Tôn trong Đại Bi Tạng
này, và h́nh sắc mỗi vị mỗi khác, là v́ kẻ
chưa thâm nhập Du Già lúc mới học, chẳng chánh quán Bổn
Tôn, cho nên đức Phật dùng phương tiện chỉ
bày các điều ấy, khiến cho tâm họ có cái để
duyên theo. Tới khi quán đă thành, do được pháp lực
gia tŕ, tự nhiên luôn tương ứng với Phật hội.
Nếu chẳng khởi niệm, vẫn tự có thể hiểu
rơ, huống hồ c̣n thêm quán tưởng ư? Vào lúc
như thế, tự nhiên thật sự thấy Mạn-đồ-la.
Địa vị ấy chính là tâm Bồ Đề thanh tịnh.
Những điều được biểu thị trên
đây đều là tướng trang nghiêm mầu nhiệm
nơi Pháp Thân của Đại Nhật Như Lai. Lại
nữa, Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc đă ở
trong tám cánh, tức là đại Pháp Thân của Đại
Nhật Như Lai. V́ độ người khác mà dần dần biểu
lộ ra ngoài. V́ thế, trong đồ h́nh lại có các vị
như Văn Thù, Quán Âm v.v… Những vị giống như vậy
cũng có thể từ đó suy ra mà biết).
Lại
nói: “Như bát diệp trung, Phổ Hiền thị Bồ
Đề tâm, Văn Thù thị huệ, Di Lặc thị bi.
Thử Bồ Đề tâm tức thị Đại Nhật
Như Lai, nhi hữu Bồ Đề tâm dă. Đại huệ
tức thị Đại Nhật Như Lai, bất ly thử
Đại Nhật Như Lai, biệt hữu bi dă”
(Như trong tám cánh, Phổ Hiền là Bồ Đề tâm.
Văn Thù là huệ. Di Lặc là bi. Tâm Bồ Đề ấy
chính là Đại Nhật Như Lai. Chẳng ĺa vị
Đại Nhật Như Lai này mà có riêng ḷng bi được!)
Hăy nên
biết: Chuẩn theo điều ấy để
nói, muôn đức đều là như thế. Giống
như ư nghĩa Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát trong tông Thiên
Thai, chỉ do Pháp Thân làm chủ mà đạt được
các danh xưng như thế, ứng hợp với điều
này.
Hỏi:
Bách tự luân nội ngoại, mỗi mỗi làm đúng thứ
tự như thế, tức là dẫn nhập Mạn-đồ-la,
dần dần thâu nhiếp vào nghĩa Trung ư?
Đáp:
Đấy là nói theo nhân quả. Nếu tu hành, thoạt
đầu là phát Bồ Đề tâm. Kế đó tiến
hành (tu tập), kế đó là thành Chánh Giác, kế đó là
trụ Niết Bàn. Kế đó, khởi phương tiện,
tức là làm theo thứ tự như thế. Nếu nói từ
quả địa, tức là dùng chữ Ka (क) ở trong cùng nhất, kế đó Kā (का) là hành. Kế đó, Kaṃ (कं) là Bồ Đề, kế đó Kaḥ (कः) là phương tiện ở ngoài cùng nhất. Chữ
Ka này có cùng Thể với chữ A, tức là cái quả của
pháp thể, chẳng nói theo nhân địa của Bồ
Đề tâm. Từ Pháp Thân mà khởi Ứng. Kế
đó, hướng ra ngoài để
độ chúng sanh, giống như Mạn-đồ-la từ
Trung Đài mà ra cho đến các tọa vị của các vị
trời thế gian thuộc tám bộ. Lại từ ngoài dẫn
vào Phật quả, giống như Mạn-đồ-la khởi
đầu từ tám tâm cho đến thành tựu các
phương tiện Bồ Đề v.v… nói các chữ
Ngưỡng, Nhưỡng, Noa, Na,
Ma (ṅa, ña, ṇa,
na, ma, ङ, ञ, ण, न, म) v.v... cũng thuận
theo nghĩa xuất nhập, hoặc thuộc trong trăm
chữ, hoặc ở ngoài trăm chữ.
Lại
hỏi: Xét theo quán hạnh trong tâm của hành giả, ư
nghĩa làm Mạn-đồ-la Đại Bi Tạng chính là
dùng Trung Đài làm Bồ Đề tâm, lần lượt
hướng ra ngoài, cho đến các tọa vị của
các vị trời trong thế gian làm phương tiện
ư?
Đáp:
Phàm tiến hành có thứ tự. Trước là y theo pháp
để tŕ tụng,
quán chân ngôn và thủ ấn nơi vầng tṛn sáng [nơi
tâm của Bổn Tôn], hoặc chỉ quán chữ, hoặc
chỉ quán ấn. Hễ khi làm một sự đă thành th́
ba sự đều thành. Thoạt đầu quán vầng
tṛn sáng cũng chẳng thể thấy. Do thủ ấn,
chân ngôn, và niệm Bổn
Tôn, ba nghiệp dần dần tịnh. Do chướng ngại
nơi tâm đă tịnh, dần dần thấy vầng tṛn
sáng. Nếu lúc thấy vầng tṛn sáng ấy, hoặc [là thấy]
trong ấy có bổn chủng tử (chủng tử từ
chân ngôn của vị tôn thánh ấy) rơ
rệt rành rành, đúng như h́nh sắc. Nếu
lúc thấy như thế, loạn tưởng nơi tự
tâm tự trừ, tâm trạm tịch thường nhất,
chẳng bị ngoại duyên lay động. Đă thấy
như thế, vẫn là ngoại duyên!
Kế
đó, hăy nên dẫn dắt từ ngoài hướng vào trong,
quán sát như thế này: Vầng tṛn sáng ấy chính từ
tâm ta mà ra. Hăy nên biết nội tâm cũng là như thế.
Phàm vầng tṛn sáng thanh tịnh, tức là thể tánh của
tâm, chẳng có pháp nào khác. Do phương tiện siêng năng
quán sát nội tâm, liền thấy chữ viên minh ấy chỉ
là tự tâm, chẳng c̣n là ngoại duyên. Cho
đến từ ngoài vầng tṛn ấy, thấy rơ Bổn
Tôn v.v… Phương tiện giống như trên. Nay khi nội
quán, tức là tự thân làm các vị Bổn Tôn như Tỳ
Lô Giá Na v.v… Do đă tương ứng với lư Du Già
như thế, điều được quán liền tùy ư
thành tựu, tức là quán tám cánh trong cái tâm ấy,
phương tiện giống như trên,
tức hoa đài nơi cái tâm này là Trung Thai của
Mạn-đồ-la. Tám cánh bên ngoài cũng thuận theo Phật
vị mà sắp xếp theo thứ tự. (Lại nói: Tám
cánh ấy chính là tầng thứ nhất của Đại
Bi Tạng). Lúc bấy giờ, hành giả quán tám cánh nơi
tâm là Trung Thai, quán thân này chính là Mạn-đồ-la:
- Từ
tim trở lên là viện thứ nhất.
- Từ
tim xuống đến rốn là viện thứ hai.
- Từ
rốn trở xuống là viện thứ ba.
Nơi viện
của thế gian thiên, h́nh sắc và tướng hảo của
chư tôn mỗi mỗi đều sai khác rành rành. Trong tự
thân mà hiện đối diện
[các vị tôn thánh ấy], giống như
đích thân nhập Phật hội. Nhưng người
chưa kiến Đế, do chẳng thể như Tỳ
Lô Giá Na hiện các loại thần biến, chỉ là quán
tâm thành tựu đó thôi! Nhưng có một chuyện chân thật
chẳng dối, tức là “ta chính là”. “Ta chính là”
nghĩa là quyết định tin chắc “ta chính là pháp
giới, ta chính là Tỳ Lô Giá Na, chính là các thân Phổ Môn”,
chuyện này chẳng sai!
Như trong ư nghĩa chân ngôn gia tŕ trên đây, ta chính là pháp
giới.
Lại
nói: Pháp Thân có thần biến gia tŕ tự tại, chuyện
ấy chẳng đáng nghi. Như trong Du Già Kim Cang Đảnh
đă dẫn vài trăm thí dụ. Đại Bổn đă
rộng nói ư ấy, nói: Như Đế Thích ở trong cung
trời, đất nơi ấy hết thảy đều
là báu lưu ly, trong ngoài thanh tịnh. Mỗi thiên chúng tự
ở trong cung thất của chính ḿnh, mà thường thấy
Đế Thích ở trong cung ấy, rành rành đối diện.
V́ sao? Do các thứ như đất ấy, hết thảy
đều do diệu bảo hợp thành, lần lượt
chiếu rọi, dẫn phát lẫn nhau. Cái kia chẳng
đến đây, cái này chẳng qua đó, cũng chẳng
ḥa hợp, nhưng do duyên đầy đủ nên như thế,
thật sự là vô sanh, vô sở hữu, chớ nên chẳng
tin!
Lại
như chư thiên tại vườn Hoan Hỷ buông lung quá
đáng. Lúc bấy giờ, do sức túc nghiệp của họ,
từ trong lá cây có âm thanh pháp giáo quở trách, khiến cho họ
trụ trong chánh hạnh. Khi đó, chư thiên liền tạm
ngưng buông lung, tâm niệm thiện hạnh. Nhưng thật
ra, trong mỗi lá cây, đều
chẳng thể cầu được [âm thanh ấy], [âm
thanh ấy] cũng chẳng sanh từ thân chư thiên! Chẳng
tự, chẳng tha,
mà thành tựu việc này! Lại như lúc [chư thiên cơi
trời Đao Lợi] cùng Tu La giao chiến, trống trời
phát ra âm thanh an ủi thiên chúng, khiến họ nẩy sanh ư
niệm mạnh mẽ, khiến cho Tu La sợ hăi, lui tan.
Nhưng thật ra, cái trống ấy vô h́nh, chẳng có trụ
xứ, chỉ do các duyên công đức của chư thiên tạo
thành, đều chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ
Pháp Thân ư? Lại như Đại Phạm Vương ở
trong cung của ḿnh, hết thảy thiên chúng nghĩ muốn
được thấy, không đâu
chẳng đều hiện ra trước! Do chư thiên
đều biết Đại Phạm Vương hạnh
thanh tịnh, tướng hảo lại đoan nghiêm bậc
nhất, tâm phiền năo tham dục dứt bặt, sanh ra vô
lượng thiện nguyện, tùy phần tấn tu tịnh
hạnh. Nhưng Phạm Vương ở trong cung của
chính ḿnh chẳng lay động, cũng chẳng suy nghĩ
“ta hăy nên ứng hiện trọn khắp trước họ”,
mà ai nấy đều thấy vị ấy hiện ra
trước, đều nghĩ thế này: “Ngài riêng v́ ta hiện,
v́ ta thuyết pháp”. Thế gian như thế đó, do chút ít
phước nguyện mà c̣n có tác dụng chẳng thể
nghĩ bàn như thế, huống hồ Pháp Thân của
Như Lai mà chẳng thể thành tựu thần lực tự
tại gia tŕ thần biến như thế ư? Nhưng
nói theo lối thông thường, hoặc nói là “pháp tánh”,
hoặc nói là Pháp Thân, tịch tĩnh như hư không, chẳng
động tác, đều chẳng nói trọn đủ lực
dụng như thế đó. Bởi lẽ, hễ khởi
thần biến, đều là sức tam-muội nơi tâm
hữu vi, chẳng nói đến pháp thể. Như vậy
th́ chưa rốt ráo vậy!
Hỏi:
Viện thứ nhất ở phương Đông của Mạn-đồ-la
(tức Chánh Biến Tri Viện) chỉ có ấn tam giác,
Hư Không Nhăn và Như Ư Bảo là ba sự, các ṭa khác để
trống là như thế nào?
Đáp:
Như trong chân ngôn và thủ ấn, như
Như Lai Hào Tướng (tướng bạch
hào của Như Lai),
Như Lai Thiệt (lưỡi của Như Lai), Như Lai Nha (răng nanh của Như Lai), Như Lai Xỉ (răng hàm của Như Lai), Như Lai Tề (rốn của Như Lai), Như Lai Giáp (g̣ má của Như Lai)
v.v… đều thuộc vào tầng ấy, hăy nên theo thứ
tự sắp đặt. Phật Đảnh thuộc viện
thứ ba, không ở nơi đây.
Hỏi:
Bảo Tràng Phật ư nghĩa là như thế nào?
Đáp:
Đấy là Bồ Đề tâm. Như trong quân đội
thế gian có tràng, tức là cờ hiệu của người
cầm đầu binh lính, mọi người đều
ngóng nh́n theo, điều khiển tiến lùi, không ai chẳng
thuận theo. Giống như hết thảy vạn hạnh
đều nương theo Bồ Đề tâm này, lấy
đó làm chuẩn mực, làm chủ chốt. V́ thế, gọi
tên Ngài như thế. Kế đó, Bảo Tràng chính là Hoa
Khai Phu Phật, v́ sao? Từ đấy là nghĩa “hành”.
Thập Độ, vạn hạnh giúp đỡ Bồ
Đề tâm, theo thứ tự bồi bổ mầm, thân,
hoa lá sum suê đáng yêu; do vậy, gọi tên như thế. Kế
đó, Hoa Khai Phu được gọi là A Di Đà, v́ sao?
Đấy là Thọ Dụng Phật, tức là thành tựu
đại quả, thọ dụng cái quả ấy, vô
lượng hiện pháp lạc chẳng thể nghĩ bàn,
đều gọi là như thế. Kế đó, Cổ Âm
Phật là phương tiện. Đă đạt được
đại quả th́ là Tự Thọ Dụng mà thôi, liền
v́ trọn khắp hết thảy chúng sanh mà diễn nói,
Thành Sở Tác Trí đủ loại phương tiện, giống
như tiếng trống trời chẳng suy nghĩ mà thành
tựu sự nghiệp, cho nên gọi tên như thế. Lại
nữa, trong phần trước nói Phật A
Súc ở phương Bắc là kinh chép lầm vậy. Đấy
là ư nghĩa Du Già, chẳng tương ứng với [các
điều được nói] ở đây, do Cổ Âm Phật
là Định.
Đại Tỳ Lô
Giá Na Thành Phật Kinh Sớ hết
Ngày
Hai Mươi tháng Hai năm Gia Bảo[12]
thứ hai (1096), tại Đông Am Thất thuộc Áo viện
của chùa Kim Cang Phong[13],
Quán Âm Viện đại tăng đô[14]
cung kính tiếp nhận.
Quán
Âm Viện đại tăng đô Khoan Ư, Đại Ngự
Thất Tánh Tín ngự phó pháp.
Thức Bộ Khanh Đôn Trinh Thân Vương Ngự Tức
Đông Tự, đệ nhị trưởng giả Tồn
Nhật Từ Thoái Cao Dă Sơn Ngự Lung Cư v.v… Từ
năm Gia Bảo thứ hai đến năm Khoan Vĩnh[15]
thứ sáu (1630) là năm trăm ba mươi lăm năm.
Quảng Trạch Thọ Pháp Mạt Tư Hiển Chứng
ghi chép.
[1] Quyết trạch (Nairvedhika) là
nói gọn của “quyết đoán giản trạch” (chọn
lựa dứt khoát), tức là dùng vô lậu thánh trí để
đoạn trừ nghi hoặc, phân biệt, chọn lựa
tướng Tứ Đế v.v…
[2] Cỏ cát tường (Kuśa), được phiên âm là Củ Thi, Câu Thư, Cô Xa, dịch
nghĩa là Hương Mao (cỏ tranh), Cát Tường Mao, Lữu
Mao, Hy Sinh Thảo. Loại cỏ này c̣n được gọi
là Dharba, hay Pavitram (có tên khoa học là Desmostachya D. Bipinnata. Âu Tây dịch là halfa
grass, big cordgrass, hoặc salt reed-grass). Loại cỏ này mọc
ở vùng ẩm thấp, trông giống như cỏ tranh, nhưng không phải
là cỏ tranh, nhánh cỏ có thể mọc dài đến 60 cm. Cổ Ấn
Độ coi đây là một loại cỏ thiêng, thường
dùng để trải ṭa trong khi cúng tế, hoặc bện
thành đệm, đặt đồ cúng tế lên đó.
Người tu hành cũng thường dùng cỏ này làm
đệm để nằm hay ngồi.
[3] Phạm Thế
(Brahmaloka) c̣n dịch là Phạm Sắc Giới, Phạm Thế
Thiên, Phạm Thế Giới, hay chỉ gọi gọn là Phạm
Giới có thể hiểu theo ba nghĩa:
- Đây là danh xưng chung
chỉ toàn bộ các cơi được cai quản bởi
Đại Phạm Thiên Vương, tức là Sắc Giới
và Dục Giới trong một tam thiên đại thiên thế
giới.
- Chỉ riêng ba cơi trời
thuộc Sơ Thiền Thiên của Sắc Giới, tức
Đại Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, và Phạm
Chúng Thiên.
- Danh xưng để gọi
chung Sắc Giới, v́ người trong Sắc Giới
đă ĺa dâm dục, được gọi là bậc Phạm
hạnh.
[4] Tóc máu: Tức là lớp tóc đầu
tiên của trẻ sơ sinh đă được h́nh thành
khi trẻ c̣n trong bụng mẹ. Theo phong tục, khi trẻ đủ
lớn, người ta thường tin phải cắt hay cạo bỏ lớp tóc máu để
trẻ có tóc dày, đẹp, mọc nhanh hơn. Thông thường,
tóc máu sẽ được cạo hay cắt bỏ khi trẻ
được ba tháng tuổi hay chậm hơn, nhưng
luôn được thực hiện trước khi trẻ
thôi nôi.
[5] Đây là một phong tục của
Ấn Độ Giáo, chùm tóc Châu Đồ (Juṭṭu) để
lại sau đầu, hoặc trên đỉnh đầu,
sau khi cạo tóc, c̣n được gọi là Choti, Tiki,
Kudumi, Choin, Shendi, hoặc Śikhā,
được coi là dấu hiệu đặc trưng của
giai cấp Bà La Môn, nhất là những người phục
vụ trong các đền thờ Ấn giáo. Họ cho rằng
chùm tóc này nhắc nhở hành nhân nhất tâm tin tưởng
thần, cũng như là dấu hiệu tuân phục, và
tiếp nhận ân sủng của thần.
[6] Đây là một loại gậy Daṇḍa-kāṣṭha của
hành giả tu tịnh hạnh trong Bà La Môn giáo. Theo phong tục Bà La Môn thời cổ, trẻ trai thuộc
giai cấp Bà La Môn phải phát nguyện tu tịnh hạnh
một khoảng thời gian trước khi đạt tới
hai mươi tuổi. Đă hoàn thành giai đoạn tu khổ
hạnh ấy rồi mới trở về lập gia
đ́nh.
[7] Tỳ Thủ Yết Ma c̣n gọi
là Xảo Diệu Thiên, Tự Tại Thiên Vương, Công Xảo
Thiên v.v… được coi là người sáng tạo vạn
vật trong vũ trụ theo Bà La Môn giáo. Vị này là thuộc
hạ của Đế Thích, nổi tiếng về tài khéo
trong các thứ kiến trúc, và chế tác vật dụng.
[8] Không biết câu này có bị khắc
in sai hay không, v́ mâu thuẫn với chánh kinh yêu cầu không
để ngọn đè lên gốc!
[9] Phương Chư (方諸) là một loại gương bằng
đồng dùng trong nghi thức tế bái mặt trăng thời
cổ. Trịnh Huyền chú giải chương Tư Huyễn
Thị trong phần Thu Quan của sách Châu Lễ cho biết: Cổ nhân có hai loại gương bằng
đồng xanh. Loại để lấy lửa từ
mặt trời gọi là Dương Toại (c̣n gọi là
Hỏa Kính). Loại lấy nước từ mặt
trăng gọi là Âm Toại (c̣n gọi là Thủy Giám, Giám
Chư, hoặc chỉ gọi là Giám), nhưng
thế tục quen gọi là Phương Chư. Vào đêm
trăng tṛn, họ dùng Phương Chư hướng về
mặt trăng, hứng lấy sương đọng,
gọi là Minh Thủy. Dùng nước đó
để tưới lên thóc lúa trong lễ Minh Trai, nhằm cầu mùa màng bội thu.
Sách Đại Đường Khai Nguyên Lễ quyển hai mươi hai chép vào thời đó, chức quan
Quang Lộc Khanh chuyên trách dùng Dương Toại
lấy lửa từ mặt trời để đốt
đuốc, nến trong
lễ tế. Quan
Thái Sử dùng Phương Chư để lấy nước
dùng cúng tế. Thậm chí, Hán Vũ
Đế c̣n cho rằng nước sương hứng từ
mặt trăng uống vào sẽ có tác dụng trường
sinh bất lăo!
[10] Tuy thầm tưởng để
niệm tụng, trong tâm vẫn nghe từng âm thanh rơ ràng,
nên gọi là “ư thanh”.
[11] Tát Bà Ba Luân Bồ Tát (Sadāprarudita,
Sadāpralāpa), tức Thường Đề Bồ
Tát. Sở dĩ có tên gọi như vậy là do vị này thấy
chúng sanh ch́m đắm trong sanh tử, nên thường khóc.
Trong kinh Đại Bát Nhă có nói đến công hạnh cầu
Bát Nhă của vị Bồ Tát này. Do được nghe Bát
Nhă, cảm kích ân Phật, nhưng không có ǵ để cúng
dường, nghe nói có vị trưởng giả cần tủy
người để làm thuốc. Ngài liền đập
vỡ xương ḿnh, chắt lấy tủy đem bán cho
ông trưởng giả ấy để mua hương hoa
cúng dường Phật
[12] Gia Bảo (Kahō) là niên hiệu
được sử dụng từ năm 1095 đến
năm 1097 của Quật Hà Thiên Hoàng (Horikawa).
[13] Kim Cang Phong Tự (Kongobu-ji) là tổng
bổn sơn (tổ đ́nh) của Chân Ngôn Tông Cao Dă
Sơn (Kōya-san Shingon).
Chùa này được tạo lập vào năm 1593 bởi
lănh chúa Totoyomi Hideyoshi (Phong Thần Tú Cát) để tưởng
niệm mẹ ḿnh. Chùa do tổ Không Hải (Kukai, Hoằng
Pháp đại sư) làm tổ khai sơn.
[14] Đại Tăng Đô là chức
vụ quản trị Tăng chúng thuộc hệ thống
tăng quan. Tại Nhật Bản, phỏng theo quy chế
quản lư tăng sĩ của Trung Hoa, đặt ra chức
Tăng Cương (quản lư toàn bộ tăng sĩ cả
nước,
không chỉ là quản trị một ngôi quốc tự
như tại Việt Nam). Sau đó, đến năm 819, lại mở rộng chức vị Tăng Cương thành các chức
vị: Tăng Chánh (một người),
Đại Tăng Đô (một người), Thiếu
Tăng Đô (một người), và Luật Sư (bốn
người). Từ năm 864 trở đi, định ra chức vị thống
lănh Tăng gồm ba tầng
là Pháp Ấn Đại Ḥa Thượng, Pháp Nhăn Ḥa Thượng,
và Pháp Kiều Thượng Nhân. Pháp Ấn gồm ba chức
vị là Đại Tăng Chánh, Tăng Chánh, và Quyền
Tăng Chánh. Pháp Nhăn gồm Đại Tăng Đô, Quyền
Đại Tăng Đô, Thiếu Tăng Đô, Quyền
Thiếu Tăng Đô. Pháp Kiều gồm các chức Đại
Luật Sư, Luật Sư, và Quyền Luật Sư.
[15] Khoan Vĩnh (Kanei) là niên hiệu
được sử dụng từ năm 1624 đến
năm 1645 dưới các đời thiên hoàng Hậu Thủy
Vĩ (Go-mizunō),
Minh Chánh (Meishō) và
Hậu Quang Minh (Go-Kōmyō).