Đại Tỳ Lô Giá
Na Thành Phật Kinh Sớ
Phần hai
大毘盧遮那成佛經疏
Đại Đường Thiên Trúc Tam Tạng Thiện
Vô Úy, sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh
大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯經
Đường sa-môn
Nhất Hạnh A-xà-lê kư
沙門一行阿闍梨記
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử
Như Ḥa
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
(Kinh) Nhĩ thời, Kim
Cang Thủ phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế
Tôn thuyết bỉ tâm”. Như thị thuyết dĩ, Phật
cáo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ ngôn: - Bí Mật Chủ!
Đế thính tâm tướng, vị tham tâm, vô tham tâm, sân
tâm, từ tâm, si tâm, trí tâm, quyết định tâm, nghi tâm,
ám tâm, minh tâm, tích tụ tâm, đấu tâm, tránh tâm, vô tránh
tâm, thiên tâm, A Tu La tâm, long tâm, nhân tâm, nữ tâm, tự tại
tâm, thương nhân tâm, nông phu tâm, hà tâm, bi tŕ tâm, tỉnh
tâm, thủ hộ tâm, xan tâm, cẩu tâm, ly tâm, Ca Lâu La tâm, thử
tâm, ca vịnh tâm, vũ tâm, kích cổ tâm, thất trạch
tâm, sư tử tâm, hưu lưu tâm, ô tâm, La Sát tâm, thích tâm,
quật tâm, phong tâm, thủy tâm, hỏa tâm, nê tâm, hiển sắc
tâm, bản tâm, mê tâm, độc dược tâm, quyến
sách tâm, giới tâm, vân tâm, điền tâm, diêm tâm, thế
đao tâm, Di Lô đẳng tâm, hải
đẳng tâm, huyệt đẳng tâm, thọ sanh tâm. (經)爾時金剛手復請佛言:惟願世尊說彼心。如是說已,佛告金剛手祕密主言:祕密主!諦聽心相。謂貪心、無貪心、瞋心、慈心、癡心、智心、決定心、疑心、暗心、明心、積聚心、鬪心、諍心、無諍心、天心、阿修羅心、龍心、人心、女心、自在心、商人心、農夫心、河心、陂池心、井心、守護心、慳心、狗心、狸心、迦樓羅心、鼠心、歌詠心、舞心、擊鼓心、室宅心、師子心、鵂鶹心、烏心、羅剎心、刺心、窟心、風心、水心、火心、泥心、顯色心、板心、迷心、毒藥心、羂索心、械心、雲心、田心、鹽心、剃刀心、彌盧等心、海等心、穴等心、受生心。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thỉnh đức Phật
rằng: “Kính mong đức Thế Tôn nói các tâm đó”. Nói
như thế xong, đức Phật bảo Kim Cang Thủ
Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hăy lắng
nghe tướng trạng của tâm, tức là tâm tham, tâm chẳng
tham, tâm sân, tâm từ, tâm si, tâm trí, tâm quyết định,
tâm nghi, tâm tối, tâm sáng, tâm tích tụ, tâm đấu
đá, tâm tranh chấp, tâm không tranh chấp, tâm trời, tâm
A Tu La, tâm rồng, tâm người, tâm nữ, tâm tự tại,
tâm con buôn, tâm nông phu, tâm sông, tâm ao chuôm, tâm giếng, tâm thủ
hộ, tâm keo kiệt, tâm chó, tâm chồn, tâm Ca Lâu La, tâm chuột,
tâm ca vịnh, tâm múa, tâm đánh trống, tâm nhà cửa, tâm
sư tử, tâm cú vọ, tâm quạ, tâm La Sát, tâm châm chích,
tâm hang hốc, tâm gió, tâm nước, tâm lửa, tâm bùn, tâm
hiển sắc, tâm như miếng ván, tâm mê, tâm thuốc
độc, tâm như dây trói, tâm cùm, tâm mây, tâm ruộng, tâm
muối, tâm dao cạo, tâm bằng Di Lô (núi Tu Di), tâm như biển,
tâm như hố, tâm thọ sanh).
Đây là giải
đáp câu hỏi về tướng trạng của các tâm
trong lời hỏi trước đó. Trước hết,
[đức Phật] nêu ra sáu mươi cái tâm rồi giải
thích tướng của chúng.
(Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ
vân hà tham tâm? Vị tùy thuận nhiễm pháp. Vân hà
vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp.
(經)祕密主!彼云何貪心?謂隨順染法。云何無貪心?謂隨順無染法。
(Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là tâm
tham? Tức là tâm tùy thuận nhiễm pháp).
Ư nói đắm nhiễm
tiền cảnh[1],
tức là ô nhiễm tịnh tâm. Nếu tùy thuận tu hành
pháp ấy, sẽ gọi là “có tâm tham”. Do tâm pháp vi tế
khó biết, nhưng quán các sự nghiệp do người ấy
đă làm, ắt có tướng lộ rơ ra ngoài. Ví như
nh́n vào tướng
trạng của khói, sẽ có thể suy ra mà biết tánh chất của
lửa. V́ thế, các câu [nói về tướng trạng các
tâm ở đây] phần nhiều dựa theo sự tùy thuận
tu tập để giải nghĩa, cho nên có thể phỏng
theo nghĩa đó. Các tâm ấy đều do [hành nhân]
chưa đắc tâm xuất thế, chúng chính là các thứ tâm dấy lên xen tạp
với điều thiện. Nếu hành giả khéo biết
chân ngụy, giống như nông phu chú trọng trừ cỏ
dại để giúp cho lúa tươi tốt, thế lực
của tịnh tâm sẽ dần dần tăng trưởng.
Chớ nói đó là nhân duyên sự tướng, thốt lời
coi thường, khiến cho cái tâm bị ch́m đắm
trong đó mà chẳng hay biết!
Thứ hai, “vân hà vô tham tâm? Vị
tùy thuận vô nhiễm pháp” (Thế nào là tâm chẳng
tham? Tức là tùy thuận pháp vô nhiễm). Trái nghịch tâm
trước đó, cho đến đối với chỗ
tốt lành đáng nên tiến nhập, mong cầu, cũng chẳng sanh
ḷng mong ưa. V́ thế, chẳng nhiễm thiện pháp sẽ
chướng ngại mầm thiện. Tuy [cái tâm này] có cùng
tên gọi với tâm chẳng nhiễm ô, nhưng là hai chuyện
khác biệt, cần phải quán sát rất kỹ. V́ thế,
hành giả chỉ quán Thật Tướng của tâm tham, tự
nhiên ḷng tham chẳng ô nhiễm cái tâm được, chớ
nên khởi hạnh “chẳng tham” không có trí huệ như vậy!
(Kinh)
Vân hà
sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp. Vân hà từ tâm? Vị
tùy thuận tu hành từ pháp. Vân hà si tâm? Vị tùy thuận
tu bất quán pháp. Vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng
tăng thượng pháp. Vân hà quyết định tâm? Vị
tuân giáo mạng như thuyết phụng hành. Vân hà nghi tâm? Vị
thường thâu tŕ bất định đẳng sự.
Vân hà ám tâm? Vị ư vô nghi lự pháp, sanh nghi lự giải.
Vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự
tu hành. Vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất,
vi tánh. Vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị
phi vi tánh. Vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sanh thị
phi. Vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả. (經)云何瞋心?謂隨順怒法。云何慈心?謂隨順修行慈法。云何癡心?謂隨順修不觀法。云何智心?謂順修殊勝增上法。云何決定心?謂遵教命如說奉行。云何疑心?謂常收持不定等事。云何闇心?謂於無疑慮法生疑慮解。云何明心?謂於不疑慮法無疑慮修行。云何積聚心?謂無量為一為性。云何鬪心?謂互相是非為性。云何諍心?謂於自己而生是非。云何無諍心?謂是非俱捨。
(Kinh: Thế nào là tâm sân?
Tức là tùy thuận pháp giận dữ. Thế nào là tâm từ?
Tức là tùy thuận pháp tu hành ḷng từ. Thế nào là tâm
si? Tức là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát. Thế nào
là tâm trí? Tức là tùy thuận tu tập pháp tăng thượng
thù thắng. Thế nào là tâm quyết định? Tức là
tuân theo lời dạy, phụng hành đúng như đă nói.
Thế nào là tâm nghi? Tức là thường tom góp các sự,
phân vân chẳng quyết định được. Thế
nào là tâm tối tăm? Tức là tâm đối với pháp
chẳng đáng lo ngờ mà sanh sự hiểu biết lo ngờ.
Thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với
pháp chẳng đáng lo ngờ, bèn tu hành chẳng lo ngờ.
Thế nào là tâm tích tụ? Tức là có tánh gom vô lượng
pháp vào một pháp. Thế nào là tâm đấu đá? Tức
là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau. Thế nào là tâm
tranh chấp? Tức là đối với chính ḿnh mà sanh thị
phi. Thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay
sai đều bỏ).
Thứ
ba, “vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp” (Thế
nào là tâm sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ). “Giận”
tức là sân tâm dấy động, sự được lộ
rơ ra ngoài. Do tâm pháp khó biết, nên dùng chuyện tùy thuận,
tu theo pháp giận dữ để giải thích. Nếu nhiều
lượt dấy lên tướng chẳng tịch tĩnh
như thế, biết ngay là tướng sân tâm. Nhưng
đối với các duyên ấy, hễ quán sát sân tâm tự
chẳng trụ vào đâu, th́ chướng ấy chẳng
sanh!
Thứ
tư, “vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ
pháp” (thế nào là từ tâm? Tức là tùy thuận tu hành
pháp thuộc ḷng Từ). Ḷng Từ
này cũng trái nghịch tướng sân. Ḷng Từ mà có tâm cấu
ái kiến, th́ chẳng phải do thiện chủng tử
sanh khởi. Chữ Từ trong câu trước là xét theo nội
tâm, chữ Từ trong câu sau là sự nghiệp tạo tác
thuộc tướng bên ngoài. Đă nhận biết rồi,
chỉ cần đối trị lỗi lầm gây trở
ngại cho đạo, dần dần chuyển thành tu Từ
vô lượng tâm. Đó chính là cách đối trị.
Thứ
năm, “vân hà si tâm? Vị thuận tu bất quán pháp”
(thế nào là tâm si? Chính là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán
sát), ư nói: Chẳng xem xét thiện, ác, đúng, sai như
đă nói trong phần trên; hễ gặp gỡ [bất cứ
pháp nào], đều liền tin nhận. Phàm đối với
sự nghiệp tạo tác, chẳng thể trước hết
dùng huệ tâm để phân biệt, so lường đúng, sai. Do có nhiều lầm
lạc như thế, đều là tướng si tâm vậy!
Thứ
sáu, “vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng
thượng pháp” (thế nào là trí tâm? Tức là thuận
tu pháp tăng thượng thù thắng), ư nói: Người ấy
đối với các thứ [do người khác] đă nói,
đều dùng trí để phán
định, chọn lựa điều này khá, điều
kia kém, điều này nên thọ, điều kia chẳng nên
thọ, chọn lấy điều thù thắng, tăng
thượng để hành, tức là tướng vô si.
Nhưng đối với pháp vượt ngoài khả
năng suy lường của con người, chẳng thể
dùng trí lực để
suy tính, cân nhắc, chỉ có kẻ tin
th́ mới có thể nhập. V́ thế, quán sát nạn Thế
Trí Biện Thông là cách để đối trị cái tâm
này.
Thứ
bảy, “vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng,
như thuyết phụng hành” (thế nào là tâm quyết
định? Tức là tuân theo lời dạy bảo, phụng
hành đúng như đă nói).
Thứ tám, “vân hà nghi
tâm? Vị thường thâu tŕ bất định sự
đẳng” (thế nào là tâm nghi? Tức là thường
tom góp, nắm giữ các sự bất định). Nay
trước hết giải thích cái tâm nghi, ḥng dễ dàng hiểu
rơ tâm
tướng quyết định. [Điều thứ
tám có ư nói] người ấy hễ nghe điều ǵ,
đều sanh tâm chẳng quyết định. Như khi
thọ giới, tự sanh tâm nghi: “Ta nay nhất định
đắc giới, hay là chẳng đắc giới?” Hoặc
ngờ thầy, nghi pháp, mọi chuyện đều là
như vậy. Như người hành đạo, do cái tâm
nghi hoặc, chẳng thể tiến lên được. Trí
Độ Luận có bài kệ rằng: “Năi chí thí như
quán kỹ lộ, hảo lợi giả ưng trục”
(cho đến ví như thấy ngơ rẽ, nên theo ngả nào
có lợi hơn) để đối trị cái tâm ấy.
Lại nữa, tâm quyết định tức là hễ nghe
bậc thiện
hữu đúng pháp dạy bảo, liền lập tức chẳng
sanh ngờ lo, chí tâm phụng hành;
nhưng cũng nên dùng trí huệ để
quán sát ḥng sanh tâm quyết định chân chánh.
Thứ
chín, “vân hà ám tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, sanh
nghi lự giải” (thế nào là tâm tối tăm? Tức
là đối với pháp chẳng ngờ lo mà sanh kiến giải
ngờ vực, lo lắng), ư nói: Như đối với Tứ
Đế, bất tịnh, vô thường v.v… người
trí trong thế gian chẳng nên sanh nghi, nhưng người
ấy nghe [các pháp đó], ôm ḷng do dự, như ban đêm
trông thấy gốc cây cụt, nẩy
sanh đủ thứ tâm suy đoán. Nếu thấy có tướng
như thế, hăy nên biết là do tâm tối tăm khiến
thành ra như vậy!
Thứ
mười, “vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự
pháp, vô nghi lự tu hành” (thế nào là tâm sáng suốt? Tức
là đối với pháp chẳng đáng ngờ lo, bèn tu
hành chẳng ngờ lo). Ư nói: Đối với pháp thuộc
loại quyết định pháp ấn, chẳng thể ngờ
lo, hễ được nghe bèn thấu hiểu, tin tưởng.
Hăy nên biết đó là tâm sáng suốt. Nhưng trong ấy, nếu
có pháp nào vượt ngoài khả năng lănh hội của
người ấy, sẽ trở thành cái tâm chướng
đạo. Trụ trong huệ sẽ là cách đối trị.
Thứ
mười một, “vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng
vi nhất vi tánh” (thế nào là tâm tích tụ? Tức là
người ấy có tánh gom vô lượng pháp thành một
pháp), ư nói: Người ấy do đối với một
chuyện đă sanh tín giải, lại nghe các thứ pháp
khác lạ, đều gom chung thành một. Như người
đă học được một môn tam-muội, thấy
các chuyện thù thắng sai biệt trong vô lượng pháp
môn nơi các kinh giáo khác, đều nói “các pháp ấy nhằm
định tâm. Ĺa ngoài pháp này, sẽ chẳng có pháp nào
khác”, nên gọi là tâm “tích tụ”.
Thứ
mười hai, “vân hà đấu tâm? Vị hỗ
tương thị phi vi tánh” (thế nào là tâm đấu
đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau). Tức
là nghe ngôn giáo do người khác nói ra, thường chuộng
biện luận đúng, sai, bảo
“nghĩa ấy phải nên như thế này, chuyện ấy
chẳng phải vậy!” Giả sử [người khác
nói lời hợp lư], cũng dùng đủ mọi
phương tiện để bới móc ưu khuyết,
muốn khiến cho người đó thất bại. Nếu
người khác tới hỏi, cũng bới móc ưu khuyết [của
lời hỏi ấy], bảo: “Câu hỏi này kỳ quái, ta
chẳng nên đáp!” Hễ có
tướng như thế hiện, hăy nên biết đó là
tâm đấu đá vậy.
Thứ
mười ba, “vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ,
nhi sinh thị phi” (thế nào là tâm tranh chấp? Tức
là sanh thị phi đối với chính ḿnh), ư nói: Ôm ḷng thị
phi, như chính ḿnh tư
duy một nghĩa xong, lại tự tiện lập ra dị
đoan, t́m cầu khuyết điểm. Dẫu có thiện
tâm học hỏi từ người khác, nhưng đă
được lănh nhận rồi, lại tự ḿnh bới
móc ưu khuyết, bảo là “chuyện này phù hợp, chuyện
kia chẳng hợp lư”. Hễ có nhiều tướng hiện
như thế, hăy nên biết là tâm tranh chấp vậy!
Thứ
mười bốn, “vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu
xả” (thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là
đúng hay sai đều bỏ). Chuẩn theo cách đọc
trong bản tiếng Phạn, sau sáu mươi tâm đều
nên có chữ Tánh, phỏng theo đó có thể biết. Ở
đây có ư nói: Chẳng ôm ḷng ủng hộ, hay phản đối.
Tuy trước đó đă đề cao, tu tập, có
kiến giải như thế, nay nghe nói khác đi, dẫu
phi lư hay hợp lư, liền chấp nhận làm theo. Hoặc
trước kia cho [điều nào đó] là đúng, nghe
người khác nói điều đó là bất thiện, liền
có thể sửa đổi. T́nh chẳng chấp trước,
đúng, sai đều bỏ. Hễ có tướng như
thế, biết là tâm không tranh chấp. Đă nhận biết
cái tâm vô kư, vô tránh [như thế đó], bèn tu tâm không tranh chấp
nơi Thật Tướng của các pháp để đối
trị nó.
(Kinh)
Vân hà
thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu. Vân hà A Tu La
tâm? Vị nhạo xử sanh tử. Vân hà long tâm? Vị
tư niệm quảng đại tư tài. Vân hà nhân tâm? Vị
tư niệm lợi tha. Vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận
dục pháp. Vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục
ngă nhất thiết như ư. Vân hà thương nhân tâm? Vị
thuận tu sơ thâu, tụ hậu, phân tích pháp. Vân hà nông
phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn nhi hậu cầu
pháp.
(經)云何天心?謂心思隨念成就。云何阿修羅心?謂樂處生死。云何龍心?謂思念廣大資財。云何人心?謂思念利他。云何女心?謂隨順欲法。云何自在心?謂思惟欲我一切如意。云何商人心?謂順修初收聚後分析法。云何農夫心?謂隨順初廣聞而後求法。
(Kinh:
Thế
nào là tâm trời? Tức là tâm tư thuận theo ư niệm
mà thành tựu. Thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở
trong sanh tử. Thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ
của cải rộng lớn. Thế nào là tâm người?
Tức là nghĩ nhớ lợi lạc người khác. Thế
nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp. Thế nào
là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn cho ta
được hết thảy đều như ư. Thế
nào là tâm con buôn? Tức là thuận theo thói thâu gom, tích tụ
các pháp rồi mới phân tích. Thế nào là tâm nông phu? Tức
là tùy thuận thoạt đầu rộng nghe rồi sau
đó mới cầu pháp).
Thứ
mười lăm, “vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm
thành tựu” (thế nào là tâm trời? Tức là tâm suy
tư thuận theo ư nghĩ mà đều thành tựu).
Như chư thiên do quả báo đời trước, nếu
có ǵ cần, sẽ chẳng
cần phải đổ công dốc sức, nhưng đều
tùy tâm mà sanh. Nhiều lượt khởi lên ư ưa thích
như thế, hăy nên biết đó là “tâm trời”. Cũng
do từng sanh trong cơi trên, cho nên có tập khí ấy. Như
hành nhân Chân Ngôn chẳng mong mỏi quả báo to xa, chỉ
để tự tâm dẫn dắt, sẽ có thể chướng
ngại Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hăy nên tự hiểu
biết, chớ tham Tất Địa[2]
của thế gian;
đó là cách đối trị cái tâm này!
Thứ
mười sáu, “vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh
tử” (thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở trong
sanh tử). A là Phi (chẳng phải), Tu La là Thiên, do họ
có quả báo giống như chư thiên, nhưng hạnh
nghiệp và trụ xứ bất đồng, nên gọi
như thế. Loại người này biết có lợi ích
giải thoát, nhưng yêu thích sâu
đậm quả báo vui sướng trong sanh tử, chẳng
thể tăng tấn. Nếu hành nhân có tướng mạo
này, sẽ gọi là “tâm A Tu La”. Cũng do đời
trước đă từng sanh vào đường này, cho nên
có tập khí ấy. Quán sát vô thường, khổ v.v… chính
là cách đối trị cái tâm này.
Thứ
mười bảy, “vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng
đại tư tài” (thế nào là tâm rồng? Tức là
nghĩ nhớ của cải rộng lớn). Tức là nhiều
lượt nghĩ thế này: “Ta nên dùng phương tiện
nào để của cải rộng lớn, trân bảo thù
thắng nhiệm mầu?” Có nhiều ư tưởng
tham lam chẳng chán như thế; đó chính là cái tâm của
loài rồng. [Người ấy] cũng vốn từ loài
rồng mà ra, nên sanh ra tập khí ấy, khiến cho hành nhân
nguyện cầu Tất Địa thế gian, chướng
ngại tịnh tâm xuất thế. Tư duy thiểu dục,
tri túc, vô thường
v.v… chính là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
mười tám, “vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi
tha” (thế nào làm tâm người? Tức là suy nghĩ lợi
lạc người khác). Tức là thích truy cầu ư niệm:
“Kẻ nào đó có ân với ta, ta hăy nên dùng phương tiện
như thế để khiến cho kẻ đó được
lợi ích to lớn. Kẻ nào đó từng chẳng tạo
lợi ích cho ta, nay phải trả đũa”, và các thứ
toan tính so đo với người khác, lợi lạc chúng
sanh như thế, đều là “nhân tâm”. Hăy tự nên
nghĩ quán sát tâm hạnh, sớm cầu pháp lợi, đừng
nên lăng xăng tư lự các duyên khác. Đó là cách đối
trị cái tâm này!
Thứ
mười chín, “vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục
pháp” (thế nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục
pháp), cũng là cái tâm thuộc về loài người,
nhưng chỉ khác ở chỗ đa dục. Như kinh dạy
rằng: “Nữ nhân đa dục, bách bội ư nam tử,
thường niệm sở kinh lạc sự, hoặc
tưởng tha dung sắc, tư thái đẳng”
(người nữ đa dục gấp trăm lần nam
nhân, thường nghĩ tới chuyện vui sướng
đă trải qua, hoặc tưởng dung sắc, thần
thái của người khác v.v…). [Cái tâm này] có thể
ngăn chướng tịnh tâm. Đó cũng là do nhiều
đời làm nữ nhân, bèn sẵn có tập khí ấy.
Trong ấy, dùng các cách như Bất
Tịnh Niệm Xứ v.v… để
quán Thật Tướng nơi thân; đó là cách là đối
trị cái tâm ấy.
Thứ
hai mươi, “vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục
ngă nhất thiết như ư” (thế nào là tâm tự tại?
Tức là tư duy muốn ta hết thảy đều
như ư): Tự Tại Thiên (Maheśvara)
chính là thiên thần được ngoại đạo thờ
phụng. Họ chấp trước rằng Tự Tại
Thiên có thể tùy ư tạo tác các chúng sanh và chuyện
khổ, lạc v.v… Người tu pháp này cũng thường
hệ niệm, nguyện được như Bổn Tôn.
Nếu hành nhân Chân Ngôn nhiều lượt nghĩ tới Tất
Địa, mong điều ǵ hễ ta nghĩ tới sẽ
đều thành tựu. Hăy nên biết đó là tâm tự tại,
cũng là do tập khí trước kia khiến thành ra
như vậy. Hăy nên quán các pháp đều thuộc các loại
nhân duyên, chẳng hề tự tại để đối
trị.
Thứ
hai mươi mốt, “vân hà thương nhân tâm? Vị
thuận tu sơ thâu tụ, hậu
phân tích pháp” (thế nào là tâm con
buôn? Tức là tu theo kiểu trước th́ thâu thập,
tích tụ, sau đó phân tích pháp): Như con buôn trong cơi đời,
trước là lo chú trọng tích trữ hàng hóa, sau đấy
mới suy nghĩ, phân tích: “Vật này sẽ dùng ở chỗ
nào, vật kia nên dùng ở xứ nọ, sẽ được
lợi to”. Nếu hành nhân trước hết chú trọng học
vấn trong, ngoài sao cho trọn vẹn rồi mới lại
trù tính: “Đây là sách vở thế gian, hăy nên dùng ở chỗ
như thế này. Đây là pháp Nhị Thừa, nên dùng tiếp
độ kẻ nào đó. Đây là tư lương Đại
Thừa, do duyên nào đó sẽ cần”. Đó gọi là cái
tâm con buôn, cũng do tập khí trước kia khiến thành
ra như thế. Tu trí “nhanh chóng” là cách đối trị
cái tâm này, tức là hễ nghe pháp nào, liền quán nhân duyên sử
dụng của nó, há phải chờ tích tụ cho nhiều
rồi mới t́m cầu tác dụng ư?
Thứ
hai mươi hai, “vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận
sơ quảng văn,
nhi hậu cầu pháp” (thế nào là tâm
nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu nghe pháp rộng
răi rồi mới cầu pháp). Như người học trồng
trọt hỏi nông dân giàu kinh nghiệm: “Làm thế nào để
biết đất tốt, ph́ nhiêu? Làm thế nào cày, bừa,
cuốc, trồng? Thời tiết như thế nào? Thâu hoạch,
cất giữ như thế nào?” Mỗi mỗi đều
biết như thế rồi mới đổ công. Cái tâm
này cũng thế, trước là chú trọng thưa hỏi
người trí để rộng nghe các đạo phẩm,
sau đấy mới hành, đều là do tập khí cũ
sai khiến. Dùng lợi trí để đối trị,
như nghe “các Uẩn vô thường”, liền biết
Giới, Nhập duyên khởi v.v… đều cũng theo lệ
đó. Lại như mũi tên độc ghim vào thân, há
đợi ba tháng hỏi han rộng khắp rồi mới
nhổ ra ư?
(Kinh)
Vân hà hà
tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp. Vân hà bi tŕ tâm? Vị
tùy thuận khát vô yếm túc pháp. Vân hà tỉnh tâm? Vị như thị
tư duy thâm phục thậm thâm.
(經)云何河心?謂順修依因二邊法。云何陂池心?謂隨順渴無厭足法。云何井心?謂如是思惟深復甚深。
(Kinh:
Thế
nào là tâm sông? Tức là tu thuận theo cái nhân thuộc pháp nhị
biên. Thế nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng
pháp, chẳng chán đủ. Thế nào là tâm giếng? Tức
là tư duy như thế đă sâu lại c̣n rất sâu).
Thứ
hai mươi ba, “vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị
biên pháp” (thế nào là tâm sông? Tức là tâm thuận tu
nương theo nhân nơi pháp nhị biên). Tâm tánh này
nương vào cả hai bên, hoặc lúc tu Thường, lúc tu Đoạn, hoặc lại
tin tưởng cả tà lẫn chánh, như nước sông
nương vào cả hai bờ, cuốn trôi mọi vật
chẳng hề chắc chắn thuộc vào bên nào! Trong ấy,
để đối trị, hành nhân chuyên tâm nơi một
cảnh th́ sẽ có thể đạt tới. Nếu tâm chẳng
giữ chắc, sẽ chẳng có cách lẽ nào khiến cho
sự nghiệp được hoàn tất!
Thứ
hai mươi bốn, “vân hà bi tŕ tâm? Vị tùy thuận
khát vô yếm túc pháp” (thế nào là tâm ao chuôm? Tức là
tùy thuận khát ngưỡng pháp không chán đủ). Ví
như ao chuôm, dù các gịng nước chảy vào, trọn chẳng
chán đủ! Tâm này cũng thế, dù các chuyện như
danh lợi, quyến thuộc v.v… tụ tập nơi thân
này, trọn chẳng chán đủ, cho đến các pháp
đă học cũng như thế. Như đă có
được cháo sữa, chẳng chú trọng ăn liền,
cứ khát vọng các vị khác. Trong ấy, dùng thiểu dục
tri túc để đối trị
[cái tâm này].
Thứ
hai mươi lăm, “vân hà tỉnh tâm? Vị như thị
tư duy thâm phục thậm thâm” (thế nào là tâm giếng?
Tức là tư duy đă sâu lại càng rất sâu), ư nói: Cúi
nh́n nước giếng, ước lượng cạn hay
sâu khó biết. Tâm tánh này cũng giống như thế. Phàm
tư duy điều ǵ,
cũng đều ham chuộng sâu xa, tất cả chuyện
thiện hay bất thiện đều mong sao kẻ khác chẳng
thể ḍ lường được; các đồng sự
cùng sống đều chẳng biết tâm hạnh của người ấy.
Hăy nên biết đấy là tâm giếng. Tướng của
pháp môn duyên khởi và thiện nhân đều cùng rơ ràng, dễ
biết. Đó là cách đối trị.
(Kinh)
Vân hà thủ
hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật.
Vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ
tha pháp. Vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp. Vân
hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ
túc.
(經)云何守護心?謂唯此心實餘心不實。云何慳心?謂隨順為己不與他法。云何狸心?謂順修徐進法。云何狗心?謂得少分以為喜足。
(Kinh: Thế nào là tâm thủ
hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, tâm khác chẳng
thật. Thế nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận
pháp ích kỷ, chẳng ban cho người khác. Thế nào là
tâm chồn? Tức là thuận theo cách tấn tu thong thả.
Thế nào là tâm chó? Tức là được chút phần liền
vui mừng cho là đủ).
Thứ hai mươi sáu, “vân hà thủ hộ tâm? Vị
duy thử tâm thật, dư tâm bất thật” (thế
nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật,
các tâm khác chẳng thật). Như người đời
v́ thủ hộ thân thể, tài vật v.v… của chính ḿnh,
cho đến thủ hộ các thứ như tường
vây, lầu cao nhiều tầng, chẳng để cho chúng
nó bị thương tổn. Tâm này cũng thế, thường
thủ hộ thân tâm, cho đến như con rùa giấu kín
sáu chi, chẳng để ngoại cảnh gây thương
tổn. Tức là [quan niệm] chỉ có hạnh này là quư
báu, các việc phải làm khác đều chẳng quư.
Người học Thanh Văn phần nhiều sanh cái tâm này. Dùng kiêm thủ hộ người khác để
đối trị [cái tâm này]. Lại có người tự
bảo vệ kiến giải của chính ḿnh, chẳng muốn
bị các thứ dị luận của người khác gây
thương tổn, bảo “các kiến giải khác thảy
đều không thật”, cũng thuộc loại tâm này!
Thứ
hai mươi bảy, “vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị
kỷ, bất dữ tha pháp” (thế nào là tâm keo kiệt?
Tức là tùy thuận ích kỷ, chẳng
cho người khác), ư nói: Người ấy tất cả
việc làm thảy đều v́ bản thân. Do đó, đối
với của cải, tài khéo, cho đến thiện pháp
đều ưa giấu diếm, tiếc nuối, chẳng
ban cho người khác. Hễ có các tướng ấy th́ biết
là tâm keo kiệt. Hăy dùng niệm Thí và vô thường v.v…
để đối trị. Hăy nghĩ của cải, kỹ năng,
nếu lúc
vô thường xảy đến, chẳng
có ǵ theo ta ra đi, nhưng
cái thân này, niệm nào cũng đều chẳng thể tự
bảo vệ, có ǵ đáng để tiếc nuối
đâu nhỉ?
Thứ
hai mươi tám, “vân hà ly tâm? Vị
thuận tu từ tấn pháp”
(thế nào là tâm chồn? Tức là tùy thuận cách thong thả
tấn tu): Như mèo, chồn ŕnh bắt chim chóc, nín thở,
ngồi yên, chẳng cần phải đi lại nhanh nhẹn,
chờ tới khi nó lọt vào tầm của
ḿnh rồi mới bắt. Người này cũng thế,
được gặp, được
nghe các thứ pháp yếu, nhưng chỉ
để tâm lănh nhận, ghi nhớ, chẳng chịu tiến
hành (thật sự tu tập), mong đợi duyên tốt hội
hợp rồi mới mạnh mẽ thực hiện. Lại
như mèo, chồn, dẫu được nhân từ nuôi nấng
đủ mọi lẽ, cũng chẳng hề biết ân.
Nếu ai chỉ nhận ḷng từ bi ban bố, lời lẽ
tốt lành của người khác, mà chẳng nghĩ báo
đáp; đó là cái tâm chồn. Hăy dùng [tâm t́nh] chẳng đợi
thời, hễ được nghe liền hành ngay, thường
nghĩ tới ân đức để đối trị.
Thứ
hai mươi chín, “vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu
phần, dĩ vi hỷ túc” (thế nào là tâm chó? Tức
là được chút phần đă vui mừng, cho là đủ).
Do chó có nhân duyên phước mỏng, mong mỏi hèn kém, gặp
được chút phần thức ăn thô lậu liền
sanh tâm vui mừng, cho là đủ. Nếu hơi quá mức
đó, sẽ chẳng phải là điều nó mong mỏi.
Tâm này cũng thế, nghe chút phần thiện pháp, liền
cho là hành chẳng thể hết được, chẳng
c̣n cầu sự thù thắng hơn. Đấy là do tập
khí của chủng tánh Thanh Văn sanh ra. Hăy dùng ư nhạo
tăng thượng để đối trị, cho tới
“tâm như biển cả, ít cũng chẳng cự tuyệt,
nhiều cũng chẳng tràn đầy!”
(Kinh)
Vân hà Ca
Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực
pháp. Vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ
phược. Vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp,
ngă đương thượng thăng chủng chủng
thần biến. Vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị
pháp, ngă đương kích pháp cổ. Vân hà thất trạch
tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp. Vân hà sư tử
tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược
pháp. Vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ
tư niệm. Vân hà ô tâm? Ư nhất thiết xứ, kinh
bố tư niệm. Vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện
trung, phát khởi bất thiện. Vân hà thích tâm? Vị nhất
thiết xứ, phát khởi ác tác vi tánh.
(經)云何迦樓羅心?謂隨順朋黨羽翼法。云何鼠心?謂思惟斷諸繫縛。云何舞心?謂修行如是法,我當上昇種種神變。云何擊鼓心?謂修順是法,我當擊法鼓。云何室宅心?謂順修自護身法。云何師子心?謂修行一切無怯弱法。云何鵂鶹心?謂常暗夜思念。云何烏心?謂一切處驚怖思念。云何羅剎心?謂於善中發起不善。云何刺心?謂一切處發起惡作為性。
(Kinh:
Thế
nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận pháp phe phái, kết bè
kéo cánh. Thế nào là tâm chuột? Tức là tư duy đoạn
các trói buộc. Thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp
như thế, ta sẽ đạt được các thứ
thần thông biến hóa. Thế nào là tâm đánh trống? Tức
là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp. Thế
nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu theo pháp để
tự bảo vệ thân. Thế nào là tâm sư tử? Tức
là tu hành hết thảy các pháp chẳng khiếp nhược.
Thế nào là tâm cú vọ? Tức là thường suy nghĩ
đen tối. Thế nào là tâm quạ? Trong hết thảy
các chỗ, đều nghĩ kinh hoảng. Thế nào là tâm
La Sát? Tức là trong các điều thiện, phát khởi bất
thiện. Thế nào là tâm châm chích? Tức là trong hết thảy
các chỗ, phát khởi tánh làm ác).
Thứ
ba mươi, “vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng
đảng vũ dực pháp” (thế nào là tâm Ca Lâu La? Tức
là tùy thuận phương cách bè đảng, kéo bè kết
cánh). Loài chim này thường cậy vào hai cánh để
nâng đỡ thân, qua lại tùy ư, trở thành thế lực
to lớn. Giả sử thiếu bớt lông vũ, sẽ
chẳng thể làm được! Tâm này cũng thế,
thường nghĩ có nhiều bè đảng và kẻ chầu
hầu giúp cho ḿnh thành tựu sự nghiệp. Lại do
người khác làm rồi ḿnh mới phát tâm, chẳng thể
một ḿnh tiến hành. Như thấy người khác làm
lành, liền nghĩ: “Hắn c̣n có thể làm, sao ta chẳng
làm?” Hăy nên nghĩ “tâm Bồ Đề dũng mănh, như
sư tử chúa chẳng nhờ vào bầu bạn giúp đỡ”
để đối trị.
Thứ
ba mươi mốt, “vân hà thử tâm? Vị tư duy
đoạn chư hệ phược” (thế nào là tâm
chuột? Tức là tư duy cắt đứt các trói buộc).
Như chuột thấy rương, tráp của người
khác được buộc dây v.v… liền ưa phi lư tổn
hại, cũng chẳng nghĩ: “Do làm đứt cái này, ta
sẽ được lợi như thế!” Chỉ chẳng
nghĩ ngợi ǵ mà làm. Tâm này cũng thế, đối với
tất cả những điều liên quan và thành tựu, cứ
thích chọc gậy bánh xe để phá hoại!
Thứ
ba mươi hai là “tâm ca vịnh”, bản tiếng Phạn
thiếu phần kinh văn giải thích cái tâm này. A-xà-lê
(ngài Thiện Vô Úy) nói: “Đây là thí dụ truyền pháp
âm. Như người đời
sáng tác nhạc cho người khác,
đă hay khéo rồi, lại v́ người khác diễn tấu,
phát ra đủ mọi âm thanh du dương, người
nghe hoan hỷ. Tâm này muốn cho người khác nghe chánh
pháp, ta sẽ đổi thành dùng đủ loại câu chữ
trang nghiêm để phân biệt, diễn thuyết, khiến
cho nơi nơi đều được nghe biết âm
thanh mầu nhiệm ấy”.
Phần nhiều là tập khí từ xưa của Thanh
Văn, cũng có thể gây chướng ngại tịnh
tâm. Hăy nghĩ “khi ta đă đắc nội chứng trí huệ
tự nhiên rồi mới hiện trọn khắp sắc
thân để diễn thuyết”. Đó là cách đối trị.
Thứ
ba mươi ba, “vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị
pháp, ngă đương thượng thăng chủng chủng
thần biến” (thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp
thế, ta sẽ đạt
được đủ thứ thần
thông biến hóa): Như người đời khi các chi thể
lay động th́ gọi là “vũ” (múa). Thần biến
cũng thế, hiện đủ mọi chuyện chưa
từng có, khiến cho người xem tâm tịnh, đẹp
mắt. Đây phần nhiều là tập khí c̣n sót lại của
Ngũ Thông (năm món thần
thông). Nếu riêng chuộng nguyện cầu phương tiện
Tất Địa như thế,
th́ cũng sẽ chướng ngại tịnh tâm. Hăy nên
nghĩ tới Trừ Cái Chướng tam-muội, tâm chẳng
tán loạn, dao
động, thần thông chẳng khởi lên hay diệt mất
để gia tŕ thần thông biến hóa, đừng tham
chút hiệu nghiệm thế gian. Đó là cách đối trị.
Thứ
ba mươi bốn, “vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận
thị pháp, ngă đương kích pháp cổ” (thế nào
là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ
đánh trống pháp). Trống có thể cảnh tỉnh,
răn nhắc chúng sanh, khiến họ được giác
ngộ. Như hành nhân nghĩ như thế này: “Chúng sanh ngủ
say trong đêm dài, ta nên tập luyện đủ mọi thứ
biện tài, gióng trống đại pháp để cảnh
tỉnh họ giác ngộ”. [Tâm niệm ấy] cũng có thể
chướng ngại tịnh tâm. Hăy nên nghĩ “sớm chứng
vô lượng Ngữ Ngôn Đà-la-ni, dùng âm thanh mầu nhiệm
của cái trống trời để bảo trọn khắp
hết thảy đại chúng”, chớ để lợi
ích nhỏ nhoi của thế gian ngăn ngại đại
sự nhân duyên. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
ba mươi lăm, “vân hà thất trạch tâm? Vị thuận
tu tự hộ thân pháp” (thế nào là tâm nhà cửa? Tức
là tùy thuận tu tập pháp tự bảo vệ thân).
Như người xây cất nhà cửa để bảo vệ
thân này, tránh khỏi các thứ chuyện chẳng lợi ích
như lạnh nóng, mưa, gió, đạo tặc, trùng ác v.v… Tâm này cũng thế: “Ta nên tŕ giới,
tu thiện để tự pḥng hộ, khiến cho đời
này và đời sau xa ĺa các nỗi khổ trong ác đạo”.
Đấy phần nhiều là tập khí Thanh Văn. Hăy nên
nghĩ cứu giúp, che chở hết thảy chúng sanh, chẳng
riêng một ḿnh ta. Đấy là cách đối trị.
Thứ
ba mươi sáu, “vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất
thiết vô khiếp nhược pháp” (thế nào là tâm
sư tử? Tức là tu hành hết thảy pháp chẳng
khiếp nhược). Như trong các loài thú, sư tử tới
đâu cũng đều vượt trội, chẳng hề
khiếp nhược. Cái tâm này cũng thế, trong hết
thảy các sự, đều muốn vượt xa hết
thảy mọi người, tâm chẳng khiếp nhược.
Tự tâm cho rằng chẳng có nạn sự, chẳng có
ǵ có thể tranh
đua hơn kém cùng ta được. Nếu
đă tự nhận biết, hăy nên phát Thích Ca sư tử
tâm, khiến cho hết thảy chúng sanh thù thắng trọn
khắp, chẳng có hơn kém. Đó là cách đối trị.
Thứ
ba mươi bảy, “vân hà hưu lưu tâm? Vị
thường ám dạ tư niệm” (thế nào là tâm cú
vọ? Tức là thường nghĩ nhớ đêm tối).
Loài chim này ở chỗ sáng bừng sẽ chẳng thể
làm ǵ, ban đêm th́ sáu căn nhanh nhẹn. Nếu hành giả
ban ngày tuy được nghe, tụng niệm, tu tập, nhưng mờ mịt,
chẳng đạt được thiện xảo, đến
tối nghĩ nhớ chuyện đă làm, suy tính lần nữa,
sẽ liền hiểu rơ. Cho đến tu Thiền Quán v.v…
cũng coi chỗ tối tăm là chỗ thù thắng. Nếu
đă nhận biết, hăy nên nghĩ “sáng tối b́nh đẳng”,
khiến cho tâm ư chẳng dấy lên phân biệt ngày đêm.
Đó là cách đối trị.
Thứ
ba mươi tám, “vân hà ô tâm? Vị nhất thiết xứ,
kinh bố tư niệm” (thế nào là tâm quạ? Tức
là trong hết thảy chỗ, nghĩ nhớ kinh sợ).
Như chim quạ, nếu có người do tâm tốt lành mà
gần gũi, nuôi nấng, hoặc kẻ
t́m cách lợi dụng, nó đều
sanh ḷng ngờ vực, sợ hăi. Cái tâm này cũng giống
như thế, đối với bạn lành muốn tạo
lợi ích và kẻ hăm hại, gây khốn đốn, đều
nhất loạt ôm ḷng ḍ xét, xa cách, ngờ vực, sợ
hăi. Cho tới khi tŕ giới, tu điều thiện,
cũng ôm ḷng kinh sợ đối với sanh tử. Nếu
đă nhận biết, hăy nên tu tâm an định vô úy. Đấy
là cách đối trị cái tâm ấy.
Thứ
ba mươi chín, “vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện
trung, phát khởi bất thiện” (thế nào là tâm La Sát?
Tức là ở trong điều thiện, phát khởi bất
thiện). Như người thấy làm việc thiện,
luôn nghĩ là bất thiện. Đức Phật nói “tạo các tháp miếu,
đắc vô lượng phước”,
nhưng kẻ đó nói ngược lại như thế
này: “Do chuyện này, đâm ra tổn hại vô lượng
trùng nhỏ, phiền nhiễu thí chủ, lợi ích chỗ
nào? Sẽ chịu khổ báo”. “Phát khởi” là nói sanh
khởi các tâm bất thiện như thế đó. Trong ấy,
chỉ quán công đức lợi ích, chẳng nghĩ tới
khuôn khổ để đối trị.
Thứ
bốn mươi, “vân hà thích tâm? Vị nhất thiết
xứ, ác tác vi tánh” (thế nào là tâm đâm chọc? Trong
hết thảy các chỗ, quen tánh làm ác). Giống như rừng
gai, ở mọi nơi đều gây nhiều tổn hại,
khiến cho người gần nó bất an. Tâm này cũng
thế. Nếu làm thiện sự như bố thí to lớn
v.v…, đă làm xong
liền sanh tâm hối tiếc. Nếu làm chuyện ác xong, lại
tự suy nghĩ, cũng ôm ḷng thẹn thùng, sợ hăi. V́ thế,
thường ôm ḷng làm ác, lo lắng chẳng yên. Ở
đây, cách đối trị là nếu có sai phạm, liền
nhanh chóng sám trừ, đừng sanh hối tiếc. Hành thiện
sự, cũng nên tự tư duy, sanh tâm vui mừng.
(Kinh) Vân hà quật tâm? Vị
thuận tu vi nhập quật pháp. Vân hà phong tâm? Vị biến
nhất thiết xứ, phát khởi vi tánh. Vân hà thủy
tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất
thiện pháp. Vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt
tánh. Vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh.
Vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, xả
khí dư thiện cố. Vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị,
sở tư dị. Vân hà độc dược tâm? Vị
thuận tu vô sanh phần pháp. Vân hà quyến sách tâm? Vị
nhất thiết xứ, trụ ư ngă phược vi tánh.
Vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh.
(經)云何窟心?謂順修為入窟法。云何風心?謂遍一切處發起為性。云何水心?謂順修洗濯一切不善法。云何火心?謂熾盛炎熱性。云何顯色心?謂類彼為性。云何板心?謂順修隨量法,捨棄餘善故。云何迷心?謂所執異所思異。云何毒藥心?謂順修無生分法。云何羂索心?謂一切處住於我縛為性。云何械心?謂二足止住為性。
(Kinh: Thế nào là tâm hang hốc?
Tức là thuận theo, tu pháp vào hang. Thế nào là tâm gió? Tức
là tâm có tánh phát khởi trọn khắp hết thảy mọi
nơi. Thế nào là tâm nước? Tức là tùy thuận tu
tập để gột rửa hết thảy các
pháp chẳng lành. Thế nào là tâm lửa? Tức là tánh nóng bức
hừng hực. Thế nào là tâm hiển sắc? Tức là
có tánh phỏng theo kẻ khác. Thế nào là tâm như miếng
ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp vừa sức ḿnh, vứt
bỏ các điều thiện khác. Thế nào là tâm mê? Tức
là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ. Thế
nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp chẳng c̣n lẽ
sống. Thế nào là tâm như dây trói? Tức là trong hết
thảy mọi nơi, tánh trụ trong sự trói buộc của
ngă. Thế nào là tâm cùm? Tức có tánh chất ḱm hăm hai chân
[chẳng thể tiến cao hơn được].
Thứ
bốn mươi mốt, “vân hà quật tâm? Vị thuận
tu vi nhập quật pháp” (thế nào là tâm hang hốc? Tức
là tùy thuận tu tập pháp để vào hang hốc), ư nói
các loài rồng, A Tu La v.v… đều ở trong hang sâu dưới
mặt đất, hoặc đáy biển, có nhiều thần
tiên, các loại thuốc có thể khiến
cho họ trường thọ, tự tại. Có lẽ hành
giả nghĩ trong số đó có nhiều mỹ nữ,
đoan chánh giống như chư thiên, có thể chẳng
lo chết yểu,
mặc sức hưởng ngũ dục. Hoặc nghĩ
lưu lại trong đó để thọ trọn kiếp
ḥng thấy chư Phật trong vị lai. Đấy đều
là cái tâm hang hốc. Hăy nên nghĩ đúng như pháp tu hành,
có thể ngay trong đời này
thấy pháp, hiểu đạo, cho
đến thành Phật, chớ nên lần chần, quẩn
quanh nghĩ tưởng pháp thiên tiên thế gian ấy.
Đó là cách đối trị.
Thứ
bốn mươi hai, “vân hà phong tâm? Vị biến nhất
thiết xứ phát khởi vi tánh” (thế nào là tâm gió? Tức
là có tánh phát khởi trọn hết thảy mọi nơi).
Tánh gió là tán loạn, v́ nó chẳng trụ. Tâm người
này cũng thế, gieo thiện căn hết thảy mọi
nơi, tức là trong ngoại đạo thế gian, các thứ
thiên tôn, và các người hành tam thừa đều có phần,
nghĩ như thế này: “Như nhiều hạt giống
[được gieo] trọn khắp mọi nơi, sẽ
có hạt trưởng thành”. Như thế chính là tâm gió. Hăy
nên nghĩ ruộng khô cằn, hao phí hạt giống; hăy nên
cầu ở chỗ ruộng tốt màu mỡ, chuyên tâm cày
bừa, ắt thu hoạch được nhiều. Đó
là cách đối trị.
Thứ
bốn mươi ba, “vân hà thủy tâm? Vị thuận tu
tẩy trạc nhất thiết bất thiện pháp” (thế
nào là tâm nước? Tức là thuận theo cách tu gột rửa
hết thảy pháp chẳng lành). Như tánh của nước
là thanh khiết, tuy tạm bị các chất nhơ nhuốm
bẩn, hễ lắng trong bèn thanh tịnh, lại có thể
gột trừ cấu uế. Tâm người này cũng vậy,
thường muốn bộc lộ xấu ác, sám hối gột
rửa các tội nơi ba nghiệp. Do thấy cái này là
nhơ, cái kia là tịnh, [bèn nghĩ] “ta hành như thế”,
như vậy th́ có thể chướng ngại tịnh
tâm. Chỉ nên quán Thật Tướng của cái tâm, hiểu
rơ cấu pháp vốn chẳng sanh, sẽ tự có thể trừ
hết thảy cái chướng. Đó là hạnh để
đối trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi bốn, “vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh
viêm nhiệt vi tánh” (thế nào là tánh lửa? Tức nóng
bức hừng hực làm tánh). Như tánh của lửa là
chói ḷa, hừng hực. Tâm người này cũng thế. Nếu
khi làm lành th́ trong khoảnh khắc có thể thành tựu vô
lượng công đức, tạo ác th́ cũng trong một
ít thời gian mà thành nghiệp cực nặng. Hạnh
đối trị ở đây là phải nên tư duy cái tâm
mạnh bạo sẽ gây ra nhiều thất bại, tổn
thương, dùng nước phương tiện “nhu
ḥa, từ thiện”
để diệt, chú trọng hăm hở làm lành lâu dài
để đối trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi lăm là “tâm bùn”, bản tiếng Phạn
thiếu phần kinh văn giải thích [cái tâm này]. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
nói: “Đây chính là cái tâm một mực vô minh. Thậm chí
đối với chuyện gần ngay trước mắt,
cũng chẳng thể phân biệt, ghi nhớ. V́ thế,
luật nói [cái tâm ấy] giống như viên bùn. Lại
như bùn lầy, do nhăo nhoét, khó thể vượt qua
được. Phải có thứ khác để nhờ cậy,
tức là nhờ vào cầu, bến v.v… th́ mới có thể
vượt qua. Nếu nhận biết có phương tiện
ấy, ắt phải quay về nương tựa bạn
lành, khiến cho phương tiện khai phát, mới có thể
dần dần trừ khử vô tri, huệ tánh sanh trở lại”.
Thứ
bốn mươi sáu, “vân hà hiển sắc tâm? Vị loại
bỉ vi tánh” (thế nào là tâm hiển sắc? Tức là
có tánh phỏng theo kẻ khác). Ví như màu nhuộm xanh,
vàng, đỏ, trắng v.v… Nếu thả sợi tơ trắng
vào đó, nó sẽ có cùng màu. Tâm người ấy cũng
giống như thế! Thấy, nghe thiện pháp cũng
hành theo hạnh đó; thấy nghe chuyện ác cũng thuận
theo mà tu học. Cho tới đối với vô kư (chẳng
thiện, chẳng ác) cũng thế. Đối với các
thứ cảnh giới, đều tùy theo sự mà đổi dời.
Hành nhân đă nhận biết rồi, hăy nên nghĩ chuyên cầu
pháp tự chứng, chẳng do người khác mà ngộ,
chẳng bị duyên khác xoay chuyển. Đó là cách đối
trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi bảy, “vân hà bản tâm? Vị thuận
tu tùy lượng pháp, khí xả dư thiện cố”
(thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu
theo pháp xứng với tâm lượng, vứt bỏ các thiện
pháp khác). Như miếng ván thả vào nước, tùy theo
phân lượng mà chở các vật. Quá mức đó, nó sẽ
không duy tŕ được, rốt cuộc phải nghiêng
đổ đi. Tâm người này cũng thế, chọn
lựa nghiệp thiện pháp, tùy sức ḿnh hành được
một pháp, liền nói như thế này: “Từ trước tới nay, ta chỉ hành pháp này, chẳng
biết chi khác”. Thậm chí tu tập, hành tŕ Bát Quan Trai liền chẳng xả ĺa, lại chẳng hâm mộ hành theo
các điều thiện khác. Hăy dùng phát tâm rộng
lớn để học Bồ Đề hạnh; đó là cách
đối trị.
Thứ
bốn mươi tám, “vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị,
sở tư dị” (thế nào là tâm mê? Tức là chấp
trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ). Như người
v́ mê, ư muốn đi qua Đông mà lại hướng
về Tây. Tâm người này cũng giống
như thế, ư muốn học Bất Tịnh
Quán
mà đâm ra chấp tướng tịnh, tự cho rằng
ta nay tu Bất Tịnh Quán. Nếu khi tu vô thường, vô
ngă, đâm ra hành “thường, ngă điên đảo”, cho rằng
“ta nay tu vô thường,
vô ngă”. Do tâm tán loạn,
nên khiến thành ra như vậy. Hăy nên niệm chuyên nhất
cái tâm, quán sát kỹ càng, cặn
kẽ, an tường, chẳng điên đảo để
đối trị cái tâm ấy.
Thứ
bốn mươi chín, “vân hà độc dược tâm? Vị
thuận tu vô sanh phần pháp” (thế nào là tâm thuốc
độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp không có lẽ sống).
“Độc” là các thứ chất độc từ rồng,
rắn, dược thảo. Như người trúng độc
mê ngất, chuyển sang cái chết, chẳng có lẽ sống!
Tâm người này cũng thế, chẳng sanh thiện tâm,
mà cũng chẳng sanh ác tâm, cho tới hết thảy các
tâm đều chẳng thể sanh khởi, chỉ tùy ư mà
hành, dần dần nhập vào vô nhân, vô quả. V́ thế, gọi
là “chẳng có lẽ sống”. Hành nhân đă tự hiểu
biết rồi, hăy nên phát khởi các điều thiện
đại bi, ĺa đoạn diệt Không; đấy
được gọi là “cam lộ diệu dược”.
Thứ
năm mươi, “vân hà quyến sách tâm? Vị nhất
thiết xứ, trụ ư ngă phược vi tánh” (thế
nào là tâm dây trói? Tức là trong hết thảy chỗ, trụ
trong sự trói buộc của cái ngă làm tánh). Như người
bị dây thừng trói chặt, thậm chí tay, chân, chi phần
đều chẳng thể chuyển động. Tâm này giống
như thế, đọa vào đoạn kiến ngă phược.
Kiến chấp ấy có thể trói buộc cái tâm của
hành giả, thậm chí trong hết thảy mọi chỗ,
thường bị trói buộc, chẳng thể tự
thoát ra, là loại chướng nặng nhất. Đă nhận
biết rồi, hăy nên mau chóng dùng đao “duyên khởi
chánh huệ” để chặt phăng chướng cái.
Đó là cách đối trị.
Thứ
năm mươi mốt, “vân hà giới tâm? Vị nhị
túc chỉ trụ vi tánh” (thế nào là tâm cùm? Tức là có
tánh chất ngăn chặn hai chân). [H́nh cụ] nơi tay là
Sửu (杻,
c̣ng), nơi chân là Giới (械,
cùm). Như người bị cùm, hai
chân bị chặn lại chẳng
thể tiến lên. Tâm này cũng thế, thường chuộng
ngồi ngay ngắn, hoặc đứng lặng mà tu định
tâm và quán sát pháp nghĩa. V́ bị câu thúc như thế, nên gọi
là “tâm cùm”. Hạnh để đối trị là hăy
nên trong hết thảy các thời, xứ, đều tư
duy tu tập, khiến cho tĩnh và loạn chẳng cách biệt.
Đó là cách đối trị.
(Kinh)
Vân hà
vân tâm? Vị thường tác giáng vũ tư niệm. Vân
hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự
tự thân. Vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ
phục tăng gia tư niệm. Vân hà thế đao tâm? Vị
duy như thị y chỉ thế trừ pháp. Vân hà Di Lô
đẳng tâm? Vị thường tư duy, tâm cao cử
vi tánh. Vân hà hải đẳng tâm? Vị thường
như thị thọ dụng tự thân nhi trụ. Vân hà huyệt
đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu
phục biến cải vi tánh. Vân hà thọ sanh tâm? Vị
chư hữu tu tập hạnh nghiệp, bỉ sanh tâm
như thị đồng tánh.
(經)云何雲心?謂常作降雨思念。云何田心?謂常如是修事自身。云何鹽心?謂所思念彼復增加思念。云何剃刀心?謂唯如是依止剃除法。云何彌盧等心?謂常思惟心高舉為性。云何海等心?謂常如是受用自身而住。云何穴等心?謂先決定彼,後復變改為性。云何受生心?謂諸有修習行業,彼生心如是同性。
(Kinh:
Thế
nào là tâm mây? Tức là thường suy nghĩ tuôn mưa. Thế
nào là tâm ruộng? Tức là thường tu tập phụng
sự tự thân như thế. Thế nào là tâm muối? Tức
là đối với điều được suy nghĩ, bèn tăng thêm ư niệm
suy nghĩ. Thế nào là tâm dao cạo? Tức là chỉ
nương cậy pháp trừ bỏ như thế. Thế
nào là tâm bằng với núi Di Lô (Tu Di)? Tức là tâm thường
suy nghĩ, có tánh chất cao ngạo. Thế nào là tâm như
biển? Tức là thường thọ dụng tự thân
như thế mà trụ. Thế nào là tâm như hầm hố?
Tức là trước đó đă quyết định
như thế, về sau lại biến đổi. Thế
nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập hạnh nghiệp
trong các cơi, người ấy bèn sanh tâm có cùng tánh chất
giống như thế
Thứ
năm mươi hai, “vân hà vân tâm? Vị thường tác
vũ tư niệm” (thế nào là tâm mây? Tức là
thường nghĩ tuôn mưa). Như tại phương
Tây, trong ba tháng Hạ, mưa dầm đặc biệt nhiều.
Do [mưa dầm] thường dẫn đến trời ẩm
ướt, âm u, nên trong khi ấy, cái tâm theo lệ thường
buồn, vui, lo nghĩ chen chúc tăng trưởng rất
nhiều. V́ thế nói là “tác giáng vũ thời tư niệm”
(suy tưởng khi tuôn mưa). Đă nhận biết, hăy
nên hành xả tâm, ĺa buồn vui thế gian, tùy thuận pháp
hỷ; đó là cách đối trị.
Thứ
năm mươi ba, “vân hà điền tâm? Vị thường
như thị tu sự tự thân” (thế nào là tâm ruộng?
Tức là thường chăm sóc bản thân như thế):
Như người có ruộng tốt, thường chăm
sóc, cày cuốc, trừ cỏ dại, dùng các thứ
phương tiện khiến cho ruộng được sạch
sẽ. Người này cũng thế, thường chuộng
tu sửa cái thân, dùng hương, hoa, vị ngon v.v… để
tưới tắm, bôi trét, phụng dưỡng nó, chú trọng
sao cho [thân thể] sáng sạch, trang nghiêm đẹp đẽ.
Đă nhận biết [cái tâm này] rồi, hăy nên thường
niệm hồi hướng công đức ấy để
chăm chút cái tâm. Dùng các thứ vật cúng dường
như thế để vun bồi phước điền,
giúp thành tựu quả thù thắng. Đó là đối trị
cái tâm ấy.
Thứ
năm mươi bốn, “vân hà diêm tâm? Vị sở
tư niệm bỉ phục gia tăng tư niệm”
(thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều
suy nghĩ lại tăng thêm sự suy niệm). Như tánh của muối
là mặn. Hễ thêm muối vào, sẽ
luôn tăng thêm vị mặn. Tâm người này cũng giống
như thế, đối với chuyện suy nghĩ, lại
càng thêm nghĩ nhớ. Như lúc nhớ tưởng sắc
dục, vừa sanh khởi ư ấy, lại tự truy cầu:
“Tâm này do ai mà sanh? Thành tướng mạo ǵ?” Quán tâm này
chưa xong, lại t́m ṭi suy nghĩ có nhân duyên ǵ? Như thế
bèn vô cùng tận! Đă nhận biết [cái tâm này] rồi,
hăy nên một mực an tâm nơi đế lư, chú trọng
sao cho thấu triệt. Tâm tánh lại ly niệm, chẳng
phải là phỏng đoán mà có thể biết được,
chẳng từ trên phân biệt, lại tăng thêm tâm số (tâm sở)!
Thứ
năm mươi lăm, “vân hà thế đao tâm? Vị
duy như thị y chỉ thế trừ pháp” (thế nào
tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp cạo
bỏ như thế): Cạo bỏ râu tóc là h́nh tướng
ĺa tục xuất gia. Ư nói người này tâm chỉ
nghĩ như thế này: “Ta đă gạt bỏ tướng
thế tục, khiến cho ác pháp chẳng c̣n nẩy sanh nữa,
c̣n có ǵ để cầu?” Hăy nên biết cái tâm ấy xấu
nhất, do tự lập ngằn hạn, có thể tước
bỏ tất cả thiện căn,
khiến cho chúng nó chẳng thể sanh! Hăy nên nghĩ tới
điều đáng nên đoạn của hết thảy
thánh hiền, tức Vô Minh Trụ Địa là cái gốc
của Tam Độc. Nếu
có thể cạo bỏ nó, khiến cho vọng tưởng
chẳng sanh, th́ mới gọi là xuất gia thật sự.
Thứ
năm mươi sáu, “vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị
thường tư duy tâm cao cử vi tánh” (thế nào là
tâm bằng với núi Tu Di? Tức là tâm thường tư
duy, mang tánh cao ngạo). Như núi Tu Di cao vượt các ngọn
núi khác, không ǵ có thể cao hơn được. Tâm người
này cũng thế, thường có tánh cao ngạo, thậm
chí đối với sư tăng, cha mẹ v.v… là các bậc
đáng tôn kính, đều chẳng thể nhún ḿnh, khác nào
tràng cao chẳng thể uốn cong. Nếu muốn uốn
cong, ắt sẽ găy, trọn chẳng thể thay đổi
thái độ thường nhật. Dùng nhẫn nhục,
khiêm tốn, nhún ḿnh, tưởng hết thảy chúng sanh là
đại sư;
[đó là cách] để đối trị [cái tâm này].
Thứ
năm mươi bảy, “vân hà hải đẳng tâm? Vị
thường như thị thọ dụng tự thân nhi trụ”
(thế nào là tâm bằng biển? Tức là tự thân
thường trụ trong thọ dụng như thế): Ví
như biển cả, trăm sông đổ vào, dung nạp
vô hạn. Tâm này cũng thế, hết thảy các sự
thù thắng đều quy vào chính ḿnh, tức là tỵ hiềm
kẻ khác chẳng có ai sánh bằng ḿnh, thường tự
chấp [chính ḿnh] có nhiều sở trường như thế,
tự hưởng thụ điều đó mà trụ. Cái
tâm trước (tâm bằng núi Tu Di) chú trọng cao ngạo,
c̣n tâm này chú trọng rộng nhiều. V́ thế nói là “bằng
với biển”. Hành giả đă nhận biết, hăy
nên nghĩ tới biển công đức lớn vô
lượng của Tam Hiền Thập Thánh lần lần
sâu rộng, tự nhắc nhở tâm hạnh của chính
ḿnh chưa thể bằng một mảy trần, một
giọt nước, chớ nên khởi tâm đại mạn!
Thứ
năm mươi tám, “vân hà huyệt đẳng tâm? Vị
tiên quyết định bỉ, hậu phục biến cải
vi tánh” (thế nào là tâm như hang hốc? Tức là bản
tánh trước đó đă quyết định, sau lại
thay đổi): Ví như đồ đựng nguyên vẹn,
cứng chắc, sau này nếu gặp duyên đục thủng
một lỗ, sẽ chẳng thể kham dùng được
nữa. Tâm này cũng thế, thoạt đầu th́ thọ
tŕ nhiều, về sau ṛ rỉ đôi chút. Hoặc lúc sơ
phát tâm thọ giới th́ trọn đủ chẳng thiếu,
chẳng lâu sau, dần
dần sanh ra pháp ṛ rỉ, giống
như đồ đựng đă hư, chẳng thể giữ
được pháp thủy. Phàm những trường hợp
như thế, đều gọi là “huyệt tâm”. V́ thế,
hành giả thường giữ sao cho mọi việc đă
làm đều đến đầu đến đũa.
Lại biết tánh ḿnh hay thay đổi,
đó chính là điều chướng ngại nhất
cho Bồ Đề tâm kiên cố;
dùng đó để đối trị cái tâm ấy.
Thứ
năm mươi chín, “vân hà thọ sanh tâm? Vị chư
hữu tu tập hạnh nghiệp bỉ sanh tâm như thị
đồng tánh” (thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu
tập hạnh nghiệp trong các cơi, sanh tâm có cùng tánh chất
giống như thế). Như người do bạch nghiệp
và hắc nghiệp mà hứng chịu quả báo thiện
hay ác, do đă tạo đủ mọi thứ xen tạp,
bèn thọ vô lượng thân sai biệt này nọ. Tâm này
cũng thế, các hạnh đă tu đều muốn hồi
hướng thọ sanh; hăy nên biết cái quả đạt
được cũng kiêm thiện ác. V́ thế, hành giả
hăy nghĩ thật sự chọn lựa thiện ác, trừ
khử điều bất thiện, thuần tu bạch
pháp. Trong các điều thiện như thế, lại chọn
lấy huệ, bỏ đi những quặng thô. Lần
lượt như thế, cho đến được
thành tựu diệu quả đề hồ thanh tịnh
thuần nhất. Đó là cách đối trị.
Tâm
thứ sáu mươi, bản tiếng Phạn thiếu phần
kinh văn, [Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Thiếu phần nói về
tâm khỉ vượn. Tánh của khỉ vượn là thân
tâm tán loạn, thường chẳng thể tạm yên. Hành
nhân cũng thế, tánh xáo động, chẳng
yên, cho nên nắm níu nhiều thứ, giống như khỉ
vượn nắm cái này, buông cái kia”.
Nói đại lược, chúng sanh toàn là
như thế cả, ở đây nói riêng về kẻ tâm
này quá thịnh. Trong ấy, dùng tâm tưởng “chẳng thuận
theo động mà tán loạn, buộc duyên nơi một cảnh”
để đối trị. Giống như nếu buộc
khỉ vượn vào cột, nó chẳng c̣n tùy hứng nhảy
nhót, quăng ném, nhào lộn; đó là cách đối trị.
Nhưng sáu mươi cái tâm ấy, có thể là có lúc bản
tánh của hành giả đặc biệt nhiều, hoặc
do hành đạo mà dấy động tập khí từ
trước, hoặc có lúc tưng bừng dấy lên, hoặc
lần lượt sanh khởi; hăy nên trong hết thảy mọi
lúc đều lưu tâm nhận biết, quán sát, tự nhiên
sẽ đạt được cái tâm Bồ Đề thuần
tịnh. Nếu bậc A-xà-lê v́ đệ tử b́nh ổn
cái tâm th́ cũng nên nhất nhất chọn lựa để
trừ khử vậy.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số,
phàm bách lục thập tâm, việt thế gian tam vọng chấp,
xuất thế gian tâm sanh, vị như thị giải duy
Uẩn vô Ngă, Căn, Cảnh, Giới, yêm lưu tu hành, bạt
nghiệp phiền năo chu ngột, vô minh chủng tử, sanh
thập nhị nhân duyên ly kiến lập tông đẳng.
Như thị trạm tịch, nhất thiết ngoại
đạo sở bất năng tri. Tiên Phật tuyên thuyết,
ly nhất thiết quá.
(經)祕密主!一二三四五再數,凡百六十心,越世間三妄執出世間心生,謂如是解唯蘊無我根境界,淹留修行拔業煩惱株杌、無明種子,生十二因緣離建立宗等。如是湛寂,一切外道所不能知。先佛宣說,離一切過。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Gấp đôi một, hai, ba, bốn,
năm lần [năm căn bản phiền năo], sẽ
thành một trăm sáu mươi tâm, vượt khỏi ba
tầng chấp trước hư vọng thuộc thế
gian, tâm xuất thế gian sanh ra, tức là hiểu “chỉ
có Uẩn, không có Ngă, Căn, Cảnh, Giới” như thế,
tu hành dằng dai[3]
ḥng nhổ trừ cội gốc của nghiệp và phiền
năo, chủng tử vô minh, sanh, mười hai nhân duyên, ĺa
các thứ đề xướng kiến lập v.v… Sự
tĩnh lặng sâu lắng như thế, hết thảy
ngoại đạo đều chẳng thể biết.
Điều được Phật tuyên nói trên đây ĺa hết
thảy lỗi).
Đây
cũng là giải đáp [câu hỏi] về các tâm tướng
và các sự khác lạ của tâm. Do có vô minh, sanh ra năm
món tâm phiền năo căn bản, tức là tham, sân, si, mạn,
nghi. Sở dĩ chẳng nói tới ngũ kiến, do chúng
thuộc về Kiến phiền năo, phần nhiều thuộc
vào sáu mươi tâm. Năm căn bản phiền năo ấy,
gấp đôi lần thứ nhất thành mười, gấp
đôi lần thứ hai thành hai mươi, gấp đôi lần
thứ ba thành bốn mươi, gấp đôi lần thứ
tư thành tám mươi, gấp đôi lần thứ
năm thành một trăm sáu mươi tâm. V́ thế nói: “Nhất,
nhị, tam, tứ, ngũ tái số, thành bách lục thập
tâm” ([lần lượt] gấp đôi một, hai, ba, bốn,
năm lần, [năm tâm căn bản phiền năo] sẽ
thành một trăm sáu mươi tâm). Do tâm phiền năo của
chúng sanh thường nương vào hai pháp, chẳng đạt
được Trung Đạo. V́ thế, tùy theo sự, do
khác tên, liền tách thành hai. Từ trong cái “hai” ấy, lại
lần lượt chia nhỏ hơn, danh tướng của
chúng th́ như trong mười vạn bài kệ đă nói cặn
kẽ. Nếu lại xét theo chín phẩm thượng,
trung, hạ v.v… sẽ thành tám vạn bốn ngàn trần
lao, nói rộng ra bèn thành vô lượng. Ví như từ một
hạt giống, sanh ra năm thứ căn bản, từ
một gốc cây mà tách thành hai nhánh, [lần lượt
tách nhánh như thế] tới lần thứ năm th́ thành
một trăm sáu mươi cành “tâm” nhỏ.
Từ đấy trở đi, lại càng tách ra nhiều
hơn, tức là cành lá chẳng thể kể xiết!
Lại
như thuở kiếp sơ, con người đều là
hóa sanh, dùng niệm làm thức ăn, thân quang tự nhiên an
lạc vô ngại. Nhưng do chẳng biết Thật
Tướng của cái tâm, hơi tham đắm chất béo
nơi đất. Do
tham vị ấy nhiều hay ít, mà h́nh sắc, dung mạo
theo đó đổi khác, cái tâm “đúng,
sai, thắng, thua”
do vậy mà nẩy sanh. Do có tâm kiêu mạn, phước lợi
suy giảm, chất béo nơi đất ẩn mất, cho
đến địa phu tràn trề cũng ẩn chẳng
hiện[4].
Kế đó, do ăn
gạo tẻ, tự
nhiên mới có nam, nữ v.v… Dâm, trộm, giết, dối
trá v.v… các thứ phi pháp lần lượt khởi lên. Chuyện
này được nói cặn kẽ trong kinh A Hàm. Từ
đấy tới nay, có đủ loại ḍng họ, đủ
loại phong tục địa phương, dấy lên
đủ mọi nghiệp phiền năo kết, tạo thành
đủ mọi đường chúng sanh, tạo ra đủ
loại thân Ngũ Ấm, nếu chẳng phải là bậc
Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể biết rơ cành
nhánh! Sở dĩ các vị A-xà-lê dùng chuyện này để
khuyên dạy con người, là v́ muốn biểu thị từ
một cái tâm vô minh, do thuận
theo sự việc mà chia nhỏ ra, trở thành A-tăng-kỳ
chấp trước hư vọng.
“Việt
thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh”
(vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng,
cái tâm xuất thế gian nẩy sanh): Nếu dùng Bồ
Đề tâm thanh tịnh làm tâm xuất thế gian, chính là
siêu việt hạnh Du Kỳ trong ba kiếp. [Kiếp] trong
tiếng Phạn là Kiếp-bả (Kalpa), có hai nghĩa: Một
là thời phần (một khoảng thời gian nhất
định), hai là vọng chấp (chấp trước
hư vọng). Nếu giải thích theo cách thông thường,
th́ vượt qua ba A-tăng-kỳ kiếp, sẽ
được thành Chánh Giác. Nếu giải thích theo lối
bí mật, vượt thoát hạnh Du Kỳ trong một kiếp,
tức là: Vượt thoát một tầng chấp trước
thô thiển trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ
được gọi là “một A-tăng-kỳ kiếp”.
Vượt khỏi hai kiếp hành Du Kỳ hạnh, lại
vượt thoát một tầng chấp trước hư
vọng vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, th́ gọi
là “hai A-tăng-kỳ kiếp”. Hành giả Chân Ngôn môn lại
vượt một kiếp, vượt thoát một tầng
chấp trước hư vọng cực vi tế trong một
trăm sáu mươi tâm, sẽ đạt tới sơ tâm
trong Phật huệ. V́ thế nói là “ba A-tăng-kỳ kiếp
thành Phật”. Nếu trong một đời mà vượt
thoát ba tầng chấp trước hư vọng, sẽ
thành Phật ngay trong một đời, c̣n luận định
thời phần chi nữa? Nhưng ngay trong tầng thứ
nhất, lúc tối sơ đă liễu
giải “chỉ có Uẩn, vô ngă”, liền gọi
là “tâm xuất thế gian sanh”. Vượt thoát khỏi
sáu mươi tâm thế gian [như đă nói trên đây], ĺa
khỏi căn bản Tam Độc do ngă điên đảo
sanh ra, th́ gọi là “việt tam trùng chấp” (vượt
khỏi ba tầng chấp trước).
Lại
c̣n có ba thứ chấp trước hư vọng, tức
là tu hành dằng dai nơi căn, cảnh, giới. “Căn”
là sáu căn, “cảnh” là sáu trần, “giới” là
sáu thức giới. Do trong ngoài mười hai giới[5]
tức là “căn, cảnh”, nên nói gộp chung. Đấy
chỗ vướng mắc của học nhân Tam Quả; v́
thế nói là “yêm lưu tu hành” (tu hành dằng dai).
Lại
có ba thứ vọng chấp, tức là nghiệp, cội gốc
phiền năo, và chủng tử vô minh, tức là chỗ khó
đoạn nhất của bậc thánh nhân Vô Học. Cho nên
có “ba thứ chấp trước hư vọng” vậy.
Người
học Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thoạt đầu
đạt được sơ tâm xuất thế, bằng
với Kiến Đạo của Tiểu Thừa, nhưng
chẳng đọa trong chánh vị của Thanh Văn. V́ lẽ
nào vậy? Do họ từ sơ phát tâm đă biết: Tâm
tánh chỉ v́ bị cái ngă điên đảo che lấp mà
chưa thể hiện tiền. Lúc bấy giờ, quán kỹ
Ấm, Giới, Nhập v.v… đều từ duyên sanh, biến
đổi vô thường; trong ấy, cái ǵ là Thần? Suy
t́m như thế, liền hiểu rơ Thần vốn bất
sanh, vượt thoát vô lượng lưới kiến chấp,
Bồ Đề tâm thanh tịnh sáng thêm ít phần. Do đạt
được thế lực của Bồ Đề tâm,
cho nên chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa; nhưng
do tâm hành giả có Pháp Chấp, nếu lúc tu Thiền Định
đạo phẩm và các thứ Độ, tuy chẳng từ
đó khởi lên các thứ điên đảo về ngă,
nhưng do tâm trụ trong các pháp như Thiền, Huệ v.v…
dùng dằng, tŕ trệ, chẳng thể nhanh chóng đạt
tới Bồ Đề. Do chẳng như thật khéo
vượt thoát, nên gọi là “yêm lưu tu hành” (dằng
dai tu hành);
nhưng cũng đă ĺa đôi chút ba thứ
chấp thuộc địa vị thấp hơn, có thể
dẹp trừ chủng tử của căn bản vô minh
trong nghiệp phiền năo, sanh khởi sự hiểu biết
về mười hai nhân duyên. Pháp rất sâu như thế,
dù có Phật hay không có Phật [xuất thế], tánh và
tướng vẫn thường như vậy. Như trong
phần trước đă nói, các thứ chấp trước
so đo như “kiến lập tịnh, chẳng kiến
lập vô tịnh” v.v… đều chẳng tương ứng.
Thậm chí trong tự tâm của các vị đại luận
sư như Trường Trảo, Tiên Ni v.v… dùng trí huệ
lợi căn để suy t́m Thật Tướng của
các pháp, cũng đều chẳng thể suy lường
được! Nghĩa của mười hai nhân duyên
như trong các kinh Đạo Can v.v… đă nói tỉ mỉ.
Nói “trạm
tịch” th́ Tịch nghĩa là bất sanh, tức năm
căn bản phiền năo và một trăm sáu mươi
tùy phiền năo v.v… đều rốt ráo chẳng sanh, nên gọi
là Tịch. “Trạm” nghĩa là rất sâu. Ví như
đầm nước trong, sâu vạn nhận[6],
lặng trong xuyên thấu như gương. Người
đến nh́n,
chẳng lường được đầm
sâu hay cạn. V́ thế, nói “ba con thú
vượt sông, xét theo vết chân mà mỗi con thú đạp
tới, chỉ riêng đại hương tượng vương có
thể từ cạn tới sâu, đạp thấu tận
đáy sông”. Ở đây, người
thuộc tam thừa cùng dùng đạo vô ngôn thuyết để
thấu đạt Thật Tướng của các pháp,
nhưng Thanh Văn nhập pháp tánh cạn nhất. Do vậy, họ
chán sợ sanh tử, tự nói là “đă đắc Niết
Bàn”, sanh ư tưởng diệt độ. Bích Chi Phật
nhập sâu hơn, cho nên đối với sanh tử chẳng
e ngại cho lắm, nhưng chưa thể dùng sức
phương tiện để phát khởi đại bi.
Khi Bồ Tát ngộ pháp như thế, biết là tâm cấu
đă dần dần trừ. Do vậy, tịnh tâm dần
hiện. Lúc bấy giờ, liền dốc sức nơi Bồ
Đề tâm, có thể chẳng trụ đạo, mà học
các thứ Độ môn. V́ thế, cùng trong một pháp
như trên đây mà thăng trầm khác biệt!
Kinh
dạy “nhất thiết ngoại đạo sở bất
năng tri” (hết thảy ngoại đạo chẳng
thể biết): Trong tông này nói có hai loại ngoại đạo:
-
Ngoại ngoại đạo, ví như kẻ đích thân thấy
cái đầm trong vắt, đâm ra sanh ḷng sợ hăi, chẳng
dám đến gần.
- Nội
ngoại đạo: Tuy có thể bơi lội trong đó,
vừa khéo trừ nóng bức, hưởng niềm vui mát mẻ,
nhưng chẳng biết trong ấy có vô lượng bảo
vương.
Một
đằng là do chẳng nhập nên không biết, một
đằng là tuy nhập mà chẳng biết. V́ thế, nói
là “hết thảy ngoại đạo chẳng thể biết”.
“Tiên
Phật tuyên thuyết ly nhất thiết quá” (điều
được chư Phật tuyên nói trên đây ĺa hết
thảy lỗi): Ư nói mười phương ba đời
chư Phật chỉ có một môn này, khuyên dụ quần
mê thoát khỏi nhà lửa. Chỗ ấy chẳng c̣n chướng
ngại, các hư luận chẳng sanh. V́ thế, các loại luận
sư theo các
loại thuyết Nhân Lượng chẳng thể
vượt khỏi lỗi ấy.
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Bỉ xuất thế
gian tâm trụ Uẩn trung, hữu như thị huệ tùy
sanh. Nhược ư Uẩn đẳng, phát khởi ly
trước, đương quán sát tụ mạt, phù bào, ba
tiêu, dương diễm, huyễn đẳng, nhi đắc
giải thoát, vị Uẩn, Xứ, Giới, năng chấp,
sở chấp, giai ly pháp tánh. Như thị chứng tịch
nhiên giới, thị danh xuất thế gian tâm. Bí Mật Chủ!
Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền
năo vơng, thị siêu việt nhất kiếp Du Kỳ hạnh.
(經)祕密主!彼出世間心住蘊中,有如是慧隨生。若於蘊等發起離著,當觀察聚沫、浮泡、芭蕉、陽焰、幻等而得解脫。謂蘊處界能執所執皆離法性,如是證寂然界,是名出世間心。祕密主!彼離違順八心相續業煩惱網,是超越一劫瑜祇行。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Cái tâm xuất thế
gian ấy
trụ trong Uẩn, có huệ như thế tùy thuận sanh
khởi. Nếu đối với các thứ như Uẩn
v.v… mà phát khởi
cái tâm ĺa chấp trước, hăy nên quán sát bọt nước
đọng, bong bóng nước, cây chuối, ánh nắng gợn,
huyễn v.v… để được giải thoát,
nghĩa là Uẩn, Xứ, Giới, cái có thể chấp, cái
bị chấp trước đều ĺa khỏi pháp tánh.
Chứng cảnh giới vắng lặng như thế, gọi
là “tâm xuất thế gian”. Bí Mật Chủ! Tâm ấy ĺa khỏi
tám tâm tiếp nối trái nghịch hay tùy thuận thế
gian thuộc lưới phiền năo,
th́ gọi là siêu việt hạnh Du Kỳ
trong một kiếp).
Nhưng
chưa vượt thoát pháp chướng, sẽ chẳng thể
gọi là “Bồ Đề tâm thật sự thanh tịnh”
được! Như hoa sen tuy đă ĺa bùn nhơ,
nhưng chưa nổi trên mặt nước. V́ thế,
kinh nói: “Xuất thế gian tâm trụ Uẩn
trung” (tâm xuất thế gian trụ trong Uẩn). Do hành
giả trong Du Già, tuy cái tâm lặng trong đă hiển lộ
rơ ràng, nhưng khi dính líu tới Sự,
th́ Căn, Trần, Thức v.v… vẫn c̣n canh cánh bên ḷng. Do
chán sợ pháp hữu vi, nên chấp trước pháp vô vi,
nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, tự
nhiên chẳng do người khác dạy [mà phát sanh trí huệ]. Do có trí huệ thuận theo [thế
lực của Bồ Tát tâm] mà sanh ra như thế, bèn có thể
từ trong Uẩn v.v… mà phát khởi cái tâm, tu phương
tiện ĺa chấp trước, từ năm thí dụ mà
quán sát Vô Tánh Không.
Câu
thứ nhất là “quán sát tụ mạt” (quán sát bọt
nước đọng). Giống
như bọt nổi trên mặt nước, tuy mắt có
thể thấy đủ mọi h́nh sắc, nhưng t́m cầu
th́ tánh [của nó] thật sự trọn chẳng thể
được! Sắc Ấm cũng thế, dù thô hay tế,
không ǵ chẳng sanh từ các duyên. Đă do duyên sanh, mà sanh
th́ vô tánh, tức là Sắc vốn bất sanh. Câu kế
đó, “phù bào” là như khi tiết Hạ, trời
đổ mưa rào,
nước mưa nổi bong bóng, cũng chỉ thuộc
vào các duyên. Dùng bốn câu ấy (quán bọt nước nổi,
bong bóng, cây chuối, ánh nắng gợn) để quán th́
đều là chẳng khởi lên hay diệt mất. Thọ
Ấm cũng thế, các chuyện khổ, lạc v.v… đều
cùng là do t́nh (căn) và trần ḥa hợp mà sanh. Hễ là do
duyên [mà hiện hữu] th́ là vô tánh, tức là Thọ vốn
bất sanh. Câu kế đó là “dương diễm”,
như trong tháng Xuân, hơi đất bốc lên, ánh nắng
chiếu vào, nh́n từ xa như có nước. Kẻ mê muội,
khát nước, sanh tâm truy cầu, bươn bả sốt
sắng đuổi theo thật xa. Chúng sanh cũng thế,
chẳng biết “duyên khởi tánh Không”, sanh ư tưởng
cho rằng có pháp. Kế đó là “ba tiêu” (cây chuối),
Như người t́m cầu lơi chắc của cây chuối,
thậm chí bóc tách từng phần, cho đến gần
như chẳng c̣n ǵ, vẫn chẳng thể được!
Hành Ấm cũng thế! Hễ hơi dính vào cảnh dấy
động, không ǵ chẳng sanh từ các duyên. Do duyên sanh
th́ vô tánh, tức là Hành vốn bất sanh. Kế đó là “huyễn
sự”, như chú thuật hoặc dược lực
trong thế gian mê hoặc ḷng người, hiện ra đủ
mọi thứ chưa từng có. Thức Ấm cũng thế,
từ một niệm vô minh huyễn tâm mà thoạt đầu
xuất hiện tam giới, xét đến cội gốc, sẽ
đều là chẳng sanh diệt, đến, đi.
Hăy
nên biết: Do từ các duyên mà sanh th́ chẳng có tự tánh,
cũng lại vốn là bất sanh. Trong kinh của Thanh
Văn tuy nói năm thí dụ này, nhưng ngụ ư nói về
vô ngă. Nay năm thí dụ ở đây, ư nói “tánh của
các Uẩn là Không”. Như quán Ngũ Uẩn, sẽ biết
mười hai Nhập, mười tám Giới, lục nhập,
mười hai duyên v.v… đều nên nói phân biệt tỉ
mỉ như trong
kinh Đại Bát Nhă đă nói. Khi hành giả quán sát như
thế, từ Vô Tánh Môn, thấu đạt “các pháp tức
là Không”, bèn ĺa một tầng pháp điên đảo, biết
rơ tâm tánh. Như thế sẽ chẳng bị Uẩn, Giới,
Xứ, năng chấp, sở chấp lay động. V́ thế,
gọi là “chứng tịch nhiên giới”. Khi chứng
tịch nhiên giới, sẽ dần dần vượt khỏi
cảnh giới Nhị Thừa, như hoa sen tuy chưa nở
x̣e, nhưng đă hơi vượt ngoài ḍng nước.
Hành giả cũng thế, tâm chẳng c̣n ch́m lỉm trong Uẩn,
nên gọi là “xuất thế gian tâm”. Nếu dịch
sát nghĩa, hăy nên nói là “tâm vượt ngoài thế gian”.
“Bí
Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục
nghiệp phiền năo vơng” (Bí Mật Chủ! Người
đó ĺa khỏi tám cái tâm liên tục trái nghịch hay tùy thuận
thế gian thuộc lưới phiền năo): Như trong phần
trước đă nói [các giai đoạn] “chủng tử, rễ,
nứt vỏ”
v.v… và quy y Tam Bảo là thiện pháp thực hiện tŕ trai,
bố thí của nhân thiên thừa, đều là tám cái tâm tùy
thuận thế gian. Nếu tam thừa vừa mới phát
đạo ư, đạt tới mức dẹp trừ chủng
tử của căn bản vô minh nơi nghiệp phiền
năo sanh ra mười hai nhân duyên, th́
gọi là “vi thế bát tâm” (tám tâm
trái nghịch thế gian). Hoặc xét theo các phần vị
như Kiến Đạo, Tu Đạo v.v… đă có, đều
tự có tám tâm. Do hành giả Đại Thừa liễu
đạt “tánh của các Uẩn là Không”, trong hết
thảy các pháp đều chẳng chấp lấy, mà
cũng chẳng ĺa bỏ, cùng ĺa hai thứ tám tâm tùy thuận
hay trái nghịch và Ngă Uẩn thuộc lưới nghiệp
phiền năo điên đảo, th́ gọi “siêu việt hạnh
Du Kỳ trong một kiếp”.
Du
Già dịch nghĩa là “tương ứng”, nếu nói
theo [danh từ] giống cái th́ là Du Kỳ (Yogi). Nói “tương
ứng” tức là người có quán hạnh ứng với
lư. Giải thích theo lối thông thường, sẽ là Bồ
Tát từ sơ phát tâm cho tới nay, trải qua một
đại A-tăng-kỳ kiếp mới chứng tịch
nhiên giới như thế. Nay là tông Bí Mật, chỉ
vượt thoát một tầng chấp trước hư
vọng này, th́ chính là “vượt
thoát một A-tăng-kỳ kiếp”. Khi hành giả
chưa vượt khỏi một kiếp ấy, có địa
vị bằng với Bích Chi Phật, th́ gọi là “cực
vô ngôn thuyết xứ”. Lúc bấy giờ, tâm trầm trệ
nơi pháp tướng vô vi, nếu đánh mất
phương tiện, sẽ phần nhiều đọa
trong địa vị Nhị Thừa, chứng Tiểu Niết
Bàn. Nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, vẫn
có thể phát khởi bi nguyện. Từ đấy trở
đi, đường nẻo của ba thừa mới tách
rời, nhưng do nhân và pháp được quán đều
là Không, chưa thật sự cách biệt vời vợi với
các tông như Thành Thật, v́ vẫn dựa theo lư Thiên Chân
để thực hiện b́nh đẳng quán. V́ thế, luận
chung tâm xuất thế gian thượng, trung, hạ của
ba thừa thành một A-tăng-kỳ kiếp, cho tới
A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới khác hẳn Nhị
Thừa!
(Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ!
Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngă tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ văng
tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn A Lại Da,
tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh,
hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành. Bí Mật Chủ!
Bỉ như thị xả vô ngă, tâm chủ tự tại,
giác tự tâm bổn bất sanh. Hà dĩ cố? Bí Mật
Chủ! Tâm tiền hậu tế bất khả đắc
cố. Như thị tri tự tâm tánh, thị siêu việt
nhị kiếp Du Kỳ hạnh. Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ
Tát hạnh chư Bồ Tát vô lượng vô số bách thiên
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng
công đức, trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng
trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu.
Thiên, nhân, thế gian chi sở quy y, xuất quá nhất thiết
Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, Thích
Đề Hoàn Nhân đẳng, thân cận, kính lễ.
Sở vị Không tánh ly ư căn, cảnh, vô tướng,
vô cảnh giới, việt chư hư luận, đẳng
hư không, vô biên nhất thiết Phật pháp y thử
tương tục sanh, ly hữu vi, vô vi giới, ly chư
tạo tác, ly nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư, cực vô
tự tánh tâm sanh. Bí Mật Chủ! Như thị sơ tâm,
Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền
năo, giải thoát, nhi nghiệp phiền năo cụ y, thế
gian tông phụng,
thường ưng cúng dường. Phục thứ Bí Mật
Chủ! Tín giải hạnh địa quán sát tam tâm, vô
lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp
Pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất
tư nghị, đăi thập tâm vô biên trí sanh, ngă nhất
thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi
đắc. Thị cố, trí giả đương tư
duy thử Nhất Thiết Trí tín giải địa, phục
việt nhất kiếp thăng trụ thử địa,
thử tứ phần chi nhất độ ư tín giải.
(經)復次祕密主!大乘行發無緣乘心、法無我性。何以故?如彼往昔如是修行者觀察蘊阿賴耶,知自性如幻、陽焰、影響、旋火輪、乾闥婆城。祕密主!彼如是捨無我、心主自在、覺自心本不生。何以故?祕密主!心前後際不可得故。如是知自心性,是超越二劫瑜祇行。復次祕密主!真言門修行菩薩行諸菩薩,無量無數百千俱胝那庾多劫積集無量功德智慧,具修諸行,無量智慧方便皆悉成就,天人世間之所歸依,出過一切聲聞辟支佛地,釋提桓因等親近敬禮。所謂空性離於根境,無相無境界,越諸戲論,等虛空,無邊一切佛法依此相續生,離有為無為界、離諸造作、離眼耳鼻舌身意極無自性心生。祕密主!如是初心,佛說成佛因故,於業煩惱解脫,而業煩惱具依,世間宗奉常應供養。復次祕密主!信解行地觀察三心,無量波羅蜜多慧觀四攝法。信解地無對無量不思議,逮十心無邊智生,我一切諸有所說,皆依此而得。是故智者當思惟此一切智信解地,復越一劫昇住此地,此四分之一度於信解。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi
tâm vô duyên thừa, do
các pháp chẳng có ngă tánh. V́ sao vậy? Như những vị
tu hành xưa kia, quán sát Uẩn, A Lại Da như thế,
biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, h́nh bóng, tiếng
vọng, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát Bà. Bí Mật Chủ! Họ
xả vô ngă như thế, tâm chủ tự tại, nhận
biết tự tâm vốn bất sanh. V́ sao vậy? Bí Mật
Chủ! Do tâm trong tiền tế và hậu tế đều
chẳng thể được. Biết tâm tánh như thế, bèn siêu việt hạnh
Du Kỳ trong kiếp thứ hai. Lại này, Bí Mật Chủ!
Trong Chân Ngôn môn, các
Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong vô lượng vô số
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô
lượng công đức, trí huệ, tu trọn các hạnh,
vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều
thành tựu, được
trời, người, thế
gian quy y, vượt khỏi hết thảy các địa
vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, được Thích Đề
Hoàn Nhân v.v… thân cận, lễ kính. Cái được gọi
là “tánh Không” ĺa khỏi căn,
cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, vượt
ngoài các hư luận, giống như hư không, vô biên hết
thảy các Phật pháp nương vào đây mà liên tục
sanh, ĺa khỏi hữu vi giới và vô vi giới, ĺa các tạo
tác, ĺa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sanh khởi
tâm vô tự tánh tột bậc. Bí Mật Chủ! Phật
nói sơ tâm như thế là cái nhân để thành Phật, tuy giải
thoát nghiệp phiền năo mà nghiệp phiền năo đều
nương trọn vào đó, được thế gian tôn phụng,
thường nên cúng dường. Lại nữa, Bí Mật
Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát tam tâm,
vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp
Pháp, tín giải địa chẳng có đối đăi, vô
lượng chẳng thể nghĩ bàn, do đối ứng
với mười tâm mà vô biên trí sanh, hết thảy những
điều ta đă nói đều do nương vào đây
mà ra. V́ thế, người trí hăy nên tư duy Tín Giải
Địa thuộc Nhất Thiết Trí này, lại vượt
qua một kiếp, tiến lên trụ trong địa vị
này. Đó
là vượt qua được một phần trong bốn
phần nơi tín giải).
Kinh
dạy: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Đại Thừa
hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngă tánh. Hà dĩ cố?
Như bỉ văng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn,
A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm,
ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành” (Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi
cái tâm vô duyên thừa, v́ tánh của pháp là vô ngă. V́ sao vậy?
Như các vị tu hành xưa kia quán sát Uẩn và A Lại Da
như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng
gợn, h́nh bóng, tiếng vang, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát
Bà), chính là nói tới tầng thứ hai, tức quán sát tánh của
pháp là vô ngă vậy! Tiếng Phạn là Măng-bát-la (Māpara), tức là “vô nghĩa”, mà cũng là “tha
nghĩa” (nghĩa khác). Nói “tha duyên thừa” tức
là phát đại thệ b́nh đẳng,
v́ pháp giới chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, cho đến
đối với “các Nhất Xiển Đề và hàng Nhị
Thừa chưa nhập chánh vị”, cũng nên dùng các thứ
phương tiện để chiết phục, nhiếp
thọ, khiến cho trọn khắp [mọi căn tánh]
đều cùng nhập thừa này. Do xét theo ḷng vô duyên đại
bi ấy, nên gọi là “tha duyên thừa”.
Lại
nữa, “vô duyên thừa” là cho tới A-tăng-kỳ
này, mới có thể quán sát thức A Đà Na[7]
sâu xa, vi tế, thấu hiểu
“tam giới duy tâm,
ngoài tâm chẳng có một pháp nào để có thể đạt
được”!
Nương theo cái tâm vô duyên ấy mà hành đại Bồ
Đề đạo, nên gọi là “vô duyên thừa”.
Cái tâm vô duyên thừa ấy chính là “pháp vô ngă tánh” (tánh của
pháp là vô ngă). Do hành giả trong kiếp đầu tiên
(A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất), khi tu quán hạnh,
tâm ch́m đắm trong Uẩn;
v́ thế, dùng năm thứ vô tánh Không môn để quán pháp
vô ngă. Nhưng xét theo Duyên Sanh Trung Đạo, th́ vẫn thuộc
vào Đối Trị Tất Đàn. Nếu đánh mất
phương tiện Bát Nhă, sẽ đọa vào đoạn
diệt, gọi là “ác thủ Không giả, lạm
phương quảng đạo nhân” (kẻ chấp trước Không mù
quáng, đạo nhân lạm dụng Phương Quảng, tức
Đại Thừa).
Nay Đại Thừa chẳng thể đạt được
tướng Không, mà tướng Không cũng chẳng thể
đạt được. Tuy quán các pháp vô sở hữu,
nhưng cũng là các pháp vô sở không (chẳng có ǵ là
Không). V́ thế, cần phải “ĺa Hữu đạo,
ĺa Vô đạo” để quán “tánh của các pháp là vô ngă”.
V́
muốn trừ sạch trí chướng (chướng ngại
nơi trí), bèn tùy thuận các Bồ Tát xa xưa tu học
quán Uẩn, A Lại Da, tức là [quán] tám thức, ba tánh (Biến
Kế Sở Chấp, Y Tha, Viên Thành Thật), ba vô tánh
(tướng vô tánh, sanh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh) trong
các kinh như Lăng Già, Giải Thâm Mật v.v… đều
là ư này. Kinh nói “tri tự tánh” (biết tự tánh) tức
là biết “tam giới duy tâm”. Sáu thí dụ “như
huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa
luân, Càn Thát Bà thành” (như huyễn, bóng nắng gợn,
h́nh bóng, tiếng vang, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát Bà) đều
là cùng biện định Hữu và Vô, nhằm nêu ra ư
nghĩa “duyên khởi riêng biệt” của Uẩn A Lại
Da, hơi khác với ư nghĩa của năm thí dụ về
quán vô tánh trong kiếp trước đó (A-tăng-kỳ kiếp
thứ nhất).
A Lại
Da có nghĩa là “bao hàm”, dịch sát nghĩa th́ là Thất
(căn pḥng), ư nói: Các Uẩn sanh và diệt trong đó, tức
nó là “sào huyệt” của các Uẩn; do vậy, đặt
tên như thế. Nhưng A Lại Da có ba loại nghĩa:
Một là nghĩa phân biệt, hai là nghĩa nhân duyên, ba là
nghĩa chân thật. Như trong phần kệ Cầu Chân
Thật của Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, do nói “ly
nhị cập mê y, vô thuyết, vô hư luận” (ĺa chấp
trước vào hai bên và ĺa sự mê muội đối với
Y Tha Tánh, chẳng nói, chẳng hư luận), cho nên biết ba
tánh đều là chân thật. Nói “ly nhị” tức là
Phân Biệt Tánh chân thật, do năng (cái có thể phân biệt)
và sở (các pháp được phân biệt) đều rốt
ráo chẳng có! “Mê y” tức là nói về [sự mê muội đối với] Y
Tha Tánh chân thật. Do từ tánh này mà dấy lên các phân biệt.
“Vô thuyết, vô hư luận” (chẳng
nói, chẳng hư luận) là nói Chân Thật
Tánh chân thật, do tự tánh chẳng có hư luận.
Kế
đó, [Trang Nghiêm Luận] nói bài kệ thí dụ về Cầu
Chân Thật rằng: “Như bỉ khởi huyễn
sư, thí thuyết hư phân biệt, như bỉ chư
huyễn sự, thí thuyết nhị chủng mê” (như
đối với các thứ được huyễn thuật
sư biến hóa ra, dù là thí dụ hay diễn nói đều
là phân biệt hư vọng. Đối với các huyễn
sự ấy, th́ dùng thí dụ hay ngôn ngữ để diễn
tả, cả hai đằng đều là mê). Giải rằng:
Như huyễn sư (người làm ảo thuật)
nương vào sức chú thuật, biến hóa gỗ, đá
v.v… [thành vàng, bạc, của báu] để
làm cái nhân gây nên sự mê hoặc. Y Tha Tánh
phân biệt hư vọng cũng giống như thế, dấy
lên đủ loại phân biệt, tạo
thành cái nhân điên đảo. Lại như các thứ
tướng mạo hư huyễn như vàng v.v… hiển hiện,
tánh phân biệt được dấy lên cũng giống
như thế. Do mê đối với hai thứ năng thủ
(tâm chấp giữ) và sở thủ (đối tượng
được chấp giữ) mà chúng luôn luôn hiển hiện.
Kế
đó, [luận ấy] nói kệ rằng: “Như bỉ
vô thể cố, đắc nhập Đệ Nhất
Nghĩa. Như bỉ khả đắc cố, thông đạt
Thế Đế thật” (Như do các thứ ấy chẳng
có Thể, bèn được nhập Đệ Nhất
Nghĩa. Nếu thông hiểu lẽ ấy, bèn thông đạt
lẽ Thật nơi Thế Đế). Trong ấy, có ư
nghĩa: Như các huyễn sự ấy chẳng có thật
thể; đó là sánh ví hai tướng Y Tha và Phân Biệt
cũng chẳng có thật thể. Do đạo lư ấy,
liền thông đạt cái Đệ
Nhất Nghĩa Đế. Lại nữa, “như
huyễn” là cái Thể của huyễn sự cũng chẳng
thể được. Đấy là sánh ví hư vọng
phân biệt cũng giống như thế. Do đạo lư ấy,
liền thông đạt cái Thật nơi Thế Đế.
[Luận
ấy] lại có bài kệ rằng: “Bỉ sự vô thể
cố, tức đắc chân thật cảnh. Như thị
chuyển y cố, tức đắc chân thật nghĩa”
(Do chuyện ấy chẳng có thể, liền đạt
được cảnh chân thật. Do chuyển y như thế,
liền đạt được nghĩa chân thật). Giải
rằng: Nếu ai hiểu rơ các huyễn sự ấy chẳng
có Thể, sẽ đạt được thật cảnh
nơi gỗ v.v… Nếu các Bồ Tát hiểu rơ hai thứ
mê đó chẳng có Thể, th́ khi chuyển y[8]
sẽ liền đạt được ư nghĩa “chân
thật tánh”.
Kệ
lại nói rằng: “Thị sự bỉ xứ hữu. Bỉ
hữu thể diệc vô, hữu thể vô hữu cố,
thị cố thuyết thị huyễn” (Chuyện này nếu
có ở nơi kia, th́ Thể của cái
Có đó cũng
là chẳng có. Do Thể của cái Có chẳng có. Cho nên nói là
huyễn). Bài kệ này chỉ rơ “huyễn sự tuy có mà
chẳng phải là có”. V́ sao vậy? “Có” tức là
nói đến các sự thuộc về huyễn tượng,
chúng được hiển hiện ở nơi đó
(nơi huyễn thuật sư biến hiện). “Phi hữu”
là nói chẳng thể đạt được thật thể
của chúng. Do Thể của Hữu và Thể của Vô
như thế chẳng hai, do nghĩa đó mà nói chúng là huyễn.
Kệ
lại nói: “Vô thể, phi vô thể, phi vô thể tức
thể, vô hữu thể vô nhị, thị cố thuyết
thị huyễn” (“Vô thể” chẳng phải là không có Thể,
“chẳng phải vô
thể” chính là Thể.
Do Thể của hữu
và vô chẳng hai, nên nói nó là huyễn). Bài kệ này nói: Huyễn
sự chẳng phải có, mà là có. V́ sao vậy? “Chẳng
phải có” tức là nói huyễn sự ấy chẳng
có Thể, do nó chẳng có thật thể. “Mà là có” tức
là huyễn sự chẳng phải là vô thể, do nó có h́nh
tượng hiển hiện. V́ hữu thể và vô thể
chẳng hai như thế, do nghĩa này mà nói nó là huyễn.
Cái huyễn ấy nhằm sánh ví các Uẩn. V́ thế, hăy
nên biết: Phân biệt hư vọng là có, nhưng chẳng
phải là có. V́ sao vậy? H́nh bóng của hai thứ ấy
hiển hiện, nhưng chẳng thể t́m được
thật thể của chúng! Do vậy nói Sắc v.v… hữu
thể chính là vô thể. Lại nữa, phân biệt hư vọng
“chẳng phải có mà có”. V́ sao vậy? Cả hai đều
chẳng có thật thể, nhưng do có h́nh bóng hiển hiện,
nên nói Sắc v.v… vô thể và hữu thể chẳng hai. Do
hữu và vô chẳng hai, có thể ngăn che sự kiến
lập phỉ báng và tiến hướng Tịch Diệt của
Tiểu Thừa. V́ lẽ nào vậy? Do từ vô thể mà
hiểu biết “không
có Thể”;
v́ vậy, chẳng nên an lập. Do từ hữu thể mà
biết Thế Đế, cho nên chẳng phỉ báng. Lại
do hai thứ ấy chẳng khác, chớ nên chán ghét Thể
mà nhập Tiểu Niết Bàn.
Kệ
ấy lại nói: “Huyễn tượng cập thủ
huyễn, mê cố,
thuyết hữu nhị. Như thị vô bỉ nhị, nhi
hữu nhị khả đắc. Cốt tượng cập
thủ cốt, quán cố,
diệc thuyết nhị. Vô nhị diệc thuyết nhị,
khả đắc diệc như thị”
(đối với h́nh tượng hư huyễn và sự
chấp trước hư huyễn, do mê nên nói là có hai thứ.
Vốn chẳng có hai thứ như thế, mà thành ra có hai
thứ để có thể đạt được.
Như đối với h́nh tượng xương và chấp
trước tướng xương ấy, do quán [rồi
chấp có tướng xương] nên cũng nói là hai. Tuy
chẳng hai mà nói là hai, đối với những ǵ [ta cho
rằng] có thể đạt được th́ cũng phải
hiểu giống như thế)[9]
Bài kệ trước có ư nói: Kẻ mê đối
với cảnh tượng hư huyễn, bèn chấp huyễn.
Do đă mê, nên nói có hai chuyện là năng thủ và sở
thủ (tức là có người chấp và pháp bị chấp).
Hai chuyện ấy tuy chẳng có, nhưng có thể đạt
được hai thứ là do
mê mà chúng hiển hiện. Bài kệ sau có ư nói: Người
quán hạnh cũng thế, đối với h́nh tượng
các khớp xương móc vào nhau [khi quán cốt tỏa thành
tựu] và sự chấp trước đối với
tướng xương, do quán bèn nói có hai chuyện là
năng quán (cái tâm để quán) và sở quán (đối
tượng được quán bởi cái tâm ấy). Tuy chẳng
có hai chuyện ấy, nhưng hai chuyện ấy cũng
đều có thể đạt được v́ do quán mà
chúng hiển hiện.
Hỏi
rằng: Đă quán như thế
là để đối trị pháp nào? Do
vậy, luận ấy lại nói hai bài kệ rằng: “Ưng
tri sở trị Thể, vị bỉ pháp mê tướng. Như
thị Thể vô thể, hữu phi hữu như huyễn.
Ưng tri năng trị Thể, niệm xứ đẳng
chư pháp, như thị Thể vô tướng, như huyễn
diệc như thị” (Hăy nên biết cái Thể của pháp
được đối trị, chính là do mê nơi tướng
của pháp ấy. Cái Thể như thế là vô thể, Có và Chẳng Có đều như
huyễn. Hăy nên biết cái Thể của sự đối
trị, các pháp như niệm xứ v.v… Cái Thể [của
các pháp] như thế đều là
vô tướng, như huyễn cũng giống như vậy).
Bài kệ trước có ư nói: Đối trị cái Thể
nào? Tức là [đối trị cái tâm] mê nơi tướng
của các pháp. Mê nơi tướng của các pháp tức
là mê nơi cái Thể như thế. Nhưng cái Thể
như thế có thể nói là Có v́ phân biệt hư vọng,
mà cũng có thể nói là Chẳng Có, do Thể của
năng thủ và sở thủ chẳng khác với phi Thể.
“Có” như thế cũng là như huyễn, mà “chẳng có”
cũng như huyễn. V́ thế, nói tướng ấy
như huyễn. Bài kệ sau có ư nói: Thể của cái “có thể đối
trị” chính là các pháp, tức
là [đối với các pháp để đối trị
như] Niệm Xứ v.v… do đức Phật đă nói th́
cái Thể [của các pháp] như vậy là như thế
đó. Thể của các pháp ấy cũng đều là như huyễn.
V́ lẽ nào vậy? Do phàm phu chấp lấy các pháp như
thế là “có Thể”, nhưng các pháp do
chư Phật đă nói như thế đều là vô thể! Cái Thể
như thế vô tướng, nhưng Phật Thế Tôn thị
hiện nhập thai, sanh ra, vượt thành, xuất gia,
thành Đẳng Chánh Giác. Tuy vô tướng như thế mà
hiển hiện bóng dáng, cho nên là như huyễn!
Hỏi:
Nếu các pháp đều cùng là như huyễn, do nghĩa
nào mà một đằng là cái có thể đối trị,
một đằng là pháp bị đối trị? Bài kệ
ấy giải đáp: “Thí như cường huyễn chủ,
linh dư huyễn tức thoái. Như thị thanh tịnh
pháp, năng linh nhiễm pháp tận” (Ví như huyễn
sư mạnh mẽ, khiến cho những huyễn sư
khác phải thoái lui. Pháp thanh tịnh như thế có thể
khiến cho nhiễm pháp chẳng c̣n). Do bởi nghĩa này,
tuy Bồ Tát tu các hạnh, nhưng chẳng có ǵ để
đạt được. Luận ấy nói về quán sát
Uẩn A Lại Da, biết rơ tự tánh như huyễn, phù
hợp với kinh này nhất, cho nên tôi trích dẫn đầy
đủ.
Hăy
nên biết: Đối với ánh nắng gợn
(dương diễm), h́nh bóng, tiếng vọng, ṿng lửa
xoay, thành Càn Thát Bà cũng nên nói rộng như thế.
Trước năm thí dụ ấy, có [các thí dụ như]
bọt nước, bong bóng [khi trời
mưa], cây chuối. Sở dĩ ở đây
chẳng bàn tới, v́ ba chuyện ấy vẫn kèm theo cách
phân tích theo từng tầng để giảng về Vô Tánh
Không, c̣n các thí dụ như huyễn, bóng nắng gợn
v.v… ở đây chỉ mang ư nghĩa nói về cái Không khó hiểu
thuộc vào pháp “duy thức vô cảnh thể”, tức
là từ thô tướng mà chuyển biến, dung hội,
cho nên chẳng bàn tới [các thí dụ bọt nước,
cây chuối]. Hành giả hiểu các Uẩn duy tâm, tức là
biết tự tánh của pháp. Khi chưa thấu hiểu tự
tánh như thế, do sợ đọa vào “hữu sở
đắc” (có cái để đạt được),
chẳng thể trọn hết Lư mà quán Hữu được.
Do sợ đọa vào đoạn diệt, chẳng thể
trọn hết Lư mà quán Không. [V́
thế], không chỉ là chẳng thấy Hữu
rơ ràng, mà cũng là chẳng thấy Không trọn hết. Nay
dùng các môn như huyễn v.v… để chiếu “Hữu
Không bất nhị”, tướng của Nhân Không và Pháp
Không cũng chẳng canh cánh bên ḷng, gọi là “thật sự
nhập Pháp Không, ngộ tánh Duy Thức”.
Kinh
dạy “Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô
ngă, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn bất
sanh” (Bí Mật Chủ! Người ấy xả vô ngă
như thế, tâm chủ tự tại, giác ngộ tự
tâm vốn chẳng sanh). “Tâm chủ” tức là tâm
vương. Do chẳng vướng mắc nơi Hữu
và Vô, tâm chẳng ngăn ngại, có thể tùy ư thực hiện
thành tựu diệu nghiệp. V́ thế nói là “tâm chủ
tự tại”. Tâm chủ tự tại, rơ ràng là Bồ
Đề tâm thanh tịnh. Lại chuyển lần nữa,
càng mở mang sáng suốt gấp bội kiếp trước
(A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất). Tâm vương giống
như nước ao, tánh vốn thanh tịnh. Trừ sạch
tâm số (tâm sở), giống như khách trần thanh tịnh.
V́ thế, khi chứng tánh này là tịnh, sẽ có thể tự
giác ngộ “tâm vốn chẳng sanh”. V́ sao vậy? Do tiền
tế và hậu tế[10]
của tâm đều chẳng thể được! Ví
như sóng ṃi trong biển cả, do từ duyên mà dấy
lên, chẳng phải là trước đó chẳng có th́ sau
đấy cũng chẳng có. Nhưng tánh nước chẳng
phải vậy, khi sóng ṃi do duyên mà dấy lên, chẳng phải
là trước đó không có tánh nước. Khi nhân duyên gây
ra sóng ṃi chấm dứt, chẳng phải là sau đó không
có tánh nước. Tâm vương cũng lại như thế,
chẳng có tiền tế và hậu tế, do tiền tế
và hậu tế đều đoạn. Tuy gặp gió cảnh
giới từ duyên mà dấy lên hay diệt mất, tâm tánh vẫn
thường chẳng sanh diệt. Giác ngộ cái tâm này vốn
chẳng sanh, tức là dần dần nhập vào môn chữ
A. Lúc bấy giờ, lại ĺa một tầng chấp
trước hư vọng vi tế thuộc một trăm
sáu mươi phiền năo nhiều như cát bụi, th́ gọi
là “A-tăng-kỳ kiếp thứ hai”. V́ thế, kinh
nói: “Tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp
Du Kỳ hạnh” (Biết tâm tánh của chính ḿnh, sẽ
vượt thoát hạnh Du Kỳ trong [A-tăng-kỳ] kiếp
thứ hai). Trong ấy, bao gồm các ư nghĩa như vô vi
sanh tử làm duyên nhân để sanh hay hoại v.v… như
các kinh luận Thắng Man, Bảo Tánh, Phật Tánh Luận
đă nói cặn kẽ. Nay do nói về ư nghĩa chủ yếu
ở đây, cho nên chẳng nói tường tận [các ư
nghĩa đó]. Nhưng xét cả quá tŕnh phát triển từ
đầu đến cuối trên đây, kể từ phát
khởi một mảy điều thiện cho đến
vượt thoát hai thứ chướng hữu và vô đối
với “nhân, pháp”, tuy điều được đề
cao rành rành là càng lúc càng sâu
dần hơn, hay khéo hơn, vẫn là đối trị cấu
trược ở ngoài tâm, vẫn chưa khơi mở các
loại chuyện bí mật chẳng thể nghĩ bàn trong
cái tâm này. Từ đây trở đi mới nói ra. Nếu chẳng
đối ứng để biện định như thế,
thường t́nh [chúng sanh] sẽ xuôi theo tập khí từ
trước, chẳng thể nhận biết sự vi diệu
ấy!
Kinh
dạy: “Phục thứ Bí
Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ
Tát, vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp
tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ
tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện,
giai tất thành tựu” (Lại
này Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hành Bồ
Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đă trong vô lượng vô số
trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp tích tập vô
lượng công đức trí huệ, tu trọn đủ
các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ
thảy đều thành tựu), tức là cái tâm muốn
vượt thoát [A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba. Do muốn
khiến cho kẻ thấy nghe đều tin ưa, tôn trọng,
bèn trước hết tán thán công đức ấy, có thể
dễ nhận biết điều này! Như Bồ Tát trong
các giáo khác, hành phương tiện đối trị đạo,
lần lượt dần dần trừ tâm cấu, trải
qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, có người
đạt tới Bồ Đề, hoặc chẳng đạt.
Nay các vị Bồ Tát trong giáo này chẳng phải vậy,
trực tiếp dùng Chân Ngôn làm phương tiện, siêu nhập
Bồ Đề tâm môn thanh tịnh. Nếu
lúc thấy tâm này, hiểu đạo, phước huệ
do các Bồ Tát đă tu tập trong vô số kiếp sẽ
tự nhiên trọn đủ. Ví như có người dùng
thuyền hay xe bôn ba, vượt qua đường ác hiểm
nạn dài năm trăm do-tuần[11].
Lại có một người nương vào thần thông
bay lên không trung để vượt qua, tuy chỗ trải
qua và chỗ đạt đến chẳng khác nhau,
nhưng pháp để vận dụng có sai khác.
Lại
nữa, sở dĩ đức Thế Tôn trước hết
rộng nói các tâm tướng như trên đây là v́ dạy
những người hành quán hạnh trong Chân Ngôn môn, nếu
lúc hành đến các cảnh giới ấy, cần phải
biết rơ, chớ nên chưa đạt tới mà nói là
“đă đạt tới”, đó tức là nấn ná giữa
đường! Lại như lúc thái tử của Luân
Vương mới sanh ra, các tướng trọn đủ,
chẳng bị thiếu khuyết. Tuy chưa thể tập
luyện trọn khắp các tài nghệ, thống ngự bốn
châu, nhưng đă có thể nắm giữ bảy báu, thành
tựu gia nghiệp của bậc thánh vương. V́ lẽ
nào vậy? Do [thái tử đă] đầy đủ bản
thể của Luân Vương. Hành giả Chân Ngôn vừa mới
nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại giống
như thế. Tuy chưa thể trong vô số A-tăng-kỳ
kiếp trọn đủ các hạnh Phổ Hiền, viên
măn phương tiện đại bi, nhưng công đức
bằng với các đức Như
Lai ấy đă
đều thành tựu. V́ lẽ nào vậy? Do đă trọn
đủ bản thể nơi Tỳ
Lô Giá Na Pháp Thân vậy. Ở đây, kinh dạy “vô lượng
vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập
vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư hạnh,
vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất
thành tựu” (trong vô lượng vô số trăm ngàn
câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng
công đức trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng
phương tiện trí huệ, thảy đều thành tựu).
Lại
như vương tử mới sanh, đă làm chỗ
ngưỡng vọng, quy hướng cho long thần và triệu
dân. Người mới phát Bồ Đề tâm thanh tịnh
cũng giống như thế, đă làm chỗ đại
quy y cho trời, người và kẻ
mê mất chánh đạo trong thế gian. Nếu xét theo các
bộ luận phán định dựa
trên đường lối thông thường,
th́ khi chứng tâm này, bèn gọi là Phật. Do vậy, hết
thảy các vị Thanh Văn, Duyên Giác v.v… như ngài Xá Lợi
Phất đă dốc trọn trí lực mà chẳng thể
ḍ lường được. Kinh dạy: “Sở vị
xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật
địa” (Đó gọi là vượt ngoài hết thảy
địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật). Do khi hành giả
đạt được cái tâm này, sẽ biết Tịnh
Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng hủy, thấy
thọ lượng dài lâu của đức Phật, thân Bổn
Địa và các vị Bồ Tát từ dưới đất
vọt lên như Thượng Hạnh v.v… cùng tụ hội
một chỗ. Dẫu là bậc tu đạo đối trị, gần
đạt tới địa vị Bổ Xứ trong Tích
Môn, vẫn chẳng biết một ai [trong số các vị
Bồ Tát thuộc Bổn Môn từ dưới đất
vọt lên]. V́ thế, chuyện này được
gọi là Bí Mật.
Lại
nữa, trong cái tâm thanh tịnh rốt ráo, vị Bồ Tát
này có thể nhóm họp trọn khắp chư Phật, Bồ
Tát trong mười phương pháp giới, cũng có thể
tự tới trọn khắp mười phương, cúng
dường các vị thiện tri thức, t́m cầu chánh
pháp, chỉ riêng vị ấy hiểu rơ. Chư thiên, người
đời chẳng thể biết được! Do nhân
duyên ấy, lại gọi là Bí Mật. Trong hai [A-tăng-kỳ]
kiếp trước, tuy nói là “độ
Nhị Thừa”,
nhưng các vị như Tu Bồ Đề v.v… do
nương theo oai thần của Phật mà có thể diễn
nói “nhân và pháp đều không”, nhưng đối với
Nhất Thừa bí mật này, sanh ḷng kinh nghi, chẳng biết
[thừa ấy] sẽ dẫn đến đâu, nên gọi
là “trực quá Thanh Văn, Bích Chi Phật địa”
(thẳng thừng vượt khỏi địa vị
Thanh Văn, Bích Chi Phật). Khi đó, chư thiên có đại
oai đức, do thấy Bồ Tát tâm chẳng có chỗ
nương tựa, đều sanh ḷng kính tín. V́ vậy,
Thích Đề Hoàn Nhân nguyện như thế này: “Kim thử
thượng nhân bất cửu thành Phật, nhược bỉ
thành Phật thời, ngă đương phụng Cát Tường
thảo” (Nay vị thượng nhân này không lâu sau sẽ
thành Phật. Nếu lúc Ngài thành Phật, tôi sẽ dâng cỏ
Cát Tường[12] [để trải ṭa ngồi]).
Tứ thiên vương cũng sanh ư niệm như sau: “Nhược
thử Bồ Tát thành Phật thời, ngă đương hiến
bát” (Nếu lúc vị Bồ Tát này thành Phật, ta sẽ
dâng bát). Phạm vương cũng sanh ư niệm như thế
này: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời,
ngă đương thỉnh chuyển pháp luân” (Nếu lúc
vị Bồ Tát này thành Phật, tôi sẽ thỉnh Ngài chuyển
pháp luân). V́ thế nói là “thân cận, kính lễ”.
Tán
thán công đức do nhập Chân Ngôn môn đă xong, hành giả
lại dùng pháp ǵ để nhập môn này? V́ thế, kế
đó, kinh dạy: “Sở vị Không tánh” (nói đến
tánh Không). Tánh Không tức là tánh của tự tâm b́nh đẳng
như hư không. Kinh văn trong phần trên nói “vô lượng
như hư không”, cho đến “Chánh Đẳng Giác
hiển hiện”, chính là sánh ví cái tâm này. Kiếp trước
(trong A-tăng-kỳ kiếp thứ
hai) đă ngộ “vạn pháp duy tâm, ngoài tâm chẳng có
pháp”. Nay quán cái tâm này chính là Tự Nhiên Trí của Như
Lai, mà cũng là thân trọn khắp hết thảy của
đức Tỳ Lô Giá Na. Do cái tâm là như thế, các pháp
cũng như thế. Căn và trần đều nhập
vào môn chữ A, cho nên nói: “Ly ư căn cảnh” (ĺa
khỏi căn và cảnh). Do h́nh bóng chẳng ra ngoài cơi
Thường Tịch Diệt Quang, nên nói là “vô tướng”.
Do trong Thật Tướng của tâm, Thật Tướng
của tâm trí giác, cảnh và trí đều là Bát Nhă Ba La Mật,
nên nói là “vô cảnh giới”. Nếu ở đây, dùng
mười thí dụ thuộc phần này để đối
ứng với mười thí dụ trong phần trước,
lại trở thành hư luận, nên nói: “Việt chư hư luận”
(vượt ngoài các hư luận).
Đoạn
trừ chủng tử phiền năo, nghiệp và thọ mạng
thuộc tầng thứ ba của một trăm sáu
mươi tâm vi tế, lại có mầm cây Phật nẩy
sanh, nên nói: “Đẳng hư không vô biên nhất thiết
Phật pháp” (hết thảy Phật pháp như hư
không vô biên). Nương vào sự sanh khởi liên tục
này, đă chẳng hoại nhân duyên, bèn nhập pháp giới,
cũng chẳng dao động pháp giới, tức là duyên
khởi. Hăy nên biết nhân duyên sanh diệt chính là pháp giới
sanh diệt, pháp giới chẳng sanh diệt tức là nhân
duyên chẳng sanh diệt. V́ thế nói: “Ly hữu vi vô vi
giới”. Dẫu Như Lai xuất thế hay chẳng xuất
thế, các pháp cũng vốn sẵn như thế mà trụ.
Cho nên nói: “Ly chư tạo tác” (ĺa các tạo tác).
Như trong kinh
Bát Nhă nói: “Nhất thiết pháp thú
nhăn, thị thú bất quá” (hết thảy các pháp quy nhập
vào mắt, lại chẳng có một pháp nào vượt khỏi
mắt)[13],
giống như trăm sông đổ vào biển, trọn chẳng
đổ vào đâu khác. V́ thế, hăy nên biết Nhăn chính là
Thật Tế bậc nhất. Trong Thật Tế bậc
nhất, mắt c̣n chẳng thể được, huống
hồ tiến nhập hay chẳng tiến nhập ư?
Tai, mũi, lưỡi, thân, ư cũng như thế, cho nên
nói: “Ly nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư” (ĺa mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, và ư).
Khi
hành giả đạt được huệ vi tế
như thế, quán hết thảy các pháp nhiễm tịnh
cho đến chút phần giống như lân hư trần,
không ǵ chẳng từ duyên sanh. Nếu là sanh
từ duyên, tức là chẳng có tự
tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức là vốn bất
sanh. “Vốn bất sanh” tức là Thật Tế của
cái tâm, nhưng Thật Tế của cái tâm cũng chẳng
thể được. V́ thế nói là “cực vô tự
tánh tâm sanh” (sanh khởi cái tâm vô tự tánh tột bậc).
Cái tâm ấy so với hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước,
giống như hoa sen nở x̣e trọn hết. Nếu so với
hai cái tâm sau đó, tức là quả lại thành hạt. V́
thế nói “như thị sơ tâm, Phật thuyết thành
Phật nhân cố, ư nghiệp phiền năo giải thoát,
nhi nghiệp phiền năo cụ y” (chư Phật nói sơ tâm như thế
chính là cái nhân để thành Phật, tuy nó giải thoát nghiệp
phiền năo, nhưng nghiệp phiền năo đều
nương trọn vào cái tâm ấy). Ở đây nói “Phật
thuyết” chính là đức Thế Tôn lấy mười
phương ba đời chư Phật làm chứng. Điều
này giống hệt như nói “dĩ thử nhất sự
nhân duyên, vị chúng sanh khai tịnh tri kiến” (dùng một
sự nhân duyên này để mở ra tri kiến thanh tịnh
cho chúng sanh). Khi hành giả giải thoát hết thảy nghiệp
phiền năo, liền biết “hết thảy nghiệp
phiền năo, không ǵ chẳng phải là Phật sự”, vốn
tự chẳng có trói buộc, sẽ khiến cho ai
được giải thoát? Như lương y biến chất
độc thành thuốc để dùng trừ các bệnh. Lại
như hư không chẳng ra ngoài các tướng mà muôn h́nh
tượng đều nương trọn vào đó.
Như khi trụ trong sự giải thoát chẳng thể
nghĩ bàn này, sẽ chính là A
La Hán thật sự, chẳng chấp trước hữu
vi và vô vi, đáng nhận sự cúng dường rộng lớn
của hết thảy thế gian. V́ thế, kinh dạy: “Thế
gian tông phụng, thường ưng cúng dường”
(thế gian tôn trọng, phụng sự, thường
đáng nên cúng dường).
Lại
nữa, do A-xà-lê muốn giảng rơ sự cúng dường ấy,
luận định chung ba [A-tăng-kỳ] kiếp từ
đầu đến cuối, liền nêu ra thí dụ về
bảo châu: Ví như có Như Ư Bảo Châu ở trong quặng
đá, do người đời chẳng biết, vứt
bên đường cái chẳng khác ǵ ngói, sỏi. Nhưng
người biết rơ chất báu do thấy có chút tướng
vừa mới tỏ lộ ra ngoài, liền nhận biết
[trong quặng đá có bảo châu]. Trước hết, dùng
đục sắt
sắc bén để đục bỏ đá tạp. Đục
gần đến vua chất báu
(Như Ư Bảo Châu), đá sẽ mềm
dần, lại dùng chất thuốc để ḥa tan, khiến
cho các chất cặn từ quặng đá tiêu trừ,
nhưng chẳng thương tổn chất báu. Lúc bấy
giờ, thô cấu đă trừ, vẫn c̣n tế cấu,
bèn rửa bằng nước tro, chùi bằng vải mịn,
dùng đủ mọi phương tiện
để chất báu sáng ngời. Đă tỏa ánh sáng,
đặt trên tràng cao, có thể thuận theo hết thảy
mong cầu mà tuôn ra trọn khắp các vật. Lúc bấy giờ,
người đời sanh ư tưởng kỳ đặc,
tôn trọng vật báu ấy như đại thiên, v́ nó có
thể thỏa măn trọn vẹn các điều ước
nguyện. Nhưng chất báu ấy đồng thời ứng
trọn khắp các tâm, khiến cho mỗi mỗi [ước
nguyện] sai khác đều đạt được, [vậy th́] các
vật ấy đă có sẵn từ trước trong chất
báu, hay là trước đó chẳng có? Nếu có sẵn từ
trước, viên châu bé nhỏ ấy sao có thể chứa
trọn khắp các vật? Nếu trước đó chẳng
có, sao lại có thể lập tức tuôn ra các vật? Tức
là tánh của vật báu thế gian ấy đă là chẳng
thể nghĩ bàn, huống hồ vật báu Bồ Đề
tâm của chúng sanh ư?
V́
thế, lúc thiện tri thức vừa mới thấy tám
tâm thế gian của chúng sanh chớm động, liền
biết đó là của báu thật
sự, biết lư “có thể gọt giũa”. Như người
đă từng nhận biết nhiều thứ báu nổi tiếng;
do vậy, vừa trông thấy liền biết ngay. Chư
Phật, Bồ Tát cũng thế, từ lâu đă đích
thân chứng biết “do một mảy thiện mà tự
đạt đến đạo đại Bồ Đề”.
V́ thế, soi xét t́nh kiến, căn cơ của chúng sanh,
liền đại hoan hỷ, dùng phương tiện
khuyên dụ, dẫn dắt, khiến cho họ thọ Tam
Quy, như đă nói phân biệt trong phần trên. Ví như nhặt
lấy tảng đá xù x́ đặt ở trong nhà. Kế
đó, dùng ba loại “tam tâm” để dẹp trừ cội
rễ nghiệp phiền năo và chủng tử vô minh, giống
như dùng đục sắt sắc bén để đục
đẽo, loại bỏ chất quặng thô tháp. Kế
đó, quán tánh
vô ngă của pháp vô duyên thừa, như
dần dần [đục đẽo] tới chỗ mềm,
bèn dùng dược vật để tiêu hủy [các chất
quặng thô] mà chẳng tổn thương [chất báu]. Kế
đó, sanh khởi vô cực tự tánh tâm, như dùng nước
tro lau chùi, mài bóng, khiến cho bảo
châu tột bậc sáng sạch. Lúc bấy
giờ, đă sanh trong nhà Phật, gọi là “đặt
trên tràng cao, tuôn ra các thứ báu”. Do nhân duyên ấy, kham nhận
sự cúng dường rộng lớn của thế gian. Nếu
hành giả trực tiếp từ Chân Ngôn môn mà trông thấy
chất báu trong tâm, như tiên nhân giỏi chú thuật, dùng
thần lực để giữ lấy. Tuy khéo, vụng,
khó, dễ khác nhau, nhưng đạt được vật
báu trọn chẳng khác lối! V́ thế, kinh này nói cặn
kẽ tâm tướng từ cạn đến sâu, đều
nhằm khai thị nhân duyên của Bồ Đề tâm từ
đầu đến đuôi. Nếu chỉ xét theo pháp
tướng thông thường, ắt chẳng thể nói “bí
mật to lớn của chư Phật nay ta đều khai
diễn”!
Kinh
dạy: “Bí Mật Chủ! Tín Giải
Hạnh
địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ
quán, Tứ Nhiếp pháp, tín giải địa vô đối,
vô lượng bất tư nghị, kiến lập thập
tâm,
vô biên trí sanh” (Bí Mật Chủ!
Địa vị Tín
Giải
Hạnh
quán sát ba tâm, vô lượng Ba La Mật huệ quán, Tứ
Nhiếp Pháp, địa vị tín giải chẳng đối
đăi, vô lượng chẳng nghĩ bàn, kiến lập
mười tâm, sanh khởi vô biên trí). Đấy là cái Tông của
kinh này. Từ Bồ Đề tâm thanh tịnh cho đến
địa vị Thập Trụ, đều là thuộc về
hạnh Tín
Giải,
chỉ có Như Lai được gọi là địa vị
Nhất Thiết Trí rốt ráo. Như trong kinh Hoa Nghiêm,
Sơ Địa Bồ Tát có thể tin tưởng, nhập
vào bổn hạnh của Như Lai, Tín
thành tựu các Ba La Mật, tín nhập
các địa vị thù thắng, tin vào sức thành tựu,
tin trọn đủ vô sở úy, tin sanh trưởng Phật
pháp bất cộng chẳng thể hoại, tin Phật pháp
chẳng thể nghĩ bàn, tin xuất sanh cảnh giới
Phật chẳng có ngằn hạn, tin tùy nhập vô lượng
cảnh giới của Như Lai, tin thành tựu quả.
Đối với các chuyện như thế, cái tâm ấy
rốt ráo chẳng thể phá hoại, lại c̣n chẳng bị
xoay chuyển theo các duyên khác. V́ thế, gọi là địa
vị Tín Giải Hạnh, cũng gọi là Tu Hành Địa.
“Quán
sát tam tâm” tức là do Căn mà xét kỹ cái tâm. Nếu luận
định chung trong địa vị Tín Giải, sẽ là
khi Sơ Địa Bồ Tát đạt được Bồ
Đề tâm như hư không vô cấu ấy, tự nhiên
sẽ sanh khởi mười đại nguyện trong
mười vô tận giới, cho đến trọn đủ
trăm vạn A-tăng-kỳ đại nguyện. Đó
là lấy Bồ Đề tâm làm nhân. Từ Nhị Địa
trở đi, tu thêm đại bi vạn hạnh, tức là
vô tận đại nguyện “mọc rễ” trong
mười pháp giới, cho đến dần dần
tăng trưởng. Từ Đệ Bát Địa trở
đi, đều gọi là Phương Tiện Địa.
Phật Tánh Luận giảng: “Cảnh giới từ Bát
Địa trở lên đều giống nhau, nhưng luận
theo phương tiện mà giáng cấp vậy”. Nếu
quán mỗi một địa, cũng sẽ đều có
ba tâm. Như dùng mười nhân duyên để được
nhập Sơ Địa, bèn gọi là “nhân duyên”.
Đă an trụ rồi, sẽ dùng các thứ đại bi vạn
hạnh để tịnh trị địa vị ấy,
gọi là Căn. Nói tới chuyện tịnh trị quả
tướng và nghiệp phương tiện trong mỗi
địa th́ gọi là “cứu cánh”. Những điều
khác đều chuẩn theo điều này. Vô lượng
Ba La Mật Đa, Tứ Nhiếp Pháp được nói
trong kinh này tức là trị địa. Hành giả từ
đây trở đi, chẳng c̣n có đối đăi, vượt
khỏi địa vị “tâm lượng chẳng thể
nghĩ bàn”, có mười tâm vô biên trí sanh khởi. Đấy
chính là quả tướng của Sơ Địa. Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Phát thập đại nguyện dĩ, tắc
đắc lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch
tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm
hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, vô
trược tâm” (Đă phát mười đại nguyện
rồi, liền đạt được lợi ích tâm,
nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều
phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch
tâm, bất động tâm, vô trược tâm). Kế đó,
lại thành tựu mười loại pháp nhằm tịnh
trị các địa, tức là từ, bi, hỷ, xả, chẳng
hề chán bỏ, biết các kinh luận khéo giảng giải pháp
thế gian, tàm quư, sức
cái nhân vững chắc, cúng dường chư Phật, y
giáo tu hành.
Lại
nữa, đă trụ trong địa vị ấy, khéo biết
chướng trong các địa, khéo biết mỗi địa
vị thành hoại, khéo biết tướng quả của
mỗi địa, khéo biết tu tập như thế nào
để chứng đắc địa vị, khéo biết
pháp thanh tịnh trong địa vị ấy, khéo biết
chuyển hạnh trong mỗi địa, khéo biết xứ
phi xứ[14]
trong mỗi địa, khéo biết trí thù thắng trong mỗi
địa, khéo biết bất thoái chuyển trong mỗi
địa, khéo biết tịnh trị hết thảy Bồ
Tát địa, cho đến chuyển nhập Như Lai
địa. Có nhiều loại “mười thứ tâm”
như thế, nếu rộng phân biệt, sẽ có trăm
vạn A-tăng-kỳ độ môn, cho nên nói là “vô biên
trí sanh”. Nếu xét theo ba tâm trước, sẽ nói thành
mười tâm.
Nếu
luận định thông thường về địa vị
Tín Giải, th́ Sơ Địa là chủng tử, Nhị
Địa là mầm, Tam Địa là nứt vỏ, Tứ
Địa là lá, Ngũ Địa là hoa, Lục Địa
là quả, Thất Địa là thọ dụng chủng tử,
Bát Địa là nương tựa vô úy; đó gọi là “quả
trong cái quả”. Cửu Địa sanh khởi trí huệ
tiến lên cầu Phật địa, tức là cái tâm tối
thắng. Thập Địa th́ tâm ấy quyết định.
Hai tâm ấy chẳng phải là cảnh giới khác, vẫn
thuộc vào tâm thứ tám, nhưng xét theo phương tiện chuyển biến
mà tách ra đó thôi! Nếu xét trong mỗi địa, th́
cũng tự có đủ mười tâm ấy. Vả nữa,
như khi trụ trong Sơ Địa, thành tựu pháp tịnh
trị các địa, và biết tướng của các
địa, tức là trước đó đă thấu hiểu
một địa. Nhờ vào đó làm nhân, trí huệ tăng
trưởng, bèn thấu hiểu hai
địa. Dùng mười tâm để suy luận
tương tự sẽ biết. Kinh Hoa Nghiêm có rất nhiều
“mười pháp môn”, cũng nên chuẩn theo thứ tự
ấy để rộng nói phân biệt. Nhưng điều
được đề cao trong kinh này là từ Sơ
Địa liền nhập kim cang bảo tạng. Đối
với mỗi điều được nói trong kinh Hoa
Nghiêm và kinh Thập Địa, theo như [Thiện Vô Úy] A-xà-lê
truyền dạy, đều cần phải giải thích
theo hai loại:
- Một
là giải thích nông cạn, sơ lược.
-
Hai là giải thích theo lối bí mật, sâu xa.
Nếu
chẳng thấu đạt mật hiệu như thế,
chỉ dựa theo văn tự để nói (tức là giải
thích nông cạn, sơ lược) th́ nhân duyên sự tướng
chỉ dính dáng đến phẩm Thập Trụ. Nếu
giải thích theo sự sanh khởi của mười sáu vị
đại Bồ Tát thuộc kinh Kim Cang Đảnh[15],
sẽ tự chứng biết.
Kinh
dạy: “Ngă nhất thiết chư hữu sở thuyết,
giai y thử nhi đắc” (hết thảy những
điều ta nói trong các cơi đều
dựa theo đây mà đạt được). Cảnh giới
vô tận trang nghiêm thuộc hết thảy các trí địa
trên đây và vô lượng Tu Đa La khác, hết thảy hạnh
quả được đức Phật khen ngợi, không
ǵ chẳng do điều này mà đạt được.
V́ thế, các kinh khác là rộng tán thán thân, lá, hoa, quả của
thụ vương (cây chúa) Sa La như thế; nay trong kinh
này, chỉ nói đến chủng tử và nhân duyên sanh
trưởng của thụ vương ấy. Nếu ĺa
nhân duyên ấy mà có thể thành tựu cái quả, sẽ chẳng
có lẽ ấy! V́ thế, xưng tụng kinh Đại Nhật
là vua, chẳng phải v́ lẽ này hay sao?
Kinh
lại nêu ra lợi ích để khuyên tu như sau: “Thị
cố,
trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết
Trí Tín Giải địa, phục việt nhất thiết, thăng trụ thử
địa” (v́ thế, người
có trí hăy nên tư duy địa vị Nhất Thiết Trí
Tín Giải này, lại vượt khỏi hết thảy
để tiến lên, trụ trong địa vị này), tức
là vừa mới nhập địa vị Tín Giải, lại
vượt qua một tầng Tế Hoặc của một
trăm sáu mươi tâm, gọi là “vượt thoát đại
A-tăng-kỳ kiếp thứ ba”. Khi hành giả mới
quán tánh Không, giác ngộ hết thảy các pháp đều
vào trong Thật Tế của cái tâm, dưới là chẳng
thấy chúng sanh có thể độ, trên là chẳng thấy
chư Phật để có thể cầu. Khi đó, vạn
hạnh ngưng nghỉ, gọi là “rốt ráo”. Nếu trụ vào đó, tức
là chẳng lui sụt, chẳng đọa xuống địa
vị Nhị Thừa, nhưng chưa tiến lên, đạt
tới địa vị Bồ Tát, th́ gọi là Pháp Ái Sanh,
cũng gọi là tâm vô kư. Nhưng do thế lực của Bồ
Đề tâm và sức gia tŕ của Như Lai, lại có thể
phát khởi bi nguyện. Khi đó, mười phương
chư Phật đồng thời hiện tiền để
khuyến dụ. Do được chư Phật dạy bảo,
[hành nhân] chuyển sanh cực vô tự tánh tâm, cho đến
Thật Tế của tâm cũng chẳng thể được.
Tuy giải thoát hết thảy các nghiệp phiền năo,
nhưng nghiệp phiền năo vẫn c̣n đầy đủ.
Đạt tới địa vị chẳng thể
nghĩ bàn này, mới gọi là “thật sự ĺa khỏi
địa vị Nhị Thừa”. Tức là đối với
ư nghĩa của ba câu trước đó, lại khơi mở
Phật địa là phương tiện tâm thượng
thượng. Khi đạt tới cái tâm thứ tư ấy,
gọi là Nhất Thiết Trí địa rốt ráo, nên nói
là “tứ phần chi nhất độ ư tín giải”
(vượt thoát một phần tư trong tín giải)
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn!
Nguyện cứu thế giả diễn thuyết tâm tướng,
Bồ Tát hữu kỷ chủng đắc vô úy xứ?”
Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn
cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Đế thính! Cực thiện
tư niệm! Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm
phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp,
đương đắc thiện vô úy. Nhược
như thật tri ngă, đương đắc thân vô úy.
Nhược ư thủ uẩn sở tập ngă thân, xả
tự sắc tượng quán, đương đắc
vô ngă vô úy. Nhược hại uẩn trụ pháp phan duyên,
đương đắc pháp vô úy. Nhược hại pháp
trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngă vô úy.
Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ,
năng chấp, sở chấp, ngă, thọ mạng đẳng,
cập pháp vô duyên Không, tự tánh vô tánh, thử Không trí sanh,
đương đắc nhất thiết pháp tự tánh
b́nh đẳng vô úy.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:世尊!願救世者演說心相,菩薩有幾種得無畏處?如是說已,摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言:諦聽,極善思念。祕密主!彼愚童凡夫修諸善業、害不善業,當得善無畏。若如實知我,當得身無畏。若於取蘊所集我身捨自色像觀,當得無我無畏。若害蘊住法攀緣,當得法無畏。若害法住無緣,當得法無我無畏。若復一切蘊界處、能執所執、我壽命等及法無緣空、自性無性,此空智生,當得一切法自性平等無畏。
(Kinh: Lúc bấy giờ,
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức Phật
rằng: “Bạch Thế Tôn! Nguyện đấng cứu
thế diễn nói tâm tướng, Bồ Tát có mấy loại
vô úy xứ?” Nói như thế xong, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế
Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lắng nghe! Hăy suy niệm
cực khéo! Này Bí Mật Chủ! Phàm phu giống như trẻ
nít ngu
muội, tu các
thiện nghiệp, trừ bỏ bất thiện nghiệp,
sẽ đạt được sự không sợ hăi tốt
lành. Nếu biết ngă đúng như thật, sẽ đạt
được thân vô úy. Nếu đối với cái thân do
thủ uẩn nhóm họp của chính ḿnh mà ĺa bỏ cái thấy
[chấp trước] đối với h́nh sắc của
chính ḿnh, sẽ đạt được vô ngă vô úy. Nếu
trừ khử sự nắm níu đối với pháp uẩn
trụ, sẽ đạt được pháp vô úy. Nếu
trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đắc pháp vô
ngă vô úy. Nếu lại đối với hết thảy Uẩn,
Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp,
ngă, thọ mạng v.v… và Pháp Vô Duyên Không mà biết là tự
tánh vô tánh, do Không trí ấy sanh khởi, sẽ đạt
được sự vô úy b́nh đẳng nơi tự tánh
của hết thảy các pháp).
Đoạn này vẫn nhằm
đáp câu hỏi về tâm tướng (tướng trạng
của cái tâm) trong phần trước. Do ngài Kim Cang Thủ
đă nghe [đức Thế Tôn] dạy các Bồ Tát hăy tiến
thẳng lên địa vị Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, nên hỏi
đức Thế Tôn: “Khi các vị Bồ Tát ấy hành
đạo, sẽ có mấy chỗ không sợ hăi?” Đức
Phật lại dựa theo ba [A-tăng-kỳ] kiếp sai biệt
như đă nói trên đây để giải thích
tương ứng.
[Vô Úy Xứ trong] tiếng Phạn
là A Thấp Phạ Sa (Assāsaniyā), phải nên dịch
sát nghĩa là Tô Tức (蘇息, hồi phục
hơi thở). Như người bị kẻ có sức mạnh
nắm giữ, bóp họng ngộp thở, sắp chết
ngất, bỗng được buông ra, lại được
hồi tỉnh. Chúng sanh cũng giống như
thế, bị vọng tưởng nghiệp phiền năo
trói buộc, các duyên tiếp xúc (các giác quan) đều bị
đóng chặt, đến lúc này, lục xứ như
được tái sanh, nên gọi là Tô Tức Xứ (chỗ
được phục hồi hơi thở). Cũng
như khi vượt qua đường hiểm ác, cái tâm
thơ thới, chẳng sợ hăi, nên gọi là Vô Úy Xứ.
Đức Phật dạy: “Bí Mật Chủ! Bỉ ngu
đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất
thiện nghiệp, đương đắc thiện vô
úy” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội,
tu các nghiệp lành, trừ khử nghiệp chẳng lành, sẽ
đạt được vô úy tốt lành): “Thiện”
bao gồm hai nghĩa cạn và sâu. Ở đây, có ư nói về
Thập Thiện Nghiệp Đạo. Như người
đời do nhân duyên Thập Bất Thiện Đạo mà
hụp lặn, trôi giạt trong đường ác chẳng
cùng tận. Sau đó, do đạt được tám tâm thuận
thế, dần dần thọ Tam Quy Ngũ Giới, trong vô
lượng đời, sanh trong loài người hoặc
chư thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, tránh khỏi
nỗi khổ cùng cực trong tam đồ, th́ gọi là Tối
Sơ Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn vừa mới
nhập tam-muội-da, nương theo Tam Mật để
cúng dường, tu hành, địa vị sẽ ngang bằng
[với Tối Sơ Tô Tức Xứ].
Kinh
dạy: “Nhược như thật tri ngă,
đương đắc thân vô úy” (nếu đúng
như thật biết ngă, sẽ đạt được
thân vô úy): Như lúc hướng về thân để tu quán,
thấy thân này là cái được kết hợp bởi
ba mươi sáu vật[16],
năm thứ bất tịnh xấu ác lộ ra đầy
ắp, trọn chẳng v́ thế mà sanh ḷng tham ái. Kế
đó, lại quán “thọ, tâm, pháp”, đạt được
chẳng ĺa “quán bốn thứ điên đảo nơi
tánh của ngă”, đối với các thứ kiềm chế,
trói buộc từ cái thân mà đạt được Tô Tức
Xứ. Nếu khi các tướng thuộc bổn tôn tam-muội
của hành giả Chân Ngôn hiện tiền, sẽ có địa
vị bằng với địa vị này.
Kinh
nói: “Nhược ư thủ uẩn sở tập ngă
thân, xả tự sắc tượng quán, đương
đắc vô ngă vô úy” (Nếu đối với cái thân
do thủ uẩn nhóm họp, xả tự sắc tượng
quán, sẽ đắc vô ngă vô úy), tức là khi quán “chỉ
có Uẩn, không có ngă”, đối với
Ấm, Giới, Nhập, sẽ phân
tích, truy t́m đủ mọi lẽ, đều chẳng thể
có được ngă. “Xả thử tự sắc tượng” (xả sắc tượng của
chính ḿnh): Ví như do cây mà có bóng cây hiển hiện.
Nếu chẳng có cây, bóng cây sẽ do đâu mà sanh? Nay
Ngũ Uẩn c̣n do
duyên sanh, đều vô tự tánh, huống hồ trong cái
được tích tập ấy
mà có Ngă ư? Như trong phần trên đă nói, cho tới chứng
cái tâm trạm tịch, ĺa hết thảy các lỗi, th́ sẽ
đối với chỗ kiềm chế, trói buộc của Ngă, bèn
đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả
Chân Ngôn trong hết thảy các giai đoạn thuộc cảnh
giới Du Già, đều có thể quán tâm “chẳng thể
được”, chẳng sanh ái và mạn,
th́ địa vị sẽ bằng với địa vị
này.
Kinh
dạy: “Nhược hại Uẩn trụ pháp phan duyên,
đương đắc pháp vô úy” (nếu trừ bỏ
sự nắm níu đối với pháp Uẩn trụ, sẽ
đắc pháp vô úy), tức là hành giả tâm trụ trong Uẩn,
muốn phát khởi ĺa bỏ; khi đó, từ các thí dụ
như huyễn, dương diễm v.v… mà quán sát các Uẩn
chính là Không,
ĺa tám tâm thuận tùng hay trái nghịch, chứng tịch nhiên giới. Do ĺa sự
trói buộc, kiềm chế của Uẩn, bèn đạt
được Tô Tức Xứ đối với pháp. “Pháp”
là nói mười câu duyên sanh. Nếu hành giả Chân Ngôn nhận
biết cảnh giới Du Kỳ trong hiện tại đều
như gương, hoặc như trăng trong nước,
vô tánh, vô sanh, địa vị sẽ bằng với địa
vị này.
Kinh
dạy: “Nhược hại pháp trụ vô duyên,
đương đắc pháp vô ngă vô úy” (nếu trừ
khử pháp trụ vô duyên, sẽ đạt vô ngă, vô úy đối
với pháp), tức là tâm vô duyên thừa, quán tánh của pháp
là vô ngă, ở ngoài tâm th́ trí có h́nh bóng hay không đều là chẳng thể
được, tâm vương tự tại, nhận biết
vốn chẳng sanh, ĺa khỏi sự kiềm chế, trói
buộc của pháp, sẽ đối với pháp vô ngă mà
đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả
Chân Ngôn khi tâm được tác
dụng tự tại trong đạo Du Già,
địa vị sẽ ngang bằng với địa vị
này.
Kinh
dạy: “Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới,
Xứ, năng chấp, sở chấp, ngă, thọ mạng
đẳng, cập
Pháp Vô Duyên Không, tự tánh vô
tánh. Thử Không trí sanh, đương đắc nhất
thiết pháp tự tánh b́nh đẳng vô úy”
(Nếu lại đối với hết thảy Uẩn,
Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp,
ngă, thọ mạng v.v… và Pháp Vô Duyên
Không, [mà biết là] tự
tánh vô tánh. Do sanh khởi Không trí ấy, sẽ đạt
được vô úy b́nh đẳng trong tự tánh của hết
thảy các pháp). Tức là khi quán tánh Không rốt ráo của
tự tâm, Ngă, Uẩn pháp và vô duyên đều có cùng một
tánh, tức là tự tánh vô tánh. “Thử Không trí sanh” (sanh khởi Không
trí ấy) tức là lúc đó, cực vô tự tánh tâm sanh khởi.
Đối với nghiệp phiền năo v.v… đều chẳng
bị trói buộc, mà cũng chẳng giải thoát. V́
thế nói là “tự tánh của hết thảy các pháp
đều b́nh đẳng”. Lúc đó, đối với
sự kiềm chế, trói buộc của hữu vi giới
và vô vi giới,
bèn đạt được Tô Tức Xứ, tức là Bồ
Đề tâm như hư không vô
cấu của hành giả Chân Ngôn.
Nhưng cái tâm ấy dù tại triền (c̣n bị phiền
năo ràng buộc), hay xuất triền (thoát khỏi phiền
năo), đều rốt ráo vô tướng, dùng ngũ nhăn của
Như Lai để quán kỹ, vẫn chẳng thể biết
tướng mạo của nó được, huống hồ
kẻ trong sanh diệt [mà toan hiểu biết rành rẽ]
ư? Nay sở dĩ nói rộng sáu món vô úy xứ trong ba kiếp
có rất nhiều tâm tướng, đều là dựa theo
h́nh tướng bên ngoài, ḥng nói rơ sự tu chứng sâu hay cạn.
Trong phần trước đă nói do thấy tướng trạng
của khói, có thể suy ra mà biết tánh chất của lửa;
chỉ biết tâm cấu đă hết, th́ hư luận chẳng
c̣n, tức là món vô úy xứ thứ sáu, c̣n muốn biểu
thị như thế nào nữa ư?
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Nhược Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh
chư Bồ Tát, thâm tu quán sát thập duyên sanh cú,
đương ư Chân Ngôn hạnh thông đạt, tác chứng.
Vân hà vi thập? Vị như huyễn, dương diệm,
mộng, ảnh, Càn Thát Bà thành, hưởng, thủy nguyệt,
phù bào, hư không hoa, toàn hỏa luân. Bí Mật Chủ! Bỉ
Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát
đương như thị quán sát.
(經)祕密主!若真言門修菩薩行諸菩薩,深修觀察十緣生句,當於真言行通達作證。云何為十?謂如幻、陽焰、夢、影、乾闥婆城、響、水月、浮泡、虛空華、旋火輪。祕密主!彼真言門修菩薩行諸菩薩,當如是觀察。
(Kinh:
Bí Mật Chủ! Nếu các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh
trong Chân Ngôn môn, tu tập sâu xa quan sát mười câu duyên
sanh, sẽ thông đạt, tác chứng Chân Ngôn hạnh. Thế
nào là mười? Chính là như huyễn, ánh nắng gợn,
mộng, h́nh bóng, thành Càn Thát Bà, tiếng vang, trăng trong
nước, bọt nước nổi, hoa đốm trên
hư không, ṿng lửa xoay. Bí Mật Chủ! Các vị Bồ
Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn ấy hăy nên quan sát
như thế).
Đây là giải đáp đại lược câu hỏi
về tu hành trong đoạn trước. Như trong đoạn
kinh văn nói về phương tiện vạn hạnh
trong phần sau, không ǵ chẳng nhờ vào mười câu
duyên sanh này để tịnh trừ cấu nhơ trong tâm.
V́ thế, hăy nên biết đây là ư chỉ trọng yếu
nhất, hành giả Chân Ngôn phải nên
đặc biệt lưu ư tư duy. Nhưng luận định
chung mười câu duyên sanh trong phẩm này th́ đại
lược có ba loại:
- Một,
do tâm ch́m đắm trong Uẩn, do muốn đối trị
thật pháp, mà quán mười câu duyên sanh ấy, tức “là
Không, là huyễn” như đă nói trong phần trước.
-
Hai, do tâm ch́m đắm trong pháp, do muốn đối trị
sự nắm níu cảnh giới, mà quán mười câu duyên
sanh này, tức “Uẩn A Lại Da chính là huyễn nơi
tâm” như đă nói trong phần trước.
-
Ba, do chấp trước sâu đậm mà đắm ch́m
trong Thật Tế của tâm, do muốn ĺa hữu vi giới, vô vi
giới, mà quán mười câu duyên sanh này, như trong phần
trên đă nói: “Giải thoát hết thảy các nghiệp
phiền năo, mà nghiệp phiền năo đều nương
trọn vào đó”, tức là huyễn chẳng thể
nghĩ bàn.
Mười
thí dụ trong kinh Ma Ha Bát Nhă cũng bao hàm trọn ba ư ấy.
Ở đây nói “thâm tu quán sát” (tu quán sát sâu xa), tức
là nói tới tầng thứ ba. Hơn nữa, trong Du Già,
hành giả dùng tự tâm để cảm, Phật tâm là ứng. Do nhân duyên cảm ứng,
ngay lập tức Tỳ Lô Giá Na Phật hiện thân mà chúng
sanh thích thấy, tuyên nói pháp thích hợp
cho họ nghe, nhưng tâm ta cũng rốt
ráo tịnh, mà tâm Phật cũng rốt ráo tịnh. Nếu
coi tâm ta là tự, th́ tâm Phật là tha, nay cảnh
giới này là do tự sanh, hay tha sanh, hay [tự và tha] cùng sanh,
hay chẳng có nhân mà sanh? Dùng các thứ môn trong Trung Luận
để quán, sanh chẳng thể được, mà h́nh và
tiếng rành rành, tức là pháp giới. Luận huyễn th́
chính là huyễn, luận pháp giới th́ chính là pháp giới,
luận trọn khắp hết thảy mọi nơi th́ là
trọn khắp hết thảy mọi nơi. Do luận
theo huyễn, nên gọi là “huyễn chẳng thể
nghĩ bàn”.
Lại
nữa, nói “thâm tu” tức là đă đắc tịnh
tâm trở lên, từ đại bi mà sanh căn, cho đến
phương tiện rốt ráo. Đối với mỗi một
duyên khởi trong ấy,
đều nên dùng mười thí dụ để quán. Do
điều chứng ngộ sâu dần, nên nói là “quán sát”.
Lại như nghĩa Tứ Đế, trực tiếp dạy
trong thế giới Sa Bà đă có vô lượng vô biên tên gọi
sai biệt, huống hồ các
phương tiện nhằm thích ứng
các căn cơ trong
vô tận pháp giới, [các danh xưng của Tứ Đế]
há có thể cùng tận ư? Nay hành giả trong một niệm
tịnh tâm, thông đạt Tứ Đế nhiều
như cát bụi như thế, Không th́ rốt ráo chẳng
sanh, Hữu th́ tận hết tánh tướng, Trung th́ toàn bộ
cái Thể đều là thường. Do ba pháp chẳng có
tướng nhất định, nên gọi là “huyễn
chẳng thể nghĩ bàn”. Giống như Tứ Đế,
[biện định] hết thảy các pháp môn cũng phỏng
theo lệ đó. V́ thế, chỉ có Như Lai mới có thể
thấu hiểu cùng tận mười thí dụ ấy, thấu
đạt nguồn cội của chúng. Trong kinh này, ngay sau
phần nói về vô cấu Bồ Đề tâm, bèn nêu ra
mười thí dụ, bao quát trọn khắp từ đầu
đến cuối các địa. Đă là do gặp duyên mà
tạo thành phép Quán, chẳng thể nói lặp lại nhiều
lần, nay đành dựa theo [cách giải thích trong bộ]
Thích Luận để nói đại lược chỗ quy
túc vậy!
(Kinh) Vân
hà vi huyễn? Vị như chú thuật, dược lực
năng tạo, sở tạo chủng chủng sắc
tượng, hoặc tự nhăn cố, kiến hy hữu sự
triển chuyển tương sanh, văng lai thập
phương. Nhiên bỉ phi khứ, phi bất khứ. Hà
dĩ cố? Bổn tánh tịnh cố. Như thị Chân
Ngôn huyễn,
tŕ tụng thành tựu, năng sanh nhất thiết.
(經)云何為幻?謂如呪術藥力能造所造種種色像,惑自眼故,見希有事展轉相生、往來十方,然彼非去非不去。何以故?本性淨故。如是真言幻持誦成就,能生一切。
(Kinh: Thế
nào là huyễn? Tức là như chú thuật, hoặc do sức
thuốc có thể tạo tác các thứ h́nh sắc, mê hoặc
mắt ḿnh, thấy các sự hy hữu lần lượt
sanh ra, qua lại mười phương. Nhưng chúng nó chẳng
đi, chẳng phải là không đi. V́ sao vậy? Do bổn
tánh thanh tịnh. Chân ngôn là huyễn cũng giống như
thế, nhưng tŕ tụng thành tựu sẽ có thể sanh
ra hết thảy).
Đức Phật
nói “dược lực chẳng thể nghĩ bàn”,
như người do sức thuốc mà có thể bay lên
hư không, ẩn thân, đi trong nước, bước
trong lửa. Đối với các chuyện ấy, các vị
luận sư chẳng thể kiến lập các nguyên nhân
để giải thích nguyên do được, mà cũng chẳng
thể sanh nghi, bảo là “nhất định phải nên
như thế này”, hoặc “chẳng nên như thế nọ”.
Cảnh giới vượt khỏi sự trù tính, suy lường
như thế, chỉ có người đích thân sử dụng
thuốc ấy, chấp tŕ vận dụng th́ mới chứng
biết đó thôi! Lại như do nhân duyên của thuốc
hay chú thuật, có thể thị hiện tạo ra đủ
loại h́nh sắc, tuy trong các
duyên, dẫu t́m cầu cặn kẽ
từng điều, đều chẳng
thấy sanh xứ (chỗ sanh khởi) của chúng,
nhưng chúng vẫn
hiện tiền rành rẽ đối trước năm
t́nh (năm căn). Tuy lần lượt sanh ra lẫn nhau,
qua lại mười phương, nhưng cũng chẳng
phải là đến đó, mà cũng chẳng phải là
không đến đó. Chuyện này cũng chẳng phải
là cảnh để suy tính, ḍ lường, suy xét được!
Thích
Luận nói: “Đức Phật hỏi Đức Nữ:
‘Ví như huyễn sư huyễn hóa đủ mọi sự,
ư bà nghĩ sao? Cái do huyễn tạo tác là ở bên trong mà có
hay chăng?’ Đáp rằng: ‘Thưa không!’ Lại hỏi:
‘Là ở bên ngoài mà có hay chăng? Trong và ngoài đều có
hay chăng? Từ đời trước tới đời
này, từ đời này tới đời sau hay chăng?
Cái do huyễn tạo ra có sanh, có diệt hay chăng? Thật
sự có một pháp do huyễn tạo tác hay chăng?’
[Đức Nữ] đều đáp rằng: ‘Không ạ!’
Đức Phật bảo: ‘Há bà có thấy, nghe kỹ nhạc
do huyễn tạo tác hay không?’ Đáp: ‘Con cũng thấy,
cũng nghe’. Đức Phật nói: ‘Nếu huyễn là
Không, hư dối, chẳng thật, v́ sao từ huyễn
mà có thể tạo tác kỹ nhạc?’ Đức Nữ
đáp: ‘Bạch đại đức! Đó là huyễn
tướng vốn sẵn như thế, tuy chẳng có
căn bản mà có thể thấy, nghe’. Đức Phật
nói: ‘Vô minh cũng như thế, tuy chẳng phải là bên
trong có, cho đến chẳng có sanh diệt, nhưng do vô
minh làm nhân duyên mà các hành sanh ra. Nếu vô minh tận th́ hành
cũng tận, cho tới nói rộng [các chi c̣n lại trong
Thập Nhị Nhân Duyên, cũng đều như thế]”.
Nay trong Chân Ngôn môn này, sánh ví người tŕ tụng cũng
lại giống như thế, như kinh văn trong phần
sau sẽ nói cặn kẽ. Nương vào Tam Mật tu hành,
được thành tựu hết thảy các chuyện lạ
lùng, đặc biệt, chẳng nghĩ bàn! Tuy trong mỗi
sự đều t́m cầu cặn kẽ, rốt cuộc
đều ĺa bốn câu (có, không, chẳng có chẳng không,
cũng có cũng không). Pháp vốn sẵn là như thế, chẳng khác tịnh tâm, nhưng
tự tại thần biến rành rành chẳng sai! Chuyện
này các vị đại luận sư là
những người khéo biện luận, lợi căn
đều chẳng thể ḍ lường
được, chỉ riêng
người có phương tiện đầy đủ
để thành tựu Tất Địa tự chứng biết
đó thôi!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Dương diễm tánh Không, bỉ y thế nhân vọng
tưởng thành lập, hữu sở đàm nghị.
Như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh.
(經)復次祕密主!陽焰性空,彼依世人妄想成立有所談議,如是真言相唯是假名。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Tánh của ánh nắng gợn là Không,
do nó nương vào vọng tưởng của người
đời mà thành lập những điều bàn luận.
Các tướng trong Chân Ngôn cũng giống như thế,
chỉ là giả danh).
Thích
Luận nói: “Do ánh nắng [chiếu qua] bụi bị gió cuốn,
xao động trong đồng trống như ngựa
hoang, kẻ vô trí thoạt nh́n ngỡ là nước. Chúng
sanh cũng thế. Do ánh nắng kết sử phiền năo
dao động các bụi Hành, bị gió tà ức niệm xoay chuyển trong đồng hoang sanh tử,
kẻ không có trí huệ cho rằng tướng này là nam,
tướng nọ là nữ. Lại nữa, nếu nh́n từ
xa th́ ngỡ là nước, tới gần chẳng có tướng
nước. Kẻ cách xa thánh pháp cũng giống như thế,
chẳng biết vô ngă và các pháp là Không, đối với Ấm,
Giới, Nhập vốn là các pháp tánh Không mà sanh ra tưởng
ư tưởng là người v.v… Nếu thân cận thánh
pháp, ắt biết Thật Tướng của các pháp, Khi
đó, các thứ vọng tưởng hư dối đều
bị trừ sạch”. Kinh này có ư nói:
Như người đời nh́n đồng trống từ
xa, người nh́n từ xa chỉ thấy tướng
nóng hừng hực, bèn cưỡng lập giả danh, chứ
t́m cầu th́ sẽ là thật sự chẳng có. V́ thế
nói là “vọng tưởng thành lập, hữu sở
đàm nghị” (do vọng tưởng mà thành lập mà
có các điều bàn luận). Như hành giả Chân Ngôn, từ
trong Du Già, thấy các thứ cảnh giới lạ lùng,
đặc biệt, cho đến hải hội của
chư Phật trang nghiêm vô tận,
lúc đó, hăy nên quán [các tướng ấy] như ánh nắng
gợn, biết rơ đó
chỉ là giả danh, ĺa khỏi khinh mạn, chấp
trước, chuyển tới gần tâm địa, sẽ
ngộ “các thứ nhân duyên thần biến gia tŕ chỉ là tướng
nắng gợn của pháp giới”,
cho nên nói “như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả
danh” (tướng Chân Ngôn như thế chỉ là giả
danh).
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Như mộng trung sở kiến trú nhật, Mâu Hô Lật
Đa, sát-na, tuế thời đẳng trụ, chủng chủng
dị loại thọ chư khổ lạc, giác dĩ
đô vô sở kiến. Như thị mộng Chân Ngôn hạnh,
ưng tri diệc nhĩ.
(經)復次祕密主!如夢中所見晝日牟呼栗多,剎那歲時等住,種種異類受諸苦樂,覺已都無所見。如是夢真言行,應知亦爾。
(Kinh: Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Như những cảnh được
thấy trong mộng, tuy chỉ tồn tại trong một
Mâu Hô Lật Đa[17], hoặc sát-na của ban ngày,
mà như kéo dài cả năm, và thấy các thứ dị loại
hứng chịu các thứ khổ lạc. Tỉnh giấc
th́ đều chẳng thấy ǵ. Hăy nên biết hạnh
Chân Ngôn cũng giống như giấc mộng như thế).
Thích Luận nói: “Như
trong mộng đều chẳng có sự thật, mà cho là
thật sự có. Tỉnh giấc biết là không, bèn tự
cười x̣a. Con người cũng như thế, ở
trong giấc ngủ kết sử, thật sự chẳng
có ǵ mà chấp trước. Khi đắc đạo,
đă tỉnh giấc, bèn biết là không, cũng sẽ tự
bật cười”. Lại như do sức của giấc
ngủ, chẳng có pháp mà thấy có pháp, chẳng có chuyện
vui vẻ mà vui vẻ, chẳng có chuyện giận dữ
mà giận dữ, chẳng có chuyện sợ hăi mà sợ
hăi! Chúng sanh cũng thế, do sức của giấc ngủ
vô minh, chẳng nên giận dữ, lo sợ, mà sanh ḷng giận
dữ, lo, sợ v.v… V́ thế, nay lại nói các chuyện chẳng
thể nghĩ bàn thuộc về mộng. Như trong mộng,
tự thấy trụ thọ một ngày, hai ngày, cho tới
vô lượng năm, có đủ loại quốc độ
và tộc loại chúng sanh, hoặc lên cung trời, hoặc ở
trong địa ngục để hưởng vui, chịu
khổ. Khi tỉnh giấc th́ chỉ là trong ṿng một niệm!
Trong cái tâm khi đă tỉnh giấc, đối với pháp
nhân duyên thuộc về giấc ngủ, t́m cầu bốn
câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng
có chẳng không) đều chẳng thể
được, nhưng nghĩ nhớ chuyện trong mộng
rành rành chẳng sai. Dùng một niệm làm ngàn vạn
năm, dùng một tâm làm vô lượng cảnh, những
người có trí trong thế gian chẳng thể suy
đoán, ḍ lường tột cùng cội nguồn của
chuyện này, mà cũng chẳng thể có chỗ đáng
nghi, chỉ riêng người nằm mộng
đích thân chứng biết.
Nay
giấc mộng Du Già của hành giả Chân Ngôn cũng giống
như thế, hoặc trong khoảnh khắc thấy trọn
khắp vô lượng cảnh giới được gia
tŕ, hoặc chẳng đứng lên khỏi chỗ ngồi
mà trải qua nhiều kiếp, hoặc dạo khắp các
cơi Phật, thân cận, cúng dường, lợi ích chúng
sanh. Chuyện này nếu quán sát trong các nhân duyên, [sẽ thấy]
đều chẳng có chỗ dấy lên, không ra ngoài một
niệm tịnh tâm, nhưng vẫn phân biệt chẳng sai
lầm. Ai có thể nghĩ bàn nguyên do của chuyện này?
Thật sự chỉ riêng người đă chứng tự
biết mà thôi! Hành giả đạt được cảnh
giới như thế, chỉ nên dùng thí dụ về mộng
để quán, tâm chẳng nghi ngờ, lấy làm lạ, mà
cũng chẳng sanh tâm chấp trước, tức là dùng
giấc mộng hiện trọn khắp sắc thân để
trang nghiêm vô tận. V́ thế nói “thâm tu thập cú” (tu
sâu mười câu) vậy!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Dĩ ảnh dụ giải liễu Chân Ngôn năng phát Tất
Địa, như diện duyên ư kính, nhi hiện diện
tượng, bỉ Chân Ngôn Tất Địa
đương như thị tri.
(經)復次祕密主!以影喻解了真言能發悉地,如面緣於鏡而現面像,彼真言悉地當如是知。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về h́nh bóng để
hiểu rơ Chân Ngôn có thể phát khởi Tất Địa,
như do soi mặt vào gương mà hiện ra vẻ mặt,
hăy nên biết Chân Ngôn Tất Địa cũng giống
như thế).
“Ảnh”
được nói ở đây chính là thí dụ “h́nh bóng
trong gương” được nói trong Thích Luận. Luận
ấy viết: “Như h́nh bóng trong gương, chẳng
do gương tạo ra, chẳng do mặt tạo ra, chẳng
do người cầm gương tạo ra, chẳng phải
tự nhiên mà có, cũng chẳng phải không có nhân duyên mà
có. V́ sao chẳng phải do gương tạo? Nếu mặt
chưa soi vào, gương sẽ chẳng có h́nh bóng. V́ sao chẳng
phải do mặt tạo ra? Do không có gương, sẽ
không có h́nh bóng. V́ sao chẳng do người cầm
gương tạo ra? Do không có gương, không có mặt,
sẽ không có h́nh bóng. V́ sao chẳng phải tự nhiên tạo
ra? Nếu chẳng có gương, chẳng có mặt, sẽ
chẳng có h́nh bóng. Phải đợi có gương, có mặt
rồi mới có h́nh bóng. Cũng chẳng phải là không có
nhân, v́ nếu chẳng có nhân duyên, nó phải nên thường
có, hoặc thường không. Dù bỏ gương, bỏ mặt
đi, [h́nh bóng] cũng phải nên tự xuất hiện.
Do vậy, chẳng phải là không có nhân duyên. Hăy nên biết
các pháp cũng giống như thế, do ngă chẳng thể
được, hết thảy các pháp sanh bởi nhân duyên sẽ
chẳng tự tại. Do các pháp thuộc vào nhân duyên, nên chẳng
phải là tự tạo tác. Nếu tự chẳng có, th́
tha cũng chẳng có. V́ thế, chẳng phải do cái khác
tạo tác. Nếu do cái khác tạo tác, ắt sức tội
phước sẽ bị mất. Cũng chẳng phải
là “cộng tác” (do tự tác và tha tác cùng tạo thành), [v́ nếu
hiểu là như thế] sẽ mắc lỗi [chấp có]
nhị biên. Cũng chẳng phải là không có nhân, như
nghiệp nhân trong đời trước, hạnh thiện
ác trong đời này làm duyên, do vậy mà có khổ, vui. Hết
thảy các pháp ắt có nhân duyên, nhưng do ngu si nên chẳng
biết đấy thôi. Như trẻ nít trông thấy h́nh
bóng trong gương, tâm yêu thích, khi [h́nh bóng] mất đi, bèn phá vỡ
gương để t́m kiếm, người trí bật
cười. [Kẻ mê muội trong thế gian] mất
đi sự vui bèn t́m kiếm cũng giống như thế,
cũng bị bậc thánh nhân đắc đạo cười
cợt”.
Nay
trong môn Chân Ngôn này, dùng tịnh thân trong Tam Mật của
Như Lai làm gương, hành vi nơi thân trong Tam Mật của
chính ḿnh làm h́nh bóng trong gương. Do nhân duyên mà có Tất
Địa sanh ra, giống như vẻ mặt [hiện ra
khi soi mặt vào gương]. Nếu lúc Tất Địa
của hành giả thành tựu, cho đến dấy khởi
năm món thần thông, trụ thọ dài lâu, diện kiến
mười phương quốc độ, dạo các cơi Phật,
đều dùng thí dụ này để quan sát chuyện ấy
từ tự sanh ra, hay từ tha sanh ra? Nếu nói là “do Tam Mật
của người khác gia tŕ, có thể trao cho [chúng sanh] cái
quả ấy”, th́ khi chúng sanh chưa tu hành, Phật cũng
do ḷng đại bi b́nh đẳng [sẽ trao cho], cớ
sao chẳng khiến cho họ thành tựu? Nếu bảo
là “tự tu hành đúng như lời dạy, sẽ có thể
đạt được cái quả ấy”, do nhân nào mà
quan sát thân Tam Mật như cái gương thanh tịnh
để cầu gia bị vậy? Nếu cùng do cả hai
(tự và tha), sẽ mắc lỗi nhị biên. V́ sao vậy?
Nếu nói cái tâm ta làm nhân, đợi có các duyên th́ mới
được thành tựu, tức là trong cái nhân đă sẵn
có cái quả Tất Địa từ trước ư? Hay
là trước đó chẳng có? Nếu đă có sẵn từ
trước, các duyên đều trở thành vô dụng. Nếu
trước đó chẳng có, các duyên lại có tác dụng
ǵ? Nhưng Tất Địa thành tựu ấy cũng lại
chẳng phải là không có nhân duyên. V́ thế, Đại Trí
Độ Luận có bài kệ nói về h́nh bóng trong
gương như sau: “Chẳng có, cũng chẳng không,
cũng lại chẳng có không, lời ấy cũng chẳng
nhận. Như vậy gọi Trung Đạo”. Chớ
nên như trẻ nít hư vọng nẩy sanh chấp giữ.
Nếu quán như thế, tâm hành giả sẽ chẳng có
ǵ để đạt được, chẳng sanh hư luận;
cho nên nói “ưng như thị tri” (hăy nên biết như
thế).
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Dĩ Càn Thát Bà thành thí, giải liễu thành tựu Tất
Địa cung.
(經)復次祕密主!以乾闥婆城譬解了成就悉地宮。
(Kinh: Lại
này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về Càn Thát Bà để
hiểu rơ cung điện thành tựu Tất Địa).
Thích Luận viết:
“Khi mặt trời mới mọc, thấy cửa thành, lầu
gác, cung điện, người đi đường ra
vào [ṭa thành Càn Thát Bà]. Mặt trời mọc lên cao, [các cảnh
tượng ấy] diệt mất. Thành ấy chỉ có thể mắt
trông thấy, nhưng nó chẳng thật sự
có. Có người thoạt đầu chưa từng thấy,
cho là chỗ vui sướng thật sự, rảo bước
đến đó. Tới gần
bèn mất dấu. Mặt trời mọc lên cao, [ṭa thành ấy]
diệt mất. Đói khát, mệt mỏi cùng cực, thấy
hơi nóng như ngựa hoang, cho là nước. Lại t́m
đến đó, thậm chí cầu t́m mệt mỏi cùng cực
mà chẳng trông thấy, bèn tư duy tự ngộ, cái tâm
khát ngưỡng dứt bặt”.
Hành giả cũng thế. Nếu dùng trí huệ “vô ngă, vô thật
pháp” [để quán chiếu], lúc bấy giờ, ư nguyện
điên đảo sẽ dứt bặt. Trong kinh Thanh
Văn chẳng có thí dụ thành Càn Thát Bà này. Lại dùng ṭa
thành để sánh ví cái thân, nhằm
nói các duyên ấy thật
sự có, nhưng thành là giả danh, nhằm phá cái chấp
“tôi, ta” vậy. Bồ Tát lợi căn, thâm nhập các pháp
Không, cho nên dùng thành Càn Thát Bà làm thí dụ.
“Tất Địa cung” được nói ở
đây, có thượng, trung, hạ:
-
Thượng là cơi Phật mật nghiêm, vượt ngoài tam
giới, hàng Nhị Thừa chẳng thể thấy nghe.
-
Trung là mười phương thanh tịnh, trang nghiêm.
-
Hạ là cung điện của chư thiên, Tu La v.v…
Nếu
khi hành giả thành tựu ba phẩm Tŕ Minh Tiên, an trụ
trong cung Tất Địa như thế, hăy nên dùng thí dụ
này để quan sát. Như do ánh nắng và hơi bốc lên từ
biển làm nhân duyên, [mà có huyễn tượng] chỗ
cư trụ trang nghiêm, tráng lệ, đài gác, người
vật rạng rỡ đáng ưa, [gọi là “thành Càn Thát Bà”].
Chớ nên giống như kẻ ngu muội, xằng bậy
nẩy sanh tham chấp, cầu mong cho là thật. Do nhân duyên
này, trong các loại ngũ trần thù thắng, nhiệm mầu,
tịnh tâm sẽ chẳng vướng mắc!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Dĩ hưởng dụ giải liễu Chân Ngôn thanh,
như duyên thanh hữu hưởng, bỉ Chân Ngôn giả
đương như thị giải.
(經)復次祕密主!以響喻解了真言聲,如緣聲有響,彼真言者當如是解。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ
về tiếng vọng để hiểu rơ âm thanh Chân Ngôn,
như do âm thanh mà có tiếng vọng, người tu Chân
Ngôn hăy nên hiểu như thế).
Thích Luận nói: “Như
hang động hay khe núi trong núi thẳm, hoặc chỗ khe
suối sâu kín, hoặc trong ṭa nhà lớn trống trải, do âm thanh của tiếng nói va chạm
nhau, sẽ từ trong âm thanh ấy lại
có tiếng phát ra, bèn gọi là tiếng vọng. Kẻ vô
trí cho là có thật. Bậc trí suy nghĩ: ‘Âm thanh này không do
ai tạo ra, chỉ là do âm thanh [ban đầu] chuyển biến,
bèn có tiếng vọng lừa gạt tai người’. Khi
người sắp nói, trong họng có gió, gọi là Ưu
Đà Na, nhập trở vào bụng. Khi tiếng vang phát ra,
va chạm bảy chỗ là đỉnh đầu, răng, môi, lưỡi,
họng, ngực mà phát ra, th́ gọi là “nói năng”. Kẻ
ngu chẳng hiểu, bèn sanh ra Tam Độc. Bậc trí biết
rơ, tâm chẳng chấp trước, chỉ tùy thuận Thật
Tướng của các pháp”.
Hành
giả Chân Ngôn ở trong Du Già, nếu nghe đủ loại
âm thanh thuận ḷng hay trái ư thuộc tám gió, hoặc các vị
thánh nhân dùng vô lượng pháp âm để dạy bảo
trong hiện tiền, hoặc do lưỡi thanh tịnh mà
có thể dùng một âm thanh trọn khắp thế giới.
Khi gặp cảnh giới ấy, cũng nên dùng thí dụ về
tiếng vọng để quán sát. Chúng chỉ từ các
duyên thuộc Tam Mật mà có. Chuyện ấy chẳng phải
sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải có, chẳng
phải không. V́ thế, chớ nên xằng bậy sanh hư luận
trong ấy. Lúc bấy giờ, sẽ tự nhập pháp môn
Âm Thanh Huệ.
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Như nhân nguyệt xuất cố, chiếu ư tịnh
thủy, nhi hiện nguyệt ảnh tượng. Như thị
Chân Ngôn thủy nguyệt dụ, bỉ tŕ minh giả
đương như thị thuyết.
(經)復次祕密主!如因月出故照於淨水而現月影像,如是真言水月喻,彼持明者當如是說。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Như do
mặt trăng lộ ra, chiếu vào nước sạch,
mà hiện ra bóng trăng. Cũng
như thế, Chân Ngôn ví như
trăng trong nước, người tŕ minh (tŕ chú) hăy nên
nói như thế).
Thích Luận nói: “Mặt
trăng xoay vần trên hư không, hiện bóng trong nước.
Vầng trăng pháp tánh chân thật ở trong hư không
‘như như pháp tánh Thật Tế’, mà tâm thủy của
phàm phu có tướng ngă và ngă sở hiện ra. Lại
như trẻ nít thấy trăng trong nước, bèn vui
thích toan vớt lấy, người lớn trông thấy
cười x̣a. Kẻ vô trí cũng thế, do Thân Kiến
cho nên thấy có ‘tôi, ta’. Do chẳng có Thật Trí nên thấy
đủ loại pháp. Đă thấy rồi bèn hoan hỷ,
muốn giữ lấy các tướng. Bậc thánh nhân
đắc đạo cười x̣a. Lại như chỗ
nước trong lặng, trông thấy bóng trăng; nước
xao động sẽ chẳng thấy. Trong nước lặng
của cái tâm vô minh, sẽ thấy các bóng dáng kết sử
‘tôi, ta’ kiêu mạn. Dùng gậy trí huệ quấy tâm thủy, sẽ chẳng thấy
nữa! Do vậy nói: Các Bồ Tát biết pháp như
trăng trong nước”.
Hành
giả tŕ chú cũng giống như thế, do phương
tiện Tam Mật lắng trong tự tâm, hải hội mật
nghiêm của chư Phật đều hiện trong ấy.
Hoặc tự dùng thân Như Ư Châu để hiện trong
tâm thủy của hết thảy chúng sanh; lúc đó, hăy nên
quán kỹ: “Tướng mật nghiêm ấy sanh từ tịnh
tâm của ta ư? Hay là sanh từ thân thanh tịnh của
Phật? Tự tha Thật Tướng c̣n tự rốt ráo
bất sanh, huống hồ do nhân duyên trái nghịch mà có cái
được sanh ư”. Lại như hết thảy
sông, ng̣i, giếng, ao, các đồ đựng lớn nhỏ,
trăng cũng chẳng đến, mà nước cũng không
đi, nhưng do một vầng trăng thanh tịnh mà có
thể vào trọn khắp các chỗ có nước. Ta nay
cũng giống như thế, tâm chúng sanh cũng chẳng
đến, tự tâm cũng chẳng đi, nhưng thấy,
nghe, đạt được lợi ích đều chân thật,
chẳng hư huyễn. V́ thế, hăy nên dùng gậy trí huệ
để khuấy, liền biết là chẳng thật! Chớ
nên như trẻ nít, cứ muốn lập phương tiện
để giữ lấy, coi là vật yêu thích để
chơi đùa. Đă có thể lắng tịnh ư niệm ấy,
sẽ lại như như bất động, v́ người
khác diễn nói. Cho nên nói là “tŕ minh giả đương
như thị thuyết” (người tŕ chú hăy nên nói
như thế).
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Như thiên giáng vũ, sanh bào, bỉ Chân Ngôn Tất Địa
chủng chủng biến hóa, đương tri diệc
nhĩ.
(經)復次祕密主!如天降雨生泡,彼真言悉地種種變化,當知亦爾。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Như trời
đổ mưa, sanh ra bong bóng, hăy nên biết các thứ biến
hóa nơi Chân Ngôn Tất Địa cũng như thế).
Kinh
Thanh Văn ví Thọ như bọt nước, c̣n kinh Bát
Nhă dùng bong bóng làm thí dụ, tuy thật sự là vô tánh,
nhưng nhân duyên vẫn là thật pháp. V́ vậy, trong mười
câu [“duyên sanh” của kinh Bát Nhă] có [thí dụ]“như hóa”,
mà chẳng nói tới thí dụ “bong bóng”. Nay thí dụ trong
kinh này có ư nghĩa khác hẳn. Như tiết Hạ, trời
đổ mưa, tùy theo giọt mưa to hay nhỏ mà sanh
ra các bong bóng, h́nh loại đều khác, nhưng tánh nước
vẫn là một vị, tự làm nhân duyên. T́m cầu bốn
câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng
phải không), [sẽ thấy chúng] chẳng do pháp nào khác
sanh ra. V́ vậy, toàn bộ cái Thể của các bong bóng ấy
là từ duyên. Bong bóng nổi lên tức là nước khởi
lên, bong bóng vỡ tan tức là nước diệt. V́ thế,
điều được thí dụ ở đây chính là sự
biến hóa trong cái tâm. Như hành giả dùng ngay tự tâm
để làm Phật, lại c̣n được vị Phật
trong tâm chỉ bày phương tiện để ngộ,
chuyển nhập vô lượng pháp môn. Lại dùng tâm làm Mạn-đồ-la,
dùng cảnh này làm duyên cho tâm, sẽ có thể thực hiện
đủ loại biến hóa chẳng thể nghĩ bàn. V́
thế, hành giả dùng thí dụ bong bóng nước để
quán, biết rơ “chẳng ĺa tự tâm”, cho nên chẳng sanh chấp
trước.
Thích
Luận lại nói: “Người tu Định có mười
bốn món biến hóa. Trời, rồng, quỷ thần
cũng có thể biến hóa, như hóa sanh trọn chẳng
có vật nhất định, chỉ do tâm sanh liền có,
tâm diệt [th́ các vật được biến hóa ấy]
cũng diệt. Pháp ấy không có đầu, giữa, cuối,
sanh th́ chẳng từ đâu tới, mà diệt cũng là chẳng
đi về đâu. Hăy nên biết các pháp cũng như thế.
Lại như tướng biến hóa, thanh tịnh như
hư không, chẳng đắm nhiễm, chẳng bị tội
hay phước nhuốm bẩn. Các pháp cũng thế, pháp
tánh, như như, Thật Tế tự nhiên thường tịnh.
Ví như bốn con sông lớn nơi Diêm Phù Đề, mỗi
sông có năm trăm sông nhỏ làm quyến thuộc, nước
của các con sông ấy đủ loại bất tịnh,
hễ đổ vào biển cả, thảy đều thanh
tịnh”. [Đoạn trích dẫn này] có cùng một ư
nghĩa với thí dụ về bong bóng nước vậy!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ!
Như không trung vô chúng sanh, vô thọ mạng, bỉ tác giả
bất khả đắc, dĩ tâm mê loạn cố, nhi
sanh như thị chủng chủng vọng kiến.
(經)復次祕密主!如空中無眾生、無壽命,彼作者不可得;以心迷亂故,而生如是種種妄見。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Như
trong hư không chẳng có chúng sanh, chẳng có thọ mạng,
chẳng có tác giả để có thể đạt
được, do tâm mê loạn mà sanh ra đủ mọi
cách nh́n hư vọng như thế).
Thích
Luận nói: “Như hư không tức là nó chỉ có tên gọi,
chẳng có thật pháp. Hư không chẳng phải là pháp có
thể thấy, do nh́n từ xa th́ mắt thấy nó màu xanh
thẫm. Các pháp cũng giống như thế, không vô sở
hữu. Do con
người xa cách vô lậu Thật
Trí mà vứt bỏ Thật Tướng, thấy đủ
mọi thứ vật khác nhau như kẻ khác, ta, nam, nữ,
nhà cửa, thành quách v.v… Tâm chấp trước như trẻ
nít ngửa mặt nh́n trời xanh, cho đó là màu sắc thật
sự [của bầu trời]. Có người bay lên xa tột
bậc th́ chẳng thấy ǵ nữa. Lại như hư
không tánh thường thanh tịnh, người ta cho rằng
tăm tối là bất tịnh. Các pháp cũng như thế,
tánh ấy thường thanh tịnh, do bị dâm dục,
nóng giận v.v… che lấp, mà người ta bảo là bất
tịnh”. Kinh này nói “tâm mê loạn” là
như người do các thứ nhân duyên như bệnh tật,
hoặc phi nhân v.v… [khuấy nhiễu] mà tâm mê loạn,
hư vọng thấy trong hư không thanh tịnh có đủ
loại h́nh tướng nhân vật, hoặc là đáng sợ
hăi, hoặc đáng tham đắm. Nếu khi đạt
được bổn tâm, sẽ biết khi các chuyện ấy sanh
th́ chẳng nhuốm bẩn hư không. Khi [các chuyện ấy] diệt
th́ cũng chẳng phải là [hư không] hồi phục
thanh tịnh, [chuyện ấy] vốn chẳng ngăn ngại
hư không, mà cũng chẳng khác hư không. Khi hành giả
tu quán hạnh, nếu có đủ loại
ma sự, đủ loại cảnh
phiền năo, đều nên trụ tâm trong thí dụ này “như
hư không thanh tịnh”. Tuy trong vô lượng kiếp, ở
trong địa ngục, lúc đó, ư chẳng vướng mắc,
như người đắc thần thông ở nơi
hư không hiển sắc, tự tại phi hành, chẳng bị
vọng tưởng “nhân, pháp” nhuốm bẩn!
(Kinh)
Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thí
như hỏa tẫn, nhược nhân chấp tŕ tại thủ,
nhi dĩ toàn chuyển không trung, hữu luân tượng
sanh.
(經)復次祕密主!譬如火燼,若人執持在手,而以旋轉空中,有輪像生。
(Kinh:
Lại này, Bí Mật Chủ! Ví như
tàn lửa, nếu có người cầm trong tay xoay tṛn trên
không, sẽ có h́nh tượng như một ṿng lửa).
Như
người cầm đuốc lửa, xoay chuyển trên
hư không, tạo thành đủ loại tướng, hoặc
vuông, hoặc tṛn, tam giác, bán nguyệt, lớn, nhỏ, dài,
ngắn, tùy ư mà làm. Trẻ nhỏ ngu muội trông thấy,
cho là có thật, bèn sanh ư niệm chấp trước.
Nhưng thật ra trọn chẳng có pháp nào sanh, chỉ do
sức tay nhanh chóng, có thể chuyển một ngọn lửa
thành vô lượng tướng. Nếu hành
giả Chân Ngôn đối với Du Già, tùy tâm vận dụng,
không ǵ chẳng thành tựu, cho tới trong một môn chữ
A mà xoay chuyển vô ngại thành vô lượng pháp môn. Lúc bấy
giờ, hăy nên quán theo thí dụ này: Chỉ do khéo vận dụng
sức nhanh chóng nơi tâm Bồ Đề thanh tịnh nhất
thể mà khiến thành ra như thế, chớ nên từ
trong đó mà nẩy sanh đủ loại kiến giải,
cho đó là thù thắng, nhiệm mầu để rồi nẩy
sanh hư luận! Thích Luận không có thí dụ về ṿng lửa
xoay, nhưng có thí dụ riêng về h́nh bóng, nói rằng: “Như
h́nh bóng có thể trông thấy, mà chẳng thể nắm bắt.
Các pháp cũng như thế, tuy [có thể] thấy, nghe,
hay, biết bởi tṛng mắt, tai v.v… nhưng đều
thật sự chẳng thể được. Lại như
h́nh bóng do phản chiếu ánh sáng bèn hiện, chẳng có ánh
sáng th́ không hiện;
các kết sử phiền năo do ngăn che ánh sáng chánh kiến,
nên có ngă tướng và pháp tướng. Lại như h́nh
bóng, người đi bèn đi, người động
bèn động, người đứng bèn đứng. H́nh
bóng của nghiệp thiện ác cũng như thế. Lúc
đi sang đời sau th́ nó cũng đi theo. Khi đời
này trụ th́ nó cũng trụ, do báo bất đoạn! Khi
tội phước chín muồi th́ sẽ hiện ra,
nhưng h́nh bóng ấy chẳng có vật, chỉ tùy thuộc
cách nh́n của ai”. Như xoay đuốc
lửa nhanh chóng, sẽ chuyển thành ṿng lửa, cũng chẳng
phải là thật sự có. Các thí dụ có ư nghĩa đại
lược tương đồng!
(Kinh)
Bí Mật Chủ! Ưng như thị
liễu tri Đại Thừa cú, tâm cú, vô đẳng đẳng
cú, tất định cú, Chánh Đẳng Giác cú, tiệm thứ
Đại Thừa sanh cú, đương đắc cụ
túc pháp tài, xuất sanh chủng chủng công xảo đại
trí, như thật biến tri nhất thiết tâm tướng.
(經)祕密主,應如是了知大乘句、心句、無等等句、必定句、正等覺句、漸次大乘生句,當得具足法財、出生種種工巧大智,如實遍知一切心相。
(Kinh:
Này Bí Mật Chủ! Hăy nên biết rơ
câu Đại Thừa, câu tâm, câu không ǵ sánh bằng, câu nhất
định, câu Chánh Đẳng Giác, câu Đại Thừa
lần lượt sanh khởi như thế, sẽ đạt
được trọn đủ pháp tài, xuất sanh đủ
loại đại
trí hay khéo, như thật biết trọn khắp hết thảy
các tâm tướng).
“Câu” trong tiếng Phạn
là Bát Đàm (Pada), ư nghĩa như đă giải thích trong phần
trước. Mười thí dụ này đều là duyên khởi
rất sâu của người học Ma Ha Diễn, chẳng
phải là chỗ đặt chân của Thanh Văn và Duyên
Giác. V́ thế gọi là “Đại Thừa cú”. Thật
tánh của tâm trọn chẳng có pháp nào để có thể
chỉ bày rơ ràng, cũng chẳng thể trao cho người
khác, chỉ là lúc quan sát sâu xa như thế, vẹt mây
ngăn chướng, sẽ tự chứng biết mà thôi!
V́ thế gọi là “tâm cú”. Hết
thảy các pháp chẳng thể sánh ví tương tự trí
huệ của Như Lai được, mà cũng chẳng
có ǵ vượt hơn được, nên gọi là “vô
đẳng”. Nhưng Thật Tướng của tâm, giống
như hộp và nắp tương xứng, chẳng chênh lệch,
nên gọi là “vô đẳng đẳng”. Nếu dùng
mười duyên sanh để biết rơ tâm xứ, sẽ
an trụ trong đó, nên nói là “vô đẳng đẳng
cú”. Chư Phật do ư nghĩa của mười duyên
sanh này, nhất định sẽ sư tử hống, nói
ra ấn Thật Tướng nơi Như Lai tánh tâm. Nếu
có ai có thể tin hiểu, giả sử hết thảy các
ma trong mười phương thế giới đều
hóa thân làm Phật để nói Tương
Tự Bát Nhă, trọn
chẳng thể thay đổi cái tâm ấy, khiến cho
pháp tướng chẳng như thị. V́ thế gọi là
“tất định cú”. Dùng Trung Đạo chánh quán ấy,
ĺa hữu vi giới và vô vi giới, tâm vô tự tánh tột
bậc sanh khởi, tức là vị Phật trong tâm hiển
hiện. V́ thế nói là “Chánh Đẳng Giác cú”. Do tu
quán sát sâu xa, như vào biển cả lần lần sâu dần,
cho đến Tỳ Lô Giá Na Phật dùng thượng
thượng trí quán mới có thể thấu hiểu cùng tận
nguồn cội. V́ thế nói là “tiệm thứ Đại
Thừa sanh cú”.
Hăy
nên biết sáu câu như thế, theo thứ tự giải
thích lẫn nhau, theo thứ tự sanh ra nhau. Tỳ Lô Giá Na
Phật liền dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn
thuộc mười câu duyên sanh ấy để làm vô tận
trang nghiêm tạng, từ các pháp giới môn nhiều như
số vi trần trong mười thế giới, thường
xuất sanh các báu Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền
Định, Giải Thoát để thí trọn khắp chúng
sanh, vẫn chẳng thiếu hụt. V́ thế nói là “cụ
túc pháp tài” (trọn đủ pháp tài). Trí nghiệp của
hết thảy Như Lai do vậy mà trọn đủ, v́
thế nói là “xuất sanh chủng chủng công xảo
đại trí huệ” (sanh ra đủ loại đại
trí huệ khéo léo). Nếu trong một niệm tâm, thấy
rơ ư nghĩa mười duyên sanh, th́ trên là sẽ tột cùng
vô tận pháp giới, dưới là tột cùng chúng sanh giới
vô tận. Hết thảy các tâm tướng trong đó
đều có thể hiểu rơ rành rành do chúng đều từ
duyên khởi, tức Không, tức Giả, tức Trung. V́ thế
nói là “như thật biến tri nhất thiết tâm
tướng” (đúng như thật biết trọn khắp
hết thảy tâm tướng). [Thiện
Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hành giả mới tu quán hạnh,
khi cảnh giới hiện tiền, do sức của nội
nhân và ngoại duyên, tự nhiên có trí duyên khởi phát sanh. Chẳng
giống như đường lối thông thường,
khổ công dốc sức tu Định tột bậc rồi
sau đó mới thông triệt được”. Trong bản
tiếng Phạn có nói: “Tự thử dĩ hậu, thứ
thuyết Chân Ngôn giả tŕ tụng thứ đệ,
như pháp Tất Địa, như pháp quả sanh” (từ
đây trở về sau, kế đó, sẽ nói thứ tự
tŕ tụng của người hành Chân Ngôn, Tất Địa
đúng như pháp, sanh khởi cái quả đúng như
pháp). Đấy là do người truyền pháp ghi lại,
cho nên chẳng phải là điều được nói
trong chánh kinh. Đại ư của [đoạn văn ấy]
là: Đă nói các tâm tướng của Bồ Đề tâm
thanh tịnh xong, từ đấy trở đi, bèn nói về
phương tiện tấn tu, và cái quả được
sanh bởi Tất Địa.
2. Phẩm thứ hai:
Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn (Nhập Mạn-đồ-la
Cụ Duyên Chân Ngôn phẩm đệ nhị, 入漫荼羅具緣真言品第二)
Phẩm
thứ hai là Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân
Ngôn. Phẩm trước dựa theo các thứ tâm tướng
để biện định hết thảy trí tâm đă
xong, nhưng dùng phương tiện nào để có thể
đạt tới diệu quả ấy? Do vậy, phẩm
kế tiếp bèn nói về các chi phần để trọn
đủ các duyên ḥng hành pháp tiến nhập Mạn-đồ-la,
và các chân ngôn cần thiết [để tác pháp. Những
điều ấy] đều được nói cặn kẽ
trong phẩm này. Ví như đă biết sữa và lạc có
tánh của đề-hồ, liền dạy chuẩn bị
đầy đủ các vật dụng và phương tiện
để khuấy đảo, v́ từ duyên mà khởi. Hăy
nên biết chẳng khác mười câu duyên sanh vậy.
Lại
nữa, trong kinh Thanh Văn, coi Tỳ Ni (Vinaya,
Luật Tạng) là tạng bí mật,
phải chọn lựa đối tượng và tuyển
chọn đại chúng rồi mới truyền trao. Nếu
[là kẻ] chưa phát tâm thọ tŕ luật nghi, chẳng hợp
lắng nghe, tu tập. Ma Ha Diễn cũng coi Tŕ Minh (hành
tŕ Chân Ngôn) là tạng bí mật, người chưa vào Mạn-đồ-la
chẳng thích hợp đọc tụng, thọ tŕ, ngược
lại c̣n giống như kẻ trộm nghe bố-tát[18]
chuốc lấy tội nặng. V́ lẽ nào vậy? Như
người đời từ ái nuôi nấng con thơ, tuy
ḷng chẳng keo tiếc ǵ, nhưng chẳng ban cho chúng nó
[hai thanh gươm báu] Can Tương và Mạc Da, do chúng nó
chẳng biết phương tiện vung, múa, ắt sẽ
tổn thương thân thể. Nay pháp môn này cũng giống
như thế, do chỉ thú “tức tâm thành Phật”
khó biết, sợ chúng sanh trong đời vị lai sẽ
khinh mạn pháp, chẳng thể t́m hỏi thiện tri thức,
chưa được Tam Mật gia tŕ, mà tự khởi
tâm suy đoán, chấp vào văn tự, tự tiện tu học,
đổ công dốc sức đă lâu mà chẳng thể
thành tựu, liền ngược ngạo báng bổ kinh này
chẳng phải do đức Phật
nói.
Hơn
nữa, kinh văn trong kinh này có hai cách giải thích “sơ
sài, nông cạn” và “sâu xa, bí mật”, mà trong cách giải thích
“sâu xa, bí mật” lại có sâu và cạn, kẻ tự tiện
giở xem chơi, do chẳng hiểu danh hiệu bí mật,
quở là nhân duyên sự tướng, sanh tâm khinh mạn,
coi thường, tự nói: “Ta hành chân đạo, cần
ǵ dùng tới chuyện thuộc chú thuật!” Do nhân duyên
như thế, cảm lấy nghiệp quỹ pháp (ngăn
trở chẳng cho pháp lưu truyền), trong vô lượng
kiếp đọa vào đường ác. V́ thế, đối
với người tu học Chân Ngôn, trước hết, phải dạy họ
nhập Mạn-đồ-la. Danh nghĩa Mạn-đồ-la
sẽ được giải thích trong phần sau.
(Kinh) Nhĩ thời, Chấp
Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế
Tôn! Thuyết thử chư Phật tự chứng Tam Bồ
Đề bất tư nghị pháp giới siêu việt tâm
địa, dĩ chủng chủng phương tiện
đạo, vị chúng sanh loại như bổn tánh tín giải,
nhi diễn thuyết pháp. Duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết
tu Chân Ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng sanh đại Mạn-đồ-la
vương, vị măn túc bỉ chư vị lai thế vô
lượng chúng sanh, vị cứu hộ an lạc cố.
(經)爾時執金剛祕密主白佛言:希有世尊!說此諸佛自證三菩提不思議法界超越心地,以種種方便道,為眾生類如本性信解而演說法。惟願世尊次說修真言行大悲胎藏生大漫荼羅王,為滿足彼諸未來世無量眾生、為救護安樂故。
(Kinh: Lúc bấy
giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng:
- Đức Thế
Tôn hy hữu, nói tâm địa siêu việt pháp giới chẳng
thể nghĩ bàn do chư Phật tự chứng Tam Bồ
Đề này, dùng các thứ đạo phương tiện,
v́ các loài chúng sanh, đúng như sự
tín giải trong bổn tánh của họ mà diễn nói pháp.
Kính mong đức Thế Tôn kế đó hăy nói cách tu Chân
Ngôn hành Đại Bi Thai Tạng
Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, nhằm thỏa
ư, v́ cứu giúp, an vui vô lượng chúng sanh trong đời
vị lai).
Đây chính là ngài Kim Cang Thủ do
nương vào thần lực của đức Phật mà
lănh ngộ phần kinh văn trên đây. Trước hết,
Ngài tán thán đức Thế
Tôn hết sức kỳ đặc, v́ đức Phật trọn đủ
đại phương tiện, nên mới có thể
nói Tam Bồ Đề do chư Phật tự chứng, tức
là: Tự tâm tự giác
pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, vượt ngoài hết
thảy các tâm địa,
đích xác là chẳng nương tựa vào đâu. Như
người đời giở chân, cất bước,
đều nương vào đất; Bồ Tát cũng
như thế, nương vào tâm mà thực hiện. V́ thế,
gọi tâm ấy là “địa”. Do tâm hễ c̣n
có chỗ để nương vào, sẽ chưa thể gọi
là Chánh Biến Tri. Như Lai đă vượt ngoài sự hư
luận vi tế ấy, các sự tiến nhập (tu chứng)
đều ngưng dứt, cho nên gọi là “siêu việt
tâm địa”. Tuy chẳng thể diễn tả sự
tịch diệt rốt ráo bằng ngôn từ, nhưng có thể
dùng đủ loại phương tiện đạo, v́
các loài chúng sanh, đúng như sự
tín giải trong bổn tánh của họ để diễn
nói pháp, tức là lănh ngộ, thấu hiểu dấu tích của sự trang nghiêm vô tận
nơi cái tâm Nhất Thiết Trí. Pháp
giới chẳng nghĩ bàn được sánh ví như
đài hoa sen; các thứ phương tiện đạo
được ví như cánh sen. Kinh
văn nói về sự lănh ngộ, thấu hiểu ấy
tuy giản lược, nhưng đă nêu bày ư chỉ mầu
nhiệm “tông thông” không ǵ chẳng trọn vẹn!
Kế
đó là thỉnh Phật, “duy nguyện Thế Tôn thứ
thuyết tu Chân ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng Sanh
Đại Mạn-đồ-la Vương” (kính mong
đức Thế Tôn kế đó hăy nói hạnh Chân Ngôn của
Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la
Vương). Nay xét theo thai tạng (bào thai) để làm thí
dụ. Hành giả vừa mới phát tâm Nhất Thiết
Trí, giống như do nhân duyên cha mẹ ḥa hợp, chủng
tử của thức nương gá vào thai. Lúc bấy giờ,
sẽ dần dần tăng trưởng, được
gió hạnh nghiệp khéo hun đúc. Cho đến khi mới
sanh ra, các căn, trăm thể thảy đều trọn
đủ, bắt đầu sanh trưởng trong ḍng họ
của cha mẹ. Ví như [hành giả] nương vào Chân
Ngôn môn, học đại bi vạn hạnh, tịnh tâm hiển
hiện. Lại nữa, đứa trẻ ấy dần dần
trọn đủ nhân và pháp, học tập các tài khéo.
Đă thông đạt tài khéo rồi, sẽ thực hiện
các sự nghiệp. Như trong tịnh tâm, phát khởi
phương tiện tu tập, đối trị trong
địa vị của chính ḿnh, tùy duyên lợi vật (lợi
ích các loài chúng sanh), tế độ chúng sanh. V́ thế gọi
là “Đại Bi Thai Tạng sanh”. Lại nữa, thoạt
đầu nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh môn, thấy
pháp, hiểu đạo, giống như chủng tử của
thức [tiến nhập] Ca La La[19].
Trước khi [hành nhân] đạt tới Thất Địa,
được đại bi vạn hạnh bao bọc, nuôi
dưỡng, giống như ở trong thai tạng. Từ
địa vị Vô Công Dụng Hạnh trở đi, dần
dần học theo phương tiện của Như Lai,
như trẻ nít đă sanh ra, học tập các tài khéo. Khi
đă đạt tới địa vị Nhất Thiết
Trí của Như Lai, giống như tài khéo đă thành tựu,
bèn theo
đuổi việc
cai trị. V́ thế gọi là “Đại Bi Thai Tạng
sanh”.
Lại c̣n là một loại
bí mật Mạn-đồ-la, nay dùng hoa sen để sánh ví
ư nghĩa Mạn-đồ-la ấy. Như hạt sen c̣n ở
trong vỏ cứng, tánh của cành, nhánh, hoa, lá đă rành
rành trọn đủ, giống như cái tâm chủng tử
của thế gian. Từ đấy, dần dần
tăng trưởng, cho đến khi mới trổ thành
búp sen, th́ gương sen và hạt sen được ẩn
giấu trong cánh sen, như cái tâm xuất thế gian vẫn
c̣n ở trong Uẩn. Lại do được cánh sen bao bọc,
chẳng bị các duyên “gió, lạnh” tổn thương,
tua, nhụy màu sắc thanh tịnh ngày đêm được
vun bồi. Ví như Đại Bi Thai Tạng đă thành tựu,
[hoa sen] được chiếu rạng, nở x̣e dưới
ánh mặt trời, giống như phương tiện
đă trọn đủ.
Nay trong ư nghĩa của Diệu
Pháp Liên Hoa Mạn-đồ-la ở đây, cái tâm thường
hằng nơi bổn địa của đức Tỳ
Lô Giá Na được
cụ thể hóa thành đài sen, bốn vị
Phật (Vô Lượng Thọ, Bảo Tràng, Khai Phu Hoa
Vương, và Thiên Cổ Lôi Âm), bốn vị Bồ Tát (Phổ
Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Di Lặc) là đề hồ quả
đức, như các hạt sen đă đều kết
thành. Các kim cang huệ sai biệt trí ấn nhiều như
số vi trần trong mười thế giới giống
như tua, nhụy. Các Đại Bi vạn hạnh Ba La Mật
môn nhiều như số vi trần trong mười thế
giới ví như hoa tạng. Vô lượng Ứng Thân trong
tam thừa lục đạo giống như rễ, thân,
cành, lá, xen lẫn tỏa rạng. Do các đức như thế
vây quanh trọn khắp, nên gọi là Mạn-đồ-la.
Nhưng do được Như Lai gia tŕ, từ đức
tự chứng nơi Bồ Đề của Phật, hiện
ra thân thai tạng nơi tám cánh sen (Trung Đài Bát Diệp).
Từ Kim Cang mật ấn, hiện ra tầng nội quyến
thuộc thứ nhất như Kim Cang Thủ v.v… Từ
đại bi vạn hạnh, hiện
ra tầng đại quyến thuộc thứ hai gồm
các vị Ma Ha Tát Đỏa. Từ phương tiện phổ
môn, hiện ra tầng thứ ba gồm các thân theo từng
loại mà hết thảy chúng sanh thích thấy. Nếu dùng
cách quán đảnh của
Luân Vương để so sánh th́ tầng thứ ba giống
như người đứng đầu trong
vạn quốc, tầng thứ hai như trăm quan thuộc
triều đ́nh, tầng thứ nhất như người
phù tá thuộc tông thất, trung đài như vị vua khoanh
tay. V́ thế, Thường
Trí trong hoa đài là
đại Mạn-đồ-la vương.
Nếu
từ Bổn mà hiện Tích, th́ từ mỗi môn của
Trung Đài, đều lưu xuất các loại
môn thuộc tầng thứ nhất. Từ mỗi môn thuộc
tầng thứ nhất, đều lưu xuất các loại môn thuộc
tầng thứ hai. Từ mỗi môn thuộc tầng thứ
hai, đều lưu xuất các loại
môn thuộc tầng thứ ba. Nếu
do tu hành cái nhân mà đạt tới quả, th́ sự thành tựu
được dẫn nhiếp thuộc tầng thứ ba
có thể thông tới tầng thứ hai, sự thành tựu
được dẫn nhiếp nơi tầng thứ hai có
thể thông tới tầng thứ nhất,
sự thành tựu được dẫn nhiếp ở tầng
thứ nhất có thể thấy trong Thai Tạng. Do vậy
bèn nói, tuy sự tín giải nơi bổn tánh của các loài
chúng sanh vô lượng vô biên, nhưng nghĩa lợi[20]
được thực hiện bởi pháp môn Mạn-đồ-la
này vẫn
bao gồm trọn hết,
không ǵ thừa sót. Do vậy nói: “Vị măn túc bỉ
chư vị lai thế vô
lượng chúng sanh, vị cứu hộ an lạc cố”
(v́ thỏa măn vô lượng chúng sanh trong đời vị
lai, v́ cứu giúp an vui).
(Kinh)
Nhĩ
thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ư đại
chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo Chấp Kim Cang Bí
Mật Chủ ngôn: “Đế thính, Kim Cang Thủ! Kim thuyết
tu hành Mạn-đồ-la hạnh, măn túc Nhất Thiết
Trí trí pháp môn”. Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn
tích thệ nguyện thành tựu vô tận pháp giới,
độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết
Như Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ
chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa.
Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất
hiện Như Lai chi thân, vị bỉ tùng sơ phát tâm, năi
chí Thập Địa chư chúng sanh cố, biến chí thập
phương, hoàn lai Phật thân bổn vị, bổn vị
trung trụ, nhi phục hoàn nhập.
(經)爾時薄伽梵毘盧遮那於大眾會中遍觀察已,告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!今說修行漫荼羅行滿足一切智智法門。爾時毘盧遮那世尊本昔誓願成就無盡法界度脫無餘眾生界故,一切如來同共集會,漸次證入大悲藏發生三摩地,世尊一切支分皆悉出現如來之身,為彼從初發心乃至十地諸眾生故,遍至十方還來佛身本位,本位中住而復還入。
(Kinh:
Lúc bấy
giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại
chúng hội, quán sát trọn khắp xong, bảo Chấp Kim
Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lắng nghe! Kim Cang Thủ!
Nay ta nói pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh trọn vẹn
trí Nhất Thiết Trí”. Lúc bấy giờ, do thệ nguyện
vốn có xưa kia của Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn là “thành
tựu vô tận pháp giới, độ thoát chúng sanh giới
chẳng sót”, hết thảy Như Lai đều cùng nhóm họp,
lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng,
phát sanh tam-ma-địa. Nơi hết thảy chi phần của
đức Thế Tôn, thảy đều
xuất hiện thân Như Lai, v́ các chúng sanh từ sơ
phát tâm cho đến Thập Địa mà đến trọn
khắp mười phương, trở lại bổn vị
nơi thân Phật, trụ trong bổn vị rồi lại
nhập trở vào).
Kinh
dạy: “Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na
ư đại chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Kim
Cang Thủ! Kim thuyết tu hành Mạn-đồ-la hạnh,
măn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn” (Lúc bấy giờ,
Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng
hội, quán sát trọn khắp xong, bảo Chấp Kim Cang
Bí Mật Chủ rằng: “Kim
Cang Thủ! Hăy lắng nghe! Nay ta sẽ nói pháp môn tu hành Mạn-đồ-la
hạnh, trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí”): “Đại hội”
ở đây chính là chúng sanh đáng nên độ, được nhiếp
thọ bởi
Pháp Giới Mạn-đồ-la. Nay đức Phật muốn
nói hạnh thâm mật, nhằm khiến cho đạo
cơ chẳng sai lạc, bèn dùng huệ nhăn quán sát. Tức
là [chúng sanh] do được huệ nhăn ấy gia tŕ, mầm
thiện từ đời trước không ǵ chẳng
được khai phát. Giống như ruộng tốt
đă được rải hạt giống tốt, kham
được mưa đúng thời tưới tắm. “Tu
hành” ở đây, tiếng Phạn là Na Da (Naya), có
nghĩa là Thừa hoặc Đạo. Ư nói từ một niệm
thiện căn cho đến khi thành Phật, trong khoảng
giữa ấy, pháp được vận dụng và đạo
được hành trong mỗi địa vị, đều
được gọi chung là Na Da. Các vị thiện tri thức
trong Mạn-đồ-la như người tạo cỗ
xe, đắp đường, và hướng dẫn, chúng
sanh ngồi xe ấy để đi, gọi là “tu Mạn-đồ-la
hạnh”. Hạnh này trong tiếng Phạn là Chiết-lợi-da.
Lại
như kinh văn trong phần sau có nói: “Tiên vị đệ
tử trạch trị b́nh địa” (Trước hết,
v́ đệ tử chọn lựa, sửa sang cuộc
đất bằng phẳng), nếu luận theo sự
tướng bên ngoài th́ như cách giải thích thông thường.
Nếu v́ phàm phu điên đảo chấp ngă, chọn lấy
một niệm chủng tử tâm, giữ ǵn trai giới, sửa
trị, khiến cho [tâm người ấy] b́nh thản,
chánh đáng, th́ cũng gọi là “trị địa”
(sửa sang cuộc đất). Cho đến v́
Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát chọn lựa trừ
khử trần cấu cực vi tế nơi cha mẹ vô
minh
trong tâm, cũng gọi là “trị địa”.
Do vậy bèn nói: Ư nghĩa “trị địa”
được nói trong mỗi câu kinh văn thuộc phần
sau đều có mấy tầng. Giống như mười
câu duyên sanh, đều lần lượt chuyển thành sâu
hơn, chẳng thể cùng tận! Ngài Chấp Kim Cang khuyến
thỉnh như thế, đức Phật lại dùng cái ấn
ấy để ấn chứng, sau đó rộng nói,
cho nên bảo là “măn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn” (pháp
môn trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí). Nếu địa
này chẳng măn, sẽ chẳng thể cứu giúp, an vui trọn
khắp hết thảy chúng sanh được!
Kinh
dạy: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn
tích thệ nguyện thành tựu vô tận pháp giới,
độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết
Như Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ
chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa”
(Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn do thệ nguyện
vốn sẵn có từ xưa kia là “thành
tựu vô tận pháp giới, độ thoát chúng sanh giới
chẳng sót”,
hết thảy các Như Lai đều cùng nhóm họp, lần
lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh
tam-ma-địa): Do Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo,
đă lập thệ nguyện như thế này: “Ta sẽ
thành tựu hết thảy các Phật pháp giới, thảy
đều độ thoát chúng sanh giới chẳng thừa
sót”. Nay sở nguyện đă măn, nhưng chúng sanh
đáng độ chẳng tận. Do chúng sanh vô tận, tức
là pháp giới cũng vô tận. Giới có ba loại, tức
là pháp giới, tâm giới, và chúng sanh giới. Ĺa pháp giới,
chẳng có chúng sanh giới nào khác; chúng sanh giới chính là
pháp giới. Ĺa tâm giới, chẳng có pháp giới nào khác;
pháp giới chính là tâm giới. Hăy nên biết ba loại ấy
chẳng hai, chẳng khác. V́ muốn diễn
giải ư nghĩa của pháp giới, kế đó nói tới “vô dư chúng sanh giới”.
Do chúng sanh giới chưa được giải thoát hết
thảy, tức là pháp giới chưa được thành tựu
trọn khắp, nên Như Lai siêng tu sự nghiệp, chẳng
hề ngưng nghỉ. Tức là do nhân duyên bổn nguyện
này, hết thảy Như Lai cùng nhau tụ tập. Như
trong tăng chúng có đại sự nhân duyên như kết
giới, thuyết giới v.v… Tăng chúng liền nhóm lại
cùng nhau ấn chứng, tiến hành. Do có cùng một giới,
cùng một cách nh́n, chẳng nên có chúng khác. Nay sắp nói pháp
môn “trọn vẹn trí
Nhất Thiết Trí”,
cũng là đại sự nhân duyên của chư Phật,
do [chư Phật] có cùng một bổn thệ, cùng một
pháp giới, nên thảy đều nhóm họp, cùng dùng thần
lực gia tŕ.
“Tiệm
thứ chứng nhập” (lần lượt chứng nhập):
Như lúc vô úy sơ khởi, dùng âm thanh và chữ [trong chân
ngôn] để quán tu Mạn-đồ-la hạnh. Loại
vô úy thứ hai th́ tu Mạn-đồ-la hạnh trong hữu
tướng quán. Loại vô úy thứ ba th́ tu Mạn-đồ-la
hạnh,
trong tâm chỉ có Uẩn,
không có
ngă. Loại vô úy thứ tư th́ tu Mạn-đồ-la
hạnh trong tâm pháp duyên. Loại vô úy thứ năm, tu Mạn-đồ-la
hạnh trong tâm vô duyên. Loại vô úy thứ sáu, tu Mạn-đồ-la
hạnh trong tâm b́nh đẳng. Từ Ly Cấu Địa
trở đi, đều tu Mạn-đồ-la hạnh
trong quán tâm thuộc mỗi địa vị
của chính ḿnh. Đại lược
phân chia theo hạnh vị, bèn có mười sáu tầng sâu cạn
khác nhau. Trong mỗi hạnh vị ấy, đều có Bồ
Đề chủng tử tâm, có nhân duyên tăng trưởng
Đại Bi Thai Tạng, có cái quả thọ dụng của
huệ phương
tiện nghiệp như trong phần trước đă nói:
“Từ mỗi môn đều lưu xuất các loại
môn”. Trong đó, từ nhân hướng tới quả,
phương tiện Tam Mật lần lượt khác nhau,
dung hội tột bậc tới biển cả tâm
vương th́ mới là “có cùng một vị, chẳng
khác”. Nay mười phương chư Phật vốn
khi hành Bồ Tát đạo, mỗi vị đều
nương theo một pháp môn để đạt tới
địa vị Nhất Thiết Trí. Do sắp nói nhân duyên
phát khởi các hạnh Phổ Môn, [chư Phật] bèn cùng nhập
Đại Bi Thai Tạng tam-muội này, từ đạo
do chính ḿnh vốn đă tu hành, lần lượt chứng
nhập, mỗi mỗi quán sát. Như khi Bồ Tát tu Thiền,
trong Cửu Thứ Đệ Định, xuất nhập
nghịch thuận, vượt ngoài định hay tán, phấn
tấn du hư, không ǵ chẳng tự tại. Các vị Như
Lai ấy lần lượt chứng nhập Đại Bi
Tạng, phát sanh tam-ma-địa cũng giống như thế:
Hoặc quán vô tận pháp giới, lấy hết thảy
các tâm làm một tâm, dùng hết thảy các môn làm một môn.
Hoặc quán chúng sanh giới chẳng thừa sót, dùng một
tâm làm hết thảy các tâm, lấy một môn làm hết thảy
các môn. Nếu vận dụng mười sáu tầng huyền
nghĩa ấy, sẽ là ngang dọc đều nhiếp trọn
mười hai bộ loại kinh, tức là lần lượt
xoay chuyển vô tận vậy!
Kinh
dạy: “Thế Tôn nhất thiết chi phần,
giai tất xuất hiện Như Lai chi thân”
(trong hết thảy các chi phần của đức Thế
Tôn, thảy đều xuất hiện thân Như Lai). Trong
phần trước, khi hiện trang nghiêm tạng, mỗi
thân Phổ Môn đều trọn khắp mười
phương, tùy duyên ứng hợp căn cơ của
chúng sanh. Nay do muốn nói địa vị viên măn trong Mạn-đồ-la,
lại dựa theo thượng, trung, hạ thể của
thân Phật để phân chia theo bộ loại:
1) Từ
rốn trở xuống, thị hiện sanh thân của Phật
Thích Ca, thị hiện giống như pháp của loài
người, các thứ h́nh sắc, oai nghi của Nhị Thừa
và sáu đường, tiếng nói, đàn, ṭa mỗi mỗi
khác biệt, và các quyến thuộc lần lượt khác
nhau, khắp trong tám phương, đúng theo thứ tự
của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.
2) Từ
rốn trở lên tới họng, xuất hiện vô lượng
các
Bồ Tát Thập Trụ, mỗi vị
đều duy tŕ thân Tam Mật, cùng vô lượng quyến
thuộc, khắp trong tám phương đều theo thứ
tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.
Nhưng trong ấy có hai tầng:
a. Từ
tim trở xuống là các đại quyến thuộc tŕ
đại bi vạn hạnh số nhiều như vi trần
trong mười cơi Phật.
b. Từ
tim trở lên là các nội quyến thuộc tŕ kim cang mật
huệ số nhiều như vi trần trong mười cơi
Phật, được gọi chung là “đại tâm
chúng”.
3) Từ
họng đến đỉnh đầu, xuất hiện
thân Phật thuộc quả đức Tứ Trí tam-muội.
Tức
là tám thân ấy, ở trong hết thảy các thế giới,
đồ chúng, cơi nước, danh hiệu, thân nghiệp,
các chuyện thọ dụng, thảy đều bất
đồng, cũng ở trong tám phương theo thứ tự
của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.
Kinh
dạy: “Vị bỉ tùng sơ phát tâm năi chí Thập
Địa chư Bồ Tát” (v́ các Bồ Tát từ sơ
phát tâm cho đến Thập Địa), tức là khi mới
phát Bồ Đề tâm thanh tịnh, thấy Mạn-đồ-la
này đă trọn khắp pháp giới. Thăng lên Đệ
Nhị Trụ, lại càng sâu rộng hơn, lại càng mở
rộng, sáng suốt hơn, cho đến Đệ Thập
Nhất Địa, cái thấy mới viên măn cùng cực. Xếp
đặt phận vị như thế xong, đều tới
khắp mười phương, ở trong pháp giới môn của
chính ḿnh mà thực hiện sự nghiệp Chân Ngôn, thị
hiện tấn tu theo thứ tự, làm vị dạy bảo
chủ yếu cho đại chúng. Tướng ấy hiện
tiền rành mạch, vô ngại. Kinh văn được
nói trong phần sau chỉ nhằm nêu bày cái tâm này, gán cho nó một danh
tự để lưu thông đó thôi! Lại c̣n tùy loại
mà hiện thân trọn khắp. [Kinh văn] lại c̣n nói “tất hiện Như Lai thân” (đều hiện
thân Như Lai),
nhằm nêu rơ Bổn và Tích đều chẳng thể
nghĩ bàn, gia tŕ bất nhị, há có muốn khiến cho
độc nhất một pháp giới dấy lên các thứ
h́nh tượng ư? Khi hành giả đă hiểu như thế,
sẽ thấy Tỳ Lô Giá Na và quỷ, súc sanh tôn quư như
nhau. Cái tâm b́nh đẳng, chẳng có tướng “hơn,
kém”, liền từ một môn mà nhập, đều thấy
tâm vương. V́ thế, [chư Phật] thực hiện
Phật sự xong, kinh nói: “Biến chí thập
phương, hoàn lai nhập Phật thân bổn vị, bổn
vị trung trụ nhi phục hoàn nhập” (tới trọn
khắp mười phương, trở lại nhập vào
bổn vị nơi thân Phật, trụ trong bổn vị
rồi lại nhập vào), ư nói hết thảy các
phương tiện rốt ráo đồng quy.
(Kinh)
Thời Bạc Già Phạm phục cáo Chấp Kim Cang Bí Mật
Chủ ngôn: - Đế thính, Kim Cang Thủ! Mạn-đồ-la
vị sơ a-xà-lê ưng phát Bồ Đề tâm, diệu
huệ từ bi, kiêm tổng chúng nghệ, thiện xảo
tu hành Bát Nhă Ba La Mật, thông đạt tam thừa, thiện
giải chân ngôn thật nghĩa, tri chúng sanh tâm, tín chư Phật,
Bồ Tát, đắc truyền giáo quán đảnh đẳng,
diệu giải mạn-đồ-la họa, kỳ tánh
điều nhu, ly ư ngă chấp. Ư Chân Ngôn hạnh, thiện
đắc quyết định, cứu tập Du Già, trụ
dũng kiện Bồ Đề tâm. Bí Mật Chủ!
Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật, Bồ Tát
chi sở xưng thán.
(經)時薄伽梵復告執金剛祕密主言:諦聽。金剛手!漫荼羅位初阿闍梨應發菩提心,妙慧慈悲兼綜眾藝,善巧修行般若波羅蜜,通達三乘,善解真言實義,知眾生心,信諸佛菩薩,得傳教灌頂等妙解漫茶羅畫,其性調柔離於我執,於真言行善得決定,究習瑜伽,住勇健菩提心。祕密主,如是法則阿闍梨,諸佛菩薩之所稱讚。
(Kinh: Khi đó, Bạc Già Phạm lại bảo
Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lắng nghe, Kim
Cang Thủ! Điều trước
hết trong Mạn-đồ-la là vị A-xà-lê hăy nên phát Bồ
Đề tâm, diệu huệ, từ bi, kiêm thông thạo
mọi nghề, khéo léo tu hành Bát Nhă Ba La Mật, thông đạt
tam thừa, khéo hiểu ư nghĩa chân thật của chân
ngôn, biết tâm chúng sanh, tin tưởng chư Phật, Bồ
Tát, đă được truyền giáo pháp, quán đảnh
v.v… thông hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la, bẩm tánh
thuần ḥa, mềm mỏng, ĺa khỏi Ngă Chấp, khéo
đạt được quyết định nơi hạnh
Chân Ngôn, nghiên cứu, tu tập Du Già, trụ trong Bồ
Đề tâm mạnh mẽ. Bí Mật Chủ! Vị A-xà-lê
đúng pháp tắc như thế được chư Phật,
Bồ Tát khen ngợi).
Từ
đây trở đi cho đến lúc phần dạy răn
quán đảnh đă xong, Kim Cang Thủ hỏi [đức
Thế Tôn, hành nhân] sẽ đạt được mấy
loại khối phước, bèn bạch Phật rằng: “Tùng
kim dĩ hậu, ngă đương cúng dường thị
thiện nam tử, thiện nữ nhân. Hà dĩ cố? Bỉ
thiện nam tử, thiện nữ nhân đồng kiến
Phật Thế Tôn cố” (Từ nay trở đi, con sẽ
cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy.
V́ sao vậy? Do [thấy] thiện nam tử, thiện nữ
nhân ấy, giống như thấy Phật Thế Tôn). Phần
này nói tới nhiều chi phần[21]
để nhập Mạn-đồ-la. Lại từ phần
Đại Lực Minh Phi cho tới cuối
phẩm thứ hai, sẽ nói về các chân ngôn cần thiết
để tác pháp trong đàn tràng. Đối với các chi phần
[để nhập mạn-đồ-la], trước hết
là chi phần (tiểu đoạn) nói về [phẩm đức
của] A-xà-lê. V́ lẽ nào vậy? Đức Phật nói “kinh này phải
được thọ tŕ từ thầy, chớ nên tự
tiện tu hành”. Nếu
chẳng có minh sư, sẽ chẳng thể nhờ vào
đâu để được truyền thọ! Nhưng do hiểu
hai loại nghĩa mà được gọi
là A-xà-lê; tức
là chia thành “nông cạn, sơ sài” và “cao sâu” [để luận
định]. Nếu thấy người học chưa có
cơ duyên tin hiểu sâu xa, bèn thuận theo đường
lối thông thường, dựa theo kinh văn để
giải thích. Nếu [người đến học] đă
thành tựu trí huệ, lợi căn, ắt nên diễn nói
thông suốt chỗ sâu xa, bí mật để dạy bảo.
Nay tôi dùng hai cách phân định ấy để giải
thích ư nghĩa A-xà-lê.
Nếu
đối với các loại chi phần
của Mạn-đồ-la này, cho đến hết thảy chân
ngôn, thủ ấn, quán hạnh và Tất Địa của
hết thảy chư tôn (các vị Phật, Bồ Tát, thánh
chúng trong Mạn-đồ-la) thảy đều thông đạt,
sẽ có thể truyền giáo, quán đảnh, bèn gọi là
A-xà-lê (Ācārya). Nếu vượt khỏi tám tâm trái nghịch hay tùy
thuận, chứng tịch nhiên giới, th́ gọi là A-xà-lê.
Nếu tâm vương của chính ḿnh tự tại, hiểu
rơ “tự tâm vốn bất sanh” th́ gọi là A-xà-lê. Nếu
sanh khởi cực vô tự tánh tâm,
được nhập các hải hội Mạn-đồ-la
như trên, th́ gọi là A-xà-lê. Từ đây trở đi, lại
có mười tầng hạnh sâu, cho đến là bậc
thượng thủ cao tột nhất trong những người
thấu hiểu Tam Mật, như ngài Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva),
th́ gọi là A-xà-lê. Lại nữa, đức Tỳ Lô Giá
Na được gọi là A-xà-lê. V́ thế, khi thực hiện
sự nghiệp đầu tiên của bậc A-xà-lê, cần
phải quán chiếu thân ḿnh giống hệt Kim Cang Tát Đỏa
và Tỳ Lô Giá Na, dùng thân ngữ mật ấn để gia
tŕ, bèn gọi là “thiện trụ sư vị” (khéo trụ
trong địa vị làm thầy). Nếu không, chẳng có
ǵ có thể thành được! Đối với các hạnh
sâu khác, [độc giả] có thể tự lănh hội. Kế
đó, [chánh kinh] nói về các đức của bậc
A-xà-lê.
Kinh
dạy: “Ưng phát Bồ Đề tâm” (hăy nên phát Bồ
Đề tâm), tức là sanh thệ nguyện quyết định,
một mực dốc chí mong cầu trí Nhất Thiết
Trí, ắt sẽ phổ độ pháp giới chúng sanh. Tâm ấy
giống như tràng, cờ, dẫn dắt các hạnh. Ví
như chủng tử là căn bản của muôn đức.
Nếu chẳng phát cái tâm ấy, cũng như [thần thức]
chưa gá vào Ca La La, Đại Bi Thai Tạng dưỡng dục
bằng cách nào? Tự ḿnh chẳng thể kiến lập
thiện căn, c̣n toan làm thầy của người khác
ư? Hăy nên ước theo từng địa vị để
giải thích sâu xa, bí mật, cho đến Tỳ Lô Giá Na
th́ mới gọi là “vô tận pháp giới rốt ráo phát
tâm” vậy.
Kinh
nói: “Diệu huệ từ bi”, Bát Nhă có hai loại, tức
Bát Nhă do ḥa hợp với Lục Ba La Mật và Thật
Tướng Bát Nhă. Ở đây có ư nói đến câu thứ
nhất (tức “Bát Nhă do ḥa hợp với Lục Ba La Mật”).
Trí huệ ấy giống như xảo phong (gió nghiệp
thức), có thể đúc nặn cái tâm của Ca La La, khiến
cho trăm thể [của phôi thai] được thành tựu.
Hành giả do có trí huệ, sẽ có thể khéo biết “thông, tắc”, phán đoán đúng
sai, ứng xử phù hợp quy củ trong hết thảy
các sự nghiệp thuộc Mạn-đồ-la, tâm chẳng
ngờ vực, vướng mắc, bèn kham làm bậc A-xà-lê.
Nói tóm lại, nếu trí nghiệp viên măn giống như Tỳ
Lô Giá Na th́ gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”. “Từ bi” tức
là tâm thương xót, thấu xương lọt tủy,
các hành vi đều nhằm kiến lập chúng sanh, ắt
đều khiến cho họ thành tựu niềm vui sướng
vô tận trong pháp giới, độ thoát nỗi khổ của
chúng sanh giới chẳng sót. Nếu chẳng có cái tâm ấy,
sẽ như thai tạng chẳng thể kết thành, sao có
thể dưỡng dục cho được? Cho đến
Tỳ Lô Giá Na Phật do bổn nguyện, trụ trong thế
giới gia tŕ, hiện trọn khắp Bi Sanh Mạn-đồ-la,
th́ gọi là “thâm bí A-xà-lê”.
“Kiêm
tổng chúng nghệ” (Gồm thâu các tài nghệ) tức
là khéo thông thạo các thứ tài nghệ trong thế gian,
như thanh luận (Thanh Minh), nhân luận (Nhân Minh Học),
mười tám minh xứ[22],
sáu mươi bốn kỹ năng, toán số,
phương dược (thuốc men, y thuật), xem tướng,
các nghề khéo. V́ đối với những điều cần
thiết trong Mạn-đồ-la, đều chẳng cần
phải nhờ cậy ai khác; do vậy,
có bản lănh thực hiện,
chẳng phạm lỗi thiếu khuyết. Sau đấy,
kham làm bậc A-xà-lê. Lại nữa, trong khi hành pháp như
thế, trọn chẳng mâu thuẫn với Thật Tướng,
gọi là “diệu thiện chúng nghệ”. Lại nữa,
trong hết thảy các tổng tŕ, tam-muội môn, đạo
phẩm, các độ, tứ biện tài, tứ nhiếp, lực,
vô úy v.v… đều đạt được thiện xảo,
ắt có thể tùy ư tạo tác bí mật Mạn-đồ-la,
bèn gọi là “diệu thiện chúng nghệ”.
“Thiện
xảo tu hành Bát Nhă Ba La Mật” (khéo léo tu hành Bát Nhă Ba La
Mật) tức là tu sâu xa, quán sát mười câu duyên sanh, thấy
Trung Đạo rất sâu, chiếu bất khả đắc
Không. Chuyện ấy như trong kinh Ma Ha Bát Nhă đă nói chi
tiết. Nếu hành giả đối với văn tự
và quán tâm, khéo thông đạt, ĺa khỏi kiến chấp,
bèn đáng làm bậc thế gian A-xà-lê cho người khác. Lại
nữa, trí huệ trong [A-tăng-kỳ] kiếp đầu
tiên cùng hành giống như Nhị Thừa, chẳng phải
là Bát Nhă sâu xa. Trí huệ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ
hai th́ do cùng nghe với hàng Nhị Thừa, cũng chẳng
phải là Bát Nhă rất sâu. Trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ
ba, tâm giống như hư không, trí huệ vô biên, hết thảy
Nhị Thừa đều chẳng thể nghĩ bàn, bèn gọi
là Bát Nhă rất sâu, kham làm bậc A-xà-lê bí mật hạnh.
Trong bí mật, lại lần lượt chuyển thành sâu
dần, cho đến đức Phật v́ hàng Thập
Địa nói Bát Nhă, tức chẳng phải là cảnh giới
của Cửu Địa, chỉ có Đại Tỳ Lô Giá
Na được gọi là “cứu cánh A-xà-lê”.
“Thông
đạt tam thừa” tức là khéo thông đạt
văn nghĩa của tam tạng giáo pháp trong Đại Thừa
và Tiểu Thừa. Có thể cật vấn, có thể
đáp, kham hun đúc, thành tựu Tam Học, dẹp trừ
ác tà (ác kiến, tà kiến) cho đệ tử, bèn có thể
làm A-xà-lê. Nếu chẳng phải vậy, sẽ có thể
bị khuất phục bởi các luận nghị sư
khác, tức là chẳng có sức truyền pháp, sẽ sanh khởi
cái tâm bất tín cho người khác. Lại nữa, tông chỉ
trong kinh này theo chiều ngang thống nhiếp hết thảy các
giáo pháp của Phật, như nói “duy Uẩn vô ngă, tâm xuất
thế gian trụ trong Uẩn”, tức là thống nhiếp
Tiểu Thừa Tam Tạng trong các bộ. Như nói “quán
Uẩn A Lại Da, thấu hiểu tự tâm vốn bất
sanh”, tức là thống nhiếp ư nghĩa “tám thức,
ba vô tánh” trong các kinh. Như nói mười câu duyên sanh thuộc
cực vô tự tánh tâm, tức là các thứ cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn thuộc Hoa Nghiêm và Bát Nhă đều
được gộp trong đó. Như nói “biết tự
tâm đúng như thật th́ gọi là Nhất Thiết Chủng
Trí” tức là Như Lai bí tạng Nhất Thừa thuộc
Phật tánh đều được gộp trong đó.
Đối với các thứ thánh ngôn, không ǵ chẳng thống
nhiếp các điều tinh yếu. Nếu có thể tŕ tâm ấn
ấy, rộng khai hết thảy các pháp môn, th́ gọi là “thông
đạt tam thừa”. Lại nữa, Chân Ngôn môn
nương vào ấn Tam Mật mà đạt tới địa
vị tam b́nh đẳng[23]
của Phật th́ gọi là “thông đạt tam thừa”.
Tầng lớp cạn sâu như trong phần trước
đă nói.
“Thiện
giải chân ngôn thật nghĩa” (khéo hiểu nghĩa
chân thật của chân ngôn), như trong Chân Ngôn môn có các thứ
chân ngôn, các thứ thân ấn (ấn
khế được biểu hiện
nơi thân hành giả), các thứ Bổn Tôn, cho đến
các vật đầy đủ duyên, mỗi mỗi chi phần,
âm, chữ, h́nh sắc, các tướng khác biệt, biết
pháp như thế sẽ dùng để “tịch tai” (寂災,
chấm dứt tai ương), pháp
như thế dùng để tăng ích, pháp như thế
dùng để hàng phục, như Tŕ Minh Tạng Tô Tất
Địa v.v… đă rộng nói phân biệt. Đấy là
thông đạt thật nghĩa của Chân Ngôn. V́ lẽ nào
vậy? Mỗi chân ngôn đều là lời mầu nhiệm
cùng tột của Như Lai. Như trong chân ngôn có chữ Chất-đa
(Citta), dịch ở mức độ nông cạn th́ chỉ
là “tâm”. Nếu
giải thích theo lối sâu xa, bí mật, Chất
(質)
chính là chữ Giá (遮) kèm
theo âm thanh tam-muội[24].
“Giá” có nghĩa là “không biến đổi”. “Không biến
đổi” chính là Phật tánh, Phật tánh cũng gọi
là Bát Nhă Ba La Mật, c̣n gọi là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội.
V́ thế, Định Huệ trọn đủ. Chữ
Đa có nghĩa “hết thảy các pháp như như, giải
thoát, chẳng thể được”. Nếu nói cái tâm
như thế, bèn gọi là “diệu cực
chi ngữ” (lời tuyệt diệu).
Lại
nữa, như thân ấn, tay trái nghĩa là tam-muội, tay
phải là nghĩa Bát Nhă, mười ngón tay nghĩa là
mười Ba La Mật trọn đủ, cũng nhằm
sánh ví ư nghĩa ngũ luân của Nhất Thiết Trí.
Như trong h́nh tượng Bổn Tôn, nữ là Thiền
Định, nam là trí huệ, màu vàng là thân kim cang, trắng
là đại bi, đỏ là đại huệ, xanh là đại
không, đen là đại lực, cho đến trong hết
thảy các duyên, đều có ư nghĩa Đệ Nhất
Thật Tế, há có nên dựa theo văn tự để
hiểu hay chăng? Nếu thông đạt thật nghĩa
như thế, đáng nên làm A-xà-lê, dựa theo Thập Địa
để nói về hạnh sâu vậy!
“Tri
chúng sanh tâm” (biết tâm chúng sanh), do A-xà-lê khéo biết tác
dụng của ba bộ thượng, trung, hạ, các thứ
tánh loại sai biệt, và trụ trong Du Già, dùng
phương tiện gia tŕ, có thể biết rơ tâm hạnh
của chúng sanh. Như có người đến cầu
pháp, thầy phải nên bảo người ấy:
“Ngươi hăy ở yên đó, ta sẽ tư duy”, thầy
liền cầm danh tự của người ấy, vào
trong tĩnh thất (căn pḥng thanh vắng, yên tĩnh),
đúng như pháp tŕ tụng, quán nhân duyên của người
ấy. Do được Bổn Tôn gia tŕ, sẽ thấy
tướng
mạo. Nếu là ngoại đạo muốn
đến trộm
pháp, hoặc t́m ṭi cơ hội [để phá
hoại, gây trở ngại] mà giả vờ thân cận;
lúc bấy giờ, Bổn Tôn hoặc hiện h́nh tướng
ngoại đạo v.v… [A-xà-lê] quán kỹ h́nh tướng ấy,
sẽ tự nhiên biết được, hăy nên
phương tiện từ chối, khuyên nhủ rằng: “Thiện
nam tử! Phàm là người
cầu pháp, trước hết hăy nên trừ dứt hết
thảy các tâm ác kiến, xảo ngụy. Lại nữa,
chư Bồ Tát v́ độ chúng sanh, có thể thực hiện
đủ
mọi khổ hạnh khó hành. Ông nay có thể
làm các sự khó thực hiện ấy hay chăng?” Lại
c̣n tùy theo cái duyên của chính ḿnh mà tạo lợi ích. Nếu
trong cảnh giới, thấy Bổn Tôn ở trong Mạn-đồ-la,
dẫn đệ tử, trao quán đảnh, hoặc giao
phó, các thứ tướng lành như thế, th́ phải nên nhiếp
thọ [đệ tử ấy].
Lại nữa, nếu Bổn Tôn bỏ h́nh sắc vốn
có mà hiện màu đỏ [th́ người cầu học]
là kẻ tánh nhiều sân khuể, màu đen là si nhiều,
màu vàng là tham nhiều, màu trắng là thiện nhiều, xanh
nhạt th́ phần nhiều là vô kư. Và trong Mạn-đồ-la,
[sau khi rải hoa cúng dường lên Mạn-đồ-la],
quán sát hoa rơi vào chỗ nào, từ các tướng vi tế
thượng, trung, hạ, cũng có thể biết tâm cơ người ấy
là pháp khí hay chẳng phải pháp khí. Nhưng chớ nên chấp
trước tướng như thế, cũng dùng mười
câu duyên sanh để quán sát. Hiểu rơ mỗi chuyện
như thế, sẽ kham trụ trong địa vị làm
thầy.
Lại nữa, giải thích theo kiểu sâu
xa, bí mật, “biết tâm chúng sanh” chính là như thật
biết tự tâm. Do có thể biết tự tâm, sẽ có
thể biết rơ tâm của người khác. Như trong nhà
sẵn có kho báu, sẽ khéo xem xét các vật báu khác, cho đến
các căn tánh ưa thích, nhân duyên từ đầu đến
cuối, tâm sở, động tác, hư luận, không ǵ chẳng
thông đạt rành rẽ. Đó gọi là “thâm hạnh
A-xà-lê”.
Đối
với “tín chư Phật, Bồ Tát”, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hết thảy các thiện pháp lấy tín
làm đầu, nên [tín] được nói trước hết”.
Nay thuận theo cách nói thông dụng trong tiếng Phạn,
[điều này] lại thông với các địa vị
sau, chỉ là không nói trong các phần sau đó thôi! Tức là
trong tông này, khi mới nhập pháp môn, ư rất nông cạn,
khó biết. Vả nữa, Thật Tướng của tam thừa không ǵ chẳng
ĺa văn tự, nhưng đối với chân ngôn, cần
phải là miệng tụng Phạn văn, tâm cũng quán
tưởng, hoặc duỗi gập các chi tiết nơi thân
phần[25] giống
như đùa bỡn, hoặc tu tam-muội, bèn quán các h́nh
tượng nữ nhân hoặc phẫn nộ v.v… Hoặc
dùng nước rưới lên đỉnh đầu, hoặc
tạo tác hỏa đàn. Nếu toan dùng tâm thức để
suy đoán, so đo, sẽ lại chẳng thể thấy
dấu tích gia tŕ. Chẳng phải là kẻ tự trọn
đủ ḷng tin sâu xa, há có thể chẳng ngờ vực
ư?
Lại
nữa, vị hành giả ấy đối với các duyên
sự tướng đó, đều dùng ḷng tin sâu chắc
để hành. Nếu đă siêng khổ nhiều mà chưa
đạt được lợi ích trong hiện tại,
lúc đó, bèn tự tư duy: “Do ta công hạnh chưa
đến mức, hoặc do Hoặc chướng cấu
nhiễm bởi Tam Độc nặng nề. Như giặt
áo, dùi lửa, chỉ đừng bỏ phế giữa chừng,
tự sẽ thuần tịnh tận mắt thấy quang
minh vậy”. Lại nên tư duy các thí dụ về huyễn,
như do dược vật ḥa hợp mà được bay
lên không, sống lâu, dẫu kẻ lợi căn trí huệ
cũng chẳng suy nghĩ mà biết được. Chỉ
cốt sao khéo hiểu thuật
ấy, không ai chẳng thành tựu! Do thâm tâm tịnh tín ĺa
nghi hoặc, dần dần đạt được pháp
nghiệm hiện tiền! Lại do pháp nghiệm hiện
tiền, tín giải chuyển cao hơn thành chẳng thể
ngăn trở, phá hoại. Nếu chẳng phải vậy,
sẽ giống như kẻ chẳng có tay, dẫu đến
được kho báu mà trọn chẳng đạt
được ǵ, huống hồ dự vào địa vị
A-xà-lê ư? Lại nữa, trong một niệm tâm của
chúng sanh, có
thân thọ lượng dài lâu của Như Lai, tịch
quang hải hội, cho đến các vị Bất Thoái Bồ
Tát cũng chẳng thể biết. Hăy nên biết pháp này
càng khó tin gấp bội. V́ thế, trong hội Pháp Hoa, bậc
Bổ Xứ cầu thỉnh ba lượt, Như Lai
răn dè
bốn lượt rồi mới diễn
nói. Nay kinh này có phương tiện để tu nhập,
thậm chí có thể thành tựu trong một đời. Nếu
có thể tiếp nhận chắc thật, chẳng nghi ngờ,
đạt đến Tín địa, hoặc đạt tới
tín giải, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Đắc
truyền giáo quán đảnh, thiện giải Mạn-đồ-la
họa” (được truyền giáo quán đảnh,
khéo hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la): Quán đảnh
có hai loại, tức là từ trong pháp đệ tử,
đă được quán đảnh rồi, bèn tấn tu
theo thứ tự, cho đến khi thành tựu các đức
của bậc A-xà-lê. Lúc bấy giờ, A-xà-lê hoan hỷ,
bèn v́ học tṛ tạo Mạn-đồ-la, truyền giáo,
quán đảnh, đúng như pháp khuyên nhủ: “Phật
tử! Con ở trong tạng bí mật, đă tùy thuận tu
học, hiểu trọn đủ rồi, kham có thể dạy
bảo người khác. Nay con đă được lợi
lành, thậm chí các vị hiền thánh cũng đều
khen ngợi. Nay đă quán đảnh xong, con hăy nên dùng cái
tâm chân tịnh để truyền tŕ, hoằng
dương, khiến cho tạng bí mật của Như Lai
rất lâu chẳng diệt!” Thuận theo lẽ đáng
nên mà an ủi, khuyên dụ đủ mọi lẽ như
thế, sẽ đáng nên làm bậc Mạn-đồ-la
A-xà-lê cho người khác.
Lại
nữa, trong Du Già, hành giả thành tựu các đức của
A-xà-lê, lúc bấy giờ, bậc thâm hạnh A-xà-lê v́ người
đó tạo Tâm Mạn-đồ-la. Khi đó, đệ tử
thấy biết rành rẽ, được đức Đại
Tỳ Lô Giá Na dùng nước đại bi để thực
hiện tâm quán đảnh. Chuyện ấy sẽ
được nói trong phần sau. Cho đến khi Ba
La Mật được viên măn trong mỗi địa,
mười phương chư Phật hiện tiền quán
đảnh, trao cho chức vị Phật, đều gọi
là “được truyền giáo quán đảnh”.
Đă được truyền giáo quán đảnh, chớ
nên làm kẻ cuối cùng đoạn dứt ḍng giống
[nhà Phật], mà phải nên nối tiếp sự nghiệp
của tiên sư, độ các đệ tử. Đây
chính là phương tiện tối sơ, tức là cần
phải hiểu h́nh tượng Mạn-đồ-la. Do
đó, kế tiếp bèn nói [“thiện giải Mạn-đồ-la
họa”]. Tức là đối với mỗi
phương vị, mỗi tướng mạo trong ấy,
sắp xếp điều ḥa các màu, tô vẽ trang nghiêm,
đều phải nên tự thấu
hiểu rành rẽ, đừng nh́n vào phương tiện
khác, [người như thế] bèn kham làm A-xà-lê. Lại nữa,
có thể từ trong tâm Bồ Đề thanh tịnh, dùng
huệ phương tiện để vẽ vời đại
Mạn-đồ-la vương trang nghiêm vô tận, bèn gọi
là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Kỳ
tánh điều nhu, ly ư ngă chấp” (Bẩm tánh điều
phục, mềm mỏng, ĺa Ngă Chấp): Đối với
Ngă Chấp ở đây, trong bản tiếng Phạn ghi là
chữ “quán đảnh”, A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) truyền
dạy rằng: “Chữ này có ư nghĩa không tương ứng,
phải nên nói là ly ngă chấp”. Tánh người ấy
điều nhu, tức là an trụ trong oai nghi truyền
giáo, trụ nhẫn nhục địa, nhu ḥa, khéo tùy thuận,
chẳng bộp chộp, lỗ măng. Tuy chủng tộc,
h́nh sắc, đa văn, trí huệ, không ǵ chẳng lỗi
lạc hơn người, nhưng cũng chẳng sanh tâm
kiêu căng, ngạo mạn, có thể rủ ḷng từ giúp
đỡ, khuyên dụ kẻ mới học, thậm đối
với các chủng tánh hèn kém, nhỏ nhoi, cũng chẳng
có ư tưởng coi họ là kém cỏi, hay mang ḷng ghen ghét,
chỉ một dạ dùng pháp để tự điều
phục ḿnh, nương theo pháp mà trụ. Điều nhu
như thế tức là ĺa Ngă
Chấp. Đó là cách
giải thích theo lối chuyển tướng.
Lại
nữa, “điều nhu” tức là “bách luyện thuần
lạp” (trăm lần tinh luyện, sáp sẽ tinh thuần).
Do điều nhu, thuận theo sự khéo léo mà không ǵ chẳng
thực hiện. Nay hành giả tịnh trị cái tâm ấy,
do hết thảy chất quặng thô thiển đă hết,
tùy theo sự khéo léo nơi “tay” trí
huệ mà không ǵ chẳng thực hiện được.
Do vậy, có thể trụ trong địa vị nhẫn
nhục, tùy duyên thích ứng chúng sanh. Lại nữa, nhập
đạo trong pháp môn của chư Phật, Bồ Tát, giống
như thượng tộc. Nhập đạo trong pháp môn
của chư thiên, rồng, quỷ, giống như hạ
tộc. Tức là dùng thân này để làm
“tôn đặc tướng hải” (biển tướng
tôn quư, đặc biệt) của
Đại Nhật Như Lai, giống như sắc tướng,
h́nh mạo bậc nhất, so với kẻ chẳng thể
thực hiện, giống như chiếc áo dơ bẩn
rách nát vậy. Luôn nhất tâm nghe chư Phật thuyết
pháp, phân biệt chẳng sai, th́ gọi là “đa văn”.
So với kẻ lục căn ám tắc th́ gọi là “thiểu
văn”. Vô lượng trí huệ tự nhiên nở bùng,
gọi là “trí huệ”. Vô minh Tam Độc là ngu si. Do
các pháp như thế rốt ráo b́nh đẳng, chớ nên
có tâm cao thấp, nên gọi là “điều nhu”. Chỉ
có ḿnh đức Phật đáng gọi là “bậc hết thảy
điều nhu, khéo trụ trong pháp A-xà-lê” vậy.
“Ư
Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định”
(khéo đạt được quyết định nơi
hạnh Chân Ngôn): Điều phục, tạo lập các thứ
phương tiện trong Mạn-đồ-la, tâm đạt
được quyết định, ĺa các lưới nghi; đó gọi là “hộ
thân như thế, kết giới như thế, nghênh thỉnh
như thế, tịnh hóa các vật cúng để dâng hiến
như thế”. Dùng chân ngôn và thủ ấn như thế
để gia tŕ, cho tới lúc tŕ tụng, tấn
tu, và thành tựu Tất Địa,
cũng có vô lượng pháp theo thứ tự. Những điều
như thế được nói cặn kẽ trong kinh
văn thuộc phần sau và phần nói về thứ tự
cúng dường, chẳng thể nhắc lại nhiều
lượt. Như khi tác pháp, và các chọn lựa khác, nếu
gặp chuyện mâu thuẫn, trở ngại, sẽ lại
chần chừ
quan sát, hoặc lục lọi kinh sách để kiểm
nghiệm, th́ chẳng gọi là “bậc
A-xà-lê khéo thực hiện”.
Lại
nữa, A-xà-lê do đạt được quyết định
nơi Du Già, làm bất cứ điều ǵ cũng đều
tương ứng với tam-muội. Như khi dâng hoa, liền
tương ứng với hoa tam-muội, Bổn Tôn hiện
tiền rành rẽ trong ấy. Nếu lúc cúng hương,
đèn, hương bôi, nước Át-già[26]
v.v… cũng sẽ tương ứng với hương
tam-muội cho đến hương thủy tam-muội. Mỗi
vị Bổn Tôn cũng tùy theo từng sự mà hiện tiền.
Trong mỗi một duyên như thế, đều là nhập
pháp giới môn, đều thấy thiện tri thức, lần
lượt vận dụng tương ứng với lư, chẳng
c̣n đụng chuyện sẽ phải lần lữa rồi
mới tác quán. Hăy nên biết người ấy kham làm bậc
bí mật A-xà-lê.
“Cứu
tập Du Già” (nghiên cứu, tu tập Du Già) là khéo tu pháp
tương ứng, tức là đối với sự thành
tựu thượng, trung, hạ
trong ba bộ Chân Ngôn (Phật Bộ, Liên Hoa, Kim Cang Bộ),
đều nhất nhất thông đạt, đều
tương ứng với chánh lư, gọi là “khéo tu Du Già”.
Lại c̣n trong pháp Tức Tai, liền có thể dùng
phương tiện ấy để tăng ích và hàng phục.
Hoặc trong pháp Tăng Ích, có thể dùng phương tiện
ấy để hàng phục, tức tai. Trong pháp Hàng Phục,
liền có thể dùng phương tiện ấy để
tức tai, tăng ích. Thuận theo pháp tương ứng,
đều có thể khéo phân biệt, th́ gọi là “khéo tu
Du Già”. Lại c̣n trong Mạn-đồ-la, đối với
các thứ Bổn Tôn tam-muội, h́nh sắc, chữ [chân
ngôn], ấn, tánh loại, oai nghi, và khi cúng dường thành
tựu, vận tâm quán sát phương tiện, đều
đă tu tập tương ứng, cũng khéo hiểu biết
chướng ngại và tướng Tất Địa trong
ấy, bèn có thể truyền pháp. Lại nữa, trong tam-muội
phát sanh từ Đại Bi Thai Tạng, có đủ loại
pháp giới môn, đủ loại thiện tri thức
như Thiện Tài đồng tử theo thứ tự t́m cầu.
Hoặc trong pháp môn như thế này, đă khéo tu hành,
nhưng đối với các môn khác, chưa thể thông hiểu,
tu tập. Nếu khi nhập thế giới Phổ Môn, sẽ
có thể trong một niệm mà tương ứng trọn
đủ, gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.
“Trụ
dũng kiện Bồ Đề tâm” (trụ trong tâm Bồ
Đề mạnh mẽ): “Dũng kiện” nghĩa là
hùng hậu, mạnh mẽ, chẳng khiếp nhược.
Sở dĩ cần tu cái tâm này là v́ hành giả Chân Ngôn từ
lúc chưa thấy Chân Đế tới nay, sẽ có các cảnh thuận nghịch,
hoặc hiện các thứ h́nh sắc đáng sợ, hoặc
phát ra âm thanh lạ, cho tới chấn động đại
địa, hoặc có Tỳ Na Dă Ca[27]
đại lực hiện h́nh gây chướng nạn. Lúc bấy
giờ, [hành giả] an tâm bất động, chẳng hề
thoái khuất, nương theo pháp giáo mà tịnh trừ. Do
hành giả thấy Bồ Đề tâm thanh tịnh có đại
nghĩa lợi, tự nhiên xuất sanh nhập tử, chẳng hề có ư
tưởng sợ hăi, các ma sự đó chẳng thể
gây chướng ngại được! Lại nữa, khi
chưa thấy Bồ Đề tâm, trong Du Già, sẽ có
đủ loại tướng hiện, tức là đất,
nước, lửa, gió, hư không, các màu xanh, vàng, đỏ,
trắng v.v… các thứ tướng mạo khác lạ. Lúc bấy
giờ, do tâm chẳng hiểu rơ, cho nên chẳng thể biện
định chân thật, cũng chớ nên sanh ư tưởng
thoái chuyển, chỉ nên nghĩ như thế này: “Chuyện
này chẳng phải là không có nhân duyên. Nếu khi ta kiến
Đế, hiểu rơ Bồ Đề tâm vô ngại, tự
sẽ hiểu vậy”. Lại nên dùng mười câu
duyên sanh để quán, tâm chẳng lấy, bỏ, chỉ
nên dũng mănh tấn tu, hành Bồ Tát đạo. Đă chứng
Bồ Đề tâm, liền biết trong quá khứ vào lúc
nào đó đă có tướng như thế, lại trong một
lúc nào đó, cũng có sự tướng như thế,
đều là v́ nhân duyên như thế, không ǵ chẳng soi
xét điềm tiên khởi, biết rơ khởi đầu và
kết thúc của nó. Lại nữa, khi hành giả chiếu
kiến tâm, hiểu rơ đạo, liền đạt
được sức kiên cố trong vô tận đại
nguyện, cho đến như kim xí điểu
vương Tỳ Lô Giá Na cúi nh́n biển cả pháp giới
như nh́n vào gương sáng, vẫy cánh Chỉ Quán,
bắt lấy rồng “trời, người”. Đó chính là
Bồ Đề tâm dũng kiện vậy.
“Bí
Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật
Bồ Tát chi sở xưng thán” (Bí Mật Chủ! A-xà-lê
[trọn đủ] pháp tắc như thế, được
chư Phật, Bồ Tát khen ngợi): Do các đức
đều đầy đủ, [vị A-xà-lê ấy] liền
có thể lưu thông Mật giáo, chẳng đoạn Phật
chủng; đó gọi là “Phật chi chân tử” (đứa
con chân thật của Phật), sanh từ hạnh Chân Ngôn,
thường được các vị thánh khen ngợi. Nếu
đệ tử tu Du Già hạnh,
sẽ có thể thấy trời rồng
tám bộ cung kính cúng dường vị thượng nhân ấy,
hoặc thấy mười phương chư Phật ca
ngợi danh hiệu, khuyến phát đại chúng, như
Thích Ca Mâu Ni Phật nói nhân duyên cầu pháp của Tát Đà
Ba Luân[28]
Bồ Tát.
(Kinh) Phục
thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê nhược kiến
chúng sanh kham vi pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại
tín giải, cần dũng thâm tín, thường niệm lợi
tha, nhược đệ tử cụ như thị
tướng mạo giả, A-xà-lê ưng tự văng khuyến
phát, như thị cáo ngôn.
(經)復次祕密主!彼阿闍梨,若見眾生堪為法器,遠離諸垢、有大信解、勤勇深信、常念利他,若弟子具如是相貌者,阿闍梨應自往勸發,如是告言:
(Kinh: Lại
nữa, Bí Mật Chủ! Vị A-xà-lê đó nếu thấy
chúng sanh kham làm pháp khí, xa ĺa các cấu, có tín giải to lớn,
tín tâm siêng năng, dũng mănh, thường nghĩ lợi ích người khác, nếu
đệ tử trọn đủ tướng mạo
như thế, A-xà-lê hăy nên tự đến khuyên lơn
người ấy phát khởi, bảo như thế này).
Kinh
dạy: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê
nhược kiến chúng sanh kham vi pháp khí, viễn ly chư
cấu, hữu đại tín giải, cần dũng thâm
tín, thường niệm lợi tha” (Lại này Bí Mật
Chủ! Nếu vị A-xà-lê ấy thấy chúng sanh kham làm
pháp khí, xa ĺa các cấu,
có tín giải to lớn, siêng năng, dũng mănh, tin sâu,
thường nghĩ lợi ích
người khác), tức là nói về nghi
thức nhiếp thọ đệ tử trong
chi phần nói về
A-xà-lê. Chúng sanh ở đây có hai loại: Hoặc là đă
phát Bồ Đề tâm, tới chỗ thiện tri thức
cầu thỉnh hành pháp Chân Ngôn; hoặc chưa phát Bồ
Đề tâm, nhưng thầy tự soi xét, biết người
ấy có thể làm pháp khí, có thể
tŕ pháp ấy. Hoặc là trong Du Già, thầy thấy căn
duyên của người ấy, hoặc được
chư Phật, Bồ Tát chúc lụy “hăy v́ người ấy
quán đảnh, dạy bảo”. Hoặc đích thân thấy
các vị thánh v́ người ấy thực hiện pháp quán
đảnh rồi mới phó chúc [A-xà-lê]
dạy bảo người ấy. Có
các tướng như thế th́ mới có thể truyền
pháp. Như thức ăn dở tệ trong làng nghèo chẳng
thể đựng trong đồ chứa bằng chất
báu, diệu dược của Luân Vương không thể
khiến cho kẻ bạc phước tự tiện dùng
được, v́ chẳng thể tiêu, hoặc có thể bị
đoản mạng. Cần phải là hộp và nắp
tương xứng th́ mới trao và nhận đều được đúng
lẽ!
Lại
như áo hèn tệ, hờm đóng dày cộp, chẳng thể
nhuộm màu ngay được. Trước hết, hăy nên dạy giặt
sạch, sau đó sẽ có thể đổ công tô, nhuộm.
Chúng sanh cũng thế, nếu trước đó đă nhuốm
bẩn bởi cấu ô tập khí, sẽ chẳng nhuốm
màu pháp giới được. V́ thế, cần phải xa
ĺa các cấu. Do vậy, người có đại tín giải,
tín giải ở đây trong tiếng Phạn là A Tỳ Mục
Để (Abhimukti),
tức là thấy rơ lư ấy, tâm chẳng ngờ lo. Như
đào giếng dần dần thấy bùn, tuy chưa thấy
nước, ắt biết đă gần [tới mạch
nước]. V́ thế nói là “tín giải”.
Tiếp
đó nói là “thâm tín”, tín ấy
trong tiếng Phạn là Xả La Đà (Śraddhā), tức là ḷng tin dựa
theo sự, dựa theo người. Như nghe bậc
trưởng giả nói như vậy, có thể là biểu
lộ vượt ngoài lẽ thường t́nh, nhưng do vị
ấy chưa từng lừa dối, liền nhận lănh
sâu xa, hành theo, th́ cũng gọi là Tín, có cùng một nghĩa
với “tín chư Phật, Bồ Tát” trong phần trên.
Trong tiếng Phạn [để biểu lộ hai loại
ḷng tin khác nhau ấy], vốn có hai danh xưng, nhưng tiếng
Hán th́ không có ǵ khác biệt. V́ thế, cùng nói là Tín mà thôi! Nếu
có người nghe nói pháp giới chẳng thể nghĩ
bàn như thế, do đă gieo cội lành từ xưa, do
tinh thần sáng suốt, bén
nhạy, liền có thể tiếp nhận lời nói của
người ấy, biết trong tâm chúng sanh quyết có lư ấy; đó gọi là “tín
giải”. Lại do đời trước đă từng
thân cận thiện tri thức, có duyên sâu đậm với
Tam Bảo, tuy chẳng thể so lường, suy tính,
nhưng liền có thể tin tưởng sâu xa, nên nói là “thâm
tín”.
“Cần
dũng” là tên gọi khác của Tinh Tấn.
Thích Luận nói: “Thí như đào giếng, do thấy
đất bùn ướt, càng thêm tinh tấn, ắt mong
được nước. Lại như dùi lửa, đă
thấy khói, càng thêm gắng sức, ắt được
lửa”. V́ thế, sau tín giải, bèn nói tới cần
dũng. V́ lẽ nào vậy? Nay trí huệ tự nhiên này phải
do Du Già, mà Du Già ắt cần tới sức đại tinh
tấn. V́ thế, Thích Luận nói: “Trí huệ Thiền
Định chẳng thể dùng phước để nguyện
cầu, cũng chẳng do thô quán mà có thể đạt
được. Cần phải thân tâm siêng ṛng, gấp
rút, chẳng lười nhác, th́ mới có thể hoàn thành.
Như đức Phật đă nói: ‘Giả sử máu, thịt,
mỡ, tủy đều cạn sạch, chỉ c̣n da,
xương, gân, chẳng xả tinh tấn. Như thế
cho tới khi đắc định huệ, đạt
được hai chuyện ấy th́ mọi việc đều
hoàn thành”. V́ thế, cần phải là người
có tánh tinh tấn th́ mới có thể truyền thọ. Lại
nữa, tinh tấn là căn bản của hết thảy
các thiện pháp, có thể dấy
động phước đức từ
đời trước, như mưa tưới nhuần
hạt giống, khiến cho nó ắt sanh trưởng. Nếu
chẳng có cái tâm siêng năng, dũng mănh, dẫu có nghiệp
đă gieo từ đời trước, sẽ
chẳng có cách nào phát khởi, thậm
chí lợi lạc trong đời này c̣n chẳng thể
đạt được, huống hồ đạo Bồ
Đề ư? Do vậy, do nhân duyên phát khởi hạnh,
bèn đạt được thâm tín. Do thâm tâm, liền có thể
dốc chí cầu pháp thù thắng, gánh vác chúng sanh, cần phải
dùng Đại Bi Thai Tạng để nuôi nấng, khiến cho
được tăng trưởng. V́ thế, nói người
có tánh thường nghĩ lợi ích người khác th́ mới
có thể truyền thụ.
Lại
nữa, A-xà-lê trong Du Già, thấy, nghe chư Phật, Bồ
Tát khen ngợi người trọn đủ đức
như thế, hoặc thấy [người ấy] đối
trước các vị thánh, chí thành siêng năng khẩn cầu,
mong mỏi đạo yếu, trải qua nhiều thời
gian mà trọn chẳng lười nhác, thoái chuyển, thực
hành chuyện lợi tha, cứu độ, nhiếp thọ
chúng sanh. Bổn Tôn xót thương bảo [A-xà-lê] hăy truyền
dạy. Các trường hợp như thế, có thể suy
ra mà biết. Hơn nữa, bậc thâm hạnh A-xà-lê do sáu
căn thanh tịnh, sẽ thấy nhân duyên chướng
đạo và thành đạo từ vô lượng kiếp
đến nay của đệ tử chẳng sai lầm,
lại cũng đều biết chỗ căn duyên nhiếp
thọ của phổ môn Mạn-đồ-la, bèn gọi là “thiện
quán đệ tử” (khéo quán đệ tử).
Kinh
dạy: “Nhược đệ tử cụ như thị
tướng mạo giả, A-xà-lê ưng tự văng khuyến
phát, như thị cáo ngôn” (nếu đệ tử trọn
đủ tướng mạo như thế, A-xà-lê nên tự
đến khuyến phát, bảo như thế này), có hai
nghĩa:
- Một,
do trừ tâm nghi của đệ tử, chỉ sợ do
vô trí mà [đệ tử] ngờ vực, hối hận,
khiến cho [cơ duyên tu đạo] vĩnh viễn bị
mất mát, cho nên chẳng truyền trao bừa băi cho người
khác. Ắt phải là người đáng được
truyền, thầy sẽ tự cầu mà truyền trao, chẳng
đợi người ấy đến thỉnh.
-
Hai, v́ trừ cái tâm keo tiếc của A-xà-lê, thậm chí ở
nơi lửa bùng cháy không gián đoạn, nếu có thể
lưu thông [Mật pháp] th́
thầy cũng sẽ tới đó, huống hồ đối
với người có duyên tốt lành đến cầu mà
chẳng ban cho ư?
(Kinh)
Phật tử! Thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo
pháp, ngă kim chánh khai diễn, vị bỉ Đại Thừa
khí, quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai
thế, hiện tại chư Thế Tôn, trụ nhiêu ích
chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải chân
ngôn diệu pháp, cần dũng hoạch Chủng Trí, tọa
vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn thế vô tỷ,
năng tồi bỉ đại lực, cực phẫn nộ
ma quân, Thích Sư Tử cứu thế. Thị cố, nhữ
Phật tử, ưng dĩ như thị huệ,
phương tiện tác thành tựu, đương hoạch
Tát Bà Nhă. Hành giả bi niệm tâm, phát khởi linh tăng quảng,
bỉ kiên trụ thọ giáo.
(經)佛子此大乘,真言行道法,我今正開演,為彼大乘器。過去等正覺,及與未來世,現在諸世尊,住饒益眾生。如是諸賢者,解真言妙法,勤勇獲種智,坐無相菩提。真言勢無比,能摧彼大力,極忿怒魔軍,釋師子救世。是故汝佛子,應以如是慧,方便作成就,當獲薩婆若。行者悲念心,發起令增廣,彼堅住受教。
(Kinh: Phật tử! Đại Thừa này, hành
đạo pháp Chân Ngôn, ta nay chánh khai diễn, v́ căn khí
Đại Thừa. Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cùng với
đời vị lai, hiện tại các Thế Tôn, v́ lợi
ích chúng sanh. Các hiền giả như thế, hiểu diệu
pháp Chân Ngôn, siêng gắng đắc
Chủng Trí, ngự vô tướng Bồ Đề. Chân
ngôn thế
khôn sánh, có thể dẹp ma quân, đại lực, cực
phẫn nộ. Thích Sư Tử cứu đời. V́ thế,
Phật tử ơi, nên dùng huệ như thế,
phương tiện tạo thành tựu, sẽ đắc
Tát Bà Nhă. Hành giả tâm bi niệm, phát khởi khiến
tăng rộng, kiên tŕ trụ thọ giáo).
Kế
đó, có năm bài kệ nói về phương tiện khuyến
phát. Bài kệ thứ nhất nói: “Phật tử, thử
Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngă kim chánh
khai diễn, vị bỉ Đại Thừa khí” (Này Phật
tử! Pháp hành đạo Chân Ngôn này, ta nay sẽ khai diễn,
v́ người có căn khí Đại Thừa ấy), ư nói:
Phật tử các vị hăy nên biết, pháp tắc và nghi quỹ
hành đạo của Đại Thừa Chân Ngôn này, do các vị
là người có thể kham tin nhận, ta nay sẽ chánh thức
nói ra.
Bài
kệ kế tiếp: “Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập
dữ vị lai thế, hiện tại chư Thế Tôn,
trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả,
giải Chân Ngôn diệu pháp, cần dũng hoạch Chủng
Trí, tọa vô tướng Bồ Đề” (đấng
Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, cùng với các đức
Thế Tôn trong đời vị lai và hiện tại, luôn tạo
lợi ích cho chúng sanh. Các vị hiền giả ấy hiểu
diệu pháp Chân Ngôn, do tinh tấn mà đạt được
Nhất Thiết Chủng Trí, ngự trong vô tướng Bồ
Đề), tức là mở ra hết thảy các môn
phương tiện của mười phương ba
đời chư Phật, chỉ dùng một đạo
để thành Phật, trọn chẳng có đạo nào
khác, do Phật Phật đạo đồng. Nay lại dẫn
chư Phật để chứng minh, chuyện này như
trong kinh Pháp Hoa đă nói cặn kẽ. Lại nói “trụ
nhiêu ích”, tức là nhiều cách tạo lợi ích, an lạc
cho chúng sanh. Đó chính là trụ xứ của Như Lai. “Chư
hiền giả” tức là các Như Lai. Do hạnh nguyện
Phổ Hiền thảy đều viên măn cùng cực, nên
dùng từ ngữ này để xưng tụng. Đều
là do đă hiểu diệu pháp Chân Ngôn này, đạt
được sự siêng năng, dũng mănh to lớn,
thành tựu Nhất Thiết Trí. Do kệ tụng nói giản
lược, nên nói là Chủng Trí. Ngồi trong các pháp tịch
diệt, tức là Bồ Đề, chẳng phải là
đă thành, nay thành, hay sẽ thành, không có cách nào để
quán, chẳng do điều ǵ khác mà đạt được,
há có tướng ǵ ư? Bồ Đề ấy chẳng
thể nói để chỉ bày cho người khác
được! V́ thế, bài kệ kế tiếp sẽ
dùng h́nh tích bên ngoài để nói rơ.
Kệ
rằng: “Chân ngôn thế vô tỷ, năng tồi bỉ
đại lực, cực phẫn nộ ma quân, Thích Sư
Tử cứu thế” (thế lực của Chân Ngôn
không sánh bằng, có thể dẹp
tan ma quân đại lực, tột bậc phẫn nộ.
Thích Sư Tử là đấng cứu đời), ư nói: Tuy
[Chân Ngôn] không có tướng nhất định, nhưng có
trọn đủ hết
thảy oai lực, có thể hàng phục các ma, chế ngự
các ngoại đạo, mở cửa cam lộ, chuyển
đại pháp luân. Hết thảy trời, người thấy
dấu tích như thế, bèn gọi Ngài là “Thích
Ca Sư Tử cứu thế gian giả”
(đấng sư tử Thích Ca cứu thế gian), như
thấy khói liền biết lửa, cho nên sẽ tin nhận.
Bài
kệ kế đó nói: “Thị cố, nhữ Phật tử,
ưng dĩ như thị huệ, phương tiện tác
thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhă” (v́ thế,
Phật tử các ngươi, hăy nên dùng huệ như thế
để làm phương tiện tạo thành tựu, sẽ
đạt được Tát Bà Nhă), tức là khuyến phát (khuyên lơn, phát khởi)
hành nhân, khiến cho họ cầu cái quả ấy. Nay các vị
may mắn đều có tâm, sao chẳng chứng vậy? Chỉ
nên dùng diệu huệ này để thành tựu, chẳng
lâu sau, sẽ tự thành Nhất Thiết Trí. Trong phần
trước, ngài Kim Cang Thủ đă hỏi thẳng đức
Tỳ Lô Giá Na: “Vân hà đắc Nhất Thiết Trí trí?” (làm
thế nào để đạt được trí Nhất
Thiết Trí). Đức Phật cũng trả lời thẳng
thừng: “Như thật tri tự tâm, thị danh Nhất
Thiết Trí trí” (Đúng như thật mà biết tự
tâm th́ gọi là trí Nhất Thiết Trí). Ư nghĩa dạy bảo
ở đây cũng giống như thế, nhưng nêu thẳng
thừng vô tướng Bồ Đề để khuyên bảo
tu chứng, trọn chẳng có hạnh vị sai biệt
để phạm sai lầm trong ấy được! Tuy
phẩm trước đă nói cặn kẽ các tướng,
lập các thứ danh tự trang nghiêm, tới phần luận
định về tâm xứ th́ ư nghĩa cũng đều
như thế.
(Kinh)
Đương vị trạch b́nh
địa, sơn lâm đa hoa quả, duyệt ư chư
thanh tuyền. Chư Phật sở xưng thán, ưng tác
viên đàn sự. Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn
đẳng trang nghiêm. Bỉ ưng tác huệ giải, Bi
Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác, Duyên đạo sư,
thánh giả, Thanh Văn chúng, tằng du thử địa
phần, Phật thường sở xưng dự. Cập
dư chư phương sở: Tăng phường, A Luyện
Nhă, hoa pḥng, cao lâu các, thắng diệu chư tŕ uyển, chế-để,
hỏa thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu,
không thất, tiên nhân đắc đạo xứ. Như
thượng chi sở thuyết, hoặc sở ư nhạo xứ,
lợi ích đệ tử cố, đương họa Mạn-đồ-la.
(經)當為擇平地。山林多華果,悅意諸清泉,諸佛所稱歎,應作圓壇事。或在河流處,鵞雁等莊嚴,彼應作慧解,悲生漫荼羅。正覺緣導師,聖者聲聞眾,曾遊此地分,佛常所稱譽;及餘諸方所,僧坊阿練若,華房高樓閣,勝妙諸池苑;制底火神祠,牛欄河潬中,諸天廟空室,仙人得道處。如上之所說,或所意樂處,利益弟子故,當畫漫荼羅。
(Kinh:
Nên chọn chỗ đất bằng,
núi rừng nhiều hoa quả, các suối trong đẹp
ư, được chư Phật khen ngợi, hăy làm viên
đàn sự. Hoặc tại chỗ sông chảy, nơi ngỗng,
nhạn trang nghiêm, hăy nên sanh huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la,
Chánh Giác duyên đạo sư, thánh giả, các Thanh Văn, từng
đến cuộc đất ấy, được Phật
thường khen ngợi. Và các nơi chốn khác, tăng
phường, A Luyện Nhă, pḥng đẹp, lầu gác cao,
các vườn ao đẹp đẽ, tháp Phật, miếu
thần lửa, chuồng ḅ, bến sông, miếu thờ trời,
nhà trống, chỗ tiên nhân đắc đạo. Các chỗ
như nói trên, hoặc chỗ được ưa thích, do
lợi ích đệ tử, nên vẽ Mạn-đồ-la).
Bài
kệ kế đó là “Hành giả bi niệm tâm, phát khởi
linh tăng quảng, bỉ kiên trụ thọ giáo,
đương vị trạch b́nh địa” (hành giả
do tâm bi niệm, hăy phát khởi khiến cho cái tâm ấy
được tăng rộng thêm, do người ấy tiếp
nhận giáo pháp, trụ vững vàng trong ấy, [A-xà-lê] hăy
nên v́ người ấy chọn lựa cuộc đất),
ư nói A-xà-lê đă có được đệ tử, kế
đó là chi phần nói về chọn
lựa cuộc đất [để làm đàn tràng]. Đối
với chữ “hành giả” ở đây, bản tiếng
Phạn ghi là Chân Ngôn giả (người hành Chân Ngôn),
nhưng do mỗi câu kệ chẳng thể có sáu chữ,
cho nên lược bớt, chỉ giữ lấy ư. Nếu
trong các phần sau có chỗ nào giống như thế, sẽ
chẳng phiền rườm lời [nhắc lại] nữa.
Tức là người tu Chân Ngôn nhiều lượt dùng thiện
pháp như thế để phát khởi cái tâm, khiến cho
ư thích của hành nhân dần dần tăng rộng thêm. Biết
người ấy tiếp nhận lời dạy vững
vàng, chẳng c̣n dời đổi, thầy mới v́
người ấy làm Mạn-đồ-la. Hoặc từ
trong Du Già, do đă thấy căn duyên của người ấy;
sau đấy mới chọn cuộc đất.
Các
kinh Kim Cang Đảnh Đại Bổn và Tô Tất Địa
đă nói cặn kẽ các tướng đất [thích hợp
để làm đàn tràng], nhưng ư nghĩa chánh yếu là:
Nay thế giới này chẳng phẳng phiu, ngay ngắn như
các cơi thanh tịnh khác, chỉ tùy thuộc các chỗ thù thắng
như sẽ nói trong phần kinh văn tiếp theo mà chọn
nơi ngay ngắn, đoan nghiêm, có thể tạo cái đàn
tṛn, là chỗ có thể thực hiện (tác pháp) không bị
trở ngại, liền sử dụng chỗ ấy. Lại
nữa, nay tạo các đàn tràng ở chỗ nào cũng
đều được, như tâm địa b́nh chánh trọn
khắp hết thảy mọi nơi của đức Tỳ
Lô Giá Na th́ mới làm Đại Bi Mạn-đồ-la.
Nhưng đối với chỗ thù thắng như đă
nói ở đây, hễ có chút phần ngay ngắn, có thể
dọn dẹp thanh tịnh, bèn ở nơi đó, mở ra
vạn đức Mạn-đồ-la. Tầng lớp sâu cạn
th́ như trong phần trước đă rộng nói.
Kệ
nói: “Sơn lâm đa hoa quả, duyệt ư chư thanh tuyền,
chư Phật sở xưng thán, tác viên đàn sự nghiệp”
(Chỗ núi rừng nhiều hoa quả, chỗ có các con suối
trong đẹp ư, được chư Phật khen ngợi
th́
nên thực hiện sự nghiệp của cái đàn tṛn):
Trong các chỗ thù thắng, núi rừng là tốt nhất.
Tuy là chỗ u tịch đoan nghiêm, có
nhiều ngọn núi cao, nhưng nếu không
có hoa quả, suối chảy, người ta sẽ chẳng
ưa thích, tức là các duyên nhiều lẽ bị
thiếu khuyết, cũng chẳng kham làm [đàn tràng] tại
đó. V́ thế, cần phải [là nơi chốn] có đủ
loại hoa thơm, quả ngọt, lại c̣n có suối, ao
thanh tịnh, là chỗ đáng ưa thích, tức là nơi
được Phật khen ngợi, sẽ có thể thực
hiện sự nghiệp Mạn-đồ-la. Hoặc hành giả
trong tam-muội, thấy chỗ thù thắng như thế,
nếu nghe bậc tôn thánh khen ngợi đáng nên thực hiện
ở chỗ đó. Những điều sau đó cũng theo lệ đó.
Hơn
nữa, núi trong tiếng Phạn là Na Già
(Naga), có nghĩa là “bất động”.
Tức là vị A-xà-lê trong Du Già, quán các hành nhân ấy trụ
trong tứ tánh pháp
(tự tánh, tha tánh, cộng tánh, phi tha phi tự tánh),
thực hiện thiện sự, tâm kiên cố bất động,
tức là kính trọng, phụng sự sư trưởng,
hiếu dưỡng cha mẹ v.v…. Hễ
có tám tâm hoa quả nẩy mầm, có chỗ có thể sanh ra
tịnh pháp, sẽ có thể kiến lập Mạn-đồ-la.
Lại nữa, Bồ Đề tâm thanh tịnh an trụ
trong đế lư kiên cố bất động. Gió lớn từ
tám phương chẳng thể lay động, hoa quả
phương tiện đại bi đầy ắp khắp
nơi, thường lưu xuất tịnh pháp lợi lạc
chúng sanh, được Phật khen ngợi nhất. Đó
là chỗ tốt đẹp để làm Mạn-đồ-la.
Bài
kệ kế đó nói: “Hoặc tại hà lưu xứ,
nga nhạn đẳng trang nghiêm, bỉ ưng tác huệ giải,
Bi Sanh Mạn-đồ-la” (Hoặc tại chỗ sông chảy,
nhạn, ngỗng thảy trang nghiêm, hăy nên sanh huệ giải,
tạo tác Bi Sanh Mạn-đồ-la): Nếu chẳng kiếm
được chỗ danh sơn, th́ chỗ có suối
nước là lựa chọn kế tiếp. Tức là chỗ
có các ḍng chảy thường chẳng đoạn tuyệt,
các loài chim có tiếng hót tốt lành bay
lượn, bơi lội, đoan nghiêm, thanh khiết, xa
ĺa phiền rộn, liền có thể lập đàn. Chữ
“nhạn” chẳng phải là dịch sát nghĩa, bản
tiếng Phạn nói là chim Sa La Sa (Sārasa), h́nh dạng giống uyên ương nhưng to
hơn, tiếng hót hết sức thanh
nhă. Do phương này (Trung Hoa)
không có loại chim ấy, nên chỉ nói theo kiểu hội
ư mà thôi. Tuy là Thế Đế Mạn-đồ-la, cũng
cần phải là người tŕ chân ngôn có huệ giải
th́ mới có thể kiến lập. V́ thế nói “ưng
dĩ huệ giải, tác Bi Sanh Mạn-đồ-la”
(nên dùng huệ giải để làm Bi Sanh Mạn-đồ-la).
Hơn nữa, nước có ư nghĩa “chảy không ngừng”.
Tâm chẳng đ́nh trệ, thường có thể tăng tấn
thù thắng, sẽ được gọi là Nước.
Sông phước chẳng đoạn, gọi là nước.
Do là người trước hết có thể an tâm nơi
đế lư, tuy tự ḿnh chẳng thể đạt
được nhiều, chỉ cần khiến cho từ
cái vốn sẵn thanh tịnh (chân tâm), lưu xuất sự
tiến nhập chánh đáng là đă được rồi,
liền có thể vận dụng vô ngại huệ để
kiến lập Bi Sanh Mạn-đồ-la. “Diệu âm
chúng điểu trang nghiêm” (Các loài chim có tiếng hót hay
để trang nghiêm) tức là ư nghĩa “có thể tuyên
dương diệu pháp”, mà cũng là thường nghĩ lợi
tha. V́ thế, chúng sanh quy hướng đều được
vui sướng, tán thán ân đức ấy có thanh danh to lớn.
Kệ
nói “Chánh Giác duyên Đạo sư, thánh giả Thanh Văn
chúng, tằng du thử địa phần, Phật thường
sở xưng dự” (Các đấng Chánh Giác, Duyên Giác,
các vị thánh giả Thanh Văn từng đi qua cuộc
đất ấy th́ đó là nơi được Phật
khen ngợi): Nếu là chỗ phước địa núi và
suối, là nơi các vị thánh đă từng đi qua, sẽ
thuộc vào điều trên đây. Ở đây có ư nói: Tuy
chẳng phải là chỗ thù thắng như trong phần
trên, nhưng là chỗ chư Phật, Duyên Giác, và hàng đệ
tử Thanh Văn v.v... đắc đạo Niết Bàn, hoặc
trụ lâu tại đó, th́ là chỗ [thích hợp] kế tiếp
[để làm đàn tràng]. Như ở phương Tây, tám
tháp [kỷ niệm đức Phật] và
chỗ có di tích của thánh chúng rất nhiều, đều
là chỗ chư thiên đại oai đức thường
hộ tŕ, chiêm lễ, giống như chỗ nào có kinh Bát
Nhă th́ lũ tiểu quỷ chẳng dám lưu lại. V́ thế,
pháp nghiệm dễ thành. Nơi được Phật khen
ngợi như chỗ núi có tiên nhân cư trụ, đức
Thế Tôn đă nói ở trong ấy sẽ dễ đắc
đạo.
Lại
nữa, nếu là người đă phát Bồ Đề
tâm, th́ chỗ chư Phật giáng sanh, cũng như nơi
các Ngài đắc đạo, chuyển pháp luân, bát Niết
Bàn, cũng chính là chỗ các Ngài đă từng trụ lâu tại
đó, dùng bốn oai nghi để rộng lợi ích chúng
sanh. Tuy chưa nghe bí tạng, chỉ đạt được
chỗ tam thừa cùng hành, cũng gọi là [nơi chốn]
Cát Tường; tức là quán sát tánh Không vô tướng, vô
tác, chẳng có “ta, người, chúng sanh, thọ giả”.
Đấy là chỗ để Nhị Thừa thành đạo,
nhập Niết Bàn, cũng là chỗ Bồ Tát vứt bỏ
thân mạng để học Ba La Mật như trong các loại
kinh Bổn Sanh [đă nói], đều có thể tạo Mạn-đồ-la
trong ấy. Lại nữa, đối với nơi “tự
nói đă đắc Niết Bàn, sanh ư tưởng diệt
độ”, tức là cuộc đất do Thanh Văn,
Bích Chi Phật đă từng đến. Nếu chẳng
t́m được người một mực cầu Bồ
Đề [ở nơi ấy], hăy nên tự sửa sang cho
ngay ngắn trong ấy để tạo, vẽ Đại
Bi Sanh Mạn-đồ-la.
Kệ
nói: “Cập dư chư phương sở, tăng
phường, A Luyện Nhă” (và các nơi chốn khác,
tăng phường, A Luyện Nhă). Trừ nơi có
thánh tích ra, chỉ tùy theo quốc độ ở các
phương có các bậc Phạm hạnh cư trụ
[để chọn lựa nơi làm đàn tràng]. “Tăng phường” trong tiếng Phạn
là Tỳ Ha La (Vihāra), dịch
nghĩa là Trụ Xứ, tức là “chỗ ở để
tăng trưởng phước”. Hàng bạch y do
tăng trưởng phước, đă v́ các tỳ-kheo tạo
pḥng ốc, khiến cho người tŕ giới, Thiền huệ
có chỗ tránh né, chống đỡ gió, lạnh, nắng,
ướt, các thứ chuyện chẳng lợi ích, ḥng an
tâm hành đạo, khiến cho đàn-việt thọ dụng
phước do bố thí, ngày đêm thường lưu xuất,
chẳng hề đoạn tuyệt. V́ thế gọi là Trụ
Xứ. A Luyện Nhă (Araṇya),
dịch là Ư Lạc Xứ, tức là chỗ được
hành giả không tịch yêu thích. Hoặc ở riêng một
ḿnh, không có bầu bạn, hoặc hai ba người. Ở
ngoài chùa, tạo các pḥng nhỏ số lượng hữu hạn,
hoặc do thí chủ tạo, hoặc chỉ ở nơi
đất trống dưới bóng cây, đều là A Luyện
Nhă vậy. Lại nữa, nếu ĺa Bồ Đề tâm mà
tu hết thảy các thiện pháp, như là “quảng hành
đàn thí” (rộng hành bố thí), thọ vô lượng
luật nghi, tu các thứ Thiền Định, thọ tŕ
mười hai phần giáo, tư duy nghĩa lư, từ bi,
tinh tấn, hóa độ chúng sanh, dùng các hạnh vô tưởng
đạo, sẽ đều gọi là “vô thánh tích” (chẳng
có thánh tích). Tăng phường cũng thế, là nơi
phàm thánh cùng ở, là chỗ sanh phước, cũng là
[nơi chốn được lựa chọn] kế tiếp
[để làm mạn-đồ-la]. Trừ cộng Bát Nhă của
Nhị Thừa, hết thảy các pháp môn Thanh Văn, Duyên
Giác khác do xa ĺa đại bi, tự cầu lẽ xuất yếu,
đều gọi là “vô thánh tích A Lan Nhă xứ”.
Cũng có thể ở trong ấy, chọn lựa, sửa
sang chỗ đất bằng phẳng để vẽ Mạn-đồ-la.
Kệ
nói “hoa pḥng, cao lâu các, thắng diệu chư tŕ uyển”
(nơi pḥng ốc đẹp đẽ, lầu gác cao,
nơi ao vườn đẹp đẽ thù thắng): Nếu
không t́m được phước địa như trên,
chớ nên đ́nh chỉ, hăy nên chọn chỗ tốt
đẹp thanh vắng trong thế tục.
Nếu là chỗ đoan nghiêm thanh tịnh, liền có thể
tác pháp. “Pḥng” là do chúng sanh từ thời cổ tới
nay, do hổ thẹn, chẳng muốn phô bày chuyện riêng
tư, mà cũng có thể che chở thân thể, tự hộ,
thủ hộ người khác. “Lâu các” là chỗ hiển
lộ cao rạng phía trên nhà cửa có nhiều tầng ở
phương Tây. “Tŕ” là cái ao thanh tịnh, đa phần
là có các loại hoa mọc trong nước, người và
phi nhân đều yêu thích. “Uyển” là vườn rừng,
có nhiều loại cỏ mềm, cây cối thơm tho trổ
sum suê, thanh vắng, u tĩnh, có thể che chắn huyên náo.
Những chỗ ấy đều là các chỗ
[được chọn lựa] kế tiếp.
Lại
nữa, nếu thấy hành nhân tuy chưa nhập các
phương tiện đạo khác, nhưng thể tánh trọn
đủ hổ thẹn, thường có thể tự thủ
hộ, mà cũng có thể thủ hộ người khác,
hoặc tâm hiểu rơ, dễ thông hiểu, ít các chướng
ngại, thậm chí hễ trót phạm tội, cũng có thể
hướng về người khác phát lộ, cầu cho
chính ḿnh thanh tịnh, chẳng hề giấu diếm, th́
cũng có thể truyền thọ. Lại nữa, Tŕ (ao) có nghĩa là “khát
nước chẳng chán”, ư nói: Người ấy tuy
chưa đạt được pháp vị sâu xa, nhưng
có thể trống ḷng khát ngưỡng, nghe nhận chẳng
chán. “Viên” (vườn) là
chỗ nhiều người tới dạo chơi, ư nói:
Người ấy bẩm tánh nhiều bi mẫn, thích làm
chuyện từ bi cứu giúp, được chúng sanh đều
quy ngưỡng, nương nhờ người ấy che
chở. Đấy đều là chủng tánh Đại Thừa,
cũng có thể huân tập
vậy!
Kệ
nói: “Chế-để, hỏa thần từ, ngưu lan,
hà than trung, chư thiên miếu, không thất, tiên nhân đắc
đạo xứ” (tháp miếu, đền thờ thần lửa, chuồng ḅ, bến sông, miếu
chư thiên, nhà trống, chỗ
tiên nhân đắc đạo): Hoặc là tuy chẳng phải
chỗ thánh tích và tăng chúng cư trụ, nhưng tùy thuộc
cuộc đất là chỗ có thể dựng tháp miếu,
th́ ở chung quanh đó, có thể tạo tác Mạn-đồ-la.
“Hỏa thần từ” là chỗ miếu thờ lửa
của tịnh hạnh Phạm chí, rất thanh khiết,
cho nên có thể lập đàn. “Ngưu lan” (chuồng
ḅ): Ở phương Tây, thôn làng chăn nuôi trâu ḅ ở
cùng một chỗ, cách thôn chừng mười dặm hoặc
năm dặm. Do lâu ngày, phân ḅ và nước tiểu ḅ tích
tụ dày cộp trên mặt đất, nhưng theo thói quen
của Phạm chí, cũng coi đó là nơi thanh tịnh.
Tuy nhiên, cần
phải dời trâu ḅ đi. Nếu vẫn chăn nuôi trâu
ḅ tại đó, cũng chớ nên làm [Mạn-đồ-la]
trong đó.
“Hà than” (bến
sông), dịch sát nghĩa th́ phải là Toản Lưu Xứ (攢流處), tức
chỗ có hai hay nhiều ḍng nước hợp lưu ở
chỗ ấy. Bên ŕa và chính giữa chỗ ấy, do đă
nhiều lần bị nước ngập gột sạch, không có các thứ uế ác. “Thiên miếu” là
căn nhà để cúng bái các vị trời được
tôn thờ trong thế gian, cũng
khá thanh nhàn. Nhưng nếu có các ngoại đạo tà kiến,
chẳng tin [ở đó], cũng chớ nên làm ở chỗ
ấy. “Không thất”
(nhà trống) là nhà cửa do người đời tạo
ra; về sau, họ bỏ đi. Do không có các thứ xen tạp,
nên cũng kham làm chỗ tác pháp. “Tiên nhân đắc đạo
xứ” chính là chỗ cư trụ lâu ngày của
người cầu năm món thần thông trong thế gian
được thành tựu. Nếu không có chỗ tốt
đẹp nào khác, cũng có thể tạo Mạn-đồ-la
trong đó.
Lại nữa, chế-để có ư nghĩa là “kiến lập cao vời thù thắng”, ư nói: Người ấy thường có thể kiến lập bạch pháp, chí chẳng khuất phục, nhiễu loạn. Tuy chưa tu thánh giáo trong hiện tại, hăy nên biết là [người ấy] đời trước đă tu phước, trong tâm có thiện căn, cho nên gọi là “tháp”. Lại nữa, lửa có thể đốt sạch các thứ nhơ bẩn, ư nói: Người ấy tuy thân, miệng, ư chưa thể xuất ly, đạt tới chỗ thanh tịnh, nhưng trong tâm có huệ tánh, thích hành tịnh nghiệp,