Đại Tỳ Lô Giá Na Thành Phật Kinh Sớ

Phần hai

大毘盧遮那成佛經疏

Đại Đường Thiên Trúc Tam Tạng Thiện Vô Úy, sa-môn Nhất Hạnh dịch kinh

大唐天竺三藏善無畏共沙門一行譯

Đường sa-môn Nhất Hạnh A-xà-lê kư

沙門一行阿闍梨記

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa

Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Kim Cang Thủ phục thỉnh Phật ngôn: “Duy nguyện Thế Tôn thuyết bỉ tâm”. Như thị thuyết dĩ, Phật cáo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ ngôn: - Bí Mật Chủ! Đế thính tâm tướng, vị tham tâm, vô tham tâm, sân tâm, từ tâm, si tâm, trí tâm, quyết định tâm, nghi tâm, ám tâm, minh tâm, tích tụ tâm, đấu tâm, tránh tâm, vô tránh tâm, thiên tâm, A Tu La tâm, long tâm, nhân tâm, nữ tâm, tự tại tâm, thương nhân tâm, nông phu tâm, hà tâm, bi tŕ tâm, tỉnh tâm, thủ hộ tâm, xan tâm, cẩu tâm, ly tâm, Ca Lâu La tâm, thử tâm, ca vịnh tâm, vũ tâm, kích cổ tâm, thất trạch tâm, sư tử tâm, hưu lưu tâm, ô tâm, La Sát tâm, thích tâm, quật tâm, phong tâm, thủy tâm, hỏa tâm, nê tâm, hiển sắc tâm, bản tâm, mê tâm, độc dược tâm, quyến sách tâm, giới tâm, vân tâm, điền tâm, diêm tâm, thế đao tâm, Di Lô đẳng tâm, hải đẳng tâm, huyệt đẳng tâm, thọ sanh tâm.        ()爾時金剛手復請佛言惟願世尊說彼如是佛告金剛手祕密主言祕密主諦聽心相謂貪心無貪心瞋心慈心癡心智心決定心疑心暗心明心積聚心鬪心諍心無諍心天心阿修羅心龍心人心女心自在心商人心農夫心河心陂池心井心守護心慳心狗心狸心迦樓羅心鼠心歌詠心舞心擊鼓心室宅心師子心鵂鶹心烏心刺心窟心風心水心火心泥心顯色心板心迷心毒藥心羂索心械心雲心田心鹽心剃刀心彌盧等心海等心穴等心受生心 

          (Kinh: Lúc bấy giờ, ngài Kim Cang Thủ lại thỉnh đức Phật rằng: “Kính mong đức Thế Tôn nói các tâm đó”. Nói như thế xong, đức Phật bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: - Bí Mật Chủ! Hăy lắng nghe tướng trạng của tâm, tức là tâm tham, tâm chẳng tham, tâm sân, tâm từ, tâm si, tâm trí, tâm quyết định, tâm nghi, tâm tối, tâm sáng, tâm tích tụ, tâm đấu đá, tâm tranh chấp, tâm không tranh chấp, tâm trời, tâm A Tu La, tâm rồng, tâm người, tâm nữ, tâm tự tại, tâm con buôn, tâm nông phu, tâm sông, tâm ao chuôm, tâm giếng, tâm thủ hộ, tâm keo kiệt, tâm chó, tâm chồn, tâm Ca Lâu La, tâm chuột, tâm ca vịnh, tâm múa, tâm đánh trống, tâm nhà cửa, tâm sư tử, tâm cú vọ, tâm quạ, tâm La Sát, tâm châm chích, tâm hang hốc, tâm gió, tâm nước, tâm lửa, tâm bùn, tâm hiển sắc, tâm như miếng ván, tâm mê, tâm thuốc độc, tâm như dây trói, tâm cùm, tâm mây, tâm ruộng, tâm muối, tâm dao cạo, tâm bằng Di Lô (núi Tu Di), tâm như biển, tâm như hố, tâm thọ sanh).

 

          Đây là giải đáp câu hỏi về tướng trạng của các tâm trong lời hỏi trước đó. Trước hết, [đức Phật] nêu ra sáu mươi cái tâm rồi giải thích tướng của chúng.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ vân hà tham tâm? Vị tùy thuận nhiễm pháp. Vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp.

          ()祕密主彼云何貪心謂隨順染法云何無貪心謂隨順無染法

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Thế nào là tâm tham? Tức là tâm tùy thuận nhiễm pháp).

 

          Ư nói đắm nhiễm tiền cảnh[1], tức là ô nhiễm tịnh tâm. Nếu tùy thuận tu hành pháp ấy, sẽ gọi là “có tâm tham”. Do tâm pháp vi tế khó biết, nhưng quán các sự nghiệp do người ấy đă làm, ắt có tướng lộ rơ ra ngoài. Ví như nh́n vào tướng trạng của khói, sẽ có thể suy ra mà biết tánh chất của lửa. V́ thế, các câu [nói về tướng trạng các tâm ở đây] phần nhiều dựa theo sự tùy thuận tu tập để giải nghĩa, cho nên có thể phỏng theo nghĩa đó. Các tâm ấy đều do [hành nhân] chưa đắc tâm xuất thế, chúng chính là các thứ tâm dấy lên xen tạp với điều thiện. Nếu hành giả khéo biết chân ngụy, giống như nông phu chú trọng trừ cỏ dại để giúp cho lúa tươi tốt, thế lực của tịnh tâm sẽ dần dần tăng trưởng. Chớ nói đó là nhân duyên sự tướng, thốt lời coi thường, khiến cho cái tâm bị ch́m đắm trong đó mà chẳng hay biết!

            Thứ hai, “vân hà vô tham tâm? Vị tùy thuận vô nhiễm pháp” (Thế nào là tâm chẳng tham? Tức là tùy thuận pháp vô nhiễm). Trái nghịch tâm trước đó, cho đến đối với chỗ tốt lành đáng nên tiến nhập, mong cầu, cũng chẳng sanh ḷng mong ưa. V́ thế, chẳng nhiễm thiện pháp sẽ chướng ngại mầm thiện. Tuy [cái tâm này] có cùng tên gọi với tâm chẳng nhiễm ô, nhưng là hai chuyện khác biệt, cần phải quán sát rất kỹ. V́ thế, hành giả chỉ quán Thật Tướng của tâm tham, tự nhiên ḷng tham chẳng ô nhiễm cái tâm được, chớ nên khởi hạnh “chẳng tham” không có trí huệ như vậy!

 

          (Kinh) Vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp. Vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp. Vân hà si tâm? Vị tùy thuận tu bất quán pháp. Vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng thượng pháp. Vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng như thuyết phụng hành. Vân hà nghi tâm? Vị thường thâu tŕ bất định đẳng sự. Vân hà ám tâm? Vị ư vô nghi lự pháp, sanh nghi lự giải. Vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự tu hành. Vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất, vi tánh. Vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh. Vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sanh thị phi. Vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả.           ()云何瞋心謂隨順怒法云何慈心謂隨順修行慈法云何癡心謂隨順修不觀法云何智心謂順修殊勝增上法云何決定心教命如奉行云何疑心謂常收持不定等事云何闇心謂於無疑慮法生疑慮解云何明心謂於不疑慮法無疑慮修行云何積聚心謂無量為一為性云何鬪心謂互相是非為性云何諍心謂於自己而生是非云何無諍心謂是非俱捨

          (Kinh: Thế nào là tâm sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ. Thế nào là tâm từ? Tức là tùy thuận pháp tu hành ḷng từ. Thế nào là tâm si? Tức là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát. Thế nào là tâm trí? Tức là tùy thuận tu tập pháp tăng thượng thù thắng. Thế nào là tâm quyết định? Tức là tuân theo lời dạy, phụng hành đúng như đă nói. Thế nào là tâm nghi? Tức là thường tom góp các sự, phân vân chẳng quyết định được. Thế nào là tâm tối tăm? Tức là tâm đối với pháp chẳng đáng lo ngờ mà sanh sự hiểu biết lo ngờ. Thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng lo ngờ, bèn tu hành chẳng lo ngờ. Thế nào là tâm tích tụ? Tức là có tánh gom vô lượng pháp vào một pháp. Thế nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau. Thế nào là tâm tranh chấp? Tức là đối với chính ḿnh mà sanh thị phi. Thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ).

         

          Thứ ba, “vân hà sân tâm? Vị tùy thuận nộ pháp” (Thế nào là tâm sân? Tức là tùy thuận pháp giận dữ). “Giận” tức là sân tâm dấy động, sự được lộ rơ ra ngoài. Do tâm pháp khó biết, nên dùng chuyện tùy thuận, tu theo pháp giận dữ để giải thích. Nếu nhiều lượt dấy lên tướng chẳng tịch tĩnh như thế, biết ngay là tướng sân tâm. Nhưng đối với các duyên ấy, hễ quán sát sân tâm tự chẳng trụ vào đâu, th́ chướng ấy chẳng sanh!

          Thứ tư, “vân hà từ tâm? Vị tùy thuận tu hành từ pháp” (thế nào là từ tâm? Tức là tùy thuận tu hành pháp thuộc ḷng Từ). Ḷng Từ này cũng trái nghịch tướng sân. Ḷng Từ mà có tâm cấu ái kiến, th́ chẳng phải do thiện chủng tử sanh khởi. Chữ Từ trong câu trước là xét theo nội tâm, chữ Từ trong câu sau là sự nghiệp tạo tác thuộc tướng bên ngoài. Đă nhận biết rồi, chỉ cần đối trị lỗi lầm gây trở ngại cho đạo, dần dần chuyển thành tu Từ vô lượng tâm. Đó chính là cách đối trị.

          Thứ năm, “vân hà si tâm? Vị thuận tu bất quán pháp” (thế nào là tâm si? Chính là tùy thuận tu pháp mà chẳng quán sát), ư nói: Chẳng xem xét thiện, ác, đúng, sai như đă nói trong phần trên; hễ gặp gỡ [bất cứ pháp nào], đều liền tin nhận. Phàm đối với sự nghiệp tạo tác, chẳng thể trước hết dùng huệ tâm để phân biệt, so lường đúng, sai. Do có nhiều lầm lạc như thế, đều là tướng si tâm vậy!

          Thứ sáu, “vân hà trí tâm? Vị thuận tu thù thắng tăng thượng pháp” (thế nào là trí tâm? Tức là thuận tu pháp tăng thượng thù thắng), ư nói: Người ấy đối với các thứ [do người khác] đă nói, đều dùng trí để phán định, chọn lựa điều này khá, điều kia kém, điều này nên thọ, điều kia chẳng nên thọ, chọn lấy điều thù thắng, tăng thượng để hành, tức là tướng vô si. Nhưng đối với pháp vượt ngoài khả năng suy lường của con người, chẳng thể dùng trí lực để suy tính, cân nhắc, chỉ có kẻ tin th́ mới có thể nhập. V́ thế, quán sát nạn Thế Trí Biện Thông là cách để đối trị cái tâm này.

          Thứ bảy, “vân hà quyết định tâm? Vị tuân giáo mạng, như thuyết phụng hành” (thế nào là tâm quyết định? Tức là tuân theo lời dạy bảo, phụng hành đúng như đă nói).

Thứ tám, “vân hà nghi tâm? Vị thường thâu tŕ bất định sự đẳng” (thế nào là tâm nghi? Tức là thường tom góp, nắm giữ các sự bất định). Nay trước hết giải thích cái tâm nghi, ḥng dễ dàng hiểu rơ tâm tướng quyết định. [Điều thứ tám có ư nói] người ấy hễ nghe điều ǵ, đều sanh tâm chẳng quyết định. Như khi thọ giới, tự sanh tâm nghi: “Ta nay nhất định đắc giới, hay là chẳng đắc giới?” Hoặc ngờ thầy, nghi pháp, mọi chuyện đều là như vậy. Như người hành đạo, do cái tâm nghi hoặc, chẳng thể tiến lên được. Trí Độ Luận có bài kệ rằng: “Năi chí thí như quán kỹ lộ, hảo lợi giả ưng trục” (cho đến ví như thấy ngơ rẽ, nên theo ngả nào có lợi hơn) để đối trị cái tâm ấy. Lại nữa, tâm quyết định tức là hễ nghe bậc thiện hữu đúng pháp dạy bảo, liền lập tức chẳng sanh ngờ lo, chí tâm phụng hành; nhưng cũng nên dùng trí huệ để quán sát ḥng sanh tâm quyết định chân chánh.

          Thứ chín, “vân hà ám tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, sanh nghi lự giải” (thế nào là tâm tối tăm? Tức là đối với pháp chẳng ngờ lo mà sanh kiến giải ngờ vực, lo lắng), ư nói: Như đối với Tứ Đế, bất tịnh, vô thường v.v… người trí trong thế gian chẳng nên sanh nghi, nhưng người ấy nghe [các pháp đó], ôm ḷng do dự, như ban đêm trông thấy gốc cây cụt, nẩy sanh đủ thứ tâm suy đoán. Nếu thấy có tướng như thế, hăy nên biết là do tâm tối tăm khiến thành ra như vậy!

          Thứ mười, “vân hà minh tâm? Vị ư bất nghi lự pháp, vô nghi lự tu hành” (thế nào là tâm sáng suốt? Tức là đối với pháp chẳng đáng ngờ lo, bèn tu hành chẳng ngờ lo). Ư nói: Đối với pháp thuộc loại quyết định pháp ấn, chẳng thể ngờ lo, hễ được nghe bèn thấu hiểu, tin tưởng. Hăy nên biết đó là tâm sáng suốt. Nhưng trong ấy, nếu có pháp nào vượt ngoài khả năng lănh hội của người ấy, sẽ trở thành cái tâm chướng đạo. Trụ trong huệ sẽ là cách đối trị.

          Thứ mười một, “vân hà tích tụ tâm? Vị vô lượng vi nhất vi tánh” (thế nào là tâm tích tụ? Tức là người ấy có tánh gom vô lượng pháp thành một pháp), ư nói: Người ấy do đối với một chuyện đă sanh tín giải, lại nghe các thứ pháp khác lạ, đều gom chung thành một. Như người đă học được một môn tam-muội, thấy các chuyện thù thắng sai biệt trong vô lượng pháp môn nơi các kinh giáo khác, đều nói “các pháp ấy nhằm định tâm. Ĺa ngoài pháp này, sẽ chẳng có pháp nào khác”, nên gọi là tâm “tích tụ”.

          Thứ mười hai, “vân hà đấu tâm? Vị hỗ tương thị phi vi tánh” (thế nào là tâm đấu đá? Tức là có tánh chất gây thị phi lẫn nhau). Tức là nghe ngôn giáo do người khác nói ra, thường chuộng biện luận đúng, sai, bảo “nghĩa ấy phải nên như thế này, chuyện ấy chẳng phải vậy!” Giả sử [người khác nói lời hợp lư], cũng dùng đủ mọi phương tiện để bới móc ưu khuyết, muốn khiến cho người đó thất bại. Nếu người khác tới hỏi, cũng bới móc ưu khuyết [của lời hỏi ấy], bảo: “Câu hỏi này kỳ quái, ta chẳng nên đáp!Hễ có tướng như thế hiện, hăy nên biết đó là tâm đấu đá vậy.

          Thứ mười ba, “vân hà tránh tâm? Vị ư tự kỷ, nhi sinh thị phi” (thế nào là tâm tranh chấp? Tức là sanh thị phi đối với chính ḿnh), ư nói: Ôm ḷng thị phi, như chính ḿnh tư duy một nghĩa xong, lại tự tiện lập ra dị đoan, t́m cầu khuyết điểm. Dẫu có thiện tâm học hỏi từ người khác, nhưng đă được lănh nhận rồi, lại tự ḿnh bới móc ưu khuyết, bảo là “chuyện này phù hợp, chuyện kia chẳng hợp lư”. Hễ có nhiều tướng hiện như thế, hăy nên biết là tâm tranh chấp vậy!

          Thứ mười bốn, “vân hà vô tránh tâm? Vị thị phi câu xả” (thế nào là tâm không tranh chấp? Tức là đúng hay sai đều bỏ). Chuẩn theo cách đọc trong bản tiếng Phạn, sau sáu mươi tâm đều nên có chữ Tánh, phỏng theo đó có thể biết. Ở đây có ư nói: Chẳng ôm ḷng ủng hộ, hay phản đối. Tuy trước đó đă đề cao, tu tập, có kiến giải như thế, nay nghe nói khác đi, dẫu phi lư hay hợp lư, liền chấp nhận làm theo. Hoặc trước kia cho [điều nào đó] là đúng, nghe người khác nói điều đó là bất thiện, liền có thể sửa đổi. T́nh chẳng chấp trước, đúng, sai đều bỏ. Hễ có tướng như thế, biết là tâm không tranh chấp. Đă nhận biết cái tâm vô kư, vô tránh [như thế đó], bèn tu tâm không tranh chấp nơi Thật Tướng của các pháp để đối trị nó.

 

          (Kinh) Vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu. Vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh tử. Vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài. Vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi tha. Vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp. Vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục ngă nhất thiết như ư. Vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu, tụ hậu, phân tích pháp. Vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn nhi hậu cầu pháp.

          ()云何天心謂心思隨念成就云何阿修羅心謂樂處生死云何龍心謂思念廣大資財云何人心謂思念利他云何女心謂隨順欲法云何自在心謂思惟欲我一切如意云何商人心謂順修初收聚後分云何農夫心謂隨順初廣聞而後求法

          (Kinh: Thế nào là tâm trời? Tức là tâm tư thuận theo ư niệm mà thành tựu. Thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở trong sanh tử. Thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn. Thế nào là tâm người? Tức là nghĩ nhớ lợi lạc người khác. Thế nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp. Thế nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn cho ta được hết thảy đều như ư. Thế nào là tâm con buôn? Tức là thuận theo thói thâu gom, tích tụ các pháp rồi mới phân tích. Thế nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu rộng nghe rồi sau đó mới cầu pháp).

 

          Thứ mười lăm, “vân hà thiên tâm? Vị tâm tư tùy niệm thành tựu” (thế nào là tâm trời? Tức là tâm suy tư thuận theo ư nghĩ mà đều thành tựu). Như chư thiên do quả báo đời trước, nếu có ǵ cần, sẽ chẳng cần phải đổ công dốc sức, nhưng đều tùy tâm mà sanh. Nhiều lượt khởi lên ư ưa thích như thế, hăy nên biết đó là “tâm trời”. Cũng do từng sanh trong cơi trên, cho nên có tập khí ấy. Như hành nhân Chân Ngôn chẳng mong mỏi quả báo to xa, chỉ để tự tâm dẫn dắt, sẽ có thể chướng ngại Bồ Đề tâm thanh tịnh. Hăy nên tự hiểu biết, chớ tham Tất Địa[2] của thế gian; đó là cách đối trị cái tâm này!

          Thứ mười sáu, “vân hà A Tu La tâm? Vị nhạo xử sanh tử” (thế nào là tâm A Tu La? Tức là thích ở trong sanh tử). A là Phi (chẳng phải), Tu La là Thiên, do họ có quả báo giống như chư thiên, nhưng hạnh nghiệp và trụ xứ bất đồng, nên gọi như thế. Loại người này biết có lợi ích giải thoát, nhưng yêu thích sâu đậm quả báo vui sướng trong sanh tử, chẳng thể tăng tấn. Nếu hành nhân có tướng mạo này, sẽ gọi là “tâm A Tu La”. Cũng do đời trước đă từng sanh vào đường này, cho nên có tập khí ấy. Quán sát vô thường, khổ v.v… chính là cách đối trị cái tâm này.

          Thứ mười bảy, “vân hà long tâm? Vị tư niệm quảng đại tư tài” (thế nào là tâm rồng? Tức là nghĩ nhớ của cải rộng lớn). Tức là nhiều lượt nghĩ thế này: “Ta nên dùng phương tiện nào để của cải rộng lớn, trân bảo thù thắng nhiệm mầu?” Có nhiều ư tưởng tham lam chẳng chán như thế; đó chính là cái tâm của loài rồng. [Người ấy] cũng vốn từ loài rồng mà ra, nên sanh ra tập khí ấy, khiến cho hành nhân nguyện cầu Tất Địa thế gian, chướng ngại tịnh tâm xuất thế. Tư duy thiểu dục, tri túc, vô thường v.v… chính là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ mười tám, “vân hà nhân tâm? Vị tư niệm lợi tha” (thế nào làm tâm người? Tức là suy nghĩ lợi lạc người khác). Tức là thích truy cầu ư niệm: “Kẻ nào đó có ân với ta, ta hăy nên dùng phương tiện như thế để khiến cho kẻ đó được lợi ích to lớn. Kẻ nào đó từng chẳng tạo lợi ích cho ta, nay phải trả đũa”, và các thứ toan tính so đo với người khác, lợi lạc chúng sanh như thế, đều là “nhân tâm”. Hăy tự nên nghĩ quán sát tâm hạnh, sớm cầu pháp lợi, đừng nên lăng xăng tư lự các duyên khác. Đó là cách đối trị cái tâm này!

          Thứ mười chín, “vân hà nữ tâm? Vị tùy thuận dục pháp” (thế nào là tâm nữ? Tức là tùy thuận dục pháp), cũng là cái tâm thuộc về loài người, nhưng chỉ khác ở chỗ đa dục. Như kinh dạy rằng: “Nữ nhân đa dục, bách bội ư nam tử, thường niệm sở kinh lạc sự, hoặc tưởng tha dung sắc, tư thái đẳng” (người nữ đa dục gấp trăm lần nam nhân, thường nghĩ tới chuyện vui sướng đă trải qua, hoặc tưởng dung sắc, thần thái của người khác v.v…). [Cái tâm này] có thể ngăn chướng tịnh tâm. Đó cũng là do nhiều đời làm nữ nhân, bèn sẵn có tập khí ấy. Trong ấy, dùng các cách như Bất Tịnh Niệm Xứ v.v… để quán Thật Tướng nơi thân; đó là cách là đối trị cái tâm ấy.

          Thứ hai mươi, “vân hà tự tại tâm? Vị tư duy dục ngă nhất thiết như ư” (thế nào là tâm tự tại? Tức là tư duy muốn ta hết thảy đều như ư): Tự Tại Thiên (Maheśvara) chính là thiên thần được ngoại đạo thờ phụng. Họ chấp trước rằng Tự Tại Thiên có thể tùy ư tạo tác các chúng sanh và chuyện khổ, lạc v.v… Người tu pháp này cũng thường hệ niệm, nguyện được như Bổn Tôn. Nếu hành nhân Chân Ngôn nhiều lượt nghĩ tới Tất Địa, mong điều ǵ hễ ta nghĩ tới sẽ đều thành tựu. Hăy nên biết đó là tâm tự tại, cũng là do tập khí trước kia khiến thành ra như vậy. Hăy nên quán các pháp đều thuộc các loại nhân duyên, chẳng hề tự tại để đối trị.

          Thứ hai mươi mốt, “vân hà thương nhân tâm? Vị thuận tu sơ thâu tụ, hậu phân tích pháp” (thế nào là tâm con buôn? Tức là tu theo kiểu trước th́ thâu thập, tích tụ, sau đó phân tích pháp): Như con buôn trong cơi đời, trước là lo chú trọng tích trữ hàng hóa, sau đấy mới suy nghĩ, phân tích: “Vật này sẽ dùng ở chỗ nào, vật kia nên dùng ở xứ nọ, sẽ được lợi to”. Nếu hành nhân trước hết chú trọng học vấn trong, ngoài sao cho trọn vẹn rồi mới lại trù tính: “Đây là sách vở thế gian, hăy nên dùng ở chỗ như thế này. Đây là pháp Nhị Thừa, nên dùng tiếp độ kẻ nào đó. Đây là tư lương Đại Thừa, do duyên nào đó sẽ cần”. Đó gọi là cái tâm con buôn, cũng do tập khí trước kia khiến thành ra như thế. Tu trí “nhanh chóng” là cách đối trị cái tâm này, tức là hễ nghe pháp nào, liền quán nhân duyên sử dụng của nó, há phải chờ tích tụ cho nhiều rồi mới t́m cầu tác dụng ư?

          Thứ hai mươi hai, “vân hà nông phu tâm? Vị tùy thuận sơ quảng văn, nhi hậu cầu pháp” (thế nào là tâm nông phu? Tức là tùy thuận thoạt đầu nghe pháp rộng răi rồi mới cầu pháp). Như người học trồng trọt hỏi nông dân giàu kinh nghiệm: “Làm thế nào để biết đất tốt, ph́ nhiêu? Làm thế nào cày, bừa, cuốc, trồng? Thời tiết như thế nào? Thâu hoạch, cất giữ như thế nào?” Mỗi mỗi đều biết như thế rồi mới đổ công. Cái tâm này cũng thế, trước là chú trọng thưa hỏi người trí để rộng nghe các đạo phẩm, sau đấy mới hành, đều là do tập khí cũ sai khiến. Dùng lợi trí để đối trị, như nghe “các Uẩn vô thường”, liền biết Giới, Nhập duyên khởi v.v… đều cũng theo lệ đó. Lại như mũi tên độc ghim vào thân, há đợi ba tháng hỏi han rộng khắp rồi mới nhổ ra ư?

 

          (Kinh) Vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp. Vân hà bi tŕ tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp. Vân hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm.

          ()云何河心謂順修依因二邊法云何陂池心謂隨順渴無厭足法云何井心謂如是思惟深復甚深

          (Kinh: Thế nào là tâm sông? Tức là tu thuận theo cái nhân thuộc pháp nhị biên. Thế nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp, chẳng chán đủ. Thế nào là tâm giếng? Tức là tư duy như thế đă sâu lại c̣n rất sâu).

 

          Thứ hai mươi ba, “vân hà hà tâm? Vị thuận tu y nhân nhị biên pháp” (thế nào là tâm sông? Tức là tâm thuận tu nương theo nhân nơi pháp nhị biên). Tâm tánh này nương vào cả hai bên, hoặc lúc tu Thường, lúc tu Đoạn, hoặc lại tin tưởng cả tà lẫn chánh, như nước sông nương vào cả hai bờ, cuốn trôi mọi vật chẳng hề chắc chắn thuộc vào bên nào! Trong ấy, để đối trị, hành nhân chuyên tâm nơi một cảnh th́ sẽ có thể đạt tới. Nếu tâm chẳng giữ chắc, sẽ chẳng có cách lẽ nào khiến cho sự nghiệp được hoàn tất!

          Thứ hai mươi bốn, “vân hà bi tŕ tâm? Vị tùy thuận khát vô yếm túc pháp” (thế nào là tâm ao chuôm? Tức là tùy thuận khát ngưỡng pháp không chán đủ). Ví như ao chuôm, dù các gịng nước chảy vào, trọn chẳng chán đủ! Tâm này cũng thế, dù các chuyện như danh lợi, quyến thuộc v.v… tụ tập nơi thân này, trọn chẳng chán đủ, cho đến các pháp đă học cũng như thế. Như đă có được cháo sữa, chẳng chú trọng ăn liền, cứ khát vọng các vị khác. Trong ấy, dùng thiểu dục tri túc để đối trị [cái tâm này].

          Thứ hai mươi lăm, “vân hà tỉnh tâm? Vị như thị tư duy thâm phục thậm thâm” (thế nào là tâm giếng? Tức là tư duy đă sâu lại càng rất sâu), ư nói: Cúi nh́n nước giếng, ước lượng cạn hay sâu khó biết. Tâm tánh này cũng giống như thế. Phàm tư duy điều ǵ, cũng đều ham chuộng sâu xa, tất cả chuyện thiện hay bất thiện đều mong sao kẻ khác chẳng thể ḍ lường được; các đồng sự cùng sống đều chẳng biết tâm hạnh của người ấy. Hăy nên biết đấy là tâm giếng. Tướng của pháp môn duyên khởi và thiện nhân đều cùng rơ ràng, dễ biết. Đó là cách đối trị.

 

          (Kinh) Vân hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật. Vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp. Vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp. Vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc.

          ()云何守護心謂唯此心實餘心不實云何慳心謂隨順為己不與他法云何狸心謂順修徐進法云何狗心謂得少分以為喜足

          (Kinh: Thế nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, tâm khác chẳng thật. Thế nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận pháp ích kỷ, chẳng ban cho người khác. Thế nào là tâm chồn? Tức là thuận theo cách tấn tu thong thả. Thế nào là tâm chó? Tức là được chút phần liền vui mừng cho là đủ).

 

          Thứ hai mươi sáu, “vân hà thủ hộ tâm? Vị duy thử tâm thật, dư tâm bất thật” (thế nào là tâm thủ hộ? Tức là chỉ có tâm này là thật, các tâm khác chẳng thật). Như người đời v́ thủ hộ thân thể, tài vật v.v… của chính ḿnh, cho đến thủ hộ các thứ như tường vây, lầu cao nhiều tầng, chẳng để cho chúng nó bị thương tổn. Tâm này cũng thế, thường thủ hộ thân tâm, cho đến như con rùa giấu kín sáu chi, chẳng để ngoại cảnh gây thương tổn. Tức là [quan niệm] chỉ có hạnh này là quư báu, các việc phải làm khác đều chẳng quư. Người học Thanh Văn phần nhiều sanh cái tâm này. Dùng kiêm thủ hộ người khác để đối trị [cái tâm này]. Lại có người tự bảo vệ kiến giải của chính ḿnh, chẳng muốn bị các thứ dị luận của người khác gây thương tổn, bảo “các kiến giải khác thảy đều không thật”, cũng thuộc loại tâm này!

          Thứ hai mươi bảy, “vân hà xan tâm? Vị tùy thuận vị kỷ, bất dữ tha pháp” (thế nào là tâm keo kiệt? Tức là tùy thuận ích kỷ, chẳng cho người khác), ư nói: Người ấy tất cả việc làm thảy đều v́ bản thân. Do đó, đối với của cải, tài khéo, cho đến thiện pháp đều ưa giấu diếm, tiếc nuối, chẳng ban cho người khác. Hễ có các tướng ấy th́ biết là tâm keo kiệt. Hăy dùng niệm Thí và vô thường v.v… để đối trị. Hăy nghĩ của cải, kỹ năng, nếu lúc vô thường xảy đến, chẳng có ǵ theo ta ra đi, nhưng cái thân này, niệm nào cũng đều chẳng thể tự bảo vệ, có ǵ đáng để tiếc nuối đâu nhỉ?

          Thứ hai mươi tám, “vân hà ly tâm? Vị thuận tu từ tấn pháp” (thế nào là tâm chồn? Tức là tùy thuận cách thong thả tấn tu): Như mèo, chồn ŕnh bắt chim chóc, nín thở, ngồi yên, chẳng cần phải đi lại nhanh nhẹn, chờ tới khi nó lọt vào tầm của ḿnh rồi mới bắt. Người này cũng thế, được gặp, được nghe các thứ pháp yếu, nhưng chỉ để tâm lănh nhận, ghi nhớ, chẳng chịu tiến hành (thật sự tu tập), mong đợi duyên tốt hội hợp rồi mới mạnh mẽ thực hiện. Lại như mèo, chồn, dẫu được nhân từ nuôi nấng đủ mọi lẽ, cũng chẳng hề biết ân. Nếu ai chỉ nhận ḷng từ bi ban bố, lời lẽ tốt lành của người khác, mà chẳng nghĩ báo đáp; đó là cái tâm chồn. Hăy dùng [tâm t́nh] chẳng đợi thời, hễ được nghe liền hành ngay, thường nghĩ tới ân đức để đối trị.

          Thứ hai mươi chín, “vân hà cẩu tâm? Vị đắc thiểu phần, dĩ vi hỷ túc” (thế nào là tâm chó? Tức là được chút phần đă vui mừng, cho là đủ). Do chó có nhân duyên phước mỏng, mong mỏi hèn kém, gặp được chút phần thức ăn thô lậu liền sanh tâm vui mừng, cho là đủ. Nếu hơi quá mức đó, sẽ chẳng phải là điều nó mong mỏi. Tâm này cũng thế, nghe chút phần thiện pháp, liền cho là hành chẳng thể hết được, chẳng c̣n cầu sự thù thắng hơn. Đấy là do tập khí của chủng tánh Thanh Văn sanh ra. Hăy dùng ư nhạo tăng thượng để đối trị, cho tới “tâm như biển cả, ít cũng chẳng cự tuyệt, nhiều cũng chẳng tràn đầy!”

 

          (Kinh) Vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp. Vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ phược. Vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngă đương thượng thăng chủng chủng thần biến. Vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngă đương kích pháp cổ. Vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp. Vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược pháp. Vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ tư niệm. Vân hà ô tâm? Ư nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm. Vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất thiện. Vân hà thích tâm? Vị nhất thiết xứ, phát khởi ác tác vi tánh.

          ()云何迦樓羅心謂隨順朋黨羽翼法云何鼠心謂思惟斷諸繫縛云何舞心謂修行如是法我當上昇種種神變云何擊鼓心謂修順是法我當擊法鼓云何室宅心謂順修自護身法云何師子心謂修行一切無怯弱法云何鵂鶹心謂常暗夜思念云何烏心謂一切處驚怖思念云何羅謂於善中發起不善云何刺心謂一切處發起惡作為性

          (Kinh: Thế nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận pháp phe phái, kết bè kéo cánh. Thế nào là tâm chuột? Tức là tư duy đoạn các trói buộc. Thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp như thế, ta sẽ đạt được các thứ thần thông biến hóa. Thế nào là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp. Thế nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu theo pháp để tự bảo vệ thân. Thế nào là tâm sư tử? Tức là tu hành hết thảy các pháp chẳng khiếp nhược. Thế nào là tâm cú vọ? Tức là thường suy nghĩ đen tối. Thế nào là tâm quạ? Trong hết thảy các chỗ, đều nghĩ kinh hoảng. Thế nào là tâm La Sát? Tức là trong các điều thiện, phát khởi bất thiện. Thế nào là tâm châm chích? Tức là trong hết thảy các chỗ, phát khởi tánh làm ác).

 

          Thứ ba mươi, “vân hà Ca Lâu La tâm? Vị tùy thuận bằng đảng vũ dực pháp” (thế nào là tâm Ca Lâu La? Tức là tùy thuận phương cách bè đảng, kéo bè kết cánh). Loài chim này thường cậy vào hai cánh để nâng đỡ thân, qua lại tùy ư, trở thành thế lực to lớn. Giả sử thiếu bớt lông vũ, sẽ chẳng thể làm được! Tâm này cũng thế, thường nghĩ có nhiều bè đảng và kẻ chầu hầu giúp cho ḿnh thành tựu sự nghiệp. Lại do người khác làm rồi ḿnh mới phát tâm, chẳng thể một ḿnh tiến hành. Như thấy người khác làm lành, liền nghĩ: “Hắn c̣n có thể làm, sao ta chẳng làm?” Hăy nên nghĩ “tâm Bồ Đề dũng mănh, như sư tử chúa chẳng nhờ vào bầu bạn giúp đỡ” để đối trị.

          Thứ ba mươi mốt, “vân hà thử tâm? Vị tư duy đoạn chư hệ phược” (thế nào là tâm chuột? Tức là tư duy cắt đứt các trói buộc). Như chuột thấy rương, tráp của người khác được buộc dây v.v… liền ưa phi lư tổn hại, cũng chẳng nghĩ: “Do làm đứt cái này, ta sẽ được lợi như thế!” Chỉ chẳng nghĩ ngợi ǵ mà làm. Tâm này cũng thế, đối với tất cả những điều liên quan và thành tựu, cứ thích chọc gậy bánh xe để phá hoại!

          Thứ ba mươi hai là “tâm ca vịnh”, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn giải thích cái tâm này. A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) nói: “Đây là thí dụ truyền pháp âm. Như người đời sáng tác nhạc cho người khác, đă hay khéo rồi, lại v́ người khác diễn tấu, phát ra đủ mọi âm thanh du dương, người nghe hoan hỷ. Tâm này muốn cho người khác nghe chánh pháp, ta sẽ đổi thành dùng đủ loại câu chữ trang nghiêm để phân biệt, diễn thuyết, khiến cho nơi nơi đều được nghe biết âm thanh mầu nhiệm ấy”. Phần nhiều là tập khí từ xưa của Thanh Văn, cũng có thể gây chướng ngại tịnh tâm. Hăy nghĩ “khi ta đă đắc nội chứng trí huệ tự nhiên rồi mới hiện trọn khắp sắc thân để diễn thuyết”. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi ba, “vân hà vũ tâm? Vị tu hành như thị pháp, ngă đương thượng thăng chủng chủng thần biến” (thế nào là tâm múa? Tức là tu hành pháp thế, ta sẽ đạt được đủ thứ thần thông biến hóa): Như người đời khi các chi thể lay động th́ gọi là “vũ” (múa). Thần biến cũng thế, hiện đủ mọi chuyện chưa từng có, khiến cho người xem tâm tịnh, đẹp mắt. Đây phần nhiều là tập khí c̣n sót lại của NThông (năm món thần thông). Nếu riêng chuộng nguyện cầu phương tiện Tất Địa như thế, th́ cũng sẽ chướng ngại tịnh tâm. Hăy nên nghĩ tới Trừ Cái Chướng tam-muội, tâm chẳng tán loạn, dao động, thần thông chẳng khởi lên hay diệt mất để gia tŕ thần thông biến hóa, đừng tham chút hiệu nghiệm thế gian. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi bốn, “vân hà kích cổ tâm? Vị tu thuận thị pháp, ngă đương kích pháp cổ” (thế nào là tâm đánh trống? Tức là tu thuận theo pháp này, ta sẽ đánh trống pháp). Trống có thể cảnh tỉnh, răn nhắc chúng sanh, khiến họ được giác ngộ. Như hành nhân nghĩ như thế này: “Chúng sanh ngủ say trong đêm dài, ta nên tập luyện đủ mọi thứ biện tài, gióng trống đại pháp để cảnh tỉnh họ giác ngộ”. [Tâm niệm ấy] cũng có thể chướng ngại tịnh tâm. Hăy nên nghĩ “sớm chứng vô lượng Ngữ Ngôn Đà-la-ni, dùng âm thanh mầu nhiệm của cái trống trời để bảo trọn khắp hết thảy đại chúng”, chớ để lợi ích nhỏ nhoi của thế gian ngăn ngại đại sự nhân duyên. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ ba mươi lăm, “vân hà thất trạch tâm? Vị thuận tu tự hộ thân pháp” (thế nào là tâm nhà cửa? Tức là tùy thuận tu tập pháp tự bảo vệ thân). Như người xây cất nhà cửa để bảo vệ thân này, tránh khỏi các thứ chuyện chẳng lợi ích như lạnh nóng, mưa, gió, đạo tặc, trùng ác v.v Tâm này cũng thế: “Ta nên tŕ giới, tu thiện để tự pḥng hộ, khiến cho đời này và đời sau xa ĺa các nỗi khổ trong ác đạo”. Đấy phần nhiều là tập khí Thanh Văn. Hăy nên nghĩ cứu giúp, che chở hết thảy chúng sanh, chẳng riêng một ḿnh ta. Đấy là cách đối trị.

          Thứ ba mươi sáu, “vân hà sư tử tâm? Vị tu hành nhất thiết vô khiếp nhược pháp” (thế nào là tâm sư tử? Tức là tu hành hết thảy pháp chẳng khiếp nhược). Như trong các loài thú, sư tử tới đâu cũng đều vượt trội, chẳng hề khiếp nhược. Cái tâm này cũng thế, trong hết thảy các sự, đều muốn vượt xa hết thảy mọi người, tâm chẳng khiếp nhược. Tự tâm cho rằng chẳng có nạn sự, chẳng có ǵ có thể tranh đua hơn kém cùng ta được. Nếu đă tự nhận biết, hăy nên phát Thích Ca sư tử tâm, khiến cho hết thảy chúng sanh thù thắng trọn khắp, chẳng có hơn kém. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi bảy, “vân hà hưu lưu tâm? Vị thường ám dạ tư niệm” (thế nào là tâm cú vọ? Tức là thường nghĩ nhớ đêm tối). Loài chim này ở chỗ sáng bừng sẽ chẳng thể làm ǵ, ban đêm th́ sáu căn nhanh nhẹn. Nếu hành giả ban ngày tuy được nghe, tụng niệm, tu tập, nhưng mờ mịt, chẳng đạt được thiện xảo, đến tối nghĩ nhớ chuyện đă làm, suy tính lần nữa, sẽ liền hiểu rơ. Cho đến tu Thiền Quán v.v… cũng coi chỗ tối tăm là chỗ thù thắng. Nếu đă nhận biết, hăy nên nghĩ “sáng tối b́nh đẳng”, khiến cho tâm ư chẳng dấy lên phân biệt ngày đêm. Đó là cách đối trị.

          Thứ ba mươi tám, “vân hà ô tâm? Vị nhất thiết xứ, kinh bố tư niệm” (thế nào là tâm quạ? Tức là trong hết thảy chỗ, nghĩ nhớ kinh sợ). Như chim quạ, nếu có người do tâm tốt lành mà gần gũi, nuôi nấng, hoặc kẻ t́m cách lợi dụng, nó đều sanh ḷng ngờ vực, sợ hăi. Cái tâm này cũng giống như thế, đối với bạn lành muốn tạo lợi ích và kẻ hăm hại, gây khốn đốn, đều nhất loạt ôm ḷng ḍ xét, xa cách, ngờ vực, sợ hăi. Cho tới khi tŕ giới, tu điều thiện, cũng ôm ḷng kinh sợ đối với sanh tử. Nếu đă nhận biết, hăy nên tu tâm an định vô úy. Đấy là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ ba mươi chín, “vân hà La Sát tâm? Vị ư thiện trung, phát khởi bất thiện” (thế nào là tâm La Sát? Tức là ở trong điều thiện, phát khởi bất thiện). Như người thấy làm việc thiện, luôn nghĩ là bất thiện. Đức Phật nói tạo các tháp miếu, đắc vô lượng phước, nhưng kẻ đó nói ngược lại như thế này: “Do chuyện này, đâm ra tổn hại vô lượng trùng nhỏ, phiền nhiễu thí chủ, lợi ích chỗ nào? Sẽ chịu khổ báo”. “Phát khởi” là nói sanh khởi các tâm bất thiện như thế đó. Trong ấy, chỉ quán công đức lợi ích, chẳng nghĩ tới khuôn khổ để đối trị.

          Thứ bốn mươi, “vân hà thích tâm? Vị nhất thiết xứ, ác tác vi tánh” (thế nào là tâm đâm chọc? Trong hết thảy các chỗ, quen tánh làm ác). Giống như rừng gai, ở mọi nơi đều gây nhiều tổn hại, khiến cho người gần nó bất an. Tâm này cũng thế. Nếu làm thiện sự như bố thí to lớn v.v…, đă làm xong liền sanh tâm hối tiếc. Nếu làm chuyện ác xong, lại tự suy nghĩ, cũng ôm ḷng thẹn thùng, sợ hăi. V́ thế, thường ôm ḷng làm ác, lo lắng chẳng yên. Ở đây, cách đối trị là nếu có sai phạm, liền nhanh chóng sám trừ, đừng sanh hối tiếc. Hành thiện sự, cũng nên tự tư duy, sanh tâm vui mừng.

 

          (Kinh) Vân hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp. Vân hà phong tâm? Vị biến nhất thiết xứ, phát khởi vi tánh. Vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất thiện pháp. Vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt tánh. Vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh. Vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, xả khí dư thiện cố. Vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị. Vân hà độc dược tâm? Vị thuận tu vô sanh phần pháp. Vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngă phược vi tánh. Vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh.

          ()云何窟心謂順修為入窟法云何風心謂遍一切處發起為性云何水心謂順修洗濯一切不善法云何火心謂熾盛炎熱性云何顯色心謂類彼為性云何板心謂順修隨量法捨棄餘善故云何迷心謂所執異所思異云何毒藥心謂順修無生分法云何羂索心謂一切處住於我縛為性云何械心謂二足止住為性

          (Kinh: Thế nào là tâm hang hốc? Tức là thuận theo, tu pháp vào hang. Thế nào là tâm gió? Tức là tâm có tánh phát khởi trọn khắp hết thảy mọi nơi. Thế nào là tâm nước? Tức là tùy thuận tu tập để gột rửa hết thảy các pháp chẳng lành. Thế nào là tâm lửa? Tức là tánh nóng bức hừng hực. Thế nào là tâm hiển sắc? Tức là có tánh phỏng theo kẻ khác. Thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp vừa sức ḿnh, vứt bỏ các điều thiện khác. Thế nào là tâm mê? Tức là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ. Thế nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp chẳng c̣n lẽ sống. Thế nào là tâm như dây trói? Tức là trong hết thảy mọi nơi, tánh trụ trong sự trói buộc của ngă. Thế nào là tâm cùm? Tức có tánh chất ḱm hăm hai chân [chẳng thể tiến cao hơn được].

 

          Thứ bốn mươi mốt, “vân hà quật tâm? Vị thuận tu vi nhập quật pháp” (thế nào là tâm hang hốc? Tức là tùy thuận tu tập pháp để vào hang hốc), ư nói các loài rồng, A Tu La v.v… đều ở trong hang sâu dưới mặt đất, hoặc đáy biển, có nhiều thần tiên, các loại thuốc có thể khiến cho họ trường thọ, tự tại. Có lẽ hành giả nghĩ trong số đó có nhiều mỹ nữ, đoan chánh giống như chư thiên, có thể chẳng lo chết yểu, mặc sức hưởng ngũ dục. Hoặc nghĩ lưu lại trong đó để thọ trọn kiếp ḥng thấy chư Phật trong vị lai. Đấy đều là cái tâm hang hốc. Hăy nên nghĩ đúng như pháp tu hành, có thể ngay trong đời này thấy pháp, hiểu đạo, cho đến thành Phật, chớ nên lần chần, quẩn quanh nghĩ tưởng pháp thiên tiên thế gian ấy. Đó là cách đối trị.      

          Thứ bốn mươi hai, “vân hà phong tâm? Vị biến nhất thiết xứ phát khởi vi tánh” (thế nào là tâm gió? Tức là có tánh phát khởi trọn hết thảy mọi nơi). Tánh gió là tán loạn, v́ nó chẳng trụ. Tâm người này cũng thế, gieo thiện căn hết thảy mọi nơi, tức là trong ngoại đạo thế gian, các thứ thiên tôn, và các người hành tam thừa đều có phần, nghĩ như thế này: “Như nhiều hạt giống [được gieo] trọn khắp mọi nơi, sẽ có hạt trưởng thành”. Như thế chính là tâm gió. Hăy nên nghĩ ruộng khô cằn, hao phí hạt giống; hăy nên cầu ở chỗ ruộng tốt màu mỡ, chuyên tâm cày bừa, ắt thu hoạch được nhiều. Đó là cách đối trị.

          Thứ bốn mươi ba, “vân hà thủy tâm? Vị thuận tu tẩy trạc nhất thiết bất thiện pháp” (thế nào là tâm nước? Tức là thuận theo cách tu gột rửa hết thảy pháp chẳng lành). Như tánh của nước là thanh khiết, tuy tạm bị các chất nhơ nhuốm bẩn, hễ lắng trong bèn thanh tịnh, lại có thể gột trừ cấu uế. Tâm người này cũng vậy, thường muốn bộc lộ xấu ác, sám hối gột rửa các tội nơi ba nghiệp. Do thấy cái này là nhơ, cái kia là tịnh, [bèn nghĩ] “ta hành như thế”, như vậy th́ có thể chướng ngại tịnh tâm. Chỉ nên quán Thật Tướng của cái tâm, hiểu rơ cấu pháp vốn chẳng sanh, sẽ tự có thể trừ hết thảy cái chướng. Đó là hạnh để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi bốn, “vân hà hỏa tâm? Vị xí thịnh viêm nhiệt vi tánh” (thế nào là tánh lửa? Tức nóng bức hừng hực làm tánh). Như tánh của lửa là chói ḷa, hừng hực. Tâm người này cũng thế. Nếu khi làm lành th́ trong khoảnh khắc có thể thành tựu vô lượng công đức, tạo ác th́ cũng trong một ít thời gian mà thành nghiệp cực nặng. Hạnh đối trị ở đây là phải nên tư duy cái tâm mạnh bạo sẽ gây ra nhiều thất bại, tổn thương, dùng nước phương tiện nhu ḥa, từ thiện để diệt, chú trọng hăm hở làm lành lâu dài để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi lăm là “tâm bùn”, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn giải thích [cái tâm này]. [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Đây chính là cái tâm một mực vô minh. Thậm chí đối với chuyện gần ngay trước mắt, cũng chẳng thể phân biệt, ghi nhớ. V́ thế, luật nói [cái tâm ấy] giống như viên bùn. Lại như bùn lầy, do nhăo nhoét, khó thể vượt qua được. Phải có thứ khác để nhờ cậy, tức là nhờ vào cầu, bến v.v… th́ mới có thể vượt qua. Nếu nhận biết có phương tiện ấy, ắt phải quay về nương tựa bạn lành, khiến cho phương tiện khai phát, mới có thể dần dần trừ khử vô tri, huệ tánh sanh trở lại”.

          Thứ bốn mươi sáu, “vân hà hiển sắc tâm? Vị loại bỉ vi tánh” (thế nào là tâm hiển sắc? Tức là có tánh phỏng theo kẻ khác). Ví như màu nhuộm xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Nếu thả sợi tơ trắng vào đó, nó sẽ có cùng màu. Tâm người ấy cũng giống như thế! Thấy, nghe thiện pháp cũng hành theo hạnh đó; thấy nghe chuyện ác cũng thuận theo mà tu học. Cho tới đối với vô kư (chẳng thiện, chẳng ác) cũng thế. Đối với các thứ cảnh giới, đều tùy theo sự mà đổi dời. Hành nhân đă nhận biết rồi, hăy nên nghĩ chuyên cầu pháp tự chứng, chẳng do người khác mà ngộ, chẳng bị duyên khác xoay chuyển. Đó là cách đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi bảy, “vân hà bản tâm? Vị thuận tu tùy lượng pháp, khí xả dư thiện cố” (thế nào là tâm như miếng ván? Tức là tùy thuận tu theo pháp xứng với tâm lượng, vứt bỏ các thiện pháp khác). Như miếng ván thả vào nước, tùy theo phân lượng mà chở các vật. Quá mức đó, nó sẽ không duy tŕ được, rốt cuộc phải nghiêng đổ đi. Tâm người này cũng thế, chọn lựa nghiệp thiện pháp, tùy sức ḿnh hành được một pháp, liền nói như thế này: “Từ trước tới nay, ta chỉ hành pháp này, chẳng biết chi khác”. Thậm chí tu tập, hành tŕ Bát Quan Trai liền chẳng xả ĺa, lại chẳng hâm mộ hành theo các điều thiện khác. Hăy dùng phát tâm rộng lớn để học Bồ Đề hạnh; đó là cách đối trị.

          Thứ bốn mươi tám, “vân hà mê tâm? Vị sở chấp dị, sở tư dị” (thế nào là tâm mê? Tức là chấp trước khác lạ, suy nghĩ khác lạ). Như người v́ mê, ư muốn đi qua Đông mà lại hướng về Tây. Tâm người này cũng giống như thế, ư muốn học Bất Tịnh Quán mà đâm ra chấp tướng tịnh, tự cho rằng ta nay tu Bất Tịnh Quán. Nếu khi tu vô thường, vô ngă, đâm ra hành “thường, ngă điên đảo”, cho rằng ta nay tu vô thường, vô ngă. Do tâm tán loạn, nên khiến thành ra như vậy. Hăy nên niệm chuyên nhất cái tâm, quán sát kỹ càng, cn kẽ, an tường, chẳng điên đảo để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ bốn mươi chín, “vân hà độc dược tâm? Vị thuận tu vô sanh phần pháp” (thế nào là tâm thuốc độc? Tức là tùy thuận tu theo pháp không có lẽ sống). “Độc” là các thứ chất độc từ rồng, rắn, dược thảo. Như người trúng độc mê ngất, chuyển sang cái chết, chẳng có lẽ sống! Tâm người này cũng thế, chẳng sanh thiện tâm, mà cũng chẳng sanh ác tâm, cho tới hết thảy các tâm đều chẳng thể sanh khởi, chỉ tùy ư mà hành, dần dần nhập vào vô nhân, vô quả. V́ thế, gọi là “chẳng có lẽ sống”. Hành nhân đă tự hiểu biết rồi, hăy nên phát khởi các điều thiện đại bi, ĺa đoạn diệt Không; đấy được gọi là “cam lộ diệu dược”.

          Thứ năm mươi, “vân hà quyến sách tâm? Vị nhất thiết xứ, trụ ư ngă phược vi tánh” (thế nào là tâm dây trói? Tức là trong hết thảy chỗ, trụ trong sự trói buộc của cái ngă làm tánh). Như người bị dây thừng trói chặt, thậm chí tay, chân, chi phần đều chẳng thể chuyển động. Tâm này giống như thế, đọa vào đoạn kiến ngă phược. Kiến chấp ấy có thể trói buộc cái tâm của hành giả, thậm chí trong hết thảy mọi chỗ, thường bị trói buộc, chẳng thể tự thoát ra, là loại chướng nặng nhất. Đă nhận biết rồi, hăy nên mau chóng dùng đao “duyên khởi chánh huệ” để chặt phăng chướng cái. Đó là cách đối trị.

          Thứ năm mươi mốt, “vân hà giới tâm? Vị nhị túc chỉ trụ vi tánh” (thế nào là tâm cùm? Tức là có tánh chất ngăn chặn hai chân). [H́nh cụ] nơi tay là Sửu (, c̣ng), nơi chân là Giới (, cùm). Như người bị cùm, hai chân bị chặn lại chẳng thể tiến lên. Tâm này cũng thế, thường chuộng ngồi ngay ngắn, hoặc đứng lặng mà tu định tâm và quán sát pháp nghĩa. V́ bị câu thúc như thế, nên gọi là “tâm cùm”. Hạnh để đối trị là hăy nên trong hết thảy các thời, xứ, đều tư duy tu tập, khiến cho tĩnh và loạn chẳng cách biệt. Đó là cách đối trị.

 

          (Kinh) Vân hà vân tâm? Vị thường tác giáng vũ tư niệm. Vân hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự tự thân. Vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục tăng gia tư niệm. Vân hà thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp. Vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị thường tư duy, tâm cao cử vi tánh. Vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ dụng tự thân nhi trụ. Vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục biến cải vi tánh. Vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp, bỉ sanh tâm như thị đồng tánh.

          ()云何雲心謂常作降雨思念云何田心謂常如是修事自身云何鹽心謂所思念彼復增加思念云何剃刀心謂唯如是依止剃除法云何彌盧等心謂常思惟心高舉為性云何海等心謂常如是受用自身而住云何穴等心謂先決定彼後復變改為性云何受生心謂諸有修習行業彼生心如是同性

          (Kinh: Thế nào là tâm mây? Tức là thường suy nghĩ tuôn mưa. Thế nào là tâm ruộng? Tức là thường tu tập phụng sự tự thân như thế. Thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều được suy nghĩ, bèn tăng thêm ư niệm suy nghĩ. Thế nào là tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp trừ bỏ như thế. Thế nào là tâm bằng với núi Di Lô (Tu Di)? Tức là tâm thường suy nghĩ, có tánh chất cao ngạo. Thế nào là tâm như biển? Tức là thường thọ dụng tự thân như thế mà trụ. Thế nào là tâm như hầm hố? Tức là trước đó đă quyết định như thế, về sau lại biến đổi. Thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập hạnh nghiệp trong các cơi, người ấy bèn sanh tâm có cùng tánh chất giống như thế

                                     

          Thứ năm mươi hai, “vân hà vân tâm? Vị thường tác vũ tư niệm” (thế nào là tâm mây? Tức là thường nghĩ tuôn mưa). Như tại phương Tây, trong ba tháng Hạ, mưa dầm đặc biệt nhiều. Do [mưa dầm] thường dẫn đến trời ẩm ướt, âm u, nên trong khi ấy, cái tâm theo lệ thường buồn, vui, lo nghĩ chen chúc tăng trưởng rất nhiều. V́ thế nói là “tác giáng vũ thời tư niệm” (suy tưởng khi tuôn mưa). Đă nhận biết, hăy nên hành xả tâm, ĺa buồn vui thế gian, tùy thuận pháp hỷ; đó là cách đối trị.

          Thứ năm mươi ba, “vân hà điền tâm? Vị thường như thị tu sự tự thân” (thế nào là tâm ruộng? Tức là thường chăm sóc bản thân như thế): Như người có ruộng tốt, thường chăm sóc, cày cuốc, trừ cỏ dại, dùng các thứ phương tiện khiến cho ruộng được sạch sẽ. Người này cũng thế, thường chuộng tu sửa cái thân, dùng hương, hoa, vị ngon v.v… để tưới tắm, bôi trét, phụng dưỡng nó, chú trọng sao cho [thân thể] sáng sạch, trang nghiêm đẹp đẽ. Đă nhận biết [cái tâm này] rồi, hăy nên thường niệm hồi hướng công đức ấy để chăm chút cái tâm. Dùng các thứ vật cúng dường như thế để vun bồi phước điền, giúp thành tựu quả thù thắng. Đó là đối trị cái tâm ấy.

          Thứ năm mươi bốn, “vân hà diêm tâm? Vị sở tư niệm bỉ phục gia tăng tư niệm” (thế nào là tâm muối? Tức là đối với điều suy nghĩ lại tăng thêm sự suy niệm). Như tánh của muối là mặn. Hễ thêm muối vào, sẽ luôn tăng thêm vị mặn. Tâm người này cũng giống như thế, đối với chuyện suy nghĩ, lại càng thêm nghĩ nhớ. Như lúc nhớ tưởng sắc dục, vừa sanh khởi ư ấy, lại tự truy cầu: “Tâm này do ai mà sanh? Thành tướng mạo ǵ?” Quán tâm này chưa xong, lại t́m ṭi suy nghĩ có nhân duyên ǵ? Như thế bèn vô cùng tận! Đă nhận biết [cái tâm này] rồi, hăy nên một mực an tâm nơi đế lư, chú trọng sao cho thấu triệt. Tâm tánh lại ly niệm, chẳng phải là phỏng đoán mà có thể biết được, chẳng từ trên phân biệt, lại tăng thêm tâm số (tâm sở)!

          Thứ năm mươi lăm, “vân hà thế đao tâm? Vị duy như thị y chỉ thế trừ pháp” (thế nào tâm dao cạo? Tức là chỉ nương cậy pháp cạo bỏ như thế): Cạo bỏ râu tóc là h́nh tướng ĺa tục xuất gia. Ư nói người này tâm chỉ nghĩ như thế này: “Ta đă gạt bỏ tướng thế tục, khiến cho ác pháp chẳng c̣n nẩy sanh nữa, c̣n có ǵ để cầu?” Hăy nên biết cái tâm ấy xấu nhất, do tự lập ngằn hạn, có thể tước bỏ tất cả thiện căn, khiến cho chúng nó chẳng thể sanh! Hăy nên nghĩ tới điều đáng nên đoạn của hết thảy thánh hiền, tức Vô Minh Trụ Địa là cái gốc của Tam Độc. Nếu có thể cạo bỏ nó, khiến cho vọng tưởng chẳng sanh, th́ mới gọi là xuất gia thật sự.

          Thứ năm mươi sáu, “vân hà Di Lô đẳng tâm? Vị thường tư duy tâm cao cử vi tánh” (thế nào là tâm bằng với núi Tu Di? Tức là tâm thường tư duy, mang tánh cao ngạo). Như núi Tu Di cao vượt các ngọn núi khác, không ǵ có thể cao hơn được. Tâm người này cũng thế, thường có tánh cao ngạo, thậm chí đối với sư tăng, cha mẹ v.v… là các bậc đáng tôn kính, đều chẳng thể nhún ḿnh, khác nào tràng cao chẳng thể uốn cong. Nếu muốn uốn cong, ắt sẽ găy, trọn chẳng thể thay đổi thái độ thường nhật. Dùng nhẫn nhục, khiêm tốn, nhún ḿnh, tưởng hết thảy chúng sanh là đại sư; [đó là cách] để đối trị [cái tâm này].

          Thứ năm mươi bảy, “vân hà hải đẳng tâm? Vị thường như thị thọ dụng tự thân nhi trụ” (thế nào là tâm bằng biển? Tức là tự thân thường trụ trong thọ dụng như thế): Ví như biển cả, trăm sông đổ vào, dung nạp vô hạn. Tâm này cũng thế, hết thảy các sự thù thắng đều quy vào chính ḿnh, tức là tỵ hiềm kẻ khác chẳng có ai sánh bằng ḿnh, thường tự chấp [chính ḿnh] có nhiều sở trường như thế, tự hưởng thụ điều đó mà trụ. Cái tâm trước (tâm bằng núi Tu Di) chú trọng cao ngạo, c̣n tâm này chú trọng rộng nhiều. V́ thế nói là “bằng với biển”. Hành giả đă nhận biết, hăy nên nghĩ tới biển công đức lớn vô lượng của Tam Hiền Thập Thánh lần lần sâu rộng, tự nhắc nhở tâm hạnh của chính ḿnh chưa thể bằng một mảy trần, một giọt nước, chớ nên khởi tâm đại mạn!

          Thứ năm mươi tám, “vân hà huyệt đẳng tâm? Vị tiên quyết định bỉ, hậu phục biến cải vi tánh” (thế nào là tâm như hang hốc? Tức là bản tánh trước đó đă quyết định, sau lại thay đổi): Ví như đồ đựng nguyên vẹn, cứng chắc, sau này nếu gặp duyên đục thủng một lỗ, sẽ chẳng thể kham dùng được nữa. Tâm này cũng thế, thoạt đầu th́ thọ tŕ nhiều, về sau ṛ rỉ đôi chút. Hoặc lúc sơ phát tâm thọ giới th́ trọn đủ chẳng thiếu, chẳng lâu sau, dần dần sanh ra pháp ṛ rỉ, giống như đồ đựng đă hư, chẳng thể giữ được pháp thủy. Phàm những trường hợp như thế, đều gọi là “huyệt tâm”. V́ thế, hành giả thường giữ sao cho mọi việc đă làm đều đến đầu đến đũa. Lại biết tánh ḿnh hay thay đổi, đó chính là điều chướng ngại nhất cho Bồ Đề tâm kiên cố; dùng đó để đối trị cái tâm ấy.

          Thứ năm mươi chín, “vân hà thọ sanh tâm? Vị chư hữu tu tập hạnh nghiệp bỉ sanh tâm như thị đồng tánh” (thế nào là tâm thọ sanh? Tức là tu tập hạnh nghiệp trong các cơi, sanh tâm có cùng tánh chất giống như thế). Như người do bạch nghiệp và hắc nghiệp mà hứng chịu quả báo thiện hay ác, do đă tạo đủ mọi thứ xen tạp, bèn thọ vô lượng thân sai biệt này nọ. Tâm này cũng thế, các hạnh đă tu đều muốn hồi hướng thọ sanh; hăy nên biết cái quả đạt được cũng kiêm thiện ác. V́ thế, hành giả hăy nghĩ thật sự chọn lựa thiện ác, trừ khử điều bất thiện, thuần tu bạch pháp. Trong các điều thiện như thế, lại chọn lấy huệ, bỏ đi những quặng thô. Lần lượt như thế, cho đến được thành tựu diệu quả đề hồ thanh tịnh thuần nhất. Đó là cách đối trị.

          Tâm thứ sáu mươi, bản tiếng Phạn thiếu phần kinh văn, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Thiếu phần nói về tâm khỉ vượn. Tánh của khỉ vượn là thân tâm tán loạn, thường chẳng thể tạm yên. Hành nhân cũng thế, tánh xáo động, chẳng yên, cho nên nắm níu nhiều thứ, giống như khỉ vượn nắm cái này, buông cái kia”. Nói đại lược, chúng sanh toàn là như thế cả, ở đây nói riêng về kẻ tâm này quá thịnh. Trong ấy, dùng tâm tưởng “chẳng thuận theo động mà tán loạn, buộc duyên nơi một cảnh” để đối trị. Giống như nếu buộc khỉ vượn vào cột, nó chẳng c̣n tùy hứng nhảy nhót, quăng ném, nhào lộn; đó là cách đối trị. Nhưng sáu mươi cái tâm ấy, có thể là có lúc bản tánh của hành giả đặc biệt nhiều, hoặc do hành đạo mà dấy động tập khí từ trước, hoặc có lúc tưng bừng dấy lên, hoặc lần lượt sanh khởi; hăy nên trong hết thảy mọi lúc đều lưu tâm nhận biết, quán sát, tự nhiên sẽ đạt được cái tâm Bồ Đề thuần tịnh. Nếu bậc A-xà-lê v́ đệ tử b́nh ổn cái tâm th́ cũng nên nhất nhất chọn lựa để trừ khử vậy.

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, phàm bách lục thập tâm, việt thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh, vị như thị giải duy Uẩn vô Ngă, Căn, Cảnh, Giới, yêm lưu tu hành, bạt nghiệp phiền năo chu ngột, vô minh chủng tử, sanh thập nhị nhân duyên ly kiến lập tông đẳng. Như thị trạm tịch, nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri. Tiên Phật tuyên thuyết, ly nhất thiết quá.

          ()祕密主一二三四五再數凡百六十心越世間三妄執出世間心生謂如是解唯蘊無我根境界淹留修行拔業煩惱株杌無明種子生十二因緣離建立宗等如是湛寂一切外道所不能知先佛宣離一切過

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần [năm căn bản phiền năo], sẽ thành một trăm sáu mươi tâm, vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng thuộc thế gian, tâm xuất thế gian sanh ra, tức là hiểu “chỉ có Uẩn, không có Ngă, Căn, Cảnh, Giới” như thế, tu hành dằng dai[3] ḥng nhổ trừ cội gốc của nghiệp và phiền năo, chủng tử vô minh, sanh, mười hai nhân duyên, ĺa các thứ đề xướng kiến lập v.v… Sự tĩnh lặng sâu lắng như thế, hết thảy ngoại đạo đều chẳng thể biết. Điều được Phật tuyên nói trên đây ĺa hết thảy lỗi).

 

          Đây cũng là giải đáp [câu hỏi] về các tâm tướng và các sự khác lạ của tâm. Do có vô minh, sanh ra năm món tâm phiền năo căn bản, tức là tham, sân, si, mạn, nghi. Sở dĩ chẳng nói tới ngũ kiến, do chúng thuộc về Kiến phiền năo, phần nhiều thuộc vào sáu mươi tâm. Năm căn bản phiền năo ấy, gấp đôi lần thứ nhất thành mười, gấp đôi lần thứ hai thành hai mươi, gấp đôi lần thứ ba thành bốn mươi, gấp đôi lần thứ tư thành tám mươi, gấp đôi lần thứ năm thành một trăm sáu mươi tâm. V́ thế nói: “Nhất, nhị, tam, tứ, ngũ tái số, thành bách lục thập tâm” ([lần lượt] gấp đôi một, hai, ba, bốn, năm lần, [năm tâm căn bản phiền năo] sẽ thành một trăm sáu mươi tâm). Do tâm phiền năo của chúng sanh thường nương vào hai pháp, chẳng đạt được Trung Đạo. V́ thế, tùy theo sự, do khác tên, liền tách thành hai. Từ trong cái “hai” ấy, lại lần lượt chia nhỏ hơn, danh tướng của chúng th́ như trong mười vạn bài kệ đă nói cặn kẽ. Nếu lại xét theo chín phẩm thượng, trung, hạ v.v… sẽ thành tám vạn bốn ngàn trần lao, nói rộng ra bèn thành vô lượng. Ví như từ một hạt giống, sanh ra năm thứ căn bản, từ một gốc cây mà tách thành hai nhánh, [lần lượt tách nhánh như thế] tới lần thứ năm th́ thành một trăm sáu mươi cành “tâm” nhỏ. Từ đấy trở đi, lại càng tách ra nhiều hơn, tức là cành lá chẳng thể kể xiết!

          Lại như thuở kiếp sơ, con người đều là hóa sanh, dùng niệm làm thức ăn, thân quang tự nhiên an lạc vô ngại. Nhưng do chẳng biết Thật Tướng của cái tâm, hơi tham đắm chất béo nơi đất. Do tham vị ấy nhiều hay ít, mà h́nh sắc, dung mạo theo đó đổi khác, cái tâm đúng, sai, thắng, thua do vậy mà nẩy sanh. Do có tâm kiêu mạn, phước lợi suy giảm, chất béo nơi đất ẩn mất, cho đến địa phu tràn trề cũng ẩn chẳng hiện[4]. Kế đó, do ăn gạo tẻ, tự nhiên mới có nam, nữ v.v… Dâm, trộm, giết, dối trá v.v… các thứ phi pháp lần lượt khởi lên. Chuyện này được nói cặn kẽ trong kinh A Hàm. Từ đấy tới nay, có đủ loại ḍng họ, đủ loại phong tục địa phương, dấy lên đủ mọi nghiệp phiền năo kết, tạo thành đủ mọi đường chúng sanh, tạo ra đủ loại thân Ngũ Ấm, nếu chẳng phải là bậc Nhất Thiết Trí, sẽ chẳng thể biết rơ cành nhánh! Sở dĩ các vị A-xà-lê dùng chuyện này để khuyên dạy con người, là v́ muốn biểu thị từ một cái tâm vô minh, do thuận theo sự việc mà chia nhỏ ra, trở thành A-tăng-kỳ chấp trước hư vọng.

          “Việt thế gian tam vọng chấp, xuất thế gian tâm sanh” (vượt khỏi ba tầng chấp trước hư vọng, cái tâm xuất thế gian nẩy sanh): Nếu dùng Bồ Đề tâm thanh tịnh làm tâm xuất thế gian, chính là siêu việt hạnh Du Kỳ trong ba kiếp. [Kiếp] trong tiếng Phạn là Kiếp-bả (Kalpa), có hai nghĩa: Một là thời phần (một khoảng thời gian nhất định), hai là vọng chấp (chấp trước hư vọng). Nếu giải thích theo cách thông thường, th́ vượt qua ba A-tăng-kỳ kiếp, sẽ được thành Chánh Giác. Nếu giải thích theo lối bí mật, vượt thoát hạnh Du Kỳ trong một kiếp, tức là: Vượt thoát một tầng chấp trước thô thiển trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ được gọi là “một A-tăng-kỳ kiếp”. Vượt khỏi hai kiếp hành Du Kỳ hạnh, lại vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, th́ gọi là “hai A-tăng-kỳ kiếp”. Hành giả Chân Ngôn môn lại vượt một kiếp, vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng cực vi tế trong một trăm sáu mươi tâm, sẽ đạt tới sơ tâm trong Phật huệ. V́ thế nói là “ba A-tăng-kỳ kiếp thành Phật”. Nếu trong một đời mà vượt thoát ba tầng chấp trước hư vọng, sẽ thành Phật ngay trong một đời, c̣n luận định thời phần chi nữa? Nhưng ngay trong tầng thứ nhất, lúc tối sơ đă liễu giải “chỉ có Uẩn, vô ngă”, liền gọi là “tâm xuất thế gian sanh”. Vượt thoát khỏi sáu mươi tâm thế gian [như đă nói trên đây], ĺa khỏi căn bản Tam Độc do ngă điên đảo sanh ra, th́ gọi là “việt tam trùng chấp” (vượt khỏi ba tầng chấp trước).

          Lại c̣n có ba thứ chấp trước hư vọng, tức là tu hành dằng dai nơi căn, cảnh, giới. “Căn” là sáu căn, “cảnh” là sáu trần, “giới” là sáu thức giới. Do trong ngoài mười hai giới[5] tức là “căn, cảnh”, nên nói gộp chung. Đấy chỗ vướng mắc của học nhân Tam Quả; v́ thế nói là “yêm lưu tu hành” (tu hành dằng dai).

          Lại có ba thứ vọng chấp, tức là nghiệp, cội gốc phiền năo, và chủng tử vô minh, tức là chỗ khó đoạn nhất của bậc thánh nhân Vô Học. Cho nên có “ba thứ chấp trước hư vọng” vậy.

          Người học Ma Ha Diễn (Đại Thừa), thoạt đầu đạt được sơ tâm xuất thế, bằng với Kiến Đạo của Tiểu Thừa, nhưng chẳng đọa trong chánh vị của Thanh Văn. V́ lẽ nào vậy? Do họ từ sơ phát tâm đă biết: Tâm tánh chỉ v́ bị cái ngă điên đảo che lấp mà chưa thể hiện tiền. Lúc bấy giờ, quán kỹ Ấm, Giới, Nhập v.v… đều từ duyên sanh, biến đổi vô thường; trong ấy, cái ǵ là Thần? Suy t́m như thế, liền hiểu rơ Thần vốn bất sanh, vượt thoát vô lượng lưới kiến chấp, Bồ Đề tâm thanh tịnh sáng thêm ít phần. Do đạt được thế lực của Bồ Đề tâm, cho nên chẳng đọa vào địa vị Nhị Thừa; nhưng do tâm hành giả có Pháp Chấp, nếu lúc tu Thiền Định đạo phẩm và các thứ Độ, tuy chẳng từ đó khởi lên các thứ điên đảo về ngă, nhưng do tâm trụ trong các pháp như Thiền, Huệ v.v… dùng dằng, tŕ trệ, chẳng thể nhanh chóng đạt tới Bồ Đề. Do chẳng như thật khéo vượt thoát, nên gọi là “yêm lưu tu hành” (dằng dai tu hành); nhưng cũng đă ĺa đôi chút ba thứ chấp thuộc địa vị thấp hơn, có thể dẹp trừ chủng tử của căn bản vô minh trong nghiệp phiền năo, sanh khởi sự hiểu biết về mười hai nhân duyên. Pháp rất sâu như thế, dù có Phật hay không có Phật [xuất thế], tánh và tướng vẫn thường như vậy. Như trong phần trước đă nói, các thứ chấp trước so đo như “kiến lập tịnh, chẳng kiến lập vô tịnh” v.v… đều chẳng tương ứng. Thậm chí trong tự tâm của các vị đại luận sư như Trường Trảo, Tiên Ni v.v… dùng trí huệ lợi căn để suy t́m Thật Tướng của các pháp, cũng đều chẳng thể suy lường được! Nghĩa của mười hai nhân duyên như trong các kinh Đạo Can v.v… đă nói tỉ mỉ.

          Nói “trạm tịch” th́ Tịch nghĩa là bất sanh, tức năm căn bản phiền năo và một trăm sáu mươi tùy phiền năo v.v… đều rốt ráo chẳng sanh, nên gọi là Tịch. “Trạm” nghĩa là rất sâu. Ví như đầm nước trong, sâu vạn nhận[6], lặng trong xuyên thấu như gương. Người đến nh́n, chẳng lường được đầm sâu hay cạn. V́ thế, nói “ba con thú vượt sông, xét theo vết chân mà mỗi con thú đạp tới, chỉ riêng đại hương tượng vương có thể từ cạn tới sâu, đạp thấu tận đáy sông”. Ở đây, người thuộc tam thừa cùng dùng đạo vô ngôn thuyết để thấu đạt Thật Tướng của các pháp, nhưng Thanh Văn nhập pháp tánh cạn nhất. Do vậy, họ chán sợ sanh tử, tự nói là “đă đắc Niết Bàn”, sanh ư tưởng diệt độ. Bích Chi Phật nhập sâu hơn, cho nên đối với sanh tử chẳng e ngại cho lắm, nhưng chưa thể dùng sức phương tiện để phát khởi đại bi. Khi Bồ Tát ngộ pháp như thế, biết là tâm cấu đă dần dần trừ. Do vậy, tịnh tâm dần hiện. Lúc bấy giờ, liền dốc sức nơi Bồ Đề tâm, có thể chẳng trụ đạo, mà học các thứ Độ môn. V́ thế, cùng trong một pháp như trên đây mà thăng trầm khác biệt!

          Kinh dạy “nhất thiết ngoại đạo sở bất năng tri” (hết thảy ngoại đạo chẳng thể biết): Trong tông này nói có hai loại ngoại đạo:

          - Ngoại ngoại đạo, ví như kẻ đích thân thấy cái đầm trong vắt, đâm ra sanh ḷng sợ hăi, chẳng dám đến gần.

          - Nội ngoại đạo: Tuy có thể bơi lội trong đó, vừa khéo trừ nóng bức, hưởng niềm vui mát mẻ, nhưng chẳng biết trong ấy có vô lượng bảo vương.

          Một đằng là do chẳng nhập nên không biết, một đằng là tuy nhập mà chẳng biết. V́ thế, nói là “hết thảy ngoại đạo chẳng thể biết”.

          “Tiên Phật tuyên thuyết ly nhất thiết quá” (điều được chư Phật tuyên nói trên đây ĺa hết thảy lỗi): Ư nói mười phương ba đời chư Phật chỉ có một môn này, khuyên dụ quần mê thoát khỏi nhà lửa. Chỗ ấy chẳng c̣n chướng ngại, các hư luận chẳng sanh. V́ thế, các loại luận sư theo các loại thuyết Nhân Lượng chẳng thể vượt khỏi lỗi ấy.

         

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Bỉ xuất thế gian tâm trụ Uẩn trung, hữu như thị huệ tùy sanh. Nhược ư Uẩn đẳng, phát khởi ly trước, đương quán sát tụ mạt, phù bào, ba tiêu, dương diễm, huyễn đẳng, nhi đắc giải thoát, vị Uẩn, Xứ, Giới, năng chấp, sở chấp, giai ly pháp tánh. Như thị chứng tịch nhiên giới, thị danh xuất thế gian tâm. Bí Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền năo vơng, thị siêu việt nhất kiếp Du Kỳ hạnh.

          ()祕密主彼出世間心住蘊中有如是慧隨生若於蘊等發起離著當觀察聚沫浮泡芭蕉陽焰幻等而得解謂蘊處界能執所執皆離法性如是證寂然界是名出世間心祕密主彼離違順八心相續業煩惱網是超越一劫瑜祇行

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Cái tâm xuất thế gian ấy trụ trong Uẩn, có huệ như thế tùy thuận sanh khởi. Nếu đối với các thứ như Uẩn v.v… phát khởi cái tâm ĺa chấp trước, hăy nên quán sát bọt nước đọng, bong bóng nước, cây chuối, ánh nắng gợn, huyễn v.v… để được giải thoát, nghĩa là Uẩn, Xứ, Giới, cái có thể chấp, cái bị chấp trước đều ĺa khỏi pháp tánh. Chứng cảnh giới vắng lặng như thế, gọi là “tâm xuất thế gian”. Bí Mật Chủ! Tâm ấy ĺa khỏi tám tâm tiếp nối trái nghịch hay tùy thuận thế gian thuộc lưới phiền năo, th́ gọi là siêu việt hạnh Du Kỳ trong một kiếp).

         

          Nhưng chưa vượt thoát pháp chướng, sẽ chẳng thể gọi là “Bồ Đề tâm thật sự thanh tịnh” được! Như hoa sen tuy đă ĺa bùn nhơ, nhưng chưa nổi trên mặt nước. V́ thế, kinh nói: “Xuất thế gian tâm trụ Uẩn trung” (tâm xuất thế gian trụ trong Uẩn). Do hành giả trong Du Già, tuy cái tâm lặng trong đă hiển lộ rơ ràng, nhưng khi dính líu tới Sự, th́ Căn, Trần, Thức v.v… vẫn c̣n canh cánh bên ḷng. Do chán sợ pháp hữu vi, nên chấp trước pháp vô vi, nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, tự nhiên chẳng do người khác dạy [mà phát sanh trí huệ].     Do có trí huệ thuận theo [thế lực của Bồ Tát tâm] mà sanh ra như thế, bèn có thể từ trong Uẩn v.v… mà phát khởi cái tâm, tu phương tiện ĺa chấp trước, từ năm thí dụ mà quán sát Vô Tánh Không.

          Câu thứ nhất là “quán sát tụ mạt” (quán sát bọt nước đọng). Giống như bọt nổi trên mặt nước, tuy mắt có thể thấy đủ mọi h́nh sắc, nhưng t́m cầu th́ tánh [của nó] thật sự trọn chẳng thể được! Sắc Ấm cũng thế, dù thô hay tế, không ǵ chẳng sanh từ các duyên. Đă do duyên sanh, mà sanh th́ vô tánh, tức là Sắc vốn bất sanh. Câu kế đó, “phù bào” là như khi tiết Hạ, trời đổ mưa rào, nước mưa nổi bong bóng, cũng chỉ thuộc vào các duyên. Dùng bốn câu ấy (quán bọt nước nổi, bong bóng, cây chuối, ánh nắng gợn) để quán th́ đều là chẳng khởi lên hay diệt mất. Thọ Ấm cũng thế, các chuyện khổ, lạc v.v… đều cùng là do t́nh (căn) và trần ḥa hợp mà sanh. Hễ là do duyên [mà hiện hữu] th́ là vô tánh, tức là Thọ vốn bất sanh. Câu kế đó là “dương diễm”, như trong tháng Xuân, hơi đất bốc lên, ánh nắng chiếu vào, nh́n từ xa như có nước. Kẻ mê muội, khát nước, sanh tâm truy cầu, bươn bả sốt sắng đuổi theo thật xa. Chúng sanh cũng thế, chẳng biết “duyên khởi tánh Không”, sanh ư tưởng cho rằng có pháp. Kế đó là “ba tiêu” (cây chuối), Như người t́m cầu lơi chắc của cây chuối, thậm chí bóc tách từng phần, cho đến gần như chẳng c̣n ǵ, vẫn chẳng thể được! Hành Ấm cũng thế! Hễ hơi dính vào cảnh dấy động, không ǵ chẳng sanh từ các duyên. Do duyên sanh th́ vô tánh, tức là Hành vốn bất sanh. Kế đó là “huyễn sự”, như chú thuật hoặc dược lực trong thế gian mê hoặc ḷng người, hiện ra đủ mọi thứ chưa từng có. Thức Ấm cũng thế, từ một niệm vô minh huyễn tâm mà thoạt đầu xuất hiện tam giới, xét đến cội gốc, sẽ đều là chẳng sanh diệt, đến, đi.

          Hăy nên biết: Do từ các duyên mà sanh th́ chẳng có tự tánh, cũng lại vốn là bất sanh. Trong kinh của Thanh Văn tuy nói năm thí dụ này, nhưng ngụ ư nói về vô ngă. Nay năm thí dụ ở đây, ư nói “tánh của các Uẩn là Không”. Như quán Ngũ Uẩn, sẽ biết mười hai Nhập, mười tám Giới, lục nhập, mười hai duyên v.v… đều nên nói phân biệt tỉ mỉ như trong kinh Đại Bát Nhă đă nói. Khi hành giả quán sát như thế, từ Vô Tánh Môn, thấu đạt “các pháp tức là Không”, bèn ĺa một tầng pháp điên đảo, biết rơ tâm tánh. Như thế sẽ chẳng bị Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp lay động. V́ thế, gọi là “chứng tịch nhiên giới”. Khi chứng tịch nhiên giới, sẽ dần dần vượt khỏi cảnh giới Nhị Thừa, như hoa sen tuy chưa nở x̣e, nhưng đă hơi vượt ngoài ḍng nước. Hành giả cũng thế, tâm chẳng c̣n ch́m lỉm trong Uẩn, nên gọi là “xuất thế gian tâm”. Nếu dịch sát nghĩa, hăy nên nói là “tâm vượt ngoài thế gian”.

          “Bí Mật Chủ! Bỉ ly vi thuận bát tâm tương tục nghiệp phiền năo vơng” (Bí Mật Chủ! Người đó ĺa khỏi tám cái tâm liên tục trái nghịch hay tùy thuận thế gian thuộc lưới phiền năo): Như trong phần trước đă nói [các giai đoạn] chủng tử, rễ, nứt vỏ v.v… và quy y Tam Bảo là thiện pháp thực hiện tŕ trai, bố thí của nhân thiên thừa, đều là tám cái tâm tùy thuận thế gian. Nếu tam thừa vừa mới phát đạo ư, đạt tới mức dẹp trừ chủng tử của căn bản vô minh nơi nghiệp phiền năo sanh ra mười hai nhân duyên, th́ gọi là “vi thế bát tâm” (tám tâm trái nghịch thế gian). Hoặc xét theo các phần vị như Kiến Đạo, Tu Đạo v.v… đă có, đều tự có tám tâm. Do hành giả Đại Thừa liễu đạt “tánh của các Uẩn là Không”, trong hết thảy các pháp đều chẳng chấp lấy, mà cũng chẳng ĺa bỏ, cùng ĺa hai thứ tám tâm tùy thuận hay trái nghịch và Ngă Uẩn thuộc lưới nghiệp phiền năo điên đảo, th́ gọi “siêu việt hạnh Du Kỳ trong một kiếp”.

          Du Già dịch nghĩa là “tương ứng”, nếu nói theo [danh từ] giống cái th́ là Du Kỳ (Yogi). Nói “tương ứng” tức là người có quán hạnh ứng với lư. Giải thích theo lối thông thường, sẽ là Bồ Tát từ sơ phát tâm cho tới nay, trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp mới chứng tịch nhiên giới như thế. Nay là tông Bí Mật, chỉ vượt thoát một tầng chấp trước hư vọng này, th́ chính là “vượt thoát một A-tăng-kỳ kiếp”. Khi hành giả chưa vượt khỏi một kiếp ấy, có địa vị bằng với Bích Chi Phật, th́ gọi là “cực vô ngôn thuyết xứ”. Lúc bấy giờ, tâm trầm trệ nơi pháp tướng vô vi, nếu đánh mất phương tiện, sẽ phần nhiều đọa trong địa vị Nhị Thừa, chứng Tiểu Niết Bàn. Nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm, vẫn có thể phát khởi bi nguyện. Từ đấy trở đi, đường nẻo của ba thừa mới tách rời, nhưng do nhân và pháp được quán đều là Không, chưa thật sự cách biệt vời vợi với các tông như Thành Thật, v́ vẫn dựa theo lư Thiên Chân để thực hiện b́nh đẳng quán. V́ thế, luận chung tâm xuất thế gian thượng, trung, hạ của ba thừa thành một A-tăng-kỳ kiếp, cho tới A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới khác hẳn Nhị Thừa!

 

          (Kinh) Phục thứ Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngă tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ văng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành. Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngă, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn bất sanh. Hà dĩ cố? Bí Mật Chủ! Tâm tiền hậu tế bất khả đắc cố. Như thị tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp Du Kỳ hạnh. Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu. Thiên, nhân, thế gian chi sở quy y, xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa, Thích Đề Hoàn Nhân đẳng, thân cận, kính lễ. Sở vị Không tánh ly ư căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, việt chư hư luận, đẳng hư không, vô biên nhất thiết Phật pháp y thử tương tục sanh, ly hữu vi, vô vi giới, ly chư tạo tác, ly nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư, cực vô tự tánh tâm sanh. Bí Mật Chủ! Như thị sơ tâm, Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền năo, giải thoát, nhi nghiệp phiền năo cụ y, thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường. Phục thứ Bí Mật Chủ! Tín giải hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, đăi thập tâm vô biên trí sanh, ngă nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc. Thị cố, trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết Trí tín giải địa, phục việt nhất kiếp thăng trụ thử địa, thử tứ phần chi nhất độ ư tín giải.

                ()復次祕密主大乘行發無緣乘心法無我性何以故如彼往昔如是修行者觀察蘊阿賴耶知自性如幻陽焰影響旋火輪乾闥婆城祕密主彼如是捨無我心主自在覺自心本不生何以故祕密主心前後際不可得故如是知自心性是超越二劫瑜祇行復次祕密主真言門修行菩薩行諸菩薩無量無數百千俱胝那庾多劫積集無量功德智慧具修諸行無量智慧方便皆悉成就天人世間之所歸依出過一切聲聞辟支佛地釋提桓因等親近敬禮所謂空性離於根境無相無境界越諸戲論等虛空無邊一切佛法依此相續生離有為無為界離諸造作離眼耳鼻舌身意極無自性心生祕密主如是初心說成佛因於業煩惱解而業煩惱具依世間宗奉常應供養復次祕密主信解行地觀察三心無量波羅蜜多慧觀四攝法信解地無對無量不思議逮十心無邊智生我一切諸有所皆依此而得是故智者當思惟此一切智信解地復越一劫昇住此地此四分之一度於信解

                (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi tâm vô duyên thừa, do các pháp chẳng có ngă tánh. V́ sao vậy? Như những vị tu hành xưa kia, quán sát Uẩn, A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, h́nh bóng, tiếng vọng, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát Bà. Bí Mật Chủ! Họ xả vô ngă như thế, tâm chủ tự tại, nhận biết tự tâm vốn bất sanh. V́ sao vậy? Bí Mật Chủ! Do tâm trong tiền tế và hậu tế đều chẳng thể được. Biết tâm tánh như thế, bèn siêu việt hạnh Du Kỳ trong kiếp thứ hai. Lại này, Bí Mật Chủ! Trong Chân Ngôn môn, các Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức, trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều thành tựu, được trời, người, thế gian quy y, vượt khỏi hết thảy các địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, được Thích Đề Hoàn Nhân v.v… thân cận, lễ kính. Cái được gọi là tánh Không ĺa khỏi căn, cảnh, vô tướng, vô cảnh giới, vượt ngoài các hư luận, giống như hư không, vô biên hết thảy các Phật pháp nương vào đây mà liên tục sanh, ĺa khỏi hữu vi giới và vô vi giới, ĺa các tạo tác, ĺa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, sanh khởi tâm vô tự tánh tột bậc. Bí Mật Chủ! Phật nói sơ tâm như thế là cái nhân để thành Phật, tuy giải thoát nghiệp phiền năo mà nghiệp phiền năo đều nương trọn vào đó, được thế gian tôn phụng, thường nên cúng dường. Lại nữa, Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, tín giải địa chẳng có đối đăi, vô lượng chẳng thể nghĩ bàn, do đối ứng với mười tâm mà vô biên trí sanh, hết thảy những điều ta đă nói đều do nương vào đây mà ra. V́ thế, người trí hăy nên tư duy Tín Giải Địa thuộc Nhất Thiết Trí này, lại vượt qua một kiếp, tiến lên trụ trong địa vị này. Đó là vượt qua được một phần trong bốn phần nơi tín giải).

 

          Kinh dạy: “Phục thứ Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát vô duyên thừa tâm, pháp vô ngă tánh. Hà dĩ cố? Như bỉ văng tích như thị tu hành giả, quán sát Uẩn, A Lại Da, tri tự tánh như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành” (Lại nữa, Bí Mật Chủ! Đại Thừa hạnh phát khởi cái tâm vô duyên thừa, v́ tánh của pháp là vô ngă. V́ sao vậy? Như các vị tu hành xưa kia quán sát Uẩn và A Lại Da như thế, biết tự tánh như huyễn, ánh nắng gợn, h́nh bóng, tiếng vang, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát Bà), chính là nói tới tầng thứ hai, tức quán sát tánh của pháp là vô ngă vậy! Tiếng Phạn là Măng-bát-la (Māpara), tức là “vô nghĩa”, mà cũng là “tha nghĩa” (nghĩa khác). Nói “tha duyên thừa” tức là phát đại thệ b́nh đẳng, v́ pháp giới chúng sanh mà hành Bồ Tát đạo, cho đến đối với “các Nhất Xiển Đề và hàng Nhị Thừa chưa nhập chánh vị”, cũng nên dùng các thứ phương tiện để chiết phục, nhiếp thọ, khiến cho trọn khắp [mọi căn tánh] đều cùng nhập thừa này. Do xét theo ḷng vô duyên đại bi ấy, nên gọi là “tha duyên thừa”.

          Lại nữa, “vô duyên thừa” là cho tới A-tăng-kỳ này, mới có thể quán sát thức A Đà Na[7] sâu xa, vi tế, thấu hiểu tam giới duy tâm, ngoài tâm chẳng có một pháp nào để có thể đạt được”! Nương theo cái tâm vô duyên ấy mà hành đại Bồ Đề đạo, nên gọi là “vô duyên thừa”. Cái tâm vô duyên thừa ấy chính là “pháp vô ngă tánh” (tánh của pháp là vô ngă). Do hành giả trong kiếp đầu tiên (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất), khi tu quán hạnh, tâm ch́m đắm trong Uẩn; v́ thế, dùng năm thứ vô tánh Không môn để quán pháp vô ngă. Nhưng xét theo Duyên Sanh Trung Đạo, th́ vẫn thuộc vào Đối Trị Tất Đàn. Nếu đánh mất phương tiện Bát Nhă, sẽ đọa vào đoạn diệt, gọi là “ác thủ Không giả, lạm phương quảng đạo nhân” (kẻ chấp trước Không mù quáng, đạo nhân lạm dụng Phương Quảng, tức Đại Thừa). Nay Đại Thừa chẳng thể đạt được tướng Không, mà tướng Không cũng chẳng thể đạt được. Tuy quán các pháp vô sở hữu, nhưng cũng là các pháp vô sở không (chẳng có ǵ là Không). V́ thế, cần phải “ĺa Hữu đạo, ĺa Vô đạo” để quán “tánh của các pháp vô ngă”.

          V́ muốn trừ sạch trí chướng (chướng ngại nơi trí), bèn tùy thuận các Bồ Tát xa xưa tu học quán Uẩn, A Lại Da, tức là [quán] tám thức, ba tánh (Biến Kế Sở Chấp, Y Tha, Viên Thành Thật), ba vô tánh (tướng vô tánh, sanh vô tánh, thắng nghĩa vô tánh) trong các kinh như Lăng Già, Giải Thâm Mật v.v… đều là ư này. Kinh nói “tri tự tánh” (biết tự tánh) tức là biết “tam giới duy tâm”. Sáu thí dụ “như huyễn, dương diễm, ảnh, hưởng, toàn hỏa luân, Càn Thát Bà thành” (như huyễn, bóng nắng gợn, h́nh bóng, tiếng vang, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát Bà) đều là cùng biện định Hữu và Vô, nhằm nêu ra ư nghĩa “duyên khởi riêng biệt” của Uẩn A Lại Da, hơi khác với ư nghĩa của năm thí dụ về quán vô tánh trong kiếp trước đó (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất).

          A Lại Da có nghĩa là “bao hàm”, dịch sát nghĩa th́ là Thất (căn pḥng), ư nói: Các Uẩn sanh và diệt trong đó, tức nó là “sào huyệt” của các Uẩn; do vậy, đặt tên như thế. Nhưng A Lại Da có ba loại nghĩa: Một là nghĩa phân biệt, hai là nghĩa nhân duyên, ba là nghĩa chân thật. Như trong phần kệ Cầu Chân Thật của Đại Thừa Trang Nghiêm Luận, do nói “ly nhị cập mê y, vô thuyết, vô hư luận” (ĺa chấp trước vào hai bên và ĺa sự mê muội đối với Y Tha Tánh, chẳng nói, chẳng hư luận), cho nên biết ba tánh đều là chân thật. Nói “ly nhị” tức là Phân Biệt Tánh chân thật, do năng (cái có thể phân biệt) và sở (các pháp được phân biệt) đều rốt ráo chẳng có! “Mê y” tức là nói về [sự mê muội đối với] Y Tha Tánh chân thật. Do từ tánh này mà dấy lên các phân biệt. “Vô thuyết, vô hư luận” (chẳng nói, chẳng hư luận) là nói Chân Thật Tánh chân thật, do tự tánh chẳng có hư luận.

          Kế đó, [Trang Nghiêm Luận] nói bài kệ thí dụ về Cầu Chân Thật rằng: “Như bỉ khởi huyễn sư, thí thuyết hư phân biệt, như bỉ chư huyễn sự, thí thuyết nhị chủng mê” (như đối với các thứ được huyễn thuật sư biến hóa ra, dù là thí dụ hay diễn nói đều là phân biệt hư vọng. Đối với các huyễn sự ấy, th́ dùng thí dụ hay ngôn ngữ để diễn tả, cả hai đằng đều là mê). Giải rằng: Như huyễn sư (người làm ảo thuật) nương vào sức chú thuật, biến hóa gỗ, đá v.v… [thành vàng, bạc, của báu] để làm cái nhân gây nên sự mê hoặc. Y Tha Tánh phân biệt hư vọng cũng giống như thế, dấy lên đủ loại phân biệt, tạo thành cái nhân điên đảo. Lại như các thứ tướng mạo hư huyễn như vàng v.v… hiển hiện, tánh phân biệt được dấy lên cũng giống như thế. Do mê đối với hai thứ năng thủ (tâm chấp giữ) và sở thủ (đối tượng được chấp giữ) mà chúng luôn luôn hiển hiện.

          Kế đó, [luận ấy] nói kệ rằng: “Như bỉ vô thể cố, đắc nhập Đệ Nhất Nghĩa. Như bỉ khả đắc cố, thông đạt Thế Đế thật” (Như do các thứ ấy chẳng có Thể, bèn được nhập Đệ Nhất Nghĩa. Nếu thông hiểu lẽ ấy, bèn thông đạt lẽ Thật nơi Thế Đế). Trong ấy, có ư nghĩa: Như các huyễn sự ấy chẳng có thật thể; đó là sánh ví hai tướng Y Tha và Phân Biệt cũng chẳng có thật thể. Do đạo lư ấy, liền thông đạt cái Đệ Nhất Nghĩa Đế. Lại nữa, “như huyễn” là cái Thể của huyễn sự cũng chẳng thể được. Đấy là sánh ví hư vọng phân biệt cũng giống như thế. Do đạo lư ấy, liền thông đạt cái Thật nơi Thế Đế.

          [Luận ấy] lại có bài kệ rằng: “Bỉ sự vô thể cố, tức đắc chân thật cảnh. Như thị chuyển y cố, tức đắc chân thật nghĩa” (Do chuyện ấy chẳng có thể, liền đạt được cảnh chân thật. Do chuyển y như thế, liền đạt được nghĩa chân thật). Giải rằng: Nếu ai hiểu rơ các huyễn sự ấy chẳng có Thể, sẽ đạt được thật cảnh nơi gỗ v.v… Nếu các Bồ Tát hiểu rơ hai thứ mê đó chẳng có Thể, th́ khi chuyển y[8] sẽ liền đạt được ư nghĩa “chân thật tánh”.

          Kệ lại nói rằng: “Thị sự bỉ xứ hữu. Bỉ hữu thể diệc vô, hữu thể vô hữu cố, thị cố thuyết thị huyễn” (Chuyện này nếu có ở nơi kia, th́ Thể của cái Có đó cũng là chẳng có. Do Thể của cái Có chẳng có. Cho nên nói là huyễn). Bài kệ này chỉ rơ “huyễn sự tuy có mà chẳng phải là có”. V́ sao vậy? “Có” tức là nói đến các sự thuộc về huyễn tượng, chúng được hiển hiện ở nơi đó (nơi huyễn thuật sư biến hiện). “Phi hữu” là nói chẳng thể đạt được thật thể của chúng. Do Thể của Hữu và Thể của Vô như thế chẳng hai, do nghĩa đó mà nói chúng là huyễn.

          Kệ lại nói: “Vô thể, phi vô thể, phi vô thể tức thể, vô hữu thể vô nhị, thị cố thuyết thị huyễn” (“Vô thể” chẳng phải là không có Thể, chẳng phải vô thể chính là Thể. Do Thể của hữu và vô chẳng hai, nên nói nó là huyễn). Bài kệ này nói: Huyễn sự chẳng phải có, mà là có. V́ sao vậy? “Chẳng phải có” tức là nói huyễn sự ấy chẳng có Thể, do nó chẳng có thật thể. “Mà là có” tức là huyễn sự chẳng phải là vô thể, do nó có h́nh tượng hiển hiện. V́ hữu thể và vô thể chẳng hai như thế, do nghĩa này mà nói nó là huyễn. Cái huyễn ấy nhằm sánh ví các Uẩn. V́ thế, hăy nên biết: Phân biệt hư vọng là có, nhưng chẳng phải là có. V́ sao vậy? H́nh bóng của hai thứ ấy hiển hiện, nhưng chẳng thể t́m được thật thể của chúng! Do vậy nói Sắc v.v… hữu thể chính là vô thể. Lại nữa, phân biệt hư vọng “chẳng phải có mà có”. V́ sao vậy? Cả hai đều chẳng có thật thể, nhưng do có h́nh bóng hiển hiện, nên nói Sắc v.v… vô thể và hữu thể chẳng hai. Do hữu và vô chẳng hai, có thể ngăn che sự kiến lập phỉ báng và tiến hướng Tịch Diệt của Tiểu Thừa. V́ lẽ nào vậy? Do từ vô thể mà hiểu biết “không có Thể; v́ vậy, chẳng nên an lập. Do từ hữu thể mà biết Thế Đế, cho nên chẳng phỉ báng. Lại do hai thứ ấy chẳng khác, chớ nên chán ghét Thể mà nhập Tiểu Niết Bàn.

          Kệ ấy lại nói: “Huyễn tượng cập thủ huyễn, mê cố, thuyết hữu nhị. Như thị vô bỉ nhị, nhi hữu nhị khả đắc. Cốt tượng cập thủ cốt, quán cố, diệc thuyết nhị. Vô nhị diệc thuyết nhị, khả đắc diệc như thị” (đối với h́nh tượng hư huyễn và sự chấp trước hư huyễn, do mê nên nói là có hai thứ. Vốn chẳng có hai thứ như thế, mà thành ra có hai thứ để có thể đạt được. Như đối với h́nh tượng xương và chấp trước tướng xương ấy, do quán [rồi chấp có tướng xương] nên cũng nói là hai. Tuy chẳng hai mà nói là hai, đối với những ǵ [ta cho rằng] có thể đạt được th́ cũng phải hiểu giống như thế)[9] Bài kệ trước có ư nói: Kẻ mê đối với cảnh tượng hư huyễn, bèn chấp huyễn. Do đă mê, nên nói có hai chuyện là năng thủ và sở thủ (tức là có người chấp và pháp bị chấp). Hai chuyện ấy tuy chẳng có, nhưng có thể đạt được hai thứ là do mê mà chúng hiển hiện. Bài kệ sau có ư nói: Người quán hạnh cũng thế, đối với h́nh tượng các khớp xương móc vào nhau [khi quán cốt tỏa thành tựu] và sự chấp trước đối với tướng xương, do quán bèn nói có hai chuyện là năng quán (cái tâm để quán) và sở quán (đối tượng được quán bởi cái tâm ấy). Tuy chẳng có hai chuyện ấy, nhưng hai chuyện ấy cũng đều có thể đạt được v́ do quán mà chúng hiển hiện.

          Hỏi rằng: Đă quán như thế là để đối trị pháp nào? Do vậy, luận ấy lại nói hai bài kệ rằng: “Ưng tri sở trị Thể, vị bỉ pháp mê tướng. Như thị Thể vô thể, hữu phi hữu như huyễn. Ưng tri năng trị Thể, niệm xứ đẳng chư pháp, như thị Thể vô tướng, như huyễn diệc như thị” (Hăy nên biết cái Thể của pháp được đối trị, chính là do mê nơi tướng của pháp ấy. Cái Thể như thế là vô thể, Có và Chẳng Có đều như huyễn. Hăy nên biết cái Thể của sự đối trị, các pháp như niệm xứ v.v… Cái Thể [của các pháp] như thế đều là vô tướng, như huyễn cũng giống như vậy). Bài kệ trước có ư nói: Đối trị cái Thể nào? Tức là [đối trị cái tâm] mê nơi tướng của các pháp. Mê nơi tướng của các pháp tức là mê nơi cái Thể như thế. Nhưng cái Thể như thế có thể nói là Có v́ phân biệt hư vọng, mà cũng có thể nói là Chẳng Có, do Thể của năng thủ và sở thủ chẳng khác với phi Thể. “Có” như thế cũng là như huyễn, mà “chẳng có” cũng như huyễn. V́ thế, nói tướng ấy như huyễn. Bài kệ sau có ư nói: Thể của cái có thể đối trị chính là các pháp, tức là [đối với các pháp để đối trị như] Niệm Xứ v.v… do đức Phật đă nói th́ cái Thể [của các pháp] như vậy là như thế đó. Thể của các pháp ấy cũng đều là như huyễn. V́ lẽ nào vậy? Do phàm phu chấp lấy các pháp như thế là có Thể, nhưng các pháp do chư Phật đă nói như thế đều vô thể! Cái Thể như thế vô tướng, nhưng Phật Thế Tôn thị hiện nhập thai, sanh ra, vượt thành, xuất gia, thành Đẳng Chánh Giác. Tuy vô tướng như thế mà hiển hiện bóng dáng, cho nên là như huyễn!          

          Hỏi: Nếu các pháp đều cùng là như huyễn, do nghĩa nào mà một đằng là cái có thể đối trị, một đằng là pháp bị đối trị? Bài kệ ấy giải đáp: “Thí như cường huyễn chủ, linh dư huyễn tức thoái. Như thị thanh tịnh pháp, năng linh nhiễm pháp tận” (Ví như huyễn sư mạnh mẽ, khiến cho những huyễn sư khác phải thoái lui. Pháp thanh tịnh như thế có thể khiến cho nhiễm pháp chẳng c̣n). Do bởi nghĩa này, tuy Bồ Tát tu các hạnh, nhưng chẳng có ǵ để đạt được. Luận ấy nói về quán sát Uẩn A Lại Da, biết rơ tự tánh như huyễn, phù hợp với kinh này nhất, cho nên tôi trích dẫn đầy đủ.

          Hăy nên biết: Đối với ánh nắng gợn (dương diễm), h́nh bóng, tiếng vọng, ṿng lửa xoay, thành Càn Thát Bà cũng nên nói rộng như thế. Trước năm thí dụ ấy, có [các thí dụ như] bọt nước, bong bóng [khi trời mưa], cây chuối. Sở dĩ ở đây chẳng bàn tới, v́ ba chuyện ấy vẫn kèm theo cách phân tích theo từng tầng để giảng về Vô Tánh Không, c̣n các thí dụ như huyễn, bóng nắng gợn v.v… ở đây chỉ mang ư nghĩa nói về cái Không khó hiểu thuộc vào pháp “duy thức vô cảnh thể”, tức là từ thô tướng mà chuyển biến, dung hội, cho nên chẳng bàn tới [các thí dụ bọt nước, cây chuối]. Hành giả hiểu các Uẩn duy tâm, tức là biết tự tánh của pháp. Khi chưa thấu hiểu tự tánh như thế, do sợ đọa vào “hữu sở đắc” (có cái để đạt được), chẳng thể trọn hết Lư mà quán Hữu được. Do sợ đọa vào đoạn diệt, chẳng thể trọn hết Lư mà quán Không. [V́ thế], không chỉ là chẳng thấy Hữu rơ ràng, mà cũng là chẳng thấy Không trọn hết. Nay dùng các môn như huyễn v.v… để chiếu “Hữu Không bất nhị”, tướng của Nhân Không và Pháp Không cũng chẳng canh cánh bên ḷng, gọi là “thật sự nhập Pháp Không, ngộ tánh Duy Thức”.

          Kinh dạy “Bí Mật Chủ! Bỉ như thị xả vô ngă, tâm chủ tự tại, giác tự tâm bổn bất sanh” (Bí Mật Chủ! Người ấy xả vô ngă như thế, tâm chủ tự tại, giác ngộ tự tâm vốn chẳng sanh). “Tâm chủ” tức là tâm vương. Do chẳng vướng mắc nơi Hữu và Vô, tâm chẳng ngăn ngại, có thể tùy ư thực hiện thành tựu diệu nghiệp. V́ thế nói là “tâm chủ tự tại”. Tâm chủ tự tại, rơ ràng là Bồ Đề tâm thanh tịnh. Lại chuyển lần nữa, càng mở mang sáng suốt gấp bội kiếp trước (A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất). Tâm vương giống như nước ao, tánh vốn thanh tịnh. Trừ sạch tâm số (tâm sở), giống như khách trần thanh tịnh. V́ thế, khi chứng tánh này là tịnh, sẽ có thể tự giác ngộ “tâm vốn chẳng sanh”. V́ sao vậy? Do tiền tế và hậu tế[10] của tâm đều chẳng thể được! Ví như sóng ṃi trong biển cả, do từ duyên mà dấy lên, chẳng phải là trước đó chẳng có th́ sau đấy cũng chẳng có. Nhưng tánh nước chẳng phải vậy, khi sóng ṃi do duyên mà dấy lên, chẳng phải là trước đó không có tánh nước. Khi nhân duyên gây ra sóng ṃi chấm dứt, chẳng phải là sau đó không có tánh nước. Tâm vương cũng lại như thế, chẳng có tiền tế và hậu tế, do tiền tế và hậu tế đều đoạn. Tuy gặp gió cảnh giới từ duyên mà dấy lên hay diệt mất, tâm tánh vẫn thường chẳng sanh diệt. Giác ngộ cái tâm này vốn chẳng sanh, tức là dần dần nhập vào môn chữ A. Lúc bấy giờ, lại ĺa một tầng chấp trước hư vọng vi tế thuộc một trăm sáu mươi phiền năo nhiều như cát bụi, th́ gọi là “A-tăng-kỳ kiếp thứ hai”. V́ thế, kinh nói: “Tri tự tâm tánh, thị siêu việt nhị kiếp Du Kỳ hạnh” (Biết tâm tánh của chính ḿnh, sẽ vượt thoát hạnh Du Kỳ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai). Trong ấy, bao gồm các ư nghĩa như vô vi sanh tử làm duyên nhân để sanh hay hoại v.v… như các kinh luận Thắng Man, Bảo Tánh, Phật Tánh Luận đă nói cặn kẽ. Nay do nói về ư nghĩa chủ yếu ở đây, cho nên chẳng nói tường tận [các ư nghĩa đó]. Nhưng xét cả quá tŕnh phát triển từ đầu đến cuối trên đây, kể từ phát khởi một mảy điều thiện cho đến vượt thoát hai thứ chướng hữu và vô đối với “nhân, pháp”, tuy điều được đề cao rành rành là càng lúc càng sâu dần hơn, hay khéo hơn, vẫn là đối trị cấu trược ở ngoài tâm, vẫn chưa khơi mở các loại chuyện bí mật chẳng thể nghĩ bàn trong cái tâm này. Từ đây trở đi mới nói ra. Nếu chẳng đối ứng để biện định như thế, thường t́nh [chúng sanh] sẽ xuôi theo tập khí từ trước, chẳng thể nhận biết sự vi diệu ấy!

          Kinh dạy: Phục thứ Bí Mật Chủ! Chân Ngôn môn tu hành Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu” (Lại này Bí Mật Chủ! Các Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, đă trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp tích tập vô lượng công đức trí huệ, tu trọn đủ các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ thảy đều thành tựu), tức là cái tâm muốn vượt thoát [A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba. Do muốn khiến cho kẻ thấy nghe đều tin ưa, tôn trọng, bèn trước hết tán thán công đức ấy, có thể dễ nhận biết điều này! Như Bồ Tát trong các giáo khác, hành phương tiện đối trị đạo, lần lượt dần dần trừ tâm cấu, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, có người đạt tới Bồ Đề, hoặc chẳng đạt. Nay các vị Bồ Tát trong giáo này chẳng phải vậy, trực tiếp dùng Chân Ngôn làm phương tiện, siêu nhập Bồ Đề tâm môn thanh tịnh. Nếu lúc thấy tâm này, hiểu đạo, phước huệ do các Bồ Tát đă tu tập trong vô số kiếp sẽ tự nhiên trọn đủ. Ví như có người dùng thuyền hay xe bôn ba, vượt qua đường ác hiểm nạn dài năm trăm do-tuần[11]. Lại có một người nương vào thần thông bay lên không trung để vượt qua, tuy chỗ trải qua và chỗ đạt đến chẳng khác nhau, nhưng pháp để vận dụng có sai khác.

          Lại nữa, sở dĩ đức Thế Tôn trước hết rộng nói các tâm tướng như trên đây là v́ dạy những người hành quán hạnh trong Chân Ngôn môn, nếu lúc hành đến các cảnh giới ấy, cần phải biết rơ, chớ nên chưa đạt tới mà nói là “đă đạt tới”, đó tức là nấn ná giữa đường! Lại như lúc thái tử của Luân Vương mới sanh ra, các tướng trọn đủ, chẳng bị thiếu khuyết. Tuy chưa thể tập luyện trọn khắp các tài nghệ, thống ngự bốn châu, nhưng đă có thể nắm giữ bảy báu, thành tựu gia nghiệp của bậc thánh vương. V́ lẽ nào vậy? Do [thái tử đă] đầy đủ bản thể của Luân Vương. Hành giả Chân Ngôn vừa mới nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng lại giống như thế. Tuy chưa thể trong vô số A-tăng-kỳ kiếp trọn đủ các hạnh Phổ Hiền, viên măn phương tiện đại bi, nhưng công đức bằng với các đức Như Lai ấy đă đều thành tựu. V́ lẽ nào vậy? Do đă trọn đủ bản thể nơi Tỳ Lô Giá Na Pháp Thân vậy. Ở đây, kinh dạy “vô lượng vô số bách thiên câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức trí huệ, cụ tu chư hạnh, vô lượng trí huệ phương tiện, giai tất thành tựu” (trong vô lượng vô số trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa kiếp, tích tập vô lượng công đức trí huệ, tu trọn các hạnh, vô lượng phương tiện trí huệ, thảy đều thành tựu).

          Lại như vương tử mới sanh, đă làm chỗ ngưỡng vọng, quy hướng cho long thần và triệu dân. Người mới phát Bồ Đề tâm thanh tịnh cũng giống như thế, đă làm chỗ đại quy y cho trời, người và kẻ mê mất chánh đạo trong thế gian. Nếu xét theo các bộ luận phán định dựa trên đường lối thông thường, th́ khi chứng tâm này, bèn gọi là Phật. Do vậy, hết thảy các vị Thanh Văn, Duyên Giác v.v… như ngài Xá Lợi Phất đă dốc trọn trí lực mà chẳng thể ḍ lường được. Kinh dạy: “Sở vị xuất quá nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật địa” (Đó gọi là vượt ngoài hết thảy địa vị Thanh Văn và Bích Chi Phật). Do khi hành giả đạt được cái tâm này, sẽ biết Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng hủy, thấy thọ lượng dài lâu của đức Phật, thân Bổn Địa và các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên như Thượng Hạnh v.v… cùng tụ hội một chỗ. Dẫu là bậc tu đạo đối trị, gần đạt tới địa vị Bổ Xứ trong Tích Môn, vẫn chẳng biết một ai [trong số các vị Bồ Tát thuộc Bổn Môn từ dưới đất vọt lên]. V́ thế, chuyện này được gọi là Bí Mật.

          Lại nữa, trong cái tâm thanh tịnh rốt ráo, vị Bồ Tát này có thể nhóm họp trọn khắp chư Phật, Bồ Tát trong mười phương pháp giới, cũng có thể tự tới trọn khắp mười phương, cúng dường các vị thiện tri thức, t́m cầu chánh pháp, chỉ riêng vị ấy hiểu rơ. Chư thiên, người đời chẳng thể biết được! Do nhân duyên ấy, lại gọi là Bí Mật. Trong hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước, tuy nói là độ Nhị Thừa, nhưng các vị như Tu Bồ Đề v.v… do nương theo oai thần của Phật mà có thể diễn nói “nhân và pháp đều không”, nhưng đối với Nhất Thừa bí mật này, sanh ḷng kinh nghi, chẳng biết [thừa ấy] sẽ dẫn đến đâu, nên gọi là “trực quá Thanh Văn, Bích Chi Phật địa (thẳng thừng vượt khỏi địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật). Khi đó, chư thiên có đại oai đức, do thấy Bồ Tát tâm chẳng có chỗ nương tựa, đều sanh ḷng kính tín. V́ vậy, Thích Đề Hoàn Nhân nguyện như thế này: “Kim thử thượng nhân bất cửu thành Phật, nhược bỉ thành Phật thời, ngă đương phụng Cát Tường thảo” (Nay vị thượng nhân này không lâu sau sẽ thành Phật. Nếu lúc Ngài thành Phật, tôi sẽ dâng cỏ Cát Tường[12] [để trải ṭa ngồi]). Tứ thiên vương cũng sanh ư niệm như sau: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời, ngă đương hiến bát” (Nếu lúc vị Bồ Tát này thành Phật, ta sẽ dâng bát). Phạm vương cũng sanh ư niệm như thế này: “Nhược thử Bồ Tát thành Phật thời, ngă đương thỉnh chuyển pháp luân” (Nếu lúc vị Bồ Tát này thành Phật, tôi sẽ thỉnh Ngài chuyển pháp luân). V́ thế nói là “thân cận, kính lễ”.

          Tán thán công đức do nhập Chân Ngôn môn đă xong, hành giả lại dùng pháp ǵ để nhập môn này? V́ thế, kế đó, kinh dạy: “Sở vị Không tánh” (nói đến tánh Không). Tánh Không tức là tánh của tự tâm b́nh đẳng như hư không. Kinh văn trong phần trên nói “vô lượng như hư không”, cho đến “Chánh Đẳng Giác hiển hiện”, chính là sánh ví cái tâm này. Kiếp trước (trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai) đă ngộ “vạn pháp duy tâm, ngoài tâm chẳng có pháp”. Nay quán cái tâm này chính là Tự Nhiên Trí của Như Lai, mà cũng là thân trọn khắp hết thảy của đức Tỳ Lô Giá Na. Do cái tâm là như thế, các pháp cũng như thế. Căn và trần đều nhập vào môn chữ A, cho nên nói: “Ly ư căn cảnh” (ĺa khỏi căn và cảnh). Do h́nh bóng chẳng ra ngoài cơi Thường Tịch Diệt Quang, nên nói là “vô tướng”. Do trong Thật Tướng của tâm, Thật Tướng của tâm trí giác, cảnh và trí đều là Bát Nhă Ba La Mật, nên nói là “vô cảnh giới”. Nếu ở đây, dùng mười thí dụ thuộc phần này để đối ứng với mười thí dụ trong phần trước, lại trở thành hư luận, nên nói: “Việt chư hư luận” (vượt ngoài các hư luận).

          Đoạn trừ chủng tử phiền năo, nghiệp và thọ mạng thuộc tầng thứ ba của một trăm sáu mươi tâm vi tế, lại có mầm cây Phật nẩy sanh, nên nói: “Đẳng hư không vô biên nhất thiết Phật pháp” (hết thảy Phật pháp như hư không vô biên). Nương vào sự sanh khởi liên tục này, đă chẳng hoại nhân duyên, bèn nhập pháp giới, cũng chẳng dao động pháp giới, tức là duyên khởi. Hăy nên biết nhân duyên sanh diệt chính là pháp giới sanh diệt, pháp giới chẳng sanh diệt tức là nhân duyên chẳng sanh diệt. V́ thế nói: “Ly hữu vi vô vi giới”. Dẫu Như Lai xuất thế hay chẳng xuất thế, các pháp cũng vốn sẵn như thế mà trụ. Cho nên nói: “Ly chư tạo tác” (ĺa các tạo tác). Như trong kinh Bát Nhă nói: “Nhất thiết pháp thú nhăn, thị thú bất quá” (hết thảy các pháp quy nhập vào mắt, lại chẳng có một pháp nào vượt khỏi mắt)[13], giống như trăm sông đổ vào biển, trọn chẳng đổ vào đâu khác. V́ thế, hăy nên biết Nhăn chính là Thật Tế bậc nhất. Trong Thật Tế bậc nhất, mắt c̣n chẳng thể được, huống hồ tiến nhập hay chẳng tiến nhập ư? Tai, mũi, lưỡi, thân, ư cũng như thế, cho nên nói: “Ly nhăn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ư” (ĺa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ư).

          Khi hành giả đạt được huệ vi tế như thế, quán hết thảy các pháp nhiễm tịnh cho đến chút phần giống như lân hư trần, không ǵ chẳng từ duyên sanh. Nếu là sanh từ duyên, tức là chẳng có tự tánh. Nếu chẳng có tự tánh, tức là vốn bất sanh. “Vốn bất sanh” tức là Thật Tế của cái tâm, nhưng Thật Tế của cái tâm cũng chẳng thể được. V́ thế nói là “cực vô tự tánh tâm sanh” (sanh khởi cái tâm vô tự tánh tột bậc). Cái tâm ấy so với hai [A-tăng-kỳ] kiếp trước, giống như hoa sen nở x̣e trọn hết. Nếu so với hai cái tâm sau đó, tức là quả lại thành hạt. V́ thế nói “như thị sơ tâm, Phật thuyết thành Phật nhân cố, ư nghiệp phiền năo giải thoát, nhi nghiệp phiền năo cụ y” (chư Phật nói sơ tâm như thế chính là cái nhân để thành Phật, tuy nó giải thoát nghiệp phiền năo, nhưng nghiệp phiền năo đều nương trọn vào cái tâm ấy). Ở đây nói “Phật thuyết” chính là đức Thế Tôn lấy mười phương ba đời chư Phật làm chứng. Điều này giống hệt như nói “dĩ thử nhất sự nhân duyên, vị chúng sanh khai tịnh tri kiến” (dùng một sự nhân duyên này để mở ra tri kiến thanh tịnh cho chúng sanh). Khi hành giả giải thoát hết thảy nghiệp phiền năo, liền biết “hết thảy nghiệp phiền năo, không ǵ chẳng phải là Phật sự”, vốn tự chẳng có trói buộc, sẽ khiến cho ai được giải thoát? Như lương y biến chất độc thành thuốc để dùng trừ các bệnh. Lại như hư không chẳng ra ngoài các tướng mà muôn h́nh tượng đều nương trọn vào đó. Như khi trụ trong sự giải thoát chẳng thể nghĩ bàn này, sẽ chính là A La Hán thật sự, chẳng chấp trước hữu vi và vô vi, đáng nhận sự cúng dường rộng lớn của hết thảy thế gian. V́ thế, kinh dạy: “Thế gian tông phụng, thường ưng cúng dường” (thế gian tôn trọng, phụng sự, thường đáng nên cúng dường).

          Lại nữa, do A-xà-lê muốn giảng rơ sự cúng dường ấy, luận định chung ba [A-tăng-kỳ] kiếp từ đầu đến cuối, liền nêu ra thí dụ về bảo châu: Ví như có Như Ư Bảo Châu ở trong quặng đá, do người đời chẳng biết, vứt bên đường cái chẳng khác ǵ ngói, sỏi. Nhưng người biết rơ chất báu do thấy có chút tướng vừa mới tỏ lộ ra ngoài, liền nhận biết [trong quặng đá có bảo châu]. Trước hết, dùng đục sắt sắc bén để đục bỏ đá tạp. Đục gần đến vua chất báu (Như Ư Bảo Châu), đá sẽ mềm dần, lại dùng chất thuốc để ḥa tan, khiến cho các chất cặn từ quặng đá tiêu trừ, nhưng chẳng thương tổn chất báu. Lúc bấy giờ, thô cấu đă trừ, vẫn c̣n tế cấu, bèn rửa bằng nước tro, chùi bằng vải mịn, dùng đủ mọi phương tiện để chất báu sáng ngời. Đă tỏa ánh sáng, đặt trên tràng cao, có thể thuận theo hết thảy mong cầu mà tuôn ra trọn khắp các vật. Lúc bấy giờ, người đời sanh ư tưởng kỳ đặc, tôn trọng vật báu ấy như đại thiên, v́ nó có thể thỏa măn trọn vẹn các điều ước nguyện. Nhưng chất báu ấy đồng thời ứng trọn khắp các tâm, khiến cho mỗi mỗi [ước nguyện] sai khác đều đạt được, [vậy th́] các vật ấy đă có sẵn từ trước trong chất báu, hay là trước đó chẳng có? Nếu có sẵn từ trước, viên châu bé nhỏ ấy sao có thể chứa trọn khắp các vật? Nếu trước đó chẳng có, sao lại có thể lập tức tuôn ra các vật? Tức là tánh của vật báu thế gian ấy đă là chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ vật báu Bồ Đề tâm của chúng sanh ư?

          V́ thế, lúc thiện tri thức vừa mới thấy tám tâm thế gian của chúng sanh chớm động, liền biết đó là của báu thật sự, biết lư “có thể gọt giũa”. Như người đă từng nhận biết nhiều thứ báu nổi tiếng; do vậy, vừa trông thấy liền biết ngay. Chư Phật, Bồ Tát cũng thế, từ lâu đă đích thân chứng biết “do một mảy thiện mà tự đạt đến đạo đại Bồ Đề”. V́ thế, soi xét t́nh kiến, căn cơ của chúng sanh, liền đại hoan hỷ, dùng phương tiện khuyên dụ, dẫn dắt, khiến cho họ thọ Tam Quy, như đă nói phân biệt trong phần trên. Ví như nhặt lấy tảng đá xù x́ đặt ở trong nhà. Kế đó, dùng ba loại “tam tâm” để dẹp trừ cội rễ nghiệp phiền năo và chủng tử vô minh, giống như dùng đục sắt sắc bén để đục đẽo, loại bỏ chất quặng thô tháp. Kế đó, quán tánh vô ngă của pháp vô duyên thừa, như dần dần [đục đẽo] tới chỗ mềm, bèn dùng dược vật để tiêu hủy [các chất quặng thô] mà chẳng tổn thương [chất báu]. Kế đó, sanh khởi vô cực tự tánh tâm, như dùng nước tro lau chùi, mài bóng, khiến cho bảo châu tột bậc sáng sạch. Lúc bấy giờ, đă sanh trong nhà Phật, gọi là “đặt trên tràng cao, tuôn ra các thứ báu”. Do nhân duyên ấy, kham nhận sự cúng dường rộng lớn của thế gian. Nếu hành giả trực tiếp từ Chân Ngôn môn mà trông thấy chất báu trong tâm, như tiên nhân giỏi chú thuật, dùng thần lực để giữ lấy. Tuy khéo, vụng, khó, dễ khác nhau, nhưng đạt được vật báu trọn chẳng khác lối! V́ thế, kinh này nói cặn kẽ tâm tướng từ cạn đến sâu, đều nhằm khai thị nhân duyên của Bồ Đề tâm từ đầu đến đuôi. Nếu chỉ xét theo pháp tướng thông thường, ắt chẳng thể nói “bí mật to lớn của chư Phật nay ta đều khai diễn”!

          Kinh dạy: “Bí Mật Chủ! Tín Giải Hạnh địa quán sát tam tâm, vô lượng Ba La Mật Đa huệ quán, Tứ Nhiếp pháp, tín giải địa vô đối, vô lượng bất tư nghị, kiến lập thập tâm, vô biên trí sanh” (Bí Mật Chủ! Địa vị Tín Giải Hạnh quán sát ba tâm, vô lượng Ba La Mật huệ quán, Tứ Nhiếp Pháp, địa vị tín giải chẳng đối đăi, vô lượng chẳng nghĩ bàn, kiến lập mười tâm, sanh khởi vô biên trí). Đấy là cái Tông của kinh này. Từ Bồ Đề tâm thanh tịnh cho đến địa vị Thập Trụ, đều là thuộc về hạnh Tín Giải, chỉ có Như Lai được gọi là địa vị Nhất Thiết Trí rốt ráo. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Sơ Địa Bồ Tát có thể tin tưởng, nhập vào bổn hạnh của Như Lai, Tín thành tựu các Ba La Mật, tín nhập các địa vị thù thắng, tin vào sức thành tựu, tin trọn đủ vô sở úy, tin sanh trưởng Phật pháp bất cộng chẳng thể hoại, tin Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, tin xuất sanh cảnh giới Phật chẳng có ngằn hạn, tin tùy nhập vô lượng cảnh giới của Như Lai, tin thành tựu quả. Đối với các chuyện như thế, cái tâm ấy rốt ráo chẳng thể phá hoại, lại c̣n chẳng bị xoay chuyển theo các duyên khác. V́ thế, gọi là địa vị Tín Giải Hạnh, cũng gọi là Tu Hành Địa.

          “Quán sát tam tâm” tức là do Căn mà xét kỹ cái tâm. Nếu luận định chung trong địa vị Tín Giải, sẽ là khi Sơ Địa Bồ Tát đạt được Bồ Đề tâm như hư không vô cấu ấy, tự nhiên sẽ sanh khởi mười đại nguyện trong mười vô tận giới, cho đến trọn đủ trăm vạn A-tăng-kỳ đại nguyện. Đó là lấy Bồ Đề tâm làm nhân. Từ Nhị Địa trở đi, tu thêm đại bi vạn hạnh, tức là vô tận đại nguyện “mọc rễ” trong mười pháp giới, cho đến dần dần tăng trưởng. Từ Đệ Bát Địa trở đi, đều gọi là Phương Tiện Địa. Phật Tánh Luận giảng: “Cảnh giới từ Bát Địa trở lên đều giống nhau, nhưng luận theo phương tiện mà giáng cấp vậy”. Nếu quán mỗi một địa, cũng sẽ đều có ba tâm. Như dùng mười nhân duyên để được nhập Sơ Địa, bèn gọi là “nhân duyên”. Đă an trụ rồi, sẽ dùng các thứ đại bi vạn hạnh để tịnh trị địa vị ấy, gọi là Căn. Nói tới chuyện tịnh trị quả tướng và nghiệp phương tiện trong mỗi địa th́ gọi là “cứu cánh”. Những điều khác đều chuẩn theo điều này. Vô lượng Ba La Mật Đa, Tứ Nhiếp Pháp được nói trong kinh này tức là trị địa. Hành giả từ đây trở đi, chẳng c̣n có đối đăi, vượt khỏi địa vị “tâm lượng chẳng thể nghĩ bàn”, có mười tâm vô biên trí sanh khởi. Đấy chính là quả tướng của Sơ Địa. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phát thập đại nguyện dĩ, tắc đắc lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, vô trược tâm” (Đă phát mười đại nguyện rồi, liền đạt được lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, vô trược tâm). Kế đó, lại thành tựu mười loại pháp nhằm tịnh trị các địa, tức là từ, bi, hỷ, xả, chẳng hề chán bỏ, biết các kinh luận khéo giảng giải pháp thế gian, tàm quư, sức cái nhân vững chắc, cúng dường chư Phật, y giáo tu hành.

          Lại nữa, đă trụ trong địa vị ấy, khéo biết chướng trong các địa, khéo biết mỗi địa vị thành hoại, khéo biết tướng quả của mỗi địa, khéo biết tu tập như thế nào để chứng đắc địa vị, khéo biết pháp thanh tịnh trong địa vị ấy, khéo biết chuyển hạnh trong mỗi địa, khéo biết xứ phi xứ[14] trong mỗi địa, khéo biết trí thù thắng trong mỗi địa, khéo biết bất thoái chuyển trong mỗi địa, khéo biết tịnh trị hết thảy Bồ Tát địa, cho đến chuyển nhập Như Lai địa. Có nhiều loại “mười thứ tâm” như thế, nếu rộng phân biệt, sẽ có trăm vạn A-tăng-kỳ độ môn, cho nên nói là “vô biên trí sanh”. Nếu xét theo ba tâm trước, sẽ nói thành mười tâm.

          Nếu luận định thông thường về địa vị Tín Giải, th́ Sơ Địa là chủng tử, Nhị Địa là mầm, Tam Địa là nứt vỏ, Tứ Địa là lá, Ngũ Địa là hoa, Lục Địa là quả, Thất Địa là thọ dụng chủng tử, Bát Địa là nương tựa vô úy; đó gọi là “quả trong cái quả”. Cửu Địa sanh khởi trí huệ tiến lên cầu Phật địa, tức là cái tâm tối thắng. Thập Địa th́ tâm ấy quyết định. Hai tâm ấy chẳng phải là cảnh giới khác, vẫn thuộc vào tâm thứ tám, nhưng xét theo phương tiện chuyển biến mà tách ra đó thôi! Nếu xét trong mỗi địa, th́ cũng tự có đủ mười tâm ấy. Vả nữa, như khi trụ trong Sơ Địa, thành tựu pháp tịnh trị các địa, và biết tướng của các địa, tức là trước đó đă thấu hiểu một địa. Nhờ vào đó làm nhân, trí huệ tăng trưởng, bèn thấu hiểu hai địa. Dùng mười tâm để suy luận tương tự sẽ biết. Kinh Hoa Nghiêm có rất nhiều “mười pháp môn”, cũng nên chuẩn theo thứ tự ấy để rộng nói phân biệt. Nhưng điều được đề cao trong kinh này là từ Sơ Địa liền nhập kim cang bảo tạng. Đối với mỗi điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Thập Địa, theo như [Thiện Vô Úy] A-xà-lê truyền dạy, đều cần phải giải thích theo hai loại:

          - Một là giải thích nông cạn, sơ lược.

          - Hai là giải thích theo lối bí mật, sâu xa.

          Nếu chẳng thấu đạt mật hiệu như thế, chỉ dựa theo văn tự để nói (tức là giải thích nông cạn, sơ lược) th́ nhân duyên sự tướng chỉ dính dáng đến phẩm Thập Trụ. Nếu giải thích theo sự sanh khởi của mười sáu vị đại Bồ Tát thuộc kinh Kim Cang Đảnh[15], sẽ tự chứng biết.

          Kinh dạy: “Ngă nhất thiết chư hữu sở thuyết, giai y thử nhi đắc” (hết thảy những điều ta nói trong các cơi đều dựa theo đây mà đạt được). Cảnh giới vô tận trang nghiêm thuộc hết thảy các trí địa trên đây và vô lượng Tu Đa La khác, hết thảy hạnh quả được đức Phật khen ngợi, không ǵ chẳng do điều này mà đạt được. V́ thế, các kinh khác là rộng tán thán thân, lá, hoa, quả của thụ vương (cây chúa) Sa La như thế; nay trong kinh này, chỉ nói đến chủng tử và nhân duyên sanh trưởng của thụ vương ấy. Nếu ĺa nhân duyên ấy mà có thể thành tựu cái quả, sẽ chẳng có lẽ ấy! V́ thế, xưng tụng kinh Đại Nhật là vua, chẳng phải v́ lẽ này hay sao?

          Kinh lại nêu ra lợi ích để khuyên tu như sau: “Thị cố, trí giả đương tư duy thử Nhất Thiết Trí Tín Giải địa, phục việt nhất thiết, thăng trụ thử địa” (v́ thế, người có trí hăy nên tư duy địa vị Nhất Thiết Trí Tín Giải này, lại vượt khỏi hết thảy để tiến lên, trụ trong địa vị này), tức là vừa mới nhập địa vị Tín Giải, lại vượt qua một tầng Tế Hoặc của một trăm sáu mươi tâm, gọi là “vượt thoát đại A-tăng-kỳ kiếp thứ ba”. Khi hành giả mới quán tánh Không, giác ngộ hết thảy các pháp đều vào trong Thật Tế của cái tâm, dưới là chẳng thấy chúng sanh có thể độ, trên là chẳng thấy chư Phật để có thể cầu. Khi đó, vạn hạnh ngưng nghỉ, gọi là “rốt ráo”. Nếu trụ vào đó, tức là chẳng lui sụt, chẳng đọa xuống địa vị Nhị Thừa, nhưng chưa tiến lên, đạt tới địa vị Bồ Tát, th́ gọi là Pháp Ái Sanh, cũng gọi là tâm vô kư. Nhưng do thế lực của Bồ Đề tâm và sức gia tŕ của Như Lai, lại có thể phát khởi bi nguyện. Khi đó, mười phương chư Phật đồng thời hiện tiền để khuyến dụ. Do được chư Phật dạy bảo, [hành nhân] chuyển sanh cực vô tự tánh tâm, cho đến Thật Tế của tâm cũng chẳng thể được. Tuy giải thoát hết thảy các nghiệp phiền năo, nhưng nghiệp phiền năo vẫn c̣n đầy đủ. Đạt tới địa vị chẳng thể nghĩ bàn này, mới gọi là “thật sự ĺa khỏi địa vị Nhị Thừa”. Tức là đối với ư nghĩa của ba câu trước đó, lại khơi mở Phật địa là phương tiện tâm thượng thượng. Khi đạt tới cái tâm thứ tư ấy, gọi là Nhất Thiết Trí địa rốt ráo, nên nói là “tứ phần chi nhất độ ư tín giải” (vượt thoát một phần tư trong tín giải)

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nguyện cứu thế giả diễn thuyết tâm tướng, Bồ Tát hữu kỷ chủng đắc vô úy xứ?” Như thị thuyết dĩ, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn cáo Kim Cang Thủ ngôn: - Đế thính! Cực thiện tư niệm! Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp, đương đắc thiện vô úy. Nhược như thật tri ngă, đương đắc thân vô úy. Nhược ư thủ uẩn sở tập ngă thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc vô ngă vô úy. Nhược hại uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy. Nhược hại pháp trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngă vô úy. Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp, ngă, thọ mạng đẳng, cập pháp vô duyên Không, tự tánh vô tánh, thử Không trí sanh, đương đắc nhất thiết pháp tự tánh b́nh đẳng vô úy.

          ()爾時執金剛祕密主白佛言世尊願救世者演說心相菩薩有幾種得無畏處如是說已摩訶毘盧遮那世尊告金剛手言諦聽極善思念祕密主彼愚童凡夫修諸善業害不善業當得善無畏若如實知我當得身無畏若於取蘊所集我身捨自色像觀當得無我無畏若害蘊住法攀緣當得法無畏若害法住無緣當得法無我無畏若復一切蘊界處能執所執我壽命等及法無緣空自性無性此空智生當得一切法自性平等無畏

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nguyện đấng cứu thế diễn nói tâm tướng, Bồ Tát có mấy loại vô úy xứ?” Nói như thế xong, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bảo Kim Cang Thủ rằng: - Lắng nghe! Hăy suy niệm cực khéo! Này Bí Mật Chủ! Phàm phu giống như trẻ nít ngu muội, tu các thiện nghiệp, trừ bỏ bất thiện nghiệp, sẽ đạt được sự không sợ hăi tốt lành. Nếu biết ngă đúng như thật, sẽ đạt được thân vô úy. Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp của chính ḿnh mà ĺa bỏ cái thấy [chấp trước] đối với h́nh sắc của chính ḿnh, sẽ đạt được vô ngă vô úy. Nếu trừ khử sự nắm níu đối với pháp uẩn trụ, sẽ đạt được pháp vô úy. Nếu trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đắc pháp vô ngă vô úy. Nếu lại đối với hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngă, thọ mạng v.v… và Pháp Vô Duyên Khôngbiết là tự tánh vô tánh, do Không trí ấy sanh khởi, sẽ đạt được sự vô úy b́nh đẳng nơi tự tánh của hết thảy các pháp).

         

          Đoạn này vẫn nhằm đáp câu hỏi về tâm tướng (tướng trạng của cái tâm) trong phần trước. Do ngài Kim Cang Thủ đă nghe [đức Thế Tôn] dạy các Bồ Tát hăy tiến thẳng lên địa vị Bồ Tát trong Chân Ngôn môn, nên hỏi đức Thế Tôn: “Khi các vị Bồ Tát ấy hành đạo, sẽ có mấy chỗ không sợ hăi?” Đức Phật lại dựa theo ba [A-tăng-kỳ] kiếp sai biệt như đă nói trên đây để giải thích tương ứng.

          [Vô Úy Xứ trong] tiếng Phạn là A Thấp Phạ Sa (Assāsaniyā), phải nên dịch sát nghĩa là Tô Tức (蘇息, hồi phục hơi thở). Như người bị kẻ có sức mạnh nắm giữ, bóp họng ngộp thở, sắp chết ngất, bỗng được buông ra, lại được hồi tỉnh. Chúng sanh cũng giống như thế, bị vọng tưởng nghiệp phiền năo trói buộc, các duyên tiếp xúc (các giác quan) đều bị đóng chặt, đến lúc này, lục xứ như được tái sanh, nên gọi là Tô Tức Xứ (chỗ được phục hồi hơi thở). Cũng như khi vượt qua đường hiểm ác, cái tâm thơ thới, chẳng sợ hăi, nên gọi là Vô Úy Xứ. Đức Phật dạy: “Bí Mật Chủ! Bỉ ngu đồng phàm phu tu chư thiện nghiệp, hại bất thiện nghiệp, đương đắc thiện vô úy” (Bí Mật Chủ! Phàm phu như trẻ nít ngu muội, tu các nghiệp lành, trừ khử nghiệp chẳng lành, sẽ đạt được vô úy tốt lành): “Thiện” bao gồm hai nghĩa cạn và sâu. Ở đây, có ư nói về Thập Thiện Nghiệp Đạo. Như người đời do nhân duyên Thập Bất Thiện Đạo mà hụp lặn, trôi giạt trong đường ác chẳng cùng tận. Sau đó, do đạt được tám tâm thuận thế, dần dần thọ Tam Quy Ngũ Giới, trong vô lượng đời, sanh trong loài người hoặc chư thiên. Sau đó, đạt tới Niết Bàn, tránh khỏi nỗi khổ cùng cực trong tam đồ, th́ gọi là Tối Sơ Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn vừa mới nhập tam-muội-da, nương theo Tam Mật để cúng dường, tu hành, địa vị sẽ ngang bằng [với Tối Sơ Tô Tức Xứ].

          Kinh dạy: “Nhược như thật tri ngă, đương đắc thân vô úy” (nếu đúng như thật biết ngă, sẽ đạt được thân vô úy): Như lúc hướng về thân để tu quán, thấy thân này là cái được kết hợp bởi ba mươi sáu vật[16], năm thứ bất tịnh xấu ác lộ ra đầy ắp, trọn chẳng v́ thế mà sanh ḷng tham ái. Kế đó, lại quán “thọ, tâm, pháp”, đạt được chẳng ĺa “quán bốn thứ điên đảo nơi tánh của ngă”, đối với các thứ kiềm chế, trói buộc từ cái thân mà đạt được Tô Tức Xứ. Nếu khi các tướng thuộc bổn tôn tam-muội của hành giả Chân Ngôn hiện tiền, sẽ có địa vị bằng với địa vị này.

          Kinh nói: “Nhược ư thủ uẩn sở tập ngă thân, xả tự sắc tượng quán, đương đắc vô ngă vô úy” (Nếu đối với cái thân do thủ uẩn nhóm họp, xả tự sắc tượng quán, sẽ đắc vô ngă vô úy), tức là khi quán chỉ có Uẩn, không có ngă, đối với Ấm, Giới, Nhập, sẽ phân tích, truy t́m đủ mọi lẽ, đều chẳng thể có được ngă. “Xả thử tự sắc tượng” (xả sắc tượng của chính ḿnh): Ví như do cây mà có bóng cây hiển hiện. Nếu chẳng có cây, bóng cây sẽ do đâu mà sanh? Nay Ngũ Uẩn c̣n do duyên sanh, đều vô tự tánh, huống hồ trong cái được tích tập ấy mà có Ngă ư? Như trong phần trên đă nói, cho tới chứng cái tâm trạm tịch, ĺa hết thảy các lỗi, th́ sẽ đối với chỗ kiềm chế, trói buộc của Ngă, bèn đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn trong hết thảy các giai đoạn thuộc cảnh giới Du Già, đều có thể quán tâm “chẳng thể được”, chẳng sanh ái và mạn, th́ địa vị sẽ bằng với địa vị này.

          Kinh dạy: “Nhược hại Uẩn trụ pháp phan duyên, đương đắc pháp vô úy” (nếu trừ bỏ sự nắm níu đối với pháp Uẩn trụ, sẽ đắc pháp vô úy), tức là hành giả tâm trụ trong Uẩn, muốn phát khởi ĺa bỏ; khi đó, từ các thí dụ như huyễn, dương diễm v.v… mà quán sát các Uẩn chính là Không, ĺa tám tâm thuận tùng hay trái nghịch, chứng tịch nhiên giới. Do ĺa sự trói buộc, kiềm chế của Uẩn, bèn đạt được Tô Tức Xứ đối với pháp. “Pháp” là nói mười câu duyên sanh. Nếu hành giả Chân Ngôn nhận biết cảnh giới Du Kỳ trong hiện tại đều như gương, hoặc như trăng trong nước, vô tánh, vô sanh, địa vị sẽ bằng với địa vị này.

          Kinh dạy: “Nhược hại pháp trụ vô duyên, đương đắc pháp vô ngă vô úy” (nếu trừ khử pháp trụ vô duyên, sẽ đạt vô ngă, vô úy đối với pháp), tức là tâm vô duyên thừa, quán tánh của pháp là vô ngă, ở ngoài tâm th́ trí có h́nh bóng hay không đều chẳng thể được, tâm vương tự tại, nhận biết vốn chẳng sanh, ĺa khỏi sự kiềm chế, trói buộc của pháp, sẽ đối với pháp vô ngă mà đạt được Tô Tức Xứ. Nếu hành giả Chân Ngôn khi tâm được tác dụng tự tại trong đạo Du Già, địa vị sẽ ngang bằng với địa vị này.

          Kinh dạy: “Nhược phục nhất thiết Uẩn, Giới, Xứ, năng chấp, sở chấp, ngă, thọ mạng đẳng, cập Pháp Vô Duyên Không, tự tánh vô tánh. Thử Không trí sanh, đương đắc nhất thiết pháp tự tánh b́nh đẳng vô úy” (Nếu lại đối với hết thảy Uẩn, Giới, Xứ, cái có thể chấp, cái bị chấp, ngă, thọ mạng v.v… và Pháp Vô Duyên Không, [mà biết là] tự tánh vô tánh. Do sanh khởi Không trí ấy, sẽ đạt được vô úy b́nh đẳng trong tự tánh của hết thảy các pháp). Tức là khi quán tánh Không rốt ráo của tự tâm, Ngă, Uẩn pháp và vô duyên đều có cùng một tánh, tức là tự tánh vô tánh. “Thử Không trí sanh” (sanh khởi Không trí ấy) tức là lúc đó, cực vô tự tánh tâm sanh khởi. Đối với nghiệp phiền năo v.v… đều chẳng bị trói buộc, mà cũng chẳng giải thoát. V́ thế nói là “tự tánh của hết thảy các pháp đều b́nh đẳng”. Lúc đó, đối với sự kiềm chế, trói buộc của hữu vi giới và vô vi giới, bèn đạt được Tô Tức Xứ, tức là Bồ Đề tâm như hư không cấu của hành giả Chân Ngôn. Nhưng cái tâm ấy dù tại triền (c̣n bị phiền năo ràng buộc), hay xuất triền (thoát khỏi phiền năo), đều rốt ráo vô tướng, dùng ngũ nhăn của Như Lai để quán kỹ, vẫn chẳng thể biết tướng mạo của nó được, huống hồ kẻ trong sanh diệt [mà toan hiểu biết rành rẽ] ư? Nay sở dĩ nói rộng sáu món vô úy xứ trong ba kiếp có rất nhiều tâm tướng, đều là dựa theo h́nh tướng bên ngoài, ḥng nói rơ sự tu chứng sâu hay cạn. Trong phần trước đă nói do thấy tướng trạng của khói, có thể suy ra mà biết tánh chất của lửa; chỉ biết tâm cấu đă hết, th́ hư luận chẳng c̣n, tức là món vô úy xứ thứ sáu, c̣n muốn biểu thị như thế nào nữa ư?

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Nhược Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát, thâm tu quán sát thập duyên sanh cú, đương ư Chân Ngôn hạnh thông đạt, tác chứng. Vân hà vi thập? Vị như huyễn, dương diệm, mộng, ảnh, Càn Thát Bà thành, hưởng, thủy nguyệt, phù bào, hư không hoa, toàn hỏa luân. Bí Mật Chủ! Bỉ Chân Ngôn môn tu Bồ Tát hạnh chư Bồ Tát đương như thị quán sát.

          ()祕密主若真言門修菩薩行諸菩薩深修觀察十緣生句當於真言行通達作證云何為十謂如幻陽焰乾闥婆城水月浮泡虛空華旋火輪祕密主彼真言門修菩薩行諸菩薩當如是觀察

          (Kinh: Bí Mật Chủ! Nếu các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn, tu tập sâu xa quan sát mười câu duyên sanh, sẽ thông đạt, tác chứng Chân Ngôn hạnh. Thế nào là mười? Chính là như huyễn, ánh nắng gợn, mộng, h́nh bóng, thành Càn Thát Bà, tiếng vang, trăng trong nước, bọt nước nổi, hoa đốm trên hư không, ṿng lửa xoay. Bí Mật Chủ! Các vị Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh trong Chân Ngôn môn ấy hăy nên quan sát như thế).

 

          Đây là giải đáp đại lược câu hỏi về tu hành trong đoạn trước. Như trong đoạn kinh văn nói về phương tiện vạn hạnh trong phần sau, không ǵ chẳng nhờ vào mười câu duyên sanh này để tịnh trừ cấu nhơ trong tâm. V́ thế, hăy nên biết đây là ư chỉ trọng yếu nhất, hành giả Chân Ngôn phải nên đặc biệt lưu ư tư duy. Nhưng luận định chung mười câu duyên sanh trong phẩm này th́ đại lược có ba loại:

          - Một, do tâm ch́m đắm trong Uẩn, do muốn đối trị thật pháp, mà quán mười câu duyên sanh ấy, tức “là Không, là huyễn” như đă nói trong phần trước.

          - Hai, do tâm ch́m đắm trong pháp, do muốn đối trị sự nắm níu cảnh giới, mà quán mười câu duyên sanh này, tức “Uẩn A Lại Da chính là huyễn nơi tâm” như đă nói trong phần trước.

          - Ba, do chấp trước sâu đậm mà đắm ch́m trong Thật Tế của tâm, do muốn ĺa hữu vi giới, vô vi giới, mà quán mười câu duyên sanh này, như trong phần trên đă nói: “Giải thoát hết thảy các nghiệp phiền năo, mà nghiệp phiền năo đều nương trọn vào đó”, tức là huyễn chẳng thể nghĩ bàn.

          Mười thí dụ trong kinh Ma Ha Bát Nhă cũng bao hàm trọn ba ư ấy. Ở đây nói “thâm tu quán sát” (tu quán sát sâu xa), tức là nói tới tầng thứ ba. Hơn nữa, trong Du Già, hành giả dùng tự tâm để cảm, Phật tâm là ứng. Do nhân duyên cảm ứng, ngay lập tức Tỳ Lô Giá Na Phật hiện thân mà chúng sanh thích thấy, tuyên nói pháp thích hợp cho họ nghe, nhưng tâm ta cũng rốt ráo tịnh, mà tâm Phật cũng rốt ráo tịnh. Nếu coi tâm ta là tự, th́ tâm Phật là tha, nay cảnh giới này là do tự sanh, hay tha sanh, hay [tự và tha] cùng sanh, hay chẳng có nhân mà sanh? Dùng các thứ môn trong Trung Luận để quán, sanh chẳng thể được, mà h́nh và tiếng rành rành, tức là pháp giới. Luận huyễn th́ chính là huyễn, luận pháp giới th́ chính là pháp giới, luận trọn khắp hết thảy mọi nơi th́ là trọn khắp hết thảy mọi nơi. Do luận theo huyễn, nên gọi là “huyễn chẳng thể nghĩ bàn”.

          Lại nữa, nói “thâm tu” tức là đă đắc tịnh tâm trở lên, từ đại bi mà sanh căn, cho đến phương tiện rốt ráo. Đối với mỗi một duyên khởi trong ấy, đều nên dùng mười thí dụ để quán. Do điều chứng ngộ sâu dần, nên nói là “quán sát”. Lại như nghĩa Tứ Đế, trực tiếp dạy trong thế giới Sa Bà đă có vô lượng vô biên tên gọi sai biệt, huống hồ các phương tiện nhằm thích ứng các căn cơ trong vô tận pháp giới, [các danh xưng của Tứ Đế] há có thể cùng tận ư? Nay hành giả trong một niệm tịnh tâm, thông đạt Tứ Đế nhiều như cát bụi như thế, Không th́ rốt ráo chẳng sanh, Hữu th́ tận hết tánh tướng, Trung th́ toàn bộ cái Thể đều là thường. Do ba pháp chẳng có tướng nhất định, nên gọi là “huyễn chẳng thể nghĩ bàn”. Giống như Tứ Đế, [biện định] hết thảy các pháp môn cũng phỏng theo lệ đó. V́ thế, chỉ có Như Lai mới có thể thấu hiểu cùng tận mười thí dụ ấy, thấu đạt nguồn cội của chúng. Trong kinh này, ngay sau phần nói về vô cấu Bồ Đề tâm, bèn nêu ra mười thí dụ, bao quát trọn khắp từ đầu đến cuối các địa. Đă là do gặp duyên mà tạo thành phép Quán, chẳng thể nói lặp lại nhiều lần, nay đành dựa theo [cách giải thích trong bộ] Thích Luận để nói đại lược chỗ quy túc vậy!

 

          (Kinh) Vân hà vi huyễn? Vị như chú thuật, dược lực năng tạo, sở tạo chủng chủng sắc tượng, hoặc tự nhăn cố, kiến hy hữu sự triển chuyển tương sanh, văng lai thập phương. Nhiên bỉ phi khứ, phi bất khứ. Hà dĩ cố? Bổn tánh tịnh cố. Như thị Chân Ngôn huyễn, tŕ tụng thành tựu, năng sanh nhất thiết.

          ()云何為幻謂如呪術藥力能造所造種種色像惑自眼故見希有事展轉相生往來十方然彼非去非不去何以故本性淨故如是真言幻持誦成就能生一切

          (Kinh: Thế nào là huyễn? Tức là như chú thuật, hoặc do sức thuốc có thể tạo tác các thứ h́nh sắc, mê hoặc mắt ḿnh, thấy các sự hy hữu lần lượt sanh ra, qua lại mười phương. Nhưng chúng nó chẳng đi, chẳng phải là không đi. V́ sao vậy? Do bổn tánh thanh tịnh. Chân ngôn là huyễn cũng giống như thế, nhưng tŕ tụng thành tựu sẽ có thể sanh ra hết thảy).

 

          Đức Phật nói “dược lực chẳng thể nghĩ bàn”, như người do sức thuốc mà có thể bay lên hư không, ẩn thân, đi trong nước, bước trong lửa. Đối với các chuyện ấy, các vị luận sư chẳng thể kiến lập các nguyên nhân để giải thích nguyên do được, mà cũng chẳng thể sanh nghi, bảo là “nhất định phải nên như thế này”, hoặc “chẳng nên như thế nọ”. Cảnh giới vượt khỏi sự trù tính, suy lường như thế, chỉ có người đích thân sử dụng thuốc ấy, chấp tŕ vận dụng th́ mới chứng biết đó thôi! Lại như do nhân duyên của thuốc hay chú thuật, có thể thị hiện tạo ra đủ loại h́nh sắc, tuy trong các duyên, dẫu t́m cầu cặn kẽ từng điều, đều chẳng thấy sanh xứ (chỗ sanh khởi) của chúng, nhưng chúng vẫn hiện tiền rành rẽ đối trước năm t́nh (năm căn). Tuy lần lượt sanh ra lẫn nhau, qua lại mười phương, nhưng cũng chẳng phải là đến đó, mà cũng chẳng phải là không đến đó. Chuyện này cũng chẳng phải là cảnh để suy tính, ḍ lường, suy xét được!

          Thích Luận nói: “Đức Phật hỏi Đức Nữ: ‘Ví như huyễn sư huyễn hóa đủ mọi sự, ư bà nghĩ sao? Cái do huyễn tạo tác là ở bên trong mà có hay chăng?’ Đáp rằng: ‘Thưa không!’ Lại hỏi: ‘Là ở bên ngoài mà có hay chăng? Trong và ngoài đều có hay chăng? Từ đời trước tới đời này, từ đời này tới đời sau hay chăng? Cái do huyễn tạo ra có sanh, có diệt hay chăng? Thật sự có một pháp do huyễn tạo tác hay chăng?’ [Đức Nữ] đều đáp rằng: ‘Không ạ!’ Đức Phật bảo: ‘Há bà có thấy, nghe kỹ nhạc do huyễn tạo tác hay không?’ Đáp: ‘Con cũng thấy, cũng nghe’. Đức Phật nói: ‘Nếu huyễn là Không, hư dối, chẳng thật, v́ sao từ huyễn mà có thể tạo tác kỹ nhạc?’ Đức Nữ đáp: ‘Bạch đại đức! Đó là huyễn tướng vốn sẵn như thế, tuy chẳng có căn bản mà có thể thấy, nghe’. Đức Phật nói: ‘Vô minh cũng như thế, tuy chẳng phải là bên trong có, cho đến chẳng có sanh diệt, nhưng do vô minh làm nhân duyên mà các hành sanh ra. Nếu vô minh tận th́ hành cũng tận, cho tới nói rộng [các chi c̣n lại trong Thập Nhị Nhân Duyên, cũng đều như thế]”. Nay trong Chân Ngôn môn này, sánh ví người tŕ tụng cũng lại giống như thế, như kinh văn trong phần sau sẽ nói cặn kẽ. Nương vào Tam Mật tu hành, được thành tựu hết thảy các chuyện lạ lùng, đặc biệt, chẳng nghĩ bàn! Tuy trong mỗi sự đều t́m cầu cặn kẽ, rốt cuộc đều ĺa bốn câu (có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không). Pháp vốn sẵn là như thế, chẳng khác tịnh tâm, nhưng tự tại thần biến rành rành chẳng sai! Chuyện này các vị đại luận sư là những người khéo biện luận, lợi căn đều chẳng thể ḍ lường được, chỉ riêng người có phương tiện đầy đủ để thành tựu Tất Địa tự chứng biết đó thôi!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dương diễm tánh Không, bỉ y thế nhân vọng tưởng thành lập, hữu sở đàm nghị. Như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh.

          ()復次祕密主陽焰性空彼依世人妄想成立有所談議如是真言唯是假名

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Tánh của ánh nắng gợn là Không, do nó nương vào vọng tưởng của người đời mà thành lập những điều bàn luận. Các tướng trong Chân Ngôn cũng giống như thế, chỉ là giả danh).

 

          Thích Luận nói: “Do ánh nắng [chiếu qua] bụi bị gió cuốn, xao động trong đồng trống như ngựa hoang, kẻ vô trí thoạt nh́n ngỡ là nước. Chúng sanh cũng thế. Do ánh nắng kết sử phiền năo dao động các bụi Hành, bị gió ức niệm xoay chuyển trong đồng hoang sanh tử, kẻ không có trí huệ cho rằng tướng này là nam, tướng nọ là nữ. Lại nữa, nếu nh́n từ xa th́ ngỡ là nước, tới gần chẳng có tướng nước. Kẻ cách xa thánh pháp cũng giống như thế, chẳng biết vô ngă và các pháp là Không, đối với Ấm, Giới, Nhập vốn là các pháp tánh Không mà sanh ra tưởng ư tưởng là người v.v… Nếu thân cận thánh pháp, ắt biết Thật Tướng của các pháp, Khi đó, các thứ vọng tưởng hư dối đều bị trừ sạch”. Kinh này có ư nói: Như người đời nh́n đồng trống từ xa, người nh́n từ xa chỉ thấy tướng nóng hừng hực, bèn cưỡng lập giả danh, chứ t́m cầu th́ sẽ là thật sự chẳng có. V́ thế nói là “vọng tưởng thành lập, hữu sở đàm nghị” (do vọng tưởng mà thành lập mà có các điều bàn luận). Như hành giả Chân Ngôn, từ trong Du Già, thấy các thứ cảnh giới lạ lùng, đặc biệt, cho đến hải hội của chư Phật trang nghiêm tận, lúc đó, hăy nên quán [các tướng ấy] như ánh nắng gợn, biết rơ đó chỉ là giả danh, ĺa khỏi khinh mạn, chấp trước, chuyển tới gần tâm địa, sẽ ngộ “các thứ nhân duyên thần biến gia tŕ chỉ là tướng nắng gợn của pháp giới”, cho nên nói “như thị Chân Ngôn tướng duy thị giả danh” (tướng Chân Ngôn như thế chỉ là giả danh).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như mộng trung sở kiến trú nhật, Mâu Hô Lật Đa, sát-na, tuế thời đẳng trụ, chủng chủng dị loại thọ chư khổ lạc, giác dĩ đô vô sở kiến. Như thị mộng Chân Ngôn hạnh, ưng tri diệc nhĩ.

          ()復次祕密主如夢中所見晝日牟呼栗多剎那歲時等住種種異類受諸苦樂覺已都無所見如是夢真言行應知亦爾

          (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Như những cảnh được thấy trong mộng, tuy chỉ tồn tại trong một Mâu Hô Lật Đa[17], hoặc sát-na của ban ngày, mà như kéo dài cả năm, và thấy các thứ dị loại hứng chịu các thứ khổ lạc. Tỉnh giấc th́ đều chẳng thấy ǵ. Hăy nên biết hạnh Chân Ngôn cũng giống như giấc mộng như thế).

         

          Thích Luận nói: “Như trong mộng đều chẳng có sự thật, mà cho là thật sự có. Tỉnh giấc biết là không, bèn tự cười x̣a. Con người cũng như thế, ở trong giấc ngủ kết sử, thật sự chẳng có ǵ mà chấp trước. Khi đắc đạo, đă tỉnh giấc, bèn biết là không, cũng sẽ tự bật cười”. Lại như do sức của giấc ngủ, chẳng có pháp mà thấy có pháp, chẳng có chuyện vui vẻ mà vui vẻ, chẳng có chuyện giận dữ mà giận dữ, chẳng có chuyện sợ hăi mà sợ hăi! Chúng sanh cũng thế, do sức của giấc ngủ vô minh, chẳng nên giận dữ, lo sợ, mà sanh ḷng giận dữ, lo, sợ v.v… V́ thế, nay lại nói các chuyện chẳng thể nghĩ bàn thuộc về mộng. Như trong mộng, tự thấy trụ thọ một ngày, hai ngày, cho tới vô lượng năm, có đủ loại quốc độ và tộc loại chúng sanh, hoặc lên cung trời, hoặc ở trong địa ngục để hưởng vui, chịu khổ. Khi tỉnh giấc th́ chỉ là trong ṿng một niệm! Trong cái tâm khi đă tỉnh giấc, đối với pháp nhân duyên thuộc về giấc ngủ, t́m cầu bốn câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không) đều chẳng thể được, nhưng nghĩ nhớ chuyện trong mộng rành rành chẳng sai. Dùng một niệm làm ngàn vạn năm, dùng một tâm làm vô lượng cảnh, những người có trí trong thế gian chẳng thể suy đoán, ḍ lường tột cùng cội nguồn của chuyện này, mà cũng chẳng thể có chỗ đáng nghi, chỉ riêng người nằm mộng đích thân chứng biết.

          Nay giấc mộng Du Già của hành giả Chân Ngôn cũng giống như thế, hoặc trong khoảnh khắc thấy trọn khắp vô lượng cảnh giới được gia tŕ, hoặc chẳng đứng lên khỏi chỗ ngồi mà trải qua nhiều kiếp, hoặc dạo khắp các cơi Phật, thân cận, cúng dường, lợi ích chúng sanh. Chuyện này nếu quán sát trong các nhân duyên, [sẽ thấy] đều chẳng có chỗ dấy lên, không ra ngoài một niệm tịnh tâm, nhưng vẫn phân biệt chẳng sai lầm. Ai có thể nghĩ bàn nguyên do của chuyện này? Thật sự chỉ riêng người đă chứng tự biết mà thôi! Hành giả đạt được cảnh giới như thế, chỉ nên dùng thí dụ về mộng để quán, tâm chẳng nghi ngờ, lấy làm lạ, mà cũng chẳng sanh tâm chấp trước, tức là dùng giấc mộng hiện trọn khắp sắc thân để trang nghiêm vô tận. V́ thế nói “thâm tu thập cú” (tu sâu mười câu) vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ ảnh dụ giải liễu Chân Ngôn năng phát Tất Địa, như diện duyên ư kính, nhi hiện diện tượng, bỉ Chân Ngôn Tất Địa đương như thị tri.

          ()復次祕密主以影解了真言能發悉地如面緣於鏡而現面像彼真言悉地當如是知

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về h́nh bóng để hiểu rơ Chân Ngôn có thể phát khởi Tất Địa, như do soi mặt vào gương mà hiện ra vẻ mặt, hăy nên biết Chân Ngôn Tất Địa cũng giống như thế).

 

          “Ảnh” được nói ở đây chính là thí dụ “h́nh bóng trong gương” được nói trong Thích Luận. Luận ấy viết: “Như h́nh bóng trong gương, chẳng do gương tạo ra, chẳng do mặt tạo ra, chẳng do người cầm gương tạo ra, chẳng phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải không có nhân duyên mà có. V́ sao chẳng phải do gương tạo? Nếu mặt chưa soi vào, gương sẽ chẳng có h́nh bóng. V́ sao chẳng phải do mặt tạo ra? Do không có gương, sẽ không có h́nh bóng. V́ sao chẳng do người cầm gương tạo ra? Do không có gương, không có mặt, sẽ không có h́nh bóng. V́ sao chẳng phải tự nhiên tạo ra? Nếu chẳng có gương, chẳng có mặt, sẽ chẳng có h́nh bóng. Phải đợi có gương, có mặt rồi mới có h́nh bóng. Cũng chẳng phải là không có nhân, v́ nếu chẳng có nhân duyên, nó phải nên thường có, hoặc thường không. Dù bỏ gương, bỏ mặt đi, [h́nh bóng] cũng phải nên tự xuất hiện. Do vậy, chẳng phải là không có nhân duyên. Hăy nên biết các pháp cũng giống như thế, do ngă chẳng thể được, hết thảy các pháp sanh bởi nhân duyên sẽ chẳng tự tại. Do các pháp thuộc vào nhân duyên, nên chẳng phải là tự tạo tác. Nếu tự chẳng có, th́ tha cũng chẳng có. V́ thế, chẳng phải do cái khác tạo tác. Nếu do cái khác tạo tác, ắt sức tội phước sẽ bị mất. Cũng chẳng phải là “cộng tác” (do tự tác và tha tác cùng tạo thành), [v́ nếu hiểu là như thế] sẽ mắc lỗi [chấp có] nhị biên. Cũng chẳng phải là không có nhân, như nghiệp nhân trong đời trước, hạnh thiện ác trong đời này làm duyên, do vậy mà có khổ, vui. Hết thảy các pháp ắt có nhân duyên, nhưng do ngu si nên chẳng biết đấy thôi. Như trẻ nít trông thấy h́nh bóng trong gương, tâm yêu thích, khi [h́nh bóng] mất đi, bèn phá vỡ gương để t́m kiếm, người trí bật cười. [Kẻ mê muội trong thế gian] mất đi sự vui bèn t́m kiếm cũng giống như thế, cũng bị bậc thánh nhân đắc đạo cười cợt”.

          Nay trong môn Chân Ngôn này, dùng tịnh thân trong Tam Mật của Như Lai làm gương, hành vi nơi thân trong Tam Mật của chính ḿnh làm h́nh bóng trong gương. Do nhân duyên mà có Tất Địa sanh ra, giống như vẻ mặt [hiện ra khi soi mặt vào gương]. Nếu lúc Tất Địa của hành giả thành tựu, cho đến dấy khởi năm món thần thông, trụ thọ dài lâu, diện kiến mười phương quốc độ, dạo các cơi Phật, đều dùng thí dụ này để quan sát chuyện ấy từ tự sanh ra, hay từ tha sanh ra? Nếu nói là “do Tam Mật của người khác gia tŕ, có thể trao cho [chúng sanh] cái quả ấy”, th́ khi chúng sanh chưa tu hành, Phật cũng do ḷng đại bi b́nh đẳng [sẽ trao cho], cớ sao chẳng khiến cho họ thành tựu? Nếu bảo là “tự tu hành đúng như lời dạy, sẽ có thể đạt được cái quả ấy”, do nhân nào mà quan sát thân Tam Mật như cái gương thanh tịnh để cầu gia bị vậy? Nếu cùng do cả hai (tự và tha), sẽ mắc lỗi nhị biên. V́ sao vậy? Nếu nói cái tâm ta làm nhân, đợi có các duyên th́ mới được thành tựu, tức là trong cái nhân đă sẵn có cái quả Tất Địa từ trước ư? Hay là trước đó chẳng có? Nếu đă có sẵn từ trước, các duyên đều trở thành vô dụng. Nếu trước đó chẳng có, các duyên lại có tác dụng ǵ? Nhưng Tất Địa thành tựu ấy cũng lại chẳng phải là không có nhân duyên. V́ thế, Đại Trí Độ Luận có bài kệ nói về h́nh bóng trong gương như sau: “Chẳng có, cũng chẳng không, cũng lại chẳng có không, lời ấy cũng chẳng nhận. Như vậy gọi Trung Đạo”. Chớ nên như trẻ nít hư vọng nẩy sanh chấp giữ. Nếu quán như thế, tâm hành giả sẽ chẳng có ǵ để đạt được, chẳng sanh hư luận; cho nên nói “ưng như thị tri” (hăy nên biết như thế).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ Càn Thát Bà thành thí, giải liễu thành tựu Tất Địa cung.

          ()復次祕密主以乾闥婆城譬解了成就悉地宮

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về Càn Thát Bà để hiểu rơ cung điện thành tựu Tất Địa).

 

          Thích Luận viết: “Khi mặt trời mới mọc, thấy cửa thành, lầu gác, cung điện, người đi đường ra vào [ṭa thành Càn Thát Bà]. Mặt trời mọc lên cao, [các cảnh tượng ấy] diệt mất. Thành ấy chỉ có thể mắt trông thấy, nhưng nó chẳng thật sự có. Có người thoạt đầu chưa từng thấy, cho là chỗ vui sướng thật sự, rảo bước đến đó. Tới gần bèn mất dấu. Mặt trời mọc lên cao, [ṭa thành ấy] diệt mất. Đói khát, mệt mỏi cùng cực, thấy hơi nóng như ngựa hoang, cho là nước. Lại t́m đến đó, thậm chí cầu t́m mệt mỏi cùng cực mà chẳng trông thấy, bèn tư duy tự ngộ, cái tâm khát ngưỡng dứt bặt”. Hành giả cũng thế. Nếu dùng trí huệ “vô ngă, vô thật pháp” [để quán chiếu], lúc bấy giờ, ư nguyện điên đảo sẽ dứt bặt. Trong kinh Thanh Văn chẳng có thí dụ thành Càn Thát Bà này. Lại dùng ṭa thành để sánh ví cái thân, nhằm nói các duyên ấy thật sự có, nhưng thành là giả danh, nhằm phá cái chấp “tôi, ta” vậy. Bồ Tát lợi căn, thâm nhập các pháp Không, cho nên dùng thành Càn Thát Bà làm thí dụ. “Tất Địa cung” được nói ở đây, có thượng, trung, hạ:

          - Thượng là cơi Phật mật nghiêm, vượt ngoài tam giới, hàng Nhị Thừa chẳng thể thấy nghe.

          - Trung là mười phương thanh tịnh, trang nghiêm.

          - Hạ là cung điện của chư thiên, Tu La v.v…

          Nếu khi hành giả thành tựu ba phẩm Tŕ Minh Tiên, an trụ trong cung Tất Địa như thế, hăy nên dùng thí dụ này để quan sát. Như do ánh nắng và hơi bốc lên từ biển làm nhân duyên, [mà có huyễn tượng] chỗ cư trụ trang nghiêm, tráng lệ, đài gác, người vật rạng rỡ đáng ưa, [gọi là “thành Càn Thát Bà”]. Chớ nên giống như kẻ ngu muội, xằng bậy nẩy sanh tham chấp, cầu mong cho là thật. Do nhân duyên này, trong các loại ngũ trần thù thắng, nhiệm mầu, tịnh tâm sẽ chẳng vướng mắc!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Dĩ hưởng dụ giải liễu Chân Ngôn thanh, như duyên thanh hữu hưởng, bỉ Chân Ngôn giả đương như thị giải.

          ()復次祕密主以響喻解了真言如緣聲有響彼真言者當如是解

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Dùng thí dụ về tiếng vọng để hiểu rơ âm thanh Chân Ngôn, như do âm thanh mà có tiếng vọng, người tu Chân Ngôn hăy nên hiểu như thế).

 

          Thích Luận nói: “Như hang động hay khe núi trong núi thẳm, hoặc chỗ khe suối sâu kín, hoặc trong ṭa nhà lớn trống trải, do âm thanh của tiếng nói va chạm nhau, sẽ từ trong âm thanh ấy lại có tiếng phát ra, bèn gọi là tiếng vọng. Kẻ vô trí cho là có thật. Bậc trí suy nghĩ: ‘Âm thanh này không do ai tạo ra, chỉ là do âm thanh [ban đầu] chuyển biến, bèn có tiếng vọng lừa gạt tai người’. Khi người sắp nói, trong họng có gió, gọi là Ưu Đà Na, nhập trở vào bụng. Khi tiếng vang phát ra, va chạm bảy chỗ là đỉnh đầu, răng, môi, lưỡi, họng, ngực mà phát ra, th́ gọi là “nói năng”. Kẻ ngu chẳng hiểu, bèn sanh ra Tam Độc. Bậc trí biết rơ, tâm chẳng chấp trước, chỉ tùy thuận Thật Tướng của các pháp”.

          Hành giả Chân Ngôn ở trong Du Già, nếu nghe đủ loại âm thanh thuận ḷng hay trái ư thuộc tám gió, hoặc các vị thánh nhân dùng vô lượng pháp âm để dạy bảo trong hiện tiền, hoặc do lưỡi thanh tịnh mà có thể dùng một âm thanh trọn khắp thế giới. Khi gặp cảnh giới ấy, cũng nên dùng thí dụ về tiếng vọng để quán sát. Chúng chỉ từ các duyên thuộc Tam Mật mà có. Chuyện ấy chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải có, chẳng phải không. V́ thế, chớ nên xằng bậy sanh hư luận trong ấy. Lúc bấy giờ, sẽ tự nhập pháp môn Âm Thanh Huệ.         

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như nhân nguyệt xuất cố, chiếu ư tịnh thủy, nhi hiện nguyệt ảnh tượng. Như thị Chân Ngôn thủy nguyệt dụ, bỉ tŕ minh giả đương như thị thuyết.

          ()復次祕密主如因月出故照於淨水而現月影像如是真言水月彼持明者當如是

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như do mặt trăng lộ ra, chiếu vào nước sạch, mà hiện ra bóng trăng. Cũng như thế, Chân Ngôn ví như trăng trong nước, người tŕ minh (tŕ chú) hăy nên nói như thế).

 

          Thích Luận nói: “Mặt trăng xoay vần trên hư không, hiện bóng trong nước. Vầng trăng pháp tánh chân thật ở trong hư không ‘như như pháp tánh Thật Tế’, mà tâm thủy của phàm phu có tướng ngă và ngă sở hiện ra. Lại như trẻ nít thấy trăng trong nước, bèn vui thích toan vớt lấy, người lớn trông thấy cười x̣a. Kẻ vô trí cũng thế, do Thân Kiến cho nên thấy có ‘tôi, ta’. Do chẳng có Thật Trí nên thấy đủ loại pháp. Đă thấy rồi bèn hoan hỷ, muốn giữ lấy các tướng. Bậc thánh nhân đắc đạo cười x̣a. Lại như chỗ nước trong lặng, trông thấy bóng trăng; nước xao động sẽ chẳng thấy. Trong nước lặng của cái tâm vô minh, sẽ thấy các bóng dáng kết sử ‘tôi, ta’ kiêu mạn. Dùng gậy trí huệ quấy tâm thủy, sẽ chẳng thấy nữa! Do vậy nói: Các Bồ Tát biết pháp như trăng trong nước”.

          Hành giả tŕ chú cũng giống như thế, do phương tiện Tam Mật lắng trong tự tâm, hải hội mật nghiêm của chư Phật đều hiện trong ấy. Hoặc tự dùng thân Như Ư Châu để hiện trong tâm thủy của hết thảy chúng sanh; lúc đó, hăy nên quán kỹ: “Tướng mật nghiêm ấy sanh từ tịnh tâm của ta ư? Hay là sanh từ thân thanh tịnh của Phật? Tự tha Thật Tướng c̣n tự rốt ráo bất sanh, huống hồ do nhân duyên trái nghịch mà có cái được sanh ư”. Lại như hết thảy sông, ng̣i, giếng, ao, các đồ đựng lớn nhỏ, trăng cũng chẳng đến, mà nước cũng không đi, nhưng do một vầng trăng thanh tịnh mà có thể vào trọn khắp các chỗ có nước. Ta nay cũng giống như thế, tâm chúng sanh cũng chẳng đến, tự tâm cũng chẳng đi, nhưng thấy, nghe, đạt được lợi ích đều chân thật, chẳng hư huyễn. V́ thế, hăy nên dùng gậy trí huệ để khuấy, liền biết là chẳng thật! Chớ nên như trẻ nít, cứ muốn lập phương tiện để giữ lấy, coi là vật yêu thích để chơi đùa. Đă có thể lắng tịnh ư niệm ấy, sẽ lại như như bất động, v́ người khác diễn nói. Cho nên nói là “tŕ minh giả đương như thị thuyết” (người tŕ chú hăy nên nói như thế).

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như thiên giáng vũ, sanh bào, bỉ Chân Ngôn Tất Địa chủng chủng biến hóa, đương tri diệc nhĩ.

          ()復次祕密主如天降雨生泡彼真言悉地種種變化當知亦爾

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như trời đổ mưa, sanh ra bong bóng, hăy nên biết các thứ biến hóa nơi Chân Ngôn Tất Địa cũng như thế).

 

          Kinh Thanh Văn ví Thọ như bọt nước, c̣n kinh Bát Nhă dùng bong bóng làm thí dụ, tuy thật sự là vô tánh, nhưng nhân duyên vẫn là thật pháp. V́ vậy, trong mười câu [“duyên sanh” của kinh Bát Nhă] có [thí dụ]“như hóa”, mà chẳng nói tới thí dụ “bong bóng”. Nay thí dụ trong kinh này có ư nghĩa khác hẳn. Như tiết Hạ, trời đổ mưa, tùy theo giọt mưa to hay nhỏ mà sanh ra các bong bóng, h́nh loại đều khác, nhưng tánh nước vẫn là một vị, tự làm nhân duyên. T́m cầu bốn câu (có, không, vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không), [sẽ thấy chúng] chẳng do pháp nào khác sanh ra. V́ vậy, toàn bộ cái Thể của các bong bóng ấy là từ duyên. Bong bóng nổi lên tức là nước khởi lên, bong bóng vỡ tan tức là nước diệt. V́ thế, điều được thí dụ ở đây chính là sự biến hóa trong cái tâm. Như hành giả dùng ngay tự tâm để làm Phật, lại c̣n được vị Phật trong tâm chỉ bày phương tiện để ngộ, chuyển nhập vô lượng pháp môn. Lại dùng tâm làm Mạn-đồ-la, dùng cảnh này làm duyên cho tâm, sẽ có thể thực hiện đủ loại biến hóa chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, hành giả dùng thí dụ bong bóng nước để quán, biết rơ “chẳng ĺa tự tâm”, cho nên chẳng sanh chấp trước.

          Thích Luận lại nói: “Người tu Định có mười bốn món biến hóa. Trời, rồng, quỷ thần cũng có thể biến hóa, như hóa sanh trọn chẳng có vật nhất định, chỉ do tâm sanh liền có, tâm diệt [th́ các vật được biến hóa ấy] cũng diệt. Pháp ấy không có đầu, giữa, cuối, sanh th́ chẳng từ đâu tới, mà diệt cũng là chẳng đi về đâu. Hăy nên biết các pháp cũng như thế. Lại như tướng biến hóa, thanh tịnh như hư không, chẳng đắm nhiễm, chẳng bị tội hay phước nhuốm bẩn. Các pháp cũng thế, pháp tánh, như như, Thật Tế tự nhiên thường tịnh. Ví như bốn con sông lớn nơi Diêm Phù Đề, mỗi sông có năm trăm sông nhỏ làm quyến thuộc, nước của các con sông ấy đủ loại bất tịnh, hễ đổ vào biển cả, thảy đều thanh tịnh”. [Đoạn trích dẫn này] có cùng một ư nghĩa với thí dụ về bong bóng nước vậy!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Như không trung vô chúng sanh, vô thọ mạng, bỉ tác giả bất khả đắc, dĩ tâm mê loạn cố, nhi sanh như thị chủng chủng vọng kiến.

          ()復次祕密主如空中無眾生無壽命彼作者不可得以心迷亂故而生如是種種妄見

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Như trong hư không chẳng có chúng sanh, chẳng có thọ mạng, chẳng có tác giả để có thể đạt được, do tâm mê loạn mà sanh ra đủ mọi cách nh́n hư vọng như thế).

 

            Thích Luận nói: “Như hư không tức là nó chỉ có tên gọi, chẳng có thật pháp. Hư không chẳng phải là pháp có thể thấy, do nh́n từ xa th́ mắt thấy nó màu xanh thẫm. Các pháp cũng giống như thế, không vô sở hữu. Do con người xa cách vô lậu Thật Trí mà vứt bỏ Thật Tướng, thấy đủ mọi thứ vật khác nhau như kẻ khác, ta, nam, nữ, nhà cửa, thành quách v.v… Tâm chấp trước như trẻ nít ngửa mặt nh́n trời xanh, cho đó là màu sắc thật sự [của bầu trời]. Có người bay lên xa tột bậc th́ chẳng thấy ǵ nữa. Lại như hư không tánh thường thanh tịnh, người ta cho rằng tăm tối là bất tịnh. Các pháp cũng như thế, tánh ấy thường thanh tịnh, do bị dâm dục, nóng giận v.v… che lấp, mà người ta bảo là bất tịnh”. Kinh này nói “tâm mê loạn” là như người do các thứ nhân duyên như bệnh tật, hoặc phi nhân v.v… [khuấy nhiễu] mà tâm mê loạn, hư vọng thấy trong hư không thanh tịnh có đủ loại h́nh tướng nhân vật, hoặc là đáng sợ hăi, hoặc đáng tham đắm. Nếu khi đạt được bổn tâm, sẽ biết khi các chuyện ấy sanh th́ chẳng nhuốm bẩn hư không. Khi [các chuyện ấy] diệt th́ cũng chẳng phải là [hư không] hồi phục thanh tịnh, [chuyện ấy] vốn chẳng ngăn ngại hư không, mà cũng chẳng khác hư không. Khi hành giả tu quán hạnh, nếu có đủ loại ma sự, đủ loại cảnh phiền năo, đều nên trụ tâm trong thí dụ này “như hư không thanh tịnh”. Tuy trong vô lượng kiếp, ở trong địa ngục, lúc đó, ư chẳng vướng mắc, như người đắc thần thông ở nơi hư không hiển sắc, tự tại phi hành, chẳng bị vọng tưởng “nhân, pháp” nhuốm bẩn!

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Thí như hỏa tẫn, nhược nhân chấp tŕ tại thủ, nhi dĩ toàn chuyển không trung, hữu luân tượng sanh.

          ()復次祕密主譬如火燼若人執持在手而以旋轉空中有輪像生

          (Kinh: Lại này, Bí Mật Chủ! Ví như tàn lửa, nếu có người cầm trong tay xoay tṛn trên không, sẽ có h́nh tượng như một ṿng lửa).

 

          Như người cầm đuốc lửa, xoay chuyển trên hư không, tạo thành đủ loại tướng, hoặc vuông, hoặc tṛn, tam giác, bán nguyệt, lớn, nhỏ, dài, ngắn, tùy ư mà làm. Trẻ nhỏ ngu muội trông thấy, cho là có thật, bèn sanh ư niệm chấp trước. Nhưng thật ra trọn chẳng có pháp nào sanh, chỉ do sức tay nhanh chóng, có thể chuyển một ngọn lửa thành vô lượng tướng. Nếu hành giả Chân Ngôn đối với Du Già, tùy tâm vận dụng, không ǵ chẳng thành tựu, cho tới trong một môn chữ A mà xoay chuyển vô ngại thành vô lượng pháp môn. Lúc bấy giờ, hăy nên quán theo thí dụ này: Chỉ do khéo vận dụng sức nhanh chóng nơi tâm Bồ Đề thanh tịnh nhất thể mà khiến thành ra như thế, chớ nên từ trong đó mà nẩy sanh đủ loại kiến giải, cho đó là thù thắng, nhiệm mầu để rồi nẩy sanh hư luận! Thích Luận không có thí dụ về ṿng lửa xoay, nhưng có thí dụ riêng về h́nh bóng, nói rằng: “Như h́nh bóng có thể trông thấy, mà chẳng thể nắm bắt. Các pháp cũng như thế, tuy [có thể] thấy, nghe, hay, biết bởi tṛng mắt, tai v.v… nhưng đều thật sự chẳng thể được. Lại như h́nh bóng do phản chiếu ánh sáng bèn hiện, chẳng có ánh sáng th́ không hiện; các kết sử phiền năo do ngăn che ánh sáng chánh kiến, nên có ngă tướng và pháp tướng. Lại như h́nh bóng, người đi bèn đi, người động bèn động, người đứng bèn đứng. H́nh bóng của nghiệp thiện ác cũng như thế. Lúc đi sang đời sau th́ nó cũng đi theo. Khi đời này trụ th́ nó cũng trụ, do báo bất đoạn! Khi tội phước chín muồi th́ sẽ hiện ra, nhưng h́nh bóng ấy chẳng có vật, chỉ tùy thuộc cách nh́n của ai”. Như xoay đuốc lửa nhanh chóng, sẽ chuyển thành ṿng lửa, cũng chẳng phải là thật sự có. Các thí dụ có ư nghĩa đại lược tương đồng!

 

          (Kinh) Bí Mật Chủ! Ưng như thị liễu tri Đại Thừa cú, tâm cú, vô đẳng đẳng cú, tất định cú, Chánh Đẳng Giác cú, tiệm thứ Đại Thừa sanh cú, đương đắc cụ túc pháp tài, xuất sanh chủng chủng công xảo đại trí, như thật biến tri nhất thiết tâm tướng.

          ()祕密主應如是了知大乘句心句無等等句必定句正等覺句漸次大乘生句當得具足法財出生種種工巧大智如實遍知一切心

     (Kinh: Này Bí Mật Chủ! Hăy nên biết rơ câu Đại Thừa, câu tâm, câu không ǵ sánh bằng, câu nhất định, câu Chánh Đẳng Giác, câu Đại Thừa lần lượt sanh khởi như thế, sẽ đạt được trọn đủ pháp tài, xuất sanh đủ loại đại trí hay khéo, như thật biết trọn khắp hết thảy các tâm tướng).

 

     Câu trong tiếng Phạn là Bát Đàm (Pada), ư nghĩa như đă giải thích trong phần trước. Mười thí dụ này đều là duyên khởi rất sâu của người học Ma Ha Diễn, chẳng phải là chỗ đặt chân của Thanh Văn và Duyên Giác. V́ thế gọi là “Đại Thừa cú”. Thật tánh của tâm trọn chẳng có pháp nào để có thể chỉ bày rơ ràng, cũng chẳng thể trao cho người khác, chỉ là lúc quan sát sâu xa như thế, vẹt mây ngăn chướng, sẽ tự chứng biết mà thôi! V́ thế gọi là “tâm cú”. Hết thảy các pháp chẳng thể sánh ví tương tự trí huệ của Như Lai được, mà cũng chẳng có ǵ vượt hơn được, nên gọi là “vô đẳng”. Nhưng Thật Tướng của tâm, giống như hộp và nắp tương xứng, chẳng chênh lệch, nên gọi là “vô đẳng đẳng”. Nếu dùng mười duyên sanh để biết rơ tâm xứ, sẽ an trụ trong đó, nên nói là “vô đẳng đẳng cú”. Chư Phật do ư nghĩa của mười duyên sanh này, nhất định sẽ sư tử hống, nói ra ấn Thật Tướng nơi Như Lai tánh tâm. Nếu có ai có thể tin hiểu, giả sử hết thảy các ma trong mười phương thế giới đều hóa thân làm Phật để nói Tương Tự Bát Nhă, trọn chẳng thể thay đổi cái tâm ấy, khiến cho pháp tướng chẳng như thị. V́ thế gọi là “tất định cú”. Dùng Trung Đạo chánh quán ấy, ĺa hữu vi giới và vô vi giới, tâm vô tự tánh tột bậc sanh khởi, tức là vị Phật trong tâm hiển hiện. V́ thế nói là “Chánh Đẳng Giác cú”. Do tu quán sát sâu xa, như vào biển cả lần lần sâu dần, cho đến Tỳ Lô Giá Na Phật dùng thượng thượng trí quán mới có thể thấu hiểu cùng tận nguồn cội. V́ thế nói là “tiệm thứ Đại Thừa sanh cú”.

          Hăy nên biết sáu câu như thế, theo thứ tự giải thích lẫn nhau, theo thứ tự sanh ra nhau. Tỳ Lô Giá Na Phật liền dùng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc mười câu duyên sanh ấy để làm vô tận trang nghiêm tạng, từ các pháp giới môn nhiều như số vi trần trong mười thế giới, thường xuất sanh các báu Căn, Lực, Giác, Đạo, Thiền Định, Giải Thoát để thí trọn khắp chúng sanh, vẫn chẳng thiếu hụt. V́ thế nói là “cụ túc pháp tài” (trọn đủ pháp tài). Trí nghiệp của hết thảy Như Lai do vậy mà trọn đủ, v́ thế nói là “xuất sanh chủng chủng công xảo đại trí huệ” (sanh ra đủ loại đại trí huệ khéo léo). Nếu trong một niệm tâm, thấy rơ ư nghĩa mười duyên sanh, th́ trên là sẽ tột cùng vô tận pháp giới, dưới là tột cùng chúng sanh giới vô tận. Hết thảy các tâm tướng trong đó đều có thể hiểu rơ rành rành do chúng đều từ duyên khởi, tức Không, tức Giả, tức Trung. V́ thế nói là “như thật biến tri nhất thiết tâm tướng” (đúng như thật biết trọn khắp hết thảy tâm tướng). [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hành giả mới tu quán hạnh, khi cảnh giới hiện tiền, do sức của nội nhân và ngoại duyên, tự nhiên có trí duyên khởi phát sanh. Chẳng giống như đường lối thông thường, khổ công dốc sức tu Định tột bậc rồi sau đó mới thông triệt được”. Trong bản tiếng Phạn có nói: “Tự thử dĩ hậu, thứ thuyết Chân Ngôn giả tŕ tụng thứ đệ, như pháp Tất Địa, như pháp quả sanh” (từ đây trở về sau, kế đó, sẽ nói thứ tự tŕ tụng của người hành Chân Ngôn, Tất Địa đúng như pháp, sanh khởi cái quả đúng như pháp). Đấy là do người truyền pháp ghi lại, cho nên chẳng phải là điều được nói trong chánh kinh. Đại ư của [đoạn văn ấy] là: Đă nói các tâm tướng của Bồ Đề tâm thanh tịnh xong, từ đấy trở đi, bèn nói về phương tiện tấn tu, và cái quả được sanh bởi Tất Địa.

 

2. Phẩm thứ hai: Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn (Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn phẩm đệ nhị, 入漫荼羅具緣真言品第二)

 

          Phẩm thứ hai là Nhập Mạn-đồ-la Cụ Duyên Chân Ngôn. Phẩm trước dựa theo các thứ tâm tướng để biện định hết thảy trí tâm đă xong, nhưng dùng phương tiện nào để có thể đạt tới diệu quả ấy? Do vậy, phẩm kế tiếp bèn nói về các chi phần để trọn đủ các duyên ḥng hành pháp tiến nhập Mạn-đồ-la, và các chân ngôn cần thiết [để tác pháp. Những điều ấy] đều được nói cặn kẽ trong phẩm này. Ví như đă biết sữa và lạc có tánh của đề-hồ, liền dạy chuẩn bị đầy đủ các vật dụng và phương tiện để khuấy đảo, v́ từ duyên mà khởi. Hăy nên biết chẳng khác mười câu duyên sanh vậy.

          Lại nữa, trong kinh Thanh Văn, coi Tỳ Ni (Vinaya, Luật Tạng) là tạng bí mật, phải chọn lựa đối tượng và tuyển chọn đại chúng rồi mới truyền trao. Nếu [là kẻ] chưa phát tâm thọ tŕ luật nghi, chẳng hợp lắng nghe, tu tập. Ma Ha Diễn cũng coi Tŕ Minh (hành tŕ Chân Ngôn) là tạng bí mật, người chưa vào Mạn-đồ-la chẳng thích hợp đọc tụng, thọ tŕ, ngược lại c̣n giống như kẻ trộm nghe bố-tát[18] chuốc lấy tội nặng. V́ lẽ nào vậy? Như người đời từ ái nuôi nấng con thơ, tuy ḷng chẳng keo tiếc ǵ, nhưng chẳng ban cho chúng nó [hai thanh gươm báu] Can Tương và Mạc Da, do chúng nó chẳng biết phương tiện vung, múa, ắt sẽ tổn thương thân thể. Nay pháp môn này cũng giống như thế, do chỉ thú “tức tâm thành Phật” khó biết, sợ chúng sanh trong đời vị lai sẽ khinh mạn pháp, chẳng thể t́m hỏi thiện tri thức, chưa được Tam Mật gia tŕ, mà tự khởi tâm suy đoán, chấp vào văn tự, tự tiện tu học, đổ công dốc sức đă lâu mà chẳng thể thành tựu, liền ngược ngạo báng bổ kinh này chẳng phải do đức Phật nói.

          Hơn nữa, kinh văn trong kinh này có hai cách giải thích “sơ sài, nông cạn” và “sâu xa, bí mật”, mà trong cách giải thích “sâu xa, bí mật” lại có sâu và cạn, kẻ tự tiện giở xem chơi, do chẳng hiểu danh hiệu bí mật, quở là nhân duyên sự tướng, sanh tâm khinh mạn, coi thường, tự nói: “Ta hành chân đạo, cần ǵ dùng tới chuyện thuộc chú thuật!” Do nhân duyên như thế, cảm lấy nghiệp quỹ pháp (ngăn trở chẳng cho pháp lưu truyền), trong vô lượng kiếp đọa vào đường ác. V́ thế, đối với người tu học Chân Ngôn, trước hết, phải dạy họ nhập Mạn-đồ-la. Danh nghĩa Mạn-đồ-la sẽ được giải thích trong phần sau.

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật ngôn: - Hy hữu Thế Tôn! Thuyết thử chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề bất tư nghị pháp giới siêu việt tâm địa, dĩ chủng chủng phương tiện đạo, vị chúng sanh loại như bổn tánh tín giải, nhi diễn thuyết pháp. Duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết tu Chân Ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng sanh đại Mạn-đồ-la vương, vị măn túc bỉ chư vị lai thế vô lượng chúng sanh, vị cứu hộ an lạc cố.

          ()爾時執金剛祕密主白佛言希有世尊此諸佛自證三菩提不思議法界超越心地以種種方便道為眾生類如本性信解而演惟願世尊次說修真言行大悲胎藏生大漫羅王為滿足彼諸未來世無量眾生為救護安樂故  

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ bạch Phật rằng: - Đức Thế Tôn hy hữu, nói tâm địa siêu việt pháp giới chẳng thể nghĩ bàn do chư Phật tự chứng Tam Bồ Đề này, dùng các thứ đạo phương tiện, v́ các loài chúng sanh, đúng như sự tín giải trong bổn tánh của họ mà diễn nói pháp. Kính mong đức Thế Tôn kế đó hăy nói cách tu Chân Ngôn hành Đại Bi Thai Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la vương, nhằm thỏa ư, v́ cứu giúp, an vui vô lượng chúng sanh trong đời vị lai).

 

      Đây chính là ngài Kim Cang Thủ do nương vào thần lực của đức Phật mà lănh ngộ phần kinh văn trên đây. Trước hết, Ngài tán thán đức Thế Tôn hết sức kỳ đặc, v́ đức Phật trọn đủ đại phương tiện, nên mới có thể nói Tam Bồ Đề do chư Phật tự chứng, tức là: Tự tâm tự giác pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, vượt ngoài hết thảy các tâm địa, đích xác là chẳng nương tựa vào đâu. Như người đời giở chân, cất bước, đều nương vào đất; Bồ Tát cũng như thế, nương vào tâm mà thực hiện. V́ thế, gọi tâm ấy“địa”. Do tâm hễ c̣n có chỗ để nương vào, sẽ chưa thể gọi là Chánh Biến Tri. Như Lai đă vượt ngoài sự hư luận vi tế ấy, các sự tiến nhập (tu chứng) đều ngưng dứt, cho nên gọi là “siêu việt tâm địa”. Tuy chẳng thể diễn tả sự tịch diệt rốt ráo bằng ngôn từ, nhưng có thể dùng đủ loại phương tiện đạo, v́ các loài chúng sanh, đúng như sự tín giải trong bổn tánh của họ để diễn nói pháp, tức là lănh ngộ, thấu hiểu dấu tích của sự trang nghiêm vô tận nơi cái tâm Nhất Thiết Trí. Pháp giới chẳng nghĩ bàn được sánh ví như đài hoa sen; các thứ phương tiện đạo được ví như cánh sen. Kinh văn nói về sự lănh ngộ, thấu hiểu ấy tuy giản lược, nhưng đă nêu bày ư chỉ mầu nhiệm “tông thông” không ǵ chẳng trọn vẹn!

          Kế đó là thỉnh Phật, “duy nguyện Thế Tôn thứ thuyết tu Chân ngôn hạnh Đại Bi Thai Tạng Sanh Đại Mạn-đồ-la Vương” (kính mong đức Thế Tôn kế đó hăy nói hạnh Chân Ngôn của Đại Bi Thai Tạng Sanh Mạn-đồ-la Vương). Nay xét theo thai tạng (bào thai) để làm thí dụ. Hành giả vừa mới phát tâm Nhất Thiết Trí, giống như do nhân duyên cha mẹ ḥa hợp, chủng tử của thức nương gá vào thai. Lúc bấy giờ, sẽ dần dần tăng trưởng, được gió hạnh nghiệp khéo hun đúc. Cho đến khi mới sanh ra, các căn, trăm thể thảy đều trọn đủ, bắt đầu sanh trưởng trong ḍng họ của cha mẹ. Ví như [hành giả] nương vào Chân Ngôn môn, học đại bi vạn hạnh, tịnh tâm hiển hiện. Lại nữa, đứa trẻ ấy dần dần trọn đủ nhân và pháp, học tập các tài khéo. Đă thông đạt tài khéo rồi, sẽ thực hiện các sự nghiệp. Như trong tịnh tâm, phát khởi phương tiện tu tập, đối trị trong địa vị của chính ḿnh, tùy duyên lợi vật (lợi ích các loài chúng sanh), tế độ chúng sanh. V́ thế gọi là “Đại Bi Thai Tạng sanh”. Lại nữa, thoạt đầu nhập Bồ Đề tâm thanh tịnh môn, thấy pháp, hiểu đạo, giống như chủng tử của thức [tiến nhập] Ca La La[19]. Trước khi [hành nhân] đạt tới Thất Địa, được đại bi vạn hạnh bao bọc, nuôi dưỡng, giống như ở trong thai tạng. Từ địa vị Vô Công Dụng Hạnh trở đi, dần dần học theo phương tiện của Như Lai, như trẻ nít đă sanh ra, học tập các tài khéo. Khi đă đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí của Như Lai, giống như tài khéo đă thành tựu, bèn theo đuổi việc cai trị. V́ thế gọi là “Đại Bi Thai Tạng sanh”.

          Lại c̣n là một loại bí mật Mạn-đồ-la, nay dùng hoa sen để sánh ví ư nghĩa Mạn-đồ-la ấy. Như hạt sen c̣n ở trong vỏ cứng, tánh của cành, nhánh, hoa, lá đă rành rành trọn đủ, giống như cái tâm chủng tử của thế gian. Từ đấy, dần dần tăng trưởng, cho đến khi mới trổ thành búp sen, th́ gương sen và hạt sen được ẩn giấu trong cánh sen, như cái tâm xuất thế gian vẫn c̣n ở trong Uẩn. Lại do được cánh sen bao bọc, chẳng bị các duyên “gió, lạnh” tổn thương, tua, nhụy màu sắc thanh tịnh ngày đêm được vun bồi. Ví như Đại Bi Thai Tạng đă thành tựu, [hoa sen] được chiếu rạng, nở x̣e dưới ánh mặt trời, giống như phương tiện đă trọn đủ.

          Nay trong ư nghĩa của Diệu Pháp Liên Hoa Mạn-đồ-la ở đây, cái tâm thường hằng nơi bổn địa của đức Tỳ Lô Giá Na được cụ thể hóa thành đài sen, bốn vị Phật (Vô Lượng Thọ, Bảo Tràng, Khai Phu Hoa Vương, và Thiên Cổ Lôi Âm), bốn vị Bồ Tát (Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Di Lặc) là đề hồ quả đức, như các hạt sen đă đều kết thành. Các kim cang huệ sai biệt trí ấn nhiều như số vi trần trong mười thế giới giống như tua, nhụy. Các Đại Bi vạn hạnh Ba La Mật môn nhiều như số vi trần trong mười thế giới ví như hoa tạng. Vô lượng Ứng Thân trong tam thừa lục đạo giống như rễ, thân, cành, lá, xen lẫn tỏa rạng. Do các đức như thế vây quanh trọn khắp, nên gọi là Mạn-đồ-la. Nhưng do được Như Lai gia tŕ, từ đức tự chứng nơi Bồ Đề của Phật, hiện ra thân thai tạng nơi tám cánh sen (Trung Đài Bát Diệp). Từ Kim Cang mật ấn, hiện ra tầng nội quyến thuộc thứ nhất như Kim Cang Thủ v.v… Từ đại bi vạn hạnh, hiện ra tầng đại quyến thuộc thứ hai gồm các vị Ma Ha Tát Đỏa. Từ phương tiện phổ môn, hiện ra tầng thứ ba gồm các thân theo từng loại mà hết thảy chúng sanh thích thấy. Nếu dùng cách quán đảnh của Luân Vương để so sánh th́ tầng thứ ba giống như người đứng đầu trong vạn quốc, tầng thứ hai như trăm quan thuộc triều đ́nh, tầng thứ nhất như người phù tá thuộc tông thất, trung đài như vị vua khoanh tay. V́ thế, Thường Trí trong hoa đài là đại Mạn-đồ-la vương.

          Nếu từ Bổn mà hiện Tích, th́ từ mỗi môn của Trung Đài, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ nhất. Từ mỗi môn thuộc tầng thứ nhất, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ hai. Từ mỗi môn thuộc tầng thứ hai, đều lưu xuất các loại môn thuộc tầng thứ ba. Nếu do tu hành cái nhân mà đạt tới quả, th́ sự thành tựu được dẫn nhiếp thuộc tầng thứ ba có thể thông tới tầng thứ hai, sự thành tựu được dẫn nhiếp nơi tầng thứ hai có thể thông tới tầng thứ nhất, sự thành tựu được dẫn nhiếp ở tầng thứ nhất có thể thấy trong Thai Tạng. Do vậy bèn nói, tuy sự tín giải nơi bổn tánh của các loài chúng sanh vô lượng vô biên, nhưng nghĩa lợi[20] được thực hiện bởi pháp môn Mạn-đồ-la này vẫn bao gồm trọn hết, không ǵ thừa sót. Do vậy nói: “Vị măn túc bỉ chư vị lai thế vô lượng chúng sanh, vị cứu hộ an lạc cố” (v́ thỏa măn vô lượng chúng sanh trong đời vị lai, v́ cứu giúp an vui).

 

          (Kinh) Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ư đại chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: “Đế thính, Kim Cang Thủ! Kim thuyết tu hành Mạn-đồ-la hạnh, măn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn”. Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn tích thệ nguyện thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết Như Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa. Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất hiện Như Lai chi thân, vị bỉ tùng sơ phát tâm, năi chí Thập Địa chư chúng sanh cố, biến chí thập phương, hoàn lai Phật thân bổn vị, bổn vị trung trụ, nhi phục hoàn nhập.

          ()爾時薄伽梵毘盧遮那於大眾會中遍觀察已告執金剛祕密主言諦聽金剛手說修行漫羅行滿足一切智智法門爾時毘盧遮那世尊本昔誓願成就無盡法界度脫無餘眾生界一切如來同共集會漸次證入大悲藏發生三摩地世尊一切支分皆悉出現如來之身為彼從初發心乃至十地諸眾生故遍至十方還來佛身本位本位中住而復還入

          (Kinh: Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng hội, quán sát trọn khắp xong, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: “Lắng nghe! Kim Cang Thủ! Nay ta nói pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí”. Lúc bấy giờ, do thệ nguyện vốn có xưa kia của Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn là “thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát chúng sanh giới chẳng sót”, hết thảy Như Lai đều cùng nhóm họp, lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa. Nơi hết thảy chi phần của đức Thế Tôn, thảy đều xuất hiện thân Như Lai, v́ các chúng sanh từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa mà đến trọn khắp mười phương, trở lại bổn vị nơi thân Phật, trụ trong bổn vị rồi lại nhập trở vào).

 

          Kinh dạy: “Nhĩ thời, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ư đại chúng hội trung, biến quán sát dĩ, cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Kim Cang Thủ! Kim thuyết tu hành Mạn-đồ-la hạnh, măn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn” (Lúc bấy giờ, Bạc Già Phạm Tỳ Lô Giá Na ở trong đại chúng hội, quán sát trọn khắp xong, bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: Kim Cang Thủ! Hăy lắng nghe! Nay ta sẽ nói pháp môn tu hành Mạn-đồ-la hạnh, trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí): “Đại hội” ở đây chính là chúng sanh đáng nên độ, được nhiếp thọ bởi Pháp Giới Mạn-đồ-la. Nay đức Phật muốn nói hạnh thâm mật, nhằm khiến cho đạo cơ chẳng sai lạc, bèn dùng huệ nhăn quán sát. Tức là [chúng sanh] do được huệ nhăn ấy gia tŕ, mầm thiện từ đời trước không ǵ chẳng được khai phát. Giống như ruộng tốt đă được rải hạt giống tốt, kham được mưa đúng thời tưới tắm. “Tu hành” ở đây, tiếng Phạn là Na Da (Naya), có nghĩa là Thừa hoặc Đạo. Ư nói từ một niệm thiện căn cho đến khi thành Phật, trong khoảng giữa ấy, pháp được vận dụng và đạo được hành trong mỗi địa vị, đều được gọi chung là Na Da. Các vị thiện tri thức trong Mạn-đồ-la như người tạo cỗ xe, đắp đường, và hướng dẫn, chúng sanh ngồi xe ấy để đi, gọi là “tu Mạn-đồ-la hạnh”. Hạnh này trong tiếng Phạn là Chiết-lợi-da.

          Lại như kinh văn trong phần sau có nói: “Tiên vị đệ tử trạch trị b́nh địa” (Trước hết, v́ đệ tử chọn lựa, sửa sang cuộc đất bằng phẳng), nếu luận theo sự tướng bên ngoài th́ như cách giải thích thông thường. Nếu v́ phàm phu điên đảo chấp ngă, chọn lấy một niệm chủng tử tâm, giữ ǵn trai giới, sửa trị, khiến cho [tâm người ấy] b́nh thản, chánh đáng, th́ cũng gọi là “trị địa” (sửa sang cuộc đất). Cho đến Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ Tát chọn lựa trừ khử trần cấu cực vi tế nơi cha mẹ vô minh trong tâm, cũng gọi là “trị địa”. Do vậy bèn nói: Ư nghĩa “trị địa” được nói trong mỗi câu kinh văn thuộc phần sau đều có mấy tầng. Giống như mười câu duyên sanh, đều lần lượt chuyển thành sâu hơn, chẳng thể cùng tận! Ngài Chấp Kim Cang khuyến thỉnh như thế, đức Phật lại dùng cái ấn ấy để ấn chứng, sau đó rộng nói, cho nên bảo là “măn túc Nhất Thiết Trí trí pháp môn” (pháp môn trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí). Nếu địa này chẳng măn, sẽ chẳng thể cứu giúp, an vui trọn khắp hết thảy chúng sanh được!

          Kinh dạy: “Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bổn tích thệ nguyện thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát vô dư chúng sanh giới cố, nhất thiết Như Lai đồng cộng tập hội, tiệm thứ chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa” (Lúc bấy giờ, Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn do thệ nguyện vốn sẵn có từ xưa kia là thành tựu vô tận pháp giới, độ thoát chúng sanh giới chẳng sót, hết thảy các Như Lai đều cùng nhóm họp, lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa): Do Như Lai vốn khi hành Bồ Tát đạo, đă lập thệ nguyện như thế này: “Ta sẽ thành tựu hết thảy các Phật pháp giới, thảy đều độ thoát chúng sanh giới chẳng thừa sót”. Nay sở nguyện đă măn, nhưng chúng sanh đáng độ chẳng tận. Do chúng sanh vô tận, tức là pháp giới cũng vô tận. Giới có ba loại, tức là pháp giới, tâm giới, và chúng sanh giới. Ĺa pháp giới, chẳng có chúng sanh giới nào khác; chúng sanh giới chính là pháp giới. Ĺa tâm giới, chẳng có pháp giới nào khác; pháp giới chính là tâm giới. Hăy nên biết ba loại ấy chẳng hai, chẳng khác. V́ muốn diễn giải ư nghĩa của pháp giới, kế đó nói tới “vô dư chúng sanh giới”. Do chúng sanh giới chưa được giải thoát hết thảy, tức là pháp giới chưa được thành tựu trọn khắp, nên Như Lai siêng tu sự nghiệp, chẳng hề ngưng nghỉ. Tức là do nhân duyên bổn nguyện này, hết thảy Như Lai cùng nhau tụ tập. Như trong tăng chúng có đại sự nhân duyên như kết giới, thuyết giới v.v… Tăng chúng liền nhóm lại cùng nhau ấn chứng, tiến hành. Do có cùng một giới, cùng một cách nh́n, chẳng nên có chúng khác. Nay sắp nói pháp môn trọn vẹn trí Nhất Thiết Trí, cũng là đại sự nhân duyên của chư Phật, do [chư Phật] có cùng một bổn thệ, cùng một pháp giới, nên thảy đều nhóm họp, cùng dùng thần lực gia tŕ.

          “Tiệm thứ chứng nhập” (lần lượt chứng nhập): Như lúc vô úy sơ khởi, dùng âm thanh và chữ [trong chân ngôn] để quán tu Mạn-đồ-la hạnh. Loại vô úy thứ hai th́ tu Mạn-đồ-la hạnh trong hữu tướng quán. Loại vô úy thứ ba th́ tu Mạn-đồ-la hạnh, trong tâm chỉ có Uẩn, không có ngă. Loại vô úy thứ tư th́ tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm pháp duyên. Loại vô úy thứ năm, tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm vô duyên. Loại vô úy thứ sáu, tu Mạn-đồ-la hạnh trong tâm b́nh đẳng. Từ Ly Cấu Địa trở đi, đều tu Mạn-đồ-la hạnh trong quán tâm thuộc mỗi địa vị của chính ḿnh. Đại lược phân chia theo hạnh vị, bèn có mười sáu tầng sâu cạn khác nhau. Trong mỗi hạnh vị ấy, đều có Bồ Đề chủng tử tâm, có nhân duyên tăng trưởng Đại Bi Thai Tạng, có cái quả thọ dụng của huệ phương tiện nghiệp như trong phần trước đă nói: “Từ mỗi môn đều lưu xuất các loại môn”. Trong đó, từ nhân hướng tới quả, phương tiện Tam Mật lần lượt khác nhau, dung hội tột bậc tới biển cả tâm vương th́ mới là “có cùng một vị, chẳng khác”. Nay mười phương chư Phật vốn khi hành Bồ Tát đạo, mỗi vị đều nương theo một pháp môn để đạt tới địa vị Nhất Thiết Trí. Do sắp nói nhân duyên phát khởi các hạnh Phổ Môn, [chư Phật] bèn cùng nhập Đại Bi Thai Tạng tam-muội này, từ đạo do chính ḿnh vốn đă tu hành, lần lượt chứng nhập, mỗi mỗi quán sát. Như khi Bồ Tát tu Thiền, trong Cửu Thứ Đệ Định, xuất nhập nghịch thuận, vượt ngoài định hay tán, phấn tấn du hư, không ǵ chẳng tự tại. Các vị Như Lai ấy lần lượt chứng nhập Đại Bi Tạng, phát sanh tam-ma-địa cũng giống như thế: Hoặc quán vô tận pháp giới, lấy hết thảy các tâm làm một tâm, dùng hết thảy các môn làm một môn. Hoặc quán chúng sanh giới chẳng thừa sót, dùng một tâm làm hết thảy các tâm, lấy một môn làm hết thảy các môn. Nếu vận dụng mười sáu tầng huyền nghĩa ấy, sẽ là ngang dọc đều nhiếp trọn mười hai bộ loại kinh, tức là lần lượt xoay chuyển vô tận vậy!

          Kinh dạy: “Thế Tôn nhất thiết chi phần, giai tất xuất hiện Như Lai chi thân” (trong hết thảy các chi phần của đức Thế Tôn, thảy đều xuất hiện thân Như Lai). Trong phần trước, khi hiện trang nghiêm tạng, mỗi thân Phổ Môn đều trọn khắp mười phương, tùy duyên ứng hợp căn cơ của chúng sanh. Nay do muốn nói địa vị viên măn trong Mạn-đồ-la, lại dựa theo thượng, trung, hạ thể của thân Phật để phân chia theo bộ loại:

          1) Từ rốn trở xuống, thị hiện sanh thân của Phật Thích Ca, thị hiện giống như pháp của loài người, các thứ h́nh sắc, oai nghi của Nhị Thừa và sáu đường, tiếng nói, đàn, ṭa mỗi mỗi khác biệt, và các quyến thuộc lần lượt khác nhau, khắp trong tám phương, đúng theo thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.

          2) Từ rốn trở lên tới họng, xuất hiện vô lượng các Bồ Tát Thập Trụ, mỗi vị đều duy tŕ thân Tam Mật, cùng vô lượng quyến thuộc, khắp trong tám phương đều theo thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ. Nhưng trong ấy có hai tầng:

          a. Từ tim trở xuống là các đại quyến thuộc tŕ đại bi vạn hạnh số nhiều như vi trần trong mười cơi Phật.

          b. Từ tim trở lên là các nội quyến thuộc tŕ kim cang mật huệ số nhiều như vi trần trong mười cơi Phật, được gọi chung là “đại tâm chúng”.

          3) Từ họng đến đỉnh đầu, xuất hiện thân Phật thuộc quả đức Tứ Trí tam-muội.

          Tức là tám thân ấy, ở trong hết thảy các thế giới, đồ chúng, cơi nước, danh hiệu, thân nghiệp, các chuyện thọ dụng, thảy đều bất đồng, cũng ở trong tám phương theo thứ tự của bổn vị trong Mạn-đồ-la mà trụ.

          Kinh dạy: “Vị bỉ tùng sơ phát tâm năi chí Thập Địa chư Bồ Tát” (v́ các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến Thập Địa), tức là khi mới phát Bồ Đề tâm thanh tịnh, thấy Mạn-đồ-la này đă trọn khắp pháp giới. Thăng lên Đệ Nhị Trụ, lại càng sâu rộng hơn, lại càng mở rộng, sáng suốt hơn, cho đến Đệ Thập Nhất Địa, cái thấy mới viên măn cùng cực. Xếp đặt phận vị như thế xong, đều tới khắp mười phương, ở trong pháp giới môn của chính ḿnh mà thực hiện sự nghiệp Chân Ngôn, thị hiện tấn tu theo thứ tự, làm vị dạy bảo chủ yếu cho đại chúng. Tướng ấy hiện tiền rành mạch, vô ngại. Kinh văn được nói trong phần sau chỉ nhằm nêu bày cái tâm này, gán cho nó một danh tự để lưu thông đó thôi! Lại c̣n tùy loại mà hiện thân trọn khắp. [Kinh văn] lại c̣n nói tất hiện Như Lai thân” (đều hiện thân Như Lai), nhằm nêu rơ Bổn và Tích đều chẳng thể nghĩ bàn, gia tŕ bất nhị, há có muốn khiến cho độc nhất một pháp giới dấy lên các thứ h́nh tượng ư? Khi hành giả đă hiểu như thế, sẽ thấy Tỳ Lô Giá Na và quỷ, súc sanh tôn quư như nhau. Cái tâm b́nh đẳng, chẳng có tướng “hơn, kém”, liền từ một môn mà nhập, đều thấy tâm vương. V́ thế, [chư Phật] thực hiện Phật sự xong, kinh nói: “Biến chí thập phương, hoàn lai nhập Phật thân bổn vị, bổn vị trung trụ nhi phục hoàn nhập” (tới trọn khắp mười phương, trở lại nhập vào bổn vị nơi thân Phật, trụ trong bổn vị rồi lại nhập vào), ư nói hết thảy các phương tiện rốt ráo đồng quy.

 

          (Kinh) Thời Bạc Già Phạm phục cáo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ ngôn: - Đế thính, Kim Cang Thủ! Mạn-đồ-la vị sơ a-xà-lê ưng phát Bồ Đề tâm, diệu huệ từ bi, kiêm tổng chúng nghệ, thiện xảo tu hành Bát Nhă Ba La Mật, thông đạt tam thừa, thiện giải chân ngôn thật nghĩa, tri chúng sanh tâm, tín chư Phật, Bồ Tát, đắc truyền giáo quán đảnh đẳng, diệu giải mạn-đồ-la họa, kỳ tánh điều nhu, ly ư ngă chấp. Ư Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định, cứu tập Du Già, trụ dũng kiện Bồ Đề tâm. Bí Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật, Bồ Tát chi sở xưng thán.

          ()時薄伽梵復告執金剛祕密主言諦聽金剛手羅位初阿闍梨應發菩提心妙慧慈悲兼綜眾藝善巧修行般若波羅蜜通達三乘善解真言實義知眾生心信諸佛菩薩得傳教灌頂等妙解漫茶羅畫其性調柔離於我執於真言行善得決定究習瑜伽住勇健菩提心祕密主如是法則阿闍梨諸佛菩薩之所稱讚

    (Kinh: Khi đó, Bạc Già Phạm lại bảo Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ rằng: - Lắng nghe, Kim Cang Thủ! Điều trước hết trong Mạn-đồ-la là vị A-xà-lê hăy nên phát Bồ Đề tâm, diệu huệ, từ bi, kiêm thông thạo mọi nghề, khéo léo tu hành Bát Nhă Ba La Mật, thông đạt tam thừa, khéo hiểu ư nghĩa chân thật của chân ngôn, biết tâm chúng sanh, tin tưởng chư Phật, Bồ Tát, đă được truyền giáo pháp, quán đảnh v.v… thông hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la, bẩm tánh thuần ḥa, mềm mỏng, ĺa khỏi Ngă Chấp, khéo đạt được quyết định nơi hạnh Chân Ngôn, nghiên cứu, tu tập Du Già, trụ trong Bồ Đề tâm mạnh mẽ. Bí Mật Chủ! Vị A-xà-lê đúng pháp tắc như thế được chư Phật, Bồ Tát khen ngợi).

 

          Từ đây trở đi cho đến lúc phần dạy răn quán đảnh đă xong, Kim Cang Thủ hỏi [đức Thế Tôn, hành nhân] sẽ đạt được mấy loại khối phước, bèn bạch Phật rằng: “Tùng kim dĩ hậu, ngă đương cúng dường thị thiện nam tử, thiện nữ nhân. Hà dĩ cố? Bỉ thiện nam tử, thiện nữ nhân đồng kiến Phật Thế Tôn cố” (Từ nay trở đi, con sẽ cúng dường thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy. V́ sao vậy? Do [thấy] thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy, giống như thấy Phật Thế Tôn). Phần này nói tới nhiều chi phần[21] để nhập Mạn-đồ-la. Lại từ phần Đại Lực Minh Phi cho tới cuối phẩm thứ hai, sẽ nói về các chân ngôn cần thiết để tác pháp trong đàn tràng. Đối với các chi phần [để nhập mạn-đồ-la], trước hết là chi phần (tiểu đoạn) nói về [phẩm đức của] A-xà-lê. V́ lẽ nào vậy? Đức Phật nói kinh này phải được thọ tŕ từ thầy, chớ nên tự tiện tu hành. Nếu chẳng có minh sư, sẽ chẳng thể nhờ vào đâu để được truyền thọ! Nhưng do hiểu hai loại nghĩa mà được gọi là A-xà-lê; tức là chia thành “nông cạn, sơ sài” và “cao sâu” [để luận định]. Nếu thấy người học chưa có cơ duyên tin hiểu sâu xa, bèn thuận theo đường lối thông thường, dựa theo kinh văn để giải thích. Nếu [người đến học] đă thành tựu trí huệ, lợi căn, ắt nên diễn nói thông suốt chỗ sâu xa, bí mật để dạy bảo. Nay tôi dùng hai cách phân định ấy để giải thích ư nghĩa A-xà-lê.

          Nếu đối với các loại chi phần của Mạn-đồ-la này, cho đến hết thảy chân ngôn, thủ ấn, quán hạnh và Tất Địa của hết thảy chư tôn (các vị Phật, Bồ Tát, thánh chúng trong Mạn-đồ-la) thảy đều thông đạt, sẽ có thể truyền giáo, quán đảnh, bèn gọi là A-xà-lê (Ācārya). Nếu vượt khỏi tám tâm trái nghịch hay tùy thuận, chứng tịch nhiên giới, th́ gọi là A-xà-lê. Nếu tâm vương của chính ḿnh tự tại, hiểu rơ “tự tâm vốn bất sanh” th́ gọi là A-xà-lê. Nếu sanh khởi cực vô tự tánh tâm, được nhập các hải hội Mạn-đồ-la như trên, th́ gọi là A-xà-lê. Từ đây trở đi, lại có mười tầng hạnh sâu, cho đến là bậc thượng thủ cao tột nhất trong những người thấu hiểu Tam Mật, như ngài Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), th́ gọi là A-xà-lê. Lại nữa, đức Tỳ Lô Giá Na được gọi là A-xà-lê. V́ thế, khi thực hiện sự nghiệp đầu tiên của bậc A-xà-lê, cần phải quán chiếu thân ḿnh giống hệt Kim Cang Tát Đỏa và Tỳ Lô Giá Na, dùng thân ngữ mật ấn để gia tŕ, bèn gọi là “thiện trụ sư vị” (khéo trụ trong địa vị làm thầy). Nếu không, chẳng có ǵ có thể thành được! Đối với các hạnh sâu khác, [độc giả] có thể tự lănh hội. Kế đó, [chánh kinh] nói về các đức của bậc A-xà-lê.

          Kinh dạy: “Ưng phát Bồ Đề tâm” (hăy nên phát Bồ Đề tâm), tức là sanh thệ nguyện quyết định, một mực dốc chí mong cầu trí Nhất Thiết Trí, ắt sẽ phổ độ pháp giới chúng sanh. Tâm ấy giống như tràng, cờ, dẫn dắt các hạnh. Ví như chủng tử là căn bản của muôn đức. Nếu chẳng phát cái tâm ấy, cũng như [thần thức] chưa gá vào Ca La La, Đại Bi Thai Tạng dưỡng dục bằng cách nào? Tự ḿnh chẳng thể kiến lập thiện căn, c̣n toan làm thầy của người khác ư? Hăy nên ước theo từng địa vị để giải thích sâu xa, bí mật, cho đến Tỳ Lô Giá Na th́ mới gọi là “vô tận pháp giới rốt ráo phát tâm” vậy.

          Kinh nói: “Diệu huệ từ bi”, Bát Nhă có hai loại, tức Bát Nhă do ḥa hợp với Lục Ba La Mật và Thật Tướng Bát Nhă. Ở đây có ư nói đến câu thứ nhất (tức “Bát Nhă do ḥa hợp với Lục Ba La Mật”). Trí huệ ấy giống như xảo phong (gió nghiệp thức), có thể đúc nặn cái tâm của Ca La La, khiến cho trăm thể [của phôi thai] được thành tựu. Hành giả do có trí huệ, sẽ có thể khéo biết thông, tắc, phán đoán đúng sai, ứng xử phù hợp quy củ trong hết thảy các sự nghiệp thuộc Mạn-đồ-la, tâm chẳng ngờ vực, vướng mắc, bèn kham làm bậc A-xà-lê. Nói tóm lại, nếu trí nghiệp viên măn giống như Tỳ Lô Giá Na th́ gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”. “Từ bi” tức là tâm thương xót, thấu xương lọt tủy, các hành vi đều nhằm kiến lập chúng sanh, ắt đều khiến cho họ thành tựu niềm vui sướng vô tận trong pháp giới, độ thoát nỗi khổ của chúng sanh giới chẳng sót. Nếu chẳng có cái tâm ấy, sẽ như thai tạng chẳng thể kết thành, sao có thể dưỡng dục cho được? Cho đến Tỳ Lô Giá Na Phật do bổn nguyện, trụ trong thế giới gia tŕ, hiện trọn khắp Bi Sanh Mạn-đồ-la, th́ gọi là “thâm bí A-xà-lê”.

          “Kiêm tổng chúng nghệ” (Gồm thâu các tài nghệ) tức là khéo thông thạo các thứ tài nghệ trong thế gian, như thanh luận (Thanh Minh), nhân luận (Nhân Minh Học), mười tám minh xứ[22], sáu mươi bốn kỹ năng, toán số, phương dược (thuốc men, y thuật), xem tướng, các nghề khéo. V́ đối với những điều cần thiết trong Mạn-đồ-la, đều chẳng cần phải nhờ cậy ai khác; do vậy, có bản lănh thực hiện, chẳng phạm lỗi thiếu khuyết. Sau đấy, kham làm bậc A-xà-lê. Lại nữa, trong khi hành pháp như thế, trọn chẳng mâu thuẫn với Thật Tướng, gọi là “diệu thiện chúng nghệ”. Lại nữa, trong hết thảy các tổng tŕ, tam-muội môn, đạo phẩm, các độ, tứ biện tài, tứ nhiếp, lực, vô úy v.v… đều đạt được thiện xảo, ắt có thể tùy ư tạo tác bí mật Mạn-đồ-la, bèn gọi là “diệu thiện chúng nghệ”.

          “Thiện xảo tu hành Bát Nhă Ba La Mật” (khéo léo tu hành Bát Nhă Ba La Mật) tức là tu sâu xa, quán sát mười câu duyên sanh, thấy Trung Đạo rất sâu, chiếu bất khả đắc Không. Chuyện ấy như trong kinh Ma Ha Bát Nhă đă nói chi tiết. Nếu hành giả đối với văn tự và quán tâm, khéo thông đạt, ĺa khỏi kiến chấp, bèn đáng làm bậc thế gian A-xà-lê cho người khác. Lại nữa, trí huệ trong [A-tăng-kỳ] kiếp đầu tiên cùng hành giống như Nhị Thừa, chẳng phải là Bát Nhă sâu xa. Trí huệ trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai th́ do cùng nghe với hàng Nhị Thừa, cũng chẳng phải là Bát Nhă rất sâu. Trong [A-tăng-kỳ] kiếp thứ ba, tâm giống như hư không, trí huệ vô biên, hết thảy Nhị Thừa đều chẳng thể nghĩ bàn, bèn gọi là Bát Nhă rất sâu, kham làm bậc A-xà-lê bí mật hạnh. Trong bí mật, lại lần lượt chuyển thành sâu dần, cho đến đức Phật v́ hàng Thập Địa nói Bát Nhă, tức chẳng phải là cảnh giới của Cửu Địa, chỉ có Đại Tỳ Lô Giá Na được gọi là “cứu cánh A-xà-lê”.

          “Thông đạt tam thừa” tức là khéo thông đạt văn nghĩa của tam tạng giáo pháp trong Đại Thừa và Tiểu Thừa. Có thể cật vấn, có thể đáp, kham hun đúc, thành tựu Tam Học, dẹp trừ ác tà (ác kiến, tà kiến) cho đệ tử, bèn có thể làm A-xà-lê. Nếu chẳng phải vậy, sẽ có thể bị khuất phục bởi các luận nghị sư khác, tức là chẳng có sức truyền pháp, sẽ sanh khởi cái tâm bất tín cho người khác. Lại nữa, tông chỉ trong kinh này theo chiều ngang thống nhiếp hết thảy các giáo pháp của Phật, như nói “duy Uẩn vô ngă, tâm xuất thế gian trụ trong Uẩn”, tức là thống nhiếp Tiểu Thừa Tam Tạng trong các bộ. Như nói “quán Uẩn A Lại Da, thấu hiểu tự tâm vốn bất sanh”, tức là thống nhiếp ư nghĩa “tám thức, ba vô tánh” trong các kinh. Như nói mười câu duyên sanh thuộc cực vô tự tánh tâm, tức là các thứ cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc Hoa Nghiêm và Bát Nhă đều được gộp trong đó. Như nói “biết tự tâm đúng như thật th́ gọi là Nhất Thiết Chủng Trí” tức là Như Lai bí tạng Nhất Thừa thuộc Phật tánh đều được gộp trong đó. Đối với các thứ thánh ngôn, không ǵ chẳng thống nhiếp các điều tinh yếu. Nếu có thể tŕ tâm ấn ấy, rộng khai hết thảy các pháp môn, th́ gọi là “thông đạt tam thừa”. Lại nữa, Chân Ngôn môn nương vào ấn Tam Mật mà đạt tới địa vị tam b́nh đẳng[23] của Phật th́ gọi là “thông đạt tam thừa”. Tầng lớp cạn sâu như trong phần trước đă nói.

          “Thiện giải chân ngôn thật nghĩa” (khéo hiểu nghĩa chân thật của chân ngôn), như trong Chân Ngôn môn có các thứ chân ngôn, các thứ thân ấn (ấn khế được biểu hiện nơi thân hành giả), các thứ Bổn Tôn, cho đến các vật đầy đủ duyên, mỗi mỗi chi phần, âm, chữ, h́nh sắc, các tướng khác biệt, biết pháp như thế sẽ dùng để “tịch tai” (寂災, chấm dứt tai ương), pháp như thế dùng để tăng ích, pháp như thế dùng để hàng phục, như Tŕ Minh Tạng Tô Tất Địa v.v… đă rộng nói phân biệt. Đấy là thông đạt thật nghĩa của Chân Ngôn. V́ lẽ nào vậy? Mỗi chân ngôn đều là lời mầu nhiệm cùng tột của Như Lai. Như trong chân ngôn có chữ Chất-đa (Citta), dịch ở mức độ nông cạn th́ chỉ là tâm. Nếu giải thích theo lối sâu xa, bí mật, Chất () chính là chữ Giá () kèm theo âm thanh tam-muội[24]. “Giá” có nghĩa là “không biến đổi”. “Không biến đổi” chính là Phật tánh, Phật tánh cũng gọi là Bát Nhă Ba La Mật, c̣n gọi là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội. V́ thế, Định Huệ trọn đủ. Chữ Đa có nghĩa “hết thảy các pháp như như, giải thoát, chẳng thể được”. Nếu nói cái tâm như thế, bèn gọi là diệu cực chi ngữ” (lời tuyệt diệu).

          Lại nữa, như thân ấn, tay trái nghĩa là tam-muội, tay phải là nghĩa Bát Nhă, mười ngón tay nghĩa là mười Ba La Mật trọn đủ, cũng nhằm sánh ví ư nghĩa ngũ luân của Nhất Thiết Trí. Như trong h́nh tượng Bổn Tôn, nữ là Thiền Định, nam là trí huệ, màu vàng là thân kim cang, trắng là đại bi, đỏ là đại huệ, xanh là đại không, đen là đại lực, cho đến trong hết thảy các duyên, đều có ư nghĩa Đệ Nhất Thật Tế, há có nên dựa theo văn tự để hiểu hay chăng? Nếu thông đạt thật nghĩa như thế, đáng nên làm A-xà-lê, dựa theo Thập Địa để nói về hạnh sâu vậy!

          “Tri chúng sanh tâm” (biết tâm chúng sanh), do A-xà-lê khéo biết tác dụng của ba bộ thượng, trung, hạ, các thứ tánh loại sai biệt, và trụ trong Du Già, dùng phương tiện gia tŕ, có thể biết rơ tâm hạnh của chúng sanh. Như có người đến cầu pháp, thầy phải nên bảo người ấy: “Ngươi hăy ở yên đó, ta sẽ tư duy”, thầy liền cầm danh tự của người ấy, vào trong tĩnh thất (căn pḥng thanh vắng, yên tĩnh), đúng như pháp tŕ tụng, quán nhân duyên của người ấy. Do được Bổn Tôn gia tŕ, sẽ thấy tướng mạo. Nếu là ngoại đạo muốn đến trộm pháp, hoặc t́m ṭi cơ hội [để phá hoại, gây trở ngại] mà giả vờ thân cận; lúc bấy giờ, Bổn Tôn hoặc hiện h́nh tướng ngoại đạo v.v… [A-xà-lê] quán kỹ h́nh tướng ấy, sẽ tự nhiên biết được, hăy nên phương tiện từ chối, khuyên nhủ rằng: “Thiện nam tử! Phàm người cầu pháp, trước hết hăy nên trừ dứt hết thảy các tâm ác kiến, xảo ngụy. Lại nữa, chư Bồ Tát v́ độ chúng sanh, có thể thực hiện đủ mọi khổ hạnh khó hành. Ông nay có thể làm các sự khó thực hiện ấy hay chăng?” Lại c̣n tùy theo cái duyên của chính ḿnh mà tạo lợi ích. Nếu trong cảnh giới, thấy Bổn Tôn ở trong Mạn-đồ-la, dẫn đệ tử, trao quán đảnh, hoặc giao phó, các thứ tướng lành như thế, th́ phải nên nhiếp thọ [đệ tử ấy]. Lại nữa, nếu Bổn Tôn bỏ h́nh sắc vốn có mà hiện màu đỏ [th́ người cầu học] là kẻ tánh nhiều sân khuể, màu đen là si nhiều, màu vàng là tham nhiều, màu trắng là thiện nhiều, xanh nhạt th́ phần nhiều là vô kư. Và trong Mạn-đồ-la, [sau khi rải hoa cúng dường lên Mạn-đồ-la], quán sát hoa rơi vào chỗ nào, từ các tướng vi tế thượng, trung, hạ, cũng có thể biết tâm người ấy là pháp khí hay chẳng phải pháp khí. Nhưng chớ nên chấp trước tướng như thế, cũng dùng mười câu duyên sanh để quán sát. Hiểu rơ mỗi chuyện như thế, sẽ kham trụ trong địa vị làm thầy.

          Lại nữa, giải thích theo kiểu sâu xa, bí mật, “biết tâm chúng sanh” chính là như thật biết tự tâm. Do có thể biết tự tâm, sẽ có thể biết rơ tâm của người khác. Như trong nhà sẵn có kho báu, sẽ khéo xem xét các vật báu khác, cho đến các căn tánh ưa thích, nhân duyên từ đầu đến cuối, tâm sở, động tác, hư luận, không ǵ chẳng thông đạt rành rẽ. Đó gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.

          Đối với “tín chư Phật, Bồ Tát”, [Thiện Vô Úy] A-xà-lê nói: “Hết thảy các thiện pháp lấy tín làm đầu, nên [tín] được nói trước hết”. Nay thuận theo cách nói thông dụng trong tiếng Phạn, [điều này] lại thông với các địa vị sau, chỉ là không nói trong các phần sau đó thôi! Tức là trong tông này, khi mới nhập pháp môn, ư rất nông cạn, khó biết. Vả nữa, Thật Tướng của tam thừa không ǵ chẳng ĺa văn tự, nhưng đối với chân ngôn, cần phải là miệng tụng Phạn văn, tâm cũng quán tưởng, hoặc duỗi gập các chi tiết nơi thân phần[25] giống như đùa bỡn, hoặc tu tam-muội, bèn quán các h́nh tượng nữ nhân hoặc phẫn nộ v.v… Hoặc dùng nước rưới lên đỉnh đầu, hoặc tạo tác hỏa đàn. Nếu toan dùng tâm thức để suy đoán, so đo, sẽ lại chẳng thể thấy dấu tích gia tŕ. Chẳng phải là kẻ tự trọn đủ ḷng tin sâu xa, há có thể chẳng ngờ vực ư?

          Lại nữa, vị hành giả ấy đối với các duyên sự tướng đó, đều dùng ḷng tin sâu chắc để hành. Nếu đă siêng khổ nhiều mà chưa đạt được lợi ích trong hiện tại, lúc đó, bèn tự tư duy: “Do ta công hạnh chưa đến mức, hoặc do Hoặc chướng cấu nhiễm bởi Tam Độc nặng nề. Như giặt áo, dùi lửa, chỉ đừng bỏ phế giữa chừng, tự sẽ thuần tịnh tận mắt thấy quang minh vậy”. Lại nên tư duy các thí dụ về huyễn, như do dược vật ḥa hợp mà được bay lên không, sống lâu, dẫu kẻ lợi căn trí huệ cũng chẳng suy nghĩ mà biết được. Chỉ cốt sao khéo hiểu thuật ấy, không ai chẳng thành tựu! Do thâm tâm tịnh tín ĺa nghi hoặc, dần dần đạt được pháp nghiệm hiện tiền! Lại do pháp nghiệm hiện tiền, tín giải chuyển cao hơn thành chẳng thể ngăn trở, phá hoại. Nếu chẳng phải vậy, sẽ giống như kẻ chẳng có tay, dẫu đến được kho báu mà trọn chẳng đạt được ǵ, huống hồ dự vào địa vị A-xà-lê ư? Lại nữa, trong một niệm tâm của chúng sanh, thân thọ lượng dài lâu của Như Lai, tịch quang hải hội, cho đến các vị Bất Thoái Bồ Tát cũng chẳng thể biết. Hăy nên biết pháp này càng khó tin gấp bội. V́ thế, trong hội Pháp Hoa, bậc Bổ Xứ cầu thỉnh ba lượt, Như Lai răn bốn lượt rồi mới diễn nói. Nay kinh này có phương tiện để tu nhập, thậm chí có thể thành tựu trong một đời. Nếu có thể tiếp nhận chắc thật, chẳng nghi ngờ, đạt đến Tín địa, hoặc đạt tới tín gii, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.

          “Đắc truyền giáo quán đảnh, thiện giải Mạn-đồ-la họa” (được truyền giáo quán đảnh, khéo hiểu cách vẽ Mạn-đồ-la): Quán đảnh có hai loại, tức là từ trong pháp đệ tử, đă được quán đảnh rồi, bèn tấn tu theo thứ tự, cho đến khi thành tựu các đức của bậc A-xà-lê. Lúc bấy giờ, A-xà-lê hoan hỷ, bèn v́ học tṛ tạo Mạn-đồ-la, truyền giáo, quán đảnh, đúng như pháp khuyên nhủ: “Phật tử! Con ở trong tạng bí mật, đă tùy thuận tu học, hiểu trọn đủ rồi, kham có thể dạy bảo người khác. Nay con đă được lợi lành, thậm chí các vị hiền thánh cũng đều khen ngợi. Nay đă quán đảnh xong, con hăy nên dùng cái tâm chân tịnh để truyền tŕ, hoằng dương, khiến cho tạng bí mật của Như Lai rất lâu chẳng diệt!” Thuận theo lẽ đáng nên mà an ủi, khuyên dụ đủ mọi lẽ như thế, sẽ đáng nên làm bậc Mạn-đồ-la A-xà-lê cho người khác.

          Lại nữa, trong Du Già, hành giả thành tựu các đức của A-xà-lê, lúc bấy giờ, bậc thâm hạnh A-xà-lê v́ người đó tạo Tâm Mạn-đồ-la. Khi đó, đệ tử thấy biết rành rẽ, được đức Đại Tỳ Lô Giá Na dùng nước đại bi để thực hiện tâm quán đảnh. Chuyện ấy sẽ được nói trong phần sau. Cho đến khi Ba La Mật được viên măn trong mỗi địa, mười phương chư Phật hiện tiền quán đảnh, trao cho chức vị Phật, đều gọi là “được truyền giáo quán đảnh”. Đă được truyền giáo quán đảnh, chớ nên làm kẻ cuối cùng đoạn dứt ḍng giống [nhà Phật], mà phải nên nối tiếp sự nghiệp của tiên sư, độ các đệ tử. Đây chính là phương tiện tối sơ, tức là cần phải hiểu h́nh tượng Mạn-đồ-la. Do đó, kế tiếp bèn nói [“thiện giải Mạn-đồ-la họa”]. Tức là đối với mỗi phương vị, mỗi tướng mạo trong ấy, sắp xếp điều ḥa các màu, tô vẽ trang nghiêm, đều phải nên tự thấu hiểu rành rẽ, đừng nh́n vào phương tiện khác, [người như thế] bèn kham làm A-xà-lê. Lại nữa, có thể từ trong tâm Bồ Đề thanh tịnh, dùng huệ phương tiện để vẽ vời đại Mạn-đồ-la vương trang nghiêm vô tận, bèn gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.

          “Kỳ tánh điều nhu, ly ư ngă chấp” (Bẩm tánh điều phục, mềm mỏng, ĺa Ngă Chấp): Đối với Ngă Chấp ở đây, trong bản tiếng Phạn ghi là chữ “quán đảnh”, A-xà-lê (ngài Thiện Vô Úy) truyền dạy rằng: “Chữ này có ư nghĩa không tương ứng, phải nên nói là ly ngă chấp”. Tánh người ấy điều nhu, tức là an trụ trong oai nghi truyền giáo, trụ nhẫn nhục địa, nhu ḥa, khéo tùy thuận, chẳng bộp chộp, lỗ măng. Tuy chủng tộc, h́nh sắc, đa văn, trí huệ, không ǵ chẳng lỗi lạc hơn người, nhưng cũng chẳng sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, có thể rủ ḷng từ giúp đỡ, khuyên dụ kẻ mới học, thậm đối với các chủng tánh hèn kém, nhỏ nhoi, cũng chẳng có ư tưởng coi họ là kém cỏi, hay mang ḷng ghen ghét, chỉ một dạ dùng pháp để tự điều phục ḿnh, nương theo pháp mà trụ. Điều nhu như thế tức là ĺa NChấp. Đó là cách giải thích theo lối chuyển tướng.

          Lại nữa, “điều nhu” tức là “bách luyện thuần lạp” (trăm lần tinh luyện, sáp sẽ tinh thuần). Do điều nhu, thuận theo sự khéo léo mà không ǵ chẳng thực hiện. Nay hành giả tịnh trị cái tâm ấy, do hết thảy chất quặng thô thiển đă hết, tùy theo sự khéo léo nơi “tay” trí huệ mà không ǵ chẳng thực hiện được. Do vậy, có thể trụ trong địa vị nhẫn nhục, tùy duyên thích ứng chúng sanh. Lại nữa, nhập đạo trong pháp môn của chư Phật, Bồ Tát, giống như thượng tộc. Nhập đạo trong pháp môn của chư thiên, rồng, quỷ, giống như hạ tộc. Tức là dùng thân này để làm “tôn đặc tướng hải” (biển tướng tôn quư, đặc biệt) của Đại Nhật Như Lai, giống như sắc tướng, h́nh mạo bậc nhất, so với kẻ chẳng thể thực hiện, giống như chiếc áo dơ bẩn rách nát vậy. Luôn nhất tâm nghe chư Phật thuyết pháp, phân biệt chẳng sai, th́ gọi là “đa văn”. So với kẻ lục căn ám tắc th́ gọi là “thiểu văn”. Vô lượng trí huệ tự nhiên nở bùng, gọi là “trí huệ”. Vô minh Tam Độc là ngu si. Do các pháp như thế rốt ráo b́nh đẳng, chớ nên có tâm cao thấp, nên gọi là “điều nhu”. Chỉ có ḿnh đức Phật đáng gọi là bậc hết thảy điều nhu, khéo trụ trong pháp A-xà-lê vậy.

          “Ư Chân Ngôn hạnh, thiện đắc quyết định” (khéo đạt được quyết định nơi hạnh Chân Ngôn): Điều phục, tạo lập các thứ phương tiện trong Mạn-đồ-la, tâm đạt được quyết định, ĺa các lưới nghi; đó gọi là “hộ thân như thế, kết giới như thế, nghênh thỉnh như thế, tịnh hóa các vật cúng để dâng hiến như thế”. Dùng chân ngôn và thủ ấn như thế để gia tŕ, cho tới lúc tŕ tụng, tấn tu, và thành tựu Tất Địa, cũng có vô lượng pháp theo thứ tự. Nhng điều như thế được nói cặn kẽ trong kinh văn thuộc phần sau và phần nói về thứ tự cúng dường, chẳng thể nhắc lại nhiều lượt. Như khi tác pháp, và các chọn lựa khác, nếu gặp chuyện mâu thuẫn, trở ngại, sẽ lại chần chừ quan sát, hoặc lục lọi kinh sách để kiểm nghiệm, th́ chẳng gọi là bậc A-xà-lê khéo thực hiện.

          Lại nữa, A-xà-lê do đạt được quyết định nơi Du Già, làm bất cứ điều ǵ cũng đều tương ứng với tam-muội. Như khi dâng hoa, liền tương ứng với hoa tam-muội, Bổn Tôn hiện tiền rành rẽ trong ấy. Nếu lúc cúng hương, đèn, hương bôi, nước Át-già[26] v.v… cũng sẽ tương ứng với hương tam-muội cho đến hương thủy tam-muội. Mỗi vị Bổn Tôn cũng tùy theo từng sự mà hiện tiền. Trong mỗi một duyên như thế, đều là nhập pháp giới môn, đều thấy thiện tri thức, lần lượt vận dụng tương ứng với lư, chẳng c̣n đụng chuyện sẽ phải lần lữa rồi mới tác quán. Hăy nên biết người ấy kham làm bậc bí mật A-xà-lê.

          “Cứu tập Du Già” (nghiên cứu, tu tập Du Già) là khéo tu pháp tương ứng, tức là đối với sự thành tựu thượng, trung, hạ trong ba bộ Chân Ngôn (Phật Bộ, Liên Hoa, Kim Cang Bộ), đều nhất nhất thông đạt, đều tương ứng với chánh lư, gọi là “khéo tu Du Già”. Lại c̣n trong pháp Tức Tai, liền có thể dùng phương tiện ấy để tăng ích và hàng phục. Hoặc trong pháp Tăng Ích, có thể dùng phương tiện ấy để hàng phục, tức tai. Trong pháp Hàng Phục, liền có thể dùng phương tiện ấy để tức tai, tăng ích. Thuận theo pháp tương ứng, đều có thể khéo phân biệt, th́ gọi là “khéo tu Du Già”. Lại c̣n trong Mạn-đồ-la, đối với các thứ Bổn Tôn tam-muội, h́nh sắc, chữ [chân ngôn], ấn, tánh loại, oai nghi, và khi cúng dường thành tựu, vận tâm quán sát phương tiện, đều đă tu tập tương ứng, cũng khéo hiểu biết chướng ngại và tướng Tất Địa trong ấy, bèn có thể truyền pháp. Lại nữa, trong tam-muội phát sanh từ Đại Bi Thai Tạng, có đủ loại pháp giới môn, đủ loại thiện tri thức như Thiện Tài đồng tử theo thứ tự t́m cầu. Hoặc trong pháp môn như thế này, đă khéo tu hành, nhưng đối với các môn khác, chưa thể thông hiểu, tu tập. Nếu khi nhập thế giới Phổ Môn, sẽ có thể trong một niệm mà tương ứng trọn đủ, gọi là “thâm hạnh A-xà-lê”.

          “Trụ dũng kiện Bồ Đề tâm” (trụ trong tâm Bồ Đề mạnh mẽ): “Dũng kiện” nghĩa là hùng hậu, mạnh mẽ, chẳng khiếp nhược. Sở dĩ cần tu cái tâm này là v́ hành giả Chân Ngôn từ lúc chưa thấy Chân Đế tới nay, sẽ có các cảnh thuận nghịch, hoặc hiện các thứ h́nh sắc đáng sợ, hoặc phát ra âm thanh lạ, cho tới chấn động đại địa, hoặc có Tỳ Na Dă Ca[27] đại lực hiện h́nh gây chướng nạn. Lúc bấy giờ, [hành giả] an tâm bất động, chẳng hề thoái khuất, nương theo pháp giáo mà tịnh trừ. Do hành giả thấy Bồ Đề tâm thanh tịnh có đại nghĩa lợi, tự nhiên xuất sanh nhập tử, chẳng hề có ư tưởng sợ hăi, các ma sự đó chẳng thể gây chướng ngại được! Lại nữa, khi chưa thấy Bồ Đề tâm, trong Du Già, sẽ có đủ loại tướng hiện, tức là đất, nước, lửa, gió, hư không, các màu xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… các thứ tướng mạo khác lạ. Lúc bấy giờ, do tâm chẳng hiểu rơ, cho nên chẳng thể biện định chân thật, cũng chớ nên sanh ư tưởng thoái chuyển, chỉ nên nghĩ như thế này: “Chuyện này chẳng phải là không có nhân duyên. Nếu khi ta kiến Đế, hiểu rơ Bồ Đề tâm vô ngại, tự sẽ hiểu vậy”. Lại nên dùng mười câu duyên sanh để quán, tâm chẳng lấy, bỏ, chỉ nên dũng mănh tấn tu, hành Bồ Tát đạo. Đă chứng Bồ Đề tâm, liền biết trong quá khứ vào lúc nào đó đă có tướng như thế, lại trong một lúc nào đó, cũng có sự tướng như thế, đều là v́ nhân duyên như thế, không ǵ chẳng soi xét điềm tiên khởi, biết rơ khởi đầu và kết thúc của nó. Lại nữa, khi hành giả chiếu kiến tâm, hiểu rơ đạo, liền đạt được sức kiên cố trong vô tận đại nguyện, cho đến như kim xí điểu vương Tỳ Lô Giá Na cúi nh́n biển cả pháp giới như nh́n vào gương sáng, vẫy cánh Chỉ Quán, bắt lấy rồng “trời, người”. Đó chính là Bồ Đề tâm dũng kiện vậy.

          “Bí Mật Chủ! Như thị pháp tắc A-xà-lê, chư Phật Bồ Tát chi sở xưng thán” (Bí Mật Chủ! A-xà-lê [trọn đủ] pháp tắc như thế, được chư Phật, Bồ Tát khen ngợi): Do các đức đều đầy đủ, [vị A-xà-lê ấy] liền có thể lưu thông Mật giáo, chẳng đoạn Phật chủng; đó gọi là “Phật chi chân tử” (đứa con chân thật của Phật), sanh từ hạnh Chân Ngôn, thường được các vị thánh khen ngợi. Nếu đệ tử tu Du Già hạnh, sẽ có thể thấy trời rồng tám bộ cung kính cúng dường vị thượng nhân ấy, hoặc thấy mười phương chư Phật ca ngợi danh hiệu, khuyến phát đại chúng, như Thích Ca Mâu Ni Phật nói nhân duyên cầu pháp của Tát Đà Ba Luân[28] Bồ Tát.

 

          (Kinh) Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê nhược kiến chúng sanh kham vi pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại tín giải, cần dũng thâm tín, thường niệm lợi tha, nhược đệ tử cụ như thị tướng mạo giả, A-xà-lê ưng tự văng khuyến phát, như thị cáo ngôn.

          ()復次祕密主彼阿闍梨若見眾生堪為法器遠離諸垢有大信解勤勇深信常念利他若弟子具如是相貌者阿闍梨應自往勸發如是告言

          (Kinh: Lại nữa, Bí Mật Chủ! Vị A-xà-lê đó nếu thấy chúng sanh kham làm pháp khí, xa ĺa các cấu, có tín giải to lớn, tín tâm siêng năng, dũng mănh, thường nghĩ lợi ích người khác, nếu đệ tử trọn đủ tướng mạo như thế, A-xà-lê hăy nên tự đến khuyên lơn người ấy phát khởi, bảo như thế này).

 

          Kinh dạy: “Phục thứ, Bí Mật Chủ! Bỉ A-xà-lê nhược kiến chúng sanh kham vi pháp khí, viễn ly chư cấu, hữu đại tín giải, cần dũng thâm tín, thường niệm lợi tha” (Lại này Bí Mật Chủ! Nếu vị A-xà-lê ấy thấy chúng sanh kham làm pháp khí, xa ĺa các cu, có tín giải to lớn, siêng năng, dũng mănh, tin sâu, thường nghĩ lợi ích người khác), tức là nói về nghi thức nhiếp thọ đệ tử trong chi phần nói về A-xà-lê. Chúng sanh ở đây có hai loại: Hoặc là đă phát Bồ Đề tâm, tới chỗ thiện tri thức cầu thỉnh hành pháp Chân Ngôn; hoặc chưa phát Bồ Đề tâm, nhưng thầy tự soi xét, biết người ấy có thể làm pháp khí, có thể tŕ pháp ấy. Hoặc là trong Du Già, thầy thấy căn duyên của người ấy, hoặc được chư Phật, Bồ Tát chúc lụy “hăy v́ người ấy quán đảnh, dạy bảo”. Hoặc đích thân thấy các vị thánh v́ người ấy thực hiện pháp quán đảnh rồi mới phó chúc [A-xà-lê] dạy bảo người ấy. Có các tướng như thế th́ mới có thể truyền pháp. Như thức ăn dở tệ trong làng nghèo chẳng thể đựng trong đồ chứa bằng chất báu, diệu dược của Luân Vương không thể khiến cho kẻ bạc phước tự tiện dùng được, v́ chẳng thể tiêu, hoặc có thể bị đoản mạng. Cần phải là hộp và nắp tương xứng th́ mới trao và nhận đều được đúng lẽ!

          Lại như áo hèn tệ, hờm đóng dày cộp, chẳng thể nhuộm màu ngay được. Trước hết, hăy nên dạy giặt sạch, sau đó sẽ có thể đổ công tô, nhuộm. Chúng sanh cũng thế, nếu trước đó đă nhuốm bẩn bởi cấu ô tập khí, sẽ chẳng nhuốm màu pháp giới được. V́ thế, cần phải xa ĺa các cấu. Do vậy, người có đại tín giải, tín giải ở đây trong tiếng Phạn là A Tỳ Mục Để (Abhimukti), tức là thấy rơ lư ấy, tâm chẳng ngờ lo. Như đào giếng dần dần thấy bùn, tuy chưa thấy nước, ắt biết đă gần [tới mạch nước]. V́ thế nói là “tín giải”.

          Tiếp đó nói là “thâm tín”, tín ấy trong tiếng Phạn là Xả La Đà (Śraddhā), tức là ḷng tin dựa theo sự, dựa theo người. Như nghe bậc trưởng giả nói như vậy, có thể là biểu lộ vượt ngoài lẽ thường t́nh, nhưng do vị ấy chưa từng lừa dối, liền nhận lănh sâu xa, hành theo, th́ cũng gọi là Tín, có cùng một nghĩa với “tín chư Phật, Bồ Tát” trong phần trên. Trong tiếng Phạn [để biểu lộ hai loại ḷng tin khác nhau ấy], vốn có hai danh xưng, nhưng tiếng Hán th́ không có ǵ khác biệt. V́ thế, cùng nói là Tín mà thôi! Nếu có người nghe nói pháp giới chẳng thể nghĩ bàn như thế, do đă gieo cội lành từ xưa, do tinh thần sáng suốt, bén nhạy, liền có thể tiếp nhận lời nói của người ấy, biết trong tâm chúng sanh quyết có lư ấy; đó gọi là “tín giải”. Lại do đời trước đă từng thân cận thiện tri thức, có duyên sâu đậm với Tam Bảo, tuy chẳng thể so lường, suy tính, nhưng liền có thể tin tưởng sâu xa, nên nói là “thâm tín”.

          “Cần dũng” là tên gọi khác của Tinh Tấn. Thích Luận nói: “Thí như đào giếng, do thấy đất bùn ướt, càng thêm tinh tấn, ắt mong được nước. Lại như dùi lửa, đă thấy khói, càng thêm gắng sức, ắt được lửa”. V́ thế, sau tín giải, bèn nói tới cần dũng. V́ lẽ nào vậy? Nay trí huệ tự nhiên này phải do Du Già, mà Du Già ắt cần tới sức đại tinh tấn. V́ thế, Thích Luận nói: “Trí huệ Thiền Định chẳng thể dùng phước để nguyện cầu, cũng chẳng do thô quán mà có thể đạt được. Cần phải thân tâm siêng ṛng, gấp rút, chẳng lười nhác, th́ mới có thể hoàn thành. Như đức Phật đă nói: ‘Giả sử máu, thịt, mỡ, tủy đều cạn sạch, chỉ c̣n da, xương, gân, chẳng xả tinh tấn. Như thế cho tới khi đắc định huệ, đạt được hai chuyện ấy th́ mọi việc đều hoàn thành”. V́ thế, cần phải là người có tánh tinh tấn th́ mới có thể truyền thọ. Lại nữa, tinh tấn là căn bản của hết thảy các thiện pháp, có thể dấy động phước đức từ đời trước, như mưa tưới nhuần hạt giống, khiến cho nó ắt sanh trưởng. Nếu chẳng có cái tâm siêng năng, dũng mănh, dẫu có nghiệp đă gieo từ đời trước, sẽ chẳng có cách nào phát khởi, thậm chí lợi lạc trong đời này c̣n chẳng thể đạt được, huống hồ đạo Bồ Đề ư? Do vậy, do nhân duyên phát khởi hạnh, bèn đạt được thâm tín. Do thâm tâm, liền có thể dốc chí cầu pháp thù thắng, gánh vác chúng sanh, cần phải dùng Đại Bi Thai Tạng để nuôi nấng, khiến cho được tăng trưởng. V́ thế, nói người có tánh thường nghĩ lợi ích người khác th́ mới có thể truyền thụ.

          Lại nữa, A-xà-lê trong Du Già, thấy, nghe chư Phật, Bồ Tát khen ngợi người trọn đủ đức như thế, hoặc thấy [người ấy] đối trước các vị thánh, chí thành siêng năng khẩn cầu, mong mỏi đạo yếu, trải qua nhiều thời gian mà trọn chẳng lười nhác, thoái chuyển, thực hành chuyện lợi tha, cứu độ, nhiếp thọ chúng sanh. Bổn Tôn xót thương bảo [A-xà-lê] hăy truyền dạy. Các trường hợp như thế, có thể suy ra mà biết. Hơn nữa, bậc thâm hạnh A-xà-lê do sáu căn thanh tịnh, sẽ thấy nhân duyên chướng đạo và thành đạo từ vô lượng kiếp đến nay của đệ tử chẳng sai lầm, lại cũng đều biết chỗ căn duyên nhiếp thọ của phổ môn Mạn-đồ-la, bèn gọi là “thiện quán đệ tử” (khéo quán đệ tử).

          Kinh dạy: “Nhược đệ tử cụ như thị tướng mạo giả, A-xà-lê ưng tự văng khuyến phát, như thị cáo ngôn” (nếu đệ tử trọn đủ tướng mạo như thế, A-xà-lê nên tự đến khuyến phát, bảo như thế này), có hai nghĩa:

          - Một, do trừ tâm nghi của đệ tử, chỉ sợ do vô trí mà [đệ tử] ngờ vực, hối hận, khiến cho [cơ duyên tu đạo] vĩnh viễn bị mất mát, cho nên chẳng truyền trao bừa băi cho người khác. Ắt phải là người đáng được truyền, thầy sẽ tự cầu mà truyền trao, chẳng đợi người ấy đến thỉnh.

          - Hai, v́ trừ cái tâm keo tiếc của A-xà-lê, thậm chí ở nơi lửa bùng cháy không gián đoạn, nếu có thể lưu thông [Mật pháp] th́ thầy cũng sẽ tới đó, huống hồ đối với người có duyên tốt lành đến cầu mà chẳng ban cho ư?

 

          (Kinh) Phật tử! Thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngă kim chánh khai diễn, vị bỉ Đại Thừa khí, quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại chư Thế Tôn, trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải chân ngôn diệu pháp, cần dũng hoạch Chủng Trí, tọa vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn thế vô tỷ, năng tồi bỉ đại lực, cực phẫn nộ ma quân, Thích Sư Tử cứu thế. Thị cố, nhữ Phật tử, ưng dĩ như thị huệ, phương tiện tác thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhă. Hành giả bi niệm tâm, phát khởi linh tăng quảng, bỉ kiên trụ thọ giáo.

          ()佛子此大乘,真言行道法,我今正開演,為彼大乘器。過去等正覺,及與未來世,現在諸世尊,住饒益眾生。如是諸賢者,解真言妙法,勤勇獲種智,坐無相菩提。真言勢無比,能摧彼大力,極忿怒魔軍,釋師子救世。是故汝佛子,應以如是慧,方便作成就,當獲薩婆若。行者悲念心,發起令增廣,彼堅住受教。    

          (Kinh: Phật tử! Đại Thừa này, hành đạo pháp Chân Ngôn, ta nay chánh khai diễn, v́ căn khí Đại Thừa. Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cùng với đời vị lai, hiện tại các Thế Tôn, v́ lợi ích chúng sanh. Các hiền giả như thế, hiểu diệu pháp Chân Ngôn, siêng gắng đắc Chủng Trí, ngự vô tướng Bồ Đề. Chân ngôn thế khôn sánh, có thể dẹp ma quân, đại lực, cực phẫn nộ. Thích Sư Tử cứu đời. V́ thế, Phật tử ơi, nên dùng huệ như thế, phương tiện tạo thành tựu, sẽ đắc Tát Bà Nhă. Hành giả tâm bi niệm, phát khởi khiến tăng rộng, kiên tŕ trụ thọ giáo).

 

          Kế đó, có năm bài kệ nói về phương tiện khuyến phát. Bài kệ thứ nhất nói: “Phật tử, thử Đại Thừa, Chân Ngôn hành đạo pháp, ngă kim chánh khai diễn, vị bỉ Đại Thừa khí” (Này Phật tử! Pháp hành đạo Chân Ngôn này, ta nay sẽ khai diễn, v́ người có căn khí Đại Thừa ấy), ư nói: Phật tử các vị hăy nên biết, pháp tắc và nghi quỹ hành đạo của Đại Thừa Chân Ngôn này, do các vị là người có thể kham tin nhận, ta nay sẽ chánh thức nói ra.

          Bài kệ kế tiếp: “Quá khứ Đẳng Chánh Giác, cập dữ vị lai thế, hiện tại chư Thế Tôn, trụ nhiêu ích chúng sanh. Như thị chư hiền giả, giải Chân Ngôn diệu pháp, cần dũng hoạch Chủng Trí, tọa vô tướng Bồ Đề” (đấng Đẳng Chánh Giác trong quá khứ, cùng với các đức Thế Tôn trong đời vị lai và hiện tại, luôn tạo lợi ích cho chúng sanh. Các vị hiền giả ấy hiểu diệu pháp Chân Ngôn, do tinh tấn mà đạt được Nhất Thiết Chủng Trí, ngự trong vô tướng Bồ Đề), tức là mở ra hết thảy các môn phương tiện của mười phương ba đời chư Phật, chỉ dùng một đạo để thành Phật, trọn chẳng có đạo nào khác, do Phật Phật đạo đồng. Nay lại dẫn chư Phật để chứng minh, chuyện này như trong kinh Pháp Hoa đă nói cặn kẽ. Lại nói “trụ nhiêu ích”, tức là nhiều cách tạo lợi ích, an lạc cho chúng sanh. Đó chính là trụ xứ của Như Lai. “Chư hiền giả” tức là các Như Lai. Do hạnh nguyện Phổ Hiền thảy đều viên măn cùng cực, nên dùng từ ngữ này để xưng tụng. Đều là do đă hiểu diệu pháp Chân Ngôn này, đạt được sự siêng năng, dũng mănh to lớn, thành tựu Nhất Thiết Trí. Do kệ tụng nói giản lược, nên nói là Chủng Trí. Ngồi trong các pháp tịch diệt, tức là Bồ Đề, chẳng phải là đă thành, nay thành, hay sẽ thành, không có cách nào để quán, chẳng do điều ǵ khác mà đạt được, há có tướng ǵ ư? Bồ Đề ấy chẳng thể nói để chỉ bày cho người khác được! V́ thế, bài kệ kế tiếp sẽ dùng h́nh tích bên ngoài để nói rơ.

          Kệ rằng: “Chân ngôn thế vô tỷ, năng tồi bỉ đại lực, cực phẫn nộ ma quân, Thích Sư Tử cứu thế” (thế lực của Chân Ngôn không sánh bằng, có thể dẹp tan ma quân đại lực, tột bậc phẫn nộ. Thích Sư Tử là đấng cứu đời), ư nói: Tuy [Chân Ngôn] không có tướng nhất định, nhưng có trọn đủ hết thảy oai lực, có thể hàng phục các ma, chế ngự các ngoại đạo, mở cửa cam lộ, chuyển đại pháp luân. Hết thảy trời, người thấy dấu tích như thế, bèn gọi Ngài là Thích Ca Sư Tử cứu thế gian giả (đấng sư tử Thích Ca cứu thế gian), như thấy khói liền biết lửa, cho nên sẽ tin nhận.

          Bài kệ kế đó nói: “Thị cố, nhữ Phật tử, ưng dĩ như thị huệ, phương tiện tác thành tựu, đương hoạch Tát Bà Nhă” (v́ thế, Phật tử các ngươi, hăy nên dùng huệ như thế để làm phương tiện tạo thành tựu, sẽ đạt được Tát Bà Nhă), tức là khuyến phát (khuyên lơn, phát khởi) hành nhân, khiến cho họ cầu cái quả ấy. Nay các vị may mắn đều có tâm, sao chẳng chứng vậy? Chỉ nên dùng diệu huệ này để thành tựu, chẳng lâu sau, sẽ tự thành Nhất Thiết Trí. Trong phần trước, ngài Kim Cang Thủ đă hỏi thẳng đức Tỳ Lô Giá Na: “Vân hà đắc Nhất Thiết Trí trí?” (làm thế nào để đạt được trí Nhất Thiết Trí). Đức Phật cũng trả lời thẳng thừng: “Như thật tri tự tâm, thị danh Nhất Thiết Trí trí” (Đúng như thật mà biết tự tâm th́ gọi là trí Nhất Thiết Trí). Ư nghĩa dạy bảo ở đây cũng giống như thế, nhưng nêu thẳng thừng vô tướng Bồ Đề để khuyên bảo tu chứng, trọn chẳng có hạnh vị sai biệt để phạm sai lầm trong ấy được! Tuy phẩm trước đă nói cặn kẽ các tướng, lập các thứ danh tự trang nghiêm, tới phần luận định về tâm xứ th́ ư nghĩa cũng đều như thế.

 

          (Kinh) Đương vị trạch b́nh địa, sơn lâm đa hoa quả, duyệt ư chư thanh tuyền. Chư Phật sở xưng thán, ưng tác viên đàn sự. Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn đẳng trang nghiêm. Bỉ ưng tác huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác, Duyên đạo sư, thánh giả, Thanh Văn chúng, tằng du thử địa phần, Phật thường sở xưng dự. Cập dư chư phương sở: Tăng phường, A Luyện Nhă, hoa pḥng, cao lâu các, thắng diệu chư tŕ uyển, chế-để, hỏa thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu, không thất, tiên nhân đắc đạo xứ. Như thượng chi sở thuyết, hoặc sở ư nhạo xứ, lợi ích đệ tử cố, đương họa Mạn-đồ-la.

          ()當為擇平地。山林多華果,悅意諸清泉,諸佛所稱歎,應作圓壇事。或在河流處,鵞雁等莊嚴,彼應作慧解,悲生漫羅。正覺緣導師,聖者聲聞眾,曾遊此地分,佛常所稱譽;及餘諸方所,僧坊阿練若,華房高樓閣,勝妙諸池苑;制底火神祠,牛欄河潬中,諸天廟空室,仙人得道處。如上之所,或所意樂處,利益弟子故,當畫漫荼羅

          (Kinh: Nên chọn chỗ đất bằng, núi rừng nhiều hoa quả, các suối trong đẹp ư, được chư Phật khen ngợi, hăy làm viên đàn sự. Hoặc tại chỗ sông chảy, nơi ngỗng, nhạn trang nghiêm, hăy nên sanh huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la, Chánh Giác duyên đạo sư, thánh giả, các Thanh Văn, từng đến cuộc đất ấy, được Phật thường khen ngợi. Và các nơi chốn khác, tăng phường, A Luyện Nhă, pḥng đẹp, lầu gác cao, các vườn ao đẹp đẽ, tháp Phật, miếu thần lửa, chuồng ḅ, bến sông, miếu thờ trời, nhà trống, chỗ tiên nhân đắc đạo. Các chỗ như nói trên, hoặc chỗ được ưa thích, do lợi ích đệ tử, nên vẽ Mạn-đồ-la).

 

          Bài kệ kế đó là “Hành giả bi niệm tâm, phát khởi linh tăng quảng, bỉ kiên trụ thọ giáo, đương vị trạch b́nh địa” (hành giả do tâm bi niệm, hăy phát khởi khiến cho cái tâm ấy được tăng rộng thêm, do người ấy tiếp nhận giáo pháp, trụ vững vàng trong ấy, [A-xà-lê] hăy nên v́ người ấy chọn lựa cuộc đất), ư nói A-xà-lê đă có được đệ tử, kế đó là chi phần nói về chọn lựa cuộc đất [để làm đàn tràng]. Đối với chữ “hành giả” ở đây, bản tiếng Phạn ghi là Chân Ngôn giả (người hành Chân Ngôn), nhưng do mỗi câu kệ chẳng thể có sáu chữ, cho nên lược bớt, chỉ giữ lấy ư. Nếu trong các phần sau có chỗ nào giống như thế, sẽ chẳng phiền rườm lời [nhắc lại] nữa. Tức là người tu Chân Ngôn nhiều lượt dùng thiện pháp như thế để phát khởi cái tâm, khiến cho ư thích của hành nhân dần dần tăng rộng thêm. Biết người ấy tiếp nhận lời dạy vững vàng, chẳng c̣n dời đổi, thầy mới v́ người ấy làm Mạn-đồ-la. Hoặc từ trong Du Già, do đă thấy căn duyên của người ấy; sau đấy mới chọn cuộc đất.

          Các kinh Kim Cang Đảnh Đại Bổn và Tô Tất Địa đă nói cặn kẽ các tướng đất [thích hợp để làm đàn tràng], nhưng ư nghĩa chánh yếu là: Nay thế giới này chẳng phẳng phiu, ngay ngắn như các cơi thanh tịnh khác, chỉ tùy thuộc các chỗ thù thắng như sẽ nói trong phần kinh văn tiếp theo mà chọn nơi ngay ngắn, đoan nghiêm, có thể tạo cái đàn tṛn, là chỗ có thể thực hiện (tác pháp) không bị trở ngại, liền sử dụng chỗ ấy. Lại nữa, nay tạo các đàn tràng ở chỗ nào cũng đều được, như tâm địa b́nh chánh trọn khắp hết thảy mọi nơi của đức Tỳ Lô Giá Na th́ mới làm Đại Bi Mạn-đồ-la. Nhưng đối với chỗ thù thắng như đă nói ở đây, hễ có chút phần ngay ngắn, có thể dọn dẹp thanh tịnh, bèn ở nơi đó, mở ra vạn đức Mạn-đồ-la. Tầng lớp sâu cạn th́ như trong phần trước đă rộng nói.

          Kệ nói: “Sơn lâm đa hoa quả, duyệt ư chư thanh tuyền, chư Phật sở xưng thán, tác viên đàn sự nghiệp” (Chỗ núi rừng nhiều hoa quả, chỗ có các con suối trong đẹp ư, được chư Phật khen ngợi th́ nên thực hiện sự nghiệp của cái đàn tṛn): Trong các chỗ thù thắng, núi rừng là tốt nhất. Tuy là chỗ u tịch đoan nghiêm, có nhiều ngọn núi cao, nhưng nếu không có hoa quả, suối chảy, người ta sẽ chẳng ưa thích, tức là các duyên nhiều lẽ bị thiếu khuyết, cũng chẳng kham làm [đàn tràng] tại đó. V́ thế, cần phải [là nơi chốn] có đủ loại hoa thơm, quả ngọt, lại c̣n có suối, ao thanh tịnh, là chỗ đáng ưa thích, tức là nơi được Phật khen ngợi, sẽ có thể thực hiện sự nghiệp Mạn-đồ-la. Hoặc hành giả trong tam-muội, thấy chỗ thù thắng như thế, nếu nghe bậc tôn thánh khen ngợi đáng nên thực hiện ở chỗ đó. Những điều sau đó cũng theo lệ đó.

          Hơn nữa, núi trong tiếng Phạn là Na Già (Naga), có nghĩa là “bất động”. Tức là vị A-xà-lê trong Du Già, quán các hành nhân ấy trụ trong tứ tánh pháp (tự tánh, tha tánh, cộng tánh, phi tha phi tự tánh), thực hiện thiện sự, tâm kiên cố bất động, tức là kính trọng, phụng sự sư trưởng, hiếu dưỡng cha mẹ v.v…. Hễ có tám tâm hoa quả nẩy mầm, có chỗ có thể sanh ra tịnh pháp, sẽ có thể kiến lập Mạn-đồ-la. Lại nữa, Bồ Đề tâm thanh tịnh an trụ trong đế lư kiên cố bất động. Gió lớn từ tám phương chẳng thể lay động, hoa quả phương tiện đại bi đầy ắp khắp nơi, thường lưu xuất tịnh pháp lợi lạc chúng sanh, được Phật khen ngợi nhất. Đó là chỗ tốt đẹp để làm Mạn-đồ-la.

          Bài kệ kế đó nói: “Hoặc tại hà lưu xứ, nga nhạn đẳng trang nghiêm, bỉ ưng tác huệ giải, Bi Sanh Mạn-đồ-la” (Hoặc tại chỗ sông chảy, nhạn, ngỗng thảy trang nghiêm, hăy nên sanh huệ giải, tạo tác Bi Sanh Mạn-đồ-la): Nếu chẳng kiếm được chỗ danh sơn, th́ chỗ có suối nước là lựa chọn kế tiếp. Tức là chỗ có các ḍng chảy thường chẳng đoạn tuyệt, các loài chim có tiếng hót tốt lành bay lượn, bơi lội, đoan nghiêm, thanh khiết, xa ĺa phiền rộn, liền có thể lập đàn. Chữ “nhạn” chẳng phải là dịch sát nghĩa, bản tiếng Phạn nói là chim Sa La Sa (Sārasa), h́nh dạng giống uyên ương nhưng to hơn, tiếng hót hết sức thanh nhă. Do phương này (Trung Hoa) không có loại chim ấy, nên chỉ nói theo kiểu hội ư mà thôi. Tuy là Thế Đế Mạn-đồ-la, cũng cần phải là người tŕ chân ngôn có huệ giải th́ mới có thể kiến lập. V́ thế nói “ưng dĩ huệ giải, tác Bi Sanh Mạn-đồ-la” (nên dùng huệ giải để làm Bi Sanh Mạn-đồ-la). Hơn nữa, nước có ư nghĩa “chảy không ngừng”. Tâm chẳng đ́nh trệ, thường có thể tăng tấn thù thắng, sẽ được gọi là Nước. Sông phước chẳng đoạn, gọi là nước. Do là người trước hết có thể an tâm nơi đế lư, tuy tự ḿnh chẳng thể đạt được nhiều, chỉ cần khiến cho từ cái vốn sẵn thanh tịnh (chân tâm), lưu xuất sự tiến nhập chánh đáng là đă được rồi, liền có thể vận dụng vô ngại huệ để kiến lập Bi Sanh Mạn-đồ-la. “Diệu âm chúng điểu trang nghiêm” (Các loài chim có tiếng hót hay để trang nghiêm) tức là ư nghĩa “có thể tuyên dương diệu pháp”, mà cũng là thường nghĩ lợi tha. V́ thế, chúng sanh quy hướng đều được vui sướng, tán thán ân đức ấy có thanh danh to lớn.

          Kệ nói “Chánh Giác duyên Đạo sư, thánh giả Thanh Văn chúng, tằng du thử địa phần, Phật thường sở xưng dự” (Các đấng Chánh Giác, Duyên Giác, các vị thánh giả Thanh Văn từng đi qua cuộc đất ấy th́ đó là nơi được Phật khen ngợi): Nếu là chỗ phước địa núi và suối, là nơi các vị thánh đă từng đi qua, sẽ thuộc vào điều trên đây. Ở đây có ư nói: Tuy chẳng phải là chỗ thù thắng như trong phần trên, nhưng là chỗ chư Phật, Duyên Giác, và hàng đệ tử Thanh Văn v.v... đắc đạo Niết Bàn, hoặc trụ lâu tại đó, th́ là chỗ [thích hợp] kế tiếp [để làm đàn tràng]. Như ở phương Tây, tám tháp [kỷ niệm đức Phật] và chỗ có di tích của thánh chúng rất nhiều, đều là chỗ chư thiên đại oai đức thường hộ tŕ, chiêm lễ, giống như chỗ nào có kinh Bát Nhă th́ lũ tiểu quỷ chẳng dám lưu lại. V́ thế, pháp nghiệm dễ thành. Nơi được Phật khen ngợi như chỗ núi có tiên nhân cư trụ, đức Thế Tôn đă nói ở trong ấy sẽ dễ đắc đạo.

          Lại nữa, nếu là người đă phát Bồ Đề tâm, th́ chỗ chư Phật giáng sanh, cũng như nơi các Ngài đắc đạo, chuyển pháp luân, bát Niết Bàn, cũng chính là chỗ các Ngài đă từng trụ lâu tại đó, dùng bốn oai nghi để rộng lợi ích chúng sanh. Tuy chưa nghe bí tạng, chỉ đạt được chỗ tam thừa cùng hành, cũng gọi là [nơi chốn] Cát Tường; tức là quán sát tánh Không vô tướng, vô tác, chẳng có “ta, người, chúng sanh, thọ giả”. Đấy là chỗ để Nhị Thừa thành đạo, nhập Niết Bàn, cũng là chỗ Bồ Tát vứt bỏ thân mạng để học Ba La Mật như trong các loại kinh Bổn Sanh [đă nói], đều có thể tạo Mạn-đồ-la trong ấy. Lại nữa, đối với nơi “tự nói đă đắc Niết Bàn, sanh ư tưởng diệt độ”, tức là cuộc đất do Thanh Văn, Bích Chi Phật đă từng đến. Nếu chẳng t́m được người một mực cầu Bồ Đề [ở nơi ấy], hăy nên tự sửa sang cho ngay ngắn trong ấy để tạo, vẽ Đại Bi Sanh Mạn-đồ-la.

          Kệ nói: “Cập dư chư phương sở, tăng phường, A Luyện Nhă” (và các nơi chốn khác, tăng phường, A Luyện Nhă). Trừ nơi có thánh tích ra, chỉ tùy theo quốc độ ở các phương có các bậc Phạm hạnh cư trụ [để chọn lựa nơi làm đàn tràng]. Tăng phường trong tiếng Phạn là Tỳ Ha La (Vihāra), dịch nghĩa là Trụ Xứ, tức là “chỗ ở để tăng trưởng phước”. Hàng bạch y do tăng trưởng phước, đă v́ các tỳ-kheo tạo pḥng ốc, khiến cho người tŕ giới, Thiền huệ có chỗ tránh né, chống đỡ gió, lạnh, nắng, ướt, các thứ chuyện chẳng lợi ích, ḥng an tâm hành đạo, khiến cho đàn-việt thọ dụng phước do bố thí, ngày đêm thường lưu xuất, chẳng hề đoạn tuyệt. V́ thế gọi là Trụ Xứ. A Luyện Nhă (Araṇya), dịch là Ư Lạc Xứ, tức là chỗ được hành giả không tịch yêu thích. Hoặc ở riêng một ḿnh, không có bầu bạn, hoặc hai ba người. Ở ngoài chùa, tạo các pḥng nhỏ số lượng hữu hạn, hoặc do thí chủ tạo, hoặc chỉ ở nơi đất trống dưới bóng cây, đều là A Luyện Nhă vậy. Lại nữa, nếu ĺa Bồ Đề tâm mà tu hết thảy các thiện pháp, như là “quảng hành đàn thí” (rộng hành bố thí), thọ vô lượng luật nghi, tu các thứ Thiền Định, thọ tŕ mười hai phần giáo, tư duy nghĩa lư, từ bi, tinh tấn, hóa độ chúng sanh, dùng các hạnh vô tưởng đạo, sẽ đều gọi là “vô thánh tích” (chẳng có thánh tích). Tăng phường cũng thế, là nơi phàm thánh cùng ở, là chỗ sanh phước, cũng là [nơi chốn được lựa chọn] kế tiếp [để làm mạn-đồ-la]. Trừ cộng Bát Nhă của Nhị Thừa, hết thảy các pháp môn Thanh Văn, Duyên Giác khác do xa ĺa đại bi, tự cầu lẽ xuất yếu, đều gọi là “vô thánh tích A Lan Nhă xứ”. Cũng có thể ở trong ấy, chọn lựa, sửa sang chỗ đất bằng phẳng để vẽ Mạn-đồ-la.

          Kệ nói “hoa pḥng, cao lâu các, thắng diệu chư tŕ uyển” (nơi pḥng ốc đẹp đẽ, lầu gác cao, nơi ao vườn đẹp đẽ thù thắng): Nếu không t́m được phước địa như trên, chớ nên đ́nh chỉ, hăy nên chọn chỗ tốt đẹp thanh vắng trong thế tục. Nếu là chỗ đoan nghiêm thanh tịnh, liền có thể tác pháp. “Pḥng” là do chúng sanh từ thời cổ tới nay, do hổ thẹn, chẳng muốn phô bày chuyện riêng tư, mà cũng có thể che chở thân thể, tự hộ, thủ hộ người khác. “Lâu các” là chỗ hiển lộ cao rạng phía trên nhà cửa có nhiều tầng ở phương Tây. “Tŕ” là cái ao thanh tịnh, đa phần là có các loại hoa mọc trong nước, người và phi nhân đều yêu thích. “Uyển” là vườn rừng, có nhiều loại cỏ mềm, cây cối thơm tho trổ sum suê, thanh vắng, u tĩnh, có thể che chắn huyên náo. Những chỗ ấy đều là các chỗ [được chọn lựa] kế tiếp.

          Lại nữa, nếu thấy hành nhân tuy chưa nhập các phương tiện đạo khác, nhưng thể tánh trọn đủ hổ thẹn, thường có thể tự thủ hộ, mà cũng có thể thủ hộ người khác, hoặc tâm hiểu rơ, dễ thông hiểu, ít các chướng ngại, thậm chí hễ trót phạm tội, cũng có thể hướng về người khác phát lộ, cầu cho chính ḿnh thanh tịnh, chẳng hề giấu diếm, th́ cũng có thể truyền thọ. Lại nữa, Tŕ (ao) có nghĩa là “khát nước chẳng chán”, ư nói: Người ấy tuy chưa đạt được pháp vị sâu xa, nhưng có thể trống ḷng khát ngưỡng, nghe nhận chẳng chán. “Viên” (vườn) là chỗ nhiều người tới dạo chơi, ư nói: Người ấy bẩm tánh nhiều bi mẫn, thích làm chuyện từ bi cứu giúp, được chúng sanh đều quy ngưỡng, nương nhờ người ấy che chở. Đấy đều là chủng tánh Đại Thừa, cũng có thể huân tập vậy!

          Kệ nói: “Chế-để, hỏa thần từ, ngưu lan, hà than trung, chư thiên miếu, không thất, tiên nhân đắc đạo xứ” (tháp miếu, đn thờ thần lửa, chuồng ḅ, bến sông, miếu chư thiên, nhà trống, chỗ tiên nhân đắc đạo): Hoặc là tuy chẳng phải chỗ thánh tích và tăng chúng cư trụ, nhưng tùy thuộc cuộc đất là chỗ có thể dựng tháp miếu, th́ ở chung quanh đó, có thể tạo tác Mạn-đồ-la. “Hỏa thần từ” là chỗ miếu thờ lửa của tịnh hạnh Phạm chí, rất thanh khiết, cho nên có thể lập đàn. “Ngưu lan” (chuồng ḅ): Ở phương Tây, thôn làng chăn nuôi trâu ḅ ở cùng một chỗ, cách thôn chừng mười dặm hoặc năm dặm. Do lâu ngày, phân ḅ và nước tiểu ḅ tích tụ dày cộp trên mặt đất, nhưng theo thói quen của Phạm chí, cũng coi đó là nơi thanh tịnh. Tuy nhiên, cần phải dời trâu ḅ đi. Nếu vẫn chăn nuôi trâu ḅ tại đó, cũng chớ nên làm [Mạn-đồ-la] trong đó.

          “Hà than” (bến sông), dịch sát nghĩa th́ phải là Toản Lưu Xứ (攢流處), tức chỗ có hai hay nhiều ḍng nước hợp lưu ở chỗ ấy. Bên ŕa và chính giữa chỗ ấy, do đă nhiều lần bị nước ngập gột sạch, không có các thứ uế ác. “Thiên miếu” là căn nhà để cúng bái các vị trời được tôn thờ trong thế gian, cũng khá thanh nhàn. Nhưng nếu có các ngoại đạo tà kiến, chẳng tin [ở đó], cũng chớ nên làm ở chỗ ấy. “Không thất (nhà trống) là nhà cửa do người đời tạo ra; về sau, họ bỏ đi. Do không có các thứ xen tạp, nên cũng kham làm chỗ tác pháp. “Tiên nhân đắc đạo xứ” chính là chỗ cư trụ lâu ngày của người cầu năm món thần thông trong thế gian được thành tựu. Nếu không có chỗ tốt đẹp nào khác, cũng có thể tạo Mạn-đồ-la trong đó.

          Lại nữa, chế-để có ư nghĩa là “kiến lập cao vời thù thắng”, ư nói: Người ấy thường có thể kiến lập bạch pháp, chí chẳng khuất phục, nhiễu loạn. Tuy chưa tu thánh giáo trong hiện tại, hăy nên biết là [người ấy] đời trước đă tu phước, trong tâm có thiện căn, cho nên gọi là “tháp”. Lại nữa, lửa có thể đốt sạch các thứ nhơ bẩn, ư nói: Người ấy tuy thân, miệng, ư chưa thể xuất ly, đạt tới chỗ thanh tịnh, nhưng trong tâm có huệ tánh, thích hành tịnh nghiệp,